BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO --------------------------- BỘ NỘI VỤ --------------
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
PHẠM THỊ TRÀ MY QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ ĐĂNG KIỂM PHƯƠNG TIỆN THỦY NỘI ĐỊA TẠI CỤC ĐĂNG KIỂM VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ CHUYÊN NGÀNH QUẢN LÝ CÔNG Mã số: 60 34 04 03
HÀ NỘI - 2017
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ NỘI VỤ
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA PHẠM THỊ TRÀ MY QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ ĐĂNG KIỂM PHƯƠNG TIỆN THỦY NỘI ĐỊA TẠI CỤC ĐĂNG KIỂM VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG Chuyên ngành: Quản lý công Mã số: 60 34 04 03
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS LƯƠNG THANH CƯỜNG
HÀ NỘI – 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan luận văn này hoàn toàn do tôi thực hiện. Các đoạn trích
dẫn và số liệu sử dụng trong luận văn đều được dẫn nguồn và có độ chính xác
cao nhất trong phạm vi hiểu biết của tôi.
Hà Nội, ngày 28 tháng 08 năm 2017
Tác giả luận văn
Phạm Thị Trà My
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin gửi lời biết ơn sâu sắc dành cho gia đình, bố mẹ tôi đã tạo điều
kiện và ủng hộ về vật chất cũng như động viên tinh thần để tôi học hành trong
suốt thời gian qua.
Tôi xin chân thành cảm ơn PGS.TS Lương Thanh Cường, người trực
tiếp hướng dẫn tôi thực hiện đề tài, thầy đã cung cấp nhiều tài liệu quan trọng,
tận tình truyền đạt kiến thức và đưa ra những lời khuyên, lời phê bình, lời góp
ý sâu sắc giúp tôi hoàn thành nghiên cứu này.
Cuối cùng là lời cảm ơn sâu sắc đến các thầy, các cô tại Học viện Hành
chính Quốc gia đã nhiệt tình giảng dạy, hướng dẫn và tạo điều kiện cho tôi
tiếp thu những kiến thức quý báu trong suốt hai năm qua. Cảm ơn các anh,
các chị trong Lớp HC20B1 đã chia sẻ những kinh nghiệm hữu ích và hỗ trợ
tôi trong quá trình nghiên cứu và học tập tại trường.
Tác giả luận văn
Phạm Thị Trà My
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT VÀ KÝ HIỆU
ATGT An toàn giao thông
ĐKVN Đăng kiểm Việt Nam
GTĐTNĐ Giao thông đường thủy nội địa
GTVT Giao thông vận tải
PTTNĐ Phương tiện thủy nội địa
QLNN Quản lý nhà nước
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT VÀ KÝ HIỆU
MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG, SƠ ĐỒ, BIỂU ĐỒ
PHẦN MỞ ĐẦU ..................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ QUẢN LÝ NHÀ
NƯỚC VỀ ĐĂNG KIỂM PHƯƠNG TIỆN THỦY NỘI ĐỊA ........................ 8
1.1. Phương tiện thuỷ nội địa và đăng kiểm phương tiện thuỷ nội địa .................. 8
1.2. Cấu thành quản lý nhà nước về đăng kiểm phương tiện thuỷ nội địa .......... 16
1.3. Những yếu tố tác động đến quản lý nhà nuớc về đăng kiểm phương tiện thuỷ
nội địa. ..................................................................................................................... 29
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1 ......................................................................................... 35
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ ĐĂNG KIỂM
PHƯƠNG TIỆN THỦY NỘI ĐỊA TẠI CỤC ĐĂNG KIỂM VIỆT NAM . 36
2.1. Giới thiệu chung về Cục Đăng kiểm Việt Nam ............................................ 36
2.2. Hiện trạng quản lý nhà nước về đăng kiểm phương tiện thuỷ nội địa tại Cục
Đăng kiểm Việt Nam thời gian qua ........................................................................ 45
2.3. Nhận xét về quản lý nhà nước về đăng kiểm phương tiện thuỷ nội địa tại
Cục Đăng kiểm Việt Nam ...................................................................................... 62
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2 ......................................................................................... 72
CHƯƠNG 3: ĐỊNH HƯỚNG, GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM QUẢN LÝ NHÀ
NƯỚC VỀ ĐĂNG KIỂM PHƯƠNG TIỆN THỦY NỘI ĐỊA TẠI CỤC
ĐĂNG KIỂM VIỆT NAM .................................................................................. 74
3.1. Định hướng bảo đảm quản lý nhà nước về đăng kiểm phương tiện thuỷ nội
địa tại Cục Đăng kiểm Việt Nam ........................................................................... 74
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nuớc về đăng kiểm
phương tiện thuỷ nội địa tại Cục Đăng kiểm Việt Nam ....................................... 79
TIỂU KÉT CHƯƠNG 3 ......................................................................................... 95
KẾT LUẬN ............................................................................................................ 97
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................... 99
PHỤ LỤC ............................................................................................................. 106
DANH MỤC BẢNG, SƠ ĐỒ, BIỂU ĐỒ
BẢNG
Bảng 2.1: Số lượng thiết kế giữa năm 2015 và năm 2016 .............................. 50
Bảng 2.2: Số lượt phương tiện được giám sát năm 2014-2015 ...................... 58
Bảng 2.3: Số lượt phương tiện được giám sát năm 2015-2016 ...................... 60
SƠ ĐỒ
Sơ đồ 2.1: Các lĩnh vực hoạt động của Cục Đăng kiểm Việt Nam ............... 44
Sơ đồ 2.2: Tổ chức của Cục Đăng kiểm Việt Nam ......................................... 47
BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 1: So sánh số lượng thiết kế giữa năm 2015 và năm 2016 ...............50
Biểu đồ 2: So sánh số lượt phương tiện được giám sát năm 2014-2015 ........ 59
Biểu đồ 3: Số lượt phương tiện năm 2014 được giám sát phân theo loại hình
......................................................................................................................... 59
Biểu đồ 4: Số lượt phương tiện năm 2015 được giám sát phân theo loại hình
......................................................................................................................... 59
Biểu đồ 5: So sánh số lượt phương tiện được giám sát năm 2015-2016 ........ 61
Biểu đồ 6: Số lượt phương tiện năm 2016 được giám sát phân theo loại hình
......................................................................................................................... 61
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài luận văn
Cục Đăng kiểm Việt Nam là tổ chức trực thuộc Bộ Giao thông vận tải
(BGTVT), thực hiện chức năng QLNN về đăng kiểm đối với phương tiện
giao thông và phương tiện, thiết bị xếp dỡ, thi công chuyên dùng, container,
nồi hơi và bình chịu áp lực sử dụng trong GTVT đường bộ, đường sắt, đường
thủy nội địa, hàng hải trong phạm vi cả nước; tổ chức thực hiện công tác đăng
kiểm chất lượng an toàn kỹ thuật các loại phương tiện, thiết bị GTVT và
phương tiện, thiết bị thăm dò, khai thác, vận chuyển dầu khí trên biển theo
quy định của pháp luật.
Nước ta có 3.260 km bờ biển, có gần 3.000 đảo lớn nhỏ nằm rải rác trên
diện tích hơn một triệu km2 mặt biển đã tạo thành nhiều tuyến vận tải biển và
ven biển. Hệ thống cảng biển có 119 cảng được hình thành hầu hết trên các
tỉnh, thành phố ven biển. Ngoài ra, chúng ta còn có 2.360 con sông, kênh lớn
nhỏ với tổng chiều dài khoảng 220.000 km và có khoảng 6.000 cảng bến thủy
nội địa, đây là điều kiện hình thành hệ thống giao thông nối liền các tỉnh,
thành phố với nhau. Trong đó, GTĐTNĐ có khoảng 41.000 km sông, kênh
được khai thác vào mục đích vận tải. Theo sự hình thành tự nhiên, hiện nay hệ
thống sông, kênh từ nội địa đổ ra biển đã tạo nên hệ thống GTVT sông, biển
liên hoàn, tạo điều kiện thuận lợi cho việc GTVT thủy, góp phần vào sự
nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, giao lưu quốc tế trên mọi lĩnh vực của đất
nước.
Nhằm phát huy thế mạnh của hệ thống GTVT thủy nội địa, Đảng, Nhà
nước đã có nhiều chủ trương, chính sách phát triển kinh tế - xã hội thông qua
hoạt động GTĐTNĐ, như tăng cường vận tải thủy nội địa giảm tải cho đường
bộ; phát triển tuyến vận tải thủy nội địa ven bờ biển; kết nối các phương thức
vận tải. Để đạt được mục tiêu đó đòi hỏi phải tăng cường QLNN về giao thông
1
đường thuỷ nội địa, trong đó việc bảo đảm an toàn cho các PTTNĐ đóng vai
trò vô cùng quan trọng vì nó gắn liền với sinh mạng con người và tài sản của
người dân.
Theo định nghĩa của Luật GTĐTNĐ, PTTNĐ là tàu, thuyền và các cấu
trúc nổi khác, có động cơ hoặc không có động cơ, chuyên hoạt động trên
đường thủy nội địa, cũng theo quy định của Luật GTĐTNĐ, Bộ GTVT có
trách nhiệm quy định tiêu chuẩn chất lượng, an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi
trường của PTTNĐ; quy định và tổ chức thực hiện thống nhất việc đăng kiểm
trong phạm vi cả nước. Cục ĐKVN là đơn vị thuộc Bộ GTVT được giao trực
tiếp thực hiện chức năng QLNN về lĩnh vực này.
Quy định về công tác đăng kiểm PTTNĐ đã được Bộ GTVT quy định cụ
thể tại Thông tư số 48/2015/TT-BGTVT ngày 22/9/2015, trong đó trách
nhiệm QLNN về công tác đăng kiểm PTTNĐ của Cục ĐKVN được cụ thể
như sau:
- Xây dựng mới hoặc bổ sung, sửa đổi quy chuẩn kỹ thuật, tiêu chuẩn kỹ
thuật về chất lượng an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường của phương tiện
trình cơ quan có thẩm quyền ban hành; xây dựng, ban hành các quy định về
nghiệp vụ đăng kiểm để áp dụng quy chuẩn kỹ thuật, tiêu chuẩn kỹ thuật về
chất lượng, an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường của phương tiện.
- Tổ chức hướng dẫn, chỉ đạo nghiệp vụ về đăng kiểm phương tiện và
kiểm tra thực hiện quy định về đăng kiểm PTTNĐ.
- Xây dựng, quản lý, hướng dẫn sử dụng thống nhất Cơ sở dữ liệu quản
lý đăng kiểm PTTNĐ; nối mạng truyền số liệu và quản lý dữ liệu phương tiện
của các đơn vị đăng kiểm.
- Tổ chức tập huấn về nghiệp vụ đăng kiểm.
- Thực hiện việc xác nhận và thông báo năng lực đơn vị đăng kiểm; công
bố hạng các đơn vị đăng kiểm trên trang thông tin điện tử của Cục ĐKVN.
2
- Công bố danh sách các đơn vị đăng kiểm được Cục ĐKVN ủy quyền
thực hiện công tác đăng kiểm trên trang thông tin điện tử của Cục ĐKVN.
- Kiểm tra, giám sát công tác đăng kiểm của các đơn vị đăng kiểm. Xử lý
hoặc đề nghị xử lý sai phạm của cá nhân và đơn vị đăng kiểm theo quy định.
- Quy định các biên bản, báo cáo kiểm tra kỹ thuật cấp cho phương tiện.
- In ấn, quản lý, cấp phát các loại ấn chỉ, ấn phẩm sử dụng trong đăng
kiểm phương tiện.
- Báo cáo kết quả thực hiện công tác đăng kiểm theo quy định.
- Thu phí, lệ phí theo quy định hiện hành.
Bên cạnh các quy định về đăng kiểm PTTNĐ, Bộ GTVT cũng đã ban
hành Thông tư số 49/2015/TT-BGTVT ngày 22/9/2015 quy định về tiêu
chuẩn, nhiệm vụ và quyền hạn của lãnh đạo, đăng kiểm viên và nhân viên
nghiệp vụ của đơn vị đăng kiểm PTTNĐ nhằm xây dựng nguồn nhân lực thực
hiện công tác đăng kiểm PTTNĐ. Để đạt được mục tiêu nâng cao chất lượng
phương tiện, đảm bảo an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường cho phương tiện
thì yếu tố con người thực thi đóng vai trò rất quan trọng. Chính vì vậy, việc
chuẩn hóa nguồn nhân lực thông qua việc đưa ra các tiêu chuẩn về chuyên
môn nghiệp vụ, thời gian đào tạo, nội dung đào tạo là rất cần thiết. Để trở
thành đăng kiểm viên PTTNĐ, người được đào tạo phải đủ tiêu chuẩn theo
quy định, được đào tạo lý thuyết và thực hành nghiệp vụ, sau một thời gian
thực tập, thực hành nghiệp vụ mới được xem xét đánh giá và bổ nhiệm đăng
kiểm viên PTTNĐ.
Trong thời gian qua, Cục ĐKVN đã thực hiện tốt chức năng QLNN
trong lĩnh vực đăng kiểm PTTNĐ. Tuy nhiên, vẫn còn một số tồn tại, bất cập
trong quá trình thực hiện do các yếu tố chủ quan cũng như các yếu tố khách
quan, cần phải được xem xét, nghiên cứu một cách rất khoa học nhằm tìm ra
nguyên nhân của những tồn tại cũng như các giải pháp thực hiện nhằm nâng
3
cao hiệu lực, hiệu quả của công tác quản lý. Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài
luận văn: "Quản lý nhà nước về đăng kiểm phương tiện thủy nội địa tại Cục
Đăng kiểm Việt Nam" là cần thiết và mang tính thời sự rất cao.
2. Tình hình nghiên cứu
Việc tiếp cận và nghiên cứu chung về QLNN của ngành GTVT nói
chung hoặc về QLNN trong một số lĩnh vực cụ thể của ngành giao thông nói
riêng đã có một số đề tài và bài báo….. Trên thực tiễn các giải pháp nhằm
nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước cũng đã có những tiếp cận
chung ví dụ như:
Đỗ Trung Dũng (2015) trong đề tài “Nghiên cứu các giải pháp nâng cao
hiệu quả quản lý nhà nước tại các cảng, bến thủy nội địa trên địa bàn quản lý
của Cảng vụ Đường thủy nội địa khu vực I”. Trong nghiên cứu có những
phân tích, đánh giá thực trạng cảng ,bến thuỷ, phương tiện, nguồn nhân lực
công tác quản lý. Dựa trên những phân tích trên để đưa ra nhưng giải pháp tập
trung nâng cao hiệu quả quản lý tại các cảng biển, bến thuỷ nội địa phù hợp
tính chất đặc thù khu vực I
Bùi Văn Minh, Lê Quốc Tiến (2016) trên bài “Thực trạng ngành hàng
hải và giải pháp nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý nhà nước
chuyên ngành hàng hải” (trên tạp chí Khoa học Hàng hải) đã phân tích những
đóng góp của ngành hàng hải tác động đối với sự phát triển của nền kinh tế
quốc dân, nhất là các ngành, các lĩnh vực liên quan đến kinh tế biển, kinh tế
thương mại, du lịch; đồng thời góp phần bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền
quốc gia cũng như bảo đảm quốc phòng, an ninh và bảo vệ môi trường biển.
Bài viết đã nghiên cứu các giải pháp nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà
nước chuyên ngành, nhằm góp phần thúc đẩy kinh tế hàng hải và kinh tế biển
nói chung, tạo bước đột phá về kết cấu hạ tầng giao thông hàng hải, phát huy
vai trò là đầu mối kết nối với các ngành giao thông khác
4
Nhìn chung các đề tài, bài báo đã phân tích và làm rõ một cách có hệ
thống những vấn đề lý luận chung về quản lý nhà nước và đề xuất giải pháp
góp phần giúp nâng cao hiệu lực, hiệu quả trong công tác quản lý đối với một
số lĩnh vực cụ thể của ngành giao thông vận tải. Tuy nhiên để nhấn mạnh vai
trò của quản lý nhà nước về đăng kiểm phương tiện thủy nội địa tại Cục Đăng
kiểm Việt Nam có thể xem là đề tài đầu tiên
3. Mục tiêu của luận văn
Mục tiêu của luận văn làm sáng tỏ những vấn đề lý luận cơ bản, đánh giá
đúng đắn thực trạng, từ đó đưa ra các giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao
hiệu lực, hiệu quả QLNN về hoạt động đăng kiểm PTTNĐ tại Cục ĐKVN.
Để đạt được mục tiêu đó, Luận văn có nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể sau:
- Phân tích và làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về QLNN về đăng
kiểm PTTNĐ tại Cục ĐKVN: Đưa ra được khái niệm, định nghĩa, đặc điểm,
vai trò và nội dung, thẩm quyền QLNN về đăng kiểm PTTNĐ; thẩm quyền
của Cục ĐKVN trong QLNN về đăng kiểm PTTNĐ.
- Phân tích, đánh giá đúng đắn thực trạng QLNN về đăng kiểm PTTNĐ
tại Cục ĐKVN thời gian qua: chỉ rõ những kết quả đạt được, những hạn chế,
bất cập và nguyên nhân của những hạn chế, bất cập.
- Đề xuất phương hướng, giải pháp, kiến nghị cụ thể nhằm nâng cao hiệu lực,
hiệu quả QLNN về đăng kiểm PTTNĐ tại Cục ĐKVN.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của Đề tài
Luận văn nghiên cứu thẩm quyền, nội dung, phạm vi, phương thức thực hiện
chức năng QLNN về đăng kiểm PTTNĐ tại Cục ĐKVN trong khoảng thời
gian thực hiện Luật Giao thông đường thuỷ nội địa năm 2004, đặc biệt là tập
trung vào giai đoạn từ năm 2015 đến nay – giai đoạn thực hiện Thông tư số
48/2015/TT-BGTVT ngày 22/9/2015 của Bộ GTVT quy định về đăng kiểm
PTTNĐ và Thông tư số 49/2015/TT-BGTVT ngày 22/9/2015 của Bộ GTVT
5
quy định về tiêu chuẩn, nhiệm vụ và quyền hạn của lãnh đạo, đăng kiểm viên
và nhân viên nghiệp vụ của đơn vị đăng kiểm phương tiện thủy nội.
5. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu luận văn, học viên sử dụng các phương pháp
nghiên cứu khoa học xã hội cơ bản là: tổng hợp, thống kê, lịch sử, phân tích
và so sánh.
- Luận văn sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp nhằm bảo đảm
những nội dung được nghiên cứu vừa có tính hệ thống, khái quát, vừa có tính
chuyên sâu về từng vấn đề được đề cập.
- Luận văn thường xuyên sử dụng phương pháp so sánh, phương pháp
lịch sử để nghiên cứu QLNN về đăng kiểm PTTNĐ tại Cục ĐKVN trong sự
phát triển có tính lịch sử và so sánh đặc điểm, tính chất của nó giữa các giai
đoạn lịch sử với nhau. Đồng thời, học viên còn so sánh QLNN về đăng kiểm
PTTNĐ với các lĩnh vực QLNN khác, từ đó chỉ ra những điểm đặc thù cần
phải quan tâm để nâng cao chất lượng hoạt động này.
- Luận văn sử dụng phương pháp thống kê được để xử lý những số liệu
thực tiễn, đặc biệt là thực hiện QLNN về đăng kiểm PTTNĐ tại Cục ĐKVN.
Qua các số liệu thực tiễn, nhất là các số liệu tổng hợp trong các báo cáo trong
thời gian qua, học viên xây dựng hệ thống các bảng biểu, đồ thị để khái quát
những kết quả đạt được, những tồn tại, hạn chế trong lĩnh vực này.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Về lý luận, luận văn góp phần làm rõ những vần đề lý luận nghiên cứu
hệ thống hoạt động QLNN về đăng kiểm PTTNĐ qua đó đề xuất những giải
pháp đổi mới công tác quản lý nhà nước tại Cục Đăng kiểm Việt Nam để phát
huy những lợi thế và khắc phục những vấn đề còn tồn tại nhằm đảm bảo việc
thực hiện các quy định của pháp luật về đăng kiểm PTTNĐ mà vẫn tạo điều
kiện cho doanh nghiệp, chủ phương tiện phát triển
6
Về thực tiễn , Luận văn có thể là tài liệu tham khảo trong quá trình hoàn
thiện QLNN về đăng kiểm PTTNĐ, đặc biệt là tổng kết được thực tiễn lĩnh
vực này. Các giải pháp đưa ra có tính khả thi, đáp ứng được các yêu cầu về
quản lý nhà nước trong giai đọan hiện nay và “đón đầu” xu hướng phát triển
của ngành
7. Kết cấu của Luận văn
Ngoài Phần mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, Luận văn được kết
cấu gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản của quản lý nhà nước về đăng
kiểm phương tiện thủy nội địa
Chương 2: Thực trạng quản lý nhà nước về đăng kiểm phương tiện thủy
nội địa tại Cục Đăng kiểm Việt Nam
Chương 3: Định hướng, giải pháp bảo đảm quản lý nhà nước về đăng
kiểm phương tiện thủy nội địa tại Cục Đăng kiểm Việt Nam
7
CHƯƠNG 1:
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ
ĐĂNG KIỂM PHƯƠNG TIỆN THỦY NỘI ĐỊA
1.1. Phương tiện thuỷ nội địa và đăng kiểm phương tiện thuỷ
nội địa
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của phương tiện thuỷ nội địa
Trong đời sống xã hội, thuật ngữ phương tiện thường được hiểu là những
vật dùng để làm một việc gì đó, nhằm đến mục đích nào đó. Trong lĩnh vực
GTVT, thuật ngữ "phương tiện" thường được dùng dưới cụm từ "phương tiện
giao thông", đó là các vật dùng để di chuyển, đi lại công khai như xe, tàu
điện, các phương tiện giao thông công cộng…. Trong mỗi loại phương tiện
giao thông lại phân định thành các loại phương tiện giao thông khác nhau. Ví
dụ, chỉ trong lĩnh vực giao thông đường bộ thì phương tiện giao thông đường
bộ bao gồm hai loại là phương tiện giao thông cơ giới đường bộ và phương
tiện giao thông thô sơ đường bộ.
Ở Việt Nam, đường thủy nội địa được xác định là luồng, âu tàu, các công
trình đưa phương tiện qua đập, thác trên sông, kênh, rạch, hoặc luồng trên hồ,
đầm, phá, vụng, vịnh, ven bờ biển, ra đảo, nối các đảo thuộc nội thủy nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được tổ chức quản lý, khai thác GTVT. Theo
Khoản 1 Điều 3 Thông tư 23/2011/TT-BGTVT ban hành ngày 31 tháng 03 năm
2011 thì đường thuỷ nội địa được phân thành thành 3 loại bao gồm: Đường thuỷ
nội địa quốc gia, đường thuỷ nội địa địa phương và đường thuỷ nội địa chuyên
dùng.
Đường thuỷ nội địa quốc gia là tuyến đường thuỷ nội địa nối liền các
trung tâm kinh tế, văn hoá xã hội, các đầu mối GTVT quan trọng phục vụ
kinh tế, quốc phòng, an ninh quốc gia hoặc tuyến đường thuỷ nội địa có hoạt
động vận tải thuỷ qua biên giới.
8
Đường thuỷ nội địa địa phương là tuyến đường thuỷ nội địa thuộc phạm
vi quản lý hành chính của tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, chủ yếu
phục vụ cho việc phát triển kinh tế, xã hội của địa phương.
Đường thuỷ nội địa chuyên dùng là luồng chạy tàu, thuyền nối liền vùng
nước cảng, bến thuỷ nội địa chuyên dùng với đường thuỷ nội địa quốc gia
hoặc đường thuỷ nội địa địa phương, phục vụ cho nhu cầu GTVT của tổ chức,
cá nhân đó.
Hiện nay, với một hệ thống đường thuỷ nội địa rất phong phú gồm hơn
2.360 sông kênh, có tổng chiều dài 42.000km, cùng các hồ, đầm, phá, hơn
3.200km bờ biển và hàng nghìn km đường từ bờ ra đảo tạo thành một hệ
thống vận tải thuỷ thông thương giữa mọi vùng đất nước, từ thành thị đến
nông thôn, từ miền núi đến hải đảo, góp phần tích cực vào việc vận chuyển
hàng hóa và hành khách. Ưu thế của vận tải đường thủy nội địa là chi phí
thấp, vận chuyển hàng hoá khối lượng lớn và ít gây ô nhiễm môi trường. Hiện
nay, vận tải đường thủy nội địa giữ tỷ trọng khoảng 25% tổng khối lượng
hàng hoá vận tải của toàn ngành GTVT, với mức tăng trưởng bình quân hàng
năm khoảng 10%; đặc biệt khu vực đồng bằng sông Cửu Long, vận tải đường
thủy nội địa đảm nhiệm khoảng 60-70% tổng khối lượng vận tải hàng hoá
trong khu vực với mức tăng trưởng bình quân khoảng 20% năm. GTVT
đường thủy nội địa có vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hôi,
bảo đảm an ninh, quốc phòng và góp phần giao lưu với một số quốc gia lân
cận, đồng thời là ngành có tính chất xã hội hoá cao, nhiều thành phần kinh tế
đều tham gia kinh doanh vận tải thủy nội địa. Với lợi thế đó, ngành vận tải
thuỷ nội địa ở Việt Nam là một ngành vận tải truyền thống, khả năng phát
triển các thành phần kinh tế rộng rãi với khả năng thu hút vốn đầu tư từ nhiều
nguồn, nhất là cho việc đóng mới phương tiện.
9
Hoạt động trong lĩnh vực giao thông đường thuỷ nội địa rất đa dạng, bao
gồm hoạt động của người, phương tiện tham gia GTVT trên đường thủy nội
địa; quy hoạch phát triển, xây dựng, khai thác, bảo vệ kết cấu hạ tầng giao
thông đường thuỷ nội địa; tìm kiếm, cứu nạn, cứu hộ GTĐTNĐ và QLNN về
giao thông đường thuỷ nội địa….Trong đó, hoạt động của các PTTNĐ là
nòng cốt, gắn liền với nhu cầu vận tải của người dân và xã hội, đòi hỏi phải
chịu sự quản lý chặt chẽ từ phía nhà nước.
PTTNĐ ở Việt Nam rất đa dạng, gồm nhiều loại khác nhau. Theo Khoản
8 Điều 5 Nghị định số 40 ngày 05 tháng 07 năm 2013 về bảo đảm trật tự, an
toàn GTĐTNĐ thì Phương tiện thuỷ nội địa bao gồm:
- Tàu, thuyền có động cơ hoặc không có động cơ;
- Bè mảng;
- Các cấu trúc nổi được sử dụng vào mục đích giao thông, vận tải hoặc
kinh doanh dịch vụ trên đường thuỷ nội địa.[26]
Để bảo đảm tính khái quát, Luật GTĐTNĐ đã quy định: Phương tiện
thuỷ nội địa là tàu, thuyền và các cấu trúc nổi khác, có động cơ hoặc không
có động cơ, chuyên hoạt động trên đường thuỷ nội địa.[70]
Phương tiện thuỷ nội địa có các đặc điểm sau:
Thứ nhất, PTTNĐ hoạt động gắn liền với hệ thống đường thủy nội địa.
Trong các loại phương tiện GTVT nói chung thì PTTNĐ có vai trò quan
trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an ninh, quốc phòng và
giao thương, đồng thời là ngành có tính chất xã hội hóa cao, nhiều thành phần
kinh tế đều tham gia kinh doanh vận tải thủy nội địa. Có những thời điểm
PTTNĐ đã khẳng định được vị trí trọng yếu trong đời sống xã hội của đất
nước. Ví dụ như năm 1967, khi địch bắn phá ác liệt miền Bắc nước ta, vận tải
đường sông chiếm 48,7%, tiếp đó mới đến vận tải đường sắt (chiếm 26,8%),
vận tải bằng ô tô (chiếm 21,7%), vận tải đường biển (chiếm 0,2%).
10
Thứ hai, PTTNĐ chủ yếu sử dụng vào mục đích phục vụ, tham gia trực
tiếp vào việc cung ứng vật tư kĩ thuật, nguyên liệu, năng lượng cho các cơ sở
sản xuất và sản phẩm đến thị trường tiêu thụ, giúp cho các quá trình sản xuất
xã hội diễn ra liên tục và bình thường, phục vụ nhu cầu đi lại của nhân dân,
giúp cho các hoạt động sinh hoạt được thuận tiện. PTTNĐ có thể coi là một
trong những mối liên hệ kinh tế, xã hội giữa các địa phương được thực hiện
nhờ mạng lưới GTVT thủy nội địa. Vì thế, những nơi gần các tuyến vận tải
thủy nội địa lớn, các đầu mối GTVT cũng là nơi tập trung các ngành sản xuất,
dịch vụ và dân cư.
Điều kiện bảo đảm hoạt động của PTTNĐ được quy định tại Điều 24
Luật GTĐTNĐ (sửa đổi, bổ sung năm 2014) như sau:
- Đối với phương tiện không có động cơ trọng tải toàn phần trên 15 tấn,
phương tiện có động cơ tổng công suất máy chính trên 15 sức ngựa, phương
tiện có sức chở trên 12 người khi hoạt động trên đường thủy nội địa phải bảo
đảm các điều kiện sau:
+ Đạt tiêu chuẩn chất lượng, an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường theo
quy định tại khoản 3 và khoản 4 Điều 26 của Luật này;
+ Có giấy chứng nhận đăng ký PTTNĐ, giấy chứng nhận an toàn kỹ
thuật và bảo vệ môi trường; kẻ hoặc gắn số đăng ký, vạch dấu mớn nước an
toàn, ghi số lượng người được phép chở trên phương tiện;
+ Có đủ định biên thuyền viên và danh bạ thuyền viên theo quy định.
- Đối với phương tiện có động cơ tổng công suất máy chính từ 5 sức
ngựa đến 15 sức ngựa hoặc có sức chở từ 5 người đến 12 người khi hoạt động
trên đường thủy nội địa phải bảo đảm điều kiện quy định tại điểm a và điểm b
khoản 1 Điều này.
- Đối với phương tiện không có động cơ trọng tải toàn phần từ 1 tấn đến
15 tấn hoặc có sức chở từ 5 người đến 12 người, phương tiện có động cơ công
11
suất máy chính dưới 5 sức ngựa hoặc có sức chở dưới 5 người khi hoạt động
trên đường thủy nội địa phải có giấy chứng nhận đăng ký PTTNĐ và bảo đảm
điều kiện an toàn như sau:
+ Thân phương tiện phải chắc chắn, không bị rò nước vào bên trong;
phương tiện phải thắp một đèn có ánh sáng trắng ở nơi dễ nhìn nếu hoạt động
vào ban đêm; phương tiện chở người phải có đủ chỗ cho người ngồi cân bằng
trên phương tiện và có đủ áo phao hoặc dụng cụ cứu sinh cho số người được
phép chở trên phương tiện;
+ Máy lắp trên phương tiện phải chắc chắn, an toàn, dễ khởi động và
hoạt động ổn định;
+ Phương tiện phải được kẻ hoặc gắn số đăng ký, ghi số lượng người
được phép chở trên phương tiện;
+ Phương tiện phải được sơn vạch dấu mớn nước an toàn và khi chở
người, chở hàng không được ngập qua vạch dấu mớn nước an toàn. Dấu mớn
nước an toàn của phương tiện được sơn một vạch có màu khác với màu sơn
mạn phương tiện; vạch sơn có chiều rộng 25 milimét, chiều dài 250 milimét
nằm ngang trên hai bên mạn tại vị trí giữa của chiều dài lớn nhất của phương
tiện; mép trên của vạch sơn cách mép mạn 100 milimét đối với phương tiện
chở hàng, cách mép mạn 200 milimét đối với phương tiện chở người.
- Đối với phương tiện thô sơ có trọng tải toàn phần dưới 1 tấn hoặc sức
chở dưới 5 người hoặc bè khi hoạt động trên đường thủy nội địa phải bảo đảm
điều kiện an toàn quy định tại điểm a khoản 3 Điều này.
Để được tham gia GTĐTNĐ thì các PTTNĐ phải bảo đảm còn niên hạn
sử dụng theo quy định của Chính phủ.
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm của đăng kiểm phương tiện thuỷ nội địa
Việc đăng ký, đăng kiểm phương tiện là nhu cầu cần thiết, nhằm đưa
phương tiện vào quản lý, đồng thời xác lập quyền chủ sở hữu tài sản của chủ
12
phương tiện, đảm bảo trật tự an toàn giao thông. Trong lĩnh vực GTVT, các
văn bản pháp luật chưa có giải thích thống nhất về thuật ngữ "đăng kiểm" mà
chỉ có những quy định chung về tiêu chuẩn an toàn cho các phương tiện giao
thông và một số quy định mô tả nội dung của của hoạt động này từ góc độ
thực hiện nhiệm vụ QLNN.
Ví dụ, theo Điều 55 Luật Giao thông đường bộ năm 2008 về bảo đảm
quy định về chất lượng an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường của xe cơ giới
tham gia giao thông đường bộ thì xe ô tô và rơ moóc, sơ mi rơ moóc được kéo
bởi xe ô tô tham gia giao thông đường bộ phải được kiểm tra định kỳ về an
toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường (gọi là kiểm định). Chủ phương tiện,
người lái xe ô tô chịu trách nhiệm duy trì tình trạng an toàn kỹ thuật của
phương tiện theo tiêu chuẩn quy định khi tham gia giao thông đường bộ giữa
hai kỳ kiểm định. Việc kiểm định do cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực
hiện. Người đứng đầu cơ sở đăng kiểm và người trực tiếp thực hiện việc kiểm
định phải chịu trách nhiệm về việc xác nhận kết quả kiểm định.
Trong lĩnh vực GTĐTNĐ, các PTTNĐ chỉ được sử dụng theo đúng công
dụng và đúng vùng hoạt động theo giấy chứng nhận an toàn kỹ thuật và bảo
vệ môi trường của cơ quan đăng kiểm. Phương tiện quy định tại khoản 1 và
khoản 2 Điều 24 của Luật GTĐTNĐ thuộc diện đăng kiểm; chủ các loại
phương tiện này phải thực hiện quy định sau đây:
- Khi đóng mới, hoán cải, sửa chữa phục hồi phương tiện phải có hồ sơ
thiết kế được cơ quan đăng kiểm phê duyệt;
- Trong quá trình phương tiện hoạt động phải chịu sự kiểm tra về an toàn
kỹ thuật và bảo vệ môi trường của cơ quan ĐKVN; chịu trách nhiệm bảo đảm
tình trạng an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường của phương tiện theo các tiêu
chuẩn quy định giữa hai kỳ kiểm tra.
13
Cơ quan đăng kiểm khi thực hiện kiểm tra an toàn kỹ thuật của phương
tiện phải tuân theo hệ thống quy phạm, tiêu chuẩn Việt Nam, tiêu chuẩn
ngành. Người đứng đầu cơ quan đăng kiểm và người trực tiếp thực hiện kiểm
tra phải chịu trách nhiệm về kết quả kiểm tra.
Từ thực tiễn hoạt động nghiệp vụ đăng kiểm hiện nay, có thể quan niệm
như sau: Đăng kiểm phương tiện thuỷ nội địa là việc kiểm tra và xác nhận
tiêu chuẩn an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường nhằm bảo đảm an toàn
trong quá trình vận hành cho các phương tiện thuỷ nội địa.
Hoạt động đăng kiểm PTTNĐ có những đặc điểm sau:
Thứ nhất, hoạt động đăng kiểm PTTNĐ do cơ quan, tổ chức có thẩm
quyền thực hiện theo thẩm quyền, trình tự, thủ tục và nội dung được pháp luật
quy định. Hoạt động đăng kiểm PTTNĐ là một nội dung của QLNN về
PTTNĐ, nằm trong nội dung QLNN về GTĐTNĐ.
Thứ hai, nội dung đăng kiểm PTTNĐ gồm nhiều hoạt động cụ thể, gắn
liền với việc so sánh, đối chiếu với các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật và môi
trường.
Ở đây, có sự phân định giữa tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật. Tiêu
chuẩn là quy định về đặc tính kỹ thuật và yêu cầu quản lý dùng làm chuẩn để
phân loại, đánh giá sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ, quá trình, môi trường và các
đối tượng khác trong hoạt động kinh tế - xã hội nhằm nâng cao chất lượng và
hiệu quả của các đối tượng này. Tiêu chuẩn do một tổ chức công bố dưới
dạng văn bản để tự nguyện áp dụng. Quy chuẩn kỹ thuật được hiểu là quy
định về mức giới hạn của đặc tính kỹ thuật và yêu cầu quản lý mà sản phẩm,
hàng hoá, dịch vụ, quá trình, môi trường và các đối tượng khác trong hoạt
động kinh tế - xã hội phải tuân thủ để bảo đảm an toàn, vệ sinh, sức khoẻ con
người; bảo vệ động vật, thực vật, môi trường; bảo vệ lợi ích và an ninh quốc
gia, quyền lợi của người tiêu dùng và các yêu cầu thiết yếu khác.[72]
14
Thứ ba, đăng kiểm bao gồm nhiều hoạt động khác nhau và gắn liền với
toàn bộ quá trình tồn tại và vận hành của PTTNĐ.
Nội dung đăng kiểm PTTNĐ bao gồm:
- Thẩm định hồ sơ thiết kế và tài liệu hướng dẫn của tàu.
- Kiểm tra chất lượng, an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường, cấp giấy
chứng nhận an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường PTTNĐ cho phương tiện
nhập khẩu.
- Kiểm tra và cấp các giấy chứng nhận cho sản phẩm công nghiệp sử
dụng cho phương tiện. Sản phẩm công nghiệp sử dụng cho PTTNĐ gồm: Vật
liệu, máy móc và các trang thiết bị được sử dụng trong đóng mới, hoán cải,
sửa chữa phục hồi lắp đặt trên PTTNĐ.
- Kiểm tra và cấp giấy chứng nhận an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường
PTTNĐ cho phương tiện trong đóng mới, hoán cải, sửa chữa phục hồi.
- Kiểm tra và cấp giấy chứng nhận an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường
PTTNĐ cho phương tiện trong quá trình hoạt động.
- Đo đạc xác định trọng tải toàn phần và dung tích của phương tiện.
- Đo đạc xác định mạn khô và vạch dấu mớn nước an toàn của phương
tiện.
- Sao và thẩm định mẫu định hình; thẩm định thiết kế thi công, thiết kế
hoàn công cho phương tiện.
Với nội dung đăng kiểm như trên, hoạt động đăng kiểm khác với hoạt
động kiểm định. Hoạt động kiểm định chỉ là một trong những nội dung trong
hoạt động đăng kiểm. Kiểm định là việc tiến hành kiểm tra định kỳ, đánh giá
tình trạng an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường của các phương tiện để cấp
chứng nhận có đủ điều kiện tham gia GTVT. Hoạt động đăng kiểm PTTNĐ
cũng khác với đăng ký PTTNĐ. Theo quy định của pháp luật, phương tiện có
nguồn gốc hợp pháp, đạt tiêu chuẩn chất lượng, an toàn kỹ thuật và bảo vệ
15
môi trường theo quy định của pháp luật thì được cơ quan nhà nước có thẩm
quyền cấp đăng ký. Việc đăng ký PTTNĐ chủ yếu nhằm mục đích quản lý
các PTTNĐ về mặt pháp lý và Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh tổ chức đăng ký
phương tiện theo quy định của Bộ trưởng Bộ GTVT.
Thứ tư, hoạt động đăng kiểm PTTNĐ gắn liền với việc kiểm tra phương
tiện với nhiều hình thức khác nhau như: kiểm tra lần đầu, kiểm tra theo chu
kỳ và kiểm tra bất thường.
- Kiểm tra lần đầu, bao gồm: kiểm tra phương tiện khi đóng mới, phương
tiện nhập khẩu, phương tiện đăng ký hành chính lần đầu;
- Kiểm tra chu kỳ, bao gồm: kiểm tra định kỳ; kiểm tra hàng năm; kiểm
tra trên đà; kiểm tra trung gian;
- Kiểm tra bất thường theo quy định tại Danh mục các các quy chuẩn kỹ
thuật, tiêu chuẩn kỹ thuật áp dụng đối với PTTNĐ.
1.2. Cấu thành quản lý nhà nước về đăng kiểm phương tiện thuỷ nội địa
1.2.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò quản lý nhà nước về đăng kiểm
phương tiện thuỷ nội địa
Hiện nay có nhiều cách giải thích thuật ngữ "quản lý". Có quan điểm cho
rằng quản lý là cai trị, áp đặt ý chí của người quản lý lên đối tượng chịu sự
quản lý nhưng cũng có quan niệm cho rằng quản lý là điều hành, điều khiển,
chỉ huy, có sự tham gia của cả chủ thể quản lý và đối tượng chịu sự quản lý.
Thuật ngữ quản lý cũng được sử dụng ở nhiều phương diện khác nhau, ví dụ
như quản lý xã hội, quản lý công, quản lý nguồn nhân lực…
Trong lĩnh vực thực thi quyền lực nhà nước, khái niệm "QLNN" cũng
được nhiều công trình nghiên cứu, tài liệu, giáo trình đề cập đến. Tuy nhiên,
dù quan niệm như thế nào thì khái niệm "QLNN" vẫn được hiểu một cách
chung nhất là sự tác động của quyền lực nhà nước lên các mối quan hệ xã hội
16
nhằm đạt được mục tiêu xác định mà nhà nước đề ra. Khi đề cập đến quyền
lực nhà nước, do cách tiếp cận từ những góc độ khác nhau mà quan niệm về
QLNN có nội hàm khác nhau. Do đó, nội dung QLNN có thể được hiểu theo
cả nghĩa rộng và nghĩa hẹp.
Theo nghĩa rộng, QLNN được hiểu là toàn bộ hoạt động của bộ máy nhà
nước, từ hoạt động lập pháp, hoạt động hành pháp, đến hoạt động tư pháp. Cơ
quan có thẩm quyền QLNN theo nghĩa rộng gồm cả Quốc hội, Chính phủ,
Tòa án, chính quyền địa phương…Với quan niệm này, đối tượng QLNN cũng
rất rộng, bao gồm toàn bộ các cơ quan, tổ chức, cá nhân khi tham gia vào các
mối quan hệ pháp luật trong lĩnh vực lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Theo nghĩa hẹp, QLNN chỉ bao gồm hoạt động hành pháp. Ở đây, quyền
hành pháp là một bộ phận cấu thành của quyền lực nhà nước, có nhiệm vụ
thực thi pháp luật, đưa pháp luật vào tổ chức xã hội và quản lý xã hội. Quyền
hành pháp do một bộ máy hành chính nhà nước phức tạp trải rộng từ trung
ương tới địa phương thực hiện. Cơ quan có thẩm quyền QLNN theo nghĩa hẹp
chỉ bao gồm Chính phủ, các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc chính phủ
và Ủy ban nhân dân các cấp và một số cơ quan khác được trao quyền hành
pháp. Đối tượng QLNN theo nghĩa hẹp chỉ bao gồm các cơ quan, tổ chức, cá
nhân tham gia vào mối quan hệ quản lý hành chính nhà nước. Trong mối quan
hệ này, nhà nước thực hiện quyền quản lý bằng biện pháp hành chính, chủ
yếu bằng phương thức quyền uy. Các đối tượng chịu sự quản lý phải tuân thủ
các quy định do nhà nước ban hành để thi hành pháp luật, nếu vi phạm sẽ bị
xử lý.
Trong lĩnh vực GTVT nói chung và đăng kiểm PTTNĐ nói riêng, quản
lý được hiểu theo nghĩa hẹp, đó là quá trình thực thi quyền hành pháp để đảm
bảo hoạt động đăng kiểm PTTNĐ đạt được mục tiêu đề ra.
17
Có thể quan niệm: Quản lý nhà nuớc về đăng kiểm phương tiện thuỷ
nội địa là sự tác động có tổ chức và điều chỉnh bằng quyền hành pháp đối
với quá trình đăng kiểm phương tiện thuỷ nội địa nhằm bảo đảm an toàn
trong quá trình vận hành cho các phương tiện thuỷ nội địa.
Với quan niệm như trên, QLNN về đăng kiểm PTTNĐ có những đặc
điểm sau:
Thứ nhất, QLNN về đăng kiểm PTTNĐ là hoạt động thực thi quyền
hành pháp trong lĩnh vực GTĐTNĐ.
Trước hết, hoạt động QLNN về đăng kiểm PTTNĐ phải do cơ quan, tổ
chức có thẩm quyền thực hiện, thể hiện ý chí của nhà nước thông qua việc
thực hiện các quy định của pháp luật về lĩnh này với nhiều nội dung khác
nhau từ việc xây dựng, ban hành chủ trương, chính sách pháp luật, tổ chức
thực hiện chính sách, pháp luật, thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm, hợp tác
quốc tế... Việc thực hiện nội dung QLNN về đăng kiểm PTTNĐ cũng được
thực hiện với nhiều hình thức khác nhau nhưng chủ yếu là biện pháp mệnh
lệnh- phục tùng thể hiện rõ nét bản chất của việc thực thi quyền hành pháp
trong mối quan hệ giữa chủ thể quản lý và đối tượng quản lý. Bên cạnh đó,
các chủ thể quản lý trong lĩnh vực QLNN về đăng kiểm PTTNĐ còn sử dụng
biện pháp giáo dục, thuyết phục để bảo đảm đạt được mục đích đề ra.
Thứ hai, QLNN về đăng kiểm PTTNĐ chỉ được tiến hành bởi những chủ
thể có quyền năng hành pháp, được tổ chức thành hệ thống chặt chẽ.
Chủ thể có thẩm quyền cụ thể trong QLNN về đăng kiểm PTTNĐ bao
gồm Chính phủ, Bộ GTVT, Cục ĐKVN và các chủ thể khác được trao thẩm
quyền cụ thể trong lĩnh vực này. Các chủ thể được trao thẩm quyền QLNN về
đăng kiểm PTTNĐ được tổ chức thành hệ thống chặt chẽ có sự phân cấp
trong quản lý bảo đảm sự liên tục trong hoạt động hành pháp, vừa thể hiện
tính tập trung trong thực thi quyền hành pháp nhưng đồng thời bảo đảm sự
18
kịp thời trong việc đáp ứng nhu cầu của xã hội. Chính vì đặc điểm này nên
trong QLNN về đăng kiểm PTTNĐ luôn phải xác định tính hợp lý thẩm
quyền của mỗi cấp quản lý.
Thứ ba, QLNN về đăng kiểm PTTNĐ có tính chấp hành và điều hành
Do QLNN về đăng kiểm PTTNĐ là một nội dung trong QLNN nói
chung nên thể hiện rõ nét tính chấp hành và điều hành. Tính chất đó được thể
hiện trên thực tế qua những hoạt động trong quá trình quản lý luôn phải bảo
đảm được tiến hành trên cơ sở pháp luật và nhằm mục đích thực hiện pháp
luật. Trong quản lý hành chính nhà nước nói chung và QLNN về đăng kiểm
PTTNĐ nói riêng mặc dù trong những giới hạn nhất định luôn có tính chủ
động sáng tạo của chủ thể quản lý nhưng không được vượt quá khuôn khổ
pháp luật và phân cấp thẩm quyền. Cấp dưới phải chấp hành quy định và chỉ
đạo của cấp trên. Các cấp quản lý phải điều hành cấp dưới của mình, thực
hiện việc dụng pháp luật hoặc tổ chức những hoạt động thực tiễn nhằm bảo
đảm các quy định của pháp luật do các cơ quan có thẩm quyền ban hành được
thực thi.
Thứ tư, QLNN về đăng kiểm PTTNĐ là hoạt động mang tính liên tục
Đây cũng là đặc điểm chung của hoạt động QLNN và phân biệt hoạt
động QLNN (theo nghĩa hẹp) với các hoạt động thực thi quyền lực nhà nước
khác như hoạt động lập pháp và tư pháp. Hoạt động QLNN về đăng kiểm
PTTNĐ luôn cần có tính liên tục, kịp thời và linh hoạt để đáp ứng sự vận
động không ngừng của đời sống xã hội trong lĩnh vực GTĐTNĐ. Chính điểm
đặc thù đòi hỏi tính liên tục trong việc QLNN về đăng kiểm PTTNĐ mà Nhà
nước đã ban hành các quy định về tổ chức và hoạt động đăng kiểm PTTNĐ,
quy định rõ chế độ trách nhiệm của các chủ thể khác nhau bao gồm chế độ
trách nhiệm của cả cơ quan QLNN và trách nhiệm công vụ của công chức
trong lĩnh vực đăng kiểm PTTNĐ.
19
Với điều kiện hiện nay và nhu cầu hoạt động giao thông, vận tải trong
phát triển kinh tế xã hội thì hoạt động QLNN về đăng kiểm PTTNĐ có vai trò
đặc biệt quan trọng. Vai trò đó được thể hiện trên các phương diện sau:
Thứ nhất, QLNN về đăng kiểm PTTNĐ góp phần trực tiếp vào quá trình
thực hiện các chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước về lĩnh
vực giao thông nói chung và GTĐTNĐ nói riêng.
Thứ hai, QLNN về đăng kiểm PTTNĐ là điều kiện đầu tiên góp phần
bảo đảm an toàn trong quá trình vận hành cho các PTTNĐ, góp phần thúc đẩy
sự phát triển kinh tế - xã hội.
Sự hình thành các PTTNĐ trước hết xuất phát từ nhu cầu của đời sống
xã hội có tính lịch sử lâu dài. Đây là đặc thù của các quốc gia có hệ thống
GTĐTNĐ phát triển. Do đặc thù về lĩnh vực GTĐTNĐ, sự tham gia của
nhiều chủ thể với các loại phương tiện rất đa dạng như tàu, thuyền, bè, mảng
và các cấu trúc nổi khác… Một nhu cầu khách quan là các phương tiện khi
tham gia GTĐTNĐ phải bảo đảm an toàn cho con người, hàng hóa và các tài
sản khác. Việc kiểm tra và đánh giá mức độ an toàn đối với các phương tiện
này không thể dựa vào ý chí chủ quan mà phải căn cứ vào các tiêu chuẩn an
toàn kỹ thuật và môi trường và bảo đảm phải được áp dụng thống nhất trong
phạm vi cả nước.
1.2.2. Chủ thể quản lý nhà nước về đăng kiểm phương tiện thuỷ nội
địa
Việc xác định chủ thể QLNN về đăng kiểm PTTNĐ phải dựa trên cơ sở
quy định của Hiến pháp và pháp luật về tổ chức quyền lực hành pháp. Ở Việt
Nam, Nhà nước là chủ thể QLNN trên tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh
tế, chính trị, xã hội. Nhà nước thành lập các cơ quan và giao cho các cơ quan
đó các chức năng, nhiệm vụ cụ thể nhằm bảo đảm thực hiện hoạt động quản
lý của mình.
20
Các chủ thể có thẩm quyền QLNN về đăng kiểm PTTNĐ bao gồm:
Chính phủ; Bộ Giao thông – Vận Tải; Cục ĐKVN; Thanh tra giao thông; Uỷ
ban nhân dân cấp tỉnh; Sở giao thông vận tải. Các Chi Cục, Chi nhánh, Trung
tâm Đăng kiểm tại một số tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đóng vai trò
trực tiếp quản lý công tác đăng kiểm, thanh tra, kiểm tra phương tiện, thực thi
các quyết định do trung ương ban hành và thu thập số liệu tại địa bàn được
phân công báo cáo .
1.2.2.1. Chính phủ
Quyền QLNN theo ngành và lĩnh vực được trao cho Chính phủ. Điều 94
Hiến pháp năm 2013 quy định: "Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước
cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền
hành pháp, là cơ quan chấp hành của Quốc hội". Tiếp đó, khoản 3 Điều 94
Hiến pháp cũng trao cho Chính phủ quyền: Thống nhất quản lý về kinh tế,
văn hóa, xã hội, giáo dục, y tế, khoa học, công nghệ, môi trường, thông tin,
truyền thông, đối ngoại, quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội.
Thẩm quyền QLNN về đăng kiểm PTTNĐ của Chính phủ nằm trong
QLNN về lĩnh vực GTĐTNĐ, được quy định tại Điều 99 Luật GTĐTNĐ:
Chính phủ thống nhất QLNN về giao thông đường thuỷ nội địa.
1.2.2.2. Bộ Giao thông – Vận Tải
Theo Điều 39 Luật Tổ chức Chính phủ, các bộ và cơ quan ngang bộ là
cơ quan của Chính phủ thực hiện chức năng QLNN về một hoặc một số
ngành, lĩnh vực và dịch vụ công thuộc ngành, lĩnh vực trong phạm vi toàn
quốc. Trong lĩnh vực GTVT, Điều 1 Nghị định số 107/2012/NĐ-CP ngày
20/12/2012 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ
cấu tổ chức của Bộ GTVT ghi rõ: Bộ GTVT là cơ quan của Chính phủ, thực
hiện chức năng QLNN về GTVT đường bộ, đường sắt, đường thủy nội địa,
21
hàng hải, hàng không trong phạm vi cả nước; QLNN các dịch vụ công theo
quy định của pháp luật.
Thẩm quyền QLNN về đăng kiểm PTTNĐ của Bộ GTVT nằm trong
QLNN về lĩnh vực GTĐTNĐ, được quy định tại Điều 99 Luật GTĐTNĐ: Bộ
GTVT chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện QLNN về giao thông
đường thuỷ nội địa.
1.2.2.3. Cục Đăng kiểm Việt Nam
Theo Thông tư số 862/QĐ-BGTVT ngày 05/04/2013 của Bộ trưởng Bộ
GTVT quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cục
ĐKVN, Cục ĐKVN là tổ chức trực thuộc Bộ GTVT, thực hiện chức năng
QLNN về đăng kiểm đối với phương tiện giao thông và phương tiện, thiết bị
xếp dỡ, thi công chuyên dùng, container, nồi hơi và bình chịu áp lực sử dụng
trong GTVT đường bộ, đường sắt, đường thủy nội địa, hàng hải trong phạm
vi cả nước; tổ chức thực hiện công tác đăng kiểm chất lượng an toàn kỹ thuật
các loại phương tiện, thiết bị GTVT và phương tiện, thiết bị thăm dò, khai
thác, vận chuyển dầu khí trên biển theo quy định của pháp luật.
1.2.2.4. Chi cục, Chi nhánh, Trung tâm Đăng kiểm thuộc Cục Đăng kiểm
Việt Nam và tại một số tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
Các chi cục, Chi nhánh, Trung tâm Đăng kiểm tại một số tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương là các tổ chức trực thuộc Cục ĐKVN có thẩm quyền
trực tiếp thực hiện công tác đăng kiểm PTTNĐ theo quy định tại Thông tư số
862/QĐ-BGTVT ngày 05/04/2013 của Bộ trưởng Bộ GTVT quy định chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cục ĐKVN.
1.2.2.5. Thanh tra giao thông đường thuỷ nội địa
Thanh tra giao thông đường thuỷ nội địa là thanh tra chuyên ngành, có nhiệm
vụ thanh tra, kiểm tra việc thực hiện các quy định của pháp luật về tiêu chuẩn kỹ
thuật và quản lý đối với kết cấu hạ tầng giao thông đường thuỷ nội địa, vận tải đường
22
thuỷ nội địa, phương tiện, thuyền viên và người lái phương tiện. Tổ chức và hoạt
động của thanh tra giao thông đường thuỷ nội địa theo quy định của pháp luật về
thanh tra.
1.2.2.6. Sở Giao thông vận tải
Trách nhiệm chủ yếu trong QLNN về đăng kiểm PTTNĐ thuộc về ngành
GTVT. Ở địa phương, Sở GTVT có vai trò quan trọng trong QLNN về GTVT
nói chung, trong đó có quản lý về GTĐTNĐ. Sở GTVT là cơ quan chuyên
môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, có chức năng tham mưu, giúp Ủy ban
nhân dân cấp tỉnh thực hiện chức năng QLNN về các lĩnh vực: giao thông
(cầu, đường bộ, đường thủy nội địa, đường sắt đô thị); vận tải; kết cấu hạ tầng
khác có liên quan đến GTVT (cấp thoát nước, công viên cây xanh, chiếu sáng
công cộng và bãi đỗ xe đô thị, kè bảo vệ bờ trên các tuyến đường thủy nội địa,
tuyến hàng hải); an toàn giao thông trên địa bàn tỉnh và thực hiện một số
nhiệm vụ, quyền hạn khác theo sự ủy quyền của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và
theo quy định của pháp luật. Trong thực hiện nhiệm vụ được giao, Sở GTVT
có trách nhiệm tổ chức thực hiện việc kiểm tra chất lượng an toàn kỹ thuật và
bảo vệ môi trường đối với phương tiện giao thông đường bộ, đường thủy nội
địa theo quy định của pháp luật và phân cấp của Bộ GTVT.
1.2.2.7. Ủy ban nhân dân các cấp
Ủy ban nhân dân các cấp có vai trò rất quan trọng trong việc bảo đảm
pháp luật về GTĐTNĐ được thi hành, trong đó có các quy định về đăng kiểm
PTTNĐ. Ví dụ, trong lĩnh vực GTĐTNĐ Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có trách
nhiệm tổ chức, chỉ đạo các sở, ban, ngành trực thuộc và Uỷ ban nhân dân cấp
huyện, Uỷ ban nhân dân cấp xã thực hiện các biện pháp bảo vệ kết cấu hạ
tầng giao thông đường thuỷ nội địa, chống lấn, chiếm hành lang bảo vệ luồng,
bảo đảm trật tự an toàn giao thông đường thuỷ nội địa và chịu trách nhiệm về
trật tự, an toàn giao thông đường thuỷ nội địa tại địa phương; tổ chức cứu nạn,
23
giải quyết hậu quả các vụ tai nạn trên đường thuỷ nội địa trong phạm vi địa
phương; xây dựng và tổ chức thực hiện quy hoạch phát triển GTVT đường
thủy nội địa của địa phương; tổ chức thực hiện việc tuyên truyền, phổ biến,
giáo dục pháp luật về giao thông đường thuỷ nội địa; kiểm tra, xử lý vi phạm
pháp luật về giao thông đường thuỷ nội địa theo thẩm quyền; áp dụng các
biện pháp thiết lập trật tự, an toàn giao thông đường thuỷ nội địa tại địa
phương.
1.2.3. Nội dung quản lý nhà nước về đăng kiểm phương tiện thuỷ nội
địa
1.2.3.1. Ban hành chính sách, pháp luật về đăng kiểm phương tiện thuỷ
nội địa
Chính sách, pháp luật về đăng kiểm PTTNĐ là nội dung đầu tiên của
QLNN về đăng kiểm PTTNĐ được quy định trong nhiều văn bản khác nhau.
Chính sách, pháp luật về đăng kiểm PTTNĐ được ban hành ở nhiều cấp độ
khác nhau do các cơ quan có thẩm quyền QLNN về đăng kiểm PTTNĐ ban
hành.
Ở Việt Nam, khái niệm "chính sách" được hiểu theo nghĩa khác nhau, có
quan điểm cho rằng các "chính sách" bao gồm cả chính sách của Đảng. Có
quan điểm cho rằng, chính sách chỉ có thể do cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền ban hành. Nghiên cứu QLNN về đăng kiểm PTTNĐ là nghiên cứu về
một nội dung cụ thể của quản lý hành chính nhà nước. Vì vậy, các chính sách
về QLNN về đăng kiểm PTTNĐ chủ yếu được thể hiện trong các văn bản của
các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành.
Các quy định của pháp luật về QLNN về đăng kiểm PTTNĐ nằm trong
hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật do cơ quan nhà nước có thẩm quyền
ban hành. Trong lĩnh vực này, các quy định pháp luật chủ yếu nằm trong Luật
24
GTĐTNĐ, các Nghị định của Chính phủ và Thông tư của Bộ trưởng Bộ
GTVT.
1.2.3.2. Tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật về đăng kiểm phương
tiện thuỷ nội địa
Một trong những nội dung quan trọng của QLNN nói chúng và việc tổ
chức thực hiện chính sách, pháp luật. Trong lĩnh vực QLNN về đăng kiểm
PTTNĐ, việc tổ chức thực hiện các chính sách, pháp luật là nội dung quan
trọng nhất. Việc tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật trong lĩnh vực này
nhằm đạt được mục tiêu quản lý bằng pháp luật. Các cơ quan QLNN về đăng
kiểm PTTNĐ phải có trách nhiệm tổ chức thực hiện pháp luật một cách có
hiệu quả, hiệu lực nhất. Yêu cầu đặt ra đối với tổ chức thực hiện pháp luật về
đăng kiểm PTTNĐ phải tuân thủ là phải bảo đảm công khai, minh bạch, sự
công bằng, bình đẳng, nhất quán và nghiêm minh.
Tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật về đăng kiểm PTTNĐ hiểu là
hoạt động triển khai thực hiện các chính sách quy định pháp luật áp dụng vào
thực tiễn, bao gồm cả công tác lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành việc tổ chức thực
hiện chính sách, pháp luật.
Trong nội dung thực hiện pháp luật về đăng kiểm PTTNĐ có quy định
việc trực tiếp thực hiện việc đăng kiểm PTTNĐ là nhiệm vụ chủ yếu của
ngành ĐKVN và gắn liền với đăng ký PTTNĐ. Theo Điều 24 Luật GTĐTNĐ
năm 2014 phương tiện được chia thành 4 loại, trong đó, phương tiện thuộc
khoản 1 và khoản 2 là những phương tiện không có động cơ trọng tải toàn
phần trên 15 tấn, phương tiện có động cơ tổng công suất máy chính từ 5 sức
ngựa hoặc có sức chở từ 5 người trở lên là những phương tiện thuộc diện phải
đăng kiểm. Phương tiện thuộc khoản 3, khoản 4 là những phương tiện không
có động cơ trọng tải toàn phần từ 15 tấn trở xuống hoặc có sức chở từ 12
người trở xuống, phương tiện có động cơ công suất máy chính dưới 5 sức
25
ngựa hoặc có sức chở dưới 5 người, phương tiện thô sơ có trọng tải toàn phần
dưới 1 tấn hoặc có sức chở dưới 5 người hoặc bè là những phương tiện không
thuộc diện phải đăng kiểm. Theo quy định tại Điều 26 của Luật GTĐTNĐ, Bộ
GTVT quy định tiêu chuẩn chất lượng, an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường
của phương tiện (trừ phương tiện làm nhiệm vụ quốc phòng, an ninh); quy
định và tổ chức thực hiện thống nhất việc đăng kiểm phương tiện trong phạm
vi cả nước.
1.2.3.3. Thanh tra, kiểm tra, giám sát và xử lý vi phạm trong việc đăng
kiểm phương tiện thuỷ nội địa
Thanh tra, kiểm tra, giám sát và xử lý vi phạm là nội dung trong QLNN
về đăng kiểm PTTNĐ với mục đích nhằm kịp thời phòng ngừa, phát hiện và
xử lý các hành vi vi phạm trong thực hiện pháp luật về đăng kiểm PTTNĐ.
Thẩm quyền thanh tra, kiểm tra, giám sát và xử lý vi phạm trong việc đăng
kiểm PTTNĐ được trao cho nhiều cơ quan khác nhau theo sự phân cấp quản
lý.
- Theo quy định của pháp luật về thanh tra, thanh tra là hoạt động xem
xét, đánh giá, xử lý theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định của cơ quan
nhà nước có thẩm quyền đối với việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm
vụ, quyền hạn của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Hoạt động thanh tra bao gồm
thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành. Thanh tra hành chính là hoạt
động thanh tra của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với cơ quan, tổ chức,
cá nhân trực thuộc trong việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ,
quyền hạn được giao. Thanh tra chuyên ngành là hoạt động thanh tra của cơ
quan nhà nước có thẩm quyền theo ngành, lĩnh vực đối với cơ quan, tổ chức,
cá nhân trong việc chấp hành pháp luật chuyên ngành, quy định về chuyên
môn - kỹ thuật, quy tắc quản lý thuộc ngành, lĩnh vực đó. Hoạt động thanh tra
việc đăng kiểm PTTNĐ có thể được thực hiện bằng cả hai loại hình là thanh
26
tra hành chính và thanh tra chuyên ngành. Trong đó, các cơ quan thanh tra
nhà nước có thẩm quyền thanh tra cơ quan QLNN về đăng kiểm PTTNĐ
trong việc tổ chức thực hiện pháp luật về đăng kiểm PTTNĐ. Các cơ quan
thanh tra nhà nước và cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra
chuyên ngành có thẩm quyền thanh tra, kiểm tra đối với các PTTNĐ trong
việc tuân thủ các quy định về đăng kiểm.
- Hoạt động kiểm tra việc đăng kiểm PTTNĐ hiện nay bao gồm kiểm tra
của Thủ trưởng, cơ quan thẩm quyền QLNN về đăng kiểm PTTNĐ đối với
đối với tổ chức, đơn vị và cá nhân thuộc thẩm quyền quản lý và kiểm tra của
cơ quan QLNN về đăng kiểm PTTNĐ đối với các PTTNĐ trong việc thực
hiện pháp luật về đăng kiểm.
- Ở Việt Nam, hoạt động giám sát được hiểu một cách chung nhất bao
gồm giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước (Quốc hội và Hội đồng nhân
dân các cấp) và giám sát của xã hội. Trong phạm vi QLNN về đăng kiểm
PTTNĐ, hoạt động giám sát thường được hiểu theo nghĩa là giám sát của các
cơ quan quyền lực nhà nước đối với các cơ quan QLNN về đăng kiểm
PTTNĐ trong việc thực hiện chính sách, pháp luật.
Hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát việc đăng kiểm PTTNĐ là những
kênh thông tin quan trọng để phát hiện vi phạm pháp luật về đăng kiểm
PTTNĐ từ đó có hình thức xử lý kịp thời. Tuy theo mức độ vi phạm của các
cơ quan, tổ chức, cá nhân mà hành vi vi phạm đó có thể bị xử lý hình sự hoặc
hành chính. Ví dụ, các phương tiện vi phạm quy định về đăng ký, đăng kiểm
tàu thuyền sẽ bị xử lý theo quy định tại Điều 20 Nghị định số 93/2013/NĐ-CP
ngày 20/8/2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực giao thông hàng hải, đường thủy nội địa.
1.2.3.4. Tuyên truyền, phổ biến pháp luật về đăng kiểm phương tiện thuỷ
nội địa
27
Tuyên truyền, phổ biến pháp luật về đăng kiểm PTTNĐ là một trong
những biện pháp nhằm nâng cao nhận thức của cán bộ, công chức và toàn xã
hội về thực hiện pháp luật về đăng kiểm PTTNĐ góp phần thực hiện pháp luật
về GTĐTNĐ nói chung.
Việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật về đăng kiểm PTTNĐ được thực
hiện bằng nhiều hình thức khác nhau, lồng ghép vào tuyên truyền, phổ biến
pháp luật về an toàn giao thông nói chung Theo Điều 6 Luật GTĐTNĐ,
công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về giao thông đường
thuỷ nội địa được quy định như sau:
- Tổ chức liên quan đến giao thông đường thuỷ nội địa có trách nhiệm
tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về giao thông đường thuỷ nội địa
cho nhân dân và cán bộ, công chức, người lao động trong phạm vi quản lý của
mình.
- Cơ quan thông tin, tuyên truyền có trách nhiệm tổ chức tuyên truyền,
phổ biến pháp luật về giao thông đường thuỷ nội địa thường xuyên, rộng rãi
đến toàn dân.
- Cơ quan QLNN về giáo dục và đào tạo có trách nhiệm chỉ đạo việc
giáo dục pháp luật về giao thông đường thuỷ nội địa trong các cơ sở giáo dục
phù hợp với đặc điểm của từng vùng lãnh thổ.
1.2.3.5. Hợp tác quốc tế trong lĩnh vực đăng kiểm phương tiện thuỷ nội
địa
Đăng kiểm PTTNĐ liên quan đến các quy chuẩn, tiêu chuẩn kỹ thuật. Vì
vậy, hợp tác quốc tế trong lĩnh vực đăng kiểm PTTNĐ là nội dung đảm bảo
nâng cao hiệu quả QLNN về đăng kiểm PTTNĐ. Hoạt động hợp tác quốc tế
về đăng kiểm PTTNĐ đòi hỏi phải đặt dưới sự chỉ đạo sát sao, quyết liệt của
lãnh đạo Bộ GTVT. Theo quy định tại Nghị định số 107/2012/NĐ-CP Quy
định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ GTVT thì Bộ
28
GTVT được trao thẩm quyền thực hiện hợp tác quốc tế trong lĩnh vực GTVT
đường bộ, đường sắt, đường thủy nội địa, hàng hải và hàng không theo quy
định của pháp luật. Bên cạnh đó, hoạt động hợp tác quốc tế về đăng kiểm
PTTNĐ đòi hỏi phải có sự phối hợp của của các cơ quan, đơn vị trực thuộc
Bộ GTVT để tạo điều kiện tốt giúp Cục ĐKVN mở cửa, cải cách hành chính
và chủ động hợp tác quốc tế để phục vụ tốt hơn người dân, doanh nghiệp và
khẳng định uy tín trên trường quốc tế.
Hoạt động hợp tác quốc tế trong lĩnh vực đăng kiểm PTTNĐ gồm nhiều
nội dung, bao gồm hợp tác song phương và đa phương thông qua các hoạt
động ký kết các thỏa thuận quốc tế, công tác đào tạo, bồi dưỡng, nghiên cứu
trao đổi kinh nghiệp trong lĩnh vực đăng kiểm PTTNĐ.
1.3. Những yếu tố tác động đến quản lý nhà nuớc về đăng kiểm phương tiện thuỷ nội địa.
1.3.1. Mức độ hoàn thiện của chính sách, pháp luật về quản lý nhà
nước trong lĩnh vực giao thông đường thuỷ nội địa
Một trong những nguyên tắc cơ bản trong QLNN nói chung là quản lý
bằng pháp luật. Điều này được thể hiện rõ tại Điều 8 Hiến pháp năm 2013:
Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã
hội bằng Hiến pháp và pháp luật, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ.
Hoạt động đăng kiểm PTTNĐ là việc thực thi quyền lực nhà nước. Vì vậy,
các cơ quan có thẩm quyền được tổ chức và hoạt động trong khuôn khổ quy
định của Hiến pháp và pháp luật; được làm tất cả những việc mà Hiến pháp và
pháp luật cho phép làm; hoạt động trong khuôn khổ quy định của Hiến pháp
và pháp luật; công cụ QLNN về đăng kiểm PTTNĐ chủ yếu bằng Hiến pháp
và pháp luật.
Ở nước ta nguồn duy nhất của pháp luật là các văn bản pháp luật do Nhà
nước ban hành. Chính vì vậy, mức độ hoàn thiện của chính sách, pháp luật về
29
QLNN trong lĩnh vực GTĐTNĐ là yếu tố đầu tiên tác động đến hiệu quả
QLNN về đăng kiểm PTTNĐ. Pháp luật về đăng kiểm PTTNĐ là công cụ để
Nhà nước quản lý hiệu quả các lĩnh vực này. Chỉ khi quản lý bằng pháp luật
đối với lĩnh vực đăng kiểm PTTNĐ thì mục đích của việc quản lý mới đạt
được và có hiệu quả cao. Bằng các quy định của pháp luật, Nhà nước ràng
buộc trách nhiệm của các chủ thể trong việc đề ra các kế hoạch và chính sách,
xác định cơ cấu, tổ chức và hoạt động, trình tự, thủ tục đăng kiểm PTTNĐ,
xác định các biện pháp kiểm tra, giám sát của nhà nước, đưa ra các biện pháp
hữu hiệu để xử lý các vi phạm. Hệ thống pháp luật về đăng kiểm PTTNĐ có
thể thúc đẩy, tạo điều kiện thuận lợi cho cho công tác đăng kiểm nếu đó là hệ
thống pháp luật hoàn thiện, phù hợp với thực tiễn. Tuy nhiên, hệ thống pháp
luật về đăng kiểm PTTNĐ cũng có thể là trở ngại kìm hãm hoạt động đăng
kiểm PTTNĐ nói riêng và ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển của lĩnh vực
GTĐTNĐ và sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước nói chung.
1.3.2. Năng lực thực thi công vụ của đội ngũ công chức, viên chức của
Cục Đăng kiểm Việt Nam
QLNN về đăng kiểm PTTNĐ là một trong những nội dung hoạt động
của nền hành chính. Hiện nay, sự vận hành của nền kinh tế thị trường đã kéo
theo sự thay đổi và nhìn nhận lại vai trò của nhà nước trong quản lý kinh tế.
Thông điệp đầu năm 2014 của Thủ tướng Chính phủ: “Nhà nước phải làm tốt
chức năng kiến tạo phát triển”, tức là nhà nước phải thực sự là “bà đỡ” của
nền kinh tế. Các hoạt động QLNN nói chung phải hướng đến mục tiêu phục
vụ. Muốn thực hiện tốt chức năng và vai trò của nhà nước thì phải yêu cầu
quan trọng là xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức chuyên nghiệp, nhất là đội
ngũ cán bộ, công chức cấp cao làm việc ở các bộ, ngành Trung ương. Đối với
hoạt động QLNN trên các lĩnh vực thì sự nhiệt huyết, trình độ chuyên môn và
đạo đức công vụ của công chức có tính chất quyết định đến hiệu quả công
30
việc và điều đó tác động trực tiếp đến hiệu quả QLNN. Nếu chất lượng đội
ngũ cán bộ, công chức thấp thì công việc sẽ không đạt được mục tiêu đề ra và
gây khó khăn, tiêu cực, tham nhũng, ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của
bộ máy nhà nước. Hiện nay, một trong những vấn đề bức xúc đang đặt ra đối
với bộ máy nhà nước là tình trạng suy thoái đạo đức, lối sống của một bộ
phận cán bộ, công chức. Điều này đã được ghi rõ trong nghị quyết Hội nghị
lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) về một số vấn đề cấp
bách về xây dựng Đảng hiện nay: Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên,
trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ
cao cấp, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện
khác nhau về sự phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội,
thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng,
lãng phí, tùy tiện, vô nguyên tắc...
Hoạt động đăng kiểm PTTNĐ cũng phụ thuộc nhất nhiều vào năng lực
thực thi công vụ của đội ngũ công chức, viên chức của Cục ĐKVN. Hiện nay,
đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác đăng kiểm PTTNĐ cũng đứng trước
đòi hỏi phải được xây dựng và củng cố đáp ứng các yêu cầu của cải cách hành
chính như một trong 5 mục tiêu quan trọng của Chương trình tổng thể cải
cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011-2020 là: “Xây dựng đội ngũ cán bộ,
công chức, viên chức có đủ phẩm chất, năng lực và trình độ, đáp ứng yêu cầu
phục vụ nhân dân và sự phát triển của đất nước”. Đề án đẩy mạnh cải cách
chế độ công vụ, công chức cũng xác định mục tiêu: xây dựng một nền công
vụ “chuyên nghiệp, trách nhiệm, năng động, minh bạch, hiệu quả”.
1.3.3. Sự phát triển của khoa học công nghệ trong quy mô quản lý
giao thông đường thuỷ nội địa
Đăng kiểm PTTNĐ là hoạt động đòi hỏi phải tuân theo đúng thẩm quyền
với trình tự, thủ tục chặt chẽ và gắn liền với các tiêu chuẩn, quy chuẩn về an
31
toàn kỹ thuật và môi trường. Hoạt động đăng kiểm PTTNĐ là hoạt động hành
chính và có tính “phục vụ” rất cao. Đăng kiểm PTTNĐ không chỉ để nhằm
đạt được mục tiêu của quản lý mà còn trực tiếp phục vụ nhu cầu chính đáng
của các cơ quan, tổ chức và cá nhân. Chính vì vậy, ứng dụng khoa học công
nghệ vào các hoạt động trong lĩnh vực đăng kiểm PTTNĐ là nhu cầu khách
quan trong quản lý giao thông đường thủy nói chung và là trụ cột không thể
thiếu trong QLNN về đăng kiểm PTTNĐ hiện nay. Sự phát triển của khoa học
công nghệ tác động trực tiếp đến hiệu quả QLNN về đăng kiểm PTTNĐ.
Tại Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011
– 2020 đã xác định nghiệm vụ là: “Hoàn thiện và đẩy mạnh hoạt động của
Mạng thông tin điện tử hành chính của Chính phủ trên Internet. Đẩy mạnh
ứng dụng công nghệ thông tin - truyền thông trong hoạt động của cơ quan
hành chính nhà nước để đến năm 2020: 90% các văn bản, tài liệu chính thức
trao đổi giữa các cơ quan hành chính nhà nước được thực hiện dưới dạng điện
tử; cán bộ, công chức, viên chức thường xuyên sử dụng hệ thống thư điện tử
trong công việc; bảo đảm dữ liệu điện tử phục vụ hầu hết các hoạt động trong
các cơ quan; hầu hết các giao dịch của các cơ quan hành chính nhà nước được
thực hiện trên môi trường điện tử, mọi lúc, mọi nơi, dựa trên các ứng dụng
truyền thông đa phương tiện; hầu hết các dịch vụ công được cung cấp trực
tuyến trên Mạng thông tin điện tử hành chính của Chính phủ ở mức độ 3 và 4,
đáp ứng nhu cầu thực tế, phục vụ người dân và doanh nghiệp mọi lúc, mọi
nơi, dựa trên nhiều phương tiện khác nhau; Ứng dụng công nghệ thông tin -
truyền thông trong quy trình xử lý công việc của từng cơ quan hành chính nhà
nước, giữa các cơ quan hành chính nhà nước với nhau và trong giao dịch với
tổ chức, cá nhân, đặc biệt là trong hoạt động dịch vụ hành chính công, dịch vụ
công của đơn vị sự nghiệp công”. Những nội dung này đã thể hiện rõ vai trò
32
và sự tác động của khoa học công nghệ đối với cải cách hành chính nói chung
và trong phục vụ trực tiếp nhu cầu của xã hội nói riêng.
1.3.4. Sự phối hợp giữa Cục Đăng kiểm Việt Nam và các cơ quan, tổ
chức, cá nhân có thẩm quyền trong thực hiện chức năng quản lý nhà nuớc
về đăng kiểm phương tiện thuỷ nội địa
QLNN về đăng kiểm PTTNĐ gồm nhiều nội dung và thuộc thẩm quyền
của nhiều cơ quan như đã phân tích ở các phần trên. Chính vì vậy, hoạt động
QLNN về đăng kiểm PTTNĐ đòi hỏi phải có sự phối hợp giữa các cơ quan, tổ
chức đơn vị trong ngành GTVT và giữa các cơ quan, tổ chức, đơn vị của
ngành GTVT với các cơ quan khác, đặc biệt là sự hợp tác trong tổ chức thực
hiện và tuyên truyền, phổ biến pháp luật về đăng kiểm PTTNĐ.
Trong các cơ quan có thẩm quyền QLNN về đăng kiểm PTTNĐ, Cục
ĐKVN có vai trò đặc biệt quan trọng, là đầu mối tổ chức công tác đăng kiểm
PTTNĐ và thực hiện chế độ thông tin, báo cáo cũng như tham mưu cho Bộ
trưởng Bộ GTVT trong lĩnh vực đăng kiểm PTTNĐ. Để thực hiện tốt nhiệm
vụ được giao, Cục Đẳng kiểm Việt Nam rất cần sự phối hợp chặt chẽ của các
cơ quan có thẩm quyền ở Trung ương và địa phương.
1.3.5. Ý thức pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc chấp
hành quy định về đăng kiểm phương tiện thuỷ nội địa
Ý thức pháp luật là một hình thái của ý thức xã hội, là một trong những
biểu hiện của trình độ văn hoá xã hội. Ý thức pháp luật nói chung tác động
trực tiếp đến cả quá trình xây dựng pháp luật và thực hiện pháp luật. Vì vậy, ý
thức pháp luật có các động rất lớn đến QLNN với nguyên tắc quản lý bằng
pháp luật;
Trước hết, ý thức pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc ban
hành các quy định về đăng kiểm PTTNĐ là tiền đề trực tiếp tác động đến quá
trình xây dựng pháp luật, soạn thảo, xây dựng các đề án, dự thảo văn bản
33
pháp luật. Do đó, nếu ý thức pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm
quyền cao thì các văn bản quy phạm cũng như chính sách được ban hành sẽ
phù hợp với thực tiễn, có tính điều chỉnh cao, có chất lượng, phù hợp cuộc
sống. Trong trường hợp ngược lại - sẽ cho ra đời văn bản không khách quan,
không phù hợp cuộc sống, không khả thi...
Đối với cán bộ, công chức có thẩm quyền trong lĩnh vực đăng kiểm thì ý
thức pháp luật cũng có vai trò to lớn, có tác động mạnh mẽ bởi lẽ việc thực
hiện Ngoài ra, các quy định pháp luật về đăng kiểm PTTNĐ phụ thuộc vào
trình độ nhận thức pháp luật và tâm lý của chính những cá nhân đó. Bên cạnh
đó, trong việc đăng kiểm PTTNĐ, về bản chất đây là quá trình áp dụng pháp
luật. Vì vậy, ý thức pháp luật của những người này tác động trực tiếp đến tính
đúng đắn của các quyết định áp dụng pháp luật. Ngoài ra, ý thức tổ chức, cá
nhân trong việc chấp hành quy định về đăng kiểm PTTNĐ cũng là một nội
dung quan trọng. Khi chủ phương tiện có ý thức pháp luật cao về đăng kiểm
PTTNĐ thì sẽ giúp cơ quan QLNN về đăng kiểm PTTNĐ thực hiện tốt nhiệm
vụ được giao.
34
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1
Qua nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về QLNN về đăng kiểm
PTTNĐ có thể rút ra một số kết luận sau:
Thứ nhất, QLNN về đăng kiểm PTTNĐ là sự tác động có tổ chức và điều
chỉnh bằng quyền hành pháp đối với quá trình đăng kiểm PTTNĐ nhằm bảo
đảm an toàn trong quá trình vận hành cho các PTTNĐ. QLNN về đăng kiểm
PTTNĐ là nội dung quan trọng trong thực hiện các chủ trương, chính sách, pháp
luật của Đảng và Nhà nước về lĩnh vực giao thông nói chung và GTĐTNĐ nói
riêng, góp phần bảo đảm an toàn cho các PTTNĐ, góp phần thúc đẩy sự phát
triển kinh tế - xã hội
Thứ hai, hoạt động QLNN về đăng kiểm PTTNĐ do cơ quan, tổ chức có
thẩm quyền thực hiện với nhiều nội dung khác nhau được tiến hành bởi những
chủ thể có quyền năng hành pháp, được tổ chức thành hệ thống chặt chẽ. Thẩm
quyền QLNN về đăng kiểm PTTNĐ chủ yếu được giao cho các cơ quan sau:
Chính phủ; Bộ Giao thông – Vận Tải Cục; ĐKVN; Chi cục, Chi nhánh, Trung
tâm Đăng kiểm tại một số tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương Thanh tra giao
thông đường thuỷ nội địa; Sở GTVT; Ủy ban nhân dân các cấp.
Thứ ba, nội dung của QLNN về đăng kiểm PTTNĐ rất rộng, bao gồm: Ban
hành chính sách, pháp luật về đăng kiểm PTTNĐ; tổ chức thực hiện chính sách,
pháp luật về đăng kiểm PTTNĐ; thanh tra, kiểm tra, giám sát và xử lý vi phạm
trong việc đăng kiểm PTTNĐ; tuyên truyền, phổ biến pháp luật về đăng kiểm
PTTNĐ; hợp tác quốc tế trong lĩnh vực đăng kiểm PTTNĐ. Những nội dung này
thuộc thẩm quyền của các cơ quan khác nhau. Trong đó, Bộ GTVT và trực tiếp
là Cục ĐKVN có thể được coi là đầu mối quan trọng và trực tiếp nhất trong thực
hiện chức năng QLNN về đăng kiểm PTTNĐ.
Thứ tư, hoạt động QLNN về đăng kiểm PTTNĐ chịu tác động của nhiều
yếu tố, liên quan đến chính sách, pháp luật, năng lực thực thi công vụ của đội
35
ngũ công chức, viên chức, sự phát triển của khoa học công nghệ, sự phối hợp
giữa các cơ quan, ý thức pháp luật của người dân trong việc chấp hành quy định
về đăng kiểm PTTNĐ.
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ ĐĂNG KIỂM PHƯƠNG TIỆN THỦY NỘI ĐỊA TẠI CỤC ĐĂNG KIỂM VIỆT NAM
2.1. Giới thiệu chung về Cục Đăng kiểm Việt Nam
2.1.1. Địa vị pháp lý và nhiệm vụ, quyền hạn của Cục Đăng kiểm Việt
Nam
Cục ĐKVN đã có lịch sử hơn 50 năm phát triển kể từ khi Bộ trưởng Bộ
GTVT ký Quyết định số 345-TL ngày 25/4/1964 thành lập Ty Đăng kiểm
36
trực thuộc Bộ GTVT. Ngày 19/7/1979, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là
Thủ tướng Chính phủ) đã ký Quyết định số 267/CP chuyển Ty Đăng kiểm
thành Cục ĐKVN với nhiệm vụ: “Cục ĐKVN là cơ quan chịu trách nhiệm
đăng ký và kiểm tra kỹ thuật an toàn, đo dung tích tàu và xác định phân cấp
tàu thuỷ; đăng ký và kiểm tra kỹ thuật an toàn nồi hơi và bình chịu áp lực sử
dụng trong GTVT”.
Hiện nay, Cục ĐKVN (tên giao dịch bằng tiếng Anh là: VIETNAM
REGISTER, viết tắt là: VR) hiện nay là tổ chức trực thuộc Bộ GTVT, thực
hiện chức năng QLNN về đăng kiểm đối với phương tiện giao thông và
phương tiện, thiết bị xếp dỡ, thi công chuyên dùng, container, nồi hơi và bình
chịu áp lực sử dụng trong GTVT đường bộ, đường sắt, đường thủy nội địa,
hàng hải trong phạm vi cả nước; tổ chức thực hiện công tác đăng kiểm chất
lượng an toàn kỹ thuật các loại phương tiện, thiết bị GTVT và phương tiện,
thiết bị thăm dò, khai thác, vận chuyển dầu khí trên biển theo quy định của
pháp luật. Cục ĐKVN có tư cách pháp nhân, có con dấu hành chính và con
dấu nghiệp vụ, được mở tài khoản tại Ngân hàng, có trụ sở đặt tại thành phố
Hà Nội.[16]
Hoạt động của ĐKVN tập trung vào bốn lĩnh vực chủ yếu là: Công
nghiệp; đường bộ, đường sắt, Tàu sông, tàu biển và Công trình biển.
Có thể khái quát các lĩnh vực hoạt động chủ yếu và nội dung từng lĩnh
vực như sau:
Sơ đồ 2.1: Các lĩnh vực hoạt động của Cục ĐKVN
Lĩnh vực hoạt động của Cục ĐKVN Vietnam Register
Công trình biển Offshore Installation
Công nghiệp Industrial
Đường bộ, đường sắt Road and Rail Way
Tàu sông, tàu biển River and Sea-going Ships
Industrial Industrial 37
Vật liệu
Ô tô các loại
Tàu khách
Dàn cố định
Máy móc
Xe máy công trình
Tàu hàng khô
Dán di động
Trang thiết bị
Xe máy
Tàu dầu
Tàu chứa
Thiết bị nâng
Đầu máy
Tàu Container
Đường ống
Nồi hơi
Toa xe
Tàu cao tốc
Phao buộc tàu
Bình chịu áp lực
Phà
Nhà máy hóa dầu
Container
Tàu huấn luyện
Thử không phá hủy
Tàu nguyên cứu
Trong lĩnh vực đăng kiểm, Cục ĐKVN được giao các nhiệm vụ và có
quyền hạn như sau:
- Chủ trì xây dựng, trình Bộ trưởng Bộ GTVT chiến lược, quy hoạch, kế
hoạch dài hạn, 5 năm và hàng năm, các chương trình, dự án quốc gia, các đề
án phát triển về đăng kiểm phương tiện, thiết bị GTVT trong phạm vi cả
nước.
- Chủ trì xây dựng, trình Bộ trưởng Bộ GTVT các dự án luật, pháp lệnh,
các văn bản quy phạm pháp luật khác về đăng kiểm; ban hành theo thẩm
quyền các văn bản quản lý chuyên ngành về đăng kiểm.
- Chủ trì xây dựng trình Bộ trưởng ban hành hoặc Bộ trưởng trình cơ
quan nhà nước có thẩm quyền ban hành các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật
phương tiện và thiết bị GTVT và các danh mục sản phẩm cơ khí GTVT theo
phạm vi quản lý.
- Tổ chức thực hiện, kiểm tra thực hiện và rà soát hệ thống các văn bản
quy phạm pháp luật, các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và các tiêu chuẩn,
quy chuẩn kỹ thuật liên quan tới hoạt động đăng kiểm sau khi được ban hành
hoặc phê duyệt.
- Chủ trì hoặc phối hợp trong việc thông tin, tuyên truyền, phổ biến, giáo
dục pháp luật về đăng kiểm.
38
- Tổ chức thực hiện công tác đăng kiểm chất lượng, an toàn kỹ thuật và
bảo vệ môi trường đối với phương tiện, thiết bị GTVT và các phương tiện,
thiết bị khác (trừ phương tiện, thiết bị phục vụ cho mục đích quốc phòng, an
ninh và tàu cá), bao gồm:
+ Thẩm định các thiết kế để sản xuất, sửa chữa, hoán cải phương tiện,
thiết bị GTVT và các phương tiện, thiết bị thăm dò, khai thác, vận chuyển dầu
khí trên biển;
+ Kiểm tra công nhận kiểu loại, phạm vi hoạt động theo mức độ an toàn
cho phép của các phương tiện, thiết bị GTVT và các phương tiện, thiết bị
thăm dò, khai thác, vận chuyển dầu khí trên biển;
+ Kiểm tra và cấp giấy chứng nhận chất lượng an toàn kỹ thuật và bảo vệ
môi trường trong chế tạo, lắp ráp, sửa chữa, hoán cải, nhập khẩu và khai thác
sử dụng các loại phương tiện và thiết bị GTVT;
+ Kiểm tra, đánh giá, cấp giấy chứng nhận an toàn kỹ thuật và bảo vệ
môi trường cho tàu biển, các phương tiện, thiết bị thăm dò, khai thác, vận
chuyển dầu khí trên biển theo quy định của pháp luật và điều ước quốc tế liên
quan đến an toàn hàng hải mà Việt Nam đã ký kết hoặc gia nhập;
+ Đánh giá và cấp giấy chứng nhận cho hệ thống quản lý an toàn, hệ
thống an ninh, kế hoạch an ninh tàu biển Việt Nam theo quy định của Bộ luật
Quản lý an toàn quốc tế và Bộ luật An ninh cho tàu biển và cảng biển;
+ Kiểm tra và cấp giấy chứng nhận an toàn kỹ thuật cho các tàu biển
nước ngoài theo thông lệ quốc tế hoặc theo lệnh của cơ quan nhà nước có
thẩm quyền của Việt Nam;
+ Kiểm tra và cấp giấy chứng nhận an toàn kỹ thuật đối với thiết bị xếp
dỡ, thi công chuyên dùng, container, nồi hơi, bình chịu áp lực và các phương
tiện, thiết bị chuyên dùng khác sử dụng trong GTVT;
39
+ Đánh giá và cấp giấy chứng nhận hệ thống quản lý chất lượng, bảo vệ
môi trường theo yêu cầu của các tổ chức, doanh nghiệp theo quy định của
pháp luật;
+ Giám định trạng thái kỹ thuật phương tiện, thiết bị GTVT và phương
tiện, thiết bị thăm dò, khai thác, vận chuyển dầu khí trên biển theo yêu cầu
của cơ quan Nhà nước hoặc chủ phương tiện thiết bị;
+ Xem xét ủy quyền cho các tổ chức đăng kiểm nước ngoài thực hiện
kiểm tra và cấp giấy chứng nhận an toàn cho tàu biển, các phương tiện, thiết
bị thăm dò, khai thác, vận chuyển dầu khí trên biển theo yêu cầu của chủ
phương tiện, thiết bị;
+ Hướng dẫn và kiểm tra các tổ chức đăng kiểm trong nước và nước
ngoài thực hiện công tác đăng kiểm phương tiện, thiết bị GTVT;
+ Tổ chức thu phí, lệ phí đăng kiểm theo quy định của pháp luật.
- Xây dựng trình Bộ trưởng kế hoạch hợp tác quốc tế và hội nhập quốc tế
về đăng kiểm; tham gia xây dựng, đàm phán ký kết, gia nhập các Điều ước và
thỏa thuận quốc tế, các tổ chức quốc tế về đăng kiểm; tổ chức thực hiện các
hoạt động về hợp tác quốc tế và hội nhập quốc tế về đăng kiểm theo phân cấp
quản lý.
- Xây dựng trình Bộ trưởng công bố tiêu chuẩn đơn vị đăng kiểm. Tổ
chức đánh giá, chứng nhận điều kiện hoạt động của các đơn vị đăng kiểm, các
cơ sở thử nghiệm phục vụ công tác đăng kiểm theo quy định của pháp luật.
- Xây dựng nội dung, chương trình đào tạo, quy định tiêu chuẩn đăng
kiểm viên, đánh giá viên, nhân viên nghiệp vụ. Tổ chức đào tạo, cấp giấy
chứng nhận cho đăng kiểm viên, đánh giá viên và nhân viên nghiệp vụ theo
quy định của pháp luật; đào tạo cán bộ quản lý an toàn, sỹ quan an ninh tàu
biển, cán bộ an ninh của các tổ chức, doanh nghiệp theo quy định của Bộ luật
40
quốc tế về quản lý an toàn và Bộ luật quốc tế về an ninh tàu biển và cảng
biển.
- Quy định quản lý và phát hành các loại ấn chỉ trong hoạt động đăng
kiểm.
- Về quản lý các dự án đầu tư trong lĩnh vực đăng kiểm:
+ Tổ chức thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan quyết
định đầu tư, chủ đầu tư đối với các dự án đầu tư xây dựng theo phân cấp, ủy
quyền của Bộ GTVT;
+ Thực hiện chức năng của cơ quan QLNN có thẩm quyền đối với các
dự án đầu tư về đăng kiểm.
- Tổ chức thực hiện công tác nghiên cứu khoa học, ứng dụng tiến bộ
khoa học, công nghệ trong hoạt động đăng kiểm.
- Xây dựng và thực hiện chương trình cải cách hành chính của Cục theo
mục tiêu và nội dung chương trình cải cách hành chính nhà nước của Bộ
GTVT.
- Thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, chống tham nhũng,
tiêu cực theo thẩm quyền của Cục.
- Xây dựng trình Bộ trưởng quyết định cơ cấu tổ chức của Cục; quản lý
tổ chức bộ máy, định biên của Cục; thực hiện chế độ tiền lương và các chế độ,
chính sách đãi ngộ, khen thưởng, kỷ luật đối với cán bộ, viên chức và người
lao động theo quy định của pháp luật.
2.1.2. Cơ cấu tổ chức của Cục Đăng kiểm Việt Nam
Cơ cấu tổ chức của Cục ĐKVN gồm bộ máy lãnh đạo vào các phòng,
đơn vị chức năng. Cục ĐKVN có Cục trưởng là người đứng đầu, chịu trách
nhiệm trước Bộ trưởng Bộ GTVT và pháp luật về toàn bộ hoạt động của Cục
ĐKVN. Giúp việc Cục trưởng có các Phó Cục trưởng, chịu trách nhiệm trước
Cục trưởng và pháp luật về nhiệm vụ được Cục trưởng phân công.
41
Cục trưởng Cục ĐKVN do Bộ trưởng Bộ GTVT bổ nhiệm, miễn nhiệm.
Các Phó Cục trưởng Cục ĐKVN do Bộ trưởng Bộ GTVT bổ nhiệm, miễn
nhiệm theo đề nghị của Cục trưởng Cục ĐKVN. Hiện nay, Cục ĐKVN có 04
Phó Cục trưởng phụ trách các lĩnh vực khác nhau.
Tổ chức các đơn vị chức năng của Cục ĐKVN bao gồm các tổ chức giúp
việc cho Cục trưởng, các Chi cục, Chi nhánh, Trung tâm Đăng kiểm tại một
số tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và các tổ chức khác trực thuộc.
Các tổ chức giúp việc Cục trưởng bao gồm:
- Phòng Quy phạm;
- Phòng Công trình biển;
- Phòng Công nghiệp;
- Phòng Tàu biển;
- Phòng Tàu sông;
- Phòng Chất lượng xe cơ giới;
- Phòng Kiểm định xe cơ giới;
- Phòng Đường sắt;
- Phòng Pháp chế - ISO;
- Phòng Khoa học công nghệ và Môi trường;
- Phòng Kế hoạch - Đầu tư;
- Phòng Hợp tác quốc tế;
- Phòng Tổ chức cán bộ;
- Phòng Tài chính - Kế toán;
- Văn phòng.
Các tổ chức khác trực thuộc bao gồm:
- Tạp chí Đăng kiểm;
- Trung tâm Đào tạo;
- Trung tâm Tin học;
42
- Trung tâm Chứng nhận hệ thống quản lý chất lượng và an toàn
(VRQC);
- Trung tâm Thử nghiệm xe cơ giới (VMTC);
- Trung tâm Thử nghiệm khí thải phương tiện giao thông cơ giới đường
bộ (NETC).
Hệ thống đăng kiểm PTTNĐ trong cả nước là một bộ phận của Ðăng
kiểm Việt Nam, bao gồm hệ thống thống nhất từ cơ quan trung ương đến các
địa phương. Tại cơ quan trung ương có phòng Tàu sông. Tại các địa phương
có các Chi cục, Chi nhánh trực thuộc Cục Ðăng kiểm Việt Nam và các Phòng,
Ban, Trạm đăng kiểm thủy trực thuộc các Sở GTVT – được gọi chung là các
Ðơn vị đăng kiểm.
Hiện nay, hệ thống giám sát kỹ thuật của Cục Ðăng kiểm Việt Nam bao
gồm 28 Chi cục, Chi nhánh trực thuộc và 43 Phòng, Ban, Trạm đăng kiểm trực
thuộc các Sở GTVT. Các Ðơn vị đăng kiểm thủy nội địa thực hiện chức năng
quản lý, kiểm tra kỹ thuật và chứng nhận chất lượng cho PTTNĐ theo Thông
tư 48/2015/TT-BGTVT ngày 22 tháng 9 năm 2015 "Quy định về đăng kiểm
phương tiện thuỷ nội địa " của Bộ GTVT và Thông tư 49/2015/TT-BGTVT
ngày 22 tháng 9 năm 2015 “Quy định về tiêu chuẩn, nhiệm vụ và quyền hạn
của lãnh đạo, đăng kiểm viên và nhân viên nghiệp vụ của đơn vị đăng kiểm
PTTNĐ”. Các Phòng, Ban, Trạm đăng kiểm thuộc Sở GTVT chịu sự kiểm tra,
chỉ đạo và hướng dẫn về chuyên môn, nghiệp vụ đăng kiểm của Cục Ðăng
kiểm Việt Nam.
43
Sơ đồ 2.2: Tổ chức của Cục ĐKVN như sau:
44
2.2. Hiện trạng quản lý nhà nước về đăng kiểm phương tiện thuỷ nội địa tại Cục Đăng kiểm Việt Nam thời gian qua
2.2.1. Ban hành văn bản quản lý nhà nước trong quản lý về đăng kiểm
phương tiện thuỷ nội địa tại Cục đăng kiểm Việt Nam
Trong thời gian qua, để tăng cường QLNN về đăng kiểm PTTNĐ, Quốc
hội, Chính phủ, Bộ GTVT đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật
trong lĩnh vực này. Thực hiện chức năng QLNN về đăng kiểm PTTNĐ trong
phạm vi thẩm quyền của mình, Cục ĐKVN đã ban hành nhiều văn bản QLNN
để tổ chức thực hiện.
Trên cơ sở quy định của Luật GTĐTNĐ Chính phủ đã ban hành nhiều
Nghị định hướng dẫn thi hành và có nội dung liên quan đến công tác đăng
kiểm PTTNĐ như: quy định xử phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông
hàng hải, đường thuỷ nội địa; quy định điều kiện kinh doanh vận tải đuờng
thủy nội địa; quy định chi tiết và biện pháp thi hành một số điều của Luật
GTĐTNĐ và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật GTĐTNĐ; quy định
niên hạn sử dụng của PTTNĐ và niên hạn sử dụng của phương tiện thủy được
phép nhập khẩu; quy định xử phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông
đường thuỷ nội địa.
Bộ trưởng Bộ GTVT cũng ban hành nhiều thông tư, quyết định như
Thông tư 66/2014/TT-BGTVT, Thông tư số 48/2015/TT-BGTVT qui định về
đăng kiểm phương tiện thuỷ nội địa và các quy định về những nội dung có
liên quan như: tiêu chuẩn, chức trách và nhiệm vụ của đăng kiểm viên
phương tiện thuỷ nội địa; quy định tiêu chuẩn kỹ thuật của tín hiệu trên
phuơng tiện thủy nội địa; phạm vi trách nhiệm của thuyền viên, người lái
phương tiện và định biên an toàn tối thiểu trên phương tiện thuỷ nội địa; quy
chuẩn kỹ thuật quốc gia về phân cấp và đóng PTTNĐ vỏ thép chở xô hóa chất
nguy hiểm; quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về giám sát kỹ thuật và đóng tàu biển
45
cỡ nhỏ; quản lý tuyến vận tải thuỷ từ bờ ra đảo trong vùng biển Việt Nam;
công bố tuyến đường thuỷ nội địa quốc gia; quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về
máy lái thủy lực trên phương tiện thủy; quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về máy
lái thủy lực trên phương tiện thủy - yêu cầu kỹ thuật và phương pháp thử;
phòng chống, khắc phục hậu quả lụt bão; ứng phó sự cố thiên tai và cứu nạn
trên đường thuỷ nội địa; quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về Quy phạm ngăn ngừa
ô nhiễm do phuơng tiện thủy nội địa; trang bị và sử dụng áo phao cứu sinh,
dụng cụ nổi cứu sinh các nhân trên phương tiện vạn tải hành khách ngang
sông; trách nhiệm và xử lý vi phạm trong công tác đăng kiểm; yêu cầu kỹ
thuật và bảo vệ môi trường đối với tàu thủy lưu trú du lịch ngủ đêm, nhà hàng
nổi, khách sản nổi; quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về quy phạm giám sát và
kiểm tra an toàn kỹ thuật tàu thể thao, vui chơi giải trí và quy chuẩn kỹ thuật
quốc gia về quy phạm phân cấp và đóng PTTNĐ vỏ xi măng lưới thép; quản
lý tuyến vận tải thủy từ bờ ra đảo trong vùng biển Việt Nam; quy chuẩn kỹ
thuật quốc gia về Quy phạm phân cấp và đóng mới phuơng tiện thủy nội địa;
quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về phân cấp và đóng tàu bằng chất dẻo cốt sợi
thủy tinh; quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về phân cấp và đóng tàu thủy cao tốc;
quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về phân cấp và đóng PTTNĐ chế tạo bằng vật
liệu polypropylen copolyme (PPC); quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về phân cấp
và đóng ụ nổi; biểu mẫu giấy chứng nhận và sổ kiểm tra an toàn kỹ thuật và
bảo vệ môi trường cấp cho tàu biển, PTTNĐ và sản phẩm công nghiệp sử
dụng cho PTTNĐ; vận tải hành khách, hành lý, bao gửi bằng tàu khách cao
tốc giữa các cảng, bến, vùng nước thuộc nội thủy Việt Nam và qua biên giới;
quy định về xây dựng, ban hành, hợp nhất văn bản quy phạm pháp luật thủ
tục hành chính, kiểm tra, xử lý văn bản, rà soát, hệ thống văn bản quy phạm
pháp luật và theo dõi thi hành pháp luật trong lĩnh vực GTVT…
46
Trên cơ sở các văn bản quy phạm của Quốc hội, Chính phủ và Bộ
GTVT, Cục ĐKVN đã ban hành nhiều văn bản quản lý về đăng kiểm PTTNĐ
như sau:
- Qui định tiếp nhận, xem xét và thực hiện các yêu cầu kiểm tra; tiếp
nhận và gửi công văn;
- Qui định ban hành quy định về đào tạo, đánh giá, bổ nhiệm và sử dụng
Đăng kiểm viên phương tiện thủy nội địa;
- Hướng dẫn thi hành Tiêu chuẩn Đăng kiểm viên;
- Quy chế quản lý in ấn, cấp phát, sử dụng phôi giấy chứng nhận và các
ấn phẩm trong lĩnh vực đăng kiểm PTTNĐ;
- Hướng dẫn giám sát và đánh giá trạng thái kỹ thuật phương tiện thủy
nội địa;
- Hướng dẫn giám sát và đánh giá trạng thái kỹ thuật tàu sông;
- Hướng dẫn thực hiện quy phạm ngăn ngừa ô nhiễm do tàu sông;
- Hướng dẫn về công tác thẩm định thiết kế PTTNĐ;
- Hướng dẫn về công tác xây dựng, thẩm định và quản lý thiết kế mẫu
định hình PTTNĐ; Sao và thẩm định thiết kế PTTNĐ theo mẫu định hình đã
được công nhận;
- Quy chế chi Quỹ khen thưởng và Quỹ phúc lợi của Cục ĐKVN;
- Quy định kiểm tra công nhận tập huấn nghiệp vụ đăng kiểm viên
phương tiện thủy nội địa, đào tạo bổ sung chuyên môn, thực tế năng lực thực
hành và Hội đồng công nhận đăng kiểm viên;
- Quyết định về việc ban hành Quy tắc ứng xử, đạo đức nghề nghiệp của
cán bộ, công chức, viên chức Cục ĐKVN…
Chỉ riêng năm 2015, Cục ĐKVN đã triển khai soạn thảo các thông tư
thay thế cho các văn bản pháp lý liên quan đến lĩnh vực đăng kiểm PTTNĐ
bao gồm: Hoàn thành Thông tư số 48/2015/TT-BGTVT ngày 22/9/2015 thay
47
thế Quyết định 25/2004/QĐ-BGTVT quy định về đăng kiểm PTTNĐ; Hoàn
thành Thông tư số 49/2015/TT-BGTVT ngày 22/9/2015 thay thế Quyết định
2687/2000/QĐ-BGTVT ban hành tiêu chuẩn, chức trách và nhiệm vụ của
đăng kiểm viên PTTNĐ.
Bên cạnh đó, Cục đã xây dựng quy chuẩn: Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia
về cơ sở đóng mới, hoán cải, sửa chữa, phục hồi PTTNĐ, Bộ trưởng Bộ
GTVT đã ký ban hành tháng 9/2015; hoàn thành xây dựng Dự thảo Quy
chuẩn kỹ thuật quốc gia về phân cấp và đóng PTTNĐ chế tạo bằng vật liệu
polypropylen copolyme, đã trình Bộ GTVT; hoàn thành xây dựng Thông tư
ban hành qui trình về kiểm tra và cấp hồ sơ đăng kiểm cho PTTNĐ chế tạo
bằng vật liệu polypropylen copolyme, đã trình Bộ GTVT; hoàn thành bổ
sung, sửa đổi Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về Quy phạm giám sát và đóng
PTTNĐ cỡ nhỏ (QCVN 25: 2010/BGTVT); hoàn thành bổ sung, sửa đổi Quy
chuẩn kỹ thuật quốc gia về quy phạm phân cấp và đóng PTTNĐ (QCVN 72:
2013/BGTVT). Trong năm 2016, Cục ĐKVN đã thực hiện chỉ đạo của Chính
phủ, Bộ GTVT về việc xây dựng tiêu chuẩn và các yêu cầu cụ thể đối với tàu
chở khách du lịch trên vịnh Hạ Long, Cục ĐKVN nghiên cứu xây dựng đề
cương báo cáo Bộ GTVT đưa vào chương trình xây dựng văn bản quy phạm
pháp luật năm 2017.
2.2.2. Tổ chức thực hiện đăng kiểm phương tiện thuỷ nội địa tại Cục
Đăng kiểm Việt Nam
2.2.2.1. Công tác lãnh đạo, chỉ đạo của Cục Đăng kiểm Việt Nam
Trên cơ sở các văn bản của cấp trên và yêu cầu từ thực tiễn đối với công
tác đăng kiểm PTTNĐ, công tác lãnh đạo, chỉ đạo đối với lĩnh vực này đã
được Lãnh đạo Cục ĐKVN thực hiện rất sát sao. Cục trưởng Cục ĐKVN đã
ban hành nhiều văn bản hướng dẫn, đôn đốc các đơn vị trực thuộc trong việc
thực hiện nhiệm vụ. Trong thời gian qua, Lãnh đạo Cục ĐKVN đã thường
48
xuyên ban hành các công văn với nội dung thể hiện vai trò lãnh đạo, chỉ đạo
đồng thời hướng dẫn cụ thể về chuyên môn, nghiệp vụ, Ví dụ như: Công văn
về việc thực hiện hướng dẫn giám sát và phần mềm quản lý PTTNĐ; Công
văn hướng dẫn về công tác thẩm định thiết kế PTTNĐ; Công văn về việc tăng
cường kiểm tra điều kiện an toàn của PTTNĐ khi hoạt động; Công văn về
việc tăng cường giám sát kỹ thuật các phương tiện chở người; Công văn về
việc giám sát kỹ thuật phương tiện thủy nội địa; Công văn về việc; Công văn
về việc thực hiện quy định về đăng kiểm, kết xuất và gửi dữ liệu báo cáo giám
sát PTTNĐ...
Công tác lãnh đạo, chỉ đạo của Cục ĐKVN trong thời gian qua đã đạt
được những kết quả chủ yếu sau:
- Đã đôn đốc, kiểm tra, nhắc nhở các đơn vị theo sát để nắm vững số liệu
phương tiện hiện có, đặc biệt là các phương tiện chở khách ngang sông, đò
dọc và tàu khách, các phương tiện chưa được đăng kiểm để có kế hoạch đăng
kiểm cho những phương tiện này, báo cáo về Cục. Chỉ đạo các đơn vị đăng
kiểm thực hiện công tác đăng kiểm phương tiện thuỷ nội địa theo chỉ thị, nghị
quyết của Đảng, Chính phủ và Bộ GTVT trong lĩnh vực đăng kiểm PTTNĐ
như:
- Chỉ đạo các đơn vị thực hiện Chỉ thị 08/CT-TTg ngày 12/4/2014 của
Thủ tường Chính phủ về các giải pháp cấp bách để nâng cao chất lượng và
chống tiêu cực trong công tác đăng kiểm phương tiện GTVT; Đề án nâng cao
chất lượng công tác đăng kiểm phương tiện giao thông cơ giới đường bộ và
PTTNĐ góp phần giảm thiểu tai nạn giao thông và ô nhiễm môi trường; Đề án
đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động và phòng, chống tiêu cực trong công
tác đăng kiểm.
- Cục ĐKVN chỉ đạo các đơn vị trực thuộc thực hiện nghiêm túc theo đúng
quy định của pháp luật về đăng kiểm PTTNĐ. Ví dụ như đối với công tác thẩm
49
định thiết kế của Phòng Tàu sông, trong năm 2016, tổng số thiết kế PTTNĐ được
thẩm định, số liệu theo từng loại thiết kế cụ thể và so sánh với năm 2015 như bảng
sau:
Tỷ lệ đạt năm 2016 so với năm 2015 (%)
Năm 2015
Năm 2016
Tổng số thiết kế đã thẩm định trong năm Trong đó Thiết kế đóng mới Thiết kế hoán cải Thiết kế sửa đổi Thiết kế lập hồ sơ Thiết kế sao thẩm định theo mẫu Các loại khác Mẫu định hình
10.255 13.807 4.434 4.217 1.838 1.698 1.672 876 429 488 105 57 4.268 2.867 4 4
134,6 105 108 191 88 54 149 100
Bảng 2.1: Số lượng thiết kế giữa năm 2015 và năm 2016
Nguồn: Phòng Tàu sông năm 2016
Biểu đồ 1: So sánh số lượng thiết kế giữa năm 2015 và năm 2016
Nguồn: Phòng Tàu sông năm 2016
Kết quả này cho thấy tổng số thiết kế thẩm định trong năm tăng 134,6 %
so với năm 2015 vì tình hình phát triển kinh tế có khả quan hơn, có nhiều dự án
50
hỗ trợ vay vốn đóng tàu. Về cơ bản các đơn vị Đăng kiểm đã tuân thủ quy định
về công tác thẩm định thiết kế theo chỉ đạo của Cục ĐKVN. Lượng thiết kế
đóng mới tăng (105%) đặc biệt là phương tiện có trọng tải lớn. Chất lượng các
thiết kế đã được nâng lên rõ rệt, phần lớn các thiết kế đã được phê thẩm định
phù hợp với các qui định và yêu cầu của Quy chuẩn. Phòng Tàu sông đã kiểm
soát được chất lượng thẩm định thiết kế của một số đơn vị thông qua việc kiểm
tra đánh giá trực tiếp tại đơn vị và gián tiếp qua các hồ sơ thiết kế do các đơn vị
gửi về.
- Để nâng cao hiệu quả thực hiện nhiệm vụ trong việc trực tiếp đăng
kiểm PTTNĐ, trong năm 2016, Cục ĐKVN đã phối hợp với Cục Đường thủy
nội địa Việt Nam và các địa phương có các giải pháp tích cực nhằm đẩy
nhanh việc tổ chức đăng kiểm cho các PTTNĐ loại nhỏ trên địa bàn cả nước,
Cục ĐKVN đã chỉ đạo các đơn vị đăng kiểm trên toàn quốc thống kê các loại
PTTNĐ tại các địa phương và tiếp tục xây dựng các mẫu định hình nhằm tạo
điều kiện cho chủ PTTNĐ cỡ nhỏ vào đăng kiểm nhanh chóng. Cục ĐKVN
cũng phối hợp với Cục Đường thủy nội địa Việt Nam chuẩn bị, xây dựng kế
hoạch tiến hành tổng điều tra lại số lượng PTTNĐ; đồng thời chỉ đạo các đơn
vị đăng kiểm phối hợp với các đơn vị thuộc Cục đường thủy nội địa Việt Nam
tại các khu vực và chính quyền địa phương thống kê số lượng phương tiện tại
địa phương.
- Thực hiện chỉ đạo của Chính phủ, Bộ GTVT, Cục ĐKVN đã yêu cầu
các đơn vị đăng kiểm tại Quảng Ninh thống kê báo cáo tình trạng kỹ thuật của
các tàu khách, nhà hàng nổi, khách sạn nổi, tàu lưu trú du lịch ngủ đêm trên
vịnh. Để nâng cao hơn nữa ATKT và bảo vệ môi trường cho phương tiện thì
Cục ĐKVN nhất trí với kiến nghị của UBND tỉnh Quảng Ninh. Tuy nhiên,
việc rút ngắn niên hạn sử dụng của phương tiện cần phải xem xét kỹ và phải
51
đánh giá tác động và có thể phải cho lộ trình để thực hiện theo phương pháp
như Nghị định 111/2014/NĐ-CP ngày 20/11/2014 của Chính phủ….
2.2.2.2. Công tác tuyên truyền pháp luật về đăng kiểm phương tiện thuỷ
nội địa của Cục Đăng kiểm Việt Nam
Công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật có ý nghĩa quyết
định đến kết quả triển khai thực hiện Luật GTĐTNĐ nói chung cùng với công
tác lãnh đạo, chỉ đạo và kịp thời hướng dẫn nghiệp vụ, Cục ĐKVN còn chủ
động, tích cực và sáng tạo trong công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về
đăng kiểm PTTNĐ và phối hợp với các cơ quan chức năng đẩy mạnh công tác
này.
Thứ nhất, Cục Đẳng kiểm Việt Nam đã tham mưu cho Bộ GTVT để phối
hợp với các bộ ngành, địa phương như Bộ Công an, Ủy ban nhân dân các
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương chỉ đạo các cơ quan trực thuộc tích cực
triển khai công tác tuyên truyền, hướng dẫn thực hiện những quy định pháp
luật về GTĐTNĐ. Đồng thời, Cục ĐKVN luôn tạo điều kiện để để phối hợp
với Đài Tiếng nói Việt Nam, Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh và các tổ
chức chính trị - xã hội khác tổ chức tuyên truyền, vận động quần chúng, nhân
dân chấp hành nghiêm những quy định vể GTĐTNĐ.
Cục ĐKVN đã tham gia rất tích cực vào công tác tuyên truyền phổ biến
pháp luật về GTĐTNĐ nói chung như hưởng ứng các Cuộc thi tìm hiểu Luật
GTĐTNĐ trên phạm vi toàn quốc; hưởng ứng hát động phong trào quần
chúng tham gia bảo đảm trật tự, an toàn GTĐTNĐ, đặc biệt là cuộc vận động
“Văn hóa giao thông với bình yên sông nước” được tổ chức ở nhiều địa
phương ven sông và đã mở chuyên mục này trên Đài Tiếng nói Việt Nam; các
Cục quản lý chuyên ngành phối hợp với Văn phòng Ủy ban An toàn giao
thông quốc gia triển khai thực hiện “Cuộc vận động người đi đò mặc áo phao”
nhằm tạo thói quen của người đi đò là phải mặc áo phao, tạo sự đồng thuận
52
của xã hội về vấn đề này và để có cơ sở quy định bắt buộc việc mặc áo phao
khi đi đò; tham gia tổ chức nhiều Hội nghị phổ biến pháp luật về GTĐTNĐ ở
từng khu vực, với những chuyên đề khác nhau phù hợp với các đối tượng
tham gia hoạt động GTVT; tổ chức cho các chủ cảng, bến, xã, phương tiện và
nhân dân sống ven sông ký cam kết thực hiện các quy định của Luật
GTĐTNĐ.
Nhìn chung, công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về giao
thông đường thuỷ nội địa nói chung và của Cục ĐKVN về đăng kiểm PTTNĐ
nói riêng thời gian qua được tiến hành liên tục, bằng nhiều phương thức rất đa
dạng, rộng khắp, có chiều sâu, với ý nghĩa thiết thực, góp phần làm chuyển
biến nhận thức, ý thức chấp hành pháp luật của nhân dân và các đối tượng
tham gia hoạt động trên đường thuỷ nội địa.
Thứ hai, trong phạm vi nhiệm vụ được giao, Cục ĐKVN đã trực tiếp
thực hiện nhiều hoạt động nhằm tuyên truyền, phổ biến pháp luật và nâng cao
nhận thức của xã hội về đăng kiểm PTTNĐ.
Trong năm 2011, Cục ĐKVN đã phối hợp với Cục Cảnh sát thuỷ và Cục
Đường thuỷ nội địa Việt Nam lập kế hoạch, chỉ đạo liên ngành 3 đơn vị quản
lý tại các địa phương tổng kiểm tra các cơ sở đóng mới sửa chữa phương tiện
thuỷ nội địa nhằm tăng cường công tác QLNN với lĩnh vực này góp phần bảo
đảm trật tự an toàn giao thông đường thuỷ nội địa; biên soạn, bổ sung, in và
phát hành 5.000 sổ tay “Hỏi - đáp về lĩnh vực đăng kiểm trong Luật
GTĐTNĐ tới các chủ PTTNĐ; tập trung thống kê hết lượng đò ngang, đò dọc
phải đăng kiểm và tổ chức tuyên truyền vận động chủ phương tiện đưa các
phương tiện loại này vào đăng kiểm và quản lý về mặt kỹ thuật. Cục ĐKVN
Tuyên truyền cho các cơ quan, đơn vị về tính năng ưu việt của dụng cụ nổi
các nhân và vận động các nhà hảo tâm tài trợ cho công việc này; mở 04 hội
nghị tuyên truyền phổ biến các văn bản quy phạm pháp luật mới, bổ sung sửa
53
đổi các quy định, quy chế trong lĩnh vực đăng kiểm nhằm đảm bảo trật tự an
toàn giao thông và giảm thiểu tai nạn trên đường thủy nội địa.
Trong năm 2012, Cục ĐKVN tiếp tục tuyên truyền cho các cơ quan, đơn
vị về tính năng ưu việt của Dụng cụ nổi cá nhân và vận động các nhà hảo tâm
tài trợ cho kinh phí để chế tạo và cấp phát cho những địa phương nghèo có
nhiều người đi đò, đặc biệt là các cháu học sinh đi học bằng đò; tổ chức 06
lớp tập huấn nghiệp vụ công tác kiểm định kỹ thuật PTTNĐ tại phía Bắc và
phía Nam để triển khai hướng dẫn mới; cài đặt và hướng dẫn sử dụng quản lý
tài sản, nhằm nâng cao chất lượng công tác đăng kiểm và nâng cao năng lực
quản lý cho các đơn vị Đăng kiểm thực hiện giám sát các loại phương tiện
PTTNĐ; biên soạn, bổ sung, in và phát hành 2.500 Album tuyên truyền về
Luật GTĐTNĐ tới các chủ PTTNĐ.
Công tác tuyên truyền phổ biến pháp luật về đăng kiểm PTTNĐ tiếp tục
được Cục ĐKVN tăng cường trong những năm tiếp theo. Đến năm 2015, đã
hoàn thành công tác chế tạo và cấp phát Dụng cụ nổi cứu sinh cá nhân cho
các địa phương theo chỉ đạo của Uỷ ban An toàn giao thông quốc gia cho các
ban ATGT các tỉnh nhằm tuyên truyền về đảm bảo an toàn cho hành khách đi
đò ngang sông. Trong năm 2016, Cục ĐKVN đã phối hợp tham gia với Vụ
An toàn giao thông Bộ GTVT tổ chức “lớp tập huấn hướng dẫn sử dụng các
thiết bị an toàn giao thông đường bộ, các thiết bị an toàn trong môi trường
nước cho trẻ em” tại Hòa Bình và An Giang….
2.2.2.3. Thực hiện nhiệm vụ trực tiếp trong việc đăng kiểm phương tiện
thuỷ nội địa
Quy định về công tác đăng kiểm đã được Bộ Giao thông vận tải ban
hành từ khi Luật GTĐTNĐ ra đời năm 2004. Để đảm bảo công tác đăng kiểm
luôn gắn liền với thực tế phát triển xã hội cũng như sự điều chỉnh của Luật
GTĐTNĐ sửa đổi bổ sung năm 2014, Bộ trưởng Bộ GTVT đã ban hành
54
Thông tư số 48/2015/TT-BGTVT ngày 22 tháng 9 năm 2015 quy định về
công tác đăng kiểm. Thông tư số 48/2015/TT-BGTVT quy định về công tác
đăng kiểm áp dụng đối với các phương tiện thuộc diện phải đăng kiểm theo
Luật GTĐTNĐ năm 2014. Thông tư đã quy định các thủ tục về kiểm tra và
cấp Giấy chứng nhận an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường PTTNĐ và các
quy định khác nhằm đảm bảo vừa quản lý chặt chẽ được phương tiện vừa tạo
điều kiện cho tổ chức, cá nhân vào đăng kiểm phương tiện được nhanh chóng,
thuận lợi.
Theo báo cáo số 4102/BC-BGTVT ngày 10 tháng 5 năm 2013 của Bộ
GTVT tổng kết tám năm thực hiện Luật Giao thông đường thủy nội địa
(2005-2012) thì ở Việt Nam, tính đến tháng 12/2012, số phương tiện đã đăng
ký là 151.764 chiếc, đạt tỷ lệ 34%. Số phương tiện chưa thực hiện đăng ký
còn nhiều, chiếm hơn 60%, trong đó chủ yếu là các phương tiện loại nhỏ có
trọng tải toàn phần từ trên 01 tấn đến dưới 15 tấn. Phương tiện thuộc diện
phải đăng kiểm 444.142 chiếc. Tính đến tháng 9/2012, số phương tiện đã
đăng kiểm là 258.080 chiếc, đạt tỷ lệ 61%. Số phương tiện chưa thực hiện
đăng kiểm còn nhiều, chủ yếu là các phương tiện loại nhỏ có trọng tải từ 5 tấn
đến dưới 15 tấn, công suất máy chính từ 5 mã lực đến dưới 15 mã lực.[15]
Nếu so sánh với số liệu từ năm 2007 thì tỷ lệ PTTNĐ được đăng kiểm đã
khá lớn. Theo báo cáo tổng hợp của Ban chỉ đạo tổng điều tra phương tiện
thủy vào cuối năm 2007 toàn quốc có khoảng 372 nghìn phương tiện phải
thực hiện pháp luật về đăng kiểm. Đến cuối năm 2015 số phương tiện đã vào
đăng kiểm khoảng 280 nghìn phương tiện đạt khoảng 75%. Trong đó, các
phương tiện loại lớn (loại từ 200 tấn trở lên, công suất máy chính từ 135 sức
ngựa trở lên và các tàu chở khách) có khoảng 24 nghìn phương tiện, chiếm
6,45% số phương tiện thuộc diện đăng kiểm và phương tiện loại này đã chấp
hành đăng kiểm đạt 100%. Số lượng phương tiện loại nhỏ hơn 200 tấn và
55
công suất máy chính nhỏ hơn 135 sức ngựa khoảng 348 nghìn phương tiện,
chiếm 93,55% số phương tiện thuộc diện phải đăng kiểm trong toàn quốc và
cụ thể như sau: Các phương tiện loại từ 50 tấn đến 200 tấn, công suất máy
chính từ 50 sức ngựa đến 135 sức ngựa có khoảng 50 nghìn phương tiện,
chiếm khoảng 13,44% số phương tiện thuộc diện đăng kiểm và phương tiện
loại này đã chấp hành đăng kiểm đạt 100%; Các phương tiện loại từ 15 tấn trở
lên đến 50 tấn, công suất máy chính từ 15 sức ngựa đến 50 sức ngựa có
khoảng 60 nghìn phương tiện (Đồng bằng sông Cửu Long có khoảng 43
nghìn phương tiện), chiếm khoảng 16,13% số phương tiện thuộc diện đăng
kiểm và phương tiện loại này đã chấp hành đăng kiểm đạt 100%; Các phương
tiện loại từ 5 tấn trở lên đến 15 tấn, công suất máy chính từ 5 sức ngựa đến 15
sức ngựa có khoảng 238 nghìn phương tiện (Đồng bằng sông Cửu Long có
khoảng 200 nghìn phương tiện), chiếm 63,98% số phương tiện thuộc diện
đăng kiểm. Phương tiện loại này đã chấp hành đăng kiểm 146 nghìn phương
tiện đạt 61,34%.
Số lượng phương tiện chấp hành quay lại đăng kiểm theo chu kỳ như
sau:
Các phương tiện loại lớn (loại từ 200 tấn trở lên, công suất máy chính từ
135 sức ngựa trở lên và các tàu chở khách) quay lại đăng kiểm khoảng 90%
số
phương tiện loại này. Còn 10% không quay lại đăng kiểm chủ yếu là các
phương tiện không còn nhu cầu hoạt động, giải bản nhưng không báo lại để
xóa số hoặc phương tiện đang vào đà, ụ để sửa chữa bảo dưỡng hoặc số
phương tiện nằm không hoạt động hoặc hoạt động không liên tục và khi đó
chủ phương tiện sẽ không tiến hành đăng kiểm. Các phương tiện không quay
lại Đăng kiểm đúng thời hạn chủ yếu là phương tiện dưới mức trên, cụ thể:
các phương tiện loại từ 50 tấn đến 200 tấn, công suất máy chính từ 50 sức
56
ngựa đến 135 sức ngựa quay lại đăng kiểm khoảng 70% số phương tiện loại
này. Các phương tiện loại từ 15 tấn trở lên đến 50 tấn, công suất máy chính từ
15 sức ngựa đến 50 sức ngựa quay lại đăng kiểm khoảng 50% số phương tiện
loại này. Các phương tiện loại từ 5 tấn trở lên đến 15 tấn, công suất máy chính
từ 5 sức ngựa đến 15 sức ngựa quay lại đăng kiểm khoảng 30% số phương
tiện loại này.
Trong năm 2015, tổng số phương tiện đã được đăng kiểm là: 278.745
chiếc. Số phương tiện vào đăng ký kỹ thuật mới trong năm 2015 là 4.839 chiếc
bằng 123% so với năm 2014. Số lượt phương tiện được kiểm tra giám sát kỹ
thuật trong toàn quốc là 45.264 lượt phương tiện. Trong năm 2016, tổng số
phương tiện đã được đăng kiểm đến ngày 01/12/2016 là: 285.664 phương tiện.
Số phương tiện vào đăng ký kỹ thuật mới trong năm 2016 là 7.102 phương
tiện. Trong việc đăng kiểm PTTNĐ, Cục ĐKVN đã tập trung thực hiện, chỉ
đạo quyết liệt các đơn vị đăng kiểm nâng cấp VR-SB cho phương tiện phù hợp
với yêu cầu của Bộ GTVT để phương tiện hoạt động trên các tuyên vận tải ven
bờ biển đã được Bộ GTVT công bố. Đến nay, có 1.354 phương tiện đã thẩm
định xong thiết kế và có 1.090 phương tiện đã được cấp hồ sơ đăng kiểm (có
1.002 phương tiện hiện đang hoạt động trên tuyến SB, trong đó có 32 phương
tiện chở công te nơ).
2.2.3. Tổ chức thực hiện thanh tra, kiểm tra
Công tác thanh tra, kiểm tra xử lý vi phạm trật tự an toàn giao thông
đường thuỷ nội địa đã được các lực lượng cảnh sát giao thông đường thuỷ và
thanh tra giao thông, cảng vụ… thực hiện thường xuyên. Đặc biệt, ngày
07/4/2015, Cục Cảnh sát Giao thông, Cục Đường thủy nội địa Việt Nam và
Cục ĐKVN ký Kế hoạch phối hợp liên ngành bảo đảm trật tự an toàn
GTĐTNĐ năm 2015 với 8 nội dung phối hợp và 10 chương trình thực hiện kế
hoạch. Ngoài ra, Cục Cảnh sát giao thông đã tham mưu cho Lãnh đạo Tổng
57
cục Cảnh sát ký kết với Bộ Tham mưu Bộ đội Biên phòng về Quy chế phối
hợp và Kế hoạch phối hợp thực hiện công tác xây dựng phong trào toàn dân
bảo vệ an ninh tổ quốc trên đường thủy của 28 tỉnh ven biển và 4 tỉnh biên
giới phía Nam. Lực lượng cảnh sát giao thông còn phối hợp với Cục ĐKVN,
Cục Đường thủy nội địa Việt Nam, Cục Khai thác và bảo vệ nguồn lợi thuỷ
sản, Cơ quan Tài nguyên môi trường... thành lập các đoàn kiểm tra liên ngành
để kiểm tra công tác đảm bảo trật tự an toàn giao thông ở một số địa phương
trọng điểm. Theo thống kê chưa đầy đủ, từ năm 2010 đến hết tháng 6/2015,
thông qua công tác tuần tra kiểm soát, lực lượng cảnh sát giao thông đường
thuỷ đã phối hợp với các ngành xử lý 33.019 trường hợp vi phạm, phạt tiền
nộp Kho bạc nhà nước trên 14,204 tỷ đồng; đồng thời đề xuất, kiến nghị với
các ngành, các cấp có biện pháp khắc phục nhiều sơ hở, bất cập cũng như huy
động được sức mạnh tổng hợp, nâng cao hiệu lực QLNN về giao thông đường
thuỷ nội địa trên phạm vi toàn quốc.
Công tác thanh tra, kiểm tra về việc chấp hành các quy định của pháp
luật về đăng kiểm PTTNĐ cũng được Cục ĐKVN triển khai quyết liệt, gắn
liền với việc thực hiện nhiệm vụ giám sát và kiểm tra đối với các phương tiện.
Số lượng lượt phương tiện giám sát và kiểm tra năm sau thường cao hơn năm
trước.
Số lượt phương tiện được giám sát và kiểm tra năm 2015 với năm 2014 như sau:
Năm 2014
Năm 2015
Tỷ lệ đạt năm 2015 so với năm 2014(%)
44.365
45.264
102
30.251
31.050
103
14.114
14.214
101
Tổng số phương tiện được giám sát kiểm tra trong cả nước Số phương tiện được giám sát kiểm tra thuộc VR Số phương tiện được giám sát kiểm tra thuộc các Sở GTVT Nguồn: Phòng Tàu sông 2015
Bảng 2.2: Số lượt phương tiện được giám sát năm 2014-2015:
58
Biểu đồ 2: So sánh số lượt phương tiện được giám sát năm 2014-2015
Nguồn: Phòng Tàu sông năm 2015
Biểu đồ 3: Số lượt phương tiện năm 2014 được giám sát phân theo loại hình
Nguồn: Tổng hợp báo cáo của Phòng Tàu sông năm 2014
Biểu đồ 4: Số lượt phương tiện năm 2015 được giám sát phân theo loại hình
Nguồn: Tổng hợp báo cáo của Phòng Tàu sông năm 2015
59
Số lượt phương tiện năm 2015 tăng 213% so với năm 2014. Tình trạng
phương tiện đóng mới không có sự giám sát kỹ thuật của cơ quan đăng kiểm
còn rất ít. Trong đó đơn vị giám sát thuộc Cục đăng kiểm chiếm tỉ lệ tương
đối lớn so vói số lượt phương tiện được giám sát bởi các đơn vị thuộc Sở
GTVT. Có thể thấy tình hình kiểm tra đã chặt chẽ tăng tính pháp lý của
phương tiện, tăng cường phối hợp với các cơ quan quản lý khác để xử phạt
phương tiện, cơ sở đóng phương tiện trước khi kiểm tra và cấp hồ sơ đăng
kiểm, tăng khối lượng giám sát và triệt để thu phí đăng kiểm theo khối lượng
kiểm tra. Chất lượng phương tiện thủy nội địa đang khai thác được đăng kiểm
giám sát kỹ thuật nhìn chung đã tốt hơn nhiều, tai nạn giao thông đường thuỷ
nội địa giảm.
Công tác giám sát kỹ thuật, đăng kiểm tàu đang khai thác đã có nhiều
tiến bộ, nhiều đơn vị đã kiểm soát được các phương tiện đã đến hạn đăng
kiểm nhưng chưa hoặc không đến kiểm tra, đã chủ động thống kê, thông báo
bằng văn bản đến các cơ quan chức năng, đến từng chủ tàu. Chất lượng
tiện thủy nội địa đang khai thác được đăng kiểm giám sát kỹ thuật nhìn
chung đã tốt hơn nhiều, tai nạn giao thông đường thuỷ nội địa giảm.
Số lượt phương tiện được kiểm tra giám sát kỹ thuật trong toàn quốc
năm 2016 là 47.222 lượt phương tiện và so sánh với năm 2015 như sau:
Năm 2015
Năm 2016
Tỷ lệ đạt năm 2016 so với năm 2015(%)
45.264
47.222
104,3
Tổng số phương tiện được giám sát kiểm tra trong cả nước
31.050
32.577
105
Số phương tiện được giám sát kiểm tra thuộc VR
14.214
14.645
103
Số phương tiện được giám sát kiểm tra thuộc các Sở GTVT
Bảng 2.3: Số lượt phương tiện được giám sát năm 2015-2016:
Nguồn: Phòng Tàu sông năm 2016
60
Biểu đồ 5: So sánh số lượt phương tiện được giám sát năm 2015-2016
Nguồn: Phòng Tàu sông năm 2016
Biểu đồ 6: Số lượt phương tiện năm 2016 được giám sát phân theo loại hình
Nguồn: Tổng hợp báo cáo của Phòng Tàu sông năm 2016
Tổng số phương tiện đã được đăng kiểm đến ngày 01/12/2016 là:
285.666 phương tiện.Số phương tiện vào đăng ký kỹ thuật mới trong năm
2016 là 7.102 phương tiện bằng 123% so với năm 2015. Theo chỉ đạo của
phòng nghiệp vụ và của lãnh đạo các đơn vị đăng kiểm đối với công tác giám
sát kỹ thuật đóng mới đã cụ thể hơn, đã có sự phối hợp và thống nhất nghiệp
vụ giữa các đơn vị đăng kiểm, ngăn chặn được tình trạng phương tiện đóng ở
61
địa phương này đến đăng kiểm ở địa phương khác. Khối lượng giám sát các
phương tiện cơ bản đã tuân thủ qui định nêu trong qui phạm và hướng dẫn
giám sát. Chất lượng phương tiện đóng mới đạt yêu cầu kỹ thuật. Số lượng
phương tiện đóng mới năm 2016 tăng 153,6% so với năm 2015. Tình trạng
phương tiện đóng mới không có sự giám sát kỹ thuật của cơ quan đăng kiểm
vẫn còn, chủ yếu tập trung vào phương tiện thủy nội địa cỡ nhỏ.
Qua kiểm tra cho thấy số phương tiện kiểm tra không đạt yêu cầu trong
năm 2014 là 358 phương tiện, năm 2015 là 296 phương tiện, năm 2016 là 275
phương tiện. Đối với các phương tiện được phát hiện không thỏa mãn yêu cầu
kỹ thuật qua đợt kiểm tra tăng cường, kiểm tra chéo giữa 2 kỳ kiểm định, đã
thu hồi Giấy chứng nhận an toàn kỹ thuật & bảo vệ mội trường và yêu cầu
chủ phương tiện khắc phục các xong các tồn tại trước khi cấp lại Giấy chứng
nhận.
2.3. Nhận xét về quản lý nhà nước về đăng kiểm phương tiện thuỷ
nội địa tại Cục Đăng kiểm Việt Nam
2.3.1. Những kết quả đạt được
Từ thực tiễn tại Cục ĐKVN trong thời gian qua cho thấy công tác QLNN
về đăng kiểm PTTNĐ đã đạt được những kết quả quan trọng trên các phương
diện sau:
Thứ nhất, đã xây dựng được bộ máy của Cục ĐKVN cơ bản đáp ứng
được yêu cầu nhiệm vụ, công tác xây dựng lực lượng đã tiến dần tới chính
quy hiện đại trong công tác đăng kiểm PTTNĐ. Năng lực chuyên môn,
nghiệp vụ của đăng kiểm viên phục vụ công tác đăng kiểm PTTNĐ được
nâng cao. Riêng Phòng tàu sông thuộc Cục ĐKVN hiện nay có 15 cán bộ
người.
Thứ hai, Cục ĐKVN đã tham mưu cho Lãnh đạo Bộ GTVT ban hành và
trực tiếp ban hành được hệ thống văn bản pháp lý về đăng kiểm PTTNĐ khá
62
toàn diện, đầy đủ. Nhìn chung, những văn bản quản lý trong lĩnh vực đăng
kiểm PTTNĐ do Cục ĐKVN ban hành trong thời gian qua đã bảo đảm tính
kịp thời trong việc hướng dẫn thi hành Luật GTĐTNĐ và những quy định
trong các Nghị định của Chính phủ, Thông tư và quyết định của Bộ GTVT.
Những văn bản do Cục ĐKVN ban hành cơ bản đáp ứng tính thống nhất,
đồng bộ với quy định trong các văn bản cấp trên. Qua công tác kiểm tra và xử
lý vi phạm pháp luật cho thấy chưa có văn bản nào của Cục ĐKVN vi phạm
về tính hợp pháp và hợp lý.
Thứ ba, Bộ GTVT và Cục Đăng kiểm đã quan tâm đầu tư cơ sở vật chất
kỹ thuật và ứng dụng khoa học kỹ thuật hiện đại phục vụ cho hoạt động đăng
kiểm PTTNĐ và thực hiện tốt công tác kiểm tra, giám sát đăng kiểm PTTNĐ.
Để phục vụ cho công tác đăng kiểm PTTNĐ, Cục ĐKVN đã thực hiện Dự án
xây dựng Chương trình quản lý Đăng kiểm PTTNĐ. Đây là dự án nhằm tin
học hóa một số hoạt động chính của phòng Tàu sông và các đơn vị tại Cục
ĐKVN. Mục đích là hỗ trợ quản lý PTTNĐ trong các đơn vị đăng kiểm.
Thứ tư, cơ chế tài chính phục vụ công tác đăng kiểm PTTNĐ được quy
định như hiện nay là tương đối phù hợp. Cơ chế tài chính của Cục ĐKVN
hiện nay được thực hiện theo Quyết định số 67/2013/QĐ-TTg ngày
12/11/2013 của Thủ tướng Chính phủ quy định về cơ chế tài chính của Cục
ĐKVN và Thông tư liên tịch số 55/2014/TTLT-BTC-BGTVT ngày 25/4/2014
của Bộ trưởng Bộ Tài chính và Bộ trưởng Bộ GTVT ban hành hướng dẫn cơ
chế quản lý tài chính đối với Cục ĐKVN.
Cục ĐKVN được áp dụng cơ chế quản lý tài chính theo mô hình của
Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do Nhà nước nắm giữ 100% vốn
điều lệ quy định tại Nghị định số 71/2013/NĐ-CP ngày 11 tháng 7 năm 2013
của Chính phủ. Về phân phối lợi nhuận, Cục ĐKVN được phép sử dụng phần
lợi nhuận còn lại (sau khi nộp thuế và trích lập các quỹ theo quy định) để bổ
63
sung vào Quỹ đầu tư phát triển phục vụ cho đầu tư các dự án liên quan đến
hoạt động đăng kiểm được các cấp có thẩm quyền phê duyệt.
Thứ năm, hoạt động hợp tác quốc tế trong lĩnh vực đăng kiểm PTTNĐ
trong thời gian qua được tăng cường. Lĩnh vực đường thủy, hiện nay vận tải
thủy nội địa chủ yếu hợp tác với các nước láng giềng có chung biên giới như:
Campuchia, Trung Quốc. Hiệp định Vận tải thủy giữa Việt Nam và
Campuchia được ký năm 2009 và có hiệu lực từ năm 2011. Từ đó đến nay,
hai nước đã làm thủ tục cho hàng trăm lượt tàu qua lại với hơn 1 triệu tấn
hàng hóa và hàng trăm nghìn khách qua lại hai bên bằng đường thủy, qua đó
góp phần thúc đẩy hợp tác chính trị, kinh tế xã hội giữa Việt Nam và
Campuchia. Hiệp định tàu thuyền đi lại tự do tại Khu vực cửa sông Bắc Luân
với Trung Quốc đang được đàm phán, ký kết.
Riêng trong năm 2015, Cục ĐKVN giữ chức Chủ tịch Hiệp hội quốc tế
các Tổ chức kiểm tra phân cấp tàu thủy (TSCI), Cục đã tổ chức thành công
hội nghị Hội đồng TSCI tại Thành phố Hồ Chí Minh. Ngoài ra, Cục ĐKVN
còn tham gia tích cực vào các hoạt động chuyên môn của Hiệp hội Đăng kiểm
Châu Á (ACS). VR chủ trì tổ chức Hội thảo kỹ thuật ACS và cuộc họp Nhóm
công tác kỹ thuật của ACS tại Thành phố Đà Nẵng. Được sự đồng ý của Bộ
GTVT, Cục ĐKVN đã tổ chức thành công khóa đào tạo chuyên môn cho 35
cán bộ Cục Đường thủy Lào. VR đang làm thủ tục để xin phép Bộ GTVT đào
tạo 4 cán bộ kỹ thuật về công tác đăng kiểm cho Cục Đường thủy Lào trong
thời gian 3 tháng tại Việt Nam.
2.3.2. Những hạn chế trong công tác quản lý
Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác QLNN về đăng kiểm
PTTNĐ còn một số hạn chế sau:
Thứ nhất, hạn chế trong việc ban hành chính sách, pháp luật và lãnh đạo,
chỉ đạo, tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật.
64
Việc ban hành chính sách, pháp luật và lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực
hiện chính sách, pháp luật về đăng kiểm PTTNĐ trong một số trường hợp cụ
thể vẫn còn chậm so với yêu cầu thực tiễn đang đặt ra. Một số văn bản quy
phạm pháp luật hướng dẫn thi hành Luật GTĐTNĐ chưa được tham mưu để
ban hành kịp thời; chất lượng một số văn bản chưa cao, có văn bản phải điều
chỉnh nhiều lần. Sự quan tâm chung của các cấp trong công tác ban hành văn
bản chưa ngang tầm với nhu cầu cấp thiết trong QLNN về đăng kiểm
PTTNĐ, đặc biệt là chính sách đầu tư kinh phí hỗ trợ cho công tác này; việc
tập huấn, bồi dưỡng kỹ năng soạn thảo văn bản cho người trực tiếp được giao
nhiệm vụ soạn thảo văn bản nói riêng và cán bộ, công chức nói chung còn
chưa được chú trọng. Bên cạnh đó, việc tham gia, đóng góp ý kiến cho dự
thảo văn bản chưa được các đơn vị, địa phương quan tâm, một số ý kiến đóng
góp còn chung chung, thiếu cụ thể, đôi khi không mang tính khách quan.
Thứ hai, hạn chế trong công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát, xử lý vi
phạm trong lĩnh vực đăng kiểm PTTNĐ.
Công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát và xử lý vi phạm trong việc đăng
kiểm PTTNĐ hiện nay được giao cho nhiều cơ quan khác nhau. Cơ quan đăng
kiểm chỉ thực hiện kiểm tra an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường theo các
tiêu chuẩn, quy chuẩn quốc gia. Cơ quan Đăng kiểm không được quyền tuần
tra kiểm soát, xử lý hành vi phương tiện hết hạn đăng kiểm. Việc kiểm tra xử
lý này do lực lượng tuần tra kiểm soát thực hiện như sau. Tại bến, cảng do
cảng vụ và thanh tra các cấp thực hiện; Phương tiện trên hành trình sẽ do lực
lượng cảnh sát giao thông thực hiện. Nếu việc kiểm soát này tốt thì chắc chắn
phương tiện thực hiện pháp luật về đăng kiểm sẽ tốt hơn rất nhiều.
Bên cạnh đó, mặc dù công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm đối với
tổ chức, cá nhân hoạt động khai thác GTĐTNĐ trong những năm gần đây đã
được tăng cường. Tuy nhiên, công tác kiểm tra vẫn chưa được thực hiện
65
thường xuyên trên toàn bộ mạng lưới tuyến đường thủy nội địa do địa bàn
rộng, khả năng nguồn lực của các lực lượng chức năng còn hạn chế. Công tác
kiểm tra chưa toàn diện, thường tập trung kiểm tra những nội dung cơ bản
như giấy phép hoạt động, giấy chứng nhận đăng ký, đăng kiểm phương tiện,
bằng, chứng chỉ chuyên môn, số lượng thiết bị an toàn… mà chưa quan tâm
nhiều đến việc kiểm tra trách nhiệm của thuyền viên, người lái phương tiện,
hiệu lực của giấy tờ, chất lượng hiệu lực sử dụng, thiết bị, dụng cụ an toàn.
Việc xử lý vi phạm chưa thực sự quyết liệt, chưa triệt để. Nhiều hành vi vi
phạm còn bị bỏ sót, hình thức xử phạt bổ sung, buộc thực hiện các biện pháp
khắc phục hậu quả còn chưa được áp dụng triệt để theo quy định. Bên cạnh
đó, theo quy định, mức xử phạt đối với những hành vi vi phạm là nguyên
nhân trực tiếp gây ra tai nạn giao thông còn thấp, chưa đủ sức răn đe. Vì thế
mà việc chấp hành pháp luật của một số bộ phận người tham gia GTĐTNĐ
chưa có sự chuyển biến tích cực. Vai trò của Cục ĐKVN trong việc thanh tra,
kiểm tra, giám sát và xử lý vi phạm về đăng kiểm PTTNĐ còn chưa được
phát huy.
Thứ ba, hạn chế trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo liên quan đến
hoạt động QLNN về đăng kiểm PTTNĐ.
Việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực quản lý đăng kiểm
PTTNĐ hiện nay được áp dụng theo quy định của Luật Khiếu nại, Luật Tố
cáo và các văn bản hướng dẫn thi hành. Tuy nhiên, đây là lĩnh vực đặc thù
liên quan đến các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật và về môi trường, các khiếu
nại, tố cáo (đặc biệt là khiếu nại) trong lĩnh vực đăng kiểm PTTNĐ đòi phải
được giải quyết nhanh, kịp thời nhưng hiện nay pháp luật chưa có quy định
riêng về giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đăng kiểm PTTNĐ. Mặc
dù tại Cục ĐKVN đã triển khai đường dây nóng (số máy trực 04.37684701 -
số lẻ 701): tổ chức tiếp nhận, kiểm tra, xử lý thông tin do chủ phương tiện
66
phản ánh các hiện tượng tiêu cực, thắc mắc cần giải đáp trong các văn bản qui
phạm pháp luật qua đường dây nóng và Đơn thư khiếu nại. Tuy nhiên, với cơ
sở pháp lý hiện nay thì việc xử lý các đơn thư khiếu nại, tố cáo, kiến nghị,
phản ánh về đăng kiểm PTTNĐ chưa được thực hiện bài bản.
Thứ tư, hạn chế trong tuyên truyền, phổ biến pháp luật về đăng kiểm
PTTNĐ
Công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về đăng kiểm PTTNĐ là một
nội dung trong tuyên truyền pháp luật về GTĐTNĐ. Tuy nhiên, trong thời
gian qua sự thống nhất phối hợp giữa lực lượng Cảnh sát đường thủy và các
cơ quan, tổ chức tuyên truyền pháp luật GTĐTNĐ chưa thật sự chặt chẽ, ảnh
hưởng đến hiệu quả công tác tuyên truyền. Một số đơn vị liên quan chưa nhận
thức được trách nhiệm của mình trong việc hỗ trợ, giúp đỡ ĐKVN tuyên
truyền pháp luật giao thông hoặc với những lý do thiếu nguồn nhân lực, kinh
phí, thời gian…dẫn đến thực trạng quan hệ phối hợp được xây dựng hết sức
lỏng lẻo, gây khó khăn, cản trở việu quả công việc. Bên cạnh đó, một số văn
bản pháp luật liên quan lại chậm đổi mới, nhiều vấn đề còn chồng chéo chưa
bám sát vào thực tiễn hoạt động giao thông của người dân. Nội dung tuyên
tuyền, giáo dục pháp luật giao thông đường thủy chưa đáp ứng được đầy đủ
yêu cầu của thực tiễn. Hình thức và phương pháp tuyên truyền pháp luật giao
thông đường thủy cho người tham gia giao thông mang tính truyền thống,
quen thuộc mà ít được vận dụng sáng tạo, linh hoạt. Các buổi tuyên truyền
phần lớn chỉ mới đáp ứng được yêu cầu trên quy mô nhỏ, số lượng người
tham gia ít, tập trung trung vào thời gian ngắn và cố định, thực hiện theo đề
nghị và có sự hỗ trợ của các địa phương.
67
2.3.3. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế trong quản lý nhà
nước về đăng kiểm phương tiện thuỷ nội địa tại Cục đăng kiểm Việt Nam
Những tồn tại, hạn chế trong QLNN về đăng kiểm PTTNĐ tại Cục
ĐKVN có nhiều nguyên nhân, trong đó có những nguyên nhân chung dẫn đến
khó khăn, vướng mắc trong QLNN về giao thông đường thủy nói chung.
Thứ nhất, công tác xây dựng, ban hành một số văn bản quy phạm pháp
luật hướng dẫn thi hành pháp luật về giao thông đường thủy còn chưa kịp thời
với tình hình thực tế. Hệ thống pháp luật về GTĐTNĐ hiện hành vẫn còn một
số tồn tại như: Chưa đồng bộ, hiệu lực thấp, có những vấn đề liên quan đến
hoạt động GTĐTNĐ chưa được pháp luật điều chỉnh. Luật GTĐTNĐ đã được
sửa đổi phù hợp với thực tiễn hoạt động GTĐTNĐ, nhưng một số văn bản
quy phạm pháp luật mới ban hành vẫn còn một số quy định chưa phù hợp,
gây khó khăn cho việc tổ chức thực hiện trong thực tiễn, nhất là trong lĩnh
vực QLNN về kết cấu hạ tầng giao thông, quản lý phương tiện, người điều
khiển phương tiện và quản lý vận tải thuỷ nội địa, phát hiện và xử lý người vi
phạm...
Thứ hai, quy định về việc phân công, phân cấp giữa các bộ, ngành, giữa
trung ương, địa phương chưa rõ ràng dẫn đến sự chồng chéo về chức năng,
nhiệm vụ làm giảm hiệu lực QLNN, chưa đáp ứng yêu cầu đổi mới của nền
kinh tế và hội nhập kinh tế khu vực, quốc tế. Mặc dù Chính phủ, Bộ GTVT và
một số địa phương đã giải quyết, tháo gỡ những vướng mắc, bất cập, đơn giản
hoá những quy định về đăng ký, đăng kiểm phương tiện, song một số địa
phương chưa quan tâm đúng mức, chưa có những giải pháp quyết liệt để đẩy
mạnh công tác này.
Trên thực thế, sự phối hợp giữa các cơ quan QLNN ở Trung ương và địa
phương còn chưa được thường xuyên, liên tục; vai trò, trách nhiệm của chính
quyền địa phương các cấp trong việc tổ chức thực hiện các biện pháp bảo vệ
68
kết cấu hạ tầng giao thông đường thuỷ nội địa, chống lấn chiếm hành lang bảo
vệ luồng và bảo đảm trật tự, an toàn giao thông còn chưa được quan tâm đúng
mức.
Tổ chức Cảng vụ đường thủy nội địa tại các cảng, bến thủy nội địa trên
tuyến đường thủy nội địa địa phương chưa được phủ kín trong phạm vi cả
nước. Tình trạng phương tiện vào hoạt động tại các bến chưa có tổ chức Cảng
vụ đường thủy nội địa để trốn tránh sự kiểm soát theo quy định còn nhiều,
chưa tạo sự thống nhất đồng bộ trong toàn bộ hệ thống.
Thứ ba, đội ngũ đăng kiểm viên chưa được kiện toàn; năng lực chuyên
môn và ý thức chấp hành pháp luật của một số đăng kiểm viên PTTNĐ còn
hạn chế. Do lượng phương tiện đóng mới tăng đột biến, dẫn đến tình trạng
một số đơn vị Đăng kiểm thiếu đăng kiểm viên nên chất lượng giám sát còn
hạn chế; kiểm tra, giám sát chưa đồng đều. Còn có đơn vị đăng kiểm chất
lượng giám sát yếu như Sóc Trăng, Trà Vinh, Vĩnh Long; chất lượng giám sát
chưa cao như: Chi cục Đăng kiểm số 3, Chi cục Đăng kiểm Tiền Giang, Bạc
Liêu, Bến Tre, Long An. Các đơn vị đăng kiểm Sở GTVT còn chưa có Đăng
kiểm viên như Thái Nguyên, Bình Phước, Đồng Nai, Bắc Giang hoặc chưa có
đầy đủ Đăng kiểm viên có chuyên môn như: Bắc Kạn, Tuyên Quang, Điện
Biên, Lai Châu, Đà Nẵng.Việc kiểm tra, giám sát kỹ thuật, định hạn hoạt
động cho phương tiện đang khai thác còn có đơn vị thực hiện chưa nghiêm
túc, chưa thực sự đúng các qui định, đặc biệt là các tỉnh miền Tây Nam bộ.
Các đơn vị Đăng kiểm của Sở GTVT chưa đầy đủ chuyên môn như Bắc Kạn,
Tuyên Quang, Điện Biên, Lai Châu. Một số đơn vị chưa thực hiện đăng kiểm
PTTNĐ do thiếu cán bộ chuyên môn hoặc nhờ Cục ĐKVN thực hiện như
Thái Nguyên, Điện Biên, Lai Châu, Bình Phước, Bắc Kạn, Lào Cai, Bắc
Giang. Có đơn vị thực hiện việc thẩm định thiết kế chưa nghiêm túc, vượt
thẩm quyền. Chất lượng thẩm định một số bộ thiết kế ở một số đơn vị chưa
69
đạt yêu cầu, còn có những sai sót so với quy chuẩn. Thời gian thẩm định còn
bị quá thời gian theo qui định.[68]
Thứ tư, ý thức pháp luật của chủ phương tiện và người tham gia
GTĐTNĐ còn thấp.
Tình trạng vi phạm các quy định của pháp luật trên các tuyến đường thủy
nội địa đang diễn ra khá phổ biến như: lấn chiếm hành lang GTĐTNĐ để xây
nhà, xây dựng các công trình trái phép làm thay đổi dòng chảy, cản trở giao
thông; tình trạng phương tiện không tuân theo quy phạm thiết kế, không đăng
ký, đăng kiểm vẫn tham gia giao thông. Số đối tượng điều khiển phương tiện
tham gia giao thông trên tuyến đường thủy nội địa cố tình vi phạm các quy
định của pháp luật luôn ở mức cao, trong đó 2 vi phạm chủ yếu là phương tiện
chở quá tải và quá hạn kiểm định nhưng vẫn đưa vào hoạt động. Nhiều đối
tượng điều khiển phương tiện không bằng cấp, không có chứng chỉ chuyên
môn; nhiều phương tiện và bến chở khách qua sông không đảm bảo điều kiện
an toàn; khai thác cát, sỏi lòng sông; cắm đăng, đáy, nuôi cá lồng, họp chợ...;
sử dụng chất nổ, thiết bị sung điện để đánh bắt thủy hải sản.
Hiện nay, phương tiện thuộc diện phải đăng ký, đăng kiểm nhưng chưa
thực hiện đăng ký, đăng kiểm vẫn còn chiếm tỷ lệ cao, tập trung chủ yếu là
các phương tiện loại nhỏ có trọng tải dưới 15 tấn, công suất máy chính dưới
15 mã lực. Do nhận thức của người dân chưa theo kịp yêu cầu phải đăng ký
phương tiện này nên khi làm thủ tục đăng ký, các phương tiện này bị thiếu
giấy tờ như hóa đơn, lệ phí trước bạ, hồ sơ gốc do đó không thể thực hiện
đăng ký vì loại phương tiện này thường tự đóng theo phương pháp dân gian mà
không có thiết kế được phê duyệt.
Bên cạnh đó, tỷ lệ thuyền viên, người lái phương tiện chưa qua đào tạo,
chưa có bằng, chứng chỉ chuyên môn theo quy định còn chiếm tỷ lệ cao.
Nguyên nhân của tình trạng này là ý thức chấp hành pháp luật của người điều
70
khiển phương tiện chưa cao, điều kiện tham gia các lớp đào tạo cũng gặp
không ít khó khăn, thời gian đào tạo khá dài so với môi trường làm việc. Cơ
sở đào tạo cấp bằng, chứng chỉ chuyên môn phân bố không đều trong phạm vi
cả nước. Các vùng không có cơ sở đào tạo thường là các địa phương khó khăn
về kinh tế nên việc đào tạo cấp bằng, chứng chỉ cho số người chưa có bằng,
chứng chỉ theo quy định còn gặp nhiều trở ngại. Chính sách hỗ trợ về đào tạo
thuyền viên, người lái phương tiện chưa thỏa đáng, phần lớn người lái phương
tiện đều có hoàn cảnh khó khăn về kinh phí.
71
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2
Công tác QLNN về đăng kiểm PTTNĐ thời gian qua đã được Chính
phủ, Bộ GTVT quan tâm và ban hành nhiều văn bản tổ chức thực hiện. Cục
ĐKVN cũng đã thiết lập được hệ thống tổ chức bộ máy từ Trung ương đến
địa phương. Công tác QLNN về đăng kiểm PTTNĐ đã đạt được những quả
tích trên các nội dung: công tác tham mưu xây dựng văn bản và ban hành văn
bản pháp luật theo thẩm quyền; công tác lãnh đạo, chỉ đạo, hướng dẫn chuyên
môn nghiệp vụ đăng kiểm PTTNĐ; công tác trực tiếp thực hiện việc đăng
kiểm PTTNĐ; công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát việc chấp hành pháp luật
về đăng kiểm PTTNĐ; công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về đăng
kiểm PTTNĐ và hợp tác quốc tế trong lĩnh vực đăng kiểm PTTNĐ.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, hoạt động QLNN về đăng
kiểm PTTNĐ từ thực tiễn của Cục ĐKVN cũng bộc lộ những tồn tại, hạn chế
như: công tác tham mưu cho việc hoàn thiện chính sách, pháp luật về đăng
kiểm PTTNĐ vẫn còn một số nội dung bất cập, công tác lãnh đạo, chỉ đạo,
điều hành còn chưa quyết liệt; còn có sự chồng chéo trong thực hiện nhiệm vụ
giữa các cơ quan, tổ chức, đơn vị có liên quan đến hoạt động đăng kiểm
PTTNĐ; công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát, xử lý vi phạm và giải quyết
khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đăng kiểm PTTNĐ còn hạn chế. Những hạn
chế đó có nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân từ những bất cập
trong hệ thống pháp luật hiện hành, từ sự lãnh đạo, chỉ đạo và sự phối hợp
giữa các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền trong việc QLNN về đăng
kiểm PTTNĐ. Ngoài ra còn có nguyên nhân quan trọng từ sự thiếu kiện toàn
của đội ngũ đăng kiểm viên, năng lực chuyên môn và ý thức pháp luật của
một bộ phận đăng kiểm viên PTTNĐ còn hạn chế. Bên cạnh đó, ý thức pháp
luật của chủ phương tiện và người tham gia GTĐTNĐ còn thấp cũng ảnh
hướng rất lớn đến hiệu quả QLNN về đăng kiểm PTTNĐ.
72
Trước những hạn chế, bất cập nói trên, đòi hỏi phải có những định
hướng cơ bản và giải pháp nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả QLNN về đăng
kiểm PTTNĐ, nhất là thực hiện các giải pháp đó tại Cục ĐKVN trong thời
gian tới.
73
CHƯƠNG 3: ĐỊNH HƯỚNG, GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ ĐĂNG KIỂM PHƯƠNG TIỆN THỦY NỘI ĐỊA TẠI CỤC ĐĂNG KIỂM VIỆT NAM
3.1. Định hướng bảo đảm quản lý nhà nước về đăng kiểm phương tiện thuỷ nội địa tại Cục Đăng kiểm Việt Nam
3.1.1. Tăng cường quản lý nhà nước về đăng kiểm phương tiện thủy
nội địa theo hướng chính quy, chuyên nghiệp, minh bạch, hiệu quả phục
vụ sự phát triển bền vững
Giao thông vận tải đường thủy nội địa có vai trò quan trọng đối với sự
phát triển kinh tế - xã hôi, bảo đảm an ninh, quốc phòng và góp phần giao lưu
với một số quốc gia lân cận, đồng thời là ngành có tính chất xã hội hoá cao,
nhiều thành phần kinh tế đều tham gia kinh doanh vận tải thủy nội địa. Ưu thế
của vận tải đường thủy nội địa là chi phí thấp, vận chuyển hàng hoá khối
lượng lớn và ít gây ô nhiễm môi trường. Vì vậy, để giao thông đường thủy nội
địa phát huy được thế mạnh của mình đòi hỏi tăng cường quản lý nhà nước về
phương tiện thủy nội địa nói chung và đăng kiểm phương tiện thủy nội địa nói
riêng. Chính phủ, Bộ Giao thông vận tải và Cục Đăng Kiểm Việt Nam đã và
sẽ tiếp tục phải xây dựng hệ thống tổ chức đăng kiểm phương tiện thủy nội
địa theo hướng chính quy, chuyên nghiệp, minh bạch, hiệu quả. Điều đó đòi
hỏi phải hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật về đăng kiểm phương tiện
thủy nội địa và kiện toàn bộ máy, nâng cao năng lực thực thi nhiệm vụ của
đội ngũ cán bộ làm công tác đăng kiểm phương tiện thủy nội địa. Việc đăng
kiểm phương tiện thủy nội địa phải được thực hiện đúng thẩm quyền, nội
dung, quy trình và bảo đảm công khai, minh bạch.
Thứ nhất, công tác quản lý nhà nước về đăng kiểm phương tiện thủy nội
địa phải được tăng cường theo hướng chính quy. Hệ thống tổ chức đăng kiểm
phương tiện thủy nội địa phải được xây dựng, củng cố có tính hệ thống từ
74
Trung ương đến địa phương, đáp ứng kịp thời cho hoạt động quản lý phương
tiện thủy nội địa.
Với những yêu cầu chung của phát triển kinh tế - xã hội, công tác quản
lý nhà nước về đăng kiểm phương tiện thủy nội địa đã được tăng cường, gắn
liền với bảo đảm trật tự an toàn giao thông trên các tuyến giao thông đường
thủy nội địa. Trong thời gian qua, Đảng, Nhà nước đã có nhiều chủ trương,
chính sách phát triển kinh tế - xã hội thông qua hoạt động giao thông đường
thủy nội địa nhằm phát huy thế mạnh của giao thông đường thủy nội địa.
Nhiều giải pháp đã được thực hiện như sắp xếp lại cơ cấu, tổ chức các cơ
quan chức năng chuyên ngành, phát huy lợi thế tự nhiên và ưu thế về năng
lực, giảm giá thành vận tải.
Ngày 01/12/2011 Ban Bí thư Trung ương Đảng đã có Chỉ thị số 09/CT-
TW về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với phong trào toàn dân bảo vệ
an ninh Tổ quốc trong tình hình mới. Trên cơ sở đó, Quốc hội, Chính phủ và
các cơ quan có thẩm quyền đã cụ thể thể chế hóa thông qua việc ban hành các
văn bản pháp luật. Cụ thể Quốc hội ban hành Luật Sửa đổi, bổ sung một số
điều của Luật Giao thông đường thủy nội địa. Chính phủ ban hành Nghị định
số 93/2013/NĐ-CP ngày 20/08/2013 về quy định xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực giao thông hàng hải, đường thủy nội địa; Nghị định số
110/2014/NĐ-CP ngày 20/11/2014 về quy định điều kiện kinh doanh vận tải
đường thủy nội địa; Nghị định số 24/2015/NĐ-CP ngày 27/02/2015 về quy
định chi tiết và biện pháp thi hành một số điều của Luật Giao thông đường
thủy nội địa và Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giao thông
đường thủy nội địa.
Các bộ như Bộ Giao thông vận tải, Bộ Công an, Bộ Nông nghiệp và phát
triển nông thôn, Bộ Tài nguyên và môi trường, UBND cấp tỉnh cũng đã ban
hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật và chỉ đạo thực hiện pháp luật giao
75
thông đường thủy nội địa. Rất nhiều văn bản trong số các chính sách, pháp
luật được ban hành đề cập đến nội dung đăng kiểm phương tiện thủy nội địa
và coi đăng kiểm phương tiện thủy nội địa là nội dung quan trọng bảo đảm an
toàn giao thông đường thủy nội địa, góp phần phát triển kinh tế - xã hội. Bên
cạnh đó, các cơ quan, tổ chức, đơn vị trong bộ máy nhà nước đã tích cực phối
hợp với nhau trong việc tổ chức thực hiện pháp luật và phối hợp với các tổ
chức xã hội trong việc tuyên truyền nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của
người dân về giao thông đường thủy nội địa.
Với hệ chủ trương, chính sách và thực tiễn về phát triển giao thông
đường thủy nội địa thời gian qua cho thấy quản lý nhà nước về đăng kiểm
phương tiện thủy nội địa đã bước đầu mang tính chính quy, được tổ chức
thành hệ thống từ Trung ương đến địa phương. Tuy nhiên, với những hạn chế,
bất cập hiện nay thì việc tăng cường tình chính quy trong quản lý nhà nước về
đăng kiểm phương tiện thủy nội địa cần phải tiếp tục được quan tâm.
Thứ hai, bảo đảm công tác quản lý nhà nước về đăng kiểm phương tiện
thủy nội địa có tính chuyên nghiệp.
Một trong những yếu tố quan trọng để bảo đảm tính chính quy trong
quản lý nhà nước về đăng kiểm phương tiện thủy nội địa là tính chuyên
nghiệp trong lĩnh vực công tác này. Để bảo đảm tính chuyên nghiệp trong
quản lý nhà nước về đăng kiểm phương tiện thủy nội địa đòi hỏi phải tập
trung và những nội dung sau:
- Xây dựng và hoàn thiện thể chế về quản lý nhà nước về đăng kiểm
phương tiện thủy nội địa, đặc biệt là các quy định về thẩm quyền, trình tự, thủ
tục đăng kiểm để hoạt động đăng kiểm phương tiện thủy nội địa được thực
hiện có nề nếp, phục vụ kịp thời nhu cầu đăng kiểm phương tiện thủy nội địa
của toàn xã hội.
76
- Xây dựng đội ngũ cán bộ trong hệ thông cơ quan thực hiện chức năng
quản lý nhà nước về đăng kiểm phương tiện thủy nội địa có trình độ chuyên
môn, bản lĩnh vững vàng và đặc biệt quan trọng là tác phong chuyên nghiệp
trong thực hiện nhiệm vụ được giao.
Thứ ba, hoạt động quản lý nhà nước về đăng kiểm phương tiện thủy nội
địa là việc thực thi quyền hành chính, liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích
hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân và toàn xã hội. Vì vậy, với những yêu
cầu của nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước hiện nay đòi hỏi hoạt động quản
lý nhà nước về đăng kiểm phương tiện thủy nội địa phải bảo đảm tính minh
bạch và hiệu quả trong hoạt động. Tính minh bạch trong toàn hệ thống đăng
kiểm đòi hỏi các cấp, các ngành và đặc biệt là Đăng kiểm Việt Nam cần tăng
cường công khai thông tin về tổ chức và hoạt động của mình, công khai các
trình tự, thủ tục thực thi nhiệm vụ và đặc biệt là nâng cao trách nhiệm giải
trình trong thực thi nhiệm vụ công vụ.
Bên cạnh đó, để phục vụ sự phát triển kinh tế xã hội thì hoạt động quản
lý nhà nước về đăng kiểm phương tiện thủy nội địa phải bảo đảm tính hiệu
quả với quan điểm chi phí cho hoạt động quản lý nhà nước về đăng kiểm
phương tiện thủy nội địa thấp nhất nhưng đạt được hiệu quả cao nhất, đáp ứng
kịp thời cho sự phát triển của kinh tế xã hội và nhu cầu của các tổ chức, cá
nhân.
3.1.2. Quản lý nhà nước về đăng kiểm phương tiện thuỷ nội địa đáp
ứng yêu cầu tăng cường quản lý trên các lĩnh vực nói chung, gắn với việc
thực hiện Chương trình tổng thể cải cách hành chính giai đoạn 2011-2020
QLNN về đăng kiểm PTTNĐ là một nội dung của QLNN nói chung, vì
vậy, QLNN về đăng kiểm PTTNĐ đáp ứng yêu cầu tăng cường QLNN trên
các lĩnh vực nói chung, gắn với việc thực hiện Chương trình tổng thể cải cách
77
hành chính giai đoạn 2011-2020 được ban hành theo Nghị quyết số 30c/NQ-
CP, ngày 08/11/2011 của Chính phủ.
Từ vai trò và thực tiễn QLNN về đăng kiểm PTTNĐ, để góp phần thực
hiện Chương trình tổng thể cải cách hành chính giai đoạn 2011-2020, ngành
GTVT nói chung và Cục Đăng kiểm nói riêng cần bám sát mục tiêu trọng tâm
cải cách hành chính trong giai đoạn bằng những nhiệm vụ cụ thể sau:
- Xây dựng, hoàn thiện thể chế về QLNN về đăng kiểm PTTNĐ đồng bộ
với hệ thống thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nhằm giải
phóng lực lượng sản xuất, huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực
cho phát triển đất nước;
- Hoạt động QLNN về đăng kiểm PTTNĐ phải góp phần tạo môi trường
kinh doanh bình đẳng, thông thoáng, thuận lợi, minh bạch nhằm giảm thiểu
chi phí về thời gian và kinh phí của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần
kinh tế trong việc tuân thủ thủ tục hành chính;
- Xây dựng hệ thống các cơ quan QLNN về đăng kiểm PTTNĐ từ trung
ương tới cơ sở thông suốt, trong sạch, vững mạnh, hiện đại, hiệu lực, hiệu
quả, tăng tính dân chủ và pháp quyền.
- Hoạt động QLNN về đăng kiểm PTTNĐ phải góp phần bảo đảm thực
hiện trên thực tế quyền dân chủ của nhân dân, bảo vệ quyền con người, gắn
quyền con người với quyền và lợi ích của dân tộc, của đất nước;
- Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức làm công tác đăng
kiểm PTTNĐ có đủ phẩm chất, năng lực và trình độ, đáp ứng yêu cầu phục vụ
nhân dân và sự phát triển của đất nước.
Những nhiệm vụ trên đây phải được cụ thể hóa bằng hoạt động cụ thể
của các cơ quan có thẩm quyền trong QLNN về đăng kiểm PTTNĐ, đặc biệt
là cụ thể hóa trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ GTVT và Cục
ĐKVN.
78
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nuớc về đăng kiểm phương tiện thuỷ nội địa tại Cục Đăng kiểm Việt Nam
3.2.1. Giải pháp hoàn thiện thể chế quản lý
Thể chế quản lý là điều kiện đầu tiên bảo đảm cho hoạt động QLNN
được thực hiện theo pháp luật. Đề nâng cao hiệu quả QLNN về đăng kiểm
PTTNĐ đòi hỏi không chỉ hoàn thiện thể chế về đăng kiểm PTTNĐ mà còn
phải hoàn thiện thể chế quản lý trong lĩnh vực GTĐTNĐ nói chung.
Gần đây, Luật GTĐTNĐ năm 2004 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2014.
Tuy nhiên, từ những bất cập, hạn chế trong thực hiện QLNN về đăng kiểm
PTTNĐ hiện nay một số văn bản pháp luật đã có một số hạn chế nhất định. Vi
vậy, cần rà soát các văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước, của các Bộ,
ngành và UBND các địa phương (nghị định, thông tư, chỉ thị, quyết định...) để
tiếp tục sửa đổi, bổ sung Luật GTĐTNĐ và các văn bản hướng dẫn thi hành
cho phù hợp với thực tế.
Những nội dung cần sửa đổi, bổ sung phải hướng đến các mục tiêu xây
dựng hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, quy chuẩn, tiêu chuẩn kỹ thuật
quốc gia để phủ kín toàn bộ phạm vi hoạt động công tác đăng kiểm, áp dụng
cho tất cả các đối tượng phương tiện thuỷ nội địa. Từng văn bản, quy chuẩn
luôn được cập nhật, soát xét, sửa đổi nâng cao tính khả thi, phù hợp với thực
tế, cải cách thủ tục hành chính tạo cơ sở pháp lý quan trọng trong triển khai
thực hiện công tác đăng kiểm phương tiện thuỷ nội địa.
Về giải pháp lập pháp, cần phân nhóm những chế định pháp luật để sử
đổi bổ sung trong thời gian tới hướng đến các mục tiêu cụ thể như sau:
Thứ nhất, hoàn thiện các chế định về GTĐTNĐ bảo đảm thực sự là cơ sở
pháp lý để thiết lập trật tự an toàn GTĐTNĐ, khai thác tốt tiềm năng thiên
nhiên và phát huy nguồn lực của mọi thành phần kinh tế đầu tư khai thác
79
GTVT đường thủy nội địa, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và hội
nhập kinh tế khu vực, quốc tế ngày càng cao.
Thứ hai, bổ sung những chế định mới về GTĐTNĐ để kịp thời điều
chỉnh những vấn đề mới phát sinh. Những quy định mới phải được kế thừa và
phát huy các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành, những nội dung đã được
kiểm nghiệm trong thực tế và có tính ổn định được hoàn thiện nâng thành
điều luật. Ví dụ như nội dung QLNN về GTĐTNĐ mặc dù đã được đưa vào
Luật GTĐTNĐ trong lần sửa đổi, bổ sung năm 2014 nhưng trong nội dung
này, cần tiếp tục phải được thể chế hóa trong Luật với quy định cụ thể về nội
dung QLNN về đăng kiểm PTTNĐ.
Thứ ba, tiếp tục rà soát những nội dung mang tính kỹ thuật chi tiết hoặc
những vấn đề chưa được điều chỉnh bởi pháp luật hoặc chưa được kiểm
nghiệm đầy đủ và ổn định thì được quy định khung trong Luật nhưng phải
quy định ở các văn bản dưới luật. Điều này góp phần xây dựng hệ thống văn
bản quy phạm pháp luật, quy chuẩn, tiêu chuẩn kỹ thuật quốc gia để phủ kín
toàn bộ phạm vi hoạt động công tác đăng kiểm, áp dụng cho tất cả các đối
tượng phương tiện thuỷ nội địa. Đối với từng văn bản, quy chuẩn phải luôn
được cập nhật, soát xét, sửa đổi nâng cao tính khả thi, phù hợp với thực tế, cải
cách thủ tục hành chính tạo cơ sở pháp lý quan trọng trong triển khai thực
hiện công tác đăng kiểm phương tiện thuỷ nội địa.
Trong thời gian tới, những văn bản quy định nội dung mang tính kỹ thuật
chi tiết cần phải tiếp tục được hoàn thiện. Bộ GTVT cần sớm ban hành các
quy chuẩn kỹ thuật sau:
- Ban hành Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về phân cấp và đóng PTTNĐ
chế tạo bằng vật liệu polypropylen copolyme .
- Bổ sung, sửa đổi Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về phân cấp và đóng
PTTNĐ vỏ thép chở xô hóa chất nguy hiểm (QCVN 01: 2008/BGTVT).
80
- Bổ sung, sửa đổi Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về ngăn ngừa ô nhiễm
trên PTTNĐ (QCVN 17: 2011/BGTVT).
- Bổ sung, sửa đổi Qui chuẩn kỹ thuật quốc gia về phân cấp và đóng
PTTNĐ vỏ gỗ. Mã số đăng ký: Sửa đổi 1:2017 QCVN 84:2014/BGTVT.
- Biên soạn Qui chuẩn kỹ thuật quốc gia về phân cấp và đóng PTTNĐ
cao tốc. Mã số đăng ký: QCVN XX:2017/BGTVT.
- Biên soạn Qui chuẩn kỹ thuật quốc gia về tàu du lịch…
Thứ tư, hệ thống pháp luật phải định rõ trách nhiệm quản lý giữa các bộ,
ngành và địa phương trên cơ sở mỗi việc có một cơ quan chịu trách nhiệm,
phù hợp với nội dung cải cách hành chính Nhà nước. Trong những nội dung
đó, cần có quy định về việc phân cấp và xác định rõ nhiệm vụ, quyền hạn của
Cục ĐKVN trong thực hiện chức năng QLNN về đăng kiểm PTTNĐ.
Thứ năm, phải gấp rút hoàn thiện các quy định pháp luật về thanh tra,
kiểm tra, xử lý vi phạm và giải quyết khiếu nại, tố cáo về đăng kiểm PTTNĐ.
Đây là một mảng nội dung còn nhiều bất cập trong thời gian qua. Các quy
định pháp luật về thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm và giải quyết khiếu nại, tố
cáo về đăng kiểm PTTNĐ cần được hoàn thiện theo hướng sau:
- Trao cho Cục ĐKVN chức năng thanh tra chuyên ngành để nâng cao
vai trò của ĐKVN trong việc thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm về đăng kiểm
PTTNĐ. Theo Nghị định số 57/2013/NĐ-CP ngày 31/5/2013 của Chính phủ
về tổ chức và hoạt động Thanh tra Ngành GTVT, Cục ĐKVN Cơ quan được
giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành. Trong thời gian tới, cần
quy định Cục ĐKVN cũng là cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh
tra chuyên ngành, có thẩm quyền kiểm tra, xử phạt đối với các tổ chức, cá
nhân vi phạm pháp luật về đăng kiểm phương tiện nói chung và đăng kiểm
PTTNĐ nói riêng.
81
- Sửa đổi, bổ sung Luật Khiếu nại, Luật Tố cáo để tạo cơ sở pháp lý cho
Bộ GTVT, Cục ĐKVN xây dựng các văn bản hướng dẫn thi hành theo hướng
quy định rõ thẩm quyền, trình tự, thủ tục giải quyết các khiếu nại, tố cáo phát
sinh trong lĩnh vực đăng kiểm PTTNĐ nói chung và đăng kiểm PTTNĐ nói
riêng.
3.2.2. Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo việc thực hiện pháp luật về
đăng kiểm phương tiện thuỷ nội địa
Thứ nhất, Bộ GTVT và Cục ĐKVN phải chỉ đạo các đơn vị trực thuộc
thực hiện tốt các nội dung, yêu cầu trong các văn bản sau:
- Chỉ thị 08/CT-TTg ngày 12/4/2014 của Thủ tướng Chính phủ về các
giải pháp cấp bách để nâng cao chất lượng và chống tiêu cực trong công tác
đăng kiểm phương tiện GTVT;
- Đề án nâng cao chất lượng công tác đăng kiểm phương tiện giao thông
cơ giới đường bộ và PTTNĐ góp phần giảm thiểu tai nạn giao thông và ô
nhiễm môi trường;
- Đề án đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động và phòng, chống tiêu
cực trong công tác đăng kiểm.
Thứ hai, Cục ĐKVN phải tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo và kiểm tra,
kiểm soát những nội dung cụ thể như sau sau:
- Lãnh đạo, chỉ đạo và kiểm soát chặt chẽ nghiệp vụ đăng kiểm phương
tiện thuỷ nội địa thông qua hồ sơ, chương trình phần mềm máy tính giám sát
kỹ thuật tàu sông do đơn vị gửi, tăng cường kiểm soát trực tiếp nghiệp vụ tại
các đơn vị thông qua công tác thanh tra các đơn vị Đăng kiểm, nhằm duy trì
sự phối hợp và thống nhất trong hoạt động nghiệp vụ đánh giá trạng thái kỹ
thuật phương tiện, đặc biệt lĩnh vực kiểm tra phương tiện đóng mới, kiểm tra
vãng lai nhằm thực hiện tốt các qui định của Cục, Qui chuẩn và tiêu chuẩn;
nâng cao chất lượng phương tiện, tăng uy tín của cơ quan đăng kiểm.
82
- Chỉ đạo, kiểm soát, giải quyết các vướng mắc trong triển khai hướng
dẫn giám sát, chương trình quản lý PTTNĐ mới như kiểm soát lại các đơn vị
trong việc phân loại công dụng phương tiện, bổ sung các thông số kỹ thuật,
giám sát ngoài phạm vi được giao, gắn số kiểm soát và dán tem trên phương
tiện và chụp ảnh khi thực hiện kiểm tra đóng mới, hoán cải, chu kỳ nhằm
quản lý phương tiện được chặt chẽ hơn và không ách tắc sản xuất.
- Chỉ đạo quyết liệt các đơn vị đăng kiểm nhanh chóng nâng cấp VR-SB
cho phương tiện phù hợp với yêu cầu, tiến độ của Bộ GTVT và thực hiện
ngay việc đổi Giấy chứng nhận an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường cho các
phương tiện có ghi tuyến cụ thể để phương tiện hoạt động trên các tuyến vận
tải ven bờ biển đã được Bộ GTVT công bố. Tăng cường, nâng cao chất lượng
kiểm tra chu kỳ với các phương tiện này.
- Đánh giá các cơ sở đóng mới, hoán cải, sửa chữa phục hồi PTTNĐ.
- Kiểm tra, đánh giá lại chất lượng thẩm định thiết kế, việc tuân thủ các
quy định của các đơn vị Đăng kiểm thực hiện công tác thẩm định thiết kế.
Chấn chỉnh và quy định lại công tác thẩm định thiết kế nhằm nâng cao chất
lượng công tác thẩm định thiết kế.
- Thực hiện kiểm soát công tác thẩm định thiết kế PTTNĐ đối với các
đơn vị đăng kiểm.
- Yêu cầu các đơn vị đăng kiểm kiểm tra, thống kê xem xét lại các
phương tiện đã giải bản, chuyển vùng và thực hiện xóa tên các phương tiện
này khỏi chương trình quản lý tại đơn vị theo quy định hiện hành nhằm thống
kê lại số lượng tàu hiện đã đăng kiểm hiện còn hoạt động. Bổ sung các thông
tin kỹ thuật còn thiếu vào Hồ sơ đăng ký kỹ thuật trong chương trình quản lý
tàu sông.
- Bổ sung, sửa đổi các lỗi hồ sơ đăng kiểm của các đơn vị trong phần
mềm quản lý mới cho PTTNĐ trên toàn quốc.
83
- Chỉ đạo các đơn vị Đăng kiểm tăng cường việc kiểm tra tàu khách cao
tốc, tàu khách du lịch, nhà hàng nổi, khách sạn nổi, phương tiện chở khách,
tàu dầu góp phần đảm bảo trật tự an toàn giao thông. Yêu cầu đơn vị thực
hiện đợt kiểm tra chéo, kiểm tra lại sự phù hợp giữa thiết kế, tàu thực và quy
định áp dụng; phải phối hợp với các cơ quan chức năng như: Thanh tra giao
thông, Cảng vụ, Cảnh sát đường thuỷ để kiểm tra đột xuất tình trạng an toàn
kỹ thuật và bảo vệ môi trường, phòng chống cháy nổ với các phương tiện 3
tháng/ lần giữa hai kỳ kiểm định.
- Chỉ đạo và yêu cầu các đơn vị đăng kiểm hàng tháng công khai danh
sách tàu khách quá hạn đăng kiểm và tin PTTNĐ quá hạn đăng kiểm kèm
đường dẫn Website của Cục ĐKVN trên các phương tiện thông tin đại chúng
tại địa phương.
- Chỉ đạo, xử lý các vướng mắc phát sinh trong giám sát kỹ thuật (đóng
mới, hoán cải, sửa chữa và khai thác phương tiện thuỷ nội địa) tại các đơn vị.
- Hướng dẫn các đơn vị đăng kiểm thực hiện kiểm tra, lập và cấp hồ sơ
đăng kiểm theo hướng đơn giản, thuận tiện, chính xác và nhanh chóng. Thống
kê, tổng hợp số liệu các phôi giấy chứng nhận, ấn chỉ, thực hiện quản lý, cấp
phát, sử dụng giấy chứng nhận có số Xê ry theo Qui chế mới.
- Chỉ đạo các đơn vị kiểm tra, báo cáo và xử lý về tai nạn đường thuỷ tại
địa bàn.
- Soát xét hồ sơ đăng kiểm do các đơn vị gửi về, thông báo, chấn chỉnh
và hướng dẫn cho các đơn vị đăng kiểm thực hiện kiểm tra, giám sát kỹ thuật
theo đúng qui định.
- Rà soát các hoạt động đăng kiểm của đơn vị trên địa bàn được giao,
thực hiện nghiêm các hướng dẫn nghiệp vụ của Cục ĐKVN; công khai thủ tục
đăng kiểm để người dân chấp hành đúng quy định của pháp luật. Các đơn vị
84
chú trọng chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho cán bộ công nhân viên
chức, tạo không khí làm việc mẫn cán, cởi mở và hòa đồng trong cơ quan.
- Chỉ đạo các đơn vị phải thường xuyên cập nhật, phổ biến các văn bản,
chỉ thị của các cấp liên quan đến công tác đăng kiểm, như:
+ Văn bản của Bộ GTVT: Số 1106/BGTVT-VT ngày 27/01/2014 “về
triển khai thực hiện Thông báo kết luận số 70/TB-BGTVT tại cuộc họp về
tăng cường siết chặt quản lý hoạt động vận tải và kiểm soát tải trọng phương
tiện”; số 239/TB-BGTVT ngày 17/3/2014 “về kết luận của Bộ trưởng GTVT
tại cuộc họp về nâng cao chất lượng công tác đăng kiểm”; số 3016/KH-
BGTVT ngày 20/3/2014 “về kế hoạch hành động Năm an toàn giao thông
2014"; số 230/TTr-P2 ngày 25/3/2014 “về tăng cường công tác thanh tra,
kiểm tra hoạt động kiểm định xe cơ giới đường bộ, phương tiện thuỷ nội địa”;
số 3562/BGTVT-TCCB ngày 02/4/2014 “về bố trí lãnh đạo phụ trách và
người có trình độ chuyên môn nghiệp vụ làm công tác đăng kiểm”; số 07/CT-
BGTVT ngày 14/4/2014 “về chấn chỉnh kỷ luật, kỷ cương lao động, nâng cao
đạo đức công vụ đối với công chức, viên chức”; số 4770/BGTVT-VT ngày
28/4/2014 “về tiếp tục triển khai quyết liệt và hiệu quả công tác kiểm soát tải
trọng trong thời gian tới”.
+ Các văn bản của Cục ĐKVN: Số 83/ĐKVN ngày 15/01/2014 “về
Chương trình thi đua năm 2014 - Đổi mới hơn nữa, quyết liệt hơn nữa, chất
lượng hơn nữa, hiệu quả hơn nữa, tăng tốc và phát triển hơn nữa”; số
417/ĐKVN-TS ngày 21/02/2014 “về tăng cường giám sát kỹ thuật các
phương tiện thuỷ”; số 733/KHLN-ĐKVN ngày 21/3/2014 “về Kế hoạch phối
hợp liên ngành bảo đảm trật tự, ATGT ĐTNĐ năm 2014”; số 822/ĐKVN
ngày 27/3/2014 “về tăng cường quản lý công tác đăng kiểm phương tiện; số
1066/ĐKVN ngày 15/4/2014 “về thực hiện Chỉ thị số 08/CT-TTg ngày
12/4/2014 của Thủ tướng Chính phủ”, 1673/ĐKVN ngày 19/5/2014…
85
3.2.3. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm trong
lĩnh vực đăng kiểm phương tiện thuỷ nội địa
Thứ nhất, Thanh tra Chính phủ, Thanh tra Bộ GTVT cần tăng cường
thanh tra trách nhiệm thực hiện pháp luật về lĩnh vực GTĐTNĐ và tập trung
vào công tác đăng kiểm PTTNĐ của Cục ĐKVN và các đơn vị trực thuộc Cục
ĐKVN.
Phạm vi thanh tra trách nhiệm phải tập trung chủ yếu vào những nội dung
sau:
- Công tác tổ chức thực hiện đăng ký, đăng kiểm PTTNĐ; cấp, thu hồi
giấy chứng nhận đăng ký, giấy chứng nhận an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi
trường PTTNĐ.
- Hoạt động quản lý, đào tạo, cấp, đổi, thu hồi giấy chứng nhận khả năng
chuyên môn thuyền viên và người lái PTTNĐ.
- Công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về GTĐTNĐ;
hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện các biện pháp bảo đảm an toàn GTĐTNĐ.
- Công tác quản lý hoạt động vận tải đường thủy nội địa.
- Việc tổ chức thực hiện công tác phòng, chống thiên tai, ứng phó với
biến đổi khí hậu và tìm kiếm, cứu nạn, cứu hộ GTĐTNĐ.
- Hoạt động bảo vệ môi trường trong hoạt động GTVT đường thủy nội
địa.
- Công tác tổ chức nghiên cứu, ứng dụng khoa học và công nghệ, hợp tác
quốc tế; đào tạo nguồn nhân lực trong lĩnh vực đăng kiểm PTTNĐ.
- Công tác thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, xử lý vi phạm
pháp luật về đăng kiểm PTTNĐ…..
Thứ hai, cần tăng cường kiểm tra tàu khách, tàu dầu, tàu sông cỡ nhỏ
hoạt động kinh doanh vận tải, chở khách du lịch, tàu lưu trú nghỉ đêm, nhà
hàng nổi. Yêu cầu đơn vị thực hiện đợt kiểm tra chéo, kiểm tra lại sự phù hợp
86
giữa thiết kế, tàu thực và quy định áp dụng; tăng cường phối hợp giữa Cục
ĐKVN với các cơ quan chức năng như: Thanh tra giao thông, Cảng vụ, Cảnh
sát đường thuỷ để kiểm tra đột xuất tình trạng an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi
trường, phòng chống cháy nổ với các phương tiện 3 tháng/ lần giữa hai kỳ
kiểm định.
Trong thời gian tới, cần tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, kỹ thuật, trang
thiết bị, phương tiện, công cụ hỗ trợ, tăng cường biên chế cho các lực lượng
thanh tra, kiểm tra và xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông
đường thuỷ. Các lực lượng chuyên trách phải được đào tạo nâng cao trình độ
chuyên môn nghiệp vụ, đạo đức nghề nghiệp và được đầu tư cơ sở vật chất, kỹ
thuật, trang thiết bị, phương tiện, công cụ hỗ trợ để thực hiện tốt nhiệm vụ được
giao.
3.2.4. Kiện toàn tổ chức bộ máy, đinh rõ thẩm quyền và cải cách thủ
tục hành chính trong đăng kiểm phương tiện thuỷ nội địa
Thứ nhất, cần tiếp tục thực hiện phân công, phân cấp giữa các đơn vị
thuộc Cục ĐKVN trong đó có phân cấp quản lý và tham mưu giữa Phòng Tàu
sông và các đơn vị trực thuộc khác để bảo đảm công tác lãnh đạo, chỉ đạo
điều hành của Lãnh đạo Cục ĐKVN được thông suốt.
Thứ hai, tổ chức hệ thống các đơn vị đăng kiểm rộng khắp trên toàn quốc.
Các đơn vị đăng kiểm được trang bị cơ sở vật chất đảm bảo thực hiện công tác
đăng kiểm. Trang bị phần mền thực hiện và quản lý phương tiện từ Cục Đăng
kiểm đến các đơn vị đăng kiểm. Thực hiện quản lý hệ thống chất lượng theo ISO
9000.
Thứ ba, tiếp tục cải tiến thủ tục hành chính và phương thức thực hiện
đăng kiểm PTTNĐ theo hướng: với phương tiện từ 15 tấn đến dưới 200 tấn và
công suất máy từ 15 sức ngựa đến dưới 135 sức ngựa, Cục ĐKVN lập các
mẫu định hình để phục vụ công tác đăng kiểm và bà con áp dụng cho thuận
87
tiện. Với phương tiện từ 5 tấn đến dưới 15 tấn, tổng công suất từ 5 đến 15 sức
ngựa thì đăng kiểm đo trực tiếp phương tiện, đưa vào phần mền tính toán
nhanh tàu sông và cấp hồ sơ cho chủ phương tiện. Chủ phương tiện không
phải làm bất kỳ thủ tục nào.
Thứ tư, đẩy nhanh công tác đăng kiểm, thuận tiện hơn nữa cho người dân
đối với tàu nhỏ: Rà soát các mẫu định hình đã xây dựng, kiểm tra việc áp
dụng các mẫu đã xây dựng. Chỉ đạo các đơn vị đăng kiểm tiếp tục xây dựng
các mẫu định hình mới (mẫu tàu nhỏ), phù hợp với tình hình phát triển của địa
phương, đồng thời tổ chức đánh giá xác nhận năng lực cho các các cơ sở
chuyên đóng mới các mẫu tàu nhỏ nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho người
dân vừa thực hiện đăng kiểm phương tiện được nhanh chóng, thuận tiện vừa
có các phương tiện đảm bảo chất lượng. Các đơn vị đăng kiểm phối hợp với
huyện, xã thông báo ngày, giờ kiểm tra tới chủ phương tiện tại địa điểm cụ
thể và cử đăng kiểm viên đến để tiến hành kiểm tra và cấp hồ sơ tại chỗ cho
phương tiện.
Thứ năm, quản lý chặt chẽ và chia sẻ thông tin trên mạng gắn với việc
công khai minh bạch hóa thủ tục hành chính bằng phần mềm quản lý công tác
thẩm định thiết kế và quản lý cấp phát ấn chỉ trong “Chương trình quản lý và
giám sát kỹ thuật phương tiện thuỷ nội địa”. Đồng thời, thực hiện việc đưa dữ
liệu, thông tin về Giấy chứng nhận an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường
PTTNĐ lên website để các cơ quan liên quan thực hiện việc làm thủ tục điện
tử cho các phương tiện vào, rời cảng biển.
3.2.5. Nâng cao năng lực thực thi công vụ của đội ngũ cán bộ, công
chức, viên chức phục vụ quản lý nhà nước về đăng kiểm phương tiện thuỷ
nội địa
Thứ nhất, bảo đảm đủ số lượng và năng lực chuyên môn cho đội ngũ cán
bộ của Phòng Tàu sông để thực hiện tố các nhiệm vụ được giao, cụ thể là:
88
+ Xây dựng trình Cục trưởng quy hoạch, kế hoạch dài hạn, 5 năm và
hàng năm về xây dựng quy chuẩn, tiêu chuẩn kỹ thuật, giám sát kỹ thuật,
phân cấp và đăng ký kỹ thuật tàu sông.
+ Tổ chức xây dựng, bổ sung, sửa đổi quy chuẩn, tiêu chuẩn kỹ thuật và
các văn bản kỹ thuật có liên quan đến thẩm định thiết kế, đóng mới, hoán cải,
sửa chữa tàu sông để Cục trưởng ban hành hoặc Cục trưởng trình cơ quan
Nhà nước có thẩm quyền ban hành.
+ Tổ chức biên soạn các hướng dẫn nghiệp vụ, hướng dẫn áp dụng quy
chuẩn, tiêu chuẩn kỹ thuật trình Cục trưởng ban hành; tổ chức hướng dẫn, chỉ
đạo và kiểm soát công tác thẩm định thiết kế, giám sát kỹ thuật, phân cấp, xác
định trọng tải, đăng ký kỹ thuật tàu sông.
+ Đề xuất với Cục trưởng việc ký kết, tham gia hoặc không tham gia các
Điều ước quốc tế có liên quan đến tàu sông.
+ Tổ chức thực hiện các đề tài nghiên cứu khoa học, ứng dụng tiến bộ
khoa học và công nghệ theo kế hoạch được giao.
+ Thẩm định thiết kế kỹ thuật tàu sông trong đóng mới, sửa chữa, hoán
cải theo quy định.
+ Tổ chức thực hiện đăng ký kỹ thuật tàu sông, kể cả việc đăng ký hành
chính tàu sông theo các thoả thuận giữa Cục với các Sở GTVT.
+ Kiểm tra và thực hiện việc đánh giá cơ sở vật chất, tình trạng hoạt
động của các thiết bị kiểm tra và điều kiện kỹ thuật, nguồn nhân lực của các
đơn vị đăng kiểm tàu sông.
+ Tham gia giám định các sự cố, tai nạn về tàu sông, đề xuất với Cục
trưởng các biện pháp khắc phục, phòng ngừa.
+ Tổ chức biên soạn, bổ sung sửa đổi, cập nhật các quy trình, hướng dẫn
công việc, liên quan và thực hiện, duy trì hệ thống quản lý chất lượng theo
tiêu chuẩn ISO9000 có liên quan đến hoạt động của Phòng.
89
+ Xây dựng và thực hiện chương trình cải cách hành chính của Phòng
theo mục tiêu và nội dung chương trình cải cách hành chính nhà nước của
Cục.
+ Chủ trì biên soạn chương trình, giáo trình đào tạo, cử cán bộ tham gia
giảng dạy, đào tạo và đánh giá để trình Cục trưởng bổ nhiệm, miễn nhiệm và
treo hạng đăng kiểm viên PTTNĐ.
+ Thực hiện in ấn, quản lý, cấp phát, thu hồi tài liệu, biểu mẫu, ấn chỉ đã
được Cục trưởng quy định.
+ Báo cáo Cục trưởng đột xuất, định kỳ về công tác hoạt động giám sát
kỹ thuật, phân cấp và đăng ký kỹ thuật tàu sông.
+ Quan hệ với các cơ quan có liên quan và phối hợp với các đơn vị trong
và ngoài Cục để thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định và
uỷ quyền của Cục trưởng.
+ Thực hiện các nhiệm vụ khác và quản lý tài sản của đơn vị do Cục
trưởng giao.
Hiện nay, Phòng Tàu sông chỉ có 15 cán bộ. Để đảm đương được những
nhiệm vụ trên đây, cần tăng cường thêm cán bộ, trước mắt cần tăng thêm 02
kỹ sư vỏ tàu thủy, 01 kỹ sư máy tàu thủy để bảo đảm người có đủ trình độ
chuyên môn kỹ thuật về lĩnh vực được giao.
Thứ hai, bảo đảm đủ số lượng và năng lực chuyên môn cho đội ngũ đăng
kiểm viên để thực hiện việc đăng kiểm kịp thời, đáp ứng nhu cầu rất lớn về
đăng kiểm PTTNĐ hiện nay với mục tiêu thực hiện công tác đăng kiểm hết số
phương tiện hiện có và đảm bảo chất lượng.
Thường xuyên tổ chức đánh giá nghiêm túc năng lực đăng kiểm viên và
thực hiện tốt công tác bổ nhiệm và bổ nhiệm lại đăng kiểm viên PTTNĐ các
đơn vị đăng kiểm trong cả nước (các đơn vị Đăng kiểm trực thuộc Cục
ĐKVN và trực thuộc các Sở GTVT).
90
Bổ sung, sửa đổi, hoàn thiện và ban hành giáo trình đào tạo đăng kiểm
viên. Tổ chức lớp tập huấn đào tạo đăng kiểm viên mới, đăng kiểm viên nâng
cao, đăng kiểm viên đa năng và quản lý đăng kiểm viên PTTNĐ.
3.2.6. Tăng cường sự phối hợp giữa Cục Đăng kiểm Việt Nam với các
cơ quan, tổ chức, cá nhân trong công tác đăng kiểm phương tiện thuỷ nội
địa
Thứ nhất, phối hợp với Cục Đường thủy nội địa Việt Nam tiến hành tổng
điều tra lại số lượng PTTNĐ trên toàn quốc.
Thứ hai, kết hợp với phòng quản lý giao thông của các huyện thông báo
đến chủ phương tiện thời gian cụ thể từng ngày sẽ đến khu vực neo đậu của
các phương tiện tại địa phương để thực hiện đăng kiểm. Tổ chức với lực
lượng cảnh sát đường thủy kiểm tra liên ngành và nếu phương tiện nào chưa
đăng kiểm thì kiểm tra để tiến hành đăng kiểm tại chỗ cho phương tiện.
Phương tiện đi đến địa phương nào có đơn vị đăng kiểm tại địa phương đó
phục vụ. Chủ phương tiện chỉ cần điện thoại, hoặc Fax yêu cầu kiểm tra đến
cơ quan đăng kiểm là đơn vị đăng kiểm thống nhất ngày giờ kiểm tra và bố trí
đăng kiểm viên thực hiện. Để dễ dàng kiểm soát phương tiện đã đăng kiểm và
thời hạn đăng kiểm, từ năm 2011 đến nay, Cục ĐKVN đã tiến hành dán tem
đăng kiểm và hàn số kiểm soát lên phương tiện nhằm hỗ trợ chủ phương tiện
nắm được thời hạn kiểm định của phương tiện để đưa phương tiện vào đăng
kiểm, đồng thời cung cấp cho cơ quan tuần tra kiểm soát ở cảng, bến, trên
hành trình biết để kiểm soát, xử lý, công khai danh sách các phương tiện quá
hạn đăng kiểm trên Website của Cục ĐKVN, đồng thời có văn bản thông báo,
hướng dẫn cách tra cứu đến các cơ quan quản lý. Các đơn vị đăng kiểm tại địa
phương đã thông tin PTTNĐ quá hạn đăng kiểm kèm đường dẫn Website của
Cục ĐKVN trên các phương tiện thông tin đại chúng tại các địa phương,
thông báo đến các chủ phương tiện.
91
Thứ ba, phối hợp với Cục Cảnh sát giao thông, Cục Đường thủy nội địa
Việt Nam tiếp tục tuyên truyền cho người dân về Luật GTĐTNĐ, ý nghĩa của
việc đăng kiểm phương tiện trên truyền hình, báo đài trung ương và địa
phương, tuyên truyền tại chỗ neo đậu; xây dựng cơ chế phối hợp giữa các lực
lượng để bảo đảm khi các phương tiện đã giải bản, dừng hoạt động phải thông
báo đến cơ quan quản lý.
Thứ tư, phối hợp với Cục Đường thủy nội địa Việt Nam, Cục Cảnh sát
giao thông đường thủy, Sở GTVT cùng chỉ đạo các đơn vị trực thuộc chỉ đạo
các đơn vị đăng kiểm phối hợp hoạt động liên ngành trong tuần tra, kiểm soát
nhằm duy trì trật tự an toàn GTĐTNĐ, giảm thiểu tai nạn, hạn chế tình trạng
phương tiện không đăng ký, đăng kiểm vẫn hoạt động tự do, tình trạng
phương tiện đóng mới không có sự giám sát kỹ thuật của cơ quan đăng kiểm.
Việc kiểm soát cần đồng bộ giữa kiểm soát trên hành trình và kiểm soát tại
các cảng, bến.
Để thực hiện các giải pháp bảo đảm tính phối hợp giữa Cục ĐKVN và
các cơ quan, đơn vị có liên quan cần có sự vào cuộc của Ủy ban an toàn giao
thông quốc gia, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trong việc
chỉ đạo các cơ quan hữu quan, các quận, huyện, phường, xã tăng cường kiểm
soát theo thẩm quyền, cùng phối hợp thực hiện đăng kiểm phương tiện thuỷ
nội địa. Đồng thời, Bộ GTVT cần chỉ đạo các cơ quan quản lý tốt các bến
thủy nội địa hiện nay hoạt động không phép. Điều đó góp phần các phương
tiện phải chấp hành tốt quy định về đăng kiểm PTTNĐ.
3.3.7. Tăng cường đầu tư nghiên cứu khoa học, áp dụng công nghệ
và hợp tác quốc tế về đăng kiểm phương tiện thuỷ nôi địa
Thứ nhất, về ứng dụng khoa học công nghệ
Một trong những mục tiêu của Chiến lược phát triển khoa học và công
nghệ ngành GTVT giai đoạn 2014 - 2020 và định hướng đến năm 2030 (được
92
ban hành theo Quyết định số 2490/QĐ-BGTVT ngày 30/6/2014 của Bộ
trưởng Bộ GTVT là: Chủ động ứng dụng các công nghệ tiên tiến trong tổ
chức, quản lý và khai thác vận tải nhằm phát triển hệ thống GTVT an toàn,
thông minh, tiết kiệm năng lượng, thân thiện với môi trường và có chi phí hợp
lý.
Đối với Cục ĐKVN, trước mắt cần tiếp tục hoàn thiện thực hiện phần
mềm “Chương trình quản lý và giám sát kỹ thuật phương tiện thuỷ nội địa”.
Với điều kiện hiện nay, giải pháp phù hợp là cơ sở dữ đăng kiểm PTTNĐ
được triển khai theo mô hình phân tán, sử dụng hạ tầng công nghệ thông tin
của Cục ĐKVN trong đó:
+ Tại đăng kiểm trung ương: Hệ thống máy chủ lưu trữ cơ sở dữ liệu
chính thức tại trung ương, cơ sở dữ liệu tạm thời tạm của các đơn vị bên ngoài
gửi đến; Máy chủ dữ liệu được cập nhập vào cuối mỗi ngày, để công khai các
dữ liệu lên trang web của Cục ĐKVN; Các máy trạm tại đặng kiểm trung
ương là các máy tại các phòng ban thuộc Cục ĐKVN, truy cập vào hệ thống
máy chủ qua mạng dữ liệu nội bộ của cơ quan.
+ Tại Các đơn vị V (hoặc S): Máy chủ tại mỗi đơn vị có nhiệm vụ lưu
trữ thông tin của đơn vị và đồng thời đồng bộ các dữ liệu chung từ máy chủ
cơ sở dữ liệu chính thức trên trung ương; Máy chủ tại mỗi đơn vị kết nối với
máy chủ tại trung ương qua mạng riêng là mạng nội bộ của ngành đăng kiểm.
Máy trạm tại đơn vị truy cập theo mạng nội bộ của cơ quan.
Thứ hai, tiếp tục hợp tác với Hiệp hội quốc tế các tổ chức giám sát kỹ
thuật và phân cấp tàu (OTHK) trong lĩnh vực xây dựng qui phạm và nghiên
cứu khoa học; hợp tác, trao đổi thông qua hình thứ hội thảo, hội nghị hoặc các
đoàn đào tạo, bổi dưỡng để nghiên cứu kinh nghiệm nước ngoài trong lĩnh
vực đăng kiểm PTTNĐ; mở rộng quan hệ, giúp đỡ các nước láng giềng như
Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào trong lĩnh vực đăng kiểm PTTNĐ.
93
94
TIỂU KÉT CHƯƠNG 3
Việt Nam là một trong số quốc gia trên thế giới có hệ thống sông, kênh
dày đặc, tạo thành mạng lưới giao thông đường thủy rất thuận lợi giữa các địa
phương và các vùng trong cả nước. Hệ thống giao thông ĐTNĐ ở Việt Nam
bao gồm các sông, kênh, rạch, đầm, phá, hồ, vụng, vịnh, đường ven bờ biển,
đường từ đất liền ra đảo, đường nối các đảo thuộc vùng nội thủy. Cả nước có
3.551 sông, kênh... (3.045 sông, kênh nội tỉnh và 406 sông, kênh liên tỉnh) với
tổng chiều dài 80.577 km, nối với biển thông qua 124 cửa sông, trong đó có
khoảng 42.000 km sông, kênh… có khả năng khai thác vận tải (mực nước đạt
trên 60 cm - ứng với cấp kỹ thuật cấp VI). Tính đến năm 2014, toàn quốc có
khoảng 6.700 cảng bến thủy nội địa, trong đó có 131 cảng thủy nội địa và
hơn 6.500 bến thủy nội địa, tạo thành mạng lưới giao thông liên hoàn, thuận
lợi; trên 806.000 chiếc phương tiện, với tổng trọng tải 5.799.709 tấn phương
tiện, 749.412 ghế hành khách và tổng công suất máy 6.431.298 mã lực.
Các bộ như Bộ GTVT, Bộ Công an, Bộ Nông nghiệp và phát triển nông
thôn, Bộ Tài nguyên và môi trường, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh cũng đã ban
hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật và chỉ đạo thực hiện pháp luật
GTĐTNĐ. Rất nhiều văn bản trong số các chính sách, pháp luật được ban
hành đề cập đến nội dung đăng kiểm PTTNĐ và coi đăng kiểm PTTNĐ là nội
dung quan trọng bảo đảm an toàn GTĐTNĐ, góp phần phát triển kinh tế - xã
hội. Bên cạnh đó, các cơ quan, tổ chức, đơn vị trong bộ máy nhà nước đã tích
cực phối hợp với nhau trong việc tổ chức thực hiện pháp luật và phối hợp với
các tổ chức xã hội trong việc tuyên truyền nâng cao ý thức chấp hành pháp
luật của người dân về giao thông đường thủy nội địa.
Để bảo đảm thực hiện các quy định trên đây, Chính phủ, Bộ GTVT và
Cục ĐKVN đã xây dựng hệ thống tổ chức đăng kiểm PTTNĐ theo hướng
chính quy, chuyên nghiệp, minh bạch, hiệu quả. Thực hiện hoàn thiện hệ
95
thống chính sách, pháp luật về đăng kiểm PTTNĐ và kiện toàn bộ máy, nâng
cao năng lực thực thi nhiệm vụ của đội ngũ cán bộ làm công tác đăng kiểm
PTTNĐ. Việc đăng kiểm PTTNĐ phải được thực hiện đúng thẩm quyền, nội
dung, quy trình và bảo đảm công khai, tăng cường công tác thanh tra kiểm tra
và xử lý nghiêm các vi phạm.
Trong thời gian qua Cục Đăng kiểm đã có sự phối hợp, trao đổi thông tin
với các cơ quan liên quan, tổ chức trong việc thực hiện pháp luật về đăng
kiểm; Cục Đăng kiểm tăng cường đầu tư nghiên cứu khoa học, trao đổi công
nghệ,trao đổi đào tạo đăng kiểm viên, hợp tác vói các tổ chức nước ngoài
trong cùng lĩnh vực.
96
KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu đề tài luận văn "Quản lý nhà nước về đăng kiểm
phương tiện thủy nội địa tại Cục Đăng kiểm Việt Nam" có thể rút ra những
kết luận khoa học như sau:
Việt Nam là quốc gia có lợi thế rất lớn về hệ thống GTĐTNĐ. Trong
thời gian qua, các phương tiện GTĐTNĐ đã góp phần quan trọng vào sự phát
triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an ninh quốc phòng. Vì vậy, cần thực hiện tốt
việc QLNN đối với các phương tiện GTĐTNĐ. Trong đó, QLNN về đăng
kiểm PTTNĐ là một nội dung không thể thiếu để bảo đảm an toàn kỹ thuật và
bảo vệ môi trường.
QLNN về đăng kiểm PTTNĐ thuộc trách nhiệm của nhiều cơ quan, tổ
chức, đơn vị và đòi hỏi có sự tham gia cả cả hệ thống chính trị và người dân.
Với chức năng, nhiệm vụ của mình, Cục ĐKVN vừa là cơ quan tham mưu
vừa là có quan có thẩm quyền trực tiếp trong việc đăng kiểm PTTNĐ và giữ
vị trí quan trọng nhất trong hệ thống các cơ quan có thẩm quyền quản lý về
lĩnh vực này. Trong thời gian qua, công tác QLNN về đăng kiểm PTTNĐ đã
đạt được những kết quả tích cực, góp phần bảo đảm an toàn giao thông. Tuy
nhiên, từ thực tiễn của Cục ĐKVN cho thấy công tác QLNN về đăng kiểm
PTTNĐ cũng bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập. Để khắc phục được những hạn
chế, bất cập đó, cần phải tăng cường QLNN về đăng kiểm PTTNĐ theo
hướng chính quy, chuyên nghiệp, minh bạch, hiệu quả phục vụ sự phát triển
bền vững. Hoạt động QLNN về đăng kiểm PTTNĐ đáp ứng yêu cầu tăng
cường QLNN trên các lĩnh vực nói chung, gắn với việc thực hiện Chương
trình tổng thể cải cách hành chính giai đoạn 2011-2020.
Trong thời gian tới, để nâng cao hiệu lực, hiệu quả QLNN về đăng kiểm
PTTNĐ nói chung và của Cục ĐKVN nói riêng cần phải thực hiện đồng bộ
nhiều giải pháp, trong đó, tập trung vào các giải pháp chủ yếu sau:
97
Một là, hoàn thiện thể chế QLNN về đăng kiểm PTTNĐ.
Hai là, tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo việc thực hiện pháp luật về đăng
kiểm PTTNĐ.
Ba là, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm của
Chính phủ, Bộ GTVT và các cơ quan chức năng trong lĩnh vực đăng kiểm
PTTNĐ.
Bốn là, kiện toàn tổ chức bộ máy, phân công, phân cấp giữa các đơn vị
thuộc Cục ĐKVN và cải cách thủ tục hành chính, phương thức tiến hành đăng
kiểm PTTNĐ.
Năm là, kiện toàn đội ngũ và nâng cao năng lực thực thi công vụ của đội
ngũ cán bộ, công chức, viên chức phục vụ QLNN về đăng kiểm PTTNĐ.
Sáu là, tăng cường sự phối hợp, trao đổi thông tin giữa Cục ĐKVN với
các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc thực hiện pháp luật về đăng kiểm
PTTNĐ.
Bảy là, tăng cường đầu tư nghiên cứu khoa học, áp dụng công nghệ tin
học và tăng cường hợp tác quốc tế về đăng kiểm PTTNĐ.
Thực hiện được các giải pháp trên đây đòi hỏi phải có sự lãnh đạo, chỉ
đạo từ Chính phủ, Bộ GTVT và sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan, đơn vị
trong ngành giao thông với Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, lực lượng thanh tra,
cảnh sát đường thủy…và sự ủng hộ của toàn xã hội. Trong đó, Cục ĐKVN
phải chủ động phát huy vai trò là cơ quan tham mưu và là đầu mối chính
trong việc tổ chức hoạt động QLNN về đăng kiểm PTTNĐ./.
98
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Nội vụ (2013) Tài liệu bồi dưỡng ngạch chuyên viên chính (Ban
hành kèm theo Quyết định số 2367/QĐ-BNV ngày 31/12/2013 của Bộ trưởng
Bộ Nội vụ), Học viện Hành chính, Hà Nội.
2. Bộ GTVT (2000), Quyết định của Bộ GTVT về việc ban hành tiêu
chuẩn, chức trách và nhiệm vụ của đăng kiểm viên phương tiện thuỷ nội địa,
Hà Nội.
3. Bộ GTVT (2004), Quyết định của Bộ trưởng Bộ GTVT qui định về
đăng kiểm phương tiện thuỷ nội địa, Hà Nội.
4. Bộ GTVT (2004), Quy định phạm vi trách nhiệm của thuyền viên,
người lái phương tiện và định biên an toàn tối thiểu trên phương tiện thuỷ nội
địa, Hà Nội.
5. Bộ GTVT (2009), Quyết định về quản lý tuyến vận tải thuỷ từ bờ ra
đảo trong vùng biển Việt Nam, Hà Nội.
6. Bộ GTVT (2009), Quyết định về công bố tuyến đường thuỷ nội địa
quốc gia, Hà Nội.
7. Bộ GTVT (2010), Thông tư Quy định về phòng chống, khắc phục hậu
quả lụt bão; ứng phó sự cố thiên tai và cứu nạn trên đường thuỷ nội địa, Hà
Nội
8. Bộ GTVT (2011), Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về Quy phạm ngăn
ngừa ô nhiễm do phương tiện thủy nội địa, Hà Nội
9. Bộ GTVT (2011), Thông tư “Sửa đổi bổ sung một số điều của quy
định về đăng kiểm PTTNĐ ban hành kèm theo Quyết định số 25/2004/QĐ-
BGTVT ngày 25/11/2004 và quy định về tiêu chuẩn, chức trách, nhiệm vụ
của đăng kiểm, Hà Nội
10. Bộ GTVT (2011), Thông tư quy định về quản lý đường thủy nội địa,
Hà Nội
99
11. Bộ GTVT (2012), Thông tư quy định trách nhiệm và xử lý vi phạm
trong công tác đăng kiểm, Hà Nội
12. Bộ GTVT (2012), Thông tư Sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy
định phạm vi trách nhiệm của thuyền viên, người lái phương tiện và định biên
an toàn tối thiểu trên phương tiện thuỷ nội địa, Hà Nội
13. Bộ GTVT (2013), Thông tư quy định về quản lý tuyến vận tải thủy
từ bờ ra đảo trong vùng biển Việt Nam, Hà Nội
14. Bộ GTVT (2013), Thông tư ban hành Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia
về Quy phạm phân cấp và đóng PTTNĐ - QCVN 72: 2013/BGTVT, Hà Nội
15. Bộ GTVT (2013), Báo cáo 8 năm thực hiện Luật giao thông đường
thủy nội địa (2005-2012), Hà Nội
16. Bộ GTVT (2013), Quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ
cấu tổ chức của Cục Đăng kiểm Việt Nam, Hà Nội
17. Bộ GTVT (2014), Thông tư quy định về vận tải hành khách, hành lý,
bao gửi bằng tàu khách cao tốc giữa các cảng, bến, vùng nước thuộc nội thủy
Việt Nam và qua biên giới, Hà Nội
18. Bộ GTVT (2014), Thông tư 66/2014/TT-BGTVT quy định về đăng
kiểm PTTNĐ, Hà Nội
19. Bộ GTVT (2014), Quyết định phê duyệt chiến lược phát triển khoa
học và công nghệ ngành giao thông vận tải giai đoạn 2014-2020 và định
hướng đến năm 2030, Hà Nội
20. Bộ GTVT (2015), Thông tư quy định về tiêu chuẩn, nhiệm vụ và
quyền hạn của lãnh đạo, đăng kiểm viên và nhân viên nghiệp vụ của đơn vị
đăng kiểm phưong tiện thủy nội địa, Hà Nội
21. Bộ GTVT (2015), Thông tư 48/2015/TT-BGTVT quy định về đăng
kiểm PTTNĐ, Hà Nội
100
22. Bộ GTVT (2016), Thông tư quy định về xây dựng, ban hành, hợp
nhất văn bản quy phạm pháp luật thủ tục hành chính, kiểm tra, xử lý văn bản,
rà soát, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật và theo dõi thi hành pháp luật
trong lĩnh vực GTVT, Hà Nội
23. Bộ Tài chính (2016), Thông tư Quy định mức thu, chế độ thu, nộp,
quản lý lệ phí cấp giấy chứng nhận bảo đảm chất lượng, an toàn kỹ thuật đối
với máy, thiết bị, phương tiện giao thông vận tải có yêu cầu nghiêm ngặt về
an toàn, Hà Nội.
24. Bộ Tài chính – Bộ GTVT (2014), Thông tư liên tịch hướng dẫn cơ
chế quản lý tài chính đối với Cục Đăng kiểm Việt Nam, Hà Nội.
25. Bùi Huy Khiên (2013), Quản lý công, Nxb. Chính trị - Hành chính,
Hà nội,tr.123-186
26. Chính phủ (1996), Nghị định của Chính Phủ số 40-CP ngày 05 tháng
07 năm 1996 về đảm bảo trật tự, an toàn giao thông đường thủy nội địa, Hà
Nội
27. Chính phủ (2008), Nghị định sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị
định số 176/1999/NĐ-CP ngày 21/12/1999 và Nghị định số 47/2003/NĐ-CP
ngày 12/5/2003 của Chính phủ về lệ phí trước bạ, Hà Nội
28. Chính phủ (2011), Nghị quyết ban hành tổng thể cải cách hành chính
nhà nước giai đoạn 2011-2020, Hà Nội
29. Chính phủ (2012), Quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ
cấu tổ chức của Bộ GTVT, Hà Nội
30. Chính phủ (2013), Nghị định về đầu tư vốn nhà nước vào doanh
nghiệp và quản lý tài chính đối với doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100%
vốn điều lệ, Hà Nội
31. Chính phủ (2013), Nghị định quy định xử phạm hành chính trong
lĩnh vực giao thông hàng hải, đường thuỷ nội địa, Hà Nội
101
32. Chính phủ (2014), Nghị định quy định điều kiện kinh doanh vận tải
đuờng thủy nội địa , Hà Nội
33. Chính phủ (2014), Nghị định quy định niên hạn sử dụng của PTTNĐ
và niên hạn sử dụng của phương tiện thủy được phép nhập khẩu, Hà Nội
34. Chính phủ (2015), Nghị định quy định chi tiết và biện pháp thi hành
một số điều của Luật giao thông phương tiện thủy nội địa và Luật sửa đổi, bổ
sung một số điều của Luật giao thông phương tiện thủy nội địa, Hà Nội
35. Chính phủ (2015), Nghị định quy định xử phạm hành chính trong
lĩnh vực giao thông đường thuỷ nội địa, Hà Nội.
36. Cục Cảnh sát giao thông (2015), Báo cáo kết quả thực hiện kế hoạch
về phối hợp kiểm tra, xử lý PTTNĐ vi phạm các quy định về đăng ký, đăng
kiểm và an toàn kỹ thuật, Hà Nội.
37. Cục Cảnh sát giao thông (2016), Báo cáo tổng kết 10 năm thực hiện
Quy chế số 04/PHLN-ĐK ngày 05/3/2005 về phối hợp giữa các lực lượng
Cảnh sát đường thủy, Đường thủy nội địa Việt Nam, ĐKVN trong thực hiện
Luật giao thông phương tiện thủy nội địa, Hà Nội.
38. Cục Đường thủy nội địa Việt Nam (2016), Báo cáo tổng kết công tác
phối hợp liên ngành bảo đảm trật tự, an toàn giao thông phương tiện thủy nội
địa năm 2016 triển khai nhiệm vụ trọng tâm 2017, Hà Nội.
39. Cục ĐKVN (2001), Qui định tiếp nhận, xem xét và thực hiện các yêu
cầu kiểm tra; Tiếp nhận và gửi công văn, Hà Nội.
40. Cục ĐKVN (2006), Qui định ban hành quy định về đào tạo, đánh
giá, bổ nhiệm và sử dụng Đăng kiểm viên phuơng tiện thủy nội địa, Hà Nội.
41. Cục ĐKVN (2006), Hướng dẫn thi hành Tiêu chuẩn Đăng kiểm viên,
Hà Nội.
42. Cục ĐKVN (2011), Hướng dẫn giám sát và đánh giá trạng thái kỹ
thuật phương tiện thủy nội địa-2011, Hà Nội.
102
43. Cục ĐKVN (2012), Công văn về việc ” Thực hiện hướng dẫn giám
sát và phần mềm quản lý phương tiện thủy nội địa”, Hà Nội.
44. Cục ĐKVN (2012), Báo cáo giám sát phương tiện thủy nội địa và
khiếm khuyết trong giám sát kỹ thuật phương tiện thủy nội địa, Hà Nội.
45. Cục ĐKVN (2013), Công văn về việc tăng cường kiểm tra điều kiện
an toàn của PTTNĐ khi hoạt động . Hà Nội.
46. Cục ĐKVN (2013), Công văn về việc giám sát kỹ thuật phương tiện
thủy nội địa, Hà Nội.
47. Cục ĐKVN (2013), Quyết định về việc ban hành "Quy chế chi Quỹ
khen thưởng và Quỹ phúc lợi của Cục ĐKVN", Hà Nội.
48. Cục ĐKVN (2014), Quyết định về việc ban hành Quy tắc ứng xử,
đạo đức nghề nghiệp của cán bộ, công chức, viên chức Cục ĐKVN, Hà Nội.
49. Cục ĐKVN (2015), Báo cáo tổng kết công tác thực hiện kế hoạch
năm 2015 và phương hướng nhiệm vụ năm 2016 của Cục ĐKVN , Hà Nội.
50. Cục ĐKVN (2015), Công văn về việc” Thực hiện quy định về đăng
kiểm, kết xuất và gửi dữ liệu báo cáo giám sát PTTNĐ” , Hà Nội.
51. Cục ĐKVN (2015), Tăng cường giám sát kỹ thuật các phương tiện
chở người, vận chuyển khách du lịch, Hà Nội.
52. Cục ĐKVN (2016), Báo cáo tổng kết công tác thực hiện kế hoạch
năm 2016 và phương hướng nhiệm vụ năm 2017 của Cục ĐKVN, Hà Nội.
53. Cục ĐKVN (2016), Ban hành quy định kiểm tra công nhận tập huấn
nghiệp vụ đăng kiểm viên phuơng tiện thủy nội địa, đào tạo bổ sung chuyên
môn, thực tế năng lực thực hànhvà Hội đồng công nhận đăng kiểm viên, Hà
Nội.
54. Nguyễn Hữu Hải (2010), Quản Lý Hành Chính Nhà Nước, Học viện
hành chính, Hà Nội,tr. 2-14
103
55. Nguyễn Hữu Tri (2006), Quản Lý Hành Chính Nhà Nước, NXB
Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội,tr. 5-2497.
56. Nguyễn Tấn Dũng (2013), Quyết định về việc áp dụng cơ chế quản
lý tài chính đối với Cục Đăng kiểm Việt Nam, Hà Nội
57. Nguyễn Tấn Dũng (2014), Chỉ thị về các giải pháp cấp bách để nâng
cao chất lượng và chống tiêu cực trong công tác đăng kiểm phương tiện giao
thông vận tải, Hà Nội.
61. Phòng Tàu sông (2009), Báo cáo thực hiện kế hoạch năm 2009 và
phương hướng nhiệm vụ năm 2010 đối với lĩnh vực kiểm định PTTNĐ, Hà
Nội.
62. Phòng Tàu sông (2010), Báo cáo thực hiện kế hoạch năm 2010 và
phương hướng nhiệm vụ năm 2011 đối với lĩnh vực kiểm định PTTNĐ, Hà
Nội.
63. Phòng Tàu sông (2011), Báo cáo thực hiện kế hoạch năm 2011 và
phương hướng nhiệm vụ năm 2012 đối với lĩnh vực kiểm định PTTNĐ, Hà
Nội.
64. Phòng Tàu sông (2012), Báo cáo thực hiện kế hoạch năm 2012 và
phương hướng nhiệm vụ năm 2013 đối với lĩnh vực kiểm định PTTNĐ, Hà
Nội.
65. Phòng Tàu sông (2013), Báo cáo thực hiện kế hoạch năm 2013 và
phương hướng nhiệm vụ năm 2014 đối với lĩnh vực kiểm định PTTNĐ, Hà
Nội.
66. Phòng Tàu sông (2014), Báo cáo thực hiện kế hoạch 8 tháng đầu
năm 2014 đối với lĩnh vực kiểm định PTTNĐ, Hà Nội.
67. Phòng Tàu sông (2015), Báo cáo thực hiện kế hoạch năm 2015 và
phương hướng nhiệm vụ năm 2016 đối với lĩnh vực kiểm định PTTNĐ, Hà
Nội.
104
68. Phòng Tàu sông (2016), Báo cáo thực hiện kế hoạch năm 2016 và
phương hướng nhiệm vụ năm 2017 đối với lĩnh vực kiểm định PTTNĐ, Hà
Nội.
69. Trần Anh Tuấn (2015), Quản Lý Công, Nxb Chính trị Quốc gia – Sự
thật, Hà Nội,tr 62-64.
70. Quốc Hội (2004), Luật giao thông đường thủy nội địa, Hà Nội.
71. Quốc Hội (2005), Luật Doanh nghiệp, Hà Nội.
72. Quốc Hội (2006), Luật tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật của Quốc
hội Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Hà Nội.
73. Quốc Hội (2008), Luật giao thông đường bộ, Hà Nội
74. Quốc Hội (2010), Luật Thanh tra, Hà Nội
75. Quốc Hội (2012), Luật Giám định tư pháp, Hà Nội
76. Quốc Hội (2013), Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam năm 2013, Hà Nội
77. Quốc Hội (2014), Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật giao thông
đường thủy nội địa, Hà Nội
78. Quốc Hội (2015), Luật tổ chức Chính phủ, Hà Nội
105
PHỤ LỤC 1. Bộ GTVT (2013), Quy định về biểu mẫu giấy chứng nhận và sổ kiểm
tra an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường cấp cho tàu biển, PTTNĐ và sản
phẩm công nghiệp sử dụng cho PTTNĐ, Hà Nội
2. Cục ĐKVN (2009), Quyết định V/v ban hành "Quy chế quản lý in ấn,
cấp phát, sử dụng phôi giấy chứng nhận và các ấn phẩm trong lĩnh vực đăng
kiểm phương tiện thủy nội địa ", Hà Nội.
3. Cục ĐKVN (2013), Hướng dẫn về công tác thẩm định thiết kế phương
tiện thủy nội địa, Hà Nội.
4. Cục ĐKVN (2013), Hướng dẫn về công tác xây dựng, thẩm định và
quản lý thiết kế mẫu định hình PTTNĐ; Sao và thẩm định thiết kế PTTNĐ
theo mẫu định hình đã được công nhận, Hà Nội.
106