BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO …………../……………

BỘ NỘI VỤ …../…..

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA TRẦN KHÁNH HỒNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ AN TOÀN THỰC PHẨM TRÊN ĐỊA BÀN THỊ XÃ BUÔN HỒ, TỈNH ĐĂK LĂK LUẬN VĂN THẠC SĨ: QUẢN LÝ CÔNG

ĐĂK LĂK- NĂM 2020

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NỘI VỤ

…………../……………

…../…..

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

TRẦN KHÁNH HỒNG

QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ AN TOÀN THỰC PHẨM

TRÊN ĐỊA BÀN THỊ XÃ BUÔN HỒ, TỈNH ĐĂK LĂK

LỜI CAM ĐOAN

LUẬN VĂN THẠC SĨ: QUẢN LÝ CÔNG

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi. Các

Chuyên ngành: Quản lý công

Mã số: 8340403

tài liệu, số liệu nêu trong luận văn này là xác thực, có nguồn gốc rõ ràng.

Trần Khánh Hồng

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

TIẾN SĨ: ĐẶNG XUÂN HOAN

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi. Các

tài liệu, số liệu nêu trong luận văn này là xác thực, có nguồn gốc rõ ràng.

Trần Khánh Hồng

MỤC LỤC

Trang

Trang phụ bìa

Lời cam đoan

Mục lục

Danh mục các chữ viết tắt

Danh mục các bảng số liệu

Danh mục hình vẽ, đồ thị

01 MỞ ĐẦU

07

Chương 1: CƠ SỞ KHOA HỌC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ AN TOÀN THỰC PHẦM

07 1.1.Tổng quan về thực phẩm và an toàn thực phẩm

17 1.2. Quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm

41

1.3. Kinh nghiệm quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm ở một số địa phương

46

Chương 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ AN TOÀN THỰC PHẨM TRÊN ĐỊA BÀN THỊ XÃ BUÔN HỒ, TỈNH ĐĂK LĂK

46 2.1. Khái quát về thị xã Buôn Hồ

49

69

2.2. Đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm trên địa bàn thị xã Buôn Hồ 2.3. Nguyên nhân những hạn chế, hạn chế của quản lý nhà nước trên địa bàn thị xã Buôn Hồ hiện nay

74

Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC TRÊN ĐỊA BÀN THỊ XÃ BUÔN HỒ, TỈNH ĐĂK LĂK

74 3.1. Quan điểm của Đảng về an toàn thực phẩm

77

80

92 3.2. Quan điểm của Đảng bộ thị xã Buôn Hồ, tỉnh ĐăkLăk về quản lý nhà nước an toàn thực phẩm 3.3. Giải pháp kiện toàn công tác quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm trên địa bàn thị xã Buôn Hồ 3.4. Kiến nghị với các cơ quan hành chính

95 KẾT LUẬN

96 TÀI LIỆU THAM KHẢO

99 PHỤ LỤC

DANH MỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮT

ATTP: An toàn thực phẩm

BMNN: Bộ máy nhà nước

CBCC: cán bộ, công chức

CQQLNN: Cơ quan quản lý nhà nước

CSSXKD: Cơ sở sản xuất kinh doanh

Thực hành sản xuất nông nghiệp tốt (Good Agriculture

GAP: Practice)

GMP: Thực hành sản xuất tốt (Good Manufacturing Practice)

Phân tích nguy cơ và kiểm soát tới hạn (Hazard Analysis

HACCP: Critical Control Point)

NĐTP: Ngô độc thực phẩm

QLNN: Quản lý nhà nước

QLHCNN: Quản lý hành chính nhà nước

TP: Thực phẩm

VBQPPL: Văn bản quy phạm pháp luật

VSATTP: Vệ sinh an toàn thực phẩm

DANH MỤC CÁC BẢNG SỐ LIỆU

Số

Tên bảng Trang hiệu

bảng

2.1 Số ca ngộ độc thực phẩm xảy ra trên địa bàn từ 2015 đến nay 48

2.2 Số liệu các cơ sở đủ điều kiện ATTP 54

2.3 Số liệu nhân lực quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm 61,62

2.4 Số liệu cơ sở vật chất, trang thiết bị 64

2.5 Nguồn tài chính phục vụ công tác QLNN về ATTP 66

2.6 Số liệu công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật 67

2.7 Số liệu kiểm tra, giám sát các cơ sở sản xuất/kinh doanh 69

ATTP trên địa bàn

DANH MỤC HÌNH VẼ, BIỂU ĐỒ

Số hiệu

hình vẽ/ Tên hình vẽ/biểu đồ Trang

biểu đồ

Sơ đồ bộ máy quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm Hình vẽ 2.1 58 trên địa bàn thị xã Buôn Hồ hiện nay.

So sánh số lượng, trình độ cán bộ, công chức làm việc

Biểu đồ 2.1 trong cơ quan QLNN về ATTP với số lượng được 62

phân công trực tiếp làm nhiệm vụ QLNN về ATTP.

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Hàng ngày mỗi người trong chúng ta đều phải sử dụng thực phẩm để

duy trì sự sống, đảm bảo sức khỏe làm việc nhưng thực phẩm mà chúng ta

đưa vào cơ thể hàng ngày có chất lượng hay không, có đảm bảo vệ sinh hay

không đó là cả một vấn đề? Việc đảm bảo chất lượng an toàn thực phẩm giữ

vị trí quan trọng trong sự nghiệp bảo vệ sức khỏe nhân dân, góp phần giảm

tỷ lệ mắc bệnh, duy trì và phát triển nòi giống, tăng cường sức lao động, học

tập, thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế, văn hóa xã hội và thể hiện nếp sống văn

minh.

Chính vì vậy mà an toàn thực phẩm là một trong những vấn đề mà

Đảng, Nhà nước ta đặc biệt quan tâm, coi đây là một vấn đề có ý nghĩa lớn

về kinh tế, xã hội, sức khỏe cộng đồng và sự phát triển của cả một thế hệ.

Sự quan tâm đó thể hiện bằng việc hệ thống pháp luật về an toàn thực

phẩm đang ngày một được hoàn thiện, bộ máy quản lý nhà nước, đội ngũ

cán bộ, công chức thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về an toàn toàn thực

phẩm ngày một được nâng cao cả về số lượng lẫn chất lượng, công tác thanh

kiểm tra cũng được tăng cường, nhiều vụ vi phạm an toàn thực phẩm bị xử

lý, xử phạt ... Tuy nhiên, công tác quản lý nhà nước về vệ sinh an toàn thực

phẩm đang gặp phải những khó khăn nhất định vì quy mô sản xuất, chế biến,

kinh doanh thực phẩm thường nhỏ lẻ nhưng lại nhiều; điều kiện cơ sở vật

chất phục vụ cho công tác thanh, kiểm tra còn hạn chế; trình độ, năng lực

của đội ngũ cán bộ, công chức còn hạn chế, chuyên môn chưa sâu bên cạnh

đó ý thức, trách nhiệm của người sản xuất, chế biến, kinh doanh còn chưa

cao, còn vì lợi nhuận mà sẳn sàng sản xuất ra những thực phẩm kém chất

lượng, không đảm bảo an toàn thực phẩn, thậm chí có những thực phẩm

chứa những chất cấm có chứa mầm móng gây ung thư, chết người …

Trong quá trình xây dựng thị xã Buôn Hồ trở thành đô thị loại IV, cùng

với việc đô thị hóa và phát triển kinh tế của địa phương thì vấn đề quản lý

2

nhà nước vệ sinh an toàn thực phẩm cũng phải thay đổi phù hợp với điều

kiện thực tiễn. Hiện tại, hơn 100 nghìn dân sống trên địa bàn thị xã Buôn

Hồ, vẫn đang sử dụng những thực phẩm hàng ngày không rõ nguồn gốc,

chất lượng, an toàn không được đảm bảo, chưa có một tập thể hay cá nhân

nào sản xuất, chăn nuôi theo tiêu chuẩn VietGAP, ý thức chấp hành pháp

Luật an toàn thực phẩm của người dân tại địa phương vẫn còn chưa cao, vẫn

còn tình trạng “rau hai luống, lợn hai chuồng”. Công tác tuyên truyền phổ

biến, giáo dục pháp luật về an toàn thực phẩm đã được triển khai nhưng

chưa thường xuyên, hiệu quả không cao. Công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý

vi phạm, chế tài xử lý chưa đủ sức răn đe, phòng ngừa đối với những hành vi

vi phạm an toàn thực phẩm.

Nhận thức được tầm quan trọng của an toàn thực phẩm đối với đời sống

của mỗi con người và sự phát triển của xã hội nên em chọn đề tài “Quản lý

nhà nước về an toàn thực phẩm trên địa bàn thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đăk

Lăk” với mong muốn có một công trình nghiên cứu về lý luận và thực tiển

của vấn đề an toàn thực phẩm trên địa bàn mình đang sinh sống, để đánh giá

lại thực trạng, nhằm phát hiện những bất cập, tồn tại và đề ra những giải

pháp nhằm hoàn thiện công tác quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm tại

địa phương.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến luận văn

“Quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm” đã có một số Luận văn hệ

thống hóa kiến thức liên quan tới quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm,

chỉ ra chủ thể, khách thể, nội dung của hoạt động quản lý nhà nước về an

toàn thực phẩm, đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm

ở Việt Nam đồng thời đề xuất các mục tiêu, phương hướng, giải pháp nhằm

tiếp tục hoàn thiện quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm ở Việt Nam như:

Luận văn thạc sĩ quản lý công “Quản lý nhà nước về vệ sinh an toàn

thực phẩm trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh”, tác giả Vũ Thanh Hoa, Học viện

chính trị hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2011. Đề tài đã nghiên cứu

công tác quản lý nhà nước về vệ sinh an toàn thực phẩm đối với những cơ sở

3

sản xuất, kinh doanh thực phẩm ăn uống trên địa bàn, chủ yếu là các điểm

kinh doanh lớn, nhà hàng, khu công nghiệp thuộc sự quản lý của Ngành Y

tế, đề tài cũng đã đưa ra những tồn tại, bất cập trong quá trình quản lý cũng

như những những giải pháp nhằm hoàn thiện hơn nữa công tác quản lý nhà

nước về an toàn thực phẩm trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh.

Luận văn thạc sĩ quản lý công “Quản lý nhà nước về vệ sinh an toàn

thực phẩm trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh”, tác giả Trần Thị Khúc, Học viện

Nông nghiệp Việt Nam, năm 2014. Luận văn đã đưa ra cơ sở lý luận về

VSATTP, QLNN về VSATTP phân tích thực trạng, đưa ra những hạn chế

tồn tại đối với QLNN về VSATTP trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh. Trên cơ sở

đó, đề xuất các giải pháp và đưa ra kiến nghị nhằm hoàn thiện QLNN về

VSATTP trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh. Tuy nhiên, luận văn chỉ có giá trị tham

khảo đối với một mãng quản lý của Ngành Y tế tức vệ sinh an toàn thực

phẩm đối với những thực phẩm ăn uống đã qua chế biến trên địa bàn, chưa

có nhiều ý nghĩa đối với thực tiễn QLNN về ATTP của thị xã Buôn Hồ.

Đề tài tiến sĩ “Quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm ở Việt Nam hiện

nay” của tác giả Bùi Thị Hồng Nương, Viện hàn lâm khoa học xã hội Việt

Nam, năm 2019. Đề tài của tác giả nghiên cứu, số liệu mới, mang tích đánh

giá khá tổng quát về tình hình an toàn thực phẩm trên địa bàn cả nước,

nhưng luận văn chỉ tập trung vào quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm ở

cấp Trung ương chưa có nhiều ý nghĩa thực tiễn đối với quản lý nhà nước về

an toàn toàn thực phẩm với cấp huyện/thị, trong đó có thị xã Buôn Hồ, tỉnh

Đăk Lăk.

3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích

Mục đích nghiên cứu đề tài nhằm đánh giá thực trạng quản lý nhà nước

về an toàn thực phẩm trên địa bàn thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đăk Lăk, tìm ra

nguyên nhân của những kết quả đạt được và những tồn tại, hạn chế trong quá

trình quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm. Trên cơ sở đó đề xuất những

4

giải pháp nhằm góp phần nâng cao hơn nữa hiệu quả công tác quản lý nhà

nước về an toàn thực phẩm tại địa phương.

3.2. Nhiệm vụ

- Nghiên cứu cơ sở lý luận của quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm,

xác định chủ thể, khách thể và các nội dung hoạt động.

- Phân tích, đánh giá thực trạng, tìm ra những hạn chế và nguyên nhân

những hạn chế của hoạt động quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm trên

địa bàn thị xã Buôn Hồ.

- Đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả quản lý nhà

nước về an toàn thực phẩm trên địa bàn thị xã Buôn Hồ.

4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Hoạt động quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm trên địa bàn thị xã

Buôn Hồ.

Các cơ quan quản lý nhà nước và các cán bộ, công chức làm việc trong

Ủy ban nhân dân thị xã, Phòng Kinh tế, Phòng Y tế, Trung tâm y tế.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Phạm vi về không gian: Địa bàn thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đăk Lăk.

Phạm vi về thời gian: 05 năm, từ 2015 đến 09/2020.

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Phương pháp luận

Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa

Mác-Lênin: dựa trên những hệ thống, quan điểm, các nguyên tắc chỉ đạo để

xây dựng, lựa chọn, vận dụng các phương pháp trong nhận thức và thực tiễn.

Đảng Cộng sản Việt Nam về an toàn thực phẩm: dựa vào những văn

bản chỉ đạo của Đảng chỉ đạo về các vấn đề liên quan đến thực phẩm

Quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm: Luật an toàn thực phẩm, các

Nghị định, hướng dẫn liên quan …

5.2. Phương pháp nghiên cứu

5

Để thực hiện mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu, Luận văn áp dụng các

phương pháp nghiên cứu: Phân tích, tổng hợp: dựa trên những quan điểm, cơ

sở lý luận, các báo cáo thực tiễn, các số liệu chung để phân tích làm rõ

những vấn đề cụ thể, tuy nhiên phân tích cần được bổ sung tổng hợp để tổng

hợp lại những kết quả từ phân tích, nhằm đưa ra những nhận định, đánh giá

chính xác; diễn dịch: tác giã sử dụng phương pháp này để trình bày những

nội dung mà mình nghiên cứu được bằng văn viết để người đọc có thể hiểu

được những vấn đề mà tác giả nghiên cứu; điều tra xã hội học: Tác giả sử

dụng phương pháp điều tra xã hội học bằng cách lập các bảng hỏi, điều tra

03 đối tượng là cán bộ, công chức, đối tượng là chủ các cơ sở kinh doanh

thực phẩm, đối tượng là người tiêu dùng để làm sáng tỏ hơn những kết quả

nghiên cứu của Đề tài, phần kết quả điều tra xã hội học sẻ được đưa vào

những nhận định, đánh giá phần ưu và khuyết điểm của từng nội dung tương

ứng, trong đó chủ yếu là công tác tuyên truyền, vận động.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài

6.1. Về mặt lý luận

- Kết quả nghiên cứu của Luận văn sẽ là những bổ sung quan trọng

vào lý luận quản lý công; góp phần làm sáng tỏ những quan điểm của Đảng

Cộng sản Việt Nam đối với QLNN về ATTP. Bên cạnh đó, góp phần nâng

cao nhận thức về vai trò, sự cần thiết của việc đảm bảo ATTP đối với xã hội

và QLNN về ATTP.

- Luận văn là đóng góp quan trọng vào hệ thống tài liệu tham khảo

cho các nhà hoạch định chính sách, các nhà quản lý, các nhà nghiên cứu và

các đối tượng khác quan tâm.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho hoạt động quản lý

nhà nước của các cơ quan quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm trên địa

bàn thị xã Buôn Hồ. Đồng thời, phục vụ hoạt động nghiên cứu khoa học,

giảng dạy và học tập tại các cơ sở đào tạo chuyên ngành về hành chính, quản

lý nhà nước, an toàn thực phẩm.

6

Áp dụng các giải pháp sẽ nâng cao hiệu quả của hoạt động quản lý

nhà nước về an toàn thực phẩm, góp phần phát triển kinh tế- xã hội.

7. Kết cấu đề tài

Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, luận văn

gồm 3 chương

Chương 1. Cơ sở khoa học quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm.

Chương 2. Thực trạng quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm trên địa

bàn thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đăk Lăk.

Chương 3. Quan điểm và giải pháp quản lý nhà nước về an toàn thực

phẩm trên địa bàn thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đăk Lăk.

7

NỘI DUNG

Chương 1:

CƠ SỞ KHOA HỌC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC

VỀ AN TOÀN THỰC PHẨM

1.1. Tổng quan về thực phẩm và an toàn thực phẩm

1.1.1. Thực phẩm

Thực phẩm là một khái niệm đã tồn tại từ rất lâu và cũng có rất nhiều

nhà khoa học, nhiều tổ chức quốc tế và nhiều văn bản QLNN đưa ra những

khái niệm khác nhau như:

Theo Ủy ban Tiêu chuẩn thực phẩm Quốc tế (Codex) thì "thực phẩm

là tất cả các chất đã hoặc chưa chế biến nhằm sử dụng cho con người bao

gồm đồ ăn, uống, nhai, ngậm, hút và các chất được sử dụng để sản xuất, chế

biến hoặc xử lý thực phẩm, nhưng không bao gồm mỹ phẩm và những chất

chỉ được dùng như dược phẩm". Theo tiêu chuẩn trên thì thực phẩm bao

gồm cả lương thực, đồ uống, đồ ngậm, nhai (kẹo cao su), và đồ hút (thuốc

lá) [06].

Còn theo từ điễn tiếng việt thì thực phẩm, hay còn được gọi là thức

ăn, là bất kỳ vật phẩm nào, bao gồm chủ yếu các chất: chất bột

(cacbohydrat), chất béo (lipit), chất đạm (protein), hoặc nước, mà con người

hay động vật có thể ăn hay uống được, với mục đích cơ bản là thu nạp

các chất dinh dưỡng nhằm nuôi dưỡng cơ thể hay vì sở thích [15, tr.1111-

1112]. Các thực phẩm có nguồn gốc từ thực vật, thực phẩm có nguồn gốc

động vật, vi sinh vật hay các sản phẩm chế biến từ phương pháp lên

men như rượu, bia.

Theo Pháp lệnh vệ sinh an toàn thực phẩm năm 2003, thực phẩm

được hiểu “là những sản phẩm mà con người ăn, uống ở dạng tươi, sống

hoặc đã qua chế biến, bảo quản” (khoản 1, điều 3, Pháp lệnh an toàn thực

phẩm 2003) [27].

8

Theo Luật An toàn thực phẩm thực phẩm là sản phẩm mà con người

ăn, uống ở dạng tươi sống hoặc đã qua sơ chế, chế biến, bảo quản. Thực

phẩm không bao gồm mỹ phẩm, thuốc lá và các chất sử dụng như dược

phẩm. (khoản 20, điều 2, Luật an toàn thực phẩm năm 2010) [20].

Nguồn gốc của thực phẩm được hình thành từ 2 loại chính đó là thực

vật và động vật

Thực phẩm từ thực vật: Nhiều loại thực vật và bộ phận thực vật được

ăn làm thức ăn và khoảng 2.000 loài thực vật được trồng làm thực phẩm.

Nhiều loài thực vật này có một số giống khác nhau. Hạt giống thực vật là

nguồn thức ăn tốt cho động vật, bao gồm cả con người, vì chúng chứa các

chất dinh dưỡng cần thiết cho sự tăng trưởng ban đầu của cây, bao gồm

nhiều chất béo có lợi cho sức khỏe, chẳng hạn như chất béo omega. Trên

thực tế, phần lớn thực phẩm được con người tiêu thụ là thực phẩm dựa trên

hạt giống. Hạt ăn được bao gồm ngũ cốc (ngô, lúa mì, gạo, v.v..), các loại

đậu (đậu, đậu Hà Lan, đậu lăng, et cetera) và các loại hạt. Hạt có dầu thường

được ép để sản xuất các loại dầu phong phú như hướng dương, hạt lanh, hạt

cải dầu (bao gồm cả dầu canola), vừng, v.v.... Hạt thường có nhiều chất béo

không bão hòa và trong chừng mực được coi là một loại thực phẩm tốt cho

sức khỏe. Tuy nhiên, không phải tất cả các hạt đều ăn được. Những hạt lớn,

chẳng hạn như những hạt từ một quả chanh, gây nguy hiểm nghẹt thở, trong

khi hạt từ quả anh đào và táo có chứa xyanua chỉ có thể gây độc nếu tiêu thụ

với khối lượng lớn.

Quả là buồng trứng chín của thực vật, bao gồm cả hạt bên trong.

Nhiều loài thực vật và động vật đã cùng tiến hóa sao cho trái cây trước đây

là nguồn thức ăn hấp dẫn đối với loài sau, bởi vì động vật ăn trái cây có

thể bài tiết hạt ra xa hơn. Trái cây, do đó, chiếm một phần đáng kể trong chế

độ ăn uống của hầu hết các nền văn hóa. Một số loại trái cây thực vật, chẳng

hạn như cà chua, bí ngô và cà tím, được ăn như rau. Rau là một loại thực vật

thứ hai thường được ăn như thực phẩm. Chúng bao gồm các loại rau

củ (khoai tây và cà rốt), củ (hành tây gia đình), rau ăn lá (rau bina và rau

9

diếp), ngăn chặn các loại rau (tre măng và măng tây), và rau cụm hoa (atisô

toàn cầu và bông cải xanh và rau khác như bắp cải hoặc súp lơ).

Thực phẩm từ động vật: Động vật được sử dụng làm thực phẩm trực

tiếp hoặc gián tiếp bởi các sản phẩm mà chúng sản xuất. Thịt là một ví dụ về

một sản phẩm trực tiếp lấy từ động vật, xuất phát từ hệ thống cơ hoặc từ các

cơ quan (bộ phận nội tạng). Các sản phẩm thực phẩm được sản xuất bởi

động vật bao gồm sữa được sản xuất bởi các tuyến vú, trong nhiều nền văn

hóa được uống hoặc chế biến thành các sản phẩm sữa (phô mai, bơ…).

Ngoài ra, chim và các động vật khác đẻ trứng, thường ăn và ong sản

xuất mật ong, mật hoa giảm từ hoa là chất làm ngọt phổ biến trong nhiều

nền văn hóa.

Một số nền văn hóa và người dân không tiêu thụ thịt hoặc các sản

phẩm thực phẩm động vật vì lý do văn hóa, chế độ ăn uống, sức khỏe, đạo

đức hoặc ý thức hệ. Người ăn chay chọn từ bỏ thực phẩm từ các nguồn động

vật ở các mức độ khác nhau. Người ăn chay không tiêu thụ bất kỳ loại thực

phẩm nào có hoặc chứa các thành phần từ nguồn động vật.

Khái niệm thực phẩm thu hẹp tại Khoản 20, Điều 2, Luật ATTP số

55/2010/QH12 ngày 17/6/2010, Quốc hội khóa 12, theo đó thực phẩm là:

“Sản phẩm mà con người ăn, uống ở dạng tươi, sống hoặc qua chế biến, bảo

quản” [20].

Như vậy, có thể hiểu: Thực phẩm là những sản phẩm nhằm phục vụ

nhu cầu ăn, uống của con người thông qua sản xuất, chế biến, đánh bắt, hái

lượm, nuôi, trồng bằng những phương pháp khác nhau. Thực phẩm là nguồn

cung cấp năng lượng, nước và các chất dinh dưỡng để con người duy trì sự

tồn tại và vận động của cơ thể.

Để có cái nhìn rỏ hơn về thực phẩm có thể chỉ ra các loại thực phẩm

sau (theo khoản 21,22,23,24,25,26,27, Điều 2, Luật an toàn thực phẩm 2010)

[19]:

10

Thực phẩm tươi sống là thực phẩm chưa qua chế biến bao gồm thịt,

trứng, cá, thuỷ hải sản, rau, củ, quả tươi và các thực phẩm khác chưa qua chế

biến.

Thực phẩm tăng cường vi chất dinh dưỡng là thực phẩm được bổ

sung vitamin, chất khoáng, chất vi lượng nhằm phòng ngừa, khắc phục sự

thiếu hụt các chất đó đối với sức khỏe cộng đồng hay nhóm đối tượng cụ thể

trong cộng đồng.

Thực phẩm chức năng là thực phẩm dùng để hỗ trợ chức năng của cơ

thể con người, tạo cho cơ thể tình trạng thoải mái, tăng sức đề kháng, giảm

bớt nguy cơ mắc bệnh, bao gồm thực phẩm bổ sung, thực phẩm bảo vệ sức

khoẻ, thực phẩm dinh dưỡng y học.

Thực phẩm biến đổi gen là thực phẩm có một hoặc nhiều thành phần

nguyên liệu có gen bị biến đổi bằng công nghệ gen.

Thực phẩm đã qua chiếu xạ là thực phẩm đã được chiếu xạ bằng

nguồn phóng xạ để xử lý, ngăn ngừa sự biến chất của thực phẩm.

Thức ăn đường phố là thực phẩm được chế biến dùng để ăn, uống

ngay, trong thực tế được thực hiện thông qua hình thức bán rong, bày bán

trên đường phố, nơi công cộng hoặc những nơi tương tự.

Thực phẩm bao gói sẵn là thực phẩm được bao gói và ghi nhãn hoàn

chỉnh, sẵn sàng để bán trực tiếp cho mục đích chế biến tiếp hoặc sử dụng để

ăn ngay.

Bên cạnh đó còn có một số khái niệm liên quan đến thực phẩm như

chất hỗ trợ chế biến thực phẩm và phụ gia thực phẩm:

Chất hỗ trợ chế biến thực phẩm là chất được chủ định sử dụng trong

quá trình chế biến nguyên liệu thực phẩm hay các thành phần của thực phẩm

nhằm thực hiện mục đích công nghệ, có thể tách ra hoặc còn lại trong thực

phẩm (theo khoản 3, Điều 2 của Luật An toàn thực phẩm năm 2010), bao

gồm các loại chất phổ biến được sử dụng như: chất để tẩy trắng đường, chất

làm chua rau quả …

11

Phụ gia thực phẩm là chất được chủ định đưa vào thực phẩm trong

quá trình sản xuất, có hoặc không có giá trị dinh dưỡng, nhằm giữ hoặc cải

thiện đặc tính của thực phẩm. Các phụ gia thực phẩm là các chất được bổ

sung thêm vào thực phẩm để bảo quản hoặc cải thiện hương vị và bề ngoài

của chúng. Một số phụ gia thực phẩm đã được sử dụng qua nhiều thế kỷ như

ướp muối làm món thịt muối xông khói, sử dụng điôxít lưu huỳnh trong một

số loại rượu vang… ngày nay có rất nhiều loại phụ được sử dụng trong thực

phẩm, được phân loại như sau: Các axit, các chất điều chỉnh độ chua, chất

chống vón, chất chống tạo bọt, chất chuyển thể sữa, chất tạo màu thực phẩm,

chất tạo lượng, chất làm đặc, chất làm ngọt, chất bảo quản, chất giữ, chất

điều vị, chất tạo vị.

Tóm lại: Thực phẩm là những sản phẩm do con người làm ra hoặc sản

vật tự nhiên được con người sử dụng bằng những hình thức phổ biến như ăn,

uống, nhằm cung cấp năng lượng, dinh dưỡng để cho con người duy trì sự

sống, phát triển, lao động, tham gia các hoạt động.

1.1.2. An toàn thực phẩm

An toàn thực phẩm là những thực phẩm mà khi chúng ta sử dụng, con

người không bị bệnh truyền qua thực phẩm (là bệnh do ăn/uống thực phẩm

bị nhiễm tác nhân gây bệnh), ngộ độc thực phẩm (là tình trạng bệnh lý do

hấp thụ thực phẩm bị ô nhiễm hoặc có chứa chất độc), sự cố về an toàn thực

phẩm (là những tình huống xảy ra ngộ độc thực phẩm, bệnh truyền nhiễm

qua thực phẩm hoặc các tình huống khác phát sinh từ thực phẩm gây hại trực

tiếp đến sức khỏe, tính mạng của con người)

Theo nghĩa hẹp An toàn thực phẩm là việc xử lý, chế biến, bảo quản

và lưu trữ thực phẩm bằng những phương pháp phòng ngừa, phòng chống

bệnh tật do thực phẩm gây ra. An toàn thực phẩm cũng bao gồm một số thói

quen, thao tác trong khâu chế biến cần được thực hiện để tránh các nguy cơ

sức khỏe tiềm năng nghiêm trọng.

Hiểu theo nghĩa rộng, an toàn thực phẩm là toàn bộ những vấn đề cần

xử lý liên quan đến việc đảm bảo vệ sinh đối với thực phẩm nhằm đảm bảo

12

cho sức khỏe của người tiêu dùng. Theo Luật An toàn thực phẩm thì An toàn

thực phẩm là việc bảo đảm để thực phẩm không gây hại đến sức khỏe, tính

mạng con người. (theo khoản 1, Điều 2, Luật An toàn thực phẩm) [20].

1.1.2.1. Trách nhiệm các tổ chức, cá nhân đối với ATTP:

Tổ chức, cá nhân sản xuất thực phẩm có nghĩa vụ sau đây:

Tuân thủ các điều kiện bảo đảm an toàn đối với thực phẩm, bảo đảm

an toàn thực phẩm trong quá trình sản xuất và chịu trách nhiệm về an toàn

thực phẩm do mình sản xuất;

Tuân thủ quy định của Chính phủ về tăng cường vi chất dinh dưỡng

mà thiếu hụt sẽ ảnh hưởng đến sức khỏe cộng đồng;

Thông tin đầy đủ, chính xác về sản phẩm trên nhãn, bao bì, trong tài

liệu kèm theo thực phẩm theo quy định của pháp luật về nhãn hàng hóa;

Thiết lập quy trình tự kiểm tra trong quá trình sản xuất thực phẩm;

Thông tin trung thực về an toàn thực phẩm; cảnh báo kịp thời, đầy đủ,

chính xác về nguy;

cơ gây mất an toàn của thực phẩm, cách phòng ngừa cho người bán hàng và

người tiêu dùng; thông báo yêu cầu về vận chuyển, lưu giữ, bảo quản, sử

dụng thực phẩm;

Kịp thời ngừng sản xuất, thông báo cho các bên liên quan và có biện

pháp khắc phục hậu quả khi phát hiện thực phẩm không an toàn hoặc không

phù hợp tiêu chuẩn đã công bố áp dụng, quy chuẩn kỹ thuật tương ứng;

Lưu giữ hồ sơ, mẫu thực phẩm, các thông tin cần thiết theo quy định

về truy xuất nguồn gốc thực phẩm; thực hiện quy định về truy xuất nguồn

gốc thực phẩm không bảo đảm an toàn theo quy định tại Điều 54 của Luật

ATTP;

Thu hồi, xử lý thực phẩm quá thời hạn sử dụng, không bảo đảm an

toàn. Trong trường hợp xử lý bằng hình thức tiêu hủy thì việc tiêu hủy thực

phẩm phải tuân theo quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường, quy định

khác của pháp luật có liên quan và phải chịu toàn bộ chi phí cho việc tiêu

hủy đó;

13

Tuân thủ quy định pháp luật, quyết định về thanh tra, kiểm tra của cơ

quan nhà nước có thẩm quyền;

Bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật khi thực phẩm

không an toàn do mình sản xuất gây ra.

Tránh nhiệm của tổ chức, cá nhân kinh doanh thực phẩm

Tuân thủ các điều kiện bảo đảm an toàn đối với thực phẩm trong quá

trình kinh doanh và chịu trách nhiệm về an toàn thực phẩm do mình kinh

doanh;

Kiểm tra nguồn gốc, xuất xứ thực phẩm, nhãn thực phẩm và các tài

liệu liên quan đến an toàn thực phẩm; lưu giữ hồ sơ về thực phẩm; thực hiện

quy định về truy xuất nguồn gốc thực phẩm không bảo đảm an toàn theo quy

định;

Thông tin trung thực về an toàn thực phẩm; thông báo cho người tiêu

dùng điều kiện bảo đảm an toàn khi vận chuyển, lưu giữ, bảo quản và sử

dụng thực phẩm;

Kịp thời cung cấp thông tin về nguy cơ gây mất an toàn của thực

phẩm và cách phòng ngừa cho người tiêu dùng khi nhận được thông tin cảnh

báo của tổ chức, cá nhân sản xuất, nhập khẩu;

Kịp thời ngừng kinh doanh, thông tin cho tổ chức, cá nhân sản xuất,

nhập khẩu và người tiêu dùng khi phát hiện thực phẩm không bảo đảm an

toàn;

Báo cáo ngay với cơ quan có thẩm quyền và khắc phục ngay hậu quả

khi phát hiện ngộ độc thực phẩm hoặc bệnh truyền qua thực phẩm do mình

kinh doanh gây ra;

Hợp tác với tổ chức, cá nhân sản xuất, nhập khẩu, cơ quan nhà nước

có thẩm quyền trong việc điều tra ngộ độc thực phẩm để khắc phục hậu quả,

thu hồi hoặc xử lý thực phẩm không bảo đảm an toàn;

Tuân thủ quy định của pháp luật, quyết định về thanh tra, kiểm tra

của cơ quan nhà nước có thẩm quyền;

14

Chi trả chi phí lấy mẫu và kiểm nghiệm theo quy định tại Điều 48 của

Luật này;

Bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật khi thực phẩm mất

an toàn do mình kinh doanh gây ra.

Người tiêu dùng thực phẩm có các nghĩa vụ sau đây:

Tuân thủ đầy đủ các quy định, hướng dẫn về an toàn thực phẩm của

tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh trong vận chuyển, lưu giữ, bảo quản

và sử dụng thực phẩm;

Kịp thời cung cấp thông tin khi phát hiện nguy cơ gây mất an toàn

thực phẩm, khai báo ngộ độc thực phẩm, bệnh truyền qua thực phẩm với Ủy

ban nhân dân nơi gần nhất, cơ sở khám bệnh, chữa bệnh, cơ quan nhà nước

có thẩm quyền, tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh thực phẩm;

Tuân thủ quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường trong quá trình

sử dụng thực phẩm.

1.1.2.2. Điều kiện chung để đảm bảo an toàn thực phẩm

Đáp ứng quy chuẩn kỹ thuật tương ứng, tuân thủ quy định về giới hạn

vi sinh vật gây bệnh, dư lượng thuốc bảo vệ thực vật, dư lượng thuốc thú y,

kim loại nặng, tác nhân gây ô nhiễm và các chất khác trong thực phẩm có

thể gây hại đến sức khỏe, tính mạng con người.

Tùy từng loại thực phẩm, ngoài các quy định thực phẩm còn phải đáp

ứng một hoặc một số quy định sau đây:

Quy định về sử dụng phụ gia thực phẩm, chất hỗ trợ chế biến trong

sản xuất, kinh doanh thực phẩm;

Quy định về bao gói và ghi nhãn thực phẩm;

Quy định về bảo quản thực phẩm.

1.1.2.3. Điều kiện đảm bảo an toàn đối với từng loại thực phẩm

Thực phẩm tươi sống: Bảo đảm truy xuất được nguồn gốc theo quy

định tại Điều 54 Luật an toàn thực phẩm. Có chứng nhận vệ sinh thú y của

cơ quan thú y đối với thực phẩm tươi sống có nguồn gốc từ động vật theo

quy định của pháp luật về thú y.

15

Thực phẩm đã qua chế biến: Nguyên liệu ban đầu tạo nên thực phẩm

phải bảo đảm an toàn và giữ nguyên các thuộc tính vốn có của nó; các

nguyên liệu tạo thành thực phẩm không được tương tác với nhau để tạo ra

các sản phẩm gây hại đến sức khoẻ, tính mạng con người. Thực phẩm đã qua

chế biến bao gói sẵn phải đăng ký bản công bố hợp quy với cơ quan nhà

nước có thẩm quyền trước khi lưu thông trên thị trường.

Thực phẩm tăng cường vi chất dinh dưỡng: Nguyên liệu ban đầu tạo

nên thực phẩm phải bảo đảm an toàn và giữ nguyên các thuộc tính vốn có

của nó; các nguyên liệu tạo thành thực phẩm không được tương tác với nhau

để tạo ra các sản phẩm gây hại đến sức khoẻ, tính mạng con người. Chỉ được

tăng cường vi chất dinh dưỡng là vitamin, chất khoáng, chất vi lượng vào

thực phẩm với hàm lượng bảo đảm không gây hại đến sức khoẻ, tính mạng

con người và thuộc Danh mục theo quy định của Bộ trưởng Bộ Y tế.

Thực phẩm chức năng: Có thông tin, tài liệu khoa học chứng minh về

tác dụng của thành phần tạo nên chức năng đã công bố. Thực phẩm chức

năng lần đầu tiên đưa ra lưu thông trên thị trường phải có báo cáo thử

nghiệm hiệu quả về công dụng của sản phẩm. Bộ trưởng Bộ Y tế quy định

cụ thể về quản lý thực phẩm chức năng.

Thực phẩm biến đổi gen: Tuân thủ các quy định về bảo đảm an toàn

đối với sức khỏe con người và môi trường theo quy định của Chính phủ.

Thực phẩm đã qua chiếu xạ: Thuộc Danh mục nhóm thực phẩm được

phép chiếu xạ. Tuân thủ quy định về liều lượng chiếu xạ.Danh mục nhóm

thực phẩm được phép chiếu xạ và liều lượng được phép chiếu xạ đối với

thực phẩm thuộc lĩnh vực được phân công quản lý.

Phụ gia thực phẩm và chất hỗ trợ chế biến thực phẩm: Đáp ứng quy

chuẩn kỹ thuật tương ứng, tuân thủ quy định về phụ gia thực phẩm và chất

hỗ trợ chế biến thực phẩm. Có hướng dẫn sử dụng ghi trên nhãn hoặc tài liệu

đính kèm trong mỗi đơn vị sản phẩm bằng tiếng Việt và ngôn ngữ khác theo

xuất xứ sản phẩm. Thuộc Danh mục phụ gia thực phẩm, chất hỗ trợ chế biến

thực phẩm được phép sử dụng trong sản xuất, kinh doanh thực phẩm do Bộ

16

trưởng Bộ Y tế quy định. Đăng ký bản công bố hợp quy với cơ quan nhà

nước có thẩm quyền trước khi lưu thông trên thị trường.

Đối với dụng cụ, vật liệu bao gói, chứa đựng thực phẩm: Sản xuất từ

nguyên vật liệu an toàn, bảo đảm không thôi nhiễm các chất độc hại, mùi vị

lạ vào thực phẩm, bảo đảm chất lượng thực phẩm trong thời hạn sử dụng.

Đáp ứng quy chuẩn kỹ thuật tương ứng, tuân thủ quy định đối với dụng cụ,

vật liệu bao gói, chứa đựng thực phẩm do Bộ trưởng Bộ Y tế ban hành.

Đăng ký bản công bố hợp quy với cơ quan nhà nước có thẩm quyền trước

khi lưu thông trên thị trường.

1.1.3. Ý nghĩa kinh tế, xã hội của an toàn thực phẩm

An toàn thực phẩm là một trong những yếu cầu thiết yếu trong công

cuộc bảo vệ sức khỏe toàn dân của Đảng và nhà nước. Đây là một trong

những lĩnh vực cơ bản của việc hình thành và phát triển con người, mang ý

nghĩa chính trị, kinh tế, xã hội nhân văn sâu sắc.

Đối với mỗi cá nhân con người, ăn uống một cách an toàn là một nhu

cầu thiết yếu, cơ bản, để có thể tồn tại con người phải hấp thu rất nhiều thực

phẩm bao gồm các loại thức ăn và nước uống, nếu những thực phẩm này

sạch sẽ và an toàn nó sẽ giúp cho con người có thể phát triển một cách tốt

nhất, con người sẽ có sức khỏe để có thể lao động và học tập, từ đó góp phần

to lớn vào sự phát triển của đất nước. Ngược lại nếu con người hấp thu

những thực phẩm có chứa các chất độc hại sẽ làm ảnh hưởng đến sức khỏe

và thậm chí là tính mạng. Thực phẩm có chứa độc tố sẽ gây ra hàng loạt các

tác hại như bệnh tật, hay tử vong, nó còn ảnh hưởng xấu đến việc duy trì nòi

giống tương lai và có thể kìm hãm sự phát triển của đất nước. Từ đó ta thấy

đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm là công việc rất quan trọng, nó là trách

nhiệm của tất cả mọi người trong xã hội. Tuy nhiên hiện nay vẫn còn rất

nhiều người chưa ý thức được tầm quan trọng của vấn đề này hoặc là vì lợi

nhuận mà nhiều người vẫn bán, vẫn sử dụng các thực phẩm không đảm bảo

vệ sinh, ngoài ra công tác quản lý nhà nước vẫn còn nhiều hạn chế đối với

lĩnh vực này.

17

An toàn thực phẩm có tác động rất quan trọng đến sự phát triển của

kinh tế - xã hội: với việc tạo ra nhiều sản phẩm an toàn là một trong những

yếu tố quyết định tạo nên thương hiệu, giá trị cho một doanh nghiệp, một tổ

chức. bên cạnh đó khi con người được sử dụng thực phẩm an toàn sẻ tăng

gia tăng sức khỏe và sẻ tạo được nhiều giá trị cho xã hội, thúc đẩy nền kinh

tế ngày một phát triển. Đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm sẽ làm tăng lợi

thế cạnh tranh trên thị trường quốc tế, để có thể cạnh tranh trên thị trường

quốc tế, thực phẩm cần phải đảm bảo vệ sinh trong tất cả các khâu từ sản

xuất, chế biến, bảo quản, vận chuyển, đảm bảo không chứa các chất hóa học

hay các chất tự nhiên không vượt quá giới hạn cho phép của tiêu chuẩn quốc

tế hay quốc gia, gây ảnh hưởng đến sức khỏe người tiêu dùng. Những thiệt

hại khi không đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm gây nên nhiều hậu quả

khác nhau, từ các bệnh cấp tính, mãn tính, tử vong. Thiệt hại do chính các

bệnh gây ra từ thực phẩm đối với cá nhân là chi phí khám chữa bệnh, phục

hồi sức khỏe, hay thậm chí là mất sức lao động suốt đời. Đối với các nhà sản

xuất, đó là chi phí do phải thu hồi, lưu giữ sản phẩm, tiêu hủy sản phẩm và

quan trọng hơn là mất lòng tin từ người tiêu dùng, có khi phải tuyên bố phá

sản. Quan trọng nhất là đối với mặt hàng xuất khẩu sẽ làm mất uy tín của cả

quốc gia đối với toàn thế giới.

Về môi trường: với ý thức sản xuất, chế biến, kinh doanh và sử dụng

thực phẩm sạch sẻ góp phần kiểm soát được nguy cơ ô nhiễm thực phẩm,

góp phần hạn chế ô nhiễm môi trường, suy thoái môi trường do thực phẩm

gây ra.

Về mặt xã hội: An toàn thực phẩm sẻ đảm bảo lợi ích của người tiêu

dùng một cách lâu dài, bền vững góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống.

Về phương diện quản lý nhà nước: an toàn thực phẩm góp phần nâng

cao hiệu lực, hiệu quả trong quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm, góp

phần bảo vệ sức khỏe của nhân dân.

1.2. Quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm

1.2.1. Khái niệm quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm

18

1.2.1.1. Khái niệm quản lý nhà nước

Quản lý nhà nước ra đời cùng với sự xuất hiện của nhà nước, là sự

quản lý của nhà nước đối với xã hội và công dân. QLNN là sự chỉ huy, điều

hành xã hội để thực thi quyền lực nhà nước, là tổng thể về thể chế, về tổ

chức và cán bộ của bộ máy nhà nước có trách nhiệm quản lý công việc hàng

ngày của nhà nước, do các cơ quan nhà nước (lập pháp, hành pháp và tư

pháp) có tư cách pháp nhân công pháp (công quyền) tiến hành bằng văn bản

quy phạm pháp luật để thực hiện chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn mà nhà

nước đã giao trong việc tổ chức và điều chỉnh các quan hệ xã hội và hành vi

của công dân.

Quản lý nhà nước là một dạng quản lý xã hội thực thi quyền lực nhà

nước do các cơ quan nhà nước thực hiện nhằm xác lập một trật tự ổn định,

xác lập xã hội theo mục tiêu mà tầng lớp cầm quyền theo đuổi. Theo định

nghĩa của Liên hợp quốc, QLNN tương đồng với khái niệm quản lý quốc gia

(Governmance), nghĩa là: Quản lý nhà nước một cách hợp lý, có hiệu quả,

công khai, minh bạch và có sự tham gia của chủ thể liên quan.

Quản lý nhà nước là thuật ngữ được sử dụng ở Việt Nam với nhiều

cách tiếp cận khác nhau: Theo nghĩa rộng thì quản lý nhà nước có thể hiểu là

hoạt động của bộ máy nhà nước, bao gồm cả cơ quan quyền lực nhà nước là

Quốc hội, cơ quan HCNN từ trung ương đến địa phương, cơ quan tư pháp và

hệ thống Tòa án nhân dân các cấp [14, tr. 22]. Theo nghĩa trên thì nói đến

QLNN là nói đến chức năng chung của bộ máy nhà nước với tư cách là một

tổ chức quyền lực và mang tính pháp quyền, là tổ chức công quyền quản lý

toàn xã hội bằng các hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp.

Theo nghĩa hẹp: QLNN là hoạt động riêng của cơ quan hành chính

nhà nước: Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban

nhân dân các cấp, các Sở, Phòng, Ban của Ủy ban nhân dân. Theo nghĩa này

thì QLNN không bao gồm hoạt động lập pháp và tư pháp của nhà nước, mà

đó là hoạt động điều hành công việc hàng ngày của hệ thống bộ máy hành

chính nhà nước.

19

Trong luận văn này, QLNN được hiểu theo nghĩa hẹp “QLNN là một

dạng quản lý đặc biệt, mang tính quyền lực nhà nước, sử dụng quyền lực

nhà nước để điều chỉnh hành vi hoạt động của con người trên tất cả các lĩnh

vực của đời sống xã hội, do các cơ quan trong BMNN thực hiện, nhằm thỏa

mãn nhu cầu hợp pháp của con người, duy trì sự ổn định và phát triển của

xã hội” [14, tr. 23]. Theo nghĩa rộng: “Quản lý nhà nước là hoạt động của

toàn bộ bộ máy nhà nước từ cơ quan quyền lực nhà nước: Quốc hội và Hội

đồng nhân dân các cấp; các cơ quan hành chính nhà nước: Chính phủ, các

Bộ, Ủy ban nhân dân các cấp; Viện Kiểm sát nhân dân tối cao và các Viện

Kiểm sát nhân dân các cấp” [16, tr.27]; Theo nghĩa hẹp: “Quản lý nhà nước

là hoạt động của riêng hệ thống cơ quan hành chính nhà nước (QLHCNN):

Chính phủ, các Bộ cơ quan ngang Bộ, Ủy ban nhân dân các cấp, các sở,

phòng ban chuyên môn của UBND…” [14, tr. 28].

Từ những phân tích trên: Quản lý nhà nước là một dạng quản lý đặc

biệt, mang tính quyền lực nhà nước, sử dụng quyền lực nhà nước để điều

chỉnh hành vi hoạt động của con người trên tất cả các lĩnh vực của đời sống

xã hội, do các cơ quan nhà nước thực hiện, trong đó chủ yếu là cơ quan

hành chính nhà nước (CQHCNN), nhằm đáp ứng nhu cầu chính đáng của

con người, duy trì sự ổn định và phát triển của xã hội.

1.2.1.2. Khái niệm quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm

QLNN về ATTP được hình thành theo quy định của pháp luật nhằm

thực hiện theo Hiến pháp, Luật Tổ chức Chính phủ, Luật Tổ chức chính

quyền địa phương, Luật An toàn thực phẩm, các Nghị định, Thông tư có liên

quan đến ATTP … với mục đích bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của con

người, giữa người sản xuất, kinh doanh và người tiêu dùng, chăm sóc sức

khỏe và môi trường cho cộng đồng, đảm bảo sự công bằng trong xã hội… và

nó gắn liền với hoạt động kinh tế - xã hội và đời sống nhân dân. Để từng

bước thực hiện được mục đích nêu trên thì bất cứ nước nào cũng phải chăm

lo xây dựng hệ thống QLNN về ATTP đủ năng lực để phục vụ nhu cầu của

20

kinh tế - xã hội. Do vậy, tăng cường hoạt động quản lý Nhà nước về ATTP

là hết sức cần thiết.

QLNN về ATTP là hoạt động có tổ chức của nhà nước thông qua các

văn bản pháp quy, các công cụ, chính sách của nhà nước tác động đến tình

hình thực hiện ATTP của đơn vị sản xuất, chế biến, kinh doanh trên cả nước

nhằm định hướng, dẫn dắt các chủ thể này thực hiện tốt các vấn đề về

ATTP.

QLNN về ATTP là sự tác động có tổ chức và bằng pháp luật lên các

đối tượng sản xuất, chế biến, kinh doanh và tiêu dùng thực phẩm để bảo đảm

ATTP, phục vụ tốt nhất đời sống dân cư.

QLNN về ATTP là việc nhà nước thực hiện quyền lực của mình để

điều chỉnh, hướng dẫn các hoạt động liên quan đến ATTP thực hiện theo

đúng pháp luật. Các hoạt động chủ yếu QLNN đối với ATTP bao gồm:

Hoạch định và ban hành các chính sách, văn bản, chiến lược, kế hoạch có

liên quan đến vấn đề ATTP; công tác tổ chức tuyên truyền, giáo dục, công

tác kiểm tra, thanh tra và xử lý vi phạm, công tác phối hợp liên ngành trong

quản lý và nghiên cứu khoa học...

QLNN về ATTP là cơ quan quản lý có thẩm quyền thực hiện ban

hành các VBQPPL, các quy chuẩn, tiêu chuẩn kỹ thuật, các biện pháp, các

chế tài xử lý. Tổ chức triển khai các hoạt động nhằm bảo đảm các hoạt động

sản xuất, chế biến kinh doanh thực phẩm theo đúng những quy định hướng

dẫn. Áp dụng những biện pháp khoa học và phong tục tập quán nhằm hướng

dẫn tổ chức thực hiện để các đối tượng trong phạm vi quản lý thực hiện đầy

đủ những quy định đã ban hành, hạn chế tối đa việc không bảo đảm ATTP.

Từ nội dung phân tích trên: Quản lý nhà nước về ATTP là hoạt động

thực thi quyền lực nhà nước của các cơ quan trong bộ máy nhà nước (chủ

yếu là các cơ quan thuộc hệ thống hành pháp), mang tính quyền lực nhà

nước; là hoạt động của cơ quan quản lý có thẩm quyền thực hiện ban hành

các VBQPPL, các quy chuẩn, tiêu chuẩn kỹ thuật, các biện pháp, các chế tài

xử lý để điều chỉnh hành vi hoạt động của con người trên lĩnh vực ATTP

21

nhằm thoả mãn những nhu cầu của con người, bảo đảm sức khoẻ cho nhân

dân, duy trì sự ổn định và phát triển của xã hội về sức khoẻ con người.

1.2.2. Sự cần thiết quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm

Trong những năm gần đây các tổ chức, cá nhân vi phạm về ATTP

đang diễn ra ngày càng trầm trọng, nhiều vụ ngộ độc thực phẩm xảy ra liên

tiếp, gây thiệt hại nhiều đến tính mạng con người và tiền của. Trước những

diễn biến đó thì nhà nước có vai trò quan trọng trong việc hướng dẫn, quản

lý và kiểm tra, giám sát.

Trước hết, nhà nước hoạch định và ban hành các văn bản pháp luật có

liên quan đến ATTP để hướng dẫn các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh

thực phẩm có định hướng để sản xuất thực phẩm sạch, đảm bảo ATTP.

Ngoài ra, căn cứ vào các văn bản chính sách, nhà nước phân công, phân

quyền quản lý của từng Bộ, ngành và các cấp chính quyền về vấn đề ATTP.

Bên cạnh đó, nhà nước ban hành và tổ chức thực thi các VBQPPL, các

chương trình, kế hoạch có liên quan đến ATTP. Nhà nước có vai trò quan

trọng trong việc hướng dẫn, kiểm tra, giám sát kết quả thực hiện về sản xuất,

chế biến cũng như tiêu dùng của tất cả các mặt hàng thực phẩm.

Để đảm bảo thực phẩm có chất lượng, không ảnh hưởng đến sức khỏe

người dân, nhà nước kiểm tra, giám sát kết quả thực hiện về sản xuất, chế

biến cũng như tiêu dùng của các mặt hàng thực phẩm. Bằng các công cụ

pháp luật cũng như đội ngũ thanh tra các cấp để quản lý vấn đề ATTP. Các

bộ phận này có trách nhiệm riêng biệt để thanh tra, kiểm tra lập lại trật tự sản

xuất, kinh doanh theo đúng yêu cầu, tiêu chuẩn kỹ thuật của nhà nước. Các

Bộ, ngành có liên quan phối hợp với Bộ Y tế để cùng quản lý các vấn đề liên

quan đến ATTP.

Bảo đảm ATTP là vấn đề quyền con người được Hiến pháp 2013 quy

định tại Điều 38 chương II “1. Mọi người có quyền được bảo vệ, chăm sóc

sức khỏe, bình đẳng trong việc sử dụng các dịch vụ y tế và có nghĩa vụ thực

hiện các quy định về phòng bệnh, khám bệnh, chữa bệnh. 2. Nghiêm cấm các

hành vi đe dọa cuộc sống, sức khỏe của người khác và cộng đồng”[21].

22

Thực phẩm là nguồn cung cấp chất dinh dưỡng cho sự phát triển của cơ thể,

đảm bảo sức khỏe con người, nhưng cũng là nguồn có thể gây bệnh nếu

không đảm bảo VSATTP. Không có thực phẩm nào được coi là có dinh

dưỡng nếu nó không an toàn cho cơ thể. Vì vậy thực phẩm có tầm quan

trọng rất lớn đối với cơ thể con người. Về lâu dài, thực phẩm chẳng những

có tác động lớn đối với sức khỏe mỗi con người mà còn ảnh hưởng lâu dài

đến nòi giống của dân tộc. Sử dụng các thực phẩm không đảm bảo chất

lượng có thể bị ngộ độc cấp tính với các triệu chứng dễ nhận thấy, nhưng sự

nguy hiểm lâu dài là sự tích lũy dần các chất độc hại ở một số cơ quan trong

cơ thể sau một thời gian mới phát bệnh hoặc có thể gây các khuyết tật , dị

dạng cho thế hệ mai sau. Những ảnh hưởng tới sức khỏe đó phụ thuộc vào

các tác nhân gây bệnh. Những trẻ suy dinh dưỡng, phụ lão, người ốm càng

nhạy cảm với các bệnh do thực phẩm không an toàn nên càng có nguy cơ

suy dinh dưỡng và bệnh nhiều hơn. Do vậy, việc bảo đảm ATTP là trách

nhiệm của các CQQLNN đối với sức khỏe mỗi người dân.

Các cơ quan nhà nước, công chức quản lý về lĩnh vực này có trách

nhiệm tuyên truyền, giáo dục về ATTP cho nhân dân để nâng cao ý thức và

hiểu biết vấn đề này. Chỉ đạo tổ chức tháng hành động vì chất lượng ATTP,

đẩy mạnh công tác phòng chống, công tác tuyên truyền, giáo dục đạt hiệu

quả. Mặt khác, các cơ quan QLNN định hướng, nâng cao khả năng kiểm

soát chất lượng sản phẩm thực phẩm đáp ứng các mục tiêu kinh tế, xã hội

trong từng thời kỳ. Công tác quản lý chất lượng thực phẩm tác động đến các

lĩnh vực, từ sản xuất kinh doanh, nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ

cho đến việc bảo vệ môi trường, an toàn sức khoẻ con người, đảm bảo công

bằng và lợi ích quốc gia. Trong nền kinh tế phát triển sôi động như hiện nay

thì vai trò quản lý của nhà nước ngày càng trở lên quan trọng trong việc cải

cách thủ tục hành chính. Nhà nước có vai trò kích thích hoạt động sản xuất,

kinh doanh của doanh nghiệp và cá nhân.

Với trách nhiệm của mình, nhà nước xây quy hoạch, kế hoạch tổng

thể, đáp ứng những cân đối lớn của toàn bộ nền kinh tế, tránh hiện tượng đầu

23

tư dàn trải, không hiệu quả, đồng thời khuyến khích các thành phần kinh tế

đầu tư phát triển trong lĩnh vực ATTP.

Nhà nước là cầu nối, tạo niềm tin đối với người tiêu dùng giúp cho

người tiêu dùng cảm thấy yên tâm hơn khi sử dụng sản phẩm dịch vụ trên thị

trường. Trong quá trình hội nhập và phát triển, nhà nước đảm bảo các thực

phẩm đủ tiêu chuẩn chất lượng quốc tế trong việc xuất nhập khẩu trên thị

trường nước ngoài.

1.2.3. Mục tiêu, nguyên tắc quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm

1.2.3.1. Mục tiêu quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm

Mục tiêu bảo vệ quyền con người, quyền công dân

Sử dụng thực phẩm an toàn là một trong những quyền cơ bản của con

người, góp phần giảm tỷ lệ mắc bệnh, duy trì và phát triển nòi giống, nâng

cao tầm vóc và thể chất của con người Việt Nam, tăng cường sức lao động,

học tập. An toàn thực phẩm cũng đảm bảo cho việc loại trừ các thực phẩm

độc hại tác động xấu một cách trực tiếp, thường xuyên đến sức khỏe, thậm

chí tính mạng người sử dụng, về lâu dài còn ảnh hưởng đến nòi giống dân

tộc.

Con người là nguồn tài nguyên quý báu nhất của xã hội, con người

quyết định sự phát triển của đất nước, trong đó sức khỏe là vốn quý nhất của

mỗi con người và của toàn xã hội. Đảm bảo ATTP nhằm đảm bảo sức khỏe

cho mọi người chính là đầu tư cho sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước,

nâng cao chất lượng cuộc sống của mỗi cá nhân và mỗi gia đình. Việt Nam

luôn xác định con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp xây

dựng đất nước. Nhà nước Việt Nam khẳng định con người là trung tâm của

các chính sách kinh tế - xã hội, thúc đẩy và bảo vệ quyền con người là nhân

tố quan trọng cho phát triển bền vững, bảo đảm thắng lợi sự nghiệp công

nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước.

Tăng cường QLNN về ATTP phải xuất phát từ mục tiêu đảm bảo

quyền được bảo vệ và chăm sóc sức khỏe của con người. Sức khỏe là vốn

quý của mỗi người, là động lực quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội.

24

Vì vậy, Nhà nước luôn quan tâm đến sức khỏe nhân dân, trước hết bằng hoạt

động chăm sóc sức khỏe của ngành Y tế, trong đó có việc đảm bảo ATTP.

Điều 38, Hiến pháp năm 2013 nêu rõ: Mọi người có quyền được bảo

vệ, chăm sóc sức khỏe, bình đẳng trong việc sử dụng các dịch vụ y tế và có

nghĩa vụ thực hiện các quy định về phòng bệnh, khám bệnh, chữa bệnh.

Nghiêm cấm các hành vi đe dọa cuộc sống, sức khỏe của người khác và

cộng đồng [21].

Đảm bảo quyền tự do kinh doanh và duy trì môi trường cạnh tranh

lành mạnh trong lĩnh vực an toàn thực phẩm

Một là, nhà nước đảm bảo cho các cơ sở sản xuất kinh doanh, quyền

tự do kinh doanh. Thực tế hiện nay các cơ sở sản xuất kinh doanh vừa dựa

vào cơ sở pháp lý là Luật ATTP và các văn bản cụ thể hóa, hướng dẫn chi

tiết sau đó, lại vừa dựa vào Luật Doanh nghiệp. Nhiều chủ trương, chính

sách của Đảng và Nhà nước về khuyến khích phát triển kinh tế tư nhân chưa

thấy được cụ thể hóa trong lĩnh vực ATTP.

Chính sự không đồng bộ về khuôn khổ pháp lý đã là nguyên nhân làm

nảy sinh những thủ tục hành chính gây phiền hà cho các cơ sở sản xuất, kinh

doanh. Chính vì vậy tiếp tục hoàn thiện khuôn khổ pháp lý cho hoạt động

của các dịch vụ của các cơ sở sản xuất kinh doanh (CSSXKD) là một yêu

cầu đặt ra vừa là để nâng cao hiệu lực quản lý của các cơ quan QLNN các

cấp, vừa để tạo môi trường pháp lý công khai và minh bạch thuận lợi cho sự

phát triển của các CSSXKD và cũng còn là để cho chủ trương xã hội hóa

ATTP của nhà nước thực sự đi vào cuộc sống.

Hai là, Nhà nước phải tạo được môi trường cạnh tranh lành mạnh

trong việc sản xuất hàng hóa. Các cơ sở và cá nhân sản xuất tham gia vào

lĩnh vực ATTP tất cả đều nhằm tối đa hóa về lợi nhuận, vì vậy, quan hệ cạnh

tranh giữa các cơ sở và cá nhân cung ứng dịch vụ sẽ là một tất yếu. Về cơ

bản, có thể đánh giá quan hệ đó không chỉ có tác động tích cực đến chất

lượng của các cơ sở SXKD mà còn tác động đến các cơ sở khám chữa bệnh,

các cơ sở y tế, buộc họ cũng phải nâng cao chất lượng dịch vụ.

25

Phù hợp với thông lệ quốc tế

Từ ngày 01/01/2007, Việt Nam đã là thành viên chính thức của Tổ

chức Thương mại thế giới (WTO) nên phải từng bước tuân thủ các hiệp định

của Tổ chức này, trong đó có các dịch vụ về y tế. Các hiệp định chính của

WTO bao gồm: Hiệp định về các rào cản kỹ thuật trong thương mại (TBT),

Hiệp định về áp dụng các biện pháp ATTP và kiểm dịch động, thực vật

(SPS), Hiệp định về các quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến thương mại

(TRIPS) và Hiệp định về thương mại dịch vụ (GATS). Theo đó, các quy

định về SPS như ghi thời hạn sử dụng trên nhãn sản phẩm thực phẩm nhập

khẩu, áp dụng các biện pháp ATTP và kiểm dịch động, thực vật, đặc biệt là

nguyên tắc đánh giá nguy cơ hay các quy định về TBT như áp dụng các tiêu

chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật phù hợp với tiêu chuẩn Codex, các tiêu chuẩn

quốc tế do WHO và FAO phối hợp soạn thảo mà Việt Nam cũng như các

quốc gia thành viên đều phải tuân thủ. Việc thực hiện ATTP để cho ra sản

phẩm hàng hóa (là thực phẩm) của Việt Nam đáp ứng yêu cầu chung của

quốc tế là cơ sở quan trọng thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa (là thực phẩm) của

Việt Nam ra thị trường quốc tế [06, tr.112-113].

1.2.3.2. Nguyên tắc quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm

An toàn thực phẩm không phải là vấn đề chuyên môn sức khỏe thuần

túy, mà liên quan trực tiếp đến sự phát triển kinh tế, an sinh, an toàn xã hội,

hợp tác quốc tế, an ninh quốc gia... do đó, công tác quản lý ATTP phải là

công tác liên ngành và gắn liền với chính sách phát triển kinh tế, xã hội, an

ninh quốc phòng và đối ngoại của nhà nước. Công tác này phải được đầu tư

nguồn lực (nhân lực, vật lực) tương xứng với yêu cầu thực tiễn. Phải coi

công tác đầu tư cho ATTP là đầu tư cho phát triển, an toàn và an sinh xã hội.

Cần phát huy vai trò của các tổ chức nghề nghiệp, hội, ngành nghề, Hội bảo

vệ quyền lợi người tiêu dùng có liên quan tham gia công tác xây dựng chính

sách, giám sát ATTP; coi các tổ chức này như là “cánh tay nối dài” của cơ

quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực ATTP.

26

Bên cạnh đó cần tăng cường, phân định rõ trách nhiệm của các ngành

chức năng từ Trung ương đến cơ sở trong công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm

soát các khâu sản xuất, chế biến, nhập khẩu thực phẩm trước khi đưa vào lưu

thông và tiêu dùng; đồng thời có những biện pháp phù hợp, kiên quyết để

phòng, chống nạn hàng giả, hàng kém chất lượng và hàng nhái đang lưu

thông trên thị trường. Bổ sung các chế tài cần thiết, bảo đảm xử phạt nghiêm

minh đối với các hành vi vi phạm ATTP.

Theo quy định của Luật ATTP, nguyên tắc quản lý ATTP được thực

hiện theo 6 nguyên tắc sau [20]:

Thứ nhất, đảm bảo ATTP là trách nhiệm của mọi tổ chức, cá nhân sản

xuất, kinh doanh thực phẩm. Theo quy định trong các giấy phép sản xuất,

kinh doanh thực phẩm, mọi tổ chức, cá nhân khi đủ các tiêu chí sản xuất

kinh doanh thì được cấp giấy phép hoạt động. Khi có quyết định thành lập,

các cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm thuộc đối tượng phải cấp Giấy

chứng nhận cơ sở đủ điều kiện an toàn thực phẩm thuộc trách nhiệm quản lý

của các Bộ phải đáp ứng đủ điều kiện: Có đủ điều kiện bảo đảm ATTP phù

hợp với từng loại hình sản xuất, kinh doanh thực phẩm theo quy định tại Phụ

lục II, III, IV của Nghị định số 15/2018/NĐ-CP, ngày 02/02/2018 Nghị định

chi tiết thi hành một số điều của Luật ATTP.

Thứ hai, sản xuất, kinh doanh thực phẩm là hoạt động có điều kiện; tổ

chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh thực phẩm chịu trách nhiệm về an toàn

đối với thực phẩm do mình sản xuất, kinh doanh. Tổ chức, cá nhân sản xuất,

kinh doanh thực phẩm có quyền thì các tổ chức đó có các nghĩa vụ như: phải

tuân thủ các điều kiện đảm bảo ATTP do mình sản xuất; báo cáo ngay với

cơ quan có thẩm quyền và khắc phục ngay hậu quả khi phát hiện ngộ độc

thực phẩm hoặc bệnh truyền qua thực phẩm do mình kinh doanh gây ra; cần

tuân thủ quy định của pháp luật, quyết định về thanh tra, kiểm tra của cơ

quan nhà nước có thẩm quyền; Bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp

luật khi thực phẩm mất an toàn do mình kinh doanh gây ra.

27

Thứ ba, quản lý ATTP phải trên cơ sở quy chuẩn kỹ thuật tương ứng,

quy định do cơ quan quản lý nhà nước quy chuẩn kỹ thuật có thẩm quyền

ban hành và tiêu chuẩn do tổ chức, cá nhân sản xuất công bố áp dụng. Quy

chuẩn kỹ thuật tương ứng do cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền ban

hành đó là những Quy chuẩn kỹ thuật (QCVN) được phép lưu thông trên thị

trường.

Thứ tư, quản lý ATTP phải được thực hiện trong suốt quá trình sản

xuất, kinh doanh thực phẩm trên cơ sở phân tích nguy cơ đối với ATTP. Để

các thực phẩm an toàn, đòi hỏi quản lý của các CQQLNN là một quá trình

liên tiếp, từ khâu sản xuất cho đến khi khách hàng sử dụng.

Thứ năm, quản lý ATTP phải bảo đảm phân công, phân cấp rõ ràng và

phối hợp liên ngành. Nghị định số 15/2018/NĐ-CP ngày 02/02/2018 của

Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật ATTP, trong đó có Nghị

định số 15/2018/NĐ-CP tiếp tục phân công rõ trách nhiệm quản lý của 3 Bộ

gồm: Bộ Y tế, Bộ Công Thương và Bộ NN&PTNT theo hướng các Bộ quản

lý theo danh mục các sản phẩm/nhóm sản phẩm thực phẩm; hàng hóa thuộc

thẩm quyền quản lý của bộ y tế. Đặc biệt, đối với cơ sở vừa sản xuất vừa

kinh doanh nhiều loại sản phẩm thuộc thẩm quyền quản lý của 2 Bộ trở lên

thì tổ chức, cá nhân có quyền lựa chọn cơ quan quản lý chuyên ngành về

ATTP để thực hiện các thủ tục hành chính [11].

Thứ sáu, quản lý ATTP phải phù hợp và đáp ứng yêu cầu phát triển

kinh tế - xã hội. An toàn thực phẩm là vấn đề quan trọng, tác động lớn đến

đời sống xã hội, sự hội nhập sâu rộng của Việt Nam vào nền kinh tế thế giới

đang đặt ra những đòi hỏi mới trên tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế, đặc

biệt là lĩnh vực công nghiệp thực phẩm, một trong những lĩnh vực tận dụng

tốt nguồn lực sẵn có của Việt Nam. Khi nền kinh tế phát triển, đời sống nhân

dân cải thiện thì yêu cầu đặt ra đối với đảm bảo ATTP đặt lên trên hết vì ảnh

hưởng đến sức khỏe người dân. Kinh tế phát triển đòi hỏi các hình thức quản

lý thay đổi, mức độ quản lý tăng lên, phạm vi quản lý phù hợp với từng cơ

quan hành chính….như vây mới đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế, xã

28

hội. Với tình hình và điều kiện cụ thể của Việt Nam, chúng ta có thể phải

làm tốt công tác ATTP, bảo đảm chất lượng cuộc sống của người dân được

tốt hơn và nhất là có thể ngăn chặn được những vi phạm rất nghiêm trọng,

nguy hại tới sức khỏe và mạng sống của người dân.

Bên cạnh đó, chất lượng sản phẩm hàng hóa luôn gắn với việc bảo

đảm ATTP, tác động đến uy tín của chất lượng hàng Việt Nam trong mắt

người tiêu dùng quốc tế: “An toàn thực phẩm không chỉ ảnh hưởng đến

giống nòi mà còn là uy tín quốc tế. Do đó, chúng ta cần biện pháp mạnh,

kiên quyết, toàn diện, để công tác này đạt kết quả tốt hơn, đáp ứng sự mong

đợi của nhân dân”. Bởi lẽ, để cạnh tranh trên thị trường quốc tế, thực phẩm

không những cần được sản xuất, chế biến, bảo quản mà còn phải bảo đảm

các quy chuẩn cho phép theo tiêu chuẩn quốc tế hoặc quốc gia về các chất

hóa học tổng hợp hay tự nhiên tránh ảnh hưởng đến sức khỏe người tiêu

dùng.

1.2.4. Nội dung quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm

1.2.4.1. Xây dựng và ban hành chính sách, pháp luật về an toàn thực

phẩm

Để đảm bảo sức khỏe cho người dân, các cơ quan nhà nước, cá nhân

có thẩm quyền trong lĩnh vực y tế ban hành hệ thống các văn bản điều chỉnh

như: Thông tư của Bộ trưởng các Bộ: Bộ y tế, Bộ Nông nghiệp và Phát triển

nông thôn, Bộ Công thương; các văn bản dưới luật do các cơ quan chuyên

môn thuộc các Bộ ban hành nhằm quản lý ATTP có hiệu lực, hiệu quả.

Trong phạm vi nghiên cứu, tác giả để cập đến việc xây dựng và ban hành

văn bản của Bộ Y tế trong lĩnh vực ATTP (quy định tại Khoản 10, Điều 2,

Nghị định số 75/2017/NĐ-CP ngày 20/6/2017 của Chính phủ quy định chức

năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Y tế) [10].

Nhận rõ tính cấp bách của tình hình ATTP, Việt Nam đã ban hành

nhiều văn bản quy phạm pháp luật về ATTP: như Luật ATTP, quy định liên

quan đến quản lý chất lượng ATTP đã được ban hành trong nhiều văn bản

QPPL khác nhau như: Luật Thủy sản số 18/2017/QH11; Luật Thanh tra sửa

29

đổi số 56/2010/QH12…Thiết lập khuôn khổ pháp lý và tổ chức thực hiện lộ

trình bắt buộc áp dụng hệ thống thực hành sản xuất tốt (GMP), thực hành

nông nghiệp tốt (GAP), thực hành vệ sinh tốt (GHP), phân tích nguy cơ và

kiểm soát điểm tới hạn (HACCP) và các hệ thống quản lý ATTP tiên tiến

khác trong quá trình sản xuất, kinh doanh thực phẩm [06].

Thực hiện theo Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật, các Bộ đã khẩn

trương xây dựng các quy chuẩn kỹ thuật về ATTP thuộc phạm vi quản lý

của ngành. Tuy nhiên, các văn bản pháp quy, các quy định về ATTP của

nước ta còn chưa thật đầy đủ, thiếu đồng bộ, chưa theo kịp sự phát triển của

đất nước, vì thế, để đảm bảo yêu cầu quản lý và triển khai Luật ATTP.

1.2.4.2. Xây dựng bộ máy thực hiện chức năng quản lý nhà nước về an

toàn thực phẩm

Bộ máy hành chính quản lý về ATTP có chức năng: Ban hành các văn

bản quy phạm trong quyền hạn, tổ chức thực hiện các quy định trong hệ

thống văn bản quy phạm liên quan; thanh tra, kiểm tra việc chấp hành các

quy chuẩn, tiêu chuẩn đã ban hành của các nhóm đối tượng trong chuỗi cung

cấp thực phẩm cho xã hội; kiểm nghiệm ATTP trong chuỗi cung cấp thực

phẩm phục vụ công tác Quản lý nhà nước về ATTP.

Khoản 2, Điều 65 Luật ATTP năm 2010 quy định trách nhiệm của

UBND “Chịu trách nhiệm quản lý an toàn thực phẩm trên địa bàn; quản lý

điều kiện bảo đảm an toàn thực phẩm đối với cơ sở sản xuất, kinh doanh

thực phẩm nhỏ lẻ, thức ăn đường phố, cơ sở kinh doanh, dịch vụ ăn uống, an

toàn thực phẩm tại các chợ trên địa bàn và các đối tượng theo phân cấp quản

lý”. Với quy định này trong công tác quản lý ATTP, Sở Y tế các tỉnh, thành

phố trực thuộc trung ương tham mưu giúp UBND tổ chức triển khai, cụ thể

hóa các chính sách, quy định của pháp luật trong sản xuất, kinh doanh thực

phẩm thuộc phạm vi quản lý.

Bộ máy QLNN về ATTP có nhiệm vụ như: Ban hành và tổ chức thực

hiện các VBQPPL liên quan về ATTP; các quy chuẩn, tiêu chuẩn về ATTP;

Xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch phòng ngừa, khắc phục ngộ độc

30

thực phẩm và bệnh truyền qua thực phẩm; Xây dựng chiến lược, tổ chức

hoạt động thông tin, tuyên truyền, phổ biến kiến thức và pháp luật về ATTP;

đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ về ATTP; Quản lý hệ thống kiểm nghiệm, thử

nghiệm ATTP; Quản lý, cấp chứng về ATTP; kiểm tra, thừa nhận, chứng

nhận về các quy trình quản lý ATTP: HACCP, GMP, GLP; Tổ chức nghiên

cứu khoa học và công nghệ trong lĩnh vực ATTP; Hợp tác quốc tế về ATTP

và Thanh tra chuyên ngành, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý

các vi phạm pháp luật về ATTP.

Bộ máy được thiết lập từ Trung ương đến địa phương và quy định rõ

trách nhiệm tại Điều 61, 62, 63, 64, 65 của Luật An toàn thực phẩm năm

2010 như sau [20]:

Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm.

Bộ Y tế chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước

về an toàn thực phẩm.

Các bộ, cơ quan ngang bộ trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của

mình có trách nhiệm phối hợp với Bộ Y tế thực hiện quản lý nhà nước về an

toàn thực phẩm.

Ủy ban nhân dân các cấp thực hiện quản lý nhà nước về an toàn thực

phẩm trong phạm vi địa phương.

Trách nhiệm quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm của Bộ Y tế

Trách nhiệm chung:

Chủ trì xây dựng, trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành và

tổ chức thực hiện chiến lược quốc gia, quy hoạch tổng thể về an toàn thực

phẩm;

Ban hành quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chỉ tiêu và mức giới hạn an

toàn đối với sản phẩm thực phẩm; dụng cụ, vật liệu bao gói, chứa đựng thực

phẩm;

Yêu cầu các bộ, ngành, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh báo cáo định kỳ, đột

xuất về công tác quản lý an toàn thực phẩm;

31

Quy định về điều kiện chung bảo đảm an toàn thực phẩm đối với cơ

sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm;

Chủ trì tổ chức thực hiện công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật về

an toàn thực phẩm; cảnh báo sự cố ngộ độc thực phẩm;

Thanh tra, kiểm tra đột xuất đối với toàn bộ quá trình sản xuất, nhập

khẩu, kinh doanh thực phẩm thuộc phạm vi quản lý của các bộ khác khi cần

thiết.

Trách nhiệm trong quản lý ngành:

Chủ trì xây dựng, ban hành hoặc trình cơ quan nhà nước có thẩm

quyền ban hành và tổ chức thực hiện chiến lược, chính sách, quy hoạch, kế

hoạch và văn bản quy phạm pháp luật về an toàn thực phẩm thuộc lĩnh vực

được phân công quản lý;

Quản lý an toàn thực phẩm trong suốt quá trình sản xuất, sơ chế, chế

biến, bảo quản, vận chuyển, xuất khẩu, nhập khẩu, kinh doanh đối với phụ

gia thực phẩm, chất hỗ trợ chế biến thực phẩm, nước uống đóng chai, nước

khoáng thiên nhiên, thực phẩm chức năng và các thực phẩm khác theo quy

định của Chính phủ;

Quản lý an toàn thực phẩm đối với dụng cụ, vật liệu bao gói, chứa

đựng thực phẩm trong quá trình sản xuất, chế biến, kinh doanh thực phẩm

thuộc lĩnh vực được phân công quản lý; Thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm

pháp luật về an toàn thực phẩm trong quá trình sản xuất, xuất khẩu, nhập

khẩu, kinh doanh thực phẩm thuộc lĩnh vực được phân công quản lý.

Trách nhiệm của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn

Chủ trì xây dựng, ban hành hoặc trình cơ quan nhà nước có thẩm

quyền ban hành và tổ chức thực hiện các chính sách, chiến lược, quy hoạch,

kế hoạch, văn bản quy phạm pháp luật về an toàn thực phẩm thuộc lĩnh vực

được phân công quản lý.

Quản lý an toàn thực phẩm đối với sản xuất ban đầu nông, lâm, thủy

sản, muối.

32

Quản lý an toàn thực phẩm trong suốt quá trình sản xuất, thu gom,

giết mổ, sơ chế, chế biến, bảo quản, vận chuyển, xuất khẩu, nhập khẩu, kinh

doanh đối với ngũ cốc, thịt và các sản phẩm từ thịt, thủy sản và sản phẩm

thủy sản, rau, củ, quả và sản phẩm rau, củ, quả, trứng và các sản phẩm từ

trứng, sữa tươi nguyên liệu, mật ong và các sản phẩm từ mật ong, thực phẩm

biến đổi gen, muối và các nông sản thực phẩm khác theo quy định của Chính

phủ.

Quản lý an toàn thực phẩm đối với dụng cụ, vật liệu bao gói, chứa

đựng thực phẩm trong quá trình sản xuất, chế biến, kinh doanh thực phẩm

thuộc lĩnh vực được phân công quản lý.

Báo cáo định kỳ, đột xuất về công tác quản lý an toàn thực phẩm

thuộc lĩnh vực được phân công quản lý.

Thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật về an toàn thực phẩm

trong quá trình sản xuất, xuất khẩu, nhập khẩu, kinh doanh thực phẩm thuộc

lĩnh vực được phân công quản lý.

Trách nhiệm của Bộ Công Thương

Chủ trì xây dựng, ban hành hoặc trình cơ quan nhà nước có thẩm

quyền ban hành và tổ chức thực hiện các chính sách, chiến lược, quy hoạch,

kế hoạch, văn bản quy phạm pháp luật về an toàn thực phẩm thuộc lĩnh vực

được phân công quản lý.

Quản lý an toàn thực phẩm trong suốt quá trình sản xuất, chế biến,

bảo quản, vận chuyển, xuất khẩu, nhập khẩu, kinh doanh đối với các loại

rượu, bia, nước giải khát, sữa chế biến, dầu thực vật, sản phẩm chế biến bột

và tinh bột và các thực phẩm khác theo quy định của Chính phủ.

Quản lý an toàn thực phẩm đối với dụng cụ, vật liệu bao gói, chứa

đựng thực phẩm trong quá trình sản xuất, chế biến, kinh doanh thực phẩm

thuộc lĩnh vực được phân công quản lý.

Ban hành chính sách, quy hoạch về chợ, siêu thị, quy định điều kiện

kinh doanh thực phẩm tại các chợ, siêu thị.

33

Chủ trì việc phòng chống thực phẩm giả, gian lận thương mại trong

lưu thông, kinh doanh thực phẩm.

Báo cáo định kỳ, đột xuất về công tác quản lý an toàn thực phẩm

thuộc lĩnh vực được phân công quản lý.

Thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật về an toàn thực phẩm

trong quá trình sản xuất, xuất khẩu, nhập khẩu, kinh doanh thực phẩm thuộc

lĩnh vực được phân công quản lý.

Trách nhiệm quản lý nhà nước của Ủy ban nhân dân các cấp

Ban hành theo thẩm quyền hoặc trình cơ quan nhà nước có thẩm

quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật, quy chuẩn kỹ thuật; xây dựng

và tổ chức thực hiện quy hoạch vùng, cơ sở sản xuất thực phẩm an toàn để

bảo đảm việc quản lý được thực hiện trong toàn bộ chuỗi cung cấp thực

phẩm.

Chịu trách nhiệm quản lý an toàn thực phẩm trên địa bàn; quản lý điều

kiện bảo đảm an toàn thực phẩm đối với cơ sở sản xuất, kinh doanh thực

phẩm nhỏ lẻ, thức ăn đường phố, cơ sở kinh doanh, dịch vụ ăn uống, an toàn

thực phẩm tại các chợ trên địa bàn và các đối tượng theo phân cấp quản lý.

Báo cáo định kỳ, đột xuất về công tác quản lý an toàn thực phẩm trên

địa bàn. Bố trí nguồn lực, tổ chức bồi dưỡng nâng cao chất lượng nhân lực

cho công tác bảo đảm an toàn thực phẩm trên địa bàn.

Tổ chức tuyên truyền, giáo dục, truyền thông, nâng cao nhận thức về

an toàn thực phẩm, ý thức chấp hành pháp luật về quản lý an toàn thực

phẩm, ý thức trách nhiệm của tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh thực

phẩm đối với cộng đồng, ý thức của người tiêu dùng thực phẩm. Thanh tra,

kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật về an toàn thực phẩm trên địa bàn quản lý.

1.2.1.3. Đảm bảo nguồn lực thực hiện quản lý nhà nước về an toàn

thực phẩm

Xây dựng, nâng cao chất lượng, trách nhiệm đội ngũ CBCC quản lý

trong CQHCNN đối với ATTP.

34

Để quản lý được ATTP trên phạm vi cả nước là một thử thách đối với

các cán bộ làm công tác ATTP vì hiện nay về nhân lực rất thiếu, nhưng lại

không thể thu hút được nhân lực vì không có chế độ ưu đãi nghề (cán bộ Chi

Cục ATTP không được hưởng phụ cấp nghề vì là cơ quan quản lý nhưng

nhiệm vụ thì không khác gì nhiệm vụ của các Trung tâm y tế). Chính vì điều

này mà những cán bộ hiện đang làm công tác ATTP là những người thực sự

tâm huyết và dám hy sinh vì nghề.

Đề cao trách nhiệm, tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước, tạo bước

chuyển biến tích cực trong công tác quản lý, bảo đảm an toàn thực phẩm,

Chỉ thị số 13/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 09/5/2016 về “Tăng

cường trách nhiệm quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm” nêu rõ: Bộ

trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và Chủ tịch

Ủy ban nhân dân thành phố, thành phố trực thuộc Trung ương thực hiện

nghiêm túc, đầy đủ trách nhiệm quản lý an toàn thực phẩm theo đúng quy

định từ Điều 61 đến Điều 70 Luật An toàn thực phẩm và quy định của Chính

phủ, chịu trách nhiệm trước Thủ tướng Chính phủ về thực hiện trách nhiệm

được giao. [06]

1.2.4.4. Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về an toàn thực

phẩm

Theo Điều 56 Luật ATTP thì mục đích, yêu cầu của thông tin, giáo

dục, truyền thông về ATTP là: 1) Thông tin, giáo dục, truyền thông về

ATTP nhằm nâng cao nhận thức về ATTP, thay đổi hành vi, phong tục, tập

quán sản xuất, kinh doanh, sinh hoạt, ăn uống lạc hậu, gây mất ATTP, góp

phần bảo vệ sức khỏe, tính mạng con người; đạo đức kinh doanh, ý thức

trách nhiệm của tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh với sức khỏe, tính

mạng của người tiêu dùng thực phẩm. 2) Việc cung cấp thông tin, giáo dục,

truyền thông về ATTP phải bảo đảm các yêu cầu sau: chính xác, kịp thời, rõ

ràng, đơn giản, thiết thực; phù hợp với truyền thống, văn hoá, bản sắc dân

tộc, tôn giáo, đạo đức xã hội, tín ngưỡng và phong tục tập quán; phù hợp với

từng loại đối tượng được tuyên truyền [20].

35

Nhiệm vụ QLNN về ATTP là các cơ quan nhà nước tuyên truyền cho

người sản xuất, chế biến, kinh doanh thực phẩm và người tiêu dùng hiểu tác

hại của thực phẩm bị nhiễm độc; hậu quả của các thực phẩm bị ô nhiễm đối

với sức khoẻ và đời sống con người. Công tác tuyên truyền pháp luật về

ATTP nhằm hình thành cho các tổ chức, cá nhân liên quan đến sản xuất,

kinh doanh thực phẩm có ý thức về đảm bảo ATTP. Tuyên truyền về ATTP

là tư tưởng trực tiếp nhất cho việc xây dựng và thực hiện pháp luật. Việc

tuyên truyền bảo đảm ATTP phải được tiến hành tại các cơ sở sản xuất, chế

biến, kinh doanh, các trường đại học, hộ gia đình…. Hình thức tuyên truyền

phải đa dạng, phong phú, phù hợp với từng nhóm đối tượng, cán bộ quản lý

ATTP phải có kiến thức về quản lý hành chính và hiểu biết pháp luật về

ATTP. Cán bộ quản lý sử dụng nhiều hình thức và biện pháp để giáo dục,

nâng cao ý thức về ATTP và làm tư vấn pháp luật về ATTP cho nhân dân.

Các cơ quan tuyên truyền trên hệ thống truyền thông . Những hoạt

động về thực hiện đảm bảo ATTP như: Tháng hành động vì chất lượng

ATTP; tuyên truyền Luật ATTP và các văn bản pháp quy của Chính phủ và

thành phố về ATTP; tuyên truyền trách nhiệm của các cá nhân đặc biệt là

của người sản xuất, kinh doanh trong việc đảm bảo ATTP cho mọi người;

tuyên truyền cho người dân các phương pháp tự bảo vệ bản thân khi sử dụng

thực phẩm; giới thiệu rộng rãi các cơ sở cung cấp thực phẩm sạch; kinh

nghiệm một số địa phương làm tốt công tác ATTP.

Việc tuyên truyền thường xuyên, liên tục về ATTP có tác động mạnh

đến nhận biết và hành động của những người sản xuất, kinh doanh và người

tiêu dùng. Công tác tuyên truyền hiệu quả sẽ giảm tối thiểu vi phạm ATTP,

nâng cao hiệu quả QLNN về ATTP và đảm bảo sức khoẻ cho người dân.

1.2.4.5. Thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo đối với các

cơ sở vi phạm an toàn thực phẩm

Thứ nhất, thanh tra, kiểm tra các sản xuất, chế biến, kinh doanh thực

phẩm

36

Thanh tra, kiểm tra việc tuân thủ, chấp hành các quy định của pháp

luật về ATTP và xử lý những hành vi vi phạm pháp luật về ATTP là một

trong những chức năng quan trọng của QLNN bằng pháp luật về ATTP.

Thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo đối với các cơ sở vi phạm

ATTP là hoạt động nhằm phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn và xử lý các

hành vi vi phạm pháp luật về ATTP, góp phần quan trọng bảo đảm pháp luật

về ATTP đi vào cuộc sống, phát huy hiệu quả thực tế.

Hoạt động thanh tra, kiểm tra việc tuân thủ, chấp hành các quy định

của pháp luật về ATTP và xử lý những hành vi vi phạm pháp luật về ATTP

là một trong những chức năng, nhiệm vụ quan trọng của QLNN bằng pháp

luật về ATTP. Nếu xem nhẹ công tác này thì hoạt động QLNN bằng pháp

luật về ATTP sẽ bị buông lỏng, kém hiệu quả.

Bên cạnh đó, thanh tra của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn

gồm thanh tra của Cục Quản lý chất lượng Nông lâm sản và Thủy sản chủ

trì, phối hợp với các Cục có liên quan của Bộ thanh tra các thực phẩm liên

quan đến thủy hải sản, kiểm tra ATTP hàng hóa có nguồn gốc thực vật nhập

khẩu...

Để thực hiện có hiệu quả nội dung này, các cơ quan hành chính nhà nước

phải xây dựng kế hoạch thanh tra, kiểm tra chặt chẽ, hợp lý và hợp pháp,

ngăn ngừa những biểu hiện nhũng nhiễu gây phiền hà, cản trở hoạt động hợp

pháp của các đối tượng quản lý. Tổ chức giám sát hoạt động thanh tra, kiểm

tra việc thực hiện pháp luật của cơ quan QLNN cấp dưới và ngay trong nội

bộ cơ quan mình. Khi phát hiện có dấu hiệu của hành vi vi phạm pháp luật,

cơ quan nhà nước có thẩm quyền thanh tra, kiểm tra tuỳ theo tính chất, mức

độ vi phạm phải ngăn chặn kịp thời, tuỳ theo mức độ vi phạm để xử lý trách

nhiệm theo đúng quy định của pháp luật.

Kiểm tra thi hành pháp luật tại các cơ sở chế biến thực phẩm có vai

trò quan trọng trong việc thực hiện có hiệu quả ATTP. Kiểm tra, thanh tra

nhằm phát hiện thấy các vi phạm về điều kiện ATTP, hàng giả, hàng nhái,

hàng kém chất lượng, hàng quá hạn sử dụng, hàng hoá không rõ nguồn gốc

37

xuất xứ; vận chuyển, buôn bán gia súc, gia cầm bị bệnh hoặc không rõ

nguồn gốc; Vi phạm về nhãn mác hàng hóa, đặc biệt là tình trạng làm giả

nhãn mác hàng hóa của các doanh nghiệp có thương hiệu mạnh gây ảnh

hưởng đến uy tín, doanh thu của doanh nghiệp và thiệt hại cho người tiêu

dùng.

Thanh tra có nhiệm vụ xử lý vi phạm về ATTP theo đúng quy định

của pháp luật. Việc xử lý phải theo quy định và mức xử phạt theo quy định

chung. Yêu cầu khi xử phạt đảm bảo tính chính xác, khách quan và công

bằng. Trong thời gian qua, với sự nỗ lực của cán bộ thanh tra, kiểm tra, công

tác kiểm tra và xử lý đã đạt được kết quả nhất định. Đây là cơ sở để quản lý

ATTP đạt hiệu quả.

Thứ hai, giải quyết khiếu nại, tố cáo về ATTP Trong quá trình QLNN

về ATTP, các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền có trách nhiệm trong

việc tiếp nhận, giải quyết tố cáo: a) Tổ chức việc tiếp nhận và giải quyết tố

cáo theo đúng quy định của pháp luật; áp dụng biện pháp cần thiết nhằm

ngăn chặn thiệt hại có thể xảy ra; bảo đảm an toàn cho người tố cáo; xử lý

nghiêm minh người có hành vi vi phạm pháp luật và chịu trách nhiệm trước

pháp luật về quyết định của mình; b) Bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của

người bị tố cáo khi chưa có kết luận nội dung tố cáo của người giải quyết tố

cáo; c) không tiếp nhận, không giải quyết tố cáo theo đúng quy định của

pháp luật, thiếu trách nhiệm trong việc tiếp nhận, giải quyết tố cáo hoặc giải

quyết tố cáo trái pháp luật thì phải bị xử lý nghiêm minh; nếu gây thiệt hại

thì phải bồi thường, bồi hoàn theo quy định của pháp luật.

Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, cơ quan, tổ chức, cá

nhân có liên quan có trách nhiệm phối hợp với người giải quyết tố cáo; cung

cấp thông tin, tài liệu có liên quan đến nội dung tố cáo theo quy định của

pháp luật; áp dụng các biện pháp bảo vệ người tố cáo theo thẩm quyền; xử lý

người có hành vi vi phạm pháp luật theo kết luận nội dung tố cáo; xử lý cơ

quan, tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật về tố cáo.

38

Xử phạt hành vi vi phạm pháp luật của các cá nhân, cơ sở chế biến

thực phẩm: Xử phạt vi phạm hành chính là việc người có thẩm quyền xử

phạt áp dụng hình thức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả đối với cá

nhân, tổ chức thực hiện hành vi vi phạm hành chính theo quy định của pháp

luật về xử phạt vi phạm hành chính.

Biện pháp xử lí hành chính là biện pháp được áp dụng đối với cá nhân

vi phạm pháp luật về an ninh, trật tự, an toàn xã hội mà không phải là tội

phạm, bao gồm biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn; đưa vào trường

giáo dưỡng; đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc và đưa vào cơ sở cai nghiện bắt

buộc.

Trong hoạt động xử lý vi phạm hành chính (XLVPHC) trong lĩnh vực

ATTP gồm có nhiều hoạt động vi phạm hành chính về ATTP như: vi phạm

quy định về an toàn đối với sản phẩm thực phẩm; vi phạm quy định về điều

kiện bảo đảm ATTP trong sản xuất, kinh doanh thực phẩm; vi phạm quy

định về điều kiện bảo đảm ATTP đối với thực phẩm nhập khẩu, thực phẩm

xuất khẩu; vi phạm quy định về thông tin, giáo dục, truyền thông về ATTP;

kiểm nghiệm thực phẩm; phân tích nguy cơ, phòng ngừa, ngăn chặn và khắc

phục sự cố về ATTP; truy xuất nguồn gốc, thu hồi và xử lý đối với thực

phẩm không an toàn.

Xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực ATTP là thuật ngữ pháp lý

tuy rộng, nhưng cũng được dùng để chỉ việc xử phạt vi phạm hành chính

trong lĩnh vực ATTP và các biện pháp khắc phục hậu quả. Theo tác giả:

XLVPHC trong lĩnh vực ATTP là việc người có thẩm quyền áp dụng hình

thức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả đối với cá nhân, tổ chức thực

hiện hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực ATTP theo quy định của

pháp luật.

Việc áp dụng pháp luật về xử phạt vi phạm pháp luật hành chính trong

lĩnh vực ATTP do nhiều cơ quan, nhiều cá nhân có thẩm quyền thực hiện (ví

dụ như: Chủ tịch UBND; Thanh tra viên, người được giao thực hiện nhiệm

vụ thanh tra chuyên ngành về ATTP và các lĩnh vực liên quan đến ATTP

39

thuộc các ngành y tế, nông nghiệp và phát triển nông thôn, công thương

đang thi hành công vụ; Chánh thanh tra Sở Y tế, Sở Nông nghiệp và phát

triển nông thôn, Sở Công thương; Trưởng đoàn thanh tra chuyên ngành cấp

bộ thuộc các Bộ Y tế, Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Bộ Công

thương; Chánh Thanh tra Bộ Y tế, Chánh Thanh tra Bộ Nông nghiệp và phát

triển nông thôn, Chánh Thanh tra Bộ Công thương, Thủ trưởng cơ quan

được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành về ATTP...).

Các hình thức xử phạt vi phạm hành chính bao gồm: Cảnh cáo; phạt

tiền; tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề có thời hạn hoặc

đình chỉ hoạt động có thời hạn; tịch thu tang vật vi phạm hành chính,

phương tiện được sử dụng để vi phạm hành chính (sau đây gọi chung là tang

vật, phương tiện vi phạm hành chính); trục xuất.

Xử lý hình sự được áp dụng đối với các đơn vị, tổ chức, cá nhân cố ý

thực hiện các hành vi xâm phạm có danh mục chất cấm, thuốc bảo vệ thực

vật sử dụng trong chăn nuôi; Sử dụng chất cấm trong sản xuất, sơ chế, chế

biến, bảo quản thực phẩm hoặc bán, cung cấp thực phẩm mà biết rõ là thực

phẩm có sử dụng chất cấm; Sử dụng các loại hóa chất, kháng sinh, thuốc thú

y, thuốc bảo vệ thực vật, chất xử lý cải tạo môi trường ngoài danh mục được

phép sử dụng hoặc không rõ nguồn gốc xuất xứ hoặc không đúng quy định

trong sản xuất, sơ chế, chế biến, bảo quản thực phẩm trong trồng trọt, chăn

nuôi, nuôi trồng thủy sản, làm muối tạo ra dư lượng vượt ngưỡng cho phép

trong sản phẩm; chế biến, cung cấp hoặc bán thực phẩm mà biết rõ là thực

phẩm không bảo đảm quy chuẩn kỹ thuật, quy định về an toàn thực phẩm; sử

dụng hóa chất, phụ gia, chất hỗ trợ chế biến ngoài danh mục được phép sử

dụng hoặc không rõ nguồn gốc xuất xứ trong sản xuất, sơ chế, chế biến, bảo

quản thực phẩm.

Theo Điều 4, Luật An toàn thực phẩm năm 2010 thì chính sách của

Nhà nước về an toàn thực phẩm [20].

40

Xây dựng chiến lược, quy hoạch tổng thể về bảo đảm an toàn thực

phẩm, quy hoạch vùng sản xuất thực phẩm an toàn theo chuỗi cung cấp thực

phẩm được xác định là nhiệm vụ trọng tâm ưu tiên.

Sử dụng nguồn lực nhà nước và các nguồn lực khác đầu tư nghiên cứu

khoa học và ứng dụng công nghệ phục vụ việc phân tích nguy cơ đối với an

toàn thực phẩm; xây dựng mới, nâng cấp một số phòng thí nghiệm đạt tiêu

chuẩn khu vực, quốc tế; nâng cao năng lực các phòng thí nghiệm phân tích

hiện có; hỗ trợ đầu tư xây dựng các vùng sản xuất nguyên liệu thực phẩm an

toàn, chợ đầu mối nông sản thực phẩm, cơ sở giết mổ gia súc, gia cầm quy

mô công nghiệp.

Khuyến khích các cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm đổi mới công

nghệ, mở rộng quy mô sản xuất; sản xuất thực phẩm chất lượng cao, bảo

đảm an toàn; bổ sung vi chất dinh dưỡng thiết yếu trong thực phẩm; xây

dựng thương hiệu và phát triển hệ thống cung cấp thực phẩm an toàn.

Thiết lập khuôn khổ pháp lý và tổ chức thực hiện lộ trình bắt buộc áp

dụng hệ thống Thực hành sản xuất tốt (GMP), Thực hành nông nghiệp tốt

(GAP), Thực hành vệ sinh tốt (GHP), Phân tích nguy cơ và kiểm soát điểm

tới hạn (HACCP) và các hệ thống quản lý an toàn thực phẩm tiên tiến khác

trong quá trình sản xuất, kinh doanh thực phẩm.

Mở rộng hợp tác quốc tế, đẩy mạnh ký kết điều ước, thoả thuận quốc

tế về công nhận, thừa nhận lẫn nhau trong lĩnh vực thực phẩm.

Khen thưởng kịp thời tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh thực

phẩm an toàn.

Khuyến khích, tạo điều kiện cho hội, hiệp hội, tổ chức, cá nhân trong

nước, tổ chức, cá nhân nước ngoài đầu tư, tham gia vào các hoạt động xây

dựng tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, kiểm nghiệm an toàn thực phẩm.

Tăng đầu tư, đa dạng các hình thức, phương thức tuyên truyền, giáo

dục nâng cao nhận thức người dân về tiêu dùng thực phẩm an toàn, ý thức

trách nhiệm và đạo đức kinh doanh của tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh

doanh thực phẩm đối với cộng đồng.

41

1.3. Kinh nghiệm quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm ở một

số địa phương

1.3.1. Kinh nghiệm quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm ở

huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa

Huyện Yên Định là một huyện thộc vùng đồng bằng bán sơn địa, tiếp

giáp với vùng trung du, miền núi của Tỉnh, huyện có 24 xã, 02 thị trấn, với

diện tích tự nhiên 228km2, dân số 163.151 người. kinh tế chủ yếu là sản xuất

nông nghiệp, trong đó đất nông nghiệp 14.414ha. Năm 2020, tốc độ giá trị

sản xuất tăng 16,67%, thu nhập bình quân đầu người 36,12 triệu đồng/năm.

đã triển khai thực hiện có hiệu quả Nghị quyết số 04-NQ/TU của Tỉnh ủy và

các văn bản chỉ đạo của UBND tỉnh trong công tác quản lý nhà nước về an

toàn thực phẩm, tiến hành ký cam kết 100% cơ sở sản xuất, kinh doanh nhỏ

lẻ. Tăng cường chỉ đạo hướng dẫn các xã, thị trấn thực hiện tốt các kế hoạch,

văn bản chỉ đạo hướng dẫn thực hiện bộ tiêu chí về an toàn thực phẩm;

hướng dẫn thực hiện bộ tiêu chí về an toàn thực phẩm, chỉ đạo rà soát, đánh

giá, mức độ đạt được các tiêu chí; xây dựng mô hình chợ an toàn thực phẩm

được 15/26 chỡ, 05/05 cửa hàng an toàn thực phẩm, 06 xã được công nhận

xã an toàn thực phẩm. Thiết lập đường dây nóng, tiếp nhận xử lý, phản ánh,

kiến nghị về an toàn thực phẩm được công khai trên hệ thống truyền thanh,

truyền hình và dán tại các trụ sở làm việc từ cấp huyện đến cấp xã. Tập trung

xây dựng các chuỗi cung ứng thực phẩm an toàn, tăng cường công tác thanh

tra, kiểm tra, xử lý vi phạm về an toàn thực phẩm. Tăng cường các nguồn

lực, phân bổ kinh phí hàng năm cho công tác đảm bảo an toàn thực phẩm

trên địa bàn. Với những cách làm trên đã giúp huyện Yên Định đảm bảo

được an toàn thực phẩm trên địa bàn trong những năm qua [06].

1.3.2. Kinh nghiệm quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm ở thị xã

Bến Cát, tỉnh Bình Dương

Thị xã Bến Cát hiện là đô thị loại 4 giống thị xã Buôn Hồ, có 8 đơn vị

hành chính gồm 5 phường và 3 xã, dân số 318.799, tỉ lệ thành thị là 76,57%,

kinh tế- xã hội có tốc độ phát triển nhanh, công nghiệp chiếm 75,6%, dịch

42

vụ 24,1%, nông nghiệp 0,3%, tổng giá trị sản xuất đạt trên 164.600 tỷ đồng,

thu nhập hình quân đầu người đạt 135 triệu/đồng/người/năm; hình thành

nhanh các khu công nghiệp với nhiều bếp ăn tập thể có quy mô lớn hoạt

động hàng ngày (hàng nghìn suất ăn/ca); xảy ra các vụ NĐTP với quy mô từ

vừa tới lớn tại bếp ăn tập thể các khu công nghiệp. Với đặc đặc thù trên, để

tăng cường hiệu quả QLNN về ATTP tại bếp ăn tập thể các khu công

nghiệp, ngày 11/6/2014, Ban chỉ đạo ATVSTP thị xã Bến Cát, tỉnh Bình

Dương đã ban hành Quy chế số: 64 /QC/PYT- VSIP-KCN về phối hợp quản

lý ATTP giữa Phòng Y tế, Ban Quản lý khu công nghiệp, trong đó, quy định

rõ Ban Quản lý khu công nghiệp cũng có trách nhiệm QLNN về ATTP tại

bếp ăn tập thể các khu công nghiệp. Quy chế trên là giải pháp kịp thời và

hữu hiệu trong việc giảm thiểu các vụ ngộ độc thực phẩm tại các bếp ăn tập

thể các khu công nghiệp trên địa bàn thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương, đồng

thời bên cạnh đó tăng cường các đợt thanh tra, kiểm tra các bếp ăn tập thể

của các Khu công nghiệp, trong thành phần Đoàn kiểm tra thường có mời

thêm thành viên của Ban Chấp hành Công đoàn của các Cty, doanh nghiệp

được kiểm tra; thành lập đường dây nóng để các công nhân trong nhà máy

cũng như người tiêu dùng trên địa bàn kịp thời phản ánh những trường hợp

có dấu hiệu vi phạm vệ sinh an toàn thực phẩm trên địa bàn đến cơ quan

chức năng để kịp xử, việc xử phạt đối với các tổ chức, cá nhân vi phạm các

quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm tại thị xã Bến Cát cũng được các cơ

quan quản lý nhà nước ở đây thực hiện rất nghiêm khắc, đúng với quy định,

mịnh bạch, rõ ràng chính vì những yếu tố trên mà trong những năm vừa qua

trên địa bàn thị xã đã không xảy ra một vụ ngộ độc thực phẩm tập thể nào,

việc này cũng góp phần ổn định trật tự xã hội cũng như phát triển kinh tế

trên địa bàn [06].

1.3.3. Kinh nghiệm quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm ở tỉnh

Gia Lai

Đây là một tỉnh có diện tích lớn thứ 2 Việt Nam với dân số 1.513.847

người, tốc độ tăng trưởng đạt 8,00%, tổng sản phẩm của tỉnh năm 2020 là

43

80.000,32 tỉ đồng, bình quân đầu người 51,9 triệu đồng. với 34 dân tộc cùng

sinh sống. Là một Tỉnh mà đại đa số người dân sống bằng nông nghiệp là

chù yếu, tỷ trọng thương mại, dịch vụ, công nghiệp chiếm tỷ trọng thấp. ý

thức của người dân trong việc thực hiện các quy định của nhà nước về an

toàn thực phẩm còn hạn chế, họ quen với lối canh tác, tiêu thụ các sản phẩm

làm ra theo những lối canh tác truyền thống, theo kinh nghiệm và không

theo những quy định của nhà nước. Chính vì vậy, việc nâng cao ý thức chấp

hành pháp luật về an toàn thực phẩm cho người dân trên địa bàn là một trong

những yếu tố hết sức quan trọng và cũng được cơ quan quản lý nhà nước ở

đây hết sức quan tâm. Đồng thời, tại những đơn vị hành chính có tỉ lệ thương

mại, dịch vụ cao thì quan tìm hiểu thấy việc ban hành hướng dẫn các chỉ tiêu

công bố hợp quy và công bố phù hợp quy định ATTP đối với các sản phẩm

thực phẩm tại địa phương là rất hữu ích, giảm thiểu tính rườm rà trong việc

hướng dẫn thực hiện thủ tục hành chính đối với các cơ sở; tăng tính hiệu quả

và tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các cơ sở trong việc tiếp cận các quy định

về công bố hợp quy, công bố phù hợp quy định ATTP sản phẩm thực phẩm.

Từ đó, góp phần nâng cao hiệu quả cho hoạt động QLNN về ATTP tại địa

bàn tỉnh.

1.3.4. Bài học kinh nghiệm

Từ thực tiễn của tỉnh Gia Lai, Bình Dương và huyện Yên Định, Thanh

hóa có thể rút ra bài học kinh nghiệm cho thị xã Buôn Hồ trong quản lý nhà

nước về an toàn thực phẩm như sau:

Một là: Bám sát vào các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn từ cấp trên, căn

cứ tình hình thực tế tại địa phương, sớm ban hành các văn bản hướng dẫn cụ

thể tại thị xã để triển khai thực hiện công tác quản lý nhà nước về an toàn

thực phẩm tại thị xã.

Hai là: Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ công

tác quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm

Ba là: Cần tập trung xây dựng các mô hình về an toàn thực phẩm, hỗ

trợ kết nối đầu ra cho các sản phẩm của mô hình.

44

Bốn là: Tập trung nâng cao trình độ, chuyên môn nghiệp vụ cho đội

ngũ cán bộ, công chức làm công tác quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm

Tiểu kết chương 1

Qua nghiên cứu cơ sở lý luận về quản lý nhà nước về ATTP tại

chương 1 này ta thấy QLNN về ATTP là một hình thức hoạt động của Nhà

nước, do các chủ thể có thẩm quyền (trước hết và chủ yếu bởi các cơ quan

hành chính nhà nước, người có thẩm quyền) thực hiện trên cơ sở và để thi

hành pháp luật trong lĩnh vực ATTP, góp phần vào công cuộc phát triển kinh

tế- xã hội, bảo đảm, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các công dân, cơ

quan, tổ chức trong lĩnh vực ATTP.

Chương này, đã đưa ra khái niệm về thực phẩm, về ATTP, QLNN,

QLNN về ATTP; nghiên cứu đặc điểm, vai trò; nguyên tắc QLNN về ATTP.

Quản lý nhà nước về ATTP có đặc thù khác với các dạng QLNN khác ở chỗ:

Các cơ quan quản lý dựa trên các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật để ban

hành các quyết định quản lý cho phù hợp. Chủ thể quản lý nhà nước về

ATTP đó là các cơ quan hành chính, người có thẩm quyền mà trực tiếp là

Chính phủ, Bộ Y tế, Bộ NN&PTNT, Bộ Công Thương, UBND các cấp.

Khách thể QLNN về ATTP là các hoạt động ATTP diễn ra trên phạm vi cả

nước.

Căn cứ chức năng, nhiệm vụ của mình, các CQQLNN về ATTP có

nhiệm vụ: Ban hành pháp luật về ATTP, tổ chức thực hiện pháp luật về

ATTP, thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm về ATTP. Các phương pháp

QLNN về ATTP là những phương thức, cách thức mà các cơ quan nhà nước

có thẩm quyền sử dụng để tác động lên khách thể nhằm đạt được những mục

đích đã đề ra trong quản lý ATTP, trong đó, có thể kể đến những phương

pháp phổ biến như: phương pháp hành chính, phương pháp kinh tế, phương

pháp điều chỉnh, phương pháp lãnh đạo chung, phương pháp quản lý trực

tiếp....

Hình thức QLNN về ATTP là những hoạt động cùng loại về nội dung,

tính chất và phương thức tác động do các chủ thể quản lý hành chính nhà

45

nước thực hiện đối với các cá nhân tổ chức thuộc đối tượng bị quản lý trong

lĩnh vực ATTP, với hai nhóm hình thức: hình thức mang tính pháp lý và

hình thức ít mang tính pháp lý.

Trong quá trình quản lý, các CQQLNN thực hiện QLNN về ATTP với

các nội dung sau: Xây dựng và ban hành chính sách, pháp luật; tổ chức thực

hiện pháp luật về ATTP; thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo đối

với các cơ sở vi phạm; Xử phạt hành vi vi phạm pháp luật của các cá nhân,

tổ chức vi phạm.

Phần cuối Chương 1 nghiên cứu, phân tích kinh nghiệm của hai tỉnh,

một huyện, đang có các quy định và giải pháp thực hiện QLNN về ATTP

hiệu quả có giá trị tham khảo cho công tác QLNN về ATTP trên địa bàn thị

xã Buôn Hồ.

46

Chương 2:

THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC

VỀ AN TOÀN THỰC PHẨM TRÊN ĐỊA BÀN THỊ XÃ BUÔN HỒ,

TỈNH ĐĂK LĂK

2.1. Khái quát về thị xã Buôn Hồ

2.1.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội

Thị xã Buôn Hồ được thành lập vào ngày 23/12/2008 theo Nghị định

số 07/NĐ-CP của Chính phủ, là đô thị trung tâm có vai trò là trung tâm kinh

tế, chính trị, văn hóa, khoa học kỹ thuật của khu vực phía Bắc tỉnh Đắk Lắk,

có vị trí an ninh quốc phòng đặc biệt quan trọng nằm ở phía Đông Bắc của

thành phố Buôn Ma Thuột, cách trung tâm tỉnh lỵ Đắk Lắk 40 km về phía

Đông Bắc, chạy dọc theo Quốc lộ 14:

Phía Đông giáp huyện Krông Năng, EaKar; Phía Tây giáp huyện Cư

M’Gar; Phía Nam giáp huyện Krông Pắk; Phía Bắc giáp huyện Krông Búk.

Bên cạnh đó Thị xã Buôn Hồ còn có các tuyến quốc lộ huyết mạch nối

liền các tỉnh Gia Lai, Kon Tum với Thành phố Buôn Ma Thuột. Hệ thống

giao thông thuận lợi, đường ô tô đến hầu hết các trung tâm đông dân cư theo

tuyến Quốc lộ 14, quốc lộ 29 và các tuyến đường liên xã, liên phường, thuận

lợi cho việc đi lại và vận chuyển hàng hóa, dịch vụ thương mại.

Thị xã Buôn Hồ có 28.205,89 ha diện tích tự nhiên và 101.554 nhân

khẩu, có 12 đơn vị hành chính trực thuộc, bao gồm các phường: Đạt Hiếu,

An Lạc, An Bình, Thiện An, Đoàn Kết, Thống Nhất, Bình Tân và các xã: Ea

Siên, Ea Drông, Ea Blang, Bình Thuận, Cư Bao. Trên địa bàn thị xã có 22

dân tộc anh em cùng sinh sống như Ê Đê, GiaRai, Kinh, Tày…đã tạo nên

một nền văn hóa phong tục đa dạng, phong phú, đậm đà bản sắc dân tộc.

Thị xã nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, đặc trưng cho vùng

Cao nguyên Nam Trung Bộ, mỗi năm có hai mùa rõ rệt: mùa mưa và mùa

khô. Mùa mưa bắt đầu từ tháng 4 đến tháng 10, lượng mưa trung bình hàng

năm khoảng 1.700mm, nhiệt độ trung bình là 23,40C rất thuận lợi cho các

47

loại cây công nghiệp như cà phê, cao su, ca cao, tiêu và cây lương thực như

ngô lai, đậu tương và các loại cây ăn trái khác.

Hiện nay, Buôn Hồ đã là "tâm điểm" của vùng chuyên canh cây cà phê

nổi tiếng, được trải rộng ra các huyện lân cận, bao gồm huyện Cư M'gar,

Krông Năng, Ea H'Leo với diện tích gần 100.000 ha. Ðồng thời, đây cũng là

vùng có hệ sinh thái phong phú và đa dạng với các khu rừng đặc dụng, rừng

phòng hộ tiêu biểu như: đèo Hà Lan, rừng thông Buôn Tring... nên rất có

tiềm năng trong việc phát triển du lịch sinh thái, gắn với văn hóa truyền

thống của người dân bản địa. Ở đó Buôn Hồ được coi như một "địa chỉ đỏ"

có sức lan tỏa, ảnh hưởng rộng khắp toàn vùng. Với những đặc trưng đó,

Buôn Hồ được xác định là đô thị kinh tế-sinh thái-văn hóa cấp vùng của

tỉnh.

Kinh tế của thị xã đạt tốc độ tăng trưởng khá, cơ cấu kinh tế tiếp tục

chuyển dịch theo hướng giảm dần tỷ trong nông, lâm nghiệp (31,06%), tăng

tỷ trọng thương mại và dịch vụ (52,17%), công nghiệp- xây dựng (16,77%).

Tổng giá trị sản xuất (theo giá so sách năm 2010) trong 5 năm ước thực hiện

36.182,7 tỷ đồng, tốc độ tăng trưởng bình quân 12,51%/năm [23].

2.1.2. Thực trạng an toàn thực phẩm trên địa bàn thị xã Buôn Hồ

Hiện tại thị xã Buôn Hồ có 1.787 hộ kinh doanh (trong đó: 1.052 hộ

kinh doanh thực phẩm), 281 doanh nghiệp, 17 hợp tác xã (01 hợp tác xã vận

tải, 16 hợp tác xã chăn nuôi và trồng trọt), 20 tổ hợp tác (chủ yếu trên lĩnh

vực chăn nuôn và trồng trọt), 68 trang trại chăn nuôi (44 trang trại nông

nghiệp, 24 chăn nuôi) [17].

Trong những năm vừa qua, an toàn thực phẩm trên địa bàn thị xã đã

được quan tâm rõ rệt, từ việc đầu tư cơ sở vật chất như việc tạo điều kiện thu

hút đầu tư để đơn vị Sài Gòn Coop vào xây dựng Siêu thị Coopmark trên địa

bàn, chuỗi cửa hàng Bách hoa xanh xây dựng 03 địa điểm cung cấp hàng

hóa thực phẩm rỏ nguồn gốc xuất xứ, đảm bảo an toàn thực phẩm (tại

phường An Lạc, phường Thống Nhất, xã Bình Thuận) đã tạo điều kiện cho

48

người tiêu dùng có được thêm nhiều sự lựa chọn trong sử dụng thực phẩm

an toàn.

Hiện tại trên địa bàn có 05 chợ với khoảng 700 tiểu thương kinh

doanh các mặt hàng thực phẩm (trong đó 01 chợ tại Trung tâm Thị xã, 01

chợ tại phường Thống Nhất, 01 chợ tại phường Bình Tân, 01 chợ tại xã Bình

Thuận, 01 chợ tại xã Ea Siên). 01 lò giết mổ gia súc tập trung (của HTX giết

mổ gia súc Quang Hà), còn lại khoảng hơn 10 cơ sở giết mổ gia súc tại tư

nhân, tình trạng giết mổ gia súc, gia cầm và vận chuyển không đảm bảo vệ

sinh an toàn thực phẩm, còn tình trạng giết mổ gia cầm tại chợ, tiềm ẩn

nhiều nguy cơ dẫn tới NĐTP.

Thị xã có trên 300ha trồng cây ăn quả, trong đó 52ha đang trồng theo

tiêu chuẩn VietGAP (đã có giấy chứng nhận), khoảng 20ha đất nông nghiệp

chuyên trồng các loại rau, củ, quả cung cấp trực tiếp cho các chợ và người

dân trên địa bàn nhưng hiện tại vẫn chưa có mô hình liên kết sản xuất rau

theo tiêu chuẩn VietGAP [17].

Trong những năm vừa qua thì trên địa bản không có tình trạng NĐTP

tập thể xảy ra, tuy nhiên số lượng các ca bị NĐTP cũng đang có chiều hướng

gia tăng. (được nêu tại Bảng 2.1)

Bảng 2.1. số ca ngộ độc thực phẩm xảy ra trên địa bàn từ 2015 đến

nay

Năm 2015 2016 2017 2018 2019 9/2020

Số ca bị NĐTP 48 57 78 129 154 106

Nguồn: báo cáo của Trung tâm Y tế Thị xã

Tuy số ca mắc/tỷ lệ dân số của thị xã không cao, tuy nhiên ta thấy tình

trạng bị NĐTP tại thị xã đang ngày một gia tăng.

Với những thực trạng về an toàn thực phẩm trên địa bàn thị xã, ta thấy

việc đảm bảo an toàn thực phẩm cho người dân là một vấn đề cần được quan

tâm, đòi hỏi các cơ quan quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm trên địa bàn

cần phải tăng cường hơn nữa công tác quản lý nhà nước về an toàn thực

phẩm trên địa bàn thị xã Buôn Hồ.

49

2.2. Đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm

trên địa bàn thị xã Buôn Hồ

2.2.1. Về công tác xây dựng, ban hành văn bản pháp luật

2.2.1.1. Thực trạng ban hành văn bản quy phạm pháp luật về an toàn

thực phẩm trên địa bàn thị xã Buôn Hồ

Xây dựng và ban hành các VBQPPL về ATTP là một trong những

nhiệm vụ quan trọng của các cấp cơ quan QLNN có thẩm quyền nhằm tạo

hành lang pháp lý đầy đủ, chặt chẽ, từ trung ương đến địa phương cho hoạt

động QLNN về ATTP.

Nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật tạo nền tảng nâng cao hiệu

quả hoạt động QLNN về ATTP trên địa bàn thị xã Buôn Hồ, trong thời gian

vừa qua, ngoài việc thực hiện theo các quy định tại luật, các văn bản dưới

luật về ATTP thống nhất chung trên phạm vi cả nước, thị xã Buôn Hồ cũng

đã xây dựng và ban hành các VBQPPL về ATTP áp dụng trên địa bàn. Các

VBQPPL được xây dựng và ban hành 63 văn bản cụ thể hóa mục tiêu và các

quy định QLNN về ATTP trên địa bàn thị xã. Như kế hoạch triển khai các

hoạt động đảm bảo an toàn thực phẩm trên địa bàn thị xã giai đoạn và hàng

năm [17],[18].

Đặc biệt sau khi Chỉ thị số 13/CT-TTg, ngày 09/5/2016 của Thủ

tướng Chính phủ về tăng cường trách nhiệm quản lý nhà nước về an toàn

thực. UBND thị xã đã xây dựng Kế hoạch số 76/KH-UBND, ngày 01/8/2016

về tăng cường trách nhiệm quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm trên địa

bàn thị xã Buôn Hồ, trong đó thể hiện rõ [24]:

QLNN về ATTP là nhiệm vụ vừa cấp bách, vừa lâu dài, các cấp, các

ngành trong lãnh đạo, chỉ đạo, triển khai thực hiện cần có trọng tâm, trọng

điểm, phù hợp với từng giai đoạn; trước mắt hoạt động phải được triển khai

quyết liệt, đồng bộ ở các cơ quan, ban ngành trên địa bàn thị xã. Kế hoạch

đã đưa ra các nhiệm vụ cụ thể cho QLNN về ATTP trong tình hình mới:

- Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý các cơ quan ban ngành,

chính quyền các xã/phường; gắn kết trách nhiệm của người đứng đầu cơ

50

quan, tổ chức, doanh nghiệp trong việc thực hiện chính sách pháp luật về

ATTP;

- Đẩy mạnh truyền thông, giáo dục, phổ biến kiến thức và pháp luật về

ATTP, chú trọng giáo dục trách nhiệm và đạo đức kinh doanh của người sản

xuất, kinh doanh thực phẩm; giáo dục người dân không chấp nhận và sử

dụng thực phẩm không đảm bảo ATTP;

- Tăng cường thanh tra, kiểm tra, xử lý nghiêm minh đủ sức răn đe

những hành vi vi phạm pháp luật về ATTP, tạo bước đột phá mạnh mẽ trong

hoạt động QLNN về ATTP; đẩy mạnh phối hợp giữa các cấp, các ngành, các

lực lượng trong thanh tra, kiểm tra ATTP;

- Tăng cường năng lực và kiện toàn tổ chức bộ máy QLNN về ATTP

theo hướng kiểm soát theo nguy cơ ô nhiễm trong toàn bộ chuỗi cung cấp

thực phẩm; đẩy mạnh xã hội hóa trong QLNN về ATTP;

- Phát huy vai trò của các doanh nghiệp, tổ chức chính trị - xã hội

trong việc tham gia bảo đảm ATTP;

- Đảm bảo cấp đủ ngân sách, nhân lực và trang thiết bị để đáp ứng cho

hoạt động QLNN về ATTP.

Đồng thời, tại Kế hoạch số 76/KH-UBND, ngày 01/8/2016 đã phân

công trách nhiệm và quan hệ phối hợp trong QLNN về ATTP giữa các cơ

quan, các ban, ngành trên địa bàn thị xã Buôn Hồ, trong đó quy định rõ

Phòng Y tế là cơ quan chịu trách nhiệm trước UBND thị xã Buôn Hồ thực

hiện QLNN về ATTP trên địa bàn.

Có thể thấy, Kế hoạch số 76/KH-UBND, ngày 01/8/2016 của UBND

thị xã Buôn Hồ là văn bản thể hiện một cách bao quát và đầy đủ nhất trong

chỉ đạo thực hiện các nhiệm vụ QLNN về ATTP trên địa bàn. Kể từ khi ban

hành và có hiệu lực, kế hoạch đã đóng vai trò là căn cứ nền tảng trong triển

khai các nhiệm vụ cũng như trong phối hợp thực hiện các hoạt động QLNN

về ATTP giữa các phòng, ban.

Ngày 02/02/2018 của Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Nghị định số

15/2018/NĐ-CP, về Quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật an toàn

51

thực phẩm và Chỉ thị số 17/CT-TTg, ngày 13/4/2020 của Thủ tướng Chính

phủ về tiếp tục tăng cường trách nhiệm quản lý nhà nước về an toàn thực

phẩm trong tình hình mới, UBND tỉnh Đăk Lăk đã ban hành Quyết định số

17/QĐ-UBND của Ủy ban nhân dân tỉnh Đăk Lăk Quy định quản lý nhà

nước trên địa bàn Tỉnh, thì Kế hoạch số 76/KH-UBND, ngày 01/8/2016 của

UBND thị xã Buôn Hồ đã cho thấy nhiều nội dung không còn phù hợp, như

quy định về phân công và phối hợp giữa các ngành trong triển khai các

nhiệm vụ QLNN về ATTP tại địa phương, ví dụ như theo Kế hoạch 76/KH-

UBND thì việc xác nhận kiến thức ATTP của các cơ sở kinh doanh thực

phẩm ăn uống giao cho Phòng Y tế quản lý, thực hiện nhưng theo Quyết

định 17/QĐ-UBND của UBND tỉnh thì hoạt động này lại giao cho Trung

tâm y tế. Chính vì vậy, UBND thị xã Buôn Hồ đã ban hành Công văn số

1006/UBND-YT về quản lý về ATTP trên địa bàn thị xã trong đó giao:

- Phòng Y tế tham mưu Ủy ban nhân dân thị xã thực hiện QLNN về

an toàn thực phẩm đối với các cơ sở kinh doanh dịch vụ ăn uống.

- Phòng kinh tế tham mưu Ủy ban nhân dân thị xã thực hiện quản lý

nhà nước về ATTP đối với các cơ sở sản xuất, kinh doanh các loại thực

phẩm.

- Ủy ban nhân dân các xã, phường quản lý ATTP: đối với các cơ sở

kinh doanh dịch vụ ăn uống cố định (bao gồm cả bếp ăn tập thể, căn tin

trường học, nhà máy …) không có giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh có

quy mô dưới 50 suất ăn/ lần phục vụ và các cơ sở kinh doanh thức ăn đường

phố trên địa bàn.

Có thể thấy, hiện nay, hệ thống VBQPPL về ATTP được thị xã Buôn

Hồ ban hành đã tạo nên một hành lang pháp lý tương đối ổn định, có tính

thống nhất với các VBQPPL do Trung ương ban hành, mang tính chiến lược

dài hạn cho hoạt động QLNN về ATTP tại địa phương.

Tuy nhiên, bên cạnh đó ta thấy thị xã Buôn Hồ vẫn chưa có văn bản

hướng dẫn cụ thể về công tác phối hợp trong công tác QLNN về ATTP trên

52

địa bàn, điều này đã tất yếu dẫn tới việc phối hợp trong thi hành các nhiệm

vụ QLNN về ATTP giữa các ban, ngành trên địa bàn Thị xã còn chưa cao.

2.2.1.2. Thực trạng hướng dẫn thi hành các văn bản quy phạm pháp

luật về an toàn thực phẩm trên địa bàn thị xã Buôn Hồ

Nhằm thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của

Nhà nước và các VBQPPL đã ban hành của địa phương về ATTP, trong thời

gian vừa qua thị xã Buôn Hồ đã có những hướng dẫn thi hành đối với hoạt

động QLNN về ATTP, được thể hiện rõ qua các kế hoạch, quy hoạch, dự án,

đề án...: Nâng cao kiến thức và thực hành về ATTP cho các nhóm đối tượng

tượng (cán bộ quản lý, người sản xuất, kinh doanh, chế biến và người tiêu

dùng thực phẩm); tăng cường năng lực của hệ thống quản lý ATTP, hoàn

thiện hệ thống quản lý, phân tích một số nguy cơ cao về ATTP của địa

phương; cải thiện tình trạng đảm bảo ATTP của các cơ sở sản xuất, chế biến

thực phẩm, áp dụng và khuyến khích các cơ sở thực phẩm áp dụng các hệ

thống tiêu chuẩn về ATTP; cải thiện rõ rệt tình trạng bảo đảm ATTP của các

cơ sở kinh doanh thực phẩm. Bên cạnh đó, hướng dẫn các giải pháp thực

hiện như: Chỉ đạo điều hành; truyền thông giáo dục; chuyên môn, kỹ thuật;

sử dụng các nguồn lực. Đặc biệt, phân công nhiệm vụ cụ thể đối với từng

ban, ngành, từng cơ quan chức năng như: Phòng Y tế, Phòng kinh tế, Đội

quản lý thị trường, Công an thị xã… trong việc thi hành các VBQPPL.

2.2.1.3. Thực trạng tổ chức thực hiện và triển khai các văn bản quy

phạm pháp luật về an toàn thực phẩm trên địa bàn thị xã Buôn Hồ

Thực trạng việc tổ chức thực hiện các VBQPPL về ATTP trên địa bàn

thị xã Buôn Hồ trong thời gian vừa qua được thể hiện thông qua kết quả thực

hiện các hoạt động quy định tại Luật ATTP, các luật, bộ luật liên quan tới

ATTP và các VBQPPL hướng dẫn dưới luật về ATTP. Những nội dung

chính và kết quả triển khai trong tổ chức thực hiện các VBQPPL về ATTP

trên địa bàn thị xã bao gồm:

Một là, hoạt động thông tin, giáo dục, truyền thông về ATTP:

53

Hoạt động thông tin, giáo dục, truyền thông về ATTP trên địa bàn

đuợc duy trì và đẩy mạnh nhằm thay đổi kiến thức và hành vi của người dân

về ATTP theo hướng tích cực hơn. Tuy nhiên, thực tiễn triển khai cho thấy

hoạt động này trong những năm vừa qua vẫn còn nhiều hạn chế, nhiều nội

dung truyền thông còn mang tính máy móc, ít có thay đổi, chưa thực sự phù

hợp với nhu cầu thực tiễn của từng đối tượng quản lý, từng xã/phường;

nhiều thông tin về các sự vụ liên quan tới ATTP còn chưa được công khai để

người tiêu dùng kịp thời lựa chọn; hoạt động truyền thông về ATTP còn

mang tính chất hình thức trong tổ chức thực hiện…

Hai là, hoạt động quản lý, xử lý, điều tra NĐTP; giám sát các mối

nguy gây ô nhiễm thực phẩm:

Quản lý, xử lý, điều tra NĐTP; giám sát các mối nguy gây ô nhiễm

thực phẩm là hai hoạt động được thực hiện nhằm thống kê, dự báo, phòng,

tránh và giảm thiểu tới mức thấp nhất tác hại của NĐTP đối với cộng đồng.

Trong giai đoạn 2015– 2020, hai hoạt động trên được triển khai tương đối ổn

định trên địa bàn thị xã Buôn Hồ. Đặc biệt, hoạt động giám sát các mối nguy

gây ô nhiễm thực phẩm được triển khai định kì đều đặn theo các tháng và

quý trong năm đã đánh giá chính xác về thực trạng ATTP đối với các loại

thực phẩm thông dụng trên địa bàn.

Tuy nhiên, thực tiễn triển khai cho thấy hai hoạt động trên vẫn còn tồn

tại nhiều hạn chế như: Thiếu thốn các phương tiện kĩ thuật hiện đại; hạn chế

về kinh phí và nhân lực đầu tư trong triển khai; chưa thống kê đầy đủ được

các ca NĐTP xảy ra trên địa bàn; chưa dự báo được về xu hướng, tình hình

NĐTP; sự phối hợp giữa các cấp, ngành trong xử lý NĐTP chưa thực sự có

hiệu quả do hoạt động thông tin, nắm bắt, rà soát địa bàn tại một số địa

phương chưa được thực hiện tích cực, dẫn tới việc xử lý, điều tra NĐTP còn

chậm trễ, thiếu tính chủ động và chuyên nghiệp, phần lớn các vụ NĐTP xảy

ra không tìm ra được nguyên nhân...

Ba là, hoạt động cấp giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện ATTP:

54

Hoạt động cấp giấy chứng nhận cơ sở thực hiện các quy định về an

toàn thực phẩm của các hộ kinh doanh trên địa bàn thị xã Buôn Hồ giai đoạn

2015 – 2020 (được nêu tại Bảng 2.2) đã được thực hiện, bên cạnh đó công

tác hướng dẫn các cơ sở sản xuất, kinh doanh được cấp giấy chứng nhận cơ

sở đủ điều kiện ATTP đã được quan tâm.

Bảng 2.2. Số liệu các cơ sở kinh doanh/sản xuất thực phẩm

đủ điều kiện ATTP

Năm 2015 2016 2017 2018 2019 9/2020 Nội dung

Ký cam kết ATTP 76 79 65 89 97 62

7 Cơ sở đủ điều kiện ATTP 15 18 20 18 14

Nguồn: Báo cáo Phòng Y tế và Trung tâm y tế

Tuy nhiên, thực tiễn triển khai cho thấy hoạt động này vẫn còn tồn tại

nhiều hạn chế như: Thủ tục hành chính cấp giấy chứng nhận cơ sở đủ điều

kiện ATTP còn nhiều rườm rà, kinh phí cao. Bên cạnh đó hoạt động cũng

chưa được triển khai triệt để, với tổng số trên 100 cơ sở kinh doanh dịch vụ

ăn uống trên địa bàn thì số lượng được cấp giấy chứng nhận này chưa thể đạt

100%, đồng thời Phòng Y tế thị xã Buôn Hồ cũng không quản lý được số

lượng các cơ sở kinh doanh chưa được cấp giấy, nếu có đoàn kiểm tra trúng

cơ sở nào chưa đủ điều kiện thì mới xử lý, xử phạt theo quy định của nhà

nước. điều này cho thấy có một lỗ hổng khá lớn trong hoạt động này.

Thường thì cơ sở nào ở ngay trung tâm/ đã từng bị kiểm tra/ hoặc ý thức của

người chủ cơ sở về ATTP cao thì họ chủ động làm các thủ tục để được cấp

giấy chứng nhận cơ sở điều kiện an toàn/ hoặc ký cam kết còn nếu không thì

các cơ quan quản lý nhà nước, các cơ quan chuyên môn phụ trách mãng này

không có sự rà soát, nhắc nhở hoặc chế tài để học thực hiện.

55

2.2.2. Thực trạng bộ máy quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm

của thị xã Buôn Hồ

Bộ máy các cơ quan QLNN về ATTP được tổ chức theo quy định của

luật pháp hiện hành, cụ thể tại Thị xã:

Phòng Kinh tế: được giao tham mưu quản lý nhà nước về an toàn thực

phẩm đối với lĩnh vực Công thương và lĩnh vực nông nghiệp & phát triển

nông thôn

- Đối với lĩnh vực Công thương: Quản lý an toàn thực phẩm đối với

các cơ sở sản xuất, kinh doanh các loại thực phẩm: rượu, bia, nước giải khát;

sữa chế biến; dầu thực vật; sản phẩm chế biến từ hột, tinh bột; bánh, mứt,

kẹo; dụng cụ, vật liệu bao gói chuyên dụng gắn liền và chỉ sử dụng cho các

sản phẩm thực phẩm trên; cơ sở kinh doanh thực phẩm tổng hợp thuộc trách

nhiệm quản lý nhà nước của ngành Công thương trên địa bàn, bao gồm:

+ Cơ sở sản xuất thực phẩm nhỏ lẽ được cơ quan đăng ký kinh doanh

theo thuộc Ủy ban nhân dân thị xã cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh

theo quy định (trừ các cơ sở sản xuất thực phẩm, hợp tác xã thường xuyên sử

dụng từ 10 lao động trở lên)

+ Cơ sở sản xuất kinh doanh nhỏ lẻ bao gồm cả các cơ sở kinh doanh

thực phẩm trong các chợ, được cơ quan đăng ký kinh doanh cấp thị xã cấp

giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh theo quy định (trừ các cơ sở kinh

doanh thực phẩm, hợp tác xã thường xuyên sử dụng 10 lao động trở lên)

+ Các cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm nhỏ lẻ không thuộc đối

tượng đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật.

+ Cơ sở kinh doanh ăn uống trong chợ.

- Đối với lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn: Quản lý an

toàn thực phẩm đối với các cơ sở sản xuất, kinh doanh nông, lâm, thủy sản

không thuộc diện cấp giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện an toàn thực phẩm

thuộc phạm vi quản lý của Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn theo quy

định phân cấp.

56

Phòng Y tế: được giao tham mưu trực tiếp tham gia các hoạt động

QLNN về ATTP theo phân cấp quản lý của ngành y tế trên địa bàn. Quản lý

an toàn thực phẩm và cấp Giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện an toàn thực

phẩm đối với:

- Các cơ sở kinh doanh dịch vụ ăn uống Ủy ban nhân dân cấp thị xã

cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh có quy mô dưới 200 suất ăn/lần

phục vụ;

- Các cơ sở kinh doanh dịch vụ ăn uống có địa điểm cố định (bao gồm

cả bếp ăn tập thể) không có giấy chứng nhận kinh doanh có quy mô kinh

doanh dước 200 suất ăn/lần phục vụ, trừ căng tin, bếp ăn tập thể phục vụ

công nhân trong các cơ sở sản xuất thực phẩm, do cơ quan quản lý chuyên

ngành đối với sản phẩm đó thực hiện quản lý;

- Các cơ sở dịch vụ ăn uống lưu động;

- Các cơ sở kinh doanh ăn uống đường phố.

Đội Quản lý thị Trường: Là cơ quan trực thuộc Chi cục Quản lý Thị

trường tỉnh Đăk Lăk (Sở Công Thương), đóng trên địa bàn thị xã Buôn Hồ

có nhiệm vụ trực tiếp tham mưu và giúp Sở Công Thương thực hiện các hoạt

động QLNN về ATTP theo phân cấp quản lý của ngành công thương trên

địa bàn thị xã và tham gia vào hoạt động QLNN về ATTP theo sự chỉ đạo

của UBND thị xã

Tại cấp xã/phường: UBND xã/phường chịu trách nhiệm QLNN về

ATTP trên địa bàn xã/phường do mình quản lý đối với các cơ sở kinh doanh

dịch vụ ăn uống có địa điểm cố định (bao gồm cả bếp ăn tập thể, căn tin

trường học, nhà máy …) không có giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh có

quy mô kinh doanh dưới 50 suất ăn/ lần phục vụ và các cơ sở kinh doanh

thức ăn đường phố.

* Phối hợp giữa các cơ quan tham mưu QLNN về ATTP trên địa bàn

thị xã

Phòng Y tế chịu trách nhiệm chính trước Ban chỉ đạo liên ngành

ATVSTP và UBND thị xã Buôn Hồ thực hiện QLNN về ATTP trên địa bàn

57

thị xã; là đầu mối thường trực Ban Chỉ đạo liên ngành về ATVSTP của thị

xã trong phối hợp thực hiện các hoạt động QLNN về ATTP, các cơ quan,

ban, ngành và UBND các cấp trên địa bàn thị xã Buôn Hồ có trách nhiệm:

Phối hợp chặt chẽ trong thực hiện nhiệm vụ QLNN về ATTP; phối

hợp tổ chức hoạt động thanh tra, kiểm tra liên ngành theo đề nghị của cơ

quan chủ trì hoặc theo yêu cầu của cấp có thẩm quyền.

Phối hợp giám sát, phòng ngừa, ngăn chặn ô nhiễm thực phẩm,

NĐTP, dịch, bệnh truyền qua thực phẩm.

Khi có NĐTP, Phòng Y tế chịu trách nhiệm chỉ đạo Trung tâm Y tế tổ

chức cấp cứu, điều trị kịp thời cho người bị NĐTP. Quản lý thực phẩm gây

ra NĐTP, chủ cơ sở để xảy ra NĐTP có trách nhiệm cung cấp đầy đủ hồ sơ,

thông tin liên quan tới nguồn gốc thực phẩm nghi ngờ; phối hợp với Trung

tâm Y tế và các cơ quan liên quan điều tra căn nguyên, truy xuất nguồn gốc

và xử lý thực phẩm gây ngộ độc.

Sự phối hợp giữa các cơ quan, ban, ngành và UBND các cấp trên địa

bàn thị xã Buôn Hồ được tuân theo các nguyên tắc:

Đối với cơ sở sản xuất nhiều loại sản phẩm thực phẩm thuộc thẩm

quyền quản lý của từ 02 sở trở lên, trong đó có sản phẩm thực phẩm thuộc

thẩm quyền quản lý của Phòng Y tế thì Phòng Y tế chịu trách nhiệm quản lý.

Đối với cơ sở sản xuất nhiều loại sản phẩm thực phẩm thuộc thẩm

quyền quản lý của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và Bộ Công

thương thì Phòng Kinh tế chịu trách nhiệm quản lý.

Đối với cơ sở kinh doanh nhiều loại sản phẩm thực phẩm thuộc thẩm

quyền quản lý của từ 02 sở trở lên (bao gồm cả chợ và siêu thị) thì Phòng

Kinh tế chịu trách nhiệm quản lý.

Trường hợp các cơ quan QLNN có sự trùng lặp kế hoạch hoạt động,

thực hiện: Kế hoạch hoạt động của cơ quan cấp dưới trùng với kế hoạch của

cơ quan cấp trên thì thực hiện theo kế hoạch của cơ quan cấp trên; kế hoạch

hoạt động của cơ quan cùng cấp trùng nhau về địa bàn, cơ sở thì các bên trao

đổi thống nhất thành lập đoàn liên ngành.

58

Về mặt tích cực, có thể thấy, hiện nay tổ chức QLNN về ATTP từ cấp

thị xã tới cấp xã/phường trên địa bàn thị xã Buôn Hồ đã được hình thành và

ổn định trong thực hiện các hoạt động. Tuy nhiên, thực tiễn triển khai cho

thấy còn tồn tại nhiều hạn chế như sau:

Mặc dù UBND thị xã Buôn Hồ đã ban hành quy định rõ ràng, nhưng

trên thực tế sự phối hợp giữa các cấp, các ngành trên địa bàn thị xã là chưa

chặt chẽ, vẫn còn hiện tượng chồng chéo, trùng lặp, thậm chí là đùn đẩy

trách nhiệm giữa các ngành, các cấp trong thực hiện các nhiệm vụ QLNN về

ATTP như: Xử lý vi phạm, thanh tra, kiểm tra…, đặc biệt, một số cơ sở sản

xuất cùng cả ba ngành quản lý như: Rượu, sữa, chế biến tinh bột nghệ…;

phối hợp về thông tin quản lý trong QLNN về ATTP giữa các cấp, các

ngành hiện tại còn nhiều yếu kém, cụ thể: Thông tin quản lý riêng giữa các

ngành thường không được chia sẻ, báo cáo thường ghi chung chung … chưa

có chế tài ràng buộc trong phối hợp và phân công nhiệm vụ QLNN về

ATTP.

Sơ đồ 2.1. Bộ máy quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm

trên địa bàn thị xã Buôn Hồ hiện nay

59

Thực tế triển khai các nhiệm vụ cho thấy cơ cấu tổ chức bộ máy

QLNN về ATTP trên địa bàn thị xã Buôn Hồ hiện nay mõng, chỉ có 02

Phòng (Phòng kinh tế, Phòng Y tế) là 02 đơn vị chịu trách nhiệm chính trong

công tác quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm trên địa bàn. Quyền hạn,

nhiệm vụ giao cho cấp Thị xã ít như những cơ sở sản xuất thực phẩm có 10

công nhân trở lên thuộc UBND tỉnh quản lý, cấp giấy chứng nhận đăng ký

kinh doanh, đối với những sơ sở này thì thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận cơ

sở đủ điều kiện về an toàn thực phẩm do Sở Công thương hoặc Sở Y tế

nhưng vì địa bản quản lý rộng, số lượng lại nhiều nên việc quản lý an toàn

thực phẩm của cấp Sở không thể sâu sát được và việc làm đăng ký thủ tục

hành chính để được Cấp giấy chứng nhận ATTP thuộc cấp Tỉnh quản lý còn

nhiều chồng chéo, phức tạp, gặp nhiều đầu mối như: Chi cục Quản lý Thị

trường, Phòng Quản lý Thương mại nội địa thuộc Sở Công Thương; Chi cục

ATVSTP thuộc Sở Y tế; Chi cục Quản lý chất lượng nông lâm sản và thủy

sản, Chi cục Thú y thuộc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn).

2.2.3. Thực trạng nguồn lực đảm bảo quản lý nhà nước về an toàn

thực phẩm trên địa bàn thị xã Buôn Hồ

2.2.3.1.Thực trạng nguồn nhân lực quản lý nhà nước về an toàn thực

phẩm trên địa bàn thị xã Buôn Hồ

Chất lượng và cơ cấu nhân lực đóng vai trò rất quan trọng đối với hiệu

quả thi hành quy định pháp luật tại các cơ quan QLNN về ATTP. Trên địa

bàn thị xã Buôn Hồ, nguồn nhân lực QLNN về ATTP được cơ cấu theo các

cấp hành chính từ thị xã tới các xã, phường cụ thể [17], [18]:

- Phòng y tế: có cơ cấu nhân lực 03 người, trong đó 02 người được

giao các nhiệm vụ thực hiện QLNN về ATTP

- Phòng Kinh tế: có 07 biên chế, trong đó 03 được giao phụ trách

mãng an toàn thực phẩm.

- Trung tâm y tế: có khoa Xét nghiệm và ATTP được giao nhiệm vụ

tham gia hoạt động chuyên môn về ATTP trên phạm vi địa bàn, có cơ cấu

nhân lực 03 người.

60

- Ở cấp xã: Tại các trạm y tế đóng trên địa bàn các xã, phường có 05-

09 người, trong đó, mỗi trạm có 01 người được giao nhiệm vụ QLNN về

ATTP.

Trong những năm vừa qua, nhân lực làm việc trong bộ máy các cơ

quan QLNN về ATTP trên địa bàn thị xã không có sự thay đổi lớn về số

lượng và có chiều hướng giảm dần về số lượng như tinh giản một số trường

hợp là hợp đồng lao động theo đúng tinh thần của Nghị quyết số 18-NQ/TW,

ngày 25/10/2017 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về tiếp tục

đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động

hiệu lực, hiệu quả. Hiện những cán bộ, công chức làm trong lĩnh vực này

đều đã được biên chế.

Về trình độ, xét trên mặt bằng chung, nhân lực QLNN về ATTP trên

địa bàn thị xã Buôn Hồ cơ bản đã đáp ứng được những yêu cầu cơ bản của

nhiệm vụ. Tuy nhiên, tại cấp xã, phường nhân lực QLNN về ATTP còn thiếu

kiến thức về quản lý nhà yếu về trình độ và kinh nghiệm chuyên môn, dẫn

đến gặp nhiều khó khăn trong triển khai các hoạt động (được nêu trong bảng

2.3). Cụ thể, mỗi xã, phường có 01 người phụ trách ATTP cấp xã/phường,

trình độ trung cấp, thực hiện QLNN về ATTP kiêm nhiệm cùng nhiều nhiệm

vụ khác, do đó hiệu quả quản lý còn chưa cao.

Bên cạnh đó, nhiều cán bộ, công chức được giao phụ trách hoặc tham

mưu về công tác quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm trên địa bàn thì lại

không có kiến thức về chuyên môn, cụ thể Phó trưởng Phòng Y tế phụ trách

trực tiếp tham mưu cho Ủy ban nhân dân thị xã trong công tác quản lý nhà

nước đối với mãng thực phẩm ăn uống, thức ăn hè phố thì có chuyên ngành

đào tạo là Cử nhân quản trị kinh doanh; cán bộ, công chức Phòng Kinh tế

được giao phụ trách tham mưu quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm trong

các cơ sở sản xuất, kinh doanh, chăn nuôi, trồng trọt cũng không có kiến

thức chuyên môn chuyên sâu về lĩnh vực.

61

Bảng 2.3. Số liệu nhân lực quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm

trên địa bàn thị xã Buôn Hồ tính đến tháng 9/2020

CB CC VC

Stt Đơn vị Trình độ Tỉ lệ Số lượng (người)

0 0 Thạc sỹ

01 Phòng Y tế 66.7 02 Cử nhân

Trung cấp 33.3 01

0 0 Thạc sỹ

02 Phòng Kinh tế 100 07 Cử nhân

0 0 Trung cấp

(Tính cả số lượng làm

2.4 03 Thạc sỹ Trung tâm Y tế

việc tại các xã,

phường)

03 22.05 28 Cử nhân

75.55 93 Trung cấp

Tổng 134

Nguồn: Phòng Nội vụ Thị xã

62

Tổng số cán bộ, công chức, viên chức trực tiếp làm nhiệm vụ quản lý

nhà nước về ATTP và có trình độ chuyên môn về an toàn thực phẩm:

CB, CC, VC tại

các cơ quan được Trực tiếp Đúng chuyên giao làm nhiệm QLNN về môn vụ QLNN về ATTP Stt Trình độ ATTP

Số Số Số Tỉ lượng Tỉ lệ lượng Tỉ lệ lượng lệ (người) (người) (người)

1 Thạc sỹ 2.24 01 0.75 0 03 0

2 Cử nhân 27.6 07 5.22 02 37 1.5

3 Trung cấp 70,16 14 10.45 02 94 1.5

80

70

60

50

tỉ lệ

40

Trực tiếp QLNN về ATTP

30

đúng chuyên ngành ATTP

20

10

0

trình độ thạc sỹ

trình độ cử nhân

trình độ trung cấp

22 16.42 04 Tổng 134 100 3

Biểu đồ 2.1. So sánh số lượng, trình độ cán bộ, công chức làm việc

trong cơ quan QLNN về ATTP với số lượng được phân công trực tiếp làm

nhiệm vụ QLNN về ATTP.

63

Như vậy, nhân lực làm việc tại các cơ quan QLNN về ATTP trên địa

bàn thị xã Buôn Hồ cơ bản đã có sự ổn định về cơ cấu. Mặt bằng chung, đã

đảm bảo những yêu cầu cơ bản trong triển khai các nhiệm vụ. Tuy nhiên,

thực tiễn triển khai cho thấy còn tồn tại những hạn chế như sau:

Mặc dù tỉ lệ cán bộ quản lý có trình độ đại học, sau đại học tại các cơ

quan QLNN về ATTP trên địa bàn cũng tương đối cao (những chủ yếu ở

cấp thị xã). Tuy nhiên, tỉ lệ cán bộ quản lý được đào tạo chuyên môn là bác

sĩ rất ít, những cán bộ được phân phụ trách chuyên môn về ATTP còn ít, còn

lại phần lớn là cử nhân chuyên ngành về hóa học, sinh học, môi trường,

nông nghiệp, thú y, kinh tế, quản trị kinh doanh… hoặc chuyên ngành khác,

không có liên quan tới thực phẩm. Đặc biệt, Phó trưởng Phòng Y tế phụ

trách mãng an toàn thực phẩm trên địa bàn thị xã có trình độ đại học, chuyên

ngành quản trị kinh doanh. Cán bộ phụ trách chính công tác ATTP tại Phòng

Y tế và Trung tâm Y tế có trình độ trung cấp.

Trưởng khoa xét nghiệm và an toàn thực phẩm của Trung tâm y tế có

chuyên môn bên xét nghiệm, nên việc triển khai thực hiện chuyên môn về

ATTP sẻ gặp nhiều khó khăn vì đây là cơ quan chuyên môn trực tiếp thực

hiện công tác ATTP trên địa bàn.

Tại cấp xã/phường nhân lực QLNN về ATTP còn thiếu kiến thức về

QLNN, yếu về trình độ và kinh nghiệm chuyên môn, dẫn đến gặp nhiều khó

khăn trong triển khai các hoạt động. Cụ thể, mỗi xã, phường, chỉ có 01

người phụ trách về ATTP trình độ đa phần là trung cấp, được giao thực hiện

các nhiệm vụ QLNN về ATTP kiêm nhiệm cùng nhiều nhiệm vụ khác, do đó

hiệu quả quản lý còn chưa cao.

Từ những phân tích trên ta thấy, việc bố trí, sắp xếp cán bộ quản lý

nhà nước trong lĩnh vực ATTP trên địa bàn thị xã còn có nhiều bất cập, chưa

đúng với chuyên môn, chuyên ngành được đào tạo.

2.2.3.2. Thực trạng cơ sở vật chất và trang thiết bị phục vụ quản lý

nhà nước về an toàn thực phẩm

64

Cơ sở vật chất và trang thiết bị đóng một vai trò quan trọng đối với

hoạt động QLNN về ATTP. Trong giai đoạn 2015 - 2020, cơ sở vật chất và

trang thiết bị phục vụ cho hoạt động của các cơ quan QLNN về ATTP trên

địa bàn đã được chú trọng đầu tư nhằm đảm bảo những nhu cầu cơ bản, cần

thiết cho triển khai các nhiệm vụ.

Cơ sở vật chất và trang thiết bị phục vụ QLNN về ATTP trên địa bàn

toàn thị xã chủ yếu được đầu tư cho các cơ quan trực tiếp thực hiện nhiệm

vụ (nêu trong Bảng 2.4)

Bảng 2.4. Số liệu cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ công tác

QLNN về ATTP trên địa bàn thị xã Buôn Hồ

ĐVT: Cái

Trang thiết bị

Bộ xét Đơn vị Stt Máy vi Máy nghiệm Máy in Bàn ghế Ôtô tính phôtô nhanh

ATTP

1 03 03 01 03 0 0 Phòng Y tế

2 Phòng Kinh tế 05 01 08 0 0 07

3

Trung tâm Y tế 24 15 01 125 03 01

Tổng 34 23 03 136 03 01

Nguồn: Phòng Tài chính kế hoạch thị xã Buôn Hồ

Trụ sở làm việc hiện nay:

Phòng Y tế: được bố trí 02 phòng, cùng chung trụ sở với một số cơ

quan khác.

65

Phòng Kinh tế: được bố trí 04 phòng, cùng chung trụ sở với bộ phận

một cửa của UBND thị xã Buôn Hồ

Trung tâm y tế: trụ sở trước kia làm việc chung với Bệnh viện đa khoa

thị xã, hiện đang xây dựng trụ sở mới. còn 12/12 xã phường các Trạm Y tế

đều có trụ sở làm việc riêng.

Về mặt tích cực, trong giai đoạn 2015 – 2020, cơ sở vật chất đầu tư

cho QLNN về ATTP trên địa bàn thị xã Buôn Hồ về cơ bản đã đáp ứng được

những nhu cầu cơ bản, cần thiết trong triển khai các nhiệm vụ. đã đầu tư xây

dựng mới Trụ sở làm việc của 5/12 Trạm y tế đã đưa vào sử dụng; đang

trong quá trình hoàn thiện Trung tâm Y tế với tổng diện tích xây dựng

300m2 dự kiến đưa vào sử dụng đầu cuối năm 2020.

Tuy nhiên, còn tồn tại những hạn chế như sau:

Trụ sở làm việc của Phòng Kinh tế còn khá chật hẹp, rất nóng bấc,

không có nơi bỏ tài liệu, không có phòng họp.

Phương tiện đi lại đầu tư cho các cơ quan QLNN về ATTP, phần lớn

các cơ quan còn chưa được đầu tư xe công phục vụ trong thi hành nhiệm vụ

và tổ chức các hoạt động. Bên cạnh đó, đầu tư về máy móc, trang, thiết bị

phục vụ làm việc như: Máy tính, máy in, máy chiếu, máy photo, bộ xét

nghiệm nhanh chất lượng ATTP còn ít. Nhất là máy vi tính, tuy cơ bản đã

được đầu tư, nhưng đa phần đã hoạt động lâu năm, máy củ, cấu hình thấp

dẫn đến chất lượng giải quyết công việc không nhanh.

2.2.3.3. Thực trạng nguồn lực tài chính phục vụ quản lý nhà nước về

an toàn thực phẩm

Đối với QLNN về ATTP, sự đầu tư về nguồn lực tài chính đóng vai

trò là cơ sở tiền đề trong việc duy trì bộ máy quản lý hành chính, đầu tư vào

các cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ công tác quản lý, tổ chức triển khai

các hoạt động...

Trên địa bàn thị xã Buôn Hồ, trong giai đoạn 2015-2020, nguồn lực

tài chính được đầu tư phục vụ QLNN về ATTP bao gồm những nội dung

chính (được nêu tại Bảng 2.5): đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị; Đầu tư

66

thực hiện Chương trình Mục tiêu quốc gia về ATVSTP; Thu phí và lệ phí về

ATTP. Trong giai đoạn này, nguồn lực tài chính đầu tư cho hoạt động

QLNN về ATTP trên địa bàn thị xã Buôn Hồ ở mức cao nhất là năm 2018 để

xây dựng các mô hình an toàn thực phẩm (658 triệu) [17], [18].

Bảng 2.5. Nguồn tài chính phục vụ công tác QLNN về ATTP trên địa

bàn thị xã Buôn Hồ

ĐVT: Triệu đồng

Đơn vị 2015 2016 2017 2018 2019 2020 Stt

01 10 10 10 27 15 15 Phòng y tế

02 260 260 450 658 564 630 Phòng kinh tế

03 50 50 45 65 70 70 TT Y tế

Nguồn: Phòng Tài chính – Kế hoạch và Trung tâm y tế thị xã

Nguồn kinh phí trên không bao gồm lương trả cho cán bộ, công chức,

viên chức làm công tác QLNN về ATTP trên địa bản. Đó là nguồn kinh phí

chi trả cho các hoạt động nhằm đảm bảo cho công tác quản lý, tuyên truyền,

xây dựng các mô hình, tập huấn … tuy nhiên thực tế triển khai cho thấy,

nguồn lực tài chính đầu tư cho hoạt động QLNN về ATTP trên địa bàn thị

xã Buôn Hồ trong giai đoạn 2015-2020 còn chưa đáp ứng được so với nhu

cầu thực tiễn. Cụ thể mức kinh phí đầu tư vào trang thiết bị cho QLNN về

ATTP ở cấp xã/phường còn hạn hẹp, không có nguồn chi để thực hiện công

tác thanh tra, kiểm tra, để thực hiện nhiệm vụ này các cơ quan quản lý nhà

nước phải sử dụng nguồn kinh phí chi thường xuyên của đơn vị.

2.2.4. Thực trạng công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp

luật về an toàn thực phẩm

Công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật cho người dân cơ

bản đã được quan tâm bằng nhiều hình thức như tuyên truyền qua hệ thống

67

loa phát thanh của các xã, phường, tổ chức tập huấn cho các chủ cơ sở sản

xuất, kinh doanh an toàn thực phẩm.

Hàng năm, tổ chức Lễ phát động tháng hành động vì an toàn thực

phẩm, tuyên truyền cổ động trực quan qua các băng rôn, pano, áp phích để

người tiêu dùng, sản xuất, kinh doanh … biết được tầm quan trọng của

ATTP trong cuộc sống hàng ngày.

Bảng 2.6. Số liệu công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật

về ATTP trên địa bàn giai đoạn 2015-2020

Số Số Stt Hình thức tuyên truyền lượng buổi (người)

1 Xây dựng phóng sự 7

2 Tuyên truyền qua loa phát thanh của các

xã/phường 572

3 Băng rôn/pano/áp phích 140

4 Tờ gấp - 5.000

5 Tập huấn/hội thảo/truyền thông 37 6.370

6 Lễ phát động hàng năm 5 2.400

Nguồn: Phòng Y tế - Phòng Kinh tế thị xã Buôn Hồ

Tổ chức Lễ Phát động Năm thi đua “Phụ nữ đồng hành với thực

phẩm an toàn”; phát 1.880 tờ rơi vận động gia đình hội viên, phụ nữ và cộng

đồng cùng thực hiện 10 Cam kết vàng trong sản xuất, chế biến, kinh doanh

và tiêu dùng thực phẩm an toàn, ký cam kết với đại diện 6 Doanh nghiệp,

nhà hàng, Trường Mầm non, các dịch vụ đám cưới lên cam kết thực hiện các

68

quy định vệ sinh an toàn thực phẩm trong chế biến kinh doanh thực phẩm.

12/12 xã phường đã phát động năm thi đua„ Phụ nữ đồng hành với thực

phẩm an toàn” tổ chức ký cam kết cán bộ, hội viên sử dụng thực phẩm an

toàn có 12.360 cán bộ, hội viên thực hiện.

Công tác tuyên truyền, tập huấn chủ yếu dừng lại ở cấp thị xã, cấp xã,

phường hầu như không chủ động mở các lớp tập huấn, lễ truyền thông về

ATTP cho người dân hoặc các đối tượng sản xuất kinh doanh trên địa bàn

[17], [18].

Qua số liệu khảo sát (bằng bảng biểu, có số liệu tổng hợp tại cuối bài)

thì ta thấy việc tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật về an toàn thực

phẩm trên địa bàn còn nhiều hạn chế như công tác tuyên truyền chưa được

triển khai rộng rãi, người dân trên địa bàn thật sự còn cảm thấy lo lắng khi

sử dụng thực phẩm hàng ngày (trong 210 phiếu phảo sát phát ra thì có tới

180 người dân cảm thấy lo lắng và không yêm tâm khi sử dụng thực phẩm

(tỉ lệ 85,7%)). Nhiều chủ cơ sở kinh doanh không nắm được các văn bản quy

định của nhà nước về an toàn thực phẩm (trong 210 phiếu khảo sát phát ra,

thì có 104 chủ cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm (tỉ lệ 49.6%) không

quan tâm, không biết đến các văn bản quy định về ATTP) dẫn đến tiềm ẩn

nhiều quy cơ mất ATTP trên địa bàn.

2.2.5. Công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát, giải quyết đơn thư

khiếu nại, tố cáo về an toàn thực phẩm

Trên địa bàn thị xã Buôn Hồ, hoạt động thanh tra, kiểm tra trong

QLNN về ATTP được tổ chức định kỳ và đẩy mạnh vào các đợt cao điểm

(Tháng hành động (15/4-15/5 hàng năm), tháng tết Trung thu, tết Nguyên

đán …) trong năm với sự tham gia của đầy đủ các lực lượng chức năng:

Phòng Y tế, Phòng Kinh tế, Công an thị xã... Tổng số đoàn thanh tra, kiểm

tra về ATTP trên địa bàn thị xã là 216 đoàn (cấp thị xã: 58 đoàn, cấp xã: 168

đoàn). Đã kiểm tra được 1.092 lượt các hộ sản suất, kinh doanh thực phẩm

trên địa bàn Qua đó, phát hiện và xử lý kịp thời các vi phạm pháp luật về

ATTP [17], [18]

69

Bảng 2.7. Số liệu kiểm tra, giám sát ATTP

trên địa bàn thị xã Buôn Hồ trong giai đoạn 2015-2020

Số lượng cơ sở sản xuất/ kinh doanh

được kiểm tra Stt Đơn vị

2015 2016 2017 2018 2019 9/2020

Phối hợp liên ngành 25 39 35 31 45 01 9

Phòng Y tế 02 5 17 15 18 20 25

Phòng Kinh tế 03 8 32 32 38 36 43

Các xã/phường 04 65 78 98 124 156 92

Tổng 139 170 189 211 269 114

Nguồn: Báo cáo hàng năm của Phòng Y tế và Phòng Kinh tế

Qua kiểm tra đã phát hiện nhiều cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm

đã không chấp hành đúng các quy định về an toàn thực phẩm như chủ cơ sở/

người trực tiếp chế biến kinh doanh chưa có giấy xác nhận kiến thức về an

toàn thực phẩm, chưa khám sức khỏe định kỳ, thậm chí có nhiều cơ sở

không có giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện an toàn về thực phẩm vẫn tiến

hành kinh doanh. Nhiều hộ kinh doanh thực phẩm ăn uống không ký cam

kết đảm bảo an toàn thực phẩm. Bên cạnh đó nhiều hàng hóa, thực phẩm

không có hóa đơn chứng từ không rỏ nguồn gốc xuất xứ … và đã tiến hành

xử lý, xử phạt tổng cộng 92 lượt cơ sở, nộp vào ngân sách nhà nước

245.000.000đ [17], [18].

Tuy nhiên, thực tế triển khai cho thấy còn một số tồn tại nhiều hạn chế

như sau:

Việc tổ chức thực hiện các VBQPPL quy định về thanh tra, kiểm tra

về ATTP vẫn còn nhiều trùng lặp, chồng chéo về trách nhiệm, thiếu tính

70

phối hợp giữa các ngành, một số ngành tự tổ chức hoạt động thanh, kiểm tra

về ATTP ở các đợt cao điểm trong năm (ví dụ Phòng Kinh tế, Y tế, Công an,

Quản lý thị trường …) dẫn tới việc gây phiền hà cho các cơ sở và đặc biệt

làm mất tính chủ trì của ngành y tế trong hoạt động QLNN về ATTP. Đặc

biệt, từ cuối năm 2017 đến nay, khi Ban Chấp hành Trung ương ban hành

Quyết định 217-QĐ/TW, ngày 12/12/2013 về Ban hành quy chế giám sát và

phản biện của Mặt trận tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội

thì các tổ chức này cũng thực hiện chức năng của mình tham gia giám sát

các bếp ăn tập thể của các Trường học có bếp ăn tập thể trên địa bàn, rồi

Phòng Y tế lại kiểm tra định kỳ công tác chuyên môn nhưng các bên lại

không có tính phối hợp dẫn đến có năm 01 trường học phải đón đến 02-03

Đoàn kiểm tra về cùng một nội dung, dẫn đến phiền hà, tốn thời gian, kinh

phíc của các bên mà chỉ giải quyết được cùng một vấn đề.

Mặc dù số lượng các cuộc thanh tra, kiểm tra về ATTP được tiến hành

trên toàn địa bàn thị xã Buôn Hồ trong một năm là khá nhiều, tuy nhiên vẫn

còn thiếu sự kiên quyết trong xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về ATTP

từ phía các cơ quan chức năng, kết quả thanh tra, kiểm tra theo khảo sát thì

tính minh bạch, rõ ràng chưa cao chỉ đạt 78,6% (165/210 phiếu khảo sát phát

ra); công tác thanh tra, kiểm tra còn nhiều rườm rà, tính nhanh gọn chỉ đạt

68,1% (143/210 phiếu khảo sát phát ra).

Phần lớn các cơ sở thực phẩm trên địa bàn thị xã có quy mô vừa và

nhỏ, tính tự phát cao, trình độ thấp, khả năng tiếp cận và ý thức chấp hành

pháp pháp luật còn chưa cao, một số cơ sở còn thiếu phối hợp với đoàn làm

việc, gây khó khăn cho hoạt động thanh tra, kiểm tra về ATTP.

2.3. Nguyên nhân của những hạn chế, tồn tại của quản lý nhà

nước về an toàn thực phẩm trên địa bàn thị xã Buôn Hồ hiện nay

2.3.1. Nguyên nhân khách quan

Nguyên nhân dẫn tới những hạn chế tồn tại mang tính chất khách

quan, xuất phát từ những yếu tố bên ngoài tác động vào hoạt động QLNN về

ATTP trên địa bàn thị xã Buôn Hồ hiện nay có thể kể tới như sau:

71

Một là, nguyên nhân phát sinh từ nền sản xuất nhỏ lẻ: Cũng như các

địa phương khác của cả nước, nền sản xuất thực phẩm ở thị xã Buôn Hồ có

xuất phát điểm trình độ thấp, tồn tại từ lâu đời, mang tính chất cục bộ cao và

phần lớn vẫn còn ở quy mô hộ gia đình nhỏ lẻ, chưa được quy hoạch, chưa

được tiếp cận và áp dụng các phương pháp kĩ thuật hiện đại trong nuôi trồng,

chế biến. Do đó, dẫn tới việc kiểm soát chất lượng giống cây trồng, vật nuôi,

vật tư phục vụ sản xuất nông nghiệp còn nhiều hạn chế, tình trạng rau quả bị

nhiễm hoá chất độc hại; thịt gia súc, gia cầm, thuỷ sản vẫn còn dư lượng

kháng sinh, hormone tăng trưởng quá giới hạn cho phép và việc sử dụng hoá

chất, phụ gia bị cấm trong sản xuất, chế biến, bảo quản thực phẩm còn tương

đối phổ biến; tỷ lệ các cơ sở giết mổ gia súc, gia cầm được kiểm tra, giám

sát đảm bảo điều kiện vệ sinh thú y còn thấp, đặc biệt, còn nhiều cơ sở chế

biến, kinh doanh, sản xuất và giết mổ nằm rải rác trong các khu dân cư ngoài

tầm kiểm soát của cơ quan chức năng và hầu hết các cơ sở này còn chưa đủ

điều kiện về ATTP; các cơ sở thức ăn đường phố, chợ còn tồn tại khá phổ

biến với điều kiện ATTP kém, vô tình trở thành yếu tố thuận lợi tiềm ẩn

nhiều nguy cơ mất ATTP dẫn tới NĐTP.

Hai là, nguyên nhân phát sinh từ nhận thức về ATTP của cộng đồng:

Xuất phát từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, chủ yếu ở quy mô hộ gia

đình nhỏ lẻ nên nhận thức về kiến thức và thực hành đảm bảo ATTP của

người sản xuất, kinh doanh thực phẩm và người tiêu dùng trên địa bàn còn

chưa cao, nhiều suy nghĩ, hành vi, lối sống không đảm bảo ATTP đã ăn sâu

vào ý thức của cộng đồng, khiến cho việc thay đổi trở nên rất khó khăn. Bởi

vậy, muốn đưa các quy định pháp luật về ATTP vào cuộc sống một cách có

hiệu quả thì không chỉ đơn thuần thông qua các biện pháp pháp lý, xử phạt,

cưỡng chế mà còn phải thông qua giáo dục, tuyên truyền, hình thành dần văn

hóa pháp luật về ATTP trong đời sống cộng đồng.

Ba là: Nguyên nhân từ các nguồn đất, nguồn nước trong tự nhiên: một

số vùng đất, vùng nước hiện có trong tự nhiên của khu vực thị xã Buôn Hồ

như tại Tổ dân phố Tân Bình, phường An Lạc, Tổ dân phố 01 phường Đạt

72

Hiếu là 02 khu vực đã có kết quả xét nghiệm nguồn nước, nguồn đất không

đảm bảo (bị nhiễm phèn nặng) không thể tiến hành trồng rau theo tiêu chuẩn

an toàn, nhưng những nơi này lại có diện tích trồng rau và cung cấp ra thị

trường khá lớn.

2.3.2. Nguyên nhân chủ quan

Có thể nhận thấy nguyên nhân dẫn tới những hạn chế tồn tại mang

tính chất chủ quan, xuất phát từ nội tại bên trong hoạt động QLNN về ATTP

trên địa bàn thị xã Buôn Hồ hiện nay như sau:

Một là, hệ thống các VBQPPL về ATTP được ban hành từ Trung

ương đến địa phương còn triển khai chậm, khi có Nghị định của Chính phủ

thì phải chờ Thông tư hướng dẫn của Bộ, về tới tỉnh thì chờ Kế hoạch/ hoặc

Chỉ thị của Ủy ban nhân dân Tỉnh, rồi lại chờ hướng dẫn của cơ quan chuyên

môn cấp Tỉnh, về tới thị xã lại chờ ban hành văn bản cấp thị xã.

Hai là, Việc xây dựng một số văn bản để thực hiện công tác quản lý

nhà nước về an toàn thực phẩm tại thị xã Buôn Hồ còn chậm cụ thể: Ngày

20/5/2020 UBND tỉnh Đăk Lăk đã ban hành Quyết định số 17/2020/QĐ-

UBND về Quy định quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm trên địa bàn tỉnh

Đăk Lăk nhưng đến ngày 11/6/2020 UBND thị xã Buôn Hồ mới ban hành

công văn thực hiện nội dung sau, chậm gần 01 tháng. Bên cạnh đó nội dung

công văn lại mang tính chung chung, không cụ thể, không thể hiện được tính

phối hợp trong triển khai thực hiện QLNN về ATTP trên địa bàn.

Ba là, Trình độ của cán bộ, nhất là cán bộ được giao nhiệm vụ quản lý

nhà nước về an toàn thực phẩm chưa được qua đào tạo về chuyên môn, nhất

là những cán bộ, công chức thuộc Phòng Kinh tế, Phòng Y tế và Trung tâm

y tế thị xã.

Bốn là, Trang thiết bị, máy móc phục vụ cho công tác đảm bảo cho

công tác quản lý an toàn thực phẩm trên địa bàn thị xã còn ít, cả thị xã chỉ có

03 bộ text nhanh các mẫu

Năm là, hoạt động truyền thông, giáo dục về ATTP được thực hiện

thiếu tính chủ động, sáng tạo, chưa chú trọng đến việc giáo dục đạo đức, ý

73

thức trách nhiệm về ATTP đối với người sản xuất, kinh doanh thực phẩm,

công tác tuyên truyền không thường xuyên, mang tích thời vụ; các cấp, các

ngành chưa nhận thức rõ tầm quan trọng của truyền thông, giáo dục về

ATTP đối với cộng đồng; chưa mạnh dạn, quyết liệt đăng tải trên các

phương tiện truyền thông về các tổ chức, cá nhân vi phạm, cơ sở không đủ

điều kiện ATTP, sản phẩm thực phẩm không đảm bảo ATTP… để người

tiêu dùng biết và lựa chọn.

Tiểu kết chương 2

Tại Chương 2, Luận văn đã tập trung đưa ra những đặc điểm tự nhiên,

kinh tế-xã hội và đặc biệt là thực trạng ATTP trên địa thị xã Buôn Hồ. Từ

đó, phân tích khá hoàn thiện những nội dung về thực trạng ATTP và QLNN

về ATTP trên địa bàn thị xã Buôn Hồ, bao gồm: Thực trạng ban hành,

hướng dẫn, tổ chức thực hiện các VBQPPL về ATTP trên địa bàn; Thực

trạng tổ chức QLNN về ATTP trên địa bàn thị xã Buôn Hồ; Thực trạng

chính sách trong QLNN về ATTP trên địa bàn thị xã Buôn Hồ; Thực trạng

về thanh tra, kiểm tra QLNN về ATTP trên địa bàn thị xã Buôn Hồ; Thực

trạng công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về ATTP trên địa bàn thị xã

Buôn Hồ.

Trên cơ sở phân tích thực trạng QLNN về ATTP trên địa bàn thị xã

Buôn Hồ, tại Chương 2, Luận văn đã đưa ra những kết quả đạt được; hạn

chế và nguyên nhân của những hạn chế còn tồn tại của QLNN về ATTP trên

địa bàn thị xã Buôn Hồ hiện nay.

Kết quả đã nghiên cứu như trên tại Chương 2 sẽ là tiền đề trong việc

đưa ra các giải pháp nhằm kiện toàn QLNN về ATTP trên địa bàn thị xã

Buôn Hồ tại Chương 3 của Luận văn.

74

Chương 3:

QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP

QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ AN TOÀN THỰC PHẨM

TRÊN ĐỊA BÀN THỊ XÃ BUÔN HỒ, TỈNH ĐĂK LĂK

3.1. Quan điểm của Đảng về an toàn thực phẩm

Sử dụng thực phẩm an toàn là một trong những quyền cơ bản của con

người, góp phần giảm tỷ lệ mắc bệnh, duy trì và phát triển nòi giống, nâng

cao tầm vóc và thể chất của con người Việt Nam, tăng cường sức lao động,

học tập. An toàn thực phẩm cũng đảm bảo cho việc loại trừ các thực phẩm

độc hại tác động xấu một cách trực tiếp, thường xuyên đến sức khỏe, thậm

chí tính mạng, về lâu dài còn ảnh hưởng đến nòi giống dân tộc.

Con người là nguồn tài nguyên quý báu nhất của xã hội, con người

quyết định sự phát triển của đất nước, trong đó sức khỏe là vốn quý nhất của

mỗi con người và của toàn xã hội. Đảm bảo ATTP nhằm đảm bảo sức khỏe

cho mọi người chính là đầu tư cho sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước,

nâng cao chất lượng cuộc sống của mỗi cá nhân và mỗi gia đình. Việt Nam

luôn xác định con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp xây

dựng đất nước. Nhà nước Việt Nam khẳng định con người là trung tâm của

các chính sách kinh tế - xã hội, thúc đẩy và bảo vệ quyền con người là nhân

tố quan trọng cho phát triển bền vững, bảo đảm thắng lợi sự nghiệp công

nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước.

Tăng cường QLNN về ATTP phải xuất phát từ mục tiêu đảm bảo

quyền được bảo vệ và chăm sóc sức khỏe của con người. Sức khỏe là vốn

quý của mỗi người, là động lực quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội.

Vì vậy, Nhà nước luôn quan tâm đến sức khỏe nhân dân, trước hết bằng hoạt

động chăm sóc sức khỏe của ngành Y tế, trong đó có việc đảm bảo ATTP.

Điều 38, Hiến pháp năm 2013 nêu rõ: Mọi người có quyền được bảo

vệ, chăm sóc sức khỏe, bình đẳng trong việc sử dụng các dịch vụ y tế và có

nghĩa vụ thực hiện các quy định về phòng bệnh, khám bệnh, chữa bệnh.

75

Nghiêm cấm các hành vi đe dọa cuộc sống, sức khỏe của người khác và

cộng đồng.

Trên cơ sở đánh giá đúng đắn về vai trò quan trọng của ATTP đối với

sức khỏe nhân dân, là một trong những yếu tố quan trọng nâng cao tầm vóc

và thể chất của con người Việt Nam, góp phần tích cực vào sự nghiệp bảo

vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe toàn dân, trong những năm vừa qua

Đảng đã luôn quan tâm, chỉ đạo, đầu tư các nguồn lực cho lĩnh vực này.

Đồng thời, Đảng xác định ATTP có ý nghĩa lớn đối với kinh tế, an sinh xã

hội, sức khỏe cộng đồng, bảo vệ môi trường và cũng có ảnh hưởng quan

trọng tới tiến trình hội nhập quốc tế của đất nước. Tại Kết luận số 11-

KL/TW, ngày 19/01/2017 của Ban Chấp hành Trung ương về việc tiếp tục

thực hiện Chỉ thị 08/CT-TW, ngày 21/10/2010 của Ban Bí thư Trung ương

Đảng về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với đảm bảo ATTP trong tình

hình mới, đã thể hiện rõ quan điểm:

An toàn thực phẩm có tác động lớn tới sức khỏe của người dân, sự

phát triển kinh tế và là mối quan tâm của toàn xã hội. Do đó, hoạt động

QLNN về ATTP phải được coi là một nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách và lâu

dài của cả hệ thống chính trị và của mỗi người dân, trong đó đề cao vai trò,

trách nhiệm của các cấp ủy Đảng, chính quyền.

Đầu tư cho việc đảm bảo ATTP là đầu tư phát triển, là đầu tư có hiệu

quả, góp phần tạo ra sự phát triển bền vững của đất nước, mang lại hiệu quả

kinh tế-xã hội trực tiếp và gián tiếp.

Hoạt động bảo đảm ATTP đòi hỏi sự phối hợp liên ngành chặt chẽ,

trong đó trách nhiệm QLNN về lĩnh vực này đóng một vai trò then chốt. Do

đó, hoàn thiện và tăng cường đủ mạnh đối với hệ thống QLNN về ATTP là

yếu tố tiên quyết đảm bảo sự thành công và hiệu quả trong hoạt động bảo

đảm ATTP.

Cần triển khai mạnh mẽ, đồng bộ các biện pháp kiểm soát ATTP và

tăng cường hoạt động QLNN về ATTP. Trên cơ sở đó, Chỉ thị số 08/CT-TW

ngày 21/10/2011 của Ban Bí thư Trung ương Đảng đã vạch ra những nhiệm

76

vụ trong tình hình mới nhằm thực hiện có hiệu quả các mục tiêu đảm bảo

ATTP, đó là:

Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động QLNN về ATTP:

Các cấp ủy đảng, chính quyền và toàn bộ hệ thống chính trị phải chú trọng

đến việc quán triệt sâu sắc, nâng cao nhận thức của nhân dân về tầm quan

trọng của ATTP đối với đời sống xã hội, đến sức khỏe con người, sự phát

nòi và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Mọi người dân có quyền được

sử dụng thực phẩm an toàn và có nghĩa vụ đảm bảo ATTP. ATTP là trách

nhiệm và uy tín của từng đơn vị sản xuất, kinh doanh thực phẩm. Thường

xuyên chú trọng việc lãnh đạo, chỉ đạo hoạt động đảm bảo ATTP, vận động

toàn dân tự giác thực hiện các quy định pháp luật về ATTP để góp phần

không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân; đưa các tiêu chí

về ATTP vào kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.

Thực hiện nâng cao năng lực và chất lượng QLNN về ATTP: Chú

trọng việc tăng cường QLNN về ATTP, tổ chức thực hiện đồng bộ hiệu quả

các chính sách và pháp luật về ATTP. Đẩy nhanh việc hướng dẫn thực hiện

Luật ATTP và các quy chuẩn về ATTP; nghiên cứu phát hiện, điều chỉnh, bổ

sung kịp thời các quy định liên quan cho phù hợp với thực tiễn phát triển

kinh tế - xã hội của đất nước và hội nhập quốc tế; phân định rõ trách nhiệm

của các bộ, ngành và địa phương. Tăng cường kiểm tra và giám sát việc thực

hiện các quy định của pháp luật liên quan đến ATTP. Kiên quyết đấu tranh,

xử lý nghiêm minh các trường hợp vi phạm. Củng cố tổ chức, nâng cao năng

lực cho đội ngũ cán bộ làm công tác QLNN về ATTP.

Đẩy mạnh vận động, tuyên truyền, giáo dục, tạo sự chuyển biến thực

sự về hành vi ATTP: Các cấp ủy đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt

Nam và các Đoàn thể chính trị xã hội chủ động phối hợp với các bộ, ngành

liên quan đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến sâu rộng Luật ATTP

thông qua các hình thức phong phú, đa dạng, phù hợp với trình độ dân trí

từng đối tượng, từng vùng, nhất là người dân sống ở các khu vực nông thôn,

miền núi. Phát động phong trào rộng khắp và duy trì việc thực hiện các tiêu

77

trí về ATTP gắn với cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống

văn hóa ở khu dân cư”, tạo sự chuyển biến căn bản trong sản xuất, kinh

doanh và tiêu dùng hàng hóa đảm bảo ATTP. Các tổ chức xã hội, các hiệp

hội, các tổ chức xã hội - nghề nghiệp, Hội Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng

chủ động tham gia tư vấn,hướng dẫn áp dụng các tiến bộ khoa học - kỹ thuật

liên quan đến an toàn thực phẩm cho các cơ sở nuôi trồng, sản xuất, chế

biến, vận chuyển, kinh doanh thực phẩm.

Đẩy mạnh xã hội hóa trong QLNN về ATTP; phát huy vai trò của các

doanh nghiệp, tổ chức xã hội, xã hội-nghề nghiệp, các tổ chức đoàn thể

trong việc tham gia đảm bảo ATTP.

Tăng cường, mở rộng hợp tác quốc tế, trước hết là với các nước láng

giềng để bảo đảm ATTP; kiểm soát chặt chẽ hóa chất bảo vệ thực vật, các

chất cấm trong sản xuất thực phẩm và thực phẩm nhập khẩu vào Việt Nam,

nhất là qua đường tiểu ngạch. Đẩy mạnh việc ký kết các điều ước, thỏa

thuận quốc tế về công nhận lẫn nhau trong lĩnh vực ATTP để thúc đẩy xuất

khẩu hàng hóa thực phẩm Việt Nam vào các nước có quy định tiêu chuẩn kỹ

thuật cao.Với những quan điểm và chủ trương rõ ràng như trên về ATTP,

Đảng đã khẳng định quyết tâm trong việc đảm bảo ATTP, góp phần quan

trọng vào sựu nghiệp bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe toàn dân, phù

hợp với thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, đồng thời đáp ứng

nhu cầu hội nhập quốc tế.

3.2. Quan điểm của Đảng bộ thị xã Buôn Hồ về an toàn thực

phẩm

ATTP luôn được Đảng bộ thị xã quan tâm, đồng thời coi đảm bảo

ATTP cộng đồng là một mục tiêu quan trọng trong sự nghiệp chăm sóc, bảo

vệ sức khỏe nhân dân và phát triển kinh tế - xã hội. Trên cơ sở nhận thức về

tầm quan trọng của ATTP như trên, Đảng bộ Buôn Hồ đã đưa ra những quan

điểm chỉ đạo nhằm không ngừng nâng cao hiệu lực, hiệu quả trong QLNN

về ATTP. Cụ thể, tại Kế hoạch số 47/KH-TU ngày 12/5/2017 của Thị ủy

Buôn Hồ về thực hiện Kết luận số 11-KL/TW, ngày 19/01/2017 về tiếp tục

78

thực hiện Chỉ thị số 08 của Ban Bí thư khóa XI về tăng cường sự lãnh đạo

của Đảng đối với vấn đề an toàn thực phẩm trong tình hình mới, đã xác định

rõ:

- Đảm bảo ATTP là nhiệm vụ vừa cấp bách, vừa lâu dài của cả hệ

thống chính trị, toàn xã hội, của từng gia đình và từng người dân; các cấp,

các ngành trong lãnh đạo, chỉ đạo, triển khai thực hiện cần có trọng tâm,

trọng điểm, phù hợp với từng giai đoạn; hoạt động QLNN về ATTP phải

được triển khai quyết liệt, đồng bộ ở tất cả các cấp, các ngành.

- Các cấp ủy Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể,

cán bộ, đảng viên và nhân dân cần nhận thức rõ về vị trí, vai trò của ATTP

đối với sức khỏe nhân dân và sự phát triển kinh tế, xã hội của đất nước.

Đồng thời nhận thức sâu sắc những nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu của Chỉ

thị 08- CT/TW ngày 21/10/2011 của Ban Bí thư Trung ương về “tăng cường

sự lãnh đạo của Đảng đối với QLNN về ATTP trong tình hình mới”.

- Đẩy mạnh xây dựng các văn bản chỉ đạo, triển khai thực hiện Chỉ thị

08-CT/TW của Ban Bí thư Trung ương đến từng Đảng bộ, chi bộ. Cụ thể

hóa các tiêu chí về ATTP vào kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của từng

địa phương, đơn vị.

- Đảng ủy các xã, phường chủ động hơn nữa trong chỉ đạo việc xây

dựng và triển khai các kế hoạch, chương trình hành đảm bảo ATTP, các hoạt

động tuyên truyền, vận động và phổ biến các chủ trương, đường lối chính

sách của Đảng và Nhà nước về ATTP tại địa phương nhằm giúp người dân,

các cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm hiểu đúng và thực hiện nghiêm túc

các chính sách, pháp luật về ATTP.

- Tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo của đối với hoạt động QLNN về

ATTP, tạo sự chuyển biến tích cực về nhận thức và hành vi ATTP trong

cộng đồng, góp phần vào sự nghiệp chăm sóc, bảo vệ sức khỏe nhân dân.

Đồng thời, tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý của các cấp chính

quyền, gắn kết trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, doanh

79

nghiệp trong việc thực hiện chính sách pháp luật về quản lý chất lượng

ATTP

- Tạo điều kiện thuận lợi để toàn thể các doanh nghiệp, các tổ chức xã

hội, xã hội-nghề nghiệp, các tổ chức đoàn thể, toàn thể nhân dân tham gia và

phát huy vai trò trong xã hội hóa hoạt động đảm bảo ATTP.

- Đặc biệt, đưa ra chỉ đạo cụ thể đối với Ủy ban nhân dân thị xã trong

QLNN về ATTP:

+ Tổ chức xây dựng các chương trình, kế hoạch cụ thể về thực hiện

Kết luận số 11-KL/TW, ngày 19/01/2017 của Ban Bí thư Trung ương; chỉ

đạo, thành lập Ban Chỉ đạo liên ngành ATTP tại thị xã.

+ Tăng cường QLNN về ATTP. Quan tâm đầu tư kinh phí, trang thiết

bị, cơ sở vật chất, cán bộ làm việc tại các cơ quan QLNN về ATTP ở các cấp

và những điều kiện đảm bảo thực hiện tốt các chương trình mục tiêu quốc

gia, chiến lược, đề án, dự án về ATTP. Tăng cường kiểm tra, thanh tra liên

ngành việc thực hiện các chính sách về ATTP ở tất cả các cấp, các ngành,

các đoàn thể và các đơn vị sản xuất, kinh doanh thực phẩm; xử lý nghiêm

các tổ chức, cá nhân vi phạm các quy định về ATTP. Tạo điều kiện cho các

đoàn thể, các tổ chức xã hội chủ động tham gia tư vấn, hướng dẫn, áp dụng

các tiến bộ khoa học – kĩ thuật liên quan đến ATTP cho các cơ sở nuôi

trồng, sản xuất, chế biến, vận chuyển, kinh doanh thực phẩm theo tinh thần

Chỉ thị 08-CT/TW ngày 21/10/2011 của Ban Bí thư Trung ương.

+ Thực hiện đồng bộ, hiệu quả các chính sách và pháp luật về ATTP.

Phòng Y tế chủ trì tổ chức thực hiện các chương trình tuyên truyền,

vận động nâng cao nhận thức nhằm thay đổi hành vi ATTP trong cộng đồng;

phối hợp với Ban Chỉ đạo liên ngành ATTP xây dựng kế hoạch, có mục tiêu,

giải pháp cụ thể và tổ chức thực hiện; kiện toàn đội ngũ cán bộ, tăng cường

năng lực chuyên môn, trang thiết bị, cơ sở vật chất cho Chi cục ATTP, đảm

bảo đủ biên chế phòng, ban, phương tiện hoạt động, quy chế thanh tra liên

ngành ATTP phù hợp với yêu cầu QLNN về ATTP của thị xã.

80

3.3. Giải pháp quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm trên địa

bàn thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đăk Lăk

3.3.1. Hoàn thiện hệ thống văn bản quản lý nhà nước

* Ban hành các VBQPPL về ATTP

Thực tế hiện nay, việc ban hành các VBQPPL về ATTP nói chung

còn nhiều hạn chế, bất cập, chưa phù hợp với thực tiễn do đó hiệu quả triển

khai thực hiện còn chưa cao. Để ban hành và hoàn thiện hệ thống VBQPPL

về ATTP đảm bảo phù hợp với thực tiễn, mang lại hiệu quả cao, UBND thị

xã Buôn Hồ và các cơ quan QLNN về ATTP trên địa bàn thị xã Buôn Hồ

cần làm tốt các nhiệm vụ:

Nghiên cứu, phân tích, dự báo về tình hình ATTP của Thị xã: Có thể

khẳng định, tình hình thực tiễn ATTP là cơ sở khách quan để ban hành

những VBQPPL cụ thể hóa các chủ trương, chính sách trong QLNN về

ATTP. Để nắm chắc đối tượng quản lý, các cơ quan QLNN về ATTP cần

thu thập thông tin thường xuyên, kịp thời, chính xác về tình hình ATTP, trên

cơ sở đó, dự báo những xu hướng và động thái mới của đối tượng quản lý.

Việc nghiên cứu, phân tích thường xuyên về tình hình ATTP giúp cho các

cơ quan QLNN có những định hướng quản lý mang tính chất chiến lược, bền

vững trong tương lai. Trong nghiên cứu, phân tích tình hình về ATTP trên

địa bàn, cần có sự phối hợp giữa các cơ quan: Phòng Kinh tế, Phòng Y tế …

Những nội dung về tình hình ATTP cần được thống kê, nghiên cứu,

phân tích và đánh giá kĩ đó là: Số lượng, sự biến động, phân loại và quy mô

các cơ sở thực phẩm trên địa bàn thị xã; thực tế sản xuất, tiêu thụ và chất

lượng thực phẩm trên địa bàn thị xã; thực trạng và đặc thù về NĐTP trên địa

bàn thị xã; kiến thức, hành vi về ATTP của người tiêu dùng, người sản xuất

kinh doanh thực phẩm, người quản lý trên địa bàn; những ngành hàng thực

phẩm, dịch vụ thực phẩm phổ biến hoặc đặc trưng trên địa bàn … Ngoài ra,

cần nghiên cứu và đánh giá về các yếu tố có thể gây ảnh hưởng tới ATTP

trên địa bàn thị xã như: Điều kiện tự nhiên; điều kiện kinh tế - xã hội; sự

biến động về dân cư; hội nhập quốc tế; môi trường; đô thị hóa…

81

Giao nhiệm vụ tham mưu, soạn thảo các VBQPPL về ATTP áp dụng

trên địa bàn thị xã cho hai Phòng Kinh tế, Phòng Y tế thống nhất và thực

hiện trong đó, đặc biệt nhấn mạnh vai trò của các cơ quan trực tiếp thực hiện

các nhiệm vụ QLNN về ATTP Phòng Kinh tế, Phòng Y tế… Đồng thời,

khuyến khích sự tham gia, đóng góp ý kiến từ phía các doanh nghiệp, người

tiêu dùng, các tổ chức chính trị, xã hội… trên địa bàn đối với việc ban hành

các VBQPPL về ATTP.

* Hướng dẫn thực hiện các VBQPPL về ATTP

Để việc hoàn thiện hướng dẫn thực hiện các VBQPPL về ATTP trên

địa bàn, UBND thị xã và các cơ quan QLNN về ATTP trên địa bàn thị xã

Buôn Hồ cần chú trọng một số giải pháp trong hướng dẫn thực hiện các

VBQPPL như sau:

Ủy ban nhân dân cần chú trọng thực hiện:

- Chủ động đôn đốc các cơ quan QLNN về ATTP triển khai kịp thời

các VBQPPL, tránh tình trạng chậm trễ trong tổ chức thực hiện: Đưa ra các

hướng dẫn nhằm thực hiện kiểm tra, giám sát việc triển khai các VBQPPL

về ATTP của các cơ quan QLNN về ATTP tại các cấp hành chính một cách

thường xuyên và liên tục. Trên cơ sở đó, đưa ra các điều chỉnh kịp thời nhằm

nâng cao hiệu quả thực hiện các quy định của pháp luật trong lĩnh vực

ATTP.

- Đẩy mạnh hướng dẫn và hỗ trợ việc phát triển các mô hình điểm, các

chuơng trình, dự án, đề án về ATTP có hiệu quả về số lượng và quy mô. Đặc

biệt, hướng dẫn, hỗ trợ việc quy hoạch, phát triển đa dạng các chủng loại

thực phẩm trong vùng thực phẩm an toàn nhằm đáp ứng nhu cầu người tiêu

dùng.

Các cơ quan được giao nhiệm vụ QLNN về ATTP tại Thị xã cần chủ

động đề xuất:

- Chủ động tham mưu với UBND thị xã trong ban hành các văn bản

hướng dẫn triển khai thực hiện các VBQPPL về ATTP.

82

- Đẩy mạnh hoạt động chỉ đạo tuyến trong QLNN về ATTP trên địa

bàn Trong đó, các cơ quan cấp trên chủ động chỉ đạo, hướng dẫn, hỗ trợ các

cơ quan cấp dưới, đặc biệt là cấp xã/phườnh trong thực hiện triển khai các

VBQPPL về ATTP.

* Tổ chức thực hiện và triển khai các VBQPPL về ATTP

Để tổ chức thực hiện và triển khai tốt các VBQPPL về ATTP trên địa

bàn thị xã, trước hết, cần tăng cường sự chỉ đạo, điều hành của UBND các

cấp trong tổ chức thực hiện các VBQPPL về ATTP. Cụ thể, UBND các cấp

thường xuyên làm tốt hoạt động chỉ đạo trong tổ chức thực hiện các nhiệm

vụ QLNN về ATTP, coi việc bảo đảm ATTP là một trong những nhiệm vụ

trọng tâm của phát triển kinh tế - xã hội địa phương; lồng ghép các nhiệm vụ

bảo đảm ATTP vào các chương trình khác như: Dinh dưỡng, sức khỏe…; ưu

tiên cho các địa khó khăn, đông đồng bào dân tộc thiểu số như: xã Ea Đrông,

Ea Siên… Đồng thời, UBND các cấp và các cơ quan trực tiếp làm nhiệm vụ

QLNN về ATTP căn cứ vào các VBQPPL về ATTP được ban hành xác định

các nhiệm vụ trọng tâm của QLNN về ATTP trên địa bàn. Trên cơ sở đó đưa

ra giải pháp nâng cao hiệu quả trong thực hiện cho từng nhiệm vụ. Bên cạnh

đó, nhằm tận dụng tối đa các nguồn lực, cần tính tới các giải pháp đồng bộ

trong thi hành các nhiệm vụ.

Có thể xác định các giải pháp trọng tâm nhằm nâng cao hiệu quả tổ

chức thực hiện các VBQPPL về ATTP trên địa thị xã Buôn Hồ trong thời

gian tới như sau:

- Nâng cao hiệu quả hoạt động thông tin, giáo dục, truyền thông trong

QLNN về ATTP: Đẩy mạnh hoạt động thông tin, giáo dục và truyền thông

về ATTP; Đổi mới nội dung tuyên truyền về ATTP sao cho phù hợp với

thực tiễn từng đối tượng quản lý; tăng cường bồi dưỡng kỹ năng truyền

thông về ATTP cho đội ngũ cán bộ thực hiện; nâng cao số lượng, chất lượng

các tài liệu và thông điệp truyền thông. Trong đó, để hoạt động thông tin,

giáo dục, truyền thông có hiệu quả, cần đưa ra các nội dung sao cho phù hợp

với tình hình thực tiễn của sản xuất, kinh doanh và đặc biệt là đáp ứng tốt

83

những nghi vấn, thắc mắc của người tiêu dùng trên địa bàn ... cụ thể hơn,

thời gian tới cần tập trung trọng điểm vào các hoạt động như sau:

+ Tổ chức định kì các buổi tập huấn kiến thức về ATTP, qua đó,

truyền đạt cho các cơ sở sản xuất kinh, doanh thực phẩm về nội dung chính

sách, pháp luật của Nhà nước về ATTP, các kiến thức chuyên ngành trong

lĩnh vực ATTP; Tổ chức học tập, thi tìm hiểu về ATTP ở các cấp hành chính

đối với các đối tượng như: nông dân, phụ nữ, học sinh, các doanh nghiệp...

+ Duy trì tuyên truyền thường xuyên qua Đài truyền thanh – truyền

hình, đặt biệt là hệ thống loa phát thanh xã, phường về ATTP. Huy động

chiến dịch truyền thông trong “Tháng hành động vì chất lượng vệ sinh an

toàn thực phẩm” và các đợt cao điểm về ATTP trong năm như: Tết Trung

thu, tết Nguyên đán, mùa lũ lụt... trên địa bàn toàn tỉnh;

+ Thực hiện và duy trì chương trình giáo dục về ATTP tại các trường

học trên địa bàn.

-Nâng cao hiệu quả hoạt động phòng chống ngộ độc thực phẩm và các

bệnh truyền qua thực phẩm trong QLNN về ATTP: Đẩy mạnh chỉ đạo,

hướng dẫn chuyên môn, nghiệp vụ; tổ chức các đội phản ứng nhanh nhằm

thống kê, xử lý kịp thời các sự cố về ATTP tới cấp xã/phường; tăng cường

đầu tư và đồng bộ trang thiết bị phục vụ hoạt động giám sát mối nguy ô

nhiễm thực phẩm tới cấp xã/phường.

- Tiếp tục hoàn thiện các dự án, quy hoạch, chương trình về ATTP.

Các giải pháp cần thực hiện cho nhiệm vụ bao gồm: Thử nghiệm và nhân

rộng các mô hình áp dụng thực hành sản xuất tốt trong sản xuất nông nghiệp

gắn liền với chứng nhận và công bố tiêu chuẩn chất lượng; tổ chức đào tạo,

tập huấn và hỗ trợ chứng nhận VietGAP.

Bên cạnh đó, có thể tính tới các giải pháp đồng bộ nhằm nâng cao

hiệu quả trong tổ chức thực hiện các VBQPPL về ATTP như: Tăng cường

sự lãnh đạo của Đảng trong tổ chức thực hiện các VBQPPL về ATTP; tăng

cường chức năng kiểm tra, giám sát của HĐND các cấp đối với việc tổ chức

thực hiện các VBQPPL về ATTP; hoàn thiện các VBQPPL về ATTP; qua

84

thực tiễn triển khai nhiệm vụ, chủ động góp ý, đề xuất với các cơ quan có

thẩm quyền có những điều chỉnh hoặc hỗ trợ nhằm tháo gỡ những khó khăn,

bất hợp lý trong thực hiện các VBQPPL về ATTP trên địa bàn; tăng cường

trao đổi, học tập kinh nghiệm trong tổ chức thực hiện các VBQPPL về

ATTP với các địa phương khác có nhiều tương đồng về điều kiện tự nhiên,

kinh tế, xã hội hoặc với các địa phương có nhiều thành tích và nhiều kinh

nghiệm hơn…

3.3.2. Giải pháp đối với tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về an toàn

thực phẩm

Thực tiễn cho thấy, tổ chức QLNN có vai trò rất quan trọng đối với

hiệu quả của hoạt động QLNN. Yếu tố tổ chức không đảm bảo tất yếu sẽ dẫn

tới phát huy kém hiệu quả các nguồn lực trong thực hiện chức năng, nhiệm

vụ quản lý. Để hoàn thiện tốt tổ chức QLNN về ATTP, thị xã Buôn Hồ cần

thực hiện theo những phương án sau:

Phương án thứ nhất, trường hợp giữ nguyên cơ cấu tổ chức QLNN về

ATTP như hiện tại trên địa bàn, để hoàn thiện tổ chức, UBND thị xã Buôn

Hồ cần ưu tiên thực hiện những nội dung:

Một là, trên cơ sở các VBQPPL được ban hành từ Trung ương quy

định tổ chức QLNN về ATTP, UBND thị xã cần xác định rõ và thực hiện

một số nội dung trọng tâm như sau:

Quy định rõ chức năng, nhiệm vụ đối với từng cơ quan tham gia

QLNN về ATTP ở các cấp như: Công an, quản lý thị trường, trung tâm y tế,

trạm y tế cấp Thị xã, xã, phường cho phù hợp với tình hình thực tiễn và đối

tượng quản lý ở từng địa phương. Đặc biệt, trong đó hướng dẫn cụ thể về cơ

cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ của từng thành viên trong ban chỉ đạo liên

ngành, đoàn kiểm tra liên ngành về ATTP.

Rà soát cơ cấu nhân lực QLNN về ATTP, trên cơ sở đó, đưa ra những

điều chỉnh nhằm tránh hiện tượng thừa hoặc thiếu trong phân bổ nguồn lực

về con người đối với các cơ quan tham gia QLNN về ATTP. Ví dụ: cơ cấu

tổ chức nhân lực QLNN về ATTP tại cấp xã/phường lại rất mỏng, chỉ 01

85

người/xã, phường; phòng Y tế 03 biên chế, Phòng Kinh tế 07 biên chế trong

đó 03 biên chế phụ trách chung nhiều mãng công việc trong đó có ATTP.

Hai là, ban hành quy chế phối hợp, tạo sự thống nhất giữa các ngành,

các cấp hành chính trong thanh tra, kiểm tra QLNN về ATTP; ban hành cơ

chế ràng buộc trách nhiệm giữa các cấp, các ban, các ngành trong QLNN về

ATTP. Ví dụ: Quy định rõ ràng về nhiệm vụ, trách nhiệm của từng cấp,

ngành trong điều tra, xử lý khi có sự cố về ATTP xảy ra trên địa bàn; Quy

định rõ trình tự, cách thức, nhiệm vụ của từng ban, ngành trong thực hiện

kiểm tra, thanh tra QLNN về ATTP tại các cấp hành chính, đặc biệt, trong

đó cần làm rõ vai trò chủ trì của ngành y tế; Thành lập các tổ hoạt động giúp

việc cho ban chỉ đạo liên ngành về ATVSTP ở các cấp, trong đó, ngành y tế

làm đầu mối chủ trì tổ chức các hoạt động. ở đây UBND thị xã chỉ ban hành

Công văn, nên ban hành quyết định thì tính pháp lý sẻ cao hơn.

Phương án thứ hai, thực hiện thay đổi hoàn toàn tổ chức QLNN về

ATTP. Cụ thể: Thành lập một cơ quan duy nhất làm đầu mối chịu trách

nhiệm chính trước UBND thực hiện các nhiệm vụ QLNN về ATTP trên địa

bàn quản lý từ cấp Thị xã tới cấp xã. Phòng/Ban quản lý về ATTP trên địa

bàn, cơ cấu cán bộ có chuyên môn nghiệp vụ cơ quan này có chức năng,

nhiệm vụ và thẩm quyền QLNN toàn diện về ATTP, từ nuôi, trồng, sản xuất,

chế biến, chất lượng thực phẩm cho tới lưu thông thị trường và phân phối

sản phẩm, dịch vụ tới người tiêu dùng. Xét về mặt tổ chức, việc thành lập hệ

thống cơ quan như vậy ở các cấp hành chính sẽ tránh được sự chồng chéo,

trùng lặp trong tổ chức thực hiện các nhiệm vụ QLNN về ATTP. Bên cạnh

đó, thu gọn tổ chức bộ máy và tinh giản đầu mối tham mưu, giúp việc cho

UBND ở các cấp hành chính (từ nhiều đầu mối của ba ngành chủ trì xuống

còn một đầu mối chính), từ đó, hoàn thiện về mặt tổ chức và cải thiện hiệu

quả QLNN về ATTP trên địa bàn thị xã.

3.3.3. Giải pháp đối với nguồn lực quản lý nhà nước về an toàn

thực phẩm

* Giải pháp đối với nguồn nhân lực QLNN về ATTP

86

Đội ngũ cán bộ, công chức là yếu tố quan trọng nhất quyết định phần

lớn tới hiệu quả trong thực hiện hoạt động QLNN nói chung. Do đó, để cải

thiện hiệu quả cho hoạt động QLNN, việc hoàn thiện, nâng cao năng lực làm

việc cho đội ngũ cán bộ công chức QLNN là tất yếu và là nhiệm vụ cần

được ưu tiên hàng đầu.

Đối với QLNN về ATTP trên địa bàn, để hoàn thiện và nâng cao năng

lực làm việc cho đội ngũ cán bộ công chức cần thực hiện các giải pháp trọng

tâm như sau:

Một là, nâng cao chất lượng, năng lực cho đội ngũ cán bộ, công chức

làm việc: Thường xuyên tổ chức các lớp tập huấn, các cuộc họp giao ban

toàn ngành nhằm phổ biến các quy định pháp luật về ATTP, trao đổi kinh

nghiệm và các khó khăn vướng mắc trong thực hiện nhiệm vụ tại các địa

phương, trên cơ sở đó, cấp trên hướng dẫn, hỗ trợ thực hiện cho cấp dưới;

đẩy mạnh thực hiện các khóa đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực và kĩ

năng chuyên môn cho đội ngũ cán bộ, công chức QLNN về ATTP tại các

cấp hành chính, đặc biệt là cấp xã, phường về các nội dung như: Nghiệp vụ

thanh tra, kiểm tra QLNN về ATTP, kiểm nghiệm ATVSTP, xử lý NĐTP,

xử lý các tình huống khẩn cấp... ; tổ chức đào tạo lại hoặc cử đi học lại tại

các học viện, các trường đại học đối với các cán bộ, công chức chưa được

đào tạo chính quy về chuyên ngành ATTP hoặc có liên quan tới ATTP như;

thu hút nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn cao (trình độ đại học, sau đại

học) bằng việc cải thiện các chế độ hỗ trợ về thu nhập, điều kiện làm việc...;

ưu tiên tuyển dụng nhân lực có trình độ đại học chuyên ngành y và ATTP

làm việc cho các cơ quan QLNN về ATTP.

Hai là, tăng cường phân bổ biên chế cán bộ, công chức QLNN về

ATTP tới cấp xã/phường: Hiện tại, mỗi xã, phường trên địa bàn toàn thị xã

kiêm nhiệm công tác ATTP trực tiếp thực hiện các nhiệm vụ QLNN về

ATTP có trình độ chủ yếu là trung cấp, trong khi đó, phần lớn các hoạt động

lại được thực hiện tại cấp xã/phường. Như vậy, nhân lực QLNN về ATTP

cấp xã, phường còn chưa đảm bảo về số lượng và chất lượng so với nhu cầu

87

thực tiễn công việc. Do đó, cần có sự bổ sung nhân lực hợp lý về số lượng

và chất lượng.

* Giải pháp đối với cơ sở vật chất và trang thiết bị phục vụ quản lý

nhà nước về an toàn thực phẩm

Cơ sở vật chất đảm bảo đóng một vai trò quan trọng trong nâng cao

hiệu quả hoạt động QLNN về ATTP. Trong thời gian vừa qua, cơ sở vật chất

phục vụ QLNN về ATTP trên địa bàn đã được Đảng bộ và UBND các cấp

quan tâm, đầu tư, được thể hiện rõ qua việc xây dựng trụ sở, Trung tâm y tế .

Tuy nhiên, để hoàn thiện cơ sở vật chất nhằm phục vụ và nâng cao hiệu quả

QLNN về ATTP, trong những năm tiếp theo cần chú trọng thực hiện những

nội dung như sau:

Tiến hành thực hiện xây dựng mới trụ sở làm việc cho: Phòng Kinh tế,

Phòng Y tế.

Tăng cường đầu tư trang thiết bị hiện đại phục vụ kiểm tra, thanh tra,

giám sát chất lượng thực phẩm. Bổ sung trang thiết bị cần thiết cho các xã,

phường nhằm đáp ứng giám sát nhanh chất lượng ATTP; thu thập chính xác

thông tin, mẫu thức ăn khi có NĐTP xảy ra.

* Giải pháp đối với nguồn lực tài chính đầu tư cho QLNN về ATTP

Nguồn lực về tài chính đóng vai trò rất quan trọng đối với mọi hoạt

động QLNN trong đó có QLNN về ATTP. Tuy nhiên thực tiễn tại thị xã

Buôn Hồ cho thấy mức kinh phí đầu tư cho hoạt động QLNN về ATTP còn

thấp, đặc biệt trong công tác thanh tra, kiểm tra không phân bổ nguồn kinh

phí cho Phòng Y tế/Phòng Kinh tế để triển khai thực hiện nhiệm vụ, các

đoàn kiểm tra của các đơn vị phải lấy nguồn kinh phí chi thường xuyên của

đơn vị để thực hiện nhiệm vụ. Mức kinh phí đầu tư hạn hẹp, nhiều hoạt động

đã phải rút ngắn như: Tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn cho đội

ngũ cộng tác viên cấp cơ sở; hoạt động truyền thông cộng đồng về

ATTP...nhiều hoạt động không phát huy được tính hiệu quả tối đa như:

Thanh tra, kiểm tra về ATTP; điều tra, phân loại, thống kê các cơ sở thực

phẩm trên địa bàn; hoạt động giám sát chất lượng ATTP; điều tra, xử lý,

88

thống kê NĐTP và các bệnh truyền qua thực phẩm... còn đối với Trung tâm

Y tế thì kinh phí được cấp trực tiếp từ Sở Y tế, tuy nhiên hàng năm, Sở tự

cấp và phân khai kinh phí cho Trung tâm thực hiện, một số nội dung được

cấp nhưng không thực hiện được cuối năm phải trả về.

Bởi vậy, để nâng cao hiệu quả hoạt động QLNN về ATTP trên địa bàn

thị xã Buôn Hồ, cần có sự đánh giá, đầu tư và hỗ trợ kinh phí đúng mức từ

phía Nhà nước, các bộ, ngành liên quan, Đảng bộ, UBND, đặc biệt là từ phía

các tổ chức chính trị, xã hội, các cá nhân, đoàn thể... Cụ thể hơn, trong

những năm tiếp theo, cần nâng cao mức chi ngân sách nhà nước đầu tư cho

QLNN về ATTP ở cấp huyện/thị/thành phố từ tỉnh và phía Trung ương.

3.3.4. Giải pháp đối với chính sách quản lý nhà nước về an toàn

thực phẩm

* Chính sách về xây dựng quy hoạch sản xuất thực phẩm an toàn

Xây dựng chiến lược, quy hoạch tổng thể về đảm bảo ATTP, trong đó,

quy hoạch vùng sản xuất thực phẩm an toàn theo chuỗi cung cấp thực phẩm

trong thời gian vừa qua được Đảng và Nhà nước xác định là nhiệm vụ trọng

tâm được ưu tiên hàng đầu trong QLNN về ATTP.

Để hoàn thiện chính sách trên, trong những năm tiếp theo cần tập

trung thực hiện đẩy mạnh các dự án, mô hình điểm về sản xuất thực phẩm an

toàn; quy hoạch mới các vùng sản xuất thực phẩm an toàn tùy theo đặc trưng

tình hình sản xuất nông nghiệp của từng địa phương. Qua đó, mở rộng quy

mô, từng bước áp dụng phổ biến các mô hình nuôi, trồng, sản xuất, chế biến

thực phẩm an toàn trên địa bàn.

Cụ thể hơn, để đẩy mạnh thực hiện quy hoạch các vùng sản xuất thực

phẩm an toàn, Ủy ban nhân dân thị xã cần xác định các nội dung và giải

pháp khuyến khích, hỗ trợ như sau:

Thu hút, khuyến khích đầu tư từ phía các doanh nghiệp, các hộ gia

đình trên địa bàn tham gia thực hiện mô hình nuôi, trồng, sản xuất, chế biến

thực phẩm an toàn.

89

Hỗ trợ về đồng vốn đầu tư, cơ sở vật chất và giá cả nhằm tăng sức

cạnh tranh đối với thực phẩm an toàn trên thị trường.

Hỗ trợ các cơ sở về con giống, cây giống, vật tư nông nghiệp trong áp

dụng mô hình nuôi, trồng thực phẩm an toàn, đặc biệt đối với những vùng có

thế mạnh trong sản xuất nông nghiệp.

Hướng dẫn, hỗ trợ các cơ sở thực hiện mô hình nôi, trồng, sản xuất,

chế biến thực phẩm an toàn về thực hiện các quy trình kĩ thuật đảm bảo

ATTP như: thực hành nông nghiệp tốt- GAP, thực hành vệ sinh tốt.

Hỗ trợ về thị trường: Tìm và hướng dẫn về mối tiêu thụ đầu ra cho các

cơ sở đối với nguồn thực phẩm an toàn được nuôi, trồng, sản xuất trên địa

bàn; xây dựng chuỗi cung ứng- tiêu thụ thực phẩm an toàn.

Tuyên truyền, thông tin trên các phương tiện truyền thông đại chúng

về các các vùng, các nhà sản xuất tốt, các sản phẩm thực phẩm đảm bảo an

toàn để người tiêu dùng biết và lựa chọn. Nhằm chuyển đổi mạnh mẽ và có

hiệu quả trong sản xuất các sản phẩm thực phẩm đảm bảo an toàn, đáp ứng

nhu cầu xã hội, các chính sách khuyến khích trên cần được thực hiện đồng

bộ, đầy đủ.

* Hoàn thiện chính sách khuyến khích đổi mới công nghệ, áp dụng hệ

thống quản lý chất lượng tiên tiến, sản xuất thực phẩm chất lượng cao, đảm

bảo ATTP đối với các cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm

Hiện tại, việc áp dụng các thành tựu khoa học, công nghệ vào sản

xuất, chế biến, kinh doanh thực phẩm trên địa bàn còn nhiều hạn chế do

phần lớn các cơ sở thực phẩm có quy mô nhỏ lẻ, tính tư phát cao, làm việc

chủ yếu theo kinh nghiệm hơn là khoa học bài bản. Trong khi đó, áp dụng

các thành tựu khoa học, công nghệ sẽ cải thiện năng suất lao động, đồng thời

đảm bảo hiệu quả ATTP trong sản xuất, chế biến, kinh doanh thực phẩm,

góp phần vào phát triển kinh tế- xã hội. Nhằm khuyến khích các cơ sở sản

xuất, chế biến, kinh doanh thực phẩm đổi mới công nghệ, áp dụng hệ thống

quản lý chất lượng tiên tiến, sản xuất, chế biến, thực phẩm chất lượng cao,

90

đảm bảo ATTP, UBND thị xã cần có chính sách hỗ trợ, khuyến khích bao

gồm những nội dung như sau:

Một là, xác định các hoạt động được hỗ trợ, khuyến khích: Nghiên

cứu khoa học về ATTP (đề tài, dự án..); ứng dụng các kết quả nghiên cứu

khoa học và công nghệ tiên tiến trong lĩnh vực ATTP; Chuyển giao công

nghệ về ATTP; đổi mới, cải tiến công nghệ về ATTP.

Hai là, xác định các nội dung và định mức hỗ trợ có thể tính tới, bao

gồm: Hỗ trợ tiếp cận các nguồn lực, tư vấn và cung cấp thông tin, đào tạo

trong lĩnh vực ATTP; Hỗ trợ đầu tư nghiên cứu, ứng dụng công nghệ khoa

học trong lĩnh vực ATTP.

3.3.5. Giải pháp đối với thanh tra, kiểm tra quản lý nhà nước về an

toàn thực phẩm

Thanh tra, kiểm tra về ATTP trên địa bàn trong thời gian vừa qua đã

nhận được nhiều sự quan tâm từ Đảng bộ, UBND các cấp. Các cuộc thanh

tra, kiểm tra định kỳ, đột xuất được nâng cao về số lượng và chất lượng, đặc

biệt trong đó thể hiện rõ sự phối hợp giữa các cơ quan chức năng có thẩm

quyền. Tuy nhiên, để hoàn thiện hơn nữa, trong những năm tiếp theo thị xã

cần thực hiện theo những giải pháp như sau:

Một là, cần nhanh chóng hoàn thiện và ổn định tổ chức thanh tra

chuyên ngành tại các cơ quan chức năng được giao nhiệm vụ thanh tra

chuyên ngành trong QLNN về ATTP.

Hai là, cần ban hành quy chế phối hợp giữa các cơ quan chức năng,

các ngành tại thị xã trong thanh tra, kiểm tra về ATTP trên địa bàn theo

nguyên tắc:

Hoạt động thanh tra, kiểm tra về ATTP phải bảo đảm không chồng

chéo giữa các ngành, các cấp, thống nhất từ cấp thị xã tới cấp xã/phường.

Trường hợp có sự trùng lặp kế hoạch thanh tra, kiểm tra, cần thực hiện: Nếu

kế hoạch thanh tra, kiểm tra của cơ quan cấp dưới trùng với kế hoạch thanh

tra, kiểm tra của cơ quan cấp trên, thực hiện theo kế hoạch kiểm tra của cơ

quan cấp trên; nếu kế hoạch thanh tra, kiểm tra của cơ quan cùng cấp trùng

91

nhau về địa bàn, cơ sở thì các bên trao đổi thống nhất thành lập đoàn liên

ngành; cơ quan chủ trì việc thanh tra, kiểm tra về ATTP có trách nhiệm

thông báo cáo bằng văn bản về việc yêu cầu phối hợp và kết quả thanh tra,

kiểm tra cho cơ quan tham gia phối hợp.

Tăng cường phối hợp giữa các cấp, các ngành nhằm đảm bảo tính hiệu

quả trong hoạt động thanh tra, kiểm tra về ATTP.

Ba là, các cấp, các ngành, trong quá trình thực hiện thanh tra, kiểm tra

về ATTP cần thực hiện tốt theo các nguyên tắc:

Xây dựng kế hoạch cụ thể cho hoạt động thanh tra, kiểm tra về ATTP,

khi triển khai, thực hiện: Tăng cường kiểm tra cơ sở thực hiện không tốt,

kiểm tra toàn diện, chi tiết các cơ sở có dấu hiệu vi phạm; tập trung thanh

tra, kiểm tra vào các cơ sở thực phẩm chưa được cấp giấy chứng nhận cơ sở

đủ điều kiện ATTP; đối với cơ sở cung cấp dịch vụ ăn uống, dịch vụ nấu ăn

lưu động, tổ chức bếp ăn tập thể cần có kế hoạch kiểm tra, giám sát chất

lượng thường xuyên; đối với các lễ hội có hình thành dịch vụ ăn uống đi

kèm cần được theo dõi, kiểm tra thường xuyên về chất lượng ATTP; kiểm

tra chặt chẽ hồ sơ về chất lượng và điều kiện ATTP của thực phẩm chế biến

được đưa từ tỉnh ngoài vào thị trường trong tỉnh, đặc biệt là sản phẩm của

các cơ sở nhỏ, sản xuất thủ công, công nghệ thấp, chưa có thương hiệu.

Các cơ quan quản lý xây dựng, thiết lập hồ sơ đầy đủ thông tin về các

cơ sở thực phẩm trên địa bàn theo phân cấp quản lý; rà soát chính xác số

lượng, phân loại định kì các cơ sở thực phẩm trên địa bàn; xác định tần suất

thanh, kiểm tra đối với mỗi cơ sở.

Các cơ quan có thẩm quyền, trong quá trình thanh tra, kiểm tra, xử lý

nghiêm cấm các hành vi vi phạm pháp luật về ATTP. Trên cơ sở đó, nâng

cao hiệu quả thi hành pháp luật, từng bước thay đổi hành vi và nhận thức của

người dân trong chấp hành các quy định của pháp luật về ATTP.

Hoạt động thanh tra, kiểm tra về ATTP cần được tiến hành có trọng

điểm, triệt để đối với từng đối tượng, từng loại hình sản xuất, chế biến, kinh

doanh, dịch vụ thực phẩm và từng loại mặt hàng ở từng thời điểm khác nhau.

92

Trong đó, đặc biệt chú trọng vào các đợt cao điểm trong năm như: Tết

Nguyên đán, tháng Hành động, tết Trung thu...

3.4. Kiến nghị

3.4.1. Đối với cấp Trung ương

Nhằm nâng cao hiệu quả QLNN về ATTP tại các địa phương trên địa

bàn cả nước, các cơ quan hành chính cấp trung ương bao gồm: Chính phủ,

Bộ Y tế, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Công Thương cần

triển khai một số nội dung như sau:

Một là, tổ chức rà soát lại hệ thống VBQPPL về ATTP (gồm Luật

ATTP, các nghị định, thông tư, thông tư liên tịch), tìm ra những mâu thuẫn,

chồng chéo, bất cập và cùng thống nhất chỉnh sửa sao cho phù hợp với thực

tiễn. Trong đó, Chính phủ đóng vai trò chủ trì, điều phối việc rà soát, chỉnh

sửa; các bộ: Bộ Y tế, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Công

Thương rà soát các VBQPPL theo thẩm quyền ban hành. Bên cạnh đó, để

hoạt động rà soát và chỉnh sửa đạt hiệu quả cao, cần có sự tham gia, góp ý từ

phía các doanh nghiệp trực tiếp sản xuất, kinh doanh, người tiêu dùng, các tổ

chức xã hội nghề nghiệp. Đồng thời, để tránh việc các VBQPPL về ATTP có

tồn tại mâu thuẫn, bất hợp lý, không phù hợp với thực tiễn khi ban hành từ

cấp trung ương, nên giao trách nhiệm tham mưu, soạn thảo và thẩm định các

VBQPPL về ATTP cho những người có nhiều kinh nghiệm làm việc, có

chuyên môn và hiểu biết sâu về lĩnh vực ATTP.

Hai là, chủ động hơn trong hướng dẫn thực hiện các VBQPPL về

ATTP đối với các địa phương thông qua các văn bản hướng dẫn thi hành

như: Nghị định, thông tư, quyết định, công văn chỉ đạo, hướng dẫn... Đặc

biệt, cần chú trọng thống nhất tronghướng dẫn giữa các bộ, ngành trực tiếp

thực hiện QLNN về ATTP đối với địa phương thông qua các thông tư liên

tịch. Một số nội dung cần được nhấn mạnh nhằm hoàn thiện hướng dẫn thực

hiện các VBQPPL về ATTP như:

Rà soát và hướng dẫn thi hành lại đối với một số quy định chưa phù

hợp với thực tiễn: Quy định xử lý vi phạm hành chính về ATTP; hướng dẫn

93

chi tiết về điều kiện ATTP; hướng dẫn chi tiết phân loại quy mô các cơ sở

sản xuất, chế biến và kinh doanh thực phẩm…

Hướng dẫn thi hành mới đối với những nội dung chưa được quy định

cụ thể chi tiết như: Hướng dẫn thi hành mới một số điều tại Luật ATTP;

hướng dẫn chi tiết về phân loại quy mô các cơ sở thực phẩm trong quản lý;

ban hành các QCVN, TCVN mới về thực phẩm; hướng dẫn tổ chức QLNN

về ATTP ở cấp huyện và cấp xã; hướng dẫn về tổ chức, thẩm quyền, chức

năng của ban chỉ đạo về ATVSTP và đoàn liên ngành ATTP tại các cấp

hành chính…

Rà soát, cập nhật và tiếp tục hướng dẫn thực hiện đối với các quy

hoạch, các chương trình, ví dụ như: Chiến lược quốc gia ATTP giai đoạn

2011- 2020 và tầm nhìn 2030; quy hoạch vùng sản xuất rau an toàn tại các

địa phương… nhằm đưa ra các điều chỉnh và hỗ trợ kịp thời.

3.4.2. Đối với Ủy ban nhân dân thị xã

Cần tham mưu với Thị ủy Buôn Hồ ban hành văn bản mang tính chất

lãnh đạo, chỉ đạo chuyên đề về an toàn thực phẩm trên địa bàn để thực hiện,

đồng thời UBND thị xã cũng cần có chương trình, kế hoạch hoặc đề án, dự

án mang tính chất giai đoạn, dài hạn để thực hiện công tác QLNN về ATTP

trên địa bàn thị xã, trong đó cần có các chỉ tiêu cụ thể để triển khai thực hiện,

không mang tính chất chung chung và triển khai thực hiện theo nhiệm vụ

hàng năm như hiện nay, cứ tuyên truyền, thanh tra, kiểm tra xử lý vi phạm ...

đặc biệt quan tâm các chỉ tiêu xây dựng các mô hình thực phẩm theo tiêu

chuẩn an toàn.

Rà soát quy hoạch, bố trí cán bộ làm công tác QLNN về ATTP có

trình độ chuyên môn đúng chuyên ngành để phát huy được hiệu quả trong

công việc.

Quan tâm bố trí nguồn kinh phí để triển khai các hoạt động đảm bảo

an toàn thực phẩm trên địa bàn thị xã Buôn Hồ, vì hiện tại nguồn kinh phí

được cấp để triển khai thực hiện còn quá ít.

94

Tiểu kết chương 3

ATTP để bảo đảm sức khoẻ cho con người đang là vấn đề đang được

quan tâm hàng ngày hàng giờ. Thực tế là người tiêu dùng rất khó lựa chọn

trước rất nhiều mặt hàng đa dạng, phong phú cả mẫu mã, chất lượng. Đó là

chưa nói đến thành phần cụ thể của từng loại thực phẩm. Chính vì vậy, cơ

quan nhà nước đóng một vai trò hết sức quan trọng trong việc đảm bảo sức

khỏe của người dân.

Từ những nghiên cứu trên có thể thấy thực trạng về vấn đề ATTP của

thị xã Buôn Hồ hiện nay: Tình hình ngộ độc thực phẩm (NĐTP) và các bệnh

truyền qua thực phẩm đang có chiều hướng gia tăng, các bếp ăn tập thể mặc

dù ít, chủ yếu là trong các trường học bán trú đã được kiểm soát nhưng nguy

cơ vẫn còn rất cao; việc sử dụng chất cấm, lạm dụng hóa chất, kháng sinh,

thuốc thú y, chất cải tạo xử lý môi trường, chất bảo quản, nhuộm màu trong

sơ chế, chế biến, sau thu hoạch nông sản, việc sử dụng phụ gia thực phẩm

trong chế biến thực phẩm ngày càng phức tạp. Tình trạng nhiễm độc, NĐTP

ngày càng tăng, tình trạng sản xuất, chế biến, kinh doanh hàng hoá không

đảm bảo ATTP hoặc không đạt chất lượng sản phẩm như công bố vẫn tồn

tại, ý thức của người tiêu dùng trong lựa chọn thực phẩm còn dễ dãi, đơn

giản, việc kinh doanh thuốc bảo vệ thực vật ngoài danh mục diễn ra phức

tạp. Về phía các cơ quan quản lý cũng gặp không ít khó khăn do sự chồng

chéo trong phân cấp quản lý, mạng lưới cán bộ làm công tác ATTP còn

mỏng, yếu về mặt chuyên môn, thiếu trang thiết bị phục vụ chuyên môn...

Cơ chế, chính sách trong việc đảm bảo ATTP còn hạn chế; chế tài xử phạt vi

phạm trong lĩnh vực này còn nhẹ.

Trên cơ sở nghiên cứu thực trạng QLNN về ATTP, đánh giá thực

trạng QLNN đối với ATTP tại thị xã Buôn Hồ về: ban hành các văn bản

QLNN đối với ATTP, tổ chức bộ máy, đội ngũ CBCC, thanh tra, kiểm tra,

giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm về ATTP. Tìm ra những tồn tại,

hạn chế để đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện hơn nữa công tác QLNN

về ATTP trên địa bàn thị xã Buôn Hồ trong thời gian tới.

95

KẾT LUẬN

Quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm đóng một vai trò hết sức quan

trọng trong việc đảm bảo an toàn thực phẩm cho mọi người, mọi nhà, bảo

đảm quyền và lợi ích hợp pháp của mọi người dân, mọi tổ chức. Bảo đảm

ATTP là hoạt động có tính xã hội hoá cao, cần sự tham gia tích cực, có hiệu

quả của mọi người dân, các cơ quan liên quan đến chuỗi cung cấp thực

phẩm, đặc biệt là các doanh nghiệp, người trực tiếp sản xuất, chế biến, kinh

doanh thực phẩm. Một xã hội chỉ được bảo đảm về ATTP khi sản phẩm

được sản xuất ra cung cấp cho xã hội an toàn, được quản lý chặt chẽ về chất

lượng ATTP và được người tiêu dùng lựa chọn và sử dụng đúng.

Quản lý nhà nước về ATTP đóng một vai trò hết sức quan trọng trong

việc điều tiết nền kinh tế theo một khuôn mẫu nhất định. Hoạt động của các

cơ quan QLNN mang tính dẫn dắt, tất cả vì sức khỏe con người và xã hội.

Thông qua các văn bản pháp quy, các công cụ, chính sách của nhà nước tác

động đến tình hình thực hiện ATTP của đơn vị sản xuất, chế biến, kinh

doanh và người tiêu dùng trên cả nước nhằm định hướng, dẫn dắt các chủ

thể này thực hiện tốt các vấn đề về ATTP.

Trong điều kiện hiện nay, các cơ quan chức năng cần tăng cường hơn

nữa công tác quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm, cần phát huy nội lực,

tăng cường công tác tuyên truyền giáo dục pháp luật an toàn thực phẩm cho

mọi người dân, cũng như tổ chức; cần nâng cao hơn nữa chất lượng đội ngũ

cán bộ, công chức; bên cạnh đó cần tăng cường công tác kiểm tra, giám sát

từ khâu trồng trọt, chăn nuôi đến sản xuất/chế biến, kinh doanh làm sao để

có được những thực phẩm an toàn, rỏ nguồn gốc xuất xứ để người dân có thể

yên tâm, tin tưởng, sử dụng.

96

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (2017), Kết

luận số 11-KL/TW ngày 19/1/2017 của Ban Bí thư về việc thực hiện Chỉ thị

số 08- CT/TW ngày 21/10/2011 về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với

vấn đề ATTP trong tình hình mới, Hà Nội.

2. Ban Bí thư (2011), Chỉ thị số 08- CT/TW ngày 21/10/2011 về tăng

cường sự lãnh đạo của Đảng đối với vấn đề an toàn thực phẩm trong tình

hình mới, Hà Nội.

3. Bộ Y tế, Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Bộ Công thương

(2014), Hướng dẫn việc phân công, phối hợp trong quản lý nhà nước về an

toàn thực phẩm, Hà Nội.

4. Bộ Y tế (2014), Thông tư số 47/2014/TT-BYT, ngày 11/12/2014

hướng dẫn quản lý an toàn thực phẩm đối với cơ sở kinh doanh dịch vụ ăn

uống, Hà Nội.

5. Bộ Y tế (2015), Thông tư liên tịch số 51/2015/TTLT-BYT-BNV

ngày 11/12/2015 của Bộ Y tế và Bộ Nội vụ hướng dẫn chức năng nhiệm vụ,

quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Sở Y tế và Phòng y tế, Hà Nội.

6. Chính phủ (2012), Quyết định số 20/QĐ-TTg ngày 4/1/2012 phê

duyệt Chiến lược quốc gia an toàn thực phẩm giai đoạn 2011 - 2020 và tầm

nhìn 2030, Hà Nội.

7. Chính phủ (2013), Nghị định số 166/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013

quy định về cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính, Hà

Nội.

8. Chính phủ (2016), Nghị định số 67/2016/NĐ-CP Quy định về điều

kiện sản xuất, kinh doanh thực phẩm thuộc lĩnh vực quản lý chuyên ngành,

Hà Nội.

9. Chính phủ (2017), Nghị định số 75/2017/NĐ-CP, ngày 20/6/2017

quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức của Bộ Y tế, Hà

Nội.

97

10. Chính phủ (2018), Nghị định số 15/2018/NĐ-CP ngày 02/02/2018

quy định chi tiết một số điều của Luật ATTP, Hà Nội.

11. Chính phủ (2018), Nghị định số 155/2018/NĐ-CP ngày 12/11/2018

sữa đổi, bổ sung một số quy định liên quan đến điều kiện đầu tư kinh doanh

thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ Y tế, Hà Nội..

12. Nguyễn Hữu Hải (2015), Quản lý học đại cương, Nhà xuất bản

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

13. Vũ Thanh Hoa (2011), “Quản lý nhà nước về vệ sinh an toàn thực

phẩm trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh”, Luận văn thạc sĩ quản lý công, Học

viện chính trị hành chính quốc gia Hồ Chí Minh.

14. Trần Thị Khúc (2014), “Quản lý nhà nước về vệ sinh an toàn thực

phẩm trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh”, Luận văn thạc sĩ quản lý công, Học viện

Nông nghiệp Việt Nam, Hà Nội.

15. Mai Hữu Khuê (2003), Lý luận quản lý nhà nước, Nhà xuất bản

Giáo dục, Hà Nội.

16. Bùi Thị Hồng Nương (2019), Đề tài Quản lý nhà nước về an toàn

thực phẩm ở Việt Nam hiện nay, Viện hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam.

17. Phòng Kinh tế thị xã Buôn Hồ (2015, 2016, 2017, 2018, 2019,

9/2020), Báo cáo tổng kết hoạt động hàng năm, trong đó có mục an toàn

thực phẩm, Buôn Hồ.

18. Phòng Y tế thị xã Buôn Hồ (2015,2016,2017,2018,2019,9/2020),

Báo cáo công tác quản lý nhà nước về ATTP trên địa bàn, Buôn Hồ.

19. Quốc hội (2010), số 29/2010/QH12, ngày 17/6/2010, Luật bảo vệ

quyền lợi người tiêu dùng, Hà Nội.

20. Quốc hội khóa 12 (2010), số 55/2010/QH12, ngày 17/6/2010, Luật

An toàn thực phẩm, Hà Nội.

21. Quốc hội (2013), ngày 28/11/2013, Hiến pháp nước cộng hòa xã

hội chủ nghĩa Việt Nam, Hà Nội.

22. Thị ủy Buôn Hồ (2020), Báo cáo chính trị Đại hội đại biểu Đảng bộ

thị xã Buôn Hồ khóa XVI, nhiệm kỳ 2020-2020, Buôn Hồ.

98

23. Ủy ban nhân dân thị xã Buôn Hồ (2016), kế hoạch số 76/KH-

UBND, ngày 01/8/2016 về tăng cường trách nhiệm QLNN về ATTP trên địa

bàn thị xã Buôn Hồ.

24. Ủy ban nhân dân thị xã Buôn Hồ (2016), Công văn số 1006/KH-

YT, ngày 01/8/2016 về QLNN về ATTP, Buôn Hồ.

25. Ủy ban nhân dân tỉnh Đăk Lăk (2020), Quyết định số 17/QĐ-

UBND, ngày 20/5/2020 quy định quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm

trên địa bàn tỉnh Đăk Lăk.

26. Ủy ban Thường vụ Quốc hội (2003), số 12/2003/PL-UBTUQH11,

ngày 267/2003, pháp lệnh về vệ sinh an toàn thực phẩm, Hà Nội.

27. Như Ý (chủ biên,1996), từ điển Tiếng Việt thông dụng, Nhà xuất

bản Bộ Giáo dục, Hà Nội.

99

PHỤ LỤC

1. Các mẫu phiếu khảo sát quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm.

2.Kết quả tổng hợp các phiếu khảo sát.

100

CÁC MẪU PHIẾU KHẢO SÁT QLNN VỀ ATTP

Mẫu 1: Phiếu khảo sát về quản lý nhà nước về ATTP

(Dùng cho cán bộ, công chức, quản lý về ATTP và cán bộ, công chức, viên

chức trên địa bàn thị xã) ) (n = 150)

PHIẾU KHẢO SÁT

Để phục vụ cho đề tài nghiên cứu “Quản lý nhà nước về an toàn

thực phẩm trên địa bàn thị xã Buôn Hồ giai đoạn 2015-2020”. Xin

Anh/Chị cho biết ý kiến về những nội dung dưới đây bằng cách đánh dấu X

vào những ô thích hợp hoặc ghi thêm ý kiến cá nhân. Những thông tin được

cung cấp chỉ phục vụ cho mục đích nghiên cứu.

Trân trọng cảm ơn sự hợp tác của Anh/Chị!

Phần 1: Thông tin cá nhân

1. Tuổi ………….; Giới tính: ………… Dân tộc: ……….….

2. Số năm công tác: …………………………………………..

3. Chức vụ hiện nay/đơn vị công tác:………………………..

4. Trình độ chuyên môn đào tạo: ……………………………...

Phần 2: Phần trả lời câu hỏi (Chọn nhiều ý) (số phiếu thu về là 124)

STT Nội dung câu hỏi Số T

lượng ỉ lệ

1 Theo Anh/Chị QLNN về ATTP bao gồm các

nội dung nào dưới đây?

XD và ban hành chính sách, pháp luật về ATTP 115 9

2.7

Tổ chức thực hiện pháp luật về ATTP 120 9

6.7

Thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo 98 8

đối với các cơ sở vi phạm ATTP 1.6

Xử phạt hành vi vi phạm pháp luật của các cơ sở 113 9

chế biến thực phẩm 1.1

101

Tuyên truyền nâng cao ý thức chấp hành pháp luật 124 1

về ATTP của mọi người dân 00

Ý kiến khác 2 35

8.2

2 Anh/Chị đánh giá như thế nào về việc xây dựng

và ban hành các văn bản tại thị xã Buôn Hồ để

thực hiện chính sách, pháp luật về ATTP trong

thời gian qua?

Đáp ứng được yêu cầu thực tiễn 68.5 85

Chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn 9.6 12

Còn nhiều hạn chế 17.7 22

Ý kiến khác 4.2 5

3 Theo đánh giá của Anh/Chị, các CQQLNN đã

thực hiện công tác phối hợp như thế nào trong

QLNN về ATTP?

Thực hiện tốt, có hiệu quả công tác phối hợp 61.3 76

Ít khi phối hợp 4.8 6

Chưa phối hợp hiệu quả 33.9 42

Ý kiến khác 0 0

4 Theo Anh/Chị, công tác thanh tra, kiểm tra,

giải quyết khiếu nại, tố cáo đối với các cơ sở vi

phạm ATTP trong những năm qua như thế

nào?

Thực hiện tốt và có hiệu quả 63.7 79

Còn nhiều tồn tại, hạn chế 25.8 32

Chưa đạt được yêu cầu đề ra 10.5 13

Ý kiến khác 0 0

5 Theo Anh/Chị công tác tuyên truyền về ATTP

ở thị xã Buôn Hồ hiện nay?

102

Thường xuyên 25 20.2

Không thường xuyên 6 4.8

Làm theo chiến dịch, phong trào 93 75

Ý kiến khác 0 0

6 Anh/Chị đánh giá gì công tác tuyên truyền về

ATTP

Các hình thức tuyên truyền đa dạng 6 4.8

Thông tin tuyên truyền phong phú 63 50.8

Nội dung tuyên truyền phù hợp 48 38.7

Công tác tuyên truyền đạt hiệu quả cao 37 29.8

Ý kiến khác 68 54.8

7 Anh/Chị đánh giá gì về công tác cấp giấy chứng

nhận ATTP hiện nay

Thủ tục còn rườm rà, thời gian còn chậm 86 69.3

Thủ tục cấp giấy chứng nhận nhanh gọn 38 30.6

Thời gian cấp giấy chứng nhận nhanh chóng 27 21.7

Ý kiến khác 00 00

8 Anh/Chị nhận xét gì về hình thức xử phạt

ATTP đối với các CSSX, KD, chế biến thực

phẩm

Hợp lý 21 16.9

Bình thường 56 45.2

Còn nhẹ 47 37.9

Ý kiến khác

9 Theo Anh/Chị để nâng cao hiệu quả QLNN về

ATTP ở Việt Nam trong thời gian tới, cần thực

hiện tốt các công việc nào dưới đây?

Xây dựng văn bản phân công trách nhiệm cụ thể 119 95.9

giữa các cơ quan QLNN về ATTP trên địa bàn

103

Giải pháp về tổ chức thực hiện: bộ máy, nhân lực, 124 100

tài chính, thanh tra, kiểm tra

Giải pháp về thông tin, giáo dục và truyền thông 124 100

Ý kiến khác 35 28.2

104

Mẫu 2: Phiếu khảo sát về quản lý nhà nước về ATTP

(Dùng cho chủ các cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm) (n=210)

PHIẾU KHẢO SÁT

Để phục vụ cho đề tài nghiên cứu “Quản lý nhà nước về an toàn

thực phẩm trên địa bàn thị xã Buôn Hồ giai đoạn 2015-2020”. Xin

Anh/Chị cho biết ý kiến về những nội dung dưới đây bằng cách đánh dấu X

vào những ô thích hợp hoặc ghi thêm ý kiến cá nhân. Những thông tin được

cung cấp chỉ phục vụ cho mục đích nghiên cứu.

Trân trọng cảm ơn sự hợp tác của Anh/Chị!

Phần 1: Thông tin cá nhân

1. Tuổi ………….; Giới tính: ………… Dân tộc: …………….

2. Là chủ cơ sở sản xuất thực phẩm: …………………………..

3. Loại thực phẩm:…………………………………….………..

4. Số năm sản xuất:…………………………………….……….

Phần 2: Phần trả lời câu hỏi (có thể chọn nhiều ý trong cùng 01 câu

hỏi) (phát ra 210 bản, thu về 210 bản, mỗi xã/phường 15 bản (10xã,

phường), riêng phường An Bình, An Lạc mỗi đơn vị 30 bản)

Số T STT Nội dung câu hỏi lượng ỉ lệ

1 Anh/Chị có biết hệ thống các văn bản quy định

về tiêu chuẩn các cơ sở sản xuất, chế biến, kinh

doanh thực phẩm không?

Có 106 50.4

Không 54 25.7

Không quan tâm 50 23.9

Ý kiến khác

2 Theo Anh/Chị công tác tuyên truyền về ATTP

ở thị xã Buôn Hồ hiện nay?

Thường xuyên 23 10.9

105

Không thường xuyên 151 71.9

Làm theo chiến dịch, phong trào 36 17.2

Ý kiến khác

3 Anh/Chị đánh giá gì công tác tuyên truyền về

ATTP

7 3.33 Các hình thức tuyên truyền đa dạng

27 12.8 Thông tin tuyên truyền phong phú

35 16.6 Nội dung tuyên truyền phù hợp

32 15.2 Công tác tuyên truyền đạt hiệu quả cao

159 75.7 Ý kiến khác

4 Anh/Chị đánh giá gì về công tác cấp giấy chứng

nhận ATTP hiện nay

149 66.6 Thủ tục còn rườm rà, thời gian còn chậm

28 13.3 Thủ tục cấp giấy chứng nhận nhanh gọn

35 16.6 Thời gian cấp giấy chứng nhận nhanh chóng

98 46.6 Ý kiến khác

5 Anh/Chị có nhận xét gì về công tác kiểm tra

ATTP hiện nay

Đội ngũ cán bộ kiểm tra có trình độ chuyên môn 175 83.3

cao

Công tác kiểm tra nhanh gọn 143 68.1

Kết quả kiểm tra chính xác, khách quan 164 78.5

Công tác kiểm tra rõ ràng, minh bạch 165 78.6

Ý kiến khác 68 54.8

6 Anh/Chị nhận xét gì về hình thức xử phạt

ATTP đối với các CSSX, kinh doanh, chế biến

thực phẩm

194 92.4 Hợp lý

16 7.6 Bình thường

106

Còn nhẹ 0 0

Ý kiến khác 0 0

7 Theo Anh/Chị để nâng cao hiệu quả QLNN về

ATTP cần tăng

Hỗ trợ vốn cho các cơ sở sản xuất 210 100

Hỗ trợ người dân sản phẩm đầu ra 186 88.6

Đơn giản các thủ tục hành chính 171 81.4

Ý kiến khác 35 16.6

107

Mẫu 3: Phiếu khảo sát về quản lý nhà nước về ATTP

(Dùng cho người tiêu dùng) (n=210)

PHIẾU KHẢO SÁT

Để phục vụ cho đề tài nghiên cứu “Quản lý nhà nước về an toàn

thực phẩm trên địa bàn thị xã Buôn Hồ giai đoạn 2015-2020”. Xin

Anh/Chị cho biết ý kiến về những nội dung dưới đây bằng cách đánh dấu X

vào những ô thích hợp hoặc ghi thêm ý kiến cá nhân. Những thông tin được

cung cấp chỉ phục vụ cho mục đích nghiên cứu.

Trân trọng cảm ơn sự hợp tác của Anh/Chị!

Phần 1: Thông tin cá nhân

1. Tuổi ………….; Giới tính: ………… Dân tộc: …………….

2. Địa chỉ: …………………………..

Phần 2: Phần trả lời câu hỏi (có thể chọn nhiều ý trong cùng 01 câu

hỏi) (phát ra 210 bản, thu về 210 bản, mỗi xã/phường 15 bản (10 xã,

phường), riêng phường An Bình, An Lạc mỗi đơn vị 30 bản)

Số T STT Nội dung câu hỏi lượng ỉ lệ

1 Anh/Chị có biết hệ thống các văn bản quy định

về tiêu chuẩn các cơ sở sản xuất, chế biến, kinh

doanh thực phẩm không?

Có 9.52 20

Không 25.2 53

Không quan tâm 59.5 125

Ý kiến khác 5.78 12

2 Theo Anh/Chị công tác tuyên truyền về ATTP

ở thị xã Buôn Hồ hiện nay?

Thường xuyên 16.2 34

Không thường xuyên 61.4 129

Làm theo chiến dịch, phong trào 7.1 15

108

Ý kiến khác 32 15.3

3 Anh/chị có được tuyên truyền các kiến thức về

an toàn thực phẩm? Bằng hình thức nào?

trên Đài truyền thanh truyền hình/ đài phát thanh 198 94.3 của xã/phường

Tham dự các buổi tập huấn/ lễ phát động/ các buổi 35 16.7 tuyên truyền do thị xã Buôn Hồ tổ chức

Ý kiến khác 145 69.0

4 Anh/Chị thường hay mua thực phẩm ở đâu

Chợ 198 94.2

Siêu thị 12 5.8

Ý kiến khác 0 0

5 Anh/chị làm sao để biết sản phẩm đó an toàn

Nhìn bề ngoài thực phẩm 210 100

Xem nguồn gốc xuất xứ 98 46.7

Xem hạn sử dụng 136 64.7

Ý kiến khác 67 31.9

6 Anh/chị có yên tâm khi sử dụng thực phẩm

hàng ngày hay không

Không lo lắng gì 13 6.2

Không nghỉ đến 17 8.1

Cảm thấy lo lắng 180 85.7

Ý kiến khác 0 0

7 Anh/Chị có nhận xét gì về công tác kiểm tra

ATTP hiện nay

Thường xuyên 23 10.9

Không thường xuyên 48 22.8

Không quan tâm/ không biết 139 66.3

Ý kiến khác

109

8 Anh/Chị nhận xét gì về hình thức xử phạt

ATTP đối với các CSSX, kinh doanh, chế biến

thực phẩm

Hợp lý 89 42.4

Bình thường 35 16.7

Còn nhẹ 86 40.9

Ý kiến khác 0 0

9 Theo Anh/Chị để nâng cao hiệu quả QLNN về

ATTP cần tăng

Hỗ trợ vốn cho các cơ sở sản xuất 154 73.3

Hỗ trợ người dân sản phẩm đầu ra 197 93.8

Xây dựng nhiều mô hình sản xuất an toàn 67 31.9

Hỗ trợ mở những chuỗi của hàng thực phẩm sạch 128 60.9 trên địa bàn

Ý kiến khác 32 15.2

110