ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
----------------
NGUYỄN THỊ THU HUYỀN
NÂNG CAO NĂNG LỰC QUẢN LÝ
CỦA CÁN BỘ CẤP VỤ THUỘC CƠ QUAN
THANH TRA CHÍNH PHỦ
LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ KINH TẾ
CHƢƠNG TRÌNH ĐỊNH HƢỚNG ỨNG DỤNG
Hà Nội - 2017
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
----------------
NGUYỄN THỊ THU HUYỀN
NÂNG CAO NĂNG LỰC QUẢN LÝ
CỦA CÁN BỘ CẤP VỤ THUỘC CƠ QUAN
THANH TRA CHÍNH PHỦ
Chuyên ngành: Quản lý kinh tế
Mã số: 60 34 04 10
LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ KINH TẾ
CHƢƠNG TRÌNH ĐỊNH HƢỚNG ỨNG DỤNG
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. BÙI VĂN HUYỀN
Hà Nội - 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn này là kết quả nghiên cứu của riêng tôi, chƣa đƣợc
công bố trong bất cứ một công trình nghiên cứu nào của ngƣời khác. Việc sử dụng kết
quả, trích dẫn tài liệu của ngƣời khác đảm bảo theo đúng các quy định. Các nội dung
trích dẫn và tham khảo các tài liệu, sách báo, thông tin đƣợc đăng tải trên các tác
phẩm, tạp chí và trang web theo danh mục tài liệu tham khảo của luận văn.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Nguyễn Thị Thu Huyền
i
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến các thầy cô của Trƣờng Đại học Kinh tế -
Đại học Quốc Gia Hà Nội, những ngƣời đã giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và
nghiên cứu. Đặc biệt tôi xin chân thành cảm ơn Thầy giáo - PGS.TS. Bùi Văn Huyền
đã tận tình giúp đỡ và hƣớng dẫn tôi trong suốt quá trình làm luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn các vụ, cục, đơn vị của cơ quan Thanh tra Chính phủ
đã cung cấp những thông tin, số liệu quan trọng có liên quan đến luận văn.
Tôi xin tỏ lòng biết ơn đến gia đình, bạn bè và đồng nghiệp đã tạo mọi điều kiện,
giúp đỡ và động viên tôi những lúc khó khăn nhất để tôi vƣợt qua và hoàn thành luận
văn này.
Xin trân trọng cảm ơn!
Tác giả
Nguyễn Thị Thu Huyền
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1
CHƢƠNG 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NĂNG LỰC QUẢN LÝ CỦA CÁN BỘ CẤP VỤ ........................................................ 6
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu ........................................................................... 6
1.2. Cơ sở lý luận về năng lực quản lý của cán bộ cấp vụ .......................................... 9
1.2.1. Quan niệm về năng lực quản lý ........................................................................... 9
1.2.2. Đặc điểm năng lực quản lý của cán bộ cấp vụ ................................................. 15
1.2.4. Sự cần thiết nâng cao nâng lực quản lý đối với cán bộ cấp vụ .......................... 26
1.2.5. Yêu cầu đặt ra và nhân tố ảnh hưởng đối với việc nâng cao năng lực quản lý của đội ngũ cán bộ cấp vụ ............................................................................................ 29
1.3. Kinh nghiệm thực tiễn về nâng cao năng lực quản lý của cán bộ cấp vụ ....... 32
CHƢƠNG 2. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ........................................................... 40
2.1. Phƣơng pháp nghiên cứu ..................................................................................... 40
2.2. Nguồn dữ liệu sử dụng ......................................................................................... 42
CHƢƠNG 3. THỰC TRẠNG NĂNG LỰC QUẢN LÝ CỦA ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CẤP VỤ THUỘC CƠ QUAN THANH TRA CHÍNH PHỦ ........................................ 44
3.1. Khái quát về đặc điểm tình hình và thực trạng đội ngũ cán bộ cấp vụ của Thanh tra Chính phủ................................................................................................................ 44
3.1.1. Đặc điểm tình hình ............................................................................................. 44
3.1.2. Thực trạng đội ngũ cán bộ cấp vụ ..................................................................... 49
3.2. Thực trạng năng lực quản lý của đội ngũ cán bộ cấp vụ .................................. 55
3.3. Đánh giá thực trạng năng lực quản lý của đội ngũ cán bộ cấp vụ ................... 59
3.3.1. Kết quả đạt được ................................................................................................. 59
3.3.2. Tồn tại, hạn chế và nguyên nhân ...................................................................... 72
CHƢƠNG 4. GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC QUẢN LÝ CỦA ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CẤP VỤ THUỘC CƠ QUAN THANH TRA CHÍNH PHỦ ......................... 78
4.1. Phƣơng hƣớng nâng cao năng lực quản lý của đội ngũ cán bộ cấp vụ thuộc cơ quan Thanh tra Chính phủ ......................................................................................... 78
4.2. Một số giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao năng lực quản lý của đội ngũ cán bộ cấp vụ thuộc cơ quan Thanh tra Chính phủ........................................................ 85
4.2.1. Nhóm giải pháp, kiến nghị đối với chủ thể quản lý đội ngũ cán bộ cấp vụ thuộc cơ quan Thanh tra Chính phủ ........................................................................... 85
4.2.2. Nhóm giải pháp, kiến nghị với Chính phủ, Bộ Nội vụ và các cơ quan có liên quan đến công tác quản lý cán bộ, công chức .......................................................... 104
KẾT LUẬN ................................................................................................................. 109
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................... 111
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
STT Ký hiệu Nguyên nghĩa
1 CCVC Công chức, viên chức
2 KNTC Khiếu nại, tố cáo
3 PCTN Phòng, chống tham nhũng
4 QLNN Quản lý nhà nƣớc
5 TTCP Thanh tra Chính phủ
6 TTVC Thanh tra viên chính
7 TTVCC Thanh tra viên cao cấp
i
DANH MỤC CÁC BẢNG
STT Bảng Nội dung Trang
1 Bảng 3.1 Tổng hợp số lƣợng lãnh đạo cấp vụ từ năm 2014 - 2016 49
2 Bảng 3.2 Tổng hợp số liệu đào tạo tại nƣớc ngoài từ năm 2014 - 2016 62
DANH MỤC CÁC HÌNH
STT Hình Nội dung Trang
1 Hình 1.1 Sơ đồ về mối quan hệ giữa năng lực và kỹ năng 19
2 Hình 1.2 Cấu trúc của năng lực quản lý theo các nguồn lực hợp thành 22
ii
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Trong mỗi tổ chức, có nhiều cấp bậc quản lý nhằm thực hiện các chức năng,
nhiệm vụ khác nhau để cùng hƣớng tới đạt đƣợc các mục tiêu hoạt động của cả tổ
chức. Các cá nhân quản lý thể hiện vai trò của mình trong việc ra quyết định, xác
định những vấn đề cần giải quyết; chỉ đạo việc thực hiện các quyết định, phân bổ
các nguồn lực cho việc thực hiện các quyết định và tiến hành đàm phán với những
đối tác nhằm đạt đƣợc các mục tiêu hoạt động của mình. Các cá nhân quản lý cũng
thể hiện vai trò của mình trong việc liên kết những cá nhân trong tổ chức nói chung
hay những cá nhân có vai trò quản lý trong các cấp trung gian; tạo ra và duy trì
động lực cho những ngƣời trong tổ chức của mình để cùng nỗ lực phấn đấu, thực
hiện vì mục tiêu chung hay nhiệm vụ chung của cả tổ chức.
Quản lý đƣợc thực hiện ở nhiều cấp. Nếu ở cấp cao chỉ có một hoặc một số ít
ngƣời thì ở cấp trung gian, số lƣợng các cá nhân tham gia vào quản lý nhiều hơn.
Quản lý cấp trung gian thực hiện vai trò của mình trong từng tổ chức nhỏ hơn để
thực hiện những mục tiêu cụ thể trong mục tiêu chung. Vai trò của quản lý ở cấp
trung gian khá quan trọng, là nơi triển khai thực hiện các nhiệm vụ cụ thể cũng nhƣ
cung cấp các thông tin phục vụ quản lý của cấp cao hơn. Việc thực hiện thành công
nhiệm vụ của các tổ chức lớn phụ thuộc rất nhiều vào năng lực, trình độ lãnh đạo,
quản lý của đội ngũ cán bộ cấp trung gian này.
Thanh tra Chính phủ là cơ quan ngang bộ thuộc Chính phủ, thực hiện chức
năng quản lý nhà nƣớc về công tác thanh tra, tiếp công dân, giải quyết khiếu
nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng trong phạm vi cả nƣớc; thực hiện
hoạt động thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng
theo quy định của pháp luật. Thanh tra Chính phủ có Tổng Thanh tra, các Phó
Tổng Thanh tra và thanh tra viên. Cơ cấu tổ chức đƣợc chia thành 23 đơn vị trực
thuộc, bao gồm 17 đơn vị khối hành chính và 06 đơn vị sự nghiệp trực thuộc. Trung
bình mỗi đơn vị có 04 lãnh đạo cấp vụ, bao gồm 01 Vụ trƣởng và 03 Phó Vụ
trƣởng. Đội ngũ lãnh đạo cấp vụ là chủ thể có nhiệm vụ giúp Tổng Thanh tra Chính
1
phủ triển khai thực hiện các nhiệm vụ quản lý nhà nƣớc về công tác thanh tra , tiếp
công dân, giải quyết khiếu nại , tố cáo và phòng , chống tham nhũng trong pha ̣m vi
cả nƣớc; thực hiện hoạt động thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống
tham nhũng theo quy định của pháp luật.
Đội ngũ cán bộ cấp vụ đƣợc xác định là cấp quản lý trực tiếp thực hiện các
nhiệm vụ của Tổng Thanh tra, các Phó Tổng Thanh tra giao nhằm thực hiện chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Thanh tra Chính phủ. Theo quy định hiện hành,
Tổng Thanh tra, các Phó Tổng Thanh tra là chủ thể quản lý, sử dụng đội ngũ cán bộ
cấp vụ của Thanh tra Chính phủ. Bên cạnh đó, Ban Cán sự Đảng Thanh tra Chính
phủ, đứng đầu là Bí Thƣ Ban cán sự - Tổng Thanh tra là tổ chức có thẩm quyền
lãnh đạo, chỉ đạo các mặt công tác trong toàn cơ quan, trong đó đội ngũ cán bộ cấp
vụ là đối tƣợng chịu sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của Ban Cán sự Đảng Thanh tra
Chính phủ. Để nâng cao năng lực quản lý của cán bộ cấp vụ, các chủ thể quản lý
thông qua nhiều biện pháp, cách thức trong công tác cán bộ nhằm từng bƣớc kiện
toàn, nâng cao năng lực quản lý của cán bộ cấp vụ của Thanh tra Chính phủ.
Năng lực quản lý của đội ngũ cán bộ cấp vụ tại Thanh tra Chính phủ hiện nay
về cơ bản đã đáp ứng đƣợc những yêu cầu, đòi hỏi của việc quản lý con ngƣời cũng
nhƣ triển khai thực hiện các nhiệm vụ chính trị của mỗi vụ, cục, đơn vị. Bên cạnh
việc quản lý con ngƣời, các lãnh đạo vụ, cục, đơn vị của Thanh tra Chính phủ đã tổ
chức thực hiện có hiệu quả các kế hoạch công tác hàng năm của đơn vị mình, góp
phần vào sự thành công chung của cơ quan Thanh tra Chính phủ, thể hiện chủ yếu ở
các kết quả công tác thanh tra, giúp phát hiện, kiến nghị xử lý và thu hồi số lƣợng
lớn tiền, tài sản bị thất thoát và kiến nghị xử lý các cá nhân có hành vi vi phạm. Các
lãnh đạo cục, vụ, đơn vị cũng thể hiện năng lực lãnh đạo của mình qua việc xây
dựng môi trƣờng làm việc đoàn kết, thống nhất trong đơn vị, tạo môi trƣờng làm
việc gắn kết, hiệu quả trong thực hiện các nhiệm vụ chuyên môn.
Tuy nhiên, bên cạnh đó, năng lực lãnh đạo của đội ngũ cán bộ cấp vụ của
Thanh tra Chính phủ cũng còn bộc lộ những tồn tại, hạn chế và bất cập. Thể hiện
chủ yếu qua việc còn có đơn vị mất đoàn kết nội bộ, khiếu nại, tố cáo trong nội bộ
2
cơ quan; một số vụ, đơn vị còn có những cán bộ vi phạm pháp luật; nhiều vụ việc
thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo còn triển khai chƣa hiệu quả, kéo dài; nhiều
nội dung tham mƣu trong xây dựng kế hoạch công tác không phù hợp dẫn đến thực
hiện thiếu hiệu quả; trình độ chuyên môn của một số lãnh đạo vụ chƣa phù hợp với
chức năng nhiệm vụ đƣợc giao… Thực trạng này đặt ra yêu cầu cần sớm nâng cao
năng lực lãnh đạo của đội ngũ cán bộ cấp vụ của Thanh tra Chính phủ đồng đều
hơn, toàn diện hơn, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao trong thực hiện các nhiệm vụ
chính trị mà Đảng và Nhà nƣớc giao cho cơ quan Thanh tra Chính phủ. Đây cũng là
tinh thần đƣợc đặt ra trong Chiến lƣợc phát triển ngành Thanh tra đến năm 2020,
tầm nhìn đến năm 2030 đƣợc ban hành theo Quyết định số 2213/QĐ-TTg ngày
08/12/2015 Thủ tƣớng Chính phủ.
Đã có những nghiên cứu về nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ quản lý nói
chung và có những phân tích, đánh giá cũng nhƣ đề xuất các kiến nghị về vấn đề
này, tuy nhiên chƣa có nghiên cứu cụ thể nào về nâng cao năng lực của đội ngũ cán
bộ lãnh đạo cấp vụ của Thanh tra Chính phủ. Xuất phát từ các yêu cầu thực tiễn
cũng nhƣ việc thực hiện các chủ trƣơng của Đảng và Nhà nƣớc về phát triển Ngành
Thanh tra, cũng nhƣ yêu cầu của chuyên ngành đào tạo, tác giả lựa chọn đề tài
“Nâng cao năng lực quản lý của cán bộ cấp vụ thuộc cơ quan Thanh tra Chính
phủ” làm nội dung nghiên cứu Luận văn tốt nghiệp thạc sỹ Quản lý kinh tế. Hy
vọng với sự nỗ lực, cố gắng của bản thân và sự hỗ trợ, giúp đỡ của các Thầy/cô, đề
tài sẽ đạt đƣợc những kết quả tốt trong việc đánh giá thực trạng cũng nhƣ đƣa ra
những giải pháp, kiến nghị cho vấn đề này.
2. Câu hỏi nghiên cứu
Luận văn tập trung trả lời câu hỏi: Cần phải làm gì (cần có những giải pháp
gì?) để nâng cao năng lực quản lý cán bộ cấp vụ tại cơ quan Thanh tra Chính phủ
trong thời gian tới.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
3
Việc nghiên cứu Đề tài nhằm làm rõ những vấn đề lý luận, pháp luật và thực
tiễn năng lực của cán bộ cấp vụ của Thanh tra Chính phủ hiện nay. Trên cơ sở đó đề
xuất những giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật, tạo cơ sở
cho việc nâng cao chất lƣợng, năng lực của đội ngũ cán bộ cấp vụ của Thanh tra
Chính phủ nói chung và năng lực quản lý nói riêng.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt đƣợc mục đích nêu trên, nhiệm vụ đặt ra cho luận văn là:
- Nghiên cứu các vấn đề lý luận liên quan nhƣ: Quan niệm, vai trò, nội dung
của nâng cao năng lực lãnh đạo nói chung và năng lực lãnh đạo của đội ngũ cán bộ
cấp vụ tại cơ quan Thanh tra Chính phủ nói riêng; các tiêu chí đánh giá năng lực
quản lý và các biện pháp bảo đảm cho việc nâng cao năng lực quản lý của đội ngũ
cán bộ lãnh đạo cấp vụ tại cơ quan Thanh tra Chính phủ trong thời gian tới.
- Nghiên cứu, phân tích kinh nghiệm của một số bộ, ngành về vấn đề này.
- Đánh giá thực trạng các quy định pháp luật và thực tiễn năng lực quản lý của
đội ngũ cán bộ cấp vụ tại cơ quan Thanh tra Chính phủ hiện nay. Từ đó chỉ ra
những ƣu điểm cùng những tồn tại, hạn chế trong vấn đề này.
- Đề xuất những giải pháp, kiến nghị hoàn thiện thể chế, chính sách nhằm
nâng cao năng lực quản lý của cán bộ cấp vụ của Thanh tra Chính phủ trong thời
gian tới.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
- Lý thuyết về quản lý cán bộ, công chức nói chung và nâng cao năng lực cán
bộ, công chức nói riêng.
- Quy định pháp luật về quản lý, về đào tạo, bổ nhiệm, đánh giá đội ngũ cán
bộ cấp vụ; về thực hiện các chức trách, nhiệm vụ đƣợc giao của đội ngũ cán bộ lãnh
đạo cấp vụ tại Thanh tra Chính phủ.
- Thực tiễn năng lực quản lý của cán bộ cấp vụ tại Thanh tra Chính phủ.
4
- Hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo của chủ thể quản lý đối với cán bộ cấp vụ tại
Thanh tra Chính phủ.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về thời gian: Đề tài tập trung nghiên cứu, đánh giá các quy định pháp luật có
liên quan và thực trạng năng lực cán bộ cấp vụ của Thanh tra Chính phủ trong thời
gian 03 năm trở lại đây, từ năm 2014 đến năm 2016.
- Về không gian: Nghiên cứu thực tiễn tại cơ quan Thanh tra Chính phủ.
5. Những đóng góp của luận văn
Luận văn đƣa ra hƣớng tiếp cận mới về nâng cao năng lực quản lý của đội ngũ
công chức lãnh đạo cấp vụ thuộc cơ quan Thanh tra Chính phủ..
Xuất phát từ thực trạng, những hạn chế tồn tại về năng lực quản lý của đội ngũ
công chức lãnh đạo cấp vụ thuộc cơ quan Thanh tra Chính phủ , trên cơ sở đó đƣa ra
của đội ngũ những giải pháp hoàn thiê ̣n pháp luật và nâng cao năng lực quản lý
công chức lãnh đạo cấp vụ thuộc cơ quan Thanh tra Chính phủ.
6. Kết cấ u củ a luâ ̣n văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luâ ̣n văn đƣơ ̣c chia làm 4 chƣơng:
Chƣơng 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu và cơ sở lý luận về năng lực quản
lý của cán bộ cấp vụ.
Chƣơng 2: Phƣơng pháp nghiên cứu.
Chƣơng 3: Thực tra ̣ng năng lực quản lý của cán bộ cấp vụ thuộc cơ quan
Thanh tra Chính phủ.
Chƣơng 4: Giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao năng lực quản lý của
cán bộ cấp vụ thuộc cơ quan Thanh tra Chính phủ.
5
CHƢƠNG 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ
NĂNG LỰC QUẢN LÝ CỦA CÁN BỘ CẤP VỤ
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
* Các công trình liên quan đến đề tài:
Vấn đề đào tạo, bồi dƣỡng và nâng cao năng lực quản lý của đội ngũ lãnh đạo
cấp vụ tại các cơ quan đã đƣợc đề cập đến trong một số công trình nghiên cứu, sách,
bài viết trên các góc độ và cách tiếp cận khác nhau. Cụ thể nhƣ sau:
- Luận văn thạc sỹ Xây dựng Đảng: “Đánh giá đội ngũ cán bộ chủ chốt thuộc
diện Ban Thƣờng vụ Tỉnh ủy Quảng trị quản lý trong giai đoạn hiện nay” của Hồ
Xuân Đoàn, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2007, công trình “Xây dựng
đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt của hệ thống chính trị cấp tỉnh, thành phố của Cao
Khoa Bảng, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, năm 2008 đã phân tích các
vấn đề liên quan đến nâng cao chất lƣợng đội ngũ cán bộ chủ chốt ở một số địa
phƣơng, đơn vị.
- Đề tài khoa học: “Xây dựng, nâng cao năng lực quản lý hành chính (QLHC)
Nhà nƣớc của cán bộ, công chức (CB-CC) hành chính tỉnh giai đoạn 2012 - 2020”,
Ths Văn Ngọc Sen, Khánh Hòa: đề tài làm rõ cơ sở lý luận về nâng cao năng lực
quản lý hành chính của cán bộ , công chức ; đánh giá thực trạng , xác định nguyên
nhân ảnh hƣởng đến năng lực QLHC của CB, CC tỉnh, đề xuất các giải pháp nhằm
xây dựng, nâng cao năng lực QLHC của CB, CC tỉnh giai đoạn 2012 - 2020.
- Theo cơ sở Đề tài nghiên cứu khoa học “Đổi mới công tác xây dựng đội ngũ
lãnh đạo tham mƣu của các cơ quan đảng ở Trung ƣơng”; mã số: KHBĐ (2014) -
02, do đồng chí Nguyễn Văn Quynh, Ủy viên Trung ƣơng Đảng, Phó Trƣởng Ban
Tổ chức Trung ƣơng làm Chủ nhiệm Đề tài thì trong điều kiện Đảng ta là một đảng
duy nhất cầm quyền, đội ngũ lãnh đạo tham mƣu các cơ quan đảng ở Trung ƣơng có
vai trò đặc biệt quan trọng trong công tác xây dựng đảng. Năng lực đội ngũ lãnh
đạo tham mƣu có ảnh hƣởng trực tiếp tới việc đề ra và tổ chức thực hiện chủ
6
trƣơng, đƣờng lối trong thực tiễn. Thời gian qua, bên cạnh những kết quả đạt đƣợc
cũng bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập, yếu kém về năng lực đội ngũ và công tác tham
mƣu. Có nhiều nguyên nhân, trong đó nổi bật là nhận thức về vị trí, vai trò đội ngũ
lãnh đạo tham mƣu và công tác tham mƣu chƣa đầy đủ; sự chăm lo xây dựng đội
ngũ lãnh đạo tham mƣu và nâng cao năng lực công tác tham mƣu chƣa tƣơng xứng
với vai trò và yêu cầu đặt ra.
- Nguyễn Thị Huệ, “Thực trạng và một số giải pháp nâng cao chất lƣợng đội
ngũ cán bộ, công chức ở các cơ quan chuyên môn thuộc UBND Bà Rịa - Vũng Tàu,
2013: đề tài đã phân tích đƣợc một số vấn đề lý luận liên quan đến chất lƣợng cán
bộ, công chức, nâng cao chất lƣợng đội ngũ cán bộ, công chức, đƣa ra các giải pháp
nhằm nâng cao chất lƣợng đội ngũ cán bộ, công chức.
- Trần Thanh Sơn, “Đánh giá cán bộ diện Ban Thƣờng vụ tỉnh ủy quản lý ở
các tỉnh đồng bằng sông Hồng trong giai đoạn hiện nay”, Luận án Tiến sỹ khoa học
chính trị, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh: Luận án phân tích
đƣợc các tiêu chí đánh giá năng lực cán bộ chủ chốt, đánh giá thực trạng và đƣa ra
giải pháp cho công tác này.
- Vũ Thị Thùy Chi, “Nâng cao năng lực lãnh đạo của lãnh đạo công chức nữ
tại Bộ Lao động - Thƣơng binh và xã hội”, Luận văn thạc sỹ, Trƣờng Đại học Kinh
tế: đề tài đã làm rõ các khái niệm về năng lực lãnh đạo, quản lý, tiêu chí đánh giá
năng lực lãnh đạo quản lý của đội ngũ cán bộ, công chức nữ, đánh giá thực trạng
năng lực lãnh đạo và quản lý của lãnh đạo công chức nữ tại Bộ Lao động Thƣơng
binh và xã hội, đề ra đƣợc các giải pháp nâng cao năng lực lãnh đạo, quản lý của đội
ngũ lãnh đạo nữ tại đơn vị này.
- Trần Thị Mai: “Nâng cao năng lực đội ngũ công chức cấp xã các tỉnh miền
Tây Nam Bộ” - Luận văn thạc sỹ, Học viện Hành chính quốc gia năm 2011: Thông
qua việc nghiên cứu thực tiễn năng lực đội ngũ công chức tại các tỉnh khu vực miền
Tây Nam Bộ, luận văn đã đề xuất đƣợc một số giải pháp quan trọng nhằm góp phần
nâng cao năng lực công chức cấp xã tại các tỉnh khu vực miền Tây Nam Bộ.
- Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XI nêu: “Kiện toàn, nâng cao năng lực
7
các cơ quan tham mƣu, đội ngũ lãnh đạo làm công tác tham mƣu, nhất là ở cấp
chiến lƣợc”. Nâng cao năng lực đội ngũ lãnh đạo tham mƣu là một trong những nội
dung, mục đích của nhiệm vụ đổi mới công tác xây dựng đội ngũ lãnh đạo tham
mƣu các cơ quan đảng ở Trung Ƣơng. Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XII xác
định: “xây dựng bản lĩnh chính trị cho đội ngũ cán bộ, đảng viên phải tiến hành
đồng bộ, từ việc nâng cao nhận thức tƣ tƣởng, bồi dƣỡng phẩm chất chính trị, đạo
đức, nâng cao trình độ chuyên môn, trình độ lý luận chính trị, nâng cao năng lực
công tác, phƣơng pháp làm việc, tác phong công tác; phối hợp nhiều lực lƣợng cùng
tham gia”.
- Nghị quyết 30c/NQ-CP ngày 08/11/2011 của Chính phủ cũng đã đề cập là:
“Đến năm 2020 xây dựng đƣợc một nền hành chính thực sự trong sạch, minh bạch,
chuyên nghiệp, hiện đại và hoạt động có hiệu lực, hiệu quả đáp ứng yêu cầu của nền
kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa và phục vụ ngƣời dân, doanh nghiệp
và xã hội, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có đủ phẩm chất, năng lực
và trình độ, đáp ứng yêu cầu phục vụ nhân dân và sự phát triển của đất nƣớc” thì việc
quan tâm đến năng lực quản lý để nâng cao chất lƣợng đội ngũ lãnh đạo cấp Vụ tại
Thanh tra Chính phủ là việc làm rất cần thiết.
- Một số bài viết:
“Nâng cao năng lực lãnh đạo của lãnh đạo nữ trong hệ thống chính trị” -
Nguyễn Thị Thanh Hòa, Báo điện tử Đảng Cộng sản đã nêu ra đƣợc một số biện
pháp nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo của đội ngũ lãnh đạo nữ trong hệ thống
chính trị. “Nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã trong xây dựng Luật
Tổ chức chính quyền địa phương” - Việt Tiến, Bộ Tƣ pháp đã đƣa ra một số giải pháp
nhằm nâng cao năng lực cho đội ngũ lãnh đạo cơ sở trong tiến trình xây dựng Luật
Tổ chức chính quyền địa phƣơng theo tinh thần Hiến pháp năm 2013.
* Những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu:
Các công trình nghiên cứu hiện nay đã giải quyết đƣợc một số vấn đề liên
quan đến Luận văn nhất là ở lý luận chung về năng lực quản lý, một số biện pháp
nâng cao năng lực quản lý. Luận văn sẽ kế thừa những kết quả nghiên cứu quan
8
trọng này.
Tuy nhiên, cho đến nay chƣa có công trình nào nghiên cứu các vấn đề về năng
lực quản lý của đội ngũ lãnh đạo cấp vụ từ thực tiễn Thanh tra Chính phủ để đƣa ra
các đánh giá, tìm ra điểm hạn chế, bất cập, nguyên nhân để từ đó đề xuất giải pháp
nâng cao năng lực quản lý cho đội ngũ lãnh đạo cấp vụ tại Thanh tra Chính phủ.
Chính vì vậy, Luận văn sẽ nghiên cứu làm rõ những vấn đề sau đây:
Thực trạng nâng cao năng lực quản lý của đội ngũ lãnh đạo cấp vụ tại Thanh
tra Chính phủ .
Đề xuất một số giải pháp, kiến nghị nâng cao năng lực quản lý của đội ngũ lãnh
đạo cấp vụ của Thanh tra Chính phủ trong thời gian tới.
1.2. Cơ sở lý luận về năng lực quản lý của cán bộ cấp vụ
1.2.1. Quan niệm về năng lực quản lý
- Năng lực:
Có rất nhiều quan niệm về năng lực, theo từ điển Tiếng Việt: “năng lực” là
khả năng để thực hiện, hoàn thành một việc.
Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế Thế giới (OECD) quan niệm năng lực
là “khả năng đáp ứng một cách hiệu quả những yêu cầu phức hợp trong một bối
cảnh cụ thể.” Chƣơng trình Giáo dục Trung học (GDTH) bang Québec, Canada năm
2004 xem năng lực “là một khả năng hành động hiệu quả bằng sự cố gắng dựa
trên nhiều nguồn lực.” Denyse Tremblay cho rằng năng lực là “khả năng hành
động, thành công và tiến bộ dựa vào việc huy động và sử dụng hiệu quả tổng hợp
các nguồn lực để đối mặt với các tình huống trong cuộc sống.” Còn theo F. E.
Weinert, năng lực là “tổng hợp các khả năng và kĩ năng sẵn có hoặc học đƣợc cũng
nhƣ sự sẵn sàng của học sinh nhằm giải quyết những vấn đề nảy sinh và hành động
một cách có trách nhiệm, có sự phê phán để đi đến giải pháp.” Việc giải thích năng
lực (competency) bằng khái niệm khả năng (ability, capacity, possibility) không
thật chính xác.
Theo Từ điển Tiếng Việt, khả năng là “1. Cái có thể xuất hiện, có thể xảy ra
trong điều kiện nhất định. Dự kiến các khả năng. Bão có khả năng đổ bộ vào đất
9
liền. 2. Cái vốn có về vật chất hoặc tinh thần để có thể làm được việc gì. Người có
khả năng. Việc làm hợp khả năng. Sử dụng tốt mọi khả năng đất đai”. Dù theo
nghĩa 1 hay nghĩa 2 thì cũng không nên quy năng lực vào phạm trù khả năng vì ngƣời
có năng lực trong một lĩnh vực nào đó chắc chắn sẽ thực hiện thành công loại hoạt
động tƣơng ứng; trong khi khả năng là cái tồn tại ở dạng tiềm năng, có thể biến thành
hiện thực nhƣng cũng có thể không biến thành hiện thực. Tuy nhiên, cần chú ý là
thuật ngữ khả năng của các tác giả nƣớc ngoài luôn đi kèm các cụm từ “đáp ứng một
cách hiệu quả”, “hành động hiệu quả”, “hành động, thành công và tiến bộ”, “đi đến
giải pháp”.
Một số tài liệu khác gọi năng lực là đặc điểm, phẩm chất hoặc thuộc tính cá
nhân. Ví dụ: Cách hiểu của Từ điển Bách khoa Việt Nam: “Năng lực là đặc điểm
của cá nhân thể hiện mức độ thông thạo - tức là có thể thực hiện một cách thành
thục và chắc chắn - một hay một số dạng hoạt động nào đó.”
Cách hiểu của Từ điển tiếng Việt: Nhƣ vậy, để thể hiện đƣợc bản chất xã
hội của năng lực, nên xếp nó vào phạm trù phẩm chất theo cách lí giải của Từ điển
tiếng Việt: “Năng lực là phẩm chất tâm lí và sinh lí...”. Tuy vậy, trong Nghị quyết
29 của Trung ƣơng, khi xác định quan điểm “chuyển mạnh quá trình giáo dục từ
chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất
ngƣời học”, từ phẩm chất đƣợc sử dụng đồng thời với năng lực và có nghĩa hẹp
hơn nghĩa thông thƣờng - chỉ bao hàm phẩm chất chính trị, đạo đức của ngƣời học.
Vì vậy, để việc giải thích khái niệm phù hợp với Nghị quyết (xem phẩm chất
là “hồng” trong quan niệm về con ngƣời phát triển toàn diện vừa “hồng” vừa
“chuyên”), có thể giải thích năng lực là một loại thuộc tính với sự mở rộng nghĩa
của từ này - bao hàm không chỉ các đặc tính bẩm sinh mà cả những đặc tính hình
thành và phát triển nhờ quá trình học tập, rèn luyện của con ngƣời.
Ngoài ra, Năng lực còn đƣợc định nghĩa khác theo các nhà tâm lý học: Năng lực
là tổng hợp các đặc điểm, thuộc tính tâm lý của cá nhân phù hợp với yêu cầu đặc trƣng
của một hoạt động nhất định nhằm đảm bảo cho hoạt động đó đạt hiệu quả cao. Các
năng lực hình thành trên cơ sở của các tƣ chất tự nhiên đóng vai trò quan trọng, năng
10
lực con ngƣời không phải hoàn toàn tự nhiên mà có, phần lớn do công tác và tập luyện
mà có.
Các khái niệm khác nhau xuất phát từ những góc nhìn khác nhau, do đó, khi
nghiên cứu năng lực làm việc cần chú ý một số điểm sau:
Năng lực cá nhân là khả năng thực hiện một hoạt động nào đó của cá nhân đó.
Do vậy khi xem xét năng lực của một đối tƣợng cụ thể chúng ta phải xem xét trong
một lĩnh vực hoạt động cụ thể. Một cá nhân có thể có năng lực làm việc trong lĩnh
vực này nhƣng không có năng lực làm việc trong lĩnh vực khác.
Năng lực đƣợc phát huy tối đa còn phụ thuộc vào môi trƣờng, điều kiện hoạt
động cụ thể vì vậy khi nghiên cứu năng lực cần xem xét năng lực trong mối liên hệ
với môi trƣờng hoạt động của một doanh nghiệp cụ thể.
Năng lực có thể thay đổi thông qua hoạt động. Do vậy, ngƣời ta có thể chủ
động tạo ra và phát triển năng lực hoặc ngƣợc lại, nếu không chú ý thỏa đáng, năng
lực cũng có thể bị hạn chế và không phát huy đƣợc trong công việc.
Tóm lại, có thể quan niệm năng lực là tất cả kiến thức, kỹ năng, thái độ, phẩm
chất đạo đức của một cá nhân để thực hiện một công việc nhất định của ngƣời đó
nhằm đạt đƣợc một mục tiêu của tổ chức. Năng lực có thể chia thành nhiều dạng
nhƣ: năng lực quản lý, năng lực chuyên môn, năng lực tƣ duy...
Những mô hình dựa trên cơ sở tính cách và hành vi cá nhân của cá nhân theo
đuổi cách xác định “con ngƣời cần phải nhƣ thế nào để thực hiện đƣợc các vai trò
của mình”;
Những mô hình dựa trên cơ sở các kiến thức hiểu biết và các kỹ năng đƣợc đòi
hỏi theo đuổi việc xác định “con ngƣời cần phải có những kiến thức và kỹ năng gì”
để thực hiện tốt vai trò của mình;
Những mô hình dựa trên cơ sở các kết quả và tiêu chuẩn đầu ra theo đuổi việc
xác định con ngƣời “cần phải đạt đƣợc những gì ở nơi làm việc”. Mô hình tiếp cận
với sản phẩm đầu ra đƣợc các nhà nghiên cứu và thực hành trên thế giới ủng hộ rất
nhiều.
11
Theo McLagan (1989), thì năng lực đƣợc hiểu là một tập hợp các kiến thức,
kỹ năng và thái độ hoặc cách chiến lƣợc tƣ duy mà tập hợp này là cốt lõi và quan
trọng cho việc tạo ra những sản phẩm đầu ra quan trọng.
Theo Bernard Wyne và David Stringer (1997), thì năng lực là kỹ năng, hiểu
biết, hành vi, thái độ đƣợc tích luỹ mà một ngƣời sử dụng để đạt đƣợc kết quả công
việc mong muốn của họ.
Mô hình năng lực đƣợc sử dụng phổ biến nhất hiện nay, đó là mô hình ASK.
ASK là mô hình đƣợc sử dụng rất phổ biến trong quản trị nhân sự nhằm đào tạo và
phát triển năng lực cá nhân. Mô hình này đƣa ra những tiêu chuẩn nghề nghiệp cho
các chức danh công việc trong tổ chức dựa trên ba nhóm tiêu chuẩn chính: Phẩm
chất hay thái độ (Attitude), Kỹ năng (Skills) và Kiến thức (Knowledges). Benjamin
Bloom (1956) đƣợc coi là ngƣời đƣa ra những phát triển bƣớc đầu về ASK, với ba
nhóm năng lực chính bao gồm: - Phẩm chất/Thái độ (Attitude): thuộc về phạm vi
cảm xúc, tình cảm (Affective) - Kỹ năng (Skills): kỹ năng thao tác (Manual or
physical) - Kiến thức (Knowledge): thuộc về năng lực tƣ duy (Cognitive).
Trong đó, kiến thức đƣợc hiểu là những năng lực về thu thập tin dữ liệu, năng lực
hiểu các vấn đề (comprehension), năng lực ứng dụng (application), năng lực phân tích
(analysis), năng lực tổng hợp (synthethis), năng lực đánh giá (evaluation). Đây là
những năng lực cơ bản mà một cá nhân cần hội tụ khi tiếp nhận một công việc. Công
việc càng phức tạp thì cấp độ yêu cầu về các năng lực này càng cao. Các năng lực này
sẽ đƣợc cụ thể hóa theo đặc thù của từng doanh nghiệp.
Phẩm chất hay thái độ thƣờng bao gồm các nhân tố thuộc về thế giới quan tiếp
nhận và phản ứng lại các thực tế (receiving, responding to phenomena), xác định giá
trị (valuing), giá trị ƣu tiên. Các phẩm chất và hành vi thể hiện thái độ của cá nhân
với công việc, động cơ, cũng nhƣ những tố chất cần có để đảm nhận tốt công việc
(Harrow, 1972). Các phẩm chất cũng đƣợc xác định phù hợp với vị trí công việc.
Về kỹ năng, chính là năng lực thực hiện các công việc, biến kiến thức thành
hành động. Thông thƣờng kỹ năng đƣợc chia thành các cấp độ chính nhƣ: bắt chƣớc
(quan sát và hành vi khuôn mẫu), ứng dụng (thực hiện một số hành động
12
bằng cách làm theo hƣớng dẫn), vận dụng (chính xác hơn với mỗi hoàn cảnh), vận
dụng sáng tạo (trở thành phản xạ tự nhiên) (Dave, 1975).
Năng lực = Kiến thức + Kỹ năng + Thái độ
- Quản lý:
Xuất phát từ những góc độ nghiên cứu khác nhau, rất nhiều học giả trong và
ngoài nƣớc đã đƣa ra giải thích không giống nhau về quản lý. Cho đến nay, vẫn
chƣa có một định nghĩa thống nhất về quản lý. Quản lý (thuật ngữ tiếng Anh là
Management) đặc trƣng cho quá trình điều khiển và dẫn hƣớng tất cả các bộ phận
của một tổ chức, thƣờng là tổ chức kinh tế, thông qua việc thành lập và thay đổi các
nguồn tài nguyên (nhân lực, tài chính, vật tƣ, tri thức và giá trị vô hình). Đặc biệt là
kể từ thế kỷ 21, các quan niệm về quản lý lại càng phong phú. Các trƣờng phái quản
lý học đã đƣa ra những định nghĩa về quản lý khác nhau. Có thể nêu ra một số cách
tiếp cận:
- Tiếp cận kiểu kinh nghiệm: Cách tiếp cận này phân tích quản lý bằng cách
nghiên cứu kinh nghiệm, mà thông thƣờng là thông qua các trƣờng hợp cụ thể.
Những ngƣời theo cách tiếp cận này cho rằng, thông qua việc nghiên cứu những
thành công hoặc những sai lầm trong các trƣờng hợp cá biệt của những nhà quản lý,
ngƣời nghiên cứu sẽ hiểu đƣợc phải làm nhƣ thế nào để quản lý một cách hiệu quả
trong trƣờng hợp tƣơng tự.
- Tiếp cận theo hành vi quan hệ cá nhân: Cách tiếp cận theo hành vi quan hệ
cá nhân dựa trên ý tƣởng cho rằng quản lý là làm cho công việc đƣợc hoàn thành
thông qua con ngƣời, và do đó, việc nghiên cứu nó nên tập trung vào các mối liên
hệ giữa ngƣời với ngƣời.
- Tiếp cận theo lý thuyết quyết định: Cách tiếp cận theo lý thuyết quyết định
trong quản lý dựa trên quan điểm cho rằng, ngƣời quản lý là ngƣời đƣa ra các quyết
định, vì vậy cần phải tập trung vào việc ra quyết định. Sau đó là việc xây dựng lý
luận xung quanh việc ra quyết định của ngƣời quản lý.
13
Tiếp cận toán học: Các nhà nghiên cứu theo trƣờng phái này xem xét công
việc quản lý trƣớc hết nhƣ là một sự sử dụng các quá trình, ký hiệu và mô hình toán
học. Nhóm này cho rằng, nếu nhƣ việc quản lý nhƣ xây dựng tổ chức, lập kế hoạch
hay ra quyết định là một quá trình lôgic thì nó có thể biểu thị đƣợc theo các ký hiệu
và các mô hình toán học. Vì vậy, việc ứng dụng toán học vào quản lý sẽ giúp ngƣời
quản lý đƣa ra đƣợc những quyết định tốt nhất.
Tiếp cận theo các vai trò quản lý: Cách tiếp cận theo vai trò quản lý là một
cách tiếp cận mới đối với lý thuyết quản lý thu hút đƣợc sự chú ý của cả các nhà
nghiên cứu lý luận và các nhà thực hành. Về căn bản, cách tiếp cận này nhằm quan
sát những cái mà thực tế nhà quản lý làm và từ các quan sát nhƣ thế đi tới những kết
luận xác định hoạt động (hoặc vai trò) quản lý là gì,…
Từ những cách tiếp cận khác nhau đó, có nhiều khái niệm khác nhau về
quản lý:
- Quản lý là nghệ thuật nhằm đạt mục đích thông qua nỗ lực của ngƣời khác;
- Quản lý là hoạt động của các cơ quan quản lý nhằm đƣa ra các quyết định;
- Quản lý là công tác phối hợp có hiệu quả các hoạt động của những cộng
sự trong cùng một tổ chức;
- Quản lý là quá trình phối hợp các nguồn lực nhằm đạt đƣợc những mục đích
của tổ chức;
Theo một cách tiếp cận hệ thống, mọi tổ chức (cơ quan quản lý nhà nƣớc, đơn
vị sự nghiệp, doanh nghiệp…) đều có thể đƣợc xem nhƣ một hệ thống gồm hai phân
hệ: chủ thể quản lý và đối tƣợng quản lý. Mỗi hệ thống bao giờ cũng hoạt động
trong môi trƣờng nhất định (khách thể quản lý).
Quản lý trong đề tài này đƣợc hiểu theo nghĩa hẹp, nó là quá trình làm việc
(lập kế hoạch, tổ chức, lãnh đạo, kiểm soát…) thông qua các cá nhân, các nhóm, các
nguồn lực nhằm đạt đƣợc mục tiêu của tổ chức.
- Năng lực quản lý:
Xuất phát từ quan niệm về năng lực và quản lý, tác giả đƣa ra quan niệm về
Năng lực quản lý nhằm làm rõ hơn những đặc điểm giữa năng lực và năng lực quản
14
lý. Qua những phân tích ở trên có thể thấy năng lực quản lý phụ thuộc vào bối cảnh
và mục đích sử dụng những năng lực đó. Năng lực quản lý còn là những đòi hỏi của
các công việc, các nhiệm vụ và các vai trò. Vì vậy, năng lực quản lý đƣợc xem nhƣ
là những phẩm chất tiềm tàng của một cá nhân và những đòi hỏi của công việc.
Từ các nhận định của các nhà khoa học, chúng ta thấy rằng “Năng lực quản
lý” gắn liền với việc thực hiện công việc, đƣợc thể hiện bằng kết quả công việc.
“Năng lực quản lý” mang đặc thù công việc và đặc trƣng cá nhân. Khi xem xét năng
lực quản lý là làm việc của một cá nhân cần gắn với một công việc cụ thể chứ
không thể phân tích chung cho mọi công việc. Điều này có nghĩa là các năng lực
quản lý luôn bị chi phối bởi bối cảnh cụ thể: Môi trƣờng, bối cảnh cụ thể của đất
nƣớc, tổ chức, và vị trí cụ thể trong tổ chức đó.
Nhƣ vậy, năng lực quản lý là một tập hợp các kiến thức, kỹ năng và thái độ
đƣợc tích luỹ mà một ngƣời sử dụng trong quá trình làm việc (lập kế hoạch, tổ chức,
lãnh đạo, kiểm soát…) thông qua các cá nhân, các nhóm, các nguồn lực nhằm đạt
đƣợc mục tiêu của tổ chức.
Nâng cao năng lực quản lý đƣợc hiểu là tổng hợp các biện pháp để phát triển tập
hợp các kiến thức, kỹ năng và thái độ của một ngƣời trong quá trình làm việc (lập kế
hoạch, tổ chức, lãnh đạo, kiểm soát…) thông qua các cá nhân, các nhóm, các nguồn
lực nhằm đạt đƣợc mục tiêu của tổ chức.
1.2.2. Đặc điểm năng lực quản lý của cán bộ cấp vụ
Thứ nhất, năng lực quản lý của cán bộ cấp vụ gắn liền với các chức năng của
quản lý:
Đây chính là điểm mấu chốt để phân biệt năng lực quản lý với các năng lực
khác. Năng lực quản lý đƣợc biểu hiện trong hoạt động quản lý và phục vụ cho hoạt
động quản lý nên nó gắn chặt với tất cả các chức năng cơ bản của hoạt động quản lý.
Ngƣời lãnh đạo có năng lực quản lý thì phải thực hiện có hiệu lực, hiệu quả tất cả các
chức năng này. Cụ thể là:
- Chức năng lập kế hoạch:
15
Muốn quản lý hiệu quả phải lập kế hoạch một cách sát thực, hiệu quả vì việc lập
kế hoạch giúp nhà quản lý đảm bảo làm đúng việc, đúng mục tiêu.
Lập kế hoạch bao gồm: Đánh giá tình hình hiện tại và xác định rõ mục tiêu, kết
quả tƣơng lai; Xác định những việc cần làm để đạt đƣợc mục tiêu, kết quả đó; Xác
định các hoạt động cụ thể và thời hạn hoàn thành; Thống nhất về các chỉ số đo lƣờng
kết quả.
Tóm lại, lập kế hoạch là việc thiết lập những mục tiêu và xác định phƣơng án tốt
nhất để hoàn thành các mục tiêu đó. Có nhiều loại kế hoạch nhƣ kế hoạch tín dụng, kế
hoạch tài chính, kế hoạch lao động tiền lƣơng, kế hoạch hoạt động
tháng/quý/năm/nhiệm kỳ... Những loại kế hoạch này đƣợc lập ở nhiều cấp độ và thời
hạn khác nhau. Ngƣời quản lý ở cấp càng cao thì phải lập kế hoạch cho tƣơng lai càng
xa. Khi tổ chức còn tƣơng đối nhỏ và các nhân viên đƣợc giao tiếp gần gũi thƣờng
xuyên với nhau, thì việc lập kế hoạch tƣơng đối dễ dàng. Khi tổ chức có quy mô lớn,
việc lập kế hoạch phức tạp hơn và có vai trò quan trọng hơn nhiều.
- Chức năng tổ chức:
Với vai trò là một nhà tổ chức, quản lý, lãnh đạo cấp vụ phải đảm bảo rằng các
nguồn lực về tài chính, vật chất và con ngƣời cần có để thực hiện thành công kế hoạch
phải đƣợc đặt đúng chỗ, đúng lúc, đúng số lƣợng và đƣợc sử dụng một cách hiệu quả.
Họ phải giao nhiệm vụ cho những cá nhân sao cho những ngƣời đƣợc giao việc có đủ
các kỹ năng cần thiết để thực hiện công việc đó. Họ cũng phải điều phối việc thực hiện
các nhiệm vụ đó sao cho những hoạt động có liên quan đƣợc tiến triển với cùng tốc độ
và đồng bộ với nhau.
Lãnh đạo cấp vụ cần phải đảm bảo rằng những ngƣời dƣới quyền mình hiểu
đƣợc vai trò và tầm quan trọng của mỗi ngƣời đối với thành công chung. Khi giao
việc họ phải hƣớng dẫn rõ ràng và phù hợp. Trong chức năng tổ chức, một trong
những trách nhiệm quan trọng nhất của ngƣời quản lý là việc thiết lập và duy trì các
kênh giao tiếp rõ ràng và phù hợp, không chỉ trong nội bộ đơn vị đang quản lý mà còn
với những đơn vị khác và với các cấp quản lý cao hơn. Liên lạc tốt là yếu tố vô cùng
quan trọng trong việc tạo ra những mối liên kết hiệu quả giữa các mục tiêu, nhiệm vụ
16
và con ngƣời. Trên thực tế, việc phối hợp những mối quan hệ lành mạnh giữa các cá
nhân và giữa các nhóm là trách nhiệm quan trọng nhất của ngƣời quản lý.
- Chức năng lãnh đạo:
Khi thực hiện chức năng lãnh đạo, lãnh đạo cấp vụ phải đảm bảo rằng mọi ngƣời
đều làm đúng việc. Xét cho cùng thì lãnh đạo cấp vụ sẽ không còn là những nhà quản
lý nữa nếu họ cố gắng tự mình làm tất cả mọi thứ. Những lãnh đạo cấp vụ giỏi sẽ cung
cấp những định hƣớng thích hợp và tạo động lực cho những ngƣời khác trong phòng
giao dịch để mỗi ngƣời đều đóng góp vào việc hoàn thành những kết quả mong đợi.
Lãnh đạo cấp vụ làm đƣợc điều này bằng cách: Đƣa ra một tầm nhìn/viễn cảnh có tác
dụng tạo động lực cho nhân viên; Nêu gƣơng, đặt ra các ƣu tiên cần giải quyết ở từng
nơi, từng lúc; Huấn luyện, tƣ vấn và khuyến khích nhân viên khi thực hiện nhiệm vụ
của họ; Soạn thảo văn bản hƣớng dẫn quy trình nghiệp vụ cụ thể, rõ ràng; Tạo một
môi trƣờng trong đó mọi ngƣời có thể thi đua hoàn thành nhiệm vụ; Giúp mọi ngƣời
thích nghi với những cái mới và những sự thay đổi; Thể hiện cách giải quyết vấn đề và
suy nghĩ sáng tạo; Khuyến khích tinh thần làm việc đồng đội, làm việc theo tổ nhóm.
Mọi lãnh đạo cấp vụ đều thực hiện chức năng lãnh đạo. Xét cho cùng, cho dù
các nhân viên có tài năng và có động lực đến đâu đi nữa thì họ vẫn cần sự hƣớng dẫn
giúp họ đóng góp một cách tốt nhất cho việc hoàn thành các mục tiêu của tổ chức.
Chắc chắn họ sẽ đánh giá cao nếu ngƣời quản lý thƣờng xuyên tiếp thêm năng lƣợng
cho họ để giúp họ duy trì đƣợc động năng và thậm chí đẩy họ lên những tầm cao mới.
- Chức năng kiểm soát:
Trách nhiệm khi thực hiện chức năng kiểm soát hay chức năng giám sát là:
Luôn để mắt tới mọi việc, quán xuyến đƣợc công việc; Đảm bảo mọi việc tiến triển
theo đúng kế hoạch; Nhận xét, đánh giá, đo lƣờng, kết quả đạt đƣợc; So sánh kết quả
thực tế và kết quả mong đợi; Thực hiện những điều chỉnh cần thiết để kết quả thực tế
sát hơn với kết quả mong đợi; Thực hiện chế độ báo cáo thống kê theo quy định.
Lãnh đạo cấp vụ cần có khả năng làm ngƣời hƣớng dẫn, theo dõi những nhóm
nhân viên có mức độ tự quản cao, để hệ số tự quản lý tăng lên, để giữ chân nhân viên
và tối đa hoá năng suất của họ. Nếu quản lý nhân viên nhƣ kiểu ngƣời nghệ sỹ múa rối
17
điều khiển những con rối của mình thì chỉ có thể giúp hoàn thành những mục tiêu
ngắn hạn mà không bao giờ có thể tạo ra một môi trƣờng giúp mọi ngƣời muốn đóng
góp những ý tƣởng, công sức của mình và làm việc một cách lâu dài, hiệu quả nhất.
Do đó, chức năng kiểm soát có mục đích là đảm bảo nhiệm vụ của ngƣời quản lý
đƣợc hoàn thành - tức là đạt đƣợc những kết quả mong muốn - mà không phải là chế
ngự và thao túng những ngƣời dƣới quyền. Kiểm soát ở đây là giám sát về kết quả làm
việc của nhân viên.
Thứ hai, năng lực quản lý của cán bộ cấp vụ mang đặc thù của hoạt động
quản lý nhà nước:
Để phân biệt năng lực với những khái niệm khác cùng phạm trù, các tài liệu
trong nƣớc và nƣớc ngoài đều thống nhất quan niệm năng lực cá nhân đƣợc bộc lộ
ở hoạt động (hành động, công việc) nhằm đáp ứng những yêu cầu cụ thể trong bối
cảnh (điều kiện) cụ thể. Đây là đặc trƣng phân biệt năng lực với tiềm năng
(potential) - khả năng ẩn giấu bên trong, chƣa bộc lộ ra, chƣa phải là hiện thực.
Một số tài liệu của Việt Nam còn cho rằng năng lực gắn với các “dạng hoạt động”
(Từ điển Bách khoa Việt Nam, Đặng Thành Hƣng), “loại hoạt động” (Từ điển tiếng
Việt của Viện Ngôn ngữ học), loại công việc” (Tài liệu hội thảo CTGDPT tổng thể
trong CTGDPT mới của Bộ GD&ĐT).
Việc quy chiếu năng lực với loại hoạt động giúp chúng ta phân biệt năng lực với
kĩ năng (skill) - một thành tố của năng lực. Mỗi năng lực gắn với một loại hoạt động,
chẳng hạn: năng lực giao tiếp, năng lực tƣ duy, năng lực hợp tác… Các năng lực này
đƣợc thể hiện ở những kĩ năng gắn với những hoạt động cụ thể, nhƣ: kĩ năng nói, kĩ
năng đặt câu hỏi, kĩ năng làm việc nhóm...
18
Hình 1.1. Sơ đồ về yêu cầu về mối quan hệ giữa năng lực và kỹ năng
Nhìn rộng ra, sự phân biệt năng lực và kĩ năng bằng tiêu chí này cũng giúp
chúng ta làm rõ đƣợc sự khác nhau về cấp độ giữa phƣơng pháp dạy học (PPDH)
với biện pháp dạy học (BPDH) - vấn đề đƣợc giải quyết rất khác nhau giữa các nhà
sƣ phạm. Phải chăng có thể hiểu: PPDH là những giải pháp tác động vào sự hình
thành, phát triển một hoặc một số năng lực ở học sinh; còn BPDH là những giải
pháp tác động vào sự hình thành, phát triển một hoặc một số kĩ năng nhất định.
Từ những phân tích này cho thấy năng lực quản lý gắn liền với hoạt động quản
lý. Đặc biệt gắn với đội ngũ lãnh đạo cấp vụ thì năng lực quản lý gắn liền với hoạt
động quản lý nhà nƣớc. Quản lý nhà nƣớc là hoạt động vừa có những đặc điểm
chung của hoạt động quản lý, vừa mang những đặc thù riêng. Trong đó phải kể đến
các đặc thù quan trọng là:
Quản lý nhà nƣớc là hoạt động mang tính quyền lực nhà nƣớc: Quyền lực nhà
nƣớc trong quản lý nhà nƣớc trƣớc hết thể hiện ở việc các chủ thể có thẩm quyền
thể hiện ý chí nhà nƣớc thông qua phƣơng tiện nhất định, trong đó phƣơng tiện cơ
bản và đặc biệt quan trọng đƣợc sử dụng là văn bản quản lý hành chính nhà nƣớc.
Bằng việc ban hành văn bản, chủ thể quản lý hành chính nhà nƣớc thể hiện ý chí
của mình dƣới dạng các chủ trƣơng, chính sách pháp luật nhằm định hƣớng cho
hoạt động xây dựng và áp dụng pháp luật; dƣới dạng quy phạm pháp luật nhằm cụ
thể hóa các quy phạm pháp luật của cơ quan quyền lực nhà nƣớc và của cấp trên
thành những quy định chi tiết để có thể triển khai thực hiện trong thực tiễn; dƣới
dạng các mệnh lệnh cá biệt nhằm áp dụng pháp luật vào thực tiễn, trực tiếp thực
hiện quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia quan hệ quản lý; dƣới những dạng
mệnh lệnh chỉ đạo cấp dƣới trong hoạt động, nhằm tổ chức thực hiện pháp luật
trong thực tiễn; dƣới dạng những thông tin hƣớng dẫn đối lập với cấp dƣới nhằm
đảm bảo sự thống nhất, có hệ thống của bộ máy hành chính nhà nƣớc. Bên canh đó,
quyền lực nhà nƣớc còn thể hiện trong việc các chủ thể có thẩm quyền tiến hành
những hoạt động cần thiết để bảo đảm thực hiện ý chí nhà nƣớc, nhƣ các biện pháp
19
về tổ chức, về kinh tế, tuyên truyền giáo dục, thuyết phục cƣỡng chế … Chính
những biện pháp này là sự thể hiện tập trung và rõ nét của sức mạnh nhà nƣớc, một
bộ phận tạo nên quyền lực nhà nƣớc, nhờ đó ý chí của chủ thể quản lý hành chính
nhà nƣớc đƣợc bảo đảm thực hiện.
Quản lý nhà nƣớc là hoạt động có tính thống nhất, đƣợc tổ chức chặt chẽ, tuân
thủ hiến pháp và pháp luật: Để bảo đảm tính pháp chế trong hoạt động hành pháp,
bộ máy các cơ quan hành pháp đƣợc tổ chức thành một khối thống nhất từ Trung
ƣơng tới địa phƣơng, đứng đầu là Chính phủ, nhờ đó các hoạt động của bộ máy
đƣợc chỉ đạo, điều hành thống nhất, bảo đảm lợi ích chung của cả nƣớc, bảo đảm sự
liên kết, phối hợp nhịp nhàng giữa các địa phƣơng tạo ra sức mạnh tổng hợp.
Quản lý nhà nƣớc là hoạt động mang tính liên tục: Khác với hoạt động lập
pháp và tƣ pháp, quản lý nhà nƣớc luôn cần có tính liên tục, kịp thời và linh hoạt để
đáp ứng sự vận động không ngừng của đời sống xã hội. Chính điểm đặc thù này
đƣợc coi là một cơ sở quan trọng trong việc xác lập quy định về tổ chức và hoạt
động, quy chế công chức, công vụ của bộ máy hành chính nhà nƣớc; tạo ra bộ máy
hành chính gọn nhẹ, có sự linh hoạt trong tổ chức, có đội ngũ công chức năng động
sáng tạo, quyết đoán và chịu sự ràng buộc trách nhiệm đối với hoạt động của mình.
Chính vì những đặc trƣng kể trên của quản lý nhà nƣớc mà năng lực quản lý
của đội ngũ lãnh đạo cấp vụ cũng sẽ gắn liền với những đặc trƣng đó. Nó đòi hỏi
đội ngũ lãnh đạo cấp vụ phải có kỹ năng, kiến thức trong việc ban hành các văn bản
quản lý, tổ chức thực hiện các văn bản quản lý, điều hành hoạt động của đơn vị
thƣờng xuyên, liên tục, tuân thủ theo đúng các quy định của Hiến pháp và pháp luật.
Thứ ba, năng lực quản lý của cán bộ cấp vụ gắn liền với hiệu lực, hiệu quả
của hoạt động quản lý nhà nước:
Trƣớc hết, phải nói đến đặc trƣng hiệu lực, hiệu quả của năng lực quản lý nói
chung. Đặc trƣng này giúp ta phân biệt năng lực với một khái niệm ở vị trí giữa nó
với tiềm năng là khả năng. Khả năng là cái tồn tại ở dạng tiềm năng, có thể biến
thành hiện thực khi cần thiết và khi có các điều kiện thích hợp, nhƣng cũng có thể
không biến thành hiện thực.
20
Năng lực quản lý của đội ngũ lãnh đạo cấp vụ phải đƣợc xem xét thông qua
hoạt động và kết quả của quá trình biểu hiện ấy chính là hiệu lực, hiệu quả của hoạt
động quản lý nhà nƣớc. Hiệu lực là sự thực hiện đúng, kịp thời, có kết quả chức
năng, nhiệm vụ đƣợc giao và tuân thủ pháp luật nhằm đạt đƣợc các mục tiêu đề ra.
Ở khía cạnh thực tiễn, hiệu lực còn biểu hiện ở sự nghiêm túc, khẩn trƣơng, triệt để
trong việc thực thi chính sách, pháp luật của Nhà nƣớc. Hiệu quả là kết quả quản lý
đạt đƣợc trong sự tƣơng quan với mức độ chi phí các nguồn lực, trong mối quan hệ
giữa hiệu quả kinh tế với hiệu quả xã hội. Hiệu quả đƣợc thể hiện trên các phƣơng
diện sau: Đạt mục tiêu quản lý hành chính tối đa với mức độ chi phí các nguồn lực
nhất định, Đạt mục tiêu nhất định với mức độ chi phí các nguồn lực tối thiểu, Đạt
đƣợc mục tiêu không chỉ trong quan hệ với chi phí nguồn lực (tài chính, nhân lực...)
mà còn trong quan hệ với hiệu quả xã hội.
Giữa năng lực, hiệu lực, hiệu quả của nền hành chính có mối quan hệ biện
chứng. Năng lực quản lý trƣớc hết phải đề cao hiệu lực, phải đảm bảo đƣợc hiệu lực
thực hiện. Mặt khác, phải có hiệu quả. Nhƣ vậy cả hiệu lực, hiệu quả quản lý đều
đƣợc quyết định bởi năng lực của cán bộ, công chức trong đó có năng lực quản lý
của đội ngũ lãnh đạo cấp vụ. Để nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nƣớc phải
tập trung xây dựng và hoàn thiện các yếu tố cấu thành năng lực quản lý nhà nƣớc
của các chủ thể trong đó có đội ngũ lãnh đạo cấp vụ. Ngƣợc lại, để đánh giá tiến bộ
về năng lực quản lý phải dựa trên những tiêu chí, thƣớc đo cụ thể phản ánh hiệu lực,
hiệu quả của hoạt động quản lý nhà nƣớc.
1.2.3. Nội dung và các tiêu chí đánh giá năng lực quản lý của cán bộ cấp vụ
1.2.3.1. Cấu trúc nội dung năng lực quản lý của cán bộ cấp vụ
Mặc dù cách trình bày về khái niệm năng lực có khác nhau nhƣng phần lớn
các tài liệu trong nƣớc và nƣớc ngoài đều hiểu năng lực là sự tích hợp của nhiều
thành tố nhƣ tri thức, kĩ năng, niềm tin, sự sẵn sàng hoạt động... Có thể hiểu đó là
hƣớng tiếp cận cấu trúc của năng lực theo nguồn lực hợp thành. F. E. Weinert cho
rằng năng lực gồm ba yếu tố cấu thành là khả năng, kĩ năng và thái độ sẵn sàng
tham gia hoạt động của cá nhân. Có thể thấy mô hình cấu trúc của F. E. Weinert
21
thiếu thành tố “tri thức”; và xem “khả năng” nhƣ một thành tố của năng lực bên cạnh
“kĩ năng” là không thuyết phục. Gần với ý kiến của F. E. Weinert, Đặng Thành Hƣng
cho rằng năng lực gồm ba thành tố cơ bản là tri thức, kĩ năng và hành vi biểu cảm
(thái độ), trong đó “yếu tố cốt lõi trong bất cứ năng lực cụ thể nào đều là kĩ năng
(hoặc những kĩ năng). Những thứ khác trong năng lực nhƣ tri thức, thái độ, tình cảm,
tâm vận động, sức khỏe... cũng rất quan trọng, song thiếu kĩ năng thì chúng trở nên
kém giá trị mặc dù không phải hoàn toàn vô dụng”. Năng lực quản lý cũng vậy,
chúng đƣợc cấu thành từ các thành tố cơ bản bao gồm kiến thức quản lý, kỹ năng
quản lý, thái độ trong quản lý…
Tuy nhiên, cần phải xem xét đến mối quan hệ giữa các nguồn lực hợp thành
năng lực quản lý là tri thức, kĩ năng và thái độ với sự thể hiện của chúng trong hoạt
động quản lý là năng lực hiểu, năng lực làm và năng lực ứng xử, giải quyết tình
huống. Đó là mối quan hệ giữa nguồn lực (đầu vào) với kết quả (đầu ra), nói cách
khác là giữa cấu trúc bề mặt với cấu trúc bề sâu của năng lực quản lý. Nếu chúng ta
chỉ tập trung vào mục tiêu cung cấp kiến thức, rèn luyện kĩ năng, hình thành thái độ
và tổ chức đánh giá những mặt đó thì mới chỉ dừng lại ở đầu vào. Một chƣơng trình
phát triển năng lực quản lý phải nhằm hình thành, phát triển và kiểm soát đƣợc, đo
lƣờng đƣợc các chỉ số ở đầu ra.
Hình 1.2. Cấu trúc của năng lực quản lý theo các nguồn lực hợp thành
22
Theo sơ đồ cấu trúc này, để phát triển năng lực quản lý cho cán bộ cấp vụ
không chỉ cần trang bị kiến thức quản lý, rèn luyện kĩ năng, bồi dƣỡng thái độ mà còn
phải làm cho những kiến thức trở thành hiểu biết thực sự; làm cho những kĩ năng
đƣợc đƣợc thực hành thƣờng xuyên, làm cho thái độ có điều kiện, môi trƣờng để bộc
lộ, hình thành, phát triển qua các tình huống quản lý, trở thành phẩm chất bền vững
của mỗi ngƣời. Việc đánh giá, vì vậy sẽ phải chuyển từ kiểm tra kiến thức, thao tác kĩ
thuật và nhận thức tƣ tƣởng đơn thuần sang đánh giá sự hiểu biết, khả năng thực
hành, hành vi ứng xử, giải quyết tình huống trong quản lý, kết quả thực hiện chức
trách, nhiệm vụ đƣợc giao. Đây chính là những cấu thành cơ bản của năng lực đội
ngũ lãnh đạo.
Với chủ thể quản lý đội ngũ cán bộ cấp vụ nói chung, thì các yếu tố đầu vào liên
quan đến trình độ, năng lực, kỹ năng, thái độ… cũng nhƣ kết quả thực hiện nhiệm vụ
là các nội dung để đánh giá năng lực quản lý cán bộ cấp vụ. Trên thực tế, việc đánh
giá năng lực quản lý của cán bộ cấp vụ hiện dựa nhiều vào kết quả thực hiện nhiệm
vụ, cụ thể là những nhiệm vụ của chủ thể quản lý giao cho đối tƣợng quản lý thực
hiện. Tuy nhiên, quá trình đánh giá cũng dựa trên các yếu tố đầu vào, dựa trên cả quá
trình thực hiện, chứ không thiên về bất cứ nội dung nào để đánh giá năng lực quản lý
của đội ngũ cán bộ cấp vụ.
1.2.3.2. Các tiêu chí đánh giá năng lực quản lý của cán bộ cấp vụ
Căn cứ vào cấu trúc của năng lực quản lý đã phân tích, căn cứ chức năng, nhiệm
vụ của cán bộ cấp vụ thuộc Thanh tra Chính phủ, tiêu chí để đánh giá năng lực quản
lý của cán bộ cấp vụ tại Thanh tra Chính phủ đƣợc tiếp cận trên cơ sở 3 nhóm yếu tố:
- Nhóm tiêu chí về kiến thức (năng lực hiểu);
- Nhóm tiêu chí về kỹ năng, kinh nghiệm công tác (năng lực làm);
- Nhóm tiêu chí về thái độ làm việc (năng lực ứng xử).
* Tiêu chí về kiến thức:
Kiến thức của cán bộ cấp vụ tại Thanh tra Chính phủ đƣợc phản ánh quá trình
đào tạo, năng lực hiểu biết của họ. Trình độ đào tạo của cán bộ cấp vụ tại Thanh tra
Chính phủ thể hiện ở bằng cấp, chứng chỉ, chứng nhận trình độ đã đƣợc đào tạo.
Trình độ đào tạo thể hiện cấp độ kiến thức, kỹ năng chuyên môn cá nhân thu nhận
23
đƣợc từ khoá đào tạo. Nhƣ vậy, trình độ đào tạo cho biết cán bộ cấp vụ tại Thanh tra
Chính phủ đó đƣợc đào tạo nhƣ thế nào, với chuyên môn gì, thời gian bao lâu và
bằng cấp nhƣ thế nào. Qua đó cho biết khả năng có thể thực hiện đƣợc công việc
mang tính nghề nghiệp mà cá nhân đƣợc đào tạo, là một trong những tiêu chuẩn đầu
tiên để làm một loại công việc chuyên môn đƣợc đào tạo hay đảm trách một vị trí
công việc nào đó. Về cơ bản, kiến thức của lãnh đạo cấp vụ đƣợc đánh giá qua các
nội dung chính sau đây:
Mức độ nắm vững chủ trƣơng, đƣờng lối của Đảng, chính sách và pháp luật
của Nhà nƣớc về lĩnh vực chuyên môn, chuyên ngành;
Mức độ nắm vững các văn bản quy phạm pháp luật về lĩnh vực chuyên môn,
chuyên ngành;
Mức độ hiểu biết chuyên sâu về nghiệp vụ quản lý của lĩnh vực chuyên môn,
chuyên ngành;
Mức độ kiến thức và hiểu biết tình hình chính trị, kinh tế - xã hội của đất
nƣớc, các nƣớc trong khu vực và thế giới.
* Tiêu chí về kỹ năng:
Kỹ năng của lãnh đạo cấp vụ là mức độ thành thạo trong tiến hành các hoạt
động tác nghiệp và quản lý cụ thể. Kỹ năng của cán bộ cấp vụ tại Thanh tra Chính
phủ là một yếu tố quyết định tạo nên năng lực quản lý của cán bộ cấp vụ của Thanh
tra Chính phủ. Kỹ năng đƣợc hình thành qua quá trình công tác, kinh nghiệm quản
lý ở các cấp bậc thấp hơn. Về cơ bản, kỹ năng quản lý của cán bộ cấp vụ của Thanh
tra Chính phủ đƣợc đánh giá qua các nội dung chính sau đây:
Kỹ năng tƣ duy chiến lƣợc;
Kỹ năng tham mƣu hoạch định chính sách, lãnh đạo, quản lý, thực hiện tốt chủ
trƣơng, đƣờng lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nƣớc về lĩnh vực,
chuyên môn, chuyên ngành;
Kỹ năng chủ trì, tổ chức xây dựng các đề án, văn bản quy phạm pháp luật, đề
xuất các giải pháp, phƣơng pháp thực hiện về lĩnh vực chuyên môn, chuyên ngành
phục vụ hoạt động quản lý nhà nƣớc của Bộ, ngành;
24
Kỹ năng điều hành, phân công công việc, có khả năng tập hợp, đoàn kết, tổ
chức công chức trong vụ và phối hợp với các cơ quan có liên quan thực hiện tốt
nhiệm vụ đƣợc giao;
Kỹ năng hƣớng dẫn, kiểm tra, đôn đốc, đánh giá công chức thuộc quyền quản
lý tiến hành các công việc theo nhiệm vụ đƣợc giao;
Kỹ năng giữ kỷ luật, giải quyết xung đột và tạo động lực làm việc cho công
chức thuộc quyền quản lý;
Kỹ năng quản lý theo kết quả.
* Tiêu chí thái độ quản lý:
Thái độ quản lý của cán bộ cấp vụ của Thanh tra Chính phủ là ý thức, trách
nhiệm, ứng xử trong thực thi nhiệm vụ ở vị trí công tác đang đảm nhận. Thái độ làm
việc của cán bộ cấp vụ của Thanh tra Chính phủ ảnh hƣởng bởi phẩm chất cá nhân,
đạo đức nghề nghiệp. Phẩm chất đạo đức cần của ngƣời cán bộ cấp vụ của Thanh
tra Chính phủ đó là sự trung thực, khách quan, là ý thức làm việc, trách nhiệm đối
với công việc, tinh thần học tập, sáng tạo trong công việc. Về cơ bản thái độ quản lý
của đội ngũ cán bộ cấp vụ đƣợc đánh giá qua các tiêu chí sau đây:
Chỉ số tuân thủ nhiệm vụ cấp trên: Thể hiện sự tự giác và tập trung vào thực
hiện các nhiệm vụ đƣợc cấp trên giao cho. Đồng thời, nó cũng thể hiện mức độ tuân
thủ đối với nội quy, quy định, quy trình làm việc.
Chỉ số chủ động trong công việc: Nói lên mức độ làm chủ công việc của ngƣời
lãnh đạo. Nó là sự kết hợp giữa lãnh đạo và quản lý công việc với lãnh đạo và quản lý
bản thân; hay nói đúng hơn là nắm thế chủ động trong công việc.
Chỉ số trung thực: trung thực ở đây trƣớc hết là trung thực với bản thân, trung
thực với cấp trên, với đồng nghiệp và với cấp dƣới trong công việc. Trung thực ở
đây không phải chỉ là không nói dối mà trung thực là không che dấu những thông
tin có liên quan đến công việc, về kết quả công việc của mình hay của ngƣời cấp
dƣới mà mình biết đƣợc.
Chỉ số tinh thần lắng nghe, hợp tác trong công việc: một tổ chức thì có sự hợp
tác và thống nhất ý chí hành động của tất cả mọi ngƣời lại thành một, chính điều này
tạo nên sức mạnh của tổ chức. Ngƣời lãnh đạo phải biết lắng nghe và hợp tác để tìm
25
ra đƣợc phƣơng án tốt nhất trong giải quyết công việc của tổ chức.
Chỉ số khả năng học hỏi và phát triển: điều này đảm bảo cho ngƣời lãnh đạo là
ngƣời luôn tiên phong trong việc học hỏi, phát triển bản thân để cập nhật các kiến
thức, kỹ năng mới và làm gƣơng cho nhân viên, góp phần phát triển tổ chức.
1.2.4. Sự cần thiết và nội dung nâng cao nâng lực quản lý đối với cán bộ cấp
1.2.4.1 Sự cần thiết nâng cao năng lực quản lý đối với cán bộ cấp vụ
vụ
Xét về lĩnh vực hoạt động quản lý nhà nƣớc thì hiệu quả quản lý đƣợc nói đến
nhƣ một công cụ quan trọng đảm bảo chất lƣợng đƣợc nâng cao. Không thể phủ nhận
rằng nâng cao năng lực quản lý sẽ góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý nhà
nƣớc. Việc nâng cao năng lực quản lý có ý nghĩa nhằm đánh giá đúng mức khả năng
của bộ máy quản lý, trên cơ sở đó tìm ra những phƣơng pháp tối ƣu để nâng cao hiệu
quả hoạt động của Thanh tra Chính phủ.
Nhiều quan niệm thì cho rằng nâng cao năng lực quản lý có nghĩa là đào tạo và
phát triển nguồn nhân lực. Thực tế yếu tố này chỉ là vấn đề cơ bản của nội dung nâng
cao năng lực quản lý. Trên thực tế, dù là bất kỳ ai đi nữa, ngƣời quản lý, ngƣời ra các
quyết định, các chuyên gia, khi thực hiện đầy đủ năng lực quản lý của họ thì bản thân
họ phát huy đƣợc khả năng của họ nhiều hơn. Họ cần đến một môi trƣờng tổ chức và
thể chế hỗ trợ để thể hiện những cố gắng, khả năng và năng lực quản lý của bản thân
họ. Sự không hợp lý của thể chế và tổ chức đƣợc coi nhƣ là một sự cản trở lớn đối
với hiệu quả quản lý của các thành phố và giảm khả năng của các chuyên gia và của
mọi ngƣời.
Theo cách tiếp cận này, hoạt động nâng cao năng lực quản lý trong bất kỳ lĩnh
vực nào cũng sẽ thể hiện hiệu quả hơn theo chiến lƣợc gồm hai phần: Thứ nhất, làm
cho vai trò quản lý tƣơng xứng với năng lực của nó. Khi mà năng lực quản lý yếu
kém, thì việc chủ thể quản lý lựa chọn các biện pháp nâng cao năng lực quản lý là
điều cần phải đánh giá cân nhắc cẩn thận; Thứ hai, nâng cao năng lực quản lý bằng
cách củng cố lại các thể chế công cộng. Điều này có nghĩa là vạch ra các quy tắc và
kiềm chế hiệu quả nhằm kiểm soát các hoạt động độc đoán của cấp cao hơn và đấu
tranh chống lại các hiện tƣợng tiêu cực.
26
Nhƣ vậy, nâng cao năng lực quản lý đƣợc hiểu là sự tổng hợp các biện pháp để
phát triển hay cải thiện năng lực quản lý trên lĩnh vực công tác đó. Có thể áp dụng
một hay nhiều biện pháp nâng cao năng lực quản lý, tuy nhiên dùng biện pháp nào
và vào thời điểm nào còn tùy thuộc vào điều kiện tình hình thực tế, thì mới đạt đƣợc
kết quả nhƣ mong muốn. Nâng cao năng lực quản lý của đội ngũ lãnh đạo cấp vụ là
rất cần thiết bởi các lý do sau đây:
Thứ nhất, nâng cao năng lực quản lý của cán bộ cấp vụ sẽ đáp ứng đƣợc yêu
cầu về phát triển kinh tế xã hội. Nguồn nhân lực luôn luôn đóng vai trò quyết định
vào quá trình sản xuất, tăng trƣởng và phát triển kinh tế xã hội. Với những thành tựu
đạt đƣợc từ công cuộc đổi mới, nền kinh tế đã có những bƣớc phát triển khá, đời sống
nhân dân đƣợc cải thiện. Tuy nhiên, những đổi mới trong cơ cấu kinh tế còn chậm, tỷ
lệ thiếu việc làm ở nông thôn cao, sự phân hóa giàu nghèo có xu hƣớng gia tăng giữa
khu vực thành thị và nông thôn. Do đó yêu cầu về phát triển kinh tế nhanh và bền
vững đƣợc đặt ra và để làm đƣợc điều đó thì đào tạo thích ứng nguồn nhân lực là một
yếu tố quan trọng để thực hiện các mục tiêu kinh tế, xã hội. Đối với nguồn nhân lực
là đội ngũ cán bộ cấp vụ tại Thanh tra Chính phủ, những ngƣời là lực lƣợng chủ chốt
thực thi các nhiệm vụ quản lý nhà nƣớc về thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và
phòng chống tham nhũng thì yêu cầu nâng cao năng lực là không thể không đặt ra.
Thứ hai, nâng cao năng lực quản lý của đội ngũ cán bộ cấp vụ sẽ đáp ứng
đƣợc yêu cầu cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Đảng đối
với nhân dân. Cải cách hành chính hiện nay đang đƣợc xem là một động lực mạnh
mẽ để thúc đẩy tăng trƣởng kinh tế, phát huy dân chủ và cải thiện nhiều mặt đời
sống nhân dân ở nhiều quốc gia trên thế giới. Ở Việt Nam công cuộc cải cách hành
chính đƣợc thực hiện từng bƣớc và đã thu đƣợc nhiều kết quả đáng kể. Cải cách
hành chính đang thể hiện rõ vai trò của mình trong việc đẩy nhanh sự phát triển đất
nƣớc. Sự phát triển của nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ, đầu tƣ nƣớc ngoài có
xu hƣớng tăng, nhiều vấn đề mới nảy sinh cần phải đƣợc giải quyết. Bên cạnh đó là
bối cảnh toàn cầu hóa đang đặt Việt Nam trƣớc rất nhiều cơ hội và thách thức mới.
Điều đó có nghĩa là cải cách hành chính ở Việt Nam còn rất nhiều vấn đề đặt ra cần
27
đƣợc tiếp tục giải quyết trong đó đặc biệt chú trọng tới cải cách đội ngũ cán bộ, công
chức nói chung và cán bộ, công chức chính quyền cơ sở nói riêng. Trong nền hành
chính quan liêu trƣớc đây, đội ngũ lãnh đạo công chức không đáp ứng đƣợc yêu cầu
mới, chỉ đạo thực hiện máy móc, giáo điều, thiếu kinh nghiệm thực tiễn, dẫn tới
những chính sách nóng vội sao chép không phù hợp làm cho tình hình khủng hoảng
kinh tế, xã hội trầm trọng. Hiện nay với sự phát triển của nền kinh tế thị trƣờng định
hƣớng xã hội chủ nghĩa đã tạo ra những bƣớc chuyển căn bản từ trong tƣ duy nhận
thức đến điều chỉnh hàng loạt cá chính sách, thể chế. Trong chƣơng trình tổng thể cải
cách hành chính nhà nƣớc với mục tiêu xây dựng nền hành chính nhà nƣớc dân chủ
trong sạch vững mạnh từng bƣớc hiện đại, hàng loạt các chủ trƣơng, giải pháp đã
đƣợc đƣa ra. Trong đó một giải pháp hết sức quan trọng đó là xây dựng đội ngũ lãnh
đạo công chức trong sạch, có năng lực, thiết lập kỷ cƣơng, chống quan liêu, tham
nhũng. Cải cách hành chính là vấn đề quan trọng trong việc hoàn thiện bộ máy công
quyền có quan hệ trực tiếp tới lợi ích của nhân dân.
Thứ ba, nâng cao năng lực quản lý của cán bộ cấp vụ còn là giải pháp để tránh
nguy cơ tụt hậu. Với xu hƣớng hội nhập và phát triển về kinh tế nhƣ hiện nay, nếu
không nâng cao năng lực quản lý của đội ngũ lãnh đạo cấp vụ sẽ không đáp ứng
đƣợc yêu cầu về sự phát triển kinh tế xã hội khi đời sống nhân dân và mặt bằng dân
trí ngày một nâng cao. Ngoài ra nếu không nâng cao năng lực quản lý của đội ngũ
cán bộ cấp vụ tại Thanh tra Chính phủ sẽ không vƣơn tới một nền công vụ hiện đại
là xu hƣớng phát triển chung ở các quốc gia.
1.2.4.2 Nội dung
- Xây dựng kế hoạch nâng cao năng lực quản lý cán bộ cấp vụ.
- Tổ chức thực hiện kế hoạch
- Kiểm tra, giám sát thực hiện kế hoạch
28
1.2.5. Yêu cầu đặt ra và nhân tố ảnh hưởng đối với việc nâng cao năng lực
quản lý của đội ngũ cán bộ cấp vụ
1.2.5.1. Yêu cầu đặt ra đối với việc nâng cao năng lực quản lý của đội ngũ cán
bộ cấp vụ
Tiêu chuẩn chung của lãnh đạo, quản lý đã đƣợc quy định tại các văn bản của
Trung ƣơng, tuy nhiên, trong từng giai đoạn cụ thể, với mỗi đối tƣợng lãnh đạo
thuộc Thanh tra Chính phủ lại cần có những yêu cầu mới. Trong bối cảnh khoa học
- công nghệ phát triển và đất nƣớc đang hội nhập sâu rộng với thế giới trên nhiều
lĩnh vực, việc nâng cao năng lực quản lý của cán bộ cấp vụ tại Thanh tra Chính phủ
phải đƣợc tiến hành trên các mặt cơ bản sau đây:
- Tu dưỡng đạo đức cá nhân:
Vấn đề hoàn thiện phẩm chất lãnh đạo và đổi mới phong cách làm việc đƣợc
Đảng và chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm từ trƣớc tới nay. Trong các nghị
quyết của Đảng, yêu cầu đổi mới phƣơng pháp làm việc ở các cấp, các ngành luôn
đƣợc đặt ở vị trí quan trọng. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng đã chỉ
rõ: “Phong cách lãnh đạo và lề lối làm việc mang chủ nghĩa quan liêu, lời nói không
đi đôi với việc làm, không tuân thủ quy trình làm việc và ra quyết định. Việc chỉ đạo,
điều hành thƣờng không tập trung, thiếu kiến quyết và nhất quán. Vì vậy, phải đổi
mới tƣ duy, đổi mới tổ chức cán bộ, đổi mới phong cách lãnh đạo và lề lối làm việc là
một yêu cầu quan trong và cấp bách”.
Để hoàn thiện năng lực quản lý và xây dựng phong cách quản lý mới, có hiệu
quả cần phải lại bỏ phong cách quản lý quan liêu. Phong cách quản lý quan liêu là
con đẻ của cơ chế quan liêu, bao cấp, là nguyên nhân trực tiếp của các bệnh gia
trƣởng, độc đoán, thiếu dân chủ, không đi sát thực tế, cục bộ địa phƣơng, vô kỷ luật
và dẫn đến hiệu quả quản lý kém.
- Nâng cao trình độ, phát triển tầm nhìn:
Để có phong cách quản lý hiệu quả, ngƣời lãnh đạo phải thƣờng xuyên đƣợc
đào tạo, bồi dƣỡng và tự rèn luyện bản thân để có sức khỏe, có kiến thức chuyên
29
môn, nghiệp vụ, phải thực sự chủ động, linh hoạt, nhanh nhạy nắm bắt và xử lý
fđƣợc các tình huống xảy ra trong việc theo hƣớng hiệu quả nhất.
- Rèn luyện kỹ năng lắng nghe, thấu hiểu:
Để hoàn thiện phất chất và phát triển phong cách lãnh đạo quản lý của lãnh
đạo cấp vụ và tƣơng dƣơng, ngƣời lãnh đạo cần:
Hiểu phong cách quản lý của mình cả về mặt mạnh và những mặt yếu;
Xác định trong những hoàn cảnh cụ thể nào phong cách quản lý của mình có
hiệu quả và trong hoàn cảnh nào không có hiệu quả để áp dụng hoặc rút kinh
nghiệm cho tình huống tƣơng tự;
Tìm ra những thành tố nào cấu thành phong cách lãnh đạo của mình đóng vai
trò làm tăng hiệu quả và thành tố nào kìm hãm hiệu quả quản lý;
Tìm hiểu đúng bản chất tình huống trƣớc khi ra quết định;
Luôn rút kinh nghiệm, sửa đổi hành vi, phong cách lãnh đạo của mình theo
hƣớng luôn đạt hiệu quả cao;
Không ngừng nâng cao trình độ lý luận chính trị, chuyên môn, quản lý nhằm
đổi mới tƣ duy, phƣơng thức lãnh đạo, phát triển tầm nhìn;
Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn: lời nói đi đối với việc làm, suy nghĩ
trƣớc khi làm, khi nói;
Làm việc luôn đảm bảo nguyên tắc tập trung dân chủ làm việc tập thể dám
quyết dám chịu trách nhiệm;
Thƣờng xuyên nắm vững tình hình thực tiễn, sát dân, dựa vào dân phát huy
tính sáng tạo của dân, hiểu và gần dân;
Tăng cƣờng công tác phê bình và tự phê bình, làm việc cởi mở tránh “yêu nên
tốt, ghét nên xấu”, chống chủ nghĩa cá nhân.
Giữ gìn và nâng cao những phẩm chất cần, kiệm liêm chính chí công vô tƣ;
Mềm dẻo, sáng tạo, linh hoạt, đổi mới trong công tác và trong giao tiếp, xử lý
công việc. Rèn luyện kỹ năng lắng nghe, thấu hiểu, khi xem xét suy nghĩ phải có lý
trí, song khi hành động phải có tình cảm.
30
Không ngừng tƣ dƣỡng đạo đức cá nhân, luôn là tấm gƣơng cho cấp dƣới và
ngƣời dân.
1.2.5.2. Nhân tố ảnh hưởng đến việc nâng cao năng lực quản lý của đội ngũ
cán bộ cấp vụ
Các nhân tố ảnh hƣởng tới nâng cao năng lực quản lý của đội ngũ cán bộ cấp
vụ có thể chia thành:
* Các nhân tố bên ngoài:
Bao gồm các yếu tố khách quan tác động đến việc phát triển năng lực quản lý
của lãnh đạo cấp vụ và tƣơng đƣơng. Trong đó phải kể đến các yếu tố quan trọng
sau đây:
+ Chế độ chính trị - xã hội, cụ thể là vị trí lãnh đạo cấp vụ và tƣơng đƣơng
phục vụ Đảng và Nhà nƣớc ảnh hƣởng bởi bức năng, nhiệm vụ đƣợc quy định;
+ Các quy định của pháp luật phải tuân thủ, sống trong xã hội đang xây dựng
nhà nƣớc pháp quyền với tƣ cách lãnh đạo quản lý hành chính nhƣng cũng là một
công dân trong xã hội;
+ Môi trƣờng làm việc, môi trƣờng sống: ảnh hƣởng phẩm chất của cấp trên,
cấp dƣới và của những ngƣời xung quanh trong môi trƣờng hành chính, sự ảnh
hƣởng này theo hai hƣớng, tích cực và tiêu cực, những tấm gƣơng của cấp trên, cấp
dƣới ảnh hƣởng hàng ngày tới năng lực của lãnh đạo cấp vụ và tƣơng đƣơng.
+ Văn hóa tổ chức nơi nhà lãnh đạo làm việc;
+ Trình độ dân trí của chính tổ chức, cơ quan ngƣời lãnh đạo và của vùng
miền;
+ Truyền thống văn hóa của dân tộc nói chung.
* Các nhân tố bên trong:
+ Yếu tố về sinh lý (nhƣ yếu tố bẩm sinh của hệ thần kinh trung ƣơng tạo ra
tính khí của mỗi ngƣời có thể hợp với lĩnh vực này nhƣng không hợp với lĩnh vực
khác);
31
+ Yếu tố tâm lý (các thuộc tính của nhân cách, trí tuệ, tƣ duy, cảm xúc, tƣởng
tƣợng, sự tự tin, khả năng thuyết phục ngƣời khác…, yếu tố này liên tục đƣợc phát
triển nhằm thích ứng với mỗi vị trí lãnh đạo ở ngƣời có ý thức phấn đấu vƣơn lên;
- Nhân tố về độ tuổi, kinh nghiệm sống, giới tính:
Do công tác dân vận gắn liền với mọi hoạt động của đời sống xã hội của quần
chúng nhân dân nên lãnh đạo phải có đủ hiểu biết, kinh nghiệm thực tế và hệ thống
lý luận đầy đủ, vững vàng. Vì thế, độ tuổi phải không quá trẻ để đảm bảo đủ kinh
nghiệm, trình độ và năng lực thực hiện các nhiệm vụ tham mƣu cho lãnh đạo Thanh
tra Chính phủ, ở đây thƣờng phải kinh qua nhiều vị trí công tác đặc biệt là ở cơ sở,
do vậy độ tuổi thƣờng trên 45 tuổi, đồng thời phải đảm bảo tỉ lệ nam, nữ hợp lý để
thuận tiện cho công tác ở những nơi, những vùng, những vấn đề đòi hỏi sự hiểu biết
sâu sắc về tâm lý, mong muốn, nguyện vọng đa dạng của quần chúng nhân dân.
+ Động cơ phấn đấu:
Động cơ phấn đấu từ bên trong mỗi nhà quản lý là điều thúc đẩy họ không
ngừng học tập, trau dồi để nâng cao năng lực quản lý của bản thân, thực hiện tốt công
tác quản lý và các nhiệm vụ đƣợc giao nhằm thăng tiến trên con đƣờng chức nghiệp.
Ngƣời có động cơ càng mạnh mẽ thì quá trình nâng cao năng lực quản lý càng đƣợc
họ ý thức cao và đẩy mạnh. Tổ chức cần phải chú ý đến yếu tố này để nuôi dƣỡng và
thúc đẩy động cơ phấn đấu trong mỗi ngƣời nhằm tạo đà cho việc nâng cao năng lực
quản lý của đội ngũ lãnh đạo cấp vụ và tƣơng đƣơng.
Nhƣ vậy, dù nhân tố là bên ngoài hay bên trong thì nó đều có những ảnh
hƣởng nhất định đến năng lực lãnh đạo cấp Vụ của Thanh tra Chính phủ; việc đánh
giá xem nhân tố nào là quan trọng và có ảnh hƣởng hơn thì còn phụ thuộc vào quá
trình công tác hay phát triển của cá nhân đó, từ đó đƣa ra đƣợc những nhận định và
đánh giá mang tính khách quan nhất.
1.3. Kinh nghiệm thực tiễn về nâng cao năng lực quản lý của đội ngũ cán
bộ cấp vụ
1.3.1. Kinh nghiệm của một số nước trên thế giới
a) Kinh nghiệm của Nhật Bản:
32
Hàng năm Viện nhân sự (NPA), cơ quan nhà nƣớc độc lập với các Bộ mở 3 kỳ
thi tuyển chọn công chức. Kỳ thi tuyển chọn quan chức loại I (cấp cao) và các kỳ thi
tuyển chọn quan chức loại II và loại III (cấp thấp). Những ngƣời trúng tuyển kỳ thi
loại I sẽ đƣợc đào tạo để trở thành cán bộ lãnh đạo trong tƣơng lai. Còn những
ngƣời trúng tuyển các kỳ thi loại II, loại III sẽ làm các công việc chuyên môn
nghiệp vụ cụ thể. Kỳ thi tuyển loại I đƣợc mở hàng năm vào tháng 6. Nƣớc Nhật
mỗi năm tuyển khoảng 1000 cán bộ loại này, nhƣng số ngƣời thi gấp hơn 50 lần. Số
ngƣời thi thƣờng là các sinh viên ƣu tú đã qua các kỳ thi trƣớc khi tham dự kỳ thi
này. Thí dụ họ phải thi vào đƣợc các trƣờng đại học lớn, trong suốt quá trình học
tập, thành tích phải xuất sắc. Theo thống kê thì có tới một nửa số ngƣời thi trúng
tuyển vào kỳ thi loại I đều là sinh viên ƣu tú của đại học Tokyo, hầu hết là các sinh
viên khoa luật và khoa kinh tế.
Hàng năm có khoảng 1000 cán bộ mới đƣợc tuyển chọn, trong đó có khoảng
một nửa là công chức hành chính, số còn lại là công chức kỹ thuật. Công chức
hành chính xuất thân từ khoa luật, khoa kinh tế hầu hết trở thành lãnh đạo cao cấp
ở các bộ. Công chức kỹ thuật cũng có thể trở thành lãnh đạo ở một số bộ liên quan
đến khoa học kỹ thuật, khoa học tự nhiên nhƣ Bộ giao thông, bƣu điện, xây dựng,
nông nghiệp… Sau khi đỗ kỳ thi loại I, các quan chức tƣơng lai đƣợc quyền chọn
nơi làm việc. Đối với một số bộc có ứng cử viên quá đông, thì họ lại phải dự thi
một lần nữa.
Các bộ chỉ có quyền tuyển chọn quan chức cho bộ minh trong số những ngƣời
trúng tuyển kỳ thi loại I, chứ không có quyền mở kỳ thi riêng. Cách làm này tăng
tính khách quan cho việc tuyển chọn quan chức nhà nƣớc.
Sau khi đƣợc tuyển chọn vào các bộ, các công chức mới phải trải qua các quá
trình đào tạo nhƣ sau: đào tạo để có kinh nghiệm làm việc thông qua nhiều cơ quan
khác nhau trong bộ và ngoài bộ; và tham gia các lớp tập huấn, bồi dƣỡng ở nhiều
cấp khác nhau. Mỗi năm có nhiều khóa bồi dƣỡng, mỗi khóa kéo dài 4-5 tuần, nhằm
cập nhật các kiến thức về hành chính, kinh tế chính trị Nhật Bản và thế giới. Ngoài
ra ở các cấp trƣởng phòng, hàng năm có những lớp bồi dƣỡng do Viện nhân sự
33
đứng ra tổ chức. Bồi dƣỡng một mặt để nắm bắt đƣợc những vấn đề mới trong quản
lý, xu hƣớng phát triển kinh tế, chính trị, mặt khác, giúp cán bộ có dịp đặt quan hệ
với nhau, tạo điều kiện hợp tác giữa bộ này với bộ khác.
Đối với phần đào tạo thực tiễn, hầu hết các Bộ áp dụng hình thức đào tạo theo
quy trình nhƣ sau: Trong 2 năm đầu, các công chức mới trong năm đầu đƣợc phân
vào làm việc ở phòng tƣ liệu, chủ yếu là tập sự. Đến năm thứ 3, một số ngƣời có thể
đƣợc cử ra nƣớc ngoài 2 hoặc 3 năm để học tập về quản lý kinh doanh hoặc kinh tế ở
các trƣờng đại học danh tiếng. Số còn lại, đƣợc giải phóng khỏi công việc để tham gia
khóa đào tạo khoảng 300 tiết, mỗi tiết kéo dài 3 giờ. Nhƣ vậy, sau 3-4 năm các công
chức trẻ đã có kiến thức bậc cao. Lúc này họ đƣợc giao nhiệm vụ làm trƣởng nhóm
trong một bộ. Sau 2 năm ở đây, cán bộ này đƣợc cử đi công tác tại một thành phố
hoặc các huyện để làm giám đốc một cơ quan ở địa phƣơng. Sau một năm làm việc
tại địa phƣơng, công chức này lại đƣợc điều về bộ, giữ chức phó phòng và tham gia
vào quá trình hoạch định chính sách. Suốt 10 năm tiếp theo, đƣợc cử làm việc trong
nhiều phòng, nhiều nhiệm vụ khác nhau. Mỗi nơi khoảng 2 năm, để nắm hầu hết các
chính sách của bộ, và có tầm nhìn rộng hơn để khi quyết định có cân nhắc những
thuận lợi, khó khăn ở nhiều lĩnh vực.
Vấn đề đạo đức cũng đƣợc đặc biệt quan tâm trong quá trình đào tạo quan
chức của Nhật Bản. Đạo đức ở đây đƣợc hiểu là chí công vô tƣ, sự thanh liêm và
tinh thần trách nhiệm. Nhìn chung, quan chức Nhật Bản là những ngƣời có đạo đức
và tôn trọng danh dự, nếu không đảm nhiệm đƣợc công việc thì tự nguyện từ chức.
Chính phủ Nhật Bản quan niệm là đạo đức không phải là cái bẩm sinh mà phần lớn
đƣợc nuôi dƣỡng và giám sát bằng các biện pháp hành chính và chính sách đãi ngộ,
cụ thể:
Thứ nhất, bảo đảm cho quan chức nhà nƣớc có cuộc sống khá giả suốt đời bằng
các chế độ nhà cửa, lƣơng bổng, hƣu trí. Dù không thăng tiến đƣợc nữa, phải từ chức
hoặc về hƣu, các quan chức vẫn đƣợc thu xếp làm việc tại các công ty tƣ nhân.
34
Thứ hai, chế độ thi tuyển công khai, chặt chẽ để chọn ra những ngƣời ƣu tú.
Số lƣợng quan chức là rất ít, quyền hạn và lợi ích vật chất của họ rất lớn, do đó có
thể ngăn cản động cơ tham nhũng của họ.
Thứ ba, song song với hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, hạn chế đƣợc những quyết
định thiếu công minh thì sự giám sát, phê phán của xã hội đối với quan chức rất
nghiêm khắc. Điều đó thôi thúc quan chức phải thận trọng và giữ mình. Một bài báo,
một tiếng đồn về sự không minh bạch, không liêm chính dù rất nhỏ cũng có thể làm
cho một quan chức không thể thăng tiến đƣợc.
Thứ tư, nhiệm kỳ của cán bộ lãnh đạo trong một bộ rất ngắn, chỉ 1-2 năm, nên cơ
cấu cán bộ lúc nào cũng đƣợc trẻ hóa. Điều đó khuyến khích đổi mới, hạn chế đặc quyền
đặc lợi và nâng cao tinh thần trách nhiệm của quan chức.
b) Kinh nghiệm của Hoa Kỳ:
Quan điểm chung của các nhà giáo dục học của Hoa Kỳ cho rằng việc học để
trở thành một nhà lãnh đạo là quan trọng học tập suốt đời. Lĩnh vực đào tạo là lĩnh
vực đa ngành, liên quan đến cả vị trí công việc của lãnh đạo và những vấn đề có
tính chất cộng động. Nhà giáo dục học trong lĩnh vực đào tạo không phải là ngƣời
truyền thụ kiến thức đơn thuần mà là ngƣời luôn đƣa ra những thách thức tƣ duy,
khuyến khích tinh thần và những nhiệm vụ phải gánh vác cho ngƣời muốn trở thành
lãnh đạo.
Với quan điểm đó, từ những năm 1990, chƣơng trình đào tạo lãnh đạo của Hoa
Kỳ đã đƣợc đƣa vào thực hiện thông qua các dự án thử nghiệm. Một số trƣờng đại
học đƣợc các quỹ tài trợ đã tiến hành phát triển các khóa đào tạo lãnh đạo theo
hƣớng liên ngành. Hầu hết các trƣờng đƣợc tham gia dự án là những trƣờng đã có
kinh nghiệm trong việc đào tạo lãnh đạo ở Hoa Kỳ. Chƣơng trình đào tạo lãnh đạo
tập trung vào một số kỹ năng cơ bản nhƣ:
- Tự đánh giá về bản thân, khả năng nhận thức. Kết quả đƣợc đánh giá qua
thảo luận hoặc bài thi trắc nghiệm;
35
- Xây dựng kỹ năng, đó là môn học để tiếp thu và thực hành kỹ năng cá nhân
nhƣ giải quyết mâu thuẫn, tƣ duy sáng tạo, thông hiểu về văn hóa, sự hài hòa, khả
năng giao tiếp, tổ chức mạng lƣới và ra quyết định;
- Kỹ thuật giải quyết vận dụng. Môn học này đƣợc tiến hành qua thử nghiệm.
Ngƣời sinh viên có thể đóng vai một lãnh đạo giải quyết các vấn đề khó khăn, có tính
tới lợi ích cá nhân và lợi ích của ngƣời khác, của cộng đồng.
- Giáo dục kiến thức về văn hóa. Chƣơng trình cung cấp những tri thức về các
nền văn hóa, cách cùng chung sống, giải quyết xung đột giữa các nền văn hóa.
Chƣơng trình học có những buổi thảo luận về vấn đề giới, sắc tộc, tôn giáo, những
góc nhìn và đánh giá của các cá nhân.
- Phục vụ và cống hiến. Môn học này nhấn mạnh tới cách phát huy sáng kiến
cá nhân, duy trì sự lãnh đạo của mình. Đồng thời phải hiểu lãnh đạo giúp đỡ ngƣời
khác đƣợc điều gì, trách nhiệm với tổ chức với quốc gia ra sao. Trong các lớp học,
sinh viên có thể tham gia các tổ chức tình nguyện, thực hiện các công việc nhân
đạo, gây dựng quỹ phúc lợi cộng đồng…
Nhƣ vậy, có thể thấy rằng muốn trở thành một lãnh đạo có năng lực thì phải
qua trƣờng lớp đào tạo bài bản. Ở Hoa Kỳ, việc đào tạo tài năng lãnh đạo không bó
hẹp ở một vài trƣờng mà đang đƣợc triển khai trên diện rộng hơn. Chƣơng trình đào
tạo đổi mới, nhấn mạnh các cơ hội tiếp cận tới những thách thức chính trị tầm cỡ
quốc tế, đồng thời tạo ra cơ hội tham gia giải quyết những thách thức đó nhƣ các
vấn đề xung đột giữa các nền văn hóa, khủng bố môi trƣờng sinh thái…
- Pháp:
Công tác đào tạo, bồi dƣỡng công chức của Pháp đƣợc thực hiện tại các cơ sở
đào tạo công chức ở Pháp, nhƣ: Trƣờng Hành chính Quốc gia (ENA), Trƣờng Hành
chính khu vực (IRA), Trung tâm đào tạo công chức địa phƣơng (CNFPT), Trung
tâm quốc gia về đào tạo chuyên môn, nghiệp vụ (CNAC), Trung tâm đào tạo kinh
tế, Trung tâm đào tạo giáo dục, Trƣờng đào tạo công chức của các bộ và các Trung
tâm đào tạo tƣ nhân. Công chức lãnh đạo đƣợc đào tạo ở Trƣờng Hành chính, trong
đó công chức loại A đào tạo tại ENA, công chức loại A' đào tạo ở IRA. Đối với các
36
ngành khác nhau có chế độ đào tạo khác nhau. Một trong những cở sở đào tạo nổi
tiếng về đào tạo công chức cấp cao ở Pháp là Trƣờng Hành chính Quốc gia (ENA).
ENA là trƣờng đào tạo cán bộ lãnh đạo cấp cao của Pháp, tập trung vào phát
triển năng lực lãnh đạo. ENA tổ chức đào tạo cho các khóa dài hạn và các khóa ngắn
hạn. Tổ chức đào tạo cho các quan chức Pháp và quốc tế, không tập trung vào kỹ
thuật mà đào tạo mang tính liên ngành, liên bộ và đào tạo mang tính thực hành. Đối
tƣợng đào tạo của ENA là công chức lãnh đạo trung ƣơng, địa phƣơng và học viên
quốc tế. Nội dung đào tạo, bồi dƣỡng rất đa dạng, phong phú và linh hoạt theo yêu
cầu cụ thể trên các lĩnh vực nhƣ: kinh tế, hành chính, tài chính, nhân lực, xã hội, hiện
đại hóa nhà nƣớc, ngoại giao.
Đào tạo dài hạn đối với công chức lãnh đạo loại A: 80% công chức loại A do
ENA đào tạo, 20% còn lại là do các trƣờng Bách khoa, trƣờng Cầu đƣờng đào tạo.
Hàng năm các bộ gửi yêu cầu số ngƣời cần đào tạo và ENA tuyển qua thi vào đào
tạo 80 đến 100 ngƣời. Theo quy định, có ba đối tƣợng đƣợc dự thi vào học dài hạn:
- Thứ nhất, đối với sinh viên tốt nghiệp đại học hoặc trình độ Master 1, dƣới
28 tuổi. Đối tƣợng này chiếm khoảng 50% số chỉ tiêu.
- Thứ hai, đối với các công chức đang làm việc, tuổi không quá 40, có 5 năm
công tác. Nhà nƣớc cấp kinh phí cho họ theo học khoảng 1 năm ở các trƣờng để
chuẩn bị cho việc tham gia thi tuyển vào ENA. Trong quá trình học đƣợc hƣởng
nguyên lƣơng. Loại này chiếm khoảng 40% số ngƣời thi vào ENA hàng năm, để
chuẩn bị cho họ thi vào ENA, hàng năm có 100 - 150 suất học bổng cho công chức.
- Thứ ba, đối với các thành phần khác, nhƣ tƣ nhân, các dân biểu, tổ chức phi
Chính phủ, yêu cầu tuổi dƣới 40, có 8 năm kinh nghiệm công tác. Với đối tƣợng
này, họ cũng đƣợc nhà nƣớc cấp kinh phí đào tạo trƣớc 1 năm để thi vào ENA. Đối
tƣợng này chiếm khoảng 10% chỉ tiêu.
1.3.2. Kinh nghiệm tại một số bộ, ngành
Để nâng cao năng lực quản lý cho đội ngũ lãnh đạo cấp vụ, mỗi cơ quan, đơn
vị căn cứ vào yêu cầu thực hiện chức năng, nhiệm vụ đƣợc giao, căn cứ vào định
37
hƣớng phát triển của cơ quan, đơn vị, ngành, lĩnh vực mà tiến hành tổng thể các
biện pháp khác nhau về đào tạo, bồi dƣỡng, luân chuyển, quy hoạch…:
Tại Ban Thi đua khen thƣởng Trung ƣơng: để có thể nâng cao năng lực quản lý
của lãnh đạo cấp Vụ, Ban tiến hành rất chặt chẽ trong tất cả các khâu của công tác cán
bộ, đặc biệt là đào tạo, bồi dƣỡng theo chức danh, nâng cao tính chuyên nghiệp của cán
bộ; nắm chắc đặc điểm của đội ngũ cán bộ, hiểu rõ điều kiện làm việc, hoàn cảnh gia
đình lãnh đạo để giúp đỡ, động viên kịp thời và tạo điều kiện thuận lợi cho lãnh đạo
vƣơn lên.
Ban Tổ chức Trung ƣơng: tổ chức các lớp bồi dƣỡng dự nguồn lãnh đạo cao cấp
đƣợc trang bị hệ thống kiến thức cơ bản về lý luận, thực tiễn và một số kỹ năng, góp
phần củng cố nhận thức về chính trị - xã hội, lập trƣờng cách mạng; xây dựng tầm
nhìn và tƣ duy chiến lƣợc, nâng cao năng lực lãnh đạo, quản lý; rèn luyện, bồi dƣỡng
đạo đức cách mạng, tác phong, trách nhiệm công vụ của ngƣời lãnh đạo lãnh đạo cao
cấp của Đảng, Nhà nƣớc trƣớc yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
xây dựng, phát triển đất nƣớc và hội nhập quốc tế. Trong xây dựng chƣơng trình các
lớp dự nguồn lãnh đạo cao cấp tiếp tục bổ sung và đi sâu hơn vào các chuyên đề về
khoa học chính trị và lãnh đạo quản lý để tăng tính thực tiễn với đối tƣợng học viên.
Trung ƣơng Mặt trận tổ quốc: chủ động lên kế hoạch và triển khai thực hiện
các dự án về “Bồi dƣỡng kỹ năng lãnh đạo, quản lý cho các lãnh đạo của Uỷ ban
Mặt trận tổ quốc Việt Nam”, nội dung tập trung vào trang bị các kỹ năng quản lý
lãnh đạo, kỹ năng giao tiếp thực hành, kỹ năng thuyết trình trƣớc đám đông, kỹ
năng làm việc nhóm, kỹ năng đàm phán - thƣơng lƣợng. Đây là một trong những tiêu
chí nằm trong khung năng lực quản lý, giúp công tác quy hoạch và đào tạo lãnh đạo
quản lý nguồn của Mặt trận tổ quốc đƣợc chuẩn bị kỹ càng hơn và giúp quá trình
nâng cao năng lực quản lý của đội ngũ lãnh đạo cấp vụ trong tƣơng lai thuận lợi hơn.
Ban Tuyên giáo Trung ƣơng: tổ chức đánh giá thực trạng đội ngũ lãnh đạo
tuyên giáo từ Trung ƣơng đến cơ sở, dự kiến nhu cầu, chủ động tạo nguồn và triển
khai kế hoạch xây dựng, phát triển đội ngũ, tập trung kiện toàn tổ chức bộ máy
tuyên giáo từ Trung ƣơng đến cơ sở. Tăng cƣờng công tác đào tạo, bồi dƣỡng,
38
nâng cao phẩm chất, bản lĩnh chính trị, năng lực chuyên môn, nghiệp vụ của đội
ngũ lãnh đạo làm công tác tuyên giáo, bảo đảm lãnh đạo tuyên giáo đƣợc đào tạo
bài bản, chính quy, trƣởng thành, phát triển thông qua hoạt động thực tiễn sôi động.
1.3.3. Một số bài học kinh nghiệm cho Thanh tra Chính phủ a) Có quan điểm và phương pháp đánh giá, sử dụng lãnh đạo cấp vụ một cách
khách quan, khoa học, công tâm.
Xử lý tốt các mối quan hệ giữa đức và tài, quyền hạn và trách nhiệm, nghĩa vụ
và lợi ích, giai cấp và dân tộc, tiêu chuẩn và cơ cấu, năng lực thực tế và bằng cấp,
lãnh đạo đƣơng chức và lãnh đạo về hƣu... phù hợp với yêu cầu của mỗi loại cán bộ.
Hết sức coi trọng việc đoàn kết, tập hợp rộng rãi các loại cán bộ; giáo dục lý tƣởng, bản lĩnh chính trị và đạo đức cách mạng, rèn luyện, thử thách, tuyển lựa lãnh đạo từ
trong hoạt động thực tiễn và phong trào cách mạng của nhân dân.
b) Thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ trong công tác cán bộ.
Để làm tốt cần phải thể chế hóa thành các quy chế, quy trình. Những nhận xét,
kết luận về lãnh đạo nhất thiết phải do cấp uỷ có thẩm quyền quyết định sau khi đã lắng nghe đầy đủ ý kiến của các cơ quan có liên quan, ý kiến đóng góp của nhân
dân và sự tự phê bình của cán bộ. Kết hợp đúng đắn chế độ tập thể với trách nhiệm
cá nhân, dân chủ với tập trung; không dân chủ hình thức. Huy động mọi cấp, mọi
ngành phối hợp với cơ quan tham mƣu giúp cấp uỷ làm công tác quản lý cán bộ.
c) Đổi mới và xây dựng hệ thống chính sách đối với các vị trí lãnh đạo trong
cơ quan.
Cần có kế hoạch dài hơi trong việc tìm kiếm nguồn cán bộ, cử đi đào tạo, bồi
dƣỡng, luân chuyển qua các vị trí khác nhau ở cấp thấp để tạo nguồn cán bộ cho các
vị trí vụ trƣởng và tƣơng đƣơng sau này. Tránh tình trạng bị động, thiếu nguồn, bổ
nhiệm miễn cƣỡng những ngƣời chƣa thực sự hội tụ đầy đủ các tiêu chuẩn về năng
lực. Xây dựng chính sách thu hút hợp lý để tuyển và giữ chân đƣợc những ngƣời có
kiến thức vững vàng và kinh nghiệm chuyên môn, quản lý.
Ngoài ra, cần nâng cao hiệu quả đào tạo, bồi dƣỡng của tổ chức chịu trách nhiệm đào tạo, bồi dƣỡng cán bộ, công chức của ngành, đổi mới chƣơng trình, nội dung giảng dạy, xây dựng hệ thống chƣơng trình đào tạo chuyên sâu về kỹ năng quản lý cho đội ngũ lãnh đạo cấp vụ và tƣơng đƣơng.
39
CHƢƠNG 2
PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Đề tài sử dụng các phƣơng pháp chung trong nghiên cứu khoa học xã hội
nhân văn, trên cơ sở phƣơng pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, kết hợp chặt chẽ
phƣơng pháp lịch sử và lôgíc, lý luận và thực tiễn, phân tích và tổng hợp, hội thảo
và chuyên gia.
- Phƣơng pháp cụ thể:
* Phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử: Nghiên cứu, đánh giá
về năng lực của đội ngũ cán bộ cấp vụ tại Thanh tra Chính phủ đƣợc đặt trong mối
quan hệ với yêu cầu của thực hiện các nhiệm vụ chính trị của cơ quan thanh tra qua
các thời kỳ, với yêu cầu lịch sử cụ thể cùng các ảnh hƣởng, tác động cũng nhƣ đòi
hỏi của quá trình hội nhập và phát triển nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội
chủ nghĩa hiện nay. Phƣơng pháp này đƣợc sử dụng tại Chƣơng 3 của Đề tài.
Cụ thể, gtrong mỗi giai đoạn phát triển lịch sử ngành Thanh tra, yêu cầu đòi
hỏi của Đảng, Nhà nƣớc, của thực tiễn về năng lực lãnh đạo, điều hành của đội ngũ
cán bộ, công chức ngành Thanh tra nói chung và đội ngũ cán bộ cấp vụ thuộc
Thanh tra Chính phủ nói riêng là khác nhau. Các yêu cầu này phù hợp với điều
kiện, hoàn cảnh thực tiễn, cũng nhƣ những nhiệm vụ, quyền hạn mà Đảng và Nhà
nƣớc giao cho ngành Thanh tra trong từng giai đoạn. Trong giai đoạn hiện nay,
cùng với những chủ trƣơng, định hƣớng lớn của Đảng và Nhà nƣớc về xây dựng
Nhà nƣớc pháp quyền XHCN, bảo đảm quyền con ngƣời, quyền công dân, xây
dựng Chính phủ liêm chính, kiến tạo phát triển thì đặt ra các yêu cầu về năng lực
của đội ngũ cán bộ cấp vụ có sự khác biệt so với những giai đoạn trƣớc. Điều này
đƣợc thể hiện trong những nhận định, đánh giá tại Chƣơng 3 của đề tài.
* Phương pháp phân tích tổng hợp: Hệ thống hóa những vấn lý luận và thực
tiễn về nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ quản lý cấp vụ tại cơ quan Thanh tra Chính
40
phủ. Tiến hành các phân tích, tổng hợp về các quy định pháp luật về tiêu chuẩn bổ
nhiệm, đào tạo, bồi dƣỡng các chức danh lãnh đạo cấp vụ nói chung và của Thanh tra
Chính phủ nói riêng và việc thực hiện các quy định này trên thực tiễn. Trên cơ sở đó
thấy đƣợc những mặt hợp lý, những mặt còn tồn tại, bất cập để có những đề xuất,
kiến nghị hoàn thiện pháp luật về vấn đề này. Phƣơng pháp này đƣợc sử dụng tại
Chƣơng 1, Chƣơng 3 và Chƣơng 4 của Đề tài. Theo đó, trên cơ sở phân tích, đánh giá
những quy định của pháp luật về quản lý và sử dụng đội ngũ cán bộ, công chức nói
chung, cán bộ cấp vụ nói riêng, đề tài đi sâu phân tích, tổng hợp những quy định cụ
thể của Thanh tra Chính phủ về quản lý và sử dụng cán bộ, công chức; phân tích,
đánh giá thực tiễn và khả năng đáp ứng của đội ngũ cán bộ cấp vụ của Thanh tra
Chính phủ đối với những quy định đã đề ra.
* Phương pháp phân tích thực chứng, phương pháp chuẩn tắc: Phân tích làm
nổi bật thực trạng năng lực đội ngũ cán bộ quản lý cấp vụ tại cơ quan Thanh tra
Chính phủ. Sử dụng phƣơng pháp chuẩn tắc để đánh giá thực trạng và xác định
nguyên nhân làm cơ sở để đề xuất phƣơng hƣớng và giải pháp. Phƣơng pháp này
đƣợc sử dụng tại Chƣơng 3 của Đề tài. Theo đó, đề tài sử dụng các số liệu cụ thể,
các vụ việc xảy ra trong thực tiễn để chứng minh cho những nhận định, đánh giá
thực trạng và xác định nguyên nhân tại chƣơng 3.
* Phương pháp thống kê, so sánh: Sử dụng các số liệu thống kê để phân tích, so
sánh rút ra các kết luận làm cơ sở đề xuất phƣơng hƣớng và giải pháp nâng cao năng lực
đội ngũ cán bộ quản lý cấp vụ tại cơ quan Thanh tra Chính phủ. Phƣơng pháp này đƣợc
sử dụng tại Chƣơng 3 của Đề tài. Theo đó, đề tài tổng hợp, phân tích các số liệu
thống kê về cơ cấu đội ngũ cán bộ cấp vụ; về trình độ, năng lực; về việc thực hiện
các kỹ năng lãnh đạo, quản lý trong thực hiện nhiệm vụ... của các báo cáo tổng kết
trong ngành Thanh tra làm cơ sở phân tích, đánh giá và đƣa ra những nhận định sát
thực nhất về năng lực của đội ngũ cán bộ cấp vụ tại Thanh tra Chính phủ.
* Phương pháp quan sát, phỏng vấn, lấy ý kiến chuyên gia: Trong quá trình
thực hiện luận văn, tác giả tham khảo ý kiến của các chuyên gia, các nhà quản lý,
các cán bộ, thanh tra viên đã và đang trực tiếp đảm nhận từng nội dung cụ thể trong
41
quản lý, điều hành và trực tiếp thực hiện công tác quản lý hay chịu sự quản lý của
đội ngũ cán bộ quản lý cấp vụ tại cơ quan Thanh tra Chính phủ; quan sát, trao đổi
để thu thập thông tin sơ cấp phục vụ cho việc tổng hợp và phân tích phục vụ các nội
dung nghiên cứu. Phƣơng pháp này đƣợc sử dụng tại Chƣơng 3 của Đề tài.
- Bên cạnh đó, những kỹ thuật nhƣ: biểu bảng, sơ đồ, mô hình … cũng đƣợc
sử dụng để hỗ trợ diễn đạt, trình bày làm rõ những nội dung nghiên cứu.
- Ngoài ra, ứng với từng câu hỏi nghiên cứu trong đề tài và sử dụng các công
cụ, phƣơng pháp nghiên cứu phù hợp nhƣ nghiên cứu tại bàn, kết hợp nghiên cứu
thống kê định tính và nghiên cứu định lƣợng. Phƣơng pháp nghiên cứu định lƣợng
cụ thể đƣợc sử dụng là phân tích tƣơng quan (correlation analysis) và phân tích hồi
quy (regression analysis). Phân tích định lƣợng có vai trò bổ sung, minh chứng
(trong khả năng dự liệu sẵn có) cho các kết quả phân tích định tính. Nói cách khác,
phân tích định lƣợng không phải là trọng tâm chính của luận văn này.
Đề tài vận dụng những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin, các quan
điểm của Đảng, Chính phủ và các chính sách của Nhà nƣớc.
Để đạt đƣợc mục tiêu nghiên cứu và nhiệm vụ đặt ra, đề tài sử dụng nhiều
phƣơng pháp nghiên cứu. Trong đó, tác giả đã sử dụng phƣơng pháp nghiên cứu định
tính (Qualitative approach) mà cụ thể là phƣơng pháp tình huống (case study research)
làm phƣơng pháp nghiên cứu chính; sử dụng phƣơng pháp định lƣợng hỗ trợ thêm để
làm sáng tỏ thêm vấn đề cần nghiên cứu.
Trong phƣơng pháp tình huống (case study research), công cụ tác giả lựa chọn
sử dụng để thu thập dữ liệu đó chính là khảo sát và quan sát (observation). “Phân
tích dữ liệu định tính là quá trình đi tìm ý nghĩa của dữ liệu”. Vì vậy, tác giả tiến
hành khảo sát các nhà khoa học, các chuyên gia về quản lý, đào tạo đội ngũ cán bộ
quản lý cấp vụ tại cơ quan Thanh tra Chính phủ và quan sát đối tƣợng nghiên cứu
để thu thập và phân tích dữ liệu. Ngoài phƣơng pháp chủ đạo nêu trên, luận văn còn
sử dụng các phƣơng pháp khác nhƣ phƣơng pháp tổng hợp, phƣơng pháp điều tra,
phỏng vấn sâu … để nghiên cứu và trình bày các vấn đề lý luận và thực tiễn.
2.2. Nguồn dữ liệu sử dụng
42
* Nguồn số liệu đƣợc sử dụng: Nguồn số liệu từ cơ quan Thanh tra Chính phủ.
* Luận văn sử dụng hai loại dữ liệu là dữ liệu thứ cấp và dữ liệu sơ cấp:
- Dữ liệu thứ cấp đƣợc thu thập từ các nguồn bên trong và bên ngoài cơ quan
Thanh tra Chính phủ, bao gồm:
• Nguồn dữ liệu bên trong cơ quan Thanh tra Chính phủ: Luận văn tham khảo
các số liệu tổng hợp, báo cáo về thực trạng đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp vụ của
Thanh tra Chính phủ.
• Nguồn dữ liệu bên ngoài: Ngoài ra, luận văn còn sử dụng các thông tin thu
thập đƣợc từ các sách, báo và cổng thông tin điện tử về các thông tin có liên quan;
các bài viết nghiên cứu, các công trình khoa học có liên quan tới nội dung đề tài.
- Dữ liệu sơ cấp đƣợc sử dụng phƣơng pháp định tính để thu thập:
• Thông qua trao đổi trực tiếp các cán bộ, công chức làm công tác quản lý đội
ngũ lãnh đạo cấp vụ của Thanh tra Chính phủ; với các cán bộ, thanh tra viên, ngƣời
lao động chịu sự quản lý, lãnh đạo, điều hành của đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp vụ
của Thanh tra Chính phủ; trao đổi với chủ thể quản lý đội ngũ cán bộ cấp vụ tại cơ
quan Thanh tra Chính phủ để có những nhận định, đánh giá khách quan, toàn diện
về năng lực quản lý của đội ngũ cán bộ cấp vụ tại Thanh tra Chính phủ.
• Quan sát trực tiếp trong quá trình tham gia thực hiện quản lý đội ngũ cán bộ
lãnh đạo cấp vụ này.
43
CHƢƠNG 3
THỰC TRẠNG NĂNG LỰC QUẢN LÝ CỦA ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CẤP
VỤ THUỘC CƠ QUAN THANH TRA CHÍNH PHỦ
3.1. Khái quát về đặc điểm tình hình và thực trạng đội ngũ cán bộ cấp vụ
của Thanh tra Chính phủ
3.1.1. Đặc điểm tình hình
Luật Thanh tra năm 2010 quy định Thanh tra Chính phủ là cơ quan của Chính
phủ, chịu trách nhiệm trƣớc Chính phủ thực hiện quản lý nhà nƣớc về công tác thanh
tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng trong phạm vi cả nƣớc;
thực hiện hoạt động thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham
nhũng theo quy định của pháp luật. Nghị định số 83/2012/NĐ-CP quy định chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Thanh tra Chính phủ, Thanh tra
Chính phủ là cơ quan ngang Bộ của Chính phủ, thực hiện chức năng quản lý nhà
nƣớc về công tác thanh tra, tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng,
chống tham nhũng trong phạm vi cả nƣớc; thực hiện hoạt động thanh tra, giải quyết
khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng theo quy định của pháp luật.
Cơ cấu của Thanh tra Chính phủ có Tổng Thanh tra Chính phủ, các Phó Tổng
Thanh tra Chính phủ, Thanh tra viên và cán bộ, công chức, viên chức. Tổng Thanh
tra Chính phủ là thành viên Chính phủ, là ngƣời đứng đầu ngành thanh tra. Tổng
Thanh tra Chính phủ chịu trách nhiệm trƣớc Quốc hội, Thủ tƣớng Chính phủ về công
tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng. Phó Tổng
Thanh tra Chính phủ giúp Tổng Thanh tra Chính phủ thực hiện nhiệm vụ theo sự
phân công của Tổng Thanh tra Chính phủ.
Tổ chức bộ máy của Thanh tra Chính phủ đƣợc quy định tại Nghị định số
83/2012/NĐ-CP. Theo đó, cơ cấu tổ chức của Thanh tra Chính phủ đƣợc thiết kế
theo hƣớng: các Cục phụ trách địa phƣơng có trách nhiệm giúp Tổng Thanh tra
Chính phủ quản lý nhà nƣớc về công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo tại
các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ƣơng; vừa thực hiện nhiệm vụ thanh tra, giải
44
quyết khiếu nại, tố cáo trên địa bàn quản lý. Các Vụ thanh tra có chức năng tham
mƣu giúp Tổng Thanh tra Chính phủ quản lý nhà nƣớc về công tác thanh tra, giải
quyết khiếu nại, tố cáo đối với các Bộ và cơ quan thuộc Chính phủ; có trách nhiệm
thực hiện nhiệm vụ thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo trong phạm vi phụ trách.
Theo Nghị định, cơ cấu tổ chức của Thanh tra Chính phủ gồm 19 cục, vụ, đơn vị.
Ngoài ra, để thực hiện các nhiệm vụ đƣợc giao, Thanh tra Chính phủ đã thành lập
một số đơn vị ngoài Nghị định 83/2012/NĐ-CP nhƣ: Ban Quản lý các dự án, Trung
tâm đào tạo, bồi dƣỡng nghiệp vụ Miền Trung - Tây Nguyên, Văn phòng Đảng -
Đoàn thể. Tổng số các đơn vị thuộc Thanh tra Chính phủ đến thời điểm hiện tại là
23 vụ, cục, đơn vị.
Trong thời gian qua, kết quả hoạt động của cơ quan Thanh tra Chính phủ đƣợc
thể hiện trên những phƣơng diện cơ bản sau đây:
Thứ nhất về thực hiện chức năng quản lý nhà nước:
- Ban hành chính sách, pháp luật: Ban hành chính sách, pháp luật là nhiệm vụ
quan trọng hàng đầu trong công tác quản lý nhà nƣớc của Thanh tra Chính phủ.
Trong năm 2014, Thanh tra Chính phủ trình Chính phủ ban hành 03 nghị định về:
giám sát, kiểm tra, thanh tra đối với doanh nghiệp trong việc chấp hành pháp luật và
tuân thủ các quyết định của chủ sở hữu; quy định chi tiết thi hành một số điều của
Luật tiếp công dân; sửa đổi, bổ sung Nghị định số 97/2011/NĐ-CP ngày 21/10/2011
quy định về thanh tra viên và cộng tác viên thanh tra; ban hành 10 thông tƣ, thông
tƣ liên tịch; 04 quy định, quy chế nội bộ; 03 quy chế phối hợp, chƣơng trình hành
động với các cơ quan có liên quan; ký kết 02 bản ghi nhớ hợp tác với cơ quan
chống tham nhũng nƣớc ngoài. Năm 2015, Thanh tra Chính phủ đã trình Chính phủ,
Thủ tƣớng Chính phủ ban hành 01 Nghị định, 01 Quyết định của Thủ tƣớng Chính
phủ (về việc ban hành Chiến lƣợc phát triển ngành Thanh tra đến năm 2020 tầm
nhìn đến năm 2030); ban hành theo thẩm quyền 23 văn bản, trong đó có: 05 Thông
tƣ, 03 thông tƣ liên tịch, 09 quyết định, quy chế nội bộ, phối hợp với các cơ quan
45
liên quan ban hành 06 quy chế, chƣơng trình phối hợp1.
Nhìn chung, trong những năm qua, việc ban hành chính sách, pháp luật về
thanh tra đƣợc thực hiện đúng thẩm quyền, phù hợp với quan điểm, đƣờng lối,
chính sách của Đảng và Nhà nƣớc về xây dựng, phát triển hệ thống các cơ quan
thanh tra; phù hợp với các quy định của Hiến pháp và các đạo luật có liên quan về
tổ chức bộ máy, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Chính phủ
tại thời điểm ban hành. Việc ban hành chính sách, pháp luật về thanh tra đã tuân thủ
đầy đủ quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật và thể thức, kỹ
thuật trình bày phù hợp với quy định của pháp luật hiện hành. Quá trình ban hành
đã thực hiện đầy đủ các bƣớc tham vấn ý kiến của các cơ quan quản lý, chuyên gia,
nhà khoa học và ngƣời dân; đã tổ chức nhiều hội nghị, hội thảo, khảo sát thực tế ở
trong và ngoài nƣớc để nâng cao chất lƣợng chính sách, pháp luật đƣợc ban hành.
- Lập kế hoạch thanh tra của Thanh tra Chính phủ; hƣớng dẫn Thanh tra bộ,
Thanh tra tỉnh xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch thanh tra:
Thực hiện Luật Thanh tra 2010 và Thông tƣ số 01/2014/TT-TTCP quy định
việc xây dựng, phê duyệt định hƣớng chƣơng trình thanh tra, kế hoạch thanh tra,
hàng năm Thanh tra Chính phủ trình Thủ tƣớng Chính phủ phê duyệt Định hƣớng
công tác thanh tra và hƣớng dẫn các cơ quan thanh tra xây dựng kế hoạch thanh tra
hàng năm bảo đảm kịp thời, có trọng tâm, trọng điểm, hạn chế chồng chéo. Quá
trình xây dựng và thực hiện kế hoạch trình thanh tra đƣợc thực hiện tập trung, thống
nhất, bảo đảm có trọng tâm, trọng điểm. Khi lựa chọn đối tƣợng thanh tra, nội dung
thanh tra, các cục, vụ của Thanh tra Chính phủ cân nhắc kỹ càng, khảo sát và nắm
tình hình cụ thể trƣớc khi đề xuất đƣa vào kế hoạch công tác thanh tra. Do đó, có
nhiều vấn đề bức xúc nổi lên đã đƣợc Thanh tra Chính phủ thanh tra và kiến nghị
chấn chỉnh, xử lý, góp phần quan trọng vào việc nâng cao hiệu lực quản lý Nhà
nƣớc cũng nhƣ phòng ngừa và xử lý vi phạm pháp luật, tiêu cực, tham nhũng.
Bên cạnh đó, Thanh tra Chính phủ cũng tăng cƣờng việc hƣớng dẫn các bộ,
1 Nội dung chi tiết tại Phụ lục.
ngành và địa phƣơng xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch thanh tra; tiến hành
46
kiểm tra việc xây dựng, thực hiện Kế hoạch thanh tra của Thanh tra một số bộ,
ngành và địa phƣơng. Công tác kiểm tra việc thực hiện kế hoạch công tác đƣợc
quan tâm hơn, trong đó riêng Thanh tra Chính phủ đã thành lập tổ công tác kiểm tra,
nắm tình hình tại 16 bộ, ngành và 20 tỉnh, thành phố.
- Chỉ đạo về công tác, hƣớng dẫn về nghiệp vụ thanh tra; bồi dƣỡng nghiệp vụ
thanh tra đối với đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác thanh tra:
Thanh tra Chính phủ và ngành Thanh tra triển khai thực hiện khá đồng bộ các
mặt công tác tổ chức, cán bộ; trong đó, đã tiếp tục rà soát, sửa đổi, bổ sung một số
quy chế về công tác tổ chức cán bộ và quản lý nội bộ cơ quan Thanh tra Chính phủ;
tiếp tục đổi mới công tác nhận xét, đánh giá công chức, viên chức và thi đua khen
thƣởng. Thanh tra Chính phủ quan tâm đến chính sách cán bộ, phối hợp với Bộ Nội
vụ tổ chức thi nâng ngạch thanh tra viên chính, thanh tra viên cao cấp năm 2014 cho
915 cán bộ, công chức thanh tra; xây dựng và triển khai thực hiện kế hoạch đào tạo,
bồi dƣỡng năm 2014 cho Thanh tra Chính phủ và toàn ngành Thanh tra ; mở 31 lớp
đào tạo , bồi dƣỡng nghiệp vụ trong nƣớc cho 2.789 học viên ; có 71 lƣợt cán bộ ,
công chức trong toàn ngành đi học tập , bồi dƣỡng ở nƣớc ngoài ; câ ̣p nhâ ̣t, bổ sung,
chỉnh lý giáo trình giảng dạy nghiệp vụ thanh tra ...
Năm 2015, Thanh tra Chính phủ tổ chức 38 khóa đào tạo, bồi dƣỡng trong nƣớc cho 3.280 lƣợt cán bộ, công chức, viên chức và đào tạo, bồi dƣỡng ở nƣớc ngoài
cho cán bộ, công chức, viên chức trong toàn ngành Thanh tra. Thực hiện tốt công tác
thi đua khen thƣởng, tổ chức thành công Đại hội thi đua yêu nƣớc ngành Thanh tra
lần thứ IV.
- Theo dõi, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện kết luận, kiến nghị, quyết định xử
lý về thanh tra:
Theo báo cáo tổng kết của ngành Thanh tra, trong năm 2014, Thanh tra Chính
phủ đã tăng cƣờng chỉ đạo, hƣớng dẫn công tác đôn đốc, kiểm tra xử lý về thanh tra
theo Thông tƣ số 01/2013/TT-TTCP ngày 12/3/2013 quy định về hoạt động theo
dõi, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện kết luận, kiến nghị, quyết định xử lý về thanh
tra; ban hành Kế hoạch về việc kiểm tra, tự kiểm tra công tác xử lý về thanh tra đối
47
với thanh tra bộ, thanh tra tỉnh, thành phố tạo sự chuyển biến khá tích cực2.
Thứ hai, việc thực hiện chức năng thanh tra theo quy định pháp luật:
Theo báo cáo tổng kết của ngành Thanh tra, các năm 2014, Thanh tra Chính
phủ tiến hành 55 cuộc thanh tra, tập trung vào công tác quản lý nhà nƣớc của các Bộ,
ngành; công tác quy hoạch, quản lý, sử dụng đất đai, đầu tƣ xây dựng của địa phƣơng;
việc chấp hành các quy định pháp luật về quản lý và sử dụng vốn, tài sản của các tập
đoàn, tổng công ty nhà nƣớc và thanh tra trách nhiệm trong công tác thanh tra, tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng, chống tham nhũng3. Năm 2015, Thanh
tra Chính phủ thực hiện 52 cuộc thanh tra, qua thanh tra đã kết luận, kiến nghị hoàn thiện nhiều cơ chế chính sách trên nhiều lĩnh vực4. Năm 2016, Thanh tra Chính phủ
tiến hành 55 cuộc thanh tra, qua thanh tra đã phát hiện vi phạm số tiền hơn 11 nghìn
tỷ đồng; kiến nghị thu hồi hơn 5 nghìn tỷ đồng; kiến nghị, xử lý khác hơn 6 nghìn tỷ đồng; chuyển cơ quan điều tra xử lý 5 vụ, 40 đối tƣợng5.
Trong những năm qua, công tác thanh tra đã bám sát định hƣớng, kế hoạch và
đạt đƣợc nhiều kết quả; đã sớm xây dựng và triển khai kế hoạch công tác thanh tra
theo đúng nội dung, yêu cầu và định hƣớng. Thanh tra Chính phủ và ngành Thanh tra
đã bám sát Nghị quyết của Quốc hội, của Chính phủ, chỉ đạo của Thủ tƣớng Chính
phủ và kế hoạch công tác để triển khai thực hiện và đạt đƣợc nhiều kết quả, cơ bản
đáp ứng đƣợc yêu cầu của Chính phủ, Thủ tƣớng Chính phủ, của lãnh đạo các bộ,
ngành và địa phƣơng. Việc triển khai các cuộc thanh tra đảm bảo đúng theo nội dung,
yêu cầu và định hƣớng. Việc phối hợp trao đổi thông tin trong ngành Thanh tra đƣợc
quan tâm. Qua thanh tra, ngành Thanh tra đã phát hiện, xử lý nhiều vi phạm pháp
luật, đồng thời kiến nghị chấn chỉnh, khắc phục những bất cập, sơ hở trong quản lý,
2 Nội dung chi tiết tại Phụ lục 3 Trong đó: Có 16 cuộc thanh tra công tác quy hoạch, quản lý, sử dụng đất đai, quản lý khai thác khoáng sản và đầu tƣ xây dựng của Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ƣơng; 12 cuộc thanh tra các Tập đoàn kinh tế, Tổng công ty nhà nƣớc trong việc chấp hành các quy định pháp luật về quản lý và sử dụng vốn, tài sản của Nhà nƣớc; 11 cuộc thanh tra trách nhiệm của thủ trƣởng cơ quan quản lý nhà nƣớc trong việc thực hiện pháp luật về thanh tra, giải quyết KNTC và PCTN; 16 cuộc thanh tra công tác quản lý nhà nƣớc trên các lĩnh vực khác. 4 Báo cáo tổng kết công tác năm 2015 và phƣơng hƣớng, nhiệm vụ năm 2016 của ngành Thanh tra 5 Báo cáo tổng kết công tác năm 2016 và phƣơng hƣớng, nhiệm vụ năm 2017 của ngành Thanh tra
trong ban hành chính sách, pháp luật.
48
3.1.2. Thực trạng đội ngũ cán bộ cấp vụ
Đội ngũ lãnh đạo cấp vụ là những cán bộ có phẩm chất chính trị, năng lực
công tác và trình độ chuyên môn để gánh vác những nhiệm vụ quan trọng của cơ
quan. Đây là đội ngũ cán bộ đƣợc đào tạo bài bản, đƣợc thử thách quan hoạt động
thực tiễn và có bản lĩnh chính trị vững vàng. Về cơ cấu, năm 2014, có tổng số 23
vụ, cục, đơn vị, trong đó số lƣợng công chức lãnh đạo cấp vụ bao gồm 23 Vụ
trƣởng, Cục trƣởng (hoặc tƣơng đƣơng), 62 lãnh đạo Phó Vụ trƣởng, Phó Cục
trƣởng; năm 2015, có tổng số 23 vụ, cục, đơn vị, trong đó số lƣợng công chức lãnh
đạo cấp vụ bao gồm 23 Vụ trƣởng, Cục trƣởng (hoặc tƣơng đƣơng), 60 lãnh đạo
Phó Vụ trƣởng, Phó Cục trƣởng; năm 2016 có tổng số 23 vụ, cục, đơn vị, trong đó
số lƣợng công chức lãnh đạo cấp vụ bao gồm 23 Vụ trƣởng, Cục trƣởng (hoặc
tƣơng đƣơng), 58 lãnh đạo Phó Vụ trƣởng, Phó Cục trƣởng. Số lƣợng lãnh đạo cấp
vụ về cơ bản thực hiện theo quy định của pháp luật, theo đó mỗi vụ, cục có 1 cấp
trƣởng và 3 cấp phó, có một số vụ, cục, đơn vị có số lƣợng cấp phó vƣợt quá theo
quy định.
Bảng 3.1. Tổng hợp số lƣợng lãnh đạo cấp vụ từ năm 2014 - 2016
Năm Số lƣợng đơn vị Số lƣợng lãnh đạo cấp vụ trƣởng, cục trƣởng và tƣơng đƣơng Số lƣợng lãnh đạo cấp phó vụ trƣởng, cục trƣởng và tƣơng đƣơng
2014 23 62 23
2015 23 60 23
2016 23 58 23
(Nguồn: Vụ Tổ chức cán bộ - Thanh Tra Chính Phủ)
Trong tổng số công chức lãnh đạo cấp vụ, tính đến hết ngày 31/12/2016 có 8
công chức lãnh đạo nữ; 100% công chức lãnh đạo cấp vụ là đảng viên Đảng Cộng
sản Việt Nam; 01 cán bộ là ngƣời dân tộc thiểu số.
Đội ngũ cán bộ cấp vụ của Thanh tra Chính phủ đƣợc đào tạo đa dạng các
chuyên ngành khác nhau, nhƣ luật, kinh tế, tài chính, xây dựng, giao thông, y tế…
nhằm đáp ứng các yêu cầu thực hiện hoạt động thanh tra trên tất cả các lĩnh vực
49
công tác. Trong quản lý cán bộ cấp vụ, chủ thể quản lý là lãnh đạo Thanh tra Chính
phủ, Ban Cán sự Đảng Thanh tra Chính phủ đã có nhiều chủ trƣơng, giải pháp
thông qua việc luân chuyển cán bộ trong cơ quan; đào tạo, bồi dƣỡng nghiệp vụ ở
trong nƣớc và nƣớc ngoài; phân công chủ trì các nhiệm vụ chuyên môn quan trọng
để cán bộ cấp vụ từng bƣớc trƣởng thành, có khả năng đảm nhận những công việc
quan trọng của cơ quan Thanh tra Chính phủ; xây dựng các tiêu chi đánh giá năng
lực công tác, khen thƣởng kịp thời những cán bộ có thành tích xuất sắc trong công
tác... Về cơ bản, đội ngũ cán bộ cấp vụ có phẩm chất chính trị vững vàng, nắm vững
chủ trƣơng, đƣờng lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nƣớc; có phẩm chất
chính trị vững vàng, tuyệt đối trung thành với sự nghiệp cách mạng xây dựng
CNXH Việt Nam, hết lòng phục vụ nhân dân; 100% cán bộ cấp vụ có trình độ cao
cấp lý luận chính trị, đã qua các lớp bồi dƣỡng quản lý nhà nƣớc chƣơng trình
chuyên viên cao cấp, chuyên viên chính, đã đƣợc bổ nhiệm vào các ngạch Thanh tra
viên cao cấp, Thanh tra viên chính và tƣơng đƣơng.
Để quản lý, sử dụng đội ngũ cán bộ, công chức nói chung và cán bộ cấp vụ nói
riêng, Quốc hội, Chính phủ và Thanh tra Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản quy
định về nội dung, phƣơng pháp, cách thức, tiêu chuẩn, điều kiện... cụ thể nhƣ sau:
a) Quy định của pháp luật cán bộ, công chức
Luật Cán bộ, công chức và các văn bản hƣớng dẫn thi hành đã có những quy
định cụ thể về quản lý, sử dụng cán bộ, công chức nói chung và lãnh đạo cấp vụ nói
riêng. Đối với lãnh đạo cấp vụ, về nguyên tắc trong quản lý và sử dụng phải áp
dụng các quy định của pháp luật về quản lý, sử dụng công chức nói chung. Trong
từng nội dung cụ thể, xuất phát từ vị trí lãnh đạo quản lý, pháp luật về cán bộ, công
chức có những quy định cụ thể trong quản lý và sử dụng lãnh đạo cấp vụ. Chẳng
hạn, trong quy hoạch công chức lãnh đạo cấp vụ, hiện tại, quy hoạch công chức
lãnh đạo, quản lý đƣợc thực hiện chủ yếu theo Hƣớng dẫn số 15-HD/BTCTW ngày
05 tháng 11 năm 2012 của Ban Tổ chức Trung ƣơng về công tác quy hoạch công
chức lãnh đạo, quản lý và các quy định của pháp luật. Bên cạnh các tiêu chuẩn và
điều kiện chung, lãnh đạo cấp vụ còn có những quy định cụ thể về điều kiện, tiêu
chuẩn tùy theo vị trí quy hoạch.
50
Tƣơng tự nhƣ vậy, trong bổ nhiệm công chức lãnh đạo cấp vụ: Quy định về tiêu
chuẩn bổ nhiệm lãnh đạo cấp vụ đƣợc quy định cụ thể ở các ngành, lĩnh vực cụ thể
theo phân cấp quản lý và phù hợp với đặc thù của từng ngành, lĩnh vực. Pháp luật về
cán bộ, công chức đƣa ra các tiêu chuẩn chung trong bổ nhiệm công chức lãnh đạo,
quản lý. Trong ngành nội vụ, Bộ trƣởng Bộ Nội vụ đã ban hành Quyết định số
1204/QĐ-BNV ngày 19/11/2012 quy định tiêu chuẩn chức danh lãnh đạo, quản lý
ngành nội vụ. Theo đó, bên cạnh các tiêu chuẩn chung, các chức danh cụ thể (Vụ
trƣởng, Phó vụ trƣởng), đƣợc quy định các điều kiện cụ thể liên quan đến trình độ
học vấn, trình độ lý luận chính trị, ngạch công chức hoặc tƣơng đƣơng, thời gian đảm
nhiệm chức vụ ở cấp thấp hơn, khả năng sử dụng ngoại ngữ, tin học... Trong mỗi
ngành khác nhau, điều kiện, tiêu chuẩn bổ nhiệm công chức lãnh đạo cấp vụ là khác
nhau. Nhƣ trong ngành Tƣ pháp, tiêu chuẩn bổ nhiệm cán bộ cấp Vụ trƣởng thuộc Bộ
Tƣ pháp phải có trình độ tiến sỹ.
Trong thi tuyển lãnh đạo cấp vụ, nhằm phát hiện, thu hút, trọng dụng những
ngƣời có đức, có tài, phát huy đƣợc phẩm chất, trình độ, năng lực, kinh nghiệm, Bộ
Nội vụ đã ban hành văn bản số 2424/BNV-CCVC ngày 09/5/2017 về việc hƣớng
dẫn thực hiện Đề án thí điểm đổi mới cách tuyển chọn lãnh đạo, quản lý cấp Vụ,
cấp Sở, cấp phòng. Đề án đã quy định khá rõ ràng đối tƣợng, nội dung, phƣơng thức
thi tuyển... nhằm tạo môi trƣờng cạnh tranh lành mạnh; từng bƣớc đổi mới quy trình
bổ nhiệm cán bộ, lãnh đạo, quản lý; tránh tình trạng cục bộ, khép kín trong công tác
quy hoạch, bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo, quản lý tại các Bộ, ban, ngành.
Trong đánh giá cán bộ lãnh đạo cấp vụ: bên cạnh những nội dung về đánh giá
đối với cán bộ, công chức nói chung, công chức lãnh đạo, quản lý còn đƣợc đánh giá
theo các nội dung về kết quả hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị đƣợc giao lãnh
đạo, quản lý; năng lực lãnh đạo, quản lý; năng lực tập hợp, đoàn kết công chức. Các
nội dung khác liên quan đến quản lý, sử dụng lãnh đạo cấp vụ đƣợc thực hiện theo
quy định chung trong quản lý, sử dụng cán bộ, công chức.
Đánh giá chung, quy định của pháp luật về quản lý, sử dụng công chức nói
chung và công chức lãnh đạo cấp vụ nói riêng đã đƣợc ban hành đầy đủ, là cơ sở để
51
quản lý, sử dụng công chức lãnh đạo tại các cơ quan nhà nƣớc. Các quy định về quản
lý, sử dụng công chức lãnh đạo cấp vụ bao gồm các quy định của Đảng (trực tiếp liên
quan đến công tác quy hoạch, bổ nhiệm cán bộ), quy định pháp luật liên quan đến
luân chuyển, điều động, đánh giá..., cán bộ. Trên cơ sở các quy định này, các bộ,
ngành ban hành theo thẩm quyền các quy định cho phù hợp với đặc thù của từng
ngành, lĩnh vực công tác, chủ yếu liên quan đến tiêu chuẩn, điều kiện để quy hoạch,
bổ nhiệm công chức lãnh đạo.
Tuy nhiên, bên cạnh những ƣu điểm đã đạt đƣợc, pháp luật về vấn đề này còn
có một số tồn tại, hạn chế sau:
Thứ nhất, quy định về một số tiêu chuẩn chức danh quản lý của công chức
hiện nay còn thiếu, chƣa thống nhất và chƣa cụ thể.
Mặc dù hệ thống các ngạch, chức danh đã đƣợc ban hành tƣơng đối đầy đủ
nhƣng tiêu chuẩn chức danh quản lý của công chức trong các cơ quan hành chính
hiện nay vẫn chƣa đƣợc quy định đầy đủ, cụ thể và rõ ràng. Một số tiêu chuẩn liên
quan đến yếu tố năng lực thƣờng mang tính chung chung, rất khó để đánh giá
trong việc đề bạt, bổ nhiệm nhƣ quy định về các tiêu chuẩn về tầm nhìn, tƣ duy
đổi mới… nếu không quy định một cách cụ thể hơn thì rất khó có thể đánh giá
chính xác đƣợc...
Thứ hai, nhiều tiêu chuẩn chức danh quản lý của công chức còn mang tính
“cào bằng”, một số tiêu chuẩn rất khó áp dụng trên thực tế.
Các chức danh công chức quản lý ở các cấp cũng có nhiều chức danh khác
nhau, với những tính chất công việc khác nhau nên cần phải có những năng lực cốt
lõi phù hợp với thực tiễn của bộ, ngành, địa phƣơng khác nhau. Nhƣng việc quy
định tiêu chuẩn cho các chức danh này từ trƣớc đến nay thƣờng mang tính “cào
bằng” nhƣ nhau. Với mục tiêu thu hút đƣợc những công chức có phẩm chất, năng
lực phù hợp, đặc biệt là khuyến khích, phát huy tinh thần cũng nhƣ khả năng, tiềm
năng của đội ngũ công chức lãnh đạo trẻ, đó cũng là một phƣơng thức tạo động lực
cho đội ngũ công chức trẻ phấn đấu nhiều hơn nữa trong hoạt động công vụ. Tuy
nhiên, quy định về tiêu chuẩn hiện nay chƣa thực sự tạo điều kiện cho đội ngũ công
52
chức trẻ phấn đấu. Ví dụ, tiêu chuẩn Vụ trƣởng, Giám đốc sở cơ bản phải là chuyên
viên chính, có lý luận chính trị cao cấp, có quản lý nhà nƣớc ngạch chuyên viên cao
cấp, có 5 năm công tác trong ngành, trong đó có ít nhất 3 năm làm công tác quản lý
về lĩnh vực chuyên môn, chuyên ngành đƣợc giao; tiêu chuẩn phó vụ trƣởng, phó
giám đốc sở phải là chuyên viên bậc 6, có lý luận chính trị trung cấp, có quản lý nhà
nƣớc ngạch chuyên viên chính. Theo những tiêu chuẩn này, công chức trẻ khó có
thể đủ điều kiện tham gia thi lãnh đạo, không thể có lãnh đạo cấp vụ, cấp sở trong
độ tuổi 30 đến 40.
Thứ ba, quy định về các tiêu chuẩn còn chưa tập trung vào năng lực công tác
thực tiễn của công chức quản lý
Luật Cán bộ, công chức năm 2008 có quy định: “Nhà nƣớc có chính sách để
phát hiện, thu hút, bồi dƣỡng, trọng dụng và đãi ngộ xứng đáng đối với ngƣời có tài
năng” (Điều 6), tức là việc quản lý công chức phải căn cứ vào năng lực, tài năng
thật sự. Tuy nhiên, quy định hiện hành chỉ chú trọng vào tiêu chuẩn phẩm chất mà
chƣa chú ý thỏa đáng đến yếu tố năng lực thực tiễn. Thực trạng này dẫn đến tính
hình thức trong việc áp dụng các tiêu chuẩn công chức. Điều đó làm cho công chức
chỉ tham gia các khóa đào tạo để có đủ văn bằng, chứng chỉ theo quy định hoặc
tham gia bổ sung thêm các văn bằng, chứng chỉ trong hồ sơ nhƣng năng lực giải
quyết công việc hoặc hiệu quả công tác vẫn không đƣợc nâng lên.
Ở nhiều cơ quan, đơn vị hiện nay, tỷ lệ công chức giữ các chức danh quản lý có
bằng chuyên môn sau đại học là khá cao, với xu hƣớng ngày càng tăng nhƣng việc
đánh giá công chức có đƣợc tiếp cận theo các tiêu chuẩn của một khung năng lực hay
không mới là điều đáng bàn. Bởi lẽ, mỗi vị trí việc làm trong cơ quan, đơn vị phải
dựa trên mối tƣơng quan giữa bản mô tả công việc và khung năng lực phù hợp để
hoàn thành công việc nhƣng việc gắn các tiêu chuẩn chức danh quản lý của công
chức bám chặt với thâm niên, kinh nghiệm công tác và nhất là bằng cấp nhƣ hiện nay
là chƣa thật sự phù hợp với xu hƣớng tuyển dụng, bổ nhiệm công chức quản lý theo
mô hình vị trí việc làm - chủ yếu nhấn mạnh đến yếu tố năng lực thực tiễn.
b) Quy định của Thanh tra Chính phủ
53
Với tƣ cách là chủ thể quản lý cán bộ cấp vụ, Tổng Thanh tra Chính phủ đã
ban hành theo thẩm quyền Quy chế bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, từ chức công chức, viên chức lãnh đạo cấp vụ, cấp phòng6; ban hành các Kế hoạch thực hiện việc quy hoạch,
luân chuyển công chức lãnh đạo cấp vụ; quy định tiêu chuẩn nghiệp vụ các ngạch
công chức ngành Thanh tra; ban hành quy định mô tả, vị trí việc làm đối với tùng vị
trí công chức lãnh đạo cấp vụ; ban hành kế hoạch đào tạo, bồi dƣỡng công chức
lãnh đạo cấp vụ (đào tạo ngạch TTVCC, bồi dƣỡng các kiến thức quản lý, lý luận
chính trị, học tập kinh nghiệm ở nƣớc ngoài...).
Về bổ nhiệm cán bộ cấp vụ, bên cạnh các tiêu chuẩn chung về phẩm chất
chính trị, đạo đức, lối sống; năng lực lãnh đạo, quản lý, điều hành; tiêu chuẩn về
trình độ học vấn... Thanh tra Chính phủ đã ban hành các tiêu chuẩn cụ thể đối với
từng nghạch chức danh Vụ trƣởng, Phó Vụ trƣởng. Theo đó, tiêu chuẩn Vụ trƣởng
phải đạt ngạch Thanh tra viên cao cấp hoặc có ít nhất 02 năm giữa chức vụ Phó Vụ
trƣởng hoặc tƣơng đƣơng; Phó Vụ trƣởng phải đạt tiêu chuẩn ngạch Thanh tra viên
chính hoặc có ít nhất 02 năm giữ chức Trƣởng phòng hoặc tƣơng đƣơng. Có thể
thấy, tiêu chuẩn để bổ nhiệm công chức lãnh đạo cấp vụ bên cạnh phải đạt tiêu
chuẩn về ngạch thanh tra, còn phải có thời gian giữ chức vụ lãnh đạo tối thiểu là 2
năm trƣớc khi đƣợc bổ nhiệm giữ chức vụ lãnh đạo ở cấp cao hơn.
Về xác định vị trí việc làm: Thanh tra Chính phủ đã ban hành quy định về vị
trí việc làm trong đó quy định về cơ cấu, số lƣợng; các tiêu chuẩn về phẩm chất
chính trị và trình độ lý luận chính trị; về phẩm chất đạo đức; về trình độ văn hoá,
chuyên môn nghiệp vụ; về trình độ ngoại ngữ, tin học... làm cơ sở để xác định số
lƣợng cán bộ, việc tuyển dụng và sử dụng cán bộ.
Về luân chuyển, điều động cán bộ: Tùy từng thời điểm cụ thể, Thanh tra
Chính phủ ban hành kế hoạch thực hiện luân chuyển, điều động công chức lãnh đạo
cấp vụ nhằm sắp xếp, đào tạo, bồi dƣỡng cán bộ. Việc thực hiện luân chuyển, điều
động cán bộ đƣợc xây dựng trên các tiêu chí cụ thể về thời gian công tác, trình độ
6 Ban hành theo Quyết định số 1179/QĐ-TTCP ngày 11/5/2015 của Tổng Thanh tra Chính phủ.
chuyên môn, cơ cấu, số lƣợng công chức lãnh đạo tại mỗi đơn vị và theo yêu cầu
54
của công tác quản lý. Việc quy định các tiêu chí cụ thể trong kế hoạch luân chuyển
giúp cho quá trình thực hiện đƣợc thuận lợi, không ảnh hƣởng nhiều đến tâm tƣ,
tình cảm của cán bộ thuộc diện luân chuyển, điều động.
Có thể khẳng định, Tổng Thanh tra Chính phủ với tƣ cách là chủ thể quản lý
cán bộ cấp vụ đã ban hành theo thẩm quyền nhiều chủ trƣơng, chính sách, quy định
nhằm quản lý, sử dụng cán bộ cấp vụ, góp phần nâng cao năng lực quản lý, phục vụ
có hiệu quả và giúp Tổng Thanh tra thực hiện chức năng quản lý nhà nƣớc trên các
lĩnh vực hoạt động của ngành Thanh tra.
3.2. Thực trạng năng lực quản lý của đội ngũ cán bộ cấp vụ
Thứ nhất, về kiến thức:
Theo tiêu chuẩn bổ nhiệm công chức lãnh đạo cấp vụ, cán bộ phải tốt nghiệp
Đại học trở lên các chuyên ngành phù hợp với lĩnh vực chuyên môn. Qua rà soát, số
lƣợng công chức lãnh đạo cấp vụ tại Thanh tra Chính phủ có trình độ Tiến sỹ là 16;
trình độ Thạc sỹ là 42; đa số cán bộ đƣợc đào tạo phù hợp với chuyên môn, lĩnh vực
công tác của ngành Thanh tra, cụ thể là các chuyên ngành luật, quản lý hành chính,
kinh tế, tài chính, kỹ thuật, xây dựng...; am hiểu chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và
cơ cấu tổ chức của Thanh tra Chính phủ và của đơn vị do mình phụ trách; am hiểu
tình hình chính trị, kinh tế, xã hội.
Về nghiệp vụ, 100% cán bộ giữa chức vụ Vụ trƣởng, Cục trƣởng đều đạt trình độ
nghiệp vụ Thanh tra viên cao cấp hoặc tƣơng đƣơng; đa số cán bộ giữa chức vụ Phó
Vụ trƣởng là Thanh tra viên chính hoặc tƣơng đƣơng. Công chức lãnh đạo cấp vụ đều
đạt trình độ tin học và ngoại ngữ theo tiêu chuẩn chung của ngạch.
Bên cạnh những kiến thức chung theo tiêu chuẩn chức danh, cán bộ lãnh đạo
cấp vụ thuộc Thanh tra Chính phủ còn có kiến thức và hiểu biết sâu rộng về chính trị,
kinh tế, xã hội, đặc biệt là kiến thức về pháp luật. Đây là một trong những đặc thù
nghề nghiệp của cán bộ thanh tra nói chung và cán bộ lãnh đạo cấp vụ nói riêng. Với
các lĩnh vực hoạt động của ngành Thanh tra đều có liên quan trực tiếp đến việc bảo
vệ pháp chế XHCN, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của ngƣời dân, doanh nghiệp
nên những kiến thức về chính trị, pháp luật là yêu cầu và đòi hỏi mỗi cán bộ thanh tra
55
đều phải đáp ứng. Mặc dù một số cán bộ đƣợc đào tạo ở các chuyên ngành khác
nhau, nhƣng trong quá trình công tác tự bản thân mỗi cán bộ đã thƣờng xuyên học
hỏi, tự nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và cập nhật kiến thức mới nhằm đáp
ứng đƣợc ngày càng tốt hơn yêu cầu của công việc. Vì vậy, bên cạnh những kiến thức
đã đƣợc đào tạo ở chuyên ngành thứ nhất, nhiều cán bộ lãnh đạo cấp vụ (khoảng
30%) còn tự tham gia học tập chuyên ngành hai, tập trung vào các chuyên ngành nhƣ:
luật, kinh tế, ngoại ngữ…
Về nghiệp vụ thanh tra, với đặc thù nghề nghiệp của ngành Thanh tra nên cán
bộ thanh tra kể từ khi đƣợc tuyển dụng vào ngành đều đƣợc bồi dƣỡng về nghiệp vụ
Thanh tra viên, Thanh tra viên chính và Thanh tra viên cao cấp. Đội ngũ cán bộ cấp
vụ về nguyên tắc phải trải qua các khoá đào tạo về nghiệp vụ thanh tra nêu trên.
Trong trƣờng hợp chuyển công tác từ ngành khác sang thì sẽ đƣợc đào tạo ở ngạch
thanh tra tƣơng ứng với ngạch chức danh đang giữ. Việc bồi dƣỡng về nghiệp vụ
thanh tra là yêu cầu bắt buộc khi bổ nhiệm cán bộ cấp vụ. Với vị trí là lãnh đạo cấp
vụ, các chủ thể này thƣờng đƣợc bố trí những vị trí quan trọng trong các Đoàn thanh
tra, Tổ công tác để thực hiện chức năng thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và
phòng chống tham nhũng. Trong quản lý nhà nƣớc, những kiến thức về nghiệp vụ
thanh tra sẽ giúp cho cán bộ trong việc hoạch định chính sách, pháp luật về các lĩnh
vực hoạt động của ngành.
Về kiến thức và hiểu biết tình hình chính trị, kinh tế - xã hội của đất nƣớc: Với
tiêu chuẩn bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo cấp vụ phải đạt trình độ cao cấp lý luận chính
trị nên 100% cán bộ lãnh đạo cấp vụ của Thanh tra Chính phủ đạt trình độ cao cấp
lý luận chính trị. Thanh tra Chính phủ có chủ trƣơng cử cán bộ tham gia các khoá
bồi dƣỡng lý luận chính trị từ khi cán bộ đƣợc quy hoạch cán bộ cấp phòng nên cán
bộ thuộc diện quy hoạch, cán bộ cấp phòng đã đƣợc cử tham gia các khoá bồi
dƣỡng về lý luận chính trị. Việc đƣợc bồi dƣỡng về lý luận chính trị sẽ giúp cán bộ
lãnh đạo quản lý nắm vững chủ trƣơng, đƣờng lối của Đảng, với mục tiêu độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội; bản thân cán bộ chấp hành tốt quan điểm, chủ trƣơng,
đƣờng lối, chính sách, Nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nƣớc và ý thức tổ
56
chức kỷ luật và phục vụ trực tiếp cho công việc lãnh đạo, quản lý. Có thể khẳng
định, trong thời gian qua, chủ thể quản lý cán bộ cấp vụ tại Thanh tra Chính phủ
luôn quan tâm, dành nhiều nguồn lực để đào tạo, bồi dƣỡng về chuyên môn, nghiệp
vụ cán bộ cấp vụ.
Thứ hai, về kỹ năng
Công tác đào tạo lực lƣợng nòng cốt, thƣờng xuyên của cán bộ công chức,
viên chức nhằm trang bị những kiến thức trong quá trình thực hiện nhiệm vụ của
từng cá nhân, đơn vị, nhất là những ngƣời lãnh đạo cấp vụ, đơn vị thuộc Thanh tra
Chính phủ, vì đây là đội ngũ cán bộ tham mƣu của lãnh đạo cơ quan xây dựng các
cơ chế, chính sách liên quan đến lĩnh vực mà Thanh tra Chính phủ phụ trách và trực
tiếp làm Trƣởng các Đoàn thanh tra, tổ công tác. Mặt khác, đây là các chủ thêt trực
tiếp lãnh đạo đội ngũ cán bộ, công chức trong đơn vị giúp Tổng Thanh tra thực hiện
chức năng quản lý nhà nƣớc trên các lĩnh vực hoạt động của ngành. Vì vậy, những
cán bộ này cần nắm bắt đƣợc những thay đổi cơ bản trong cải cách hành chính,
những kỹ năng xây dựng chiến lƣợc, kế hoạch phát triển; kỹ năng Trƣởng đoàn
thanh tra; các kỹ năng xây dựng cơ chế chính sách, các kỹ năng điều hành phân
công giao việc cũng nhƣ kỹ năng quản lý điều hành đơn vị về tổ chức bộ máy, giải
quyết các mối quan hệ trong cơ quan…
Về nguyên tắc, kỹ năng lãnh đạo quản lý đƣợc hình thành chủ yếu qua quá trình
công tác của cán bộ và qua việc đào tạo, bồi dƣỡng của cơ quan quản lý. Theo kế hoạch đào tạo, bồi dƣỡng công chức, viên chức hàng năm của Thanh tra Chính phủ7,
hoạt động bồi dƣỡng kỹ năng, chuyên ngành và chuyên đề là một trong những nội
dung đào tạo, bồi dƣỡng theo kế hoạch. Theo đó, việc bồi dƣỡng kỹ năng đƣợc tập
trung vào kỹ năng chuyên ngành: kỹ năng tiếp công dân, xử lý đơn, thƣ; kỹ năng
Trƣởng đoàn thanh tra; kỹ năng giao tiếp trong hoạt động thanh tra… Về cơ bản, cán
7 Kế hoạch số 3138/KH-TTCP ngày 24/11/2016 của Thanh tra Chính phủ về đào tạo, bồi dƣỡng công chức, viên chức ngành Thanh tra năm 2017.
bộ cấp vụ đều đƣợc bồi dƣỡng các kỹ năng nêu trên, trong đó tập trung vào kỹ năng
57
Trƣởng đoàn thanh tra, đây là kỹ năng quan trọng của cán bộ lãnh đạo khi đƣợc bố trí
làm Trƣởng các Đoàn thanh tra.
Theo kế hoạch đào tạo, bồi dƣỡng nêu trên có thể nhận thấy, việc bồi dƣỡng
các kỹ năng chủ trì, tổ chức xây dựng các đề án, văn bản quy phạm pháp luật, đề
xuất các giải pháp, phƣơng pháp thực hiện về lĩnh vực chuyên môn, chuyên ngành
phục vụ hoạt động quản lý nhà nƣớc của Bộ, ngành; kỹ năng điều hành, phân công
công việc; kỹ năng hƣớng dẫn, kiểm tra, đôn đốc, đánh giá công chức thuộc quyền
quản lý… chƣa đƣợc đƣa vào kế hoạch đào tạo, bồi dƣỡng hàng năm.
Thứ ba, về thái độ quản lý
Thái độ quản lý là yếu tố tác động trực tiếp đến hiệu quả công việc. Cán bộ
thanh tra bên cạnh các yêu cầu về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, năng lực quản
lý thì thái độ quản lý là yếu tố quan trọng tác động trực tiếp đến hiệu quả công tác
quản lý. Về nguyên tắc, thái độ quản lý phụ thuộc vào nhận thức, khả năng, tính
cách của cán bộ. Đây là nội dung rất khó đánh giá trong hoạt động quản lý. Khi
tuyển dụng cán bộ, công chức, các tiêu chuẩn, điều kiện có liên quan đến thái độ
quản lý chỉ đƣợc quy định chung chung, khó nhận diện và đánh giá. Trong công
tác đánh giá, phân loại cán bộ, công chức hàng năm thì thái độ quản lý cũng là
một trong những tiêu chí để đánh giá, phân loại cán bộ, công chức. Về cơ bản, đội
ngũ cán bộ cấp vụ của Thanh tra Chính phủ đều đáp ứng các yêu cầu của thái độ
quản lý. Theo đó, việc tuân thủ nhiệm vụ cấp trên giao, tính trung thực, chủ động
trong công việc... là những yêu cầu mà cán bộ cấp vụ đã đáp ứng đƣợc. Với đặc
thù của hoạt động thanh tra, việc tuân thủ nhiệm vụ cấp trên giao khi tham gia các
Đoàn thanh tra không chỉ là yêu cầu mà là mệnh lệnh phải chấp hành. Khi tham
gia Đoàn thanh tra, các thành viên Đoàn thanh tra phải tuân theo sự lãnh đạo, chỉ
đạo của Ngƣời ra quyết định thanh tra, Trƣởng đoàn thanh tra trong thực hiện
nhiệm vụ, trong đó đặc biệt là phải thực hiện theo kế hoạch thanh tra đã đƣợc
ngƣời ra quyết định thanh tra phê duyêt.
Tính trung thực liên quan trực tiếp đến đạo đức công vụ, liên quan trực tiếp
đến đạo đức, nhân cách của cán bộ, công chức. Tính trung thực trong thực thi công
58
vụ đƣợc tiếp cận với tính chất là trung thực trong thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn
đƣợc giao, trung thực trong báo cáo công việc với cấp trên; trung thực khi tiếp xúc
và giải quyết công việc của ngƣời dân, doanh nghiệp... dù ở góc độ nào thì một cán
bộ, công chức nói chung đều phải có sự trung thực. Các yêu cầu khác về tính chủ
động trong công việc, khả năng học hỏi và phát triển luôn đƣợc cán bộ cấp vụ của
Thanh tra Chính phủ thực hiện tốt, đƣợc đánh giá cao về sự nỗ lực vƣơn lên trong
công việc, là những tấm gƣơng để cán bộ, công chức trong cơ quan noi theo. Điều
này đƣợc thể hiện qua việc đội ngũ cán bộ cấp vụ là những cán bộ có trình độ học
vấn cao nhất trong cơ quan; luôn nỗ lực vƣợt qua những khó khăn, thử thách trong
công việc và cuộc sống để hoàn thanh tốt nhiệm vụ đƣợc giao. Tại Thanh tra Chính
phủ, một trong những đức tính của cán bộ thanh tra luôn đƣợc các cấp, các ngành
đánh giá cao là đức tính trung thực, sự hy sinh nhu cầu của bản thân và gia đình.
Cán bộ thanh tra luôn phải đi công tác xa gia đình dài ngày, đó là sự thiệt thòi trong
cuộc sống; cán bộ thanh tra luôn phải đối mặt với những cám dỗ về vật chất, nếu
không đủ bản lĩnh sẽ rất dễ sa ngã, đó là sự hy sinh của bản thân trƣớc lợi ích vật
chất. Và trong thời gian qua, cán bộ thanh tra luôn đƣợc đánh giá cao bởi những đức
tính này, điều này đƣợc thể hiện quan những nhiệm vụ đã hoàn thành, qua việc cán
bộ thanh tra bị xử lý kỷ luật do vi phạm pháp luật rất hạn chế. Chính vì vậy, đội ngũ
cán bộ lãnh đạo cấp vụ của Thanh tra Chính phủ luôn là tấm gƣơng để cán bộ, công
chức trong cơ quan noi theo.
3.3. Đánh giá thực trạng năng lực quản lý của đội ngũ cán bộ cấp vụ
3.3.1. Kết quả đạt được
a) Tiêu chí về kiến thức:
Tiêu chí liên quan đến kiến thức của lãnh đạo cấp vụ đƣợc đánh giá qua các
nội dung chính sau đây:
- Về mức độ nắm vững chủ trƣơng, đƣờng lối của Đảng, chính sách và pháp
luật của Nhà nƣớc và các văn bản quy phạm pháp luật về lĩnh vực chuyên môn,
chuyên ngành. Với tƣ cách là chủ thể quản lý, Tổng Thanh tra đã giao nhiệm vụ cho
cán bộ lãnh đạo cấp vụ trực tiếp tham gia các Đoàn thanh tra, Tổ công tác hoặc lãnh
59
đạo trực tiếp công tác chuyên môn của đơn vị nên các chủ thể này đều nắm vững
chủ trƣơng, đƣờng lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nƣớc không những
về các lĩnh vực hoạt động của ngành Thanh tra mà bao gồm cả kiến thức tổng hợp
chung về kinh tế, xã hội, pháp luật. Vì đặc thù hoạt động của ngành Thanh tra là đi
xem xét, đánh giá các chủ thể khác thực hiện chính sách, pháp luật nên việc nắm
vững đƣờng lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nƣớc, các văn bản quy
phạm pháp luật chuyên môn, chuyên ngành là yêu cầu bắt buộc để thực hiện nhiệm
vụ công tác. Trong từng lĩnh vực quản lý, công chức lãnh đạo cấp vụ bắt buộc phải
nghiên cứu tất cả các chủ trƣơng, văn bản pháp luật có liên quan đến nội dung thanh
tra để có kiến thức khi làm việc với đối tƣợng thanh tra. Yêu cầu này đòi hỏi khả
năng tự nghiên cứu, tự học hỏi, trau đồi kiến thức của đội ngũ lãnh đạo cấp vụ. Chỉ
số để đánh giá nội dung này là các kết luận thanh tra do Thanh tra Chính phủ ban
hành đều không bị đối tƣợng thanh tra khiếu nại (mặc dù trong một vài trƣờng hợp
còn có ý kiến khác nhau giữa đối tƣợng thanh tra và Đoàn thanh tra). Điều này cho
thấy, đây là một trong những điểm mạnh của công chức lãnh đạo cấp vụ của Thanh
tra Chính phủ.
Theo báo cáo của Thanh tra Chính phủ, 100% cán bộ lãnh đạo cấp vụ khi
đƣợc bổ nhiệm chức vụ lãnh đạo quản lý đều đáp ứng tiêu chuẩn về trình đô lý luận
chính trị, đó là có trình độ cao cấp lý luận chính trị. Đây là chỉ số đánh giá về mặt
hình thức liên quan đến tiêu chuẩn chức danh lãnh đạo quản lý. Về nội dung, việc
nắm vững chủ trƣơng đƣờng lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nƣớc là
yêu cầu bắt buộc đặt ra đối với tất cả cán bộ, công chức ngành Thanh tra và đội ngũ
cán bộ lãnh đạo cấp vụ là những ngƣời đáp ứng đƣợc yêu cầu này tốt nhất.
Bên cạnh đó, hàng năm, Tổng Thanh tra Chính phủ còn chỉ đạo các đơn vị
tham mƣ tổ chức các lớp đào tạo, bồi dƣỡng, cập nhật kiến thức mới. Trong một số
trƣờng hợp, lãnh đạo Thanh tra Chính phủ là ngƣời trực tiếp đứng lớp để truyền đạt
kiến thức, kinh nghiệm cho cán bộ cấp vụ. Thông qua các khóa đào tạo, cán bộ cấp
vụ đều phải viết bản thu hoạch, xây dựng chƣơng trình, kế hoạch hành động để thực
60
hiện trong thực tiễn, qua đó chủ thể quản lý có cơ sở để kiểm tra, đánh giá kết quả
đào tạo, bồi dƣỡng của đội ngũ cán bộ cấp vụ.
- Về mức độ hiểu biết chuyên sâu về nghiệp vụ quản lý của lĩnh vực chuyên
môn, chuyên ngành. Tiêu chí này đƣợc thể hiện trƣớc hết ở việc cán bộ thanh tra nói
chung và công chức lãnh đạo cấp vụ nói riêng đƣợc đào tạo chuyên môn trong lĩnh
vực gì về cơ bản đƣợc bố trí trong các lĩnh vực công tác phù hợp. Điều này đƣợc thể
hiện trong danh mục vị trí việc làm và bản mô tả công việc của cơ quan Thanh tra
Chính phủ. Ví dụ, ở vị trí Vụ II (Vụ thanh tra khối nội chính và kinh tế tổng hợp) thì
yêu cầu về trình độ chuyên môn khi tuyển dụng vào vụ là phải tốt nghiệp Đại học
chuyên ngành Tài chính - kế toán; tại Vụ I (Vụ thanh tra khối kinh tế ngành), yêu cầu
về trình độ chuyên môn là tốt nghiệp Đại học các ngành về kỹ thuật: xây dựng, giao
thông, địa chất... Chính vì đƣợc xác định rõ trong vị trí việc làm nên hầu hết cán bộ
cấp vụ đều có trình độ chuyên môn phù hợp với lĩnh vực công tác. Qua thực tiễn
công việc, những cán bộ này tiếp tục học tập, nâng cao trình độ; cọ sát với chuyên
môn khi thực hiện các nhiệm vụ thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng,
chống tham nhũng nên những cán bộ này dần trở thành đội ngũ chuyên gia trong lĩnh
vực công tác. Điều này đƣợc thể hiện qua kết quả công việc, cụ thể là qua những
đánh giá, nhận xét về việc thực hiện chính sách, pháp luật của đối tƣợng thanh tra
(đối tƣợng thanh tra phải “tâm phục khẩu phục”); qua những chiến lƣợc, chính sách
mà ngành Thanh tra chủ trì xây dựng trong thời gian qua; qua những vụ việc khiếu
nại tồn đọng, bức xúc, kéo dài mà Thanh tra Chính phủ đã tham mƣu cho Chính phủ
giải quyết dứt điểm... Thực sự, đa phần đội ngũ lãnh đạo cấp vụ của Thanh tra Chính
phủ đã trở thành chuyên gia trong lĩnh vực mà mình quản lý.
Mức độ hiểu biết chuyên sâu về nghiệp vụ quản lý của lĩnh vực chuyên môn,
chuyên ngành còn đƣợc thể hiện qua việc hàng năm đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp vụ
đƣợc qua đào tạo, bồi dƣỡng các lớp về cập nhật kiến thức pháp luật; cập nhật kiến
thức mới; học tập nâng cao trình độ tại nƣớc ngoài thông qua các chƣơng trình hợp
tác song phƣơng và đa phƣơng; các lớp bồi dƣỡng kiến thức quốc phòng, an ninh...
Cụ thể, năm 2014 đã có 30 cán bộ lãnh đạo cấp vụ đƣợc cử tham gia các đào tạo về
61
nghiệp vụ thanh tra, kiểm toán tại Hàn Quốc, Nhật Bản và Đức; 35 cán bộ đƣợc cử
tham gia các lớp bồi dƣỡng cập nhật kiến thức pháp luật mới đƣợc ban hành; 20 cán
bộ tham gia các khóa bồi dƣỡng ngắn hạn về các tiêu chuẩn về chuyên môn; năm
2015 đã có 33 cán bộ cấp vụ đƣợc cử tham gia các đào tạo về nghiệp vụ thanh tra tại
Singapore, Hàn Quốc, Nhật Bản; 27 cán bộ đƣợc cử tham gia các lớp bồi dƣỡng cập
nhật kiến thức pháp luật mới đƣợc ban hành; 25 cán bộ tham gia các khóa bồi dƣỡng
ngắn hạn về các tiêu chuẩn về chuyên môn kỹ nghiệp vụ; năm 2016 đã có 38 cán bộ
lãnh đạo cấp vụ đƣợc cử tham gia các đào tạo về nghiệp vụ thanh tra, kiểm toán tại
Hàn Quốc, Nhật Bản và Đức; 32 cán bộ đƣợc cử tham gia các lớp bồi dƣỡng cập nhật
kiến thức pháp luật mới đƣợc ban hành; 28 cán bộ tham gia các khóa bồi dƣỡng ngắn
hạn về các tiêu chuẩn về chuyên môn kỹ thuật mới, về chuẩn mực kế toán, kiểm toán
mới đƣợc ban hành. Thông qua các khóa đào tạo, bồi dƣỡng này, năng lực, trình độ
của đội ngũ cán bộ đƣợc nâng lên, nhƣng mặt khác, các cán bộ này sau khi đƣợc đào
tạo đã thực hiện việc chia sẻ thông tin, kinh nghiệm và hƣớng dẫn cho cán bộ, công
chức trong đơn vị. Đây đƣợc coi là phƣơng thức đào tạo, bồi dƣỡng có tính bền vững
của Thanh tra Chính phủ.
Bảng 3.2. Tổng hợp số liệu đào tạo tại nƣớc ngoài từ năm 2014 - 2016
Số lƣợng cử đào Số lƣợng cử đào tạo Số lƣợng cử đào tạo
tạo nghiệp vụ bồi dƣỡng cập nhật bồi dƣỡng ngắn hạn Năm thanh tra, kiểm kiến thức pháp luật về chuyên môn nghiệp
toán tại các nƣớc mới vụ
2014 30 35 20
2015 33 27 25
2016 38 32 28
(Nguồn: Vụ Tổ chức cán bộ - Thanh tra Chính Phủ)
- Về mức độ kiến thức và hiểu biết tình hình chính trị, kinh tế - xã hội của đất
nƣớc, các nƣớc trong khu vực và thế giới. Các lĩnh vực hoạt động của ngành Thanh
tra đều có liên quan đến các yếu tố chính trị, kinh tế - xã hội của đất nƣớc. Vì vậy,
62
mức độ hiểu biết về các vấn đề này là yêu cầu và đòi hỏi để thực hiện nhiệm vụ.
Trong thời gian qua, nhất là trong dịp diễn ra Đại hội Đảng các cấp, diễn ra các kỳ
họp Quốc hội... một số địa phƣơng đã xuất hiện các điểm nóng về khiếu nại, tố cáo,
Thanh tra Chính phủ đã chủ động tham mƣu cho Chính phủ giải quyết dứt điểm các
điểm nóng, phục vụ thành công các sự kiện chính trị quan trọng của đất nƣớc. Để
giải quyết những điểm nóng này, đòi hỏi công chức lãnh đạo phải có kiến thức về
chính trị, kinh tế, pháp luật với cách thức giải quyết rất linh hoạt, vừa mềm dẻo, vừa
cƣơng quyết nhằm xoa dịu tình hình, có phƣơng án giải quyết dứt điểm đối với từng
trƣờng hợp cụ thể, bảo đảm tính bền vững, không làm xuất hiện thêm các “điểm
nóng” tại các địa phƣơng khác.
Với tình hình quốc tế, Thanh tra Chính phủ cũng nhƣ các bộ, ngành khác đều
thực hiện hợp tác song phƣơng và đa phƣơng với nhiều quốc gia trong khu vực và
trên thế giới, với các tổ chức quốc tế. Thông qua các kênh hợp tác quốc tế, cán bộ
thanh tra đã học hỏi đƣợc nhiều kiến thức, kinh nghiệm và vận dụng vào việc xây
dựng thể chế, chính sách của ngành Thanh tra. Đặc biệt, trong lĩnh vực phòng,
chống tham nhũng, nhiều kinh nghiệm quốc tế đã đƣợc học hỏi, chắt lọc khi xây
dựng Luật phòng chống tham nhũng và thực hiện Công ƣớc Liên hợp quốc về
chống tham nhũng trong những năm qua. Đến thời điểm hiện tại, Thanh tra Chính
phủ đã ký hiệp định hợp tác song phƣơng với trên 20 quốc gia trên thế giới, trong
đó có nhiều nƣớc phát triển nhƣ Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore, Trung Quốc...
Hàng năm, thông qua các chƣơng trình hợp tác, với việc tổ chức các đoàn ra để học
hỏi kinh nghiệm quốc tế, cán bộ lãnh đạo cấp vụ có điều kiện nắm đƣợc thông tin,
tình hình quốc tế, qua đó có những nhận định, đánh giá và tham mƣu chính xác cho
lãnh đạo Thanh tra Chính phủ trong xây dựng chính sách, pháp luật.
Có thể khẳng định, trong thời gian qua Tổng Thanh tra đã có nhiều chủ
trƣơng, giải pháp thông qua việc đào tạo, bồi dƣỡng; qua việc thử thách bằng công
việc; qua cơ chế tuyển chọn, bổ nhiệm cán bộ... đã xây dựng và nâng cao từng bƣớc
năng lực của đội ngũ cán bộ cấp vụ thuộc Thanh tra Chính phủ.
b) Tiêu chí về kỹ năng:
63
- Kỹ năng tham mƣu, lãnh đạo, quản lý, thực hiện tốt chủ trƣờng, đƣờng lối của
Đảng, chính sách và pháp luật của nhà nƣớc về lĩnh vực, chuyên môn.
Trong thời gian qua, công chức lãnh đạo cấp vụ đã phát huy đƣợc năng lực
tham mƣu, lãnh đạo, quản lý thể hiện qua việc tham mƣu cho Đảng và Nhà nƣớc ban
hành chủ trƣơng, chính sách, pháp luật và tổ chức thực hiện trên thực tế. Theo đó, đội
ngũ công chức lãnh đạo cấp vụ là những ngƣời trực tiếp tham gia Ban soạn thảo, Tổ
biên tập xây dựng các Nghị quyết, văn bản pháp luật, qua đó tham mƣu cho Đảng,
Nhà nƣớc ban hành Nghị quyết TW3 khóa X về tăng cƣờng sự lãnh đạo của Đảng về
công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí; Kết luận số 21-KL/TW ngày 25/5/2012
về tăng cƣờng sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng chống tham nhũng, lãng
phí; tham mƣu cho Chính phủ ban hành Chiến lƣợc quốc gia phòng, chống tham nhũng đến năm 20208, Chiến lƣợc phát triển ngành Thanh tra đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 20309, Luật phòng, chống tham nhũng 2005, sửa đổi bổ sung năm
2012, Luật Thanh tra 2010, Luật khiếu nại 2011, Luật tố cáo 2011, Luật Tiếp công
dân 2013... Kết quả của việc thực hiện các chủ trƣơng, chính sách nêu trên đƣợc thể
hiện qua các báo cáo tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết TW3 khóa X; kết quả 10
năm thực hiện Luật phòng chống tham nhũng; báo cáo đánh giá giai đoạn 1 thực hiện
Chiến lƣợc quốc gia phòng, chống tham nhũng đến năm 2020... Các báo cáo đều
đánh giá, Thanh tra Chính phủ đã tổ chức tốt việc thực hiện các chủ trƣơng, văn bản
nêu trên; thƣờng xuyên hƣớng dẫn, kiểm tra, đôn đốc các cơ quan, tổ chức thực hiện
các nhiệm vụ đƣợc giao; báo cáo kịp thời với Đảng và Nhà nƣớc điều chỉnh, sửa đổi,
bổ sung một số nhiệm vụ, giải pháp chƣa phù hợp với thực tế. Mặc dù là kết quả
chung của cơ quan Thanh tra Chính phủ, nhƣng thể hiện vai trò tham mƣu, lãnh đạo
của đội ngũ cán bộ cấp vụ, là những ngƣời trực tiếp xây dựng, tổ chức thực hiện và
thanh tra, kiểm tra việc thực hiện các chủ trƣơng, đƣờng lối của Đảng và chính sách,
8 Ban hành kèm theo Nghị quyết số 21/NQ-CP ngày 12 tháng 5 năm 2009 của Chính phủ. 9 Ban hành kèm theo Quyết định số 2213/QĐ-TTg ngày 08 tháng 12 năm 2015 của Thủ tƣớng Chính phủ.
pháp luật của Nhà nƣớc.
64
Năng lực lãnh đạo thể hiện ở việc chỉ đạo cán bộ chuyên môn xây dựng kế
hoạch thực hiện; xác định các nhiệm vụ ƣu tiên thực hiện theo thời gian cụ thể;
phân công cụ thể cán bộ, phòng ban chức năng triển khai, theo dõi, đánh giá quá
trình thực hiện; tổ chức kiểm tra, báo cáo quá trình thực hiện. Năng lực lãnh đạo,
chỉ đạo của cán bộ cấp vụ còn phải đƣợc thể hiện qua việc xử lý những tình huống
phát sinh trong quá trình triển khai, nhƣ: điều chỉnh kế hoạch thực hiện khi có
những nội dung không phù hợp với thực tiễn; xử lý những đơn vị chậm triển khai;
giải quyết những vấn đề phát sinh từ thực tiễn liên quan đến tài chính, con ngƣời...
Bên cạnh việc triển khai nhiệm vụ của cơ quan, lãnh đạo các vụ, cục chức
năng còn có nhiệm vụ tuyên truyền, phổ biến, kiểm tra, đánh giá việc thực hiện các
chính sách, văn bản pháp luật tại các cơ quan thanh tra cấp dƣới. Theo đó, các chủ
thể này là những ngƣời trực tiếp xuống các bộ, ngành và địa phƣơng tuyên truyền
cho các cơ quan thanh tra; hƣớng dẫn, giải quyết về nghiệp vụ trong quá trình thực
hiện của các cơ quan thanh tra cấp dƣới; kiểm tra, đánh giá và có những kiến nghị
sửa đổi, bổ sung chính sách, pháp luật. Quá trình triển khai các chính sách và văn
bản pháp luật là lúc năng lực lãnh đạo, quản lý của công chức lãnh đạo cấp vụ thể
hiện rõ nét nhất, vì quá trình này mang dấu ấn, vai trò trực tiếp của cá nhân của các
chủ thể này mà không có ai có thể làm thay đƣợc. Vì vậy, đây là một trong những
tiêu chí quan trọng để đánh giá năng lực của cán bộ cấp vụ.
- Kỹ năng chủ trì, tổ chức xây dựng các đề án, văn bản quy phạm pháp luật, đề
xuất các giải pháp, phƣơng pháp thực hiện về lĩnh vực chuyên môn, chuyên ngành
phục vụ hoạt động quản lý nhà nƣớc của Bộ, ngành.
Tại Thanh tra Chính phủ, các Dự án luật, Nghị định hay Đề án đều thành lập
Ban soạn thảo, Tổ biên tập, thành viên trong các ban này là lãnh đạo các cục, vụ,
đơn vị có liên quan đến lĩnh vực xây dựng thể chế. Trong một số văn bản pháp luật,
cán bộ cấp vụ còn là Tổ trƣởng Tổ biên tập dự án luật, chủ trì Đề án. Tiêu chí để
đánh giá năng lực chủ trì, tổ chức xây dựng các văn bản pháp luật, đề án chính là
các văn bản pháp luật, đề án đó đƣợc các cấp có thẩm quyền ban hành. Kết quả này
đƣợc thể hiện trong thời gian qua cụ thể nhƣ sau:
65
Năm 2014, Thanh tra Chính phủ trình Chính phủ ban hành 03 nghị định về: giám
sát, kiểm tra, thanh tra đối với doanh nghiệp trong việc chấp hành pháp luật và tuân thủ các quyết định của chủ sở hữu10; quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật tiếp công dân11; sửa đổi, bổ sung Nghị định số 97/2011/NĐ-CP ngày 21/10/2011 quy định về thanh tra viên và cộng tác viên thanh tra12; ban hành 10 thông tƣ, thông tƣ liên tịch; 04 quy định, quy chế nội bộ13; 03 quy chế phối hợp, chƣơng trình hành động với các cơ quan có liên quan14; ký kết 02 bản ghi nhớ hợp tác với cơ quan chống tham nhũng nƣớc ngoài15.
Trong năm 2015, Thanh tra Chính phủ đã trình Chính phủ, Thủ tƣớng Chính phủ ban hành 01 Nghị định16, 01 Quyết định của Thủ tƣớng Chính phủ (về việc ban
hành Chiến lƣợc phát triển ngành Thanh tra đến năm 2020 tầm nhìn đến năm 2030);
ban hành theo thẩm quyền 23 văn bản, trong đó có: 05 Thông tƣ, 03 thông tƣ liên
10 Nghị định số 49/2014/NĐ-CP ngày 20/5/2014 của Chính phủ. 11 Nghị định số 64/2014/NĐ-CP ngày 26/6/2014 của Chính phủ. 12 Nghị định số 92/2014/NĐ-CP ngày 08/10/2014 của Chính phủ. 13 Các quy định, quy chế của cơ quan về: Chi tiêu nội bộ và quản lý, sử dụng tài sản công; quản lý, khai thác và quản lý hồ sơ, tài liệu lƣu trữ; xử lý kỷ luật đối với công chức, viên chức; quy định về trình tự, thủ tục nghỉ hƣu; nâng lƣơng trƣớc thời hạn; tang lễ; hoạt động của BCĐ thực hiện quy chế dân chủ trong hoạt động; xử lý đơn khiếu nại, tố cáo, đơn phản ánh, kiến nghị. 14 Các Chƣơng trình, quy chế phối hợp với Ban Thƣờng trực Trung ƣơng MTTQVN, Bộ Tƣ pháp, Hội Luật gia Việt Nam; Bộ Công an, Đài truyền hình Việt Nam về: Giám sát và nâng cao hiệu quả việc giải quyết khiếu nại, tố cáo ở cơ sở; Bảo đảm an ninh, trật tự; thanh tra, tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng; Thông tin, tuyền truyền công tác thanh tra, tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng. 15 Ngoài ra, Thanh tra Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản thông báo ý kiến chỉ đạo của Tổng Thanh tra Chính phủ, các Phó Tổng Thanh tra Chính phủ tại các cuộc họp, làm việc với Thanh tra bộ, ngành, địa phƣơng để giải quyết nhiều vấn đề theo chƣơng trình công tác và đột xuất. 16 Nghị định số 33/2015/NĐ-CP ngày 27/03/2015 về việc thực hiện kết luận thanh tra. 17 Quy chế số 01/QCPH:KTNN-TTCP ngày 10/03/2015 phối hợp với Kiểm toán Nhà nƣớc; Quy chế số 03/- QPH/BNCTW-BCSĐTTCP của Ban Nội chính Trung ƣơng với Ban cán sự Đảng Thanh tra Chính phủ; Chƣơng trình phối hợp số 534/CTR-TTCP-TTXVN ngày 10/06/2015 giữa Thanh tra Chính phủ và Thông tấn xã Việt Nam; Quy chế phối hợp số 01/QCPH:TTCP-HNDTW giữa Thanh tra Chính phủ và Trung ƣơng hội nông dân Việt Nam về tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo của nông dân; Quy chế phối hợp giữa Thanh tra Chính phủ và Đài tiếng nói Việt Nam; Quy chế phối hợp giữa Thanh tra Chính phủ và Viện Kiểm sát nhân dân tối cao.
tịch, 09 quyết định, quy chế nội bộ, phối hợp với các cơ quan liên quan ban hành 06 quy chế, chƣơng trình phối hợp17.
66
Những văn bản này thể hiện tầm nhìn mang tính chiến lƣợc, dài hạn về những
lĩnh vực tham mƣu, nhƣ: đƣa ra những đánh giá, dự báo mang tính dài hạn về tình
hình tham nhũng ở Việt Nam trong những năm tới, đồng thời xây dựng các giải
pháp toàn diện nhằm phòng, chống tham nhũng; đánh giá thực trạng và đƣa ra các
giải pháp hoàn thiện pháp luật về công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo,
tiếp công dân và phòng, chống tham nhũng; dự báo xu hƣớng phát triển về yêu cầu
của công tác quản lý, phát triển kinh tế - xã hội trong những năm tới, qua đó chuyển
hƣớng hoạt động của các cơ quan thanh tra theo tinh thần của Chiến lƣợc. Thông
qua việc tham gia trực tiếp vào xây dựng các chủ trƣơng, chính sách, văn bản pháp
luật, đội ngũ lãnh đạo cấp vụ của Thanh tra Chính phủ đã có những tham mƣu chính
xác, mang tính dài hạn đƣợc thể hiện qua nội dung các văn bản nêu trên. Điều này
phản ánh đƣợc năng lực dự báo chiến lƣợc của đội ngũ cán bộ cấp vụ. Với đặc thù
các lĩnh vực hoạt động của ngành Thanh tra có tính phức tạp, nhạy cảm, liên quan
trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của ngƣời dân, đến hiệu quả công tác quản
lý nhà nƣớc nên những dự báo chiến lƣợc trong xây dựng chính sách, pháp luật có
vai trò rất quan trọng để Đảng và Nhà nƣớc ban hành kịp thời những quyết sách
định hƣớng và điều chỉnh các mối quan hệ phát sinh trong đời sống xã hội. Mặc dù
hiện tại trong chƣơng trình đào tạo, bồi dƣỡng cán bộ, viên chức ngành Thanh tra
hàng năm chƣa có nội dung bồi dƣỡng kỹ năng chủ trì xây dựng đề án, văn bản
pháp luật nên cán bộ lãnh đạo cấp vụ của Thanh tra Chính phủ phải tự học hỏi kinh
nghiệm lẫn nhau, học hỏi và trƣởng thành qua công việc, qua việc mạnh dạn giao
việc cho cán bộ cấp Phó Vụ trƣởng, Phó Cục trƣởng chủ trì các Đề án, chƣơng
trình, văn bản quy phạm pháp luật (Thông tƣ), điều mà trƣớc kia chỉ giao cho lãnh
đạo Thanh tra Chính phủ hoặc lãnh đạo cấp Vụ trƣởng, Cục trƣởng, thủ trƣởng đơn
vị chủ trì xây dựng. Đây đƣợc coi là chủ trƣơng của lãnh đạo Thanh tra Chính phủ
trong xây dựng, đào tạo đội ngũ cán bộ cấp vụ và kết quả đạt đƣợc trong thời gian
qua là các văn bản, đề án do Thanh tra Chính phủ đƣợc giao chủ trì xây dựng luôn
hoàn thành đúng tiến độ, nội dung đảm bảo chất lƣợng đề ra.
67
- Kỹ năng điều hành, phân công công việc, có khả năng tập hợp, đoàn kết, tổ
chức công chức trong vụ và phối hợp với các cơ quan có liên quan thực hiện tốt
nhiệm vụ đƣợc giao.
Đây là nhóm năng lực liên quan đến khả năng lập kế hoạch, thiết kế cơ cấu tổ
chức bộ máy, bố trí nhân sự, phân công nhiệm vụ đối với từng vị trí công việc,
chuẩn bị các điều kiện cơ sở vật chất kỹ thuật, tài chính đảm bảo hoàn thành nhiệm
vụ, không để trùng, để sót việc. Đây chính là năng lực điều hành, điều phối, gắn kết
các cá nhân, đơn vị trong một tổng thể thống nhất của tổ chức, hƣớng tới mục tiêu
chung. Nhóm năng lực này đƣợc thể hiện chủ yếu thông qua việc tổ chức các Đoàn
thanh tra, Tổ công tác để thực hiện chức năng thanh tra theo quy định. Năng lực
lãnh đạo đƣợc thể hiện ở năng lực xây dựng kế hoạch thanh tra phù hợp với tình
hình thực tế và yêu cầu của công tác quản lý; năng lực bố trí, phân công cán bộ
tham gia các Đoàn thanh tra, Tổ công tác bảo đảm việc bố trí nhân sự đúng ngƣời,
phù hợp với năng lực của từng cá nhân; năng lực xử lý, giải quyết các vấn đề liên
quan đến tổ chức, nghiệp vụ trong quá trình tiến hành thanh tra... Trên thực tế, các
Đoàn thanh tra, Tổ công tác tại Thanh tra Chính phủ đều do cán bộ cấp vụ làm
trƣởng đoàn, trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo các hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ. Kết
quả này đƣợc phản ánh qua kết quả hoạt động thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo
và phòng chống tham nhũng hàng năm. Để đánh giá cụ thể, đó là việc chấp hành
thời hạn ban hành kết luận thanh tra; nội dung kết luận, kiến nghị thanh tra; việc
chấp hành nội quy, quy chế hoạt động của Đoàn thanh tra; chất lƣợng cuộc thanh
tra... Về cơ bản, hoạt động thanh tra trong thời gian qua đáp ứng đƣợc các yêu cầu
nêu trên.
- Kỹ năng hƣớng dẫn, kiểm tra, đôn đốc, đánh giá công chức thuộc quyền
quản lý tiến hành các công việc theo nhiệm vụ đƣợc giao.
Tại các đơn vị trực tiếp thực hiện chức năng thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố
cáo, các kỹ năng hƣớng dẫn, kiểm tra, đôn đốc có liên quan nhiều đến các biện pháp
nghiệp vụ. Việc hƣớng dẫn, kiểm tra, đôn đốc chủ yếu đƣợc thực hiện trong quá
trình tiến hành thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo. Với tƣ cách là Trƣởng đoàn
68
thanh tra, cán bộ cấp vụ là ngƣời chịu trách nhiệm hƣớng dẫn, kiểm tra, đôn đốc
việc thực hiện nhiệm vụ của các thành viên trong Đoàn thanh tra. Tùy từng đối
tƣợng, lãnh đạo cấp vụ áp dụng các hình thức hƣớng dẫn khác nhau. Đối với cán bộ
trẻ, biện pháp cầm tay chỉ việc đƣợc áp dụng chủ yếu; đối với cán bộ đã có kinh
nghiệm công tác, việc hƣớng dẫn thông qua phƣơng pháp truyền đạt, chỉ dẫn
phƣơng pháp làm. Khi không tham gia Đoàn thanh tra, mỗi khi có văn bản pháp luật
mới, cán bộ cấp vụ sẽ tổ chức họp sinh hoạt chuyên môn để tuyên truyền, hƣớng
dẫn cán bộ do mình quản lý. Với đặc thù hoạt động của các Đoàn thanh tra, Tổ công
tác đều có thời hạn thực hiện nên việc đôn đốc, kiểm tra, đánh giá cán bộ là việc
làm thƣờng xuyên, liên tục vì nếu chậm sẽ vi phạm thời hạn tiến hành thanh tra do
pháp luật quy định.
Tại các đơn vị không trực tiếp tiến hành thanh tra, các kỹ năng này đa dạng hơn,
có thể thực hiện bằng cách giao việc và hƣớng dẫn thực hiện; qua việc tổ chức các
lớp bồi dƣỡng kỹ năng, nghiệp vụ; qua trực tiếp hƣớng dẫn khi giải quyết các công
việc cụ thể. Khi giao việc, cán bộ cấp vụ đều có cơ chế để kiểm soát thông qua việc
báo cáo của cán bộ trực tiếp đƣợc giao việc, thực hiện việc đôn đốc, nhắc nhở khi gần
hết thời hạn hoàn thành và đánh giá kết quả thực hiện công việc khi cán bộ đã hoàn
thành xong nhiệm vụ.
- Kỹ năng giữ kỷ luật, giải quyết xung đột và tạo động lực làm việc cho công
chức thuộc quyền quản lý. Về cơ bản, cán bộ thanh tra là những ngƣời chấp hành
tốt chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nƣớc, chấp hành nội quy, quy chế của cơ
quan, đơn vị công tác. Nội dung này đƣợc phản ánh qua kết quả phân loại, đánh giá
cán bộ, công chức, viên chức hàng năm. Theo đó, năm 2014, 16/22 cán bộ cấp vụ
trƣởng đƣợc xếp loại “hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ”; 6 lãnh đạo cấp vụ trƣởng
đƣợc xếp loại “hoàn thành tốt nhiệm vụ”; cán bộ cấp Phó vụ trƣởng cũng đƣợc xếp 2 loại nêu trên18. Một trong những điều kiện để đƣợc xếp loại nêu trên là cán bộ,
18 Quyết định số 793/QĐ-TTCP ngày 09/4/2015 của Thanh tra Chính phủ về kết quả phân loại công chức đối với thủ trƣởng các cục, vụ, đơn vị thuộc Thanh tra Chính phủ năm 2014.
công chức phải giữ kỷ luật trong cơ quan, đơn vị công tác và nơi cƣ trú.
69
c) Tiêu chí thái độ quản lý:
- Chỉ số tuân thủ nhiệm vụ cấp trên: Trong hoạt động thanh tra, nhiệm vụ,
quyền hạn của mỗi thành viên Đoàn thanh tra đƣợc pháp luật quy định cụ thể nên
việc tuân thủ nhiệm vụ của cấp trên là yêu cầu bắt buộc phải thực hiện. Mỗi thành
viên Đoàn thanh tra với nhiệm vụ, quyền hạn đƣợc giao phải thực hiện đúng chức
trách, nhiệm vụ do pháp luật quy định, đồng thời phải tuân thủ sự chỉ đạo của cấp
trên, trực tiếp là Trƣởng đoàn thanh tra và Ngƣời ra quyết định thanh tra. Trong
hoạt động thanh tra, công chức lãnh đạo cấp vụ phải tuân thủ sự chỉ đạo của Ngƣời
ra quyết định thanh tra, đó là sự tuân thủ về thực hiện kế hoạch thanh tra bảo đảm
đúng phạm vi, đối tƣợng, nội dung; tuân thủ sự phân công công việc của Ngƣời ra
quyết định thanh tra; tuân thủ chế độ thông tin, báo cáo; tuân thủ nội quy, quy chế
hoạt động của Đoàn thanh tra... Về cơ bản, cán bộ cấp vụ đều đã tuân thủ nghiêm
túc nhiệm vụ cấp trên giao phó. Điều này đƣợc thể hiện ở việc hoàn thành các
nhiệm vụ thanh tra theo kế hoạch đề ra; chấp hành chế độ thông tin, báo cáo và kỷ
luật công tác. Trên thực tế, không có trƣờng hợp nào cán bộ cấp vụ không tuân thủ
nhiệm vụ của cấp trên.
- Chỉ số chủ động trong công việc: Tính chủ động trong công việc đƣợc thể
hiện ở việc chủ động tham mƣu, đề xuất với lãnh đạo Thanh tra Chính phủ thực
hiện các nhiệm vụ phát sinh trong thực tiễn (cụ thể là đề xuất các nhiệm vụ thanh
tra đột xuất); chủ động thực hiện các nhiệm vụ đƣợc giao theo thẩm quyền; chủ
động trong việc nắm thông tin, tình hình tại địa bàn công tác để xây dựng kế hoạch
thanh tra hàng năm... Thông qua việc chủ động nắm thông tin, tình hình tại địa bàn
công tác, Thanh tra Chính phủ đã ban hành các kế hoạch: Kế hoạch 1130/KH-TTCP
ngày 10/5/2012, Kế hoạch 2100/KH-TTCP ngày 19/9/2013 về tiếp tục kiểm tra, rà
soát, giải quyết các vụ việc khiếu nại, tố cáo, phức tạp, tồn đọng; đƣa các nội dung
có nhiều vấn đề trong quản lý, đƣợc dƣ luận xã hội quan tâm vào Kế hoạch thanh
tra hàng năm (đất đai, khoáng sản, cổ phần hóa DNNN...). Bên cạnh đó, qua công
tác giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng chống tham nhũng, nhiều vụ việc đã đƣợc
Thanh tra Chính phủ thành lập các Đoàn thanh tra đột xuất để tiến hành thanh tra
70
theo quy định, nhƣ thanh tra việc cổ phần hóa tại Cảng Quy Nhơn, tỉnh Bình Định;
thanh tra công tác quản lý đất đai tại Yên Bái (qua phản ánh của báo chí); thanh tra
tuyến Metro Nhổn - Ga Hà Nội theo các nội dung tố cáo của công dân... Bên cạnh
đó, Thanh tra Chính phủ cũng đã tăng cƣờng, chủ động việc hƣớng dẫn các bộ,
ngành và địa phƣơng xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch thanh tra; tiến hành
kiểm tra việc xây dựng, thực hiện Kế hoạch thanh tra của Thanh tra một số bộ,
ngành và địa phƣơng. Công tác kiểm tra việc thực hiện kế hoạch công tác đƣợc
quan tâm hơn, trong đó riêng Thanh tra Chính phủ đã thành lập tổ công tác kiểm tra,
nắm tình hình tại 16 bộ, ngành và 20 tỉnh, thành phố.
- Chỉ số trung thực: Đây là chỉ số rất khó đánh giá trong thực tiễn. Trong hoạt
động thanh tra, với đặc thù nghề nghiệp và hoạt động của các Đoàn thanh tra do
Thanh tra Chính phủ thành lập, vấn đề trung thực báo cáo khi phát hiện ra sai phạm
của đối tƣợng thanh tra với cấp trên là rất quan trọng. Với đặc thù là các Đoàn thanh
tra do Thanh tra Chính phủ thành lập hầu hết thực hiện nhiệm vụ thanh tra tại các
địa phƣơng, ở xa trụ sở cơ quan, trong khi đó, Ngƣời ra quyết định thanh tra không
trực tiếp đi thanh tra mà chỉ nghe Đoàn thanh tra báo cáo nên việc báo cáo trung
thực các sai phạm của đối tƣợng đƣợc phát hiện thông qua hoạt động thanh tra phụ
thuộc vào tính tự giác, ý thức trách nhiệm và đạo đức của các thành viên Đoàn
thanh tra, cụ thể là Trƣởng Đoàn thanh tra (là cán bộ cấp vụ). Mặc dù Ngƣời ra
quyết định thanh tra đã thành lập cơ chế giám sát hoạt động của Đoàn thanh tra,
song trên thực tế rất khó để kiểm soát đƣợc tất cả các hoạt động của Đoàn thanh tra
do nhiệm vụ, quyền hạn của ngƣời giám sát rất hạn chế (chủ yếu là nghe báo cáo
của Đoàn thanh tra và giám sát việc tuân thủ nội quy, quy chế hoạt động Đoàn
thanh tra).
- Chỉ số khả năng học hỏi và phát triển: Trên thực tế, đội ngũ cán bộ cấp vụ
của Thanh tra Chính phủ là những ngƣời đi tiên phong, gƣơng mẫu trong việc tự
học tập nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ. Đây đều là những cán bộ có trình
độ nghiệp vụ cao nhất trong cơ quan (thể hiện qua số cán bộ đƣợc bổ nhiệm vào
ngạch Thanh tra viên cao cấp: 100% thủ trƣởng các cục, vụ, đơn vị đƣợc bổ nhiệm
71
Thanh tra viên cao cấp); có trình độ học vấn cao nhất (qua số cán bộ có trình độ học
vấn trong cơ quan: 16/21 công chức lãnh đạo cấp vụ có trình độ Tiến sỹ) và có trình
độ lý luận chính trị cao nhất (100% đã qua đào tạo cao cấp lý luận chính trị). Bên
cạnh đó, đội ngũ cán bộ cấp vụ còn thƣờng xuyên học tập nâng cao trình độ chuyên
môn, nghiệp vụ thông qua các lớp bồi dƣỡng: kỹ năng lãnh đạo cấp vụ; kỹ năng
lãnh đạo, chỉ đạo hoạt động Đoàn thanh tra; học tập kinh nghiệm ở nƣớc ngoài. Có
thể khẳng định, đội ngũ cán bộ cấp vụ của Thanh tra Chính phủ chính là những tấm
gƣơng sáng cho cán bộ, công chức noi theo trong học tập nâng cao trình độ chuyên
môn, nghiệp vụ.
3.3.2. Tồn tại, hạn chế và nguyên nhân
- Thứ nhất, mức độ hiểu biết chuyên sâu về nghiệp vụ quản lý của lĩnh vực
chuyên môn, chuyên ngành của một số cán bộ cấp vụ chƣa cao dẫn đến tiến độ giải
quyết công việc còn chậm, chƣa bảo đảm tính khách quan, khoa học.
Trong hoạt động thanh tra, mức độ hiểu biết chuyên sâu về nghiệp vụ trong
lĩnh vực quản lý phản ánh ở việc ban hành kết luận thanh tra có đúng thời hạn
không, kết luận thanh tra có bảo đảm sự chính xác, khách quan, đúng pháp luật
không; đối tƣợng thanh tra có “tâm phục khẩu phục” không. Trên thực tế, tình trạng
vi phạm thời hạn ban hành kết luận thanh tra diễn ra khá phổ biến ở Thanh tra
Chính phủ, không ít cuộc thanh tra còn kéo dài khi xây dựng báo cáo và kết luận thanh tra19, cá biệt có một số cuộc thanh tra sau hơn một năm mới ban hành kết luận
thanh tra, nhƣ cuộc thanh tra về đất đai tại tỉnh Hà Tĩnh (2013-2014), thanh tra vốn
tại Khu Công nghệ cao Hòa Lạc (2013-2014), thanh tra về đất đai tại tỉnh An Giang
(2013-2014), Thanh tra tại EVN (2012-2013)... Việc chậm ban hành kết luận thanh
tra dẫn đến tính hiệu lực của kết luận không cao; việc tổ chức thực hiện kết luận
thanh tra gặp khó khăn do đối tƣợng thanh tra đã giải thể, không có khả năng thực
hiện các nghĩa vụ tài chính; cán bộ chịu trách nhiệm thực hiện kết luận đã chuyển
công tác, đã nghỉ hƣu hoặc lên chức cao hơn. Một số dự thảo kết luận thanh tra đã
19 Báo cáo tổng kết công tác năm 2015 và phƣơng hƣớng, nhiệm vụ năm 2016 của ngành Thanh tra.
đƣợc đơn vị chịu trách nhiệm thẩm định, góp ý hoàn thiện nhiều lần do những đánh
72
giá, nhận định chƣa bảo đảm tính khách quan, chƣa đủ cơ sở pháp lý để kết luận
theo hƣớng của Đoàn thanh tra. Trong một số trƣờng hợp, đối tƣợng thanh tra có
những phản ứng, không đồng tình với kết luận thanh tra.
Nguyên nhân một phần là các cuộc thanh tra do Thanh tra Chính phủ chủ trì
thực hiện có độ khó, phức tạp, phạm vi rộng, liên quan đến nhiều bộ, ngành và địa
phƣơng. Nhƣng về cơ bản, nguyên nhân chủ yếu là do năng lực, trình độ, bản lĩnh
chính trị của một số Trƣởng đoàn thanh tra chƣa đáp ứng đƣợc yêu cầu đề ra. Theo
quy định của pháp luật thanh tra, thẩm quyền ban hành kết luận thanh tra do Ngƣời
ra quyết định thanh tra thực hiện, nhƣng rất nhiều cuộc thanh tra do Thanh tra
Chính phủ chủ trì lại thực hiện việc xin ý kiến góp ý của các bộ, ngành vào nội
dung của dự thảo kết luận thanh tra, xin ý kiến của Thủ tƣớng Chính phủ trƣớc khi
ban hành kết luận thanh tra (pháp luật không bắt buộc phải thực hiện). Điều này
thể hiện rõ nhất bản lĩnh chính trị, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của một bộ
phận cán bộ cấp vụ (Trƣởng đoàn thanh tra) chƣa đáp ứng đƣợc yêu cầu đề ra.
- Thứ hai, còn tình trạng chƣa chủ động tham mƣu, đề xuất với lãnh đạo
Thanh tra Chính phủ trong lĩnh vực công tác đƣợc phân công, nhất là những vụ việc
tiêu cực đã đƣợc báo chí phản ánh, dƣ luận xã hội quan tâm.
Trong công tác quản lý nhà nƣớc, tính chủ động đƣợc thể hiện ở việc đề xuất,
kiến nghị sửa đổi, bổ sung chính sách, pháp luật có nhiều bất cập, không phù hợp
với thực tiễn. Tuy nhiên, trong lĩnh vực này trong một số trƣờng hợp còn thể hiện
sự thiếu chủ động của các đơn vị tham mƣu xây dựng thể chế, chính sách. Có những
văn bản, quy định bất cập, gây khó khăn trong quá trình thực hiện phải do các cơ
quan có thẩm quyền (Quốc hội, Chính phủ..,) chỉ đạo mới đƣợc đƣa vào kế hoạch
sửa đổi, bổ sung.
Trong hoạt động thanh tra, tính chủ động thể hiện ở việc thông qua công tác
nắm tình hình, giải quyết khiếu nại, tố cáo, thông qua các phƣơng tiện thông tin đại
chúng phản ánh các vụ việc tham nhũng, tiêu cực, cơ quan Thanh tra Chính phủ
phải chủ động tham mƣu, đề xuất với Chính phủ, Thủ tƣớng Chính phủ thành lập
các Đoàn thanh tra đột xuất để tiến hành thanh tra nhằm trả lời cho dƣ luận những
73
thông tin, phản ánh đó có chính xác hay không. Tuy nhiên, thực tế trong thời gian
qua, việc Thanh tra Chính phủ chủ động ra quyết định thành lập các Đoàn thanh tra
đột xuất để thanh tra khi phát hiện các dấu hiệu vi phạm pháp luật theo quy định của
Luật Thanh tra 2010 là không nhiều, chủ yếu các Đoàn thanh tra đột xuất theo chỉ
đạo của Thủ tƣớng Chính phủ.
Nguyên nhân của tình trạng nêu trên xuất phát từ tinh thần trách nhiệm, thái
độ của cán bộ đối với công việc; các công việc khó, phức tạp, nhạy cảm mặc dù
trong lĩnh vực của mình phụ trách nhƣng có tâm lý ngại va chạm, không dám đề
xuất và chịu trách nhiệm cá nhân. Nhƣng cũng có nguyên nhân khác là do những vụ
việc phức tạp, đƣợc dƣ luận quan tâm khi tổ chức các Đoàn thanh tra sẽ chịu áp lực
rất lớn từ dƣ luận, từ các cấp quản lý, trong khi đó những “lợi ích” thu đƣợc thì
không nhiều nên cán bộ có thẩm quyền chƣa chủ động tham mƣu, đề xuất với lãnh
đạo cơ quan tổ chức các Đoàn thanh tra theo thẩm quyền.
- Thứ ba, một số cán bộ cấp vụ có hành vi vi phạm nội quy, quy chế của cơ
quan, vi phạm pháp luật đến mức phải xử lý kỷ luật.
Việc vi phạm nội quy, quy chế của cơ quan nhƣ: vi phạm quy chế phát ngôn
và cung cấp thông tin; vi phạm thời giờ làm việc, mặc trang phục ngành; vi phạm
quy định về chế độ thông tin, báo cáo; vi phạm nội quy, quy chế hoạt động Đoàn
thanh tra... vẫn diễn ra tại cơ quan Thanh tra Chính phủ, trong đó công chức lãnh
đạo cấp vụ.
Về vi phạm pháp luật, năm 2014 Thanh tra Chính phủ đã xử lý kỷ luật bằng
hình thức khiển trách về mặt Đảng đối với 01 lãnh đạo cấp vụ vi phạm việc sinh con
thứ ba; năm 2016 xử lý kỷ luật bằng hình thức khiển trách về mặt Đảng đối với 01
cán bộ cấp vụ đã vi phạm các nguyên tắc trong quản lý tài chính. Năm 2012, ông
C.K.C (công chức lãnh đạo cấp vụ thuộc Thanh tra Chính phủ) đã có hành vi chống
ngƣời thi hành công vụ khi tham gia giao thông (đã bị Tòa án tuyên phạt án tù treo),
Thanh tra Chính phủ đã cắt chức lãnh đạo cấp vụ.
Bên cạnh đó, thông qua các đợt kiểm điểm theo tinh thần Nghị quyết TW4
khóa XI về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, Ban Cán sự, Đảng ủy Thanh tra Chính phủ
74
đã chỉ ra nhiều tồn tại, hạn chế, khuyết điểm của cán bộ cấp vụ, đặc biệt là trong
công tác bổ nhiệm cán bộ; trong việc quản lý cán bộ, công chức trong đơn vị; trong
công tác quản lý, điều hành nhiệm vụ chuyên môn (trong đó nhấn mạnh đến một số
đơn vị chậm đổi mới, đề xuất, khắc phục những tồn tại, yếu kém trong công tác
quản lý, thiếu vai trò gƣơng mẫu của công chức lãnh đạo cấp vụ).
Nguyên nhân của tình trạng nêu trên là việc một số trƣờng hợp đƣợc bổ nhiệm
cán bộ cấp vụ chƣa bảo đảm đầy đủ tiêu chuẩn, điều kiện theo quy định, bổ nhiệm
thừa lãnh đạo cấp vụ tại một số đơn vị (đã đƣợc Bộ Nội vụ và các cấp có thẩm quyền
chỉ ra trong thời gian qua); một số cán bộ thiếu gƣơng mẫu, thiếu tu dƣỡng, rèn
luyện; tình trạng cục bộ, kèn cựa địa vị, đố kỵ diễn ra tại một số đơn vị có chức năng
thanh tra. Mặt khác, do tính chất hoạt động thanh tra tại Thanh tra Chính phủ có đặc
thù riêng. Theo đó, cán bộ cấp vụ khi tham gia Đoàn thanh tra tƣơng đối độc lập với
Vụ trƣởng, Cục trƣởng nơi mình công tác (hoạt động của Đoàn thanh tra có tính chất
độc lập với hoạt động quản lý hành chính) nên việc quản lý cán bộ tại nơi tiến hành
thanh tra; chế độ thông tin, báo cáo công việc; việc giáo dục đạo đức công vụ, bồi
dƣỡng chuyên môn, nghiệp vụ... có sự khác biệt với các cơ quan hành chính đơn
thuần. Việc độc lập trong hoạt động thanh tra cũng dẫn đến độc lập trong suy nghĩ,
hành động và tác động đến ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ, công chức. Đây là
tác động có tính chất tiêu cực đối với việc tuân thủ nội quy, quy chế và pháp luật của
cán bộ thanh tra nói chung và cán bộ cấp vụ của Thanh tra Chính phủ nói riêng nếu
cán bộ không chịu tu dƣỡng, rèn luyện.
- Thứ tư, một số cán bộ cấp vụ còn thiếu những kỹ năng cơ bản trong chỉ đạo,
điều hành, quy tụ cán bộ dẫn đến tình trạng mất đoàn kết nội bộ.
Trong thời gian qua, tình trạng mất đoàn kết nội bộ xảy ra ở một số đơn vị
thuộc Thanh tra Chính phủ, nhất là tại các đơn vị thanh tra. Trên thực tế, mỗi Đoàn
thanh tra do Thanh tra Chính phủ thành lập thƣờng giao cho cán bộ cấp vụ làm
Trƣởng đoàn thanh tra, các Trƣởng đoàn thanh lại lựa chọn thành viên Đoàn thanh
tra dựa vào ê kíp làm việc của mình, dựa vào mối quan hệ cá nhân mà chƣa tính đến
trình độ, năng lực của từng vị trí dẫn đến sự cục bộ, bè phái trong đơn vị. Trong khi
75
đó, việc tham gia các Đoàn thanh tra mang lại những “lợi ích” nhất định về kinh tế,
quan hệ công việc nên nếu cán bộ cấp vụ (đặc biệt là Vụ trƣởng) phân công công
việc không đều, không dựa trên những nguyên tắc của công tác quản lý sẽ dẫn đến
sự mất đoàn kết trong đơn vị. Trong quá trình tiến hành thanh tra, vẫn còn có hiện
tƣợng các thành viên Đoàn thanh tra không tuân theo sự chỉ đạo, điều hành của
Trƣởng đoàn, thanh tra vƣợt quá phạm vi hoặc không tuân thủ theo kế hoạch thanh
tra đã phê duyệt; có những Đoàn thanh tra còn có ý kiến, quan điểm khác với Ngƣời
ra quyết định thanh tra khi ban hành kết luận thanh tra.
Mặt khác, quá trình phân công công việc trong Đoàn thanh tra cũng chƣa hợp
lý, có những cán bộ giữ ngạch thanh tra cao hơn, có nghiệp vụ giỏi hơn lại không
đƣợc bố trí vai trò chủ chốt trong Đoàn (Phó trƣởng đoàn, Tổ trƣởng), mà việc phân
công giữa các vị trí này lại dựa trên chức vụ lãnh đạo, quản lý (Trƣởng phòng, Phó
trƣởng phòng) nên nhiều cán bộ có nghiệp vụ thanh tra giỏi (nhƣng không là cán bộ
quản lý) không phục sự chỉ đạo, điều hành của cán bộ trong Đoàn thanh tra, ảnh
hƣởng đến hiệu quả công việc.
Nguyên nhân của tình trạng này là do cán bộ cấp vụ thiếu những kỹ năng
trong chỉ đạo, điều hành, không thƣờng xuyên sâu sát nắm tình hình trong quá trình
tiến hành thanh tra nên nhiều khi chỉ nghe một số thành viên Đoàn thanh tra báo cáo
riêng mà không nghe theo ý kiến của tập thể Đoàn; có những Trƣởng đoàn thanh tra
không trực tiếp chỉ đạo, tháo gỡ kịp thời những khó khăn, vƣớng mắc trong quá
trình tiến hành thanh tra dẫn đến khi kết thúc thanh tra không kết luận đƣợc hoặc
kết luận thanh tra không bảo đảm sự khách quan, chính xác.
Bên cạnh đó, trong cách thiết kế bộ máy tổ chức của các vụ, cục thanh tra có
các phòng chức năng, việc bổ nhiệm lãnh đạo cấp phòng không dựa trên các tiêu
chuẩn về ngạch thanh tra (Thanh tra viên cao cấp, Thanh tra viên chính) mà dựa
trên những tiêu chuẩn, điều kiện khác dẫn đến cán bộ đƣợc bổ nhiệm lãnh đạo cấp
phòng giữ ngạch Thanh tra viên, nhƣng lại đƣợc cơ cấu làm Phó đoàn thanh tra, chỉ
đạo công tác đối với cán bộ giữ ngạch Thanh tra viên chính là thành viên Đoàn
76
thanh tra. Điều này dẫn đến tình trạng không phục của những cán bộ tham gia Đoàn
thanh tra.
- Thứ năm, một số cán bộ cấp vụ thiếu các kỹ năng chủ trì, tổ chức xây dựng
các đề án, văn bản quy phạm pháp luật.
Tại Thanh tra Chính phủ, bên cạnh các vụ, đơn vị có trách nhiệm chính trong
việc xây dựng các đề án, văn bản quy phạm pháp luật (Vụ Pháp chế, Cục Chống
tham nhũng, Vụ Tổ chức cán bộ, Viện Khoa học Thanh tra...), thì các đơn vị nghiệp
vụ có chức năng thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo cũng đƣợc giao chủ trì xây
dựng các văn bản quy phạm pháp luật (các Thông tƣ hƣớng dẫn nghiệp vụ). Vì các
đơn vị này nắm vững về chuyên môn, nghiệp vụ trong lĩnh vực công tác của mình.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy, hầu hết các văn bản quy phạm pháp luật giao cho các
đơn vị này chủ trì đều chậm tiến độ (nhƣ Thông tƣ liên tịch về phong tỏa tài khoản
của đối tƣợng thanh tra; Thông tƣ quy định quy trình tiến hành một cuộc thanh
tra...), thậm chí có văn bản còn không ban hành đƣợc sau 2 năm chủ trì xây dựng,
phải chuyển cho các đơn vị khác chủ trì (Thông tƣ quy định quy trình giải quyết
khiếu nại do Cục II chủ trì phải chuyển cho Viện Khoa học Thanh tra thực hiện). Có
những văn bản pháp luật do các vụ, cục, đơn vị thanh tra chủ trì chỉ mang tính chất
khái quát, đánh giá thực tiễn mà không thể hiện đƣợc dƣới dạng các quy phạm pháp
luật do thiếu những kỹ năng cơ bản trong xây dựng văn bản pháp luật.
Nguyên nhân của tình trạng này trƣớc hết do yếu tố khách quan. Với đặc thù
của cơ quan Thanh tra Chính phủ là thực hiện 2 chức năng: quản lý nhà nƣớc trên
các lĩnh vực công tác và tiến hành thanh tra theo quy định pháp luật. Thực tế, với
những vụ việc thực tế phát sinh, nhất là trong lĩnh vực giải quyết khiếu nại, tố cáo
nên công chức lãnh đạo cấp vụ tại các đơn vị này phải thƣờng xuyên tham gia các
Đoàn thanh tra, Tổ công tác để giải quyết các vụ việc phát sinh từ thực tiễn, trong
đó, có nhiều vụ việc phát sinh đƣợc Thủ tƣớng Chính phủ giao đòi hỏi thời gian
hoàn thành gấp. Chính vì vậy, họ không có nhiều thời gian để chủ trì, chỉ đạo việc
xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật đƣợc giao dẫn tới việc chậm tiến độ.
77
CHƢƠNG 4
GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC QUẢN LÝ CỦA ĐỘI NGŨ CÁN BỘ
CẤP VỤ THUỘC CƠ QUAN THANH TRA CHÍNH PHỦ
4.1. Phƣơng hƣớng nâng cao năng lực quản lý của đội ngũ cán bộ cấp vụ
thuộc cơ quan Thanh tra Chính phủ
Thứ nhất, nâng cao năng lực quản lý của cán bộ cấp vụ cơ quan Thanh tra
Chính phủ trên cơ sở bám sát chủ trương, đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước
về công tác tổ chức cán bộ.
Bám sát nhiệm vụ chính trị, việc đổi mới công tác tổ chức, cán bộ đƣợc hình
thành và thể hiện rõ nhất từ Đại hội VI của Đảng - Đại hội mở đầu thời kỳ đổi mới
đất nƣớc, năm 1986. Đại hội khẳng định: “Đối với nước ta, đổi mới đang là yêu cầu
bức thiết của sự nghiệp cách mạng, là vấn đề có ý nghĩa sống còn”. Các văn kiện
Đại hội VI thể hiện bƣớc đầu sự đổi mới tƣ duy của Đảng đã xác định: “Đổi mới
công chức lãnh đạo các cấp là mắt xích quan trọng nhất mà Đảng ta phải nắm chắc để thúc đẩy những cuộc cải cách có ý nghĩa cách mạng”20.
Từ đó, qua mỗi kỳ đại hội, quan điểm, tƣ tƣởng đổi mới công tác tổ chức, cán
bộ càng đƣợc thể hiện rõ hơn, phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ cách mạng của mỗi
giai đoạn. Nhiệm kỳ nào, Ban Chấp hành Trung ƣơng, Bộ Chính trị cũng ban hành
nghị quyết, chỉ thị chuyên đề hoặc đề cập đến những vấn đề liên quan đến công tác
tổ chức, nâng cao năng lực cán bộ với quan điểm và nội dung đổi mới, bám sát
phƣơng hƣớng, nhiệm vụ của đất nƣớc mà nghị quyết đại hội đã đề ra.
Hội nghị Trung ƣơng 3 (khóa VII) nhấn mạnh: “Cần làm tốt việc phát hiện,
lựa chọn, rèn luyện, đào tạo, bồi dưỡng xây dựng đội ngũ công chức lãnh đạo…”
20 ĐCSVN: Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới (Đại hội VI, VII, VIII, IX), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, tr.140. 21 ĐCSVN: Văn kiện Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương khóa VII, Nxb Chính trị quốc gia, tr.63.
và chỉ ra “vấn đề cán bộ vẫn là khâu then chốt có ý nghĩa quyết định toàn bộ sự nghiệp cách mạng”21.
78
Nghị quyết Hội nghị Trung ƣơng 3 khóa VIII tiếp tục khẳng định: “Cán bộ là
nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất nước và chế độ, là khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng”22. Đảng
ta chủ trƣơng “Lấy việc phát huy nguồn lực con người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững”23; Phát triển nguồn lực con ngƣời một cách toàn diện cả
về trí tuệ, sức khỏe, đạo đức, thái độ... Đồng thời, Đảng ta chỉ rõ: phát triển nguồn
nhân lực đòi hỏi sự quan tâm và trách nhiệm của Đảng, Nhà nƣớc và toàn xã hội
bằng nhiều biện pháp, trong đó giáo dục và đào tạo là then chốt; mọi kế hoạch xây
dựng, phát triển kinh tế - xã hội đặt trong mối quan hệ không thể tách rời với kế
hoạch đầu tƣ cho sự phát triển về nhân cách, trí tuệ..., cho xây dựng và phát triển
nguồn nhân lực nhiều về số lƣợng, mạnh về chất lƣợng. Đây là lần đầu tiên Ban
Chấp hành Trung ƣơng bàn sâu và toàn diện về vấn đề cán bộ và ban hành nghị
quyết chuyên đề về công tác cán bộ.
Đại hội IX nhấn mạnh: “Sau khi có đường lối đúng, phẩm chất và năng lực
của cán bộ là vấn đề có ý nghĩa quyết định, không những quyết định việc tổ chức
thực hiện thành công mà còn quyết định cả mối quan hệ gắn bó giữa Đảng với nhân
dân”, đồng thời, đề ra nhiệm vụ xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch, có
năng lực và “hoàn thiện chế độ công vụ, quy chế cán bộ, coi trọng cả năng lực và
đạo đức”, “Quan tâm... công chức lãnh đạo, quản lý... Trước hết là đội ngũ cán bộ chủ chốt trong hệ thống chính trị”24.
Kết luận Hội nghị Trung ƣơng 9 khóa X và Nghị quyết Đại hội XI tiếp tục xác
định cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, là khâu then chốt
trong công tác xây dựng Đảng. Đồng thời, đề ra mục tiêu xây dựng đội ngũ cán bộ
giai đoạn 2011 - 2020 là: “Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có phẩm
chất đạo đức tốt, có bản lĩnh chính trị, có năng lực, có tính chuyên nghiệp cao, tận
22 ĐCSVN: Các Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương (1996 -1999), Nxb Chính trị quốc gia, 2002, tr.63, 237 - 240 23 ĐCSVN: Văn kiện Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,1997, tr.85. 24 ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2001, tr.49, 141
tụy phục vụ nhân dân”.
79
Trƣớc yêu cầu nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới, không chỉ dừng lại ở
cơ chế phát hiện, đào tạo, bồi dƣỡng đội ngũ công chức lãnh đạo theo phƣơng thức
cũ, mà cần có nhận thức mới phù hợp hơn. Nhận thức rõ những yếu kém, khuyết
điểm trong công tác cán bộ, Đại hội XII thẳng thắn nhận định “...Việc đổi mới công
tác cán bộ chưa có đột phá lớn… Chưa quan tâm đúng mức đến việc xây dựng đội
ngũ cán bộ tham mưu, tư vấn cấp chiến lược”... Vì thế, cần “Tập trung xây dựng
đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ năng lực và phẩm chất, ngang tầm nhiệm vụ. Có cơ chế, chính sách phát hiện, thu hút, sử dụng nhân tài”25.
Nhƣ vậy, để nâng cao năng lực quản lý của cán bộ cấp vụ tại Thanh tra Chính
phủ, cần thiết phải bám sát chủ trƣơng, quan điểm của Đảng, Nhà nƣớc về vấn đề
này. Tức là, đổi mới đồng bộ các khâu trong công tác cán bộ; quán triệt sâu sắc
đƣờng lối đổi mới và quan điểm của Đảng về công tác tổ chức và cán bộ, tạo
chuyển biến cơ bản vững chắc trong công tác này; xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là
cán bộ cấp chiến lƣợc, ngƣời đứng đầu các cục, vụ, đơn vị thực sự có năng lực,
phẩm chất, gƣơng mẫu, bảo đảm tính kế thừa và phát triển; xây dựng và thực hiện
quy chế phát triển nhân tài đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại
hoá và chủ động hội nhập quốc tế.
Thứ hai, nâng cao năng lực quản lý của đội ngũ cán bộ cấp vụ tại cơ quan
Thanh tra Chính phủ phải đáp ứng yêu cầu đổi mới quản lý nhà nước, cải cách
hành chính và hội nhập quốc tế.
Nƣớc ta đang trong quá trình đổi mới về mọi mặt, nhất là trong nền kinh tế hàng
hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trƣờng có sự quản lý của Nhà nƣớc đã
phát sinh nhiều quan hệ mới. Nhiều chủ trƣơng, chính sách, văn bản pháp luật mới về
quản lý nhà nƣớc, quản lý kinh tế đƣợc ban hành. Nền kinh tế thị trƣờng, bên cạnh
mặt tích cực thúc đẩy sản xuất phát triển cũng nảy sinh rất nhiều tiêu cực. Trong khi
đó, đặc điểm quan trọng trong tổ chức và hoạt động của ngành Thanh tra là luôn gắn
liền với bộ máy thực hiện chức năng quản lý. Các cơ quan thanh tra chủ yếu làm
25 ĐCSVN:Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ƣơng Đảng, Hà Nội, 2016, tr.194-195.
nhiệm vụ quản lý nhà nƣớc trong lĩnh vực thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo,
80
phòng, chống tham nhũng và làm nhiệm vụ tham mƣu cho các cơ quan quản lý trong
các lĩnh vực này. Vì vậy, tình hình mới đặt ra cho công tác thanh tra những yêu cầu
đổi mới hơn nữa về nhận thức, về nội dung, về đối tƣợng thanh tra, về phƣơng pháp
thanh tra. Phát triển năng lực quản lý của đội ngũ công chức lãnh đạo cấp Vụ cũng
phải thích ứng với yêu cầu của từng giai đoạn xây dựng, hoàn thiện nhà nƣớc và yêu
cầu quản lý mọi mặt của đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội.
Bên cạnh đó, việc nâng cao năng lực quản lý của đội ngũ cán bộ cấp vụ cơ
quan Thanh tra Chính phủ phải trên cơ sở mục tiêu chung của cải cách hành chính.
Ngày 08/11/2011, Chính phủ có Nghị quyết 30c/NQ-CP ban hành Chƣơng trình
tổng thể cải cách hành chính nhà nƣớc giai đoạn 2011-2020 với 05 mục tiêu, trong
đó có đặt ra mục tiêu xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có đủ phẩm
chất, năng lực và trình độ, đáp ứng yêu cầu phục vụ nhân dân và sự phát triển của
đất nƣớc. Để thực hiện đƣợc mục tiêu đó, việc nâng cao năng lực quản lý công chức
lãnh đạo cấp Vụ phải bao gồm tổng thể việc nâng cao chất lƣợng hoạch định thể
chế, chính sách của đội ngũ công chức lãnh đạo; thực hiện công khai, minh bạch và
trách nhiệm giải trình khi thi hành công vụ; nâng cao ý thức trách nhiệm và đạo đức
công vụ của công chức lãnh đạo cục, vụ, đơn vị...
Thực hiện đƣờng lối đổi mới về đối ngoại, Nhà nƣớc ta đã có nhiều chủ
trƣơng, chính sách đẩy mạnh hội nhập quốc tế trên các lĩnh vực, tham gia ký kết
nhiều thỏa thuận, văn kiện hợp tác quốc tế, trong đó có những thỏa thuận hợp tác
liên quan đến ngành Thanh tra nhƣ: Công ƣớc Liên hiệp quốc về Chống tham
nhũng, Hiệp định Thƣơng mại thế giới WTO, Hiệp định Thƣơng mại Việt Nam-
Hoa Kỳ... Nội dung các văn kiện này có những yêu cầu liên quan đến việc hoàn
thiện pháp luật về thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng chống tham
nhũng; Hội nhập kinh tế thế giới là xu thế tất yếu của thời đại, có tác động toàn diện
đến các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của đất nƣớc, tạo ra nhiều cơ hội
trong hợp tác, phát triển nhƣng cũng đặt ra nhiều thách thức lớn cho toàn bộ nền
kinh tế và vấn đề quản lý nhà nƣớc, quản lý xã hội. Vì vậy, đòi hỏi phải có sự thay
đổi cơ bản về tƣ duy trong tổ chức quản lý kinh tế, quản lý xã hội nói chung và về
81
công tác thanh tra nói riêng bảo đảm pháp luật Việt Nam đƣợc tuân thủ và phù hợp
với luật pháp quốc tế. Tất cả các yếu tố nêu trên vừa là điều kiện thuận lợi và cũng
là đòi hỏi yêu cầu trong thời gian tới ngành Thanh tra cần tiếp tục chỉnh đốn, nâng
cao chất lƣợng, trình độ của đội ngũ công chức nói chung và công chức lãnh đạo
cấp Vụ nói riêng.
Thứ ba, nâng cao năng lực quản lý của đội ngũ cán bộ cấp vụ tại cơ quan
Thanh tra Chính phủ phải bám sát mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp của Chiến lược
phát triển ngành Thanh tra đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030.
Để đáp ứng đƣợc đòi hỏi của Đảng, Nhà nƣớc, việc thực thi Hiến pháp năm
2013 và yêu cầu của quá trình xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa,
hoàn thiện thể chế kinh tế thị trƣờng, Chiến lƣợc phát triển ngành Thanh tra đến
năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 đã đƣợc ban hành nhằm đổi mới tổ chức, nâng
cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng,
chống tham nhũng. Theo Chiến lƣợc, đổi mới tổ chức và nâng cao hiệu lực, hiệu
quả hoạt động phải xuất phát từ mục tiêu là xác lập địa vị pháp lý của các cơ quan
thanh tra trong hệ thống các cơ quan Nhà nƣớc phù hợp với chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn; tăng cƣờng tính tập trung, thống nhất, chủ động và tự chịu trách nhiệm
trong tổ chức và hoạt động của ngành Thanh tra; xây dựng ngành Thanh tra, đội
ngũ cán bộ, công chức, viên chức thanh tra chuyên nghiệp, trách nhiệm, kỷ cƣơng,
liêm chính.
Nâng cao năng lực quản lý của đội ngũ cán bộ cấp vụ nhằm tạo ra nguồn
nhân lực lãnh đạo phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của cơ quan cũng là định
hƣớng chung để thực hiện mục tiêu của Chiến lƣợc. Việc nâng cao năng lực phải
nhằm đáp ứng đòi hỏi của tổ chức về phát triển nguồn nhân lực và xây dựng đội
ngũ công chức lãnh đạo cấp vụ đáp ứng yêu cầu để thực hiện mục tiêu của tổ chức
đã đề ra.
Chiến lƣợc xác định mục tiêu trƣớc mắt từ nay đến năm 2020, tiếp tục kiện
toàn về tổ chức và hoạt động của các cơ quan, đơn vị chuyên trách về tiếp công dân,
xử lý sau thanh tra ở các cơ quan thanh tra nhằm thực hiện đúng, đầy đủ các nội
82
dung quản lý nhà nƣớc về tiếp công dân và về thanh tra; kiện toàn tổ chức, bộ máy
của cơ quan, đơn vị phòng, chống tham nhũng trong các cơ quan Thanh tra Nhà
nƣớc nhằm bảo đảm thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ quản lý Nhà nƣớc về công tác
phòng, chống tham nhũng… Mục tiêu lâu dài từ năm 2021 - 2030, kiện toàn cơ cấu
tổ chức cho phù hợp với việc thực hiện chức năng giám sát, đánh giá hiệu quả hoạt
động của các cơ quan hành chính Nhà nƣớc và quản lý thống nhất về tổ chức, hoạt
động trong toàn ngành Thanh tra.
Với mục tiêu rõ ràng nhƣ vậy, việc nâng cao năng lực quản lý của đội ngũ cán
bộ cấp vụ phải đƣợc thực hiện đồng bộ trên các khâu: tiêu chuẩn, đánh giá, quy
hoạch, đào tạo, bồi dƣỡng, lựa chọn, bổ nhiệm, điều động, luân chuyển, chính sách,
kiểm tra và quản lý công chức lãnh đạo. Trong đó, quan trọng phải bắt nguồn từ
công tác quy hoạch công chức lãnh đạo, quản lý. Quy hoạch phải đƣợc gắn với
nhiệm vụ chính trị, lấy quy hoạch cấp dƣới làm cơ sở cho quy hoạch cấp trên, thực
hiện quy hoạch “mở” và “động”; xây dựng quy hoạch cấp uỷ làm cơ sở quy hoạch
các chức danh công chức lãnh đạo cấp vụ... Đồng thời, công tác đào tạo, bồi dƣỡng
nâng cao năng lực quản lý của công chức lãnh đạo cấp vụ cần đƣợc tăng cƣờng với
nhiều hình thức đa dạng hơn; nội dung, phƣơng pháp đào tạo từng bƣớc đƣợc đổi
mới, kết hợp giữa học lý luận với nâng cao kỹ năng thực hành...
Thứ tư, nâng cao năng lực quản lý của đội ngũ cán bộ cấp vụ phải phù hợp với
mục tiêu nâng cao vị trí, vai trò của cơ quan thanh tra trong bộ máy nhà nước.
Việc thực thi Hiến pháp năm 2013 đang đặt ra yêu cầu đối với ngành Thanh
tra thực hiện hiệu quả hơn các chức năng, nhiệm vụ về thanh tra, tiếp công dân, giải
quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng, góp phần kiểm soát quyền lực
nhà nƣớc, bảo vệ quyền con ngƣời, quyền công dân. Quá trình xây dựng nhà nƣớc
pháp quyền xã hội chủ nghĩa và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trƣờng cũng nhƣ hội
nhập quốc tế đòi hỏi ngành Thanh tra cần phải đổi mới tổ chức, nâng cao hiệu lực,
hiệu quả hoạt động nhằm theo kịp và phù hợp với đòi hỏi của sự phát triển và hội
nhập quốc tế. Đồng thời, thực hiện đầy đủ, hiệu quả các điều ƣớc quốc tế song
83
phƣơng và đa phƣơng có liên quan mà Việt Nam là thành viên, nhất là về phòng,
chống tham nhũng.
Trƣớc những yêu cầu đó, trên cơ sở xác định vị trí, chức năng, nhiệm vụ, thẩm
quyền trong quản lý nhà nƣớc về thanh tra, tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố
cáo và phòng, chống tham nhũng, năng lực quản lý của đội ngũ cán bộ cấp vụ cũng
phải đƣợc nâng cao để tƣơng xứng với chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền đƣợc giao.
Năng lực quản lý đó phải tƣơng xứng với vị trí, vai trò của các cơ quan thanh tra
theo cấp hành chính nhằm thực hiện kiểm soát có hiệu quả việc chấp hành pháp luật
và xử lý vi phạm trên các lĩnh vực quản lý nhà nƣớc, nhất là trong phòng ngừa, phát
hiện và xử lý tham nhũng; phải đáp ứng đƣợc việc xây dựng, hoàn thiện và thực
hiện cơ chế phối hợp giữa cơ quan thanh tra với các cơ quan, tổ chức có chức năng
giám sát, kiểm tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử; và phù hợp với mục tiêu xây
dựng hệ thống cơ quan thanh tra tập trung, thống nhất...
Thứ năm, nâng cao năng lực quản lý của đội ngũ cán bộ cấp vụ phải trên cơ
sở đổi mới công tác tổ chức, cán bộ mà trọng tâm là sắp xếp, kiện toàn lại tổ chức
bộ máy bảo đảm tinh gọn, hoạt động có hiệu quả.
Thực hiện Nghị quyết 39-NQ/TW ngày 17/4/2015 của Ban Chấp hành TW về
tinh giản biên chế và cơ cấu lại cán bộ, công chức, viên chức nhằm nâng cao chất
lƣợng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức nói chung và đội ngũ công chức lãnh
đạo nói riêng, là cơ quan ngang bộ muốn nâng cao năng lực lãnh đạo cấp Vụ cũng
cần phải nghiên cứu rà soát, sắp xếp, kiện toàn lại tổ chức bộ máy theo tinh thần
Nghị quyết đó.
Nâng cao năng lực quản lý trên cơ sở kiện toàn tổ chức bộ máy phải gắn với
hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ. Trƣớc sự đổi mới về vai trò, chức năng, nhiệm vụ
của các cơ quan hành chính nhà nƣớc trong đó có cơ quan Thanh tra Chính phủ
trong xu hƣớng xây dựng Chính phủ kiến tạo và phát triển, đội ngũ lãnh đạo cấp Vụ
với vị trí của mình càng cần thiết phải có sự thay đổi về năng lực, trình độ để có thể
đáp ứng đƣơc sự thay đổi này. Bởi lẽ, chu trình quản lý bằng chính sách, pháp luật
bao gồm các bƣớc từ xây dựng, ban hành, thực thi cho đến kiểm tra lại việc thực thi.
Thanh tra là một trong các hình thức của hoạt động kiểm tra lại việc ban hành và
84
thực thi các chính sách, quy định trong quản lý. Vì vậy, trong bối cảnh hƣớng tới
mục tiêu tập trung vào thực hiện chức năng hoạch định chính sách, cơ quan thanh
tra nhà nƣớc cần phải chuyển hƣớng mạnh mẽ hơn nữa trong việc thực hiện vai trò
của mình.
Theo đó, sắp xếp lại bộ máy tổ chức, phân công công việc phù hợp, đồng thời
nâng cao năng lực đội ngũ lãnh đạo của cơ quan thanh tra nhà nƣớc nhằm tập trung
thực hiện vai trò thanh tra, kiểm tra nhằm phát hiện các sơ hở, bất cập trong cơ chế,
chính sách, pháp luật để kiến nghị sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện, tạo khuôn khổ
chính sách đúng đắn, tạo hành lang pháp lý và động lực đƣa hoạt động quản lý của
cơ quan nhà nƣớc vào nề nếp, định hƣớng nền công vụ theo các giá trị minh bạch,
hiệu quả và trách nhiệm. Việc sắp xếp tổ chức bộ máy cơ quan thanh tra phải bắt
đầu từ việc rà soát trình độ đào tạo, năng lực của đội ngũ công chức lãnh đạo để có
kế hoạch bố trí sử dụng phù hợp với vị trí việc làm theo hƣớng tinh gọn, hiệu quả,
đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống
tham nhũng đặt ra trong tình hình mới.
4.2. Một số giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao năng lực quản lý của đội
ngũ cán bộ cấp vụ thuộc cơ quan Thanh tra Chính phủ
4.2.1. Nhóm giải pháp, kiến nghị đối với chủ thể quản lý đội ngũ cán bộ cấp
vụ thuộc cơ quan Thanh tra Chính phủ
Thứ nhất, nâng cao nhận thức, trình độ hiểu biết chủ trương, chính sách,
pháp luật và kỹ năng quản lý của cán bộ cấp vụ.
Lãnh đạo cấp vụ ngoài nhiệm vụ chính là chỉ đạo điều hành hoạt động chung
của Vụ nhƣ tham mƣu giúp Tổng Thanh tra Chính phủ quản lý nhà nƣớc về công
tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng, chống tham nhũng; phân công
nhiệm vụ, phối hợp hoạt động và kiểm tra, giám sát việc thực hiện nhiệm vụ của
vụ... còn trực tiếp làm Trƣởng đoàn thanh tra, chỉ đạo việc xây dựng đề cƣơng, kế
hoạch tiến hành thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo khi đƣợc Tổng Thanh tra
Chính phủ giao. Trƣớc yêu cầu đổi mới hoạt động thanh tra hiện nay, càng đòi hỏi
mỗi cán bộ cấp vụ phải trau dồi, học tập, tìm hiểu thƣờng xuyên chủ trƣơng chính
85
sách và thực tế xã hội, tạo cho mình sự hiểu biết đa dạng, phong phú; đó là điều
kiện cần thiết để có thể đảm nhiệm và làm tốt đƣợc vai trò vừa là Thủ trƣởng đơn vị
vừa là Trƣởng đoàn thanh tra trong tình hình mới.
Ở vị trí chỉ đạo điều hành chung hoạt động của đơn vị, cán bộ cấp vụ phải
gƣơng mẫu tự trau dồi hoặc thông qua các hội nghị tập huấn, truyên truyền, phổ biến
chính sách, pháp luật để có thể nắm vững chủ trƣơng, đƣờng lối của Đảng, chính sách
và pháp luật của Nhà nƣớc và các văn bản quy phạm pháp luật về lĩnh vực chuyên
môn, chuyên ngành; có hiểu biết chuyên sâu về nghiệp vụ quản lý của lĩnh vực
chuyên môn mà mình phụ trách và chủ động trang bị kiến thức, hiểu biết về tình hình
chính trị, kinh tế - xã hội của đất nƣớc, các nƣớc trong khu vực, thế giới. Đồng thời,
công chức lãnh đạo phải tự rèn luyện kỹ năng về tham mƣu, lãnh đạo, quản lý; kỹ
năng chủ trì, tổ chức xây dựng các đề án, văn bản quy phạm pháp luật; kỹ năng điều
hành, phân công công việc, phối hợp; kỹ năng hƣớng dẫn, kiểm tra, đôn đốc, đánh giá
công chức thuộc quyền quản lý tiến hành các công việc theo nhiệm vụ đƣợc giao. Ý
thức rèn luyện này phải đƣợc công chức lãnh đạo tích lũy, bổ sung qua từng năm
công tác, trải nghiệm thực tế quản lý tại mỗi vị trí công tác khác nhau.
Ở vị trí Trƣởng đoàn thanh tra, công chức lãnh đạo không chỉ quản lý, chỉ đạo
các thành viên thực hiện kế hoạch chung, mà còn phải trực tiếp nghiên cứu, phân
tích để đánh giá chính xác, khách quan, kết luận đúng bản chất sự vật, hiện tƣợng
trong từng phần mà mỗi thành viên đã nêu ra, đặt nó trong mối liên hệ chung của
toàn cuộc thanh tra, qua đó tổng hợp lại, nêu lên đƣợc bản chất của nội dung trong
đánh giá, kết luận toàn cuộc thanh tra nâng cao chất lƣợng báo cáo kết quả thanh
tra. Để làm tốt chức trách của mình, công chức lãnh đạo cấp Vụ cần rèn luyện thói
quen tƣ duy từ những vấn đề cụ thể đi đến khái quát, từ hiện tƣợng đi vào bản chất,
không chỉ biết “cho ý kiến chỉ đạo” mà còn phải biết “tự mình suy nghĩ và trực tiếp
hành động” khi cần thiết. Trong quá trình thanh tra, lãnh đạo không chỉ nghe báo
cáo của các thành viên đoàn thanh tra, mà phải tìm đọc, nghiên cứu rất nhiều tài
liệu, số liệu liên quan, không chỉ gặp gỡ một vài đối tƣợng mà cả nhiều ngƣời khác
có liên quan để trao đổi, tìm hiểu thêm; qua đó so sánh, đối chiếu, tìm ra mối liên hệ
86
giữa các sự việc, khái quát hoá tình hình chung để đƣa ra đƣợc những nhận xét, kết
luận chung đúng với bản chất của nó. Đó là phong cách chỉ đạo và yêu cầu đặt ra về
đối với cán bộ cấp vụ trong vai trò Trƣởng đoàn thanh tra.
Ngoài ra, cán bộ cấp vụ phải chủ động tham mƣu với ngƣời ra quyết định
thanh tra để kết luận cuộc thanh tra và xử lý sau thanh tra. Mặc dù kết luận cuộc
thanh tra là trách nhiệm của ngƣời ra quyết định thanh tra và trong quá trình tiến
hành thanh tra ngƣời ra quyết định thanh tra đã thƣờng xuyên theo dõi, chỉ đạo hoạt
động của Đoàn thanh tra nhƣng không ai hiểu đặc điểm, tình hình, những ƣu điểm
và thiếu sót, khuyết điểm của đối tƣợng thanh tra hơn Trƣởng đoàn thanh tra. Vì
vậy, cán bộ cấp vụ làm Trƣởng đoàn thanh tra cần tham mƣu cho ngƣời ra quyết
định thanh tra xây dựng và ban hành kết luận thanh tra. Kết luận thanh tra là sản
phẩm cuối cùng của cuộc thanh tra, do ngƣời ra quyết định thanh tra ký, ban hành.
Các kiến nghị và quyết định xử lý về thanh tra vô cùng quan trọng, có giá trị pháp
lý buộc các đối tƣợng thanh tra và đối tƣợng có liên quan đến cuộc thanh tra có
trách nhiệm thi hành. Vì vậy, cán bộ cấp vụ có trách nhiệm tham mƣu giúp ngƣời ra
kết luận thanh tra phân tích, chỉ rõ nguyên nhân chủ quan, khách quan, trách nhiệm
tập thể, trách nhiệm cá nhân, các kiến nghị và các quyết định xử lý thanh tra chính
xác, khách quan và khả thi. Đồng thời, cán bộ cấp vụ phải tham mƣu chỉ đạo và tổ
chức thực hiện kết luận, kiến nghị và quyết định xử lý về thanh tra.
Để đáp ứng đƣợc các yêu cầu và đòi hỏi nêu trên, Tổng Thanh tra với tƣ cách
là chủ thể quản lý đội ngũ cán bộ cấp vụ cần phải tiếp tục có các giải pháp quyết
liệt, đồng bộ hơn nhằm nâng cao năng lực quản lý của đội ngũ cán bộ cấp vụ thuông
qua các cơ chế quản lý, sử dụng khoa học, phù hợp với đặc thù của ngành Thanh
tra, trên cơ sở đó chọn lọc, thậm chí phải loại bỏ những cán bộ không đáp ứng đƣợc
những yêu cầu, đòi hỏi về năng lực chuyên môn, phẩm chất chính trị đã đề ra.
Thứ hai, nâng cao trách nhiệm của chủ thể quản lý và sử dụng cán bộ nhằm
phát huy hiệu quả năng lực của cán bộ cấp vụ.
Trách nhiệm lãnh đạo của ngƣời đứng đầu là quyết định toàn bộ mọi vấn đề
một cách đúng đắn, chính xác; tổ chức chỉ đạo thực hiện những vấn đề ấy có hiệu
87
quả; chỉ đạo kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ mọi hoạt động bảo đảm đúng đƣờng lối,
chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nƣớc và có kết quả cụ thể, thiết thực. Lãnh đạo
cơ quan phải giữ vai trò tạo đà, thế, cơ hội cho sự phát huy những thế mạnh, khắc
phục những mặt còn yếu kém của cơ quan mình. Công tác nhân sự là một trong
những yếu tố quyết định đến hiệu quả hoạt động chung của cơ quan mà Lãnh đạo cơ
quan luôn phải đề cao. Theo đó, trách nhiệm của ngƣời đứng đầu là phải thực hiện
dân chủ, công khai, minh bạch trong quản lý và điều hành hoạt động; trong lãnh
đạo, chỉ đạo việc thực hiện quy hoạch, đào tạo, sử dụng đến đánh giá, chính sách
đãi ngộ đối với cán bộ, công chức, viên chức nói chung và công chức lãnh đạo cấp
vụ nói riêng.
Trách nhiệm của ngƣời đứng đầu cơ quan phải lựa chọn lãnh đạo thuộc quyền
có năng lực, có trình độ, có khả năng đảm nhiệm vị trí quản lý theo yêu cầu thực
hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định. Tức là, vai trò của ngƣời đứng
đầu cơ quan mang tính chất quyết định đến việc lựa chọn lãnh đạo đơn vị có năng
lực từ khi ký quyết định bổ nhiệm lãnh đạo cấp vụ.
Để lựa chọn, bổ nhiệm ngƣời thực sự có năng lực và sẽ là cánh tay phải đắc
lực khi làm nhiệm vụ tham mƣu cho mình, ngƣời đứng đầu phải căn cứ vào các nội
dung nhƣ hồ sơ, lý lịch, tiêu chuẩn, điều kiện, quy trình,... theo quy định pháp luật,
bảo đảm công khai, minh bạch, công bằng. Trách nhiệm này phải rõ ràng, cụ thể để
khi có vấn đề, sự cố xảy ra liên quan đến ngƣời đƣợc bổ nhiệm thì ngƣời ký quyết
định bổ nhiệm không thể thoái thác, đẩy trách nhiệm sang tập thể cấp ủy và biện
minh rằng mình chỉ là ngƣời thi hành quyết định của tập thể và có tính hành chính.
Ngoài ra, ngƣời đứng đầu phải nắm chắc tình hình, phân tích mặt mạnh, mặt
yếu của đội ngũ công chức và đặc điểm của từng công chức để bố trí vị trí lãnh đạo
phù hợp với yêu cầu công tác. Bố trí, sử dụng hợp lý và hiệu quả đội ngũ công chức
lãnh đạo trên cơ sở quy định về tiêu chuẩn chức danh và tiêu chuẩn nghiệp vụ của
cán bô, công chức để có căn cứ xác định yêu cầu về phẩm chất chính trị, đạo đức lối
sống, năng lực công tác, trình độ kiến thức của từng chức danh lãnh đạo cấp vụ
trong cơ quan.
88
Thanh tra là ngành đặc thù trong quản lý nhà nƣớc. Theo đó, trách nhiệm của
chủ thể quản lý, sử dụng cán bộ trong quy hoạch, sử dụng, đào tạo, đánh giá và thực
hiện đãi ngộ đối với cán bộ cấp vụ cần đƣợc quy định cụ thể và nghiêm túc thực
hiện. Thẩm quyền và trách nhiệm phải đi đôi với nhau. Chế độ làm việc trong các
cơ quan hành chính là chế độ thủ trƣởng, ngƣời đứng đầu phải chịu trách nhiệm về
mọi hoạt động của cơ quan, đơn vị trƣớc pháp luật, trong đó có quản lý công tác
nhân sự.
Thứ ba, Ban Cán sự Đảng Thanh tra Chính phủ, Tổng Thanh tra cần tiếp tục đổi
mới công tác quy hoạch cán bộ cấp vụ.
Quy hoạch cán bộ là một nội dung trọng yếu của công tác cán bộ, bảo đảm
cho công tác cán bộ đi vào nền nếp, chủ động, làm căn cứ để đào tạo, bồi dƣỡng
cán bộ cấp vụ vững vàng về chính trị, trong sáng về đạo đức, thành thạo về chuyên
môn, nghiệp vụ, có trình độ và năng lực, nhất là năng lực trí tuệ và thực tiễn tốt.
Theo đó, Ban Cán sự Đảng Thanh tra Chính phủ, Tổng Thanh tra cần chỉ đạo
các đơn vị tham mƣu xây dựng và ban hành Đề án đổi mới công tác quy hoạch cán
bộ cấp vụ nhằm phát hiện sớm nguồn cán bộ trẻ có đức, có tài, có triển vọng về khả
năng lãnh đạo, quản lý, đƣa vào quy hoạch để có kế hoạch đào tạo, bồi dƣỡng, tạo
nguồn các chức danh lãnh đạo, quản lý, đáp ứng nhiệm vụ chính trị trƣớc mắt và lâu
dài của cơ quan.
Quy hoạch cán bộ cấp vụ phải xuất phát từ yêu cầu nhiệm vụ chính trị và thực
tế đội ngũ cán bộ công chức tại Thanh tra Chính phủ; phải gắn với các khâu khác
trong công tác cán bộ, bảo đảm sự liên thông quy hoạch các vị trí của cả đội ngũ
cán bộ trong cùng cơ quan. Để quy hoạch cán bộ cấp vụ sát với thực tiễn và có tính
khả thi, phải căn cứ vào yêu cầu nhiệm vụ chính trị của từng thời kỳ để xác định
tiêu chuẩn, cơ cấu đội ngũ công chức lãnh đạo trong quy hoạch (trình độ, ngành
nghề, lĩnh vực công tác, độ tuổi, nam, nữ, dân tộc...); phải nắm chắc đội ngũ cán bộ,
công chức hiện có, dự báo đƣợc nhu cầu cán bộ lãnh đạo cấp vụ trƣớc mắt và lâu
dài, trên cơ sở đó mới tiến hành lựa chọn, giới thiệu vào quy hoạch, đồng thời xây
dựng kế hoạch đào tạo bồi dƣỡng, luân chuyển, sử dụng cán bộ theo quy hoạch.
89
Chủ thể quản lý phải đánh giá đúng cán bộ, công chức trƣớc khi đƣa vào quy
hoạch. Nội dung đánh giá cần phải căn cứ tiêu chuẩn chức danh cán bộ, bao gồm
tiêu chuẩn chung của cán bộ nêu trong Nghị quyết Trung ƣơng 3 (khóa VIII) và tiêu
chuẩn cụ thể của từng chức danh cán bộ. Trong đó, phải đảm bảo các yêu cầu trƣớc
khi quy hoạch nhƣ sau:
- Phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống: nhận thức, tƣ tƣởng chính trị; việc
chấp hành chủ trƣơng, đƣờng lối, quy chế, quy định của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nƣớc; việc giữ gìn đạo đức, lối sống, chống quan liêu, tham nhũng, lãng
phí và các biểu hiện tiêu cực khác; tinh thần tự học tập nâng cao trình độ; tính trung
thực, công bằng, khách quan, ý thức tổ chức kỷ luật, tinh thần trách nhiệm trong
công tác; việc chấp hành chính sách, pháp luật của vợ, chồng, con; mối quan hệ với
nhân dân...
- Năng lực thực tiễn: thể hiện ở kết quả, hiệu quả công tác; tính chủ động, sáng
tạo; mức độ hoàn thành chức trách, nhiệm vụ đƣợc giao; khả năng đoàn kết, tập
hợp, quy tụ cán bộ; năng lực điều hành, tổ chức thực hiện; khả năng dự báo tình
hình, xử lý những tình huống phức tạp phát sinh trong ngành, lĩnh vực công tác.
- Uy tín: thể hiện thông qua việc lấy phiếu tín nhiệm hằng năm và kết quả
đánh giá cán bộ.
- Sức khoẻ: bảo đảm sức khoẻ để hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ của
chức danh quy hoạch.
- Chiều hƣớng, triển vọng phát triển, khả năng đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ khi
đƣợc bố trí vào chức vụ cao hơn.
Việc thực hiện quy hoạch công chức lãnh đạo cấp Vụ cơ quan phải bảo đảm
phƣơng châm "mở" và "động". Theo đó, quy hoạch "mở" đƣợc hiểu là một chức
danh cần quy hoạch một số ngƣời và một ngƣời có thể quy hoạch vào một số chức
danh; giới thiệu cán bộ vào quy hoạch không khép kín trong từng đơn vị, không chỉ
đƣa vào quy hoạch những cán bộ tại chỗ mà cần xem xét, đƣa vào quy hoạch cả các
đồng chí có đủ tiêu chuẩn, điều kiện và triển vọng đảm nhiệm chức danh quy hoạch
ở cơ quan, đơn vị khác. Quy hoạch "động" là quy hoạch đựợc định kỳ rà soát, bổ
90
sung, điều chỉnh theo sát sự phát triển của cán bộ, công chức; kịp thời đƣa ra khỏi
quy hoạch những cán bộ, công chức không còn đủ tiêu chuẩn, điều kiện, không có
triển vọng phát triển hoặc uy tín thấp qua lấy phiếu tín nhiệm hằng năm; bổ sung
vào quy hoạch những cán bộ, công chức có triển vọng phát triển.
Thứ tư, nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cấp vụ.
Công tác đào tạo, bồi dƣỡng cán bộ cấp vụ cần đƣợc Ban Cán sự Đảng, Đảng
ủy và Tổng Thanh tra Chính phủ đặc biệt quan tâm, coi đây là một trong những mặt
công tác trọng tâm của cơ quan nhằm nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ năng
nghiệp vụ cho công chức lãnh đạo góp phần xây dựng lực lƣợng cán bộ chủ chốt
nhằm phát triển ngành Thanh tra vững mạnh, toàn diện.
Theo đó, Tổng Thanh tra cần ban hành các kế hoạch đào tạo, bồi dƣỡng cán
bộ ngành Thanh tra nói chung và cán bộ cấp vụ trong cơ quan nói riêng; đồng thời,
sửa đổi, bổ sung quy chế đào tạo, bồi dƣỡng công chức, viên chức trên cơ sở thực
hiện Luật Công chức và Nghị định số 18/2010/NĐ-CP của Chính phủ về công tác
đào tạo, bồi dƣỡng công chức và các văn bản pháp luật khác để phù hợp với tình
hình, đặc điểm, chất lƣợng công chức, viên chức và định hƣớng chiến lƣợc về công
tác cán bộ của Thanh tra Chính phủ và ngành Thanh tra.
Đào tạo, bồi dƣỡng cán bộ công chức là quá trình truyền thụ kiến thức, kỹ
năng về chuyên môn nghiệp vụ thanh tra, giải quyết KNTC và PCTN dƣới các hình
thức khác nhau cho cán bộ cấp vụ, phù hợp với yêu cầu giải quyết công việc một
cách chất lƣợng và hiệu quả. Năng lực quản lý của cán bộ công chức phụ thuộc
nhiều vào lƣợng kiến thức chuyên môn nghiệp vụ và kỹ năng lãnh đạo, quản lý đã
đƣợc trang bị. Chính vì vậy, chất lƣợng của công tác đào tạo bồi dƣỡng ảnh hƣởng
rất lớn đến chất lƣợng đội ngũ cán bộ cấp vụ.
Tổng Thanh tra cần quyết liệt chỉ đạo Trƣờng Cán bộ Thanh tra tập trung
trang bị kiến thức cho lực lƣợng cán bộ cấp vụ về lý luận chính trị, quản lý Nhà
nƣớc, quy trình nghiệp vụ thanh tra, công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố
cáo và phòng, chống tham nhũng; các chuyên đề bồi dƣỡng kỹ năng quản lý lãnh
đạo... Bên cạnh đó, chƣơng trình khung đào tạo, giáo trình tài liệu cần phải liên tục
91
đƣợc đổi mới, cập nhật đáp ứng đƣợc nhu cầu quản lý, điều hành hoạt động chung
của đơn vị cũng nhƣ hoạt động của các đoàn thanh tra giải quyết KNTC, PCTN
trong tình hình mới.
Ngoài đào tạo, bồi dƣỡng nghiệp vụ, tăng cƣờng chuyên môn thì việc tăng
cƣờng giáo dục về đạo đức liêm chính trong hoạt động công vụ đối với đội ngũ lãnh
đạo cấp vụ trong các chƣơng trình đào tạo, bồi dƣỡng nâng cao nghiệp vụ cần phải
đƣợc coi trọng và đẩy mạnh. Bởi lẽ, bất kỳ công việc nào cũng đòi hỏi phải có
những chuẩn mực nghề nghiệp và đạo đức liêm chính, nhất là đối với cơ quan phải
thƣờng xuyên hoạt động thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống
tham nhũng - những hoạt động luôn gắn liền với quyền lực công, nguồn lực công,
trách nhiệm công… Đây là vấn đề nhạy cảm đòi hỏi ngƣời lãnh đạo khi tiến hành
nhiệm vụ phải là ngƣời có kỷ luật, có bản lĩnh không chùn bƣớc trƣớc những khó
khăn, phức tạp, không nhân nhƣợng thỏa hiệp với đối tƣợng trƣớc những sai phạm
và đồng thời phải là ngƣời có tâm, công minh, chính trực, gƣơng mẫu trƣớc những
nhiệm vụ đặt ra..
Vì vậy, thƣờng xuyên giáo dục đạo đức công vụ cho công chức lãnh đạo, hình
thành tri thức đạo đức, tình cảm đạo đức và hành vi đạo đức. Giáo dục đạo đức công
vụ nhằm làm cho cán bộ cấp vụ hiểu và tự cảm thấy xấu hổ nếu làm quản lý mà vi
phạm các giá trị, chuẩn mực về liêm chính. Giáo dục công vụ cần đề cao sự tự rèn
luyện, tu dƣỡng của cán bộ, công chức, khuyến khích và tôn vinh sự hƣớng thiện vì lý
tƣởng phục vụ nhân dân, phục vụ đất nƣớc, khắc phục thói vô cảm, ích kỷ, vụ lợi
trong khi thực hiện nhiệm vụ.
Giáo dục đạo đức công vụ cho công chức lãnh đạo cấp vụ phải chú ý xây dựng
đồng thời cả ba thành tố là tri thức đạo đức, tình cảm đạo đức và hành vi đạo đức;
trong đó quan trọng nhất là phải xây dựng đƣợc hành vi đạo đức, tạo nên những giá
trị đạo đức ở cá nhân; phải rèn luyện bản lĩnh cho cán bộ thanh tra, đồng thời rèn
luyện nâng cao kỹ năng giao tiếp, xử lý tình huống cho cán bộ thanh tra nhằm
hƣớng đến các mục tiêu cụ thể sau:
92
+ Có lập trƣờng quan điểm vững vàng, chấp hành nghiêm đƣờng lối của Đảng,
pháp luật của nhà nƣớc, tận tụy, trách nhiệm, vƣợt khó;
+ Có tác phong quần chúng hòa nhã, có phƣơng pháp làm việc khoa học, biết
phân tích xử lý tình huống khách quan, công bằng, tính thuyết phục cao và đƣợc
mọi ngƣời đồng tình;
+ Lắng nghe ý kiến, thận trọng trong xử lý tình huống, có bản lĩnh và biết
thông cảm với mọi ngƣời trƣớc những diễn biễn phức tạp và khó khăn xảy ra;
+ Có tinh thần tận tụy, ham học hỏi và không ngừng phấn đấu cho sự công
bằng, bình đẳng và đúng đắn;
+ Có ý thức trong việc nâng cao phẩm chất chính trị, ý thức nghề nghiệp và
luôn có lối sống giản dị, hòa nhã và đƣợc mọi ngƣời tôn trọng, tích cực bài trừ các
tiêu cực, tham những, lãng phí.
Những nội dung nêu trên phải đƣợc quán triệt thƣờng xuyên và bằng nhiều
hình thức đối với mỗi cán bộ cấp vụ. Tất cả những điều đó để phát huy đƣợc hiệu
quả phục vụ công tác quản lý, điều hành trong hoạt động công vụ phụ thuộc chủ yếu
vào nỗ lực phấn đấu của mỗi cá nhân.
Thứ năm, nâng cao hiệu quả quản lý và sử dụng cán bộ cấp vụ.
Tổng Thanh tra với tƣ cách là chủ thể quản lý và sử dụng đội ngũ cán bộ cấp
vụ phải thực hiện đứng các yêu cầu và nguyên tắc trong quản lý, sử dụng cán bộ nói
chung. Theo đó, việc sử dụng cán bộ cấp vụ phải phù hợp với vị trí công tác, với
năng lực, sở trƣờng, kinh nghiệm của ngƣời đó. Thực hiện tốt việc định kỳ chuyển
đổi vị trí công tác của cán bộ cấp vụ ở từng đơn vị để công chức đó đƣợc bồi
dƣỡng, rèn luyện trong môi trƣờng mới, tiếp tục nâng cao phẩm chất, năng lực, trí
tuệ đáp ứng đƣợc yêu cầu ngày càng cao của công tác quản lý nhà nƣớc về thanh
tra, giải quyết KNTC và PCTN, đồng thời khắc phục tƣ tƣởng cục bộ, khép kín
trong từng cơ quan, đơn vị.
Kết hợp các hình thức luân chuyển với thực hiện cơ chế tập sự lãnh đạo, quản
lý tạo điều kiện cho cán bộ lãnh đạo, quản lý cũng nhƣ cán bộ quy hoạch đƣợc cống
hiến, thử thách, rèn luyện, bồi dƣỡng trong thực tiễn, giúp cán bộ luân chuyển bổ
93
sung bồi đắp thêm những thiếu hụt về kiến thức, năng lực, kinh nghiệm, phong cách
sống, gần gũi, sâu sát cơ sở và kỹ năng công tác đáp ứng yêu cầu phát triển trong
giai đoạn mới.
Ngoài ra, việc quản lý và sử dụng cán bộ cấp vụ cần phải gắn liền với mục tiêu
nâng cao chất lƣợng hoạt động thanh tra, giải quyết KNTC và PCTN. Cán bộ cấp vụ
ngoài vị trí là thủ trƣởng cục, vụ, đơn vị chỉ đạo, điều hành chung trong phạm vi
thẩm quyền cho phép còn đóng vai trò với tƣ cách là Trƣởng đoàn thanh tra. Mục
tiêu đầu tiên và quan trọng của cán bộ cấp vụ trong vai trò này là chỉ đạo, kiểm tra,
giám sát đoàn thanh tra đó để hoàn thành các nội dung thanh tra, phát hiện, chỉ ra
những ƣu điểm, sai phạm, làm rõ nguyên nhân của sai phạm, quy rõ trách nhiệm cá
nhân, tập thể, kiến nghị xử lý đúng quy định pháp luật. Do đó, việc quản lý và sử dụng
đội ngũ cán bộ cấp vụ phải gắn liền với việc đảm bảo phát huy tốt vai trò, năng lực của
ngƣời đứng đầu Đoàn thanh tra. Trong vai trò này, các Phó Tổng Thanh tra với tƣ cách
là chủ thể trực tiếp quản lý và sử dụng cán bộ cấp vụ cần chủ động tham mƣu, đề xuất
và có những đánh giá chính xác, khách quan về kết quả thực hiện nhiệm vụ đối với cán
bộ cấp vụ do mình đƣợc giao quản lý trực tiếp.
Hoạt động thanh tra là tiến hành xem xét, đánh giá, kết luận việc thực hiện
nhiệm vụ chuyên môn của một lĩnh vực, một ngành hoặc có khi là nhiều lĩnh vực,
nên nó đƣợc xem xét đánh giá trên kiến thức tổng hợp của ngành, lĩnh vực đó.
Mục đích thanh tra là tìm ra cái sai, cái bất hợp lý trong việc thực hiện của đối
tƣợng thanh tra; trong cơ chế chính sách để kịp thời khắc phục, uốn nắn. Khi tiến
hành hoạt động thanh tra, ngoài sự phối hợp công tác với nhau, thì việc phát huy
năng lực, phẩm chất của cán bộ thanh tra nói chung và năng lực lãnh đạo, chỉ đạo,
điều hành của cán bộ cấp vụ với vị trí Trƣởng đoàn thanh tra nói riêng thƣờng
mang tính quyết định. Hoạt động thanh tra có thể xuất hiện nhiều mặt trái, nhƣ:
hành vi chống đối, thế lực cám dỗ, biểu hiện lộng hành, vi phạm khác… nên trong
hoạt động thanh tra, bên cạnh đòi hỏi bản lĩnh, trách nhiệm ngƣời cán bộ thanh tra,
rất cần đến sự giám sát của các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan thì trách
nhiệm chỉ đạo, giám sát của bản thân Trƣởng đoàn thanh tra cũng rất quan trọng.
94
Chất lƣợng của đoàn thanh tra phụ thuộc phần lớn vào năng lực lãnh đạo, chỉ
đạo, điều hành của Trƣởng đoàn thanh tra – cán bộ cấp vụ. Chất lƣợng hoạt động
thanh tra cao thì có thể phát hiện đƣợc nhiều sơ hở, bất cập trong cơ chế, chính
sách; phát hiện đƣợc nhiều dạng sai phạm và khi kết luận, xử lý thì đối tƣợng thanh
tra chấp hành nghiêm. Ngƣợc lại, kết quả thanh tra có chất lƣợng thấp thì ngoài việc
không phát hiện đƣợc vấn đề còn dẫn đến tình trạng hợp thức hóa cho hành vi vi
phạm, thậm chí có phát hiện vi phạm thì đối tƣợng thanh tra lại có phản ứng, khiếu
nại, thậm chí tố cáo cán bộ thanh tra vi phạm, áp đặt, chủ quan... dẫn đến việc
chống đối, không chấp hành kết luận, kiến nghị của thanh tra. Do đó, việc quản lý
và sử dụng hiệu quả cán bộ cấp vụ đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao hiệu
quả quản lý nhà nƣớc về thanh tra, giải quyết KNTC, PCTN nói chung và chất
lƣợng cuộc thanh tra nói riêng, đáp ứng yêu cầu phát triển ngành Thanh tra trong
tình hình mới.
Thứ sáu, tăng cường đánh giá năng lực của cán bộ cấp vụ trên cơ sở áp dụng
các tiêu chí một cách công bằng, khách quan.
Đánh giá cán bộ có vai trò to lớn đối với việc động viên, phát huy đƣợc
nguồn lực công chức lãnh đạo cấp vụ, góp phần giữ vững đoàn kết nội bộ. Từng
cán bộ cấp vụ phát triển tốt sẽ tạo nên sức mạnh tập thể thực sự bền vững. Ngƣợc
lại, nếu đánh giá không đúng sẽ dẫn đến việc khen ngợi sử dụng công chức không
đủ phẩm chất và năng lực; làm hỏng việc, hỏng ngƣời, thủ tiêu sự phấn đấu, lâu
ngày dẫn đến mất dần động lực phát triển của công chức khác trong cơ quan, đơn
vị. Với yêu cầu nêu trên, lãnh đạo Thanh tra Chính phủ cần phải thực hiện đánh
giá cán bộ dựa trên hiệu quả công việc, phải chú trọng vào trình độ, năng lực và các
tố chất, phẩm chất lãnh đạo, quản lý cần có. Bảo đảm tính công bằng trong đánh
giá, không đánh đồng và đồng nhất kết quả đánh giá giữa các đối tƣợng công chức
khác nhau và giữa các công chức chuyên môn với công chức giữ vị trí lãnh đạo,
quản lý. Với vị trí lãnh đạo cấp vụ, tiêu chuẩn áp dụng cho các chức danh ở từng vị
trí việc làm cũng cần có những yêu cầu khác nhau để phù hợp với chức năng của
đơn vị và nhiệm vụ cụ thể để thực hiện chức năng đó.
95
Công tác thanh tra mang nhiều tính chất đặc thù, thực hiện những nhiệm vụ
quan trọng của hoạt động quản lý nhà nƣớc. Thanh tra Chính phủ là cơ quan ngang
bộ thực hiện chức năng quản lý nhà nƣớc về thanh tra, tiếp công dân, giải quyết
khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng và thực hiện hoạt động thanh tra, giải
quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng trên phạm vi cả nƣớc. Do vậy,
cán bộ làm công tác tại cơ quan Thanh tra Chính phủ thƣờng xuyên phải tiếp xúc,
làm việc với các bộ ngành, địa phƣơng nên ngoài phẩm chất đạo đức tốt cần phải có
năng lực chuyên môn sâu về một lĩnh vực nhƣng đồng thời cũng phải có phông hiểu
biết rộng trên nhiều mảng kinh tế - văn hóa - xã hội.
Không có đội ngũ lãnh đạo cấp vụ đủ năng lực hoạch định chính sách, dấn
thân, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm thì khó có thể tƣ duy, xây dựng,
hoàn thiện đƣợc những thể chế, chính sách phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế
- xã hội và đáp ứng đƣợc yêu cầu của việc thực hiện chức năng quản lý nhà nƣớc về
công tác thanh tra, tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng, chống tham
nhũng và thực hiện hoạt động thanh tra, tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo,
phòng, chống tham nhũng.
Về cơ bản, công chức lãnh đạo, quản lý cấp vụ phải chịu trách nhiệm tổ chức
thực hiện các nhiệm vụ của vụ theo đúng quy định; quản lý và điều hành mọi hoạt
động của vụ; tham mƣu cho Tổng Thanh tra về công tác thanh tra, giải quyết khiếu
nại, tố cáo đối với các Bộ, ngành, địa phƣơng trong phạm vi thẩm quyền; có trách
nhiệm thực hiện nhiệm vụ thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng, chống tham
nhũng trong phạm vi phụ trách; phân công nhiệm vụ, phối hợp hoạt động và kiểm
tra, giám sát việc thực hiện nhiệm vụ của các phòng trực thuộc và cán bộ, công
chức trong vụ; chỉ đạo việc xây dựng đề cƣơng, kế hoạch tiến hành thanh tra, giải
quyết khiếu nại, tố cáo; trực tiếp làm trƣởng đoàn thanh tra khi đƣợc lãnh đạo
Thanh tra Chính phủ giao; giúp Tổng thanh tra Chính phủ theo dõi, đôn đốc, chỉ đạo
hoạt động của Đoàn thanh tra; tham gia ý kiến trong quá trình xây dựng báo cáo, kết
luận thanh tra, giải quyết khiếu nại tố cáo đối với Đoàn thanh tra do Vụ chủ trì hoặc
do Cán bộ thuộc vụ làm trƣởng đoàn trƣớc khi trình Thanh tra Chính phủ…
96
Theo đó, các tiêu chuẩn đánh giá cán bộ cấp vụ trên cơ sở đảm các yêu cầu
chung: Đảm bảo các hoạt động của đơn vị thông suốt, hiệu quả, không chồng chéo;
đảm bảo thực hiện đầy đủ các nghiệp vụ theo chức năng nhiệm vụ đƣợc giao; đảm
bảo công việc đƣợc phân công rõ ràng, cụ thể; đảm bảo thực hiện quản lý và sử
dụng công chức thuộc quyền theo đúng quy chế phân cấp quản lý.
Đồng thời, cán bộ cấp vụ phải đƣợc đánh giá công khai, minh bạch theo các
tiêu chuẩn cụ thể:
Về kiến thức chuyên môn: Tốt nghiệp Đại học trở lên chuyên ngành tài chính,
kĩ thuật, kinh tế và các chuyên ngành khác phù hợp; am hiểu chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Thanh tra Chính phủ và của đơn vị do mình phụ
trách; am hiểu tình hình chính trị, kinh tế, xã hội liên quan đến lĩnh vực quản lý của
đơn vị.
Về kiến thức bổ trợ: Nắm vững chủ trƣơng, đƣờng lối của Đảng, Nhà nƣớc; đã
hoàn thành chƣơng trình quản lý hành chính Nhà nƣớc chuyên viên cao cấp; nghiệp
vụ Thanh tra viên cao cấp; lý luận chính trị cao cấp; tin học và ngoại ngữ theo tiêu
chuẩn chung của ngạch.
Về kĩ năng: đảm bảo kĩ năng lãnh đạo quản lý; kĩ năng phân tích đánh giá,
phản biện; kĩ năng thuyết trình; kĩ năng tổ chức công việc (tổng hợp phân tích
thông tin, ra quyết định, điều phối nguồn lực); kĩ năng điều hành cuộc họp, quản
lý thông tin.
Về kinh nghiệm; đáp ứng đủ số năm công tác trong ngành phù hợp với yêu
cầu của từng chức danh. Ví dụ, với chức danh Vụ trƣởng là 10 năm công tác trong
ngành trong đó có ít nhất 5 năm làm công tác quản lý về lĩnh vực Thanh tra; hay với
chức danh Phó Vụ trƣởng thì 10 năm công tác trong ngành trong đó có ít nhất 5
năm làm công tác quản lý.
Về phẩm chất cá nhân: có khả năng thu hút và tập hợp quần chúng; khả năng
sáng tạo, tƣ duy độc lập; bảo mật thông tin; điềm tĩnh, cẩn thận, trí nhớ tốt; linh
hoạt và nhạy bén.
97
Về yêu cầu năng lực: Có khả năng chịu áp lực công việc lớn; có sức khỏe tốt;
có năng lực tham mƣu, tổ chức, lãnh đạo, quản lý thực hiện các chủ trƣơng, chính
sách của Đảng và Nhà nƣớc về lĩnh vực chuyên môn, chuyên ngành; có năng lực
điều hành, có khả năng quy tụ, đoàn kết, tổ chức cán bộ, công chức trong đơn vị và
phối hợp với các cơ quan có liên quan, thực hiện các nhiệm vụ; có khả năng nghiên
cứu xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật, hoạch định chiến lƣợc quản lý vĩ mô
và đề xuất các giải pháp, phƣơng pháp thực hiện về lĩnh vực chuyên môn, chuyên
ngành, phục vụ cho hoạt động quản lý nhà nƣớc của cơ quan.
Trên cơ sở các tiêu chí trên, Tổng Thanh tra chỉ đạo các đơn vị tham mƣu
trong đánh giá năng lực và xét các danh hiệu thi đua phải theo từng nhóm đối tƣợng
có vị trí, chức năng, nhiệm vụ tƣơng đƣơng nhau, không xét các danh hiệu thi đua
theo cơ quan, đơn vị để bảo đảm tính công bằng và tạo động lực thực sự các phong
trào thi đua, phát huy đƣợc tính tích cực trong thể hiện năng lực của lãnh đạo vụ,
cục, đơn vị của Thanh tra Chính phủ.
Để nâng cao tính tự giác, tích cực, chủ động trong phấn đấu, tu dƣỡng, rèn
luyện của bản thân đội ngũ công chức lãnh đạo, Đảng ủy, lãnh đạo cơ quan cần tạo
môi trƣờng và điều kiện thuận lợi để cán bộ lãnh đạo, quản lý ở vụ thực hiện tốt
việc tự học tập, tu dƣỡng, rèn luyện nâng cao trình độ. Cần quy định thành chế độ
có tính bắt buộc và kiểm tra nghiêm ngặt việc thực hiện; có chế độ, chính sách động
viên, khuyến khích kịp thời để khích lệ tinh thần tự học tập, rèn luyện của cán bộ cơ
sở. Bên cạnh đó, cần nâng cao nhận thức của đội ngũ cán bộ trẻ, xác định động cơ
học tập, rèn luyện, phấn đấu vƣơn lên đảm nhận và hoàn thành tốt nhiệm vụ đƣợc
giao. Đồng thời, mỗi cán bộ phải đề ra kế hoạch, đăng ký mốc phấn đấu về nâng
cao trình độ, năng lực, phẩm chất đạo đức từng năm; kết quả thực hiện kế hoạch
phải đƣợc tổ chức đảng và cấp trực tiếp quản lý coi là một trong những căn cứ xem
xét đánh giá cán bộ hàng năm.
Thứ bảy, đảm bảo chế độ đãi ngộ, chính sách đào tạo, bồi dưỡng để tạo động
lực, phát huy năng lực quản lý của cán bộ đạo cấp vụ.
98
Chính sách đãi ngộ cán bộ, công chức nói chung và cán bộ cấp vụ nói riêng
bao gồm cả đãi ngộ về vật chất và khuyến khích về tinh thần: tiền lƣơng, thƣởng;
phụ cấp chức vụ, khu vực, làm thêm giờ, trợ cấp khó khăn; phúc lợi, bảo hiểm xã
hội, bảo hiểm y tế, nhà công vụ và các dịch vụ xã hội đƣợc bao cấp một phần hoặc
toàn bộ; lƣơng hƣu, nghỉ ốm, nghỉ phép hàng năm, tham quan du lịch; sự tôn vinh
qua các danh hiệu của cơ quan, ngành và Nhà nƣớc trao tặng. Động lực làm việc
của ngƣời lao động gắn liền với lợi ích vật chất và tinh thần; công chức lãnh đạo
cấp Vụ cũng không nằm ngoài quy luật đó. Do vậy, muốn phát huy tốt năng lực
quản lý của đội ngũ cán bộ cấp vụ Tổng Thanh tra phải giải quyết hài hòa bài toán
lợi ích vật chất và tinh thần của họ.
Trƣớc tiến, cần có chế độ đặc thù để bảo đảm cán bộ, công chức thanh tra có
tính chuyên nghiệp trong thực hiện công vụ. Cán bộ cấp vụ trong ngành Thanh tra
phải đƣợc hƣởng chế độ đãi ngộ và các định mức tiêu chuẩn cao hơn các ngành
khác để bảo đảm sự liêm chính trong thực hiện nhiệm vụ và tƣơng xứng với nhiệm
vụ đƣợc giao.
Đồng thời, công tác thi đua khen thƣởng phải đƣợc quan tâm để kịp thời động
viên, khích lệ cán bộ, công chức nói chung và cán bộ cấp vụ nói riêng thực hiện công
vụ. Đảm bảo chế độ khen thƣởng phải là tấm gƣơng trong việc chấp hành các quy
định về hoạt động và các quy tắc đạo đức, nghề nghiệp trong công tác thanh tra, trong
hoạt động quản lý, là những nhân tố điển hình cần phải đƣợc nhân rộng. Công tác thi
đua phải đƣợc thực hiện trên nguyên tắc tự nguyện, công khai, dân chủ, đảm bảo tinh
thần đoàn kết hợp tác. Mọi cá nhân, tập thể tham gia phong trào thi đua, có đăng ký
thi đua, đủ tiêu chuẩn đều đƣợc xét công nhận danh hiệu thi đua, hình thức khen
thƣởng. Việc khen thƣởng phải bảm đảm kịp thời, chính xác, công khai, dân chủ,
thành tích đến đâu khen thƣởng đến đó. Tập thể, cá nhân đƣợc khen thƣởng phải thực
sự tiêu biểu, xứng đáng là gƣơng sáng cho mọi ngƣời trong cùng đơn vị cũng nhƣ các
đơn vị khác trong ngành noi theo. Kiên quyết tránh bệnh hình thức trong phát động
các phong trào thi đua và làm thấp giá trị công tác khen thƣởng. Không xét khen
99
thƣởng đối với cá nhân không hoàn thành nhiệm vụ hoặc vi phạm bị kỷ luật hoặc tập
thể có cá nhân vi phạm kỷ luật.
Ngoài ra, cơ quan cũng cần nghiên cứu cơ chế đảm bảo chế độ đào tạo, bồi
dƣỡng để nâng cao năng lực quản lý của đội ngũ lãnh đạo. Xây dựng kế hoạch đào
tạo, bồi dƣỡng CBCC của ngành dài hạn, trung hạn và ngắn hạn bảo đảm chất
lƣợng và tính khả thi của các kế hoạch, đặc biệt là các kế hoạch trung và ngắn hạn.
Việc xây dựng các kế hoạch cần phải bám sát nhu cầu của đội ngũ lãnh đạo cấp vụ
dựa trên những kết quả khảo sát thực tế. Ngoài ra, các kế hoạch cần xác định rõ
mục tiêu, đối tƣợng ƣu tiên cho từng giai đoạn.
Trong thời gian tới, Tổng Thanh tra cần chỉ đạo các đơn vị chuyên môn tiếp
tục đổi mới một cách căn bản nội dung đào tạo, bồi dƣỡng cán bộ thanh tra nói
chung và cán bộ cấp vụ nói riêng. Việc xác định đào tạo, bồi dƣỡng phải theo năng
lực và vị trí quản lý. Nội dung đào tạo, bồi dƣỡng phải đảm bảo: kiến thức, kỹ năng
và thái độ. Kiến thức ở đây là kiến thức xác định xuất phát từ chức năng, nhiệm vụ
và vị trí công việc của công chức lãnh đạo đó. Bên cạnh đó, phải hƣớng dẫn đƣợc
kỹ năng để thực hiện nhiệm vụ vừa đảm bảo theo đúng pháp luật, lại vừa đạt hiệu
quả cao nhất. Nhu cầu làm căn cứ xây dựng chƣơng trình và cấu trúc nội dung
chƣơng trình đƣợc xác định trong phạm vi hẹp vì hiện nay vẫn có tình trạng nhu cầu
xác định theo diện rộng nhƣ, theo ngạch, chức danh chung chung. Chỉ khi xác định
rõ phạm vi kiến thức, kỹ năng và nhu cầu đào tạo, bồi dƣỡng cho cán bộ cấp vụ mới
có thể tạo dựng đƣợc thái độ quản lý chuyên nghiệp đối với công việc.
Thứ tám, kiến nghị Tổng Thanh tra chỉ đạo các đơn vị có liên quan nghiên
cứu xây dựng và thực hiện Đề án thi tuyển chức danh lãnh đạo cấp vụ.
Chủ trƣơng, quan điểm của Đảng và chỉ đạo của Chính phủ về đổi mới cách
tuyển chọn công chức lãnh đạo, quản lý đã đƣợc thể hiện qua nhiều văn bản nhƣ:
Kết luận của Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ƣơng Đảng khóa X về
tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Chiến lƣợc cán bộ từ nay đến năm 2020 yêu cầu: “Mở
rộng việc thí điểm đổi mới cách tuyển chọn cán bộ vào các chức danh lãnh đạo cấp
phòng ở tỉnh, thành phố và cấp vụ ở các bộ, ngành Trung ương, xem xét đưa vào
100
tuyển chọn và thực hiện việc đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sử dụng theo quy hoạch”;
Văn kiện Đại hội XI tiếp tục xác định nhiệm vụ: “Thực hiện tốt Chiến lược cán bộ
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa; đổi mới tư duy, cách làm, khắc
phục những yếu kém trong từng khâu của công tác cán bộ. Xây dựng và thực hiện
nghiêm các cơ chế, chính sách phát hiện, tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ;
trọng dụng những người có tài, có đức”; Đề án “Đẩy mạnh cải cách chế độ công vụ,
công chức” đƣợc Thủ tƣớng Chính phủ phê duyệt đã xác định “đổi mới công tác bổ
nhiệm công chức lãnh đạo, quản lý: đổi mới phương thức tuyển chọn lãnh đạo cấp
vụ, cấp sở, cấp phòng”…
Trên cơ sở văn bản số 2424/BNV-CCVC ngày 09/5/2017 của Bộ Nội vụ về
việc hƣớng dẫn thực hiện Đề án thí điểm đổi mới cách tuyển chọn lãnh đạo, quản lý
cấp Vụ, cấp Sở, cấp phòng, kiến nghị nghiên cứu xây dựng Đề án thi tuyển chức
danh lãnh đạo cấp vụ. Trong đó, Đề án phải xác định rõ: Quan điểm, mục tiêu thi
tuyển lãnh đạo, quản lý cấp Vụ; đối tƣợng đƣợc thi tuyển; những nội dung cần thực
hiện trong thi tuyển phù hợp với từng vị trí đảm nhận lãnh đạo, quản lý; phƣơng
thức thi tuyển… để có thể lựa chọn đƣợc những cán bộ cấp vụ có năng lực đảm
nhiệm đƣợc tốt các yêu cầu đặt ra trong quản lý, điều hành chung hoạt động của
đơn vị và tham mƣu giúp Lãnh đạo Thanh tra Chính phủ thực hiện hiệu quả chức
năng quản lý nhà nƣớc về công tác thanh tra, tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố
cáo và phòng, chống tham nhũng.
Thứ chín, kiến nghị Tổng Thanh tra và các đơn vị chức năng tăng cường phối
hợp với Bộ Nội vụ và các bộ, ngành liên quan tiếp tục hoàn thiện các văn bản hướng
dẫn về công tác tổ chức cán bộ.
Sắp tới đây, Luật Thanh tra, Luật Khiếu nại, Luật Tố cáo, Luật Tiếp công dân,
Luật Phòng, chống tham nhũng và các văn bản hƣớng dẫn thi hành đƣợc sửa đổi, bổ
sung theo tinh thần của Chiến lƣợc phát triển ngành Thanh tra đến năm 2020, tầm
nhìn đến năm 2030 thì một số chức năng, nhiệm vụ của cơ quan thanh tra nhà nƣớc
có sự thay đổi so với trƣớc đây. Vì vậy, yêu cầu đặt ra đối với cán bộ, công chức
101
ngành Thanh tra nói chung và đội ngũ cán bộ cấp vụ nói riêng cũng đòi hỏi phải có
sự thay đổi để phù hợp với mục tiêu thực hiện chức năng, thẩm quyền đó.
Trong những định hƣớng đổi mới đó, việc xác định rõ chức năng của các cơ
quan thanh tra là một nội dung quan trọng. Với xu hƣớng chức năng của các cơ quan
thanh tra cần đƣợc chuyển đổi sang thực hiện xem xét, đánh giá việc thực hiện chính
sách, pháp luật, nhiệm vụ, quyền hạn đƣợc giao của cơ quan hành chính, cán bộ, công
chức; nội dung, phạm vi thực hiện thanh tra trách nhiệm sẽ đƣợc nghiên cứu mở rộng
cho phù hợp; các hoạt động thanh tra kinh tế - xã hội sẽ do các thiết chế khác thực
hiện nhƣ thông qua hoạt động kiểm toán hay các hoạt động kiểm tra của cơ quan
thanh tra chuyên ngành; việc thanh tra các vụ việc, nhất là các vụ việc liên quan đến
kinh tế - xã hội cần đƣợc giảm dần và tiến tới không còn…; tuy nhiên, không xây
dựng những thiết chế mới làm tăng thêm bộ máy, mà chỉ cơ cấu, quy định lại về chức
năng cho phù hợp với tình hình mới, góp phần bảo đảm bộ máy tinh gọn, hoạt động
hiệu lực, hiệu quả của các cơ quan trong bộ máy hành chính. Theo đó, công tác tổ
chức cán bộ cũng có nhiều nội dung cần phải quy định hƣớng dẫn cụ thể để tác động
đến việc thực hiện có hiệu quả các chức năng, nhiệm vụ của Ngành. Đó là hƣớng dẫn
về quy hoạch, tuyển dụng, bổ nhiệm, đào tạo, bồi dƣỡng và nâng cao đạo đức, nghiệp
vụ… để đáp ứng các yêu cầu nhiệm vụ mới.
Do vậy, Tổng Thanh tra và các đơn vị chức năng thuộc Thanh tra Chính phủ
cần tăng cƣờng phối hợp với Bộ Nội vụ tập trung hoàn thiện và thực hiện các quy
định nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có năng lực, có phẩm
chất đạo đức thực hiện tốt các nhiệm vụ đƣợc giao. Bên cạnh đó, cần phối hợp với
các cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền để xây dựng, thực hiện các quy định về chế độ
đãi ngộ đối với các cán bộ, công chức, viên chức ngành Thanh tra nhƣ: Xây dựng,
hoàn thiện các quy định về quy hoạch, tuyển dụng, bổ nhiệm, đánh giá cán bộ, công
chức, viên chức trong ngành Thanh tra; thực hiện rà soát, đánh giá, sắp xếp, bố trí
đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức cho phù hợp với yêu cầu thực hiện chức trách,
nhiệm vụ; định kỳ sát hạch, đánh giá đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức theo tiêu
chuẩn ngạch để có kế hoạch đào tạo, bồi dƣỡng và sử dụng cho phù hợp; nâng cao
102
kiến thức, kỹ năng của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức nhằm thực hiện hiệu
quả các nhiệm vụ chính trị của Ngành…
Thứ mười, kiến nghị Tổng Thanh tra Chính phủ chỉ đạo Vụ Pháp chế phối
hợp với các đơn vị thuộc Bộ Nội vụ sửa đổi, bổ sung quy định về các tiêu chuẩn
chức danh quản lý và tiêu chuẩn ngạch của công chức lãnh đạo cấp vụ.
Tính cứng nhắc của các tiêu chuẩn chức danh quản lý của công chức hiện nay
còn kéo dài sẽ làm lãng phí một nguồn lực rất lớn từ đội ngũ công chức trẻ, cản trở
việc thu hút những ngƣời có tài năng, phẩm chất từ khu vực tƣ vào khu vực công. Do
đó, cần có những quy định riêng đối với những trƣờng hợp đặc biệt dành cho công
chức trẻ tài năng, nổi trội cũng nhƣ những ngƣời ngoài khu vực nhà nƣớc muốn tham
gia vào nền công vụ, phục vụ nhân dân. Nếu nhƣ vẫn giữ những quy định mang tính
chất “cào bằng” đối với tất cả các tiêu chuẩn và đối tƣợng thì đối với những công
chức trẻ, có năng lực thực sự vẫn sẽ vƣớng vào các tiêu chuẩn về lý luận chính trị,
quản lý nhà nƣớc mang tính khắt khe, cứng nhắc... và vì thế họ sẽ không có cơ hội
đƣợc tham gia vào quá trình tuyển dụng cũng nhƣ không có đủ điều kiện để đƣợc
xem xét bổ nhiệm.
Ngoài ra, việc xác định tiêu chuẩn cụ thể của các chức danh quản lý của công
chức hiện nay có cả công chức ở trung ƣơng và công chức ở địa phƣơng. Nên đối
với một số tiêu chuẩn cụ thể, cần có sự cân nhắc, xem xét về mức độ phù hợp và
tính khả thi với tình hình thực tế ở từng địa phƣơng, cơ quan, đơn vị. Tùy vào
những vị trí công việc cụ thể mà cần phải có những tiêu chuẩn đặc thù, với những
yêu cầu về kiến thức, kỹ năng nhƣ thế nào cho phù hợp.
Với cán bộ cấp vụ cơ quan, chủ thể giữ ngạch Thanh tra viên chính trở lên nên
cần sửa đổi, bổ sung tiêu chuẩn thanh tra viên chính phù hợp với yêu cầu của thực
tế hơn.
Một là, sửa đổi, bổ sung nội dung tiêu chuẩn nghiệp vụ các ngạch thanh tra
viên chính theo hƣớng bao quát đƣợc hết yêu cầu của công tác thanh tra, giải quyết
khiếu nại, tố cáo, chống tham nhũng, đảm bảo đƣợc yêu cầu tiêu chuẩn nghiệp vụ
phải gắn chặt với chức năng, nhiệm vụ đƣợc giao của cơ quan thanh tra. Bổ sung
103
tiêu chuẩn về năng lực của thanh tra viên chính, thay “tổ chức thực hiện hiệu quả
các cuộc thanh tra đƣợc giao” bằng “tổ chức thực hiện có hiệu quả hoạt động thanh
tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng, chống tham nhũng”, đƣa thêm một số nhiệm
vụ, năng lực liên quan đến công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống
tham nhũng nhƣ giúp thủ trƣởng đơn vị xử lý đơn thƣ, giải quyết khiếu nại, tố cáo,
nắm vững quy trình, nghiệp vụ về cả công tác thanh tra; giải quyết khiếu nại, tố cáo;
tiếp công dân và phòng, chống tham nhũng, xây dựng văn bản chỉ đạo, tổ chức thực
hiện công tác thanh tra; giải quyết khiếu nại, tố cáo; tiếp công dân và phòng, chống
tham nhũng…
Hai là, sửa đổi, bổ sung nội dung các tiêu chuẩn về nhiệm vụ và năng lực của
ngạch Thanh tra viên chính hƣớng vào trọng tâm hiện nay và sắp tới đã đƣợc xác
định của hoạt động thanh tra là phát hiện sơ hở trong cơ chế, chính sách, pháp luật
để kiến nghị hoàn thiện, chuyển mạnh sang xem xét, đánh giá hiệu lực, hiệu quả
hoạt động của các cơ quan và ngƣời có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà
nƣớc bằng cách: bổ sung nhiệm vụ nghiên cứu đề xuất những vấn đề cần sửa đổi,
bổ sung, hoàn thiện về công tác quản lý của các ngành hay phát hiện những sơ hở
trong quản lý của các ngành, lĩnh vực hoặc một cấp quản lý để đề xuất những vấn
đề cần sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện các quy định về quản lý của Nhà nƣớc vào
nhiệm vụ của các ngạch thanh tra viên ở các mức độ khác nhau… Qua đó góp phần
đảm bảo các tiêu chuẩn nghiệp vụ các ngạch thanh tra viên giúp họ thực hiện tốt
đƣợc mục đích hàng đầu của Luật thanh tra 2010.
4.2.2. Nhóm giải pháp, kiến nghị với Chính phủ, Bộ Nội vụ và các cơ quan
có liên quan đến công tác quản lý cán bộ, công chức
Thứ nhất, Bội Nội vụ cần tham mưu với Chính phủ ban hành Nghị định quy
định về tiêu chuẩn chức danh lãnh đạo, quản lý trong các cơ quan hành chính nhà
nước nhằm quy định thống nhất, cụ thể về các tiêu chuẩn chức danh lãnh đạo của
công chức.
Một là, quy định tiêu chuẩn cụ thể chức danh lãnh đạo, quản lý trong các cơ
quan hành chính nhà nƣớc ở bộ, ngành, địa phƣơng. Ngoài các tiêu chuẩn chung
104
nhƣ tiêu chuẩn về phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống; tiêu chuẩn về hiểu biết; tốt
nghiệp đại học trở lên và có đủ sức khỏe để thực hiện nhiệm vụ... thì cần quy định
cụ thể tiêu chuẩn đối với từng chức danh, các tiêu chí đƣa ra phải rõ ràng, cụ thể,
mang tính định lƣợng để tạo thuận lợi cho việc kiểm tra, đánh giá cán bộ, công chức
lãnh đạo, quản lý.
Hai là, cần phải tách bạch rõ giữa ngạch và tiêu chuẩn chức danh lãnh đạo,
quản lý để tăng hiệu quả của chủ trƣơng thi tuyển chức danh quản lý, đổi mới tuyển
chọn lãnh đạo trong hoạt động công vụ; từ đó, lựa chọn đƣợc những ngƣời có năng
lực chủ động nắm bắt, phân tích đƣợc các yếu tố tác động trong quá trình xây dựng
tầm nhìn, chiến lƣợc và lộ trình thực hiện ở cơ quan; có tƣ duy biện chứng xây dựng
hoặc đổi mới các chính sách, hƣớng đến phát triển bền vững...
Ba là, việc xác định tiêu chuẩn chức danh quản lý của công chức phải gắn với
mô hình vị trí việc làm nhằm bảo đảm một cách tốt nhất tính công khai, minh bạch
trong việc quản lý, sử dụng công chức, nhất là trong khâu tuyển chọn và bổ nhiệm.
Tiêu chuẩn khi đƣợc xây dựng và ban hành phải tƣơng đối ổn định, phù hợp với vị
trí việc làm, nhằm thực hiện quan điểm đổi mới và nâng cao chất lƣợng cán bộ, công chức gắn với tiêu chuẩn chức danh26. Để việc xác định tiêu chuẩn chức danh
quản lý của công chức thật sự có hiệu quả thì trƣớc tiên cần xây dựng hệ thống vị trí
việc làm thật sự khoa học. Cần phải xác định rõ vị trí, cơ cấu và tiêu chuẩn chức
danh công chức trong từng cơ quan của Nhà nƣớc để làm căn cứ tuyển dụng và bố
trí sử dụng cán bộ, công chức lãnh đạo, quản lý; tập trung vào việc “xây dựng mới
tiêu chuẩn chức danh; bảo đảm nguyên tắc tập trung dân chủ, công khai, minh
bạch, khách quan, toàn diện, công tâm; lấy chất lượng, hiệu quả hoàn thành nhiệm vụ làm thước đo chính”27. Do đó, trƣớc hết Bộ Nội vụ cần nghiên cứu, hoàn thiện
các quy định về việc xác định tiêu chuẩn chức danh quản lý của công chức phù hợp
26 Bộ Chính trị, Nghị quyết số 39-NQ/TW ngày 17/4/2015 của Bộ Chính trị về tinh giản biên chế và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức. 27 Ban Chấp hành Trung ƣơng, Kết luận số 37-KL/TW ngày 02/2/2009, Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ƣơng khóa X về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Chiến lƣợc cán bộ từ nay đến năm 2020
với vị trí việc làm và chỉ tiêu biên chế. Đây là nguyên tắc cơ bản, chủ yếu để tiếp
105
tục hoàn thiện và thực hiện tiêu chuẩn chức danh quản lý của công chức. Mỗi vị trí
việc làm cần có những quy định về tiêu chuẩn cụ thể, trên cơ sở đó mới có thể thực
hiện các công việc tiếp theo có hiệu quả nhƣ: Bổ nhiệm, đào tạo, bồi dƣỡng, lãnh
đạo, quản lý...
Bốn là, quy định các tiêu chuẩn cần gắn liền hơn với năng lực công tác thực
tiễn của công chức quản lý. Xét về nội dung, tiêu chuẩn các ngạch và các chức danh
lãnh đạo, quản lý đều đƣợc hình thành bởi các tiêu chuẩn từ thấp đến cao, do mức
độ phức tạp và yêu cầu công việc của từng chức vụ, chức danh quy định. Kết cấu
tiêu chuẩn chức danh quản lý của công chức phải đảm bảo các nội dung chủ yếu đó
nhƣ: Chức trách, hiểu biết và yêu cầu về trình độ nhằm xác định nội dung chức
trách, khối lƣợng kiến thức, kỹ năng và mức độ đào tạo cơ bản cần phải có. Trong
đó, hệ thống tiêu chuẩn chức danh của công chức quản lý cần tiếp tục đƣợc sửa
đổi và bổ sung theo hƣớng chú trọng đến năng lực thực tiễn. Bên cạnh các tiêu
chuẩn về phẩm chất, trình độ, rất cần thiết phải xác định các tiêu chuẩn về kỹ
năng, ứng với một khung năng lực công tác cụ thể của từng vị trí lãnh đạo, quản
lý, để có cơ sở xem xét, kiểm tra, đánh giá và giám sát quá trình công tác của đội
ngũ công chức này.
Năm là, cần có quy định mang tính mở để ngƣời có năng lực nổi trội, tài năng
khi đƣợc bổ nhiệm hoặc điều động, bổ nhiệm nhƣng chƣa đáp ứng đủ tiêu chuẩn về
năm kinh nghiệm công tác, về trình độ nghiệp vụ chuyên môn đối với chức danh
cần bổ nhiệm thì thực hiện theo quy định tại các văn bản quy phạm pháp luật khác.
Thứ hai, Bộ Nộ vụ cần quy định rõ, cụ thể hơn thẩm quyền, trách nhiệm của
người đứng đầu trong việc quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng và đánh giá
công chức lãnh đạo cấp vụ thuộc quyền quản lý.
Theo đó, Bội Nội vụ cần ban hành theo thẩm quyền văn bản hƣớng dẫn về
trách nhiệm và quyền hạn của ngƣời đứng đầu cơ quan, đơn vị trong công tác nhân
sự. Cần thiết phải có sự chỉ đạo rà soát để bổ sung, điều chỉnh quy chế, quy trình về
công tác cán bộ theo hƣớng đề cao thẩm quyền và trách nhiệm ngƣời đứng đầu.
Nhằm nâng cao năng lực quản lý của lãnh đạo cấp vụ, ngƣời đứng đầu phải đƣợc
quyền và có trách nhiệm chủ động thể hiện chính kiến trong việc giới thiệu nhân sự
106
cụ thể đƣa vào diện quy hoạch; trong đánh giá, bổ nhiệm, khen thƣởng, kỷ luật...
công chức lãnh đạo cấp vụ.
Mặc dù, về nguyên tắc, phải thực hiện nghiêm nguyên tắc "tập thể lãnh đạo, cá
nhân phụ trách" trong công tác cán bộ nhƣng vẫn phải có cơ chế pháp lý đầy đủ để
vừa phát huy cao nhất trí tuệ, bản lĩnh và quyền hạn, vừa có sự ràng buộc chặt chẽ,
tƣơng ứng về trách nhiệm chính trị và pháp lý của ngƣời đứng đầu, ngăn ngừa và hạn
chế tình trạng độc đoán, chuyên quyền, cá nhân chủ nghĩa trong công tác quy hoạch,
đào tạo, bồi dƣỡng, sử dụng và đánh giá cán bộ, công chức.
Thứ ba, Bộ Nội vụ tiếp tục nghiên cứu, sớm ban hành Nghị định về thanh tra
công vụ.
Nghị định về thanh tra công vụ với nội dung bao quát nhằm thực hiện việc
xem xét, đánh giá một cách toàn diện việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn của các cơ quan nhà nƣớc, đội ngũ cán bộ, công chức nói chung và cơ quan
thanh tra, đội ngũ cán bộ thanh tra, cán bộ cấp vụ trong cơ quan Thanh tra Chính
phủ nói riêng.
Thanh tra công vụ với đối tƣợng là các cán bộ, công chức và nội dung là việc
thực hiện chức trách, nhiệm vụ của cán bộ, công chức và công tác quản lý, sử dụng
cán bộ, công chức thực sự là một phƣơng thức hiệu quả. Tại kỳ họp thứ 4 Quốc hội
khóa X, Thủ tƣớng Chính phủ đã nêu rõ nhiệm vụ xây dựng để ban hành Quy chế
Thanh tra công vụ nhƣ là một trong những biện pháp đẩy mạnh cải cách hành chính
của Chính phủ. Tiếp đó, tại kỳ họp thứ 5 Quốc hội khóa X, báo cáo của Chính phủ
nhấn mạnh nhiệm vụ: “Đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra hoạt động công
vụ…” Trong Báo cáo của Chính phủ tại kỳ họp thứ 5 Quốc hội khoá XI cũng xác
định: “Đặt Thanh tra công vụ thành một công tác thường xuyên trong chương trình
làm việc của cán bộ lãnh đạo”. Báo cáo của Chính phủ trình Quốc hội tại kỳ họp
thứ 6, Quốc hội khóa XI xác định “Tăng cường kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm
trong việc thực hiện chế độ công vụ của cán bộ, công chức”.
Luật Cán bộ, công chức năm 2008 dành riêng một chƣơng với 02 điều: Điều
74 và Điều 75 quy định hoạt động thanh tra công vụ và giới hạn phạm vi thanh tra
107
công vụ gồm hai nội dung: (i) Thanh tra việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của
cán bộ, công chức; và (ii) Thanh tra việc thực hiện tuyển dụng, bổ nhiệm, đào tạo,
bồi dƣỡng, điều động, luân chuyển, biệt phái, miễn nhiệm, đánh giá, thôi việc, nghỉ
hƣu, khen thƣởng, xử lý kỷ luật công chức, đạo đức, văn hóa giao tiếp trong thi
hành công vụ của công chức và các điều kiện bảo đảm cho hoạt động công vụ. Tuy
nhiên cho đến nay, mặc dù dự thảo Nghị định về Thanh tra công vụ đã đƣợc xây
dựng nhƣng vẫn chƣa đƣợc ban hành. Do vậy, trong thời gian tới, Thanh tra Chính
phủ với tƣ cách là cơ quan quản lý nhà nƣớc cao nhất về công tác thanh tra cần
tham mƣu cho Chính phủ, Thủ tƣớng Chính phủ tiếp tục xem xét, hoàn thiện và ban
hành Nghị định về thanh tra công vụ, góp phần thúc đẩy hoàn thiện các công cụ
pháp lý cho hoạt động xem xét, đánh giá việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn của đội ngũ cán bộ, công chức nói chung và đội ngũ công chức lãnh đạo nói
riêng, góp phần thúc đẩy giám sát và bảo đảm cho nền hành chính hoạt động có
hiệu lực, hiệu quả. Quá trình hoàn thiện và ban hành Nghị định về vấn đề này,
Thanh tra Chính phủ cần phối hợp chặt chẽ với Bộ nội vụ để tiếp cận các nội dung
của Dự thảo theo tinh thần của Chiến lƣợc phát triển ngành Thanh tra, đặc biệt là xu
hƣớng chuyển mạnh sang thực hiện xem xét, đánh giá nền hành chính nhà nƣớc
trong hoạt động của các cơ quan thanh tra nhà nƣớc.
108
KẾT LUẬN
Nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ, công chức nói chung và đội ngũ cán bộ
cấp vụ là một yêu cầu quan trọng trong quản lý và sử dụng đội ngũ cán bộ, công
chức hiện nay. Điều này là cơ sở nhằm đáp ứng các yêu cầu trong quản lý, tổ chức
thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ chính trị đƣợc giao. Nâng cao năng lực cho đội
ngũ cán bộ đƣợc dựa trên việc trang bị kiến thức quản lý, rèn luyện kĩ năng, bồi
dƣỡng thái độ. Bên cạnh đó còn phải làm cho những kiến thức trở thành hiểu biết
thực sự; làm cho những kĩ năng đƣợc đƣợc thực hành thƣờng xuyên, làm cho thái
độ có điều kiện, môi trƣờng để bộc lộ, hình thành, phát triển qua các tình huống
quản lý, trở thành phẩm chất bền vững của mỗi ngƣời. Thực hiện để đạt đƣợc những
cấu trúc kiến thức, kỹ năng này là cơ sở để đạt đƣợc yêu cầu về năng lực quản lý.
Trên cơ sở các tiếp cận lý thuyết về kỹ năng quản lý, Đề tài đã phân tích, đánh
giá thực trạng đội ngũ lãnh đạo cấp vụ của Thanh tra Chính phủ, trên cơ sở các tiêu
chí, cách tiếp cận và phƣơng pháp nghiên cứu đƣợc đƣa ra tại Chƣơng 1 và Chƣơng
2 của Đề tài. Việc phân tích, đánh giá dựa trên các số liệu chính thống qua các báo
cáo tổng kết đã đƣa ra bức tranh toàn cảnh về năng lực của đội ngũ cán bộ cấp vụ
của Thanh tra Chính phủ. Bên cạnh những mặt đã đạt đƣợc, vẫn còn những bất cập,
hạn chế trong năng lực của đội ngũ cán bộ cấp vụ của Thanh tra Chính phủ, nhƣ:
Mức độ hiểu biết chuyên sâu về nghiệp vụ quản lý của lĩnh vực chuyên môn,
chuyên ngành của một số công chức lãnh đạo cấp vụ chƣa cao dẫn đến tiến độ giải
quyết công việc còn chậm, chƣa bảo đảm tính khách quan, khoa học; Vẫn còn tình
trạng chƣa chủ động tham mƣu, đề xuất với lãnh đạo Thanh tra Chính phủ trong
lĩnh vực công tác đƣợc phân công, nhất là những vụ việc tiêu cực đã đƣợc báo chí
phản ánh, dƣ luận xã hội quan tâm; Một số công chức lãnh đạo cấp vụ có hành vi vi
phạm nội quy, quy chế của cơ quan, vi phạm pháp luật đến mức phải xử lý kỷ luật;
Một số công chức lãnh đạo cấp vụ còn thiếu những kỹ năng cơ bản trong chỉ đạo,
điều hành, quy tụ cán bộ dẫn đến tình trạng mất đoàn kết nội bộ; Một số công chức
lãnh đạo cấp vụ thiếu các kỹ năng chủ trì, tổ chức xây dựng các đề án, văn bản quy
phạm pháp luật.
109
Trên cơ sở những bất cập, hạn chế, Đề tài đã đƣa ra các định hƣớng, giải pháp
cho vấn đề này. Các định hƣớng nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ cấp vụ của
Thanh tra Chính phủ đƣợc dựa trên cơ sở bám sát chủ trƣơng, đƣờng lối đổi mới
của Đảng và Nhà nƣớc về công tác tổ chức cán bộ; đáp ứng yêu cầu đổi mới quản lý
nhà nƣớc, cải cách hành chính và hội nhập quốc tế; bám sát mục tiêu, nhiệm vụ, giải
pháp của Chiến lƣợc phát triển ngành Thanh tra đến năm 2020, tầm nhìn đến năm
2030; và phù hợp với mục tiêu nâng cao vị trí, vai trò của cơ quan thanh tra trong
bộ máy nhà nƣớc. Các giải pháp tập trung vào hoàn thiện pháp luật và nâng cao
năng lực cho đội ngũ cán bộ cấp vụ của Thanh tra Chính phủ trong thời gian tới,
nhằm giúp Tổng Thanh tra Chính phủ thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ mà Đảng,
Nhà nƣớc và nhân dân giao phó.
110
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban Chấp hành Trung ƣơng, 2009. Kết luận số 37-KL/TW, Hội nghị lần thứ chín
Ban Chấp hành Trung ương khóa X về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Chiến lược
cán bộ từ nay đến năm 2020. Hà Nội, tháng 2 năm 2009.
2. Ban Tổ chức Trung ƣơng, 2012. Hướng dẫn số 15-HD/BTCTW của Ban Tổ
chức Trung ương về công tác quy hoạch công chức lãnh đạo, quản lý. Hà Nội,
tháng 11 năm 2009.
3. Bộ Chính trị, 2015. Nghị quyết số 39-NQ/TW của Bộ Chính trị về tinh giản biên
chế và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức. Hà Nội, tháng 5 năm
2015.
4. Bộ Nội Vụ, 2012. Quyết định số 1204/QĐ-BNV quy định tiêu chuẩn chức danh
lãnh đạo, quản lý ngành nội vụ. Hà Nội, tháng 11 năm 2012.
5. Chính phủ, 2009. Nghị quyết số 21/NQ-CP ngày 12/05/2009 ban hành Chiến
lược quốc gia về PCTN đến năm 2020. Hà Nội, tháng 5 năm 2009.
6. Chính phủ, 2011. Nghị quyết số 30c/NQ-CP ban hành Chương trình tổng thể cải
cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011 - 2020. Hà Nội, tháng 11 năm 2011.
7. Chính phủ, 2011. Nghị định số 97/2011/NĐ-CP quy định về thanh tra viên và
cộng tác viên thanh tra. Hà Nội, tháng 10 năm 2011.
8. Chính phủ, 2012. Nghị định số 83/2012/NĐ-CP của Chính phủ Quy định chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Thanh tra Chính phủ. Hà Nội,
tháng 9 năm 2012.
9. Chính phủ, 2013. Nghị định số 90/2013/NĐ-CP quy định trách nhiệm giải trình
của cơ quan nhà nước trong việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được giao. Hà
Nội, tháng 8 năm 2013.
10. Đảng Cộng sản Việt Nam, 2001. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X.
Hà Nội: NXB Chính trị quốc gia.
11. Đảng Cộng sản Việt Nam, 2006. Văn kiện Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành
TW khóa X. Hà Nội: NXB Chính trị quốc gia.
111
12. Đảng Cộng sản Việt Nam, 2011. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ
XI. Hà Nội: NXB Chính trị quốc gia.
13. Đảng Cộng sản Việt Nam, 2016. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ
XII. Hà Nội: NXB Chính trị quốc gia.
14. Nguyễn Minh Đoan, 2016. Cơ chế pháp lý kiểm soát quyền lực nhà nước của
các cơ quan nhà nước ở Việt Nam hiện nay. Hà Nội: NXB Chính trị quốc gia.
15. Hà Thị Mai Hiên, 2014. Những nội dung cơ bản của Hiến pháp sửa đổi năm
2013 về trách nhiệm giải trình của các cơ quan hiến định và định hƣớng triển
khai thực hiện. Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 6/2014, trang 22.
16. Bùi Thị Ngọc Mai, 2016. Trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan hành chính
nhà nước. Hà Nội: NXB Chính trị quốc gia.
17. Ngân hàng thế giới, 1998. Nhà nước trong một thế giới đang chuyển đổi. Hà
Nội: NXB Chính trị quốc gia.
18. Nguyễn Nhƣ Ý, 1998. Đại từ điển Tiếng Việt. Hà Nội: NXB Văn hóa - Thông
tin.
112