BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ
…………/………… ……/……
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
NGUYỄN HỮU THẾ
XÃ HỘI HÓA
CÔNG TÁC ĐĂNG KIỂM XE CƠ GIỚI ĐƯỜNG BỘ
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH NINH THUẬN
LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG
TP. HỒ CHÍ MINH - NĂM 2017
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ
…………/………… ……/……
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
NGUYỄN HỮU THẾ
XÃ HỘI HÓA
CÔNG TÁC ĐĂNG KIỂM XE CƠ GIỚI ĐƯỜNG BỘ
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH NINH THUẬN
LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG
Chuyên ngành: Quản lý công
Mã số: 60 34 04 03
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. ĐẶNG KHẮC ÁNH
TP. HỒ CHÍ MINH - NĂM 2017
Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ “Xã hội hóa công tác đăng kiểm xe cơ
LỜI CAM ĐOAN
giới đường bộ trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận” là kết quả sau hai năm học
tập, nghiên cứu tại Học viện theo chương trình đào tạo Thạc sĩ chuyên
ngành Quản lý công.
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi và được
sự hướng dẫn khoa học của PGS.TS.Đặng Khắc Ánh. Các nội dung
nghiên cứu, kết quả trong đề tài này là trung thực và chưa công bố dưới
bất kỳ hình thức nào trước đây. Những số liệu trong các bảng biểu phục
vụ cho việc phân tích, nhận xét, đánh giá được chính tác giả thu thập từ
các nguồn khác nhau có ghi rõ trong phần tài liệu tham khảo. Ngoài ra,
trong luận văn còn sử dụng một số nhận xét, đánh giá cũng như số liệu
của các tác giả khác, cơ quan tổ chức khác đều có trích dẫn và chú thích
nguồn gốc. Nếu phát hiện có bất kỳ sự gian lận nào tôi xin hoàn toàn chịu
Tp. Hồ Chí Minh, tháng 7 năm 2017
trách nhiệm về nội dung luận văn của mình.
Tác giả
Nguyễn Hữu Thế
Trong thời gian hai năm học tập và nghiên cứu chương trình đào tạo
LỜI CÁM ƠN
Thạc sĩ chuyên ngành Quản lý công tại giảng đường Học viện Hành chính
Quốc gia cơ sở Thành phố Hồ Chí Minh, được sự quan tâm của lãnh đạo
Học viện, sự dạy dỗ, chỉ bảo, định hướng của quý thầy cô, tác giả đề tài đã
được trang bị những kiến thức quản lý hành chính nhà nước trên các lĩnh
vực, đó chính là những hành trang quý báu cho tác giả áp dụng vào trong
thực tiễn công tác.
Tác giả xin chân thành cảm ơn Ban Giám đốc và Quý thầy cô các
Khoa, Bộ môn của Học viện Hành chính Quốc gia đã tận tâm giảng dạy
và tạo điều kiện để tác giả hoàn thành Luận văn Thạc sĩ. Đặc biệt, tác giả
xin gửi lời cảm ơn sâu sắc nhất đến PGS.TS. Đặng Khắc Ánh đã tận tình
hướng dẫn, giúp đỡ tác giả trong suốt quá trình hoàn Luận văn.
Trân trọng cảm ơn Lãnh đạo Sở Giao thông vận tải, Trung tâm đăng
kiểm xe cơ giới đường bộ và gia đình, đồng nghiệp, bạn bè, tập thể lớp
Cao học HC20.N8 đã quan tâm, động viên, tạo điều kiện cho tác giả trong
suốt thời gian học tập và hoàn thành Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ.
Tp. Hồ Chí Minh, tháng 7 năm 2017
Trân trọng cảm ơn các thành viên trong Hội đồng khoa học.
Tác giả
Nguyễn Hữu Thế
MỤC LỤC
LỜI CÁM ƠN
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU, SƠ ĐỒ
MỞ ĐẦU .......................................................................................................................1
CHƯƠNG 1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ XÃ HỘI HÓA VÀ XÃ HỘI HÓA
CÔNG TÁC ĐĂNG KIỂM PHƯƠNG TIỆN CƠ GIỚI ĐƯỜNG BỘ ............... 12
1.1. KHÁI QUÁT VỀ ĐĂNG KIỂM PHƯƠNG TIỆN CƠ GIỚI ĐƯỜNG BỘ ....... 12
1.1.1. Phương tiện cơ giới đường bộ ....................................................................... 12
1.1.2. Đăng kiểm phương tiện cơ giới đường bộ .................................................... 13
1.1.3. Mục đích của việc đăng kiểm xe cơ giới đường bộ ...................................... 15
1.1.4. Quản lý công tác đăng kiểm xe cơ giới đường bộ hiện nay ......................... 16
1.2. XÃ HỘI HÓA CÔNG TÁC ĐĂNG KIỂM XE CƠ GIỚI ĐƯỜNG BỘ ............ 26
1.2.1. Khái niệm xã hội hóa .................................................................................... 26
1.2.2. Khái niệm và ý nghĩa của xã hội hóa công tác đăng kiểm xe cơ giới .......... 32
1.3. QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI XÃ HỘI HÓA CÔNG TÁC ĐĂNG
KIỂM XE CƠ GIỚI ĐƯỜNG BỘ .............................................................................. 41
1.4. KINH NGHIỆM XÃ HỘI HÓA CÔNG TÁC ĐĂNG KIỂM XE CƠ GIỚI
ĐƯỜNG BỘ Ở MỘT SỐ ĐỊA PHƯƠNG.................................................................. 45
1.3.1. Xã hội hóa công tác đăng kiểm xe cơ giới tại Đồng Nai ...............................45
1.3.2. Xã hội hóa công tác đăng kiểm xe cơ giới tại Nam Định ............................. 47
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1 ........................................................................................... 50
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC ĐĂNG KIỂM PHƯƠNG TIỆN
CƠ GIỚI ĐƯỜNG BỘ Ở TỈNH NINH THUẬN ................................................... 51
2.1. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ TỈNH NINH THUẬN .............................................. 51
2.2. TỔ CHỨC THỰC HIỆN ĐĂNG KIỂM XE CƠ GIỚI TẠI TỈNH NINH
THUẬN HIỆN NAY ………… ........................................................................... …..57
2.2.1. Tổ chức và hoạt động của Trung tâm đăng kiểm xe cơ giới đường bộ
tỉnh Ninh Thuận .......................................................................................................... 57
2.2.2. Kết quả đăng kiểm xe cơ giới đường bộ trên địa bàn tỉnh .............................61
2.3. ĐÁNH GIÁ CÔNG TÁC ĐĂNG KIỂM XE CƠ GIỚI ĐƯỜNG BỘ TRÊN
ĐỊA BÀN TỈNH NINH THUẬN .................................................................................62
2.3.1. Những ưu điểm ............................................................................................. 62
2.3.2. Những hạn chế còn tồn tại ............................................................................ 64
2.3.3. Nguyên nhân của các hạn chế ....................................................................... 67
2.4. THỰC TRẠNG XÃ HỘI HÓA CÔNG TÁC ĐĂNG KIỂM XE CƠ GIỚI
ĐƯỜNG BỘ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH NINH THUẬN ...............................................69
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2 ........................................................................................... 70
CHƯƠNG 3. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP TRIỂN KHAI XÃ HỘI
HÓA CÔNG TÁC ĐĂNG KIỂM XE CƠ GIỚI Ở NINH THUẬN ..................... 71
3.1. SỰ CẦN THIẾT PHẢI XÃ HỘI HÓA CÔNG TÁC ĐĂNG KIỂM XE CƠ
GIỚI TẠI NINH THUẬN ........................................................................................... 71
3.2. CÁC GIẢI PHÁP THỰC HIỆN XÃ HỘI HÓA ĐĂNG KIỂM XE CƠ GIỚI
Ở TỈNH NINH THUẬN ............................................................................................. 75
3.3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ ......................................................................................... 80
TIỂU KẾT CHƯƠNG 3 ........................................................................................... 83
KẾT LUẬN ................................................................................................................ 84
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………………........86
PHỤ LỤC
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
ATGT An toàn giao thông
ATKT An toàn kỹ thuật
Bộ CA Bộ Công an
Bộ GTVT Bộ Giao thông vận tải
BVMT Bảo vệ môi trường
CQNN Cơ quan nhà nước
CB Cán bộ
CSGT Cảnh sát giao thông
DCKĐ Dây chuyền kiểm định
ĐKV Đăng kiểm viên
ĐKVN Đăng kiểm Việt Nam
GDP Tổng sản phẩm quốc nội
GTVT Giao thông vận tải
KT-XH Kinh tế - Xã hội
PTCGĐB Phương tiện cơ giới đường bộ
QLNN Quản lý nhà nước
QLHC Quản lý hành chính
QPPL Quy phạm pháp luật
TNGT Tai nạn giao thông
TNGTĐB Tai nạn giao thông đường bộ
TT Trung tâm
TTATGT Trật tự an toàn giao thông
TTATXH Trật tự an toàn xã hội
TTĐK Trung tâm đăng kiểm
UBATGTQG Ủy ban An toàn giao thông Quốc gia
UBND Ủy ban nhân dân
WTO Tổ chức Thương mại Thế giới
DANH MỤC CÁC BẢNG, HÌNH, SƠ ĐỒ
Số TT Tên Bảng, Sơ đồ, Phụ lục Trang
14 Bảng 1.1 Chu kỳ kiểm định xe cơ giới đường bộ
Sơ đồ 1.1 Sơ đồ tổ chức của Cục Đăng kiểm Việt Nam 20
Bảng 1.2 24 Số lượng trung tâm đăng kiểm và dây chuyền kiểm định
Bảng 1.3 25 Số lượng xe kiểm định và tỷ lệ tăng trưởng
Hình 2.1 51 Bản đồ hành chính tỉnh Ninh Thuận
Bảng 2.1 54 Thống kê số lượng ô tô lưu hành giai đoạn 2011-2016
Sơ đồ 2.1 Tổ chức bộ máy hành chính nhà nước tỉnh Ninh Thuận 56
Bảng 2.2 62 Tổng kinh phí thu được từ kiểm định xe cơ giới đường bộ giai đoạn 2011-2016 tại Ninh Thuận
73 Bảng 3.1 Dự báo số lượng ô tô Ninh Thuận giai đoạn 2018-2030
77 Bảng 3.2 Quy định diện tích tối thiểu của trung tâm ĐKXCG
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Quan điểm về xã hội hóa dịch vụ công được ghi nhận từ văn kiện Đại
hội Đảng VIII “Các vấn đề chính sách xã hội đều giải quyết theo tinh thần xã
hội hoá. Nhà nước giữ vai trò nồng cốt, đồng thời động viên mỗi người dân,
các doanh nghiệp, các tổ chức trong xã hội, các cá nhân và tổ chức nước ngoài
cùng tham gia giải quyết các vấn đề xã hội”.
Văn kiện Đại hội Đảng IX tiếp tục khẳng định: “Các chính sách xã hội
được tiến hành theo tinh thần xã hội hoá, đề cao trách nhiệm của chính quyền
các cấp, huy động các nguồn lực trong nhân dân và sự tham gia của các đoàn
thể nhân dân, các tổ chức xã hội”.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa
X tiếp tục cụ thể hóa: “Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa”, “đẩy mạnh xã hội hóa, vận dụng hợp lý những mặt
tích cực của cơ chế thị trường”.
Thể chế hóa quan điểm, chủ trương của Đảng, Chính phủ đã ban hành
Nghị quyết số 90/NQ-CP, Nghị định số 73/1999/NĐ-CP và các văn bản chỉ
đạo đẩy mạnh xã hội hoá dịch vụ công, Quyết định số 22/2015/QĐ-TTg về
việc chuyển đơn vị sự nghiệp công lập thành công ty cổ phần.
Trong Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước, vấn đề huy
động nguồn lực xã hội, tách chức năng quản lý của Nhà nước với chức năng
quản trị kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước và đẩy mạnh xã hội hóa dịch
vụ công được đề cập rất cụ thể: “Xây dựng, hoàn thiện hệ thống thể chế kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nhằm giải phóng lực lượng sản xuất,
huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực cho phát triển đất nước”,
1
“khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia cung ứng các dịch vụ trong
môi trường cạnh tranh bình đẳng, lành mạnh” [14].
Nhà nước có trách nhiệm chăm lo đời sống vật chất và văn hoá của nhân
dân, nhưng không phải vì thế mà mọi công việc về dịch vụ công đều do cơ
quan nhà nước trực tiếp đảm nhiệm. Trong từng lĩnh vực cần định rõ những
công việc mà Nhà nước phải đầu tư và trực tiếp thực hiện, những công việc
cần chuyển giao cho các tổ chức xã hội đảm nhiệm.
Như vậy, chủ trương của Đảng và Nhà nước về đẩy mạnh xã hội hóa
dịch vụ công trong tiến trình cải cách nền hành chính là đúng đắn, là tất yếu,
khách quan, hướng đến mô hình quản lý công mới, đó là một chính phủ nhỏ
quản lý một xã hội lớn, thay đổi vai trò nhà nước từ “chèo thuyền” chuyển
sang “lái thuyền”.
Trong những năm qua, cùng với sự phát triển kinh tế xã hội của cả nước
nói chung và tỉnh Ninh Thuận nói riêng thì nhu cầu vận tải hành khách và hàng
hóa ngày càng gia tăng, kéo theo sự gia tăng số lượng xe cơ giới. Do đó, hoạt
động kiểm định an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường xe cơ giới đóng vai trò
quan trọng trong việc bảo đảm an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường cho xe
cơ giới khi tham gia giao thông, có ý nghĩa to lớn trong việc góp phần giảm
thiểu tai nạn giao thông, ổn định trật tự xã hội.
Như vậy, công tác đăng kiểm phương tiện giao thông cơ giới đường bộ
là hoạt động có tính xã hội sâu rộng, ảnh hưởng và liên quan trực tiếp đến đông
đảo nhân dân và sự phát triển của doanh nghiệp vì trực tiếp liên quan tới việc
bảo đảm sinh mạng con người tham gia giao thông, liên quan tới hoạt động sản
xuất kinh doanh và sinh hoạt của từng người dân và doanh nghiệp, đặc biệt là
an toàn giao thông.
2
Trong thời gian qua, công tác đăng kiểm đã được triển khai tương đối
đồng bộ và có hiệu quả trên cả nước, góp phần quan trọng vào việc nâng cao
chất lượng phương tiện vận tải đường bộ, qua đó làm giảm tai nạn giao thông
và giảm ô nhiễm môi trường. Tuy nhiên, thực tế cho thấy công tác đăng kiểm
vẫn còn rất nhiều vấn đề bất cập cần giải quyết, chẳng hạn như tình trạng độc
quyền ở địa phương, thiếu cạnh tranh cung ứng dịch vụ, quá tải của các trung
tâm đăng kiểm, nhất là ở các thành phố lớn và các nơi đô thị tập trung dân cư
với lượng phương tiện nhiều và đang ngày càng tăng lên nhanh chóng. Tình
trạng quá tải này còn dẫn đến việc các cơ sở đăng kiểm đã không thực hiện tốt
công việc của mình, tình trạng nhũng nhiễu, sai phạm trong quá trình đăng
kiểm còn diễn ra khá phổ biến. Chính vì vậy, mở rộng quy mô các trạm đăng
kiểm hiện có, đồng thời tăng số lượng trạm và dây chuyền đăng kiểm là một
yêu cầu của thực tiễn khách quan. Tuy nhiên, do nguồn ngân sách của trung
ương và địa phương còn hạn chế nên việc đầu tư cho các trạm đăng kiểm từ
phía nhà nước chỉ đầu tư ban đầu, hiện nay không thể tiếp tục bao cấp nữa do
thực hiện chủ trương thu hút các nguồn lực tư nhân đầu tư vào lĩnh vực này.
Chính vì lẽ đó, Bộ Giao thông vận tải đã xây dựng chiến lược xã hội hóa các
trung tâm đăng kiểm giúp cho nhà nước và tư nhân cùng chia sẻ, vận hành các
trung tâm đăng kiểm xe cơ giới đường bộ.
Nhằm đáp ứng yêu cầu về kiểm định chất lượng xe cơ giới, mô hình xã
hội hóa đăng kiểm xe cơ giới đã được thí điểm triển khai một cách khá mạnh
mẽ từ năm 2005 trở lại đây. Việc thực hiện xã hội hóa đã huy động được tiềm
năng của mọi tầng lớp trong xã hội đầu tư cho hoạt động kiểm định, giảm gánh
nặng cho ngân sách nhà nước, đáp ứng nhu cầu kiểm định ngày càng cao do số
lượng phương tiện tham gia giao thông ngày càng tăng, giảm sự quá tải cho
các trung tâm kiểm định, giảm chi phí về thời gian chờ đợi, phục vụ tốt hơn
cho người dân và doanh nghiệp.
3
Triển khai Đề án “tách chức năng quản lý nhà nước với cung cấp dịch vụ
công trong lĩnh vực đăng kiểm” ban hành kèm theo Quyết định số 4202/QĐ-
BGTVT ngày 25 tháng 11 năm 2015 của Bộ Giao thông vận tải. Đã có 12
trung tâm đăng kiểm chuyển đổi thành đơn vị cổ phần: 70.01S, 70.02S ở Tây
Ninh; 12.01D ở Lạng Sơn; 48.01D ở Đắc Nông; 24.01D ở Lào Cai; 61.06D ở
Đồng Nai; 14.01S, 14.02S, 14.03S ở Quảng Ninh; 38.01S ở Hà Tĩnh, ... [7].
Triển khai Đề án “Quy hoạch tổng thể các trung tâm đăng kiểm và dây
chuyền kiểm định xe cơ giới đến năm 2020, tầm nhìn 2030” ban hành kèm theo
Quyết định số 1873/QĐ-BGTVT ngày 08 tháng 8 năm 2012 của Bộ Giao
thông vận tải. Tính đến thời điểm 20/12/2016, cả nước có 113 trung tâm đăng
kiểm xe cơ giới. Năm 2016, Cục Đăng kiểm Việt Nam đã ký văn bản thỏa
thuận thành lập cho 13 doanh nghiệp đăng ký xây dựng đơn vị đăng kiểm theo
mô hình xã hội hóa; đã cấp Giấy chứng nhận hoạt động cho 09 đơn vị đăng
kiểm xã hội hóa mới đi vào hoạt động [17].
Từ khi Đề án này được phê duyệt, không có đơn vị đăng kiểm nào của
Nhà nước được thành lập. Năm đơn vị được Cục Đăng kiểm Việt Nam chuyển
cho tư nhân quản lý và thực hiện đăng kiểm. Theo Đề án này, đã có 42 đơn vị
xã hội hóa mới được ra đời (26 đơn vị đã hoạt động), nâng tổng số trung tâm
đăng kiểm xã hội hóa là 73 đơn vị, trong đó 57 đơn vị đã hoạt động và 16 đơn
vị đang xây dựng (14 đơn vị đi vào hoạt động năm 2016 và 02 đơn vị đang
được xây dựng, sẽ đưa vào hoạt động năm 2017). Cục Đăng kiểm Việt Nam đã
phối hợp với các địa phương xây dựng mạng lưới các trung tâm đăng kiểm và
dây chuyền kiểm định theo đúng quy hoạch của Bộ Giao thông vận tải và địa
phương, đảm bảo đáp ứng nhu cầu của người dân, doanh nghiệp[17].
Với sự tham gia của khu vực tư nhân vào công tác đăng kiểm ở giai đoạn
thí điểm đã tạo nên một bức tranh đăng kiểm mới ở Việt Nam, đây là một thay
4
đổi lớn để phát triển theo xu hướng các nước phát triển. Nhưng ở điều kiện lịch
sử, xã hội nước ta hiện nay đã đặt ra nhiều tồn tại (chất lượng kiểm định, hình
thành tiêu cực trung gian mà nhà nước khó kiểm soát được do nhiều nguyên
nhân chủ quan và khách quan, nhiều nhiệm vụ mang tính chính trị, an ninh,
quốc phòng rất khó thực hiện do không phối hợp được,…) ảnh hưởng tiêu cực
đến xã hội cần phải giải quyết. Chẳng hạn, qua kiểm tra, tất cả các đơn vị đăng
kiểm tư nhân đều mắc lỗi đánh giá không đúng tiêu chuẩn an toàn kỹ thuật và
bảo vệ môi trường [17],[6]. Tại các trung tâm xuất hiện tình trạng cạnh tranh
không lành mạnh, hạ thấp tiêu chuẩn, không thực hiện đúng quy trình kiểm
định để thu hút khách hàng; nhiều trung tâm thiếu đội ngũ đăng kiểm viên hoặc
vi phạm đến mức phải ngừng hoạt động với thời gian dài để khắc phục, không
giải quyết được nhu cầu cấp thiết của người dân. Do đó, nghiên cứu về xã hội
hóa công tác đăng kiểm xe cơ giới để thu hút nguồn lực khu vực tư tham gia
vào công tác đăng kiểm, giảm gánh nặng cho nhà nước, xóa thế độc quyền, tạo
sự cạnh tranh phát triển, đồng thời nâng cao chất lượng đăng kiểm là một đòi
hỏi cấp thiết phải nghiên cứu hiện nay.
Ninh Thuận là một địa bàn đăng kiểm trọng điểm ở Nam Trung bộ với
số lượng phương tiện cơ giới đường bộ được đăng kiểm hàng năm khá lớn và
đang ngày càng tăng dần trong những năm gần đây. Hiện nay, trên địa bàn tỉnh
có duy nhất 01 trung tâm đăng kiểm của Nhà nước được xây dựng từ năm 1995
với quy mô nhà xưởng, diện tích nhỏ hẹp, cơ sở vật chất, trang thiết bị đã quá
cũ kỹ, xuống cấp thường xuyên hư hỏng mà chưa được tái đầu tư do nguồn
ngân sách tỉnh eo hẹp, khó khăn, mặc khác thực hiện chủ trương xã hội hóa
dịch vụ công, ngân sách nhà nước không thể đầu tư cho lĩnh vực này nữa khiến
cho công tác đăng kiểm trở nên quá tải. Trong các năm qua, việc tái đầu tư để
phát triển, tăng công suất kiểm định rất khó khăn (kể cả việc sửa chữa, thay
thế, duy trì chất lượng trang thiết bị) do thực hiện chủ trương đẩy mạnh xã hội
5
hóa dịch vụ công. Khi năng lực và công suất kiểm định không tăng tương ứng
với mức độ gia tăng của phương tiện cùng với cơ sở vật chất, trang thiết bị đã
quá cũ kỹ, xuống cấp thường xuyên hư hỏng đã dẫn đến tình trạng quá tải càng
tăng lên dẫn đến chất lượng dịch vụ giảm, lãng phí thời gian của xã hội và tạo
cơ hội cho các hoạt động tiêu cực trong đăng kiểm. Chính vì vậy, nghiên cứu
để triển khai xã hội hóa đăng kiểm xe cơ giới ở tỉnh Ninh Thuận là cần thiết,
không chỉ mang ý nghĩa lý luận mà còn có ý nghĩa thực tiễn quan trọng nhằm
nâng cao chất lượng dịch vụ đăng kiểm cho khách hàng có nhu cầu đăng kiểm
trên địa bàn và thực hiện chiến lược phát triển ngành đăng kiểm của Bộ Giao
thông vận tải. Đây là lý do chủ yếu để học viên lựa chọn đề tài “Xã hội hóa
công tác đăng kiểm xe cơ giới trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận” để làm đề tài
nghiên cứu cho luận văn thạc sĩ Quản lý công của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan tới đề tài
Xã hội hóa là một chủ trương quan trọng của Đảng và Nhà nước ta đã
hình thành ngay từ những năm đầu của quá trình đổi mới với quan điểm “Nhà
nước và nhân dân cùng làm” và đã được chính thức ghi nhận và triển khai từ
Đại hội VIII của Đảng và tiếp tục được khẳng định lại trong Đại hội IX, Đại
hội X, được thể chế hóa bằng Nghị quyết số 90/NQ-CP, Nghị định số
73/1999/NĐ-CP và các văn bản chỉ đạo đẩy mạnh xã hội hoá dịch vụ công,
Quyết định số 22/2015/QĐ-TTg về việc chuyển đơn vị sự nghiệp công lập
thành công ty cổ phần, chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước của
Chính phủ.
Chính vì vậy, nghiên cứu về xã hội hóa nói chung và xã hội hóa công
tác đăng kiểm xe cơ giới nói riêng là lĩnh vực nghiên cứu không mới. Trong
thời gian qua đã có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề xã hội hóa và về
6
công tác đăng kiểm xe cơ giới. Có thể chỉ ra một số nghiên cứu quan trọng
trong những lĩnh vực này sau đây:
- Nghiên cứu của Đặng Khắc Ánh: Hợp tác công- tư và vận dụng vào cải
cách khu vực công ở Việt Nam (Đề tài nghiên cứu cấp cơ sở trọng điểm của
Học viện hành chính năm 2012) đã xem xét hợp tác công-tư (Public-Private
Partnership) như là một hình thức của xã hội hóa và là một định hướng quan
trọng để đạt mục tiêu lôi cuốn khu vực tư nhân tham gia cùng với nhà nước
trong việc cung cấp dịch vụ công để nâng cao chất lượng và hiệu quả cung cấp
dịch vụ công. Nghiên cứu cũng đã chỉ ra những thành tựu và những bất cập còn
tồn tại trong lĩnh vực này và xác định các giải pháp để nâng cao chất lượng hợp
tác công-tư trong tương lai.
- Nghiên cứu của Đặng Khắc Ánh: Nâng cao chất lượng xã hội hóa dịch
vụ công, in trong Tạp chí Giáo dục Lý luận số 190 (2012) đề cập tới tiến trình
xã hội hóa ở nước ta cũng như những ưu và nhược điểm còn tồn tại của việc xã
hội hóa. Tác giả cũng đã đề cập tới một số giải pháp cần áp dụng trong thời
gian tới để nâng cao chất lượng xã hội hóa trong thực tế.
- Nghiên cứu của GS.TSKH Phạm Mạnh Hùng: Xã hội hóa công tác ý tế
- những điểm đã đạt được và những vấn đề đặt ra trước mắt, tham luận trong
Hội thảo:”Những vấn đề đặt ra trong quá trình thực hiện chủ trương của Đảng
về xã hội hóa các dịch vụ công” do Văn phòng Trung ương Đảng và Viện
Khao học xã hội Việt Nam tổ chức tại Hà Nội ngày 23/9/2009.
- Nghiên cứu của Lê Chi Mai (2003): Cải cách dịch vụ công ở Việt Nam
(NXB. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2003) đã tập trung phân tích xu hướng cải
cách dịch vụ công ở nước ta giai đoạn thực hiện Chương trình tổng thể cải cách
hành chính nhà nước 2001-2010 và đã chỉ ra xu hướng tất yếu phải xã hội hóa
7
việc cung cấp dịch vụ công trong bối cảnh xây dựng nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa.
- Nghiên cứu của Đinh Văn Ân và Hoàng Thu Hòa (2006): Đổi mới
cung ứng dịch vụ công ở Việt Nam (NXB Thống kê, Hà Nội, 2006) đã tập
trung phân tích tiến trình xã hội hóa dịch vụ công ở nước ta, đồng thời chỉ ra
những kết quả và bất cập còn tồn tại trong quá trình triển khai xã hội hóa để đề
ra những giải pháp tăng cường xã hội hóa việc cung cấp dịch vụ công.
- v.v…
Bên cạnh các nghiên cứu về xã hội hóa nói chung, trong thời gian gần
đây đã có nhiều đề án, bài viết và được đăng tải trên các phương tiện thông tin
đại chúng về vấn đề xã hội hóa công tác đăng kiểm, trước hết phải kể tới:
- “Đề án tách chức năng quản lý nhà nước với cung cấp dịch vụ công
trong lĩnh vực đăng kiểm” (ban hành kèm theo Quyết định số 4202/QĐ-
BGTVT ngày 25 tháng 11 năm 2015 của Bộ Giao thông vận tải).
- “Đề án nâng cao chất lượng công tác đăng kiểm phương tiện giao
thông cơ giới đường bộ và phương tiện thủy nội địa góp phần giảm thiểu tai
nạn giao thông và ô nhiễm môi trường” (ban hành kèm theo Quyết định
1873/QĐ-BGTVT ngày 08 tháng 8 năm 2012 của Bộ Giao thông vận tải).
- Quỳnh Hoa (2013): Tìm mô hình cho công tác đăng kiểm xe cơ giới,
đăng trên website của Chính phủ. (http://baodientu.chinhphu.vn/An-toan-giao-
thong/Tim-mo-hinh-cho-hoat-dong-dang-kiem-xe-co-gioi/183469.vgp);
- Xích Tùng (2014): Xã hội hóa công tác đăng kiểm xe cơ giới, đăng trên
báo Nhân dân ngày 17 tháng 01 năm 2014 (http://www.nhandan.org.vn/
chinhtri/cung-suy-ngam/item/22171802-xa-hoi-hoa-cong-tac-dang-kiem-xe-co-
gioi.html);
8
- Các tham luận trong Hội nghị tổng kết thực hiện thí điểm xã hội hóa
công tác đăng kiểm xe cơ giới đang lưu hành do Bộ Giao thông vận tải tiến
hành ngày 17 tháng 10 năm 2013;
- Các báo cáo tổng kết công tác đăng kiểm xe cơ giới đường bộ của Cục
Đăng kiểm Việt Nam;
và nhiều nghiên cứu khác trên các tạp chí chuyên ngành và trên báo về
vấn đề đăng kiểm và xã hội hóa công tác đăng kiểm xe cơ giới đường bộ.
Những nghiên cứu này là căn cứ lý luận và thực tiễn quan trọng để tác
giả tiến hành nghiên cứu của mình. Tuy nhiên, các nghiên cứu này vẫn chưa
tập trung vào việc nghiên cứu vấn đề xã hội hóa công tác đăng kiểm, đặc biệt là
công tác đăng kiểm xe cơ giới đường bộ trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận. Chính
vì vậy, nghiên cứu tiếp tục về vấn đề này trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận vẫn là
một nội dung nghiên cứu cấp thiết, nhất là trong xu hướng đổi mới chất lượng
cung cấp dịch vụ công theo tinh thần Chương trình tổng thể cải cách hành
chính nhà nước giai đoạn 2011-2020 của Chính phủ hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở lý luận và qua tìm hiểu, đánh giá tình hình xã hội hóa công
tác đăng kiểm xe cơ giới đường bộ nói chung và đặc điểm của đăng kiểm xe cơ
giới đường bộ ở tỉnh Ninh Thuận hiện nay, nghiên cứu đề xuất phương hướng
và các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ đăng kiểm xe cơ giới
đường bộ ở tỉnh Ninh Thuận từ giác độ xã hội hóa.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt mục đích trên, luận văn đặt ra các nhiệm vụ sau:
9
- Làm rõ cơ sở lý luận của việc xã hội hóa dịch vụ công nói chung và xã
hội hóa dịch vụ đăng kiểm xe cơ giới đường bộ nói riêng;
- Phân tích, đánh giá thực trạng công tác đăng kiểm xe cơ giới đường bộ
ở tỉnh Ninh Thuận trong giai đoạn từ năm 2011-2016.
- Đề xuất phương hướng, giải pháp xã hội hóa công tác đăng kiểm xe cơ
giới nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ đăng kiểm xe cơ giới đường bộ ở tỉnh
Ninh Thuận từ giác độ xã hội hóa trong điều kiện hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Công tác đăng kiểm xe cơ giới đường bộ đang lưu hành.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về không gian nghiên cứu: trên phạm vi tỉnh Ninh Thuận;
Về thời gian nghiên cứu: từ năm 2011 đến năm 2016;
Luận văn không nghiên cứu việc đăng kiểm các phương tiện giao thông
đường bộ mới đưa vào lưu hành.
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận: Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương
pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của học thuyết Mác – Lênin;
quan điểm của Đảng và Nhà nước về xã hội hóa dịch vụ công.
5.2. Các phương pháp nghiên cứu cụ thể: Trong quá trình thực hiện
luận văn, tác giả đã sử dụng phương pháp nghiên cứu tài liệu (desk study),
đồng thời tiến hành một số phương pháp nghiên cứu khoa học cụ thể như quan
sát, phỏng vấn, …để thu thập thông tin và xử lý để phân tích thực trạng của
10
hoạt động xã hội hóa đăng kiểm xe cơ giới đường bộ trên phạm vi cả nước nói
chung và trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận nói riêng.
Phương pháp phỏng vấn sâu theo hình thức phi cấu trúc (không chuẩn bị
trước các câu hỏi) đã được thực hiện với Giám đốc Trung tâm đăng kiểm xe cơ
giới đường bộ Ninh Thuận và một số lái xe và chủ phương tiện (50 người) đưa
ô tô đến kiểm định tại Trung tâm đăng kiểm xe cơ giới đường bộ Ninh Thuận.
6. Ý nghĩa lý luận và đóng góp thực tiễn của nghiên cứu
Nghiên cứu góp phần tổng kết và hoàn chỉnh lý luận về xã hội hóa dịch
vụ công nói chung và dịch vụ đăng kiểm xe cơ giới nói riêng; đánh giá thực
trạng đăng kiểm xe cơ giới đường bộ trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận để rút ra các
thành công và bất cập còn tồn tại trong lĩnh vực này.
Nghiên cứu có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo, luận cứ cho việc
triển khai xã hội hóa Trung tâm đăng kiểm trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận nói
riêng và các Trung tâm đăng kiểm khác trong thời gian tới nhằm nâng cao chất
lượng và sự hài lòng của người dân thực hiện đăng kiểm.
7. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Mục lục, Danh mục tài liệu tham khảo,
Luận văn gồm 3 chương với nội dung cơ bản sau:
Chương 1: Lý luận chung về đăng kiểm xe cơ giới và xã hội hóa đăng
kiểm xe cơ giới đường bộ.
Chương 2: Thực trạng đăng kiểm xe cơ giới đường bộ ở tỉnh Ninh Thuận
giai đoạn từ năm 2011-2016.
Chương 3: Phương hướng và giải pháp triển khai xã hội hóa công tác
đăng kiểm xe cơ giới đường bộ tại tỉnh Ninh Thuận.
11
CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ XÃ HỘI HÓA VÀ XÃ HỘI HÓA CÔNG TÁC
ĐĂNG KIỂM PHƯƠNG TIỆN CƠ GIỚI ĐƯỜNG BỘ
1.1. KHÁI QUÁT VỀ ĐĂNG KIỂM PHƯƠNG TIỆN CƠ GIỚI
ĐƯỜNG BỘ
1.1.1. Phương tiện cơ giới đường bộ
Theo quy định của Luật Giao thông đường bộ năm 2008, phương tiện
giao thông đường bộ là toàn bộ các phương tiện giao thông có thể lưu hành
trên đường bộ bao gồm phương tiện cơ giới đường bộ (gồm xe ô tô; máy kéo;
rơ moóc hoặc sơ mi rơ moóc được kéo bởi xe ô tô, máy kéo; xe mô tô hai
bánh; xe mô tô ba bánh; xe gắn máy (kể cả xe máy điện) và các loại xe tương
tự) và phương tiện thô sơ đường bộ (xe đạp, xe kéo,…). Phương tiện giao
thông cơ giới đường bộ có thể là phương tiện mới sản xuất sẽ đưa vào tham gia
lưu hành và phương tiện giao thông đang lưu hành, trong đó phương tiện giao
thông cơ giới đường bộ đang lưu hành là các loại xe cơ giới đang sử dụng hợp
pháp, đủ tiêu chuẩn và được phép tham gia giao thông đường bộ. Cả hai loại
phương tiện giao thông cơ giới đường bộ này đều là đối tượng của đăng kiểm
xe cơ giới đường bộ, tuy nhiên trong Luận văn này chỉ tập trung vào phương
tiện giao thông đang lưu hành.
Không phải bất kỳ một phương tiện giao thông cơ giới đường bộ nào
cũng đều được phép lưu thông trên đường bộ. Để được phép lưu thông, các
phương tiện cơ giới phải đảm bảo một số tiêu chuẩn nhất định về an toàn kỹ
thuật và bảo vệ môi trường và được cấp giấy phép lưu hành do cơ quan nhà
nước có thẩm quyền (hay đơn vị được nhà nước ủy quyền) cấp sau khi đã được
kiểm định về chất lượng và xác nhận đã đạt đầy đủ các tiêu chuẩn về an toàn
kỹ thuật và bảo vệ môi trường theo quy định của pháp luật hiện hành. Để có
12
được giấy phép lưu hành xe cơ giới này, các chủ phương tiện phải thực hiện
việc đăng kiểm xe cơ giới đường bộ tại các trung tâm đăng kiểm.
1.1.2. Đăng kiểm phương tiện giao thông cơ giới đường bộ
“Đăng kiểm” thường được hiểu là đăng ký để được kiểm soát. Đăng
kiểm xe cơ giới là dịch vụ kiểm định an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường
cho xe cơ giới đang lưu hành, là việc tiến hành kiểm tra, đánh giá định kỳ tình
trạng an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường của xe cơ giới để chứng nhận xe
cơ giới đủ điều kiện tham gia giao thông nhằm góp phần giảm thiểu tai nạn
giao thông và bảo vệ môi trường. Công tác kiểm định đối với xe cơ giới là yêu
cầu bắt buộc gắn liền với mục đích phục vụ lợi ích công cộng, ảnh hưởng đến
trật tự an toàn xã hội nên là một loại dịch vụ cần phải được Nhà nước giám sát
chặt chẽ [13].
Đối với các phương tiện mới tham gia giao thông cần phải kiểm định
mới (kiểm định lần đầu tiên), còn các phương tiện đang tham gia giao thông thì
sau một khoảng thời gian nhất định (gọi là chu kỳ đăng kiểm) phải được chủ
phương tiện đưa tới các cơ sở đăng kiểm có thẩm quyền để kiểm định lại và
cấp phép lưu hành sau khi đã xác nhận đủ điều kiện kỹ thuật để lưu hành. Nếu
phương tiện không đạt yêu cầu về tiêu chuẩn kỹ thuật thì chủ phương tiện phải
tiến hành sửa chữa, thay thế hoặc không được phép lưu hành nữa. Như vậy, có
thể hiểu đăng kiểm phương tiện giao thông cơ giới đường bộ đang lưu hành là
việc kiểm tra định kỳ về tiêu chuẩn kỹ thuật an toàn và môi trường đối với các
phương tiện cơ giới giao thông đường bộ đang lưu hành.
Chu kỳ đăng kiểm xe cơ giới đường bộ là thời gian cho phép giữa hai lần
kiểm định. Độ dài của chu kỳ kiểm định phụ thuộc vào loại xe và thời gian xe
đã qua sử dụng. Chu kỳ đầu được áp dụng cho xe mới 100% chưa qua sử dụng
là khoảng thời gian giữa thời điểm xe mới được đưa vào lưu thông và lần kiểm
định tiếp theo đầu tiên. Chu kỳ đăng kiểm được cơ quan có thẩm quyền quy
13
định khác nhau đối với các loại phương tiện khác nhau và phụ thuộc vào năm
sản xuất của phương tiện. Phương tiện có năm sản xuất càng lâu thì chu kỳ
kiểm định càng ngắn. Theo quy định của pháp luật hiện hành, chu kỳ kiểm
định cho các loại phương tiện cơ giới đường bộ ở nước ta như sau:
Bảng 1.1: Chu kỳ kiểm định xe cơ giới đường bộ
Chu kỳ (tháng)
TT Loại phương tiện
Chu kỳ đầu Chu kỳ định kỳ
1. Ô tô chở người các loại đến 09 chỗ không kinh doanh vận tải
Đã sản xuất đến 07 năm 30 18
Đã sản xuất trên 07 năm đến 12 năm 12
Đã sản xuất trên 12 năm 06
2. Ô tô chở người các loại đến 09 chỗ có kinh doanh vận tải; ô tô chở người
các loại trên 09 chỗ
2.1 Không cải tạo (*) 18 06
2.2 Có cải tạo (*) 12 06
3. Ô tô tải các loại, ô tô chuyên dùng, ô tô đầu kéo, rơ moóc, sơmi rơ moóc
24 12
Ô tô tải các loại, ô tô chuyên dùng, ô tô đầu kéo đã sản xuất đến 07 năm; rơ moóc, sơmi rơ moóc đã sản xuất đến 12 năm 3.1
06
Ô tô tải các loại, ô tô chuyên dùng, ô tô đầu kéo đã sản xuất trên 07 năm; rơ moóc, sơmi rơ moóc đã sản xuất trên 12 năm
3.2 Có cải tạo (*) 12 06
03
4. Ô tô chở người các loại trên 09 chỗ đã sản xuất từ 15 năm trở lên; ô tô tải các loại, ô tô đầu kéo đã sản xuất từ 20 năm trở lên
Nguồn: Phụ lục VII của Thông tư số 70/2015/TT-BGTVT ngày 09/11/2015 của Bộ trưởng Bộ GTVT quy định về kiểm định an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường phương tiện giao thông cơ giới đường bộ.
14
1.1.3. Mục đích của việc đăng kiểm xe cơ giới đường bộ
Công tác đăng kiểm xe cơ giới đường bộ nhằm nâng cao an toàn sinh
mạng con người, tài sản và ngăn ngừa ô nhiễm môi trường. Không phải bất kỳ
phương tiện giao thông nào khi được sản xuất ra hay sau khi đưa vào lưu hành
đều đáp ứng được tất cả các yêu cầu về an toàn giao thông và bảo vệ môi
trường theo các quy định của pháp luật. Một trong những nguyên nhân chính
dẫn đến tai nạn giao thông ngày càng gia tăng và ô nhiễm môi trường ngày
càng trầm trọng là chất lượng phương tiện không đảm bảo, vì vậy công tác
đăng kiểm xe cơ giới đường bộ có ý nghĩa rất lớn trong việc góp phần giảm
thiểu tai nạn giao thông và ô nhiễm mội trường. Để giảm bớt tại nạn giao thông
do các phương tiện cơ giới đường bộ tham gia giao thông không đảm bảo các
tiêu chuẩn an toàn kỹ thuật và chống ô nhiễm môi trường, cần xác định rõ các
quy định về kỹ thuật và môi trường, đồng thời kiểm soát chặt chẽ việc tuân thủ
các quy định này của các chủ phương tiện tham gia giao thông. Thông qua
công tác đăng kiểm xe cơ giới đường bộ sẽ kiểm soát được vấn đề nêu trên.
Theo số liệu thống kê của Cục Đăng kiểm Việt Nam, tính đến ngày
30/12/2016, cả nước có 2.472.424 xe cơ giới vào kiểm định, số lượt phương
tiện kiểm định đạt tiêu chuẩn là 2.051.492; có 139.544 xe cơ giới hết niên hạn
sử dụng, trong đó có 96.791 xe chở hàng và 42.753 xe chở người [17].
Thông qua đăng kiểm đã tiến hành rà soát về mức độ an toàn kỹ thuật và
môi trường của các phương tiện tham gia giao thông để qua đó đình chỉ lưu
hành các phương tiện không đủ tiêu chuẩn chất lượng và yêu cầu sửa chữa với
những phương tiện cần sửa chữa để đáp ứng tiêu chuẩn lưu hành.
Như vậy, mục đích của công tác đăng kiểm xe cơ giới đường bộ là góp
phần phòng ngừa ô nhiễm môi trường và bảo đảm trật tự an toàn giao thông,
bảo vệ tính mạng, tài sản người tham gia giao thông.
15
1.1.4. Quản lý công tác đăng kiểm xe cơ giới đường bộ hiện nay
1.1.4.1. Hệ thống thể chế quy định về đăng kiểm và tiêu chuẩn kỹ thuật
đối với các phương tiện tham gia giao thông hiện nay
Hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật quy định về đăng kiểm đối
với xe cơ giới đường bộ ở Việt Nam đã được ban hành tương đối đầy đủ và
toàn diện từ trong các Luật chuyên ngành tới các quy định của Chính phủ, Bộ
Giao thông vận tải và các quy định cụ thể của UBND tỉnh các tỉnh.
Luật Giao thông đường bộ năm 2008 xác định các loại xe cơ giới chỉ được
phép tham gia giao thông phải bảo đảm các quy định về chất lượng, an toàn kỹ
thuật và bảo vệ môi trường (Điều 53). Chủ phương tiện, người lái xe ô tô chịu
trách nhiệm duy trì tình trạng an toàn kỹ thuật của phương tiện theo tiêu chuẩn
quy định khi tham gia giao thông đường bộ giữa hai kỳ kiểm định. Người đứng
đầu cơ sở đăng kiểm và người trực tiếp thực hiện việc kiểm định phải chịu trách
nhiệm về việc xác nhận kết quả kiểm định. Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải
được phép quy định điều kiện, tiêu chuẩn và cấp giấy phép cho cơ sở đăng kiểm
xe cơ giới; quy định và tổ chức thực hiện kiểm định xe cơ giới. Bộ trưởng Bộ
Quốc phòng, Bộ trưởng Bộ Công an quy định và tổ chức kiểm định xe cơ giới
của quân đội, công an sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh (Điều 55).
Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 quy định những hành vi gây ô nhiễm
môi trường bị nghiêm cấm bao gồm cả “thải khói, bụi, khí có chất hoặc mùi độc
hại vào không khí; phát tán bức xạ, phóng xạ, các chất ion hóa vượt quá quy
chuẩn kỹ thuật môi trường và gây tiếng ồn, độ rung vượt quá quy chuẩn kỹ thuật
môi trường” (Điều 7). Điều 74 của Luật này về Bảo vệ môi trường trong hoạt
động Giao thông vận tải cũng quy định rõ “Phương tiện giao thông cơ giới phải
được cơ quan đăng kiểm xác nhận đạt quy chuẩn kỹ thuật môi trường mới được
đưa vào sử dụng”.
16
Luật Chất lượng sản phẩm hàng hóa năm 2007 cũng quy định trách
nhiệm của Bộ Giao thông vận tải đối với chất lượng phương tiện giao thông
đường bộ và các phương tiện khác, cụ thể: “Bộ Giao thông vận tải chịu trách
nhiệm đối với phương tiện Giao thông vận tải, phương tiện, thiết bị xếp dỡ, thi
công vận tải chuyên dùng, phương tiện, thiết bị thăm dò, khai thác trên biển,
công trình hạ tầng giao thông” (Điều 70).
Trên cơ sở các quy định trên, Chính phủ đã ban hành Nghị định số
95/2009/NĐ-CP ngày 30/10/2009 của Chính phủ quy định niên hạn sử dụng xe
chở hàng và xe chở người, Nghị định số 86/2014/NĐ-CP ngày 19/10/2014 quy
định về kinh doanh và điều kiện kinh doanh vận tải bằng xe ô tô; Nghị định số
63/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016 quy định về điều kiện kinh doanh dịch vụ
đăng kiểm xe cơ giới; Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số
249/2005/QĐ-TTg ngày 10/10/2005 về quy định lộ trình áp dụng tiêu chuẩn
khí thải đối với phương tiện giao thông cơ giới đường bộ, Quyết định số
22/2015/QĐ-TTg ngày 22 tháng 6 năm 2015 về việc chuyển đơn vị sự nghiệp
công lập thành công ty cổ phần;
Để triển khai các quy định của Quốc hội, Chính phủ và Thủ tướng Chính
phủ, Bộ Giao thông vận tải trong những năm qua cũng đã ban hành nhiều quy
định liên quan tới việc nâng cao chất lượng kiểm định phương tiện cơ giới
đường bộ, có thể thống kê các văn bản còn hiệu lực như:
- Thông tư số 238/2016/TT-BTC của Bộ trưởng Bộ Tài chính về việc
ban hành mức thu lệ phí kiểm định an toàn kỹ thuật, chất lượng xe cơ giới và
các loại thiết bị, xe máy chuyên dùng;
- Thông tư số 11/2009/TT-BGTVT ngày 24/6/2009 của Bộ trưởng Bộ
Giao thông vận tải Quy định điều kiện đối với Trung tâm đăng kiểm phương
tiện giao thông cơ giới đường bộ;
17
- Thông tư số 41/2011/TT-BGTVT ngày 18/5/2011 của Bộ trưởng Bộ
Giao thông vận tải Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 23/2009/TT-
BGTVT ngày 15 tháng 10 năm 2009 quy định về kiểm tra chất lượng an toàn
kỹ thuật và bảo vệ môi trường xe máy chuyên dùng;
- Thông tư số 07/2011/TT-BGTVT ngày 07/3/2011 của Bộ trưởng Bộ
Giao thông vận tải về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy định về tiêu
chuẩn, nhiệm vụ, trách nhiệm, quyền hạn, khen thưởng và kỷ luật đối với cán
bộ đăng kiểm tại các đơn vị đăng kiểm phương tiện cơ giới đường bộ;
- Thông tư số 59/2013/TT-BGTVT ngày 30/12/2013 của Bộ trưởng Bộ
Giao thông vận tải Quy định về việc thành lập và hoạt động của Trung tâm
Đăng kiểm xe cơ giới;
- Thông tư số 85/2014/TT-BGTVT ngày 31/12/2014 của Bộ trưởng Bộ
Giao thông vận tải Quy định về việc cải tạo phương tiện giao thông cơ giới
đường bộ;
- Thông tư số 70/2015/TT-BGTVT ngày 09 tháng 11 năm 2015 của Bộ
trưởng Bộ Giao thông vận tải quy định về kiểm định an toàn kỹ thuật và bảo vệ
môi trường phương tiện giao thông cơ giới đường bộ;
Cho đến nay, có thể nói hệ thống văn bản, quy phạm pháp luật và tiêu
chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật đối với các loại phương tiện cơ giới đường bộ đã
được xây dựng, bổ sung, sửa đổi tương đối hoàn thiện làm căn cứ pháp lý cho
các công tác đăng kiểm. Tuy nhiên, vẫn cần bổ sung, cập nhật, sửa đổi kịp thời
hệ thống văn bản quy phạm pháp luật để phù hợp với yêu cầu thực tế của
nhiệm vụ đăng kiểm trong tình hình mới và mở rộng việc đăng kiểm sang
những lĩnh vực chưa được thực hiện. Chẳng hạn, Luật Giao thông đường bộ đã
quy định phải kiểm soát an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường đối với xe mô
tô, xe gắn máy đang lưu hành Khoản 2 Điều 53 Luật Giao thông đường bộ năm
18
2008 về “Điều kiện tham gia giao thông của xe cơ giới” quy định “Xe mô tô
hai bánh, xe mô tô ba bánh, xe gắn máy đúng kiểu loại được phép tham gia
giao thông phải bảo đảm các quy định về chất lượng, an toàn kỹ thuật và bảo
vệ môi trường... ” nhưng hiện vẫn chưa có các văn bản hướng dẫn dưới Luật
quy định cụ thể biện pháp thực hiện cũng như quy chuẩn kỹ thuật làm căn cứ
để triển khai thực hiện.
1.1.4.2. Cơ quan quản lý nhà nước về đăng kiểm xe cơ giới
Công tác đăng kiểm ở Việt Nam bắt đầu bằng việc đăng kiểm tàu thủy
được hình thành từ năm 1884, khi lần đầu tiên ở Việt Nam có ụ khô để đóng
tàu mới và sửa chữa tàu biển tại Ba Son, Sài Gòn. Năm 1960, Phòng Ðăng ký
hải sự trực thuộc Bộ Giao thông vận tải được thành lập để thực hiện việc kiểm
tra các loại phương tiện vận tải đường thủy, trụ sở đóng tại Hà Nội. Cơ quan
này là cơ sở tiền thân của Cục Ðăng kiểm Việt Nam ngày nay [54].
Xuất phát từ những đòi hỏi khách quan của việc bảo đảm tính năng an
toàn kỹ thuật của các phương tiện vận tải, trước hết là các loại tàu thuyền và
các phương tiện sử dụng nồi hơi, bình chịu áp lực, ngày 25 tháng 04 năm 1964,
Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải ra quyết định số 345/QĐ thành lập Ty Đăng
kiểm có trụ sở đóng tại Hải Phòng với nhiệm vụ tổ chức việc đăng ký, kiểm
tra, nghiệm thu về kỹ thuật an toàn của các phương tiện vận tải đường thuỷ, nồi
hơi và một số thiết bị liên quan khác. Ngày này hiện nay được lấy là ngày
thành lập của Ðăng kiểm Việt Nam. Đến nay Đăng kiểm Việt Nam đã trải qua
50 năm hoạt động và đã có nhiều đóng góp tích cực vào việc bảo đảm chất
lượng phương tiện Giao thông vận tải và bảo vệ môi trường.
Việc xây dựng và triển khai kiểm định phương tiện cơ giới đường bộ
được thực hiện một cách hệ thống thực hiện từ tháng 5 năm 1995. Hiện nay, hệ
thống cơ quan đăng kiểm xe cơ giới đường bộ được tổ chức thống nhất trên cả
nước với 139 trung tâm đăng kiểm trải ra trên phạm vi cả nước [6][54].
19
Cục Đăng kiểm Việt Nam là tổ chức trực thuộc Bộ Giao thông vận tải,
là cơ quan quản lý Nhà nước về an toàn và chất lượng của các phương tiện và
thiết bị Giao thông vận tải, có nhiệm vụ tổ chức và thực hiện giám sát kỹ thuật,
chứng nhận chất lượng và an toàn cho các phương tiện và thiết bị Giao thông
vận tải đường thủy, đường bộ, đường sắt và công trình biển và các sản phẩm
công nghiệp phục vụ cho các ngành nói trên. Cục Đăng kiểm Việt Nam là tổ
chức có tư cách pháp nhân, có con dấu hành chính và con dấu nghiệp vụ, được
mở tài khoản tại Ngân hàng, có trụ sở đặt tại thành phố Hà Nội.
Sơ đồ 1.1.: Sơ đồ tổ chức của Cục Đăng kiểm Việt Nam
Nguồn: http://www.vr.mt.gov.vn
20
Cục Đăng kiểm Việt Nam thực hiện chức năng quản lý nhà nước về đăng
kiểm không chỉ đối với phương tiện giao thông đường bộ mà còn đối với tất cả
các loại phương tiện khác như phương tiện phương tiện, thiết bị xếp dỡ, thi công
chuyên dùng, container, nồi hơi và bình chịu áp lực sử dụng trong Giao thông
vận tải đường bộ, đường sắt, đường thủy nội địa, hàng hải trong phạm vi cả
nước; tổ chức thực hiện công tác đăng kiểm chất lượng an toàn kỹ thuật các loại
phương tiện, thiết bị Giao thông vận tải và phương tiện, thiết bị thăm dò, khai
thác, vận chuyển dầu khí trên biển theo quy định của pháp luật [54].
Bên cạnh Cục Đăng kiểm Việt Nam, Sở Giao thông vận tải ở các tỉnh là
cơ quan thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với công tác đăng kiểm xe
cơ giới của các Trung tâm đăng kiểm xe cơ giới thuộc các Sở quản lý [8].
1.1.4.3. Các trung tâm đăng kiểm xe cơ giới
Việc đăng kiểm xe cơ giới được thực hiện tại các Trung tâm đăng kiểm
xe cơ giới. Trung tâm Đăng kiểm xe cơ giới là tổ chức sự nghiệp có thu, thực
hiện chức năng kiểm định an toàn kỹ thuật và bảo vệ mội trường phương tiện
cơ giới đường bộ theo quy định của Bộ Giao thông vận tải và chịu sự quản lý
Nhà nước của Cục Đăng kiểm Việt Nam (với các Trung tâm thuộc Cục) hoặc
Sở Giao thông vận tải (với các Trung tâm thuộc Sở). Các trung tâm này được
tổ chức như các doanh nghiệp hoạt động công ích trong lĩnh vực kiểm định kỹ
thuật phương tiện cơ giới đường bộ, có tư cách pháp nhân, có con dấu riêng,
hạch toán kinh tế độc lập, được vay vốn và mở tài khoản tại ngân hàng để hoạt
động theo quy định của Nhà nước.
Nhiệm vụ, quyền hạn của Trung tâm đăng kiểm xe cơ giới được quy
định trong hệ thống pháp luật hiện hành bao gồm: [5]
- Kiểm tra kỹ thuật và cấp Giấy chứng nhận an toàn kỹ thuật cho các loại
phương tiện cơ giới đường bộ.
21
- Thu phí, lệ phí kiểm định phương tiện theo giá, khung giá quy định của
Nhà nước.
- Thu phí sử dụng đường bộ theo giá, khung giá quy định của Nhà nước.
(thực hiện từ ngày 01/01/2013 theo Thông tư 197/2012/TT-BTC ngày
15/11/2012 của Bộ tài chính về việc Hướng dẫn chế độ thu, nộp, quản lý và sử
dụng phí sử dụng đường bộ theo đầu phương tiện)
- Cung cấp hồ sơ, tài liệu về chất lượng các phương tiện đã qua kiểm tra
đến các cơ quan quản lý chức năng có thẩm quyền.
- Chịu trách nhiệm bảo toàn phát triển cơ sở vật chất, kỹ thuật, tài sản,
trang thiết bị được giao quản lý.
- Quản lý tổ chức và cán bộ, công chức của Trung tâm theo quy định
hiện hành của Nhà nước.
Việc đăng kiểm có thể do các tổ chức hoặc cá nhân tiến hành theo sự cho
phép và kiểm soát của Cục Đăng kiểm Việt Nam. Theo quy định pháp luật hiện
hành về đăng kiểm, mọi tổ chức, cá nhân đều có thể đăng ký thành lập các
Trung tâm đăng kiểm và được phép đăng ký thành lập Trung tâm kiểm định
chất lượng xe cơ giới khi có đủ các điều kiện sau: [8]
a) Trung tâm phù hợp với Quy hoạch Hệ thống Trung tâm đăng kiểm
của Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải
b) Đảm bảo đầy đủ các điều kiện đối với Trung tâm Đăng kiểm xe cơ
giới theo quy định của Bộ Giao thông vận tải
c) Được Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chấp
thuận về địa điểm xây dựng Trung tâm
Các Trung tâm khi đăng ký thành lập phải đáp ứng các yêu cầu về cơ sở
vật chất và nhân lực. Điều kiện cơ sở vật chất kỹ thuật và nhân lực của Trung
tâm đăng kiểm phương tiện giao thông cơ giới đường bộ được quy định tại
22
Thông tư số 59/2013/TT-BGTVT ngày 30 tháng 12 năm 2013 của Bộ trưởng
Bộ Giao thông vận tải bao gồm các đòi hỏi về diện tích mặt bằng, chất lượng
máy móc, thiết bị của dây chuyền kiểm định, máy móc xử lý và truyền tải dữ
liệu kiểm định và chất lượng nhân sự thực hiện kiểm định.
Về nhân sự làm việc tại các trung tâm đăng kiểm: Nhân sự thực hiện
công tác đăng kiểm (trước hết là các đăng kiểm viên trực tiếp thực hiện việc
kiểm tra phương tiện) có thể là viên chức nhà nước hoặc người lao động do
doanh nghiệp thực hiện đăng kiểm theo sự cho phép của Cục Đăng kiểm tuyển
dụng nhưng để đảm bảo chất lượng đăng kiểm của các trung tâm đăng kiểm,
chất lượng nguồn nhân lực làm việc trong các trung tâm này do Cục Đăng
kiểm quy định và kiểm soát, cụ thể:
- Đối với Giám đốc, Phó Giám đốc Trung tâm phải là đăng kiểm viên có
kinh nghiệm kiểm định tối thiểu 03 năm. Khi bổ nhiệm Giám đốc, Phó Giám
đốc phải có thỏa thuận bằng văn bản của cơ quan quản lý nhà nước về công tác
kiểm định.
- Đối với người phụ trách dây chuyền phải là đăng kiểm viên có kinh
nghiệm kiểm định tối thiểu 02 năm.
- Đối với đăng kiểm viên xe cơ giới phải được Cơ quan quản lý nhà
nước về công tác kiểm định công nhận và cấp thẻ đăng kiểm viên.
- Đối với các nhân viên nghiệp vụ phải được Cơ quan quản lý nhà nước
về công tác kiểm định hướng dẫn, bồi dưỡng nghiệp vụ đăng kiểm xe cơ giới.
Trong quá trình hoạt động kiểm định xe cơ giới, đăng kiểm viên và nhân
viên nghiệp vụ phải tham dự các khóa học bổ túc, cập nhật, nâng cao kiến thức
chuyên môn nghiệp vụ. Cán bộ, nhân viên của Trung tâm phải có đầy đủ trang
bị bảo hộ lao động khi làm việc.
Những điều kiện trên về nhân sự được quy định tại Thông tư số
72/2014/TT-BGTVT của Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải ngày 12 tháng 12
23
năm 2014, sửa đổi bổ sung Thông tư số 27/2013/TT-BGTVT ngày 24/9/2013
và có hiệu lực thi hành từ ngày 15/2/2015. So với tiêu chuẩn cũ được quy định
tại Thông tư 27, đối tượng “đầu vào” để trở thành đăng kiểm viên sẽ rộng hơn,
không chỉ bó hẹp là người “tốt nghiệp đại học chuyên ngành cơ khí phương
tiện Giao thông vận tải đường bộ”. Thời gian tập sự tại trung tâm đăng kiểm xe
cơ giới cũng chỉ cần 6 tháng, thay vì 3 năm như hiện nay.
Ngoài các điều kiện trên, để trở thành đăng kiểm viên, phải biết tiếng
Anh tối thiếu là trình độ A, học và được cấp Giấy chứng nhận lớp tập huấn do
Cục Đăng kiểm Việt Nam cấp, có thời gian tối thiểu 2 năm làm việc tại cơ sở
sữa chữa, bảo dưỡng, sản xuất, lắp ráp ôtô hoặc tối thiểu 6 tháng tập sự tại
trung tâm đăng kiểm xe cơ giới, được Cục Đăng kiểm Việt Nam cấp giấy
chứng nhận Đăng kiểm viên. Định kỳ hàng năm, đội ngũ này đều được kiểm
tra sát hạch, đánh giá lại năng lực [4]. Số lượng trung tâm đăng kiểm và dây
chuyền kiểm định được thể hiện ở Bảng 1.2; Danh sách các trung tâm đăng
kiểm xe cơ giới đường bộ được thể hiện ở Phụ lục 1.
Bảng 1.2: Số lượng trung tâm đăng kiểm và dây chuyền kiểm định
TT Năm Số trung tâm đăng kiểm Số lượng dây chuyền kiểm định
1 2011 107 189
2 2012 107 191
3 2013 110 201
4 2014 114 211
5 2015 113 215
6 2016 139 220
Nguồn: Cục Đăng kiểm Việt Nam
24
Theo số liệu thống kê của Cục Đăng kiểm Việt Nam tại Bảng 1.2., số
lượng các trung tâm đăng kiểm và các dây chuyền đăng kiểm đã tăng lên đáng
kể trong những năm vừa qua cho thấy nhu cầu đăng kiểm ngày càng tăng.
Việc gia tăng về số lượng các trung tâm đăng kiểm xe cơ giới đường bộ
và số lượng các dây chuyền đăng kiểm tại các trung tâm trong những năm vừa
qua phản ánh nhu cầu đăng kiểm ngày càng tăng trong xã hội. Cùng với sự
phát triển kinh tế-xã hội nói chung, việc sở hữu một phương tiện cơ giới lưu
hành đường bộ đã trở nên dễ dàng hơn và số lượng các phương tiện cơ giới cần
được đăng kiểm hang năm cũng tăng lên đáng kể [36].
Việc tăng số lượng các trung tâm đăng kiểm và số lượng các dây chuyền
đăng kiểm góp phần quan trọng vào việc đảm bảo nhu cầu đăng kiểm đang
ngày càng tăng lên trong những năm gần. Bảng 1.3 dưới đây cho thấy số lượng
xe kiểm định và tỷ lệ tăng trưởng phương tiện.
Bảng 1.3: Số lượng xe kiểm định và tỷ lệ tăng trưởng
TT Năm Số lượng ô
tô Số lượt kiểm định
Tỷ lệ số lượt ô tô phải kiểm định và tổng số ô tô Tỷ lệ tăng trưởng so với năm trước (%)
2011 4.484 9.555 9555/4484 100,76 1
2012 4.518 11.170 11.170/4.518 247,23 2
2013 4.799 12.370 12.370/4.799 257,76 3
2014 5.272 16.335 16.335/5.272 309,84 4
2015 5.883 14.443 14.443/5.883 245,50 5
2016 6.611 15.637 15.637/6.611 236,53 6
Nguồn: Các báo cáo kết quả kiểm định của trung tâm đăng kiểm 8501S
25
1.2. XÃ HỘI HÓA CÔNG TÁC ĐĂNG KIỂM XE CƠ GIỚI ĐƯỜNG BỘ
1.2.1. Khái niệm xã hội hóa
Thời gian gần đây, thuật ngữ “xã hội hóa” không chỉ được đề cập trong
các văn bản mang tính chất định hướng của Đảng, Nhà nước, mà còn được sự
quan tâm khá đặc biệt từ phía các nhà nghiên cứu. Thậm chí, nó đã không còn
xa lạ với đa số người dân, mặc dù không hẳn ai cũng hiểu tường tận khái niệm
này. Liên quan đến công việc quản lý nhà nước, thuật ngữ này được sử dụng
như một “giải pháp” cho cải cách việc cung ứng các dịch vụ công. Theo cách
hiểu này, vai trò cung ứng dịch vụ của các chủ thể cung ứng có sự thay đổi:
chuyển từ sự độc quyền của Nhà nước sang hướng mở rộng cung ứng các dịch
vụ này ra ngoài khu vực nhà nước nhằm tập hợp nguồn lực của xã hội để cùng
thực hiện mục tiêu cải thiện chất lượng cung ứng dịch vụ công.
Hiện nay, chưa có một khái niệm chung duy nhất về xã hội hóa mà phụ
thuộc vào cách tiếp cận của các tác giả khác nhau thì khác nhau. Chẳng hạn:
Tiếp cận ở gốc độ xã hội học thì xã hội hóa là quá trình mà qua đó cá
nhân học hỏi, lĩnh hội nền văn hóa của xã hội như các khuôn mẫu xã hội [40].
Tiếp cận khác của GS.Ngô Thành Dương, xã hội hóa là nói lên sự chuyển
hóa từ tính chất cá nhân thành tính chất xã hội.
Tiếp cận của TS. Nông Phú Bình (2000), Một số thuật ngữ hành chính,
Nxb Thế giới thì “xã hội hóa là quá trình chuyển hóa, tạo lập cơ chế hoạt động
và cơ chế tổ chức quản lý mới của một số lĩnh vực hoạt động kinh tế-xã hội, trên
cơ sở cộng đồng trách nhiệm nhằm khai thác, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực
của xã hội, phục vụ cho mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội của đất nước”.
26
Hiện nay có nhiều cách tiếp cận khác nhau ở các quốc gia khác nhau như
quá trình mở rộng sự tham gia của tư nhân trong hoạt động cung ứng dịch vụ
công. Quá trình xã hội hóa theo hướng mở rộng sự tham gia của nhân dân trong
hoạt động cung ứng dịch vụ công, một lĩnh vực trước đây do Nhà nước thực
hiện. Xã hội hóa tạo cơ hội để có thể tồn tại hoạt động cung ứng dịch vụ công
của nhiều tổ chức ở các thành phần kinh tế khác nhau thuộc sở hữu khác nhau.
Các tổ chức này cùng cung ứng dịch vụ công trong môi trường pháp lý bình
đẳng và cùng cạnh tranh với nhau về chất lượng cung ứng. Tuy nhiên, tuỳ
thuộc vào điều kiện cụ thể mà các thành phần kinh tế sẽ tham gia ở mức độ
khác nhau. Chính phủ không muốn độc quyền, nhưng các thành phần kinh tế
khác không muốn tham gia do hiệu quả kinh tế mà họ nhận được. Các thành
phần kinh tế thường lựa chọn những lĩnh vực nào đem lại lợi nhuận cao, ít rủi
ro để tham gia.
Xã hội hóa hoạt động cung ứng dịch vụ công với sự ra đời của nhiều chủ
thể kinh tế thuộc các thành phần khác nhau kéo theo đòi hỏi Nhà nước phải
trao quyền tự quản nhiều cho các đơn vị cung ứng dịch vụ công. Họ phải được
quyền quyết định tất cả các vấn đề liên quan đến hoạt động cung ứng dịch vụ
công trong khuôn khổ pháp luật đã quy định. Vai trò quản lý vĩ mô của các cơ
quản Nhà nước tập trung vào việc xây dựng hành lang pháp lý cho sự hoạt
động của tất cả các tổ chức cung ứng dịch vụ công chứ không phải để can thiệp
và hoạt động cụ thể của các chủ thể đó [40].
Do xã hội hóa hoạt động cung ứng dịch vụ công là thu hút sự tham gia
của các thành phần kinh tế tự chủ về tài chính đòi hỏi phải trao quyền quyết
định điều hành cho họ. Có như thế mới bảo đảm được hiệu quả hoạt động cung
27
ứng dịch vụ công. Sự can thiệp của Nhà nước sâu vào hoạt động cụ thể của
doanh nghiệp có thể không thu hút được các nhà đầu tư.
Xã hội hóa theo hướng quy định rõ trách nhiệm của Nhà nước trong việc
chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; khuyến khích các thành
phần kinh tế tham gia cung ứng các dịch vụ trong môi trường cạnh tranh bình
đẳng, lành mạnh… đẩy mạnh xã hội hóa, huy động toàn xã hội chăm lo phát
triển giáo dục, y tế, dân số - kế hoạch hóa gia đình, thể dục, thể thao [14].
Qua một số khái niệm về xã hội hóa trên thì theo tác giả khái niệm được
TS. Nông Phú Bình dễ hiểu, đầy đủ, phù hợp. Tuy nhiên, vấn đề là cần có sự
phân định rõ ràng, những lĩnh vực do Nhà nước thực hiện, những lĩnh vực mà
Nhà nước có thể giao cho tư nhân thực hiện và những lĩnh vực mà Nhà nước và
tư nhân cùng thực hiện để tránh tình trạng Nhà nước ôm đồm, độc quyền
nhưng thực hiện không hiệu quả, những việc mà đáng ra thuộc về khu vực tư.
Vì vậy, xã hội hóa là quá trình chuyển hóa, tạo lập cơ chế hoạt động và
cơ chế tổ chức quản lý mới của một số lĩnh vực hoạt động kinh tế-xã hội, trên
cơ sở cộng đồng trách nhiệm nhằm khai thác, sử dụng có hiệu quả các nguồn
lực của xã hội, phục vụ cho mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội của đất nước.
Theo quan điểm của tác giả, xã hội hóa là một quá trình công đồng trách
nhiệm giữa các lực lượng trong hệ thống chính trị và người dân. Trong đó, nhà
nước đóng vai trò nồng cốt, nhà nước tiên hành thể chế hóa các quy định liên
quan đến xã hội hóa một lĩnh vực nào đó nhằm huy động mọi lực lượng xã hội
để phát triển lĩnh vực được xã hội hóa. Đồng thời, nhà nước tạo điều kiện cho
người dân được hưởng đầy đủ mọi quyền lợi và nâng cao vai trò, trách nhiệm
của mình đối với lĩnh vực xã hội hóa.
28
Xã hội hóa dịch vụ công được hiểu là quá trình vận động và tổ chức sự
tham gia rộng rãi của nhân dân, của toàn xã hội vào hoạt động cung cấp dịch
vụ công nhằm từng bước nâng cao mức hưởng thụ về dịch vụ của nhân dân[3,
tr.13]. Xã hội hoá dịch vụ công được hiểu trước hết là việc xây dựng cộng
đồng trách nhiệm của các tầng lớp nhân dân đối với việc tạo lập và cải thiện
việc cung cấp dịch vụ công; đa dạng hoá các hình thức cung cấp dịch vụ, mở
rộng các cơ hội cho các tầng lớp nhân dân tham gia chủ động và bình đẳng vào
các hoạt động cung cấp dịch vụ công. Đó là hoạt động nhằm mở rộng các
nguồn đầu tư, khai thác các tiềm năng về nhân lực, vật lực và tài lực trong xã
hội tham gia cùng với nhà nước trong việc cung ứng các dịch vụ công đáp ứng
các đòi hỏi của xã hội. Phá bỏ sự độc quyền, bao cấp của Nhà nước một mặt sẽ
giảm tải được gánh nặng cho các cơ quan công quyền, mặt khác huy động được
các nguồn lực trong xã hội. Không chỉ vậy, xã hội hóa còn được hiểu là quá
trình để mọi người được tham gia bình đẳng vào môi trường lành mạnh, được
thụ hưởng những lợi ích công bằng do dịch vụ công đem lại.
Trong bối cảnh phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, tăng cường hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, việc đổi mới vai trò, trách
nhiệm của nhà nước và bộ máy hành chính nhà nước trong quản lý và tổ chức
cung ứng dịch vụ công gắn liền với chủ trương đẩy mạnh xã hội hóa thực sự là
một nhiệm vụ quan trọng cần phải tập trung giải quyết.
Đại hội VI của Đảng năm 1986 đã xác định phương châm “nhà nước và
nhân dân cùng làm” và chủ trương này tiếp tục được khẳng định tại Đại hội VII.
Tuy nhiên, Đại hội VIII của Đảng (năm 1996) mới chính thức đặt nền móng cho
quá trình xã hội hóa dịch vụ công, lôi cuốn tư nhân tham gia vào cung cấp dịch
vụ công thiết yếu. Báo cáo chính trị được trình bày tại Đại hội này đã khẳng
định: “Thực hiện phương châm đẩy mạnh xã hội hóa các hoạt động văn hóa,
thông tin, thể dục thể thao, y tế, dân số, kế hoạch hóa gia đình và các mặt xã hội 29
khác, hướng vào nâng cao chất lượng cuộc sống vật chất, tinh thần và thể lực
của nhân dân”. Theo quan điểm bày, “các vấn đề chính sách xã hội đều giải
quyết theo tinh thần xã hội hóa. Nhà nước giữ vai trò nòng cốt, đồng thời động
viên mọi người dân, các doanh nghiệp, các tổ chức trong xã hội, các cá nhân và
tổ chức nước ngoài cùng tham gia giải quyết các vấn đề xã hội” [17].
Để triển khai chủ trương này trong thực tế, ngày 21 tháng 8 năm 1997,
Chính phủ đã ban hành Nghị quyết 90/CP về phương hướng và chủ trương xã
hội hóa các hoạt động giáo dục, y tế, văn hóa. Chương trình tổng thể cải cách
hành chính nhà nước giai đoạn 2001-2010 của Chính phủ đặt ra yêu cầu: “Xây
dựng quan niệm đúng đắn về dịch vụ công. Nhà nước có trách nhiệm chăm lo
đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân, nhưng không phải vì thế mà mọi
công việc về dịch vụ công đều do cơ quan nhà nước trực tiếp đảm nhiệm.
Trong từng lĩnh vực cần định rõ những công việc mà nhà nước phải đầu tư và
trực tiếp thực hiện, những công việc cần chuyển giao cho các tổ chức xã hội
đảm nhiệm”.
Các chính sách cụ thể đối với những loại hình dịch vụ công đã được ban
hành trong các văn bản như Nghị định 73/1999/NĐ-CP ngày 19 tháng 8 năm
1999 của Chính phủ về chính sách khuyến khích xã hội hóa đối với các hoạt
động trong lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hóa, thể thao; Nghị quyết 05/2005/NQ-
CP ngày 18 tháng 4 năm 2005 của Chính phủ về đẩy mạnh xã hội hóa các hoạt
động giáo dục, y tế, văn hóa và thể dục thể thao; Nghị định số 53/2006/NĐ-CP
ngày 25 tháng 5 năm 2006 của Chính phủ về chính sách khuyến khích phát
triển các cơ sở cung ứng dịch vụ ngoài công lập; Nghị định số 108/2009/NĐ-
CP ngày 27 tháng 11 năm 2009 của Chính phủ quy định về đầu tư theo hình
thức Hợp đồng Xây dựng-Kinh doanh-Chuyển giao, Hợp đồng Xây dựng-
Chuyển giao- Kinh doanh, Hợp đồng Xây dựng-Chuyển giao, Quyết định
71/2010/QĐ-TTg ngày 09 tháng 11 năm 2010 của Thủ tướng Chính phủ ban 30
hành Quy chế thí điểm đầu tư theo hình thức đối tác công – tư và gần đây là
Nghị định 15/2015/NĐ-CP ngày 14 tháng 02 năm 2015 của Chính phủ về đầu
tư theo hình thức đối tác công-tư; Quyết định số 22/2015/QĐ-TTg ngày 22
tháng 6 năm 2015 của Chính phủ về việc chuyển đơn vị sự nghiệp công lập
thành công ty cổ phần đã xác lập hành lang pháp lý cụ thể cho việc xã hội hóa
việc cung ứng dịch vụ công, lôi cuốn tư nhân tham gia cùng với nhà nước trong
việc bảo đảm các dịch vụ công cho công dân và tổ chức trong xã hội.
Nhìn lại một số thành quả đã đạt được từ việc xã hội hóa dịch vụ công
trên tất cả các lĩnh vực đời sống có thể thấy, nó đem lại những lợi ích không
thể phủ nhận. Bắt đầu từ thay đổi nhận thức về vai trò của Nhà nước đối với
các dịch vụ công liên quan đến thủ tục hành chính - lĩnh vực mà trước đây chỉ
có Nhà nước đảm trách - thì hiện nay đã đã chuyển giao một phần cho các tổ
chức ngoài nhà nước. Việc triển khai xã hội hóa rộng rãi trên các lĩnh vực cụ
thể đã từng bước thể hiện tính đúng đắn của chủ trương xã hội hóa.
Tuy nhiên, xã hội hóa cũng đặt ra nhiều vấn đề đòi hỏi phải tiến hành
nghiên cứu sâu rộng hơn. Vẫn còn các hoài nghi chung quanh các nội dung:
liệu xã hội hóa các dịch vụ công có đem lại hiệu quả bền vững? Nên xã hội hóa
dịch vụ công ở mức độ nào? Nhà nước có bảo đảm được vai trò quản lý của
mình khi các dịch vụ này được xã hội hóa rộng rãi?
Cần thiết phải xác định rõ, mục tiêu mà công cuộc cải cách dịch vụ
công hướng tới là tăng cường khả năng cung cấp và chất lượng của dịch vụ
chứ không phải là mức độ xã hội hóa. Xã hội hóa chỉ là phương thức để đạt
được số lượng và chất lượng dịch vụ công theo mong muốn của Nhà nước và
đáp ứng các đòi hỏi ngày càng cao của xã hội.
Ở nhiều nước phát triển, xu thế chuyển giao dịch vụ công cho các tổ
chức khu vực tư ngày càng được áp dụng nhiều dưới những hình thức khác
31
nhau. Nhà nước chỉ chịu trách nhiệm cung cấp những lĩnh vực mà khu vực tư
không hoặc chưa tham gia. Đối với Việt Nam, hiện nay cung ứng dịch vụ
công vẫn phụ thuộc phần lớn vào Nhà nước vì khu vực tư chưa đủ năng lực
để cung cấp tốt các dịch vụ này. Do vậy, cần phải xác định được lĩnh vực nào
cần xã hội hóa, và xã hội hóa ở cấp độ nào thì đem lại hiệu quả tốt nhất cho
người dân, chứ không vì tiêu chí xã hội hóa mà thiếu quan tâm tới chất lượng
dịch vụ.
Thông thường, các doanh nghiệp trong khu vực tư nhân chú trọng nhiều
đến lợi nhuận, luôn có xu hướng đẩy giá dịch vụ lên cao, các loại phí dịch vụ bị
điều chỉnh tùy tiện, chất lượng dịch vụ thấp, cơ chế tài chính không minh bạch.
Vẫn còn nhiều cơ sở tư nhân được thành lập dưới dạng tự phát nên khó kiểm
soát chất lượng. Tất cả đang đặt ra vấn đề về kiểm soát chất lượng đối với các
dịch vụ được khối tư nhân cung ứng cho xã hội. Có thể nhận thấy rõ ràng rằng,
tình trạng kém chất lượng trong cung ứng dịch vụ không bắt nguồn từ việc xã
hội hóa, song mức độ xã hội hóa ồ ạt, không rõ ràng và thiếu kiểm soát đã tác
động tiêu cực đến quyền lợi của người thụ hưởng dịch vụ và ảnh hưởng tới
chất lượng xã hội hóa.
1.2.2. Khái niệm và ý nghĩa của xã hội hóa công tác đăng kiểm xe cơ giới
1.2.2.1. Khái niệm
Công tác đăng kiểm xe cơ giới được thực hiện ở mọi quốc gia trên thế
giới nhưng dưới những hình thức hết sức khác nhau. Ở một số nước, việc đăng
kiểm này hoàn toàn do Nhà nước thực hiện như Trung Quốc, Thái Lan và hầu
hết các nước Đông Âu, ngay cả Việt Nam trước năm 2005 cũng vậy; một số
nước khác lại hoàn toàn do tư nhân đảm nhiệm như Úc, Singapore,… nhưng ở
nhiều nước do cả nhà nước và tư nhân cùng thực hiện (Nhật Bản, Hàn Quốc,
Đức, Pháp,…) [6].
32
Giống như nhiều hoạt động khác do nhà nước chịu trách nhiệm thực
hiện, cùng với xu hướng tăng cường sự tham gia của tư nhân vào giải quyết các
vấn đề quản lý và cung cấp dịch vụ trong xã hội, đưa vai trò của nhà nước từ
“người chèo thuyền” (tự mình sản xuất và cung ứng hàng hóa và dịch vụ) sang
“người lái thuyền” (điều tiết, định hướng, dẫn dắt và hỗ trợ), công tác đăng
kiểm cũng đang từng bước thay đổi.
Tốc độ tăng trưởng số lượng các phương tiện giao thông cơ giới đường
bộ tăng nhanh dẫn tới các đơn vị đăng kiểm của nhà nước trước đây không đáp
ứng được hết các nhu cầu đăng kiểm của các tổ chức và cá nhân người có
phương tiện gây nên tình trạng quá tải, ùn tắc và chờ đợi khiến cho tiêu cực
trong công tác đăng kiểm có cơ hội phát sinh và khó kiểm soát. Chính vì vậy,
việc nhà nước và tư nhân cùng chia sẻ, vận hành các trạm đăng kiểm đã được
nghiên cứu triển khai. Với sự cho phép của Nhà nước, các thành phần kinh tế
khác, chủ yếu là các doanh nghiệp tư nhân đang ngày càng tích cực tham gia
vào hoạt động này. Việc lôi cuốn tư nhân tham gia cùng với nhà nước trong
hoạt động kiểm định xe cơ giới được gọi là xã hội hóa kiểm định xe cơ giới.
Xã hội hóa công tác đăng kiểm xe cơ giới là một bộ phận của xã hội hóa,
là quá trình lôi cuốn người dân và các tổ chức trong toàn xã hội tham gia vào
công tác đăng kiểm vốn do nhà nước hoàn toàn đảm nhận trước đây.
1.2.2.2. Quá trình triển khai hoạt động xã hội hóa đăng kiểm xe cơ giới
Trong những năm vừa qua, cùng với việc triển khai mạnh mẽ sự nghiệp
xã hội hóa nói chung của Đảng và Nhà nước, xã hội hóa đăng kiểm xe cơ giới
đã từng bước được hình thành và triển khai mạnh mẽ.
Dịch vụ đăng kiểm xe cơ giới đường bộ được bắt đầu đề xuất thí điểm xã
hội hóa từ năm 2005 theo Đề án “Xã hội hóa đăng kiểm xe cơ giới đang lưu
hành” của Bộ Giao thông vận tải. Cùng với việc triển khai Đề án, nhiều Trung
33
tâm đăng kiểm xe cơ giới đường bộ có sự tham gia của tư nhân đã được phê
duyệt xây dựng và đi vào hoạt động. Chỉ hai năm sau khi Đề án được thông
qua, vào năm 2007 đã có 9 trung tâm đi vào hoạt động trên cả ba miền Bắc,
Trung, Nam.
Trung tâm đăng kiểm tư nhân 6004D là trung tâm đăng kiểm xe cơ giới
đầu tiên do tư nhân xây dựng và vận hành bắt đầu đi vào hoạt động từ ngày 08 tháng 3 năm 2007 tại Đồng Nai. Trung tâm có diện tích 7300m2 nằm cạnh khu
công nghiệp Biên Hòa do Công ty tư nhân Quốc Tuấn đầu tư với dây chuyền
đăng kiểm xe du lịch và xe tải do Đức sản xuất. Tính tới nay đã có hơn 20
doanh nghiệp đăng ký thành lập Trung tâm đăng kiểm và nhiều Trung tâm
Đăng kiểm tư nhân đã được xây dựng và đưa vào hoạt động ở nhiều địa
phương khác nhau như thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Ninh Thuận, Bà Rịa-
Vũng Tàu, Đồng Nai, Bình Dương.
Tính đến năm 2016, cả nước có 135 đơn vị đăng kiểm xe cơ giới. Như
vậy, từ khi thực hiện Đề án “Xã hội hóa công tác đăng kiểm xe cơ giới đang
lưu hành” và Đề án “Quy hoạch tổng thể các trung tâm đăng kiểm và dây
chuyền kiểm định xe cơ giới đến năm 2020, tầm nhìn 2030” đến nay, số trung
tâm đăng kiểm xã hội hóa là 73 đơn vị, trong đó 57 đơn vị đã hoạt động và 16
đơn vị đang xây dựng (14 đơn vị đi vào hoạt động năm 2016 và 02 đơn vị đang
được xây dựng, sẽ đưa vào hoạt động năm 2017) [17].
Cục ĐKVN tiếp tục phối hợp với các địa phương thực hiện Đề án “Xã
hội hóa công tác đăng kiểm xe cơ giới đang lưu hành” theo chủ trương xã hội
hóa công tác đăng kiểm của Chính phủ và Bộ Giao thông vận tải.
Từ khi Đề án được phê duyệt, không có đơn vị đăng kiểm nào của Nhà
nước được thành lập. Năm đơn vị được Cục ĐKVN chuyển cho tư nhân quản
lý và thực hiện đăng kiểm [17].
34
1.2.2.3. Các mô hình cơ bản để kiểm định xe cơ giới đường bộ
Hiện nay, tùy theo mức độ xã hội hóa khác nhau, các Trung tâm đăng
kiểm xe cơ giới được tổ chức và hoạt động theo nhiều mô hình khác nhau, từ
mô hình nhà nước tổ chức và vận hành toàn bộ đến tư nhân tổ chức và vận
hành toàn bộ.
Thực hiện Quyết định số 1658/QĐ-BGTVT ngày 16/5/2005 của Bộ
trưởng Bộ Giao thông vận tải phê duyệt Đề án “Xã hội hóa công tác đăng kiểm
xe cơ giới đang lưu hành”, Cục Đăng kiểm đã thí điểm thành lập một số trung
tâm đăng kiểm theo hai mô hình chủ yếu:
- Mô hình thứ nhất theo hướng các thành phần kinh tế ngoài nhà nước
(doanh nghiệp) đầu tư xây dựng cơ sở vật chất trung tâm đăng kiểm và trực
tiếp tuyển dụng nhân sự (có sát hạch, đánh giá của Cục Đăng kiểm Việt Nam)
để tổ chức thực hiện công tác kiểm định xe cơ giới. Mô hình này được thực
hiện chủ yếu trong giai đoạn 2005-2008 (với 9 trung tâm đăng kiểm trên cả
nước). Hiện nay chỉ còn 5 trung tâm hoạt động theo mô hình này vì 02 trung
tâm đã dừng hoạt động từ năm 2011 và 02 trung tâm chuyển đổi sang mô hình
thứ hai dưới đây [6].
- Mô hình thứ hai được triển khai thực hiện từ 2009 đến nay đi theo
hướng các thành phần kinh tế (doanh nghiệp) đầu tư xây dựng cơ sở vật chất
nhưng nhân viên đăng kiểm không phải là do doanh nghiệp tuyển dụng mà
đăng kiểm viên là viên chức, công chức thuộc các sở Giao thông vận tải hoặc
Cục Đăng kiểm Việt Nam (trong trường hợp các Sở Giao thông vận tải không
đảm nhận) thực hiện công tác kiểm định và cấp giấy chứng nhận.
Đánh giá về các mô hình thí điểm này, Cục Đăng kiểm cho biết, cả hai
mô hình đều có ưu điểm huy động được các nguồn lực, tiềm lực của xã hội đầu
tư cho hoạt động kiểm định, giảm chi ngân sách nhà nước, đáp ứng từng bước
35
nhu cầu kiểm định tăng lên do tăng trưởng phương tiện giao thông cơ giới
đường bộ trong những năm gần đây [6].
Tuy nhiên, thực tế cho thấy tại các trung tâm kiểm định được xã hội hóa
này vẫn luôn tồn tại những nhược điểm nhất định cần khắc phục: các doanh
nghiệp thường đặt mục tiêu lợi nhuận lên cao, do vậy đã có tình trạng cạnh
tranh không lành mạnh, hạ thấp tiêu chuẩn không thực hiện đúng, đủ quy trình
kiểm định, việc sử dụng cán bộ đăng kiểm của một số đơn vị chưa đúng tiêu
chuẩn, thiếu kiến thức thực tế. Đối với mô hình cử công chức viên chức của
các Sở Giao thông vận tải tham gia thực hiện công tác kiểm định mặc dù có kết
quả hơn, đó là hạn chế được mặt tiêu cực của các doanh nghiệp tới các hoạt
động kiểm định, bảo đảm tính khách quan của kết quả kiểm tra, nhưng hạn chế
nếu chiếu theo luật công chức viên chức thì không phù hợp.
1.2.2.4. Ưu và nhược điểm của việc xã hội hóa dịch vụ đăng kiểm xe cơ
giới đường bộ
Việc xã hội hóa công tác đăng kiểm xe cơ giới đã mang lại nhiều thành
công, từng bước đáp ứng tốt hơn các yêu cầu về đăng kiểm ngày càng gia tăng
hiện nay do số lượng phương tiện tham gia giao thông ngày càng nhiều; huy
động được sự đóng góp của toàn dân vào công tác đăng kiểm, giảm nhẹ gánh
năng tài chính cho ngân sách nhà nước và từng bước tạo nên sự cạnh tranh lành
mạnh giúp cho việc tăng cường chất lượng hoạt động kiểm định. Thực hiện chủ
trương xã hội hóa, bước đầu các trung tâm đã đi vào hoạt động và được đánh
giá khá hiệu quả, huy động được nguồn vốn từ các thành phần kinh tế trong xã
hội, giảm áp lực về đăng kiểm tại các thành phố lớn [23],[29].
Nhìn chung, các Trung tâm đăng kiểm xã hội hóa ra đời đã mang lại một
luồng sinh khí mới cho công tác đăng kiểm, góp phần nâng cao chất lượng
dịch vụ, tạo thuận lợi hơn cho người dân khi tiếp cận dịch vụ đăng kiểm và
36
giảm gánh nặng của nhà nước. Những ưu điểm chủ yếu của xã hội hóa dịch vụ
đăng kiểm xe cơ giới thể hiện chủ yếu trên các mặt sau:
Thứ nhất, đáp ứng nhu cầu ngày càng lớn của hoạt đông kiểm định. Mức
độ phát triển kinh tế-xã hội ngày càng cao nên số lượng phương tiện được đưa
vào swrt dụng sản xuất, kinh doanh và phục vụ đi lại của người dân ngày càng
gia tăng.
Thứ hai, việc huy động các thành phần ngoài nhà nước, trước hết là khu
vực tư nhân, tham gia cùng với nhà nước trong việc cung ứng dịch vụ đăng
kiểm đã phát huy được tiềm năng của toàn xã hội vào quá trình phát triển, tăng
nguồn đầu tư cho việc cung ứng dịch vụ đăng kiểm. Điều này đặc biệt quan
trọng trong bối cảnh ngân sách nhà nước ngày càng eo hẹp.
Thứ ba, xã hội hóa giúp các đơn vị cung ứng dịch vụ đăng kiểm của nhà
nước trở nên năng động hơn, có cơ hội tiếp cận các trang thiết bị kỹ thuật mới
và đáp ứng các nhu cầu đăng kiểm ngày càng gia tăng.
Thứ tư, thông qua quá trình xã hội hóa, hoạt động của nhà nước được
giảm tải, bộ máy nhà nước trở nên tinh gọn hơn, giảm chi ngân sách. Đây cũng
là giải pháp quan trọng để thực hiện chính sách công bằng xã hội trong chiến
lược phát triển kinh tế, xã hội của Đảng và Nhà nước vì nhà nước có thể dành
nguồn ngân sách vốn hạn hẹp để đầu tư cho các vùng khó khăn, các đối tượng
chính sách.
Thứ năm, xã hội hóa dịch vụ công nói chung và dịch vụ đăng kiểm nói
riêng nâng cao ý thức sử dụng dịch vụ của người dân, xây dựng cộng đồng
trách nhiệm và mở rộng sự tham gia của người dân góp phần vào quá trình xây
dựng đất nước. Chất lượng kiểm định cũng từng bước được nâng cao thông qua
sự cạnh tranh công bằng giữa nhà nước và tư nhân.
37
Xã hội hoá không có nghĩa là giảm nhẹ trách nhiệm của nhà nước, trái
lại, nhà nước cần tăng cường khả năng kiểm soát số lượng và chất lượng dịch
vụ, nhất là đối với các cơ sở cung cấp dịch vụ ngoài nhà nước, tức là nhà nước
trở nên “nhỏ hơn” nhưng “mạnh hơn”.
Việc thực hiện xã hội hóa hoạt động kiểm định xe cơ giới đã giảm hẳn
phiền hà, bớt chi phí ngân sách Nhà nước, chất lượng đăng kiểm thời gian qua
được nâng lên rõ. Tuy nhiên, hiện nay, bên cạnh những thành tựu đã đạt được,
hoạt động xã hội hóa trong cung cấp dịch vụ công ở Việt Nam đang phải đối
mặt với nhiều thách thức lớn.
Trước hết, quá trình xã hội hóa công tác đăng kiểm mặc dù đã được triển
khai hơn 10 năm nay nhưng vẫn diễn ra rất chậm: Cho tới nay, phần lớn các
trung tâm đăng kiểm vẫn là các trung tâm của nhà nước do các Sở Giao thông
vận tải các tỉnh và Cục Đăng kiểm Việt Nam thành lập và điều hành hoạt động.
Vì nhiều lý do khác nhau, cả chủ quan và khách quan, việc tham gia cung cấp
dịch vụ công của khu vực ngoài nhà nước còn khá hạn chế và phát sinh nhiều
vấn đề phải giải quyết. Cho tới nay cũng mới chỉ có 73 trung tâm đăng kiểm xã
hội hóa được thành lập và tổ chức hoạt động.
Thứ hai, mức độ xã hội hóa đăng kiểm diễn ra không đồng đều ở các
vùng khác nhau: thường các cá nhân và tổ chức ngoài nhà nước chỉ chú trọng
đầu tư vào các trạm đăng kiểm tại các khu vực thuận lợi như các thành phố lớn,
nơi đông dân cư và thu nhập cao, ít quan tâm tới các khu vực chậm phát triển.
Nguyên nhân là nhà nước vẫn còn thiếu những chính sách khuyến khích rõ
ràng và cụ thể, chưa có được quy hoạch chung để định hướng và lên kế hoạch
triển khai xã hội hóa cho các vùng cụ thể [6].
38
Thứ ba, việc kiểm soát chất lượng dịch vụ và xử lý vi phạm của các đơn
vị cung cấp dịch vụ đăng kiểm ngoài nhà nước chưa được thực hiện chặt chẽ và
nghiêm túc.
Một số trung tâm cạnh tranh không lành mạnh, tự ý hạ thấp tiêu chuẩn,
không thực hiện đúng, đủ quy trình, nội dung kiểm tra. Có trung tâm lại thiếu
đăng kiểm viên mặc dù lúc xin phép thành lập ghi đủ số lượng. Có trung tâm
thì ngay cả lãnh đạo, đăng kiểm viên, nhân viên đều được chủ đầu tư bố trí làm
việc theo hợp đồng, dẫn đến tình trạng hoạt động kiểm định phải làm theo ý chỉ
đạo của chủ đầu tư, cho nên chất lượng kiểm định chưa đúng quy định.
Những sai phạm phát sinh trong công tác đăng kiểm gần đây phần lớn là
tại các cơ sở đăng kiểm tư nhân này. Trong năm 2014, thực hiện hoạt động
kiểm tra đột xuất tại các Trung tâm đăng kiểm ở các tỉnh, Cục Đăng kiểm Việt
Nam đã phát hiện nhiều sat sót và đã phải tạm đình chi hoạt động của 68
trường hợp đăng kiểm viên vi phạm công tác kiểm định; đình chỉ có thời hạn
ba trung tâm đăng kiểm, trong đó có hai trung tâm đăng kiểm xã hội hóa, một
trung tâm đăng kiểm thuộc Sở Giao thông vận tải Bình Thuận.
Trưởng phòng kiểm định xe cơ giới (thuộc Cục Đăng kiểm Việt Nam)
Ngô Hồng Hệ cho biết: "Đến trung tuần tháng 5-2015, Cục Đăng kiểm Việt
Nam đã đình chỉ 18 trường hợp đăng kiểm viên vi phạm về kiểm tra, đánh giá
sai quy trình công tác kiểm định, một số đăng kiểm viên khi thực hiện nhiệm
vụ kiểm tra các xe ô-tô bỏ qua một số công đoạn kiểm định theo quy định để
cấp giấy chứng nhận, tem kiểm định đạt tiêu chuẩn lưu hành. Hành vi của các
đăng kiểm viên nêu trên vi phạm Thông tư số 42/2012/TT- BGTVT, ngày 16-
10-2012, của Bộ trưởng Giao thông vận tải, quy định trách nhiệm và xử lý vi
phạm trong công tác đăng kiểm. Cục ĐKVN đã kiên quyết đình chỉ chức danh
39
đối với các đăng kiểm viên nói trên và đình chỉ chức danh một tháng đối với
Giám đốc Trung tâm đăng kiểm 8802D” [41].
Trong năm 2016, Cục đã thực hiện 274 đợt kiểm tra, thanh tra chuyên
ngành, phát hiện và xử lý vi phạm 77 đăng kiểm viên của 48 đơn vị, trong đó
có 41 đăng kiểm viên thuộc các doanh nghiệp xã hội hóa, 11 đăng kiểm viên
thuộc Cục và 25 đăng kiểm viên thuộc các Sở GTVT; đình chỉ hoạt động có
thời hạn 04 trung tâm. Qua kiểm tra, giám sát ở tất cả các lĩnh vực công tác
đăng kiểm và việc chấp hành các chính sách, pháp luật của Nhà nước, các quy
định của Ngành, Cục ĐKVN đã xử lý kỷ luật đối với 03 đơn vị và 25 cá nhân
trong Cục: buộc thôi việc 02 cá nhân, cảnh cáo 11 cá nhân, khiển trách 12 cá
nhân và cảnh cáo 03 đơn vị [17].
Nguyên nhân chủ yếu của vấn đề này là do thiếu các quy định cần thiết
và ý thức, trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, công chức làm nhiệm vụ kiểm soát
chưa tốt. Các nhà đầu tư tư nhân thường chú trọng nhiều đến lợi nhuận, luôn có
xu hướng đẩy giá dịch vụ lên cao để tận thu nên các loại phí dịch vụ bị điều
chỉnh tùy tiện, để có thể cạnh tranh với các đơn vị đăng kiểm khác, các đơn vị
đăng kiểm được xã hội hóa thường có xu hướng giảm chất lượng dịch vụ, dẫn
tới chất lượng đăng kiểm tại các cơ sở này khá thấp và ảnh hưởng tới mức độ
an toàn của phương tiện khi tham gia giao thông. Các tiêu cực phát sinh chủ
yếu tại các trung tâm đăng kiểm được xã hội hóa: để nhanh chóng thu hồi vốn
trong khi phí đăng kiểm các loại phương tiện quá thấp khiến cho việc đầu tư
dây chuyền đăng kiểm không có lợi cho các nhà đầu tư tư nhân nên chưa
khuyến khích được họ tham gia một cách tích cực.
Thứ tư, các doanh nghiệp tham gia vào quá trình xã hội hóa công tác
đăng kiểm phần lớn là các doanh nghiệp nhỏ lẻ với khả năng đầu tư thấp và
mong muốn thu hồi vốn nhanh do đó khi trung tâm đăng kiểm hoạt động không
40
hiệu quả khiến doanh nghiệp không thể tiếp tục duy trì hoạt động thì doanh
nghiệp tự quyết định việc dừng hoạt động gây khó khăn cho lái xe, chủ xe và
cả công tác quản lý dữ liệu đăng kiểm nói chung như trường hợp trung tâm
5010D, trung tâm 5008 D ở Thành phố Hồ Chí Minh đã dừng hoạt động mà
không thông báo dữ liệu lên Cục Đăng kiểm [6].
1.3. QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI XÃ HỘI HÓA CÔNG TÁC
ĐĂNG KIỂM XE CƠ GIỚI ĐƯỜNG BỘ
Quản lý nhà nước là chủ thể quản lý nhà nước tác động đến đối tượng
quản lý bằng các công cụ của nhà nước bảo đảm tuân thủ quy luật khách quan,
phù hợp với điều kiện lịch sử nhằm đạt được mục tiêu chung là phục vụ, duy
trì, phát triển và ổn định trật tự xã hội.
Quản lý nhà nước đối với xã hội hóa công tác đăng kiểm xe cơ giới
đường bộ là các cấp quản lý từ Trung ương đến địa phương điều chỉnh, định
hướng, dẫn dắt hoạt động đăng kiểm xe cơ giới thông qua các văn bản quy
phạm pháp luật, tạo lập môi trường pháp lý, tạo điều kiện thuận lợi để thu hút
nguồn lực ngoài khu vực công cùng với nhà nước tham gia cung ứng dịch vụ
công nhằm hướng đến mục tiêu nâng cao chất lượng đăng kiểm góp phần bảo
vệ môi trường, bảo đảm an toàn giao thông và tính mạng, tài sản của người
tham gia giao thông.
Với triết lý phục vụ và duy trì, cải thiện hành chính công trong một thế
giới cạnh tranh đặt ra cho các nhà quản lý các vấn đề cần phải cân nhắc, đánh
giá kỹ lưỡng trước khi quyết định như “xã hội hóa các dịch vụ công có đem lại
hiệu quả bền vững? Nên xã hội hóa dịch vụ công ở mức độ nào? Nhà nước có
bảo đảm được vai trò quản lý của mình khi các dịch vụ này được xã hội hóa
rộng rãi?”.
Xã hội hóa công tác đăng kiểm xe cơ giới đường bộ không có nghĩa là
nhà nước bị loại mất vai trò quản lý của mình, ngược lại vai trò quản lý nhà 41
nước cần tăng lên khi thiết lập vai trò và trách nhiệm của nhà nước trong việc
cung ứng dịch vụ đăng kiểm xe cơ giới đường bộ. Sự thiếu vắng vai trò quản lý
nhà nước và bỏ mặc theo kiểu “khoán trắng” có thể dẫn đến sự mất ổn định
trong cung ứng dịch vụ đăng kiểm xe cơ giới đường bộ và làm cho quá trình xã
hội hóa công tác đăng kiểm xe cơ giới đường bộ thiếu tính bền vững, tạo ra sự
bất bình đẳng trong xã hội. Vai trò quản lý nhà nước là vừa đảm bảo các mục
tiêu phát triển kinh tế- xã hội trên cơ sở huy động nguồn lực, vừa phải đảm bảo
quá trình xã hội hóa công tác đăng kiểm xe cơ giới đường bộ diễn ra theo quy
luật của thị trường.
Khi tiến hành xã hội hóa công tác đăng kiểm xe cơ giới đường bộ, nhà
nước cần phải xác định được nội dung cần quản lý như: xây dựng, ban hành và
tổ chức thực hiện văn bản quy phạm pháp luật, chính sách, chiến lược, kế
hoạch, tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật; quản lý thống nhất các hoạt động đăng
kiểm xe cơ giới đường bộ; quản lý thông tin, dữ liệu, cấp, gia hạn, thu hồi giấy
chứng nhận trung tâm đăng kiểm đủ điều kiện hoạt động; phổ biến, giáo dục
pháp luật, thông tin truyền thông nâng cao nhận thức cộng đồng; theo dõi thi
hành pháp luật về công tác đăng kiểm xe cơ giới đường bộ; quản lý đội ngũ
đăng kiểm viên xe cơ giới đường bộ; thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp
luật, giải quyết khiếu nại, tố cáo về hoạt động đăng kiểm xe cơ giới đường bộ...
Muốn đảm bảo chất lượng dịch vụ đăng kiểm xe cơ giới đường bộ và mở
rộng chuyển giao việc cung ứng dịch vụ này cho khu vực tư nhân, nhà nước
cần phải có cơ chế thích hợp. Trước hết, hoàn thiện pháp luật một cách đồng
bộ về quản lý nhà nước về công tác đăng kiểm xe cơ giới đường bộ, trao thẩm
quyền cụ thể doanh nghiệp cung ứng dịch vụ công. Có chế tài xử lý vi phạm
cùng với cơ chế bảo đảm thực hiện các chế tài đó khi có hành vi vi phạm.
42
Chỉ những tổ chức được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp giấy
chứng nhận đủ điều kiện hoạt động kiểm định xe cơ giới mới được phép kinh
doanh dịch vụ kiểm định xe cơ giới theo quy định tại Điều 4 của Nghị định số
63/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016 của Chính phủ quy định về điều kiện kinh
doanh dịch vụ đăng kiểm xe cơ giới đường bộ; Cục Đăng kiểm Việt Nam là cơ
quan có thẩm quyền cấp mới, gia hạn, cấp lại, đình chỉ, thu hồi giấy chứng
nhận đủ điều kiện hoạt động kiểm định xe cơ giới [13].
Với vị trí là chủ thể quản lý vĩ mô, nhà nước có vai trò quan trọng trong
việc thực hiện xã hội hóa dịch vụ đăng kiểm xe cơ giới đường bộ, đồng thời
đảm bảo chất lượng dịch vụ cung cấp cho xã hội. Nhà nước cần phải ban hành
các văn bản pháp lý làm công cụ quản lý đồng thời là khung pháp lý và môi
trường cho các đơn vị đăng kiểm hoạt động. Điều quan trọng là phải ban hành
được các tiêu chuẩn về chất lượng kiểm định xe cơ giới.
Điều 27 của Nghị định số 63/2016/NĐ-CP của Chính phủ quy định về
trách nhiệm quản lý nhà nước của các cấp ngành, địa phương đối với hoạt động
đăng kiểm xe cơ giới đường bộ.
Bên cạnh đó, nhà nước cần xây dựng chính sách, môi trường, định hướng
và hỗ trợ cho các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực cung ứng dịch vụ
đăng kiểm xe cơ giới đường bộ. Nhà nước cần làm đúng vai trò của mình,
chuyển từ “người chèo thuyền sang người lái thuyền”. Nhà nước phải có trách
nhiệm điều chỉnh được hoạt động đăng kiểm xe cơ giới đường bộ đối với các
doanh nghiệp nhằm hướng đến mục tiêu phục vụ và duy trì trật tự xã hội.
Nhà nước cần quy định rõ cơ chế tài chính và mức độ trần để nhà nước có
thể can thiệp, điều chỉnh được khi cần thiết, nhà nước sẽ can thiệp khi có
những thay đổi khách quan như thay đổi mức phí, khi giá dịch vụ cao hơn mặt
43
bằng chung hoặc khi thực hiện chính sách xã hội, cần phối hợp bảo đảm an
ninh, quốc phòng.
Công tác đăng kiểm xe cơ giới đường bộ có tính xã hội cao, vì vậy Nhà
nước vẫn có trách nhiệm tiếp tục đầu tư ngân sách hợp lý, hỗ trợ cho các đơn vị
đăng kiểm tồn tại nhằm đáp ứng nhu cầu xã hội. Xã hội hóa công tác đăng
kiểm xe cơ giới đường bộ không có nghĩa là nhà nước thoái thác cho xã hội,
mà ngược lại vai trò của nhà nước chuyển lên một tầm cao mới là nhà quản lý,
dẫn dắt, chuyển giao khoa học công nghệ, thành tựu nhân loại cho các doanh
nghiệp kế thừa và phát triển mang lại hiệu quả cao cho xã hội.
Nhà nước cần phân biệt rõ ràng về tài chính, đâu là lĩnh vực do nhà nước
trực tiếp thực hiện, đâu là lĩnh vực nhà nước giao cho tư nhân thực hiện, trong
khi đó nhà nước giữ vai trò quản lý nhằm đảm bảo trách nhiệm đồng thời sử
dụng hiệu quả các nguồn lực của xã hội.
Nhằm đẩy mạnh xã hội hóa trong cung ứng dịch vụ công cho xã hội,
Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 90/NQ-CP, Nghị định số 73/1999/NĐ-
CP và các văn bản chỉ đạo đẩy mạnh xã hội hoá dịch vụ công, Quyết định số
22/2015/QĐ-TTg về việc chuyển đơn vị sự nghiệp công lập thành công ty cổ
phần... Từ các cơ sở pháp lý này, hàng loạt cơ sở cung ứng dịch vụ trong các
lĩnh vực y tế, giáo dục, văn hóa và thể thao đã ra đời. Đồng thời, đã nảy sinh
nhiều vấn đề về kiểm soát chất lượng dịch vụ. Thông thường, các doanh nghiệp
trong khu vực tư nhân chú trọng nhiều đến lợi nhuận, luôn có xu hướng đẩy giá
dịch vụ lên cao, các loại phí dịch vụ bị điều chỉnh tùy tiện, chất lượng dịch vụ
yếu, cơ chế tài chính không minh bạch.
44
1.4. KINH NGHIỆM XÃ HỘI HÓA HOẠT ĐỘNG ĐĂNG KIỂM
XE CƠ GIỚI ĐƯỜNG BỘ Ở MỘT SỐ ĐỊA PHƯƠNG
1.3.1. Xã hội hóa đăng kiểm xe cơ giới tại Đồng Nai
Đồng Nai là tỉnh đi đầu trong việc xã hội hóa công tác đăng kiểm xe cơ
giới. Trước khi Trung tâm đăng kiểm 60-04D đi vào hoạt động, tại thành phố
Biên Hòa đã có 4 trung tâm đăng kiểm xe cơ giới là các trạm 6001S, 6002S,
6003S và 60-04S đều là các trung tâm đăng kiểm do Sở Giao thông vận tải tỉnh
Đồng Nai quản lý nhưng do là tỉnh phát triển công nghiệp mạnh mẽ lại nằm
gần trung tâm kinh tế của cả nước là thành phố Hồ Chí Minh nên các trung tâm
này có số lượng các phương tiện giao thông đến đăng kiểm rất đông và luôn
trong tình trạng quá tải.
Trung tâm đăng kiểm xe cơ giới 6004D tại Đồng Nai là một trong 9
trung tâm đăng kiểm tư nhân đầu tiên của cả nước được Cục Đăng kiểm Việt
Nam cho phép hoạt động sau khi thí điểm xã hội hóa lĩnh vực này. Trung tâm
đăng kiểm xe cơ giới 6004D được thành lập và đi vào hoạt động từ ngày 08
tháng 03 năm 2007 theo giấy chứng nhận số 91/GNN của Cục Đăng kiểm Việt
Nam cấp ngày 28/02/2007. Trung tâm có tổng diện tích 7.300m2 nằm trong
Khu Công nghiệp Biên Hoà 2 - tỉnh Đồng Nai do Công ty TNHH Quốc Tuấn
đầu tư, được trang bị dây chuyền thiết bị kiểm định xe du lịch và dây chuyền
kiểm định xe tải do CHLB Đức sản xuất có khả năng kiểm tra 90 phương
tiện/ngày tức là khoảng 12.000-24.000 xe/năm. Với đội ngũ đăng kiểm viên
đều là kỹ sư chuyên ngành và nhân viên nghiệp vụ được Cục Đăng kiểm Việt
Nam đào tạo theo đúng quy trình và được cấp giấy chứng nhận Đăng kiểm viên
hạng 3.
Trung tâm đăng kiểm gồm có 2 chuyền kiểm định, mỗi ngày tiếp nhận
hơn 100 xe cơ giới các loại trên địa bàn tỉnh Đồng Nai và các tỉnh lân cận.
45
Ngay trong năm đầu thành lập, Trung tâm đã đạt doanh số là 1 tỷ 480 triệu
đồng, số lượng xe kiểm định là 9.301 xe các loại. Năm 2010 doanh số đạt 3 tỷ
200 triệu đồng, số lượng xe kiểm định tại đây tăng lên là 19.696 xe các loại.
Tuy nhiên, công tác đăng kiểm tại Trung tâm đăng kiểm 6004D những
năm gần đây đã có nhiều biểu hiện tiêu cực không mong muốn. Liên quan đến
công tác đăng kiểm, cuối năm 2013 đến đầu năm 2014, Bộ Giao thông vận tải
đã tiến hành thanh kiểm tra công tác kiểm định an toàn kỹ thuật tại 9 trung tâm
đăng kiểm trên cả nước. Kết quả cho thấy, một số đơn vị đăng kiểm vẫn chưa
đảm bảo đầy đủ các tiêu chí về điều kiện hoạt động theo quy định, nhất là tại
các trung tâm đăng kiểm được xã hội hóa, như: diện tích nhà xưởng không
đúng tiêu chuẩn; bãi đỗ xe không phù hợp; chưa có đầy đủ các trang thiết bị về
phòng cháy chữa cháy hoặc có một số bình chữa cháy không đảm bảo yêu cầu;
đường dây nóng không kết nối được với Cục Đăng kiểm Việt Nam và đặc biệt
là không đủ điều kiện về nhân lực đăng kiểm; Đăng kiểm viên thường xuyên vi
phạm trong công tác kiểm tra, giám sát hoạt động kiểm định, lưu trữ hồ sơ
chưa thực hiện đầy đủ chức năng, nhiệm vụ theo quy định.
Vào ngày 04/3/2014, Đoàn kiểm tra của Cục Đăng kiểm Việt Nam bất
ngờ kiểm tra Trung tâm Đăng kiểm xe cơ giới 6004D và yêu cầu phúc tra kiểm
định đối với phương tiện biển số 60V-6734 và 53M-4752 (những xe đã được
Trung tâm đăng kiểm xe cơ giới 6004D kiểm định lần một và kết luận đạt yêu
cầu nhưng chưa in cấp Giấy chứng nhận và tem kiểm định). Qua phúc tra, Cục
Đăng kiểm Việt Nam đã phát hiện sai phạm trong quá trình đăng kiểm của
Trung tâm bởi xe khách 53M- 4752 có số của hành khách ngồi không đúng quy
định (nhiều hơn bốn ghế), đèn phanh bên phải không sáng, kết quả kiểm tra
đèn chiếu xa không lưu được trên phiếu kiểm định. Còn đối với xe khách 60V
– 6734 có nhiều hạng mục không đạt như vỏ đèn xi nhan trước và sau bên trái
46
bị vỡ, có hai băng dọc theo xe không đúng tiêu chuẩn và quy định, không có
đèn biển số...
Với kết quả kiểm tra nêu trên, ngày 20/3/2014, Cục Đăng kiểm Việt
Nam đã quyết định tạm đình chỉ hoạt động đối với Trung tâm Đăng kiểm xe cơ
giới 6004D trong thời hạn 01 tháng (bắt đầu từ ngày 19-3) vì để các đăng kiểm
viên thực hiện sai quy trình, tiêu chuẩn, đánh giá sai kết quả kiểm định, sử
dụng thiết bị không đảm bảo tiêu chuẩn để kiểm tra. Theo đó, qua kiểm tra,
phúc tra, Đoàn kiểm tra của Cục đăng kiểm Việt Nam xác định, trong quá trình
kiểm định xe cơ giới, Trung tâm đăng kiểm xe cơ giới 6004D đã để xảy ra một
số sai sót. Cụ thể, trong quá trình kiểm định một số xe cơ giới, Trung tâm đăng
kiểm xe cơ giới 6004D đã kết luận đạt kết quả nhưng chưa in cấp giấy chứng
nhận và tem kiểm định.
Mặc dù Trung tâm Đăng kiểm xe cơ giới 6004D đã nghiêm chỉnh chấp
hành, khắc phục ngay những sai phạm, lãnh đạo Công ty Cổ phần ô tô Quốc
Tuấn cũng đã yêu cầu các cán bộ có liên quan viết bản kiểm điểm và đề xuất
hình thức kỷ luật nhưng thực trạng này cho thấy những bất cập xảy ra đối với
việc xã hội hóa công tác đăng kiểm khi thiếu cơ chế và hoạt động kiểm soát
chưa được thực hiện một cách nghiêm túc.
1.3.2. Xã hội hóa đăng kiểm xe cơ giới tại Nam Định
Trong nhiều năm, trên địa bàn toàn tỉnh Nam Định chỉ có duy nhất
Trung tâm Đăng kiểm phương tiện giao thông Nam Định số 1801S thuộc Sở
Giao thông vận tải Nam Định thực hiện việc đăng kiểm đối với các phương
tiện Giao thông vận tải đường bộ, vì vậy tần suất và số lượng phương tiện tham
gia đăng kiểm tại Trung tâm rất cao, không đáp ứng được những yêu cầu của
công tác đăng kiểm phương tiện hiện nay trên địa bàn. Đặc biệt thời gian thực
hiện năm An toàn giao thông 2014, do yêu cầu siết chặt công tác đăng kiểm
47
phương tiện đường bộ, nhiều xe do phải đi sửa chữa nhiều lần mới đáp ứng yêu
cầu đăng kiểm, trong khi năng lực và công suất hoạt động của Trung tâm có
giới hạn càng khiến ùn tắc các phương tiện khi đến thục hiện đăng kiểm định
kỳ tại Trung tâm. Với quy mô, công suất dây chuyền kiểm định của Trung tâm,
Cục Đăng kiểm Việt Nam cũng chỉ cấp 50 tem đăng kiểm/ngày nên Trung tâm
không thể đăng kiểm số lượng xe vượt quá quy định này. Để giải quyết tình
trạng này, Trung tâm Đăng kiểm phương tiện giao thông Nam Định đã chủ
động ký kết thuê bãi để các xe đăng kiểm chờ bố trí nhân viên hướng dẫn các
xe đến lượt đưa nhanh vào dây chuyền để kiểm định. Đồng thời bố trí cán bộ,
kiểm định viên làm tăng ca để đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Tuy nhiên,
năng lực của Trung tâm cũng chưa đáp ứng nhu cầu kiểm định phương tiện
hiện nay.
Nhằm đáp ứng yêu cầu kiểm định phương tiện cơ giới đường bộ ngày
càng tăng trong những năm tới, giảm tải cho Trung tâm Đăng kiểm phương
tiện giao thông Nam Định 1801S, thực hiện chủ trương xã hội hóa công tác
đăng kiểm của Bộ Giao thong Vận tải đến năm 2015, ngày 23/10/2013, UBND
tỉnh Nam Định đã ban hành Quyết định số 1717/QĐ-UBND phê duyệt quy
hoạch xây dựng các trung tâm đăng kiểm xe cơ giới trên địa bàn tỉnh Nam
Định đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030. Theo đó, trên toàn tỉnh sẽ xây
dựng ba trung tâm đăng kiểm tại 3 vị trí: Ven Quốc lộ (QL) 10 thuộc địa phận
xã Mỹ Tân (Mỹ Lộc); Km150+800 QL 21 (đường Lê Đức Thọ) thuộc địa phận
xã Nghĩa An (Nam Trực); Km180+740 QL 21 thuộc địa phận xã Hải Thanh
(Hải Hậu). Hai Trung tâm đăng kiểm mới được xây dựng dưới hình thức xã hội
hóa.
Để thực hiện chủ trương này, Sở Giao thông vận tải Nam Định đã chủ
trì, phối hợp với các Sở, Ngành liên quan và UBND các huyện, thành phố tổ
chức công khai quy hoạch, triển khai thực hiện quy hoạch theo đúng các quy 48
định hiện hành. Mô hình xã hội hóa được lựa chọn là mô hình: Các thành phần
kinh tế đầu tư cơ sở vật chất; cán bộ, đăng kiểm viên là công chức, viên chức
thuộc Sở Giao thông vận tải thực hiện kiểm định và cấp Giấy chứng nhận an
toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường cho xe cơ giới.
Ngay từ ban đầu có chủ trương xây dựng các Trung tâm đăng kiểm theo
mô hình mới, Văn phòng Sở Giao thông vận tải đã tập trung theo dõi, hướng
dẫn 2 đơn vị tham gia xây dựng trung tâm đăng kiểm theo mô hình xã hội hoá,
bám sát kế hoạch đào tạo đăng kiểm viên của Cục Đăng kiểm Việt Nam, tham
mưu với lãnh đạo Sở cử cán bộ đào tạo đăng kiểm viên theo quy định để đáp
ứng đủ yêu cầu nhân lực khi trung tâm đi vào hoạt động. Trung tâm 1802D do
Công ty Điện Thông đầu tư đã hoàn thiện thiết kế, ký hợp đồng mua thiết bị và
đã khởi công trong tháng 4/2014. Trung tâm 1803D do Công ty Cổ phần Đạt
Thành đầu tư tại xã Hải Thanh, Hải Hậu, Nam Định, đã xây dựng xong nhà
điều hành và văn phòng trung tâm, đã ký hợp đồng mua thiết bị, trong tháng
5/2014 bắt đầu lắp đặt thiết bị và đi vào hoạt động từ năm 2015.
Để đạt chất lượng cao trong công tác kiểm định, phòng ngừa tiêu cực,
góp phần kiềm chế và giảm thiểu tai nạn giao thông, Sở Giao thông vận tải
Nam Định đã xây dựng kế hoạch chỉ đạo, giám sát các trung tâm bảo đảm thực
hiện tốt mọi quy định, không vì lợi nhuận mà bất chấp quy tắc, bỏ qua bất cứ
khâu nào trong kiểm định. Sở Giao thông vận tải phối hợp với các cơ quan liên
quan tổ chức kiểm tra Trung tâm Đăng kiểm phương tiện giao thông Nam Định
và các trung tâm đăng kiểm xã hội hóa (khi đi vào hoạt động) để kịp thời phát
hiện và xử lý nghiêm các hành vi vi phạm.
49
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1
Đăng kiểm phương tiện cơ giới đường bộ là hoạt động đăng ký kiểm định
định kỳ cho các loại phương tiện cơ giới tham gia giao thông đường bộ nhằm
đảm bảo tiêu chuẩn an toàn giao thông và bảo vệ môi trường của các phương
tiện đáp ứng các yêu cầu đặt ra của nhà nước là một trong những công tác quan
trọng để bảo đảm an toàn giao thông đường bộ và chống ô nhiễm môi trường.
Cùng với sự phát triển kinh tế-xã hội của đất nước và những đòi hỏi của
việc bảo vệ môi trường, số lượng các phương tiện tham gia giao thông đường
bộ ở nước ta đang ngày càng gia tăng mạnh mẽ, gây áp lực đối với công tác
đăng kiểm. Mặc dù công tác đăng kiểm trong những năm qua đã đạt nhiều
thành tựu nhưng cũng còn nhiều nhược điểm cần giải quyết. Việc quá tải tại
các Trung tâm đăng kiểm xe cơ giới đường bộ chính là nguyên nhân chủ yếu
dẫn tới những sai phạm trong hoạt động của các trung tâm này, dẫn tới tình
trạng làm ẩu, nhũng nhiễu,… Chính vì vậy, mở rộng quy mô đăng kiểm là yêu
cầu cấp thiết hiện nay để bảo đảm chất lượng đăng kiểm đáp ứng các yêu cầu
của nhà nước và toàn xã hội.
Trong bối cảnh ngân sách nhà nước còn eo hẹp, việc đầu tư cho việc mở
rộng các trung tâm đăng kiểm còn nhiều hạn chế. Do đó, xã hội hóa công tác
đăng kiểm để lôi cuốn các cá nhân và tổ chức tham gia vào công tác đăng kiểm
nhằm tăng cường số lượng và chất lượng đăng kiểm là một xu hướng tất yếu,
khách quan. Đẩy mạnh xã hội hóa công tác đăng kiểm không chỉ giúp giảm tải
gánh nặng ngân sách cho nhà nước mà còn góp phần quan trọng tạo nên sự
cạnh tranh lành mạnh trong công tác đăng kiểm qua đó nâng cao chất lượng
đăng kiểm. Tuy nhiên, việc xã hội hóa đăng kiểm trong thời gian qua đã chỉ ra
không ít những nhược điểm đòi hỏi phải khắc phục và rút ra bài học kinh
nghiệm trong tương lai.
50
Chương 2
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG
ĐĂNG KIỂM XE CƠ GIỚI ĐƯỜNG BỘ Ở TỈNH NINH THUẬN
2.1. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ TỈNH NINH THUẬN
Tỉnh Ninh Thuận nằm ở cực Nam Trung Bộ, có vị trí địa lý thuận lợi,
nằm ở điểm giao tiếp của 3 vùng kinh tế lớn của đất nước: Nam Tây Nguyên,
Nam Trung Bộ và gần với Miền Đông Nam Bộ giao lưu dễ dàng với các thành
phố trung tâm lớn của khu vực như thành phố: Nha Trang, Đà Lạt, Phan Thiết,
Vũng Tàu và thành phố Hồ Chí Minh.
Hình 2.1: Bản đồ hành chính tỉnh Ninh Thuận
Diện tích tự nhiên 3.355,3 km2, có 7 đơn vị hành chính gồm 1 thành phố
và 6 huyện Ninh Sơn, Ninh Phước, Ninh Hải, Thuận Bắc, Thuận Nam, Bác Ái. 51
Thành phố.Phan Rang-Tháp Chàm là thành phố thuộc tỉnh, là trung tâm chính
trị, kinh tế và văn hóa của tỉnh, cách Tp.Hồ Chí Minh 350 km, cách sân bay
quốc tế Cam Ranh 60 km, cách Tp.Nha Trang 105 km, cách Tp.Đà Lạt 110
Km, cách Tp.Vũng Tàu 300 Km, cách Tp.HCM 350 Km, thuận tiện cho việc
giao lưu phát triển kinh tế-xã hội [19].
Tài nguyên biển: Bờ biển dài 105 km, ngư trường cua tỉnh nằm trong
vùng nước trồi có nguồn lợi hải sản phong phú và đa dạng với trên 500 loài hải
sản các loại. Ngoài ra, còn có hệ sinh thái san hô phong phú và đa dạng với
trên 120 loài và rùa biển đặc biệt quý hiếm chỉ có ở Ninh Thuận. Vùng ven
biển có nhiều đầm vịnh phù hợp phát triển du lịch và phát triển nuôi trồng thủy
sản và sản xuất tôm giống là một thế mạnh của ngành thủy sản.
Khí hậu, thủy văn: Tỉnh Ninh Thuận thuộc vùng khí hậu nhiệt đới gió
mùa gần đường xích đạo. Điển hình với đặc trưng khô nóng, gió nhiều, bốc hơi
mạnh, Ninh Thuận là tỉnh có đặc trưng khí hậu khô nóng nhất nước, nhiệt độ
trung bình thấp nhất hàng năm là 26 – 270C, lượng mưa trung bình 700-
800mm ở Phan Rang và tăng dần đến trên 1.100mm ở miền núi. Thời tiết có 2
mùa rõ rệt: mùa mưa từ tháng 9 đến tháng 11; mùa khô từ tháng 12 đến tháng 9
năm sau.
Tính đến 31/12/2016, dân số toàn tỉnh là 601.300 người, mật độ dân số
là 179 người/ km2, bao gồm nhiều thành phần dân tộc khác nhau cùng chung
sống . Thành phần dân cư của Ninh Thuận gồm 7 dân tộc chính là dân tộc
Kinh chiếm 78%, dân tộc Chăm chiếm 11,3%, dân tộc Ra-glai chiếm 9.4%,
dân tộc Hoa chiếm 0,49%, còn lại là các dân tộc khác; Ngoài ra tỉnh Ninh
Thuận còn là tỉnh có dân tộc Chăm tập trung sinh sống cao nhất nước với
67.500 người [19].
52
Nền kinh tế của cả nước cũng như của tỉnh Ninh Thuận hội nhập ngày
càng sâu, rộng vào nền kinh tế thế giới và vẫn đang trên đà phát triển, nên đã
tạo thời cơ, thuận lợi cho các ngành kinh tế tăng đầu tư phát triển.
Về phát triển các tiểu vùng kinh tế, gồm 3 tiểu vùng như sau:
Tiểu vùng đồng bằng gồm 28 xã, phường, quy mô dân số 270 ngàn
người. Trọng điểm kinh tế là phát triển dịch vụ du lịch, sản xuất công nghiệp
và nông nghiệp. Trung tâm của tỉnh là thành phố Phan Rang - Tháp Chàm.
Tiểu vùng ven biển gồm 11 xã của 3 huyện, quy mô dân số 130 ngàn
người, động lực kinh tế là kinh tế biển, du lịch biển và phát triển các ngành
công nghiệp chế biến thủy sản, sản xuất muối và hóa chất sau muối.
Tiểu vùng miền núi bao gồm 24 xã và thị trấn, quy mô dân số 148 ngàn
người, trong đó có 18 xã thuộc các xã đặc biệt khó khăn. Động lực kinh tế
vùng là kinh tế rừng, chăn nuôi gia súc theo mô hình kinh tế trang trại, kinh tế
vườn, trồng cây công nghiệp ngắn ngày và dài ngày.
Năm 2015, kinh tế ổn định và tăng trưởng; tổng sản phẩm nội tỉnh tăng
bình quân 11,2%/năm. Thu ngân sách đạt 1.800 tỷ đồng, tăng gấp 2,03 lần; thu
nhập bình quân đầu người tăng gấp 2,45 lần so năm 2010. Tổng vốn đầu tư
toàn xã hội 33.155 tỷ đồng, bằng 1,95 lần so giai đoạn trước. Cơ cấu kinh tế có
bước chuyển dịch đúng hướng, giảm tỷ trọng nông nghiệp từ 41,9% xuống còn
36,3%, công nghiệp - xây dựng tăng từ 22% lên 24,8%, dịch vụ từ 36,1% lên
38,9% so với năm 2010 [19].
Về mạng lưới giao thông đường bộ: có 3 tuyến Quốc lộ đi qua địa bàn
tỉnh Ninh Thuận với tổng chiều dài là 174,50 km, đó là:
Quốc lộ 1A: Chiều dài qua địa bàn tỉnh là 64,50 km từ giáp với tỉnh
Khánh Hòa tại Km 1525+00 đến giáp với tỉnh Bình Thuận tại Km 1589 +500
53
do Cục đường bộ Việt Nam quản lý. Bề rộng mặt đường trên đoạn tuyến rộng
12 m. Riêng đoạn qua thành phố Phan Rang – Tháp Chàm được xây dựng
tuyến tránh dài 10 km từ Km 1551 +400 (ngã 3 Cà Đú) đến Km 1561+430 (ngã
3 Long Bình). Đoạn này đã được cải tạo mở rộng với mặt đường rộng 21 m để
đáp ứng với quy mô thành phố đô thị loại II.
Quốc lộ 27: Chiều dài qua địa bàn tỉnh là 66,0 km giáp với tỉnh Lâm
Đồng tại Km 206+500 đến giao với Quốc lộ 1A tại ngã 5 Phủ Hà-thành phố
Phan Rang-Tháp Chàm tại Km 272+500 do khu quản lý đường bộ 7 thuộc
Tổng cục đường bộ Việt Nam quản lý, mặt đường có bề rộng 7 m, nền 12 m.
Đoạn qua khu vực Tháp Chàm về tới thành phố Phan Rang đã được xây dựng
tuyến tránh dài 6,5 km.
Quốc lộ 27B: Chiều dài qua địa bàn tỉnh là 44 km, toàn tuyến có chiều
dài 52,6 km nối Quốc lộ 1A tại thị xã Cam Ranh – tỉnh Khánh Hòa với Quốc lộ
27 tại thị trấn Tân Sơn tỉnh Ninh Thuận, quốc lộ 27B có mặt cắt ngang nền là
7,5 m; mặt đường rộng 5,5 m. Tuyến này hiện đang được nâng cấp và cải tạo.
Và các tuyến đường tỉnh, đường huyện, đường đô thị và đường giao
thông nông thôn có tổng chiều dài 1.022,57 km.
Về phương tiện của tỉnh, theo số liệu của ngành Đăng kiểm, số lượng
phương tiện vận tải của tỉnh qua các năm gần đây như sau:
Bảng 2.1: Thống kê số lượng ô tô đang lưu hành giai đoạn 2011-2016
Năm
TT
Nhóm phương tiện
2011
2012
2013
2014
2015
2016
1 Ô tô con (từ 9 ghế trở xuống)
1.144 1.281 1.533 1.800 2.157 2.536
2 Ô tô cứu thương
33
32
35
35
35
33
3 Ô tô tang lễ
0
3
3
3
3
0
54
4 Ô tô khách 10 -24 ghế
216
208
220
238
269
303
5 Ô tô khách 25-40 ghế
71
67
68
69
84
91
6 Ô tô khách trên 40 ghế
52
50
53
64
75
89
7 Ô tô tải đến 2T
1.252
50 1.566 1.723 1.875 2.099
8 Ô tô tải trên 2T- 7T
1.213 1.250 1.288 1.339 1.356 1.457
9 Ô tô tải trên 7T đến 20T
390
351
396
489
616
684
10 Ô tô tải trên 20T
27
30
37
4
8
8
11 Ô tô tải chuyên dùng
32
29
0
37
38
48
12 Phương tiện vận chuyển nhỏ
0
0
11
0
0
0
13 Rơ mooc, sơ mi rơ mooc
17
11
0
10
15
23
14 Xe lam, xe xích lô máy
0
0
0
0
0
15 Đầu kéo
19
14
13
10
14
20
16 Ô tô chuyên dùng
52
53
52
62
66
77
Tổng cộng
4.518 4.796 5.272 5.883 6.611 7.473
Nguồn: Báo cáo số lượng phương tiện đang quản lý tại Trung tâm 8501S.
Phương thức vận tải hành khách của tỉnh Ninh Thuận chủ yếu là đường
bộ,chất lượng phương tiện ngày càng được nâng cao do cạnh tranh trong vận
tải và do việc tăng cường quản lý chất lượng phương tiện của Nhà nước (Nghị
định số 91/2009/NĐ-CP về kinh doanh và điều kiện kinh doanh vận tải bằng ô
tô; Nghị định số 95/2009/NĐ-CP ngày 30/10/2009 về quy định niên hạn sử
dụng đối với xe ô tô chở hàng và ô tô chở người).
Mạng lưới xe buýt ở Ninh Thuận được hình thành từ năm 2007 có 6
tuyến nội tỉnh với 26 phương tiện, từ các huyện vào thành phố Phan Rang.
Tính tới năm 2010, trên địa bàn tỉnh còn 5 tuyến xe buýt với 17 phương tiện
với tổng chiều dài tuyến toàn mạng gần 180km đi từ Phan Rang tới các 5
55
huyện, với tuyến dài nhất là 49km (Phan Rang – Sông Pha), tuyến ngắn nhất
25km (Phan Rang – Phước Dinh).
Sơ đồ 2.1: Tổ chức bộ máy hành chính nhà nước tỉnh Ninh Thuận
Nguồn: Niêm giám 2016 của Cục Thống kê Ninh Thuận
Theo quy định tại Điều 3 của Nghị định 24/2014/NĐ-CP ngày 04 tháng
4 năm 2014 của Chính phủ về tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc UBND
tỉnh: ”Sở là cơ quan thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh; thực hiện chức năng tham
mưu, giúp Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quản lý nhà nước về ngành, lĩnh vực ở địa
phương theo quy định của pháp luật và theo phân công hoặc ủy quyền của Ủy
ban nhân dân cấp tỉnh, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh”;
56
Theo quy định của Quyết định số 962/2010/QĐ-UBND ngày 17/5/2010
của Ủy ban nhân dân tỉnh Ninh Thuận về việc quy định chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Sở Giao thông vận tải, quy định:”Sở Giao
thông vận tải là cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh, thực hiện
chức năng tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân tỉnh quản lý nhà nước về: đường
bộ, đường thủy nội địa, đường sắt đô thị; vận tải; an toàn giao thông; quản lý,
khai thác, duy tu, bảo trì hạ tầng giao thông đô thị gồm: Cầu đường bộ, cầu
vượt, hè phố, đường phố, dải phân cách, hệ thống biển báo hiệu đường bộ, đèn
tín hiệu điều khiển giao thông, hầm dành cho người đi bộ, hầm cơ giới đường
bộ, cầu dành cho người đi bộ, bến xe, bãi đỗ xe trên địa bàn tỉnh”; ”Tổ chức
thực hiện việc kiểm tra chất lượng an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường đối
với phương tiện giao thông đường bộ, đường thủy nội địa theo quy định của
pháp luật và phân cấp của Bộ Giao thông vận tải”.
Như vậy, lĩnh vực đăng kiểm xe cơ giới đường bộ thuộc chức năng quản
lý nhà nước của Sở Giao thông vận tải.
2.2. TỔ CHỨC THỰC HIỆN ĐĂNG KIỂM XE CƠ GIỚI ĐƯỜNG
BỘ TẠI TỈNH NINH THUẬN HIỆN NAY
2.2.1. Tổ chức và hoạt động của Trung tâm đăng kiểm xe cơ giới
đường bộ Ninh Thuận
Trung tâm Đăng kiểm xe cơ giới đường bộ Ninh Thuận hiện nay (sau
đây viết tắt là Trung tâm đăng kiểm 85.01S) tiền thân là Trạm đăng kiểm
phương tiện giao thông cơ giới đường bộ, được thành lập theo Quyết định số
968/QĐ-UBND ngày 25/12/1996 của UBND tỉnh Ninh Thuận.
Theo Quyết định số 968/QĐ-UBND xác định rõ Trung tâm Đăng kiểm
85.01S là đơn vị sự nghiệp có thu, tự đảm bảo một phần chi phí hoạt động.
Trung tâm Đăng kiểm có tư cách pháp nhân, có trụ sở, có con dấu riêng và
57
được mở tài khoản tại Kho bạc Nhà nước để hoạt động theo quy định của
pháp luật.
Trung tâm đăng kiểm 85.01S có địa chỉ tại Thôn Bình Quý -Thị trấn
Phước Dân, Huyện Ninh Phước- Tỉnh Ninh Thuận. Đây là đơn vị sự nghiệp
có thu trực thuộc Sở Giao thông vận tải Ninh Thuận.
Tính đến thời điểm 31/12/2016, Trung tâm đăng kiểm 85.01S là đơn vị
duy nhất trên địa bàn tình Ninh Thuận cung ứng dịch vụ đăng kiểm xe cơ giới
đường bộ.
Công tác đăng kiểm xe cơ giới đường bộ trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận
được thực hiện tuân thủ theo các quy định thống nhất trên toàn quốc đối với
công tác đăng kiểm xe cơ giới đường bộ , trước hết là quy trình đăng kiểm
được quy định tại Hướng dẫn số 1179/ĐKVN ngày 16/11/2009 của Cục Đăng
kiểm Việt Nam về kiểm định an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường xe cơ giới
và Thông báo số 716/ĐKVN-VAR ngày 25/5/2011 của Cục Đăng kiểm Việt
Nam về việc sửa đổi, bổ sung hướng dẫn số 1179/ĐKVN.
Theo Quyết định này, Trung tâm đăng kiểm có chức năng tổ chức thực
hiện công tác đăng kiểm chất lượng an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường đối
với các loại phương tiện: phương tiện vận tải cơ giới đường bộ, phương tiện
vận tải đường thuỷ nội địa, xe máy chuyên dùng thi công công trình giao thông
và xe máy tự chế theo quy định phân cấp của Bộ Giao thông vận tải, cụ thể:
+ Xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch phát triển, kế hoạch đăng
kiểm các phương tiện vận tải cơ giới dài hạn, trung hạn và hàng năm phù hợp
với kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của tỉnh và ngành Giao thông vận tải.
+ Tổ chức thực hiện công tác đăng kiểm chất lượng, an toàn kỹ thuật và
bảo vệ môi trường phương tiện cơ giới.
58
+ Tổ chức công tác tư vấn về kỹ thuật phương tiện cơ giới (thiết kế hoán
cải phương tiện cơ giới) và nghiên cứu ứng dụng những tiến bộ khoa học kỹ
thuật vào công tác đăng kiểm.
+ Tham gia thành viên hội đồng kiểm tra chất lượng an toàn kỹ thuật và
bảo vệ môi trường các xe cơ giới cải tạo được phân cấp; giám định tình trạng
kỹ thuật phương tiện vận tải cơ giới theo yêu cầu của cơ quan Nhà nước, tổ
chức kinh tế và của các chủ phương tiện cơ giới.
+ Kiểm tra, nghiệm thu và cấp Giấy chứng nhận An toàn kỹ thuật và
Bảo vệ môi trường xe cơ giới cải tạo thùng hàng, lắp ráp khung mui trên ô tô
tải theo thiết kế do Cục Đăng kiểm Việt Nam ban hành.
+ Quản lý tài chính, tài sản và công tác thu phí, lệ phí đăng kiểm theo
quy định của cơ quan Nhà nước và của Uỷ ban nhân dân tỉnh. Quản lý, khai
thác, sử dụng hợp lý cơ sở vật chất kỹ thuật của Nhà nước đã trang bị nhằm
duy trì, phát triển và nâng cao hiệu quả chất lượng công tác đăng kiểm.
+ Quản lý cán bộ, viên chức của Trung tâm theo quy định của pháp luật
và của Ủy ban nhân dân tỉnh.
+ Thực hiện chế độ thông tin định kỳ hoặc đột xuất; báo cáo thống kê, sơ
kết, tổng kết, đánh giá kết quả công tác của Trung tâm theo quy định của pháp
luật về đăng kiểm.
+ Thực hiện một số nhiệm vụ khác do Giám đốc Sở Giao thông vận tải giao.
Cơ cấu tổ chức của Trung tâm bao gồm 02 phòng chuyên môn là phòng
kỹ thuật đăng kiểm và phòng hành chính-tổng hợp.
Tổng số cán bộ, nhân viên của Trung tâm gồm 21 người, trong đó có 8
đăng kiểm viên hạng 3 và 5 nhân viên nghiệp vụ đáp ứng các tiêu chuẩn về
nhân lực theo quy định.
59
Đội ngũ nhân lực này bao gồm:
+ Lãnh đạo Trung tâm: 02 người (01 Giám đốc và 01 Phó Giám đốc)
+ Đăng kiểm viên xe cơ giới: 07 người
+ Nhân viên nghiệp vụ: 06 người
+ Kế toán, thủ quĩ: 02 người
+ Nhân viên hồ sơ, vi tính: 02 người
+ Nhân viên bảo vệ: 02 người
Trình độ chuyên môn nghiệp vụ của các đăng kiểm viên hiện đang làm
việc tại Trung tâm về cơ bản đều đã được đào tạo bồi dưỡng đúng tiêu chuẩn,
phù hợp Thông tư 11/2005/TT-BGTVT Quy định về điều kiện cơ sở vật chất
kỹ thuật và nhân lực của Trung tâm đăng kiểm phương tiện giao thông cơ giới
đường bộ: được đào tạo đúng chuyên ngành cơ khí và đã qua lớp đào tạo đăng
kiểm viên của Cục Đăng kiểm và được cấp chứng chỉ đủ điều kiện. Các đăng
kiểm viên này đều được bồi dưỡng thường xuyên và tham dự đầy đủ các kỳ sát
hạch của Cục Đăng kiểm theo định kỳ.
Kiểu loại các trang thiết bị kiểm tra bố trí trong dây chuyền kiểm định
phù hợp với loại thiết bị cho phép và được kiểm tra kiểm chuẩn định kỳ theo
đúng quy định của Thông tư số 11/2005/TT-BGTVT Quy định điều kiện cơ sở
vật chất kỹ thuật và nhân lực của Trung tâm đăng kiểm phương tiện giao thông
cơ giới đường bộ; Thông tư 56/2012/TT-BGTVT Quy định về kiểm định
ATKT&BVMT phương tiện giao thông cơ giới đường bộ; Hướng dẫn
710A/ĐKVN-VAR ngày 26/5/2010 của Cục Đăng kiểm Việt Nam hướng dẫn
thực hiện các quy định về thiết bị, dụng cụ kiểm định tại các đơn vị đăng kiểm
xe cơ giới. Thời gian đăng kiểm được thực hiện tại một dây chuyền sau khi
60
phương tiện được đưa vào dây chuyền kiểm định khoảng 0,5 giờ (với những
phương tiện không đòi hỏi phải sửa chữa lớn).
Trung tâm trang bị đầy đủ hệ thống máy vi tính để nhập, lưu trữ và
truyền số liệu. Các thiết bị được nối mạng nội bộ đảm bảo yêu cầu lưu trữ và
truyền số liệu. Các thiết bị hỗ trợ như máy fax, điện thoại, photocopy được
trang bị đáp ứng yêu cầu công việc.
Máy chủ của Trung tâm đã được nối mạng với máy chủ của Cục Đăng
kiểm để thường xuyên báo cáo số liệu kiểm định.
2.2.2. Kết quả đăng kiểm xe cơ giới đường bộ trên địa bàn tỉnh
Trong những năm qua, Trung tâm đăng kiểm phương tiện giao thông cơ
giới đường bộ Ninh Thuận đã thực hiện tốt nhiệm vụ đăng kiểm xe cơ giới
đường bộ được giao. Số lượng các phương tiện được đăng kiểm tại Trung tâm
trong giai đoạn 2011-2016 đạt 50.778 phương tiện, trong đó chủ yếu là xe ô tô
9 ghế trở xuống (17.092 phương tiện, chiếm 33,7%), ô tô tải đến dưới 2 tấn
(11.968 phương tiện, chiếm 24,6%) và ô tô tải từ 2 đến 7 tấn (9609 phương
tiện, chiếm 18,9%) [42].
Thống kê tại Bảng trên đây về kết quả đăng kiểm xe cơ giới đường bộ
của Trung tâm đăng kiểm Ninh Thuận cho thấy số lượng các phương tiện thực
hiện đăng kiểm tăng lên hàng năm với tỷ lệ tăng rất mạnh, nhất là số lượng
phương tiện ô tô cá nhân dưới 9 chỗ (tăng từ 4.518 phương tiện đăng kiểm năm
2011 lên tới 7.473 phương tiện đăng kiểm vào năm 2016. Cùng với sự phát
triển về kinh tế-xã hội và mức tiêu dùng của người dân trong thời gian tới được
dự báo cũng tăng cao, số lượng các phương tiện cơ giới tham gia giao thông,
nhất là xe ô tô cá nhân cũng sẽ tăng theo khiến cho áp lực đăng kiểm của Trung
tâm ngày càng nặng nề hơn.
61
Bảng 2.2: Tổng số kinh phí thu được từ kiểm định xe cơ giới đường bộ
giai đoạn 2011-2016 tại Ninh Thuận
Năm 2011 2012 2013 2014 2015 2016
1.916,205 2.210,635 2.630,740 4.288,970 4.020,550 4.453,585
Giá trị kiểm định (ngàn đồng)
Nguồn: Báo cáo kết quả thực hiện công tác kiểm định tại Trung tâm 8501S
Về kinh phí thu được từ công tác đăng kiểm: việc thu phí đăng kiểm tại
Trung tâm đăng kiểm Ninh Thuận hiện nay được thực hiện theo tuân thủ các
quy định hiện hành của nhà nước tại Thông tư số 102/2008/TT-BTC ngày
11/11/2008 của Bộ trưởng Bộ Tài chính. Về cơ bản, mức thu này khó có thể
bảo đảm cho Trung tâm hoạt động nếu không có sự hỗ trợ của Nhà nước.
2.3. ĐÁNH GIÁ CÔNG TÁC ĐĂNG KIỂM XE CƠ GIỚI ĐƯỜNG
BỘ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH NINH THUẬN
2.3.1 Những ưu điểm
Công tác đăng kiểm tại Ninh Thuận trong thời gian qua đã đạt được các
thành tựu đáng kể:
- Đảm bảo chất lượng phương tiện tham gia giao thông đường bộ theo
đúng quy định, qua đó góp phần quan trọng vào việc bảo đảm an toàn giao
thông đường bộ và bảo vệ môi trường. Là đơn vị chủ lực trong việc xác định xe
quá niên hạn sử dụng, xe vi phạm về thay đổi kích thước thành thùng xe, từ
năm 2011 đến nay, thực hiện quy định về kiểm soát xe quá tải, Trung tâm đã
góp phần lớn trong việc xử lý xe xe quá niên hạn, xe thay đổi kích thước thành
thùng, xe chở quá tải trọng trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận, tiến tới không còn xe
cơi nới thành thùng, xe quá tải, xe quá niên hạn lưu thông trên đường.
62
Việc siết chặt kiểm định xe cơ giới không chỉ góp phần nâng cao ý thức
của chủ xe, lái xe trong việc bảo dưỡng, sửa chữa phương tiện mà còn ý thức
hơn trong việc chấp hành đầy đủ các quy định về đảm bảo an toàn kỹ thuật xe,
qua đó đảm bảo trật tự an toàn giao thông, bảo vệ môi trường, kết cấu hạ tầng
giao thông đường bộ.
- Thực hiện Đề án "Nâng cao chất lượng dịch vụ và chống tiêu cực trong
công tác đăng kiểm", Trung tâm Đăng kiểm phương tiện Giao thông vận tải
tỉnh Ninh Thuận trong thời gian qua đã tạo thuận lợi tối đa cho người đưa
phương tiện đến kiểm định. Trung tâm tiếp tục thực hiện cải cách hành chính,
công khai minh bạch tất cả các quy trình đăng kiểm, các yêu cầu và tiêu chuẩn
được niêm yết công khai giúp cho lái xe và chủ phương tiện đến kiểm định biết
và chuẩn bị, tăng cường kiểm tra, kiểm soát, đồng thời nâng cao ý thức trách
nhiệm cho mỗi nhân viên trong Trung tâm, đặc biệt là các đăng kiểm viên để
nâng cao chất lượng đăng kiểm của Trung tâm.
- Chất lượng hầu hết các đăng kiểm viên đáp ứng các yêu cầu kiểm định:
Chất lượng của dịch vụ đăng kiểm phụ thuộc rất lớn vào đăng kiểm viên. Các
đăng kiểm viên của Trung tâm phần lớn là những người có những kiến thức và
kinh nghiệm chuyên sâu về lĩnh vực cơ khí, chế tạo máy, có khả năng làm việc
độc lập, phải có tính cần mẫn, trung thực, quyết đoán, dám chịu trách nhiệm,
đồng thời có đủ năng lực và phẩm chất để thực hiện đăng kiểm.
Trung tâm đăng kiểm xe 8501S có đội ngũ 7 đăng kiểm viên tốt nghiệp
đại học hệ chính quy chuyên ngành cơ khí động lực, cơ khí ô tô, công nghệ ô tô
ở các trường đại học bách khoa thành phố Hồ Chí Minh, trường đại học Giao
thông vận tải, đại học sư phạm kỹ thuật thành phố Hồ Chí Minh, đã được Cục
Đăng kiểm Việt Nam tập huấn nghiệp vụ chuyên môn và cấp giấy chứng nhận
đăng kiểm viên hạng II, hạng III. Đây là nguồn nhân lực chất lượng cao,
63
chuyên nghiệp, có thâm niên và kinh nghiệm, chính là một trong các nguồn lực
quan trọng góp phần nâng cao chất lượng đăng kiểm.
- Cơ sở vật chất của Trung tâm được đầu tư đầy đủ, đồng bộ, đáp ứng
được nhu cầu kiểm định phương tiện Giao thông vận tải trên địa bàn và một số
tỉnh lân cận. Các số liệu đăng kiểm được lưu trữ đầy đủ và truyền tải về Cục
Đăng kiểm Việt Nam góp phần xây dựng cơ sở dữ liệu về phương tiện xe cơ
giới, tăng khả năng kiểm soát xe cơ giới đang lưu hành.
Từ nguồn lực con người, dù là đơn vị được thành lập sau so với các
Trung tâm trong khu vực nhưng Trung tâm đã từng bước vươn lên khẳng định
được vai trò, vị thế của mình trong việc kiểm định phương tiện Giao thông vận
tải. Các sản phẩm do trung tâm kiểm định, cấp giấy Chứng nhận An toàn kỹ
thuật và bảo vệ môi trường đều đảm bảo đúng quy định, an toàn khi tham gia
giao thông, được xã hội ghi nhận. Không có tình trạng sách nhiễu cá nhân, tổ
chức đến kiểm định, không vì lợi ích cá nhân mà bỏ qua các quy định của pháp
luật để cấp giấy Chứng nhận kiểm định cho các phương tiện không đủ điều
kiện tham gia giao thông.
2.3.2. Những hạn chế còn tồn tại
Bên cạnh những ưu điểm nổi bật nêu trên, đăng kiểm Ninh Thuận vẫn
còn nhiều hạn chế còn tồn tại, phải khẩn trương khắc phục trong thời gian tới.
Những nhược điểm cơ bản thể hiện trên các mặt chủ yếu sau:
Thứ nhất, tình trạng quá tải đăng kiểm diễn ra phổ biến:
Với số lượt xe đăng kiểm bình quân trên địa bàn hàng năm khoảng trên
10.000 lượt phương tiện, hoạt động của ngành đăng kiểm Ninh Thuận đang
thực sự quá tải. Tỉnh Ninh Thuận hiện chỉ có duy nhất một đơn vị kiểm định
phương tiện Giao thông vận tải đối với cả phương tiện giao thông đường bộ.
Điều này đã ảnh hưởng hưởng không nhỏ đến công tác kiểm định phương tiện. 64
Tại Trung tâm Đăng kiểm phương tiện Giao thông vận tải tỉnh Ninh Thuận, dù
dây chuyền kiểm định đã hoạt động hết công suất, các kiểm định viên đã tăng
cường tập trung kiểm tra các công đoạn kiểm tra các công đoạn tiêu chuẩn kỹ
thuật xe, nhưng vẫn không giải quyết được tình trạng xe nối dài chờ đến lượt
đăng kiểm.
Nhiều lái xe ở Ninh Thuận khi được phỏng vấn về thời gian kiểm định
xe cho biết: “Hiện nay, thời gian kiểm tra xe ô tô lâu hơn trước bởi Trung tâm
kiểm định các hạng mục chi tiết của ô tô theo đúng chỉ đạo của Cục Đăng kiểm
Việt Nam. Có khi xếp hàng cả nửa buổi cũng chưa đến lượt kiểm định. Đấy là
những xe đảm bảo tiêu chuẩn, còn những xe chưa đạt yêu cầu thì phải quay
vòng nhiều lần, đã làm tăng số lượt xe vào Trung tâm đăng kiểm”. Thời gian
thực hiện đăng kiểm không nhiều nhưng thời gian chờ đợi của lái xe và chủ
phương tiện lại dài do quá tải khiến cho mức độ hài lòng của người dân đối với
công tác đăng kiểm không cao. Có tới hơn 50% số lái xe được hỏi không thực
sự hài lòng với công tác đăng kiểm của Trung tâm.
Tình trạng quá tải trong đăng kiểm còn dẫn tới những tiêu cực nhất định
làm giảm chất lượng đăng kiểm. Một số chủ xe, lái xe khi đến kiểm định xe có
những hành động chen lấn, gây ùn tắc trong khu vực chờ kiểm định do không
thể và không muốn chờ đợi đến lượt. Đặc biệt là khi xe vào kiểm định nhưng
không đạt yêu cầu kỹ thuật để cấp phép lưu hành, cần phải mang đi sửa chữa
và phải tiến hành kiểm định lại thì để tránh việc mất thời gian chờ đợi, có
trường hợp chủ xe năn nỉ xin được bỏ qua các lỗi kỹ thuật, có trường hợp có lời
nói, hành vi đe dọa cán bộ nhân viên của Trung tâm, trong khi đó việc bảo vệ
cán bộ đăng kiểm chưa được quan tâm đầy đủ. Số lái xe được phỏng vấn bày tỏ
nỗi bức xúc vì liên tục phải chờ đợi trong khi đi đăng kiểm.
65
Với quy mô, công suất dây chuyền kiểm định của Trung tâm đăng kiểm
Ninh Thuận, Cục Đăng kiểm Việt Nam chỉ cấp 50 tem đăng kiểm/ngày nên
Trung tâm dù muốn “tăng ca, tăng giờ” để giải tỏa ùn tắc khi tới “mùa cao
điểm” các phương tiện đến thực hiện đăng kiểm nhiều, cũng không được. Điều
này cho thấy trong tương lai, việc triển khai thêm một Trạm đăng kiểm khác
bên cạnh trạm đang có trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận là cần thiết.
Thứ hai, việc đầu tư trang thiết bị rất chậm và thiếu đồng bộ:
Mặc dù hai dây chuyền đăng kiểm của Trung tâm đăng kiểm Ninh
Thuận được đầu tư khá đồng bộ và hiện đại nhưng việc khai thác dồn dập
khiến cho việc bảo dưỡng và thay thế trang thiết bị gặp nhiều khó khăn. Một số
trang thiết bị trong dây chuyền đôi lúc bị hỏng, lỗi phần mềm truyền tải dữ liệu
nên đã gây nên tình trạng dồn tắc các phương tiện đến kiểm định. Việc sửa
chữa các lỗi này, đặc biệt là khi cần thay thế các trang thiết bị được thực hiện
rất chậm do quy trình đầu tư rất phiền hà khiến cho có lúc một hoặc thậm chí
cả hai dây chuyền phải tạm dừng việc kiểm định. Để đảm bảo tốc độ và chất
lượng đăng kiểm, cần phải tăng cường thêm các dây chuyền kiểm định chất
lượng mới nhưng việc đầu tư một dây chuyền mới thường rất tốn kém (trên 3,0
tỷ đồng) nên khó có thể bố trí ngân sách, đồng thời quy mô và diện tích của
Trung tâm cũng không cho phép tăng thêm dây chuyền đăng kiểm mới tại đây.
Thứ ba, chất lượng một số đăng kiểm viên chưa đáp ứng yêu cầu cả về
năng lực chuyên môn và phẩm chất.
Một số cán bộ đăng kiểm trình độ tin học còn hạn chế, ứng dụng công
nghệ thông tin vào công việc còn chậm, đôi lúc chưa thật sự chú trọng công
việc dẫn đến có một số sai sót khi kiểm định. Sự thay đổi liên tục trong nghệ
sản xuất máy được áp dụng trong công nghệ sản xuất ô tô dẫn đến có sự lúng
túng trong vận hành, thao tác thiết bị. Trong khi việc đào tạo, đào tạo lại, tập
66
huấn kỹ năng nghiệp vụ cho cán bộ, nhân viên, đăng kiểm viên chưa được tiến
hành thường xuyên. Một số đăng kiểm viên khi thực thi nhiệm vụ đăng kiểm
vẫn chưa triệt để tuân thủ quy trình kiểm định, còn có sự nể nang trong quan hệ
gia đình, xã hội nên đôi khi kết quả đăng kiểm chưa thật chính xác, để xe
không đạt tiêu chuẩn đưa ra lưu hành.
Bên cạnh đó, mặc dù đã có những cố gắng nhất định trong quản lý và
kiểm soát, nhưng hiện tượng tiêu cực vẫn còn xảy ra trong công tác đăng kiểm.
Việc nhận tiền hối lộ của chủ phương tiện để giảm nhẹ hoặc cho qua những
yêu cầu kiểm tra là một căn bệnh cần phải có nhiều biện pháp xử lý, kể cả biện
pháp đổi mới mô hình tổ chức.
Còn có tình trạng các chủ xe tháo bỏ ghế, thùng bệ chở hàng; mượn các
bộ phận của xe khác (như lốp, còi, đèn, thùng bệ...) để vào kiểm định cho đạt
yêu cầu. Sau khi kiểm định xong và được cấp phép lưu hành thì chủ xe lại lắp
các thiết bị, phụ tùng không đủ tiêu chuẩn vào để lưu hành dẫn đến tình trạng
gây ô nhiễm môi trường, mất an toàn giao thông nghiêm trọng. Đây là một vấn
đề nhức nhối hiện nay vẫn chưa có biện pháp ngăn chặn hữu hiệu.
2.3.3. Nguyên nhân của các hạn chế
Các hạn chế trên đây có nhiều nguyên nhân, trong đó có cả nguyên nhân
chủ quan và nguyên nhân khách quan. Có thể chỉ ra những nguyên nhân chủ
yếu dẫn tới thực trạng này như:
Thứ nhất, một số văn bản quy phạm pháp luật và văn bản hướng dẫn
trong lĩnh vực kiểm định xe cơ giới chưa thật sự hoàn chỉnh, chưa nhất quán,
chưa theo kịp với sự thay đổi nhanh chóng của tình hình thực tế. Trong giai
đoạn hiện nay, cả nước đang quyết liệt xử lý xe quá tải, dẫn tới tình trạng xe có
giấy Chứng nhận kiểm định ghi rõ khối lượng được phép chở tối đa nhưng vẫn
không thể chở đủ tải ngay cả khi lưu hành trên tuyến quốc lộ vì nếu chở đúng
67
theo giấy Chứng nhận kiểm định cũng vẫn bị quá tải. Điều đó dẫn đến sự thắc
mắc, bức xúc của người dân. Tất cả những vướng mắc trên đều chưa được giải
quyết dẫn đến khó khăn cho các đăng kiểm viên khi làm nhiệm vụ.
Thứ hai, số lượng xe cơ giới cần đăng kiểm quá nhiều dẫn tới tình trạng
quá tải: đây là nguyên nhân chủ yếu dẫn tới các hiện tượng tiêu cực trong đăng
kiểm tại Ninh Thuận.
Cùng với sự phát triển kinh tế-xã hội, số lượng phương tiện tham gia
giao thông trên cả nước nói chung và địa bàn tỉnh Ninh Thuận nói riêng ngày
càng tăng đến mức độ quá khả năng đáp ứng của đội ngũ đăng kiểm viên và cơ
sở vật chất, trang thiết bị hiện có, tạo nên áp lực làm việc quá tải đối với đội
ngũ nhân viên, đăng kiểm viên, dẫn đến hiện tượng có thể xem nhẹ hoặc bỏ
qua một bước kiểm tra kỹ thuật nào đó trong cả quy trình.
Thứ ba, nhiều lái xe, chủ phương tiện chưa ý thức được tầm quan trọng
của việc nâng cao chất lượng phương tiện, ít chú ý đến việc bảo dưỡng, sửa
chữa phương tiện trước khi đi kiểm định do đó phần lớn vẫn coi việc kiểm định
phương tiện là một hình thức bắt buộc để có được giấy chứng nhận an toàn kỹ
thuật và bảo vệ môi trường cùng với tem kiểm định. Nhiều lái xe, chủ phương
tiện chưa chú ý đến việc duy trì tình trạng kỹ thuật tốt của phương tiện. Nhiều
lái xe, chủ phương tiện chỉ muốn kiểm định nhanh chóng, bỏ qua các công
đoạn kiểm định để không phải khắc phục tình trạng kỹ thuật, nhanh chóng đưa
xe vào lưu thông. Kết quả phỏng vấn sâu đối với 30 lái xe/chủ phương tiện
thực hiện đăng kiểm tại trung tâm đăng kiểm cho thấy đối với phần lớn trong
số họ (25/50 người, chiếm tỷ lệ 50%), mục tiêu của việc đăng kiểm là việc lấy
được giấy chứng nhân kiểm định để được phép lưu hành phương tiện chứ ít có
sự quan tâm tới chất lượng của xe khi kiểm định. Qua kết quả kiểm định số
lượng phương tiện không đạt phải sửa chữa để kiểm định lại chiếm tỷ lệ lớn
68
(khoảng 20%). Kết quả kiểm tra liên ngành cũng phát hiện nhiều phương tiện
vi phạm về an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường, đây chính là nguyên nhân
tiềm ẩn gây mất an toàn giao thông. Nhiều chủ xe sắp hết niên hạn sử dụng bỏ
chu kỳ kiểm định cuối, tránh việc thu hồi hồ sơ kiểm định để tiếp tục cho xe
hoạt động tại vùng sâu, vùng xa.
Thứ tư, chất lượng nhân sự đăng kiểm chưa đảm bảo cả về năng lực
chuyên môn và phẩm chất. Yếu tố con người trong công tác đăng kiểm là quan
trọng nhất, cần tập trung cho công tác chăm lo, đào tạo đội ngũ cán bộ nhân
viên, đặc biệt là đăng kiểm viên đảm bảo đáp ứng yêu cầu công việc.
Chế độ đãi ngộ là một phần rất quan trọng trong công tác quản trị
nguồn nhân lực. Trong quá trình phỏng vấn Giám đốc Trung tâm đăng kiểm,
ông cho biết, trong những năm vừa qua Trung tâm đã không ngừng chăm lo
nâng cao đời sống cho cán bộ công nhân viên, chế độ về bảo hiểm xã hội, bảo
hiểm y tế, khám sức khoẻ định kỳ cho cán bộ công nhân viên cũng được
Trung tâm thực hiện tốt. Tuy nhiên, do đặc thù công việc nặng nhọc, tiếp xúc
nhiều với dầu mỡ, khí thải, làm trong môi trường ô nhiễm, hệ số lương, phụ
cấp còn thấp chưa đáp ứng được nhu cầu hàng ngày nên đời sống cán bộ nhân
viên Trung tâm gặp nhiều khó khăn, từ đó ảnh hưởng đến tư tưởng, khả năng,
hiệu quả làm việc.
69
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2
Tỉnh Ninh Thuận nằm ở cực Nam Trung Bộ, có vị trí địa lý thuận lợi,
nằm ở điểm giao tiếp của 3 vùng kinh tế lớn của đất nước: Nam Tây Nguyên,
Nam Trung Bộ và gần với Miền Đông Nam Bộ giao lưu dễ dàng với các thành
phố trung tâm lớn của khu vực như Nha Trang, Đà Lạt, Phan Thiết, Vũng Tàu,
thành phố Hồ Chí Minh. Tỉnh cũng có nhiều tiềm năng để phát triển mạnh du
lịch, năng lượng kinh tế biển. Do đó, dự báo trong những năm tới, cùng với tốc
độ phát triển kinh tế-xã hội đạt khá, mức sống của người dân được nâng cao, số
lượng các phương tiện cơ giới tham gia giao thông, đặc biệt là ô tô cá nhân sẽ
tăng nhanh chóng và kéo theo số lượng phương tiện kiểm định cũng tăng lên.
Hiện nay, việc thực hiện đăng kiểm phương tiện cơ giới đường bộ tại
Ninh Thuận được thực hiện tại Trung tâm đăng kiểm duy nhất là Trung tâm
đăng kiểm phương tiện cơ giới thuộc Sở Giao thông vận tải Ninh Thuận. Mặc
dù trong thời gian qua, Trung tâm đã có nhiều nỗ lực cố gắng để thực hiện các
công tác đăng kiểm nhưng vì nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó chủ yếu
là do quy mô của Trung tâm đăng kiểm còn quá nhỏ, chưa đáp ứng được các
nhu cầu đăng kiểm đối với các phương tiện tham gia giao thông đường bộ nên
chất lượng đăng kiểm có nhiều điểm giảm sút, tạo nên sự không hài lòng của
lái xe và chủ phương tiện cần đăng kiểm. Điều đó đặt ra yêu cầu cấp thiết
khách quan phải tăng cường chất lượng đăng kiểm, đồng thời mở rộng quy mô
công tác đăng kiểm trên địa bàn tỉnh, trong đó cần chú trọng tới việc xã hội hóa
công tác đăng kiểm.
70
Chương 3
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP TRIỂN KHAI XÃ HỘI HÓA
CÔNG TÁC ĐĂNG KIỂM XE CƠ GIỚI Ở NINH THUẬN
3.1 SỰ CẦN THIẾT PHẢI XÃ HỘI HÓA CÔNG TÁC ĐĂNG
KIỂM XE CƠ GIỚI TẠI NINH THUẬN
Xu hướng chuyển chức năng cung ứng dịch vụ công ra khỏi khu vực nhà
nước một cách tối đa đã được một số nước thực hiện từ lâu. Điển hình như
nước Mỹ, gần như tất cả các dịch vụ công đều do khu vực tư nhân đảm trách,
Chính phủ chỉ giữ vai trò kiểm tra, kiểm soát. Trong điều kiện ở Việt Nam hiện
nay, việc xã hội hóa mặc dù đã được quan tâm định hướng, chỉ đạo nhưng vì
nhiều lý dpo khác nhau vẫn còn chưa đạt được mức độ như mong muốn. Lý do
chủ yếu là chưa có cơ chế quản lý hiệu quả, thêm nữa khu vực tư chưa đủ lớn
mạnh để tiếp nhận việc cung ứng một cách tốt nhất. Như vậy ở Việt Nam, Nhà
nước vẫn giữ vai trò chủ chốt trong cung ứng dịch vụ công.
Xu hướng xã hội hóa sẽ được tiếp tục triển khai trong những năm tới đây
cùng với việc triển khai Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước
giai đoạn 2011-2020 với mục tiêu nâng cao chất lượng cung cấp dịch vụ công.
Bộ Giao thong Vận tải đã và đang được đánh giá là Bộ đi đầu trong công tác
triển khai xã hội hóa. Đối với lĩnh vực đăng kiểm phương tiện giao thông
đường bộ, Bộ đã ban hành Quy hoạch tổng thể các trung tâm đăng kiểm và dây
chuyền kiểm định xe cơ giới đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 (Kèm theo
Quyết định số 3371/2014/QĐ-BGTVT ngày 06 tháng 10 năm 2014 của Bộ
trưởng Bộ Giao thông vận tải) để định hướng phát triển các Trung tâm đăng
kiểm trên phạm vi cả nước từ này đến 2020, trong đó xác định rõ xã hội hóa
các trung tâm đăng kiểm là một trong những ưu tiên chủ yếu.
71
Cùng với sự phục hồi kinh tế trong năm 2015 và 2016, mặc dù mức độ
tăng trưởng còn hạn chế nhưng trong những năm tới GDP bình quân đầu người
sẽ đạt mức tăng manh mẽ và khả năng tiêu dùng của người dân sẽ còn tăng cao,
nhu cầu và khả năng mua xe cơ giới, nhất là ô tô sẽ tiếp tục tăng.
Với tốc độ gia tăng GDP như vậy và đặc điểm của thời kỳ đang phát
triển (cơ cấu vận tải chủ yếu bằng đường bộ, ở Việt Nam hiện nay vận tải hành
khách đường bộ chiếm 90% và vận chuyển hàng hóa đường bộ chiếm 85%), dự
báo trong tương lai gần, số lượng phương tiện giao thông cơ giới cá nhân (cả
xe gắn máy và xe ô tô cá nhân cũng như xe chuyên dụng phục vụ vận tải hành
khách và hàng hóa) sẽ gia tăng mạnh mẽ [6].
Bên cạnh đó, tốc độ tăng trưởng ở các vùng miền, các tỉnh khác nhau
cũng không giống nhau nên tốc độ gia tăng các phương tiện giao thông cơ giới
đường bộ cũng không giống nhau, sẽ có ảnh hưởng nhất định tới sự phân bổ
các trung tâm đăng kiểm và số lượng các dây chuyền kiểm định xe cơ giới.
Cùng với việc tăng trưởng số phương tiện giao thông cơ giới đường bộ,
số lượng các vụ tai nạm giao thông liên quan tới ô tô, đặc biệt là đối với xe vận
tải và xe khách, cũng sẽ tăng lên đáng kể, đòi hỏi phải thực hiện công tác kiểm
định an toàn xe một cách nghiêm ngặt để đảm bảo các phương tiện an toàn khi
tham gia giao thông. Với tốc độ tăng trưởng xe cơ giới hiện nay, Bộ Giao
thông vận tải đánh giá nhu cầu đăng kiểm giai đoạn 2017-2018 là 3,2 triệu lượt
xe/năm; giai đoạn 2018-2020 khoảng 4,31 triệu lượt xe/năm và đến năm 2021-
2030 là khoảng 6,3 triệu lượt xe/năm. Để đáp ứng nhu cầu đăng kiểm đó, Quy
hoạch tổng thể các trung tâm đăng kiểm xe cơ giới xác định đến năm 2030 mỗi
tỉnh, thành phố thuộc trung ương phải có tối thiểu 2 trung tâm đăng kiểm với 2
dây chuyền kiểm định/trung tâm. Cụ thể, tới năm 2016 cả nước có 139 trung
tâm đăng kiểm với 235 dây chuyền kiểm định, trong đó khu vực đồng bằng
72
sông Hồng là nơi tập trung dân cư và mức độ đô thị hóa cao sẽ cần phải có 47
trung tâm đăng kiểm với 93 dây chuyền kiểm định, riêng Hà Nội sẽ có 21 trung
tâm đăng kiểm với 42 dây chuyền kiểm định (tăng thêm 18 trung tâm và 37
dây chuyền kiểm định). Giai đoạn đến năm 2020 số lượng trung tâm đăng kiểm
trên cả nước là 211 trung tâm với 451 dây chuyền kiểm định và năm 2030 sẽ
có khoảng 269 trung tâm với khoảng 660 dây chuyền kiểm định[8]. Hiện tại có
33 trung tâm đăng kiểm xã hội hóa được thành lập và tổ chức hoạt động.
Với GDP của tỉnh tăng trưởng bình quân 13%/năm, cao hơn so với tốc
độ tăng trưởng của một số tỉnh trong vùng, tổng sản phẩm nông, lâm nghiệp và
thủy sản tăng 4%/năm, công nghiệp và xây dựng tăng 23,4%/năm và các ngành
dịch vụ tăng 18,6%/năm với những đặc thù kinh tế xã hội như đã mô tả ở trên,
Ninh Thuận được dự báo là trong tương lai sẽ trở thành một tỉnh có tốc độ đô
thị hóa nhanh và phát triển mạnh mẽ về công nghiệp và dịch vụ. Cùng với sự
phát triển kinh tế-xã hội và mức sống của người dân được nâng cao, sẽ bùng nổ
số lượng các phương tiện giao thông cơ giới tham gia vào giao thông và hàng
năm số lượng các phương tiện giao thông cơ giới cần được đăng kiểm sẽ tăng
lên đáng kể.
Bảng 3.1.: Dự báo số lượng xe ô tô ở Ninh Thuận giai đoạn 2018-2030
Năm 2018 2020 2025 2030
Số lượng xe 8.698 15.189 21.813 21.813
Nguồn: Quyết định 3771/QĐ-BGTVT ngày 06/10/2014 của Bộ Giao thông vận tải
Sự gia tăng đột biến về số lượng các phương tiện Giao thông vận tải cơ
giới đường bộ đặt ra yêu cầu phải tăng cường số lượng kiểm định. Nếu như
năm 2016 số lượng các phương tiện tham gia kiểm định chỉ đạt 7.473 phương
tiện thì dự báo năm 2020 sẽ tang lên gần 12.000 phương tiện và năm 2030 là
73
25.000 phương tiện. Với quy mô này, chỉ với một trung tâm đăng kiểm ở Ninh
Thuận như hiện nay chắc chắn không thể đảm nhiệm tốt công tác đăng kiểm.
Sự quá tải của Trung tâm đăng kiểm duy nhất ở tỉnh Ninh Thuận hiện
nay là nguyên nhân chủ yếu dẫn tới chất lượng đăng kiểm xe cơ giới trên địa
bàn tỉnh chưa đáp ứng yêu cầu. Thời gian chờ đợi đăng kiểm lâu không chỉ
khiến cho chủ phương tiện không hài lòng, làm tăng chi phí xã hội, lãng phí
thời gian mà còn tạo kẽ hở làm nảy sinh các tiêu cực trong đội ngũ đăng kiểm
viên, gây phiền hà cho các chủ phương tiện. Chính vì vậy, việc triển khai thêm
một trạm đăng kiểm xe cơ giới nữa trên địa bàn tỉnh là cần thiết, phù hợp với
Quy hoạch phát triển các trung tâm đăng kiểm của Bộ Giao thông vận tải, phù
hợp với nhu cầu thực tiễn của địa phương cũng như nâng cao mức độ hài lòng
của người sử dụng phương tiện trên địa bàn tỉnh và các tỉnh lân cận.
Tuy nhiên, việc đầu tư cho Trung tâm đăng kiểm cần khá nhiều chi phí
(khoảng 20 tỷ đồng đầu tư ban đầu cho một trung tâm với 2 dây chuyền đăng
kiểm, chưa kể mặt bằng đăng kiểm) trong khi ngân sách của tỉnh còn rất hạn
chế nên nếu đầu tư từ ngân sách nhà nước đòi hỏi thời gian chờ đợi rất lâu,
không đáp ứng các yêu cầu hiện tại của việc phát triển đăng kiểm trên địa bàn.
Trung tâm mới được triển khai dưới hình thức xã hội hóa cũng phù hợp
với xu hướng chung của tiến trình xã hội hóa dịch vụ công ở Việt Nam và định
hướng phát triển công tác đăng kiểm trong tương lai. Cục Đăng kiểm Việt Nam
đang tiếp tục đẩy mạnh xã hội hóa công tác đăng kiểm xe cơ giới theo Quyết
định số 3771 của Bộ Giao thông vận tải phê duyệt quy hoạch tổng thể các trung
tâm đăng kiểm và dây chuyền kiểm định xe cơ giới đến năm 2020, tầm nhìn
2030. Đối với địa phương chưa có nhà đầu tư vào lĩnh vực này, trước mắt cần
duy trì các trung tâm đăng kiểm thuộc Sở Giao thông vận tải để phục vụ tốt
nhu cầu kiểm định của người dân, doanh nghiệp [6].
74
3.2. CÁC GIẢI PHÁP THỰC HIỆN XÃ HỘI HÓA ĐĂNG KIỂM
XE CƠ GIỚI Ở TỈNH NINH THUẬN
3.2.1. Yêu cầu đặt ra đối với các giải pháp thực hiện xã hội hóa đăng
kiểm xe cơ giới ở tỉnh Ninh Thuận
Việc triển khai trung tâm mới là cần thiết để đảm bảo nhu cầu kiểm định
phương tiện trên địa bàn tỉnh và các địa bàn lân cận. Trong quá trình triển khai
xây dựng trung tâm đăng kiểm mới cần đảm bảo các nguyên tắc chủ yếu:
- Rút ngắn được thời gian đăng kiểm
- Không làm tăng đầu tư từ ngân sách nhà nước
- Đảm bảo các yêu cầu về kỹ thuật và chất lượng đăng kiểm
- Tăng mức độ hài lòng của chủ phương tiện khi thực hiện đăng kiểm.
3.2.2. Lựa chọn mô hình tổ chức hoạt động
Từ năm 2011 đến nay, rút kinh nghiệm những ưu điểm, nhược điểm của
giai đoạn đầu thực hiện xã hội hóa công tác đăng kiểm và trên cơ sở tham khảo
kinh nghiệm quốc tế, Cục Đăng kiểm Việt Nam đã hướng lộ trình xã hội hóa
công tác đăng kiểm theo mô hình mới hơn, đó là: Các thành phần kinh tế đầu
tư cơ sở vật chất, còn cán bộ, đăng kiểm viên thì do các sở Giao thông vận tải
địa phương đảm nhận bố trí hoặc do Cục Đăng kiểm Việt Nam bố trí trong
trường hợp Sở Giao thông vận tải không đảm nhận quản lý thực hiện công tác
kiểm định, cấp giấy chứng nhận an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường.
Điều đáng ghi nhận của mô hình mới này là việc sử dụng cán bộ, công
chức, viên chức thuộc cơ quan Nhà nước thực hiện tổ chức kiểm định xe cơ
giới ở các trung tâm xã hội hóa đã giảm hẳn phiền hà, hạn chế được tác động
của chủ doanh nghiệp đến công tác kiểm định. Các trung tâm đăng kiểm do
doanh nghiệp đầu tư khang trang, vị trí thuận lợi; thiết bị kiểm định, thông tin
liên lạc đáp ứng yêu cầu. Đội ngũ đăng kiểm viên được bổ nhiệm theo quy
trình, đúng tiêu chuẩn, có ràng buộc với công tác quản lý, xử lý kỷ luật khi vi 75
phạm. Chất lượng đăng kiểm bảo đảm khách quan và nâng lên rõ nét, chi phí
ngân sách Nhà nước đầu tư cho công tác đăng kiểm giảm đáng kể.
Trong hai mô hình đăng kiểm xã hội hóa chủ yếu (mô hình xã hội hóa
toàn bộ và mô hình nhà đầu tư tư nhân đầu tư trang thiết bị và nhân viên, điều
hành thuộc nhà nước), việc đầu tư theo mô hình thứ hai có nhiều ưu thế hơn
đối với Ninh Thuận, đặc biệt là ở giai đoạn đầu tiên vì việc kiểm soát đối với
các trung tâm được xã hội hóa với đăng kiểm viên là người do chính trung tâm
hợp đồng sẽ rất khó kiểm soát chất lượng và do đó dễ dẫn tới tiêu cực. Trong
giai đoạn tiếp theo có thể chuyển đổi mô hình này theo hướng giao biên chế
cho Trung tâm trực tiếp tuyển dụng nếu như ý thức chấp hành pháp luật và tính
tự giác của đội ngũ lãnh đạo và nhân viên đăng kiểm nói chung được nâng lên.
3.2.3. Đào tạo nguồn nhân lực
Chất lượng hoạt động của các trung tâm đăng kiểm phụ thuộc phần lớn
vào chất lượng nhân lực đăng kiểm, đặc biệt là các đăng kiểm viên. Các đăng
kiểm viên phải được tuyển dụng từ những người đã được đào tạo về chuyên
môn nghiệp vụ và phải được bồi dưỡng theo các quy định cụ thể của Cục Đăng
kiểm Việt Nam. Do công tác đăng kiểm là một hoạt động đặc thù nên việc đào
tạo các đăng kiểm viên được thực hiện trực tiếp tại Cục Đăng kiểm Việt Nam.
Ngay cả lực lượng đăng kiểm viên đang hoạt động cũng phải được kiểm tra sát
hạch lại định kỳ để đáp ứng được các đòi hỏi thực tiễn của công tác đăng kiểm.
Thực tiễn cho thấy không phải đăng kiểm viên nào cũng đáp ứng được các đòi
hỏi của thực tiễn đăng kiểm. Theo thống kê của Trung tâm đào tạo (Cục Đăng
kiểm Việt Nam), chỉ trong năm 2016 đã có 77 đăng kiểm viên của 48 đơn vị bị
xử lý vi phạm [30]. Vì vậy, sát hạch kiểm chuẩn hàng năm là thực sự cần thiết.
Việc triển khai trung tâm đăng kiểm mới tại Ninh Thuận theo hình thức
xã hội hóa một phần với lực lượng đăng kiểm viên là viên chức nhà nước nằm
dưới sự quản lý của Sở Giao thông vận tải như đề xuất ở trên về mô hình trung
76
tâm đăng kiểm đòi hỏi phải tăng biên chế đăng kiểm viên của Sở Giao thông
vận tải. Điều này đòi hỏi phải có sự ủng hộ mạnh mẽ của HĐND và UBND
tỉnh. Các đăng kiểm viên được tuyển dụng phải đáp ứng được các yêu cầu và
phải được giám sát thường xuyên về chuyên môn của Cục Đăng kiểm Việt
Nam và Sở Giao thông vận tải Ninh Thuận.
3.2.4. Huy động vốn cho việc xây dựng Trung tâm đăng kiểm
Một trung tâm đăng kiểm xe cơ giới đòi hỏi những yêu cầu nghiêm ngặt
về kỹ thuật và công nghệ nên cần một khoản đầu tư vốn lớn và dài hạn. Về cơ
bản, cơ sở vật chất kỹ thuật (mặt bằng, diện tích xây dựng; nhà xưởng, bãi đỗ
xe; thiết bị kiểm định; dụng cụ kiểm tra trong dây chuyền kiểm định; thiết bị
thông tin, lưu trữ và truyền số liệu; các thiết bị phụ trợ khác và chi phí nguồn
nhân lực) đối với một Trung tâm đăng kiểm xe cơ giới phải bảo đảm thực hiện
theo đúng quy định tại Thông tư số 11/2009/TT-BGTVT ngày 24 tháng 6 năm
2009 của Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải.
Loại dây chuyền kiểm định
Diện tích tối thiểu của xưởng kiểm tra có một dây chuyền (m)
Kích thước tối thiểu lắp đặt dây chuyền dài x rộng (m)
180
30 x 6
264
40 x 6,6
Dây chuyền kiểm định xe có tải trọng trục đến 2.000 kg Dây chuyền kiểm định xe có tải trọng trục đến 13.000 kg
Bảng 3.2: Quy định diện tích tối thiểu của trung tâm đăng kiểm xe cơ giới
Nguồn: Thông tư 11/2009/TT-BGTVT ngày 24/6/2009 của Bộ GTVT
Một trong những yếu tố cơ bản có ảnh hưởng mạnh mẽ tới chất lượng
công tác kiểm định là mặt bằng của đơn vị kiểm định. Theo quy định tại Thông
tư 11/2009/TT-BGTVT ngày 24 tháng 6 năm 2009 của Bộ trưởng Bộ Giao
thông vận tải, địa điểm xây dựng Trung tâm phải phù hợp với quy hoạch, có
đường giao thông thuận tiện cho phương tiện giao thông cơ giới đường bộ ra,
vào kiểm định và bảo đảm về vệ sinh môi trường.
77
Diện tích mặt bằng của Trung tâm đăng kiểm cần đáp ứng các yêu cầu
tiêu chuẩn bao gồm nhà kiểm định, sân bãi đỗ xe chờ đăng kiểm, văn phòng,
nhà chờ, đường đi lại,… Như vậy cần có mặt bằng tương đối rộng để xây dựng
một trung tâm mới.
Diện tích bãi đỗ xe và đường ra, vào kiểm định của Trung tâm cần có
một dây chuyền kiểm định tối thiểu bằng 5,5 lần diện tích tối thiểu của xưởng
kiểm tra tương ứng. Trường hợp Trung tâm có nhiều dây chuyền kiểm định thì
kể từ dây chuyền thứ hai trở đi, diện tích bãi đỗ xe và đường ra vào phải tăng
thêm 1,5 lần so với diện tích tương ứng của dây chuyền đầu tiên.
Thực tế các Trung tâm kiểm định trên cả nước cho thấy nhiều đơn vị
đăng kiểm khi không đảm bảo được đầy đủ các tiêu chí về mặt bằng sẽ dẫn tới
nhiều bất cập trong hoạt động và làm giảm chất lượng đăng kiểm. Do diện tích
mặt bằng của trung tâm nhỏ hẹp nên việc di chuyển của các phương tiện trong
sân bãi rất khó khăn, xe chờ kiểm định đỗ cả ngoài đường giao thông gây cản
trở giao thông; nhà kiểm định có chiều dài quá ngắn dẫn tới việc bố trí nhiều
công đoạn kiểm định tại một vị trí làm giảm năng suất và chất lượng kiểm
định; phòng chờ kiểm định còn chật chội, gây khó khăn cho chủ phương tiện
đến kiểm định [34]. Trong điều kiện của Ninh Thuận, việc triển khai trung tâm
đăng kiểm thứ hai cần phải tính toán đến mặt bằng và cần có sự hỗ trợ mạnh
mẽ của chính quyền tỉnh trong việc cho thuê đất và hỗ trợ giải phóng mặt bằng.
Theo tính toán của Cục Đăng kiểm Việt Nam, kinh phí để triển khai đầu
tư mới một dây chuyền kiểm định xe cơ giới hết khoảng 2,5-3 tỷ đồng và đầu
tư xây dựng nhà xưởng, bãi đỗ xe, nhà văn phòng và các trang thiết bị khác
khoảng 2,3 tỷ đồng/trung tâm (chưa kể mặt bằng) [24]. Những chi phí ban đầu
về xây dựng và lắp đặt trang thiết bị hết khoảng 3 tỷ đồng cho một trung tâm
với 2 dây chuyền kiểm định, các chi phí khác như lập dự án, giao dịch làm thủ
tục, mua sắm thiết bị văn phòng và thiết bị ngọai vi khoảng 700 triệu
78
đồng.]Như vậy, tổng vốn đầu tư cho một trung tâm đăng kiểm với hai dây
chuyền đăng kiểm sẽ vào khoảng 8-9 tỷ đồng (chưa tính chi phí vận hành).
Chi phí hoạt động cho một trung tâm đăng kiểm với 2 dây chuyền đăng
kiểm hàng năm vào khoảng 1,5 tỷ đồng bao gồm thuế, lương và những khoản
có tính chất lương, bảo hiểm, mua sắm thiết bị máy móc lẻ, chi phí phục vụ
kiểm định, đầu tư xây dựng cơ bản, sửa chữa tài sản nhà xưởng, khen
thưởng,…, ngoài ra còn có chi phí khấu hao tài sản cố định và trả lãi ngân
hàng,…Như vậy, tổng chi phí trong năm của một trung tâm kiểm định vào
khoảng 2,8-3 tỷ đồng [24, tr.156].
Với kinh phí như vậy, chờ đợi nguồn đầu tư từ ngân sách nhà nước (cả
nguồn từ trung ương và của tỉnh) trong bối cảnh ngân sách hiện nay là rất khó
khăn. Tuy nhiên, việc huy động vốn từ khu vực tư nhân có thể thực hiện được
do trên địa bàn tỉnh có khá nhiều doanh nghiệp lớn mong muốn đầu tư.
3.2.5. Tăng cường quản lý nhà nước đối với các trung tâm đăng kiểm
xã hội hóa
Xây dựng chiến lược và các chính sách, cơ chế về cung ứng dịch vụ
đăng kiểm xe cơ giới đường bộ.
Phân cấp quản lý việc cung ứng dịch vụ đăng kiểm xe cơ giới đường bộ
Thực hiện chỉ đạo, điều hành và kiểm tra, giám sát hoạt động cung ứng
dịch vụ đăng kiểm xe cơ giới đường bộ nhằm bảo đảm mục tiêu của Nhà nước
Tạo lập môi trường, cơ chế phản hồi của khách hàng về chất lượng và
giá thành kiểm định xe cơ giới trung tâm đăng kiểm tư nhân.
Ban hành các cơ chế khuyến khích các nhà cung ứng cải thiện, nâng cao
chất lượng dịch vụ.
Xác định ranh giới giữa khu vực công và khu vực tư trong cung ứng dịch
vụ công.
Quản lý chất lượng và phí dịch vụ.
79
3.3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
3.3.1. Đối với Chính phủ
Sớm phê duyệt danh mục, phương án chuyển đổi đơn vị sự nghiệp công
lập trực thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thành
công ty cổ phần để làm cơ sở cho các địa phương triển khai xã hội hóa công tác
đăng kiểm xe cơ giới đường bộ bảo đảm thống nhất.
3.3.1. Đối với Bộ Giao thông vận tải và Cục Đăng kiểm Việt Nam
- Nhanh chóng rà soát và hoàn thiện khung pháp lý cho việc xã hội hóa
kiểm định xe cơ giới; chuyển các trung tâm đăng kiểm xe cơ giới hiện nay
đang thuộc Cục và cả các trung tâm thuộc các Sở Giao thông vận tải sang mô
hình xã hội hóa nhằm tách biệt hoạt động quản lý nhà nước đối với đăng kiểm
(của Cục Đăng kiểm Việt Nam và các Sở Giao thông vận tải tại các tỉnh) và
công tác đăng kiểm (hoạt động cung cấp dịch vụ của các Trung tâm đăng
kiểm). Tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh giữa các trung tâm đăng kiểm.
Muốn đảm bảo chất lượng chất lượng dịch vụ công đồng thời mở rộng
chuyển giao việc cung ứng dịch vụ cho khu vực tư nhân, Nhà nước cần phải
có cơ chế thích hợp. Trước hết hoàn thiện pháp luật một cách đồng bộ về bộ
máy nhà nước, trao thẩm quyền cụ thể cho từng loại cơ quan thực hiện quản
lý và cung ứng dịch vụ công. Đặt ra chế tài xử lý vi phạm cùng với cơ chế
bảo đảm thực hiện các chế tài đó khi có hành vi vi phạm. Đồng thời, nâng cao
vai trò của Tòa Hành chính trong việc xét xử các quyết định hành chính, hành
vi công vụ.
Việc chuyển đổi các cơ sở cung cấp dịch vụ công lập như các Trung tâm
đăng kiểm do Cục Đăng kiểm hay Sở Giao thông vận tải tỉnh quản lý sang hoạt
động theo cơ chế sự nghiệp tự chủ, tự hạch toán, tự chịu trách nhiệm cũng phải
có quy định cụ thể, trong đó xác định rõ về chức năng, nhiệm vụ, phạm vi tự
80
chịu trách nhiệm của những đơn vị này. Làm rõ cơ chế tài chính để các cơ quan
quản lý nhà nước có thể kiểm soát và can thiệp khi cần thiết. Quy định rõ việc
Nhà nước sẽ can thiệp khi có những thay đổi khách quan như thay đổi mức phí,
khi giá dịch vụ cao hơn mặt bằng chung hoặc khi thực hiện chính sách xã hội,…
- Sửa đổi quy định về phí kiểm định theo hướng tăng phí kiểm định cho
phù hợp với điều kiện thực tế. Việc quy định phí đăng kiểm xe cơ giới quá thấp
hiện nay (240.000đ/xe ô tô cá nhân 5 chỗ ngồi) khiến cho khả năng lợi nhuận
của các trung tâm đăng kiểm hầu như không có nếu không nói là sẽ thua lỗ và
vì vậy khó có thể thu hút được các nhà đầu tư tư nhân. Như vậy, không nên
khống chế trần phí đăng kiểm. Có thể cho phép các trung tâm kiểm định xe cơ
giới được xây dựng theo hình thức xã hội hóa áp dụng cơ chế phí mềm dẻo.
Tuy nhiên, để tránh tình trạng cạnh tranh không lành mạnh dẫn tới việc hạ hoặc
tăng giá thành đăng kiểm một cách tùy tiện, cần tăng cường sự kiểm soát về
chất lượng từ phía Sở Giao thông vận tải đối với công tác đăng kiểm, nhất là
với Trung tâm được tổ chức theo hình thức xã hội hóa.
- Hỗ trợ các trung tâm mới thành lập trong việc đào tạo nguồn nhân lực
để đảm bảo chất lượng nhân lực đáp ứng các yêu cầu của công tác kiểm định
theo các quy định hiện hành.
- Tăng cường kiểm soát đối với các trung tâm đăng kiểm, đặc biệt là các
trung tâm đang được xã hội hóa để đảm bảo chất lượng đăng kiểm thống nhất
trên cả nước.
3.3.2. Đối với UBND tỉnh Ninh Thuận
Trước hết UBND tỉnh cần ban hành Quy hoạch phát triển đăng kiểm trên
địa bàn tỉnh phù hợp với Quy hoạch phát triển đăng kiểm của Bộ Giao thông
vận tải làm căn cứ để triển khai huy động các đơn vị có mong muốn tham gia
vào hoạt động này.
81
Để thu hút các doanh nghiệp và người dân tham gia hoạt động xã hội
hóa, cần có cơ chế, chính sách khuyến khích xã hội hóa cụ thể. Trước hết, để
xây dựng trung tâm đăng kiểm xe cơ giới mới, cần có sự hỗ trợ trực tiếp của
UBND tỉnh trong việc tạo điều kiện về mặt bằng (bố trí cho thuê dài hạn hoặc
cấp đất để xây dựng trung tâm; hỗ trợ giải phóng mặt bằng); hỗ trợ việc vay
vốn; chuẩn y về việc bổ sung biên chế cho trung tâm mới nếu áp dụng mô hình
doanh nghiệp đầu tư vốn xây dựng cơ sở vật chất và Nhà nước chịu trách
nhiệm về tổ chức và bố trí nhân sự,…
3.3.3. Đối với Sở Giao thông vận tải Ninh Thuận
Là cơ quan trực tiếp thực hiện việc quản lý nhà nước đối với Trung tâm
đăng kiểm trên địa bàn tỉnh, Sở Giao thông vận tải phải trực tiếp việc kiểm soát
việc tuân thủ pháp luật về đăng kiểm đối với trung tâm đăng kiểm mới. Cần
xây dựng cơ chế phối hợp cụ thể và mức độ kiểm soát giữa Cục Đăng kiểm
Việt Nam, Sở Giao thông vận tải và Trung tâm đăng kiểm.
Thực hiện việc hỗ trợ đào tạo, đào tạo lại và sát hạch hàng năm đối với
các đăng kiểm viên.
82
TIỂU KẾT CHƯƠNG 3
Cùng với sự phát triển kinh tế-xã hội ở Ninh Thuận, trong tương lai, dự
báo số lượng phương tiện cơ giới đường bộ sẽ tang trưởng nhanh chóng, kéo
theo việc tang trưởng số lượng phương tiện có nhu cầu đăng kiểm. Theo Quy
hoạch phát triển của Trung tâm đăng kiểm của Bộ Giao thông vận tải, trong
giai đoạn đến năm 2020, Ninh Thuận có 1 trung tâm đăng kiểm, đến năm 2030
sẽ có 2 trung tâm đăng kiểm với 4 dây chuyền đăng kiểm hiện đại để đảm bảo
nhu cầu đăng kiểm các phương tiện giao thông cơ giới đường bộ. Việc triển
khai một trung tâm mới để chia sẻ áp lực cho Trung tâm đăng kiểm phương
tiện cơ giới Ninh Thuận hiện nay là rất cần thiết. Tuy nhiên, vấn đề đầu tư của
nhà nước (cả ở trung ương và cấp tỉnh) cho việc xây dựng một trung tâm mới
là rất khó khăn. Chính vì vậy, triển khai một trung tâm đăng kiểm mới dưới
hình thức xã hội hóa là một yêu cầu khách quan, đáp ứng các nhu cầu đăng
kiểm thực tế. Việc triển khai một trung tâm như vậy cũng phù hợp với xu
hướng xã hội hóa công tác đăng kiểm mà Bộ Giao thông vận tải và Cục Đăng
kiểm Việt Nam đã và đang triển khai một cách tích cực hiện nay.
Để có thể triển khai xây dựng trung tâm đăng kiểm dưới hình thức xã hội
hóa trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận đòi hỏi sự ủng hộ mạnh mẽ của Bộ Giao
thông vận tải (của Cục Đăng kiểm Việt Nam), chính quyền tỉnh Ninh Thuận,
Sở Giao thông vận tải Ninh Thuận cũng như sự quan tâm của các doanh nghiệp
lớn trong tỉnh.
83
KẾT LUẬN
Đăng kiểm phương tiện cơ giới đường bộ là một hoạt động quan trọng
nhằm nâng cao chất lượng phương tiện cơ giới đường bộ, bảo đảm an toàn kỹ
thuật cho các phương tiện giao thông và bảo vệ môi trường. Chính vì vậy, công
tác đăng kiểm phương tiện cơ giới đường bộ cần được thực hiện dưới sự giám
sát trực tiếp của các cơ quan nhà nước.
Trong những năm qua, công tác đăng kiểm phương tiện cơ giới đã đạt
được nhiều thành công nhất định, góp phần quan trọng vào việc tăng cường
chất lượng kiểm định, giảm thời gian, chi phí và phiền hà cho các chủ phương
tiện cần kiểm định. Một trong những nỗ lực nhằm nâng cao chất lượng kiểm
định, giảm gánh nặng của Nhà nước là xã hội hóa hoạt động kiểm định xe cơ
giới đã được Bộ Giao thông vận tải tiến hành thí điểm từ năm 2010 và cho tới
nay đã được chứng minh là mang lại những hiệu quả thiết thực. Chính vì vậy,
tăng cường xã hội hóa theo hướng tách biệt công tác đăng kiểm với hoạt động
quản lý nhà nước về đăng kiểm sẽ được tiếp tục triển khai trong thời gian tới.
Ninh Thuận là một tỉnh có tốc độ phát triển kinh tế-xã hội khá nhanh và
bền vững. Tỉnh lại nằm trên trục quốc lộ hành lang Bắc-Nam, là một đầu mối
giao thông quan trọng, do đó, số lượng các phương tiện đăng kiểm sẽ gia tăng
nhanh chóng trong thời gian tới. trong khi đó, công tác đăng kiểm hiện nay do
một trung tâm đăng kiểm phương tiện giao thông duy nhất triển khai nên việc
đăng kiểm trở nên quá tải, gây nên sự chờ đợi, làm giảm mức độ hài lòng của
lái xe và chủ phương tiện khi tới đăng kiểm. Đây cũng là nguyên nhân chủ yếu
làm phát sinh các tiêu cực trong công tác đăng kiểm. Chính vì vậy, việc xã hội
hóa công tác đăng kiểm ở Ninh Thuận là một yêu cầu cấp bách và khách quan.
Việc xã hội hóa công tác đăng kiểm ở Ninh Thuận trong điều kiện hiện
nay có ý nghĩa quan trọng đối với công tác đăng kiểm trên địa bàn tỉnh, góp
phần quan trọng vào việc giảm tải cho trung tâm đăng kiểm hiện có, đồng thời
84
tạo nên sự cạnh tranh lành mạnh góp phần vào việc nâng cao chất lượng đăng
kiểm trên địa bàn tỉnh. Vì vậy, cần phải nghiên cứu cụ thể để triển khai xã hội
hóa trung tâm này trong tương lai gần.
85
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lâm Anh (2012), Xã hội hóa đăng kiểm tạo thuận lợi cho chủ phương tiện,
website của Báo Giao thông.
2. Đặng Khắc Ánh (2012), Hợp tác công -tư và vận dụng vào cải cách khu
vực công ở Việt Nam, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở trọng điểm của Học
viện Hành chính.
3. Đặng Khắc Ánh (2012), “Nâng cao chất lượng xã hội hóa dịch vụ công”,
Tạp chí Giáo dục Lý luận, số 190, tr.13-16.
4. Bộ Giao thông vận tải (2012), Quyết định 1873/QĐ-BGTVT ngày 08
tháng 8 năm 2012 phê duyệt “Đề án nâng cao chất lượng công tác đăng kiểm
phương tiện giao thông cơ giới đường bộ và phương tiện thủy nội địa góp phần
giảm thiểu tai nạn giao thông và ô nhiễm môi trường”.
5. Bộ Giao thông vận tải (2013), Quyết định 862/QĐ-BGTVT ngày 05
tháng 4 năm 2013 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức
của Cục Đăng kiểm Việt Nam.
6. Bộ Giao thông vận tải (2014), Quyết định số 3771/QĐ-BGTVT ngày 06
tháng 10 năm 2014 phê duyệt quy hoạch tổng thể các trung tâm đăng kiểm và
dây chuyền kiểm định xe cơ giới đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030.
7. Bộ Giao thông vận tải (2015), Quyết định 4202/QĐ-BGTVT ngày 25
tháng 11 năm 2015 phê duyệt “Đề án tách chức năng quản lý nhà nước với
cung cấp dịch vụ công trong lĩnh vực đăng kiểm”.
8. Bộ Giao thông vận tải (2013), Thông tư số 59/2013/TT-BGTVT ngày 30
tháng 12 năm 2013 quy định về việc thành lập và hoạt động của Trung tâm
Đăng kiểm xe cơ giới.
86
9. Bộ Giao thông vận tải (2012), Thông tư số 56/2012/TT-BGTVT ngày 27
tháng 12 năm 2012 quy định về kiểm định an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường
phương tiện giao thông cơ giới đường bộ.
10. Bộ Giao thông vận tải (2015), Thông tư số 70/2015/TT-BGTVT ngày 09
tháng 11 năm 2015 quy định về kiểm tra an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường
phương tiện giao thông cơ giới đường bộ.
11. Bộ Nội vụ, Bộ Giao thông vận tải (2015), Thông tư liên tịch số
42/2015/TTLT-BNV-BGTVT ngày 14 tháng 8 năm 2015 hướng dẫn chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của cơ quan chuyên môn về giao thông
vận tải thuộc UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và UBND huyện,
quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh.
12. Chính phủ (2014), Nghị định số 24/2014/NĐ-CP ngày 04 tháng 4 năm
2014 quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương.
13. Chính phủ (2015), Nghị định 63/2016/NĐ-CP ngày 01 tháng 7 năm 2016
quy định về điều kiện kinh doanh dịch vụ đăng kiểm xe cơ giới.
14. Chính phủ (2011), Nghị quyết số 30c/NQ-CP ngày 08 tháng 11 năm
2011 ban hành Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn
2011-2020.
15. Chính phủ (2013), Quyết định số 356/2013/QĐ-TTg ngày 25 tháng 02
năm 2013 phê duyệt điều chỉnh quy hoạch phát triển giao thông vận tải đường
bộ đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030.
16. Chính phủ (2015), Quyết định số 22/2015/QĐ-TTg ngày 22 tháng 6 năm
2015 về việc chuyển đơn vị sự nghiệp công lập thành công ty cổ phần.
17. Cục Đăng kiểm Việt Nam (2016), Báo cáo tổng kết công tác đăng kiểm
xe cơ giới đường bộ năm 2015.
87
18. Cục Đăng kiểm Việt Nam (2014), Tổng hợp số liệu về phương tiện giao
thông trong cả nước. Hà Nội.
19. Cục thống kê Ninh Thuận (2016), Niêm giám thống kê tóm tắt 2016.
20. Đảng bộ tỉnh Ninh Thuận (2015), Báo cáo chính trị tại Đại hội tỉnh Đảng
bộ Ninh Thuận lần thứ XIII.
21. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VIII. NXB. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
22. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ
IX, X, XI của Đảng.
23. Quỳnh Hoa (2013), Tìm mô hình cho hoạt động đăng kiểm xe cơ giới,
website của Chính phủ.
24. Nguyễn Văn Hùng (2005), Về dự án đầu tư xây dựng Trung tâm đăng
kiểm xe cơ giới, in trong: Cục Đăng kiểm Việt Nam (2005): Tuyển tập các báo
cáo khoa học tại Hội nghị Khoa học-Công nghệ về công tác đăng kiểm xe cơ
giới. Quảng Ninh, 2005, tr.153-162.
25. Bùi Huy Khiên (Chủ biên) (2013), Quản lý công (sách chuyên khảo).
NXB. Chính trị Hành chính, Hà Nội.
26. Đoàn Duy Khương (2012), “Hợp tác công-tư trong phát triển hạ tầng
Giao thông vận tải”, Tạp chí Cộng sản điện tử.
27. Đinh Mai Lan (2012), “Xã hội hóa và chất lượng cung ứng dịch vụ
công”, Tạp chí nghiên cứu lập pháp.
28. Nguyên Lê (2012), Đi tìm chữ “tư“ trong hình thức đầu tư đối tác
công-tư (http://ashui.com).
29. Bích Liên (2013), “Xã hội hóa đăng kiểm xe cơ giới“- Mâu thuẫn giữa
hoàn vốn và chất lượng kiểm định.
88
30. Huy Lộc (2014), Nâng chuẩn đăng kiểm viên xe cơ giới, Báo Giao
thông vận tải, ngày 28 tháng 10 năm 2014.
31. Bạch Mai (2012), Sử dụng ODA có hiệu quả góp phần hạn chế nợ công,
in trong: Hồ sơ sự kiện, số 228 (tháng 7/2012), tr.22-23.
32. Lê Chi Mai (2003), Cải cách dịch vụ công ở Việt Nam. NXB. Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
33. Phạm Ngọc Nam (2005), Công tác quản lý chất lượng kiểm định xe cơ
giới và biện pháp chống tiêu cực trong kiểm định, in trong: Cục Đăng kiểm Việt
Nam (2005): Tuyển tập các báo cáo khoa học tại Hội nghị Khoa học-Công nghệ
về công tác đăng kiểm xe cơ giới. Quảng Ninh, 2005, tr.137-139.
34. Hoàng Ngân (2012), “Nâng cao chất lượng công tác đăng kiểm”, Tạp
chí Giao thông vận tải.
35. Ngân hàng phát triển châu Á, Phục vụ và duy trì: Cải thiện hành chính
công trong một thế giới cạnh tranh, NXB. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
36. Minh Phúc (2015), Xã hội hóa đăng kiểm xe cơ giới, Báo Nhân dân điện
tử ngày 18 tháng 6 năm 2015.
37. Nguyễn Cúc Phương (2011), Hợp tác công tư: Cần đánh giá lại quan
hệ giữa Nhà nước với người dân và doanh nghiệp ngày 17 tháng 12 năm 2011,
(http://dddn.com.vn).
38. Quốc hội (2008), Luật Giao thông đường bộ số 23/2008/QH12 ngày
13/11/2008.
39. Sở Giao thông vận tải Ninh Thuận (2010), Quyết định số 255/QĐ-
SGTVT ngày 26 tháng 5 năm 2010 về việc quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn và cơ cấu tố chức của Trung tâm đăng kiểm xe cơ giới đường bộ Ninh
Thuận.
89
40. Chu Văn Thành (Chủ biên) (2004), Dịch vụ công và xã hội hóa dịch vụ
công-Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
41. Phan Trang (2015), Xã hội hóa đăng kiểm: sẽ loại trừ được tiêu cực,
Báo Chính phủ điện tử ngày 29 tháng 5 năm 2015.
42. Trung tâm đăng kiểm xe cơ giới đường bộ Ninh Thuận (2016), Báo cáo
kết quả đăng kiểm xe cơ giới đường bộ năm 2011-2016.
43. Xích Tùng (2014), Xã hội hóa công tác đăng kiểm xe cơ giới, Báo Nhân
dân ngày 17 tháng 01 năm 2014.
44. Vũ Huy Từ (Chủ biên) (1998), Quản lý khu vực công, NXB. Khoa học
và Kỹ thuật, Hà Nội.
45. UBND tỉnh Ninh Thuận (2017), Báo cáo phát triển kinh tế - xã hội 25
năm tái lập tỉnh.
46. Hồng Xiêm (2015), Hoàn thành cổ phần hóa các Trung tâm Đăng kiểm xe
cơ giới trong năm 2015, Báo Giao thông ngày 22 tháng 6 năm 2015.
47. WB (2009), Báo cáo Phát triển Việt Nam.
48. WB (1998), Nhà nước trong một thế giới đang chuyển đổi, NXB. Chính
trị Quốc gia, Hà Nội.
49. Website Báo Công an nhân dân http://cand.com.vn.
50. Website Báo Hải quan http://baohaiquan.vn/Pages/Dong-Nai-Dinh-chi-
hoat- dong- Trung-tam-dang-kiem-xe-co-gioi-6004D.aspx.
51. Website Báo Ninh Thuận http://baoninhthuan.com.vn.
52. Website Báo Tiền phong http://tienphongonline.com.vn.
53. Website Cổng thông tin Bộ Giao thông vận tải http://www.mt.gov.vn
/vn/Pages /chitiettin.aspx?IDNews=36148.
54. Website Cổng thông tin Cục Đăng kiểm Việt Nam http://vr.mt.gov.vn.
90
91
PHỤ LỤC 1
DANH SÁCH CÁC TRUNG TÂM ĐĂNG KIỂM XE CƠ GIỚI ĐƯỜNG BỘ
Địa chỉ
TT Mã số các Trung tâm 11-01S - Cao Bằng 1 12-01D - Lạng Sơn 2 14-01D - Quãng Ninh 3 14-02D - Quảng Ninh 4 14-03D - Quảng Ninh 5 15-01V - Hải Phòng 6 15-03D - Hải Phòng 7 15-02S - Hải Phòng 8 17-01S - Thái Bình 9 17-02D - Thái Bình 10 18-01S - Ninh Thuận 11 18-02S - Ninh Thuận 12 18-02D - Ninh Thuận 13 18-03D - Ninh Thuận 14 19-01V - Phú Thọ 15 20-01S - Thái Nguyên 16 20-02S - Thái Nguyên 17 20-03D - Thái Nguyên 18 21-01S - Yên Bái 19 22-01S - Tuyên Quang 20 23-01S - Hà Giang 21 24-01D - Lào Cai 22 25-01S - Lai Châu 23 26-01S - Sơn La 24 26-01D - Sơn La 25 27-01S - Điện Biên 26 28-01S - Hòa Bình 27 29-01S - Hà Nội 28 29-02S - Hà Nội 29 29-03S - Hà Nội 30 29-01V - Hà Nội 31 29-02V - Hà Nội 32 29-03V - Hà Nội 33 29-04V - Hà Nội 34 29-05V - Hà Nội 35 29-06V - Hà Nội 36 29-07D - Hà Nội 37 29-08D - Hà Nội 38 29-09D - Hà Nội 39 29-10D - Hà Nội 40
Phường Sông Hiến, TP Cao Bằng, Cao Bằng Phường Vĩnh Trại, TP Lạng Sơn, Lạng Sơn Phường Hà Phong, TP Hạ Long, Quảng Ninh Phường Thanh Sơn, TX Uông Bí, Quảng Ninh Xã Hải Đông, TP Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh Hùng Vương, quận Hồng Bàng, TP Hải Phòng Xã Kênh Giang, Thủy Nguyên, TP Hải Phòng Đông Hải 2, quận Hải An, TP Hải Phòng Trần Hưng Đạo, TP Thái Bình, tỉnh Thái Bình Đông Hưng, TP Thái Bình, tỉnh Thái Bình Xã Mỹ Tân, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Ninh Thuận Quang Trung, TP. Ninh Thuận, tỉnh Ninh Thuận Xã Nghĩa An, Nam Trực, tỉnh Ninh Thuận Xã Hải Thanh, huyện Hải Hậu, tỉnh Ninh Thuận Minh Phương, TP Việt Trì, tỉnh Phú Thọ Tân Lập, TP Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên Xã Cao Ngạn, TP Thái Nguyên, Thái Nguyên Phường Cải Đan, TP Sông Công, Thái Nguyên Nguyễn Thái Học, TP Yên Bái, tỉnh Yên Bái Xã An Tường, TP Tuyên Quang, Tuyên Quang Nguyễn Trãi, TP Hà Giang, tỉnh Hà Giang Phường Bắc Cường, TP Lào Cai, tỉnh Lào Cai Phường Tân Phong, TX Lai Châu, Lai Châu Nguyễn Lương Bằng, TP Sơn La, tỉnh Sơn La Phường Chiềng Sinh, TP. Sơn La, tỉnh Sơn La Thanh Bình, TP Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên Km 71, quốc lộ 6, TP Hòa Bình, Hòa Bình Xuân Đỉnh, quận Bắc Từ Liêm, TP Hà Nội Thanh Xuân Trung, Thanh Xuân, TP Hà Nội Quận Nam, Từ Liêm, TP Hà Nội Xã Liên Ninh, huyện Thanh Trì, TP Hà Nội Xã Phú Thị, huyện Gia Lâm, TP Hà Nội Láng Thượng, quận Đống Đa, TP Hà Nội Thị trấn Quang Minh, Mê Linh, TP Hà Nội Phường Phương Mai, Đống Đa, TP Hà Nội Xã Tam Hiệp, huyện Thanh Trì, TP Hà Nội Xã Mai Lâm, huyện Đông Anh, TP Hà Nội Xã Kim Chung, huyện Hoài Đức, TP Hà Nội Phường Lĩnh Nam, Hoàng Mai, TP Hà Nội Hoàng Văn Thụ, Hoàng Mai, TP Hà Nội
1
29-11D - Hà Nội 33-01S - Hà Nội 33-02S - Hà Nội 34-01S - Hải Dương 34-02D - Hải Dương 35-01S - Ninh Bình 35-02D - Ninh Bình 36-01S - Thanh Hóa 36-02S - Thanh Hóa 36-03D - Thanh Hóa 37-01S - Nghệ An 37-02S - Nghệ An 37-03D - Nghệ An 38-01S - Hà Tĩnh 43-01S - Đà Nẵng 43-02S - Đà Nẵng 47-01D - Đắk Lắk 47-02D - Đắk Lắk 47-03D - Đắk Lắk 47-04D - Đắk Lắk 48-01S - Đắk Nông 49-01S - Lâm Đồng 49-02S - Lâm Đồng 50-01S - TP.HCM 50-02S - TP.HCM 50-03S - TP.HCM 50-03V - TP.HCM 50-04V - TP.HCM 50-05V - TP.HCM 50-06V - TP.HCM 50-07V - TP.HCM 50-08D - TP.HCM 50-10D - TP.HCM 60-01S - Đồng Nai 60-02S - Đồng Nai 60-03S - Đồng Nai 60-04D - Đồng Nai 60-05D - Đồng Nai 60-06D - Đồng Nai 61-01S - Bình Dương 61-02S - Bình Dương 61-03D - Bình Dương 61-04D - Bình Dương 61-06D - Bình Dương 62-01S - Long An
41 42 43 44 45 46 47 48 49 50 51 52 53 54 55 56 57 58 59 60 61 62 63 64 65 66 67 68 69 70 71 72 73 74 75 76 77 78 79 80 81 82 83 84 85
Xã Đông Sơn, huyện Chương Mỹ, TP Hà Nội Phường Yên Nghĩa , quận Hà Đông, TP Hà Nội Quang Trung, thị xã Sơn Tây, TP Hà Nội Việt Hòa, TP Hải Dương, tỉnh Hải Dương TX Chí Linh, tp. Hải Dương, tỉnh Hải Dương Ninh Phong, TP Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình Bích Đào, TP Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình Đông Thọ, TP Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa Bắc Sơn, TX. Bỉm Sơn, tỉnh Thanh Hóa Quảng Thành, TP Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa Phan Bội Châu, TP Vinh, tỉnh Nghệ An Xã Đông Hiếu, thị xã Thái Hòa, tỉnh Nghệ An Xã Nghi Thạch, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An Xã Thạch Đài, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh. Hòa Minh, quận Liên Chiểu, TP Đà Nẵng. Xã Hòa Châu, huyện Hòa Vang, TP Đà Nẵng Phường Tân An, TP Buôn Mê Thuột, Đắc Lắc Xã Hòa Phú, TP Buôn Mê Thuột, tỉnh Đắk Lắk Xã EaĐar, huyện Eakar, tỉnh Đắc Lắc Thành Nhất, TP. Buôn Mê Thuột, Đắk Lắk Nghĩa Tân, thị xã Gia Nghĩa, tỉnh Đắk Nông Phường 3, TP Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng Phường 2, thị xã Bảo Lộc, tỉnh Lâm Đồng Phường An Lạc A, quận Bình Tân, TP.HCM Phường 5, quận 11, TP.HCM Hiệp Bình Chánh, quận Thủ Đức, TP.HCM Phường Linh Trung, quận Thủ Đức, TP.HCM Phường Long Thạch Mỹ, quận 9, TP.HCM Phường 2, quận Tân Bình, TP.HCM Phường Tân Thuận Tây, quận 7, TP.HCM Bình Hưng Hòa B, quận Bình Tân, TP.HCM Phường Thới An, quận 12, TP.HCM KCN Tân Tạo, quận Bình Tân, TP.HCM Phường An Bình, TP Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai Xuân Bình, thị xã Long Khánh, tỉnh Đồng Nai Xã Ngọc Định, huyện Định Quán, Đồng Nai KCN Biên Hòa 2, TP Biên Hòa, Đồng Nai Xã Phước Tân, TP. Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai Xã An Phước, huyện Long Thành, Đồng Nai Hiệp Thành, TP Thủ Dầu Một, Bình Dương Bình An, thị trấn Dĩ An, tỉnh Bình Dương Định Hòa, TP Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương An Thạnh, thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương Tân Bình, TX. Dĩ An, tỉnh Bình Dương Phường 5, TP Tân An, tỉnh Long An
2
62-02D - Long An 63-01S - Tiền Giang 63-02D - Tiền Giang 64-01V - Vĩnh Long 65-01S - Cần Thơ 65-02D - Cần Thơ 66-01S - Đồng Tháp 67-01S - An Giang 67-02S - An Giang 68-01S - Kiên Giang 69-01V - Cà Mau 70-01S - Tây Ninh 71-01S - Bến tre 72-01S - Bà Rịa–Vũng Tàu 72-02D -Bà Rịa–Vũng Tàu 73-01S - Quảng Bình 73-02D - Quảng Bình 73-03D - Quảng Bình 74-01S - Quảng Trị 74-01S - Quảng Trị 74-02D - Quảng Trị 75-01S - Huế 75-02S - Huế 76-01S - Quãng Ngãi 76-02D - Quãng Ngãi 77-01S - Bình Định 77-02S - Bình Định 78-01S - Phú Yên 79-01S - Khánh Hòa 79-02S - Khánh Hòa 81-02D - Gia Lai 81-03D - Gia Lai 81-04D - Gia Lai 82-01S - Kon Tum 83-01V - Sóc Trăng 83-02D - Sóc Trăng 84-01V - Trà Vinh 85-01S - Ninh Thuận 86-01S - Bình Thuận 88-01S - Vĩnh Phúc 88-02D - Vĩnh Phúc 89-01S - Hưng Yên 89-02S - Hưng Yên 90-01S - Hà Nam 92-01S - Quảng Nam
Thị trấn Bến Lức, huyện Bến Lức, Long An Xã Thân Cửu Nghĩa, Châu Thành, Tiền Giang Xã Tam hiệp, Châu Thành, tỉnh Tiền Giang Phường 8, TP. Vĩnh Long, tỉnh Vĩnh Long Hưng Thạnh, quận Cái Răng, TP Cần Thơ Long Hòa, quận Bình Thủy, TP Cần Thơ Xã Mỹ Phú, TP Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp Mỹ Thạnh, TP Long Xuyên, tỉnh An Giang Châu Phú A, thị xã Châu Đốc, tỉnh An Giang Xã Vĩnh Hòa Hiệp, Châu Thành, Kiên Giang Xã An Xuyên, Tp. Cà Mau, tỉnh Cà Mau Ninh Sơn, TP Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh Phường 7, TP Bến Tre, tỉnh Bến Tre. TP Bà Rịa -Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa –Vũng Tàu TP Bà Rịa -Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa –Vũng Tàu Phường Đồng Phú, TP Đồng Hới, Quảng Bình Xã Quảng Xuân, Quảng Trạch, Quảng Bình Xã vĩnh Ninh, huyện Quảng Ninh, Quảng Bình Lý Thường Kiệt, TP Đông Hà, tỉnh Quảng Trị Phường Đông Lương, TP Đông Hà, Quảng Trị Xã Gio Châu, huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị Điện Biên Phủ, TP Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế Hương Văn, TX Hương Trà, Thừa Thiên Huế Xã Tịnh Phong, Sơn Tịnh, tỉnh Quãng Ngãi Nghĩa Phương, Tư Nghĩa, tỉnh Quãng Ngãi Quang Trung, TP Quy Nhơn, Bình Định Xã Mỹ Châu, huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định Phường 9, TP Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên Phường Vĩnh Hòa, TP Nha Trang, Khánh Hòa Xã Cam Phú, Cam Ranh, tỉnh Khánh Hòa Xã Biển Hồ, TP Pleiku, tỉnh Gia Lai Phường Chi Lăng, TP Pleiku, tỉnh Gia Lai Thị trấn Đăk Pơ, huyện Đăk Pơ, tỉnh Gia Lai Huỳnh Thúc Kháng, TP Kon Tum, Kon Tum Trần Hưng Đạo, TX.Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng Xã Hồ Đắc Kiện, Châu Thành, tỉnh Sóc Trăng Phường 7, Thị xã Trà Vinh, tỉnh Trà Vinh. Thị trấn Phước Dân, Ninh Phước, Ninh Thuận Từ Văn Tư, TP Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận Phường Khai Quang, TP Vĩnh Yên, Vĩnh Phúc Xã Đạo Đức, huyện Bình Xuyên, Vĩnh Phúc Xã Dị Sử, huyện Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên Xã Bảo Khê, TP Hưng Yên, tỉnh Hưng Yên Xã Liêm Tiết, TP Phủ Lý, tỉnh Hà Nam Thị trấn Hà Nam, Thăng Bình, Quang Nam
86 87 88 89 90 91 92 93 94 95 96 97 98 99 100 101 102 103 104 105 106 107 108 109 110 111 112 113 114 115 116 117 118 119 120 121 122 123 124 125 126 127 128 129 130
3
131 132 133 134 135 136 137 138 139
93-01S - Bình Phước 94-01V - Bạc Liêu 95-01S - Hậu Giang 97-01S - Bắc Cạn 98-01S - Bắc Giang 99-01S - Bắc Ninh 99-02S - Bắc Ninh 99-03D - Bắc Ninh 99-04D - Bắc Ninh
Phường Tân Xuân, TX Đồng Xoài, Bình Phước Xã Long Thạnh, huyện Vĩnh Lợi, tỉnh Bạc Liêu Thị trấn Cái Tắc, Châu Thành A, Hậu Giang Phùng Chí Kiên, Thị xã Bắc Cạn, Bắc Cạn Xương Giang, TP Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang Phường Thị Cầu, TP Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh Xã Tam Sơn, thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh Thị trấn Phố Mới, Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh Xã Lâm Thao, huyện Lương Tài, tỉnh Bắc Ninh
4
Nguồn: Báo cáo của Cục Đăng kiểm Việt Nam năm 2016
PHỤ LỤC 2
MỨC THU PHÍ ĐĂNG KIỂM XE CƠ GIỚI ĐƯỜNG BỘ
Đơn vị tính (1.000 đồng/lượt)
Loại xe T
1 560
2 350
Xe ô tô tải có khối lượng hàng chuyên chở cho phép tham gia giao thông trên 20 tấn, xe ô tô đầu kéo có khối lượng kéo theo cho phép tham gia giao thông trên 20 tấn và các loại xe ô tô chuyên dùng Xe ô tô tải có khối lượng hàng chuyên chở cho phép tham gia giao thông trên 7 tấn đến 20 tấn, xe ô tô đầu kéo có khối lượng kéo theo cho phép tham gia giao thông đến 20 tấn và các loại máy kéo
3 Xe ô tô tải có khối lượng hàng chuyên chở cho phép 320 tham gia giao thông trên 2 tấn đến 7 tấn
4 Xe ô tô tải có khối lượng hàng chuyên chở cho phép 280
5 180
tham gia giao thông đến 2 tấn Máy kéo, xe chở hàng bốn bánh có gắn động cơ, xe chở người bốn bánh có gắn động cơ và các loại phương tiện vận chuyển tương tự 6 Rơ moóc, sơ mi rơ moóc 180
7 Xe ô tô chở người trên 40 ghế (kể cả lái xe), xe buýt 350
8 Xe ô tô chở người từ 25 đến 40 ghế (kể cả lái xe) 320
9 Xe ô tô chở người từ 10 ghế đến 24 ghế (kể cả lái xe) 280
10 Xe ô tô chở người dưới 10 chỗ ngồi, xe ô tô cứu thương 240
11 Xe ba bánh và các loại phương tiện vận chuyển tương tự 100
5
Nguồn: Thông tư số 238/2016/TT-BTC của Bộ trưởng Bộ Tài chính