BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH

TÔ THỊ HỒNG THỦY

QUẢN LÝ KINH PHÍ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC

CHO HOẠT ĐỘNG ĐỐI NGOẠI: TRƯỜNG HỢP

TỈNH KIÊN GIANG

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

TP. Hồ Chí Minh - Năm 2017

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH

TÔ THỊ HỒNG THỦY

QUẢN LÝ KINH PHÍ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC

CHO HOẠT ĐỘNG ĐỐI NGOẠI: TRƯỜNG HỢP

TỈNH KIÊN GIANG

Chuyên ngành: Quản lý kinh tế

Mã số: 60340410

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

PGS.TS. BÙI THỊ MAI HOÀI

TP. Hồ Chí Minh - Năm 2017

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi. Các kết quả, số

liệu sử dụng trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ

công trình nào khác.

Các số liệu, kết quả do trực tiếp cá nhân tôi thu thập, thống kê và xử lý. Các

nguồn dữ liệu khác được tôi sử dụng trong luận văn đều có ghi nguồn trích dẫn và

xuất xứ.

Kiên Giang, ngày …. tháng ….. năm 2017

Tác giả luận văn

……………………..

MỤC LỤC

TRANG PHỤ BÌA

LỜI CAM ĐOAN

MỤC LỤC

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

DANH MỤC BẢNG

DANH MỤC - HÌNH - SƠ ĐỒ

CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU VẤN ĐỀ ............................................................. 1

1. Đặt vấn đề ...................................................................................................... 1

2. Mục tiêu thực hiện đề tài .............................................................................. 2

3. Câu hỏi cần trả lời ........................................................................................ 2

4. Phạm vi thu thập dữ liệu, đối tượng xem xét và phương pháp tiếp cận.. 2

4.1. Phạm vi thu thập dữ liệu .............................................................................. 2

4.2. Đối tượng xem xét và phương pháp tiếp cận ............................................... 3

5. Ý nghĩa thực tiễn của luận văn .................................................................... 4

6. Bố cục của luận văn ...................................................................................... 4

2.1. Các khái niệm liên quan ............................................................................ 5

2.1.1 Ngân sách nhà nước ................................................................................... 5

2.1.2. Quản lý ngân sách nhà nước ..................................................................... 6

2.2. Lý thuyết về quản lý ngân sách nhà nước ............................................... 9

2.2.1. Quản lý ngân sách theo hạn mục .............................................................. 9

2.2.3. Quản lý ngân sách thực hiện ................................................................... 11

2.2.4. Quản lý ngân sách theo đầu ra ................................................................ 13

2.2.4.2. Mục đích của quản lý ngân sách theo đầu ra ....................................... 16

2.2.4.3. Ý nghĩa của quản lý ngân sách theo đầu ra ......................................... 16

2.2.5. Quản lý ngân sách theo kết quả .............................................................. 17

2.3 Khung pháp lý của Việt Nam về quản lý kinh phí NSNN..................... 18

Tài chính trong cơ quan nhà nước được hiểu là những hoạt động thu và chi

bằng tiền của các cơ quan nhà nước để đảm bảm hoạt động thường xuyên của

các cơ quan nhà nước, đồng thời để thực hiện các nhiệm vụ mà nhà nước giao

phó. ............................................................................................................................ 18

2.3.1 Khung pháp lý chung về quản lý kinh phí NSNN ................................... 18

2.3.2. Khung pháp lý của Việt Nam về quản lý kinh phí NSNN cho hoạt động

đối ngoại .................................................................................................................... 19

TÓM TẮT CHƯƠNG 2 ................................................................................. 21

3.2. Đặc trưng cơ bản của quản lý ngân sách theo kết quả đầu ra ............ 24

3.3. Vai trò của phương thức lập ngân sách theo kết quả đầu ra .............. 24

3.4. Phương pháp luận xác định các đầu ra ................................................. 27

3.4.1. Xác định chi tiết các đầu ra ..................................................................... 27

3.4.2. Đo lường đầu ra trong chi tiêu công ....................................................... 28

3.5. Những nhân tổ ảnh hưởng đến quản lý chi NSNN cho hoạt động đối

ngoại.......................................................................................................................... 30

3.5.1. Cơ chế quản lý ........................................................................................ 30

3.6. Hoạt động đối ngoại của chính quyền cấp tỉnh ..................................... 32

3.6.1. Vai trò của hoạt động đối ngoại tại địa phương ..................................... 32

3.6.2. Nội dung hoạt động đối ngoại của chính quyền cấp tỉnh ....................... 32

3.6.3. Nhiệm vụ chi hoạt động đối ngoại của chính quyền cấp tỉnh ................. 33

3.6.5. Cơ sở pháp lý cho quản lý chi NSNN cho hoạt động đối ngoại ............. 34

3.6.6. Đặc điểm của quản lý kinh phí NSNN cho hoạt động đối ngoại ............ 35

3.7. Kinh nghiệm quản lý ngân sách nhà nước cho hoạt động đối ngoại .. 36

CHƯƠNG 4: PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG QUẢN LÝ KINH PHÍ NGÂN

SÁCH NHÀ NƯỚC CHO HOẠT ĐỘNG ĐỐI NGOẠI TẠI KIÊN GIANG.... 39

4.1. Tổng quan về tỉnh Kiên Giang ............................................................... 39

4.1.1. Điều kiện tự nhiên và nguồn lực phát triển kinh tế - xã hội ................... 39

4.1.2. Tình hình phát triển kinh tế tỉnh Kiên Giang giai đoạn 2011-2015. ...... 40

4.1.3. Ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên kinh tế và xã hội đến quản lý nhà

nước về hoạt động đối ngoại của chính quyền tỉnh Kiên Giang ............................... 42

4.2. Đánh giá hoạt động đối ngoại của tỉnh Kiên Giang từ 2011 đến 2015 43

4.2.1. Công tác tổ chức quản lý đoàn ra, đoàn vào ........................................... 45

4.2.2. Công tác quan hệ hợp tác kinh tế quốc tế ............................................... 47

4.2.3. Công tác ngoại giao văn hóa ................................................................... 48

4.2.4. Công tác lãnh sự ..................................................................................... 48

4.2.5. Hoạt động phân giới cắm mốc và quản lý biên giới. ............................. 50

4.2.6. Công tác người Việt Nam ở nước ngoài ................................................. 51

4.2.7. Công tác đối ngoại Đảng, đối ngoại nhân dân các tỉnh giáp biên .......... 53

4.2.8. Công tác quản lý hoạt động viện trợ của các tổ chức phi chính phủ nước

ngoài .......................................................................................................................... 54

4.3. Thực trạng quản lý kinh phí NSNN cấp cho hoạt động đối ngoại của

tỉnh Kiên Giang giai đoạn 2011-2015 .................................................................... 57

4.3.1. Công tác lập dự toán kinh phí cho hoạt động đối ngoại của tỉnh Kiên

Giang, giai đoạn 2011-2015 ...................................................................................... 58

4.3.2 Quá trình duyệt dự toán ........................................................................... 59

4.3.3. Quá trình chấp hành kinh phí NSNN cho hoạt động đối ngoại theo kế

hoạch được phê duyệt................................................................................................ 61

Số liệu chi thường xuyên theo khoản mục từ 2011 đến 2015 .......................... 65

4.3.4. Quá trình quyết toán kinh phí NSNN cho hoạt động đối ngoại tỉnh

Kiên Giang ............................................................................................................... 67

4.4. Đánh giá ưu nhược điểm của quản lý chi ngân sách cho hoạt động đối

ngoại tại tỉnh Kiên Giang ....................................................................................... 67

4.4.1. Ưu điểm .................................................................................................. 70

4.4.2. Tồn tại, hạn chế ....................................................................................... 70

4.4.3. Nguyên nhân của tồn tại hạn chế ............................................................ 71

CHƯƠNG 5: KẾT LUẬN .............................................................................. 73

5.1. Tóm tắt quá trình nghiên cứu ................................................................. 73

5.2. Khuyến nghị chính sách .......................................................................... 74

5.2.1. Đối với Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân và UBND tỉnh Kiên Giang .......... 74

5.2.2. Đối với Sở Ngoại vụ ............................................................................... 75

5.3. Hạn chế và hướng nghiên cứu tiếp theo .................................................... 77

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

BĐNTW : Ban đối ngoại trung ương

BTC : Bộ tài chính

HD : Hướng dẫn

HĐND : Hội đồng nhân dân

KH : Kế hoạch

KQĐR : Kết quả đầu ra

NĐ-CP : Nghị định – Chính phủ

NSNN : Ngân sách nhà nước

NSTTT : ngân sách theo chương trình

NVNONN : người Việt Nam ở nước ngoài

OECD : Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế

QĐ : Quyết định

QH : Quốc hội

TT : Thông tư

TTg : Thủ tướng

TTLT : Thông tư liên tịch

TU : Tỉnh ủy

TW : Trung ương

UBND : Ủy ban nhân dân

UNO : Tổ chức liên hiệp quốc

DANH MỤC BẢNG

Bảng 3.1. So sánh giữa lập ngân sách theo kết quả đầu ra với lập ngân sách

theo khoản mục ......................................................................................................... 25

Bảng 3.2. Các tiêu chí xác định một đầu ra ...................................................... 27

Bảng 4.1. Tốc độ tăng trưởng kinh tế qua các năm .......................................... 41

Bảng 4.2. Cơ cấu GDP theo khu vực kinh tế qua các năm ............................... 41

Bảng 4.3: Số liệu thống kê đoàn ra nước ngoài ................................................ 45

Bảng 4.4: Số liệu thống kê đoàn vào ................................................................ 46

Bảng 4.5: Số liệu thống kê ngư dân tỉnh Kiên Giang bị nước ngoài bắt giữ .... 49

Bảng 4.6: Số lượng người Việt Nam đang định cư ở nước ngoài .................... 51

Bảng 4.7: Số lượng người Việt Nam đang định cư ở nước ngoài .................... 52

Bảng 4.8: Tình hình chi trả kiều hối lũy kế ...................................................... 53

Bảng 4.9: Số liệu thống kê nguồn viện trợ của các tổ chức phi chính phủ. ..... 54

Bảng 4.10. So sánh báo cáo quyết toán kinh phí đối ngoại và báo cáo kết quả

công tác hằng năm của Sở Ngoại vụ ......................................................................... 61

Bảng 4.11. Chi thường xuyên cho hoạt động đối ngoại từ 2011 đến 2015 ...... 63

Bảng 4.12. Chi thường xuyên theo từng khoản mục từ 2011 đến 2015 ........... 65

DANH MỤC HÌNH – SƠ ĐỒ

Hình 2.1. Quy trình lập ngân sách theo đầu ra ................................................. 13

Hình 2.2. Quy trình chiến lược lập ngân sách theo đầu ra ............................... 15

Sơ đồ 3.1. Sơ đồ quy trình quản lý nguồn lực theo lập ngân sách theo kết quả

đầu ra ......................................................................................................................... 26

Hình 4.1: Bản đồ Hành chính tỉnh Kiên Giang ................................................ 39

Hình 4.2. Biến động giữa ngân sách được duyệt và ngân sách thực chi .......... 63

1

CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU VẤN ĐỀ

1. Đặt vấn đề

Trong bối cảnh Thế giới ngày càng có nhiều biến động, bất ổn về chính trị,

kinh tế, đặc biệt đối với khu vực Đông Nam Á, các vấn đề phức tạp về tình hình

biển Đông, hải đảo và những vấn đề về Triều Tiên với Hoa Kỳ đã ảnh hưởng trực

tiếp đến nước ta, thì việc mở rộng quan hệ đối ngoại, hội nhập quốc tế ngày càng trở

nên cấp thiết, mỗi quốc gia cần phải khai thác được tiềm năng và thế mạnh trong

quan hệ quốc tế. Điều này có nghĩa là, đối ngoại đã trở thành một trong những công

cụ quan trọng được sử dụng nhiều trong chính sách thúc đẩy quan hệ quốc tế và có

ảnh hưởng lớn đến các hoạt động ngoại giao của mọi quốc gia trên thế giới.

Kiên Giang là tỉnh có vị trí quan trọng về kinh tế và quốc phòng-an ninh; có

đường biên giới trên bộ và trên biển khá dài, tiếp giáp với nhiều nước trong khu

vực; là một trong những cửa ngõ giao lưu của nước ta với các nước trong khối

ASEAN. Thời gian qua, hoạt động thông tin đối ngoại của tỉnh đạt một số kết quả,

tiến bộ: Mở rộng quan hệ ngoại giao, hợp tác với các nước láng giềng trong khu vực

và các Đại sứ quán, Tổng lãnh sự quán, các tổ chức phi chính phủ nước ngoài...Đẩy

mạnh quan hệ hợp tác với các quốc gia truyền thống, hợp tác liên doanh trên một số

lĩnh vực có thế mạnh của tỉnh; đặc biệt là quan hệ với các tỉnh giáp biên của

Campuchia, giải quyết ổn định các vụ việc phát sinh khu vực biên giới, vùng biển.

Đối ngoại nhân dân có bước phát triển, quan hệ hợp tác với trên 30 tổ chức phi

chính phủ nước ngoài, góp phần thiết thực giải quyết một số vấn đề về kinh tế-xã

hội, xóa đói, giảm nghèo, phát triển nông thôn, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào

dân tộc…

Để thực hiện hoạt động đối ngoại, cần phải có nguồn lực tài chính. Từ năm

2011 đến 2015, bình quân mỗi năm ngân sách nhà nước (NSNN) đã chi ra 6,5 tỷ

đồng cho hoạt động đối ngoại của Kiên Giang. Tuy nhiên, theo cảm nhận của bản

thân, việc quản lý NSNN cho hoạt động đối ngoại vẫn còn nhiều bất cập về cơ chế,

2

chính sách. Cụ thể, năm 2015 NSNN đã phân bổ cho kinh phí đối ngoại bình quân

năm là 6 đến 7 tỷ đồng cho đoàn ra và đoàn vào, phục vụ nhu cầu đi xúc tiến

thương mại, đầu tư và du lịch, học tập kinh nghiệm, riêng tập huấn ngắn hạn ở nước

ngoài gần 3 tỷ đồng nhưng hiệu quả mang lại không cao, không áp dụng được vào

thực tiễn địa phương gây lãng phí nguồn NSNN. Việc quản lý các nguồn viện trợ từ

các Tổ chức phi chính phủ nước ngoài vào các dự án các địa phương trong tỉnh

chưa hiệu quả. Nhiều trường hợp phải chi ra hàng tỷ đồng cho công tác bảo hộ công

dân đánh cá vi phạm đánh bắt trái phép trên vùng biển của nước lân cận. Xuất phát

từ thực tiễn đó, tôi chọn đề tài: “Quản lý kinh phí Ngân sách nhà nước cho hoạt

động đối ngoại: trường hợp tỉnh Kiên Giang”, làm luận văn tốt nghiệp thạc sĩ

chuyên ngành quản lý kinh tế của mình.

2. Mục tiêu thực hiện đề tài

Đánh giá ưu nhược điểm của công tác quản lý kinh phí ngân sách nhà nước

cho hoạt động đối ngoại của tỉnh Kiên Giang trong thời gian qua; tìm hiểu nguyên

nhân của những ưu nhược điểm đó.

Đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện quản lý kinh phí ngân sách nhà

nước cho hoạt động đối ngoại của chính quyền tỉnh Kiên Giang trong thời gian tới.

3. Câu hỏi cần trả lời

Công tác quản lý kinh phí NSNN cho hoạt động đối ngoại tỉnh Kiên Giang giai

đoạn 2011-2015 có những ưu, nhược điểm nào?

Giải pháp nào có thể giúp hoàn thiện công tác quản lý kinh phí ngân sách nhà

nước cho hoạt động đối ngoại của chính quyền tỉnh Kiên Giang trong thời gian tới

(giai đoạn 2016-2020)?

4. Phạm vi thu thập dữ liệu, đối tượng xem xét và phương pháp tiếp cận

4.1. Phạm vi thu thập dữ liệu

Thời gian: Từ năm 2011 đến 2015

Không gian: Nghiên cứu trong phạm vi tỉnh Kiên Giang.

3

4.2. Đối tượng xem xét và phương pháp tiếp cận

Đối tượng xem xét: Thực trạng công tác quản lý nguồn kinh phí NSNN cấp

cho hoạt động đối ngoại của tỉnh Kiên Giang.

Phương pháp tiếp cận: Phỏng vấn sâu một số cán bộ công chức và chuyên viên

liên quan đến quản lý và sử dụng kinh phí NSNN cho hoạt động đối ngoại của tỉnh

để tìm hiểu chi tiết về quy trình quản lý, phương thức quản lý, quan điểm đánh giá

về ưu nhược điểm và nguyên nhân dẫn đến những ưu nhược điểm trong công tác

quản lý kinh phí NSNN cho hoạt động ngoại giao của tỉnh Kiên Giang.

Đối chiếu kết quả phỏng vấn với lý thuyết quản lý ngân sách theo đầu ra và kết

quả để đánh giá và đưa ra kết luận về ưu nhược điểm của công tác quản lý kinh phí

NSNN đối ngoại của tỉnh Kiên Giang.

Trong quá trình đánh giá, số liệu thống kê, số liệu trong các báo cáo quyết toán

thu, chi NSNN cho hoạt động đối ngoại của Sở Ngoại vụ, Sở Tài chính, Ủy ban

nhân dân (UBND) tỉnh Kiên Giang, Quỹ Bảo hộ công dân và pháp nhân Việt Nam

ở nước ngoài – Bộ Ngoại giao và Bộ Tài chính được sử dụng phân tích để minh

chứng cho một số nhận định được đưa ra trong đề tài.

Phương pháp thu thập số liệu, tài liệu: khảo sát hệ thống quản lý ngân sách và

hệ thống cơ sở dữ liệu về dự toán và tình hình thực hiện chi NSNN cho hoạt động

đối ngoại tại tỉnh Kiên Giang. Kế thừa các báo cáo tổng kết về công tác đối ngoại và

chi NSNN cho hoạt động đối ngoại của tỉnh Kiên Giang.

Phương pháp xử lý, phân tích số liệu, tài liệu: Phương pháp thống kê mô tả

được sử dụng để tổng hợp và phân tích số liệu ban đầu bằng cách tính toán các chỉ

tiêu thống kê thể hiện các chỉ số đặc trưng của hệ thống dữ liệu liên quan đến công

tác quản lý chi NSNN cho hoạt động đối ngoại của tỉnh Kiên Giang. Ngoài ra, luận

văn còn sử dụng phương pháp thống kê phân tích để tính toán các chỉ tiêu thể hiện

sự biến động theo thời gian của các trị số quan sát để làm rõ tầm quan trọng, xu thế

biến động của từng chỉ tiêu nghiên cứu.

Công cụ xử lý và phân tích dữ liệu: Số liệu được xử lý bằng phần mềm Excel.

4

5. Ý nghĩa thực tiễn của luận văn

Về mặt thực tiễn: Luận văn phân tích rõ thực trạng công tác quản lý kinh phí

đối ngoại tại tỉnh Kiên Giang, cũng như công tác chỉ đạo, điều hành của UBND tỉnh

trong thời gian qua, đánh giá thực trạng và chỉ ra nguyên nhân của những điểm

mạnh và những điểm còn hạn chế. Từ đó đề ra các giải pháp để tăng cường công tác

quản lý việc sử dụng nguồn kinh phí đối ngoại của tỉnh trong thời gian tới.

6. Bố cục của luận văn

Ngoài các trang bìa, mục lục, danh mục các bảng số liệu, các từ viết tắt và các

đồ thị, phần mở đầu và kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn

được chia thành 5 chương như sau:

Chương 1: Giới thiệu vấn đề

Chương 2: Cơ sở lý luận và pháp lý của quản lý kinh phí ngân sách nhà nước

cho hoạt động đối ngoại

Chương 3 Khung phân tích

Chương 4: Phân tích thực trạng quản lý kinh phí ngân sách nhà nước cho hoạt

động đối ngoại tại Kiên Giang

Chương 5: Kết luận

5

CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ CỦA QUẢN LÝ KINH

PHÍ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC CHO HOẠT ĐỘNG ĐỐI NGOẠI

2.1. Các khái niệm liên quan

2.1.1 Ngân sách nhà nước

Cụm từ “ngân sách” có nguồn gốc xuất xứ từ các nước phương Tây (Tây Âu

và Bắc Mỹ) trong thời kỳ công nghiệp hóa vào thế kỷ 18 và 19. Thuật ngữ “ngân

sách: bouge, bougette có nguồn gốc từ một tiếng Pháp cổ, sau đó được đọc là

“budget” trong tiếng Anh, với nghĩa là chiếc túi của nhà vua chứa những khoản tiền

để dùng cho những khoản chi tiêu công cộng. Lúc bấy giờ, những khoản chi tiêu

cho mục đích công cộng, phục vụ dân sinh và các khoản chi tiêu phục vụ hoàng gia

được sử dụng chung nguồn ngân sách này và không có sự phân biệt rõ ràng. Từ khi

Nhà nước ra đời, nền kinh tế hàng hóa phát triển, giai cấp tư sản đã yêu cầu cần

phải có tách biệt rõ ràng các khoản chi tiêu phục vụ hoạt động của nhà nước và các

khoản chi tiêu của cá nhân trong bộ máy nhà nước từ nguồn ngân sách chung. Từ

đó thuật ngữ “Ngân sách nhà nước (NSNN)” được hình thành và sử dụng rộng rãi ở

nhiều quốc gia. Đầu thế kỷ 20, cụm từ “budget” được du nhập vào nước ta và được

giới trí thức người Việt tây học đương thời dịch là “ngân sách” (viết theo lối chữ

Nho của Triều đình nhà Nguyễn khi đó được hiểu là dự kiến thu chi quỹ bằng tiền.

Cho đến nay, có rất nhiều quan niệm về NSNN do các cách tiếp cận khác nhau của

nhiều tác giả. Trong thực tiễn, khái niệm ngân sách thường để chỉ tổng số thu và chi

của một đơn vị trong một thời gian nhất định. Một bảng tính toán các chi phí để

thực hiện một kế hoạch, hoặc một chương trình cho một mục đích nhất định củamột

chủ thể nào đó. Nếu chủ thể đó là Nhà nước thì được gọi là ngân sách Nhà nước.

Theo quan điểm của các nước hiện nay, “ngân sách” là một tài liệu tài chính

sử dụng để “dự toán” các khoản thu nhập và chi tiêu trong tương lai (A budget is a

financial document used to project future income and expenses1 của cá nhân, tổ

chức, doanh nghiệp, nhà nước. Trong đó:

1 Nguồn: https://www.e-conomic.co.uk/accountingsystem/glossary/budget)

6

(i) Ngân sách cá nhân là một “kế hoạch” (dự toán) tài chính mà phân bổ thu

nhập cá nhân trong tương lai đối với các chi phí, tiết kiệm và trả nợ.

(ii) Ngân sách của các tổ chức doanh nghiệp là một biểu thức định lượng của

một kế hoạch (dự toán) cho một thời gian xác định. Nó có thể bao gồm doanh số

bán hàng theo kế hoạch và các khoản thu, số lượng tài nguyên, chi phí và chi phí,

tài sản, công nợ và dòng tiền. Nó thể hiện các kế hoạch chiến lược của các đơn vị

kinh doanh, các tổ chức, các hoạt động hoặc các sự kiện trong một thời kỳ nhất

định.

(iii) Ngân sách Chính phủ (ngân sách nhà nước) là tài liệu Chính phủ trình

bày “dự toán” các khoản thu và chi tiêu của Chính phủ cho một năm tài chính,

thường được thông qua bởi cơ quan lập pháp. Ngân sách Chính phủ cũng được gọi

là báo cáo tài chính hàng năm của đất nước. Tài liệu này ước tính các khoản thu của

Chính phủ và chi tiêu chính phủ trong năm tài chính tiếp theo.

Trong thực tiễn, hoạt động NSNN là hoạt động tạo lập và sử dụng quỹ tiền tệ

của NN. Trong quá trình phân phối tổng sản phẩm XH, nguồn tài chính luôn vận

động giữa một bên là NN, một bên là các chủ thể KT-XH. Đằng sau các hoạt động

đó chứa đựng các mối quan hệ giữa NN với các chủ thể khác, thông qua việc tạo

lập, sử dụng quỹ tiền tệ tập trung của NN chuyển dịch của một bộ phận thu nhập

bằng tiền của các chủ thể đó thành thu nhập của NN và NN chuyển dịch thu nhập

đó đến các chủ thể được thụ hưởng để thực hiện các chức năng nhiệm vụ của NN.

2.1.2. Quản lý ngân sách nhà nước

Hệ thống NSNN Việt Nam được tổ chức và quản lý thống nhất theo nguyên

tắc thống nhất, tập trung và dân chủ. Cụ thể: Trong cùng một cấp ngân sách thì có

cùng nguồn thu, cùng định mức chi tiêu và cùng thực hiện một quá trình ngân sách.

Ngân sách trung ương giữ vai trò chủ đạo, tập trung các nguồn thu lớn và các nhiệm

vụ chi quan trọng, ngân sách cấp dưới chịu sự chi phối của ngân sách cấp trên và

được trợ cấp từ ngân sách cấp trên nhằm đảm bảo cân đối của ngân sách cấp mình.

Dự toán và quyết toán ngân sách phải được tổng hợp từ ngân sách cấp dưới, đồng

7

thời mỗi cấp chính quyền có một ngân sách và được quyền chi phối ngân sách cấp

mình.

Phân cấp quản lý ngân sách nhà nước được quy định tại khoản 16, điều 4, Luật

ngân sách số 83/QH13 năm 2015 như sau: Nhà nước trung ương phân giao nhiệm

vụ, quyền hạn, trách nhiệm nhất định cho chính quyền địa phương trong hoạt động

quản lý ngân sách gồm thẩm quyền ban hành các chế độ, chính sách; phân cấp về

nguồn thu và nhiệm vụ chi; trách nhiệm của các cấp trong chu trình ngân sách. Để

thực hiện mục tiêu chung về chính sách phát triển, đảm bảo công bằng và phát triển

cân đối giữa các vùng, các địa phương, ngân sách trung ương bổ sung cho ngân

sách địa phương trong những trường hợp có sự mất cân đối vùng miền hay thực

hiện mục tiêu của trung ương. Khoản bổ sung này là nguồn thu của ngân sách cấp

dưới. Trường hợp cơ quan cấp trên uỷ quyền cho cơ quan cấp dưới thực hiện nhiệm

vụ chi thuộc chức năng của mình, thì phải chuyển kinh phí từ ngân sách cấp trên

cho ngân sách cấp dưới để thực hiện nhiệm vụ đó. Ngoài việc bổ sung nguồn thu và

uỷ quyền thực hiện nhiệm vụ chi, không được dùng ngân sách cấp này để chi cho

nhiệm vụ của ngân sách cấp khác trừ trường hợp đặc biệt theo quy định của chính

phủ. Để việc phân cấp quản lý NSNN đạt hiệu quả, cần tuân thủ các nguyên tắc:

phù hợp với phân cấp quản lý kinh tế - xã hội, quốc phòng và an ninh của quốc gia

và năng lực quản lý của các cấp; đảm bảo vai trò chủ đạo của ngân sách trung ương

và tính độc lập của ngân sách địa phương trong hệ thống NSNN thống nhất, đồng

thời thực hiện nguyên tắc công bằng trong phân cấp NSNN.

Như khái niệm về ngân sách được trình bày trong luật Ngân sách nhà nước

2015, hình thức biểu hiện của NSNN xoay quanh một kế hoạch thu - chi của chính

phủ được Quốc hội phê chuẩn cho từng năm ngân sách và nội dung kinh tế của

NSNN phản ánh các quan hệ kinh tế phát sinh giữa nhà nước và các chủ thể khác

trong nền kinh tế thông qua quá trình tạo lập, phân phối, sử dụng quỹ tiền tệ tập

trung của Nhà nước khi Nhà nước tham gia phân phối các nguồn tài chính quốc gia

nhằm thực hiện các chức năng của Nhà nước trên cơ sở luật định.

8

2.1.3 Hoạt động đối ngoại:

Ngoại giao công trong thế kỷ XX được coi là một công cụ của nhà nước được

các bộ ngoại giao và các cơ quan chính phủ khác sử dụng để thuyết phục các công

dân nước ngoài nhằm gây ảnh hưởng đến chính phủ của họ. Ngày nay, ngoại giao

công cộng có nghĩa là một công cụ được sử dụng bởi các địa phương, các hiệp hội

các quốc gia và một số tổ chức phi chính phủ để hiểu các nền văn hoá, thái độ và

hành vi; xây dựng và quản lý mối quan hệ; và ảnh hưởng đến tư tưởng và vận động

các hành động để thúc đẩy lợi ích và giá trị của họ.

Thuật ngữ "ngoại giao công" là một công việc đa dạng. Nó đã xuất hiện

khoảng từ ít nhất là giữa thế kỷ XIX, và đạt đến đỉnh cao sau chiến tranh thế giới

thứ nhất như là một chỉ trích tự do về ngoại giao bí mật. Nó xuất hiện lại vào những

năm 1960 như là một phương tiện giải thích tuyên truyền Chiến tranh lạnh, và có

liên quan trong những năm 1980 với các hoạt động tuyên truyền của Reagan tại

Châu Mỹ Latinh. Kể từ khi chuyển sang thế kỷ 21, việc sử dụng thuật ngữ này đã

tăng lên theo cấp số nhân, và đó là những thuật ngữ gần đây nhất của thuật ngữ là

chủ đề của nghiên cứu này.

Sự nổi lên của ngoại giao công như là một thuật ngữ chủ yếu của học thuật

trong những thập niên cuối của thế kỷ XX đã bị thay thế bởi ý tưởng rằng trong thế

kỷ 21 đầu tiên là một ngoại giao công mới. Là một sự thay đổi mô hình chính trong

truyền thông chính trị quốc tế, về sự nhất trí mạnh mẽ. Theo các nhà khoa học và

các nhà quan sát trong lĩnh vực truyền thông của chính phủ, toàn cầu hóa và một

môi trường truyền thông mới đã thách thức các cấu trúc của các bộ trưởng bộ ngoại

giao truyền thống và các bộ ngoại giao không còn có thể tuyên bố là các đơn vị độc

chiếm hoặc chiếm ưu thế trong việc truyền đạt chính sách đối ngoại. Đường biên

cho các luồng thông tin có tính mềm dẽo hơn, và nhiều bên hơn tham gia vào các

vấn đề quốc tế và chính trị quốc tế. Ngoại giao ngày càng có trách nhiệm và bị ảnh

hưởng bởi các cuộc tranh luận công khai và các cuộc vận động hành lang nhóm sở

thích. Điều này đòi hỏi những cách thức mới để truyền đạt chính sách đối ngoại cho

9

một loạt các tổ chức quốc tế phi chính phủ và những cách thức mới để đánh giá ảnh

hưởng của những nỗ lực truyền thông này. (James Pamment, 2013).

Hoạt động đối ngoại, trong tiếng Anh có thuật ngữ Foreign Affairs: activities

of a nation in its relationships with other nations; international relation (hoạt động

đối ngoại: những hoạt động của một quốc gia trong mối quan hệ của nó với các

quốc gia khác; quan hệ quốc tế).

Theo từ điển tiếng Anh, foreign affairs: matters abroad that involve the

homeland, such as relations with another country (hoạt động đối ngoại: những vấn

đề mà một quốc gia tham gia vào, ví dụ quan hệ với một quốc gia khác).

Chính sách đối ngoại, là tổng thể những chiến lược, sách lược, chủ trương,

quyết định và những biện pháp do nhà nước hoạch định và thực thi trong quá trình

tham gia tích cực, có hiệu quả vào đời sống quốc tế trong từng thời kỳ lịch sử, vì lợi

ích quốc gia, phù hợp với xu thế phát triển của tình hình thế giới và pháp luật quốc

tế.

Từ các khái niệm trên, ta có thể hiểu: Hoạt động đối ngoại của chính quyền

cấp tỉnh, là việc chính quyền cấp tỉnh thực hiện nhiệm vụ đối ngoại ở địa phương

trên cơ sở các quy định của cơ quan nhà nước cấp trên và thực hiện nhiệm vụ quản

lý nhà nước về đối ngoại trên lãnh thổ, tức là sự kết hợp giữa quản lý ngành và quản

lý lãnh thổ trên địa bàn.

2.2. Lý thuyết về quản lý ngân sách nhà nước

2.2.1. Quản lý ngân sách theo hạn mục

Lập ngân sách theo hạn mục còn gọi là lập ngân sách theo đầu vào, là hướng

về việc xác định nguồn lực sử dụng bao nhiêu, nhân lực, hoạt động cho một chương

trình hay một bộ. Tổng số tiền được chi tiêu cho một chương trình hay vấn đề

thường là đo lường công việc thực hiện chính khi quản lý theo đầu vào. Thông tin

quản lý nội bộ của hệ thống đầu vào không biểu hiện nguồn lực gì đã mua trên thực

tế mà thường tập trung vào đầu vào liên quan đến những quy định, có nghĩa là liên

quan đến tiêu chuẩn, nguyên tắc mà đầu vào sắp xếp như thế nào, những vật được

10

làm ra sao (Kristensen, 2002). Hay nói cách khác, lập ngân sách theo hạn mục là

cách lập ngân sách dựa trên việc phân loại các khoản chi theo hạng mục. Các đơn vị

quản lý ngân sách và sử dụng ngân sách sẽ tiến hành lập danh sách các loại đầu vào

theo từng hạn mục và tính toán số tiền của từng hạn mục sau đó đưa vào dự toán

ngân sách cho đơn vị mình với mục tiêu hoàn thành nhiệm vụ của đơn vị hằng năm

hơn là hướng đến tính tiết kiệm, tính phù hợp trong quá trình quản lý ngân sách và

không hướng đến sự gắn kết giữa chính sách với ngân sách. Tuy nhiên, cách thức

lập ngân sách theo đầu vào này sẽ hữu ích đối với trường hợp ngân sách của quốc

gia eo hẹp, định mức chi tiêu thấp, phân bổ ngân sách mang tính bình quân và các

đơn vị sử dụng ngân sách luôn có xu hướng gia tăng chi tiêu hoặc họ sẽ lãng phí

hơn nếu họ được phép chi tiêu linh hoạt hơn từ ngân sách.

Trong hơn hai thập kỷ qua, các quốc gia OECD đã và đang chuyển dần từ

quản lý ngân sách định hướng đầu vào sang quản lý ngân sách định hướng đầu ra

(OECD, 2002). Trước năm 2000, Việt Nam cũng đã áp dụng lập ngân sách theo đầu

vào (theo hạn mục). Với cách thức này, các đơn vị sử dụng ngân sách sẽ lập dự toán

ngân sách theo từng hạn mục mà đơn vị mình sẽ sử dụng và chỉ được chi tiêu bằng

hoặc thấp hơn mức đã dự toán theo từng hạn mục. Không được chuyển ngân sách

thừa của hạn mục này cho hạn mục khác trong cùng một đơn vị. Chính điều này đã

gây ra hành vi cố gắng sử dụng hết khoản dự trù đã được duyệt mà không quan tâm

đến hiệu quả của chi tiêu ngân sách. Các lãnh đạo đơn vị sử dụng ngân sách có

khuynh hướng quan tâm đến việc làm sao để chi hết số tiền được cấp hơn là quan

tâm đến làm sao để quản lý tốt các hạn mục chi tiêu hay làm sao để chi tiêu một

cách hiệu quả nhất với nguồn ngân sách hạn hẹp được phép sử dụng (OECD, 2002).

Tóm lại, Quản lý và lập ngân sách tập trung vào đầu vào được định hướng

hướng tới việc có bao nhiêu nguồn lực, nhân viên, cơ sở vật chất cho một chương

trình. Số tiền chi tiêu cho một chương trình thường là thước đo hiệu suất chính khi

quản lý. Thông tin quản lý nội bộ của một hệ thống đầu vào không cho thấy nguồn

lực thực sự đã mua hoặc đã đạt được và thường là trọng tâm đầu vào đi kèm với quy

11

trình - tức là các tiêu chuẩn và quy tắc về cách thức đầu vào phải được sắp xếp, làm

thế nào nên được thực hiện.

2.2.2. Quản lý ngân sách theo chương trình

Lập ngân sách theo chương trình (NSTTT) được sử dụng đầu tiên ở Mỹ

(UNCDF, 2001). Cách thức lập ngân sách này khắc phục được hạn chế của quản lý

ngân sách theo hạn mục trong việc gắn kết giữa chính sách với ngân sách. Ngân

sách theo chương trình là một cách lập ngân sách trên cơ sở hiệu quả hoạt động và

các chương trình đã được xác định theo các mục tiêu chính sách của chính phủ

(Richard Allen & Daniel tommasi, 2001). Với cách lập ngân sách này, các khoản

chi tiêu được sắp xếp theo từng hoạt động hoặc chương trình, mục đích hoạt động

của mỗi chương trình được xác định và những chỉ số hiệu quả hoạt động được thiết

lập cho mỗi chương trình hoặc hoạt động. Cách lập này đã đóng góp vào việc đề

cập và phát triển cách thức phân tích kinh tế trong quản lý của Chính phủ (dựa trên

chỉ số hiệu quả hoạt động của mỗi chương trình được thiết lập) và phát triển cách

phân loại chi tiêu theo chức năng để đánh giá và xác định những nội dung cần ưu

tiên theo chính sách.

Tuy nhiên nhiều nghiên cứu đã chỉ ra những hạn chế của lập ngân sách theo

chương trình. Widavsky đã chỉ ra hai hạn chế lớn nhất thường gặp phải khi áp dụng

cách lập ngân sách này đó là (1) NSTTT gây xáo trộn sự hợp lý về kinh tế với sự

hợp lý mang tính tổ chức, tức là với cách này, chúng ta đã hy sinh những động cơ

có tính tổ chức cho những động cơ có tính kinh tế và hiệu quả; (2) NSTTT tập trung

tạo ra những chính sách lớn, tạo ra những lỗi lớn có thể khó mà khắc phục. NSTTT

không phù hợp trong việc phân bổ nguồn lực quan trọng vì chúng không đóng vai

trò quan trọng trong quá trình thảo luận ngân sách cũng như chúng không thể giám

sát việc sử dụng các nguồn tài trợ cho chương trình. Ngoài ra, NSTTT còn thiếu

vắng các bước để đánh giá và hoạch định chính sách, gắn kết chính sách với NS.

2.2.3. Quản lý ngân sách thực hiện

Ngân sách thực hiện là hiện thân của những mục đích và mục tiêu mà các quỹ

tài trợ đòi hỏi, chi phí của chương trình được đề nghị để đạt những mục tiêu đó và

12

dữ liệu số lượng nhằm đo lường công việc thực hiện và mức độ hoàn thành ở mỗi

chương trình (Aiden Rose, 2003). Hay Ngân sách thực hiện là hiện thân của ngân

sách theo chương trình và có chú ý đến việc đo lường kết quả thực hiện đối với

những mục tiêu chương trình hoàn thành trong tài liệu (UNO, 1965). Ngân sách

thực hiện là một dạng lập ngân sách thể hiện mục đích, mục tiêu của việc tài trợ yêu

cầu, chi phí cho chương trình và hoạt động liên quan để đạt được mục tiêu đó, các

yếu tố đầu ra được sản xuất hay dịch vụ được cung ứng dưới mỗi chương trình

(Richard Allen & Daniel tommasi, 2001).

Trong quá trình lập ngân sách thực hiện, người lập phải định lượng được toàn

bộ kết quả từ đầu vào đến đầu ra và những tác động của kết quả đạt được trong dài

hạn. Ví dụ, Trung tâm xúc tiến Thương mại, Đầu tư và Du lịch lập dự toán ngân

sách theo cách này, người lập dự toán cần định lượng được toàn bộ kết quả đầu vào

và đầu ra của các hoạt động cần sử dụng ngân sách, trong đó đầu ra là những doanh

nghiệp đã được kết nối thành công với đối tác nước ngoài và kết quả đạt được trong

dài hạn là những hợp đồng xuất nhập khẩu được ký kết từ hoạt động xúc tiến.

Về ưu điểm, chúng giúp sử dụng linh hoạt hơn các nguồn tài chính đồng thời

giúp nâng cao trách nhiệm giải trình của đơn vị sử dụng ngân sách dựa trên kết quả

hoạt động có được. Nếu như lập ngân sách theo hạn mục hay lập ngân sách theo

chương trình quan tâm nhiều đến danh mục chi tiết thì lập ngân sách theo thực hiện

chú ý đến kết quả hoạt động trong việc cung cấp dịch vụ hành chính công, nhấn

mạnh mục tiêu chương trình và công tác đo lường (số liệu và kỹ thuật lập ngân sách

rất khắt khe), đánh giá, báo cáo kết quả công việc đã thực hiện bằng nguồn ngân

sách nhà nước. Ngoài ra, đơn vị sử dụng ngân sách sẽ linh hoạt và tự do hơn trong

quản lý khoản ngân sách được cấp cố định cho những hoạt động cung cấp dịch vụ

hành chính công của đơn vị mình.

Từ đầu những năm 1980s đã có nhiều nước trên thế giới áp dụng cách thức lập

ngân sách thực hiện này nhưng kết quả thì không như mong muốn, vì những lý do

liên quan đến nền tảng hỗ trợ như hệ thống kiểm toán, văn hóa quản lý theo kết quả,

độ tin cậy của số liệu (Alan Schick, 2001). Những nền tảng này vẫn còn hạn chế tại

13

các nước đang phát triển. Trong thực tế tại Kiên Giang, nhiều đơn vị gặp khó khăn

về số liệu và kỹ thuật đo lường kết quả đầu vào cũng như kết quả đầu ra. Ví dụ như

trong hoạt động xúc tiến thương mại, kết quả đầu vào và đầu ra khó có thể đo lường

được vì chúng không thể hiện ngay bằng những con số như doanh thu hay số hợp

đồng đã ký, đồng thời kết quả thu được sau khi chi ngân sách có thể diễn ra trong

tương lai và khi đó khó xác định được kết quả đó là do ngân sách hỗ trợ hay do

chính sự nỗ lực của các doanh nghiệp được hỗ trợ từ hoạt động xúc tiến trước đó.

2.2.4. Quản lý ngân sách theo đầu ra

Lập ngân sách theo kết quả đầu ra là phương thức soạn lập ngân sách dựa

vào cơ sở tiếp cận những thông tin đầu ra để phân bổ và đánh giá sử dụng nguồn

lực tài chính nhằm hướng vào việc đạt được những mục tiêu chiến lược phát triển

(Sử Đình Thành, 2017).

Quy trình lập ngân sách theo đầu ra được mô tả như sau: (Xem hình 2.1)

Sự thích hợp

Kết quả thực tế

Chi phí thực tế Các mục tiêu chiến lược kinh tế xã hội Hiệu lực

Đầu ra

Hiệu quả

Đầu vào

Kết quả theo kế hoạch Chi phí

Hình 2.1. Quy trình lập ngân sách theo đầu ra

14

Quản lý ngân sách theo đầu ra được hình thành với một số đặc điểm mang tính

thực tiễn sau: Thứ nhất, cần có một cách lập ngân sách phù hợp để tránh những hạn

chế từ cách lập ngân sách theo chương trình hay lập ngân sách thực hiện. Thứ hai,

tình hình suy thoái kinh tế và đòi hỏi của dân chúng về một dịch vụ công chất

lượng, hiệu quả. Quản lý và lập ngân sách theo đầu ra mô tả những chức năng khu

vực công trong cung ứng hàng hóa và dịch vụ và tính toán bao nhiêu dịch vụ đang

được cung cấp và sản phẩm đang được sản xuất. Tập trung vào đầu ra, chủ yếu

hướng đến các chỉ số như là khối lượng và tính kịp thời, và đến một mức độ khác

nhau, chất lượng (Aiden Rose, 2003). Lập ngân sách theo đầu ra ít tập trung vào

kiểm soát chi phí và quan tâm đến việc xem xét chương trình có mang tính hiệu

quả-chi phí không, công dân sẽ nhận được gì với sự hỗ trợ của NSNN quan trọng

hơn là chi phí cho mỗi chương trình (Anwar Shah, 2007).

Ngân sách đầu ra không chú ý đến từng hạng mục và tìm cách loại bỏ những

hạng mục này bằng cách đưa ra số tiền trọn gói. Ngân sách đầu ra nhấn mạnh quản

lý chương trình hơn là quản lý đơn vị hành chính như là các phòng ban trong một

đơn vị. Quá trình lập ngân sách theo đầu ra dựa trên nhu cầu người thụ hưởng để

xây dựng và hướng đến hiệu suất, tính kịp thời và hiệu quả trong giới hạn nguồn lực

cho trước trọn gói. Như vậy, để đo lường kết quả hoạt động của đơn vị theo đầu ra,

ta phải đề cập đến 4 yếu tố sau: Số lượng; chất lượng, tính kịp thời và chi phí. Với 4

yếu tố này được đảm bảo thì kết quả này sẽ giúp người dân giám sát được hoạt động

sử dụng ngân sách của chính quyền có chất lượng không.

Công tác dự báo nhu cầu xã hội sẽ là nền tảng của quá trình hoạch định ngân

sách vì nếu dự báo chính xác thì với nguồn ngân sách sẵn có, chúng ta sẽ xác định

những ưu tiên chính sách, chủ động lựa chọn chương trình, hoạt động cung cấp

hàng hóa và dịch vụ theo hướng hoạt động. Ngoài ra, chúng ta hoàn toàn chủ động

trong việc loại bỏ những hoạt động hay chương trình không phù hợp căn cứ trên 4

yếu tố về chất lượng, kịp thời, hiệu suất và hiệu quả.

Quy trình chiến lược lập ngân sách theo đầu ra (Xem hình 2.2)

15

(5) (6) (7) Quy trình Đầu ra (hàng hóa và dịch vụ) Kết quả tác động đến xã hội Đầu vào (Tiền lương, Công cụ, hàng hóa)

(4)

(3) (1) (2) Các yếu tố đầu vào là gì Đầu ra là cái gì Kết quả mong muốn là gì ? Tổ chức quá trình hoạt động như thế nào

Hình 2.2. Quy trình chiến lược lập ngân sách theo đầu ra

Nguồn: Sử Đình Thành

Quy trình này được bắt đầu với việc hình dung kết quả mong muốn của việc

chi ngân sách và để đạt được kết quả đó thì sản phẩm đầu ra cụ thể là cái gì và phải

đo lường được. Kế tiếp cần những hoạt động gì, chương trình gì và vận hành như

thế nào nhằm đạt được đầu ra. Để vận hành các chương trình này thì cần những yếu

tố đầu vào nào, bao nhiêu và nguồn nhân lực như thế nào. Thông thường sẽ phản

ánh qua tiền lương nhân viên, chi phí cho công cụ, thiết bị và hàng hóa cần thiết cho

việc vận hành một chương trình. Đến đây thì mọi việc sẽ được thực hiện theo quy

trình theo từng chương trình cụ thể để cung ứng dịch vụ hành chính công cho người

dân hoặc hàng hóa. Sau cùng, quá trình đo lường kết quả sẽ được thực hiện nhằm

đánh giá hiệu quả hoạt động của chương trình làm cơ sở cho những chương trình

sau đó.

2.2.4.1. Đặc điểm của phương thức lập ngân sách theo đầu ra

- Ngân sách lập theo thời gian trung hạn.

- Ngân sách được lập dựa vào nhu cầu, hướng tới khách hàng .

- Hợp nhất giữa kế hoạch chi thường xuyên và kế hoạch chi đầu tư.

- Phải có cam kết chặt chẽ.

- Phân bổ ngân sách dựa theo thứ tự ưu tiên chiến lược.

16

2.2.4.2. Mục đích của quản lý ngân sách theo đầu ra

Tăng cường quản lý, tập trung nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan

nhà nước ở trung ương và địa phương. Đặt ra những mục tiêu rõ ràng, cụ thể, tạo

điều kiện cho các cơ quan ở khu vực đạt được mục tiêu của mình thông qua khung

kế hoạch, quản lý và hoạt động rõ ràng; Gắn các yếu tố đầu vào thuộc nguồn lực tài

chính và các nguồn lực khác với kết quả đầu ra dự kiến để đạt được mục tiêu và

giúp cho việc phân bổ nguồn lực thể hiện được những ưu tiên; Tập trung vào kết

quả đầu ra chính và các ưu tiên chính hơn là thực hiện các hoạt động hoặc quy trình.

2.2.4.3. Ý nghĩa của quản lý ngân sách theo đầu ra

Góp phần đổi mới chính sách quản lý nguồn lực tài chính trong khu vực công,

nhằm thiết lập ba vấn đề trong quản lý chi tiêu công là: tôn trọng kỷ luật tài chính

tổng thể; phân bổ có hiệu quả nguồn lực tài chính theo những chiến lược ưu tiên;

nâng cao hiệu quả trong quản lý chi tiêu công;

Đặt Nhà nước vào vị trí để đảm bảo rằng, các đầu ra theo yêu cầu để được tài

trợ phải xác định rõ ràng sẽ đóng góp gì; các đầu ra theo yêu cầu để được tài trợ

phải xác định rõ khối lượng, chất lượng và giá cả cụ thể; các đầu ra hướng tới mục

tiêu và được cung cấp trong phạm vi thời gian yêu cầu;

Tăng cường các nguyên tắc quản lý tài chính của khu vực công với mục tiêu là

cải thiện sự phân phối và quản lý nguồn lực, cũng như tăng cường tính minh bạch

và trách nhiệm giải trình của Nhà nước;

Cho phép nhà quản lý ngân sách có được những thông tin hữu ích nhằm xác

định những kết quả mong muốn; những gì nên làm và những gì sẽ được làm ra;

kiểm tra được sự liên quan giữa đầu vào và đầu ra của quá trình chi tiêu công; xác

định nguồn lực tài trợ cho các đầu ra ưu tiên để đạt được kết quả mong muốn.

Tóm lại, trọng tâm đầu ra chủ yếu tập trung vào các chỉ số như khối lượng và

thời gian, và ở một mức độ khác nhau, chất lượng. Mức độ kiểm soát trực tiếp của

người quản lý đối với đầu ra thấp hơn mức đầu vào, nhưng nó vẫn thường là đáng

kể.

17

2.2.5. Quản lý ngân sách theo kết quả

Trong hai thập kỷ qua, trọng tâm của việc quản lý ngân sách đã thay đổi từ đầu

vào sang đầu ra. Mặc dù các yếu tố quan trọng của cách tiếp cận quản lý dựa vào

đầu vào vẫn còn tồn tại ở nhiều nước, nhiều nhà quản lý ngân sách nhà nước hiện

nay thường xuyên bị đánh giá bởi các chương trình của họ hoạt động như thế nào,

thay vì bằng cách họ tuân thủ các quy trình và thủ tục hành chính hoặc thành công

trong việc tìm kiếm nguồn lực cho chương trình của họ. Nhiều nhà nghiên cứu nhận

định rằng việc thay đổi này đã nâng cao hiệu quả sử dụng ngân sách và hướng đến

hiệu quả của chương trình hành động của địa phương. Tuy nhiên, họ cũng cho rằng,

quản lý ngân sách theo đầu ra vẫn tồn tại một số hạn chế như sau: (1) Việc nhấn

mạnh vào các biện pháp định lượng có thể bóp méo sự chú ý của các cơ quan cung

cấp dịch vụ, với các cơ quan mất tầm nhìn về tác động của chương trình đối với xã

hội; (2) Các nhà chính trị và công chúng có khuynh hướng suy nghĩ về kết quả và

không phải là đầu ra. Một sự không phù hợp về trách nhiệm có thể nảy sinh giữa

các chính trị gia suy nghĩ về kết quả và các nhà quản lý cơ quan quản lý theo đầu ra;

(3) Các kết quả thường không tạo ra mối liên kết chặt chẽ giữa các chính sách của

chính phủ (có thể được hiểu là kết quả) và việc thực hiện và (4) thông tin ít được

thu thập hoặc được "học hỏi" bởi chính phủ để sử dụng trong việc xây dựng chính

sách hoặc kiểm tra những chương trình nào đang thực sự đạt được (OECD, 2002)

Quản lý ngân sách theo kết quả đã được đề xuất ứng dụng vào thực tế từ

những năm 1990 để khắc phục những hạn chế của quản lý ngân sách theo đầu ra.

Một số nhà nghiên cứu trên thế giới đã đề xuất kết hợp quản lý ngân sách theo đầu

ra với quản lý ngân sách theo kết quả để hình thành một cách thức quản lý mới hiệu

quả hơn với tên là Quản lý ngân sách theo kết quả đầu ra.Tại các nước phát triển và

một số nước đang phát triển đã triển khai quản lý ngân sách theo kết quả trong thời

gian qua. Mục tiêu chung của quản lý ngân sách theo kết quả là bảo đảm mọi nỗ lực

của cá nhân, bộ phận, tổ chức và các quá trình đều hướng tới đạt những kết quả

mong đợi, nâng cao hiệu lực, hiệu quả, công bằng, công khai, minh bạch và trách

nhiệm giải trình trong hoạt động của các tổ chức.

18

Quy trình quản lý ngân sách theo kết quả được áp dụng ở những phạm vi khác

nhau (cá nhân, bộ phận, đơn vị, tổ chức, quá trình, chương trình, dự án) và ở các

cấp độ kết quả khác nhau (đầu ra, kết quả đầu ra, tác động). Chính vì vậy, một số

thuật ngữ thường dùng tương đồng với quản lý ngân sách theo kết quả là quản lý kết

quả thực thi (Performance Management) hay quản lý theo kết quả thực thi

(Performance Based Management) hay quản lý kết quả đầu ra (Outcome

Management) hay quản lý theo kết quả đầu ra (Outcome Based Management), quản

lý định hướng kết quả (Results-Oriented Management) hay quản lý theo kết quả

(Results-Based Management).

2.3 Khung pháp lý của Việt Nam về quản lý kinh phí NSNN

Tài chính trong cơ quan nhà nước được hiểu là những hoạt động thu và chi

bằng tiền của các cơ quan nhà nước để đảm bảm hoạt động thường xuyên của các

cơ quan nhà nước, đồng thời để thực hiện các nhiệm vụ mà nhà nước giao phó.

Nguồn tài chính phục vụ cho hoạt động của các cơ quan hành chính nhà

nước có thể là do ngân sách nhà nước cấp toàn bộ hoặc cấp một phần. Để duy trì

các hoạt động cho sự tồn tại và phát triển của các cơ quan hành chính nhà nước đòi

hỏi phải có các nguồn tài chính đảm bảo. Trong khi đó, hoạt động của các cơ quan

đơn vị này nhằm mục đích phục vụ lợi ích công cho xã hội, không đòi hỏi người

nhận dịch vụ, hàng hóa do tổ chức công cung cấp phải trả tiền. Do đó NSNN phải

cấp phát để duy trì hoạt động của các tổ chức công. Hiện nay, tổ chức công được

phép thu một số khoản phí, lệ phí và các khoản thu khác theo Luật pháp quy định

nhằm bổ sung nguồn kinh phí hoạt động, nhưng xét về tổng thể thì nguồn kinh phí

hoạt động chủ yếu do nhà nước cấp.

2.3.1 Khung pháp lý chung về quản lý kinh phí NSNN

Quản lý tài chính trong các cơ quan hành chính nhà nước là quá trình áp dụng

các công cụ và phương pháp quản lý nhằm tạo lập và sử dụng các quỹ tài chính

trong cơ quan hành chính nhà nước để đạt được mục tiêu đã định.

19

Đối tượng quản lý tài chính trong cơ quan hành chính nhà nước là hoạt động

tài chính của các đơn vị này. Để quản lý tài chính trong các cơ quan đơn vị này, nhà

nước đã sử dụng nhiều phương pháp cũng như nhiều công cụ quản lý khác nhau

nhưng mục đích hướng đến cũng là tính hiệu quả trong hoạt động tài chính để nhằm

đạt được mục tiêu kế hoạch đề ra.

Phân cấp quản lý: Về cơ bản Nhà nước Trung ương vẫn giữ vai trò quyết định

các loại thu như thuế, phí, lệ phí, vay nợ và các chế độ, tiêu chuẩn, định mức chi

tiêu thực hiện thống nhất trong cả nước. Ngoài các chế độ, tiêu chuẩn, định mức chi

tiêu do Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Tài chính ban hành, đối với

một số nhiệm vụ chi có tính chất đặc thù ở địa phương, HĐND cấp tỉnh được quyết

định chế độ chi ngân sách, phù hợp với đặc điểm thực tế ở địa phương. Riêng

những chế độ chi có tính chất tiền lương, tiền công, phụ cấp, trước khi quyết định

phải có ý kiến của các Bộ quản lý ngành, lĩnh vực.

UBND cấp tỉnh báo cáo Bộ Tài chính việc ban hành các chế độ chi ngân sách

ở địa phương để tổng hợp và giám sát việc thực hiện;

HĐND cấp tỉnh quyết định một số chế độ thu phí gắn với quản lý đất đai, tài

nguyên thiên nhiên, gắn với chức năng quản lý hành chính nhà nước của chính

quyền địa phương và các khoản đóng góp của nhân dân theo quy định của pháp

luật.

2.3.2. Khung pháp lý của Việt Nam về quản lý kinh phí NSNN cho hoạt

động đối ngoại

Việc quản lý và sử dụng ngân sách nhà nước cho hoạt động đối ngoại của Việt

Nam kể từ năm ngân sách 2017 trở đi sẽ áp dụng theo những quy định tại Nghị định

số 117/2017/NĐ-CP. Nghị định này quy định về nhiệm vụ thu, chi NSNN đối với

một số hoạt động đối ngoại; Lập dự toán, chấp hành, quyết toán và công khai ngân

sách đối với một số hoạt động đối ngoại theo quy định của Luật NSNN.

Thu trong hoạt động đối ngoại gồm: Phí, lệ phí trong hoạt động ngoại giao;

phí, lệ phí liên quan đến quyền và nghĩa vụ của công dân có yếu tố nước ngoài và

các khoản thu khác theo quy định của pháp luật.

20

Chi hoạt động đối ngoại gồm: Chi đầu tư phát triển, chi thường xuyên, chi viện

trợ và các khoản chi khác theo quy định của pháp luật.

Các khoản chi hoạt động đối ngoại được thực hiện theo quy định hiện hành và

phù hợp với tính chất, nội dung, đặc thù nhiệm vụ đối ngoại.

Ngoài ra, Nghị định quy định rõ các nội dung đặc thù trong công tác lập dự

toán, chấp hành dự toán, kế toán và quyết toán NSNN trong hoạt động đối ngoại.

Những quy định khác về lập, chấp hành, kế toán, quyết toán và công khai NSNN

của các cơ quan trung ương và các địa phương không quy định tại Nghị định này

thực hiện theo Nghị định của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của

Luật NSNN.

2.3.3. Mục tiêu của quản lý kinh phí ngân sách nhà nước cho hoạt động

đối ngoại:

Một là, bảo đảm việc thực hiện tốt nhất dự toán kinh phí ngân sách nhà nước

cho hoạt động đối ngoại của địa phương đã được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt

đầu năm dự toán.

Hai là, bảo đảm các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý và sử dụng kinh

phí ngân sách nhà nước cho hoạt động đối ngoại được thực thi một cách nghiêm

chỉnh trong thực tiễn đời sống kinh tế - xã hội.

Ba là, bảo đảm phát huy được vai trò tích cực của công tác đối ngoại tại địa

phương trong các hoạt động kinh tế - xã hội theo mục tiêu của Đảng và Nhà nước

đề ra.

Bốn là, làm rõ quyền và trách nhiệm của lãnh đạo quản lý đơn vị chuyên môn

được giao quyền sử dụng kinh phí ngân sách nhà nước cho hoạt động đối ngoại tại

địa phương; đồng thời gắn trách nhiệm và công tác giải trình từng khoản mục chi

ngân sách nhà nước của đơn vị trước cơ quan thẩm quyền và nhân dân, góp phần cải

cách hành chính, nâng cao hiệu quả quản lý và điều hành ngân sách.

21

Tóm tắt chương 2

Chương này đã tập trung làm sáng tỏ các vấn đề cơ sở lý luận chung đã được

hệ thống hóa các vấn đề cơ bản về quản lý NSNN, để làm cơ sở nghiên cứu tiếp các

nội dung liên quan đến đề tài “Quản lý kinh phí ngân sách nhà nước cho hoạt động

đối ngoai: Trường hợp tỉnh Kiên Giang”.

22

CHƯƠNG 3: KHUNG PHÂN TÍCH

Giới thiệu

Dựa trên lý thuyết về quản lý NSNN tại Chương 2, tác giả nhận thấy phần lý

thuyết về quản lý ngân sách theo kết quả đầu ra có nhiều ưu điểm nhất. Hiện nay,

xu hướng chung ở các nước OCED là việc kiểm soát chi phí và yếu tố đầu vào đang

được thay thế bằng các biện pháp kiểm soát đa năng hơn, trong đó hướng tới việc

quản lý theo kết quả đầu ra là biện pháp được quan tâm lựa chọn nhiều hơn để thực

hiện. Gắn với việc quản lý NSNN theo kết quả đầu ra đòi hỏi đơn vị sử dụng NSNN

phải lập kế hoạch chi tiêu trung hạn. Đây là bước phát triển chi tiết nhất, bổ sung và

cụ thể hóa khuôn khổ ngân sách trung hạn bằng các phương pháp lập ngân sách trên

cơ sở hoạt động và kết quả đầu ra, nhằm nâng cao hiệu quả chi tiêu công, bảo đảm

phù hợp kỷ luật tài chính tổng thể và ưu tiên chiến lược.

Tại Việt Nam phương pháp quản lý NSNN theo đầu ra kết quả đã được thực

hiện thí điểm từ năm 2009-2011 tại 06 Bộ và 03 địa phương bằng cách xây dựng kế

hoạch tài chính trung hạn và kế hoạch chi tiêu trung hạn. Báo cáo giai đoạn thí điểm

cho thấy tuy chỉ mới thí điểm ở diện hẹp, nhưng việc lập kế hoạch tài chính trung

hạn và kế hoạch chi tiêu trung hạn đã góp phần nâng cao chất lượng công tác dự

báo các chỉ tiêu kinh tế - xã hội và tài chính – NSNN trong trung hạn và hàng năm.

Nâng cao hiệu quả phân bổ, quản lý và sử dụng ngân sách. Đặc biệt, nhờ được lập

hàng năm cho thời hạn 3 năm theo phương pháp cuốn chiếu, nên kế hoạch tài chính

trung hạn phản ánh kịp thời xu hướng phát triển, khả năng nguồn lực của nền kinh

tế, tính hợp lý của trần chi tiêu ngân sách và tăng cường trách nhiệm giải trình của

các cơ quan đơn vị sử dụng ngân sách. Chính vì những ưu điểm trên, tác giả chọn

nghiên cứu quản lý kinh phí NSNN cho hoạt động đối ngoại tại tỉnh Kiên Giang

theo đầu ra và kết quả nhằm hoàn thiện việc sử dụng kinh phí phục vụ cho các hoạt

đông đối ngoại của tỉnh Kiên Giang, trong thời gian tới.

Xét về gốc độ lập dự toán NSNN theo khoản muc (truyền thống) hàng năm với

lập kế hoạch tài chính trung hạn, thì việc lập dự toán hàng năm có tính chính xác

23

cao so với lập kế hoạch tài chinh trung hạn do thòi gian dự báo ngắn, dễ làm, dễ

thực hiện nhưng lại thiếu tính linh hoạt, chủ động trước các biến cố lớn về kinh tế,

xã hội, môi trường...; không lường trước được các rủi ro sẽ xảy ra 3- 5 năm sau đó,

do đó không có giải pháp phù hợp để hạn chế bội chi, kiểm soát nợ công vào những

năm kinh tế phát triển thuận lợi, dành dư địa cho những năm khó khăn. Vì vậy, khi

sự phát triển của nền kinh tế có xu hướng giảm sút, nguồn thu NSNN gặp khó khăn

thì cả bội chi ngân sách và dư nợ công đều có xu hướng tăng mạnh, bội chi NSNN

trong một số năm qua đã có lúc vượt ngưỡng cho phép.

Hơn nữa, dự toán NSNN hàng năm có xu hướng tập trung vào các nhu cầu cụ

thể của từng năm, dẫn tới phân tán nguồn lực, chưa tập trung vào các ưu tiên chiến

lược trong trung dài hạn của nền kinh tế và tổng hợp nhu cầu của các năm thường

vượt khả năng cân đối nguồn lực trong cả giai đoạn. Nhiều nhiệm vụ chi kéo dài

trong một số năm, nhưng lập dự toán NSNN hàng năm không tính toán nhu cầu

ngân sách từ khi bắt đầu, đến khi kết thúc nhiệm vụ chi, do đó không đảm bảo được

việc bố trí kinh phí thực hiện nhiệm vụ, là một trong những nguyên nhân dẫn tới

việc kéo dài thời gian thực hiện, lãng phí, nợ đọng.

Từ những bất cập của việc lập kế hoạch tài chính hàng năm cho thấy việc lập

kế hoạch tài chính trung hạn, hướng đến lập dự toán ngân sách theo kết quả đầu ra

đưa ra một hướng tiếp cận tới công tác quản lý tài chính công và lập ngân sách,

nhằm giải quyết các hạn chế thường thấy trong ngân sách hàng năm, thông qua áp

dụng một phương án tiếp cận chiến lược hiện đại đưa ra các ưu tiên và phân bổ

nguồn lực giúp xác định các mức độ và thành phần chi tiêu công phù hợp với nhu

cầu mới.

3.1. Cách tiếp cận về lập ngân sách theo kết quả đầu ra.

Khái niệm quản lý ngân sách theo kết quả đầu ra như sau: Lập ngân sách theo

kết quả đầu ra là phương thức soạn lập ngân sách dựa vào cơ sở tiếp cận những

thông tin đầu ra để phân bổ và đánh giá sử dụng nguồn lực tài chính nhằm hướng

vào đạt được những mục tiêu chiến lược phát triển của chính phủ. Lập ngân sách

theo kết quả đầu ra (KQĐR) bao hàm một chiến lược tổng thể nhằm đạt được những

24

thay đổi quan trọng trong việc quản lý và đo lường công việc thực hiện của các cơ

quan nhà nước so với mục tiêu đề ra. Nó bao gồm nhiều công đoạn như: thiết lập

mục tiêu, lựa chọn các chỉ số và kết quả nhắm tới, giám sát công việc thực hiện,

phân tích và báo cáo những kết quả này so với mục tiêu đề ra.

Như vậy, lập ngân sách KQĐR yêu cầu các cơ quan nhà nước và chính phủ

phải thiết lập hệ thống thông tin quản lý liên quan đến phân bổ và sử dụng nguồn

lực tài chính như: các đầu ra, các đầu vào, chi phí tài trợ và mối quan hệ giữa các

đầu ra với các yếu tố đầu vào và những tác động (ảnh hưởng hay hiệu lực) của các

yếu tố này đến kết quả mong muốn của chính phủ và phù hợp với mục tiêu chính

sách.

3.2. Đặc trưng cơ bản của quản lý ngân sách theo kết quả đầu ra

Ngân sách lập theo tính chất “mở”- công khai, minh bạch; Các nguồn lực tài

chính của nhà nước được tổng hợp toàn bộ vào trong dự toán ngân sách; Ngân sách

được lập theo thời gian trung hạn; Ngân sách được lập dựa vào nhu cầu, hướng tới

khách hàng và mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội; Ngân sách hợp nhất giữa kế

hoạch chi thường xuyên và kế hoạch chi đầu tư; Ngân sách lập dựa trên cơ sở nguồn

lực không thay đổi trong trung hạn và do vậy, đòi hỏi phải có cam kết chặt chẽ;

Phân bổ ngân sách dựa theo thứ tự ưu tiên chiến lược; Phi tập trung hóa trong quản

lý ngân sách, người quản lý được trao quyền chủ động trong chi tiêu.

3.3. Vai trò của phương thức lập ngân sách theo kết quả đầu ra

Lập ngân sách theo kết quả đầu ra giúp quản lý hiệu quả hơn nguồn ngân sách

nhà nước dựa trên 3 nguyên tắc Tôn trọng kỷ luật tài chính, phân bổ có hiệu quả

nguồn lực tài chính theo mục tiêu ưu tiên. Giúp cơ quan quản lý ngân sách địa

phương đảm bảo lượng ngân sách cần thiết dựa vào kết quả; các đầu ra theo yêu cầu

được tài trợ ở những mức độ khối lượng, giá cả và chất lượng cụ thể; Các đầu ra

phải hướng đến mục tiêu và vì thế được cấp nguồn ngân sách trong khuôn khổ thời

gian yêu cầu chứ không dừng lại ở năm ngân sách; Giúp khu vực công tăng cường

25

các nguyên tắc quản lý tài chính hướng đến mục tiêu cải thiện sự phân phối và quản

lý nguồn lực, cung ứng hàng hóa công, tính minh bạch và trách nhiệm.

Bảng 3.1. So sánh giữa lập ngân sách theo kết quả đầu ra với lập ngân

sách theo khoản mục

Lập ngân sách theo kết quả đầu ra Lập ngân sách theo khoản mục

Ngân sách được đo lường trong giới hạn Ngân sách được đo lường trong giới

các loại hàng hóa công được cung cấp, tức hạn đầu vào, tức là ngân sách được

là ngân sách được quyết định bởi giá cả quyết định bằng tổng các yếu tố đầu

được thanh toán cho các đầu ra được cung vào được mua sắm.

ứng

Sử dụng ngân sách đầu vào rất linh hoạt Một khi ngân sách được thiết lập thì

để tạo ra các đầu ra với giá cả và chi phí không có sự thay đổi những nhân tố

hợp lý đầu vào

Phát triển khuôn khổ trung hạn. Ngân sách Tập trung vào vấn đề vĩ mô ngắn hạn,

được lập trên cơ sở kết hợp chặt chẽ giữa lập ngân sách ngắn hạn, có sự tách rời

chi thường xuyên và chi đầu tư trong một giữa chi thường xuyên và chi đầu tư

khuôn khổ chi tiêu trung hạn

Mối liên kết giữa chính sách, lập kế hoạch Mối liên kết giữa chính sách, lập kế

và ngân sách rất chặt chẽ hoạch và ngân sách rất yếu

Ngân sách được kiểm soát bằng khối Sự kiểm soát ngân sách thông qua

lượng thanh toán cho mỗi đầu ra phù hợp đánh giá các nhân tố đầu vào được

với kế hoạch phân bổ ngân sách đã được mua sắm trong giới hạn ngân sách

thông qua

Các cơ quan nhà nuớc quản lý ngân sách Người quản lý không có thông tin về

được cung cấp thông tin đầu ra và báo cáo kết quả đầu ra trong quá trình lập kế

kết quả thực tế đạt được. Chính phủ có hoạch ngân sách

được thông tin đầu ra của các đơn vị, cơ

quan và đánh giá kết quả mong muốn

26

Sự đánh giá dựa vào tính hiệu quả và hiệu Sự đánh giá chủ yếu dựa vào so sánh

lực của hàng hóa công được cung cấp và mức độ chi tiêu trong mỗi khoản mục

so sánh với mục tiêu chính sách đầu vào giữa kế hoạch với thực hiện

hoặc giữa năm này với năm khác.

Người quản lý được trao quyền tự chủ cao Quyền tự chủ của người quản lý trong

trong quản lý chi tiêu ngân sách quản lý chi tiêu ngân sách rất thấp

Mục tiêu chính sách

Kết quả mong đợi Lập kế hoạch chiến lược (trong giới hạn nguồn lực)

Quản lý chương trình

- Mô tả mục tiêu chương trình - Báo cáo các chỉ tiêu thực hiện then chốt của chương trình

đo lường chi phí và số lượng. - Liên kết đầu ra với kết quả mong

muốn

Lập ngân sách theo kết quả đầu ra của cơ quan nhà nước - Các đầu ra (chi tiết hóa, cụ thể hóa,

Khách hàng - Ảnh hưởng đến cộng đồng - Đánh giá hiệu quả - Phản hồi các đầu ra

chốt

- Quản lý việc thực hiện đầu ra - Báo cáo thực hiện các đầu ra then

Những hoạt động, công việc của các cơ quan đơn vị cung cấp dịch vụ hành chính công

Sơ đồ 3.1. Sơ đồ quy trình quản lý nguồn lực

theo lập ngân sách theo kết quả đầu ra

27

3.4. Phương pháp luận xác định các đầu ra

3.4.1. Xác định chi tiết các đầu ra

(1) Cách thức xác định: Đầu ra là hàng hóa do các đơn vị tạo ra cung cấp cho

bên ngoài sử dụng. Đầu ra là kết quả hoàn thành một chu kỳ sản xuất của đơn vị,

góp phần đạt được các mục tiêu chính sách của Chính phủ và có ý nghĩa quan trọng

trong việc đánh giá trách nhiệm của đơn vị. Việc xác định chi tiết đầu ra của đơn vị

cần phải gắn kết với cơ cấu quản lý của đơn vị để việc tổng hợp chi phí và các số

liệu hoạt động cho dễ dàng hơn. Hay nói cách khác, các đơn vị nên dựa vào cơ sở

nội bộ để xác định các đầu ra. Theo đó, tổng hợp các đầu ra thành các đầu ra chủ

yếu “cấp đơn vị” phục vụ cho mục đích phân bổ ngân sách. Để xác định chi tiết các

đầu ra của đơn vị, có thể xem xét hệ thống các câu hỏi sau đây: Các đầu ra có tính

quyết định luôn đi cùng với nhiệm vụ của đơn vị là gì? Các đầu ra có nên để cho

đơn vị này cung cấp hay không? Vấn đề cần thiết để các đầu ra đáp ứng mục tiêu

chính sách của nhà nước là gì? Kết quả cuối cùng của đầu ra là gì? Nếu như đơn vị

ngừng cung cấp đầu ra này, thì có ảnh hưởng gì đến các mục tiêu chính sách của

nhà nước? Ai là người chịu trách nhiệm chính trong việc cung cấp các đầu ra?

Bảng 3.2. Các tiêu chí xác định một đầu ra

Nội dung Tiêu chí

Tập trung cho Đầu ra là hàng hóa cung ứng cho khách hàng bên ngoài sử

hướng ngoại dụng.

Tập trung cho Biểu hiện sự liên kết giữa đầu ra với một hoặc nhiều kết quả

chiến lược mong muốn.

Sự rõ ràng – minh Thông tin đầu ra sẽ giúp cho người quản lý hiểu rõ cái gì

bạch đang mua và cái gì nhận được từ việc chi tiền dựa trên cơ sở

các câu hỏi sau:

- Số lượng của các đơn vị đầu ra được cung ứng.

- Chất lượng các đầu ra được cung ứng.

28

- Thời gian cung ứng.

- Chi phí cho một đầu ra.

Đo lường Đầu ra có thể thường xuyên được đo lường để người quản lý

có được thông tin cần thiết để phân tích đánh giá hiệu quả

các đầu ra.

Đo lường Đầu ra có thể thường xuyên được đo lường để người quản lý

có được thông tin cần thiết để phân tích đánh giá hiệu quả

các đầu ra.

So sánh So sánh với các hoạt động đang tiến hành để đánh giá tiềm

năng cung ứng các đầu ra.

(2) Tên đầu ra và các miêu tả: Mỗi đầu ra xác định là yếu tố cần thiết để đạt

được kết quả dự kiến, vì vậy nó phải biểu hiện cụ thể qua tên gọi và được mô tả rõ

ràng. Tên đầu ra nên được bắt đầu bằng danh từ hoặc cụm danh từ. Tên đầu ra phải

thể hiện định nghĩa: nó là gì, chứ không thể hiện theo chức năng “dùng làm gì”. Mô

tả một đầu ra nên mô tả các hàng hóa được cung ứng một cách ngắn gọn và súc tích.

(3) Đầu vào và đầu ra nội bộ: Đầu vào là các nguồn lực được sử dụng trong

quá trình tạo ra một đầu ra ngoại vi. Đầu ra được các đơn vị mô tả và đặt tên phải là

hàng hóa cuối cùng để cung cấp cho bên ngoài (ngoại vi). Đầu ra nội bộ là những

hàng hóa do một bộ phận trong đơn vị cung ứng cho các bộ phận khác trong cùng

một đơn vị nội bộ. Đầu ra nội bộ phải được xử lý và đưa vào tổng chi phí để phân

bổ chi phí cho các đầu ra ngoại vi của đơn vị

3.4.2. Đo lường đầu ra trong chi tiêu công

(1) Mục đích đo lường đầu ra: Yêu cầu cơ bản để thực hiện thành công chiến

lược quản lý ngân sách theo kết quả đầu ra là phải thiết lập đầy đủ các thước đo một

cách chính xác và thích hợp. Các thước đo phải đánh giá được sự cung ứng các đầu

ra theo những mục tiêu chiến lược cũng như mối liên kết từ đầu vào đến đầu ra và

đầu ra với kết quả. Xác định tốt các thước đo đầu ra sẽ giúp cho người quản lý và

Chính phủ: Đưa ra các quyết định phân bổ nguồn lực phù hợp với mục tiêu chiến

lược; Xác định đầy đủ chi phí cung ứng một đơn vị đầu ra; So sánh hoạt động của

29

đơn vị với các nhà cung cấp khác; Đánh giá các đầu ra được cung ứng; Cải tiến quá

trình cung cấp hàng hóa.

(2) Các thước đo đầu ra: Với tư cách là người mua các đầu ra của đơn vị,

Chính phủ yêu cầu đo lường các đầu ra theo các tiêu chí chất lượng, số lượng, thời

gian và chi phí.

Thước đo số lượng: Thước đo số lượng các đầu ra được biểu thị thông qua:

Bao nhiêu loại đầu ra được cung cấp. Lượng đầu ra được cung cấp là bao nhiêu.

Lượng đầu ra được cung cấp có thể được diễn tả bằng thời gian trung bình để các

nguồn lực sẵn có cung cấp một đầu ra nhất định. Mỗi đầu ra phải có một thước đo

số lượng riêng và cùng với các thước đo chất lượng, thời gian và chi phí thích hợp..

Thước đo chất lượng: Thước đo chất lượng của đầu ra phản ảnh tiêu chuẩn các

loại hàng hóa do các đơn vị cung cấp dựa vào nhu cầu xã hội. Các loại đầu ra khác

nhau thì sẽ có những tiêu thức chất lượng khác nhau. Những tiêu chí chất lượng

được sử dụng để đo lường công việc thực hiện phải bao quát đó là: Tính chính xác;

Tính hoàn chỉnh; Tính dễ tiếp cận; Tính kịp thời; Tuân thủ các chuẩn mực luật pháp

và chính sách của Chính phủ; Sự thỏa mãn nhu cầu của khách hàng. Tiêu chí cuối

cùng thường kết hợp với một vài tiêu chí còn lại để biểu thị mức độ mà khách hàng

hài lòng, chẳng hạn tính kịp thời trong việc cung cấp hàng hóa. Để đánh giá mức độ

hài lòng của công chúng có thể thông qua việc khảo sát thực tế thường xuyên hay

ngẫu nhiên.

Thước đo thời gian: Thước đo thời gian cung cấp các thông số về thời điểm, số

lần luân chuyển hoặc chu kỳ của đầu ra được cung cấp. Sự cung cấp đầu ra phải

thống nhất với thời gian đã được thỏa thuận. Thời gian là một phần của thước đo

chất lượng, nhưng do có tầm quan trọng đặc biệt nên nó được tách ra thành một chỉ

tiêu đánh giá độc lập. Các đơn vị cung cấp các đầu ra không đúng thời gian quy

định, bất kể chất lượng và số lượng ra sao, thì sẽ bị đánh giá kết quả không tốt từ

phía khách hàng và nhà nước.

Thước đo chi phí: Thước đo chi phí đầu ra phản ảnh toàn bộ chi phí thực tế

của đơn vị để tạo ra mỗi đơn vị đầu ra. Thước đo chi phí gồm tổng chi phí và chi

30

phí cho mỗi đơn vị hàng hóa. Để xác định đầy đủ chi phí đầu ra yêu cầu các đơn vị

phải tổng hợp chi phí cùng với xác định các tiêu thức để phân bổ chi phí cho mỗi

đầu ra. Thông tin chi phí có vai trò quan trọng trong việc tiến hành đánh giá so sánh

về kết quả hoạt động của đơn vị với các nhà cung cấp đầu ra tương tự

3.5. Những nhân tổ ảnh hưởng đến quản lý chi NSNN cho hoạt động đối

ngoại

3.5.1. Cơ chế quản lý

Hiện nay, Nhà nước quản lý kinh phí NSNN cho hoạt động đối ngoại bằng

hình thức lập dự toán ngân sách theo khoản mục, đúng quy định của Bộ Tài chính;

phải thể hiện đầy đủ theo từng khoản thu, chi bao gồm cả chi từ các khoản thu được

để lại chi theo chế độ; thuyết minh cơ sở, căn cứ tính toán từng khoản thu, chi. Đa

phần các dự toán đều dựa trên cơ sở hoạt động của năm trước, không có ý tưởng,

mục tiêu mới, mang lại hiệu quả không cao; các hoạt động phát sinh nằm ngoài dự

kiến, không thể thực hiện do chưa được cấp có thẩm quyền phê duyệt hoặc nếu thực

hiện cũng sẽ mất nhiều thời gian, thậm chí chậm tiến độ.

Đối với các khoản chi có nội dung bí mật nhà nước thực hiện theo quy định

của pháp luật hiện hành về bảo vệ bí mật nhà nước (khoản 1, điều 8, nghị định

117/2017/NĐ-CP của Chính phủ). Cơ chế quản lý, sử dụng ngân sách cho hoạt

động đối ngoại Nhà nước còn phân tán, được điều chỉnh bởi nhiều văn bản pháp

quy. Đồng thời, hoạt động đối ngoại không chỉ diễn ra ở trong nước mà còn triển

khai ở ngoài nước thông qua 98 cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài và các cơ

quan khác của Việt Nam ở nước ngoài thuộc các bộ, cơ quan Trung ương. Theo đó,

hoạt động đối ngoại không chỉ chịu sự điều chỉnh của pháp luật Việt Nam mà còn

phải tuân thủ các công ước quốc tế. Mặt khác, nhiều văn bản quy định về mức

khoán kinh phí cho hoạt động đối ngoại (đoàn ra, đoàn vào điển hình như Thông tư

số 102/2012/TT-BTC của Bộ Tài chính ngày 21 tháng 6 năm 2012 đã lỗi thời,

không còn phù hợp với tình hình thực tế. Vì vậy, trong quá trình triển khai thực hiện

nhiệm vụ đối ngoại tại địa phương còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc.

31

3.5.2. Tổ chức bộ máy và trình độ cán bộ quản lý

Để quản lý chi tiêu cho hoạt động đối ngoại được hiệu quả thì yếu tố năng lực

và trình độ của người lãnh đạo quản lý tại các cơ quan có liên quan đến hoạt động

đối ngoại của tỉnh đóng vai trò rất quan trọng trong việc dự toán ngân sách, triển

khai các hoạt động đối ngoại và đo lường hiệu quả từ hoạt động đối ngoại và đề

xuất giải pháp sử dụng hiệu quả nguồn ngân sách được cấp.

Trong đó năng lực của lãnh đạo gồm: Năng lực đề ra chiến lược trong hoạt

động ngân sách; đưa ra được các kế hoạch triển khai các công việc hợp lý, rõ ràng;

tạo nên một cơ cấu tổ chức hợp lý, có hiệu quả, có sự phân định rõ ràng trách nhiệm

và quyền hạn giữa các nhân viên, cũng như giữa các khâu, các bộ phận của bộ máy

quản lý chi ngân sách nhà nước ở địa phương. Nếu năng lực của người lãnh đạo

yếu, bộ máy tổ chức không hợp lý, các chiến lược không phù hợp với thực tế thì

việc quản lý chi ngân sách nhà nước sẽ không hiệu quả, dễ gây tình trạng chi vượt

quá thu, chi đầu tư giàn trải, phân bổ chi không hợp lý; có thể dẫn đến tình trạng

thất thoát, lãng phí ngân sách.

Năng lực chuyên môn của các bộ phận quản lý là yếu tố quyết định hiệu quả

chi ngân sách nhà nước trong hoạt động đối ngoại. Nếu cán bộ quản lý có năng lực

chuyên môn cao sẽ giảm thiểu được sai lệch trong cung cấp thông tin của đối tượng

sử dụng vốn ngân sách nhà nước, kiểm soát được toàn bộ nội dung chi, nguyên tắc

chi và tuân thủ theo các quy định về quản lý chi ngân sách nhà nước đảm bảo theo

dự toán đã đề ra.

Tổ chức bộ máy và quy trình quản lý, quyền hạn trách nhiệm của từng khâu,

từng bộ phận, mối quan hệ của từng bộ phận trong quá trình thực hiện từ lập, chấp

hành, quyết toán và kiểm toán chi ngân sách nhà nước có tác động rất lớn đến quản

lý chi ngân sách nhà nước trong đầu tư xây dựng cơ bản. Tổ chức bộ máy quản lý

phù hợp sẽ nâng cao chất lượng quản lý, hạn chế tình trạng sai phạm trong quản lý.

Quy trình quản lý được bố trí càng khoa học, rõ ràng thì càng góp phần quan trọng

làm nâng cao chất lượng của thông tin tới cấp ra quyết định quản lý chi ngân sách

nhà nước trong hoạt động đối ngoại, giảm các yếu tố sai lệch thông tin. Từ đó nâng

32

cao được hiệu quả quản lý chi ngân sách nhà nước trong đầu tư xây dựng cơ bản

trên địa bàn địa phương.

3.5.3. Nguồn thu ngân sách địa phương

Nguồn thu ngân sách địa phương ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động chi ngân

sách cho hoạt động đối ngoại. Thông thường ngân sách của một quốc gia ở chế độ

thâm hụt vì nguồn thu không đáp ứng được nhu cầu chi ngân sách vì mục tiêu của

đất nước. Ở địa phương thì khoản thâm hụt ngân sách sẽ được tài trợ bởi ngân sách

trung ương hoặc được đi vay ở nước ngoài hoặc phát hành trái phiếu. Tuy nhiên, để

đảm bảo cân đối ngân sách, hạn chế nợ, các hoạt động chi ngân sách cho địa

phương sẽ được cân đối và thường cắt bớt hằng năm để trả nợ. Chính điều này đã

gây ảnh hưởng đến hoạt động đối ngoại.

3.6. Hoạt động đối ngoại của chính quyền cấp tỉnh

3.6.1. Vai trò của hoạt động đối ngoại tại địa phương

Tại Hội nghị Ngoại vụ toàn quốc lần thứ 18 diễn ra ngày 21/8/2016 với chủ đề

“Nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại địa phương, phục vụ phát triển và hội nhập”,

đã nhấn mạnh vai trò quan trọng của các địa phương đóng góp cho công tác ngoại

giao và sự phát triển của đất nước.

Phối hợp với Cơ quan đại diện ngoại giao ta ở nước ngoài nhằm hỗ trợ tích

cực cho địa phương để nâng cao hiệu quả các hoạt động xúc tiến, đầu tư, quảng bá

du lịch, thương mại, dịch vụ,…đến các quốc gia trên thế giới; bám sát chiến lược

phát triển kinh tế - xã hội và các nhu cầu ưu tiên của địa phương.

3.6.2. Nội dung hoạt động đối ngoại của chính quyền cấp tỉnh

Trong giới hạn luận văn này, tác giả chọn nghiên cứu hoạt động đối ngoại

được thực hiện tại tỉnh Kiên Giang. Nội dung hoạt động đối ngoại của cấp tỉnh đã

được quy định tại Quyết định số 272/QĐ/TW ngày 21 tháng 01 năm 2015 của của

Bộ Chính trị khóa XI về việc ban hành Quy chế quản lý thống nhất các hoạt động

đối ngoại; Hướng dẫn số 01-HD/BĐNTWW ngày 30/6/2016 của Ban Đối ngoại

33

Trung ương về việc thực hiện Quy chế quản lý thống nhất các hoạt động đối ngoại

ban hành kèm theo Quyết định số 272, gồm các nhiệm vụ sau:

(1) Các hoạt động hợp tác, giao lưu với nước ngoài về chính trị, kinh tế văn

hoá, xã hội;

(2) Tổ chức và quản lý các đoàn đi công tác nước ngoài (đoàn ra) và đón tiếp

các đoàn nước ngoài vào thăm và làm việc với tỉnh;

(3) Tiếp nhận các hình thức khen thưởng của nhà nước và các tổ chức, cá nhân

nước ngoài tặng;

(4) Kiến nghị tặng, xét tặng các hình thức khen thưởng cấp Nhà nước, cấp tỉnh

cho những tập thể, cá nhân người nước ngoài đã và đang làm việc tại địa phương có

thành tích xuất sắc được địa phương công nhận;

(5) Tổ chức và quản lý hội nghị, hội thảo quốc tế;

(6) Ký kết và thực hiện thỏa thuận quốc tế;

(7) Hoạt động đối ngoại liên quan đến công tác biên giới lãnh thổ quốc gia;

(8) Quản lý hoạt động của các tổ chức, cá nhân nước ngoài ở địa phương;

(10) Công tác ngoại giao kinh tế, công tác quản lý, vận động viện trợ phi chính

phủ nước ngoài;

(11) Công tác văn hóa đối ngoại;

(12) Công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài;

(13) Thông tin tuyên truyền đối ngoại và quản lý hoạt động thông tin báo chí

của phóng viên nước ngoài tại địa phương;

(14) Theo dõi, tổng hợp thông tin về tình hình quốc tế và khu vực có tác động

đến địa phương;

3.6.3. Nhiệm vụ chi hoạt động đối ngoại của chính quyền cấp tỉnh

Hoạt động đối ngoại tại địa phương được tài trợ bởi hai nguồn chính là từ ngân

sách nhà nước và từ khoản tài trợ của đối tác bên ngoài. Trong đó, nguồn tại trợ từ

ngân sách địa phương là chủ yếu và được sử dụng để chi cho hoạt động thường

xuyên và chi đầu tư hằng năm. Nghị định số 117/2017/NĐ-CP của Chính phủ quy

định nhiệm vụ chi hoạt động đối ngoại của ngân sách địa phương.

34

3.6.4. Chủ thể quản lý chi ngân sách nhà nước nói chung và chi NSNN cho

hoạt động đối ngoại nói riêng của chính quyền cấp tỉnh

Luật đã quy định rõ về nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan, chính quyền Nhà

nước trong lĩnh vực quản lý ngân sách nhà nước. đặc biệt đối với HĐND và UBND

các cấp đã có sự đổi mới theo hướng tăng tính tự chủ, sáng tạo của địa phương

trong việc phát huy tiềm năng hiện có, bồi dưỡng và tăng thu cho ngân sách cấp

mình, từ đó chủ động bố trí chi tiêu hợp lý, có hiệu quả theo kế hoạch phát triển

kinh tế, xã hội của địa phương, phù hợp với quy hoạch tổng thể và chế độ thu, chi

thống nhất của Nhà nước. Điều này cơ bản cũng phù hợp với phương hướng đổi

mới chức năng, nhiệm vụ của HĐND và UBND được Quốc hội và Chính phủ đề ra

trong kỳ hội nghị HĐND và UBND toàn quốc.

3.6.5. Cơ sở pháp lý cho quản lý chi NSNN cho hoạt động đối ngoại

Luật ngân sách nhà nước số 83/2015/QH13, ngày 25/6/2015;

Nghị định số 136/2007/NĐ - CP ngày 17 tháng 08 năm 2007 về xuất cảnh,

nhập cảnh của công dân Việt Nam;

Quyết định số 272-QĐ/TW ngày 21 tháng 01 năm 2015 của Ban Chấp hành

Trung ương về việc ban hành Quy chế quản lý thống nhất các hoạt động đối ngoại;

Hướng dẫn số 01-HD/BĐNTWW ngày 30/6/2016 của Ban Đối ngoại Trung ương

về việc thực hiện Quy chế quản lý thống nhất các hoạt động đối ngoại ban hành

kèm theo Quyết định số 272;

Nghị định số 117/2017/NĐ-CP, ngày 19/10/2017 của Chính phủ quy định về

quản lý, sử dụng ngân sách nhà nước cho một số hoạt động đối ngoại;

Thông tư số 01/2010/TT-BTC ngày 06/01/2010 của Bộ Tài chính quy định chế

độ chi tiêu đón tiếp khách nước ngoài vào làm việc tại Việt Nam, chi tiêu tổ chức

hội nghị, hội thảo quốc tế tại Việt Nam và chi tiêu tiếp khách trong nước;

Thông tư số 102/2012/TT-BTC ngày 21/6/2012 của Bộ Tài chính quy định chế

độ công tác phí cho cán bộ, công chức nhà nước đi công tác ngắn hạn ở nước ngoài

do nhà nước đảm bảo kinh phí;

35

Thông tư Liên tịch số 02/2015/TTLT-BNG-BNV Ngày 28 tháng 6 năm 2015,

liên Bộ Ngoại giao và Bộ Nội vụ hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ

cấu tổ chức của Sở Ngoại vụ thuộc Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc

Trung ương.

Việc quản lý và sử dụng ngân sách nhà nước cho hoạt động đối ngoại của Việt

Nam kể từ năm ngân sách 2017 trở đi sẽ áp dụng theo những quy định tại Nghị định

số 117/2017/NĐ-CP.

3.6.6. Đặc điểm của quản lý kinh phí NSNN cho hoạt động đối ngoại

Trên cơ sở căn cứ mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội năm lập dự

toán, mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011-2015 của hoạt

động đối ngoại; căn cứ vào thực tế yêu cầu thực hiện các nhiệm vụ về kinh tế, chính

trị, xã hội tại địa phương để xây dựng kế hoạch năm của đơn vị. Việc xây dựng kế

hoạch cần bám sát kế hoạch, nhiệm vụ của Ngành trên cơ sở thống nhất và phù hợp

với các quy định của nhà nước, sau đó trình cấp có thẩm quyền phê duyệt (Ủy ban

nhân dân tỉnh phê duyệt kế hoạch hoạt động đối ngoại của địa phương cấp tỉnh).

Trên cơ sở kế hoạch được phê duyệt, các đơn vị xây dựng dự toán ngân sách

của Ngành, gắn với các nhiệm vụ, hoạt động trọng tâm của cơ quan, đơn vị; lập dự

toán NSNN theo đúng các quy định của pháp luật về chế độ, tiêu chuẩn, định mức

và trên tinh thần triệt để tiết kiệm, chống lãng phí. Dự toán ngân sách nhà nước phải

thuyết minh rõ ràng về cơ sở pháp lý, chi tiết số thu, nhiệm vụ chi. Tuy nhiên, công

tác đối ngoại là một lĩnh vực đòi hỏi tính linh hoạt, nhạy bén trong xử lý tình huống

và các vấn đề phát sinh, vì vậy khó có khả năng lập kế hoạch đầy đủ cho các hoạt

động của ngành trong năm tiếp theo. Điều này dẫn đến việc kinh phí hoạt động đối

ngoại hàng năm của tỉnh thường không đủ đáp ứng cho hoạt động thực tế, do hiện

nay địa phương đang thực hiện việc quản lý kinh phí NSNN theo kết quả đầu vào

(còn gọi là quản lý kinh phí NSNN theo khoản mục), vì vậy khi dự toán được phê

duyệt và kinh phí được phân bổ sẽ tương ứng với các khoản mục chi trong dự toán

và khi sử dụng kinh phí phải phù hợp với dự toán ban đầu, các khoản chi phí phát

sinh nằm ngoài dự toán sẽ không thể thanh quyết toán được.

36

Nhận xét: Cách thức lập dự toán ngân sách theo kết quả đầu vào này còn nhiều

hạn chế, dẫn đến tình trạng mất cân đối trong phân bổ kinh phí. Bởi vì, có một số

hoạt động mang tính đột xuất, nằm ngoài kế hoạch nhưng mang lại hiệu quả cao cho

phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Tuy nhiên, các hoạt động phát sinh này

nằm ngoài kế hoạch phê duyệt phải làm kế hoạch phê duyệt bổ sung và dự toán bổ

sung kinh phí, gây mất thời gian, chậm tiến độ thực hiện, mang lại hiệu quả không

cao. Mặt khác, việc lập dự toán theo đầu vào, dể dẫn đến tình trạng lãng phí ngân

sách, tệ nạn tham những. Lãnh đạo các đơn vị được phân bổ kinh phí sẽ tìm cách sử

dụng cho hết phần kinh phí đã được phân bổ cho năm dự toán, cho dù hoạt động đó

là không cần thiết, không mang lại hiệu quả cho địa phương.

3.7. Kinh nghiệm quản lý ngân sách nhà nước cho hoạt động đối ngoại

Việc xây dựng và phân bổ dự toán ngân sách phải có mối liên hệ chặt chẽ giữa

mức dự toán ngân sách dự kiến sẽ cấp với việc thực hiện mục tiêu, qua đó sẽ đạt

được một kết quả đầu ra. Phương thức quản lý ngân sách theo đầu ra đòi hỏi những

thay đổi trong khuôn khổ luật pháp, thể chế, cách thức xây dựng và điều hành kế

hoạch ngân sách cũng như văn hóa quản lý theo hướng đảm bảo trách nhiệm giải

trình về kết quả hoạt động. Điển hình như:

Cộng hòa Liên bang Đức, từ năm 2000, thông qua Ủy ban Ngân sách của

Quốc hội Liên bang, nước này đã thí điểm thực hiện. Dự án thử nghiệm độ tin cậy

và tác dụng của ngân sách dựa trên sản phẩm đầu ra như là một công cụ điều hành

định hướng đầu ra. Ngân sách dựa trên đầu ra được coi như một Phụ lục cho kế

hoạch ngân sách và nó có tác dụng cung cấp cho các nhà quản lý, các nghị sĩ những

thông tin định hướng đầu ra. Việc điều hành ngân sách theo định hướng kết quả đầu

ra được xây dựng trên các điều luật nguyên tắc cơ bản, điều luật ngân sách Liên

bang, quy định điều hành ngân sách thông qua kết quả được định nghĩa cả về số

lượng và chất lượng. Tham gia dự án thí điểm này có 6 cơ quan của Liên bang Đức:

Cục Thông tin báo chí, Trường Cao đẳng quản lý công, Cục Thống kê, Cục Giao

thông đường bộ, Cục Đường sắt, Phòng Hải quan và Thuế tiêu thụ trực thuộc Cục

Thuế Hamburg. Ở cấp bang, phương thức điều hành mới trên được thí điểm tại bang

37

Hessen với cơ chế khoán chi dựa trên kết quả, trong đó bao gồm: Phân cấp và gắn

trách nhiệm chuyên môn với trách nhiệm tài chính, định hướng theo mục tiêu và

hoạt động của cơ quan hành chính, cải cách ngân sách và kế toán.

Các đơn vị được giao nhiệm vụ xác định rõ ràng về trách nhiệm, kinh phí và

thẩm quyền để thực hiện theo một hệ thống phân cấp trách nhiệm cho đơn vị đó

trong khuôn khổ tài chính của mình và với khối lượng kết quả quy định trước tự

quyết định việc sử dụng kinh phí phù hợp nhu cầu về thời gian, bản chất và về

nguyên tắc không vượt quá khuôn khổ tài chính cho phép.

Khi lập kế hoạch gắn với đầu ra, kế hoạch ngân sách bao gồm kế hoạch công

việc, kế hoạch kết quả và kế hoạch tài chính. Quyết toán ngân sách được thực hiện

trên cơ sở chế độ kế toán kép có tính toán chi phí và hiệu quả thông qua quyết toán

kết quả, tài sản và tài chính được bổ sung trên báo cáo về công việc.

Tại New Zealand, Chính phủ nước này đã tập trung vào vấn đề hiệu quả hoạt

động của các tổ chức công từ cuối thập kỷ 80, với việc xác định rõ hơn trách nhiệm

đối với chi phí và kết quả hoạt động cuối cùng. Kinh nghiệm của NewZealand gắn

việc phân bổ ngân sách với việc xác định cụ thể các nhóm đầu ra tương đồng về cấp

độ, trong đó các đầu ra thuộc cùng một nhóm phải tương đồng về bản chất hoặc

đồng nhất; có đầy đủ thông tin về chất lượng, số lượng, thời gian, chi phí cho đầu ra

để đủ phục vụ việc ra quyết định; có sự ràng buộc trách nhiệm giữa người cung cấp

với các nhà quản lý và giữa nhà quản lý với người thực hiện hoạt động mua và các

cơ quan, người dân có trách nhiệm giám sát. Trước khi Quốc hội phê duyệt ban

hành ngân sách, Chính phủ đưa ra những tuyên bố về chính sách bao gồm những

mục tiêu cho ngân sách năm tới và ít nhất 3 năm tiếp theo. Đây là căn cứ để các bộ

xây dựng các chương trình ngân sách, trong đó các chương trình mới được cân nhắc

và thông qua, công bố rõ ràng trong báo cáo cập nhật kinh tế và tài khóa ngân sách.

Báo cáo đưa ra kế hoạch thu - chi tổng thể để thực hiện chiến lược. Cùng với

đó, Chính phủ phải thông báo chiến lược tài khóa của mình, báo cáo về sự thống

nhất giữa các quyết định ngân sách so với chiến lược chính sách, báo cáo chiến lược

tài khóa phải đưa ra dự báo tài khóa về khoản thu - chi ngân sách trong 10 năm tới.

38

Quản lý ngân sách theo kết quả đầu ra chính là để giải quyết nhu cầu trên, bằng

cách lượng hóa được hiệu quả sử dụng ngân sách thông qua những kết quả đầu ra cụ

thể để mọi người dân đều có thể đánh giá được.

Đối với Việt Nam, đây là những phương thức mới, để đo lường hiệu quả quản

lý ngân sách bằng những kết quả đầu ra thì theo giới chuyên gia, thời gian tới nước

ta cần có hệ thống khuôn khổ pháp lý đầy đủ, hạ tầng công nghệ thông tin, đội ngũ

cán bộ quản lý với tư duy và trình độ đủ để tiếp cận với phương thức mới. Trong

bối cảnh nước ta đã quen áp dụng phương thức quản lý ngân sách truyền thống dựa

trên yếu tố đầu vào, ngân sách vốn đã có quy mô nhỏ lại phải dàn trải và sử dụng

kém hiệu quả. Để thực hiện tốt cần:

Trước mắt, cần tăng cường khoán chi và trao quyền tự chủ, chịu trách nhiệm

về biên chế, kinh phí và sản phẩm, dịch vụ cho đơn vị sử dụng ngân sách, thực hiện

rà soát, đánh giá nghiêm túc kết quả thực hiện; Từng bước nghiên cứu việc áp dụng

thí điểm phương thức quản lý ngân sách dựa trên kết quả đầu ra ở một số bộ, ngành

khi đủ điều kiện.

Ủy ban Thường vụ Quốc hội cũng đã đánh giá về hoạt động quản lý, sử dụng

ngân sách Nhà nước đối với một số hoạt động đối ngoại trong thời gian qua như

sau: bên cạnh những kết quả đã đạt được, chế độ, chính sách của Nhà nước trong

công tác đối ngoại bộc lộ những tồn tại, hạn chế, trong đó cơ chế quản lý, sử dụng

ngân sách cho hoạt động đối ngoại Nhà nước còn phân tán, được điều chỉnh bởi

nhiều văn bản pháp quy.

Kết luận chương 3

Trong chương này, luận văn đã tập trung trình bày khung phân tích quản lý

ngân sách nhà nước theo kết quả đầu ra và cơ sở lý thuyết về hoạt động ngoại giao

làm nền tảng để phân tích và đánh giá quá trình quản lý ngân sách cho hoạt động

đối ngoại của tỉnh Kiên Giang trong chương 4.

39

CHƯƠNG 4: PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG QUẢN LÝ KINH PHÍ NGÂN

SÁCH NHÀ NƯỚC CHO HOẠT ĐỘNG ĐỐI NGOẠI TẠI KIÊN GIANG

4.1. Tổng quan về tỉnh Kiên Giang

4.1.1. Điều kiện tự nhiên và nguồn lực phát triển kinh tế - xã hội

Kiên Giang nằm ở phía Tây - Bắc vùng Đồng bằng sông Cửu Long và về phía

Tây Nam của tổ quốc, giáp với vùng biển của các nước Campuchia, Thái Lan và

Malaysia. Phía Bắc giáp Campuchia, với đường biên giới trên đất liền dài 56,8 km.

Hình 4.1: Bản đồ Hành chính tỉnh Kiên Giang

Nguồn: Ủy ban nhân dân tỉnh Kiên Giang. Kiên Giang - Tiềm năng - Cơ hội

đầu tư, thương mại và du lịch 2015.

Kiên Giang có 15 đơn vị hành chính cấp huyện; trong đó có 01 thành phố

thuộc tỉnh (Thành phố Rạch Giá), 01 thị xã (Thị xã Hà Tiên) và 13 huyện (trong có

02 huyện đảo là Phú Quốc và Kiên Hải) với tổng số 145 xã, phường, thị trấn; có

40

tổng diện tích tự nhiên là 634.852,67 ha, bờ biển hơn 200 km với hơn 137 hòn, đảo

lớn nhỏ, trong đó lớn nhất là Phú Quốc diện tích 567 km² và cũng là đảo lớn nhất

Việt Nam. Dân số năm 2016 có 1.727.551 người, trong đó dân số thành thị là

473.948 người (27,19 %); dân số nông thôn 1.253.603 người (72,81%). Thu nhập

bình quân đầu người năm 2016 là 42,6 triệu đồng, tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt

11,81% và đạt khá so với các tỉnh trong khu vực ĐBSCL (xếp hạng 3/13 tỉnh, thành

phố khu vực).

4.1.2. Tình hình phát triển kinh tế tỉnh Kiên Giang giai đoạn 2011-2015.

Trong giai đoạn 2011-2015, Việt Nam với hậu quả của sự tăng trưởng kinh tế

nhanh của thời kỳ trước đó cùng với chính sách tiền tệ và tài khóa nới lỏng trong

năm 2009-2010 khiến nền kinh tế phải gánh chịu lạm phát cao từ cuối năm 2010 và

đạt đỉnh điểm vào năm 2011. Tỷ lệ lạm phát tăng từ 11,75% đến 18,13% trong khi

tốc độ tăng trưởng đã giảm từ 6,78% xuống 5,89%. Doanh nghiệp hoạt động khó

khăn, khả năng hấp thụ vốn thấp, áp lực về các khoản nợ xấu cao, cầu trong nước

thấp, năng lực quản lý và khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp còn yếu. Tuy

nhiên, từ năm 2014 trở đi, kinh tế Việt Nam dần phục hồi trên nhiều lĩnh vực. Lạm

phát được kiểm soát tốt và luôn giữ ở mức thấp; chính sách tiền tệ, tài khóa được

điều hành linh hoạt, hiệu quả và phù hợp với diễn biến của thị trường; xuất khẩu

duy trì mức tăng khá; công nghiệp chế biến, chế tạo tăng cao; tổng cầu nội địa mạnh

hơn. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được thì ngân sách đang trong giai

đoạn khó khăn, cơ cấu chưa hợp lý, bội chi còn cao; nợ công tăng nhanh, áp lực trả

nợ lớn. Tổng thu NSNN không đủ bảo đảm nguồn chi thường xuyên và trả nợ. Toàn

bộ chi đầu tư đều phải dựa vào nguồn vay nợ của Chính phủ; hoạt động của doanh

nghiệp trong nước vẫn còn nhiều khó khăn, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ và

vừa.

Với sự tác động của tình hình trong nước và quốc tế, cùng với sự điều hành,

chỉ đạo của Chính phủ và sự điều hành của Đảng bộ, chính quyền tỉnh Kiên Giang,

KT-XH của tỉnh trong 05 năm tuy gặp nhiều khó khăn, thách thức nhưng cũng đã

đạt được nhiều kết quả nổi bật.

41

Bảng 4.1. Tốc độ tăng trưởng kinh tế qua các năm

Đơn vị tính: Triệu đồng

Chỉ tiêu 2011 2012 2013 2014 2015

21.049.800 23.590.200 59.788.000 66.111.000 72.151.400

GDP (Giá cố (Giá cố (Giá so (Giá so (Giá so

định 94) định 94) sánh 2010) sánh 2010) sánh 2010)

Tốc độ tăng 12,02 % 11,81 % 9,4% 9,51% 9,62% trưởng

(Nguồn số liệu: UBND tỉnh Kiên Giang)

Qua bảng số liên trên cho thấy GRDP hàng năm của tỉnh Kiên Giang tăng cao

so với năm trước. Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân giai đoạn 2011-2015 đạt

10,53%/năm. Năm 2015, thu nhập bình quân đầu người đạt 2.515 USD, gấp 2 lần so

năm 2010. Các ngành kinh tế đều có mức tăng trưởng khá. Giai đoạn này chứng

kiến sự bứt phá về tăng trưởng kinh tế của huyện đảo Phú Quốc (tăng trưởng trung

bình 25%/năm) và một số doanh nghiệp có quy mô đầu tư lớn tại khu công nghiệp

Thạnh Lộc, huyện Châu Thành đã chính thức hoạt động.

Cơ cấu phát triển kinh tế có chuyển biến tích cực, tăng dần tỷ trọng khu vực II

và khu vực III, giảm dần khu vực I phù hợp với chủ trương công nghiệp hóa, hiện

đại hóa nền kinh tế.

Bảng 4.2. Cơ cấu GDP theo khu vực kinh tế qua các năm

Đơn vị tính: %

Khu vực 2011 2012 2013 2014 2015

Khu vực I 46,66 43,84 38,82 37,65 36,48

Khu vực II 22,93 23,79 24,03 24,11 24,91

Khu vực III 30,41 32,37 37,15 38,24 38,61

(Nguồn số liệu: UBND tỉnh Kiên Giang)

42

4.1.3. Ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên kinh tế và xã hội đến quản lý nhà

nước về hoạt động đối ngoại của chính quyền tỉnh Kiên Giang

Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của tỉnh Kiên Giang gây một số khó khăn,

trở ngại đến quản lý nhà nước về hoạt động đối ngoại như:

Vị trí nằm ở cực Tây Nam vùng Đồng bằng sông Cửu Long cách xa các đô thị

lớn trong vùng và thành phố Hồ Chí Minh trung tâm kinh tế - văn hóa, khoa học -

kỹ thuật lớn của đất nước nên có phần hạn chế về khả năng tiếp nhận sự lan tỏa của

các đô thị phát triển và trong điều kiện hệ thống hạ tầng của vùng Đồng bằng sông

Cửu Long còn chưa phát triển mạnh và đồng bộ.

Hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật trong tỉnh chưa đáp ứng được yêu cầu của

phát triển các ngành kinh tế, thương mại, du lịch, hoạt động đối ngoại (cảng biển

quốc tế, biên mậu biên giới) và phục vụ đời sống nhân dân, do đó đã hạn chế sự kết

nối giữa tỉnh Kiên Giang với các trung tâm bên ngoài tỉnh, thành trong nước; cũng

như các tỉnh, thành của các nước trong khu vực và quốc tế còn nhiều hạn chế. Môi

trường, cơ sở hạ tầng để thu hút nhà đầu tư nước ngoài và du lịch quốc tế còn hạn

chế: Về đường sá, giao thông, cơ chế chính sách chưa linh hoạt. Còn có khoảng

cách về trình độ phát triển và chất lượng sống giữa thành thị và các vùng nông thôn,

biên giới trong tỉnh; chất lượng dịch vụ (nhất là các dịch vụ du lịch) và hiệu suất

công việc thấp.

Chính trường các nước trong khu vực, nước láng giềng Vương quốc

Campuchia chưa thật sự ổn định đã tác động ảnh hưởng đến một số mặt công tác

đối ngoại của địa phương, cụ thể là ảnh hưởng đến tiến độ hoàn thành công tác phân

giới cắm mốc biên giới trên đất liền Việt Nam - Campuchia, gây tâm lý lo lắng cho

các doanh nghiệp trong tỉnh khi mở rộng thị trường hợp tác đầu tư ở quốc gia sở tại.

Tình hình an ninh trên vùng biển từng lúc từng nơi còn diễn biến phức tạp,

tình trạng đánh bắt hải sản trái phép (kể cả ngư dân ta và ngư dân các nước) trên

vùng biển Kiên Giang, Inđonesia, Thái Lan, Malaysia và Campuchia vẫn còn diễn

ra.

43

Nguồn nhân lực xã hội đông, nhưng thiếu kỹ năng và trình độ kỹ thuật tay

nghề chiếm tỷ lệ thấp, kiến thức hội nhập quốc tế, đa số doanh nhiệp trên địa bàn

tỉnh có quy mô vừa và nhỏ, xây dựng thương hiệu chưa nhiều, từ đó năng lực cạnh

tranh chưa cao. Tổ chức, bộ máy, nhân sự và các trang thiết bị phục vụ công tác đối

ngoại của tỉnh Kiên Giang nói chung và cho cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban

nhân dân tỉnh nói riêng còn thiếu và hạn chế. Trình độ ngoại ngữ của cán bộ, công

chức, viên chức của cán bộ, công chức làm công tác đối ngoại chưa theo kịp và đáp

ứng được yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.

4.2. Đánh giá hoạt động đối ngoại của tỉnh Kiên Giang từ 2011 đến 2015

Hoạt động đối ngoại của tỉnh Kiên Giang trong giai đoạn 2011-2015 thực hiện

chủ yếu theo nhiệm vụ chính trị của cấp trên giao và theo kế hoạch được các cơ

quan cấp tỉnh đề xuất. Căn cứ vào khung lý thuyết quản lý ngân sách theo kết quả

đầu ra được trình bày trên, tác giả có nhận định như sau:

Thứ nhất, kế hoạch hoạt động đối ngoại chỉ tập trung vào đầu vào chứ không

quan tâm đến đầu ra. Chính vì vậy, trong kế hoạch hoạt động đối ngoại chỉ liệt kê

những hoạt động cần thực hiện chứ chưa giải trình lý do tại sao phải thực hiện

những hoạt động này và kết quả dự kiến cần đạt được như thế nào. Với cách lập kế

hoạch này đã thiếu vắng những so sánh giữa những gì đã làm với những gì mong

muốn đạt được nên trong các báo cáo kết quả thực hiện được trong những năm qua

của các cơ quan sử dụng ngân sách nhà nước chỉ liệt kê được số hoạt động đã thực

hiện mà không đề cập đến mức độ đạt hiệu quả là bao nhiêu và cũng không có đề

xuất nào để tăng thêm những hoạt động nào và giảm bớt đi những hoạt động nào để

tối đa hóa hiệu quả sử dụng nguồn kinh phí từ ngân sách nhà nước.

Thứ hai, hoạt động đối ngoại chỉ hướng đến mục tiêu tiết kiệm ngân sách nhà

nước theo cơ học, tức là số tiền chi ra cho hoạt động đối ngoại ít đi so với kế hoạch

chi được duyệt là tốt. Vì không có một căn cứ nào để đánh giá rằng hoạt động đối

ngoại đã thực hiện là hiệu quả hay không và cũng không có một mục tiêu chiến lược

nào thể hiện mối quan hệ giữa hoạt động đối ngoại cần thực hiện với mục tiêu tăng

trưởng kinh tế và lợi ích tạo ra cho xã hội. Chính điều này đã làm cho hoạt động đối

44

ngoại của tỉnh tách biệt với mục tiêu phát triển kinh tế xã hội. Như vậy, việc sử

dụng ngân sách cho hoạt động đối ngoại trong thời gian 2011-2015 được các cơ

quan nhà nước đánh giá là hiệu quả là chỉ mang tính chủ quan và thiếu cơ sở vững

chắc.

Thứ ba, dự toán ngân sách theo hạn mục được lập cho từng năm (ngắn hạn) đã

có dấu hiệu lập lại theo kiểu nhiệm vụ phải thực hiện của Cơ quan nhà nước. Điều

này có thể dẫn đến dễ báo cáo vì chỉ cần sử dụng ít tiền hơn cho nhiều hoạt động đã

thực hiện hơn thì xem như là hoàn thành tốt nhiệm vụ. Trong khi đó, Cơ quan nhà

nước không chỉ hoàn thành nhiệm vụ được giao mà còn phải hướng đến cung cấp

những dịch vụ hành chính công hiệu quả hơn, phục vụ người dân tốt hơn và góp

phần vào phát triển kinh tế xã hội địa phương.

Thứ tư, mặc dù kế hoạch chi ngân sách cho hoạt động đối ngoại đã được duyệt

vào đầu mỗi năm nhưng trong quá trình cung cấp dịch vụ hành chính công, ngân

sách sẽ được duyệt một lần nữa trước khi chi tiền. Chính điều này đã làm giảm

quyền tự chủ của người lãnh đạo cơ quan chức năng trong công tác quản lý chi tiêu

ngân sách. Trong khi đó, theo lý thuyết lập ngân sách theo kết quả đầu ra đề cao

quyền tự chủ về chi ngân sách của người lãnh đạo. Vì như vậy, người lãnh đạo sẽ

chủ động trong hoạt động của đơn vị mình và hướng đến tối ưu hóa các khoản chi

ngân sách trong tổng ngân sách được duyệt. Công việc điều hành sẽ hướng đến mục

tiêu chiến lược nhiều hơn là thực hiện từng sự vụ với sự cho phép của người khác,

người không trực tiếp chịu trách nhiệm với hoạt động của cơ quan mình.

Thứ năm, trong thời gian qua, lập ngân sách cho hoạt động đối ngoại được

thực hiện ngắn hạn từng năm nên bộc lộ tính rời rạc và không có mục tiêu chiến

lược trung hạn và dài hạn định hướng xuyên suốt quá trình chi ngân sách. Điều này

có thể dẫn đến khó đánh giá được những hoạt động đối ngoại nào thực hiện hiệu

quả và không hiệu quả để từ đó làm cơ sở cho quyết định kinh phí cho năm ngân

sách tiếp theo.

Thứ sáu, chưa có một sự thống nhất về những mục tiêu nào phải thực hiện và

mức độ ưu tiên cần thực hiện chúng. Lẽ ra, những mục tiêu này và thứ tự ưu tiên chi

45

tiêu ngân sách cho chúng được thống nhất trước khi lập ngân sách để đảm bảo rằng

những quyết định chi ngân sách mang tính chiến lược và xác lập được tính hiệu lực.

Số liệu trong các báo cáo quyết toán thu, chi NSNN cho hoạt động đối ngoại

của Sở Ngoại vụ từ năm 2011 đến 2015 và báo cáo của Sở Ngoại vụ hằng năm được

sử dụng phân tích để minh chứng cho một số nhận định trên của tác giả.

4.2.1. Công tác tổ chức quản lý đoàn ra, đoàn vào

Từ năm 2011 - 2015, có 1.039 đoàn ra với tổng số 5.802 lượt cán bộ, công

chức, viên chức đi nước ngoài với các mục đích tham dự hội nghị, hội thảo; hợp tác

kinh tế; giao lưu văn hoá; khảo sát thị trường; giao dịch kinh doanh; tham quan, học

tập kinh nghiệm; du lịch, thăm thân,… trong đó khoảng 25% đoàn sử dung ngân

sách nhà nước. Các đoàn ra của tỉnh đều thực hiện đúng các thủ tục theo qui định

của pháp luật và tuân thủ tốt luật pháp của chính quyền nước sở tại. Việc sử dụng

ngân sách nhà nước cho các chuyến đi nước ngoài đảm bảo tiết kiệm có hiệu quả.

Việc sử dụng kinh phí để tiếp các đoàn vào cũng được thực hiện trên tinh thần tiết

kiệm, phần lớn các khoản chi phí tiếp đoàn đều nằm trong kế hoạch đã được dự toán

và đảm bảo hoạt động đối ngoại của tỉnh.

Bảng 4.3: Số liệu thống kê đoàn ra nước ngoài

Số đoàn ra Số người Năm

2011 261 1.424

2012 206 1.172

2013 214 1.016

2014 163 1.023

2015 195 1.167

5.802 Tổng cộng 1.039

Nguồn: Sở Ngoại vụ, 2015.

Nhận xét: Số đoàn ra có xu hướng giảm trong 5 năm qua, từ 261 đoàn (tương

ứng với 1.424 người) trong năm 2011 giảm xuống còn 195 đoàn (tương ứng với

46

1.167 người) trong năm 2015. Điều này sẽ tác động làm giảm chi phí từ ngân sách

chi cho hoạt động của đoàn ra. Tuy nhiên, bên cạnh số liệu báo cáo về số lượng

đoàn ra, số người đi và mục đích đi mang tính chung chung thì không có một số liệu

nào thể hiện họ đã đạt được kết quả gì từ những chuyến đi đó, đạt đến mức độ nào

và đóng góp gì cho mục tiêu chiến lược của tỉnh. Mặc dù ngân sách nhà nước chỉ tài

trợ 25% cho tất cả những chuyến đi trên nhưng không kèm với kết quả đạt được thì

khó đánh giá rằng những chuyến đi đó có nên đi không, sắp tới có cần tổ chức nhiều

đoàn ra nước ngoại vậy không? Đi để làm gì và kết quả kỳ vọng của từng chuyến đi

là gì?

Cũng trong giai đoạn này, có 642 đoàn khách nước ngoài với 3.220 lượt người

nước ngoài đến địa bàn tỉnh Kiên Giang để khảo sát thực hiện dự án, xúc tiến đầu

tư, trao đổi kinh nghiệm công tác với các cơ quan, đơn vị trong tỉnh... Trong thời

gian làm việc tại tỉnh các đoàn vào đều thực hiện đúng các thủ tục theo qui định của

pháp luật cũng như sự hướng dẫn của cơ quan tiếp đoàn.

Bảng 4.4: Số liệu thống kê đoàn vào

Số đoàn Số người Năm

2011 124 699

2012 131 615

2013 110 471

2014 133 562

2015 144 873

Tổng cộng 642 3.220

“Nguồn: Sở Ngoại vụ, 2015”.

Đến nay, Kiên Giang đã thu hút được 37 dự án đầu tư đầu tư trực tiếp nước

ngoài (FDI) với tổng số vốn trên 1,4 tỷ USD. Riêng trong năm 2015 có 2 dự án đầu

tư mới với tổng vốn đăng ký và thực hiện là 93,024 triệu USD hoạt động trong lĩnh

vực làm hầm trữ đông cho hàng thủy sản và đại lý dịch vụ du lịch. Tổng vốn giải

ngân các dự án FDI năm 2015 ước đạt 13,3 triệu USD.

47

Thu hút mới 07 dự án từ nguồn vốn viện trợ không hoàn lại của nước ngoài

hoạt động trong lĩnh vực chống biến đổi khí hậu, giáo dục và các lĩnh vực công

cộng với tổng nguồn vốn 222,65 tỷ đồng.

Nhận xét: Số đoàn vào tỉnh Kiên Giang có chiều hướng tăng trong thời gian từ

2011 đến 2015, từ 124 đoàn vào (tương đương 699 người) trong năm 2011 tăng lên

144 đoàn vào (với 873 người) trong năm 2015. Với số lượng đoàn tăng lên như vậy

thì ngân sách nhà nước phải tài trợ để đón tiếp, nghi thức ngoại giao và tổ chức hội

nghị tăng lên qua các năm. Tuy nhiên, trong báo cáo không thể hiện cụ thể kết quả

đạt được của những cuộc tiếp đón đó như thế nào, họ đã mang đến những lợi ích gì

cho tỉnh Kiên Giang mặc dù đã thống kê được số dự án được ký kết hằng năm

nhưng tất cả đều không được đưa vào mục tiêu lập ngân sách trước khi lập. Như

vậy, khó có thể đánh giá được hiệu quả của hoạt động đoàn vào này về mặt định

lượng mà chỉ dừng lại ở cảm nhận về cơ hội, triển vọng, khả năng, những điều này

còn cần nhiều thời gian và công sức nữa mới có thể đáp ứng được mục tiêu chiến

lược của tỉnh. Do đó, chưa thể kết luận gì về tính hiệu quả của những khoản chi

ngân sách cho đoàn vào này.

4.2.2. Công tác quan hệ hợp tác kinh tế quốc tế

Trên cơ sở văn bản ký kết hợp tác trên các lĩnh vực giữa tỉnh Kiên Giang với

các tỉnh giáp biên của Campuchia, các sở ngành chức năng của tỉnh đã cụ thể hóa,

ký kết nhiều văn bản hợp tác cấp ngành trên các lĩnh vực thương mại, nông nghiệp,

du lịch, an ninh quốc phòng… Hoạt động thương mại biên giới tiếp tục phát triển,

các doanh nghiệp tăng cường trao đổi hàng hóa, đáp ứng kịp thời nhu cầu tiêu dùng

của nhân dân hai bên. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu qua các cặp cửa khẩu của

tỉnh Kiên Giang với các tỉnh giáp biên của Campuchia qua một số năm như sau:

năm 2011 đạt 157,789 triệu USD, năm 2012 đạt 152,469 triệu USD, năm 2013 đạt

166,1 triệu USD, năm 2014 đạt 101 triệu USD và năm 2015 ước đạt 100 triệu USD

trong đó kim ngạch xuất khẩu đạt 50 triệu USD, kim ngạch nhập khẩu đạt 50 triệu

USD. Các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu là thực phẩm chế biến, đóng hộp, hàng gia

48

dụng, hàng tạp hóa các loại, thức ăn gia súc, mì ăn liền, đồ nhựa, dầu ăn… Các mặt

hàng nhập khẩu chủ yếu là hạt nhựa, than đá, gỗ xẻ, vỏ tôm, ghẹ phơi khô, máy móc

thiết bị phục vụ cho sản xuất và xây dựng…

Nhận xét: Chi ngân sách cho Công tác hợp tác quốc tế được thể hiện chung với

chi ngân sách cho đoàn vào và đoàn ra không thể đánh giá được tính hiệu quả của

hoạt động này trong thời gian qua. Trong thực tế, ngoài hoạt động mang tính hợp

tác quốc tế, công tác hợp tác quốc tế của tỉnh Kiên Giang mang tính chính trị nhiều

hơn nên hầu như hoạt động này được thực hiện theo mục tiêu của chính phủ.

4.2.3. Công tác ngoại giao văn hóa

Trong những năm qua, các hoạt động ngoại giao văn hóa kết hợp ngoại giao

chính trị, ngoại giao kinh tế và công tác đối ngoại nhân dân đã được triển khai chủ

yếu giữa Việt Nam và Campuchia. Cụ thể, đã tổ chức 20 cuộc hội nghị, hội thảo có

yếu tố nước ngoài với 147 lượt người nước ngoài tham dự.

Nhận xét: Hoạt động ngoại giao văn hóa cũng được tài trợ ngân sách tính

chung cho hoạt động đoàn vào và đoàn ra. Đây là hoạt động mang tính chính trị và

chủ yếu là thực hiện theo quyết định của trung ương nên kết quả mong đợi mang

tính cảm nhận chứ không thể đo lường bằng con số được.

4.2.4. Công tác lãnh sự

Trong công tác bảo vệ, duy trì an ninh trật tự biên giới, vùng biển, đã phối hợp

giáo dục, xử lý hơn 20 trường hợp xuất nhập cảnh trái phép (có 15 trường hợp

người Campuchia), 106 phương tiện của ngư dân hai bên qua lại đánh bắt hải sản

trái phép vi phạm vùng biển của nhau (Campuchia 74 phương tiện, Kiên Giang 42

phương tiện). Xử phạt vi phạm hành chính và trục xuất về nước cả người và phương

tiện đối với 04 trường hợp (26 người Thái Lan, 19 người Campuchia) có hành vi

sang mạn dầu trái phép và 04 trường hợp (07 người Campuchia, 04 người Thái Lan,

phương tiện xuồng cà-lơ) vận chuyển gỗ trái phép trên biển. Trao đổi thông tin với

phía Campuchia tiếp nhận 22 người tỉnh Kiên Giang cư trú bất hợp pháp ở

Campuchia trở về Việt Nam, 67 người dân Kiên Giang đang thuê đất dọc tuyến biên

49

giới. Thu hồi 02 xe máy do đối tượng người Việt Nam trộm mang sang Campuchia

tiêu thụ; bắt 03 đối tượng người Việt Nam trộm xe máy đem sang Campuchia bán.

Việc giải quyết lãnh sự các vấn đề có yếu tố nước ngoài được thực hiện

nghiêm túc tuân thủ đúng luật pháp Việt Nam và các Điều ước quốc tế. Sở Ngoại vụ

phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chức năng của tỉnh, cụ thể với Công an tỉnh để

giải quyết các công tác liên quan đến người nước ngoài trên địa bàn tỉnh. Về việc tử

vong của công dân nước ngoài năm 2013 và 2014 có 8 trường hợp công dân của các

nước: Anh, New Zealand, Trung Quốc, Úc, Áo, Campuchia (2 trường hợp)

Về việc hỗ trợ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân nước ngoài tại

địa phương, các cơ quan chức năng của tỉnh kịp thời phối hợp giải quyết các yêu

cầu của các cơ quan đại diện ngoại giao nước ngoài tại Việt Nam liên quan đến việc

bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp công dân nước họ.

Phối hợp Quỹ bảo hộ công dân và pháp nhân Việt Nam ở nước ngoài, Cục

Lãnh sự - Bộ Ngoại giao trong việc hướng dẫn người nhà ngư dân hoặc chủ tàu nộp

các khoản chi phí đưa ngư dân mãn hạn tù do vi phạm lãnh hải trái phép về nước;

bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của công dân Kiên Giang ở nước ngoài, đã tiếp nhận

657 lượt ngư dân do chính quyền các nước: Malaixia, Indonesia, Thái Lan và

Campuchia trao trả, về sum họp gia đình.

Bảng 4.5: Số liệu thống kê ngư dân tỉnh Kiên Giang bị nước ngoài bắt giữ

Đvt: đồng Việt Nam

Năm Số tàu Số người Số tiền bồi thường Các nước

2011 14 388 1.480.000.000 Malaixia 22 tàu/370 người

Indonesia 37 tàu/629 người 2012 06 99 302.992.800

Thái Lan 10 tàu/98 người 2013 16 164 305.664.000

Campuchia 8 tàu/22 người 2014 08 88 704.000.000

2015 33 380 1.416.000.000

Tổng 77 1.119 4.208.656.800

Nguồn: Sở Ngoại vụ, 2015.

50

Nhận xét: Hoạt động lãnh sự trong thời gian qua đã gây tiêu tốn nhiều ngân

sách của tỉnh. Trong đó, nổi trội tình hình vi phạm lãnh hải của ngư dân Việt Nam,

với 77 vụ vi phạm và tổng số tiền bồi thường trên 4,2 tỷ đồng. Nhìn chung, tất cả

những hoạt động này không thể dự trù trước trong kế hoạch chi ngân sách của tỉnh.

Những khoản phát sinh này không mang đến lợi ích cho tỉnh cũng như không được

thể hiện trong mục tiêu chiến lược kinh tế của tỉnh nên trong thời gian tới, tỉnh cần

phối hợp với cơ quan chức năng tìm giải pháp để khắc phục tình hình này một cách

tốt nhất.

4.2.5. Hoạt động phân giới cắm mốc và quản lý biên giới.

Thực hiện Chỉ thị số 07/2006/CT-TTg ngày 06 tháng 3 năm 2006 của Thủ

tướng Chính phủ về việc tổ chức thực hiện Hiệp ước bổ sung Hiệp ước hoạch định

biên giới quốc gia Việt Nam - Campuchia năm 1985. Ủy ban nhân dân tỉnh thành

lập Ban Chỉ đạo phân giới cắm mốc tỉnh và xây dựng Kế hoạch số 18/KH-UBND

ngày 11/4/2006 về việc triển khai thực hiện Hiệp ước bổ sung Hiệp ước hoạch đinh

biên giới quốc gia Việt Nam - Campuchia năm 1985. Được triển khai thực hiện từ

tháng 5 năm 2007, đến nay cơ bản đã hoàn thành (cắm 61 điểm cọc dấu và cột mốc

phụ, trong đó đã xây dựng hoàn thành 12/61 công trình cột mốc phụ).

Tình hình quản lý biên giới trên bộ, biển của tỉnh Kiên Giang tương đối ổn

định, chưa để xảy ra trường hợp đáng tiếc nào về tính mạng. Mọi việc trên tinh thần

cùng nhau thảo luận để đi đến thống nhất chung của các cơ quan chức năng trên

tuyến biên giới của các nước.

Nhận xét: Công tác phân giới cắm mốc có ý nghĩa hết sức quan trọng, nhằm

xác lập đường biên giới giữa hai nước, tiến hành phân giới cắm mốc trên thực địa sẽ

giúp hai bên có đầy đủ cơ sở để nhận biết đường biên giới, phạm vi lãnh thổ của

mỗi quốc gia để thực hiện công tác quản lý, bảo vệ. Đây là nhiệm vụ mang tính chất

ngoại giao chính trị và có ý nghĩa to lớn đối với quốc gia, công tác này được xem là

công tác đối ngoại quan trọng mà Đảng và Nhà nước giao cho địa phương thực

hiện. Kinh phí cho hoạt động Phân giới căm mốc được Ủy ban Biên giới quốc gia

Bộ Ngoại giao cấp cho địa phương và có kế hoạch sử dụng và thanh quyết toán

51

riêng, không thực hiện chung với kinh phí đối ngoại của địa phương. Đây là hồ sơ

quan trọng không được công bố, vì vậy tác giả không thể tiếp cận để có số liệu phân

tích và đánh giá quá trình sử dụng cũng như thanh quyết toán. Tuy nhiên, theo nhận

định của tác giả thì công tác này tỉnh Kiên Giang đã và đang làm rất tốt, công tác

phân giới cắm mốc tại tỉnh Kiên Giang đang đi vào giai đoạn hoàn thành, tình đoàn

kết hữu nghị giữa các tỉnh giáp biên giới của hai nước luôn gắn kết chặt chẽ.

4.2.6. Công tác người Việt Nam ở nước ngoài

Trên cơ sở thực hiện Kế hoạch số 08-KH/TU ngày 10/12/2015 của Tỉnh ủy

Kiên Giang về việc thực hiện Chỉ thị số 45-CT/TƯ ngày 19/5/2015 của Bộ Chính trị

(khóa XI) về việc tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết số 36-NQ/TW của Bộ

Chính trị (khóa IX) về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài (NVNONN)

trong tình hình mới. Hằng năm, Tỉnh ủy, Uỷ ban nhân dân tỉnh đã tổ chức họp mặt

kiều bào, lắng nghe nguyện vọng và biểu dương cá nhân, tập thể kiều bào có thành

tích đóng góp cho địa phương, thông báo tình hình kinh tế - xã hội, quốc phòng an

ninh tỉnh nhà, tuyên truyền chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước, của địa

phương về kêu gọi hợp tác đầu tư, tinh thần hướng về quê hương dân tộc, ý thức

cảnh giác với các hoạt động kích động phá hoại của kẻ địch, bọn xấu,…

Tổng lượng kiều hối nhận được trong giai đoạn này là 336.919.112 USD (số

liệu do Ngân hang Nhà nước, chi nhánh Kiên Giang cung cấp). Tỉnh luôn tạo điều

kiện cho người Việt Nam quê hương Kiên Giang định cư ở nước ngoài về hợp tác

đầu tư, thăm thân, du lịch và làm công tác từ thiện. Theo thống kê chưa đầy đủ hiện

nay tỉnh Kiên Giang có khoảng 32.372 kiều bào đang định cư và sinh sống trên 95

nước và vùng lãnh thổ trên thế giới.

Bảng 4.6: Số lượng người Việt Nam đang định cư ở nước ngoài

(Phân theo huyện, thị xã, thành phố)

Đvt: Người

STT Địa phương Tổng số Nam Nữ

1 Huyện Vĩnh Thuận 566 49 323

52

2 Huyện An Minh 737 78 228

3 Huyện U Minh Thượng 424 40 384

4 Huyện An Biên 2.604 382 632

5 Huyện Giồng Riềng 1.951 143 1.315

6 Huyện Gò Quao 1.023 86 443

7 Huyện Châu Thành 3.604 617 735

8 Huyện Tân Hiệp 4.716 935 1.399

9 Thị xã Hà Tiên 1.561 102 154

10 Huyện Giang Thành 133 78 55

11 Huyện Kiên Hải 90 49 41

12 Huyện Phú Quốc 2.181 898 733

13 Huyện Hòn Đất 2.344 216 803

14 TP. Rạch Giá 8.396 445 597

15 Huyện Kiên Lương 1.622 102 104

Nguồn: Sở Ngoại vụ, 2015.

Bảng 4.7: Số lượng người Việt Nam đang định cư ở nước ngoài

(Phân theo quốc gia đang định cư)

Stt Tên nước Số lượng Tỷ lệ

1 Hoa Kỳ 19.729 60,94%

2 Canada 2.324 7,18%

3 Úc 4.357 13,46%

4 Nga 557 1,80%

5 Pháp 697 2,15%

6 Hàn Quốc 150 0,46%

7 Đài Loan 921 2,85%

8 Đức 793 2,45%

9 Hà Lan 309 0,95%

10 Thụy Sĩ 281 0,86%

53

11 Anh 140 0,43%

12 Campuchia 1.494 4,62%

13 Nước khác 620 1,90%

Nguồn: Sở Ngoại vụ, 2015.

Bảng 4.8: Tình hình chi trả kiều hối lũy kế

Đvt: USD

STT Năm Danh số chi trả ngoại tệ

1 2011 61.255.585

2 2012 67.568.291

3 2013 71.723.434

4 2014 67.786.368

5 2015 68.585.434

Tổng cộng 336.919.112

“Nguồn: Ngân hàng Nhà nước, chi nhánh Kiên Giang”

Nhận xét: Với số lượng người Kiên Giang định cư tại nước ngoài nhiều như

vậy, lượng kiều hối chuyển về trên 300 triệu USD trong 5 năm qua cho thấy đây là

nguồn lực rất tốt cho công cuộc phát triển kinh tế của tỉnh Kiên Giang. Tuy nhiên,

theo báo cáo trên thì công tác này chỉ dừng lại ở nhận kiều hối và kêu gọi về định

cư làm ăn tại tỉnh nhà nhưng chưa có báo cáo số lượng kiều hối đầu tư về tỉnh, số

việt kiều đã chuyển hướng đầu tư về tỉnh nhà. Đây chính là mục tiêu mà hoạt động

đối ngoại của tỉnh cần quan tâm đưa vào kế hoạch ngân sách để khai thác tốt mảng

này. Có thể thấy, ngân sách cho hoạt động đối ngoại này không đáng kể nhưng có

thể mang đến nhiều tác động tích cực đến sự phát triển kinh tế của tỉnh.

4.2.7. Công tác đối ngoại Đảng, đối ngoại nhân dân các tỉnh giáp biên

Hàng năm nhân dịp tết cổ truyền, các sự kiện chính trị quan trọng của hai dân

tộc Việt Nam - Campuchia, tỉnh Kiên Giang và các tỉnh giáp biên - Vương quốc

54

Campuchia duy trì tổ chức các đoàn cán bộ sang thăm viếng lẫn nhau; Tạo điều

kiện thuận lợi cho kiều bào, nhân dân Campuchia giao lưu, thăm thân, du lịch trong

các dịp lễ tết cổ truyền của hai dân tộc.

Thường xuyên phối hợp với cơ quan ngoại giao Việt Nam tại Campuchia, xây

dựng chương trình hợp tác với chính quyền sở tại bảo vệ quyền lợi chính đáng của

kiều bào ở Campuchia và người Campuchia ở Việt Nam và các bên đẩy mạnh công

tác tuyên truyền vận động nhân dân hai bên nói chung, nhất là nhân dân sinh sống

khu vực biên giới nói riêng đoàn kết cùng nhau xây dựng gìn giữ đường biên giới

hòa bình, thắt chặt hơn nữa “láng giềng thân thiện, hữu nghị truyền thống, hợp tác

toàn diện, ổn định lâu dài”.

Nhận xét: Công tác đối ngoại này được Tỉnh ủy đánh giá cao trong thời gian

qua vì đã góp phần giữ gìn an ninh trật tự của tỉnh và của quốc gia. Chủ yếu thực

hiện nhiệm vụ chính trị nên việc giữ gìn an ninh trật tự được xem là kết quả đầu ra

đã đạt được.

4.2.8. Công tác quản lý hoạt động viện trợ của các tổ chức phi chính phủ

nước ngoài

Thời gian qua, trên địa bàn tỉnh đã có nhiều tổ chức chính phủ, phi chính phủ

nước ngoài tham gia hoạt động từ thiện trên các lĩnh vực: Giao thông nông thôn,

xây dựng trường học, trang thiết bị y tế, bảo tồn văn hoá dân gian, tài trợ học

bổng,… góp phần hỗ trợ thiết thực cho cuộc sống sinh hoạt của người dân và thúc

đẩy vào sự phát triển kinh tế - xã hội ở cơ sở.

Bảng 4.9: Số liệu thống kê nguồn viện trợ của các tổ chức phi chính phủ.

Đơn vị tính: USD

Năm Giá trị cam kết Đã giải ngân

2011 14.749 5.507

2012 11.325 6.625

2013 260.152 195.406

2014 6.400.000 3.500.000

55

2015 7.029.000 5.206.000

Tổng cộng 13.715.226 8.913.538

“Nguồn: Sở Ngoại vụ, 2015.

Hạn chế và nguyên nhân

Hạn chế:

Có thể nói, ngành ngoại giao là một trong những ngành có hệ thống văn bản

quy định ít nhất, thiếu về số lượng, yếu về kết cấu, thể chế chưa được coi là công cụ

hữu hiệu và đòn bẩy cho công tác quản lý nhà nước và quản lý kinh phí nhà nước về

hoạt động đối ngoại. Bên cạnh đó, tại tỉnh Kiên Giang việc cụ thể hóa văn bản của

Trung ương có liên quan đến hoạt động đối ngoại chủ yếu là triển khai quán triệt và

tổ chức thực hiện; các quy định riêng cho ngành của tỉnh rất ít; có văn được ban

hành thực hiện qua nhiều năm, yếu về kết cấu, nội dung lạc hậu hoặc trùng một

phần nội dung với văn bản mới ban hành nhưng chậm được sửa đổi. Hầu hết chỉ

đạo lĩnh vực này được điều chỉnh bằng các văn bản cá biệt Chủ tịch Ủy ban nhân

dân tỉnh.

- Vấn đề chồng chéo trong thực hiện nhiệm vụ đối ngoại vẫn còn tồn tại do

chưa phân định rõ chức năng, nhiệm vụ của các ngành về lĩnh vực đối ngoại, cho

nên tình trạng một nhiệm vụ đối ngoại được giao cho nhiều ngành, nhưng lại không

có ngành chủ trì vừa lãng phí ngân sách, vừa không mang lại hiệu quả.

- Tổ chức bộ máy, Sở Ngoại vụ còn thiếu, tuy nhiên không được giao thêm

biên chế, kinh phí, phương tiện và cơ sở vật chất để thực hiện nhiệm vụ được phân

công, từ đó gặp không ít khó khăn.

- Sự phối hợp giữa các cơ quan, đơn vị và địa phương chưa tốt, chưa xây dựng

đầy đủ quy chế phối hợp thực hiện, dẫn đến tình trạng đùn đẩy trách nhiệm (đón

tiếp đoàn vào, tổ chức sự kiện đối ngoại, lễ tân).

- Vùng biển tỉnh Kiên Giang tiếp giáp với nhiều nước trong khu vực Châu Á,

người dân sống dựa vào khai thác thủy sản nên tình trạng xâm phạm lãnh hải các

nước trong khu vực để khai thác thủy sản trái phép vẫn còn diễn ra phổ biến.

56

- Việc tranh thủ, vận động kiều bào ta ở nước ngoài, nhất là đội ngũ nhân sỹ trí

thức và các nhà đầu tư có tiềm lực tài chính mạnh về địa phương hợp tác đầu tư,

triển khai thực hiện dự án còn hạn chế. Công tác đối ngoại nhân dân đôi lúc chưa

đồng bộ từ cấp trung ương đến địa phương, còn chồng chéo giao nhiệm vụ các

ngành, địa phương.

- Chưa tận dụng tối đa thế mạnh kênh ngoại giao từ Bộ Ngoại giao trong tìm

hiểu về các đối tác nước ngoài trước khi hợp tác.

- Quản lý nhà nước về biên giới lãnh thổ quốc gia tập trung cho biên giới trên

đất liền nhưng lại bỏ ngỏ phần biên giới trên biển.

- Việc hỗ trợ doanh nghiệp xây dựng thương hiệu, giới thiệu quảng bá sản

phẩm, tìm hiểu thị trường còn hạn chế.

Nguyên nhân:

- Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật quản lý kinh phí nhà nước cho hoạt

động đối ngoại của tỉnh hầu như không có,chỉ thực hiện theo Luật NSNN và văn

bản cá biệt của Chủ tịch UBND tỉnh, vai trò tham mưu ban hành văn bản quy phạm

pháp luật quản lý kinh phí NSNN về hoạt động đối ngoại của cơ quan chuyên môn

thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh còn hạn chế.

- Đội ngủ làm công tác đối ngoại tại địa phương còn thiếu cả về số lượng, chất

lượng, kỹ năng và trình độ chuyên môn cũng như trình độ ngoại ngữ không đáp ứng

được nhu cầu của hoạt động đối ngoại hiện nay. Một số nhiệm vụ đối ngoại hiện

nay được giao cho các cơ quan khác nhau còn có sự chồng chéo; hệ thống văn

bản pháp luật về công tác đối ngoại đã không theo kịp với nhu cầu quản lý,

nhiệm vụ đối ngoại bị xé lẻ, phân tán ở nhiều ngành trong tỉnh dẫn đến không

thống nhất việc quản lý nhà nước về hoạt động đối ngoại của địa phương..

- Một số đoàn đi xúc tiến đầu tư thương mại chưa đánh giá được kết quả mang

lại cho địa phương, phần kinh phí phân bổ cho hoạt động nayfkhos có khả năng

đánh giá trong thời gian ngắn. Các ngành, địa phương và doanh nghiệp chưa chủ

động xây dựng các kế hoạch mở rộng hợp tác, kêu gọi đầu tư.

57

- Lãnh đạo một số ngành và địa phương còn xem nhẹ kết quả đạt được từ công

tác đối ngoại và chưa thật sự quyết liệt trong việc phối hợp thực hiện các hoạt động

đối ngoại. Công tác đối ngoại ở một số ngành còn mang tính chủ quan, trông chờ

vào sự chỉ đạo của cấp trên để triển khai thực hiện.

- Các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh chủ yếu là doanh nghiệp vừa và nhỏ nên

năng lực tài chính, công nghệ, mô hình quản lý còn hạn chế từ đó ảnh hưởng đến

công tác hợp tác với đối tác nước ngoài.

4.3. Thực trạng quản lý kinh phí NSNN cấp cho hoạt động đối ngoại của

tỉnh Kiên Giang giai đoạn 2011-2015

Hoạt động đối ngoại của tỉnh Kiên Giang hầu như chỉ sử dụng duy nhất một

nguồn kinh phí hoạt động được cấp bởi ngân sách nhà nước, cụ thể là ngân sách địa

phương. Hàng năm, căn cứ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của mình, các sở, ban

ngành, đoàn thể và Ủy ban nhân dân các huyện, thị, thành phố thuộc tỉnh Kiên

Giang, tổng hợp báo cáo tình hình, kết quả hoạt hoạt động đối ngoại năm qua và dự

kiến chương trình hoạt động đối ngoại của năm tiếp theo gửi về Sở Ngoại vụ tổng

hợp, trình Ủy ban nhân dân tỉnh phê duyệt, nhằm chủ động cho các hoạt động đoàn

ra, đoàn vào và phân bổ kinh phí phục vụ cho hoạt động đối ngoại; kế hoạch hoạt

động đối ngoại có trọng tâm, trọng điểm phù hợp với đường lối chủ trương chính

sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và đặc điểm tình hình yêu cầu nhiệm vụ

chính trị của từng ngành và địa phương.

Với mục tiêu tìm ra những giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản lý kinh

phí NSNN cấp cho hoạt động đối ngoại của tỉnh, luận văn chỉ đi sâu phân tích số

kinh phí chi thường xuyên (thanh toán dịch vụ công, hội nghị, công tác phí, đoàn ra,

đoàn vào, nghiệp vụ, bảo hộ công dân,…) và các khoản chi đột xuất khác do cấp

thẩm quyền quyết định, tức là loại bỏ những khoản chi mang tính chất xây dựng cơ

bản. Ở phần sau, luận văn sẽ phân tích thực trạng quản lý kinh phí ngân sách nhà

nước cấp cho hoạt động đối ngoại tỉnh Kiên Giang, giai đoạn 2011-2015 theo một

số tiêu chí như cách thức lập dự toán, quy trình quản lý và phương thức quản lý.

58

4.3.1. Công tác lập dự toán kinh phí cho hoạt động đối ngoại của tỉnh Kiên

Giang, giai đoạn 2011-2015

Trên cơ sở kế hoạch được phê duyệt, các đơn vị xây dựng dự toán ngân sách

phải bám sát các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội và mục tiêu, nhiệm

vụ phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011-2015 của Ngành, gắn với các nhiệm

vụ, hoạt động trọng tâm của cơ quan, đơn vị; lập dự toán NSNN theo đúng các quy

định của pháp luật về chế độ, tiêu chuẩn, định mức và trên tinh thần triệt để tiết

kiệm, chống lãng phí. Dự toán ngân sách nhà nước phải thuyết minh rõ ràng về cơ

sở pháp lý, chi tiết số thu, nhiệm vụ chi. Tuy nhiên, công tác đối ngoại là một lĩnh

vực đòi hỏi tính linh hoạt, nhạy bén trong xử lý tình huống và các vấn đề phát sinh,

vì vậy khó có khả năng lập kế hoạch đầy đủ cho các hoạt động của ngành trong năm

tiếp theo. Điều này dẫn đến việc kinh phí hoạt động đối ngoại hàng năm của tỉnh

thường không đủ đáp ứng cho hoạt động thực tế, do hiện nay địa phương đang thực

hiện việc quản lý kinh phí NSNN theo kết quả đầu vào (còn gọi là quản lý kinh phí

NSNN theo khoản mục), vì vậy khi dự toán được phê duyệt và kinh phí được phân

bổ sẽ tương ứng với các khoản mục chi trong dự toán và khi sử dụng kinh phí phải

phù hợp với dự toán ban đầu, các khoản chi phí phát sinh nằm ngoài dự toán sẽ

không thể thanh quyết toán được.

Cụ thể cách lập dự toán kinh phí ngân sách nhà nước cho hoạt động đối ngoại

của tỉnh hàng năm do Sở Ngoại vụ lập, như sau:

Chi thường xuyên:

(1) Kinh phí chưa sử dụng kỳ trước chuyển sang

(2) Kinh phí đã rút, đã nhận trong kỳ

(3) Tổng kinh phí được sử dụng kỳ này

(4) Kinh phí đã sử dụng đề nghị quyết toán kỳ này

(5) Kinh phí giảm kỳ này

(6) Kinh phí chưa sử dụng chuyển kỳ sau

59

Ngoài những khoản chi được thể hiện trong báo cáo hằng năm, những khoản

chi khác cho công tác đối ngoại của tỉnh liên quan đến an ninh và quốc phòng

không được phép tiếp cận nên trong giới hạn luận văn này, số liệu chi hằng năm chỉ

phản ảnh hoạt động chi thường xuyên mà thôi.

Nhận xét: Cách thức lập dự toán ngân sách theo kết quả đầu vào này còn nhiều

hạn chế, dẫn đến tình trạng mất cân đối trong phân bổ kinh phí. Mặt khác, việc lập

dự toán theo đầu vào, dễ dẫn đến tình trạng lãng phí ngân sách, tệ nạn tham những.

Lãnh đạo các đơn vị được phân bổ kinh phí sẽ tìm cách sử dụng cho hết phần kinh

phí đã được phân bổ cho năm dự toán, cho dù hoạt động đó là không cần thiết,

không mang lại hiệu quả cho địa phương

4.3.2 Quá trình duyệt dự toán

Hàng năm, vào khoảng tháng 7 đến tháng 8, các đơn vị và địa phương trong

toàn tỉnh sẽ căn cứ vào thực tế yêu cầu thực hiện các nhiệm vụ về kinh tế, chính trị,

xã hội tại địa phương để xây dựng kế hoạch và dự toán NSNN năm kế hoạch (theo

từng lĩnh vực hoạt động, trong đó có phần dự toán thu, chi cho hoạt đông đối ngoại)

cho đơn vị; việc lập dự toán NSNN phải theo đúng các quy định của pháp luật về

chế độ, tiêu chuẩn, định mức và trên tinh thần triệt để tiết kiệm, chống lãng phí. Dự

toán ngân sách nhà nước phải thuyết minh rõ ràng về cơ sở pháp lý, chi tiết số thu,

nhiệm vụ chi.

Sau đó gửi bảng dự toán của đơn vị mình về Sở Tài chính để tổng hợp, tham

mưu trình UBND tỉnh;

Sau khi thẩm tra, tổng hợp kế hoạch và dự toán của từng đơn vị, địa phương

trong tỉnh, Sở Tài chính tham mưu phân bổ kinh phí sao cho hợp lý, nhằm đảm bảo

các cơ quan chuyên môn đảm bảo kinh phí hoạt động theo kế hoạch đề ra cho từng

hạn mục thu, chi của các đơn vị. Sau đó trình UBND tỉnh phê duyệt. Căn cứ vào kết

quả đó, tại kỳ họp HĐND tỉnh sẽ thông qua kế hoạch cấp kinh phí hoạt động cho

từng đơn vị.

Đến khoảng tháng 12 hằng năm, Sở Tài chính tỉnh Kiên Giang sẽ hoàn thành

việc cấp kinh phí hoạt động cho các đơn vị.

60

Nhận xét: Với quy trình quản lý và sử dụng kinh phí ngân sách nhà nước trên,

người lập kế hoạch và dự toán ngân sách hoàn toàn không quan tâm đến những kết

quả đạt được của kỳ trước để làm cơ sở cho kế hoạch lần này. Họ cũng không có

thông tin về những kết quả cần đạt được trong kỳ kế hoạch làm đầu vào cho lập

ngân sách. Các đơn vị ở địa phương chỉ căn cứ vào nhiệm vụ kinh tế, chính trị và xã

hội địa phương để lập dự toán ngân sách chứ chưa cập nhật những mục tiêu chiến

lược của tỉnh, của chính phủ để lập dự toán. Việc chi ngân sách của tỉnh hầu như

được quyết định bởi lượng ngân sách thực tế của tỉnh chứ không hướng đến mục

tiêu của tỉnh và của từng ngành.

Về kinh phí cho hoạt động đối ngoại

Kinh phí cấp cho hoạt đông đối ngoại của từng ngành, từng địa phương trong

tỉnh đều được cấp từ nguồn NSNN của địa phương theo kế hoạch hoạt động hàng

năm của đơn vị. Các đơn vị được cấp kinh phí đối ngoại hằng năm và tự giữ, sử

dụng và thanh quyết toán theo đúng quy đinh của luật ngân sách hiện hành; tự chịu

trách nhiệm về các khoản chi của mình.

Riêng phần kinh phí đối ngoại của tỉnh được giao cho Sở Ngoại vụ quản lý

dựa trên cơ sở Kế hoạch và dự toán đầu năm.

Như vậy có thể thấy, các đơn vị sử dụng ngân sách nhà nước đã được duyệt

trên cơ sở kế hoạch dự toán theo một quy trình được lập lại nhiều năm qua. Đây là

cách thức quản lý ngân sách hướng vào kết quả đầu vào hơn là kết quả đầu ra. Hay

nói rõ hơn, đây là cách lập kế hoạch ngân sách theo khoản mục. Tức là chi tiêu

ngân sách được khoản mục hóa. Những khoản mục này luôn luôn được chi tiết và

định rõ số tiền cho một cơ quan cụ thể hoặc cho các tiểu mục được phép chi là bao

nhiêu. Các khoản mục chi tiêu được quy định cụ thể mức chi tiêu theo từng khoản

mục trong quy trình phân phối ngân sách nhằm bắt buộc cơ quan phải chi tiêu theo

đúng khoản mục quy định và cơ chế trách nhiệm giải trình chú trọng vào quản lý

các yếu tố đầu vào.

61

4.3.3. Quá trình chấp hành kinh phí NSNN cho hoạt động đối ngoại theo

kế hoạch được phê duyệt

Công tác quản lý kinh phí NSNN cho hoạt động đối ngoại tỉnh Kiên Giang giai

đoạn 2011-2015 cơ bản đã hoàn thành kế hoạch đề ra hàng năm và hoàn thành

nhiệm vụ chính trị do Trung ương và địa phương giao phó. Tuy nhiên, tác giả nhận

thấy, để đánh giá khách quan hơn trong việc hoàn thành công tác đối ngoại tại địa

phương nói chung và việc sử dụng kinh phí NSNN phục vụ cho công tác đối ngoại

nói riêng đạt được ở mức độ nào và hiệu quả ra sao, chúng ta cần đi sâu vào so sánh

và phân tích các số liệu chi tiết sau:

Bảng 4.10. So sánh báo cáo QT KPĐN và báo cáo KQCT hằng năm của SNgV

Báo cáo kết quả công tác đối ngoại Báo cáo quyết toán kinh phí đối

hằng năm ngoại (chi thường xuyên)

Công tác đối ngoại Thanh toán dịch vụ công

Tổ chức, quản lý đoàn ra Vật tư văn phòng

Tổ chức, quản lý đoàn vào Thông tin, tuyên truyền, liên lạc

Ký kết thực hiện thỏa thuận quốc tế, Hội nghị

hợp tác quốc tế Công tác phí

Công tác lãnh sự Chi đoàn ra

Công tác Việt kiều Chi đoàn vào

Công tác tiếp nhận viện trợ phi chính Sửa chữa tài sản phục vụ công tác

phủ nước ngoài Kinh phí nghiệp vụ

Thông tin, tuyên truyền đối ngoại Chi khác

Công tác quản lý các tổ chức phi chính

phủ nước ngoài tại địa phương

Công tác tổ chức hội nghị hội thảo quốc

tế

Công tác khác

Công tác quản lý biên giới

62

Công tác chuyên môn

Công tác phân giới cắm mốc

Công tác tổ chức, hành chính, quản trị

Công tác tổ chức, đào tạo cán bộ công

chức

Công tác hành chính, quản trị, lễ tân

Công tác quốc phòng, an ninh, phòng

chống cháy nổ

Công tác phiên dịch, dịch thuật

Công tác quản lý tài chính

Kinh phí Sở

Phân giới cắm mốc

Công tác thanh tra

Công tác thanh tra chuyên ngành và

hành chính

Công tác giải quyết khiếu nại - tố cáo

Công tác phòng chống tham nhũng và

thực hành tiết kiệm

Với cách hạch toán các khoản chi thường xuyên không tương thích với báo

cáo kết quả hoạt động hằng năm của công tác đối ngoại của tỉnh và các quy định về

quản lý, sử dụng ngân sách nhà nước đối với hoạt động đối ngoại của địa phương

thể hiện trong Nghị định 117/NĐ-CP, ngày 19 tháng 10 năm 2017, Sở Ngoại vụ sẽ

khó có thể đánh giá được hiệu quả của những khoản chi cho hoạt động đối ngoại.

Đi sâu vào phân tích những khoản chi hằng năm cho hoạt động đối ngoại của

tỉnh, ta dễ dàng nhận thấy quyền tự chủ của người quản lý trong quản lý chi tiêu

ngân sách rất thấp. Điều này thể hiện qua sự chênh lệch giữa khoản kinh phí được

duyệt trong kỳ và khoản kinh phí thực sự chi trong kỳ và những khoản kinh phí

63

chưa sử dụng hết không được chuyển hết sang năm sau để tiếp tục thực hiện. Số

liệu trong bảng 4.11 sau đây phản ánh nhận định trên.

Bảng 4.11. Chi thường xuyên cho hoạt động đối ngoại từ 2011 đến 2015

Đơn vị tính: Ngàn đồng

STT Chỉ tiêu

Năm 2011

Năm 2012

Năm 2013

Năm 2014

Năm 2015

1

85.746

90.998

495.359 28.364 55.510

1

2

3.162.525 3.383.052 5.443.012 2.752.000 2.676.012

2

3

3.172.423 3.394.374 5.482.595 2.675.649 2.731.522

3

4

2.826.645 2.292.976 4.783.895 2.620.139 2.097.632

4

KP chưa sử dụng kỳ trước chuyển sang KP đã rút, đã nhận trong kỳ Tổng KP được sử dụng kỳ này KP đã sử dụng đề nghị quyết toán kỳ này

5

KP giảm kỳ này

- 1.100.000

670.000 -

-

5

6

345.778

76.081

28.700 55.510 633.889

6

KP chưa sử dụng chuyển kỳ sau

Nguồn: Tổng hợp từ báo cáo tình hình kinh phí và quyết toán kinh phí sử dụng hằng

năm của Sở Ngoại vụ tỉnh Kiên Giang.

Hình 4.2. Biến động giữa ngân sách được duyệt và ngân sách thực chi

64

Tình hình Kế hoạch chi thường xuyên được duyệt cho hoạt động đối ngoại tại

tỉnh Kiên Giang trong thời gian từ năm 2011 đến năm 2015 có sự biến động theo

chiều hướng giảm dần từ 3.172.423 ngàn đồng xuống 2.731.522 ngàn đồng. Tuy

nhiên trong thực tế, số tiền đã sử dụng thấp hơn kế hoạch được duyệt (hình 4.1).

Ngoại trừ năm 2014, ngân sách được duyệt chi và thực chi gần như bằng nhau thì

những năm còn lại, hầu như ngân sách được duyệt chi không giải ngân hết. Trong

báo cáo của Sở Ngoại vụ thì việc sử dụng ngân sách như trên được đánh giá là đã sử

dụng tiết kiệm ngân sách nhà nước cho hoạt động đối ngoại. Tuy nhiên, việc sử

dụng ít kinh phí trên chưa phản ánh được tính tiết kiệm và tính hiệu quả. Để đo

lường được tính hiệu quả và tiết kiệm kinh phí, không thể so sánh số tiền chi ra ít

hơn và vẫn thực hiện được những hạn mục đã đề ra là kết luận được. Theo quản lý

chi ngân sách theo kết quả đầu ra thì, các hoạt động đối ngoại này cần phải được so

sánh với kết quả mong đợi được xác định trước khi thực hiện và đo lường kết quả

thực hiện với mục tiêu chiến lược của tỉnh giao thì mới có thể đánh giá được. Chính

vì vậy, cần phải căn cứ vào kết quả đạt được và so sánh giữa đầu vào và đầu ra để

đánh giá được một cách khái quát tình hình chi ngân sách.

Số liệu trong bảng 4.11 phản ánh việc sử dụng ngân sách cho hoạt động đối

ngoại ngày càng giảm dần nhưng số liệu này không phản ánh cụ thể cho từng hoạt

động đối ngoại của tỉnh, đồng thời trong báo cáo kết quả công tác và phương hướng

nhiệm vụ hoạt động đối ngoại của tỉnh không thể hiện rõ số lượng và chất lượng của

những hoạt động sẽ được lên kế hoạch mà chỉ mang tính định hướng (xem phụ lục 3

– Báo cáo kết quả công tác năm và phương hướng nhiệm vụ năm kế hoạch). Chính

vì vậy, việc sử dụng ngày càng ít kinh phí không mang tính chủ động của hoạt động

chi ngân sách cho hoạt động đối ngoại và cũng không hướng đến tính hiệu quả của

hoạt động chi. Điều này thể hiện tính bị động trong những khoản chi và căn cứ vào

ngân sách để quyết định chi.

Nhận xét: Với cách báo cáo quyết toán kinh phí tách biệt với báo cáo kết quả

công tác và phương hướng nhiệm vụ hằng năm như trên, đã bộc lộ những hạn chế

sau đây:

65

(1) Chỉ tập trung vào ngắn hạn; tách rời giữa chi thường xuyên và chi đầu tư

(2) Mối quan hệ giữa chính sách, kế hoạch, thực tế và ngân sách là rất yếu và

hầu như phụ thuộc vào ngân sách hằng năm.

(3) Người quản lý hay người lập kế hoạch ngân sách không có thông tin về kết

quả đầu ra nên không thể dự toán chính xác và chi tiêu phù hợp lượng ngân

sách được cấp.

(4) Sự đánh giá của cơ quan chủ quản hằng năm chủ yếu dựa vào so sánh mức

độ chi tiêu trong mỗi khoản mục đầu vào giữa kế hoạch với thực hiện hoặc

giữa năm này với năm khác. Chưa dựa vào tính hiệu quả và hiệu lực của

hàng hóa công được cung cấp và so sánh với mục tiêu chính sách.

Số liệu chi thường xuyên theo khoản mục từ 2011 đến 2015

Đi sâu vào phân tích từng khoản mục trong dự toán ngân sách cho hoạt động

đối ngoại của tỉnh, trong 10 hạn mục chi thường xuyên thì chi ngân sách cho hoạt

động đoàn vào và đoàn ra chiếm tỷ trọng lớn hơn nhiều so với những hạn mục khác.

Chi đoàn ra chiếm tỷ trọng từ 41,6% đến 57,8% tổng ngân sách chi cho hoạt động

đối ngoại hằng năm. Chi đoàn vào chiếm tỷ trọng trên 20% mỗi năm.

Bảng 4.12. Chi thường xuyên theo từng khoản mục từ 2011 đến 2015

Chênh lệch tương đối

Năm

Năm

Năm

Năm

Năm

Hạn mục

2012

2013

2014

2015

TT

2011

2012

2013

2014

2015

2011

2012

2013

2014

44,6

54,6

110

77,1

71 22,3 101,7 -29,9

-8,0

Thanh toán 1 dịch vụ công

1

2,5

6,3

3,7

1,9

Tỷ trọng (%)

3,8

32,7

7,2

9,5

10

9,9

-78,0 32,4

4,7

-0,5

Vật tư văn 2 phòng

2

0,3

0,6

0,5

0,3

Tỷ trọng (%)

2,8

38,1

15,6

10

20,1

13,8

-58,9 -35,9 100 -31,2

Thông tin, 3 tuyên truyền,

3

liên lạc

Đơn vị tính: Triệu đồng

0,7

0,6

1,0

0,4

Tỷ trọng (%)

3,2

0,4

3,3

-

7,3

1,6

729,5

-100

- -78,0

Hội nghị 4

0,2

-

0,3

-

4

Tỷ trọng (%)

0,0

131,8

123,9

220,7

236,9

182,5

-6,0 78,1

7,3 -23,0

Công tác phí 5

5,6

12,7

11,3

4,9

5

Tỷ trọng (%)

11,2

492,1 1.268,9 899 1.134,1

1.765

157,8 -29,2 26,2 55,6

Chi đoàn ra 6

57,8

51,8

54,2

47,4

6

Tỷ trọng (%)

41,6

325,2

535,9

475,6

491

397,6

64,8 -11,3

3,3

-19

Chi đoàn vào 7

24,4

27,4

23,5

10,7

7

Tỷ trọng (%)

27,5

Sửa chữa tài

0,1

140,3

-

- 624,9 140.262 - 100

-

-

sản phục vụ 7 công tác

8

6,4

-

-

16,8

Tỷ trọng (%)

-

4,9

10,3

9,2

39,6

29

108,8 -10,8

330 -26,6

Kinh phí 9 nghiệp vụ

9

0,5

0,5

1,9

0,8

Tỷ trọng (%)

0,4

112

35,5

1,5

77

625

-68,3 -95,8 5.018 711,5

Chi khác

10

1,6

0,1

3,7

16,8

Tỷ trọng (%)

9,5

1.182,2 2.195,8 1.735,7 2.093,3 3.720,5

85,7 -21,0 20,6 77,7

Tổng cộng

66

Nhận xét: Tất cả 10 khoản mục chi thường xuyên được quyết toán trên chưa có

sự liên kết với những kết quả đạt được mỗi năm. Như phân tích trên, những số liệu

này chỉ cho thấy sự biến động về mặt số lượng tiền chứ chưa phản ánh chất lượng

của mỗi hoạt động chi tiêu. Để phản ánh được chất lượng chi tiêu hay nói khác đi là

tính hiệu quả trong chi tiêu thì kế hoạch ngân sách hằng năm (phụ lục 3) phải được

lập ra một cách chi tiết, dự tính được các đầu ra then chốt cần đạt được. Kết quả báo

cáo cuối năm phải có sự so sánh giữa số tiền chi thường xuyên và kết quả đạt được

theo từng khoản mục đầu ra mong muốn. Nếu khoản mục nào đạt được với số tiền

chi ra tiết kiệm hơn thì cho thấy việc sử dụng ngân sách là tiết kiệm.

67

4.3.4. Quá trình quyết toán kinh phí NSNN cho hoạt động đối ngoại tỉnh

Kiên Giang

Sở Ngoại vụ là cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh, thực hiện chức năng

nhiệm vụ tham mưu, giúp UBND tỉnh quản lý hành chính các hoạt động đối ngoại

trên địa bàn tỉnh Kiên Giang. Có con dấu và tại khoản riêng tại Kho bạc nhà nước

tỉnh, được cấp kinh phí hoạt động hàng năm từ nguồn kinh phí NSNN. Về cơ cấu tổ

chức, Sở Ngoại vụ chịu sự quản lý của UBND tỉnh, về chuyên môn nghiệp vụ chịu

sự quản lý của Bộ Ngoại giao.

Sở Ngoại vụ có trách nhiệm quản lý và sử dụng nguồn kinh phí hoạt động đối

ngoại của tỉnh, chịu trách nhiệm trước Tỉnh ủy, UBND tỉnh và Bộ Ngoại giao về

công tác quản lý chuyên môn cũng như công tác quản lý kinh phí NSNN cho hoạt

động đối ngoại tại địa phương.

Hàng năm, khi kết thúc năm ngân sách, Sở Ngoại vụ thực hiện việc khoá sổ kế

toán ngân sách, xử lý ngân sách cuối năm và đối chiếu chứng từ chi thực tế với Kho

bạc nhà nước tỉnh (bởi vì Sở Ngoại vụ là đơn vị hành chính cấp tỉnh nên mở tài

khoản giao dịch tại tỉnh) để xác nhận số liệu, từ đó lập Báo cáo quyết toán ngân

sách nhà nướcc theo các khoản mục chi.

Báo cáo quyết toán NSNN của Sở Ngoại vụ gửi Sở Tài chính tỉnh, bởi vì

không có đơn vị dự toán cấp I nên gửi trực tiếp Sở Tài chính, để cơ quan tài chính

thẩm định quyết toán NSNN theo quy định.

4.4. Đánh giá ưu nhược điểm của quản lý chi ngân sách cho hoạt động đối

ngoại tại tỉnh Kiên Giang

Để đánh giá hoạt động quản lý chi ngân sách cho hoạt động đối ngoại tỉnh

Kiên Giang và quy trình quản lý chi ngân sách hoạt động đối ngoại hiện hành, tác

giả tiến hành phỏng vấn các cán bộ, công chức là những người tham gia trực tiếp

vào công tác lập dự toán ngân sách, những người làm công tác chuyên môn tại các

sở, ban, ngành có hoạt động liên quan đến công tác đối ngoại của tỉnh, các chuyên

viên làm công tác tham mưu cấp dự toán ngân sách của Sở Tài chính. Tác giả đưa ra

68

nội dung phỏng vấn được thể hiện trong phụ lục 1. Người được phỏng vấn sẽ được

phát bảng câu hỏi mở đề cập đến những câu hỏi như Chuyên môn hiện tại; Mô tả

công việc; Những khó khăn trong công việc lập dự toán ngân sách; Kinh nghiệm

vượt qua khó khăn; Mô tả quá trình lập dự toán ngân sách của cơ quan đang làm;

Căn cứ lập dự toán ngân sách; Quản lý ngân sách theo đầu vào hay đầu ra; Những

ưu điểm và hạn chế trong lập ngân sách đối ngoại; Nguyên nhân? Những khoản

mục công việc nào cần chi thêm ngân sách; Những hoạt động đối ngoại đạt hiệu

quả; góp ý cho hoạt động lập ngân sách;

Kết quả phỏng vấn có thể tóm tắt như sau:

(1) Tất cả những người phỏng vấn đều đang có chuyên môn làm việc liên quan

đến hoạt động lập, chi và quyết toán ngân sách cho hoạt động đối ngoại của cơ quan

chức năng trong tỉnh Kiên Giang.

(2) Các công đoạn chính mà họ thực hiện trong lập dự toán ngân sách cho đơn

vị là xin chủ trương UBND tỉnh, lập kế hoạch ngân sách, kế hoạch được duyệt và

tùy theo những hoạt động thực tế phát sinh mà Sở Tài chính cấp ngân sách. Những

hoạt động nào ngoài dự toán thì lập kế hoạch kế tiếp để xin ý kiến. Đặc biệt là đối

với đoàn ra đoàn vào trong năm, không thể dự tính được.

(3) Những công đoạn khó khăn nhất là những hoạt động đối ngoại mà cơ quan

không thể dự tính trước được và thường bị động như đoàn vào, đoàn ra, bảo hộ

công dân.

(4) Khó khăn tiếp theo còn thể hiện ở quá trình thu hồi nợ của các chủ tàu cá,

trong công tác bảo hộ công dân mà địa phương đã tạm ứng trước từ ngân sách để

đưa ngư dân về nước do khai thác hải sản trái phép.

(5) Chưa cụ thể được hiệu quả từ các đoàn đi học tập kinh nghiệm, xúc tiến

thương mại ở nước ngoài của lãnh đạo tỉnh nằm trong kế hoạch mang lại lợi ích gì

cho địa phương. Nếu xét về kế hoạch hoạt động của ngành thì đạt chỉ tiêu đề ra, xét

về kế hoạch sử dụng kinh phí thì chưa mang lại kết quả thiết thục cho tỉnh nhà.

69

(6) Khó khăn trong công tác quản lý các nguồn viện trợ phi chính phủ, do một

số địa phương cơ sở chưa nắm rõ thủ tục tiếp nhận dự án viên trợ từ nguồn viện trơ

PCP nên không làm thủ tục tiếp nhận mà tiếp nhận trực tiếp.

(7) Kinh nghiệm vượt qua khó khăn: “Cố gắng dự kiến đầy đủ các hoạt động

từ đầu năm”

(8) Các văn bản khoán định mức đi công tác nước ngoài, chi tiếp khách nước

ngoài, hội nghị hội thảo quốc tế quá thấp so với giá cả thị trường hiện nay, nên việc

lập dự toán dễ dẫn đến bội chi.

(9) Quá trình lập ngân sách: căn cứ vào quyết định 21 của UBND tỉnh Kiên

Giang; Thông tư 102 của Bộ Tài chính. Căn cứ lập kế hoạch ngân sách cho hoạt

động đối ngoại là kế hoạch hoạt động đối ngoại của những năm trước sau đó lập kế

hoạch ngân sách cho từng mục công việc một cách cụ thể. Những ưu điểm là tiết

kiệm ngân sách vì phải chờ duyệt theo từng hoạt động phát sinh. Hạn chế là cho dù

lập dự toán theo từng hạn mục từ đầu năm nhưng thực tế phát sinh lại không giống

như kế hoạch và thường phải chi vượt kế hoạch ngân sách đã đề ra.

(10) Nguyên nhân của hạn chế đó là: Không thể dự toán đầy đủ các hoạt động

trong năm; vấn đề trượt giá, lạm phát; rất nhiều hoạt động đối ngoại hoàn toàn

không thể dự toán chính xác được; những hoạt động ngoại giao thường chi vượt

định mức vì tính chất ngoại giao.

(11) Tất cả câu trả lời đều tập trung vào lập dự toán ngân sách theo hạn mục và

thường rơi vào thế bị động hoặt vượt định mức chi ngân sách được duyệt.

Như vậy, có thể tổng hợp các thông tin trên như sau: Ngân sách hoạt động đối

ngoại của các cơ quan cấp tỉnh được lập vào đầu năm và thường là một phần của kế

hoạch tổng thể của cơ quan. Trong năm, những phát sinh liên quan đến hoạt động

đối ngoại đã được dự trù trước sẽ được cấp ngân sách hoạt động theo từng hạn mục.

Những hoạt động đối ngoại không được dự tính trước phải lập kế hoạch đề xuất cấp

ngân sách bổ sung trình UBND tỉnh duyệt sau đó được cấp ngân sách; Một số văn

bản lỗi thời cần được thay thế cho phù hợp với tình hình kinh tế hiện nay; Công tác

ngoại giao khó có thể linh hoạt xử lý các vụ việc phát sinh do nằm ngoài kế hoạch,

70

chi vượt dự toán. Đồng thời việc sử dụng kinh phí NSNN cho đoàn ra có thể gây

lãng phí, không mang lại hiệu quả.

4.4.1. Ưu điểm

Quy trình lập, cấp và chi ngân sách đều được thực hiện đúng theo quy định.

Các hoạt động đối ngoại được triển khai tại tỉnh Kiên Giang trong thời gian

qua đã bám sát chủ trương, đường lối chung của Đảng và Nhà nước.

Hoạt động hội nhập quốc tế ngày càng đi vào thực chất; trong đó lấy hội nhập

kinh tế làm trọng tâm và hội nhập các lĩnh vực khác tạo điều kiện thuận lợi cho

công tác xúc tiến, vận động, thu hút các nguồn lực bên ngoài phục vụ phát triển

kinh tế - xã hội của tỉnh.

Công tác quản lý các hoạt động đối ngoại của tỉnh theo 3 hướng trọng tâm là:

ngoại giao chính trị, ngoại giao văn hóa và ngoại giao kinh tế cơ bản đã hoàn thành.

4.4.2. Tồn tại, hạn chế

Ngân sách tỉnh còn hạn chế nên việc triển khai chương trình hoạt động đối ngoại

của địa phương nói chung và Lãnh đạo tỉnh nói riêng mang tính khả thi chưa cao.

Công tác tổ chức triển khai của các cấp, các ngành, địa phương chưa sâu rộng,

chưa chủ động, còn trông chờ vào chỉ đạo của cấp trên, còn bị động và mang tính lập

lại những hoạt động của những năm trước.

Công tác nắm thông tin của cơ quan ngoại vụ địa phương tham mưu cho Lãnh

đạo tỉnh về tình hình kinh tế thế giới, về đối tác, thị trường mặc dù có cải thiện nhiều

nhưng chưa đáp ứng tốt nhu cầu phát triển kinh tế xã hội của tỉnh;

Công tác quảng bá hình ảnh địa phương, hỗ trợ xúc tiến kinh tế đối ngoại chưa

ngang tầm với tiềm năng của địa phương và đối tác. Các hoạt động xúc tiến thương

mại, du lịch và đầu tư chưa có nhiều sáng kiến giúp thúc đẩy kinh tế và giúp doanh

nghiệp mở rộng thị trường ra ngoài lãnh thổ Việt Nam; chỉ dừng lại ở tham gia hội

chợ trong nước, tổ chức hội thảo và kết nối nhu cầu đầu tư của doanh nghiệp nước

ngoài vào tỉnh Kiên Giang. Hoạt động xúc tiến chưa đa dạng và mang tính lập lại

nhiều theo những năm trước. Chưa có những nghiên cứu đánh giá mối quan hệ giữa

71

hoạt động xúc tiến của tỉnh với tốc độ tăng trưởng GDP của tỉnh, đa phần hướng đến

nhiệm vụ chính trị nhiều hơn là hiệu quả đầu ra.

Các cơ quan sử dụng ngân sách đối ngoại chỉ nhấn mạnh đến khâu lập ngân

sách với các khoản chi tiêu có tính tuân thủ kế hoạch đã đưa ra; và trong thực tế thì

số tiền sử dụng cho hoạt động đối ngoại thường thấp hơn kế hoạch được duyệt.

Điều này có thể giải thích là đã tiết kiệm được ngân sách, tuy nhiên chưa có sự so

sánh với kết quả đạt được tương ứng dẫn đến khó có thể kết luận mức độ hiệu quả

của các hoạt động chi ngân sách đó.

Những hoạt động chi tập trung nhiều vào các hạn mục đã từng chi trong những

năm trước và không trả lời được câu hỏi tại sao tiền phải chi tiêu và cần chi cho

hoạt động nào trước, mục tiêu nào trước...

Ngân sách chỉ được lập trong ngắn hạn cho từng năm nên chưa thể hiện được

chiến lược chi tiêu.

Do không có sự so sánh mang tính chất định lượng giữa kết quả đạt được với

kết quả chi ngân sách nên không chú trọng đúng mức đến tính hiệu quả phân bổ

nguồn lực và hiệu quả hoạt động trong cung ứng hàng hóa công.

4.4.3. Nguyên nhân của tồn tại hạn chế

Một số nguyên nhân có thể kể đến như sau:

Thứ nhất, hoạt động đối ngoại của tỉnh Kiên Giang, một tỉnh có đặc trưng biên

giới, còn mang nặng tính chính trị. Chính vì vậy, việc hoàn thành mục tiêu chính trị

được quan tâm nhiều hơn các mục tiêu khác.

Thứ hai, quá trình lập dự toán ngân sách cho hoạt động đối ngoại được thực

hiện mang tính lập đi lập lại hằng năm và chỉ chú trọng đến tiết kiệm ngân sách.

Thứ ba, hoạt động đối ngoại, ngoài hoạt động xúc tiến thương mại, du lịch và

đầu tư của tỉnh thì hầu hết các hoạt động đối ngoại còn lại đều là thực hiện nhiệm

vụ được cấp trên giao nên đề cao tính tuân thủ hơn là hướng đếu sự lựa chọn những

hoạt động cần làm để mang đến hiệu quả cao hơn trong quá trình cung cấp dịch vụ

hành chính công cho dân.

72

Thứ tư, chưa có khóa tập huấn nào cho nhân sự phụ trách mảng lập dự toán

ngân sách để chuyển đổi từ lập dự toán ngân sách theo hạn mục sang lập dự toán

ngân sách theo kết quả đầu ra.

Thứ năm, việc lập dự toán ngân sách như những năm qua được báo cáo là đã

mang lại nhiều kết quả tốt và những đánh giá về hạn chế vẫn còn mang tính chung

chung mà chưa hướng đến so sánh giữa kết quả đạt được với mục tiêu đề ra và

lượng ngân sách đã sử dụng. Chính vì vậy tạo tư tưởng ỷ lại và hài lòng với hoạt

động của mình và không quan tâm đến sự thay đổi.

Thứ sáu có lẽ do nguồn ngân sách cho hoạt động đối ngoại không đáng kể so

với tổng ngân sách phải chi hằng năm cho toàn tỉnh Kiên Giang, dưới 5 tỷ một năm,

nên chưa có nhiều sự quan tâm để cải thiện tình hình chi sao cho hiệu quả.

73

CHƯƠNG 5: KẾT LUẬN

5.1. Tóm tắt quá trình nghiên cứu

Đề tài đã trình bày khung phân tích quản lý ngân sách theo kết quả đầu ra làm

cơ sở phân tích và đánh giá hoạt động chi ngân sách cho công tác đối ngoại của tỉnh

Kiên Giang.

Đề tài cũng tập trung phân tích tình hình đối ngoại của tỉnh Kiên Giang trong

giai đoạn 2011 đến 2015 và tình hình sử dụng ngân sách cho hoạt động đối ngoại

của Sở Ngoại vụ tỉnh Kiên Giang. Theo đánh giá chung, hoạt đông đối ngoại của

tỉnh trong những năm qua đã đạt được nhiều kết quả đáng kể, trong đó hoạt động

đoàn ra và đoàn vào có vai trò quan trọng trong mọi hoạt động đối ngoại. Lượng

ngân sách đầu tư hằng năm cho hoạt động đối ngoại có xu hướng giảm đồng thời

ngân sách chi cho hoạt động đối ngoại hằng năm đều thấp hơn so với dự toán được

duyệt. So với tốc độ tăng trưởng kinh tế của tỉnh thì hoạt động đối ngoại đã góp

phần vào việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và tiết kiệm ngân sách cho tỉnh Kiên

Giang.

Quá trình phân tích tình hình đối ngoại và chi kinh phí ngân sách nhà nước cho

hoạt động đối ngoại đã giải quyết được mục tiêu thứ nhất đặt ra đó là đánh giá ưu và

nhược điểm của công tác quản lý kinh phí ngân sách nhà nước cho hoạt động đối

ngoại của tỉnh Kiên Giang trong thời gian qua; tìm hiểu nguyên nhân của những ưu

nhược điểm đó. Để đạt được mục tiêu này, tác giả đã thu thập dữ liệu thứ cấp từ báo

cáo của Sở Ngoại vụ tỉnh Kiên Giang và đánh giá của tỉnh ủy Kiên Giang về hoạt

động đối ngoại của tỉnh. Ngoài ra, để xác định quy trình quản lý ngân sách của tỉnh

trong cơ quan ngoại giao và tìm hiểu những ưu điểm và hạn chế của hoạt động quản

lý ngân sách, tác giả đã tiến hành phỏng vấn sâu với bảng câu hỏi mở nhằm thu thập

thông tin về ý kiến của những người trực tiếp tham gia vào hoạt động lập dự toán

ngân sách cho hoạt động đối ngoại của tỉnh Kiên Giang trong những năm qua. Dữ

liệu thu thập được phân tích theo phương pháp so sánh, đối chiếu từ đó nhìn thấy

74

những ưu điểm và hạn chế của hoạt động quản lý kinh phí cho công tác đối ngoại

trong thời gian qua của tỉnh Kiên Giang.

Ưu điểm nổi trội của hoạt động đối ngoại của tỉnh Kiên Giang trong thời gian

qua là đã đạt được mục tiêu của cấp trên giao cho liên quan đến nhiệm vụ chính trị

của tỉnh.

Hạn chế nổi trội ở đây là việc duy trì quá lâu cách lập dự toán ngân sách cho

hoạt động đối ngoại theo khoản mục và không quan tâm nhiều đến đo lường hiệu

quả từ kết quả đầu ra so với nguồn kinh phí đã chi.

Nguyên nhân dễ thấy là vấn đề nhân sự, đào tạo và vấn đề liên quan đến quy

định của nhà nước về hoạt động đối ngoại và quản lý ngân sách cho hoạt động đối

ngoại.

5.2. Khuyến nghị chính sách

5.2.1. Đối với Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân và UBND tỉnh Kiên Giang

Trong phân tích tình hình sử dụng ngân sách nhà nước chi cho hoạt động đối

ngoại từ năm 2011 đến 2015 cho thấy, hầu như ngân sách thực chi luôn thấp hơn

ngân sách được duyệt hằng năm. Điều này có thể thấy rằng, xét về số tiền thì việc

chi này là tiết kiệm cho ngân sách. Tuy nhiên xét theo hiệu quả thì chưa đủ căn cứ

để xét vì thực sự trong báo cáo hoạt động đối ngoại hằng năm thì chưa đề cập đến

kết quả đầu ra mà chỉ thống kê những hoạt động đã làm xong cùng với lượng ngân

sách tiết kiệm.

Chính vì vậy, để đánh giá tính hiệu quả của hoạt động đối ngoại và đánh giá

kết quả thực hiện hoạt động đối ngoại, nhất thiết cần báo cáo thông tin đầu ra của

từng đơn vị sử dụng ngân sách cho hoạt động đối ngoại để làm cơ sở so sánh và

đánh giá tính hiệu quả giữa số tiền chi ra và kết quả đầu ra đã đạt được. Hội đồng

nhân dân cần căn cứ vào sự đánh giá tính hiệu quả và hiệu lực của hàng hóa công

do các cơ quan đối ngoại thực hiện và so sánh với mục tiêu chính sách để phân bổ

ngân sách cho hoạt động đối ngoại một cách phù hợp và hiệu quả hơn.

75

Đối với lĩnh vực đối ngoại tại địa phương, cần đổi mới quy trình lập, phân bổ,

chấp hành và quyết toán ngân sách: chuyển từ kiểu truyền thống (dựa trên cơ sở

tổng nguồn lực hiện có và hệ thống các chế độ, tiêu chuẩn, định mức hiện hành để

xây dựng dự toán và phân bổ ngân sách, dẫn đến hiệu quả quản lý ngân sách thấp,

không gắn giữa kinh phí đầu vào với kết quả đầu ra, chỉ quan tâm đến lợi ích trước

mắt, không có tầm nhìn trung hạn, ngân sách bị phân bổ dàn trải, hiệu quả sử dụng

nguồn lực thấp) sang phương pháp hiện đại, dựa vào kết quả đầu ra và gắn với tầm

nhìn trung hạn. Có như vậy thì mới đánh giá từng hoạt động đối ngoại một cách

tổng quát và cho phép phát huy tối đa những kết quả đầu ra đạt được và đo lường

tốt hiệu quả chi ngân sách cho hoạt động đối ngoại của tỉnh.

Ngoài ra, để có thể đo lường hiệu quả tốt hơn như kể trên, người lãnh đạo của

cơ quan cần được trao quyền tự chủ cao hơn nữa trong quản lý chi tiêu ngân sách.

Cụ thể, khi ngân sách được duyệt thì toàn bộ ngân sách đó phải được sử dụng với

quyết định của người lãnh đạo cơ quan sử dụng ngân sách. Nguồn kinh phí này sẽ

được lãnh đạo cân nhắc nên chi cho hoạt động nào và đạt được mục tiêu nào trước,

sau sao cho đạt được kết quả đầu ra một cách tốt nhất thay vì trước đây, dự toán

ngân sách cho hạn mục nào thì chỉ được chi cho hạn mục đó. Việc chi theo đúng

hạn mục có thể làm cho dễ quản lý tài chính hơn nhưng khó có thể đạt được hiệu

quả tối ưu vì có những hạn mục không được dự trú tốt trước đó nhưng thực tế thì

cần phải chi để đạt được hiệu quả cao nhất. Sự linh hoạt và tự chủ với nguồn kinh

phí sẽ cho phép người lãnh đạo hướng đến kết quả đầu ra trong quá trình chi tiêu và

từ đó có thể tự đánh giá hiệu quả hoạt động quản lý ngân sách của cơ quan mình.

5.2.2. Đối với Sở Ngoại vụ

Trong quá trình chi tiêu, ngoài nhiệm vụ chính trị được giao, người lãnh đạo

cần hướng đến hiệu quả của mỗi hạn mục. Tùy theo mỗi thời kỳ và mục tiêu ưu tiên

phát triển kinh tế xã hội của tỉnh mà Sở Ngoại vụ nên ưu tiên chi cho hạn mục nào

nhiều hơn và hoạt động nào nhiều hơn. Ví dụ, trong giai đoạn đầu tư phát triển du

lịch của tỉnh, hạn mục chi đoàn vào cần được ưu tiên nguồn ngân sách nhiều hơn

chi đoàn ra vì lúc này cần thu hút đầu tư nước ngoài vào hơn là đi học hỏi kinh

76

nghiệm ở nước ngoài. Hay để giải quyết việc làm cho người lao động và sinh viên

ra trường, các doanh nghiệp trong tỉnh cần tăng về số lượng và quy mô. Để làm

được điều này thì hoạt động quảng bá, xúc tiến và hỗ trợ xuất khẩu cần được ưu tiên

đầu tư ngân sách nhiều hơn nhằm giới thiệu, quảng bá và kết nối doanh nghiệp

trong nước với doanh nghiệp nước ngoòa, vì vậy chi ngân sách đoàn ra lúc này

quan trọng hơn chi đoàn vào.

Cần tách hoạt động đối ngoại ra hai nhóm hạn mục chính đó là những hạn mục

mang tính tuân thủ mục tiêu chính trị và những hạn mục mang tính cung cấp dịch

vụ hành chính công nhằm hỗ trợ phát triển kinh tế xã hội của tỉnh. Đối với nhóm

hạn mục mang tính tuân thủ mục tiêu chính trị, việc đạt được mục tiêu cần quan tâm

đến mục tiêu nào quan trọng nhất và cần phải thực hiện tốt nhất; mục tiêu nào có

thể trì hoãn hay đầu tư ít lại. Đối với nhóm hạn mục còn lại, cần đo lường kết quả

đầu ra và so sánh kết quả đầu ra đạt được để quyết định chi ngân sách sao cho hiệu

quả nhất. Để thực hiện được điều này, cần phải có nguồn nhân lực được đào tạo

chuyên sâu về đo lường và đánh giá hiệu quả hoạt động chi tiêu ngân sách nhà

nước.

Hiện nay, việc lập và quản lý ngân sách theo kết quả đầu ra được đánh giá

mang đến những kết quả tích cực và khắc phục được hầu hết những hạn chế của lập

ngân sách theo khoản mục. Chính vì những lợi điểm của lập ngân sách theo kết quả

đầu ra, Sở Ngoại vụ nên cân nhắc chuyển dần từ lập ngân sách theo khoản mục sang

theo kết quả đầu ra. Để làm được như vậy, tác giả có một số đề xuất như sau:

Thứ nhất, Trong quá trình lập kế hoạch và dự toán ngân sách cần căn cứ vào

các mục tiêu chiến lược kinh tế xã hội của tỉnh.

Thứ hai, Cần đánh giá kết quả hoạt động của kỳ trước một cách chính xác và

đặt ra những mục tiêu cần đạt được trong kỳ kế hoạch để làm cơ sở đầu vào cho các

hoạt động cần chi.

Thứ ba, Cần đánh giá hiệu quả sử dụng kinh phí ngân sách nhà nước bằng

cách so sánh kết quả đầu ra và đầu vào với số tiền chi ra theo các chỉ tiêu: chi phí

trên một đơn vị đầu ra; chi phí trung bình của xã hội để sản xuất một đơn vị đầu ra.

77

Thứ tư, báo cáo quyết toán ngân sách hằng năm phải được báo cáo theo từng

hoạt động chi được quy định trong nghị định 117 của chính phủ để có thể đo lường

được kết quả đạt được so với những khoản chi đã chi.

5.3. Hạn chế và hướng nghiên cứu tiếp theo

Đề tài này rất mới và chưa có nhiều nghiên cứu liên quan nên trong quá trình

thực hiện luận văn này, tác giả gặp rất nhiều khó khăn và hạn chế.

Thứ nhất, do lĩnh vực đối ngoại là rất nhạy cảm và liên quan nhiều đến mục

tiêu an ninh chính trị của địa phương nên nhiều số liệu thứ cấp không thể thu thập

được. Chính vì vậy, nội dung phân tích chưa đi sâu vào quy trình quản lý kinh phí

hoạt động đối ngoại được.

Thứ hai, ngoài việc khó tiếp cận nguồn thông tin, thì những thông tin khác liên

quan đến hoạt động đối ngoại cũng khó có được. Trong quá trình phỏng vấn những

chuyên viên phụ trách công tác lập kế hoạch và báo cáo quyết toán thì tác giả nhận

thấy rằng họ chỉ thực hiện những nhiệm vụ lập lại một cách đơn giản chứ chưa tìm

hiểu nhiều vì sao phải làm như vậy và làm thế nào để tốt hơn. Chính vì vậy, những

thông tin thu thập được từ nguồn này cũng không phản ánh nhiều về thực trạng lập

và chi ngân sách cho hoạt động đối ngoại

Hướng nghiên cứu tiếp theo có thể là xây dựng quy trình quản lý ngân sách

theo kết quả đầu ra cho hoạt động đối ngoại của tỉnh.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tiếng Việt

1. Ban Chấp hành Trung ương (2015), Quyết định số 272-QĐ/TW ngày

21 tháng 01 năm 2015 về việc ban hành Quy chế quản lý thống nhất các hoạt động

đối ngoại.

2. Bộ Ngoại giao và Bộ Nội vụ (2015). Thông tư Liên tịch số

02/2015/TTLT-BNG-BNV Ngày 28 tháng 6 năm 2015, Hướng dẫn chức năng,

nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Sở Ngoại vụ thuộc Ủy ban nhân dân các

tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.

3. Chính phủ (2007), Nghị định 136/2007/NĐ – CP ngày 17 tháng 8 năm

2007, về xuất cảnh, nhập cảnh của công dân Việt Nam.

4. Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh (2015), Quyết định số 2990/QĐ-

UBND ngày 07 tháng 12 năm 2015 về việc tổ chức lại chức năng, nhiệm vụ, quyền

hạn và cơ cấu tổ chức của Sở Ngoại vụ tỉnh Kiên Giang;

5. Cục Ngoại vụ - Bộ Ngoại giao (2016), Phụ lục1, Tổng hợp báo cáo

của các địa phương về công tác đối ngoại địa phương (điểm sáng, tồn tại và Kiến

Nghị).

6. Cục Ngoại vụ, Bộ Ngoại giao (2016), Báo cáo về công tác đối ngoại

địa phương từ sau Hội nghị Ngoại vụ toàn quốc lần thứ 17 đến nay và Phương

hướng nhiệm vụ giai đoạn 2016 - 2018.

7. Cục Ngoại vụ, Bộ Ngoại giao (2016), Phương hướng nhiệm vụ trọng

tâm và các biện pháp đẩy mạnh công tác ngoại vụ địa phương.

8. Hương, T. T. L. (2015). Kinh nghiệm quản lý ngân sách của một số

nước. Tạp chí Tài Chính, số 11, kỳ 1-2015.

9. Lê Xuân Khanh, Phó cục trưởng Cục Đối ngoại - Bộ Quốc phòng,

Tăng cường công tác đối ngoại nhân dân trong tình hình mới.

10. Nguyễn Phú Trọng (2016), Hoạt động đối ngoại phải tranh thủ tối đa

nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước, Tạp chí Thông tin đối ngoại.

11. Phạm Bình Minh (2016), Phát biểu khai mạc Hội nghị Ngoại vụ toàn

quốc lần thứ 18.

12. Quốc hội (2013), Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt

Nam năm 2013.

13. Quốc hội (2015), Luật Ngân sách nhà nước.

14. Sở Ngoại vụ (2015), Đề án về Giải pháp nâng cao hiệu quả hợp tác

quốc tế của tỉnh Kiên Giang giai đoạn 2016 - 2020.

15. Sở Ngoại vụ Kiên Giang (2011, 2012, 2013, 2014, 2015), Báo cáo

tổng kết công tác Ngoại vụ.

16. Sở Ngoại vụ Kiên Giang (2014), Báo cáo số: 12 /BC-SNgV ngày 25

tháng 02 năm 2014 tổng kết công tác đối ngoại bảo vệ tổ quốc trong tình hình mới.

17. Sở Ngoại vụ Kiên Giang (2016), Báo cáo số 09/BC-SNgV ngày 21

tháng 3 năm 2016, tình hình phân giới cắm mốc biên giới trên đất liền Việt Nam -

Campuchia thuộc địa bàn tỉnh Kiên Giang.

18. Sử Đình Thành 2017, Lập ngân sách theo đầu ra và khuôn khổ chi

tiêu trung hạn.

19. Tỉnh ủy Kiên Giang (2015), Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh

Kiên Giang lần thứ X (nhiệm kỳ 2015-2020).

20. Tỉnh ủy Kiên Giang (2015), Quyết định số 76-QĐ/TU ngày 31 tháng

12 năm 2015 về việc ban hành Quy chế quản lý thống nhất các hoạt động đối ngoại.

21. Ủy ban nhân dân tỉnh Kiên Giang (2011, 2012, 2013, 2014, 2015),

Báo cáo công tác viện trợ phi chính phủ nước ngoài.

22. Ủy ban nhân dân tỉnh Kiên Giang (2015), Báo cáo số: 17/BC-UBND,

ngày 22 tháng 01 năm 2015, Tổng kết thực hiện Chương trình hành động của Chính

phủ ngày 23 tháng 6 năm 2004 và Chỉ thị 19/2008/CT-TTg ngày 06 tháng 6 năm

2008 của Thủ tướng Chính phủ, về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài.

23. Ủy ban nhân dân tỉnh Kiên Giang (2015), Kiên Giang - Tiềm năng -

Cơ hội đầu tư, thương mại và du lịch.

24. Ủy ban nhân dân tỉnh Kiên Giang (2016), Báo cáo tình hình người

dân di cư tự do từ Campuchia về Việt Nam trên địa bàn tỉnh Kiên Giang.

25. Ủy ban nhân dân tỉnh Kiên Giang (2016), Báo cáo tình hình thực hiện

Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 05 năm giai đoạn 2011 - 2015.

26. Ủy ban nhân dân tỉnh Kiên Giang (2016), Báo cáo tổng kết thực hiện

Chương trình hành động của Chính phủ ngày 23 tháng 6 năm 2004 và Chỉ thị

19/2008/CT-TTg ngày 06 tháng 6 năm 2008 của Thủ tướng Chính phủ, về công tác

đối với người Việt Nam ở nước ngoài.

27. Ủy ban Thường vụ Quốc hội (2007), Pháp lệnh số 33/2007/PL-

UBTVQH11 ngày 20 tháng 4 năm 2007 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, về ký kết

và thực hiện thỏa thuận quốc tế.

Tiếng Anh

28. Collins English Dictionary - Complete & Unabridged 10th Edition,

Truy cập ngày 14/10/2017 từ Dictionary.com

website http://www.dictionary.com/browse/foreign-affairs.

29. Dictionary.com Unabridged, Truy cập ngày 14/10/2017 từ

Dictionary.com website http://www.dictionary.com/browse/foreign-affairs.

30. Snow, N. (2009). Rethinking public diplomacy. Routledge handbook

of public diplomacy, 3-11.

31. Tuch, H. (1990). Communicating with the World: us Public

Diplomacy Overseas (Washington DC: Institute for the Study of Diplomacy,

Georgetown University, 1990), 3. Tuch offers an excellent survey of slightly

different definitions of public diplomacy, although all agree that for public

diplomacy to exist it must be projected outside a country's borders by an official

body.

32. Zaharna, R. S. (2009). Mapping out a spectrum of public

diplomacy. Routledge handbook of public diplomacy, 86-100.