VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

MAI THỊ KIM TUYẾT

HOÀN THIỆN CƠ CHẾ QUẢN LÝ CÁC TỔ CHỨC KHOA HỌC

CÔNG NGHỆ TRỰC THUỘC TỔ CHỨC KHOA HỌC VÀ CÔNG

NGHỆ HẠNG ĐẶC BIỆT: NGHIÊN CỨU TRƯỜNG HỢP

VIỆN NĂNG LƯỢNG NGUYÊN TỬ VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ

QUẢN LÝ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ

HÀ NỘI, 2019

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

MAI THỊ KIM TUYẾT

HOÀN THIỆN CƠ CHẾ QUẢN LÝ CÁC TỔ CHỨC KHOA HỌC

CÔNG NGHỆ TRỰC THUỘC TỔ CHỨC KHOA HỌC VÀ CÔNG

NGHỆ HẠNG ĐẶC BIỆT: NGHIÊN CỨU TRƯỜNG HỢP

VIỆN NĂNG LƯỢNG NGUYÊN TỬ VIỆT NAM

Ngành: Quản lý Khoa học và Công nghệ

Mã số: 8 34 04 12

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

TS. VŨ TRƯỜNG SƠN

HÀ NỘI, 2019

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu nêu

trong Luận văn là trung thực. Những kết luận của Luận văn chưa được công bố

trong bất kỳ công trình nào khác.

LỜI CAM ĐOAN

Tác giả luận văn

Mai Thị Kim Tuyết

Lời đầu tiên, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc tới Giám đốc Trung

tâm Đào tạo và bồi dưỡng Quản lý khoa học Học viện khoa học công nghệ và đổi

LỜI CẢM ƠN

mới sáng tạo Giảng viên cao cấp Vũ Trường Sơn

tôi trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận văn này.

Tôi xin trân trọng cảm ơn các giảng viên Khoa sau Đại học - Học viện Khoa học

Xã hội đã truyền đạt những kiến thức khoa học và kinh nghiệm thực tiễn cho tôi

trong quá trình học tập.

Xin chân thành cảm ơn Lãnh đạo, đồng nghiệp đang công tác tại Viện Năng

lượng nguyên tử Việt Nam, đã tạo mọi điều kiện giúp đỡ tôi thu thập tài liệu, đây là

những căn cứ quan trọng để tôi hoàn thành luận văn.

Cuối cùng, xin gửi lời cảm ơn sâu sắc những người thân trong gia đình, bạn

bè, đồng nghiệp đã cổ vũ, động viên tôi vượt qua những khó khăn trong quá trình

học tập, nghiên cứu.

Bên cạnh những điều kiện thuận lợi, tôi cũng gặp những khó khăn nhất định

về năng lực và sự hiểu biết của bản thân cũng như thời gian nghiên cứu có hạn nên

luận văn không tránh khỏi những hạn chế và khiếm khuyết, tác giả rất mong nhận

được những góp ý của các nhà khoa học, các giảng viên và các đồng nghiệp.

Xin trân trọng cảm ơn!

Giảng viên cao cấp Vũ Trường Sơn đã tận tình hướng dẫn và chỉ bảo cho

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1

Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN THỰC TIỄN HOÀN THIỆN CƠ CHẾ

QUẢN LÝ CÁC TỔ CHỨC KH&CN ......................................................... 6

1.1 Cơ chế quản lý KH&CN ....................................................................... 6

1.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến cơ chế quản lý ....................................... 15

1.3 Một số kinh nghiệm về cơ chế quản lý của các tổ chức KH&CN ...... 17

Chương 2: THỰC TRẠNG CƠ CHẾ QUẢN LÝ CỦA TỔ CHỨC

KH&CN HẠNG ĐẶC BIỆT (VIỆN NĂNG LƯỢNG NGUYÊN TỬ

VIỆT NAM) ................................................................................................... 22

2.1. Khái quát về Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam ........................ 22

2.2 Thực trạng công tác quản lý các tổ chức KH&CN trực thuộc tại

Viện NLNTVN ......................................................................................... 28

2.3 Hạn chế và nguyên nhân trong công tác quản lý của Viện

NLNTVN .................................................................................................. 47

Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CƠ CHẾ QUẢN

LÝ CÁC ĐƠN VỊ TRỰC THUỘC VIỆN NĂNG LƯỢNG NGUYÊN

TỬ VIỆT NAM .............................................................................................. 50

3.1 Phương hướng phát triển của Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam .... 50

3.2 Giải pháp hoàn thiện cơ chế quản lý ................................................... 56

KẾT LUẬN .................................................................................................... 63

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 65

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

STT

Tên viết tắt

Tên đầy đủ

1.

KH&CN

Khoa học và Công nghệ

2.

NLNT

Năng lượng nguyên tử

3.

CNH-HĐH

Công nghiệp hóa hiện đại hóa

4.

NSNN

Ngân sách nhà nước

5.

KT-XH

Kinh tế - xã hội

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Đổi mới cơ chế quản lý tổ chức khoa học công nghệ là một chính sách

lớn, mang ý nghĩa quan trọng, giúp cho tổ chức ổn định và phát triển được

bền vững.

Qua hơn hai mươi năm thực hiện đổi mới cơ chế quản lý, đặc biệt là từ

khi có Nghị định của Chính phủ Số 115/2005/NĐ-CP ngày 05 thánh 9 năm

2005 về quy định cơ chế tự chủ tự chịu trách nhiệm của tổ chức khoa học và

công nghệ công lập. Các tổ chức khoa học và công nghệ đã đạt được những

kết quả quan trọng, đội ngũ phát triển, cơ sở vật chất được tăng cường.

Tuy nhiên, sau nhiều năm thực hiện cơ chế quản lý tổ chức khoa học và

công nghệ còn bộc lộ nhiều hạn chế. Mặc dù các tổ chức Khoa học và Công

nghệ đã được tự chủ, nhưng quyền tự chủ còn bị hạn chế chưa phát huy được

tiềm năng to lớn của đội ngũ chi thức hiện có và cơ sở vật chất đã được đầu tư.

Đặc biệt, vấn đề tự chủ của các tổ chức Khoa học công nghệ trực thuộc

một số tổ chức Khoa học công nghệ chưa xác định rõ, Quan hệ quản lý của tổ

chức Khoa học công nghệ chủ quản với các tổ chức KHCN trực thuộc còn

nhiều lúng túng.

Những quan hệ này đã làm kìm hãm sự phát triển của các tổ chức

KHCN và sự lớn mạnh của nền KHCN nước nhà

Luận văn đặt vấn đề nghiên cứu những khó khăn vướng mắc trong cơ chế

quản lý các tổ chức KHCN, tìm nguyên nhân và đề xuất giải pháp nhằm “Hoàn

thiện cơ chế quản lý các tổ chức KHCN trực thuộc tổ chức KHCN đặc biệt”

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

Đề tài đi nghiên cứu về vấn đề “Hoàn thiện cơ chế quản lý của các tổ

chức KH&CN trực thuộc tổ chức KH&CN hạng đặc biệt”; Trong tình hình

hiện nay các tổ chức KH&CN thực hiện theo NĐ 54/2016/NĐ-CP ngày

1

14/6/2016 về quy định cơ chế tự chủ của các tổ chức KH&CN công lập. Thời

gian này, nhận thấy việc đổi mới cơ chế quản lý trong các tổ chức KHCN là

đặc biệt quan trọng vì vậy có một số đề tài nghiên cứu của các tổ chức

KHCN, một số bài viết trên các tạp trí, bài báo về vấn đề này được nhiều tác

giả quan tâm đưa ra những quan điểm riêng, chỉ ra được đổi mới cơ chế quản

lý đã phát huy được tiềm lực tri thức và thúc đẩy được phát triển khoa học và

công nghệ. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện đã bộc lộ ra những hạn chế

khó khăn. Các đề tài nghiên cứu và sách tham khảo liên quan đến vấn đề này

còn tương đối hạn chế. Luận văn tác giả đề cập đến việc đưa ra những khó

khăn vướng mắc trong việc chuyển đổi sang cơ chế tự chủ, tự chịu trách

nhiệm của các đơn vị trực thuộc Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam, đưa

ra giải pháp hoàn thiện các cơ chế quản lý.

Luận văn có đề cập về nội dung cơ chế chính sách quản lý trong các tổ

chức KH&CN, ở đây mỗi tổ chức KHCN có thể chế và cơ chế quản lý khác

nhau, các đề tài đề án nghiên cứu trong thời gian qua của các tổ chức tập

trung vào các nội dung như; cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm một phần đối

với các đơn vị sự nghiệp trong đó có các tổ chức KHCN trực thuộc tổ chức

KHCN, chưa có đề tài nghiên cứu rõ về cơ chế quản lý của các tổ chức

KHCN trực thuộc tổ chức KHCN hạng đặc biệt. Luận văn sẽ đưa ra một số

chính sách riêng đối với đơn vị KH&CN hạng đặc biệt.

Ở Việt Nam hiện nay tổ chức KHCN hạng đặc biệt có 3 Viện lớn là:

Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam. Viện Khoa học Thủy Lợi và Viện

Khoa học Nông nghiệp Việt Nam. Tuy nhiên vấn đề tự chủ của các tổ chức

KHCN trực thuộc các tổ chức này chưa được xác định rõ. Mối quan hệ giữa

tổ chức quản lý và các tổ chức KHCN trực thuộc còn nhiều bất cập khó khăn

lúng túng. Ví dụ tại Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam thể hiện trong đề

án tự chủ của các đơn vị, nhiều đơn vị thực chất chỉ mang tính chất liệt kê ( về

tài sản, về số lượng cán bộ, về doanh thu hàng năm, về tài sản...) Chưa đưa ra

2

được những bất cập, khó khăn, giải pháp để tổ chức chuyển đổi sang cơ chế tự

chủ được thành công theo đúng nghĩa. Chưa đưa ra được cái đặc biệt của các

tổ chức KH&CN như (Tại sao các tổ chức KH&CN trực thuộc Viện Năng

lượng nguyên tử Việt Nam nó lại là đặc biệt, mà đặc biệt thì có những cơ chế

quản lý khác thế nào? Tại sao phải khác...) Luận văn này tác giả đi phân tích

những vấn đề trên để nhận dạng rõ cái đặc biệt của tổ chức KH&CN trực thuộc

tổ chức KH&CN hạng đặc biệt, đưa ra những cơ chế tháo gỡ khó khăn cho các

tổ chức KH&CN hiện nay đang thực hiện cơ chế tự chủ tự chịu trách nhiệm

Thực trạng hiện nay , vì sao cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm nói

chung của các cơ quan nghiên cứu khoa học không được thực thi nỗ lực. Một

số nghiên cứu trên cho rằng quá trình chuyển đổi sang cơ chế tự chủ, tự chịu

trách nhiệm của hệ thống cơ quan KH&CN là một quá trình tự điều chỉnh, tự

thích nghi của hệ thống, dựa trên nguyên tắc “tự sắp xếp” trong “một trật tự

pháp luật - sự điều tiết của nhà nước”, không lấy nguyên tắc giảm đầu mối để

sắp xếp mạng lưới các tổ chức KH&CN. Tuy nhiên nghiên cứu này mới chỉ

dừng lại mức độ mô tả và phân loại các loại hình tổ chức KH&CN trong dạng

chuyển đổi sang cơ chế tự chủ tự chịu trách nhiệm. Các đánh giá về quá trình

chuyển đổi chỉ ở bên ngoài hệ thống chưa phân tích quá trình nhận dạng sang

cơ chế tự chủ tự chịu trách nhiệm là thay đổi tổ chức ở bên trong về chức

năng nhiệm vụ, phát hiên thuận lợi khó khăn.

Nghiên cứu việc các đơn vị thực hiện cơ chế tự chủ tự chịu trách nhiệm

đối với tổ chức KH&CN có 02 mốc quan trọng, từ năm 2005 đến 2015 theo

Nghị định 115/2005/NĐ-CP và giai đoạn tiếp theo là từ năm 2016 đến nay

thực hiện theo Nghị định 54/2016/NĐ-CP ngày 14/6/2016. Trong giai đoạn

này có nhiều đề tài nghiên cứu nhưng mang tính chất phân loại các loại hình

tổ chức KHCN trong dạng chuyển đổi sang cơ chế tự chủ, tự chịu trách

nhiệm. Những quá trình đánh giá chỉ tập trung ở bên ngoài hệ thống như các

quyết định hành chính của cơ quan quản lý nhằm mục đích sắp xếp các tổ

3

chức. Các đề tài ở đây chưa phân tích rõ được nhận dạng của quá trình chuyển

đổi sang tự chủ về thay đổi lại chức năng nhiệm vụ thay đổi lại cơ cấu tổ chức

bên trong của tổ chức KHCN đó. Phát hiện những thuận lợi khó khăn bên

trong với mỗi tổ chức loại hình KHCN đó khi chuyển đổi. Các đề tài này cũng

chưa đưa ra được các tiêu chí để dựa vào đó có thể phân tích mức độ chuyển

đổi thành công của các loại hình tổ chức KHCN, cũng như những biện pháp

đảm bảo cho sự chuyển đổi thành công sang cơ chế tự chủ tự chịu trách nhiệm

tại các tổ chức KHCN trực thuộc.

Nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động, hoàn thiện cơ chế quản lý các tổ

chức KH&CN đặc biệt là các tổ chức KHCN trực thuộc tổ chức KHCN hạng

đặc biệt, cần chuyển đổi sang mô hình tự chủ tự chịu trách nhiệm thành công,

cần có một hướng giải phát có tính đột phá về cơ chế cho tổ chức KH&CN,

cần có một cơ chế gắn hoạt động KH&CN với doanh nghiệp.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu:

Đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện cơ chế quản lý các tổ chức trực

thuộc tổ chức Khoa học công nghệ hạng đặc biệt.

Nhiệm vụ của luận văn:

Để thực hiện các mục đích nghiên cứu nêu trên, đề tài xác định các

nhiệm vụ sau:

Đánh giá thực trạng của cơ chế quản lý trong các tổ chức khoa học

công nghệ trực thuộc. Nghiên cứu các hạn chế tồn tại trong cơ chế quản lý tìm

ra nguyên nhân dẫn đến những hạn chế trên.

Đưa ra những giải pháp khắc phục các hạn chế tồn tại trên để hoàn

thiện cơ chế quản lý đối với các tổ chức trực thuộc tổ chức Khoa học công

nghệ hạng đặc biệt

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu: Cơ chế quản lý các tổ chức tổ chức khoa học và

4

công nghệ thuộc tổ chức khoa học công nghệ hạng đặc biệt

Phạm vi nghiên cứu: Các đơn vị hoạt động trong lĩnh vực NLNT thuộc

Viện NLNTVN

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

- Phương pháp nghiên cứu tài liệu quy chế quản lý để tìm hiểu các nội

dung liên quan đến luận văn và trên cơ sở các thông tin thu được tiến hành

phân tích, đánh giá rút ra bài học kinh nghiệm;

- Phương pháp thu thập tài liệu: Thu thập nghiên cứu tài liệu, trao đổi

với đồng nghiệp những vấn đề liên quan đến luận văn này.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

Luận văn sẽ góp phần thay đổi nhận thức về cơ chế quản lý các đơn vị

trực thuộc Viện NLNTVN trong giai đoạn hiện nay, khẳng định cơ chế tư

chủ, tự chịu trách nhiệm của các đơn vị, sẽ mang đến hiệu quả thiết thực trong

việc quản lý hiện nay.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn

được trình bày trong 3 chương:

Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn đổi mới cơ chế quản lý.

Chương 2: Thực trạng về cơ chế quản lý của Viện NLNTVN.

Chương 3: Một số giải pháp hoàn thiện cơ chế quản lý các tổ chức khoa

5

học và công nghệ trong Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam.

Chương 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN THỰC TIỄN HOÀN THIỆN

CƠ CHẾ QUẢN LÝ CÁC TỔ CHỨC KH&CN

1.1 Cơ chế quản lý KH&CN

Cơ chế quản lý KH&CN là tập hợp các nguyên tắc, chế độ quy định

quan hệ qua lại giữa các chủ thể tham gia trong quá trình lao động sáng tạo

KH&CN. Nó có vai trò gắn kết các thành phần trong hệ thống quản lý, đưa

chúng vào hoạt động đạt mục tiêu chung của hệ thống quản lý KH&CN. Nó

có vai trò gắn kết các thành phần trong hệ thống quản lý KH&CN, ví dụ

như hiện nay thực hiện theo Nghị định 54 là thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu

trách nhiệm đối với các tổ chức KH&CN, đáp ứng nhu cầu phát triển của chính

bản thân các tổ chức KH&CN theo xu hướng chuyển đổi theo cơ chế tự chủ.

Cho tới nay, cơ chế quản lý KH&CN được thể hiện qua hệ thống văn

bản pháp luật điều tiết các quan hệ trong hoạt động KH&CN, hiện có tới

khoảng một trăm văn bản các loại khác nhau, trực tiếp và gián tiếp liên quan

đến quản lý KH&CN bao gồm từ Hiến pháp, luật, các văn bản dưới luật. Đây

là đối tượng trọng tâm trong công tác cải cách hành chính liên quan đến quản

Định nghĩa về quản lý Nhà nước trong lĩnh vực KH&CN thường được hiểu

giống quản lý nghiên cứu khoa học, là quản lý đối với công tác nghiên cứu khoa

học và những hoạt động phát triển công nghệ, nó thường bao gồm những hoạt động

quản lý như kế hoạch nghiên cứu khoa học, nghiên cứu đề tài, phát triển công

nghệ,v.v. Quản lý nhà nước trong lĩnh vực KH&CN bao gồm một phạm trù tương

đối rộng lớn, như quy hoạch, sắp xếp các cơ quan sự nghiệp khoa học, hoạch định

chính sách phát triển KH&CN, chiến lược KH&CN, đổi mới thể chế hoạt động

KH&CN, kế hoạch thực hiện chương trình các đề tài, áp dụng tiến bộ kỹ thuật vào

sản xuất đời sống, chuyển giao kỹ thuật, đổi mới công nghệ. .v.v. Trên cơ sở những

nhận thức này, xuất phát từ đặc điểm của đối tượng quản lý là hoạt động khoa học

6

lý KH&CN ở nước ta.

và công nghệ, quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ theo các nguyên tắc, mỗi

nguyên tắc trên thực tế không vận dụng riêng rẽ mà phối hợp nhuần nhuyễn với các

nguyên tắc khác để có thể phát huy tác dụng trong thực tế cụ thể:

Nguyên tắc về sự thống nhất giữa khoa học và kinh tế: Nguyên tắc này bao

trùm, người làm quản lý phải luôn tạo điều kiện để gắn hoạt động khoa học và công

nghệ với các hoạt động kinh tế. Sự thống nhất này phải thể hiện trên tất cả các mặt

kế hoạch, đầu tư, tổ chức chỉ đạo thực hiện.

Nguyên tắc kết hợp với cơ chế tác động thị trường

Nguyên tắc kết hợp tập trung dân chủ

Nguyên tắc phân công phân cấp

Nguyên tắc tham gia cộng đồng

Nguyên tắc kế thừa phát triển

Chính sách quản lý KH&CN là một tập hợp các văn bản quy phạm

pháp luật định rõ các phương châm, nguyên tắc, quy định, thể lệ của Nhà

nước đối với hoạt động KH&CN. Có chính sách quốc gia, cũng có chính

sách của một vùng, một đơn vị hành chính hoặc một tổ chức, hay một ngành

cụ thể. Tập hợp lại thì chính sách là thể hiện thái độ của của Nhà nước hay

của chủ thể quản lý đối với mục tiêu phát triển KH&CN, các biện pháp thực

hiện mục tiêu đó trong phạm vi cả nước hoặc trong một ngành hẹp.Hoặc 1 địa

phương. Ví dụ trọng luận văn tác giả phân tích đến Viện Năng lượng nguyên

tử Việt Nam áp dụng cơ chế chính sách của nhà nước và một số chính sách

riêng của đơn vị vào việc quản lý các tổ chức KH&CN trực thuộc. Nói chung,

chính sách KH&CN phụ thuộc rất nhiều vào chính sách chung của nhà nước.

Đặc biệt là các chính sách vĩ mô và vi mô. Nhà nước ta đặt dưới sự lãnh đạo

của Đảng nên nhiều chủ trương đường lối lãnh đạo của Đảng cũng thể hiện

đường lối chính sách KH&CN

Trong luận văn tác giả đề xuất đến nội dung các chính sách như: Các

7

chính sách quản lý KH&CN trọng tâm nhất trong giai đoạn hiện nay là: (1)

Chính sách đầu tư cho KH&CN được coi là một trong những điều kiện tiền đề

quan trọng nhất để thúc đẩy sự phát triển KH&CN; (2) Chính sách phát triển

nguồn nhân lực KH&CN giữ vai trò quyết định đến chất lượng và tiến độ

thực hiện các nhiệm vụ KH&CN, chất lượng các công trình KH&CN, nâng

cao chất lượng, nâng cao sức cạnh tranh của các sản phẩm hàng hóa, nâng cao

hiệu quả kinh tế xã hội và đời sống; (3) Chính sách đổi mới công nghệ sản

xuất nhằm nang cao trình độ công nghệ sản xuất mới, tạo ra được nhiều sản

phẩm hàng hóa có sức cạnh tranh. (4) Chính sách xã hội hóa KH&CN, thực

chất là tổ chức huy động được mọi nguồn lực của xã hội đầu tư cho hoạt động

KH&CN, hỗ trợ cho nguồn vốn ngân sách nhà nước cấp cho KH&CN, mà

hiện nay không thể đáp ứng được yêu cầu tăng cường các hoạt động KH&CN

phục vụ sản xuất và đời sống.

1.1.1 Cơ chế quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ

Theo khoa học quản lý hiện đại, phổ biến cho rằng “quản lý chính là

các hoạt động do một hoặc nhiều người điều phối hành động của những người

khác, nhằm thu được hiệu quả mà nếu một người hoạt động đơn độc thì

không thể thu được. Như vậy, quản lý là sự tác động của chủ thể quản lý lên

đối tượng quản lý nhằm đạt được mục tiêu đặt ra trong điều kiện biến động

của môi trường. Quản lý bao gồm các yêu tố sau: phải hướng tới mục tiêu;

thông qua con người; với kỹ thuật, thông qua con người; với kỹ thuật, công

nghệ; hoạt động bên trong của một tổ chức. Nói một cách cụ thể, quản lý là

những hoạt động vận dụng các chức năng cơ bản của kế hoạch, tổ chức, chỉ

huy điều hòa, phối hợp thanh tra điều tra ... sử dụng hữu hiệu các yếu tố cơ

bản như nhân lực, vật lực, tài lực, tin lực, để thực hiện được các mục tiêu

trong một thời gian nhất định.

Với cách tiếp cận về quản lý nêu trên, quản lý nhà nước với chức năng

thực thi quyền hành pháp của Nhà nước, là sự tác động có tổ chức đối với các

8

quá trình và hành vi hoạt động của con người.

Quản lý Nhà nước trong lĩnh vực KH&CN thường được hiểu giống

quản lý nghiên cứu khoa học, là quản lý đối với công tác nghiên cứu khoa học

và những hoạt động phát triển công nghệ, nó thường bao gồm những hoạt

động quản lý như kế hoạt nghiên cứu khoa học, nghiên cứu đề tài, phát triển

công nghệ,.,,. Quản lý Nhà nước trong lĩnh vực KH&CN bao gồm một phạm

trù tương đối rộng lớn, như quy hoạch, sắp xếp các cơ quan sự nghiệp khoa

học, hoạch định chính sách phát triển KH&CN, chiến lược KH&CN, đổi mới

cơ chế hoạt động KH&CN, kế hoạch thực hiện các chương trình đề tài, áp

dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất đời sống, chuyển giao kỹ thuật, đổi mới

công nghệ, năng lượng nguyên tử.

Trên cơ sở những nhận thức trên đây, xuất phát từ đặc điểm của đối

tượng quản lý là hoạt động khoa học và công nghệ, quản lý nhà nước về khoa

học và công nghệ theo các nguyên tắc, mỗi nguyên tắc trên thực tế không vận

dụng riêng rẽ mà phối hợp nhuần nhuyễn với các nguyên tắc khác để có thể

phát huy tác dụng trong thực tế, cụ thể như sau:

Nguyên tắc về sự thống nhất giữa khoa học và kinh tế

Nguyên tắc này có tính bao trùm, người làm quản lý KH&CN phải luôn

luôn tạo ra điều kiện để gắn các hoạt động khoa học và công nghệ với các

hoạt động kinh tế. Sự thống nhất này phải thể hiện trên tất cả các mặt kế

hoạch, đầu tư, tổ chức chỉ đạo thực hiện. Điều đặc biệt quan trọng là văn bản

quy phạm pháp luật, nó phải được lồng ghép trong các văn bản hành chính,

pháp lý chung. Chính sách, pháp luật, kế hoạch, biện pháp, tổ chức, đầu tư

đều phải gắn bó với kinh tế nếu không không thể thực hiện được hoặc thực

hiện nhưng ít có tác dụng đối với phát triển kinh tế - xã hội.

Nguyên tắc kết hợp với cơ chế tác động của thị trường

Nội dung nguyên tắc này là mọi chủ trương, biện pháp quản lý

KH&CN đề ra phải căn cứ nhu cầu thị trường, bám sát nhu cầu thị trường,

9

chính thị trường tự nó có sức hút các kết quả nghiên cứu một cách mạnh mẽ;

mặt khác sự chủ động và sang tạo từ phía các tập thể khoa học có tác dụng đi

trước thúc đẩy, gợi ý, mở đường cho sản xuất kinh doanh. Nhưng nếu sự chủ

động này không căn cứ vào thực tế sẽ dẫn đến chủ quan duy ý chí, đưa ra

những giải pháp mà thực tế khó chấp nhận, kém hiệu quả.

Nguyên tắc kết hợp tập trung – dân chủ

Trong bất kỳ nền kinh tế nào sự tập trung nguồn lực, nỗ lực vào một

đích là nhân tố quyết định thành công giải quyết vấn đề, dù đó là kinh tế hay

khoa học, kỹ thuật. Sự chỉ đạo của Chính phủ hay các cơ quan chính phủ một

cách tập trung trong từng thời gian giải quyết dứt điểm từng vấn đề có ý nghĩa

rất quyết định, nhất là trong hoàn cảnh nội lực còn mỏng. Trong khi đó, giải

quyết các bài toán kỹ thuật, công nghệ thì đòi hỏi sang tạo, linh hoạt cao độ.

Phát huy sáng tạo của mọi thành viên, đa dạng hóa các phương án, biện pháp

sẽ tạo điều kiện có được những biện pháp hữu hiệu nhất có thể. Người làm

quản lý KH&CN cần nắm những nguyên tắc này.

Nguyên tắc phân công phân, phân cấp

Công việc phát triển và ứng dụng KH&CN muốn làm có hiểu quả phải

có sự phân công, phân cấp rành mạch. Như thế, mỗi cấp tập trung vào một

loại việc, trên cơ sở đó phối hợp với nhau phát huy sức mạnh tổng hợp của

toàn bộ hệ thống. Trung ương không làm thay công việc của địa phương. Địa

phương không dập khuôn máy móc theo cách tổ chức ở trung ương.

Nguyên tắc tham gia cộng đồng

Tiến bộ KH&CN về bản chất, là một quá tình xã hội. Mỗi thành viên

của cộng đồng dân cư đều có vai trò nhất định trong quá trình đó theo cơ chế

hút đẩy nói trên. Các quyết định trong quản lý nên cho dân biết, dân bàn, dân

làm, dân kiểm tra. Hiệu quả sẽ được nâng cao vì cơ chế đó có tác dụng kiểm

soát xã hội, phát huy sáng kiến cộng đồng cho các hoatjd động KH&CN.

10

Nguyên tắc đấu thầu trong nghiên cứu, ứng dụng KH&CN là một trong

những cơ chế để thực hiện dân chủ trong khoa học. Ai cũng có quyền tham

gia, từ đó chọn người giỏi nhất, hiệu quả nhất. Trên tầm vĩ mô, công việc

quản lý KH&CN không thể khoán trắng cho một bộ, một ngành chịu trách

nhiệm mà phải được các bộ các ngành tham gia, đề xuất, thực hiện. Mỗi đề án

phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội đều phải quan tâm đến nội dung khoa học

trong đó, phải nghiên cứu nếu cần thiết, phải đầu tư cho công tác khoa học để

phục vụ lại chính mình. Nguyên tắc xã hội hóa trong quản lý KH&CN đang

có ý nghĩa thời sự lớn đối với sự phts triển, đầu tư cho khoa học và công nghệ

nước ta.

Nguyên tắc kế thừa và phát triển, tuần tự kết hợp với nhảy vọt

Sự phát triển của công nghệ luôn luôn có tính kế thừa. Chỉ lĩnh hội

được thành tựu của thế hệ trước, những nước đi trước ta mới làm ra được kết

quả thực sự có ý nghĩa mới, sáng tạo. Sự sáng tạo có kế thừa là sáng tạo gấp

đôi, gấp ba cái đáng ra có thể làm được, và do vậy nâng hiệu quả lên gấp bội

phần tương ứng. Trong quản lý cần có biện pháp tránh trùng lắp những cái đã

được người khác, nước khác nghiên cứu, mà phải kế thừa những cái đó. Trên

tầm vĩ mô cũng tương tự, nước ta lấy nhập công nghệ là chính, sở dĩ cũng là để

tiết kiệm nguồn lực quá ít ỏi, nhằm vào thích nghi, sáng tạo công nghệ. Chiến

lược “làm một số, mua một số” là thể hiện cụ thể của nguyên tắc kế thừa và

phát triển trên bình diện hợp tác quốc tế. Chính qua chiến lược này một nước

nghèo mới có thể đi tắt, đón đầu, bứt lên đuổi kịp các nước phát triển.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển khoa học và công nghệ

Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã huấn thị rằng “Khoa học phải từ

sản xuất mà ra và phải trở lại phục vụ sản xuất, phục vụ quần chúng, nhằm

nâng cao năng suất lao động và không ngừng cải thiện đời sống của nhân

dân, bảo đảm cho chủ nghĩa xã hội thắng lợi. Như vậy, nhiệm vụ của khoa

11

học là cực kỳ quan trọng, cho nên mọi ngành, mọi người đều phải tham gia

công tác khoa học, kỹ thuật để nâng cao năng suất lao động, sản xuất ra nhiều

của cải vật chất, để xây dựng chủ nghĩa xã hội thắng lợi” [20].

Trong lời dặn giản dị này của Người chúng ta thấy thật rõ và sâu sắc

các tư tưởng chỉ đạo cho công tác khoa học và công nghệ. Tính mục đích thiết

thực, quần chúng, tính giải cấp và tính khoa học hòa với nhau thật thống nhất,

dễ hiểu, dễ nhớ. Những nguyên tắc quản lý nhà nước về KH&CN mà chúng ta

nói đến ngày nay thực chất đã thấm nhuần lời dạy sâu sắc đó của Người.

1.1.2 Tổ chức khoa học công nghệ hạng đặc biệt

Lao động KH&CN là quá trình lao động xã hội đặc thù, là hoạt động

của những người có tri thức chuyên môn đặc biệt, tiến hành thu thập, xử lý,

gia công thông tin về các sự vật trong giới tự nhiên hoặc nhân tạo để có được

tri thức lý luận, phương pháp tác động, đường lối nhận biết thế giới và cải tạo

thế giới. Do đó, lao động KHCN có tính quy luật đặc thù của nó.

Tổ chức khoa học công nghệ hạng đặc biệt là một tổ chức KH&CN trong đó

có những đặc điểm nghiên cứu đặc thù ngành

Một trong những đặc thù của lao động KH&CN đặc biệt là:

Thứ nhất, tính sáng tạo; đây là công tác nghiên cứu khoa học là một

loại lao động trí óc mang tính sáng tạo, đặc điểm nổi bật là tính sáng tạo, nó là

linh hồn của công tác nghiên cứu là điểm cơ bản phân biệt với lao động sản

xuất lặp đi lặp lại. Ví dụ nghiên cứu cơ bản là để phát hiện và nhận thức về

những quy luật mà trước nó đó con người chưa hề nhận thức được; nghiên

cứu công nghệ là để sáng tạo ra phương pháp công nghệ mà trước đó chừa có

nhằm sáng tạo ra những thiết bị hoặc sản phẩm mà trước đó không tồn tại.

Nghiên cứu khoa học và sáng tạo có mối quan hệ mật thiết với nhau quá trình

của công tác nghiên cứu khoa học là quá trình tạo ra cái mới. Do đó đánh giá

trình độ cao hay thấp của một thành quả nghiên cứ khoa học chủ yếu là xem

12

mức độ yếu tố sáng tạo trong đó.

Thứ hai, tính rủi ro; Vì lao động sáng tạo, đi tìm cái chưa biết nên cũng

có thể thành công và cũng có thể thất bại, thông thường đi sâu vào bản chất

nghiên cứu cơ bản thì độ rủi ro cao, khả năng thất bại lớn. Một trong những

cái được của thất bại trong nghiên cứu lại là một loại thu hoạch bởi nó có thể

cảnh tỉnh người sau, hay nó là kinh nghiệm và bài học cho người đi sau

Thứ ba, đặc tính kế thừa của lao động KH&CN; Thông thường những

cái đi sau là kế thừa của cái đi trước, những tri thức mới mà họ tạo ra cũng tất

nhiên cũng sẽ được người khác hoặc người sau kế thừa và phát triển. Thông

thường những cái đi sau là kế thừa của những cái đi trước, đó cũng chính là sự kế

thừa của lao động; trong công tác nghiên cứu khoa học sự đan xen, sự xâm nhập

vào nhau và sự tổng hợp hợp của của các bộ môn về thực chất cũng chính là sự

phá bỏ những hạn chế của chuyên ngành chuyên môn, vấn đề học tập và kế thừa

thành quả bộn môn khác và người khác cũng chính là biểu hiện tính kế thừa.

Thứ tư, sự tích lũy của lao động KH&CN; Tổ chức với tư cách là một

tập thể, là tập hợp người được tổ chức lại, hoạt động vì những quyền lợi

chung, nhằm một mục đích chung. Như vậy, tổ chức KH&CN là một thực thể

tiến hành hoạt động KH&CN vì những quyền lợi chung, mục đích chung. Tổ

chức KH&CN được thành lập, hoạt động và giải thể theo quy định của Pháp

luật. Tổ chức KH&CN có chức năng chủ yếu là nghiên cứu khoa học, nghiên

cứu triển khai và phát triển công nghệ, hoạt động dịch vụ KH&CN.

Cần tạo môi trường tự do nghiên cứu như: tự do xác định vấn đề

nghiên cứu, tự do xác định phương pháp nghiên cứu, tự do đánh giá và tự do

truyền bá kết quả nghiên cứu.

Bản chất của tổ chức khoa học và công nghệ hạng đặc biệt là :

Về thứ bậc hành chính tương đương với tổng cục, về quyền hạn lớn hơn, nó

là đơn vị hạch toán cấp 2 dưới nó có đơn vị hạch toán cấp 3. Được ủy quyền quyết

định một số nhiệm vụ đề tài mang tính chất chuyên ngành, nó có nhiệm vụ được

giao lớn hơn như: Có thể được giao nhiệm vụ đề tài mang tính an ninh chính trị cấp

13

quốc gia. Ccó tính liên ngành rộng hơn (được kết hợp với các cơ quan khác nghiên

cứu về một số chuyên ngành mang tính liên kết liên ngành: Ví dụ tại Viện Năng

lượng nguyên tử Việt Nam nghiên cứu về Điện hạt nhân, bức xạ, phóng xạ... nhưng

vẫn kết hợp với các bộ ngành khác nghiên cứu về Công nghệ sinh học, hay môi

trường v.v.). Có tính đa dạng về tổ chức như dưới nó có các tổ chức Khoa học và

Công nghệ có tư cách pháp nhân riêng, có con dấu riêng, có tài khoản riêng, có tài

vụ cấp 3, có chức năng nhiệm vụ khác nhau, có đơn vị đào tạo, có đơn vị nghiên

cứu và có các tổ chức dịch vụ. Giúp việc cho đơn vị cấp trên là có đơn vị giúp việc

chuyên trách, cán bộ tương đối độc lập

1.1.3 Cơ chế tự chủ tự chịu trách nhiệm

Thông thường, tự chủ sẽ đi trước và trách nhiệm sẽ xuất hiện sau Nếu

một tổ chức có được tính tự chủ cao thì sẽ có những quyết định có tính trách

nhiệm cao hơn và đạt được kết quả tốt hơn trong những hoạt động của mình.

Ngược lại lại khi tính trách nhiệm của một tổ chức không xứng đáng với tầm

của tính tự chủ thì các cơ quan có thẩm quyền sẽ giảm bớt hoặc thu hồi các

quyền hạn của tổ chức đó và như vậy năng lực làm chủ các hoạt động của tổ

chcs này sẽ bị thu hẹp tương ứng với mức độ trách nhiệm.

Theo cách hiểu chung nhất, cơ chế quản lý là quá trình chuyển động dây

chuyền của các bộ phận cấu thành hệ thống, trong đó có bộ phận khởi động, bộ

phận chuyền dẫn và bộ phận chuyển động cuối cùng. Có nhiều loại cơ chê quản

lý: cơ chế dân chủ, cơ chế tập trung, cơ chế phân cấp, cơ chế thị trường.

Nhà nước trao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các tổ chức

KHCN nhằm mục tiêu hoàn thành nhiệm vụ được giao, phát huy mọi khả

năng của đơn vị để cung cấp dịch vụ vớ chất lượng cao cho xã hội và tăng

nguồn thu nhập cho tổ chức. Việc giao tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các tổ

chức KH&CN để thích ứng với tình hình mới, giải quyết có hiệu quả mà các

vấn đề về KH&CN nảy sinh mà khu vực tư nhân không thể giải quyết được

trong xu thế hội nhập quốc tế, đồng thời nhanh chóng khắc phục sự bất cập

14

của hệ thống tổ chức KH&CN, làm minh bạch hóa hoạt động tài chính của

các tổ chức KH&CN. Nội dung trọng tâm của tự chủ tự chịu trách nhiệm của

các tổ chức KH&CN gồm: tự chủ xây dựng kế hoạch và tổ chức thực hiện các

nhiệm vụ chuyên môn, tự chủ về quản lý nhân sự và bộ máy, tự chủ về quản

lý tài chính. Trong một tổ chức thì các quyền tự chủ này luôn đồng hành cùng

nhau, hỗ trợ nhau.

1.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến cơ chế quản lý

Cơ chế quản lý của tổ chức KH&CN chịu sự tác động trực tiếp của việc

thực thi chính sách

1.2.1 Thực thi chính sách

Nói đến chính sách trong lĩnh vực KH&CN, cần chú ý đến một hệ

thống gồm: Cơ chế và chính sách quản lý KH&CN; công cụ thực thi chính

sách trong lĩnh vực khoa học và công nghệ; hệ thống tổ chức bộ máy thực thi

chính sách, đội ngũ công chức viên chức quản lý KH&CN. Ba bộ phận này có

tác động qua lại với nhau rất chặt chẽ, có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm nhau

trong quá trình thực thi chính sách cũng như trong việc đổi mới chính cách

trong lĩnh vực KH&CN

Cơ chế và chính sách quản lý trong lĩnh vực khoa học và công nghệ

Cơ chế và chính sách quản lý KH&CN đóng vai trò quan trọng trong

việc thực thi chính sách trong lĩnh vực KH&CN nói chung và đối với các tổ

chức KH&CN nói riêng. Thiếu chính sách, cơ chế, quy định thể lệ thì hệ

thống KH&CN không thể vận hành được.

Cơ chế quản lý KH&CN là tập hợp nguyên tắc chế độ quy định quan hệ

qua lại giữa các chủ thể tham gia trong quá trình lao động sáng tạo KH&CN.

Nó có vai trò gắn kế các thành phần trong hệ thống quản lý, đưa chúng vào

hoạt động đạt mục tiêu chung của hệ thống quản lý KH&CN, đáp ứng nhu

cầu phát triển của chính bản thân các tổ chức KH&CN theo xu hướng chuyển

đổi theo cơ chế doanh nghiệp. Các cơ chế này thể hiện qua loạt các văn bản.

Các chính sách quản lý KH&CN trọng tâm hiện nay là: (1) Chính sách

15

đầu tư cho KH&CN được coi là những điều kiện tiền đề quan trọng nhất để

thúc đẩy sự phát triển KH&CN; (2) Chính sách phát triển nguồn nhân lực giữ

vai trò quyết định đến chất lượng và tiến độ thực hiện các nhiệm vụ KH&CN,

chất lượng các công trình KH&CN, nâng cao chất lượng, nâng cao sức cạnh

tranh của sản phẩm hàng hóa, nâng cao hiệu quả kinh tế- xã hội của sản xuất

và đời sống. (3) Chính sách đổi mới công nghê sản xuất nhằm nâng cao trình

độ công nghệ sản xuất mới, tạo được nhiều hàng hóa có tính cạnh tranh. (4)

Chính sách xã hội hóa KH&CN, thực chất là tổ chức huy động được mọi

nguồn lực của xã hội đầu tư cho hoạt động KH&CN, hỗ trợ cho nguồn vốn

ngân sách nhà nước cấp cho KH&CN, mà hiện nay không thể đáp ứng được

yêu cầu tăng cường các hoạt độngKH&CN phục vụ sản xuất và đời sống.

Hiện nay việc nhận thức của các cơ quan hoạch định, ban hành việc kiểm

tra, giám sát việc xây dựng cơ chế quản lý cho các tổ chức KH&CN cần phải

khách quan và khoa học. Ở đây ta thường đưa ra hướng dễ thực hiện, thuận lợi

cho cơ quan nhà nước thực thi cơ chế, làm trở ngại cho hoặc có thể làm tổn hại

đến quyền lợi của đối tượng của cơ chế (tổ chức KH&CN, các nhà khoa học)

1.2.2 Nhận thức

Nhận thức của các tổ chức KH&CN nơi tổ chức thực thi cơ chế cần

phải bắt kịp xu thế xóa dần bao cấp nhà nước, giảm dần sự can thiệp nhà

nước, giảm dần sự can thiệp trực tiếp bằng mệnh lệnh hành chính, đồng thời

phát huy vai trò chủ động sáng tạo, tăng tính chủ động tự chủ, tự chịu trách

nhiệm của các tổ chức KH&CN trong việc triển khai các hoạt động KH&CN

theo quy luật của kinh tế thị trường. Tuy vậy, nhìn chung các tổ chức

KH&CN vẫn còn mang nặng tư duy bao cấp, chậm đổi mới, chưa kịp thích

nghi với cơ chế kinh tế thị trường..

Tiếp theo là nhận thức của xã hội, nơi tiếp nhận kết quả của hoạt động

KH&CN cần có nhận thức chung về vai trò của KH&CN trong việc phát

triển đất nước, kinh tế xã hội. Thay đổi tư duy bao cấp trông chờ vào nhà

nước, cho rằng Nhà nước phải có trách nhiệm cung cấp các dịch vụ KH&CN

bằng tư duy kinh tế thị trường, tham gia vào việc đầu tư cho KH&CN, đặt

16

hàng các nhiệm vụ KH&CN.

Những vấn đề tồn tại trên là một trở ngại lớn trong quá trình đổi mới cơ

chế quản lý trong các tổ chức KH&CN hiện nay nói chung và các tổ chức

KH&CN trực thuộc tổ chức KH&CN hạng đặc biệt nói riêng.

1.3 Một số kinh nghiệm về cơ chế quản lý của các tổ chức KH&CN

1.3.1 Kinh nghiệm về cơ chế tự chủ tự chịu trách nhiệm

Tổ chức KH&CN từng phát triển mạnh mẽ ở nhiều nước trên thế giới

(Hộp 2.1). Không thể phù nhận những kết quả mà các tổ chức KH&N mang

lại. Sức mạnh quân sự của Đức, Mỹ, sức mạnh kinh tế và quân sự một thời

của Liên Xô đã gắn liền với hệ thống tổ chức KH&CN. Sự phát triển trong

lĩnh vực y học, nông nghiệp, bảo vệ môi trường cũng phần lớn nhờ các công

17

trình nghiên cứu từ tổ chức khoa học Chính phủ.

Hộp 2.1 Quy mô hệ thống tổ chức khoa học và công nghệ ở

một số nước trong thập kỷ 90

* Mỹ: ở thời điểm 1990, Mỹ có trên 700 phòng thí nghiệm cấp Liên bang

với tổng ngân sách là 21 tỷ USD. Phần lớn các cơ quan này là hoạt động

theo liên ngành chủ quả tương ứng. Nguồn chi cơ bản cho hoạt động các cơ

quan này là Bộ Quốc phòng (49%) và Bộ Năng lượng (21%)

*Nhật Bản: ở thời điểm 1996, Nhật Bản có 575 viện nghiên cứu Nhà nước

so với 3700 Viện nghiên cứu tư nhân

* Trung Quốc: ở thời điểm 1992 số lượng t ổ chức KHCN là 5116

Các viện KH&CN thuộc Nhà nước ở Trung Quốc đầu tiên được hình thành

cơ bản thông qua việc chuyển giao từ Liên Xô, cùng với việc nhập ồ ạt

công nghệ công nghiệp trong những năm 50. Sau đó hệ thống này được

củng cố thêm bởi cơ chế kế hoạch tập trung ở Trung Quốc. Quy mô của

Viện nghiên cứu trong một số năm như sau:

- Năm 1985 có 7957 Viện gồm; 122 viện thuộc viện Hàn lâm khoa học với

32,2 nghìn cán bộ; 622 viện thuộc Bộ và ủy ban của chính phủ Trung ương

với 93 nghìn cán bộ; 3946 viện thuộc chính quyền địa phương cao hơn cấp

huyện với 105,8 nghìn cán bộ, 3267 viện cấp huyện.

- Năm 1986 có 8631 viện; bao gồm 122 viện thuộc Viện Hàn lầm với 34,5

nghìn cán bộ, 922 viện thuộc Bộ và ủy ban của Chính phủ Trung ương với

175,1 nghìn cán bộ, 4227 viện thuộc chính quyền địa phương cao hơn cấp

huyện với 114,7 nghìn cán bộ và 3360 viện thuộc cấp huyện

Tuy nhiên loại hình tổ chức này đã và đang bộc lộ nhiều nhược điểm rõ

như hoạt động không có hiệu quả, ít gắn với cuộc sống và tiêu tốn khoản lớn

kinh phí trở thành gánh nặng tài chính cho ngân sách Nhà nước. Các nhà quản

18

lý và các nhà nghiên cứu đã bỏ nhiều công sức tìm hiểu bản chất của hiện

tượng tiêu cực trong các tổ chức KH&CN và đã đưa ra giải pháp giao quyền

tự chủ, tự chịu trách nhiệm.

1.3.2 Điều kiện để thực hiện cơ chế quản lý

Vấn đề giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các tổ chức

KH&CN là một xu thế. Tuy nhiên, để tự chủ các tổ chức phải phát huy tác

dụng, đòi hỏi cần một số điều kiện.

Phát triển các quan hệ thị trường khoa học và công nghệ

Tự chủ tự chịu trách nhiệm của các tổ chức KH&CN là thể hiện vài trò

chủ thể của các đơn vị KH&CN trên thị trường KH&CN như vậy, môi trường

của tự chủ tự chịu trách nhiệm là phát huy được tác dụng là một thị trường

KH&CN phát triển lành mạnh.

Sự không chắc chăn về giao dịch mua bán công nghệ khiến các tổ chức

KH&CN gặp nhiều khó khăn trong tiêu thụ sản phẩm

Thiếu nguồn vốn mạo hiểm là nguyên nhân khiến cơ sở nghiên cứu

công ích không thể hiện được sức mạnh của mình

Thiếu cơ sở hạ tầng cho thương mại hóa là nguyên nhân cản trở các nhà

khoa học và các tổ chức khoa học sử dụng tối đa các tiềm năng của mình trên

cơ sở nguồn kinh phí cấp từ Nhà nước.

Thiếu các tổ chức môi giới đã làm cho các đơnvị khoa học và các

doanh nghiệp khó thương thảo

Do đó, cùng với chủ trương tăng cường tự chủ, t ự chịu trách nhiệm

của tổ chức KH&CN phải chú trọng đến các quan hệ thị trường.

Cải tiến quản lý kế hoạch theo hướng giảm tỉ lệ giao kế hoạch mang tính pháp

lệnh. Đồng thời cấp kinh phí cho nghiên cứu dựa trên nguyên tắc hỗ trợ có

mức độ tuyển chọn qua cạnh tranh thay vì cơ chế xin cho.

Xây dựng hệ thống đánh giá về hoạt động tự chủ

19

Trao quyền tự chủ về mọi mặt (nhân lực, tài chính, đất đai)

Nhân lực KH&CN là yếu tố quyết định nhất của Tổ chức KH&CN. Khi

nói đến nhân lực người ta thường chú ý một số khía cạnh: Người đứng đầu tổ

chức là người đứng đầu xác định các hướng hoạt động KH&CN của tổ chức;

Cơ cấu lợp lý về chuyên môn và trình độ; Độ tuổi trung bình; quá trình điều

hành tổ chức (bao gồm các yếu tố: Đào tạo, bồi dưỡng nhân lực đảm bảo sự

phát triển của tổ chức; Tạo môi trường thuận lợi cho từng cá nhân và tập thể

phát huy năng lực sáng tạo của mình; Đánh giá đúng năng lực và sở trường để

sử dụng có hiệu quả).

Nguồn lực tài chính cho các tổ chức KH&CN rất đa dạng. Hiện nay,

các nguồn tài chính cho các tổ chức KH&CN công lập từ ngân sách nhà nước.

Thực hiện các nhiệm vụ, các hợp đồng khoa học; Tài trợ của các tổ chức kinh

tế-xã hội trong và ngoài nước; Lợi nhuận của các hoạt động sản xuất, kinh

doanh, dịch vụ. Tỉ lệ các nguồn thu khách nhau của tổ chức KH&CN thể hiện

chính sách quốc gia về phát triển KH&CN.

Thiết bị máy móc, nhà xưởng, đất đai là cơ sở hạ tầng cần thiết và quan

trọng của tổ chức KH&CN. Đối với nguồn lực này người ta thường lưu ý về

khả năng hao mòn vô hình của thiết bị nghiên cứu khoa học rất lớn vì thế sau

khi lắp đặt cần nhanh chóng đưa vào sử dụng và với hiệu suất cao để nhanh

chóng hoàn vốn và thay thế. Vấn đề này hoàn toàn dễ hiểu đối với các Viên

nghiên cứu công nghệ ở các nước phát triển nhưng lại là vấn đề nan giải đối

với các nước có nền kinh thế chỉ huy tập trung hay đang chuyển đổi như ở

nước ta. Với chế độ thuê mua tài chính, các Viện nghiên cứu công nghệ có

khả năng tài chính để mua sắm, trang bị bất cứ thiết bị gì cần thiết cho nghiên

cứu và phát triển miễn là hoạt động đó đem lại lợi nhuận và có khả năng

thanh toán với công ty tài chính. Điều này khá mới mẻ với các Viện nghiên

cứu công nghệ của nước ta.

Thông tin là nguồn lực không thể thiếu của hoạt động KH&CHN. Với

20

xu thế hội nhập, nguồn thông tin đủ sức cung cấp cho các nhà KH&CN. Bên

cạnh việc khai thác miễn phí, thì việc chi cho thông tin là hết sức cần thiết cho

bất kỳ hoạt động nào của các tổ chức KH&CN. Với sự phát triển của kỹ thuật

thì điều kiện và phương tiện ghi chép, lưu trữ khai thác thông tin là hết sức

cần thiết cho bất kỳ hoạt động KHCN nào của các tổ chức KH&CN, các nhà

khoa học. Những kết quả nghiên cứu của các nhà KH&CN cũng cần sớm

được công bố và đưa vào thương mại nhanh chóng

Những nội dung đề cập nghiên cứu ở chương 1 về cơ sở lý luận về cơ chế

quản lý KH&CN nói chung và trong Viện NLNTVN nói riêng, đưa ra những

nhận thức về tổ chức KH&CN hạng đặc biệt, đó là những căn cứ lý thuyết quan

trọng luận giải cho việc phân tích thực trạng và đề xuất các giải pháp về hoàn

thiện cơ chế quản lý KH&CN tại các tổ chức KH&CN trực thuộc tổ chức

KH&CN hạng đặc biệt.

21

Tiểu kết chương

Chương 2

THỰC TRẠNG CƠ CHẾ QUẢN LÝ CỦA TỔ CHỨC KH&CN

HẠNG ĐẶC BIỆT (VIỆN NĂNG LƯỢNG NGUYÊN TỬ VIỆT NAM)

2.1. Khái quát về Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam

2.1.1 Quá trình hình thành và phát triển

- Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam, tên giao dịch quốc tế của Viện

là Vietnam Atomic Energy Institute (VINATOM), tiền thân từ Viện Nghiên

cứu hạt nhân, được thành lập ngày 23/02/1979 theo Nghị định 59/CP của Hội

đồng Chính phủ. Viện đã thực hiện việc tiếp nhận, quản lý cơ sở lò phản ứng

hạt nhân Đà Lạt, hình thành tổ chức, hợp tác nghiên cứu, xây dựng đề án khôi

phục và mở rộng lò phản ứng hạt nhân và các cơ sở nghiên cứu của Viện.

- Sau khi Viện Nghiên cứu hạt nhân (Đà Lạt) được thành lập theo

Quyết định số 64-CP ngày 26/4/1976 của Thủ tướng Chính phủ, nhiều cán bộ

có trình độ cao từ Viện Vật lý, Ủy ban Khoa học và Kỹ thuật Nhà nước, từ

các trường đại học đã được chuyển về Viện và nhanh chóng ổn định, triển

khai công việc. Cơ sở nghiên cứu hạt nhân Đà Lạt được quân đội chuyển giao

cho Viện quản lý. Vào năm 1977, nước ta đã đàm phán với Liên Xô về việc

khôi phục và mở rộng (nâng công suất) lò phản ứng hạt nhân Đà Lạt. Ngoài

các bộ phận nghiên cứu ở Đà Lạt như Phòng Vật lý hạt nhân, Phòng Hóa

phóng xạ, Phòng An toàn bức xạ và Sinh học phóng xạ, ở Hà Nội, các bộ

phận nghiên cứu Vật lý lý thuyết, Năng lượng hạt nhân và Hóa phóng xạ cũng

được hình thành. Năm 1978, Việt Nam tham gia trở lại Cơ quan Năng lượng

Nguyên tử Quốc tế (IAEA), trên cơ sở tiếp quản ghế thành viên của chính

quyền cũ ở miền Nam và bắt đầu đàm phán với IAEA về trợ giúp kỹ thuật.

- Sự phát triển của Viện cho thấy rõ hơn tính đa dạng của các hoạt động

và Nghị định 59-CP ngày 23/02/1979 của Hội đồng Chính phủ đã nâng quy

mô về không gian và nhiệm vụ của Viện Nghiên cứu hạt nhân trên phạm vi

22

toàn quốc, với định hướng trở thành một ngành Năng lượng nguyên tử của

Việt Nam. Viện đã có những bước phát triển mạnh mẽ trong giai đoạn này.

Năm 1982, công trình khôi phục và mở rộng lò phản ứng hạt nhân Đà Lạt

được tiến hành như một công trình trọng điểm của Nhà nước, một số phòng

thí nghiệm tại Hà Nội được xây dựng, hợp tác với các nước xã hội chủ nghĩa,

Ấn Độ và IAEA được tăng cường. Nhiều dự án tài trợ của IAEA được thực

hiện. Năm 1982, Chính phủ Việt Nam chính thức tham gia Hiệp ước Không

phổ biến vũ khí hạt nhân.

- Một mốc lịch sử quan trọng là cùng với thời điểm xây dựng, mở rộng

cơ sở hạ tầng, lò phản ứng hạt nhân Đà Lạt sau khi khôi phục, tăng công suất

gấp hai lần so với lò cũ, đã đạt trạng thái tới hạn vào ngày 01/11/1983. Sau lễ

khánh thành Công trình khôi phục và mở rộng lò phản ứng hạt nhân Đà Lạt

vào ngày 20 tháng 3 năm 1984, lò phản ứng chính thức đi vào hoạt động.

Bước phát triển này cùng với các hoạt động khác, đã làm tiền đề cho giai

đoạn phát triển mới, được thể chế hóa bằng Nghị định số 87-HĐBT ngày

11/6/1984 của Hội đồng Bộ trưởng, nâng Viện lên một tầm cao hơn về chức

năng, nhiệm vụ. Viện được đổi tên thành Viện Năng lượng nguyên tử Quốc

gia, trở thành đại diện cho một ngành bao gồm cả chức năng hoạch định chính

sách, quản lý và nghiên cứu. Năm 1988, gần 160 cán bộ của Viện 481 thuộc

Tổng cục Kỹ thuật được chuyển ngành và sát nhập vào Viện Năng lượng

nguyên tử Quốc gia, nâng tổng số cán bộ công nhân viên của Viện lên mức

cao nhất lúc bấy giờ, 720 người.

Tới đầu năm 1989, cơ cấu tổ chức của Viện theo Nghị định 87-HĐBT

được thực hiện đầy đủ và do đó, Chính phủ đồng ý cho phép Viện dùng tên

đối ngoại là Ủy ban Năng lượng nguyên tử Việt Nam (Vietnam Atomic

Energy Commission).

- Sau chủ trương đổi mới của Đảng, hợp tác quốc tế trong lĩnh vực

năng lượng nguyên tử cũng có những bước phát triển mới. Năm 1989, Chính

23

phủ ủy quyền cho Viện ký Hiệp định Bảo đảm (Safeguard). Cùng năm này,

Việt Nam thực sự bắt đầu tham gia tích cực vào Hợp tác vùng Châu Á - Thái

Bình Dương về hạt nhân (RCA), dù đã là thành viên từ năm 1977. Năm 1990,

Việt Nam bắt đầu thực hiện đầy đủ nghĩa vụ tài chính đối với IAEA. Viện đã tổ

chức thành công Hội nghị RCA năm 1991 tại Thành phố Hồ Chí Minh và từ đó

Việt Nam hoạt động như một thành viên đầy đủ của RCA. Thời gian này, ở Hà

Nội, sự phát triển về tổ chức, về nhiệm vụ cũng như về cơ sở vật chất đòi hỏi

phải có sự phân cấp quản lý mới. Do đó, bên cạnh Viện Nghiên cứu hạt nhân Đà

Lạt và Trung tâm Hạt nhân thành phố Hồ Chí Minh đều cho Thủ tướng hoặc

Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng quyết định thành lập, ngày 21/01/1991, Chủ tịch

Hội đồng Bộ trưởng ra quyết định thành lập Viện Khoa học và Kỹ thuật hạt nhân

và Viện Công nghệ xạ hiếm tại Hà Nội, tạo thành 4 đơn vị nghiên cứu và triển

khai trực thuộc Viện Năng lượng nguyên tử Quốc gia ở 3 miền của đất nước.

- Năm 1993, nhằm tập trung quản lý các đơn vị sự nghiệp nghiên cứu

khoa học công lập về một mối chung, Chính phủ đã ban hành Nghị định 59/CP

ngày 13/9/1993, chuyển Viện Năng lượng nguyên tử Quốc gia về trực thuộc Bộ

Khoa học, Công nghệ và Môi trường (nay là Bộ Khoa học và Công nghệ) và đổi

tên thành Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam1.2. Hiện trạng Viện NLNTVN

và những kết quả đã đạt được trong hơn 35 năm hình thành và phát triển

2.1.2. Nguồn nhân lực và tổ chức bộ máy

Về nguồn nhân lực: Tính đến ngày 31/12/2018 toàn Viện có 745 cán

bộ, viên chức và người lao động, trong đó có 570 cán bộ biên chế, 175 cán bộ

hợp đồng, viên chức trong biên chế và hợp đồng không xác định thời hạn

được hưởng lương từ ngân sách Nhà nước, 570 cán bộ, viên chức ở các đơn vị

trực thuộc thực hiện theo Nghị định 115/2005/NĐ-CP của Chính phủ, 175 cán

bộ, nhân viên hợp đồng hưởng lương từ các nguồn kinh phí khác. Trong toàn

bộ 810 cán bộ, nhân viên có 11 giáo sư và phó giáo sư, 52 tiến sỹ, 152 thạc

sỹ, 453 đại học, cao đẳng, còn lại 77 cán bộ trung cấp kỹ thuật và nhân viên

24

phục vụ.

Về cơ cấu tổ chức bộ máy: Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam có 3 cơ

quan tham mưu và 9 đơn vị trực thuộc:

- Khối Cơ quan gồm: Lãnh đạo Viện, Văn phòng, Ban Hợp tác quốc tế, Ban

Kế hoạch và Quản lý khoa học.

- Khối các cơ quan nghiên cứu và triển khai gồm 9 đơn vị trực thuộc, có tư

cách pháp nhân, có tài khoản và con dấu riêng, đó là:

1) Viện Nghiên cứu hạt nhân;

2) Viện Khoa học và Kỹ thuật hạt nhân;

3) Viện Công nghệ xạ hiếm;

4) Trung tâm Hạt nhân thành phố Hồ Chí Minh;

5) Trung tâm Nghiên cứu và Triển khai công nghệ bức xạ;

6) Trung tâm Ứng dụng kỹ thuật hạt nhân trong công nghiệp;

7) Trung tâm Chiếu xạ Hà Nội;

8) Trung tâm Đánh giá không phá huỷ;

9) Trung tâm Đào tạo hạt nhân.

2.1.3. Về cơ sở vật chất - tài chính

- Hiện nay, Viện NLNTVN đang quản lý 1.306.620 m2 đất tại: Hà Nội, Thành

phố Hồ Chí Minh, Đà Lạt và Đà Nẵng.

- Viện đang quản lý các tài sản bao gồm nhà cửa, vật kiến trúc, máy

móc thiết bị, phương tiện vận tải và các tài sản cố định khác với tổng giá trị

còn lại đến cuối năm 2018 là khoảng 400 tỷ đồng.

- Hàng năm Bộ Khoa học và Công nghệ cấp cho Viện khoảng 150 tỷ

đồng để tiến hành các hoạt động nghiên cứu và triển khai khoa học và công

nghệ. Đồng thời, thông qua hoạt động sản xuất, chuyển giao công nghệ và

dịch vụ kỹ thuật, Viện cũng tạo được doanh thu khoảng 200 tỷ đồng mỗi

năm.Viện đang quản lý, khai thác và sử dụng các thiết bị lớn như: lò phản ứng

hạt nhân Đà Lạt; các dây chuyền thiết bị sản xuất, điều chế đồng vị phóng xạ;

25

các cơ sở sản xuất thử nghiệm quy mô nhỏ (dạng pilot) về xử lý quặng urani

và xử lý monazit; thiết bị chiếu xạ công nghiệp dùng nguồn Co-60 hoạt độ

400 kCi tại Thành phố Hồ Chí Minh; thiết bị chiếu xạ bán công nghiệp dùng

nguồn Co-60 hoạt độ 200 kCi tại Hà Nội; 2 thiết bị chiếu xạ dùng nguồn Co-

60 với hoạt độ 16,5 kCi (1981) và 10 kCi (2007) phục vụ cho nghiên cứu tại Đà

Lạt; máy gia tốc chùm tia điện tử EB để chiếu xạ khử trùng và bảo quản; máy gia

tốc KOTRON 13MeV điều chế dược chất phóng xạ; các hệ thiết bị phân tích như

khối phổ kế AAS, ICP-MS, GC-MS, HPLC-MS, các hệ phổ kế gamma, alpha, ...;

phòng chuẩn cấp II- kiểm định và hiệu chuẩn thiết bị đo lường bức xạ; phòng thí

nghiệm thủy văn đồng vị, phòng thí nghiệm NDT… Đây là các trang thiết bị và

phòng thí nghiệm hiện đại nhất ở nước ta trong lĩnh vực NLNT, có thể so sánh

được với một số nước trong khu vực như Thái Lan, Malaysia, Philippines, ...

Ngoài những cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện có nói trên, trong tương lai

gần, cơ sở vật - chất kỹ thuật do Viện quản lý sẽ tăng lên rất lớn do có sự đầu

tư của Nhà nước cho lĩnh vực này theo Đề án "Tăng cường năng lực nghiên

cứu - triển khai và hỗ trợ kỹ thuật phục vụ phát triển ứng dụng năng lượng

nguyên tử và bảo đảm an toàn, an ninh", và đặc biệt là có Trung tâm Khoa

học và Công nghệ hạt nhân (theo Hiệp định hợp tác Việt - Nga đã ký kết) có

số vốn đầu tư dự kiến khoảng 540 triệu USD, với thiết bị chính là lò phản ứng

hạt nhân nghiên cứu mới và nhiều thiết bị nghiên cứu hiện đại khác.

2.1.4. Các nhiệm vụ phát triển

Trong giai đoạn hiện nay, với các nhiệm vụ chính về:

- Nghiên cứu xây dựng chính sách, phương hướng, chiến lược, quy

hoạch và kế hoạch phát triển ngành năng lượng nguyên tử Việt Nam;

- Thực hiện nghiên cứu cơ bản định hướng ứng dụng trong lĩnh vực

năng lượng nguyên tử, triển khai ứng dụng kỹ thuật hạt nhân và công nghệ

bức xạ trong các ngành kinh tế - xã hội của đất nước;

- Nghiên cứu, tiếp thu, làm chủ và phát triển khoa học, kỹ thuật và công

26

nghệ liên quan đến nhà máy điện hạt nhân;

- Thực hiện vai trò của cơ quan hỗ trợ kỹ thuật quốc gia độc lập về

kiểm tra đánh giá và bảo đảm chất lượng, bảo đảm an toàn, an ninh hạt nhân

và bảo vệ môi trường, phục vụ cho chương trình phát triển điện hạt nhân.

Viện NLNTVN là đơn vị nghiên cứu đầu ngành và duy nhất có vai trò

rất quan trọng trên toàn quốc trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử.

2.1.4.1. ghiên cứu phát triển các kỹ thuật hạt nhân, triển khai ứng dụng trong

các lĩnh vực kinh tế- xã hội, phục vụ nền kinh tế quốc dân

Nghiên cứu phát triển các kỹ thuật đo liều bức xạ, kiểm chuẩn thiết bị

bức xạ, đảm bảo an toàn bức xạ, quan trắc, cảnh báo phóng xạ môi trường.

Nghiên cứu ứng dụng công nghệ bức xạ và đồng vị phóng xạ trong các ngành

và lĩnh vực: công nghiệp, nông nghiệp, xây dựng, giao thông, tài nguyên và

môi trường, và y tế. Các kỹ thuật kiểm tra không phá hủy (NDT) được ứng

dụng trong viêc kiểm tra đánh giá chất lượng thiết bị, công trình. Nghiên cứu

ứng dụng kỹ thuật đột biến để tạo các giống mới cho nông nghiệp. Nghiên

cứu ứng dụng công nghệ bức xạ nhằm bảo quản, thanh trùng các sản phẩm

nông sản, thủy hải sản, thuốc đông nam dược cũng như phục vụ xuất khẩu.

Nghiên cứu chế tạo các đồng vị, dược chất phóng xạ phục vụ chăm sóc sức

khỏe nhân dân. Nghiên cứu ứng dụng kỹ thuật đồng vị đánh dấu trong thăm

dò, khai thác, chế biến dầu khí, kỹ thuật thủy văn đồng vị trong đánh giá,

quản lý tài nguyên nước ngầm.

2.1.4.2. Đẩy mạnh hợp tác quốc tế để đáp ứng nhu cầu xây dựng tiềm lực,

tiếp thu thành tựu khoa học công nghệ và hội nhập quốc tế

Để thực hiện tốt các nhiệm vụ trong giai đoạn tới trong việc phát triển

điện hạt nhân ở Việt Nam thì Viện cần phải mở rộng quan hệ với các tổ chức

quốc tế và song phương trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử theo cả chiều

rộng và chiều sâu. Viện phải được nâng tầm trong quan hệ quốc tế nhằm tiếp

thu được những thành tựu khoa học công nghệ mới nhất trong lĩnh vực năng

lượng nguyên tử từ các nước công nghiệp hạt nhân phát triển, học tập các

kinh nghiệm thực tiễn và đào tạo được đội ngũ cán bộ khoa học công nghệ

27

trình độ cao cho nước nhà.

2.1.4.3. Triển khai xây dựng Trung tâm Khoa học và Công nghệ hạt nhân

Nhiệm vụ quan trọng và có ảnh hưởng quyết định đến việc phát triển

tiềm lực khoa học công nghệ ngành năng lượng nguyên tử của Việt Nam

trong tương lai. Trung tâm Khoa học và Công nghệ hạt nhân sẽ là cơ sở

nghiên cứu khoa học và công nghệ hiện đại phục vụ cho các lĩnh vực về điện

hạt nhân như: nâng cao năng lực, trình độ, đào tạo cán bộ trong tính toán, thiết

kế, phân tích đánh giá an toàn, hỗ trợ khoa học - kỹ thuật và công nghệ cho

việc thực hiện các dự án hạt nhân nói chung, và nhà máy ĐHN nói riêng; tiếp

thu, làm chủ công nghệ hạt nhân chuyển giao về Việt Nam. Đồng thời, Trung

tâm còn là cơ sở nghiên cứu và ứng dụng các kỹ thuật hạt nhân tiên tiến trong

các ngành kinh tế - xã hội, là nơi tập hợp các chuyên gia giỏi trong nhiều lĩnh

vực khoa học và công nghệ liên quan trong cả nước. Trung tâm được xây

dựng tại Viện NLNTVN, sẽ là cơ sở nghiên cứu hiện đại trong lĩnh vực năng

lượng nguyên tử ở nước ta và trong khu vực Đông Nam Á.

2.1.4.4. Viện NLNTVN đang thực hiện nhiệm vụ đào tạo, huấn luyện cán bộ

cho ngành năng lượng nguyên tử

Viện NLNTVN có Trung tâm đào tạo hạt nhân trực thuộc, cũng như có đủ

năng lực về trang thiết bị nghiên cứu, đội ngũ cán bộ có trình độ thực hiện nhiệm

vụ bồi dưỡng, huấn luyện chuyên ngành năng lượng nguyên tử, điện hạt nhân

cho các đơn vị liên quan trong cả nước. Theo Quyết định số 1558/QĐ-TTg, Viện

NLNTVN là 1 đơn vị tham gia, phối hợp với các trường đại học thực hiện đào

tạo nguồn nhân lực cho điện hạt nhân và năng lượng nguyên tử.

2.2 Thực trạng công tác quản lý các tổ chức KH&CN trực thuộc tại Viện

NLNTVN

2.2.1 Nguyên tắc quản lý chung

Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam điều hành theo chế độ thủ

trưởng, đảm bảo nguyên tắc tập trung dân chủ, phát huy năng lực trách nhiệm

28

cá nhân của từng công chức, viên chức; quan hệ chặt chẽ với tổ chức Đảng,

các đoàn thể chính trị - xã hội. Mỗi việc do một người phụ trách và chịu trách

nhiệm chính.

Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam quản lý thống nhất về định

hướng phát triển khoa học và công nghệ đối với tất cả các đơn vị trực thuộc;

chỉ tiêu biên chế và quy hoạch đào tạo, phát triển nguồn nhân lực; kế hoạch

xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ cho nghiên cứu, triển khai; kế hoạch

hợp tác quốc tế. Đảm bảo tập trung tiềm lực khoa học công nghệ của các đơn

vị tạo nên sức mạnh tổng hợp của toàn viện.

Hoạt động của Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam phải tuân thủ

theo quy định của pháp luật, quy chế làm việc của Bộ KH&CN và các quy

định về chức năng, nhiệm vụ.

2.2.2 Thẩm quyền, phạm vi giải quyết công việc

1) Trách nhiệm của Viện trưởng

- Chủ động tổ chức thực hiện Quyết định của Bộ trưởng Bộ Khoa học

và Công nghệ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức

của Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam. Chịu trách nhiệm toàn diện, liên

tục về mọi hoạt động của Viện trước Bộ trưởng và trước pháp luật;

Viện trưởng thực hiện thẩm quyền các công việc theo quy định phân

cấp quản lý công chức viên chức của các đơn vị trực thuộc Bộ Khoa học và

công nghệ. Tiếp đó Viện trưởng thực hiện chỉ đạo các đơn vị thông qua phân

cấp quản lý trong các đơn vị trực thuộc Viện

- Phân công các Phó Viện trưởng phụ trách một số lĩnh vực công tác.

Phân cấp cho Thủ trưởng các đơn vị trực thuộc Viện giải quyết một số vấn đề

thuộc thẩm quyền của các đơn vị;

- Chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra hoạt động của các đơn vị trực thuộc

Viện trong việc thực hiện pháp luật, nhiệm vụ đã phân công, phân cấp thuộc

29

lĩnh vực quản lý;

- Ký các văn bản báo cáo Lãnh đạo Bộ, quy hoạch phát triển Viện; Đề

án thành lập mới, giải thể, tổ chức lại các tổ chức thuộc Viện; quy chế chi tiêu

nội bộ; Quy chế dân chủ ở cơ quan; phương án vay vốn tín dụng, hỗ trợ đầu

tư; giao nhiệm vụ kế hoạch cho các đơn vị; phê duyệt quyết toán cho các đơn

vị theo phân cấp của Bộ KH&CN và phê duyệt các dự án đầu tư xây dựng

được Bộ trưởng ủy quyền;

- Chủ trì tổ chức thực hiện chương trình, các đề tài, dự án và các nhiệm

vụ khác do Bộ trưởng giao;

- Bổ nhiệm, miễn nhiệm lãnh đạo các đơn vị trực thuộc, các Ban tham

mưu và các chức danh khác; quyết định thành lập Hội đồng tư vấn, đi công

tác, học tập ở nước ngoài; quyết định khen thưởng, kỷ luật, nâng lương theo

phân cấp quản lý cán bộ của Bộ Khoa học và Công nghệ.

2) Công tác quản lý, sử dụng công chức, viên chức

Quản lý số lượng, chất lượng, công chức, viên chức

Tổ chức công tác tuyển dụng sử dụng viên chức theo kế hoạch tuyển

dụng đã được Bộ KH&CN phê duyệt; tiếp nhận, điều dộng, biệt phái, luân

chuyển, chuyển công tác cho thôi việc, tạm đình chỉ công tác đối với công

chức, viên chức (trừ các chức danh do Bộ trưởng quyết định) thuộc thẩm

quyền quản lý của đơn vị

Quyết định thành lập các hội đồng: tuyển dụng công chức, viên chức;

xét nâng lương trước thời hạn; khen thưởng kỷ luật theo thẩm quyền

Bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, miễn nhiện, tiếp nhân, diều động, luân chuyển,

biệt phái công chức, viên chức (Trình Bộ trưởng xem xét quyết định bổ

nhiệm, bổ nhiệm lại, miễn nhiệm đối với cấp Phó viện trưởng, kế toán trưởng

Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam; Trình Bộ trưởng phê duyệt chủ trương

bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, miễn nhiệm đối với chức vụ lãnh đạo đơn vị trực thuộc

có hệ số 0,8 trở lên; Quyết định bổ nhiệm bổ nhiệm lại đối với lãnh đạo các đơn

30

vị thuộc Khối cơ quan và đơn vị chưa được phân cấp như các trung tâm trực

thuộc các viện dưới; Miễn nhiệm, giải quyết thôi giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý

và tạm đình chỉ công tác đối với các chức danh nêu trên theo quy định.

Cử công chức, viên chức đi nước ngoài, đào tạo bồi dưỡng, quản lý hộ

chiếu đối với công chức, viên chức

Nâng ngạch chuyển ngạch, thay đổi chức danh nghề nghiệp thăng hạng

viên chức

Thực hiện chế độ tiền lương, phụ cấp, bảo hiểm xã hội đối với công

chức, viên chức

Đánh giá khen thưởng kỷ luật đối với công chức, viên chức

Quản lý hồ sơ đối với công chức viên chức

Kiểm tra việc sử dụng, quản lý và thực hiện chế độ chính sách đối với

công chức viên chức, giải quyết khiếu nại, tố cáo công chức viên chức theo

quy định của pháp luật

- Cán bộ, viên chức của Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam được

xếp ngạch và xếp lương theo quy định hiện hành của Nhà nước;

- Viện tổ chức tuyển dụng, sử dụng, đào tạo, bồi dưỡng, bổ nhiệm

ngạch đối với cán bộ, viên chức của Viện theo phân cấp của Bộ KH&CN và

quy định của Nhà nước. Hàng năm tiến hành tuyển dụng cán bộ, viên chức do

đơn vị tự trả lương theo yêu cầu nhiệm vụ và khả năng tài chính của đơn vị,

theo chỉ tiêu được Bộ Khoa học và Công nghệ phê duyệt;

- Viện được mời chuyên gia trong và ngoài nước đến làm việc tại Viện;

hàng năm Viện được cử cán bộ đi đào tạo, bồi dưỡng và làm việc ở nước

ngoài theo quy định của Bộ KH&CN và của Nhà nước; được đề xuất cơ chế,

chính sách, khuyến khích vật chất và tinh thần để phát huy và thu hút cán bộ

khoa học trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử.

3) Về tài sản

Viện thống nhất quản lý và sử dụng tài sản do Nhà nước giao gồm: đất

31

đai, trụ sở, thiết bị và tài sản được trang bị từ các nguồn kinh phí Nhà nước

(bao gồm đầu tư, viện trợ, vay từ nước ngoài) để tiến hành nghiên cứu khoa

học và triển khai công nghệ theo chức năng và nhiệm vụ của đơn vị.

Viện được chủ động mua sắm các thiết bị thí nghiệm, triển khai công

nghệ từ các nguồn vốn của Viện, những thiết bị này là tài sản của Viện, sử

dụng, quản lý theo quy định của Viện và phù hợp với quy định của pháp luật.

Tất cả các tài sản của Nhà nước đầu tư cho Viện hoặc Viện tự mua sắm đều

phải được phản ánh vào sổ kế toán. Hàng năm tiến hành tổ chức kiểm kê tài

sản, vật tư và định kỳ báo cáo kết quả về Bộ KH&CN theo quy định.

4) Đầu tư xây dựng cơ bản

Viện trưởng Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam lập quy hoạch xây

dựng chung của toàn Viện và đề xuất chủ trương đầu tư hàng năm trình Bộ

Khoa học và Công nghệ phê duyệt và chịu trách nhiệm kiểm tra giám sát thực

hiện đầu tư xây dựng cơ bản theo quy định của Nhà nước.

5) Về tài chính

Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam là đơn vị dự toán cấp II trực

thuộc Bộ Khoa học và Công nghệ. Viện trưởng chịu trách nhiệm quản lý và

giao dự toán kinh phí đến các đơn vị trực thuộc Viện. Các đơn vị trực thuộc

Viện được chủ động trong quá trình thực hiện công tác tài chính được giao và

chịu sự kiểm tra, kiểm soát công tác tài chính kế toán của Viện trưởng theo

quy định của Nhà nước.

6) Về quyết định thành lập, giải thể các đơn vị trực thuộc Viện và quy

định về mối quan hệ công tác của các đơn vị

- Viện trưởng Viện NLNTVN quyết định thành lập, giải thể các bộ

phận của các đơn vị trực thuộc theo phân cấp của Bộ KH&CN.

- Viện trưởng Viện NLNTVN quy định mối quan hệ làm việc giữa các

đơn vị trực thuộc.

7) Về việc quản lý đề tài nhiệm vụ các cấp

Việc quản lý đề tài nhiệm vụ khoa học các cấp theo Quy chế quản lý

32

nhiệm vụ khoa học của Bộ Khoa học và Công nghệ và theo Quy định quản lý

nhiệm vụ khoa học và công nghệ các cấp của Viện Năng lượng nguyên tử

Việt Nam. Viện trưởng Viện NLNTVN phê duyệt tên nhiệm vụ KH&CN, tổ

chức chủ trì, cá nhân chủ nhiệm thời gian thực hiện và kinh phí, phương thức

khoán chi thực hiện nhiệm vụ KH&CN do Ban Kế hoạch và Quản lý khoa

học trình. Ban KH&QLKH chịu trách nhiệm về nội dung thuyết minh và hợp

đồng nhiệm vụ KH&CN các cấp theo các quy định hiện hành trước khi trình

Viện trưởng phê duyệt. Các nhiệm vụ cơ sở giao Trưởng Ban KH&QLKH ký

hợp đồng, hợp đồng nhiệm vụ KH&CN được ký kết giữa các bên là căn cứ

pháp lý để thực hiện đánh giá và nghiệm thu kết quả khi kêt thúc thơi gian

hợp đồng. Thực hiện việc kiểm tr, điều chỉnh nhiệm vụ khoa học và công

nghệ như sau: Định kỳ 6 tháng, chủ nhiệm nhiệm vụ KH&CN các cấp phải

tiến hành hội thảo khoa học liên quan đến các nội dung đã thực hiện; Đơn vị

chủ trì nhiệm vụ KH&CN có trách nhiệm báo cáo kế hoạch hội thảo về Ban

KH&QLKH bằng văn bản; Việc kiểm tra đánh giá được thực hiện như sau:

Tháng 9 hàng năm ban KH&QLKH thông báo lịch kiểm tra định kỳ nhiệm

vụ KH&CN, cấp bộ cấp cơ sở theo định kỳ; Đối với nhiệm vụ KH&CN cấp

nhà nước: Đơn vị chủ trì có trách nhiệm gửi thông báo cho ban KH&QLKH

ngày kiểm tra khi nhận được thông báo từ Bộ KH&CN. Ban KH&QLKH

tham dự với tư cách là khách mời; Điều chỉnh nhiệm vụ KH&CN được thực

hiện trước 30 ngày kể từ ngày kết thúc nhiệm vụ theo quyết định phê duyệt và

hợp đồng đã ký kết. Việc tư vấn đánh giá nghiệm thu nhiệm vụ khoa học và

công nghệ gồm có: (1) Tư vấn đánh giá nghiệm thu cấp cơ sở: Lãnh đạo đơn

vị chủ trì có trách nhiệm thành lập hội đồng đánh giá nghiệm thu theo quy

định, Ban KH&QLKH tham dự. Đối với nhiệm vụ KH&CN cấp Nhà nước

do Viện NLNTVN giao kinh phí thì Ban KH&QLKH trình Viện trưởng quyết

định thành lập Hội đồng (hội đồng gồm 7 người:01 chủ tịch, 02 Ủy viên phản

biện, 03 Ủy viên và 01 Ủy viên thư ký, trong hội đồng có ít nhất 1/3 số thành

viên là các nhà khoa học không thuộc đơn vị chủ trì thực hiện nhiệm vụ). Đối

33

với nhiệm vụ KH&CN cấp cơ sở hội đồng gồm 05 thành viên. Đánh giá

nghiệm thu kết quả thực hiện nhiệm vụ: Đối với nhiệm vụ KH&CN cấp cơ sở được

đánh gia ở mức đạt trở lên chủ nhiệm và đơn vị chủ trì gửi hồ sơ đề nghị nghiệm

thu chính thức về Ban KH&QLKH, đối với nhiệm vụ không đạt đơn vị chủ trì căn

cứ vào ý kiến tư vấn của hội đồng về các lý do khách quan chủ quan làm rõ nguyên

nhân báo cáo về Viện trưởng Viện NLNTVN quyết định xử lý đối với nhiệm vụ

KH&CN không hoàn thành. Việc công nhận kết quả chính thức của nhiệm vụ

KHCN được đánh giá mức đạt trở lên; Đơn vị gửi hồ sơ về Ban KH&QLKH và các

cơ quan quản lý khác hồ sơ về nhiệm vụ đề tài để lưu tài liệu sản phẩm của nhiệm

vụ KH&CN. Ban KH&QLKH tiến hành thanh lý hợp đồng thực hiện nhiệm vụ

KH&CN khi nhận được đầy đủ tài liệu liên quan theo quy định.

2.2.3 Cơ cấu tổ chức

Hiện nay Viện NLNTVN gồm có 9 đơn vị trực thuộc và 3 đơn vị chức

năng. Cơ cấu tổ chức và nhân lực của Viện NLNTVNđến cuối năm 2018, số

lượng và chất lượng cán bộ, viên chức, người lao động như sau

Khác

Phân loại/Số lượng Biên chế Trình độ đào tạo Thạc sĩ Tiến sĩ

745 Tình hình biên chế Hợp đồng NĐ 68 38 HĐLĐ Giáo sư, Phó GS 11 137 570 Đại học, cao đẳng 453 52 152 77

Thông tin theo báo cáo tổng kết của Viện NLNTVN

Phân loại theo ngạch

Phân loại/Số lượng

NCVCC và tương đương NCVC và tương đương NCV, kỹ sư và tương đương Nhân viên thừa hành, phục vụ

524 16 Kỹ thuật viên và tương đương 25 105

75 745 Thông tin theo báo cáo tổng kết của Viện NLNTVN

Ban Lãnh đạo Viện gồm: Viện trưởng và các Phó Viện trưởng do Bộ

trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ bổ nhiệm theo quy định hiện hành.

34

Mô hình tổ chức của Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam như sau:

SƠ ĐỒ CƠ CẤU TỔ CHỨC VIỆN NĂNG LƯỢNG NGUYÊN TỬ VIỆT NAM

BAN LÃNH ĐẠO VIỆN NĂNG LƯỢNG NGUYÊN TỬ VIỆT NAM

KHỐI NGHIÊN CỨU TRIỂN KHAI ỨNG DỤNG BỨC XẠ VÀ ĐỒNG VỊ PHÓNG XẠ

KHỐI CƠ QUAN PHỤC VỤ CÔNG TÁC QUẢN LÝ

BAN LÃNH ĐẠO VIỆN NĂNG LƯỢNG NGUYÊN TỬ VIỆT NAM KHỐI NGHIỂN CỨU PHÁT TRIỂN ĐỆN HẠT NHÂN VÀ HỖ TRỢ KỸ THUẬT NHÂN

VĂN PHÒNG VIỆN NLNTVN

KHỐI CƠ QUAN PHỤC VỤ CÔNG TÁC QUẢN LÝ

VIỆN NGHIÊN CỨU HẠT NHÂN ĐÀ LẠT

KHỐI NGHIÊN CỨU TRIỂN KHAI ỨNG TRUNG TÂM ỨNG DỤNG KỸ DỤNG BỨC XẠ VÀ ĐỒNG VỊ PHÓNG XẠ THUẬT HẠT NHÂN TRONG CÔNG NGHIỆP

TRUNG TÂM ỨNG DỤNG KỸ

VIỆN KHOA HỌC VÀ KỸ THUẬT HẠT NHÂN

VĂN PHÒNG VIỆN NLNTVN BAN KẾ HOẠCH VÀ QUẢN LÝ KHOA HỌC

TRUNG TÂM HẠT NHÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

VIỆN CÔNG NGHỆ XẠ HIẾM

BAN KẾ HOẠCH VÀ QUẢN LÝ KHOA HỌC BAN

HỢP TÁC QUỐC TẾ

TRUNG TÂM NGHIÊN CỨU VÀ TRIỂN KHAI CÔNG NGHỆ BỨC XẠ

TRUNG TÂM ĐÀO TẠO HẠT NHÂN

BAN

TRUNG TÂM CHIẾU XẠ HÀ NỘI

TRUNG TÂM ĐÁNH GIÁ KHÔNG PHÁ HỦY

HỢP TÁC QUỐC TẾ

VIỆN ỨNG DỤNG BỨC XẠ ĐÀ NẴNG

35

TRUNG TÂM KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN

TRUNG TÂM KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN

2.2.4 Kinh phí được giao

Năm 2018, Viện NLNTVN được Bộ Khoa học và Công nghệ cấp kinh

phí 179.670.000.000 đồng (không bao gồm kinh phí cấp cho các nhiệm vụ

KHCN cấp Nhà nước) để triển khai các hoạt động nghiên cứu của Viện trong

chi đầu tư phát triển và chi thường xuyên.

Bảng tổng hợp nguồn kinh phí Nhà nước cấp cho Viện NLNTVN

(theo báo cáo tổng kết của Viện NLNTVN)

Stt Nội dung Số tiền (đồng) Ghi chú

Tổng cộng (A+B) 102.094.000.000

0 A Chi đầu tư phát triển

102.094.000.000 B Chi thường xuyên

150.000.000 1 Giáo dục đào tạo

99.214.000.000 2 Sự nghiệp khoa học

2.1 Kinh phí thực hiện nhiệm vụ khoa 13.965.000.000

học và công nghệ

2.2 Kinh phí thường xuyên 77.406.000.000

Lương và hoạt động bộ máy 66.906.000.000

Nhiệm vụ thường xuyên theo chức 10.500.000.000

năng

2.3 Kinh phí không thường xuyên 6.702.000.000

Sửa chữa lớn, xây dựng nhỏ 5.802.000.000

Nhiệm vụ cấp Bộ khác 900.000.000

2.4 Hợp tác quốc tế 1.141.000.000

Đoàn vào 396.000.000

Đoàn ra 615.000.000

130.000.000 Hội nghị, hội thảo quốc tế

36

3 Sự nghiệp môi trường 2.730.000.000

Ngoài ra, nguồn kinh phí đầu tư tăng cường trang thiết bị là 77,576 tỷ

đồng, trong đó bao gồm kinh phí bắt đầu đầu tư cho dự án Mạng quan trắc

phóng xạ quốc gia là 32 tỷ đồng.

2.2.5 Kết quả hoạt động nghiên cứu, triển khai, ứng dụng trong năm 2018

Nhiệm vụ nghiên cứu khoa học năm 2018

Nghiên cứu cơ bản

Nhóm nghiên cứu cơ bản của Viện Khoa học và Kỹ thuật hạt nhân

(KH&KTHN) đã tham gia nghiên cứu các hiệu ứng alpha cluster trong phản

ứng hạt nhân trực tiếp như tán xạ, trao đổi nucleon và alpha cluster giữa các hạt nhân 4He, 12C và 16O; nhóm nghiên cứu cơ bản của Viện đang tham gia dự

án nghiên cứu quốc tế lớn SEASTAR liên quan đến nghiên cứu cấu trúc và sơ đồ

mức kích thích của các hạt nhân giàu neutron thông qua phản ứng hạt nhân trực

tiếp trong vùng năng lượng trung và tham gia nghiên cứu phản ứng hạt nhân với

sự quan tâm đặc biệt tới hiệu ứng và các nghiên cứu cấu trúc hạt nhân trên các

thiết bị lớn của Trung tâm nghiên cứu hạt nhân tiên tiến trên thế giới.

Hiện nay các nghiên cứu trên đã có 03 công trình công bố trên các tạp

chí quốc tế Physical Review C, 02 công trình trên tạp chí quốc tế thuộc danh

mục ISI, 01 báo cáo tại hội nghị quốc tế ISPUN17.

Viện Nghiên cứu hạt nhân (NCHN) đã thu được số liệu các hạt nhân và

cấu trúc mức của một số hạt nhân nặng không bền, cấu trúc mức kích thích

của các hạt nhân SM-153, Dy-162 và Yb-172 ở trạng thái hợp phần thông qua

phản ứng bắt nơtron nhiệt trên lò phản ứng hạt nhân Đà Lạt và các số liệu hạt

nhân k0, Q0 và Er của các nguyên tố quan tâm trong phân tích kích hoạt nơtron

theo chuẩn k0. Kết quả được công bố trên tạp chí Nuc.Phys.A.

Nghiên cứu trên lò Đà Lạt, tính toán vật lý lò, chế tạo các thiết bị đo đạc

hạt nhân, xử lý chế biến quặng phóng xạ, nhiên vật liệu hạt nhân và xử lý

chất thải phóng xạ

Viện NCHN đang nghiên cứu, tính toán các đặc trưng nơtron, thủy nhiệt

37

và phân tích an toàn lò phản ứng hạt nhân nghiên cứu do Liên bang Nga đề

xuất cho Trung tâm KHCN hạt nhân; nghiên cứu chiếu xạ thử nghiệm pha tạp

đơn tinh thể Silic trên Lò Phản ứng hạt nhân Đà Lạt; Nghiên cứu phát triển

thiết bị và khai thác dòng nơtron nhiệt trên kênh ngang số 1 lò phản ứng hạt

nhân Đà Lạt.

Thông qua các hoạt động nghiên cứu của đề tài cấp Nhà nước, cấp Bộ,

Viện NCHN đã đào tạo được đội ngũ cán bộ có chuyên môn sâu về lĩnh vực

công nghệ lò phản ứng (LPƯ), có khả năng tính toán các đặc trưng nơtron,

thủy nhiệt và phân tích an toàn lò phản ứng hạt nhân nghiên cứu, ứng dụng

chiếu xạ pha tạp đơn tinh thể Silic, chế tạo được hệ đo tán xạ nơtron, hoàn

thiện số hóa các hệ đo gamma đa kênh và trùng phùng sẵn sàng chuẩn bị nhân

lực cho Dự án Trung tâm khoa học và công nghệ hạt nhân, đồng thời phục vụ

tốt hơn công tác đảm bảo vận hành an toàn LPƯ hạt nhân Đà Lạt

Viện NCHN đang triển khai các nghiên cứu liên quan đến phương pháp

phân tích kích hoạt nơtron dùng chuẩn nội; các công cụ tính toán, hiệu chỉnh

sử dụng trong phương pháp chuẩn nội cho INAA, PGNAA và các quy trình

phân tích INAA và PGNAA dùng phương pháp chuẩn nội.

Viện KH&KTHN đã nghiên cứu cấu hình nạp tải nhiên liệu của lò phản

ứng năng lượng VVER-1200 (V491) cũng như tính toán quá trình cháy nhiên

liệu trong lò phản ứng VVER-1200 và xác định tổng lượng các đồng vị Actini

hiếm sinh ra trong quá trình cháy và nghiên cứu ảnh hưởng của nhiên liệu có

chứa Actini hiếm đến các đặc trưng vật lý và an toàn của lò phản ứng VVER-

1200. Viện nghiên cứu và chế tạo được hệ thực nghiệm thủy nhiệt cùng với

phần mềm xử lý tín hiệu đi kèm phục vụ cho đào tạo cán bộ trẻ. Các nghiên

cứu đang được gửi đăng trên tạp chí quốc tế và tạp chí Nuclear Science and

Technology (NST) của Hội NLNT và Viện NLNTVN.

Viện KH&KTHN đã chế tạo thành công 05 liều kế cá nhân điện tử, 01

Bộ đọc dữ liệu liều kế cùng với hai phần mềm: Phần mềm (Firmware) cho

38

liều kế điện tử EPD và Phần mềm công cụ (Software) đi kèm hệ thống/thiết bị

trên máy tính PC. Các nghiên cứu của nhóm đã được đăng tải trên tạp chí

Nuclear Science and Technology. Bên cạnh đó nhóm đang nghiên cứu chế tạo

liều kế cá nhân bằng vật liệu OSL để đo bức xạ photon và nơtron. Nhóm tiến

hành chế tạo vật liệu quang phát quang LiAlO2 và α-Al2O3:C trên thiết bị lò

nung chân không nhiệt độ cao và đang thử nghiệm sử dụng phim nhuộm màu

Polyvinyl Alcoholtrong đo liều photon và nơtron. Các nghiên cứu bước đầu

đã đăng được 03 công trình trên tạp chí quốc tế thuộc danh mục ISI.

Viện Công nghệ xạ hiếm (CNXH) tập trung vào phát triển lĩnh vực xử

lý chất thải phóng xạ, xử lý thải và đánh giá môi trường cũng được ưu tiên

phát triển thông qua dự án SXTN chế tạo chất keo tụ đa thành phần và dung

dịch phenton thế hệ mới từ dung dich tẩy gỉ, chế tạo vật liệu hấp phụ hiệu

năng cao SBA-15 để xử lý nước nhiễm xạ và nhiệm vụ cấp bộ về xin cấp

phép cho phòng chuẩn ISO/IEC 17025 phục vụ cho đánh giá môi trường. Kết

quả nghiên cứu trong đề tài cấp Bộ về đánh giá hiện trạng và thử nghiệm công

nghệ xử lý chất thải rắn và chất thải lỏng tại cơ sở nghiên cứu, ứng dụng và

triển khai công nghệ xử lý quặng xạ hiếm đã được áp dụng trong việc xử lý

nước thải ô nhiễm trong ao tại cơ sở Phùng.

Ngoài ra, Viện CNXH vẫn tiếp tục duy trì các nghiên cứu để đào tạo

cán bộ về hướng nhiên vật liệu hạt nhân như phân tích, đánh giá trạng thái của

viên gốm nhiên liệu, các nghiên cứu sâu hơn về chế biến quặng urani.

Nghiên cứu phát triển năng lực hỗ trợ kỹ thuật về bảo đảm an toàn, an

ninh và bảo vệ môi trường

Viện NLNTVN đang tổ chức nghiên cứu đánh giá khả năng phát tán và

ảnh hưởng của phóng xạ từ các nhà máy điện hạt nhân Cảng Phòng Thành và

Xương Giang đến Việt Nam. Viện đã duy trì, cập nhật và bổ sung số liệu

quan trắc phóng xạ môi trường tại phía Bắc, phía Nam và Ninh Thuận. Viện

KH&KTHN đang triển khai tích cực xây dựng Mạng lưới quan trắc và cảnh

39

báo phóng xạ môi trường quốc gia, lắp đặt các thiết bị online đo phóng xạ tại

một số trạm địa phương (Lào Cai, Lạng Sơn, Móng Cái, Bãi Cháy (Quảng

Ninh), Hải Phòng, Hà Nội, Đà Nẵng), đầu tư trang thiết bị cho trạm điều hành

chính và trạm vùng bảo đảm kịp thời phát hiện diễn biến bất thường về bức xạ

trên lãnh thổ Việt Nam và hỗ trợ việc chủ động ứng phó sự cố bức xạ, sự cố

hạt nhân.

Viện KH&KTHN đang nghiên cứu sử dụng kỹ thuật đồng vị để đánh

giá khả năng lưu giữ carbon trong đất nông nghiệp có được các dữ liệu về điều

kiện tự nhiên, thổ nhưỡng, lịch sử, hiện trạng sử dụng đất, đặc điểm đất và hàm

lượng cacbon trong đất làm cơ sở cho việc đánh giá ảnh hưởng của các biện

pháp canh tác khác nhau đến cấu trúc đất và xây dựng bản đồ xói mòn.

Bên cạnh đó,Viện vẫn tiếp tục thực hiện các nghiên cứu về Tritium

(3H) trong nước mưa theo tháng tại khu vực Hà Nội. Các số liệu về 3H đóng

vai trò quan trọng trong các nghiên cứu về thủy văn-khí hậu, tuổi của nước,

tính toán sự bổ cập nước ngầm và sự tham dự của tầng đối lưu, tầng bình lưu,

đại dương vào trong vòng tuần hoàn nước. Kết quả nghiên cứu đã được công

bố trên tạp chí quốc tế thuộc danh mục ISI.

Trung tâm Hạt nhân Tp.Hồ Chí Minh tiếp tục nghiên cứu động học

nước ngầm bằng kỹ thuật thủy văn đồng vị phục vụ công tác quản lý tài

nguyên nước khu vực đồng bằng Nam bộ.

Đối với môi trường biển, Viện NCHN đã xây dựng được phương pháp

nghiên cứu động học nước biển ven bờ (thời gian lưu, hệ số khuếch tán, tốc

độ pha trộn của vật chất đến từ lục địa, v.v…) sử dụng các đồng vị radi tự

nhiên làm chất chỉ thị, góp phần giải quyết bài toán đánh giá lan truyền của

chất thải vào vùng biển ven bờ, tính toán lưu lượng thải tối đa cho phép vào

môi trường biển theo các tiêu chuẩn của Việt Nam và quốc tế.

Viện NCHN đang triển khai các nghiên cứu để thiết lập được phương

pháp đánh giá khả năng phát tán phóng xạ từ nhà máy điện hạt nhân vào môi

40

trường biển trong một số tai nạn; chế tạo thiết bị quan trắc tại hiện trường ô

nhiễm phóng xạ Cs-134 và Cs-137 trong nước biển; xây dựng phương pháp

đánh giá liều công chúng đối với cơ sở hạt nhân có lò phản ứng nghiên cứu;

tối ưu hóa hình học mẫu đo môi trường bằng mô phỏng Monte Carlo đối với

phương pháp phổ gamma phông thấp; đồng thời, góp phần đào tạo và hình

thành nhóm chuyên gia có đủ năng lực đánh giá tình trạng, mức độ tác động

và khả năng dự báo lan truyền ô nhiễm phóng xạ trong môi trường biển.

Nghiên cứu ứng dụng kỹ thuật hạt nhân và công nghệ bức xạ

Viện NCHN đã xây dựng được quy trình chế tạo chế phẩm nano từ

curcumin và chitosan bằng phương pháp chiếu xạ phối hợp xử lý hóa học để

thăm dò khả năng làm lành vết thương và điều trị sẹo. Chế phẩm nano

bạc/chitosan tan trong nước bằng phương pháp chiếu xạ gamma để phòng và

trị bệnh cho cây trồng đã được thị trường chấp nhận. Các nghiên cứu trên đã

có 03 công trình được đăng tải trên tạp chí quốc tế và 05 công trình trên tạp

chí trong nước. Một cán bộ của Viện đã được cấp Bằng sáng chế Số:

2661210, do Viện Sở hữu trí tuệ Liên bang Nga cấp ngày 13/7/2018, có hiệu

lực từ ngày cấp cho đến: 27/7/2037 về Phương pháp tổng hợp vật liệu hấp

phụ composite từ tính.

Trung tâm Chiếu xạ Hà Nội (CXHN) đang nghiên cứu để tạo ra phân vi

sinh dạng hạt và phân bón lá phục vụ nông nghiệp.

Trung tâm Nghiên cứu và Triển khai công nghệ bức xạ

(VINAGAMMA) chế tạo vật liệu nanocomposite - bạc nano/diatomite để xử

lý vi sinh vật gây bệnh nhiễm trong nước nuôi cá Tra và xử lý chất màu trong

nước thải của nhà máy dệt nhuộn góp phần bảo vệ môi trường.

Để đảm bảo thiết bị chiếu xạ hoạt động an toàn và liên tục đáp ứng tốt

nhu cầu chiếu xạ của khách hàng, các cán bộ nghiên cứu của Trung tâm

CXHN luôn chủ động nghiên cứu và thiết kế, cải tiến một số dụng cụ nhằm

chủ động khắc phục các sự cố nhỏ phát sinh trong quá trình vận hành. Trung

41

tâm VINAGAMMA đã thiết kế, hoàn chỉnh thiết bị đo phân bố mật độ nhằm

tính toán nhanh phân bố liều trong thùng hàng chiếu xạ trên máy gia tốc

UELR-10-15S2.

Trung tâm Ứng dụng kỹ thuật hạt nhân trong công nghiệp(CANTI) đang

nghiên cứu phương pháp chụp cắt lớp điện toán thế hệ thứ tư khảo sát đối tượng

công nghiệp có kích thước< 2m; Đã thiết kế, chế tạo một mẫu máy cầm tay kiểm

tra nhiễm ẩm bảo ôn bằng neutron tán xạ ngược ứng dụng trong ngành dầu khí.

Trung tâm đang nghiên cứu giải mã công nghệ, chế tạo bộ phân đoạn chất lỏng 2

pha Segmentor và hoàn thiện phương pháp FIA đo hệ số phân bố Kd của các hợp

chất hữu cơ trong môi trường 2 pha hữu cơ/nước phục vụ nghiên cứu điều chế

dược phẩm, nghiên cứu y khoa, nghiên cứu đánh giá và xử lý ô nhiễm môi trường,

công nghệ hóa học chiết tách, công nghệ thực phẩm.

Trung tâm Đánh giá không phá hủy (NDE) đang nghiên cứu chế tạo thiết

bị chiếu xạ gamma dùng nguồn phóng xạ đã qua sử dụngphục vụ nghiên cứu

đột biến tạo giống cây trồng trong nông nghiệp.

Nhận xét chung về nghiên cứu khoa học

Từ các hoạt động nghiên cứu, Viện NLNTVN đã có nhiều công bố trên

các tạp chí, hội nghị trong nước và quốc tế. Tổng số công trình Viện đạt được

trong năm 2018 là 173, trong đó số công trình đăng tải trên các tạp chí quốc tế

là 56 công trình, trong đó có 48 công trình đăng trên các tạp chí ISI, tăng so

với năm 2017 là 11 công trình (năm 2017 có 45 công bố quốc tế trong đó có

37 công trình đăng trên ISI). Trong số các công trình công bố quốc tế có

nhiều công trình được công bố trên các tạp chí có IF cao như các tạp chí Phys.

Rev. Lett., Phys. Lett. B, Phys. Rev. C.

Năm 2018 có 01 Bằng sáng chế do Viện Sở hữu trí tuệ Liên bang Nga

cấp về Phương pháp tổng hợp vật liệu hấp phụ composite từ tính cho cán bộ

của Viện NCHN và 01 giải pháp hữu ích của Viện CNXH về Quy trình chiết

dung môi để tách loại đồng thời urani và thori ra khỏi dung dịch thủy luyện

42

tinh quặng đất hiếm.

Tổng hợp công bố khoa học của các đơn vị trong Viện

(Theo báo cáo tổng kết của Viện NLNTVN năm 2018)

Đơn vị

Tạp

Tạp

Hội

Hội

Khác Tổng

chí

chí

nghị

nghị

số

quốc

quốc

quốc

quốc

tế

gia

tế

gia

Viện Khoa học và kỹ thuật hạt nhân

21

8

8

11

0

48

Viện Nghiên cứu hạt nhân

17

10

4

0

1

32

Viện Công nghệ xạ hiếm

5

16

3

15

1

40

Trung tâm Hạt nhân Tp.HCM

4

0

0

0

0

4

Trung tâm Nghiên cứu và Triển

5

7

4

9

0

25

khai Công nghệ bức xạ

Trung tâm Ứng dụng kỹ thuật hạt

0

2

0

2

0

3

nhân trong Công nghiệp

Trung tâm Chiếu xạ Hà Nội

0

4

0

3

0

7

Trung tâm Đánh giá không phá hủy

0

1

7

0

8

Trung tâm Đào tạo hạt nhân

3

0

0

2

0

5

Văn phòng Viện

1

0

0

0

0

1

2

Tổng số

56

48

19

48

173

Thúc đẩy ứng dụng, dịch vụ, sản xuất

Năm 2018 các đơn vị trong toàn Viện đã tích cực hưởng ứng và thực

hiện chủ đề của năm “Phát triển bền vững dựa vào khoa học công nghệ”. Một

số thành tích đáng kể trong ứng dụng, sản xuất và dịch vụ của của một số đơn

vị trực thuộc như sau.

Năm 2018, Viện NCHN tiếp tục phát triển các dịch vụ quan trắc môi

trường đã được Bộ Tài nguyên và Môi trường cấp chứng nhận VIMCERTS

theo quy định tại Nghị định số 127/2014/NĐ-CP ngày 31 tháng năm 2014 của

43

Chính phủ và chứng nhận mới VietGAP cho 20 đơn vị, hộ cá thể.

Viện NCHN đang nghiên cứu quy trình công nghệ điều chế dược chất

vi cầu phóng xạ Y-90 trên lò phản ứng hạt nhân Đà lạt, góp phần làm đa dạng

hóa các loại thuốc phóng xạ điều trị ung thư tại các bệnh viện trong cả nước.

Điều chế, cung cấp các dược chất phóng xạ và kit đánh dấu cho 25 cơ sở,

bệnh viện trong nước với tần suất 2 tuần 1 lần. Tổng cộng 620,55 Ci ĐVPX

các loại đã được sản xuất và cung cấpcho các khoa Xạ trị, Y học hạt nhân tại

các bệnh viện trong nước (tăng 55% so với cùng kỳ năm 2017). Viện NCHN

bước đầu đã cung cấp 11 đợt (4,21 Ci) dược chất phóng xạ cho Campuchia,

tạo điều kiện để nước bạn phát triển các khoa y học hạt nhân. Ngoài ra, Viện

còn cung cấp dịch vụ về định liều bức xạ chiếu ngoài cho nhân viên bức xạ

góp phần bảo vệ sức khoẻ cho cộng đồng. Công trình nghiên cứu điều chế các

dược chất phóng xạ I-131 và P-32 ứng dụng trong chẩn đoán và điều trị của y

học hạt nhân được công nhận là hai (02) trong số 73 công trình giải pháp sáng

tạo khoa học công nghệ, được công bố trong Sách vàng Việt Nam năm 2018.

Trung tâm VINAGAMMA vận hành và khai thác an toàn máy chiếu xạ

chùm tia điện tử và máy chiếu xạ nguồn Co-60 theo hệ thống quản lý chất

lượng ISO 9001:2015, phục vụ cho các nghiên cứu ứng dụng trong lĩnh vực

công nghệ bức xạ. Năm 2018, Trung tâm đã thay đổi, bổ sung các quy trình,

quy định trong vận hành thiết bị, quy định về xử lý và bảo quản hàng hóa của

khách hàng. Doanh số năm 2018 của Trung tâm đã tăng 18,5% so với năm

2017 (đạt mức cao nhất từ trước đến nay), đặc biệt Trung tâm VINAGAMMA

hiện nay đang phối hợp với doanh nghiệp, đã triển khai xây dựng xong máy

gia tốc điều chế dược chất phóng xạ cho khu vực phía Nam, đảm bảo nguồn

cung cấp dược chất chẩn đoán và điều trị ung thư cho khu vực Tp. HCM,

giảm giá thành sản phẩm. Đây là mô hình kết hợp công tư hiệu quả cần đẩy

mạnh trong tương lai theo chủ trương của Nhà nước (mô hình Public Private

44

Partnership -- PPP). Trung tâm hỗ trợ tích cực cho dự án Chiếu xạ của Viện

NLNTVN đang xây dựng tại Đà Nẵng, cùng với Sở KH&CN Đồng Nai thiết

kế xây dựng dây chuyền chiếu xạ mới đặt tại Đồng Nai phục vụ xuất khẩu.

Đối với lĩnh vực kiểm tra không phá hủy, Trung tâm NDE đưa nhiều

kết quả ứng dụng vào thực tế, như: Sử dụng phương pháp siêu âm để kiểm tra

chất lượng cánh bơm của nhà máy; kỹ thuật dòng điện xoáy (ECT) kết hợp

với các kỹ thuật MFL. RFT, IRIS,VT, MT, PT được đưa vào giảng dạy và

triển khai thực tiễn tại các dự án Mông Dương 2, Đào tạo PV Pipe, các đơn vị

thầu phụ của ABB....mở ra khả năng dịch vụ NDT mới. Ngoài ra, Trung tâm

còn xây dựng các quy trình để kiểm tra bằng đầu dò ECA cho các đối tượng

sản phẩm đặc thù trong ngành công nghiệp lọc hóa dầu, năng lượng, điện hạt

nhân và chế tạo 30 bộ mẫu chuẩn so sánh, triển khai chương trình giảng dạy

đào tạo kỹ thuật viên cho nhiều đơn vị đăng kiểm, giám sát, triển khai NDT.

Doanh thu ứng dụng, dịch vụ, đào tạo giảng dạy của Trung tâm đạt 17,47 tỷ

năm 2018, đặc biệt là dịch vụ NDT.

Trung tâm CXHN đã tích cực, chủ động phối hợp với Bộ Nông nghiệp

và Phát triển nông thôn, hỗ trợ các doanh nghiệp và người dân trong việc

chiếu xạ xuất khẩu vải và nhãn sang Úc, góp phần mở rộng đầu ra cho sản

phẩm, tránh được việc mất giá khi xuất sang Trung Quốc. Tổng hàng hóa

chiếu xạ đạt khoảng 5.447 m3 với thời gian chiếu xạ khoảng 5.300 giờ. Trong

đó, chiếu xạ kiểm dịch hoa quả tươi xuất khẩu được gần 52,5 tấn vải, xoài,

tăng 33% so với năm 2017. Đặc biệt trong năm 2018, dịch vụ Hỗ trợ triển

khai về an toàn bức xạ hạt nhân và ứng phó sự cố bức xạ và hạt nhân tăng

mạnh (tăng gần 793 triệu đồng, tương đương 50% do với năm 2017).

Công tác đào tạo phát triển nguồn nhân lực

Đào tạo sau đại học

Trung tâm Đào tạo hạt nhân của Viện hiện đào tạo và quản lý 36 nghiên

cứu sinh (NCS). Năm 2018, Viện có 03 NCS bảo vệ thành công luận án cấp

45

Nhà nước và có 07 cán bộ tham gia chương trình đào tạo thạc sĩ.

Hiện nay, Viện có 15 cán bộ đang theo học chương trình tiến sĩ, sau tiến

sĩ và thạc sĩ (7 cán bộ) tại ở các nước như: Nhật Bản, Hàn Quốc, Liên Bang

Nga, Hoa Kỳ ...

Tháng 9/2018, Trung tâm Đào tạo hạt nhân xây dựng và trình Viện ký

ban hành quy chế tuyển sinh và đào tạo trình độ tiến sĩ của Viện NLNTVN

theo thông tư 08/2017/TT-BGDĐT của Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành

ngày 04/4/2018.

Đào tạo và huấn luyện chuyên ngành NLNT

Trung tâm Đào tạo đã tổ chức một số khóa học sau:

- Khóa học đào tạo cơ bản về máy gia tốc tuyến tính và ứng dụng trong

ý tế cho 24 học viên đến từ các đơn vị: Cục An toàn bức xạ và hạt nhân, Cục

Năng lượng nguyên tử, cán bộ của Viện, và sinh viên năm cuối của Trường

đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Bách Khoa Hà Nội.

- Khóa đào tạo bồi dưỡng kỹ năng nâng cao năng lực xuất bản quốc tế

cho cán bộ trẻ với số lượng 15 cán bộ đến từ các đơn vị trong Viện là Khối cơ

quan, Trung tâm CXHN, Viện CNXH, trường Đại học Bách khoa Hà Nội.

- Khóa đào tạo bồi dưỡng viết bài báo Khoa học bằng phần mềm

LATEX để hướng tới việc quy định bắt buộc sử dụng latex trong gửi bài và

chế bản của tạp chí Nuclear Science and Technology.

Trong khuôn khổ Chương trình hợp tác đào tạo phát triển nguồn nhân

lực hạt nhân giữa VINATOM và Cơ quan Năng lượng nguyên tử Nhật Bản

(JAEA). Viện KH&KTHN đã tổ chức thành công 04 khóa đào tạo về: Ghi

nhận bức xạ, Quan trắc phóng xạ môi trường, Sẵn sàng ứng phó sự cố bức xạ

và hạt nhân và Công nghệ hạt nhân.

Viện NCHN đã tổ chức 03 khóa đào tạo về: Quan trắc phóng xạ môi

trường; An toàn bức xạ, đo liều cá nhân và hóa phóng xạ cho Campuchia và

Chuẩn bị ứng phó sự cố bức xạ và hạt nhân cho đội ứng phó sự cố bức xạ và

46

hạt nhân.

Công tác quản lý, tổ chức cán bộ, thi đua khen thưởng

Viện đã luôn quan tâm, đôn đốc các đơn vị nghiêm túc thực hiện việc

quản lý và sử dụng viên chức, tăng cường tính kỷ luật và ý thức chấp hành nội

quy, quy chế của đơn vị, đảm bảo an ninh cơ quan, tập huấn cho cán bộ làm

công tác bảo vệ, phòng chống cháy nổ. Bên cạnh đó, Viện đã thực hiện tốt

chế độ báo cáo về công tác phòng, chống tham nhũng.

2.3 Hạn chế và nguyên nhân trong công tác quản lý của Viện NLNTVN

Hiện nay thực tế có một số bất cập sau trong hệ thống các tổ chức

KH&CN

2.3.1 Thời điểm cấp kinh phí

Việc cấp kinh phí cho các nhiệm vụ KH&CN thường đến tay các nhà khoa

học thường chậm hàng năm. Để phê duyệt kế hoạch nghiên cứu hàng năm thì

kế hoạch KH&CN phải xây dựng trước khoảng 18 tháng để chuyển cơ quan tài

chính phê duyệt. Điều đó có nghĩa là để có các nhiệm vụ KH&CN năm 2018-

2019 thì kế hoạch phải chuẩn bị từ năm 2016 chậm nhất là 31/7/2017. Đến đầu

năm 2018 khi được giao kinh phí thì cơ quan quản lý KH&CN bắt đầu tiến hành

các thủ tục tuyển chọn các đơn vị thực hiện nhiệm vụ KH&CN. Như vậy đến

giữa năm 2018 đơn vị các tổ chức KH&CN mới có kinh phí để thực hiện nhiệm

vụ KH&CN được đặt hàng hoặc tuyển chọn. Thời điểm giao chậm kinh phí như

vậy nhưng theo thủ tục giải ngân là đến 31/10 hàng năm phải xong các thủ tục

giải ngân đấu thầu vì vậy làm cho nhiều đề tài nghiên cứu không đáp ứng kịp

thời nhu cầu cần cấp thiết và làm giảm hiệu quả nghiên cứu.

2.3.2 Định mực chi và thủ tục thanh quyết toán

Thực tế có một số nội dung chi quan trọng nhưng chưa quy định trong

các văn bản quy phạm pháp luật hoặc phát sinh sau khi nhiệm vụ nghiên cứu

được phê duyệt, nên các nhà khoa học khi thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu

không được thanh quyết toán, ví dụ chi thuê chuyên gia trong và ngoài nước,

47

chi đăng ký sáng chế hoặc công bố quốc tế, chi dự phòng lạm phát, chi tuyên

truyền kết quả nghiên cứu... Thêm vào đó những thủ tục thanh quyết toán quá

chi tiết, cứng nhắc khiến nhiều năm nay không ít nhà khoa học buộc phải nói

dối, buộc phải chi nhỏ các đề tài nghiên cứu thành nhiều chuyên đề để có

được một bản quyết toán đẹp với kho bạc. Cách làm này là nguyên nhân

khiến nhiều đề tài có chất lượng nghiên cứu thấp.

2.3.3 Về đãi ngộ viên chức nghiên cứu trong các nhiệm vụ KH&CN

Hiện nay có ba bất cập chính trong chế độ đãi ngộ cho viên chức

nghiên cứu nhiệm vụ KH&CN là: (1) tiền công tác phí thấp không đủ chi phí

và bù đắp công sức mà cán bộ nghiên cứu bỏ ra. (2) điều kiện, cơ sở vật chất

kỹ thuật cho nghiên cứu chưa được đầu tư tương đương với các tổ chức

KH&CN trong khu vực và quốc tế, để tạo diều kiện cho các nhà khoa học

thuận lợi trong nghiên cứu; (3) mức chi trả cho công nghiên cứu không dựa

trên các kết quả đầu ra mà vẫn mang tính chất bốc thuốc “xin cho”, không có

tiêu chí rõ ràng, không minh bạch. Những bất cập này cản trở động lực cống

hiến cho sự nghiệp KH&CN

2.3.4 Hiện trạng thu nhập của viên chức

Thu nhập của cán bộ khoa học trong tổ chức KH&CN luôn được các

nhà khoa học thường xuyên nêu lên là một khó khăn, chưa tương xứng với

sức lao động bỏ ra. Hệ số lương trung bình của cán bộ nghiên cứu, thành viên

nghiên cứu chính là 5,42 thì tổng thu nhập gấp 1,82 lương theo ngạch bậc sẽ

là 9,86. Với lương cơ bản là 1.500.000 đồng, thì thu nhập của cán bộ nghiên

cứu này sẽ là 14.790.000 đồng/tháng. Còn đối với chuyên viên 2,34 lương cơ

bản 1.500.000 đồng, thu nhập của cán bộ là 3.510.000 đồng. Như vậy mới

mức lương quá thấp của chuyên viên như vậy là không đủ chi tiêu cho cuộc

sống hàng ngày. Còn với mức lương cho cán bộ nghiên cứu trong tổ chức

KH&CN như trên là không hẳn thấp cần có một cơ chế minh bạch về tiền

lương để để tránh trường hợp thu nhập chỉ tập trung vào một bộ phận và động

48

viên những người lao động nghiên cứu thực sự.

Tiểu kết chương

Giới thiệu về tình hình thực tế tại Viện NLNTVN từ ngày thành lập

23/2/1979, từ một viện nghiên cứu hạt nhân đến nay là Viện Năng lượng

nguyên tư Việt Nam bao gồm 9 đơn vị trực thuộc và 3 đơn vị chức năng hoạt

động sản xuất nhiều lĩnh vực khoa học và công nghệ, từ nghiên cứu cơ bản

đến nghiên cứu sản xuất phục vụ phát triển kinh tế xã hội. Giới thiệu được tổ

chức quản lý hoạt động của Viện hiện nay. Bên cạnh đó nói nên được những

khó khăn, hạn chế, nguyên nhân của tổ chức quản lý. Giới thiệu về đặc điểm

49

của tổ chức khoa học và công nghệ hạng đặc biệt thế nào.

Chương 3

MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CƠ CHẾ QUẢN LÝ CÁC ĐƠN

VỊ TRỰC THUỘC VIỆN NĂNG LƯỢNG NGUYÊN TỬ VIỆT NAM

3.1 Phương hướng phát triển của Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam

Phát triển Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam thành một cơ quan

nghiên cứu và triển khai đầu ngành của quốc gia về NLNT có các viện, trung

tâm nghiên cứu chuyên ngành, trung tâm triển khai ứng dụng công nghệ bức

xạ, đồng vị phóng xạ và kỹ thuật hạt nhân trên toàn quốc; đạt trình độ tiên tiến

trong khu vực Đông Nam Á; đủ năng lực đáp ứng các yêu cầu phục vụ nghiên

cứu phát triển điện hạt nhân; hỗ trợ kỹ thuật cho chương trình điện hạt nhân

và chương trình phát triển ứng dụng NLNT; bảo đảm an toàn bức xạ và hạt

nhân ở Việt Nam và thực hiện hiệu quả các hoạt động chuyển giao công nghệ

ứng dụng bức xạ và đồng vị phóng xạ trong các ngành kinh tế - xã hội.

3.1.1 Các mục tiêu cụ thể

a) Tiếp tục đầu tư phát triển các hướng nghiên cứu cơ bản tiên tiến về

hạt nhân và các hướng nghiên cứu ứng dụng nhằm thực hiện mục tiêu tiếp

thu, làm chủ và phát triển công nghệ trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử.

b) Xây dựng và phát triển các hướng nghiên cứu triển khai nhằm thực

hiện mục tiêu tiếp thu, làm chủ và phát triển năng lực tư vấn thiết kế nhà máy

điện hạt nhân, an toàn điện hạt nhân, về công nghệ nhiên liệu hạt nhân, vật

liệu hạt nhân và xử lý chất thải phóng xạ, cũng như các lĩnh vực khác liên

quan đến nhà máy điện hạt nhân.

c) Xây dựng và đầu tư phát triển các đơn vị sự nghiệp khoa học về ứng

dụng bức xạ và đồng vị phóng xạ theo hướng hiện đại dựa trên các thế mạnh

về công nghệ và đặc thù khu vực địa lý nhằm chuyển giao hiệu quả công nghệ

ứng dụng bức xạ và đồng vị phóng xạ cho các ngành kinh tế – xã hội, tạo ra

50

nguồn thu cho hoạt động sự nghiệp của Viện NLNTVN.

d) Xây dựng năng lực đào tạo cán bộ chuyên ngành về năng lượng

nguyên tử và điện hạt nhân, đảm bảo nhu cầu phát triển của Viện cũng như

nhu cầu đào tạo cán bộ cho các cơ quan khác theo quy định của Luật NLNT.

Để thực hiện tốt chức năng nhiệm vụ của Viện NLNTVN theo đề án

hoàn thiện cơ chế quản lý của các đơn vị trực thuộc đơn vị hạng đặc biệt ,

một số giải pháp cần thiết phải triển khai bao gồm:

- Tiếp tục giao nhiều quyền tự chủ cho các đơn vị

- Xây dựng các nhóm nghiên cứu ưu tiên dần dần phát triển thành nhóm

nghiên cứu mạnh;

- Xây dựng và phát triển nguồn nhân lực, trong đó tập trung đào tạo nguồn

nhân lực;

- Xây dựng và thực hiện chương trình nghiên cứu khoa học công nghệ dài

hạn;

- Đẩy mạnh hợp tác quốc tế;

- Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng nghiên cứu;

- Đầu tư trang thiết bị nghiên cứu, triển khai, thông tin liên lạc.

Các giải pháp chính được trình bày trong các phần tiếp theo sau đây.

3.1.2 Xây dựng và phát triển nguồn nhân lực

Để thực hiện được các nhiệm vụ của Viện NLNTVN trong giai đoạn

tới, trước hết phải xây dựng và phát triển nguồn nhân lực có trình độ chuyên

môn và nghiệp vụ cao đáp ứng yêu cầu đặt ra.

Kế hoạch đào tạo nguồn nhân lực bao gồm xây dựng kế hoạch dài hạn

đào tạo chuyên gia, xây dựng các chương trình đào tạo huấn luyện trong

nước, thiết lập quan hệ hợp tác đào tạo với các tổ chức nghiên cứu uy tín trên

thế giới về các hướng quan tâm, tìm kiếm các nguồn kinh phí và triển khai

thực hiện kế hoạch đào tạo. Cần đào tạo khoảng 30-40 chuyên gia trong lĩnh

51

vực điện hạt nhân và ứng dụng bức xạ trong 5-10 năm tới. Đến 2020, xây

dựng đội ngũ cán bộ nghiên cứu của Viện có chất lượng tốt, đủ năng lực thực

hiện các nhiệm vụ đặt ra

Để chuẩn bị nguồn nhân lực dài hạn, Viện đã xây dựng kế hoạch tuyển

dụng và đào tạo cán bộ cho đến năm 2020 theo định hướng xây dựng được 16

nhóm nghiên cứu theo hướng ưu tiên. Xây dựng và thực hiện kế hoạch đào

tạo bồi dưỡng cán bộ ở trong nước và gửi đi nước ngoài.

Xác định rõ các hướng nghiên cứu chiến lược về ứng dụng năng lượng

nguyên tử và điện hạt nhân, đánh giá năng lực và xây dựng các nhóm nghiên

cứu ưu tiên trong các đơn vị trực thuộc Viện NLNTVN. Từng bước củng cố

năng lực nghiên cứu, đào tạo nguồn nhân lực, cán bộ đầu đàn cho các nhóm,

dần dần xây dựng các nhóm nghiên cứu mạnh

3.1.3 Xây dựng và thực hiện chương trình nghiên cứu khoa học công nghệ

Để thực hiện được các nhiệm vụ hỗ trợ cho chương trình phát triển điện

hạt nhân vì mục đích hòa bình và triển khai ứng dụng bức xạ và đồng vị

phóng xạ trong các ngành kinh tế, Viện tập trung xây dựng chương trình

nghiên cứu khoa học về an toàn hạt nhân, nghiên cứu ứng dụng các kỹ thuật

hạt nhân tiến tiến theo lộ trình trung hạn và dài hạn. Với sự phối hợp với các

cơ sở nghiên cứu, trường đại học trong nước và nước ngoài sẽ đào tạo, nâng

cao trình độ, năng lực nghiên cứu của các cán bộ trong toàn Viện, tập trung

giải quyết các nhiệm vụ khoa học công nghệ trọng tâm, từng bước nâng cao

chất lượng các công trình nghiên cứu khoa học.

Để hỗ trợ cho chương trình phát triển điện hạt nhân, một chương trình

nghiên cứu an toàn lò hạt nhân sẽ được xây dựng và triển khai thực hiện giai

đoạn 2016-2020 và tiếp tục sau đó. Chương trình nghiên cứu an toàn lò hạt

nhân của Viện NLNTVN sẽ kết nối các đơn vị nghiên cứu khác như Viện Hàn

lâm KH&CN Việt Nam, Đại học Bách khoa Hà Nội v.v.

Thông qua các nhiệm vụ nghiên cứu trong nước và thực tập ở nước

ngoài dự kiến đến năm 2022 Viện sẽ đào tạo được 40 cán bộ khoa học đầu

52

đàn cho hơn 10 hướng chuyên sâu phục vụ cho chương trình phát triển điện

hạt nhân và ứng dụng bức xạ làm nòng cốt cho lực lượng nghiên cứu khoa

học công nghệ của Viện quốc gia trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử.

3.1.4 Đẩy mạnh hợp tác quốc tế

Cần thúc đẩy hợp tác quốc tế để nâng cao năng lực nghiên cứu, hỗ trợ

tốt cho việc đào tao nguồn nhân lực. Việc thiết lập quan hệ, hợp tác với các

Viện nghiên cứu hạt nhân các nước sẽ tạo điều kiện học hỏi kinh nghiệm phát

triển nghiên cứu triển khai về năng lượng nguyên tử.

Để thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ liên quan đến phát triển điện hạt

nhân, việc hợp tác chặt chẽ với các đối tác thực hiện dự án điện hạt nhân để

tìm hiểu, nghiên cứu về công nghệ, an toàn là cần thiết. Ngoài ra, hợp tác với

các cơ sở nghiên cứu hạt nhân uy tín ở các nước sẽ góp phần quan trọng trong

nâng cao năng lực nghiên cứu triển khai.

Hợp tác quốc tế sẽ có vai trò không nhỏ trong đào tạo nguồn nhân lực,

đào tạo chuyên gia điện hạt nhân, và các lĩnh vực ứng dụng năng lượng

nguyên tử cho Viện, cho đất nước. Mời các chuyên giai giỏi sang giúp đỡ,

tham gia đào tạo, gửi cán bộ giỏi sang các nước đào tạo, huấn luyện là các

giải pháp hiệu quả để phát triển nguồn nhân lực khoa học, nâng cao tiềm lực

nghiên cứu, triển khai.

3.1.5 Xây dựng Trung tâm Khoa học và Công nghệ hạt nhân

Trung tâm KH&CN hạt nhân sẽ được thành lập để tiến hành các hợp

tác kỹ thuật giữa Việt Nam và Liên bang Nga về năng lượng nguyên tử nhằm

hỗ trợ kỹ thuật phục vụ phát triển điện hạt nhân mà trước mắt là dự án điện

hạt nhân Ninh Thuận 1 do Liên Bang Nga xây dựng, đồng thời nghiên cứu

phát triển kỹ thuật ứng dụng năng lượng nguyên tử vì mục đích hòa bình của

Việt Nam và đào tạo nguồn nhân lực cho ngành năng lượng nguyên tử.

1) Chức năng

- Nghiên cứu tiếp thu công nghệ được chuyển giao, tiến tới làm chủ trong

thiết kế, vận hành, bảo dưỡng, sửa chữa lò phản ứng nghiên cứu và nhá máy

53

điện hạt nhân. Cung cấp các dịch vụ khoa học và hỗ trợ kỹ thuật cho dự án

điện hạt nhân Ninh Thuận và các nhà máy điện hạt nhân sau này, góp phần đảm

bảo cho các nhá máy điện hạt nhân vận hành an toàn và khai thác hiệu quả;

- Nghiên cứu cơ bản định hướng ứng dụng về vật lý hạt nhân, hóa học

phóng xạ, sinh học phóng xạ, y học hạt nhân, khoa học vật liệu, khoa học sự

sống, từng bước nâng cao tiềm lực khoa học và công nghệ hạt nhân quốc gia;

- Thực hiện các hoạt động về sản xuất và cung cấp đồng vị phóng xạ,

dược chất đánh dấu cho y tế; chế tạo vật liệu bán dẫn cho ngành công nghiệp

điện tử; triển khai các dịch vụ và chuyển giao công nghệ về ứng dụng kỹ thuật

hạt nhân trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội;

- Đào tạo nguồn nhân lực và đội ngũ cán bộ cho phát triển điện hạt

nhân và các ứng dụng của kỹ thuật hạt nhân.

2) Nhiệm vụ

a) Về điện hạt nhân

- Nghiên cứu về vật lý hạt nhân và số liệu hạt nhân;

- Nghiên cứu về vật lý và công nghệ lò phản ứng;

- Nghiên cứu về thủy nhiệt và phân tích, đánh giá an toàn;

- Nghiên cứu về thiết kế nhiên liệu hạt nhân, thiết kế lò phản ứng và các

hệ thiết bị liên quan;

- Nghiên cứu về bảo vệ bức xạ và đánh giá tác động môi trường;

- Nghiên cứu về chu trình nhiên liệu và vật liệu lò phản ứng;

- Nghiên cứu về xử lý và quản lý chất thải phóng xạ.

b) Về nghiên cứu cơ bản định hướng ứng dụng

- Nghiên cứu cơ bản liên ngành;

- Nghiên cứu về khoa học vật liệu;

- Nghiên cứu về công nghệ thông tin và khoa học máy tính;

- Nghiên cứu về công nghệ sinh học và sinh học phóng xạ;

54

- Nghiên cứu về công nghệ y sinh, y học hạt nhân, vật lý y học;

- Nghiên cứu về công nghệ hóa phóng xạ; sản xuất đồng vị và dược chất

phóng xạ.

c) Về dịch vụ khoa học kỹ thuật

- Sản xuất đồng vị và dược chất phóng xạ;

- Chế tạo vật liệu bán dẫn;

- Phân tích nguyên tố và phân tích cấu trúc vật liệu.

d) Về đào tạo cán bộ

- Cán bộ cho chương trình phát triển điện hạt nhân;

- Sinh viên các trường đại học, học viên cao học và nghiên cứu sinh

ngành NLNT;

- Cán bộ làm việc trong ngành NLNT nói chung.

3.1.6. Viện Ứng dụng bức xạ Đà Nẵng

- Thực hiện các nhiệm vụ hỗ trợ kỹ thuật theo phân công của Viện

NLNTVN về dịch vụ kỹ thuật an toàn bức xạ, xử lý sự cố bức xạ và hạt nhân,

quan trắc phóng xạ môi trường và hoạt động đào tạo phát triển nguồn nhân

lực tại thành phố Đà Nẵng và khu vực miền Trung;

- Nghiên cứu ứng dụng kỹ thuật hạt nhân và kỹ thuật đánh dấu đồng vị

trong điều tra tài nguyên biển và nghiên cứu tính bền vững của môi trường biển;

- Nghiên cứu về cơ khí, vật liệu nhằm phục vụ chương trình nội địa hóa

thiết bị trong nhà máy điện hạt nhân;

- Nghiên cứu phát triển công nghệ đột biến tạo giống cây trồng;

- Triển khai dịch vụ chiếu xạ và nghiên cứu phát triển công nghệ bức

xạ phục vụ nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của khu vực Miền Trung.

Viện Ứng dụng bức xạ Đà Nẵng là cơ sở nghiên cứu ứng dụng bức xạ

khu vực miền Trung của Viện. Tai cơ sở này có các phòng thí nghiệm nghiên

cứu về phóng xạ môi trường biển, an toàn bức xạ, ứng dụng bức xạ trong

55

nông nghiệp, thiết bị chiếu xạ, kiểm tra NDT, cơ khí chế tạo thiết bị liên kết

với Trường Đại học Bách khoa Đà Nẵng phục vụ hỗ trợ cho các nhà máy điện

hạt nhân.

Trên diện tích đất 10 ha, với tổng vốn đầu tư khoảng 140 tỷ sẽ hình thành

một cơ sở nghiên cứu triển khai ứng dụng bức xạ tại khu vực miền Trung.

3.2 Giải pháp hoàn thiện cơ chế quản lý

3.2.1 Đổi mới tổ chức và cơ chế quản lý nguồn nhân lực KH&CN

Tổ chức bộ máy và nhân sự KH&CN vẫn do cơ quan chủ quản của tổ

chức KH&CN quyết định nên đã hạn chế rất nhiều linh hoạt trong sử dụng

nguồn lực, nhất là cán bộ có trình độ chuyên môn cao. Cách quản lý nhân sự

hiện hành làm cho tổ chức KH&CN luôn bị động trong sử dụng lao động, bị

động trong việc trả lương không khuyến khích cán bộ có năng lực. Mặc dù

Nghị định 54/2016/NĐ-CP đã cho phép các thủ trưởng các tổ chức KH&CN

về quyết định sắp xếp, điều chỉnh tổ chức bộ máy và nhân sự của đơn vị

mình, Nhưng Nghị định này chưa có qui định về giám sát và theo dõi việc

thực hiện, cũng như chưa nêu yêu cầu đối với kết quả hoạt động cán bộ

KH&CN. Vì vậy cần tiếp tục hoàn thiện đổi mới hơn nữa tổ chức và cơ chế

quản lý đối với tổ chức KH&CN; đổi mới chính sách lương, thưởng đối với

cán bộ hoạt động KH&CN, mở rộng điều kiện tăng thu nhập cho các nhà

khoa học tương xứng với những đóng góp của họ cho xã hội, đồng thời có các

chính sách ưu đãi về vật chất và động viên kịp thời về tinh thần cho các nhà

khoa học có đóng góp quan trọng;

Thứ hai, tăng cường gắn nghiên cứu với ứng dụng tạo động lực cho cán

bộ KH&CN: Cần tạo điều kiện thuận lợi để các nhà khoa học gắn nghiên cứu

với hoạt động sản xuất, kinh doanh, kết hợp với đào tạo nghiên cứu, không để

lãng phí nguồn chất xám đồng thời phải điều khiển dòng chảy chất xám một

cách tối ưu nhất; từ đó thiết lập các quan hệ trực tiếp giữa doanh nghiệp với

cơ quan và người nghiên cứu, phát minh sáng chế trên cơ sở cùng có lợi. Có

56

như vậy, thì mới tạo ra được một thị trường khoa học rộng lớn, các nhà khoa

học mới có “sân” để phát huy năng lực của mình. Vì lẽ đó, để thúc đẩy

KH&CN phát triển, tạo ra nhiều việc làm cho cán bộ trong Viện, Viện cần có

những cơ chế, chính sách buộc các doanh nghiệp làm việc có hiệu quả bằng

cách ứng dụng khoa học. Đồng thời cần thúc đẩy sự hình thành và phát trienr

thị trường KH&CN. Thị trường này có tác dụng gắn kết chặt chẽ giữa

KH&CN với sản xuất và đời sống con người, kích thích sự phát triển của cả

KH&CN lẫn đời sống.

Thứ ba, xây dựng và thực hiện chiến lược phát triển nguồn nhân lực

KH&CN: Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam cần hoàn thiện quy hoạch,

kế hoạch đào tạo cán bộ KH&CN trẻ để tạo ra một lực lượng lao động có

năng lực và phẩm chất cần thiết đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của sự nghiệp

CNH-HĐH. Để thực hiện điều đó Viện NLNT cần phải quan tâm nhiều hơn

đến giáo dục đào tạo, thực sự coi đó là “quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao

dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài” Như Nghị quyết Đại hội VIII

của Đảng đã khẳng định; đồng thời kết hợp với các trường Đại học và các

Viện nghiên cứu để nâng cao chất lượng đào tạo, nhằm đáp ứng kịp thời lực

lượng KH&CN có trình độ cao; Cần có quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ

cán bộ KH&CN ở các trung tâm, viện nghiên cứu khoa học. Ngoài ra để khai

thác tốt tiềm năng lao động trí tuệ, có phải có sự sự quan tâm đúng mức đến

lợi ích tinh thần vật chất và điều kiện làm việc của cán bộ KH&CN, trong đó

vấn đề cơ bản nhất vẫn là thái độ thực sự quý trọng nhân tài, trọng tri thức

khoa học. Những khen thưởng kịp thời và đặc biệt là sự tôn vinh địa vị xã hội

đối với các nhà khoa học đúng với vai trò và sự cống hiến của họ sẽ có ý

nghĩa lớn trong việc thu hút nhân tài trong nước.

Thứ tư, trang bị và đầu tư về cơ sở vật chất kỹ thuật. Để giúp cá bộ

KH&CN hoạt động nghiên cứu một cách thuận lợi v à đạt kết quả tốt, Viện

cần tăng cường đầu tư và đổi mới trang thiêt bị nghiên cứu khoa học hiện đại

57

cho các phòng nghiên cứu, thí nghiệm tại các trung tâm khoa học, các trường

đại học, viện nghiên cứu, đồng thời, cần phải phát triển hệ thống thông tin,

trang thiết bị thông tin hiện đại, mở rộng mạng thông tin để tất cả cán bộ

KH&CN đều có thể tiếp cận, khai thác và sử d ụng các nguồn tài liệu

KH&CN vào công tác nghiên cứu. Cần tạo điều kiện cho các nhà khoa học đi

đào tạo, bồi dưỡng, tham quan học tập trao đổi, hợp tác nghiên cứu khoa học

ở những nước có trình độ khoa học và công nghệ tiên tiến hiện đại. Bên cạnh

đó, Viện NLNT cần có chính sách cụ thể để mở rộng, phát huy quyền tự do

sáng tạo của đội ngũ trí thức KH&CN, đồng thời thực hiện tốt các điều luật về

sở hữu trí tuệ, tôn trọng và bảo vệ quyền lợi về sở hữu trí tuệ của các nhà

khoa học

Thứ năm, sắp xếp lại tổ chức bộ máy, bố trí lại nhân lực. Thực hiện tinh

giảm biên chế, thu gọn đầu mối quản lý, phân công, phân cấp cụ thể, rõ ràng

3.2.2 Nâng cao nhận thức về khoa học và công nghệ

Viện cần có công tác tuyên truyền, hướng dẫn, truyền thông nhằm nâng

cao nhận thức và năng lực thực thi cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm tại các

tổ chức KH&CN:

Thứ nhất, nâng cao nhận thức xã hội. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền

về chủ trương, đường lối của Đảng về KH&CN, về cơ chế tự chủ của các tổ

chức KH&CN, làm cho mọi tổ chức, cá nhân trong hiểu rõ được nội dung cơ

bản của các chính sách Nhà nước đối với hoạt động KH&CN, đặc biệt là các

văn bản luật pháp mới như Luật KH&CN, Luât sở hữu trí tuệ, Luật tiêu chuẩn

và quy chuẩn kỹ thuật, Luật chuyển giao công nghệ và các văn bản hướng dẫn

luật như Nghị định 54/2016/NĐ-CP về cơ chế tự chủ tự chịu trách nhiệm của

các tổ chức KH&CN

Thứ hai, đưa KH&CN vào cuộc sống. Tuyên truyền mạnh mẽ về các

nhân tố mới, điển hình tiên tiến trong nghiên cứu, phát triển và ứng dụng của

thế giới nhằm thúc đẩy ứng dụng nhanh chóng các tiến bộ khoa học và kỹ

58

thuật vào sản xuất và đời sống... Thông qua công tác tuyên truyền gắn kết

hoạt động nghiên cứu khoa học với hoạt động đào tạo và sản xuất kinh doanh,

thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội

Thứ ba, hình thành mạng lưới tuyên truyền KH&CN. Kiện toàn và phát

triển công tác tuyên truyền KH&CN tại Viện NLNTVN, tạo dựng mối quan hệ,

phối hợp với các Bộ ngành đẩy mạnh công tác tuyên truyền về hoạt động

KH&CN thông qua việc tăng cường và hiện đại hóa cơ sở vật chất-kỹ thuật, đào

tạo và bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ làm công tác tuyên truyền KH&CN.

3.2.3 Giao quyền tự chủ đầy đủ cho các tổ chức trực thuộc

Như đã phân tich ở các chương trên, nhìn chung, Viện Năng lượng

nguyên tử Việt Nam cần giao các quyền tự chủ trong việc tuyển dụng, đào

tạo, sử dụng và đề bạt cán bộ nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ

cho các đơn vị. Trong đó nổi bật có một số vấn đề về quyền của thủ trưởng,

tự chủ của cán bộ nghiên cứu, cần phân biệt giữa lực lượng cán bộ trong tổ

chức KH&CN với đội ngũ công chức nhà nước nói chung. Là đơn vị thuộc

thành phần nhà nước, các tổ chức KH&CN thường có những quy chế hoạt

động được cấp trên quy định rõ ràng. Đây là khuôn khổ để các thủ trưởng đơn

vị sử dụng quyền hạn của mình.

Ví dụ: Lãnh đạo các đơn vị trực thuộc chịu trách nhiệm chỉ đạo và điều

hành toàn bộ cán bộ trong đơn vị thực hiện nhiệm vụ được giao. Thực hiện

biên chế, đề bạt, cách chức, hạ mức lương hoặc tiền công, thi hành kỷ luật đói

với cán bộ. Toàn bộ những hành động trên phải luôn tuân theo những Quy

định của Viện. Nhưng đối với cán bộ cấp phó thì phải được sự đồng ý của

Viện. Lãnh đạo các đơn vị được đề ra các quy chế công tác của cơ quan

không trái với quy định của Viện

Nhân lực hoạt động trong tổ chức KH&CN là một loại lao động khá đặc

thù. Làm việc trong các cơ quan nhà nước thì dường như họ là công chức Nhà

nước, nhưng nghiên cứu khoa học thì lại cần có sự độc lập, tự chủ. Khi các tổ

59

chức KH&CN tự chủ thì lại cần có sự độc lập, tự chủ, tự chịu trách nhiệm.

Để hoàn thành các nhiệm vụ nghiên cứu của Nhà nước, các quy chế cán

bộ nghiên cứu hoặc những nguyên tắc về sử dụng cán bộ cần phải đảm bảo

cho cán bộ tự chủ trong nghiên cứu khoa học, tham gia vào việc đánh giá

công trình của mình, có quyền được đào tạo thường xuyên. Các quy chế này

phải giúp cho sự tự do trao đổi ý kiến và thuyên chuyển cán bộ trong các

nghành nghề nghiên cứu ở trong cùng một cơ quan, thuyên chuyển trong các

cơ quan nhà nước, các trường đại học và giữa các cơ quan đó với các xí

nghiệp. Các quy chế này phải cho phép nhà nghiên cứu vừa làm nhiệm vụ của

mình tại các cơ quan nghiên cứu Nhà nước nói trên, vừa hợp tác với các

phòng thí nghiệm Nhà nước hoặc tư nhân trong thời hạn nhất định nhằm triển

khai ở đây những nội dung đặc biệt.

Tự chủ về tài chính: Nâng định mức chi cho các nhiệm vụ khoa học và

công nghệ cho phù hợp với thực tiễn. Tiền công lao động (gồm tiền công cho

các nhà khoa học, tiên công thuê chuyên gia trong nước, tiền thuê chuyên gia

nước ngoài phối hợp trong quá trình nghiên cứu và thực hiện nhiệm vụ

KH&CN. Thực hiện khoán chi đến sản phẩm cuối cùng. Khoán chi thực hiện

nhiệm vujKH&CN chính là giao quyền tự chủ tài chính cho tổ chức KH&CN

chủ trì, cá nhân chủ nhiệm KH&CN trong việc sử dụng kinh phí đã được cơ

quan có thẩm quyền giao khoán, gắn với trách nhiệm về các kết quả của

nhiệm vụ được giao đúng mục tiêu, yêu cầu; đảm bảo nguyên tắc công khai,

minh bạch. Tuy nhiên phương thức khoán chhi nào đảm bảo tính các yêu cầu

trên cần được cân nhắc trên cơ sở thẩm định dự toán hồ sơ đăng ký tuyển

chọn và các ý kiến tư vấn Hội đồng khoa học. Đổi mới phương thức cấp kinh

phí hoạt động khoa học và công nghệ sang cơ chế quỹ

3.2.4 Xây dựng tiêu chí đánh giá

Như đã phân tích ở các phần trên, thực hiện tự chủ không có nghĩa là

thoát khỏi mọi sự đánh giá. Ngược lại rất cần có sự đánh giá xem thực tế hiệu

60

quả hoạt động trong một đơn vị đã được tự chủ chịu trách nhiệm thế nào?

Tuy nhiên khi giao quyền cho các đơn vị nhưng vẫn phải xây dựng việc

thanh tra giám sát, xây dựng hệ thống đánh giá về hoạt động tự chủ, tự chịu

trách nhiệm của các đơn vị trực thuộc Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam

Viện trưởng xây dựng các tiêu chí đánh giá như điều kiện để các đơn vị

trực thuộc thực hiện tự chủ, đây là cơ sở để chủ sở hữu quyền năng chi phối,

định đoạt đối với các đơn vị trực thuộc (giao hết quyền, nhưng cần thanh tra

giám sát, đánh giá) đã được giao. Nói cách khác, đánh giá chính là công cụ để

Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam.

Đánh giá có ý nghĩa quan trọng nó như điều kiện để thực hiện tự chủ,

tự chịu trách nhiệm là bởi đây là cơ sở để Viện NLNTVN thể hiện quyền

năng chi phối, định đoạt của mình đối với tổ chức KH&CN đã được trao

quyền tự chủ. Nói cách khác, đánh giá là công cụ để Viện NLNTVN thực

hiện quyền quản lý đối với các tổ chức KH&CN. Trong các tiêu chí đánh giá

tổ chức KH&CN có việc xem xét giữ lại hay giải thể chuyển sở hữu các tổ

chứ nghiên cứu và phát triển, có cả việc điều chỉnh chính sách liên quan tới

quyền tự chủ của các tổ chức KH&CN của đơn vị.

Ví dụ: Có thể đề xuất các tiêu chí tự chủ xác định hướng ưu tiên, tự chủ

phân bổ nguồn lực, tự chủ tìm kiếm dự án, tự quản lý dự án; đổng thời phải tự

chịu trách nhiệm trên các mặt: kết quả dự án, vị trí của đơn vị trong cộng đồng.

Có thể đưa ra bộ chỉ tiêu mức đánh giá như:

-Yêu cầu kiểm soát tài chính: (1) cân đối về kinh phí; (2) các hợp đồng

với công nghiệp chiếm từ 35-55%; (3) quy mô phát triển về tài chính; (4) các

loại hình tài trợ

-Yêu cầu về chất lượng: kết quả nghiên cứu được công bố được nhắc

đến trên thông tin đại chúng; hình thành các tổ chức thử nghiệm dựa trên hoạt

61

động đổi mới; các loại giải thưởng đã đạt được

-Yêu cầu về năng lực nghiên cứu: Mức độ tăng của số lượng ấn phẩm

công bố trên các tạp chí có sử dụng cơ chế phản biện; số lượng ấn phẩm công

bố được trích dãn tính trên tổng số các ấn phẩm công bố

-Các kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ của các tổ

chức KH&CN đã và sẽ đạt được thuộc lĩnh vực ưu tiên của Nhà nước, phù

hợp với những phương hướng và nhiệm vụ của chính sách Nhà nước.

-Trình độ KH&CN của các công trình nghiên cứu cũng như các kết

quả đã đạt được, mức độ tương thích à trình độ quốc tế, khu vực

-Tiềm lực KH&CN của cơ quan có đủ năng lực giải quyết cac nhiệm

vụ thuộc lĩnh vực KH&CN được giao nhằm băt kịp và một trình độ tiên tiến

trình độ khu vực và quốc tế

Tiểu kết chương

Từ những định hướng của Đảng, chính sách của Nhà nước về vấn đề tự

chủ tự chịu trách nhiệm của các tổ chức Khoa học và Công nghệ và quan d

diểm đổi mới cơ chế tự chủ tự chịu trách nhiệm đối với tổ chức KH&CN nói

chung hay đối với các tổ chức KH&CN nói riêng dưới góc độ khoa học, tác

giả đề xuất một số các giải pháp đổi mới hay nói cách khác là hoàn thiện cơ

chế quản lý đối với các đơn vị tổ chức KH&CN hạng đặc biệt như sau: Nâng

cao năng lực của đội ngũ cán bộ KH&CN; Nâng cao nhận thức về khoa học

và công nghệ; giao quyền tự chủ quản lý nhân lực; xây dựng các tiêu chí

62

đánh giá

KẾT LUẬN

Đổi mới cơ chế quản lý tổ chức khoa học công nghệ là một chính sách

lớn, mang ý nghĩa quan trọng, giúp cho tổ chức ổn định và phát triển được

bền vững.

Trong thời gian qua, mặc dù cơ chế quản lý KH&CN có nhiều thay đổi

trên nhiều mặt, song quá trình thực hiện bộc lộ rõ một số điểm cần hoàn thiện.

KH&CN. Trước tình hình đó, việc hoàn thiện cơ chế quản lý của các tổ chức

KH&CN trực thuộc tổ chức KH&CN hạng đặc biệt càng cần một sự thay đổi mạnh

mẽ hơn nữa, để giúp các nhà khoa học có cơ hội, nâng cao hiệu quả làm việc, tạo ra

được những sản phẩm phù hợp với nhu cầu thực tiễn của xã hội. Qua luận văn này,

tác giả đã đề cập đến về một số đặc điểm về tổ chức KH&CN hạng đặc biệt, và đưa

ra một số giải pháp để hoàn thiện cơ chế quản lý các tổ chức KH&CN trực thuộc tổ

chức KH&CN hạng đặc biệt.

Như vậy, việc hoàn thiện cơ chế quản lý KH&CN là xu thế tất yếu của các tổ chức

Các tổ chức KH&CN tiếp tục hoàn thiện cơ chế quản lý nhằm nâng cao

hiệu quả hoạt động.

Cơ quan chủ quản, cơ quan quản lý nhà nước cần tạo điều kiện, hỗ trợ

các tổ chức KH&CN thực hiện quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm. Tách biệt

quản lý nhà nước với quản lý hoạt động của tổ chức KH&CN. Cơ quan chủ

quản khoog can thiệp trực tiếp vào việc quản lý của tổ chức KH&CN, kiên

quyết xóa bỏ đặc quyền, đặc lợi của cơ quan chủ quản, xóa bỏ chế độ xin cho

về biên chế, tài chính.v.v

Về các chính sách của Nhà nước cần thay đổi để đảm bảo sự đồng bộ,

trước nhất chủ trương giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các tổ chức

KH&CN. Đặc biệt cần thay đổi cơ chế quản lý tài chính đối với hoạt động

63

KH&CN nói chung và tài chính của tổ chức KH&CN nói riêng. Hwowngss

thay đổi là phải thực hiện quản lý đầu ra là chủ yếu và trao quyền tự chủ quản

lý cho Thủ trưởng tổ chức KH&CN.

Trong số các Nghị định quy định về việc quản lý tổ chức KH&CN,

Nghị định Số: 54/2016/NĐ-CP Quy định về cơ chế tự chủ của tổ chức

KH&CN cần sửa đổi bổ sung hoặc thay đổi nhằm tạo điều kiện thuận lợi hơn

nữa cho các tổ chức KH&CN phát huy được tiềm lực của mình tạo ra nhiều

64

sản phẩm, công trình KH&CN đem lại lợi ích cho phát triển kinh tế xã hội.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1) Báo cáo tổng kết công tác năm 2012 đến năm 2018

2) Luận văn Thạc sỹ của Vũ Quang Linh

3) Luận văn Thạc sỹ của Vũ Thị Liễu

4) Luật Năng lượng nguyên tử

5) Quyết định Số: 30/QĐ-TTg ngày 6/1/2016 công nhận Viện Năng lượng

nguyên tử Việt Nam là tổ chức sự nghiệp khoa học và công nghệ hạng

đặc biệt

6) Quyết định số 01/2006/QĐ-TTg ngày 3/01/2006 của Thủ tướng Chính phủ

ban hành Chiến lược ứng dụng năng lượng nguyên tử vì mục đích hòa

bình đến năm 2020.

7) Quyết định số 957/QĐ-TTg ngày 24/6/2010 của Thủ tướng Chính phủ ban

hành Quy hoạch tổng thể thực hiện Chiến lược ứng dụng năng lượng

nguyên tử vì mục đích hòa bình đến năm 2020

8) Quyết định số 265/QĐ-TTg ngày 05/3/2012 của Thủ tướng Chính phủ về

việc phê duyệt Đề án “Tăng cường năng lực nghiên cứu - triển khai và

hỗ trợ kỹ thuật phục vụ phát triển ứng dụng năng lượng nguyên tử và

bảo đảm an toàn, an ninh”,

9) Quyết định số 181/2005/QĐ-TTg ngày 19/7/2005 của Thủ tướng Chính phủ

quy định về phân loại, xếp hạng các tổ chức sự nghiệp, dịch vụ công lập.

10) Hiệp định liên Chính phủ Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Liên bang

Nga về hợp tác xây dựng Trung tâm Khoa học và Công nghệ hạt nhân

11) Căn cứ Nghị định 20/2013/NĐ-CP ngày 26/02/2013 của Chính phủ quy

định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Khoa

65

học và Công nghệ.

12) Quyết định số 1458/QĐ-BKHCN ngày 07 tháng 6 năm 2016 của Bộ

trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ quy định Điều lệ Tổ chức và hoạt

động của Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam.

13) Căn cứ thông tư 33/2014/TT-BKHCN về ban hành quy chế quản lý nhiệm

vụ khoa học và công nghệ cấp Bộ của Bộ Khoa học và Công nghệ

14) Quyết định số 08/QĐ-BKHCN ngày 04/1/2019 của Bộ Khoa học và Công

nghệ về việc ban hành Quy định phân cấp quản lý công chức, viên chức

trong các đơn vị trực thuộc Bộ Khoa học và Công nghệ

15) Căn cứ Quyết định 919/QĐ-VNLNT ngày 09/9/2016 về việc ban hành

Quy định quản lý nhiệm vụ khoa học và công nghệ các cấp của Viện

Năng lượng nguyên tử Việt Nam

16) Quyết định 247/QĐ-VNLNT ngày 05/6/2015 về việc ban hành Quy định

phân cấp quản lý, công chức, viên chức trong các đơn vị trực thuộc Viện

Năng lượng nguyên tử Việt Nam

17) Thủ tướng Chính phủ (2014), Quy định Chế độ phụ cấp ưu đãi nghề

nghiệp đối với người làm việc trong các đơn vị thuộc lĩnh vực năng

lượng nguyên tử của Bộ Khoa học và Công nghệ, ban hành kèm theo

Quyết định số 45/2014/NĐ-CP ngày 15/8/2014.

18) Trần Chí Thành (2013), Cần một giải pháp đột phá trong đào tạo nguồn

66

nhân lực ngành hạt nhân, Website TapchiTiasang, ngày 23/10/2013.