BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ
................./.................... ......../......
------------------------------
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
HỒ VĂN MIỀN
Đề tài: QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ BÁO CHÍ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐẮK NÔNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG
Đắk Lắk, năm 2018
i
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ
................../................. ......../.......
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
------------------------------
HỒ VĂN MIỀN
Đề tài: QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ BÁO CHÍ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐẮK NÔNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG Chuyên ngành: Quản lý công Mã số: 8 34 04 03 NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. HOÀNG VĂN
CHỨC
Đắk Lắk, năm 2018
ii
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn Thạc sĩ “Quản lý nhà nước về báo chí trên địa
bàn tỉnh Đắk Nông” chuyên ngành quản lý công là công trình nghiên cứu của riêng
tôi. Các số liệu, kết quả trình bày trong luận văn là trung thực và chƣa từng đƣợc
công bố.
Các thông tin trích dẫn trong Luận văn đã đƣợc chỉ rõ nguồn gốc.
Đắk Lắk, tháng 5 năm 2018
Học viên thực hiện Luận văn
Hồ Văn Miền
iii
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin đƣợc bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến quý thầy cô và lãnh đạo Học
viện Hành chính Quốc gia, Phòng Quản lý Đào tạo Sau Đại học. Quý thầy, cô đã
tận tình giảng dạy, hƣớng dẫn, tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong quá trình học tập,
nghiên cứu, đặc biệt là sự giúp đỡ và chỉ bảo quý báu của PGS.TS. Hoàng Văn
Chức– Học viện Hành chính Quốc gia, ngƣời đã trực tiếp hƣớng dẫn, giúp đỡ tôi
hoàn thành luận văn này.
Trân trọng gửi lời cảm ơn đến Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh, Ban Tuyên
giáo Tỉnh ủy, Hội Nhà báo tỉnh, Sở Thông tin và Truyền thông, các cơ quan báo chí
trên địa bàn tỉnh Đắk Nông cùng các đồng nghiệp trong cơ quan, các học viên cùng
lớp Quản lý công HC21.TN12 Phân viện Khu vực Tây Nguyên và gia đình đã giúp
đỡ tôi trong quá trình nghiên cứu, hoàn thành luận văn.
Với kiến thức, kinh nghiệm, khả năng và điều kiện còn hạn chế, nội dung
luận văn không tránh khỏi những thiếu sót, bản thân kính mong tiếp tục nhận đƣợc
sự quan tâm hƣớng dẫn, đóng góp ý kiến của quý thầy cô, bạn bè và đồng nghiệp.
Xin chân thành cảm ơn.
Đắk Lắk, tháng 5 năm 2018
Học viên thực hiện Luận văn
Hồ Văn Miền
iv
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU.........................................................................................................1
CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ
BÁO CHÍ....................................................................................................................8
1.1. Khái niệm, chủ thể, đối tƣợng, nội dung quản lý nhà nƣớc về báo chí...............8
1.1.1. Khái niệm quản lý nhà nƣớc về báo chí...........................................................8
1.1.2. Chủ thể............................................................................................................12
1.1.3. Đối tƣợng........................................................................................................14
1.1.4. Nội dung..........................................................................................................15
1.2. Các yếu tố ảnh hƣởng đến quản lý nhà nƣớc về báo chí....................................20
1.2.1. Yếu tố khách quan...........................................................................................20
1.2.2. Yếu tố chủ quan..............................................................................................22
1.3. Kinh nghiệm quản lý nhà nƣớc về báo chí của một số địa phƣơng...................23
Chƣơng 2. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG BÁO CHÍ VÀ QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC
VỀ BÁO CHÍ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐẮK NÔNG..............................................36
2.1. Những yếu tố ảnh hƣởng đến quản lý nhà nƣớc về báo chí trên địa bàn tỉnh Đắk
Nông..........................................................................................................................36
2.1.1. Yếu tố khách quan...........................................................................................36
2.1.2. Yếu tố chủ quan..............................................................................................42
2.2. Thực trạng hoạt động báo chí trên địa bàn tỉnh Đắk Nông................................47
2.2.1. Báo viết...........................................................................................................48
2.2.2. Báo hình – Báo nói..........................................................................................50
2.3. Đánh giá chung thực trạng quản lý nhà nƣớc về báo chí trên địa bàn tỉnh Đắk
Nông..........................................................................................................................58
2.3.1. Kết quả đạt đƣợc.............................................................................................58
2.3.2. Hạn chế...........................................................................................................69
Chƣơng 3. XU HƢỚNG PHÁT TRIỂN VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƢỜNG QUẢN
LÝ NHÀ NƢỚC VỀ BÁO CHÍ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐẮK NÔNG..................79
v
3.1. Xu hƣớng phát triển và quản lý nhà nƣớc về báo chí trên địa bàn tỉnh Đắk
Nông..........................................................................................................................79
3.2. Giải pháp tăng cƣờng quản lý nhà nƣớc về báo chí trên địa bàn tỉnh Đắk
Nông..........................................................................................................................85
KẾT LUẬN...............................................................................................................96
TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................................................99
PHỤ LỤC................................................................................................................105
vi
DANH MỤC C C CH VI T TẮT
PTTH : Phát thanh và Truyền hình
QLNN : Quản lý nhà nƣớc
Tr. : Trang
TTTT : Thông tin và Truyền thông
UBND : Ủy ban nhân dân
vii
DANH MỤC C C SƠ ĐỒ, BIỂU ĐỒ
Trang
Sơ đồ 1.1: Mô hình khái niệm báo chí theo quan điểm hệ thống ............. 9
Biểu đồ 2.1: Số kỳ báo Đắk Nông phát hành hàng tuần tăng qua các 49 thời kỳ .........................................................................................................
viii
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trên thế giới, báo chí đƣợc xem nhƣ là cơ quan quyền lực thứ tƣ sau cơ quan
lập pháp, hành pháp và tƣ pháp. Mỗi đảng phái, tổ chức xã hội đều xây dựng cho
mình một cơ quan ngôn luận, diễn đàn chính thức thông qua báo chí nhằm thông tin
phục vụ cho quyền lợi và mục tiêu của mình.
Ở Việt Nam, báo chí là công cụ chính trị của Đảng, Nhà nƣớc, các tổ chức
đoàn thể. Nền báo chí cách mạng Việt Nam ra đời và phát triển xuyên suốt cùng với
tiến trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trƣớc đây cũng nhƣ trong sự nghiệp đổi mới
và phát triển đất nƣớc đi lên theo con đƣờng xã hội chủ nghĩa ngày nay. Đảng xác
định: “Báo chí vừa là tiếng nói của Đảng, của Nhà nƣớc, vừa là diễn đàn của nhân
dân”. Trong chiến tranh cũng nhƣ trong hòa bình, Đảng luôn tin tƣởng và coi trọng
tiếng nói báo chí. Báo chí đã góp phần hiệu quả trong việc tuyên truyền đƣờng lối,
chủ trƣơng của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nƣớc, đồng thời đấu tranh
chống lại các luận điệu xuyên tạc của thế lực thù dịch, góp phần vào sự ổn định
chung và nâng cao dân trí cho xã hội.
Trƣớc yêu cầu của sự nghiệp đổi mới đất nƣớc, hội nhập quốc tế cũng nhƣ sự
phát triển nhƣ vũ bão của công nghệ thông tin, kỷ nguyên số, mạng xã hội...cũng
nhƣ nhu cầu thông tin, giải trí ngày càng cao của ngƣời dân, đòi hỏi các cơ quan báo
chí cả nƣớc phải tự nỗ lực đổi mới, nâng cao chất lƣợng, đáp ứng đƣợc kỳ vọng
“thông tin, hƣớng dẫn dƣ luận” xã hội của Đảng, Nhà nƣớc và của công chúng.
Cùng với đó, công tác quản lý nhà nƣớc đối với hoạt động báo chí cũng cần theo
kịp với trình độ phát triển của báo chí, với tình hình thực tế của công tác thông tin
truyền thông, đảm bảo cho báo chí phát triển đúng định hƣớng, đáp ứng mục tiêu
nâng cao dân trí, phục vụ đắc lực cho công cuộc xây dựng và phát triển đất nƣớc.
Tỉnh Đắk Nông thành lập năm 2004, đến nay đã gần 14 năm hình thành và
phát triển. Tuy là tỉnh còn non trẻ, song báo chí trên địa bàn những năm qua đã song
hành cùng với phát triển triển nhanh chóng của tỉnh nhà. Báo chí đã có bƣớc phát
triển nhanh về các mặt, đóng góp tích cực vào sự phát triển kinh tế - xã hội, bảo
1
đảm quốc phòng – an ninh của tỉnh nhà, là diễn đàn tin cậy của các tầng lớp nhân
dân, tham gia xây dựng đời sống văn hóa của địa phƣơng. Tuy vậy, so với sự phát
triển chung của báo chí thì công tác quản lý nhà nƣớc về báo chí trên địa bàn tỉnh
Đắk Nông còn một số hạn chế, nhƣ cán bộ, chuyên viên làm công tác này còn thiếu
và yếu, chƣa đƣợc đào tạo bài bản, không theo sát đƣợc hoạt động của các cơ quan
báo chí. Quản lý nhà nƣớc về hoạt động phát thanh, truyền hình, trang thông tin
điện tử là lĩnh vực đặc thù, phải có kiến thức về công nghệ, kỹ thuật nhƣng cơ sở
vật chất, đặc thù hình thức quản lý cũng nhƣ trình độ, năng lực của cán bộ quản lý
nhà nƣớc về báo chí ở địa phƣơng chƣa đáp ứng đƣợc yêu cầu. Khả năng phát hiện,
nắm bắt các nghiệp vụ báo chí còn chƣa theo kịp tình hình phát triển của thời kỳ
toàn cầu hóa thông tin hiện nay.
Bên cạnh đó, nhiều tổ chức, cá nhân còn né tránh báo chí, chƣa chấp hành
hoặc hiểu quá cứng nhắc quy định về phát ngôn và cung cấp thông tin cho báo chí.
Công tác quản lý đội ngũ phóng viên thƣờng trú, phóng viên đăng ký tác nghiệp
thƣờng xuyên tại địa phƣơng còn nhiều bất cập. Trong khi đó, quy hoạch về báo chí
chƣa rõ ràng, hệ thống quy định pháp luật từ Trung ƣơng đến địa phƣơng chƣa hoàn
thiện, nhiều nội dung còn mang tính hình thức, chƣa phù hợp với tình hình thực tiễn
của hoạt động báo chí khiến công tác quản lý nhà nƣớc còn nhiều vấn đề đặt ra.
Chính vì những lý do trên, tác giả mạnh dạn chọn đề tài nghiên cứu “Quản lý
nhà nước về báo chí trên địa bàn tỉnh Đắk Nông” làm luận văn thạc sỹ chuyên
ngành Quản lý công. Thông qua đề tài này, mong muốn góp phần hoàn thiện và
nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nƣớc về báo chí hiện nay trên địa bàn tỉnh
Đắk Nông.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong suốt tiến trình cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn đánh giá cao vai trò
của báo chí, xem đó là phƣơng tiện giáo dục chính trị, lãnh đạo công tác tƣ tƣởng,
vũ khí sắc bén trong đấu tranh giai cấp, đấu tranh giải phóng dân tộc, là cầu nối
giữa Đảng với nhân dân, phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nghị
2
quyết Hội nghị Trung ƣơng 5 khóa X đã nêu rõ công tác tƣ tƣởng, lý luận và báo
chí là một bộ phận cấu thành đặc biệt quan trọng trong toàn bộ hoạt động của Ðảng.
Chính vì vai trò đó của báo chí mà những nghiên cứu về đề tài này, trong đó
có công tác quản lý nhà nƣớc về báo chí đã đƣợc nhiều nhà nghiên cứu và một số
tác giả quan tâm. Có thể kể đến một số sách nghiên cứu đã đƣợc xuất bản nhƣ:
- Nguyễn Vũ Tiến (2005), Vai trò lãnh đạo của Đảng đối với báo chí trong
thời kỳ đổi mới, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
- PGS.TS Lê Thanh Bình, ThS. Phí Thị Thanh Tâm (2009), Quản lý nhà
nước và pháp luật về báo chí (sách chuyên khảo dành cho học viên ngành báo chí
truyền thông , NXB Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
- TS. Lê Minh Toàn (chủ biên) (2009), Quản lý nhà nước về thông tin và
truyền thông (sách chuyên khảo dành cho cán bộ, viên chức, học viên, sinh viên) –
NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
- Bộ Thông tin và Truyền thông (2010), Báo chí với công tác tuyên truyền,
đấu tranh chống các luận điệu sai trái, NXB Thông tin và Truyền thông, Hà Nội.
Các cuốn sách trên đây chủ yếu là sách tham khảo, chuyên khảo dành cho
sinh viên, học viên ngành báo chí, hoặc phục vụ cho cán bộ quản lý nhà nƣớc ngành
thông tin và truyền thông nắm bắt tổng quan hệ thống pháp luật hiện hành đối với
hoạt động báo chí, phục vụ cho công tác chuyên môn.
Ngoài ra, còn có một số Luận văn thạc sĩ nghiên cứu những vấn đề liên quan
đến công tác quản lý nhà nƣớc về báo chí, nhƣ:
- Hoàng Thị Bích Yến (2001), Vấn đề quản lý nhà nước đối với hoạt động
báo chí ở nước ta hiện nay, Luận văn thạc sĩ Quản lý nhà nƣớc. Ngoài những vấn
đề lý luận chung, luận văn tập trung làm rõ sự cần thiết phải quản lý nhà nƣớc về
hoạt động báo chí; thực trạng hoạt động báo chí ở Việt Nam. Trong đó, chú trọng
nêu ra những mặt đƣợc và chƣa đƣợc, trên cơ sở đó kiến nghị các giải pháp nhằm
nâng cao hiệu quả quản lý nhà nƣớc đối với hoạt động báo chí. Có thể nói, với đề
tài khá rộng nên luận văn gần nhƣ mới tập trung khái quát vấn đề và nêu lên đƣợc
một số hạn chế nhất định trong công tác quản lý nhà nƣớc về báo chí.
3
- Thái Thu Vân (2003), Tăng cường QLNN trong hoạt động truyền hình hiện
nay, Luận văn Thạc sĩ. Luận văn tập trung tìm hiểu thực trạng hoạt động truyền
hình hiện nay và những giải pháp quản lý nhà nƣớc đối với hoạt động này. Do đó,
phạm vi luận văn chỉ mới tập trung vào hoạt động truyền hình, một mảng trong hoạt
động báo chí, chƣa đi sâu nghiên cứu tổng quan về hoạt động báo chí với nhiều loại
hình nhƣ hiện nay.
- Nguyễn Viết Tuấn (2010), Quản lý nhà nước đối với báo chí, Luận văn
Thạc sĩ Luật học. Luận văn nêu ra đƣợc thực trạng và hƣớng hoàn thiện công tác
quản lý nhà nƣớc về báo chí. Tuy vậy, với tính chất là Luận văn thạc sĩ ngành Luật
học, luận văn này nghiên cứu dƣới góc độ khoa học pháp lý, chủ yếu tìm hiểu
những vấn đề bất cập trong khung pháp lý hiện hành và đề xuất hƣớng hoàn thiện,
mà chƣa tìm hiểu đầy đủ, cụ thể về những vấn đề khác trong nội dung công tác quản
lý nhà nƣớc về báo chí.
- Trần Tuyết Minh (2010), Quản lý nhà nước về báo chí tại tỉnh Bình Phước,
Luận văn Thạc sỹ Hành chính công.
- Đinh Xuân Toản, (2015), Quản lý xã hội về báo chí trên địa bàn tỉnh Đắk
Lắk hiện nay, Luận văn Thạc sỹ Chính trị học.
Bên cạnh phần cơ sở lý luận chung, hai luận văn trên đánh giá thực trạng
hoạt động báo chí, công tác quản lý nhà nƣớc hoạt động này, đồng thời đề ra các
giải pháp nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nƣớc về báo chí tại tỉnh
Bình Phƣớc và tỉnh Long An. Các luận văn này có phạm vi nghiên cứu tại địa
phƣơng, khá tƣơng đồng với cách chọn đề tài của tác giả. Tuy nhiên, tại mỗi địa
phƣơng lại có tình hình phát triển hoạt động báo chí cũng nhƣ đặc thù công tác quản
lý nhà nƣớc về báo chí riêng, nên nội dung chính của các luận văn trên và của tác
giả sẽ có một số điểm khác biệt.
Bên cạnh đó, nhiều tạp chí khoa học hay các trang tin điện tử chuyên ngành
nhƣ Tạp chí cộng sản, website Tạp chí Cộng sản, website Bộ Thông tin và Truyền
thông, Học viện Báo chí tuyên truyền, Học viện Hành chính, website Sở Thông tin
và Truyền thông các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ƣơng cũng có đăng tải một số
4
bài viết của nhiều tác giả, nhà nghiên cứu, cán bộ trực tiếp làm công tác quản lý nhà
nƣớc đề cập đến một số khía cạnh hoạt động báo chí và công tác quản lý nhà nƣớc
hoạt động này.
Trong quá trình tìm hiểu các tài liệu trên đây, nhất là những sách chuyên
khảo hay các đề tài luận văn, nghiên cứu khoa học về công tác quản lý nhà nƣớc về
báo chí đã giúp tác giả bổ sung kiến thức về lý thuyết cũng nhƣ phƣơng pháp tiếp
cận, cách tƣ duy khoa học đối với vấn đề đang tìm hiểu.
Bên cạnh đó, tác giả cũng nhận thấy, công tác quản lý nhà nƣớc về báo chí
tuy đã đƣợc nhiều học giả, nhà nghiên cứu quan tâm, nhƣng hầu hết chỉ dừng ở tính
chất tổng quan, rất ít các đề tài chuyên sâu về cả cơ sở lý luận lẫn tình hình thực
tiễn. Trong khi đó, báo chí là hoạt động văn hóa tƣ tƣởng không ngừng đổi mới để
theo kịp nhu cầu thông tin của công chúng. Hoạt động báo chí ngày càng tăng về số
lƣợng và đổi mới về hình thức, phƣơng thức truyền tải. Đặc biệt, đến nay vẫn chƣa
có công trình khoa học hay đề tài nghiên cứu khoa học nào quan tâm đánh giá công
tác quản lý nhà nƣớc về báo chí trên địa bàn tỉnh Đắk Nông. Từ những vấn đề nêu
trên, tác giả mong muốn với luận văn này có thể tổng quan lại hệ thống cơ sở lý
luận và nắm bắt rõ tình hình thực hiện công tác quản lý đối với hoạt động báo chí
trên địa bàn tỉnh, để qua đó có phƣơng pháp tiếp cận khoa học, đồng thời hƣớng tới
đề ra các biện pháp thiết thực giúp hoạt động báo chí và công tác quản lý nhà nƣớc
về báo chí tỉnh Đắk Nông ngày càng đi vào chiều sâu, có hiệu lực và hiệu quả, góp
phần nâng cao đời sống tinh thần, văn hóa, tƣ tƣởng cho ngƣời dân địa phƣơng,
đồng thời giúp các cơ quan báo chí tỉnh nhà hoạt động trong môi trƣờng tốt nhất,
phát huy hết vai trò, vị trí đối với sự phát triển chung của tỉnh Đắk Nông.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn hoạt động quản lý nhà nƣớc về báo chí;
vận dụng trong nghiên cứu quản lý nhà nƣớc về báo chí trên địa bàn tỉnh Đắk Nông;
từ đó, đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện quản lý nhà nƣớc đối với hoạt báo chí
trên địa bàn tỉnh Đắk Nông.
5
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục đích đã đề ra, luận văn đi vào thực hiện ba nhiệm vụ
chính:
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn quản lý nhà nƣớc về báo chí.
- Phân tích và đánh giá thực trạng hoạt động quản lý nhà nƣớc về báo chí
trên địa bàn tỉnh Đắk Nông.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện quản lý nhà nƣớc về
báo chí trên địa bàn tỉnh Đắk Nông.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu của luận văn là hoạt động quản lý nhà nƣớc về báo chí
trên địa bàn tỉnh Đắk Nông.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Nội dung nghiên cứu: Lý luận và các nội dung quản lý nhà nƣớc về báo chí
theo qui định của luật hiện hành.
- Không gian nghiên cứu: Nghiên cứu hoạt động quản lý nhà nƣớc về báo chí
trong phạm vi tỉnh Đắk Nông.
- Thời gian nghiên cứu: Nghiên cứu hoạt động quản lý nhà nƣớc về báo chí
trên địa bàn tỉnh Đắk Nông trong giai đoạn từ năm 2010 đến năm 2017. Đây là thời
kỳ báo chí cả nƣớc nói chung, Đắk Nông nói riêng có bƣớc phát triển mới, đa dạng ,
cùng với sự ra đời của nhiều thể chế, cơ chế về phát triển và quản lý nhà nƣớc về
báo chí.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận nghiên cứu
Đề tài đƣợc nghiên cứu trên cơ sở phƣơng pháp luận duy vật biện chứng và
duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lên nin; tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, quan điểm của
Đảng ta về báo chí thời kỳ đổi mới.
5. .Phương pháp nghiên cứu:
- Phƣơng pháp thu thập thông tin, tài liệu;
6
- Phƣơng pháp lịch sử - logic;
- Phƣơng pháp phân tích;
- Phƣơng pháp tổng hợp;
- Phƣơng pháp phân tích;
- Phƣơng pháp thống kê...
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn quản lý nhà nƣớc về báo
chí thời kỳ đổi mới.
6. . Ý nghĩa thực tiễn
- Đánh giá các yếu tố tác động đến quản lý nhà nƣớc về báo chí trên địa bàn
tỉnh Đắk Nông.
- Phân tích thực trạng hoạt động báo chí trên địa bàn tỉnh thời gian qua.
- Nghiên cứu, đánh giá thực trạng quản lý nhà nƣớc về báo chí trên địa bàn
Tỉnh.
- Phân tích quan điểm, phƣơng hƣớng và đề xuất một số giải pháp nhằm tiếp
tục hoàn thiện quản lý nhà nƣớc về báo chí trên địa bàn tỉnh Đắk Nông thời gian tới.
7. Kết cấu luận văn
Luận văn ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, và phụ
lục, nội dung chính gồm 03 chƣơng:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn quản lý nhà nƣớc về báo chí.
Chương 2: Thực trạng hoạt động và quản lý nhà nƣớc về báo chí trên địa bàn
tỉnh Đắk Nông.
Chương 3: Xu hƣớng và giải pháp tăng cƣờng quản lý nhà nƣớc về báo chí
trên địa bàn tỉnh Đắk Nông.
7
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ B O CHÍ
1.1. Khái niệm, chủ thể, đối tƣợng, nội dung quản lý nhà nƣớc về báo chí
1.1.1. Khái niệm quản lý nhà nước về báo chí
- Báo chí:
Báo chí là hiện tƣợng xã hội đa nghĩa, phức tạp và có nhiều cách tiếp cận
không giống nhau trong các xã hội có thể chế chính trị khác nhau. Từ khi ra đời đến
nay, báo chí đã tồn tại song hành và tác động đến nhiều mặt cuộc sống xã hội, từ
chính trị đến kinh tế, văn hóa, tƣ tƣởng và lối sống.
Theo Triết học cổ Hy Lạp, chữ báo chí xuất phát từ chữ information, có
nghĩa là thông tin, thông báo, báo tin; và đƣợc hiểu nhƣ việc tạo ra hình thái giúp
cho sự hiểu biết của con ngƣời về thế giới xung quanh đang tồn tại bằng việc lấy
hiện thực khách quan để phản ánh một cách liên tục, xuyên suốt trong quan hệ chặt
chẽ giữa nhà báo – tác ph m – công chúng.
Theo Từ điển Bách khoa toàn thƣ của Liên Xô xuất bản năm 1975, “báo chí
là toàn bộ nh ng ấn ph m c tính chất định kỳ, đư c phát hành rộng rãi”.
Trong cuốn “ Cơ sở lý luận báo chí” của PGS TS. Nguyễn Văn Dững nêu
bản chất của báo chí truyền thông: là hoạt động thông tin – giao tiếp xã hội trên quy
mô rộng lớn nhất, là công cụ và phương thức can thiệp xã hội hiệu quả nhất trong
mối quan hệ với công chúng và dư luận xã hội, với nhân dân và với các nhóm l i
ích, với các nước trong khu vực và quốc tế...[26, tr.61].
Sơ đồ trên định nghĩa khái niệm báo chí theo nghĩa rộng, ở bình diện vĩ mô
của nền báo chi cũng nhƣ có thể tiếp cận nó trên bình diện vi mô khi xem xét các
hiện tƣợng báo chí trong hoạt động thực tiễn.
Còn trong cuốn “Truyền thông đại chúng trong công tác lãnh đạo, quản lý”
do TS Vũ Đình Hòe chủ biên, nxb Chính trị quốc gia, 2000 nói về khái niệm báo
chí nhƣ sau: “Báo chí là nh ng ấn ph m định kỳ chu n tải nội dung thông tin
mang tính thời sự và đư c phát hành rộng rãi trong ã hội”.
8
Bên cạnh đó, từ cách tiếp cận theo quan điểm hệ thống, khái niệm báo chí
bao gồm nhiều thành tố và mối quan hệ giữa các thành tố đƣợc thể hiện thông qua
mô hình
Sơ đồ 1.1: Mô phỏng khái niệm báo chí tiếp cận từ quan đi m hệ thống.
Nguồn:Nguyễn Văn Dững [26, tr. 62].
Qua một số cách định nghĩa nhƣ trên, có thể hiểu nội hàm của khái niệm báo
chí: Báo chí là sản ph m văn h a tinh th n, hoạt động c tính định kỳ, nh m thông
tin và giải thích thông tin về nh ng sự thực mới nả sinh trong đời sống ã hội theo
một hệ thống quan đi m chính trị nhất định, đư c chu n đến công chúng b ng ch
viết, m thanh, hình ảnh với nhiều th loại phong phú.
Theo Điều 3 Luật Báo chí năm 2016 thì báo chí là sản ph m thông tin về các
sự kiện, vấn đề trong đời sống xã hội thể hiện bằng chữ viết, hình ảnh, âm thanh,
đƣợc sáng tạo, xuất bản định kỳ và phát hành, truyền dẫn tới đông đảo công chúng
thông qua các loại hình báo in, báo nói, báo hình, báo điện tử.
Theo Điều 7, Luật Báo chí 2016 thì Chính phủ thống nhất quản lý nhà nƣớc
về báo chí. Bộ Thông tin và Truyền thông chịu trách nhiệm trƣớc Chính phủ thực
hiện quản lý nhà nƣớc về báo chí. Các bộ, cơ quan ngang bộ trong phạm vi nhiệm
vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm phối hợp với Bộ Thông tin và Truyền thông
thực hiện quản lý nhà nƣớc về báo chí.
9
Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có
trách nhiệm quản lý nhà nƣớc về báo chí tại địa phƣơng.
- hái niệm quản lý và quản lý nhà nước:
+ Quản lý: Quản lý là sự tác động có mục đích của chủ thể quản lý lên các
đối tƣợng quản lý. Quản lý đƣợc phát sinh từ lao động, không tách rời với lao động
và bản thân quản lý cũng là một loại hoạt động lao động. Nhƣ vậy, quản lý xã hội
không phải là sản ph m của sự phân chia quyền lực, mà là sản ph m của sự phân
công lao động nhằm liên kết và phối hợp hoạt động chung của con ngƣời.
Mục đích, nhiệm vụ của quản lý là điều khiển, chỉ đạo hoạt động chung của
con ngƣời, phối hợp hoạt động riêng lẻ của từng cá nhân, tạo thành một hành động
thống nhất của tập thể để hƣớng đến mục tiêu đã định trƣớc. Quản lý đƣợc thực
hiện bằng tổ chức và quyền uy nhằm đảm bảo sự phục tùng và tạo sự thống nhất
trong quản lý.
+ Quản lý nhà nước: Quản lý nhà nƣớc là một phạm trù gắn liền với sự xuất
hiện của Nhà nƣớc, quản lý nhà nƣớc QLNN ra đời với tính chất là loại hoạt động
quản lý xã hội. QLNN là hoạt động mang tính chất quyền lực nhà nƣớc, đƣợc sử
dụng quyền lực nhà nƣớc để điều chỉnh các quan hệ xã hội. QLNN đƣợc xem là một
hoạt động chức năng của nhà nƣớc trong quản lý xã hội và có thể xem là hoạt động
chức năng đặc biệt.
Theo nghĩa rộng: QLNN là toàn bộ hoạt động của bộ máy nhà nƣớc, từ hoạt
động lập pháp, hoạt động hành pháp, đến hoạt động tƣ pháp.
Theo nghĩa hẹp: QLNN chỉ bao gồm hoạt động hành pháp - nghĩa là hoạt
động chấp hành và điều hành đƣợc đặc trƣng bởi các yếu tố có tính tổ chức; đƣợc
thực hiện trên cơ sở và để thi hành pháp luật; đƣợc bảo đảm thực hiện chủ yếu bởi
hệ thống các cơ quan hành chính nhà nƣớc (hoặc một số tổ chức xã hội trong trƣờng
hợp đƣợc giao nhiệm vụ quản lý nhà nƣớc . QLNN cũng là sản ph m của việc phân
công lao động nhằm liên kết và phối hợp các đối tƣợng bị quản lý.
10
Bản chất của QLNN là quyền lực nhà nƣớc. Quyền lực nhà nƣớc đƣợc ghi
nhận, củng cố bằng pháp luật và đƣợc thực hiện bởi bộ máy nhà nƣớc với cơ sở vật
chất – tài chính to lớn, bằng phƣơng pháp thuyết phục và cƣỡng chế.
LNN đư c đề cập trong luận văn nà là LNN theo nghĩa hẹp.
uản lý nhà nước về báo chí:
Báo chí là phƣơng tiện thông tin đại chúng thiết yếu đối với đời sống xã hội.
Báo chí không những thực hiện chức năng thông tin mà còn đóng vai trò là cơ quan
ngôn luận, đại diện cho tiếng nói của tổ chức Đảng, của nhà nƣớc và của quần
chúng nhân dân. Báo chí có chức năng và ý nghĩa quan trọng trong công tác tƣ
tƣởng, tuyên truyền, định hƣớng các hoạt động xã hội phát triển theo quan điểm của
nhà cầm quyền và giúp xã hội phát triển ổn định. Cũng nhƣ các lĩnh vực khác của
đời sống, báo chí cũng là hình thức hoạt động cần có sự QLNN.
Nói đến QLNN về báo chí là nói đến những hoạt động của bộ máy nhà nƣớc
nhằm đảm bảo cho hoạt động báo chí đƣợc ổn định và hợp với xu thế phát triển
chung của xã hội. Nhà nƣớc có trách nhiệm điều tiết để bảo đảm báo chí phát triển,
đáp ứng nhu cầu thông tin của nhân dân, đặc biệt là đảm bảo cho báo chí hoạt động
đúng “tôn chỉ mục đích”, vai trò, chức năng và các nguyên tắc hoạt động của báo
chí. Ngày nay, trong xu thế phát triển chung của các loại hình đa phƣơng tiện, công
tác QLNN về báo chí ngày càng quan trọng để định hƣớng, bảo đảm hoạt động báo
chí phát huy đƣợc vai trò chiến đấu trên mặt trận tƣ tƣởng đối với việc định hƣớng
dƣ luận, phản biện xã hội, đấu tranh chống lại các quan điểm, tƣ tƣởng sai lệch, đi
ngƣợc lại với quan điểm, đƣờng lối của Đảng, nhất là các biểu hiện của “diễn biến
hòa bình” gây mất ổn định chính trị – xã hội .
Nhƣ vậy, QLNN trong lĩnh vực báo chí cũng nhƣ bất kỳ dạng quản lý công
vụ của bộ máy hành pháp, mang tính quyền lực, tính tổ chức cao, đƣợc điều chỉnh
bằng pháp luật, vừa mang tính phổ biến, vừa mang tính đặc thù quản lý ngành.
QLNN về báo chí bao gồm tổng thể những hoạt động của bộ máy nhà nƣớc trên cơ
sở những quy định của pháp luật, đảm bảo cho báo chí thực hiện đƣợc nhiệm vụ
thông tin của mình và chịu sự điều chỉnh thống nhất của pháp luật.
11
Hay nói cách khác, “ uản lý Nhà nước trong lĩnh vực báo chí cũng như bất
kỳ một dạng quản lý xã hội nào khác, là dạng quản lý công vụ quốc gia của bộ máy
Nhà nước - là công việc của bộ máy hành pháp. Nó là sự tác động có tổ chức và
đư c điều chỉnh b ng pháp luật, trên cơ sở quyền lực Nhà nước đối với các quá
trình xã hội và hoạt động báo chí do các cơ quan c th m quyền trong hệ thống
hành pháp từ Trung ương đến cơ sở tiến hành đ thực hiện chức năng và nhiệm vụ
của Nhà nước, phát tri n các mối quan hệ xã hội, thỏa mãn nhu c u tự do báo chí
của công d n”, Hà Đăng 2002 , N ng cao năng lực và ph m chất của phóng viên
báo chí trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội [27, tr.19].
1.1.2. Chủ thể
Ở Việt Nam, việc xác định cơ quan QLNN về báo chí mang tính lịch sử. Trải
qua các bản hiến pháp khác nhau có sự khác nhau trong việc xác định chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn của mỗi cơ quan nhà nƣớc. Chính vì vậy, cơ quan quản lý nhà
nƣớc về báo chí cũng có sự thay đổi qua mỗi thời kỳ lịch sử.
uản lý nhà nước về báo chí là hoạt động quản lý nhà nƣớc theo lĩnh vực, là
chức năng của hoạt động quản lý hành chính nhà nƣớc. Theo đó, các cơ quan hành
chính nhà nƣớc thực hiện chức năng của mình trong việc quản lý báo chí.
Luật Báo chí năm 2016 quy định cơ quan quản lý nhà nƣớc về báo chí:
Chính phủ thống nhất quản lý nhà nƣớc về báo chí. Bộ Thông tin và Truyền thông
chịu trách nhiệm trƣớc Chính phủ thực hiện quản lý nhà nƣớc về báo chí. Các bộ,
cơ quan ngang bộ trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm phối
hợp với Bộ Thông tin và Truyền thông thực hiện quản lý nhà nƣớc về báo chí. Ủy
ban nhân dân cấp tỉnh trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm
quản lý nhà nƣớc về báo chí tại địa phƣơng.
Có thể phân chia hệ thống các cơ quan QLNN về báo chí bao gồm: Cơ quan
QLNN về báo chí ở Trung ƣơng Chính phủ, Bộ TTTT ; các bộ, cơ quan ngang bộ;
cơ quan quản lý nhà nƣớc về báo chí ở địa phƣơng UBND tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ƣơng, các Sở Thông tin và Truyền thông).
12
- Cơ quan LNN về báo chí ở Trung ương:
Chính phủ thống nhất QLNN về báo chí trên phạm vi cả nƣớc bằng văn bản
pháp luật liên quan đến báo chí trên cơ sở tham mƣu của Bộ TTTT.
Điều 1, Nghị định số 132 2013 NĐ-CP ngày 16 10 2013 của Chính phủ Quy
định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Thông tin và Truyền
thông quy định: Bộ Thông tin và Truyền thông là cơ quan của Chính phủ, thực hiện chức
năng quản lý nhà nƣớc về báo chí; xuất bản; bƣu chính; viễn thông; tần số vô tuyến điện;
công nghệ thông tin, điện tử; phát thanh và truyền hình; thông tấn; thông tin đối ngoại;
thông tin cơ sở và hạ tầng thông tin và truyền thông quốc gia; quản lý nhà nƣớc các dịch
vụ công trong các ngành, lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nƣớc của Bộ.
Về lĩnh vực báo chí, mục 5, Điều 2 Nghị định số 132 2013 NĐ-CP quy định
rõ nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ Thông tin và Truyền thông đối với hoạt động
QLNN về báo chí.
- Quản lý nhà nước về báo chí ở các bộ, cơ quan ngang bộ:
Các bộ, cơ quan ngang bộ - với vai trò là cơ quan chủ quản báo chí - đã có
nhiều cố gắng trong công tác chỉ đạo, quản lý cơ quan báo chí thuộc quyền trong
việc thực hiện phƣơng hƣớng, nhiệm vụ, kế hoạch hoạt động; đồng thời tổ chức bộ
máy, xây dựng đội ngũ cán bộ báo chí đảm bảo các tiêu chu n về chính trị, nghiệp
vụ. Nhiều cơ quan chủ quản báo chí đã chủ động xây dựng quy chế quản lý cơ quan
báo chí thuộc quyền, tạo điều kiện cho cơ quan báo chí hoạt động đúng quy định, có
sự rành mạch, thống nhất trong chỉ đạo, quản lý và trong công tác phối hợp của cơ
quan báo chí với các đơn vị liên quan thuộc Bộ Thông tin và Truyền thông.
Tuy nhiên trên thực tế, mối quan hệ giữa cơ quan chủ quản và cơ quan báo chí
theo luật định chƣa đƣợc thực hiện một cách rõ ràng, rành mạch. Nhiều trƣờng hợp cơ
quan chủ quản buông lỏng vai trò, trách nhiệm của mình. Tiêu chu n, quy trình bổ nhiệm
cán bộ lãnh đạo báo chí của nhiều cơ quan chủ quản thực hiện chƣa chặt chẽ.
- Quản lý nhà nước về báo chí ở địa phương:
Ở địa phƣơng, trách nhiệm QLNN đối với báo chí thuộc về Ủy ban nhân dân
UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ƣơng theo sự phân cấp của chính phủ.
13
Đây là các cơ quan nhà nƣớc có sƣ can thiệp trực tiếp và sâu sắc nhất đối với
QLNN về báo chí thông qua các Sở Thông tin và Truyền thông Sở TTTT và các
bộ phận trực thuộc.
Theo khoản 10, Điều 8, Nghị định số 24 2014 NĐ-CP ngày 04 4 2014 của
Thủ tƣớng Chính phủ Quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ƣơng: Sở TTTT tham mƣu, giúp Ủy ban nhân dân cấp
tỉnh quản lý nhà nƣớc về: Báo chí; xuất bản; bƣu chính; viễn thông; tần số vô tuyến
điện; công nghệ thông tin; điện tử; phát thanh và truyền hình; thông tin đối ngoại;
bản tin thông tấn; thông tin cơ sở; hạ tầng thông tin truyền thông; quảng cáo trên
báo chí, trên môi trƣờng mạng, trên xuất bản ph m và quảng cáo tích hợp trên các
sản ph m, dịch vụ bƣu chính, viễn thông, công nghệ thông tin.
Trong thời gian qua, các Sở TTTT đã chú trọng thực hiện nhiệm vụ quản lý
nhà nƣớc về báo chí ở địa phƣơng. Các Sở cũng chú trọng công tác tham mƣu cho
Tỉnh ủy, Thành ủy, UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ƣơng về quy hoạch báo
chí; soạn thảo mới, cụ thể hóa, hƣớng dẫn việc thực hiện các văn bản pháp quy về
báo chí trên cơ sở nội dung của Luật Báo chí và Nghị định 51 2002 NĐ-CP; thực
hiện tốt chức năng quản lý hoạt động của các Văn phòng đại diện và phóng viên
thƣờng trú của báo chí trung ƣơng và địa phƣơng khác trên địa bàn; thực hiện quy
chế phát ngôn và cung cấp thông tin cho báo chí
1.1.3. Đối tượng
Đối tƣợng quản lý nhà nƣớc về báo chí là các hoạt động báo chí của cơ quan
báo chí và các cá nhân có liên quan. Cụ thể đó là: Thể chế về báo chí; tổ chức và bộ
máy nhân sự; cơ sở, trang thiết bị vật chất; nguồn nhân lực hoạt động báo chí.
Nền báo chí Việt Nam hiện nay có báo chí trung ƣơng, báo ngành và báo địa
phƣơng.
Báo chí địa phƣơng là tiếng nói của Đảng bộ, chính quyền, tổ chức chính trị -
xã hội và là diễn đàn của nhân dân địa phƣơng đặt dƣới sự lãnh đạo trực tiếp của
Đảng, sự quản lí của chính quyền và hoạt động trong khuôn khổ quy định của pháp
luật.
14
Theo thống kê của Bộ TT&TT, tính đến giữa tháng 6 2017, cả nƣớc hiện có
982 cơ quan báo, tạp chí đƣợc cấp phép hoạt động. Cụ thể số lƣợng báo in là 193
(Trung ƣơng: 86, địa phƣơng: 107), 639 tạp chí Trung ƣơng: 525, địa phƣơng:
114 ; báo điện tử 150. Có 17.297 nhà báo đƣợc cấp thẻ nhà báo.
Mỗi tỉnh, thành phố đều có một đài phát thanh – truyền hình. Nhiều cơ quan
trung ƣơng và địa phƣơng có báo điện tử. Sự hiện diện của các Văn phòng Đại diện,
thƣờng trú của các báo ở Trung ƣơng, khu vực cũng rất lớn. Vì vậy, vấn đề đặt ra
đối với quản lý nhà nƣớc đối với báo chí địa phƣơng là cấp bách trong giai đoạn
hiện nay nhằm đảm bảo hoạt động của báo chí và nhu cầu đƣợc thông tin của ngƣời
dân.
Báo chí địa phương c đặc đi m nổi bật là báo Đảng có vị trí nòng cốt của
loại hình báo in và Đài phát thanh - Truyền hình tỉnh là nòng cốt của loại hình báo
nói, báo hình. Ngoài ra, ở một số thành phố lớn và các tỉnh có điều kiện thì còn có
thêm loại hình báo điện tử, báo của các Đoàn thể, báo ngành nhƣ: Tờ Pháp luật
Thành phố Hồ Chí Minh, Báo Công an Thành phố Hồ Chí Minh
Báo địa phƣơng là tiếng nói của Đảng bộ, diễn đàn của nhân dân địa phƣơng.
Ví dụ: Báo Đắk Nông, Đài Phát thanh - Truyền hình tỉnh Đắk Nông là tiếng nói của
Đảng bộ và nhân dân Đắk Nông.
Báo địa phƣơng có nội dung chủ yếu phản ánh tình hình hoạt động về chính
trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của địa phƣơng. Đọc một tờ báo, nghe bài báo, chƣơng
trình mà không thấy rõ dấu ấn của địa phƣơng ngoài tiêu đề trên măng sét thì chƣa
thể cói là báo chí của địa phƣơng đó và chƣa thể nói là báo chí đó thực hiện tốt chức
năng, nhiệm vụ của mình.
Tuy nhiên, để thu hút độc giả, tăng tính hấp dẫn cho báo thì nội dung của nó
cũng có thể dành một tỷ lệ thích hợp về diện tích trên mặt báo (báo in) hoặc một
thời lƣợng báo nói, báo hình để điểm tin của địa phƣơng khác hoặc của quốc gia
khác. Tuy nhiên, phải giải quyết mối quan hệ này ở mức độ vừa phải, nếu không sẽ
mất tính chất địa phƣơng hoặc làm cho nội dung kém hấp dẫn.
1.1.4. Nội dung
15
Điều 6, Luật Báo chí năm 2016 quy định 10 nội dung quản lý nhà nƣớc về
báo chí:
- X dựng, chỉ đạo và tổ chức thực hiện chiến lư c, qu hoạch, kế hoạch
phát tri n sự báo chí
Xây dựng, hình thành chiến lƣợc, quy hoạch, kế hoạch và tổ chức thực
hiện là một trong những nội dung cơ bản, đầu tiên trong QLNN đối với bất kỳ
lĩnh vực, hoạt động nào. Đối với báo chí, việc xây dựng cũng nhƣ chỉ đạo, tổ
chức thực hiện chiến lƣợc, quy hoạch, kế hoạch phát triển sự nghiệp này nhằm
bảo đảm lĩnh vực thông tin phục vụ tốt nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc,
phù hợp với xu thế chung của sự phát triển; nâng cao vai trò, vị trí, năng lực và
hiệu quả của công tác quản lý để đáp ứng và phục vụ tốt sự phát triển thông tin;
chống khuynh hƣớng phát triển tràn lan của hệ thống báo chí, chú trọng đầu tƣ
phát triển, nâng cao chất lƣợng, hiện đại hoá phƣơng thức thông tin báo chí.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ mƣời Ban chấp hành Trung ƣơng Đảng khóa
XI (tháng 1/2015) bên cạnh ghi nhận những kết quả đạt đƣợc cũng đã thẳng thắn
chỉ ra những hạn chế, yếu kém của hoạt động báo chí: “Số lƣợng báo chí tăng
nhanh, nhiều, nhƣng cơ cấu chƣa hợp lý, một số bộ, ngành, tổ chức xã hội, tổ
chức xã hội – nghề nghiệp, địa phƣơng có quá nhiều cơ quan, ấn ph m báo chí,
một số báo có nhiều ấn ph m phụ. Không ít cơ quan báo chí chƣa thực hiện
đúng tôn chỉ, mục đích; chƣa chú trọng phản ánh các thông tin tích cực, cổ vũ
gƣơng ngƣời tốt việc tốt mà đƣa quá nhiều thông tin giật gân, câu khách chạy
theo thị hƣớng tầm thƣờng của một số bộ phận công chúng” làm giảm đi chất
lƣợng hoạt động báo chí. Do đó, việc xây dựng và triển khai các quy hoạch, kế
hoạch phát triển sự nghiệp báo chí đóng vai trò quan trọng. Thông qua đó, đƣa
ra hành lang pháp lý, và những chính sách để xây dựng báo chí hợp lý về số
lƣợng, đặc biệt, nâng cao chất lƣợng. Hiện nay, dƣới sự chỉ đạo của Chính phủ,
Bộ Thông tin và Truyền thông đã và đang trong thời kỳ hoàn thiện, xây dựng Dự
thảo Quy hoạch báo chí Việt Nam. Đây sẽ là cơ sở để xây dựng một nền báo chí
cách mạng không ngừng vững mạnh, vừa hiện đại, vừa có tính chuyên nghiệp
16
cao trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Trên cơ sở
các chiến lƣợc, quy hoạch, kế hoạch chung của cả nƣớc, mỗi địa phƣơng nghiên
cứu xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển báo chí tại địa phƣơng phù hợp với
điều kiện, hoàn cảnh.
- Ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản qu phạm pháp luật về báo
chí; dựng chế độ, chính sách về báo chí
Bộ TTTT chịu trách nhiệm trƣớc Chính phủ thực hiện QLNN về báo chí,
có nhiệm vụ tham mƣu soạn thảo dự án luật, văn bản dƣới luật, chính sách, chế
độ về báo chí, hoàn thiện cơ cấu tổ chức bộ máy, cơ chế quản lý của các cơ quan
chỉ đạo và quản lý thông tin nhằm nâng cao hiệu lực QLNN đối với lĩnh vực
này. Đồng thời, nghiên cứu khắc phục tình trạng chồng chéo, phân công, phân
cấp không rõ ràng giữa các cơ quan quản lý, giữa Trung ƣơng và địa phƣơng;
bảo đảm tính hiệu lực, hiệu quả của công tác QLNN đối với hoạt động báo chí
cũng nhƣ tạo điều kiện, hành lang pháp lý hoàn thiện cho báo chí phát triển.
Việc xây dựng chế độ, chính sách một mặt hƣớng đến tạo điều kiện tốt
nhất cho sự phát triển của báo chí nói chung; mặt khác nhằm hỗ trợ, tạo điều
kiện cho xuất bản, phát hành báo chí đến các vùng có điều kiện kinh tế - xã hội
khó khăn và đến với cộng đồng ngƣời Việt Nam ở nƣớc ngoài để thực hiện
nguyên tắc bảo đảm tính công bằng trong thụ hƣởng thông tin báo chí.
Trên cơ sở khung pháp luật và chính sách của Trung ƣơng, mỗi địa
phƣơng có thể cụ thể hóa những quy định cũng nhƣ cơ chế, chính sách để thực
hiện nội dung QLNN về báo chí và tạo điều kiện phát triển, cung cấp báo chí ở
địa phƣơng mình. Từ đó tự tổ chức triển khai thực hiện và kiểm tra quá trình
thực thi pháp luật, chính sách này.
- Tổ chức thông tin cho báo chí; quản lý thông tin của báo chí
Luật Báo chí quy định, trong nhiệm vụ và quyền hạn của mình, các tổ
chức có quyền và nghĩa vụ cung cấp thông tin cho báo chí, giúp cho báo chí
thông tin nhanh và chính xác. Khi cung cấp thông tin cho báo chí, tổ chức chịu
trách nhiệm trƣớc pháp luật về nội dung thông tin do mình cung cấp.
17
Bên cạnh đó, việc tổ chức thông tin cho báo chí đƣợc quy định thông qua
Quy chế phát ngôn và cung cấp thông tin cho báo chí, mới nhất là Quy chế ban
hành kèm theo Quyết định số 25 2013 QĐ-TTg ngày 4/5/2014 của Thủ tƣớng
Chính phủ. Quy chế này có những quy định mới nhằm làm rõ những nội dung,
phƣơng thức cung cấp thông tin, trách nhiệm của ngƣời đứng đầu cơ quan hành
chính Nhà nƣớc trong việc tổ chức chỉ đạo việc phát ngôn và cung cấp thông tin
cho báo chí, tạo điều kiện và môi trƣờng thuận lợi cho hoạt động tác nghiệp của
cơ quan báo chí và nhà báo.
Việc tổ chức cung cấp thông tin cho báo chí, quản lý thông tin báo chí
còn đƣợc thực hiện tại các cuộc giao ban báo chí định kỳ, giao ban báo chí đột
xuất; hƣớng dẫn và cấp phép tổ chức họp báo cho các cơ quan, tổ chức nhằm
cung cấp kịp thời những thông tin chính thống để định hƣớng dƣ luận, nhất là
đối với những vấn đề nhạy cảm, phức tạp. Bên cạnh đó, cơ quan QLNN về báo
chí cũng có vai trò kịp thời định hƣớng thông tin, chỉ đạo các cơ quan báo chí
thực hiện các nhiệm vụ tuyên truyền theo các chủ đề phù hợp với nhiệm vụ
chính trị và tình hình thực tế.
- Đào tạo, bồi dưỡng n ng cao trình độ chính trị, nghiệp vụ, đạo đức
nghề nghiệp cho đội ngũ người làm báo của các cơ quan báo chí và cán bộ quản
lý báo chí
Để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra đối với báo chí, đồng thời khắc phục
những hạn chế, khuyết điểm, công tác đào tạo, bồi dƣỡng chính trị, nâng cao đạo
đức nghề nghiệp, trình độ nghiệp vụ cho đội ngũ ngƣời làm báo và cán bộ quản
lý báo chí trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. Thông qua tổ chức, triển khai
công tác đào tạo, bồi dƣỡng cho đội ngũ ngƣời làm báo, cán bộ quản lý báo chí
nhằm nâng cao bản lĩnh chính trị, đạo đức nghề nghiệp, sự nhạy bén, tính trung
thực, sự hiểu biết và tôn trọng pháp luật trong hoạt động nghề nghiệp, lĩnh vực
quản lý góp phần xây dựng đội ngũ những ngƣời làm báo cách mạng vững về tƣ
tƣởng chính trị, giỏi về nghiệp vụ, tinh thông về công nghệ, đáp ứng yêu cầu
ngày càng cao của hoạt động báo chí, truyền thông trong giai đoạn mới.
18
Đồng thời, có kế hoạch đào tạo, bồi dƣỡng đội ngũ làm báo, chu n hóa
chức danh lãnh đạo chủ chốt của cơ quan báo chí, cơ quan chủ quản, cơ quan
quản lý nhà nƣớc về báo chí nhằm tạo ra sự đồng bộ, hiệu quả, đúng chủ trƣơng,
đƣờng lối của Đảng, pháp luật của nhà nƣớc về báo chí.
- Tổ chức, quản lý hoạt động khoa học, công nghệ trong lĩnh vực báo chí
Công nghệ kỹ thuật ngày càng phát triển đã thúc đ y và làm đa dạng hóa
nhu cầu hƣởng thụ thông tin của công chúng, làm thay đổi tƣ duy quản lý, cách
thức và mô hình sản xuất, theo đó báo in có xu hƣớng ngày càng giảm, truyền
hình và báo điện tử ngày càng phát triển. Hoạt động của các cơ quan báo chí có
xu hƣớng chuyển dần sang mô hình cơ quan truyền thông đa phƣơng tiện có
nhiều loại hình báo chí, cung cấp nhiều dịch vụ, trên cơ sở kết hợp đƣợc ƣu thế
của cả báo in, báo nói, báo hình, báo điện tử.
Do đó, công tác QLNN cần có kế hoạch, chƣơng trình khuyến khích hoạt
động nghiên cứu khoa học báo chí. Một mặt nghiên cứu để áp dụng thực tế, mặt
khác có cơ sở tổng kết thực tiễn để nâng lên thành lý luận. Đồng thời tổ chức,
triển khai ứng dụng hoạt động khoa học công nghệ trong công tác QLNN về báo
chí cũng nhƣ quản lý hoạt động này tại các cơ quan báo chí.
- uản lý h p tác quốc tế về báo chí, quản lý hoạt động của báo chí Việt Nam
liên quan đến nước ngoài và hoạt động báo chí nước ngoài tại Việt Nam
Những hoạt động liên quan đến hợp tác quốc tế về báo chí, hoạt động báo chí
Việt Nam liên quan đến nƣớc ngoài đƣợc quy định tại Nghị định số 98 CP ngày
13 9 1997 của Chính phủ ban hành Quy chế hoạt động của báo chí Việt Nam liên quan
đến nƣớc ngoài và Thông tƣ liên tịch số 97 TTLB-VHTT-NG ngày 17 12 1997 của Bộ
Văn hóa Thông tin và Bộ Ngoại giao hƣớng dẫn thi hành Quy chế hoạt động của báo
chí Việt Nam liên quan đến nƣớc ngoài. Nội dung quản lý tại các văn bản này bao
gồm: Các hoạt động của báo chí Việt Nam liên quan đến nƣớc: Phát hành báo chí, phát
sóng chƣơng trình phát thanh, truyền hình Việt Nam ra nƣớc ngoài; thành lập cơ quan
báo chí của cơ quan đại diện Việt Nam ở nƣớc ngoài; in báo chí, phát sóng chƣơng
trình phát thanh, truyền hình Việt Nam ở nƣớc ngoài; cử nhà báo, phóng viên ra nƣớc
19
ngoài; lập Văn phòng đại diện ở nƣớc ngoài; cung cấp tin, bài, hình, ảnh cho báo chí
nƣớc ngoài; hoạt động hợp tác của báo chí Việt Nam với nƣớc ngoài; thuê chuyên gia,
cộng tác viên nƣớc ngoài.
Hoạt động báo chí nƣớc ngoài tại Việt Nam đƣợc quy định tại Nghị định
số 88 2012 NĐ-CP ngày 23/10/2012 của Chính phủ. Theo đó, mọi hoạt động
thông tin, báo chí của báo chí nƣớc ngoài, cơ quan đại diện nƣớc ngoài, tổ chức
nƣớc ngoài tại Việt Nam chỉ đƣợc phép tiến hành sau khi có sự chấp thuận của
các cơ quan có th m quyền và phải tuân thủ các quy định pháp luật hiện hành
của Việt Nam.
Ngoài ra, nội dung QLNN về báo chí quy định các nội dung sau trong
luật báo chí 2016, nhƣ: Cấp, thu hồi các loại giấy phép trong hoạt động báo chí
và thẻ nhà báo; Quản lý hợp tác quốc tế về báo chí, quản lý hoạt động của cơ
quan báo chí Việt Nam liên quan đến nƣớc ngoài và hoạt động của báo chí nƣớc
ngoài tại Việt Nam; Kiểm tra báo chí lƣu chiểu; quản lý hệ thống lƣu chiểu báo
chí quốc gia; Chỉ đạo, thực hiện chế độ thông tin, báo cáo, thống kê và công tác
khen thƣởng, kỷ luật trong hoạt động báo chí; Thanh tra, kiểm tra và xử lý vi
phạm pháp luật về báo chí.
1.2. Các yếu tố ảnh hƣởng đến quản lý nhà nƣớc về báo chí
1.2.1. Yếu khách quan
- Yếu tố kinh tế thị trường:
30 năm đổi mới cũng là thời kỳ đất nƣớc bƣớc vào nền kinh tế thị trƣờng.
Trong thể chế kinh tế thị trƣờng, sự vận hành của nền kinh tế chịu tác động của
những quy luật thị trƣờng nhƣ quy luật cung - cầu, quy luật cạnh tranh... Điều đó
đòi hỏi nhà nƣớc cũng phải chuyển đổi từ điều hành bằng mệnh lệnh hành chính
sang điều hành bằng những đòn b y kinh tế, mà một trong những yếu tố quan trọng
là hoàn thiện thể chế. Thời gian này, công tác QLNN chƣa theo kịp, hành lang pháp
lý chƣa đƣợc xây dựng kịp thời, còn nhiều sơ hở, những tác động chƣa đƣợc lƣờng
trƣớc đã khiến QLNN chƣa chủ động mà thƣờng bị động đi theo giải quyết khi sự
việc đã xảy ra. Vấn đề đặt ra trong thời kỳ này là các quy định điều tiết hoạt động
20
báo chí chƣa phù hợp với mức độ phát triển của báo chí. Vai trò và khả năng điều
tiết của Nhà nƣớc đối với sự phát triển của báo chí còn hạn chế, chƣa thích ứng với
những thay đổi và sự phát triển của báo chí để có thể quản lý báo chí một cách hiệu
quả nhất. Đồng thời kinh tế thị trƣờng cũng tác động mạnh mẽ đến hoạt động báo
chí, mà điều biểu hiện, dễ nhận thấy đó là báo chí có yếu tố “thƣơng mại hóa”, chạy
theo thị hiếu tầm thƣờng, phản ánh nhiều thông tin giật gân, câu khách...Xu hƣớng
chệnh hƣớng về chính trị cũng dễ xảy ra...
- Toàn c u hóa: Những tác động lớn từ bên ngoài, đặc biệt những tác động từ
quá trình hội nhập quốc tế đã ảnh hƣởng đến toàn bộ đời sống chính trị, kinh tế, văn
hóa, xã hội của đất nƣớc, trong đó có hoạt động báo chí và QLNN về báo chí. Thực
tế so với nhiều nƣớc thì mức độ hội nhập của nƣớc ta chƣa nhiều, chƣa sâu nhƣng
trƣớc những tác động từ bên ngoài, đặc biệt sự phát triển của mạng internet đã trở
thành một trong những kênh thông tin tạo ra những tác động đa chiều, những biến
đổi trong đời sống xã hội, trong suy nghĩ, lối sống, hành vi của con ngƣời. Tiến
trình hội nhập đ y các cá nhân đến nhanh hơn với những đòi hỏi vật chất, đòi hỏi về
mức sống cao hơn mà họ đang có, khiến họ mong muốn và tìm cách có đƣợc nó
bằng mọi cách, mọi giá. Cũng nhƣ ở nhiều nƣớc, thời kỳ đầu chịu ảnh hƣởng của
hội nhập chủ yếu mang lại những tác động tiêu cực. Con ngƣời ở thời kỳ đó dễ dàng
tiếp nhận những cái mang tính cá nhân chủ nghĩa, những cái làm lợi cho bản thân,
gia đình. Các nhà quản lý cũng bị chi phối, có ngƣời thì buông lỏng quản lý, có
ngƣời biết nhƣng vẫn làm ngơ, bởi không ít ngƣời trong số họ cũng là ngƣời đƣợc
hƣởng lợi. Tuy không có thống kê nhƣng thực tế không ít nhà quản lý chính lại là
những ngƣời giới thiệu, là cầu nối giữa CQBC với các đầu nậu. Nguy hiểm là khi
các ấn ph m này có sai phạm thì lại không bị xử lý nghiêm, hiện tƣợng “bảo kê”
xuất hiện cả trong quản lý báo chí. Không chỉ tác động đến thế hệ trẻ, mà ngay cả
thế hệ đi trƣớc vốn đang nắm giữ quyền trong các cơ quan nhà nƣớc cũng không
tránh đƣợc những tác động này. Một số ngƣời cũng “xuôi theo dòng”, tìm cách vơ
vét, làm lợi cho bản thân, không quan tâm đến chức trách, nhiệm vụ đƣợc giao. Một
số cũng mong muốn hoàn thành tốt nhiệm vụ nhƣng cũng không dễ dàng khi phải
21
“lội ngƣợc dòng” nên hiệu quả không cao. Có thể thấy, trong thời kỳ này, ý thức,
bản lĩnh chính trị và trách nhiệm một số nhà báo, trách nhiệm nhà quản lý chƣa
đƣợc đề cao.
- Khoa học công nghệ:
Sự phát triển nhƣ vũ bảo, mạnh mẽ của khoa học công nghệ, trong đó có
công nghệ thông tin trong những năm qua, đặc biệt xu hƣớng toàn cầu hóa thông tin
những năm gần đây đặt ra thách thức lớn cho các cơ quan QLNN. Có thể nói, kỹ
thuật và công nghệ nhƣ “bà đỡ” cho báo chí ra đời và phát triển. Kỹ thuật và công
nghệ chuyển tải thông điệp là cơ sở cho sự ra đời các loại hình báo chí hiện đại;
đồng thời chính kỹ thuật và công nghệ báo chí – truyền thông chi phối tƣ duy và
phong cách hành nghề của nhà báo, thay đổi vai trò, vị thế của công chúng và gia
tăng năng lực, hiệu quả cho báo chí.
Vấn đề đặt ra đối với QLNN đó là thiết bị công nghệ cao còn thiếu thốn, đội
ngũ cán bộ quản lý đủ trình độ sử dụng thiết bị hiện đại còn hạn chế trong khi thông
tin toàn cầu đƣợc truyền tải liên tục, nhiều chiều và dễ dàng tới công chúng thông
qua internet. Có thể thấy, về mặt công nghệ, quản lý báo chí những năm qua chƣa
thực sự làm chủ công nghệ thông tin, có nghĩa hiệu quả quản lý còn hạn chế.
1.2.2. Yếu tố chủ quan
- Chính trị:
QLNN về báo chí cũng nhƣ QLNN về các lĩnh vực khác đều không thể đi
ngƣợc lại các mục tiêu chính trị. Trong những năm đổi mới, đời sống chính trị - xã
hội cũng có những thời điểm phức tạp đặc biệt là những năm 1988 - 1992), khi
trong nƣớc chịu tác động mạnh mẽ của cuộc khủng hoảng tại Liên Xô cũ và các
nƣớc Đông Âu thì báo chí cũng chịu tác động không nhỏ, một số nhà báo, một số tờ
báo có những bài viết mang tƣ tƣởng nhìn lại lịch sử, phủ nhận lịch sử đấu tranh
cách mạng của Đảng và nhân dân. Tuy nhiên, nhờ có những định hƣớng chính trị
đúng đắn của Đảng, Nhà nƣớc, kiên quyết giữ vững con đƣờng xây dựng chủ nghĩa
xã hội nên mặc dù có những “khoảng trống” ban đầu, hoạt động QLNN về báo chí
chƣa theo kịp, nhƣng chỉ một thời gian ngắn sau, QLNN về báo chí đã thực sự phát
22
huy hiệu quả, giúp định hƣớng lại hoạt động cho những tờ báo, nhà báo có tƣ tƣởng
phủ nhận lịch sử. Có thể thấy, chính thời kỳ báo chí chịu tác động mạnh mẽ của
những biến động trong đời sống chính trị - xã hội này cũng là thời kỳ QLNN về báo
chí phát huy hiệu quả rõ nét. Đó cũng là từ đƣờng lối chính trị đúng đắn của Đảng,
Nhà nƣớc, những định hƣớng quan trọng của Đảng, Nhà nƣớc đã giúp hoạt động
QLNN đi đúng hƣớng.
- Th chế:
Quá trình hội nhập quốc tế đặt ra không ít vấn đề đối với bộ máy nhà nƣớc.
Sự ràng buộc pháp lý đối với một quốc gia chấp nhận khi tham gia các điều ƣớc,
công ƣớc quốc tế có ảnh hƣởng to lớn tới hệ thống thể chế của quốc gia đó. Do phải
tuân thủ những quy định chung của quốc tế mà Việt Nam đã cam kết tham gia nên
việc xây dựng pháp luật về báo chí phải bảo đảm phù hợp với thực tế QLNN về báo
chí ở trong nƣớc, đồng thời phù hợp với những quy định và cam kết quốc tế. Chính
vì vậy, các cơ quan chức năng cần tiếp tục rà soát, sửa đổi, bổ sung các văn bản quy
phạm pháp luật về báo chí, đặc biệt trong lĩnh vực bản quyền tác giả. Khắc phục
tình trạng chồng chéo giữa các cơ quan quản lý, giữa Trung ƣơng và địa phƣơng,
bảo đảm tính hiệu quả của công tác QLNN về báo chí trong phạm vi cả nƣớc.
1.3. Kinh nghiệm quản lý nhà nƣớc về báo chí của một số địa phƣơng
1.3.1. Tỉnh Bình Phước
- Khái quát về kinh tế - ã hội tỉnh Bình Phước:
Bình Phƣớc là một tỉnh miền núi ở phía Tây của vùng Đông Nam bộ, phía
Đông giáp tỉnh Lâm Đồng và Đồng Nai, phía Tây giáp tỉnh Tây Ninh và giáp 03
tỉnh: Kongpongchàm, Kratie, Mundulkiri) Campuchia, phía Nam giáp tỉnh Bình
Dƣơng và phía Bắc tỉnh Đắk Lắk. Địa hình vùng lãnh thổ Bình Phƣớc là cao
nguyên nằm trong khu vực chuyển tiếp từ vùng Nam Trung bộ sang vùng hạ Tây
Nam bộ có cảnh quan thiên nhiên, môi trƣờng sinh thái tƣơng đối đa dạng và phong
phú.
23
Là một tỉnh miền núi, dân tộc và biên giới, Bình Phƣớc có diện tích tự nhiên 6.854 km2, có 03 thị xã và 07 huyện với 111 xã, phƣờng, thị trấn, dân số hơn
800.000 ngƣời bao gồm 41 dân tộc anh em.
Cùng với sự phát triển của cả nƣớc, kinh tế của tỉnh ngày càng phát triển.
Theo đó, năm 2018, về kinh tế, tỉnh Bình Phƣớc phấn đấu tốc độ tăng GDP (giá so
sánh năm 2010) đạt 6,8-7%; cơ cấu kinh tế: nông - lâm - thủy sản 26,2%, công
nghiệp - xây dựng 37,8%, dịch vụ 36%; GDP bình quân đầu ngƣời đạt 58 triệu đồng.
Năm 2018, tổng kim ngạch xuất kh u đạt 2.240 triệu USD; tổng kim ngạch nhập
kh u 1.380 triệu USD; tổng thu ngân sách (nội địa và xuất nhập kh u) đạt 6.000 tỷ
đồng. Chi ngân sách kế hoạch đƣa ra là 9.038 tỷ đồng. Trong năm, Bình Phƣớc phấn
đấu thành lập mới 900 doanh nghiệp và 22 hợp tác xã...
- Tổ chức và hoạt động báo chí Bình Phước:
Đối với tỉnh Bình phƣớc hiện nay, có 4 cơ quan báo chí là: Báo Bình Phƣớc,
Đài PT-TH tỉnh, Tạp chí Khoa học thời đại, Tạp chí Văn học - Nghệ thuật. Trong
đó, có hơn 100 nhà báo hoạt động và đƣợc cấp thẻ.
Báo Bình Phước là cơ quan ngôn luận của Đảng bộ, chính quyền và nhân
dân tỉnh Bình Phƣớc. Qua 20 năm xây dựng và trƣởng thành, đến nay Báo Bình
Phƣớc đã có 6 phòng chuyên môn nghiệp vụ, 1 xƣởng in với hơn 50 cán bộ, viên
chức. Đội ngũ phóng viên, biên tập viên, những ngƣời làm báo đã đƣợc quan tâm,
tạo điều kiện học tập chuyên môn nghiệp vụ và lý luận chính trị.
Để tăng cƣờng chất lƣợng phục vụ cũng nhƣ mở rộng đối tƣợng bạn đọc, từ
16/6 2009, Báo Bình Phƣớc thành lập phòng Báo điện tử cho ra mắt tờ báo điện tử
theo địa chỉ: baobinhphuoc.com.vn.
Tạp chí khoa học thời đại là cơ quan ngôn luận của Liên hiệp các Hội khoa
học kỹ thuật tỉnh Bình Phƣớc. Tạp chí này có nhiệm vụ cung cấp các thông tin về
tiến bộ khoa học kỹ thuật, thông tin chuyển giao công nghệ đối với các sản ph m
phục vụ sản xuất và đời sống Tạp chí là tiếng nói của đội ngũ trí thức, các nhà
khoa học trong tỉnh và sự cộng tác của nhiều giáo sƣ, tiến sĩ khoa học đầu ngành,
các nhà báo, nhà nghiên cứu, văn nghệ sĩ và các doanh nhân cả trong và ngoài nƣớc.
24
Tạp chí Văn học - Nghệ thuật thuộc Sở Văn hoá - Thể thao và Du lịch có
nhiệm vụ tuyên truyền chủ trƣơng, đƣờng lối, chính sách của Đảng và Nhà nƣớc về
văn học nghệ thuật; giới thiệu các sáng tác văn học nghệ thuật phục vụ nhiệm vụ
chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội và các hoạt động văn hoá văn nghệ của địa
phƣơng; đăng tải các bài nghiên cứu lý luận phê bình nhằm định hƣớng sáng tác văn
học nghệ thuật ở địa phƣơng, góp phần xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc. Tạp chí này xuất bản định kỳ hàng tháng, bắt đầu từ tháng
5/2010.
Đài Phát thanh - Truyền hình tỉnh Bình Phước trực thuộc Ủy ban nhân dân
tỉnh. Để thực hiện nhiệm vụ đƣợc giao, hiện nay Đài Phát thanh - Truyền hình Bình
Phƣớc có cơ cấu tổ chức bao gồm: Ban Giám đốc và 13 phòng, ban chuyên môn với
đội ngũ cán bộ, phóng viên, biên tập viên là 180 ngƣời. Trong đó, có 43% tốt
nghiệp đại học, 0,5% cao đẳng, trung cấp chiếm 30%, trình độ khác chiếm 30,28%.
Hiện tỉnh có 8 Đài truyền thanh huyện, thị và 102 trạm truyền thanh, đài
truyền thanh xã, phƣờng, thị trấn. Mặc dù theo quy định hiện hành thì Đài truyền
thanh cấp huyện, xã không phải là cơ quan báo chí nhƣng vẫn thuộc phạm vi quản
lý về nghiệp vụ của Đài Phát thanh – Truyền hình tỉnh.
Ngoài 3 cơ quan báo chí nêu trên, Bình Phước còn c 3 cơ quan đại diện của
các báo chí Việt Nam tại tỉnh, gồm: Thông tấn xã Việt Nam, Cơ quan Thƣờng trú
Báo Nhân Dân, Cơ quan thƣờng trú báo Tuổi trẻ Thủ đô. Các cơ quan đại diện là
đơn vị trực thuộc cơ quan báo chí có trụ sở, nhân sự do một ngƣời chịu trách nhiệm
quản lý, điều hành hoạt động nghiệp vụ báo chí tại một địa phƣơng nơi mà cơ quan
báo chí không đặt trụ sở chính.
- Tổ chức và hoạt động của cơ quan lãnh đạo, quản lý báo chí ở Bình
Phước:
Liên quan đến hoạt động báo chí tại tỉnh Bình Phƣớc, về mặt tổ chức gồm có
các cơ quan lãnh đạo báo chí, cơ quan quản lý báo chí và cơ quan báo chí. Tỉnh
Bình Phƣớc phân biệt rõ giữa lãnh đạo báo chí và quản lý báo chí:
25
Lãnh đạo báo chí là chức năng, nhiệm vụ của Đảng và cơ quan thực hiện
chức năng, nhiệm vụ này là Tỉnh ủy. Tham mƣu cho Tỉnh ủy là Ban Tuyên giáo.
Quản lý nhà nƣớc là chức năng, nhiệm vụ của UBND tỉnh Bình Phƣớc và cơ
quan chuyên môn giúp việc là Sở Thông tin và Truyền thông.
Nhƣ vậy, có thể nói chủ thể lãnh đạo báo chí là Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy, chủ
thể quản lý báo chí là UBND tỉnh và Sở TT-TT. Các cơ quan báo chí của tỉnh Bình
Phƣớc chính là đối tƣợng quản lý.
- Hoạt động quản lý nhà nước về báo chí tại tỉnh Bình Phước:
Đối với tỉnh Bình Phƣớc, thời gian qua phải nói rằng hoạt động lãnh đạo,
quản lý nhà nƣớc đối với báo chí đƣợc thực hiện khá tốt. Thể hiện ở chỗ:
+ Thực hiện giao ban báo chí định kỳ: Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy, Hội Nhà
báo tỉnh và Sở Thông tin và Truyền thông đã có sự phối hợp tốt trong công tác tổ
chức giao ban báo chí theo định kỳ hàng tháng, hàng quý để cung cấp thông tin về
tình hình kinh tế - xã hội, những vấn đề “nóng” đƣợc báo chí quan tâm trên địa bàn
tỉnh. Với nội dung chuyên đề cụ thể đƣợc các cơ quan báo chí, phóng viên đặc biệt
quan tâm; mời đại diện các sở, ban, ngành có liên quan trực tiếp đến nội dung
chuyên đề đó cùng tham gia để giải đáp thắc mắc, cung cấp thông tin cho báo chí
thực hiện tốt Quy chế phát ngôn và cung cấp thông tin cho báo chí trên địa bàn tỉnh.
+ Tổ chức thanh tra, kiểm tra hoạt động báo chí của các cơ quan báo chí tại
địa phƣơng.
+ Kịp thời ban hành các văn bản pháp luật để làm công cụ thực hiện công tác
quản lý.
+ Tổ chức hoặc tạo điều kiện để đào tạo, bồi dƣỡng ph m chất chính trị, đạo
đức nghề nghiệp cho đội ngũ ngƣời làm báo, qua đó đảm bảo vai trò quả lý của
mình.
+ Thực hiện công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật liên quan
đến báo chí đối với đội ngũ ngƣời làm báo cũng nhƣ đối tƣợng cung cấp thông tin
cho báo chí.
26
+ Phối hợp tốt với các tổ chức chính trị, chính trị - xã hội – nghề nghiệp, các
cơ quan, tổ chức, cá nhân Đảng, Hội Nhà Báo, cơ quan nhà nƣớc các cấp, doanh
nghiệp trong việc đảm bảo thực hiện thôn tin, cung cấp thông tin, định hƣớng
thông tin cũng nhƣ xử lý những vấn đề cụ thể khi phát sinh.
+ Quan tâm, tạo điều kiện cung cấp nhân lực, vật lực, tài lực cho các cơ quan
báo chí hoạt động và đảm bảo các yêu cầu cần thiết khác.
1.3.2. Tỉnh Đắk Lắk
- Khái quát về tự nhiên, kinh tế – ã hội tỉnh Đắk Lắk:
Đắk Lắk là một tỉnh nằm ở khu vực Tây Nguyên, có vị trí chiến lƣợc quan
trọng về chính trị, kinh tế, quốc phòng, an ninh. Phía Bắc giáp tỉnh Gia Lai; phía
Nam giáp tỉnh Lâm Đồng; phía Đông giáp tỉnh Phú Yên và Khánh Hòa; phía Tây Nam giáp tỉnh Đắk Nông. Diện tích tự nhiên là 13.125 km2, có đƣờng biên giới dài
73 km giáp với tỉnh Mondunkiri Vƣơng quốc Campuchia , trong đó có 34 km
đƣờng biên giới trên đất liền và 39 km đƣờng biên giới chạy theo sông suối, đi qua
địa giới hành chính của 4 xã thuộc 2 huyện biên giới là Ea Súp và Buôn Đôn. Dân
số hơn 1,8 triệu ngƣời, gồm 47 dân tộc anh em cùng sinh sống, trong đó đồng bào
dân tộc thiểu số chiếm 33% (dân tộc thiểu số tại chỗ chiếm khoảng 22%). Là tỉnh có
những bản sắc văn hóa rất đặc biệt, độc đáo, phong phú và đa dạng. Đặc biệt, văn
hóa cồng chiêng đã đƣợc UNESCO công nhận là di sản văn hóa của nhân loại (cùng
cồng chiêng các tỉnh Tây Nguyên).
Toàn tỉnh có 184 xã, phƣờng, thị trấn 152 xã, 20 phƣờng, 12 thị trấn), với
2.466 thôn, buôn, tổ dân phố (1.536 thôn, 610 buôn, 320 tổ dân phố . Trên địa bàn
tỉnh có 4 tôn giáo lớn (Thiên chúa giáo, Phật giáo, Tin lành và Cao đài với số
lƣợng tín đồ chiếm khoảng 25% dân số toàn tỉnh.
Hiện nay, nền kinh tế của tỉnh, với nhiều sản ph m nông sản chủ yếu phục vụ
xuất kh u nhƣ cà phê, cao su, hồ tiêu, điều, ca cao, mật ong... Giá trị tổng sản ph m
trên địa bàn bình quân đạt 8% năm; thu nhập bình quân đầu ngƣời đạt 34,9 triệu
đồng; công nghiệp – xây dựng tiếp tục phát triển, hạ tầng kinh tế – xã hội từng bƣớc
đƣợc cải thiện, tốc độ tăng trƣởng bình quân 10,6% năm. Văn hóa – xã hội, khoa
27
học – công nghệ có bƣớc tiến mới; an sinh xã hội cơ bản đƣợc bảo đảm; tỷ lệ hộ
nghèo đến cuối năm 2017 còn 7% giảm hơn 14% so với năm 2010 . Quốc phòng,
an ninh đƣợc bảo đảm; hệ thống chính trị ngày càng đƣợc củng cố, kiện toàn.
- oạt động của các cơ quan báo chí ở tỉnh Đắk Lắk hiện na :
Trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk hiện nay có 03 cơ quan báo chí của tỉnh đƣợc Bộ
Thông tin và Truyền thông cấp giấy phép hoạt động: Báo Đắk Lắk, Đài Phát thanh
và Truyền hình Đắk Lắk, Tạp chí Chƣ Yang Sin Hội Văn học – Nghệ thuật và có
92 nhà báo thuộc các cơ quan báo chí địa phƣơng đƣợc cấp thẻ Đài Phát thanh và
Truyền hình tỉnh có 45 nhà báo; Báo Đắk Lắk có 28 nhà báo, Tạp chí Chƣ Yang Sin
có 03 nhà báo, Hội Nhà báo tỉnh có 01 nhà báo, Đài Truyền thanh – Truyền hình
cấp huyện có 15 nhà báo và 16 cơ quan đại diện, phóng viên thƣờng trú của các
báo Trung ƣơng, tổ chức đoàn thể và địa phƣơng khác. Ngoài ra còn có 11 cơ quan
báo đài cử phóng viên đến hoạt động tác nghiệp tại địa phƣơng nhƣng chƣa đăng
ký.
Hoạt động của các cơ quan báo chí ở tỉnh Đắk Lắk trong những năm qua có
sự chuyển biến, đạt đƣợc một số kết quả đáng khích lệ. Đã bám sát các hoạt động
diễn ra của đời sống xã hội, thực hiện đúng sự lãnh đạo, chỉ đạo, định hƣớng thông
tin của Đảng và nhà nƣớc để tập trung vào công tác thông tin tuyên truyền. Báo chí
đã góp phần thúc đ y kinh tế - xã hội của tỉnh phát triển, đồng thời là vũ khí sắc
bén, hiệu quả trong công tác tuyên truyền đƣờng lối, chủ trƣơng của Đảng và nhà
nƣớc, đấu tranh làm thất bại âm mƣu “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của các
thế lực thù địch, giữ vững quốc phòng an ninh trên địa bàn. Những kết quả đạt đƣợc
của báo chí thời gian qua đã khẳng định sự lãnh đạo sâu sát của Tỉnh ủy, sự quản lý
hiệu quả của Ủy ban nhân dân tỉnh cùng với sự nỗ lực, phấn đấu hoàn thành nhiệm
vụ của cơ quan quản lý nhà nƣớc đối với lĩnh vực nói trên.
- Nhân lực hoạt động báo chí và quản lý báo chí:
Đội ngũ làm báo ở Đắk Lắk tính đến thời điểm hiện nay có 219 cán bộ,
phóng viên, biên tập viên, kỹ thuật viên của 03 cơ quan báo chí Báo Đắk Lắk, Đài
Phát thanh – Truyền hình Đắk Lắk, Tạp chí Chƣ Yang Sin – Hội Văn học Nghệ
28
thuật Đắk Lắk ; 32 cán bộ, phóng viên của 16 cơ quan đại diện, phóng viên thƣờng
trú và 11 cơ quan báo chí có phóng viên hoạt động nhƣng chƣa đăng ký của các báo
Bộ, ngành Trung ƣơng tại Đắk Lắk.
Về trình độ chuyên môn, chính trị của 03 cơ quan báo chí ở tỉnh Đắk Lắk
nhƣ sau: đại học và trên đại học: 152; Cao đẳng và trung cấp 51; Trình độ lý luận
chính trị: cử nhân, cao cấp: 25; số phóng viên đƣợc cấp thẻ nhà báo: 92.
- Công tác quản lý nhà nước về báo chí của tỉnh Đắk Lắk:
Trong những năm qua có nhiều đổi mới, chủ động hơn trong việc tham mƣu
ban hành các cơ chế chính sách, các quy định đối với hoạt động báo chí trên địa bàn
tỉnh. Công tác thanh tra, kiểm tra đã đƣợc chú trọng, đƣợc tăng cƣờng và đi vào nền
nếp, bảo đảm tuân thủ đúng các quy định của pháp luật, qua đó thực hiện quản lý tốt
đi đôi với việc tạo điều kiện cho hoạt động báo chí trên địa bàn tỉnh phát triển đúng
quy hoạch và định hƣớng.
Đội ngũ làm công tác chỉ đạo, quản lý ngày càng đƣợc tăng cƣờng về nhân
lực, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, có tinh thần trách nhiệm, duy trì và
cải tiến các cuộc giao ban báo chí định kỳ hằng tháng, thƣờng xuyên tổ chức các hội
nghị cung cấp thông tin cho báo chí. Phối hợp với các cơ quan chủ quản, báo chí
Trung ƣơng và Cục Báo chí để quản lý các cơ quan đại diện, phóng viên thƣờng trú
tại Đắk Lắk, phát huy vai trò là các tờ báo lớn, có uy tín để quảng bá, giới thiệu về
quê hƣơng, văn hóa, con ngƣời, tiềm năng thế mạnh của tỉnh, góp phần phát triển
kinh tế – xã hội của tỉnh Đắk Lắk.
Sở Thông tin và Truyền thông đã tham mƣu cho UBND tỉnh các văn bản về
chỉ đạo, thực hiện công tác quản lý về báo chí trên địa bàn tỉnh; kịp thời tham mƣu
ban hành Quy chế ngƣời phát ngôn và cung cấp thông tin cho báo chí, tổng hợp
danh sách ngƣời phát ngôn của các cơ quan hành chính nhà nƣớc ở Đắk Lắk, cung
cấp thông tin, quản lý và xử lý thông tin của cơ quan báo chí ngày càng tổ chức chặt
chẽ, thiết thực. Phối hợp tổ chức tốt công tác giao ban, họp báo định kỳ ngày một
hiệu quả, chất lƣợng.
- Hạn chế:
29
Đội ngũ cán bộ, công chức lãnh đạo quản lý báo chí đa số đều không có
nghiệp vụ báo chí. Do đó khi đánh giá chất lƣợng bài viết hoặc th m định một tác
ph m, chƣơng trình rất khó khăn. Thực tế ở tỉnh Đắk Lắk hiện nay, lực lƣợng cán
bộ làm công tác lãnh đạo, quản lý báo chí trình độ chuyên môn, chính trị chƣa
ngang tầm, đáp ứng yêu cầu trong thời đại bùng nổ thông tin, toàn cầu hóa.
Công tác chỉ đạo, quản lý báo chí đôi lúc còn chƣa chủ động, còn chạy theo
sự vụ. Một số địa phƣơng, đơn vị thực hiện chƣa nghiêm túc việc cung cấp thông
tin cho báo chí và xử lý thông tin trên báo chí theo quy định về phát ngôn và cung
cấp thông tin cho báo chí.
Chƣa chủ động xây dựng chƣơng trình, kế hoạch cụ thể viết các bài đấu
tranh chống các quan điểm sai trái trên báo của tỉnh, số lƣợng các bài viết chống
tiêu cực còn ít.
Việc xử lý các phóng viên của cơ quan báo chí Trung ƣơng đối với sai phạm
về nội dung tin viết về tỉnh trên một số báo, nhất là báo điện tử chƣa nghiêm, có
trƣờng hợp xuê xoa.
Một số phóng viên báo chí, tuy chƣa có bộc lộ rõ ràng nhƣng vẫn có tƣ tƣởng
ủng hộ xu hƣớng tự do báo chí, quyền lực báo chí liên kết thành nhóm tạo dòng
thông tin cố ý làm nóng dƣ luận xã hội quan tâm.
1.3.3. Bài học kinh nghiệm cho tỉnh Đắk Nông
Hoạt động báo chí của nƣớc ta trong điều kiện hiện nay chịu các tác động:
nhu cầu thông tin và đƣợc thông tin; sự phát triển nhanh về kỹ thuật và công nghệ
truyền thông; nền kinh tế theo cơ chế thị trƣờng... Những tác động trên đặt ra một
số yêu cầu đối với quản lý nhà nƣớc về báo chí nhƣ sau:
- Quản lý nhà nƣớc về báo chí phải bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do
báo chí, có quyền đƣợc thông tin của công dân theo quy định tại Điều 14, 25 của
Hiến pháp năm 2013 và các văn bản luật có liên quan, nâng cao trách nhiệm xã hội
của báo chí, đáp ứng nhu cầu thông tin của xã hội tốt hơn.
30
- Quản lý về báo chí phải đƣợc đặt dƣới sự lãnh đạo toàn diện, trực tiếp của
Đảng Cộng sản Việt Nam, quản lý của nhà nƣớc và hoạt động trong khuôn khổ của
pháp luật.
- Phát triển báo chí phải đi đôi với quản lý chặt chẽ, có hiệu quả toàn bộ hệ
thống báo chí cũng nhƣ từng cơ quan báo chí. Thời kỳ mới đặt ra những yêu cầu
mới của hoạt động báo chí. Tuy nhiên, trƣớc tác động của cơ chế thị trƣờng, mọi
hoạt động của báo chí luôn đối mặt với nguy cơ tự phát. Do vậy, lãnh đạo, quản lý
báo chí phải đặc biệt quan tâm đến những đặc điểm của tình hình mới, phòng ngừa
và hạn chế tiêu cực. Bên cạnh đó, cũng cần đề phòng khuynh hƣớng nhân danh sự
lãnh đạo, quản lý để bóp nghẹt sức năng động, sáng tạo của các cơ quan cũng nhƣ
cá nhân nhà báo. Quản lý chặt chẽ chính là điều kiện bảo đảm cho báo chí phát triển
đúng quy hoạch, phù hợp quy mô, số lƣợng, tránh lãng phí. Nhƣng báo chí là một
bộ phận thuộc lĩnh vực sáng tạo văn hoá, tinh thần, rất cần những khoảng trống
riêng nhƣ V.I.Lênin đã từng nhấn mạnh. Do vậy, quản lý báo chí đòi hỏi phải vừa
mềm dẻo, vừa nguyên tắc mới có thể đạt hiệu quả mong muốn.
- Quản lý nhà nƣớc về báo chí phải bắt kịp trình độ phát triển cao của
phƣơng tiện kỹ thuật, công nghệ truyền thông hiện đại. Bản thân sự quản lý phải
chứa đựng hàm lƣợng công nghệ cao và đội ngũ cán bộ quản lý phải hiểu và sử
dụng đƣợc. Điều này kéo theo việc các văn bản quy phạm pháp luật đƣợc ban hành
có khuôn khổ pháp lý phù hợp với nhiều yêu cầu, trong đó có yêu cầu về kỹ thuật,
công nghệ truyền thông.
- Quản lý nhà nƣớc và pháp luật về báo chí phải phù hợp với cơ chế vận
hành trong điều kiện kinh tế thị trƣờng. Pháp luật phải điều chỉnh kịp thời những tác
động của thị trƣờng, quy luật cung cầu. Báo chí đáp ứng đƣợc nhu cầu, thị hiếu của
quần chúng nhƣng điều đó không đƣợc dẫn đến khuynh hƣớng thƣơng mại hóa một
cách tràn lan và sự lũng đoạn của đồng tiền đối với báo chí. Nhu cầu thông tin và
đƣợc thông tin cần có sự giao lƣu quốc tế. Sự giao lƣu này ngày càng mở rộng, nhất
là khi Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên WTO, CPTPP.
Tiểu kết Chƣơng 1
31
Hiện nay, trong bối cảnh đất nƣớc ta bƣớc vào giai đoạn phát triển mới, với
những nhiệm vụ cách mạng mới, báo chí do đó cũng đòi hỏi phải làm tốt nhiệm vụ
chính trị của mình trên lĩnh vực tƣ tƣởng, bảo vệ đƣờng lối, quan điểm của Đảng,
bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, đóng góp vào sự phát triển chung của toàn xã hội.
Đồng thời, hƣớng tới đổi mới, nâng cao chất lƣợng, hiệu quả công tác báo chí; khắc
phục những biểu hiện lệch lạc, xa rời tôn chỉ mục đích, chạy theo thị hiếu tầm
thƣờng; phát triển báo chí đi đôi với quản lý tốt, nâng cao năng lực, hiệu lực, xây
dựng nền báo chí nƣớc ta cách mạng, chuyên nghiệp, hiện đại, nhân văn.
Qua tìm hiểu những vấn đề lý luận về báo chí và cơ sở pháp lý đối với công
tác QLNN về báo chí, có thể thấy đƣợc vai trò hết sức quan trọng của báo chí đối
với đời sống xã hội cũng nhƣ sự cần thiết phải tăng cƣờng công tác QLNN đối với
hoạt động này. Bảo đảm báo chí phát triển theo đúng nguyên tắc hoạt động của nền
báo chí cách mạng, phục vụ lợi ích nhân dân, là tiếng nói của Đảng, nhà nƣớc,
chính quyền. Các nội dung QLNN về báo chí đã đƣợc Luật định; xoay quanh việc
tạo dựng khuôn pháp lý cho hoạt động báo chí, tạo điều kiện cho sự phát triển và tổ
chức hoạt động thông tin báo chí đạt hiệu quả. Bên cạnh sự lãnh đạo cao nhất của
Đảng, cơ quan QLNN về báo chí phân chia từ cấp Trung ƣơng đến địa phƣơng với
những nhiệm vụ cụ thể đã đƣợc quy định chi tiết.
Hội nghị Trung ƣơng 5 khóa X Ban Chấp hành Trung ƣơng Đảng Cộng sản
Việt Nam “về công tác tƣ tƣởng, lý luận và báo chí trƣớc yêu cầu mới”, với tinh
thần thẳng thắn, nghiêm khắc, khách quan, phân tích sâu sắc thực trạng báo chí
nƣớc ta trong thời gian qua, về mặt yếu kém, khuyết điểm, đƣợc biểu hiện cụ thể
nhƣ sau:
- Một số cơ quan báo chí thiếu nhạy bén chính trị, chƣa làm tốt chức năng tƣ
tƣởng, văn hóa, có biểu hiện xa rời sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của nhà nƣớc.
Một số bộ phận ngƣời làm báo, kể cả một số cán bộ lãnh đạo cơ quan báo chí chƣa
quán triệt đầy đủ, sâu sắc đƣờng lối, chủ trƣơng, chính sách của Đảng và nhà nƣớc;
đã xuất hiện trên một số sản ph m báo chí những ý kiến, bài viết thiếu định hƣớng,
không có lợi về chính trị, bị kẻ xấu lợi dụng.
32
- Tình trạng xa rời tôn chỉ, mục đích, đối tƣợng phục vụ gia tăng, thông tin
không trung thực, thiếu chính xác, phản ánh nhiều về tiêu cực và tệ nạn xã hội, thậm
chí tiết lộ bí mật quốc gia, ít tuyên truyền điển hình tiên tiến, gƣơng ngƣời tốt, việc
tốt, cổ vũ phong trào thi đua; khuynh hƣớng tƣ nhân hóa, thƣơng mại hóa báo chí
ngày càng tăng.
- Công tác chỉ đạo, quản lý báo chí còn nhiều hạn chế, việc xây dựng và thực
hiện quy hoạch, kế hoạch phát triển báo chí còn bị động, lúng túng, thiếu tính khoa
học, thiếu tầm nhìn lâu dài.
Để khắc phục những hạn chế, khuyết điểm trên, Bộ Thông tin và Truyền
thông đã công bố Đề án: “Quy hoạch phát triển và quản lý báo chí đến năm 2025”,
với mục tiêu là cơ cấu lại hệ thống báo chí gắn với đổi mới mô hình hoạt động; phát
triển các loại hình, các cơ quan báo chí theo hƣớng chuyên nghiệp hiện đại, đáp ứng
yêu cầu thông tin, tuyên truyền của Đảng, nhà nƣớc, Mặt trận Tổ quốc, các ban, bộ,
ngành, đoàn thể, địa phƣơng và nhu cầu thông tin của các tầng lớp nhân dân. Nhƣ
vậy, việc xây dựng và thực hiện Đề án là xuất phát từ yêu cầu khách quan của công
tác báo chí, hoạt động báo chí, của chính các cơ quan chủ quản, cơ quan báo chí và
nhà báo.
Từ những vấn đề trên, việc tăng cƣờng quản lý nhà nƣớc về báo chí nói
chung, quản lý báo chí ở tỉnh Đắk Nông nói riêng là một giải pháp cơ bản, cấp thiết
nhằm bảo đảm cho báo chí phát triển đúng mục đích, phát triển cân đối, hài hòa và
phát huy tốt nhất năng lực và hiệu quả hoạt động của nó trong bối cảnh hội nhập
toàn cầu nhƣ hiện nay.
Ngoài ra, tại chƣơng 1, tác giả cũng đã nêu một số kinh nghiệm rút ra cho tỉnh
Đắk Nông về công tác QLNN về báo chí. Kinh nghiệm rút ra không chỉ qua việc đảm
bảo thực hiện đầy đủ các nội dung QLNN về báo chí mà còn xác định thông qua công
tác quy hoạch báo chí phù hợp về số lƣợng, đảm bảo về chất lƣợng; xây dựng khung thể
chế hoàn thiện, chặt chẽ vừa đảm bảo giữ định hƣớng cho hoạt động báo chí, vừa tạo
điều kiện cho báo chí phát huy vai của mình đối với đời sống xã hội. Ngoài ra, công tác
QLNN cần hƣớng tới quan tâm xây dựng đội ngũ nhân lực quản lý báo chí cũng nhƣ tác
33
nghiệp báo chí đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới. Đặc biệt, không thể thiếu đó là đảm
bảo tính nghiêm minh thông qua hiệu lực công tác kiểm tra, giám sát, răn đe, giữ cho
hoạt động thông tin báo chí luôn đúng tôn chỉ, mục đích.
34
35
Chƣơng 2
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG B O CHÍ VÀ QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC
VỀ B O CHÍ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐẮK NÔNG
2.1. Những yếu tố ảnh hƣởng đến quản lý nhà nƣớc về báo chí ở tỉnh Đắk Nông
2.1.1. Yếu tố khách quan
- uan đi m phát tri n và th chế nhà nước:
Báo chí ở nƣớc ta đặt dƣới sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà
nƣớc. Trên cơ sở định hƣớng của Đảng, Nhà nƣớc ta luôn chú trọng đến việc xây
dựng hệ thống khuôn khổ pháp lý cho hoạt động báo chí. Ngay sau khi nƣớc Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa thành lập, Hiến pháp đầu tiên ra đời năm 1946 đã ghi nhận
quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận của công dân. Và sau đó, các bản Hiến pháp
năm 1959, 1980, 1992, Hiến pháp sửa đổi năm 1992 và Hiến pháp năm 2013 đều
khẳng định quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận và xác định đó là một trong những
quyền cơ bản của công dân. Tại Điều 25 Hiến pháp năm 2013 hiện hành quy định:
“Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập
hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định”.
Trên cơ sở Hiến pháp, Nhà nƣớc cũng đã ban hành nhiều văn bản pháp lý
quan trọng liên quan đến báo chí nhƣ Sắc lệnh 41 ngày 29/3/1946 về chế độ kiểm
duyệt báo chí; Luật số 100/SL-L-002 ngày 20 5 1957 quy định chế độ báo chí (Luật
Báo chí 1957); Nghị định 197 Ttg ngày 9 7 1957 quy định chế độ và quyền lợi của
ngƣời làm báo chuyên nghiệp và Nghị định số 298 Ttg ngày 9 7 1957 quy định chi
tiết thi hành luật Báo chí 1957; Nghị định 133 HĐBT ngày 20 4 1992 của HĐBT
quy định chi tiết thi hành luật Báo chí; Chỉ thị 63/CT-TW về tăng cƣờng công tác
quản lý báo chí - xuất bản; Thông tƣ 131/TT-VP ngày 20/11/1990 của Bộ Văn hoá -
thông tin hƣớng dẫn thi hành Nghị định 384 HĐBT và có điều chỉnh một số tiêu
chu n nghiệp vụ của chức danh viên chức báo chí Các văn bản này thể hiện quan
điểm của Đảng và Nhà nƣớc trong từng giai đoạn lịch sử khác nhau đối với hoạt
động báo chí và bƣớc đầu đặt nền móng cho việc xây dựng cơ sở pháp lý cho quản
lý hoạt động báo chí của cơ quan có th m quyền.
36
Ngày 28/12/1989, Quốc hội thông qua luật Báo chí nƣớc Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam thay thế Luật Báo chí năm 1957 và đƣợc Chủ tịch Hội đồng
Nhà nƣớc ký lệnh công bố vào ngày ngày 2 1 1990. Đến ngày 12 6 1999, Quốc hội
khoá X đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Báo chí và có hiệu
lực cho đến hết năm 2016. Ngày 5 4 2016, tại kỳ họp thứ 11, Quốc hội khóa XIII
đã thông qua luật Báo chí số 103/2016/QH13 thay thế Luật Báo chí năm 1989 và
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Báo chí năm 1999, có hiệu lực từ ngày
1/1/2017.
Luật Báo chí năm 2016 là văn bản pháp luật hiện hành quy định công tác
QLNN về báo chí. Nhìn chung, luật Báo chí 2016 đã khắc phục đƣợc những hạn
chế của các văn bản quản lý trƣớc đó, tạo ra khung pháp lý cơ bản cho hoạt động
quản lý nhà nƣớc về báo chí.
Việc xây dựng và chỉ đạo thực hiện quy hoạch, kế hoạch phát triển sự nghiệp
báo chí là một trong những nội dung quan trọng của công tác quản lý nhà nƣớc về
báo chí. Ngày 11 tháng 10 năm 2006, Bộ Chính trị có Thông báo kết luận số 41-
TB/TW về một số biện pháp tăng cƣờng lãnh đạo và quản lý báo chí.
Ngày 29 tháng 10 năm 2006, Thủ tƣớng Chính phủ có Chỉ thị số
37/2006/CT-TTg về việc thực hiện kết luận của Bộ Chính trị về một số biện pháp
tăng cƣờng lãnh đạo và quản lý báo chí, Thủ tƣớng Chính phủ giao Bộ Văn hóa -
Thông tin, nay là Bộ Thông tin - Truyền thông rà soát, điều chỉnh hợp lý quy hoạch
hệ thống báo chí in và xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển hệ thống các đài
phát thanh, truyền hình, báo điện tử; xác định tính hợp pháp, sự phù hợp về tôn chỉ,
mục đích, chức năng, nhiệm vụ của các tờ báo, tạp chí, chƣơng trình phát thanh,
truyền hình, các báo điện tử trên Internet, nhất là các phụ san, phụ trƣơng, chuyên
đề... Để sắp xếp lại theo phƣơng châm phát triển đi đôi với quản lý tốt.
Ngày 30 tháng 12 năm 2008, Bộ Thông tin và Truyền thông có Công văn số
4295/BTTTT- CBC và Công văn số 4318/BTTTT-HD về việc hƣớng dẫn tổ chức
thực hiện công tác quy hoạch, sắp xếp lại mạng lƣới báo chí in toàn quốc.
37
Thực hiện Kết luận của Bộ Chính trị, Chỉ thị của Thủ Tƣớng Chính phủ;
Ngày 29/7/2008 UBND tỉnh Đắk Nông ban hành Quyết định số 25 2008 QĐ-
UBND về việc Quy định quản lý nhà nƣớc về báo chí trên địa bàn tỉnh Đắk Nông.
Từ năm 2008 đến nay sở Thông tin và Truyền thông đã tham mƣu UBND tỉnh ban
hành nhiều văn bản quản lý nhà nƣớc về Báo chí trên địa bàn tỉnh; trong đó năm
2015 đƣợc UBND tỉnh giao tổ chức lập Quy hoạch báo chí, Xuất bản tỉnh Đắk
Nông đến năm 2025. Năm 2017, UBND tỉnh Đắk Nông ban hành Quyết định số
1249 QĐ-UBND về Phê duyệt Quy hoạch phát triển báo chí, xuất bản giai đoạn
2017 – 2025.
- Kinh tế thị trường và mở cửa hội nhập:
Tỉnh Đắk Nông thuộc tỉnh miền núi, đƣợc thành lập đến nay gần 14 năm.
Đến nay tuy có nhiều cố gắng trong phát triển kinh tế - xã hội, song xét về mặt bằng
chung vẫn là tỉnh nghèo, khó khăn trong khu vực Tây Nguyên nói riêng, cả nƣớc
nói chung. Mục tiêu tổng quát trong Nghị quyết XI của Đảng bộ tỉnh Đắk Nông
nêu: ... Đắk Nông phấn đấu đến năm 2020 thoát ra khỏi tình trạng của tỉnh nghèo,
chưa phát tri n.
Trong dòng chảy chung của xu thế hội nhập, kinh tế thị trƣờng, thời gian
qua, trên cơ sở chính sách chung của nhà nƣớc, lãnh đạo tỉnh Đắk Nông đã ban
hành nhiều cơ chế, chính sách riêng nhằm “trải thảm đỏ” trong thu hút nguồn lực
đầu tƣ trong và ngoài tỉnh. Kết quả đạt đƣợc cũng khá khả quan. Hiện toàn
tỉnh có hơn 3.600 doanh nghiệp đang hoạt động, tổng vốn đăng ký trên 24.000 tỷ
đồng. Riêng doanh nghiệp có vốn đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài khiêm tốn về số
lƣợng cũng nhƣ nguồn vốn: 7 doanh ngiệp với vốn đăng ký đầu tƣ khoảng trên 20
triệu USD.
Những năm qua, các doanh nghiệp, doanh nhân trên địa bàn tỉnh luôn có
nhiều đổi mới trong quản trị và điều hành, góp phần nâng cao năng suất và chất
lƣợng sản ph m, tích cực xây dựng thƣơng hiệu và tìm kiếm thị trƣờng. Cùng với
đó, các doanh nghiệp thực hiện tốt các chế độ, chính sách đối với ngƣời lao động,
đóng góp hiệu quả vào các chƣơng trình, dự án phát triển kinh tế, xã hội của địa
38
phƣơng, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đối với Nhà nƣớc. Đắk Nông phấn đấu đến năm
2020 toàn tỉnh có 5.000 doanh nghiệp hoạt động, số lƣợng doanh nghiệp có quy mô
lớn ngày càng tăng, đủ năng lực cạnh tranh trong thời kỳ hội nhập; hình thành đƣợc
các sản ph m chủ lực, có nhãn hiệu, thƣơng hiệu nổi tiếng, mang tầm khu vực và
quốc gia.
Tuy nhiên, hạn chế dễ nhận thấy đó là phần lớn các doanh nghiệp đầu tƣ vào
Đắk Nông có năng lực tài chính hạn chế, có quy mô nhỏ, chƣa là đầu tàu để lôi kéo
các doanh nghiệp, khu vực khác phát triển. Nhiều dự án trọng điểm về du lịch, hạ
tầng, công nghiệp...chƣa thu hút đƣợc nhà đầu tƣ tiềm năng. Bên cạnh đó cũng có
nhiều doanh nghiệp là “sân nhà” hay “sân sau” của nhiều cá nhân có chức có quyền
tham gia, làm “lũng đoạn”, ảnh hƣởng đến kết quả thu hút đầu tƣ chung... Song,
thời gian qua báo chí tỉnh nhà cũng nhƣ thƣờng trú chƣa phản ánh, đấu tranh tốt về
việc này do nhiều yếu tố chi phối, ràng buộc.
Nguyên nhân có nhiều, cả khách quan, chủ quan nhƣ: Cơ chế, chính sách
chƣa thật sự hấp dẫn,; chƣa công khai, minh bạch, doanh nghiệp phải “đi đêm” để
có thông tin, dự án...nên chi phí không chính thức cao. Hạ tầng kỹ thuật kém, cải
cách hành chính còn hạn chế...
Trong thể chế kinh tế thị trƣờng, sự vận hành của nền kinh tế chịu tác động
của những quy luật thị trƣờng nhƣ quy luật cung - cầu, quy luật cạnh tranh... Điều
đó đòi hỏi nhà nƣớc cũng phải chuyển đổi từ điều hành bằng mệnh lệnh hành chính
sang điều hành bằng những đòn b y kinh tế, mà một trong những yếu tố quan trọng
là hoàn thiện thể chế.
Vấn đề đặt ra trong thời kỳ này là các quy định điều tiết hoạt động báo chí
chƣa phù hợp với mức độ phát triển của báo chí. Vai trò và khả năng điều tiết của
Nhà nƣớc đối với sự phát triển của báo chí còn hạn chế, chƣa thích ứng với những
thay đổi và sự phát triển của báo chí để có thể quản lý báo chí một cách hiệu quả
nhất. Đồng thời kinh tế thị trƣờng cũng tác động mạnh mẽ đến hoạt động báo chí,
lâu nay báo chí thuộc tỉnh chủ yếu hoạt động bằng ngân sách, thời gian thời gian tới
thực hiện Luật Báo chí 2016, cơ chế tự chủ, sắp xếp lại các đơn vị sự nghiệp, nhà
39
nƣớc sẽ đặt hàng sản ph m các cơ quan báo chí; dần tiến tới thực hiện cơ chế tự chủ
sẽ là áp lực đối với các cơ quan báo chí cấp tỉnh. Điều này nếu làm không tốt sẽ dễ
dẫn tới báo chí có yếu tố “thƣơng mại hóa”, chạy theo thị hiếu tầm thƣờng, phản
ánh nhiều thông tin giật gân, câu khách...Xu hƣớng chệnh hƣớng về chính trị cũng
dễ xảy ra...
- Cải cách hành chính:
Chỉ số PCI của Đắk Nông. Năm 2007, Đắk Nông giữ vị trí chót bảng xếp
hạng Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) so với cả nƣớc. Với sự chỉ đạo quyết
liệt của Tỉnh ủy, UBND tỉnh trong việc thực thi các nhóm giải pháp nâng cao chỉ số
năng lực cạnh tranh cấp tỉnh PCI , đến năm 2013 đã vƣợt lên vị trí thứ 46/63 tỉnh,
thành phố. Nhƣng trong những năm sau đó, Đắk Nông đã không duy trì đƣợc vị thứ.
Mặc dù UBND tỉnh đã có nhiều kế hoạch để nâng cao chất lƣợng hoạt động của hệ
thống chính quyền các cấp, qua đó nâng Chỉ số PCI, nhƣng đến năm 2015, Đắk
Nông đã quay lại vị trí cuối bảng xếp hạng. Năm 2016 lại trụt xuống xếp thứ 3 từ
dƣới lên, tức 61/63 tỉnh thành. Năm 2017 lại trở về vị trí ban đầu là chót bảng.
Thời gian qua, cùng với sự chỉ đạo quyết liệt của tỉnh, sự phối hợp của các
cấp, ngành, địa phƣơng, công tác cải cách hành chính CCHC đã từng bƣớc có sự
chuyển biến, tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức, cá nhân trong quá trình thực
hiện các thủ tục hành chính.
Theo Ban Chỉ đạo CCHC tỉnh, chỉ tính riêng năm 2017, toàn tỉnh đã tiếp
nhận 357.245 hồ sơ, trong đó giải quyết đúng hạn 343.171 hồ sơ, đạt 96%; giải
quyết quá hạn 3.197 hồ sơ, còn lại đang giải quyết. Đây là kết quả thể hiện sự nỗ
lực lớn của các sở, ngành, địa phƣơng trong việc giải quyết các thủ tục hành chính
cho các tổ chức, cá nhân.
Mặc dù vậy, hiện nay công tác CCHC trên địa bàn tỉnh vẫn còn nhiều hạn
chế. Một trong những hạn chế lớn nhất là hiện nay nhiều cơ quan, đơn vị ban hành
kế hoạch thực hiện CCHC vẫn còn chung chung, không có hoạt động, kế hoạch cụ
thể, nhất là một số đơn vị hành chính cấp xã. Một bộ phận cán bộ, công chức trực
tiếp tham mƣu thực hiện công tác CCHC tại các cơ quan, đơn vị chƣa có tính
40
chuyên nghiệp cao, chƣa chủ động tham mƣu, đề xuất các giải pháp đột phá. Sự
phối hợp giữa các sở, ngành, đơn vị trong thực hiện CCHC chƣa chặt chẽ, thiếu tính
đồng bộ.
Tại cuộc họp tổng kết công tác CCHC năm 2017, triển khai nhiệm vụ năm
2018 do Ban Chỉ đạo CCHC tỉnh tổ chức vừa qua, TUV, Phó Chủ tịch UBND tỉnh
Cao Huy nhấn mạnh, trong 2018, Ban Chỉ đạo CCHC tỉnh sẽ tiếp tục cụ thể hóa
chƣơng trình, hành động, cá thể hóa nhiệm vụ, trách nhiệm của từng thành viên
trong Ban. Thủ trƣởng các cơ quan, đơn vị cần phát huy vai trò chỉ đạo trong thực
hiện công tác CCHC tại cơ quan, đơn vị, địa bàn mình phụ trách. Trong trƣờng hợp
giải quyết hồ sơ bị trễ hẹn, ngƣời đứng đầu các cơ quan, đơn vị phải đứng ra tổ
chức xin lỗi bằng văn bản đối với các tổ chức, cá nhân
Thực hiện Đề án tổ chức và hoạt động Trung tâm Hành chính công tỉnh Đắk
Nông giai đoạn 2 theo Quyết định 1755 QĐ-UB, ngày 1 11 2017 của UBND tỉnh,
bắt đầu từ ngày 18 12 2017, Trung tâm Hành chính công tỉnh chính thức làm đầu
mối tiếp nhận toàn bộ thủ tục hành chính thuộc th m quyền UBND tỉnh, Chủ tịch
UBND tỉnh và các sở, ban ngành trực thuộc. Qua thời gian hoạt động, bƣớc đầu đã,
đang nhận đƣợc sự hài lòng khá cao từ phía ngƣời dân, doanh nghiệp.
- Về năng lực, hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị:
Từ sau ngày tái lập tỉnh, hệ thống chính trị và hoạt động của hệ thống chính
trị đƣợc củng cố, kiện toàn; nâng cao năng lực lãnh đạo, quản lý trên các lĩnh vực.
Đảng bộ tỉnh Đắk Nông hiện có hơn 21.900 đảng viên, 13 đảng bộ trực thuộc Tỉnh
ủy với 390 tổ chức cơ sở đảng; 100% thôn, buôn, bon, tổ dân phố đã có chi bộ. Hệ
thống chính quyền đƣợc củng cố, tăng cƣờng từ tỉnh đến cơ sở. Toàn tỉnh hiện có
gần 2.200 biên chế công chức trong các cơ quan, tổ chức hành chính chƣa tính
công chức cấp xã). Tổ chức bộ máy các cơ quan, đơn vị của tỉnh liên tục đƣợc kiện
toàn, xây dựng hợp lý; chức năng, nhiệm vụ đƣợc phân định rõ ràng giữa cơ quan
hành chính và đơn vị sự nghiệp công. Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị -
xã hội có sự thay đổi tích cực về phƣơng thức hoạt động: phát triển đoàn viên, hội
41
viên; từng bƣớc đổi mới nội dung, phƣơng thức hoạt động, đa dạng các hình thức
tập hợp quần chúng.
Tuy vậy, việc triển khai tổ chức thực hiện cơ chế, chính sách, các giải pháp
về phát triển báo chí nói riêng, truyền thông đại chúng nói chung và thực thi về
pháp luật về các lĩnh vực này còn thiếu đồng bộ. Hoạt động quản lý, điều hành của
chính quyền các cấp còn nhiều hạn chế, thể hiện ở tầm nhìn, năng lực tổ chức thực
hiện. Đây là điểm nghẽn chƣa đƣợc khai thông trong dòng chảy phát triển ở Đắk
Nông trong nhiều năm qua, có tác động không thuận đối với hoạt động báo chí và
công tác quản lý hoạt động báo chí. Ví dụ về Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh
của Đắk Nông nói trên cho thấy điểm nghẽn chƣa đƣợc khai thông ấy cần phải đặc
biệt lƣu tâm.
2.1.2. Yếu tố chủ quan
2.1.2.1. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên
- Vị trí địa lý:
Tỉnh Đắk Nông ngày nay đƣợc hình thành trên cơ sở một vùng đất lâu đời,
trải qua nhiều sự thay đổi địa giới hành chính qua các thời kỳ lịch sử. Từ ngày
01/01/2004, tỉnh Đắk Nông đƣợc thành lập theo Nghị quyết số 23/2003/QH11 ngày
26/11/2003 của Quốc hội trên cơ sở chia tách từ tỉnh Đắk Lắk, đến nay đã trải qua
gần 14 năm xây dựng và phát triển.
Về điều kiện giao thƣơng, nằm ở cửa ngõ Nam Tây Nguyên, Đắk Nông có
các tuyến Quốc lộ 14 và Quốc lộ 28 đi qua và 130 km đƣờng biên giới tiếp giáp
Vƣơng quốc Campuchia, với 02 cửa kh u quốc tế Bu Prăng và Đắk Peur. Đắk Nông
cũng là tỉnh nằm trong “Tam giác phát triển” của ba nƣớc Đông dƣơng là Việt Nam
– Lào - Campuchia đang đƣợc Chính phủ 3 nƣớc quan tâm tích cực đầu tƣ xây dựng
nhằm tạo bƣớc đột phá về xây dựng kết cấu hạ tầng, đặc biệt là phát triển giao thông
đƣờng bộ, tạo sự kết nối giữa các trung tâm, phát triển mạnh mối quan hệ kinh tế
liên vùng thông qua các chƣơng trình hợp tác.
42
Vị trí địa lý này tạo điều kiện cho Đắk Nông có thể mở rộng giao lƣu với các
tỉnh trong khu vực Tây Nguyên; vùng kinh tế trọng điểm phía Nam; Duyên hải
miền Trung và các nƣớc trong tam giác phát triển...
- Điều kiện tự nhiên: Đắk Nông có diện tích tự nhiên 6.515 km2, nằm trọn trên cao nguyên
M’Nông, có địa hình đa dạng. Địa hình cao nguyên có dạng vòm, trung tâm là khu
vực chân dãy núi Nâm Nung độ cao trung bình trên 900-1000 m; Thấp dần về các
phía ở độ cao 300-500 m. Cao nguyên nằm xen giữa vùng núi thấp Nâm Nung ở
phía Đông Bắc có độ cao 600-1560 m; vùng núi thấp Tà Đùng ở phía Đông nam
600-1980 m và vùng bán bình nguyên Ea Súp ở phía Bắc 240-300 m.
Tài nguyên khí hậu Đắk Nông khá phong phú, chế độ nhiệt thích hợp và
nhiệt độ, ánh sáng tƣơng đối đều quanh năm. Do địa có dạng vòm, bát úp nên nhiều
hồ, thác nƣớc đẹp, phong phú, có thể khai thác cho nhiều mục đích nhƣ phục vụ
tƣới tiêu cho nông nghiệp, thủy điện, nuôi trồng thủy sản, tạo cảnh quan sinh
thái...Tỉnh có tiềm năng lớn phát triển du lịch với nhiều di tích, điểm du lịch sinh
thái nhƣ Vƣờn quốc gia Tà Đùng, Khu bảo tồn thiên nhiên Nam Nung và đặc biệt là
hệ thống hang động núi lửa mới đƣợc phát hiện dọc sông Sêrêpôk, đƣợc đánh giá là
hiếm có và dài nhất Đông Nam Á. Hiện tỉnh Đắk Nông đang trong hành trình hoàn
thiện hồ sơ trình UNESSCO công nhận công viên địa chất toàn cầu. Đây đƣợc xem
là điểm nhấn du lịch của tỉnh trong nay mai.
Ngoài ra, với tổng diện tích đất tự nhiên là 651.561 ha, một trong những ƣu
thế của Đắk Nông là thổ nhƣỡng khá phong phú và đa dạng với 35% là đất đỏ
banzan phù hợp với phát triển cây công nghiệp dài ngày; cùng khoảng 20 loại
khoáng sản; trong đó, bô xít là có trữ lƣợng dự đoán lên đến 5,4 tỉ tấn và hiện đang
đƣợc Chính phủ, tỉnh Đắk Nông đầu tƣ khai thác lƣợng khoáng sản dồi dào này.
Những đặc điểm về tài nguyên thiên nhiên, khoáng sản là yếu tố để Đắk
Nông thu hút sự quan tâm của truyền thông, qua đó góp phần quảng bá hình ảnh của
Đắk Nông. Trong hơn 10 năm trở lại đây công chúng trong và ngoài nƣớc biết
43
nhiều đến Đắk Nông qua thông tin của truyền thông về dự án khai thác bô xít, hay
nhƣ mới đây là việc phát hiện hệ thống hang động núi lửa ở huyện Krông Nô.
2.1.2.2. Kinh tế-xã hội
Sau hơn gần 14 năm thành lập tỉnh, với tinh thần tự lực, tự cƣờng, năng động,
sáng tạo, cùng với sự quan tâm giúp đỡ của Trung ƣơng, Đảng bộ và nhân dân Đắk
Nông đã nỗ lực khắc phục khó khăn, phát huy thuận lợi, giành đƣợc nhiều thành tựu
quan trọng. Nền kinh tế phát triển nhanh trên các lĩnh vực theo hƣớng tích cực phát huy
tiềm năng lợi thế của tỉnh. Thu nhập bình quân đầu ngƣời năm tăng liên tục qua các năm.
- Về kinh tế:
Giai đoạn 2010 – 2017, trong bối cảnh kinh tế Việt Nam và thế giới có nhiều
khó khăn, nhƣng Đắk Nông vẫn duy trì mức độ tăng trƣởng 12,6% năm. Thu nhập
bình quân đầu ngƣời/ năm tăng hàng năm, đến 2017 đạt hơn 42 triệu đồng. Cơ cấu
chuyển dịch kinh tế theo hƣớng tích cực. Tỷ trọng công nghiệp và xây dựng chiếm
22,4%, dịch vụ tăng chiếm 22,64%, nông nghiệp chiếm 55,32%. Tổng thu ngân
sách nhà nƣớc đều tăng qua các năm, năm 2017 đạt 2.000 tỷ đồng.
Từ sau 2004, với sự quan tâm đầu tƣ từ Trung ƣơng, diện mạo kinh tế Đắk
Nông đã có những thay đổi to lớn trên hầu khắp các lĩnh vực. Nhằm phát huy lợi thế
về tài nguyên khoáng sán, từ năm 2010, Chính phủ đã quan tâm triển khai dự án thí
điểm khai thác và chế biến quặng bô xít tại Đắk Nông. Bƣớc đầu đã hình thành tổ
hợp sản xuất nhôm đầu tiên của cả nƣớc với Nhà máy Alumin Nhân Cơ và Nhà máy
luyện Nhôm Trần Hồng Quân. Năm 2017, Nhà máy Alumil Nhân Cơ huyện Đắk
R’lấp) bắt đầu sản xuất thƣơng mại và xuất kh u đƣợc khoảng 500.000 tấn alumil.
Hiện Công ty Nhôm Trần Hồng Quân Đắk Nông đang trong quá trình hoàn thiện
nhà máy, dự kiến đến giữa năm 2019 sẽ cho ra sản ph m nhôm đầu tiên, tạo ra
chuỗi giá trị liên hoàn có gia trị gia tăng cao...
- Xã hội:
Kinh tế có bƣớc phát triển đã giúp cho tỉnh có điều kiện chăm lo công tác an sinh
xã, đặc biệt là những đối tƣợng nghèo, yếu thế trong xã hội...Nhiều chƣơng trình mục
tiêu quốc gia đƣợc lồng ghép các nguồn triển khai tƣơng đối hiệu quả, tạo ra sự thay đổi,
44
chuyển biến nhanh ở những vùng khó khăn. , Trong những năm qua, Đắk Nông đã
quan tâm đầu tƣ xây dựng các thiết chế văn hóa, bảo tồn, phát huy các giá trị văn
hóa truyền thống, v.v Công tác chăm lo xóa đói giảm nghèo, đặc biệt là vùng
đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu vùng xa đƣợc tỉnh quan tâm. Từng bƣớc hình
thành môi trƣờng, dịch vụ hƣởng thụ văn hóa cho nhân dân. Công tác bảo vệ, chăm
sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân đƣợc quan tâm đầu tƣ. Hệ thống trƣờng học các
cấp tăng nhanh về số lƣợng, mở rộng về quy mô. Các thiết chế và hoạt động đảm
bảo an sinh xã hội cho nhân dân đƣợc đầu tƣ có hệ thống và từng bƣớc phát huy
hiệu quả. Qua đó cải thiện và từng bƣớc nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân
dân, đồng thời trình độ dân trí ngƣời dân từng bƣớc cũng đƣợc nâng lên.
Tuy vậy, so với mặt bằng chung của cả nƣớc, Đắk Nông vẫn là một tỉnh
chậm phát triển, có quy mô nền kinh tế còn nhỏ bé. Tốc độ phát triển kinh tế tuy
cao, song chƣa tạo ra những bƣớc đột phá phát triển. Hệ thống hạ tầng thiết yếu còn
thiếu, đặc biệt là hạ tầng giao thông và các thiết chế an sinh xã hội. Thu ngân sách
chƣa đủ cho chi thƣờng xuyên. Nguồn chi cho đầu tƣ phát triển và các chƣơng trình
mục tiêu, trong đó có đầu tƣ cho phát triển sự nghiệp báo chí, truyền thông phụ
thuộc hoàn toàn vào ngân sách Trung ƣơng.
Đời sống vật chất của nhân dân đƣợc nâng cao, nhƣng môi trƣờng văn hóa
chƣa đáp ứng đƣợc nhu cầu hƣởng thụ tinh thần. Thiết chế văn hóa cơ sở ở Đắk
Nông còn trong tình trạng “vừa thiếu, vừa yếu”, phân bố không đồng đều. Mặt bằng
dân trí còn có sự chênh lệch, nhận thức không đồng đều đòi hỏi phải có sự đa dạng,
đổi mới về phƣơng thức tuyên truyền của báo chí cũng nhƣ công tác định hƣớng,
quản lý hoạt động của cơ quan nhà nƣớc nếu muốn tiếp cận đối tƣợng.
Trong khi nhà nƣớc chƣa đủ tiềm lực “chiếm lĩnh”, chi phối mặt trận truyền
thông trên địa bàn, thì sự bùng nổ các phƣơng tiện truyền thông đặt ra nhiều thách
thức đối với các chủ thể quản lý trong việc kiểm soát thông tin, định hƣớng thông
tin. Đặc biệt là đối với một địa phƣơng là địa bàn mà các thế lực thù địch, chống
phá xác định là trọng điểm, luôn tìm cách tạo cớ, kích động các vấn đề dân tộc, tôn
giáo hòng gây bất ổn quốc phòng – an ninh.
45
Mặt khác, quá trình triển khai các dự án phát triển kinh tế - xã hội phát sinh
những vấn đề liên quan đến yếu tố môi trƣờng, áp lực giải quyết vấn nạn dân di cƣ
tự do (Theo báo cáo của Tỉnh ủy Đắk Nông, dân di cƣ tự do từ các địa phƣơng khác
đến tỉnh từ năm 1996 – 2017 là 23.479 hộ, với 107.595 kh u), hiệu quả kinh tế, đảm
bảo quốc phòng an ninh, v.v thu hút sự quan tâm của dƣ luận trong và ngoài nƣớc
thông qua sự phản ánh của báo chí, truyền thông trong và ngoài nƣớc. Bên cạnh
những thông tin tích cực, có không ít những thông tin sai lệch, thậm chí xuyên tạc.
Đòi hỏi các chủ thể quản lý hoạt động báo chí phải có giải pháp quản lý phù hợp để
ngăn chặn, xử lý các luồng thông tin xấu, độc liên quan đến địa phƣơng.
2.1.2.3. D n cư và phong tục tập quán
Về tổ chức hành chính và dân cƣ, Đắk Nông hiện có 8 đơn vị hành chính cấp
huyện; 71 xã, phƣờng, thị trấn. Dân số đến cuối năm 2017 là 630.000 ngƣời. Mật độ dân
cƣ phân bố không đều, tập trung ở các trung tâm
Đắk Nông là vùng đất có sự đa dạng về văn hóa, với 40 dân tộc anh em cùng
sinh sống, trong đó, đồng bào dân tộc thiểu số chiếm khoảng 31,5% dân số toàn tỉnh.
Đắk Nông có 3 tộc ngƣời bản địa là M’nông, Mạ, Ê đê, chiếm khoảng 30% trong dân tộc
thiểu số toàn tỉnh. Đây là vùng đất nổi tiếng bởi những bộ sử thi M’Nông Ot
N’Rông với độ dài hàng nghìn câu; với những bộ đàn đá có niên đại hàng ngàn
năm về trƣớc.
Bên cạnh đặc trƣng văn hóa của các dân tộc thiểu số tại chỗ, trong quá trình
xây dựng đất nƣớc, sự có mặt của nhiều dân tộc anh em trên vùng đất mới đã mang
đến cho bức tranh văn hóa Đắk Nông thêm nhiều sắc thái, hình thành nên sự đa
dạng, phong phú về văn hóa.
Tóm lại, tuy còn không ít các yếu tố khó khăn, thách thức mang tính chủ quan,
khách quan, song với những thuận lợi về điều kiện tự nhiên, vị trí địa lý, kinh tế-xã
hội...đang từng bƣớc đi lên theo lộ trình, cùng với tiềm năng về văn hóa, sự đoàn kết,
truyền thống cách mạng của đồng bào các dân tộc, trong tƣơng lai, Đắk Nông hứa hẹn sẽ
trở thành một trong những trung tâm phát triển năng động của khu vực Tây Nguyên.
Ngoài ra, cùng với đời sống văn hoá và lịch sử đa dạng chứa đựng nhiều đề tài hấp dẫn,
46
sẽ tạo ra nguồn thông tin đa dạng, phong phú trên tất cả các lĩnh vực. Đây cũng chính là
môi trƣờng thuận lợi, lý tƣởng và là tiềm năng cung cấp tài nguyên thông tin phong phú,
tạo điều kiện cho hoạt động thông tin báo chí phát triển, có tính đặc trƣng so với hệ thống
báo chí của các khu vực khác.
2.2. Thực trạng hoạt động báo chí trên địa bàn tỉnh Đắk Nông
Ngày 01/01/2004, tỉnh Đắk Nông chính thức đƣợc chia tách, thành lập thành đơn
vị hành chính cấp tỉnh. Cũng vào thời điểm này, các cơ quan báo chí, hệ thống phát
thanh – truyền hình tỉnh Đắk Nông cũng đã có quyết định thành lập và chính thức phát
sóng chƣơng trình, phát hành số báo đầu tiên của mình để phục vụ nhiệm vụ chính trị
của tỉnh. Trong gần 14 năm qua, hoạt động báo chí ngày càng phát triển mạnh mẽ về số
lƣợng và chất lƣợng đáp ứng yêu cầu công tác tuyên truyền các nhiệm vụ chính trị tại địa
phƣơng. Đội ngũ cán bộ, phóng viên, nhà báo ngày càng đông và có bƣớc trƣởng thành
về bản lĩnh chính trị, tƣ tƣởng và nghiệp vụ chuyên môn. Các tác ph m báo chí chất
lƣợng cao ngày càng nhiều, đáp ứng nhu cầu thông tin của nhân dân.
Đến cuối năm 2017, trên địa bàn tỉnh Đắk Nông có các hoạt động TTĐC cơ
bản sau: (i) Hoạt động của các cơ quan báo chí. Có 03 cơ quan báo chí địa phƣơng;
01 văn phòng đại diện cơ quan báo chí, 02 cơ quan thƣờng trú và gần 40 có quan
báo chí trung ƣơng và địa phƣơng ngoài tỉnh có đăng ký hoạt động báo chí trên địa
bàn tỉnh. (ii) Hoạt động của hệ thống đài truyền thanh cấp huyện, cấp xã: (iii) Hoạt
động của bản tin, cổng, trang thông tin điện tử của UBND, tổ chức chính trị, chính
trị - xã hội, cơ quan nhà nƣớc các cấp. (iv) Hoạt động của 3 đơn vị truyền hình trả
tiền.
Từ góc độ là đối tƣợng quản lý, phân theo loại hình, hoạt động truyền thông
đại chúng trên địa bàn tỉnh Đắk Nông trong giai đoạn 2010 – 2017 có những điểm
cơ bản sau:
Hoạt động của các cơ quan báo chí địa phƣơng
Đến 31 12 2017, trên địa bàn tỉnh Đắk Nông có 3 cơ quan báo chí là: Báo
Đắk Nông, Đài PT-TH Đắk Nông và Tạp chí Nâm Nung. – cơ quan chủ quản là Hội
Văn học – Nghệ thuật tỉnh Đắk Nông.
47
2.2.1. Báo Viết
- Báo Đắk Nông:
Báo Đắk Nông trực thuộc Tỉnh ủy Đắk Nông, đƣợc thành lập ngày 08/01/2004,
theo Quyết định số 31-QĐ BCHLT của Ban Chấp hành Lâm thời tỉnh Đắk Nông. Là cơ
quan ngôn luận của Đảng bộ và nhân dân các dân tộc tỉnh Đắk Nông, Báo Đắk Nông có
nhiệm vụ tuyên truyền chủ trƣơng, đƣờng lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nƣớc, các nhiệm vụ kinh tế - xã hội của địa phƣơng; phản ánh tâm tƣ, nguyện vọng của
quần chúng nhân dân đối với Đảng, Nhà nƣớc; cổ vũ tinh thần yêu nƣớc, động viên quần
chúng nhân dân tích cực tham gia thực hiện các nhiệm vụ kinh tế - xã hội vì sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; biểu dƣơng các gƣơng điển
hình tiên tiến, phê bình, đấu tranh với các biểu hiện và hành vi tiêu cực trong xã hội...
Tổ chức bộ máy của Báo Đắk Nông đƣợc kiện toàn với số lƣợng ngày càng tăng
lên nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển của cơ quan Báo Đảng địa phƣơng. Đội ngũ cán bộ,
phóng viên Báo Đắk Nông đến hết tháng 12 2014 là 52 ngƣời; trong đó có 25 ngƣời đã
đƣợc Cấp Thẻ Nhà báo và hầu hết đều là Hội viên Hội Nhà Báo Việt Nam. Báo hiện có
khoảng trên 200 cộng tác viên, trong đó, cộng tác viên trong tỉnh là 170 ngƣời. Tỷ lệ sử
dụng tin, bài của cộng tác viên hàng tháng đạt khoảng 20%.
+ Sản ph m Báo in, Báo ảnh của Báo Đắk Nông:
Báo Đắk Nông hiện là cơ quan báo chí có nhiều hình thức/ ấn ph m thông tin.
Trong đó, Báo in Đắk Nông thƣờng kỳ, Báo in Đắk Nông cuối tuần đƣợc xác định là ấn
ph m chủ lực thông tin thời sự, chính trị trong tỉnh, trong nƣớc và quốc tế. Những năm
gần đây, Báo Đắk Nông đã không ngừng cải tiến nội dung, hình thức, bổ sung nhiều
chuyên trang, chuyên mục mới đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của bạn đọc. Số kỳ
phát hành Báo Đắk Nông trong tuần hình 2.1 ngày càng tăng, cụ thể:
+ Từ tháng 01 2004 đến 06/2004: Phát hành 1 kỳ/tuần
+ Từ tháng 7 2004 đến 12/2004: Phát hành 2 kỳ/tuần.
+ Từ tháng 01 2005 đến 12/2010: Phát hành 3kỳ/tuần.
+ Từ tháng 01 2011 đến 12/2013: Phát hành 4 kỳ/tuần
+ Từ tháng 01 2014 đến nay: Phát hành 5 kỳ/tuần.
48
Đồ thị 2.1: Số kỳ báo Đắk Nông phát hành hàng tu n tăng qua các thời
kỳ
Nguồn: [8, 9, 10].
Mỗi năm, Báo Đắk Nông phát hành bình quân 7.000 tờ/ kỳ và đƣợc xem là
một trong những Báo Đảng địa phƣơng có số lƣợng phát hành cao trên cả nƣớc (so
với tổng số phát hành/ vạn dân . Đặc biệt, báo phát hành bảo đảm đối tƣợng theo
quy định của Chỉ thị 11-CT/TW của Bộ Chính trị về mua, đọc và làm theo Báo
Đảng, đồng thời mở rộng tới các đối tƣợng là trƣởng thôn, trƣởng đài, điểm Bƣu
điện văn hóa xã và ngƣời có uy tín trong cộng đồng.
Ngoài ra, nhằm tạo thêm cầu nối chuyển tải một cách hiệu quả chủ trƣơng,
chính sách, đƣờng lối của Đảng đến với đồng bào dân tộc thiểu số, từ năm 2011,
Báo Đắk Nông xuất bản thêm ấn ph m Báo ảnh song ngữ Việt – M’Nông và từ năm
2012, xuất bản Báo ảnh 3 thứ tiếng Việt – M’nông – Mông với lƣợng phát hành gần
224.000 tờ báo năm xuống cơ sở phục vụ đồng bào dân tộc thiểu số trên địa bàn
tỉnh. Đồng thời, duy trì việc phối hợp với Thông tấn xã Việt Nam biên dịch mỗi
năm 12 số “Báo ảnh Dân tộc và Miền núi” song ngữ Việt – M’nông.
Việc phát hành sản ph m Báo ảnh tích hợp đƣợc ngôn ngữ của ngƣời dân tộc
thiểu số phổ biến tại địa phƣơng là bƣớc tiến trong việc đổi mới phƣơng thức tuyên
49
truyền, vừa đảm bảo thông tin bằng hình ảnh dễ hiểu, đơn giản, gần gũi vừa phù
hợp với đặc thù văn hóa địa phƣơng vốn có ngƣời dân bản địa chính là ngƣời M’
Nông và một số lƣợng đông đảo ngƣời Mông di cƣ từ các tỉnh phía Bắc vào hiện
đang cƣ trú tại khắp các địa phƣơng trong tỉnh. Trang thông tin điện tử (tên miền
www.baodaknong.org.vn).
Tạp chí Nâm Nung là cơ quan thuộc Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Đắk Nông,
là diễn đàn về văn học, nghệ thuật của lực lƣợng văn nghệ sỹ Đắk Nông. Chính thức
xuất bản số đầu tiên từ tháng 6/2005. Tạp chí Nâm Nung xuất bản 01 kỳ/tháng,
dung lƣợng 80 trang, số lƣợng phát hành 420 bản/ kỳ.
2.2.2. Báo hình – báo nói
- Đài Phát thanh – Truyền hình Đắk Nông:
Là đơn vị sự nghiệp trực thuộc UBND tỉnh Đắk Nông. Hoạt động truyền
thông của Đài PTTH tỉnh Đắk Nông thực hiện trên 03 loại hình: phát thanh (thời
lƣợng 12 giờ/ngày), truyền hình (thời lƣợng khoảng 18h/ngày) và trang thông tin
điện tử (tên miền www.ptthdaknong.org.vn. Trong đó, chƣơng trình tự sản xuất
khoảng 50% thời lƣợng phát sóng, còn lại là các chƣơng trình giải trí, chƣơng trình
liên kết thực hiện và chƣơng trình do đài truyền thanh – truyền hình cấp huyện sản
xuất và cung cấp.
Mặc dù là tỉnh mới, còn nhiều khó khăn về cơ sở hạ tầng, nguồn vốn đầu tƣ
cho hoạt động báo chí, nhƣng các cơ quan báo chí ở Đắk Nông đã chú trọng đầu tƣ
theo xu hƣớng phát triển của báo chí hiện đại. Đài PT-TH Đắk Nông là một trong số
đài PT-TH đầu tiên ở Tây Nguyên đã thực hiện phát sóng vệ tinh (từ tháng
12 2013 ; đảm bảo phủ sóng 100% trên địa bàn tỉnh và 1 3 các nƣớc khu vực Đông
Nam Á. Đài PT-TH Đắk Nông đã tự thực hiện đƣợc việc phát sóng truyền hình trực
tiếp các sự kiện chính trị, xã hội quan trọng ở địa phƣơng; mở rộng việc liên kết
sóng, phối hợp hòa sóng nhiều chƣơng trình trình truyền hình trực tiếp với gần 30
đài PT-TH khu vực Tây Nguyên, Đông Nam bộ, Nam bộ. Đồng thời phát lại các
chƣơng trình truyền thanh, truyền hình của Đài trên Trang thông tin điện tử
50
Về phát sóng truyền hình, Đài PTTH Đắk Nông thực hiện phát sóng mặt đất
chƣơng trình truyền hình thời sự, chính trị tổng hợp, có logo PTD trên kênh 10
UHF. Tuy còn gặp nhiều khó khăn nhƣng với nỗ lực của tập thể cán bộ viên chức
Đài, thời lƣợng và chất lƣợng chƣơng trình của Đài không ngừng tăng lên. Từ năm
2010, thời lƣợng phát sóng của Truyền hình là 18 giờ 30 phút ngày; trong đó thời
lƣợng tự sản xuất đạt 4 giờ/ ngày. Thời lƣợng phát sóng của Phát thanh là 12 giờ/
ngày; trong đó thời lƣợng tự sản xuất đạt 12 giờ/ ngày. Thời lƣợng tiếp phát các
chƣơng trình kênh VTV1, VTV2, VTV3, VTV6 của Đài Truyền hình Việt Nam là
24 giờ/ ngày/ kênh. Thời lƣợng tiếp phát các chƣơng trình kênh VOV1, VOV2,
VOV4 của Đài Tiếng nói Việt Nam là 24 giờ/ ngày/ kênh.
Cùng với hơn 40 địa phƣơng khác trong cả nƣớc, chƣơng trình Truyền hình
Đắk Nông đã chính thức đƣa lên vệ tinh Vinasat 2 từ ngày 30 12 2013, đảm bảo
phủ sóng 100% trên địa bàn tỉnh và 1 3 các nƣớc khu vực Đông Nam Á; chất lƣợng
và thời lƣợng tự sản xuất tăng lên 40% tổng thời lƣợng phát sóng. Việc đƣa sóng
Truyền hình Đắk Nông lên vệ tinh đã cơ bản khắc phục đƣợc trở ngại về địa hình,
có thể phủ sóng đến tất cả các vùng lõm, những nơi mà kênh phƣơng thức truyền
dẫn khác không thể vƣơn tới đƣợc; đồng thời đã hỗ trợ lớn, tạo thuận lợi trong công
tác đối ngoại của tỉnh, tăng cƣờng giao lƣu văn hóa vùng miền. Đây cũng là hƣớng
phát triển phù hợp với lộ trình của Quyết định số 2451 QĐ-TTg ngày 27/12/2011
của Thủ tƣớng Chính phủ phê duyệt Đề án số hóa truyền dẫn, phát sóng truyền hình
mặt đất đến năm 2010.
Kinh phí hoạt động của các cơ quan báo chí chủ yếu là từ nguồn ngân sách
nhà nƣớc. Mặc dù có cơ chế tạo nguồn thu thông qua phát hành, quảng cáo, liên kết
truyền thông, v.v những với điều kiện thực tế ở Đắk Nông những nguồn thu này
không đáng kể. Báo Đắk Nông, Tạp chí Nâm Nung không phát hành đƣợc ra ngoài
thị trƣờng, mà chủ yếu phát hành trong hệ thống chính trị và đƣợc UBND tỉnh đặt
mua để cấp miễn phí cho một số đối tƣợng ở cơ sở. Giá bán báo dƣới giá thành.
Nguồn thu ngoài ngân sách có tăng nhƣng ở mức độ thấp, không bền vững; chƣa có
khả năng tích lũy để tái đầu tƣ, nâng cấp cơ sở hạ tầng. Các cơ quan báo phải thực
51
hiện các nhiệm vụ công ích, phát hành và phục vụ các đối tƣợng ngƣời nghèo, khu
vực kinh tế khó khăn, vùng sâu, vùng xa. Những khu vực và đối tƣợng này không
có hiệu quả về kinh tế đã tạo ra gánh nặng rất lớn cho các cơ quan báo chí.
Về hoạt động thông tin, trong giai đoạn 2010 – 2017 báo chí địa phƣơng ở
Đắk Nông đã thực hiện khá tốt chức năng nhiệm vụ là cơ quan ngôn luận của Đảng
bộ, Chính quyền tỉnh và là diễn đàn của nhân dân các dân tộc tỉnh Đắk Nông. Các
cơ quan báo chí tuân thủ sự lãnh đạo, chỉ đạo, định hƣớng thông tin của Đảng bộ và
Chính quyền tỉnh; hoàn tành tốt nhiệm vụ chính trị đƣợc giao, thông tin, phản ánh
khá toàn diện, sinh động thành tựu trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế - xã hội, quốc
phòng an ninh, đối ngoại và thực tiễn công cuộc xây dựng và phát triển Đắk Nông.
Báo chí địa phƣơng ngày càng thể hiện rõ vai trò là cầu nối giữa Đảng bộ, Chính
quyền tỉnh với nhân dân, đƣa chủ trƣơng, đƣờng lối của Đảng, Nhà nƣớc, của Đảng
bộ, Chính quyền tỉnh đến với cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân. Công tác
biên tập đƣợc chú trọng nên cơ bản không để xảy ra tình trạng đƣa tin sai lệch, trái
với định hƣớng tuyên truyền của Đảng.
Điểm hạn chế trong hoạt động của báo chí địa phƣơng là kết quả hoạt động
truyền thông còn đơn điệu. Hiện tƣợng phóng viên báo chí địa phƣơng, làm việc
theo tinh thần viên chức hành chính sự nghiệp khá phổ biến. Nội dung thông tin
thời sự chủ yếu là thông tin hội họp, ít đề cập đến những vấn đề nổi cộm trong đời
sống xã hội. Thực trạng đó dẫn đến bài viết rất nhạt nhẽo và không đáp ứng đƣợc
nhu cầu bạn đọc, làm cho tờ báo kém hấp dẫn. Nhƣ nhận xét của PGS.TS Nguyễn
Văn Dững:
“Luồng thông tin chính thống, từ các cơ quan báo chí của hệ thống chính trị,
chủ yếu là báo in, tạp chí, đài phát thanh, tru ền hình và báo mạng điện tử cung
cấp thông tin chính thống với vai trò chủ yếu là định hướng DLX . Nhưng luồng
thông tin này ngoài một số ưu đi m như chính danh, chính thống, về cơ bản đúng
định hướng của Đảng và Nhà nước, bảo đảm chất lư ng văn h a, chất lư ng
chu ên môn, nhưng lại có nh ng như c đi m cố h u, nổi trội là đơn điệu, nghèo
nàn, chậm chạp và nhất là chưa đảp ứng nhu c u thông tin phong phú, đa dạng, đa
52
chiều của công chúng xã hội. H u như ph n đa công chúng chưa mấy thú vị với
luồng thông tin này; tỷ lệ công chúng tiếp nhận thấp - Nguyễn Văn Dững (2012),
uan đi m của Đảng và Nhà nước về công tác tư tưởng, lý luận và quản lý báo chí,
Tài liệu Học viện Báo chí tuyên truyền, Hà Nội [25, tr. 23]
- Hệ thống đài tru ền thanh – truyền hình cấp huyện và trạm truyền thanh
cấp xã:
Tỉnh Đắk Nông hiện có 08 đài truyền thanh – truyền hình cấp huyện đang
hoạt động, có diện phủ sóng trong phạm vi của từng huyện, thị xã. Đài Truyền
thanh – Truyền hình cấp huyện là đơn vị trực thuộc UBND cấp huyện tại địa
phƣơng. Tổ chức bộ máy của đài Truyền thanh – Truyền hình cấp huyện thực hiện
theo Thông tƣ liên tịch số 17/2010/TTLT/BTTTT-BNV ngày 27/7/2010 của Bộ
TTTT và Bộ Nội vụ hƣớng dẫn thực hiện chức năng nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức
của Đài PTTH thuộc UBND cấp tỉnh, Đài Truyền thanh - Truyền hình thuộc UBND
cấp huyện, gồm: 02 lãnh đạo Đài và các tổ, bộ phận chuyên trách gồm: Hành chính,
Kỹ thuật và Nội dung chƣơng trình.
Tùy và điều kiện cụ thể của mỗi địa phƣơng, mỗi Đài huyện có khung kế
hoạch sản xuất và phát sóng chƣơng trình truyền thanh riêng; trong đó, tự sản xuất
và phát sóng ít nhất 03 chƣơng trình truyền thanh gốc, phát vào các ngày trong tuần
và xây dựng Trang địa phƣơng để phát sóng trên đài PTTH tỉnh Đăk Nông. Nhằm
đảm bảo thực hiện nhiệm vụ chính trị đối với hoạt động tuyên truyền tại địa
phƣơng, hầu hết các đài TTTH cấp huyện đảm bảo việc tiếp và phát sóng của đài
tỉnh và trung ƣơng, kịp thời chuyển tải nội dung thông tin đến quần chúng nhân dân.
Công tác tuyên truyền các nhiệm vụ chính trị xã hội tại địa phƣơng đƣợc bảo đảm
và kịp thời.
Tại các địa phƣơng, ngoài hệ thống Đài TTTH cấp huyện còn có trạm truyền
thanh cơ sở xã, phƣờng, thị trấn. Chức năng chủ yếu của các trạm truyền thanh xã là
tiếp âm chƣơng trình phát thanh của Đài TNVN, Đài PT-TH Đắk Nông, Đài huyện
và sản xuất chƣơng trình phát thanh phát sóng phục vụ nhân dân địa phƣơng.
53
Đến nay, trên địa bàn tỉnh có 68 71 xã, phƣờng, thị trấn có trạm truyền
thanh. Trạm truyền thanh xã do UBND cấp xã quản lý nhân lực, kinh phí, trang
thiết bị, đài truyền thanh huyện hƣớng dẫn chuyên môn, nghiệp vụ, phòng Văn hóa
và Thông tin quản lý nhà nƣớc. Mặc dù đƣợc nhà nƣớc đầu tƣ khá lớn thông qua
Chƣơng trình mục tiêu quốc gia đƣa thông tin về cơ sở giai đoạn 2010 – 2015,
nhƣng chƣa phát huy đƣợc hiệu quả nhƣ mong muốn.
Hạn chế lớn nhất là chất lƣợng hoạt động không đảm bảo. Kết quả khảo sát
cho thấy chỉ có khoảng 15% hoạt động tốt, 3% hoạt động khá, 30% trạm hoạt động
trung bình, còn lại không hoạt động, hoặc hoạt động cầm chừng. Nguyên nhân
chính là do thiếu nguồn kinh phí cho hoạt động duy tu, bảo dƣỡng; nhân sự quản lý
trạm truyền thanh đa phần kiêm nhiệm, thiếu trình độ chuyên môn, lại thƣờng
xuyên thay đổi vị trí nên không chỉ thiếu chuyên môn nghiệp vụ mà còn không điều
hành đƣợc hoạt động của trạm.
- Hoạt động của các trang thông tin điện tử, bản tin:
Đến 31 12 2017, trên địa bàn tỉnh Đắk Nông có 21 cơ quan, tổ chức có hoạt
động xuất bản bản tin, tập san định kỳ; 01 Cổng thông tin điện tử của UBND tỉnh
Đắk Nông và 50 trang thông tin điện tử.
Trang điện tử Báo Đắk Nông:
Báo điện tử Đắk Nông đƣợc đƣa vào hoạt động tại tên miền baodaknong.gov.vn
từ tháng 3 2009. Nhìn chung, Báo Điện tử Đắk Nông đã đăng tải đƣợc nhiều tin, bài có
chất lƣợng, phù hợp với tình hình thực tế của địa phƣơng góp phần tuyên truyền, định
hƣớng dƣ luận trong quần chúng nhân dân. Hàng ngày có khoảng hơn 100.000 lƣợt
ngƣời truy cập thông tin trên Trang Báo Đắk Nông Điện tử.
Báo Đắk Nông điện tử cũng đã thiết kế giao diện, lập trình riêng dành cho
điện thoại di động và máy tính bảng. Đặc biệt, sau thời gian chu n bị về nghiệp vụ,
nhân sự và phƣơng tiện, Báo Đắk Nông đã sản xuất và đƣa chƣơng trình Truyền
hình internet vào hoạt động liên tục với nhiều nội dung chọn lọc, phong phú đáp
ứng nhu cầu thông tin của bạn đọc; sản xuất 4 chƣơng trình thời sự truyền hình/
tháng. Mỗi chƣơng trình có thời lƣợng 10 – 15 phút, trong đó phần tin tức có thời
54
lƣợng từ 4-7 phút, phóng sự 5 – 6 phút. Năm 2016 sản xuất chƣơng trình điểm tin
hàng ngày. Phát triển Truyền hình Internet là một trong những nỗ lực phát triển loại
hình báo chí đa phƣơng tiện của Báo Đắk Nông, tích hợp giữa báo in, báo điện tử và
truyền hình.
Giai đoạn 2017 – 2020, Báo Đắk Nông có kế hoạch nâng cao chất lƣợng các
sản ph m, chuyển Trang điện tử thành báo điện tử, tích hợp thêm một số ứng dụng
nhƣ Chƣơng trình phát tranh Internet, mở rộng rộng ứng dụng mô hình Tòa soạn
điện tử.
Hiện Trang Báo Đắk Nông điện tử đang thử nghiệm và trong quá trình hoàn
thành thủ tục để lên Báo điện tử, nhằm khắc phục điểm yếu về diện phát hành của
báo in, tăng cƣờng thông tin trên mạng Internet nhằm giúp bạn đọc có thêm một
kênh để tiếp cận với Báo, đồng thời quảng bá hình ảnh của địa phƣơng trên phạm vi
rộng. vừa phù hợp với xu thế phát triển chung của báo chí cả nƣớc, vừa đáp ứng yêu
cầu phát triển ngày càng nhanh của nền kinh tế - xã hội tỉnh nhà, đồng thời phù hợp
với tinh thần của Đảng ta đối với phát triển nền báo chí Việt Nam theo hƣớng hiện
đại, tăng cƣờng mà Nghị quyết Hội nghị lần thứ mƣời Ban Chấp hành Trung ƣơng
Đảng khóa XI đã đề ra.
+ Cổng thông tin điện tử tỉnh Đắk Nông:
Cổng thông tin điện tử của tỉnh đã đăng tải các thông tin chỉ đạo, điều hành
của Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh, thông tin thời sự trong tỉnh, trong nƣớc và quốc
tế; thông tin tổng quan về tỉnh Đắk Nông; tin tức về hoạt động các sở, ban, ngành,
đoàn thể, địa phƣơng và nhân dân trong tỉnh; thông tin tuyên truyền, phổ biến chủ
trƣơng, chính sách pháp luật; liên kết tích hợp các trang thông tin điện tử thành viên
của các sở, ban, ngành, UBND các huyện, thị xã.
Trang tin điện tử các sở ngành:
Trang thông tin điện tử của các sở, ban, ngành, UBND các cấp cơ bản đúng
tôn chỉ, mục đích, bƣớc đầu cung cấp thông tin và ứng dụng công trực tuyến trên
môi trƣờng mạng đến ngƣời dân và doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh.
55
Trang thông tin điện tử của các sở, ban, ngành từng bƣớc đi vào hoạt động
ổn định; chủ yếu thực hiện chức năng cung cấp thông tin hoạt động nội bộ ngành,
lĩnh vực và giới thiệu, cung cấp một số văn bản chuyên ngành. Việc cung cấp các
dịch vụ công trực tuyến mới chỉ đƣợc thực hiện bƣớc đầu ở Sở Kế hoạch và Đầu tƣ.
Trang thông tin điện tử của một số cơ quan nhƣ Sở Thông tin và Truyền
thông, Sở Văn hóa - Thể thao và Du lịch, Sở Kế hoạch và Đầu tƣ, Sở Nông nghiệp
và Phát triển Nông thôn, huyện Cƣ Jút thông tin cập nhật thƣờng xuyên, đảm bảo
tính chính trị tƣ tƣởng; nội dung thông tin chuyên ngành, thông tin tham khảo khá
phong phú, đa dạng.
Mặt hạn chế, qua kiểm tra cho thấy, còn nhiều trang thông tin điện tử của các
cơ quan, đơn vị chƣa kịp thời cung cấp thông tin chính thống của đơn vị mình lên
website. Thông tin về hoạt động của ngành, công tác quản lý nhà nƣớc về lĩnh vực,
các kế hoạch, quy hoạch của phần lớn các trang web không nhiều; lƣợng thông
tin đƣợc cập nhật trên trang web phần lớn đƣợc khai thác và dẫn nguồn từ các báo
khác.
Một số website của cơ quan hành chính nhà nƣớc đƣợc lƣu trữ trên hệ thống
máy chủ Server đặt tại các doanh nghiệp cho thuê hosting ngoài tỉnh; cơ quan
quản lý website không thể kiểm soát đƣợc thông tin của mình đang nằm ở đâu, ai
đƣợc quyền truy cập vào server và ít đƣợc hỗ trợ nâng cấp, bổ sung hoàn thiện
website. Đây cũng là mối nguy cơ mất an toàn an ninh thông tin cao.
Nhiều trang tin có những hạng mục nhƣ: Thông tin chỉ đạo điều hành, Văn
bản quy phạm pháp luật, thông tin về quy hoạch, kế hoạch... chƣa đƣợc cập nhật
đầy đủ, thậm chí còn để trống. Về cung cấp dịch vụ công trực tuyến trong một số
website chƣa đúng theo quy định tại Nghị định số 43 2011 NĐ-CP ngày 13/06/2011
Quy định về việc cung cấp thông tin và dịch vụ công trực tuyến trên trang thông tin
điện tử hoặc cổng thông tin điện tử của cơ quan nhà nƣớc theo Quy định tối thiểu
đạt ở Mức độ 2 trở lên , điển hình nhƣ: Trang thông tin điện tử của UBND các
huyện Krông Nô, Đắk R’lấp, Đắk G’Long, Đắk Song, Tuy Đức.
+ Các bản tin:
56
Hoạt động của các bản tin chủ yếu là tổ chức cung cấp thông tin trong lĩnh
vực chuyên môn của các cơ quan tham mƣu của Tỉnh ủy; các cơ quan quản lý nhà
nƣớc. Hoạt động của các bản tin có 02 xu hƣớng đáng lƣu ý là: 1 một số ít bản tin
đã đổi mới mạnh mẽ về nội dung, hình thức thông tin, tăng số lƣợng phát hành,
nhƣ: Thông báo nội bộ - Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy; Bản tin công tác Dân vận; Bản
tin Y tế; (2) ngừng xuất bản hoặc chuyển hình thức thông tin sang trang thông tin
điện tử.
Hoạt động của các cơ quan truyền thông báo chí trung ương và ngoài
tỉnh:
Đến 31 12 2017, trên địa bàn tỉnh Đắk Nông có 05 cơ quan báo chí Trung
ƣơng, ngành và địa phƣơng khác đăng ký hoạt động thƣờng trú; 15 cơ quan báo chí
có đăng ký cử phóng viên hoạt động thƣờng xuyên. Trong đó có 03 cơ quan báo chí
có văn phòng thƣờng trú, cơ quan đại diện Báo Nhân dân, Đài Tiếng nói Việt Nam,
Thông tấn xã Việt Nam).
Thời gian qua, hoạt động báo chí của các nhà báo, phóng viên thƣờng trú,
phóng viên, cộng tác viên cơ quan báo chí Trung ƣơng, ngành, địa phƣơng khác
(gọi tắt là cơ quan báo chí không phải của địa phƣơng trên địa bàn tỉnh Đắk Nông
cơ bản tuân thủ các quy định của pháp luật về báo chí; tích cực tuyên truyền các
đƣờng lối, chính sách của Đảng, Nhà nƣớc, những sự kiện nổi bật, nhiệm vụ trọng
tâm của tỉnh; giới thiệu hình ảnh của tỉnh đến với cả nƣớc và quốc tế; phản ánh kịp
thời các mặt của đời sống kinh tế - xã hội, góp phần vào sự phát triển toàn diện của
tỉnh.
Mặt hạn chế trong hoạt động của các cơ quan truyền thông báo chí trung
ƣơng và ngoài tỉnh là:
Một số cơ quan đại diện, phóng viên thƣờng trú tại các địa phƣơng chƣa
quan tâm tuyên truyền các sự kiện, hoạt động của tỉnh; có trƣờng hợp thông tin
chƣa phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của cơ quan đại diện, thƣờng trú trên địa
bàn tỉnh. Điển hình nhƣ việc phản ánh một chiều, khai thác quá thiên về yếu tố tác
57
động đến môi trƣờng của dự án khai thác và chế biến bô xít, các dự án phát triển
nông – lâm nghiệp, thủy điện, v.v
Mặt khác, các phóng viên thƣờng trú đa phần không chấp hành chế độ tham
gia giao ban báo chí; không chấp hành quy định của pháp luật về hoạt động thƣờng
trú. Còn một số phóng viên, cộng tác viên của các cơ quan báo chí hoạt động trên
địa bàn các tỉnh, thành phố không đăng ký với cơ quan chức năng, mà dùng thẻ Nhà
báo hoặc giấy giới thiệu của cơ quan báo chí để hoạt động gây bức xúc ở cơ sở. Một
số phóng viên, cộng tác viên báo chí hoạt động sử dụng thẻ nhà báo đã hết hạn hoặc
giấy giới thiệu của cơ quan báo chí không có thời hạn thực hiện không đúng theo
quy định của pháp luật về báo chí. Cơ quan TTĐC thiếu sự hợp tác với các chủ thể
quản lý hoạt động TTĐC ở địa phƣơng trong việc xử lý các hành vi sai phạm của
phóng viên thuộc quyền quản lý; Cơ quản chủ quản thiếu quan tâm chỉ đạo, xử lý
không nghiêm, thậm chí bao biện cho sai phạm của cơ quan báo chí thuộc quyền.
Ngoài ra còn có 3 đơn vị Truyền hình trả tiền gồm Viễn thông Đắk Nông,
Viettel Đắk Nông và Công ty dịch vụ truyền hình cáp NTH - chi nhánh tại Đăk
Nông cùng hệ thống 08 Đài Truyền thanh – Truyền hình cấp huyện, thị xã; 71 Trạm
Truyền thanh cơ sở các xã, phƣờng, thị trấn trên địa bàn tỉnh.
2.3. Đánh giá chung thực trạng quản lý nhà nƣớc về báo chí trên địa bàn
tỉnh Đắk Nông
2.3.1.Kết quả đạt được
- Xây dựng, chỉ đạo và tổ chức thực hiện chiến lư c, quy hoạch, kế hoạch,
phát tri n báo chí trên địa bàn tỉnh Đắk Nông:
Thực hiện vai trò QLNN về báo chí tại địa phƣơng, năm 2014, Sở Thông tin
và Truyền thông đã đăng ký lập mới Đề án Quy hoạch phát triển báo chí, xuất bản
tỉnh Đắk Nông đến năm 2020 và định hƣớng đến năm 2025. Cuối năm 2017, đề án
đã đƣợc UBND tỉnh Đắk Nông ký ban hành.
Mục tiêu quy hoạch nhằm rà soát lại hiện trạng phát triển báo chí, đánh giá
tổng quan đồng thời dự báo xu hƣớng phát triển báo chí; gắn kết phát triển báo chí
trong tổng thể phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh đến năm 2020; tạo cơ chế, điều
58
kiện cho hoạt động báo chí phát triển mạnh mẽ, vững chắc, đúng định hƣớng, góp
phần nâng cao vai trò QLNN về báo chí... Đối với phát thanh, truyền hình, thúc đ y
việc chuyển đổi hạ tầng truyền dẫn, phát sóng từ công nghệ tƣơng tự sang công
nghệ số; tăng thời lƣợng phát sóng chƣơng trình, thời lƣợng chƣơng trình tự sản
xuất, chƣơng trình tiếng dân tộc...
Nội dung quy hoạch đồng thời sẽ là căn cứ cho việc xây dựng các kế hoạch
phát triển hàng năm, giai đoạn; hƣớng tới mục tiêu chuyên nghiệp hoá và hiện đại
hoá; định hƣớng và tạo môi trƣờng pháp lý thuận lợi để hoạt động báo chí, xuất bản
phát triển đúng định hƣớng, góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu về kinh tế, văn
hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng của tỉnh.
Ngoài ra, Sở TTTT tỉnh Đắk Nông đã tiến hành một số đợt thống kê, khảo
sát có liên quan đến hoạt động báo chí nhằm nắm bắt thực trạng, số liệu và đánh giá
hoạt động này tại địa phƣơng, góp phần chu n bị cho việc xây dựng quy hoạch phát
triển báo chí, xuất bản tỉnh Đắk Nông. Điển hình nhƣ: Khảo sát, điều tra thống kê
hiện trạng phổ cập dịch vụ điện thoại, internet và nghe - nhìn tỉnh Đăk Nông năm
2010; Khảo sát thực trạng hoạt động Cổng, các trang thông tin điện tử và hạ tầng
Internet; đề nghị báo cáo số liệu truyền hình trả tiền; thƣờng xuyên kiểm tra, khảo
sát hoạt động các Đài Truyền thanh cơ sở; kiểm tra hoạt động các trạm phát lại
- Tổ chức thực hiện các văn bản qu phạm pháp luật và dựng chế độ,
chính sách về báo chí trên địa bàn tỉnh:
Nhằm tạo hành lang pháp lý cho hoạt động báo chí trên địa bàn tỉnh, ngay từ
những năm đầu mới thành lập, Sở TTTT đã kh n trƣơng, chủ động thực hiện tốt vai
trò cơ quan QLNN chuyên ngành, tham mƣu UBND tỉnh ban hành nhiều văn bản
quy phạm pháp luật quan trọng, cụ thể:
+ Quyết định số 25 2008 QĐ-UBND ngày 29 7 2008 ban hành Quy định
Quản lý nhà nƣớc về báo chí trên địa bàn tỉnh Đắk Nông;
+ Quyết đinh số 15 2009 QĐ-UBND ngày 02/9/2009 của UBND tỉnh về ban
hành Quy chế tổ chức giao ban báo chí định kỳ.
59
+ Quyết định số 03 2014 QĐ-UBND ngày 16/01/2014 ban hành Quy chế
phát ngôn và cung cấp thông tin cho báo chí trên địa bàn tỉnh Đắk Nông;
+ Quyết định số 02 2010 QĐ-UBND ngày 22 01 2010 ban hành Quy định
thành lập và hoạt động của cơ quan đại diện, phóng viên thƣờng trú của các cơ quan
báo chí trên địa bàn tỉnh Đăk Nông;
Ngoài ra, UBND tỉnh Đắk Nông cũng đã ban hành Chỉ thị số 28/CT-UBND
ngày 26/10/2011về việc tăng cƣờng quản lý nhà nƣớc về báo chí, xuất bản trên địa
bàn tỉnh Đắk Nông.
Liên quan đến các nội dung đối với hoạt động báo chí trong khu vực, Sở
TTTT đã tích cực, chủ động ban hành các văn bản hƣớng dẫn, tổ chức triển khai
thực hiện hoạt động báo chí đảm bảo theo quy định:
Điển hình nhƣ việc tăng cƣờng quản lý đội ngũ phóng viên thƣờng trú. Thời
gian qua, công tác này của một số cơ quan báo chí còn chƣa đảm bảo dẫn đến khó
khăn trong công tác quản lý. Do đó, Sở TTTT Đắk Nông đã có văn bản đồng loạt
gửi các cơ quan báo chí Trung ƣơng và địa phƣơng khác đề nghị đăng ký và cung
cấp thông tin phóng viên hoạt động thƣờng trú trên địa bàn tỉnh. Qua thông tin đăng
ký, đến nay Sở đã rà soát, lên danh sách chính thức về đội ngũ phóng viên đăng ký
hoạt động thƣờng trú; phóng viên đăng ký hoạt động thƣờng xuyên. Sau khi nhận
đầy đủ hồ sơ thông tin, Sở TTTT đã có văn bản chấp thuận hoạt động phóng viên
thƣờng trú theo quy định. Danh sách này cũng đã đƣợc đăng công khai trên Trang
thông tin điện tử của Sở; đồng thời có thông báo đến các cơ quan trên địa bàn tỉnh,
tạo điều kiện cho hoạt động của đội ngũ này và giúp các cơ quan thực hiện tốt nhất
quy định về cung cấp thông tin cho báo chí.
Hàng năm, Sở TTTT có văn bản hƣớng dẫn các cơ quan báo chí chấp hành
nghiêm chỉnh quy định về thủ tục xin xuất bản ấn ph m đặc biệt, các quy định về tỷ lệ
quảng cáo, quy định về nộp lƣu chiểu trong dịp Tết Dƣơng lịch và Tết Nguyên đán. Đối
với công tác lƣu chiểu báo chí, Sở TTTT đã có văn bản nhắc nhở các cơ quan báo chí
chấp hành nghiêm chỉnh theo Nghị định số 51 2002 NĐ-CP ngày 26/4/2002 của Chính
60
phủ quy định chi tiết thi hành Luật Báo chí, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật
Báo chí.
Công tác ban hành các văn bản pháp quy, hƣớng dẫn hoạt động báo chí theo quy
định của pháp luật đƣợc Sở TTTT tiến hành tƣơng đối đầy đủ, kịp thời theo yêu cầu của
Bộ TTTT và các cơ quan cấp trên nhằm thống nhất phƣơng thức quản lý và tạo điều kiện
tốt nhất cho hoạt động báo chí chấp hành đúng các quy định của pháp luật.
Tham mƣu UBND tỉnh ban hành các văn bản thực hiện Nghị định 61 của Chính
phủ về chế độ nhuận bút; gần đây nhất là Nghị định 18 của Chính phủ.
- Tổ chức bộ má và nguồn nh n lực quản lý, phát tri n báo chí:
Các cơ quan báo chí trên địa bàn tỉnh Đắk Nông Báo Đắk Nông, Đài Phát
thanh – Truyền hình tỉnh, Tạp chí Nâm Nung đều có cơ quan chủ quản đồng thời là cơ
quan lãnh đạo, quản lý hoạt động báo chí (Tỉnh ủy, UBND tỉnh , do đó, công tác về
xây dựng và kiện toàn hệ thống tổ chức bộ máy hoạt động cho các cơ quan này đều
đƣợc quan tâm thƣờng xuyên nhằm giúp cơ quan báo chí hoạt động đúng tôn chỉ mục
đích, phát huy chức năng, làm tốt nhiệm vụ chính trị tại địa phƣơng.
Sở Thông và Truyền thông tỉnh Đắk Nông, cơ quan tham mƣu, giúp việc cho
UBND tỉnh trong quản lý nhà nƣớc đối với hoạt động TTĐC ở địa phƣơng, đã tổ
chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý báo chí ở địa phƣơng;
hƣớng dẫn các cơ quan báo chí, nhà báo thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật
về báo chí; thực hiện tốt việc quản lý hoạt động của văn phòng đại diện và phóng
viên thƣờng trú của báo chí Trung ƣơng và địa phƣơng khác trên địa bàn; thực hiện
nghiêm túc việc cấp phép, quản lý hoạt động của các bản tin, trang thông tin điện
tử, cấp phép và quản lý các cuộc họp báo của các cơ quan, tổ chức trên địa bàn.
Các cơ quan chủ quản báo chí Tỉnh ủy Đắk Nông cơ quan chủ quan của Báo
Đắk Nông), UBND tỉnh Đắk Nông cơ quan chủ quản của Đài PT-TH Đắk Nông và
Cổng thông tin điện tử Đắk Nông) và Hội Văn học – Nghệ thuật tỉnh Đắk Nông cơ
quan chủ quản của Tạp chí Nâm Nung đã quan tâm quản lý hoạt động của các cơ
quan báo chí trực thuộc. Ngoài việc đảm bảo kinh phí cho hoạt động của các cơ
quan báo chí, các cơ quan chủ quản thƣờng xuyên theo dõi, giám sát hoạt động của
61
cơ quan báo chí thông qua nhiều phƣơng thức quản lý khác nhau. Định kỳ vào Quý
I hằng năm, Tỉnh ủy Đắk Nông, UBND tỉnh Đắk Nông tổ chức làm việc với lãnh
đạo cơ quan báo chí để nắm tình hình, kịp thời chỉ đạo xử lý, tháo gỡ những vƣớng
mắc trong hoạt động TTĐC của cơ quan báo chí trực thuộc. Hội Văn học – Nghệ
thuật tổ chức giao ban hàng tháng với Ban biên tập Tạp chí Nâm Nung để định
hƣớng nội dung cho công tác tuyển chọn, biên tập các tác ph m chọn đăng trên tạp
chí.
Bên cạnh đó, công tác đào tạo bồi dƣỡng, nâng cao trình độ chính trị, nghiệp
vụ, đạo đức nghề nghiệp cho đội ngũ ngƣời làm báo và cán bộ quản lý báo chí
những năm qua đƣợc cơ quan chủ quản, tự thân cơ quan báo chí, cơ quan quản lý
nhà nƣớc và Hội Nhà báo tỉnh quan tâm khá nhiều.
Cấp ủy, lãnh đạo các cơ quan báo chí thƣờng xuyên theo dõi, nắm bắt diễn
biến tƣ tƣởng, tâm tƣ nguyện vọng và động viên cán bộ, đảng viên khắc phục khó
khăn, phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ đƣợc giao; tổ chức cho cán bộ, đảng viên,
quần chúng tham gia nghiên cứu, học tập các nghị quyết, chỉ thị của Đảng và chính
sách, pháp luật của Nhà nƣớc.
Đƣợc sự quan tâm của Thƣờng trực Tỉnh ủy, UBND tỉnh, đối với công tác lý
luận chính trị, thời gian gia qua, đội ngũ ngƣời làm báo và cán bộ quản lý báo chí
đƣợc tạo điều kiện, ƣu tiên học tập, tham gia các lớp đào tạo lý luận tập trung và tại
chức số lƣợng cao nhất. Riêng Báo Đắk Nông đến nay có 90% cán bộ từ phó phòng
trở lên có trình độ cao cấp lý luận chính trị; trên 90% phóng viên, biên tập viên đã
hoàn thành trung cấp lý luận chính trị.
Đối với nghiệp vụ hoạt động báo chí, hàng năm, Hội Nhà báo tỉnh tổ chức
trung bình 03 khóa tập huấn nghiệp vụ báo chí cho từng đối tƣợng phóng viên, biên
tập viên làm báo in, báo hình, báo nói và báo điện tử. Ngoài ra, nhiều lớp nâng cao
nghiệp vụ công tác tuyên truyền, bồi dƣỡng kiến thức đƣợc UBND tỉnh, Sở TTTT
phối hợp với các đơn vị có liên quan tổ chức cho đội ngũ phóng viên báo chí và
thông tin tuyên truyền nhƣ: Tập huấn công tác quản lý nhà nƣớc về Báo chí, Xuất
bản; Lớp cập nhật kiến thức thông tin đối ngoại hàng năm; Tập huấn kỹ năng phát
62
ngôn và cung cấp thông tin cho báo chí; Tập huấn nghiệp vụ công tác thông tin đối
ngoại; tập huấn công tác tuyên truyền phòng chống ma túy, tệ nạn xã hội; tập huấn
công tác tuyên truyền chƣơng trình mục tiêu quốc gia đƣa thông tin về cơ sở; tập
huấn nghiệp vụ biên tập, viết và đƣa tin bài lên các trang thông tin điện tử; tập huấn
tuyền truyền giáo dục ph m chất đạo đức phụ nữ thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại
hóa; triển khai công tác tuyên truyền Đại hội Đảng các cấp tiến tới Đại hội toàn
quốc lần thứ XII của Đảng; hƣớng dẫn các quy định, thủ tục liên quan đến tổ chức
họp báo và cung cấp thông tin cho báo chí
- Tổ chức thông tin cho báo chí và quản lý thông tin báo chí trên địa bàn tỉnh
Đắk Nông:
Tổ chức thông tin và quản lý thông tin cho báo chí là một trong những nội
dung đƣợc quan tâm đặc biệt tại tỉnh Đắk Nông.
Căn cứ Quy chế tổ chức giao ban báo chí định kỳ tại Quyết định số
15 2009 QĐ-UBND ngày 02/9/2009 của UBND tỉnh Đăk Nông, hàng tháng, hàng
quý, Sở TTTT phối hợp với Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy và Hội Nhà báo tỉnh tổ chức
Hội nghị giao ban báo chí với sự tham gia đầy đủ của các cơ quan quản lý, cơ quan
báo chí trong tỉnh, đội ngũ phóng viên thƣờng trú và ban biên tập các bản tin, Cổng,
Trang thông tin điện tử trong tỉnh. Nội dung công tác giao ban tập trung vào việc
đánh giá tình hình thông tin báo chí hàng tháng, hàng quý; định hƣớng lên kế hoạch
thông tin tuyên truyền vào tháng/quý kế tiếp. Tại các buổi giao ban báo chí định kỳ,
cơ quan chủ trì thƣờng xuyên mời một số các cơ quan, ban ngành phối hợp đến
tham gia và trực tiếp cung cấp thông tin những vụ việc đang đƣợc dƣ luận và báo
chí quan tâm. Thông qua việc cung cấp thông tin, đồng thời đối thoại, trả lời chất
vấn của báo giới về những vấn đề có liên quan đã kịp thời định hƣớng dƣ luận, giúp
các cơ quan báo chí có đƣợc thông tin chính thống để cung cấp cho bạn đọc. Qua
hơn 5 năm triển khai thực hiện, đã có trên 30 lƣợt các cơ quan, ban, ngành, địa
phƣơng đến cung cấp thông tin cho báo chí. Phần lớn các cuộc cung cấp thông tin
đều đáp ứng đƣợc những vấn đề báo chí quan tâm.
63
Từ tháng 4/2014, công tác chỉ đạo, định hƣớng, quản lý báo chí đƣợc tăng
cƣờng, đổi mới về nội dung và phƣơng thức thực hiện nhằm nâng cao chất lƣợng
thông tin hai chiều giữa các cơ quan chỉ đạo, quản lý báo chí với các cơ quan báo chí.
Công tác định hƣớng chính trị, tƣ tƣởng, nhất là đối với các vấn đề quan
trọng, phức tạp, nhạy cảm trong nội dung thông tin của báo chí đƣợc duy trì thƣờng
xuyên, liên tục, có hiệu quả. Công tác định hƣớng thông tin đƣợc tổ chức thông qua
việc chủ động xây dựng các kế hoạch tuyên truyền hàng năm, hàng tháng đối với
những nội dung trọng tâm; qua việc biên soạn, gửi các đề cƣơng hƣớng dẫn tuyên
truyền; gửi công văn đôn đốc triển khai nội dung thực hiện
Việc tổ chức thông tin cho báo chí ngoài ra còn đƣợc đặt trọng tâm thông
qua việc ban hành và triển khai thực hiện Quy chế phát ngôn và cung cấp thông tin
cho báo chí. Trên cơ sở Quyết định số 25 2013 QĐ-TTg ngày 4/5/2013 của Thủ
tƣớng Chính phủ, ngày 16/1/2014, UBND tỉnh Đắk Nông đã ban hành Quyết định
số 03 2014 QĐ-UBND về Quy chế phát ngôn và cung cấp thông tin cho báo chí
trên địa bàn tỉnh Đăk Nông thay thế cho Quyết định số 32 2008 QĐ-UBND ngày
4 11 2008 đã ban hành trƣớc đó.
Sau khi Quy chế phát ngôn và cung cấp thông tin cho báo chí có hiệu lực, Sở
TTTT đã nhanh chóng có văn bản hƣớng dẫn thực hiện. Đến nay, việc cử ngƣời
phát ngôn và cung cấp thông tin cho báo chí đƣợc thực hiện nghiêm túc, đã có 59
cơ quan, đơn vị, tổ chức với 94 ngƣời đƣợc cử làm ngƣời phát ngôn và cung cấp
thông tin cho báo chí theo quy định. Quyết định công bố và kiện toàn danh sách
Ngƣời phát ngôn đƣợc thông báo rộng rãi trên các phƣơng tiện thông tin đại chúng.
Đồng thời, Sở TTTT đã phối hợp với Bộ TTTT tổ chức tập huấn bồi dƣỡng kỹ năng
cho cho ngƣời phát ngôn trên địa bàn đáp ứng yêu cầu thực tiễn của địa phƣơng.
Qua bƣớc đầu triển khai, công tác phát ngôn của các cơ quan, đơn vị đã phát huy tốt
vai trò của Ngƣời phát ngôn đối với việc cung cấp thông tin cho báo chí, tạo điều
kiện thuận lợi cho các phóng viên báo chí nắm đƣợc nguồn thông tin chính thống.
Nhờ đó, các báo trung ƣơng, ngành, địa phƣơng đã đƣa tin phản ánh một cách đầy
64
đủ, chính xác, kịp thời, góp phần định hƣớng tốt dƣ luận xã hội; chấn chỉnh kỷ luật
phát ngôn trong cơ quan, đơn vị.
Một trong những hoạt động cung cấp và quản lý thông tin báo chí khác đƣợc
thực hiện, đó là công tác tổ chức họp báo. Những năm gần đây, thông qua hƣớng
dẫn và đề xuất của Sở TTTT, các cơ quan, đơn vị trên địa bàn tỉnh đã quan tâm tổ
chức các cuộc họp báo nhằm giới thiệu, cung cấp thông tin về những lĩnh vực hoạt
động, sự kiện diễn ra tại địa phƣơng. Chất lƣợng, nội dung các buổi họp báo từng
bƣớc đƣợc nâng lên. Một số vụ việc phức tạp, nhạy cảm, nhiều chiều dƣ luận trên
địa bàn tỉnh đã đƣợc ổn định dƣ luận, lắng xuống với những thông tin chính thống,
đáp ứng kịp thời sự quan tâm của ngƣời dân thông qua việc tổ chức họp báo. Điển
hình nhƣ một số buổi họp báo thông tin xung quanh những sai phạm của công ty Cà
phê Đắk Nông tại Lâm trƣờng Đắk Ngo gây bất bình trong dƣ luận (vụ việc bị các
đối tƣợng lợi dụng để lôi kéo ngƣời dân khiếu kiện phức tạp và đăng thông tin trái
chiều lên các trang mạng xã hội phản động); vụ việc cán bộ Thanh tra Giao thông
nhảy lầu tự tử và vụ án nhận hối lộ tại Trạm kiểm tra tải trọng di động trên địa bàn
tỉnh; vụ việc cƣỡng chế, giải tỏa tại Rừng thông cảnh quan dọc quốc lộ 14; việc xử
lý các cán bộ có liên quan đến công tác quản lý bảo vệ rừng...
Một trong những kết quả đáng ghi nhận khác của cơ quan QLNN về báo chí
đối với quản lý thông tin báo chí đó là công tác Điểm báo và đề nghị phản hồi thông
tin báo chí. Từ tháng 9 2009 đến nay, Sở TTTT đã tổng hợp và phát hành đƣợc hơn
200 số Bản tin Điểm báo. Đây là hình thức tài liệu giúp cho các đồng chí lãnh đạo
nắm bắt đƣợc thông tin báo chí viết về tỉnh, phục vụ cho công tác lãnh đạo, chỉ đạo,
quản lý, điều hành đạt hiệu quả. Đƣợc sự chỉ đạo của Tỉnh ủy, UBND tỉnh, Sở
TTTT đã tiến hành khảo sát đánh giá để nâng cao chất lƣợng hoạt động này; Bản tin
Điểm báo Sở TTTT đã tăng từ 2 tuần/kỳ, lên 1 tuần/kỳ và từ năm 2015 đã tiến hành
điểm báo theo ngày để kịp thời cho công tác nắm bắt và đề nghị xử lý thông tin báo
chí cung cấp.
Đồng thời, qua việc điểm nội dung một số bài báo phản ánh vấn đề tồn tại,
tiêu cực đã giúp các cơ quan chức năng kịp thời nắm bắt, kiểm chứng và có biện
65
pháp xử lý thích hợp. Qua theo dõi các bài báo nổi cộm, nhạy cảm, thông tin các vụ
việc tiêu cực, Sở TTTT với vai trò là cơ quan QLNN có văn bản yêu cầu các cơ
quan chức năng có liên quan kiểm tra, xác minh thông tin nội dung báo nêu. Nếu
đúng cần kịp thời đƣa ra phƣơng án xử lý; nếu thông tin thiếu tính xác thực thì có
văn bản phản hồi đến cơ quan báo chí để đề nghị đính chính theo quy định. Thời
gian quan, Tỉnh ủy, UBND tỉnh Đắk Nông đặc biệt quan tâm đến công tác theo dõi
báo chí và đề nghị phản hồi báo chí do Sở TTTT tham mƣu. Theo đó, đồng chí Bí
thƣ Tỉnh ủy đã có Thông báo số 4056-TB/VPTU, ngày 17/3/2014 chỉ đạo Sở TTTT
về việc báo cáo kết quả phản hồi của các cơ quan liên quan trong việc giải quyết
một số vấn đề nổi bật đƣợc quan tâm phản ánh; UBND tỉnh Đắk Nông có công văn
số 3413/ UBND–TH ngày 7/10/2010 chỉ đạo các sở, ban, ngành, địa phƣơng thực
hiện nghiêm việc phản hồi thông tin do báo chí nêu. Đây chính là những cơ sở chỉ
đạo quan trọng giúp công tác quản lý thông tin báo chí và đề nghị phản hồi thông
tin báo chí đƣợc thực hiện kịp thời và hiệu quả.
- Thực hiện các quy trình, thủ tục hành chính liên quan đến hoạt động báo
chí trên địa bàn tỉnh Đắk Nông:
Theo chức năng, nhiệm vụ cũng nhƣ phân cấp của Bộ TTTT và UBND tỉnh,
Sở TTTT tiến hành thực hiện nghiêm túc các quy trình, thủ tục hành chính liên quan
đến hoạt động báo chí.
Sở TTTT những năm qua đã hƣớng dẫn các cơ quan báo chí chu n bị thủ tục
hồ sơ, xem xét đề nghị Bộ TTTT cấp đổi Giấy phép hoạt động báo chí in đối với
Báo Đắk Nông, Tạp chí Nâm Nung và Giấy phép hoạt động phát thanh – Truyền
hình đối với Đài Phát thanh – Truyền hình tỉnh. Đồng thời, qua theo dõi hoạt động
báo chí, Sở TTTT đã kịp thời nhắc nhở các cơ quan báo chí tiến hành các thủ tục
xin phép xuất bản các ấn ph m báo đặc biệt, tập san, đặc san báo chí phục vụ các
ngày lễ lớn và nhiệm vụ chính trị quan trọng của tỉnh nhƣ ấn ph m Báo Đắk Nông,
Tạp chí Nâm Nung dịp Tết Nguyên đán và Tết Dƣơng lịch; ấn ph m chào mừng Kỷ
niệm 10 năm thành lập tỉnh Đắk Nông; ấn ph m Báo Đắk Nông tuyên truyền Nông
nghiệp công nghệ cao
66
Đối với hoạt động cấp giấy phép xuất bản bản tin, hàng năm Sở TTTT tiến
hành hƣớng dẫn thủ tục và cấp phép xuất bản mỗi năm trung bình 10 ấn ph m Bản
tin xuất bản định kỳ nhƣ: Thông báo nội bộ, Thông tin cơ sở (Ban Tuyên giáo Tỉnh
ủy); Bản tin công tác Mặt trận (Ủy ban Mặt trận tổ quốc Việt Nam tỉnh); Bản tin
Dân số, Thông tin Y tế (Sở Y tế); Tuổi trẻ Đắk Nông (Tỉnh đoàn ; Bản tin Kinh tế
hợp tác (Liên minh Hợp tác xã Hầu hết các ấn ph m tuân thủ đúng quy định của
Quyết định số 53 2003 QĐ-BVHTT ngày 04/9/2003 của Bộ trƣởng Bộ Văn hóa -
Thông tin ban hành Quy chế Xuất bản bản tin với việc quan tâm thành lập Ban biên
tập, bố trí ngƣời chịu trách nhiệm về việc xuất bản bản tin có nghiệp vụ quản lý
thông tin; tổ chức bộ máy hoạt động phù hợp bảo đảm cho việc xuất bản bản tin;
đồng thời, xác định rõ nội dung thông tin, mục đích thông tin, kỳ hạn xuất bản,
khuôn khổ, số trang, số lƣợng, nơi in, đối tƣợng phục vụ của bản tin. Các ấn ph m
bản tin, tài liệu không kinh doanh của các cơ quan, đơn vị trên địa bàn tỉnh đã có
nhiều cố gắng, từng bƣớc nâng chất lƣợng nội dung, cải tiến hình thức xuất bản.
Đối với việc cho phép thành lập và hoạt động của cơ quan đại diện, phóng
viên thƣờng trú ở trong nƣớc của các cơ quan báo chí, nhƣ đã nói ở trên, Sở TTTT
thƣờng xuyên theo dõi hoạt động tác nghiệp báo chí của đội ngũ phóng viên ngoài
tỉnh, có văn bản yêu cầu cơ quan báo chí cung cấp thông tin, hồ sơ để hoàn tất thủ
tục đăng ký hoạt động phóng viên thƣờng trú. Đến nay toàn tỉnh có 07 phóng viên
đăng ký hoạt động thƣờng trú và 16 phóng viên đăng ký hoạt động thƣờng xuyên.
Ngoài ra, hàng năm Sở TTTT đều có văn bản hƣớng dẫn các cơ quan báo chí
chu n bị thủ tục, hồ sơ để xin cấp Thẻ Nhà báo theo Thông tƣ số 07/2007/TT-
BVHTT ngày 20/3/2007 của Bộ Văn hóa – Thông tin (nay là Bộ TTTT) về hƣớng
dẫn cấp, đổi và thu hồi Thẻ Nhà báo. Công tác th m định hồ sơ đảm bảo các tiêu
chí, yêu cầu, điều kiện trƣớc khi trình ra Bộ TTTT. Đến nay toàn tỉnh có 68 cán bộ,
phóng viên đã đƣợc cấp Thẻ Nhà báo giai đoạn 2011 – 2015 theo tiêu chu n.
- uản lý báo chí nước ngoài hoạt động trên địa bàn tỉnh Đắk Nông:
Trên địa bàn tỉnh Đắk Nông thời gian qua, đội ngũ phóng viên báo chí hoạt
động trên địa bàn tỉnh chủ yếu là của các báo trong tỉnh, báo Trung ƣơng và địa
67
phƣơng khác; chƣa có trƣờng hợp phóng viên báo nƣớc ngoài chính thống nào xin
phép hoạt động trên địa bàn. Tuy nhiên, với đặc thù là một tỉnh Tây Nguyên với
phần đông đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống, tình hình an ninh – chính trị còn
nhiều điểm đáng chú ý, dƣới sự chỉ đạo của Tỉnh ủy, UBND tỉnh, thời gian gần đây,
Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy và Sở TTTT cũng quan tâm theo dõi các thông tin viết về
tỉnh trên các trang mạng xã hội, diễn đàn xã hội có tƣ tƣởng đối lập để kịp thời phát
hiện các bài viết trái chiều, truyền bá tƣ tƣởng không chính thống, kích động ngƣời
dân, xuyên tạc sự thật về tình hình an ninh – chính trị trên địa bàn.
Điển hình nhƣ vụ việc khiếu kiện của ngƣời dân xã Đắk Ngo, huyện Đắk
R’lấp đối với công ty cà phê Đắk Nông. Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Thƣờng trực
Tỉnh ủy, Sở TTTT bằng các biện pháp nghiệp vụ đã tiến hành xác minh, làm rõ việc
các phƣơng tiện thông tin đƣa tin về vụ việc trên, nhất là những thông tin mang tính
kích động ngƣời dân, gây mất ổn định an ninh – chính trị trên địa bàn, cổ vũ, lôi kéo
ngƣời dân khiếu kiện đông ngƣời. Các thông tin này đƣợc các diễn đàn xã hội
không chính thống khai thác nhƣ: Đài Châu Á tự do; Radio Chân trời mới; Diễn đàn
Dân sự xã hội Dân quyền Qua theo dõi các hoạt động thông tin này, Sở TTTT đã
hỗ trợ các đơn vị chức năng nhận diện và làm rõ ngƣời tham gia cung cấp thông tin
cho các diễn đàn trên, đồng thời cũng đối tƣợng đã mạo danh phóng viên thƣờng trú
trên địa bàn, lôi kéo, kích động ngƣời dân khiếu kiện đông ngƣời. Với sự phối hợp
của Sở TTTT, những thông tin trên các trang mạng xã hội của các thành phần phản
động tại nƣớc ngoài đã bị chặn đứng. Đồng thời, Sở TTTT hƣớng dẫn cơ quan có
liên quan tiến hành họp báo cung cấp thông tin chính thống về vụ việc cũng nhƣ nêu
rõ quan điểm, chủ trƣơng đúng đắn của tỉnh Đắk Nông đối với vụ việc, góp phần ổn
định tình hình an ninh – trật tự trên địa bàn.
- Tổng kết, đánh giá, khen thưởng và thanh tra, ki m tra hoạt động báo
chí trên địa bàn tỉnh:
+ Tổng kết, đánh giá, khen thưởng:
Về công tác khen thƣởng trong lĩnh vực hoạt động báo chí thƣờng do các
đơn vị hoạt động báo chí, cơ quan chủ quản chủ trì thực hiện. Để thực hiện
68
thắng lợi nhiệm vụ chính trị giao, định kỳ thƣờng niên, các cơ quan báo chí tổ
chức Hội nghị cán bộ, viên chức, lao động, phát động phong trào thi đua thực
hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị của cơ quan đề ra trong năm. Hàng năm
Tỉnh ủy, UBND tỉnh cũng tiến hành xem xét khen thƣờng cho những cá nhân,
tập thể xuất sắc trong hoạt động báo chí của tỉnh.
Ngoài ra, nhân sự kiện kỷ niệm 10 năm thành lập tỉnh Đăk Nông
(01/01/2004 – 01/01/2014), Sở TTTT cũng tiến hành tổ chức khen thƣởng cho các
cá nhân, tập thể có thành tích xuất sắc trong lĩnh vực trong hoạt động thông tin
truyền thông, trong đó có hoạt động báo chí nhằm khích lệ, động viên kịp thời các
cơ quan báo chí trong việc thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị đƣợc giao trong sự phát
triển chung của tỉnh nhà. Hiện Sở TTTT đang chu n bị công tác khen thƣởng trong
giai đoạn 15 năm thành lập tỉnh (2004 – 2019).
+ Thanh tra, ki m tra:
Qua việc theo dõi hoạt động các cơ quan báo chí, thời gian qua nhìn
chung không có những sai phạm nghiêm trọng, chủ yếu là nhắc nhở, chấn chỉnh
kịp thời thông qua các Hội nghị giao ban báo chí.
Bên cạnh đó, Sở TTTT chủ trì thực hiện một số cuộc thanh kiểm tra trên
quy mô toàn tỉnh về dịch vụ truyền hình trả tiền, kiểm tra hoạt động các Đài
Truyền thanh cấp huyện, hoạt động các trạm phát lại và phối hợp kiểm tra việc
thu phát tín hiệu truyền hình từ vệ tinh tại các cơ sở lƣu trú và Nhà máy alumin
Nhân Cơ – nơi có lao động ngƣời Trung Quốc làm việc. Về cơ bản, các đơn vị
hoạt động truyền hình chấp hành đúng các quy định của pháp luật. Một số những
sai phạm nhỏ, Sở TTTT đã có biện pháp nhắc nhở, chấn chỉnh kịp thời, đúng
pháp luật.
2.3.2. Hạn chế
Bên cạnh những kết quả đạt đƣợc trong công tác thức hiện từng nội dung
QLNN về báo chí, hỗ trợ báo chí hoạt động đúng định hƣớng, tăng cƣờng vai trò thông
tin, tuyên truyền của cơ quan báo chí tại địa phƣơng thì những năm qua, công tác
QLNN về báo chí trên địa bàn tỉnh Đắk Nông vẫn còn một số hạn chế, thiếu sót, cụ thể:
69
- Công tác ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về
báo chí, xây dựng chế độ, chính sách về báo chí trong tổ chức thực hiện còn chƣa
đầy đủ.
Điển hình nhƣ khó khăn trong việc quản lý đội ngũ phóng viên các cơ quan báo
chí Trung ƣơng và địa phƣơng khác thƣờng trú, tác nghiệp trên địa bàn tỉnh. Thông tƣ
số 13/2008/TT-BTTTT ngày 31/12/2008 của Bộ TTTT quy định rõ Cơ quan báo chí có
nhu cầu thành lập cơ quan đại diện hoặc cử phóng viên thƣờng trú tại địa phƣơng phải
gửi hồ sơ đăng ký đến Sở TTTT và chỉ đƣợc hoạt động khi có sự chấp thuận của cơ
quan nhà nƣớc có th m quyền. Tuy nhiên, trên thực tế, tại Đắk Nông hiện có một số
văn phòng thƣờng trú của các báo nhƣ: Nhân dân, Thông tấn xã Việt Nam, Đài Tiếng
nói Việt Nam đã hoạt động trên địa bàn từ trƣớc khi thành lập Sở TTTT. Mặc dù, Sở
TTTT đã có văn bản đề nghị các cơ quan này bổ sung hồ sơ để theo dõi và lƣu trữ
nhƣng việc chấp hành chƣa nghiêm túc. Bên cạnh đó, nhiều báo cũng cử phóng viên
đến hoạt động trên địa bàn chỉ thông qua một văn bản “thông báo” đơn giản; nhiều
trƣờng hợp phóng viên không chấp hành quy định về báo cáo hoạt động và tham gia
giao ban báo chí định kỳ. Trong khi đó, lại chƣa có chế tài hay quy định xử lý rõ ràng
nào đối với những vi phạm này. Phóng viên một mặt hoạt động tại địa phƣơng nhƣng
lại trực thuộc cơ quan báo chí Trung ƣơng hoặc địa phƣơng khác nên công tác đề xuất,
xử lý đôi khi vƣợt quá th m quyền của cơ quan QLNN tại địa phƣơng.
Ngoài ra, công tác quản lý truyền hình cáp, truyền hình trả tiền là lĩnh vực quản lý
khá đặc thù, phức tạp. Trong khi đó, các văn bản hƣớng dẫn của Trung ƣơng hiện nay
vẫn chƣa đề cập đầy đủ về lĩnh vực quản lý truyền hình cáp. Vì vậy, các cơ quan QLNN
tỉnh Đắk Nông còn gặp nhiều khó khăn trong công tác quản lý và xử lý vi phạm.
- Đối với công tác kiện toàn, sắp xếp tổ chức bộ máy cơ quan hoạt động báo chí
trên địa bàn tỉnh còn hạn chế, khó khăn lớn nhất là ở công tác tổ chức Đài Truyền thanh
cơ sở xã, phƣờng, thị trấn. Hầu hết cơ cấu tổ chức và chức năng, nhiệm vụ của 71 đài
truyền thanh cấp xã đều chƣa có sự thống nhất mô hình quản lý chung; cán bộ đài truyền
thanh cấp xã không đƣợc bố trí biên chế, chỉ hoạt động bán chuyên trách, kiêm nhiệm
với mức phụ cấp không đáng kể; không đƣợc qua các lớp đào về vận hành máy cũng
70
nhƣ cách viết tin cộng tác. Đội ngũ cán bộ Đài cơ sở cũng vì thế mà thƣờng xuyên thay
đổi, thiếu ổn định. Trong khi đó, hiện chƣa có văn bản quy phạm pháp luật nào thống
nhất hƣớng dẫn, quy định cụ thể về mô hình tổ chức hoạt động của đài truyền thanh cấp
xã; chế độ quyền lợi, nhiệm vụ của cán bộ đài cấp xã.
- Công tác giao ban báo chí tuy đã có điểm đổi mới, tuy nhiên chất lƣợng
giao ban báo chí chƣa cao, công tác phối hợp tổ chức một số kỳ giao ban báo chí
chƣa kịp thời, không đúng thời gian quy định, dẫn đến công tác định hƣớng thông
tin, lƣu ý báo chí chậm trễ, hiệu qủa thấp.
- Thực hiện các quy định trong Quy chế phát ngôn và cung cấp thông tin cho
báo chí vẫn còn một số hạn chế nhất định, chƣa phát huy đúng mức và còn có nhiều
lúng túng trong triển khai. Việc phát ngôn và cung cấp thông tin cho báo chí ở một
số cơ quan, đơn vị chƣa kịp thời, thiếu chủ động. Vẫn còn tình trạng từ chối, né
tránh không tiếp xúc với phóng viên, ngại đối thoại với báo chí do nhiều nguyên
nhân khác nhau Ngoài ra, việc cập nhật và kiện toàn đội ngũ danh sách ngƣời
phát ngôn còn chƣa kịp thời.
- Việc tổ chức họp báo tại một số cơ quan, đơn vị trong thời gian vừa qua
còn ít, công tác tổ chức còn lúng túng (về quy trình, thủ tục, nội dung...) ảnh hƣởng
đến chất lƣợng buổi họp báo. Điều đáng nói, họp báo vốn là những buổi trao đổi,
đối thoại, các cơ quan chức năng cung cấp thông tin cho báo chí, tuy nhiên lại đƣợc
các đơn vị tổ chức chƣa chú trọng vào nội dung cung cấp và đôi khi còn hạn chế số
lƣợng cơ quan báo chí mời tham dự.
- Công tác theo dõi, đề nghị phản hồi báo chí mặc dù đã đƣợc quan tâm tuy
nhiên vẫn còn mang tính hình thức, cung cấp thông tin còn hạn chế, chung chung.
Việc xử lý thông tin báo chí cung cấp còn hạn chế. Nội dung một số văn bản trả lời
còn sơ sài, chung chung, chƣa làm rõ trách nhiệm, biện pháp giải quyết.
Sở TTTT mới chỉ dừng ở mức đề nghị công tác phản hồi, tổng hợp báo cáo kết
quả xác minh và kiến nghị UBND tỉnh, Tỉnh ủy chỉ đạo xử lý vụ việc báo nêu. Ngoài ra,
do chƣa có quy định rõ ràng nên rất khó xử lý các cơ quan báo chí Trung ƣơng và địa
phƣơng khác khi đăng thông tin thiếu xác thực về tỉnh. Thực tế cho thấy, mặc dù đã có
71
văn bản đề nghị đính chính đến cơ quan báo chí đồng thời gửi cho Bộ TTTT và cơ quan
chủ quản biết và chỉ đạo , tuy nhiên, các cơ quan này rất ít khi tuân thủ.
- Quản lý thông tin báo chí mặc dù đã có nhiều cố gắng tuy nhiên đến nay vẫn
không đảm bảo theo dõi kịp thời và đầy đủ thông tin báo chí trên các kênh phát thanh,
truyền hình, báo in của Trung ƣơng và các địa phƣơng khác trên cả nƣớc phản ánh về
tỉnh Đắk Nông do thiếu về nhân lực cũng nhƣ phƣơng tiện.
Công tác chỉ đạo, quản lý thông tin có lúc còn chƣa chủ động, lúng túng,
chạy theo sự vụ. Một bộ phận cán bộ quản lý hạn chế về năng lực, nhận thức chƣa
đầy đủ về các văn bản chỉ đạo, quy phạm pháp luật về báo chí. Công tác định hƣớng
một số nội dung thông tin tuyên truyền đôi khi đƣợc triển khai mang tính hình thức,
thiếu sự giám sát xem các cơ quan báo chí có triển khai theo yêu cầu hay không. Từ
đó, hiệu quả công tác tuyên truyền chƣa cao.
- Công tác đào tạo, bồi dƣỡng tuy đã đƣợc quan tâm nhƣng vẫn chƣa đáp ứng
đƣợc yêu cầu nâng cao năng lực đội ngũ những ngƣời làm báo đáp ứng với yêu cầu
tình hình mới. Hơn nữa, công tác đào tạo, bồi dƣỡng hiện nay hầu hết chƣa bảo đảm
tính chủ động mà phần lớn là đào tạo theo yêu cầu trƣớc mắt, mang tính tự phát.
- Quản lý công tác nộp lƣu chiểu báo chí chƣa đi vào nền nếp. Tình trạng vi
phạm quy định về nộp lƣu chiểu ấn ph m báo chí và bản tin còn phổ biến. Hầu hết
các ấn ph m báo chí, bản tin đều nộp lƣu chiểu song song cùng với việc phát hành,
thay vì trƣớc khi phát hành theo quy định. Tuy nhiên, việc xử lý các trƣờng hợp này
từ trƣớc đến nay chủ yếu là nhắc nhở, hƣớng dẫn.
- Việc xử lý các sai phạm về hoạt động báo chí, xuất bản bản tin còn chƣa thật
sự nghiêm túc, vẫn còn tình trạng nể nang, tránh né. Khi phát hiện các sai phạm chủ
yếu có văn bản chấn chỉnh, nhắc nhở; chƣa có trƣờng hợp tiến hành xử lý vi phạm nào
đối với hoạt động báo chí; xuất bản bản tin trên địa bàn tỉnh.
- Công tác đánh giá, khen thƣởng chủ yếu do cơ quan chủ quản tiến hành.
Việc cơ quan QLNN tiến hành bình xét, khen thƣởng cũng là một trong những hình
thức động viên, khích lệ, phát huy vai trò của cơ quan QLNN, tuy nhiên, đến nay
hoạt động này hiện còn rất hạn chế.
72
2.3.3. Nguyên nhân
2.3.3.1. Ngu ên nh n của nh ng kết quả đạt đư c
Một là, có sự quan tâm chỉ đạo của Thƣờng trực Tỉnh ủy, UBND tỉnh trong
công tác lãnh đạo, chỉ đạo hoạt động báo chí. Cơ quan lãnh đạo, chỉ đạo trên cơ sở
đặc điểm, tình hình tại địa phƣơng đã chú ý chỉ đạo những vấn đề phù hợp với tình
hình thực tiễn: Phát tri n các ấn ph m báo chí kết h p tiếng dân tộc thi u số; đưa
vào sản xuất chương trình tru ền hình Internet trên báo điện tử theo hình thức đa
phương tiện; chú trọng công tác quản lý thông tin báo chí, đề nghị phản hồi thông
tin báo chí.
Hai là, có sự phối hợp tƣơng đối chủ động giữa Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy, Sở
TTTT, Hội Nhà báo tỉnh và các cơ quan chủ quản báo chí trong công tác chỉ đạo,
quản lý báo chí tiến hành một cách chặt chẽ; công tác đánh giá, định hƣớng báo chí
tuyên truyền đƣợc thực hiện thƣờng xuyên, có trọng tâm, trọng điểm theo định kỳ
hàng tháng, quý; việc nhắc nhở, xử lý những vi phạm, khuyết điểm trong hoạt động
báo chí từng bƣớc có hiệu qủa.
Ba là, các cơ quan QLNN về báo chí, cơ quan chủ quản có sự quan tâm và
tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các cơ quan báo chí hoạt động đúng pháp luật. Đội
ngũ làm công tác QLNN về báo chí tuy chƣa đƣợc đào tạo đúng chuyên môn,
nghiệp vụ những đã có tinh thần cầu thị, học hỏi, nghiên cứu để từng bƣớc nâng cao
trình độ, chuyên môn nghiệp vụ và kinh nghiệm công tác QLNN về báo chí.
Bốn là, các cơ quan báo chí luôn bám sát tôn chỉ, mục đích theo quy định tại
giấy phép hoạt động báo chí; thực hiện đúng định hƣớng tƣ tƣởng chính trị của Ban
Tuyên giáo Tỉnh ủy và định hƣớng tuyên truyền của Sở TTTT. Đối với những vấn
đề, vụ việc nhạy cảm, phức tạp, báo chí chấp hành tốt các quy định của pháp luật,
tuân thủ sự chỉ đạo và cung cấp thông của các cơ quan chức năng, góp phần thông
tin chính xác, đầy đủ, kịp thời thúc đ y sự ổn định dƣ luận xã hội. Đội ngũ những
ngƣời làm báo trẻ, có nhiệt huyết, trách nhiệm trong lĩnh vực hoạt động báo chí.
2.3.3.2. Ngu ên nh n của nh ng hạn chế
- Nguyên nhân khách quan:
73
Một là, hoạt động báo chí là một trong những lĩnh vực văn hóa – tƣ tƣởng phức
tạp. Trong bối cảnh hiện nay, báo chí phát triển mạnh mẽ, thông tin thay đổi liên tục –
hàng ngày, hàng giờ; phƣơng thức cập nhật nhanh chóng, phát sinh nhiều vấn đề mới,
nhất là đối với các hình thức trang mạng xã hội, thông tin trên Internet hay các loại
hình đa phƣơng tiện. Do đó, công tác QLNN đối với hoạt động này đôi khi còn chƣa
theo kịp với tình hình thực tế.
Hai là, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh hoạt động báo chí đến
nay còn thiếu, chƣa theo kịp với tình hình thực tiễn, thậm chí phát sinh nhiều điểm
không phù hợp, lỗi thời. Các văn bản hƣớng dẫn thực hiện Luật Báo chí vừa thiếu, vừa
hạn chế hiệu lực, hiệu quả; chƣa theo kịp thực tiễn. Chƣa có văn bản quy phạm pháp
luật thống nhất hƣớng dẫn, quy định cụ thể về mô hình tổ chức hoạt động của đài
truyền thanh cấp xã; chế độ quyền lợi, nhiệm vụ phù hợp cho cán bộ đài cấp xã. Đặc
biệt, vấn đề phát sinh hiện nay đó là Trung ƣơng giao quyền chủ động cho các tỉnh sắp
xếp tinh gọn các cơ quan nhà nƣớc cấp tỉnh, huyện, trong đó có các cơ quan báo chí.
Hiện một số tỉnh đã làm theo cách riêng, chƣa có mô hình sắp xếp thống nhất trong cả
nƣớc cũng là vấn đề đặt ra trong quản lý nhà nƣớc về báo chí.
Ba là, thể chế quy định về hoạt động QLNN về báo chí chƣa rõ ràng, khó
thực hiện. Cơ quan chủ quản của các báo địa phƣơng đồng thời cũng là cơ quan chỉ
đạo, QLNN về báo chí (Tỉnh ủy, UBND tỉnh). Sở TTTT là cơ quan chuyên ngành
tham mƣu UBND tỉnh công tác QLNN về báo chí, tuy nhiên, các cơ quan báo chí
cũng là cơ quan ngang cấp với Sở TTTT về mặt hành chính, do đó, việc thực hiện
QLNN không tránh khỏi những vƣớng mắc, chồng chéo, cả nể, thiếu tính kiên
quyết.
- Nguyên nhân chủ quan:
Một là, công tác lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý đôi khi còn thiếu kiên quyết dẫn đến
sự chấp hành của một số cơ quan chƣa cao. Vai trò của cơ quan chủ quản chƣa đƣợc phát
huy một cách đầy đủ theo quy định của Luật Báo chí.
74
Hai là, hạn chế trong công tác cán bộ. Đội ngũ nhân sự cơ quan QLNN về báo
chí còn thiếu và yếu, hạn chế về năng lực, chƣa đáp ứng yêu cầu; việc phát hiện, phân
tích, xử lý một số tình huống còn hạn chế, lúng túng.
Công tác bố trí cán bộ QLNN về báo chí trên địa bàn tỉnh Đắk Nông chƣa phù
hợp. Cụ thể, Phòng Báo chí – Xuất bản, Sở TTTT phụ trách lĩnh vực báo chí hiện nay
chỉ có 3 cán bộ, hầu hết qua đào tạo chƣa phù hợp với chuyên ngành. Trình độ nghiệp vụ
chuyên môn của cán bộ, chuyên viên tham mƣu QLNN còn hạn chế, thiếu kinh nghiệm;
khả năng phát hiện, đề xuất, kiến nghị, tham mƣu xây dựng văn bản chƣa cao. Hơn nữa,
với 03 nhân sự của phòng đảm nhiệm khối lƣợng công việc trong hoạt động QLNN đối
với báo chí, xuất bản, thông tin điện tử, thông tin đối ngoại, thông tin cơ sở tƣơng đối lớn
dẫn đến quá tải, ảnh hƣởng trực tiếp đến hiệu quả cũng nhƣ tính chuyên sâu của công tác
tham mƣu.
Bên cạnh về nhân sự thì cơ quan chỉ đạo, QLNN còn gặp nhiều khó khăn về điều
kiện làm việc, chƣa có kinh phí đầu tƣ phƣơng tiện, trang thiết bị theo dõi để đáp ứng
nhu cầu ngày càng đa dạng và phức tạp của công tác quản lý báo chí, đặc biệt là quản lý
hoạt động phát thanh – truyền hình, dịch vụ truyền hình trả tiền, internet
Hạn chế trong tự thân cơ quan tham mƣu QLNN về báo chí (Sở TTTT đã
dẫn đến nhiều nội dung QLNN còn triển khai mang tính hình thức, chƣa đầy đủ và
thiếu tính hiệu quả nhƣ công tác thanh tra hoạt động báo chí; quản lý hệ thống Đài
Truyền thanh cơ sở; theo dõi hoạt động phát thanh – truyền hình; quản lý dịch vụ
truyền hình trả tiền, hoạt động thu tín hiệu truyền hình từ vệ tinh; chậm tham mƣu
xây dựng quy hoạch phát triển báo chí; quản lý chƣa sát hoạt động phóng viên
thƣờng trú; chƣa đảm bảo theo dõi mọi mặt hoạt động báo chí trên địa bàn tỉnh .
Ba là, sự phối hợp công tác chỉ đạo, quản lý báo chí giữa Sở TTTT, Ban Tuyên
giáo Tỉnh ủy đôi khi còn thiếu nhịp nhàng, chƣa chủ động. Quy chế tổ chức giao ban
báo chí đã qua hai lần bàn bạc, sửa đổi nhƣng thực tế thực hiện đến nay vẫn còn nhiều
điểm chƣa thật sự phù hợp, làm ảnh hƣởng không nhỏ đến chất lƣợng công tác giao
ban báo chí.
75
Bốn là, việc chỉ đạo thông tin còn thiếu thống nhất, không tập trung đầu mối
nên nhiều khi còn gây khó khăn lúng túng cho báo chí trên thực tế, cả Ban Tuyên
giáo Tỉnh ủy và Sở TTTT đều tiến hành định hƣớng thông tin báo chí). Công tác
định hƣớng tuyên truyền đôi khi còn chồng chéo, lặp lại không cần thiết. Nhiều văn
bản định hƣớng tuyên truyền đƣợc gửi đến các cơ quan báo chí, tuy nhiên chƣa có
sự theo dõi, giám sát và đánh giá việc triển khai thực hiện.
Năm là, công tác giáo dục đạo đức nghề nghiệp và bồi dƣỡng nâng cao trình
độ, kỹ năng làm báo cho đội ngũ những ngƣời làm báo chƣa đƣợc quan tâm đúng
mức. Công tác đào tạo còn mang tính thời vụ, chƣa qua khảo sát nhu cầu và xây
dựng kế hoạch đào tạo phù hợp với yêu cầu thực tiễn.
Sáu là, việc thực hiện Quy chế phát ngôn và cung cấp thông tin cho báo chí
đôi khi chƣa kịp thời, gây khó khăn cho hoạt động báo chí. Một số cơ quan chức
năng không chủ động, kịp thời cung cấp thông cho báo chí dẫn đến tình trạng báo
chí tự tìm kiếm thông tin nên có khi thiếu sự chính xác do không có thông tin chính
thống. Vẫn còn tƣ tƣởng ngại va chạm, né tránh báo chí; công tác họp báo vẫn chƣa
đƣợc quan tâm đúng mức, việc tổ chức họp báo còn mang tính “hành chính hóa”.
Bảy là, công tác tuyên truyền pháp luật về hoạt động báo chí chƣa đƣợc
thƣờng xuyên. Một số cơ quan, đơn vị chƣa nhận thức và chấp hành nghiêm túc các
quy định của Luật Báo chí, xuất bản.
Tám là, công tác thanh, kiểm tra, xử lý vi phạm đối với hoạt động báo chí
còn bị buông lỏng, hầu hết chƣa kịp thời và nghiêm túc. Vi phạm khi diễn ra chủ
yếu đƣợc nhắc nhở, chấn chỉnh bằng văn bản hoặc trong các cuộc họp Giao ban báo
chí định kỳ, chƣa đảm bảo đƣợc tính hiệu lực công tác QLNN.
Cũng chính những nguyên nhân này khiến cho vai trò của cơ quan QLNN
đối với hoạt động báo chí chƣa đƣợc phát huy; làm hạn chế đến tính hiệu lực và
hiệu quả của công tác QLNN về báo chí tại địa phƣơng.
Tiểu kết Chƣơng 2
Nằm ở phía Nam Tây Nguyên, tỉnh Đắk Nông có vị trí chiến lƣợc về quốc phòng
an ninh. Xét về điều giao thƣơng kinh tế có những thuận lợi đó là nằm trong “tam giác
76
phát triển” của ba nƣớc Đông dƣơng; có các tuyến Quốc lộ 14, 28 nối các tỉnh Tây
nguyên với các tỉnh Đông Nam bộ, duyên hải miền Trung...Văn hóa bản địa có nhiều nét
đặc trƣng đặc sắc và giàu tiềm năng khoáng sản. Hiện tuy còn những khó khăn ảnh
hƣởng đến phát triển kinh tế xã hội nhƣ: Hạ tầng kinh tế kỹ thuật còn thấp; hộ nghèo còn
cao, đặc biệt là đồng bào dân tộc thiểu số; an ninh chính trị, tình hình lợi dụng dân chủ,
dân tộc, tôn giáo... còn tiềm n nhiều phức tạp. Song, với những định hƣớng chiến lƣợc,
những giải pháp trung và dài hạn đƣợc đƣa ra thực hiện, sự đoàn kết, phấn đấu của Đảng
bộ và nhân dân các dân tộc tỉnh Đắk Nông đ y mạnh phát triển kinh tế - xã hội, chăm lo
công tác an sinh xã hội, hứa hẹn sẽ trở thành môi trƣờng lý tƣởng, cung cấp nguồn thông
tin phong phú, tạo điều kiện cho hoạt động thông tin báo chí phát triển, có tính đặc trƣng
so với các khu vực khác.
Những năm qua, các cơ quan chỉ đạo, quản lý về báo chí trên địa bàn tỉnh đã
nỗ lực thực hiện các nội dung công tác QLNN, trong đó chú trọng đến việc tổ chức
thực thi các văn bản pháp luật triển khai hoạt động báo chí; định hƣớng công tác tƣ
tƣởng, nội dung tuyên truyền, từ đó tổ chức tốt công tác thông tin và quản lý thông
tin báo chí. Nhờ đó, hoạt động các cơ quan báo chí tƣơng đối đi vào nền nếp, bảo
đảm đúng tôn chỉ mục đích, phát huy vai trò đóng góp cho sự phát triển của tỉnh
nhà. Báo Đắk Nông đến nay đã phát triển cả hai loại hình báo in và báo điện tử, dần
tiếp cận với lĩnh vực truyền hình Internet, xây dựng hoạt động báo chí đa phƣơng
tiện. Đài PTTH tỉnh tuy còn nhiều khó khăn về cơ sở vật chất nhƣng đã nỗ lực nâng
cao thời lƣợng chƣơng trình, đầu tƣ sản xuất chƣơng trình mới, hoàn tất việc đƣa
sóng truyền hình lên vệ tinh, nâng tỷ lệ phủ sóng 100% toàn tỉnh. Tạp chí Nâm
Nung đã từng bƣớc nâng cao chất lƣợng nội dung ấn ph m, trở thành diễn đàn cho
những ngƣời yêu văn học nghệ thuật tỉnh nhà. Hoạt động báo chí tỉnh Đắk Nông
nhìn chung đã cơ bản phù hợp về số lƣợng, chất lƣợng ngày càng nâng lên.
Công tác QLNN về báo chí đã đƣợc chủ động thực hiện, tuy vậy vẫn không
tránh khỏi những hạn chế nhất định do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan.
Đó là những hạn chế về khung pháp lý còn thiếu, chƣa theo kịp sự phát triển; hạn
chế về nguồn nhân lực, trang thiết bị kỹ thuật; chế tài quản lý đội ngũ phóng viên
77
thƣờng trú còn thiếu tính khả thi; chƣa thống nhất đƣợc mô hình tổ chức, quản lý cho
hệ thống Đài Truyền thanh cơ sở; việc xử lý thông tin báo chí cung cấp còn hạn chế;
công tác thanh kiểm tra chƣa đƣợc thực hiện nghiêm túc, triệt để Hệ thống hóa
đƣợc thực trạng, nhất là những hạn chế và nguyên nhân sẽ giúp đƣa ra những giải
pháp khắc phục phù hợp, từng bƣớc hoàn thiện công tác QLNN về báo chí tại địa
phƣơng.
78
Chƣơng 3
XU HƢỚNG VÀ GIẢI PH P TĂNG CƢỜNG QUẢN LÝ
NHÀ NƢỚC VỀ B O CHÍ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐẮK NÔNG
3.1. Xu hƣớng phát triển và quản lý nhà nƣớc về báo chí trên địa bàn tỉnh Đắk
Nông
3.1.1. Xu hướng phát triển báo chí trên địa bàn tỉnh Đắk Nông
Đắk Nông là tỉnh đƣợc thành lập gần 14 năm, kinh tế - xã hội đang trong quá
trình hình thành và phát triển. So với các tỉnh Tây Nguyên khác trong khu vực, điều
kiện phát triển của tỉnh Đắk Nông còn nhiều khó khăn. Tuy nhiên, Đắk Nông cũng
có lợi thế về giao thƣơng và điều kiện phát triển bởi nằm ở cửa ngõ phía nam của
Tây Nguyên, có trục giao thông huyết mạch Quốc lộ 14 và Quốc lộ 28 đi qua; có
hơn 130 km đƣờng biên giới với 02 cửa kh u quốc tế giao thƣơng với Vƣơng quốc
Campuchia.
Hơn nữa, Đắk Nông hiện đang đƣợc biết đến ngày càng nhiều bởi có tốc độ
phát triển kinh tế cao trong khu vực, với điều kiện thổ nhƣỡng thuận lợi cho cây
công nghiệp dài ngày; có tiềm năng phát triển khai khoáng với trữ lƣợng bô xít,
wolfram tƣơng đối lớn và tiềm năng phát triển du lịch với nhiều di tích, điểm du
lịch sinh thái và đặc biệt là hệ thống hang động núi lửa mới đƣợc phát hiện dọc
sông Sêrêpôk, đƣợc đánh giá là hiếm có và dài nhất Đông Nam Á. Đây là những
điều kiện hứa hẹn sẽ thu hút đƣợc nguồn đầu tƣ lớn vào Đắk Nông, mang lại sự
phát triển sôi động cho tỉnh trong thời gian tới, đồng thời cũng là môi trƣờng lý
tƣởng cho hoạt động báo chí phát triển.
Trên cơ sở định hƣớng quy hoạch phát triển các loại hình báo chí tại Nghị
quyết Hội nghị lần thứ mƣời Ban chấp hành Trung ƣơng Đảng khóa XI; đề án quy
hoạch phát triển báo chí – xuất bản đến 2025 của BTTT; quy hoạch phát triển báo
chí – xuất bản tỉnh Đắk Nông đến năm 2025 và qua khảo sát thực tiễn và định
79
hƣớng phát triển của các cơ quan báo chí tại Đắk Nông cho thấy, thời gian tới, cùng
với xu thế phát triển chung của cả nƣớc, báo chí tỉnh Đắk Nông sẽ có sự phát triển
về chiều rộng lẫn chiều sâu với những mức độ khác nhau và với từng loại hình khác
nhau. Đề tài đƣa ra một số dự báo về xu hƣớng phát triển báo chí tỉnh Đắk Nông
thời gian tới nhƣ sau:
- Báo in:
Thời gian tới, sẽ tiếp tục duy trì hoạt động của 02 cơ quan báo in hiện tại là
Báo Đắk Nông và Tạp chí Nâm Nung theo quy hoạch, song không tăng nhanh về số
lƣợng sản ph m, các cơ quan báo sẽ tập trung nguồn lực nâng cao chất lƣợng nội
dung thông tin, hình thức thể hiện của các ấn ph m hiện tại nhằm thu hút bạn đọc.
Nhằm thu hút bạn đọc và cạnh tranh với các loại hình thông tin và ấn ph m
báo chí khác thì Báo Đắk Nông và Tạp chí Nâm Nung sẽ tập trung tăng cƣờng chất
chất lƣợng nội dung thông tin, hình thức thể hiện của các ấn ph m hiện tại, đồng
thời tăng số lƣợng phát hành để mở rộng diện bao phủ của báo, không chỉ đến với
cán bộ, công chức, các tổ chức cơ sở đảng, hội viên văn học nghệ thuật mà hƣớng
thêm đối tƣợng độc giả là ngƣời dân. Sản ph m Báo Đắk Nông và Tạp chí Nâm
Nung hƣớng tới nỗ lực xây dựng, phát triển các sản ph m thông tin chuyên biệt
phục vụ nhu cầu đặc thù của địa phƣơng, nhƣ phát triển tăng số lƣợng, số kỳ các số
báo ảnh tiếng dân tộc thiểu số, các chuyên đề phục vụ nhu cầu thông tin cho ngƣời
dân; các ấn ph m Tạp chí Nâm Nung bán nguyệt san theo từng chủ đề; các phụ
trang tập trung vào từng loại hình nghệ thuật nhƣ nhiếp ảnh, hội họa, văn học, thơ,
nhạc
Ngoài ra, để phù hợp với xu hƣớng phát triển, sản h m báo in Đắk Nông
cũng sẽ phát triển song song với hình thức số hóa trên Báo điện tử. Báo in đƣợc
xuất bản dƣới hình thức điện tử, phát hành qua môi trƣờng mạng sẽ mở rộng đƣợc
đối tƣợng ngƣời xem cũng nhƣ phạm vi, đối tƣợng theo dõi.
Đặc biệt, theo định hƣớng của Nghị quyết Hội nghị lần thứ mƣời Ban chấp
hành Trung ƣơng Đảng khóa XI cũng nhƣ Luật Báo chí năm 2016, các cơ quan báo
chí sẽ đƣợc xem xét giao quyền hoạt động tự chủ. Trong xu thế này, chủ trƣơng đó
80
vừa là thời cơ nhƣng cũng là thách thức đòi hỏi các cơ quan báo chí tỉnh Đắk Nông
trƣớc hết là Báo Đắk Nông) cần phải nỗ lực tích lũy nguồn lực tự thân để đáp ứng
yêu cầu cho phép hoạt động tự chủ.
- Báo điện tử:
Báo Đắk Nông điện tử dự báo sẽ hoạt động ngày càng có hiệu quả trên cơ sở
nâng cấp toàn diện Trang thông tin điện tử Báo Đắk Nông, nhằm giúp bạn đọc có
thêm kênh thông tin tiếp cận với báo Đắk Nông. Về lâu dài, nếu cơ sở hạ tầng đƣợc
bổ sung, nguồn nhân lực tập hợp đƣợc đủ về số lƣợng, thành thạo về chuyên môn,
Báo điện tử Đắk Nông sẽ có cơ hội là website thông tin trực tuyến trên nhiều lĩnh
vực. Thông tin trên Đắk Nông Online sẽ đƣợc cập nhật nhiều lần trong ngày theo
dòng chảy thời sự của tỉnh.
Trang Truyền hình Internet trên báo điện tử Đắk Nông đang trong thời gian
thử nghiệm, hiện đang trong quá trình hoàn thiện thủ tục, nâng cấp hạ tầng, đầu tƣ
phƣơng tiện máy móc, nguồn nhân lực...để chuyển sang Báo Điện tử. Tuy nhiên,
đây cũng thêm một sản ph m tích hợp đa phƣơng tiện trên Báo Đắk Nông điện tử
nhằm đáp ứng và phù hợp với xu hƣớng chung hiện nay của báo mạng điện tử cũng
nhƣ quan điểm, chủ trƣơng phát triển cơ quan báo Đảng địa phƣơng của tỉnh Đắk
Nông, chứ không fthe63 cạnh tranh hay thế cho kênh truyền hình địa phƣơng.
- Báo nói, báo hình:
Trong tƣơng lai, để phát huy vai trò là cơ quan báo hình, báo nói của chính
quyền tỉnh Đắk Nông, Đài PTTH sẽ tập trung mọi nguồn lực để nâng cao chất
lƣợng và tăng thời lƣợng tự sản xuất các chƣơng trình phát thanh, truyền hình. Mặc
dù kênh truyền hình Đắk Nông hiện đã đƣợc phát qua vệ tinh Vinasat, nhƣng thực
tế mới chỉ đảm bảo yêu cầu về tổng thời lƣợng chƣơng trình, còn thời lƣợng tự sản
xuất vẫn chƣa đạt yêu cầu. Thời gian tới, với việc xây dựng hoàn tất và đƣa vào sử
dụng Trung tâm kỹ thuật phát thanh và truyền hình sẽ là điều kiện để Đài tăng các
chƣơng trình, chuyên mục tự sản xuất trong tổng thời lƣợng phát sóng phát thanh và
truyền hình, đảm bảo theo quy định về thời lƣợng chƣơng trình tự sản xuất của Bộ
TTTT về điều kiện đƣa sóng truyền hình lên vệ tinh.
81
Riêng với lĩnh vực truyền hình, theo lộ trình của Đề án số hóa truyền dẫn,
phát sóng truyền hình mặt đất đến năm 2020, Đài PTTH tỉnh Đắk Nông sẽ đầu tƣ
các trang thiết bị cần thiết để hƣớng tới dần thay thế truyền hình công nghệ analog
bằng hệ thống hạ tầng kỹ thuật số. Tuy nhiên, việc thay thế công nghệ nay đối với
Đài PTTH tỉnh sẽ rất khó khăn và mất thời gian dài bởi cần nguồn lực rất lớn để
trang bị lại hệ thiết bị và công nghệ SDTV hiện đã lạc hậu và nhiều hƣ hỏng của
Đài. Ngoài ra, Đài PTTH tỉnh Đắk Nông dự báo cần tập trung đầu tƣ vào Trang
thông tin điện tử của Đài để đảm bảo hỗ trợ phƣơng thức xem đài, nghe đài online
cũng nhƣ lƣu giữ chƣơng trình đã phát sóng, qua đó đáp ứng tốt nhất nhu cầu theo
dõi chƣơng trình của khán thính giả mọi lúc, mọi nơi thông qua mạng lƣới Internet.
- Mạng lưới tru ền thanh, tru ền hình cơ sở:
Các Đài Truyền thanh – Truyền hình cấp huyện tuy không phải là cơ quan
báo chí nhƣng với vai trò là đơn vị làm nhiệm vụ thông tin, tuyên truyền tại địa
phƣơng thời gian tới sẽ có điều kiện phát triển toàn diện hơn với sự quan tâm đầu tƣ
đồng bộ hạ tầng kỹ thuật cũng nhƣ nghiên cứu áp dụng thống nhất mô hình tổ chức
cho các Đài Truyền thanh cơ sở.
Cũng với đó, khi đảm bảo đƣợc những điều kiện về hạ tầng kỹ thuật cũng
nhƣ đội ngũ nhân sự thì Đài Truyền thanh – Truyền hình các huyện, thị xã ngoài
nhiệm vụ tiếp phát sóng chƣơng trình của Đài Trung ƣơng và Đài tỉnh sẽ tập trung
tự sản xuất chƣơng trình với thời lƣợng và chất lƣợng đƣợc nâng lên. Từ đó, hoạt
động các Trang tin địa phƣơng ngày càng hiệu quả, phát huy vai trò của các Đài
huyện.
Ngoài ra, với chủ trƣơng đầu tƣ nâng cấp hạ tầng kỹ thuật truyền thanh đảm
bảo phủ sóng thƣờng xuyên, liên tục đến 100% các xã, phƣờng, thị trấn thì hệ thống
Trạm truyền thanh các xã, phƣờng, thị trấn dự báo sẽ hoạt động ổn định và hiệu quả
hơn, đảm bảo đƣa thông tin đến từng hộ dân vùng sâu, vùng xa trên địa bàn.
- Hệ thống các Trang thông tin điện tử, phát tri n có chọn lọc một số ấn
ph m bản tin:
82
Bên cạnh 2 tờ báo in lớn của địa phƣơng thì tỉnh Đắk Nông hiện có nhiều ấn
ph m thông tin chuyên ngành đƣợc xuất bản định kỳ dƣới hình thức bản tin, tài liệu
không kinh doanh. Các ấn ph m thông tin này mang tính chất chuyên ngành, nội bộ,
hƣớng dẫn nghiệp vụ, thông tin kết quả nghiên cứu, của các cơ quan, tổ chức pháp
nhân trên địa bàn tỉnh.
Tuy nhiên, hiện nay, các cơ quan, tổ chức trên địa bàn tỉnh đều đang có xu
hƣớng đầu tƣ xây dựng các Trang thông tin điện tử (website) của riêng mình. Hình
thức này ƣu việt hơn nhờ có thể liên tục cập nhật kết quả hoạt động ngành cũng nhƣ
phổ biến kiến thức pháp luật, cung cấp các dịch vụ hành chính công cho tổ chức và
công dân. Do đó, triển khai công tác thông tin tuyên truyền thông qua Trang thông
tin điện tử sẽ nhanh chóng, thuận tiện, hiện đại và tiết kiệm hơn so với hình thức
xuất bản ấn ph m tuyên truyền.
Nhƣ vậy, với xu hƣớng phát triển hệ thống các Trang thông tin điện tử, thời
gian tới, sẽ giảm bớt một số bản tin có hiệu quả, chất lƣợng thấp, nguồn lực ít và
lƣợng bạn đọc hạn chế. Bên cạnh đó, rà soát, sắp xếp lại hệ thống bản tin, ấn ph m
thông tin theo hƣớng ƣu tiên phát triển bản tin một số sở, ban, ngành, địa phƣơng có
yêu cầu lớn về nội dung thông tin, đề tài phản ánh, số lƣợng phát hành rộng, hiệu
quả tuyên truyền cao; phát triển thành các đặc san, tạp chí khi có điều kiện.
3.1.2. Phương hướng quản lý nhà nước về báo chí của tỉnh Đắk Nông
Xác định rõ vai trò, tầm quan trọng của hoạt động báo chí, Tỉnh uỷ, Hội đồng
nhân dân, UBND tỉnh Đắk Nông thời gian qua thƣờng xuyên quan tâm chỉ đạo,
định hƣớng hoạt động, đầu tƣ nguồn lực con ngƣời, cơ sở vật chất, trang thiết bị, tạo
điều kiện thuận lợi để phát triển, từng bƣớc chuyên nghiệp hóa, hiện đại hóa hoạt
động báo chí. Tỉnh Đắk Nông đã vận dụng, thể chế hóa một số nội dung quản lý nhà
nƣớc về báo chí phù hợp với tình hình thực tiễn của địa phƣơng nhƣ: Quy định
chung đối với công tác QLNN về báo chí; Quy định về chỉ đạo, định hƣớng chính
trị, tƣ tƣởng, nhất là đối với những vấn đề quan trọng, phức tạp, nhạy cảm trong nội
dung thông tin của báo chí; mức chi trả nhuận bút cho tác ph m báo chí, hoạt động
83
Đài Truyền thanh cấp huyện; kiện toàn đội ngũ ngƣời phát ngôn và tổ chức cung
cấp thông tin cho báo chí; quy định về quản lý hoạt động phóng viên thƣờng trú
Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Đắk Nông đến năm 2020
đƣợc Thủ tƣớng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 1942 QĐ-TTg ngày
22 10 2013 đã nêu rõ phƣơng hƣớng phát triển lĩnh vực thông tin truyền thông trên
địa bàn tỉnh Đắk Nông nhƣ sau: “Phát triển mạnh mạng lƣới thông tin, phát thanh,
truyền hình, báo chí đến các xã, thị trấn, buôn làng. Tăng cƣờng đầu tƣ hạ tầng cho
ngành thông tin truyền thông, các Đài phát thanh – truyền hình của tỉnh. Phấn đấu
đến năm 2015 có 100% số xã đƣợc phủ sóng truyền hình.”
Vận dụng những quan điểm chỉ đạo của Nghị quyết Hội nghị lần thứ mƣời
Ban Chấp hành Trung ƣơng Đảng (khóa XI) (tháng 01/2015) về định hƣớng quy hoạch
báo chí và phân tích thực trạng công tác QLNN về báo chí trên địa bàn tỉnh Đắk Nông,
tác giả mạnh dạn đề xuất phƣơng hƣớng phát triển báo chí cụ thể tại tỉnh Đắk Nông
trong thời gian tới:
- Hoạt động báo chí phải đặt dƣới sự lãnh, chỉ đạo, định hƣớng của Đảng, sự
quản lý của Nhà nƣớc, thực sự là tiếng nói của Đảng, chính quyền, là diễn đàn của
nhân dân địa phƣơng tỉnh Đắk Nông.
- Tăng cƣờng vai trò của cơ quan quản lý, định hƣớng thông tin báo chí; xây
dựng hoạt động báo chí chuyên nghiệp, hiện đại, nhân văn. Báo chí phải bảo đảm tính
Đảng, tính nhân dân, tính giáo dục, tính chiến đấu và định hƣớng dƣ luận xã hội lành
mạnh, góp phần tăng cƣờng sự đoàn kết, nhất trí về tƣ tƣởng, tinh thần trong nhân dân.
- Báo chí làm tốt công tác dự báo, định hƣớng và là động lực thúc đ y phát triển
xã hội. Tích cực biểu dƣơng nhân tố mới, tham gia đấu tranh chống tham nhũng,
lãng phí, quan liêu, mê tín dị đoan và các tệ nạn xã hội, góp phần giữ gìn và phát
huy các giá trị truyền thống tốt đẹp, bản sắc văn hoá vùng đất - con ngƣời Đắk
Nông, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại. Đồng thời, kiên quyết đấu tranh phê phán
các quan điểm sai trái, thù địch, khắc phục các biểu hiện thƣơng mại hoá, xa rời tôn
chỉ, mục đích và các biểu hiện lệch lạc khác. Báo chí phải thực sự là phƣơng tiện
84
chủ yếu để quảng bá hình ảnh tỉnh Đắk Nông đến với cả nƣớc và thế giới, thu hút
đầu tƣ, thúc đ y giao lƣu hợp tác thực hiện các nhiệm vụ chính trị của tỉnh.
- Địa phƣơng có cơ chế, chính sách tài chính, đào tạo đội ngũ để tạo điều kiện
cần thiết cho báo chí hoàn thành nhiệm vụ chính trị, đồng thời khuyến khích các cơ
quan báo chí tăng cƣờng huy động nguồn lực phát triển trên cơ sở bảo đảm đúng tôn
chỉ, mục đích của báo chí địa phƣơng.
- Tập trung xây dựng, phát triển các cơ quan báo chí hiện có theo hƣớng nâng
cao chất lƣợng, tiếp cận đến các loại hình đa phƣơng tiện, phù hợp với sự phát triển
khoa học – công nghệ và xu thế phát triển thông tin, truyền thông hiện đại. Tăng khả
năng năng động, chủ động của cơ quan báo chí trong việc cung cấp thông tin chính
thống, đảm bảo tuân theo định hƣớng, đáp ứng nhu cầu thông tin của ngƣời dân địa
phƣơng; đảm bảo an toàn, an ninh thông tin mạng.
Trên cơ sở những định hƣớng phát triển báo chí nói trên, công tác QLNN về
báo chí tại tỉnh Đắk Nông do đó cũng cần hƣớng đến tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính
sách quản lý chặt chẽ hoạt động báo chí, xây dựng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu
mới; đồng thời, tạo môi trƣờng thuận lợi cho hoạt động báo chí phát triển. Định hƣớng
tăng cƣờng công tác QLNN về báo chí này đồng thời là cơ sở để đƣa ra những nhóm
giải pháp đƣợc đề xuất dƣới đây.
3.2. Giải pháp tăng cƣờng quản lý nhà nƣớc về báo chí trên địa bàn tỉnh
Đắk Nông
3.2.1. Hoàn thiện thể chế chính sách quản lý nhà nước về báo chí của
tỉnh Đắk Nông
- Tổ chức thực hiện quy hoạch phát tri n báo chí phù h p:
Ngày 16/02/2009, Thủ tƣớng Chính phủ đã phê duyệt Quy hoạch truyền dẫn
phát sóng phát thanh, truyền hình đến năm 2020 với mục tiêu xây dựng hệ thống
báo hình, báo nói Việt Nam phát triển xứng tầm với tiềm năng của đất nƣớc. Hiện
nay, Bộ TTTT cũng đã và đang trong thời kỳ hoàn thiện, xây dựng Quy hoạch báo
chí Việt Nam đến năm 2025. Bộ TTTT cũng đã ban hành Đề án Quy hoạch Báo chí
– xuất bản đến năm 2010, , định hƣớng đến năm 2025. Riêng tỉnh Đắk Nông đã có
85
Quy hoạch phát triển báo chí, xuất bản giai đoạn 2017 – 2025. Cần tiếp tục bám sát
Quy hoạch tổng thể của Bộ TTTT để tham mƣu, tổ chức thực hiện tốt “Quy hoạch
phát triển Báo chí, Xuất bản tỉnh Đắk Nông đến năm 2020 và định hƣớng đến năm
2025” phù hợp với quy hoạch chung cũng nhƣ tình hình phát triển thực tế của địa
phƣơng.
- Hoàn thiện hệ thống văn bản qu phạm pháp luật làm cơ sở pháp lý cho
hoạt động quản lý phù h p với thực tiễn:
Hệ thống pháp luật về báo chí ở nƣớc ta (trọng tâm là Luật Báo chí qua hơn
15 năm triển khai thi hành đã bộc lộ nhiều điểm không theo kịp với sự phát triển
của thực tiễn, nhiều bất cập cần sửa đổi, bổ sung để phù hợp với tình hình thực tế.
Và, để đáp ứng yêu cầu này, tháng 4 năm 2016, Quốc hội khóa XII đã thông qua
Luật Báo chí. Để Luật Báo chí năm 2016 đi vào cuộc sống, cần tập trung xây dựng
các khung quy định cụ thể tập trung vào một số vấn đề nhƣ: quản lý cơ quan báo chí
hoạt động nhiều loại hình báo chí; vấn đề liên kết trong hoạt động báo chí; vấn đề
tài chính đối với cơ quan báo chí, vai trò cơ quan chủ quản; phối hợp th m định nội
dung quảng cáo trên báo chí; quản lý báo điện tử và thông tin trên Internet; quy định
phù hợp hơn về định mức theo dõi lƣu chiểu; quy định về xuất bản bản tin phù hợp
với nội dung mới của Luật Xuất bản...Cụ thể:
+ Đối với Chính phủ: Cần phân định rõ ràng, cụ thể tất cả chức năng, nhiệm
vụ của Bộ Thông tin Truyền thông với Bộ Văn hóa, Thể thao và Du Lịch. Chính
phủ, Ban Tuyên giáo Trung ƣơng cần thống nhất công tác chỉ đạo và quản lý nhà
nƣớc về báo chí, tránh chồng chéo; hƣớng đến mục đích lớn nhất là tạo môi trƣờng
lành mạnh đối với văn hóa, xã hội nói chung, bảo đảm quyền lợi hợp pháp cho từng
nhà báo, từng tờ báo, đồng thời ràng buộc trách nhiệm của các bộ, ngành, địa
phƣơng phải cung cấp thông tin kịp thời cho báo chí. Chỉ đạo các cơ quan tham
mƣu liên quan nghiên cứu mô hình phát triển, hoạt động báo chí địa phƣơng tƣơng
đối đồng bộ trong cả nƣớc về cơ cấu tổ chức, tài chính, mô hình hoạt động. Vì thực
tế hiện đang có sự không đồng nhất trong quy định cơ chế về tổ chức, tài chính của
Đảng và Nhà nƣớc ở Trung ƣơng và có sự áp dụng, quy định không giống nhau
86
giữa Đảng, Nhà nƣớc ở các địa phƣơng cấp tỉnh. Nói chung mỗi tỉnh có sự áp dụng
khác nhau về mô hình, tổ chức, tài chính.
Tiếp tục quan tâm và mở rộng hỗ trợ tài chính bao phủ diện phát sóng và sản
ph m báo chí đến đồng bào dân tộc thiểu số, vùng khó khăn nhằm đƣa đƣờng lối,
chủ trƣơng của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nƣớc đến với cán bộ, đảng viên
và nhân dân. Đây là việc làm cần thiết nhằm hạn chế phòng chống, hạn chế tƣ tƣởng
xuyên tạc, vu khống, nói xấu Đảng và Nhà nƣớc của các thế lực thù địch; chống lại
sự lôi kéo, dụ dỗ đối tƣợng đồng bào dân tộc thiểu số nhẹ dạ, cả tin, nghe theo lời
kẻ xấu, tham gia các đạo lạ, trái phép...
+ Bộ Thông tin và Truyền thông: Chỉ đạo, tổ chức, hƣớng dẫn thực hiện tốt
Luật Báo chí; Luật Xuất bản; các nghị định Chính phủ về phát triển báo chí, xuất
bản, phát thanh, truyền hình...trong cả nƣớc nói chung, tỉnh Đắk Nông nói riêng.
Quan tâm hỗ trợ kinh phí cho các dự án ƣu tiên của Quy hoạch Báo chí, Xuất bản
tỉnh Đắk Nông đến năm 2025; nhất là các Dự án thực hiện Đề án số hóa truyền dẫn,
phát sóng truyền hình mặt đất; Dự án xây dựng cơ quan Báo Đắk Nông điện tử...
+ Đối với UBND tỉnh Đắk Nông: Trên cơ sở áp dụng khung pháp lý hiện
hành để QLNN về báo chí, tỉnh Đắk Nông cần có những đánh giá quá trình thực thi
cụ thể và những vƣớng mắc gặp phải từ đó đề xuất một số nội dung cần xem xét.
Ngoài ra, tỉnh Đắk Nông cũng cần tiếp tục hoàn thiện, xây dựng các văn bản quy
phạm pháp luật về báo chí để điều chỉnh kịp thời những vƣớng mắc, phát sinh từ
thực tiễn địa phƣơng trong xu thế truyền thông đa phƣơng tiện.
- oàn thiện chế độ, chính sách và đ u tư thích h p đối với lĩnh vực báo chí:
Chế độ, chính sách đối với hoạt động báo chí là vấn đề rất cần sự quan tâm,
xem xét nhất là trong điều kiện phát triển kinh tế thị trƣờng và cạnh tranh nhiều sản
ph m, loại hình báo chí nhƣ hiện nay. Với đặc điểm hoạt động báo chí của tỉnh Đắk
Nông còn ít cơ quan báo chí thì việc đề ra cơ chế, chính sách nhằm khuyến khích,
tạo điều kiện phát triển là điều kiện tất yếu. Nên xem xét xây dựng, sửa đổi một số
nội dung nhƣ:
87
+ Xây dựng cơ chế, chính sách đặt hàng, hỗ trợ tài chính đối với báo chí làm
nhiệm vụ chính trị, thông tin, tuyên truyền thiết yếu.
+ Xây dựng, làm rõ cơ chế tăng cƣờng vai trò, trách nhiệm của cơ quan chủ
quản đối với cơ quan báo chí thuộc quyền.
+ Hoàn thiện cơ chế, chính sách về tài chính trong hoạt động báo chí, tạo
điều kiện cho báo chí sớm tự chủ về tài chính.
+ Xem xét chính sách hỗ trợ cho các cơ quan báo chí phục vụ các nhiệm vụ
chính trị, tuy nhiên vẫn phải xem xét phƣơng án đƣa ấn ph m báo chí địa phƣơng
phát hành ngoài thị trƣờng để cơ quan báo chí chủ động đầu tƣ nâng cao chất lƣợng
nhằm tăng khả năng cạnh tranh trên thị trƣờng.
+ Xây dựng cơ chế, chính sách hỗ trợ cho cán bộ làm công tác truyền thanh
cơ sở bởi hiện nay đội ngũ này chỉ là cán bộ bán chuyên trách với mức phụ cấp rất
ít, thiếu tính khuyến khích và ổn định...
3.2.2. Tổ chức bộ máy QLNN về báo chí trên địa bàn Tỉnh
Tập trung kiện toàn bộ máy QLNN về TTTT nói chung, lĩnh vực báo chí nói
riêng ở các cơ quan tham mƣu, quản lý về chuyên ngành từ tỉnh đến huyện, thị xã.
Hoàn thiện cơ cấu tổ chức bộ máy, cơ chế quản lý của các cơ quan chỉ đạo và quản
lý thông tin nhằm nâng cao hiệu lực quản lý nhà nƣớc đối với lĩnh vực này; khắc
phục tình trạng chồng chéo, phân công, phân cấp không rõ ràng giữa các cơ quan
quản lý, giữa tỉnh với huyện; bảo đảm sự tập trung trong công tác chỉ đạo, quản lý.
3. .3. Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý và đội ngũ người làm
báo trên địa bàn tỉnh
- N ng cao chất lư ng đội ngũ cán bộ làm công tác LNN về báo chí:
Nhƣ đã nói ở trên, do nhiều nguyên nhân chủ quan lẫn khách quan nên hiện
nay đội ngũ cán bộ QLNN về báo chí trên địa bàn tỉnh Đắk Nông còn thiếu về số
lƣợng và hạn chế về năng lực, khiến công tác QLNN còn gặp nhiều khó khăn, quá
tải. Để thực hiện tốt việc nâng cao chất lƣợng đội ngũ cán bộ QLNN về báo chí, cần
quan tâm thực hiện một số việc sau:
88
+ Quy định hệ thống tiêu chu n chức danh, tiêu chu n nghiệp vụ phù hợp với
thực tiễn, bảo đảm công tác chuyên môn của từng đối tƣợng. Cán bộ quản lý báo chí
phải có tri thức báo chí, tri thức về khoa học công nghệ thông tin và quản lý, tri thức
pháp luật và đặc biệt là phải có trình độ lý luận về chính trị. Việc xây dựng hệ thống
tiêu chu n chức danh này cần thiết đƣa vào Đề án vị trí việc làm căn cứ trên chức
năng, nhiệm vụ công tác tham mƣu, quản lý cũng nhƣ nhiệm vụ chuyên môn của
từng bộ phận, phù hợp với mô hình chung của cả nƣớc.
+ Cần có những quy định cụ thể về tuyển dụng cán bộ, sắp xếp và bố trí cán
bộ. Việc tuyển dụng cần căn cứ trên nhu cầu thực tế, yêu cầu cụ thể về vị trí công
việc cũng nhƣ sự phù hợp về trình độ chuyên môn, kinh nghiệm công tác cho từng
vị trí. Tƣơng tự, việc sắp xếp, bố trí, luân chuyển cán bộ cũng cần xem xét đến các
yếu tố này.
+ Có chính sách đào tạo và đào tạo lại những ngƣời quản lý báo chí để theo kịp
tốc độ phát triển chung của hoạt động báo chí hiện nay.
- iện toàn bộ má tổ chức cơ quan báo chí:
Trƣớc hết, tiếp tục xem xét đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy các cơ quan
báo chí, phù hợp với quy định của Đảng, yêu cầu cũng nhƣ phƣơng hƣớng hoạt
động báo chí của nhà nƣớc. Kiện toàn tổ chức bộ máy phải nhằm bảo đảm hƣớng
tới tinh gọn, phát huy tốt nhất vai trò của ngƣời lãnh đạo cơ quan báo chí và các
phòng, ban hoạt động các nhiệm vụ khác nhau của cơ quan báo chí.
Đặc biệt, tiếp tục kiện toàn mô hình tổ chức đối với hệ thống Đài Truyền
thanh –Truyền hình cấp huyện, Đài Truyền thanh xã hƣớng tới tăng khả năng tự sản
xuất, phát sóng chƣơng trình. Đối với Đài Truyền thanh các xã, phƣờng, thị trấn, đề
xuất bố trí cán bộ chuyên trách, nằm trong biên chế, có qua đào tạo vận hành máy
móc, đồng thời có mức phụ cấp thích hợp để khuyến khích công tác ổn định.
- N ng cao năng lực, chất lư ng đội ngũ nh ng người làm báo:
Đội ngũ những ngƣời làm báo giữ vai trò quyết định về nội dung, hình thức
và chất lƣợng báo chí, do đó, cần đƣợc quan tâm thƣờng xuyên, trong đó cần chú ý
một số nội dung:
89
+ Tiêu chu n hoá về trình độ chính trị và chuyên môn với các chức danh lãnh
đạo chủ chốt của các cơ quan báo chí, đặc biệt là ngƣời đứng đầu. Có chính sách
đào tạo, bồi dƣỡng nâng cao trình độ mọi mặt, thực hiện việc bổ nhiệm có thời hạn
đối với ngƣời đứng đầu cơ quan báo chí.
+ Làm tốt công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo các cơ quan báo chí. Chú
trọng đào tạo, bồi dƣỡng cán bộ trẻ có năng lực chuyên môn, ph m chất đạo đức và
bản lĩnh chính trị.
+ Đánh giá thực trạng đội ngũ cán bộ, phóng viên báo chí hiện có, phân loại
cụ thể để có kế hoạch đào tạo, bồi dƣỡng nhân lực theo lộ trình, đáp ứng các yêu
cầu của hoạt động báo chí của từng cơ quan, có chính sách sử dụng, bố trí, sắp xếp
cán bộ hợp lý.
+ Đ y mạnh việc giáo dục chính trị tƣ tƣởng, chuyên môn nghiệp vụ cho đội
ngũ phóng viên, biên tập viên, góp phần nâng cao bản lĩnh chính trị, đạo đức nghề
nghiệp. Có chế độ ƣu đãi, khuyến khích, động viên những nhà báo giỏi. Chú trọng
công tác phát triển đảng viên trong đội ngũ những ngƣời làm báo.
- Tăng cƣờng biên chế cho các cơ quan báo chí, đảm bảo về số lƣợng và chất
lƣợng theo yêu cầu nghiệp vụ từng giai đoạn phát triển. Chú trọng tuyển dụng
phóng viên theo yêu cầu chu n hóa nghề nghiệp từ các cơ sở đào tạo chuyên ngành
báo chí, mở rộng đối với các ngành đào tạo khác trên cơ sở năng lực thực tế, tinh
thần đam mê nghề nghiệp và khả năng ngoại ngữ, tin học, phong cách tác nghiệp
báo chí hiện đại.
+ UBND tỉnh, Sở TTTT, Hội Nhà báo tỉnh và các cơ quan báo chí cần tăng
cƣờng phối hợp với các cơ sở đào tạo để thƣờng xuyên tổ chức hoặc cử cán bộ,
phóng viên tham gia các khóa tập huấn, bồi dƣỡng nâng cao kỹ năng hoạt động
nghiệp vụ báo chí.
3. .4. Tăng cường lãnh đạo của Đảng; và xây dựng cơ chế phối hợp giữa cơ
quan tổ chức trong quản lý nhà nước về báo chí của Tỉnh
Một là, tăng cƣờng công tác lãnh đạo của Đảng. Tăng cƣờng sự lãnh đạo của
Đảng đối với công tác báo chí thông qua tăng cƣờng sự lãnh, chỉ đạo của Tỉnh ủy,
90
Ban Tuyên giáo đối với hoạt động báo chí; chú trọng công tác xây dựng Đảng trong
các cơ quan báo chí, làm cho cấp uỷ, tổ chức Đảng của các cơ quan này thực sự nêu
cao trách nhiệm chính trị và vai trò lãnh đạo trong tổ chức và hoạt động của cơ
quan, đơn vị; đồng thời, phát huy ý thức trách nhiệm của cán bộ, phóng viên là đảng
viên trong các cơ quan báo chí. Ngoài ra, chú trọng xác định quy định chức năng,
nhiệm vụ các tổ chức Đảng trong các cơ quan báo chí; quy chế tuyển chọn, đề bạt,
sử dụng, bãi nhiệm lãnh đạo cơ quan báo chí.
Hai là, tăng cƣờng cơ chế phối hợp giữa cơ quan định hƣớng tƣ tƣởng, cơ
quan quản lý nhà nƣớc và cơ quan chủ quản báo chí. Hoạt động báo chí trên địa bàn
tỉnh Đắk Nông hiện nay đang đặt dƣới sự lãnh đạo, quản lý trực tiếp của Tỉnh ủy,
Ban Tuyên giáo, UBND tỉnh và Sở TTTT. Trong đó, Tỉnh ủy vừa là cơ quan định
hƣớng, chỉ đạo báo chí vừa là cơ quan chủ quản của Báo Đắk Nông; UBND tỉnh
vừa là cơ quan quản lý chung vừa là cơ quan chủ quản của Đài PTTH tỉnh. Do đó,
rất cần tạo ra cơ chế phối hợp tốt giữa các cơ quan này để bảo đảm cho báo chí hoạt
động đúng tôn chỉ, mục đích, đúng định hƣớng và tuân thủ các quy định của pháp
luật về báo chí.
Thực tế hiện nay vẫn còn tình trạng quản lý chồng chéo, thiếu thống nhất
giữa các cơ quan này cũng nhƣ với các cơ quan có liên quan đến công tác nhân sự,
kế hoạch, tài chính.
3.2.5. Quản lý chế độ thông tin báo chí; công tác phản hồi, xử lý thông tin
báo chí trên địa bàn Tỉnh
Tập trung vào một số nội dung chính, cụ thể:
- Tiếp tục duy trì và từng bƣớc đổi mới, nâng cao chất lƣợng giao ban báo
chí định kỳ phù hợp với yêu cầu của công tác quản lý báo chí trong tình hình mới.
Qua đó, kịp thời định hƣớng những trọng tâm tuyên truyền từng tháng, từng giai
đoạn cụ thể, đồng thời chỉ ra những mặt mạnh và những hạn chế, thiếu sót để các cơ
quan báo chí kịp thời sửa chữa, khắc phục.
- Hoàn thiện phƣơng thức và cơ chế phối hợp để xử lý có hiệu quả thông tin
phản hồi của nhân dân đóng góp, phản ánh với Đảng và Nhà nƣớc; nâng cao chất
91
lƣợng điều tra dƣ luận xã hội; tăng cƣờng hệ thống thông tin đối ngoại, chủ động
đấu tranh với quan điểm sai trái, thù địch.
- Kiện toàn và tăng cƣờng hiệu lực quản lý của cơ quan quản lý Nhà nƣớc về
thông tin báo chí. Xác định rõ chức năng nhiệm vụ quản lý giữa cơ quan quản lý
nhà nƣớc và cơ quan chủ quản để tăng cƣờng hiệu lực công tác điều hành, quản lý
thông tin.
- Bảo đảm các cơ quan báo chí, phóng viên thƣờng trú tuân thủ quy định về
chế độ thông tin, báo cáo hoạt động định kỳ và đột xuất theo yêu cầu;
- Triển khai có hiệu quả công tác phát ngôn và cung cấp thông tin cho báo
chí, tăng cƣờng chất lƣợng hoạt động họp báo.
- Tiếp tục công tác điểm tin, điểm báo để hệ thống hóa thông tin tiêu biểu
viết về tỉnh nhằm theo dõi, đánh giá công tác báo chí, tuyên truyền. Việc theo dõi và
đánh giá thông tin trên báo chí không chỉ phục vụ công tác QLNN mà còn có ý
nghĩa quan trọng trong việc kiểm chứng và phản hồi thông tin; trong điều kiện cần
thiết có ý kiến đề nghị xác minh, làm rõ, xử lý hoặc yêu cầu phản hồi kịp thời.
- Tăng cƣờng vai trò của Tỉnh ủy, UBND tỉnh để đảm bảo các cơ quan, ban
ngành chấp hành nghiêm túc quy định về xác minh, xử lý thông tin báo chí và đính
chính theo luật định.
3.2.6. Ứng dụng khoa học công nghệ và đẩy mạnh công tác tuyên truyền,
giáo dục pháp luật trong QLNN về báo chí của Tỉnh
- Khoa học công nghệ:
Hoạt động báo chí hiện nay ngày càng phát triển các loại hình báo điện tử, công
nghệ phát thanh, truyền hình đa dạng cũng nhƣ các phƣơng thức dịch vụ truyền hình trả
tiền liên quan rất lớn đến công nghệ, do đó, công tác QLNN các hoạt động này không
thể đơn thuần theo phƣơng thức quản lý truyền thống trên giấy tờ. Nếu không hiểu công
nghệ, không có phƣơng tiện kỹ thuật để theo dõi, kiểm tra thì không thể quản lý hoạt
động này. Hơn nữa, với sự giúp sức của ứng dụng khoa học thì công tác QLNN sẽ thuận
tiện, hiện đại và nhanh chóng hơn. Ngoài ra, với một đội ngũ cán bộ, nhân viên thiếu,
92
trình độ có hạn, thì việc áp dụng công nghệ thông tin, phƣơng pháp quản lý hiện đại vào
hệ thống quản lý báo chí lại càng quan trọng.
Theo đó, cần đầu tƣ cơ sở vật chất và trang thiết bị kỹ thuật công nghệ cao, hiện
đại bảo đảm triển khai có hiệu quả các biện pháp quản lý về cả hành chính và kỹ thuật để
kịp thời phát hiện, ngăn chặn và xử lý nghiêm các sai phạm trong hoạt động báo chí theo
pháp luật. Đồng thời, nâng cấp cơ sở dữ liệu quản lý hoạt động báo chí, rút ngắn thời
gian gửi, nhận các văn bản điều hành, quản lý; tiến hành các thủ tục hành chính đảm bảo
nhanh gọn, công khai, minh bạch.
- Tu ên tru ền, giáo dục pháp luật:
Tuyên truyền giáo dục nâng cao nhận thức về pháp luật báo chí là nhóm giải pháp
có ý nghĩa then chốt và lâu dài nhằm trang bị đầy đủ kiến thức pháp luật và nâng cao ý
thức chấp hành các quy định đối với hoạt động báo chí. Việc tuyên truyền phổ biến pháp
luật báo chí để các chủ thể tuân thủ, thực hiện là một vấn đề quan trọng. Vì vậy, Sở
TTTT, Hội Nhà báo tỉnh và đặc biệt là các cơ quan báo chí cần có kế hoạch tập huấn,
tuyên truyền, phổ biến thƣờng xuyên Luật Báo chí và các văn bản quy phạm có liên quan
về báo chí để đội ngũ phóng viên, cán bộ có liên quan hiểu và thực hiện đúng.
3. .7. Tăng cường thanh tra, kiểm tra trong QLNN về báo chí trên địa bàn
Tỉnh
Công tác thanh tra, kiểm tra là biện pháp quan trọng trong việc ngăn ngừa, phát
hiện và xử lý những hành vi vi phạm pháp luật. Riêng đối với QLNN về báo chí, đây lại
càng là nhiệm vụ quan trọng vì báo chí có quan hệ trực tiếp tới chính trị, tƣ tƣởng, định
hƣớng dƣ luận xã hội. Báo chí không những phản ánh dƣ luận mà còn tạo ra và hƣớng
dẫn dƣ luận. Vì vậy, hoạt động thanh tra, kiểm tra cần diễn ra thƣờng xuyên để kịp thời
ngăn chặn, chấn chỉnh những vi phạm pháp luật về báo chí.
Vai trò của công tác thanh tra, kiểm tra là vậy, tuy nhiên, thời gian qua, công tác
này lại chƣa đƣợc quan tâm đúng mức đối với hoạt động báo chí trên địa bàn tỉnh Đắk
Nông. Công tác thanh, kiểm tra, xử lý vi phạm đối với hoạt động báo chí còn bị buông
lỏng, hầu hết chƣa kịp thời và nghiêm túc; chƣa đảm bảo đƣợc tính hiệu lực công tác
QLNN. Hơn nữa, do các cơ quan trực tiếp QLNN về báo chí là Sở TTTT và các cơ quan
93
báo chí về mặt hành chính là tƣơng đƣơng; cơ quan chủ quản đồng thời là cơ quan lãnh
đạo, quản lý nên công tác xử lý vi phạm còn mang tính nể nang, hình thức.
Thời gian tới, cần rà soát, xây dựng kế hoạch, tăng cƣờng công tác thanh tra,
kiểm tra hoạt động báo chí hàng năm, đảm bảo phát huy vai trò của cơ quan QLNN về
báo chí, kiểm soát và đánh giá đúng đắn tình hình hoạt động báo chí trong tỉnh, kịp thời
phát hiện các vi phạm, đảm bảo tính răn đe và hiệu lực công tác QLNN. Một số hoạt
động cần đƣợc tiến hành thanh, kiểm tra thời gian tới là: Hoạt động của các cơ quan báo
chí; hoạt động dịch vụ truyền hình trả tiền, hoạt động thu truyền hình nƣớc ngoài từ vệ
tinh; hoạt động các trạm phát lại; hoạt động xuất bản bản tin; hoạt động đội ngũ phóng
viên thƣờng trú và đăng ký hoạt động thƣờng xuyên
Thông qua công tác thanh tra, kiểm tra, Sở TTTT cần chú trọng công tác đề xuất,
kiến nghị xử lý đối với các nội dung vi phạm pháp luật; đồng thời tham mƣu UBND tỉnh
hàng năm tổ chức tổng kết, đánh giá công tác thanh tra, kiểm tra; tăng cƣờng giám sát
việc xử lý các vi phạm bảo đảm tính nghiêm minh, đúng pháp luật, đúng th m quyền.
Bởi xuất phát từ tính chất, vị trí và vai trò của công tác thanh tra nên đòi hỏi sự quan tâm,
giúp đỡ, sự trực tiếp chỉ đạo, lãnh đạo của cấp uỷ và chính quyền các cấp. Đây là một
trong những yếu tố quyết định đến hiệu lực, hiệu quả công tác thanh tra nói chung, thanh
tra, kiểm tra hoạt động báo chí nói riêng.
Tiểu kết Chƣơng 3
Trên cơ sở những phân tích, đánh giá về thực trạng phát triển hoạt động báo chí
và công tác QLNN về báo chí trên địa bàn tỉnh Đắk Nông, cũng nhƣ những định hƣớng
phát triển của địa phƣơng đối với hoạt động báo chí, có thể dự báo đƣợc xu hƣớng phát
triển thời gian tới đối với hoạt động này cả về chiều rộng lẫn chiều sâu trong xu thế phát
triển chung của cả nƣớc. Trong đó, có sự tập trung đầu tƣ nâng cao chất lƣợng, số lƣợng
phát hành đối với ấn ph m báo in; đầu tƣ xây dựng Trang báo Đắk Nông điện tử trực
tuyến; phát triển hệ thống các trang thông tin điện tử đồng thời hạn chế những ấn ph m
bản tin ít hiệu quả, lƣợng bạn đọc thấp; đầu tƣ đồng bộ hệ thống mạng lƣới PTTH tiến
tới đáp ứng theo kịp lộ trình số hóa truyền dẫn phát sóng của cả nƣớc.
94
Trong điều kiện đó, bên cạnh những thuận lợi, cùng với những hạn chế hiện có,
hoạt động QLNN về báo chí có xu hƣớng gặp thêm nhiều khó khăn, thách thức nhất là
với việc theo kịp sự phát triển của hoạt động báo chí trong tình hình mới, đòi hỏi đáp ứng
yêu cầu về nguồn nhân lực, trang thiết bị cũng nhƣ những khó khăn trong việc quản lý,
định hƣớng trong xu hƣớng nhiễu loạn thông tin qua hệ thống thông tin điện tử. Trên cơ
sở những khó khăn, hạn chế, tác giả đã đề xuất một số nhóm giải pháp có liên quan nhằm
từng bƣớc hoàn thiện công tác QLNN về báo chí trên địa bàn tỉnh Đắk Nông thời gian
tới. Trong đó, trƣớc tiên ƣu tiên cho công tác quy hoạch tổng thể sự phát triển cũng nhƣ
hoàn thiện các cơ chế chính sách, điều kiện pháp lý cần thiết thúc đ y hoạt động báo chí.
Cùng với đó là tăng cƣờng kiện toàn tổ chức bộ máy phù hợp, phát triển đội ngũ nguồn
nhân lực có tính quyết định đến công tác quản lý và hoạt động báo chí. Ngoài ra, cần
quan tâm tập trung vào công tác thanh kiểm tra, ứng dụng khoa học công nghệ cũng nhƣ
tuyên truyền phổ biến kiến thức pháp luật đến với ngƣời dân và cán bộ, phóng viên.
Trong xu thế toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế, công tác quản lý báo chí nói
riêng, lý luận nói chung đóng vai trò ngày càng quan trọng góp phần ổn định tình hình an
ninh, chính trị tƣ tƣởng cũng nhƣ tạo động lực thúc đ y xã hội phát triển, gìn giữ bản sắc
văn hóa. Vì thế, nắm bắt đƣợc những hạn chế cũng nhƣ đề ra giải pháp khắc phục phù
hợp và triển khai có hiệu quả những giải pháp đó là vấn đề cấp thiết trong giai đoạn hiện
nay.
95
K T LUẬN
Báo chí có vai trò quan trọng đặc biệt trong đời sống xã hội, có nhiệm vụ
tuyên truyền đƣờng lối chính trị, quan điểm, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp
luật nhà nƣớc đi vào thực tiễn cuộc sống. Định hƣớng tƣ tƣởng, phản ánh hiện thực,
góp phần nâng cao dân trí, thúc đ y tiến bộ xã hội. Báo chí tác động mạnh mẽ đến
nhân cách, đạo đức, lối sống, tâm lý, nhận thức chính trị - tƣ tƣởng của công chúng.
Trong điều kiện kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa, báo chí không khỏi
có nguy cơ bị cuốn theo những xu thế thƣơng mại hóa, chệch hƣớng. Do đó, cần
tăng cƣờng công tác chỉ đạo, quản lý nhằm giữ cho báo chí hoạt động và phát triển
đúng định hƣớng, đúng tôn chỉ mục đích đã đề ra, phát huy hơn nữa vai trò của báo
chí trong phục vụ phát triển kinh tế - xã hội của địa phƣơng, sự nghiệp đổi mới,
phát triển, hội nhập của đất nƣớc và bảo vệ Tổ quốc.
Trên cơ sở phân tích thực trạng hoạt động QLNN về báo chí trên địa bàn tỉnh Đắk
Nông, có thể tóm tắt kết luận một số vấn đề chủ yếu sau đây:
Một là, qua tìm hiểu những vấn đề lý luận về báo chí và cơ sở pháp lý đối với
công tác QLNN về báo chí, có thể thấy đƣợc vai trò hết sức quan trọng của báo chí đối
với đời sống xã hội cũng nhƣ sự cần thiết phải tăng cƣờng công tác QLNN đối với hoạt
động này. Hiệu quả, hiệu lực công tác QLNN về báo chí đƣợc đánh giá không chỉ qua
việc bảo đảm thực hiện đầy đủ các nội dung QLNN về báo chí mà còn xác định thông
qua công tác quy hoạch cơ quan báo chí phù hợp thực tiễn, đảm bảo về chất lƣợng; xây
dựng khung thể chế hoàn thiện, chặt chẽ vừa đảm bảo giữ định hƣớng cho hoạt động báo
chí, vừa tạo điều kiện cho báo chí phát triển, đồng thời hƣớng tới quan tâm xây dựng đội
ngũ nhân lực quản lý công tác báo chí cũng nhƣ đội ngũ ngƣời làm báo đáp ứng yêu cầu
trong tình hình mới..
Hai là, trên cơ sở xem xét, đánh giá thực trạng công tác QLNN về báo chí ở các
nội dung luật định cũng nhƣ tác giả đề xuất một số tiêu chí cụ thể để đánh giá, có thể
thấy, quản lý nhà nƣớc về báo chí trên địa bàn tỉnh Đắk Nông thời gian qua đã nỗ lực
góp phần định hƣớng cho các cơ quan báo chí hoạt động đúng tôn chỉ, mục đích và các
96
quy định của pháp luật; phản ánh kịp thời diễn biến mọi mặt của đời sống xã hội, tâm tƣ,
nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân; phát hiện, cổ vũ các nhân tố mới, điển hình tiên
tiến và những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của công cuộc đổi mới tại địa phƣơng.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt đƣợc, với một tỉnh còn non trẻ về
tuổi đời, đang trong quá trình định hình, xây dựng và phát triển; hoạt động báo chí
cũng nhƣ công tác quản lý nhà nƣớc về báo chí còn bộc lộ nhiều bất cập cả về
khung quy định pháp lý, chƣa theo kịp tình hình thực tế; lẫn việc triển khai và thực
thi các quy định pháp luật về báo chí còn nhiều hạn chế, thiếu tính chủ động; chƣa
phát huy đƣợc hết vai trò của cơ quan QLNN đối với hoạt động báo chí, trong khi
bộ máy tổ chức, nguồn nhân lực tổ chức QLNN về báo chí còn thiếu và yếu, chƣa
đáp ứng đƣợc yêu cầu thực tế...
Ba là, trên cơ sở lý luận chung và thực trạng QLNN về báo chí trên địa bàn tỉnh
nói riêng, có thể dự báo xu hƣớng phát triển của báo chí tỉnh Đắk Nông thời gian tới.
Đồng thời, từ những hạn chế, yếu kém còn tồn tại và trƣớc những yêu cầu thực tế đặt ra
đối với thực tiễn QLNN về báo chí ở tỉnh Đắk Nông, tác giả đề xuất một số giải pháp
nhằm góp phần hoàn thiện công tác QLNN lĩnh vực này trong thời gian tới. Trong đó, ƣu
tiên cho công tác tổ chức thực hiện và quản lý quy hoạch tổng thể sự phát triển cũng nhƣ
hoàn thiện các cơ chế chính sách, điều kiện pháp lý cần thiết thúc đ y hoạt động báo chí.
Cùng với đó là tăng cƣờng kiện toàn tổ chức bộ máy phù hợp, phát triển đội ngũ nguồn
nhân lực có tính quyết định đến công tác quản lý và hoạt động báo chí. Ngoài ra, cần
quan tâm tập trung vào công tác thanh kiểm tra, ứng dụng khoa học công nghệ cũng nhƣ
tuyên truyền phổ biến kiến thức pháp luật đến với ngƣời dân và cán bộ, phóng viên
Tóm lại, các kết luận của Chƣơng 1 khẳng định vai trò quan trọng của báo
chí trong đời sống xã hội và tính tất yếu khách quan của việc quản lý nhà nƣớc về
báo chí, là một yêu cầu cấp thiết trong điều kiện nƣớc ta hiện nay. Đây là bƣớc phát
triển mới về cả nhận thức và hành động của Đảng ta trong quá trình lãnh đạo đối
với báo chí nói chung, đồng thời là sự kế thừa, bổ sung, phát triển và hoàn chỉnh các
quá trình quản lý của nhà nƣớc ta đối với báo chí, là sự vận dụng sáng tạo lý luận
Mác - Lênin và tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về nhà nƣớc pháp quyền. Trên cơ sở những
97
lý luận cơ bản về quản lý nhà nƣớc đối với báo chí, Chƣơng 2 của luận văn đã
tập trung vào thực trạng hoạt động quản lý nhà nƣớc về báo chí ở tỉnh Đắk
Nông giai đoạn 2010 – 2017. Trong toàn bộ chƣơng này, các yếu tố cơ bản tạo
nên hiệu lực quản lý nhà nƣớc về báo chí nhƣ: thực trạng hoạt động quản lý nhà
nƣớc, các chủ thể cơ bản tham gia quan hệ quản lý, những đánh giá về thành tựu và
hạn chế trong quản lý báo chí. Các nghiên cứu cho thấy bức tranh toàn cảnh về quản
lý nhà nƣớc trong lĩnh vực báo chí tại tỉnh Đắk Nông, trên cơ sở phân tích, đánh giá
về những thành tựu cơ bản về chủ yếu, tìm ra những khiếm khuyết, tồn tại và nguyên
nhân của chúng để làm cơ sở cho việc hình thành quan điểm và đề xuất các giải pháp
tăng cƣờng hiệu lực của hoạt động quản lý nhà nƣớc đối với lĩnh vực báo chí ở Đắk
Nông. Và đây cũng chính là các vấn đề đƣợc giải quyết tại Chƣơng 3 của luận văn.
Trên cơ sở nghiên cứu của các chƣơng 1, 2, Chƣơng 3 của luận văn tập trung vào
việc thực hiện nhiệm vụ, đề ra phƣơng hƣớng và giải pháp cơ bản để nâng cao hiệu
lực quản lý nhà nƣớc đối với báo chí ở tỉnh Đắk Nông trong thời gian hiện tại và lâu
dài.
Báo chí là hoạt động thuộc lĩnh vực tƣ tƣởng, văn hóa rộng lớn. Tác giả hy vọng
đề tài này sẽ có giá trị giúp các cơ quan quản lý ngành TTTT tỉnh Đắk Nông tham khảo
làm cơ sở xây dựng và tổ chức thực thi các chính sách, quy định pháp luật phù hợp.
Những vấn đề đề cập trong phạm vi nghiên cứu chỉ mới phân tích, đánh giá thực trạng
hoạt động báo chí ở bƣớc đầu, trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của địa phƣơng,
sẽ còn nhiều vấn đề mới nảy sinh, đặt ra yêu cầu cần tiếp tục đi sâu nghiên cứu, phân tích
và đánh giá. Tác giả rất mong nhận đƣợc ý kiến góp ý cũng nhƣ hy vọng vấn đề này sẽ
đƣợc quan tâm để tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện hơn.
98
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban Bí thƣ Đảng Cộng sản Việt nam (2007), ban hành Quy Chế bổ nhiệm,
miễn nhiệm, khen thưởng, kỷ luật cán bộ lãnh đạo cơ quan báo chí, Hà Nội.
2. Ban Bí Thƣ Đảng Cộng sản Việt Nam (2008), ban hành u định về sự
phối h p gi a Ban Tu ên giao Trung ương, Ban cán sự Đảng Bộ Thông tin và
Truyền thông, Đảng đoàn ội Nhà báo Việt Nam và các cơ quan, tổ chức có liên
quan trong công tác chỉ đạo, quản lý báo chí, Hà Nội.
3. Ban Bí thƣ Đảng Cộng sản Việt Nam (2008), ban hành u định về chỉ
đạo, định hướng chính trị, tư tưởng, nhất là đối với các vấn đề quan trọng, phức
tạp, nhạy cảm trong nội dung thông tin báo chí, Hà Nội.
4. Ban Bí thƣ Đảng Cộng sản Việt Nam (2008), ban hành Quy chế phối h p
và gắn kết công tác tư tưởng với công tác tổ chức cán bộ và công tác ki m tra, giám
sát của Đảng trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận, báo chí, Hà Nội.
5. Ban chấp hành Trung ƣơng Đảng Cộng sản Việt Nam (2007), Nghị quyết
Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ƣơng khoá X về Công tác tư tưởng, lý
luận và báo chí trước yêu c u mới, Hà Nội.
6. Ban chấp hành Trung ƣơng Đảng Cộng sản Việt Nam (2015), Nghị quyết
Hội nghị l n thứ mười Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI, Hà Nội.
7. Ban Tuyên giáo Trung ƣơng 2009 , Hƣớng dẫn thực hiện Quy chế phối
h p gi a ban Tuyên giáo các cấp với cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp trong
việc tri n khai kế hoạch phát tri n kinh tế - xã hội, giải quyết các vấn đề bức xúc
của nhân dân, Hà Nội.
8. Báo Đắk Nông (2010 - 2015), Báo cáo tổng kết 5 năm và phương hướng,
nhiệm vụ năm 2016 - 2020, Đắk Nông.
9. Báo Đắk Nông (2016), Báo cáo tổng kết năm 2016 và phương hướng,
nhiệm vụ năm 2017, Đắk Nông.
10. Báo Đắk Nông (2017), Báo cáo tổng kết năm 2017 và phương hướng,
nhiệm vụ năm 2018, Đắk Nông.
99
11. Lê Thanh Bình, ThS. Phí Thị Thanh Tâm (2009), Quản lý nhà nước và
pháp luật về báo chí (sách chuyên khảo dành cho học viên ngành báo chí truyền
thông , Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
12. Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Thông báo số 41-TB/TW
kết luận của Bộ Chính trị về Một số biện pháp tăng cường sự lãnh đạo và quản lý
báo chí, Hà Nội.
13. Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam (2007), Thông báo số 68-TB/TW
kết luận của Bộ Chính trị về Một số biện pháp tăng cường sự lãnh đạo báo chí
trong tình hình hiện nay, Hà Nội.
14. Bộ Thông tin và Truyền thông (2010), Báo chí với công tác tuyên truyền,
đấu tranh chống các luận điệu sai trái, Nxb Thông tin và Truyền thông, Hà Nội.
15. Bộ Thông tin và Truyền thông (2010), Thông tư số 16/2010/TT-BTTTT,
u định chi tiết và hướng dẫn việc cấp giấy phép hoạt động báo chí in, xuất bản
số phụ, xuất bản phụ trương, uất bản đặc san, Hà Nội.
16. Bộ Thông tin và Truyền thông 2011 , Thông tƣ số 21/2011/TT-BTTTT
về Sửa đổi, bổ sung một số qu định của Thông tư số 13/2008/TT-BTTTT ngày 31
tháng 12 năm 2008 hướng dẫn việc thành lập và hoạt động của cơ quan đại diện,
ph ng viên thường trú trong nước của các cơ quan báo chí .
17. Bộ Thông tin và Truyền thông 2011 , Thông tƣ số 33/2011/TT-BTTTT
u định chi tiết việc cấp Giấy phép hoạt động báo chí điện tử, Giấy phép chuyên
trang báo chí điện tử, Hà Nội.
18. Chính phủ nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2005), Quyết định
số 219 2005 QĐ-TTg phê duyệt Chiến lư c phát tri n thông tin đến năm 2010, Hà
Nội.
19. Chính phủ nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2006), Chỉ thị số
37/2006/CT-TTg việc thực hiện kết luận của Bộ Chính trị về Một số biện pháp tăng
cường lãnh đạo và quản lý báo chí, Hà Nội.
100
20. Chính phủ nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2009), Quyết định
số 22 2009 QĐ-TTg về phê duyệt Quy hoạch truyền dẫn phát sóng phát thanh,
truyền hình đến năm 2010, Hà Nội.
21. Chính phủ nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013), Quyết định
số 25 2013 QĐ- TTg về việc ban hành Quy chế phát ngôn và cung cấp thông tin
cho báo chí, Hà Nội.
22. Chính phủ nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2014), Nghị định
số 18 2014 NĐ-CP u định về chế độ nhuận bút trong lĩnh vực báo chí, xuất bản,
Hà Nội.
23. Nguyễn Văn Dững (2011), Báo chí truyền thông hiện đại, NXB Đại học
quốc gia, Hà Nội.
24. Nguyễn Văn Dững chủ biên , Đỗ Thị Thu Hằng 2012 , Truyền thông -
lý thuyết và kỹ năng cơ bản, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
25. Nguyễn Văn Dững (2012), uan đi m của Đảng và Nhà nước về công
tác tư tưởng, lý luận và quản lý báo chí, Tài liệu Học viện Báo chí tuyên truyền, Hà
Nội.
26. Nguyễn Văn Dững (2013), Cơ sở lý luận báo chí, Nxb Lao Động, Hà
Nội.
27. Hà Đăng 2002 , N ng cao năng lực và ph m chất của phóng viên báo
chí trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
28. Đài Phát thanh – Truyền hình tỉnh Đắk Nông (2010 - 2015), Báo cáo
tổng kết hoạt động phát thanh - truyền hình 5 năm 2010 và phương hướng, nhiệm
vụ giai đoạn 2016 - 2020, Đắk Nông.
29. Đài Phát thanh – Truyền hình tỉnh Đắk Nông (2016), Báo cáo tổng kết
hoạt động năm 2016 và phương hướng, nhiệm vụ năm 2017, Đắk Nông.
30. Đài Phát thanh – Truyền hình tỉnh Đắk Nông (2017), Báo cáo tổng kết
hoạt động năm 2017 và phương hướng, nhiệm vụ năm 2018, Đắk Nông.
31. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại bi u toàn quốc
l n thứ XI, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
101
32. Vũ Đình Hòe chủ biên 2000 , Tru ền thông đại chúng trong công tác
lãnh đạo, quản lý, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
33. Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh (2014), Báo cáo hoạt động Hội Văn học
nghệ thuật giai đoạn 2011 –2014, Đắk Nông.
34. Nguyễn Thế Kỷ (2010), Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của
Nhà nước đối với báo chí trước yêu c u mới, Báo Quân đội Nhân dân điện tử.
35. Trần Tuyết Minh (2010), Quản lý nhà nước về báo chí tại tỉnh Bình
Phước, Luận văn thạc sỹ hành chính công.
36. Philipe Breton, Serge Proulx (1996), Bùng nổ truyền thông, Nxb. Văn
hóa – Thông tin, Hà Nội.
37. Quốc hội (1989), Luật Báo chí, Hà Nội.
38. Quốc hội (1999), Luật Báo chí sửa đổi, bổ sung, Hà Nội.
39. Quốc hội (2016), Luật Báo chí, Hà Nội.
40. Quốc hội (1992), Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
Hà Nội.
41. Quốc hội (2013), Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
sửa đổi, bổ sung, Hà Nội.
42. Dƣơng Xuân Sơn 1995 , Cơ sở lý luận báo chí truyền thông, NXB Văn
hóa Thông tin, Hà Nội.
43. Sở Thông tin và Truyền thông Đắk Nông (2010), Báo cáo tổng kết quản
lý nhà nước về báo chí – xuất bản năm 2010, Đắk Nông.
44. Sở Thông tin và Truyền thông Đắk Nông (2011 - 2015), Báo cáo tổng kết
công tác ngành thông tin và truyền thông năm 2011 - 2015 và phương hướng,
nhiệm vụ năm 2016 - 2020, Đắk Nông.
45. Sở Thông tin và Truyền thông Đắk Nông (2017), Quy hoạch phát triển
báo chí, xuất bản tỉnh Đắk Nông, giai đoạn 2017 2025.
46. Tạ Ngọc Tấn 2001 , Tru ền thông đại chúng, NXb Chính trị Quốc, Hà
Nội.
102
47. Nguyễn Vũ Tiến (2005), Vai trò lãnh đạo của Đảng đối với báo chí
trong thời kỳ đổi mới, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
48. Lê Minh Toàn (chủ biên) (2009), Quản lý nhà nước về thông tin và
truyền thông (sách chuyên khảo dành cho cán bộ, viên chức, học viên, sinh viên) –
NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
49. Nguyễn Viết Tuấn (2010), Quản lý nhà nước đối với báo chí, Luận văn
Thạc sĩ Luật học.
50. Đinh Xuân Toản, (2015), Quản lý xã hội về báo chí trên địa bàn tỉnh
Đắk Lắk hiện nay, Luận văn Thạc sỹ Chính trị học.
51. Tỉnh ủy Đắk Nông (2008), Quyết định số 595-QĐ TU u định phối h p
gi a Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy với Sở Thông tin và Truyền thông, Hội Nhà báo và
các cơ quan Đảng, Nhà nước trong công tác chỉ đạo, quản lý báo chí, Đắk Nông.
52. Tỉnh ủy Đắk Nông (2008), Quyết định số 817-QĐ TU qu định về chỉ
đạo, định hướng chính trị, tư tưởng, nhất là đối với nh ng vấn đề quan trọng, phức
tạp, nhạy cảm trong nội dung thông tin của báo chí, Đắk Nông.
53. Tỉnh ủy Đắk Nông (2009), Chỉ thị số 30-CT/TU về tăng cường thực hiện
việc mua, đọc báo, tạp chí của Đảng, Đắk Nông.
54. Tỉnh ủy Đắk Nông (2011), Quyết định số 1263-QĐ TU qu định tổ chức
Hội nghị giao ban báo chí định kỳ trên địa bàn tỉnh, Đắk Nông.
55. UBND tỉnh Đắk Nông (2008), Quyết định số 25 2008 QĐ-UBND ban
hành u định quản lý nhà nước về báo chí trên địa bàn tỉnh Đắk Nông, Đắk Nông.
56. UBND tỉnh Đắk Nông (2008), Quyết định số 32 2008 QĐ-UBND ban
hành Quy chế phát ngôn và cung cấp thông tin báo chí trên địa bàn tỉnh Đắk Nông,
Đắk Nông.
57. UBND tỉnh Đắk Nông (2010), Quyết định số 02 2010 QĐ-UBND ban
hành u định thành lập và hoạt động của cơ quan đại diện, ph ng viên thường trú
của các cơ quan báo chí trên địa bàn tỉnh Đắk Nông, Đắk Nông.
58. UBND tỉnh Đắk Nông (2011), Quyết định số 23 2011 QĐ-UBND ban
hành u định mức chi trả chế độ nhuận bút, thù lao, trích lập và sử dụng quỹ
103
nhuận bút cho phát thanh, truyền hình; cổng, trang thông tin điện tử; bản tin và tài
liệu không kinh doanh của các cơ quan, đơn vị trên địa bàn tỉnh Đắk Nông, Đắk
Nông.
59. Thái Thu Vân (2003), Tăng cường QLNN trong hoạt động truyền hình
hiện nay, Luận văn Thạc sĩ.
60. Afanaxiep (1975), Thông tin xã hội và định hƣớng xã hội, Nxb
Matxcova.
61. Hoàng Thị Bích Yến (2001), Vấn đề quản lý nhà nƣớc đối với hoạt động
báo chí ở nƣớc ta hiện nay, Luận văn thạc sĩ Quản lý nhà nƣớc.
104
PHỤ LỤC ình 1: Đồng chí Lê Diễn UVTV Đảng, Bí thư Tỉnh ủ đến thăm và chụp hình kỷ niệm với cán bộ, ph ng viên Báo Đắk Nông nhân dịp Xu n Đinh Dậu năm 2017.
Ảnh: Ngọc Tâm
Hình 2: Trụ sở của Đài phát thanh – Truyền hình tỉnh Đắk Nông đư c đ u tư dựng quy mô, sắp
đưa vào hoạt động.
Ảnh: Lê Phước
105
PHỤ LỤC Hình 3: Đồng chí Lê Diễn, UVTV Đảng, Bí thư Tỉnh ủy trao giải AGiải báo chí tỉnh Đắk Nông năm 2017 cho
các
nhà báo.
Ảnh tư liệu
Hình 4: Thường trực Tỉnh ủy gặp mặt phóng viên, nhà báo nhân kỷ niệm 91 năm Ngà Báo chí cách mạng Việt
Nam
năm 2016.
Ảnh: Ngọc Tâm
106
PHỤ LỤC Hình 5: Trao giấy chứng nhận của Hội Nhà báo tỉnh cho các nhà báo đạt danh hiệu xuất sắc năm
2014.
Ảnh tư liệu
Hình 6: Ph ng viên Đài Phát thanh Tru ền hình tỉnh phỏng vấn bộ đội biên phòng, trên vùng biên giới Quảng
Trực
(Tu Đức).
Ảnh tư liệu
107
PHỤ LỤC
Hình 7: Ph ng viên Báo Đắk Nông tập dẫn hiện trường tại khu vực Thác Lưu L (Đắk Song).
Ảnh: Tr n Lê
108
ình 8: Ph ng viên Báo Đắk Nông tham gia lớp tập huấn về “Ph ng sự ảnh” do NB tỉnh Đắk
Nông tổ chức.
Ảnh: Q.S