BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ

…………/………… ……/……

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

NGUYỄN HỮU THẾ

XÃ HỘI HÓA

CÔNG TÁC ĐĂNG KIỂM XE CƠ GIỚI ĐƯỜNG BỘ

TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH NINH THUẬN

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG

TP. HỒ CHÍ MINH - NĂM 2017

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ

…………/………… ……/……

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

NGUYỄN HỮU THẾ

XÃ HỘI HÓA

CÔNG TÁC ĐĂNG KIỂM XE CƠ GIỚI ĐƯỜNG BỘ

TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH NINH THUẬN

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG

Chuyên ngành: Quản lý công

Mã số: 60 34 04 03

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. ĐẶNG KHẮC ÁNH

TP. HỒ CHÍ MINH - NĂM 2017

Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ “Xã hội hóa công tác đăng kiểm xe cơ

LỜI CAM ĐOAN

giới đường bộ trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận” là kết quả sau hai năm học

tập, nghiên cứu tại Học viện theo chương trình đào tạo Thạc sĩ chuyên

ngành Quản lý công.

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi và được

sự hướng dẫn khoa học của PGS.TS.Đặng Khắc Ánh. Các nội dung

nghiên cứu, kết quả trong đề tài này là trung thực và chưa công bố dưới

bất kỳ hình thức nào trước đây. Những số liệu trong các bảng biểu phục

vụ cho việc phân tích, nhận xét, đánh giá được chính tác giả thu thập từ

các nguồn khác nhau có ghi rõ trong phần tài liệu tham khảo. Ngoài ra,

trong luận văn còn sử dụng một số nhận xét, đánh giá cũng như số liệu

của các tác giả khác, cơ quan tổ chức khác đều có trích dẫn và chú thích

nguồn gốc. Nếu phát hiện có bất kỳ sự gian lận nào tôi xin hoàn toàn chịu

Tp. Hồ Chí Minh, tháng 7 năm 2017

trách nhiệm về nội dung luận văn của mình.

Tác giả

Nguyễn Hữu Thế

Trong thời gian hai năm học tập và nghiên cứu chương trình đào tạo

LỜI CÁM ƠN

Thạc sĩ chuyên ngành Quản lý công tại giảng đường Học viện Hành chính

Quốc gia cơ sở Thành phố Hồ Chí Minh, được sự quan tâm của lãnh đạo

Học viện, sự dạy dỗ, chỉ bảo, định hướng của quý thầy cô, tác giả đề tài đã

được trang bị những kiến thức quản lý hành chính nhà nước trên các lĩnh

vực, đó chính là những hành trang quý báu cho tác giả áp dụng vào trong

thực tiễn công tác.

Tác giả xin chân thành cảm ơn Ban Giám đốc và Quý thầy cô các

Khoa, Bộ môn của Học viện Hành chính Quốc gia đã tận tâm giảng dạy

và tạo điều kiện để tác giả hoàn thành Luận văn Thạc sĩ. Đặc biệt, tác giả

xin gửi lời cảm ơn sâu sắc nhất đến PGS.TS. Đặng Khắc Ánh đã tận tình

hướng dẫn, giúp đỡ tác giả trong suốt quá trình hoàn Luận văn.

Trân trọng cảm ơn Lãnh đạo Sở Giao thông vận tải, Trung tâm đăng

kiểm xe cơ giới đường bộ và gia đình, đồng nghiệp, bạn bè, tập thể lớp

Cao học HC20.N8 đã quan tâm, động viên, tạo điều kiện cho tác giả trong

suốt thời gian học tập và hoàn thành Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ.

Tp. Hồ Chí Minh, tháng 7 năm 2017

Trân trọng cảm ơn các thành viên trong Hội đồng khoa học.

Tác giả

Nguyễn Hữu Thế

MỤC LỤC

LỜI CÁM ƠN

LỜI CAM ĐOAN

MỤC LỤC

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU, SƠ ĐỒ

MỞ ĐẦU .......................................................................................................................1

CHƯƠNG 1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ XÃ HỘI HÓA VÀ XÃ HỘI HÓA

CÔNG TÁC ĐĂNG KIỂM PHƯƠNG TIỆN CƠ GIỚI ĐƯỜNG BỘ ............... 12

1.1. KHÁI QUÁT VỀ ĐĂNG KIỂM PHƯƠNG TIỆN CƠ GIỚI ĐƯỜNG BỘ ....... 12

1.1.1. Phương tiện cơ giới đường bộ ....................................................................... 12

1.1.2. Đăng kiểm phương tiện cơ giới đường bộ .................................................... 13

1.1.3. Mục đích của việc đăng kiểm xe cơ giới đường bộ ...................................... 15

1.1.4. Quản lý công tác đăng kiểm xe cơ giới đường bộ hiện nay ......................... 16

1.2. XÃ HỘI HÓA CÔNG TÁC ĐĂNG KIỂM XE CƠ GIỚI ĐƯỜNG BỘ ............ 26

1.2.1. Khái niệm xã hội hóa .................................................................................... 26

1.2.2. Khái niệm và ý nghĩa của xã hội hóa công tác đăng kiểm xe cơ giới .......... 32

1.3. QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI XÃ HỘI HÓA CÔNG TÁC ĐĂNG

KIỂM XE CƠ GIỚI ĐƯỜNG BỘ .............................................................................. 41

1.4. KINH NGHIỆM XÃ HỘI HÓA CÔNG TÁC ĐĂNG KIỂM XE CƠ GIỚI

ĐƯỜNG BỘ Ở MỘT SỐ ĐỊA PHƯƠNG.................................................................. 45

1.3.1. Xã hội hóa công tác đăng kiểm xe cơ giới tại Đồng Nai ...............................45

1.3.2. Xã hội hóa công tác đăng kiểm xe cơ giới tại Nam Định ............................. 47

TIỂU KẾT CHƯƠNG 1 ........................................................................................... 50

CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC ĐĂNG KIỂM PHƯƠNG TIỆN

CƠ GIỚI ĐƯỜNG BỘ Ở TỈNH NINH THUẬN ................................................... 51

2.1. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ TỈNH NINH THUẬN .............................................. 51

2.2. TỔ CHỨC THỰC HIỆN ĐĂNG KIỂM XE CƠ GIỚI TẠI TỈNH NINH

THUẬN HIỆN NAY ………… ........................................................................... …..57

2.2.1. Tổ chức và hoạt động của Trung tâm đăng kiểm xe cơ giới đường bộ

tỉnh Ninh Thuận .......................................................................................................... 57

2.2.2. Kết quả đăng kiểm xe cơ giới đường bộ trên địa bàn tỉnh .............................61

2.3. ĐÁNH GIÁ CÔNG TÁC ĐĂNG KIỂM XE CƠ GIỚI ĐƯỜNG BỘ TRÊN

ĐỊA BÀN TỈNH NINH THUẬN .................................................................................62

2.3.1. Những ưu điểm ............................................................................................. 62

2.3.2. Những hạn chế còn tồn tại ............................................................................ 64

2.3.3. Nguyên nhân của các hạn chế ....................................................................... 67

2.4. THỰC TRẠNG XÃ HỘI HÓA CÔNG TÁC ĐĂNG KIỂM XE CƠ GIỚI

ĐƯỜNG BỘ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH NINH THUẬN ...............................................69

TIỂU KẾT CHƯƠNG 2 ........................................................................................... 70

CHƯƠNG 3. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP TRIỂN KHAI XÃ HỘI

HÓA CÔNG TÁC ĐĂNG KIỂM XE CƠ GIỚI Ở NINH THUẬN ..................... 71

3.1. SỰ CẦN THIẾT PHẢI XÃ HỘI HÓA CÔNG TÁC ĐĂNG KIỂM XE CƠ

GIỚI TẠI NINH THUẬN ........................................................................................... 71

3.2. CÁC GIẢI PHÁP THỰC HIỆN XÃ HỘI HÓA ĐĂNG KIỂM XE CƠ GIỚI

Ở TỈNH NINH THUẬN ............................................................................................. 75

3.3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ ......................................................................................... 80

TIỂU KẾT CHƯƠNG 3 ........................................................................................... 83

KẾT LUẬN ................................................................................................................ 84

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………………........86

PHỤ LỤC

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

ATGT An toàn giao thông

ATKT An toàn kỹ thuật

Bộ CA Bộ Công an

Bộ GTVT Bộ Giao thông vận tải

BVMT Bảo vệ môi trường

CQNN Cơ quan nhà nước

CB Cán bộ

CSGT Cảnh sát giao thông

DCKĐ Dây chuyền kiểm định

ĐKV Đăng kiểm viên

ĐKVN Đăng kiểm Việt Nam

GDP Tổng sản phẩm quốc nội

GTVT Giao thông vận tải

KT-XH Kinh tế - Xã hội

PTCGĐB Phương tiện cơ giới đường bộ

QLNN Quản lý nhà nước

QLHC Quản lý hành chính

QPPL Quy phạm pháp luật

TNGT Tai nạn giao thông

TNGTĐB Tai nạn giao thông đường bộ

TT Trung tâm

TTATGT Trật tự an toàn giao thông

TTATXH Trật tự an toàn xã hội

TTĐK Trung tâm đăng kiểm

UBATGTQG Ủy ban An toàn giao thông Quốc gia

UBND Ủy ban nhân dân

WTO Tổ chức Thương mại Thế giới

DANH MỤC CÁC BẢNG, HÌNH, SƠ ĐỒ

Số TT Tên Bảng, Sơ đồ, Phụ lục Trang

14 Bảng 1.1 Chu kỳ kiểm định xe cơ giới đường bộ

Sơ đồ 1.1 Sơ đồ tổ chức của Cục Đăng kiểm Việt Nam 20

Bảng 1.2 24 Số lượng trung tâm đăng kiểm và dây chuyền kiểm định

Bảng 1.3 25 Số lượng xe kiểm định và tỷ lệ tăng trưởng

Hình 2.1 51 Bản đồ hành chính tỉnh Ninh Thuận

Bảng 2.1 54 Thống kê số lượng ô tô lưu hành giai đoạn 2011-2016

Sơ đồ 2.1 Tổ chức bộ máy hành chính nhà nước tỉnh Ninh Thuận 56

Bảng 2.2 62 Tổng kinh phí thu được từ kiểm định xe cơ giới đường bộ giai đoạn 2011-2016 tại Ninh Thuận

73 Bảng 3.1 Dự báo số lượng ô tô Ninh Thuận giai đoạn 2018-2030

77 Bảng 3.2 Quy định diện tích tối thiểu của trung tâm ĐKXCG

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu

Quan điểm về xã hội hóa dịch vụ công được ghi nhận từ văn kiện Đại

hội Đảng VIII “Các vấn đề chính sách xã hội đều giải quyết theo tinh thần xã

hội hoá. Nhà nước giữ vai trò nồng cốt, đồng thời động viên mỗi người dân,

các doanh nghiệp, các tổ chức trong xã hội, các cá nhân và tổ chức nước ngoài

cùng tham gia giải quyết các vấn đề xã hội”.

Văn kiện Đại hội Đảng IX tiếp tục khẳng định: “Các chính sách xã hội

được tiến hành theo tinh thần xã hội hoá, đề cao trách nhiệm của chính quyền

các cấp, huy động các nguồn lực trong nhân dân và sự tham gia của các đoàn

thể nhân dân, các tổ chức xã hội”.

Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa

X tiếp tục cụ thể hóa: “Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định

hướng xã hội chủ nghĩa”, “đẩy mạnh xã hội hóa, vận dụng hợp lý những mặt

tích cực của cơ chế thị trường”.

Thể chế hóa quan điểm, chủ trương của Đảng, Chính phủ đã ban hành

Nghị quyết số 90/NQ-CP, Nghị định số 73/1999/NĐ-CP và các văn bản chỉ

đạo đẩy mạnh xã hội hoá dịch vụ công, Quyết định số 22/2015/QĐ-TTg về

việc chuyển đơn vị sự nghiệp công lập thành công ty cổ phần.

Trong Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước, vấn đề huy

động nguồn lực xã hội, tách chức năng quản lý của Nhà nước với chức năng

quản trị kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước và đẩy mạnh xã hội hóa dịch

vụ công được đề cập rất cụ thể: “Xây dựng, hoàn thiện hệ thống thể chế kinh tế

thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nhằm giải phóng lực lượng sản xuất,

huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực cho phát triển đất nước”,

1

“khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia cung ứng các dịch vụ trong

môi trường cạnh tranh bình đẳng, lành mạnh” [14].

Nhà nước có trách nhiệm chăm lo đời sống vật chất và văn hoá của nhân

dân, nhưng không phải vì thế mà mọi công việc về dịch vụ công đều do cơ

quan nhà nước trực tiếp đảm nhiệm. Trong từng lĩnh vực cần định rõ những

công việc mà Nhà nước phải đầu tư và trực tiếp thực hiện, những công việc

cần chuyển giao cho các tổ chức xã hội đảm nhiệm.

Như vậy, chủ trương của Đảng và Nhà nước về đẩy mạnh xã hội hóa

dịch vụ công trong tiến trình cải cách nền hành chính là đúng đắn, là tất yếu,

khách quan, hướng đến mô hình quản lý công mới, đó là một chính phủ nhỏ

quản lý một xã hội lớn, thay đổi vai trò nhà nước từ “chèo thuyền” chuyển

sang “lái thuyền”.

Trong những năm qua, cùng với sự phát triển kinh tế xã hội của cả nước

nói chung và tỉnh Ninh Thuận nói riêng thì nhu cầu vận tải hành khách và hàng

hóa ngày càng gia tăng, kéo theo sự gia tăng số lượng xe cơ giới. Do đó, hoạt

động kiểm định an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường xe cơ giới đóng vai trò

quan trọng trong việc bảo đảm an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường cho xe

cơ giới khi tham gia giao thông, có ý nghĩa to lớn trong việc góp phần giảm

thiểu tai nạn giao thông, ổn định trật tự xã hội.

Như vậy, công tác đăng kiểm phương tiện giao thông cơ giới đường bộ

là hoạt động có tính xã hội sâu rộng, ảnh hưởng và liên quan trực tiếp đến đông

đảo nhân dân và sự phát triển của doanh nghiệp vì trực tiếp liên quan tới việc

bảo đảm sinh mạng con người tham gia giao thông, liên quan tới hoạt động sản

xuất kinh doanh và sinh hoạt của từng người dân và doanh nghiệp, đặc biệt là

an toàn giao thông.

2

Trong thời gian qua, công tác đăng kiểm đã được triển khai tương đối

đồng bộ và có hiệu quả trên cả nước, góp phần quan trọng vào việc nâng cao

chất lượng phương tiện vận tải đường bộ, qua đó làm giảm tai nạn giao thông

và giảm ô nhiễm môi trường. Tuy nhiên, thực tế cho thấy công tác đăng kiểm

vẫn còn rất nhiều vấn đề bất cập cần giải quyết, chẳng hạn như tình trạng độc

quyền ở địa phương, thiếu cạnh tranh cung ứng dịch vụ, quá tải của các trung

tâm đăng kiểm, nhất là ở các thành phố lớn và các nơi đô thị tập trung dân cư

với lượng phương tiện nhiều và đang ngày càng tăng lên nhanh chóng. Tình

trạng quá tải này còn dẫn đến việc các cơ sở đăng kiểm đã không thực hiện tốt

công việc của mình, tình trạng nhũng nhiễu, sai phạm trong quá trình đăng

kiểm còn diễn ra khá phổ biến. Chính vì vậy, mở rộng quy mô các trạm đăng

kiểm hiện có, đồng thời tăng số lượng trạm và dây chuyền đăng kiểm là một

yêu cầu của thực tiễn khách quan. Tuy nhiên, do nguồn ngân sách của trung

ương và địa phương còn hạn chế nên việc đầu tư cho các trạm đăng kiểm từ

phía nhà nước chỉ đầu tư ban đầu, hiện nay không thể tiếp tục bao cấp nữa do

thực hiện chủ trương thu hút các nguồn lực tư nhân đầu tư vào lĩnh vực này.

Chính vì lẽ đó, Bộ Giao thông vận tải đã xây dựng chiến lược xã hội hóa các

trung tâm đăng kiểm giúp cho nhà nước và tư nhân cùng chia sẻ, vận hành các

trung tâm đăng kiểm xe cơ giới đường bộ.

Nhằm đáp ứng yêu cầu về kiểm định chất lượng xe cơ giới, mô hình xã

hội hóa đăng kiểm xe cơ giới đã được thí điểm triển khai một cách khá mạnh

mẽ từ năm 2005 trở lại đây. Việc thực hiện xã hội hóa đã huy động được tiềm

năng của mọi tầng lớp trong xã hội đầu tư cho hoạt động kiểm định, giảm gánh

nặng cho ngân sách nhà nước, đáp ứng nhu cầu kiểm định ngày càng cao do số

lượng phương tiện tham gia giao thông ngày càng tăng, giảm sự quá tải cho

các trung tâm kiểm định, giảm chi phí về thời gian chờ đợi, phục vụ tốt hơn

cho người dân và doanh nghiệp.

3

Triển khai Đề án “tách chức năng quản lý nhà nước với cung cấp dịch vụ

công trong lĩnh vực đăng kiểm” ban hành kèm theo Quyết định số 4202/QĐ-

BGTVT ngày 25 tháng 11 năm 2015 của Bộ Giao thông vận tải. Đã có 12

trung tâm đăng kiểm chuyển đổi thành đơn vị cổ phần: 70.01S, 70.02S ở Tây

Ninh; 12.01D ở Lạng Sơn; 48.01D ở Đắc Nông; 24.01D ở Lào Cai; 61.06D ở

Đồng Nai; 14.01S, 14.02S, 14.03S ở Quảng Ninh; 38.01S ở Hà Tĩnh, ... [7].

Triển khai Đề án “Quy hoạch tổng thể các trung tâm đăng kiểm và dây

chuyền kiểm định xe cơ giới đến năm 2020, tầm nhìn 2030” ban hành kèm theo

Quyết định số 1873/QĐ-BGTVT ngày 08 tháng 8 năm 2012 của Bộ Giao

thông vận tải. Tính đến thời điểm 20/12/2016, cả nước có 113 trung tâm đăng

kiểm xe cơ giới. Năm 2016, Cục Đăng kiểm Việt Nam đã ký văn bản thỏa

thuận thành lập cho 13 doanh nghiệp đăng ký xây dựng đơn vị đăng kiểm theo

mô hình xã hội hóa; đã cấp Giấy chứng nhận hoạt động cho 09 đơn vị đăng

kiểm xã hội hóa mới đi vào hoạt động [17].

Từ khi Đề án này được phê duyệt, không có đơn vị đăng kiểm nào của

Nhà nước được thành lập. Năm đơn vị được Cục Đăng kiểm Việt Nam chuyển

cho tư nhân quản lý và thực hiện đăng kiểm. Theo Đề án này, đã có 42 đơn vị

xã hội hóa mới được ra đời (26 đơn vị đã hoạt động), nâng tổng số trung tâm

đăng kiểm xã hội hóa là 73 đơn vị, trong đó 57 đơn vị đã hoạt động và 16 đơn

vị đang xây dựng (14 đơn vị đi vào hoạt động năm 2016 và 02 đơn vị đang

được xây dựng, sẽ đưa vào hoạt động năm 2017). Cục Đăng kiểm Việt Nam đã

phối hợp với các địa phương xây dựng mạng lưới các trung tâm đăng kiểm và

dây chuyền kiểm định theo đúng quy hoạch của Bộ Giao thông vận tải và địa

phương, đảm bảo đáp ứng nhu cầu của người dân, doanh nghiệp[17].

Với sự tham gia của khu vực tư nhân vào công tác đăng kiểm ở giai đoạn

thí điểm đã tạo nên một bức tranh đăng kiểm mới ở Việt Nam, đây là một thay

4

đổi lớn để phát triển theo xu hướng các nước phát triển. Nhưng ở điều kiện lịch

sử, xã hội nước ta hiện nay đã đặt ra nhiều tồn tại (chất lượng kiểm định, hình

thành tiêu cực trung gian mà nhà nước khó kiểm soát được do nhiều nguyên

nhân chủ quan và khách quan, nhiều nhiệm vụ mang tính chính trị, an ninh,

quốc phòng rất khó thực hiện do không phối hợp được,…) ảnh hưởng tiêu cực

đến xã hội cần phải giải quyết. Chẳng hạn, qua kiểm tra, tất cả các đơn vị đăng

kiểm tư nhân đều mắc lỗi đánh giá không đúng tiêu chuẩn an toàn kỹ thuật và

bảo vệ môi trường [17],[6]. Tại các trung tâm xuất hiện tình trạng cạnh tranh

không lành mạnh, hạ thấp tiêu chuẩn, không thực hiện đúng quy trình kiểm

định để thu hút khách hàng; nhiều trung tâm thiếu đội ngũ đăng kiểm viên hoặc

vi phạm đến mức phải ngừng hoạt động với thời gian dài để khắc phục, không

giải quyết được nhu cầu cấp thiết của người dân. Do đó, nghiên cứu về xã hội

hóa công tác đăng kiểm xe cơ giới để thu hút nguồn lực khu vực tư tham gia

vào công tác đăng kiểm, giảm gánh nặng cho nhà nước, xóa thế độc quyền, tạo

sự cạnh tranh phát triển, đồng thời nâng cao chất lượng đăng kiểm là một đòi

hỏi cấp thiết phải nghiên cứu hiện nay.

Ninh Thuận là một địa bàn đăng kiểm trọng điểm ở Nam Trung bộ với

số lượng phương tiện cơ giới đường bộ được đăng kiểm hàng năm khá lớn và

đang ngày càng tăng dần trong những năm gần đây. Hiện nay, trên địa bàn tỉnh

có duy nhất 01 trung tâm đăng kiểm của Nhà nước được xây dựng từ năm 1995

với quy mô nhà xưởng, diện tích nhỏ hẹp, cơ sở vật chất, trang thiết bị đã quá

cũ kỹ, xuống cấp thường xuyên hư hỏng mà chưa được tái đầu tư do nguồn

ngân sách tỉnh eo hẹp, khó khăn, mặc khác thực hiện chủ trương xã hội hóa

dịch vụ công, ngân sách nhà nước không thể đầu tư cho lĩnh vực này nữa khiến

cho công tác đăng kiểm trở nên quá tải. Trong các năm qua, việc tái đầu tư để

phát triển, tăng công suất kiểm định rất khó khăn (kể cả việc sửa chữa, thay

thế, duy trì chất lượng trang thiết bị) do thực hiện chủ trương đẩy mạnh xã hội

5

hóa dịch vụ công. Khi năng lực và công suất kiểm định không tăng tương ứng

với mức độ gia tăng của phương tiện cùng với cơ sở vật chất, trang thiết bị đã

quá cũ kỹ, xuống cấp thường xuyên hư hỏng đã dẫn đến tình trạng quá tải càng

tăng lên dẫn đến chất lượng dịch vụ giảm, lãng phí thời gian của xã hội và tạo

cơ hội cho các hoạt động tiêu cực trong đăng kiểm. Chính vì vậy, nghiên cứu

để triển khai xã hội hóa đăng kiểm xe cơ giới ở tỉnh Ninh Thuận là cần thiết,

không chỉ mang ý nghĩa lý luận mà còn có ý nghĩa thực tiễn quan trọng nhằm

nâng cao chất lượng dịch vụ đăng kiểm cho khách hàng có nhu cầu đăng kiểm

trên địa bàn và thực hiện chiến lược phát triển ngành đăng kiểm của Bộ Giao

thông vận tải. Đây là lý do chủ yếu để học viên lựa chọn đề tài “Xã hội hóa

công tác đăng kiểm xe cơ giới trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận” để làm đề tài

nghiên cứu cho luận văn thạc sĩ Quản lý công của mình.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan tới đề tài

Xã hội hóa là một chủ trương quan trọng của Đảng và Nhà nước ta đã

hình thành ngay từ những năm đầu của quá trình đổi mới với quan điểm “Nhà

nước và nhân dân cùng làm” và đã được chính thức ghi nhận và triển khai từ

Đại hội VIII của Đảng và tiếp tục được khẳng định lại trong Đại hội IX, Đại

hội X, được thể chế hóa bằng Nghị quyết số 90/NQ-CP, Nghị định số

73/1999/NĐ-CP và các văn bản chỉ đạo đẩy mạnh xã hội hoá dịch vụ công,

Quyết định số 22/2015/QĐ-TTg về việc chuyển đơn vị sự nghiệp công lập

thành công ty cổ phần, chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước của

Chính phủ.

Chính vì vậy, nghiên cứu về xã hội hóa nói chung và xã hội hóa công

tác đăng kiểm xe cơ giới nói riêng là lĩnh vực nghiên cứu không mới. Trong

thời gian qua đã có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề xã hội hóa và về

6

công tác đăng kiểm xe cơ giới. Có thể chỉ ra một số nghiên cứu quan trọng

trong những lĩnh vực này sau đây:

- Nghiên cứu của Đặng Khắc Ánh: Hợp tác công- tư và vận dụng vào cải

cách khu vực công ở Việt Nam (Đề tài nghiên cứu cấp cơ sở trọng điểm của

Học viện hành chính năm 2012) đã xem xét hợp tác công-tư (Public-Private

Partnership) như là một hình thức của xã hội hóa và là một định hướng quan

trọng để đạt mục tiêu lôi cuốn khu vực tư nhân tham gia cùng với nhà nước

trong việc cung cấp dịch vụ công để nâng cao chất lượng và hiệu quả cung cấp

dịch vụ công. Nghiên cứu cũng đã chỉ ra những thành tựu và những bất cập còn

tồn tại trong lĩnh vực này và xác định các giải pháp để nâng cao chất lượng hợp

tác công-tư trong tương lai.

- Nghiên cứu của Đặng Khắc Ánh: Nâng cao chất lượng xã hội hóa dịch

vụ công, in trong Tạp chí Giáo dục Lý luận số 190 (2012) đề cập tới tiến trình

xã hội hóa ở nước ta cũng như những ưu và nhược điểm còn tồn tại của việc xã

hội hóa. Tác giả cũng đã đề cập tới một số giải pháp cần áp dụng trong thời

gian tới để nâng cao chất lượng xã hội hóa trong thực tế.

- Nghiên cứu của GS.TSKH Phạm Mạnh Hùng: Xã hội hóa công tác ý tế

- những điểm đã đạt được và những vấn đề đặt ra trước mắt, tham luận trong

Hội thảo:”Những vấn đề đặt ra trong quá trình thực hiện chủ trương của Đảng

về xã hội hóa các dịch vụ công” do Văn phòng Trung ương Đảng và Viện

Khao học xã hội Việt Nam tổ chức tại Hà Nội ngày 23/9/2009.

- Nghiên cứu của Lê Chi Mai (2003): Cải cách dịch vụ công ở Việt Nam

(NXB. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2003) đã tập trung phân tích xu hướng cải

cách dịch vụ công ở nước ta giai đoạn thực hiện Chương trình tổng thể cải cách

hành chính nhà nước 2001-2010 và đã chỉ ra xu hướng tất yếu phải xã hội hóa

7

việc cung cấp dịch vụ công trong bối cảnh xây dựng nền kinh tế thị trường định

hướng xã hội chủ nghĩa.

- Nghiên cứu của Đinh Văn Ân và Hoàng Thu Hòa (2006): Đổi mới

cung ứng dịch vụ công ở Việt Nam (NXB Thống kê, Hà Nội, 2006) đã tập

trung phân tích tiến trình xã hội hóa dịch vụ công ở nước ta, đồng thời chỉ ra

những kết quả và bất cập còn tồn tại trong quá trình triển khai xã hội hóa để đề

ra những giải pháp tăng cường xã hội hóa việc cung cấp dịch vụ công.

- v.v…

Bên cạnh các nghiên cứu về xã hội hóa nói chung, trong thời gian gần

đây đã có nhiều đề án, bài viết và được đăng tải trên các phương tiện thông tin

đại chúng về vấn đề xã hội hóa công tác đăng kiểm, trước hết phải kể tới:

- “Đề án tách chức năng quản lý nhà nước với cung cấp dịch vụ công

trong lĩnh vực đăng kiểm” (ban hành kèm theo Quyết định số 4202/QĐ-

BGTVT ngày 25 tháng 11 năm 2015 của Bộ Giao thông vận tải).

- “Đề án nâng cao chất lượng công tác đăng kiểm phương tiện giao

thông cơ giới đường bộ và phương tiện thủy nội địa góp phần giảm thiểu tai

nạn giao thông và ô nhiễm môi trường” (ban hành kèm theo Quyết định

1873/QĐ-BGTVT ngày 08 tháng 8 năm 2012 của Bộ Giao thông vận tải).

- Quỳnh Hoa (2013): Tìm mô hình cho công tác đăng kiểm xe cơ giới,

đăng trên website của Chính phủ. (http://baodientu.chinhphu.vn/An-toan-giao-

thong/Tim-mo-hinh-cho-hoat-dong-dang-kiem-xe-co-gioi/183469.vgp);

- Xích Tùng (2014): Xã hội hóa công tác đăng kiểm xe cơ giới, đăng trên

báo Nhân dân ngày 17 tháng 01 năm 2014 (http://www.nhandan.org.vn/

chinhtri/cung-suy-ngam/item/22171802-xa-hoi-hoa-cong-tac-dang-kiem-xe-co-

gioi.html);

8

- Các tham luận trong Hội nghị tổng kết thực hiện thí điểm xã hội hóa

công tác đăng kiểm xe cơ giới đang lưu hành do Bộ Giao thông vận tải tiến

hành ngày 17 tháng 10 năm 2013;

- Các báo cáo tổng kết công tác đăng kiểm xe cơ giới đường bộ của Cục

Đăng kiểm Việt Nam;

và nhiều nghiên cứu khác trên các tạp chí chuyên ngành và trên báo về

vấn đề đăng kiểm và xã hội hóa công tác đăng kiểm xe cơ giới đường bộ.

Những nghiên cứu này là căn cứ lý luận và thực tiễn quan trọng để tác

giả tiến hành nghiên cứu của mình. Tuy nhiên, các nghiên cứu này vẫn chưa

tập trung vào việc nghiên cứu vấn đề xã hội hóa công tác đăng kiểm, đặc biệt là

công tác đăng kiểm xe cơ giới đường bộ trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận. Chính

vì vậy, nghiên cứu tiếp tục về vấn đề này trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận vẫn là

một nội dung nghiên cứu cấp thiết, nhất là trong xu hướng đổi mới chất lượng

cung cấp dịch vụ công theo tinh thần Chương trình tổng thể cải cách hành

chính nhà nước giai đoạn 2011-2020 của Chính phủ hiện nay.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở lý luận và qua tìm hiểu, đánh giá tình hình xã hội hóa công

tác đăng kiểm xe cơ giới đường bộ nói chung và đặc điểm của đăng kiểm xe cơ

giới đường bộ ở tỉnh Ninh Thuận hiện nay, nghiên cứu đề xuất phương hướng

và các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ đăng kiểm xe cơ giới

đường bộ ở tỉnh Ninh Thuận từ giác độ xã hội hóa.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để đạt mục đích trên, luận văn đặt ra các nhiệm vụ sau:

9

- Làm rõ cơ sở lý luận của việc xã hội hóa dịch vụ công nói chung và xã

hội hóa dịch vụ đăng kiểm xe cơ giới đường bộ nói riêng;

- Phân tích, đánh giá thực trạng công tác đăng kiểm xe cơ giới đường bộ

ở tỉnh Ninh Thuận trong giai đoạn từ năm 2011-2016.

- Đề xuất phương hướng, giải pháp xã hội hóa công tác đăng kiểm xe cơ

giới nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ đăng kiểm xe cơ giới đường bộ ở tỉnh

Ninh Thuận từ giác độ xã hội hóa trong điều kiện hiện nay.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Công tác đăng kiểm xe cơ giới đường bộ đang lưu hành.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Về không gian nghiên cứu: trên phạm vi tỉnh Ninh Thuận;

Về thời gian nghiên cứu: từ năm 2011 đến năm 2016;

Luận văn không nghiên cứu việc đăng kiểm các phương tiện giao thông

đường bộ mới đưa vào lưu hành.

5. Phương pháp nghiên cứu

5.1. Phương pháp luận: Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương

pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của học thuyết Mác – Lênin;

quan điểm của Đảng và Nhà nước về xã hội hóa dịch vụ công.

5.2. Các phương pháp nghiên cứu cụ thể: Trong quá trình thực hiện

luận văn, tác giả đã sử dụng phương pháp nghiên cứu tài liệu (desk study),

đồng thời tiến hành một số phương pháp nghiên cứu khoa học cụ thể như quan

sát, phỏng vấn, …để thu thập thông tin và xử lý để phân tích thực trạng của

10

hoạt động xã hội hóa đăng kiểm xe cơ giới đường bộ trên phạm vi cả nước nói

chung và trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận nói riêng.

Phương pháp phỏng vấn sâu theo hình thức phi cấu trúc (không chuẩn bị

trước các câu hỏi) đã được thực hiện với Giám đốc Trung tâm đăng kiểm xe cơ

giới đường bộ Ninh Thuận và một số lái xe và chủ phương tiện (50 người) đưa

ô tô đến kiểm định tại Trung tâm đăng kiểm xe cơ giới đường bộ Ninh Thuận.

6. Ý nghĩa lý luận và đóng góp thực tiễn của nghiên cứu

Nghiên cứu góp phần tổng kết và hoàn chỉnh lý luận về xã hội hóa dịch

vụ công nói chung và dịch vụ đăng kiểm xe cơ giới nói riêng; đánh giá thực

trạng đăng kiểm xe cơ giới đường bộ trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận để rút ra các

thành công và bất cập còn tồn tại trong lĩnh vực này.

Nghiên cứu có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo, luận cứ cho việc

triển khai xã hội hóa Trung tâm đăng kiểm trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận nói

riêng và các Trung tâm đăng kiểm khác trong thời gian tới nhằm nâng cao chất

lượng và sự hài lòng của người dân thực hiện đăng kiểm.

7. Kết cấu của Luận văn

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Mục lục, Danh mục tài liệu tham khảo,

Luận văn gồm 3 chương với nội dung cơ bản sau:

Chương 1: Lý luận chung về đăng kiểm xe cơ giới và xã hội hóa đăng

kiểm xe cơ giới đường bộ.

Chương 2: Thực trạng đăng kiểm xe cơ giới đường bộ ở tỉnh Ninh Thuận

giai đoạn từ năm 2011-2016.

Chương 3: Phương hướng và giải pháp triển khai xã hội hóa công tác

đăng kiểm xe cơ giới đường bộ tại tỉnh Ninh Thuận.

11

CHƯƠNG 1

LÝ LUẬN CHUNG VỀ XÃ HỘI HÓA VÀ XÃ HỘI HÓA CÔNG TÁC

ĐĂNG KIỂM PHƯƠNG TIỆN CƠ GIỚI ĐƯỜNG BỘ

1.1. KHÁI QUÁT VỀ ĐĂNG KIỂM PHƯƠNG TIỆN CƠ GIỚI

ĐƯỜNG BỘ

1.1.1. Phương tiện cơ giới đường bộ

Theo quy định của Luật Giao thông đường bộ năm 2008, phương tiện

giao thông đường bộ là toàn bộ các phương tiện giao thông có thể lưu hành

trên đường bộ bao gồm phương tiện cơ giới đường bộ (gồm xe ô tô; máy kéo;

rơ moóc hoặc sơ mi rơ moóc được kéo bởi xe ô tô, máy kéo; xe mô tô hai

bánh; xe mô tô ba bánh; xe gắn máy (kể cả xe máy điện) và các loại xe tương

tự) và phương tiện thô sơ đường bộ (xe đạp, xe kéo,…). Phương tiện giao

thông cơ giới đường bộ có thể là phương tiện mới sản xuất sẽ đưa vào tham gia

lưu hành và phương tiện giao thông đang lưu hành, trong đó phương tiện giao

thông cơ giới đường bộ đang lưu hành là các loại xe cơ giới đang sử dụng hợp

pháp, đủ tiêu chuẩn và được phép tham gia giao thông đường bộ. Cả hai loại

phương tiện giao thông cơ giới đường bộ này đều là đối tượng của đăng kiểm

xe cơ giới đường bộ, tuy nhiên trong Luận văn này chỉ tập trung vào phương

tiện giao thông đang lưu hành.

Không phải bất kỳ một phương tiện giao thông cơ giới đường bộ nào

cũng đều được phép lưu thông trên đường bộ. Để được phép lưu thông, các

phương tiện cơ giới phải đảm bảo một số tiêu chuẩn nhất định về an toàn kỹ

thuật và bảo vệ môi trường và được cấp giấy phép lưu hành do cơ quan nhà

nước có thẩm quyền (hay đơn vị được nhà nước ủy quyền) cấp sau khi đã được

kiểm định về chất lượng và xác nhận đã đạt đầy đủ các tiêu chuẩn về an toàn

kỹ thuật và bảo vệ môi trường theo quy định của pháp luật hiện hành. Để có

12

được giấy phép lưu hành xe cơ giới này, các chủ phương tiện phải thực hiện

việc đăng kiểm xe cơ giới đường bộ tại các trung tâm đăng kiểm.

1.1.2. Đăng kiểm phương tiện giao thông cơ giới đường bộ

“Đăng kiểm” thường được hiểu là đăng ký để được kiểm soát. Đăng

kiểm xe cơ giới là dịch vụ kiểm định an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường

cho xe cơ giới đang lưu hành, là việc tiến hành kiểm tra, đánh giá định kỳ tình

trạng an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường của xe cơ giới để chứng nhận xe

cơ giới đủ điều kiện tham gia giao thông nhằm góp phần giảm thiểu tai nạn

giao thông và bảo vệ môi trường. Công tác kiểm định đối với xe cơ giới là yêu

cầu bắt buộc gắn liền với mục đích phục vụ lợi ích công cộng, ảnh hưởng đến

trật tự an toàn xã hội nên là một loại dịch vụ cần phải được Nhà nước giám sát

chặt chẽ [13].

Đối với các phương tiện mới tham gia giao thông cần phải kiểm định

mới (kiểm định lần đầu tiên), còn các phương tiện đang tham gia giao thông thì

sau một khoảng thời gian nhất định (gọi là chu kỳ đăng kiểm) phải được chủ

phương tiện đưa tới các cơ sở đăng kiểm có thẩm quyền để kiểm định lại và

cấp phép lưu hành sau khi đã xác nhận đủ điều kiện kỹ thuật để lưu hành. Nếu

phương tiện không đạt yêu cầu về tiêu chuẩn kỹ thuật thì chủ phương tiện phải

tiến hành sửa chữa, thay thế hoặc không được phép lưu hành nữa. Như vậy, có

thể hiểu đăng kiểm phương tiện giao thông cơ giới đường bộ đang lưu hành là

việc kiểm tra định kỳ về tiêu chuẩn kỹ thuật an toàn và môi trường đối với các

phương tiện cơ giới giao thông đường bộ đang lưu hành.

Chu kỳ đăng kiểm xe cơ giới đường bộ là thời gian cho phép giữa hai lần

kiểm định. Độ dài của chu kỳ kiểm định phụ thuộc vào loại xe và thời gian xe

đã qua sử dụng. Chu kỳ đầu được áp dụng cho xe mới 100% chưa qua sử dụng

là khoảng thời gian giữa thời điểm xe mới được đưa vào lưu thông và lần kiểm

định tiếp theo đầu tiên. Chu kỳ đăng kiểm được cơ quan có thẩm quyền quy

13

định khác nhau đối với các loại phương tiện khác nhau và phụ thuộc vào năm

sản xuất của phương tiện. Phương tiện có năm sản xuất càng lâu thì chu kỳ

kiểm định càng ngắn. Theo quy định của pháp luật hiện hành, chu kỳ kiểm

định cho các loại phương tiện cơ giới đường bộ ở nước ta như sau:

Bảng 1.1: Chu kỳ kiểm định xe cơ giới đường bộ

Chu kỳ (tháng)

TT Loại phương tiện

Chu kỳ đầu Chu kỳ định kỳ

1. Ô tô chở người các loại đến 09 chỗ không kinh doanh vận tải

Đã sản xuất đến 07 năm 30 18

Đã sản xuất trên 07 năm đến 12 năm 12

Đã sản xuất trên 12 năm 06

2. Ô tô chở người các loại đến 09 chỗ có kinh doanh vận tải; ô tô chở người

các loại trên 09 chỗ

2.1 Không cải tạo (*) 18 06

2.2 Có cải tạo (*) 12 06

3. Ô tô tải các loại, ô tô chuyên dùng, ô tô đầu kéo, rơ moóc, sơmi rơ moóc

24 12

Ô tô tải các loại, ô tô chuyên dùng, ô tô đầu kéo đã sản xuất đến 07 năm; rơ moóc, sơmi rơ moóc đã sản xuất đến 12 năm 3.1

06

Ô tô tải các loại, ô tô chuyên dùng, ô tô đầu kéo đã sản xuất trên 07 năm; rơ moóc, sơmi rơ moóc đã sản xuất trên 12 năm

3.2 Có cải tạo (*) 12 06

03

4. Ô tô chở người các loại trên 09 chỗ đã sản xuất từ 15 năm trở lên; ô tô tải các loại, ô tô đầu kéo đã sản xuất từ 20 năm trở lên

Nguồn: Phụ lục VII của Thông tư số 70/2015/TT-BGTVT ngày 09/11/2015 của Bộ trưởng Bộ GTVT quy định về kiểm định an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường phương tiện giao thông cơ giới đường bộ.

14

1.1.3. Mục đích của việc đăng kiểm xe cơ giới đường bộ

Công tác đăng kiểm xe cơ giới đường bộ nhằm nâng cao an toàn sinh

mạng con người, tài sản và ngăn ngừa ô nhiễm môi trường. Không phải bất kỳ

phương tiện giao thông nào khi được sản xuất ra hay sau khi đưa vào lưu hành

đều đáp ứng được tất cả các yêu cầu về an toàn giao thông và bảo vệ môi

trường theo các quy định của pháp luật. Một trong những nguyên nhân chính

dẫn đến tai nạn giao thông ngày càng gia tăng và ô nhiễm môi trường ngày

càng trầm trọng là chất lượng phương tiện không đảm bảo, vì vậy công tác

đăng kiểm xe cơ giới đường bộ có ý nghĩa rất lớn trong việc góp phần giảm

thiểu tai nạn giao thông và ô nhiễm mội trường. Để giảm bớt tại nạn giao thông

do các phương tiện cơ giới đường bộ tham gia giao thông không đảm bảo các

tiêu chuẩn an toàn kỹ thuật và chống ô nhiễm môi trường, cần xác định rõ các

quy định về kỹ thuật và môi trường, đồng thời kiểm soát chặt chẽ việc tuân thủ

các quy định này của các chủ phương tiện tham gia giao thông. Thông qua

công tác đăng kiểm xe cơ giới đường bộ sẽ kiểm soát được vấn đề nêu trên.

Theo số liệu thống kê của Cục Đăng kiểm Việt Nam, tính đến ngày

30/12/2016, cả nước có 2.472.424 xe cơ giới vào kiểm định, số lượt phương

tiện kiểm định đạt tiêu chuẩn là 2.051.492; có 139.544 xe cơ giới hết niên hạn

sử dụng, trong đó có 96.791 xe chở hàng và 42.753 xe chở người [17].

Thông qua đăng kiểm đã tiến hành rà soát về mức độ an toàn kỹ thuật và

môi trường của các phương tiện tham gia giao thông để qua đó đình chỉ lưu

hành các phương tiện không đủ tiêu chuẩn chất lượng và yêu cầu sửa chữa với

những phương tiện cần sửa chữa để đáp ứng tiêu chuẩn lưu hành.

Như vậy, mục đích của công tác đăng kiểm xe cơ giới đường bộ là góp

phần phòng ngừa ô nhiễm môi trường và bảo đảm trật tự an toàn giao thông,

bảo vệ tính mạng, tài sản người tham gia giao thông.

15

1.1.4. Quản lý công tác đăng kiểm xe cơ giới đường bộ hiện nay

1.1.4.1. Hệ thống thể chế quy định về đăng kiểm và tiêu chuẩn kỹ thuật

đối với các phương tiện tham gia giao thông hiện nay

Hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật quy định về đăng kiểm đối

với xe cơ giới đường bộ ở Việt Nam đã được ban hành tương đối đầy đủ và

toàn diện từ trong các Luật chuyên ngành tới các quy định của Chính phủ, Bộ

Giao thông vận tải và các quy định cụ thể của UBND tỉnh các tỉnh.

Luật Giao thông đường bộ năm 2008 xác định các loại xe cơ giới chỉ được

phép tham gia giao thông phải bảo đảm các quy định về chất lượng, an toàn kỹ

thuật và bảo vệ môi trường (Điều 53). Chủ phương tiện, người lái xe ô tô chịu

trách nhiệm duy trì tình trạng an toàn kỹ thuật của phương tiện theo tiêu chuẩn

quy định khi tham gia giao thông đường bộ giữa hai kỳ kiểm định. Người đứng

đầu cơ sở đăng kiểm và người trực tiếp thực hiện việc kiểm định phải chịu trách

nhiệm về việc xác nhận kết quả kiểm định. Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải

được phép quy định điều kiện, tiêu chuẩn và cấp giấy phép cho cơ sở đăng kiểm

xe cơ giới; quy định và tổ chức thực hiện kiểm định xe cơ giới. Bộ trưởng Bộ

Quốc phòng, Bộ trưởng Bộ Công an quy định và tổ chức kiểm định xe cơ giới

của quân đội, công an sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh (Điều 55).

Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 quy định những hành vi gây ô nhiễm

môi trường bị nghiêm cấm bao gồm cả “thải khói, bụi, khí có chất hoặc mùi độc

hại vào không khí; phát tán bức xạ, phóng xạ, các chất ion hóa vượt quá quy

chuẩn kỹ thuật môi trường và gây tiếng ồn, độ rung vượt quá quy chuẩn kỹ thuật

môi trường” (Điều 7). Điều 74 của Luật này về Bảo vệ môi trường trong hoạt

động Giao thông vận tải cũng quy định rõ “Phương tiện giao thông cơ giới phải

được cơ quan đăng kiểm xác nhận đạt quy chuẩn kỹ thuật môi trường mới được

đưa vào sử dụng”.

16

Luật Chất lượng sản phẩm hàng hóa năm 2007 cũng quy định trách

nhiệm của Bộ Giao thông vận tải đối với chất lượng phương tiện giao thông

đường bộ và các phương tiện khác, cụ thể: “Bộ Giao thông vận tải chịu trách

nhiệm đối với phương tiện Giao thông vận tải, phương tiện, thiết bị xếp dỡ, thi

công vận tải chuyên dùng, phương tiện, thiết bị thăm dò, khai thác trên biển,

công trình hạ tầng giao thông” (Điều 70).

Trên cơ sở các quy định trên, Chính phủ đã ban hành Nghị định số

95/2009/NĐ-CP ngày 30/10/2009 của Chính phủ quy định niên hạn sử dụng xe

chở hàng và xe chở người, Nghị định số 86/2014/NĐ-CP ngày 19/10/2014 quy

định về kinh doanh và điều kiện kinh doanh vận tải bằng xe ô tô; Nghị định số

63/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016 quy định về điều kiện kinh doanh dịch vụ

đăng kiểm xe cơ giới; Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số

249/2005/QĐ-TTg ngày 10/10/2005 về quy định lộ trình áp dụng tiêu chuẩn

khí thải đối với phương tiện giao thông cơ giới đường bộ, Quyết định số

22/2015/QĐ-TTg ngày 22 tháng 6 năm 2015 về việc chuyển đơn vị sự nghiệp

công lập thành công ty cổ phần;

Để triển khai các quy định của Quốc hội, Chính phủ và Thủ tướng Chính

phủ, Bộ Giao thông vận tải trong những năm qua cũng đã ban hành nhiều quy

định liên quan tới việc nâng cao chất lượng kiểm định phương tiện cơ giới

đường bộ, có thể thống kê các văn bản còn hiệu lực như:

- Thông tư số 238/2016/TT-BTC của Bộ trưởng Bộ Tài chính về việc

ban hành mức thu lệ phí kiểm định an toàn kỹ thuật, chất lượng xe cơ giới và

các loại thiết bị, xe máy chuyên dùng;

- Thông tư số 11/2009/TT-BGTVT ngày 24/6/2009 của Bộ trưởng Bộ

Giao thông vận tải Quy định điều kiện đối với Trung tâm đăng kiểm phương

tiện giao thông cơ giới đường bộ;

17

- Thông tư số 41/2011/TT-BGTVT ngày 18/5/2011 của Bộ trưởng Bộ

Giao thông vận tải Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 23/2009/TT-

BGTVT ngày 15 tháng 10 năm 2009 quy định về kiểm tra chất lượng an toàn

kỹ thuật và bảo vệ môi trường xe máy chuyên dùng;

- Thông tư số 07/2011/TT-BGTVT ngày 07/3/2011 của Bộ trưởng Bộ

Giao thông vận tải về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy định về tiêu

chuẩn, nhiệm vụ, trách nhiệm, quyền hạn, khen thưởng và kỷ luật đối với cán

bộ đăng kiểm tại các đơn vị đăng kiểm phương tiện cơ giới đường bộ;

- Thông tư số 59/2013/TT-BGTVT ngày 30/12/2013 của Bộ trưởng Bộ

Giao thông vận tải Quy định về việc thành lập và hoạt động của Trung tâm

Đăng kiểm xe cơ giới;

- Thông tư số 85/2014/TT-BGTVT ngày 31/12/2014 của Bộ trưởng Bộ

Giao thông vận tải Quy định về việc cải tạo phương tiện giao thông cơ giới

đường bộ;

- Thông tư số 70/2015/TT-BGTVT ngày 09 tháng 11 năm 2015 của Bộ

trưởng Bộ Giao thông vận tải quy định về kiểm định an toàn kỹ thuật và bảo vệ

môi trường phương tiện giao thông cơ giới đường bộ;

Cho đến nay, có thể nói hệ thống văn bản, quy phạm pháp luật và tiêu

chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật đối với các loại phương tiện cơ giới đường bộ đã

được xây dựng, bổ sung, sửa đổi tương đối hoàn thiện làm căn cứ pháp lý cho

các công tác đăng kiểm. Tuy nhiên, vẫn cần bổ sung, cập nhật, sửa đổi kịp thời

hệ thống văn bản quy phạm pháp luật để phù hợp với yêu cầu thực tế của

nhiệm vụ đăng kiểm trong tình hình mới và mở rộng việc đăng kiểm sang

những lĩnh vực chưa được thực hiện. Chẳng hạn, Luật Giao thông đường bộ đã

quy định phải kiểm soát an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường đối với xe mô

tô, xe gắn máy đang lưu hành Khoản 2 Điều 53 Luật Giao thông đường bộ năm

18

2008 về “Điều kiện tham gia giao thông của xe cơ giới” quy định “Xe mô tô

hai bánh, xe mô tô ba bánh, xe gắn máy đúng kiểu loại được phép tham gia

giao thông phải bảo đảm các quy định về chất lượng, an toàn kỹ thuật và bảo

vệ môi trường... ” nhưng hiện vẫn chưa có các văn bản hướng dẫn dưới Luật

quy định cụ thể biện pháp thực hiện cũng như quy chuẩn kỹ thuật làm căn cứ

để triển khai thực hiện.

1.1.4.2. Cơ quan quản lý nhà nước về đăng kiểm xe cơ giới

Công tác đăng kiểm ở Việt Nam bắt đầu bằng việc đăng kiểm tàu thủy

được hình thành từ năm 1884, khi lần đầu tiên ở Việt Nam có ụ khô để đóng

tàu mới và sửa chữa tàu biển tại Ba Son, Sài Gòn. Năm 1960, Phòng Ðăng ký

hải sự trực thuộc Bộ Giao thông vận tải được thành lập để thực hiện việc kiểm

tra các loại phương tiện vận tải đường thủy, trụ sở đóng tại Hà Nội. Cơ quan

này là cơ sở tiền thân của Cục Ðăng kiểm Việt Nam ngày nay [54].

Xuất phát từ những đòi hỏi khách quan của việc bảo đảm tính năng an

toàn kỹ thuật của các phương tiện vận tải, trước hết là các loại tàu thuyền và

các phương tiện sử dụng nồi hơi, bình chịu áp lực, ngày 25 tháng 04 năm 1964,

Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải ra quyết định số 345/QĐ thành lập Ty Đăng

kiểm có trụ sở đóng tại Hải Phòng với nhiệm vụ tổ chức việc đăng ký, kiểm

tra, nghiệm thu về kỹ thuật an toàn của các phương tiện vận tải đường thuỷ, nồi

hơi và một số thiết bị liên quan khác. Ngày này hiện nay được lấy là ngày

thành lập của Ðăng kiểm Việt Nam. Đến nay Đăng kiểm Việt Nam đã trải qua

50 năm hoạt động và đã có nhiều đóng góp tích cực vào việc bảo đảm chất

lượng phương tiện Giao thông vận tải và bảo vệ môi trường.

Việc xây dựng và triển khai kiểm định phương tiện cơ giới đường bộ

được thực hiện một cách hệ thống thực hiện từ tháng 5 năm 1995. Hiện nay, hệ

thống cơ quan đăng kiểm xe cơ giới đường bộ được tổ chức thống nhất trên cả

nước với 139 trung tâm đăng kiểm trải ra trên phạm vi cả nước [6][54].

19

Cục Đăng kiểm Việt Nam là tổ chức trực thuộc Bộ Giao thông vận tải,

là cơ quan quản lý Nhà nước về an toàn và chất lượng của các phương tiện và

thiết bị Giao thông vận tải, có nhiệm vụ tổ chức và thực hiện giám sát kỹ thuật,

chứng nhận chất lượng và an toàn cho các phương tiện và thiết bị Giao thông

vận tải đường thủy, đường bộ, đường sắt và công trình biển và các sản phẩm

công nghiệp phục vụ cho các ngành nói trên. Cục Đăng kiểm Việt Nam là tổ

chức có tư cách pháp nhân, có con dấu hành chính và con dấu nghiệp vụ, được

mở tài khoản tại Ngân hàng, có trụ sở đặt tại thành phố Hà Nội.

Sơ đồ 1.1.: Sơ đồ tổ chức của Cục Đăng kiểm Việt Nam

Nguồn: http://www.vr.mt.gov.vn

20

Cục Đăng kiểm Việt Nam thực hiện chức năng quản lý nhà nước về đăng

kiểm không chỉ đối với phương tiện giao thông đường bộ mà còn đối với tất cả

các loại phương tiện khác như phương tiện phương tiện, thiết bị xếp dỡ, thi công

chuyên dùng, container, nồi hơi và bình chịu áp lực sử dụng trong Giao thông

vận tải đường bộ, đường sắt, đường thủy nội địa, hàng hải trong phạm vi cả

nước; tổ chức thực hiện công tác đăng kiểm chất lượng an toàn kỹ thuật các loại

phương tiện, thiết bị Giao thông vận tải và phương tiện, thiết bị thăm dò, khai

thác, vận chuyển dầu khí trên biển theo quy định của pháp luật [54].

Bên cạnh Cục Đăng kiểm Việt Nam, Sở Giao thông vận tải ở các tỉnh là

cơ quan thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với công tác đăng kiểm xe

cơ giới của các Trung tâm đăng kiểm xe cơ giới thuộc các Sở quản lý [8].

1.1.4.3. Các trung tâm đăng kiểm xe cơ giới

Việc đăng kiểm xe cơ giới được thực hiện tại các Trung tâm đăng kiểm

xe cơ giới. Trung tâm Đăng kiểm xe cơ giới là tổ chức sự nghiệp có thu, thực

hiện chức năng kiểm định an toàn kỹ thuật và bảo vệ mội trường phương tiện

cơ giới đường bộ theo quy định của Bộ Giao thông vận tải và chịu sự quản lý

Nhà nước của Cục Đăng kiểm Việt Nam (với các Trung tâm thuộc Cục) hoặc

Sở Giao thông vận tải (với các Trung tâm thuộc Sở). Các trung tâm này được

tổ chức như các doanh nghiệp hoạt động công ích trong lĩnh vực kiểm định kỹ

thuật phương tiện cơ giới đường bộ, có tư cách pháp nhân, có con dấu riêng,

hạch toán kinh tế độc lập, được vay vốn và mở tài khoản tại ngân hàng để hoạt

động theo quy định của Nhà nước.

Nhiệm vụ, quyền hạn của Trung tâm đăng kiểm xe cơ giới được quy

định trong hệ thống pháp luật hiện hành bao gồm: [5]

- Kiểm tra kỹ thuật và cấp Giấy chứng nhận an toàn kỹ thuật cho các loại

phương tiện cơ giới đường bộ.

21

- Thu phí, lệ phí kiểm định phương tiện theo giá, khung giá quy định của

Nhà nước.

- Thu phí sử dụng đường bộ theo giá, khung giá quy định của Nhà nước.

(thực hiện từ ngày 01/01/2013 theo Thông tư 197/2012/TT-BTC ngày

15/11/2012 của Bộ tài chính về việc Hướng dẫn chế độ thu, nộp, quản lý và sử

dụng phí sử dụng đường bộ theo đầu phương tiện)

- Cung cấp hồ sơ, tài liệu về chất lượng các phương tiện đã qua kiểm tra

đến các cơ quan quản lý chức năng có thẩm quyền.

- Chịu trách nhiệm bảo toàn phát triển cơ sở vật chất, kỹ thuật, tài sản,

trang thiết bị được giao quản lý.

- Quản lý tổ chức và cán bộ, công chức của Trung tâm theo quy định

hiện hành của Nhà nước.

Việc đăng kiểm có thể do các tổ chức hoặc cá nhân tiến hành theo sự cho

phép và kiểm soát của Cục Đăng kiểm Việt Nam. Theo quy định pháp luật hiện

hành về đăng kiểm, mọi tổ chức, cá nhân đều có thể đăng ký thành lập các

Trung tâm đăng kiểm và được phép đăng ký thành lập Trung tâm kiểm định

chất lượng xe cơ giới khi có đủ các điều kiện sau: [8]

a) Trung tâm phù hợp với Quy hoạch Hệ thống Trung tâm đăng kiểm

của Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải

b) Đảm bảo đầy đủ các điều kiện đối với Trung tâm Đăng kiểm xe cơ

giới theo quy định của Bộ Giao thông vận tải

c) Được Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chấp

thuận về địa điểm xây dựng Trung tâm

Các Trung tâm khi đăng ký thành lập phải đáp ứng các yêu cầu về cơ sở

vật chất và nhân lực. Điều kiện cơ sở vật chất kỹ thuật và nhân lực của Trung

tâm đăng kiểm phương tiện giao thông cơ giới đường bộ được quy định tại

22

Thông tư số 59/2013/TT-BGTVT ngày 30 tháng 12 năm 2013 của Bộ trưởng

Bộ Giao thông vận tải bao gồm các đòi hỏi về diện tích mặt bằng, chất lượng

máy móc, thiết bị của dây chuyền kiểm định, máy móc xử lý và truyền tải dữ

liệu kiểm định và chất lượng nhân sự thực hiện kiểm định.

Về nhân sự làm việc tại các trung tâm đăng kiểm: Nhân sự thực hiện

công tác đăng kiểm (trước hết là các đăng kiểm viên trực tiếp thực hiện việc

kiểm tra phương tiện) có thể là viên chức nhà nước hoặc người lao động do

doanh nghiệp thực hiện đăng kiểm theo sự cho phép của Cục Đăng kiểm tuyển

dụng nhưng để đảm bảo chất lượng đăng kiểm của các trung tâm đăng kiểm,

chất lượng nguồn nhân lực làm việc trong các trung tâm này do Cục Đăng

kiểm quy định và kiểm soát, cụ thể:

- Đối với Giám đốc, Phó Giám đốc Trung tâm phải là đăng kiểm viên có

kinh nghiệm kiểm định tối thiểu 03 năm. Khi bổ nhiệm Giám đốc, Phó Giám

đốc phải có thỏa thuận bằng văn bản của cơ quan quản lý nhà nước về công tác

kiểm định.

- Đối với người phụ trách dây chuyền phải là đăng kiểm viên có kinh

nghiệm kiểm định tối thiểu 02 năm.

- Đối với đăng kiểm viên xe cơ giới phải được Cơ quan quản lý nhà

nước về công tác kiểm định công nhận và cấp thẻ đăng kiểm viên.

- Đối với các nhân viên nghiệp vụ phải được Cơ quan quản lý nhà nước

về công tác kiểm định hướng dẫn, bồi dưỡng nghiệp vụ đăng kiểm xe cơ giới.

Trong quá trình hoạt động kiểm định xe cơ giới, đăng kiểm viên và nhân

viên nghiệp vụ phải tham dự các khóa học bổ túc, cập nhật, nâng cao kiến thức

chuyên môn nghiệp vụ. Cán bộ, nhân viên của Trung tâm phải có đầy đủ trang

bị bảo hộ lao động khi làm việc.

Những điều kiện trên về nhân sự được quy định tại Thông tư số

72/2014/TT-BGTVT của Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải ngày 12 tháng 12

23

năm 2014, sửa đổi bổ sung Thông tư số 27/2013/TT-BGTVT ngày 24/9/2013

và có hiệu lực thi hành từ ngày 15/2/2015. So với tiêu chuẩn cũ được quy định

tại Thông tư 27, đối tượng “đầu vào” để trở thành đăng kiểm viên sẽ rộng hơn,

không chỉ bó hẹp là người “tốt nghiệp đại học chuyên ngành cơ khí phương

tiện Giao thông vận tải đường bộ”. Thời gian tập sự tại trung tâm đăng kiểm xe

cơ giới cũng chỉ cần 6 tháng, thay vì 3 năm như hiện nay.

Ngoài các điều kiện trên, để trở thành đăng kiểm viên, phải biết tiếng

Anh tối thiếu là trình độ A, học và được cấp Giấy chứng nhận lớp tập huấn do

Cục Đăng kiểm Việt Nam cấp, có thời gian tối thiểu 2 năm làm việc tại cơ sở

sữa chữa, bảo dưỡng, sản xuất, lắp ráp ôtô hoặc tối thiểu 6 tháng tập sự tại

trung tâm đăng kiểm xe cơ giới, được Cục Đăng kiểm Việt Nam cấp giấy

chứng nhận Đăng kiểm viên. Định kỳ hàng năm, đội ngũ này đều được kiểm

tra sát hạch, đánh giá lại năng lực [4]. Số lượng trung tâm đăng kiểm và dây

chuyền kiểm định được thể hiện ở Bảng 1.2; Danh sách các trung tâm đăng

kiểm xe cơ giới đường bộ được thể hiện ở Phụ lục 1.

Bảng 1.2: Số lượng trung tâm đăng kiểm và dây chuyền kiểm định

TT Năm Số trung tâm đăng kiểm Số lượng dây chuyền kiểm định

1 2011 107 189

2 2012 107 191

3 2013 110 201

4 2014 114 211

5 2015 113 215

6 2016 139 220

Nguồn: Cục Đăng kiểm Việt Nam

24

Theo số liệu thống kê của Cục Đăng kiểm Việt Nam tại Bảng 1.2., số

lượng các trung tâm đăng kiểm và các dây chuyền đăng kiểm đã tăng lên đáng

kể trong những năm vừa qua cho thấy nhu cầu đăng kiểm ngày càng tăng.

Việc gia tăng về số lượng các trung tâm đăng kiểm xe cơ giới đường bộ

và số lượng các dây chuyền đăng kiểm tại các trung tâm trong những năm vừa

qua phản ánh nhu cầu đăng kiểm ngày càng tăng trong xã hội. Cùng với sự

phát triển kinh tế-xã hội nói chung, việc sở hữu một phương tiện cơ giới lưu

hành đường bộ đã trở nên dễ dàng hơn và số lượng các phương tiện cơ giới cần

được đăng kiểm hang năm cũng tăng lên đáng kể [36].

Việc tăng số lượng các trung tâm đăng kiểm và số lượng các dây chuyền

đăng kiểm góp phần quan trọng vào việc đảm bảo nhu cầu đăng kiểm đang

ngày càng tăng lên trong những năm gần. Bảng 1.3 dưới đây cho thấy số lượng

xe kiểm định và tỷ lệ tăng trưởng phương tiện.

Bảng 1.3: Số lượng xe kiểm định và tỷ lệ tăng trưởng

TT Năm Số lượng ô

tô Số lượt kiểm định

Tỷ lệ số lượt ô tô phải kiểm định và tổng số ô tô Tỷ lệ tăng trưởng so với năm trước (%)

2011 4.484 9.555 9555/4484 100,76 1

2012 4.518 11.170 11.170/4.518 247,23 2

2013 4.799 12.370 12.370/4.799 257,76 3

2014 5.272 16.335 16.335/5.272 309,84 4

2015 5.883 14.443 14.443/5.883 245,50 5

2016 6.611 15.637 15.637/6.611 236,53 6

Nguồn: Các báo cáo kết quả kiểm định của trung tâm đăng kiểm 8501S

25

1.2. XÃ HỘI HÓA CÔNG TÁC ĐĂNG KIỂM XE CƠ GIỚI ĐƯỜNG BỘ

1.2.1. Khái niệm xã hội hóa

Thời gian gần đây, thuật ngữ “xã hội hóa” không chỉ được đề cập trong

các văn bản mang tính chất định hướng của Đảng, Nhà nước, mà còn được sự

quan tâm khá đặc biệt từ phía các nhà nghiên cứu. Thậm chí, nó đã không còn

xa lạ với đa số người dân, mặc dù không hẳn ai cũng hiểu tường tận khái niệm

này. Liên quan đến công việc quản lý nhà nước, thuật ngữ này được sử dụng

như một “giải pháp” cho cải cách việc cung ứng các dịch vụ công. Theo cách

hiểu này, vai trò cung ứng dịch vụ của các chủ thể cung ứng có sự thay đổi:

chuyển từ sự độc quyền của Nhà nước sang hướng mở rộng cung ứng các dịch

vụ này ra ngoài khu vực nhà nước nhằm tập hợp nguồn lực của xã hội để cùng

thực hiện mục tiêu cải thiện chất lượng cung ứng dịch vụ công.

Hiện nay, chưa có một khái niệm chung duy nhất về xã hội hóa mà phụ

thuộc vào cách tiếp cận của các tác giả khác nhau thì khác nhau. Chẳng hạn:

Tiếp cận ở gốc độ xã hội học thì xã hội hóa là quá trình mà qua đó cá

nhân học hỏi, lĩnh hội nền văn hóa của xã hội như các khuôn mẫu xã hội [40].

Tiếp cận khác của GS.Ngô Thành Dương, xã hội hóa là nói lên sự chuyển

hóa từ tính chất cá nhân thành tính chất xã hội.

Tiếp cận của TS. Nông Phú Bình (2000), Một số thuật ngữ hành chính,

Nxb Thế giới thì “xã hội hóa là quá trình chuyển hóa, tạo lập cơ chế hoạt động

và cơ chế tổ chức quản lý mới của một số lĩnh vực hoạt động kinh tế-xã hội, trên

cơ sở cộng đồng trách nhiệm nhằm khai thác, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực

của xã hội, phục vụ cho mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội của đất nước”.

26

Hiện nay có nhiều cách tiếp cận khác nhau ở các quốc gia khác nhau như

quá trình mở rộng sự tham gia của tư nhân trong hoạt động cung ứng dịch vụ

công. Quá trình xã hội hóa theo hướng mở rộng sự tham gia của nhân dân trong

hoạt động cung ứng dịch vụ công, một lĩnh vực trước đây do Nhà nước thực

hiện. Xã hội hóa tạo cơ hội để có thể tồn tại hoạt động cung ứng dịch vụ công

của nhiều tổ chức ở các thành phần kinh tế khác nhau thuộc sở hữu khác nhau.

Các tổ chức này cùng cung ứng dịch vụ công trong môi trường pháp lý bình

đẳng và cùng cạnh tranh với nhau về chất lượng cung ứng. Tuy nhiên, tuỳ

thuộc vào điều kiện cụ thể mà các thành phần kinh tế sẽ tham gia ở mức độ

khác nhau. Chính phủ không muốn độc quyền, nhưng các thành phần kinh tế

khác không muốn tham gia do hiệu quả kinh tế mà họ nhận được. Các thành

phần kinh tế thường lựa chọn những lĩnh vực nào đem lại lợi nhuận cao, ít rủi

ro để tham gia.

Xã hội hóa hoạt động cung ứng dịch vụ công với sự ra đời của nhiều chủ

thể kinh tế thuộc các thành phần khác nhau kéo theo đòi hỏi Nhà nước phải

trao quyền tự quản nhiều cho các đơn vị cung ứng dịch vụ công. Họ phải được

quyền quyết định tất cả các vấn đề liên quan đến hoạt động cung ứng dịch vụ

công trong khuôn khổ pháp luật đã quy định. Vai trò quản lý vĩ mô của các cơ

quản Nhà nước tập trung vào việc xây dựng hành lang pháp lý cho sự hoạt

động của tất cả các tổ chức cung ứng dịch vụ công chứ không phải để can thiệp

và hoạt động cụ thể của các chủ thể đó [40].

Do xã hội hóa hoạt động cung ứng dịch vụ công là thu hút sự tham gia

của các thành phần kinh tế tự chủ về tài chính đòi hỏi phải trao quyền quyết

định điều hành cho họ. Có như thế mới bảo đảm được hiệu quả hoạt động cung

27

ứng dịch vụ công. Sự can thiệp của Nhà nước sâu vào hoạt động cụ thể của

doanh nghiệp có thể không thu hút được các nhà đầu tư.

Xã hội hóa theo hướng quy định rõ trách nhiệm của Nhà nước trong việc

chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; khuyến khích các thành

phần kinh tế tham gia cung ứng các dịch vụ trong môi trường cạnh tranh bình

đẳng, lành mạnh… đẩy mạnh xã hội hóa, huy động toàn xã hội chăm lo phát

triển giáo dục, y tế, dân số - kế hoạch hóa gia đình, thể dục, thể thao [14].

Qua một số khái niệm về xã hội hóa trên thì theo tác giả khái niệm được

TS. Nông Phú Bình dễ hiểu, đầy đủ, phù hợp. Tuy nhiên, vấn đề là cần có sự

phân định rõ ràng, những lĩnh vực do Nhà nước thực hiện, những lĩnh vực mà

Nhà nước có thể giao cho tư nhân thực hiện và những lĩnh vực mà Nhà nước và

tư nhân cùng thực hiện để tránh tình trạng Nhà nước ôm đồm, độc quyền

nhưng thực hiện không hiệu quả, những việc mà đáng ra thuộc về khu vực tư.

Vì vậy, xã hội hóa là quá trình chuyển hóa, tạo lập cơ chế hoạt động và

cơ chế tổ chức quản lý mới của một số lĩnh vực hoạt động kinh tế-xã hội, trên

cơ sở cộng đồng trách nhiệm nhằm khai thác, sử dụng có hiệu quả các nguồn

lực của xã hội, phục vụ cho mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội của đất nước.

Theo quan điểm của tác giả, xã hội hóa là một quá trình công đồng trách

nhiệm giữa các lực lượng trong hệ thống chính trị và người dân. Trong đó, nhà

nước đóng vai trò nồng cốt, nhà nước tiên hành thể chế hóa các quy định liên

quan đến xã hội hóa một lĩnh vực nào đó nhằm huy động mọi lực lượng xã hội

để phát triển lĩnh vực được xã hội hóa. Đồng thời, nhà nước tạo điều kiện cho

người dân được hưởng đầy đủ mọi quyền lợi và nâng cao vai trò, trách nhiệm

của mình đối với lĩnh vực xã hội hóa.

28

Xã hội hóa dịch vụ công được hiểu là quá trình vận động và tổ chức sự

tham gia rộng rãi của nhân dân, của toàn xã hội vào hoạt động cung cấp dịch

vụ công nhằm từng bước nâng cao mức hưởng thụ về dịch vụ của nhân dân[3,

tr.13]. Xã hội hoá dịch vụ công được hiểu trước hết là việc xây dựng cộng

đồng trách nhiệm của các tầng lớp nhân dân đối với việc tạo lập và cải thiện

việc cung cấp dịch vụ công; đa dạng hoá các hình thức cung cấp dịch vụ, mở

rộng các cơ hội cho các tầng lớp nhân dân tham gia chủ động và bình đẳng vào

các hoạt động cung cấp dịch vụ công. Đó là hoạt động nhằm mở rộng các

nguồn đầu tư, khai thác các tiềm năng về nhân lực, vật lực và tài lực trong xã

hội tham gia cùng với nhà nước trong việc cung ứng các dịch vụ công đáp ứng

các đòi hỏi của xã hội. Phá bỏ sự độc quyền, bao cấp của Nhà nước một mặt sẽ

giảm tải được gánh nặng cho các cơ quan công quyền, mặt khác huy động được

các nguồn lực trong xã hội. Không chỉ vậy, xã hội hóa còn được hiểu là quá

trình để mọi người được tham gia bình đẳng vào môi trường lành mạnh, được

thụ hưởng những lợi ích công bằng do dịch vụ công đem lại.

Trong bối cảnh phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ

nghĩa, tăng cường hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, việc đổi mới vai trò, trách

nhiệm của nhà nước và bộ máy hành chính nhà nước trong quản lý và tổ chức

cung ứng dịch vụ công gắn liền với chủ trương đẩy mạnh xã hội hóa thực sự là

một nhiệm vụ quan trọng cần phải tập trung giải quyết.

Đại hội VI của Đảng năm 1986 đã xác định phương châm “nhà nước và

nhân dân cùng làm” và chủ trương này tiếp tục được khẳng định tại Đại hội VII.

Tuy nhiên, Đại hội VIII của Đảng (năm 1996) mới chính thức đặt nền móng cho

quá trình xã hội hóa dịch vụ công, lôi cuốn tư nhân tham gia vào cung cấp dịch

vụ công thiết yếu. Báo cáo chính trị được trình bày tại Đại hội này đã khẳng

định: “Thực hiện phương châm đẩy mạnh xã hội hóa các hoạt động văn hóa,

thông tin, thể dục thể thao, y tế, dân số, kế hoạch hóa gia đình và các mặt xã hội 29

khác, hướng vào nâng cao chất lượng cuộc sống vật chất, tinh thần và thể lực

của nhân dân”. Theo quan điểm bày, “các vấn đề chính sách xã hội đều giải

quyết theo tinh thần xã hội hóa. Nhà nước giữ vai trò nòng cốt, đồng thời động

viên mọi người dân, các doanh nghiệp, các tổ chức trong xã hội, các cá nhân và

tổ chức nước ngoài cùng tham gia giải quyết các vấn đề xã hội” [17].

Để triển khai chủ trương này trong thực tế, ngày 21 tháng 8 năm 1997,

Chính phủ đã ban hành Nghị quyết 90/CP về phương hướng và chủ trương xã

hội hóa các hoạt động giáo dục, y tế, văn hóa. Chương trình tổng thể cải cách

hành chính nhà nước giai đoạn 2001-2010 của Chính phủ đặt ra yêu cầu: “Xây

dựng quan niệm đúng đắn về dịch vụ công. Nhà nước có trách nhiệm chăm lo

đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân, nhưng không phải vì thế mà mọi

công việc về dịch vụ công đều do cơ quan nhà nước trực tiếp đảm nhiệm.

Trong từng lĩnh vực cần định rõ những công việc mà nhà nước phải đầu tư và

trực tiếp thực hiện, những công việc cần chuyển giao cho các tổ chức xã hội

đảm nhiệm”.

Các chính sách cụ thể đối với những loại hình dịch vụ công đã được ban

hành trong các văn bản như Nghị định 73/1999/NĐ-CP ngày 19 tháng 8 năm

1999 của Chính phủ về chính sách khuyến khích xã hội hóa đối với các hoạt

động trong lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hóa, thể thao; Nghị quyết 05/2005/NQ-

CP ngày 18 tháng 4 năm 2005 của Chính phủ về đẩy mạnh xã hội hóa các hoạt

động giáo dục, y tế, văn hóa và thể dục thể thao; Nghị định số 53/2006/NĐ-CP

ngày 25 tháng 5 năm 2006 của Chính phủ về chính sách khuyến khích phát

triển các cơ sở cung ứng dịch vụ ngoài công lập; Nghị định số 108/2009/NĐ-

CP ngày 27 tháng 11 năm 2009 của Chính phủ quy định về đầu tư theo hình

thức Hợp đồng Xây dựng-Kinh doanh-Chuyển giao, Hợp đồng Xây dựng-

Chuyển giao- Kinh doanh, Hợp đồng Xây dựng-Chuyển giao, Quyết định

71/2010/QĐ-TTg ngày 09 tháng 11 năm 2010 của Thủ tướng Chính phủ ban 30

hành Quy chế thí điểm đầu tư theo hình thức đối tác công – tư và gần đây là

Nghị định 15/2015/NĐ-CP ngày 14 tháng 02 năm 2015 của Chính phủ về đầu

tư theo hình thức đối tác công-tư; Quyết định số 22/2015/QĐ-TTg ngày 22

tháng 6 năm 2015 của Chính phủ về việc chuyển đơn vị sự nghiệp công lập

thành công ty cổ phần đã xác lập hành lang pháp lý cụ thể cho việc xã hội hóa

việc cung ứng dịch vụ công, lôi cuốn tư nhân tham gia cùng với nhà nước trong

việc bảo đảm các dịch vụ công cho công dân và tổ chức trong xã hội.

Nhìn lại một số thành quả đã đạt được từ việc xã hội hóa dịch vụ công

trên tất cả các lĩnh vực đời sống có thể thấy, nó đem lại những lợi ích không

thể phủ nhận. Bắt đầu từ thay đổi nhận thức về vai trò của Nhà nước đối với

các dịch vụ công liên quan đến thủ tục hành chính - lĩnh vực mà trước đây chỉ

có Nhà nước đảm trách - thì hiện nay đã đã chuyển giao một phần cho các tổ

chức ngoài nhà nước. Việc triển khai xã hội hóa rộng rãi trên các lĩnh vực cụ

thể đã từng bước thể hiện tính đúng đắn của chủ trương xã hội hóa.

Tuy nhiên, xã hội hóa cũng đặt ra nhiều vấn đề đòi hỏi phải tiến hành

nghiên cứu sâu rộng hơn. Vẫn còn các hoài nghi chung quanh các nội dung:

liệu xã hội hóa các dịch vụ công có đem lại hiệu quả bền vững? Nên xã hội hóa

dịch vụ công ở mức độ nào? Nhà nước có bảo đảm được vai trò quản lý của

mình khi các dịch vụ này được xã hội hóa rộng rãi?

Cần thiết phải xác định rõ, mục tiêu mà công cuộc cải cách dịch vụ

công hướng tới là tăng cường khả năng cung cấp và chất lượng của dịch vụ

chứ không phải là mức độ xã hội hóa. Xã hội hóa chỉ là phương thức để đạt

được số lượng và chất lượng dịch vụ công theo mong muốn của Nhà nước và

đáp ứng các đòi hỏi ngày càng cao của xã hội.

Ở nhiều nước phát triển, xu thế chuyển giao dịch vụ công cho các tổ

chức khu vực tư ngày càng được áp dụng nhiều dưới những hình thức khác

31

nhau. Nhà nước chỉ chịu trách nhiệm cung cấp những lĩnh vực mà khu vực tư

không hoặc chưa tham gia. Đối với Việt Nam, hiện nay cung ứng dịch vụ

công vẫn phụ thuộc phần lớn vào Nhà nước vì khu vực tư chưa đủ năng lực

để cung cấp tốt các dịch vụ này. Do vậy, cần phải xác định được lĩnh vực nào

cần xã hội hóa, và xã hội hóa ở cấp độ nào thì đem lại hiệu quả tốt nhất cho

người dân, chứ không vì tiêu chí xã hội hóa mà thiếu quan tâm tới chất lượng

dịch vụ.

Thông thường, các doanh nghiệp trong khu vực tư nhân chú trọng nhiều

đến lợi nhuận, luôn có xu hướng đẩy giá dịch vụ lên cao, các loại phí dịch vụ bị

điều chỉnh tùy tiện, chất lượng dịch vụ thấp, cơ chế tài chính không minh bạch.

Vẫn còn nhiều cơ sở tư nhân được thành lập dưới dạng tự phát nên khó kiểm

soát chất lượng. Tất cả đang đặt ra vấn đề về kiểm soát chất lượng đối với các

dịch vụ được khối tư nhân cung ứng cho xã hội. Có thể nhận thấy rõ ràng rằng,

tình trạng kém chất lượng trong cung ứng dịch vụ không bắt nguồn từ việc xã

hội hóa, song mức độ xã hội hóa ồ ạt, không rõ ràng và thiếu kiểm soát đã tác

động tiêu cực đến quyền lợi của người thụ hưởng dịch vụ và ảnh hưởng tới

chất lượng xã hội hóa.

1.2.2. Khái niệm và ý nghĩa của xã hội hóa công tác đăng kiểm xe cơ giới

1.2.2.1. Khái niệm

Công tác đăng kiểm xe cơ giới được thực hiện ở mọi quốc gia trên thế

giới nhưng dưới những hình thức hết sức khác nhau. Ở một số nước, việc đăng

kiểm này hoàn toàn do Nhà nước thực hiện như Trung Quốc, Thái Lan và hầu

hết các nước Đông Âu, ngay cả Việt Nam trước năm 2005 cũng vậy; một số

nước khác lại hoàn toàn do tư nhân đảm nhiệm như Úc, Singapore,… nhưng ở

nhiều nước do cả nhà nước và tư nhân cùng thực hiện (Nhật Bản, Hàn Quốc,

Đức, Pháp,…) [6].

32

Giống như nhiều hoạt động khác do nhà nước chịu trách nhiệm thực

hiện, cùng với xu hướng tăng cường sự tham gia của tư nhân vào giải quyết các

vấn đề quản lý và cung cấp dịch vụ trong xã hội, đưa vai trò của nhà nước từ

“người chèo thuyền” (tự mình sản xuất và cung ứng hàng hóa và dịch vụ) sang

“người lái thuyền” (điều tiết, định hướng, dẫn dắt và hỗ trợ), công tác đăng

kiểm cũng đang từng bước thay đổi.

Tốc độ tăng trưởng số lượng các phương tiện giao thông cơ giới đường

bộ tăng nhanh dẫn tới các đơn vị đăng kiểm của nhà nước trước đây không đáp

ứng được hết các nhu cầu đăng kiểm của các tổ chức và cá nhân người có

phương tiện gây nên tình trạng quá tải, ùn tắc và chờ đợi khiến cho tiêu cực

trong công tác đăng kiểm có cơ hội phát sinh và khó kiểm soát. Chính vì vậy,

việc nhà nước và tư nhân cùng chia sẻ, vận hành các trạm đăng kiểm đã được

nghiên cứu triển khai. Với sự cho phép của Nhà nước, các thành phần kinh tế

khác, chủ yếu là các doanh nghiệp tư nhân đang ngày càng tích cực tham gia

vào hoạt động này. Việc lôi cuốn tư nhân tham gia cùng với nhà nước trong

hoạt động kiểm định xe cơ giới được gọi là xã hội hóa kiểm định xe cơ giới.

Xã hội hóa công tác đăng kiểm xe cơ giới là một bộ phận của xã hội hóa,

là quá trình lôi cuốn người dân và các tổ chức trong toàn xã hội tham gia vào

công tác đăng kiểm vốn do nhà nước hoàn toàn đảm nhận trước đây.

1.2.2.2. Quá trình triển khai hoạt động xã hội hóa đăng kiểm xe cơ giới

Trong những năm vừa qua, cùng với việc triển khai mạnh mẽ sự nghiệp

xã hội hóa nói chung của Đảng và Nhà nước, xã hội hóa đăng kiểm xe cơ giới

đã từng bước được hình thành và triển khai mạnh mẽ.

Dịch vụ đăng kiểm xe cơ giới đường bộ được bắt đầu đề xuất thí điểm xã

hội hóa từ năm 2005 theo Đề án “Xã hội hóa đăng kiểm xe cơ giới đang lưu

hành” của Bộ Giao thông vận tải. Cùng với việc triển khai Đề án, nhiều Trung

33

tâm đăng kiểm xe cơ giới đường bộ có sự tham gia của tư nhân đã được phê

duyệt xây dựng và đi vào hoạt động. Chỉ hai năm sau khi Đề án được thông

qua, vào năm 2007 đã có 9 trung tâm đi vào hoạt động trên cả ba miền Bắc,

Trung, Nam.

Trung tâm đăng kiểm tư nhân 6004D là trung tâm đăng kiểm xe cơ giới

đầu tiên do tư nhân xây dựng và vận hành bắt đầu đi vào hoạt động từ ngày 08 tháng 3 năm 2007 tại Đồng Nai. Trung tâm có diện tích 7300m2 nằm cạnh khu

công nghiệp Biên Hòa do Công ty tư nhân Quốc Tuấn đầu tư với dây chuyền

đăng kiểm xe du lịch và xe tải do Đức sản xuất. Tính tới nay đã có hơn 20

doanh nghiệp đăng ký thành lập Trung tâm đăng kiểm và nhiều Trung tâm

Đăng kiểm tư nhân đã được xây dựng và đưa vào hoạt động ở nhiều địa

phương khác nhau như thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Ninh Thuận, Bà Rịa-

Vũng Tàu, Đồng Nai, Bình Dương.

Tính đến năm 2016, cả nước có 135 đơn vị đăng kiểm xe cơ giới. Như

vậy, từ khi thực hiện Đề án “Xã hội hóa công tác đăng kiểm xe cơ giới đang

lưu hành” và Đề án “Quy hoạch tổng thể các trung tâm đăng kiểm và dây

chuyền kiểm định xe cơ giới đến năm 2020, tầm nhìn 2030” đến nay, số trung

tâm đăng kiểm xã hội hóa là 73 đơn vị, trong đó 57 đơn vị đã hoạt động và 16

đơn vị đang xây dựng (14 đơn vị đi vào hoạt động năm 2016 và 02 đơn vị đang

được xây dựng, sẽ đưa vào hoạt động năm 2017) [17].

Cục ĐKVN tiếp tục phối hợp với các địa phương thực hiện Đề án “Xã

hội hóa công tác đăng kiểm xe cơ giới đang lưu hành” theo chủ trương xã hội

hóa công tác đăng kiểm của Chính phủ và Bộ Giao thông vận tải.

Từ khi Đề án được phê duyệt, không có đơn vị đăng kiểm nào của Nhà

nước được thành lập. Năm đơn vị được Cục ĐKVN chuyển cho tư nhân quản

lý và thực hiện đăng kiểm [17].

34

1.2.2.3. Các mô hình cơ bản để kiểm định xe cơ giới đường bộ

Hiện nay, tùy theo mức độ xã hội hóa khác nhau, các Trung tâm đăng

kiểm xe cơ giới được tổ chức và hoạt động theo nhiều mô hình khác nhau, từ

mô hình nhà nước tổ chức và vận hành toàn bộ đến tư nhân tổ chức và vận

hành toàn bộ.

Thực hiện Quyết định số 1658/QĐ-BGTVT ngày 16/5/2005 của Bộ

trưởng Bộ Giao thông vận tải phê duyệt Đề án “Xã hội hóa công tác đăng kiểm

xe cơ giới đang lưu hành”, Cục Đăng kiểm đã thí điểm thành lập một số trung

tâm đăng kiểm theo hai mô hình chủ yếu:

- Mô hình thứ nhất theo hướng các thành phần kinh tế ngoài nhà nước

(doanh nghiệp) đầu tư xây dựng cơ sở vật chất trung tâm đăng kiểm và trực

tiếp tuyển dụng nhân sự (có sát hạch, đánh giá của Cục Đăng kiểm Việt Nam)

để tổ chức thực hiện công tác kiểm định xe cơ giới. Mô hình này được thực

hiện chủ yếu trong giai đoạn 2005-2008 (với 9 trung tâm đăng kiểm trên cả

nước). Hiện nay chỉ còn 5 trung tâm hoạt động theo mô hình này vì 02 trung

tâm đã dừng hoạt động từ năm 2011 và 02 trung tâm chuyển đổi sang mô hình

thứ hai dưới đây [6].

- Mô hình thứ hai được triển khai thực hiện từ 2009 đến nay đi theo

hướng các thành phần kinh tế (doanh nghiệp) đầu tư xây dựng cơ sở vật chất

nhưng nhân viên đăng kiểm không phải là do doanh nghiệp tuyển dụng mà

đăng kiểm viên là viên chức, công chức thuộc các sở Giao thông vận tải hoặc

Cục Đăng kiểm Việt Nam (trong trường hợp các Sở Giao thông vận tải không

đảm nhận) thực hiện công tác kiểm định và cấp giấy chứng nhận.

Đánh giá về các mô hình thí điểm này, Cục Đăng kiểm cho biết, cả hai

mô hình đều có ưu điểm huy động được các nguồn lực, tiềm lực của xã hội đầu

tư cho hoạt động kiểm định, giảm chi ngân sách nhà nước, đáp ứng từng bước

35

nhu cầu kiểm định tăng lên do tăng trưởng phương tiện giao thông cơ giới

đường bộ trong những năm gần đây [6].

Tuy nhiên, thực tế cho thấy tại các trung tâm kiểm định được xã hội hóa

này vẫn luôn tồn tại những nhược điểm nhất định cần khắc phục: các doanh

nghiệp thường đặt mục tiêu lợi nhuận lên cao, do vậy đã có tình trạng cạnh

tranh không lành mạnh, hạ thấp tiêu chuẩn không thực hiện đúng, đủ quy trình

kiểm định, việc sử dụng cán bộ đăng kiểm của một số đơn vị chưa đúng tiêu

chuẩn, thiếu kiến thức thực tế. Đối với mô hình cử công chức viên chức của

các Sở Giao thông vận tải tham gia thực hiện công tác kiểm định mặc dù có kết

quả hơn, đó là hạn chế được mặt tiêu cực của các doanh nghiệp tới các hoạt

động kiểm định, bảo đảm tính khách quan của kết quả kiểm tra, nhưng hạn chế

nếu chiếu theo luật công chức viên chức thì không phù hợp.

1.2.2.4. Ưu và nhược điểm của việc xã hội hóa dịch vụ đăng kiểm xe cơ

giới đường bộ

Việc xã hội hóa công tác đăng kiểm xe cơ giới đã mang lại nhiều thành

công, từng bước đáp ứng tốt hơn các yêu cầu về đăng kiểm ngày càng gia tăng

hiện nay do số lượng phương tiện tham gia giao thông ngày càng nhiều; huy

động được sự đóng góp của toàn dân vào công tác đăng kiểm, giảm nhẹ gánh

năng tài chính cho ngân sách nhà nước và từng bước tạo nên sự cạnh tranh lành

mạnh giúp cho việc tăng cường chất lượng hoạt động kiểm định. Thực hiện chủ

trương xã hội hóa, bước đầu các trung tâm đã đi vào hoạt động và được đánh

giá khá hiệu quả, huy động được nguồn vốn từ các thành phần kinh tế trong xã

hội, giảm áp lực về đăng kiểm tại các thành phố lớn [23],[29].

Nhìn chung, các Trung tâm đăng kiểm xã hội hóa ra đời đã mang lại một

luồng sinh khí mới cho công tác đăng kiểm, góp phần nâng cao chất lượng

dịch vụ, tạo thuận lợi hơn cho người dân khi tiếp cận dịch vụ đăng kiểm và

36

giảm gánh nặng của nhà nước. Những ưu điểm chủ yếu của xã hội hóa dịch vụ

đăng kiểm xe cơ giới thể hiện chủ yếu trên các mặt sau:

Thứ nhất, đáp ứng nhu cầu ngày càng lớn của hoạt đông kiểm định. Mức

độ phát triển kinh tế-xã hội ngày càng cao nên số lượng phương tiện được đưa

vào swrt dụng sản xuất, kinh doanh và phục vụ đi lại của người dân ngày càng

gia tăng.

Thứ hai, việc huy động các thành phần ngoài nhà nước, trước hết là khu

vực tư nhân, tham gia cùng với nhà nước trong việc cung ứng dịch vụ đăng

kiểm đã phát huy được tiềm năng của toàn xã hội vào quá trình phát triển, tăng

nguồn đầu tư cho việc cung ứng dịch vụ đăng kiểm. Điều này đặc biệt quan

trọng trong bối cảnh ngân sách nhà nước ngày càng eo hẹp.

Thứ ba, xã hội hóa giúp các đơn vị cung ứng dịch vụ đăng kiểm của nhà

nước trở nên năng động hơn, có cơ hội tiếp cận các trang thiết bị kỹ thuật mới

và đáp ứng các nhu cầu đăng kiểm ngày càng gia tăng.

Thứ tư, thông qua quá trình xã hội hóa, hoạt động của nhà nước được

giảm tải, bộ máy nhà nước trở nên tinh gọn hơn, giảm chi ngân sách. Đây cũng

là giải pháp quan trọng để thực hiện chính sách công bằng xã hội trong chiến

lược phát triển kinh tế, xã hội của Đảng và Nhà nước vì nhà nước có thể dành

nguồn ngân sách vốn hạn hẹp để đầu tư cho các vùng khó khăn, các đối tượng

chính sách.

Thứ năm, xã hội hóa dịch vụ công nói chung và dịch vụ đăng kiểm nói

riêng nâng cao ý thức sử dụng dịch vụ của người dân, xây dựng cộng đồng

trách nhiệm và mở rộng sự tham gia của người dân góp phần vào quá trình xây

dựng đất nước. Chất lượng kiểm định cũng từng bước được nâng cao thông qua

sự cạnh tranh công bằng giữa nhà nước và tư nhân.

37

Xã hội hoá không có nghĩa là giảm nhẹ trách nhiệm của nhà nước, trái

lại, nhà nước cần tăng cường khả năng kiểm soát số lượng và chất lượng dịch

vụ, nhất là đối với các cơ sở cung cấp dịch vụ ngoài nhà nước, tức là nhà nước

trở nên “nhỏ hơn” nhưng “mạnh hơn”.

Việc thực hiện xã hội hóa hoạt động kiểm định xe cơ giới đã giảm hẳn

phiền hà, bớt chi phí ngân sách Nhà nước, chất lượng đăng kiểm thời gian qua

được nâng lên rõ. Tuy nhiên, hiện nay, bên cạnh những thành tựu đã đạt được,

hoạt động xã hội hóa trong cung cấp dịch vụ công ở Việt Nam đang phải đối

mặt với nhiều thách thức lớn.

Trước hết, quá trình xã hội hóa công tác đăng kiểm mặc dù đã được triển

khai hơn 10 năm nay nhưng vẫn diễn ra rất chậm: Cho tới nay, phần lớn các

trung tâm đăng kiểm vẫn là các trung tâm của nhà nước do các Sở Giao thông

vận tải các tỉnh và Cục Đăng kiểm Việt Nam thành lập và điều hành hoạt động.

Vì nhiều lý do khác nhau, cả chủ quan và khách quan, việc tham gia cung cấp

dịch vụ công của khu vực ngoài nhà nước còn khá hạn chế và phát sinh nhiều

vấn đề phải giải quyết. Cho tới nay cũng mới chỉ có 73 trung tâm đăng kiểm xã

hội hóa được thành lập và tổ chức hoạt động.

Thứ hai, mức độ xã hội hóa đăng kiểm diễn ra không đồng đều ở các

vùng khác nhau: thường các cá nhân và tổ chức ngoài nhà nước chỉ chú trọng

đầu tư vào các trạm đăng kiểm tại các khu vực thuận lợi như các thành phố lớn,

nơi đông dân cư và thu nhập cao, ít quan tâm tới các khu vực chậm phát triển.

Nguyên nhân là nhà nước vẫn còn thiếu những chính sách khuyến khích rõ

ràng và cụ thể, chưa có được quy hoạch chung để định hướng và lên kế hoạch

triển khai xã hội hóa cho các vùng cụ thể [6].

38

Thứ ba, việc kiểm soát chất lượng dịch vụ và xử lý vi phạm của các đơn

vị cung cấp dịch vụ đăng kiểm ngoài nhà nước chưa được thực hiện chặt chẽ và

nghiêm túc.

Một số trung tâm cạnh tranh không lành mạnh, tự ý hạ thấp tiêu chuẩn,

không thực hiện đúng, đủ quy trình, nội dung kiểm tra. Có trung tâm lại thiếu

đăng kiểm viên mặc dù lúc xin phép thành lập ghi đủ số lượng. Có trung tâm

thì ngay cả lãnh đạo, đăng kiểm viên, nhân viên đều được chủ đầu tư bố trí làm

việc theo hợp đồng, dẫn đến tình trạng hoạt động kiểm định phải làm theo ý chỉ

đạo của chủ đầu tư, cho nên chất lượng kiểm định chưa đúng quy định.

Những sai phạm phát sinh trong công tác đăng kiểm gần đây phần lớn là

tại các cơ sở đăng kiểm tư nhân này. Trong năm 2014, thực hiện hoạt động

kiểm tra đột xuất tại các Trung tâm đăng kiểm ở các tỉnh, Cục Đăng kiểm Việt

Nam đã phát hiện nhiều sat sót và đã phải tạm đình chi hoạt động của 68

trường hợp đăng kiểm viên vi phạm công tác kiểm định; đình chỉ có thời hạn

ba trung tâm đăng kiểm, trong đó có hai trung tâm đăng kiểm xã hội hóa, một

trung tâm đăng kiểm thuộc Sở Giao thông vận tải Bình Thuận.

Trưởng phòng kiểm định xe cơ giới (thuộc Cục Đăng kiểm Việt Nam)

Ngô Hồng Hệ cho biết: "Đến trung tuần tháng 5-2015, Cục Đăng kiểm Việt

Nam đã đình chỉ 18 trường hợp đăng kiểm viên vi phạm về kiểm tra, đánh giá

sai quy trình công tác kiểm định, một số đăng kiểm viên khi thực hiện nhiệm

vụ kiểm tra các xe ô-tô bỏ qua một số công đoạn kiểm định theo quy định để

cấp giấy chứng nhận, tem kiểm định đạt tiêu chuẩn lưu hành. Hành vi của các

đăng kiểm viên nêu trên vi phạm Thông tư số 42/2012/TT- BGTVT, ngày 16-

10-2012, của Bộ trưởng Giao thông vận tải, quy định trách nhiệm và xử lý vi

phạm trong công tác đăng kiểm. Cục ĐKVN đã kiên quyết đình chỉ chức danh

39

đối với các đăng kiểm viên nói trên và đình chỉ chức danh một tháng đối với

Giám đốc Trung tâm đăng kiểm 8802D” [41].

Trong năm 2016, Cục đã thực hiện 274 đợt kiểm tra, thanh tra chuyên

ngành, phát hiện và xử lý vi phạm 77 đăng kiểm viên của 48 đơn vị, trong đó

có 41 đăng kiểm viên thuộc các doanh nghiệp xã hội hóa, 11 đăng kiểm viên

thuộc Cục và 25 đăng kiểm viên thuộc các Sở GTVT; đình chỉ hoạt động có

thời hạn 04 trung tâm. Qua kiểm tra, giám sát ở tất cả các lĩnh vực công tác

đăng kiểm và việc chấp hành các chính sách, pháp luật của Nhà nước, các quy

định của Ngành, Cục ĐKVN đã xử lý kỷ luật đối với 03 đơn vị và 25 cá nhân

trong Cục: buộc thôi việc 02 cá nhân, cảnh cáo 11 cá nhân, khiển trách 12 cá

nhân và cảnh cáo 03 đơn vị [17].

Nguyên nhân chủ yếu của vấn đề này là do thiếu các quy định cần thiết

và ý thức, trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, công chức làm nhiệm vụ kiểm soát

chưa tốt. Các nhà đầu tư tư nhân thường chú trọng nhiều đến lợi nhuận, luôn có

xu hướng đẩy giá dịch vụ lên cao để tận thu nên các loại phí dịch vụ bị điều

chỉnh tùy tiện, để có thể cạnh tranh với các đơn vị đăng kiểm khác, các đơn vị

đăng kiểm được xã hội hóa thường có xu hướng giảm chất lượng dịch vụ, dẫn

tới chất lượng đăng kiểm tại các cơ sở này khá thấp và ảnh hưởng tới mức độ

an toàn của phương tiện khi tham gia giao thông. Các tiêu cực phát sinh chủ

yếu tại các trung tâm đăng kiểm được xã hội hóa: để nhanh chóng thu hồi vốn

trong khi phí đăng kiểm các loại phương tiện quá thấp khiến cho việc đầu tư

dây chuyền đăng kiểm không có lợi cho các nhà đầu tư tư nhân nên chưa

khuyến khích được họ tham gia một cách tích cực.

Thứ tư, các doanh nghiệp tham gia vào quá trình xã hội hóa công tác

đăng kiểm phần lớn là các doanh nghiệp nhỏ lẻ với khả năng đầu tư thấp và

mong muốn thu hồi vốn nhanh do đó khi trung tâm đăng kiểm hoạt động không

40

hiệu quả khiến doanh nghiệp không thể tiếp tục duy trì hoạt động thì doanh

nghiệp tự quyết định việc dừng hoạt động gây khó khăn cho lái xe, chủ xe và

cả công tác quản lý dữ liệu đăng kiểm nói chung như trường hợp trung tâm

5010D, trung tâm 5008 D ở Thành phố Hồ Chí Minh đã dừng hoạt động mà

không thông báo dữ liệu lên Cục Đăng kiểm [6].

1.3. QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI XÃ HỘI HÓA CÔNG TÁC

ĐĂNG KIỂM XE CƠ GIỚI ĐƯỜNG BỘ

Quản lý nhà nước là chủ thể quản lý nhà nước tác động đến đối tượng

quản lý bằng các công cụ của nhà nước bảo đảm tuân thủ quy luật khách quan,

phù hợp với điều kiện lịch sử nhằm đạt được mục tiêu chung là phục vụ, duy

trì, phát triển và ổn định trật tự xã hội.

Quản lý nhà nước đối với xã hội hóa công tác đăng kiểm xe cơ giới

đường bộ là các cấp quản lý từ Trung ương đến địa phương điều chỉnh, định

hướng, dẫn dắt hoạt động đăng kiểm xe cơ giới thông qua các văn bản quy

phạm pháp luật, tạo lập môi trường pháp lý, tạo điều kiện thuận lợi để thu hút

nguồn lực ngoài khu vực công cùng với nhà nước tham gia cung ứng dịch vụ

công nhằm hướng đến mục tiêu nâng cao chất lượng đăng kiểm góp phần bảo

vệ môi trường, bảo đảm an toàn giao thông và tính mạng, tài sản của người

tham gia giao thông.

Với triết lý phục vụ và duy trì, cải thiện hành chính công trong một thế

giới cạnh tranh đặt ra cho các nhà quản lý các vấn đề cần phải cân nhắc, đánh

giá kỹ lưỡng trước khi quyết định như “xã hội hóa các dịch vụ công có đem lại

hiệu quả bền vững? Nên xã hội hóa dịch vụ công ở mức độ nào? Nhà nước có

bảo đảm được vai trò quản lý của mình khi các dịch vụ này được xã hội hóa

rộng rãi?”.

Xã hội hóa công tác đăng kiểm xe cơ giới đường bộ không có nghĩa là

nhà nước bị loại mất vai trò quản lý của mình, ngược lại vai trò quản lý nhà 41

nước cần tăng lên khi thiết lập vai trò và trách nhiệm của nhà nước trong việc

cung ứng dịch vụ đăng kiểm xe cơ giới đường bộ. Sự thiếu vắng vai trò quản lý

nhà nước và bỏ mặc theo kiểu “khoán trắng” có thể dẫn đến sự mất ổn định

trong cung ứng dịch vụ đăng kiểm xe cơ giới đường bộ và làm cho quá trình xã

hội hóa công tác đăng kiểm xe cơ giới đường bộ thiếu tính bền vững, tạo ra sự

bất bình đẳng trong xã hội. Vai trò quản lý nhà nước là vừa đảm bảo các mục

tiêu phát triển kinh tế- xã hội trên cơ sở huy động nguồn lực, vừa phải đảm bảo

quá trình xã hội hóa công tác đăng kiểm xe cơ giới đường bộ diễn ra theo quy

luật của thị trường.

Khi tiến hành xã hội hóa công tác đăng kiểm xe cơ giới đường bộ, nhà

nước cần phải xác định được nội dung cần quản lý như: xây dựng, ban hành và

tổ chức thực hiện văn bản quy phạm pháp luật, chính sách, chiến lược, kế

hoạch, tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật; quản lý thống nhất các hoạt động đăng

kiểm xe cơ giới đường bộ; quản lý thông tin, dữ liệu, cấp, gia hạn, thu hồi giấy

chứng nhận trung tâm đăng kiểm đủ điều kiện hoạt động; phổ biến, giáo dục

pháp luật, thông tin truyền thông nâng cao nhận thức cộng đồng; theo dõi thi

hành pháp luật về công tác đăng kiểm xe cơ giới đường bộ; quản lý đội ngũ

đăng kiểm viên xe cơ giới đường bộ; thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp

luật, giải quyết khiếu nại, tố cáo về hoạt động đăng kiểm xe cơ giới đường bộ...

Muốn đảm bảo chất lượng dịch vụ đăng kiểm xe cơ giới đường bộ và mở

rộng chuyển giao việc cung ứng dịch vụ này cho khu vực tư nhân, nhà nước

cần phải có cơ chế thích hợp. Trước hết, hoàn thiện pháp luật một cách đồng

bộ về quản lý nhà nước về công tác đăng kiểm xe cơ giới đường bộ, trao thẩm

quyền cụ thể doanh nghiệp cung ứng dịch vụ công. Có chế tài xử lý vi phạm

cùng với cơ chế bảo đảm thực hiện các chế tài đó khi có hành vi vi phạm.

42

Chỉ những tổ chức được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp giấy

chứng nhận đủ điều kiện hoạt động kiểm định xe cơ giới mới được phép kinh

doanh dịch vụ kiểm định xe cơ giới theo quy định tại Điều 4 của Nghị định số

63/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016 của Chính phủ quy định về điều kiện kinh

doanh dịch vụ đăng kiểm xe cơ giới đường bộ; Cục Đăng kiểm Việt Nam là cơ

quan có thẩm quyền cấp mới, gia hạn, cấp lại, đình chỉ, thu hồi giấy chứng

nhận đủ điều kiện hoạt động kiểm định xe cơ giới [13].

Với vị trí là chủ thể quản lý vĩ mô, nhà nước có vai trò quan trọng trong

việc thực hiện xã hội hóa dịch vụ đăng kiểm xe cơ giới đường bộ, đồng thời

đảm bảo chất lượng dịch vụ cung cấp cho xã hội. Nhà nước cần phải ban hành

các văn bản pháp lý làm công cụ quản lý đồng thời là khung pháp lý và môi

trường cho các đơn vị đăng kiểm hoạt động. Điều quan trọng là phải ban hành

được các tiêu chuẩn về chất lượng kiểm định xe cơ giới.

Điều 27 của Nghị định số 63/2016/NĐ-CP của Chính phủ quy định về

trách nhiệm quản lý nhà nước của các cấp ngành, địa phương đối với hoạt động

đăng kiểm xe cơ giới đường bộ.

Bên cạnh đó, nhà nước cần xây dựng chính sách, môi trường, định hướng

và hỗ trợ cho các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực cung ứng dịch vụ

đăng kiểm xe cơ giới đường bộ. Nhà nước cần làm đúng vai trò của mình,

chuyển từ “người chèo thuyền sang người lái thuyền”. Nhà nước phải có trách

nhiệm điều chỉnh được hoạt động đăng kiểm xe cơ giới đường bộ đối với các

doanh nghiệp nhằm hướng đến mục tiêu phục vụ và duy trì trật tự xã hội.

Nhà nước cần quy định rõ cơ chế tài chính và mức độ trần để nhà nước có

thể can thiệp, điều chỉnh được khi cần thiết, nhà nước sẽ can thiệp khi có

những thay đổi khách quan như thay đổi mức phí, khi giá dịch vụ cao hơn mặt

43

bằng chung hoặc khi thực hiện chính sách xã hội, cần phối hợp bảo đảm an

ninh, quốc phòng.

Công tác đăng kiểm xe cơ giới đường bộ có tính xã hội cao, vì vậy Nhà

nước vẫn có trách nhiệm tiếp tục đầu tư ngân sách hợp lý, hỗ trợ cho các đơn vị

đăng kiểm tồn tại nhằm đáp ứng nhu cầu xã hội. Xã hội hóa công tác đăng

kiểm xe cơ giới đường bộ không có nghĩa là nhà nước thoái thác cho xã hội,

mà ngược lại vai trò của nhà nước chuyển lên một tầm cao mới là nhà quản lý,

dẫn dắt, chuyển giao khoa học công nghệ, thành tựu nhân loại cho các doanh

nghiệp kế thừa và phát triển mang lại hiệu quả cao cho xã hội.

Nhà nước cần phân biệt rõ ràng về tài chính, đâu là lĩnh vực do nhà nước

trực tiếp thực hiện, đâu là lĩnh vực nhà nước giao cho tư nhân thực hiện, trong

khi đó nhà nước giữ vai trò quản lý nhằm đảm bảo trách nhiệm đồng thời sử

dụng hiệu quả các nguồn lực của xã hội.

Nhằm đẩy mạnh xã hội hóa trong cung ứng dịch vụ công cho xã hội,

Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 90/NQ-CP, Nghị định số 73/1999/NĐ-

CP và các văn bản chỉ đạo đẩy mạnh xã hội hoá dịch vụ công, Quyết định số

22/2015/QĐ-TTg về việc chuyển đơn vị sự nghiệp công lập thành công ty cổ

phần... Từ các cơ sở pháp lý này, hàng loạt cơ sở cung ứng dịch vụ trong các

lĩnh vực y tế, giáo dục, văn hóa và thể thao đã ra đời. Đồng thời, đã nảy sinh

nhiều vấn đề về kiểm soát chất lượng dịch vụ. Thông thường, các doanh nghiệp

trong khu vực tư nhân chú trọng nhiều đến lợi nhuận, luôn có xu hướng đẩy giá

dịch vụ lên cao, các loại phí dịch vụ bị điều chỉnh tùy tiện, chất lượng dịch vụ

yếu, cơ chế tài chính không minh bạch.

44

1.4. KINH NGHIỆM XÃ HỘI HÓA HOẠT ĐỘNG ĐĂNG KIỂM

XE CƠ GIỚI ĐƯỜNG BỘ Ở MỘT SỐ ĐỊA PHƯƠNG

1.3.1. Xã hội hóa đăng kiểm xe cơ giới tại Đồng Nai

Đồng Nai là tỉnh đi đầu trong việc xã hội hóa công tác đăng kiểm xe cơ

giới. Trước khi Trung tâm đăng kiểm 60-04D đi vào hoạt động, tại thành phố

Biên Hòa đã có 4 trung tâm đăng kiểm xe cơ giới là các trạm 6001S, 6002S,

6003S và 60-04S đều là các trung tâm đăng kiểm do Sở Giao thông vận tải tỉnh

Đồng Nai quản lý nhưng do là tỉnh phát triển công nghiệp mạnh mẽ lại nằm

gần trung tâm kinh tế của cả nước là thành phố Hồ Chí Minh nên các trung tâm

này có số lượng các phương tiện giao thông đến đăng kiểm rất đông và luôn

trong tình trạng quá tải.

Trung tâm đăng kiểm xe cơ giới 6004D tại Đồng Nai là một trong 9

trung tâm đăng kiểm tư nhân đầu tiên của cả nước được Cục Đăng kiểm Việt

Nam cho phép hoạt động sau khi thí điểm xã hội hóa lĩnh vực này. Trung tâm

đăng kiểm xe cơ giới 6004D được thành lập và đi vào hoạt động từ ngày 08

tháng 03 năm 2007 theo giấy chứng nhận số 91/GNN của Cục Đăng kiểm Việt

Nam cấp ngày 28/02/2007. Trung tâm có tổng diện tích 7.300m2 nằm trong

Khu Công nghiệp Biên Hoà 2 - tỉnh Đồng Nai do Công ty TNHH Quốc Tuấn

đầu tư, được trang bị dây chuyền thiết bị kiểm định xe du lịch và dây chuyền

kiểm định xe tải do CHLB Đức sản xuất có khả năng kiểm tra 90 phương

tiện/ngày tức là khoảng 12.000-24.000 xe/năm. Với đội ngũ đăng kiểm viên

đều là kỹ sư chuyên ngành và nhân viên nghiệp vụ được Cục Đăng kiểm Việt

Nam đào tạo theo đúng quy trình và được cấp giấy chứng nhận Đăng kiểm viên

hạng 3.

Trung tâm đăng kiểm gồm có 2 chuyền kiểm định, mỗi ngày tiếp nhận

hơn 100 xe cơ giới các loại trên địa bàn tỉnh Đồng Nai và các tỉnh lân cận.

45

Ngay trong năm đầu thành lập, Trung tâm đã đạt doanh số là 1 tỷ 480 triệu

đồng, số lượng xe kiểm định là 9.301 xe các loại. Năm 2010 doanh số đạt 3 tỷ

200 triệu đồng, số lượng xe kiểm định tại đây tăng lên là 19.696 xe các loại.

Tuy nhiên, công tác đăng kiểm tại Trung tâm đăng kiểm 6004D những

năm gần đây đã có nhiều biểu hiện tiêu cực không mong muốn. Liên quan đến

công tác đăng kiểm, cuối năm 2013 đến đầu năm 2014, Bộ Giao thông vận tải

đã tiến hành thanh kiểm tra công tác kiểm định an toàn kỹ thuật tại 9 trung tâm

đăng kiểm trên cả nước. Kết quả cho thấy, một số đơn vị đăng kiểm vẫn chưa

đảm bảo đầy đủ các tiêu chí về điều kiện hoạt động theo quy định, nhất là tại

các trung tâm đăng kiểm được xã hội hóa, như: diện tích nhà xưởng không

đúng tiêu chuẩn; bãi đỗ xe không phù hợp; chưa có đầy đủ các trang thiết bị về

phòng cháy chữa cháy hoặc có một số bình chữa cháy không đảm bảo yêu cầu;

đường dây nóng không kết nối được với Cục Đăng kiểm Việt Nam và đặc biệt

là không đủ điều kiện về nhân lực đăng kiểm; Đăng kiểm viên thường xuyên vi

phạm trong công tác kiểm tra, giám sát hoạt động kiểm định, lưu trữ hồ sơ

chưa thực hiện đầy đủ chức năng, nhiệm vụ theo quy định.

Vào ngày 04/3/2014, Đoàn kiểm tra của Cục Đăng kiểm Việt Nam bất

ngờ kiểm tra Trung tâm Đăng kiểm xe cơ giới 6004D và yêu cầu phúc tra kiểm

định đối với phương tiện biển số 60V-6734 và 53M-4752 (những xe đã được

Trung tâm đăng kiểm xe cơ giới 6004D kiểm định lần một và kết luận đạt yêu

cầu nhưng chưa in cấp Giấy chứng nhận và tem kiểm định). Qua phúc tra, Cục

Đăng kiểm Việt Nam đã phát hiện sai phạm trong quá trình đăng kiểm của

Trung tâm bởi xe khách 53M- 4752 có số của hành khách ngồi không đúng quy

định (nhiều hơn bốn ghế), đèn phanh bên phải không sáng, kết quả kiểm tra

đèn chiếu xa không lưu được trên phiếu kiểm định. Còn đối với xe khách 60V

– 6734 có nhiều hạng mục không đạt như vỏ đèn xi nhan trước và sau bên trái

46

bị vỡ, có hai băng dọc theo xe không đúng tiêu chuẩn và quy định, không có

đèn biển số...

Với kết quả kiểm tra nêu trên, ngày 20/3/2014, Cục Đăng kiểm Việt

Nam đã quyết định tạm đình chỉ hoạt động đối với Trung tâm Đăng kiểm xe cơ

giới 6004D trong thời hạn 01 tháng (bắt đầu từ ngày 19-3) vì để các đăng kiểm

viên thực hiện sai quy trình, tiêu chuẩn, đánh giá sai kết quả kiểm định, sử

dụng thiết bị không đảm bảo tiêu chuẩn để kiểm tra. Theo đó, qua kiểm tra,

phúc tra, Đoàn kiểm tra của Cục đăng kiểm Việt Nam xác định, trong quá trình

kiểm định xe cơ giới, Trung tâm đăng kiểm xe cơ giới 6004D đã để xảy ra một

số sai sót. Cụ thể, trong quá trình kiểm định một số xe cơ giới, Trung tâm đăng

kiểm xe cơ giới 6004D đã kết luận đạt kết quả nhưng chưa in cấp giấy chứng

nhận và tem kiểm định.

Mặc dù Trung tâm Đăng kiểm xe cơ giới 6004D đã nghiêm chỉnh chấp

hành, khắc phục ngay những sai phạm, lãnh đạo Công ty Cổ phần ô tô Quốc

Tuấn cũng đã yêu cầu các cán bộ có liên quan viết bản kiểm điểm và đề xuất

hình thức kỷ luật nhưng thực trạng này cho thấy những bất cập xảy ra đối với

việc xã hội hóa công tác đăng kiểm khi thiếu cơ chế và hoạt động kiểm soát

chưa được thực hiện một cách nghiêm túc.

1.3.2. Xã hội hóa đăng kiểm xe cơ giới tại Nam Định

Trong nhiều năm, trên địa bàn toàn tỉnh Nam Định chỉ có duy nhất

Trung tâm Đăng kiểm phương tiện giao thông Nam Định số 1801S thuộc Sở

Giao thông vận tải Nam Định thực hiện việc đăng kiểm đối với các phương

tiện Giao thông vận tải đường bộ, vì vậy tần suất và số lượng phương tiện tham

gia đăng kiểm tại Trung tâm rất cao, không đáp ứng được những yêu cầu của

công tác đăng kiểm phương tiện hiện nay trên địa bàn. Đặc biệt thời gian thực

hiện năm An toàn giao thông 2014, do yêu cầu siết chặt công tác đăng kiểm

47

phương tiện đường bộ, nhiều xe do phải đi sửa chữa nhiều lần mới đáp ứng yêu

cầu đăng kiểm, trong khi năng lực và công suất hoạt động của Trung tâm có

giới hạn càng khiến ùn tắc các phương tiện khi đến thục hiện đăng kiểm định

kỳ tại Trung tâm. Với quy mô, công suất dây chuyền kiểm định của Trung tâm,

Cục Đăng kiểm Việt Nam cũng chỉ cấp 50 tem đăng kiểm/ngày nên Trung tâm

không thể đăng kiểm số lượng xe vượt quá quy định này. Để giải quyết tình

trạng này, Trung tâm Đăng kiểm phương tiện giao thông Nam Định đã chủ

động ký kết thuê bãi để các xe đăng kiểm chờ bố trí nhân viên hướng dẫn các

xe đến lượt đưa nhanh vào dây chuyền để kiểm định. Đồng thời bố trí cán bộ,

kiểm định viên làm tăng ca để đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Tuy nhiên,

năng lực của Trung tâm cũng chưa đáp ứng nhu cầu kiểm định phương tiện

hiện nay.

Nhằm đáp ứng yêu cầu kiểm định phương tiện cơ giới đường bộ ngày

càng tăng trong những năm tới, giảm tải cho Trung tâm Đăng kiểm phương

tiện giao thông Nam Định 1801S, thực hiện chủ trương xã hội hóa công tác

đăng kiểm của Bộ Giao thong Vận tải đến năm 2015, ngày 23/10/2013, UBND

tỉnh Nam Định đã ban hành Quyết định số 1717/QĐ-UBND phê duyệt quy

hoạch xây dựng các trung tâm đăng kiểm xe cơ giới trên địa bàn tỉnh Nam

Định đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030. Theo đó, trên toàn tỉnh sẽ xây

dựng ba trung tâm đăng kiểm tại 3 vị trí: Ven Quốc lộ (QL) 10 thuộc địa phận

xã Mỹ Tân (Mỹ Lộc); Km150+800 QL 21 (đường Lê Đức Thọ) thuộc địa phận

xã Nghĩa An (Nam Trực); Km180+740 QL 21 thuộc địa phận xã Hải Thanh

(Hải Hậu). Hai Trung tâm đăng kiểm mới được xây dựng dưới hình thức xã hội

hóa.

Để thực hiện chủ trương này, Sở Giao thông vận tải Nam Định đã chủ

trì, phối hợp với các Sở, Ngành liên quan và UBND các huyện, thành phố tổ

chức công khai quy hoạch, triển khai thực hiện quy hoạch theo đúng các quy 48

định hiện hành. Mô hình xã hội hóa được lựa chọn là mô hình: Các thành phần

kinh tế đầu tư cơ sở vật chất; cán bộ, đăng kiểm viên là công chức, viên chức

thuộc Sở Giao thông vận tải thực hiện kiểm định và cấp Giấy chứng nhận an

toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường cho xe cơ giới.

Ngay từ ban đầu có chủ trương xây dựng các Trung tâm đăng kiểm theo

mô hình mới, Văn phòng Sở Giao thông vận tải đã tập trung theo dõi, hướng

dẫn 2 đơn vị tham gia xây dựng trung tâm đăng kiểm theo mô hình xã hội hoá,

bám sát kế hoạch đào tạo đăng kiểm viên của Cục Đăng kiểm Việt Nam, tham

mưu với lãnh đạo Sở cử cán bộ đào tạo đăng kiểm viên theo quy định để đáp

ứng đủ yêu cầu nhân lực khi trung tâm đi vào hoạt động. Trung tâm 1802D do

Công ty Điện Thông đầu tư đã hoàn thiện thiết kế, ký hợp đồng mua thiết bị và

đã khởi công trong tháng 4/2014. Trung tâm 1803D do Công ty Cổ phần Đạt

Thành đầu tư tại xã Hải Thanh, Hải Hậu, Nam Định, đã xây dựng xong nhà

điều hành và văn phòng trung tâm, đã ký hợp đồng mua thiết bị, trong tháng

5/2014 bắt đầu lắp đặt thiết bị và đi vào hoạt động từ năm 2015.

Để đạt chất lượng cao trong công tác kiểm định, phòng ngừa tiêu cực,

góp phần kiềm chế và giảm thiểu tai nạn giao thông, Sở Giao thông vận tải

Nam Định đã xây dựng kế hoạch chỉ đạo, giám sát các trung tâm bảo đảm thực

hiện tốt mọi quy định, không vì lợi nhuận mà bất chấp quy tắc, bỏ qua bất cứ

khâu nào trong kiểm định. Sở Giao thông vận tải phối hợp với các cơ quan liên

quan tổ chức kiểm tra Trung tâm Đăng kiểm phương tiện giao thông Nam Định

và các trung tâm đăng kiểm xã hội hóa (khi đi vào hoạt động) để kịp thời phát

hiện và xử lý nghiêm các hành vi vi phạm.

49

TIỂU KẾT CHƯƠNG 1

Đăng kiểm phương tiện cơ giới đường bộ là hoạt động đăng ký kiểm định

định kỳ cho các loại phương tiện cơ giới tham gia giao thông đường bộ nhằm

đảm bảo tiêu chuẩn an toàn giao thông và bảo vệ môi trường của các phương

tiện đáp ứng các yêu cầu đặt ra của nhà nước là một trong những công tác quan

trọng để bảo đảm an toàn giao thông đường bộ và chống ô nhiễm môi trường.

Cùng với sự phát triển kinh tế-xã hội của đất nước và những đòi hỏi của

việc bảo vệ môi trường, số lượng các phương tiện tham gia giao thông đường

bộ ở nước ta đang ngày càng gia tăng mạnh mẽ, gây áp lực đối với công tác

đăng kiểm. Mặc dù công tác đăng kiểm trong những năm qua đã đạt nhiều

thành tựu nhưng cũng còn nhiều nhược điểm cần giải quyết. Việc quá tải tại

các Trung tâm đăng kiểm xe cơ giới đường bộ chính là nguyên nhân chủ yếu

dẫn tới những sai phạm trong hoạt động của các trung tâm này, dẫn tới tình

trạng làm ẩu, nhũng nhiễu,… Chính vì vậy, mở rộng quy mô đăng kiểm là yêu

cầu cấp thiết hiện nay để bảo đảm chất lượng đăng kiểm đáp ứng các yêu cầu

của nhà nước và toàn xã hội.

Trong bối cảnh ngân sách nhà nước còn eo hẹp, việc đầu tư cho việc mở

rộng các trung tâm đăng kiểm còn nhiều hạn chế. Do đó, xã hội hóa công tác

đăng kiểm để lôi cuốn các cá nhân và tổ chức tham gia vào công tác đăng kiểm

nhằm tăng cường số lượng và chất lượng đăng kiểm là một xu hướng tất yếu,

khách quan. Đẩy mạnh xã hội hóa công tác đăng kiểm không chỉ giúp giảm tải

gánh nặng ngân sách cho nhà nước mà còn góp phần quan trọng tạo nên sự

cạnh tranh lành mạnh trong công tác đăng kiểm qua đó nâng cao chất lượng

đăng kiểm. Tuy nhiên, việc xã hội hóa đăng kiểm trong thời gian qua đã chỉ ra

không ít những nhược điểm đòi hỏi phải khắc phục và rút ra bài học kinh

nghiệm trong tương lai.

50

Chương 2

THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG

ĐĂNG KIỂM XE CƠ GIỚI ĐƯỜNG BỘ Ở TỈNH NINH THUẬN

2.1. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ TỈNH NINH THUẬN

Tỉnh Ninh Thuận nằm ở cực Nam Trung Bộ, có vị trí địa lý thuận lợi,

nằm ở điểm giao tiếp của 3 vùng kinh tế lớn của đất nước: Nam Tây Nguyên,

Nam Trung Bộ và gần với Miền Đông Nam Bộ giao lưu dễ dàng với các thành

phố trung tâm lớn của khu vực như thành phố: Nha Trang, Đà Lạt, Phan Thiết,

Vũng Tàu và thành phố Hồ Chí Minh.

Hình 2.1: Bản đồ hành chính tỉnh Ninh Thuận

Diện tích tự nhiên 3.355,3 km2, có 7 đơn vị hành chính gồm 1 thành phố

và 6 huyện Ninh Sơn, Ninh Phước, Ninh Hải, Thuận Bắc, Thuận Nam, Bác Ái. 51

Thành phố.Phan Rang-Tháp Chàm là thành phố thuộc tỉnh, là trung tâm chính

trị, kinh tế và văn hóa của tỉnh, cách Tp.Hồ Chí Minh 350 km, cách sân bay

quốc tế Cam Ranh 60 km, cách Tp.Nha Trang 105 km, cách Tp.Đà Lạt 110

Km, cách Tp.Vũng Tàu 300 Km, cách Tp.HCM 350 Km, thuận tiện cho việc

giao lưu phát triển kinh tế-xã hội [19].

Tài nguyên biển: Bờ biển dài 105 km, ngư trường cua tỉnh nằm trong

vùng nước trồi có nguồn lợi hải sản phong phú và đa dạng với trên 500 loài hải

sản các loại. Ngoài ra, còn có hệ sinh thái san hô phong phú và đa dạng với

trên 120 loài và rùa biển đặc biệt quý hiếm chỉ có ở Ninh Thuận. Vùng ven

biển có nhiều đầm vịnh phù hợp phát triển du lịch và phát triển nuôi trồng thủy

sản và sản xuất tôm giống là một thế mạnh của ngành thủy sản.

Khí hậu, thủy văn: Tỉnh Ninh Thuận thuộc vùng khí hậu nhiệt đới gió

mùa gần đường xích đạo. Điển hình với đặc trưng khô nóng, gió nhiều, bốc hơi

mạnh, Ninh Thuận là tỉnh có đặc trưng khí hậu khô nóng nhất nước, nhiệt độ

trung bình thấp nhất hàng năm là 26 – 270C, lượng mưa trung bình 700-

800mm ở Phan Rang và tăng dần đến trên 1.100mm ở miền núi. Thời tiết có 2

mùa rõ rệt: mùa mưa từ tháng 9 đến tháng 11; mùa khô từ tháng 12 đến tháng 9

năm sau.

Tính đến 31/12/2016, dân số toàn tỉnh là 601.300 người, mật độ dân số

là 179 người/ km2, bao gồm nhiều thành phần dân tộc khác nhau cùng chung

sống . Thành phần dân cư của Ninh Thuận gồm 7 dân tộc chính là dân tộc

Kinh chiếm 78%, dân tộc Chăm chiếm 11,3%, dân tộc Ra-glai chiếm 9.4%,

dân tộc Hoa chiếm 0,49%, còn lại là các dân tộc khác; Ngoài ra tỉnh Ninh

Thuận còn là tỉnh có dân tộc Chăm tập trung sinh sống cao nhất nước với

67.500 người [19].

52

Nền kinh tế của cả nước cũng như của tỉnh Ninh Thuận hội nhập ngày

càng sâu, rộng vào nền kinh tế thế giới và vẫn đang trên đà phát triển, nên đã

tạo thời cơ, thuận lợi cho các ngành kinh tế tăng đầu tư phát triển.

Về phát triển các tiểu vùng kinh tế, gồm 3 tiểu vùng như sau:

Tiểu vùng đồng bằng gồm 28 xã, phường, quy mô dân số 270 ngàn

người. Trọng điểm kinh tế là phát triển dịch vụ du lịch, sản xuất công nghiệp

và nông nghiệp. Trung tâm của tỉnh là thành phố Phan Rang - Tháp Chàm.

Tiểu vùng ven biển gồm 11 xã của 3 huyện, quy mô dân số 130 ngàn

người, động lực kinh tế là kinh tế biển, du lịch biển và phát triển các ngành

công nghiệp chế biến thủy sản, sản xuất muối và hóa chất sau muối.

Tiểu vùng miền núi bao gồm 24 xã và thị trấn, quy mô dân số 148 ngàn

người, trong đó có 18 xã thuộc các xã đặc biệt khó khăn. Động lực kinh tế

vùng là kinh tế rừng, chăn nuôi gia súc theo mô hình kinh tế trang trại, kinh tế

vườn, trồng cây công nghiệp ngắn ngày và dài ngày.

Năm 2015, kinh tế ổn định và tăng trưởng; tổng sản phẩm nội tỉnh tăng

bình quân 11,2%/năm. Thu ngân sách đạt 1.800 tỷ đồng, tăng gấp 2,03 lần; thu

nhập bình quân đầu người tăng gấp 2,45 lần so năm 2010. Tổng vốn đầu tư

toàn xã hội 33.155 tỷ đồng, bằng 1,95 lần so giai đoạn trước. Cơ cấu kinh tế có

bước chuyển dịch đúng hướng, giảm tỷ trọng nông nghiệp từ 41,9% xuống còn

36,3%, công nghiệp - xây dựng tăng từ 22% lên 24,8%, dịch vụ từ 36,1% lên

38,9% so với năm 2010 [19].

Về mạng lưới giao thông đường bộ: có 3 tuyến Quốc lộ đi qua địa bàn

tỉnh Ninh Thuận với tổng chiều dài là 174,50 km, đó là:

Quốc lộ 1A: Chiều dài qua địa bàn tỉnh là 64,50 km từ giáp với tỉnh

Khánh Hòa tại Km 1525+00 đến giáp với tỉnh Bình Thuận tại Km 1589 +500

53

do Cục đường bộ Việt Nam quản lý. Bề rộng mặt đường trên đoạn tuyến rộng

12 m. Riêng đoạn qua thành phố Phan Rang – Tháp Chàm được xây dựng

tuyến tránh dài 10 km từ Km 1551 +400 (ngã 3 Cà Đú) đến Km 1561+430 (ngã

3 Long Bình). Đoạn này đã được cải tạo mở rộng với mặt đường rộng 21 m để

đáp ứng với quy mô thành phố đô thị loại II.

Quốc lộ 27: Chiều dài qua địa bàn tỉnh là 66,0 km giáp với tỉnh Lâm

Đồng tại Km 206+500 đến giao với Quốc lộ 1A tại ngã 5 Phủ Hà-thành phố

Phan Rang-Tháp Chàm tại Km 272+500 do khu quản lý đường bộ 7 thuộc

Tổng cục đường bộ Việt Nam quản lý, mặt đường có bề rộng 7 m, nền 12 m.

Đoạn qua khu vực Tháp Chàm về tới thành phố Phan Rang đã được xây dựng

tuyến tránh dài 6,5 km.

Quốc lộ 27B: Chiều dài qua địa bàn tỉnh là 44 km, toàn tuyến có chiều

dài 52,6 km nối Quốc lộ 1A tại thị xã Cam Ranh – tỉnh Khánh Hòa với Quốc lộ

27 tại thị trấn Tân Sơn tỉnh Ninh Thuận, quốc lộ 27B có mặt cắt ngang nền là

7,5 m; mặt đường rộng 5,5 m. Tuyến này hiện đang được nâng cấp và cải tạo.

Và các tuyến đường tỉnh, đường huyện, đường đô thị và đường giao

thông nông thôn có tổng chiều dài 1.022,57 km.

Về phương tiện của tỉnh, theo số liệu của ngành Đăng kiểm, số lượng

phương tiện vận tải của tỉnh qua các năm gần đây như sau:

Bảng 2.1: Thống kê số lượng ô tô đang lưu hành giai đoạn 2011-2016

Năm

TT

Nhóm phương tiện

2011

2012

2013

2014

2015

2016

1 Ô tô con (từ 9 ghế trở xuống)

1.144 1.281 1.533 1.800 2.157 2.536

2 Ô tô cứu thương

33

32

35

35

35

33

3 Ô tô tang lễ

0

3

3

3

3

0

54

4 Ô tô khách 10 -24 ghế

216

208

220

238

269

303

5 Ô tô khách 25-40 ghế

71

67

68

69

84

91

6 Ô tô khách trên 40 ghế

52

50

53

64

75

89

7 Ô tô tải đến 2T

1.252

50 1.566 1.723 1.875 2.099

8 Ô tô tải trên 2T- 7T

1.213 1.250 1.288 1.339 1.356 1.457

9 Ô tô tải trên 7T đến 20T

390

351

396

489

616

684

10 Ô tô tải trên 20T

27

30

37

4

8

8

11 Ô tô tải chuyên dùng

32

29

0

37

38

48

12 Phương tiện vận chuyển nhỏ

0

0

11

0

0

0

13 Rơ mooc, sơ mi rơ mooc

17

11

0

10

15

23

14 Xe lam, xe xích lô máy

0

0

0

0

0

15 Đầu kéo

19

14

13

10

14

20

16 Ô tô chuyên dùng

52

53

52

62

66

77

Tổng cộng

4.518 4.796 5.272 5.883 6.611 7.473

Nguồn: Báo cáo số lượng phương tiện đang quản lý tại Trung tâm 8501S.

Phương thức vận tải hành khách của tỉnh Ninh Thuận chủ yếu là đường

bộ,chất lượng phương tiện ngày càng được nâng cao do cạnh tranh trong vận

tải và do việc tăng cường quản lý chất lượng phương tiện của Nhà nước (Nghị

định số 91/2009/NĐ-CP về kinh doanh và điều kiện kinh doanh vận tải bằng ô

tô; Nghị định số 95/2009/NĐ-CP ngày 30/10/2009 về quy định niên hạn sử

dụng đối với xe ô tô chở hàng và ô tô chở người).

Mạng lưới xe buýt ở Ninh Thuận được hình thành từ năm 2007 có 6

tuyến nội tỉnh với 26 phương tiện, từ các huyện vào thành phố Phan Rang.

Tính tới năm 2010, trên địa bàn tỉnh còn 5 tuyến xe buýt với 17 phương tiện

với tổng chiều dài tuyến toàn mạng gần 180km đi từ Phan Rang tới các 5

55

huyện, với tuyến dài nhất là 49km (Phan Rang – Sông Pha), tuyến ngắn nhất

25km (Phan Rang – Phước Dinh).

Sơ đồ 2.1: Tổ chức bộ máy hành chính nhà nước tỉnh Ninh Thuận

Nguồn: Niêm giám 2016 của Cục Thống kê Ninh Thuận

Theo quy định tại Điều 3 của Nghị định 24/2014/NĐ-CP ngày 04 tháng

4 năm 2014 của Chính phủ về tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc UBND

tỉnh: ”Sở là cơ quan thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh; thực hiện chức năng tham

mưu, giúp Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quản lý nhà nước về ngành, lĩnh vực ở địa

phương theo quy định của pháp luật và theo phân công hoặc ủy quyền của Ủy

ban nhân dân cấp tỉnh, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh”;

56

Theo quy định của Quyết định số 962/2010/QĐ-UBND ngày 17/5/2010

của Ủy ban nhân dân tỉnh Ninh Thuận về việc quy định chức năng, nhiệm vụ,

quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Sở Giao thông vận tải, quy định:”Sở Giao

thông vận tải là cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh, thực hiện

chức năng tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân tỉnh quản lý nhà nước về: đường

bộ, đường thủy nội địa, đường sắt đô thị; vận tải; an toàn giao thông; quản lý,

khai thác, duy tu, bảo trì hạ tầng giao thông đô thị gồm: Cầu đường bộ, cầu

vượt, hè phố, đường phố, dải phân cách, hệ thống biển báo hiệu đường bộ, đèn

tín hiệu điều khiển giao thông, hầm dành cho người đi bộ, hầm cơ giới đường

bộ, cầu dành cho người đi bộ, bến xe, bãi đỗ xe trên địa bàn tỉnh”; ”Tổ chức

thực hiện việc kiểm tra chất lượng an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường đối

với phương tiện giao thông đường bộ, đường thủy nội địa theo quy định của

pháp luật và phân cấp của Bộ Giao thông vận tải”.

Như vậy, lĩnh vực đăng kiểm xe cơ giới đường bộ thuộc chức năng quản

lý nhà nước của Sở Giao thông vận tải.

2.2. TỔ CHỨC THỰC HIỆN ĐĂNG KIỂM XE CƠ GIỚI ĐƯỜNG

BỘ TẠI TỈNH NINH THUẬN HIỆN NAY

2.2.1. Tổ chức và hoạt động của Trung tâm đăng kiểm xe cơ giới

đường bộ Ninh Thuận

Trung tâm Đăng kiểm xe cơ giới đường bộ Ninh Thuận hiện nay (sau

đây viết tắt là Trung tâm đăng kiểm 85.01S) tiền thân là Trạm đăng kiểm

phương tiện giao thông cơ giới đường bộ, được thành lập theo Quyết định số

968/QĐ-UBND ngày 25/12/1996 của UBND tỉnh Ninh Thuận.

Theo Quyết định số 968/QĐ-UBND xác định rõ Trung tâm Đăng kiểm

85.01S là đơn vị sự nghiệp có thu, tự đảm bảo một phần chi phí hoạt động.

Trung tâm Đăng kiểm có tư cách pháp nhân, có trụ sở, có con dấu riêng và

57

được mở tài khoản tại Kho bạc Nhà nước để hoạt động theo quy định của

pháp luật.

Trung tâm đăng kiểm 85.01S có địa chỉ tại Thôn Bình Quý -Thị trấn

Phước Dân, Huyện Ninh Phước- Tỉnh Ninh Thuận. Đây là đơn vị sự nghiệp

có thu trực thuộc Sở Giao thông vận tải Ninh Thuận.

Tính đến thời điểm 31/12/2016, Trung tâm đăng kiểm 85.01S là đơn vị

duy nhất trên địa bàn tình Ninh Thuận cung ứng dịch vụ đăng kiểm xe cơ giới

đường bộ.

Công tác đăng kiểm xe cơ giới đường bộ trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận

được thực hiện tuân thủ theo các quy định thống nhất trên toàn quốc đối với

công tác đăng kiểm xe cơ giới đường bộ , trước hết là quy trình đăng kiểm

được quy định tại Hướng dẫn số 1179/ĐKVN ngày 16/11/2009 của Cục Đăng

kiểm Việt Nam về kiểm định an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường xe cơ giới

và Thông báo số 716/ĐKVN-VAR ngày 25/5/2011 của Cục Đăng kiểm Việt

Nam về việc sửa đổi, bổ sung hướng dẫn số 1179/ĐKVN.

Theo Quyết định này, Trung tâm đăng kiểm có chức năng tổ chức thực

hiện công tác đăng kiểm chất lượng an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường đối

với các loại phương tiện: phương tiện vận tải cơ giới đường bộ, phương tiện

vận tải đường thuỷ nội địa, xe máy chuyên dùng thi công công trình giao thông

và xe máy tự chế theo quy định phân cấp của Bộ Giao thông vận tải, cụ thể:

+ Xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch phát triển, kế hoạch đăng

kiểm các phương tiện vận tải cơ giới dài hạn, trung hạn và hàng năm phù hợp

với kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của tỉnh và ngành Giao thông vận tải.

+ Tổ chức thực hiện công tác đăng kiểm chất lượng, an toàn kỹ thuật và

bảo vệ môi trường phương tiện cơ giới.

58

+ Tổ chức công tác tư vấn về kỹ thuật phương tiện cơ giới (thiết kế hoán

cải phương tiện cơ giới) và nghiên cứu ứng dụng những tiến bộ khoa học kỹ

thuật vào công tác đăng kiểm.

+ Tham gia thành viên hội đồng kiểm tra chất lượng an toàn kỹ thuật và

bảo vệ môi trường các xe cơ giới cải tạo được phân cấp; giám định tình trạng

kỹ thuật phương tiện vận tải cơ giới theo yêu cầu của cơ quan Nhà nước, tổ

chức kinh tế và của các chủ phương tiện cơ giới.

+ Kiểm tra, nghiệm thu và cấp Giấy chứng nhận An toàn kỹ thuật và

Bảo vệ môi trường xe cơ giới cải tạo thùng hàng, lắp ráp khung mui trên ô tô

tải theo thiết kế do Cục Đăng kiểm Việt Nam ban hành.

+ Quản lý tài chính, tài sản và công tác thu phí, lệ phí đăng kiểm theo

quy định của cơ quan Nhà nước và của Uỷ ban nhân dân tỉnh. Quản lý, khai

thác, sử dụng hợp lý cơ sở vật chất kỹ thuật của Nhà nước đã trang bị nhằm

duy trì, phát triển và nâng cao hiệu quả chất lượng công tác đăng kiểm.

+ Quản lý cán bộ, viên chức của Trung tâm theo quy định của pháp luật

và của Ủy ban nhân dân tỉnh.

+ Thực hiện chế độ thông tin định kỳ hoặc đột xuất; báo cáo thống kê, sơ

kết, tổng kết, đánh giá kết quả công tác của Trung tâm theo quy định của pháp

luật về đăng kiểm.

+ Thực hiện một số nhiệm vụ khác do Giám đốc Sở Giao thông vận tải giao.

Cơ cấu tổ chức của Trung tâm bao gồm 02 phòng chuyên môn là phòng

kỹ thuật đăng kiểm và phòng hành chính-tổng hợp.

Tổng số cán bộ, nhân viên của Trung tâm gồm 21 người, trong đó có 8

đăng kiểm viên hạng 3 và 5 nhân viên nghiệp vụ đáp ứng các tiêu chuẩn về

nhân lực theo quy định.

59

Đội ngũ nhân lực này bao gồm:

+ Lãnh đạo Trung tâm: 02 người (01 Giám đốc và 01 Phó Giám đốc)

+ Đăng kiểm viên xe cơ giới: 07 người

+ Nhân viên nghiệp vụ: 06 người

+ Kế toán, thủ quĩ: 02 người

+ Nhân viên hồ sơ, vi tính: 02 người

+ Nhân viên bảo vệ: 02 người

Trình độ chuyên môn nghiệp vụ của các đăng kiểm viên hiện đang làm

việc tại Trung tâm về cơ bản đều đã được đào tạo bồi dưỡng đúng tiêu chuẩn,

phù hợp Thông tư 11/2005/TT-BGTVT Quy định về điều kiện cơ sở vật chất

kỹ thuật và nhân lực của Trung tâm đăng kiểm phương tiện giao thông cơ giới

đường bộ: được đào tạo đúng chuyên ngành cơ khí và đã qua lớp đào tạo đăng

kiểm viên của Cục Đăng kiểm và được cấp chứng chỉ đủ điều kiện. Các đăng

kiểm viên này đều được bồi dưỡng thường xuyên và tham dự đầy đủ các kỳ sát

hạch của Cục Đăng kiểm theo định kỳ.

Kiểu loại các trang thiết bị kiểm tra bố trí trong dây chuyền kiểm định

phù hợp với loại thiết bị cho phép và được kiểm tra kiểm chuẩn định kỳ theo

đúng quy định của Thông tư số 11/2005/TT-BGTVT Quy định điều kiện cơ sở

vật chất kỹ thuật và nhân lực của Trung tâm đăng kiểm phương tiện giao thông

cơ giới đường bộ; Thông tư 56/2012/TT-BGTVT Quy định về kiểm định

ATKT&BVMT phương tiện giao thông cơ giới đường bộ; Hướng dẫn

710A/ĐKVN-VAR ngày 26/5/2010 của Cục Đăng kiểm Việt Nam hướng dẫn

thực hiện các quy định về thiết bị, dụng cụ kiểm định tại các đơn vị đăng kiểm

xe cơ giới. Thời gian đăng kiểm được thực hiện tại một dây chuyền sau khi

60

phương tiện được đưa vào dây chuyền kiểm định khoảng 0,5 giờ (với những

phương tiện không đòi hỏi phải sửa chữa lớn).

Trung tâm trang bị đầy đủ hệ thống máy vi tính để nhập, lưu trữ và

truyền số liệu. Các thiết bị được nối mạng nội bộ đảm bảo yêu cầu lưu trữ và

truyền số liệu. Các thiết bị hỗ trợ như máy fax, điện thoại, photocopy được

trang bị đáp ứng yêu cầu công việc.

Máy chủ của Trung tâm đã được nối mạng với máy chủ của Cục Đăng

kiểm để thường xuyên báo cáo số liệu kiểm định.

2.2.2. Kết quả đăng kiểm xe cơ giới đường bộ trên địa bàn tỉnh

Trong những năm qua, Trung tâm đăng kiểm phương tiện giao thông cơ

giới đường bộ Ninh Thuận đã thực hiện tốt nhiệm vụ đăng kiểm xe cơ giới

đường bộ được giao. Số lượng các phương tiện được đăng kiểm tại Trung tâm

trong giai đoạn 2011-2016 đạt 50.778 phương tiện, trong đó chủ yếu là xe ô tô

9 ghế trở xuống (17.092 phương tiện, chiếm 33,7%), ô tô tải đến dưới 2 tấn

(11.968 phương tiện, chiếm 24,6%) và ô tô tải từ 2 đến 7 tấn (9609 phương

tiện, chiếm 18,9%) [42].

Thống kê tại Bảng trên đây về kết quả đăng kiểm xe cơ giới đường bộ

của Trung tâm đăng kiểm Ninh Thuận cho thấy số lượng các phương tiện thực

hiện đăng kiểm tăng lên hàng năm với tỷ lệ tăng rất mạnh, nhất là số lượng

phương tiện ô tô cá nhân dưới 9 chỗ (tăng từ 4.518 phương tiện đăng kiểm năm

2011 lên tới 7.473 phương tiện đăng kiểm vào năm 2016. Cùng với sự phát

triển về kinh tế-xã hội và mức tiêu dùng của người dân trong thời gian tới được

dự báo cũng tăng cao, số lượng các phương tiện cơ giới tham gia giao thông,

nhất là xe ô tô cá nhân cũng sẽ tăng theo khiến cho áp lực đăng kiểm của Trung

tâm ngày càng nặng nề hơn.

61

Bảng 2.2: Tổng số kinh phí thu được từ kiểm định xe cơ giới đường bộ

giai đoạn 2011-2016 tại Ninh Thuận

Năm 2011 2012 2013 2014 2015 2016

1.916,205 2.210,635 2.630,740 4.288,970 4.020,550 4.453,585

Giá trị kiểm định (ngàn đồng)

Nguồn: Báo cáo kết quả thực hiện công tác kiểm định tại Trung tâm 8501S

Về kinh phí thu được từ công tác đăng kiểm: việc thu phí đăng kiểm tại

Trung tâm đăng kiểm Ninh Thuận hiện nay được thực hiện theo tuân thủ các

quy định hiện hành của nhà nước tại Thông tư số 102/2008/TT-BTC ngày

11/11/2008 của Bộ trưởng Bộ Tài chính. Về cơ bản, mức thu này khó có thể

bảo đảm cho Trung tâm hoạt động nếu không có sự hỗ trợ của Nhà nước.

2.3. ĐÁNH GIÁ CÔNG TÁC ĐĂNG KIỂM XE CƠ GIỚI ĐƯỜNG

BỘ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH NINH THUẬN

2.3.1 Những ưu điểm

Công tác đăng kiểm tại Ninh Thuận trong thời gian qua đã đạt được các

thành tựu đáng kể:

- Đảm bảo chất lượng phương tiện tham gia giao thông đường bộ theo

đúng quy định, qua đó góp phần quan trọng vào việc bảo đảm an toàn giao

thông đường bộ và bảo vệ môi trường. Là đơn vị chủ lực trong việc xác định xe

quá niên hạn sử dụng, xe vi phạm về thay đổi kích thước thành thùng xe, từ

năm 2011 đến nay, thực hiện quy định về kiểm soát xe quá tải, Trung tâm đã

góp phần lớn trong việc xử lý xe xe quá niên hạn, xe thay đổi kích thước thành

thùng, xe chở quá tải trọng trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận, tiến tới không còn xe

cơi nới thành thùng, xe quá tải, xe quá niên hạn lưu thông trên đường.

62

Việc siết chặt kiểm định xe cơ giới không chỉ góp phần nâng cao ý thức

của chủ xe, lái xe trong việc bảo dưỡng, sửa chữa phương tiện mà còn ý thức

hơn trong việc chấp hành đầy đủ các quy định về đảm bảo an toàn kỹ thuật xe,

qua đó đảm bảo trật tự an toàn giao thông, bảo vệ môi trường, kết cấu hạ tầng

giao thông đường bộ.

- Thực hiện Đề án "Nâng cao chất lượng dịch vụ và chống tiêu cực trong

công tác đăng kiểm", Trung tâm Đăng kiểm phương tiện Giao thông vận tải

tỉnh Ninh Thuận trong thời gian qua đã tạo thuận lợi tối đa cho người đưa

phương tiện đến kiểm định. Trung tâm tiếp tục thực hiện cải cách hành chính,

công khai minh bạch tất cả các quy trình đăng kiểm, các yêu cầu và tiêu chuẩn

được niêm yết công khai giúp cho lái xe và chủ phương tiện đến kiểm định biết

và chuẩn bị, tăng cường kiểm tra, kiểm soát, đồng thời nâng cao ý thức trách

nhiệm cho mỗi nhân viên trong Trung tâm, đặc biệt là các đăng kiểm viên để

nâng cao chất lượng đăng kiểm của Trung tâm.

- Chất lượng hầu hết các đăng kiểm viên đáp ứng các yêu cầu kiểm định:

Chất lượng của dịch vụ đăng kiểm phụ thuộc rất lớn vào đăng kiểm viên. Các

đăng kiểm viên của Trung tâm phần lớn là những người có những kiến thức và

kinh nghiệm chuyên sâu về lĩnh vực cơ khí, chế tạo máy, có khả năng làm việc

độc lập, phải có tính cần mẫn, trung thực, quyết đoán, dám chịu trách nhiệm,

đồng thời có đủ năng lực và phẩm chất để thực hiện đăng kiểm.

Trung tâm đăng kiểm xe 8501S có đội ngũ 7 đăng kiểm viên tốt nghiệp

đại học hệ chính quy chuyên ngành cơ khí động lực, cơ khí ô tô, công nghệ ô tô

ở các trường đại học bách khoa thành phố Hồ Chí Minh, trường đại học Giao

thông vận tải, đại học sư phạm kỹ thuật thành phố Hồ Chí Minh, đã được Cục

Đăng kiểm Việt Nam tập huấn nghiệp vụ chuyên môn và cấp giấy chứng nhận

đăng kiểm viên hạng II, hạng III. Đây là nguồn nhân lực chất lượng cao,

63

chuyên nghiệp, có thâm niên và kinh nghiệm, chính là một trong các nguồn lực

quan trọng góp phần nâng cao chất lượng đăng kiểm.

- Cơ sở vật chất của Trung tâm được đầu tư đầy đủ, đồng bộ, đáp ứng

được nhu cầu kiểm định phương tiện Giao thông vận tải trên địa bàn và một số

tỉnh lân cận. Các số liệu đăng kiểm được lưu trữ đầy đủ và truyền tải về Cục

Đăng kiểm Việt Nam góp phần xây dựng cơ sở dữ liệu về phương tiện xe cơ

giới, tăng khả năng kiểm soát xe cơ giới đang lưu hành.

Từ nguồn lực con người, dù là đơn vị được thành lập sau so với các

Trung tâm trong khu vực nhưng Trung tâm đã từng bước vươn lên khẳng định

được vai trò, vị thế của mình trong việc kiểm định phương tiện Giao thông vận

tải. Các sản phẩm do trung tâm kiểm định, cấp giấy Chứng nhận An toàn kỹ

thuật và bảo vệ môi trường đều đảm bảo đúng quy định, an toàn khi tham gia

giao thông, được xã hội ghi nhận. Không có tình trạng sách nhiễu cá nhân, tổ

chức đến kiểm định, không vì lợi ích cá nhân mà bỏ qua các quy định của pháp

luật để cấp giấy Chứng nhận kiểm định cho các phương tiện không đủ điều

kiện tham gia giao thông.

2.3.2. Những hạn chế còn tồn tại

Bên cạnh những ưu điểm nổi bật nêu trên, đăng kiểm Ninh Thuận vẫn

còn nhiều hạn chế còn tồn tại, phải khẩn trương khắc phục trong thời gian tới.

Những nhược điểm cơ bản thể hiện trên các mặt chủ yếu sau:

Thứ nhất, tình trạng quá tải đăng kiểm diễn ra phổ biến:

Với số lượt xe đăng kiểm bình quân trên địa bàn hàng năm khoảng trên

10.000 lượt phương tiện, hoạt động của ngành đăng kiểm Ninh Thuận đang

thực sự quá tải. Tỉnh Ninh Thuận hiện chỉ có duy nhất một đơn vị kiểm định

phương tiện Giao thông vận tải đối với cả phương tiện giao thông đường bộ.

Điều này đã ảnh hưởng hưởng không nhỏ đến công tác kiểm định phương tiện. 64

Tại Trung tâm Đăng kiểm phương tiện Giao thông vận tải tỉnh Ninh Thuận, dù

dây chuyền kiểm định đã hoạt động hết công suất, các kiểm định viên đã tăng

cường tập trung kiểm tra các công đoạn kiểm tra các công đoạn tiêu chuẩn kỹ

thuật xe, nhưng vẫn không giải quyết được tình trạng xe nối dài chờ đến lượt

đăng kiểm.

Nhiều lái xe ở Ninh Thuận khi được phỏng vấn về thời gian kiểm định

xe cho biết: “Hiện nay, thời gian kiểm tra xe ô tô lâu hơn trước bởi Trung tâm

kiểm định các hạng mục chi tiết của ô tô theo đúng chỉ đạo của Cục Đăng kiểm

Việt Nam. Có khi xếp hàng cả nửa buổi cũng chưa đến lượt kiểm định. Đấy là

những xe đảm bảo tiêu chuẩn, còn những xe chưa đạt yêu cầu thì phải quay

vòng nhiều lần, đã làm tăng số lượt xe vào Trung tâm đăng kiểm”. Thời gian

thực hiện đăng kiểm không nhiều nhưng thời gian chờ đợi của lái xe và chủ

phương tiện lại dài do quá tải khiến cho mức độ hài lòng của người dân đối với

công tác đăng kiểm không cao. Có tới hơn 50% số lái xe được hỏi không thực

sự hài lòng với công tác đăng kiểm của Trung tâm.

Tình trạng quá tải trong đăng kiểm còn dẫn tới những tiêu cực nhất định

làm giảm chất lượng đăng kiểm. Một số chủ xe, lái xe khi đến kiểm định xe có

những hành động chen lấn, gây ùn tắc trong khu vực chờ kiểm định do không

thể và không muốn chờ đợi đến lượt. Đặc biệt là khi xe vào kiểm định nhưng

không đạt yêu cầu kỹ thuật để cấp phép lưu hành, cần phải mang đi sửa chữa

và phải tiến hành kiểm định lại thì để tránh việc mất thời gian chờ đợi, có

trường hợp chủ xe năn nỉ xin được bỏ qua các lỗi kỹ thuật, có trường hợp có lời

nói, hành vi đe dọa cán bộ nhân viên của Trung tâm, trong khi đó việc bảo vệ

cán bộ đăng kiểm chưa được quan tâm đầy đủ. Số lái xe được phỏng vấn bày tỏ

nỗi bức xúc vì liên tục phải chờ đợi trong khi đi đăng kiểm.

65

Với quy mô, công suất dây chuyền kiểm định của Trung tâm đăng kiểm

Ninh Thuận, Cục Đăng kiểm Việt Nam chỉ cấp 50 tem đăng kiểm/ngày nên

Trung tâm dù muốn “tăng ca, tăng giờ” để giải tỏa ùn tắc khi tới “mùa cao

điểm” các phương tiện đến thực hiện đăng kiểm nhiều, cũng không được. Điều

này cho thấy trong tương lai, việc triển khai thêm một Trạm đăng kiểm khác

bên cạnh trạm đang có trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận là cần thiết.

Thứ hai, việc đầu tư trang thiết bị rất chậm và thiếu đồng bộ:

Mặc dù hai dây chuyền đăng kiểm của Trung tâm đăng kiểm Ninh

Thuận được đầu tư khá đồng bộ và hiện đại nhưng việc khai thác dồn dập

khiến cho việc bảo dưỡng và thay thế trang thiết bị gặp nhiều khó khăn. Một số

trang thiết bị trong dây chuyền đôi lúc bị hỏng, lỗi phần mềm truyền tải dữ liệu

nên đã gây nên tình trạng dồn tắc các phương tiện đến kiểm định. Việc sửa

chữa các lỗi này, đặc biệt là khi cần thay thế các trang thiết bị được thực hiện

rất chậm do quy trình đầu tư rất phiền hà khiến cho có lúc một hoặc thậm chí

cả hai dây chuyền phải tạm dừng việc kiểm định. Để đảm bảo tốc độ và chất

lượng đăng kiểm, cần phải tăng cường thêm các dây chuyền kiểm định chất

lượng mới nhưng việc đầu tư một dây chuyền mới thường rất tốn kém (trên 3,0

tỷ đồng) nên khó có thể bố trí ngân sách, đồng thời quy mô và diện tích của

Trung tâm cũng không cho phép tăng thêm dây chuyền đăng kiểm mới tại đây.

Thứ ba, chất lượng một số đăng kiểm viên chưa đáp ứng yêu cầu cả về

năng lực chuyên môn và phẩm chất.

Một số cán bộ đăng kiểm trình độ tin học còn hạn chế, ứng dụng công

nghệ thông tin vào công việc còn chậm, đôi lúc chưa thật sự chú trọng công

việc dẫn đến có một số sai sót khi kiểm định. Sự thay đổi liên tục trong nghệ

sản xuất máy được áp dụng trong công nghệ sản xuất ô tô dẫn đến có sự lúng

túng trong vận hành, thao tác thiết bị. Trong khi việc đào tạo, đào tạo lại, tập

66

huấn kỹ năng nghiệp vụ cho cán bộ, nhân viên, đăng kiểm viên chưa được tiến

hành thường xuyên. Một số đăng kiểm viên khi thực thi nhiệm vụ đăng kiểm

vẫn chưa triệt để tuân thủ quy trình kiểm định, còn có sự nể nang trong quan hệ

gia đình, xã hội nên đôi khi kết quả đăng kiểm chưa thật chính xác, để xe

không đạt tiêu chuẩn đưa ra lưu hành.

Bên cạnh đó, mặc dù đã có những cố gắng nhất định trong quản lý và

kiểm soát, nhưng hiện tượng tiêu cực vẫn còn xảy ra trong công tác đăng kiểm.

Việc nhận tiền hối lộ của chủ phương tiện để giảm nhẹ hoặc cho qua những

yêu cầu kiểm tra là một căn bệnh cần phải có nhiều biện pháp xử lý, kể cả biện

pháp đổi mới mô hình tổ chức.

Còn có tình trạng các chủ xe tháo bỏ ghế, thùng bệ chở hàng; mượn các

bộ phận của xe khác (như lốp, còi, đèn, thùng bệ...) để vào kiểm định cho đạt

yêu cầu. Sau khi kiểm định xong và được cấp phép lưu hành thì chủ xe lại lắp

các thiết bị, phụ tùng không đủ tiêu chuẩn vào để lưu hành dẫn đến tình trạng

gây ô nhiễm môi trường, mất an toàn giao thông nghiêm trọng. Đây là một vấn

đề nhức nhối hiện nay vẫn chưa có biện pháp ngăn chặn hữu hiệu.

2.3.3. Nguyên nhân của các hạn chế

Các hạn chế trên đây có nhiều nguyên nhân, trong đó có cả nguyên nhân

chủ quan và nguyên nhân khách quan. Có thể chỉ ra những nguyên nhân chủ

yếu dẫn tới thực trạng này như:

Thứ nhất, một số văn bản quy phạm pháp luật và văn bản hướng dẫn

trong lĩnh vực kiểm định xe cơ giới chưa thật sự hoàn chỉnh, chưa nhất quán,

chưa theo kịp với sự thay đổi nhanh chóng của tình hình thực tế. Trong giai

đoạn hiện nay, cả nước đang quyết liệt xử lý xe quá tải, dẫn tới tình trạng xe có

giấy Chứng nhận kiểm định ghi rõ khối lượng được phép chở tối đa nhưng vẫn

không thể chở đủ tải ngay cả khi lưu hành trên tuyến quốc lộ vì nếu chở đúng

67

theo giấy Chứng nhận kiểm định cũng vẫn bị quá tải. Điều đó dẫn đến sự thắc

mắc, bức xúc của người dân. Tất cả những vướng mắc trên đều chưa được giải

quyết dẫn đến khó khăn cho các đăng kiểm viên khi làm nhiệm vụ.

Thứ hai, số lượng xe cơ giới cần đăng kiểm quá nhiều dẫn tới tình trạng

quá tải: đây là nguyên nhân chủ yếu dẫn tới các hiện tượng tiêu cực trong đăng

kiểm tại Ninh Thuận.

Cùng với sự phát triển kinh tế-xã hội, số lượng phương tiện tham gia

giao thông trên cả nước nói chung và địa bàn tỉnh Ninh Thuận nói riêng ngày

càng tăng đến mức độ quá khả năng đáp ứng của đội ngũ đăng kiểm viên và cơ

sở vật chất, trang thiết bị hiện có, tạo nên áp lực làm việc quá tải đối với đội

ngũ nhân viên, đăng kiểm viên, dẫn đến hiện tượng có thể xem nhẹ hoặc bỏ

qua một bước kiểm tra kỹ thuật nào đó trong cả quy trình.

Thứ ba, nhiều lái xe, chủ phương tiện chưa ý thức được tầm quan trọng

của việc nâng cao chất lượng phương tiện, ít chú ý đến việc bảo dưỡng, sửa

chữa phương tiện trước khi đi kiểm định do đó phần lớn vẫn coi việc kiểm định

phương tiện là một hình thức bắt buộc để có được giấy chứng nhận an toàn kỹ

thuật và bảo vệ môi trường cùng với tem kiểm định. Nhiều lái xe, chủ phương

tiện chưa chú ý đến việc duy trì tình trạng kỹ thuật tốt của phương tiện. Nhiều

lái xe, chủ phương tiện chỉ muốn kiểm định nhanh chóng, bỏ qua các công

đoạn kiểm định để không phải khắc phục tình trạng kỹ thuật, nhanh chóng đưa

xe vào lưu thông. Kết quả phỏng vấn sâu đối với 30 lái xe/chủ phương tiện

thực hiện đăng kiểm tại trung tâm đăng kiểm cho thấy đối với phần lớn trong

số họ (25/50 người, chiếm tỷ lệ 50%), mục tiêu của việc đăng kiểm là việc lấy

được giấy chứng nhân kiểm định để được phép lưu hành phương tiện chứ ít có

sự quan tâm tới chất lượng của xe khi kiểm định. Qua kết quả kiểm định số

lượng phương tiện không đạt phải sửa chữa để kiểm định lại chiếm tỷ lệ lớn

68

(khoảng 20%). Kết quả kiểm tra liên ngành cũng phát hiện nhiều phương tiện

vi phạm về an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường, đây chính là nguyên nhân

tiềm ẩn gây mất an toàn giao thông. Nhiều chủ xe sắp hết niên hạn sử dụng bỏ

chu kỳ kiểm định cuối, tránh việc thu hồi hồ sơ kiểm định để tiếp tục cho xe

hoạt động tại vùng sâu, vùng xa.

Thứ tư, chất lượng nhân sự đăng kiểm chưa đảm bảo cả về năng lực

chuyên môn và phẩm chất. Yếu tố con người trong công tác đăng kiểm là quan

trọng nhất, cần tập trung cho công tác chăm lo, đào tạo đội ngũ cán bộ nhân

viên, đặc biệt là đăng kiểm viên đảm bảo đáp ứng yêu cầu công việc.

Chế độ đãi ngộ là một phần rất quan trọng trong công tác quản trị

nguồn nhân lực. Trong quá trình phỏng vấn Giám đốc Trung tâm đăng kiểm,

ông cho biết, trong những năm vừa qua Trung tâm đã không ngừng chăm lo

nâng cao đời sống cho cán bộ công nhân viên, chế độ về bảo hiểm xã hội, bảo

hiểm y tế, khám sức khoẻ định kỳ cho cán bộ công nhân viên cũng được

Trung tâm thực hiện tốt. Tuy nhiên, do đặc thù công việc nặng nhọc, tiếp xúc

nhiều với dầu mỡ, khí thải, làm trong môi trường ô nhiễm, hệ số lương, phụ

cấp còn thấp chưa đáp ứng được nhu cầu hàng ngày nên đời sống cán bộ nhân

viên Trung tâm gặp nhiều khó khăn, từ đó ảnh hưởng đến tư tưởng, khả năng,

hiệu quả làm việc.

69

TIỂU KẾT CHƯƠNG 2

Tỉnh Ninh Thuận nằm ở cực Nam Trung Bộ, có vị trí địa lý thuận lợi,

nằm ở điểm giao tiếp của 3 vùng kinh tế lớn của đất nước: Nam Tây Nguyên,

Nam Trung Bộ và gần với Miền Đông Nam Bộ giao lưu dễ dàng với các thành

phố trung tâm lớn của khu vực như Nha Trang, Đà Lạt, Phan Thiết, Vũng Tàu,

thành phố Hồ Chí Minh. Tỉnh cũng có nhiều tiềm năng để phát triển mạnh du

lịch, năng lượng kinh tế biển. Do đó, dự báo trong những năm tới, cùng với tốc

độ phát triển kinh tế-xã hội đạt khá, mức sống của người dân được nâng cao, số

lượng các phương tiện cơ giới tham gia giao thông, đặc biệt là ô tô cá nhân sẽ

tăng nhanh chóng và kéo theo số lượng phương tiện kiểm định cũng tăng lên.

Hiện nay, việc thực hiện đăng kiểm phương tiện cơ giới đường bộ tại

Ninh Thuận được thực hiện tại Trung tâm đăng kiểm duy nhất là Trung tâm

đăng kiểm phương tiện cơ giới thuộc Sở Giao thông vận tải Ninh Thuận. Mặc

dù trong thời gian qua, Trung tâm đã có nhiều nỗ lực cố gắng để thực hiện các

công tác đăng kiểm nhưng vì nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó chủ yếu

là do quy mô của Trung tâm đăng kiểm còn quá nhỏ, chưa đáp ứng được các

nhu cầu đăng kiểm đối với các phương tiện tham gia giao thông đường bộ nên

chất lượng đăng kiểm có nhiều điểm giảm sút, tạo nên sự không hài lòng của

lái xe và chủ phương tiện cần đăng kiểm. Điều đó đặt ra yêu cầu cấp thiết

khách quan phải tăng cường chất lượng đăng kiểm, đồng thời mở rộng quy mô

công tác đăng kiểm trên địa bàn tỉnh, trong đó cần chú trọng tới việc xã hội hóa

công tác đăng kiểm.

70

Chương 3

PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP TRIỂN KHAI XÃ HỘI HÓA

CÔNG TÁC ĐĂNG KIỂM XE CƠ GIỚI Ở NINH THUẬN

3.1 SỰ CẦN THIẾT PHẢI XÃ HỘI HÓA CÔNG TÁC ĐĂNG

KIỂM XE CƠ GIỚI TẠI NINH THUẬN

Xu hướng chuyển chức năng cung ứng dịch vụ công ra khỏi khu vực nhà

nước một cách tối đa đã được một số nước thực hiện từ lâu. Điển hình như

nước Mỹ, gần như tất cả các dịch vụ công đều do khu vực tư nhân đảm trách,

Chính phủ chỉ giữ vai trò kiểm tra, kiểm soát. Trong điều kiện ở Việt Nam hiện

nay, việc xã hội hóa mặc dù đã được quan tâm định hướng, chỉ đạo nhưng vì

nhiều lý dpo khác nhau vẫn còn chưa đạt được mức độ như mong muốn. Lý do

chủ yếu là chưa có cơ chế quản lý hiệu quả, thêm nữa khu vực tư chưa đủ lớn

mạnh để tiếp nhận việc cung ứng một cách tốt nhất. Như vậy ở Việt Nam, Nhà

nước vẫn giữ vai trò chủ chốt trong cung ứng dịch vụ công.

Xu hướng xã hội hóa sẽ được tiếp tục triển khai trong những năm tới đây

cùng với việc triển khai Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước

giai đoạn 2011-2020 với mục tiêu nâng cao chất lượng cung cấp dịch vụ công.

Bộ Giao thong Vận tải đã và đang được đánh giá là Bộ đi đầu trong công tác

triển khai xã hội hóa. Đối với lĩnh vực đăng kiểm phương tiện giao thông

đường bộ, Bộ đã ban hành Quy hoạch tổng thể các trung tâm đăng kiểm và dây

chuyền kiểm định xe cơ giới đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 (Kèm theo

Quyết định số 3371/2014/QĐ-BGTVT ngày 06 tháng 10 năm 2014 của Bộ

trưởng Bộ Giao thông vận tải) để định hướng phát triển các Trung tâm đăng

kiểm trên phạm vi cả nước từ này đến 2020, trong đó xác định rõ xã hội hóa

các trung tâm đăng kiểm là một trong những ưu tiên chủ yếu.

71

Cùng với sự phục hồi kinh tế trong năm 2015 và 2016, mặc dù mức độ

tăng trưởng còn hạn chế nhưng trong những năm tới GDP bình quân đầu người

sẽ đạt mức tăng manh mẽ và khả năng tiêu dùng của người dân sẽ còn tăng cao,

nhu cầu và khả năng mua xe cơ giới, nhất là ô tô sẽ tiếp tục tăng.

Với tốc độ gia tăng GDP như vậy và đặc điểm của thời kỳ đang phát

triển (cơ cấu vận tải chủ yếu bằng đường bộ, ở Việt Nam hiện nay vận tải hành

khách đường bộ chiếm 90% và vận chuyển hàng hóa đường bộ chiếm 85%), dự

báo trong tương lai gần, số lượng phương tiện giao thông cơ giới cá nhân (cả

xe gắn máy và xe ô tô cá nhân cũng như xe chuyên dụng phục vụ vận tải hành

khách và hàng hóa) sẽ gia tăng mạnh mẽ [6].

Bên cạnh đó, tốc độ tăng trưởng ở các vùng miền, các tỉnh khác nhau

cũng không giống nhau nên tốc độ gia tăng các phương tiện giao thông cơ giới

đường bộ cũng không giống nhau, sẽ có ảnh hưởng nhất định tới sự phân bổ

các trung tâm đăng kiểm và số lượng các dây chuyền kiểm định xe cơ giới.

Cùng với việc tăng trưởng số phương tiện giao thông cơ giới đường bộ,

số lượng các vụ tai nạm giao thông liên quan tới ô tô, đặc biệt là đối với xe vận

tải và xe khách, cũng sẽ tăng lên đáng kể, đòi hỏi phải thực hiện công tác kiểm

định an toàn xe một cách nghiêm ngặt để đảm bảo các phương tiện an toàn khi

tham gia giao thông. Với tốc độ tăng trưởng xe cơ giới hiện nay, Bộ Giao

thông vận tải đánh giá nhu cầu đăng kiểm giai đoạn 2017-2018 là 3,2 triệu lượt

xe/năm; giai đoạn 2018-2020 khoảng 4,31 triệu lượt xe/năm và đến năm 2021-

2030 là khoảng 6,3 triệu lượt xe/năm. Để đáp ứng nhu cầu đăng kiểm đó, Quy

hoạch tổng thể các trung tâm đăng kiểm xe cơ giới xác định đến năm 2030 mỗi

tỉnh, thành phố thuộc trung ương phải có tối thiểu 2 trung tâm đăng kiểm với 2

dây chuyền kiểm định/trung tâm. Cụ thể, tới năm 2016 cả nước có 139 trung

tâm đăng kiểm với 235 dây chuyền kiểm định, trong đó khu vực đồng bằng

72

sông Hồng là nơi tập trung dân cư và mức độ đô thị hóa cao sẽ cần phải có 47

trung tâm đăng kiểm với 93 dây chuyền kiểm định, riêng Hà Nội sẽ có 21 trung

tâm đăng kiểm với 42 dây chuyền kiểm định (tăng thêm 18 trung tâm và 37

dây chuyền kiểm định). Giai đoạn đến năm 2020 số lượng trung tâm đăng kiểm

trên cả nước là 211 trung tâm với 451 dây chuyền kiểm định và năm 2030 sẽ

có khoảng 269 trung tâm với khoảng 660 dây chuyền kiểm định[8]. Hiện tại có

33 trung tâm đăng kiểm xã hội hóa được thành lập và tổ chức hoạt động.

Với GDP của tỉnh tăng trưởng bình quân 13%/năm, cao hơn so với tốc

độ tăng trưởng của một số tỉnh trong vùng, tổng sản phẩm nông, lâm nghiệp và

thủy sản tăng 4%/năm, công nghiệp và xây dựng tăng 23,4%/năm và các ngành

dịch vụ tăng 18,6%/năm với những đặc thù kinh tế xã hội như đã mô tả ở trên,

Ninh Thuận được dự báo là trong tương lai sẽ trở thành một tỉnh có tốc độ đô

thị hóa nhanh và phát triển mạnh mẽ về công nghiệp và dịch vụ. Cùng với sự

phát triển kinh tế-xã hội và mức sống của người dân được nâng cao, sẽ bùng nổ

số lượng các phương tiện giao thông cơ giới tham gia vào giao thông và hàng

năm số lượng các phương tiện giao thông cơ giới cần được đăng kiểm sẽ tăng

lên đáng kể.

Bảng 3.1.: Dự báo số lượng xe ô tô ở Ninh Thuận giai đoạn 2018-2030

Năm 2018 2020 2025 2030

Số lượng xe 8.698 15.189 21.813 21.813

Nguồn: Quyết định 3771/QĐ-BGTVT ngày 06/10/2014 của Bộ Giao thông vận tải

Sự gia tăng đột biến về số lượng các phương tiện Giao thông vận tải cơ

giới đường bộ đặt ra yêu cầu phải tăng cường số lượng kiểm định. Nếu như

năm 2016 số lượng các phương tiện tham gia kiểm định chỉ đạt 7.473 phương

tiện thì dự báo năm 2020 sẽ tang lên gần 12.000 phương tiện và năm 2030 là

73

25.000 phương tiện. Với quy mô này, chỉ với một trung tâm đăng kiểm ở Ninh

Thuận như hiện nay chắc chắn không thể đảm nhiệm tốt công tác đăng kiểm.

Sự quá tải của Trung tâm đăng kiểm duy nhất ở tỉnh Ninh Thuận hiện

nay là nguyên nhân chủ yếu dẫn tới chất lượng đăng kiểm xe cơ giới trên địa

bàn tỉnh chưa đáp ứng yêu cầu. Thời gian chờ đợi đăng kiểm lâu không chỉ

khiến cho chủ phương tiện không hài lòng, làm tăng chi phí xã hội, lãng phí

thời gian mà còn tạo kẽ hở làm nảy sinh các tiêu cực trong đội ngũ đăng kiểm

viên, gây phiền hà cho các chủ phương tiện. Chính vì vậy, việc triển khai thêm

một trạm đăng kiểm xe cơ giới nữa trên địa bàn tỉnh là cần thiết, phù hợp với

Quy hoạch phát triển các trung tâm đăng kiểm của Bộ Giao thông vận tải, phù

hợp với nhu cầu thực tiễn của địa phương cũng như nâng cao mức độ hài lòng

của người sử dụng phương tiện trên địa bàn tỉnh và các tỉnh lân cận.

Tuy nhiên, việc đầu tư cho Trung tâm đăng kiểm cần khá nhiều chi phí

(khoảng 20 tỷ đồng đầu tư ban đầu cho một trung tâm với 2 dây chuyền đăng

kiểm, chưa kể mặt bằng đăng kiểm) trong khi ngân sách của tỉnh còn rất hạn

chế nên nếu đầu tư từ ngân sách nhà nước đòi hỏi thời gian chờ đợi rất lâu,

không đáp ứng các yêu cầu hiện tại của việc phát triển đăng kiểm trên địa bàn.

Trung tâm mới được triển khai dưới hình thức xã hội hóa cũng phù hợp

với xu hướng chung của tiến trình xã hội hóa dịch vụ công ở Việt Nam và định

hướng phát triển công tác đăng kiểm trong tương lai. Cục Đăng kiểm Việt Nam

đang tiếp tục đẩy mạnh xã hội hóa công tác đăng kiểm xe cơ giới theo Quyết

định số 3771 của Bộ Giao thông vận tải phê duyệt quy hoạch tổng thể các trung

tâm đăng kiểm và dây chuyền kiểm định xe cơ giới đến năm 2020, tầm nhìn

2030. Đối với địa phương chưa có nhà đầu tư vào lĩnh vực này, trước mắt cần

duy trì các trung tâm đăng kiểm thuộc Sở Giao thông vận tải để phục vụ tốt

nhu cầu kiểm định của người dân, doanh nghiệp [6].

74

3.2. CÁC GIẢI PHÁP THỰC HIỆN XÃ HỘI HÓA ĐĂNG KIỂM

XE CƠ GIỚI Ở TỈNH NINH THUẬN

3.2.1. Yêu cầu đặt ra đối với các giải pháp thực hiện xã hội hóa đăng

kiểm xe cơ giới ở tỉnh Ninh Thuận

Việc triển khai trung tâm mới là cần thiết để đảm bảo nhu cầu kiểm định

phương tiện trên địa bàn tỉnh và các địa bàn lân cận. Trong quá trình triển khai

xây dựng trung tâm đăng kiểm mới cần đảm bảo các nguyên tắc chủ yếu:

- Rút ngắn được thời gian đăng kiểm

- Không làm tăng đầu tư từ ngân sách nhà nước

- Đảm bảo các yêu cầu về kỹ thuật và chất lượng đăng kiểm

- Tăng mức độ hài lòng của chủ phương tiện khi thực hiện đăng kiểm.

3.2.2. Lựa chọn mô hình tổ chức hoạt động

Từ năm 2011 đến nay, rút kinh nghiệm những ưu điểm, nhược điểm của

giai đoạn đầu thực hiện xã hội hóa công tác đăng kiểm và trên cơ sở tham khảo

kinh nghiệm quốc tế, Cục Đăng kiểm Việt Nam đã hướng lộ trình xã hội hóa

công tác đăng kiểm theo mô hình mới hơn, đó là: Các thành phần kinh tế đầu

tư cơ sở vật chất, còn cán bộ, đăng kiểm viên thì do các sở Giao thông vận tải

địa phương đảm nhận bố trí hoặc do Cục Đăng kiểm Việt Nam bố trí trong

trường hợp Sở Giao thông vận tải không đảm nhận quản lý thực hiện công tác

kiểm định, cấp giấy chứng nhận an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường.

Điều đáng ghi nhận của mô hình mới này là việc sử dụng cán bộ, công

chức, viên chức thuộc cơ quan Nhà nước thực hiện tổ chức kiểm định xe cơ

giới ở các trung tâm xã hội hóa đã giảm hẳn phiền hà, hạn chế được tác động

của chủ doanh nghiệp đến công tác kiểm định. Các trung tâm đăng kiểm do

doanh nghiệp đầu tư khang trang, vị trí thuận lợi; thiết bị kiểm định, thông tin

liên lạc đáp ứng yêu cầu. Đội ngũ đăng kiểm viên được bổ nhiệm theo quy

trình, đúng tiêu chuẩn, có ràng buộc với công tác quản lý, xử lý kỷ luật khi vi 75

phạm. Chất lượng đăng kiểm bảo đảm khách quan và nâng lên rõ nét, chi phí

ngân sách Nhà nước đầu tư cho công tác đăng kiểm giảm đáng kể.

Trong hai mô hình đăng kiểm xã hội hóa chủ yếu (mô hình xã hội hóa

toàn bộ và mô hình nhà đầu tư tư nhân đầu tư trang thiết bị và nhân viên, điều

hành thuộc nhà nước), việc đầu tư theo mô hình thứ hai có nhiều ưu thế hơn

đối với Ninh Thuận, đặc biệt là ở giai đoạn đầu tiên vì việc kiểm soát đối với

các trung tâm được xã hội hóa với đăng kiểm viên là người do chính trung tâm

hợp đồng sẽ rất khó kiểm soát chất lượng và do đó dễ dẫn tới tiêu cực. Trong

giai đoạn tiếp theo có thể chuyển đổi mô hình này theo hướng giao biên chế

cho Trung tâm trực tiếp tuyển dụng nếu như ý thức chấp hành pháp luật và tính

tự giác của đội ngũ lãnh đạo và nhân viên đăng kiểm nói chung được nâng lên.

3.2.3. Đào tạo nguồn nhân lực

Chất lượng hoạt động của các trung tâm đăng kiểm phụ thuộc phần lớn

vào chất lượng nhân lực đăng kiểm, đặc biệt là các đăng kiểm viên. Các đăng

kiểm viên phải được tuyển dụng từ những người đã được đào tạo về chuyên

môn nghiệp vụ và phải được bồi dưỡng theo các quy định cụ thể của Cục Đăng

kiểm Việt Nam. Do công tác đăng kiểm là một hoạt động đặc thù nên việc đào

tạo các đăng kiểm viên được thực hiện trực tiếp tại Cục Đăng kiểm Việt Nam.

Ngay cả lực lượng đăng kiểm viên đang hoạt động cũng phải được kiểm tra sát

hạch lại định kỳ để đáp ứng được các đòi hỏi thực tiễn của công tác đăng kiểm.

Thực tiễn cho thấy không phải đăng kiểm viên nào cũng đáp ứng được các đòi

hỏi của thực tiễn đăng kiểm. Theo thống kê của Trung tâm đào tạo (Cục Đăng

kiểm Việt Nam), chỉ trong năm 2016 đã có 77 đăng kiểm viên của 48 đơn vị bị

xử lý vi phạm [30]. Vì vậy, sát hạch kiểm chuẩn hàng năm là thực sự cần thiết.

Việc triển khai trung tâm đăng kiểm mới tại Ninh Thuận theo hình thức

xã hội hóa một phần với lực lượng đăng kiểm viên là viên chức nhà nước nằm

dưới sự quản lý của Sở Giao thông vận tải như đề xuất ở trên về mô hình trung

76

tâm đăng kiểm đòi hỏi phải tăng biên chế đăng kiểm viên của Sở Giao thông

vận tải. Điều này đòi hỏi phải có sự ủng hộ mạnh mẽ của HĐND và UBND

tỉnh. Các đăng kiểm viên được tuyển dụng phải đáp ứng được các yêu cầu và

phải được giám sát thường xuyên về chuyên môn của Cục Đăng kiểm Việt

Nam và Sở Giao thông vận tải Ninh Thuận.

3.2.4. Huy động vốn cho việc xây dựng Trung tâm đăng kiểm

Một trung tâm đăng kiểm xe cơ giới đòi hỏi những yêu cầu nghiêm ngặt

về kỹ thuật và công nghệ nên cần một khoản đầu tư vốn lớn và dài hạn. Về cơ

bản, cơ sở vật chất kỹ thuật (mặt bằng, diện tích xây dựng; nhà xưởng, bãi đỗ

xe; thiết bị kiểm định; dụng cụ kiểm tra trong dây chuyền kiểm định; thiết bị

thông tin, lưu trữ và truyền số liệu; các thiết bị phụ trợ khác và chi phí nguồn

nhân lực) đối với một Trung tâm đăng kiểm xe cơ giới phải bảo đảm thực hiện

theo đúng quy định tại Thông tư số 11/2009/TT-BGTVT ngày 24 tháng 6 năm

2009 của Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải.

Loại dây chuyền kiểm định

Diện tích tối thiểu của xưởng kiểm tra có một dây chuyền (m)

Kích thước tối thiểu lắp đặt dây chuyền dài x rộng (m)

180

30 x 6

264

40 x 6,6

Dây chuyền kiểm định xe có tải trọng trục đến 2.000 kg Dây chuyền kiểm định xe có tải trọng trục đến 13.000 kg

Bảng 3.2: Quy định diện tích tối thiểu của trung tâm đăng kiểm xe cơ giới

Nguồn: Thông tư 11/2009/TT-BGTVT ngày 24/6/2009 của Bộ GTVT

Một trong những yếu tố cơ bản có ảnh hưởng mạnh mẽ tới chất lượng

công tác kiểm định là mặt bằng của đơn vị kiểm định. Theo quy định tại Thông

tư 11/2009/TT-BGTVT ngày 24 tháng 6 năm 2009 của Bộ trưởng Bộ Giao

thông vận tải, địa điểm xây dựng Trung tâm phải phù hợp với quy hoạch, có

đường giao thông thuận tiện cho phương tiện giao thông cơ giới đường bộ ra,

vào kiểm định và bảo đảm về vệ sinh môi trường.

77

Diện tích mặt bằng của Trung tâm đăng kiểm cần đáp ứng các yêu cầu

tiêu chuẩn bao gồm nhà kiểm định, sân bãi đỗ xe chờ đăng kiểm, văn phòng,

nhà chờ, đường đi lại,… Như vậy cần có mặt bằng tương đối rộng để xây dựng

một trung tâm mới.

Diện tích bãi đỗ xe và đường ra, vào kiểm định của Trung tâm cần có

một dây chuyền kiểm định tối thiểu bằng 5,5 lần diện tích tối thiểu của xưởng

kiểm tra tương ứng. Trường hợp Trung tâm có nhiều dây chuyền kiểm định thì

kể từ dây chuyền thứ hai trở đi, diện tích bãi đỗ xe và đường ra vào phải tăng

thêm 1,5 lần so với diện tích tương ứng của dây chuyền đầu tiên.

Thực tế các Trung tâm kiểm định trên cả nước cho thấy nhiều đơn vị

đăng kiểm khi không đảm bảo được đầy đủ các tiêu chí về mặt bằng sẽ dẫn tới

nhiều bất cập trong hoạt động và làm giảm chất lượng đăng kiểm. Do diện tích

mặt bằng của trung tâm nhỏ hẹp nên việc di chuyển của các phương tiện trong

sân bãi rất khó khăn, xe chờ kiểm định đỗ cả ngoài đường giao thông gây cản

trở giao thông; nhà kiểm định có chiều dài quá ngắn dẫn tới việc bố trí nhiều

công đoạn kiểm định tại một vị trí làm giảm năng suất và chất lượng kiểm

định; phòng chờ kiểm định còn chật chội, gây khó khăn cho chủ phương tiện

đến kiểm định [34]. Trong điều kiện của Ninh Thuận, việc triển khai trung tâm

đăng kiểm thứ hai cần phải tính toán đến mặt bằng và cần có sự hỗ trợ mạnh

mẽ của chính quyền tỉnh trong việc cho thuê đất và hỗ trợ giải phóng mặt bằng.

Theo tính toán của Cục Đăng kiểm Việt Nam, kinh phí để triển khai đầu

tư mới một dây chuyền kiểm định xe cơ giới hết khoảng 2,5-3 tỷ đồng và đầu

tư xây dựng nhà xưởng, bãi đỗ xe, nhà văn phòng và các trang thiết bị khác

khoảng 2,3 tỷ đồng/trung tâm (chưa kể mặt bằng) [24]. Những chi phí ban đầu

về xây dựng và lắp đặt trang thiết bị hết khoảng 3 tỷ đồng cho một trung tâm

với 2 dây chuyền kiểm định, các chi phí khác như lập dự án, giao dịch làm thủ

tục, mua sắm thiết bị văn phòng và thiết bị ngọai vi khoảng 700 triệu

78

đồng.]Như vậy, tổng vốn đầu tư cho một trung tâm đăng kiểm với hai dây

chuyền đăng kiểm sẽ vào khoảng 8-9 tỷ đồng (chưa tính chi phí vận hành).

Chi phí hoạt động cho một trung tâm đăng kiểm với 2 dây chuyền đăng

kiểm hàng năm vào khoảng 1,5 tỷ đồng bao gồm thuế, lương và những khoản

có tính chất lương, bảo hiểm, mua sắm thiết bị máy móc lẻ, chi phí phục vụ

kiểm định, đầu tư xây dựng cơ bản, sửa chữa tài sản nhà xưởng, khen

thưởng,…, ngoài ra còn có chi phí khấu hao tài sản cố định và trả lãi ngân

hàng,…Như vậy, tổng chi phí trong năm của một trung tâm kiểm định vào

khoảng 2,8-3 tỷ đồng [24, tr.156].

Với kinh phí như vậy, chờ đợi nguồn đầu tư từ ngân sách nhà nước (cả

nguồn từ trung ương và của tỉnh) trong bối cảnh ngân sách hiện nay là rất khó

khăn. Tuy nhiên, việc huy động vốn từ khu vực tư nhân có thể thực hiện được

do trên địa bàn tỉnh có khá nhiều doanh nghiệp lớn mong muốn đầu tư.

3.2.5. Tăng cường quản lý nhà nước đối với các trung tâm đăng kiểm

xã hội hóa

Xây dựng chiến lược và các chính sách, cơ chế về cung ứng dịch vụ

đăng kiểm xe cơ giới đường bộ.

Phân cấp quản lý việc cung ứng dịch vụ đăng kiểm xe cơ giới đường bộ

Thực hiện chỉ đạo, điều hành và kiểm tra, giám sát hoạt động cung ứng

dịch vụ đăng kiểm xe cơ giới đường bộ nhằm bảo đảm mục tiêu của Nhà nước

Tạo lập môi trường, cơ chế phản hồi của khách hàng về chất lượng và

giá thành kiểm định xe cơ giới trung tâm đăng kiểm tư nhân.

Ban hành các cơ chế khuyến khích các nhà cung ứng cải thiện, nâng cao

chất lượng dịch vụ.

Xác định ranh giới giữa khu vực công và khu vực tư trong cung ứng dịch

vụ công.

Quản lý chất lượng và phí dịch vụ.

79

3.3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ

3.3.1. Đối với Chính phủ

Sớm phê duyệt danh mục, phương án chuyển đổi đơn vị sự nghiệp công

lập trực thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thành

công ty cổ phần để làm cơ sở cho các địa phương triển khai xã hội hóa công tác

đăng kiểm xe cơ giới đường bộ bảo đảm thống nhất.

3.3.1. Đối với Bộ Giao thông vận tải và Cục Đăng kiểm Việt Nam

- Nhanh chóng rà soát và hoàn thiện khung pháp lý cho việc xã hội hóa

kiểm định xe cơ giới; chuyển các trung tâm đăng kiểm xe cơ giới hiện nay

đang thuộc Cục và cả các trung tâm thuộc các Sở Giao thông vận tải sang mô

hình xã hội hóa nhằm tách biệt hoạt động quản lý nhà nước đối với đăng kiểm

(của Cục Đăng kiểm Việt Nam và các Sở Giao thông vận tải tại các tỉnh) và

công tác đăng kiểm (hoạt động cung cấp dịch vụ của các Trung tâm đăng

kiểm). Tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh giữa các trung tâm đăng kiểm.

Muốn đảm bảo chất lượng chất lượng dịch vụ công đồng thời mở rộng

chuyển giao việc cung ứng dịch vụ cho khu vực tư nhân, Nhà nước cần phải

có cơ chế thích hợp. Trước hết hoàn thiện pháp luật một cách đồng bộ về bộ

máy nhà nước, trao thẩm quyền cụ thể cho từng loại cơ quan thực hiện quản

lý và cung ứng dịch vụ công. Đặt ra chế tài xử lý vi phạm cùng với cơ chế

bảo đảm thực hiện các chế tài đó khi có hành vi vi phạm. Đồng thời, nâng cao

vai trò của Tòa Hành chính trong việc xét xử các quyết định hành chính, hành

vi công vụ.

Việc chuyển đổi các cơ sở cung cấp dịch vụ công lập như các Trung tâm

đăng kiểm do Cục Đăng kiểm hay Sở Giao thông vận tải tỉnh quản lý sang hoạt

động theo cơ chế sự nghiệp tự chủ, tự hạch toán, tự chịu trách nhiệm cũng phải

có quy định cụ thể, trong đó xác định rõ về chức năng, nhiệm vụ, phạm vi tự

80

chịu trách nhiệm của những đơn vị này. Làm rõ cơ chế tài chính để các cơ quan

quản lý nhà nước có thể kiểm soát và can thiệp khi cần thiết. Quy định rõ việc

Nhà nước sẽ can thiệp khi có những thay đổi khách quan như thay đổi mức phí,

khi giá dịch vụ cao hơn mặt bằng chung hoặc khi thực hiện chính sách xã hội,…

- Sửa đổi quy định về phí kiểm định theo hướng tăng phí kiểm định cho

phù hợp với điều kiện thực tế. Việc quy định phí đăng kiểm xe cơ giới quá thấp

hiện nay (240.000đ/xe ô tô cá nhân 5 chỗ ngồi) khiến cho khả năng lợi nhuận

của các trung tâm đăng kiểm hầu như không có nếu không nói là sẽ thua lỗ và

vì vậy khó có thể thu hút được các nhà đầu tư tư nhân. Như vậy, không nên

khống chế trần phí đăng kiểm. Có thể cho phép các trung tâm kiểm định xe cơ

giới được xây dựng theo hình thức xã hội hóa áp dụng cơ chế phí mềm dẻo.

Tuy nhiên, để tránh tình trạng cạnh tranh không lành mạnh dẫn tới việc hạ hoặc

tăng giá thành đăng kiểm một cách tùy tiện, cần tăng cường sự kiểm soát về

chất lượng từ phía Sở Giao thông vận tải đối với công tác đăng kiểm, nhất là

với Trung tâm được tổ chức theo hình thức xã hội hóa.

- Hỗ trợ các trung tâm mới thành lập trong việc đào tạo nguồn nhân lực

để đảm bảo chất lượng nhân lực đáp ứng các yêu cầu của công tác kiểm định

theo các quy định hiện hành.

- Tăng cường kiểm soát đối với các trung tâm đăng kiểm, đặc biệt là các

trung tâm đang được xã hội hóa để đảm bảo chất lượng đăng kiểm thống nhất

trên cả nước.

3.3.2. Đối với UBND tỉnh Ninh Thuận

Trước hết UBND tỉnh cần ban hành Quy hoạch phát triển đăng kiểm trên

địa bàn tỉnh phù hợp với Quy hoạch phát triển đăng kiểm của Bộ Giao thông

vận tải làm căn cứ để triển khai huy động các đơn vị có mong muốn tham gia

vào hoạt động này.

81

Để thu hút các doanh nghiệp và người dân tham gia hoạt động xã hội

hóa, cần có cơ chế, chính sách khuyến khích xã hội hóa cụ thể. Trước hết, để

xây dựng trung tâm đăng kiểm xe cơ giới mới, cần có sự hỗ trợ trực tiếp của

UBND tỉnh trong việc tạo điều kiện về mặt bằng (bố trí cho thuê dài hạn hoặc

cấp đất để xây dựng trung tâm; hỗ trợ giải phóng mặt bằng); hỗ trợ việc vay

vốn; chuẩn y về việc bổ sung biên chế cho trung tâm mới nếu áp dụng mô hình

doanh nghiệp đầu tư vốn xây dựng cơ sở vật chất và Nhà nước chịu trách

nhiệm về tổ chức và bố trí nhân sự,…

3.3.3. Đối với Sở Giao thông vận tải Ninh Thuận

Là cơ quan trực tiếp thực hiện việc quản lý nhà nước đối với Trung tâm

đăng kiểm trên địa bàn tỉnh, Sở Giao thông vận tải phải trực tiếp việc kiểm soát

việc tuân thủ pháp luật về đăng kiểm đối với trung tâm đăng kiểm mới. Cần

xây dựng cơ chế phối hợp cụ thể và mức độ kiểm soát giữa Cục Đăng kiểm

Việt Nam, Sở Giao thông vận tải và Trung tâm đăng kiểm.

Thực hiện việc hỗ trợ đào tạo, đào tạo lại và sát hạch hàng năm đối với

các đăng kiểm viên.

82

TIỂU KẾT CHƯƠNG 3

Cùng với sự phát triển kinh tế-xã hội ở Ninh Thuận, trong tương lai, dự

báo số lượng phương tiện cơ giới đường bộ sẽ tang trưởng nhanh chóng, kéo

theo việc tang trưởng số lượng phương tiện có nhu cầu đăng kiểm. Theo Quy

hoạch phát triển của Trung tâm đăng kiểm của Bộ Giao thông vận tải, trong

giai đoạn đến năm 2020, Ninh Thuận có 1 trung tâm đăng kiểm, đến năm 2030

sẽ có 2 trung tâm đăng kiểm với 4 dây chuyền đăng kiểm hiện đại để đảm bảo

nhu cầu đăng kiểm các phương tiện giao thông cơ giới đường bộ. Việc triển

khai một trung tâm mới để chia sẻ áp lực cho Trung tâm đăng kiểm phương

tiện cơ giới Ninh Thuận hiện nay là rất cần thiết. Tuy nhiên, vấn đề đầu tư của

nhà nước (cả ở trung ương và cấp tỉnh) cho việc xây dựng một trung tâm mới

là rất khó khăn. Chính vì vậy, triển khai một trung tâm đăng kiểm mới dưới

hình thức xã hội hóa là một yêu cầu khách quan, đáp ứng các nhu cầu đăng

kiểm thực tế. Việc triển khai một trung tâm như vậy cũng phù hợp với xu

hướng xã hội hóa công tác đăng kiểm mà Bộ Giao thông vận tải và Cục Đăng

kiểm Việt Nam đã và đang triển khai một cách tích cực hiện nay.

Để có thể triển khai xây dựng trung tâm đăng kiểm dưới hình thức xã hội

hóa trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận đòi hỏi sự ủng hộ mạnh mẽ của Bộ Giao

thông vận tải (của Cục Đăng kiểm Việt Nam), chính quyền tỉnh Ninh Thuận,

Sở Giao thông vận tải Ninh Thuận cũng như sự quan tâm của các doanh nghiệp

lớn trong tỉnh.

83

KẾT LUẬN

Đăng kiểm phương tiện cơ giới đường bộ là một hoạt động quan trọng

nhằm nâng cao chất lượng phương tiện cơ giới đường bộ, bảo đảm an toàn kỹ

thuật cho các phương tiện giao thông và bảo vệ môi trường. Chính vì vậy, công

tác đăng kiểm phương tiện cơ giới đường bộ cần được thực hiện dưới sự giám

sát trực tiếp của các cơ quan nhà nước.

Trong những năm qua, công tác đăng kiểm phương tiện cơ giới đã đạt

được nhiều thành công nhất định, góp phần quan trọng vào việc tăng cường

chất lượng kiểm định, giảm thời gian, chi phí và phiền hà cho các chủ phương

tiện cần kiểm định. Một trong những nỗ lực nhằm nâng cao chất lượng kiểm

định, giảm gánh nặng của Nhà nước là xã hội hóa hoạt động kiểm định xe cơ

giới đã được Bộ Giao thông vận tải tiến hành thí điểm từ năm 2010 và cho tới

nay đã được chứng minh là mang lại những hiệu quả thiết thực. Chính vì vậy,

tăng cường xã hội hóa theo hướng tách biệt công tác đăng kiểm với hoạt động

quản lý nhà nước về đăng kiểm sẽ được tiếp tục triển khai trong thời gian tới.

Ninh Thuận là một tỉnh có tốc độ phát triển kinh tế-xã hội khá nhanh và

bền vững. Tỉnh lại nằm trên trục quốc lộ hành lang Bắc-Nam, là một đầu mối

giao thông quan trọng, do đó, số lượng các phương tiện đăng kiểm sẽ gia tăng

nhanh chóng trong thời gian tới. trong khi đó, công tác đăng kiểm hiện nay do

một trung tâm đăng kiểm phương tiện giao thông duy nhất triển khai nên việc

đăng kiểm trở nên quá tải, gây nên sự chờ đợi, làm giảm mức độ hài lòng của

lái xe và chủ phương tiện khi tới đăng kiểm. Đây cũng là nguyên nhân chủ yếu

làm phát sinh các tiêu cực trong công tác đăng kiểm. Chính vì vậy, việc xã hội

hóa công tác đăng kiểm ở Ninh Thuận là một yêu cầu cấp bách và khách quan.

Việc xã hội hóa công tác đăng kiểm ở Ninh Thuận trong điều kiện hiện

nay có ý nghĩa quan trọng đối với công tác đăng kiểm trên địa bàn tỉnh, góp

phần quan trọng vào việc giảm tải cho trung tâm đăng kiểm hiện có, đồng thời

84

tạo nên sự cạnh tranh lành mạnh góp phần vào việc nâng cao chất lượng đăng

kiểm trên địa bàn tỉnh. Vì vậy, cần phải nghiên cứu cụ thể để triển khai xã hội

hóa trung tâm này trong tương lai gần.

85

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Lâm Anh (2012), Xã hội hóa đăng kiểm tạo thuận lợi cho chủ phương tiện,

website của Báo Giao thông.

2. Đặng Khắc Ánh (2012), Hợp tác công -tư và vận dụng vào cải cách khu

vực công ở Việt Nam, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở trọng điểm của Học

viện Hành chính.

3. Đặng Khắc Ánh (2012), “Nâng cao chất lượng xã hội hóa dịch vụ công”,

Tạp chí Giáo dục Lý luận, số 190, tr.13-16.

4. Bộ Giao thông vận tải (2012), Quyết định 1873/QĐ-BGTVT ngày 08

tháng 8 năm 2012 phê duyệt “Đề án nâng cao chất lượng công tác đăng kiểm

phương tiện giao thông cơ giới đường bộ và phương tiện thủy nội địa góp phần

giảm thiểu tai nạn giao thông và ô nhiễm môi trường”.

5. Bộ Giao thông vận tải (2013), Quyết định 862/QĐ-BGTVT ngày 05

tháng 4 năm 2013 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức

của Cục Đăng kiểm Việt Nam.

6. Bộ Giao thông vận tải (2014), Quyết định số 3771/QĐ-BGTVT ngày 06

tháng 10 năm 2014 phê duyệt quy hoạch tổng thể các trung tâm đăng kiểm và

dây chuyền kiểm định xe cơ giới đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030.

7. Bộ Giao thông vận tải (2015), Quyết định 4202/QĐ-BGTVT ngày 25

tháng 11 năm 2015 phê duyệt “Đề án tách chức năng quản lý nhà nước với

cung cấp dịch vụ công trong lĩnh vực đăng kiểm”.

8. Bộ Giao thông vận tải (2013), Thông tư số 59/2013/TT-BGTVT ngày 30

tháng 12 năm 2013 quy định về việc thành lập và hoạt động của Trung tâm

Đăng kiểm xe cơ giới.

86

9. Bộ Giao thông vận tải (2012), Thông tư số 56/2012/TT-BGTVT ngày 27

tháng 12 năm 2012 quy định về kiểm định an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường

phương tiện giao thông cơ giới đường bộ.

10. Bộ Giao thông vận tải (2015), Thông tư số 70/2015/TT-BGTVT ngày 09

tháng 11 năm 2015 quy định về kiểm tra an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường

phương tiện giao thông cơ giới đường bộ.

11. Bộ Nội vụ, Bộ Giao thông vận tải (2015), Thông tư liên tịch số

42/2015/TTLT-BNV-BGTVT ngày 14 tháng 8 năm 2015 hướng dẫn chức năng,

nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của cơ quan chuyên môn về giao thông

vận tải thuộc UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và UBND huyện,

quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh.

12. Chính phủ (2014), Nghị định số 24/2014/NĐ-CP ngày 04 tháng 4 năm

2014 quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh,

thành phố trực thuộc Trung ương.

13. Chính phủ (2015), Nghị định 63/2016/NĐ-CP ngày 01 tháng 7 năm 2016

quy định về điều kiện kinh doanh dịch vụ đăng kiểm xe cơ giới.

14. Chính phủ (2011), Nghị quyết số 30c/NQ-CP ngày 08 tháng 11 năm

2011 ban hành Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn

2011-2020.

15. Chính phủ (2013), Quyết định số 356/2013/QĐ-TTg ngày 25 tháng 02

năm 2013 phê duyệt điều chỉnh quy hoạch phát triển giao thông vận tải đường

bộ đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030.

16. Chính phủ (2015), Quyết định số 22/2015/QĐ-TTg ngày 22 tháng 6 năm

2015 về việc chuyển đơn vị sự nghiệp công lập thành công ty cổ phần.

17. Cục Đăng kiểm Việt Nam (2016), Báo cáo tổng kết công tác đăng kiểm

xe cơ giới đường bộ năm 2015.

87

18. Cục Đăng kiểm Việt Nam (2014), Tổng hợp số liệu về phương tiện giao

thông trong cả nước. Hà Nội.

19. Cục thống kê Ninh Thuận (2016), Niêm giám thống kê tóm tắt 2016.

20. Đảng bộ tỉnh Ninh Thuận (2015), Báo cáo chính trị tại Đại hội tỉnh Đảng

bộ Ninh Thuận lần thứ XIII.

21. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ VIII. NXB. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

22. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ

IX, X, XI của Đảng.

23. Quỳnh Hoa (2013), Tìm mô hình cho hoạt động đăng kiểm xe cơ giới,

website của Chính phủ.

24. Nguyễn Văn Hùng (2005), Về dự án đầu tư xây dựng Trung tâm đăng

kiểm xe cơ giới, in trong: Cục Đăng kiểm Việt Nam (2005): Tuyển tập các báo

cáo khoa học tại Hội nghị Khoa học-Công nghệ về công tác đăng kiểm xe cơ

giới. Quảng Ninh, 2005, tr.153-162.

25. Bùi Huy Khiên (Chủ biên) (2013), Quản lý công (sách chuyên khảo).

NXB. Chính trị Hành chính, Hà Nội.

26. Đoàn Duy Khương (2012), “Hợp tác công-tư trong phát triển hạ tầng

Giao thông vận tải”, Tạp chí Cộng sản điện tử.

27. Đinh Mai Lan (2012), “Xã hội hóa và chất lượng cung ứng dịch vụ

công”, Tạp chí nghiên cứu lập pháp.

28. Nguyên Lê (2012), Đi tìm chữ “tư“ trong hình thức đầu tư đối tác

công-tư (http://ashui.com).

29. Bích Liên (2013), “Xã hội hóa đăng kiểm xe cơ giới“- Mâu thuẫn giữa

hoàn vốn và chất lượng kiểm định.

88

30. Huy Lộc (2014), Nâng chuẩn đăng kiểm viên xe cơ giới, Báo Giao

thông vận tải, ngày 28 tháng 10 năm 2014.

31. Bạch Mai (2012), Sử dụng ODA có hiệu quả góp phần hạn chế nợ công,

in trong: Hồ sơ sự kiện, số 228 (tháng 7/2012), tr.22-23.

32. Lê Chi Mai (2003), Cải cách dịch vụ công ở Việt Nam. NXB. Chính trị

Quốc gia, Hà Nội.

33. Phạm Ngọc Nam (2005), Công tác quản lý chất lượng kiểm định xe cơ

giới và biện pháp chống tiêu cực trong kiểm định, in trong: Cục Đăng kiểm Việt

Nam (2005): Tuyển tập các báo cáo khoa học tại Hội nghị Khoa học-Công nghệ

về công tác đăng kiểm xe cơ giới. Quảng Ninh, 2005, tr.137-139.

34. Hoàng Ngân (2012), “Nâng cao chất lượng công tác đăng kiểm”, Tạp

chí Giao thông vận tải.

35. Ngân hàng phát triển châu Á, Phục vụ và duy trì: Cải thiện hành chính

công trong một thế giới cạnh tranh, NXB. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

36. Minh Phúc (2015), Xã hội hóa đăng kiểm xe cơ giới, Báo Nhân dân điện

tử ngày 18 tháng 6 năm 2015.

37. Nguyễn Cúc Phương (2011), Hợp tác công tư: Cần đánh giá lại quan

hệ giữa Nhà nước với người dân và doanh nghiệp ngày 17 tháng 12 năm 2011,

(http://dddn.com.vn).

38. Quốc hội (2008), Luật Giao thông đường bộ số 23/2008/QH12 ngày

13/11/2008.

39. Sở Giao thông vận tải Ninh Thuận (2010), Quyết định số 255/QĐ-

SGTVT ngày 26 tháng 5 năm 2010 về việc quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền

hạn và cơ cấu tố chức của Trung tâm đăng kiểm xe cơ giới đường bộ Ninh

Thuận.

89

40. Chu Văn Thành (Chủ biên) (2004), Dịch vụ công và xã hội hóa dịch vụ

công-Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

41. Phan Trang (2015), Xã hội hóa đăng kiểm: sẽ loại trừ được tiêu cực,

Báo Chính phủ điện tử ngày 29 tháng 5 năm 2015.

42. Trung tâm đăng kiểm xe cơ giới đường bộ Ninh Thuận (2016), Báo cáo

kết quả đăng kiểm xe cơ giới đường bộ năm 2011-2016.

43. Xích Tùng (2014), Xã hội hóa công tác đăng kiểm xe cơ giới, Báo Nhân

dân ngày 17 tháng 01 năm 2014.

44. Vũ Huy Từ (Chủ biên) (1998), Quản lý khu vực công, NXB. Khoa học

và Kỹ thuật, Hà Nội.

45. UBND tỉnh Ninh Thuận (2017), Báo cáo phát triển kinh tế - xã hội 25

năm tái lập tỉnh.

46. Hồng Xiêm (2015), Hoàn thành cổ phần hóa các Trung tâm Đăng kiểm xe

cơ giới trong năm 2015, Báo Giao thông ngày 22 tháng 6 năm 2015.

47. WB (2009), Báo cáo Phát triển Việt Nam.

48. WB (1998), Nhà nước trong một thế giới đang chuyển đổi, NXB. Chính

trị Quốc gia, Hà Nội.

49. Website Báo Công an nhân dân http://cand.com.vn.

50. Website Báo Hải quan http://baohaiquan.vn/Pages/Dong-Nai-Dinh-chi-

hoat- dong- Trung-tam-dang-kiem-xe-co-gioi-6004D.aspx.

51. Website Báo Ninh Thuận http://baoninhthuan.com.vn.

52. Website Báo Tiền phong http://tienphongonline.com.vn.

53. Website Cổng thông tin Bộ Giao thông vận tải http://www.mt.gov.vn

/vn/Pages /chitiettin.aspx?IDNews=36148.

54. Website Cổng thông tin Cục Đăng kiểm Việt Nam http://vr.mt.gov.vn.

90

91

PHỤ LỤC 1

DANH SÁCH CÁC TRUNG TÂM ĐĂNG KIỂM XE CƠ GIỚI ĐƯỜNG BỘ

Địa chỉ

TT Mã số các Trung tâm 11-01S - Cao Bằng 1 12-01D - Lạng Sơn 2 14-01D - Quãng Ninh 3 14-02D - Quảng Ninh 4 14-03D - Quảng Ninh 5 15-01V - Hải Phòng 6 15-03D - Hải Phòng 7 15-02S - Hải Phòng 8 17-01S - Thái Bình 9 17-02D - Thái Bình 10 18-01S - Ninh Thuận 11 18-02S - Ninh Thuận 12 18-02D - Ninh Thuận 13 18-03D - Ninh Thuận 14 19-01V - Phú Thọ 15 20-01S - Thái Nguyên 16 20-02S - Thái Nguyên 17 20-03D - Thái Nguyên 18 21-01S - Yên Bái 19 22-01S - Tuyên Quang 20 23-01S - Hà Giang 21 24-01D - Lào Cai 22 25-01S - Lai Châu 23 26-01S - Sơn La 24 26-01D - Sơn La 25 27-01S - Điện Biên 26 28-01S - Hòa Bình 27 29-01S - Hà Nội 28 29-02S - Hà Nội 29 29-03S - Hà Nội 30 29-01V - Hà Nội 31 29-02V - Hà Nội 32 29-03V - Hà Nội 33 29-04V - Hà Nội 34 29-05V - Hà Nội 35 29-06V - Hà Nội 36 29-07D - Hà Nội 37 29-08D - Hà Nội 38 29-09D - Hà Nội 39 29-10D - Hà Nội 40

Phường Sông Hiến, TP Cao Bằng, Cao Bằng Phường Vĩnh Trại, TP Lạng Sơn, Lạng Sơn Phường Hà Phong, TP Hạ Long, Quảng Ninh Phường Thanh Sơn, TX Uông Bí, Quảng Ninh Xã Hải Đông, TP Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh Hùng Vương, quận Hồng Bàng, TP Hải Phòng Xã Kênh Giang, Thủy Nguyên, TP Hải Phòng Đông Hải 2, quận Hải An, TP Hải Phòng Trần Hưng Đạo, TP Thái Bình, tỉnh Thái Bình Đông Hưng, TP Thái Bình, tỉnh Thái Bình Xã Mỹ Tân, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Ninh Thuận Quang Trung, TP. Ninh Thuận, tỉnh Ninh Thuận Xã Nghĩa An, Nam Trực, tỉnh Ninh Thuận Xã Hải Thanh, huyện Hải Hậu, tỉnh Ninh Thuận Minh Phương, TP Việt Trì, tỉnh Phú Thọ Tân Lập, TP Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên Xã Cao Ngạn, TP Thái Nguyên, Thái Nguyên Phường Cải Đan, TP Sông Công, Thái Nguyên Nguyễn Thái Học, TP Yên Bái, tỉnh Yên Bái Xã An Tường, TP Tuyên Quang, Tuyên Quang Nguyễn Trãi, TP Hà Giang, tỉnh Hà Giang Phường Bắc Cường, TP Lào Cai, tỉnh Lào Cai Phường Tân Phong, TX Lai Châu, Lai Châu Nguyễn Lương Bằng, TP Sơn La, tỉnh Sơn La Phường Chiềng Sinh, TP. Sơn La, tỉnh Sơn La Thanh Bình, TP Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên Km 71, quốc lộ 6, TP Hòa Bình, Hòa Bình Xuân Đỉnh, quận Bắc Từ Liêm, TP Hà Nội Thanh Xuân Trung, Thanh Xuân, TP Hà Nội Quận Nam, Từ Liêm, TP Hà Nội Xã Liên Ninh, huyện Thanh Trì, TP Hà Nội Xã Phú Thị, huyện Gia Lâm, TP Hà Nội Láng Thượng, quận Đống Đa, TP Hà Nội Thị trấn Quang Minh, Mê Linh, TP Hà Nội Phường Phương Mai, Đống Đa, TP Hà Nội Xã Tam Hiệp, huyện Thanh Trì, TP Hà Nội Xã Mai Lâm, huyện Đông Anh, TP Hà Nội Xã Kim Chung, huyện Hoài Đức, TP Hà Nội Phường Lĩnh Nam, Hoàng Mai, TP Hà Nội Hoàng Văn Thụ, Hoàng Mai, TP Hà Nội

1

29-11D - Hà Nội 33-01S - Hà Nội 33-02S - Hà Nội 34-01S - Hải Dương 34-02D - Hải Dương 35-01S - Ninh Bình 35-02D - Ninh Bình 36-01S - Thanh Hóa 36-02S - Thanh Hóa 36-03D - Thanh Hóa 37-01S - Nghệ An 37-02S - Nghệ An 37-03D - Nghệ An 38-01S - Hà Tĩnh 43-01S - Đà Nẵng 43-02S - Đà Nẵng 47-01D - Đắk Lắk 47-02D - Đắk Lắk 47-03D - Đắk Lắk 47-04D - Đắk Lắk 48-01S - Đắk Nông 49-01S - Lâm Đồng 49-02S - Lâm Đồng 50-01S - TP.HCM 50-02S - TP.HCM 50-03S - TP.HCM 50-03V - TP.HCM 50-04V - TP.HCM 50-05V - TP.HCM 50-06V - TP.HCM 50-07V - TP.HCM 50-08D - TP.HCM 50-10D - TP.HCM 60-01S - Đồng Nai 60-02S - Đồng Nai 60-03S - Đồng Nai 60-04D - Đồng Nai 60-05D - Đồng Nai 60-06D - Đồng Nai 61-01S - Bình Dương 61-02S - Bình Dương 61-03D - Bình Dương 61-04D - Bình Dương 61-06D - Bình Dương 62-01S - Long An

41 42 43 44 45 46 47 48 49 50 51 52 53 54 55 56 57 58 59 60 61 62 63 64 65 66 67 68 69 70 71 72 73 74 75 76 77 78 79 80 81 82 83 84 85

Xã Đông Sơn, huyện Chương Mỹ, TP Hà Nội Phường Yên Nghĩa , quận Hà Đông, TP Hà Nội Quang Trung, thị xã Sơn Tây, TP Hà Nội Việt Hòa, TP Hải Dương, tỉnh Hải Dương TX Chí Linh, tp. Hải Dương, tỉnh Hải Dương Ninh Phong, TP Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình Bích Đào, TP Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình Đông Thọ, TP Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa Bắc Sơn, TX. Bỉm Sơn, tỉnh Thanh Hóa Quảng Thành, TP Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa Phan Bội Châu, TP Vinh, tỉnh Nghệ An Xã Đông Hiếu, thị xã Thái Hòa, tỉnh Nghệ An Xã Nghi Thạch, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An Xã Thạch Đài, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh. Hòa Minh, quận Liên Chiểu, TP Đà Nẵng. Xã Hòa Châu, huyện Hòa Vang, TP Đà Nẵng Phường Tân An, TP Buôn Mê Thuột, Đắc Lắc Xã Hòa Phú, TP Buôn Mê Thuột, tỉnh Đắk Lắk Xã EaĐar, huyện Eakar, tỉnh Đắc Lắc Thành Nhất, TP. Buôn Mê Thuột, Đắk Lắk Nghĩa Tân, thị xã Gia Nghĩa, tỉnh Đắk Nông Phường 3, TP Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng Phường 2, thị xã Bảo Lộc, tỉnh Lâm Đồng Phường An Lạc A, quận Bình Tân, TP.HCM Phường 5, quận 11, TP.HCM Hiệp Bình Chánh, quận Thủ Đức, TP.HCM Phường Linh Trung, quận Thủ Đức, TP.HCM Phường Long Thạch Mỹ, quận 9, TP.HCM Phường 2, quận Tân Bình, TP.HCM Phường Tân Thuận Tây, quận 7, TP.HCM Bình Hưng Hòa B, quận Bình Tân, TP.HCM Phường Thới An, quận 12, TP.HCM KCN Tân Tạo, quận Bình Tân, TP.HCM Phường An Bình, TP Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai Xuân Bình, thị xã Long Khánh, tỉnh Đồng Nai Xã Ngọc Định, huyện Định Quán, Đồng Nai KCN Biên Hòa 2, TP Biên Hòa, Đồng Nai Xã Phước Tân, TP. Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai Xã An Phước, huyện Long Thành, Đồng Nai Hiệp Thành, TP Thủ Dầu Một, Bình Dương Bình An, thị trấn Dĩ An, tỉnh Bình Dương Định Hòa, TP Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương An Thạnh, thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương Tân Bình, TX. Dĩ An, tỉnh Bình Dương Phường 5, TP Tân An, tỉnh Long An

2

62-02D - Long An 63-01S - Tiền Giang 63-02D - Tiền Giang 64-01V - Vĩnh Long 65-01S - Cần Thơ 65-02D - Cần Thơ 66-01S - Đồng Tháp 67-01S - An Giang 67-02S - An Giang 68-01S - Kiên Giang 69-01V - Cà Mau 70-01S - Tây Ninh 71-01S - Bến tre 72-01S - Bà Rịa–Vũng Tàu 72-02D -Bà Rịa–Vũng Tàu 73-01S - Quảng Bình 73-02D - Quảng Bình 73-03D - Quảng Bình 74-01S - Quảng Trị 74-01S - Quảng Trị 74-02D - Quảng Trị 75-01S - Huế 75-02S - Huế 76-01S - Quãng Ngãi 76-02D - Quãng Ngãi 77-01S - Bình Định 77-02S - Bình Định 78-01S - Phú Yên 79-01S - Khánh Hòa 79-02S - Khánh Hòa 81-02D - Gia Lai 81-03D - Gia Lai 81-04D - Gia Lai 82-01S - Kon Tum 83-01V - Sóc Trăng 83-02D - Sóc Trăng 84-01V - Trà Vinh 85-01S - Ninh Thuận 86-01S - Bình Thuận 88-01S - Vĩnh Phúc 88-02D - Vĩnh Phúc 89-01S - Hưng Yên 89-02S - Hưng Yên 90-01S - Hà Nam 92-01S - Quảng Nam

Thị trấn Bến Lức, huyện Bến Lức, Long An Xã Thân Cửu Nghĩa, Châu Thành, Tiền Giang Xã Tam hiệp, Châu Thành, tỉnh Tiền Giang Phường 8, TP. Vĩnh Long, tỉnh Vĩnh Long Hưng Thạnh, quận Cái Răng, TP Cần Thơ Long Hòa, quận Bình Thủy, TP Cần Thơ Xã Mỹ Phú, TP Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp Mỹ Thạnh, TP Long Xuyên, tỉnh An Giang Châu Phú A, thị xã Châu Đốc, tỉnh An Giang Xã Vĩnh Hòa Hiệp, Châu Thành, Kiên Giang Xã An Xuyên, Tp. Cà Mau, tỉnh Cà Mau Ninh Sơn, TP Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh Phường 7, TP Bến Tre, tỉnh Bến Tre. TP Bà Rịa -Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa –Vũng Tàu TP Bà Rịa -Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa –Vũng Tàu Phường Đồng Phú, TP Đồng Hới, Quảng Bình Xã Quảng Xuân, Quảng Trạch, Quảng Bình Xã vĩnh Ninh, huyện Quảng Ninh, Quảng Bình Lý Thường Kiệt, TP Đông Hà, tỉnh Quảng Trị Phường Đông Lương, TP Đông Hà, Quảng Trị Xã Gio Châu, huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị Điện Biên Phủ, TP Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế Hương Văn, TX Hương Trà, Thừa Thiên Huế Xã Tịnh Phong, Sơn Tịnh, tỉnh Quãng Ngãi Nghĩa Phương, Tư Nghĩa, tỉnh Quãng Ngãi Quang Trung, TP Quy Nhơn, Bình Định Xã Mỹ Châu, huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định Phường 9, TP Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên Phường Vĩnh Hòa, TP Nha Trang, Khánh Hòa Xã Cam Phú, Cam Ranh, tỉnh Khánh Hòa Xã Biển Hồ, TP Pleiku, tỉnh Gia Lai Phường Chi Lăng, TP Pleiku, tỉnh Gia Lai Thị trấn Đăk Pơ, huyện Đăk Pơ, tỉnh Gia Lai Huỳnh Thúc Kháng, TP Kon Tum, Kon Tum Trần Hưng Đạo, TX.Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng Xã Hồ Đắc Kiện, Châu Thành, tỉnh Sóc Trăng Phường 7, Thị xã Trà Vinh, tỉnh Trà Vinh. Thị trấn Phước Dân, Ninh Phước, Ninh Thuận Từ Văn Tư, TP Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận Phường Khai Quang, TP Vĩnh Yên, Vĩnh Phúc Xã Đạo Đức, huyện Bình Xuyên, Vĩnh Phúc Xã Dị Sử, huyện Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên Xã Bảo Khê, TP Hưng Yên, tỉnh Hưng Yên Xã Liêm Tiết, TP Phủ Lý, tỉnh Hà Nam Thị trấn Hà Nam, Thăng Bình, Quang Nam

86 87 88 89 90 91 92 93 94 95 96 97 98 99 100 101 102 103 104 105 106 107 108 109 110 111 112 113 114 115 116 117 118 119 120 121 122 123 124 125 126 127 128 129 130

3

131 132 133 134 135 136 137 138 139

93-01S - Bình Phước 94-01V - Bạc Liêu 95-01S - Hậu Giang 97-01S - Bắc Cạn 98-01S - Bắc Giang 99-01S - Bắc Ninh 99-02S - Bắc Ninh 99-03D - Bắc Ninh 99-04D - Bắc Ninh

Phường Tân Xuân, TX Đồng Xoài, Bình Phước Xã Long Thạnh, huyện Vĩnh Lợi, tỉnh Bạc Liêu Thị trấn Cái Tắc, Châu Thành A, Hậu Giang Phùng Chí Kiên, Thị xã Bắc Cạn, Bắc Cạn Xương Giang, TP Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang Phường Thị Cầu, TP Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh Xã Tam Sơn, thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh Thị trấn Phố Mới, Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh Xã Lâm Thao, huyện Lương Tài, tỉnh Bắc Ninh

4

Nguồn: Báo cáo của Cục Đăng kiểm Việt Nam năm 2016

PHỤ LỤC 2

MỨC THU PHÍ ĐĂNG KIỂM XE CƠ GIỚI ĐƯỜNG BỘ

Đơn vị tính (1.000 đồng/lượt)

Loại xe T

1 560

2 350

Xe ô tô tải có khối lượng hàng chuyên chở cho phép tham gia giao thông trên 20 tấn, xe ô tô đầu kéo có khối lượng kéo theo cho phép tham gia giao thông trên 20 tấn và các loại xe ô tô chuyên dùng Xe ô tô tải có khối lượng hàng chuyên chở cho phép tham gia giao thông trên 7 tấn đến 20 tấn, xe ô tô đầu kéo có khối lượng kéo theo cho phép tham gia giao thông đến 20 tấn và các loại máy kéo

3 Xe ô tô tải có khối lượng hàng chuyên chở cho phép 320 tham gia giao thông trên 2 tấn đến 7 tấn

4 Xe ô tô tải có khối lượng hàng chuyên chở cho phép 280

5 180

tham gia giao thông đến 2 tấn Máy kéo, xe chở hàng bốn bánh có gắn động cơ, xe chở người bốn bánh có gắn động cơ và các loại phương tiện vận chuyển tương tự 6 Rơ moóc, sơ mi rơ moóc 180

7 Xe ô tô chở người trên 40 ghế (kể cả lái xe), xe buýt 350

8 Xe ô tô chở người từ 25 đến 40 ghế (kể cả lái xe) 320

9 Xe ô tô chở người từ 10 ghế đến 24 ghế (kể cả lái xe) 280

10 Xe ô tô chở người dưới 10 chỗ ngồi, xe ô tô cứu thương 240

11 Xe ba bánh và các loại phương tiện vận chuyển tương tự 100

5

Nguồn: Thông tư số 238/2016/TT-BTC của Bộ trưởng Bộ Tài chính