BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
NGUYỄN THỊ LƯU HUỲNH
GIÁM SÁT CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN TỈNH PHÚ YÊN TRONG LĨNH VỰC KINH TẾ
LUẬN VĂN THẠC SỸ
CHUYÊN NGÀNH QUẢN LÝ CÔNG
ĐẮK LẮK, NĂM 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan: Luận văn “Giám sát của Hội đồng nhân dân tỉnh Phú Yên trong lĩnh vực kinh tế” là công trình nghiên cứu riêng của tôi, được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của PGS.TS. Nguyễn Bá Chiến.
Các số liệu trong luận văn được sử dụng trung thực, các số liệu có nguồn trích dẫn rõ ràng. Nội dung luận văn có tham khảo và sử dụng các tài liệu theo danh mục tài liệu của luận văn.
Đắk Lắk, ngày 28 tháng 5 năm 2017
Tác giả luận văn
Nguyễn Thị Lưu Huỳnh
LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên, tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS. TS.
Nguyễn Bá Chiến, thầy giáo đã trực tiếp hướng dẫn tôi để hoàn thành Luận văn.
Thầy đã giúp tôi có phương pháp nghiên cứu đúng đắn, nhìn nhận vấn đề một
cách khoa học, logic, qua đó đã giúp cho đề tài tôi có ý nghĩa thực tiễn và có
tính khả thi. Đồng thời, tôi xin trân trọng cảm ơn các nhà khoa học, các thầy
giáo, cô giáo của Học viện Hành chính quốc gia đã rất tâm huyết giảng dạy,
truyền đạt những kiến thức về quản lý nhà nước và giúp tôi thực hiện đề tài.
Tôi xin chân thành cảm ơn lãnh đạo Văn phòng Hội đồng nhân dân tỉnh
Phú Yên, các đồng nghiệp và gia đình đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi học tập
và hoàn thành Luận văn.
Mặc dù đã nghiên cứu rất kỹ nhưng với thời gian và điều kiện có hạn nên
Luận văn không thể tránh khỏi những thiết sót. Tôi mong tiếp tục nhận được sự
đóng góp của các nhà khoa học, các thầy giáo, cô giáo của Học viện Hành chính
quốc gia, bạn bè và đồng nghiệp để hoàn thiện Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Đắk Lắk, ngày 28 tháng 5 năm 2017
Tác giả luận văn
Nguyễn Thị Lưu Huỳnh
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ................................................................................................ 1
MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 1
1. Tính cấp thiết của đề tài ................................................................................ 1
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến luận văn ............................................... 5
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn ............................................................. 8
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn ........................................... 9
4.1. Đối tượng nghiên cứu................................................................................. 9
4.2. Phạm vi nghiên cứu .................................................................................... 9
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn .................... 10
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn ................................................... 10
6.1. Ý nghĩa lý luận: ........................................................................................ 10
6.2. Ý nghĩa thực tiễn: ..................................................................................... 11
7. Kết cấu của luận văn ................................................................................... 11
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ GIÁM SÁT
CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CẤP TỈNH TRONG LĨNH VỰC KINH TẾ
............................................................................................................................. 12
1.1 Vị trí, vai trò và chức năng của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh ................... 12
1.2. Khái niệm giám sát của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh và giám sát của Hội
đồng nhân dân cấp tỉnh trong lĩnh vực kinh tế ................................................ 21
1.3 Hình thức, nội dung và những vấn đề khác về giám sát của Hội đồng nhân
dân cấp tỉnh trong lĩnh vực kinh tế .................................................................. 33
1.4 Khái niệm hiệu quả và các yếu tố đảm bảo hiệu quả giám sát của HĐND
tỉnh trong lĩnh vực kinh tế ................................................................................ 39
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1 ................................................................................... 49
Chương 2: THỰC TRẠNG GIÁM CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN TỈNH
PHÚ YÊN TRONG LĨNH VỰC KINH TẾ .................................................... 51
2.1. Điều kiện tự nhiên và tình hình kinh tế xã hội tỉnh Phú Yên tác động đến
giám sát của HĐND tỉnh trong lĩnh vực kinh tế .............................................. 51
2.2 Cơ cấu, chất lượng đại biểu Hội đồng nhân dân tỉnh Phú Yên nhiệm kỳ
2011-2016, nhiệm kỳ 2016-2021 và tổ chức bộ máy của cơ quan tham mưu,
giúp việc ........................................................................................................... 53
2.3. Thực trạng kết quả giám sát của Hội đồng nhân dân tỉnh Phú Yên trong
lĩnh vực kinh tế nhiệm kỳ 2011-2016 và năm đầu nhiệm kỳ 2016-2021 ........ 58
2.4 Đánh giá hiệu quả giám sát của Hội đồng nhân dân tỉnh Phú Yên trong
lĩnh vực kinh tế, nhiệm kỳ 2011-2016 và từ 2016 cho đến nay ...................... 69
2.5 Đánh giá hạn chế và nguyên nhân của hạn chế trong hoạt động giám sát
của Hội đồng nhân dân tỉnh Phú Yên trong lĩnh vực kinh tế .......................... 75
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2 ................................................................................... 79
Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIÁM SÁT
CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN TỈNH PHÚ YÊN TRONG LĨNH VỰC
KINH TẾ ............................................................................................................ 81
3.1 Tiếp tục hoàn thiện cơ sở pháp lý để nâng cao hiệu quả hoạt động của
HĐND, đại biểu HĐND .................................................................................... 81
3.2 Đảm bảo sự lãnh đạo toàn diện của Đảng đối với hoạt động của Hội đồng
nhân dân tỉnh Phú Yên ..................................................................................... 83
3.3 Nâng cao năng lực giám sát các chủ thể thực hiện chức năng giám sát của
Hội đồng nhân dân tỉnh Phú Yên ..................................................................... 84
3.4 Đổi mới về hình thức và phương pháp giám sát ....................................... 89
3.5 Tăng cường mối quan hệ phối hợp giám sát giưa các cấp, các ngành và
các tổ chức đoàn thể ......................................................................................... 99
3.6 Bảo đảm các điều kiện cho Hội đồng nhân dân trong hoạt động giám sát
........................................................................................................................ 101
TIỂU KẾT CHƯƠNG 3 ................................................................................. 103
KẾT LUẬN ...................................................................................................... 105
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................... 107
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
-----------
HĐND: Hội đồng nhân dân
MTTQVN: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
TAND: Tòa án nhân dân
TT HĐND: Thường trực Hội đồng nhân dân
UBND: Ủy ban nhân dân
VKSND: Viện kiểm sát nhân dân
ĐBQH: Đại biểu Quốc hội
ĐB HĐND: Đại biểu Hội đồng nhân dân
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong tiến trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân ở nước ta, vấn đề tiếp tục cải cách và
kiện toàn tổ chức, nâng cao năng lực hoạt động của bộ máy nhà nước nói
chung và hệ thống chính quyền địa phương nói riêng, trong đó có Hội đồng
nhân dân các cấp là yêu cầu khách quan và tất yếu. Mục đích đặt ra là cho
các cơ quan nhà nước ở trung ương cũng như ở địa phương thực hiện đúng và
đầy đủ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình theo qui định của Hiến
pháp và pháp luật.
Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 tiếp tục
khẳng định “ Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa
phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, do
nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và
cơ quan nhà nước cấp trên. Hội đồng nhân dân quyết định các vấn đề của địa
phương do luật định, giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật ở địa
phương và thực hiện Nghị quyết của Hội đồng nhân dân”. Do đó, xây dựng
Hội đồng nhân dân có thực quyền để đảm đương đủ vai trò, trách nhiệm là
một yêu cầu quan trọng.
Hội đồng nhân dân có hai chức năng cơ bản đó là, chức năng quyết định
những vấn đề quan trọng của địa phương và chức năng giám sát việc thực
hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và Nghị
quyết của HĐND thì chức năng giám sát có vị trí, vai trò hết sức quan trọng.
Mục đích của giám sát là đảm bảo các yêu cầu hợp pháp và chính sách được
chấp hành một cách đúng đắn và dân chủ, có hiệu lực và hiệu quả; hoạt động
giám sát làm cơ sở cho công tác thẩm tra và quyết định những vấn đề quan
1
trọng của địa phương một cách chính xác, đảm bảo ban hành các Nghị quyết
có chiều sâu, đi vào thực tiễn; kiểm chứng lại tính đúng đắn, sự phù hợp của
các qui định của pháp luật đã, đang được áp dụng trong cuộc sống và những
chủ trương, biện pháp mà Hội đồng nhân dân đã quyết nghị; phát hiện ra
những khó khăn, vướng mắc để có những giải pháp tháo gỡ, thực hiện nhiệm
vụ một cách chủ động.
Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003 và Luật Tổ chức chính quyền
địa phương năm 2015 quy định nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND tỉnh trong
lĩnh vực kinh tế:
- Quyết định kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội dài hạn, trung hạn và
hàng năm của tỉnh; quy hoạch, kế hoạch phát triển các ngành, lĩnh vực trên
địa bàn tỉnh trong phạm vi phân quyền;
- Quyết định dự toán thu ngân sách nhà nước trên địa bàn; dự toán thu,
chi ngân sách địa phương và phân bổ dự toán ngân sách cấp mình; điều
chỉnh dự toán ngân sách địa phương trong trường hợp cần thiết; phê chuẩn
quyết toán ngân sách địa phương. Quyết định chủ trương đầu tư, chương
trình dự án của tỉnh theo quy định của pháp luật;
- Quyết định các nội dung liên quan đến phí, lệ phí theo quy định của
pháp luật; các khoản đóng góp của nhân dân; quyết định việc vay các nguồn
vốn trong nước thông qua phát hành trái phiếu địa phương, trái phiếu đô thị,
trái phiếu công trình và các hình thức huy động vốn khác theo quy định của
pháp luật.
- Quyết định chủ trương, biện pháp cụ thể để khuyến khích, huy động các
thành phần kinh tế tham gia cung cấp các dịch vụ công trên địa bàn tỉnh theo
quy định của pháp luật
Để đảm bảo Hội đồng nhân dân thực sự là cơ quan quyền lực, đại diện
cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, thực hiện đúng nguyên tắc quyền lực
2
nhà nước thuộc về nhân dân, thì phải thực hiện tốt chức năng giám sát nâng
cao hiệu quả hoạt động của Hội đồng nhân dân. Điều này đã được nhấn mạnh
trong văn kiện Đại hội VIII của Đảng “Nâng cao chất lượng, hiệu lực và hiệu
quả hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân. Xác định rõ
phạm vi, nội dung, cơ chế giám sát của Quốc hội, các Ủy ban của Quốc hội và
của Hội đồng nhân dân các cấp; phân định rõ tính chất, chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn khác nhau giữa hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân
dân với hoạt động kiểm tra, thanh tra, kiểm sát...”; Văn kiện Đại hội X của
Đảng đã khẳng định “Cần xây dựng, hoàn thiện cơ chế kiểm tra, giám sát...
nâng cao chất lượng hoạt động của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân
đảm bảo quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm của chính quyền địa phương
trong phạm vi được phân cấp. Phát huy vai trò giám sát của Hội đồng nhân
dân...”.
Trong nhiệm kỳ 2011-2016, Hội đồng nhân dân tỉnh Phú Yên đã không
ngừng đổi mới nội dung, phương thức hoạt động để nâng cao hiệu quả thực
hiện chức năng, nhiệm vụ của mình theo qui định của pháp luật, đã góp phần
tích cực vào sự phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng an ninh của
Tỉnh. Trong đó, hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân đã có nhiều
chuyển biến rõ rệt, khắc phục được tính hình thức trong hoạt động của Hội
đồng nhân dân nói chung và hoạt động giám sát nói riêng và nhất là giám sát
trong lĩnh vực kinh tế, đã chú trọng và chủ động hơn trong vấn đề về tài chính
và ngân sách.
Tuy nhiên, thực tế trong thời gian qua, hoạt động giám sát của Hội đồng
nhân dân tỉnh Phú Yên nói chung và giám sát trong lĩnh vực kinh tế nói riêng
vẫn còn bộc lộ nhiều lúng túng, bất cập, nhiều khó khăn vướng mắc cần được
tháo gỡ, chưa mang lại hiệu quả cao, thường bộc lộ một số hạn chế sau: Cách
thức tổ chức giám sát chưa khoa học, năng lực giám sát vẫn chưa thực sự hiệu
3
quả, phương thức và nội dung giám sát chưa được đổi mới toàn diện, khả
năng phát hiện vấn đề trong quá trình giám sát của đại biểu HĐND tỉnh còn
hạn chế, việc theo dõi đôn đốc các cơ quan chức năng liên quan trong việc
thực hiện các kết luận, kiến nghị sau giám sát của HĐND tỉnh còn thiếu quyết
liệt, chưa có chế tài trong hoạt động giám sát dẫn đến làm giảm hiệu quả giám
sát . Ngoài ra, số đại biểu có chuyên môn về lĩnh vực kinh tế, ngân sách còn
thiếu, khả năng phát hiện, phân tích, đánh giá một cách khách quan đúng đắn
với vấn đề thuộc nội dung giám sát của đại biểu còn yếu. Vì trong lĩnh vực
này là một lĩnh vực có phạm vi rộng, phức tạp, nhiều nội dung chuyên môn
đặc thù, cần có kiến thức, đào tạo chuyên ngành, chuyên sâu, để hiểu và nắm
bắt đầy đủ nội dung đòi hỏi phải có thời gian đầu tư, nghiên cứu, so sánh đối
chiếu. Chính vì vậy, hiệu quả giám sát nói chung và giám sát về lĩnh vực kinh
tế nói riêng chưa cao.
Nguyên nhân của những hạn chế trên là do hạn chế về năng lực, trình độ,
đa số các đại biểu đều hoạt động kiêm nhiệm nên thiếu thông tin lẫn thời gian
thỏa đáng dành cho hoạt động thực hiện nhiệm vụ đại biểu; thiếu kỹ năng và
bản lĩnh, trong thực hiện giám sát còn né tránh, nể nang, ngại va chạm; bộ
máy giúp việc của Hội đồng nhân dân còn hạn chế về số lượng, chất lượng,
chưa đáp ứng được yêu cầu tham mưu, giúp việc về chuyên môn; việc theo
dõi, đôn đốc các cơ quan chức năng trong việc thực hiện các kết luận, kiến
nghị giám sát còn thiếu quyết liệt dẫn đến hiệu lực, hiệu quả giám sát trong
lĩnh vực kinh tế chưa cao. Đây chính là vấn đề bức xúc cần trao đổi, chia sẻ;
trên cơ sở đó tìm ra những giải pháp tốt góp phần tháo gỡ những khó khăn,
vướng mắc, bất cập trong hoạt động giám sát nói trên, để hoạt động này ngày
càng hiệu quả.
Xuất phát từ yêu cầu lý luận và thực tiễn về hoạt động giám sát của Hội
4
đồng nhân dân tỉnh Phú Yên, trong đó giám sát trong lĩnh vực kinh tế. Vì vậy
đề tài “Giám sát của Hội đồng nhân dân tỉnh Phú Yên trong lĩnh vực kinh
tế ” được chọn để nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến luận văn
Vấn đề về tổ chức và hoạt động của HĐND nói chung và HĐND cấp
tỉnh nói riêng, trong đó có hoạt động giám sát và vấn đề nâng cao chất lượng,
hiệu quả giám sát của cơ quan dân cử ở nước ta là đối tượng nghiên cứu của
nhiều ngành Khoa học xã hội như: Luật học, Chính trị học, Hành chính học,
Lý luận và lịch sử về Nhà nước và pháp luật, vì vậy đã có rất nhiều công trình
của các nhà khoa học, nhà nghiên cứu xung quanh vấn đề này. Trong số hàng
trăm công trình đã công bố, có những công trình liên quan trực tiếp đến nội
dung luận văn có thể kể đến là:
Các bài viết trên tạp chí khoa học
Tác giả Nguyễn Quốc Tuấn, Một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt
động của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân các cấp, Tạp chí Tổ chức
nhà nước, số 4/2004; Tác giả Phan Tuấn Khải, Tổ chức và hoạt động của Hội
đồng nhân dân trong điều kiện hiện nay, Tạp chí nghiên cứu lập pháp, số
6/2002. Tác giả Trương Đắc Linh, Tổ chức và hoạt động của các Ban Hội
đồng nhân dân, Tạp chí nghiên cứu lập pháp, số 2/2003; Tác giả Đinh Ngọc
Quang, Về đổi mới tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân các cấp
nhiệm kỳ 2004-2009, Tạp chí quản lý nhà nước, số 2/2005; Tác giả Nguyễn
Ký, Đổi mới phương thức hoạt động của Hội đồng nhân dân đáp ứng sự
mong đợi của nhân dân, Tạp chí quản lý nhà nước, số 2/2005; Tác giả
Nguyễn Văn Động, Suy nghĩ về cơ sở khoa học của việc đổi mới tổ chức Hội
đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân ở nước ta hiện nay, Tạp chí Luật học, số
4/2003; Tác giả Nguyễn Thị Hồi, Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân ở
nước ta hiện nay, Tạp chí Luật học, số 1/2004; Tác giả Bùi Xuân Đức, Bàn về
5
tổ chức của Hội đồng nhân dân trong điều kiện cải cách bộ máy nhà nước
hiện nay, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 12/2003. Các bài viết trên chủ
yếu bàn về vấn đề tổ chức bộ máy Nhà nước và đổi mới phương thức hoạt
động của Hội đồng nhân dân các cấp, chưa đề cập đến chức năng cụ thể của
HĐND các cấp, tuy nhiên các bài viết đã nêu được lý luận chung về vai trò
của cơ quan dân cử.
Các cuốn sách của tác giả Đào Trí Úc, Võ Khánh Vinh (đồng chủ
biên), Giám sát và cơ chế giám sát việc thực hiện quyền lực nhà nước ở nước
ta hiện nay, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2003. Đây là công trình nghiên
cứu của hơn 40 tác giả với gần 600 trang sách, nội dung nghiên cứu được đề
cập khá toàn diện như những vấn đề lý luận chung về giám sát việc thực hiện
quyền lực nhà nước và cơ chế giám sát, giám sát của bộ máy nhà nước (giám
sát của Quốc hội, HĐND, Chủ tịch Nước; kiểm tra thanh tra của Chính phủ;
kiểm tra, giám sát của Viện Kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân); giám sát
của các tổ chức chính trị xã hội (MTTQ và các tổ chức thành viên).
Các Luận văn
Tác giả Nguyễn Thị Thanh Nhàn, Năng lực của đại biểu Hội đồng nhân
dân tỉnh Hà Tĩnh trong thực hiện chức năng quyết định, Luận văn thạc sĩ Luật
học, Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, 2007. Tác giả đã
đề cập năng lực cá nhân của đại biểu để thực hiện tốt chức năng quyết định của
HĐND, còn chức năng giám sát thì Luận văn không đề cập đến.
Luận văn của tác giả Vũ Hồng Bắc, Chất lượng hoạt động của Hội đồng
nhân dân cấp tỉnh ở nước ta hiện nay (qua thực tế tỉnh Thái Nguyên), Luận văn
thạc sĩ Khoa học chính trị, Học viện chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 2010. Là
luận văn chính trị học, tác giả đặt vấn đề chất lượng hoạt động của HĐND tỉnh
trong môi trường dân chủ và thực hiện dân chủ ở địa phương một cách đầy đủ
và toàn diện, bao gồm cả chức năng quyết định, chức năng giám sát của HĐND
6
và năng lực cá nhân của đại biểu HĐND cấp tỉnh.
Sát với chủ đề Luận văn “Nâng cao hiệu lực giám sát của Hội đồng
nhân dân cấp tỉnh trong điều kiện đổi mới ở Việt Nam hiện nay” của tác giả
Vũ Mạnh Thông, Luận văn thạc sĩ Luật học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ
Chí Minh, 1998. Tác giả Vũ Mạnh Thông đã đề cập đến hiệu lực giám sát
trong luận văn thạc sĩ của mình, nhưng chỉ khai thác ở khía cạnh nâng cao
hiệu lực giám sát nói chung không đi vào giám sát một vấn đề cụ thể. Hơn
nữa, luận văn đó được viết từ năm 1998, so với điều kiện đất nước ta hiện nay
đã có nhiều thay đổi. Đặc biệt sau khi Luật tổ chức HĐND và UBND năm
2003 ban hành, hoạt động giám sát của HĐND cấp tỉnh đã có nhiều vấn đề
mới được đặt ra cả về lý luận và thực tiễn.
Cũng nội dung về giám sát nhưng tác giả Phạm Quang Hưng, nghiên
cứu về “Năng lực thực hiện chức năng giám sát của Hội đồng nhân dân tỉnh
Hải Dương đối với quản lý hành chính nhà nước về đất đai”, là Luận văn
thạc sĩ Luật học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh năm 2007. Trong
Luận văn tác giả Phạm Quang Hưng, đề cập về chức năng giám sát của
HĐND đối với quản lý hành chính nhà nước về đất đai, là một khía cạnh
trong giám sát của HĐND về kinh tế; Luận văn cũng đã làm rõ về mặt lý luận
khái niệm năng lực thực hiện chức năng giám sát của HĐND, cũng như các
yếu tố ảnh hưởng đến năng lực thực hiện chức năng giám sát, các tiêu chí
đánh giá năng lực thực hiện chức năng giám sát của HĐND cấp tỉnh và đưa ra
các giải pháp để nâng cao năng lực thực hiện chức năng giám sát của HĐND
trong lĩnh vực đất đai.
Tác giả Hồ Thị Hưng, luận văn với chủ đề “Nâng cao hiệu quả giám
sát của Hội đồng nhân dân tỉnh Nghệ An trong giai đoạn hiện nay”, Luận văn
thạc sĩ Luật học, Học viện chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh năm 2006. Đối với
tác giả Hồ Thị Hưng, luận văn ra đời sau khi Luật tổ chức HĐND và UBND
7
ban hành năm 2003 có điểm mới hơn của tác giả Vũ Mạnh Thông, nhưng
chức năng giám sát của HĐND được tác giả đề cập chung về hiệu quả giám
sát và các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả giám sát của HĐND chứ không đi
sâu vào một vấn đề hay một khía cạnh cụ thể, vì giám sát của HĐND là giám
sát toàn diện trên các lĩnh vực Kinh tế, Văn hóa, xã hội.
Các công trình nghiên cứu kể trên chủ yếu mới quan tâm đến chức
năng giám sát của Quốc hội, còn về HĐND các công trình nghiên cứu chủ
yếu đi sâu vào nâng cao chất lượng hoạt động của HĐND; đổi mới về tổ chức
và hoạt động của HĐND; về bầu cử hoạt động của HĐND và hiệu quả giám
sát của HĐND nói chung, giám sát của HĐND đối với quản lý hành chính về
đất đai. Đó là nguồn tài liệu vô cùng quan trọng để tôi kế thừa và phát triển.
Tuy nhiên, các tài liệu nghiên cứu trên chưa có một công trình nào nghiên cứu
về giám sát của HĐND cấp tỉnh trong lĩnh vực kinh tế. Vì vậy, nghiên cứu
về giám sát của Hội đồng nhân dân tỉnh Phú Yên trong lĩnh vực kinh tế từ
góc độ của Quản lý công, nhằm đánh giá thực trạng hoạt động, đưa ra những
đề xuất, kiến nghị nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát của Hội đồng nhân
dân tỉnh Phú Yên trong lĩnh vực kinh tế là không trùng lắp với công trình
nghiên cứu nào trước đó về hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân. Đây
cũng là lý do để tác giả lựa chọn đề tài này.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Trong phạm vi nghiên cứu, mục đích nghiên cứu của luận văn là phân
tích, đánh giá, tìm ra những nguyên nhân, những bất cập, hạn chế trong hoạt
động giám sát. Trên cơ sở đánh giá thực trạng giám sát trong lĩnh vực kinh tế
ở tỉnh Phú Yên, nhiệm kỳ 2011-2016, để đề xuất một số giải pháp góp phần
hoàn thiện hơn nữa cơ chế giám sát của Hội đồng nhân dân tỉnh Phú Yên
trong lĩnh vực kinh tế, bảo đảm cho Hội đồng nhân dân thực sự là cơ quan
quyền lực, đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân địa phương trong
8
thực hiện quyền làm chủ của mình.
Để đạt được mục đích trên, luận văn có các nhiệm vụ sau:
Làm rõ cơ sở lý luận liên quan đến hoạt động giám sát nói chung và
giám sát trong lĩnh vực kinh tế nói riêng của Hội đồng nhân dân tỉnh;
Các yếu tố bảo đảm cho hoạt động giám sát và giám sát trong lĩnh vực
kinh tế của HĐND cấp tỉnh;
Phân tích thực trạng hoạt động giám sát của HĐND và giám sát của Hội
đồng nhân dân tỉnh Phú Yên trong lĩnh vực kinh tế, qua đó đánh giá hiệu quả
giám sát và chỉ ra những kết quả đạt được, những hạn chế;
Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát của
Hội đồng nhân dân tỉnh Phú Yên trong lĩnh vực kinh tế trong giai đoạn hiện
nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Về đối tượng nghiên cứu, Luận văn tập trung nghiên cứu lý luận về hoạt
động giám sát của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh đối với lĩnh vực kinh tế ở địa
phương: Giám sát tại các kỳ họp của Hội đồng nhân dân tỉnh , giám sát theo
nghị quyết hàng năm, giám sát theo chuyên đề của Thường trực Hội đồng
nhân dân, Ban kinh tế và ngân sách của HĐND tỉnh Phú Yên , đồng thời đề
xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giám sát trong lĩnh vực kinh tế của
Hội đồng nhân dân tỉnh Phú Yên trong giai đoạn hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Thời gian nghiên cứu: Từ năm 2011-2016 của Hội đồng nhân dân tỉnh
Phú Yên khóa VI, (nhiệm kỳ 2011-2016) và tháng 6 năm 2016 cho đến nay.
- Không gian nghiên cứu: Hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân
tỉnh Phú Yên.
- Nội dung nghiên cứu: Giám sát của Hội đồng nhân dân tỉnh Phú Yên
9
trong lĩnh vực kinh tế.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
Cơ sở lý luận của đề tài là những quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lê
Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật; các quan điểm chỉ đạo
của Đảng Cộng sản Việt Nam về đường lối đổi mới đất nước, về xây dựng
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân
dân thể hiện trong Nghị quyết Đại hội Đảng và các Nghị quyết của Hội nghị
Ban chấp hành trung ương Đảng, cũng như trong Hiến pháp và các văn bản
pháp luật của nhà nước.
Trong nghiên cứu và thực hiện, luận văn sử dụng tổng hợp các phương
pháp nghiên cứu như:
- Phương pháp thu thập dữ liệu và tài liệu: Từ các số liệu thống kê, báo
cáo đã được công bố của HĐND tỉnh và các số liệu từ hồ sơ của các đoàn
giám sát.
- Phương pháp xử lý và phân tích dữ liệu, tài liệu: Thống kê, so sánh
phân tích và tổng hợp.
- Phương pháp các chuyên gia: Tham khảo ý kiến của các chuyên gia tại
các hội thảo, hội nghị, tập huấn.
- Phương pháp khảo sát thực tiễn: Tiếp cận số liệu qua tham gia khảo sát,
giám sát trực tiếp tại cơ sở và theo dõi hoạt động giám sát tại các kỳ họp của
HĐND tỉnh.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận:
Luận văn góp phần làm sáng tỏ thêm một số lý luận về hoạt động giám
sát, đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát của HĐND cấp tỉnh, các
tiêu chí đánh giá hiệu quả giám sát, các điều kiện bảo đảm nâng cao hiệu quả
hoạt động giám sát, các điều kiện bảo đảm nâng cao hiệu quả hoạt động giám
10
sát của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn:
Các kiến nghị khoa học của luận văn có thể được vận dụng vào thực tế
hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân tỉnh Phú Yên. Ngoài ra, luận văn
còn là tài liệu tham khảo trong các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công
chức, cơ sở đào tạo hành chính học.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
chính của luận văn được kết cấu thành 3 chương như sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận giám sát của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh trong
lĩnh vực kinh tế
Chương 2: Thực trạng giám sát của Hội đồng nhân dân tỉnh Phú Yên
trong lĩnh vực kinh tế
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả giám sát của Hội đồng nhân dân
11
tỉnh Phú Yên trong lĩnh vực kinh tế hiện nay.
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ GIÁM SÁT CỦA
HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CẤP TỈNH TRONG LĨNH VỰC KINH TẾ
Mục đích của chương này là cung cấp các vấn đề lý luận và pháp luật về
hoạt động giám sát và hiệu quả hoạt động giám sát trong lĩnh vực kinh tế của
Hội đồng nhân dân cấp tỉnh nhằm cung cấp nền tảng lý luận cho việc đánh giá
thực tiễn hoạt động giám sát và hiệu quả hoạt động giám sát trong lĩnh vực
kinh tế của Hội đồng nhân dân tỉnh Phú Yên ở chương 2, trên cơ sở đó đưa ra
những kiến nghị ở chương 3.
1.1 Vị trí, vai trò và chức năng của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh
1.1.1 Khái quát chung về Hội đồng nhân dân cấp tỉnh
Theo tinh thần pháp luật Việt Nam, chính quyền địa phương nằm trong
cơ cấu quyền lực thống nhất của Nhà nước, là một bộ phận cấu thành của bộ
máy Nhà nước, thay mặt Nhà nước tổ chức thực hiện quyền lực Nhà nước
trên địa bàn là tổ chức thực hiện Hiến pháp, pháp luật và các văn bản của cơ
quan Nhà nước từ Trung ương tới địa phương.
Chính quyền cấp tỉnh đóng vai trò là cầu nối giữa cơ quan Nhà nước ở
Trung ương với địa phương, được thể hiện thông qua việc chính quyền cấp
tỉnh là cơ quan trực tiếp tiếp nhận, phổ biến các chủ trương, đường lối, chính
sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước ở Trung ương tới các cấp chính quyền
cấp dưới ở địa phương mình nhằm thực hiện các quy định đó một cách đồng
bộ và thống nhất, đúng pháp luật, mang lại hiệu quả cao.
Hội đồng nhân dân là cơ quan đại diện của nhân dân ở địa phương, là bộ
phận cấu thành thiết chế đại diện quyền lực Nhà nước; do cử tri địa phương
bầu ra theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp, bỏ phiếu kín. Thông
12
qua việc bầu cử, cử tri chuyển giao một phần quyền lực của mình cho Hội
đồng nhân dân để thay mặt họ quyết định các công việc liên quan đến đời
sống kinh tế - xã hội ở địa phương và chịu trách nhiệm trước nhân dân địa
phương.
Hội đồng nhân dân cũng như các cơ quan nhà nước khác ở địa phương
có nhiệm vụ chấp hành Hiến pháp, Luật, Nghị quyết của Quốc hội; Pháp lệnh,
Nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội; Lệnh, Quyết định của Chủ tịch
nước và các văn bản của cơ quan Nhà nước cấp trên; có quyền quyết định các
chủ trương và biện pháp triển khai thực thi pháp luật cho phù hợp với điều
kiện của địa phương. Việc chấp hành này của Hội đồng nhân dân được thể
chế hóa thành các Nghị quyết của Hội đồng nhân dân và hoạt động giám sát
của Hội đồng nhân dân.
Theo quy định của Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015, Hội
đồng nhân dân được tổ chức ở các đơn vị hành chính, theo đó, Hội đồng nhân
dân được thành lập ở ba cấp: tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (gọi
chung là cấp tỉnh); huyện, quận, thị xã và thành phố thuộc tỉnh, đơn vị hành
chính tương đương (gọi chung là cấp huyện) và xã, phường, thị trấn (gọi
chung là cấp xã).
Như vậy, Hội đồng nhân dân là cơ quan nằm trong hệ thống tổ chức
chính quyền địa phương, có vị trí hết sức quan trọng trong việc góp phần thực
hiện chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa, xây dựng và quản lý mọi mặt của đời
sống nhân dân địa phương về kinh tế- xã hội, văn hóa, an ninh- quốc phòng...
là cầu nối giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân, trực tiếp đưa đường lối, chính
sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước vào cuộc sống.
1.1.2 Vị trí, vai trò của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh
Theo Hiến pháp năm 2013, đạo luật cơ bản nhất của nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam, văn bản quy phạm pháp luật có giá trị pháp lý cao
13
nhất nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa đã
quy định tại Điều 113 “Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở
địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của Nhân dân,
do Nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước Nhân dân địa
phương và cơ quan nhà nước cấp trên” [11, 2013, tr.60]. Đây cũng là nội
dung được quy định tại điều 1, Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban
nhân dân năm 2003.
Như vậy, từ những quy định của Hiến pháp năm 2013, Luật Tổ chức
HĐND và UBND năm 2003, thì Hội đồng nhân dân nói chung và Hội đồng
nhân dân cấp tỉnh nói riêng có hai tính chất pháp lý cơ bản: “là cơ quan
quyền lực nhà nước ở địa phương” và “là cơ quan đại diện của nhân dân ở
địa phương”.
Thứ nhất, Hội đồng nhân dân là cơ quan đại diện của nhân dân địa
phương:
Hội đồng nhân dân là cơ quan được thành lập bằng cuộc bầu cử do cử tri
địa phương trực tiếp bầu ra theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, bỏ phiếu
kín; hình thức hoạt động của HĐND chủ yếu thông qua kỳ họp toàn thể, mọi
quyết định của Hội đồng nhân dân được thông qua bằng việc biểu quyết theo
nguyên tắc đa số. Tính chất đại diện của HĐND về mặt hình thức được thể
hiện rõ nét nhất ở vấn đề cơ cấu đại biểu trong HĐND. Mỗi HĐND có một số
lượng đại biểu nhất định đại diện cho nữ giới, người dân tộc, tổ chức chính
trị, tổ chức chính trị - xã hội, lực lượng vũ trang nhân dân và các cơ quan nhà
nước khác đóng tại địa phương. Điều này có nghĩa, HĐND không đại diện
cho một đảng phái, một tổ chức nào mà là đại diện cho toàn thể nhân dân;
thành phần trong HĐND thể hiện khối đại đoàn kết toàn dân sống trên địa
phương. Điều 113, Hiến pháp năm 2013 xác định: HĐND là cơ quan quyền
14
lực Nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm
chủ của nhân dân, do nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước
nhân dân địa phương và cơ quan Nhà nước cấp trên [11, 2013, tr.60].
Thứ hai, HĐND là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, thể hiện
trên các mặt sau đây:
- Được thành lập bởi đại biểu do nhân dân địa phương bầu ra, đại diện
cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân.
- Bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm các chức danh của UBND là cơ quan chấp
hành của mình; bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Hội thẩm nhân dân của Tòa án
nhânn dân cùng cấp; cũng như có quyền bỏ phiếu tín nhiệm đối với các chức
danh do HĐND bầu ra.
- Căn cứ vào Hiến pháp và pháp luật ra Nghị quyết để triển khai các mặt
công tác ở địa phương.
- Giám sát việc tuân theo Hiến pháp, pháp luật ở địa phương, đồng thời
chịu sự giám sát, hướng dẫn của Ủy ban Thường vụ Quốc hội và hướng dẫn,
kiểm tra của Chính phủ.
Như vậy, tính chất quyền lực của HĐND thể hiện trên nhiều phương
diện, nhưng xét về mặt địa vị pháp lý thì không giống với Quốc hội. Quốc hội
được Hiến pháp ghi nhận là cơ quan quyền lực cao nhất của cả nước về phạm
vi, cấp độ cũng như thẩm quyền, đặc biệt là quyền ban hành Hiến pháp, pháp
luật ở nước ta. Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập Hiến, lập pháp;
HĐND là cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương nhưng chỉ có quyền ban
hành Nghị quyết - là loại văn bản pháp quy dưới luật, phải phù hợp với văn
bản pháp luật vì xuất phát từ tính đại diện của Hội đồng.
Tóm lại, xét về mặt hình thức cũng như nội dung hoạt động, thiết chế
HĐND ở nước ta thực sự là người đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân
dân ở địa phương. Quyền lực của HĐND được xác định trong Hiến pháp về
15
bản chất cũng là quyền lực của nhân dân lao động. Vấn đề đặt ra là, bằng cách
nào để HĐND thực hiện được quyền lực của mình trên thực tiễn là mục đích
hướng tới của công cuộc đổi mới và hoàn thiện bộ máy nhà nước nói chung
và HĐND các cấp nói riêng.
1.1.3 Chức năng của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh
Theo Hiến pháp năm 2013, HĐND có hai chức năng, chức năng quyết
định và chức năng giám sát được thể hiện tại khoản 2, điều 113: “Hội đồng
nhân dân quyết định các vấn đề của địa phương do luật định; giám sát việc
tuân theo Hiến pháp và pháp luật ở địa phương và việc thực hiện Nghị quyết
của Hội đồng nhân dân” [11, 2013, tr60].
Chức năng của HĐND được pháp luật quy định là xuất phát từ vị trí, vai
trò của HĐND với tính chất là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại
diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, chịu trách
nhiệm trước nhân dân địa phương và cơ quan Nhà nước cấp trên. HĐND thực
hiện những nhiệm vụ và sử dụng những quyền hạn theo phân định thẩm
quyền, phân quyền, phân cấp và ủy quyền, đảm bảo sự lãnh đạo thống nhất
của Trung ương đồng thời phát huy quyền chủ động sáng tạo của địa phương.
Chức năng của HĐND là tổng hợp những phương diện, những hoạt động
chủ yếu của HĐND nhằm thực hiện vai trò, nhiệm vụ của HĐND. Trong mỗi
chức năng của HĐND đặt ra nhiều nhiệm vụ để thực hiện các chức năng đó.
Chất lượng hoạt động của HĐND cấp tỉnh ở nước ta hiện nay cao hay thấp
tùy thuộc rất lớn và chủ yếu vào thực hiện hai chức năng này trong thực tế.
- Chức năng quyết định.
Đối với chức năng quyết định của HĐND, Điều 1, Luật Tổ chức
HĐND và UBND năm 2003 đã ghi nhận và khẳng định rằng: “Hội đồng nhân
dân quyết định những chủ trương, biện pháp quan trọng để phát huy tiềm
16
năng của địa phương, xây dựng và phát triển địa phương về kinh tế - xã hội,
củng cố quốc phòng, an ninh, không ngừng cải thiện đời sống vật chất và tinh
thần của nhân dân địa phương, làm tròn nghĩa vụ của địa phương đối với cả
nước”. [8, 2003, tr 8].
Để có cơ sở pháp lý cho HĐND cấp tỉnh thực hiện tốt chức năng này,
Luật tổ chức HĐND và UBND năm 2003 đã xác định cụ thể nội dung những
vấn đề quan trọng thuộc thẩm quyền quyết định của HĐND bao gồm: Quyết
định về quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội (Điều 11); Quyết định
về phát triển giáo dục, y tế, xã hội, văn hóa, thông tin, thể dục thể thao (Điều
12); Quyết định về phát triển khoa học – công nghệ, tài nguyên và môi trường
(Điều 13); Quyết định về quốc phòng an ninh, trật tự an toàn xã hội (Điều
14); Quyết định về thực hiện chính sách dân tộc và chính sách tôn giáo (Điều
15); Quyết định về việc thi hành pháp luật (Điều 16); Quyết định việc xây
dựng chính quyền địa phương (Điều 17). [8, 2003, tr 12-17].
Như vậy, nội dung chức năng quyết định của HĐND cấp tỉnh rất rộng,
bao gồm tất cả các mặt của đời sống kinh tế - xã hội, văn hóa, khoa học, quốc
phòng, an ninh. Điều này một lần nữa khẳng định rõ hơn vị trí, vai trò và tầm
quan trọng của HĐND trong chính quyền địa phương. Mặt khác, đây cũng là
căn cứ pháp lý để tạo ra môi trường thuận lợi cho chính quyền địa phương
khai thác hết mọi tiềm năng, nội lực sẵn có của mình, nhằm nâng cao đời
sống vật chất, tinh thần cho nhân dân địa phương, làm tròn nghĩa vụ đối với
cử tri và cấp trên giao cho.
Ở đây chúng ta cần lưu ý, theo quy định của pháp luật trong chức năng
quyết định, HĐND có thẩm quyền rất lớn đối với sự phát triển toàn diện của
địa phương. Vì vậy, khi đưa ra các quyết định đó phải đảm bảo tính phù hợp
không trái với luật và các văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước
cấp trên, tính dân chủ và tính khả thi phù hợp trên thực tế, tránh tình trạng
17
mọi vấn đề đã được quyết định trước đến kỳ họp HĐND, các đại biểu chỉ giơ
tay biểu quyết một cách hình thức không có sự bàn bạc thảo luận. Thực hiện
thảo luận và biểu quyết dân chủ là điều kiện để đảm bảo chất lượng đối với
các quyết định của Hội đồng nhân dân.
- Chức năng giám sát:
Ngoài chức năng ra quyết định, HĐND còn thực hiện chức năng giám
sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật ở địa phương, việc thực hiện Nghị
quyết của HĐND, giám sát hoạt động của Thường trực HĐND, UBND,
TAND, VKSND cùng cấp, các Ban của HĐND cấp mình; giám sát văn bản
quy phạm pháp luật của UBND cùng cấp và văn bản của HĐND cấp dưới.
Tại đoạn 3 Điều 1, Luật tổ chức HĐND và UBND năm 2003 quy định: “Hội
đồng nhân dân thực hiện quyền giám sát đối với hoạt động của Thường trực
Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Tòa án nhân dân, Viện Kiểm sát nhân
dân cùng cấp; giám sát việc thực hiện các Nghị quyết của Hội đồng nhân
dân; giám sát việc tuân theo pháp luật của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế,
tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và của công dân ở địa phương” [8,
2003, tr 8].
HĐND thực hiện quyền giám sát của mình tại kỳ họp; giám sát Thường
trực HĐND; giám sát của các Ban của HĐND và giám sát của đại biểu
HĐND. Nội dung giám sát do HĐND quyết định theo đề nghị của Thường
trực HĐND trình trên cơ sở các kiến nghị của Ban của HĐND, Tổ đại biểu
HĐND, đại biểu HĐND, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp và ý
kiến, kiến nghị của cử tri địa phương.
HĐND thực hiện quyền giám sát thông qua các hoạt động sau đây:
- Xem xét báo cáo công tác của Thường trực HĐND, UBND, TAND,
18
VKSND cùng cấp;
- Xem xét báo cáo của UBND cùng cấp về tình hình thi hành Hiến pháp,
văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên và Nghị quyết của
HĐND cùng cấp;
- Xem xét văn bản của UBND cùng cấp có dấu hiệu trái với Hiến pháp,
các văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan Nhà nước cấp trên và nghị quyết
của HĐND cùng cấp;
- Xem xét trả lời chất vấn của Chủ tịch UBND, Phó Chủ tịch UBND, Ủy
viên UBND, Chánh án TAND, Viện trưởng VKSND cùng cấp;
- Thành lập Đoàn giám sát về một vấn đề nhất định khi xét thấy cần thiết
và xem xét kết quả của Đoàn giám sát;
- Kiểm tra tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương ở các đơn
vị hành chính trên địa bàn;
- Bỏ phiếu tín nhiệm đối với những người giữ chức vụ do HĐND bầu.
Căn cứ vào kết quả giám sát, HĐND có các quyền sau đây:
- Yêu cầu UBND, Chủ tịch UBND cùng cấp ban hành văn bản để thi
hành Hiến pháp, pháp luật và Nghị quyết của HĐND;
- Bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ văn bản của UBND, Chủ tịch UBND
cùng cấp trái với Hiến pháp, văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan Nhà
nước cấp trên và Nghị quyết của HĐND;
- Ra Nghị quyết về trả lời chất vấn và trách nhiệm của người trả lời chất
vấn khi xét thấy cần thiết;
- Miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch HĐND, Phó Chủ tịch HĐND, Trưởng
Ban, Phó Trưởng Ban của HĐND, Chủ tịch UBND, Phó Chủ tịch UBND và
Ủy viên UBND.
Thường trực HĐND thực hiện chức năng giám sát việc tuân theo Hiến
pháp và pháp luật tại địa phương. Để thực hiện chức năng này, Thường trực
19
HĐND tiến hành một số hoạt động giám sát sau đây:
- Hoạt động của UBND và các cơ quan chuyên môn của UBND, TAND,
VKSND cùng cấp;
- Giám sát cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ
trang nhân dân và công dân trong việc thi hành Hiến pháp, Luật, các văn bản
của cơ quan Nhà nước cấp trên và các nghị quyết của HĐND cùng cấp;
- Giám sát việc thực thi pháp luật về khiếu nại, tố cáo; tổ chức Đoàn
giám sát hoặc giao cho các Ban của HĐND giám sát việc giải quyết khiếu nại,
tố cáo;
- Quyết định việc thành lập Đoàn giám sát theo chương trình giám sát
của mình hoặc theo yêu cầu của HĐND, đề nghị của các Ban của HĐND, các
đại biểu HĐND.
Các Ban của HĐND giúp HĐND giám sát:
- Giám sát các hoạt động của TAND, VKSND cùng cấp;
- Giám sát hoạt động của UBND và các cơ quan chuyên môn thuộc
UBND cùng cấp trong các lĩnh vực phụ trách;
- Giám sát văn bản quy phạm pháp luật thuộc phạm vi phụ trách;
- Tổ chức khảo sát tình hình thực hiện các quy định của pháp luật về lĩnh
vực phụ trách do HĐND hoặc Thường trực HĐND phân công;
- Báo cáo kết quả hoạt động giám sát với HĐND, Thường trực HĐND.
- Ngoài ra, các Ban của HĐND có thể cử thành viên đến cơ quan, tổ
chức hữu quan để xem xét, xác minh về vấn đề thuộc nhiệm vụ, quyền hạn
của Ban; tổ chức nghiên cứu, xử lý và xem xét việc giải quyết khiếu nại, tố
cáo của công dân.
Tóm lại, chức năng giám sát của HĐND bao giờ cũng gắn liền với chức
năng quyết định những vấn đề cơ bản về kinh tế xã hội, an ninh quốc phòng ở
địa phương. Thực hiện tốt chức năng này không những cho phép HĐND kiểm
20
tra, đánh giá hoạt động của các cơ quan Nhà nước trong việc tuân thủ Hiến
pháp, pháp luật và các Nghị quyết của HĐND mà còn cho phép HĐND phát
hiện được sự không phù hợp, thiếu thực tế của các Nghị quyết do HĐND ban
hành để sửa đổi, bổ sung. Kết quả giám sát sẽ là căn cứ để HĐND bãi bỏ
những quy định sai trái của HĐND cùng cấp, những Nghị quyết sai trái của
HĐND cấp dưới trực tiếp.
1.2. Khái niệm giám sát của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh và giám sát
của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh trong lĩnh vực kinh tế
1.2.1 Khái niệm giám sát của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh
Để nhận thức đúng bản chất, nội dung cũng như hình thức giám sát của
HĐND cấp tỉnh, trước hết cần làm rõ khái niệm giám sát.
Trong các công trình nghiên cứu một số tài liệu, thuật ngữ “giám sát”
được hiểu theo nhiều cách, từ nhiều góc độ khác nhau:
- Có quan niệm cho rằng, giám sát là: sự theo dõi, xem xét, làm đúng
hoặc sai những điều đã quy định [16, 1971, tr.305].
- Quan niệm khác coi giám sát là việc theo dõi và kiểm tra xem có thực
hiện đúng những điều quy định không; là chức quan thời xưa trông nom, coi
sóc một loại công việc nhất định [14, 2005].
- Có ý kiến chỉ coi giám sát là một nhóm hoặc một tổ chức để theo dõi
một việc nào đấy [18, 1987, tr.230].
Với tiếp cận mang tính hệ thống, ý kiến khác lại quan niệm: “giám sát”
là sự theo dõi, quan sát hoạt động mang tính chủ động, thường xuyên, liên tục
và sẵn sàng tác động bằng các biện pháp tích cực để buộc và hướng hoạt động
của đối tượng chịu sự giám sát đi đúng quỹ đạo quy chế nhằm đặt được
những mục đích, hiệu quả xác định từ trước, bảo đảm cho pháp luật được tuân
thủ nghiêm minh.
- Theo Luật hoạt động giám sát của Quốc hội và HĐND, khái niệm
21
“giám sát” được giải thích: Giám sát là việc chủ thể giám sát theo dõi, xem
xét, đánh giá hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát trong
việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn
của mình, xử lý theo thẩm quyền hoặc yêu cầu, kiến nghị cơ quan có thẩm
quyền xử lý.
Như vậy, tuy cách diễn đạt và biểu hiện ý nghĩa của từ “giám sát” có
khác nhau, nhưng các quan niệm trên đều đề cập đến nội dung cơ bản “giám
sát” là việc theo dõi, xem xét và kiểm tra một chủ thể nào đó về một việc làm
đã thực hiện đúng hoặc thực hiện chưa đúng những điều đã quy định để từ đó
có biện pháp điều chỉnh hoặc xử lý đối với việc làm sai nhằm đạt được những
mục đích xác định từ trước, bảo đảm cho các quyết định thực hiện đúng và
đầy đủ với quan niệm trên, giám sát có những đặc trưng sau:
- Giám sát luôn gắn với một chủ thể nhất định tức là phải trả lời được
câu hỏi ai (người hoặc tổ chức nào) có quyền thực hiện việc theo dõi, xem
xét, kiểm tra và đưa ra những nhận định, đánh giá về một việc làm nào đó đã
được thực hiện đúng hoặc không đúng với những điều đã quy định.
- Giám sát bao giờ cũng cần 2 giai đoạn: Giai đoạn theo dõi, xem xét,
kiểm tra và giai đoạn đánh giá, đưa ra kết luận. Trong đó, giai đoạn thứ nhất
là cơ sở để thực hiện giai đoạn thứ hai. Nếu giai đoạn theo dõi, xem xét, kiểm
tra làm tốt thì việc đánh giá, kết luận sẽ đúng đắn, chính xác và cuộc giám sát
sẽ có hiệu quả và ngược lại.
- Giám sát cũng luôn gắn với một đối tượng cụ thể, tức là phải trả lời
được câu hỏi giám sát ai? giám sát việc gì? đặc điểm cơ bản này cho chúng ta
phân biệt giữa giám sát và kiểm tra. Bởi nói đến kiểm tra thì chủ thể hoạt
động kiểm tra và đối tượng chịu sự tác động này có thể đồng nhất là một. Đó
là trường hợp chủ thể tự kiểm tra hoạt động của mình, tức là tự xem xét, đánh
giá tình trạng tốt, xấu của công việc đang làm để từ đó uốn nắn, sửa chữa.
22
Nhưng trong hoạt động giám sát thì không thể có tình trạng tự chủ thể hoạt
động quan sát chính hành vi của mình mà phải là hoạt động theo dõi, thẩm tra
và xem xét của một chủ thể khác, từ đó đưa ra kết luận và xử lý. Khác với
thanh tra, kiểm tra, hoạt động giám sát bao giờ cũng được báo trước cho đối
tượng chịu sự giám sát một thời gian nhất định.
- Giám sát phải thể hiện được quan hệ giữa chủ thể tham gia vào hoạt
động giám sát, biểu hiện ở những quyền và nghĩa vụ của chủ thể giám sát và
đối tượng chịu sự giám sát.
- Giám sát phải được tiến hành trên cơ sở những căn cứ do pháp luật quy
định, bởi nếu thiếu những quy định này thì chủ thể giám sát không có cơ sở
để thực hiện quyền giám sát và tiêu chí để đưa ra những nhận định về hoạt
động của đối tượng chịu sự giám sát.
- Giám sát là hoạt động có tính mục đích, mục đích của giám sát là đưa
ra những nhận định chính xác của chủ thể giám sát đối với hoạt động của đối
tượng chịu sự giám sát, từ đó có các biện pháp xử lý đối với những việc làm
sai trái nhằm bảo đảm cho những quy định của pháp luật được thực hiện đúng
và có hiệu quả. Như vậy, mục đích chung của giám sát nhà nước cũng như
giám sát xã hội là bảo đảm cho sự đúng đắn, minh bạch, liên tục của các cơ
quan, tổ chức, cá nhân có chức vụ, quyền hạn trong bộ máy nhà nước, trên cơ
sở tuân thủ thường xuyên, nghiêm chỉnh pháp luật về nghĩa vụ, chức năng và
thẩm quyền của họ.
Như vậy, thuật ngữ “giám sát” nếu hiểu theo nghĩa chung thì phạm vi áp
dụng của nó rất rộng, muốn có một khái niệm cụ thể thì hoạt động giám sát
bao giờ cũng gắn với một chủ thể xác định chẳng hạn như giám sát của Quốc
hội, giám sát của HĐND.
Căn cứ vào các yếu tố của giám sát, căn cứ vào những quy định của Hiến
pháp, Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003 và các văn bản pháp luật
23
khác, thì giám sát của HĐND cấp tỉnh được hiểu như sau: “ Giám sát của
HĐND cấp tỉnh là tổng thể các hoạt động của HĐND, Thường trực HĐND,
các Ban của HĐND và các đại biểu HĐND nhằm theo dõi, xem xét, đánh giá
hoạt động của các cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát trong việc thi
hành Hiến pháp, Luật, Pháp lệnh và các văn bản của cơ quan Nhà nước cấp
trên cũng như Nghị quyết của HĐND cấp tỉnh; từ đó đưa ra các kết luận và
phương án xử lý phù hợp để khắc phục những tồn tại, hạn chế, phát huy mọi
tiềm năng, xây dựng và phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội, bảo đảm quốc
phòng - an ninh”.
Như vậy, giám sát của HĐND thực chất là hoạt động nhằm kiểm soát
thực thi quyền lực của cơ quan nhà nước ở địa phương, đánh giá Nghị quyết
của HĐND được thực hiện trong thực tiễn, sớm phát hiện sai sót để yêu cầu
cơ quan có thẩm quyền sửa chữa.
* Đặc điểm giám sát của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh.
Trong hệ thống chính trị Việt Nam hiện nay, việc giám sát các hoạt
động của nhà nước được thực hiện bởi rất nhiều cơ quan, tổ chức; giám sát
của cơ quan dân cử (Quốc hội và HĐND); giám sát của Chủ tịch nước; kiểm
tra, thanh tra của Chính phủ và bộ máy hành chính; kiểm tra giám sát của
VKSND và TAND; giám sát của tổ chức chính trị - xã hội, giám sát của nhân
dân… Trong đó, giám sát của HĐND có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với
sự phát triển của địa phương. Xuất phát từ vị trí, vai trò của HĐND và tính
phong phú trong hoạt động giám sát.
Giám sát của HĐND có các đặc điểm sau:
- Đặc điểm về chủ thể giám sát:
Theo điều 57 Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003, giám sát của
HĐND bao gồm: giám sát của HĐND tại kỳ họp, giám sát của Thường trực
HĐND, giám sát của các Ban HĐND và giám sát của đại biểu HĐND.
24
Như vậy, chủ thể thực hiện quyền giám sát của HĐND bao gồm:
+ HĐND: một tập thể các đại biểu HĐND tại kỳ họp HĐND
+ Thường trực HĐND
+ Các Ban của HĐND
+ Đại biểu HĐND
- Đặc điểm về đối tượng giám sát:
Theo Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003, đối tượng giám sát
của HĐND bao gồm:
+ Thường trực HĐND, UBND, TAND, VKSND cùng cấp [Khoản 1,
Điều 58].
+ Chủ tịch HĐND, Chủ tịch UBND các thành viên khác của UBND,
Thủ trưởng cơ quan chuyên môn thuộc UBND, Viện trưởng Viện Kiểm sát
nhân dân, Chánh án TAND cùng cấp [Khoản 2, điều 58].
+ Các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang
nhân dân và công dân ở địa phương [Điều 1, Điều 41, Điều 42, Điều 55].
Như vậy, theo pháp luật hiện hành, đối tượng giám sát của HĐND cấp
tỉnh rất phong phú và đa dạng, bao gồm tất cả các cơ quan nhà nước, đơn vị kinh
tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân ở địa phương.
Tuy nhiên cần lưu ý, trong luật hiện hành không phân cấp giám sát giữa
HĐND các cấp, điều đó không có nghĩa HĐND mỗi cấp thực hiện thẩm quyền
giám sát như nhau đối với mọi hoạt động của đối tượng chịu giám sát. Đối tượng,
phạm vi, mức độ giám sát của HĐND phụ thuộc vào vị trí, vai trò và sự phân cấp,
tính chất của mối quan hệ giữa HĐND với đối tượng chịu sự giám sát. Chẳng hạn
với UBND do mối quan hệ chấp hành (trực thuộc) của cơ quan này với HĐND
mà phạm vi mức độ giám sát của HĐND rất lớn, bao trùm mọi hoạt động của
UBND và khả năng xử lý lớn đối với quyết định, hành vi và cả nhân sự của
UBND; nhưng với TAND, VKSND thì hoạt động giám sát của HĐND chủ yếu ở
25
việc xem xét tính pháp chế của các bản án đã được giải quyết và sự phối hợp của
Tòa án, Viện Kiểm sát với địa phương trong việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị
của địa phương. Kết quả giám sát của HĐND đối với Tòa án chỉ có thể là đề nghị,
nếu hậu quả pháp lý nào đó đối với Tòa án chỉ là hậu quả gián tiếp không xuất
phát từ thẩm quyền của HĐND.
- Về hình thức giám sát:
Hình thức ở đây được hiểu là cách thức mà HĐND cấp tỉnh áp dụng để
giám sát các đối tượng theo quy định của pháp luật.
Theo Điều 58 Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003 và Quy chế
hoạt động của HĐND 2005, HĐND cấp tỉnh sử dụng các hình thức giám sát
sau:
+ Xem xét các báo cáo công tác của Thường trực HĐND, UBND,
TAND, VKSND cùng cấp.
+ Xem xét việc trả lời chất vấn của Chủ tịch HĐND, Chủ tịch UBND,
các thành viên khác của UBND, Thủ trưởng các cơ quan chuyên môn thuộc
UBND, Viện trưởng VKSND, Chánh án TAND cùng cấp.
+ Xem xét văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL) của UBND cùng
cấp, nghị quyết của HĐND cấp dưới trực tiếp khi phát hiện có dấu hiệu trái
với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội; pháp lệnh, nghị quyết của Ủy
ban Thường vụ Quốc hội, VBQPPL của cơ quan nhà nước cấp trên và nghị
quyết của HĐND cùng cấp.
+ Thành lập Đoàn giám sát khi xét thấy cần thiết.
+ Bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do HĐND bầu.
*Nội dung giám sát của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh.
Để có cơ sở pháp lý cho HĐND tỉnh thực hiện tốt chức năng giám sát,
trước hết phải xác định rõ nội dung giám sát của cơ quan này. Theo các quy
định của Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003: Khi quyết định những
26
vấn đề thuộc nhiệm vụ quyền hạn của mình, HĐND ra nghị quyết và giám
sát việc thực hiện Nghị quyết đó và căn cứ trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ
quyền hạn của HĐND, nội dung giám sát của HĐND cấp tỉnh bao gồm các
lĩnh vực sau:
- Giám sát về lĩnh vực kinh tế [Điều 11].
- Giám sát các hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, y tế, xã hội, văn hóa,
thông tin, thể dục thể thao [Điều 12].
- Giám sát các hoạt động quản lý nhà nước trong lĩnh vực khoa học,
công nghệ, tài nguyên và môi trường [Điều 13].
- Giám sát việc thực hiện nghĩa vụ quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn
xã hội [Điều 14].
- Giám sát việc thực hiện chính sách dân tộc và chính sách tôn giáo
[Điều 15].
- Giám sát việc thi hành pháp luật [Điều 16].
- Giám sát việc xây dựng chính quyền địa phương và quản lý địa giới
hành chính [Điều 17].
Như vậy, nội dung giám sát của HĐND cấp tỉnh rất rộng, toàn diện, bao
quát toàn bộ hoạt động quản lý nhà nước trên tất cả các lĩnh vực của đời sống
kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng, xây dựng củng cố chính quyền, thực
hiện pháp luật, bảo đảm phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở địa phương.
Riêng trong lĩnh vực kinh tế ngoài Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003
còn có các văn bản hướng dẫn thi hành luật cũng quy định rất chi tiết về
nhiệm vụ quyền hạn của HĐND trong lĩnh vực kinh tế. Vì là cơ quan quyết
định những vấn đề liên quan đến lĩnh vực kinh tế nên HĐND phải thực hiện
27
việc giám sát quá trình thực thi các quyết định của mình.
1.2.2 Khái niệm giám sát của HĐND cấp tỉnh trong lĩnh vực kinh tế
Để nhận thức đúng bản chất, nội dung cũng như hình thức giám sát của
HĐND cấp tỉnh trong lĩnh vực kinh tế, trước hết cần làm rõ khái niệm giám
sát của HĐND tỉnh.
Theo Luật hoạt động giám sát của Quốc hội và HĐND, khái niệm
“giám sát” được giải thích: Giám sát là việc chủ thể giám sát theo dõi, xem
xét, đánh giá hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát trong
việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn
của mình, xử lý theo thẩm quyền hoặc yêu cầu, kiến nghị cơ quan có thẩm
quyền xử lý.
Như vậy, tuy cách diễn đạt và biểu hiện ý nghĩa của từ “giám sát” có
khác nhau, nhưng các quan niệm trên đều đề cập đến nội dung cơ bản “giám
sát” là việc theo dõi, xem xét và kiểm tra một chủ thể nào đó về một việc làm
đã thực hiện đúng hoặc thực hiện chưa đúng những điều đã quy định để từ đó
có biện pháp điều chỉnh hoặc xử lý đối với việc làm sai nhằm đạt được những
mục đích xác định từ trước, bảo đảm cho các quyết định thực hiện đúng và
đầy đủ với quan niệm trên, giám sát có những đặc trưng sau:
- Giám sát luôn gắn với một chủ thể nhất định tức là phải trả lời được
câu hỏi ai (người hoặc tổ chức nào) có quyền thực hiện việc theo dõi, xem
xét, kiểm tra và đưa ra những nhận định, đánh giá về một việc làm nào đó đã
được thực hiện đúng hoặc không đúng với những điều đã quy định.
- Giám sát bao giờ cũng cần 2 giai đoạn: Giai đoạn theo dõi, xem xét,
kiểm tra và giai đoạn đánh giá, đưa ra kết luận. Trong đó, giai đoạn thứ nhất
là cơ sở để thực hiện giai đoạn thứ hai. Nếu giai đoạn theo dõi, xem xét, kiểm
tra làm tốt thì việc đánh giá, kết luận sẽ đúng đắn, chính xác và cuộc giám sát
28
sẽ có hiệu quả và ngược lại.
- Giám sát cũng luôn gắn với một đối tượng cụ thể, tức là phải trả lời
được câu hỏi giám sát ai? giám sát việc gì? đặc điểm cơ bản này cho chúng ta
phân biệt giữa giám sát và kiểm tra. Bởi nói đến kiểm tra thì chủ thể hoạt
động kiểm tra và đối tượng chịu sự tác động này có thể đồng nhất là một. Đó
là trường hợp chủ thể tự kiểm tra hoạt động của mình, tức là tự xem xét, đánh
giá tình trạng tốt, xấu của công việc đang làm để từ đó uốn nắn, sửa chữa.
Nhưng trong hoạt động giám sát thì không thể có tình trạng tự chủ thể hoạt
động quan sát chính hành vi của mình mà phải là hoạt động theo dõi, thẩm tra
và xem xét của một chủ thể khác, từ đó đưa ra kết luận và xử lý. Khác với
thanh tra, kiểm tra, hoạt động giám sát bao giờ cũng được báo trước cho đối
tượng chịu sự giám sát một thời gian nhất định.
- Giám sát phải thể hiện được quan hệ giữa chủ thể tham gia vào hoạt
động giám sát, biểu hiện ở những quyền và nghĩa vụ của chủ thể giám sát và
đối tượng chịu sự giám sát.
- Giám sát phải được tiến hành trên cơ sở những căn cứ do pháp luật quy
định, bởi nếu thiếu những quy định này thì chủ thể giám sát không có cơ sở
để thực hiện quyền giám sát và tiêu chí để đưa ra những nhận định về hoạt
động của đối tượng chịu sự giám sát.
- Giám sát là hoạt động có tính mục đích, mục đích của giám sát là đưa
ra những nhận định chính xác của chủ thể giám sát đối với hoạt động của đối
tượng chịu sự giám sát, từ đó có các biện pháp xử lý đối với những việc làm
sai trái nhằm bảo đảm cho những quy định của pháp luật được thực hiện đúng
và có hiệu quả. Như vậy, mục đích chung của giám sát nhà nước cũng như
giám sát xã hội là bảo đảm cho sự đúng đắn, minh bạch, liên tục của các cơ
quan, tổ chức, cá nhân có chức vụ, quyền hạn trong bộ máy nhà nước, trên cơ
sở tuân thủ thường xuyên, nghiêm chỉnh pháp luật về nghĩa vụ, chức năng và
29
thẩm quyền của họ.
Như vậy, thuật ngữ “giám sát” nếu hiểu theo nghĩa chung thì phạm vi áp
dụng của nó rất rộng, muốn có một khái niệm cụ thể thì hoạt động giám sát
bao giờ cũng gắn với một chủ thể xác định chẳng hạn như giám sát của Quốc
hội, giám sát của HĐND.
Căn cứ vào các yếu tố của giám sát, căn cứ vào những quy định của Hiến
pháp, Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003 và các văn bản pháp luật
khác, thì giám sát của HĐND cấp tỉnh được hiểu như sau:“Giám sát của
HĐND cấp tỉnh là tổng thể các hoạt động của HĐND, Thường trực HĐND,
các Ban của HĐND và các đại biểu HĐND nhằm theo dõi, xem xét, đánh giá
hoạt động của các cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát trong việc thi
hành Hiến pháp, Luật, Pháp lệnh và các văn bản của cơ quan Nhà nước cấp
trên cũng như Nghị quyết của HĐND cấp tỉnh; từ đó đưa ra các kết luận và
phương án xử lý phù hợp để khắc phục những tồn tại, hạn chế, phát huy mọi
tiềm năng, xây dựng và phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội, bảo đảm quốc
phòng - an ninh”.
Căn cứ vào các yếu tố của giám sát của HĐND cấp tỉnh được hiểu như
sau: “Giám sát của HĐND cấp tỉnh trong lĩnh vực kinh tế là tổng thể các hoạt
động của HĐND, Thường trực HĐND, các Ban của HĐND và các đại biểu
HĐND nhằm theo dõi, xem xét, đánh giá hoạt động của các cơ quan, tổ chức,
cá nhân chịu sự giám sát trong việc thi hành Hiến pháp, Luật, Pháp lệnh và
các văn bản của cơ quan Nhà nước cấp trên cũng như Nghị quyết của HĐND
cấp tỉnh về lĩnh vực kinh tế, tài chính và ngân sách; từ đó đưa ra các kiến
nghị nhằm chấn chỉnh các hoạt động quản lý và hoàn thiện các cơ chế chính
sách, phương thức quản lý và điều hành một cách phù hợp và hiệu quả”.
Một trong các vấn đề về giám sát về lĩnh vực kinh tế là: giám sát về Tài
chính - ngân sách địa phương. Quyền hạn này đã được quy định trong Luật
30
Tổ chức HĐND và UBND năm 2003, luật Tổ chức chính quyền địa phương
năm 2015 và được quy định cụ thể trong Luật Ngân sách nhà nước năm
2002, Luật ngân sách nhà nước năm 2015 và các văn bản hướng dẫn thi hành,
cụ thể :
Giám sát ngân sách, Điều 30, Luật ngân sách nhà nước năm 2002 và
Luật ngân sách nhà nước năm 2015 quy định: “HĐND các cấp có quyền giám
sát việc thực hiện ngân sách đã được HĐND quyết định. Bãi bỏ văn bản pháp
luật về tài chính - ngân sách của UBND, Chủ tịch UBND cùng cấp và HĐND
cấp dưới trực tiếp trái với Hiến pháp, Luật, Nghị quyết của Quốc hội, Pháp
lệnh, Nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội và các văn bản nhà nước
cấp trên. Như vậy, đối với ngân sách địa phương, đại biểu HĐND có quyền
giám sát việc thực hiện ngân sách của HĐND cấp mình quyết định.
Quyết định ngân sách, HĐND căn cứ vào nhiệm vụ thu, chi ngân sách
được cấp trên giao và tình hình thực tế tại địa phương quyết định các nội
dunng như: Thu ngân sách, dự toán chi ngân sách, tổng mức vay của ngân
sách địa phương.
HĐND quyết định phân bổ dự toán ngân sách cấp mình, quyết định phê
chuẩn quyết toán ngân sách địa phương; các chủ trương, biện pháp để triển
khai thực hiện ngân sách địa phương; điều chỉnh dự toán ngân sách địa
phương trong trường hợp cần thết; danh mục các chương trình, dự án thuộc kế
hoạch đầu tư trung hạn nguồn ngân sách nhà nước của ngân sách cấp mình;
quyết định chương trình dự án đầu tư quan trong của địa phương được đầu tư
từ nguồn vốn ngân sách nhà nước.
Ngoài ra, HĐND cấp tỉnh còn có thêm các nhiệm vụ: quyết định kế
hoạch tài chính 05 năm gồm các nội dung: mục tiêu tổng quát, mục tiêu cụ thể
của kế hoạch tài chính 05 năm; khả năng thu ngân sách nhà nước trên địa bàn;
thu, chi ngân sách địa phương, bội chi ngân sách địa phương và giới hạn mức
31
vay của ngân sách địa phương; giải pháp chủ yếu để thực hiện kế hoạch.
Quyết định việc phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi cho từng cấp ngân sách ở
địa phương theo quy định tại khoản 3, Điều 9 của Luật Ngân sách nhà nước
năm 2015. Quyết định tỷ lệ phần trăm (%) phân chia giữa ngân sách các cấp
chính quyền địa phương đối với phần ngân sách địa phương được hưởng từ
các khoản thu phân chia theo tỷ lệ phần trăm (%) giữa ngân sách trung ương
và ngân sách địa phương. Quyết định thu phí, lệ phí và các khoản đóng góp
của nhân dân theo quy định của pháp luật. Quyết định nguyên tắc, tiêu chí và
định mức phân bổ ngân sách địa phương. Quyết định cụ thể đối với một số
chế độ, tiêu chuẩn, định mức chi ngân sách theo nội dung khung của Chính
phủ. Quyết định các chế độ chi ngân sách đối với một số nhiệm vụ chi có tính
chất đặc thù ở địa phương ngoài các chế độ, tiêu chuẩn, định mức chi ngân
sách do Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Tài chính ban hành để thực hiện nhiệm vụ
phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn, phù
hợp với khả năng cân đối của ngân sách địa phương.
* Đặc điểm giám sát của HĐND cấp tỉnh trong lĩnh vực kinh tế
- Việc giám sát của HĐND tỉnh trong lĩnh vực kinh tế được thực hiện dựa
vào quyền lực nhà nước đối với mọi lĩnh vực và hoạt động của các cơ quan,
đơn vị có sử dụng ngân sách nhà nước. .
- Giám sát của HĐND tỉnh trong lĩnh vực kinh tế bảo đảm tuân thủ triệt
để các quy định của Luật ngân sách nhà nước và các văn bản hướng dẫn thi
hành.
- Giám sát của HĐND tỉnh mang tính toàn diện, định hướng đối với
những vấn đề về ngân sách nhà nước được cử tri quan tâm.
- Giám sát của HĐND tỉnh phải bảo đảm độ tin cậy cao, toàn diện trên
các mặt: báo cáo, cung cấp thông tin, tài liệu, số liệu và các điều kiện đảm bảo
32
khác.
1.3 Hình thức, nội dung và những vấn đề khác về giám sát của Hội
đồng nhân dân cấp tỉnh trong lĩnh vực kinh tế
1.3.1 Hình thức giám sát của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh trong lĩnh
vực kinh tế
- Giám sát chung: xem xét các báo cáo và chất vấn tại các kỳ họp của
HĐND và cuộc họp các Ban của HĐND. Các cơ quan chức năng phải trình
HĐND thảo luận và quyết định các báo cáo liên quan đến lĩnh vực kinh tế
như: dự toán, quyết toán và các báo cáo về tình hình quản lý điều hành ngân
sách địa phương.
- Giám sát theo chuyên đề: là hình thức giám sát chuyên sâu về những
chuyên đề cụ thể hoặc về những vấn đề nhạy cảm, bức xúc, có quan hệ đến
đông đảo nhân dân… để giúp HĐND nhận xét, đánh giá sâu hơn về những
chủ đề mà nhân dân địa phương đang quan tâm, chẳng hạn vấn đề đầu tư dàn
trải và thất thoát lãng phí trong đầu tư xây dựng cơ bản của tỉnh, vấn đề hỗ trợ
phát triển nông nghiệp ở địa phương…
- Giám sát đột xuất: HĐND tỉnh thực hiện hình thức giám sát này khi có
dấu hiệu quản lý và điều hành ngân sách nhà nước trái với Luật ngân sách nhà
nước và vi phạm các chế độ, tiên chuẩn, định mức chi tiêu, hoặc có dấu hiệu
tham nhũng, thất thoát… Việc giám sát đột xuất được thực hiện theo đoàn
giám sát hoặc theo từng tổ đại biểu HĐND.
1.3.2 Nội dung giám sát của HĐND cấp tỉnh trong lĩnh vực kinh tế
HĐND tỉnh thực hiện việc giám sát các hoạt động trong lĩnh vực kinh
tế ở địa phương trên các nội dung sau:
Thứ nhất, giám sát công tác quy hoạch, kế hoạch phát triển của địa
phương.
Thẩm tra và giám sát về quy hoạch, kế hoạch về phát triển kinh tế - xã
33
hội có được xây dựng trên những căn cứ pháp lý như: Nghị quyết của Đảng
và của Quốc hội, các văn bản pháp luật do Chính phủ ban hành và phù hợp
với hoàn cảnh cụ thể của địa phương. Phân tích đánh giá các yếu tố và điều
kiện phát triển của địa phương; mục tiêu về phát triển kinh tế - xã hội đang
hướng tới kỳ quy hoạch, kế hoạch. Đề ra những chính sách, giải pháp đòn
bẩy, các nguồn lực sẽ được huy động để thực hiện nhiệm vụ mục tiêu kinh tế -
xã hội của kỳ quy hoạch, kế hoạch đó. Xem xét những chủ trương, biện pháp
đang thực hiện có nhằm vào các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội đã đặt ra
không.
Thứ hai, Giám sát dự toán ngân sách nhà nước ở địa phương và ngân
sách cấp tỉnh.
- Thẩm tra xem xét ngân sách địa phương có được xây dựng theo những
căn cứ pháp lý theo quy định hay không: Thể hiện ở việc dự toán có nhất
quán với những văn bản: Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của địa phương
hàng năm; Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ về xây dựng kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội; Thông tư hướng dẫn của Bộ Tài chính; Quyết định của Thủ
tướng Chính phủ về giao nhiệm vụ thu chi ngân sách; Quyết định của Bộ
trưởng Bộ Tài chính về giao chỉ tiêu hướng dẫn thu, chi ngân sách năm; Định
mức phân bổ ngân sách địa phương; Các chính sách thu chi ngân sách được
cấp có thẩm quyền ban hành ảnh hưởng đến dự toán thu, chi ngân sách nhà
nước trên địa bàn; Chế độ thu phí, lệ phí và chế độ chi tiêu đặc thù của địa
phương do HĐND tỉnh ban hành theo phân cấp.
- Thẩm tra và giám sát dự toán thu ngân sách địa phương: Đánh giá dự
toán thu có phù hợp với tốc độ và chất lượng tăng trưởng kinh tế của địa
phương hay không, có phù hợp với định hướng và hướng dẫn của Trung
ương; đánh giá kết quả thực hiện thu ngân sách năm hiện hành và các yếu tố
có ảnh hưởng đến năm kế hoạch; xem xét đánh giá về dự kiến các nguồn thu
34
giảm đi và nguyên nhân; đánh giá cơ cấu thu ngân sách địa phương và tính
hợp lý của cơ cấu đó; xem xét và phân tích các khoản thu chuyển nguồn từ
năm trước sang năm kế hoạch… Từ đó nhận xét xem dự toán thu ngân sách
nhà nước trên địa bàn phù hợp hay chưa phù hợp với thực tế địa phương, có
khả thi không.
- Thẩm tra và giám sát dự toán chi ngân sách địa phương, tập trung các
các nội dung: Bảo đảm sự phù hợp giữa dự toán chi với mục tiêu phát triển
kinh tế - xã hội của địa phương, so sánh với kết quả thực hiện chi ngân sách
của năm hiện hành và một số năm liền kề; Xem xét cơ cấu chi ngân sách có
phù hợp với yêu cầu và nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm kế hoạch
không (Chi đầu tư phát triển, chi thường xuyên, chi giáo dục – đào tạo – dạy
nghề, chi khoa học – công nghệ, chi quản lý hành chính, chi y tế, chi đảm
bảm xã hội, các khoản thi thường xuyên khác); Chất vấn UBND tỉnh về
những nội dung chi tăng thêm hoặc giảm đi, nguyên nhân và yêu cầu bảo đảm
tính hiệu quả của các khoản chi này.
Thứ ba, Giám sát việc thực hiện dự toán ngân sách nhà nước
- Giám sát việc phân bổ ngân sách địa phương giữa các cấp chính quyền
địa phương.
+ Giám sát căn cứ phân bổ ngân sách địa phương cho các lĩnh vực
hoạt động: Hoạt động giám sát đối với căn cứ phân bổ ngân sách địa
phương tập trung vào tính hợp lý của các định mức phân bổ giữa các cấp
chính quyền (căn cứ, cơ sở xác định số bổ sung cân đối ngân sách cho các
cấp huyện và xã đối với năm đầu thời kỳ ổn định) và cơ cấu phân bổ ngân
sách cho các lĩnh vực.
+ Giám sát phân bổ ngân sách cấp tỉnh: Phân bổ ngân sách cấp tỉnh chỉ
gồm ngân sách của các đơn vị trực thuộc tỉnh và sổ bổ sung từ ngân sách cấp
tỉnh cho ngân sách cấp huyện. Giám sát theo các nội dung: phân bổ dự toán
35
chi ngân sách có tuân thủ định mức phân bổ ngân sách, có tương ứng với
nhiệm vụ được giao không; xem xét tổng mức dự toán chi ngân sách so với
thực hiện năm trước (tăng, giảm, nguyên nhân); sổ bổ sung cân đối cho ngân
sách cấp dưới có đúng theo quy định của Luật ngân sách nhà nước không…
+ Giám sát việc phân cấp nguồn thu và nhiệm vụ chi cho các cấp ngân
sách địa phương: tập trung vào việc đánh giá thực trạng phân cấp nguồn thu,
nhiệm vụ chi giữa các cấp chính quyền căn cứ vào Luật ngân sách nhà nước
và Nghị quyết của HĐND cấp tỉnh.
- Giám sát việc chấp hành ngân sách và điều hành ngân sách
+ Giám sát quá trình chấp hành dự toán thu ngân sách: Giám sát việc tổ
chức các khoản thu nộp ngân sách của hệ thống kho bạc nhà nước. Đối chiếu
nhiệm vụ thu ngân sách địa phương với Nghị quyết HĐND đã quyết định đầu
năm; Kiểm tra tính đầy đủ và hợp lý của các khoản thu ngân sách địa phương
so với dự toán…
+ Giám sát việc chấp hành dự toán và điều hành chi ngân sách địa
phương: Xem xét các khoản chi ngân sách có chấp hành đúng tiêu chuẩn, chế
độ, định mức chi tiêu do các cơ quan có thẩm quyền ban hành không; hiệu
quả kinh tế - xã hội của các khoản chi ngân sách…
+ Giám sát việc sử dụng dự phòng ngân sách: xem xét tỉnh đã trích lập
dự phòng ngân sách theo đúng quy định chưa, số kinh phí dự phòng có đúng
từ 2 – 5% chi ngân sách cấp tỉnh không; việc sử dụng dự phòng ngân sách có
đúng nội dung và thẩm quyền không…
+ Giám sát việc trích lập và sử dụng Quỹ dự trữ tài chính: Xem xét việc
trích lập quỹ được hình thành từ các nguồn theo quy định không; việc sử dụng
có đúng nội dung và thẩm quyền không…
+ Giám sát việc điều chỉnh dự toán ngân sách; việc sử dụng khoản
36
thưởng thu vượt dự toán ngân sách; việc sử dụng nguồn tăng thu ngân sách;
việc sử dụng các khoản bổ sung có mục tiêu từ ngân sách trung ương cho
ngân sách địa phương
- Giám sát việc phê chuẩn quyết toán ngân sách địa phương.
Quyết toán ngân sách địa phương là việc đánh giá, tổng hợp tình hình và
xác định kết quả thực hiện dự toán ngân sách nhà nước đã được HĐND quyết
định.
+ Giám sát tình hợp pháp và độ tin cậy của báo cáo quyết toán: Số liệu
quyết toán phải chính xác, trung thực, đầy đủ; số liệu quyết toán chi ngân
sách địa phương không được vượt quá có quyết toán thu ngân sách địa
phương; nội dung quyết toán phải đúng với nội dung các chỉ tiêu trong dự
toán ngân sách được HĐND tỉnh quyết định…
+ Giám sát quyết toán thu ngân sách nhà nước; quyết toán chi ngân sách
địa phương và xem xét kết dư ngân sách địa phương.
Tầm quan trọng của chức năng giám sát trong lĩnh vực kinh tế:
1.3.3 Những vấn đề khác về giám sát của HĐND cấp tỉnh trong lĩnh
vực kinh tế
* Về phương thức giám sát của HĐND cấp tỉnh trong lĩnh vực kinh tế
- Nghe, xem xét và thảo luận các vấn đề thuộc lĩnh vực kinh tế : Tại kỳ
họp, HĐND nghe báo cáo như: báo cáo về dự toán ngân sách nhà nước ở địa
phương và phương án phân bổ ngân sách địa phương, nghe báo cáo thẩm tra
dự toán ngân sách nhà nước của Ban Kinh tế - Ngân sách HĐND tỉnh về dự
toán ngân sách, báo cáo quyết toán ngân sách địa phương. HĐND cũng xem
xét các báo cáo tài chính - ngân sách khác như Báo cáo tình hình thực hiện dự
toán ngân sách nhà nước năm hiện hành; Báo cáo tình hình đầu tư và sử dụng
vốn ngân sách địa phương của các công trình, dự án xây dựng cơ bản quan
trọng, trọng điểm của địa phương… Việc thảo luận các báo cáo được thực
37
hiện tại kỳ họp HĐND cuối năm hoặc giữa năm theo trình tự chặt chẽ, bằng
cách thẩm tra, phản biện, thảo luận, tranh luận của các đại biểu HĐND về các
vấn đề nội dung báo cáo.
- Chất vấn và trả lời chất vấn: Đại biểu HĐND thực hiện quyền chất
vấn trong thời gian kỳ họp HĐND hoặc trong thời gian giữa hai kỳ họp.
Người bị chất vấn phải trả lời về những vấn đề mà đại biểu chất vấn quan
tâm. Có hai hình thức chất vấn: chất vấn bằng văn bản và chất vấn trực tiếp.
Có các hình thức trả lời như sau: trả lời bằng văn bản cho từng đại biểu, từng
đoàn đại biểu HĐND, hoặc trả lời chung trong phiên họp HĐND. HĐND cần
xem xét và đánh giá các vấn đề được chất vấn đã được trả lời chất vấn.
- Tổ chức các đoàn giám sát chung và giám sát theo chuyên đề: HĐND
và các Ban của HĐND tổ chức đoàn giám sát chung và giám sát theo chuyên
đề trong lĩnh vực kinh tế theo chương trình, kế hoạch giám sát đã được phê
duyệt nhằm khảo sát thực tế tại các cơ sở được giám sát, gặp gỡ và trao đổi
với các đối tượng có liên quan đến nội dung giám sát, nghiên cứu và xem xét
các tài liệu, báo cáo cần thiết, từ đó có đủ căn cứ và bằng chứng để kết luận
về nội dung được giám sát và đưa ra các kiến nghị cần thiết nhằm xử lý các vi
phạm, kịp thời khắc phục các yếu kém trong quản lý điều hành của các cơ
quan nhà nước. Để làm rõ những vấn đề còn vướng mắc, có thể cử thành viên
đoàn giám sát đến các cơ quan, tổ chức hữu quan để xem xét và xác minh các
vấn đề còn vướng mắc.
Ngoài ra, tổ chức nghiên cứu, lập báo cáo giám sát. Trên cơ sở thực tế
hoạt động tài chính - ngân sách ở địa phương, HĐND và các đại biểu HĐND
xem xét tính phù hợp của hoạt động ngân sách nhà nước với các văn bản quy
phạm pháp luật về ngân sách nhà nước (như Luật ngân sách nhà nước, Luật
thuế…) và các chế độ, tiêu chuẩn, định mức chi ngân sách nhà nước. Phương
38
thức giám sát này bảo đảm tính hợp pháp của hoạt động ngân sách nhà nước.
Để đảm bảo giám sát có hiệu quả, các đại biểu HĐND phải nắm được
các văn bản quy phạm pháp luật theo thẩm quyền. Qua nghiên cứu, phân tích,
đánh giá, các đoàn giám sát phải lập báo cáo giám sát hoặc có các kiến nghị
kịp thời tại kỳ họp của HĐND để xem xét.
* Về quy trình giám sát của HĐND cấp tỉnh trong lĩnh vực kinh tế
- Bước 1: Chuẩn bị
+ Thông tin, nội dung, đối tượng, địa bàn đến giám sát
+ Xây dựng Kế hoạch giám sát: Thời gian, yêu cầu, lực lượng, xây dựng
đề cương báo cáo giám sát để các đơn vị báo cáo theo đề cương.
+ Quyết định thành lập Đoàn giám sát; phổ biến kế hoạch giám sát đến
các thành viên đoàn giám sát và đối tượng giám sát.
- Bước 2: Triển khai hoạt động
+ Xem xét, đánh giá báo cáo của đối tượng giám sát
+ Chất vấn, nghe giải trình
+ Đi thực tế cơ sở, kể cả tiếp xúc cử tri
- Bước 3: Kết luận và kiến nghị
+ Xây dựng báo cáo kết quả giám sát, thống nhất về kết luận, kiến nghị
+ Trao đổi với đối tượng giám sát
- Bước 4: Đôn đốc giải quyết kiến nghị sau giám sát
+ Theo dõi giải quyết của UBND các cấp, các ngành
+ Bám sát các kiến nghị để đôn đốc xử lý.
1.4 Khái niệm hiệu quả và các yếu tố đảm bảo hiệu quả giám sát của
HĐND tỉnh trong lĩnh vực kinh tế
1.4.1 Khái niệm hiệu quả giám sát của HĐND cấp tỉnh
Trong điều kiện hiện nay, xác định hiệu quả giám sát của một chủ thể
cụ thể là việc làm không đơn giản cả về mặt lý luận và thực tiễn. Đề cập đến
39
vấn đề này PGS, TS Võ Khánh Vinh nhận định: “Xác định hiệu quả giám sát
là một nhiệm vụ phức tạp và đầy khó khăn, các cơ quan thực tiễn thường
xuyên thực hiện nghĩa vụ đó và đưa ra nhiều tài liệu phong phú cho tư duy lý
luận về vấn đề hiệu quả giám sát. Đến nay, khái niệm chung về hiệu quả
giám sát cũng như các tiêu chuẩn, các chỉ số và phương pháp xác định nó
hầu như chưa được nghiên cứu trong sách báo pháp lý và chính trị ở nước ta,
tuy rằng đó là những vấn đề có ý nghĩa quan trọng .[15,2003, tr.95].
Thuật ngữ “hiệu quả” là một khái niệm rất phức tạp được sử dụng cho
nhiều ngành, nhiều lĩnh vực, đặc biệt trong lĩnh vực kinh tế và hành chính cả
ở tầm vĩ mô và vi mô. Theo các nhà ngôn ngữ học, khái niệm “hiệu quả”
được hiểu là: Kết quả như yêu cầu của việc làm mang lại.
Theo từ điển Lepetit Lasousse định nghĩa “Hiệu quả là kết quả đạt được
trong việc thực hiện một nhiệm vụ nhất định” [17, 1999, tr.57]. Trong khi đó,
các nhà quản lý hành chính lại cho rằng: Hiệu quả là mục tiêu chủ yếu của
khoa học hành chính, là sự so sánh giữa các chi phí đầu vào với các giá trị của
đầu ra, sự tăng tối đa lợi nhuận và tối thiểu chi phí, là mối tương quan giữa sử
dụng nguồn lực và tỷ lệ đầu ra – đầu vào.
Như vậy, xác định hiệu quả một hoạt động kinh tế thường cho chúng ta
những con số chính xác và cụ thể, nhưng đối với bất kỳ hoạt động xã hội nào
nói chung và hoạt động giám sát nói riêng, để tính được hiệu quả đạt được rất
khó khăn và phức tạp. Bởi hoạt động này chủ yếu mang tính chất định tính
chứ không phải định lượng. Do đó, cách tính hiệu quả của một hoạt động xã
hội tốt nhất chúng ta phải vận dụng phương pháp tính hiệu quả kinh tế (tất
nhiên chỉ tương đối). Thep cách tiếp cận này “hiệu quả chính là chỉ số so sánh
giữa kết quả thu về với chi phí, công sức bỏ ra” [9, 2003, tr.56], trong đó kết
quả thu về bao gồm cả kết quả định tính và định lượng.
Trong một số trường hợp cụ thể, chỉ số so sánh này có thể lượng hóa
40
một cách cụ thể (định lượng). Ví dụ: Khi đánh giá hiệu quả đầu tư trong sản
xuất kinh doanh, hiệu quả cao hay thấp được đánh giá định lượng cụ thể,
chính xác bằng cách so sánh chi phí đầu tư và kết quả thu về trên một đơn vị
tiền tệ xác định. Nhưng một số trường hợp khác, chỉ số này khó có thể lượng
hóa bằng những con số cụ thể đánh giá có tính chất định tính.
Về hiệu quả giám sát của HĐND cấp tỉnh chủ yếu mang tính chất định
tính nên hiệu quả thường được xem là sự so sánh giữa kết quả trước và sau
khi tiến hành một hoạt động giữa kết quả đã có và kết quả dự định sẽ có, giữa
kết quả đạt được và mục đích đề ra. Nếu hiểu theo khái niệm hiệu quả là kết
quả hoạt động của giám sát, thì kết quả đó không chỉ được thể hiện qua các
con số như: số lượng các đoàn giám sát, số lượng ý kiến, kiến nghị; các vấn
đề được chất vấn qua mỗi kỳ họp,... mà còn được thể hiện qua những ảnh
hưởng tích cực mà hoạt động giám sát mang lại. Có nghĩa là khi xét đến hiệu
quả giám sát của HĐND chúng ta phải đặt nó trong mối quan hệ với hiệu lực
giám sát của HĐND.
Hiệu quả cao hay thấp phụ thuộc vào việc HĐND thực hiện chức năng
giám sát theo quy định của pháp luật đến đâu, cũng như những kết luận, kiến
nghị từ hoạt động giám sát có phù hợp với quy định của pháp luật và điều
kiện thực tế hay không. Có được các cơ quan, tổ chức, cá nhân tiếp thu và
được thực hiện nghiêm túc hay không.
Từ sự phân tích trên hiệu quả giám sát của HĐND nói chung và hiệu quả
giám sát trong lĩnh vực kinh tế nói riêng được hiểu như sau: Hiệu quả giám
sát của HĐND là hiệu lực thi hành các kiến nghị của hoạt động giám sát, đem
lại kết quả phù hợp với mục đích giám sát, với những chi phí hợp lý về thời
41
gian, trí lực, vật lực, nguồn lực lao động,… cho hoạt động giám sát.
1.4.2 Tiêu chí đánh giá hiệu quả giám sát của HĐND cấp tỉnh trong
lĩnh vực kinh tế
Để đánh giá hiệu quả giám sát của HĐND cần có những tiêu chí nhất
định, mỗi tiêu chí được xem là một căn cứ để xác định hiệu quả giám sát trên
một phương diện khác nhau. Vì vậy, để đánh giá đúng hiệu quả giám sát cần
xác định các tiêu chí cần thiết:
Một là, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội sau khi có hoạt động giám
sát so với trước khi có hoạt động giám sát.
Đây là tiêu chí đầu tiên cần phải xem xét bởi tất cả các hoạt động của cơ
quan, tổ chức mục đích cuối cùng nhằm thúc đẩy kinh tế - xã hội địa phương
ngày càng phát triển. Đồng thời, thông qua giám sát, HĐND không những chỉ có
quyền kiến nghị với UBND, với các ngành có liên quan mà có thể kiến nghị với
Trung ương về việc đưa ra những chủ trương, chính sách cho phù hợp với tình
hình kinh tế - xã hội của địa phương. Do vậy, muốn biết hoạt động giám sát của
HĐND có mang lại hiệu quả hay không, chúng ta phải có những biện pháp so
sánh tình hình kinh tế - xã hội của địa phương sau khi có hoạt động giám sát với
trước khi có hoạt động giám sát. Nếu sau chương trình giám sát hàng năm của
HĐND, tình hình kinh tế - xã hội trên địa bàn có những chuyển biến tích cực,
đời sống nhân dân ngày càng được nâng cao, thì điều đó cho thấy, hoạt động
giám sát của HĐND đã mang lại hiệu quả và ngược lại.
Tuy nhiên, sự phát triển kinh tế - xã hội địa phương trong thực tế hoàn
toàn không chỉ do tác động của HĐND mà còn là sự tác động tổng hợp của
nhiều yếu tố quan trọng khác. Vì vậy, khi đánh giá hiệu quả giám sát của
HĐND theo tiêu chí này cũng ở mức độ tương đối.
Hai là, đạt được mục đích, yêu cầu giám sát.
Cũng giống như hoạt động giám sát chung, khi tiến hành giám sát trong
42
lĩnh vực kinh tế, HĐND phải xác định đúng mục đích của hoạt động giám sát
được thể hiện ở nhiều cấp độ phạm vi khác nhau. Ở cấp độ chung, mục đích
của việc giám sát là việc bảo đảm cho sự hoạt động đúng đắn, minh bạch, liên
tục của từng cơ quan, tổ chức trong bộ máy Nhà nước nói chung, trên cơ sở
tuân thủ thường xuyên, nghiêm chỉnh các quy định về nhiệm vụ, chức năng,
quyền hạn của từng đơn vị theo luật định. Ở cấp độ thứ hai, tùy thuộc vào
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của từng đối tượng bị giám sát, HĐND đề ra
những mục đích giám sát cụ thể khác nhau.
Hoạt động giám sát còn bảo đảm công khai, minh bạch nhằm tạo điều
kiện cho công tác kiểm tra, kiểm soát và giám sát của các cơ quan chức năng.
Ba là, các kết quả đạt được do tác động của hoạt động giám sát.
Một trong những tiêu chí quan trọng để đánh giá hiệu quả giám sát của
HĐND là phải căn cứ vào kết quả thực tế do tác động giám sát mang lại.
Muốn vậy, kết thúc mỗi cuộc giám sát, HĐND phải xác định được các kết quả
trong cuộc giám sát đó. Chẳng hạn, nếu giám sát trong đầu tư xây dựng cơ
bản thì phải ngăn chặn được vấn đề thất thoát vốn nhà nước, nếu giám sát vấn
đề thu thuế thì phải đánh giá được số phần trăm thất thu, thất nộp và doanh số
mức thu cho ngân sách nhà nước phải được tăng lên…. Làm tốt được điều đó
là một trong những yếu tố quan trọng đẩy lùi tính hình thức trong hoạt động
giám sát của HĐND. Rõ ràng, đây là một tiêu chí phức tạp, vì kết quả thực tế
do giám sát của HĐND mang lại nhiều khi không những thể hiện bằng yếu tố
định lượng mà còn cả yếu tố định tính. Giám sát trong lĩnh vực kinh tế và nhất
là việc giám sát về ngân sách nhà nước nhằm góp phần phòng chống tham
nhũng, tiêu cực, thất thoát, lãng phí thông qua việc yêu cầu các đơn vị sử
dụng NSNN thực hiện đúng chế độ, định mức, tiêu chuẩn pháp luật đã quy
định, khuyến khích sử dụng nguồn lực nhà nước đạt kết quả cao, tăng cường
kỷ luật tài chính, ngân sách.
43
Bốn là, kết quả đạt được so với chi phí bỏ ra.
“Hiệu quả chính là chỉ số so sánh giữa kết quả thu về với chi phí bỏ ra”,
vì vậy, khi đánh giá hiệu quả phải tính đến những chi phí để đạt được kết quả
đó. Chi phí bao gồm: chi phí về vật chất, tinh thần cũng như số lượng người
tham gia, thời gian tiến hành… Tất cả những phí tổn cho việc giám sát đều
cần ở mức thấp nhưng phải đủ đảm bảo cho các chủ thể giám sát phát huy tốt
vai trò, nhiệm vụ và năng lực của mình để đạt được những kết quả ở mức cao
nhất. Điều này có nghĩa là, phải biết tiết kiệm và phải biết lựa chọn những
phương pháp ít tốn kém để đạt được mục đích đề ra. Mặc dù vậy, giám sát là
một hoạt động chủ yếu mang tính xã hội nên để tính kết quả thu về với chi phí
bỏ ra là điều rất khó khăn, phức tạp. Bởi yếu tố vừa định lượng, vừa định tính
không chỉ thể hiện trong kết quả thu về mà ngay cả trong đầu tư, chi phí bỏ ra.
Cho nên, khi căn cứ vào tiêu chí này để đánh giá hiệu quả giám sát thì cũng
chỉ tính toán ở mức độ tương đối. Vấn đề quan trọng phải biết được đặc thù
của công tác giám sát để vận dụng cho phù hợp.
Trong hoạt động giám sát, tính kinh tế liên quan chặt chẽ với tính xã
hội. Có những cuộc giám sát nếu tính dưới góc độ kinh tế thì không mang lại
lợi ích thiết thực nhưng dưới góc độ xã hội lại mang lại hiệu quả rất lớn. Một
số lĩnh vực nếu được giám sát đến cùng và triệt để không những góp phần tích
cực vào sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, mà còn có tác dụng to
lớn trong việc chấn chỉnh các vấn đề chính trị - xã hội chung. Vì vậy, khi căn
cứ vào tiêu chí kinh phí để xem xét hiệu quả giám sát của HĐND, phải xem
xét cả hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội của công tác giám sát.
1.4.3 Các yếu tố đảm bảo hiệu quả giám sát của HĐND tỉnh trong lĩnh
lực kinh tế
Giám sát trong lĩnh vực kinh tế là một hoạt động phức tạp, liên quan đến
các mối quan hệ kinh tế và lợi ích, bao gồm các khía cạnh kinh tế - chính trị -
44
hành chính và pháp lý, đòi hỏi bên giám sát phải có những kiến thức và kỹ
năng nhất định để thực hiện giám sát có hiệu quả, do đó cần bảo đảm một số
điều kiện cần thiết khi thực hiện giám sát về kinh tế, như sau:
Thứ nhất, các quy định của pháp luật về hoạt động giám sát của HĐND
Đây là yếu tố đầu tiên tác động rất lớn đến hiệu quả giám sát của HĐND,
bởi các quy định của pháp luật về giám sát là cơ sở pháp lý cho HĐND thực
hiện vai trò, chức năng và nhiệm vụ của mình. Nếu Luật không quy định cụ
thể về thủ tục, trách nhiệm, quyền hạn của các đối tượng có liên quan đến
hoạt động giám sát thì việc ghi nhận chức năng giám sát của HĐND trong
Hiến pháp cũng chỉ là hình thức.
Thứ hai, xác định đúng vấn đề cần giám sát
Giám sát trong lĩnh vực kinh tế của HĐND tỉnh bao quát nhiều nội
dung, từ công tác quy hoạch, kế hoạch phát triển của địa phương đến giám sát
thực hiện ngân sách nhà nước. Rất khó có thể đi vào mọi nội dung của quá
trình này. Vì vậy, cần lựa chọn ra những vấn đề cần phải giám sát và tập trung
sâu vào vấn đề này để đảm bảo giám sát có hiệu quả.
Thông thường các vấn đề cần quan tâm giám sát liên quan đến các lĩnh
vực nhạy cảm trong quản lý tài chính - ngân sách như: chi đầu tư xây dựng cơ
bản, tình trạng thất thu và trốn lậu thuế, tình hình lãng phí ngân sách nhà
nước, việc thực hiện chương trình xóa đói giảm nghèo…
Ngoài ra, các vấn đề cụ thể trong lập dự toán, điều hành và quyết toán
ngân sách cũng thường nảy sinh do năng lực quản lý tài chính và những lợi
ích cá nhân chi phối. Ban Kinh tế - ngân sách là cơ quan chức năng thực hiện
giám sát tài chính - ngân sách ở địa phương cần lựa chọn các nội dung cấp
thiết, liên quan đến hiệu quả hoạt động kinh tế - xã hội trên địa bàn để tiến
hành giám sát.
45
Thứ ba, bảo đảm cung cấp thông tin đầy đủ và chính xác
Việc giám sát trong lĩnh vực kinh tế sẽ không có hiệu quả nếu không
dựa trên các thông tin kinh tế - tài chính đầy đủ và chính xác. Vì vậy, HĐND,
các Ban của HĐND tỉnh cũng như từng đại biểu khi tiến hành giám sát một
nội dung nào đó cần chuẩn bị và yêu cầu đối tượng bị giám sát cung cấp
thông tin đầy đủ và chính xác về nội dung được giám sát. Việc nghiên cứu,
phân tích các thông tin sẽ giúp đưa ra các nhận xét đúng đắn về các vấn đề
giám sát. Qua nghiên cứu, phân tích các thông tin và hiện tượng, cần nêu lên
những câu hỏi nghi vấn và yêu cầu đối tượng giám sát phải giải trình là rõ các
vấn đề, để từ đó rút ra các kết luận cần thiết.
Thứ tư, giành thời gian thỏa đáng cho công tác giám sát
Giám sát đòi hỏi không chỉ đọc các báo cáo liên quan đến nội dung
giám sát, mà cần tra cứu các văn bản, tài liệu cần thiết để có thể hiểu và phân
tích báo cáo đó, trong nhiều trường hợp, còn cần thời gian để tổ chức đoàn
giám sát đến tận cơ sở để khảo sát thực tiễn trước khi đưa ra kết luận. Việc
xem xét vấn đề không kỹ lưỡng, không giành đủ thời gian để nghiên cứu và
phân tích sẽ dẫn đến những kết luận không chính xác, ảnh hưởng không nhỏ
đến việc giám sát. Vì vậy, cần giành thời gian thỏa đáng cho giám sát trong
lĩnh vực kinh tế để bảo đảm đưa ra các kết luận chính xác, có căn cứ và có tác
dụng trong thực tiễn.
Thứ năm, sử dụng ý kiến của các chuyên gia
Lĩnh vực kinh tế là một lĩnh vực đòi hỏi kiến thức chuyên môn khá sâu
để nắm bắt, hiểu vấn đề và đưa ra các kiến nghị đúng đắn, phù hợp. Trên thực
tế, nhiều đại biểu HĐND tỉnh không thể có các kiến thức chuyên sâu về kinh
tế. Vì vậy, khó có thể nhận xét và đưa ra ý kiến có chất lượng về những nội
dung này. Việc mời các chuyên gia tư vấn và phân tích trong lĩnh vực kinh tế
là hết sức cần thiết đối với những vấn đề chuyên môn sâu, giúp cho HĐND
46
tỉnh cũng như các đại biểu HĐND tỉnh hiểu được bản chất vấn đề.
Ngoài ra, phải quan tâm, chú ý các yếu tố sau:
- Về tổ chức bộ máy, hoạt động của Thường trực và các Ban HĐND
tỉnh. Để thực hiện tốt chức năng của mình, đặc biệt là chức năng giám sát, đòi
hỏi HĐND tỉnh phải có một bộ máy hoạt động khoa học, linh hoạt, năng động
và hiệu quả. Bởi thực tế cho thấy bất kỳ một cơ quan nào, nếu có tổ chức hợp
lý và đồng bộ sẽ tạo nên guồng máy làm việc nhịp nhàng và dễ mang lại hiệu
quả.
- Năng lực, bản lĩnh và trách nhiệm thực hiện chức năng giám sát của
đại biểu HĐND tỉnh: Đại biểu HĐND tỉnh là nguồn gốc của mọi vấn đề liên
quan đến chất lượng và hiệu quả giám sát của cơ quan quyền lực Nhà nước ở
địa phương. Trong tổ chức yếu tố con người mới là những thực thể tạo ra các
hoạt động có mục đích. Do vậy, bên cạnh đảm bảo về mặt số lượng, trình độ
am hiểu pháp luật, người đại biểu cần phải có năng lực, bản lĩnh và trách
nhiệm khi tiến hành các hoạt động giám sát, người đại biểu phải có đủ tâm, đủ
tài, đủ tầm. Ngoài việc công nhận cái đúng, còn phải chỉ rõ và đề ra các kiến
nghị, các biện pháp hữu hiệu để loại bỏ các tiêu cực, trái pháp luật, phát hiện
cái sai của các ngành chức năng. Như vậy, người đại biểu nhân dân phải có
trình độ, bản lĩnh vững vàng, có cái nhìn sáng suốt và phương pháp làm việc
khoa học, hợp lý, có bản lĩnh không né tránh, nể nang, ngại va chạm, phải vì
lợi ích của nhà nước và nhân dân. Muốn vậy, các đại biểu dân cử phải luôn ý
thức được đây là một trong những điều kiện chủ quan mà bất cứ một người
đại biểu nào cũng phải tự trau dồi, nâng cao kiến thức, nghiệp vụ.
- Chương trình, kế hoạch và hình thức giám sát: Hiệu quả công việc phụ
thuộc rất nhiều vào công tác chuẩn bị. Trong quá trình giám sát, xây dựng kế
hoạch và lựa chọn hình thức giám sát phù hợp là điều kiện để đảm bảo thế
chủ động cho HĐND khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình. Hơn thế,
47
giám sát là công việc khó khăn và phức tạp gồm nhiều khâu, nhiều công đoạn,
đồng thời đòi hỏi sự tinh tế và nhạy bén. Nếu không có kế hoạch nghiên cứu
trước thì rất dễ rơi vào hình thức. Mặt khác, phạm vi giám sát của HĐND rất
rộng, nên xây dựng chương trình, kế hoạch, lựa chọn hình thức giám sát phù
hợp là việc làm hết sức cần thiết. Chương trình giám sát cần phải có trọng
tâm, trọng điểm, nội dung giám sát cần phải tập trung vào những vấn đề thiết
thực, bức xúc và đang được đông đảo cử tri quan tâm.
- Điều kiện vật chất, chi phí giám sát: Muốn nâng cao hiệu quả giám sát
của HĐND cũng cần phải đầu tư chi phí hợp lý và điều kiện vật chất cho hoạt
động giám sát như kinh phí, phương tiện và con người. Phải đầu tư chi phí
cho hoạt động giám sát, nếu có đầu tư thỏa đáng sẽ góp phần tích cực nâng
48
cao hiệu quả giám sát của HĐND.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1
Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại
diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của Nhân dân, do Nhân dân
địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước Nhân dân địa phương và cơ quan
nhà nước cấp trên.
Hội đồng nhân dân quyết định các vấn đề của địa phương do luật định;
giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật ở địa phương và việc thực
hiện Nghị quyết của Hội đồng nhân dân.
Hội đồng nhân dân có hai chức năng cơ bản đó là, chức năng quyết định
những vấn đề quan trọng của địa phương và chức năng giám sát việc thực
hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và Nghị
quyết của HĐND thì chức năng giám sát có vị trí, vai trò hết sức quan trọng.
Chức năng giám sát của HĐND vừa biểu hiện quyền làm chủ của nhân
dân địa phương, vừa là một trong các hình thức để kiểm soát quyền lực nhà
nước ở địa phương.
Giám sát của HĐND cấp tỉnh trong lĩnh vực kinh tế là việc theo dõi,
kiểm tra việc tuân thủ pháp luật, các quy định hiện hành về lĩnh vực kinh tế,
tài chính và ngân sách. Từ đó, đưa ra các kiến nghị nhằm chấn chỉnh các hoạt
động quản lý và hoàn thiện các cơ chế chính sách, phương thức quản lý và
điều hành một cách phù hợp và hiệu quả.
Một trong các vấn đề về giám sát về lĩnh vực kinh tế là: Giám sát về Tài
chính - ngân sách địa phương; quyết định ngân sách, quyết định phân bổ dự
toán ngân sách cấp mình, quyết định phê chuẩn quyết toán ngân sách địa
phương; các chủ trương, biện pháp để triển khai thực hiện ngân sách địa
phương; điều chỉnh dự toán ngân sách địa phương trong trường hợp cần thiết;
danh mục các chương trình, dự án thuộc kế hoạch đầu tư trug hạn nguồn ngân
sách nhà nước của ngân sách cấp mình; quyết định chương trình dự án đầu tư
49
quan trọng của địa phương được đầu tư từ nguồn vốn ngân sách nhà nước.
Ngoài ra, HĐND cấp tỉnh còn có thêm các nhiệm vụ: quyết định kế
hoạch tài chính 05 năm; quyết định việc phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi
cho từng cấp ngân sách ở địa phương theo quy định; quyết định tỷ lệ phần
trăm (%) phân chia giữa ngân sách các cấp chính quyền địa phương đối với
phần ngân sách địa phương được hưởng từ các khoản thu phân chia theo tỷ lệ
phần trăm (%) giữa ngân sách trung ương và ngân sách địa phương; quyết
định thu phí, lệ phí và các khoản đóng góp của nhân dân theo quy định của
pháp luật; quyết định nguyên tắc, tiêu chí và định mức phân bổ ngân sách địa
phương; quyết định cụ thể đối với một số chế độ, tiêu chuẩn, định mức chi
ngân sách theo nội dung khung của Chính phủ; Quyết định các chế độ chi
ngân sách đối với một số nhiệm vụ chi có tính chất đặc thù ở địa phương
ngoài các chế độ, tiêu chuẩn, định mức chi ngân sách do Chính phủ, Bộ
trưởng Bộ Tài chính ban hành để thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã
hội, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn, phù hợp với khả năng cân đối
của ngân sách địa phương.
Hiệu quả giám sát của HĐND cấp tỉnh trong lĩnh vực kinh tế được thể
hiện qua nhiều tiêu chí đánh giá như: sự thay đổi của tình hình kinh tế xã hội
sau khi có giám sát; mức độ đạt được mục đích yêu cầu giám sát; các kết quả
đạt được do tác động của hoạt động giám sát; chi phí bỏ ra cho hoạt động
giám sát.
Các yếu tố bảo đảm hiệu quả giám sát của HĐND cấp tỉnh trong lĩnh vực
kinh tế gồm: các quy định của pháp luật về hoạt động giám sát của HĐND;
xác định đúng vấn đề cần giám sát; bảo đảm cung cấp thông tin đầy đủ và
chính xác; giành thời gian thỏa đáng cho công tác giám sát; sử dụng ý kiến
của các chuyên gia; tổ chức bộ máy; năng lực đại biểu HĐND; mức độ hoàn
thiện của kế hoạch, chương trình giám sát cũng như các điều kiện vật chất
50
phục vụ cho hoạt động giám sát.
Chương 2
THỰC TRẠNG GIÁM CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN TỈNH PHÚ YÊN
TRONG LĨNH VỰC KINH TẾ
2.1. Điều kiện tự nhiên và tình hình kinh tế xã hội tỉnh Phú Yên tác
động đến giám sát của HĐND tỉnh trong lĩnh vực kinh tế
2.1.1 Điều kiện tự nhiên
Phú Yên là một tỉnh vùng duyên hải Nam Trung Bộ, diện tích tự nhiên
toàn tỉnh là 5.060 km2, phía Bắc giáp tỉnh Bình Định, Phía Nam giáp tỉnh
Khánh Hòa, phía Tây giáp Gia Lai, Đắc Lắc, phía Đông giáp biển đông với
bờ biển dài 189 km, diện tích tự nhiên 5.060km2.
Phú Yên có 09 đơn vị hành chính gồm 07 huyện: Đông Hòa, Phú Hòa,
Tây Hòa, Sông Hinh, Sơn Hòa, Tuy An, Đồng Xuân và 01 thị xã: Sông Cầu,
01 Thành phố: Thành phố Tuy Hòa. Thành phố Tuy Hòa là tỉnh lỵ, trung tâm
kinh tế, chính trị, văn hóa, khoa học kỹ thuật của Tỉnh.
Dân số trung bình củ tỉnh Phú Yên là 868.514 người, mật độ dân số 172
người/km2. Tổng số lao động làm việc trong nền kinh tế quốc dân toàn tỉnh
Phú Yên đến năm 2010 là 486.690 người, tỷ lệ lao động trong khu vực nông,
lâm, ngư nghiệp là 315.862 người chiếm 64,9%, khu vực công nghiệp, xây
dựng là 65.216 người chiếm 113,4 %, khu vực dịch vụ là 94.539 người chiếm
21,7% tổng số lao động làm việc trong các ngành kinh tế quốc dân.
Địa hình khá đa dạng: Đồng bằng, đồi núi, cao nguyên, thung lũng xen
kẽ nhau, hướng dốc địa hình từ Tây sang Đông, có 2 vùng đồng bằng lớn do
sông ba và sông kỳ lộ bồi đắp với diện tích 816 km2. Trong đó, riêng đồng
bằng Tuy Hòa đã chiếm 500 km2 và đây là đồng bằng màu mỡ nhất.
Cơ sở hạ tầng: Phú Yên có quốc lộ 1A và đường sắt Bắc - Nam chạy
51
qua, quốc lộ 25 nối với tỉnh Gia Lai, ĐT 645 nối với tỉnh Đắc Lắc, phía Nam
của tỉnh có cảng Vũng Rô, sân bay Tuy Hòa, các tuyến giao thông Bắc Nam,
Đông Tây, cảng biển sân bay có tác động lớn đến quá trình phát triển kinh tế -
xã hội, tạo điều kiện cho hợp tác trao đổi kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật
giữa Phú Yên với các tỉnh, thành trong vùng cả nước và quốc tế. Mặc khác,
Phú Yên nằm trong vùng ảnh hưởng của vùng kinh tế trọng điểm Miền Trung.
2.1.2 Tình hình kinh tế xã hội
Trong những năm qua tỉnh Phú Yên thực hiện nhiệm vụ trong bối cảnh
đan xen giữa những thuận lợi và khó khăn, thách thức. Các chính sách kiềm
chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an sinh xã hội, xây dựng nông
thôn mới... Tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh tiếp tục được phục hồi,
an sinh xã hội được đảm bảo; một số dự án có vốn đầu tư lớn trên địa bàn đã
và đang triển khai thực hiện. Bên cạnh đó, Tỉnh có những khó khăn nhất định
như: thời tiết diễn biến phức tạp, nắng nóng kéo dài, tình hình dịch bệnh trên
cây trồng, vật nuôi gây bất lợi cho sản xuất, đời sống nhân dân. Các dự án lớn
trên địa bàn triển khai giải phóng mặt bằng cùng một lúc chiếm một lượng
khá lớn về thời gian và nhân lực để tổ chức thực hiện. Tuy nhiên, nhờ tập
trung triển khai quyết liệt, kịp thời nên tình hình kinh tế - xã hội trên địa bàn
tỉnh cơ bản ổn định và có mặt phát triển. Năm 2015, có 12/15 chỉ tiêu đạt và
vượt kế hoạch nghị quyết HĐND tỉnh đề ra như: Tổng vốn đầu tư phát triển
toàn xã hội: 19.800 tỷ đồng đạt 100% kế hoạch, tăng 47% so với cùng kỳ; thu
ngân sách trên địa bàn: 2.732,7 tỷ đồng đạt 104% dự toán của tỉnh, tăng
28,8% so với cùng kỳ. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng; tỷ trọng công
nghiệp - xây dựng chiếm 36,1% (năm 2014 là 35,8%); nông - lâm - thủy sản
chiếm 21,9% (năm 2014 là 23%) và dịch vụ chiếm 42% (năm 2014 là 41,3).
Thu nhập bình quân đầu người là 32,8 triệu đồng, tăng 10,1% so với năm
52
trước.
2.2 Cơ cấu, chất lượng đại biểu Hội đồng nhân dân tỉnh Phú Yên
nhiệm kỳ 2011-2016, nhiệm kỳ 2016-2021 và tổ chức bộ máy của cơ quan
tham mưu, giúp việc
Hoạt động của HĐND không thể không đề cập đến cơ cấu, tổ chức bộ
máy và các điều kiện đảm bảo. Bởi lẽ các yếu tố này ảnh hưởng trực tiếp, sâu
sắc đến chất lượng, hiệu quả hoạt động của HĐND.
2.2.1 Cơ cấu, chất lượng và tổ chức bộ máy HĐND tỉnh nhiệm kỳ
2011-2016
Hội đồng nhân dân tỉnh Phú yên, khóa VI nhiệm kỳ 2011-2016, được
cử tri bầu ngày 22/5/2011, gồm có 50 đại biểu, trong đó số đại biểu được bầu
mới là 33, đại biểu tái cử là 17. Đại biểu dân tộc thiểu số 04 (chiếm 8%), đại
biểu nữ 15 (chiếm 30%); có 49 đại biểu là đảng viên, 01 đại biểu ngoài đảng
(chiếm 02%); có 08 đại biểu trẻ dưới 35 tuổi (chiếm 16%), có trình độ đại
học, sau đại học 48 đại biểu (chiếm 96%). Trình độ lý luận chính trị: Sơ cấp
02 đại biểu (chiếm tỷ lệ 04%), trung cấp 05/50 đại biểu (chiếm tỷ lệ 10%),
cao cấp, cử nhân 42 đại biểu (chiếm tỷ lệ 84%).
Tại kỳ họp thứ nhất HĐND tỉnh đã bầu ra Thường trực HĐND tỉnh gồm
03 đồng chí: Chủ tịch, Phó Chủ tịch và Ủy viên Thường trực HĐND. Trong
đó, Chủ tịch HĐND tỉnh là Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy hoạt động kiêm
nhiệm, Phó chủ tịch và Ủy viên Thường trực hoạt động chuyên trách. Các
Ban của HĐND tỉnh gồm: Ban Kinh tế - ngân sách, Ban Pháp chế và Ban
Văn hóa xã hội, mỗi Ban đều có 07 thành viên, trong đó có 01 Trưởng ban và
01 Phó Trưởng ban chuyên trách và các thành viên khác hoạt động kiêm
nhiệm.
HĐND tỉnh Nhiệm kỳ 2011- 2016, đã tổ chức thành công 15 kỳ họp,
ban hành 166 Nghị quyết, trong đó có các Nghị quyết về các cơ chế chính
53
sách phát triển kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng và an sinh xã hội, đã cụ
thể hóa các chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, Nghị
quyết của HĐND tỉnh được UBND tỉnh chỉ đạo tổ chức thực hiện có hiệu
quả trên địa bàn tỉnh. Hoạt động giám sát ngày càng có hiệu quả, đảm bảo
theo đúng quy định của pháp luật, khẳng định được vị trí và vai trò của cơ
quan dân cử, thông qua đó niềm tin của nhân dân đối với cơ quan quyền
lực nhà nước ở địa phương ngày càng được củng cố. Kết quả hoạt động của
HĐND tỉnh trong nhiệm kỳ 2011-2016 đã góp phần quan trọng vào sự
nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững an ninh - quốc phòng của địa
phương, cơ bản đáp ứng được nguyện vọng của cử tri và nhân dân các dân
tộc trong toàn tỉnh.
2.2.2 Cơ cấu, chất lượng và tổ chức bộ máy Hội đồng nhân dân tỉnh
nhiệm kỳ 2016-2021
Hội đồng nhân dân tỉnh Phú Yên khóa VII được bầu ra trong cuộc bầu
cử HĐND 3 cấp vào tháng 5 năm 2016. Tổng số 50 đại biểu, trong đó: đại
biểu nữ 14 ( chiếm tỷ lệ 28%, đại biểu tái cử 21( chiếm tỷ lệ 42%), đại biểu là
người dân tộc thiểu số 04 ( chiếm tỷ lệ 8%), đại biểu dưới 35 tuổi 10 (chiếm
tỷ lệ 20 %), đại biểu là người ngoài đảng 01 (chiếm tỷ lệ 2%). Trình độ học
vấn: trên đại học 17 (chiếm tỷ lệ 34%), đại học 33 (chiếm tỷ lệ 66%). Trình
độ lý luận chính trị: cử nhân, cao cấp 47 (chiếm tỷ lệ 94%). Như vậy, chất
lượng đại biểu được tăng cường hơn trước.
Tại kỳ họp thứ nhất HĐND tỉnh đã bầu ra Thường trực HĐND tỉnh
gồm 03 đồng chí: Chủ tịch, 02 Phó Chủ tịch . Trong đó, Chủ tịch HĐND tỉnh
là Bí thư Thường trực Tỉnh ủy hoạt động kiêm nhiệm, 01 Phó chủ tịch là Ủy
viên Ban Thường vụ tỉnh ủy, 01 Phó Chủ tịch là Tỉnh ủy viên hoạt động
chuyên trách. Các Ban của HĐND tỉnh gồm: Ban Kinh tế - ngân sách, Ban
Pháp chế, Ban Văn hóa xã hội và Ban Dân tộc, mỗi Ban đều có 07 thành
54
viên, trong đó có 01 Trưởng ban và 01 Phó Trưởng ban chuyên trách và các
thành viên khác hoạt động kiêm nhiệm. Có 15 tổ đại biểu HĐND tỉnh,
mỗi tổ có từ 3 đến 5 đại biểu, đều có tổ trưởng và tổ phó.
Cơ cấu tổ chức Thường trực HĐND có sự đổi mới, Chủ tịch HĐND
tỉnh là Bí thư Thường trực Tỉnh ủy, 02 Phó Chủ tịch hoạt động chuyên trách,
việc bố trí cán bộ chủ chốt của Đảng giữ các chức vụ lãnh đạo HĐND cũng
đã được tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng đối với hoạt động của
HĐND, nâng cao được vai trò, vị thế, quan hệ công tác và khả năng hoàn
thành nhiệm vụ của HĐND cấp tỉnh.
Cơ cấu, tổ chức các Ban của HĐND tỉnh được kiện toàn một bước, so
với nhiệm kỳ 2011-2016, nhiệm kỳ này Trưởng các Ban của HĐND tỉnh là ủy
viên Thường trực HĐND tỉnh, mỗi Ban đều có 07 thành viên, trong đó
Trưởng Ban và Phó Trưởng Ban đều hoạt động chuyên trách. Các thành viên
của các Ban nói chung có năng lực, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, phù hợp
với lĩnh vực hoạt động, phần nào đáp ứng được yêu cầu đòi hỏi, nâng cao
hiệu quả hoạt động thẩm tra, giám sát của Ban.
Từ đầu nhiệm kỳ đến nay, HĐND cấp tỉnh đã ban hành 40 Nghị quyết,
để quyết định những chủ trương, giải pháp trên tất cả các lĩnh vực như: Nghị
quyết về thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, an ninh - quốc phòng
và Nghị quyết về dự toán phân bổ thu - chi ngân sách Nhà nước hàng năm…
đã được UBND cấp tỉnh cụ thể hóa bằng các quyết định, chương trình hành
động cụ thể như: tổ chức hội nghị giao chỉ tiêu kế hoạch và phân bổ ngân sách
nhà nước đến các sở, ban, ngành, đoàn thể, huyện, thành phố thực hiện…
HĐND cấp tỉnh, nhiệm kỳ 2016 -2021 đã một năm, kế thừa và phát huy
những thành tựu đạt được của nhiệm kỳ 2011-2016, với quyết tâm tiếp tục
“đổi mới và đổi mới có hiệu quả”. HĐND ngày càng khẳng định được vai trò,
vị thế là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, là cơ quan đại biểu, đại
55
diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân các dân tộc trong
tỉnh, thực hiện tốt các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà
nước, giám sát việc thực thi pháp luật và Nghị quyết của HĐND; góp phần
quan trọng thúc đẩy sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng - an
ninh, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân trên địa bàn tỉnh
Phú Yên.
2.2.3 Cơ quan tham mưu, giúp việc cho HĐND tỉnh
Cơ quan tham mưu, giúp việc cho HĐND tỉnh nhiệm kỳ 2011-2016 là
Văn phòng Đoàn ĐBQH và HĐND tỉnh được thành lập theo Nghị quyết
545/2007/NQ-UBTVQH12 ngày 11/12/2007 của Ủy ban Thường vụ Quốc
hội. Vị trí, chức năng của Văn phòng Đoàn đại biểu Quốc hội và Hội đồng
nhân dân là cơ quan giúp việc của Đoàn đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân
dân tỉnh, có nhiệm vụ tham mưu và tổ chức phục vụ hoạt động của Đoàn đại
biểu Quốc hội, Trưởng Đoàn, Phó Trưởng Đoàn đại biểu Quốc hội, đại biểu
Quốc hội, Hội đồng nhân dân, Thường trực Hội đồng nhân dân, Ban của Hội
đồng nhân dân và đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh. Văn phòng có Chánh
Văn phòng, các Phó Văn phòng và các Phòng chuyên môn, Trung tâm trực
thuộc tham mưu giúp việc cho Văn phòng Đoàn ĐBQH và HĐND tỉnh.
Hình 2.1. Sơ đồ tổ chức bộ máy của Văn phòng Đoàn ĐBQH và
CHÁNH VĂN PHÒNG
PHÓ CHÁNH VĂN PHÒNG
PHÓ CHÁNH VĂN PHÒNG
PHÓ CHÁNH VĂN PHÒNG
HĐND tỉnh Phú Yên
Phòng CT Đại biểu QH
Phòng Thông tin tổng hợp
Phòng HCTCQT
Phòng CT HĐND
Nguồn: Văn phòng Đoàn ĐBQH và HĐND tỉnh Phú Yên
56
Cơ quan tham mưu, giúp việc cho HĐND tỉnh nhiệm kỳ 2016 - 2021 là
Văn phòng HĐND tỉnh được thành lập theo Nghị định số 48/NĐ-CP, ngày
27/5/2016 của Chính Phủ quy định cụ thể về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn,
cơ cấu tổ chức và biên chế của Văn phòng HĐND tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương
CHÁNH VĂN PHÒNG
PHÓ CHÁNH VĂN PHÒNG
PHÓ CHÁNH VĂN PHÒNG
PHÒNG HC-TC-QT
PHÒNG TỔNG HỢP
Hình 2.2. Sơ đồ tổ chức bộ máy của Văn phòng HĐND tỉnh Phú Yên
Nguồn: Văn phòng HĐND tỉnh Phú Yên
* Nhận xét chung.
Kết quả bầu cử 2 nhiệm kỳ 2011 - 2016 và 2016 - 2021 cho thấy chất
lượng của đại biểu HĐND tỉnh ngày càng được nâng cao, số lượng các đại
biểu chuyên trách được tăng cường. Cơ cấu, chất lượng đại biểu HĐND ngày
càng có những chuyển biến tích cực. Trình độ văn hoá, chuyên môn nghiệp vụ,
trình độ lý luận chính trị ngày càng được nâng cao, độ tuổi dần được trẻ hoá.
Đáng chú ý là cả 2 nhiệm kỳ Thường trực HĐND, Trưởng, Phó các Ban
HĐND đều hoạt động chuyên trách, đây là một trong những điểm mới quan
trọng góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động nói chung của HĐND tỉnh Phú
Yên. Bộ phận Văn phòng giúp việc được tách biệt độc lập, phục vụ chuyên
sâu cho công tác của HĐND. Tuy vậy, số lượng các đại biểu hoạt động chuyên
57
trách còn chưa thực sự đủ về số lượng. Do đặc thù hoạt động của HĐND theo
nhiệm kỳ và phần lớn các đại biểu hoạt động kiêm nhiệm nên có sự không ổn định
về tổ chức, kể cả với các đại biểu chuyên trách và đại biểu kiêm nhiệm. Đây là
một trong những khó khăn lớn cho công tác giám sát cũng như hoạt động nói
chung của HĐND tỉnh.
2.3. Thực trạng kết quả giám sát của Hội đồng nhân dân tỉnh Phú
Yên trong lĩnh vực kinh tế nhiệm kỳ 2011-2016 và năm đầu nhiệm kỳ
2016-2021
2.3.1 Kết quả giám sát của Hội đồng nhân dân tỉnh Phú Yên tại các kỳ
họp
Kỳ họp là một hình thức hoạt động chủ yếu của HĐND các cấp. Đặc
điểm lớn nhất trong hoạt động giám sát tại kỳ họp là có sự tham gia của tất cả
các đại biểu HĐND tỉnh, đồng thời là môi trường để phát huy tính dân chủ và
trí tuệ tập thể. Do xác định đúng tầm quan trọng của kỳ họp, trong những năm
qua hoạt động giám sát của HĐND tỉnh Phú Yên tại các kỳ họp đã có bước
chuyển biến tích cực, thông qua việc thảo luận, thẩm tra, chất vấn ngày càng
được HĐND tỉnh coi trọng, xác định, lựa chọn vấn đề thiết thực, trọng tâm
trong các lĩnh vực phát triển kinh tế và thu, chi ngân sách nhà nước.
- Về xem xét báo cáo, tờ trình của cơ quan nhà nước: (Thông qua thảo luận
của đại biểu và hoạt động thẩm tra của Ban Kinh tế - Ngân sách HĐND tỉnh)
Trước và trong các kỳ họp thường lệ và kỳ họp chuyên đề, các đại biểu
của nhiệm kỳ 2011- 2016
HĐND tỉnh đã chủ động nghiên cứu các báo cáo, tờ trình, dự thảo Nghị quyết
do UBND tỉnh trình về các báo cáo: Báo cáo về tình hình thực hiện kế hoạch
kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh và nhiệm vụ kế hoạch của năm; báo cáo
về tình hình thực hiện các Chương trình mục tiêu quốc gia; báo cáo tình hình
thực hiện đầu tư xây dựng cơ bản; báo cáo về phê chuẩn quyết toán ngân sách
58
địa phương, báo cáo quyết toán thu, chi ngân sách địa phương, báo cáo thực
hiện dự toán ngân sách địa phương và sử dụng dự phòng ngân sách tỉnh năm
hiện tại và giải pháp thực hiện nhiệm vụ năm sau; các tờ trình: về phương án
phân bổ và dự toán ngân sách địa phương, tờ trình bổ sung dự toán ngân sách
địa phương, về phương án phân bổ vốn đầu tư phát triển nguồn ngân sách nhà
nước,… để thảo luận tại kỳ họp và thông qua báo cáo thẩm tra của Ban Kinh
tế - ngân sách làm cơ sở cho các đại biểu HĐND tỉnh xem xét cáo báo cáo, tờ
trình của UBND từ nhiều phía, để có quyết đáp đảm bảo đúng quy định và
phù hợp với tình hình thực tế của địa phương.
Cụ thể như : Về dự toán thu, chi và phương án phân bổ vốn ngân sách
nhà nước trên địa bàn tỉnh Phú Yên năm 2015:
Tại kỳ họp thứ 14 HĐND tỉnh Phú Yên, khóa VI, nhiệm kỳ 2011-2016,
UBND tỉnh Phú Yên đã trình HĐND tỉnh:
+ Tổng thu NSNN 2.842.700 triệu đồng
Thu cân đối ngân sách nhà nước: 2.282.700 triệu đồng
(gồm: Thu nội địa: 2.219.700 triệu đồng, thu thuế xuất
nhập khẩu: 63.000 triệu đồng)
Các khoản thu để lại chi quản lý qua NSNN: 560.000 triệu
đồng
+ Tổng chi ngân sách địa phương: 6.044.600 triệu đồng
Chi trong cân đối ngân sách 5.814.600 triệu đồng (chi đầu
tư phát triển 1.445.500 triệu đồng; chi thường xuyên
4.368.100 triệu đồng; bổ sung quỹ dự trữ tài chính 1.000
triệu đồng).
Chi từ các khoản thu quản lý qua NSNN 230.000 triệu
đồng (Chi từ nguồn thu các loại phí, lệ phí, đóng góp xây
dựng cơ sở hạ tầng; huy động đóng góp khác. Trong đó,
59
chi từ nguồn thu xổ số kiến thiết 103.000 triệu đồng).
Qua xem xét tờ trình của UBND tỉnh, Ban Kinh tế Ngân sách HĐND
tỉnh thẩm tra, các đại biểu thảo luận, phân tích: Dự toán thu NSNN trên địa
bàn năm 2015 đạt 116,7% dự toán trung ương giao và đạt 104,03% dự toán
theo Nghị quyết HĐND tỉnh giao với số thu vượt là 100 tỷ đồng, tăng
28,81% so với thực hiện năm 2014. Dự toán chi ngân sách địa phương
được xây dựng trên cơ sở mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, an
ninh quốc phòng năm 2015 và các chế độ chính sách, định mức chi hiện
hành, nằm trong khả năng cân đối của ngân sách địa phương. Phương án
phân bổ dự toán thu, chi ngân sách địa phương đã căn cứ quy định phân
cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi và tỷ lệ phần trăm phân chia các khoản thu
giữa các cấp ngân sách trên địa bàn.
* Về phê chuẩn quyết toán thu, chi ngân sách địa phương năm 2014
Tại kỳ họp thứ 14 HĐND tỉnh Phú Yên, khóa VI, nhiệm kỳ 2011-2016
UBND tỉnh Phú Yên đã báo cáo tại kỳ họp về quyết toán thu, chi ngân sách
địa phương năm 2014.
Theo báo cáo của UBND tỉnh Phú Yên:
+ Tổng quyết toán thu NSNN 6.058.678 triệu đồng
+ Tổng quyết toán chi NSNN 5.902.844 triệu đồng
Qua ý kiến thẩm tra của Ban Kinh tế Ngân sách HĐND tỉnh và các ý kiến
thảo luận của đại biểu HĐND tỉnh đã làm rõ: số liệu trong báo cáo của UBND
tỉnh rõ ràng, có tính chính xác cao, phản ánh đúng tình hình tài chính ngân sách
nhà nước, bám sát Nghị quyết của HĐND tỉnh về dự toán ngân sách, phân bổ
ngân sách và tuân thủ Luật ngân sách nhà nước. Kết quả thực hiện việc thu, chi
ngân sách các cấp trên địa bàn; đã đánh giá tương đối toàn diện về những thuận
lợi, khó khăn, những mặt đạt được và những tồn tại trong quá trình quản lý,
60
điều hành ngân sách.
Thông qua việc xem xét các báo cáo và tờ trình của UBND tỉnh và ý kiến
thẩm tra của Ban Kinh tế - ngân sách về lĩnh vực kinh tế, tài chính - ngân sách
đã làm căn cứ cho đại biểu xem xét quyết định và giúp cho HĐND tỉnh khóa
VI, nhiệm kỳ 2011-2016 ban hành tổng số 87 nghị quyết về lĩnh vực kinh tế ,
trong đó có các Nghị quyết: Về nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội của địa
phương, Nghị quyết về phê chuẩn quyết toán ngân sách Nhà nước, Nghị quyết
về dự toán và phân bổ ngân sách địa phương, Nghị quyết về định mức phân bổ
dự toán, Nghị quyết về phân cấp nguồn thu nhiệm vụ chi và tỷ lệ điều tiết các
khoản thu ngân sách nhà nước trên địa bàn, Nghị quyết về bổ sung dự toán
ngân sách địa phương, Nghị quyết về ban hành một số chính sách ưu đãi
khuyến khích đầu tư phát triển kinh tế - xã hội, Nghị quyết về phương án phân
bổ vốn đầu tư, Nghị quyết về định mức phân bổ chi đầu tư phát triển bằng
nguồn vốn ngân sách nhà nước, ...
- Về xem xét báo cáo, tờ trình của cơ quan nhà nước: (Thông qua thảo luận
của đại biểu và hoạt động thẩm tra của Ban Kinh tế - Ngân sách HĐND tỉnh)
Đầu nhiệm kỳ 2016-2021, HĐND tỉnh Phú Yên đã ban hành 40 Nghị
của nhiệm kỳ 2016- 2021
quyết, trong đó có các nghị quyết về lĩnh vực kinh tế như: Nghị quyết về
nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, an ninh - quốc phòng, Nghị quyết về phê
chuẩn quyết toán ngân sách địa phương, Nghị quyết về phê chuẩn bổ sung dự
toán ngân sách địa phương, Nghị quyết về phê chuẩn dự toán thu - chi và
phân bổ ngân sách địa phương, Nghị quyết về phê chuẩn phương án phân bổ
vốn đầu tư phát triển từ nguồn ngân sách nhà nước,... Các Nghị quyết của
HĐND tỉnh ban hành đảm bảo đúng quy định của pháp luật, có tính khả thi,
minh bạch, phù hợp với thực tiễn của địa phương, chất lượng văn bản được
nâng cao. Góp phần tích cực vào việc cụ thể hóa các chủ trương của cấp ủy
61
Đảng thành các cơ chế, chính sách, tạo cơ sở pháp lý cho phát triển kinh tế -
văn hóa - xã hội, quốc phòng - an ninh trên địa bàn tỉnh, thực hiện tốt chức
năng quản lý Nhà nước bằng pháp luật ở địa phương, đảm bảo sử dụng ngân
sách nhà nước có hiệu quả, chống thất thu ngân sách nhà nước, đảm bảo tiết
kiệm, chống lãng phí.
- Về chất vấn và trả lời chất vấn
Qua nghiên cứu báo cáo tổng kết nhiệm kỳ 2011-2016 của HĐND tỉnh
Phú Yên và qua trực tiếp theo dõi các kỳ họp HĐND khóa VI nhiệm kỳ 2011-
2016 cho thấy: việc chất vấn và trả lời chất vấn của các đại biểu đã trở thành
hình thức giám sát quan trọng và thường xuyên trong các kỳ họp của HĐND.
Nhiệm kỳ khóa VI đã có 37 lượt đại biểu HĐND tỉnh chất vấn UBND tỉnh và
Thủ trưởng các ngành chức năng của tỉnh, nội dung chất vấn đề cập đến nhiều
vấn đề cụ thể, quan trọng được cử tri và HĐND tỉnh quan tâm, tập trung chủ
yếu vào những lĩnh vực liên quan đến sản xuất, đời sống, sinh hoạt của nhân
dân và việc quản lý điều hành của các cơ quan quản lý nhà nước. Hoạt động
chất vấn và trả lời chất vấn đã thể hiện được tính dân chủ, tập trung, đi sâu
vào nội dung trọng tâm tạo điều kiện thuận lợi để thực hiện chức năng giám
sát hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước [báo cáo tổng kết nhiệm
kỳ 2011-2016, tr.5].
Nội dung các câu hỏi chất vấn phần nào phản ảnh được chất lượng hoạt
động của các đại biểu ngày càng được nâng lên. Các đại biểu HĐND tỉnh đã
có nhiều ý kiến chất vấn UBND và các ngành chức năng về các vấn đề nổi
cộm, bức xúc mà cử tri quan tâm, nội dung chất vấn có địa chỉ rõ ràng không
còn chung chung như trước, nội dung tập trung chủ yếu vào việc tồn tại trong
công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng của các dự án khi thu hồi đất của
nhân dân, trong quản lý điều hành thu - chi ngân sách và quản lý tài chính
ngân sách,… số lượng và chất lượng chất vấn của đại biểu HĐND tỉnh tại các
62
kỳ họp ngày càng nhiều và có chiều sâu. Đa số các nội dung chất vấn đều
được UBND tỉnh, thủ trưởng các ngành trả lời nghiêm túc bằng văn bản tại kỳ
họp, thể hiện tinh thần trách nhiệm trước nhân dân, đáp ứng yêu cầu của đại
biểu và cử tri, những vấn đề chưa rõ được các đại biểu truy vấn đến cùng và
được Chủ tọa kỳ họp kết luận cụ thể bằng văn bản. Điều đó phần nào thể hiện
được năng lực và bản lĩnh chính trị của người đại biểu trong việc thực hiện
chức năng đại diện của mình.
Chất vấn là một nội dung quan trọng trong các kỳ họp được coi là một
biện pháp hữu hiệu để thực hiện quyền giám sát của HĐND. Thông qua chất
vấn đại biểu HĐND thể hiện rõ năng lực và bản lĩnh chính trị của mình. Qua
thực tế cho thấy kỳ họp nào có nhiều ý kiến chất vấn của đại biểu và trả lời
chất vấn tốt thì không khí của kỳ họp dân chủ và thẳng thắn. Khi mối quan hệ
chất vấn và trả lời chất vấn được đặt đúng lúc, đúng chỗ để xem xét giải quyết
trên cơ sở khách quan, xuất phát từ lợi ích của dân thì có tác dụng trong việc
giải quyết những mâu thuẫn, tồn tại, vướng mắc góp phần quan trọng vào việc
thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Nhìn chung, hoạt động
chất vấn và trả lời chất vấn ngày càng thu hút được sự quan tâm của đại biểu
và cử tri; không khí tại các phiên chất vấn diễn ra sôi nổi, thẳng thắn, có tính
xây dựng cao, làm rõ được nguyên nhân, trách nhiệm và giải pháp khắc phục
những hạn chế, thiếu sót, khuyết điểm. Các đại biểu HĐND tỉnh với tinh thần
trách nhiệm cao, nêu câu hỏi ngắn gọn, rõ ràng về những vấn đề liên quan đến
trách nhiệm quản lý của mình. Thông qua hoạt động chất vấn và trả lời chất
vấn, vai trò của HĐND trong công tác giám sát hoạt động của các cơ quan
quản lý nhà nước tại địa phương được thể hiện rõ nét và ngày càng có tác
động nhất định đến tâm tư, tình cảm của nhân dân.
- Lấy phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do HĐND tỉnh bầu:
Việc lấy phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do HĐND bầu là
63
một công cụ giám sát đã được quy định tại khoản 5, Điều 58 Luật Tổ chức
HĐND và UBND năm 2003. Tuy nhiên, năm 2012 Quốc hội mới ban hành
Nghị quyết số 35/2012/QH13 ngày 21/11/2012 của Quốc hội, về việc lấy
phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội,
Hội đồng nhân dân bầu hoặc phê chuẩn và Nghị quyết số
561/2013/UBTVQH13 ngày 16/01/2013 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội
hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị quyết số 35 /2012/QH13 ngày
21/11/2012 của Quốc hội về việc lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm đối
với người giữ chức vụ do Quốc hội, Hội đồng nhân dân bầu hoặc phê chuẩn.
Vì vậy, tại kỳ họp thứ 11 HĐND tỉnh Phú Yên, khóa VI nhiệm kỳ
2011-2016 mới tiến hành lấy phiếu tín nhiệm cho những người giữ chức vụ
do HĐND bầu đó là: “Chủ tịch HĐND, Phó chủ tịch HĐND, Ủy viên Thường
trực HĐND, Trưởng các Ban HĐND tỉnh; Chủ tịch UBND, Phó Chủ tịch
UBND, các Ủy viên UBND tỉnh”. Đây là lần đầu tiên HĐND tỉnh tiến hành
lấy phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do HĐND tỉnh bầu. Công tác
lấy phiếu tín nhiệm được chuẩn bị và thực hiện chu đáo, thận trọng, nghiêm
túc, đảm bảo quy trình, thủ tục và nguyên tắc tập trung dân chủ. Toàn bộ quy
trình lấy phiếu tín nhiệm được thực hiện một cách dân chủ công khai, minh
bạch để công luận và cử tri toàn tỉnh theo dõi, giám sát. Đại biểu HĐND tỉnh
đã thể hiện tinh thần trách nhiệm, thảo luận dân chủ, dành thời gian và tập
trung nghiên cứu các tài liệu, nắm bắt tình hình để đánh giá công tâm, khách
quan với những người được lấy phiếu tín nhiệm.
Những người được lấy phiếu tín nhiệm tại kỳ họp HĐND tỉnh đều đạt tỷ
lệ trên 50% số phiếu “tín nhiệm cao” và “tín nhiệm”. Kết quả lấy phiếu đã
phản ánh đúng thực trạng hoạt động của bộ máy nhà nước ở địa phương, năng
lực thực tiễn, sự tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất đạo đức, lối sống, tác phong
công tác của người được lấy phiếu tín nhiệm. Thông qua việc lấy phiếu và kết
64
quả phiếu tín nhiệm, giúp cho người được lấy phiếu tín nhiệm thấy được mức
độ tín nhiệm của mình, có phương hướng khắc phục, sửa chữa những khuyết
điểm, hạn chế, tiếp tục rèn luyện, nâng cao năng lực, hiệu quả công tác, đồng
thời làm cơ sở để các cơ quan có thẩm quyền xem xét, đánh giá, đào tạo, bồi
dưỡng và bố trí cán bộ.
Tuy nhiên trong giai đoạn hiện nay, việc thăm dò tín nhiệm đối với
người giữ chức vụ do HĐND bầu là việc có tính nhạy cảm cao, bước đầu thực
hiện còn có nhiều ý kiến khác nhau.
Bên cạnh những ưu điểm nêu trên, hoạt động giám sát tại kỳ họp của
HĐND tỉnh Phú Yên vẫn còn một số tồn tại: thời gian dành cho các kỳ họp
ngắn (thường 3 ngày), việc chuẩn bị nội dung để thảo luận và quyết định tại
kỳ còn nhiều hạn chế. Nhiều báo cáo, tờ trình gửi đến còn chậm, không đủ
thời gian để đại biểu nghiên cứu trước, thời gian thảo luận chưa nhiều. Người
bị chất vấn khi trả lời còn chung chung, chưa đi thẳng vấn đề, chưa thấy rõ
trách nhiệm của mình, còn nặng về giải thích... Nhìn chung, hiệu quả chất vấn
còn thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu của cử tri. Điều này có thể xuất phát từ
nhiều nguyên nhân khác nhau nhưng chủ yếu do các đại biểu chưa thực sự đi sâu
vào công tác điều hành trong lĩnh vực kinh tế, tài chính - ngân sách của cơ quan nhà
nước, do còn tư tưởng nể nang, né tránh, ngại va chạm...
Tóm lại, để nâng cao hiệu quả giám sát của HĐND tỉnh trong lĩnh vực
kinh tế tại kỳ họp cần phải nghiên cứu đề ra những quan điểm, giải pháp phù
hợp. Trong đó, công tác chất vấn và trả lời chất vấn phải trở thành một hình
thức sinh hoạt thật sự dân chủ và thiết thực.
2.3.2 Hoạt động giám sát giữa các kỳ họp (giám sát thường xuyên và
giám sát chuyên đề của Thường trực HĐND và Ban Kinh tế - Ngân sách
HĐND tỉnh)
Thực hiện chương trình giám sát tỉnh Phú Yên khóa VI, nhiệm kỳ 2011-
65
2016. Thường trực HĐND, các Ban HĐND tỉnh đã chủ động xây dựng kế
hoạch giám sát và tổ chức hoàn thành kế hoạch theo chương trình đề ra.
HĐND tỉnh đã tiến hành tổ chức 31 cuộc giám sát. Nội dung giám sát tập
trung vào việc triển khai các chính sách, pháp luật của Nhà nước, Nghị quyết
của HĐND tỉnh, những vấn đề mang tính búc xúc trên các lĩnh vực đời sống
kinh tế - xã hội được cử tri quan tâm; tăng cường hoạt động khảo sát, thu thập
thông tin phục vụ hoạt động giám sát. Trong nhiệm kỳ 2011 - 2016, Ban Kinh
tế Ngân sách đã tổ chức 08 cuộc giám sát, 05 cuộc khảo sát thuộc lĩnh vực
kinh tế, tài chính - ngân sách.
- Giám sát của Thường trực HĐND tỉnh
Theo quy định của pháp luật, Thường trực HĐND tỉnh là một chủ thể
giám sát quan trọng. Chương trình giám sát hàng năm của Thường trực và các
Ban HĐND được trình tại kỳ họp HĐND để xem xét, quyết định. Trên cơ sở
đó, Thường trực HĐND, các Ban HĐND xây dựng chương trình giám sát 6
tháng, một năm trên các lĩnh vực. Trong những năm vừa qua, Thường trực
HĐND tỉnh Phú Yên đã chủ động điều hòa hoạt động giám sát của Thường
trực và các Ban phù hợp với thực tế. Tính từ năm 2011 đến nay, Thường trực
HĐND tỉnh đã tổ chức được 07 cuộc giám sát chuyên đề, 11 cuộc khảo sát về
lĩnh vực kinh tế : giám sát việc thực hiện các quy định của pháp luật về phí, lệ
phí và các khoản đóng góp của nhân dân; giám sát tình hình thực hiện các
công trình, dự án đầu tư xây dựng và công trình giải phóng mặt bằng, đền bủ,
giải tỏa, tái định cư trên địa bàn tỉnh, giám sát nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã
hội, quốc phòng - an ninh, dự toán ngân sách, v.v..
Các đoàn giám sát của Thường trực HĐND tỉnh đều ban hành kế hoạch,
xác định rõ mục đích, yêu cầu, nội dung, chương trình, thời gian cụ thể và có
đề cương hướng dẫn chi tiết các vấn đề cần giám sát nhằm đảm bảo mục tiêu
giám sát. Hầu hết các đợt giám sát của Thường trực HĐND tỉnh Phú Yên đều
66
được tổ chức thực hiện trên phạm vi toàn tỉnh lựa chọn những vùng trọng
điểm, vùng thuận lợi, vùng khó khăn để giám sát trực tiếp; những đơn vị, địa
phương không đến giám sát trực tiếp được thì tiến hành giám sát qua báo cáo
để có cơ sở so sánh, đánh giá một cách toàn diện, tổng thể. Khi tổ chức các
đoàn giám sát chuyên đề, ngoài đại biểu là thành phần theo quy định, Thường
trực HĐND tỉnh còn mời đại diện các ngành có các cơ quan có liên quan tham
gia. Kết thúc đợt giám sát Thường trực HĐND tỉnh có báo cáo đánh giá đúng
về thực trạng, đồng thời kịp thời phát hiện các vi phạm, nêu rõ nguyên nhân,
đề ra các giải pháp và trình kỳ họp HĐND tỉnh để xem xét, quyết định. Trên
cơ sở kết quả giám sát, Thường trực HĐND tỉnh ra thông báo kết luận giám
sát, yêu cầu các đơn vị chịu sự giám sát thực hiện nghiêm túc các kết luận, vì
vậy mà chất lượng, hiệu quả giám sát được nâng lên rõ rệt, được các cấp, các
ngành đồng tình, được cử tri và dư luận đánh giá cao.
Để thực hiện tốt chức năng giám sát, Thường trực HĐND tỉnh Phú Yên
đã chủ động điều hòa, phối hợp và trực tiếp tham gia hoạt động giám sát của
các Ban HĐND; dự các cuộc họp thẩm tra của các Ban HĐND tỉnh, định kỳ
hàng tháng tổ chức các cuộc họp giữa Thường trực với các Ban HĐND tỉnh
và cơ quan Văn phòng HĐND tỉnh để tổ chức tốt các hoạt động giám sát, kịp
thời đề nghị các Ban HĐND tỉnh thực hiện hoặc điều chỉnh các nội dung giám
sát cần thiết hoặc cử tri quan tâm, kiến nghị qua các đợt tiếp xúc cử tri; đóng
góp ý kiến về những lĩnh vực cần giám sát; phối hợp chặt chẽ với các Ban
trong thực hiện kế hoạch giám sát. Mặt khác, thông qua việc tổ chức các đoàn
giám sát, Thường trực HĐND tỉnh đã phát hiện ra nhiều bất cập về cơ chế, chính
sách; những tồn tại, yếu kém của các cấp, các ngành. Qua đó, làm cơ sở để
HĐND tỉnh ban hành Nghị quyết sát thực, phù hợp thực tiễn, có tính khả thi cao.
- Giám sát của Ban kinh tế & ngân sách HĐND tỉnh
Các Ban của HĐND tỉnh là những cơ quan tham mưu, giúp việc của HĐND
67
tỉnh. Trong hoạt động giám sát, các Ban HĐND có nhiệm vụ giúp HĐND giám
sát hoạt động của UBND tỉnh, các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh và hoạt
động của Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh; Giúp Hội ðồng nhân dân
giám sát cõ quan nhà nýớc, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân
dân và công dân trong việc thi hành Hiến pháp, luật, các văn bản quy phạm pháp
luật của cơ quan nhà nước cấp trên và Nghị quyết của HĐND tỉnh.
Đối với hoạt động giám của Ban Kinh tế - Ngân sách của HĐND tỉnh,
Ban đã chủ động xây dựng chương trình, kế hoạch giám sát đối với các lĩnh
vực phụ trách của mình. Trong nhiệm kỳ 2011- 2016, HĐND tỉnh khóa VI,
Ban Kinh tế & Ngân sách đã tổ chức được hơn 08 cuộc giám sát và 05 cuộc
Năm 2013, Ban Kinh tế & Ngân sách đã thực hiện giám sát chuyên đề
khảo sát thuộc các lĩnh vực kinh tế, tài chính - ngân sách.
về tình hình đầu tư mua sắm, quản lý và sử dụng tài sản công trên địa bàn
tỉnh. Qua giám sát cho thấy, sau khi Luật quản lý , sử dụng tài sản nhà nước
có hiệu lực, công tác đầu tư mua sắn, quản lý và sử dụng tài sản công của các
đơn vị, địa phương trên địa bàn tỉnh cơ bản thực hiện đúng tiêu chuẩn, định
mức và chế độ quy định; tài sản nhà nước được sử dụng đúng mục đích, hiệu
quả, tiết kiệm. Việc phân cấp thẩm quyền, trách nhiệm về quản lý, sử dụng tài
sản công theo Nghị quyết HĐND tỉnh đã tạo điều kiện thuận lợi, tính chủ
động trong việc đầu tư, mua sắm, quản lý và sử dụng tài sản công của các cơ
quan, tổ chức, đơn vị. Việc điều chuyển, bán thanh lý và chuyển đổi sở hữu
đúng quy định. Tuy nhiên, đoàn giám sát của Ban Kinh tế & Ngân sách nêu ra
nhưng tồn tại, hạn chế như: Các cơ quan, đơn vị chưa có quy chế riêng về
quản lý và sử dụng tài sản công, chưa thực hiện tốt công tác kiểm kê tài sản
cố định hàng năm, UBND tỉnh chưa ban hành quy định về định mức sử dụng,
điều kiện được bố trí xe ô tô phục vụ công tác, một số cơ quan vẫn chưa thực
hiện việc lập thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, vẫn còn đơn vị
68
còn để lãng phí , thất thoát, sử dụng chưa hiệu quả và không đúng mục đích
tài sản công. Quỹ đất 5% các xã quản lý chưa chặt chẽ, có hiện tượng bị lấn
chiếm, tranh chấp và cho thuê sai mục đích.
Năm 2014, Ban Kinh tế & Ngân sách đã thực hiện giám sát chuyên đề
về tình hình quản lý, sử dụng vốn ngân sách nhà nước và thực hiện các chế độ
chính sách đối với ngành giáo dục và đào tạo trên địa bàn tỉnh. Qua giám sát,
Ban Kinh tế & Ngân sách nêu ra những ý kiến, kiến nghị với Bộ Tài chính,
Bộ Giáo dục và đào tạo xem xét giải quyết việc bất cập giữa các văn bản của
các Bộ về định mức giáo viên: UBND tỉnh giao chỉ tiêu biên chế theo quy
định của Thông tư liên tịch số 35/2006/TTLT-BGDĐT - BNV và Thông tư số
71/2007/TTLT -BGDĐT - BNV. Hai Thông tư này quy định, định mức biên
chế là số giáo viên/lớp; Ngành giáo dục thực hiện bố trí giáo viên giảng dạy
theo Thông tư số 28/2009/TT- BGDĐT, Thông tư này quy định về định mức
biên chế là số giáo viên theo tiết học. Thực tế tại địa phương cho thấy, định
mức giáo viên/ lớp học thấp hơn định mức giáo viên/ tiết học nên gây khó
khăn cho ngành giáo dục trong thực hiện biên chế giáo viên
Tóm lại, qua các đợt giám sát chuyên đề của Thường trực HĐND tỉnh,
Ban Kinh tế & Ngân sách HĐND tỉnh đều chỉ ra được các hạn chế, tồn tại,
đưa ra các kiến nghị, đề nghị sau giám sát và đôn đốc, theo dõi việc tiếp thu,
giải quyết các kiến nghị đó của UBND tỉnh và các đối tượng giám sát. Nhìn
chung, UBND tỉnh đã tiếp thu và chỉ đạo các sở, ngành liên quan khắc phục,
điều chỉnh các tồn tại, hạn chế sau giám sát
2.4 Đánh giá hiệu quả giám sát của Hội đồng nhân dân tỉnh Phú Yên
trong lĩnh vực kinh tế, nhiệm kỳ 2011-2016 và từ 2016 cho đến nay
Hoạt động giám sát của HĐND tỉnh ngày càng có nhiều chuyển biến tích
cực, đúng luật, chất lượng hơn, tác động mạnh mẽ đến đời sống kinh tế - xã
hội của địa phương. Nhận thức về hoạt động giám sát của HĐND được nâng
69
lên từ chính chủ thể giám sát đến các cơ quan, đơn vị chịu sự giám sát và các
cơ quan khác trong hệ thống chính trị, được đông đảo cử tri và nhân dân quan
tâm.
Trên cơ sở thực trạng hoạt động của HĐND tỉnh Phú Yên từ 2011 đến
nay và căn cứ vào các tiêu chí đánh giá hiệu quả giám sát của HĐND tỉnh
trong lĩnh vực kinh tế đã nêu ở chương 1, hoạt động giám sát của HĐND tỉnh
Phú Yên trong thời gian qua đã đạt được hiệu quả như sau:
2.4.1 Tình hình kinh tế - xã hội sau khi có hoạt động giám sát so với
trước khi có hoạt động giám sát
Thực hiện Nghị quyết phát triển kinh tế - xã hội hàng năm và cả nhiệm
kỳ của HĐND và giám sát Nghị quyết đó tại Phú Yên cho thấy:
Trong những năm qua tình hình kinh tế - xã hội và an ninh trật tự trên địa
bàn tỉnh Phú Yên đã có những chuyển biến mạnh mẽ, đời sống nhân dân ngày
càng được cải thiện và nâng cao, tổng sản phẩm bình quân đầu người ước đạt
17,64 triệu đồng (giai đoạn 2011-2015), tăng 8,86% triệu đồng so với năm
2010.
Những thành tựu đó là kết quả hoạt động của nhiều cơ quan, tổ chức, đơn
vị nhưng không thể tách rời sự đóng góp quan trọng của HĐND tỉnh, nhất là
hoạt động giám sát và giám sát trong lĩnh vực kinh tế. Từ nhiệm kỳ 2011 -
2016 đến nay, hoạt động của HĐND tỉnh tiếp tục được đổi mới, ngày càng
khẳng định được vị thế quan trọng của mình, đã xem xét, quyết định được
nhiều chương trình quan trọng của địa phương như ban hành các Nghị quyết
như: Về nhiệm vụ kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh; Đề án chuyển dịch
cơ cấu kinh tế tỉnh Phú Yên đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030; Về quy
định mức hỗ trợ vốn trực tiếp từ ngân sách nhà nước để thực hiện các nội dung
chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2013-
70
2020 trên địa bàn tỉnh Phú Yên,... Với những quyết định đúng đắn của HĐND
tỉnh đã góp phần quan trọng thúc đẩy kinh tế - xã hội của địa phương không
ngừng phát triển.
2.4.2 Mức độ đạt được mục đích giám sát
Thông qua giám sát giúp cho Thường trực HĐND tỉnh, các Ban của
HĐND tỉnh đánh giá đúng tình hình triển khai thực hiện các Nghị quyết của
HĐND tỉnh của các cơ quan, đơn vị để có biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo và dần
đưa công tác giám sát của HĐND đi vào nề nếp đạt hiệu quả cao.
Trong hoạt động của HĐND tỉnh Phú Yên từ năm 2011 đến nay, Thường
trực HĐND và Ban Kinh tế & Ngân sách HĐND tỉnh Phú Yên đã tiến hành
giám sát nhiều chuyên đề thuộc lĩnh vực kinh tế. Trước khi tiến hành giám sát,
Thường trực HĐND, Ban Kinh tế & Ngân sách đưa ra đề cương giám sát, yêu
cầu các đối tượng được giám sát phải báo cáo theo đề cương đã được xây dựng,
trong đề cương thể hiện rõ được mục tiêu của giám sát (Mục tiêu về mặt nội
dung, về mặt pháp lý, về mặt kinh tế). Nội dung giám sát là những vấn đề bức
xúc, được dư luận quan tâm. Hoạt động giám sát này đã có kết quả cao, phản ánh
khá toàn diện, đầy đủ những thuận lợi, khó khăn, kết quả đạt được và tồn tại, hạn
chế. Đây là điều kiện đảm bảo cho việc quản lý và điều hành các cơ quan, đơn vị
Cũng qua giám sát, giúp cho HĐND quyết định đúng những vấn đề
đúng luật, bảo đảm thực quyền của cơ quan dân cử.
quan trọng của địa phương và giúp cho các đơn vị được giám sát nhận rõ các
ưu điểm, khuyết điểm trong việc lãnh đạo, chỉ đạo và thực hiện nhiệm vụ
giám sát; từ đó phát huy ưu điểm, khắc phục các khuyết điểm.
Sau mỗi cuộc giám sát, Thường trực HĐND tỉnh, Ban Kinh tế & Ngân
2.4.3 Các kết quả đạt được do tác động của hoạt động giám sát
sách đưa ra Thông báo kết quả giám sát, và qua xem xét các tờ trình đưa ra
báo cáo thẩm tra, trong báo cáo kết quả đều nêu rõ những ưu điểm, hạn chế
71
tồn tại, các sai phạm, yếu kém và đưa ra các kiến nghị, đề nghị các đối tượng
được giám sát và các đơn vị có tờ trình trình tại kỳ họp để thẩm tra và đã được
các cơ quan, tổ chức, cá nhân chấn chỉnh, khắc phục kịp thời.
Hoạt động giám sát trong lĩnh vực này đảm bảo công khai, minh bạch.
Sau giám sát, tình hình phát triển kinh tế - xã hội đã có sự chuyển biến rõ rệt,
nhất là các ý kiến, kiến nghị đã được các ngành, các cấp quan tâm, góp phần
thực hiện thắng lợi Nghị quyết phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
Sau giám sát “Về tình hình thực hiện các công trình, dự án đầu tư xây
dựng và công tác giải phóng mặt bằng, đền bù, giải tỏa, tái định cư trên địa
bàn tỉnh Phú Yên”. Qua giám sát cho thấy, việc rà soát, tổng hợp danh mục và
bố trí vốn cho các dự án sử dụng vốn trái phiếu Chính phủ, bước đầu đạt được
một số kết quả nhất định như đã xác định rõ danh mục dự án đã hoàn thành,
danh mục dự án dự kiến hoàn thành năm 2012 để ưu tiên bố trí vốn đẩy nhanh
tiến độ, danh mục dự án dự kiến hoàn thành năm 2013, danh mục dự án giãn
hoãn tiến độ sau năm 2015, danh mục dự án thi công đến điểm dừng kỹ thuật
và danh mục dự án chuyển đổi hình thức đầu tư theo hình thức BT, tạo điều
kiện thuận lợi trong quá trình chỉ đạo, điều hành và đôn đốc tiến độ triển khai
các dự án. Việc bố trí vốn trái phiếu Chính phủ giai đoạn 2012-2015 và kế
hoạch năm 2012 cho các dự án ưu tiên tập trung thanh toán nợ đối với các dự
án đã hoàn thành, dự kiến hoàn thành năm 2012 đã tạo điều kiện cho các chủ
đầu tư đôn đốc nhà thầu đẩy nhanh tiến độ triển khai thực hiện.
Sau giám sát đã đề nghị Chính phủ tiếp tục hoàn thiện các văn bản pháp
luật trong công tác xây dựng cơ bản nhất là các khâu: thẩm định dự án, báo
cáo kinh tế kỷ thuật,... giúp cho công tác quản lý nhà nước về đầu tư xây dựng
cơ bản tốt hơn.
Như vậy, qua các cuộc giám sát đã giúp cho HĐND có cái nhìn chính
xác, tổng quát hơn về tình hình phát triển kinh tế - xã hội, an ninh - quốc
72
phòng của địa phương. Qua đó, HĐND có điều kiện để kiểm tra, đôn đốc việc
thực hiện Nghị quyết HĐND tỉnh, các văn bản pháp luật cấp trên. Đồng thời,
phát hiện được sự không phù hợp, thiếu thực tế của một số Nghị quyết do
HĐND ban hành để kịp thời sửa đổi, bổ sung.
2.4.4 Kết quả đạt được so với chi phí bỏ ra
Sau giám sát, tình hình kinh tế - xã hội có sự chuyển biến tích cực, đáng
khích lệ; mục đích các cuộc giám sát đề ra cơ bản được thực hiện, ý nghĩa, tác
dụng của các cuộc giám sát ngoài việc góp phần tích cực vào sự phát triển
kinh tế - xã hội của địa phương còn là sự chấn chỉnh các vấn đề chính trị xã
hội chung mang lại không những hiệu quả về kinh tế mà còn là hiệu quả xã
hội.
Thông qua một số kết quả đạt được, khẳng định rằng hoạt động giám sát
của HĐND tỉnh Phú Yên, trong đó có giám sát về lĩnh vực kinh tế đã có nhiều
tiến bộ, góp phần giúp UBND tỉnh, các cơ quan, đơn vị thực hiện tốt chức
năng, nhiệm vụ của mình.
Tuy nhiên, với những kết quả đó so với mục đích, yêu cầu của công tác
giám sát, rõ ràng hiệu quả giám sát còn hạn chế. Điều đó được thể hiện ở chỗ:
việc đôn đốc, kiểm tra thực hiện các kiến nghị, đề xuất sau giám sát thiếu quyết
liệt, không sâu sát, nên vẫn còn hiện tượng sau giám sát đâu lại vào đấy; việc
chất vấn trong các kỳ họp nhiều khi chưa đi đến quy kết trách nhiệm, chưa đưa
ra các giải pháp khắc phục, đặc biệt các kiến nghị đề xuất của đoàn giám sát
chưa được các đơn vị có trách nhiệm thực hiện nghiêm túc. Chính vì vậy, báo
cáo kết quả giám sát của HĐND tỉnh hiện nay mới chỉ dừng lại ở số lượng các
đoàn giám sát, nội dung được giám sát, các vấn đề được phát hiện trong đợt
giám sát, các kiến nghị, đề xuất đã đưa ra… còn giải quyết vấn đề đó như thế
nào, mức độ đến đâu chưa được HĐND tỉnh đeo bám đến cùng, dẫn đến hoạt
73
động giám sát của HĐND còn hình thức.
- Nếu căn cứ vào chi phí bỏ ra để đánh giá hiệu quả giám sát của
HĐND tỉnh Phú Yên thì rõ ràng hoạt động giám sát đã mang lại hiệu quả khá
cao. Bởi những chi phí về vật chất, nguồn lực, cũng như thời gian tiến hành
giám sát,… tất cả các chi phí đó đang ở mức độ khiêm tốn so với kết quả đạt
được. Chẳng hạn hoạt động phí của đại biểu cấp tỉnh là 0,5 mức lương cơ sở,
tiền công tác phí cho 01 ngày đi giám sát 100.000đ/ngày, mặt khác các đại
biểu là thành viên các Ban đều hoạt động kiêm nhiệm, nên không đủ thời gian
giành cho hoạt động giám sát. Với điều kiện như vậy nên trong thực tế có đại
biểu dễ bằng lòng với kết quả giám sát của HĐND.
Tuy nhiên, giám sát là một hoạt động mang tính xã hội, hơn nữa
HĐND là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, các đại biểu được bầu
vào HĐND không phải xuất phát từ lợi ích kinh tế và vì uy tín và trách nhiệm
trước cử tri đã bầu ra mình. Do đó, khi đánh giá hiệu quả giám sát của HĐND
tỉnh, không chỉ nhìn nhận từ góc độ kinh tế mà cần phải kết hợp cả yếu tố xã
hội thì việc đưa ra các nhận định mới đảm bảo chính xác. Như vậy, nếu sử
dụng phương pháp đánh giá trên có thể khẳng định rằng: Hiện nay, hiệu quả
giám sát của HĐND cấp tỉnh vẫn còn ở mức hạn chế.
Tóm lại, mỗi tiêu chí là căn cứ đánh giá hiệu quả giám sát của HĐND
tỉnh ở một phương diện khác nhau, nhưng tất cả đều cho thấy rằng hoạt động
giám sát của HĐND tỉnh Phú Yên và nhất là giám sát trong lĩnh vực kinh tế
trong thời gian qua đã có nhiều chuyển biến mạnh mẽ. Các kết quả giám sát
nhiều khi không được các đối tượng giám sát khắc phục một cách triệt để
song đã có những ảnh hưởng tích cực vào sự phát triển kinh tế - xã hội, ổn
định an ninh chính trị trên địa bàn tỉnh. Tuy nhiên, đặt trong điều kiện yêu cầu
đổi mới đất nước hiện nay, hiệu quả giám sát của HĐND tỉnh Phú Yên nhìn
chung vẫn còn thấp, đôi khi còn hình thức. Vì vậy, cần nghiên cứu tìm ra
74
những nguyên nhân yếu kém và giải pháp phù hợp trong hoạt động giám sát
nói chung của HĐND tỉnh và hoạt động giám sát trong lĩnh vực kinh tế nói
riêng để sớm khắc phục hạn chế trên.
2.5 Đánh giá hạn chế và nguyên nhân của hạn chế trong hoạt động
giám sát của Hội đồng nhân dân tỉnh Phú Yên trong lĩnh vực kinh tế
2.5.1 Những hạn chế trong hoạt động giám sát của Hội đồng nhân
Nhiệm kỳ 2011-2016 và từ đầu nhiệm kỳ 2016-2021 đến nay, giám sát
dân tỉnh Phú Yên trong lĩnh vực kinh tế từ năm 2011 đến nay
của HĐND tỉnh Phú Yên trong lĩnh vực kinh tế đã từng bước được cải tiến,
đem lại hiệu quả thiết thực. Thông qua giám sát, HĐND tỉnh đã nắm được
thực trạng hoạt động của các cơ quan, đơn vị trên địa bàn tỉnh; xác nhận kết
quả, chỉ ra những hạn chế, thiếu sót, tìm ra nguyên nhân; qua đó có những
kiến nghị, kịp thời uốn nắn những sai lệch nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động
của các cơ quan, đơn vị được giám sát; đồng thời có đánh giá về hiệu quả,
tính khả thi của các quy định của văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan
nhà nước cấp trên và các Nghị quyết của HĐND trong thực tiễn, nắm bắt
được những vấn đề nổi cộm, bức xúc mà cử tri quan tâm....
Giám sát của HĐND tỉnh Phú Yên trong lĩnh vực kinh tế thời gian qua
đã góp phần quan trọng vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững an
ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên phạm vi toàn tỉnh. Tuy nhiên, thực tế
cho thấy trong công tác giám sát vẫn còn bộc lộ một số hạn chế, đó là:
Thứ nhất, đối với việc xem xét báo cáo, tờ trình của cơ quan nhà nước tại
kỳ họp HĐND trong lĩnh vực kinh tế
Hoạt động này được thực hiện chủ yếu thông qua phiên thảo luận Tổ và
thảo luận tại Hội trường. Đối với việc xem xét các báo cáo, tờ trình của các cơ
quan nhà nước trong lĩnh vực kinh tế, đòi hỏi đại biểu phải có chuyên môn
sâu để phân tích, đánh giá một cách khách quan đúng đắn, để hiểu và nắm bắt
75
đầy đủ nội dung đòi hỏi phải có thời gian đầu tư, nghiên cứu. Tuy nhiên, vẫn
còn một số ít đại biểu chưa thật sự tập trung nghiên cứu, đánh giá các báo
cáo; chủ yếu tập trung ở một số ý đại biểu có ý kiến góp ý là lãnh đạo của một
số sở ngành, đoàn thể.
Chất lượng các ý kiến trong phiên thảo luận tổ và thảo luận tại hội
trường chưa cao, chưa đi sâu vào việc tìm ra những biện pháp khắc phục, tháo
gỡ những khó khăn.
Thứ hai, hoạt động xem xét việc trả lời chất vấn
Hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn tại kỳ họp chưa thật sự đổi mới
mạnh mẽ, số đại biểu HĐND tỉnh tham gia chất vấn không nhiều và thường
tập trung vào số ít đại biểu; chưa tạo được không khí quyết liệt trong tranh
luận để làm rõ các vấn đề đặt ra; chưa phản ánh được đầy đủ những vấn đề
thực tiễn và bức xúc của cử tri; còn có tình trạng né tránh, nể nang, ngại va
chạm của một số ít đại biểu. Việc trả lời chất vấn của một số thủ trưởng cơ
quan, đơn vị chưa được chuẩn bị chu đáo, trả lời thiếu trọng tâm, chủ yếu là
giải trình đối với những tồn tại của ngành hoặc lĩnh vực mình phụ trách, chưa
đưa ra kế hoạch, giải pháp khắc phục.
Thứ ba, giám sát theo hình thức thành lập Đoàn giám sát
Phương thức giám sát chính vẫn là giám sát qua văn bản, họp với cơ quan,
đơn vị chịu sự giám sát. Vì vậy, tính chất độc lập của thông tin còn hạn chế,
nguồn chủ yếu mà HĐND khi ra quyết định chủ yếu vào thông tin từ cơ quan
đơn vị. Số lượng, qui mô và phạm vi giám sát có tăng so với trước nhưng vẫn
chưa tương xứng với yêu cầu nhiệm vụ. Chương trình giám sát đôi lúc còn dàn
trải, coi trọng số lượng, chưa quan tâm đến chất lượng. Hiệu quả và chất lượng
của một số ít cuộc giám sát chưa cao. Trách nhiệm tham gia đoàn giám sát và
kinh nghiệm, kỹ nãng giám sát của một số đại biểu HÐND tỉnh còn hạn chế, có
đại biểu kiêm nhiệm chưa sắp xếp thời gian tham gia đầy đủ các hoạt động giám
76
sát. Một số trường hợp chưa xem xét một cách toàn diện, sâu sắc đối với báo cáo
của của cơ quan, đơn vị, địa phương chịu sự giám sát; có hoạt động giám sát chỉ
ở mức độ phát hiện, phân tích vấn đề; việc thu thập thông tin còn phụ thuộc
nhiều vào các báo cáo của các cơ quan chịu sự giám sát. Một số ít kiến nghị
giám sát chưa cụ thể, chưa thật sự sâu sát thực tế. Công tác kiểm tra, đôn đốc
giải quyết các yêu cầu, kiến nghị sau giám sát ở một số cơ quan, đơn vị, địa
phương chưa được quan tâm đúng mức, thường xuyên, còn thiếu kiên quyết.
Nhận thức của một số cơ quan, đơn vị, địa phương về công tác giám sát của
HĐND chưa thật sự đầy đủ nên công tác chuẩn bị nội dung chưa đạt yêu cầu.
2.5.2 Nguyên nhân của hạn chế trong hoạt động giám sát của Hội
đồng nhân dân tỉnh Phú Yên trong lĩnh vực kinh tế từ năm 2011 cho đến
Nhận thức về hoạt động giám sát của HĐND, nhất là hoạt động chất
nay
vấn và trả lời chất vấn chưa thật đầy đủ, một số đại biểu cũng như các cấp,
các ngành chưa nhận thức đúng, đầy đủ vị trí, vai trò, trách nhiệm của HĐND.
Về điều kiện hoạt động, thời gian dành cho việc thực hiện nhiệm vụ đại
biểu, nhất là các đại biểu kiêm nhiệm còn ít. Đại biểu HĐND tỉnh chuyên
trách tuy có tăng so với nhiệm kỳ trước, nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu
cầu công việc ngày cầng nhiều, chất lượng đòi hỏi ngày càng cao.
Về năng lực, trình độ của một số đại biểu còn hạn chế, trình độ đại biểu
HĐND tỉnh chưa đồng đều nhất là lĩnh vực kinh tế rộng, nhiều vấn đề nổi
cộm, bức xúc, phức tạp đòi hỏi các đại biểu HĐND phải có chuyên môn sâu
trong khi đa số các đại biểu HĐND hoạt động kiêm nhiệm (đại biểu chuyên
trách ít) nên ít nhiều có gặp khó khăn trong hoạt động thẩm tra, giám sát lĩnh
vực này. Kỹ năng, kinh nghiệm của đại biểu trong lĩnh vực này còn hạn chế
nhất định. Hơn nữa, sự tham gia của các đại biểu HĐND và việc xây dựng các
chính sách về kinh tế - xã hội còn rất hạn chế. Điều này có nguyên nhân liên
77
quan từ đặc điểm cơ cấu đại biểu, từ quỹ thời gian hoạt động của đại biểu
kiêm nhiệm, phần lớn đại biểu chưa có đủ năng lực phân tích chính sách,
chưa dành tâm sức và thời gian thỏa đáng cho việc nghiên cứu vấn đề mà thực
tiễn cuộc sống đặt ra, liên quan đến đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân
mà mình đại diện.
Về phối hợp công tác, sự phối hợp giữa Thường trực HĐND, các Ban
của HĐND tỉnh và các cơ quan hữa quan có lúc chưa nhịp nhàng, thiếu chặt
chẽ đã ảnh hưởng đến chất lượng, tiến độ trong việc thực hiện nhiệm vụ.
Đại biểu HĐND thiếu thông tin và thời gian, để giám sát của HĐND có
chất lượng, việc nắm bắt thông tin nhiều chiều có vai trò rất quan trọng. Tuy
nhiên, điều kiện tiếp cận và cập nhật thông tin của các đại biểu HĐND còn
nhiều bất cập, chỉ chủ yếu nghe báo cáo của cơ quan là đối tượng được giám
sát sau đó đoàn giám sát kết luận, đánh giá. Từ đó những cuộc giám sát chưa
chỉ ra được đúng, sai và kiến nghị sâu sắc, thuyết phục… Mặt khác, đa số đại
biểu HĐND là lãnh đạo chủ chốt các sở, ngành với công tác chuyên môn
chiếm phần lớn nên thời gian giành cho hoạt động của HĐND còn ít.
Văn phòng HĐND tỉnh là cơ quan tham mưu giúp việc cho HĐND
nhưng lực lượng cán bộ, công chức còn ít, một số còn mới chưa có nhiều
kinh nghiệm trong thực hiện nhiệm vụ nên phần nào đó đã ảnh hưởng đến
78
chất lượng tham mưu, giúp việc.
Nhiệm kỳ 2011-2016 và từ đầu nhiệm kỳ 2016-2021 đến nay, giám sát
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2
của HĐND tỉnh Phú Yên trong lĩnh vực kinh tế đã từng bước được cải tiến,
đem lại hiệu quả thiết thực. Thông qua giám sát, HĐND tỉnh đã nắm được
thực trạng hoạt động của các cơ quan, đơn vị trên địa bàn tỉnh; xác nhận kết
quả, chỉ ra những hạn chế, thiếu sót, tìm ra nguyên nhân; qua đó có những
kiến nghị, kịp thời uốn nắn những sai lệch nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động
của các cơ quan, đơn vị được giám sát; đồng thời có đánh giá về hiệu quả,
tính khả thi của các quy định của văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan
nhà nước cấp trên và các Nghị quyết của HĐND trong thực tiễn, nắm bắt
được những vấn đề nổi cộm, bức xúc mà cử tri quan tâm....
Giám sát của HĐND tỉnh Phú Yên trong lĩnh vực kinh tế thời gian qua
đã góp phần quan trọng vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững an
ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên phạm vi toàn tỉnh. Tuy nhiên, thực tế
cho thấy trong công tác giám sát vẫn còn bộc lộ một số hạn chế, đó là:
Việc xem xét các báo cáo, tờ trình của các cơ quan nhà nước trong lĩnh
vực kinh tế, đòi hỏi đại biểu phải có chuyên môn sâu để phân tích, đánh giá
một cách khách quan đúng đắn, để hiểu và nắm bắt đầy đủ nội dung đòi hỏi
phải có thời gian đầu tư, nghiên cứu. Tuy nhiên, vẫn còn một số ít đại biểu
chưa thật sự tập trung nghiên cứu, đánh giá các báo cáo; chủ yếu tập trung ở
một số ý đại biểu có ý kiến góp ý là lãnh đạo của một số sở ngành, đoàn thể.
Hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn tại kỳ họp chưa thật sự đổi mới
mạnh mẽ, số đại biểu HĐND tỉnh tham gia chất vấn không nhiều và thường
tập trung vào số ít đại biểu; chưa tạo được không khí quyết liệt trong tranh
luận để làm rõ các vấn đề đặt ra; chưa phản ánh được đầy đủ những vấn đề
thực tiễn và bức xúc của cử tri; còn có tình trạng né tránh, nể nang, ngại va
79
chạm của một số ít đại biểu. Việc trả lời chất vấn của một số thủ trưởng cơ
quan, đơn vị chưa được chuẩn bị chu đáo, trả lời thiếu trọng tâm, chủ yếu là
giải trình đối với những tồn tại của ngành hoặc lĩnh vực mình phụ trách, chưa
đưa ra kế hoạch, giải pháp khắc phục.
Phương thức giám sát chính vẫn là giám sát qua văn bản, họp với cơ quan,
đơn vị chịu sự giám sát; chương trình giám sát đôi lúc còn dàn trải; trách nhiệm
tham gia đoàn giám sát và kinh nghiệm, kỹ năng giám sát của một số đại biểu
HĐND tỉnh còn hạn chế, có đại biểu kiêm nhiệm chưa sắp xếp thời gian tham
gia đầy đủ các hoạt động giám sát. Công tác kiểm tra, đôn đốc giải quyết các yêu
cầu, kiến nghị sau giám sát ở một số cơ quan, đơn vị, địa phương chưa được
quan tâm đúng mức, thường xuyên, còn thiếu kiên quyết. Nhận thức của một số
cơ quan, đơn vị, địa phương về công tác giám sát của HĐND chưa thật sự đầy
đủ nên công tác chuẩn bị nội dung chưa đạt yêu cầu.
Vì vậy, vấn đề đặt ra hiện nay là phải có giải pháp hữu hiệu để khắc phục
những tồn tại, hạn chế trên để tiếp tục nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát của
80
HĐND tỉnh và nhất là giám sát trong lĩnh vực kinh tế.
Chương 3
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIÁM SÁT CỦA
HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN TỈNH PHÚ YÊN TRONG LĨNH VỰC KINH TẾ
Từ những vấn đề chung về giám sát của HĐND tỉnh Phú Yên trong lĩnh
vực kinh tế, nhiệm kỳ 2011 - 2016 và 6 tháng cuối năm 2016 cho đến nay, sau
khi phân tích những nguyên nhân của những hạn chế, chương này kiến nghị,
đề xuất một số giải pháp để nâng cao hiệu quả giám sát của HĐND tỉnh Phú
Yên trong lĩnh vực kinh tế như sau:
3.1 Tiếp tục hoàn thiện cơ sở pháp lý để nâng cao hiệu quả hoạt động
của HĐND, đại biểu HĐND
HĐND là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí,
nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, vì vậy, để hoạt động của HĐND đạt
chất lượng, hiệu quả thì chủ yếu phụ thuộc vào chất lượng hoạt động của đại biểu
HĐND. Để HĐND thực sự đại diện cho nhân dân phải bắt đầu từ vai trò, trách
nhiệm và năng lực của từng đại biểu HĐND.
Tại Điều 103 của Luật Tổ chức chính quyền địa phương đã quy định:
trách nhiệm của đại biểu HĐND “Đại biểu Hội đồng nhân dân hoạt động
không chuyên trách phải dành ít nhất một phần ba thời gian làm việc trong
năm để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của đại biểu Hội đồng nhân dân”.
Trong nhiệm kỳ 2011-2016, đại biểu HĐND tỉnh Phú Yên cơ bản đã
tham gia đầy đủ các hoạt động của HĐND như tham dự đầy đủ các phiên họp
của HĐND, các cuộc giám sát, làm việc với các cơ quan chức năng, thực hiện
tiếp xúc cử tri trước và sau các kỳ họp thường lệ; một số đại biểu đã chủ động
thu thập thông tin tham gia phát biểu, chất vấn những vấn đề nổi cộm, bức
xúc của cử tri… tại các kỳ họp; kịp thời nắm bắt tình hình phát triển kinh tế-
81
xã hội, quốc phòng-an ninh tại địa phương nơi ứng cử, các ý kiến, kiến nghị
của cử tri, phát hiện những vấn đề nổi cộm, bức xúc của nhân dân kịp thời đề
nghị các cơ quan chức năng xem xét, giải quyết. Một số ít đại biểu đã kiên trì
đeo bám sau giám sát của các cơ quan chức năng thực hiện các ý kiến đã chất
vấn, có ý kiến.
Bên cạnh đó, một số đại biểu HĐND tỉnh hoạt động kiêm nhiệm chưa làm
hết chức năng, nhiệm vụ của người đại biểu như:
- Chưa dành nhiều thời gian cho việc thực hiện nhiệm vụ của người đại
biểu như chưa tham gia đầy đủ các cuộc giám sát; chưa nghiên cứu kỹ các báo
cáo, tờ trình, đề án, dự thảo nghị quyết … trình tại kỳ họp; chưa cập nhật kịp
thời những chính sách mới được ban hành nên chưa có chính kiến đối với
những vấn đề quan trọng, nhất là trong lĩnh vực kinh tế, ngân sách nhà nước,
về xây dựng cơ bản, dẫn đến đại biểu thiếu tự tin trong hoạt động, nhất là trong
hoạt động chất vấn; một số đại biểu chất vấn những nội chưa mang tính nổi cộm,
bức xúc của địa phương. Trong quá trình chất vấn chưa có nhiều thông tin để truy
vấn, dẫn đến phiên chất vấn còn mang tính hình thức. Sau chất vấn chưa đeo bám,
giám sát các ý kiến tiếp thu của các cơ quan chức năng đối với ý kiến đã chất vấn.
Để nâng cao trách nhiệm của người đại biểu HĐND, đề xuất các giải pháp
sau:
Ủy ban Thường vụ Quốc hội cần ban hành nghị quyết quy định cụ thể chế
độ sinh hoạt định kỳ để nhận xét, đánh giá kết quả hoạt động của đại biểu
HĐND. Định kỳ hàng năm, mỗi đại biểu HĐND phải báo cáo kết quả thực
hiện nhiệm vụ đại biểu với cử tri nơi mình được bầu. Đây là việc phát huy
quyền giám sát của nhân dân với đại biểu dân cử, buộc mỗi đại biểu phải hoạt
động tốt hơn, có trách nhiệm hơn trước xã hội và cử tri. Giao cho Thường trực
HĐND tỉnh theo dõi hoạt động của đại biểu để có nhận xét, đánh giá, khen thưởng
82
hàng năm đối với đại biểu HĐND. Trên cơ sở đó, cơ quan, đơn vị, tổ chức quản lý
đại biểu căn cứ kết quả nhận xét, đánh giá của Thường trực HĐND để đánh giá,
phân loại công chức hàng năm.
Chưa có hướng dẫn cụ thể về khen thưởng đối với đại biểu HĐND hoàn
thành xuất sắc nhiệm vụ người đại biểu, mà chỉ quy định chung chung “đại biểu
HĐND hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được xét khen thưởng theo quy định của
Luật thi đua khen thưởng” theo Nghị quyết số 1206/2016/NQ-UBTVQH13 của
Ủy Ban Thường vụ Quốc hội quy định về chế độ, chính sách và các điều kiện bảo
đảm hoạt động của đại biểu HĐND. Vì vậy, đề nghị Chính phủ có quy định về
hướng dẫn về điều kiện, tiêu chuẩn xét thi đua khen thưởng cho đại biểu HĐND
hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của người đại biểu và giao cho Thường trực HĐND
thành lập hội đồng thi đua, khen thưởng để xét thi đua, khen thưởng hàng năm
cho đại biểu HĐND.
3.2 Đảm bảo sự lãnh đạo toàn diện của Đảng đối với hoạt động của
Hội đồng nhân dân tỉnh Phú Yên
Thực tiễn cho thấy, nơi nào cấp ủy Đảng thật sự quan tâm lãnh đạo, chỉ
đạo, phân công bố trí cán bộ đúng tầm, đủ năng lực, trình độ để làm nhiệm vụ
ở cơ quan quyền lực nhà nước tại địa phương thì nơi đó chất lượng hoạt động
của HĐND được nâng lên.
Cấp ủy cùng cấp giới thiệu cán bộ ứng cử đại biểu HĐND tỉnh vừa đảm
bảo cơ cấu, thành phần theo quy định vừa đảm bảo trình độ, năng lực, phẩm
chất đạo đức; bố trí, giới thiệu nhân sự bầu giữ các chức danh của HĐND
tỉnh đủ tiêu chuẩn về trình độ, năng lực, phẩm chất đạo đức. Giải quyết tốt
mối quan hệ giữa cơ cấu, số lượng và chất lượng của đại biểu HĐND, đây là
vấn đề quan trọng quyết định chất lượng hoạt động của đại biểu HĐND. Hiện
nay, cơ cấu đại biểu HĐND cấp tỉnh bao gồm: Thường trực HĐND, các Ban
HĐND, một số thành viên UBND, đại biểu là lãnh đạo một số ban Đảng,
83
đoàn thể và sở, ban, ngành thuộc UBND, đại biểu công tác trong các tổ chức
chính trị - xã hội, các cơ quan, đơn vị cấp tỉnh, cấp huyện, đại biểu đại diện
cho các doanh nghiệp. Việc cơ cấu đại biểu đại diện cho ngành nghề, lĩnh vực
công tác, vùng miền là hết sức cần thiết.
Tuy nhiên, chất lượng hoạt động của HĐND tỉnh nói chung và của đại
biểu HĐND nói riêng thì việc lựa chọn đại biểu có “ đủ sức, đủ tài” phải được
đặt lên hàng đầu, không nên vì cơ cầu cho đủ thành phần của HĐND mà xem
nhẹ chất lượng đại biểu. Mặc khác, cần lựa chọn cơ cấu đại biểu công tác
trong cơ quan, đơn vị, tổ chức ít chịu sự ảnh hưởng, tác động của UBND.
Giải quyết tốt mối quan hệ giữa cơ cấu và chất lượng đại biểu, bầu ra
được những đại biểu tiêu biểu, có trình độ, năng lực, điều kiện thực hiện
nhiệm vụ vừa là yêu cầu, vừa là điều kiện tiên quyết, đảm bảo cho HĐND
phát huy được vai trò, vị trí là cơ quan đại diện của nhân dân, cơ quan quyền
lực nhà nước ở địa phương.
Đối với chức danh Trưởng Ban (chuyên trách) của các Ban HĐND tỉnh
và Chánh Văn phòng HĐND tỉnh cần phải là cấp ủy viên cùng cấp để nâng
cao vị thế, vai trò của HĐND tỉnh.
3.3 Nâng cao năng lực giám sát các chủ thể thực hiện chức năng
giám sát của Hội đồng nhân dân tỉnh Phú Yên
3.3.1 Nâng cao năng lực của đại biểu Hội đồng nhân dân tỉnh Phú
Yên
Năng lực của đại biểu HĐND là nhân tố quyết định chất lượng hoạt động
cuả HĐND. Chính vì vậy, HĐND tỉnh cần thường xuyên quan tâm nâng cao
năng lực hoạt động của đại biểu và có những giải pháp thiết thực nhằm tháo
gỡ, khắc phục những thiếu hụt về kiến thức, hạn chế về kỹ năng hoạt động
của đại biểu nhằm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ đặt ra trong giai đoạn hiện nay.
Để nâng cao chất lượng hoạt động, mỗi đại biểu phải tự thường xuyên
84
nghiên cứu, nâng cao trình độ, năng lực, rèn luyện kỹ năng và những hiểu biết
đầy đủ về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND; năng động sáng tạo
trong hoạt động thực tiễn; các đại biểu kiêm nhiệm cần phát huy hơn nữa tính
chủ động, sáng tạo tinh thần trách nhiệm trong công việc, không thụ động chờ
sự chỉ đạo của Thường trực HĐND và các Ban của HĐND tỉnh.
Đại biểu HĐND phải gắn bó với cử tri, vừa lắng nghe vừa phản ánh
trung thực ý kiến, nguyện vọng của cử tri; vừa giám sát, vừa tác động và đôn
đốc các cơ quan có thẩm quyền giải quyết thỏa đáng các ý kiến, nguyện vọng
cử tri. HĐND có trách nhiệm nâng cao năng lực cho đại biểu HĐND tỉnh
như: thường xuyên bồi dưỡng kỹ năng hoạt động HĐND. Thực tế cho thấy, tỷ
lệ tái cử trong HĐND, chỉ chiếm dưới 30%, còn lại là đại biểu tham gia lần
đầu, chưa có kỹ năng hoạt động trong cơ quan dân cử. Mặc khác, cơ cấu đại
biểu rất đa dạng, các đại biểu có trình độ chuyên môn, lĩnh vực, địa bàn công
tác khác nhau. Chính vì vậy, việc đào tạo, bồi dưỡng các kỹ năng hoạt động
cho đại biểu sau mỗi đợt bầu cử là việc làm rất cần thiết.
Ngay sau kỳ họp thứ nhất cần phải tổ chức các lớp tập huấn, bồi dưỡng
kỹ năng hoạt động cho đại biểu HĐND các cấp, nhất là kỹ năng giám sát về
lĩnh vực kinh tế.
Bồi dưỡng nâng cao kỹ năng phân tích các vấn đề về kinh tế và ngân
sách thuộc nội dung, chương trình các kỳ họp để đại biểu có khả năng xem
xét, đánh giá vấn đề một cách toàn diện, sâu sắc, đưa ra các ý kiến, kiến nghị
chính xác, đóng góp vào những quyết sách của HĐND.
Bồi dưỡng kỹ năng tự giám sát và tham gia đoàn giám sát về lĩnh vực
kinh tế, xác định cách tiếp cận để nghiên cứu vấn đề cần giám sát; kinh
nghiệm nêu vấn đề, đặt câu hỏi hợp lý với cơ quan hữu quan để làm rõ các nội
dung cần giám sát; thảo luận và đi đến kết luận giám sát; xây dựng kiến nghị
85
giám sát và theo dõi kết quả thực hiện yêu cầu đoàn giám sát.
Bồi dưỡng kỹ năng chất vấn và đối thoại, gồm những nội dung về
phương pháp thu thập tài liệu, chứng cứ; lựa chọn vấn đề để đưa ra chất vấn;
lựa chọn ngôn ngữ đối thoại trong chất vấn và trả lời chất vấn.
Vì vậy, HĐND tỉnh hàng năm phải phối hợp với Trung tâm bồi dưỡng
đại biểu dân cử - Ban Công tác đại biểu thuộc Ủy ban Thường vụ Quốc hội tổ
chức tập huấn về kỹ năng hoạt động của đại biểu và kỹ năng giám sát nhất là
trong lĩnh vực kinh tế.
3.3.2 Nâng cao năng lực giám sát của Thường trực HĐND
Trong hoạt động giám sát, Thường trực HĐND tỉnh giữ vai trò điều hòa,
phối hợp cùng các Ban của HĐND tỉnh, phối hợp chặt chẽ với Ủy Ban
MTTQVN tỉnh và các tổ chức thành viên, các cơ quan bảo vệ pháp luật, tổ
chức nhiều đợt giám sát theo Nghị quyết về chương trình giám sát của HĐND
hàng năm, đưa ra nhiều kết luận, kiến nghị cơ bản đảm bảo khách quan, chính
xác, được cơ quan có thẩm quyền xem xét, giải quyết.
Thường trực HĐND tỉnh có vị trí rất quan trọng trong việc thực hiện
chức năng giám sát của HĐND. Để nâng cao chất lượng và hiệu quả giám sát
của HĐND, đặc biệt là giám sát trong lĩnh vực kinh tế, phải coi trọng công
tác kiểm tra, giám sát của Thường trực HĐND và các Ban của HĐND là một
việc làm thường xuyên. Thường trực HĐND tỉnh phải có tính chủ động, sáng
tạo tìm ra biện pháp hợp lý trong công tác giám sát bảo đảm cho pháp luật và
nghị quyết của HÐND được thực hiện nghiêm túc, góp phần tháo gỡ kịp thời
những khó khăn, vướng mắc; động viên, khuyến khích đơn vị được giám sát
phát huy những mặt tốt, kịp thời khắc phục những sai sót. Từ đó, tạo ra mối
quan hệ tốt giữa HÐND và đơn vị được giám sát.
Thường trực HĐND tỉnh cần thường xuyên tổ chức giao ban, hội thảo,
tổng kết, sơ kết về hoạt động giám sát để học hỏi, rút kinh nghiệm, thông qua
86
đó nâng cao năng lực hoạt động giám sát cho từng đại biểu.
3.3.3 Nâng cao năng lực giám sát của Ban kinh tế & ngân sách
HĐND tỉnh
Để giúp các đại biểu HĐND thực hiện quyền giám sát trong lĩnh vực
kinh tế một cách có hiệu quả, Ban Kinh tế & Ngân sách của HĐND đóng vai
trò rất quan trọng, đưa ra những gợi ý, những định hướng và đặc biệt là cung
cấp thêm những thông tin, cần thiết để đại biểu HĐND xem xét và hình thành
những yêu cầu và đánh giá. Ban Kinh tế - Ngân sách có trách nhiệm nghiên
cứu và thẩm tra các báo cáo, có điều kiện, nghiệp vụ về chuyên môn, thông
tin, thời gian tiếp cận các báo cáo. Vì vậy, Ban Kinh tế & Ngân sách của
HĐND cần chủ động phối hợp ngay từ đầu với cơ quan tài chính, cơ quan kế
hoạch đầu tư và các cơ quan có liên quan để tiến hành thẩm tra, giám sát về
những vấn đề thuộc lĩnh vực của Ban như phương án phân bổ ngân sách địa
phương và các báo cáo về ngân sách địa phương. Ban Kinh tế & Ngân sách
không thụ động, chờ các báo cáo trình ra HĐND mới tiến hành thẩm tra, giám
sát mà cần tiến hành thẩm tra, giám sát ngay trong quá trình lập dự toán và lập
quyết toán ngân sách địa phương. Bảo đảm có thông tin đầy đủ và cần thiết.
Nguồn thông tin phục vụ cho công tác xem xét, quyết định phân bổ ngân sách
địa phương không chỉ từ các báo cáo của UBND, mà còn được thu nhận qua
hoạt động giám sát của Thường trực HĐND, tiếp xúc cử tri của các đại biểu
HĐND, báo chí và các nguồn thông tin khác.
3.3.4 Nâng cao năng lực bộ máy giúp việc cho Hội đồng nhân dân
Hiệu quả giám sát còn phụ thuộc vào tổ chức bộ máy, nhân sự cuả
HĐND và cơ quan tham mưu phục vụ. Về tổ chức bộ máy, nhiệm kỳ 2011 -
2016 cho đến nay, theo quy định của Luật Tổ chức HĐND và UBND năm
2003 và các văn bản hướng dẫn của Chính phủ thì đa số đại biểu thì đại biểu
HĐND đa số hoạt động kiêm nhiệm. Tuy có quy định đại biểu kiêm nhiệm
87
phải dành 1/3 thời gian để thực hiện nhiệm vụ đại biểu, nhưng thời gian qua
đại biểu chủ yếu tập trung hoạt động ở các kỳ họp, tiếp xúc cử tri và tham gia
đoàn giám sát, nhưng lại không đều. Vì vậy, cần đảm bảo về nguồn lực, củng
cố tổ chức, bộ máy tham mưu, giúp việc HĐND, Văn phòng HĐND tỉnh là cơ
quan tham mưu, phục vụ cho HĐND, Thường trực HĐND, các Ban của
HĐND và đại biểu HĐND tỉnh. Để đảm bảo hiệu quả hoạt động của HĐND
nói chung, hoạt động giám sát của HĐND nói riêng và nhất là giám sát trong
lĩnh vực kinh tế cần phải nâng cao năng lực hoạt động của bộ máy của Văn
phòng, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, thường xuyên tập huấn, bồi
dưỡng kiến thức về lĩnh vực kinh tế, kỹ năng phân tích, giám sát đánh giá… cho
đội ngũ chuyên viên giúp việc của HĐND để đội ngũ làm công tác tham mưu
phải có trình độ, năng lực thực thi nhiệm vụ và thật sự chuyên nghiệp, có như
vậy công tác giám sát của Hội đồng nhân dân sẽ phục vụ tốt vì bộ máy Văn
phòng chủ yếu là yếu tố góp phần quan trọng và bền vững của hiệu quả giám sát.
Nghiên cứu, tổng kết để tham mưu đúng, chính sách là yếu tố quyết định
chất lượng, hiệu quả hoạt động của Văn phòng. Chính vì vậy, trong điều kiện
biên chế có hạn, buộc phải nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức. Bên
cạnh những cán bộ, chuyên viên nhiều kinh nghiệm hiện có, việc tuyển mới phải
đáp ứng được các tiêu chuẩn về trình độ chuyên môn theo chuyên ngành đào tạo,
có năng lực và kinh nghiệm thực tiễn, am hiểu về hoạt động HĐND, bảo đảm
yêu cầu nghiên cứu được giao, có phẩm chất chính trị và tinh thần trách nhiệm
cao trong công việc. Thường xuyên bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn,
nghiệp vụ, kỹ năng hoạt động và nhất là nghiệp vụ, kỹ năng trong lĩnh vực kinh
tế cho đội ngũ chuyên viên giúp việc cho HĐND, Thường trực HĐND, các Ban
của HĐND tỉnh là nhiệm vụ trước mắt và lâu dài, có như vậy mới đáp ứng được
yêu cầu nhiệm vụ.
Hiện nay, biên chế của Văn phòng HĐNND tỉnh là 24 công chức, số lượng
88
công chức giúp việc trực tiếp cho Thường trực HĐND và các Ban của HĐND là
07 người. Số lượng quá ít trong khi nhiệm vụ lại rất nặng nề, phức tạp. Do vậy,
để làm tốt công tác tham mưu, giúp việc đòi hỏi phải tăng cường đội ngũ chuyên
viên cả về số lượng và chất lượng.
Để nâng cao năng lực phục vụ tốt hoạt động của HĐND, nhất là trong lĩnh
vực kinh tế lĩnh vực có phạm vi rộng, phức tạp, nhiều nội dung chuyên môn
đặc thù, cần có kiến thức, đào tạo chuyên ngành, chuyên sâu, để hiểu và nắm
bắt đầy đủ nội dung đòi hỏi phải có thời gian đầu tư, nghiên cứu, so sánh đối
chiếu, đòi hỏi mỗi chuyên viên phải không ngừng phát huy tính chủ động,
sáng tạo trong mọi hoạt động. Chủ động công tác tham mưu giúp việc là một
yếu tố rất quan trọng và cần thiết cho Thường trực HĐND và các Ban hoạch
định nội dung công việc kịp thời và có căn cứ khoa học, góp phần giải quyết
công việc nhanh chóng, hiệu quả.
Văn phòng HĐND tỉnh là cơ quan trực tiếp tham mưu, giúp việc và phục
vụ hoạt động của HĐND, Thường trực HĐND và các Ban của HĐND tỉnh.
Để đảm bảo tham mưu cho hoạt động giám sát của HĐND nói chung và giám
sát trong lĩnh vực tế nói riêng cần phải nâng cao năng lực hoạt động của bộ
máy tổ chức Văn phòng, thường xuyên kiện toàn bộ máy tổ chức theo hướng
tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả; nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho đội
ngũ cán bộ, công chức; có nhiều chính sách thu hút người tài; có kế hoạch đào
tạo, bồi dưỡng hàng năm; đồng thời trang bị đầy đủ các điều kiện về cơ sở vật
chất, phương tiện và các trang thiết bị làm việc, quan tâm đến đời sống vật
chất cũng như tinh thần của CBCC để họ yên tâm công tác.
3.4 Đổi mới về hình thức và phương pháp giám sát
Mỗi hình thức giám sát có những ưu điểm, nhược điểm nhất định đòi
hỏi tổ chức, cá nhân thực hiện nhiệm vụ phải lựa chọn phương pháp phù hợp,
linh hoạt và sáng tạo. Đổi mới về hình thức và phương pháp trong giám sát,
89
không thể dùng ý chí chủ quan để quyết định vấn đề. Luật giám sát của Quốc
hội và Hội đồng nhân dân năm 2015 quy định cụ thể về thời gian, trình tự,
thủ tục trong hoạt động giám sát. Như vậy, căn cứ vào nội dung, thời gian,
tình hình thực tế của cơ quan, tổ chức, cá nhân cần đến giám sát, có thể chọn
một hoặc sử dụng nhiều phương pháp giám sát cho phù hợp nhằm đạt chất
lượng, mang lại hiệu quả cao.
3.4.1 Đổi mới hoạt động của đoàn giám sát
Giám sát bằng hình thức thành lập Đoàn giám sát của Thường trực
HĐND, Ban Kinh tế và Ngân sách HĐND tỉnh là hoạt động trọng tâm trong
giám sát lĩnh vực tài chính ngân sách. Thành viên Đoàn giám sát phải bao
gồm những người có trình độ chuyên môn đáp ứng yêu cầu, am hiểu lĩnh vực
kinh tế và tâm huyết với công việc, có bộ phận giúp việc. Đoàn giám sát phải
có kế hoạch cụ thể, xác định nội dung, phạm vi, thời gian, đối tượng giám sát.
Trong trường hợp cần thiết, Đoàn giám sát mời sự tham gia của các chuyên
gia trên lĩnh vực kinh tế, hợp đồng các chuyên gia tiến hành giám sát một số
nội dung theo yêu cầu.
Để thực hiện giám sát trong lĩnh vực kinh tế có hiệu quả, Thường trực
HĐND tỉnh cần triển khai và chỉ đạo Văn phòng HĐND tỉnh thực hiện tốt các
nội dung sau
Bước 1. Chọn nội dung giám sát
90
Theo quy định, Thường trực Hội đồng nhân dân quyết định chương trình giám sát hằng năm của mình căn cứ vào chương trình giám sát của Hội đồng nhân dân và ý kiến của các thành viên Thường trực Hội đồng nhân dân, đề nghị của các Ban của Hội đồng nhân dân, đại biểu Hội đồng nhân dân, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp và ý kiến, kiến nghị của cử tri ở địa phương. Chậm nhất là 05 ngày trước ngày khai mạc kỳ họp cuối năm của Hội đồng nhân dân, các Ban của Hội đồng nhân dân, đại biểu Hội đồng nhân dân, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp gửi đến Thường trực Hội đồng
nhân dân đề nghị giám sát đưa vào chương trình giám sát của Thường trực Hội đồng nhân dân.
Để thực hiện bước này, trước ngày khai mạc kỳ họp cuối năm HĐND tỉnh khoảng 01 tháng, Văn phòng HĐND tỉnh phải có văn bản gửi đến các đối tượng nêu trên để chuẩn bị và gửi nội dung đề nghị giám sát cho năm sau. Để công tác tổng hợp nhanh chóng, đầy đủ nội dung, trong công văn này yêu cầu rõ ngày cuối cùng (trước ngày khai mạc kỳ họp khoảng 10 ngày) các đối tượng phải gửi nội dung giám sát về Thường trực HĐND tỉnh. Nội dung đề nghị giám sát phải nêu rõ sự cần thiết, nội dung, phạm vi, đối tượng giám sát.
Thường trực Hội đồng nhân dân xem xét quyết định chương trình giám sát hằng năm. Chương trình giám sát hằng năm được Thường trực HĐND tỉnh xem xét quyết định chậm nhất là 15 ngày, kể từ ngày bế mạc kỳ họp cuối năm trước.
Bước 2: Thu thập thông tin, chuẩn bị lên kế hoạch giám sát:
Để Thường trực HĐND có căn cứ xem xét, quyết định, trên cơ sở các ý kiến gửi về, Văn phòng HĐND tỉnh kịp thời tham mưu, tổng hợp trình Thường trực HĐND chọn một số nội dung mang tính nổi cộm, bức xúc xảy ra trên địa bàn tỉnh để đưa vào chương trình giám sát. Muốn làm tốt công tác này, Thường trực HĐND, Văn phòng HĐND tỉnh tạo điều kiện cho công chức tham mưu có nhiều thông tin, ở nhiều lĩnh vực khác nhau; hướng thông tin đặc biệt chú ý là các phóng sự, bài báo có nội dung liên quan đến nội dung chuẩn bị giám sát. Trong nội dung đề nghị giám sát, Văn phòng HĐND tỉnh phải nêu rõ sự cần thiết, nội dung, phạm vi, đối tượng giám sát để thuyết phục Thường trực HĐND chấp nhận đưa vào nội dung giám sát.
91
Hiệu quả của cuộc giám sát phụ thuộc rất nhiều vào công tác chuẩn bị; vì vậy xây dựng kế hoạch và lựa chọn hình thức giám sát phù hợp là điều kiện để đảm bảo thế chủ động cho Thường trực HĐND khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình. Hơn thế, giám sát trong lĩnh vực kinh tế là công việc khó khăn và phức tạp đòi hỏi sự tinh tế và nhạy bén, nếu không có kế hoạch nghiên cứu trước các đối tượng được giám sát thì rất dễ rơi vào hình
thức. Do đó, khi xây dựng kế hoạch giám sát phải có trọng tâm, trọng điểm, nội dung giám sát cần tập trung vào những vấn đề thiết thực, bức xúc tại địa phương, được đông đảo cử tri quan tâm.
Để tham mưu, giúp việc đoàn giám sát, trên cơ sở thống nhất với Trưởng đoàn giám sát, Chánh Văn phòng HĐND tỉnh có thể Quyết định thành lập Tổ giúp việc hoặc bộ phận giúp việc (sau đây gọi chung là tổ giúp việc); xác định nhiệm vụ của tổ giúp việc, phân công nhiệm vụ cụ thể phục vụ đoàn giám sát. Ở bước này công việc quan trọng nhất là tổ giúp việc phải hình thành đề cương phác thảo, nhanh chóng tiến hành thu thập các thông tin, tài liệu liên quan đến nội dung giám sát. Nhiệm vụ trọng tâm là quan sát, lắng nghe, biết nắm bắt kịp thời những thông tin liên quan đến nội dung giám sát trên nhiều kênh thông tin như báo, đài, thực tế diễn ra tại địa phương... Hình thành sơ bộ và chi tiết về những nội dung chính, những nội dung liên quan cần đề cập đến nội dung giám sát. Nếu nội dung giám sát mang tính nhạy cảm, ảnh hưởng trực tiếp đến nhiều đối tượng, tổ giúp việc có thể tham mưu Thường trực HĐND tỉnh thành lập đoàn khảo sát đi thực tế để nắm tình hình, sau đó mới xây dựng kế hoạch, đề cương giám sát chi tiết.
Bước 3: Thành lập đoàn giám sát, xây dựng kế hoạch, đề cương giám
sát
92
Thành lập đoàn giám sát: Căn cứ vào chương trình giám sát, Văn phòng tham mưu Thường trực HĐND tỉnh ban hành quyết định thành lập đoàn giám sát. Xác định rõ Trưởng đoàn, Phó Trưởng đoàn, danh sách các thành viên khác. Đoàn giám sát có thể mời một số cơ quan, đơn vị liên quan tham gia hoạt động của đoàn. Theo quan sát nhận thấy, số lượng thành viên đoàn giám sát không nên quá đông (đề nghị dưới 15 người); chỉ nên mời những đại biểu am hiểu về nội dung giám sát. Giám sát đối với lĩnh vực kinh tế, Thường trực HĐND tỉnh có thể thuê chuyên gia giúp việc để có điều kiện giám sát sâu hơn những lĩnh vực chuyên môn. Đồng thời phải xác định cụ thể đối tượng, phạm vi, nội dung, kế hoạch, thành phần đoàn giám sát và cơ quan, đơn vị, địa phương, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát.
Xác định phương thức hoạt động của đoàn giám sát: Hoạt động của đoàn giám sát có nhiều hình thức, có thể tổ chức các cuộc họp, cuộc làm việc với cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát hoặc tổ chức các đoàn công tác đến các địa phương, đến các đối tượng chịu ảnh hưởng hoặc tổ chức hội thảo, tọa đàm để lấy ý kiến, thu thập thông tin phục vụ các hoạt động của đoàn giám sát. Tùy theo tính chất, nội dung giám sát mà Thường trực HĐND tỉnh có các hình thức giám sát phù hợp. Bằng kinh nghiệm Thường trực HĐND tỉnh nhận thấy, tăng cường giám sát bằng việc đi thực tiễn, qua đó sẽ nắm bắt cụ thể tình hình triển khai thực hiện, sau đó mới tiến hành giám sát. Có như vậy, các kiến nghị sau giám sát sẽ sát với thực tế và mang tính khả thi cao hơn.
Xây dựng kế hoạch giám sát chi tiết: - Chậm nhất là 15 ngày trước ngày đoàn đến làm việc với các cơ quan, đơn vị, Thường trực HĐND tỉnh phát hành kế hoạch giám sát. Kế hoạch giám sát nên ban hành sớm để các thành viên đoàn giám sát bố trí thời gian, thu thập thông tin, nghiên cứu tài liệu; cơ quan, đơn vị được giám sát có thời gian chuẩn bị kỹ báo cáo, tài liệu phục vụ đoàn giám sát.
- Kế hoạch giám sát chi tiết gồm: Xác định rõ mục đích, yêu cầu; trách nhiệm và thời hạn thực hiện các công việc như xây dựng đề cương báo cáo của các cơ quan chịu sự giám sát, đề cương báo cáo kết quả giám sát của đoàn; gửi văn bản yêu cầu báo cáo đến các cơ quan, đơn vị có liên quan; chuẩn bị các điều kiện bảo đảm cho đoàn giám sát. Điều đặc biệt quan trọng ở giai đoạn này là thu thập tài liệu, thông tin liên quan (bao gồm các văn bản quy định của Trung ương, địa phương; các thông tin của cử tri; phản ánh của các báo đài …). Thường trực HĐND tỉnh có thể tổ chức cuộc họp triển khai công tác của đoàn giám sát. Đồng thời xác định rõ cách thức tiến hành; địa điểm, nội dung, chương trình làm việc, người chủ trì; yêu cầu về phục vụ tài liệu, thông tin, truyền thông.
93
- Xây dựng đề cương báo cáo của các cơ quan, đơn vị chịu sự giám sát: Để có nội dung thực hiện giám sát và báo cáo kết quả sau giám sát, việc xây dựng đề cương báo cáo là rất quan trọng. Có đề cương báo cáo chi tiết, cụ thể
tức là đã hoàn thành 50% nhiệm vụ giám sát. Thật vậy, vì đề cương báo cáo là trục chính để đoàn giám sát tìm hiểu, khai thác, giám sát những nội dung, công việc triển khai đối với các đối tượng chịu sự giám sát. Đề cương báo cáo của các cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát gồm những nội dung chính sau đây: Thực trạng của cơ quan, đơn vị, địa phương (đối tượng chịu sự giám sát) trong việc triển khai nội dung giám sát; chủ trương, mục tiêu, yêu cầu cụ thể của cơ quan nhà nước cấp trên về nội dung giám sát; tình hình thực hiện chính sách, pháp luật về nội dung giám sát, cụ thể như việc ban hành các văn bản liên quan, công tác tổ chức triển khai thực hiện; kết quả đạt được, có số liệu báo cáo cụ thể, có so sánh với yêu cầu đặt ra; những hạn chế, bất cập; nguyên nhân; trách nhiệm của tập thể, cá nhân có liên quan; các kiến nghị của đối tượng chịu sự giám sát và những phụ lục, biểu bảng kèm theo để chứng minh số liệu trong báo cáo v.v… Đề cương báo cáo được ban hành cùng với quyết định thành lập đoàn giám sát, kế hoạch giám sát.
Sau khi hoàn thành việc gửi các văn bản liên quan đến nội dung giám sát, Thường trực HĐND tỉnh chỉ đạo tổ giúp việc tiếp tục thu thập, cung cấp thông tin, tài liệu cho thành viên đoàn giám sát; đôn đốc các cơ quan, đơn vị gửi báo cáo đảm bảo thời gian, nội dung theo yêu cầu. Nếu báo cáo của các cơ quan, đơn vị chịu sự giám sát chưa đáp ứng yêu cầu, tổ giúp việc yêu cầu cơ quan, đơn vị hoàn chỉnh lại báo cáo và gửi lại đảm bảo thời gian quy định. Kinh nghiệm cho thấy, làm tốt công tác này thì khi tiến hành giám sát chất lượng các buổi làm việc sẽ được nâng lên; sau các buổi làm việc các báo cáo của các cơ quan, đơn vị chịu sự giám sát không phải viết lại.
Bước 4: Tổ chức các cuộc làm việc với các cơ quan, đơn vị chịu sự giám
sát; cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan
94
Đoàn giám sát tổ chức các buổi làm việc với các cơ quan, tổ chức có liên quan. Các buổi làm việc của đoàn giám sát được tiến hành theo trình tự: Văn phòng tuyên bố lý do, giới thiệu thành phần tham dự; Trưởng hoặc Phó đoàn chủ trì buổi làm việc; cơ quan chịu sự giám sát trình bày báo cáo; thành viên đoàn giám sát đặt câu hỏi; cơ quan chịu giám sát trả lời những nội dung theo yêu cầu của Đoàn giám sát; người được mời tham gia phát biểu. Chủ trì phát
biểu kết luận buổi làm việc về các nội dung: công tác chuẩn bị báo cáo của cơ quan chịu sự giám sát, những nội dung đã thảo luận, những hạn chế, những vấn đề cần khắc phục, những vấn đề cần báo cáo bổ sung làm rõ, những nội dung liên quan khác …
Ở bước này cần chỉ đạo tổ giúp việc thực hiện các công việc sau: - Nghiên cứu trước các báo cáo và tham mưu chủ trì kết luận những nội
dung cơ bản tại buổi làm việc với đơn vị chịu sự giám sát.
- Tại các buổi làm việc, tổ giúp việc theo dõi, ghi chép đầy đủ những ý kiến phát biểu; nhất là những tồn tại, kiến nghị của cơ quan chịu sự giám sát; sắp xếp và đưa những ý kiến được phát biểu và kết luận của chủ trì vào dự thảo báo cáo kết quả sau giám sát. Làm tốt việc này thì các kiến nghị sau giám sát sẽ đầy đủ, không bị sót ý và công tác xây dựng báo cáo sau giám sát sẽ nhanh hơn.
Bước 5: Báo cáo kết quả sau giám sát Theo quy định, sau khi kết thúc hoạt động giám sát, chậm nhất là 15 ngày, đoàn giám sát phải phát hành báo cáo kết quả sau giám sát. Báo cáo kết quả sau giám sát gồm những nội dung chính: Tình hình hoạt động của đoàn giám sát. Thực trạng tại cơ quan, đơn vị, địa phương trước khi triển khai thực hiện chính sách. Mục tiêu, yêu cầu của nội dung chính sách. Phân tích, đánh giá tình hình thực hiện chính sách về nội dung giám sát như công tác ban hành các văn bản liên quan, công tác triển khai tổ chức thực hiện. Kết quả đạt được, chỉ tiêu, số liệu liên quan, có so sánh yêu cầu đặt ra; những hạn chế, nguyên nhân (khách quan, chủ quan); trách nhiệm của tập thể, cá nhân có liên quan. Những kiến nghị của đoàn giám sát và những phụ lục, biểu mẫu kèm theo.
95
Ở bước này, trên cơ sở đề cương báo cáo, Tổ giúp việc nghiên cứu, tổng hợp, giúp trưởng đoàn giám sát xây dựng dự thảo báo cáo và nghị quyết (nếu cần thiết). Tham mưu trưởng đoàn giám sát quyết định việc tổ chức họp hoặc xin ý kiến bằng văn bản đối với các thành viên đoàn giám sát, các cơ quan, đơn vị có liên quan về báo cáo hoặc dự thảo nghị quyết. Sau đó bộ phận giúp việc chỉnh lý, hoàn thiện báo cáo trình trưởng đoàn giám sát ký phát hành.
Yêu cầu quan trọng của bước này là báo cáo phát hành phải đảm bảo thời gian, công tác tổng hợp, xây dựng báo cáo phải đầy đủ, chính xác. Qua nhiều cuộc giám sát cho thấy, do công tác rà soát trước các báo cáo của các cơ quan, đơn vị chịu sự giám sát của tổ giúp việc chưa chặt chẽ, chưa kiên quyết, nên phần lớn sau các buổi làm việc, các cơ quan, đơn vị chịu sự giám sát phải hoàn chỉnh lại báo cáo, đã ảnh hưởng đến tiến độ xây dựng báo cáo của đoàn giám sát. Để không mất nhiều thời gian chờ đợi sau giám sát, tại các buổi làm việc, đồng chí trưởng đoàn giám sát có kết luận và yêu cầu thời gian hoàn chỉnh các báo cáo (khoảng 2-3 ngày sau giám sát) của các cơ quan, đơn vị chịu sự giám sát. Trên cơ sở đó, Văn phòng đôn đốc thu nhận báo cáo để tham mưu xây dựng báo cáo của đoàn giám sát.
Bước 6: Xem xét việc thực hiện các kiến nghị sau giám sát Trong nhiệm kỳ 2011-2016, Thường trực HĐND tỉnh phát hành công văn yêu cầu các cơ quan, đơn vị liên quan chịu sự giám sát báo cáo việc thực hiện các kiến nghị sau giám sát. Sau thời gian thực hiện nhận thấy việc ban hành công văn như lâu nay chưa đáp ứng yêu cầu giám sát của Thường trực HĐND tỉnh. Do đó, Thường trực HĐND tỉnh sẽ ban hành kế hoạch, đề cương báo cáo việc thực hiện các kiến nghị sau giám sát. Trong kế hoạch nêu rõ mục đích, yêu cầu, cơ quan, tổ chức cá nhân phải báo cáo; thời hạn nộp báo cáo; yêu cầu báo cáo đầy đủ việc thực hiện những kiến nghị sau giám sát; những tồn tại, vướng mắc; nguyên nhân, giải pháp, kiến nghị và cam kết thực hiện trong thời gian tới nếu chưa hoàn thành các yêu cầu, kiến nghị của đoàn giám sát v.v…
Thời hạn phát hành kế hoạch đề cương báo cáo việc thực hiện các kiến nghị sau giám sát vào khoảng đầu tháng 6 (yêu cầu báo cáo kết quả thực hiện 6 tháng cuối năm trước) và vào đầu tháng 11 hàng năm (yêu cầu báo cáo kết quả thực hiện 6 tháng đầu năm hiện tại). Trên cơ sở đó, chỉ đạo Văn phòng HĐND tỉnh tổng hợp, tham mưu Thường trực HĐND tỉnh báo cáo HĐND tỉnh tại các kỳ họp thường lệ trong năm.
Ngoài việc phát hành kế hoạch đề cương báo cáo việc thực hiện các kiến
96
nghị sau giám sát thì trong khoảng thời gian từ sau thực hiện giám sát đến khi
nhận báo cáo kết quả thực hiện của các đối tượng chịu sự giám sát, Thường
trực HĐND tỉnh chỉ đạo thành viên đoàn giám sát, phòng tổng hợp và tổ giúp
việc phải thường xuyên theo dõi , đôn đốc việc thực hiện các kết luận giám
sát; xác định rõ trách nhiệm của các cá nhân, tổ chức trong việc chấp hành các
kiến nghị sau giám sát của HĐND tỉnh. Làm được như vậy thì khi thẩm tra
báo cáo kết quả thực hiện các kiến nghị sau giám sát của đoàn giám sát đối
với đối tượng chịu sự giám sát mới phù hợp thực tế và mới hiệu quả.
Ngoài ra, cần đề cao trách nhiệm của trưởng đoàn giám sát và các thành viên trong đoàn, thực hiện chế độ làm việc phân công, phân nhiệm, kiểm tra, đôn đốc, sơ kết, tổng kết; biểu dương, khen thưởng,... Trưởng đoàn giám sát và các thành viên phải có một số kỹ năng cần thiết. Trưởng đoàn phải chú ý khai thác tốt năng lực chuyên môn và kinh nghiệm của thành viên, tạo cho họ hứng thú làm việc và thấy rõ lợi ích đem lại, có thái độ tôn trọng, lắng nghe và chia sẻ với đối tượng giám sát, phối hợp xử lý tốt các vấn đề nảy sinh trong quá trình giám sát.
3.4.2 Đổi mới hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn
Để nâng cao hiệu quả chất vấn về lĩnh vực kinh tế tại kỳ họp HĐND tỉnh
Phú Yên, cần thực hiện tốt các yêu cầu sau: Thứ nhất, đối với đại biểu HĐND tỉnh Nâng cao hơn nữa năng lực, trách nhiệm, tính tích cực của đại biểu HĐND trong hoạt động chất vấn, không ngừng rèn luyện, bồi dưỡng kỹ năng chất vấn, gồm: kỹ năng lựa chọn vấn đề đưa ra chất vấn; lựa chọn ngôn ngữ đối thoại trong chất vấn,... phản ảnh thông tin chất vấn phải ngắn gọn, mạch lạc, rõ ràng, dễ hiểu. Nội dung đưa ra chất vấn tại kỳ họp phải là những vấn đề có tính bức xúc, có tầm ảnh hưởng lớn, được đông đảo cử tri quan tâm; có ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của nhân dân.
97
Để việc chất vấn đạt hiệu quả cao, các đại biểu cần nghiên cứu kỹ các văn bản liên quan về lĩnh vực kinh tế, ngân sách nhà nước, các quy định pháp luật, báo cáo kết quả giải quyết những vấn đề cử tri và đại biểu kiến nghị đến
kỳ họp liên quan đến phiên chất vấn và cần nắm rõ chức năng, nhiệm vụ và thẩm quyền giải quyết của các ngành, các cấp để những câu hỏi chất vấn và những kiến nghị của đại biểu sát thực, đúng địa chỉ. Tại phiên chất vấn, nếu người trả lời chất vấn giải trình chưa rõ thì cần tranh luận, chất vấn đến cùng.
Thứ hai, đối với người trả lời chất vấn Trả lời chất vấn là vấn đề đặc biệt quan trọng, có tính quyết định đối với hiệu quả và ý nghĩa của quyền chất vấn. Vì vậy, việc trả lời chất vấn của đại biểu phải tuân thủ những yêu cầu có tính nguyên tắc, được bảo đảm về mọi mặt như trình tự, thủ tục, thời gian, hình thức chất vấn, ... Người trả lời chất vấn phải trả lời tất cả các ý kiến mà cử tri và đại biểu phản ánh. Nội dung trả lời phải trọng tâm, ngắn gọn, không phân tích viện dẫn các lý do dài dòng; những vấn đề đại biểu, cử tri phản ánh không đúng hoặc chỉ đúng một phần thì đưa ra cơ sở chứng minh, đồng thời tư vấn cách tiếp cận và phản ánh thông tin chuẩn xác hơn. Trong quá trình chất vấn, những vấn đề cử tri và đại biểu phê bình về tinh thần trách nhiệm, tiến độ giải quyết chậm, thì bình tĩnh nêu rõ tình hình, những vướng mắc khó khăn trong quá trình giải quyết. Tiếp thu nghiêm túc, có thái độ cầu thị, làm rõ trách nhiệm cá nhân, trách nhiệm tập thể. Nếu hứa giải quyết vấn đề nào đó cần nêu rõ phương án, lộ trình thực hiện cụ thể để đại biểu và cử tri giám sát. Người trả lời chất vấn phải đúng thẩm quyền theo quy định của pháp luật, trường hợp có lý do chính đáng mới ủy quyền cho cấp phó trả lời thay và phải được HĐND đồng ý.
98
Thứ ba, chủ tọa kỳ họp Chủ tọa kỳ họp là người trung tâm trong quá trình chất vấn, chủ tọa phải biết tìm cách gợi mở để các đại biểu tham gia chất vấn trực tiếp tại hội trường. Đồng thời, chủ tọa cũng phải biết cách dừng đúng lúc khi việc hỏi và trả lời quá nóng hoặc quá lan man không đi đúng trọng tâm. Phát huy vị trí, vai trò của người điều hành để bảo đảm cho các phiên chất vấn được thực hiện dân chủ, cởi mở, thẳng thắn với tinh thần trách nhiệm cao của đại biểu cũng như của người chất vấn. Trong mỗi vấn đề chất vấn, chủ tọa có thể đề nghị đại biểu đưa ra các chứng cứ cụ thể để chứng minh và cũng cần kiên quyêt đối với tình trạng lạm dụng diễn đàn, chất vấn với động cơ cá nhân, gây không
khí căng thẳng làm giảm tác dụng của chất vấn. Những vấn đề nêu ra, chủ tọa phải kịp thời nắm bắt và thể hiện được chính kiến, thẳng thắn, cụ thể, công tâm, khách quan. Tất cả các vấn đề đưa ra tranh luận cuối cùng phải được kết luận rõ ràng, phân minh. Kết luận chủ tọa tại phiên chất vấn nêu ngắn gọn, đánh giá và nhận xét tóm tắt những nội dung đã đạt được và chưa đạt được trong quá trình chất vấn và trả lời chất vấn. Những vấn đề đã được tiếp nhận để giải quyết phải được theo dõi, từng bước giải quyết dứt điểm, như thế mới tăng cường được trách nhiệm của cơ quan giải quyết, mới thỏa mãn tâm nguyện chính đáng của đại biểu kiến nghị, chất vấn.
3.5 Tăng cường mối quan hệ phối hợp giám sát giưa các cấp, các
ngành và các tổ chức đoàn thể
Hoạt động giám sát của HĐND tỉnh Phú Yên nói chung và giám sát trong lĩnh vực kinh tế nói riêng nhiệm kỳ 2011 - 2016 và từ đầu nhiệm kỳ 2016 - 2021 đã không ngừng cải tiến, đổi mới và từng buớc được nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả trên tất cả các mặt, góp phần phát triển kinh tế xã hội - xã hội, quốc phòng an ninh của địa phương. HĐND tỉnh Phú Yên khẳng định được vai trò, vị trí là cơ quan quyền lực nhà nước tại địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân. Đạt được kết quả đó, trước hết là nhờ sự quan tâm, chỉ đạo của cấp ủy đảng, sự nổ lực, quyết tâm cao của cả tập thể HĐND, Thường trực HĐND, các Ban của HĐND và Văn phòng HĐND tỉnh và sự tham gia tích cực của cả hệ thống chính trị; trong đó phải kể đến sự đóng góp tích cực to lớn của UBND, UBMTTQ Việt Nam tỉnh.
Để giám sát của HĐND tỉnh trong lĩnh vực kinh tế có hiệu quả, một trong những biện pháp quan trọng là cần phải tăng cường sự phối hợp hoạt động giám sát với các cơ quan có liên quan.
3.5.1 Tăng cường phối hợp giám sát với các cơ quan dân cử ở Trung
ương và địa phương
99
Phối hợp giám sát với các đoàn giám sát của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội khi các cơ quan này về tỉnh công tác hoặc chủ động tiến hành giám sát và gửi
báo cáo kết quả theo đề nghị phối hợp của các cơ quan này là hoạt động rất quan trọng. Việc phối hợp được thực hiện tốt không chỉ góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát của Quốc hội mà còn tránh được chồng chéo trong hoạt động giám sát. Chính vì vậy, tăng cường và tranh thủ mối quan hệ phối hợp này.
3.5.2 Tăng cường phối hợp với Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
tỉnh
Thường trực HĐND tỉnh cần tích cực, chủ động phối hợp với Ban Thường trực MTTQ tỉnh trong việc xây dựng chương trình, kế hoạch giám sát. Để nâng cao chất lượng các cuộc giám sát, khi xây dựng chương trình giám sát Thường trực HĐND phối hợp với UBND, Ủy ban MTTQ tỉnh và các cơ quan liên quan bàn bạc, thống nhất lựa chọn các nội dung giám sát mang tính chiến lược, có trọng tâm, có tính thời sự và thống nhất. Trên cơ sở đó, việc xây dựng chương trình giám sát được tiến hành sớm hơn.
Trong quá trình giám sát mời đại diện Ủy ban MTTQ tỉnh tham gia, thường xuyên trao đổi thông tin về kết quả hoạt động giám sát; về các ý kiến, kiến nghị của cử tri để phục vụ cho hoạt động giám sát. Để hoạt động giám sát có hiệu quả, HĐND tỉnh phải làm tốt công tác phối hợp để thu thập thông tin, dư luận xã hội qua kênh của Ủy ban MTTQ tỉnh về nội dung giám sát.
Phối hợp với Ủy ban MTTQ tỉnh tuyên truyền để nâng cao nhận thức cho các cấp, các ngành về hoạt động giám sát của HĐND, về chức năng nhiệm vụ của Thường trực HĐND, các Ban của HĐND. Có nhận thức đầy đủ về hoạt động giám sát của HĐND, các đơn vị mới tạo điều kiện để đoàn giám sát đạt kết quả tốt.
3.5.3 Tăng cường phối hợp với Ủy ban nhân dân tỉnh
100
UBND tỉnh là cơ quan chấp hành của HĐND tỉnh, là đối tượng chịu sự giám sát của HĐND tỉnh. Về mặt pháp lý, không đặt ra vấn đề phối hợp giám sát nhưng trên thực tế, UBND tỉnh là cơ quan phối hợp giám sát có hiệu quả, nhất là việc phối hợp để cung cấp báo cáo, thông tin, tài liệu phục vụ cho hoạt
động giám sát, chỉ đạo các cơ quan chuyên môn của UBND và cơ quan hành chính cấp dưới trong việc thực hiện kết luận, kiến nghị của HĐND tỉnh.
Hiệu lực, hiệu quả phụ thuộc rất lớn vào việc xử lý kịp thời, đầy đủ các kết luận, kiến nghị qua giám sát của Thường trực HĐND, các Ban HĐND. Để đảm bảo cho việc xử lý kiến nghị sau giám sát, đoàn giám sát và UBND tỉnh cần trao đổi thẳng thắn những vấn đề cần kiến nghị qua giám sát, trước khi có kết luận chính thức. Từ đó sẽ tạo ra sự thống nhất cao trong quá trình giải quyết kiến nghị sau giám sát; những ý kiến, kết luận, kiến nghị qua giám sát của Thường trực và các Ban, cần phải được tổng hợp và lựa chọn những nội dung trọng yếu, bức xúc, những vướng mắc cơ chế, chính sách, trên cơ sở đó phối hợp với UBND tỉnh tìm cách tháo gỡ, giải quyết. Bên cạnh đó, chủ động phối hợp với UBND chỉ đạo, kiểm tra các cơ quan liên quan trong việc thực hiện các kiến nghị của HĐND tỉnh.
3.6 Bảo đảm các điều kiện cho Hội đồng nhân dân trong hoạt động
giám sát
3.6.1 Bảo đảm cung cấp đầy đủ thông tin cần thiết cho hoạt động
giám sát
Đảm bảo yêu cầu về thông tin: Trong yêu cầu hội nhập và phát triển hiện
nay, nhu cầu thông tin đóng vai trò vô cùng quan trọng. Vì vậy, các đại biểu
HĐND, các cơ quan thường trực của HĐND muốn thực hiện tốt chức năng của
mình thì nhu cầu được đảm bảo về thông tin là một yêu cầu lớn, cần phải được
hỗ trợ một cách đầy đủ nhất.
Phải cung cấp thông tin đầy đủ, kịp thời các Nghị quyết của đảng, văn bản
pháp luật liên quan đến công tác giám sát. Các tài liệu liên qua đến giám sát
phải gửi trước cho đại biểu để đại biểu có thời gian nghiên cứu, phân tích, đối
chiếu thông tin một cách kỹ lưỡng.
Để tăng nguồn thông tin trong thời gian chuẩn bị và diễn ra kỳ họp, HĐND
nên phát huy hiệu quả đường dây nóng. Thu thập thông tin bằng phương pháp
101
này giúp HĐND nắm được những bức xúc của cử tri, kịp thời giải quyết, tránh
hiện tượng xảy ra điểm nóng, làm ảnh hưởng đến ổn định an ninh, chính trị địa
phương.
Ứng dụng khoa học, công nghệ vào hoạt động HĐND tỉnh như đưa tài liệu
phục vụ kỳ họp, tài liệu phục vụ giám sát lên trang thông tin điện tử của HĐND
nhằm chuyển tải tài liệu đến đại biểu được nhanh chóng và thuận lợi cho việc tra
cứu tài liệu.
3.6.2 Bảo đảm điều kiện vật chất cần thiết cho hoạt động giám sát
Đảm bảo về kinh phí và cơ sở vật chất cho hoạt động giám sát: Kinh phí do ngân sách nhà nước cấp cho hoạt động của HĐND có vai trò rất quan trọng. Đó là điều kiện cần thiết bảo đảm cho cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương thực hiện chức năng, nhiệm vụ theo Luật định, góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội. Với vai trò quan trọng như vậy, HĐND tỉnh Phú Yên cần bảo đảm kinh phí hoạt động tốt nhất cho hoạt động giám sát. Đối với đại biểu HĐND tỉnh, ngoài chế độ hoạt động phí hàng tháng tính bằng 0,5 mức lương tối thiểu, hiện nay, HĐND tỉnh ban hành nghị quyết về chi tiêu đặc thù của HĐND các cấp tỉnh Phú Yên, đại biểu khi tham gia giám sát được hưởng mức phụ cấp 100.000 đồng/ngày đã kịp thời động viên, khuyến khích các đại biểu trong công tác giám sát. Ngoài ra, cần bảo đảm cơ sở vật chất cho hoạt động giám sát như trang thiết bị làm việc, phương tiện đi lại, thông tin liên lạc,...
Tóm lại, các nhóm giải pháp nói trên đều rất cần thiết, mỗi giải pháp có
một vai trò vị trí riêng, khó có thể đánh giá giải pháp nào quan trọng nhất.
Tuy nhiên, chúng chỉ đem lại hiệu quả thực sự nếu được tiến hành một cách
đồng bộ, hợp lý và kiên quyết, trên cơ sở quán triệt các quan điểm chỉ đạo cơ
bản của Đảng và Nhà nước đối với công tác nâng cao hiệu quả giám sát của
102
HĐND cấp tỉnh hiện nay.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 3
Thực hiện tốt chức năng giám sát là một trong những yếu tố quan trọng
nhất để nâng cao hiệu quả hoạt động của HĐND. Điều này đã được nhấn
mạnh trong văn kiện Đại hội VIII của Đảng “Nâng cao chất lượng, hiệu lực
và hiệu quả giám sát của Quốc hội và HĐND”.
Để thực hiện thực hiện chức năng giám sát của HĐND tỉnh nói chung
và giám sát trong lĩnh vực kinh tế nói riêng đối với các cơ quan, tổ chức, cá
nhân ở địa phương thi hành Hiến pháp, pháp luật thì các giải pháp cần xác
định trong luận văn đó là: Tiếp tục hoàn thiện cơ sở pháp lý để nâng cao hiệu
quả hoạt động của HĐND, đại biểu HĐND; đảm bảo sự lãnh đạo toàn diện của
Đảng đối với hoạt động của HĐND; nâng cao năng lực giám sát của các chủ
thể thực hiện chức năng giám sát như: năng lực của đại biểu HĐND, năng lực
của Thường trực HĐND, năng lực của Ban Kinh tế và ngân sách HĐND và
năng lực của Văn phòng HĐND tỉnh; đổi mới về hình thức và phương pháp
giám sát; tăng cường mối quan hệ phối hợp giữa các cấp, các ngành và các tổ
chức đoàn thể. Ngoài ra, để đảm bảo cho hoạt động giám sát đạt hiệu quả cần
phải đảm bảo đầy đủ các điều kiện cho HĐND trong hoạt động giám sát như:
cung cấp đầy đủ thông tin cần thiết và đảm bảo điều kiện vật chất phục vụ cho
hoạt động giám sát.
Các giải pháp nêu trên đều rất cần thiết, mỗi giải pháp có một vai trò, vị
trí riêng, khó có thể đánh giá giải pháp nào là quan trọng nhất. Tuy nhiên,
chúng chỉ đem lại hiệu quả thực sự nếu được tiến hành một cách đồng bộ, hợp
lý và kiên quyết, trên cơ sở quán triệt các quan điểm chỉ đạo cơ bản của đảng
và nhà nước đối với công tác nâng cao hiệu quả giám sát của HĐND cấp tỉnh
hiện nay.
Đối với HĐND tỉnh Phú Yên, để hoạt động giám sát của HĐND tỉnh và
103
nhất là giám sát trong lĩnh vực kinh tế đạt hiệu quả cần thực hiện đồng bộ các
giải pháp nêu trên và giải pháp nâng cao năng lực giám sát của đại biểu
HĐND, Thường trực HĐND, các Ban của HĐND tỉnh và bộ máy Văn phòng
là quan trọng nhất. Do vậy, trong thời gian tới tiếp tục tăng cường hơn nữa
việc đào tạo, bồi dưỡng đối với đại biểu HĐND và đội ngũ công chức tham
104
mưu, giúp việc hoạt động HĐND.
KẾT LUẬN
Trong giai đoạn tiếp tục thực hiện công cuộc đổi mới, đẩy mạnh sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế thì vấn đề nâng cao chất
lượng hoạt động của bộ máy nhà nước là yêu cầu hết sức cấp thiết. Theo qui
định của Hiến pháp và pháp luật thì HĐND cấp tỉnh giữ một vị trí hết sức
quan trọng, là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí,
nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, do nhân dân địa phương bầu ra,
chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên.
Nâng cao hoạt động giám sát của HĐND cấp tỉnh ở nước ta hiện nay
chính là nâng cao hoạt động của tổ chức cơ quan quyền lực nhà nước ở địa
phương; nâng cao chất lượng áp dụng luật và các văn bản pháp quy vào thực
tiễn cuộc sống nhằm thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển, nâng cao đời sống
vật chất tinh thần cho nhân dân, làm tròn nghĩa vụ của địa phương đối với cả
nước. Nghiên cứu và đề ra các giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả giám sát
của HĐND cấp tỉnh trong lĩnh vực kinh tế của HĐND cấp tỉnh nói chung và
tỉnh Phú Yên nói riêng có một ý nghĩa hết sức thiết thực trong quá trình đổi
mới tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước.
Trong những năm vừa qua, dưới sự lãnh đạo của Tỉnh ủy, HĐND tỉnh
Phú Yên đã có những cải cách hết sức quan trọng trong việc thực hiện chức
năng của mình. HĐND tỉnh đã đề ra những chủ trương, biện pháp quan trọng
thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương; đảm bảo quyền làm
chủ của nhân dân địa phương thông qua hoạt động giám sát các cơ quan nhà
nước. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, hoạt động của HĐND
tỉnh Phú Yên vẫn đang bộc lộ không ít tồn tại, hạn chế; do đó việc nâng cao
hiệu quả giám sát của HĐND tỉnh Phú Yên nhất là lĩnh vực kinh tế là vấn đề
105
đặt ra hết sức cần thiết trước yêu cầu và đòi hỏi của thực tiễn cuộc sống.
Xuất phát từ yêu cầu đó, tác giả đã lựa chọn đề tài “ Giám sát của HĐND
tỉnh Phú Yên trong lĩnh vực kinh tế” để làm luận văn thạc sĩ quản lý công. Luận
văn đã đi vào nghiên cứu các vấn đề khuôn khổ lý thuyết như: Cơ sở lý luận về
HĐND; khái niệm, các tiêu chí đánh giá hiệu quả giám sát của HĐND tỉnh Phú
Yên (Chương 1). Trên cơ sở khung lý thuyết này, luận văn đã đi vào khảo sát,
phân tích, đánh giá những thành tựu trong hoạt động của HĐND tỉnh Phú Yên
thời gian qua; chỉ ra những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân của những tồn tại,
hạn chế đó và vấn đề đặt ra đối với việc nâng cao hiệu quả giám sát của HĐND
tỉnh Phú Yên trong lĩnh vực kinh tế (Chương 2). Trên cơ sở các vấn đề lý luận ở
Chương 1, luận văn đã đưa ra một số giải pháp chủ yếu và những kiến nghị, đề
xuất nhằm nâng cao hiệu quả giám sát của HĐND tỉnh Phú Yên trong lĩnh vực
kinh tế (Chương 3). Những giải pháp mà luận văn đã nêu ra trên đây, nếu được
thực hiện một cách đồng bộ, chắc chắn sẽ góp phần nâng cao hiệu quả giám sát
của HĐND cấp tỉnh trong lĩnh vực kinh tế cũng như nâng cao chất lượng hoạt
động của HĐND tỉnh Phú Yên trong thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình,
106
góp phần xây dựng tỉnh Phú Yên ngày càng giàu đẹp, văn minh.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đảng Cộng sản Việt Nam, 2006. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ X. Hà Nội: Nxb Chính trị quốc gia.
2. Hồ Thị Hưng, 2006. Năng lực thực hiện chức năng giám sát của HĐND
tỉnhNghệ An trong giai đoạn hiện nay. Luận văn thạc sĩ luật. Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
3. Phạm Quang Hưng, 2007. Nâng cao hiệu quả giám sát của HĐND tỉnh
Hải Dương đối với quản lý hành chính về đất đai. Luận văn thạc sĩ luật.
Học viện quốc gia Hồ Chí Minh.
4. Trần Văn Mão, 2008. Chất lượng văn bản qui phạm pháp luật của
HĐND tỉnh Nghệ An. Luận văn thạc sĩ luật. Học viện Chính trị - Hành
chính quốc gia Hồ Chí Minh.
5. Nguyễn Thị Thanh Nhàn, 2007. Năng lực của đại biểu HĐND tỉnh Hà
tĩnh trong thực hiện chức năng quyết định. Luận văn thạc sĩ luật. Học
viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
6. Quốc hội, 2002. Luật Ngân sách Nhà nước năm 2002. Hà Nội: Nxb
Chính trị quốc gia.
7. Quốc hội, 2003. Luật Bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân năm 2003. Hà
Nội: Nxb Chính trị quốc gia.
8. Quốc hội, 2003. Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân
năm 2003. Hà Nội: Nxb Chính trị quốc gia.
9. Quốc hội, 2003. Luật hoạt động giám sát Quốc hội. Hà Nội, Nxb Chính
trị quốc gia.
10. Quốc hội, 2005. Quy chế hoạt động của Hội đồng nhân dân. Hà Nội:
Nxb Chính trị quốc gia.
107
11. Quốc hội, 2013. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Hà Nội: Nxb Chính trị quốc gia.
12. Quốc hội, 2015. Luật hoạt động giám sát của Quốc Hội và HĐND. Hà
Nội, Nxb Chính trị quốc gia.
13. Quốc hội, 2015. Luật ngân sách nhà nước năm 2015Nxb Chính trị quốc
gia.
14. Viện ngôn ngữ học, 2005. Từ điển bách khoa toàn thư, từ điển tiếng việt.
Đà Nẵng: Nxb Đà Nẵng.
15. Vơ Khánh Vinh (2003), Một số vấn đề chung về hiệu quả và việc nâng
cao hiệu quả giám sát việc thực hiện quyền lực nhà nước” Nxb Công an
nhân dân, Hà Nội.
16. Từ điển học sinh (1971), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
17. Từ điển Lepetitlasousse (1999), paris.
18. Từ điển bách khoa luật (1987), Mát xcơva.
19. Hội đồng nhân dân tỉnh Phú Yên, 2016. Báo cáo tổng kết hoạt động của
108
HĐND tỉnh Phú Yên nhiệm kỳ 2011-2016. Phú Yên.