BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ

…………/………… …... /…… BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ

…………/………… …... /…… HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA NGUYỄN THỊ VÂN UYÊN NGUYỄN THỊ VÂN UYÊN QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ HOẠT ĐỘNG BẢO TRỢ XÃ HỘI TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐẮK NÔNG QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ HOẠT ĐỘNG BẢO TRỢ XÃ HỘI TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐẮK NÔNG LUẬN VĂN THẠC SỸ CHUYÊN NGÀNH QUẢN LÝ CÔNG LUẬN VĂN THẠC SỸ

CHUYÊN NGÀNH QUẢN LÝ CÔNG Đắk Lắk, năm 2018

Đắk Lắk, năm 2018

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ

…………/………… …... /……

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

NGUYỄN THỊ VÂN UYÊN

QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ HOẠT ĐỘNG BẢO

TRỢ XÃ HỘI TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐẮK NÔNG

LUẬN VĂN THẠC SỸ

CHUYÊN NGÀNH QUẢN LÝ CÔNG

MÃ SỐ: 8 34 04 03

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:

TS. LÊ VĂN HÒA

Đắk Lắk, năm 2018

ii

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi

và đƣợc sự hƣớng dẫn của TS. Lê Văn Hòa. Các số liệu, kết quả nêu trong

luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và đƣợc trích dẫn đầy đủ theo

quy định.

Tác giả luận văn

iii

Nguyễn Thị Vân Uyên

LỜI CẢM ƠN

Sau gần 02 năm học tập, em đã hoàn thành chƣơng trình đào tạo lớp

cao học chuyên ngành quản lý công và đƣợc Học viện Hành chính Quốc gia

tin tƣởng gia đề tài “Quản lý Nhà nƣớc về hoạt động bảo trợ xã hội trên địa

bàn tỉnh Đắk Nông” làm luận văn tốt nghiệp. Trong quá trình học tập, nghiên

cứu viết luận văn, trƣớc hết xin gửi lời cảm ơn đến Quý Thầy giáo, Cô giáo

của Học viện Hành chính Quốc gia đã truyền đạt kiến thức, kỹ năng, phƣơng

pháp luận của ngành khoa học quản lý công để tôi có kiến thức nền tảng thực

hiện Luận văn này.

Đặc biệt, xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành nhất tới TS. Lê Văn Hòa là

ngƣời đã tận tình hƣớng dẫn trên cơ sở tinh thần khoa học nghiêm túc trong

suốt quá trình làm luận văn.

Xin đƣợc cảm ơn Sở Lao động – Thƣơng binh và Xã hội tỉnh Đắk

Nông đã cung cấp cho tôi nhũng thông tin, số liệu cần thiết để hoàn thành

đƣợc Chƣơng 2 của Luận văn này.

Cuối cùng, xin cảm ơn bạn bè, đồng nghiệp và gia đình đã tạo điều kiện

chia sẻ, động viên tôi trong quá trình thực hiện Luận văn.

iv

Tôi xin chân thành cảm ơn!

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ................................................................................................................................ i

1. Lý do chọn đề tài luận văn ................................................................................................. 1

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn .......................................................... 2

3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn ...................................................................................... 5

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu ..................................................................................... 6

5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn ........................................... 6

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn .......................................................................... 7

7. Kết cấu của luận văn .......................................................................................................... 8

Chƣơng 1 CƠ SỞ KHOA HỌC QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ BẢO TRỢ XÃ HỘI .......... 9

1.1. Tổng quan quản lý nhà nƣớc về bảo trợ xã hội .................................................................... 9

1.2. Nội dung quản lý nhà nƣớc về hoạt động bảo trợ xã hội .................................................. 17

1.3. Những yếu tố ảnh hƣởng đến quản lý nhà nƣớc về bảo trợ xã hội ................................. 25

1.4. Kinh nghiệm quản lý nhà nƣớc về bảo trợ xã hội tại Đắk Lắk và bài học kinh nghiệm

có thể áp dụng cho tỉnh Đắk Nông .............................................................................................. 27

Tiểu kết chƣơng 1 ................................................................................................................ 31

Chƣơng 2 THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG BẢO TRỢ

XÃ HỘI TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐẮK NÔNG .................................................................. 32

2.1. Khái quát chung về Đắk Nông ............................................................................................. 32

2.2. Thực trạng quản lý nhà nƣớc về bảo trợ xã hội trên địa bàn tỉnh Đắk Nông ................. 36

2.3. Kết quả thực hiện bảo trợ xã hội tại tỉnh Đắk Nông giai đoạn 2013 – 2017 ................. 49

2.4. Đánh giá chung về quản lý nhà nƣớc về hoạt động bảo trợ xã hội ở tỉnh Đắk Nông ... 54

Tiểu kết chƣơng 2 ................................................................................................................ 60

Chƣơng 3 GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG

BẢO TRỢ XÃ HỘI TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐẮK NÔNG ............................................... 61

3.1. Mục tiêu và quan điểm bảo trợ xã hội ở tỉnh Đắk Nông .................................................. 61

3.2. Các giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nƣớc về bảo trợ xã hội trên địa bàn tỉnh Đắk

Nông ................................................................................................................................................ 66

3.3. Một số kiến nghị .................................................................................................................... 78

Tiểu kết chƣơng 3 ................................................................................................................ 83

KẾT LUẬN ......................................................................................................................... 84 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 86

v

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Chữ viết tắt Nội dung đầy đủ

ASXH An sinh xã hội

BTXH Bảo trợ xã hội

LĐ-TB&XH Lao động – Thƣơng binh và Xã hội

BHYT Bảo hiểm y tế

TGXH Trợ giúp xã hội

CTXH Công tác xã hội

QLNN Quản lý nhà nƣớc

NKT Ngƣời khuyết tật

XHCN Xã hội chủ nghĩa

CBCC Cán bộ công chức

DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU

Số hiệu Tên bảng Trang bảng

Số liệu đối tƣợng BTXH tỉnh Đắk Lắk qua các năm 25 1.1 2013-2017

Kinh phí chi trả trợ cấp BTXH tỉnh Đắk Lắk 2013 – 26 1.2 2017

2.1 Dân số trung bình tỉnh Đắk Nông 2013 - 2017 31

Lực lƣợng lao động từ 15 tuổi trở lên của tỉnh Đắk 31 2.2 Nông giai đoạn 2013 - 2017

Tổng hợp số liệu cơ sở BTXH trên địa bàn tỉnh Đắk 40 2.3 Nông

Kinh phí trợ cấp thƣờng xuyên tỉnh Đắk Nông 2013 – 46 2.4 2017

2.5 Tổng hợp hỗ trợ đột xuất tỉnh Đắk Nông 2013 - 2017 47

ii

2.6 Tổng hợp cứu đói qua các năm 2013 – 2017 47

DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ

Số hiệu Tên hình vẽ Trang hình vẽ

iii

Sơ đồ tổ chức bộ máy Sở Lao động – Thƣơng binh và 37 2.1 Xã hội tỉnh Đắk Nông

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài luận văn

Ngày nay, trong một xã hội văn minh, hiện đại, sự phát triển của một

quốc gia không chỉ đơn thuần đƣợc đánh giá bởi nền kinh tế phát triển, mà

còn dựa trên cách thức mà quốc gia đó quan tâm, chăm lo cho công dân nƣớc

mình. Cùng với truyền thống “là lành đùm lá rách” luôn hỗ trợ nhau khi gặp

khó khăn, hoạn nạn, trải qua bao thế hệ, truyền thống đó vẫn luôn đƣợc giữ

gìn và phát huy. Bảo trợ xã hội (BTXH) là sự chăm lo về vật chất, y tế, giáo

dục, đào tạo, dạy nghề và giới thiệu việc làm cho các đối tƣợng yếu thế cụ thể

là các trẻ em mồ côi, ngƣời tàn tật không có khả năng lao động và tự phục vụ,

ngƣời già neo đơn, những ngƣời bệnh tâm thần.... Bảo trợ xã hội thể hiện sự

văn minh, tính nhân văn, nhân đạo sâu sắc của nhà nƣớc ta đối với các đối

tƣợng yếu thế. Trong thời gian gần đây, hoạt động bảo trợ xã hội đƣợc tổ

chức thực hiện kịp thời, đồng bộ và đã đạt đƣợc những kết quả quan trọng.

Đắk Nông là một tỉnh mới thành lập trong 5 tỉnh Tây Nguyên, thuộc

biên giới Tây Nam của Tổ quốc, nằm ở phía Tây Nam của Tây Nguyên. Là

một tỉnh miền núi, với trên 40 dân tộc của các địa phƣơng cùng sinh sống trên

địa bàn, đời sống ngƣời dân còn gặp nhiều khó khăn, thƣờng xuyên bị ảnh

hƣởng của thiên tai và một số yếu tố khác đã làm cho đối tƣợng bảo trợ xã hội

cần đƣợc trợ giúp rất lớn. Nhƣng với sự nỗ lực thực hiện chăm lo các đối

tƣợng yếu thế, đẩy mạnh hoạt động bảo trợ xã hội trên địa bàn, nên hoạt động

bảo trợ xã hội đã đạt đƣợc những kết quả đáng khích lệ, việc chăm lo cho các

đối tƣợng đƣợc quan tâm thực hiện. Hiện nay, tỉnh đã chăm lo cho khoảng

8.867 đối tƣợng yếu thế đƣợc hƣởng trợ cấp thƣờng xuyên tại cộng đồng…

nhờ vậy các đối tƣợng yếu thế trên địa bàn phần nào giảm bớt những khó

khăn trong cuộc sống, có điều kiện hòa nhập vào xã hội. Tuy nhiên, bên cạnh

1

những thành quả đạt đƣợc, công tác quản lý đối với hoạt động bảo trợ xã hội

vẫn bộc lộ nhiều hạn chế cần khắc phục nhƣ: lực lƣợng thực hiện cũng nhƣ

quản lý hoạt động BTXH còn thiếu và yếu; công tác xây dựng, ban hành và tổ

chức thực hiện các văn bản pháp quy về bảo trợ xã hội chƣa thật sự chủ động,

còn trông chờ vào hƣớng dẫn của cấp trên; công tác tuyên truyền phổ biến

còn hình thức, các chính sách chƣa thật sự đến với ngƣời dân cũng nhƣ các

đối tƣợng bảo trợ xã hội; việc quản lý đối tƣợng không thống nhất, kỹ thuật,

nghiệp vụ quản lý chƣa cao nên thƣờng xảy ra trùng lắp, thực hiện sai đối

tƣợng; hoạt động thanh tra kiểm tra còn mang nặng tính hình thức, lỏng lẽo,

chỉ khi có dƣ luận mới tiến hành kiểm tra… Những hạn chế trong quản lý nhà

nƣớc về bảo trợ xã hội đã dẫn đến nhiều yếu kém trong hoạt động nhƣ: các đối

tƣợng chƣa đƣợc chăm lo kịp thời, chính sách tác động chƣa cao đến đời sống

cộng đồng của các đối tƣợng, chƣa thể hiện đƣợc tính ƣu việc của chính sách.

Chính vì lý do đó, học viên chọn đề tài luận văn thạc sĩ chuyên ngành Quản lý

công: “Quản lý nhà nước về hoạt động bảo trợ xã hội trên địa bàn tỉnh Đắk

Nông” với mục tiêu hệ thống hóa cơ sở lý luận quản lý nhà nƣớc về bảo trợ xã

hội tại tỉnh Đắk Nông, từ đó đề xuất giải pháp nhằm hoàn thiện quản lý nhà

nƣớc về hoạt động bảo trợ xã hội ở tỉnh Đắk Nông trong thời gian tới.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn

Cho đến hiện tại có một số công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài

này có thể kể nhƣ sau:

- Quản lý nhà nước đối với hoạt động nhân đạo ở Việt Nam, luận văn

Thạc sĩ Hành chính công của tác giả Nguyễn Thị Thu Phƣơng, năm 2010.

Luận văn chú trọng đến các giải pháp về QLNN đối với hoạt động nhân đạo,

chủ yếu tập trung vào hoạt động của Hội Chữ thập đỏ Việt Nam.

- Đẩy mạnh hoạt động bảo trợ xã hội trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi, luận

2

văn Thạc sĩ Kinh tế của tác giả Trịnh Quang Nghĩa, năm 2011. Luận văn chủ

yếu tập trung vào các hoạt động BTXH ở tỉnh Quảng Ngãi và các giải pháp

đẩy mạnh hoạt động BTXH ở tỉnh Quảng Ngãi.

- Quản lý nhà nước đối với hoạt động bảo trợ xã hội trên địa bàn huyện

Bình Chánh – TP. Hồ Chí Minh, luận văn Thạc sĩ Hành chính công của tác

giả Nguyễn Thị Mỹ Thanh, năm 2013. Luận văn đánh giá quản lý nhà nƣớc

về hoạt động bảo trợ xã hội, phân tích thực trạng công tác quản lý; từ đó, tìm

ra nguyên nhân các tồn tại, đề xuất các giải pháp phù hợp nhằm nâng cao hiệu

quả hoạt động bảo trợ xã hội trên địa bàn huyện Bình Chánh, thành phố Hồ

Chí Minh.

- Quản lý nhà nước về hoạt động bảo trợ xã hội trên địa bàn tỉnh Đắk

Lắk, luận văn Thạc sĩ Quản lý Hành chính công của tác giả Nguyễn Tiến Ngọc,

năm 2014. Luận văn tìm kiếm và xác định đƣợc những nguyên nhân và trên cơ

sở đó đề xuất những giải pháp nhằm hoàn thiện và tăng cƣờng hiệu quả quản lý

nhà nƣớc đối với hoạt động bảo trợ xã hội trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk.

- Chính sách an sinh xã hội - thực trạng và giải pháp của Lê Quốc Lý

(2014) đã phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn về những trở ngại trong thực thi

chính sách ASXH; những trở ngại trong thực thi chính sách ASXH ở Việt

nam gần đây thông qua việc đánh giá nhóm cán bộ thực thi và đối tƣợng thụ

hƣởng chính sách; trên cơ sở mục tiêu, quan điểm thực thi chính sách ASXH

ở Việt Nam đến năm 2020 cuốn sách đã nêu lên 5 nhóm giải pháp khắc phục

những trở ngại trong thực thi chính sách ASXH ở nƣớc ta (thiết kế và thực thi

chính sách ASXH, xây dựng và hoàn thiện hệ thống luật pháp, hoàn thiện bộ

máy thực thi chính sách ASXH, nâng cao nhận thức của đối tƣợng thụ hƣởng

về chính ASXH).

- Các bài nghiên cứu trên các tạp chí liên quan đến lĩnh vực an sinh xã hội

có thể kể đến là: “An sinh xã hội ở nƣớc ta - một số vấn đề lý luận và thực tiễn”

3

của Vũ Văn Phúc (2012); “Về xây dựng và hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội

ở nƣớc ta những năm tới” của Mai Ngọc Cƣờng (2012); “Hệ thống an sinh xã

hội cho ngƣời nông dân Việt Nam” của Nguyễn Danh Sơn (2012); "Tiếp tục

thực hiện tốt chính sách ƣu đãi ngƣời có công, bảo đảm an sinh xã hội trong

phát triển bền vững" của tác giả Nguyễn Thị Kim Ngân (2011); “Bảo đảm an

sinh xã hội dƣới ánh sáng Đại hội XI của Đảng” của Dƣơng Văn Thắng (2011).

Các bài viết nói trên đã đã đề cập đến những vấn đề lý luận chung vấn đề thực

tiễn về ASXH ở nƣớc ta, xây dựng và hoàn thiện hệ thống ASXH ở Việt Nam

trên quan điểm các nghị quyết chuyên đề của Đảng về ASXH.

- Ngoài các ấn phẩm sách, tạp chí, các kỷ yếu của các cuộc hội thảo sau

đây cũng phần nào làm sáng tỏ các nội dung liên quan đến lĩnh vực ASXH :

“An sinh xã hội ở Việt Nam: Chuẩn bị cho giai đoạn phát triển mới” do Đại

học Kinh tế Quốc dân (2008); Hội thảo“Xây dựng Chiến lƣợc an sinh xã hội

giai đoạn 2011 - 2020” của Bộ Lao động, Thƣơng binh và Xã hội và Tổ chức

Hợp tác Kỹ thuật Cộng hoà Liên bang Đức (GTZ) (2009); “An sinh xã hội ở

nƣớc ta: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” của Ban Tuyên giáo Trung ƣơng,

Tạp chí Cộng sản, Bộ Lao động, Thƣơng binh và Xã hội, Hội đồng khoa học

các cơ quan Đảng Trung ƣơng (2012)... Qua các hội thảo này, cũng đã có

nhiều phát hiện và tiếp cận mới trong xây dựng và thực hiện chính sách

ASXH cũng nhƣ vai trò của nhà nƣớc trong thực hiện chính sách ASXH, thực

trạng và giải pháp thực thi chính sách ASXH ở Việt Nam.

Hội thảo “Phát triển kinh tế và an sinh xã hội - từ lý luận đến thực tiễn

các miền tỉnh miền Trung” của Học viện Chính trị - Hành chính khu vực III

(2012). Kỷ yếu Hội thảo bao gồm các chuyên đề lý luận về an sinh xã hội; kết

quả thực thi chính sách an sinh xã hội trên các lĩnh vực (xóa đói giảm nghèo,

giải quyết việc làm, trợ cấp xã hội, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, nhà ở xã

hội) ở miền Trung - Tây Nguyên, thành phố Đà Nẵng. Hội thảo “Tăng trƣởng

4

xanh khu vực miền Trung - Tây Nguyên: Thực tiễn và những vấn đề đặt ra”

của Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, Viện Khoa học xã hội Vùng

Trung bộ - Học viện CTQG Hồ Chí Minh, Học viện Chính trị khu vực III

(2014) đã bàn về vấn đề tăng trƣởng xanh khu vực miền Trung - Tây Nguyên

Các công trình nghiên cứu nói trên đều có những đóng góp nhất định về

mặt lý luận và thực tiễn hoạt động nhân đạo, hoạt động bảo trợ xã hội. Tuy

nhiên bảo trợ xã hội còn khá mới mẽ ở Việt Nam, ít đƣợc quan tâm nghiên

cứu, cơ sở lý luận thực sự chƣa nhiều. Cho đến hiện nay, chƣa có công trình

nghiên cứu nào nghiên cứu về “Quản lý nhà nƣớc về hoạt động bảo trợ xã hội

trên địa bàn tỉnh Đắk Nông”. Vì vậy, đề tài luận văn không trùng lặp với các

công trình khoa học đã công bố.

3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn

3.1. Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở hệ thống hoá cơ sở lý luận về quản lý nhà nƣớc về hoạt

động bảo trợ xã hội, nghiên cứu thực trạng quản lý nhà nƣớc về hoạt động bảo

trợ xã hội trên địa bàn tỉnh Đắk Nông, Luận văn đề xuất những giải pháp

nhằm hoàn thiện quản lý nhà nƣớc về hoạt động bảo trợ xã hội trên địa bàn

tỉnh Đắk Nông trong thời gian tới.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để đạt đƣợc mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn tập trung thực hiện

những nhiệm vụ nghiên cứu sau đây:

- Một là nghiên cứu cơ sở lý luận về hoạt động bảo trợ xã hội và quản

lý nhà nƣớc về bảo trợ xã hội.

- Hai là nghiên cứu thực trạng quản lý nhà nƣớc về hoạt động bảo trợ

xã hội trên địa bàn tỉnh Đắk Nông giai đoạn 2013 – 2017.

- Ba là nghiên cứu đề xuất các giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện quản

lý nhà nƣớc về hoạt động bảo trợ xã hội trên địa bàn tỉnh Đắk Nông trong thời

5

gian tới.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tƣợng nghiên cứu của luận văn là công tác quản lý nhà nƣớc về

hoạt động bảo trợ xã hội tại tỉnh Đắk Nông.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu cơ sở lý luận về bảo trợ xã hội và

quản lý nhà nƣớc về hoạt động bảo trợ xã hội, nghiên cứu thực trạng quản lý

nhà nƣớc về hoạt động bảo trợ xã hội trên địa bàn tỉnh Đắk Nông từ năm 2013

– 2017 và nghiên cứu các giải pháp hoàn thiện công tác này trong thời gian

tới.

5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn

5.1. Phương pháp luận

Tác giả sử dụng phƣơng pháp luận duy vật phép biện chứng và duy vật

lịch sử của Chủ nghĩa Mác – Lê nin, Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, đƣờng lối, chủ

trƣơng của Đảng làm cơ sở phƣơng pháp luận để nghiên cứu nội dung đề tài

luận văn. Dựa trên nền tảng lý luận quản lý công và quản lý nhà nƣớc đối với

hoạt động bảo trợ xã hội để xây dựng khung lý thuyết cho đề tài.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

Tác giả sử dụng tổng hợp nhiều phƣơng pháp nghiên cứu, trong đó chú

trọng các phƣơng pháp dƣới đây:

Phƣơng pháp nghiên cứu tài liệu thứ cấp: Tác giả sử dụng phƣơng pháp

này để nghiên cứu các tài liệu sẵn có (sách, báo khoa học, luận văn, luận án,

văn bản quản lý của nhà nƣớc, các báo cáo...) liên quan đến quản lý nhà nƣớc

đối với hoạt động bảo trợ xã hội trên địa bàn tỉnh Đắk Nông.

Phƣơng pháp thống kê mô tả: Tác giả sử dụng phƣơng pháp này để xử

6

lý và trình bày kết quả nghiên cứu.

Phƣơng pháp phân tích, so sánh, tổng hợp: Tác giả sử dụng các phƣơng

pháp này để phân tích cơ sở lý luận, phân tích thực trạng, đối chiếu giữa thực tế

và lý luận, từ đó tổng hợp lại thành những quan điểm, luận điểm, những kết luận.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

6.1. Ý nghĩa lý luận

Đề tài nghiên cứu nhằm góp phần nhận dạng thực trạng vấn đề bảo trợ

xã hội, đặc biệt là việc triển khai, thực hiện các chính sách về bảo trợ xã hội

đối với ngƣời dân trên địa bàn tỉnh Đắk Nông. Từ những dữ liệu nghiên cứu,

luận văn sẽ nỗ lực góp phần hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn về bảo trợ

xã hội ở tỉnh Đắk Nông.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Những giải pháp đƣợc đề xuất của luận văn có thể đƣợc tham khảo để

sử dụng trong công tác quản lý nhà nƣớc đối với hoạt động bảo trợ xã hội tại

các cơ quan Nhà nƣớc cấp tỉnh, đồng thời có thể xem xét nhƣ là các tiêu chí

đánh giá về quản lý nhà nƣớc trong hoạt động này.

Hiện nay các nghiên cứu về vấn đề bảo trợ dù ở cấp độ chung cả nƣớc,

cấp độ vùng Tây Nguyên hay cấp độ tỉnh Đắk Nông đã cung cấp một số tƣ

liệu giúp cho việc nhận diện ban đầu về thực trạng bảo trợ xã hội tại Đắk

Nông bƣớc đầu có những thành công nhất định. Tuy nhiên, cho đến nay chƣa

có nghiên cứu chuyên sâu và toàn diện về hoạt động bảo trợ trên địa bàn tỉnh

Đắk Nông. Đây cũng là lý do chính tác giả quyết định chọn đề tài nghiên cứu

này nhằm góp sức về mặt thực tiễn giúp cho hoạt động bảo trợ xã hội mang

lại thành công hơn nữa.

Kết quả nghiên cứu của đề tài này hy vọng sẽ giúp tăng cƣờng hiệu lực

quản lý nhà nƣớc đối với hoạt động bảo trợ xã hội, tạo điều kiện thuận lợi hơn

cho các đối tƣợng có hoàn cảnh khó khăn có điều kiện sống, phát triển và hòa

7

nhập cộng đồng.

7. Kết cấu của luận văn

Kết cấu luận văn gồm Phần mở đầu, Phần nội dung, Phần kết luận,

Danh mục tài liệu tham khảo, Mục lục. Phần nội dung đƣợc kết cấu thành 3

chƣơng:

Chƣơng 1: Cơ sở lý luận quản lý nhà nƣớc về bảo trợ xã hội.

Chƣơng 2: Thực trạng quản lý nhà nƣớc đối với hoạt động bảo trợ xã

hội trên địa bàn tỉnh Đắk Nông.

Chƣơng 3: Giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nƣớc đối với hoạt động

8

bảo trợ xã hội tại tỉnh Đắk Nông.

Chương 1

CƠ SỞ KHOA HỌC QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ BẢO TRỢ XÃ HỘI

1.1. Tổng quan quản lý nhà nước về bảo trợ xã hội

1.1.1. Một số khái niệm

1.1.1.1. Bảo trợ xã hội

Gần đây, có thể thấy thuật ngữ “Bảo trợ xã hội” qua những tài liệu

nghiên cứu và các thảo luận chính sách trong nhiều hội thảo quốc tế. Tuy

nhiên ở mức độ nào đó, khái niệm này còn chƣa rõ ràng, chủ yếu là do có

nhiều cách sử dụng khác nhau và cách đặt vấn đề khác nhau ở mỗi quốc gia.

Ở Việt Nam, bảo trợ xã hội gần với khái niệm trợ giúp xã hội, là một trong ba

trụ cột cơ bản của hệ thống an sinh. Với mục đích khắc phục rủi ro, trợ giúp

xã hội cùng với bảo hiểm xã hội có chức năng giảm thiểu rủi ro, và chính sách

thị trƣờng lao động chủ động nhằm phòng ngừa rủi ro cho ngƣời dân [45].

Trợ giúp xã hội còn đƣợc xem nhƣ “phao cứu sinh” nhằm hỗ trợ cho các

thành viên trong xã hội không bị rơi vào hoàn cảnh bần cùng hóa [24]. Nhƣ

vậy ở Việt Nam bảo trợ xã hội có nội hàm hẹp hơn so với an sinh xã hội và

đƣợc triển khai dƣới hình thức trợ cấp xã hội trên thực tế. Từ điển thuật ngữ

an sinh xã hội của Bộ Lao động - Thƣơng binh và Xã hội không có thuật ngữ

“bảo trợ xã hội” mà chỉ có khái niệm “trợ giúp xã hội” là “sự trợ giúp bằng

tiền mặt hoặc bằng hiện vật của nhà nƣớc (lấy từ nguồn thuế, không phải

đóng góp từ ngƣời dân) nhằm bảo đảm mức sống tối thiểu cho đối tƣợng đƣợc

nhận [44].

Mặc dù các tổ chức phát triển quốc tế đều sử dụng định nghĩa riêng về

bảo trợ xã hội song tất cả đều nhấn mạnh bản chất của bảo trợ xã hội thông

qua các can thiệp chính sách cần thiết của nhà nƣớc và các hoạt động tình

9

nguyện ở cộng đồng. Lấy ví dụ, Ngân hàng Thế giới (WB) nhấn mạnh vào

việc kiềm chế nguy cơ gây tổn thƣơng, làm mất nguồn sinh kế. Trong khi đó,

Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) lại hƣớng vào khả năng duy trì mức sống

thông qua việc làm nhƣ một quyền của ngƣời lao động, đặc biệt trong khu vực

phi chính thức. Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB) lại chú trọng đến tính dễ

tổn thƣơng của ngƣời dân khi gặp rủi ro nếu không có sự bảo trợ xã hội cụ thể:

Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) “Bảo trợ xã hội là việc cung cấp phúc

lợi cho các hộ gia đình và cá nhân thông qua cơ chế nhà nƣớc hoặc tập thể,

cộng đồng ngăn chặn sự suy giảm mức sống hoặc cải thiện mức sống thấp”

[26]. Tổ chức này muốn nhấn mạnh về khía cạnh bảo hiểm và mở rộng tạo

việc làm cho những đối tƣợng ở khu vực kinh tế không chính thức. Định

nghĩa này có xu hƣớng nghiên về mức sống và quyền con ngƣời. Cơ quan này

thiên về những giả thuyết gắn với điều kiện lao động.

Ngân hàng Thế giới (WB) “Bảo trợ xã hội là những biện pháp cộng đồng

nhằm giúp các cá nhân, hộ gia đình và cộng đồng ứng phó và kiềm chế đƣợc

nguy cơ có tác động đến thu nhập nhằm giảm tính dễ bị tổn thƣơng và những

bấp bênh thu nhập” [26]. Định nghĩa này nhấn mạnh sự kiềm chế nguy cơ, bảo

trợ xã hội vừa là mạng lƣới an toàn, vừa là cơ sở để phát triển vốn con ngƣời.

Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB) “Bảo trợ xã hội là các chính sách,

chƣơng trình giảm nghèo và giảm sự yếu thế bởi sự thúc đẩy có hiệu quả thị

trƣờng lao động, giảm thiểu rủi ro của ngƣời dân và nâng cao năng lực của họ

để đối phó với rủi ro và suy giảm hoặc mất thu nhập” [16]. ADB cũng cho

rằng BTXH có 5 hợp phần chính (i) Các chính sách chƣơng trình thị trƣờng

lao động, (ii) Bảo hiểm xã hội, (iii) Trợ giúp xã hội, (iv) Quỹ hỗ trợ phát triển

cộng đồng và (v) Bảo vệ trẻ em. Đây cũng là phần có tính truyền thống của

bảo trợ xã hội theo quan niệm của ADB. Định nghĩa này nhấn mạnh tính dễ

10

tổn thƣơng nếu ngƣời dân không có bảo trợ xã hội và tác hại của thiếu bảo trợ

xã hội đối với ngƣời khác, tập trung vào khía cạch cải thiện thu nhập; hoàn

thiện thể chế thị trƣờng lao động và nâng cao năng lực của ngƣời dân.

Viện nghiên cứu Phát triển Hải ngoại (ODI) “Bảo trợ xã hội là những

hành động công ích nhằm giảm thiểu tính tổn thƣơng, nguy cơ gây sốc và sự

bần cùng hóa, là những điều không thể chấp nhận đƣợc về mặt xã hội” [16].

Định nghĩa này nhấn mạnh tính dễ tổn thƣơng và bần cùng hóa, do vậy bảo

trợ xã hội hƣớng vào ngƣời nghèo hoặc những ngƣời khó khăn nhất thuộc

tầng lớp không ai mong muốn nhất trong xã hội.

Nhƣng cho dù theo định nghĩa nào, các tổ chức quốc tế đều thống nhất

trong cách tiếp cận coi bảo trợ xã hội nhƣ một biện pháp kiềm chế nguy cơ bị

tổn thƣơng, duy trì đƣợc thu nhập, sinh kế, tránh rơi vào đói nghèo. Mục đích

của bảo trợ xã hội nhằm đảm bảo thu nhập và các điều kiện sống thiết yếu đối

với các trƣờng hợp bất hạnh, rủi ro, nghèo đói, không đủ sức lo liệu đƣợc

cuộc sống. Đối với Việt Nam, bảo trợ xã hội nhƣ một lƣới an toàn nhằm bảo

đảm sự an toàn về đời sống của ngƣời dân khi họ bị rơi vào hoàn cảnh rủi ro

và tự bản thân không khắc phục đƣợc. Các hoạt động cứu trợ xã hội, giảm

nghèo nhằm hạn chế nguy cơ dễ bị tổn thƣơng ở những đối tƣợng yếu thế,

mất nguồn thu nhập và sinh kế và không có điều kiện tiếp cận đƣợc các dịch

vụ xã hội cơ bản.

- Quan điểm hiện đại về bảo trợ xã hội xem xét sự trợ giúp dƣới ba hình

thức: hỗ trợ thu nhập, trợ cấp xã hội và dịch vụ xã hội. Tóm lại bảo trợ xã hội

là những giải pháp, sáng kiến nhằm đem lại thu nhập và dịch vụ cơ bản cho

các cá nhân và nhóm yếu thế, bảo vệ họ khỏi các nguy cơ đe dọa sinh kế, đói

nghèo, giảm nhẹ tính dễ bị tổn thƣơng, thúc đẩy công bằng xã hội.

- Hiện nay, thuật ngữ BTXH đƣợc tiếp cận dƣới nhiều tên gọi khác

nhau nhƣ là ASXH, bảo tồn xã hội, bảo đảm xã hội…nhƣng nhìn chung

11

chúng đều muốn góp phần bảo vệ xã hội nhờ nhiều biện pháp công cộng

nhằm giúp đỡ chống lại sự thiếu hụt về kinh tế mà họ có thể gặp phải nhƣ là

mất đi hoặc giảm đi nguồn thu nhập bởi nhiều nguyên nhân khác nhau.

- BTXH còn thể hiện sự giúp đỡ, chăm sóc về y tế, văn hóa và trợ giúp

cho các gia đình góp phần ổn định và thúc đẩy tiến bộ xã hội.

Qua một số cơ sở lý luận nêu trên có thể đƣa ra khái niệm về BTXH

nhƣ sau: BTXH là hệ thống các chính sách, chế độ, những hành động chủ yếu

của Nhà nước và cộng đồng xã hội bằng các hình thức khác nhau nhằm giúp

các đối tượng yếu thế giảm nhẹ và kiềm chế nguy cơ dễ bị tổn thương, bần

cùng hóa, hòa nhập với cộng đồng, có điều kiện tiếp cận các dịch vụ xã hội,

thúc đẩy công bằng và góp phần thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển.

1.1.1.2. Quản lý nhà nước

Quản lý nhà nƣớc là sự tác động có tổ chức và bằng quyền lực của Nhà nƣớc

đối với các quá trình xã hội, các hành vi hoạt động của công dân và mọi tổ chức

trong xã hội nhằm duy trì và phát triển trật tự trong xã hội, bảo toàn, củng cố và

phát triển quyền lực của Nhà nƣớc.

Nhƣ vậy, chủ thể quản lý ở đây là nhà nƣớc, đối tƣợng quản lý là các quá

trình xã hội, hành vi cá nhân và tổ chức xã hội, phƣơng thức quản lý là bằng quyền

lực Nhà nƣớc và có tổ chức cao, mục tiêu quản lý là duy trì và phát triển trật tự xã

hội, bảo toàn, củng cố và tăng cƣờng quyền lực Nhà nƣớc.

1.1.1.3. Quản lý nhà nước về hoạt động bảo trợ xã hội

QLNN về hoạt động BTXH là một tập hợp các tác động quản lý của

Nhà nƣớc với tƣ cách là chủ thể quản lý và sự tham gia của các đối tƣợng

BTXH, cơ sở BTXH và các chủ thể khác ngoài Nhà nƣớc để tổ chức đời sống

xã hội theo mục tiêu đảm bảo giảm nguy cơ rủi ro cho đối tƣợng yếu thế có

cuộc sống cơ bản, tạo nên công bằng xã hội, thực hiện an sinh xã hội và thúc

đẩy phát triển kinh tế - xã hội.

12

* Về chủ thể quản lý

Nhà nƣớc là chủ thể tổ chức và quản lý các hoạt động BTXH trong nền

kinh tế thị trƣờng. Xuất phát từ tính phức tạp, năng động và nhạy cảm của nền

kinh tế thị trƣờng đòi hỏi mang tính quyền lực nhà nƣớc để tổ chức và điều

hành các hoạt động BTXH. Chủ thể ấy chính là nhà nƣớc mà cụ thể hơn là

các cơ quan nhà nƣớc, các tổ chức và cá nhân đƣợc nhà nƣớc trao quyền. Để

hoàn thành sứ mệnh của mình Nhà nƣớc phải xây dựng, tổ chức và quản lý

các hoạt động BTXH.

* Về đối tượng quản lý

Đối tƣợng của quản lý nhà nƣớc về BTXH là những cá nhân, hộ gia

đình có hoàn cảnh khó khăn, cần có sự hỗ trợ, trợ giúp nhằm giảm nhẹ tính dễ

bị tổn thƣơng và kiềm chế nguy cơ bần cùng hóa. Mỗi đối tƣợng sẽ có chế độ

bảo trợ khác nhau, đƣợc quy định cụ thể tại Nghị định 67/2007/NĐ-CP của

Chính phủ ngày 13 tháng 4 năm 2007 về chính sách trợ giúp các đối tƣợng

BTXH; Nghị định 13/2010/NĐ-CP ngày 27 tháng 2 năm 2010 về sửa đổi, bổ

sung một số điều của Nghị định số 67/2007/NĐ-CP ngày 13 tháng 4 năm

2007 của Chính phủ về chính sách trợ giúp các đối tƣợng BTXH và Nghị định

số 136/2013/NĐ-CP ngày 21/10/2013 của Chính phủ quy định chính sách trợ

giúp xã hội đối với đối tƣợng bảo trợ xã hội. Qua phân tích tìm hiểu, tác giả

nhóm các đối tƣợng theo 5 nhóm sau:

- Một là, nhóm trẻ em bao gồm:

+ Trẻ em dƣới 16 tuổi không có nguồn nuôi dƣỡng thuộc một trong các

trƣờng hợp sau đây: Bị bỏ rơi chƣa có ngƣời nhận làm con nuôi; mồ côi cả

cha và mẹ; mồ côi cha hoặc mẹ và ngƣời còn lại mất tích theo quy định của

pháp luật hoặc ngƣời còn lại đang hƣởng chế độ chăm sóc, nuôi dƣỡng tại cơ

sở BTXH, nhà xã hội; mồ côi cha hoặc mẹ và ngƣời còn lại đang trong thời

gian chấp hành án phạt tù tại trại giam hoặc đang chấp hành quyết định xử lý

13

vi phạm hành chính tại trƣờng giáo dƣỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai

nghiện bắt buộc; cả cha và mẹ mất tích theo quy định của pháp luật; cả cha và

mẹ đang hƣởng chế độ chăm sóc, nuôi dƣỡng tại cơ sở bảo trợ xã hội, nhà xã

hội; cả cha và mẹ đang trong thời gian chấp hành án phạt tù tại trại giam hoặc

đang chấp hành quyết định xử lý vi phạm hành chính tại trƣờng giáo dƣỡng,

cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc; cha hoặc mẹ mất tích theo

quy định của pháp luật và ngƣời còn lại đang hƣởng chế độ chăm sóc, nuôi

dƣỡng tại cơ sở bảo trợ xã hội, nhà xã hội hoặc đang trong thời gian chấp

hành án phạt tù tại trại giam hoặc đang chấp hành quyết định xử lý vi phạm

hành chính tại trƣờng giáo dƣỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện

bắt buộc…

+ Ngƣời từ 16 tuổi đến 22 tuổi thuộc một trong các trƣờng hợp quy định

tại Khoản 1, Điều 5, Nghị định 136/2013/NĐ-CP [19] mà đang học phổ thông,

học nghề, trung học chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học văn bằng thứ nhất.

- Hai là, nhóm ngƣời cao tuổi (NCT) gồm: NCT thuộc hộ nghèo không

có ngƣời có nghĩa vụ và quyền phụng dƣỡng hoặc có ngƣời có nghĩa vụ và

quyền phụng dƣỡng nhƣng ngƣời này đang hƣởng chế độ trợ cấp xã hội hàng

tháng; ngƣời từ đủ 80 tuổi trở lên không thuộc diện quy định tại Điểm a,

Khoản 5, Điều 5, Nghị định 136/2013/NĐ-CP [19] mà không có lƣơng hƣu,

trợ cấp BHXH hàng tháng, trợ cấp xã hội hàng tháng; NCT thuộc hộ nghèo

không có ngƣời có nghĩa vụ và quyền phụng dƣỡng, không có điều kiện sống

ở cộng đồng, đủ điều kiện tiếp nhận vào cơ sở BTXH, nhà xã hội nhƣng có

ngƣời nhận chăm sóc tại cộng đồng.

- Ba là, ngƣời khuyết tật (NKT): Trẻ em khuyết tật, ngƣời khuyết tật

thuộc diện hƣởng trợ cấp xã hội theo quy định của pháp luật về ngƣời khuyết tật.

- Bốn là, nhóm ngƣời đơn thân thuộc diện hộ nghèo không có chồng

hoặc không có vợ; có chồng hoặc vợ đã chết; có chồng hoặc vợ mất tích theo

14

quy định của pháp luật và đang nuôi con nhỏ dƣới 16 tuổi; hoặc đang nuôi con

từ 16 tuổi đến 22 tuổi nhƣng ngƣời đó đang học phổ thông, học nghề, trung học

chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học văn bằng thứ nhất.

- Năm là, nhóm đối tƣợng khác bao gồm: những ngƣời nhiễm

HIV/AIDS không còn khả năng lao động; hộ gia đình có từ hai ngƣời trở lên

bị tâm thần hoặc tàn tật nặng; nhóm đối tƣợng trợ cấp đột xuất đƣợc qui định

tại Điều 6 Nghị định 67/2010/NĐ-CP [15], Điều 5 Nghị định 136/2013/NĐ-

CP [19].

Các đối tƣợng trên đƣợc chƣăm lo, hỗ trợ từ vật chất đến sức khỏe cơ

bản, thể hiện tính nhân đạo sâu sắc giữa con ngƣời và con ngƣời, con ngƣời

và xã hội. Từ khi ra đời, hoạt động này đƣợc xem là một sự đảm bảo cho cuộc

sống và đặc biệt có ý nghĩa đối với các đối tƣợng, bộ phận “ ngƣời yếu thế”.

Là sự bảo vệ quyền con ngƣời và đồng nhất đối với mọi thành viên xã hội trên

cơ sở sự tƣơng trợ cộng đồng, giảm rủi ro. BTXH là hoạt động mang đậm tính

nhân đạo, có ý nghĩa kinh tế, chính trị, xã hội pháp luật và nhân văn sâu sắc.

* Về công cụ, phương thức quản lý

Pháp luật là cơ sở và là công cụ quản lý hàng đầu, công cụ không thể

thay thế do xuất phát từ nhu cầu khách quan trong nền kinh tế thị trƣờng để

nhà nƣớc tổ chức và quản lý các hoạt động BTXH nói riêng và hoạt động kinh

tế - xã hội nói chung. Trong nền kinh tế thị trƣờng các quan hệ kinh tế nói

chung, các quan hệ BTXH nói riêng diễn ra phức tạp và đa dạng đòi hỏi sự

quản lý của nhà nƣớc. Để quản lý đƣợc nhà nƣớc phải sửa dụng đến hệ thống

các công cụ nhƣ: Luật, các văn bản luật, các công cụ cƣỡng chế... Luật và các

văn bản luật nhà nƣớc ban hành mang tính chuẩn mực, nó chính là quy tắc xử

sự có tính bắt buộc chung đƣợc nhà nƣớc sử dụng nhƣ một công cụ hữu hiệu

nhất và không thể thiếu trong việc quản lý các hoạt động kinh tế - xã hội cũng

15

nhƣ các hoạt động BTXH; Sự quản lý của nhà nƣớc đối với hoạt động BTXH

đòi hỏi có một bộ máy thực hiện các hoạt động BTXH mạnh, có hiệu lực và

hiệu quả và một hệ thống pháp luật về BTXH đồng bộ hoàn chỉnh.

1.1.2. Đặc điểm của quản lý nhà nước về bảo trợ xã hội

- Hoạt động bảo trợ xã hội mang tính nhân đạo, thể hiện truyền thống

tƣơng thân tƣơng ái, đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau.

- Thực hiện mục đích xã hội vì cồng đồng, không vì lợi nhuận.

- BTXH là quyền của mỗi thành viên trong xã hội, là trách nhiệm, là

nhiệm vụ của cả cộng đồng.

- BTXH là từ sự đóng góp của các bên, sự trợ giúp của xã hội và sự chia

sẽ của cộng đồng và BTXH còn phải phụ thuộc vào nền kinh tế của địa phƣơng.

1.1.3. Ý nghĩa của việc quản lý nhà nước về bảo trợ xã hội

- Dƣới góc độ của ngƣời thụ hƣởng, BTXH đƣợc xem nhƣ là nguồn tài

chính đảm bảo cho họ có cuộc sống tối thiểu trong xã hội, giúp họ từng bƣớc

khắc phục đƣợc những khó khăn, hòa nhập cộng đồng. Đồng thời là nguồn an ủi

rất lớn về mặt tinh thần đối với nhóm đối tƣợng chịu thiệt thòi trong cuộc sống.

- Dƣới góc độ kinh tế, BTXH không vì mục đích kinh doanh nhƣng lại

có ý nghĩa là công cụ phân phối lại tiền bạc, của cải và vật chất.

- Dƣới góc độ chính trị xã hội và nhân văn, BTXH không chỉ là thái độ,

là biện pháp hỗ trợ tích cực mà còn giảm thiểu bất ổn xã hội.

- Dƣới góc độ pháp luật, BTXH là một định chế quan trọng trong hệ

thống pháp luật an sinh xã hội.

- Đối với xã hội, BTXH là một biện pháp của chính sách xã hội, một

trong những chỉ báo quan trọng về định hƣớng XHCN ở nƣớc ta trong điều

kiện phát triển nền kinh tế thị trƣờng mà đối tƣợng của nó là những ngƣời gặp

16

rủi ro, bất trắc trong cuộc sống.

1.2. Nội dung quản lý nhà nƣớc về hoạt động bảo trợ xã hội

1.2.1. Ban hành và tuyên truyền phổ biến chế độ, chính sách, pháp

luật về bảo trợ xã hội

1.2.1.1. Ban hành văn bản có liên quan đến bảo trợ xã hội

- Quan điểm, chủ trƣơng của Đảng ta về vấn đề an sinh xã hội

+ Trong quá trình đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam cũng đã từng

bƣớc nhận thức và quan trọng hơn đã tìm đƣợc những biện pháp, bƣớc đi để

xử lý biện chứng mối quan hệ phát triển kinh tế với việc thực hiện chính sách

xã hội (bảo đảm công bằng xã hội, ASXH, tiến bộ xã hội): Tại Đại hội VI

(1986) đến Đại hội VIII (1996) Đảng ta đã chính thức khẳng định một số

quan điểm chỉ đạo “Tăng trƣởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công

bằng xã hội ngay trong từng bƣớc và trong suốt quá trình phát triển” [21,

tr.113]. Đến Đại hội IX của Đảng chủ trƣơng này trở thành một định hƣớng

chiến lƣợc để phát triển bền vững đất nƣớc: “Tăng trƣởng kinh tế đi liền với

phát triển văn hoá, từng bƣớc cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân

dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trƣờng…

Khẩn trƣơng mở rộng hệ thống BHXH và ASXH...” [17, tr.104-107, 163].

Đến Đại hội X, Đảng ta tiếp tục khẳng định: “Kết hợp giữa các mục tiêu kinh

tế với các mục tiêu xã hội trong phạm vi cả nƣớc và từng địa phƣơng; thực

hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bƣớc và từng chính sách

phát triển kinh tế...” [18, tr.110]. Lần đầu tiên trong Văn kiện Đại hội XI của

Đảng Cộng sản Việt Nam, “Bảo đảm ASXH” đƣợc khẳng định với tƣ cách là

nội dung cấu thành của một trong 11 chủ đề chính của Báo cáo chính trị, và

“Phát triển hệ thống ASXH đa dạng, ngày càng mở rộng và hiệu quả” [19,

tr.125] cũng đƣợc xem là một trong những nội dung hợp thành của sự định

hƣớng về “Phát triển toàn diện các lĩnh vực văn hóa, xã hội hài hòa với phát

17

triển kinh tế” trong Chiến lƣợc phát triển Kinh tế - Xã hội 2011 - 2020. Đặc

biệt, tại Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ƣơng Khóa XI, Đảng ta đã

ban hành nghị quyết “Một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012 -

2020”. Nghị quyết nhấn mạnh: “Không ngừng cải thiện, nâng cao đời sống

vật chất và tinh thần của ngƣời có công và bảo đảm ASXH là nhiệm vụ

thƣờng xuyên, quan trọng của Ðảng, Nhà nƣớc, của cả hệ thống chính trị và

toàn xã hội… [19, tr.105-107].

+ Ðại hội XII của Ðảng ta đã nêu rõ phƣơng hƣớng và nhiệm vụ an

sinh xã hội là: Tiếp tục hoàn thiện chính sách, nâng cao mức sống ngƣời có

công. Rà soát, hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nƣớc về an

sinh xã hội. Ðẩy mạnh giảm nghèo bền vững, nhất là các vùng đặc biệt khó

khăn và có chính sách đặc thù để giảm nghèo nhanh hơn trong đồng bào dân

tộc thiểu số. Chú trọng các giải pháp tạo điều kiện và khuyến khích hộ nghèo,

cận nghèo phấn đầu tự vƣơn lên thoát nghèo bền vững. Khuyến khích nâng

cao khả năng tự bảo đảm an sinh xã hội của ngƣời dân. Thực hiện tốt chính

sách việc làm công, chính sách bảo hiểm thất nghiệp, hỗ trợ có thời hạn cho

ngƣời lao động mất việc khu vực công. Hỗ trợ phát triển sản xuất, tạo việc

làm, học nghề và đƣa lao động đi làm việc ở nƣớc ngoài. Mở rộng đối tƣợng

tham gia, nâng cao hiệu quả của hệ thống, đổi mới cơ chế tài chính, bảo đảm

phát triển bền vững quỹ bảo hiểm xã hội. Tiếp tục hoàn thiện chính sách,

khuyến khích tham gia của cộng đồng, nâng cao hiệu quả công tác trợ giúp xã

hội. Thực hiện chuẩn nghèo theo phƣơng pháp tiếp cận đa chiều, bảo đảm

mức tối thiểu về thu nhập và các dịch vụ xã hội cõ bản cho ngƣời dân nhƣ

giáo dục, y tế, nhà ở, nƣớc sạch, thông tin [20, tr.137].

- Trên quan điểm của Đảng, hệ thống chính sách An sinh xã hội ở nƣớc

ta trong thời kỳ đổi mới đƣợc Nhà nƣớc thể chế hóa bằng những văn bản có

18

giá trị pháp lý qua từng chặng đƣờng phát triển trong quá trình đổi mới:

+ Nghị quyết số 15-NQ/TW ngày 01/6/2012 của Ban chấp hành Trung

ƣơng Đảng khóa XI; Nghị quyết số 70/NQ-CP ngày 01/11/2012 của Chính

phủ ban hành Chƣơng trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết

số 15-NQ/TW ngày 01/6/2012 của Ban chấp hành Trung ƣơng Đảng khóa XI

một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012- 2020, trong đó đã xác

định rõ quan điểm “Hệ thống ASXH phải đa dạng, toàn diện, có tính chia sẻ

giữa Nhà nƣớc, xã hội với ngƣời dân”; và nhiệm vụ “Xây dựng mã số ASXH

để phát triển Hệ thống thông tin chính sách ASXH; Xây dựng bộ chỉ số về

ASXH quốc gia và bộ cơ sở dữ liệu hộ gia đình để phát triển hệ thống giám

sát, đánh giá thực hiện chính sách ASXH hàng năm”.

+ Ngoài ra còn có các văn bản liên quan nhƣ Luật bảo hiểm xã hội;

Luật bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em; Luật ngƣời cao tuổi; Luật ngƣời

khuyết tật; Luật nuôi con nuôi; Luật chăm sóc sức khỏe nhân dân, Luật khám

chữa bệnh; Luật bảo hiểm y tế; Luật giáo dục...

+ Nghị định 67/2007/NĐ-CP ngày 13 tháng 4 năm 2007 của Chính phủ

quy định về chính sách trợ giúp các đối tƣợng bảo trợ xã hội.

+ Thông tƣ liên tịch số 09/2007/TTLT-BLĐTBXH-BTC ngày

13/7/2007 của Bộ Lao động - Thƣơng binh và Xã hội về việc hƣớng dẫn thực

hiện một số điều của Nghị định số 67/2007/NĐ-CP ngày 13 tháng 4 năm

2007 của Chính phủ quy định chính sách trợ giúp xã hội đối với đối tƣợng

bảo trợ xã hội.

+ Nghị định số 13/2010/NĐ-CP ngày 27 tháng 02 năm 2010 của Chính

phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 67/2007/NĐ-CP của

Chính phủ về chính sách trợ giúp các đối tƣợng bảo trợ xã hội.

+ Thông tƣ liên tịch số 24/2010/TTLT-BLĐTBXH-BTC ngày 18/8/2010

của Bộ Lao động - Thƣơng binh và xã hội – Bộ Tài chính về việc hƣớng dẫn

19

thi hành một số điều của Nghị định số 67/2007/NĐ-CP ngày 13 tháng 4 năm

2007 của Chính phủ quy định chính sách trợ giúp xã hội đối với đối tƣợng

bảo trợ xã hội và Nghị định số 13/2010/NĐ-CP ngày 27 tháng 02 năm 2010

của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 67/2007/NĐ-

CP của Chính phủ về chính sách trợ giúp các đối tƣợng bảo trợ xã hội.

+ Nghị định số 136/2013/NĐ-CP ngày 21 tháng 10 năm 2013 của Chính

phủ quy định chính sách trợ giúp xã hội đối với đối tƣợng bảo trợ xã hội.

+ Thông tƣ liên tịch số 29/2014/TTLT-BLĐTBXH-BTC ngày

24/10/2014 của Bộ Lao động - Thƣơng binh và xã hội – Bộ Tài chính về việc

hƣớng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định số 136/2013/NĐ-CP ngày 21

tháng 10 năm 2013 của Chính phủ quy định chính sách trợ giúp xã hội đối với

đối tƣợng bảo trợ xã hội.

+ Thông tƣ liên tịch số 06/2016/TTLT-BLĐTBXH-BTC sửa đổi, bổ

sung khoản 2 và khoản 4, điều 11 Thông tƣ liên tịch số 29/2014/TTLT-

BLĐTBXH-BTC ngày 24/10/2014 về hƣớng dẫn thực hiện một số điều của

Nghị định 136/2013/NĐ-CP ngày 21/10/2013 của Chính phủ về quy định

chính sách trợ giúp xã hội đối với đối tƣợng bảo trợ xã hội.

- Trong những năm đổi mới vừa qua, Đảng và Nhà nƣớc ta đã hoạch

định và triển khai nhiều chính sách ASXH, chính sách BTXH quan trọng, huy

động đƣợc nhiều nguồn lực của toàn xã hội để trợ giúp cho các đối tƣợng

(ngƣời dân tộc thiểu số, ngƣời nghèo, ngƣời già cô đơn, trẻ em và các đối

tƣợng dễ bị tổn thƣơng) vƣơn lên trong cuộc sống. Các chính sách và giải

pháp bảo đảm ASXH, chính sách BTXH đƣợc triển khai đồng bộ trên cả 3

phƣơng diện: Giúp các đối tƣợng thụ hƣởng tăng khả năng tiếp cận các dịch

vụ công cộng, nhất là về y tế, giáo dục, dạy nghề, trợ giúp pháp lý, nhà ở,...;

Hỗ trợ phát triển sản xuất thông qua các chính sách về bảo đảm thị trƣờng, tín

dụng, việc làm; Phát triển kết cấu hạ tầng thiết yếu cho các địa phƣơng phục

20

vụ ngƣời dân tốt hơn. Hệ thống pháp luật về ASXH, chính sách BTXH ngày

càng hoàn thiện hơn, đã trở thành căn cứ pháp lý quan trọng trong điều chỉnh

các quan hệ xã hội.

1.2.1.2. Tuyên truyền phổ biến chế độ, chính sách, pháp luật về bảo trợ xã hội

- Tuyên truyền, phổ biến chế độ, chính sách, pháp luật về BTXH là

hoạt động cho ngƣời lao động và nhân dân trên cả nƣớc hiểu rõ chính sách

BTXH là một trong ba chính sách của hệ thống an sinh xã hội, góp phần thực

hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo đảm ổn định chính trị -xã hội và phát

triển kinh tế. Do đó công tác tuyên truyền, phổ biến chế độ, chính sách, pháp

luật về BTXH có tầm quan trọng và tổ chức thực hiện thƣờng xuyên.

- Nội dung công tác tuyên truyền gồm:

+ Đẩy mạnh các hoạt động tuyên truyền những nội dung cơ bản của

luật BTXH, Những định hƣớng của chỉ đạo của Bộ Lao Động-Thƣơng Binh

và Xã Hội kết quả thực hiện chính sách BTXH đạt đƣợc trong thời gian qua.

+ Phối hợp với các cơ quan thông tấn, báo chí, Trung Ƣơng và địa

phƣơng triển khai thực hiện các hoạt động tuyên truyền thông qua thực hiện

các chuyên trang, chuyên mục, chuyên đề và các bài viết, phóng sự, tin tức, tổ

chức các buổi tọa đàm, game show truyền hình.

+ Tổ chức tuyên truyền các kênh truyền thông của ngành, tạp chí

BTXH, các website BTXH.

+ Tổ chức tuyên truyền trực quan thông qua các ấn phẩm tuyên truyền:

Pano, áp phích, tranh cổ động, tờ rơi, tờ gấp, sách cẩm nang…. Với nội dung

phong phú theo đặc thù kinh tế xã hội văn hóa của từng vùng miền.

+ Tổ chức các đợt tuyên truyền lƣu động, tuyên truyền trực quan vào

các ngày lễ lớn

1.2.2. Tổ chức bộ máy nhà nước

21

1.2.2.1. Các cơ quan quản lý nhà nước về BTXH

Chính phủ thống nhất quản lý nhà nƣớc về BTXH, chỉ đạo xây dựng

ban hành và thực hiện văn bản quy phạm pháp luật, chế độ, chính sách về

BTXH.

- Bộ LĐ-TB&XH chịu trách nhiệm trƣớc Chính phủ thực hiện quản lý

nhà nhƣớc về BTXH, bao gồm:

+ Hƣớng dẫn thực hiện chính sách trợ giúp xã hội.

+ Tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật về trợ giúp xã hội.

+ Ứng dụng công nghệ thông tin quản lý đối tƣợng.

+ Đào tạo, bồi dƣỡng cán bộ thực hiện chính sách trợ giúp xã hội.

+ Kiểm tra, thanh tra việc thực hiện các quy định về chính sách trợ giúp

xã hội.

- Các bộ, cơ quan ngang Bộ trong phạm vi quyền hạn, nhiệm vụ của

mình có trách nhiệm hƣơng dẫn, tổ chức thực hiện.

- Trách nhiệm của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh:

+ Tổ chức thực hiện chế độ, chính sách BTXH

+ Bố trí kinh phí bảo đảm thực hiện chế độ, chính sách BTXH

+ Quyết định phƣơng thức chi trả phù hợp với tình hình thực tế của địa

phƣơng theo hƣớng chuyển đổi chi trả chính sách trợ giúp xã hội từ cơ quan

nhà nƣớc sang tổ chức dịch vụ chi trả.

+ Kiểm tra, thanh tra việc thực hiện chính sách trợ giúp xã hội ở địa

phƣơng.

- Trách nhiệm của Ủy ban nhân dân cấp huyện:

+ Tuyên truyền các chính sách, chế độ, chính sách BTXH theo quy định

+ Tổ chức thực hiện chế độ, chính sách BTXH

+ Kiểm tra, thanh tra việc thực hiện chính sách trợ giúp xã hội ở địa phƣơng.

+ Định kỳ báo cáo Ủy ban nhân dân tỉnh để theo dõi và nắm bắt tình

22

hình để có hƣớng chỉ đạo.

- Trách nhiệm của Ủy ban nhân dân cấp xã:

+ Tuyên truyền các chính sách, chế độ, chính sách BTXH theo quy định.

+ Tổ chức thực hiện chế độ, chính sách BTXH.

+ Kiểm tra, hƣớng dẫn việc thực hiện chính sách trợ giúp xã hội ở địa phƣơng.

+ Định kỳ báo cáo Ủy ban nhân dân huyện để theo dõi và nắm bắt tình

hình để có hƣớng chỉ đạo kịp thời.

1.2.2.2. Tổ chức bộ máy thực hiện hoạt động bảo trợ xã hội

Bảo trợ xã hội là một phần của hệ thống an sinh xã hội ở nƣớc ta có vai

trò vô cùng quan trọng, tạo ra tiền đề cho việc ổn định kinh tế, chính trị, xã

hội góp phần củng cố những thành quả trong đổi mới kinh tế, chính trị đáp

ứng nhu cầu nguyện vọng chính đáng của nhân dân.

Công tác Bảo trợ xã hội chịu sự quản lý trực tiếp của Bộ LĐ-TB&XH

và Ủy ban nhân dân các cấp.

+ Trung ƣơng có Bộ Lao động – Thƣơng binh và Xã hội.

+ Ở tỉnh, thành phố có Sở Lao động – Thƣơng binh và Xã hội.

+ Ở huyện, thị xã có Phòng Lao động – Thƣơng binh và Xã hội.

+ Ở xã, phƣờng, thị trấn có cán bộ, công chức phụ trách Lao động –

Thƣơng binh và Xã hội.

1.2.2.3. Mạng lưới hoạt động bảo trợ xã hội

- Đội ngũ cán bộ, công chức thực hiện công tác BTXH.

- Dịch vụ công tác xã hội.

- Hệ thống các cơ quan, chức năng liên quan đến công tác Bảo trợ xã hội.

- Mô hình chăm sóc ngƣời có hoàn cảnh đặc biệt tại cộng đồng, các mô

hình chăm sóc ngƣời cao tuổi, trẻ em mồ côi, ngƣời khuyết tật, nhất là mô

hình nhà dƣỡng lão.

- Thôn, xã, Trung tâm Phát triển cộng đồng.

23

- Các Trung tâm Bảo trợ xã hội.

1.2.3. Thanh tra, kiểm tra hoạt động bảo trợ xã hội

- Thanh tra, kiểm tra là phƣơng thức của quản lý nhà nƣớc; đây là một

nội dung quan trọng, vì hoạt động BTXH là hoạt động nhằm đảm bảo an sinh

xã hội, công bằng xã hội đối tƣợng hƣởng lợi là các đối tƣợng có mức sống

dƣới tối thiểu, đây là nhóm đối tƣợng rất nhạy cảm, dễ bị lợi dụng kích động

rất cần sự quan tâm đặc biệt của nhà nƣớc nhằm đảm bảo an ninh chính trị,

trật tự an toàn xã hội cho nên việc thanh tra, giám sát thực hiện đúng theo quy

định là hết sức cần thiết. Thanh tra kiểm tra không chỉ phát hiện thu hồi, xử lý

vi phạm mà quan trọng hơn là nâng cao kỷ cƣơng, kỷ luật, ý thức chấp hành

pháp luật về BTXH; đảm bảo ASXH cho mọi công dân theo quy định của

Hiến pháp năm 2013.

- Ủy ban nhân dân các cấp sẽ thanh tra, kiểm tra những vụ việc khi phát

hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật về thu, chi BTXH cũng nhƣ ngăn chặn

tình trạng làm giả hồ sơ, ký khống để trục lợi từ nguồn BTXH hoặc khi có

ngƣời đứng đầu cơ quan nhà nƣớc giao thực hiện.

- Khi thực hiện thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về BTXH

phải tuân theo pháp luật; bảo đảm tính chính xác, khách quan, trung thực,

công khai, dân chủ, kịp thời; không trùng lặp về vi phạm, đối tƣợng, nội dung

thời gian thanh tra giữa các cơ quan thực hiện chức năng thanh tra. Không

làm cản trở hoạt động bình thƣờng của cơ quan, tổ chức, cá nhân là đối tƣợng

thanh tra; tiến hành thƣờng xuyên gắn liền với việc thực hiện nhiệm vụ của cơ

quan BTXH nhằm phát hiện, ngăn chặn, xử lý kịp thời các hành vi vi phạm

pháp luật về thu, chi BTXH góp phần tăng cƣờng hiệu lực quản lý nhà nƣớc

trong lĩnh vực BTXH.

1.2.4. Giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật về bảo

24

trợ xã hội

Công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại, giải quyết tố cáo theo các quy

định của pháp luật và của ngành là một trong những hoạt động mang tính

thƣờng xuyên của quản lý nhà nƣớc về BTXH.

Chính sách BTXH vận dụng qua nhiều giai đoạn và có điều chỉnh, bổ

sung nên việc đảm bảo quyền lợi của đối tƣợng không phải khi nào cũng giải

quyết tốt. Ngƣời thụ hƣởng có quyền khiếu nại, tố cáo đến cơ quan nhà nƣớc về

những bất hợp lý khi thực hiện các chế độ BTXH, các cơ quan nhà nƣớc sẽ có

trách nhiệm giải quyết những khiếu nại này theo thẩm quyền từ thấp đến cao.

Trong trƣờng hợp cố tình bao che, không giải quyết khiếu nại, tố cáo

theo thẩm quyền quy định thì sẽ bị xử lý theo quy định.

1.3. Những yếu tố ảnh hƣởng đến quản lý nhà nƣớc về bảo trợ xã hội

1.3.1. Yếu tố chính sách, pháp luật về BTXH

- Các văn bản quy phạm pháp luật là cơ sở pháp lý để hƣớng dẫn các tổ

chức, cá nhân thực hiện các quy định về BTXH là căn cứ để kiểm tra, xử lý

những trƣờng hợp vi phạm.

- Nếu hệ thống chính sách, pháp luật không chặt chẽ, đầy đủ, thì việc

giải quyết sự việc, tình huống sẽ không triệt để và nhanh chóng, kịp thời.

1.3.2. Yếu tố kinh tế

- Sự phát triển của mỗi nền kinh tế là minh chứng cho trình độ văn

minh của xã hội. Xã hội càng văn minh thì cuộc sống con ngƣời càng đƣợc

đảm bảo vững chắc dẫn đến số lƣợng đối tƣợng thụ hƣởng BTXH giảm đi

đồng nghĩa với việc giảm đi gánh nặng của xã hội.

- Nhóm yếu tố kinh tế bao gồm nhƣ yếu tố tăng trƣởng kinh tế, thu

nhập bình quân đầu ngƣời, chính sách điều tiết. Thu nhập bình quân của

ngƣời dân tăng cao, bằng chính sách thuế phù hợp nhà nƣớc đóng vai trò thực

hiện phân phối lại thu nhập góp phần thực hiện mục tiêu công bằng xã hội và

25

sự tăng trƣởng kinh tế cũng giúp nhà nƣớc có thêm nguồn động lực chăm lo

phát triển về xã hội mà trọng tâm là phát triển hệ thống ASXH trong đó có

BTXH. Tăng trƣởng kinh tế cũng tạo nguồn lực để từng bƣớc mở rộng đối

tƣợng, mở rộng chính sách BTXH.

- Ngoài ra kinh tế tăng trƣởng nhanh làm cho mức sống tối thiểu của

ngƣời dân từng bƣớc đƣợc nâng lên, tác động trực tiếp đến chính sách BTXH

làm tăng mức trợ cấp để đảm bảo mức sống tối thiểu cho các đối tƣợng đƣợc

bảo trợ.

- Tuy nhiên bên cạnh sự tăng trƣởng cũng sẽ nảy sinh nhiều vấn đề bức

xúc trong xã hội nhƣ là thất nghiệp, thiếu việc làm, phân hóa lại xã hội… làm

cho đối tƣợng này gia tăng nhiều.

1.3.3. Yếu tố phi kinh tế

- Đó là những nhận thức của xã hội, yếu tố dân số, yếu tố chính trị và

lịch sử, yếu tố truyền thống văn hóa…

- Nhận thức ngƣời dân cho rằng nhóm ngƣời này là gánh nặng của xã

hội, có cái nhìn phân biệt đối xử.

- Dân số có xu hƣớng thay đổi mạnh mẽ về cả số lƣợng và chất lƣợng,

cùng với xu hƣớng già hóa dân số ảnh hƣởng lớn đến công tác BTXH và hệ

thống chính trị quyết định quan điểm và định hƣớng phát triển của BTXH.

- Nhân tố chính trị có ảnh hƣởng rất lớn đến hoạt động của hệ thống an

sinh xã hội, trong đó có các hoạt động BTXH. Nếu chính trị ổn định sẽ là bàn

đạp để thúc đẩy kinh tế phát triển tạo ra nguồn thu cho hoạt động BTXH.

- Sự nhận thức của xã hội về vấn đề bảo trợ, sự năng nổ, nhiệt tình của

đội ngũ cán bộ làm công tác cũng có tác động và ảnh hƣởng nhất định đến

hoạt động BTXH.

- Hệ thống chính sách pháp luật về BTXH của nhà nƣớc ảnh hƣởng đến

việc thực hiện quản lý hoạt động BTXH, nó thể hiện sự quan tâm của nhà

nƣớc đối với hoạt động BTXH.

26

1.3.4. Yếu tố con người

Công tác thực hiện chính sách BTXH tốt hay không chịu ảnh hƣởng rất

lớn đối với chất lƣợng đội ngũ CBCC làm công tác này. Vì nhân tố con ngƣời

là nhân tố quyết định thành công của mọi chính sách. Đội ngũ cán bộ công

chức có phẩm chất, trình độ chuyên môn yếu thì không thể đảm bảo chất

lƣợng công việc.

1.4. Kinh nghiệm quản lý nhà nƣớc về bảo trợ xã hội tại Đắk Lắk

và bài học kinh nghiệm có thể áp dụng cho tỉnh Đắk Nông

1.4.1. Kinh nghiệm tại tỉnh Đắk Lắk

Mỗi một địa phƣơng sẽ có điều kiện, hoàn cảnh khác nhau và việc triển

khai thực hiện hoạt động BTXH cũng tùy thuộc vào điều kiện thực tế từng

tỉnh, tuy nhiên về cơ bản là nhƣ nhau cùng nằm trong một hệ thống pháp luật

Việt Nam.

Đặc biệt Đắk Nông là một tỉnh đƣợc tách ra từ Đắk Lắk, chính vì thế

trong hoạt động BTXH có nhiều điểm tƣơng đồng có thể áp dụng trong việc

thực hiện chính sách cho đối tƣợng BTXH tại tỉnh Đắk Nông. Tại Đắk Lắk

công tác BTXH đã đƣợc các cấp, các ngành của tỉnh quan tâm nên đã đạt

đƣợc những kết quả đáng khích lệ, cụ thể: tỉnh luôn quan tâm đến các chính

sách an sinh xã hội, quan tâm đến nhóm ngƣời yếu thế trong xã hội, nhờ vậy

đã tạo điều kiện thuận lợi cho các đối tƣợng BTXH đƣợc tiếp cận các dịch vụ,

trợ giúp kịp thời cho các đối tƣợng nhờ vậy họ có điều kiện vƣơn lên hòa

nhập với cuộc sống cộng đồng; các đối tƣợng BTXH tăng qua các năm từ

33.389 đối tƣợng năm 2013 lên 45.000 đối tƣợng năm 2017 [41], các nhóm

đối tƣợng đƣợc thụ hƣởng đều tăng qua các năm, kinh phí đầu tƣ cũng tăng

theo điều này chứng tỏ các cấp chính quyền tại đây rất quan tâm đến công tác

27

BTXH (điều này biểu hiện cụ thể tại bảng 1.1 và 1.2).

Bảng 1.1: Số liệu đối tượng BTXH tỉnh Đắk Lắk qua các năm 2013-2017

ĐVT: người

Tiêu chí Nhóm trẻ em Năm 2013 Năm 2014 Năm 2015 Năm 2016 Năm 2017 497 380 622 589 637

Ngƣời cao tuổi 19.774 20.089 21.228 23.909 24.917

Tàn tật 10.819 12.000 11.963 14.752 15.986

Khác 2.174 2.503 1.950 2.547 3.460

Tổng số 33.389 34.972 35.638 41.797 45.000

Nguồn: Sở Lao động – Thƣơng binh và Xã hội Đắk Lắk

Việc thực hiện trợ cấp cho các đối tƣợng BTXH trên địa bàn tỉnh Đắk

Lắk áp dụng theo quy định của các văn bản pháp luật hiện hành và đặc thù

từng địa phƣơng có mức trợ cấp khác nhau. Hiện nay mức trợ cấp, trợ giúp

cho các đối tƣợng BTXH trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk đang thực hiện theo

Quyết định số 59/2011/QĐ-UBND, ngày 03/11/2011 của UBND tỉnh Đắk

Lắk về việc quy định chế độ trợ cấp, trợ giúp các đối tƣợng BTXH, theo đó

mức trợ giúp thƣờng xuyên cho các nhóm đối tƣợng cao hơn quy định chung,

trong đó thấp nhất là 240.000đồng/ngƣời/tháng, cao nhất là

600.000đồng/ngƣời/tháng.

Bảng 1.2: Kinh phí chi trả trợ cấp BTXH tỉnh Đắk Lắk 2013-2017

Năm 2013 2014 2015 2016 2017

Tổng số (đối 33.389 34.972 35.638 41.979 45.000 tƣợng)

Kinh phí 84.054 94.400 126.000 140.003 187.000 (triệu đồng)

28

Nguồn: Sở Lao động – Thƣơng binh và Xã hội Đắk Lắk

Ngoài việc thực hiện các chế độ chi trả cho đối tƣợng BTXH theo quy

định thì tỉnh Đắk Lắk luôn quan tâm đến công tác chăm sóc sức khỏe, phục

hồi chức năng, dạy nghề cho các đối tƣợng BTXH cũng nhƣ công tác xã hội

hóa, huy động nguồn lực cho hoạt động BTXH trên địa bàn tỉnh, cụ thể là

hiện nay toàn tỉnh có 9 cơ sở BTXH thì có tới 7 cơ sở ngoài công lập.

Hiện nay tỉnh đã và đang thực hiện Đề án 32 về phát triển nghề công

tác xã hội trên địa bàn tỉnh, hàng năm tổ chức bồi dƣỡng, đào tạo cho đội ngũ

cán bộ làm công tác xã hội các cấp, phối hợp với Trƣờng Đại học Lao động

xã hội (cơ sở 2, tại thành phố Hồ Chí Minh) mở lớp đào tạo hệ đại học chuyên

ngành Công tác xã hội, hệ vừa học vừa làm cho 40 cán bộ, nhân viên công tác

xã hội tại địa phƣơng.

1.4.2. Bài học kinh nghiệm có thể áp dụng cho tỉnh Đắk Nông

Thứ nhất, mở rộng thêm các nhóm đối tƣợng, nâng mức chuẩn trợ cấp,

trợ giúp xã hội, xây dựng mức sống tối thiểu, mức sống trung bình, chuẩn

nghèo, cận nghèo phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ

làm cơ sở xác định các đối tƣợng và mức chuẩn của các chính sách an sinh xã

hội; mức trợ cấp xã hội chuẩn trong giai đoạn 2014-2020 sẽ tƣơng đƣơng với

40% mức sống tối thiểu, các đối tƣợng đƣợc hƣởng BTXH.

Thứ hai, đẩy mạnh công tác trợ giúp ngƣời khuyết tật trong chăm sóc

sức khỏe, giáo dục, dạy nghề, việc làm, văn hóa, thể thao, giải trí, tiếp cận

công trình công cộng và công nghệ thông tin; lồng ghép chính sách về ngƣời

khuyết tật trong chính sách phát triển kinh tế - xã hội; tạo điều kiện để ngƣời

khuyết tật đƣợc chỉnh hình, phục hồi chức năng; khắc phục khó khăn, sống

độc lập và hòa nhập cộng đồng.

Thƣ ba, thống nhất trong việc chỉ đạo, phối hợp thực hiện công tác

29

BTXH tạo điều kiện thuận lợi trong việc cập nhật, thu thập số liệu liên quan.

Thứ tƣ, đẩy mạnh công tác xã hội hóa đối với hoạt động BTXH và cải

cách hành chính, đơn giản hóa thủ tục hành chính.

Thứ năm, tăng cƣờng công tác phối hợp liên ngành trong việc thực hiện

các chính sách BTXH, nhất là trong công tác dạy nghề, tạo việc làm, chăm

sóc sức khỏe, cũng nhƣ trong việc cấp phép, đƣa đối tƣợng vào các cơ sở

30

BTXH.

Tiểu kết chƣơng 1

BTXH là hệ thống các chính sách, chế độ, những hành động chủ yếu

của Nhà nƣớc và cộng đồng xã hội bằng các hình thức khác nhau nhằm giúp

các đối tƣợng yếu thế giảm nhẹ và kiềm chế nguy cơ dễ bị tổn thƣơng, bần

cùng hòa, hòa nhập với cộng đồng, thúc đẩy công bằng xã hội và góp phần

thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển.

BTXH là hoạt động thể hiện tính nhân đạo sâu sắc giữa con ngƣời và

con ngƣời, con ngƣời và xã hội. Từ khi ra đời, hoạt động này đƣợc xem là

một sự đảm bảo cho cuộc sống và đặc biệt có ý nghĩa đối với một bộ phận

thành viên xã hội, bộ phận “ ngƣời yếu thế”. Là sự bảo vệ quyền con ngƣời và

đồng nhất đối với mọi thành viên xã hội trên cơ sở sự tƣơng trợ cộng đồng,

phòng ngừa giảm thiểu rủi ro, BTXH là hoạt động mang đậm tính nhân đạo,

có ý nghĩa kinh tế, chính trị, xã hội và pháp luật sâu sắc.

QLNN về hoạt động BTXH là một tập hợp các tác động quản lý của

Nhà nƣớc với tƣ cách là chủ thể quản lý và sự tham gia của các đối tƣợng

BTXH, cơ sở BTXH và các chủ thể khác ngoài Nhà nƣớc để tổ chức đời sống

xã hội theo mục tiêu đảm bảo giảm nguy cơ rủi ro cho đối tƣợng yếu thế có

cuộc sống cơ bản, tạo nên công bằng xã hội, thực hiện an sinh xã hội và thúc

đẩy phát triển kinh tế - xã hội.

Những nội dung khái quát chung về BTXH và QLNN đối với hoạt động

BTXH đã đƣợc trình bày cụ thể ở Chƣơng 1 là cơ sở cho việc phân tích thực

trạng hoạt động QLNN về BTXH và từ đó đánh giá các mặt đạt đƣợc, những

31

mặt hạn chế và hiệu quả hoạt động này tại tỉnh Đắk Nông ở Chƣơng 2.

Chương 2

THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ HOẠT ĐỘNG BẢO TRỢ

XÃ HỘI TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐẮK NÔNG

2.1. Khái quát chung về Đắk Nông

2.1.1. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên

32

Đắk Nông nằm ở phía Tây Nam của vùng Tây Nguyên, đoạn cuối dãy Trƣờng Sơn; đƣợc xác định trong khoảng tọa độ địa lý: 11045' đến 12050' vĩ

độ Bắc, 107013' đến 108010' kinh độ Đông. Phía Bắc và Đông Bắc giáp tỉnh

Đắk Lắk, phía Đông và Đông Nam giáp tỉnh Lâm Đồng, phía Nam và Tây

Nam giáp tỉnh Bình Phƣớc, phía Tây giáp Vƣơng quốc Campuchia. Đắk

Nông là tỉnh nằm trong khu vực tam giác phát triển Việt Nam – Lào –

Campuchia.

Diện tích tự nhiên có 650.927 ha, có 08 đơn vị hành chính cấp huyện,

thị xã với dân số tính đến tháng 12 năm 2017 là 628.067 ngƣời. Cơ cấu dân

tộc đa dạng, chủ yếu là dân tộc kinh, M'Nông, Tày, Thái, Ê Đê, Nùng, dân tộc

Kinh chiếm tỷ lệ khoảng 65,5%, M'Nông chiếm 9,7%, các dân tộc khác chiếm

tỷ lệ nhỏ. Là một tỉnh với đông dân tộc anh em cùng sinh sống, đời sống còn

rất nhiều khó khăn, chính vì vậy rất cần sự quan tâm, hỗ trợ từ các chính sách

trợ giúp xã hội của Nhà nƣớc.

Địa hình của tỉnh Đắk Nông đa dạng và phong phú, có sự xen kẽ giữa

các địa hình thung lũng, cao nguyên và núi cao. Địa hình có hƣớng cao dần từ

Đông sang Tây. Địa hình thung lũng là vùng đất thấp phân bố dọc sông Krông

Nô, Sêrêpôk, thuộc khu vực các huyện Cƣ Jút, Krông Nô. Địa hình tƣơng đối bằng phẳng, có độ dốc từ 0-30, thích hợp với phát triển cây lƣơng thực, cây

công nghiệp ngắn ngày, chăn nuôi gia súc, gia cầm. Địa hình cao nguyên chủ

yếu ở Đắk G’long, Đắk Mil, Đắk Song, độ cao trung bình trên 800 m, độ dốc trên 150. Đây là khu vực có đất bazan là chủ yếu, rất thích hợp với phát triển

cây công nghiệp lâu năm, lâm nghiệp và chăn nuôi đại gia súc. Địa hình núi

phân bố trên địa bàn huyện Đắk R'Lấp. Đây là khu vực địa hình chia cắt mạnh

và có độ dốc lớn. Đất bazan chiếm phần lớn diện tích, thích hợp với phát triển

cây công nghiệp dài ngày nhƣ cà phê, cao su, điều, tiêu.

2.1.2. Đặc điểm xã hội

2.1.2.1. Đơn vị hành chính

33

Toàn tỉnh Đắk Nông có 07 huyện và 01 thị xã: huyện Đắk Mil, huyện

Cƣ Jut, huyện Krông Nô, huyện Đắk Song, huyện Đắk G’long, huyện Đắk

R’lấp, huyện Tuy Đức và thị xã Gia Nghĩa.

2.1.2.2. Đặc điểm về dân số và lao động

Dân số toàn tỉnh tính đến tháng 12 năm 2017: 628.067 ngƣời; mật độ

96 ngƣời/km2. Ngƣời dân chủ yếu sống ở nông thôn với 532.786 ngƣời gấp

5,6 lần dân cƣ sống ở thành thị. (xem bảng 2.1)

Bảng 2.1. Dân số trung bình tỉnh Đắk Nông từ 2013 – 2017

Đơn vị tính: Ngƣời

Năm Năm Năm Năm Năm STT Chỉ tiêu 2013 2014 2015 2016 2017

1 Tổng dân số 555.102 565.529 583.912 609.595 628.067

2 Thành thị 85.292 87.748 89.838 92.794 95.281

3 Nông thôn 469.810 477.781 494.074 516.801 532.786

(Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Đắk Nông)

Qua bảng 2.1 cho thấy từ năm 2013 đến năm 2017 dân số trung bình trên

toàn huyện tăng đều qua các năm trong năm 2013 với 555.102 ngƣời thì đến

năm 2017 toàn tỉnh có 628.067 ngƣời trong đó có 532.786 ngƣời sống ở nông

thôn và 95.281 sống ở thành thị, trong đó khoản hai phần ba sống về nghề nông

tuy nhiên đang có xu hƣớng chuyển dần từ nông thôn sang thành thị.

Nguồn lao động tại chỗ ở tỉnh Đắk Nông rất dồi dào và có chiều hƣớng tăng

34

theo các năm từ 2013 đến 2017 (tỷ lệ lao động nam cao hơn nữ) (xem bảng 2.2).

Bảng 2.2. Lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên của tỉnh Đắk Nông

giai đoạn 2013-2017

Đơn vị tính: Lao động

Năm 2013 2014 2015 2016 2017

349.179 353.453 373.987 381.273 390.046 Tổng số

156.148 171.681 179.502 180.615 184.944 Nữ

193.031 181.772 194.485 200.658 205.102 Nam

(Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Đắk Nông)

- Qua bảng 2.2, cho thấy với trên 390.046 lao động trong năm 2017 đây

là điều kiện thuận lợi để địa phƣơng thúc đẩy công nghiệp, tạo tiền đề cho quá

trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nâng cao thu nhập cho ngƣời dân giảm

gánh nặng về BTXH cho nhà nƣớc.

2.1.3. Đặc điểm kinh tế

Tài nguyên đất, nƣớc, khoáng sản, du lịch ở Đắk Nông rất phong phú:

Về tài nguyên khoáng sản Bauxite với trữ lƣợng dự đoán 5,4 tỉ tấn, trữ lƣợng

thăm dò 2,6 tỉ tấn, đủ để khai thác công nghiệp trong nhiều năm; có mạng

lƣới các sông suối thuận lợi cho hình thành các thủy điện lớn nhỏ với tổng

công suất lên đến 1.500 MW. Các thủy điện nhỏ trên khắp các huyện thị phục

vụ cho các hoạt động sản xuất nhỏ, các khu dân cƣ rộng khắp trên địa bàn

tỉnh; tiềm năng về đất, rừng, có diện tích đất đỏ bazan lớn, màu mỡ, điều kiện

khí hậu thuận lợi cho phép phát triển cây công nghiệp dài ngày nhƣ cà phê,

cao su, điều, tiêu và chăn nuôi gia súc. Tiềm năng đất đai cho phép phát triển

một nền nông nghiệp bền vững, theo hƣớng sản xuất hàng hóa. Có tiềm năng

đất rừng và trữ lƣợng gỗ lớn cùng nhiều đặc sản lâm sinh phong phú đa dạng.

Trong rừng có nhiều thác nƣớc, suối, hồ đẹp, có những khu rừng nguyên sinh

tạo nên những danh lam thắng cảnh hấp dẫn có thể khai thác phát triển du

35

lịch, đặc biệt là du lịch sinh thái.

2.2. Thực trạng quản lý nhà nước về bảo trợ xã hội trên địa bàn tỉnh

Đắk Nông

2.2.1. Ban hành, tuyên truyền, phổ biến chế độ, chính sách, pháp luật

về bảo trợ xã hội

2.2.1.1. Ban hành văn bản về bảo trợ xã hội

Trong những năm qua, công tác BTXH đã đƣợc UBND tỉnh quan tâm

chỉ đạo thực hiện đã đƣa vào Nghị quyết hành động của tỉnh; các cơ quan

chuyên môn cũng đã chủ động tham mƣu ban hành nhiều văn bản chỉ đạo

thực hiện từ tỉnh đến các huyện, thị xã, thành phố và đã đạt đƣợc nhiều kết

quả đáng ghi nhận, đóng góp quan trọng vào việc đảm bảo ASXH trên địa bàn

tỉnh. Từ năm 2013 - 2017 Ủy ban nhân dân tỉnh Đắk Nông đã ban hành nhiều

chính sách, chủ trƣơng, kế hoạch hành động cụ thể nhƣ sau:

Hiện nay, tỉnh Đắk Nông cũng nhƣ cả nƣớc đang áp dụng chính sách

BTXH trên cơ sở Nghị định 67/2007/NĐ-CP, Nghị định 13/2010/NĐ-CP,

Nghị định 136/2013/NĐ-CP và một số văn bản có liên quan; ngoài ra tỉnh

cũng có nhiều văn bản để triển khai nội dung này đến các huyện, thị xã, thành

phố làm cơ sở thực hiện. Sau Nghị định số 67/2007/NĐ-CP ra đời, UBND

tỉnh cũng có Quyết định 122/2007/QĐ-UBND ngày 21/9/2007 của UBND

tỉnh về điều chỉnh, bổ sung một số chế độ, chính sách xã hội của tỉnh Đắk

Nông để điều chỉnh mức trợ cấp cho đối tƣợng đƣợc BTXH [20]. Với Nghị

định 13/2010/NĐ-CP, tỉnh cũng có Quyết định số 02/2011/QĐ-UBND ngày

6/01/2011 về việc quy định mức trợ cấp, trợ giúp cho các đối tƣợng BTXH

trên địa bàn tình Đắk Nông là 180.000đồng/ngƣời/tháng [21]; riêng các đối

tƣợng tại Trung tâm Bảo trợ xã hội tỉnh đƣợc hƣởng mức trợ cấp là bằng 80%

mức lƣơng tối thiểu. Đối với Nghị định số 136/2013/NĐ-CP, hiện nay đã điều

36

chỉnh mức trợ cấp xã hội tăng lên 270.000đồng/ngƣời/tháng tuy nhiên hiện

nay chƣa áp dụng cho tất cả đối tƣợng BTXH mà chỉ áp dụng cho một số

nhóm đối tƣợng nhất định.

Để triển khai thực hiện, Sở Lao động - Thƣơng binh và Xã hội tỉnh Đắk

Nông đã ban hành nhiều văn bản hƣớng dẫn việc thực hiện chính sách trợ cấp,

trợ giúp cho đối tƣợng bảo trợ xã hội nhằm đảm bảo thực hiện một cách thống

nhất trên toàn tỉnh cụ thể:

Năm 2013 đến 2017 đã ban hành nhiều văn bản, hƣớng dẫn, tổ chức

thực hiện chính sách trợ cấp, trợ giúp cho đối tƣợng BTXH gồm: Công văn số

83/LĐTBXH-BTXH ngày 17/01/2013 về việc tổ chức cứu đói dịp Tết

Nguyên đán và giáp hạt 2013; công văn số 131/LĐTBXH-BTXH ngày

24/01/2013 về việc thực hiện trợ giúp xã hội cho Ngƣời cao tuổi và Ngƣời

khuyết tật; kế hoạch số 485/KH-LĐTBXH ngày 11/4/2013 kế hoạch kiểm tra

cứu đói dịp giáp hạt 2013; kế hoạch số 844/KH-LĐTBXH ngày 17/6/2013 về

giao nhận gạo và hƣớng dẫn cấp gạo cứu đói cho nhân dân; công văn số

1076/LĐTBXH-BTXH ngày 24/7/2013 về việc thực hiện chính sách trợ cấp

xã hội đối với đối tƣợng BTXH; kế hoạch số 1359/KH-LĐTBXH ngày

13/9/2013 về thăm, tặng quà, chúc thọ, mừng thọ cho Ngƣời Cao tuổi 90 tuổi

và 100 tuổi nhân dịp Quốc tế Ngƣời Cao tuổi; công văn số 18/LĐTBXH-

BTXH ngày 07/01/2014 về báo cáo cứu đói dịp Tết Nguyên đán và giáp hạt

2014; công văn số 52/LĐTBXH-BTXH ngày 14/01/2014 về việc thực hiện

chính sách trợ giúp xã hội cho các đối tƣợng BTXH; hƣớng dẫn số 133/HD-

LĐTBXH ngày 24/01/2014 hƣớng dẫn cấp gạo cho dân dịp Tết Nguyên đán

2014; kế hoạch số 490/KH-LĐTBXH ngày 11/4/2014 về kiểm tra cứu đói

giáp hạt 2014; hƣớng dẫn số 948/HD-LĐTBXH ngày 20/6/2014 về hƣớng

dẫn thực hiện các chính sách BTXH; kế hoạch số 1566/KH-LĐTBXH ngày

12/9/2014 về thăm, tặng quà, chúc thọ, mừng thọ cho Ngƣời Cao tuổi 90 tuổi

37

và 100 tuổi nhân dịp Quốc tế Ngƣời Cao tuổi; kế hoạch số 1782/KH-

LĐTBXH ngày 13/10/2014 về kiểm tra tình hình chi trả trợ cấp xã hội thông

qua bƣu điện và công văn số 2366/LĐTBXH-BTXH ngày 26/12/2014 về việc

trợ giúp xã hội Tết Nguyên đán Ất Mùi và giáp hạt năm 2015; Công văn số

414/LĐTBXH-BTXH ngày 18/3/2015 về việc điều chỉnh trợ cấp cho các đối

tƣợng bảo trợ xã hội theo Nghị định số 136/2013/NĐ-CP; Công văn số

368/LĐTBXH-BTXH ngày 11/03/2015 về việc cứu đói giáp hạt năm 2015;

Kế hoạch số 415/KH-LĐTBXH ngày 18/3/2015 về việc kiểm tra tình hình

thực hiện Nghị định số 136/2013/NĐ-CP của Chính phủ; Kế hoạch số

1718/KH-LĐTBXH ngày 18/9/2015 về thăm, tặng quà chúc thọ, mừng thọ

cho ngƣời cao tuổi 90 tuổi, 100 tuổi nhân dịp Ngày Quốc tế Ngƣời cao tuổi

01/10; Kế hoạch số 1767/KH-LĐTBXH ngày 28/9/2015 về đào tạo, bồi

dƣỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và bồi dƣỡng kỹ năng nâng

cao năng lực cho cán bộ, viên chức, nhân viên và cộng tác viên công tác xã

hội năm 2015; Kế hoạch số 1860/KH-LĐTBXH ngày 7/10/2015 về tập huấn

cho cán bộ, nhân viên và cộng tác viên trong lĩnh vực chăm sóc sức khoẻ tâm

thần năm 2015; Công văn số 62/KH-LĐTBXH, ngày 10/8/2016 về việc triển

khai thực hiện Thông tƣ liên tịch số 06/2016/TTLT-BLĐTBXH-BTC; công

văn số 18/LĐTBXH-BTXH ngày 07/01/2017 về báo cáo cứu đói dịp Tết

Nguyên đán và giáp hạt 2017.

Nhìn chung, tỉnh Đắk Nông đã tích cực triển khai, tổ chức thực hiện

các văn bản thực hiện pháp luật về bảo trợ xã hội kịp thời và cơ bản đầy đủ.

Tuy nhiên bên cạnh đó vẫn còn một số hạn chế nhƣ các văn bản thanh tra,

kiểm tra không thƣờng xuyên, chƣa có kế hoạch cụ thể trong công tác thông

tin, tuyên truyền hằng năm, chƣa có kế hoạch vận động tăng nguồn thu

38

BTXH.

2.2.1.2. Công tác tuyên truyền, phổ biến chế độ, chính sách, pháp luật

về bảo trợ xã hội

- Một trong những nhiệm vụ quan trọng đƣa chính sách BTXH đến gần

hơn với ngƣời dân là công tác tuyên truyền. Công tác tuyên truyền là một

trong những khâu then chốt bảo đảm triển khai công tác bảo trợ xã hội.

- Trong những năm qua, công tác tuyên truyền về bảo trợ xã hội đƣợc

xác định là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của tỉnh. Chính vì vậy, hằng

năm UBND tỉnh luôn chỉ đạo Sở Lao động - Thƣơng binh và Xã hội tỉnh Đắk

Nông bám sát nhiệm vụ đƣợc giao lên kế hoạch thực hiện tuyên truyền, cụ thể

hóa các quan điểm chỉ đạo của UBND tỉnh và các sở, ngành về việc triển khai

thực hiện chế độ bảo trợ xã hội.

- Phối hợp với Báo Đắk Nông, Đài Phát thanh – Truyền hình tỉnh Đắk

Nông thực hiện trên 1000 lƣợt tuyên truyền về các Nghị định, chính sách mới

về chế độ an sinh xã hội một cách rộng rãi tới nhân dân các dân tộc trên địa

bàn tỉnh bằng tiếng Kinh và tiếng M’Nông dƣới hình thức nhƣ: phóng sự, tờ

rơi...

- Phối hợp với phòng Lao động – Thƣơng binh và Xã hội các huyện, thị

xã tổ chức nhiều Hội nghị tập huấn triển khai, phổ biến các chính sách pháp

luật liên quan đến công tác bảo trợ xã hội cho cán bộ LĐ – TB&XH cấp

huyện, xã, trƣởng thôn, buôn, tổ dân phố…

Qua những kết quả đã đạt đƣợc từ năm 2013 đến 2017 công tác tuyên

truyền đã góp phần làm thay đổi và nâng cao nhận thức về quyền và trách

nhiệm của cấp Ủy, chính quyền, hội đoàn thể các cấp và mọi ngƣời dân trong

việc thực thi chấp hành các quy định của luật BTXH; những bức xúc, phàn

nàn, khiếu nại, tố cáo giảm dần. Tuy nhiên bên cạnh đó vẫn còn một số hạn

39

chế nhƣ công tác thông tin, tuyên truyền chỉ mang tình cục bộ, chƣa tạo đƣợc

điểm nhấn và sự lan tỏa cao. Việc tiếp nhận thông tin về chế độ BTXH của

đối tƣợng hầu nhƣ chỉ thông qua chính quyền địa phƣơng và cán bộ thực hiện.

2.2.2. Tổ chức bộ máy

2.2.2.1. Các cơ quan quản lý nhà nước về bảo trợ xã hội

Một là, đối với cấp tỉnh: Sở Lao động - Thƣơng binh và Xã hội tỉnh

Đắk Nông là cơ quan chuyên môn giúp UBND tỉnh thực hiện chức năng

QLNN đối với các hoạt động BTXH trên địa bàn tỉnh; Sở chịu sự chỉ đạo,

quản lý về tổ chức, biên chế và hoạt động của UBND tỉnh, đồng thời chịu sự

chỉ đạo, hƣớng dẫn, giám sát và kiểm tra về chuyên môn, nghiệp vụ của Bộ

Lao động - Thƣơng binh và Xã hội.

Sơ đồ 2.1: Sơ đồ tổ chức bộ máy Sở Lao động – Thƣơng binh và

Xã hội tỉnh Đắk Nông

Nguồn: Sở Lao động – Thương binh và Xã hội tỉnh Đắk Nông

Sở LĐ-TB&XH tỉnh có 10 phòng chuyên môn thực hiện công tác bảo

đảm hoạt động ngành cùng với chức năng tham mƣu cho Giám đốc Sở về các

lĩnh vực chính sách việc làm, an toàn lao động, giáo dục nghề nghiệp, chính

sách ngƣời có công, chính sách an sinh xã hội, thanh tra lao động, tiền lƣơng,

bảo hiểm xã hội….trên địa bàn tỉnh. Chức năng của Sở trong quản lý hoạt

40

động BTXH nhƣ sau:

+ Giúp Uỷ ban nhân dân tỉnh QLNN đối với các đối tƣợng BTXH, cơ

sở BTXH theo quy định của pháp luật.

+ Hƣớng dẫn và tổ chức thực hiện Chƣơng trình mục tiêu Quốc gia về

giảm nghèo, Nghị quyết đẩy mạnh thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền vững

và các chính sách giảm nghèo, Chƣơng trình hành động quốc gia về ngƣời cao

tuổi Việt Nam và các đề án, chƣơng trình về bảo trợ xã hội khác có liên quan

trên địa bàn tỉnh.

+ Tổng hợp, thống kê số lƣợng ngƣời cao tuổi, ngƣời khuyết tật, ngƣời

rối nhiễu tâm trí, ngƣời tâm thần, đối tƣợng trợ giúp xã hội thƣờng xuyên, đột

xuất, hộ nghèo, hộ cận nghèo và đối tƣợng bảo trợ xã hội khác trên địa bàn

tỉnh.

+ Tổ chức xây dựng mạng lƣới cơ sở bảo trợ xã hội, tổ chức cung cấp

các dịch vụ công tác xã hội, cơ sở chăm sóc ngƣời khuyết tật, cơ sở chăm sóc

ngƣời cao tuổi và các loại hình cơ sở khác có chăm sóc, nuôi dƣỡng đối tƣợng

bảo trợ xã hội trên địa bàn tỉnh.

+ Phối hợp với các tổ chức liên quan trong phạm vi, quyền hạn của

mình chịu trách nhiệm thực hiện theo các quy định của pháp luật BTXH.

+ Hƣớng dẫn, kiểm tra, giám sát cấp huyện trong việc xác định và quản

lý đối tƣợng; tổ chức thực hiện BTXH trên địa bàn;

+ Báo cáo định kỳ 6 tháng, 01 năm và đột xuất tình hình, kết quả thực

hiện chính sách trợ giúp các đối tƣợng BTXH cho Bộ LĐ-TB&XH và UBND

tỉnh.

Phòng Bảo trợ xã hội: là phòng chuyên môn của Sở LĐ-TB&XH, trực

tiếp thực hiện công việc tham mƣu các nội dung về hoạt động BTXH, các

phong trào toàn dân chăm sóc, hỗ trợ đối tƣợng chính sách xã hội. Trong đó,

riêng về BTXH gồm các nhiệm vụ thực hiện các chế độ, chính sách cho các

41

đối tƣợng BTXH, thống kê, báo cáo BTXH theo quy định của pháp luật; quản

lý các đối tƣợng BTXH, cơ sở BTXH trên địa bàn; tiếp nhận hồ sơ đề nghị

cấp giấy phép hoạt động của các cơ sở BTXH; theo dõi và thực hiện kiểm tra,

giám sát các cơ sở BTXH và các huyện, thị xã, thành phố thực hiện công tác

BTXH.

Phòng Bảo trợ xã hội phối hợp với Ban đại diện hội NCT tỉnh, Hội Bảo

trợ NTT và TEMC tỉnh, UBND cấp huyện để quản lý các đối tƣợng này, phối

hợp với phòng Kế hoạch - Tài chính của Sở trong quá trình quản lý kinh phí

hoạt động BTXH trên địa bàn.

Hai là, đối với cấp huyện: Phòng Lao động - Thƣơng binh và Xã hội

cấp huyện cũng phối hợp với hội NCT, hội bảo trợ NTT và TEMC cùng cấp

để quản lý hoạt động BTXH ở địa phƣơng mình.

Nhìn chung tổ chức bộ máy khá chặt chẽ từ tỉnh đến xã, phƣờng, thị

trấn. Song công tác phối hợp thực hiện chƣa thật sự hiệu quả, một số huyện,

thị xã, chƣa có cán bộ chuyên trách, nhiều xã, phƣờng, thị trấn cán bộ LĐ-

TB&XH còn kiêm nhiệm, nên công tác BTXH đôi lúc còn chậm trễ.

2.2.2.2. Tổ chức bộ máy hoạt động

Phòng bảo trợ xã hội, có 01 Trƣởng phòng, 02 Phó trƣởng phòng và 04

cán bộ, chuyên viên, trong đó có 03 cán bộ hợp đồng, tổng số cán bộ, công

chức là 07 ngƣời (trong đó có 02 nữ); về trình độ có 01 Thạc sỹ, 06 Cử nhân.

Song số lƣợng cán bộ, công chức đƣợc đào tạo chuyên ngành về công tác xã

hội là 02 ngƣời, còn lại chuyên ngành đƣợc đào tạo chủ yếu là kinh tế.

+ Về nguồn nhân lực phục vụ công tác BTXH: tổng số cán bộ cấp tỉnh,

huyện, xã là: 195 ngƣời/628.067 dân số (cụ thể cấp tỉnh 11 người; cấp huyện

21 người và cấp xã 96 người, tại các cơ sở BTXH 67 người). Điều này làm

ảnh hƣởng đến kết quả thực hiện QLNN về BTXH: chậm trễ trong việc ra

quyết định hƣởng trợ cấp thƣờng xuyên, mai táng phí và trợ cấp đột xuất;

42

chậm trong công tác tổng hợp, báo cáo về đối tƣợng cũng nhƣ việc thực hiện

chính sách cho các đối tƣợng; khó khăn trong việc quản lý các cơ sở nuôi

dƣỡng đối tƣợng BTXH.

+ Về chất lượng: hiện tại đội ngũ cán bộ cấp tỉnh hầu hết đƣợc đào tạo

các chuyên ngành về kinh tế nên thiếu kỹ năng về công tác xã hội, số lƣợng

cán bộ hợp đồng còn nhiều (03 ngƣời); chuyên viên phụ trách quản lý hoạt

động BTXH cấp huyện chƣa có chuyên môn cao, do tính chất công việc kiêm

nhiệm, thời gian làm việc bị phân tán cho chuyên môn khác.

+ Về công tác đào tạo, bồi dưỡng: chất lƣợng đội ngũ thực hiện pháp

luật về BTXH tuy đã đƣợc chú trọng và đạt đƣợc nhiều kết quả quan trọng,

góp phần nâng cao chất lƣợng đội ngũ nhân lực của phòng nói chung và của

chuyên viên thực hiện chính sách BTXH nói riêng, đã có những đóng góp

nhất định nhƣng nhìn chung vẫn chƣa đạt đƣợc kết quả nhƣ mong muốn. Do

đó, cần đẩy mạnh hơn nữa công tác này trong thời gian tới, nhất là cán bộ cơ

sở. Ngoài ra, việc luân chuyển cán bộ không dự bị cán bộ kế thừa, nên việc

nắm bắt tình hình không sát sao, dẫn đến hồ sơ chậm trễ và công tác quản lý,

thu thập số liệu cũng khó khăn.

2.2.2.3. Mạng lưới bảo trợ xã hội

Trên địa bàn tỉnh có 02 cơ sở BTXH, trong đó có 01 cơ sở nhà nƣớc,

tổng số đối tƣợng đang đƣợc nuôi dƣỡng đến năm 2017 là 551 đối tƣợng.

Ngoài ra còn có 06 có sở khác có nuôi dƣỡng, dạy nghề, phục hồi chức năng

cho những ngƣời có hoàn cảnh đặc biệt tổng số đối tƣợng nuôi dƣỡng 621 đối

43

tƣợng (số liệu cụ thể bảng 2.3).

Bảng 2.3: Tổng hợp số liệu cơ sở BTXH trên địa bàn tỉnh Đắk Nông

Năm 2013 2014 2015 2016 2017

1. Tổng số cơ sở BTXH (cơ sở) 02 02 02 02 02

Trong đó ngoài công lập 01 01 01 01 01

Tổng số đối tƣợng (đối tƣợng) 57 52 42 51 57

2. Số cơ sở có nuôi dƣỡng, dạy 03 03 03 03 03 nghề, phục hồi chức năng

Trong đó ngoài công lập 02 02 02 02 02

Tổng số đối tƣợng (đối tƣợng) 138 102 103 121 134

Tổng số đối tƣợng tại các cơ 195 154 145 172 191 sở (đối tƣợng)

(Nguồn: Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh Đắk Nông)

Các đối tƣợng đƣợc nuôi dƣỡng tại các cơ sở chủ yếu là NKT,

TEMC…hiện nay theo quy định tại Quyết định số 26/2010/QĐ-UBND ngày

14/10/2010 của UBND tỉnh Đắk Nông thì mức trợ cấp cho đối tƣợng BTXH

đang đƣợc nuôi dƣỡng tại Trung tâm BTXH tỉnh là bằng 80% mức lƣơng tối

thiểu [21] (bảng 2.3 phân tích đối tƣợng tại các cơ sở).

Với mạng lƣới BTXH hiện tại tỉnh Đắk Nông đã cơ bản hoàn thành

đƣợc nhiệm vụ quản lý nhà nƣớc về BTXH. Nhƣng trong thời gian tới tỉnh

Đắk Nông cần phải cũng cố lại Trung tâm BTXH, hoàn thiện hệ thống BTXH

tại cộng đồng, nâng cao vai trò của cán bộ thực hiện công tác BTXH đặc biệt

là của công tác viên tại các thôn và ngày càng mở rộng đội ngủ cộng tác viên

44

để tham mƣu giải quyết tốt công tác BTXH.

2.2.3. Công tác thanh tra, kiểm tra việc thực hiện hoạt động bảo trợ

xã hội

Công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm việc thực hiện pháp luật về

BTXH là một khâu quan trọng trong chu trình thực hiện pháp luật nói chung,

cũng nhƣ việc đảm bảo thực hiện tốt an sinh xã hội nói riêng. Do chính sách

BTXH mang tính chất đa hoạt động, vì vậy tỉnh Đắk Nông triển khai công tác

theo dõi hoạt động BTXH để thu thập thông tin về tình hình đối tƣợng BTXH,

những diễn biến tăng giảm của đối tƣợng BTXH tại các xã, phƣờng, thị trấn

để đánh giá và dự đoán đúng diễn biến thực tế, xu hƣớng của đối tƣợng từ đó

giúp chính quyền cấp tỉnh có những quyết sách cho công tác BTXH, đảm bảo

phát triển kinh tế gắn với đảm bảo an sinh xã hội, cân đối thu chi ngân sách.

Những phƣơng pháp áp dụng để giám sát việc thực hiện pháp luật về

BTXH đa phần thông qua: theo dõi, đánh giá báo cáo thực hiện chăm lo cho

các đối tƣợng BTXH, tình hình tăng giảm của các đối tƣợng; theo dõi tình

hình hoạt động từ thiện chăm lo cho các đối tƣợng xã hội; theo dõi, đánh giá

của cộng đồng và ngƣời dân; sử dụng kết quả điều tra mức sống dân cƣ; tâm

tƣ nguyện vọng của đối tƣợng BTXH...Theo dõi, đánh giá đƣợc thực hiện

theo qui trình thống nhất, trong một khoản thời gian nhất định (quý, 6 tháng, 1

năm). Việc kiểm tra, giám sát thực hiện pháp luật về BTXH lấy căn cứ vào

Nghị định số 67/2007/NĐ-CP, Nghị định số 13/2010/NĐ-CP, Nghị định số

136/2013/NĐ-CP của Chính phủ và những văn bản liên quan nhƣ Luật NCT,

Luật Ngƣời khuyết tật và hƣớng dẫn kèm theo; Đến thời điểm hiện nay, Sở

LĐ-TB&XH đã tiến hành kiểm tra hầu hết các huyện, thị xã (8/8 đơn vị),

ngoài ra trong trƣờng hợp đột xuất còn thành lập các đoàn kiểm tra khi cần

thiết. Qua quá trình kiểm tra thực tế tại các xã, phƣờng, thị trấn việc thực hiện

chính sách pháp luật về BTXH, đặc biệt đối với NCT đảm bảo đúng qui định,

45

trợ cấp hàng tháng và cấp BHYT kịp thời; Tuy nhiên, vẫn còn nhiều xã,

phƣờng, thị trấn lập hồ sơ mai táng phí chậm trễ, một số trƣờng hợp trợ cấp

chậm một thời gian dài gần mới phát hiện làm hồ sơ truy lĩnh đã làm ảnh

hƣởng không nhỏ đến quyền lợi của ngƣời dân.

Công tác kiểm tra, giám sát trên địa bàn đã góp phần chấn chỉnh những

sai sót của hoạt động BTXH tại địa phƣơng, giúp các địa phƣơng tìm ra đƣợc

những yếu kém, cần khắc phục để việc thực hiện ngày càng tốt hơn. Sở Lao

động - Thƣơng binh và Xã hội tích cực thực hiện kiểm tra, giám sát đã đạt

đƣợc những kết quả nhất định. Tuy nhiên cần lƣu ý một số tồn tại đề rút kinh

nghiệm thực hiện tốt hơn nhƣ năng lực của cán bộ phụ trách còn hạn chế, do

quá nhiều công việc, nên công tác giám sát còn buông lỏng, còn suy nghĩ đơn

giản về hoạt động này là từ thiện nên ỷ lại, kiểm tra không thƣờng xuyên chặt

chẽ, có vấn đề, dƣ luận mới tiến hành kiểm tra. Việc phát hiện các điểm chăm

lo đối tƣợng BTXH không đúng quy định chậm trễ khi có dƣ luận mới tiến

hành kiểm tra, giám sát.

Kiểm tra, giám sát là hoạt động quan trọng trong công tác quản lý của

Nhà nƣớc, công tác này làm tốt sẽ là cơ sở, căn cứ chính xác để hoạch định

đƣờng lối chính sách của Đảng và Nhà nƣớc về BTXH một cách đúng đắn. Vì

thế, Sở LĐ-TB&XH, cũng nhƣ các cơ quan QLNN về BTXH cần hết sức

quan tâm kiểm tra, giám sát, đồng thời thực hiện tốt công tác này sẽ ngăn

chặn đƣợc những thành phần lợi dụng vào tính cần thiết, tính từ thiện của hoạt

động để phục vụ mục đích cá nhân. Với mục đích nắm đƣợc thực trạng thực

hiện Nghị định số 136/2013/NĐ-CP ngày 21/10/2013 của Chính phủ quy định

chính sách trợ giúp xã hội đối với đối tƣợng bảo trợ xã hội, Luật Ngƣời cao

tuổi, Luật Ngƣời khuyết tật và các văn bản hƣớng dẫn thi hành; kịp thời uốn

nắn, chấn chỉnh những sai sót đối với các tổ chức, cá nhân có hoạt động trợ

46

giúp xã hội; đồng thời kiến nghị với các cơ quan hữu quan về biện pháp khắc

phục những bất cập, khó khăn, vƣớng mắc trong quá trình triển khai và tổ

chức thực hiện chính sách trợ giúp xã hội đối với đối tƣợng bảo trợ xã hội.

Công tác thanh, kiểm tra chính sách, pháp luật bảo trợ xã hội đối với

NCT đƣợc Sở LĐ-TB&XH thực hiện hàng năm. Từ năm 2013 đến 2017, tổ

chức hàng chục đợt thanh tra, kiểm tra liên quan đến chính sách ngƣời cao

tuổi, phát hiện một số hạn chế đó là: hồ sơ, thủ tục hƣởng chƣa đúng quy

định; sai tuổi hƣởng; sai thời điểm truy lĩnh; thôi hƣởng chế độ chƣa kịp

thời…Tất cả sai phạm, hạn chế tại các địa phƣơng đƣợc Sở Lao động -

Thƣơng binh và Xã hội kết luận đề nghị địa phƣơng khắc phục, xử lý theo

quy định và các địa phƣơng đã khắc phục, xử lý đúng quy định.

Ban Đại diện Hội ngƣời cao tuổi các cấp tổ chức 125 đợt kiểm tra,

giám sát; tiếp nhận 10 đơn hỏi liên quan đến chế độ ngƣời cao tuổi và đã phối

hợp, đề nghị các cấp chính quyền giải quyết theo quy định.

Hoạt động thanh tra việc thực hiện các chính sách trợ cấp, trợ giúp cho

đối tƣợng BTXH do đoàn Thanh tra Sở LĐ-TB&XH đã tập trung kiểm tra

vào các nội dung: việc ban hành các văn bản hƣớng dẫn; công tác tuyên

truyền, tập huấn nghiệp vụ; công tác thanh tra, kiểm tra; công tác quản lý đối

tƣợng bảo trợ xã hội; quy trình tiếp nhận, thẩm định và xét duyệt hồ sơ hƣởng

chế độ; công tác chi trả trợ cấp cho các đối tƣợng bảo trợ xã hội; việc bố trí

kinh phí và công tác trợ giúp xã hội với đối tƣợng tại các cơ sở bảo trợ xã hội.

Thanh tra Sở LĐ-TB&XH hàng năm, đều thành lập các đoàn thanh tra

tình hình thực hiện công tác BTXH tại các huyện, thị xã. Trong giai đoạn

2013-2017 đã tổ chức đƣợc 07 đoàn thanh tra tại 07 đơn vị, qua thanh tra hầu

hết các đơn vị đều thực hiện tƣơng đối tốt các quy định của pháp luật hiện

hành về BTXH, tuy nhiên vẫn còn một số hạn chế nhƣ: việc lập dự toán chi

trả trợ cấp hàng tháng cho đối tƣợng không đúng theo quy định tại khoản 4,

47

Điều 14, Thông tƣ liên tịch số 24/2010/TTLT-BLĐTBXH-BTC [5]; tình

trạng ký nhận thay đối tƣợng không có giấy ủy quyền vẫn còn diễn ra; việc

niêm yết công khai danh sách các đối tƣợng đủ điều kiện đƣợc hƣởng chế độ

trợ cấp xã hội tại một số xã, phƣờng, thị trấn chƣa đƣợc công khai; việc cập

nhật, theo dõi biến động của đối tƣợng tại một số địa phƣơng chƣa đƣợc

thƣờng xuyên, chặt chẽ dẫn đến vẫn còn tình trạng đối tƣợng NCT đã chết

nhƣng chƣa đƣợc điều chỉnh thôi hƣởng trợ cấp hàng tháng kịp thời…

Qua quá trình thanh tra, ngoài việc ghi nhận những nội dung các đơn vị

đã thực hiện tốt, Đoàn thanh tra đã phát hiện một số thiếu sót, hạn chế chuyên

môn trong quá trình thực hiện chính sách, cụ thể nhƣ: một số văn bản chỉ đạo,

hƣớng dẫn chƣa đúng quy định hiện hành; công tác tuyên truyền chƣa thƣờng

xuyên, hình thức tuyên truyền chƣa phong phú và đa dạng; số lƣợng cuộc tập

huấn vẫn còn hạn chế, chƣa tập huấn chuyên sâu về công tác bảo trợ xã hội;

chƣa xây dựng kế hoạch thanh tra, kiểm tra hàng năm về công tác bảo trợ;

một số đơn vị chƣa áp dụng phần mềm quản lý đối tƣợng, sổ sách quản lý đối

tƣợng cấp xã còn sơ sài; việc tiếp nhận, thẩm định, xét duyệt hồ sơ tại cấp xã

chƣa đảm bảo về trình tự, thủ tục theo quy định; việc thẩm định, xét duyệt hồ

sơ cho đối tƣợng còn chậm; việc xác định đối tƣợng hƣởng với nhóm trẻ mồ

côi, hộ gia đình, cá nhân nuôi dƣỡng trẻ em mồ côi chƣa đúng quy định Nghị

định số 136/2013/NĐ-CP; việc xác định thời điểm hƣởng đối với một số

nhóm đối tƣợng chƣa đúng quy định, đặc biệt đối với ngƣời từ đủ 80 tuổi trở

lên mà không hƣởng lƣơng hƣu, trợ cấp bảo hiểm xã hội hàng tháng, trợ cấp

xã hội hàng tháng chƣa đƣợc hƣởng từ thời điểm ngƣời đó đủ 80 tuổi; chƣa

thực hiện điều chỉnh hệ số theo Nghị định số 136/2013/NĐ-CP đối với nhóm

trẻ em mồ côi, hộ gia đình, cá nhân nhận nuôi dƣỡng trẻ em mồ côi; hộ gia

đình nuôi dƣỡng đối tƣợng khuyết tật đặc biệt nặng chậm đƣợc hƣởng khi đủ

điều kiện; một số trƣờng hợp xác định sai diện đối tƣợng nên chƣa đúng hệ

48

số; việc ban hành quyết định của Chủ tịch UBND cấp huyện thành từng đợt,

chƣa kịp thời; công tác chi trả trợ cấp còn một số nội dung chƣa đảm bảo quy

định; một số đơn vị cấp huyện, cấp xã chƣa đƣợc bố trí kinh phí để phục vụ

công tác quản lý đối tƣợng; hoạt động chăm sóc đối tƣợng tại cơ sở bảo trợ xã

hội còn một số hạn chế nhƣ: một số nội dung chƣa đáp ứng đƣợc tiêu chuẩn

về môi trƣờng, khuôn viên và nhà ở; thực hiện ký hợp đồng lao động, trả

lƣơng và chế độ bảo hiểm chƣa đúng quy định; việc tiếp nhận và dừng nuôi

dƣỡng chƣa đảm bảo về thủ tục, quy trình; việc tổ chức ăn, ở và sinh hoạt còn

một số nội dung chƣa đảm bảo; chƣa khám sức khỏe định kỳ và xây dựng kế

hoạch phòng chống dịch bệnh hàng năm; hóa đơn, chứng từ thanh quyết toán

còn một số thiếu sót.

2.2.4. Giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật về bảo

trợ xã hội

Từ năm 2013 đến hết năm 2017, Sở LĐ-TB&XH nhận đƣợc 18 đơn

của ngƣời cao tuổi hỏi về chế độ, chính sách liên quan đến ngƣời cao tuổi.

Căn cứ nội dung đơn, Sở Lao động - Thƣơng binh và Xã hội trả lời công dân

theo quy định hoặc chuyển cấp có thẩm quyền xem xét, xử lý. Riêng khiếu

nại, tố cáo không có trƣờng hợp nào.

Về xử lý vi phạm về BTXH từ năm 2013-2017, thực hiện theo Nghị

định số 144/2013/NĐ-CP ngày 29/10/2013 quy định xử phạt vi phạm hành

chính về bảo trợ, cứu trợ xã hội và bảo vệ, chăm sóc trẻ em; Sở LĐ-TB&XH

chƣa ra quyết định xử phạt trƣờng hợp nào mà chỉ hƣớng dẫn, nhắc nhở và

đôn đốc thực hiện.

2.3. Kết quả thực hiện bảo trợ xã hội tại tỉnh Đắk Nông giai đoạn

2013 – 2017

2.3.1. Trợ giúp về vật chất

Thực hiện về trợ giúp vật chất, theo Nghị định số 67/2007/NĐ-CP và

49

Nghị định 13/2010/NĐ-CP Nhà nƣớc trợ giúp bằng tiền đối với ngƣời yếu thế

dƣới hai hình thức là trợ cấp đột xuất và trợ cấp thƣờng xuyên. Trợ cấp

thƣờng xuyên có thể xem là hoạt động chủ đạo của BTXH; theo qui định thì

mức trợ cấp đột xuất chỉ mang tính hỗ trợ, phần lớn là vận động từ cộng đồng

xã hội. Trên địa bàn tỉnh, số lƣợng đƣợc hƣởng trợ cấp hàng năm đều tăng

nên số tiền trợ cấp cũng tăng đáng kể; Sự điều chỉnh mức hƣởng cũng nhƣ mở

rộng đối tƣợng hƣởng trợ cấp từ Nghị định 13/2010/NĐ-CP của Chính phủ đã

phần nào thay đổi diện mạo cho chính sách BTXH, kinh phí thực hiện qua các

năm nhƣ sau:

Bảng 2.4: Kinh phí trợ cấp thường xuyên tỉnh Đắk Nông năm 2013-2017

Năm 2013 2014 2015 2016 2017

Tổng số đối tƣợng (ngƣời) 6.605 7.072 7.181 10.093 8.867

Kinh phí (tỷ đồng) 16.435 21.540 24.663 32.701 42.917

Nguồn: Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh Đắk Nông

Từ bảng 2.4 kinh phí trợ cấp thƣờng xuyên BTXH trên có thể thấy rằng

kinh phí cho hoạt động này ngày một tăng theo sự gia tăng của đối tƣợng

BTXH. Cụ thể, năm 2013 kinh phí chi trợ cấp hàng tháng hơn 16.435 tỷ đồng,

năm 2016 số đối tƣợng tăng nên kinh phí trợ cấp cũng tăng theo lên trên

32.701 tỷ đồng, năm 2017 số đối tƣợng giảm nhƣng kinh phí lại tăng lên

42.917 tỷ đồng.

Số tiền chi cho trợ cấp đột xuất khá khiêm tốn so với trợ cấp thƣờng

xuyên (bảng 2.4); Song số lƣợng ngƣời chết, mất tích và số nhà ở đƣợc hỗ trợ

do thiên tai, bão lũ ngày càng tăng, điều này chứng tỏ tình hình thiên tai trên

địa bàn tỉnh Đắk Nông ngày càng diễn biến phức tạp, khó lƣờng.

Ngoài ra việc cứu đói dịp Tết Nguyên đán, giáp hạt hàng năm luôn

50

đƣợc UBND tỉnh quan tâm, cũng nhƣ kinh phí phân bổ từ Trung ƣơng cho

việc cứu đói nhờ vậy đã góp phần không nhỏ trong việc ổn định đời sống của

ngƣời dân, giúp ngƣời dân yên tâm hơn trong cuộc sống.

Bảng 2.5: Tổng hợp hỗ trợ đột xuất của tỉnh Đắk Nông năm 2013-2017

Năm 2013 2014 2015 2016 2017

Tổng số ngƣời chết, mất tích 11 8 22 15 8 (ngƣời)

Tổng số nhà sập, đỗ, hƣ

hỏng nặng đƣợc hỗ trợ do 20 55 77 64 78

thiên tai

Kinh phí (triệu đồng) 327 360 455 397 469

Nguồn: Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh Đắk Nông

Bảng 2.6: Tổng hợp cứu đói qua các năm từ năm 2013-2017

Năm 2013 2014 2015 2016 2017

Tổng số hộ đƣợc 2.143 2.789 3.220 4.145 5.713 cứu đói (hộ)

Tổng số khẩu đƣợc 8.421 10.202 10.788 19.407 22.607 cứu đói (khẩu)

Số gạo cứu đói (tấn 430 462 340 685 517 gạo)

Nguồn: Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh Đắk Nông

Bên cạnh đó, cuối năm 2009 Luật NCT đƣợc ban hành và có hiệu lực

vào tháng 7/2010, theo đó những NCT tròn 70, 75, 80, 85, 90, 95, 100 tuổi sẽ

đƣợc thăm, mừng thọ chúc thọ, mừng thọ. Đến nay đã tổ chức chúc thọ, mừng

thọ cho 4.160 lƣợt ngƣời, kinh phí gần 2 tỷ đồng; tổ chức thăm tặng quà cho

28.586 lƣợt ngƣời, kinh phí gần 400 triệu đồng. Ngoài ra, mỗi năm các đơn vị

51

phối hợp nhƣ Hội Bảo trợ NTT và TEMC, hội NCT, Mặt trận tổ quốc Việt

Nam tỉnh, Hội Liên hiệp phụ nữ tỉnh… cũng vận động các nhà hảo tâm, mạnh

thƣờng quân để xây dựng nhà tình thƣơng cho một số đối tƣợng đặc biệt khó

khăn, tặng quà tết cho các đối tƣợng; tặng học bỗng, quần áo, sách vở cho

nhóm đối tƣợng trẻ em; Thêm vào đó, Nhà nƣớc còn hỗ trợ bằng cách cho các

các đối tƣợng nghèo neo đơn vay với lãi suất ƣu đãi để làm sinh kế [18].

Qua các số liệu thống kê, khoản chi ngân sách cho hoạt động BTXH

mỗi năm chiếm khoảng 3% tổng chi ngân sách của tỉnh và con số này luôn

tăng qua mỗi năm, vì thế các nhà quản lý cần có sự rà soát chặt chẽ và dự báo

sự gia tăng của đối tƣợng để đảm bảo nguồn kinh phí không ảnh hƣởng đến

chi ngân sách cho các hoạt động quan trọng khác đồng thời có những chính

sách khuyến khích cộng đồng cùng tham gia tiến tới xã hội hóa hoạt động

BTXH. Tuy nhiên, có một thực tế rất rõ ràng là mức trợ cấp còn thấp và chậm

đƣợc điều chỉnh. Mức trợ cấp tối thiểu cho đối tƣợng sống tại cộng đồng hiện

nay mới chỉ bằng 10,31% thu nhập bình quân, 60% chuẩn nghèo khu vực

nông thôn ban hành năm 2011.... Mức trợ cấp hiện hành mới chỉ bảo đảm hỗ

trợ đƣợc một phần các nhu cầu thiết yếu tối thiểu của đối tƣợng. Bên cạnh

mức hƣởng thấp thì thời gian giữa các lần điều chỉnh mức trợ cấp lại dài

(thƣờng là 3-5 năm) nên mức trợ cấp không phản ánh đƣợc đúng nhu cầu tiêu

dùng tối thiểu của các nhóm đối tƣợng cũng nhƣ chi phí cuộc sống (phản ánh

bằng chỉ số giá tiêu dùng). Trong giai đoạn 2000-2010, mức chuẩn này chỉ

tăng có 2,7 lần, trong khi chỉ số giá tiêu dùng tăng gần 4 lần. Chính vì vậy,

hiệu quả chính sách chƣa cao, chƣa tạo đƣợc sự an toàn cho đối tƣợng hƣởng

lợi. Ngoài ra, trợ cấp đột xuất, khắc phục rủi ro, thiên tai có lúc, có nơi chƣa

kịp thời (nguồn ngân sách) và chƣa công bằng, hợp lý (nguồn cộng đồng đóng

52

góp ủng hộ).

2.3.2. Trợ giúp bằng y tế, phục hồi chức năng

Hàng năm, kèm theo sự trợ giúp bằng tiền, một số đối tƣợng BTXH

còn đƣợc chăm lo về y tế. Với chủ trƣơng giúp những ngƣời yếu thế tiếp cận

với các dịch vụ y tế, chữa bệnh và chăm sóc sức khỏe khi đau ốm, Nhà nƣớc

đã hỗ trợ bằng khám chữa bệnh miễn phí, chăm sóc sức khỏe tại cộng đồng và

khuyến khích hình thức khám chữa bệnh nhân đạo. Bảo đảm 100% đối tƣợng

BTXH trên địa bàn tỉnh đƣợc cấp thẻ BHYT miễn phí. Mỗi đối tƣợng đều

đƣợc cấp thẻ BHYT, trƣờng hợp các hộ gia đình nuôi con nhỏ thì các bé cũng

nhận đƣợc BHYT.

Bên cạnh những kết quả đạt đƣợc, chính sách y tế vẫn còn một số tồn

tại nhất định: Các đối tƣợng rất khó khăn và rất cần đƣợc chăm sóc đầy đủ về

sức khỏe, đặc biệt là các đối tƣợng NTT, ngƣời tâm thần, các đối tƣợng là

NCT; Bệnh viện tuyến huyện không đủ dụng cụ cũng nhƣ tay nghề điều trị

các căn bệnh mãn tính, bệnh nặng khác, trong khi đó các đối tƣợng BTXH

không có điều kiện về tài chính lẫn phƣơng tiện để lên tuyến trên, cùng với tƣ

tƣởng của các bác sỹ không muốn chuyển bệnh nhiều lên tuyến trên nên các

đối tƣợng hƣởng không trọn vẹn chính sách. Công tác thực hiện cấp thẻ bảo

hiểm y tế đôi lúc trùng lắp đối tƣợng, có đối tƣợng nhận hai thẻ, có đối tƣợng

bỏ sót, tuy số lƣợng này không nhiều nhƣng cũng bộc lộ sự hạn chế trong

công tác quản lý.

2.3.3. Trợ giúp bằng học nghề, giới thiệu việc làm

Toàn tỉnh hiện nay có 43 cơ sở dạy nghề và 01 Trung tâm Dịch vụ việc

làm, các trung tâm cũng có nhiều ngành học cho các học viên, nhƣng đối với

đối tƣợng NTT thì các trung tâm không có ngành học cũng nhƣ dụng cụ chức

năng cho học viên, chính vì thế số lƣợng NTT đƣợc học nghề rất hạn chế, chỉ

có một số em khuyết tật ở chân nhƣng không phải trong đối tƣợng đƣợc

53

hƣởng chế độ BTXH và các em cũng học không trọn khóa học với lý do mặc

cảm với bạn bè cùng lứa. Mặc dù thiện nay đã có nhiều hỗ trợ cho các em khi

theo học nghề nhƣ miễn giảm học phí, hỗ trợ tiền ăn khi đi học, hỗ trợ dụng

cụ học tập nhƣng số theo học của đối tƣợng BTXH vẫn không cao, cụ thể

trong giai đoạn 2011-2015 chỉ có 27 đối tƣợng bảo trợ xã hội đến học nghề tại

các cơ sở dạy nghề, số lƣợng vẫn quá ít so với số đối tƣợng trong độ tuổi lao

động. Nhìn chung công tác dạy nghề trên địa bàn tỉnh đối với các đối tƣợng

BTXH không hiệu quả; Số lƣợng đối tƣợng đƣợc đào tạo không tăng trong

khi đối tƣợng BTXH trong độ tuổi lao động ngày một tăng sẽ dẫn đến thực

trạng lao động không có tay nghề, lƣơng không cao, kéo theo thảm cảnh

nghèo không giảm, đây cũng là vấn đề cho các nhà quản lý về dạy nghề, việc

làm cũng nhƣ các vấn đề xã hội.

2.4. Đánh giá chung về quản lý nhà nƣớc về hoạt động bảo trợ xã

hội ở tỉnh Đắk Nông

2.4.1. Những kết quả đạt được

QLNN về hoạt động BTXH tại tỉnh Đắk Nông trong thời gian qua đã

đạt đƣợc những thành quả:

- Một, tổ chức bộ máy QLNN về BTXH đƣợc kiện toàn một cách

tƣơng đối, hiện nay đã có đội ngũ cán bộ phụ trách công tác BTXH của 71/71

xã, phƣờng, thị trấn. Trong thời gian qua, Sở Lao động - Thƣơng binh và Xã

hội đã thực hiện khá tốt chức năng tham mƣu cho UBND tỉnh trong việc ban

hành các văn bản liên quan đến công tác BTXH nhƣ các quyết đinh, kế hoạch,

thông báo....; đồng thời thực hiện sự phối kết hợp với các cơ quan hữu quan

trong việc trợ giúp các đối tƣợng yếu thế.

- Hai, việc triển khai và tổ chức thực hiện hệ thống các văn bản về

BTXH đƣợc thực hiện khá tốt, phổ biến rộng rãi, hƣớng đến sự hiểu biết của

54

mọi đối tƣợng, hình thức phổ biển phối hợp từ tỉnh đến cấp cơ sở.

- Ba, chính quyền tích cực khuyến khích việc thu hút nguồn lực từ các

mạnh thƣờng quân, những nhà hảo tâm đóng góp vì mục đích từ thiện cùng

Nhà nƣớc chăm lo và đem lại hiệu quả cao trong việc đảm bảo mức sống cho

các đối tƣợng yếu thế.

- Bốn, chính quyền địa phƣơng cũng đã tích cực lồng ghép các chính

sách chăm lo, hỗ trợ đối tƣợng BTXH với các chƣơng trình của địa phƣơng

nhƣ Chƣơng trình vì trẻ em, chƣơng trình giảm hộ nghèo bền vững, chƣơng

trình nƣớc sạch và vệ sinh môi trƣờng...

- Năm, tập trung cho công tác đảm bảo giảm nghèo hiệu quả, phòng

chống thiên tai, lốc xoáy, hỏa hoạn và dịch bệnh....để hạn chế những rủi ro

gây ảnh hƣởng đến đời sống ngƣời dân, dẫn đến hoàn cảnh yếu thế.

- Sáu, hiện nay tỉnh Đắk Nông đã áp dụng thành công việc chi trả cho

đối tƣợng BTXH đƣợc hƣởng trợ cấp hàng tháng thông qua dịch vụ bƣu điện,

nhờ vậy đã tạo điều kiện thuận lợi cho đối tƣợng đƣợc hƣởng, qua đó cũng

tránh đƣợc tình trạng chậm trễ chi trả so với trƣớc đây

- Bảy, có kế hoạch kiểm tra, giám sát hoạt động BTXH (cả thƣởng

xuyên và đột xuất) nên đã từng bƣớc phát hiện và điều chỉnh kịp thời các

hành vi sai phạm.

2.4.2. Những hạn chế và nguyên nhân

2.4.2.1. Những hạn chế

- Hiệu lực của chính sách BTXH chƣa cao thể hiện ở:

Một là tính bao phủ của chính sách BTXH thấp chƣa bảo đảm một cách

toàn diện đã ảnh hƣởng đến tính hiệu lực của chính sách; Hiệu lực của chính

sách phụ thuộc vào mục tiêu của chính sách là bảo đảm đối tƣợng BTXH khó

khăn đƣợc trợ giúp, và đảm bảo mức sống tối thiểu, tuy nhiên trên thực tế,

còn nhiếu đối tƣợng khó khăn trên địa bàn tỉnh không đƣợc trợ giúp, một số

55

đối tƣợng đƣợc trợ giúp nhƣng không đủ trang trải nhu cầu cơ bản của cuộc

sống. Do đó các đối tƣợng chƣa thật sự đồng tình đã làm hạn chế một phần

hiệu quả của chính sách.

Hai là mức trợ cấp là thấp so với thực tiễn phát triển kinh tế.

Mức trợ cấp của đối tƣợng còn dƣới chuẩn nghèo, vẫn biết là chủ

trƣơng Nhà nƣớc một phần, còn lại huy động từ xã hội, cộng đồng, gia đình;

Song Nhà nƣớc bao giờ cũng đóng vai trò quan trọng nhất trong việc bảo đảm

an toàn cuộc sống cho các đối tƣợng và gia đình ở mức tối thiểu, nếu không

cải biến kịp thời thì đến một lúc nào đó đối tƣợng sẽ không thiết tha với

BTXH dành cho họ.

Ba là chƣa đảm bảo tính công bằng của chính sách giữa các đối tƣợng,

cụ thể đối với trẻ em dƣới 18 tháng tuổi và trẻ từ 18 tháng tuổi đến 36 tháng

tuổi nhu cầu dinh dƣỡng là nhƣ nhau nhƣng mức trợ cấp chênh lệch nhiều.

- Các dịch vụ BTXH chƣa đƣợc sử dụng hiệu quả: Một số đối tƣợng

chƣa đƣợc hƣởng BTXH hoặc đã đƣợc hƣởng nhƣng chƣa sử dụng hiệu quả

các dịch vụ trợ giúp. Cụ thể các dịch vụ trợ giúp về giáo dục, đào tạo, dạy

nghề và giới thiệu việc làm chƣa thu hút đƣợc tất cả các đối tƣợng yếu thế.

- Công tác xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản pháp

quy về BTXH nhìn chung chƣa đƣợc chủ động, còn trông chờ vào hƣớng dẫn

của cấp trên. Thêm vào đó, công tác tuyên truyền còn hình thức, các chính

sách chƣa thật sự đến với ngƣời dân cũng nhƣ các đối tƣợng BTXH, chƣa

tuyên truyền, động viên, khuyến khích để các đối tƣợng tiếp cận với chính

sách nhƣ dạy nghề, đào tạo cho đối tƣợng là NTT, TEMC.

- Tổ chức bộ máy chƣa đáp ứng với yêu cầu thực tiễn, chính sách cho

cán bộ làm công tác này còn hạn chế (hiện tại chỉ đƣợc hƣởng mức phụ cấp là

350.000đồng/ngƣời/tháng); cơ chế phối hợp liên ngành trong lập kế hoạch,

phân bổ ngân sách và chỉ đạo, hƣớng dẫn thực hiện còn hạn chế, dẫn đến khó

56

khăn trong việc bảo đảm và huy động nguồn lực. Hiện nay chƣa có chƣơng

trình phối hợp về việc thành lập các cơ sở BTXH từ Trung ƣơng đến địa

phƣơng.

- Công tác quản lý đối tƣợng không thống nhất, kỹ thuật, nghiệp vụ

quản lý chƣa cao nên thƣờng xảy ra trùng lắp, sai đối tƣợng. Việc thu thập,

thống kê số liệu khó khăn do sự luân chuyển, thay đổi cán bộ thực hiện, báo

cáo thực hiện và số liệu thống kê không trùng khớp với nhau.

- Các qui định về thủ tục hành chính, quy trình quyết định đối tƣợng

hƣởng BTXH, việc thành lập cơ sở BTXH phức tạp. Cụ thể nhƣ trƣờng hợp

các cơ sở BTXH không đủ điều kiện vật chất nhƣng vẫn đảm bảo chăm lo

đƣợc một số đối tƣợng thật sự khó khăn không nơi nƣơng tựa song việc ra

quyết định công nhận cơ sở BTXH phải đúng theo quy định và các tiêu chí

của Nghị định số 68 và 182.

- Hiện nay chƣa có phần mềm quản lý đối tƣợng nên gặp rất nhiều khó

khăn trong quản lý cũng nhƣ thu thập, xứ lý thông tin liên quan đến đối tƣợng

BTXH, chính vì thế nhiều đối tƣợng còn bị sót trong thống kê, lập danh sách.

- Hoạt động thanh tra kiểm tra còn mang nặng tính hình thức, lỏng lẻo,

chỉ khi có dƣ luận mới tiến hành kiểm tra, chƣa phát huy tính chủ động trong

kiểm tra giám sát để nâng cao nhằm phòng ngừa ngăn chặn những vấn đề

trong hoạt động BTXH

2.4.2.2. Nguyên nhân của những hạn chế

Mặc dù Sở Lao động – Thƣơng binh và Xã hội đã chủ động, tích cực thực

hiện hoạt động BTXH, song vẫn không tránh khỏi những hạn chế nhất định.

- Nhiều văn bản điều chỉnh, các văn bản có nội dung chồng chéo nhau

đo đó khó khăn trong tổ chức thực hiện. Có nhiều nội dung BTXH đƣợc qui

định ở nhiều văn bản, mỗi văn bản có cơ chế thực hiện khác nhau.

- Bộ máy QLNN về BTXH còn mỏng về số lƣợng, năng lực đội ngũ

57

cán bộ công chức chƣa đáp ứng đƣợc yêu cầu nhiệm vụ đặt ra, chƣa tổ chức,

triển khai thực hiện tốt công tác QLNN về BTXH trên địa bàn. Công tác cán

bộ chƣa quan tâm đến hệ thống các đơn vị sự nghiệp nhƣ phòng Giáo dục,

Trung tâm dạy nghề; cán bộ cơ sở chƣa qua đào tạo cơ bản về chuyên môn

công tác xã hội nên thực hiện thiếu chuyên nghiệp.

- Việc thay đổi, luân chuyển cán bộ thực hiện không có sự hƣớng dẫn,

bàn giao đúng đắn, dẫn đến tình trạng không nắm đƣợc thông tin, số liệu

trƣớc đó đã gây khó khăn trong cập nhật, thống kê để tiến hành dự đoán tình

hình đối tƣợng.

- Sự phối hợp giữa các cơ quan, bộ phận QLNN về BTXH vẫn còn

chƣa đồng bộ, rời rạc, thiếu chặt chẽ, chƣa có sự phối kết hợp chặt chẽ của

các cơ quan hữu quan chính điều này làm hạn chế rất lớn đến công tác QLNN

về BTXH.

- Các đối tƣợng đƣợc hƣởng trợ cấp do thiếu về kiến thức cũng nhƣ

điều kiện tiếp cận thông tin nên không chủ động trong làm hồ sơ, trông chờ

đến các cơ quan, những ngƣời phụ trách phát hiện ra. Bên cạnh đó, điều kiện

kinh tế khó khăn, các đối tƣợng chỉ mong đảm bảo đƣợc cuộc sống hiện tại,

nên cũng không hƣởng ứng tối đa các chính sách BTXH về giáo dục, đào tạo,

dạy nghề….

- Nhận thức của nhiều cơ quan Nhà nƣớc vẫn chƣa đƣợc đổi mới, phần

lớn vẫn tồn tại quan niệm ban phát, nên việc xét duyệt hồ sơ không đƣợc đẩy

mạnh, hoàn tất sớm để đối tƣợng đƣợc trợ giúp sớm.

- Các chủ cơ sở từ thiện còn ỷ lại, suy nghĩ đơn giản là các hoạt động từ

thiện nên chỉ cần mình không có ý đồ xấu, không báo cho cơ quan chức năng

về tình trạng hoạt động các cơ sở, gây khó khăn cho lực lƣợng quản lý.

- Các tiêu chí xác định đối tƣợng BTXH còn khắt khe, nhiều đối tƣợng

khó khăn chƣa đƣợc thụ hƣởng; Đây là nguyên nhân của việc chƣa đảm bảo

58

mức độ bao phủ đối tƣợng. Các đối tƣợng nghèo cần đến sự trợ giúp, nhƣng

phải bảo đảm các điều kiện không có khả năng lao động, không có ngƣời

chăm sóc, không có nguồn thu nhập.

- Nguồn ngân sách có hạn không thể trợ giúp tất cả các đối tƣợng khó

khăn, dẫn đến mức trợ cấp thấp. Đây vừa là tồn tại cũng vừa là nguyên nhân

cho nội dung chƣa thật sự tạo đƣợc sự đồng thuận của đối tƣợng hƣởng lợi

dẫn đến hiệu quả của chính sách chƣa cao.

- Sự gia tăng nhanh chóng các đối tƣợng mỗi năm đa phần là do rủi ro

tự nhiên, nghèo, bệnh tật nên không có sự lựa chọn cho bản thân mình nhƣ

tuổi già, tàn tật, thiên tai, mồ cô…cần có sự hỗ trợ của Nhà nƣớc, trong khi

đó, nguồn lực của Nhà nƣớc không lớn nên không đủ khả năng cho viêc mở

rộng đối tƣợng cũng nhƣ nâng mức trợ cấp cho các đối tƣợng đảm bảo điều

kiện sống cơ bản của con ngƣời.

- Địa bàn tỉnh rộng lớn, với lực lƣợng mỏng và kiêm nhiệm nên việc

nắm bắt đối tƣợng nhanh chóng, kịp thời cũng bị giới hạn

- Quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa nhanh kèm theo lạm phát lớn

nên khó khăn càng khó khăn, làm cho mức trợ cấp càng nhỏ và không đủ chi

trả nhu cầu cơ bản.

- Với sự phát triển nhanh chóng đối tƣợng BTXH, dẫn đến sự bùng

phát của hàng loạt các hoạt động từ thiện, tổ chức từ thiện, cùng với sự thiếu

59

thống nhất trong quản lý đã gây nhiều khó khăn cho QLNN về BTXH.

Tiểu kết chƣơng 2

Tỉnh Đắk Nông với nhiều điều kiện thuận lợi về giao thông, phát triển

kinh tế xã hội. Song đối tƣợng BTXH tƣơng đối đa dạng, trong đó phần lớn là

NCT, NTT và số trẻ em khá đông. Nhà nƣớc có nhiều chính sách hỗ trợ cho

các đối tƣợng nhƣ trợ giúp bằng vật chất, trợ giúp y tế, giáo dục đào tạo và

dạy nghề, giải quyết việc làm. Cơ quan chức năng cũng nhƣ chính quyền địa

phƣơng luôn quan tâm đến công tác quản lý hoạt động này một cách hiệu quả.

Bằng chứng là đã có rất nhiều em nhỏ mồ côi đƣợc đến trƣờng, các cụ già neo

đơn đƣợc ấm áp hơn trong các ngày lễ tết, những NTT đƣợc chăm sóc sức

khỏe mỗi năm…. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện, công tác quản lý vẫn

còn nhiều thách thức, tồn tại, hạn chế nhƣ: Hệ thống chính sách của hoạt động

BTXH và việc triển khai, tổ chức thực hiện các văn bản pháp quy về BTXH

chƣa đƣợc quan tâm, còn nhiều hạn chế, chƣa phù hợp; Đội ngũ cán bộ quản

lý và chuyên trách trong lĩnh vực QLNN về BTXH còn mỏng, nguồn lực huy

động còn hạn chế, chất lƣợng chƣa cao so với sự gia tăng nhanh chóng đối

tƣợng BTXH nhƣ hiện nay; Công tác quản lý đối tƣợng không thống nhất, kỹ

thuật, nghiệp vụ quản lý chƣa cao nên thƣờng xảy ra trùng lắp, sai đối tƣợng;

Nhiều thủ tục hành chính rƣờm rà; các thủ tục nhƣ xét duyệt hố sơ, thủ tục xử

lý hồ sơ thời gian kéo dài gây khó khăn cho các HGĐ cá nhân đƣợc hƣởng trợ

giúp; Công tác thanh tra, kiểm tra, đánh giá còn mang nặng tính hình thức,

lỏng lẻo, chƣa đƣợc đảm bảo và thƣờng xuyên để nâng cao nhằm phòng ngừa

ngăn chặn những vấn đề trong hoạt động BTXH…

Việc đánh giá cụ thể về những mặt đạt đƣợc, tồn tại cũng nhƣ nguyên

nhân của các tồn tại đã đƣợc trình bày cụ thể tại Chƣơng 2, đây cũng là cơ sở

và căn cứ để xây dựng các giải pháp trong Chƣơng 3 góp phần hoàn thiện

hoạt động BTXH, đảm bảo an sinh xã hội, hoàn thành mục tiêu phát triển

60

kinh tế bền vững.

Chương 3

GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ

HOẠT ĐỘNG BẢO TRỢ XÃ HỘI TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐẮK NÔNG

3.1. Mục tiêu và quan điểm bảo trợ xã hội ở tỉnh Đắk Nông

3.1.1. Mục tiêu bảo trợ xã hội

Thực hiện các chính sách bảo trợ xã hội trên địa bàn, dự kiến đến năm

2020, thành lập 02 Trung tâm bảo trợ xã hội công lập. Thực hiện chi trả trợ

cấp tại cộng đồng cho 100% đối tƣợng bảo trợ xã hội có hồ sơ quản lý.

Tiếp tục phối hợp với các cấp, ngành liên quan thực hiện các chính

sách về bảo hiểm y tế, nhà ở, vay vốn sản xuất, khuyến nông - lâm - ngƣ... hỗ

trợ đối tƣợng bảo trợ xã hội trên địa bàn tỉnh; Tiếp tục tiếp nhận và thực hiện

việc chăm sóc, nuôi dƣỡng các đối tƣợng trẻ em mồ côi, ngƣời già không nơi

nƣơng tựa, trẻ em bị khuyết tật, ... vào Trung tâm Bảo trợ xã hội tỉnh và các

Trung tâm công lập.

Phối hợp với các đơn vị liên quan triển khai thực hiện Quyết định số

32/2010/QĐ-CP ngày 27/2/2010 của Thủ tƣớng Chính phủ về phê duyệt Đề

án phát triển nghề công tác xã hội giai đoạn 2010 -2020; Thực hiện Đề án trợ

giúp xã hội và phục hồi chức năng cho ngƣời tâm thần, ngƣời rối nhiễu tâm trí

dựa vào cộng đồng giai đoạn 2011-2020 trên địa bàn tỉnh Đắk Nông.

Tiếp tục triển khai thực hiện Luật Ngƣời cao tuổi; Luật ngƣời khuyết tật.

3.1.2. Quan điểm bảo trợ xã hội

3.1.2.1. Đảm bảo nâng cao đời sống cho đối tượng bảo trợ xã hội

Đối với Việt Nam, quan điểm của Đảng và Nhà nƣớc về chính sách an

sinh xã hội nói chung về BTXH nói riêng đƣợc cụ thể trong các Nghị quyết

của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nƣớc. Ngay từ Đại hội Đảng toàn

quốc lần III (tháng 9/1960), Đảng ta đã xác định đến việc BTXH bằng quan

61

điểm “Cải thiện đời sống vật chất và vǎn hóa của nhân dân thêm một bƣớc,

làm cho nhân dân ta đƣợc ǎn no, mặc ấm, tǎng thêm sức khoẻ, có thêm nhà ở

và đƣợc học tập, mở mang sự nghiệp phúc lợi công cộng, xây dựng đời sống

mới ở nông thôn và thành thị”. Cƣơng lĩnh xây dựng đất nƣớc trong thời kỳ

quá độ lên chủ nghĩa xã hội (2/1991) cũng đã nhấn mạnh: “chính sách xã hội

bảo đảm và không ngừng nâng cao đời sống của mọi thành viên trong xã hội

về ăn, ở, đi lại, học tập, nghỉ ngơi, chữa bệnh, nâng cao thể chất, có chính

sách bảo trợ và điều tiết hợp lý giữa nguồn thu nhập trong các bộ phận dân

cƣ, có chính sách BTXH tích cực đối với các đối tƣợng yếu thế trong xã

hội”. Quán triệt quan điểm trên, các cấp, các ngành luôn quan tâm đến việc

không ngừng nâng cao đời sống vật chất và văn hoá tinh thần cho nhân dân,

làm cho dân ta đƣợc ăn no, mặc ấm, đƣợc học hành đặc biệt là đẩy mạnh hoạt

động BTXH đối với các đối tƣợng yếu thế.

Nâng cao hiệu quả công tác bảo trợ xã hội, tiếp tục mở rộng đối tƣợng

thụ hƣờng, nâng dần mức trợ cấp xã hội thƣờng xuyên phù hợp với ngân sách

nhà nƣớc. Đến cuối năm 2017, có trên 8.867 ngƣời đƣợc hƣởng trợ giúp xã

hội thƣờng xuyên, chiếm 1,4% dân số. Phấn đấu đến năm 2020 trên địa bàn

tỉnh Đắk Nông có 10.500 ngƣời đƣợc hƣởng trợ giúp xã hội thƣờng xuyên,

chiếm khoảng 1,7% dân số.

3.1.2.2. Đảm bảo phân phối công bằng trong toàn nền kinh tế

Trong giai đoạn đổi mới, thì BTXH đã đƣợc đánh giá là quan trọng nhƣ

phát triển kinh tế, nghị quyết đại hội Đảng toàn quốc lần VI, VII, VIII, IX đều

thể hiện chủ trƣơng gắn liền chính sách BTXH với chính sách đổi mới kinh

tế, đảm bảo phân phối công bằng trong toàn bộ nền kinh tế. Cụ thể Nghị quyết

Đại hội Đảng toàn quốc lần VI đã nêu “từng bƣớc xây dựng chính sách

BTXH đối với toàn dân, theo phƣơng châm Nhà nƣớc và nhân dân cùng làm,

mở rộng và phát triển các công trình sự nghiệp BTXH cho những ngƣời có

62

công với cách mạng và những ngƣời gặp khó khăn. Nghiên cứu bổ sung chính

sách, chế độ BTXH phù hợp với quá trình đổi mới cơ chế quản lý kinh tế,

quản lý xã hội” [1]; Đồng thời, đến Đại hội VIII cũng nhấn mạnh “tăng

trƣởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng

bƣớc và trong quá trình phát triển. Công bằng xã hội thể hiện ở khâu phân

phối hợp lý tƣ liệu sản xuất lẫn khâu phân phối kết quả sản xuất, ở việc tạo

điều kiện cho mọi ngƣời có cơ hội phát triển và sử dụng tốt năng lực của

mình”[2]. Quan điểm này mở ra điểm sáng cho đối tƣợng có hoàn cảnh khó

khăn, yếu thế. Hoạt động BTXH đƣợc xây dựng trên cơ sở quan điểm phù

hợp với điều kiện và quà trình phát triển kinh tế, với mục tiêu giải quyết vấn

đề bình đẳng trong phân phối sản phẩm quốc dân, theo định hƣớng mọi đối

tƣợng xã hội đều đƣợc hƣởng lợi từ tăng trƣởng và phát triển kinh tế. Trong

bối cảnh hệ thống chính sách còn thiếu, cần có lộ trình, bƣớc đi phù hợp, nghị

quyết đại hội đã định hƣớng “Đẩy mạnh các hoạt động từ thiện; Thực hiện

các chính sách bảo trợ TEMC, lang thang cơ nhỡ, ngƣời già neo đơn, nạn

nhân chiến tranh, NTT; xây dựng quỹ tình thƣơng trích từ ngân sách một

phần và động viên toàn xã hội tham gia đóng góp; liến tới xây dựng luật về

NTT và TEMC” [2]. Chủ trƣơng này cũng đƣợc quán triệt sâu sắc và từng

bƣớc đã hình thành hệ thống luật pháp đối với NTT, trẻ em, NCT, đặc biệt là

các qui định về các chế độ trợ cấp và trợ giúp các nhóm đối tƣợng xã hội yếu

thế.

Đại hội XI đã mở ra một trang hoàn toàn mới trong việc khẳng định an

sinh xã hội trong đó có BTXH là một hệ thống chính sách xã hội trọng yếu, là

nội dung chủ yếu của chiến lƣợc phát triển kinh tế-xã hội đất nƣớc. Một xã

hội có đƣợc xem là phát triển bền vững hay không ngoài yếu tố ổn định về

kinh tế, chính trị, an sinh xã hội cũng đƣợc xem là nhân tố cốt yếu vì nó liên

quan trực tiếp đến quyền lợi của chính ngƣời dân trong xã hội. Sự tăng trƣởng

63

về kinh tế cho phép có thêm nguồn lực để chăm lo phát triển xã hội mà tập

trung vào hệ thống BTXH, “phải coi trọng việc kết hợp chặt chẽ giữa tăng

trƣởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; bảo đảm an sinh xã

hội, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, nhất là đối với

ngƣời nghèo, đồng bào ở vùng sâu, vùng xa, đặc biệt là trong tình hình kinh tế

khó khăn, suy giảm; gắn phát triển kinh tế với phát triển văn hoá, củng cố

quốc phòng, an ninh, tăng cƣờng quan hệ đối ngoại, thực hiện tốt hai nhiệm

vụ chiến lƣợc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” [3]. Ngƣợc lại, vấn đề xã hội

đƣợc giải quyết tốt, một khi BTXH nói riêng và an sinh xã hội nói chung

đƣợc quan tâm sẽ tạo điều kiện cho kinh tế tăng trƣởng và phát triển bền

vững.

3.1.2.3. Phát huy mọi nguồn lực trong cộng đồng xã hội

Trong bối cảnh kinh tế còn nhiều khó khăn, cần ƣu tiên ngân sách cho

đầu tƣ phát triển, Đảng và Nhà nƣớc ta đặc biệt quan tâm xã hội hóa công tác

BTXH và xem đây là một giải pháp quan trọng và hiệu quả để giải quyết tốt

các vấn đề bức xúc trong xã hội thể hiện qua nội dung “chú trọng thực hiện

tốt chính sách ƣu đãi xã hội; vận động toàn dân tham gia các hoạt động đền

ơn đáp nghĩa, uống nƣớc nhớ nguồn đối với các lão thành cách mạng, những

ngƣời có công với nƣớc, ngƣời hƣởng chính sách xã hội; chăm sóc đời sống

vật chất và tinh thần của ngƣời già, nhất là những ngƣời già cô đơn, không

nơi nƣơng tựa; giúp đỡ nạn nhân chất độc da cam, ngƣời tàn tật, trẻ mồ côi,

lang thang”[22]. Xã hội hóa công tác chăm sóc các đối tƣợng xã hội nói

chung và đối tƣợng BTXH nói riêng đƣợc thể hiện ngay từ khâu xây dựng

chính sách, chỉ đạo, hƣớng dẫn thực hiện, theo dõi, giám sát đánh giá hoạt

động. Nhà nƣớc chỉ hỗ trợ một phần, còn lại vận động từ nguồn xã hội giúp

đỡ; Cụ thể trong chỉ đạo thực hiện Đảng đã nêu “Hình thành các tổ chức của

NTT và vì NTT, các hội từ thiện, tổ chức việc giúp đỡ các ngƣời già cô đơn,

64

TEMC, những ngƣời cơ nhỡ, bất hạnh trong cuộc sống”.

Đại hội X, vấn đề BTXH đƣợc nhìn nhận rõ nét hơn về vị trí xác lập,

đặc biệt khi đất nƣớc hội nhập kinh tế sâu rộng thì BTXH trở thành vấn đề

định hƣớng mang tầm chiến lƣợc. Khi đó, đối tƣợng của BTXH là nhóm yếu

thế, dễ bị tổn thƣơng đã đƣợc Đảng và Nhà nƣớc ta quan tâm đặc biệt; Cụ thể,

đại hội đã đƣa ra chủ trƣơng “…Đẩy mạnh xã hội hoá dịch vụ bảo hiểm xã

hội, chuyển các loại hình trợ giúp, cứu trợ xã hội sang cung cấp dịch vụ

BTXH dựa vào cộng đồng; Bảo đảm cho các đối tƣợng BTXH có cuộc sống

ổn định, hoà nhập tốt hơn vào cộng đồng, có cơ hội tiếp cận nguồn lực kinh

tế, dịch vụ công thiết yếu”[22]. vào mục tiêu phát triển 5 năm của đất nƣớc

và “Tiếp tục thực hiện tốt các chính sách ƣu đãi ngƣời có công với nƣớc;

vận động toàn xã hội tham gia các hoạt động đền ơn, đáp nghĩa; nâng cao mức

sống về vật chất, tinh thần của ngƣời có công bằng hoặc cao hơn mức sống trung

bình dân cƣ. Trợ giúp nạn nhân chất độc da cam, ngƣời già cô đơn, trẻ mồ côi,

ngƣời tàn tậtnặng, tạo thuận lợi để họ hoà nhập với cộng đồng; Đổi mới nhận

thức, cách làm, huy động sức mạnh toàn xã hội để ngăn chặn, đẩy lùi và giải

quyết các tệ nạn xã hội” [22].

3.1.2.4. Phòng ngừa, ngăn chặn các rủi ro

Quan điểm của Đảng và Nhà nƣớc không chỉ dừng lại ở sự chăm lo,

bảo vệ khi các đối tƣợng đã gặp rủi ro mà phải có biện pháp ngăn chặn, phòng

ngừa các rủi ro để mỗi thành viên trong xã hội không rơi vào tình trạng bị

động, bị tổn thƣơng và trở thành yếu thế. Trong quá trình phát triển kinh tế,

con ngƣời vì lòng tham mà bất chấp thủ đoạn, gây ảnh hƣởng nghiêm trong

đến môi trƣờng, hệ sinh thái dẫn đến hậu quả thiên tai, bệnh tật nhiều hơn. Vì

thế trong các kỳ đại hội, Đảng và Nhà nƣớc ta đều nhấn mạnh chủ trƣơng phải

cải thiện chất lƣợng môi trƣờng trong quá trình phát triển kinh tế, khai thác

khoáng sản nhằm hạn chế tác hại của thiên tai đồng thời chủ động ứng phó có

65

hiệu quả với biến đổi khí hậu, đặc biệt là nƣớc biển dâng cao vào các vùng

dân cƣ ven biển. Đây là nội dung quan trọng trong quá trình xây dựng và phát

triển kinh tế của đất nƣớc nói riêng và toàn cầu nói chung. Môi trƣờng có ổn

định, hệ sinh thái đƣợc cân bằng thì cuộc sống con ngƣời sẽ không gặp phải

các đợt bão lũ, hạn hán gây mất mùa, lốc xoáy, hiệu ứng nhà kính…và con

ngƣời cũng không phải rơi vào hoàn cảnh yếu thế.

BTXH là một chính sách lớn của Đảng và Nhà nƣớc ta, thể hiện tính

nhân văn sâu sắc, tinh thần đoàn kết, tƣơng thân tƣơng ái, “lá lành đùm lá

rách” vốn là truyền thống đạo lý tốt đẹp của dân tộc. Thời gian qua, chính

sách BTXH đã và đang phát huy tác dụng là tấm lƣới an toàn cho các đối

tƣợng BTXH, góp phần thực hiện mục tiêu mà nghị quyết đã đặt ra tăng

trƣởng kinh tế phải đi đôi với thúc đẩy tiến bộ xã hội và công bằng ở mỗi giai

đoạn và trong suốt quá trình phát triển; Tuy nhiên trong quá trình thực hiện

không tránh khỏi tồn tại hạn chế cần có những giải pháp thiết thực để hoàn

thiện công tác QLNN đối với hoạt động BTXH nhằm đạt đƣợc mục tiêu mà

Đảng và Nhà nƣớc đã đề ra.

3.2. Các giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nƣớc về bảo trợ xã hội

trên địa bàn tỉnh Đắk Nông

3.2.1. Hoàn thiện các văn bản pháp lý và công tác triển khai, tổ chức

thực hiện các văn bản về bảo trợ xã hội

Có thể nói, hệ thống văn bản pháp lý có vai trò rất quan trọng trong

việc thực hiện các chính sách đối với đối tƣợng BTXH, các văn bản phải rõ

ràng, cụ thể, không chồng chéo thì việc thực hiện các chính sách mới đạt hiệu

quả, do đó đòi hỏi hệ thống văn bản phải đáp ứng đƣợc yêu cầu về số lƣợng

và chất lƣợng để nâng cao mức độ bao phủ về thực hiện chế độ cho ngƣời

dân.

66

3.2.1.1. Về hệ thống văn bản pháp lý

Hiện nay, các chính sách hỗ trợ đối tƣợng BTXH đã đƣợc chú trọng

hơn. Tuy nhiên do cuộc sống ngày một khó khăn, nguồn ngân sách có hạn chỉ

hỗ trợ khó khăn một phần, còn lại phải nhờ vào cộng đồng, xã hội, gia đình và

chính bản thân ngƣời thụ hƣởng đòi hỏi mỗi ngƣời phải thật sự cố gắng. Đồng

thời các đối tƣợng chƣa sử dụng tối đa dịch vụ của chính sách. Vì thế, những

chính sách giúp đỡ đối tƣợng yếu thế tuy có nhiều nhƣng chƣa thể làm họ đáp

ứng đƣợc cuộc sống tối thiểu, một số cũng rất khó khăn nhƣng chƣa hƣởng

đƣợc chính sách, do đó cần phải tiếp tục hoàn thiện hơn các chính sách này.

Những năm gần đây, đƣợc sự quan tâm của Đảng và Nhà nƣớc, các qui

định pháp luật về hoạt động BTXH bƣớc đầu đã tạo đƣợc hành lang pháp lý

rõ ràng cho các quan hệ xã hội về BTXH, hoạt động từ thiện, nâng cao đời

sống vật chất và tinh thần của các đối tƣợng yếu thế. Tuy nhiên một thực tế là

lĩnh vực BTXH có quá nhiều văn bản qui định, nhiều loại cùng nội dung,

trong quá trình thực hiện đã bọc lộ nhiều hạn chế. Để bảo đảm quá trình phát

triển xã hội cũng nhƣ hội nhập kinh tế, cần hệ thống và rà soát lại các văn bản

về hoạt động BTXH và có thể nâng lên thành Luật BTXH vì:

Thứ nhất, hiện nay nƣớc ta chƣa có một văn bản Luật riêng để điều

chỉnh các quan hệ xã hội về từ thiện cũng nhƣ hoạt động BTXH. Vấn đề

BTXH đƣợc quy định trong nhiều văn bản luật khác nhau nhƣ: Luật NCT;

Luật NTT; Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em....Đồng thời có nhiều

qui định chính sách BTXH nhƣ về chính sách trợ giúp y tế, giáo dục….gây

khó khăn cho công tác tập hợp, hệ thống hoá pháp luật cũng nhƣ khi cần áp

dụng luật phải tìm và vận dụng ở nhiều văn bản khác nhau.

Thứ hai, hầu hết các quy định pháp luật cụ thể về BTXH đƣợc thể hiện

trong các Nghị định, Quyết định, Thông tƣ hƣớng dẫn thi hành...nên tính pháp

lý chƣa cao, gây nhiều khó khăn, vƣớng mắc trong quá trình triển khai và lơ

67

là của những ngƣời thực hiện.

Thứ ba, sự phát triển của các cơ sở BTXH tƣ nhân, các hoạt động từ

thiện ngày càng phức tạp và đa dạng, đòi hỏi hệ thống pháp luật cần phải sâu

sát và chi tiết.

Thứ tƣ, trên thực tế nên hiểu thực hiện BTXH là “dịch vụ” chăm lo các

đối tƣợng yếu thế, không nên xem hoạt động trợ giúp là sự ban phát mà đó là

nghĩa vụ của các cơ quan phải làm, và đó cũng là quyền mà họ đƣợc hƣởng;

Do đó, cần có sự thay đổi khi xây dựng lại để có cái nhìn đúng đắn hơn và từ

đó sẽ có cách quản lý hiệu quả hơn.

Việc xây dựng hoàn thiện hệ thống pháp luật về BTXH là hết sức cần

thiết, phù hợp với các chủ trƣơng, chính sách của Đảng và Nhà nƣớc, khắc

phục đƣợc các hạn chế của hệ thống văn bản quy phạm pháp luật hiện hành

về BTXH. Để các đối tƣợng BTXH thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ

của mình thì việc hoàn thiện hệ thống pháp luật về BTXH nói chung và thể

chế chính sách nói riêng cần đảm bảo các quan điểm, định hƣớng sau:

+ Thể chế hóa các chủ trƣơng của Đảng, chính sách của Nhà nƣớc đối

với BTXH, xác định các chính sách bộ phận, đối tƣợng hƣởng lợi, vai trò

chức năng của nhà nƣớc, xã hội, gia đình trong việc chăm sóc, giúp đỡ đối

tƣợng BTXH.

+ Việc hệ thống các văn bản phải dựa trên cơ sở kế thừa, chọn lọc

những văn bản hiện nay còn phù hợp trong các văn bản pháp luật có liên

quan, bảo đảm tính ổn định những văn bản còn phù hợp đồng thời điều chỉnh

và hoàn thiện các văn bản không còn phù hơp, bổ sung những chính sách mới

để giải quyết những vấn đề mới nảy sinh trong thực tiễn.

+ Bảo đảm tính khả thi, công bằng, minh bạch và phù hợp với trình độ

phát triển kinh tế-xã hội, khả năng tài chính của nhà nƣớc.

+ Bảo đảm sự thống nhất chung trong hệ thống văn bản Luật của Việt

68

Nam và các văn bản quốc tế mà Việt Nam tham gia.

- Về đối tƣợng hƣởng lợi: gồm các đối tƣợng xã hội hiện hành và các

đối tƣợng mới bổ sung.

- Nội dung điều chỉnh của Luật: qui định những nguyên tắc thực hiện

BTXH, đối tƣợng thụ hƣởng chính sách, nội dung các chính sách bộ phận,

công cụ thực hiện chính sách và các kỹ năng nghiệp vụ, điều kiện bảo đảm

thực thi chính sách…

Nhƣ vậy, Luật sẽ điều chỉnh NCT, NTT, trẻ em đặc biệt khó khăn và

các đối tƣợng xã hội cần bảo trợ. Các chính sách đƣợc qui định cụ thể trong

luật này là nhằm bảo vệ, chăm sóc, hỗ trợ các đối tƣợng BTXH phát triển toàn

diện cả về tinh thần và thể chất, năng lực. Đồng thời, giúp các đối tƣợng có đủ

các điều kiện tham gia một cách bình đẳng các hoạt động xã hội nhƣ những

ngƣời bình thƣờng khác. Tuy nhiên, đây là vấn đề thời gian, vừa qua, Chính

phủ đã có Nghị định số 144/2013/NĐ-CP về xử phạt hành chính trong hoạt

động BTXH, hy vọng tƣơng lai không xa ta sẽ có một Luật BTXH một cách

hoàn chỉnh.

Bên cạnh hình thành Luật thì việc hoàn thiện kế hoạch BTXH cũng rất

cần thiết. Năm 2015 là năm kết thúc thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế, xã

hội giai đoạn năm 2011-2015, trong đó có các chƣơng trình, dự án, đề án về

BTXH nhƣ: chƣơng trình hành động quốc gia về NCT, đề án trợ giúp NTT,

đề án chăm sóc trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn dựa vào cộng đồng,

chƣơng trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo…Để tránh tình trạng phân tán,

gây lãng phí nguồn lực và khó khăn trong tổ chức thực thi các chính sách, cần

lắm việc nghiên cứu xây dựng chƣơng trình quốc gia về BTXH. Khung kế

hoạch này dựa trên cơ sở luật pháp về BTXH, chƣơng trình chiến lƣợc phát

triển kinh tế xã hội để hình thành các mục tiêu, nội dung, giải pháp thực hiện.

Đồng thời kế hoạch xuất phát theo yêu cầu cân đối nguồn lực, đảm bảo huy

69

động đƣợc nhiều nguồn lực hơn từ cộng đồng dành cho đối tƣợng yếu thế.

Cũng nhƣ các chƣơng trình khác, kế hoạch BTXH thƣờng có thời gian dài,

chia ra từng giai đoạn mục tiêu nhỏ, cần đảm bảo rõ mục tiêu, chỉ tiêu, nội

dung BTXH, nguồn lực và các giải pháp tổ chức thực hiện, giám sát đánh giá

trong thời hạn (1-3 năm), trung hạn (5 năm) và dài hạn (10 năm). Về phạm vi

chƣơng trình gồm các hợp phần liên quan đến các nhóm đối tƣợng cụ thể và

các giải pháp chính sách đối với khu vực, vùng miền, đặc thù dân tộc…

Việc hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật về BTXH cần chú ý các nội

dung: về mức độ bao phủ của chính sách đảm bảo đầy đủ, không bỏ sót đối

tƣợng; mức trợ cấp cho đối tƣợng BTXH phải đảm bảo về cơ bản cho cuộc

sống của họ; đa dạng hóa các hình thức chi trả, trợ cấp cho đối tƣợng BTXH...

3.2.1.2. Hoàn thiện công tác tuyên truyền và tổ chức thực hiện văn bản

pháp luật về bảo trợ xã hội trên địa bàn tỉnh

Cần chủ động trong công tác triển khai thực hiện, ban hành hƣớng dẫn

hay đƣa ra kế hoạch triển khai, tập huấn cơ sở, trong khi hiện nay có nhiều

văn bản mới liên quan đến BTXH nhƣ Nghị định 13/2010/NĐ-CP của Chính

phủ ngày 27 tháng 2 năm 2010 về sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị định

67/2007/NĐ-CP ngày 13 tháng 4 năm 2007 về chính sách trợ giúp các đối

tƣợng BTXH, Nghị định 136/2013/NĐ-CP, Luật NCT, Luật NTT…nhƣng

hiện nay nhiều huyện chƣa quan tâm tập huấn cho cấp xã, trong khi cấp xã rất

quan trọng trong việc thực hiện chính sách, vì đây là cánh cửa để chính sách

đến đƣợc với ngƣời dân. Cần chú trọng rà soát các đối tƣợng, khảo sát tâm tƣ

nguyện vọng của đối tƣợng để có hƣớng đề xuất phù hợp cho công tác.

Bên cạnh đó, chú ý nâng cao hiệu quả công cụ giáo dục, tuyên truyền

nhằm nâng cao nhận thức và thúc đẩy hoạt động BTXH có hiệu quả; đây là

một trong những nguyên nhân dẫn đến hạn chế trong khâu tổ chức thực hiện

chính sách. Việc tuyên truyền phải sâu, rộng, bao gồm cả nhận thức của chính

70

quyền lẫn của ngƣời dân và của cả chính bản thân ngƣời hƣởng lợi. Điều này

đòi hỏi song song với hoàn thiện chính sách cần tăng cƣờng tuyên truyền. Đối

tƣợng tuyên truyền bao gồm cả cơ quan quản ký nhà nƣớc, ngƣời dân, xã hội

và chính bản thân các đối tƣợng BTXH. Nhà nƣớc cần bố trí kinh phí để thực

hiện truyền thông của các cơ quan chức năng với những giải pháp cụ thể:

- Qui định rõ về trách nhiệm các cơ quan, tổ chức phải thực hiện công

tác giáo dục, truyền thông về BTXH, gồm:

+ Tất cả các cơ quan, tổ chức, đơn vị trong phạm vi, nhiệm vụ, quyền

hạn của mình đều phải có trách nhiệm giáo dục, truyền thông về BTXH nhƣ

cơ sở y tế, trung tâm dạy nghề, các trƣờng học…

+ UBND cấp huyện, xã có trách nhiệm tổ chức thực hiện công tác giáo

dục, truyền thông về BTXH cho cấp xã, cán bộ, Trƣởng ban nhân dân, Tổ

tƣởng tổ dân phố và nhân dân trên địa bàn địa phƣơng.

+ Các cơ quan thông tin đại chúng có trách nhiệm ƣu tiên về thời điểm,

thời lƣợng phát sóng thông tin, giáo dục, truyền thông về BTXH trên đài phát

thanh, chú ý dung lƣợng và vị trí đăng trên báo in, báo hình. Đồng thời có thể

in hình ảnh phong phú, dán trên các bản tin cấp xã để mọi ngƣời dân đến liên

hệ thấy sẽ truyền miệng nhau.

- Biên soạn lại nội dung: nên chọn lọc và biên soan lại nội dung tuyên

truyền để ngƣời dân dễ hiểu đảm bảo đủ các nội dung quyền và nghĩa vụ,

trách nhiệm của đối tƣợng BTXH, trách nhiệm của gia đình, Nhà nƣớc và xã

hội trong việc bảo vệ chăm sóc và giúp đỡ các đối tƣợng BTXH, các quan

điểm chủ trƣơng của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nƣớc đối với

BTXH và kèm theo nêu gƣơng những ngƣời tiên tiến điển hình vƣợt khó và

những ngƣời có thành tích trong công tác BTXH, cùng các nội dung khác.

71

- Đổi mới phƣơng thức tuyên truyền giáo dục

+ Hình thành các chuyên mục trên báo, bản tin hoặc giải đáp thắc mắc

ngƣời dân, giải quyết tình huống đối với BTXH, thông tin các mô hình hoạt

động có hiệu quả và pháp luật đến đông đảo ngƣời dân.

+ Tăng cƣờng hƣớng dẫn triển khai thực hiện các chính sách hiện có và

nhất là chính sách mới ban hành. Xây dựng các tài liệu gọn nhẹ, có thể bỏ túi

nhƣ sổ tay.

+ Thiết lập các thông tin đa chiều để tiếp nhận và phản hồi ý kiến của

ngƣời dân về các vấn đề có liên quan đến pháp luật và tổ chức thực hiện

BTXH.

+ Khen thƣởng các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thành tích xuất sắc

trong bảo vệ và chăm sóc đối tƣợng BTXH.

+ Mạnh tay xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính, bồi thƣờng và

nếu gây thiệt hại nghiêm trọng thì phải truy cứu trách nhiệm hình sự đối với

các hành vi xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của đối tƣợng BTXH.

Để thực hiện đƣợc các giải pháp trên thì Nhà nƣớc cần có chính sách hỗ

trợ thêm kinh phí cho các tổ chức, cơ quan thông tin đại chúng trong công tác

tuyên truyền giáo dục nâng cao nhận thức cho cộng đồng, đối tƣợng BTXH

về chính sách, luật pháp liên quan tới quyền, nghĩa vụ của ngƣời hƣởng lợi.

3.2.2. Hoàn thiện tổ chức bộ máy và nhân lực quản lý nhà nước đối

với hoạt động bảo trợ xã hội

Bộ máy và nhân lực quản lý nhà nƣớc về BTXH có vai trò rất quan

trọng, nó chính là khâu thiết yếu để các chính sách nói chung và chính sách

bảo trợ xã hội nói riêng, nếu có chính sách tốt mà đội ngũ cán bộ không đủ

hoặc không đáp ứng đƣợc nhu cầu thì hiệu quả sẽ không cao, chính vì thế

hoàn thiện bộ máy và nhân lực QLNN về BTXH là rất cần thiết song phải

đảm bảo tính tinh gọn và hiệu quả.

72

3.2.2.1. Hoàn thiện bộ máy quản lý nhà nước

Bộ máy QLNN đối với hoạt động BTXH hiện nay tuy đã đƣợc tăng

cƣờng và hoạt động khá hiệu quả nhƣng vẫn còn nhiều tồn tại, yếu kém. Do

đó, cần kiện toàn tổ chức bộ máy và cơ chế quản lý đối với BTXH cho tƣơng

xứng với quy mô và tốc độ chuyển biến của hoạt động BTXH. Bộ máy quản

lý cần đƣợc hoàn thiện theo hƣớng:

- Tăng cƣờng sự phối hợp giữa các cơ quan liên quan: qui định cụ thể

mối quan hệ, cơ chế phối hợp giữa các cơ quan này. Trong đó quan trọng nhất

là tăng cƣờng sự phối hợp giữa Sở Lao động – Thƣơng binh và Xã hội và Sở

Tài chính, Ban đại diện hội NCT tỉnh, hội bảo trợ NTT và TEMC tỉnh và Đài

Phát thanh – Truyền hình tỉnh, Sở Giáo dục và Đào tạo…các tổ chức xã hội

khác thực hiện công tác quản lý chặt chẽ hơn.

- Thành lập hội Bảo trợ NTT và TEMC cấp huyện, hội NCT cấp xã để

hỗ trợ hoạt động BTXH ở địa phƣơng đƣợc hoàn thiện, công tác phối hợp

chặt chẽ.

3.2.2.2. Nâng cao đội ngũ nhân lực quản lý hoạt động bảo trợ xã hội

Thực tế yêu cầu cần xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức quản lý hoạt

động BTXH đáp ứng quá trình phát triển.

+ Trên cơ sở nhiệm vụ, chức năng, quyền hạn theo luật định và căn cứ

vào thực tế hoạt động QLNN về BTXH tại tỉnh Đắk Nông cần từng bƣớc trẻ

hóa đội ngũ cán bộ, kết hợp ƣu tiên sử dụng cán bộ có kiến thức về công tác

xã hội, trình độ và kinh nghiệm cao; đồng thời cần chú trọng thực hiện kiện

toàn tổ chức và nhân sự phụ trách thống kê, trợ cấp hàng tháng đối tƣợng

BTXH ở cơ quan QLNN cấp xã.

+ Phát triển đội ngũ cán bộ, công chức quản lý BTXH đáp ứng yêu cầu

cả về số lƣợng, chất lƣợng và có cơ cấu hợp lý là điều kiện quan trọng nhất,

điều kiện tiên quyết thúc đẩy chính sách BTXH hiệu quả. Công tác xây dựng,

73

nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ, công chức quản lý BTXH trong những

năm tiếp theo phải đối mặt với những thách thức rất lớn trƣớc tình trạng đối

tƣợng ngày càng tăng, các cơ sở hoạt động từ thiện ngày càng phức tạp, các

rủi ro nhƣ biến đổi khí hậu, thiên tai, hỏa hoạn từ mặt trái của sự phát triển

kinh tế có xu hƣớng tăng. Nếu không nâng cao chất lƣợng công tác đào tạo,

bồi dƣỡng nguồn nhân lực QLNN về BTXH thì việc thực hiện các chủ

trƣơng, đƣờng lối của Đảng và pháp luật của Nhà nƣớc sẽ không ứng phó

đƣợc trong tình hình mới. Trong xu thế hội nhập và phát triển kinh tế, tƣ hữu

hóa ngày càng cao cần thiết phải có một đội ngũ cán bộ, công chức chất lƣợng

cao, có cái tâm để tăng cƣờng hiệu quả hoạt động QLNN và nâng cao chất

lƣợng hoạt động BTXH.

Trong thời gian tới, công tác nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ, công

chức quản lý BTXH cần chú trọng những nội dung cơ bản sau:

Một là Tiếp tục hoàn chỉnh công tác quy hoạch cán bộ: Việc bổ nhiệm,

đề bạt và đào tạo cán bộ làm QLNN về BTXH phải dựa trên năng lực, tâm

huyết với nghề, lòng nhân đạo với xã hội. Với tình hình hoạt động BTXH nhƣ

hiện nay thì số lƣợng đội ngũ QLNN về BTXH nhƣ hiện nay là khá mỏng.

Cán bộ giữ vai trò đặc biệt quan trọng, là điều kiện cần và đủ để thực hiện

hiệu quả chính sách BTXH. Việc tăng cƣờng cán bộ cần nâng cao trình độ

chuyên môn và số lƣợng cán bộ, nhất là ở cơ sở. Trong những năm vừa qua,

nhà nƣớc đã có chủ trƣơng tăng về số lƣợng, nhƣng chƣa phát huy vai trò của

cán bộ. Nguyên nhân một phần là do công tác cán bộ chƣa quan tâm những

ngƣời làm việc đối với lĩnh vực này nói riêng và nói chung cho cả hệ thống.

Hiện nay, Chính phủ đã có văn bản quy định về mã nghề cho những ngƣời

làm công tác công tác xã hội vào cuối năm 2010, nhƣng chƣa có qui định

danh mục nghề công tác xã hội, có mã nghề đào tạo, có vị trí làm việc và có

tiêu chuẩn nghiệp vụ. Mặt khác công tác này chƣa thu hút đƣợc nhiều giới trẻ

74

theo học do còn khá mới mẻ và chƣa đƣợc triển khai sâu rộng nên việc bố trí

cán bộ có chuyên môn cũng khó khăn cho các cấp. Nếu không có điều kiện

thì nên ƣu tiên cán bộ tổ chức thực hiện ở huyện chỉ thực hiện quản lý hoạt

động BTXH, không kiêm nhiệm công tác khác và cán bộ cơ sở cũng dành một

ngƣời thực hiện chuyên lĩnh vực UBND không kiêm nhiệm. Hệ thống này

nếu phối kết hợp tốt với các hội, đoàn thể khác thì hoạt động BTXH Đắk

Nông rất hiệu quả.

Hai là cần tăng cƣờng công tác đào tạo, bồi dƣỡng đội ngũ nguồn nhân

lực QLNN về BTXH, các khóa đào tạo ngắn hạn thông qua việc tổ chức tập

huấn theo chuyên đề, tập huấn thực hiện triển khai thực hiện chính sách, tham

quan mô hình…. Đồng thời chú trọng trang bị đầy đủ kiến thức, kỹ năng,

phẩm chất nghề nghiệp, có sức khỏe thể lực, trí lực; Công tác này cần đƣợc

nâng cao từ giai đoạn hiện nay nhằm hoàn thiện đội ngũ quản lý có năng lực

chuyên môn sâu, có tƣ cách đạo đức, yêu nghề, hiểu biết điều kiện thực tế của

các đối tƣợng BTXH của địa phƣơng và những tác động bên ngoài với môi

trƣờng tự nhiên và xã hội để có khả năng trợ giúp kịp thời. Đội ngũ này cần

cập nhật các kiến thức liên quan đến hoạt động BTXH, đến quá trình chuyển

biến các đối tƣợng, cơ sở BTXH trá hình; cần có những kinh nghiệm thực tế

về BTXH trên địa bàn.

Ba là cần phải có chính sách đào tạo và phát triển nguồn nhân lực

QLNN thông qua các chƣơng trình đào tạo mới và đào tạo lại cho nguồn nhân

lực hiện có, từng bƣớc xây dựng đội ngũ các nhà quản lý sáng tạo, đủ năng

lực điều hành các hoạt động BTXH; Công tác bàn giao, hƣớng dẫn chặt chẽ

để ngƣời mới cũng nhƣ ngƣời cũ nắm đƣợc lĩnh vực mình phụ trách, công tác

quy hoạch chuẩn bị cán bộ kế thừa là một giải pháp cho công tác cán bộ.

Đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dƣỡng nguồn nhân lực quản lý nhà

nƣớc về BTXH tại tỉnh Đắk Nông có vị trí đặc biệt quan trọng, có vai trò thúc

75

đẩy, tạo bƣớc chuyển mạnh mẽ, về năng lực, trình độ công tác của đội ngũ

quản lý nhà nƣớc đối với hoạt động BTXH; Trong thời gian tới, chính quyền

các cấp cần quan tâm công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dƣỡng nguồn nhân lực

mang tính chiến lƣợc, ổn định, lâu dài, bền vững và phát triển, đặc biệt, cần

tăng nguồn vốn đầu tƣ cho đào tạo, bồi dƣỡng nguồn nhân lực QLNN về

BTXH.

3.2.5. Tăng cường công tác kiểm tra, theo dõi, giám sát đánh giá hoạt

động bảo trợ xã hội

Trong bất cứ hoạt động nào cũng cần phải kiểm tra, giám sát quá trình

thực hiện, mục đích của việc này không chỉ đơn thuần xem các hoạt động đó

đã đúng chƣa mà còn để điều chỉnh, bổ sung và đổi mới cách thức thực hiện

sao cho hiệu quả. Đối với BTXH cũng vậy, việc kiểm tra, giám sát đánh giá

theo dõi hoạt động này là một nội dung quan trọng trong quá trình đổi mới

chính sách và cơ chế BTXH cũng nhƣ phát hiện ra những hành vi xấu gây ảnh

hƣởng đến đối tƣợng yếu thế. Trong giai đoạn tới cần nghiên cứu hoàn thiện

trên các phƣơng diện sau:

- Tăng cƣờng công tác thanh tra, kiểm tra định kỳ đối với hoạt động

BTXH tại xã, thị trấn, các cơ sở hoạt động dƣới danh nghĩa là từ thiện không

có giấy phép thành lập các cơ sở BTXH. Hiện nay công tác thanh tra kiểm tra

hoạt động BTXH, các cơ sở nuôi dƣỡng đối tƣợng xã hội trên địa bàn chỉ

đƣợc tiến hành khi có sự phản ánh của các cá nhân, tổ chức xã hội thì khi đó

cơ quan quản lý mà cụ thể là ngành Lao động – Thƣơng binh và Xã hội mới

tiến hành mở các đợt kiểm tra hàng loạt. Việc tiến hành thanh tra, kiểm tra

định kỳ giúp cho hoạt động quản lý đƣợc sát sao hơn, nhanh chóng phát hiện

ra các sai phạm để kịp thời xử lý đồng thời cũng giúp cho cơ quan quản lý

chủ động trong công việc.

- Cần liên hệ chặt chẽ, phối hợp thông tin giữa các cơ quan tổ chức nhƣ

76

UBND các xã, phƣờng, thị trấn, các Hội đoàn thể tại địa phƣơng trong hoạt

động thanh tra, kiểm tra vì các tổ chức này tiếp cận trực tiếp với đối tƣợng,

với các cơ sở từ thiện. Đồng thời, tăng cƣờng sự tham gia của ngƣời dân vào

quá trình xây dựng hệ thống pháp lý và tổ chức thực hiện, nhất là việc xác

định đối tƣợng hƣởng trợ cấp, trợ giúp, bảo đảm tính công khai, minh bạch

trong quá trình tổ chức thực hiện, tạo đƣợc sự đồng thuận, ủng hộ của nhân

dân và góp phần phát hiện những tiêu cực trong quá trình thực hiện hoạt động

BTXH.

- Để thực hiện tốt công tác thanh tra, kiểm tra giám sát, cần có nhân sự

chuyên phụ trách hoạt động này; Nhân viên chuyên trách việc thanh tra, kiểm

tra cần có năng lực, cần xông xáo và phải có tinh thần kiên định, kinh nghiệm

thực tế về từ thiện.

- Xử phạt nghiêm khắc đối với trƣờng hợp vi phạm chính sách BTXH.

Hiện tại, đã có nghị định về xử phạt vi phạm đối với lĩnh vực BTXH (Nghị

định số 144/2013/NĐ-CP, ngày 29/10/2013 của Chính phủ về quy định xử

phạt vi phạm hành chính về Bảo trợ, cứu trợ xã hội và bảo vệ chăm sóc trẻ

em). Đây là hoạt động nhân đạo, cứu ngƣời lúc khó khăn, nên việc xử lý cần

nghiêm khắc, phạt nặng đến mức chịu trách nhiệm hình sự để mang tính răn

đe hiệu quả các hành vi lợi dụng hoạt động nhân đạo, cứu trợ để vi phạm pháp

luật.

- Thiết lập hệ thống chỉ số, phần mềm quản lý đối tƣợng BTXH, thông

tin báo cáo hợp lý và có phƣơng pháp khoa học để có thể bảo đảm thu thập

thông tin đầy đủ, báo cáo một cách trung thực nhất. Trong đó, hình thành các

hệ thồng chỉ tiêu để trên cơ sở đó có thể kiểm tra, giám sát và theo dõi đối

tƣợng một cách hiệu quả;

- Đổi mới về thủ tục thực hiện, theo dõi, giám sát đối tƣợng. Thống

77

nhất quy trình xác định đối tƣợng thụ hƣởng từ cấp xã theo quy trình nhất

định. Xã là đơn vị hành chính xác định đối tƣợng thụ hƣởng, cấp huyện kiểm

tra, giám sát hoạt động và huy động nguồn lực thực hiện.

3.3. Một số kiến nghị

Để thực hiện các giải pháp trên, góp phần nâng cao hoạt động BTXH,

không đơn thuần chỉ là thay đổi của một cấp một ngành, mà đòi hỏi sự điều

chỉnh của cả một hệ thống từ Trung ƣơng đến các địa phƣơng; Qua nghiên

cứu, tác giả có một số kiến nghị sau:

3.3.1. Kiến nghị đối với các cơ quan Trung ương

- Hoàn thiện chính sách BTXH cơ bản nhất là hệ thống văn bản pháp

luật về hoạt động này; Trƣớc tiên là rà soát hệ thống các văn bản pháp luật

còn hiệu lực có liên quan đến hoạt động BTXH, để có sự điều chỉnh bổ sung

hợp lý, tránh trùng lắp các chính sách đối với cùng đối tƣợng. Tiếp đến là

nghiên cứu xây dụng dự án Luật về BTXH hoặc Luật An sinh xã hội trong đó

có chính sách BTXH. Cơ quan hoạch định chính sách BTXH cần có lộ trình

cụ thể để khi có một sản phẩm văn bản mang tính chất liên hoàn, thông suốt,

tránh trùng lắp. Đồng thời, trƣớc khi ban hành chính sách BTXH cần thực

hiện khảo sát thực tế cụ thể để có những quy định hỗ trợ phù hợp với điều

kiện từng vùng và sự mong chờ của đối tƣợng yếu thế. Khi ban hành chính

sách phải có văn bản hƣớng dẫn rõ ràng, kịp thời quy định thẩm quyền cụ thể

của từng cơ quan có liên quan và quy trình thực thi chính sách.

- Chỉ đạo các Bộ có liên quan rà soát chính sách, pháp luật về BTXH và

sửa đổi, bổ sung theo thẩm quyền hoặc trình cơ quan có thẩm quyền giải

quyết; xây dựng hệ thống quản lý theo dõi, đánh giá việc thực hiện chính sách

BTXH thống nhất.

- Cần rà soát lại tiêu chí xác định đối tƣợng theo hƣớng linh hoạt, bỏ

một số điều kiện cứng (đủ), quan tâm điều kiện thực tế (cần) để thực sự bao

78

phủ hết số đối tƣợng khó khăn. Cụ thể, các đối tƣợng ở điều kiện cần thay vì

thuộc hộ gia đình nghèo có thể thay bằng hộ gia đình có thu nhập thấp. Khi

điều kiện kinh tế phát triển hơn, ngân sách đảm bảo đủ có thể nới rộng điều

kiện cần để các đối tƣợng yếu thế có cơ hội nhƣ nhau.

- Mở rộng đối tƣợng thụ hƣởng, nghiên cứu một số chính sách cho đối

tƣợng đặc thù vùng Tây Nguyên (ví dụ nhƣ chính sách cho trẻ em mồ côi theo

chế độ mẫu hệ); Điều chỉnh nâng các mức trợ cấp đối với đối tƣợng BTXH,

trƣớc mắt, với điều kiện kinh tế xã hội không lạc quan nhƣ hiện nay, có thể áp

dụng phƣơng án điều chỉnh theo tỉ số tăng giá tiêu dùng. Đến khi kinh tế phát

triển ổn định là đồng bộ với chuẩn nghèo và xây dựng lộ trình thực hiện mục

tiêu mức trợ giúp xã hội bằng 70% mức sống tối thiểu tiến đến bằng mức

sống tối thiểu.

- Tiếp tục nghiên cứu những vấn đề mới phát sinh trong quá trình phát

triển kinh tế - xã hội, tái cơ cấu nền kinh tế để dự báo số đối tƣợng cần trợ

giúp do ảnh hƣởng của cú sốc đối với nền kinh tế, biến đổi khí hậu, sự phát

triển của nền kinh tế thị trƣờng.

- Nghiên cứu xây dựng chƣơng trình, dự án quốc gia về hoạt động

BTXH. Khung kế hoạch này dựa trên cơ sở luật pháp về BTXH, chƣơng trình

phòng ngừa tai nạn, rủi ro, chƣơng trình chiến lƣợc phát triển kinh tế xã hội

để hình thành các mục tiêu, nội dung, giải pháp thực hiện. Đồng thời kế hoạch

xuất phát theo yêu cầu cân đối nguồn lực, đảm bảo huy động đƣợc nhiều

nguồn lực hơn từ cộng đồng dành cho đối tƣợng yếu thế.

- Đẩy mạnh công tác tuyên truyền từ nhiều kênh truyền thông vận

động toàn dân tham gia cứu trợ xã hội, trong đó nghiên cứu và đƣa vào áp

dụng rộng rãi mô hình “chăm sóc thay thế” thể hiện đƣợc truyền thống tốt đẹp

của ngƣời dân Việt Nam “lá lành đùm lá rách” đồng thời giảm gánh nặng cho

79

ngân sách Nhà nƣớc.

- Nghiên cứu phƣơng án chuyển đối hình thức cung cấp dịch vụ sang

cung cấp tiền hoặc bổ sung phƣơng án để đối tƣợng có điều kiện tự do chọn

và sử dụng tối đa các dịch vụ BTXH.

- Nên triển khai mô hình đào tạo ngành công tác xã hội sâu rộng và

khuyến khích ngành nghề này để đáp úng kịp thời nhu cầu cấp thiết của xã

hội.

- Sớm nghiên cứu ban hành phần mềm quản lý đối tƣợng BTXH để tạo

điều kiện thuận lợi cho các địa phƣơng trong cập nhật, quản lý, khai thác và

sử dụng dữ liệu về BTXH.

3.3.2. Kiến nghị với UBND tỉnh

- Sớm hoàn thiện các văn bản pháp lý về lãnh đạo chỉ đạo của tỉnh, ban

hành kịp thời các qui định, hƣớng dẫn về hoạt động BTXH, cơ chế huy động

nguồn lực, quản lý sử dụng các nguồn lực để triển khai tại địa phƣơng.

- Nên nghiên cứu hỗ trợ thêm mức trợ cấp cho các đối tƣợng yếu thế để

đảm bảo đƣợc cuộc sống tối thiểu của con ngƣời; Hỗ trợ thêm nguồn lực để

tăng cƣờng công tác tuyên truyền sâu rộng cho ngƣời dân cũng nhƣ các đối

tƣợng BTXH.

- Xây dựng thêm các chƣơng trình dự án về ăn, ở, vui chơi cho các đối

tƣợng yếu thế tạo sự công bằng trong xã hội nhƣ mọi ngƣời khác; Quy hoạch,

củng cố và mở rộng mạng lƣới cơ sở BTXH để các đối tƣợng khó khăn, yếu

thế có thêm điều kiện đƣợc chăm sóc, đƣợc nƣơng tựa.

- Hiện nay vị trí cán bộ Lao động – Thƣơng binh và Xã hội ở cấp xã chỉ

là chức danh bán chuyên trách nên thƣờng bị thua thiệt trong vấn đề trợ cấp

so với các vị trí khác trong khi công việc thì quá nhiều. Đề nghị tỉnh quan tâm

xem xét và bố trí họ vào chức danh cán bộ công chức hoặc chuyên trách để họ

yên tâm công tác hơn.

80

3.3.3. Đối với Sở Lao động – Thương binh và Xã hội Đắk Nông

- Kịp thời có văn bản hƣớng dẫn, triển khai thực hiện các văn bản cấp

trên về hoạt động BTXH, không trông chờ vào cấp trên, phải chủ động trong

việc triển khai tổ chức thực hiện.

- Chính sách chỉ thật sự hiệu quả, đi sâu vào ngƣời dân khi mọi ngƣời

cùng hiểu biết, cùng thực hiện. Vì thế, cần hết sức chú trọng đến công tác

truyền thông, giới thiệu, tuyên truyền chính sách BTXH bằng nhiều hình thức

nhƣ: thông qua kênh truyền thanh, báo địa phƣơng, biên soạn tờ rơi rõ ràng dễ

hiểu phát cho ngƣời dân và dán trên các bản tin của các trụ sở… biên soạn tài

liệu tuyên truyền hƣớng dẫn nghiệp vụ, in và phát cho các đối tƣợng quan

tâm.

- Kiện toàn đội ngũ cán bộ làm công tác xã hội từ tỉnh đến xã, đảm bảo

đủ chuẩn, có năng lực trong việc tổ chức thực thi chính sách, tăng cƣờng kiểm

tra, đánh giá, phân tích, đề xuất chính sách mới hoặc điều chỉnh chính sách

cho hoàn thiện, phù hợp với tình hình địa phƣơng hơn. Cần quan tâm đào tạo,

bồi dƣỡng và chế độ đãi ngộ những ngƣời trực tiếp thực thi chính sách BTXH

ở cấp huyện và cả cấp cơ sở, nhất là cán bộ làm công tác Lao động - Thƣơng

binh và Xã hội phụ trách công tác BTXH ở cấp xã, vì đây chính là nơi mở cửa

chính sách đến với ngƣời dân, đóng vai trò quan trọng trong việc hiện thực

các chính sách của Nhà nƣớc nói chung và chính sách BTXH nói riêng.

- Hoàn thiện cơ chế phối hợp giữa các Sở, ngành, tổ chức; tăng cƣờng

phát huy vai trò các đoàn thể trong công tác BTXH ở địa phƣơng; phối hợp

hƣớng dẫn và tạo điều kiện cho ngƣời nghèo, hộ nghèo, đối tƣợng tàn tật,

ngƣời còn khả năng lao động trong định hƣớng cách làm ăn và hỗ trợ ngƣời

lao động tiếp cận với các nguồn vốn vay.

- Lồng ghép với các chƣơng trình quốc gia nhƣ chƣơng trình giảm hộ

81

nghèo bền vững, chƣơng trình cho trẻ em, NCT, NTT…đây cũng là những

đối tƣợng BTXH, vì thế cần có sự gắn kết toàn diện vừa giảm chi phí cho

ngân sách và vừa thực hiện chính sách hiệu quả nhất.

- Cần đẩy mạnh việc chủ động phòng chống và ứng phó kịp thời có

hiệu quả thiên tai, lốc xoáy, tác động của biến đổi khí hậu nhằm hạn chế thiệt

hại về ngƣời và của, nhất là những vùng thƣờng xuyên xảy ra lũ, lốc xoáy;

nghiên cứu hình thành các quỹ dự phòng và cơ chế trợ giúp tại các địa

phƣơng để hỗ trợ kịp thời cho nhân dân khi có rủi ro đột xuất. Cần đảm bảo

công bằng hơn trong điều kiện hƣởng BTXH giữa các nhóm đối tƣợng BTXH

thƣờng xuyên và giữa BTXH thƣờng xuyên và BTXH đột xuất

- Tăng cƣờng công tác thống kê, rà soát tình hình đối tƣợng BTXH trên

địa bàn, qua đó cũng đẩy mạnh công tác giám sát hoạt động BTXH và kiểm

tra thƣờng xuyên, kịp thời phát hiện những hành vi xâm phạm đến đối tƣợng

yếu thế cũng nhƣ làm trái quy đinh đối với hoạt động bảo trợ xã hội.

- Vận động và khai thác tối đa nguồn tài lực trong cộng đồng xã hội

đóng góp cho công tác BTXH (các nhà hảo tâm, các hoạt động từ thiện của

82

các cá nhân, tổ chức, các mạnh thƣờng quân…) trên địa bàn tỉnh Đắk Nông.

Tiểu kết chƣơng 3

Dựa vào cơ sở lý luận về QLNN đối với hoạt động BTXH của Chƣơng

1 và qua phân tích đánh giá thực trạng hoạt động này tại tỉnh Đắk Nông ở

Chƣơng 2, tác giả xây dựng Chƣơng 3 với những phƣơng hƣớng, giải pháp

hoàn thiện hoạt động cũng nhƣ công tác QLNN về hoạt động BTXH trên địa

bàn tỉnh, bao gồm: Tăng cƣờng tổ chức bộ máy QLNN, Hoàn thiện các văn

bản pháp lý và công tác triển khai, tổ chức thực hiện các văn bản về BTXH;

Hoàn thiện công tác quản lý đối tƣợng và các cơ sở BTXH; Đổi mới trong

việc xét duyệt, thẩm định và quyết định cho các đối tƣợng hƣởng BTXH;

Tăng cƣờng công tác kiểm tra, theo dõi, giám sát đánh giá hoạt động BTXH.

Trên cơ sở đó, tác giả cũng đề xuất một số kiến nghị đối với chính

quyền địa phƣơng cũng nhƣ trung ƣơng để thực hiện các giải pháp đó. Các

giải pháp trên muốn đƣợc thực hiện cần đến sự chuẩn bị một cách chu đáo,

đầu tƣ thích đáng và sự phối hợp đồng bộ giữa các cơ quan có thẩm quyền,

các tổ chức và cá nhân cùng sự phân công một cách rõ ràng vai trò, nhiệm vụ

của từng bộ phận ban ngành, cá nhân, tổ chức có liên quan.

Trình bày những giải pháp nêu trên, tác giả mong muốn sẽ đóng góp

phần hữu ích, giúp các cơ quan QLNN nghiên cứu vận dụng, thúc đẩy hoạt

động BTXH tại tỉnh Đắk Nông ngày một hiệu quả và đạt đƣợc mục tiêu là

83

tăng trƣởng kinh tế phải gắn liền với đảm bảo an sinh xã hội.

KẾT LUẬN

Có thể khẳng định rằng BTXH là vấn đề hữu ích và quan trọng của nhân

loại, không chỉ ở những nƣớc nghèo, kém phát triển mà cả ở những quốc gia

phát triển, có nền công nghiệp tiên tiến và cuộc sống hiện đại. Thực chất đây

là một cuộc chiến chống các rủi ro trên bình diện toàn cầu. BTXH là một

phần của an sinh xã hội thể hiện trình độ phát triển bền vững của quốc gia

thông qua việc phát triển kinh tế lẫn chăm lo, bảo đảm an toàn cho các thành

viên trong xã hội khi họ gặp rủi ro và trở nên yếu thế, khi đó họ rất cần có sự

trợ giúp từ Nhà nƣớc cũng nhƣ của cộng đồng, xã hội.

Đối với Việt Nam, vấn đề BTXH luôn đƣợc Đảng và Nhà nƣớc quan

tâm không chỉ khi kinh tế bắt đầu phát triển mà ngay khi đất nƣớc đang trên

đƣờng đấu tranh giành độc lập. Đó là một trong những vấn đề cơ bản của

chính sách xã hội hƣớng vào phát triển con ngƣời nói chung và đối tƣợng

BTXH nói riêng, tạo cơ hội cho họ có điều kiện bình đẳng hoà nhập vào cộng

đồng, vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội.

Đắk Nông là một tỉnh thuộc khu vực Tây Nguyên, trong những năm qua

việc thực hiện BTXH đã đạt đƣợc những thành tựu nhất định trong hoạt động

cũng nhƣ quản lý đối với hoạt động BTXH, đã phần nào chăm lo đƣợc các đối

tƣợng yếu thế đủ điều kiện hƣởng BTXH về tài chính, giáo dục, đào tạo,

khám chữa bệnh, dạy nghề, ƣu đãi lãi suất… tạo điều kiện cho đối tƣợng yếu

thế trên địa bàn đảm bảo đƣợc mức sống tối thiểu. Tuy nhiên, tốc độ phát

triển kinh tế của tỉnh chƣa cao, lại chịu tác động của quá trình chuyển đổi

kinh tế ở cấp vĩ mô và vi mô nên các đối tƣợng yếu thế ngày một đông hơn.

Nhu cầu trợ giúp của các nhóm đối tƣợng này cũng lớn lên và rất khác nhau

do đặc điểm riêng của vị thế quá trình thực hiện cũng nhƣ quản lý hoạt động

84

BTXH rất khó khăn và không tránh khỏi những tồn tại, hạn chế về tổ chức bộ

máy, nguồn lực thực hiện hoạt động, công tác quản lý đối tƣợng….Qua những

phân tích đánh giá về thực trạng hoạt động BTXH của tỉnh cũng đã chỉ ra

những bất cập trong các văn bản pháp qui, những qui định chính sách BTXH.

Từ đó đặt ra yêu cầu cần bổ sung một khung pháp lý và hệ thống pháp luật

thật chặt chẽ hơn để hoàn thiện hoạt động BTXH cũng nhƣ việc quản lý hoạt

động này từ trung ƣơng xuống địa phƣơng.

Luận văn “Quản lý Nhà nước về hoạt động bảo trợ xã hội trên địa bàn

tỉnh Đắk Nông” đã phân tích và đánh giá những mặt đƣợc và hạn chế trong

quá trình thực hiện công tác BTXH trên địa bàn tỉnh Đắk Nông trong thời

gian qua. Qua đó tác giả cũng trình bày một số giải pháp nhằm góp phần thực

hiện tốt hơn các hoạt động chăm lo các đối tƣợng yếu thế trên địa bàn tỉnh.

Với những tiềm năng sẵn có của mình, Đắk Nông nhất định sẽ vƣợt qua khó

khăn, thách thức ở phía trƣớc, thực hiện thắng lợi mục tiêu tăng trƣởng kinh

tế phải gắn liền đảm bảo an sinh xã hội, mang lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc

cho nhân dân nói chung và cho các đối tƣợng yếu thế trên địa bàn tỉnh nói

riêng.

Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới thầy giáo, TS. Lê Văn

Hòa và các thầy, cô giáo đã giúp đỡ nhiệt tình để tôi có thể hoàn thành luận

văn này. Tuy nhiên, do kiến thức và kinh nghiệm nghiên cứu khoa học còn

hạn chế nên khó tránh khỏi nhiều thiết sót. Vì vậy tôi kính mong nhận đƣợc

sự bổ sung, góp ý của các thầy, cô giáo để tôi có thể bổ sung kiến thức cho

85

bản thân, hoàn thành tốt nhiệm vụ đƣợc giao tại cơ quan đang công tác./.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Ban Chấp hành Trung ƣơng Đảng cộng sản Việt Nam (1987), Nghị

quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI, NXB Sự thật, Hà Nội.

2. Ban Chấp hành Trung ƣơng Đảng cộng sản Việt Nam (1996), Nghị

quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, NXB Sự thật, Hà

Nội.

3. Ban Chấp hành Trung ƣơng Đảng cộng sản Việt Nam (2001), Nghị

quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX, NXB Sự thật, Hà Nội.

4. Ban Đại diện hội Ngƣời cao tuổi tỉnh Đắk Nông (2015), Báo cáo

tổng kết 09/BC-NCT ngày 15 tháng 5 năm 2015 của Ban Đại diện

hội Ngƣời cao tuổi về phong trào thi đua yêu nước “Tuổi cao –

gương sáng” Hội người cao tuổi tỉnh Đắk Nông giai đoạn 2011-

2015.

5. Bộ Lao động - Thƣơng binh và Xã hội (2008), Quyết định số

179/QĐ-LĐTBXH ngày 05/01/2008 của Bộ Lao động - Thƣơng

binh và Xã hội về việc quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và

cơ cấu tổ chức của Cục Bảo trợ xã hội.

6. Bộ Lao động - Thƣơng binh và Xã hội (2001), Hệ thống văn bản

pháp luật hiện hành về BTXH, NXB Lao động xã hội, Hà Nội.

7. Bộ Lao động – Thƣơng binh và Xã hội (2007), Thông tƣ số

09/2007/TT-BLĐTBXH ngày 13/7/2007 của Bộ Lao động -

Thƣơng binh và Xã hội hướng dẫn một số điều của Nghị định số

67/2007/NĐ-CP.

8. Bộ Lao động - Thƣơng binh và Xã hội (2008), Thông tƣ

26/2008/TT- BLĐTBXH ngày 10 tháng 11 năm 2008 của Bộ Lao

86

động - Thƣơng binh và Xã hội về sửa đổi, bổ sung một số điểm của

Thông tƣ 09/2007/TT-BLĐTBXH ngày 13 tháng 7 năm 2007

hƣớng dẫn một số điều của Nghị định 67/2007/NĐ-CP 13 tháng 4

năm 2007 của Chính phủ về chính sách trợ giúp các đối tượng Bảo

trợ xã hội.

9. Bộ Lao động – Thƣơng binh và Xã hội, Bộ Nội vụ (2009) Thông tƣ

liên tịch số 32/2009/TTLT-BLĐTBXH-BNV ngày 21/9/2009 của

Bộ Lao động - Thƣơng binh và Xã hội và Bộ Nội vụ về việc hướng

dẫn nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức và định mức cán bộ, nhân

viên của cơ sở bảo trợ xã hội công lập.

10. Bộ Lao động – Thƣơng binh và Xã hội Thông tƣ số 07/2009/TT-

BLĐTBXH ngày 30/3/2009 của Bộ Lao động - Thƣơng binh và Xã

hội về việc hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định số

68/2008/NĐ-CP ngày 30/5/2008 của Chính phủ quy định điều kiện,

thủ tục thành lập, tổ chức, hoạt động và giải thể cơ sở bảo trợ xã

hội.

11. Bộ Nội vụ (2008), Thông tƣ 09/2008/TT-BNV ngày 31/12/2008

của Bộ Nội vụ hƣớng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định số

148/2007/NĐ-CP về tổ chức, hoạt động của quỹ xã hội, quỹ từ

thiện.

12. Bộ Lao động - Thƣơng binh và Xã hội, Quyết định số 179/QĐ-

LĐTBXH ngày 05 tháng 01 năm 2008, của Bộ Lao động -

Thƣơng binh và Xã hội về việc quy định chức năng, nhiệm vụ,

quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cục Bảo trợ xã hôi.

13. Chính phủ (2000), Nghị định 07/2000/NĐ-CP ngày 09/3/2000 của

Chính Phủ về chính sách cứu trợ xã hội.

14. Chính phủ (2004), Nghị định 168/2004/NĐ-CP ngày 20/9/2004 về

87

sửa đổi một số điều của nghị định 07/2000/NĐ-CP.

15. Chính phủ, nghị định 67/2007/NĐ-CP (2007) ngày 13 /4/2007 về

chính sách trợ giúp xã hội cho đối tượng BTXH.

16. Chính phủ (2007), Nghị định số 148/2007/NĐ-CP ngày 25/9/2007

của Chính phủ về tổ chức, hoạt động của quỹ xã hội, quỹ từ thiện.

17. Chính phủ (2008), Nghị định số 68/2008/NĐ-CP ngày 30/5/2008

của Chính phủ quy định điều kiện, thủ tục thành lập, tổ chức, hoạt

động và giải thể cơ sở bảo trợ xã hội.

18. Chính Phủ, Nghị định 13/2010/NĐ-CP của Chính phủ ngày 27

tháng 2 năm 2010 về sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị định

67/2007/NĐ-CP ngày 13 tháng 4 năm 2007 về chính sách trợ giúp

các đối tượng bảo trợ xã hội.

19. Chính Phủ, Nghị định 136/2013/NĐ-CP của Chính phủ ngày 21 tháng

10 năm 2013 về chính sách trợ giúp các đối tượng bảo trợ xã hội.

20. Đảng cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện đại hội đại biểu toàn

quốc lần IV, Nxb Sự thật, Hà Nội, Tr.75.

21. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn

quốc lần thứ VIII, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

22. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn

quốc lần thứ X, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.102, 104.

23. Đảng cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện đại hội đại biểu toàn

quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

24. Mai Ngọc Cƣờng (2013), Về an sinh xã hội ở Việt Nam, Nxb Chính

trị Quốc gia – Sự thật, Hà Nội.

25. Nguyễn Hữu Dũng (2008), mối quan hệ giữa phát triển kinh tế thị

trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa và thực hiện chính sách an sinh

xã hội ở nƣớc ta trong quá trình hội nhập, tạp chí Lao động – xã hội

88

(số 332,4/2008), Hà Nội.

26. Nguyễn Hữu Dũng (2010), hệ thống chính sách an sinh xã hội ở

Việt Nam: Thực trạng và định hƣớng phát triển, Tạp chí khoa học

ĐHQGHN, kinh tế và kinh doanh 26, 118-128.

27. Hội Bảo trợ ngƣời tàn tật và trẻ mồ côi tỉnh Đắk Nông (2015), Báo

cáo 10/BC-HBT ngày 21 tháng 7 năm 2015 của Hội Bảo trợ ngƣời

tàn tật và trẻ mồ côi về tình hình hoạt động giai đoạn 2011-2015.

28. Nguyễn Hữu Khiển – Trần Thị Thanh Thủy (2009), Hỏi đáp về

quản lý hành chính nhà nước tập 3 quản lý nhà nước trên các lĩnh

vực, NXB Chính trị - hành chính, Hà Nội.

29. Nguyễn Ngọc Toản, Một số kiến nghị đổi mới chính sách trợ cấp xã

hội trong giai đoạn tới, Tạp chí Lao động – xã hội (273), từ 16 –

31/10/2005, tr.36-37, Hà nội.

30. Nguyễn Ngọc Toản, đề xuất quan điểm tiếp cận phát triển chính

sách trợ giúp xã hội ở Việt Nam, Tạp chí Lao động – xã hội (379),

từ 16 – 31/3/2010, Hà nội.

31. Nguyễn Xuân Thu, Chính sách, pháp luật về cứu trợ xã hội ở việt

nam hiện nay, Đại học luật Hà Nội.

32. Sở Lao động - Thƣơng binh và Xã hội tỉnh Đắk Nông (2013), Báo

cáo 283/BC-LĐTBXH ngày 12 tháng 3 năm 2014 của Sở Lao động

- Thƣơng binh và Xã hội về kết quả thực hiện công tác Bảo trợ xã

hội năm 2013.

33. Sở Lao động - Thƣơng binh và Xã hội tỉnh Đắk Nông (2014), Báo

cáo 85/BC-LĐTBXH ngày 20 tháng 01 năm 2015 của Sở Lao động

- Thƣơng binh và Xã hội về kết quả thực hiện công tác Bảo trợ xã

hội năm 2014 kế hoạch năm 2015.

34. Sở Lao động - Thƣơng binh và Xã hội tỉnh Đắk Nông (2015), Báo

89

cáo 31/BC-LĐTBXH ngày 08 tháng 01 năm 2016 của Sở Lao động

- Thƣơng binh và Xã hội về kết quả thực hiện công tác Bảo trợ xã

hội năm 2015 và kế hoạch năm 2016.

35. Quốc hội (2001), Luật Tổ chức Chính phủ, Hà Nội.

36. Quốc hội (2008), Luật Bảo hiểm y tế, Hà Nội.

37. Quốc hội (2009), Luật Ngƣời khuyết tật, Hà Nội.

38. Quốc hội (2010), Luật Ngƣời cao tuổi, Hà Nội.

39. Ủy ban Nhân dân tỉnh Đắk Nông (2016), Quyết định số

12/2016/QĐ-UBND ngày 22 tháng 3 năm 2016 về việc quy định

chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức Sở Lao động -

Thương binh và Xã hội tỉnh Đắk Nông.

40. Võ Kim Sơn, Giáo trình Hành chính công (2006), NXb Giáo dục,

Hà Nội.

41. http://www.fetp.edu.vn/attachment.aspx?ID=2405

43. http://www.sldtbxh.daklak.gov.vn

42. http://www.molisa.gov.vn

44. Viện Khoa học Lao động và Xã hội (2011), Thuật ngữ “An sinh xã

hội Việt Nam”, GIZ, ILSSA.

45. Vũ Văn Phúc (2012), An sinh xã hội ở nước ta: một số vấn đề lý

luận và thực tiễn. Tham luận Hội thảo của Hội đồng Lý luận Trung

90

ƣơng về An sinh xã hội, Hà Nội.