VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
MAI THỊ KIM TUYẾT
HOÀN THIỆN CƠ CHẾ QUẢN LÝ CÁC TỔ CHỨC KHOA HỌC
CÔNG NGHỆ TRỰC THUỘC TỔ CHỨC KHOA HỌC VÀ CÔNG
NGHỆ HẠNG ĐẶC BIỆT: NGHIÊN CỨU TRƯỜNG HỢP
VIỆN NĂNG LƯỢNG NGUYÊN TỬ VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ
QUẢN LÝ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
HÀ NỘI, 2019
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
MAI THỊ KIM TUYẾT
HOÀN THIỆN CƠ CHẾ QUẢN LÝ CÁC TỔ CHỨC KHOA HỌC
CÔNG NGHỆ TRỰC THUỘC TỔ CHỨC KHOA HỌC VÀ CÔNG
NGHỆ HẠNG ĐẶC BIỆT: NGHIÊN CỨU TRƯỜNG HỢP
VIỆN NĂNG LƯỢNG NGUYÊN TỬ VIỆT NAM
Ngành: Quản lý Khoa học và Công nghệ
Mã số: 8 34 04 12
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. VŨ TRƯỜNG SƠN
HÀ NỘI, 2019
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu nêu
trong Luận văn là trung thực. Những kết luận của Luận văn chưa được công bố
trong bất kỳ công trình nào khác.
LỜI CAM ĐOAN
Tác giả luận văn
Mai Thị Kim Tuyết
Lời đầu tiên, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc tới Giám đốc Trung
tâm Đào tạo và bồi dưỡng Quản lý khoa học Học viện khoa học công nghệ và đổi
LỜI CẢM ƠN
mới sáng tạo Giảng viên cao cấp Vũ Trường Sơn
tôi trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận văn này.
Tôi xin trân trọng cảm ơn các giảng viên Khoa sau Đại học - Học viện Khoa học
Xã hội đã truyền đạt những kiến thức khoa học và kinh nghiệm thực tiễn cho tôi
trong quá trình học tập.
Xin chân thành cảm ơn Lãnh đạo, đồng nghiệp đang công tác tại Viện Năng
lượng nguyên tử Việt Nam, đã tạo mọi điều kiện giúp đỡ tôi thu thập tài liệu, đây là
những căn cứ quan trọng để tôi hoàn thành luận văn.
Cuối cùng, xin gửi lời cảm ơn sâu sắc những người thân trong gia đình, bạn
bè, đồng nghiệp đã cổ vũ, động viên tôi vượt qua những khó khăn trong quá trình
học tập, nghiên cứu.
Bên cạnh những điều kiện thuận lợi, tôi cũng gặp những khó khăn nhất định
về năng lực và sự hiểu biết của bản thân cũng như thời gian nghiên cứu có hạn nên
luận văn không tránh khỏi những hạn chế và khiếm khuyết, tác giả rất mong nhận
được những góp ý của các nhà khoa học, các giảng viên và các đồng nghiệp.
Xin trân trọng cảm ơn!
Giảng viên cao cấp Vũ Trường Sơn đã tận tình hướng dẫn và chỉ bảo cho
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN THỰC TIỄN HOÀN THIỆN CƠ CHẾ
QUẢN LÝ CÁC TỔ CHỨC KH&CN ......................................................... 6
1.1 Cơ chế quản lý KH&CN ....................................................................... 6
1.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến cơ chế quản lý ....................................... 15
1.3 Một số kinh nghiệm về cơ chế quản lý của các tổ chức KH&CN ...... 17
Chương 2: THỰC TRẠNG CƠ CHẾ QUẢN LÝ CỦA TỔ CHỨC
KH&CN HẠNG ĐẶC BIỆT (VIỆN NĂNG LƯỢNG NGUYÊN TỬ
VIỆT NAM) ................................................................................................... 22
2.1. Khái quát về Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam ........................ 22
2.2 Thực trạng công tác quản lý các tổ chức KH&CN trực thuộc tại
Viện NLNTVN ......................................................................................... 28
2.3 Hạn chế và nguyên nhân trong công tác quản lý của Viện
NLNTVN .................................................................................................. 47
Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CƠ CHẾ QUẢN
LÝ CÁC ĐƠN VỊ TRỰC THUỘC VIỆN NĂNG LƯỢNG NGUYÊN
TỬ VIỆT NAM .............................................................................................. 50
3.1 Phương hướng phát triển của Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam .... 50
3.2 Giải pháp hoàn thiện cơ chế quản lý ................................................... 56
KẾT LUẬN .................................................................................................... 63
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 65
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
STT
Tên viết tắt
Tên đầy đủ
1.
KH&CN
Khoa học và Công nghệ
2.
NLNT
Năng lượng nguyên tử
3.
CNH-HĐH
Công nghiệp hóa hiện đại hóa
4.
NSNN
Ngân sách nhà nước
5.
KT-XH
Kinh tế - xã hội
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đổi mới cơ chế quản lý tổ chức khoa học công nghệ là một chính sách
lớn, mang ý nghĩa quan trọng, giúp cho tổ chức ổn định và phát triển được
bền vững.
Qua hơn hai mươi năm thực hiện đổi mới cơ chế quản lý, đặc biệt là từ
khi có Nghị định của Chính phủ Số 115/2005/NĐ-CP ngày 05 thánh 9 năm
2005 về quy định cơ chế tự chủ tự chịu trách nhiệm của tổ chức khoa học và
công nghệ công lập. Các tổ chức khoa học và công nghệ đã đạt được những
kết quả quan trọng, đội ngũ phát triển, cơ sở vật chất được tăng cường.
Tuy nhiên, sau nhiều năm thực hiện cơ chế quản lý tổ chức khoa học và
công nghệ còn bộc lộ nhiều hạn chế. Mặc dù các tổ chức Khoa học và Công
nghệ đã được tự chủ, nhưng quyền tự chủ còn bị hạn chế chưa phát huy được
tiềm năng to lớn của đội ngũ chi thức hiện có và cơ sở vật chất đã được đầu tư.
Đặc biệt, vấn đề tự chủ của các tổ chức Khoa học công nghệ trực thuộc
một số tổ chức Khoa học công nghệ chưa xác định rõ, Quan hệ quản lý của tổ
chức Khoa học công nghệ chủ quản với các tổ chức KHCN trực thuộc còn
nhiều lúng túng.
Những quan hệ này đã làm kìm hãm sự phát triển của các tổ chức
KHCN và sự lớn mạnh của nền KHCN nước nhà
Luận văn đặt vấn đề nghiên cứu những khó khăn vướng mắc trong cơ chế
quản lý các tổ chức KHCN, tìm nguyên nhân và đề xuất giải pháp nhằm “Hoàn
thiện cơ chế quản lý các tổ chức KHCN trực thuộc tổ chức KHCN đặc biệt”
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Đề tài đi nghiên cứu về vấn đề “Hoàn thiện cơ chế quản lý của các tổ
chức KH&CN trực thuộc tổ chức KH&CN hạng đặc biệt”; Trong tình hình
hiện nay các tổ chức KH&CN thực hiện theo NĐ 54/2016/NĐ-CP ngày
1
14/6/2016 về quy định cơ chế tự chủ của các tổ chức KH&CN công lập. Thời
gian này, nhận thấy việc đổi mới cơ chế quản lý trong các tổ chức KHCN là
đặc biệt quan trọng vì vậy có một số đề tài nghiên cứu của các tổ chức
KHCN, một số bài viết trên các tạp trí, bài báo về vấn đề này được nhiều tác
giả quan tâm đưa ra những quan điểm riêng, chỉ ra được đổi mới cơ chế quản
lý đã phát huy được tiềm lực tri thức và thúc đẩy được phát triển khoa học và
công nghệ. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện đã bộc lộ ra những hạn chế
khó khăn. Các đề tài nghiên cứu và sách tham khảo liên quan đến vấn đề này
còn tương đối hạn chế. Luận văn tác giả đề cập đến việc đưa ra những khó
khăn vướng mắc trong việc chuyển đổi sang cơ chế tự chủ, tự chịu trách
nhiệm của các đơn vị trực thuộc Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam, đưa
ra giải pháp hoàn thiện các cơ chế quản lý.
Luận văn có đề cập về nội dung cơ chế chính sách quản lý trong các tổ
chức KH&CN, ở đây mỗi tổ chức KHCN có thể chế và cơ chế quản lý khác
nhau, các đề tài đề án nghiên cứu trong thời gian qua của các tổ chức tập
trung vào các nội dung như; cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm một phần đối
với các đơn vị sự nghiệp trong đó có các tổ chức KHCN trực thuộc tổ chức
KHCN, chưa có đề tài nghiên cứu rõ về cơ chế quản lý của các tổ chức
KHCN trực thuộc tổ chức KHCN hạng đặc biệt. Luận văn sẽ đưa ra một số
chính sách riêng đối với đơn vị KH&CN hạng đặc biệt.
Ở Việt Nam hiện nay tổ chức KHCN hạng đặc biệt có 3 Viện lớn là:
Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam. Viện Khoa học Thủy Lợi và Viện
Khoa học Nông nghiệp Việt Nam. Tuy nhiên vấn đề tự chủ của các tổ chức
KHCN trực thuộc các tổ chức này chưa được xác định rõ. Mối quan hệ giữa
tổ chức quản lý và các tổ chức KHCN trực thuộc còn nhiều bất cập khó khăn
lúng túng. Ví dụ tại Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam thể hiện trong đề
án tự chủ của các đơn vị, nhiều đơn vị thực chất chỉ mang tính chất liệt kê ( về
tài sản, về số lượng cán bộ, về doanh thu hàng năm, về tài sản...) Chưa đưa ra
2
được những bất cập, khó khăn, giải pháp để tổ chức chuyển đổi sang cơ chế tự
chủ được thành công theo đúng nghĩa. Chưa đưa ra được cái đặc biệt của các
tổ chức KH&CN như (Tại sao các tổ chức KH&CN trực thuộc Viện Năng
lượng nguyên tử Việt Nam nó lại là đặc biệt, mà đặc biệt thì có những cơ chế
quản lý khác thế nào? Tại sao phải khác...) Luận văn này tác giả đi phân tích
những vấn đề trên để nhận dạng rõ cái đặc biệt của tổ chức KH&CN trực thuộc
tổ chức KH&CN hạng đặc biệt, đưa ra những cơ chế tháo gỡ khó khăn cho các
tổ chức KH&CN hiện nay đang thực hiện cơ chế tự chủ tự chịu trách nhiệm
Thực trạng hiện nay , vì sao cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm nói
chung của các cơ quan nghiên cứu khoa học không được thực thi nỗ lực. Một
số nghiên cứu trên cho rằng quá trình chuyển đổi sang cơ chế tự chủ, tự chịu
trách nhiệm của hệ thống cơ quan KH&CN là một quá trình tự điều chỉnh, tự
thích nghi của hệ thống, dựa trên nguyên tắc “tự sắp xếp” trong “một trật tự
pháp luật - sự điều tiết của nhà nước”, không lấy nguyên tắc giảm đầu mối để
sắp xếp mạng lưới các tổ chức KH&CN. Tuy nhiên nghiên cứu này mới chỉ
dừng lại mức độ mô tả và phân loại các loại hình tổ chức KH&CN trong dạng
chuyển đổi sang cơ chế tự chủ tự chịu trách nhiệm. Các đánh giá về quá trình
chuyển đổi chỉ ở bên ngoài hệ thống chưa phân tích quá trình nhận dạng sang
cơ chế tự chủ tự chịu trách nhiệm là thay đổi tổ chức ở bên trong về chức
năng nhiệm vụ, phát hiên thuận lợi khó khăn.
Nghiên cứu việc các đơn vị thực hiện cơ chế tự chủ tự chịu trách nhiệm
đối với tổ chức KH&CN có 02 mốc quan trọng, từ năm 2005 đến 2015 theo
Nghị định 115/2005/NĐ-CP và giai đoạn tiếp theo là từ năm 2016 đến nay
thực hiện theo Nghị định 54/2016/NĐ-CP ngày 14/6/2016. Trong giai đoạn
này có nhiều đề tài nghiên cứu nhưng mang tính chất phân loại các loại hình
tổ chức KHCN trong dạng chuyển đổi sang cơ chế tự chủ, tự chịu trách
nhiệm. Những quá trình đánh giá chỉ tập trung ở bên ngoài hệ thống như các
quyết định hành chính của cơ quan quản lý nhằm mục đích sắp xếp các tổ
3
chức. Các đề tài ở đây chưa phân tích rõ được nhận dạng của quá trình chuyển
đổi sang tự chủ về thay đổi lại chức năng nhiệm vụ thay đổi lại cơ cấu tổ chức
bên trong của tổ chức KHCN đó. Phát hiện những thuận lợi khó khăn bên
trong với mỗi tổ chức loại hình KHCN đó khi chuyển đổi. Các đề tài này cũng
chưa đưa ra được các tiêu chí để dựa vào đó có thể phân tích mức độ chuyển
đổi thành công của các loại hình tổ chức KHCN, cũng như những biện pháp
đảm bảo cho sự chuyển đổi thành công sang cơ chế tự chủ tự chịu trách nhiệm
tại các tổ chức KHCN trực thuộc.
Nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động, hoàn thiện cơ chế quản lý các tổ
chức KH&CN đặc biệt là các tổ chức KHCN trực thuộc tổ chức KHCN hạng
đặc biệt, cần chuyển đổi sang mô hình tự chủ tự chịu trách nhiệm thành công,
cần có một hướng giải phát có tính đột phá về cơ chế cho tổ chức KH&CN,
cần có một cơ chế gắn hoạt động KH&CN với doanh nghiệp.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu:
Đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện cơ chế quản lý các tổ chức trực
thuộc tổ chức Khoa học công nghệ hạng đặc biệt.
Nhiệm vụ của luận văn:
Để thực hiện các mục đích nghiên cứu nêu trên, đề tài xác định các
nhiệm vụ sau:
Đánh giá thực trạng của cơ chế quản lý trong các tổ chức khoa học
công nghệ trực thuộc. Nghiên cứu các hạn chế tồn tại trong cơ chế quản lý tìm
ra nguyên nhân dẫn đến những hạn chế trên.
Đưa ra những giải pháp khắc phục các hạn chế tồn tại trên để hoàn
thiện cơ chế quản lý đối với các tổ chức trực thuộc tổ chức Khoa học công
nghệ hạng đặc biệt
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Cơ chế quản lý các tổ chức tổ chức khoa học và
4
công nghệ thuộc tổ chức khoa học công nghệ hạng đặc biệt
Phạm vi nghiên cứu: Các đơn vị hoạt động trong lĩnh vực NLNT thuộc
Viện NLNTVN
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu quy chế quản lý để tìm hiểu các nội
dung liên quan đến luận văn và trên cơ sở các thông tin thu được tiến hành
phân tích, đánh giá rút ra bài học kinh nghiệm;
- Phương pháp thu thập tài liệu: Thu thập nghiên cứu tài liệu, trao đổi
với đồng nghiệp những vấn đề liên quan đến luận văn này.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn sẽ góp phần thay đổi nhận thức về cơ chế quản lý các đơn vị
trực thuộc Viện NLNTVN trong giai đoạn hiện nay, khẳng định cơ chế tư
chủ, tự chịu trách nhiệm của các đơn vị, sẽ mang đến hiệu quả thiết thực trong
việc quản lý hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được trình bày trong 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn đổi mới cơ chế quản lý.
Chương 2: Thực trạng về cơ chế quản lý của Viện NLNTVN.
Chương 3: Một số giải pháp hoàn thiện cơ chế quản lý các tổ chức khoa
5
học và công nghệ trong Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam.
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN THỰC TIỄN HOÀN THIỆN
CƠ CHẾ QUẢN LÝ CÁC TỔ CHỨC KH&CN
1.1 Cơ chế quản lý KH&CN
Cơ chế quản lý KH&CN là tập hợp các nguyên tắc, chế độ quy định
quan hệ qua lại giữa các chủ thể tham gia trong quá trình lao động sáng tạo
KH&CN. Nó có vai trò gắn kết các thành phần trong hệ thống quản lý, đưa
chúng vào hoạt động đạt mục tiêu chung của hệ thống quản lý KH&CN. Nó
có vai trò gắn kết các thành phần trong hệ thống quản lý KH&CN, ví dụ
như hiện nay thực hiện theo Nghị định 54 là thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu
trách nhiệm đối với các tổ chức KH&CN, đáp ứng nhu cầu phát triển của chính
bản thân các tổ chức KH&CN theo xu hướng chuyển đổi theo cơ chế tự chủ.
Cho tới nay, cơ chế quản lý KH&CN được thể hiện qua hệ thống văn
bản pháp luật điều tiết các quan hệ trong hoạt động KH&CN, hiện có tới
khoảng một trăm văn bản các loại khác nhau, trực tiếp và gián tiếp liên quan
đến quản lý KH&CN bao gồm từ Hiến pháp, luật, các văn bản dưới luật. Đây
là đối tượng trọng tâm trong công tác cải cách hành chính liên quan đến quản
Định nghĩa về quản lý Nhà nước trong lĩnh vực KH&CN thường được hiểu
giống quản lý nghiên cứu khoa học, là quản lý đối với công tác nghiên cứu khoa
học và những hoạt động phát triển công nghệ, nó thường bao gồm những hoạt động
quản lý như kế hoạch nghiên cứu khoa học, nghiên cứu đề tài, phát triển công
nghệ,v.v. Quản lý nhà nước trong lĩnh vực KH&CN bao gồm một phạm trù tương
đối rộng lớn, như quy hoạch, sắp xếp các cơ quan sự nghiệp khoa học, hoạch định
chính sách phát triển KH&CN, chiến lược KH&CN, đổi mới thể chế hoạt động
KH&CN, kế hoạch thực hiện chương trình các đề tài, áp dụng tiến bộ kỹ thuật vào
sản xuất đời sống, chuyển giao kỹ thuật, đổi mới công nghệ. .v.v. Trên cơ sở những
nhận thức này, xuất phát từ đặc điểm của đối tượng quản lý là hoạt động khoa học
6
lý KH&CN ở nước ta.
và công nghệ, quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ theo các nguyên tắc, mỗi
nguyên tắc trên thực tế không vận dụng riêng rẽ mà phối hợp nhuần nhuyễn với các
nguyên tắc khác để có thể phát huy tác dụng trong thực tế cụ thể:
Nguyên tắc về sự thống nhất giữa khoa học và kinh tế: Nguyên tắc này bao
trùm, người làm quản lý phải luôn tạo điều kiện để gắn hoạt động khoa học và công
nghệ với các hoạt động kinh tế. Sự thống nhất này phải thể hiện trên tất cả các mặt
kế hoạch, đầu tư, tổ chức chỉ đạo thực hiện.
Nguyên tắc kết hợp với cơ chế tác động thị trường
Nguyên tắc kết hợp tập trung dân chủ
Nguyên tắc phân công phân cấp
Nguyên tắc tham gia cộng đồng
Nguyên tắc kế thừa phát triển
Chính sách quản lý KH&CN là một tập hợp các văn bản quy phạm
pháp luật định rõ các phương châm, nguyên tắc, quy định, thể lệ của Nhà
nước đối với hoạt động KH&CN. Có chính sách quốc gia, cũng có chính
sách của một vùng, một đơn vị hành chính hoặc một tổ chức, hay một ngành
cụ thể. Tập hợp lại thì chính sách là thể hiện thái độ của của Nhà nước hay
của chủ thể quản lý đối với mục tiêu phát triển KH&CN, các biện pháp thực
hiện mục tiêu đó trong phạm vi cả nước hoặc trong một ngành hẹp.Hoặc 1 địa
phương. Ví dụ trọng luận văn tác giả phân tích đến Viện Năng lượng nguyên
tử Việt Nam áp dụng cơ chế chính sách của nhà nước và một số chính sách
riêng của đơn vị vào việc quản lý các tổ chức KH&CN trực thuộc. Nói chung,
chính sách KH&CN phụ thuộc rất nhiều vào chính sách chung của nhà nước.
Đặc biệt là các chính sách vĩ mô và vi mô. Nhà nước ta đặt dưới sự lãnh đạo
của Đảng nên nhiều chủ trương đường lối lãnh đạo của Đảng cũng thể hiện
đường lối chính sách KH&CN
Trong luận văn tác giả đề xuất đến nội dung các chính sách như: Các
7
chính sách quản lý KH&CN trọng tâm nhất trong giai đoạn hiện nay là: (1)
Chính sách đầu tư cho KH&CN được coi là một trong những điều kiện tiền đề
quan trọng nhất để thúc đẩy sự phát triển KH&CN; (2) Chính sách phát triển
nguồn nhân lực KH&CN giữ vai trò quyết định đến chất lượng và tiến độ
thực hiện các nhiệm vụ KH&CN, chất lượng các công trình KH&CN, nâng
cao chất lượng, nâng cao sức cạnh tranh của các sản phẩm hàng hóa, nâng cao
hiệu quả kinh tế xã hội và đời sống; (3) Chính sách đổi mới công nghệ sản
xuất nhằm nang cao trình độ công nghệ sản xuất mới, tạo ra được nhiều sản
phẩm hàng hóa có sức cạnh tranh. (4) Chính sách xã hội hóa KH&CN, thực
chất là tổ chức huy động được mọi nguồn lực của xã hội đầu tư cho hoạt động
KH&CN, hỗ trợ cho nguồn vốn ngân sách nhà nước cấp cho KH&CN, mà
hiện nay không thể đáp ứng được yêu cầu tăng cường các hoạt động KH&CN
phục vụ sản xuất và đời sống.
1.1.1 Cơ chế quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ
Theo khoa học quản lý hiện đại, phổ biến cho rằng “quản lý chính là
các hoạt động do một hoặc nhiều người điều phối hành động của những người
khác, nhằm thu được hiệu quả mà nếu một người hoạt động đơn độc thì
không thể thu được. Như vậy, quản lý là sự tác động của chủ thể quản lý lên
đối tượng quản lý nhằm đạt được mục tiêu đặt ra trong điều kiện biến động
của môi trường. Quản lý bao gồm các yêu tố sau: phải hướng tới mục tiêu;
thông qua con người; với kỹ thuật, thông qua con người; với kỹ thuật, công
nghệ; hoạt động bên trong của một tổ chức. Nói một cách cụ thể, quản lý là
những hoạt động vận dụng các chức năng cơ bản của kế hoạch, tổ chức, chỉ
huy điều hòa, phối hợp thanh tra điều tra ... sử dụng hữu hiệu các yếu tố cơ
bản như nhân lực, vật lực, tài lực, tin lực, để thực hiện được các mục tiêu
trong một thời gian nhất định.
Với cách tiếp cận về quản lý nêu trên, quản lý nhà nước với chức năng
thực thi quyền hành pháp của Nhà nước, là sự tác động có tổ chức đối với các
8
quá trình và hành vi hoạt động của con người.
Quản lý Nhà nước trong lĩnh vực KH&CN thường được hiểu giống
quản lý nghiên cứu khoa học, là quản lý đối với công tác nghiên cứu khoa học
và những hoạt động phát triển công nghệ, nó thường bao gồm những hoạt
động quản lý như kế hoạt nghiên cứu khoa học, nghiên cứu đề tài, phát triển
công nghệ,.,,. Quản lý Nhà nước trong lĩnh vực KH&CN bao gồm một phạm
trù tương đối rộng lớn, như quy hoạch, sắp xếp các cơ quan sự nghiệp khoa
học, hoạch định chính sách phát triển KH&CN, chiến lược KH&CN, đổi mới
cơ chế hoạt động KH&CN, kế hoạch thực hiện các chương trình đề tài, áp
dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất đời sống, chuyển giao kỹ thuật, đổi mới
công nghệ, năng lượng nguyên tử.
Trên cơ sở những nhận thức trên đây, xuất phát từ đặc điểm của đối
tượng quản lý là hoạt động khoa học và công nghệ, quản lý nhà nước về khoa
học và công nghệ theo các nguyên tắc, mỗi nguyên tắc trên thực tế không vận
dụng riêng rẽ mà phối hợp nhuần nhuyễn với các nguyên tắc khác để có thể
phát huy tác dụng trong thực tế, cụ thể như sau:
Nguyên tắc về sự thống nhất giữa khoa học và kinh tế
Nguyên tắc này có tính bao trùm, người làm quản lý KH&CN phải luôn
luôn tạo ra điều kiện để gắn các hoạt động khoa học và công nghệ với các
hoạt động kinh tế. Sự thống nhất này phải thể hiện trên tất cả các mặt kế
hoạch, đầu tư, tổ chức chỉ đạo thực hiện. Điều đặc biệt quan trọng là văn bản
quy phạm pháp luật, nó phải được lồng ghép trong các văn bản hành chính,
pháp lý chung. Chính sách, pháp luật, kế hoạch, biện pháp, tổ chức, đầu tư
đều phải gắn bó với kinh tế nếu không không thể thực hiện được hoặc thực
hiện nhưng ít có tác dụng đối với phát triển kinh tế - xã hội.
Nguyên tắc kết hợp với cơ chế tác động của thị trường
Nội dung nguyên tắc này là mọi chủ trương, biện pháp quản lý
KH&CN đề ra phải căn cứ nhu cầu thị trường, bám sát nhu cầu thị trường,
9
chính thị trường tự nó có sức hút các kết quả nghiên cứu một cách mạnh mẽ;
mặt khác sự chủ động và sang tạo từ phía các tập thể khoa học có tác dụng đi
trước thúc đẩy, gợi ý, mở đường cho sản xuất kinh doanh. Nhưng nếu sự chủ
động này không căn cứ vào thực tế sẽ dẫn đến chủ quan duy ý chí, đưa ra
những giải pháp mà thực tế khó chấp nhận, kém hiệu quả.
Nguyên tắc kết hợp tập trung – dân chủ
Trong bất kỳ nền kinh tế nào sự tập trung nguồn lực, nỗ lực vào một
đích là nhân tố quyết định thành công giải quyết vấn đề, dù đó là kinh tế hay
khoa học, kỹ thuật. Sự chỉ đạo của Chính phủ hay các cơ quan chính phủ một
cách tập trung trong từng thời gian giải quyết dứt điểm từng vấn đề có ý nghĩa
rất quyết định, nhất là trong hoàn cảnh nội lực còn mỏng. Trong khi đó, giải
quyết các bài toán kỹ thuật, công nghệ thì đòi hỏi sang tạo, linh hoạt cao độ.
Phát huy sáng tạo của mọi thành viên, đa dạng hóa các phương án, biện pháp
sẽ tạo điều kiện có được những biện pháp hữu hiệu nhất có thể. Người làm
quản lý KH&CN cần nắm những nguyên tắc này.
Nguyên tắc phân công phân, phân cấp
Công việc phát triển và ứng dụng KH&CN muốn làm có hiểu quả phải
có sự phân công, phân cấp rành mạch. Như thế, mỗi cấp tập trung vào một
loại việc, trên cơ sở đó phối hợp với nhau phát huy sức mạnh tổng hợp của
toàn bộ hệ thống. Trung ương không làm thay công việc của địa phương. Địa
phương không dập khuôn máy móc theo cách tổ chức ở trung ương.
Nguyên tắc tham gia cộng đồng
Tiến bộ KH&CN về bản chất, là một quá tình xã hội. Mỗi thành viên
của cộng đồng dân cư đều có vai trò nhất định trong quá trình đó theo cơ chế
hút đẩy nói trên. Các quyết định trong quản lý nên cho dân biết, dân bàn, dân
làm, dân kiểm tra. Hiệu quả sẽ được nâng cao vì cơ chế đó có tác dụng kiểm
soát xã hội, phát huy sáng kiến cộng đồng cho các hoatjd động KH&CN.
10
Nguyên tắc đấu thầu trong nghiên cứu, ứng dụng KH&CN là một trong
những cơ chế để thực hiện dân chủ trong khoa học. Ai cũng có quyền tham
gia, từ đó chọn người giỏi nhất, hiệu quả nhất. Trên tầm vĩ mô, công việc
quản lý KH&CN không thể khoán trắng cho một bộ, một ngành chịu trách
nhiệm mà phải được các bộ các ngành tham gia, đề xuất, thực hiện. Mỗi đề án
phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội đều phải quan tâm đến nội dung khoa học
trong đó, phải nghiên cứu nếu cần thiết, phải đầu tư cho công tác khoa học để
phục vụ lại chính mình. Nguyên tắc xã hội hóa trong quản lý KH&CN đang
có ý nghĩa thời sự lớn đối với sự phts triển, đầu tư cho khoa học và công nghệ
nước ta.
Nguyên tắc kế thừa và phát triển, tuần tự kết hợp với nhảy vọt
Sự phát triển của công nghệ luôn luôn có tính kế thừa. Chỉ lĩnh hội
được thành tựu của thế hệ trước, những nước đi trước ta mới làm ra được kết
quả thực sự có ý nghĩa mới, sáng tạo. Sự sáng tạo có kế thừa là sáng tạo gấp
đôi, gấp ba cái đáng ra có thể làm được, và do vậy nâng hiệu quả lên gấp bội
phần tương ứng. Trong quản lý cần có biện pháp tránh trùng lắp những cái đã
được người khác, nước khác nghiên cứu, mà phải kế thừa những cái đó. Trên
tầm vĩ mô cũng tương tự, nước ta lấy nhập công nghệ là chính, sở dĩ cũng là để
tiết kiệm nguồn lực quá ít ỏi, nhằm vào thích nghi, sáng tạo công nghệ. Chiến
lược “làm một số, mua một số” là thể hiện cụ thể của nguyên tắc kế thừa và
phát triển trên bình diện hợp tác quốc tế. Chính qua chiến lược này một nước
nghèo mới có thể đi tắt, đón đầu, bứt lên đuổi kịp các nước phát triển.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển khoa học và công nghệ
Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã huấn thị rằng “Khoa học phải từ
sản xuất mà ra và phải trở lại phục vụ sản xuất, phục vụ quần chúng, nhằm
nâng cao năng suất lao động và không ngừng cải thiện đời sống của nhân
dân, bảo đảm cho chủ nghĩa xã hội thắng lợi. Như vậy, nhiệm vụ của khoa
11
học là cực kỳ quan trọng, cho nên mọi ngành, mọi người đều phải tham gia
công tác khoa học, kỹ thuật để nâng cao năng suất lao động, sản xuất ra nhiều
của cải vật chất, để xây dựng chủ nghĩa xã hội thắng lợi” [20].
Trong lời dặn giản dị này của Người chúng ta thấy thật rõ và sâu sắc
các tư tưởng chỉ đạo cho công tác khoa học và công nghệ. Tính mục đích thiết
thực, quần chúng, tính giải cấp và tính khoa học hòa với nhau thật thống nhất,
dễ hiểu, dễ nhớ. Những nguyên tắc quản lý nhà nước về KH&CN mà chúng ta
nói đến ngày nay thực chất đã thấm nhuần lời dạy sâu sắc đó của Người.
1.1.2 Tổ chức khoa học công nghệ hạng đặc biệt
Lao động KH&CN là quá trình lao động xã hội đặc thù, là hoạt động
của những người có tri thức chuyên môn đặc biệt, tiến hành thu thập, xử lý,
gia công thông tin về các sự vật trong giới tự nhiên hoặc nhân tạo để có được
tri thức lý luận, phương pháp tác động, đường lối nhận biết thế giới và cải tạo
thế giới. Do đó, lao động KHCN có tính quy luật đặc thù của nó.
Tổ chức khoa học công nghệ hạng đặc biệt là một tổ chức KH&CN trong đó
có những đặc điểm nghiên cứu đặc thù ngành
Một trong những đặc thù của lao động KH&CN đặc biệt là:
Thứ nhất, tính sáng tạo; đây là công tác nghiên cứu khoa học là một
loại lao động trí óc mang tính sáng tạo, đặc điểm nổi bật là tính sáng tạo, nó là
linh hồn của công tác nghiên cứu là điểm cơ bản phân biệt với lao động sản
xuất lặp đi lặp lại. Ví dụ nghiên cứu cơ bản là để phát hiện và nhận thức về
những quy luật mà trước nó đó con người chưa hề nhận thức được; nghiên
cứu công nghệ là để sáng tạo ra phương pháp công nghệ mà trước đó chừa có
nhằm sáng tạo ra những thiết bị hoặc sản phẩm mà trước đó không tồn tại.
Nghiên cứu khoa học và sáng tạo có mối quan hệ mật thiết với nhau quá trình
của công tác nghiên cứu khoa học là quá trình tạo ra cái mới. Do đó đánh giá
trình độ cao hay thấp của một thành quả nghiên cứ khoa học chủ yếu là xem
12
mức độ yếu tố sáng tạo trong đó.
Thứ hai, tính rủi ro; Vì lao động sáng tạo, đi tìm cái chưa biết nên cũng
có thể thành công và cũng có thể thất bại, thông thường đi sâu vào bản chất
nghiên cứu cơ bản thì độ rủi ro cao, khả năng thất bại lớn. Một trong những
cái được của thất bại trong nghiên cứu lại là một loại thu hoạch bởi nó có thể
cảnh tỉnh người sau, hay nó là kinh nghiệm và bài học cho người đi sau
Thứ ba, đặc tính kế thừa của lao động KH&CN; Thông thường những
cái đi sau là kế thừa của cái đi trước, những tri thức mới mà họ tạo ra cũng tất
nhiên cũng sẽ được người khác hoặc người sau kế thừa và phát triển. Thông
thường những cái đi sau là kế thừa của những cái đi trước, đó cũng chính là sự kế
thừa của lao động; trong công tác nghiên cứu khoa học sự đan xen, sự xâm nhập
vào nhau và sự tổng hợp hợp của của các bộ môn về thực chất cũng chính là sự
phá bỏ những hạn chế của chuyên ngành chuyên môn, vấn đề học tập và kế thừa
thành quả bộn môn khác và người khác cũng chính là biểu hiện tính kế thừa.
Thứ tư, sự tích lũy của lao động KH&CN; Tổ chức với tư cách là một
tập thể, là tập hợp người được tổ chức lại, hoạt động vì những quyền lợi
chung, nhằm một mục đích chung. Như vậy, tổ chức KH&CN là một thực thể
tiến hành hoạt động KH&CN vì những quyền lợi chung, mục đích chung. Tổ
chức KH&CN được thành lập, hoạt động và giải thể theo quy định của Pháp
luật. Tổ chức KH&CN có chức năng chủ yếu là nghiên cứu khoa học, nghiên
cứu triển khai và phát triển công nghệ, hoạt động dịch vụ KH&CN.
Cần tạo môi trường tự do nghiên cứu như: tự do xác định vấn đề
nghiên cứu, tự do xác định phương pháp nghiên cứu, tự do đánh giá và tự do
truyền bá kết quả nghiên cứu.
Bản chất của tổ chức khoa học và công nghệ hạng đặc biệt là :
Về thứ bậc hành chính tương đương với tổng cục, về quyền hạn lớn hơn, nó
là đơn vị hạch toán cấp 2 dưới nó có đơn vị hạch toán cấp 3. Được ủy quyền quyết
định một số nhiệm vụ đề tài mang tính chất chuyên ngành, nó có nhiệm vụ được
giao lớn hơn như: Có thể được giao nhiệm vụ đề tài mang tính an ninh chính trị cấp
13
quốc gia. Ccó tính liên ngành rộng hơn (được kết hợp với các cơ quan khác nghiên
cứu về một số chuyên ngành mang tính liên kết liên ngành: Ví dụ tại Viện Năng
lượng nguyên tử Việt Nam nghiên cứu về Điện hạt nhân, bức xạ, phóng xạ... nhưng
vẫn kết hợp với các bộ ngành khác nghiên cứu về Công nghệ sinh học, hay môi
trường v.v.). Có tính đa dạng về tổ chức như dưới nó có các tổ chức Khoa học và
Công nghệ có tư cách pháp nhân riêng, có con dấu riêng, có tài khoản riêng, có tài
vụ cấp 3, có chức năng nhiệm vụ khác nhau, có đơn vị đào tạo, có đơn vị nghiên
cứu và có các tổ chức dịch vụ. Giúp việc cho đơn vị cấp trên là có đơn vị giúp việc
chuyên trách, cán bộ tương đối độc lập
1.1.3 Cơ chế tự chủ tự chịu trách nhiệm
Thông thường, tự chủ sẽ đi trước và trách nhiệm sẽ xuất hiện sau Nếu
một tổ chức có được tính tự chủ cao thì sẽ có những quyết định có tính trách
nhiệm cao hơn và đạt được kết quả tốt hơn trong những hoạt động của mình.
Ngược lại lại khi tính trách nhiệm của một tổ chức không xứng đáng với tầm
của tính tự chủ thì các cơ quan có thẩm quyền sẽ giảm bớt hoặc thu hồi các
quyền hạn của tổ chức đó và như vậy năng lực làm chủ các hoạt động của tổ
chcs này sẽ bị thu hẹp tương ứng với mức độ trách nhiệm.
Theo cách hiểu chung nhất, cơ chế quản lý là quá trình chuyển động dây
chuyền của các bộ phận cấu thành hệ thống, trong đó có bộ phận khởi động, bộ
phận chuyền dẫn và bộ phận chuyển động cuối cùng. Có nhiều loại cơ chê quản
lý: cơ chế dân chủ, cơ chế tập trung, cơ chế phân cấp, cơ chế thị trường.
Nhà nước trao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các tổ chức
KHCN nhằm mục tiêu hoàn thành nhiệm vụ được giao, phát huy mọi khả
năng của đơn vị để cung cấp dịch vụ vớ chất lượng cao cho xã hội và tăng
nguồn thu nhập cho tổ chức. Việc giao tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các tổ
chức KH&CN để thích ứng với tình hình mới, giải quyết có hiệu quả mà các
vấn đề về KH&CN nảy sinh mà khu vực tư nhân không thể giải quyết được
trong xu thế hội nhập quốc tế, đồng thời nhanh chóng khắc phục sự bất cập
14
của hệ thống tổ chức KH&CN, làm minh bạch hóa hoạt động tài chính của
các tổ chức KH&CN. Nội dung trọng tâm của tự chủ tự chịu trách nhiệm của
các tổ chức KH&CN gồm: tự chủ xây dựng kế hoạch và tổ chức thực hiện các
nhiệm vụ chuyên môn, tự chủ về quản lý nhân sự và bộ máy, tự chủ về quản
lý tài chính. Trong một tổ chức thì các quyền tự chủ này luôn đồng hành cùng
nhau, hỗ trợ nhau.
1.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến cơ chế quản lý
Cơ chế quản lý của tổ chức KH&CN chịu sự tác động trực tiếp của việc
thực thi chính sách
1.2.1 Thực thi chính sách
Nói đến chính sách trong lĩnh vực KH&CN, cần chú ý đến một hệ
thống gồm: Cơ chế và chính sách quản lý KH&CN; công cụ thực thi chính
sách trong lĩnh vực khoa học và công nghệ; hệ thống tổ chức bộ máy thực thi
chính sách, đội ngũ công chức viên chức quản lý KH&CN. Ba bộ phận này có
tác động qua lại với nhau rất chặt chẽ, có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm nhau
trong quá trình thực thi chính sách cũng như trong việc đổi mới chính cách
trong lĩnh vực KH&CN
Cơ chế và chính sách quản lý trong lĩnh vực khoa học và công nghệ
Cơ chế và chính sách quản lý KH&CN đóng vai trò quan trọng trong
việc thực thi chính sách trong lĩnh vực KH&CN nói chung và đối với các tổ
chức KH&CN nói riêng. Thiếu chính sách, cơ chế, quy định thể lệ thì hệ
thống KH&CN không thể vận hành được.
Cơ chế quản lý KH&CN là tập hợp nguyên tắc chế độ quy định quan hệ
qua lại giữa các chủ thể tham gia trong quá trình lao động sáng tạo KH&CN.
Nó có vai trò gắn kế các thành phần trong hệ thống quản lý, đưa chúng vào
hoạt động đạt mục tiêu chung của hệ thống quản lý KH&CN, đáp ứng nhu
cầu phát triển của chính bản thân các tổ chức KH&CN theo xu hướng chuyển
đổi theo cơ chế doanh nghiệp. Các cơ chế này thể hiện qua loạt các văn bản.
Các chính sách quản lý KH&CN trọng tâm hiện nay là: (1) Chính sách
15
đầu tư cho KH&CN được coi là những điều kiện tiền đề quan trọng nhất để
thúc đẩy sự phát triển KH&CN; (2) Chính sách phát triển nguồn nhân lực giữ
vai trò quyết định đến chất lượng và tiến độ thực hiện các nhiệm vụ KH&CN,
chất lượng các công trình KH&CN, nâng cao chất lượng, nâng cao sức cạnh
tranh của sản phẩm hàng hóa, nâng cao hiệu quả kinh tế- xã hội của sản xuất
và đời sống. (3) Chính sách đổi mới công nghê sản xuất nhằm nâng cao trình
độ công nghệ sản xuất mới, tạo được nhiều hàng hóa có tính cạnh tranh. (4)
Chính sách xã hội hóa KH&CN, thực chất là tổ chức huy động được mọi
nguồn lực của xã hội đầu tư cho hoạt động KH&CN, hỗ trợ cho nguồn vốn
ngân sách nhà nước cấp cho KH&CN, mà hiện nay không thể đáp ứng được
yêu cầu tăng cường các hoạt độngKH&CN phục vụ sản xuất và đời sống.
Hiện nay việc nhận thức của các cơ quan hoạch định, ban hành việc kiểm
tra, giám sát việc xây dựng cơ chế quản lý cho các tổ chức KH&CN cần phải
khách quan và khoa học. Ở đây ta thường đưa ra hướng dễ thực hiện, thuận lợi
cho cơ quan nhà nước thực thi cơ chế, làm trở ngại cho hoặc có thể làm tổn hại
đến quyền lợi của đối tượng của cơ chế (tổ chức KH&CN, các nhà khoa học)
1.2.2 Nhận thức
Nhận thức của các tổ chức KH&CN nơi tổ chức thực thi cơ chế cần
phải bắt kịp xu thế xóa dần bao cấp nhà nước, giảm dần sự can thiệp nhà
nước, giảm dần sự can thiệp trực tiếp bằng mệnh lệnh hành chính, đồng thời
phát huy vai trò chủ động sáng tạo, tăng tính chủ động tự chủ, tự chịu trách
nhiệm của các tổ chức KH&CN trong việc triển khai các hoạt động KH&CN
theo quy luật của kinh tế thị trường. Tuy vậy, nhìn chung các tổ chức
KH&CN vẫn còn mang nặng tư duy bao cấp, chậm đổi mới, chưa kịp thích
nghi với cơ chế kinh tế thị trường..
Tiếp theo là nhận thức của xã hội, nơi tiếp nhận kết quả của hoạt động
KH&CN cần có nhận thức chung về vai trò của KH&CN trong việc phát
triển đất nước, kinh tế xã hội. Thay đổi tư duy bao cấp trông chờ vào nhà
nước, cho rằng Nhà nước phải có trách nhiệm cung cấp các dịch vụ KH&CN
bằng tư duy kinh tế thị trường, tham gia vào việc đầu tư cho KH&CN, đặt
16
hàng các nhiệm vụ KH&CN.
Những vấn đề tồn tại trên là một trở ngại lớn trong quá trình đổi mới cơ
chế quản lý trong các tổ chức KH&CN hiện nay nói chung và các tổ chức
KH&CN trực thuộc tổ chức KH&CN hạng đặc biệt nói riêng.
1.3 Một số kinh nghiệm về cơ chế quản lý của các tổ chức KH&CN
1.3.1 Kinh nghiệm về cơ chế tự chủ tự chịu trách nhiệm
Tổ chức KH&CN từng phát triển mạnh mẽ ở nhiều nước trên thế giới
(Hộp 2.1). Không thể phù nhận những kết quả mà các tổ chức KH&N mang
lại. Sức mạnh quân sự của Đức, Mỹ, sức mạnh kinh tế và quân sự một thời
của Liên Xô đã gắn liền với hệ thống tổ chức KH&CN. Sự phát triển trong
lĩnh vực y học, nông nghiệp, bảo vệ môi trường cũng phần lớn nhờ các công
17
trình nghiên cứu từ tổ chức khoa học Chính phủ.
Hộp 2.1 Quy mô hệ thống tổ chức khoa học và công nghệ ở
một số nước trong thập kỷ 90
* Mỹ: ở thời điểm 1990, Mỹ có trên 700 phòng thí nghiệm cấp Liên bang
với tổng ngân sách là 21 tỷ USD. Phần lớn các cơ quan này là hoạt động
theo liên ngành chủ quả tương ứng. Nguồn chi cơ bản cho hoạt động các cơ
quan này là Bộ Quốc phòng (49%) và Bộ Năng lượng (21%)
*Nhật Bản: ở thời điểm 1996, Nhật Bản có 575 viện nghiên cứu Nhà nước
so với 3700 Viện nghiên cứu tư nhân
* Trung Quốc: ở thời điểm 1992 số lượng t ổ chức KHCN là 5116
Các viện KH&CN thuộc Nhà nước ở Trung Quốc đầu tiên được hình thành
cơ bản thông qua việc chuyển giao từ Liên Xô, cùng với việc nhập ồ ạt
công nghệ công nghiệp trong những năm 50. Sau đó hệ thống này được
củng cố thêm bởi cơ chế kế hoạch tập trung ở Trung Quốc. Quy mô của
Viện nghiên cứu trong một số năm như sau:
- Năm 1985 có 7957 Viện gồm; 122 viện thuộc viện Hàn lâm khoa học với
32,2 nghìn cán bộ; 622 viện thuộc Bộ và ủy ban của chính phủ Trung ương
với 93 nghìn cán bộ; 3946 viện thuộc chính quyền địa phương cao hơn cấp
huyện với 105,8 nghìn cán bộ, 3267 viện cấp huyện.
- Năm 1986 có 8631 viện; bao gồm 122 viện thuộc Viện Hàn lầm với 34,5
nghìn cán bộ, 922 viện thuộc Bộ và ủy ban của Chính phủ Trung ương với
175,1 nghìn cán bộ, 4227 viện thuộc chính quyền địa phương cao hơn cấp
huyện với 114,7 nghìn cán bộ và 3360 viện thuộc cấp huyện
Tuy nhiên loại hình tổ chức này đã và đang bộc lộ nhiều nhược điểm rõ
như hoạt động không có hiệu quả, ít gắn với cuộc sống và tiêu tốn khoản lớn
kinh phí trở thành gánh nặng tài chính cho ngân sách Nhà nước. Các nhà quản
18
lý và các nhà nghiên cứu đã bỏ nhiều công sức tìm hiểu bản chất của hiện
tượng tiêu cực trong các tổ chức KH&CN và đã đưa ra giải pháp giao quyền
tự chủ, tự chịu trách nhiệm.
1.3.2 Điều kiện để thực hiện cơ chế quản lý
Vấn đề giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các tổ chức
KH&CN là một xu thế. Tuy nhiên, để tự chủ các tổ chức phải phát huy tác
dụng, đòi hỏi cần một số điều kiện.
Phát triển các quan hệ thị trường khoa học và công nghệ
Tự chủ tự chịu trách nhiệm của các tổ chức KH&CN là thể hiện vài trò
chủ thể của các đơn vị KH&CN trên thị trường KH&CN như vậy, môi trường
của tự chủ tự chịu trách nhiệm là phát huy được tác dụng là một thị trường
KH&CN phát triển lành mạnh.
Sự không chắc chăn về giao dịch mua bán công nghệ khiến các tổ chức
KH&CN gặp nhiều khó khăn trong tiêu thụ sản phẩm
Thiếu nguồn vốn mạo hiểm là nguyên nhân khiến cơ sở nghiên cứu
công ích không thể hiện được sức mạnh của mình
Thiếu cơ sở hạ tầng cho thương mại hóa là nguyên nhân cản trở các nhà
khoa học và các tổ chức khoa học sử dụng tối đa các tiềm năng của mình trên
cơ sở nguồn kinh phí cấp từ Nhà nước.
Thiếu các tổ chức môi giới đã làm cho các đơnvị khoa học và các
doanh nghiệp khó thương thảo
Do đó, cùng với chủ trương tăng cường tự chủ, t ự chịu trách nhiệm
của tổ chức KH&CN phải chú trọng đến các quan hệ thị trường.
Cải tiến quản lý kế hoạch theo hướng giảm tỉ lệ giao kế hoạch mang tính pháp
lệnh. Đồng thời cấp kinh phí cho nghiên cứu dựa trên nguyên tắc hỗ trợ có
mức độ tuyển chọn qua cạnh tranh thay vì cơ chế xin cho.
Xây dựng hệ thống đánh giá về hoạt động tự chủ
19
Trao quyền tự chủ về mọi mặt (nhân lực, tài chính, đất đai)
Nhân lực KH&CN là yếu tố quyết định nhất của Tổ chức KH&CN. Khi
nói đến nhân lực người ta thường chú ý một số khía cạnh: Người đứng đầu tổ
chức là người đứng đầu xác định các hướng hoạt động KH&CN của tổ chức;
Cơ cấu lợp lý về chuyên môn và trình độ; Độ tuổi trung bình; quá trình điều
hành tổ chức (bao gồm các yếu tố: Đào tạo, bồi dưỡng nhân lực đảm bảo sự
phát triển của tổ chức; Tạo môi trường thuận lợi cho từng cá nhân và tập thể
phát huy năng lực sáng tạo của mình; Đánh giá đúng năng lực và sở trường để
sử dụng có hiệu quả).
Nguồn lực tài chính cho các tổ chức KH&CN rất đa dạng. Hiện nay,
các nguồn tài chính cho các tổ chức KH&CN công lập từ ngân sách nhà nước.
Thực hiện các nhiệm vụ, các hợp đồng khoa học; Tài trợ của các tổ chức kinh
tế-xã hội trong và ngoài nước; Lợi nhuận của các hoạt động sản xuất, kinh
doanh, dịch vụ. Tỉ lệ các nguồn thu khách nhau của tổ chức KH&CN thể hiện
chính sách quốc gia về phát triển KH&CN.
Thiết bị máy móc, nhà xưởng, đất đai là cơ sở hạ tầng cần thiết và quan
trọng của tổ chức KH&CN. Đối với nguồn lực này người ta thường lưu ý về
khả năng hao mòn vô hình của thiết bị nghiên cứu khoa học rất lớn vì thế sau
khi lắp đặt cần nhanh chóng đưa vào sử dụng và với hiệu suất cao để nhanh
chóng hoàn vốn và thay thế. Vấn đề này hoàn toàn dễ hiểu đối với các Viên
nghiên cứu công nghệ ở các nước phát triển nhưng lại là vấn đề nan giải đối
với các nước có nền kinh thế chỉ huy tập trung hay đang chuyển đổi như ở
nước ta. Với chế độ thuê mua tài chính, các Viện nghiên cứu công nghệ có
khả năng tài chính để mua sắm, trang bị bất cứ thiết bị gì cần thiết cho nghiên
cứu và phát triển miễn là hoạt động đó đem lại lợi nhuận và có khả năng
thanh toán với công ty tài chính. Điều này khá mới mẻ với các Viện nghiên
cứu công nghệ của nước ta.
Thông tin là nguồn lực không thể thiếu của hoạt động KH&CHN. Với
20
xu thế hội nhập, nguồn thông tin đủ sức cung cấp cho các nhà KH&CN. Bên
cạnh việc khai thác miễn phí, thì việc chi cho thông tin là hết sức cần thiết cho
bất kỳ hoạt động nào của các tổ chức KH&CN. Với sự phát triển của kỹ thuật
thì điều kiện và phương tiện ghi chép, lưu trữ khai thác thông tin là hết sức
cần thiết cho bất kỳ hoạt động KHCN nào của các tổ chức KH&CN, các nhà
khoa học. Những kết quả nghiên cứu của các nhà KH&CN cũng cần sớm
được công bố và đưa vào thương mại nhanh chóng
Những nội dung đề cập nghiên cứu ở chương 1 về cơ sở lý luận về cơ chế
quản lý KH&CN nói chung và trong Viện NLNTVN nói riêng, đưa ra những
nhận thức về tổ chức KH&CN hạng đặc biệt, đó là những căn cứ lý thuyết quan
trọng luận giải cho việc phân tích thực trạng và đề xuất các giải pháp về hoàn
thiện cơ chế quản lý KH&CN tại các tổ chức KH&CN trực thuộc tổ chức
KH&CN hạng đặc biệt.
21
Tiểu kết chương
Chương 2
THỰC TRẠNG CƠ CHẾ QUẢN LÝ CỦA TỔ CHỨC KH&CN
HẠNG ĐẶC BIỆT (VIỆN NĂNG LƯỢNG NGUYÊN TỬ VIỆT NAM)
2.1. Khái quát về Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam
2.1.1 Quá trình hình thành và phát triển
- Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam, tên giao dịch quốc tế của Viện
là Vietnam Atomic Energy Institute (VINATOM), tiền thân từ Viện Nghiên
cứu hạt nhân, được thành lập ngày 23/02/1979 theo Nghị định 59/CP của Hội
đồng Chính phủ. Viện đã thực hiện việc tiếp nhận, quản lý cơ sở lò phản ứng
hạt nhân Đà Lạt, hình thành tổ chức, hợp tác nghiên cứu, xây dựng đề án khôi
phục và mở rộng lò phản ứng hạt nhân và các cơ sở nghiên cứu của Viện.
- Sau khi Viện Nghiên cứu hạt nhân (Đà Lạt) được thành lập theo
Quyết định số 64-CP ngày 26/4/1976 của Thủ tướng Chính phủ, nhiều cán bộ
có trình độ cao từ Viện Vật lý, Ủy ban Khoa học và Kỹ thuật Nhà nước, từ
các trường đại học đã được chuyển về Viện và nhanh chóng ổn định, triển
khai công việc. Cơ sở nghiên cứu hạt nhân Đà Lạt được quân đội chuyển giao
cho Viện quản lý. Vào năm 1977, nước ta đã đàm phán với Liên Xô về việc
khôi phục và mở rộng (nâng công suất) lò phản ứng hạt nhân Đà Lạt. Ngoài
các bộ phận nghiên cứu ở Đà Lạt như Phòng Vật lý hạt nhân, Phòng Hóa
phóng xạ, Phòng An toàn bức xạ và Sinh học phóng xạ, ở Hà Nội, các bộ
phận nghiên cứu Vật lý lý thuyết, Năng lượng hạt nhân và Hóa phóng xạ cũng
được hình thành. Năm 1978, Việt Nam tham gia trở lại Cơ quan Năng lượng
Nguyên tử Quốc tế (IAEA), trên cơ sở tiếp quản ghế thành viên của chính
quyền cũ ở miền Nam và bắt đầu đàm phán với IAEA về trợ giúp kỹ thuật.
- Sự phát triển của Viện cho thấy rõ hơn tính đa dạng của các hoạt động
và Nghị định 59-CP ngày 23/02/1979 của Hội đồng Chính phủ đã nâng quy
mô về không gian và nhiệm vụ của Viện Nghiên cứu hạt nhân trên phạm vi
22
toàn quốc, với định hướng trở thành một ngành Năng lượng nguyên tử của
Việt Nam. Viện đã có những bước phát triển mạnh mẽ trong giai đoạn này.
Năm 1982, công trình khôi phục và mở rộng lò phản ứng hạt nhân Đà Lạt
được tiến hành như một công trình trọng điểm của Nhà nước, một số phòng
thí nghiệm tại Hà Nội được xây dựng, hợp tác với các nước xã hội chủ nghĩa,
Ấn Độ và IAEA được tăng cường. Nhiều dự án tài trợ của IAEA được thực
hiện. Năm 1982, Chính phủ Việt Nam chính thức tham gia Hiệp ước Không
phổ biến vũ khí hạt nhân.
- Một mốc lịch sử quan trọng là cùng với thời điểm xây dựng, mở rộng
cơ sở hạ tầng, lò phản ứng hạt nhân Đà Lạt sau khi khôi phục, tăng công suất
gấp hai lần so với lò cũ, đã đạt trạng thái tới hạn vào ngày 01/11/1983. Sau lễ
khánh thành Công trình khôi phục và mở rộng lò phản ứng hạt nhân Đà Lạt
vào ngày 20 tháng 3 năm 1984, lò phản ứng chính thức đi vào hoạt động.
Bước phát triển này cùng với các hoạt động khác, đã làm tiền đề cho giai
đoạn phát triển mới, được thể chế hóa bằng Nghị định số 87-HĐBT ngày
11/6/1984 của Hội đồng Bộ trưởng, nâng Viện lên một tầm cao hơn về chức
năng, nhiệm vụ. Viện được đổi tên thành Viện Năng lượng nguyên tử Quốc
gia, trở thành đại diện cho một ngành bao gồm cả chức năng hoạch định chính
sách, quản lý và nghiên cứu. Năm 1988, gần 160 cán bộ của Viện 481 thuộc
Tổng cục Kỹ thuật được chuyển ngành và sát nhập vào Viện Năng lượng
nguyên tử Quốc gia, nâng tổng số cán bộ công nhân viên của Viện lên mức
cao nhất lúc bấy giờ, 720 người.
Tới đầu năm 1989, cơ cấu tổ chức của Viện theo Nghị định 87-HĐBT
được thực hiện đầy đủ và do đó, Chính phủ đồng ý cho phép Viện dùng tên
đối ngoại là Ủy ban Năng lượng nguyên tử Việt Nam (Vietnam Atomic
Energy Commission).
- Sau chủ trương đổi mới của Đảng, hợp tác quốc tế trong lĩnh vực
năng lượng nguyên tử cũng có những bước phát triển mới. Năm 1989, Chính
23
phủ ủy quyền cho Viện ký Hiệp định Bảo đảm (Safeguard). Cùng năm này,
Việt Nam thực sự bắt đầu tham gia tích cực vào Hợp tác vùng Châu Á - Thái
Bình Dương về hạt nhân (RCA), dù đã là thành viên từ năm 1977. Năm 1990,
Việt Nam bắt đầu thực hiện đầy đủ nghĩa vụ tài chính đối với IAEA. Viện đã tổ
chức thành công Hội nghị RCA năm 1991 tại Thành phố Hồ Chí Minh và từ đó
Việt Nam hoạt động như một thành viên đầy đủ của RCA. Thời gian này, ở Hà
Nội, sự phát triển về tổ chức, về nhiệm vụ cũng như về cơ sở vật chất đòi hỏi
phải có sự phân cấp quản lý mới. Do đó, bên cạnh Viện Nghiên cứu hạt nhân Đà
Lạt và Trung tâm Hạt nhân thành phố Hồ Chí Minh đều cho Thủ tướng hoặc
Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng quyết định thành lập, ngày 21/01/1991, Chủ tịch
Hội đồng Bộ trưởng ra quyết định thành lập Viện Khoa học và Kỹ thuật hạt nhân
và Viện Công nghệ xạ hiếm tại Hà Nội, tạo thành 4 đơn vị nghiên cứu và triển
khai trực thuộc Viện Năng lượng nguyên tử Quốc gia ở 3 miền của đất nước.
- Năm 1993, nhằm tập trung quản lý các đơn vị sự nghiệp nghiên cứu
khoa học công lập về một mối chung, Chính phủ đã ban hành Nghị định 59/CP
ngày 13/9/1993, chuyển Viện Năng lượng nguyên tử Quốc gia về trực thuộc Bộ
Khoa học, Công nghệ và Môi trường (nay là Bộ Khoa học và Công nghệ) và đổi
tên thành Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam1.2. Hiện trạng Viện NLNTVN
và những kết quả đã đạt được trong hơn 35 năm hình thành và phát triển
2.1.2. Nguồn nhân lực và tổ chức bộ máy
Về nguồn nhân lực: Tính đến ngày 31/12/2018 toàn Viện có 745 cán
bộ, viên chức và người lao động, trong đó có 570 cán bộ biên chế, 175 cán bộ
hợp đồng, viên chức trong biên chế và hợp đồng không xác định thời hạn
được hưởng lương từ ngân sách Nhà nước, 570 cán bộ, viên chức ở các đơn vị
trực thuộc thực hiện theo Nghị định 115/2005/NĐ-CP của Chính phủ, 175 cán
bộ, nhân viên hợp đồng hưởng lương từ các nguồn kinh phí khác. Trong toàn
bộ 810 cán bộ, nhân viên có 11 giáo sư và phó giáo sư, 52 tiến sỹ, 152 thạc
sỹ, 453 đại học, cao đẳng, còn lại 77 cán bộ trung cấp kỹ thuật và nhân viên
24
phục vụ.
Về cơ cấu tổ chức bộ máy: Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam có 3 cơ
quan tham mưu và 9 đơn vị trực thuộc:
- Khối Cơ quan gồm: Lãnh đạo Viện, Văn phòng, Ban Hợp tác quốc tế, Ban
Kế hoạch và Quản lý khoa học.
- Khối các cơ quan nghiên cứu và triển khai gồm 9 đơn vị trực thuộc, có tư
cách pháp nhân, có tài khoản và con dấu riêng, đó là:
1) Viện Nghiên cứu hạt nhân;
2) Viện Khoa học và Kỹ thuật hạt nhân;
3) Viện Công nghệ xạ hiếm;
4) Trung tâm Hạt nhân thành phố Hồ Chí Minh;
5) Trung tâm Nghiên cứu và Triển khai công nghệ bức xạ;
6) Trung tâm Ứng dụng kỹ thuật hạt nhân trong công nghiệp;
7) Trung tâm Chiếu xạ Hà Nội;
8) Trung tâm Đánh giá không phá huỷ;
9) Trung tâm Đào tạo hạt nhân.
2.1.3. Về cơ sở vật chất - tài chính
- Hiện nay, Viện NLNTVN đang quản lý 1.306.620 m2 đất tại: Hà Nội, Thành
phố Hồ Chí Minh, Đà Lạt và Đà Nẵng.
- Viện đang quản lý các tài sản bao gồm nhà cửa, vật kiến trúc, máy
móc thiết bị, phương tiện vận tải và các tài sản cố định khác với tổng giá trị
còn lại đến cuối năm 2018 là khoảng 400 tỷ đồng.
- Hàng năm Bộ Khoa học và Công nghệ cấp cho Viện khoảng 150 tỷ
đồng để tiến hành các hoạt động nghiên cứu và triển khai khoa học và công
nghệ. Đồng thời, thông qua hoạt động sản xuất, chuyển giao công nghệ và
dịch vụ kỹ thuật, Viện cũng tạo được doanh thu khoảng 200 tỷ đồng mỗi
năm.Viện đang quản lý, khai thác và sử dụng các thiết bị lớn như: lò phản ứng
hạt nhân Đà Lạt; các dây chuyền thiết bị sản xuất, điều chế đồng vị phóng xạ;
25
các cơ sở sản xuất thử nghiệm quy mô nhỏ (dạng pilot) về xử lý quặng urani
và xử lý monazit; thiết bị chiếu xạ công nghiệp dùng nguồn Co-60 hoạt độ
400 kCi tại Thành phố Hồ Chí Minh; thiết bị chiếu xạ bán công nghiệp dùng
nguồn Co-60 hoạt độ 200 kCi tại Hà Nội; 2 thiết bị chiếu xạ dùng nguồn Co-
60 với hoạt độ 16,5 kCi (1981) và 10 kCi (2007) phục vụ cho nghiên cứu tại Đà
Lạt; máy gia tốc chùm tia điện tử EB để chiếu xạ khử trùng và bảo quản; máy gia
tốc KOTRON 13MeV điều chế dược chất phóng xạ; các hệ thiết bị phân tích như
khối phổ kế AAS, ICP-MS, GC-MS, HPLC-MS, các hệ phổ kế gamma, alpha, ...;
phòng chuẩn cấp II- kiểm định và hiệu chuẩn thiết bị đo lường bức xạ; phòng thí
nghiệm thủy văn đồng vị, phòng thí nghiệm NDT… Đây là các trang thiết bị và
phòng thí nghiệm hiện đại nhất ở nước ta trong lĩnh vực NLNT, có thể so sánh
được với một số nước trong khu vực như Thái Lan, Malaysia, Philippines, ...
Ngoài những cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện có nói trên, trong tương lai
gần, cơ sở vật - chất kỹ thuật do Viện quản lý sẽ tăng lên rất lớn do có sự đầu
tư của Nhà nước cho lĩnh vực này theo Đề án "Tăng cường năng lực nghiên
cứu - triển khai và hỗ trợ kỹ thuật phục vụ phát triển ứng dụng năng lượng
nguyên tử và bảo đảm an toàn, an ninh", và đặc biệt là có Trung tâm Khoa
học và Công nghệ hạt nhân (theo Hiệp định hợp tác Việt - Nga đã ký kết) có
số vốn đầu tư dự kiến khoảng 540 triệu USD, với thiết bị chính là lò phản ứng
hạt nhân nghiên cứu mới và nhiều thiết bị nghiên cứu hiện đại khác.
2.1.4. Các nhiệm vụ phát triển
Trong giai đoạn hiện nay, với các nhiệm vụ chính về:
- Nghiên cứu xây dựng chính sách, phương hướng, chiến lược, quy
hoạch và kế hoạch phát triển ngành năng lượng nguyên tử Việt Nam;
- Thực hiện nghiên cứu cơ bản định hướng ứng dụng trong lĩnh vực
năng lượng nguyên tử, triển khai ứng dụng kỹ thuật hạt nhân và công nghệ
bức xạ trong các ngành kinh tế - xã hội của đất nước;
- Nghiên cứu, tiếp thu, làm chủ và phát triển khoa học, kỹ thuật và công
26
nghệ liên quan đến nhà máy điện hạt nhân;
- Thực hiện vai trò của cơ quan hỗ trợ kỹ thuật quốc gia độc lập về
kiểm tra đánh giá và bảo đảm chất lượng, bảo đảm an toàn, an ninh hạt nhân
và bảo vệ môi trường, phục vụ cho chương trình phát triển điện hạt nhân.
Viện NLNTVN là đơn vị nghiên cứu đầu ngành và duy nhất có vai trò
rất quan trọng trên toàn quốc trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử.
2.1.4.1. ghiên cứu phát triển các kỹ thuật hạt nhân, triển khai ứng dụng trong
các lĩnh vực kinh tế- xã hội, phục vụ nền kinh tế quốc dân
Nghiên cứu phát triển các kỹ thuật đo liều bức xạ, kiểm chuẩn thiết bị
bức xạ, đảm bảo an toàn bức xạ, quan trắc, cảnh báo phóng xạ môi trường.
Nghiên cứu ứng dụng công nghệ bức xạ và đồng vị phóng xạ trong các ngành
và lĩnh vực: công nghiệp, nông nghiệp, xây dựng, giao thông, tài nguyên và
môi trường, và y tế. Các kỹ thuật kiểm tra không phá hủy (NDT) được ứng
dụng trong viêc kiểm tra đánh giá chất lượng thiết bị, công trình. Nghiên cứu
ứng dụng kỹ thuật đột biến để tạo các giống mới cho nông nghiệp. Nghiên
cứu ứng dụng công nghệ bức xạ nhằm bảo quản, thanh trùng các sản phẩm
nông sản, thủy hải sản, thuốc đông nam dược cũng như phục vụ xuất khẩu.
Nghiên cứu chế tạo các đồng vị, dược chất phóng xạ phục vụ chăm sóc sức
khỏe nhân dân. Nghiên cứu ứng dụng kỹ thuật đồng vị đánh dấu trong thăm
dò, khai thác, chế biến dầu khí, kỹ thuật thủy văn đồng vị trong đánh giá,
quản lý tài nguyên nước ngầm.
2.1.4.2. Đẩy mạnh hợp tác quốc tế để đáp ứng nhu cầu xây dựng tiềm lực,
tiếp thu thành tựu khoa học công nghệ và hội nhập quốc tế
Để thực hiện tốt các nhiệm vụ trong giai đoạn tới trong việc phát triển
điện hạt nhân ở Việt Nam thì Viện cần phải mở rộng quan hệ với các tổ chức
quốc tế và song phương trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử theo cả chiều
rộng và chiều sâu. Viện phải được nâng tầm trong quan hệ quốc tế nhằm tiếp
thu được những thành tựu khoa học công nghệ mới nhất trong lĩnh vực năng
lượng nguyên tử từ các nước công nghiệp hạt nhân phát triển, học tập các
kinh nghiệm thực tiễn và đào tạo được đội ngũ cán bộ khoa học công nghệ
27
trình độ cao cho nước nhà.
2.1.4.3. Triển khai xây dựng Trung tâm Khoa học và Công nghệ hạt nhân
Nhiệm vụ quan trọng và có ảnh hưởng quyết định đến việc phát triển
tiềm lực khoa học công nghệ ngành năng lượng nguyên tử của Việt Nam
trong tương lai. Trung tâm Khoa học và Công nghệ hạt nhân sẽ là cơ sở
nghiên cứu khoa học và công nghệ hiện đại phục vụ cho các lĩnh vực về điện
hạt nhân như: nâng cao năng lực, trình độ, đào tạo cán bộ trong tính toán, thiết
kế, phân tích đánh giá an toàn, hỗ trợ khoa học - kỹ thuật và công nghệ cho
việc thực hiện các dự án hạt nhân nói chung, và nhà máy ĐHN nói riêng; tiếp
thu, làm chủ công nghệ hạt nhân chuyển giao về Việt Nam. Đồng thời, Trung
tâm còn là cơ sở nghiên cứu và ứng dụng các kỹ thuật hạt nhân tiên tiến trong
các ngành kinh tế - xã hội, là nơi tập hợp các chuyên gia giỏi trong nhiều lĩnh
vực khoa học và công nghệ liên quan trong cả nước. Trung tâm được xây
dựng tại Viện NLNTVN, sẽ là cơ sở nghiên cứu hiện đại trong lĩnh vực năng
lượng nguyên tử ở nước ta và trong khu vực Đông Nam Á.
2.1.4.4. Viện NLNTVN đang thực hiện nhiệm vụ đào tạo, huấn luyện cán bộ
cho ngành năng lượng nguyên tử
Viện NLNTVN có Trung tâm đào tạo hạt nhân trực thuộc, cũng như có đủ
năng lực về trang thiết bị nghiên cứu, đội ngũ cán bộ có trình độ thực hiện nhiệm
vụ bồi dưỡng, huấn luyện chuyên ngành năng lượng nguyên tử, điện hạt nhân
cho các đơn vị liên quan trong cả nước. Theo Quyết định số 1558/QĐ-TTg, Viện
NLNTVN là 1 đơn vị tham gia, phối hợp với các trường đại học thực hiện đào
tạo nguồn nhân lực cho điện hạt nhân và năng lượng nguyên tử.
2.2 Thực trạng công tác quản lý các tổ chức KH&CN trực thuộc tại Viện
NLNTVN
2.2.1 Nguyên tắc quản lý chung
Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam điều hành theo chế độ thủ
trưởng, đảm bảo nguyên tắc tập trung dân chủ, phát huy năng lực trách nhiệm
28
cá nhân của từng công chức, viên chức; quan hệ chặt chẽ với tổ chức Đảng,
các đoàn thể chính trị - xã hội. Mỗi việc do một người phụ trách và chịu trách
nhiệm chính.
Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam quản lý thống nhất về định
hướng phát triển khoa học và công nghệ đối với tất cả các đơn vị trực thuộc;
chỉ tiêu biên chế và quy hoạch đào tạo, phát triển nguồn nhân lực; kế hoạch
xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ cho nghiên cứu, triển khai; kế hoạch
hợp tác quốc tế. Đảm bảo tập trung tiềm lực khoa học công nghệ của các đơn
vị tạo nên sức mạnh tổng hợp của toàn viện.
Hoạt động của Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam phải tuân thủ
theo quy định của pháp luật, quy chế làm việc của Bộ KH&CN và các quy
định về chức năng, nhiệm vụ.
2.2.2 Thẩm quyền, phạm vi giải quyết công việc
1) Trách nhiệm của Viện trưởng
- Chủ động tổ chức thực hiện Quyết định của Bộ trưởng Bộ Khoa học
và Công nghệ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức
của Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam. Chịu trách nhiệm toàn diện, liên
tục về mọi hoạt động của Viện trước Bộ trưởng và trước pháp luật;
Viện trưởng thực hiện thẩm quyền các công việc theo quy định phân
cấp quản lý công chức viên chức của các đơn vị trực thuộc Bộ Khoa học và
công nghệ. Tiếp đó Viện trưởng thực hiện chỉ đạo các đơn vị thông qua phân
cấp quản lý trong các đơn vị trực thuộc Viện
- Phân công các Phó Viện trưởng phụ trách một số lĩnh vực công tác.
Phân cấp cho Thủ trưởng các đơn vị trực thuộc Viện giải quyết một số vấn đề
thuộc thẩm quyền của các đơn vị;
- Chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra hoạt động của các đơn vị trực thuộc
Viện trong việc thực hiện pháp luật, nhiệm vụ đã phân công, phân cấp thuộc
29
lĩnh vực quản lý;
- Ký các văn bản báo cáo Lãnh đạo Bộ, quy hoạch phát triển Viện; Đề
án thành lập mới, giải thể, tổ chức lại các tổ chức thuộc Viện; quy chế chi tiêu
nội bộ; Quy chế dân chủ ở cơ quan; phương án vay vốn tín dụng, hỗ trợ đầu
tư; giao nhiệm vụ kế hoạch cho các đơn vị; phê duyệt quyết toán cho các đơn
vị theo phân cấp của Bộ KH&CN và phê duyệt các dự án đầu tư xây dựng
được Bộ trưởng ủy quyền;
- Chủ trì tổ chức thực hiện chương trình, các đề tài, dự án và các nhiệm
vụ khác do Bộ trưởng giao;
- Bổ nhiệm, miễn nhiệm lãnh đạo các đơn vị trực thuộc, các Ban tham
mưu và các chức danh khác; quyết định thành lập Hội đồng tư vấn, đi công
tác, học tập ở nước ngoài; quyết định khen thưởng, kỷ luật, nâng lương theo
phân cấp quản lý cán bộ của Bộ Khoa học và Công nghệ.
2) Công tác quản lý, sử dụng công chức, viên chức
Quản lý số lượng, chất lượng, công chức, viên chức
Tổ chức công tác tuyển dụng sử dụng viên chức theo kế hoạch tuyển
dụng đã được Bộ KH&CN phê duyệt; tiếp nhận, điều dộng, biệt phái, luân
chuyển, chuyển công tác cho thôi việc, tạm đình chỉ công tác đối với công
chức, viên chức (trừ các chức danh do Bộ trưởng quyết định) thuộc thẩm
quyền quản lý của đơn vị
Quyết định thành lập các hội đồng: tuyển dụng công chức, viên chức;
xét nâng lương trước thời hạn; khen thưởng kỷ luật theo thẩm quyền
Bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, miễn nhiện, tiếp nhân, diều động, luân chuyển,
biệt phái công chức, viên chức (Trình Bộ trưởng xem xét quyết định bổ
nhiệm, bổ nhiệm lại, miễn nhiệm đối với cấp Phó viện trưởng, kế toán trưởng
Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam; Trình Bộ trưởng phê duyệt chủ trương
bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, miễn nhiệm đối với chức vụ lãnh đạo đơn vị trực thuộc
có hệ số 0,8 trở lên; Quyết định bổ nhiệm bổ nhiệm lại đối với lãnh đạo các đơn
30
vị thuộc Khối cơ quan và đơn vị chưa được phân cấp như các trung tâm trực
thuộc các viện dưới; Miễn nhiệm, giải quyết thôi giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý
và tạm đình chỉ công tác đối với các chức danh nêu trên theo quy định.
Cử công chức, viên chức đi nước ngoài, đào tạo bồi dưỡng, quản lý hộ
chiếu đối với công chức, viên chức
Nâng ngạch chuyển ngạch, thay đổi chức danh nghề nghiệp thăng hạng
viên chức
Thực hiện chế độ tiền lương, phụ cấp, bảo hiểm xã hội đối với công
chức, viên chức
Đánh giá khen thưởng kỷ luật đối với công chức, viên chức
Quản lý hồ sơ đối với công chức viên chức
Kiểm tra việc sử dụng, quản lý và thực hiện chế độ chính sách đối với
công chức viên chức, giải quyết khiếu nại, tố cáo công chức viên chức theo
quy định của pháp luật
- Cán bộ, viên chức của Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam được
xếp ngạch và xếp lương theo quy định hiện hành của Nhà nước;
- Viện tổ chức tuyển dụng, sử dụng, đào tạo, bồi dưỡng, bổ nhiệm
ngạch đối với cán bộ, viên chức của Viện theo phân cấp của Bộ KH&CN và
quy định của Nhà nước. Hàng năm tiến hành tuyển dụng cán bộ, viên chức do
đơn vị tự trả lương theo yêu cầu nhiệm vụ và khả năng tài chính của đơn vị,
theo chỉ tiêu được Bộ Khoa học và Công nghệ phê duyệt;
- Viện được mời chuyên gia trong và ngoài nước đến làm việc tại Viện;
hàng năm Viện được cử cán bộ đi đào tạo, bồi dưỡng và làm việc ở nước
ngoài theo quy định của Bộ KH&CN và của Nhà nước; được đề xuất cơ chế,
chính sách, khuyến khích vật chất và tinh thần để phát huy và thu hút cán bộ
khoa học trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử.
3) Về tài sản
Viện thống nhất quản lý và sử dụng tài sản do Nhà nước giao gồm: đất
31
đai, trụ sở, thiết bị và tài sản được trang bị từ các nguồn kinh phí Nhà nước
(bao gồm đầu tư, viện trợ, vay từ nước ngoài) để tiến hành nghiên cứu khoa
học và triển khai công nghệ theo chức năng và nhiệm vụ của đơn vị.
Viện được chủ động mua sắm các thiết bị thí nghiệm, triển khai công
nghệ từ các nguồn vốn của Viện, những thiết bị này là tài sản của Viện, sử
dụng, quản lý theo quy định của Viện và phù hợp với quy định của pháp luật.
Tất cả các tài sản của Nhà nước đầu tư cho Viện hoặc Viện tự mua sắm đều
phải được phản ánh vào sổ kế toán. Hàng năm tiến hành tổ chức kiểm kê tài
sản, vật tư và định kỳ báo cáo kết quả về Bộ KH&CN theo quy định.
4) Đầu tư xây dựng cơ bản
Viện trưởng Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam lập quy hoạch xây
dựng chung của toàn Viện và đề xuất chủ trương đầu tư hàng năm trình Bộ
Khoa học và Công nghệ phê duyệt và chịu trách nhiệm kiểm tra giám sát thực
hiện đầu tư xây dựng cơ bản theo quy định của Nhà nước.
5) Về tài chính
Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam là đơn vị dự toán cấp II trực
thuộc Bộ Khoa học và Công nghệ. Viện trưởng chịu trách nhiệm quản lý và
giao dự toán kinh phí đến các đơn vị trực thuộc Viện. Các đơn vị trực thuộc
Viện được chủ động trong quá trình thực hiện công tác tài chính được giao và
chịu sự kiểm tra, kiểm soát công tác tài chính kế toán của Viện trưởng theo
quy định của Nhà nước.
6) Về quyết định thành lập, giải thể các đơn vị trực thuộc Viện và quy
định về mối quan hệ công tác của các đơn vị
- Viện trưởng Viện NLNTVN quyết định thành lập, giải thể các bộ
phận của các đơn vị trực thuộc theo phân cấp của Bộ KH&CN.
- Viện trưởng Viện NLNTVN quy định mối quan hệ làm việc giữa các
đơn vị trực thuộc.
7) Về việc quản lý đề tài nhiệm vụ các cấp
Việc quản lý đề tài nhiệm vụ khoa học các cấp theo Quy chế quản lý
32
nhiệm vụ khoa học của Bộ Khoa học và Công nghệ và theo Quy định quản lý
nhiệm vụ khoa học và công nghệ các cấp của Viện Năng lượng nguyên tử
Việt Nam. Viện trưởng Viện NLNTVN phê duyệt tên nhiệm vụ KH&CN, tổ
chức chủ trì, cá nhân chủ nhiệm thời gian thực hiện và kinh phí, phương thức
khoán chi thực hiện nhiệm vụ KH&CN do Ban Kế hoạch và Quản lý khoa
học trình. Ban KH&QLKH chịu trách nhiệm về nội dung thuyết minh và hợp
đồng nhiệm vụ KH&CN các cấp theo các quy định hiện hành trước khi trình
Viện trưởng phê duyệt. Các nhiệm vụ cơ sở giao Trưởng Ban KH&QLKH ký
hợp đồng, hợp đồng nhiệm vụ KH&CN được ký kết giữa các bên là căn cứ
pháp lý để thực hiện đánh giá và nghiệm thu kết quả khi kêt thúc thơi gian
hợp đồng. Thực hiện việc kiểm tr, điều chỉnh nhiệm vụ khoa học và công
nghệ như sau: Định kỳ 6 tháng, chủ nhiệm nhiệm vụ KH&CN các cấp phải
tiến hành hội thảo khoa học liên quan đến các nội dung đã thực hiện; Đơn vị
chủ trì nhiệm vụ KH&CN có trách nhiệm báo cáo kế hoạch hội thảo về Ban
KH&QLKH bằng văn bản; Việc kiểm tra đánh giá được thực hiện như sau:
Tháng 9 hàng năm ban KH&QLKH thông báo lịch kiểm tra định kỳ nhiệm
vụ KH&CN, cấp bộ cấp cơ sở theo định kỳ; Đối với nhiệm vụ KH&CN cấp
nhà nước: Đơn vị chủ trì có trách nhiệm gửi thông báo cho ban KH&QLKH
ngày kiểm tra khi nhận được thông báo từ Bộ KH&CN. Ban KH&QLKH
tham dự với tư cách là khách mời; Điều chỉnh nhiệm vụ KH&CN được thực
hiện trước 30 ngày kể từ ngày kết thúc nhiệm vụ theo quyết định phê duyệt và
hợp đồng đã ký kết. Việc tư vấn đánh giá nghiệm thu nhiệm vụ khoa học và
công nghệ gồm có: (1) Tư vấn đánh giá nghiệm thu cấp cơ sở: Lãnh đạo đơn
vị chủ trì có trách nhiệm thành lập hội đồng đánh giá nghiệm thu theo quy
định, Ban KH&QLKH tham dự. Đối với nhiệm vụ KH&CN cấp Nhà nước
do Viện NLNTVN giao kinh phí thì Ban KH&QLKH trình Viện trưởng quyết
định thành lập Hội đồng (hội đồng gồm 7 người:01 chủ tịch, 02 Ủy viên phản
biện, 03 Ủy viên và 01 Ủy viên thư ký, trong hội đồng có ít nhất 1/3 số thành
viên là các nhà khoa học không thuộc đơn vị chủ trì thực hiện nhiệm vụ). Đối
33
với nhiệm vụ KH&CN cấp cơ sở hội đồng gồm 05 thành viên. Đánh giá
nghiệm thu kết quả thực hiện nhiệm vụ: Đối với nhiệm vụ KH&CN cấp cơ sở được
đánh gia ở mức đạt trở lên chủ nhiệm và đơn vị chủ trì gửi hồ sơ đề nghị nghiệm
thu chính thức về Ban KH&QLKH, đối với nhiệm vụ không đạt đơn vị chủ trì căn
cứ vào ý kiến tư vấn của hội đồng về các lý do khách quan chủ quan làm rõ nguyên
nhân báo cáo về Viện trưởng Viện NLNTVN quyết định xử lý đối với nhiệm vụ
KH&CN không hoàn thành. Việc công nhận kết quả chính thức của nhiệm vụ
KHCN được đánh giá mức đạt trở lên; Đơn vị gửi hồ sơ về Ban KH&QLKH và các
cơ quan quản lý khác hồ sơ về nhiệm vụ đề tài để lưu tài liệu sản phẩm của nhiệm
vụ KH&CN. Ban KH&QLKH tiến hành thanh lý hợp đồng thực hiện nhiệm vụ
KH&CN khi nhận được đầy đủ tài liệu liên quan theo quy định.
2.2.3 Cơ cấu tổ chức
Hiện nay Viện NLNTVN gồm có 9 đơn vị trực thuộc và 3 đơn vị chức
năng. Cơ cấu tổ chức và nhân lực của Viện NLNTVNđến cuối năm 2018, số
lượng và chất lượng cán bộ, viên chức, người lao động như sau
Khác
Phân loại/Số lượng Biên chế Trình độ đào tạo Thạc sĩ Tiến sĩ
745 Tình hình biên chế Hợp đồng NĐ 68 38 HĐLĐ Giáo sư, Phó GS 11 137 570 Đại học, cao đẳng 453 52 152 77
Thông tin theo báo cáo tổng kết của Viện NLNTVN
Phân loại theo ngạch
Phân loại/Số lượng
NCVCC và tương đương NCVC và tương đương NCV, kỹ sư và tương đương Nhân viên thừa hành, phục vụ
524 16 Kỹ thuật viên và tương đương 25 105
75 745 Thông tin theo báo cáo tổng kết của Viện NLNTVN
Ban Lãnh đạo Viện gồm: Viện trưởng và các Phó Viện trưởng do Bộ
trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ bổ nhiệm theo quy định hiện hành.
34
Mô hình tổ chức của Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam như sau:
SƠ ĐỒ CƠ CẤU TỔ CHỨC VIỆN NĂNG LƯỢNG NGUYÊN TỬ VIỆT NAM
BAN LÃNH ĐẠO VIỆN NĂNG LƯỢNG NGUYÊN TỬ VIỆT NAM
KHỐI NGHIÊN CỨU TRIỂN KHAI ỨNG DỤNG BỨC XẠ VÀ ĐỒNG VỊ PHÓNG XẠ
KHỐI CƠ QUAN PHỤC VỤ CÔNG TÁC QUẢN LÝ
BAN LÃNH ĐẠO VIỆN NĂNG LƯỢNG NGUYÊN TỬ VIỆT NAM KHỐI NGHIỂN CỨU PHÁT TRIỂN ĐỆN HẠT NHÂN VÀ HỖ TRỢ KỸ THUẬT NHÂN
VĂN PHÒNG VIỆN NLNTVN
KHỐI CƠ QUAN PHỤC VỤ CÔNG TÁC QUẢN LÝ
VIỆN NGHIÊN CỨU HẠT NHÂN ĐÀ LẠT
KHỐI NGHIÊN CỨU TRIỂN KHAI ỨNG TRUNG TÂM ỨNG DỤNG KỸ DỤNG BỨC XẠ VÀ ĐỒNG VỊ PHÓNG XẠ THUẬT HẠT NHÂN TRONG CÔNG NGHIỆP
TRUNG TÂM ỨNG DỤNG KỸ
VIỆN KHOA HỌC VÀ KỸ THUẬT HẠT NHÂN
VĂN PHÒNG VIỆN NLNTVN BAN KẾ HOẠCH VÀ QUẢN LÝ KHOA HỌC
TRUNG TÂM HẠT NHÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
VIỆN CÔNG NGHỆ XẠ HIẾM
BAN KẾ HOẠCH VÀ QUẢN LÝ KHOA HỌC BAN
HỢP TÁC QUỐC TẾ
TRUNG TÂM NGHIÊN CỨU VÀ TRIỂN KHAI CÔNG NGHỆ BỨC XẠ
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO HẠT NHÂN
BAN
TRUNG TÂM CHIẾU XẠ HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÁNH GIÁ KHÔNG PHÁ HỦY
HỢP TÁC QUỐC TẾ
VIỆN ỨNG DỤNG BỨC XẠ ĐÀ NẴNG
35
TRUNG TÂM KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN
TRUNG TÂM KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN
2.2.4 Kinh phí được giao
Năm 2018, Viện NLNTVN được Bộ Khoa học và Công nghệ cấp kinh
phí 179.670.000.000 đồng (không bao gồm kinh phí cấp cho các nhiệm vụ
KHCN cấp Nhà nước) để triển khai các hoạt động nghiên cứu của Viện trong
chi đầu tư phát triển và chi thường xuyên.
Bảng tổng hợp nguồn kinh phí Nhà nước cấp cho Viện NLNTVN
(theo báo cáo tổng kết của Viện NLNTVN)
Stt Nội dung Số tiền (đồng) Ghi chú
Tổng cộng (A+B) 102.094.000.000
0 A Chi đầu tư phát triển
102.094.000.000 B Chi thường xuyên
150.000.000 1 Giáo dục đào tạo
99.214.000.000 2 Sự nghiệp khoa học
2.1 Kinh phí thực hiện nhiệm vụ khoa 13.965.000.000
học và công nghệ
2.2 Kinh phí thường xuyên 77.406.000.000
Lương và hoạt động bộ máy 66.906.000.000
Nhiệm vụ thường xuyên theo chức 10.500.000.000
năng
2.3 Kinh phí không thường xuyên 6.702.000.000
Sửa chữa lớn, xây dựng nhỏ 5.802.000.000
Nhiệm vụ cấp Bộ khác 900.000.000
2.4 Hợp tác quốc tế 1.141.000.000
Đoàn vào 396.000.000
Đoàn ra 615.000.000
130.000.000 Hội nghị, hội thảo quốc tế
36
3 Sự nghiệp môi trường 2.730.000.000
Ngoài ra, nguồn kinh phí đầu tư tăng cường trang thiết bị là 77,576 tỷ
đồng, trong đó bao gồm kinh phí bắt đầu đầu tư cho dự án Mạng quan trắc
phóng xạ quốc gia là 32 tỷ đồng.
2.2.5 Kết quả hoạt động nghiên cứu, triển khai, ứng dụng trong năm 2018
Nhiệm vụ nghiên cứu khoa học năm 2018
Nghiên cứu cơ bản
Nhóm nghiên cứu cơ bản của Viện Khoa học và Kỹ thuật hạt nhân
(KH&KTHN) đã tham gia nghiên cứu các hiệu ứng alpha cluster trong phản
ứng hạt nhân trực tiếp như tán xạ, trao đổi nucleon và alpha cluster giữa các hạt nhân 4He, 12C và 16O; nhóm nghiên cứu cơ bản của Viện đang tham gia dự
án nghiên cứu quốc tế lớn SEASTAR liên quan đến nghiên cứu cấu trúc và sơ đồ
mức kích thích của các hạt nhân giàu neutron thông qua phản ứng hạt nhân trực
tiếp trong vùng năng lượng trung và tham gia nghiên cứu phản ứng hạt nhân với
sự quan tâm đặc biệt tới hiệu ứng và các nghiên cứu cấu trúc hạt nhân trên các
thiết bị lớn của Trung tâm nghiên cứu hạt nhân tiên tiến trên thế giới.
Hiện nay các nghiên cứu trên đã có 03 công trình công bố trên các tạp
chí quốc tế Physical Review C, 02 công trình trên tạp chí quốc tế thuộc danh
mục ISI, 01 báo cáo tại hội nghị quốc tế ISPUN17.
Viện Nghiên cứu hạt nhân (NCHN) đã thu được số liệu các hạt nhân và
cấu trúc mức của một số hạt nhân nặng không bền, cấu trúc mức kích thích
của các hạt nhân SM-153, Dy-162 và Yb-172 ở trạng thái hợp phần thông qua
phản ứng bắt nơtron nhiệt trên lò phản ứng hạt nhân Đà Lạt và các số liệu hạt
nhân k0, Q0 và Er của các nguyên tố quan tâm trong phân tích kích hoạt nơtron
theo chuẩn k0. Kết quả được công bố trên tạp chí Nuc.Phys.A.
Nghiên cứu trên lò Đà Lạt, tính toán vật lý lò, chế tạo các thiết bị đo đạc
hạt nhân, xử lý chế biến quặng phóng xạ, nhiên vật liệu hạt nhân và xử lý
chất thải phóng xạ
Viện NCHN đang nghiên cứu, tính toán các đặc trưng nơtron, thủy nhiệt
37
và phân tích an toàn lò phản ứng hạt nhân nghiên cứu do Liên bang Nga đề
xuất cho Trung tâm KHCN hạt nhân; nghiên cứu chiếu xạ thử nghiệm pha tạp
đơn tinh thể Silic trên Lò Phản ứng hạt nhân Đà Lạt; Nghiên cứu phát triển
thiết bị và khai thác dòng nơtron nhiệt trên kênh ngang số 1 lò phản ứng hạt
nhân Đà Lạt.
Thông qua các hoạt động nghiên cứu của đề tài cấp Nhà nước, cấp Bộ,
Viện NCHN đã đào tạo được đội ngũ cán bộ có chuyên môn sâu về lĩnh vực
công nghệ lò phản ứng (LPƯ), có khả năng tính toán các đặc trưng nơtron,
thủy nhiệt và phân tích an toàn lò phản ứng hạt nhân nghiên cứu, ứng dụng
chiếu xạ pha tạp đơn tinh thể Silic, chế tạo được hệ đo tán xạ nơtron, hoàn
thiện số hóa các hệ đo gamma đa kênh và trùng phùng sẵn sàng chuẩn bị nhân
lực cho Dự án Trung tâm khoa học và công nghệ hạt nhân, đồng thời phục vụ
tốt hơn công tác đảm bảo vận hành an toàn LPƯ hạt nhân Đà Lạt
Viện NCHN đang triển khai các nghiên cứu liên quan đến phương pháp
phân tích kích hoạt nơtron dùng chuẩn nội; các công cụ tính toán, hiệu chỉnh
sử dụng trong phương pháp chuẩn nội cho INAA, PGNAA và các quy trình
phân tích INAA và PGNAA dùng phương pháp chuẩn nội.
Viện KH&KTHN đã nghiên cứu cấu hình nạp tải nhiên liệu của lò phản
ứng năng lượng VVER-1200 (V491) cũng như tính toán quá trình cháy nhiên
liệu trong lò phản ứng VVER-1200 và xác định tổng lượng các đồng vị Actini
hiếm sinh ra trong quá trình cháy và nghiên cứu ảnh hưởng của nhiên liệu có
chứa Actini hiếm đến các đặc trưng vật lý và an toàn của lò phản ứng VVER-
1200. Viện nghiên cứu và chế tạo được hệ thực nghiệm thủy nhiệt cùng với
phần mềm xử lý tín hiệu đi kèm phục vụ cho đào tạo cán bộ trẻ. Các nghiên
cứu đang được gửi đăng trên tạp chí quốc tế và tạp chí Nuclear Science and
Technology (NST) của Hội NLNT và Viện NLNTVN.
Viện KH&KTHN đã chế tạo thành công 05 liều kế cá nhân điện tử, 01
Bộ đọc dữ liệu liều kế cùng với hai phần mềm: Phần mềm (Firmware) cho
38
liều kế điện tử EPD và Phần mềm công cụ (Software) đi kèm hệ thống/thiết bị
trên máy tính PC. Các nghiên cứu của nhóm đã được đăng tải trên tạp chí
Nuclear Science and Technology. Bên cạnh đó nhóm đang nghiên cứu chế tạo
liều kế cá nhân bằng vật liệu OSL để đo bức xạ photon và nơtron. Nhóm tiến
hành chế tạo vật liệu quang phát quang LiAlO2 và α-Al2O3:C trên thiết bị lò
nung chân không nhiệt độ cao và đang thử nghiệm sử dụng phim nhuộm màu
Polyvinyl Alcoholtrong đo liều photon và nơtron. Các nghiên cứu bước đầu
đã đăng được 03 công trình trên tạp chí quốc tế thuộc danh mục ISI.
Viện Công nghệ xạ hiếm (CNXH) tập trung vào phát triển lĩnh vực xử
lý chất thải phóng xạ, xử lý thải và đánh giá môi trường cũng được ưu tiên
phát triển thông qua dự án SXTN chế tạo chất keo tụ đa thành phần và dung
dịch phenton thế hệ mới từ dung dich tẩy gỉ, chế tạo vật liệu hấp phụ hiệu
năng cao SBA-15 để xử lý nước nhiễm xạ và nhiệm vụ cấp bộ về xin cấp
phép cho phòng chuẩn ISO/IEC 17025 phục vụ cho đánh giá môi trường. Kết
quả nghiên cứu trong đề tài cấp Bộ về đánh giá hiện trạng và thử nghiệm công
nghệ xử lý chất thải rắn và chất thải lỏng tại cơ sở nghiên cứu, ứng dụng và
triển khai công nghệ xử lý quặng xạ hiếm đã được áp dụng trong việc xử lý
nước thải ô nhiễm trong ao tại cơ sở Phùng.
Ngoài ra, Viện CNXH vẫn tiếp tục duy trì các nghiên cứu để đào tạo
cán bộ về hướng nhiên vật liệu hạt nhân như phân tích, đánh giá trạng thái của
viên gốm nhiên liệu, các nghiên cứu sâu hơn về chế biến quặng urani.
Nghiên cứu phát triển năng lực hỗ trợ kỹ thuật về bảo đảm an toàn, an
ninh và bảo vệ môi trường
Viện NLNTVN đang tổ chức nghiên cứu đánh giá khả năng phát tán và
ảnh hưởng của phóng xạ từ các nhà máy điện hạt nhân Cảng Phòng Thành và
Xương Giang đến Việt Nam. Viện đã duy trì, cập nhật và bổ sung số liệu
quan trắc phóng xạ môi trường tại phía Bắc, phía Nam và Ninh Thuận. Viện
KH&KTHN đang triển khai tích cực xây dựng Mạng lưới quan trắc và cảnh
39
báo phóng xạ môi trường quốc gia, lắp đặt các thiết bị online đo phóng xạ tại
một số trạm địa phương (Lào Cai, Lạng Sơn, Móng Cái, Bãi Cháy (Quảng
Ninh), Hải Phòng, Hà Nội, Đà Nẵng), đầu tư trang thiết bị cho trạm điều hành
chính và trạm vùng bảo đảm kịp thời phát hiện diễn biến bất thường về bức xạ
trên lãnh thổ Việt Nam và hỗ trợ việc chủ động ứng phó sự cố bức xạ, sự cố
hạt nhân.
Viện KH&KTHN đang nghiên cứu sử dụng kỹ thuật đồng vị để đánh
giá khả năng lưu giữ carbon trong đất nông nghiệp có được các dữ liệu về điều
kiện tự nhiên, thổ nhưỡng, lịch sử, hiện trạng sử dụng đất, đặc điểm đất và hàm
lượng cacbon trong đất làm cơ sở cho việc đánh giá ảnh hưởng của các biện
pháp canh tác khác nhau đến cấu trúc đất và xây dựng bản đồ xói mòn.
Bên cạnh đó,Viện vẫn tiếp tục thực hiện các nghiên cứu về Tritium
(3H) trong nước mưa theo tháng tại khu vực Hà Nội. Các số liệu về 3H đóng
vai trò quan trọng trong các nghiên cứu về thủy văn-khí hậu, tuổi của nước,
tính toán sự bổ cập nước ngầm và sự tham dự của tầng đối lưu, tầng bình lưu,
đại dương vào trong vòng tuần hoàn nước. Kết quả nghiên cứu đã được công
bố trên tạp chí quốc tế thuộc danh mục ISI.
Trung tâm Hạt nhân Tp.Hồ Chí Minh tiếp tục nghiên cứu động học
nước ngầm bằng kỹ thuật thủy văn đồng vị phục vụ công tác quản lý tài
nguyên nước khu vực đồng bằng Nam bộ.
Đối với môi trường biển, Viện NCHN đã xây dựng được phương pháp
nghiên cứu động học nước biển ven bờ (thời gian lưu, hệ số khuếch tán, tốc
độ pha trộn của vật chất đến từ lục địa, v.v…) sử dụng các đồng vị radi tự
nhiên làm chất chỉ thị, góp phần giải quyết bài toán đánh giá lan truyền của
chất thải vào vùng biển ven bờ, tính toán lưu lượng thải tối đa cho phép vào
môi trường biển theo các tiêu chuẩn của Việt Nam và quốc tế.
Viện NCHN đang triển khai các nghiên cứu để thiết lập được phương
pháp đánh giá khả năng phát tán phóng xạ từ nhà máy điện hạt nhân vào môi
40
trường biển trong một số tai nạn; chế tạo thiết bị quan trắc tại hiện trường ô
nhiễm phóng xạ Cs-134 và Cs-137 trong nước biển; xây dựng phương pháp
đánh giá liều công chúng đối với cơ sở hạt nhân có lò phản ứng nghiên cứu;
tối ưu hóa hình học mẫu đo môi trường bằng mô phỏng Monte Carlo đối với
phương pháp phổ gamma phông thấp; đồng thời, góp phần đào tạo và hình
thành nhóm chuyên gia có đủ năng lực đánh giá tình trạng, mức độ tác động
và khả năng dự báo lan truyền ô nhiễm phóng xạ trong môi trường biển.
Nghiên cứu ứng dụng kỹ thuật hạt nhân và công nghệ bức xạ
Viện NCHN đã xây dựng được quy trình chế tạo chế phẩm nano từ
curcumin và chitosan bằng phương pháp chiếu xạ phối hợp xử lý hóa học để
thăm dò khả năng làm lành vết thương và điều trị sẹo. Chế phẩm nano
bạc/chitosan tan trong nước bằng phương pháp chiếu xạ gamma để phòng và
trị bệnh cho cây trồng đã được thị trường chấp nhận. Các nghiên cứu trên đã
có 03 công trình được đăng tải trên tạp chí quốc tế và 05 công trình trên tạp
chí trong nước. Một cán bộ của Viện đã được cấp Bằng sáng chế Số:
2661210, do Viện Sở hữu trí tuệ Liên bang Nga cấp ngày 13/7/2018, có hiệu
lực từ ngày cấp cho đến: 27/7/2037 về Phương pháp tổng hợp vật liệu hấp
phụ composite từ tính.
Trung tâm Chiếu xạ Hà Nội (CXHN) đang nghiên cứu để tạo ra phân vi
sinh dạng hạt và phân bón lá phục vụ nông nghiệp.
Trung tâm Nghiên cứu và Triển khai công nghệ bức xạ
(VINAGAMMA) chế tạo vật liệu nanocomposite - bạc nano/diatomite để xử
lý vi sinh vật gây bệnh nhiễm trong nước nuôi cá Tra và xử lý chất màu trong
nước thải của nhà máy dệt nhuộn góp phần bảo vệ môi trường.
Để đảm bảo thiết bị chiếu xạ hoạt động an toàn và liên tục đáp ứng tốt
nhu cầu chiếu xạ của khách hàng, các cán bộ nghiên cứu của Trung tâm
CXHN luôn chủ động nghiên cứu và thiết kế, cải tiến một số dụng cụ nhằm
chủ động khắc phục các sự cố nhỏ phát sinh trong quá trình vận hành. Trung
41
tâm VINAGAMMA đã thiết kế, hoàn chỉnh thiết bị đo phân bố mật độ nhằm
tính toán nhanh phân bố liều trong thùng hàng chiếu xạ trên máy gia tốc
UELR-10-15S2.
Trung tâm Ứng dụng kỹ thuật hạt nhân trong công nghiệp(CANTI) đang
nghiên cứu phương pháp chụp cắt lớp điện toán thế hệ thứ tư khảo sát đối tượng
công nghiệp có kích thước< 2m; Đã thiết kế, chế tạo một mẫu máy cầm tay kiểm
tra nhiễm ẩm bảo ôn bằng neutron tán xạ ngược ứng dụng trong ngành dầu khí.
Trung tâm đang nghiên cứu giải mã công nghệ, chế tạo bộ phân đoạn chất lỏng 2
pha Segmentor và hoàn thiện phương pháp FIA đo hệ số phân bố Kd của các hợp
chất hữu cơ trong môi trường 2 pha hữu cơ/nước phục vụ nghiên cứu điều chế
dược phẩm, nghiên cứu y khoa, nghiên cứu đánh giá và xử lý ô nhiễm môi trường,
công nghệ hóa học chiết tách, công nghệ thực phẩm.
Trung tâm Đánh giá không phá hủy (NDE) đang nghiên cứu chế tạo thiết
bị chiếu xạ gamma dùng nguồn phóng xạ đã qua sử dụngphục vụ nghiên cứu
đột biến tạo giống cây trồng trong nông nghiệp.
Nhận xét chung về nghiên cứu khoa học
Từ các hoạt động nghiên cứu, Viện NLNTVN đã có nhiều công bố trên
các tạp chí, hội nghị trong nước và quốc tế. Tổng số công trình Viện đạt được
trong năm 2018 là 173, trong đó số công trình đăng tải trên các tạp chí quốc tế
là 56 công trình, trong đó có 48 công trình đăng trên các tạp chí ISI, tăng so
với năm 2017 là 11 công trình (năm 2017 có 45 công bố quốc tế trong đó có
37 công trình đăng trên ISI). Trong số các công trình công bố quốc tế có
nhiều công trình được công bố trên các tạp chí có IF cao như các tạp chí Phys.
Rev. Lett., Phys. Lett. B, Phys. Rev. C.
Năm 2018 có 01 Bằng sáng chế do Viện Sở hữu trí tuệ Liên bang Nga
cấp về Phương pháp tổng hợp vật liệu hấp phụ composite từ tính cho cán bộ
của Viện NCHN và 01 giải pháp hữu ích của Viện CNXH về Quy trình chiết
dung môi để tách loại đồng thời urani và thori ra khỏi dung dịch thủy luyện
42
tinh quặng đất hiếm.
Tổng hợp công bố khoa học của các đơn vị trong Viện
(Theo báo cáo tổng kết của Viện NLNTVN năm 2018)
Đơn vị
Tạp
Tạp
Hội
Hội
Khác Tổng
chí
chí
nghị
nghị
số
quốc
quốc
quốc
quốc
tế
gia
tế
gia
Viện Khoa học và kỹ thuật hạt nhân
21
8
8
11
0
48
Viện Nghiên cứu hạt nhân
17
10
4
0
1
32
Viện Công nghệ xạ hiếm
5
16
3
15
1
40
Trung tâm Hạt nhân Tp.HCM
4
0
0
0
0
4
Trung tâm Nghiên cứu và Triển
5
7
4
9
0
25
khai Công nghệ bức xạ
Trung tâm Ứng dụng kỹ thuật hạt
0
2
0
2
0
3
nhân trong Công nghiệp
Trung tâm Chiếu xạ Hà Nội
0
4
0
3
0
7
Trung tâm Đánh giá không phá hủy
0
1
7
0
8
Trung tâm Đào tạo hạt nhân
3
0
0
2
0
5
Văn phòng Viện
1
0
0
0
0
1
2
Tổng số
56
48
19
48
173
Thúc đẩy ứng dụng, dịch vụ, sản xuất
Năm 2018 các đơn vị trong toàn Viện đã tích cực hưởng ứng và thực
hiện chủ đề của năm “Phát triển bền vững dựa vào khoa học công nghệ”. Một
số thành tích đáng kể trong ứng dụng, sản xuất và dịch vụ của của một số đơn
vị trực thuộc như sau.
Năm 2018, Viện NCHN tiếp tục phát triển các dịch vụ quan trắc môi
trường đã được Bộ Tài nguyên và Môi trường cấp chứng nhận VIMCERTS
theo quy định tại Nghị định số 127/2014/NĐ-CP ngày 31 tháng năm 2014 của
43
Chính phủ và chứng nhận mới VietGAP cho 20 đơn vị, hộ cá thể.
Viện NCHN đang nghiên cứu quy trình công nghệ điều chế dược chất
vi cầu phóng xạ Y-90 trên lò phản ứng hạt nhân Đà lạt, góp phần làm đa dạng
hóa các loại thuốc phóng xạ điều trị ung thư tại các bệnh viện trong cả nước.
Điều chế, cung cấp các dược chất phóng xạ và kit đánh dấu cho 25 cơ sở,
bệnh viện trong nước với tần suất 2 tuần 1 lần. Tổng cộng 620,55 Ci ĐVPX
các loại đã được sản xuất và cung cấpcho các khoa Xạ trị, Y học hạt nhân tại
các bệnh viện trong nước (tăng 55% so với cùng kỳ năm 2017). Viện NCHN
bước đầu đã cung cấp 11 đợt (4,21 Ci) dược chất phóng xạ cho Campuchia,
tạo điều kiện để nước bạn phát triển các khoa y học hạt nhân. Ngoài ra, Viện
còn cung cấp dịch vụ về định liều bức xạ chiếu ngoài cho nhân viên bức xạ
góp phần bảo vệ sức khoẻ cho cộng đồng. Công trình nghiên cứu điều chế các
dược chất phóng xạ I-131 và P-32 ứng dụng trong chẩn đoán và điều trị của y
học hạt nhân được công nhận là hai (02) trong số 73 công trình giải pháp sáng
tạo khoa học công nghệ, được công bố trong Sách vàng Việt Nam năm 2018.
Trung tâm VINAGAMMA vận hành và khai thác an toàn máy chiếu xạ
chùm tia điện tử và máy chiếu xạ nguồn Co-60 theo hệ thống quản lý chất
lượng ISO 9001:2015, phục vụ cho các nghiên cứu ứng dụng trong lĩnh vực
công nghệ bức xạ. Năm 2018, Trung tâm đã thay đổi, bổ sung các quy trình,
quy định trong vận hành thiết bị, quy định về xử lý và bảo quản hàng hóa của
khách hàng. Doanh số năm 2018 của Trung tâm đã tăng 18,5% so với năm
2017 (đạt mức cao nhất từ trước đến nay), đặc biệt Trung tâm VINAGAMMA
hiện nay đang phối hợp với doanh nghiệp, đã triển khai xây dựng xong máy
gia tốc điều chế dược chất phóng xạ cho khu vực phía Nam, đảm bảo nguồn
cung cấp dược chất chẩn đoán và điều trị ung thư cho khu vực Tp. HCM,
giảm giá thành sản phẩm. Đây là mô hình kết hợp công tư hiệu quả cần đẩy
mạnh trong tương lai theo chủ trương của Nhà nước (mô hình Public Private
44
Partnership -- PPP). Trung tâm hỗ trợ tích cực cho dự án Chiếu xạ của Viện
NLNTVN đang xây dựng tại Đà Nẵng, cùng với Sở KH&CN Đồng Nai thiết
kế xây dựng dây chuyền chiếu xạ mới đặt tại Đồng Nai phục vụ xuất khẩu.
Đối với lĩnh vực kiểm tra không phá hủy, Trung tâm NDE đưa nhiều
kết quả ứng dụng vào thực tế, như: Sử dụng phương pháp siêu âm để kiểm tra
chất lượng cánh bơm của nhà máy; kỹ thuật dòng điện xoáy (ECT) kết hợp
với các kỹ thuật MFL. RFT, IRIS,VT, MT, PT được đưa vào giảng dạy và
triển khai thực tiễn tại các dự án Mông Dương 2, Đào tạo PV Pipe, các đơn vị
thầu phụ của ABB....mở ra khả năng dịch vụ NDT mới. Ngoài ra, Trung tâm
còn xây dựng các quy trình để kiểm tra bằng đầu dò ECA cho các đối tượng
sản phẩm đặc thù trong ngành công nghiệp lọc hóa dầu, năng lượng, điện hạt
nhân và chế tạo 30 bộ mẫu chuẩn so sánh, triển khai chương trình giảng dạy
đào tạo kỹ thuật viên cho nhiều đơn vị đăng kiểm, giám sát, triển khai NDT.
Doanh thu ứng dụng, dịch vụ, đào tạo giảng dạy của Trung tâm đạt 17,47 tỷ
năm 2018, đặc biệt là dịch vụ NDT.
Trung tâm CXHN đã tích cực, chủ động phối hợp với Bộ Nông nghiệp
và Phát triển nông thôn, hỗ trợ các doanh nghiệp và người dân trong việc
chiếu xạ xuất khẩu vải và nhãn sang Úc, góp phần mở rộng đầu ra cho sản
phẩm, tránh được việc mất giá khi xuất sang Trung Quốc. Tổng hàng hóa
chiếu xạ đạt khoảng 5.447 m3 với thời gian chiếu xạ khoảng 5.300 giờ. Trong
đó, chiếu xạ kiểm dịch hoa quả tươi xuất khẩu được gần 52,5 tấn vải, xoài,
tăng 33% so với năm 2017. Đặc biệt trong năm 2018, dịch vụ Hỗ trợ triển
khai về an toàn bức xạ hạt nhân và ứng phó sự cố bức xạ và hạt nhân tăng
mạnh (tăng gần 793 triệu đồng, tương đương 50% do với năm 2017).
Công tác đào tạo phát triển nguồn nhân lực
Đào tạo sau đại học
Trung tâm Đào tạo hạt nhân của Viện hiện đào tạo và quản lý 36 nghiên
cứu sinh (NCS). Năm 2018, Viện có 03 NCS bảo vệ thành công luận án cấp
45
Nhà nước và có 07 cán bộ tham gia chương trình đào tạo thạc sĩ.
Hiện nay, Viện có 15 cán bộ đang theo học chương trình tiến sĩ, sau tiến
sĩ và thạc sĩ (7 cán bộ) tại ở các nước như: Nhật Bản, Hàn Quốc, Liên Bang
Nga, Hoa Kỳ ...
Tháng 9/2018, Trung tâm Đào tạo hạt nhân xây dựng và trình Viện ký
ban hành quy chế tuyển sinh và đào tạo trình độ tiến sĩ của Viện NLNTVN
theo thông tư 08/2017/TT-BGDĐT của Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành
ngày 04/4/2018.
Đào tạo và huấn luyện chuyên ngành NLNT
Trung tâm Đào tạo đã tổ chức một số khóa học sau:
- Khóa học đào tạo cơ bản về máy gia tốc tuyến tính và ứng dụng trong
ý tế cho 24 học viên đến từ các đơn vị: Cục An toàn bức xạ và hạt nhân, Cục
Năng lượng nguyên tử, cán bộ của Viện, và sinh viên năm cuối của Trường
đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Bách Khoa Hà Nội.
- Khóa đào tạo bồi dưỡng kỹ năng nâng cao năng lực xuất bản quốc tế
cho cán bộ trẻ với số lượng 15 cán bộ đến từ các đơn vị trong Viện là Khối cơ
quan, Trung tâm CXHN, Viện CNXH, trường Đại học Bách khoa Hà Nội.
- Khóa đào tạo bồi dưỡng viết bài báo Khoa học bằng phần mềm
LATEX để hướng tới việc quy định bắt buộc sử dụng latex trong gửi bài và
chế bản của tạp chí Nuclear Science and Technology.
Trong khuôn khổ Chương trình hợp tác đào tạo phát triển nguồn nhân
lực hạt nhân giữa VINATOM và Cơ quan Năng lượng nguyên tử Nhật Bản
(JAEA). Viện KH&KTHN đã tổ chức thành công 04 khóa đào tạo về: Ghi
nhận bức xạ, Quan trắc phóng xạ môi trường, Sẵn sàng ứng phó sự cố bức xạ
và hạt nhân và Công nghệ hạt nhân.
Viện NCHN đã tổ chức 03 khóa đào tạo về: Quan trắc phóng xạ môi
trường; An toàn bức xạ, đo liều cá nhân và hóa phóng xạ cho Campuchia và
Chuẩn bị ứng phó sự cố bức xạ và hạt nhân cho đội ứng phó sự cố bức xạ và
46
hạt nhân.
Công tác quản lý, tổ chức cán bộ, thi đua khen thưởng
Viện đã luôn quan tâm, đôn đốc các đơn vị nghiêm túc thực hiện việc
quản lý và sử dụng viên chức, tăng cường tính kỷ luật và ý thức chấp hành nội
quy, quy chế của đơn vị, đảm bảo an ninh cơ quan, tập huấn cho cán bộ làm
công tác bảo vệ, phòng chống cháy nổ. Bên cạnh đó, Viện đã thực hiện tốt
chế độ báo cáo về công tác phòng, chống tham nhũng.
2.3 Hạn chế và nguyên nhân trong công tác quản lý của Viện NLNTVN
Hiện nay thực tế có một số bất cập sau trong hệ thống các tổ chức
KH&CN
2.3.1 Thời điểm cấp kinh phí
Việc cấp kinh phí cho các nhiệm vụ KH&CN thường đến tay các nhà khoa
học thường chậm hàng năm. Để phê duyệt kế hoạch nghiên cứu hàng năm thì
kế hoạch KH&CN phải xây dựng trước khoảng 18 tháng để chuyển cơ quan tài
chính phê duyệt. Điều đó có nghĩa là để có các nhiệm vụ KH&CN năm 2018-
2019 thì kế hoạch phải chuẩn bị từ năm 2016 chậm nhất là 31/7/2017. Đến đầu
năm 2018 khi được giao kinh phí thì cơ quan quản lý KH&CN bắt đầu tiến hành
các thủ tục tuyển chọn các đơn vị thực hiện nhiệm vụ KH&CN. Như vậy đến
giữa năm 2018 đơn vị các tổ chức KH&CN mới có kinh phí để thực hiện nhiệm
vụ KH&CN được đặt hàng hoặc tuyển chọn. Thời điểm giao chậm kinh phí như
vậy nhưng theo thủ tục giải ngân là đến 31/10 hàng năm phải xong các thủ tục
giải ngân đấu thầu vì vậy làm cho nhiều đề tài nghiên cứu không đáp ứng kịp
thời nhu cầu cần cấp thiết và làm giảm hiệu quả nghiên cứu.
2.3.2 Định mực chi và thủ tục thanh quyết toán
Thực tế có một số nội dung chi quan trọng nhưng chưa quy định trong
các văn bản quy phạm pháp luật hoặc phát sinh sau khi nhiệm vụ nghiên cứu
được phê duyệt, nên các nhà khoa học khi thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu
không được thanh quyết toán, ví dụ chi thuê chuyên gia trong và ngoài nước,
47
chi đăng ký sáng chế hoặc công bố quốc tế, chi dự phòng lạm phát, chi tuyên
truyền kết quả nghiên cứu... Thêm vào đó những thủ tục thanh quyết toán quá
chi tiết, cứng nhắc khiến nhiều năm nay không ít nhà khoa học buộc phải nói
dối, buộc phải chi nhỏ các đề tài nghiên cứu thành nhiều chuyên đề để có
được một bản quyết toán đẹp với kho bạc. Cách làm này là nguyên nhân
khiến nhiều đề tài có chất lượng nghiên cứu thấp.
2.3.3 Về đãi ngộ viên chức nghiên cứu trong các nhiệm vụ KH&CN
Hiện nay có ba bất cập chính trong chế độ đãi ngộ cho viên chức
nghiên cứu nhiệm vụ KH&CN là: (1) tiền công tác phí thấp không đủ chi phí
và bù đắp công sức mà cán bộ nghiên cứu bỏ ra. (2) điều kiện, cơ sở vật chất
kỹ thuật cho nghiên cứu chưa được đầu tư tương đương với các tổ chức
KH&CN trong khu vực và quốc tế, để tạo diều kiện cho các nhà khoa học
thuận lợi trong nghiên cứu; (3) mức chi trả cho công nghiên cứu không dựa
trên các kết quả đầu ra mà vẫn mang tính chất bốc thuốc “xin cho”, không có
tiêu chí rõ ràng, không minh bạch. Những bất cập này cản trở động lực cống
hiến cho sự nghiệp KH&CN
2.3.4 Hiện trạng thu nhập của viên chức
Thu nhập của cán bộ khoa học trong tổ chức KH&CN luôn được các
nhà khoa học thường xuyên nêu lên là một khó khăn, chưa tương xứng với
sức lao động bỏ ra. Hệ số lương trung bình của cán bộ nghiên cứu, thành viên
nghiên cứu chính là 5,42 thì tổng thu nhập gấp 1,82 lương theo ngạch bậc sẽ
là 9,86. Với lương cơ bản là 1.500.000 đồng, thì thu nhập của cán bộ nghiên
cứu này sẽ là 14.790.000 đồng/tháng. Còn đối với chuyên viên 2,34 lương cơ
bản 1.500.000 đồng, thu nhập của cán bộ là 3.510.000 đồng. Như vậy mới
mức lương quá thấp của chuyên viên như vậy là không đủ chi tiêu cho cuộc
sống hàng ngày. Còn với mức lương cho cán bộ nghiên cứu trong tổ chức
KH&CN như trên là không hẳn thấp cần có một cơ chế minh bạch về tiền
lương để để tránh trường hợp thu nhập chỉ tập trung vào một bộ phận và động
48
viên những người lao động nghiên cứu thực sự.
Tiểu kết chương
Giới thiệu về tình hình thực tế tại Viện NLNTVN từ ngày thành lập
23/2/1979, từ một viện nghiên cứu hạt nhân đến nay là Viện Năng lượng
nguyên tư Việt Nam bao gồm 9 đơn vị trực thuộc và 3 đơn vị chức năng hoạt
động sản xuất nhiều lĩnh vực khoa học và công nghệ, từ nghiên cứu cơ bản
đến nghiên cứu sản xuất phục vụ phát triển kinh tế xã hội. Giới thiệu được tổ
chức quản lý hoạt động của Viện hiện nay. Bên cạnh đó nói nên được những
khó khăn, hạn chế, nguyên nhân của tổ chức quản lý. Giới thiệu về đặc điểm
49
của tổ chức khoa học và công nghệ hạng đặc biệt thế nào.
Chương 3
MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CƠ CHẾ QUẢN LÝ CÁC ĐƠN
VỊ TRỰC THUỘC VIỆN NĂNG LƯỢNG NGUYÊN TỬ VIỆT NAM
3.1 Phương hướng phát triển của Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam
Phát triển Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam thành một cơ quan
nghiên cứu và triển khai đầu ngành của quốc gia về NLNT có các viện, trung
tâm nghiên cứu chuyên ngành, trung tâm triển khai ứng dụng công nghệ bức
xạ, đồng vị phóng xạ và kỹ thuật hạt nhân trên toàn quốc; đạt trình độ tiên tiến
trong khu vực Đông Nam Á; đủ năng lực đáp ứng các yêu cầu phục vụ nghiên
cứu phát triển điện hạt nhân; hỗ trợ kỹ thuật cho chương trình điện hạt nhân
và chương trình phát triển ứng dụng NLNT; bảo đảm an toàn bức xạ và hạt
nhân ở Việt Nam và thực hiện hiệu quả các hoạt động chuyển giao công nghệ
ứng dụng bức xạ và đồng vị phóng xạ trong các ngành kinh tế - xã hội.
3.1.1 Các mục tiêu cụ thể
a) Tiếp tục đầu tư phát triển các hướng nghiên cứu cơ bản tiên tiến về
hạt nhân và các hướng nghiên cứu ứng dụng nhằm thực hiện mục tiêu tiếp
thu, làm chủ và phát triển công nghệ trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử.
b) Xây dựng và phát triển các hướng nghiên cứu triển khai nhằm thực
hiện mục tiêu tiếp thu, làm chủ và phát triển năng lực tư vấn thiết kế nhà máy
điện hạt nhân, an toàn điện hạt nhân, về công nghệ nhiên liệu hạt nhân, vật
liệu hạt nhân và xử lý chất thải phóng xạ, cũng như các lĩnh vực khác liên
quan đến nhà máy điện hạt nhân.
c) Xây dựng và đầu tư phát triển các đơn vị sự nghiệp khoa học về ứng
dụng bức xạ và đồng vị phóng xạ theo hướng hiện đại dựa trên các thế mạnh
về công nghệ và đặc thù khu vực địa lý nhằm chuyển giao hiệu quả công nghệ
ứng dụng bức xạ và đồng vị phóng xạ cho các ngành kinh tế – xã hội, tạo ra
50
nguồn thu cho hoạt động sự nghiệp của Viện NLNTVN.
d) Xây dựng năng lực đào tạo cán bộ chuyên ngành về năng lượng
nguyên tử và điện hạt nhân, đảm bảo nhu cầu phát triển của Viện cũng như
nhu cầu đào tạo cán bộ cho các cơ quan khác theo quy định của Luật NLNT.
Để thực hiện tốt chức năng nhiệm vụ của Viện NLNTVN theo đề án
hoàn thiện cơ chế quản lý của các đơn vị trực thuộc đơn vị hạng đặc biệt ,
một số giải pháp cần thiết phải triển khai bao gồm:
- Tiếp tục giao nhiều quyền tự chủ cho các đơn vị
- Xây dựng các nhóm nghiên cứu ưu tiên dần dần phát triển thành nhóm
nghiên cứu mạnh;
- Xây dựng và phát triển nguồn nhân lực, trong đó tập trung đào tạo nguồn
nhân lực;
- Xây dựng và thực hiện chương trình nghiên cứu khoa học công nghệ dài
hạn;
- Đẩy mạnh hợp tác quốc tế;
- Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng nghiên cứu;
- Đầu tư trang thiết bị nghiên cứu, triển khai, thông tin liên lạc.
Các giải pháp chính được trình bày trong các phần tiếp theo sau đây.
3.1.2 Xây dựng và phát triển nguồn nhân lực
Để thực hiện được các nhiệm vụ của Viện NLNTVN trong giai đoạn
tới, trước hết phải xây dựng và phát triển nguồn nhân lực có trình độ chuyên
môn và nghiệp vụ cao đáp ứng yêu cầu đặt ra.
Kế hoạch đào tạo nguồn nhân lực bao gồm xây dựng kế hoạch dài hạn
đào tạo chuyên gia, xây dựng các chương trình đào tạo huấn luyện trong
nước, thiết lập quan hệ hợp tác đào tạo với các tổ chức nghiên cứu uy tín trên
thế giới về các hướng quan tâm, tìm kiếm các nguồn kinh phí và triển khai
thực hiện kế hoạch đào tạo. Cần đào tạo khoảng 30-40 chuyên gia trong lĩnh
51
vực điện hạt nhân và ứng dụng bức xạ trong 5-10 năm tới. Đến 2020, xây
dựng đội ngũ cán bộ nghiên cứu của Viện có chất lượng tốt, đủ năng lực thực
hiện các nhiệm vụ đặt ra
Để chuẩn bị nguồn nhân lực dài hạn, Viện đã xây dựng kế hoạch tuyển
dụng và đào tạo cán bộ cho đến năm 2020 theo định hướng xây dựng được 16
nhóm nghiên cứu theo hướng ưu tiên. Xây dựng và thực hiện kế hoạch đào
tạo bồi dưỡng cán bộ ở trong nước và gửi đi nước ngoài.
Xác định rõ các hướng nghiên cứu chiến lược về ứng dụng năng lượng
nguyên tử và điện hạt nhân, đánh giá năng lực và xây dựng các nhóm nghiên
cứu ưu tiên trong các đơn vị trực thuộc Viện NLNTVN. Từng bước củng cố
năng lực nghiên cứu, đào tạo nguồn nhân lực, cán bộ đầu đàn cho các nhóm,
dần dần xây dựng các nhóm nghiên cứu mạnh
3.1.3 Xây dựng và thực hiện chương trình nghiên cứu khoa học công nghệ
Để thực hiện được các nhiệm vụ hỗ trợ cho chương trình phát triển điện
hạt nhân vì mục đích hòa bình và triển khai ứng dụng bức xạ và đồng vị
phóng xạ trong các ngành kinh tế, Viện tập trung xây dựng chương trình
nghiên cứu khoa học về an toàn hạt nhân, nghiên cứu ứng dụng các kỹ thuật
hạt nhân tiến tiến theo lộ trình trung hạn và dài hạn. Với sự phối hợp với các
cơ sở nghiên cứu, trường đại học trong nước và nước ngoài sẽ đào tạo, nâng
cao trình độ, năng lực nghiên cứu của các cán bộ trong toàn Viện, tập trung
giải quyết các nhiệm vụ khoa học công nghệ trọng tâm, từng bước nâng cao
chất lượng các công trình nghiên cứu khoa học.
Để hỗ trợ cho chương trình phát triển điện hạt nhân, một chương trình
nghiên cứu an toàn lò hạt nhân sẽ được xây dựng và triển khai thực hiện giai
đoạn 2016-2020 và tiếp tục sau đó. Chương trình nghiên cứu an toàn lò hạt
nhân của Viện NLNTVN sẽ kết nối các đơn vị nghiên cứu khác như Viện Hàn
lâm KH&CN Việt Nam, Đại học Bách khoa Hà Nội v.v.
Thông qua các nhiệm vụ nghiên cứu trong nước và thực tập ở nước
ngoài dự kiến đến năm 2022 Viện sẽ đào tạo được 40 cán bộ khoa học đầu
52
đàn cho hơn 10 hướng chuyên sâu phục vụ cho chương trình phát triển điện
hạt nhân và ứng dụng bức xạ làm nòng cốt cho lực lượng nghiên cứu khoa
học công nghệ của Viện quốc gia trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử.
3.1.4 Đẩy mạnh hợp tác quốc tế
Cần thúc đẩy hợp tác quốc tế để nâng cao năng lực nghiên cứu, hỗ trợ
tốt cho việc đào tao nguồn nhân lực. Việc thiết lập quan hệ, hợp tác với các
Viện nghiên cứu hạt nhân các nước sẽ tạo điều kiện học hỏi kinh nghiệm phát
triển nghiên cứu triển khai về năng lượng nguyên tử.
Để thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ liên quan đến phát triển điện hạt
nhân, việc hợp tác chặt chẽ với các đối tác thực hiện dự án điện hạt nhân để
tìm hiểu, nghiên cứu về công nghệ, an toàn là cần thiết. Ngoài ra, hợp tác với
các cơ sở nghiên cứu hạt nhân uy tín ở các nước sẽ góp phần quan trọng trong
nâng cao năng lực nghiên cứu triển khai.
Hợp tác quốc tế sẽ có vai trò không nhỏ trong đào tạo nguồn nhân lực,
đào tạo chuyên gia điện hạt nhân, và các lĩnh vực ứng dụng năng lượng
nguyên tử cho Viện, cho đất nước. Mời các chuyên giai giỏi sang giúp đỡ,
tham gia đào tạo, gửi cán bộ giỏi sang các nước đào tạo, huấn luyện là các
giải pháp hiệu quả để phát triển nguồn nhân lực khoa học, nâng cao tiềm lực
nghiên cứu, triển khai.
3.1.5 Xây dựng Trung tâm Khoa học và Công nghệ hạt nhân
Trung tâm KH&CN hạt nhân sẽ được thành lập để tiến hành các hợp
tác kỹ thuật giữa Việt Nam và Liên bang Nga về năng lượng nguyên tử nhằm
hỗ trợ kỹ thuật phục vụ phát triển điện hạt nhân mà trước mắt là dự án điện
hạt nhân Ninh Thuận 1 do Liên Bang Nga xây dựng, đồng thời nghiên cứu
phát triển kỹ thuật ứng dụng năng lượng nguyên tử vì mục đích hòa bình của
Việt Nam và đào tạo nguồn nhân lực cho ngành năng lượng nguyên tử.
1) Chức năng
- Nghiên cứu tiếp thu công nghệ được chuyển giao, tiến tới làm chủ trong
thiết kế, vận hành, bảo dưỡng, sửa chữa lò phản ứng nghiên cứu và nhá máy
53
điện hạt nhân. Cung cấp các dịch vụ khoa học và hỗ trợ kỹ thuật cho dự án
điện hạt nhân Ninh Thuận và các nhà máy điện hạt nhân sau này, góp phần đảm
bảo cho các nhá máy điện hạt nhân vận hành an toàn và khai thác hiệu quả;
- Nghiên cứu cơ bản định hướng ứng dụng về vật lý hạt nhân, hóa học
phóng xạ, sinh học phóng xạ, y học hạt nhân, khoa học vật liệu, khoa học sự
sống, từng bước nâng cao tiềm lực khoa học và công nghệ hạt nhân quốc gia;
- Thực hiện các hoạt động về sản xuất và cung cấp đồng vị phóng xạ,
dược chất đánh dấu cho y tế; chế tạo vật liệu bán dẫn cho ngành công nghiệp
điện tử; triển khai các dịch vụ và chuyển giao công nghệ về ứng dụng kỹ thuật
hạt nhân trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội;
- Đào tạo nguồn nhân lực và đội ngũ cán bộ cho phát triển điện hạt
nhân và các ứng dụng của kỹ thuật hạt nhân.
2) Nhiệm vụ
a) Về điện hạt nhân
- Nghiên cứu về vật lý hạt nhân và số liệu hạt nhân;
- Nghiên cứu về vật lý và công nghệ lò phản ứng;
- Nghiên cứu về thủy nhiệt và phân tích, đánh giá an toàn;
- Nghiên cứu về thiết kế nhiên liệu hạt nhân, thiết kế lò phản ứng và các
hệ thiết bị liên quan;
- Nghiên cứu về bảo vệ bức xạ và đánh giá tác động môi trường;
- Nghiên cứu về chu trình nhiên liệu và vật liệu lò phản ứng;
- Nghiên cứu về xử lý và quản lý chất thải phóng xạ.
b) Về nghiên cứu cơ bản định hướng ứng dụng
- Nghiên cứu cơ bản liên ngành;
- Nghiên cứu về khoa học vật liệu;
- Nghiên cứu về công nghệ thông tin và khoa học máy tính;
- Nghiên cứu về công nghệ sinh học và sinh học phóng xạ;
54
- Nghiên cứu về công nghệ y sinh, y học hạt nhân, vật lý y học;
- Nghiên cứu về công nghệ hóa phóng xạ; sản xuất đồng vị và dược chất
phóng xạ.
c) Về dịch vụ khoa học kỹ thuật
- Sản xuất đồng vị và dược chất phóng xạ;
- Chế tạo vật liệu bán dẫn;
- Phân tích nguyên tố và phân tích cấu trúc vật liệu.
d) Về đào tạo cán bộ
- Cán bộ cho chương trình phát triển điện hạt nhân;
- Sinh viên các trường đại học, học viên cao học và nghiên cứu sinh
ngành NLNT;
- Cán bộ làm việc trong ngành NLNT nói chung.
3.1.6. Viện Ứng dụng bức xạ Đà Nẵng
- Thực hiện các nhiệm vụ hỗ trợ kỹ thuật theo phân công của Viện
NLNTVN về dịch vụ kỹ thuật an toàn bức xạ, xử lý sự cố bức xạ và hạt nhân,
quan trắc phóng xạ môi trường và hoạt động đào tạo phát triển nguồn nhân
lực tại thành phố Đà Nẵng và khu vực miền Trung;
- Nghiên cứu ứng dụng kỹ thuật hạt nhân và kỹ thuật đánh dấu đồng vị
trong điều tra tài nguyên biển và nghiên cứu tính bền vững của môi trường biển;
- Nghiên cứu về cơ khí, vật liệu nhằm phục vụ chương trình nội địa hóa
thiết bị trong nhà máy điện hạt nhân;
- Nghiên cứu phát triển công nghệ đột biến tạo giống cây trồng;
- Triển khai dịch vụ chiếu xạ và nghiên cứu phát triển công nghệ bức
xạ phục vụ nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của khu vực Miền Trung.
Viện Ứng dụng bức xạ Đà Nẵng là cơ sở nghiên cứu ứng dụng bức xạ
khu vực miền Trung của Viện. Tai cơ sở này có các phòng thí nghiệm nghiên
cứu về phóng xạ môi trường biển, an toàn bức xạ, ứng dụng bức xạ trong
55
nông nghiệp, thiết bị chiếu xạ, kiểm tra NDT, cơ khí chế tạo thiết bị liên kết
với Trường Đại học Bách khoa Đà Nẵng phục vụ hỗ trợ cho các nhà máy điện
hạt nhân.
Trên diện tích đất 10 ha, với tổng vốn đầu tư khoảng 140 tỷ sẽ hình thành
một cơ sở nghiên cứu triển khai ứng dụng bức xạ tại khu vực miền Trung.
3.2 Giải pháp hoàn thiện cơ chế quản lý
3.2.1 Đổi mới tổ chức và cơ chế quản lý nguồn nhân lực KH&CN
Tổ chức bộ máy và nhân sự KH&CN vẫn do cơ quan chủ quản của tổ
chức KH&CN quyết định nên đã hạn chế rất nhiều linh hoạt trong sử dụng
nguồn lực, nhất là cán bộ có trình độ chuyên môn cao. Cách quản lý nhân sự
hiện hành làm cho tổ chức KH&CN luôn bị động trong sử dụng lao động, bị
động trong việc trả lương không khuyến khích cán bộ có năng lực. Mặc dù
Nghị định 54/2016/NĐ-CP đã cho phép các thủ trưởng các tổ chức KH&CN
về quyết định sắp xếp, điều chỉnh tổ chức bộ máy và nhân sự của đơn vị
mình, Nhưng Nghị định này chưa có qui định về giám sát và theo dõi việc
thực hiện, cũng như chưa nêu yêu cầu đối với kết quả hoạt động cán bộ
KH&CN. Vì vậy cần tiếp tục hoàn thiện đổi mới hơn nữa tổ chức và cơ chế
quản lý đối với tổ chức KH&CN; đổi mới chính sách lương, thưởng đối với
cán bộ hoạt động KH&CN, mở rộng điều kiện tăng thu nhập cho các nhà
khoa học tương xứng với những đóng góp của họ cho xã hội, đồng thời có các
chính sách ưu đãi về vật chất và động viên kịp thời về tinh thần cho các nhà
khoa học có đóng góp quan trọng;
Thứ hai, tăng cường gắn nghiên cứu với ứng dụng tạo động lực cho cán
bộ KH&CN: Cần tạo điều kiện thuận lợi để các nhà khoa học gắn nghiên cứu
với hoạt động sản xuất, kinh doanh, kết hợp với đào tạo nghiên cứu, không để
lãng phí nguồn chất xám đồng thời phải điều khiển dòng chảy chất xám một
cách tối ưu nhất; từ đó thiết lập các quan hệ trực tiếp giữa doanh nghiệp với
cơ quan và người nghiên cứu, phát minh sáng chế trên cơ sở cùng có lợi. Có
56
như vậy, thì mới tạo ra được một thị trường khoa học rộng lớn, các nhà khoa
học mới có “sân” để phát huy năng lực của mình. Vì lẽ đó, để thúc đẩy
KH&CN phát triển, tạo ra nhiều việc làm cho cán bộ trong Viện, Viện cần có
những cơ chế, chính sách buộc các doanh nghiệp làm việc có hiệu quả bằng
cách ứng dụng khoa học. Đồng thời cần thúc đẩy sự hình thành và phát trienr
thị trường KH&CN. Thị trường này có tác dụng gắn kết chặt chẽ giữa
KH&CN với sản xuất và đời sống con người, kích thích sự phát triển của cả
KH&CN lẫn đời sống.
Thứ ba, xây dựng và thực hiện chiến lược phát triển nguồn nhân lực
KH&CN: Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam cần hoàn thiện quy hoạch,
kế hoạch đào tạo cán bộ KH&CN trẻ để tạo ra một lực lượng lao động có
năng lực và phẩm chất cần thiết đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của sự nghiệp
CNH-HĐH. Để thực hiện điều đó Viện NLNT cần phải quan tâm nhiều hơn
đến giáo dục đào tạo, thực sự coi đó là “quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao
dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài” Như Nghị quyết Đại hội VIII
của Đảng đã khẳng định; đồng thời kết hợp với các trường Đại học và các
Viện nghiên cứu để nâng cao chất lượng đào tạo, nhằm đáp ứng kịp thời lực
lượng KH&CN có trình độ cao; Cần có quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ
cán bộ KH&CN ở các trung tâm, viện nghiên cứu khoa học. Ngoài ra để khai
thác tốt tiềm năng lao động trí tuệ, có phải có sự sự quan tâm đúng mức đến
lợi ích tinh thần vật chất và điều kiện làm việc của cán bộ KH&CN, trong đó
vấn đề cơ bản nhất vẫn là thái độ thực sự quý trọng nhân tài, trọng tri thức
khoa học. Những khen thưởng kịp thời và đặc biệt là sự tôn vinh địa vị xã hội
đối với các nhà khoa học đúng với vai trò và sự cống hiến của họ sẽ có ý
nghĩa lớn trong việc thu hút nhân tài trong nước.
Thứ tư, trang bị và đầu tư về cơ sở vật chất kỹ thuật. Để giúp cá bộ
KH&CN hoạt động nghiên cứu một cách thuận lợi v à đạt kết quả tốt, Viện
cần tăng cường đầu tư và đổi mới trang thiêt bị nghiên cứu khoa học hiện đại
57
cho các phòng nghiên cứu, thí nghiệm tại các trung tâm khoa học, các trường
đại học, viện nghiên cứu, đồng thời, cần phải phát triển hệ thống thông tin,
trang thiết bị thông tin hiện đại, mở rộng mạng thông tin để tất cả cán bộ
KH&CN đều có thể tiếp cận, khai thác và sử d ụng các nguồn tài liệu
KH&CN vào công tác nghiên cứu. Cần tạo điều kiện cho các nhà khoa học đi
đào tạo, bồi dưỡng, tham quan học tập trao đổi, hợp tác nghiên cứu khoa học
ở những nước có trình độ khoa học và công nghệ tiên tiến hiện đại. Bên cạnh
đó, Viện NLNT cần có chính sách cụ thể để mở rộng, phát huy quyền tự do
sáng tạo của đội ngũ trí thức KH&CN, đồng thời thực hiện tốt các điều luật về
sở hữu trí tuệ, tôn trọng và bảo vệ quyền lợi về sở hữu trí tuệ của các nhà
khoa học
Thứ năm, sắp xếp lại tổ chức bộ máy, bố trí lại nhân lực. Thực hiện tinh
giảm biên chế, thu gọn đầu mối quản lý, phân công, phân cấp cụ thể, rõ ràng
3.2.2 Nâng cao nhận thức về khoa học và công nghệ
Viện cần có công tác tuyên truyền, hướng dẫn, truyền thông nhằm nâng
cao nhận thức và năng lực thực thi cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm tại các
tổ chức KH&CN:
Thứ nhất, nâng cao nhận thức xã hội. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền
về chủ trương, đường lối của Đảng về KH&CN, về cơ chế tự chủ của các tổ
chức KH&CN, làm cho mọi tổ chức, cá nhân trong hiểu rõ được nội dung cơ
bản của các chính sách Nhà nước đối với hoạt động KH&CN, đặc biệt là các
văn bản luật pháp mới như Luật KH&CN, Luât sở hữu trí tuệ, Luật tiêu chuẩn
và quy chuẩn kỹ thuật, Luật chuyển giao công nghệ và các văn bản hướng dẫn
luật như Nghị định 54/2016/NĐ-CP về cơ chế tự chủ tự chịu trách nhiệm của
các tổ chức KH&CN
Thứ hai, đưa KH&CN vào cuộc sống. Tuyên truyền mạnh mẽ về các
nhân tố mới, điển hình tiên tiến trong nghiên cứu, phát triển và ứng dụng của
thế giới nhằm thúc đẩy ứng dụng nhanh chóng các tiến bộ khoa học và kỹ
58
thuật vào sản xuất và đời sống... Thông qua công tác tuyên truyền gắn kết
hoạt động nghiên cứu khoa học với hoạt động đào tạo và sản xuất kinh doanh,
thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội
Thứ ba, hình thành mạng lưới tuyên truyền KH&CN. Kiện toàn và phát
triển công tác tuyên truyền KH&CN tại Viện NLNTVN, tạo dựng mối quan hệ,
phối hợp với các Bộ ngành đẩy mạnh công tác tuyên truyền về hoạt động
KH&CN thông qua việc tăng cường và hiện đại hóa cơ sở vật chất-kỹ thuật, đào
tạo và bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ làm công tác tuyên truyền KH&CN.
3.2.3 Giao quyền tự chủ đầy đủ cho các tổ chức trực thuộc
Như đã phân tich ở các chương trên, nhìn chung, Viện Năng lượng
nguyên tử Việt Nam cần giao các quyền tự chủ trong việc tuyển dụng, đào
tạo, sử dụng và đề bạt cán bộ nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ
cho các đơn vị. Trong đó nổi bật có một số vấn đề về quyền của thủ trưởng,
tự chủ của cán bộ nghiên cứu, cần phân biệt giữa lực lượng cán bộ trong tổ
chức KH&CN với đội ngũ công chức nhà nước nói chung. Là đơn vị thuộc
thành phần nhà nước, các tổ chức KH&CN thường có những quy chế hoạt
động được cấp trên quy định rõ ràng. Đây là khuôn khổ để các thủ trưởng đơn
vị sử dụng quyền hạn của mình.
Ví dụ: Lãnh đạo các đơn vị trực thuộc chịu trách nhiệm chỉ đạo và điều
hành toàn bộ cán bộ trong đơn vị thực hiện nhiệm vụ được giao. Thực hiện
biên chế, đề bạt, cách chức, hạ mức lương hoặc tiền công, thi hành kỷ luật đói
với cán bộ. Toàn bộ những hành động trên phải luôn tuân theo những Quy
định của Viện. Nhưng đối với cán bộ cấp phó thì phải được sự đồng ý của
Viện. Lãnh đạo các đơn vị được đề ra các quy chế công tác của cơ quan
không trái với quy định của Viện
Nhân lực hoạt động trong tổ chức KH&CN là một loại lao động khá đặc
thù. Làm việc trong các cơ quan nhà nước thì dường như họ là công chức Nhà
nước, nhưng nghiên cứu khoa học thì lại cần có sự độc lập, tự chủ. Khi các tổ
59
chức KH&CN tự chủ thì lại cần có sự độc lập, tự chủ, tự chịu trách nhiệm.
Để hoàn thành các nhiệm vụ nghiên cứu của Nhà nước, các quy chế cán
bộ nghiên cứu hoặc những nguyên tắc về sử dụng cán bộ cần phải đảm bảo
cho cán bộ tự chủ trong nghiên cứu khoa học, tham gia vào việc đánh giá
công trình của mình, có quyền được đào tạo thường xuyên. Các quy chế này
phải giúp cho sự tự do trao đổi ý kiến và thuyên chuyển cán bộ trong các
nghành nghề nghiên cứu ở trong cùng một cơ quan, thuyên chuyển trong các
cơ quan nhà nước, các trường đại học và giữa các cơ quan đó với các xí
nghiệp. Các quy chế này phải cho phép nhà nghiên cứu vừa làm nhiệm vụ của
mình tại các cơ quan nghiên cứu Nhà nước nói trên, vừa hợp tác với các
phòng thí nghiệm Nhà nước hoặc tư nhân trong thời hạn nhất định nhằm triển
khai ở đây những nội dung đặc biệt.
Tự chủ về tài chính: Nâng định mức chi cho các nhiệm vụ khoa học và
công nghệ cho phù hợp với thực tiễn. Tiền công lao động (gồm tiền công cho
các nhà khoa học, tiên công thuê chuyên gia trong nước, tiền thuê chuyên gia
nước ngoài phối hợp trong quá trình nghiên cứu và thực hiện nhiệm vụ
KH&CN. Thực hiện khoán chi đến sản phẩm cuối cùng. Khoán chi thực hiện
nhiệm vujKH&CN chính là giao quyền tự chủ tài chính cho tổ chức KH&CN
chủ trì, cá nhân chủ nhiệm KH&CN trong việc sử dụng kinh phí đã được cơ
quan có thẩm quyền giao khoán, gắn với trách nhiệm về các kết quả của
nhiệm vụ được giao đúng mục tiêu, yêu cầu; đảm bảo nguyên tắc công khai,
minh bạch. Tuy nhiên phương thức khoán chhi nào đảm bảo tính các yêu cầu
trên cần được cân nhắc trên cơ sở thẩm định dự toán hồ sơ đăng ký tuyển
chọn và các ý kiến tư vấn Hội đồng khoa học. Đổi mới phương thức cấp kinh
phí hoạt động khoa học và công nghệ sang cơ chế quỹ
3.2.4 Xây dựng tiêu chí đánh giá
Như đã phân tích ở các phần trên, thực hiện tự chủ không có nghĩa là
thoát khỏi mọi sự đánh giá. Ngược lại rất cần có sự đánh giá xem thực tế hiệu
60
quả hoạt động trong một đơn vị đã được tự chủ chịu trách nhiệm thế nào?
Tuy nhiên khi giao quyền cho các đơn vị nhưng vẫn phải xây dựng việc
thanh tra giám sát, xây dựng hệ thống đánh giá về hoạt động tự chủ, tự chịu
trách nhiệm của các đơn vị trực thuộc Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam
Viện trưởng xây dựng các tiêu chí đánh giá như điều kiện để các đơn vị
trực thuộc thực hiện tự chủ, đây là cơ sở để chủ sở hữu quyền năng chi phối,
định đoạt đối với các đơn vị trực thuộc (giao hết quyền, nhưng cần thanh tra
giám sát, đánh giá) đã được giao. Nói cách khác, đánh giá chính là công cụ để
Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam.
Đánh giá có ý nghĩa quan trọng nó như điều kiện để thực hiện tự chủ,
tự chịu trách nhiệm là bởi đây là cơ sở để Viện NLNTVN thể hiện quyền
năng chi phối, định đoạt của mình đối với tổ chức KH&CN đã được trao
quyền tự chủ. Nói cách khác, đánh giá là công cụ để Viện NLNTVN thực
hiện quyền quản lý đối với các tổ chức KH&CN. Trong các tiêu chí đánh giá
tổ chức KH&CN có việc xem xét giữ lại hay giải thể chuyển sở hữu các tổ
chứ nghiên cứu và phát triển, có cả việc điều chỉnh chính sách liên quan tới
quyền tự chủ của các tổ chức KH&CN của đơn vị.
Ví dụ: Có thể đề xuất các tiêu chí tự chủ xác định hướng ưu tiên, tự chủ
phân bổ nguồn lực, tự chủ tìm kiếm dự án, tự quản lý dự án; đổng thời phải tự
chịu trách nhiệm trên các mặt: kết quả dự án, vị trí của đơn vị trong cộng đồng.
Có thể đưa ra bộ chỉ tiêu mức đánh giá như:
-Yêu cầu kiểm soát tài chính: (1) cân đối về kinh phí; (2) các hợp đồng
với công nghiệp chiếm từ 35-55%; (3) quy mô phát triển về tài chính; (4) các
loại hình tài trợ
-Yêu cầu về chất lượng: kết quả nghiên cứu được công bố được nhắc
đến trên thông tin đại chúng; hình thành các tổ chức thử nghiệm dựa trên hoạt
61
động đổi mới; các loại giải thưởng đã đạt được
-Yêu cầu về năng lực nghiên cứu: Mức độ tăng của số lượng ấn phẩm
công bố trên các tạp chí có sử dụng cơ chế phản biện; số lượng ấn phẩm công
bố được trích dãn tính trên tổng số các ấn phẩm công bố
-Các kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ của các tổ
chức KH&CN đã và sẽ đạt được thuộc lĩnh vực ưu tiên của Nhà nước, phù
hợp với những phương hướng và nhiệm vụ của chính sách Nhà nước.
-Trình độ KH&CN của các công trình nghiên cứu cũng như các kết
quả đã đạt được, mức độ tương thích à trình độ quốc tế, khu vực
-Tiềm lực KH&CN của cơ quan có đủ năng lực giải quyết cac nhiệm
vụ thuộc lĩnh vực KH&CN được giao nhằm băt kịp và một trình độ tiên tiến
trình độ khu vực và quốc tế
Tiểu kết chương
Từ những định hướng của Đảng, chính sách của Nhà nước về vấn đề tự
chủ tự chịu trách nhiệm của các tổ chức Khoa học và Công nghệ và quan d
diểm đổi mới cơ chế tự chủ tự chịu trách nhiệm đối với tổ chức KH&CN nói
chung hay đối với các tổ chức KH&CN nói riêng dưới góc độ khoa học, tác
giả đề xuất một số các giải pháp đổi mới hay nói cách khác là hoàn thiện cơ
chế quản lý đối với các đơn vị tổ chức KH&CN hạng đặc biệt như sau: Nâng
cao năng lực của đội ngũ cán bộ KH&CN; Nâng cao nhận thức về khoa học
và công nghệ; giao quyền tự chủ quản lý nhân lực; xây dựng các tiêu chí
62
đánh giá
KẾT LUẬN
Đổi mới cơ chế quản lý tổ chức khoa học công nghệ là một chính sách
lớn, mang ý nghĩa quan trọng, giúp cho tổ chức ổn định và phát triển được
bền vững.
Trong thời gian qua, mặc dù cơ chế quản lý KH&CN có nhiều thay đổi
trên nhiều mặt, song quá trình thực hiện bộc lộ rõ một số điểm cần hoàn thiện.
KH&CN. Trước tình hình đó, việc hoàn thiện cơ chế quản lý của các tổ chức
KH&CN trực thuộc tổ chức KH&CN hạng đặc biệt càng cần một sự thay đổi mạnh
mẽ hơn nữa, để giúp các nhà khoa học có cơ hội, nâng cao hiệu quả làm việc, tạo ra
được những sản phẩm phù hợp với nhu cầu thực tiễn của xã hội. Qua luận văn này,
tác giả đã đề cập đến về một số đặc điểm về tổ chức KH&CN hạng đặc biệt, và đưa
ra một số giải pháp để hoàn thiện cơ chế quản lý các tổ chức KH&CN trực thuộc tổ
chức KH&CN hạng đặc biệt.
Như vậy, việc hoàn thiện cơ chế quản lý KH&CN là xu thế tất yếu của các tổ chức
Các tổ chức KH&CN tiếp tục hoàn thiện cơ chế quản lý nhằm nâng cao
hiệu quả hoạt động.
Cơ quan chủ quản, cơ quan quản lý nhà nước cần tạo điều kiện, hỗ trợ
các tổ chức KH&CN thực hiện quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm. Tách biệt
quản lý nhà nước với quản lý hoạt động của tổ chức KH&CN. Cơ quan chủ
quản khoog can thiệp trực tiếp vào việc quản lý của tổ chức KH&CN, kiên
quyết xóa bỏ đặc quyền, đặc lợi của cơ quan chủ quản, xóa bỏ chế độ xin cho
về biên chế, tài chính.v.v
Về các chính sách của Nhà nước cần thay đổi để đảm bảo sự đồng bộ,
trước nhất chủ trương giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các tổ chức
KH&CN. Đặc biệt cần thay đổi cơ chế quản lý tài chính đối với hoạt động
63
KH&CN nói chung và tài chính của tổ chức KH&CN nói riêng. Hwowngss
thay đổi là phải thực hiện quản lý đầu ra là chủ yếu và trao quyền tự chủ quản
lý cho Thủ trưởng tổ chức KH&CN.
Trong số các Nghị định quy định về việc quản lý tổ chức KH&CN,
Nghị định Số: 54/2016/NĐ-CP Quy định về cơ chế tự chủ của tổ chức
KH&CN cần sửa đổi bổ sung hoặc thay đổi nhằm tạo điều kiện thuận lợi hơn
nữa cho các tổ chức KH&CN phát huy được tiềm lực của mình tạo ra nhiều
64
sản phẩm, công trình KH&CN đem lại lợi ích cho phát triển kinh tế xã hội.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1) Báo cáo tổng kết công tác năm 2012 đến năm 2018
2) Luận văn Thạc sỹ của Vũ Quang Linh
3) Luận văn Thạc sỹ của Vũ Thị Liễu
4) Luật Năng lượng nguyên tử
5) Quyết định Số: 30/QĐ-TTg ngày 6/1/2016 công nhận Viện Năng lượng
nguyên tử Việt Nam là tổ chức sự nghiệp khoa học và công nghệ hạng
đặc biệt
6) Quyết định số 01/2006/QĐ-TTg ngày 3/01/2006 của Thủ tướng Chính phủ
ban hành Chiến lược ứng dụng năng lượng nguyên tử vì mục đích hòa
bình đến năm 2020.
7) Quyết định số 957/QĐ-TTg ngày 24/6/2010 của Thủ tướng Chính phủ ban
hành Quy hoạch tổng thể thực hiện Chiến lược ứng dụng năng lượng
nguyên tử vì mục đích hòa bình đến năm 2020
8) Quyết định số 265/QĐ-TTg ngày 05/3/2012 của Thủ tướng Chính phủ về
việc phê duyệt Đề án “Tăng cường năng lực nghiên cứu - triển khai và
hỗ trợ kỹ thuật phục vụ phát triển ứng dụng năng lượng nguyên tử và
bảo đảm an toàn, an ninh”,
9) Quyết định số 181/2005/QĐ-TTg ngày 19/7/2005 của Thủ tướng Chính phủ
quy định về phân loại, xếp hạng các tổ chức sự nghiệp, dịch vụ công lập.
10) Hiệp định liên Chính phủ Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Liên bang
Nga về hợp tác xây dựng Trung tâm Khoa học và Công nghệ hạt nhân
11) Căn cứ Nghị định 20/2013/NĐ-CP ngày 26/02/2013 của Chính phủ quy
định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Khoa
65
học và Công nghệ.
12) Quyết định số 1458/QĐ-BKHCN ngày 07 tháng 6 năm 2016 của Bộ
trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ quy định Điều lệ Tổ chức và hoạt
động của Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam.
13) Căn cứ thông tư 33/2014/TT-BKHCN về ban hành quy chế quản lý nhiệm
vụ khoa học và công nghệ cấp Bộ của Bộ Khoa học và Công nghệ
14) Quyết định số 08/QĐ-BKHCN ngày 04/1/2019 của Bộ Khoa học và Công
nghệ về việc ban hành Quy định phân cấp quản lý công chức, viên chức
trong các đơn vị trực thuộc Bộ Khoa học và Công nghệ
15) Căn cứ Quyết định 919/QĐ-VNLNT ngày 09/9/2016 về việc ban hành
Quy định quản lý nhiệm vụ khoa học và công nghệ các cấp của Viện
Năng lượng nguyên tử Việt Nam
16) Quyết định 247/QĐ-VNLNT ngày 05/6/2015 về việc ban hành Quy định
phân cấp quản lý, công chức, viên chức trong các đơn vị trực thuộc Viện
Năng lượng nguyên tử Việt Nam
17) Thủ tướng Chính phủ (2014), Quy định Chế độ phụ cấp ưu đãi nghề
nghiệp đối với người làm việc trong các đơn vị thuộc lĩnh vực năng
lượng nguyên tử của Bộ Khoa học và Công nghệ, ban hành kèm theo
Quyết định số 45/2014/NĐ-CP ngày 15/8/2014.
18) Trần Chí Thành (2013), Cần một giải pháp đột phá trong đào tạo nguồn
66
nhân lực ngành hạt nhân, Website TapchiTiasang, ngày 23/10/2013.