ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÍ LUẬN CHÍNH TRỊ

NGUYỄN THỊ HẢI YẾN

HOÀN THIỆN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI

DOANH NGHIỆP CÓ VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP

NƯỚC NGOÀI Ở PHÚ THỌ

LUẬN VĂN THẠC SỸ CHUYÊN NGÀNH KINH TẾ CHÍNH TRỊ

HÀ NỘI – 2012

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÍ LUẬN CHÍNH TRỊ

------------------

NGUYỄN THỊ HẢI YẾN

HOÀN THIỆN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI

DOANH NGHIỆP CÓ VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP

NƯỚC NGOÀI Ở PHÚ THỌ

Luận văn thạc sĩ chuyên ngành: Kinh tế chính trị

Mã số: 60 31 01

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Phan Huy Đường

HÀ NỘI – 2012

1

MỤC LỤC

DANH MỤC KÍ HIỆU CHỮ VIẾT TẮT ..................................................... 4

DANH MỤC CÁC BẢNG TRONG ĐỀ TÀI ................................................ 5

DANH MỤ C BIỂ U ĐỒ TRONG ĐỀ TÀ I .................................................... 5

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 6

Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ QUẢN LÝ NHÀ

NƢỚC ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP CÓ VỐN ĐẦU TƢ TRỰC TIẾP

NƢỚC NGOÀI Ở ĐỊA BÀN CẤP TỈNH ..................................................... 13

1.1 Những vấn đề chung về doanh nghiệp có vốn đầu tƣ trực tiếp nƣớc

ngoài ............................................................................................................ 13

1.1.1 Khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài và doanh nghiệp có vốn

đầu tư trực tiếp nước ngoài ...................................................................... 13

1.1.2 Đặc điểm hoạt động của doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp

nước ngoài ở Việt Nam ............................................................................. 16

1.1.3 Tác động kinh tế - xã hội của doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp

nước ngoài đến địa bàn tiếp nhận đầu tư ................................................ 18

1.2 Quản lý nhà nƣớc đối với doanh nghiệp có vốn đầu tƣ trực tiếp

nƣớc ngoài ở địa bàn cấp tỉnh .................................................................. 23

1.2.1 Khái quát quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư

trực tiếp nước ngoài ở địa bàn cấp tỉnh ................................................... 23

1.2.2 Mục tiêu của quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp có vốn đầu

tư nước ngoài ........................................................................................... 25

1.2.3 Nội dung quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư

nước ngoài có hiệu quả ............................................................................ 27

1.3 Kinh nghiệm quản lý các doanh nghiệp có vốn đầu tƣ trực tiếp

1

nƣớc ngoài của một số địa phƣơng trong nƣớc ...................................... 35

1.3.1 Kinh nghiệm của 1 số địa phương trong nước ................................ 35

1.3.2 Những bài học có thể vận dụng vào thực tiễn của Phú Thọ ......... 39

Chƣơng 2: THƢ̣ C TRẠ NG QUẢ N LÝ NHÀ NƢỚ C ĐỐ I VỚ I DOANH

NGHIỆ P CÓ VỐ N ĐẦ U TƢ TRƢ̣ C TIẾ P NƢỚ C NGOÀI TẠI PHÚ

THỌ ................................................................................................................ 42

2.1 Thực trạng thu hút đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài và hoạt động của

các doanh nghiệp có vốn đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài tại Phú Thọ ...... 42

2.1.1 Khái quát điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội tỉnh Phú Thọ ........... 42

2.1.2 Thực trạng hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Phú Thọ đến

năm 2010 .................................................................................................. 53

2.2 Thực trạng quản lý nhà nƣớc đối với doanh nghiệp có vốn đầu tƣ

trực tiếp nƣớc ngoài ở tỉnh Phú Thọ ........................................................ 68

2.2.1 Xây dựng chiến lược, kế hoạch quản lý ........................................ 68

2.2.2 Cấp và điều chỉnh giấy phép đầu tư ............................................. 73

2.2.3 Kiểm tra, giám sát hoạt động ........................................................ 75

2.3 Đánh giá chung về quản lý nhà nƣớc đối với doanh nghiệp có vốn

đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài tại Phú Thọ ................................................. 78

2.3.1 Những kết quả đạt được ................................................................ 78

2.3.2 Những hạn chế .............................................................................. 83

2.3.3 Nguyên nhân của những hạn chế .................................................. 88

Chƣơng 3: PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUẢN

LÝ NHÀ NƢỚC ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP CÓ VỐN ĐẦU TƢ TRỰC

TIẾP NƢỚC NGOÀI TẠI PHÚ THỌ ........................................................ 94

3.1 Mục tiêu, định hƣớng thu hút, quản lý doanh nghiệp FDI của Việt

Nam giai đoạn 2011 – 2020 ....................................................................... 94

2

3.1.1. Mục tiêu quản lý ............................................................................. 94

3.1.2 Định hướng phát triển kinh tế - xã hội và mục tiêu thu hút FDI của

Phú Thọ trong giai đoạn 2010 - 2020 ...................................................... 96

3.2 Những giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện quản lý nhà nƣớc đối

với doanh nghiệp có vốn đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài tại tỉnh Phú

Thọ ............................................................................................................ 103

3.2.1 Nâng cao chất lượng công tác quy hoạch ..................................... 103

3.2.3. Hoàn thiện hệ thống kết cấu hạ tầng, dịch vụ .............................. 108

3.2.4. Tiếp tục cải cách thủ tục hành chính ........................................... 111

3.2.5. Tăng cường giám sát các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp

nước ngoài đã được cấp phép và hoạt động .......................................... 114

3.2.6. Nâng cao năng lực của cán bộ quản lý ........................................ 116

KẾT LUẬN .................................................................................................. 120

3

TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 122

DANH MỤC KÍ HIỆU CHỮ VIẾT TẮT

FDI Đầu tư trực tiếp nước ngoài :

CNH, HĐH Công nghiệp hóa, hiện đại hóa :

TNCs Các nước công nghiệp mới :

KTXH Kinh tế xã hội :

KH&ĐT Kế hoạch và Đầu tư :

KCN, KCX Khu công nghiệp, khu chế xuất :

CCN Cụm công nghiệp :

DA Dự án :

TNHH Trách nhiệm hữu hạn :

4

UBND Ủy ban nhân dân :

DANH MỤC CÁC BẢNG TRONG ĐỀ TÀI Bảng 2.1: Tổng hợp các cụm công nghiệp trên địa bàn tỉnh Phú Thọ ............. 44

Bảng 2.2. Tình hình thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Phú Thọ ..... 54

Bảng 2.3: Cơ cấu FDI Phú Thọ theo hình thức đầu tư giai đoạn 2001 -

2010 ..................................................................................................... 58

Bảng 2.4: Cơ cấu FDI Phú Thọ theo đối tác tí nh đế n năm 2010 ........... 59

Bảng 2.5: Cơ cấu FDI Phú Thọ theo địa bàn ........................................ 61

Bảng 2.6: Phân loạ i dự á n cò n hiệ u lự c t ính đến thời điểm tháng 9/2010

............................................................................................................. 61

Bảng 2.7: Cơ cấu FDI Phú Thọ theo ngành giai đoạn 2001 - 2010 ...... 62

Bảng 2.8: Tình hình sử dụng lao động tại doanh nghiệp FDI Phú Thọ

(2001 - 2010) ....................................................................................... 65

Bảng 2.9: Tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp FDI tại Phú

Thọ ....................................................................................................... 67

3.1: Danh mục các dự án thu hút FDI chủ yếu của Phú Thọ (2010 - 2020) .... 100

DANH MỤ C BIỂ U ĐỒ TRONG ĐỀ TÀ I

Biể u 2.1: Số dự án FDI Phú Thọ giai đoạn 2001-2010 .................................. 55

Biể u 2.2. Quy mô bình quân 1 dự án FDI Phú Thọ giai đoạn 2001-2010 ...... 57

5

Biểu 2.3: FDI thực hiện tại Phú Thọ giai đoạn 2001 – 2010 .......................... 64

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu suy giảm, Việt Nam vẫn là một trong

những điểm đến hấp dẫn của các nhà đầu tư nước ngoài. Điều đó thể hiện qua

số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào Việt Nam năm 2009 đạt 21,48 tỷ

USD với 1.504 dự án FDI cả cấp mới và tăng vốn. Mặc dù số thu hút vốn FDI

chỉ đạt bằng 1/3 năm 2008 song lượng vốn FDI giải ngân đạt khoảng 10 tỷ

USD, bằng 87% so với cùng kỳ năm ngoái [30]. Kết quả này có được bắt

nguồn từ sự ra đời, sửa đổi, bổ sung của Luật đầu tư nước ngoài ở Việt Nam

(1987) và tại kỳ họp thứ 10 Quốc hội khoá IX thông qua quy định về đầu tư

trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam (12/11/1996).

FDI đã đóng góp không nhỏ vào việc tăng trưởng kinh tế, tăng nguồn

vốn, chuyển giao công nghệ, tăng xuất khẩu, giải quyết việc làm. Tuy nhiên, cho

đến nay do hậu quả của khủng hoảng tài chính - tiền tệ Châu Á, FDI có chiều

hướng giảm sút, điều đó đòi hỏi phải tăng cường tính hấp dẫn của các giải

pháp thu hút, nhất là vào vai trò quản lý của nhà nước ở tầm vĩ mô.

Cùng với các tỉnh, thành phố trong cả nước, trong những năm qua tỉnh

Phú Thọ đã có nhiều cố gắng trong việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài để đẩy

mạnh phát triển kinh tế xã hội. Nét nổi bật trong thu hút vốn đầu tư nước

ngoài tại Phú Thọ là ngay từ đầu, tỉnh đã tiến hành quy hoạch phát triển

kinh tế - xã hội địa bàn, xác định các khu, các cụm công nghiệp để đầu tư

phát triển kết cấu hạ tầng, tạo điều kiện thuận lợi để thu hút các nhà đầu tư

nước ngoài. Nhờ đó, nhiều nhà đầu tư nước ngoài đã đến với Phú Thọ để

làm ăn, kinh doanh.

Đến tháng 7/2010 trên địa bàn tỉnh Phú Thọ có 110 dự án, tổng vốn

đăng ký 612,46 triệu USD, 24 cụm công nghiệp trên địa bàn 12 huyện, thành,

thị với tổng diện tích 1.100 ha [22]. Nhìn chung, các doanh nghiệp có vốn đầu

6

tư trực tiếp nước ngoài hoạt động có hiệu quả, góp phần vào tăng trưởng kinh

tế và kim ngạch xuất khẩu của tỉnh, tăng thêm nguồn thu cho ngân sách, nâng

cao trình độ khoa học công nghệ, tiếp thu kinh nghiệm quản lý hiện đại; giải

quyết việc làm cho người lao động; làm tăng thu nhập và cải thiện rõ rệt đời

sống vật chất và tinh thần của nhân dân trong tỉnh. Song so với yêu cầu thì

hoạt động trong lĩnh vực đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Phú Thọ chưa đồng

đều, quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước

ngoài vẫn còn những mặt yếu kém, thủ tục hành chính còn phiền hà, làm nản

lòng nhà đầu tư hoặc có những sơ hở gây tổn hại cho tỉnh cũng như cả nước.

Do vậy, hoàn thiện quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp có vốn đầu

tư nước ngoài trên địa bàn để các doanh nghiệp này hoạt động hiệu quả hơn, góp

phần tích cực vào phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh vừa là vấn đề cấp bách,

đồng thời cũng là vấn đề cơ bản lâu dài đối với Phú Thọ. Đây cũng là lý do chủ

yếu để tác giả lựa chọn đề tài: “Hoàn thiện quản lý nhà nước đối với doanh

nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại tỉnh Phú Thọ” làm luận văn thạc

sỹ kinh tế chính trị.

2. Tình hình nghiên cứu

Đã có nhiều công trình nghiên cứu, nhiều bài báo viết về hoạt động

quản lý doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, có thể kể đến một số công

trình như:

- Các bài báo: Trên trang Kinh tế của Báo Phú Thọ, các tác giả đã có nhiều

bài viết về vấn đề thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài trên địa bàn tỉnh như: “Thực

hiện tốt cơ chế một cửa liên thông trong thu hút, triển khai các dự án đầu tư”

(Quốc Vượng – 3/2009);“Thu hút đầu tư nước ngoài: Cần giải pháp tháo những

nút thắt” (Kim Chi – 10/2010);“Có cơ chế ưu đãi và thực hiện cải cách thủ tục

hành chính để tăng cường thu hút đầu tư” (Đức Minh – 17/3/2011); “Tăng cường

quản lý hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài trên địa bàn tỉnh” (Kim Chi –

26/10/2011); “Thông đường cho vốn FDI” (Kim Chi – 3/2012)… Bên cạnh đó,

7

còn có một số bài viết như: “Tăng cường công tác quản lý nhà nước đối với

doanh nghiệp FDI” (Trần Xuân Hải, Tạp chí Kinh tế và dự báo số 2/2006 –

trang 13-15); “Một số giải pháp tăng cường quản lý nhà nước đố với doanh

nghiệp FDI tại Việt Nam” (Vũ Thị Thu Hằng, Tạp chí Quản lý nhà nước số

176/2010 – trang 22 - 26); “Quản lý và thu hút FDI: Nhìn người ngẫm ta” (Bảo

Anh, Thời báo Kinh tế Việt Nam số ra 3/11/2010);“Vốn FDI: Thu hút và quản lý

sao cho hiệu quả” (Thanh Thủy, Báo Thông tin tài chính số 16/2010 – trang 2-

3); “Chấn chỉnh quản lý đầu tư trực tiếp nước ngoài” (trang web của Thông tấn

xã Việt Nam – 21/9/2011). Trong các công trình này tác giả đã phân tích thực

trạng thu hút, quản lý các nhà đầu tư nước ngoài sao cho có hiệu quả, từ đó đưa

ra một số giải pháp nhằm tạo môi trường thuận lợi hơn cho các nhà đầu tư.

- Luận văn “Tăng cường xúc tiến đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Hà

Nội (FDI) giai đoạn 2010 – 2015. Thực trạng và giải pháp” (Đinh Hà Nhật

Lê, Hà Nội, 2011) đề cập đến công tác thu hút và sử dụng nguồn lực từ nhà

đầu tư nước ngoài vào Hà Nội trong giai đoạn 5 năm. Trong đó chỉ ra những

khó khăn trong thời kỳ đầu và kết quả đạt được khi giai đoạn kết thúc, chủ

yếu nhấn mạnh đến biện pháp thực hiện.

- Luận văn “Chia sẻ rủi ro với các nhà đầu tư để nâng cao hiệu quả

chuyển giao công nghệ trong các dự án có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài

trên địa bàn tỉnh Hải Dương” (Phạm Thị Chinh, Đại học Khoa học xã hội và

nhân văn, Đại học quốc gia Hà Nội, 2008) đề cập đến hiện trạng các rủi ro

thuộc lĩnh vực chuyển giao công nghệ trong các dự án có vốn đầu tư nước

ngoài (FDI) trên địa bàn tỉnh Hải Dương qua đánh giá thực trạng các dự án

FDI, hệ thống quản lý dự án FDI và khảo sát hiện trạng rủi ro trong quá trình

chuyển giao công nghệ trong các dự án FDI. Trình bày những giải pháp nhằm

chia sẻ rủi ro với các nhà đầu tư để nâng cao hiệu quả chuyển giao công nghệ

trong các dự án FDI tại Hải Dương.

- Luận văn “Chính sách thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của Việt

8

Nam”, (Đặng Thị Kim Chung, Đại học kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội,

2009), tập trung nghiên cứu nội dung chính sách, động thái phát triển FDI của

nước ta, chủ yếu là các chính sách về FDI theo qui định của Luật đầu tư trực

tiếp nước ngoài ở Việt Nam và các lần điều chỉnh (1987-2005), và một số

chính sách khác có liên quan. Làm rõ ảnh hưởng của chính sách thu hút FDI

đối với nền kinh tế, những điểm hợp lý và hạn chế, bất hợp lý của chính sách,

tìm ra nguyên nhân tại sao chính sách FDI của nước ta thiếu thực tiễn và chưa

được sự ủng hộ thật sự của các nhà đầu tư nước ngoài. Từ đó, đưa ra một số

kiến nghị đối với chính phủ, đối với các cơ quan xây dựng và thực thi chính

sách FDI, góp phần hoàn thiện chính sách thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài

của Việt Nam thời gian tới.

- Đề tài “Tác động của thể chế cấp tỉnh đối với nguồn vốn FDI vào Việt

Nam” (Phạm Thị Thanh Hiền, Chu Thị Nhường, Trần Thị Giáng Quỳnh, Đại

học kinh tế , Đại học quốc gia Hà Nội , 2011) Phân tích tác động của môi

trường thể chế cấp tỉnh đối với khả năng thu hút FDI thông qua đo lườ ng tác

động của các chỉ số thành phần trong PCI đến FDI từ đó đánh giá yế u tố

thuộ c về thể chế có tác động mạnh nhất và các yế u tố có tác động yếu hơn . Từ

đó đưa ra những chính sách khuyến nghị đối với tỉnh nhằm tăng cường thu

hút đầu tư.

- Đề tài “Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại tỉnh Phú Thọ: Thực trạng và

giải pháp” (trang web: www.kilobooks.com) đã khái quát thực trạng thu hút

đầu tư trực tiếp nước ngoài ở tỉnh Phú Thọ, chủ yếu tập trung vào thu hút

nguồn vốn và hoạt động giải ngân vốn, từ đó đưa ra các giải pháp nhằm sử

dụng hợp lý nguồn lực này. Bên cạnh đó, trang web cũng cung cấp hai đề tài ,

“Nâng cao hiệu lực quản lý Nhà nước đối với hoạt động FDI tại Hà Nội” của

thành viên Mai Thanh (Chuyên mục Quản lý kinh tế, thuộc Đại học Kinh tế

quốc dân) đi sâu hơn vào hoạt động quản lý nhà nước đối với các doanh

nghiệp FDI trên địa bàn thành phố Hà Nội, hướng chủ yếu vào các khu công

9

nghiệp, cụm công nghiệp; đề tài“Thực trạng quản lý nhà nước đối với FDI tại

Thanh Hóa” của thành viên Trung Hiếu (Chuyên mục Quản lý nhà nước,

thuộc Đại học kinh tế quốc dân) tập trung phân tích nội dung cơ bản nhất về

hoạt động đầu tư nước ngoài, những tác động tích cực và ảnh hưởng tiêu cực

của doanh nghiệp đầu tư nước ngoài đối với Thanh Hóa kể từ khi ban hành

luật đầu tư đến nay.

Hầu hết, các đề tài tập trung làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn

về quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước

ngoài như: vai trò, nội dung, yêu cầu quản lý nhà nước đối với các doanh

nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài; phân tích hoạt động quản lý nhà

nước đối với các doanh nghiệp này trong những năm qua, nghiên cứu kinh

nghiệm của một số địa phương để từ đó đề ra các giải pháp nhằm hoàn thiện

quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở

Việt Nam hoặc ở các địa phương mà đề tài nghiên cứu.

Do đó, các công trình trên đã đề cập đến nhiều khía cạnh khác nhau của

quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài,

có thể là nói chung về nước Việt Nam hoặc một tỉnh có sức thu hút mạnh nguồn

vốn đầu tư; có đề cập đến nguồn vốn FDI tỉnh Phú Thọ nhưng chủ yếu là vấn đề

thu hút và sử dụng nguồn vốn FDI. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có công trình

nào nghiên cứu cơ bản, hệ thống về quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp

có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Phú Thọ. Tác giả đã tập trung nghiên cứu

lĩnh vực này.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1 Mục đích

Đề tài nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về quản lý nhà

nước đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở phạm vi quốc

gia cũng như ở địa bàn cấp tỉnh, từ đó đưa ra một vài phương hướng, giải

pháp hoàn thiện quản lý nhà nước đối với loại hình doanh nghiệp này tại tỉnh

10

Phú Thọ theo hướng hiệu quả nhất.

3.2 Nhiệm vụ

Luận văn tập trung giải quyết những nhiệm vụ chủ yếu sau:

+ Những vấn đề lý luận và thực tiễn về quản lý nhà nước đối với doanh

nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở địa bàn cấp tỉnh.

+ Nghiên cứu kinh nghiệm quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp có

vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của một số địa phương đã thành công trong

thu hút và sử dụng nguồn vốn này.

+ Phân tích, đánh giá thực trạng quản lý nhà nước đối với doanh

nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trên địa bàn tỉnh Phú Thọ thời

gian qua.

+ Dựa trên quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội của tỉnh, đề

xuất phương hướng, giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước đối với doanh

nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trên địa tỉnh Phú Thọ thời gian tới.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

4.1 Đối tƣợng nghiên cứu

Luận văn tập trung nghiên cứu hoạt động quản lý nhà nước đối với

doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Phú Thọ.

4.2 Phạm vi nghiên cứu

Nghiên cứu thực tế thu hút đầu tư và quản lý nhà nước với doanh nghiệp

FDI ở tỉnh Phú Thọ bao gồm doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp 100%

vốn nước ngoài hoạt động trong các lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp, dịch

vụ từ khi tỉnh tiến hành mở cửa thu hút đầu tư nước ngoài đến nay.

5. Phƣơng pháp nghiên cứu

- Vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ

nghĩa duy vật lịch sử.

- Luận văn sử dụng phương pháp phân tích, đối chiếu so sánh thu hút

FDI giữa các địa bàn trong tỉnh cũng như Phú Thọ với một số tỉnh khác... để

11

làm rõ tính đặc thù của tỉnh.

- Đồng thời, luận văn sử dụng các phương pháp khảo sát thực tế, phân

tích, tổng hợp, so sánh... các vấn đề về doanh nghiệp FDI; đồng thời kế thừa có

chọn lọc kết quả nghiên cứu của một số công trình nghiên cứu có liên quan.

6. Những điểm phát triển mới của đề tài

Luận văn có những nội dung mới sau:

- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận về quản lý nhà nước đối với doanh

nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (doanh nghiệp FDI) ở địa bàn cấp tỉnh.

- Từ bài học kinh nghiệm của các tỉnh trong thu hút và quản lý nguồn

vốn FDI rút ra các bài học thực tế áp dụng vào tỉnh Phú Thọ.

- Phân tích, đánh giá thực trạng quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp

có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Phú Thọ, những mặt được, mặt chưa

được, phân tích nguyên nhân chủ yếu.

- Đề xuất được giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước đối với doanh

nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Phú Thọ đến năm 2020 phù hợp

với mục tiêu phát triển của tỉnh, của Việt Nam.

7. Kết cấu của đề tài

Ngoài lời mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung

chính của luận văn được kết cấu thành 3 chương, 9 tiết.

Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về quản lý nhà nước đối với

doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở địa bàn cấp tỉnh

Chương 2: Thực trạng quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp có

vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Phú Thọ

Chương 3: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước

12

đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại tại Phú Thọ

Chƣơng 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC

ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP CÓ VỐN ĐẦU TƢ TRỰC TIẾP

NƢỚC NGOÀI Ở ĐỊA BÀN CẤP TỈNH

1.1 Những vấn đề chung về doanh nghiệp có vốn đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài

1.1.1 Khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài và doanh nghiệp có vốn đầu

tư trực tiếp nước ngoài

1.1.1.1 Đầu tư trực tiếp nước ngoài

Hiện nay, có rất nhiều quan điểm khác nhau đề cập đến khái niệm đầu

tư trực tiếp nước ngoài, tất cả đều cố gắng khai thác một hoặc một vài khía

cạnh của vấn đề nhằm khái quát hóa bản chất, nội dung, hình thức của hoạt

động này, có thể kể đến một vài quan điểm như:

Theo Bách khoa toàn thư mở Wikipedia: Đầu tư trực tiếp nước ngoài

(FDI: Foreign Direct Investment) là hình thức đầu tư dài hạn của cá nhân hay

công ty nước này vào nước khác bằng cách thiết lập cơ sở sản xuất, kinh

doanh. Cá nhân hay công ty nước ngoài đó nắm quyền quản lý cơ sở sản xuất

kinh doanh này [30].

Tổ chức Thương mại Thế giới đưa ra định nghĩa như sau về FDI: Đầu

tư trực tiếp nước ngoài (FDI) xảy ra khi một nhà đầu tư từ một nước có được

một tài sản ở một nước khác cùng với quyền quản lý tài sản đó. Phương diện

quản lý là thứ để phân biệt FDI với các công cụ tài chính khác. Trong phần

lớn trường hợp, cả nhà đầu tư lẫn tài sản mà người đó quản lý ở nước ngoài là

các cơ sở kinh doanh. Trong những trường hợp đó, nhà đầu tư thường hay

đựoc gọi là “công ty mẹ” và các tài sản được gọi là “công ty con” hay “chi

13

nhánh công ty”.[30]

Khái niệm do Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) đưa ra năm 1997 đề cập đến

khía cạnh khác của đầu tư trực tiếp nước ngoài là: số vốn đầu tư được thực

hiện để thu được lợi ích lâu dài trong một doanh nghiệp hoạt động ở nền kinh

tế khác với nền kinh tế của nhà đầu tư. Mục đích của nhà đầu tư là có được

tiếng nói hiệu lực và đạt hiệu quả cao trong quản lý doanh nghiệp. Khái niệm

này cho thấy, sự khác nhau cơ bản giữa đầu tư trực tiếp với đầu tư gián tiếp là

mục đích của các nhà đầu tư.

Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam (1996) đã nêu: đầu tư trực tiếp

nước ngoài là việc nhà đầu tư nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền

hoặc bất kỳ tài sản nào để tiến hành các hoạt động đầu tư theo quy định của

Luật này” [3, tr. 8].

Dù cách nhìn nhận khác nhau, nhưng đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)

là một hình thức xuất khẩu tư bản trong đó người chủ sở hữu vốn đồng thời là

người quản lý và điều hành các hoạt động sử dụng vốn. Nhà đầu tư nước

ngoài có một lượng vốn lớn đầu tư vào nước sở tại và tuân thủ theo các hình

thức đầu tư do pháp luật nước đó quy định nhằm thu lợi nhuận cao. Mặt khác,

nhà đầu tư nước ngoài sẽ sử dụng các lợi thế của mình như: vốn, công nghệ,

kinh nghiệm quản lý, uy tín và nhãn hiệu sản phẩm… để tiến hành các hoạt

động sản xuất, kinh doanh ở nước sở tại nhằm thu lợi nhuận và để đạt được

những mục tiêu kinh tế - xã hội nhất định. Về thực chất đây là hình thức xuất

khẩu vốn của nhà tư bản, một hình thức cao hơn của xuất khẩu hàng hoá.

1.1.1.2 Doanh nghiệ p có vố n đầ u tư trự c tiế p nướ c ngoà i

Các nhà đầu tư nước ngoài có thể bỏ vốn hoặc góp vốn thành lập doanh

nghiệp và tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp quản lý chúng. Tuy nhiên, hiện

nay vẫn còn nhiều quan niệm khác nhau về loại hình doanh nghiệp này.

- Doanh nghiệp FDI là doanh nghiệp vốn đầu tư nước ngoài, gọi là chủ

14

đầu tư hay công ty mẹ. Cơ sở sản xuất của doanh nghiệp FDI trong nước sở

tại - công ty con - nằm dưới quyền quản trị toàn bộ (tài sản, sản xuất, kỹ thuật,

xuất nhập khẩu, sử dụng lao động …) của chủ đầu tư, nhưng phải tuân thủ

những điều kiện đã thoả thuận và ký kết với những cơ quan quyền lực của

nước sở tại tiếp nhận đầu tư.

- Doanh nghiệp FDI là những loại hình doanh nghiệp có vốn của bên

nước ngoài và có sự quản lý trực tiếp của bên nước ngoài. Doanh nghiệp này

hoạt động theo luật pháp của nước sở tại để tiến hành các hoạt động kinh

doanh nhằm thu được lợi ích cho tất cả các bên.

- Theo các tổ chức kinh tế, doanh nghiệp FDI có tư cách pháp nhân

hoặc không có tư cách pháp nhân, trong đó nhà đầu tư nước ngoài sở hữu từ

hơn 10% số cổ phần thường hay quyền bỏ phiếu (đối với doanh nghiệp có tư

cách pháp nhân) hoặc tương đương (đối với doanh nghiệp không có tư cách

pháp nhân) [30].

Những quan niệm trên cho thấy sự không thống nhất trên bình diện quốc

tế trong quan niệm về doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, mỗi

quốc gia có các quy định khác nhau về mô hình doanh nghiệp có yếu tố nước

ngoài, từ đó đưa ra các chính sách, kế hoạch quản lý đối với các doanh nghiệp.

Ở Việt Nam, mới có những ghi nhận về doanh nghiệp FDI được nêu trong

Luật đầu tư nước ngoài năm 1996 và Luật đầu tư năm 2005. Tuy nhiên, Luật đầu

tư nước ngoài 1996 cũng không đưa ra khái niệm về doanh nghiệp có vốn đầu tư

nước ngoài mà lại nhấn mạnh theo tiêu chí tỷ lệ vốn góp của nhà đầu tư nước

ngoài trong doanh nghiệp, thừa nhận doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài

gồm doanh nghiệp liên doanh và doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài. Và

về mặt pháp lý, cả hai loại hình này đều hoạt động với tư cách công ty trách

nhiệm hữu hạn. Điều này không phù hợp với thực tiễn về quản lý nhà nước

đối với doanh nghiệp, bởi vì điều mà các bên thứ ba quan tâm ở doanh nghiệp

15

không phải là nhà đầu tư có tỷ lệ góp vốn bao nhiêu,... mà là doanh nghiệp

chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ tài sản trước đối tác, trước Nhà nước và các

chủ thể khác như thế nào. Đây chính là điểm hạn chế trước đây của pháp luật

đầu tư nước ngoài ở Việt Nam.[16, tr. 8]

Đến Luật doanh nghiệp 2005 đã phân loại doanh nghiệp theo tiêu chí

cách thức góp vốn và chịu trách nhiệm (công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty

cổ phần, công ty hợp danh, doanh nghiệp tư nhân) không phân biệt doanh

nghiệp của nhà đầu tư trong nước hay nước ngoài, của một nhà đầu tư hay

nhiều nhà đầu tư. Luật đầu tư 2005, khi định nghĩa về doanh nghiệp FDI cũng

không còn sử dụng khái niệm doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài và

doanh nghiệp liên doanh nữa mà thay vào đó đã sử dụng khái niệm: “doanh

nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài bao gồm doanh nghiệp do nhà đầu tư nước

ngoài thành lập để thực hiện hoạt động đầu tư tại Việt Nam; doanh nghiệp

Việt Nam do nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần, sáp nhập, mua lại” [4].

Vậy, tên gọi của doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài và doanh nghiệp

liên doanh đã thay đổi nhưng bản chất của loại hình này không khác so với

trước. Tùy theo cách thức góp vốn và chịu trách nhiệm trong các doanh

nghiệp này, chúng có thể là công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần,

công ty hợp danh hoặc doanh nghiệp tư nhân.

Qua phân tích ở trên, có thể hiểu: Doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp

nước ngoài (hay còn gọi là doanh nghiệp FDI) là một loại hình tổ chức kinh

doanh, trong đó có một hay nhiều chủ đầu tư cùng góp vốn, cùng quản lý cơ

sở kinh tế đó vì mục tiêu lợi nhuận, hoạt động sản xuất kinh doanh, phù hợp

với các quy định luật pháp của nước sở tại và thông lệ quốc tế.

1.1.2 Đặc điểm hoạt động của doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước

ngoài ở Việt Nam

Muốn quản lý các doanh nghiệp FDI hiệu quả cần hiểu rõ bản chất,

16

cách thức hoạt động của chúng. Cụ thể:

- Thứ nhất, doanh nghiệp FDI là những tổ chức kinh chủ yếu được

thành lập theo hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn, có một phần hoặc toàn

bộ số vốn nước ngoài. Mục tiêu chính của các doanh nghiệp là tối đa hóa lợi

nhuận, tự kiểm soát hoạt động và chịu trách nhiệm về kết quả sản xuất kinh

doanh của mình, hợp tác với địa phương sở tại trên nguyên tắc “cùng có lợi”.

- Thứ hai, quyền quản lý doanh nghiệp phụ thuộc vào tỷ lệ vốn góp, chủ

yếu là người nước ngoài quản lý trực tiếp và nắm giữ vị trí chủ chốt, các

doanh nghiệp chịu ảnh hưởng của bên nước ngoài nhiều hơn. Tuy nhiên, các

doanh nghiệp đều ra đời và hoạt động theo luật pháp của Nhà nước Việt Nam

và luật pháp quốc tế. (bao gồm luật pháp của các quốc gia xuất thân của các

bên và luật pháp quốc tế).

- Thứ ba, quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp FDI phải có sự

cân đối giữa lợi ích của địa bàn sở tại với chủ đầu tư. Mục tiêu cao nhất của

các doanh nghiệp FDI là lợi nhuận kinh tế, trong khi đó mục tiêu của nước sở

tại là kinh tế - xã hội, nên đôi khi xảy ra mâu thuẫn, bất đồng. Do đó, để điều

hòa được mối quan hệ này cần có sự hợp tác chặt chẽ giữa hai bên.

- Thứ tư, thời gian hoạt động của doanh nghiệp FDI do Chính phủ nước

Cộng hoà XHCN Việt Nam quyết định đối với từng dự án, thường không quá

50 năm, trường hợp đặc biệt có thể dài hơn nhưng tối đa không quá 70 năm.

Hết thời hạn quy định, doanh nghiệp FDI phải giải thể hoặc chuyển cho phía

Việt Nam (theo hình thức bồi hoàn hoặc không bồi hoàn). Như vậy, chế độ sở

hữu đối với bên nước ngoài chỉ giới hạn trong thời gian hoạt động của doanh

nghiệp, trừ số doanh nghiệp phải giải thể, khi hết thời hạn hoạt động những

doanh nghiệp FDI đó dù tốt, xấu đều trở thành đơn vị kinh doanh và sở hữu

của phía Việt Nam.

- Thứ năm, thông qua hợp tác đầu tư, doanh nghiệp FDI và địa bàn tiếp

nhận có sự gặp gỡ, trao đổi về văn hoá, triết lý kinh doanh, pháp luật, ngôn

17

ngữ, lối sống, thói quen của hai bên. Đặc biệt, môi trường kinh doanh của

doanh nghiệp FDI tương đối phức tạp, nhiều khi mang sắc thái chính trị, tôn

giáo rõ rệt, có thể gây khó khăn cho nước nhận đầu tư. Do vậy, Việt Nam phải

nâng cao năng lực quản lý, tiềm năng kinh tế để hợp tác với các nhà đầu tư

nước ngoài một cách bình đẳng và hiệu quả, vừa đảm bảo lợi ích hai bên vừa

hạn chế tới mức thấp nhất những thua thiệt có thể xảy ra đối với nước mình;

tránh xung đột gây bất hòa trong quan hệ kinh doanh…

Thứ sáu, doanh nghiệp FDI hoạt động dưới sự điều hành của Hội đồng

quản trị. Giám đốc chịu trách nhiệm trực tiếp trước Hội đồng quản trị. Các cơ

quan quản lý nhà nước của Việt Nam chỉ thực hiện chức năng quản lý về mặt

Nhà nước đối với các hoạt động của loại hình doanh nghiệp này, vì vậy, để

phát huy vai trò của các doanh nghiệp và hạn chế những tác hại do chạy theo

lợi nhuận kinh tế gây ra, các cơ quan nhà nước cần nâng cao năng lực quản lý

với loại hình doanh nghiệp này. Cần lưu ý rằng, nước ta có quyền ban hành

chính sách và luật pháp thì các nhà đầu tư có quyền lựa chọn quốc gia mà họ

thực hiện dự án. Trong trường hợp lợi ích của họ hài hòa với lợi ích nước ta

thì họ sẽ triển khai dự án; ngược lại; nếu chính sách, luật pháp không tạo ra

môi trường đầu tư hấp dẫn thì họ không đầu tư, thậm chí chuyển nhà máy

đang vận hành sang nước khác.

Từ những đặc điểm trên cho thấy, để đẩy mạnh hợp tác đầu tư và

đem lại hiệu quả cao cho nước mình, các cơ quan nhà nước cần nâng cấp

bộ máy quản lý, tạo mọi điều kiện thu hút và sử dụng nguồn vốn FDI hiệu

quả, đồng thời tăng cường giám sát, kiểm tra hoạt động các doanh nghiệp

nhằm phát huy mặt tích cực, hạn chế tiêu cực.

1.1.3 Tác động kinh tế - xã hội của doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp

nước ngoài đến địa bàn tiếp nhận đầu tư

1.1.3.1 Tác động tích cực

Gần 25 năm đã qua kể từ khi Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam ra

18

đời vào tháng 12 năm 1987, thành tựu nhiều, nhưng không phải là không có

những hạn chế trong thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Giờ là lúc

cần phải dựa trên hệ tiêu chí khoa học để đánh giá khách quan, toàn diện kết

quả, tác động của FDI, phát hiện những vấn đề cần giải quyết làm căn cứ để

đề ra định hướng mới, nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả dòng vốn FDI

trong thời gian tới. FDI phải thúc đẩy tái cơ cấu kinh tế, chuyển đổi mô hình

tăng trưởng theo chiều sâu, chú trọng chất lượng tăng trưởng, hiệu quả và tính

bền vững... Ðây chính là cái "chất" cần có trong việc thu hút FDI, cụ thể:

- Thu hút nguồn vốn: Vốn là nguồn lực quan trọng để phát triển kinh tế,

nhưng ở các địa bàn thiếu vốn, tích lũy từ nội bộ nền kinh tế đều rơi vào “cái

vòng luẩn quẩn” đó là: Thu nhập thấp dẫn đến tiết kiệm thấp, vì vậy đầu tư

thấp rồi hậu quả lại là thu nhập thấp. Tình trạng luẩn quẩn này chính là “điểm

nút” khó khăn nhất cần vượt qua. Do đó, việc thành lập các doanh nghiệp FDI

là biện pháp thu hút vốn đầu tư có hiệu quả. Lượng vốn này, đôi khi là “cú

hích” từ bên ngoài khá hữu hiệu tạo nên một loạt sự thay đổi theo chiều

hướng tích cực của nền kinh tế. Đặc biệt FDI là một nguồn quan trọng khác

để khắc phục tình trạng thiếu vốn mà không gây nợ cho bên nhận đầu tư, hơn

nữa, lượng vốn vay này thường có thời gian trả nợ vốn vay khá linh hoạt. Ở

nước ta, FDI trở thành nguồn vốn bổ sung đáp ứng nhu cầu về vốn cho công

nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) đất nước.

- Chuyển giao và phát triển công nghệ, kinh nghiệm quản lý: các doanh

nghiệp FDI khi được thành lập luôn gắn liền với công nghệ, máy móc thiết bị,

kỹ năng quản lý đảm bảo năng lực sản xuất và năng suất lao động nhằm thu

được lợi nhuận tối đa, được thực hiện chủ yếu bởi các nước công nghiệp mới

(TNCs). Đối với những địa bàn kinh tế lạc hậu, chủ yếu dựa vào khu vực

nông nghiệp thì việc chuyển giao công nghệ thông qua các doanh nghiệp đầu

tư trực tiếp nước ngoài là một giải pháp khá tiết kiệm và an toàn. Về lâu dài

19

đây chính là lợi ích căn bản nhất đối với phí a nhậ n đầu tư, doanh nghiệ p FDI

có thể thúc đẩy sự đổi mới kỹ thuật công nghệ, góp phần tăng sức sản xuất

của lao động, thúc đẩy phát triển các nghề mới đặc biệt là đối với các ngành

kinh tế mới, có hàm lượng kỹ thuật cao, vì thế nó có vai trò lớn đối với quá

trình CNH, HĐH... Mặc dù trong quá trình chuyển giao công nghệ hiện đại

còn có những mặt hạn chế do có những yếu tố khách quan và chủ quan chi

phối, song điều dễ dàng nhận thấy là chính nhờ có sự chuyển giao đó mà các

nước chủ nhà có được kỹ thuật tiên tiến, kinh nghiệm quản lý và năng lực

maketing, đội ngũ lao động được đào tạo, bồi dưỡng về nhiều mặt, phát triển

một số ngành kinh tế quan trọng của đất nước như: viễn thông, thăm dò và

khai thác dầu khí, hóa chất, cơ khí chế tạo điện tử, tin học, ôtô, xe máy…

Nhất là sau khi Tập đoàn Intel đầu tư 1 tỷ USD vào Việt Nam trong dự án sản

xuất linh kiện điện tử cao cấp, đã gia tăng số lượng dự án đầu tư vào lĩnh vực

công nghệ cao của các tập đoàn đa quốc gia (Canon, Panasonic, Ritech…)

- Phát triển nguồn nhân lực và tạo việc làm: Doanh nghiệp FDI tạo

cơ hội việc làm lớn cho nguồn nhân lực ở địa phương nhận đầu tư, nhất là

các ngành sử dụng nhiều lao động như may mặc, điện tử, chế biến, góp

phần nâng cao phúc lợi xã hội, cải thiện đời sống một bộ phận trong cộng

đồng dân cư, đưa mức GDP/người tăng lên hàng năm. Thông qua sự tham

gia trực tiếp vào hoạt động của các doanh nghiệp có vốn FDI, Việt Nam đã

từng bước hình thành đội ngũ cán bộ quản lý, công nhân kỹ thuật có trình

độ cao, có tay nghề, từng bước tiếp cận được với khoa học, kỹ thuật, công

nghệ cao và tác phong công nghiệp hiện đại, có kỷ luật lao động tốt, học

hỏi được các phương thức, kinh nghiệm quản lý tiên tiến. Mặt khác, hoạt

động của các doanh nghiệp FDI tại Việt Nam đã thúc đẩy các doanh nghiệp

trong nước không ngừng đổi mới công nghệ, phương thức quản lý để nâng

cao hơn chất lượng, sức cạnh tranh của sản phẩm và dịch vụ trên thị trường

trong nước và quốc tế. Đặc biệt, một số chuyên gia Việt Nam làm việc tại

20

các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã dần thay thế các chuyên gia

nước ngoài trong đảm nhiệm các vị trí quản lý doanh nghiệp cũng như điều

khiển các quy trình công nghệ hiện đại.

- Góp phần mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ động hội nhập kinh tế khu

vực và thế giới: Thông qua xuất nhập khẩu cho phép khai thác lợi thể so sánh,

hiệu quả kinh tế theo quy mô, thực hiện chuyên môn hóa sản xuất; nhập khẩu

các hàng hóa dịch vụ khan hiếm cho sản xuất và tiêu dùng; đồng thời, xuất

nhập khẩu còn tạo ra các tác động ngoại ứng như thúc đẩy trao đổi thông tin

dịch vụ, tăng cường kiến thức maketing cho các doanh nghiệp nội địa và lôi

kéo họ vào mạng lưới toàn cầu. Mặt khác, hầu hết các doanh nghiệp đầu tư

nước ngoài đều do các công ty đa quốc gia thực hiện, mà các công ty này có

lợi thế trong việc tiếp cận với khách hàng bằng những hợp đồng dài hạn dựa

trên cơ sở những thân thế và uy tín của họ về chất lượng, kiểu dáng của sản

phẩm và giao hàng đúng hẹn. Trong lĩnh vực khách sạn và du lịch, nguồn đầu

tư nước ngoài đã tạo ra nhiều khách sạn cao cấp đạt tiêu chuẩn quốc tế 4, 5

sao cũng như các khu du lịch, nghỉ dưỡng đáp ứng nhu cầu khách du lịch

quốc tế, góp phần gia tăng nhanh chóng xuất khẩu tại chỗ.

Rõ ràng, nhờ có doanh nghiệp FDI, cơ cấu nền kinh tế của nước nhận

đầu tư chuyển dịch nhanh chóng theo hướng tăng nhanh tỷ trọng của các

ngành công nghiệp, dịch vụ và giảm tỷ trọng các ngành nông nghiệp trong

GDP. Đúng như tình thần Đảng ta xác định: "Kinh tế có vốn đầu tư nước

ngoài là một bộ phận của nền kinh tế Việt Nam", và chiến lược phát triển là:

"Hướng vào mục tiêu phát triển của các sản phẩm xuất khẩu, tăng khả năng

cạnh tranh và xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội gắn với thu hút công

nghệ hiện đại, tạo thêm nhiều việc làm" [10].

1.1.3.2 Tác động tiêu cực

Việc mở cửa thị trường thu hút đầu tư nước ngoài cũng đồng nghĩa với

21

việc Việt Nam sẽ phải đối mặt với nhiều áp lực, nhất là khi khả năng hấp thụ

vốn của nền kinh tế Việt Nam là chưa cao. Ngoài những tác động tích cực

FDI có nhiều tác động tiêu cực đến địa bàn tiếp nhận đầu tư.

- Khi tiếp nhận FDI có nghĩa là nước chủ nhà đã mở rộng giao lưu với

nền kinh tế, văn hóa các dân tộc trên thế giới. Tuy nhiên, qua thực tế cho thấy

có một số doanh nghiệp FDI không thực hiện đúng những quy định của luật

pháp về việc sử dụng lao động là người Việt Nam, như kéo dài thời gian học

nghề, không thực hiện đúng chế độ bảo hiểm xã hội, kéo dài thời gian lao

động trong ngày, cắt xén tiền công, tăng cường độ lao động.... Điều đó có thể

vượt quá giới hạn khả năng sản xuất của người công nhân, nảy sinh đình

công, biểu tình ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của chính

doanh nghiệp và địa phương.

- Việc chuyển giao công nghệ mang lại hậu quả cho nước nhận đầu tư,

vì chủ yếu các nước đầu tư đã lợi dụng sơ hở của pháp luật Việt Nam cũng

như sự yếu kém trong kiểm tra giám sát tại các cửa khẩu, nên đã nhập vào

Việt Nam một số máy móc thiết bị lạc hậu, chuyển giao công nghệ từng phần,

không đồng bộ, máy móc thế hệ cũ gây ô nhiễm lớn, giá cả được ghi trong

hóa đơn thường cao hơn giá trung bình của thị trường thế giới. Nhờ vậy, một

số nhà đầu tư nước ngoài có thể lợi dụng để khai tăng tỷ lệ vốn góp trong các

liên doanh với Việt Nam. Mặt khác, nhiều doanh nghiệp FDI thường sở hữu

công nghệ hiện đại, vốn lớn so với các doanh nghiệp trong nước, có thể tăng

sự phụ thuộc về vốn, kỹ thuật, giảm sức cạnh tranh của hàng hóa trong nước.

Nhiều doanh nghiệp bản địa bị phá sản hoặc bị thôn tính do không cạnh tranh

được. Vì vậy, nếu không tận dụng được các nguồn lực từ doanh nghiệp FDI

để phát triển tiềm năng kinh tế nội địa thì nước nhận đầu tư sẽ khó thoát khỏi

sự phụ thuộc và cạnh tranh với các doanh nghiệp này.

- Cùng với đó, cũng đã xảy ra “cuộc chiến giữa các tỉnh, thành phố

22

chào mời nhà đầu tư quốc tế” bằng những ưu đãi quá mức thuế, tiền thuê đất,

ảnh hưởng tiêu cực đến phúc lợi chung của cộng đồng. Đã xảy ra tranh chấp

lao động trong một số doanh nghiệp FDI. Gần đây, việc “chuyển giá” của một

số doanh nghiệp FDI, gây ra tình trạng “lỗ giả lãi thật” nổi lên như vấn đề

thời sự.

Vậy, tuy có những đóng góp tích cực không thể phủ nhận đối với địa

bàn nhận đầu tư nhưng các doanh nghiệp FDI trong quá trình kinh doanh vẫn

còn tác động xấu như: chuyển giao công nghệ cũ, công nghệ không phù hợp,

giá cả đắt hơn thực tế, xúc phạm nhân phẩm người lao động, khai thác cạn

kiệt sức lao động của người làm thuê… Vấn đề đặt ra là các cơ quan nhà nước

phải ngăn chặn, giảm tác hại tiêu cực của các doanh nghiệp FDI, đồng thời

huy động nguồn lực vốn có kết hợp với nguồn lực nhận đầu tư nhằm đạt hiệu

quả cao. Chỉ có Nhà nước với quyền lực và chức năng của mình mới có khả

năng tạo lập được môi trường đầu tư, mang tính cạnh tranh cao so với các

nước trong khu vực và thế giới để khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài.

Hiện nay, hoạt động đầu tư nước ngoài ở nước ta đã thu hút được hàng nghìn

doanh nghiệp của các nước và vùng lãnh thổ khắp thế giới. Điều đó cho thấy

tính hấp dẫn của môi trường đầu tư ở Việt Nam, đồng thời cũng thể hiện tính

đa dạng của các nền văn hóa trong quan hệ giữa người sử dụng lao động và

người lao động trong các doanh nghiệp FDI.

1.2 Quản lý nhà nƣớc đối với doanh nghiệp có vốn đầu tƣ trực tiếp nƣớc

ngoài ở địa bàn cấp tỉnh

1.2.1 Khái quát quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư trực

tiếp nước ngoài ở địa bàn cấp tỉnh

Quản lý nhà nước chủ yếu là quá trình tổ chức, điều hành của hệ thống

cơ quan hành chính nhà nước đối với hành vi hoạt động của con người theo

pháp luật. Đồng thời, các cơ quản lý nhà nước nói chung còn thực hiện các

23

hoạt động có tính chất chấp hành, điều hành, tính chất hành chính nhà nước

nhằm xây dựng tổ chức bộ máy và củng cố chế độ công tác nội bộ của mình.

Trong giai đoạn hiện nay, vai trò của nhà nước chẳng những không suy giảm,

mà còn trở nên quan trọng hơn, bởi vì nhà nước yếu kém sẽ không thể có thị

trường phát triển lành mạnh. Nhà nước trở thành nhân tố kích thích hoặc kìm

hãm các quan hệ thị trường tuỳ thuộc vào việc có hay không tạo ra được môi

trường pháp lý, điều kiện hạ tầng kinh tế - xã hội (KTXH) cho kinh doanh và

đầu tư. Do đó, quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp ở tầm vĩ mô, không

can thiệp trực tiếp vào hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp

nhưng thông qua cơ chế, chính sách, kế hoạch định hướng và khống chế phần

nào các doanh nghiệp hoạt theo mục tiêu phát triển của địa phương. Tuy

nhiên, các doanh nghiệp hoạt động trong môi trường pháp luật của địa bàn sở

tại có quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm và chủ động tiến hành hợp tác, sản

xuất kinh doanh theo đúng ngành nghề, lĩnh vực đã đăng ký.

Như vậy, trong quá trình hợp tác kinh doanh có sự phối hợp chặt chẽ

giữa Nhà nước với doanh nghiệp FDI. Một mặt, Nhà nước với vai trò quản lý

của mình sẽ đảm bảo cho lợi ích doanh nghiệp, cạnh tranh lành mạnh, phát

triển ổn định mà vẫn theo đúng định hướng phát triển của đất nước, của địa

phương; Mặt khác, các doanh nhân tham gia nhiều mối quan hệ lợi ích, các

quan hệ này có khả năng dẫn tới xung đột mà chỉ Nhà nước mới có khả

năng xử lý, điều hòa các xung đột đó. Doanh nghiệp hoạt động thành công

hay thất bại không chỉ phụ thuộc vào nguồn lực và kinh nghiệm quản lý của

họ mà còn phụ thuộc nhiều vào vai trò điều tiết của nhà nước. Mặc dù các nhà

đầu tư nước ngoài đều là các nhà kinh doanh có kinh nghiệm nhưng khi họ

kinh doanh ở một quốc gia khác vẫn cần có sự hỗ trợ của nước chủ nhà. Khi

tiến hành sản xuất kinh doanh, chuyển giao công nghệ nhà đầu tư nước ngoài

cần có sự hỗ trợ của nhà nước về thị trường tiêu thụ sản phẩm, thị trường vốn,

24

thị trường lao động.

1.2.2 Mục tiêu của quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư

nước ngoài

Ngay từ khi bắt đầu thực hiện đổi mới đất nước, Đảng ta đã xác định

những quan điểm định hướng về thu hút, sử dụng, quản lý vốn đầu tư trực

tiếp nước ngoài, từ đó để phát triển thêm loại hình doanh nghiệp có vốn đầu

tư trực tiếp nước ngoài. Những quan điểm đó đã được bổ sung, phát triển

qua các kỳ đại hội Đảng và tiếp tục được khẳng định tại Đại hội Đảng toàn

quốc lần thứ X, thể hiện những nội dung chủ yếu sau đây:

Thứ nhất, thông qua quản lý nhà nước với doanh nghiệp FDI sẽ phát huy

cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ tối đa nguồn lực bên ngoài và chủ động hội

nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, hiệu quả, bền vững, thực hiện CNH,

HĐH, tạo sự năng động cho nền kinh tế nhiều thành phần trong nước.

Thứ hai, quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp FDI giúp nhà nước dần

dầ n hoàn thiện hệ thống pháp luật về đầu tư, cơ chế chính sách thu hút, quản

lý các doanh nghiệp FDI. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X đã khẳng định: “

Tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư trực tiếp của nước ngoài” [11, tr. 240],

“xoá bỏ các hình thức phân biệt đối xử trong tiếp cận các cơ hội đầu tư” [11,

tr. 239], “Đơn giản hoá thủ tục cấp giấp phép đầu tư đối với đầu tư nước

ngoài”, “ Tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư phát

triển” [11, tr. 240].

Thứ ba, nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý nhà nước đối với hoạt

động doanh nghiệp FDI trước biến động của thị trường. Hoàn thiện cơ chế

quản lý nhà nước về đầu tư nước ngoài nhằm tăng cường, nâng cao hiệu quả

phối hợp giữa Bộ Kế hoạch và Đầu tư và các Bộ, ngành địa phương trong quá

trình cấp giấy chứng nhận đầu tư, quản lý dự án và kiểm tra, giám sát hoạt

25

động đầu tư.

Thứ tư, quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp FDI còn nhằm thực hiện

các mục tiêu trước mắt và mục tiêu lâu dài, trong đó việc thu hút vốn, công

nghệ hiện đại, kinh nghiệm quản lý tiên tiến của nước ngoài phải đặt lên hàng

đầu như: ưu tiên thu hút các dự án FDI có công nghệ hiện đại, tiết kiệm

nguyên liệu, năng lượng, thân thiện với môi trường. Đồng thời, tạo ra động

lực và ý thức cho các doanh nghiệp FDI thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ đối với

Nhà nước, vớ i ngườ i lao độ ng, góp phần xây dựng các ngành, lĩnh vực kinh tế

trọng điểm, tạo ra các thế mạnh kinh tế đị a bà n nhậ n đầ u tư.

Thứ năm, quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp FDI nhằm thúc đẩy

tái cơ cấu kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo chiều sâu, chú trọng

chất lượng tăng trưởng, hiệu quả và tính bền vững... Ðây chính là cái "chất"

cần có trong việc thu hút FDI. Bên cạnh đó, việc thẩm định, kiểm tra, giám sát

dự án FDI, lựa chọn đối tác để hình thành nên các doanh nghiệp FDI, cần dựa

trên chiến lược, quy hoạch tổng thể dài hạn phát triển KTXH của đất nước,

bởi hoạt động FDI thường xuyên đụng chạm đến vấn đề chính trị, an ninh

quốc phòng; việc đưa ra quyết định đối với một số dự án FDI có quy mô lớn,

ở những vùng kinh tế “nhạy cảm” đôi khi gặp trở ngại do một vài ý kiến quá

nhấn mạnh đến "an ninh chính trị và quốc phòng của đất nước", mà chưa

đứng trên lợi ích toàn cục theo phương châm gắn kinh tế với an ninh và quốc

phòng, trong đó phát triển kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm.

Thứ sáu , quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp FDI nhằm tạo môi

trường pháp lý, môi trường chính trị, kinh tế - xã hội ổn định, những điều kiện

cần thiết và thuận lợi cho sự ra đời và hoạt động kinh doanh có hiệu quả của

doanh nghiệp FDI; để giai đoạn tới thu hút và quản lý FDI “phải hướng tới

mục tiêu chất lượng và hiệu quả; phát triển bền vững; công nghệ hiện đại và

lao động có kỹ năng cao" – Giáo sư, tiến sỹ (GS.TS) Nguyễn Mại, Chủ tịch

26

Hiệp hội Doanh nghiệp đầu tư nước ngoài nhấn mạnh [32]

1.2.3 Nội dung quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước

ngoài có hiệu quả

Việc Quốc hội ban hành Luật Đầu tư và Luật Doanh nghiệp năm 2005

để điều chỉnh các hoạt động đầu tư và kinh doanh của các khu vực kinh tế trên

một mặt bằng luật pháp đánh dấu bước tiến mới về việc hoàn thiện khuôn khổ

pháp lý theo nguyên tắc thị trường, khẳng định rõ ràng các doanh nghiệp FDI

là bộ phận hữu cơ của nền kinh tế quốc dân của nước ta. Vì vậy, quản lý nhà

nước đối với doanh nghiệp FDI là vấn đề quan trọng trong quá trình phát triển

nền kinh tế của nước ta nói chung, của địa bàn tỉnh, thành phố nói riêng; được

thể hiện qua những nội dung sau:

1.2.3.1 Xây dựng chiến lược, kế hoạch quản lý

Quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp FDI được thông qua các công

cụ, chiến lược, chương trình, kế hoạch, quy hoạch để định hướng các doanh

nghiệp này theo đúng mục tiêu phát triển kinh tế của đất nước, của tỉnh. Trên

cơ sở chiến lược phát triển dài hạn và ngắn hạn trong từng thời kỳ, nhà nước

tiến hành xây dựng quy hoạch thu hút các nguồn vốn cho việc thực hiện các

phương án, mục tiêu, chương trình quốc gia, của vùng, của địa phương. Từ

đó, công tác định hướng của nhà nước với FDI phải được cụ thể hoá bằng

việc xây dựng danh mục các dự án kêu gọi vốn đầu tư nước ngoài, xác định

các lĩnh vực ưu tiên, địa điểm ưu tiên FDI.

Do mục tiêu lợi nhuận nên nhà đầu tư nước ngoài (nhất là tư nhân) chỉ

đầu tư vào những ngành có tỷ suất lợi nhuận cao, khả năng thu hồi vốn nhanh,

ở những nơi có cơ sở hạ tầng thuận lợi , đem lạ i nhiề u lợ i í ch nhấ t. Điều đó dễ

dẫn đến tình trạng mất cân đối trong cơ cấu đầu tư và thiệt hại chung cho nền

kinh tế đị a bà n sở tạ i. Để các doanh nghiệp FDI tác động tích cực đến địa bàn

27

tiếp nhận đầu tư, giữa các ngành kinh tế và giữa các vùng thì việc xây dựng

chiến lược, quy hoạch và kế hoạch thu hút FDI đóng một vai trò rất quan

trọng trong quản lý nhà nước.

Nâng cao hiệu năng của quản lý nhà nước đối với FDI đòi hỏi phải

thống nhất quan điểm, nhận thức, từ những mô hình thành công trong thực

tiễn của các ngành, địa phương để hình thành thể chế, quy định chung của cả

nước, tiếp cận với thể chế tốt nhất của những quốc gia đã thành công trong

việc xử lý quan hệ nhà nước với thị trường, tạo lập môi trường đầu tư và kinh

doanh hấp dẫn, hình thành cơ cấu bộ máy và đội ngũ công chức làm việc có

hiệu quả. [14]

Trong gần hai thập kỷ qua, Nhà nước đã tập trung công sức vào việc

xây dựng hệ thống pháp luật nhằm thiết lập một hành lang pháp lý cho kinh tế

thị trường và phù hợp với đòi hỏi của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Hàng

năm, Quốc hội nước ta họp hai kỳ, kéo dài từ một đến hai tháng, chủ yếu để

thông qua các dự án luật do Chính phủ trình, do vậy đến nay hệ thống pháp

luật của kinh tế thị trường ở nước ta đã được hình thành và đã dần hoàn thiện.

Hoạt động của doanh nghiệp FDI hiện được điều chỉnh theo Luật Doanh

nghiệp và Luật Đầu tư áp dụng cho các khu vực kinh tế. Tuy nhiên, xây dựng

chiến lược, kế hoạch thu hút FDI cần phải có tính động, không được khép kín

mà phải có sự liên kết giữa các vùng và các địa phương, đảm bảo lợi ích của

cả hai bên. Để thực hiện tốt chức năng này phải xây dựng thống nhất tổ chức

bộ máy quản lý thích hợp trên cơ sở phối hợp nhịp nhàng, ăn khớp và tối ưu

các chức năng quản lý của các bộ phận trong bộ máy quản lý hoạt động FDI.

Đồng thời cần có sự phối hợp tốt nhất trong hệ thống các cơ quan quản lý nhà

nước trong việc ban hành các qui phạm pháp luật điều chỉnh các hoạt động

của các dự án và các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nhằm bảo vệ lợi

28

ích, bảo hộ sản xuất trong nước và khuyến khích hoạt động FDI.

Bên cạnh đó, quy hoạch không thể chạy theo số lượ ng mà cần quan tâm

đến chất lượng dự án, theo quy luật cung - cầu, quy luậ t cạ nh tranh của thị

trường. Nên để các nhà đầu tư nước ngoài được tự do lựa chọn ngành nghề

kinh doanh trong khuôn khổ phá p luậ t , phù hợp khả năng của họ. Muốn vậy,

Nhà nước phải xây dựng kế hoạch hiệ u quả , sát với tình hình thực tế hiện nay;

cần chú trọng công tác dự báo, định hướng, cậ p nhật thông tin trong nước và

quốc tế, cơ chế linh hoạt trước biến động của thị trường trong nước và quốc

tế. Văn kiện đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X đã đề ra nhiệm vụ cụ thể :

“Tăng cường thu hút vốn đầu tư nước ngoài, phấn đấu đạt trên 1/3 tổng nguồn

vốn đầu tư phát triển toàn xã hội trong 5 năm. Mở rộng lĩnh vực, địa bàn và

hình thức thu hút FDI, hướng vào những thị trường giàu tiềm năng và các tập

đoàn kinh tế hàng đầu thế giới, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về số lượng và

chất lượng, hiệu quả nguồn FDI”[11, tr. 205]. Trên cơ sở chủ trương, quan

điểm của Đảng, chiến lược thu hú t FDI phải đề ra được mục tiêu cụ thể cho

từng thời kỳ, từ ng đị a phương, bao gồm cả mục tiêu về tăng số lượng vốn

đăng ký, vốn thực hiện, đặc biệt cần chú ý đến mục tiêu về chất lượng, hiệu

quả trong thu hút và quản lý FDI. Đồng thời, xây dựng kế hoạch thực hiện lộ

trình cho từng giai đoạn cụ thể với các giải pháp tích cực có tính khả thi cao;

chú ý tới các cơ chế chính sách hấp dẫn có sức cạnh tranh cao. Bên cạ nh đó ,

chính sách thu hút FDI cần phải linh hoạt, mềm dẻo, ổn định, minh bạch cao

nhằm tạo điều kiện, đáp ứng yêu cầu thực hiện nhiệm vụ của chiến lược phát

kinh tế, tạo niềm tin cho các nhà đầu tư nước ngoài.

Mặt khác, Luật Doanh nghiệp năm 2005 cần được sửa đổi bởi vì đã bộc

lộ nhiều nhược điểm đang cản trở hoạt động FDI. Một số chuyên gia kiến

nghị, xây dựng Luật Doanh nghiệp mới với những điều khoản đáp ứng đòi hỏi

đầu tư, kinh doanh và hội nhập quốc tế trong giai đoạn mới, đủ chi tiết để điều

29

chỉnh hành vi của doanh nghiệp. Nghị định của Chính phủ chỉ để hướng dẫn

thi hành luật, không chứa đựng nội dung luật như hiện nay, tốt nhất là không

có Thông tư của các Bộ. Đối với Luật Đầu tư năm 2005, nhiều ý kiến nhận

xét rằng, nội dung của luật này trùng lặp với nhiều luật khác, do vậy nên hình

thành Chương Đầu tư trong Luật Doanh nghiệp, bởi vì đầu tư là hoạt động

chính của doanh nghiệp. Cũng có ý kiến cho rằng, trong Luật Doanh nghiệp

và Luật Đầu tư năm 2005 không chú ý đặc điểm của FDI và doanh nghiệp

FDI, nên đã không điều chỉnh được mọi hành vi liên quan đến FDI, làm giảm

hiệu năng quản lý nhà nước đối với khu vực kinh tế này. Do vậy, Luật Doanh

nghiệp mới cần khắc phục nhược điểm đó.

Các cuộc vận động đầu tư cần hướng chủ yếu vào gần 500 TNCs hàng

đầu thế giới đối với dự án công nghệ cao, dịch vụ hiện đại, nghiên cứu và phát

triển, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, thường xuyên cập nhật thông tin

về điều kiện đảm bảo đầu tư theo yêu cầu của từng TNCs thay cho những

cuộc hội thảo đông người kém hiệu quả. Sau khủng hoảng kinh tế thế giới,

TNCs điều chỉnh thị trường đầu tư, có thể Việt Nam không còn được lựa chọn

hoặc được đưa vào diện ưu tiên, do đó cần theo dõi để biết được chiến lược

đầu tư mới của TNCs.

Các Bộ lập và công bố quy hoạch ngành kinh tế - kỹ thuật gắn với quy

hoạch vùng lãnh thổ, xây dựng tiêu chuẩn, định mức để hướng dẫn chính

quyền địa phương thực hiện, bảo đảm việc phân cấp quản lý vừa phát huy

được tính năng động, sáng kiến của tỉnh, thành phố, vừa bảo vệ lợi ích quốc

gia. Trên cơ sở đó, chuyển trọng tâm quản lý nhà nước đối với FDI sang

hướng dẫn, theo dõi, kiểm tra doanh nghiệp khi đưa dự án đầu tư vào hoạt

động theo đúng quy định luật pháp.

Về chiến lược thu hút FDI thời gian tới, Cục đầu tư nước ngoài sẽ tập

trung vào tiêu chí phát triển bền vững, ưu tiên phát triển các ngành công nghệ

30

sạch, sử dụng tiết kiệm và hiệu quả tài nguyên, năng lượng, đầu tư các ngành

công nghiệp hỗ trợ. Về không gian đầu tư, quy hoạch các dự án đầu tư theo

cụm, vùng, tạo liên kết thành chuỗi giá trị trong toàn quốc và toàn cầu để tăng

hiệu quả đầu tư, giảm chi phí vận chuyển và tạo sự hỗ trợ lẫn nhau về công

nghệ, môi trường và lao động

Tóm lại, để d oanh nghiệp FDI thực sự là nhân tố tích cực trong nền

kinh tế quốc dân thì việc xây dựng chính sách, kế hoạch thu hút, quản lý cần

được quan tâm đúng mức. Trong khi môi trường đầu tư cần được cải thiện,

cần giảm mạnh chi phí cơ hội cho các dự án FDI, thực hiện bình đẳng pháp

luật giữa các doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp FDI.

1.2.3.2 Chính sách ưu đãi của nhà nước

Bên cạnh việc xây dựng các kế hoạch, chính sách cho phát triển kinh tế

của đất nước nhằm đạt mục tiêu dài hạn, ngắn hạn, Nhà nước cũng có những

chính sách ưu đãi đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Việt Nam đã ban hà nh

hàng loại pháp lệnh, nghị định và văn bản pháp lý nhằm sửa đổi những điểm

chưa phù hợp, bổ sung và đưa ra các quy định mới làm cho Việt Nam hấp dẫn

hơn đối với đầu tư nước ngoài. Đặc biệt vào cuối năm 2005, Việt Nam đã ban

hành nhiều đạo luật quan trọng nhằm cải thiện hơn nữa môi trường đầu tư

kinh doanh. Trong đó có hai luật liên quan trực tiếp đến doanh nghiệp FDI, đó

là luật đầu tư (chung) và luật doanh nghiệp (thống nhất).

Cụ thể, nhà nước đã ban hành một số Luậ t, Nghị định, Thông tư nhằ m

quản lý hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp FDI, như:

- Luật Đầu tư ngày 29 tháng 11 năm 2005;

- Luật Doanh nghiệp ngày 29 tháng 11 năm 2005;

- Nghị định số 108/2006/NĐ-CP ngày 22 tháng 9 năm 2006 của Chính

phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Đầu tư;

- Nghị định số 88/2006/NĐ-CP ngày 29 tháng 8 năm 2006 của Chính

31

phủ quy định về đăng ký kinh doanh;

- Nghị định số 101/2006/NĐ-CP ngày 21 tháng 9 năm 2006 của Chính

phủ quy định về việc đăng ký lại, chuyển đổi và đăng ký đổi Giấy chứng

nhận đầu tư của Doanh nghiệp FDI theo Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư.

- Quyết định số 1088/2006/QĐ-BKH ngày 19 tháng 10 năm 2006

của Bộ Kế hoạch và Đầu tư về việc ban hành các mẫu văn bản thực hiện thủ

tục về đầu tư tại Việt Nam.

- Ngày 07 tháng 4 năm 2009, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số

13/NQ-CP về định hướng, giải pháp thu hút và quản lý vốn đầu tư trực tiếp

nước ngoài trong thời gian tới.

- Công văn số 7055 /BKHĐT-ĐTNN yêu cầu các Doanh nghiệp có vốn

đầu tư nước ngoài báo cáo tình hình vay vốn tại các tổ chức tín dụng hoạt

động tại VN.

- Ngày 19/9/2011, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số

1617/CT-TTg về việc tăng cường thực hiện và chấn chỉnh công tác quản lý

đầu tư trực tiếp nước ngoài trong thời gian tới.

- Tháng 5-2010, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã có Công văn số 2879/BKH-

ĐTNN về việc tăng cường giám sát, kiểm tra đối với các dự án FDI.

Thủ tướng yêu cầu các bộ, ngành, địa phương tập trung xây dựng chính

sách ưu đãi đầu tư phù hợp với định hướng thu hút đầu tư nước ngoài giai

đoạn 2011-2020, nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác quy hoạch từ khâu

lập, thẩm định, phê duyệt đến quản lý quy hoạch. Các đơn vị tiếp tục nâng cao

hiệu quả quản lý dòng vốn đầu tư nước ngoài, đồng thời xây dựng, hoàn thiện

cơ chế, chính sách nhằm hạn chế, ngăn chặn tình trạng chuyển giá của các

doanh nghiệp FDI.

Do đó, Nhà nước sẽ còn tiếp tục bổ sung, hoàn thiện hơn nữa nhằm thu hút,

khuyế n khí ch hoạ t độ ng đầ u tư của các doanh nghiệp FDI, phát huy tác động tích

cự c củ a doanh nghiệ p vớ i đị a bà n tiế p nhậ n đầ u tư nó i riêng và nề n kinh tế cả

32

nướ c nó i chung, theo đú ng xu hướ ng phá t triể n củ a nề n kinh tế thế giớ i.

1.2.3.3 Thẩm định dự án cấp phép và thực thi giấy phép

Hiện nay, dự án FDI đang giữ một vị trí quan trọng và tham gia vào

hầu hết các quan hệ kinh tế của địa bàn nhận đầu tư. Các dự án FDI thường là

những dự án lớn nhưng vấn đề mấu chốt là công tác thẩm định dự án trước

khi quyết định cho doanh nghiệp FDI chính thức đi vào hoạt động nhằm đảm

bảo hiệu quả, tính bền vững và độ an toàn cao của các dự án sau khi được cấp

phép. Thông qua thẩm định , Nhà nước đánh giá được mức độ phù hợp với

quy hoạch tổ ng thể chung của ngành, địa phương; các mặt lợi hại của FDI nế u

triể n khai ; cũng như thực hiện tốt hơn vai trò điều tiết vĩ mô đối với doanh

nghiệp FDI trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân.

Khi thẩm định, Nhà nước cần tôn trọng, đảm bảo lợi ích chính đáng của

các doanh nghiệp FDI trong quan hệ hài hoà với lợi ích chung xã hội và cần

phải đưa ra các kết luận rõ ràng, chính xác về toàn bộ dự án FDI được thẩm

định xong. Trong quá trình thẩm định, các cơ quan cấp giấp phép thường xem

xét kỹ các nội dung như: tư cách pháp lý, năng lực tài chính của đầu tư nước

ngoài; mức độ phù hợp của mục tiêu dự án FDI với quy hoạch chung; trình độ

kỹ thuật, công nghệ áp dụng phù hợp với địa bàn tiếp nhận đầu tư; hiệu quả

KTXH do doanh nghiệp FDI đi vào hoạt động tạo ra. Ngoài nhữ ng nội dung

trên, ở Việt Nam, các doanh nghiệp FDI trước khi được cấp phép hoạt động

còn phải xem xét đến mức độ hợp lý của việc sử dụng đất, phương án đền bù

giải phóng mặt bằng, đây là mộ t vấ n đề khá phứ c tạ p . Phải khẳng định rằng,

việc cấp phép đầu tư dựa trên tiêu chí pháp luật. Trước năm 2005, Luật Đầu

tư có tiêu chí quan trọng là thẩm định dự án với 2 quy định cụ thể: Hiệu quả

dự án và năng lực tài chính nhà đầu tư. Từ năm 2006 đến nay, Luật Đầu tư

sửa đổi (áp dụng cho cả đầu tư trong nước và nước ngoài) đã bỏ đi tiêu chí rất

quan trọng này nhằm tạo sự thông thoáng cho hoạt động đầu tư. Bên cạnh đó,

với tiêu chí đơn giản hóa thủ tục đầu tư (đăng ký đầu tư trong vòng 15 ngày

33

và thẩm tra đầu tư trong vòng 30 ngày, trường hợp đặc biệt là 45 ngày) nên

với thời gian như vậy, cơ quan cấp phép đầu tư chưa đủ thời gian để thẩm tra

kỹ càng năng lực tài chính của nhà đầu tư và việc cấp giấy chứng nhận đầu tư

sẽ không thể kỹ càng ngay từ khâu tiền kiểm mà phải chuyển sang khâu hậu

kiểm. Tuy nhiện, để thực hiện tốt khâu hậu kiểm cần sự phối hợp của nhiều

cơ quan chức năng.

1.2.3.4 Kiểm tra, giám sát hoạt động doanh nghiệp

Công tác kiểm tra, giám sát các doanh nghiệp FDI giúp phát hiện điểm

bất hợp lý, sai trái trong tổ chức thực hiện để kịp thời điều chỉnh hoặc kiến

nghị việc điều chỉnh pháp luật, chính sách về đầu tư nước ngoài theo quy định

của pháp luật.

Cơ quan nhà nước có thẩm quyền sẽ thực hiện việc giám sát bằng cách

lập các đoàn kiểm tra thực địa, hoặc yêu cầu báo cáo từ các doanh nghiệp.

Đồng thời, công tác thẩm tra, cấp, điều chỉnh Giấy chứng nhận đầu tư theo

nguyên tắc tuân thủ quy hoạch tổng thể phát triển các vùng, các tỉnh, thành

phố trực thuộc Trung ương, quy hoạch phát triển ngành, lĩnh vực, sản phẩm

chủ yếu...; Chú trọng xem xét, đánh giá lợi ích kinh tế - xã hội của dự án, đặc

biệt là các vấn đề liên quan đến công nghệ, môi trường sinh thái, phát triển

nguồn nhân lực, tác động đến cộng đồng dân cư, sự liên kết với doanh nghiệp

trong nước, thị trường, đối tác.

Đồng thời thông qua việc thanh tra, kiểm tra và giám sát, còn tạo ra

nguồn thông tin phản hồi từ doanh nghiệp FDI để các cơ quan quản lý nhà

nước có căn cứ đánh giá hiệu quả và mức độ hợp lý của hệ thống luật pháp,

cơ chế chính sách đã ban hành. Tuy nhiên, Nhà nước không can thiệp sâu vào

hoạt động kinh doanh, chỉ quản lý vĩ mô, mang tính định hướng; các doanh

nghiệp vẫn có quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về hoạt động của mình.

Ngoài ra, việc thẩm tra để sàng lọc bớt các nhà đầu tư thiếu năng lực là

cần thiết nhưng để quản lý các dự án đầu tư FDI hiệu quả, khâu hậu kiểm sau

34

cấp phép là quan trọng nhất. Đặc biệt, các văn bản pháp luật sửa đổi trong

thời gian tới cần theo hướng xử lý mạnh tay hơn với các hành vi sai phạm;

đồng thời cần quy định cụ thể hơn trách nhiệm của từng cơ quan quản lý nhà

nước, cơ quan chuyên ngành trong hoạt động giám sát các dự án đầu tư nước

ngoài. Vậy, quy định hậu kiểm như vậy được ban hành sẽ có tác dụng răn đe,

loại bỏ các nhà đầu tư có ý định trục lợi từ Luật Đầu tư quá thông thoáng của

Việt Nam; đồng thời giúp nguồn vốn FDI phát huy hiệu quả thực sự cho tăng

trưởng kinh tế của Việt Nam. Do đó, chấn chỉnh công tác kiểm tra, giám sát

hoạt động FDI là yêu cầu cấp bách hiện nay nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng

vốn FDI. Trách nhiệm quản lý nhà nước về hoạt động FDI thuộc về nhiều Bộ,

Ngành, địa phương nên rất cần sự phối hợp giữa các bộ, ngành trung ương,

giữa trung ương với địa phương.

1.3 Kinh nghiệm quản lý các doanh nghiệp có vốn đầu tƣ trực tiếp nƣớc

ngoài của một số địa phƣơng trong nƣớc

Việc thống nhất Luật Đầu tư trong nước, Luật Khuyến khích đầu tư

nước ngoài và ban hành Luật Đầu tư năm 2005 là một trong những cải cách

căn bản chính sách pháp luật về đầu tư, hướng tới sự phù hợp với thông lệ quốc

tế, tạo ra môi trường đầu tư kinh doanh rõ ràng, minh bạch và chặt chẽ. Theo

đó, nhà đầu tư trong nước và nước ngoài có một sân chơi chung thực sự và

bình đẳng. Nhiều địa phương đã thành công trong thu hút, sử dụng và hợp tác

với các doanh nghiệp FDI, phải kể đến hai tỉnh thành là Hà Nội và Đồng Nai.

1.3.1 Kinh nghiệm của 1 số địa phương trong nước

1.3.1.1 Kinh nghiệm của thành phố Hà Nội

Trên Báo điện tử (Cổng thông tin điện tử Chính phủ - chinhphu.vn),

ông Nguyễn Văn Tứ, Phó Giám đốc Sở KH&ĐT Hà Nội cho biết, với 2.212

dự án FDI, vốn đăng ký 23,3 tỷ USD và vốn giải ngân khoảng 7 tỷ USD hiện

nay đã đóng góp quan trọng vào phát triển kinh tế - xã hội của Thủ đô, đặc

biệt, là đóng góp vào giá trị giá trị sản xuất công nghiệp tới 50%. Có được

35

thành công trên, Hà Nội đã quản lý các doanh nghiệp FDI bằng các cách sau:

Một là, Hà Nội đã xây dựng được quy hoạch tổng thể và chiến lược

phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2020 khá bài bản và rõ ràng , đây là cơ sở

quan trọng cho việc định hướng chiến lược thu hút đầu tư và quản lý các

doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Từ đó xây dựng các danh

mục gọi vốn FDI, các ngành, nghề ưu tiên khuyến khích đầu tư, quản lý khâu

hậu kiểm chặt chẽ, hạn chế sai sót. Nhờ đó, đã tạo dựng được niềm tin cho

các nhà đầu tư yên tâm đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh tại Hà Nội. [18]

Hai là, Hà Nội xác định vấn đề xúc tiến đầu tư là cơ bản nhưng công tác

xúc tiến đầu tư còn nhiều yếu tố tổng hòa khác, cụ thể như các yếu tố về cơ sở hạ

tầng, sự ứng xử của các cơ quan chính quyền đối với nhà đầu tư. Mặt khác, Hà

Nội có nhiều dự án lớn, quan trọng trên địa bàn, nên trong một năm, các cơ quan

chức năng cử đoàn kiểm tra trực tiếp dự án để nắm bắt tình hình, điều chỉnh

công tác quản lý phù hợp.

Ba là, Hà Nội đã ban hành một số chính sách ưu đãi đối với doanh

nghiệp FDI. Khi nhà đầu tư nước ngoài vào các khu công nghiệp sẽ được ưu

đãi về giá đất, xây dựng kết cấu hạ tầng và giảm, miễn thuế đối với các lĩnh

vực đang là đòn bẩy kinh tế quan trọng. Ngoài ra, Thành phố cũng quan tâm

đến đời sống của cán bộ, gia đình doanh nhân người nước ngoài trên địa bàn,

tạo tâm lý thoải mái, ổn định cho các nhà đầu tư trên địa bàn.

Bốn là, về kinh nghiệm trong xúc tiến đầu tư, Hà Nội xác định công tác

xúc tiến phải có trọng điểm, lĩnh vực nào là quan trọng phù hợp với địa

phương, khuyến khích các dự án mang chuỗi giá trị sản xuất toàn cầu. Việc

tham gia xúc tiến đầu tư chung của Chính phủ, bộ, ngành là rất quan trọng.

Tuy nhiên, việc quan trọng không kém chính là sau khi xúc tiến chung, chính

quyền cần có những động thái tiếp cận ngay, lắng nghe và đưa ra những cam

kết mạnh mẽ để các nhà đầu tư thực sự yên tâm hơn khi đầu tư vào địa

36

phương mình.

Tuy nhiên, những bài học này chỉ là giải pháp tạm thời, có tính thời

điểm. Trong tương lai, theo yêu cầu của Thủ tướng Chính phủ trong Đề án

Đổi mới quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp sau đăng ký thành lập, các cơ

quan liên quan đến hoạt động này sẽ phải ứng dụng triệt để công nghệ thông

tin vào công tác đăng ký doanh nghiệp, đặc biệt là trao đổi thông tin giữa các

cơ quan quản lý nhà nước để đảm bảo hoàn thiện Cơ sở dữ liệu quốc gia về

quản lý doanh nghiệp. Về lâu dài, cơ sở dữ liệu này sẽ được kết nối trực tuyến

và chia sẻ đầy đủ dữ liệu pháp lý về doanh nghiệp cho mọi cơ quan quản lý

nhà nước khác, cũng như thực hiện yêu cầu công bố rộng rãi và công khai các

thông tin về đăng ký doanh nghiệp để mọi doanh nghiệp, người dân có thể

tiếp cận được và dễ dàng trong quản lý.

1.3.1.2 Kinh nghiệm ở Đồng Nai

Thời gian qua, tình hình kinh tế thế giới chưa có gì “sáng sủa” nhưng

các nhà đầu tư nước ngoài vẫn tìm đến các KCN Đồng Nai, vì vậy, Đồng Nai

là tỉnh thu hút vốn đầu tư nước ngoài thành công nhất trong cả nước. Hiện

nay, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Đồng Nai chiếm từ 45 – 50% tổng

vốn đầu tư của toàn tỉnh. Năm 2010 thu hút được 47 dự án với số vốn đăng ký

là 544,1 triệu USD [32]. Bà Nguyễn Phương Lan - Phó ban quản lý các KCN

Đồng Nai phát biểu trên trang điện tử của Ban quản lý các khu công nghiệp

Đồng Nai (29/11/2010), cho rằng về khách quan, kinh tế thế giới đã khó khăn

mấy năm qua, hoạt động đầu tư của doanh nghiệp nước ngoài cũng đã chững

lại khá lâu và giai đoạn này, họ nghĩ đến việc tái đầu tư mở rộng, đặc biệt với

nhiều quốc gia châu Á như Nhật hay Hàn Quốc… Về phía chủ quan, bà Lan

cho rằng Đồng Nai ngày càng làm tốt hơn công tác xúc tiến đầu tư và cung

cấp thông tin, thể hiện qua sự chủ động, linh hoạt thông qua các hoạt động

xúc tiến trực tiếp trong và ngoài nước. Thành công đó của Đồng Nai được đúc

37

kết thành bài học sau:

Thứ nhất, chính quyền và nhân dân đồng tâm nhất trí tìm các biện pháp

hợp lý nhất để thu hút vốn FDI trong khuôn khổ quy định của pháp luật.

Trong công tác quản lý nhà nước, các cơ quan đã thực hiện thành công quy

chế quản lý một cửa, thời gian cấp phép cho doanh nghiệp nước ngoài nhanh

chóng. Có dự án theo quy định phải cấp phép trong thời gian một tuần , nhưng

tỉnh cố gắng cấp phép trong vòng 24 tiếng đồng hồ (năm 2003 đã cấp giấp

phép cho công ty Mainetti Vietnam 100% vốn Singapore chỉ mất 3 giờ đã

được vào khu công nghiệp Amata). Các chuẩn mực , tiêu chí , chế độ đượ c

công khai hóa và minh bạch hóa . Đội ngũ cán bộ đượ c yêu cầ u phả i hế t sức

có trách nhiệm thực hiện. Từ đó, các nhà đầu tư sẽ yên tâm. Chính họ sẽ giới

thiệu những điều tốt này cho khách hàng, bạn bè của mình.

Thứ hai, vận dụng sáng tạo chủ trương thu hút vốn FDI, Đồng Nai đã

quy hoạch các KCN theo định hướng quy hoạch tổng thể toàn tỉnh. Đồng thời,

linh hoạt cho phép công ty phát triển kết cấu hạ tầng đàm phán thoả thuận với

nhà đầu tư ứng trước phí sử dụng hạ tầng, đã tạo được nguồn vốn rất quan

trọng để xây dựng kết cấu hạ tầng ban đầu. Thường xuyên tiếp xúc, gặp gỡ

các nhà đầu tư, tạo điều kiện thuận lợi cho họ đóng góp ý kiến, kịp thời

giải quyết những vướng mắc, điều chỉnh số vốn, cho phép gia hạn thời gian

giải ngân...

Thứ ba, chú trọng công tác đào tạo nghề, hướng nghiệp cho người lao

động. Đặc biệt, cung cấp cho người lao động những kiến thức cơ bản về Bộ

luật lao động, cách làm việc của các doanh nghiệp FDI nhằm hình thành ngay

từ đầu tác phong làm việc công nghiệp, dần xóa bỏ lề lối cũ, thủ công, mang

tính chất nông nghiệp.

Thứ tư, đối tượng lựa chọn để xúc tiến đầu tư trong các năm tới sẽ là

các doanh nghiệp thuộc các nước và vùng lãnh thổ tiềm năng như Nhật Bản,

38

Mỹ, châu Âu, các nước công nghiệp mới (NICs)… Mặt khác, cũng có sự thay

đổi trong cơ cấu các ngành nghề kêu gọi đầu tư. Đồng Nai sẽ không đặt mục

tiêu kêu gọi các dự án có vốn lớn nhằm “lấp đầy” các KCN mà chú trọng vào

chất lượng dự án, ưu tiên các ngành nghề thuộc nhóm công nghệ kỹ thuật cao,

điện - điện tử, công nghiệp hỗ trợ…

1.3.2 Những bài học có thể vận dụng vào thực tiễn của Phú Thọ

Mỗi địa phương có những điều kiện khác nhau nên việc thu hút và sử

dụng các nguồn lực FDI cũng mang sắc thái khác nhau. Có địa phương thành

công nhưng có những địa phương còn sai sót, hiệu quả kém. Phú Thọ đã xem

xét, nghiên cứu những bài học thành công cũng như thất bại ở các tỉnh nhằm

quản lý tốt hơn các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, phù hợp với sự

phát triển của mình. Qua bài học thành công của hai tỉnh, thành phố trên và

một số tỉnh khác, Phú Thọ có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm như:

Thứ nhất tăng cường hiệu lực và hiệu quả công tác tư vấn, hỗ trợ cho

nhà đầu tư nước ngoài của Trung tâm tư vấn và Xúc tiến đầu tư – Sở Kế

hoạch và Đầu tư. Phát huy vai trò của Sở KH&ĐT, Ban Quản lý các KCN

tỉnh trong công tác tư vấn cho nhà đầu tư nước ngoài, thực sự trở thành cầu

nối vững chắc giữa nhà đầu tư nước ngoài đối với các cơ quan chính quyền

địa phương trong việc hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, tư vấn cho

nhà đầu tư nước ngoài các vấn đề liên quan đến: thủ tục đầu tư, tư vấn về

chính sách pháp luật, các chính sách ưu đãi, các quy định của tỉnh….cung cấp

các gói thông tin cần thiết cho nhà đầu tư nước ngoài về các lĩnh vực: các loại

quy hoạch, kế hoạch phát triển của từng ngành, lĩnh vực của tỉnh, các thông

tin cần thiết khác như: thực trạng nguồn nhân lực, phương thức đào tạo và

tuyển dụng nhân lực, thực trạng về cơ sở hạ tầng cứng (hệ thống đường giao

thông, quy hoạch các khu công nghiệp, điện, cấp thoát nước,….) và cơ sở hạ

tầng mềm (hệ thống thông tin liên lạc, viễn thông, quyền sở hữu trí tuệ….).

Thứ hai, tăng cường cơ chế phối hợp giữa các sở, ban, ngành với Uỷ

39

ban nhân dân cấp huyện, thị xã, thành phố trong công tác quản lý, giám sát,

thanh tra, kiểm tra các dự án đầu tư FDI. Từ đó ngăn chặn được tình trạng các

dự án đã được cấp phép đầu tư nhưng không triển khai thực hiện, ngăn chặn

và xử lý kịp thời các vi phạm về: tiến độ thực hiện dự án, việc tuân thủ các

quy định của pháp luật về lao động, môi trường, thuế và các nghĩa vụ tài

chính, đảm bảo an ninh trật tự tại hiện trường dự án.

Thứ ba, triển khai thực hiện đa dạng, linh hoạt các hoạt động đối ngoại,

xây dựng tình hữu nghị đoàn kết giữa tỉnh với cộng đồng người nước ngoài

đang sinh sống và làm việc trên địa bàn tỉnh. Từ đó xây dựng lòng tin, tạo tâm

lý ổn định, yên tâm cho những doanh nhân, nhà đầu tư là người nước ngoài

đang triển khai thực hiện các dự án FDI tại tỉnh Phú Thọ. Việc này có tác

dụng góp phần tăng cường quan hệ hữu nghị, hợp tác và sự hiểu biết lẫn nhau

giữa tỉnh Phú Thọ nói riêng và Việt Nam với quốc gia có đầu tư trực tiếp tại

tỉnh, từ đó thúc đẩy việc mở rộng quy mô các dự án hiện có, thu hút được

thêm nhiều dự án FDI mới.

Thứ tư, đối với các dự án đầu tư đã được cấp phép vào những lĩnh vực

đang được khuyến khích như: công nghiệp phụ trợ, công nghiệp điện tử, công

nghiệp phụ trợ cho công nghiệp công nghệ cao, công nghệ cao… nhưng thời

điểm cấp giấy chứng nhận đầu tư chưa có quy định về cơ chế ưu đãi chung

hoặc quy định được xem xét cơ chế ưu đãi đặc thù, sở KH&ĐT và ban Quản

lý các KCN cần chủ động phối hợp với doanh nghiệp để tiến hành thủ tục

điều chỉnh bổ sung ưu đãi cho dự án. Đối với các dự án thuộc diện được xem

xét cơ chế ưu đãi đặc thù, cần nghiên cứu lựa chọn những dự án có đầu tư lớn,

công nghệ hiện đại, sử dụng ít diện tích đất, có số nộp ngân sách lớn, phối

hợp với nhà đầu tư nghiên cứu đề xuất cơ chế ưu đãi đặc thù trình Uỷ ban

nhân dân tỉnh để trình Chính phủ phê duyệt. Việc thu hút đầu tư nước ngoài

và quan tâm đến những dự án FDI đã được cấp phép sẽ đem lại những kết quả

40

tích cực, đặc biệt hỗ trợ cho hoạt động xúc tiến đầu tư của tỉnh.

Kết luận chƣơng 1

1. Đầu tư trực tiếp nước ngoài là hình thức kinh doanh quốc tế phổ

biến, có nhiều dạng đầu tư nước ngoài, trong đó FDI đóng vai trò hết sức

quan trọng, thường đem lại hiệu quả cao cho nước tiếp nhận đầu tư và cả

các nhà đầu tư. Vì vậy, quản lý doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài

đang là vấn đề cấp bách đặt ra hiện nay cho các Bộ, các Ngành, các đơn vị

từ Trung ương đến địa phương.

Tác giả đưa ra những vấn đề cơ bản về đầu tư trực tiếp nước ngoài,

thu hút đầu tư và hoạt động của các doanh nghiệp bao gồm các khái niệm

thuộc phạm trù đầu tư trực tiếp, doanh nghiệp FDI, vai trò của doanh

nghiệp FDI…Từ đó tạo tiền đề đánh giá một cách chính xác những

thành tựu đạt được; những hạn chế, yếu kém trong công tác quản lý nhà

nước đối với thu hút đầu tư và hoạt động của các doanh nghiệp có vốn đầu

tư trực tiếp nước ngoài trên địa bàn tỉnh Phú Thọ cùng những nguyên nhân

của những hạn chế, yếu kém đó.

2. Qua kinh nghiệm thu hút đầu tư nước ngoài ở một số tỉnh trong nước,

Phú Thọ đã rút ra được một số bài học kinh nghiệm nhằm quản lý tốt nguồn

vốn FDI hiện đang được triển khai trên địa bàn tỉnh và công tác xúc tiến đầu

tư thời gian tới.

3. Việc thu hút và quản lý doanh nghiệp FDI vào địa bàn nhận đầu tư

giữ vai trò quan trọng, đặc biệt là đáp ứng một phần nhu cầu cấp thiết về vốn

và phát triển theo định hướng quy hoạch của địa bàn nhận đầu tư. Do vậy bên

cạnh việc phát huy nội lực, Phú Thọ cần tăng cường thu hút, quản lý FDI

thông qua việc xây dựng các chương trình, kế hoạch, thanh tra, kiểm tra giám

41

sát các dự án trước và sau khi cấp phép hoạt động.

Chƣơng 2

THƢ̣ C TRẠ NG QUẢ N LÝ NHÀ NƢỚ C ĐỐ I VỚ I DOANH NGHIỆ P

CÓ VỐN ĐẦU TƢ TRỰC TIẾP NƢỚC NGOÀI TẠI PHÚ THỌ

2.1 Thực trạng thu hút đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài và hoạt động của các

doanh nghiệp có vốn đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài tại Phú Thọ

2.1.1 Khái quát điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội tỉnh Phú Thọ

2.1.1.1 Điều kiện tự nhiên

Phú Thọ thuộc Trung du miề n nú i phí a Bắ c Việ t Nam , có vị trí trung

tâm là vù ng, là cửa ngõ Tây Bắc của thủ đô Hà Nội trên trục hành lang kinh tế

Hải Phòng – Hà Nội – Côn Minh, là cầu nối vùng Tây Bắc với thủ đô Hà Nội

và các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ . Phú Thọ tiếp giáp với Hà Nội theo hướng Tây

Nam và tỉ nh Vĩ nh Phú c the o hướ ng Đông Nam, cách sân bay quốc tế Nội Bài

50km, cách cửa khẩu Lào Cai và cửa khẩu Thanh Thủy – Hà Giang hơn

200km, cách cảng Hải Phòng 170km, là nơi hợp lưu của 3 con sông lớ n: Sông

Hồ ng, sông Đà và sông Lô . Phú Thọ có một vị trí khá thuận lợi cho phá t triể n

lâm nghiệ p, khai thá c khoá ng sả n , trồ ng cá c cây công nghiệ p dà i ngà y , cây

nguyên liệ u giấ y, phát triển lương thực, chăn nuôi… và sẽ có nhiều tiềm năng,

cơ hội để tạo ra môi trường tốt cho thu hút đầu tư nước ngoài.

Địa hình có đặc trưng cả 3 vùng: miền núi, trung du và đồng bằng, tạo

nên vùng đất “sơn chầu, thuỷ tụ”, giao thông ngược xuôi đều thuận lợi. Đó là

vùng đất chuyển tiếp, nối kết giữa miền núi cao, thượng du với đồng bằng

châu thổ sông Hồng, đã tạo cho Phú Thọ vị thế “địa - chính trị” vô cùng quan

trọng và “địa - văn hoá” phong phú, đậm đà bản sắc dân tộc.

2.1.1.2 Điều kiện kinh tế xã hội

42

 Về điề u kiệ n kinh tế , xã hội:

Hiện nay , tỉnh Phú Thọ có 13 huyệ n, thành thị , trong đó , thành phố

Việt Trì là trung tâm chính trị, hành chính và kinh tế, xã hội của tỉnh Phú Thọ

và trung tâm của liên tỉnh phía Bắc. Việt Trì được công nhận là đô thị loại II

(năm 2005) và ngày 4/5/2012, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng quyết

định công nhận Việt Trì là đô thị loại I trực thuộc tỉnh. Trong 5 năm (2001 -

2005), tỉnh Phú T họ đạt mức tăng trưởng GDP bình quân 9,79%/năm; tăng

trưở ng GDP bì nh quân 3 năm (2006 - 2008) đạ t 10,9%, năm 2010 là

11,5%/năm. Cơ cấu kinh tế năm 2010: công nghiệp, xây dựng 45-46%; dịch

vụ 36-37%; nông, lâm nghiệp 18-19%; tổng vốn đầu tư toàn xã hội tăng 1,6-

1,7 lần so với giai đoạn (2001-2005); tỷ lệ huy động vào ngân sách nhà nước

đạt trên 11% GDP. Tỉnh Phú Thọ từ một trung tâm công nghiệp cũ trở thành

một trung tâm công nghiệp mới ở miền Bắc, từ một tỉnh thiếu lương thực đã

đảm bảo an ninh lương thực và đang chuyển dần sang sản xuất hàng hóa.

Tỉnh Phú Thọ là một trong 14 trung tâm vùng của cả nước, hiện đang giữ

vị trí trung tâm vùng về công nghiệp, về sản xuất và chế biến một số sản phẩm

nông nghiệp lớn (chè, nguyên liệu giấy, thủy sản…); là trung tâm khoa học kỹ

thuật nông - lâm nghiệp và trung tâm văn hóa xã hội, nhân văn của cả nước.

Giá trị sản xuất công nghiệp năm 2010 tăng khoả ng 16,7 – 17,5% tăng

2% so với năm 2001 - 2005. Các sản phẩm công nghiệp chủ yếu gồm dệt

may, giày dép, , hoá chất, cơ khí, vật liệu xây dựng... Kim ngạch xuất nhập

khẩu của Phú Thọ qua các năm không ngừng tăng lên với tỉ lệ tăng trưởng

bình quân 15,2%. Tổng thu ngân sá ch nhà nướ c năm 2008 trên đị a bà n đạ t

1.165,8 tỷ đồng, tăng 10,6% so vớ i 2007, năm 2010 đạ t khoả ng 1400 – 1500

tỷ đồng. [26]

Về kết cấu hạ tầng, hệ thống giao thông thuận lợi cả về đường bộ,

đường sắt và đường thủy. Qua địa bàn tỉnh có quốc lộ 2, quốc lộ 32, quốc lộ

43

70, đường sắt tuyến Hải Phòng - Hà Nội – Lào Cai đang được mở rộng thành

tuyến liên vận quốc tế. Đường cao tốc Nội Bài – Phú Thọ – Lào Cai, đường

xuyên Á và đường Hồ Chí Minh đang khởi động xây dựng. Đường thủy có

cảng Việt Trì (sông Hồng, sông Lô) – là một trong ba 3 cảng sông lớn ở miền

Bắc, cảng Yến Mao (Sông Đà), cảng Bãi Bằng (Sông Lô) lưu thông về cảng

Hà Nội, Hải Phòng.

Đến năm 2010, Phú Thọ đã hình thành và quy hoạch 9 KCN, một khu

liên hợp dịch vụ và 20 CCN. Xung quanh các KCN còn có các làng công

nhân, các khu đô thị mới, khu vui chơi giải trí, bệnh viện đa khoa, cửa hàng,

siêu thị.

Bảng 2.1: Tổng hợp các cụm công nghiệp trên địa bàn tỉnh Phú Thọ

Địa điểm

Tên

Tổng diện tích (ha)

Đã sử dụng (ha)

Chƣa sử dụng (Ha)

Đơn giá (đồng/m2/n ăm)

làng nghề

80

80

4.300

1. Việt Trì

22

22

4.300

Cụm CN Phượng Lâu I Cụm làng nghề Phượng Lâu II

2. Phù Ninh

Cụm CN Phú Gia

60

60

3.000

30 7

30 7

3.500 4.300

3.Thị xã Phú Thọ

5

5

0

3.500

10

10

3.500

10

2

8

4.000

4. Lâm Thao

72

72

2.600

5. Tam Nông

15

15

3.400

30 50

30 50

2.800 1.600

7. Thanh Sơn 8. Yên Lập

50

50

2.200

9. Thanh Ba

Cụm CN Hà Thạch Cụm CN Thanh Minh Cụm công nghiệp Trường Thịnh – Thanh Vinh Cụm CN Hà Lộc Cụm CN làng nghề Sơn Vy Cụm CN Văn Lương Cụm CN làng nghề Hưng Hoá Cụm CN Thanh Sơn Cụm CN Lương Sơn Cụm CN phía Nam (Đỗ Sơn) Cụm CN thị trấn Thanh Ba

20

20

3.100

44

10. Hạ Hoà

30 50

30

0 50

2.200 1.800

100

10

90

2.600

11. Cẩm Khê

làng nghề

100

100

2.200

12. Đoan Hùng

Cụm CN Thanh Hà Cụm CN Vô Tranh Cụm CN làng nghề Sông Thao Cụm CN Phương Xá Cụm CN Sóc Đăng Cụm CN Ngọc Quan Cụm CN Chân Mộng

13. Tân Sơn Cụm CN Tân Phú

85 80 100 85 1.091

10 2 161

75 78 100 85 930

2.200 2.200 2.200 1.900

Tổng cộng

Nguồn: Phú Thọ tiềm năng và cơ hội hợp tác đầu tư

Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Phú Thọ 2009

Dân số tỉnh Phú Thọ khoảng 1,4 triệu người, có 21 dân tộc anh em

cùng sinh sống. Số người trong độ tuổi lao động khoảng 800.000 người (60%

dân số) trong đó lực lượng lao động trẻ chiếm 65%, lao động qua đào tạo trên

33,5%. Đây là một thị trường rộng lớn và đầy tiềm năng của các nhà sản xuất

và cung cấp dịch vụ.

Nguồn nhân lực của Phú Thọ dồi dào, chất lượng cao: Với 3 trường Đại

học, 34 trường cao đẳng và trung học chuyên nghiệp, các trường dạy nghề cũng

như các cơ sở đào tạo ngoại ngữ, tin học. Hàng năm, thành phố đào tạo được

hàng chục nghìn lao động trẻ với kiến thức khá vững vàng. Lực lượng lao động

của Phú Thọ có chất lượng hàng đầu trong khu vực miề n nú i trung du Phí a Bắ c,

tác phong công nghiệp, năng động, nhiệt tình, ham học hỏi và tinh thần trách

nhiệm cao là những điểm mạnh của lực lượng lao động Phú Thọ.

Phú Thọ có môi trường chính trị và xã hội ổn định, an ninh, trật tự xã

hội đảm bảo. Chính quyền nhà nước, nhân dân địa phương thân thiện, ủng hộ

nhà đầu tư, coi công việc của nhà đầu tư như của chính mình. Thủ tục hành

chính trong cấp phép đầu tư và triển khai dự án thực hiện theo cơ chế một đầu

45

mối, miễn phí, giảm phiền hà, thời gian cho nhà đầu tư. Phú Thọ đã thực hiện

cơ chế một cửa liên thông đối với các dự án đầu tư trên địa bàn, đưa công

nghệ thông tin vào quảng bá, tuyên truyền, thẩm định cấp phép qua mạng và

xúc tiến đầu tư thông qua cổng giao tiếp điện tử của tỉnh; rút ngắn thời gian

thực hiện thủ tục hành chính…

Trên địa bàn Phú Thọ hiệ n có 12 ngân hàng và công ty cho thuê tài

chính đang hoạt động, sẵn sàng đáp ứng nhu cầu về vốn ngắn và trung hạn

cho các doanh nghiệp. Ngoài ra, các doanh nghiệp còn có thể tận dụng nguồn

vốn dài hạn với lãi suất thấp từ Quỹ Hỗ trợ phát triển. Thanh toán trong nước

và quốc tế nhanh chóng, thuận tiện, phương thức thanh toán đa dạng cộng với

nhiều dịch vụ tiện ích khác sẽ giúp doanh nghiệp tránh được nhiều khó khăn

trong sản xuất kinh doanh.

Như vậy, Phú Thọ là thành phố có điều kiện thuận tiện trên nhiều mặt như

vị trí địa lý, kết cấu hạ tầng, nguồn nhân lực và các dịch vụ hỗ trợ khá tố t cho thu

hút đầu tư trực tiếp nước ngoài và hoạt động của các doanh nghiệp FDI.

 Chế độ ưu đãi và khuyến khích của tỉnh

Các nhà đầu tư có dự án đầu tư trên địa bàn tỉnh Phú Thọ vừa được

hưởng các ưu đãi đầu tư theo lĩnh vực và địa bàn được quy định tại Nghị định

108/2006/NĐ-CP ngày 22 tháng 9 năm 2006 của Thủ tướng Chính phủ vừa

có thêm mộ t số chế độ ưu đã i của tỉnh nhằm tạo môi trường đầu tư thuận lợi

để khuyến khích các thành phần kinh tế trong cả nước và nước ngoài đầu tư

vào tỉnh, trong đó có các khu công nghiệp. Theo Quy định này, tất cả các nhà

đầu tư nước ngoài, các doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài, các nhà đầu

tư thuộc mọi thành phần kinh tế trong và ngoài tỉnh, người Việt Nam định cư

ở nước ngoài, người nước ngoài thường trú ở Việt Nam khi đầu tư vào Phú

Thọ đều được áp dụng đầy đủ các ưu đãi chung theo quy định của Nhà nước

46

Việt Nam về thuế, đất đai, lao động... với những ưu đãi tối đa, thời gian ưu

đãi dài nhất. Ngoài ra, nhà đầu tư tại Phú Thọ còn được hưởng các ưu đãi đầu

tư cụ thể khác theo chính sách khuyến khích trên địa bàn tỉnh.

Ưu đã i về thuế thu nhậ p doanh nghiệ p:

- Mức thuế suất ưu đãi 10% trong thời hạn 15 năm áp dụng đối với:

+ Doanh nghiệp thành lập mới từ dự án đầu tư tại địa bàn huyện Tân

Sơn, Thanh Sơn, Yên Lập.

+ Doanh nghiệp thành lập mới từ dự án đầu tư thuộc các lĩnh vực:

Công nghệ cao; Nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ; Đầu tư phát

triển nhà máy nước, nhà máy điện, hệ thống cấp thoát nước; cầu, đường bộ,

đường sắt; cảng hàng không, cảng sông; sân bay, nhà ga và công trình cơ sở

hạ tầng đặc biệt quan trọng...

- Mức thuế suất ưu đãi có thể kéo dài nhưng tổng thời gian áp dụng

thuế suất 10% không quá 30 năm đối với: Các dự án Công nghệ cao; Nghiên

cứu khoa học và phát triển công nghệ; Đầu tư phát triển nhà máy nước, nhà

máy điện, hệ thống cấp thoát nước; cầu, đường bộ, đường sắt; cảng sông; sân

bay, nhà ga có quy mô lớn, công nghệ cao hoặc mới cần đặc biệt thu hút đầu

tư. Thủ tướng Chính phủ quyết định việc kéo dài thêm thời gian áp dụng thuế

suất ưu đãi 10%.

- Mức thuế suất 10% trong suốt thời gian hoạt động áp dụng đối với:

Phần thu nhập của doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo,

dạy nghề, y tế, văn hoá, thể thao và môi trường.

- Mức thuế suất ưu đãi 20% áp dụng trong thời gian 10 năm đối với:

Doanh nghiệp thành lập mới từ dự án đầu tư tại địa bàn các huyện Phù Ninh,

Tam Nông, Thanh Thuỷ, Cẩm Khê, Thanh Ba, Hạ Hoà, Đoan Hùng.

- Mức thuế suất ưu đãi 20% áp dụng trong suốt thời gian hoạt động đối

với hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp và quỹ tín dụng nhân dân.

47

Miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp:

- Miễn thuế 4 năm, giảm 50% số thuế phải nộp trong 9 năm tiếp theo

đối với:

+ Doanh nghiệp thành lập mới từ dự án đầu tư tại địa bàn huyện Tân Sơn,

Thanh Sơn, Yên Lập; Doanh nghiệp thành lập mới từ dự án đầu tư thuộc danh

mục, ngành nghề Công nghệ cao, Sản xuất sản phẩm phần mềm, nghiên cứu

khoa học và phát triển công nghệ, Đầu tư phát triển nhà máy nước, nhà máy

điện, hệ thống cấp thoát nước; cầu, đường bộ, đường sắt; cảng sông; nhà ga...

+ Doanh nghiệp thành lập mới trong lĩnh vực xã hội hoá thực hiện tại

địa bàn tại địa bàn các huyện Tân Sơn, Thanh Sơn, Yên Lập, Phù Ninh, Tam

Nông, Thanh Thuỷ, Cẩm Khê, Thanh Ba, Hạ Hoà, Đoan Hùng.

- Miễn thuế 4 năm, giảm 50% số thuế phải nộp trong 5 năm tiếp theo

đối với: Doanh nghiệp thành lập mới trong lĩnh vực xã hội hoá thực hiện tại

địa bàn thành phố Việt Trì , thị xã Phú Thọ, huyện Lâm Thao.

- Miễn thuế 2 năm, giảm 50% số thuế phải nộp trong 4 năm tiếp theo

đối với: Doanh nghiệp thành lập mới từ dự án đầu tư tại địa bàn huyện Phù

Ninh, Tam Nông, Thanh Thuỷ, Cẩm Khê, Thanh Ba, Hạ Hoà, Đoan Hùng.

- Ngoài các ưu đãi trên, tùy từng trường hợp cụ thể mà doanh nghiệp

còn được hưởng các ưu đãi miễn giảm thuế quy định tại Điều 17,18 và 19 của

Nghị định số 124/2008/NĐ - CP ngày 11/12/2008 của Chính phủ quy định chi

tiết thi hành Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp.

Ưu đãi về thuế nhập khẩu

Nhà đầu tư có dự án đầu tư thuộc lĩnh vực, địa bàn ưu đãi đầu tư được

hưởng ưu đãi về thuế nhập khẩu đối với hàng hóa nhập khẩu theo quy định

của pháp luật.

- Đối tượng được miễn thuế: Hàng hoá nhập khẩu để tạo tài sản cố

định của dự án khuyến khích đầu tư quy định tại các Danh mục A, B hoặc

48

Vùng 1, Vùng 2.

+ Nguyên liệu, vật tư, linh kiện nhập khẩu để sản xuất của các dự án

thuộc Danh mục lĩnh vực đặc biệt khuyến khích đầu tư quy định tại Danh mục

A, Danh mục B hoặc thuộc Vùng 1 hoặc thuộc lĩnh vực sản xuất linh kiện,

phụ tùng cơ khí, điện, điện tử được miễn thuế nhập khẩu trong 5 năm, kể từ

ngày bắt đầu sản xuất.

+ Nguyên liệu, vật tư, bán thành phẩm trong nước chưa sản xuất được

nhập khẩu để phục vụ sản xuất của dự án thuộc Danh mục B; bán thành phẩm

trong nước chưa sản xuất được nhập khẩu để phục vụ sản xuất của dự án

thuộc Danh mục A hoặc Vùng 1 được miễn thuế nhập khẩu trong 5 năm, kể

từ ngày bắt đầu sản xuất.

- Đối tượng được xét giảm thuế : Hàng hoá xuất, nhập khẩu đang trong

quá trình giám sát của cơ quan Hải quan nếu bị hư hỏng, mất mát được cơ

quan, tổ chức có thẩm quyền giám định, chứng nhận thì được xét giảm thuế

tương ứng với tỷ lệ tổn thất thực tế của hàng hoá.

Ưu đãi về thuế sử dụng đất, tiền sử dụng đất, tiền thuê đất và thuê mặt

nước

Đối tượng được miễn, giảm tiền thuê đất

- Dự án đầu tư thuộc Danh mục A, Danh mục B tại địa bàn Vùng 1,

vùng 2.

- Được miễn tiền thuê đất trong thời gian xây dựng cơ bản theo dự án

được cấp có thẩm quyền phê duyệt. Nhưng tối đa không quá 03 năm.

- Giảm tiền sử dụng đất: Được giảm 50%, 30%, 20% tiền sử dụng đất

tùy từng trường hợp theo các quy định kèm theo.

Hỗ trợ đầ u tư về đấ t

- Nhà đầu tư được quyền lựa chọn địa điểm, diện tích đất để thực hiện

49

dự án phù hợp với quy mô dự án và quy hoạch đã được cấp có thẩm quyền

phê duyệt. Khuyến khích các dự án đầu tư vào các khu, cụm công nghiệp đã

được duyệt.

- Nhà đầu tư được quyền lựa chọn hình thức xin giao đất, thuê đất và

hình thức nộp tiền thuê đất theo các quy định hiện hành.

- Trường hợp nhà đầu tư nước ngoài nộp tiền thuê đất một hoặc hai lần

cho cả thời gian thuê đất được hỗ trợ như sau:

+ Nếu nộp tiền thuê đất một lần trong năm đầu cho cả thời gian thuê đất

thì được hỗ trợ 10% số tiền thuê đất;

+ Nếu nộp tiền thuê đất hai lần trong 05 năm đầu cho cả thời gian thuê

đất thì được hỗ trợ 5% số tiền thuê đất và được tính giảm vào lần nộp thứ 2;

- Đối với dự án đầu tư kinh doanh hạ tầng các khu, cụm công nghiệp thì

được hỗ trợ thêm 10% số tiền thuê đất thô.

Hỗ trợ đầu tư trong lĩnh vực đầu tư hạ tầng và phí hạ tầng:

- Tỉnh sẽ bồi thường, giải phóng mặt bằng đối với tất cả các dự án

khuyến khích, thu hút đầu tư sản xuất kinh doanh vào. Chủ đầu tư ứng trước

tiền thuê đất để bồi thường giải phóng mặt bằng và được khấu trừ vào tiền thuê

đất phải nộp.

- Nhà đầu tư có trách nhiệm tự san lấp mặt bằng và được tỉnh xem xét

hỗ trợ chi phí san lấp mặt bằng theo thiết kế, dự toán được duyệt và theo các

mức sau:

+ Các dự án đầu tư hạ tầng đồng bộ KCN, cụm công nghiệp (CCN) công

nghệ cao, lĩnh vực môi trường và dự án có giá trị thu nộp ngân sách từ 100 tỷ

đồng một năm trở lên được hỗ trợ cao nhất không quá 30 tỷ đồng/dự án.

+ Các dự án đầu tư còn lại được hỗ trợ không quá 10 tỷ đồng/dự án.

- Tạo điều kiện cung cấp các dịch vụ điện, nước đến chân hàng rào dự án;

- Tỉnh hỗ trợ đầu tư đường giao thông đến ngoài hàng rào các khu, cụm

50

công nghiệp theo tiêu chuẩn đường cấp III và tối đa không quá 3 km;

- Các dự án cần đặc biệt khuyến khích đầu tư nếu đầu tư trong khu,

cụm công nghiệp được miễn nộp phí hạ tầng trong thời gian xây dựng cơ bản

nhưng không quá 3 năm;

- Các dự án đầu tư trong các KCN, đô thị, CCN thuộc lĩnh vực dịch vụ

công ích: trạm y tế, trường học, khu nhà ở công nhân, khu...) được miễn phí

hạ tầng.

- Hỗ trợ kinh phí lập quy hoạch chi tiết các dự án đầu tư KCN, khu dịch

vụ, khu đô thị và nhà ở chung cư theo các mức:

+ 30 triệu đồng/một dự án có diện tích đất quy hoạch được phê duyệt từ

100 ha đến 300 ha hoặc dự án có vốn đầu tư đăng ký từ 10 triệu USD đến 20

triệu USD.

+ 50 triệu đồng/một dự án có diện tích đất quy hoạch được phê duyệt

trên 300 ha hoặc dự án có vốn đầu tư đăng ký trên 20 triệu USD hoặc dự án

thuộc lĩnh vực công nghệ cao có vốn đầu tư đăng ký trên 10 triệu USD.

Hỗ trợ các dịch vụ và xúc tiến đầu tư, xúc tiến thương mại:

- Được cung cấp miễn phí các tài liệu thông tin tuyên truyền về chủ

trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, cơ chế, chính sách của

tỉnh và các chính sách ưu đãi có liên quan đến hoạt động đầu tư của doanh

nghiệp, các tài liệu quảng bá, xúc tiến đầu tư của tỉnh.

- Được hỗ trợ các khoản lệ phí về các thủ tục hành chính cho việc

chuẩn bị đầu tư thuộc thẩm quyền của tỉnh.

- Được miễn phí khi tham gia các hội nghị và các hoạt động xúc tiến

đầu tư trên địa bàn tỉnh.

- Khi tham gia các chương trình xúc tiến đầu tư bên ngoài theo chương

trình của tỉnh thì được miễn đóng góp các chi phí chung cho đoàn.

Thứ tự ưu tiên đầu tư như sau:

51

+ Đầu tư kinh doanh hạ tầng, khu công nghiệ p, cụm công nghiệp

+ Lĩnh vực công nghệ cao

+ Dịch vụ , du lị ch

+ Lĩnh vực cồng nghiệp phụ trợ

+ Đầu tư sản xuất, lắ p rá p điệ n, điệ n tử , hóa chất, dượ c phẩ m

+ Công nghiệ p ôtô, xe má y, cơ khí chế tạ o

+ Đầu tư sản xuất các loại phần mềm

+ Đầu tư kinh doanh bất động sản

+ Khai thá c và chế biế n sau khoá ng sả n

Từ năm 2012, các doanh nghiệp khi đầu tư vào địa bàn được quyền lựa

chọn địa điểm, diện tích đất để thực hiện dự án phù hợp với quy mô dự án và

quy hoạch đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt; được quyền lựa chọn hình

thức xin giao đất có thu tiền sử dụng đất hoặc thuê đất theo quy định hiện

hành. Đối với dự án đầu tư kinh doanh hạ tầng các KCN, CCN thì được hỗ trợ

10% số tiền thuê đất phải nộp theo giá đất được UBND tỉnh phê duyệt sau khi

trừ đi các ưu đãi đầu tư theo quy định của pháp luật hiện hành. Bên cạnh đó,

các nhà đầu tư còn được hỗ trợ về đầu tư hạ tầng và chi phí san lấp mặt bằng;

trong đó tỉnh sẽ bồi thường, giải phóng mặt bằng đối với các dự án tỉnh

khuyến khích, thu hút đầu tư sản xuất kinh doanh trên địa bàn tỉnh. Chủ dự án

ứng trước tiền để bồi thường, giải phóng mặt bằng và được khấu trừ vào tiền

thuế đất hoặc tiền sử dụng đất phải nộp. Đồng thời tỉnh sẽ đầu tư đường giao

thông bên ngoài hàng rào các KCN; chỉ đạo các đơn vị cung cấp dịch vụ điện,

nước đến chân hàng rào khu, cụm công nghiệp...

Ngoài ra, các nhà đầu tư còn được cung cấp miễn phí các tài liệu thông

tin tuyên truyền về chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước,

cơ chế, hỗ trợ đầu tư của tỉnh và các chính sách ưu đãi có liên quan đến hoạt

động đầu tư của doanh nghiệp, các tài liệu quảng bá, xúc tiến đầu tư của tỉnh;

52

được hỗ trợ các khoản phí có liên quan cho việc chuẩn bị đầu tư thuộc thẩm

quyền của tỉnh; miễn phí khi tham gia các hội nghị và các hoạt động xúc tiến

đầu tư trên địa bàn tỉnh...

Đến năm 2010, Phú Thọ đã hình thành và quy hoạch 9 KCN, một khu

liên hợp dịch vụ và 20 CCN với tổng diện tích gần 5.000 ha, trong đó nhiều

KCN, CCN có quy mô lớn để đón các dự án đầu tư lớn như KCN Thụy Vân,

Trung Hà và các CCN Bạch Hạc (Việt Trì), Cổ Tiết (Tam Nông), Thanh Ba,

Lâm Thao. Phú Thọ còn dành quỹ đất dự trữ hơn 3.000 ha có thể quy hoạch

phát triển công nghiệp tập trung và xây dựng mới KCN Lâm Thao, nâng cấp

cụm công nghiệp Phú Hà (thị xã Phú Thọ) thành khu liên hợp công nghiệp -

dịch vụ - đô thị.

Hiện nay, tỉnh đã triển khai xây dựng 2 KCN tập trung là KCN Thụy

Vân và Trung Hà, tổng kinh phí xây dựng gần 500 tỷ đồng sẵn sàng đón các

nhà đầu tư. 5 KCN còn lại đang trong quá trình mời gọi thu hút đầu tư xây

dựng và kinh doanh cơ sở hạ tầng. Vừa đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ

thuật, vừa thu hút đầu tư, đến nay toàn tỉnh đã thu hút được 83 dự án đầu tư

vào các khu, cụm công nghiệp do Ban quản lý các KCN quản lý còn hiệu lực,

trong đó đã có 28 dự án đi vào hoạt động, các dự án còn lại đang trong quá

trình xây dựng cơ bản và chuẩn bị đầu tư.

2.1.2 Thực trạng hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Phú Thọ đến

năm 2010

2.1.2.1 Tình hình thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài

 Về số lượ ng dự á n

Trong nhữ ng năm đầ u khi mớ i ban hà nh Luậ t đầ u tư, tố c độ tăng đầ u tư

của cả nước nói chung cũng như ở Phú Thọ nói riêng còn khá chậm , giai đoạ n

1988 – 1990 có thể được coi là thăm dò , khở i độ ng , chúng ta còn chưa có

kinh nghiệ m, mặ t khá c nhà đầ u tư nướ c ngoà i cò n thậ n trọ ng không dá m mạ o

hiể m, họ còn nghiên cứu , làm thử để thăm dò cơ hội . Do vậ y, số dự á n (DA)

53

trong thờ i gian nà y chưa nhiề u, mứ c tăng trưở ng vố n đầ u tư cò n chậ m . Cụ thể

là năm 1988, cả nước mới chỉ có 37 dự á n vớ i số vố n đăng ký là 366 triệ u

USD, còn Phú Thọ chưa có dự án nào , đến năm 1992 tỉnh mới có dự án đầu

tiên. Xuấ t phá t từ quan điể m đổ i mớ i củ a Đả ng , ngay từ nhữ ng năm 1990 –

1991, tỉnh Phú Thọ đã xác định việc mở rộng quan hệ đố i ngoạ i, tạo điều kiện

thu hú t vố n đầ u tư nướ c ngoà i là nhu cầu mang tính chiến lược trong quá trình

hộ i nhậ p và o nề n kinh tế thị trườ ng , nhằ m gó p phầ n thú c đẩ y nề n kinh tế đị a

phương phá t triể n nhanh theo kị p đà p hát triển chung của cả nướ c. Tính đến

ngày 20/09/2010, tỉnh Phú Thọ đã cấp giấy phép đầu tư cho 113 dự á n vớ i

tổ ng vố n đăng ký 619,5 triệ u USD , trong đó có 83 dự á n FDI v ới tổng vốn

đăng ký là 440,5 triệ u USD , 30 dự á n đ ã thu hồi giấy phép và giấy chứng

nhậ n đầ u tư vớ i tổ ng vố n 179,0 triệ u USD . Số dự á n thu hú t đượ c qua cá c

năm ngà y cà ng tăng lên , bảng 2.1 đã phả n các dự án đầu tư trực tiếp nước

ngoài ở tỉnh (chỉ tính các dự án đi vào hoạ t độ ng chí nh thứ c): [28]

Bảng 2.2. Tình hình thu hút đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài ở Phú Thọ

Số dự á n Quy mô BQ 1 FDI đăng kí FDI thự c hiệ n STT Năm (Dự á n) DA (trUSD) (Triệ u USD) (Triệ u USD)

9,5 2,12 2001 1 1 9,5

37,0 20,86 2002 8 2 4,6

144,1 72,2 2003 23 3 6,3

37,6 30,04 2004 7 4 5,4

27,0 14,06 2005 9 5 3,0

28,6 7,45 2006 13 6 2,2

77,8 32,5 2007 16 7 4,9

53,3 25,3 2008 15 8 3,6

17,1 12,5 2009 6 9 2,9

19,5 12,9 2010 7 10 2,8

105

Tổ ng 4,3 229,93

54

451,5 Nguồ n: Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Phú Thọ 9/ 2010

Biể u 2.1: Số dự án FDI Phú Thọ giai đoạn 2001-2010

(Đơn vị: Dự án)

Trong giai đoạn 2001 - 2010, Phú Thọ thu hút trung bình 1 năm được

4,3 dự án FDI. Tuy nhiên số dự án phân bố không đều qua các năm. Năm

2001, tỉnh mới chỉ thu hút được duy nhất 1 dự án FDI. Thực chất dự án này là

tiếp tục giải ngân từ năm 1992. Đầu tư FDI bắt đầu khởi sắc vào năm 2002

khi trong năm này, tỉnh thu hút được 8 dự án. Số dự án đạt đỉnh điểm vào năm

2003 khi toàn tỉnh thu hút được tới 23 dự án FDI lớn nhỏ. Sang năm 2004, số

dự án tuy không bằng 2003 nhưng cũng đạt 7 dự án và con số này tới năm

2005 là 9 dự án. Trong 2 năm 2006 và 2007, có sự gia tăng số lượng dự án là

13 và 16 dự á n. Năm 2009 – 2010 số lượ ng dự á n bắ t đầ u í t đi do khó khăn

chung củ a nề n kinh tế . Như vậy, sự tăng trưởng trong thu hút số lượng dự án

là rất thất thường, tuy nhiên vẫn có dấu hiệu bình ổn trở lại theo hướng tích

cực từ sau năm 2003. Đến năm 2007 tỉnh đã thu hút được 16 dự án; năm 2010

thu hút được 7 dự án. Tuy số dự án giảm nhưng trong điều kiện khó khăn

chung của nền kinh tế cả nước, đạt được mức như vậy cũng tương quan với

các tỉnh. Điều đáng nói là các dự án chủ yếu là các doanh nghiệp đến từ Hàn

55

Quốc, Trung Quốc và tập trung vào các lĩnh vực sản xuất bao bì, dệt, may

mặc. Trong khi đó mục tiêu của chúng ta là thu hút các dự án sản xuất công

nghệ cao để nhằm mục đích phát triển mạnh nền công nghiệp công nghệ cao.

Tuy nhiên hơn 10 năm qua, sự nóng vội thu hút nguồn vốn, đã khiến

các cơ quan chức năng chưa thực sự chú trọng thẩm tra dự án, năng lực tài

chính của nhà đầu tư. Vì vậy FDI mới chỉ dừng lại ở yêu cầu cung cấp nhân

công cho hoạt động gia công giá rẻ và cho thuê mặt bằng là chính; vẫn còn 1

số dự án triển khai chậm, đất đai bị “găm” trong các dự án ảo, phần lợi nhuận

mang lại cho địa phương không tương xứng với giá trị nguồn tài nguyên bị

mất đi. Trong đó , tỉnh Phú Thọ cũng rút giấy phép của các dự án FDI hoạt

độ ng không hiệ u quả hoặ c chỉ đăng ký mà chưa triể n khai, cụ thể:

Năm 2001 - 2007: 16 dự á n rú t giấ y phé p vớ i số vố n 98,65 triệ u USD;

Năm 2008: 5 dự á n rú t giấ y phé p vớ i số vố n 53,5 triệ u USD

Năm 2010: 6 dự á n vớ i số vố n: 49 triệ u USD.

Nguyên nhân chủ yếu do chủ đầu tư gặp phải khó khăn về tài chính.

Khi xúc tiến đầu tư và xin cấp giấy phép đầu tư, các chủ đầu tư đều chứng

minh năng lực tài chính của doanh nghiệp rất đảm bảo, nhưng vì nhiều lý do

khách quan mà sau nhiều năm, các doanh nghiệp này vẫn chưa thể triển khai.

Một nguyên nhân nữa làm ảnh hưởng tới thời gian triển khai dự án đó là

nguồn lao động chất lượng cao thiếu khiến cho việc vận hành máy móc của

doanh nghiệp không được đảm bảo. Trước thực tế đó, Phú Thọ cần chủ động

có những giải pháp đồng bộ và hiệu quả thích ứng để “tháo” những nút thắt

gây nghẽn mạch và lệch hướng thu hút dòng vốn FDI.

 Số vốn đăng ký:

Năm 2001, tỉnh mới thu hút được 1 dự án FDI với lượng vốn khiêm tốn

chỉ là 9,5 triệ u USD. Hai năm tiếp theo là năm 2002 và năm 2003, lượng vốn

FDI tăng mạnh: 37,0 triệ u USD trong năm 2002 và 144,1 triệ u USD trong

năm 2003. Năm 2003 là năm đỉnh điểm trong thu hút FDI khi lượng vốn đạt

mức kỷ lục là 144,1 triệ u USD bằng 31,9% lượng FDI trong cả giai đoạn

56

2001-2010 và chiếm tới 63,93% tổng vốn đầu tư phát triển toàn tỉnh năm đó.

Trong 2 năm tiếp theo: 2004 - 2005, vốn FDI thoái trào khi lượng vốn năm

sau thu hút nhỏ hơn năm trước. Bước sang 2006 - 2008, đã có dấu hiệu phục

hồi trong thu hút FDI khi lượng vốn FDI năm 2007 đạ t 77,8 triệ u USD, chiế m

17,2% lượ ng FDI cả giai đoạ n . Điều này cũng phù hợp với xu hướng chung

của cả nước khi trong năm 2007, lượng FDI cam kết của cả nước đạt mức kỷ

lục là 20,3 tỷ USD.

Như vậy, trong khi lượng vốn đầu tư phát triển toàn tỉnh tăng lên tương

đối đều đặn qua các năm thì lượng vốn FDI (đăng ký) lại diễn biến rất bất

thường. Điều này gây khó khăn cho công tác dự báo FDI của tỉnh trong những

năm tới, khó khăn cho hoạch định chủ trương, chính sách và biện pháp thu

 Quy mô bình quân 1 dự án:

hút, quản lý nguồn vốn FDI cho hiệu quả.

Biể u 2.2. Quy mô bình quân 1 dự án FDI Phú Thọ giai đoạn 2001-2010

Trong hai năm 2001 và 2002, quy mô 1 dự án FDI cao hơn mức bình

(Đơn vị: Triệu USD)

quân giai đoạn 2001 – 2010 là 4,3 triệu USD. Năm 2003 có nhiều dự án nhất

và cũng có quy mô bình quân 1 dự án lớn nhất là 6,3 triệu USD. Vậy năm

2003 là đỉnh điểm trong thu hút FDI cả về số lượng và quy mô của dự án. Dự

án lớn nhất năm là dự án sản xuất vải của công ty TNHH KAPS-TexVina của

Hàn Quốc sản xuấ t vả i PP và PE với số vốn đăng ký là 22,8 triệu USD. Trong

3 năm tiếp theo, quy mô bình quân 1 dự án giảm dần, đến năm 2006 đạt mức

57

thấp nhất là 2,2 triệu USD. Năm 2006 là năm thu hút được 13 dự án FDI, tuy

nhiên đây toàn là các dự án có số vốn đăng ký rất nhỏ (có 5 dự án dưới 1 triệu

USD). Năm 2007, quy mô dự án khởi sắc trở lại khi đạt mức bình quân 1 dự

án là 4,9 triệu USD, lớ n hơn mứ c chung của cả giai đoạn. Trong năm này, các

dự án mới thu hút được chủ yếu có số vốn đăng ký là 1,5 – 3,5 triệu USD; dự

án lớn nhất là của công ty TNHH Sihni Star Vina sản xuất vải, bạt PP, PVC

với số vốn 3,9 USD. Đến năm 2008, thu hút được doanh nghiệp Sewoon

Globa (Hàn Quốc) chuyên sản xuất bảng mạch điện với số vốn 12,5 triệu

USD. Tuy nhiên khi đem so với mức bình quân 1 dự án khoảng 10 triệu USD

của cả nước thì chúng ta thấy tỉnh Phú Thọ chưa phải là địa phương thu hút

được các dự án lớn. Mặt khác, khi so sánh với sự tăng giảm của lượng vốn

FDI đăng ký, chúng ta thấy có sự tương đồng rõ nét giữa lượng vốn đăng ký

 Cơ cấ u theo hì nh thứ c đầ u tư củ a cá c dự á n FDI

và quy mô bình quân 1 dự án là không cao.

Bảng 2.3: Cơ cấu FDI Phú Thọ theo hình thức đầu tƣ giai đoạn 2001 - 2010

STT Năm Số dự án liên doanh

2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10

0 0 1 3 4 6 6 7 2 3 32 30,5 Tổng số Cơ cấu(%) Vốn DA liên doanh (triệ u USD) 0 0 5,0 12,2 6,9 8,9 30,2 23,2 13,1 10,8 110,3 24,4 Vốn DA 100% vốn nƣớc ngoài (triệ u USD) 9,5 37,0 139,1 25,4 20,1 19,7 47,6 30,1 4,0 8,7 341,2 75,6

58

Số dự án 100% vốn nƣớc ngoài 1 8 22 4 5 7 10 8 4 4 73 69,5 Nguồn: Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Phú Thọ 9/2010

Qua bảng 2.2, chúng ta thấy trong giai đoạn 2001 - 2010, dự án FDI

vào tỉnh Phú Thọ chỉ có 2 dạng là dự án liên doanh hoặc là dự án 100%

vốn nước ngoài. Các hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh như BOT,

BTO, BT... chưa xuất hiện. Đây cũng là thực trạng chung của một số tỉnh

thành trong cả nước. Xét về số lượng dự án thì dự án liên doanh có 32 dự

án, chiếm 30,5% và dự án 100% vốn nước ngoài có 73 dự án, chiếm

69,5%. Xét về quy mô vốn thì quy mô của hình thức đầu tư 100% vố n nướ c

ngoài lớn hơn (341,2 triệu USD so với 110,3 triệu USD). Điều đó chứng tỏ

các nhà đầu tư nước ngoài ưa thích hình thức 100% vốn nước ngoài hơn,

tuy nhiên các dự án liên doanh đều là các dự án có quy mô vốn lớn hơn.

Đặc biệt trong năm 2003 là năm đỉnh điểm về thu hút FDI thì số dự án có

100% vốn nước ngoài vượt trội hơn hẳn cả về số dự án cũng như là quy mô

dự án. Cũng như vậy, trong năm 2007, trong khi có 10 dự án 100% vốn

nước ngoài (tổng vốn 47,6 triệu USD) thì có 6 dự án liên doanh (tổng vốn

30,2 triệu USD). Tuy nhiên sang đến năm 2009 - 2010 thì tình hình lại

ngược lại: Vốn dự án liên doanh gấp 2 - 3 lần vốn dự án 100% vốn nước

ngoài. Xét về tổng thể thì cơ cấu 2 hình thức đầu tư này ngang nhau, nhưng

xét về cụ thể từng năm riêng lẻ thì lại có sự khác biệt rất lớn.

 Cơ cấ u theo đối tác

Bảng 2.4: Cơ cấu FDI Phú Thọ theo đối tác tí nh đế n năm 2010

Số dự Tỷ trọng Vốn đăng ký Tỷ trọng Quy mô 1 DA STT Đối tác án (%) (triệ u USD) (%) (trUSD)

Hàn Quốc 1 89 78,7 527,4 85,13 5,93

Đài Loan 2 8 7,1 13,2 2,13 1,65

Nhật Bản 3 6 5,3 14,4 2,32 2,4

4 Trung Quốc 4 3,5 12,3 2,0 3,1

59

5 Inđônêxia 1 0,9 5,0 0,81 5,0

6 Irắ c 1 0,9 15,1 2,44 15,1

7 Bỉ 1 0,9 20,0 3,22 20,0

8 Singapo 1 0,9 10,0 1,61 10,0

9 Pháp 1 0,9 0,1 0,02 0,1

10 Đức 1 0,9 2,0 0,32 2,0

Nguồn: Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Phú Thọ 9/2010

Tổ ng 113 100 619,5 100 5,5

Giai đoạn 2001 - 2010, Phú Thọ có 10 đối tác đầu tư nước ngoài. Hàn

Quốc là đối tác lớn nhất của Phú Thọ với tỷ trọng cả về số dự án lẫn lượng

vốn đăng ký đều vượt trội. Hàn Quốc có tổng cộng 89 dự án, chiếm 78,7% và

số vốn lên tới 527,4 triệu USD, gấp hơn 10 lần vốn đăng ký của các đối tác

còn lại. Hàn Quốc cũng có quy mô bình quân 1 dự án lớn nhất là 5,93 triệu

USD/dự án, và là chủ nhân của dự án FDI lớn nhất: Dự án công ty trách

nhiệm hữu hạn (TNHH) Pangrim Neotec chuyên sả n xuấ t sợ i, in vả i , dệ t,

nhuộ m đầ u tư từ năm 1992 đến nay với sốn vốn đăng ký là 79,1 triệ u USD.

Cả 6 đối tác đầu tư nước ngoài của Phú Thọ đều là các quốc gia đến từ

Đông Á, và là các đối tác đầu tư quen thuộc của Việt Nam. Hàn Quốc cũng

hiện là đối tác hàng đầu của Việt Nam, đứng đầu danh sách 4 quốc gia đầu tư

nhiều nhất vào Việt Nam là Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan và Nhật Bản.

Tuy nhiên, trong khi Singapore đứng thứ 2 về đầu tư vào Việt Nam thì hiện

nay mớ i chỉ có 1 dự án đầu tư tại Phú Thọ vớ i vố n đăng ký là 10,0 triệ u USD

kinh doanh điệ n thoạ i di độ ng, máy vi tính. Xếp thứ 2 là Đài Loan có 8 dự án,

tương đương với 7,1% với tổng số vốn đầu tư là 13,2 triệu USD. Xếp thứ 3 là

Nhật Bản với 6 dự án, Trung Quốc chỉ có 4 dự án. Tuy nhiên, nếu xét về quy

mô bình quân của 1 dự án thì Trung Quốc có quy mô bình quân 2,4 triệu

USD/dự án, lại xếp trên Nhật Bản và Đài Loan với quy mô 2,4 triệu USD/dự

 Cơ cấ u theo địa bàn đầu tư

60

án và 1,65 USD/dự án.

Bảng 2.5: Cơ cấu FDI Phú Thọ theo địa bàn

(Doanh nghiệ p cò n hiệ u lự c tí nh đế n thờ i điể m 31/9/2010)

STT

Địa bàn

Số dự

Tỷ trọng

Vốn đăng ký

Tỷ trọng

Quy mô 1 DA

(triệ u USD)

(triệ u USD)

án

(%)

(%)

1

TP. Việt Trì

52

62,6

289,4

65,7

5,57

2

H. Phù Ninh

13

15,7

73,1

16,6

5,62

3

Huyện khác

18

21,7

78,0

17,7

4,33

Tổ ng

83

440,5

5,31

Nguồn: Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Phú Thọ 9/2010

Qua bảng 2.4, ta thấy cơ cấu FDI Phú Thọ theo địa bàn là khá mất cân

đối. Thành phố Việt Trì chiếm đa số dự án cũng như là số vốn đăng ký: Có 52

dự án, chiếm hơn một nửa tổng số dự án và vốn đăng ký là 289,4 triệu USD,

cũng chiếm hơn một nửa. Kế theo đó là Huyện Phù Ninh (chủ yếu là khu

công nghiệ p Đồ ng Lạ ng ) với 13 dự án, chiếm 15,7%. Tuy nhiên quy mô bình

quân 1 dự án là 5,62 triệu USD/DA, lớn hơn quy mô bình quân tại Việt Trì là

5,57 triệu USD/DA. Các huyện khác, bao gồm Thanh Ba, Lâm Thao, Thị xã

Phú Thọ, Đoan Hù ng, Cẩ m Khê… chỉ có 18 dự án. Trong đó huyệ n Yên Lập,

Tam Nông và Hạ Hòa thậm chí còn không có dự án nào.

Bảng 2.6: Phân loạ i dƣ̣ á n cò n hiệ u lƣ̣ c tí nh đế n thờ i điể m thá ng 9/2010

Số dự á n Vố n đăng ký Vố n thự c hiệ n lũ y kế

(Triệ u USD) (triệ u USD)

KCN Ngoài KCN KCN Ngoài KCN KCN Ngoài KCN

Nguồn: Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Phú Thọ 9/2010

28 55 106,1 334,41 104,2 268,52

Giai đoạn 2001 - 2010, Phú Thọ có 28 dự án vào các KCN, CCN trong

tổng số 83 dự án, chiếm 33,7%. Xét theo quy mô vốn, các dự án vào KCN,

61

CCN có số vốn là 101,6 triệu USD, chỉ chiếm 24,1%, số dự á n và số n vố n

ngoài KCN gấp 2 lần quy mô vốn các dự án trong KCN, CCN. Trướ c đây, các

dự á n đầ u tư và o cá c KCN , CCN chiế m tỉ trọ ng lớ n hơn, nhưng do chí nh sá ch

ưu đã i củ a tỉ nh điều chỉnh nên tỷ trọ ng có sự thay đổ i . Các dự án này vẫn

đang tiếp tục giải ngân và hoạt động hiệu quả, đóng góp không nhỏ vào GDP

của tỉnh, chủ yếu vào các lĩnh vực cơ khí, dệt may, chế biến nông - lâm sản,

sản xuất vật liệu xây dựng, chế biến khoáng sản, hàng may mặc, điện tử, hóa

chất, bao bì PP, PE…Nhìn chung, tình hình sản xuất kinh doanh của các

doanh nghiệp trong và ngoài KCN tương đối ổn định. Sự có mặt của các

doanh nghiệp này đã góp phần tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu của tỉnh, giải

quyết việc làm cho hàng nghìn lao động, đồng thời đóng góp một phần đáng

kể vào ngân sách nhà nước. Hiện nay, công tác thu hút đầu tư có bước điều

chỉnh mới, tỉnh khuyến khích các dự án đầu tư xây dựng vào cơ sở hạ tầng

KCN, khu đô thị dịch vụ liền kề, khu nhà ở công nhân và các công trình dịch

vụ công cộng; khuyến khích các dự án sản xuất kinh doanh thuộc lĩnh vực dự

án đặc biệt khuyến khích đầu tư theo quy định của Chính phủ; các dự án có

quy mô lớn, công nghệ cao, ít ô nhiễm môi trường và có khả năng thu nộp

ngân sách cho địa phương.

 Cơ cấ u FDI theo ngành, lĩnh vực

Bảng 2.7: Cơ cấu FDI Phú Thọ theo ngành giai đoạn 2001 - 2010

Số dự án Vốn Vốn Số dự án Vốn Số dự án STT Năm công đăng ký đăng ký nông lâm đăng ký dịch vụ nghiệp (trUSD) (trUSD) nghiệp (trUSD)

1 2001 1 9,5 0 0 0 0

2 2002 4 9,4 27,6 0 0 4

3 2003 15 99,3 29,7 4 15,1 4

4 2004 6 27,6 10,0 0 0 1

62

5 2005 9 27,0 0 0 0 0

6 2006 9 22,4 1 5,0 3 1,2

7 2007 12 29,5 2 46,1 2 2,2

8 2008 11 26,3 1 15,0 3 12,0

9 2009 6 17,1 0 0 0 0

10 2010 5 12,2 2 7,3 0 0

Tổng cộng 78 280,3 15 140,7 12 30,5

Nguồn: Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Phú Thọ 9/2010

Tỷ trọng (%) 74,3 62,3 14,3 31,2 11,4 6,5

Qua bảng 2.7, chúng ta thấy tại Phú Thọ giai đoạn 2001 - 2010, số dự

án trong ngành công nghiệp vượt trội cả về số dự án và quy mô. Ngành công

nghiệp có 78 dự án, chiếm 74,3% với số vốn đăng ký là 280,3 triệu USD,

chiếm 62,3%. Các dự án công nghiệp có mặt tại tất cả các năm. Đa số các dự

án công nghiệp tập trung vào lĩnh vực dệt và may mặc xuất khẩu. Đây là điều

hợp lý vì Phú Thọ có tài nguyên phong phú, lao động rẻ lại có sẵn các cơ sở

công nghiệp từ những năm 60 - 80. Các dự án công nghiệp tăng đột biến về

quy mô năm 2003, góp phần tạo sự đột phá trong FDI của năm. Ngành dịch

vụ và nông, lâm nghiệp có số dự án bằng nhau tương ứ ng là 15 và 12 dự á n.

Tuy nhiên ngành dịch vụ thu hút được 140,7 triệu USD vốn đăng ký, gấp 4,5

lần vốn vào ngành nông nghiệp. Ngành nông nghiệp mới bắt đầu có dự án

trong vài năm trở lại. Tuy nhiên quy mô các dự án nông nghiệp còn rất khiêm

tốn vớ i mức bình quân 2,54 triệu USD/1 dự án.

2.1.2.2 Tình hình thực hiện của các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp

nước ngoài

 Tình hình thực hiện vốn đầu tư

Theo ông Hoàng Công Thủy – Giám đốc sở KHĐT thì số lượng doanh

nghiệp và số vốn đăng ký không nói lên được bản chất của vấn đề thu hút đầu

63

tư, mà điều quan trọng nhất là hoạt động của doanh nghiệp có thực sự tạo ra

giá trị thiết thực đối với đời sống kinh tế xã hội của địa phương hay không

[6]. Ta có biểu sau:

(Đơn vị: Triệu USD)

Nguồn: Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Phú Thọ

Biểu 2.3: FDI thực hiện tại Phú Thọ giai đoạn 2001 – 2010

Trong giai đoạn 2001 - 2010, lượng vốn FDI thực hiện của Phú Thọ đạt

229,93 triệu USD, tương đương với 50,92% so với tổng lượng vốn đăng ký.

Qua biểu 2.4, chúng ta thấy giữa lượng vốn FDI đăng ký và FDI thực

hiện của Phú Thọ có sự tương đồng chặt chẽ với nhau qua các năm. Năm

2001 chỉ thu hút được 1 dự án FDI và lượng vốn FDI thực hiện cũng đạt thấp

nhất trong giai đoạn là 2,12 tỷ USD, tương đương 22,3%. Năm 2004 là năm

đỉnh điểm trong thực hiện FDI khi lượng FDI thực hiện là 30,04 triệu USD, tỷ

lệ thực hiện lên tới 79,9%.

 Tình hình sử dụng lao động

Số lao độ ng ngườ i Việ t đang là m việ c trong cá c doanh nghiệ p có vố n

đầ u tư trự c tiế p nư ớc ngoài đang hoạt độn g đế n thờ i điể m thá ng 12/2010 là

28.576 ngườ i, lao độ ng ngườ i nướ c ngoà i là 204 ngườ i. Lao độ ng đã qua đà o

tạo ở trường lớp và ở tại doanh nghiệp đạt 93%. Lao độ ng trự c tiế p sả n xuấ t

64

có 26.455 ngườ i, chiế m 92,6%; Lao độ ng quả n lý có 820 ngườ i, chiế m 2,8%;

Lao độ ng dị ch vụ có 1301 ngườ i, chiế m 4,6% so vớ i tổ ng số lao độ ng (Xem

bảng 2.8). Lao độ ng ở Phú Thọ có chi phí nhân công rẻ , bằ ng 65% so vớ i Hà

Nộ i, 40% so vớ i thành phố Hồ Chí Minh, lương bì nh quân 60 – 80

USD/ngườ i/tháng. [7]

Bảng 2.8: Tình hình sử dụng lao động tại doanh nghiệp FDI Phú Thọ

(2001 - 2010)

STT Chỉ tiêu Số lượng (người) Tỷ lệ (%)

1 Tổng số lao động 28.576 100,0

2 Lao động đã qua đào tạo 26.576 93,0

3 Lao động trực tiếp 26455 92,6

4 Lao động quản lý 820 2,8

Nguồn: Báo cáo tổng kết, đánh giá 20 năm hoạt động ĐTNN tại Phú Thọ -

Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Phú Thọ năm 2009

5 Lao động dịch vụ 1301 4,6

Như vậy tỷ lệ lao động đã qua đào tạo (tại trường lớp và tại doanh

nghiệp) của doanh nghiệp FDI là khá cao. Lao động trực tiếp chiếm đa số

(92,6%) là do các doanh nghiệp FDI chủ yếu đầu tư sản xuất vào lĩnh vực

công nghiệp nhẹ (may mặc, giày da), công nghiệp chế biến, gia công cần rất

nhiều lao động trực tiếp.

Tại các doanh nghiệp FDI , mứ c thu nhậ p bì nh quân từ 60 – 80

USD/ngườ i/ tháng. Nhìn chung thu nhập bình quân tháng của công nhân khu

vự c có vố n đầ u tư nướ c ngoà i cao hơn thu nhậ p củ a công nhân trong cá c

doanh nghiệ p củ a tỉ nh , điề u kiệ n đả m bả o lao độ ng tố t hơn nhưng cườ ng độ

và thời gian lao độ ng cao hơn.

Tuy nhiên vấ n đề giá o dụ c đị nh hướ ng cho ngườ i lao độ ng cò n hạ n chế ,

vai trò củ a cá c tổ chứ c công đoà n trong cá c doanh nghiệ p FDI còn yế u . Ý

65

thứ c và nhậ n thứ c củ a ngườ i lao độ ng trong doanh nghiệp FDI không đượ c

đầ y đủ , cộ ng vớ i khó khăn trong sả n xuấ t kinh doanh củ a doanh nghiệ p và vi

phạm của chủ doanh nghiệ p đã gây ra một số tình trạng bỏ việc và đình công

(như ở công ty TNHH Pangrim).

 Công nghệ và quản lý

Công nghệ: Khoảng 70% các dự án đầu tư hiện tại thuộc lĩnh vực công

nghiệ p nhẹ , tập trung chủ yếu là ngành may mặ c , dệ t nhuộ m , giầ y da , sản

xuấ t hạ t nhự a và sả n phẩ m từ nhự a , chế biế n nông sản thực phẩm , số cò n lạ i

là các dự án về lĩnh vực hoá chất phụ tùng ngành dệt may , bao bì container ,

đá lá t nề n , chế biế n giấ y. Chỉ có 01 dự á n sản xuất máy vi tính và vô tuyến

điệ n tử . Xét về mặt tổng thể, trình độ công nghệ hiệ n tạ i củ a cá c doanh nghiệ p

FDI so vớ i cá c doanh nghiệ p trong tỉ nh có khá hơn , nhưng so vớ i cả nướ c chỉ

ở mức trung bình.

Trình độ quản lý : Các doanh nghiệp FDI có trình độ quản lý khá hơn

các doanh nghiệ p trong tỉ nh . Hệ thố ng quả n lý đượ c tổ chứ c khoa họ c và bà i

bản, gọn nhẹ , cụ thể , chi tiế t , có quy trình , quy phạ m rõ rà ng ở tấ t cả cá c

khâu. Các vị trí công tác được tiêu chuẩn hoá đúng người , đú ng việ c. Tổ chứ c

văn phòng tinh giảm , tổ chứ c lao độ ng hợ p lý , tổ chứ c sả n xuấ t khoa họ c và

hiệ u suấ t cao hơn.

 Tiêu thụ sản phẩm

Khoảng 80 - 85% sản phẩm của các doanh nghiệp FDI là xuất khẩu .

Trong khi năm 2003 kim nghạ ch xuấ t khẩ u củ a cá c doanh nghiệ p FDI chỉ

chiế m 56,7% tổ ng kim ngạ ch xuấ t khẩ u củ a tỉ nh thì đế n 2009 đã là 70,4% giá

trị kim ngạch xuất khẩu . Các nhóm hàng dệt may , nhự a, da giầ y , chè tỷ lệ

xuấ t khẩ u khoả ng 80 - 90%; nhóm sản phẩm gỗ nội thất, thự c phẩ m, chiếm 30

- 40%. Nhóm sản phẩm hoá chất dệt , phụ tùng dệt may chủ yếu phục vụ các

66

doanh nghiệ p dệ t trong tỉ nh.

Thị trường tiêu thụ tập trung ở 3 thị trường chính , xuấ t khẩ u về chí nh

quố c khoả ng 60% đố i vớ i phầ n lớ n sả n phẩ m củ a cá c doanh nghiệ p Hà n quố c

và Nhật bản , xuấ t khẩ u và o thị trườ ng EU và Mỹ khoả ng 30% và tiêu thụ tại

Việ t nam 10%.

 Sản xuất kinh doanh

Bảng 2.9: Tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp FDI tại Phú Thọ

STT Chỉ tiêu Đơn vị Giai đoạn 2001-2009

1 Tổng giá trị sản xuất Ngàn USD 255,6

2 Tỷ trọng giá trị sản xuất % 25,5

3 Giá trị xuất khẩu Ngàn USD 199,6

4 Nộ p ngân sách Triệ u đồ ng 76,428

5 Tỷ trọng kim ngạch XNK % 78,1

6 Tốc độ tăng giá trị sản xuất %/ năm 16

Nguồn: Báo cáo tổng kết, đánh giá 20 năm hoạt động ĐTNN tại Phú Thọ -

Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Phú Thọ năm 2009

7 Tốc độ tăng kim ngạch XNK %/ năm 16,8

Giai đoạn 2001-2010, các doanh nghiệp FDI tạo ra tổng giá trị sản xuất là

255,6 ngàn USD, chiếm 25,5% tổng giá trị sản xuất của cả tỉnh. Riêng trong năm

2009, giá trị sản xuất công nghiệp của các doanh nghiệp FDI đạ t 3718,96 tỷ đồng,

tăng 10,92%, giá trị xuất khẩu đạt 199,6 ngàn USD, nộ p ngân sá ch 76,428 triệ u

đồ ng tăng 22,3% so vớ i năm 2007. Sở dĩ các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước

ngoài có tỷ trọng giá trị sản xuất lớn nhưng đóng góp vào ngân sách lại tương đối

hạn chế là bởi vì tỉnh đã áp dụng các chính sách ưu đãi đầu tư trực tiếp nước ngoài

trong đó có các điều kiện miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp khá ưu đãi.

Các doanh nghiệp FDI chiếm tới 78,1% giá trị kim ngạch xuất nhập khẩu

của toàn tỉnh, nguyên nhân là đa số các doanh nghiệp này sản xuất sản phẩm tại

67

tỉnh rồi xuất khẩu sản phẩm sang nước thứ ba, thường là chính quốc. Giá trị kim

ngạch xuất nhập khẩu riêng năm 2009 đạ t 199,6 ngàn USD, tố c độ tăng trưởng

bình quân năm trên 16%.

Tuy gặ p không í t khó khăn trong quá trình sả n xuấ t kinh doanh nhưng

hầ u hế t cá c doanh nghiệ p FDI đã tự vươn lên sản xuất ổn định và tăng trưởng.

Đến hết năm 2009 trên địa bàn tỉnh đã có 33 doanh nghiệ p sản xuất kinh

doanh có lã i , bằ ng 70,2% tổ ng số doanh nghiệ p , 12 doanh nghiệ p không lã i

nhưng không lỗ (25,5%), 1 doanh nghiệ p lỗ (2,07%), 1 doanh nghiệ p phá sả n.

Trừ số doanh nghiệ p đượ c cấ p phé p đầ u tư năm 2009 và các doanh

nghiệ p phả i thu hồ i giấ y phé p đầ u tư do không có khả năng thự c hiệ n DA, các

doanh nghiệ p cò n lạ i cơ bả n đã hoà n thà nh đầ u tư xây dự ng cơ bả n , sản xuấ t

tương đố i ổ n đị nh , có thị trường tiêu thụ sản phẩm . Do vậy, xu hướ ng tăng

vố n mở rộ ng sả n xuấ t đã đượ c cá c doanh nghiệ p lự a chọ n , xây dự ng kế hoạ ch

năm 2010 đều tăng từ 12% - 29% ở các chỉ tiêu sản xuất , tiêu thụ , xuất khẩu

và nộp ngân sách.

2.2 Thực trạng quản lý nhà nƣớc đối với doanh nghiệp có vốn đầu tƣ

trực tiếp nƣớc ngoài ở tỉnh Phú Thọ

2.2.1 Xây dựng chiến lược, kế hoạch quản lý

Trên cơ sở Nghị quyết 33 của Bộ Chính trị và căn cứ Quyết định số

99/2008/QĐ-TTg ngày 14 tháng 7 năm 2008 của Thủ tướng Chính phủ về phê

duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Phú Thọ đến năm

2020; Nghị quyết 39/2011/NQ-HĐND về quy hoạ ch phá t triể n công nghiệ p

tỉnh Phú Thọ giai đoạn 2011 – 2020, đị nh hướ ng đế n năm 2030. Phú Thọ đã

tập trung xây dựng chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và quy hoạch tổng

thể đến năm 2020 trở thà nh trung tâm kinh tế vù ng ; là một trong những trung

tâm khoa họ c , công nghệ , giáo dục đào tạo , y tế , văn hó a , du lị ch củ a vù ng

68

trung du và miề n nú i Bắ c Bộ .

Hàng năm , Sở KH&ĐT Phú Thọ tổ chức các hoạt động xúc tiến đầu

tư như:

- Tổ chức Hội nghị Xúc tiến Đầu tư thương mại tại Hà Nội và các

tỉnh khác.

- Quảng bá về tiềm năng đầu tư của tỉnh Phú Thọ tại Hội chợ Thương

mại và Du lịch Việt Bắc.

- Hội thảo xúc tiến hợp tác đầu tư ở khu vực và các đối tác chiến lược

như Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc…

Đị nh hướ ng trong năm 2012, tiế p tụ c triể n khai cá c chương trì nh cung

cấ p thông tin , tham gia hộ i chợ , khảo sá t thị trườ ng , tổ chứ c hộ i thả o , hộ i

nghị, tậ p huấ n, diễ n đà n. Tiếp tục phát hành Bả n tin Xú c tiế n Đầ u tư , Thương

mại và Du lịch Phú Thọ đến các cơ quan , doanh nghiệp trong tỉnh. Nâng cao

chất lượng thông tin để đáp ứng đúng nhu cầu của doanh nghiệp. Thường

xuyên cập nhật thông tin thị trường cung cấp cho doanh nghiệp và giới thiệu

quảng bá sản phẩm của các doanh nghiệp. Giới thiệu đối tác cho các doanh

nghiệp trong tỉnh, giúp các doanh nghiệp tiếp cận với khách hàng mới. Hỗ trợ

các doanh nghiệp trong tỉnh quảng bá thông tin , sản phẩm đặc trưng của tỉnh

trên các ấn phẩm , trang web của các tổ chức xú c tiế n thương mạ i trong và

ngoài nước . Thông tin đến các doanh nghiệp về các Hội chợ trong chương

trình xúc tiến trọng điểm quốc gia, các hội chợ tổ chức tại các tỉnh, thành phố,

các vùng kinh tế trọng điểm. Giới thiệu các doanh nghiệp tham gia các đoàn

khảo sát thị trường trong chương trình xúc tiến thương mại quốc gia hoặc do

các tổ chức xúc tiến thương mại trong nước tổ chức; Tuyên truyền, quảng bá

hình ảnh môi trường đầu tư Phú Thọ trên các phương tiện thông tin đại chúng ,

trên các website . Gắn xúc tiến thương mạ i , du lịch và xúc tiến đầ u tư thông

69

qua kết hợp các kỳ hội nghị thường niên và đột xuất.

Bên cạnh đó, tỉnh Phú Thọ xây dự ng và ban hà nh danh mụ c dự á n thu hú t

FDI: Đây là hoạt động rất quan trọng của cơ quan quản lý nhà nước để định

hướng hoạt động FDI phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội. Căn cứ vào

quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội, tỉnh Phú Thọ đã phối hợp với các sở,

ban ngành liên quan lập và công bố danh mục dự án thu hút FDI trên địa bàn;

Phú Thọ ưu tiên các dự án FDI đầu tư kinh doanh hạ tầng, KCN, CCN, lĩnh

vực công nghệ cao, đầu tư sản xuất, lắp ráp điện, điện tử, hoá chất, dược

phẩm ít gây ô nhiễm phù hợp với quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã

hội của tỉ nh . Thời gian qua, công tác này đã có bước tiến đáng kể trong định

hướng thu hút FDI, làm cơ sở để tổ chức triển khai các hoạt động tuyên

truyền, quảng bá, xúc tiến FDI vào Phú Thọ. Việc xây dựng và ban hành danh

mục dự án thu hút FDI của Phú Thọ đã góp phần chỉ rõ những tiềm năng và

cơ hội kinh doanh, tạo cơ sở thông tin quan trọng và giảm thiểu thời gian cho

việc ra quyết định, lựa chọn ngành đầu tư phù hợp, cũng như giảm thiểu rủi ro

cho các nhà đầu tư nước ngoài.

Do làm tốt công tác quảng bá và kêu gọi đầu tư nên đến cuối năm 2010,

Phú Thọ đã cấp giấy chứng nhận đầu tư cho 113 dự án FDI với tổng vốn đăng

ký 619,5 triệu USD. 55 dự án đã hoàn thành việc giải ngân vốn đầu tư với

tổng vốn là 303,3 triệu USD. Số dự án đang triển khai thực hiện giải ngân là

28 dự án với số vốn đăng ký 137,2 triệu USD. Theo đánh giá của UBND tỉnh

Phú Thọ, đây là những kết quả đáng ghi nhận do địa phương đã có sự nỗ lực

cải thiện môi trường đầu tư, tạo mọi điều kiện thuận lợi, vận dụng tối đa các

chính sách ưu đãi đầu tư, giải quyết nhanh chóng mọi thủ tục đầu tư, nhất là

việc giao đất, bồi thường giải phóng mặt bằng cho nhà đầu tư.

Công tác xúc tiến đầu tư đã được tỉnh quan tâm nhưng chưa được đầu

tư tương xứng nên còn nhiều hạn chế so với các tỉnh khác. Thực tế, các nhà

70

đầu tư nước ngoài khi đến Việt Nam vẫn còn hạn chế thông tin về một số tỉnh

trung du miền núi phía Bắc, trong đó có tỉnh Phú Thọ. Ngoài ra, việc xúc tiến

các dự án đầu tư triển khai chậm, nhất là trong việc xin chủ trương thực hiện dự

án và địa điểm cho dự án. Các hoạt động tuyên truyền quảng bá chưa tốt do sự

phối hợp giữa các cơ quan thiếu đồng bộ, chưa đáp ứng yêu cầu hội nhập và mở

rộng hơn nữa quan hệ quốc tế.

Là một trong những tỉnh sớm triển khai các khu, CCN, có các chủ

trương và cách làm phù hợp để khai thác các nguồn lực đầu tư vào các khu,

CCN phù hợp với quy hoạch chung của cả nước. Trong đó công tác xúc tiến

đầu tư được coi trọng, chính sách thu hút đầu tư thông thoáng, các dự án đầu

tư vào các khu, CCN đều thực hiện theo quy hoạch được duyệt đã thu hút

được lượng vốn đầu tư đáng kể từ các thành phần kinh tế trong và ngoài nước,

nâng cao hiệu quả sử dụng đất và góp phần thúc đẩy sản xuất công nghiệp,

các ngành dịch vụ của các địa phương trong tỉnh phát triển, nâng cao tốc độ

tăng trưởng kinh tế; đẩy mạnh xuất khẩu; đẩy nhanh tốc độ đô thị hóa; chuyển

dịch cơ cấu kinh tế và giải quyết việc làm, nâng cao tay nghề, nâng cao thu

nhập cho số lượng lớn lao động nông thôn, cận đô thị. Trong một số khu,

CCN đã có dự án đầu tư lớn như giấy, hóa chất, dệt may, chế biến chè, sản

xuất vật liệu xây dựng, nhiên liệu sinh học... là tiền đề kêu gọi các ngành công

nghiệp khác có liên quan. Tuy nhiên, do điều kiện kinh tế xã hội của tỉnh,

huyện còn nhiều khó khăn, dẫn đến vốn huy động đầu tư xây dựng hạ tầng

các khu, CCN trên địa bàn còn hạn chế, kết cấu hạ tầng không đồng bộ, chưa

đáp ứng được yêu cầu của các nhà đầu tư nên các CCN thực sự chưa hấp dẫn

các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Mặt khác cuộc khủng hoảng kinh tế và

suy thoái toàn cầu có tác động không nhỏ đến nền kinh tế nước ta, sản xuất

kinh doanh của các doanh nghiệp bị thu hẹp, đầu tư giảm sút cũng kéo theo

việc thu hút các nhà đầu tư vào các CCN trên địa bàn trong vài năm trở lại

71

đây rất khó khăn, nhất là thu hút đầu tư kinh doanh hạ tầng CCN. Một số quy

hoạch cụm CN chưa gắn với khai thác lợi thế các tuyến giao thông trọng yếu

như: Quốc lộ 2, đường Hồ Chí Minh..., chưa gắn CCN với TTCN và làng

nghề, trong khi nhu cầu cung cấp dịch vụ và các tiện ích xã hội cho doanh

nghiệp ở các khu, CCN chưa được đáp ứng và quan tâm đúng mức, do đó

cũng ảnh hưởng không nhỏ đến thu hút đầu tư ở các CCN. Trong khi đó cơ

chế quản lý sản xuất, lao động, môi trường ở các CCN cũng đang bộc lộ nhiều

bất cập, hiện các CCN, TTCN chưa có quy chế quản lý rõ ràng, có CCN do

huyện quản lý, có CCN lại giao cho chủ đầu tư xây dựng hạ tầng của CCN

quản lý nên quyền lợi của người lao động chưa được quan tâm thường xuyên.

Phần lớn các khu, CCN chưa có hệ thống xử lý nước thải đầu ra, mới chỉ xử

lý cục bộ rồi đổ ra các kênh mương khiến môi trường xung quanh bị ô nhiễm,

tác động xấu đến sự đa dạng và bền vững sinh học.

Tỉnh Phú Thọ lập trang Web về đầu tư do Sở KH&ĐT phụ trách ,

nhưng do nguồn kinh phí, nguồn nhân lực còn hạn chế nên việc thu thập, tổng

hợp và biên dịch thông tin đưa lên mạng chưa được triển khai. Vì vậy việc

cung cấp thông tin qua mạng chưa đáp ứng tốt nhu cầu của các nhà đầu tư,

gây khó khăn cho thu hút, đầu tư của các doanh nghiệp.

Gần đây, trong chính sách ưu đãi của nhà nước ta, chính sách ưu đãi có

phần bị chặn lại theo Nghị định 24 về thuế thu nhập doanh nghiệp. Trước đây

thuế thu nhập doanh nghiệp tương đồng với Luật Đầu tư và Nghị định 108

hướng dẫn thi hành Luật Đầu tư về ngành nghề, lĩnh vực và địa bàn ưu đãi

đầu tư. Tuy nhiên hiện nay, Nghị định 24 về thuế thu nhập doanh nghiệp đã

thu hẹp lại lĩnh vực ưu đãi, vì thế, chính sách ưu đãi của tỉnh cũng phải theo

khuôn khổ pháp luật chung của Nhà nước. Bên cạnh đó, các nhà đầu tư nước

ngoài hiện đã đầu tư vào Phú Thọ kêu ca, phàn nàn rất nhiều về tình trạng

thiếu điện, thậm chí một số nhà đầu tư Đài Loan, Hàn Quốc còn tỏ ra bực dọc

72

vì chót đầu tư mà không tính đến việc thiếu điện ảnh hưởng sản xuất; một vài

công ty chuyển từ sản xuất sang nhập khẩu về để phân phối sản phẩm dẫn đến

vốn đầu tư sản xuất kinh doanh trên địa bàn giảm.

Lãnh đạo tỉnh luôn đồng hành cùng các nhà đầu tư, lắng nghe và giải

quyết các vướng mắc từ nhà đầu tư và sẵn sang tạo mọi điều kiện để các nhà

đầu tư tiến hành đầu tư, kinh doanh hiệu quả. Thông qua chính sách “giải

cứu” của Chính phủ (Nghị quyết số 13/NQ-CP ngày 10/05/2012 của Chính

phủ về một số giải pháp tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, hỗ trợ thị

trường), tỉnh Phú Thọ đã giãn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp, VAT, giảm

tiền thuê đất, miễn thuế môn bài… đối với các đối tượng doanh nghiệp FDI

trên địa bàn tỉnh, nhằm hy vọng có thể thúc đẩy sản xuất kinh doanh, kích

thích tăng trưởng; đề xuất cần xác định rõ ràng tiêu chí của các đối tượng ưu

tiên, trong bối cảnh hàng hóa tồn kho lớn thì khả năng giãn, giảm thuế thu

nhập doanh nghiệp, VAT cần tính đến tính khả thi đối với doanh nghiệp đang

giảm dần quy mô sản xuất, có nguy cơ ngưng hoạt động cao; Sở KH&ĐT đề

nghị UBND tỉnh giao Cục thuế tỉnh Phú Thọ chỉ đạo Chi cục Thuế các huyện,

thị xã, thành phố thông báo đến các doanh nghiệp, thực hiện chủ trương của

Chính phủ.

2.2.2 Cấp và điều chỉnh giấy phép đầu tư

Chủ trương của Chính phủ là tiếp tục phân cấp sâu rộng hơn, lớn hơn

cho các địa phương trong việc quản lý cũng như cấp phép các dự án FDI.

Chính phủ sẽ có các biện pháp hỗ trợ cho chủ trương đó thực hiện thắng lợi.

Công việc phải làm trước mắt là tập huấn cho đội ngũ cán bộ địa phương hiểu

rõ hơn vai trò của mình, về hệ thống chính sách cũng như việc sắp xếp lại tổ

chức bộ máy ở địa phương. Ngoài ra, các bộ ngành trung ương cũng sẽ hỗ trợ

trong giai đoạn đầu. Thời gian qua, hệ thống pháp luật, chính sách về đầu tư

73

tực tiếp nước ngoài của Phú Thọ đã có nhiều cải thiện theo hướng tạo môi

trường đầu tư ngày càng thông thoáng, thuận lợi hơn cho hoạt động đầu tư

nước ngoài, nhất là trong việc xem xét cấp phép đối với các dự án FDI.

Phú Thọ ban hà nh và thự c hiệ n có kế t quả cả i cá ch thủ tụ c hà nh chí nh ,

thông qua thự c hiệ n cơ chế mộ t cử a liên thông đố i vớ i các dự án đầu tư trên

đị a bà n tỉ nh Phú Thọ theo Quyế t đị nh số 417/2009/QĐ-UBND ngà y

25/2/2009 của Ủy ban nhân dân (UBND) tỉnh Phú Thọ, đã rú t ngắ n thờ i gian

kể từ khi quyế t đị nh chủ trương đầ u tư đế n bà n giao mặ t bằ ng sạ ch c ho nhà

đầ u tư , góp phần đáng kể cải thiện môi trường đầu tư , đượ c cá c nhà đầ u tư

hoan nghênh và đá nh giá cao . Nhà đầu tư nước ngoài được miễn các chi phí

liên quan đến công tác giải quyết thủ tục đầu tư, trừ việc nộp lệ phí đăng ký

kinh doanh theo quy định của pháp luật.

Quy trình thụ lý hồ sơ và cấp giấy phép đầu tư được quy định riêng tại

tỉnh: Nhà đầu tư chỉ cần làm việc trực tiếp với Sở Kế hoạch và Đầu tư để

hoàn thành hồ sơ dự án FDI, nhận giấy phép đầu tư và triển khai thủ tục thực

hiện dự án (hoặc trực tiếp với Ban Quản lý các KCN tỉnh đối với các dự án

đầu tư vào KCN).

Bên cạnh đó, thời gian đăng ký cấp giấy phép đầu tư là 7 ngày làm

việc; thời gian thẩm định cấp giấy phép đầu tư là 20 ngày làm việc; 10 ngày

làm việc đối với dự án mà UBND tỉnh tham gia ý kiến, Bộ Kế hoạch và Đầu

tư chủ trì thẩm định và cấp giấy phép đầu tư. Thời gian quy định đối với các

thủ tục trên mặc dù đã rút ngắn so với những quy định chung của Chính phủ

nhưng vẫn dài hơn so với một số tỉnh khác như Đồng Nai, Bình Dương, Hà

Nội…

Theo Nghị định 108/2006/NĐ-CP về Quy định chi tiết và hướng dẫn

thi hành một số điều của Luật Đầu tư, thì cơ quan cấp Giấy chứng nhận đầu tư

có quyền quyết định chấm dứt hoạt động của dự án trong trường hợp nhà đầu

74

tư không triển khai dự án sau 12 tháng được cấp giấy chứng nhận đầu tư hoặc

dự án chậm tiến độ quá 12 tháng so với tiến độ quy định tại Giấy chứng nhận

đầu tư, trừ trường hợp được gia hạn hoặc cho tạm ngừng hoặc giãn tiến độ

thực hiện dự án... Do đó, một số dự án chậm tiến độ hoặc không có khả năng

triển khai đã bị rút giấy phép, như: Công ty TNHH Dệt Philip, công ty TNHH

Lessco Việt Nam, công ty TNHH Lâm Phú Hào, công ty TNHH BeeWoo…

Từ năm 2002, tỉnh Phú Thọ đã có quyết định thực hiện cơ chế “một

cửa” liên thông đối với các dự án đầu tư nước ngoài vào địa bàn. Sở KH&ĐT

với trọng trách là 1 cơ quan tham mưu và quản lý các dự án có vốn đầu tư

nước ngoài đã tập trung vào 3 khâu có tính chất đột phá: xúc tiến đầu tư, cải

cách thủ tục hành chính, bồi thường giải phóng mặt bằng, nhằm tạo môi

trường đầu tư thông thoáng, hấp dẫn, giảm tối đa đầu mối tiếp xúc giải quyết

công việc, giảm thời gian, chống phiền hà cho nhà đầu tư trong quá trình cấp

giấy chứng nhận đầu tư, giải quyết các thủ tục hành chính, giải phóng mặt

bằng... Tại nơi tiếp nhận và trả hồ sơ đều niêm yết công khai các quy trình,

thủ tục hành chính, thời gian giải quyết, lệ phí… Bộ phận Tiếp nhận và trả kết

quả được trang bị cơ sở vật chất khá đầy đủ và hiện đại; có đầy đủ các loại sổ

theo dõi, quản lý hồ sơ tiếp nhận và giải quyết theo quy định. Từ tháng

10/2010, Sở đã thực hiện hệ thống đăng ký kinh doanh quốc gia (NBRS) do

Bộ Kế hoạch và Đầu tư trang bị giúp cho việc đăng ký doanh nghiệp thành

lập mới đã giảm từ 05 ngày xuống còn 03 ngày và bỏ qua bước gửi hồ sơ đến

Cục Thuế để đề nghị cấp mã số thuế, tạo thuận lợi hơn cho các tổ chức và

công dân.

2.2.3 Kiểm tra, giám sát hoạt động

Công tác giám sát, hỗ trợ doanh nghiệp FDI đóng vai trò rất quan trọng

và có quan hệ chặt chẽ trong việc thúc đẩy mở rộng đầu tư của các dự án đầu

tư đã triển khai cũng như thu hút vốn đầu tư FDI vào các dự án mới. Công tác

75

quản lý, giám sát được thực hiện có kế hoạch, thường xuyên, chặt chẽ và

đồng bộ sẽ đảm bảo dự án đầu tư được thực hiện đúng theo các quy định của

pháp luật, đúng tiến độ, hạn chế được các tác hại về môi trường, chống các

hoạt động chuyển giá trốn thuế.., song song việc hỗ trợ tháo gỡ khó khăn và

tạo điều kiện thuận lợi cho nhà đầu tư triển khai thực hiện dự án sẽ góp phần

đảm bảo dự án có hiệu quả, khai thác tốt các nguồn lực, đặc biệt là đối với

những dự án có sử dụng đất, đem lại lợi ích cho địa phương cũng như lợi

nhuận cho chính nhà đầu tư, từ đó sẽ tạo động lực cho chủ đầu tư mở rộng dự

án đầu tư hoặc đầu tư vào các dự án mới tại địa bàn tỉnh. Tháng 5-2010, Bộ

Kế hoạch và Đầu tư đã có Công văn số 2879/BKH-ĐTNN về việc tăng cường

giám sát, kiểm tra đối với các dự án FDI, trong đó yêu cầu UBND các tỉnh,

thành phố trực thuộc Trung ương chỉ đạo các cơ quan chức năng tăng cường

công tác kiểm tra, giám sát tình hình triển khai thực hiện của các dự án đã

được cấp giấy chứng nhận đầu tư (cụ thể như tiến độ góp vốn điều lệ và triển

khai dự án; tiến độ xây dựng...). Đồng thời, rà soát, theo dõi, đôn đốc các dự

án tạm dừng triển khai thực hiện, trên cơ sở đó có văn bản nhắc nhở chủ đầu

tư về việc triển khai các dự án theo đúng tiến độ... Tỉnh Phú Thọ cũng đã triển

khai nghiêm túc theo sự chỉ đạo của Bộ.

Việc phân cấp cấp phép đầu tư FDI cho UBND tỉnh đã tạo ra một làn

sóng FDI rất mạnh vào Việt Nam nói chung và tỉnh Phú Thọ nói riêng. Tuy

nhiên, trong những năm qua, chúng ta quá chú trọng vào việc thu hút và kêu

gọi các dự án đầu tư FDI mới, chưa giành sự quan tâm thích đáng cho công

tác quản lý, giám sát, hỗ trợ doanh nghiệp FDI sau cấp phép đầu tư: cơ chế

phối hợp giữa các sở, ban, ngành với Uỷ ban Nhân dân cấp huyện, thị xã,

thành phố trong công tác quản lý, giám sát các doanh nghiệp dự án FDI chưa

đồng bộ, công tác hỗ trợ tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp FDI sau cấp

phép còn gặp nhiều khó khăn, các đơn vị làm công tác tư vấn, hỗ trợ nhà đầu

76

tư nước ngoài chưa đủ mạnh. Một số dự án FDI không đạt hiệu quả mong

muốn, một số dự án dừng hoạt động hoặc không triển khai thực hiện đã bị thu

hồi giấy phép đầu tư. Nếu xét tương quan một số chỉ số như: hiệu quả đầu tư

của vốn FDI trên phương diện đóng góp vào tốc độ tăng trưởng GDP của tỉnh,

hay số thu nộp ngân sách hàng năm trên tổng vốn đăng ký đầu tư thì chỉ số

của Phú Thọ vẫn còn chưa cao. Ngoài ra, một số doanh nghiệp FDI còn bộc lộ

một số hạn chế khác như: tranh chấp về quyền lợi giữa công nhân với chủ sử

dụng lao động (công ty Pangrim Neotec), an toàn lao động, gây ô nhiễm môi

trường (công ty Miwon), vay nợ và không có khả năng thanh toán (Công ty

Tassco, World Vina)…Thực trạng đó đã ảnh hưởng nhất định đến môi trường

đầu tư của tỉnh, hạn chế việc mở rộng đầu tư của các dự án đầu tư đã thực

hiện, đồng thời làm suy giảm hiệu quả thu hút đầu tư đối với các nhà đầu tư

nước ngoài chưa vào tỉnh. Từ năm 2002 đến nay , tỉnh đã thu hồi giấy phép

của 29 dự á n vớ i số vố n đăng ký là 179 triệ u USD do cá c dự á n nà y chưa triể n

khai, không có thị trườ ng, thiế u vố n sả n xuấ t kinh doanh…

Thời gian gần đây đã xuất hiện tình trạng một số doanh nghiệp có vốn

đầu tư nước ngoài vay vốn của các tổ chức tín dụng hoạt động tại tỉnh nhưng

kinh doanh không hiệu quả, phải ngừng hoạt động. Có trường hợp, nhà đầu tư

nước ngoài đã bỏ trốn gây ảnh hưởng tiêu cực tới hoạt động kinh doanh của

các tổ chức tín dụng, cũng như môi trường đầu tư tại Việt Nam. Ở Phú Thọ

cũng có các công ty trốn nợ, bị Ngân hàng niêm phong để bảo đảm tài sản

như: Công ty TNHH Công nghiệp Tassco, công ty TNHH World Vina (Kinh

doanh may mặc xuất khẩu), công ty TNHH Hasvi sản xuất máy tính và vô

tuyến điện tử, công ty TNHH Nanokovi…

Từ thực tế trên, theo yêu cầu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, UBND tỉnh

Phú Thọ chỉ đạo các đơn vị chức năng thực hiện các công việc như:

- Rà soát, kiểm tra tình hình hoạt động của các doanh nghiệp có vốn

77

đầu tư nước ngoài có vay vốn các ngân hàng thương mại trong tỉnh. Đồng

thời, xử lý kịp thời các trường hợp vi phạm pháp luật hoặc không có khả năng

triển khai, thông báo ngay cho Ngân hàng thương mại có biện pháp thu hồi

các khoản cho vay.

- Có văn bản yêu cầu các Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trên

địa bàn báo cáo tình hình vay vốn từ các tổ chức tín dụng hoạt động trong

phạm vi tỉnh (bao gồm cả vốn vay từ các tổ chức tín dụng nước ngoài)

- Tổng hợp tình hình vay vốn của các doanh nghiệp có vốn đầu tư

nước ngoài trên địa bàn tại các tổ chức tín dụng hoạt động ở tình để nắm

hoạt động.

2.3 Đánh giá chung về quản lý nhà nƣớc đối với doanh nghiệp có vốn

đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài tại Phú Thọ

2.3.1 Những kết quả đạt được

Trong thời gian qua, cùng với các doanh nghiệp khác hoạt động trên

địa bàn tỉnh Phú Thọ, doanh nghiệp FDI đã đóng góp tích cực vào thay đổi bộ

mặt của tỉnh trên nhiều phương diện như: tăng tốc độ tăng trưởng kinh tế, góp

phần hoàn thiện hành lang pháp lý, nâng cấp cơ sở hạ tầng và kinh nghiệm

quản lý, chất lượng lao động… Bên cạnh đẩy mạnh cải cách hành chính, xây

dựng và ban hành nhiều cơ chế, chính sách ưu đãi, tỉnh ta cũng đang tập trung

quy hoạch và phát triển nhiều KCN, CCN nhằm tăng cường thu hút mạnh mẽ

hơn nữa các doanh nghiệp trong và ngoài nước đầu tư vào tỉnh. Thực tế sự ra

đời của các KCN, CCN, trong những năm gần đây đã góp phần làm thay đổi

diện mạo kinh tế của tỉnh. Từ đó, Phú Thọ dần khẳng định vị trí của mình

trong quy hoạch phát triển kinh tế vùng của cả nước. Đảng bộ và nhân dân

tỉnh Phú Thọ đã lựa chọn đường lối đổi mới kinh tế đúng đắn, kiên định, phù

hợp với xu thế khu vực hoá và toàn cầu hoá, đã mở cửa thu hút và có những

chính sách ưu đãi đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Tranh

78

thủ bổ sung nguồn vốn quan trọng, tận dụng khai thác đất đai, tài nguyên của

tỉnh; đồng thời tranh thủ các yếu tố thuận lợi mà nhà đầu tư nước ngoài đem

đến, nhất là nguồn vốn.

Để hấp dẫn các nhà đầu tư, tỉnh Phú Thọ thường xuyên cải thiện môi

trường đầu tư, hoàn thiện dần cơ sở hạ tầng, cơ chế quản lý và các thủ tục

hành chính khác. Các nhà đầu tư đến với Phú Thọ đã yên tâm kinh doanh và

bước đầu mở rộng quy mô sản xuất, mang lại hiệu quả kinh tế cao cho nhà

đầu tư và cho kinh tế của tỉnh. Ông Lê Thế Vang – Phó Giám đốc sở KH&ĐT

cho biết: Thời gian qua, tỉnh ta đã thực hiện cơ chế một cửa liên thông, chỉ

với một đầu mối đó là Sở Kế hoạch và Đầu tư, nhà đầu tư sẽ được giao “mặt

bằng sạch”. Sở Kế hoạch và Đầu tư đã mở trang tin điện tử, trong đó có

chuyên mục hỏi đáp thủ tục hành chính, phần hướng dẫn chi tiết các thủ tục

để doanh nghiệp nắm bắt về thủ tục đăng ký đầu tư, thủ tục giao đất, cho thuê

đất, cấp giấy chứng nhận đầu tư…[30]

Đồng thời, các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài cũng góp phần tạo việc

làm, tăng thu nhập cho số lượng lớn lao động trong tỉnh. Lao động tỉnh Phú

Thọ còn mang tính thuần nông nhưng khi được làm việc với các doanh nghiệp

này thì tác phong cũng dần mang tính công nghiệp, kỷ luật lao động đã chặt

chẽ hơn, chuyên môn cũng khá hơn… Vì vậy, người lao động trong các doanh

nghiệp có vốn nước ngoài khi đi tìm công việc ở công ty khác cũng dễ dàng

hơn, nhận được thu nhập cao hơn, nhất là người có kinh nghiệm công tác.

Công tác quản lý đào tạo nâng cao tay nghề cho người lao động được

chấp hành tốt. Đa số lao động trong tỉnh làm việc trong khu vực này đều được

đào tạo tại doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hoặc được gửi đi đào tạo

lại ở nước ngoài để đáp ứng nhu cầu sử dụng các thiết bị công nghệ sản xuất

mới, ngành nghề mới.

Quan hệ lao động trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài

79

từng bước được cải thiện. Phần lớn các nhà đầu tư nước ngoài đều nhận thức

được rằng muốn phát triển sản xuất kinh doanh, làm ăn lâu dài phải quan tâm

đến quyền lợi và điều kiện làm việc của người lao động, phải hợp tác với

người lao động, nhất là các tổ chức công đoàn cơ sở tại các doanh nghiệp.

Bên cạnh đó, phần lớn các dự án đầu tư vào Phú Thọ là những dự án

nhỏ tập trung vào công nghiệp dệt may, gia công. Gần đây cũng có những dự

án đầu tư vào nông nghiệp, du lịch hoặc kết cấu hạ tầng. Tuy nhiên, những

lĩnh vực này ít dự án và có dự án đã bị thu hồi giấy phép đầu tư do không

triển khai như cam kết (Công ty cổ phần Phú Thọ - Korea, Công ty TNHH

Hasvi, công ty TNHH Hong Myung). Có những dự án đã triển khai từ lâu và

hiện nay vẫn là một trong những doanh nghiệp lớn trong tỉnh, có số công

nhân lớn và thu nhập cho người lao động ở mức khá so với mặt bằng chung

của tỉnh, như doanh nghiệp Pangrim Neotec – vốn đăng ký 79,1 triệu USD,

Công ty Miwon Việt Nam – vốn đăng ký 40,0 triệu USD,công ty TNHH

KAPS – TexVina – vốn đăng ký 22,8 triệu USD. Ông Shin Hyun Kap – Tổng

giám đốc công ty TNHH Pangrim Neotec, chủ tịch Hội Doanh nghiệp người

Hàn tại Phú Thọ nhận định: “Việc FDI vào tỉnh có xu hướng giảm nhẹ ở năm

2008, 2009 không phản ánh thái độ của nhà đầu tư nước ngoài vào thị trường

này, vì bản thân các tập đoàn trên thế giới cũng gặp rất nhiều khó khăn trong

cơn bão tài chính. Năm 2010 và những năm tiếp theo vẫn sẽ là thị trường hấp

dẫn với các nhà đầu tư nước ngoài bởi tiềm năng và cơ hội đầu tư. Đến đầu tư

tại Phú Thọ, nhà đầu tư nước ngoài đã được Chính phủ Việt Nam và lãnh đạo

địa phương rất ưu ái. Đây là cơ sở nhìn nhận dòng vốn FDI vào Phú Thọ

trong thời gian tới sẽ tăng cao”[7]. Đồng thời, các dự án nhanh chóng phát

huy hiệu quả, đã tác động tích cực đến phát triển sản xuất hàng hoá, thúc đẩy

công tác quy hoạch, xây dựng kết cấu hạ tầng, đảm bảo định hướng cho công

80

tác quản lý Nhà nước ở lĩnh vực này.

Không chỉ sản xuất cung cấp các sản phẩm trong nước, các doanh

nghiệp FDI còn xuất khẩu hàng hóa, chủ yếu là hàng may mặc hoặc nhận gia

công, góp phần mở rộng thị trường, tăng kim ngạch xuất khẩu của tỉnh. Đến

nay Phú Thọ đã có quan hệ kinh tế với nhiều nước trên thế giới, tuy tỷ lệ xuất

nhập khẩu còn ít nhưng phần nào đã để lại thương hiệu về các mặt hàng xuất

khẩu, tạo cơ hội thu hút hơn nữa đối với các nhà đầu tư.

Các đơn vị hành chính quản lý doanh nghiệp FDI ngày càng dày dặn

kinh nghiệm, chủ động hơn trong công tác thu hút, cấp và điều chỉnh giấy

phép, khâu thanh tra, kiểm tra cũng chặt chẽ hơn. Bên cạnh việc áp dụng các

pháp lệnh của Nhà nước về thu hút và quản lý doanh nghiệp FDI, tỉnh Phú

Thọ đã ra các chính sách phù hợp với tình hình thực tế của tỉnh, không rập

khuôn máy móc bài học kinh nghiệm của các tỉnh khác hoặc chủ trường

chung chung, xa rời thực tế. Nhờ vậy, môi trường đầu tư đã thông thoáng hơn,

hấp dẫn các nhà đầu tư và đảm bảo các doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả.

Từ khi thực hiện mở cửa hợp tác kinh doanh với các doanh nghiệp có

vốn đầu tư nước ngoài, Phú Thọ đã tiến bộ nhiều và dần hoàn thiện kỹ năng

quản lý của mình. Các khâu quản lý đã đi vào nền nếp và sáng tạo, linh hoạt

trong quá trình đưa ra chủ trương, kế hoạch thu hút FDI. Nhiều vướng mắc

của doanh nghiệp đã được giải quyết; công tác giải phóng mặt bằng được

triển khai nhanh chóng với sự giúp đỡ của người dân sở tại, từ đó tạo điều

kiện thuận lợi cho khu vực có vốn đầu tư nước ngoài phát triển.

Mặt khác, để phù hợp với quy hoạch kinh tế xã hội tỉnh Phú Thọ đến

năm 2020, các chính sách ưu đãi với doanh nghiệp FDI đã được cụ thể hóa,

chi tiết với từng lĩnh vực hoạt động, từng địa phương như: ưu đãi về giá đất,

về ngành nghề, về địa bàn các xã, huyện, miễn giảm thuế với các ngành ưu

81

tiên…

Với quyết tâm cao trong cải cách thủ tục hành chính nói chung và thủ

tục cấp phép dự án FDI nói riêng, Phú Thọ đã có nhiều cố gắng nỗ lực rút

ngắn thời gian cấp giấy phép, thay đổi tác phong làm việc của đội ngũ cán bộ

trực tiếp liên quan đến giải quyết các thủ tục đầu tư, thay đổi nhận thức của các

cơ quan ban, ngành có liên quan, đúng như Chủ tịch tỉnh Hoàng Dân Mạc đã

khẳng định: “Việc cấp phép dự án đầu tư thông thường được thực hiện trong

vòng một tuần, với những dự án có đầy đủ hồ sơ, chúng tôi có thể cấp phép

trong vòng 3 ngày”; “Phú Thọ khuyến khích các nhà đầu tự thực hiện đầu tư dự

án với mọi hình thức như BOT, BT, 100% vốn nước ngoài, liên doanh liên kết.

Tỉnh chủ trương và có cơ chế, chính sách thu hút các dự án đầu tư kinh doanh

trong lĩnh vực đô thị và hạ tầng; đồng thời khuyến khích các nhà đầu tư xây

dựng hạ tầng các khu, cụm công nghiệp, kinh doanh bất động sản, các khu đô

thị, khu trung tâm thương mại, các khu du lịch, vui chơi giải trí, dịch vụ cao

cấp có quy mô lớn. Phú Thọ cam kết sẽ tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất để các

nhà đầu tư trong và ngoài nước đầu tư, sản xuất trên địa bàn tỉnh với những ưu

đãi và các thủ tục hành chính thông thoáng theo các cam kết của tỉnh đã được

thể hiện trên các văn bản, chính sách đã được ban hành”.[6]

Trong thời gian qua, UBND tỉnh đã ban hành nhiều văn bản để chỉ đạo

và triển khai thực hiện nhiệm vụ kiểm soát thủ tục hành chính (TTHC) trong

đầu tư cấp phép với doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài; thành lập Phòng

Kiểm soát TTHC thuộc Văn phòng UBND tỉnh từ tháng 6 - 2011. Phòng

Kiểm soát TTHC đã công khai niêm yết địa chỉ tiếp nhận phản ánh, kiến nghị

của tổ chức, công dân về quy định hành chính với đầy đủ số điện thoại, địa

chỉ hòm thư liên lạc trên Cổng giao tiếp điện tử của tỉnh. Các doanh nghiệp,

công ty trong và ngoài KCN có thể phản ánh rào cản hành chính bằng con

đường này, về các thủ tục cấp, điều chỉnh giấy phép, về tệ tham ô, sách

82

nhiễu…

Những thay đổi trong cách nghĩ, cách làm của Đảng bộ và nhân dân tỉnh

Phú Thọ về quản lý doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có sức lan tỏa trên

nhiều lĩnh vực, đặc biệt là kinh tế của tỉnh. Dần dần, vị trí của tỉnh Phú Thọ

trong khu vực vùng đã được khẳng định và ngày càng có nhiều nhà đầu tư

không chỉ ngoài tỉnh mà còn các nhà đầu tư nước ngoài tìm đến Phú Thọ.

2.3.2 Những hạn chế

Mặc dù đã đạt được những kết quả cơ bản quan trọng nêu trên, song

việc thu hút, sử dụng và quản lý doanh nghiệp đầu tư nước ngoài thời gian

qua đã bộc lộ một số hạn chế, bất cập như:

Khả năng hấp thụ nguồn vốn còn khiêm tốn, đồng nghĩa với việc chưa

tận dụng một cách có hiệu quả nguồn vốn này trong khi Phú Thọ đang có nhu

cầu lớn về vốn; chất lượng của nguồn vốn chưa cao; việc thu hút các dự án

đầu tư công nghệ cao còn hạn chế; chuyển giao công nghệ còn chậm; còn có

doanh nghiệp FDI sử dụng công nghệ lạc hậu, tiềm ẩn nguy cơ gây ô nhiễm

môi trường; việc sử dụng tài nguyên đất đai, khoáng sản chưa thực sự hiệu

quả; mối liên kết ngang và dọc giữa các doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp

trong tỉnh chưa cao; tình trạng tranh chấp lao động và đình công còn diễn ra ở

một công ty, ảnh hưởng không tốt đến môi trường đầu tư trong tỉnh.

Việt Nam đã có nhiều văn bản pháp luật; trong đó cũng có những văn

bản pháp luật mang ý nghĩa như chế tài xử phạt với các hành vi sai phạm

trong hoạt động đầu tư nước ngoài. Văn bản pháp luật đầu tư nước ngoài hiện

nay là Nghị định số 53 lại chỉ quy định mức phạt thông thường từ 2 - 3 triệu

đồng/doanh nghiệp, đối đa là 50 - 70 triệu đồng/doanh nghiệp. Mức phạt này

quá thấp so với quy mô của một doanh nghiệp FDI có vốn đăng ký từ 10-100

triệu USD, chỉ có tính nhắc nhở, không có ý nghĩa răn đe. Tuy nhiên, các cơ

quan hành chính của tỉnh không thể tự sửa Nghị định này vì vướng “trần” của

83

pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính và quy định của Pháp luật Việt Nam,

Phú Thọ cũng không nằm ngoài số đó. Có công ty vi phạm về vấn đề môi

trường (công ty Miwon Việt Nam) nhưng cũng chỉ xử phạt theo khung của

nhà nước, chưa đạt hiệu quả cao.

Tình trạng cấp Giấy chứng nhận đầu tư không phù hợp quy hoạch còn

diễn ra, đặc biệt trong các dự án sân gôn, trồng rừng, sản xuất thép, xi măng,

khai thác khoáng sản. Nhiều dự án chưa được thẩm tra, xem xét kỹ các tiêu

chí về kỹ thuật, công nghệ, môi trường, lao động … dẫn đến chất lượng các

dự án chưa cao, thiếu sự liên kết giữa nhà đầu tư nước ngoài và doanh nghiệp

trong tỉnh. Bên cạnh đó, công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện nghĩa vụ của

nhà đầu tư về tiến độ góp vốn, huy động vốn, cũng như hoạt động xây dựng,

môi trường, chuyển giao công nghệ, thực hiện nghĩa vụ đối với người lao động

và nghĩa vụ tài chính đối với Nhà nước chưa tốt, thiếu sự phối hợp giữa các

ban, ngành, địa phương. Mặt khác, sự yếu kém về cơ sở hạ tầng, đặc biệt là tình

trạng thiếu điện, bất cập của hệ thống cảng sông và các công trình hạ tầng liên

quan, sự thiếu hụt trầm trọng nguồn lao động đã qua đào tạo, kỹ sư, cán bộ

quản lý, tiếp tục là những rào cản đối với hoạt động đầu tư nước ngoài.

Về vố n đầ u tư xây dự ng : Nguồ n vố n đầu tư xây dựng các cụm CN ,

TTCN đề u đang gặ p rấ t nhiề u khó khăn , chủ yếu trông chờ vào nguồn vốn hỗ

trợ từ trên nên không chủ độ ng trong quá trì nh đầ u tư xây dự ng , hiện tại hầu

hết phải đầu tư theo hình thức cuốn chiếu, chưa được đồng bộ, chưa đáp ứng

được yêu cầu tốt nhất về mặt bằng và điều kiện sản xuất kinh doanh của các

doanh nghiệp, đặ c biệ t là xây dự ng hạ tầ ng: đườ ng giao thông, đườ ng điệ n, hệ

thố ng cấ p thoá t nướ c… Hoặ c ở nhữ ng đị a ph ương lạ i rấ t nan giả i trong việ c

giải phóng mặt bằng , do nhậ n thứ c củ a mộ t bộ phậ n nhân dân cò n hạ n chế ,

chính quyền cơ sở chưa làm tốt công tác tuyên truyền , vậ n độ ng, thiế u cương

quyế t trong quá trì nh phố i hợ p thự c hiệ n . Như cụ m trung tâm công nghiệp

84

làng nghề hoa sinh vật cảnh P hượ ng Lâu – Thành phố Việt Trì , từ thá ng

6/2009 UBND tỉ nh đã có Quyế t đị nh số 1435 về thu hồ i giao đấ t để xây dự ng

hạ tầng và thà nh lậ p hộ i đồ ng bồ i thườ ng hỗ trợ và tá i đị nh cư xây dự ng công

trình cho dự án , tiế n hà nh các bước thực hiện theo đúng trình tự . Tuy nhiên

đến nay, quá trình triển khai công tác giải phóng mặt bằng trên thực tế trở nên

rấ t khó khăn do mộ t số hộ tạ i xã Phượ ng Lâu đã vin và o rấ t nhiề u lý do để

làm chậm tiến độ thự c hiệ n củ a dự á n. Nguyên nhân củ a sự chậ m tiế n độ là do

Đả ng ủ y , chính quyền xã Phượng Lâu chưa thực sự vào cuộc , chưa là m tố t

công tá c tuyên truyề n vậ n độ ng , giải thích cho nhân dân . Công tá c lã nh đạ o

đố i vớ i khu cò n thiế u cương quyế t và chưa có sự phố i hợ p thố ng nhấ t giữ a

ban quả n lý cụ m vớ i UBND xã và khu dân cư.

Trước đây, thủ tục đăng ký kinh doanh cũng như thủ tục đầu tư đối với

các dự án FDI vào các khu công nghiệp được thực hiện từng bước với sự tham

gia của nhiều cơ quan tiếp nhận hồ sơ. Cảnh người dân, nhà đầu tư bắt buộc

phải đến từng cơ quan để làm thủ tục, “chầu chực” đi lại nhiều lần để được cầm

trên tay giấy phép kinh doanh hay giấy phép đầu tư thực sự là một hành trình

thử thách tính kiên nhẫn của người dân và nhà đầu tư. Và tệ nhũng nhiễu, gây

khó dễ của các cán bộ thực thi công vụ có thể nói cũng từ đây mà ra.

Trong những năm qua, chúng ta quá chú trọng vào việc thu hút và kêu

gọi các dự án đầu tư FDI mới, chưa giành sự quan tâm thích đáng cho công

tác quản lý, giám sát, hỗ trợ doanh nghiệp FDI sau cấp phép đầu tư: cơ chế

phối hợp giữa các sở, ban, ngành với Uỷ ban Nhân dân cấp huyện, thị xã,

thành phố trong công tác quản lý, giám sát các doanh nghiệp dự án FDI chưa

đồng bộ, công tác hỗ trợ tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp FDI sau cấp

phép còn gặp nhiều khó khăn, các đơn vị làm công tác tư vấn, hỗ trợ nhà đầu

tư nước ngoài chưa đủ mạnh. Một số dự án FDI không đạt hiệu quả mong

muốn, một số dự án dừng hoạt động hoặc không triển khai thực hiện đã bị thu

85

hồi giấy phép đầu tư. Nếu xét tương quan một số chỉ số như: hiệu quả đầu tư

của vốn FDI trên phương diện đóng góp vào tốc độ tăng trưởng GDP của tỉnh,

hay số thu nộp ngân sách hàng năm trên tổng vốn đăng ký đầu tư thì chỉ số

của Phú Thọ vẫn còn chưa cao. Ngoài ra, một số doanh nghiệp FDI còn bộc lộ

một số hạn chế khác như: tranh chấp về quyền lợi giữa công nhân với chủ sử

dụng lao động, an toàn lao động, gây ô nhiễm môi trường, vay nợ và không

có khả năng thanh toán…Thực trạng đó đã ảnh hưởng nhất định đến môi

trường đầu tư của tỉnh, hạn chế việc mở rộng đầu tư của các dự án đầu tư đã

thực hiện, đồng thời làm suy giảm hiệu quả thu hút đầu tư đối với các nhà đầu

tư nước ngoài chưa vào tỉnh. Hậu quả đó phần nào xuất phát từ xu hướng “ba

không” của Nhà nước: “không biết mặt nhà đầu tư”, “không biết địa điểm

hoạt động của doanh nghiệp ở đâu” và “không biết doanh nghiệp đó hoạt

động như thế nào”.

Tuy nhiên hiện nay, kiểm soát thủ tục hành chính vẫn còn có những tồn

tại, hạn chế như: Nhận thức của cán bộ, công chức và nhân dân về công tác

kiểm soát thủ tục hành chính trong cấp và điều chỉnh giấy phép chưa đầy đủ;

bộ máy làm nhiệm vụ mới thành lập, ở các sở, ngành và cấp huyện, xã làm

việc theo chế độ kiêm nhiệm; việc giải quyết thủ tục hành chính cho các công

ty, doanh nghiệp và công dân thực hiện chưa đúng quy định, có những cơ

quan còn yêu cầu nộp thêm thành phần hồ sơ, vượt quá thời hạn giải quyết, tổ

chức và công dân phải đi lại nhiều lần để hoàn thiện hồ sơ; việc niêm yết,

công khai thủ tục hành chính thuộc thẩm quyền giải quyết chưa đảm bảo đúng

quy định, có đơn vị chỉ niêm yết những thủ tục hành chính được giải quyết

theo cơ chế một cửa, một số đơn vị chỉ niêm yết danh mục TTHC; chưa

nghiêm túc thực hiện việc công khai số máy điện thoại, hòm thư điện tử của

Văn phòng UBND tỉnh, của cơ quan, đơn vị để tiếp nhận phản ánh, kiến nghị

86

của tổ chức và công dân...

Với mong muốn đưa kinh tế trong tỉnh phát triển vượt bậc, Tỉnh ủy,

UBND tỉnh Phú Thọ đã phát triển ồ ạt các KCN, CCN, thu hút vốn đầu tư

FDI. Các khu, cụm công nghiệp này được hình thành với kỳ vọng sẽ thu hút,

giải quyết công ăn việc làm cho lao động địa phương, thu hút ngoại tệ, làm

giàu cho tỉnh. Nhưng sự hoạt động èo uột của nhiều khu, cụm công nghiệp

cho thấy khát vọng này đã phần nào phá sản. Tại CCN Đồng Lạng (Phù

Ninh), được thành lập từ năm 2000 với quy mô gần trăm héc ta, có đến 5 nhà

máy chưa bao giờ hoạt động, chủ nhà máy đã bỏ về Hàn Quốc (đó là Cty

TNHH Công nghiệp Tasco, Cty TNHH World Vina; Cty TNHH Tasco

polycon, Cty TNHH Tasco Viet Nam, Cty TNHH Tasco Moteria). Tại KCN

Thụy Vân (Việt Trì, Phú Thọ) cũng vậy, hoạt động kém, đất trống bỏ hoang

nhiều, nhà máy đóng cửa, có chỗ thì cho thuê làm bãi tập xe ô tô. Những năm

trước đây khi mở các khu, cụm công nghiệp, lãnh đạo UBND tỉnh Phú Thọ đã

tạo hành lang pháp lý thông thoáng để thu hút đầu tư, đặc biệt là vốn FDI.

Nhưng chính vì sự thông thoáng quá mức như: Doanh nghiệp được miễn,

giảm thuế hoặc chậm nộp thuế; Ðược vay vốn ưu đãi, được hỗ trợ lãi suất vốn

vay; Ðược trợ giúp miễn phí các thủ tục đầu tư; Được miễn thuế nhập khẩu

thiết bị, máy móc; Được ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp (miễn trong 3

năm kể từ khi có thu nhập chịu thuế và giảm 50% số thuế phải nộp trong 7

năm tiếp theo). Lợi dụng vào chính sách thông thoáng và cả sự thiếu thận

trọng của tỉnh này, một số nhà đầu tư Hàn Quốc đã tìm đến Phú Thọ để tay

không kiếm tiền. Sau khi được cấp chứng nhận đầu tư, một số nhà đầu tư Hàn

Quốc bắt đầu lập kế hoạch vay tiền tại các ngân hàng ở Phú Thọ để thực hiện

dự án. Tài sản đảm bảo là giá trị quyền sử dụng đất và tài sản được hình thành

từ vốn vay (dây chuyền sản xuất cũ kỹ, lạc hậu). Vay xong tiền ngân hàng, họ

đầu tư nhỏ giọt và cuối cùng là "goodbye" Phú Thọ, để lại cục nợ khổng lồ

87

(Theo số liệu báo cáo của UBND tỉnh Phú Thọ đến tháng 10/2011 thì con số

này là gần 17 triệu USD) và những đống sắt gỉ trong nhà máy. Phát ngôn trên

báo chí, một cán bộ ở Ban quản lý khu công nghiệp Phú Thọ chua chát thừa

nhận: Không ai nghĩ khi họ đến hoành tráng thế rồi để lại một cục nợ và gây

ra nỗi đau lớn cho toàn tỉnh.

2.3.3 Nguyên nhân của những hạn chế

Những tồn tại, hạn chế nêu trên của khu vực FDI có nguyên nhân từ sự

yếu kém nội tại của nền kinh tế cũng như những hạn chế trong việc hoạch

định và thực thi chính sách, pháp luật về đầu tư nước ngoài. Các nguyên nhân

chủ yếu là:

2.3.3.1.Điề u kiệ n kinh tế – xã hội của tỉnh

Hệ thống luật pháp, chính sách của Nhà nước đang trong quá trình hoàn

thiện nên thiếu tính đồng bộ, chưa đủ mức cụ thể nên chưa đảm bảo xuyên

suốt gây khó khăn cho qua trình dự đoán của các nhà đầu tư khi tìm hiểu về

môi trường đầu tư của Việt Nam. Các Nghị định như Nghị định

164/2003/NĐ-CP ban hành ngày 22/12/2003 của Chính phủ về thuế thu nhập

doanh nghiệp và Nghị định 158/2003/NĐ-CP về quy định chi tiết việc thi

hành Luật thuế giá trị gia tăng ngày 10/12/2003 đã giảm bớt các ưu đãi về đầu

tư với các doanh nghiệp trong KCN, khu chế xuất, ảnh hưởng xấu đến tâm lý

các nhà đầu tư; các chính sách thiếu đồng bộ, nhiều vấn đề về thuế, hải quan,

quản lý ngoại tệ, xuất nhập khẩu còn vướng mắc gây lo ngại rủi ro cho các

nhà đầu tư.

Thực tế, so với một số tỉnh bạn như Vĩnh Phúc, Thái Nguyên, Bắc

Ninh… thì Phú Thọ có vị trí địa lý ít thuận lợi hơn, hạ tầng giao thông kết nối

từ địa phương với thủ đô Hà Nội, cảng biển, sân bay chưa hoàn thiện. Trong

khi đó, ngân sách tỉnh còn hạn chế nên việc bố trí nguồn vốn để đầu tư xây

dựng hạ tầng chưa thể đáp ứng làm cho môi trường đầu tư kém hấp dẫn, đặc

88

biệt trong giai đoạn hiện nay, tình hình cạnh tranh thu hút vốn đầu tư nước

ngoài không chỉ giữa Việt Nam với các nước trong khu vực mà ngay trong

nước ta giữa vùng này với vùng lân cận cũng rất gay gắt. Khoảng cách về

trình độ công nghệ, kỹ năng quản lý chính là trở ngại mà các doanh nghiệp

FDI gặp phải khi chuyển giao công nghệ hiện đại; thị trường Phú Thọ còn

kém hấp dẫn, tính rủi ro trong đầu tư lớn hơn.

Hiện nay các KCN, CCN phát triển nhanh về số lượng song lại hạn chế

về chất lượng dẫn đến việc thu hút đầu tư thời gian qua rất khó khăn, tỷ lệ lấp

đầy thấp, chi phí san lấp mặt bằng, giá phí sử dụng còn cao. Các địa phương có

CCN cũng chưa có đủ tiềm lực vốn để đầu tư, chủ yếu tự vận động các nguồn

kinh phí trong việc xây dựng hạ tầng nên có vốn đến đâu đầu tư đến đó, dẫn

đến việc xây dựng hạ tầng chắp vá, không đồng bộ. Thực tế toàn tỉnh hiện mới

có 6 CCN được ngân sách Trung ương cấp hỗ trợ với tổng số tiền là 11 tỷ đồng

để xây dựng cơ sở hạ tầng, song cũng chưa đáp ứng được yêu cầu. Đến thời

điểm này mới có 2 CCN cơ bản đầu tư xong hạ tầng và đi vào hoạt động, tỷ lệ

lấp đầy cao là CCN Bạch Hạc (Việt Trì) và CCN Đồng Lạng (Phù Ninh).

Cùng với những khó khăn về điều kiện hạ tầng cơ sở, thị trường Phú

Thọ cũng như thị trường các vùng lân cận do sức mua còn yếu, dân còn

nghèo, như vậy có nghĩa thị trường nội địa còn nhỏ, các điều kiện về sản xuất

phụ trợ, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp chưa phát triển, điều kiện vận tải

còn khó khăn, giá thành vận tải cao, điều kiện đi lại không thuận lợi...tất cả

những điều này làm cho giá thành sản phẩm cao hơn so với việc sản xuất sản

phẩm tương tự ở các nơi khác, chung quy lại là tình hình trên làm cho độ rủi

ro sản xuất kinh doanh ở Phú Thọ lớn hơn so với các nơi khác.

2.3.3.2. Các rào cản hành chính

Không phải tất cả các cơ quan quản lý Nhà nước trên địa bàn đều nhận

thức được ý nghĩa và tầm quan trọng của khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước

89

ngoài trong giai đoạn hiện nay. Ngay cả trong nội bộ các Sở, Ban, Ngành trực

tiếp liên quan cũng không phải sự nhận thức này đã được thống nhất từ cấp

lãnh đạo cao nhất đến thấp nhất mà vẫn còn một bộ phận nhỏ tỏ ra mơ hồ, thờ

ơ trước những yếu kém còn tồn tại trên địa bàn.. Những yếu tố đó đã gián tiếp

làm các thủ tục hành chính của tỉnh trở nên phiền hà, nhiều vấn đề của nhà đầu

tư trong quá trình triển khai và vận hành dự án không được quan tâm, ưu tiên

giải quyết. Các nhà đầu tư đã rất nhiều lần nản lòng trước thủ tục phê duyệt dự

án rườm rà cộng với thời gian thẩm định dự án quá lâu, có khi lên tới vài tháng

hoặc vài năm. Khi dự án của họ được cấp phép thì thời gian kinh doanh đã trôi

qua và lòng tin của họ với môi trường đầu tư của tỉnh đã suy giảm nghiêm

trọng, do đó họ rút lại dự án và đi sang tỉnh khác để tìm cơ hội đầu tư.

Phú Thọ hiện đang có hiện tượng “ba không”- không biết mặt nhà đầu

tư (vì nhà đầu tư có thể ủy quyền giao hết cho một công ty tư vấn); không biết

địa điểm (pháp luật không quy định thẩm tra địa điểm); không biết họ hoạt

động như thế nào (mặc dù vấn đề này thuộc trách nhiệm của cơ quan chức

năng địa phương), trong đó "hai không" đầu là do cơ chế pháp luật hiện nay.

Vì vậy, Phú Thọ còn bất cập trong khâu quản lý, kiểm tra doanh nghiệp FDI,

vì vậy, tiếp tục "mạnh hóa" về cải cách hành chính, cụ thể thời hạn về thẩm

tra giữa các cơ quan chức năng, tránh đùn đẩy công việc.

2.3.3.3. Các rào cản quy hoạch:

Công tác quy hoạch cũng là một hạn chế khác không kém phần nghiêm

trọng. Trong nhữ ng năm gầ n đây, mặ c dù luậ t phá p, chính sách và môi trường

đầ u tư không ngừ ng đượ c hoà n thiệ n nhưng hiệ u quả thu hú t FDI vẫ n chưa

thự c sự tương xứ ng vớ i tiề m năng củ a cá c tỉ nh . Theo cá c chuyên gia quả n lý

dự á n , một trong những nguyên nhân là do quy hoạ ch phá t triể n cá c ngà nh

chủ chốt đến nay vẫn chưa được xác định . Nhiề u nhà đầ u tư đã mấ t khá nhiề u

thờ i gian tì m hiể u và hì nh thà nh dự á n nhưng đế n khi dự á n đượ c hì nh thà nh

thì lại phải huỷ bỏ vì quy hoạch thay đổi , đó cũ ng là do tỉnh Phú Thọ chưa có

90

quy hoạ ch , hướ ng dẫ n đầ u tư tổ ng thể hợ p lý. Công tác quy hoạch chi tiết,

quy hoạch cho đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng chưa được coi trọng. Trong

các năm vừa qua, tỉnh vẫn chưa có sự nghiên cứu nghiêm túc và xây dựng các

danh mục dự án đầu tư chủ yếu cần thu hút . Vì thế, để tránh rủi ro , các nhà

đầ u tư phả i chờ đợ i để thăm dò .

Trong khi quỹ đất sạch tại nhiều địa phương đang ngày càng trở nên

khan hiếm thì việc các dự án FDI "chiếm đất", không triển khai thực hiện đã

khiến nhiều nhà đầu tư có nhu cầu đầu tư thật sự, cấp bách đành bỏ lỡ cơ hội

đầu tư vì không tìm được mặt bằng. Đây là sự lãng phí lớn về nguồn lực.

Không chỉ vậy, tình trạng "treo" của các dự án FDI còn gây khó khăn, bức

xúc cho người dân trong diện giải tỏa mặt bằng để thực hiện dự án.

2.3.3.4. Chất lượng nguồn nhân lực

Thự c tế ở Phú Thọ cho thấ y , độ i ngũ nhữ ng ngườ i là m kinh doanh và

viên chứ c Nhà nướ c cò n thiế u và yế u . Nét nổi bật của sự yếu kém thể hiện ở

chỗ : Khả năng hiểu biết về luật và áp dụng luật , kinh nghiệ m nắ m bắ t thị

trườ ng, kinh nghiệ m là m ăn vớ i ngườ i nướ c ngoà i , trình độ ngoại ngữ , thông

lệ quố c tế ... còn yếu. Tỉnh vẫn chưa có cá c hì nh thứ c đào tạo thí ch hợ p , nhấ t

là đào tạo nghề với sự tham gia của các tổ chức trong nước và nước ngoài

nhằ m đá p ứ ng tố t hơn nhu cầ u lao độ ng kỹ thuậ t cao củ a nhà đầ u tư để họ đá p

ứng được yêu cầu công việc.

Năng lực của cán bộ quản lý, thẩm tra và làm công tác xúc tiến đầu tư ở

các tỉnh nhìn chung hạn chế. Cán bộ quản lý chưa quan tâm đầy đủ, đúng mức

đến việc thẩm định năng lực tài chính, kỹ thuật cũng như những tác động về

môi trường, kinh tế - xã hội lâu dài của các dự án có quy mô lớn, có tác động

không những đến sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh mà còn tác động đến

kinh tế - xã hội của cả nước.

2.3.3.5. Hoạt động xúc tiến đầu tư:

Trong thời gian qua, công tác vận động xúc tiến đầu tư đã có nhiều cải

91

tiến, được tiến hành ở nhiều ngành, nhiều cấp trong tỉnh bằng các hình thức

đa dạng. Tuy nhiên, hiệu quả của công tác này chưa cao, hoạt động xúc tiến

đầu tư còn giàn trải, phân tán nguồn lực, chưa tập trung vào các đối tác, lĩnh

vực trọng điểm; chưa có sự thống nhất điều phối để đảm bảo sự tập trung thực

hiện đúng mục tiêu thu hút đầu tư nước ngoài trong từng thời kỳ, từng địa

bàn, từng đối tác.

Hoạt động xúc tiến đầu tư nước ngoài vẫn chưa nhận được sự quan tâm

thích đáng, chưa được tiến hành rộng rãi và toàn diện. Đó là nguyên nhân mà

ngoài Hàn Quốc ra, rất ít quốc gia khác biết tới Phú Thọ hoặc là có đầu tư

nhưng rất ít như Nhật Bản hay Trung Quốc. Trang web giới thiệu tiềm năng

thu hút đầu tư của tỉnh còn ít thông tin, chưa có đầy đủ thông tin về các tiềm

năng của tỉnh cũng như danh mục các dự án FDI kêu gọi vốn đầu tư. Tỉnh

chưa thực sự đầu tư kinh phí để đẩy mạnh công tác xúc tiến đầu tư trên các

phương tiện thông tin đại chúng trung ương và địa phương.

Vậy, từ một số nguyên nhân cơ bản trên, tỉnh Phú Thọ đã chỉ đạo các

ban, ngành khắc phục và phát huy hơn nữa lợi thế của mình nhằm tăng sức

cạnh tranh và tính hấp dẫn của môi trường đầu tư trong tỉnh

Kết luận chƣơng 2

1. Với phương châm khai thác có hiệu quả các tiềm năng và lợi thế so

sánh của tỉnh, trong thời gian qua tỉnh Phú Thọ đã ban hành nhiều chính sách

ưu đãi hấp dẫn, mở rộng cửa mời gọi các nhà đầu tư trong và ngoài nước cùng

đầu tư phát triển các ngành công nghiệp có lợi thế về nguyên liệu tại chỗ, có

khả năng thu hồi vốn nhanh và đạt hiệu quả cao, tập trung vào 4 nhóm ngành

có lợi thế so sánh là: Công nghiệp chế biến nông, lâm sản, thực phẩm; khai

khoáng, hoá chất, phân bón; sản xuất vật liệu xây dựng và công nghiệp sản

xuất hàng may mặc, hàng tiêu dùng. Ngoài ra Phú Thọ cũng đã giành 1000ha

92

đất để ưu tiêu cho phát triển các khu công nghiệp tập trung ở phía Bắc, phía

Nam và phía Tây thành phố Việt Trì; định hình một số cụm công nghiệp ở các

huyện Tam Nông, Thanh Thuỷ, Lâm Thao…

2. Các doanh nghiệp FDI đã có đóng góp vào GDP, vào việc chuyển

đổi cơ cấu sản xuất và tự khẳng định vai trò không thể thiếu trong quá trình

phát triển kinh tế của tỉnh. FDI đã thu hút được một lực lượng lao động đáng

kể, góp phần giải quyết bức xúc vấn đề về lao động việc làm.

3. Bên cạnh những kết quả bước đầu đạt được, hiện nay hoạt động của

khu vực có vốn FDI của Phú Thọ cũng còn nhiều khó khăn, tồn tại. Dự án xin

được rút giấy phép chiếm số vốn khá lớn, số dự án hoạt động có hiệu quả

chưa nhiều. Còn tồn tại một số khiếm khuyết trong công tác quy hoạch, xúc

tiến dự án đầu tư. Việc tiếp thu và sử dụng công nghệ, thiết bị máy móc nước

ngoài còn nhiều tồn tại, hạn chế, chưa góp phần vào hiện đại hóa nền kinh tế

của tỉnh.

4. Sự tồn tại, hạn chế trong thu hút, sử dụng nguồn FDI là do nhiều

nguyên nhân. Tình hình đó đặt ra vấn đề cấp bách cần nhanh chóng khắc phục

những yếu kém, đổi mới phương thức quản lý FDI vào Phú Thọ. Mục tiêu đặt ra là

các cơ quản Nhà nước có thẩm quyền cần phối hợp với các Ban, ngành liên

quan xây dựng các chương trình, kế hoạch thu hút, sử dụng hiệu quả nguồn

lực này. Từ đó nâng cao công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động của

các doanh nghiệp sao cho hiệu quả, đạt mục đích đề ra, đưa Phú Thọ trở thành

93

một trung tâm kinh tế của vùng.

Chƣơng 3

PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUẢN LÝ

NHÀ NƢỚC ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP CÓ VỐN ĐẦU TƢ

TRỰC TIẾP NƢỚC NGOÀI TẠI PHÚ THỌ

3.1 Mục tiêu, định hƣớng thu hút, quản lý doanh nghiệp FDI của Việt

Nam giai đoạn 2011 – 2020

3.1.1. Mục tiêu quản lý

Nhằm tiếp tục đẩy mạnh, nâng cao hiệu quả quản lý doanh nghiệp có

vốn đầu tư nước ngoài thời gian tới, Thủ tướng chính phủ đã ban hành Nghị

quyết số 13/NQ-CP về tăng cường thực hiện và chấn chỉnh công tác quản lý

đầu tư, đưa ra các mục tiêu, định hướng thu hút, quản lý doanh nghiệp FDI:

- Nâng cao chất lượng, hiệu quả đầu tư nước ngoài phù hợp với định

hướng Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam 2011 - 2020 theo

hướng khuyến khích kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài phát triển theo quy

hoạch; ưu tiên thu hút các dự án có công nghệ hiện đại, thân thiện với môi

trường, sử dụng có hiệu quả các nguồn tài nguyên, khoáng sản, đất đai, tạo

điều kiện và tăng cường liên kết với các doanh nghiệp trong nước; tập trung

thu hút vào các lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ, công nghiệp phục vụ nông

nghiệp, dịch vụ có lợi thế, có hàm lượng tri thức cao, công nghệ thông tin;

dịch vụ khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo, phát triển kết cấu hạ

tầng; thu hút có chọn lọc công nghiệp chế biến, chế tác, công nghiệp công

nghệ cao, công nghiệp năng lượng, luyện kim, hóa chất; ưu tiên phát triển các

dự án có sản phẩm có lợi thế cạnh tranh, các sản phẩm có khả năng tham gia

mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu.

Hạn chế các dự án đầu tư vào khu vực phi sản xuất, làm gia tăng tình

94

trạng nhập siêu, tiêu tốn năng lượng, khai thác không gắn với chế biến.

Không cấp Giấy chứng nhận đầu tư đối với các dự án sử dụng lãng phí năng

lượng, tài nguyên, sử dụng công nghệ lạc hậu, gây ô nhiễm môi trường.

- Nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp

đầu tư nước ngoài để đảm bảo chất lượng của hoạt động này trong tình hình mới.

- Hoàn thiện cơ chế quản lý nhà nước về doanh nghiệp có vốn đầu tư

nước ngoài nhằm tăng cường, nâng cao hiệu quả phối hợp giữa Bộ KH&ĐT

và các Bộ, ngành, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương

trong toàn bộ quá trình cấp Giấy chứng nhận đầu tư, quản lý dự án và kiểm

tra, giám sát hoạt động đầu tư.

Thực hiện Chỉ thị trên, UBND tỉnh Phú Thọ chỉ đạo các Sở, ban ngành

liên quan định ra kế hoạch, tổ chức thực hiện, cụ thể:

- Hoàn thiện và ban hành cơ chế phối hợp giữa các cơ quan chức năng

trong việc thẩm tra, cấp, điều chỉnh, thu hồi Giấy chứng nhận đầu tư và quản

lý nhà nước đối với doanh nghiệp FDI trên địa bản tỉnh.

- Chủ trì rà soát quy hoạch và công bố định hướng đầu tư nước ngoài

theo địa phương/vùng lãnh thổ giai đoạn 2011 - 2020.

- Kiểm tra, giám sát chặt chẽ Sở Kế hoạch và Đầu tư trong quá trình

cấp Giấy chứng nhận đầu tư, việc thực hiện các nghĩa vụ, trách nhiệm của các

cơ quan quản lý nhà nước tại địa phương trong quá trình thực hiện dự án (giao

đất, thuê đất, giải phóng mặt bằng, triển khai các hoạt động xây dựng).

- Các cơ quan chức năng xem xét thận trọng quá trình thẩm định, cấp

giấy chứng nhận đầu tư, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát tình hình triển

khai thực hiện của các dự án đã được cấp giấy chứng nhận đầu tư, đảm bảo

các dự án thực hiện đúng tiến độ, đúng cam kết và pháp luật; tránh việc xử lý

chồng chéo, thiếu thống nhất giữa các cơ quan chức năng trên địa bàn.

- Chủ động phát hiện và xử lý các vấn đề có thể xảy ra khiếu nại, tranh

95

chấp, kịp thời phối hợp với các Bộ, ngành, cơ quan liên quan để sớm xử lý

giải quyết, không để sự việc diễn biến phức tạp như một số địa phương trong

cả nước.

- Chủ trì, phối hợp với Sở Tài nguyên và Môi trường, Sở KH&ĐT, Sở

Tài chính, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ban hành quy định về suất

đầu tư tối thiểu/ha đối với các dự án đầu tư có yêu cầu sử dụng diện tích đất

lớn, đặc biệt là đất nông nghiệp chuyên trồng lúa phù hợp với thực tế của tỉnh

và cả nước.

Thời gian gần đây, kinh tế Phú thọ đã có bước phát triển nhanh, đời

sống vật chất và tinh thần của nhân dân không ngừng được cải thiện. Đặc biệt,

trong lĩnh vực thu hút vốn đầu tư nước ngoài đã đạt được những thành tựu

đáng kể. Nét nổi bật trong thu hút vốn đầu tư nước ngoài ở Phú Thọ là ngay

từ đầu, tỉnh đã thực hiện tốt chủ trương của Bộ KH&ĐT về quá trình thu hút,

quản lý nguồn vốn FDI, tiến hành quy hoạch phát triển KTXH, xác định các

khu, các cụm công nghiệp để đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng, tạo điều kiện

thuận lợi để thu hút vốn đầu tư nước ngoài, có nhiều nhà đầu tư nước ngoài đã

đến Phú Thọ để làm ăn, kinh doanh. Những quan điểm của Nhà nước về thu

hút, sử dụng và quản lý doanh nghiệp FDI thời gian tới sẽ định hướng cho

tỉnh trong quá trình thực hiện.

3.1.2 Định hướng phát triển kinh tế - xã hội và mục tiêu thu hút FDI của

Phú Thọ trong giai đoạn 2010 - 2020

Thủ tướng chính phủ đã phê duyệt quy hoạch tổng thể phát triển KTXH

tỉnh Phú Thọ đến năm 2020 theo quyế t đị nh số 99/2008/QĐ-TTg ngà y

14/7/2008 vớ i cá c tiêu chí sau:

3.1.2.1. Các chỉ tiêu kinh tế – xã hội cơ bản tới năm 2020

 Mục tiêu chung:

- Xây dự ng Phú Thọ trở thà nh Trung tâm kinh tế vù ng ; là một trong

nhữ ng trung tâm khoa họ c , công nghệ , giáo dục , y tế , văn hó a , thể thao , du

96

lịch của vùng trung du và miền núi Bắc Bộ ; là đầu mối giao thông quan trọng

nộ i vù ng và là thà nh phố lễ hộ i về nguồ n củ a dân tộ c Việ t Nam ; đồ ng thờ i, là

đị a bà n trọ ng điể m chiế n lượ c về quố c phò ng, an ninh củ a vù ng cũ ng như củ a

cả nước.

- Phấn đấu thu hẹp khoảng cách chênh lệch với cả nước về trình độ phát

triển và mức sống dân cư, trong đó tiêu biểu nhất là thu hẹp mức chênh lệch

GDP/người của tỉnh so với mức trung bình của cả nước và tiến tới vượt mức

trung bình của cả nước về chỉ tiêu này. Phấn đấu đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng

kinh tế, tránh tụt hậu để đến năm 2020 đạt GDP/người gấp khoảng gần 7,0 lần so

với năm 2000. Nguồn lực con người được phát huy, năng lực khoa học và công

nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế được tăng cường, vị thế của Phú Thọ

được nâng lên cho xứng đáng là một trong những trung tâm kinh tế, văn hoá, xã

hội của vùng trung du miền núi phía Bắc. Chất lượng cuộc sống của nhân dân

các dân tộc trong tỉnh được nâng cao, phấn đấu mọi người trong độ tuổi lao động

đều có việc làm, hạn chế mức thấp nhất tốc độ phân hoá giàu nghèo.

- Thu hút tối đa mọi nguồn lực nhằm mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại

hóa tới năm 2020: Tình phấn đấu tăng trưởng kinh tế nhanh và chuyển dịch cơ

cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH để tới năm 2020 cơ bản trở thành một tỉnh

công nghiệp. Để đạt được mục tiêu tăng trưởng nhanh, tỉnh cần thu hút có hiệu

quả mọi nguồn lực, đặt biệt là đầu tư nước ngoài và đầu tư từ khu vực dân

doanh, huy động manh mẽ vốn và trí tuệ từ các thành phần kinh tế khác.

 Các chỉ tiêu kinh tế – xã hội cơ bản đến 2020

- Chỉ tiêu kinh tế:

+ Tăng tốc kinh tế để thu hẹp tiến tới bằng và vượt mức GDP bình quân

đầu người so với cả nước, tốc độ tăng trưởng kinh tế cả giai đoạn từ nay đến

năm 2020 cao hơn 1,3 - 1,5 lần cả nước và vùng trung du và miền núi Bắc Bộ.

+ Cơ cấu kinh tế chuyển đổi theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp và

dịch vụ. Đến năm 2020, cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp - xây dựng là 50 -

97

51%, dịch vụ 40 - 41%, nông, lâm nghiệp 9 - 10%;

+ Thu ngân sách đến năm 2020 chiếm tỷ trọng 17 - 18% GDP vào năm

2020; kim ngạch xuất khẩu năm 2020 đạt 500 - 520 triệu USD;

+ Huy động vốn đầu tư toàn xã hội cả thời kỳ từ nay đến năm 2020 đạt

124 - 125 nghìn tỷ đồng, giai đoạn 2011 - 2015 đạt 35 - 36 nghìn tỷ đồng và

giai đoạn 2016 - 2020 đạt 60 - 61 nghìn tỷ đồng.

- Chỉ tiêu xã hội

+ Duy trì kết quả phổ cập trung học cơ sở; hoàn thành phổ cập giáo dục

bậc trung học vào năm 2015; nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo, văn hóa

thể thao và giá trị văn hóa tinh thần của nhân dân;

+ Đế n năm 2015 có 9 bác sĩ và 28 giường bệnh/1 vạn dân và đến năm

2020 có 11 bác sĩ và 30 giường bệnh/1 vạn dân;

+ Xây dựng nếp sống văn hóa, văn minh, giữ gìn bản sắc văn hóa dân

tộc và ngăn ngừa các tệ nạn xã hội; xây dựng hoàn thiện thiết chế văn hóa

thông tin cơ sở từ tỉnh tới cấp xã, phường, thôn, bản để khắc phục tình trạng

chênh lệch về mức hưởng thụ văn hóa nhằm từng bước nâng cao đời sống tinh

thần của nhân dân;

+ Tỷ lệ lao động qua đào tạo 70 - 75% vào năm 2020; giảm tỷ lệ hộ nghèo

còn 10% dưới 5% vào năm 2020

- Các chỉ tiêu về môi trường:

+ Tỷ lệ độ che phủ rừng đạt trên 55% vào năm 2020;

+ Từ nay đến năm 2020, có 100% cơ sở sản xuất mới xây dựng áp dụng

công nghệ sạch hoặc trang thiết bị giảm ô nhiễm, xử lý chất thải; tốc độ đổi

mới công nghệ trong các doanh nghiệp đạt bình quân khoảng 20%/năm; trên

50% số huyện, thành phố, thị xã xử lý, chế biến được rác thải; 100% bệnh viện

được xử lý chất thải nguy hại; tỷ lệ số hộ được dùng nước sạch đạt 85%;

+ Đến năm 2020, tỷ lệ số hộ được dùng nước sạch đạt trên 90%; 100%

số hộ nông dân sử dụng công trình vệ sinh hợp quy cách.

98

3.1.2.2. Mục tiêu thu hút FDI của Phú Thọ đến năm 2020

- Tổng quan về thu hút FDI đến 2020

Giai đoạn 2010 - 2020, theo “Quy hoạch phát triển Kinh tế - Xã hội

Phú Thọ đến 2020” thì lượng FDI cần thiết là 22,5% tổng vốn đầu tư tức là

khoảng 1708,75 triệu USD, bình quân 1 năm là 122 triệu USD. Để đáp ứng

nhu cầu đầu tư đó, Phú Thọ đã xây dựng một danh mục các dự án kêu gọi đầu

tư nước ngoài đến năm 2020 với tổng số 130 dự án với số vốn đầu tư kêu gọi

lên tới 7.386 triệu USD. Trong đó:

Lĩnh vực công nghiệp: 21 dự án.

Lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn: 11 dự án

Lĩnh vực điện, giao thông, hạ tầng: 32 dự án

Lĩnh vực văn hóa - xã hội: 33 dự án

Lĩnh vực du lịch – dịch vụ: 11 dự án

Lĩnh vực môi trường – sinh thái: 23 dự án

Lĩnh vực an ninh – quốc phòng: 4 dự án

Như vậy, số lượng dự án và số vốn đầu tư kêu gọi là rất lớn, cho chúng

ta thấy rõ sự quan tâm thích đáng và tham vọng của tỉnh Phú Thọ trong thu

hút nguồn vốn FDI. Các dự án đầu tư mà tỉnh dự định mời gọi có số vốn bình

quân lên tới 58 triệu USD/dự án. Trong đó rất đáng chú ý là ngành du lịch và

dịch vụ với 3.696 triệu USD, tính bình quân 160,7 triệu USD/dự án. Tỉnh Phú

Thọ rất có tiềm năng về du lịch với nhiều thắng cảnh thiên nhiên đẹp như:

Rừng quốc gia Xuân Sơn, Hồ Ao Châu, suối nước nóng Thanh Thủy... và khu

di tích lịch sử đền Hùng, rất phù hợp các loại hình du lịch như dư lịch sinh

thái, du lịch cội nguồn. Các dự án giai đoạn 2001-2007 chính là nhằm vào các

hình thức trên, đã nhận được sự chú ý của các nhà đầu tư nước ngoài.

Trong số các ngành và lĩnh vực mời gọi đầu tư, thứ tự ưu tiên như sau:

Du lị ch , dịch vụ ; Đầu tư kinh doanh bấ t độ ng sả n ; Khai thác và chế biến

99

khoáng sản;

Đầu tư vào các lĩnh vự c thu hú t nhiề u lao độ ng ; Nuôi trồ ng, chế biế n

lâm, thuỷ hải sản; Sản xuất chế biế n hà ng xuấ t khẩ u ; Khai thác các tiềm năng

du lị ch; Vùng nông thôn , vùng sâu vùng xa ; Đầu tư sản xuất chế biế n, nâng

cao chất lợng nông sản mũi nhọn; Các hình thức BOT, BT, BTO, 100% vố n.

- Danh mục các dự án thu hút FDI chủ yếu đến 2020

Trong tổng số 135 dự án kêu gọi đầu tư nước ngoài đến năm 2020, có

20 dự án đầu tư thuộc danh mục các dự án kêu gọi đầu tư chủ yếu của tỉnh

Phú Thọ. Đây là các dự án đã được khảo sát và nghiên cứu kỹ càng, nằm

trong quy hoạch tổng thể KT-XH Phú Thọ đến năm 2020. Dự án nhỏ nhất

trong danh mục này cũng có vốn đầu tư 15 triệu USD và dự án lớn nhất có

vốn đầu tư tới 1.500 triệu USD. Các dự án này kêu gọi đầu tư theo hình thức

BOT, Liên doanh hay doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Địa điểm đầu tư là

nhiều huyện, thị trên địa bàn tỉnh song vẫn tập trung các dự án đầu tư lớn vào

khu vực thành phố Việt Trì và vùng lân cận.

3.1: Danh mục các dự án thu hút FDI chủ yếu của Phú Thọ (2010 - 2020)

(Đơn vị: Triệu USD)

S Dự án Địa điểm Hình thức Vốn đầu tư STT

111 Thanh Thủy LD,100% vốn 1

Đầu tư xây dựng nhà máy xi măng 1 theo công nghệ mới 2 Xây dựng khu công nghệ phần mềm Việt Trì 100% vốn 250 2

3 Sản xuất thuốc tân dược Việt Trì 100% vốn 15 3

Việt Trì 120-150 LD,100% vốn 4

4 Xây dựng các ngành công nghiệp phụ trợ 5 Khai thác và chế biến khoáng sản 100% vốn 25-30 Thanh Thủy, Yên Lập 5

100

6Trồng và chế biến nông sản xuất Đoan Hùng, LD,100% 40

6 khẩu 7 Trồng và chế biến chè xuất khẩu 40 Lâm Thao Thanh Sơn, Yên Lập 7

Phù Ninh 1.300 vốn LD,100% vốn BOT,100% vốn 8

Xây dựng nhà máy nhiệt điện chạy 8 bằng than đá 9 Cải tạo, nâng cấp đường tỉnh lộ Toàn tỉnh BOT 60 9

75-100 10

200-250 11

250 Việt Trì, Phù Ninh Việt Trì, Tam Nông Việt Trì, TX Phú Thọ 12

Việt Trì 20-30 13

Xây dựng hệ thống công viên Văn Việt Trì 35-30 14

Xây dựng khu du lịch, vui chơi Hạ Hòa 300-500 15

Xây dựng quần thể du lịch, dịch vụ, 1.500 Tam Nông, Thanh Thủy 16

Xây dựng trung tâm thương mại, Việt Trì 20-30 LD, 100%vốn LD, 100% vốn LD,100% vốn LD,100% vốn LD,100% vốn LD,100% vốn LD,100% vốn LD,100% vốn 17

Quy hoạch Việt Trì thành thành 100% vốn 5-10 Việt Trì mở rộng 18

Xây dựng hồ sinh thái điều hòa Việt Trì BOT 50 19

Nguồn: Phú Thọ tiềm năng và cơ hội hợp tác đầu tư

Sở Kế hoạch và Đầu tư Phú Thọ 2009

101

Điều tra, quy hoạch, bảo tồn vùng BOT 25 1 Cải tạo hệ thống cảng sống Việt Trì, xây dựng cảng mới Yến Mao 1 Đầu tư kinh doanh hạ tầng các KCN,CCN Đầu tư kinh doanh bất động sản, các 2 khu đô thị mới Đầu tư xây dựng hệ thống cơ sở vật 1 chất cho hệ thống dạy nghề 1 Lang, khu du lịch Bến Gót 1 nghỉ dưỡng Ao Châu 1 đô thị 1 siêu thị bán lẻ 1 phố lễ hội 1 không khí 2 ngập nước Tam Nông, Cẩm Khê 20

Trong số 20 dự án kêu gọi đầu tư thuộc danh mục thì các dự án đầu tư

thuộc lĩnh vực du lịch – dịch vụ - thương mại chiếm tỷ trọng vượt trội cả về

số lượng dự án cũng như quy mô dự án. Có 10/20 dự án kêu gọi đầu tư vào

các ngành trên với tổng số vốn đầu tư dự tính là 2.760 triệu USD, trong đó

riêng tổ hợp dự án “Xây dựng quần thể du lịch , dịch vụ và đô thị” đã chiếm

tới 1.500 USD. Dự án có đị a điể m ở Phí a Bắ c huyệ n Tam Nông , Phía Bắ c

Huyện Hạ Hoà và khu nước khoá ng nó ng Thanh Thuỷ . Dự án tận dụng các

khu đất rộng lớn với các thắng cảnh tự nhiên nổi tiếng của tỉnh như Hồ Ao

Châu thuộc huyện Hạ Hòa, khu suối nước nóng Thanh Thủy,... để xây dựng

quy mô lớn thành một tổ hợp gồm nhiều khu du lịch, khách sạn và nơi nghỉ

dưỡng. Tổ hợp dự án gồm có 3 dự án nhỏ (trung bình mỗi dự án 500 triệu

USD), với quy hoạ ch mỗ i dự á n 1.000 ha (Tổ ng số 3.000 ha), xây dựng khu

du lị ch sinh thá i , nghỉ dưỡng, công viên giả i trí quố c tế Everland , trường đua

ngự a, mô tô, sân golf 36 lỗ , khách sạn 5 sao, khu vui chơi có thở ng , khu biệ t

thự , villa cho thuê, bán...

Trong 10 dự án còn lại thì có 6 dự án kêu gọi đầu tư vào ngành công

nghiệp, 2 dự án kêu gọi đầu tư vào ngành nông nghiệp và 2 dự án kêu gọi đầu

tư vào lĩnh vực môi trường. Các dự án công nghiệp có tổng quy mô là 1.856

triệu USD, thu hút vào nhiều lĩnh vực như khai thác khoáng sản , dược, sản

xuất xi măng , công nghệ phần mềm tuy nhiên dự án lớn nhất là dự án “Xây

dựng nhà máy nhiệt điện chạy bằng than đá” có vốn lên tới 1.300 triệu USD.

Dự án có hai giai đoạn : Giai đoạn 1 quy mô là 300 MegaW, có thể mở rộng

giai đoạ n 2. Dự án dự kiến xây dựng trên huyện Phù Ninh , tận dụng lợi thế

địa điểm phù hợ p vậ n chuyể n than , tận dụng mặ t nước sông Lô , điề u kiệ n

giao thông, cấ p điệ n , nước và hệ thố ng dị ch vụ thuậ n lợ i . Nhà máy khi xây

dựng xong và đi vào vận hành sẽ trở thành trung tâm cung cấ p điệ n củ a vù ng ,

102

phụ tải lớn.

Có hai dự án kêu gọi đầu tư vào ngành nông nghiệp là dự án “Trồng và

chế biến nông sản xuất khẩu” và dự án “Trồng và chế biến chè xuất khẩu”.

Trong đó dự án trồng chè có vù ng nguyên liệ u 12.000ha, dự định xây dự ng 4

nhà máy công xuất 12 tấ n/ngày với sản lượng chè búp khô xuất khẩu 14.000

tấ n/năm. Hai dự án còn lại trong danh mục 20 dự án chủ yếu là hai dự án đầu

tư vào lĩnh vực môi trường, có mục đích chính là bảo tồn và cải tạo môi

trường tự nhiên của tỉnh.

3.2 Những giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện quản lý nhà nƣớc đối với

doanh nghiệp có vốn đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài tại tỉnh Phú Thọ

3.2.1 Nâng cao chất lượng công tác quy hoạch

Trước hết, cần xây dựng quy hoạch tổng thể về thu hút FDI. Từ trước

đến nay, tỉnh mới chỉ có định hướng thu hút FDI mà chưa xây dựng một quy

hoạch, chiến lược thu hút FDI có gắn với các loại quy hoạch khác như quy

hoạch vùng, quy hoạch ngành... Việc phân cấp đầu tư mạnh trong điều kiện

thiếu các quy hoạch cũng như chưa chuẩn bị nguồn nhân lực quản lý đã dẫn

đến tình trạng ồ ạt triển khai một loạt các dự án theo kiểu "phong trào" như dự

án xây dựng nhà máy giấy, xi-măng, may mặc... gây lãng phí vốn đầu tư,

khiến cơ cấu kinh tế có nguy cơ bị lệch, vì vậy cần thực hiện một số giải pháp

nhằm nâng cao chất lượng công tác quy hoạch:

- Tổ chức công bố, phổ biến Quy hoạch phát triển KTXH của tỉnh đến

năm 2020 cho tất cả các cấp ủy Đảng và chính quyền, các ngành, đoàn thể,

các doanh nghiệp trong nước và nước ngoài, nhân dân trong tỉnh; trên cơ sở

đó, từng bước cụ thể hóa công tác quy hoạch khu vực FDI và đưa vào các kế

hoạch 5 năm, hàng năm để thực hiện. Tùy theo sự thay đổi của tình hình phát

triển kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ, tiến hành rà soát, điều chỉnh, bổ sung

quy hoạch kịp thời cho phù hợp với quá trình phát triển; Thực hiện thống nhất

103

các quy định mới của Luật Đầu tư trong công tác quy hoạch, đảm bảo việc xây

dựng các quy hoạch ngành, lĩnh vực phù hợp với các cam kết quốc tế. Ban

hành các văn bản hướng dẫn các nhà đầu tư nước ngoài và doanh nghiệp về lộ

trình cam kết mở cửa đầu tư nước ngoài làm cơ sở xem xét cấp phép đầu tư.

- Tăng cường hiệu lực và hiệu quả cơ chế phối hợp giữa các sở, ban,

ngành với UBND cấp huyện, thị xã, thành phố trong công tác quản lý, giám

sát, thanh tra, kiểm tra các dự án đầu tư FDI. Từ đó ngăn chặn được tình trạng

các dự án đã được cấp phép đầu tư nhưng không triển khai thực hiện, ngăn

chặn và xử lý kịp thời các vi phạm về: tiến độ thực hiện dự án, việc tuân thủ

các quy định của pháp luật về lao động, môi trường, thuế và các nghĩa vụ tài

chính, đảm bảo an ninh trật tự tại hiện trường dự án.

- Tổ chức giới thiệu, quảng bá các dự án ưu tiên trong các dịp mời gọi,

xúc tiến đầu tư để các nhà đầu tư nước ngoài tìm đến và đầu tư. Đồng thời,

cần tập trung đầu tư nhiều hơn ở những vùng có thế mạnh chứ không phải các

vùng chậm phát triển, hỗ trợ doanh nghiệp công nghệ cao nhiều hơn doanh

nghiệp khác. Thay vì hỗ trợ tài chính doanh nghiệp nhỏ và vừa như trước đây,

tỉnh nên hỗ trợ kinh phí, tài chính cho tập đoàn lớn để mong muốn thu hút dự

án công nghệ vào địa phương.

- Xây dựng chính sách ưu đãi đầu tư phù hợp với định hướng thu hút

FDI giai đoạn 2011-2020; hoàn thiện, nâng cao hiệu quả chế độ phân cấp

quản lý FDI, bao gồm việc phân cấp cấp giấy chứng nhận đầu tư, quản lý hoạt

động FDI và phân cấp quản lý một số lĩnh vực; nâng cao hiệu quả công tác

quản lý dòng vốn FDI; nghiên cứu, xây dựng và hoàn thiện cơ chế, chính sách

nhằm hạn chế và ngăn chặn tình trạng chuyển giá của các doanh nghiệp có

vốn FDI; Tăng cường công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động FDI, đặc

biệt là việc thanh tra, kiểm tra, giám sát theo quy định của pháp luật về đầu tư

và pháp luật chuyên ngành đối với các dự án FDI có quy mô lớn, sử dụng

104

nhiều đất,…

- Sớm bổ sung, hoàn thiện các quy hoạch ngành, quy hoạch xây dựng,

quy hoạch sử dụng đất để cơ quan xúc tiến đầu tư của tỉnh chủ động hơn trong

mời gọi đầu tư và khi nhà đầu tư vào tỉnh thì không phải chờ đợi. Đi đôi với

việc không ngừng đổi mới thể chế để thu hút FDI, cần hoàn thiện thể chế để

ngăn ngừa những biểu hiện tiêu cực có thể có như trốn thuế, gây ô nhiễm môi

trường, không bảo đảm điều kiện cần thiết cho người lao động theo luật định..

Những dự án có tính chất quan trọng, có vị trí lợi thế sẽ xây dựng tiêu chí lựa

chọn nhà đầu tư cụ thể, làm cơ sở giao cơ quan xúc tiến đầu tư của tỉnh tổ

chức mời gọi, lựa chọn nhà đầu tư phù hợp.

- Nghiên cứu, ban hành các giải pháp cụ thể để thu hút đầu tư nước ngoài

cho các lĩnh vực ưu tiên như giáo dục, đào tạo, y tế, quy hoạch đô thị; ban hành

văn bản hướng dẫn nhằm tăng cường công tác phối hợp đồng bộ các chính sách

đất đai, đầu tư tài chính, tín dụng để khuyến khích đầu tư nước ngoài.

- Về chiến lược thu hút FDI thời gian tới, tỉnh Phú Thọ sẽ tập trung vào

tiêu chí phát triển bền vững, ưu tiên phát triển các ngành công nghệ sạch, sử

dụng tiết kiệm và hiệu quả tài nguyên, năng lượng, đầu tư các ngành công

nghiệp hỗ trợ. Về không gian đầu tư, quy hoạch các dự án đầu tư theo cụm,

vùng, tạo liên kết thành chuỗi giá trị trong toàn quốc để tăng hiệu quả đầu tư,

giảm chi phí vận chuyển và tạo sự hỗ trợ lẫn nhau về công nghệ, môi trường

và lao động.

- Vị trí thuận lợi về giao thông, thị trường tiêu thụ lớn, nguồn nhân lực

trình độ cao khá dồi dào... là những lợi thế để các KCN và khu chế xuất Phú

Thọ thu hút những dự án loại này. Tuy nhiên, trở ngại lớn nhất hiện nay chính

là thiếu đất sạch để cung cấp cho nhà đầu tư vì công tác giải phóng mặt bằng

gặp nhiều khó khăn, giá đất tăng cao. Do đó, cần có những chính sách hỗ trợ

105

đẩy nhanh tiến độ giải phóng mặt bằng để bàn giao cho nhà đầu tư. Ngoài ra,

cần tạo cơ chế, chính sách ưu đãi khuyến khích đầu tư vào các lĩnh vực như

nông nghiệp, bảo vệ môi trường..

3.2.2. Đẩy mạnh công tác xúc tiến đầu tư

Nói về hoạt động xúc tiến đầu tư trong thời gian tới, ông Hoàng Công

Thủy – Giám đốc Sở KH&ĐT cho hay: Mục tiêu chiến lược và tầm nhìn đến

năm 2020 là xây dựng Phú Thọ trở thành một tỉnh công nghiệp, cơ cấu kinh tế

hiện đại, thân thiện với môi trường, bảo đảm sự phát triển bền vững, đồng

thời là hạt nhân gắn kết các địa phương trong khu vực để cùng phát triển [7].

Phú Thọ đã bắt đầu triển khai những giải pháp mới để tăng cường thu hút hiệu

quả nguồn vốn đầu tư nước ngoài, đó là đẩy mạnh xúc tiến thương mại, quảng

bá thông tin. Những dự án mời gọi đầu tư vào tỉnh phải tạo được điểm nhấn

cho tỉnh trong tương lai. Trong đó, ưu tiên những dự án công nghệ cao trên

lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp, đầu tư hạ tầng cơ sở các KCN, CCN. Tuy

nhiên, ngoài nỗ lực của tỉnh rất cần chính sách từ Trung ương như nới rộng

cho tỉnh cơ chế vay vốn của các tổ chức nước ngoài (theo quy định hiện nay

là vay vốn không vượt quá 30% ngân sách địa phương)... Thêm vào đó,

phương hướng phát triển bền vững của tỉnh cũng được thể hiện trong nội

dung nghị quyết số 37-NQ/TƯ của Bộ chính trị khóa IX về phương hướng

phát triển KTXH, đảm bảo quốc phòng an ninh vùng trung du và miền núi

Bắc Bộ, quyết định của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt quy hoạch tổng thể

phát triển KTXH tỉnh Phú Thọ đến năm 2020... Nếu những chiến lược đòn

bẩy này được khai thác tốt sẽ cải thiện môi trường đầu tư, nâng cao chỉ số

cạnh tranh cho tỉnh trong giai đoạn tới.

Đẩy mạnh phát triển công nghiệp phụ trợ để thu hút được những dự án

công nghệ cao từ các TNCs. Ðồng thời chú trọng thu hút các dự án R&D...

Ban hành các văn bản quy định rõ ràng về tiêu chuẩn công nghệ, môi trường,

106

nhằm kiểm soát công nghệ mà các nhà đầu tư nước ngoài mang vào, hoàn

thiện hành lang pháp lý cho chuyển giao công nghệ… Cần hướng các nhà đầu

tư nước ngoài vào việc góp phần giảm tình trạng nhập siêu vì không ít doanh

nghiệp FDI nhập khẩu chính sản phẩm của họ để gia công làm trầm trọng

thêm tình hình.

Chủ động tiếp cận và hỗ trợ các nhà đầu tư tiềm năng có nhu cầu đầu tư

vào tỉnh; Tăng cường năng lực và nâng cao vai trò tư vấn và hỗ trợ doanh

nghiệp của Trung tâm tư vấn và Xúc tiến đầu tư – Sở KH&ĐT. Phát huy vai

trò của Sở KH&ĐT, Ban Quản lý các KCN tỉnh trong công tác tư vấn cho nhà

đầu tư nước ngoài, thực sự trở thành cầu nối vững chắc giữa nhà đầu tư đối

với chính quyền địa phương trong việc hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn cho doanh

nghiệp, tư vấn cho nhà đầu tư nước ngoài các vấn đề liên quan đến: thủ tục

đầu tư, tư vấn về chính sách pháp luật, các chính sách ưu đãi, các quy định

của tỉnh….cung cấp các gói thông tin cần thiết về các lĩnh vực: các loại quy

hoạch, kế hoạch phát triển của từng ngành, lĩnh vực của tỉnh, các thông tin

cần thiết khác như: thực trạng nguồn nhân lực, phương thức đào tạo và tuyển

dụng nhân lực, thực trạng về cơ sở hạ tầng cứng (hệ thống đường giao thông,

quy hoạch các khu công nghiệp, điện, cấp thoát nước,….) và cơ sở hạ tầng

mềm (hệ thống thông tin liên lạc, viễn thông, quyền sở hữu trí tuệ….).

Triển khai thực hiện đa dạng, linh hoạt các hoạt động đối ngoại, xây

dựng tình hữu nghị đoàn kết giữa tỉnh với cộng đồng người nước ngoài đang

sinh sống và làm việc trên địa bàn tỉnh. Từ đó xây dựng lòng tin, tạo tâm lý

ổn định, yên tâm cho những doanh nhân, nhà đầu tư là người nước ngoài đang

triển khai thực hiện các dự án FDI tại tỉnh Phú Thọ. Việc này có tác dụng góp

phần tăng cường quan hệ hữu nghị, hợp tác và sự hiểu biết lẫn nhau giữa tỉnh

Phú Thọ nói riêng và Việt Nam với quốc gia có đầu tư trực tiếp tại tỉnh, từ đó

thúc đẩy việc mở rộng quy mô các dự án hiện có, thu hút được thêm nhiều dự

107

án FDI mới.

Thực hiện một số bài viết, phóng sự trên một số báo, tạp chí, đài truyền

hình trong nước để giới thiệu hình ảnh, chủ trương thu hút đầu tư của tỉnh,

trong đó phục vụ quảng bá Hội nghị xúc tiến đầu tư của tỉnh tại Hà Nội và các

vùng lân cận. Tỉnh cũng cần dành kinh phí từ ngân sách Nhà nước cho công

tác vận động xúc tiến đầu tư; tổ chức công bố rộng rãi quy hoạch chi tiết,

danh mục các dự án ưu tiên đầu tư và các chính sách khuyến khích đầu tư vào

KCN; cung cấp miễn phí các thông tin cần thiết cho các nhà đầu tư đến tìm

hiểu cơ hội đầu tư; hỗ trợ kinh phí cho các doanh nghiệp, đơn vị, cá nhân có

công thu hút các nhà đầu tư vào các KCN.

Tăng cường quảng bá, giới thiệu cung cấp thông tin cho các tổ chức,

các nhà đầu tư có nhu cầu đầu tư vào tỉnh. Triển khai thực hiện giới thiệu

thông tin thu hút đầu tư trên trang website của sở, ngành và Cổng Thông tin

điện tử của tỉnh; bổ sung một số trang bị thiết yếu, ấn phẩm, tài liệu cần thiết

cho hoạt động xúc tiến đầu tư.

Xây dựng các danh mục dự án ưu tiên gọi vốn đầu tư nước ngoài với

các thông tin cụ thể về mục tiêu, quy hoạch đất, địa điểm, giá đất, thế mạnh

của tỉnh… đăng tải trên Cổng thông tin điện tử của Sở Kế hoạch và Đầu tư,

cổng thông tin của tỉnh để làm cơ sở cho việc tổ chức các chương trình vận

động đầu tư.

3.2.3. Hoàn thiện hệ thống kết cấu hạ tầng, dịch vụ

Để các KCN, CCN có sức hấp dẫn các nhà đầu tư và thực sự phát huy

tốt hiệu quả, theo ông Nguyễn Tiến Thi- Giám đốc Sở Công thương: Giải

pháp lúc này là cần có chính sách khuyến khích các doanh nghiệp bỏ vốn đầu

tư cơ sở hạ tầng các khu, CCN đã có quy hoạch. Mở rộng các hình thức kinh

doanh BOT, BO về cung cấp điện, cấp nước, xử lý nước thải, chất thải, khu

108

nhà ở công nhân. Đẩy mạnh kêu gọi đầu tư vào những ngành nghề tạo ra hiệu

quả kinh tế cao, công nghệ tiên tiến, hạn chế các ngành gây ô nhiễm môi

trường [23], cụ thể:

- Nâng cao chất lượng xây dựng kết cấu hạ tầng KCN, CCN theo

hướng xây dựng một cách đồng bộ hệ thống hạ tầng kỹ thuật với hệ thống tiện

ích công cộng phục vụ cho KCN, CCN, gắn kết cấu hạ tầng trong hàng rào và

ngoài hàng rào KCN, CCN như: Xây dựng chỗ ở cho người lao động; đảm

bảo các điều kiện về vệ sinh môi trường, an ninh trật tư; có các dịch vụ công

cộng như trường học, bệnh xá, khu vui chơi giải trí... Coi việc xây dựng KCN

gắn chặt với phát triển hệ thống hạ tầng kỹ thuật - xã hội ngoài hàng rào KCN

là một trong những tiêu chí bắt buộc khi phê duyệt các dự án xây dựng hạ

tầng KCN; đồng thời sẽ lồng ghép các chương trình phát triển dân sinh, xã hội

trong những khu vực xây dựng KCN, đảm bảo hài hoà giữa môi trường bên

trong và bên ngoài KCN.

- Để đẩy nhanh tiến độ đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng các KCN, trong

thời gian tới bên cạnh việc nhanh chóng khắc phục những hạn chế, cần điều

chỉnh chính sách giá thuê đất linh hoạt, ưu tiên đối với những dự án đầu tư cơ

sở hạ tầng KCN, dự án có đóng góp lớn cho ngân sách tỉnh. Xem xét điều

chỉnh quy hoạch các KCN đã được Chính phủ phê duyệt, bổ sung KCN mới,

có khả năng phát triển với lợi thế địa lý thuận lợi dọc các tuyến đường giao

thông và đã có nhà đầu tư đăng ký. Ưu tiên đầu tư xây dựng và phát triển các

KCN này để thu hút vốn đầu tư của các thành phần kinh tế; xây dựng KCN

kiểu mẫu, nhằm thu hút các dự án đầu tư công nghệ cao, công nghệ sạch và có

khả năng đóng góp nhiều cho ngân sách.

- Tranh thủ tối đa các nguồn lực để đầu tư phát triển hạ tầng, đặc biệt là

nguồn vốn ngoài ngân sách, thu hút từ các nhà đầu tư nước ngoài; ưu tiên các

109

dự án cấp – thoát nước, vệ sinh môi trường, đường bộ cao tốc, đường sắt.

- Về cơ sở hạ tầng bao gồm cả điện nước, hướng cơ bản là cần kiên

quyết tập trung nguồn lực, tháo gỡ những nút cổ chai, trong đó việc xây dựng,

nâng cấp, mở rộng hệ thống cảng sông và đường vào ra cần dành ưu tiên cho

các khu vực kinh tế trọng điểm, tránh tình trạng dàn trải, thiếu đồng bộ. Bên

cạnh đó, nếu không xử lý được tình trạng điện phập phù thì cũng khó bề thu

hút FDI; để giải quyết vấn đề này cần thu hút nguồn lực của cả các nhà đầu tư

nước ngoài mà khâu đầu tiên là xử lý tình trạng giá xa với giá thị trường, gỡ

bỏ tình trạng độc quyền.

- Cơ sở hạ tầng (cả kinh tế và xã hội) phải được đầu tư xây dựng đồng

bộ, coi đây là bước chuẩn bị thiết thực nhất để mời gọi các nhà đầu tư đến với

tỉnh. Chính quyền các địa phương có trách nhiệm chuẩn bị quỹ đất thích hợp,

sẵn sàng về hạ tầng để khi có dự án cần tái định cư cho nhân dân thì giải

quyết nhanh, gọn.

- Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng đòi hỏi vốn lớn, thời gian thu hồi vốn

chậm, nên kém hấp dẫn các nhà đầu tư, chủ yếu dựa vào nguồn vốn ODA.

Tuy nhiên, nguồn vốn ODA sẽ hạn chế dần. Muốn phát triển hạ tầng giao

thông một cách bền vững, nhất thiết phải đa dạng hóa các nguồn vốn huy

động, qua đó hút vốn từ nhà đầu tư nước ngoài, bao gồm đầu tư nước ngoài

vào các dự án ở tỉnh như đối tác công – tư (PPP), xây dựng - vận hành -

chuyển giao (BOT), xây dựng - chuyển giao (BT)…đang là những giải pháp

“nóng” trong thời gian qua. Đồng thời, tỉnh Phú Thọ nên dành một khoản vốn

đầu tư tương xứng cho cơ sở hạ tầng.

- Với nhà đầu tư tư nhân, lợi nhuận lâu dài là yếu tố đảm bảo để họ bỏ

vốn đầu tư. Do vậy muốn kéo được các nhà đầu tư tư nhân vào lĩnh vực hạ

tầng giao thông rất cần phải tạo ra cơ chế phù hợp, như khi tham gia dự án

doanh nghiệp được hưởng các ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp, ưu đãi

110

với hàng hóa nhập khẩu để thực hiện dự án, được miễn tiền sử dụng đất đối

với diện tích đất được Nhà nước giao hoặc được miễn tiền thuê đất trong toàn

bộ thời gian thực hiện dự án.

3.2.4. Tiếp tục cải cách thủ tục hành chính

Để nâng cao nguồn vốn giải ngân FDI, ông Phan Hữu Thắng, nguyên

Cục trưởng Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ KH&ĐT), khẳng định, cần nâng cao

các giải pháp về cải cách thủ tục hành chính như tiến hành theo hướng "nhà

nước điện tử”. Theo đó, thông qua mạng internet, tiến hành các thủ tục cần

thiết, giảm thiểu thời gian và chi phí cho nhà đầu tư, xử lý kịp thời vướng mắc

trong cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy phép xây dựng... Tỉnh Phú

Thọ cũng đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính theo tinh thần: Cải cách hành

chính không cần nhiều tiền, mà phải có quyết tâm nhất quán và cần sự đồng

bộ giữa các cơ quan, ban, ngành.

- Tiếp tục đẩy mạnh công tác cải cách thủ tục hành chính, nhất là các thủ

tục liên quan đến cấp giấy chứng nhận đầu tư; hoàn chỉnh quy chế phối hợp

liên ngành về cấp giấy chứng nhận đầu tư làm cơ sở xây dựng một cửa liên

thông. Mô hình này đáp ứng nhu cầu giải quyết các thủ tục hành chính một

cách nhanh chóng và chính xác; giảm khó khăn cho doanh nghiệp. Để cơ chế

'một cửa liên thông' ngày càng phát huy hiệu quả, tỉnh Phú Thọ phải xây dựng

hệ thống quản lý chất lượng hành chính công theo tiêu chuẩn ISO 9001:2008

vào cải cách hành chính. Trong đó, ghi rõ trình tự thủ tục giải quyết các yêu

cầu của các tổ chức, cá nhân có liên quan; quy định rõ trách nhiệm của từng bộ

phận, cá nhân trong Ban quản lý các KCN, khu chế xuất (KCX).

- Để thực hiện tốt Đề án 30 của Chính phủ về đơn giản hóa thủ tục hành

chính, Ban quản lý các KCN cùng các sở, ngành trong tỉnh Phú Thọ ngoài

việc phối hợp và nhanh chóng hoàn thành việc đơn giản hóa các thủ tục hành

chính liên quan đến các lĩnh vực đầu tư, lao động, xuất nhập khẩu, môi

111

trường, xây dựng... trong KCN, phải chủ động thực hiện cải cách hành chính

ngay tại cơ quan nhằm tạo điều kiện cho doanh nghiệp được giải quyết thủ tục

nhanh chóng, như: cải tiến các biểu mẫu cho phù hợp hơn, thực hiện các

chuyên đề về phòng, chống tham nhũng, đề án đổi mới công tác tiếp dân…

- Triển khai thực hiện tốt Luật đầu tư, Luật doanh nghiệp, Luật đấu

thầu, Luật xây dựng… của Nhà nước; Kịp thời xây dựng và cơ động, linh

hoạt sửa đổi các cơ chế, chính sách ưu đãi, xử phạt… của tỉnh nhất là chính

sách thuế để hướng các doanh nghiệp FDI vào trúng những lĩnh vực tỉnh cần

đầu tư.

- Hoàn thiện thể chế hành chính để ngăn ngừa những biểu hiện tiêu cực

có thể có như trốn thuế, gây ô nhiễm môi trường, không bảo đảm điều kiện

cần thiết cho người lao động theo luật định.

- Các sở, ban, ngành liên quan tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính,

ứng dụng công nghệ thông tin trong điều hành, giảm thời gian thực hiện các

thủ tục, tạo thuận lợi cho nhà đầu tư. Chú trọng đặc biệt đến cải cách thủ tục

hành chính về cấp giấy phép chứng nhận đầu tư, về giao đất, cho thuê đất,

giới thiệu địa điểm với thời gian được rút ngắn tối đa. Mặt khác, tỉnh chỉ đạo

các sở ban ngành liên quan nâng cao tinh thần trách nhiệm của đội ngũ công

chức, không được vô cảm, thiếu trách nhiệm trước những khó khăn của doanh

nghiệp. Tỉnh phải thường xuyên cử các đoàn kiểm tra công tác cải cách hành

chính, kiểm soát thủ tục hành chính tại các sở, ban, ngành, địa phương, đơn

vị, từ đó kịp thời chấn chỉnh những thiếu sót, sai phạm.

- Tăng cường cơ chế phối hợp quản lý đầu tư nước ngoài giữa trung

ương và địa phương và giữa các bộ, sở, ngành, UBND các thành phố,

huyện liên quan. Thực hiện nghiêm việc công bố, công khai và kịp thời cập

nhật thủ tục hành chính được sửa đổi, bổ sung, thay thế, bị bãi bỏ hoặc hủy

bỏ; niêm yết công khai các quy định thủ tục hành chính tại nơi tiếp nhận giải

112

quyết thủ tục hành chính.

- Tuy thủ tục hành chính đã được cải tiến đáng kể song vẫn cần nghiêm

túc rà soát để giảm thiểu tới mức thấp nhất sự phiền hà đi đôi với cuộc đấu

tranh kiên quyết và liên tục chống lại các biểu hiện tham nhũng, sách nhiễu,

hối lộ...

- Cập nhật, bổ sung kịp thời các chủ trương, chính sách mới của Trung

ương và của tỉnh liên quan đến công tác xúc tiến đầu tư, thực hiện công khai,

minh bạch thủ tục đầu tư nhằm tăng cường tính hiệu quả công tác cải cách thủ

tục hành chính; kiện toàn bộ máy làm việc trong quan hệ, tiếp xúc, giải quyết

công việc và tạo ấn tượng tốt đẹp đối với các nhà đầu tư.

- Đẩy mạnh công tác truyền thông phục vụ cải cách thủ tục hành chính;

tích cực hưởng ứng, tham gia cuộc thi “Chung tay cải cách thủ tục hành

chính” trong lĩnh vực quản lý thủ tục cấp phép, điều chỉnh giấy phép cho các

doanh nghiệp FDI.

Vì vậy, khi người dân và nhà đầu tư chỉ phải nộp hồ sơ và nhận giấy

phép tại một đầu mối duy nhất, còn các cơ quan có trách nhiệm phải phối hợp

với nhau để giải quyết thủ tục theo đề án một cửa liên thông là một bước tiến

quan trọng đối với tiến trình cải cách hành chính của chính quyền tỉnh. Cũng

là thể hiện trách nhiệm phục vụ của các cơ quan hành chính đối với yêu cầu

của người dân, nhà đầu tư nhằm giảm thiểu tối đa thời gian đi lại, tiết kiệm

chi phí cho người dân, nhà đầu tư và trên hết là một môi trường kinh doanh

lành mạnh.

Với các doanh nghiệp FDI gặp khó khăn trong sản xuất kinh doanh

hoặc đang trong quá trình giải ngân, tỉnh cần phối hợp với doanh nghiệp tìm

ra các nguyên nhân gây ách tắc từ đó tập trung tháo gỡ. Đối với những dự án

sắp hết hạn hoạt động cần chủ động tiếp xúc với các doanh nghiệp này để vận

động họ gia hạn hoạt động, hoặc hướng họ đầu tư vào dự án mới. Có như vậy,

113

hoạt động FDI liên tục được phát triển, thể hiện quan điểm của Phú Thọ là

luôn luôn bám sát, hỗ trợ các nhà đầu tư nước ngoài cả khi khó khăn và khi

thành công, tạo niềm tin cho các nhà đầu tư.

Vậy, kết quả của thực hiện nhiều chính sách thông thoáng trong thu hút

đầu tư đã mang lại diện mạo mới cho tỉnh. Sự có mặt ngày càng nhiều của các

doanh nghiệp FDI đã làm thay đổi sâu sắc về cơ cấu, quy mô ngành công

nghiệp của Phú Thọ, đặc biệt là giá trị kim ngạch xuất khẩu và thu hút lực

lượng lao động khá lớn. Phú Thọ đang làm tất cả để nâng cao hơn nữa công

tác cải cách hành chính, và cũng để thực hiện cam kết của lãnh đạo tỉnh trong

việc tạo mọi điều kiện thuận lợi tối đa cho các doanh nghiệp đến Phú Thọ làm

ăn, tạo một môi trường kinh doanh hấp dẫn trong khu vực.

3.2.5. Tăng cường giám sát các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước

ngoài đã được cấp phép và hoạt động

Mục đích kiểm tra, giám sát, đánh giá hoạt động doanh nghiệp FDI,

nhằm bảo đảm hiệu lực, hiệu quả của các quy định pháp luật về quản lý doanh

nghiệp, dự án đầu tư nước ngoài, bảo đảm quá trình đầu tư của dự án được

tuân thủ theo các quy định về quản lý đầu tư, qua đó nhằm đảm bảo mục tiêu và hiệu quả xã hội của dự án.

Ngoài việc thẩm tra để sàng lọc bớt các nhà đầu tư thiếu năng lực là

cần thiết nhưng để quản lý các dự án đầu tư FDI hiệu quả, khâu hậu kiểm sau

cấp phép là quan trọng nhất. Đặc biệt, trong thời gian tới cần theo hướng xử

lý mạnh tay hơn với các hành vi sai phạm; đồng thời cần quy định cụ thể hơn

trách nhiệm của từng cơ quan quản lý địa phương sở tại trong hoạt động giám

sát các dự án đầu tư nước ngoài. Theo Giáo sư Nguyễn Mại, quy định hậu

kiểm như vậy được ban hành sẽ có tác dụng răn đe, loại bỏ các nhà đầu tư có

ý định trục lợi từ Luật Đầu tư quá thông thoáng của Việt Nam; đồng thời giúp

nguồn vốn FDI phát huy hiệu quả thực sự cho tăng trưởng kinh tế của Việt

Nam [34].

Đối với một số doanh nghiệp hoạt động cầm chừng, thậm chí có doanh

114

nghiệp đóng cửa để lại khoản nợ lớn, các ngành chức năng cần rà soát, điều

chỉnh quy hoạch chi tiết, nâng cao hiệu quả sử dụng đất công nghiệp, phát

triển quỹ đất dịch vụ, nhà ở công nhân, tạo điều kiện cho doanh nghiệp đầu tư

xây dựng nhà ở cho người lao động. Bên cạnh đó, tăng cường thu tiền thuê

đất của các doanh nghiệp, các nhà đầu tư còn đang nợ đọng; huy động nhiều

nguồn vốn để tập trung xây dựng các hạng mục công trình, làm tới đâu dứt

điểm tới đó. Tiến hành kiểm tra, giám sát hoạt động của cơ quan cấp giấy

chứng nhận đầu tư trong việc cấp, điều chỉnh, thu hồi giấy chứng nhận đầu tư;

nâng cao chất lượng công tác thẩm tra, cấp, điều chỉnh giấy chứng nhận đầu

tư theo nguyên tắc tuân thủ tổng thể phát triển các vùng kinh tế xã hội, quy

trình, thủ tục điều chỉnh giấy chứng nhận đầu tư đối với các dự án đầu tư đã

được cấp phép vào những lĩnh vực đang được khuyến khích như: công nghiệp

phụ trợ, công nghiệp điện tử, công nghiệp phụ trợ cho công nghiệp công nghệ

cao… Nhưng thời điểm cấp giấy chứng nhận đầu tư chưa có quy định về cơ

chế ưu đãi chung hoặc quy định được xem xét cơ chế ưu đãi đặc thù, Sở

KH&ĐT và Ban Quản lý các KCN cần chủ động phối hợp với doanh nghiệp

để tiến hành thủ tục điều chỉnh bổ sung ưu đãi cho dự án. Đối với các dự án

thuộc diện được xem xét cơ chế ưu đãi đặc thù, cần nghiên cứu lựa chọn

những dự án có suất đầu tư lớn, công nghệ hiện đại, sử dụng ít diện tích đất,

có số nộp ngân sách lớn, phối hợp với nhà đầu tư nghiên cứu đề xuất cơ chế

ưu đãi đặc thù trình Uỷ ban nhân dân tỉnh để trình Chính phủ phê duyệt.

Sở KH&ĐT và các Ban, ngành liên quan có thể tổ chức kiểm tra định

kỳ, đột xuất hoặc kiểm tra chuyên ngành đối với các dự án đầu tư. Phương

thức kiểm tra có thể thông qua báo cáo bằng văn bản, làm việc trực tiếp hay tổ

chức đoàn kiểm tra, đoàn công tác… Quy định này là tương đối hợp lý, có thể

đảm bảo việc quản lý sát sao của nhà nước đối với các dự án đầu tư, đặc biệt

nó tạo ra một cơ chế rõ ràng cho các cơ quan quản lý nhà nước trong việc tổ

chức kiểm tra đột xuất các dự án nếu có vấn đề phát sinh.

Về nội dung kiểm tra, Sở KH&ĐT và các đơn vị liên quan có thể kiểm

115

tra về việc cấp, điều chỉnh, thu hồi giấy chứng nhận đầu tư; việc ban hành và

thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn theo thẩm quyền; công

tác bồi thường, giải phóng mặt bằng, thu hồi đất; sự phù hợp của chính sách

với điều kiện kinh tế - xã hội; việc tuân thủ các quy hoạch, kế hoạch đầu tư

phát triển; công tác xây dựng quy hoạch; công tác thu hút vốn đầu tư; việc

quy định ưu đãi đối với các dự án đầu tư nước ngoài.

Trong đó, đối với các doanh nghiệp FDI, việc kiểm tra có thể được tiến

hành với các nội dung như việc thực hiện các mục tiêu quy định tại giấy

chứng nhận đầu tư hoặc giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh; tiến độ góp

vốn điều lệ/vốn đầu tư; tiến độ triển khai dự án; việc thực hiện các nghĩa vụ

tài chính đối với nhà nước; việc thực hiện các quy định pháp luật về lao động;

chế độ tiền lương, bảo hiểm xã hội đối với người lao động; việc tuân thủ các

quy định pháp luật về bảo vệ môi trường; tình hình thuê đất và sử dụng đất và

các nội dung khác.

Đối với các doanh nghiệp FDI đang hoạt động cần tiếp tục tăng cường

giám sát, theo dõi một cách thường xuyên, đảm bảo doanh nghiệp hoạt động

đúng quy định của pháp luật, đúng mục đích; phát hiện và ngăn chặn kịp thời

những vi phạm quy định trong giấy phép đầu tư, quy định của tỉnh và pháp

luật Nhà nước

Tại Phú Thọ, mặc dù có đình công ở một số công ty (chủ yếu là ở

Pangrim Neotec) nhưng chỉ diễn ra quy mô nhỏ và thời gian ngắn, song qua

bài học của các tỉnh như Thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương, Đồng Nai,

Hải Phòng, Phú Thọ đã rút kinh nghiệm chú trọng hơn nữa vào các hoạt động

quản lý, hoạt động Đảng, Đoàn thể trong các doanh nghiệp FDI. Nó không chỉ

nhằm bảo vệ quyền lợi của công nhân mà còn giúp đấu tranh chống lại những

sai trái của chủ đầu tư, làm lành mạnh môi trường đầu tư trong tỉnh.

3.2.6. Nâng cao năng lực của cán bộ quản lý

Nhằm phát huy tối đa các nguồn lực trong tỉnh và nhà đầu tư nước

ngoài mang lại, phải có sự kết hợp hài hòa giữa nguồn lực con người và các

116

yếu tố khác, muốn vậy phải nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý. Đây

là giải pháp quan trọng để phát huy hiệu quả cơ chế phân cấp mà Nhà nước

yêu cầu. Muốn vậy phải có kế hoạch đào tạo thường xuyên, liên tục, đúng

mục đích, như:

Phối hợp giữa các cơ quan ban, ngành, như Sở Lao động - Thương binh

và xã hội, các trung tâm xúc tiến việc làm, và ý kiến các nhà đầu tư, đánh giá

đội ngũ cán bộ và thực lực đội ngũ lao động, nắm vững nhu cầu lao động của

các doanh nghiệp khi đã cấp giấy phép để có kế hoạch cụ thể đào tạo đáp ứng

nhu cầu cả về số lượng lẫn chất lượng.

Củng cố, bổ sung đủ nhân lực cho bộ máy làm công tác xúc tiến đầu tư

của tỉnh; có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ

chuyên ngành trong công tác quản lý và cấp phép đầu tư. Về lâu dài, phải lựa

chọn các sinh viên đạt loại khá – giỏi thuộc các chuyên ngành kinh tế, có trình

độ ngoại ngữ, tin học khá. Đây sẽ là đội ngũ kế cận và tiên phong trong thời kỳ mới, linh hoạt và nhạy bén với thời cuộc, quản lý hoạt động FDI sẽ hiệu quả.

Kết hợp chặt chẽ với các trường dạy nghề của Trung ương, địa phương,

các ngành đóng trên địa bàn của tỉnh, tận dụng cơ sở vật chất, trang thiết bị

hiện có của các trường để đào tạo nguồn nhân lực phục vụ cho phát triển công

nghiệp của tỉnh cũng như cho các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài bằng

nhiều hình thức như: Đào tạo theo địa chỉ, đào tạo công nhân lành nghề để

tiếp thu công nghệ mới, đào tạo lại nghề cho lao động khi làm việc trong

doanh nghiệp FDI.

Cần mở nhiều khóa đào tạo lại đối với số cán bộ quản lý đang được cử

tham gia vào các liên doanh và số cán bộ đang làm công tác quản lý liên quan

đến FDI ở các ngành chuyên môn. Bên cạnh việc đào tạo, bồi dưỡng đối với

đội ngũ cán bộ tham gia ở các liên doanh cần có biện pháp, kế hoạch quản lý,

bồi dưỡng thông qua các cuộc sinh hoạt, trao đổi, hội nghị, hội thảo để giúp

117

đỡ đội ngũ này nâng cao trình độ. Mặt khác cần có biện pháp bồi dưỡng kiến

thức cho các thành viên Hội đồng quản trị (phía Việt Nam), nhất là kiến thức

về kinh tế thị trường, phương thức kinh doanh quốc tế, về luật pháp có sự

tham gia của yếu tố nước ngoài.

Một trong những nguyên nhân các dự án liên doanh nước ngoài không

tuyển được lao động Việt Nam, đặc biệt là lao động sở tại (nơi doanh nghiệp

đóng) là vì việc chuẩn bị đào tạo cán bộ không được quan tâm đến. Do vậy,

cần phải có quy hoạch dự kiến cán bộ sẽ tham gia các dự án liên doanh, từ đó

có kế hoạch đào tạo cụ thể, nhằm chủ động chuẩn bị đội ngũ cán bộ đủ điều

kiện cử vào tham gia quản lý cùng với các đối tác nước ngoài. Đối với đội

ngũ công nhân bên cạnh nhân tố hấp dẫn nhà đầu tư về giá lao động sẽ còn

một vấn đề quan trọng hơn là tay nghề, đức tính cần cù chịu khó, tính kỷ luật

trong lao động (mà đây là vấn đề còn yếu kém trong đội ngũ lao động nước ta

nói chung, Phú Thọ nói riêng). Với vấn đề chất lượng lao động, có một thực

tế là hầu hết số lao động vào làm việc trong các doanh nghiệp FDI không qua

đào tạo hoặc chỉ đào tạo kết hợp trong một số trung tâm dạy nghề của tỉnh,

tuy cũng có một số cán bộ có trình độ đại học song lại chấp nhận làm việc trái

với ngành nghề đào tạo, hoặc làm các công việc giản đơn. Để đáp ứng nhu

cầu về chất lượng lâu dài phải có một chiến lược đào tạo đúng hướng.

Sở Giáo dục - đào tạo, sở KH&ĐT, sở Lao động thương binh và xã hội

với sự hỗ trợ của các ngành trung ương, cần xây dựng định hướng cho hoạt

động đào tạo của tỉnh sao cho vừa mang tính thiết thực, vừa thể hiện được tầm

nhìn chiến lược lâu dài. Trước mắt cần tập trung củng cố hệ thống dạy nghề

hiện có đảm bảo năng lực đào tạo, kết hợp với đẩy mạnh xã hội hóa công tác

dạy nghề dưới sự quản lý nhà nước chặt chẽ về quy trình, chương trình, nội

dung đào tạo. Bên cạnh đó, phối hợp với Sở, Ban ngành chức năng mở các

Hội chợ việc làm, Hội chợ xúc tiến đầu tư để tiếp xúc giữa người lao động và

118

doanh nghiệp.

Kết luận chương 3

Mục tiêu thu hút FDI trong thời gian tới của Phú Thọ phải phù hợp với

chiến lược phát triển trong giai đoạn sắp tới là: Tăng nguồn vốn cho đầu tư

phát triển, thu hút lực lượng lao động, tiếp thu khoa học - công nghệ tiên tiến

và góp phần tăng nguồn thu của ngân sách tỉnh, thúc đẩy tăng trưởng GDP.

Để các nhà đầu tư tìm đến và yên tâm ở Phú Thọ, cần có chính sách

khuyến khích các doanh nghiệp bỏ vốn đầu tư cơ sở hạ tầng, hướng vào

những ngành nghề tạo ra hiệu quả kinh tế cao, công nghệ tiên tiến, hạn chế

các ngành gây ô nhiễm môi trường. Tăng cường đào tạo đội ngũ công nhân kỹ

thuật lành nghề, đội ngũ cán bộ quản lý. Phát triển nguồn nhân lực chất lượng

cao, có chính sách thu hút lực lượng cán bộ quản lý, doanh nhân giỏi về làm

việc trong các khu, CCN. Cần quan tâm và có chính sách hỗ trợ, giúp đỡ

người dân sau khi bị thu hồi đất xây dựng khu, CCN tìm được việc làm, ổn

định cuộc sống. Bên cạnh đó cần kiện toàn các tổ chức quản lý nhà nước đối

với khu, CCN, đẩy mạnh cải cách hành chính, rà soát lại các quy định không

cần thiết gây khó khăn cho các doanh nghiệp, nhà đầu tư. Minh bạch công

khai các hoạt động quản lý nhà nước về đầu tư, quản lý doanh nghiệp, quản lý

xuất nhập khẩu, quản lý lao động. Thường xuyên đối thoại, tiếp thu ý kiến từ

doanh nghiệp để kịp thời tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc của doanh

nghiệp với mục tiêu tạo điều kiện thuận lợi nhất cho nhà đầu tư.

Tỉnh Phú Thọ chỉ đạo các cơ đơn vị liên quan thực hiện nghiêm túc,

tích cực công tác thu hút, sử dụng và quản lý chặt chẽ nguồn đầu tư từ các

doanh nghiệp FDI. Đây vừa là nguồn lợi, vừa là mối nguy hiểm cho tỉnh nếu

119

như không quản lý chặt chẽ và hiệu quả.

KẾT LUẬN

Đề tài “Hoàn thiện quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp có vốn đầu

tư trực tiếp nước ngoài tại tỉnh Phú Thọ” là quá trình nghiên cứu những vấn

đề về quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp đầu tư nước ngoài, nhất là về hệ

thống pháp luật, cơ chế chính sách, bộ máy quản lý của Nhà nước đối với

doanh nghiệp đầu tư nước ngoài ở tỉnh Phú Thọ.

Trong những năm qua nền kinh tế Phú Thọ đã đạt được những thành

tựu nhất định, bộ mặt kinh tế xã hội của tỉnh đã có những đổi thay, tốc độ tăng

trưởng kinh tế đã có những bước tiến đáng ghi nhận, đời sống nhân dân từng

bước được cải thiện. Do đó đã có quá trình hội nhập khá tốt với nền kinh tế

chung của cả nước. Bên cạnh những thành tựu đáng ghi nhận thì quá trình

quản lý doanh nghiệp FDI ở Phú Thọ còn gặp nhiều yếu kém và hạn chế như :

kinh nghiệm quản lý còn non kém, khó khăn trong thu hút và giải ngân nguồn

vốn, các nhà đầu tư chưa thực sự gắn bó và mang đến cho tỉnh các dự án quy

mô lớn… Do vậy, cần phân tích những mặt hạn chế, yếu kém đó và có những

biện pháp tích cực là vô cùng quan trọng .

Tác giả đã chỉ ra phần nào những hạn chế trong quá trình quản lý doanh

nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ở Phú Thọ trong thời gian qua, phân tích

những nguyên nhân khách quan, chủ quan và đã đề ra những biện pháp thiết

thực nhằm tăng tính hiệu quả trong quá trình quản lý hoạt động và sử dụng

các nguồn vốn đầu tư tại Phú Thọ. Đề tài đã tập trung vào phân tích những

vấn đề có tính nổi bật nhất trong hoạt động quản lý nguồn FDI: chất lượng

công tác quy hoạch, xúc tiến đầu tư, kết cấu hạ tầng, cơ sở vật chất, kiểm tra,

giám sát hoạt động của doanh nghiệp... Tuy nhiên, về lâu dài, để môi trường

đầu tư của Phú Thọ có tính cạnh tranh, phát huy tối đa hiệu quả của doanh

120

nghiệp FDI cho sự phát triển kinh tế của tỉnh, cần phối hợp với các Bộ, ngành

để tìm ra những giải pháp thiết thực, mang tính đột phá và đôn đốc, giám sát

quá trình thực hiện một cách mạnh mẽ ở tất cả các khâu thì mới có thể nâng

cao chất lượng, hiệu quả của loại hình doanh nghiệp này.

Tuy đã có những kết quả đáng kể trong việc thu hút FDI vào Phú Thọ

nhưng các thành tựu đó chưa tương xứng với tiềm năng dồi dào của tỉnh. Để

có được nguồn vốn, nguồn công nghệ ngày một phong phú, gia tăng đầu tư

vào Phú Thọ và hoạt động của các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp

nước ngoài ngày một hiệu quả hơn thì cần phải có những chính sách phù

hợp, tạo môi trường thông thoáng, lý tưởng cho các nhà đầu tư hưóng đến, từ

đó mới có được những cơ hội mới trong công tác thu hút FDI và cho các

121

doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài phát triển.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bảo Anh (2010), “Quản lý và thu hút vốn FDI: Nhìn người ngẫm ta”, Thời

báo kinh tế Việt Nam

2. Bộ Kế hoạch và đầu tư (2001), Các quy định pháp luật về đầu tư nước

ngoài tại Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

3. Bộ tư pháp (1996), Luật đầu tư nước ngoài

4. Bộ tư pháp (2005), Luật đầu tư

5. Lê Văn Châu (1995), Vốn nước ngoài và chiến lược phát triển kinh tế ở

Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội

6. Kim Chi (10/2010), “Tăng cường quản lý hoạt động đầu tư trực tiếp nước

ngoài trên địa bàn tỉnh”, Báo Phú Thọ

7. Kim Chi (10/2010), Thu hút vốn đầu tư nước ngoài: Cần giải pháp tháo

những nút thắt, Báo Phú Thọ

8. Phạm Thị Chinh (2008)“Chia sẻ rủi ro với các nhà đầu tư để nâng cao

hiệu quả chuyển giao công nghệ trong các dự án có vốn đầu tư trực tiếp nước

ngoài trên địa bàn tỉnh Hải Dương” (Luận văn thạc sỹ, Đại học Khoa học xã

hội và nhân văn, Đại học quốc gia Hà Nội, 2008)

9. Đặng Thị Kim Chung (2009), “Chính sách thu hút đầu tư trực tiếp nước

ngoài của Việt Nam”, (Luận văn thạc sỹ, Đại học kinh tế, Đại học Quốc gia

Hà Nội,),

10. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

11. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần

122

thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

12. PGS.TS Phan Huy Đường (2010), Giáo trình quản lý nhà nước về kinh tế,

NXB Đại học quốc gia.

13. Trần Xuân Giá (2005), "Môi trường và chính sách đầu tư nước ngoài tại

Việt Nam", Tạp chí Kinh tế và dự báo.

14. Vũ Thị Thu Hằng (2010), “Một số giải pháp tăng cường quản lý nhà nước

đối với doanh nghiệp FDI tại Việt Nam”, Số 176, Tr22-26, Tạp chí Quản lý nhà

nước

15. Phạm Thị Thanh Hiền , Chu Thị Nhường, Trần Thị Giáng Quỳnh, “Tác động

của thể chế cấp tỉnh đối với nguồn vốn FDI vào Việt Nam”, Đề tài khoa học

cấp trường, Giải Nhì, Đại học quốc gia Hà Nội.

16. Hồ Thị Lan Hương, Hoàn thiện quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp có

vốn đầu tư nước ngoài ở Đà Nẵng hiện nay, Luận văn thạc sỹ kinh tế, Học

viện CTQG Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2006.

17. Nguyễn Văn Hùng (2001), Hoàn thiện quản lý nhà nước đối với doanh

nghiệp có vốn FDI ở Việt Nam hiện nay, Luận văn Thạc sĩ kinh tế, Học viện

CTQG Hồ Chí Minh, Hà Nội.

18. Đinh Hà Nhật Lê (2011), “Tăng cường xúc tiến đầu tư trực tiếp nước

ngoài vào Hà Nội (FDI) giai đoạn 2010 – 2015. Thực trạng và giải pháp”,

Hà Nội

19. Phan Long (2011), “Hà Nội sẽ rà soát chặt chẽ dự án FDI”, trang

baomoi.com

20. Đức Minh (3/2011), “Cơ chế ưu đãi và thực hiện cải cách thủ tục hành

chính để tăng cường thu hút đầu tư”, Báo Phú Thọ

21. Sở kế hoạch đầu tư tỉnh Phú Thọ (2010), Danh mục các dự án đầu tư đến

năm 2010

22. Sở kế hoạch đầu tư tỉnh Phú Thọ (2010), Báo cáo tình hình thu hút và giải

123

ngân các dự án FDI trên địa bàn tỉnh Phú Thọ.

23. Sở kế hoạch đầu tư tỉnh Phú Thọ (2010), Báo cáo tình hình đầu tư nước

ngoài quý III, 9 tháng, ước cả năm 2010.

24. Sở kế hoạch đầu tư tỉnh Phú Thọ (2010), Báo cáo tổng hợp, rà soát phân

loại các dự án tại tỉnh Phú Thọ.

25. Sở kế hoạch đầu tư tỉnh Phú Thọ (2010), Quyết định phê duyệt kế hoạch

tổng thể phát triển kinh tế xã hội tỉnh Phú Thọ đến năm 2020.

26. Sở kế hoạch đầu tư tỉnh Phú Thọ (2010), Tổng quan về tỉnh Phú Thọ.

27. Võ Thanh Thu (2004), Kỹ thuật đầu tư trực tiếp nước ngoài, Nxb Thống

kê, Hà Nội.

28. Uỷ ban nhân dân tỉnh Phú Thọ, Quyết định về việc phê duyệt chương trình

xúc tiến đầu tư năm 2010.

29. Uỷ ban nhân dân tỉnh Phú Thọ (1 - 2012), Quyết định về việc hỗi trợ đầu

tư đối với các dự án đầu tư trên địa bàn tỉnh Phú Thọ

30. Số liệu từ các trang Web:

- www.phutho.gov.vn ( UBND Tỉnh Phú Thọ )

- www.gso.gov.vn ( Tổng cục Thống kê Việt Nam )

- www.vneconomy.com.vn ( Thời báo Kinh tế Việt Nam )

- www.neu.edu.vn ( Đại học Kinh tế Quốc dân)

- www.fia.mpi.gov.vn ( Cục Đầu tư nước ngoài FIA )

- dpi.phutho.gov.vn (Sở kế hoạch đầu tư tỉnh Phú Thọ)

- taichikinhtedubao.mpi.gov.vn (Tạp chí kinh tế dự báo)

- chinhphu.vn (Báo điện tử của Chính phủ nước CHXHCNVN)

- vneconomy.vn

- tailieu.vn

- ktpt.edu.vn

- vietnamgateway.org

124

- www.kilobooks.com - baomoi.com