BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ ………….………… …….……

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

TRẦN THÚY QUYÊN

PHÂN CẤP QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI GIÁO DỤC PHỔ THÔNG TẠI TỈNH KIÊN GIANG

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG

TP.HỒ CHÍ MINH - NĂM 2018

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ ………….………… …….……

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

TRẦN THÚY QUYÊN

PHÂN CẤP QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI GIÁO DỤC PHỔ THÔNG TẠI TỈNH KIÊN GIANG

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG

Chuyên ngành: Quản Lý công

Mã số: 60 34 04 03

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS LƯƠNG THANH CƯỜNG

TP.HỒ CHÍ MINH - NĂM 2018

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan, Luận văn Thạc sĩ Quản lý công với đề tài “Phân cấp quản

lý nhà nước đối với giáo dục phổ thông tại tỉnh Kiên Giang” là do chính tôi nghiên

cứu và viết ra.

Nội dung của Luận văn dựa trên quan điểm cá nhân của tác giả, trên cơ sở

nghiên cứu lý luận, tổng hợp thực tiễn dưới sự hướng dẫn khoa học của thầy.

Tôi xin cam đoan rằng số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này là

trung thực và không trùng lặp với các đề tài khác. Tôi cũng xin cam đoan rằng mọi

sự gi p đ cho việc thực hiện luận văn này đã được cảm ơn và các thông tin trích

dẫn trong luận văn đã được chỉ rõ nguồn gốc. Tác giả xin chịu trách nhiệm về công

trình nghiên cứu khoa học của mình.

Kiên Giang, ngày tháng năm 2018

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành Luận văn Thạc sĩ Quản lý công với đề tài “Phân cấp quản lý

nhà nước đối với giáo dục phổ thông tại tỉnh Kiên Giang”, tác giả đã nhận được sự

động viên, gi p đ , hướng dẫn nhiệt tình của quý thầy, cô, đồng nghiệp và các bạn.

Tác giả xin bày tỏ lời cảm ơn sâu sắc tới PGS.TS Lương Thanh Cường,

người trực tiếp hướng dẫn, gi p đ về mặt khoa học – đã chỉ bảo tận tình, đầy trách

nhiệm để Luận văn được hoàn thành một cách tốt nhất.

Đồng thời, tác giả xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Ban Giám đốc Học

viện Hành chính, Khoa Sau Đại học, cùng quý thầy, cô đã tham gia quản lý, giảng

dạy và gi p đ tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu.

Bên cạnh đó, để có những số liệu, thông tin chính xác trong Luận văn, tác giả

xin chân thành cảm ơn: Ủy ban nhân dân tỉnh Kiên Giang; lãnh đạo, giáo viên các

trường Tiểu học, trung học cơ sở, THPT, trung tâm giáo dục thường xuyên trên địa

bàn tỉnh Kiên Giang; gia đình, đồng nghiệp đã động viên, cổ vũ, khích lệ và gi p đ

tôi trong suốt thời gian qua.

Mặc dù đã có nhiều cố gắng trong suốt quá trình thực hiện đề tài, song chắc

chắn còn có nhiều mặt hạn chế, thiếu sót. Tác giả rất mong nhận góp ý và sự chỉ dẫn

của quý thầy, cô và các bạn đồng nghiệp để Luận văn được hoàn chỉnh hơn.

Kiên Giang, ngày tháng năm 2018

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

MỤC LỤC

Trang phụ bìa

Lời cam đoan

Lời cảm ơn

Bảng chữ viết tắt

Mục lục ................................................................................................................ Trang

MỞ ĐẦU .................................................................................................................. 01

Chƣơng 1: LÝ LUẬN VỀ PHÂN CẤP QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC ĐỐI VỚI

GIÁO DỤC PHỔ THÔNG ................................................................. 12

1.1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ PHÂN CẤP QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC ............ 12

1.1.1. Khái niệm phân cấp quản lý nhà nước ................................................... 12

1.1.2. Nguyên tắc phân cấp quản lý nhà nước .................................................. 17

1.1.3. Ý nghĩa của phân cấp quản lý nhà nước................................................. 20

1.2. PHÂN CẤP QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC ĐỐI VỚI GIÁO DỤC PHỔ

THÔNG ........................................................................................................... 21

1.2.1. Giáo dục phổ thông và quản lý nhà nước đối với giáo dục phổ thông .. 21

1.2.2. Phân cấp quản lý nhà nước đối với giáo dục phổ thông ........................ 25

1.3. PHÂN CẤP QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC ĐỐI VỚI GIÁO DỤC PHỔ

THÔNG Ở MỘT SỐ ĐỊA PHƢƠNG VÀ GIÁ TRỊ THAM KHẢO

CHO KIÊN GIANG ....................................................................................... 35

1.3.1. Kinh nghiệm ở thành phố Hồ Chí Minh ................................................ 35

1.3.2. Kinh nghiệm ở tỉnh Hải Phòng .............................................................. 36

1.3.3 Giá trị tham khảo cho tỉnh Kiên Giang ................................................. 37

Tiểu kết chƣơng 1 .................................................................................................... 39

Chƣơng 2: THỰC TRẠNG PHÂN CẤP QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC ĐỐI

VỚI GIÁO DỤC PHỔ THÔNG TẠI TỈNH KIÊN GIANG ........... 40

2.1 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ GIÁO DỤC PHỔ THÔNG VÀ QUẢN

LÝ NHÀ NƢỚC ĐỐI VỚI GIÁO DỤC PHỔ THÔNG TẠI TỈNH

KIÊN GIANG ................................................................................................. 40

2.1.1. Tình hình kinh tế- xã hội tỉnh Kiên Giang ............................................ 40

2.1.2. Tình hình giáo dục phổ thông tỉnh Kiên Giang ..................................... 43

2.1.3. Tình hình quản lý nhà nước đối với giáo dục phổ thông

tại Kiên Giang ........................................................................................ 45

2.2. THỰC HIỆN PHÂN CẤP QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC ĐỐI VỚI

GIÁO DỤC PHỔ THÔNG TẠI TỈNH KIÊN GIANG ............................... 48

2.2.1. Phân cấp quản lý về bộ máy .................................................................. 48

2.2.2. Phân cấp quản lý về nhân sự ................................................................. 54

2.2.3. Phân cấp quản lý về tài chính ................................................................ 58

2.2.4. Phân cấp quản lý về chuyên môn

(chương trình, giáo trình, tài liệu giảng dạy) ......................................... 64

2.2.5. Phân cấp quản lý học sinh ..................................................................... 66

2.3. NHẬN XÉT PHÂN CẤP QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC ĐỐI VỚI

GIÁO DỤC PHỔ THÔNG TẠI TỈNH KIÊN GIANG ............................... 68

2.3.1. Ưu điểm ................................................................................................. 68

2.3.2. Hạn chế .................................................................................................. 69

2.3.3. Nguyên nhân .......................................................................................... 70

Tiểu kết chƣơng 2 .................................................................................................... 72

Chƣơng 3: PHƢƠNG HƢỚNG, GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM PHÂN CẤP QUẢN

LÝ NHÀ NƢỚC ĐỐI VỚI GIÁO DỤC PHỔ THÔNG TẠI TỈNH

KIÊN GIANG ...................................................................................... 73

3.1. PHƢƠNG HƢỚNG BẢO ĐẢM PHÂN CẤP QUẢN LÝ NHÀ

NƢỚC ĐỐI VỚI GIÁO DỤC PHỔ THÔNG TẠI TỈNH KIÊN

GIANG ............................................................................................................ 73

3.1.1. Phân cấp quản lý nhà nước đối với giáo dục phổ thông phù hợp

điều kiện cụ thể tại tỉnh Kiên Giang ...................................................... 73

3.1.2. Phân cấp đồng thời với việc xác định rõ trách nhiệm của các

chủ thể quản lý nhà nước đối với giáo dục phổ thông tại tỉnh

Kiên Giang ............................................................................................. 74

3.1.3. Phân cấp quản lý nhà nước đối với giáo dục phổ thông phục vụ

thực hiện mục tiêu của giáo dục phổ thông tại tỉnh Kiên Giang ........... 74

3.2. GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM PHÂN CẤP QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC

ĐỐI VỚI GIÁO DỤC PHỔ THÔNG TẠI TỈNH KIÊN GIANG .............. 75

3.2.1. Tiếp tục hoàn thiện thể chế quản lý nhà nước đối với giáo dục

phổ thông nói chung và phân cấp đối với quản lý nhà nước đối

với giáo dục phổ thông nói riêng ........................................................... 75

3.2.2. Nâng cao năng lực quản lý nhà nước đối với giáo dục phổ

thông tại tỉnh Kiên Giang ...................................................................... 78

3.2.3 Bảo đảm nguồn lực vật chất phục vụ quản lý nhà nước đối với

giáo dục phổ thông tại tỉnh Kiên Giang ................................................ 82

3.2.4. Tăng cường kiểm tra, đánh giá, xử lý vi phạm, chế tài nghiêm

khắc liên quan đến hoạt động phân cấp quản lý nhà nước đối

với giáo dục phổ thông .......................................................................... 87

Tiểu kết chƣơng 3 .................................................................................................... 91

KẾT LUẬN ............................................................................................................. 92

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 94

Phụ lục

1

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài luận văn

GD và quản lý GD luôn luôn là vấn đề được mọi quốc gia trên thế giới quan

tâm. QLNN về GD - đào tạo có thể coi là khâu then chốt để thực hiện thắng lợi mọi

hoạt động GD. Phân cấp QLNN đối với GD là một nội dung quan trọng mà các

nước trên thế giới đều quan tâm nhằm nâng cao hiệu quả QLNN đối với GD. Đối

với nước ta, phân cấp, phân quyền giữa chính quyền trung ương và địa phương,

giữa các cơ quan quản lý HCNN cùng cấp là một nội dung quan trọng trong công

cuộc cải cách HCNN. Trước yêu cầu đổi mới mạnh mẽ của nền GD nước nhà vấn

đề phân cấp, phân quyền trong QLNN đối với GD cần được xem xét nghiên cứu

thấu đáo. Bởi vì, đây chính là một biện pháp hữu hiệu để nâng cao hiệu quả QLNN

đối với GD, là động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại

hóa; là điều kiện để phát triển nguồn lực con người – yếu tố cơ bản cho sự phát triển

xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững.

Trong hệ thống GD quốc dân, GDPT giữ vị trí nền tảng. Thế nhưng nhiều năm

nay, chất lượng GDPT nước ta còn thấp so với các nước trong khu vực và trên thế

giới. Một trong những nguyên nhân cơ bản là do công tác QLNN đối với GD còn

tồn tại nhiều hạn chế, bất cập. Một trong những giải pháp mang tính đột phá nhằm

nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả của hoạt động QLNN đối với GD, tiến tới đạt

được mục tiêu của chiến lược GD đến năm 2020 là cần phải đẩy mạnh thực hiện

đồng bộ phân cấp QLNN đối với GD&ĐT, trong đó có GDPT.

Kiên Giang là một tỉnh ven biển phía Tây Nam, thuộc khu vực đồng bằng

Sông Cửu Long. Nhìn chung, trong những năm qua, công tác QLNN đối với

GD&ĐT đạt được những thành tựu nhất định. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn tồn

tại một số hạn chế làm cho chất lượng GDPT chưa cao, còn thấp so với mặt bằng

chung của cả nước.

Nhận thức được tầm quan trọng và ý nghĩa của chủ trương phân cấp trong

QLNN nói chung và phân cấp trong QLNN đối với GD, tôi chọn nghiên cứu đề tài

“Phân cấp QLNN đối với GDPT tại tỉnh Kiên Giang” làm luận văn tốt nghiệp.

2

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn

Tìm hiểu các tư tưởng trên thế giới nghiên cứu về QLNN và QLNN đối với

GDPT, tác giả có một số nhận xét sau: QLNN về GDPT không phải là mảnh đất

mới chưa được “cày xới” mà GDPT là một vấn đề đã được các nhà nghiên cứu quan

tâm đến dưới các góc độ khác nhau.

Tác giả Đinh Thị Minh Tuyết (2006) trong bài “Đổi mới quản lý giáo dục đào

tạo ở nước ta hiện nay“ (Tạp chí QLNN- số 130 (11/2006) [41] đã nhấn mạnh yêu

cầu đổi mới quản lý giáo dục đào tạo ở nước ta hiện nay. Tác giả đặt ra yêu cầu cần

phải xác định rõ quyền hạn, trách nhiệm quản lý giáo dục đào tạo của Bộ GD&ĐT,

của các bộ và UBND tỉnh, thành phố, quận huyện và cơ sở GD về các khâu quy

hoạch, kế hoạch, tổ chức và cán bộ, tài chính, thanh tra và kiểm tra để có thể thực

hiện tốt các nội dung QLNN.

Tác giả Nguyễn Thị Minh Phương (2008) trong nghiên cứu “Về phân hóa

trong GDPT Việt Nam giai đoạn sau năm 2015” (Thuộc chương trình nghiên cứu

khoa học cấp bộ giai đoạn 2006-2008 “Phát triển GD&ĐT Việt Nam trong quá trình

hội nhập quốc tế”) [29], việc phát triển chương trình GD của nhiều quốc gia trên thế

giới đang chuyển từ “định hướng đầu vào” sang “định hướng đầu ra” - còn được gọi

là quan điểm phát triển chương trình dựa vào năng lực người học. Khả năng thực

hiện phân hoá GDPT Việt Nam sau năm 2015 được phân tích dựa trên: khả năng

nhận thức của học sinh và khả năng giảng dạy của giáo viên; khả năng xây dựng

chương trình; khả năng tổ chức và quản lý nhà trường và yêu cầu của xã hội đối với

chất lượng nguồn nhân lực.

Trên cơ sở đó, tác giả đã chỉ ra định hướng thực hiện phân hoá trong GDPT

sau năm 2015: 1/ Điều chỉnh GD tiểu học và GD trung học cơ sở từ phổ cập thành

bắt buộc. GD THPT được chia thành hai giai đoạn. 2/ Chương trình GDPT với mục

tiêu: hình thành và phát triển cho học sinh năng lực nhận thức, thực hành, xã hội và

cá nhân; nội dung học vấn: bắt buộc với 8 lĩnh vực học tập; tự chọn với nhiều trình

độ. 3/ Hình thức tổ chức phân hoá: thực hiện phân luồng sau trung học cơ sở và

THPT một cách triệt để; thực hiện tự chọn bắt buộc và tùy ý.

3

Với định hướng này, GDPT sẽ có nhiều chuyển biến mà GDPT vùng dân tộc

thiểu số cũng là một bộ phận trong đó. Tác giả cũng đã nêu rõ những điều kiện thực

hiện phân hoá trong GDPT Việt Nam là phát triển chương trình GDPT; đào tạo, bồi

dưỡng giáo viên; cơ sở vật chất, thiết bị dạy học; chính sách GD. Đây cũng chính là

những nội dung chính trong QLNN về GDPT.

Tác giả Nguyễn Thị Mỹ Lộc (2012) trong cuốn “Quản lý GD - một số vấn đề

lý luận và thực tiễn“ [27] đã đưa ra khung lý thuyết cơ bản về QLNN về GD. Tác

giả đã đề cập đến 4 cách tiếp cận trong QLNN về GD là (i) cách tiếp cận chức năng,

(ii) cách tiếp cận khách thể/đối tượng quản lý GD, (iii) cách tiếp cận hành vi/quan

hệ con người trong quản lý GD và (iv) cách tiếp cận quan hệ nhà nước trong quản lý

GD. Tác giả cũng chỉ ra những đặc điểm cơ bản của QLNN về GD theo cách tiếp

cận thứ tư, đó là (i) kết hợp quản lý hành chính và quản lý chuyên môn trong các

hoạt động quản lý, (ii) tính quyền lực nhà nước trong hoạt động quản lý, (iii) kết

hợp nhà nước – xã hội trong QLNN về GD. Đây là khung lý thuyết quan trọng, cần

thiết cho nghiên cứu của luận án.

Tác giả Trần Ngọc Giao (2012) trong đề tài nghiên cứu “Phát triển đội ngũ

lãnh đạo và QLNN về GD các cấp” [19] đã khẳng định: trong bối cảnh đổi mới căn

bản, toàn diện GD&ĐT Việt Nam hiện nay, đội ngũ cán bộ GD từ trung ương đến

địa phương đòi hỏi phải có các năng lực mới, kỹ năng quản lý phù hợp. Thông qua

khảo sát thực trạng đội ngũ cán bộ quản lý GD, tác giả cho rằng trong bối cảnh hiện

nay, người cán bộ quản lý GD cần có phẩm chất và năng lực là: nhà lãnh đạo, nhà

quản lý (quản lý tác nghiệp, quản lý hành chính và cung ứng các dịch vụ công), nhà

GD, nhà hoạt động kinh tế - xã hội. Họ cũng cần chú trọng các yếu tố: nhận thức

chính trị, đạo đức công vụ, khả năng thích ứng, tư duy hệ thống, quản lý đảm bảo

chất lượng, tập trung ưu tiên cho người học, quản lý xung đột, quản lý thông tin. Đề

tài đã đề xuất khung năng lực của cán bộ công chức GD gồm: nền tảng cá nhân,

năng lực lãnh đạo, năng lực tác nghiệp quản lý hành chính, công vụ, năng lực quan

hệ xã hội và năng lực quản lý thông tin. Đây chính là những yêu cầu về năng lực

cần có đối với cán bộ quản lý GD trong bối cảnh hiện nay. Đứng trên góc độ

4

QLNN, yếu tố nguồn nhân lực trong quản lý quyết định nhiều đến chất lượng của

hoạt động quản lý.

Cũng đề cập đến QLNN trong thời kì mới, Tác giả Vũ Ngọc Hải (2012) trong

đề tài nghiên cứu “Đổi mới QLNN về hệ thống giáo dục quốc dân trong hội nhập

quốc tế và xu thế toàn cầu hóa”[20] lại có cái nhìn tổng thể về cả hệ thống GD quốc

dân, trong đó, GDPT là một bộ phận quan trọng. Trên thực tế, hệ thống GD quốc

dân ở nước ta đang có bất cập lớn về cơ cấu khung và QLNN như phân luồng yếu,

thiếu tính liên thông, chưa đồng bộ, thiếu nhất quán. QLNN trong toàn hệ thống còn

có sự chồng chéo, chưa phân cấp rõ ràng, công khai, minh bạch; thiếu cơ chế trong

ngành GD và các ngành khác ở cả trung ương và địa phương; chưa có sự chuyển

đổi phù hợp với yêu cầu học tập suốt đời và xã hội học tập. Hiệu lực QLNN về GD

còn thấp, chưa thực hiện tốt được 3 công khai trong toàn hệ thống làm hạn chế phát

huy tính chủ động, sáng tạo, công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình trước

xã hội của các cơ sở GD đào tạo trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ

nghĩa và hội nhập quốc tế. Những đổi mới QLNN hệ thống GD được chỉ ra theo

hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế. Đây

cũng là yêu cầu đổi mới quản lý cho cả hệ thống GD quốc dân nói chung, GDPT

nói riêng.

Tuy không trực tiếp nghiên cứu về QLNN đối với GDPT mà chỉ nghiên cứu

về quản lý trong các trường phổ thông, tác giả Nguyễn Tiến Hùng (2012) trong đề

tài khoa học cấp Bộ “Đổi mới quản lý nhà trường phổ thông Việt Nam theo hướng

định hướng hiệu quả trong bối cảnh phân cấp quản lý GD” [23] cũng đã chỉ ra một

khía cạnh có ảnh hưởng lớn đến hiệu quả quản lý của các trường phổ thông đó là

phân cấp quản lý GD. Từ góc độ QLNN, phân cấp GD nếu làm tốt sẽ tạo điều kiện

thuận lợi cho các trường phổ thông đạt được hiệu lực và hiệu quả trong quản lý nội

bộ, do đó, phân cấp là một trong những vấn đề cần được quan tâm trong QLNN về

GDPT hiện nay.

Từ một góc độ tiếp cận cụ thể hơn, tác giả Trần Khánh Đức quan niệm: Chất

lượng GD là “kết quả của quá trình đào tạo được phản ánh ở các đặc trưng về phẩm

5

chất, giá trị nhân cách và giá trị sức lao động hay năng lực hành nghề của người tốt

nghiệp tương ứng với mục tiêu, chương trình đào tạo theo các ngành nghề cụ thể”

[18, tr.35]. Vấn đề cơ bản trong quan niệm của tác giả Trần Khánh Đức đó chính là

chất lượng GD đại học được thể hiện ở việc mục tiêu được hiện thực hoá trong

phẩm chất, khả năng, trình độ của người học.

Ngày 19/12/2012, tại Hà Nội, Bộ GD&ĐT phối hợp với Tổ chức Quốc tế

Pháp ngữ đã tổ chức Hội thảo quốc gia “Vai trò điều tiết của Nhà nước trong việc

đảm bảo chất lượng và công bằng GD”[7]. Điều tiết là nhà nước huy động tất cả

các thành tố của hệ thống GD phục vụ cho chiến lược tổng thể phát triển đất nước

trong đó GD đóng vai trò then chốt. Điều tiết liên quan đến các chính sách và hành

động của Nhà nước. Hội thảo được tổ chức nhằm tạo ra sự đồng thuận giữa các đối

tượng khác nhau tham gia GD về những điểm ưu tiên cần được điều tiết để đảm bảo

chất lượng và công bằng GD, trên cơ sở vẫn giữ nguyên tắc linh hoạt, hiệu quả và

hài hòa giữa sự tự chủ của các cơ sở GD và việc tuân thủ định hướng, tiêu chí của

chính sách GD quốc gia. Thông qua 4 chuyên đề của hội thảo gồm: “Sứ mạng của

hệ thống GD và khung tham chiếu: khái niệm về công bằng, chất lượng và điều

tiết”; “Xem xét, sửa đổi liệt kê các loại hình cơ sở GD và đặc điểm của từng loại cơ

sở GD”; “Các công cụ điều tiết hiện nay, thành công và hạn chế của các công cụ

đó”; và “Các nội dung cần điều tiết ưu tiên, giải pháp, công cụ pháp lý cần thiết”,

nhiều bài viết tại hội thảo đã đánh giá thực trạng công tác điều tiết của Nhà nước

trong lĩnh vực GD đại học với nhận định có những lĩnh vực nhà nước đã không thực

hiện hiệu quả vai trò điều tiết, chưa bảo đảm quyền tự chủ đủ mức cho các trường

đại học vận động vươn tới chất lượng cao hơn.

Theo tác giả Lâm Quang Thiệp, hiện trạng của GD đại học Việt Nam mà ở đó

là sức ép giữa việc mở rộng số lượng với yêu cầu bảo đảm chất lượng. Điều này đòi

hỏi sự chuyển mình của bản thân cơ sở GD và của các chính sách vĩ mô. Ở góc độ

vĩ mô, nhà nước cần phải làm tốt công tác dự báo về nhu cầu nhân lực đại học theo

các ngành, lĩnh vực để định hướng, hợp lý hóa về số lượng người học, đồng thời,

tạo ra những cơ chế đủ mạnh để các cơ sở GD có thể vận động theo hướng bảo đảm

6

chất lượng. Bản thân mỗi cơ sở GD cũng cần phải xây dựng năng lực để đáp ứng

nhu cầu của người học, để mở rộng số lượng mà không làm suy giảm chất lượng

[38].

Từ trên khái quát về lịch sử nghiên cứu vấn đề có thể nhận định rằng: QLNN

về GD trong đó có GDPT đã được quan tâm, đánh giá đúng mức tuy nhiên chỉ trên

mức độ giải pháp mà chưa mang tính tổng thể toàn quốc, vùng miền như vùng

Đồng Bằng sông Cửa Long. Tỉnh Kiên Giang, đến nay vẫn chưa có một nghiên cứu

nào nghiên cứu một cách hệ thống, toàn diện và sâu sắc về QLNN đối với GDPT

trên địa bàn tỉnh Kiên Giang, một vùng trọng yếu của Đồng bằng sông Cửu Long.

Vì vậy, việc thực hiện đề tài này sẽ không trùng lắp, đảm bảo tính độc lập và có ý

nghĩa lý luận và thực tiễn lớn về QLNN đối với GDPT trên địa bàn tỉnh Kiên Giang

nói riêng.

3. Mục tiêu và nhiệm vụ của luận văn

3.1 Mục tiêu nghiên cứu

Trên cơ sở các kết quả nghiên cứu về mặt lý luận và thực tiễn, từ đó thấy được

những mặt ưu điểm, những mặt hạn chế, những thuận lợi, khó khăn trong công tác

QLNN đối với GDPT trên địa bàn tỉnh Kiên Giang. Trên cơ sở đó, đề xuất một số

giải pháp nâng cao hiệu quả QLNN với GDPT trên địa bàn tỉnh Kiên Giang trong

giai đoạn hiện nay.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Một là, góp phần làm rõ cơ sở lý luận về QLNN và phân cấp QLNN đối với

GDPT.

Hai là, phân tích thực trạng phân cấp QLNN với GDPT trên địa bàn tỉnh Kiên

Giang. Từ đó có những đánh giá về phân cấp QLNN về GDPT trên địa bàn tỉnh

Kiên Giang.

Ba là, đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả phân cấp QLNN về

GDPT trên địa bàn tỉnh Kiên Giang trong thời gian tới.

7

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận và thực tiễn của

phân cấp QLNN đối với GDPT.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Luận văn tập trung nghiên cứu công tác phân cấp QLNN đối với GDPT trên

địa bàn tỉnh Kiên Giang.

Thời gian: Giai đoạn 2016 – 2020, đề xuất giải pháp đến năm 2025.

5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu

5.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận

Sử dụng các phương pháp nghiên cứu lý luận để tổng hợp, phân tích, so sánh,

khách quan nhằm xây dựng cơ sở lý luận cho đề tài.

5.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn

Nhóm phương pháp này nhằm thu thập các thông tin thực tiễn để xây dựng cơ

sở thực tiễn của đề tài. Thuộc nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn có các

phương pháp nghiên cứu cụ thể sau đây:

Thứ nhất, phương pháp tổng kết kinh nghiệm trong phân cấp QLNN về GDPT

trên địa bàn tỉnh Kiên Giang.

Thứ hai, phương pháp nghiên cứu sản phẩm về phân cấp QLNN về GDPT trên

địa bàn tỉnh Kiên Giang.

Thứ ba, phương pháp lấy ý kiến chuyên gia: là phương pháp thu thập ý kiến

của chuyên gia về lĩnh vực phân cấp QLNN về GDPT trên địa bàn tỉnh Kiên Giang.

Thứ tư, phương pháp điều tra bằng phiếu: nhằm mục đích khảo sát ý kiến của

cán bộ, và giáo viên trong các trường tiểu học, trung học cơ sở, THPT, trung tâm

GD thường xuyên trên địa bàn tỉnh Kiên Giang.

5.2.1. Mục đích nghiên cứu khảo sát

Nhằm đánh giá khách quan thực trạng phân cấp QLNN về GDPT trên địa

bàn tỉnh Kiên Giang, khái quát những việc đã làm được và chưa làm được, phân

tích nguyên nhân những hạn chế, tồn tại.

8

Cùng với cơ sở lý luận trình bày trong Chương 1, những kết luận rút ra từ

quá trình nghiên cứu khảo sát thực trạng ở Chương 2 là cơ sở thực tiễn xây dựng

các biện pháp phân cấp QLNN về GDPT trên địa bàn tỉnh Kiên Giang.

5.2.2. Nội dung nghiên cứu khảo sát

Phân tích các văn bản quản lý của Nhà nước, những văn bản liên quan đến

phân cấp QLNN đối với GDPT nói riêng và GD nói chung. Khảo sát các ý kiến của

các cấp quản lý, giáo viên về công tác phân cấp QLNN đối với GDPT để đánh giá

những việc đã làm được, chưa làm được. Tìm hiểu những tồn tại, bất cập trong phân

cấp QLNN đối với GDPT.

Trên cơ sở kết quả khảo sát, vận dụng những khái niệm, lý thuyết về phân

cấp QLNN đối với GDPT để tiến hành phân tích rõ những nguyên nhân, thực trạng,

những điểm mạnh, điểm yếu của phân cấp QLNN đối với GDPT trên địa bàn tỉnh

Kiên Giang. Trao đổi, xin ý kiến của các chuyên gia, những cán bộ quản lý có kinh

nghiệm, am hiểu về phân cấp QLNN đối với GDPT để phân tích rõ hơn, cụ thể hơn

những ưu điểm, những tồn tại. Vận dụng các nội dung lý thuyết trình bày ở Chương

1 về công tác QLNN nói chung và đối với GDPT nói riêng để tiến hành xây dựng

các biện pháp nhằm nâng cao chất lượng phân cấp QLNN đối với GDPT trên địa

bàn tỉnh Kiên Giang.

5.2.3. Đối tượng, địa bàn khảo sát

Xem xét các văn bản chỉ đạo, các Quyết định, thông tư để tiến hành thu thập,

xử lý thông tin; khảo sát ý kiến theo phiếu khảo sát với một số câu hỏi (phụ lục).

Tiến hành điều tra, khảo sát, thu thập ý kiến phản hồi qua phiếu hỏi với sự tham gia

của cán bộ quản lý, giảng viên. Khảo sát được thực hiện tại 16 trường tiểu học, 16

trường trung học cơ sở và 19 trường THPT trên địa bàn tỉnh Kiên Giang, mỗi

trường từ 6-9 phiếu trưng cầu ý kiến.

Gặp gỡ, trao đổi ý kiến với một số cán bộ quản lý, giáo viên nhằm làm rõ

hơn các ý kiến phản hồi qua phiếu hỏi và nhận xét rút ra từ kết quả phân tích tài

liệu; quan sát, suy ngẫm, làm cơ sở dữ liệu cho luận văn.

9

5.2.4. Phương pháp và xử lý kết quả khảo sát.

Để khảo sát thực trạng QLNN đối với tiểu học, trung học cơ sở, THPT, trung

tâm GD thường xuyên trên địa bàn tỉnh Kiên Giang, tác giả đề tài tiến hành xây

dựng mẫu phiếu trưng cầu ý kiến dành cho cán bộ quản lý, giáo viên các cơ sở

GDPT (mẫu phiếu tại Phụ lục).

Cách quy ước điểm số cho bảng hỏi: Mỗi mục đều có các lựa chọn và được

quy ước bằng các mức điểm khác nhau:

Chuẩn cho điểm:

1 điểm 2 điểm 3 điểm 4 điểm

Không hài lòng Ít hài lòng Hài lòng Rất hài lòng

Chưa đạt Trung bình Khá Tốt

Cách đánh giá:

Việc xử lý kết quả các phiếu trưng cầu dựa vào phương pháp toán thống kê

định lượng kết quả nghiên cứu. Đề tài sử dụng hai phương pháp đánh giá là: định

lượng theo tỷ lệ % và phương pháp cho điểm. Cụ thể:

Chuẩn đánh giá (theo điểm):

Câu hỏi 4 mức độ trả lời, đánh giá theo các mức sau:

- Mức 1: Tốt, rất ảnh hưởng (Rất hài lòng; Tốt): .

- Mức 2: Khá (Hài lòng; Khá): .

- Mức 3: Trung bình (Ít hài lòng; Trung bình): .

- Mức 4: Yếu, kém (Không hài lòng; Chưa đạt): .

Ý nghĩa sử dụng :

Điểm trung bình trong thống kê biểu hiện mức độ đại biểu theo một tiêu thức

số lượng nào đó của tổng thể đồng chất bao gồm nhiều đơn vị cùng loại. Điểm trung

bình phản ánh mức độ trung bình của hiện tượng, đồng thời so sánh hai (hay nhiều)

tổng thể hiện tượng nghiên cứu cùng loại, không có cùng quy mô.

10

Sử dụng công thức tính điểm trung bình:

: Điểm trung bình.

Xi: Điểm ở mức độ i.

Ki: Số người tham gia đánh giá ở mức độ Xi.

n: Số người tham gia đánh giá.

Thời gian khảo sát:

Từ tháng 02 đến tháng 3 năm 2017.

5.3. Nhóm phương pháp sử dụng thống kê toán học để xử lý các số liệu, thông

tin

Tính toán phần mềm Execl để xử lý các số liệu thu thập được qua điều tra

nhằm đưa ra các nhận định khoa học về thực trạng vấn đề nghiên cứu.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

6.1. Ý nghĩa lý luận

Góp phần vào hệ thống hoá lý luận về phân cấp QLNN và phân cấp QLNN về

GDPT; hệ thống hoá và xây dựng các nội dung của phân cấp QLNN về GDPT.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Qua phân tích, so sánh, đánh giá thực trạng, rút ra những mặt mạnh; những

hạn chế và nguyên nhân của thực trạng. Từ đó, làm tiền đề để nâng cao hiệu quả

phân cấp QLNN về GDPT trên địa bàn tỉnh Kiên Giang, đáp ứng yêu cầu của nền

kinh tế thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa của tỉnh và đất nước.

Luận văn đóng góp làm tài liệu tham khảo cho đội ngũ lãnh đạo, đội ngũ cán

bộ, các ngành trong việc quy hoạch phát triển hệ thống GDPT và học viên cao học

làm tài liệu tham khảo.

11

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, tài liệu tham khảo, kết cấu chính của luận văn gồm 3

chương, theo đó:

Chương 1: Lý luận về phân cấp QLNN đối với GDPT

Chương 2: Thực trạng phân cấp QLNN đối với GDPT trên địa bàn tỉnh Kiên

Giang

Chương 3: Phương hướng, giải pháp bảo đảm phân cấp QLNN đối với GDPT

tại tỉnh Kiên Giang

12

Chƣơng 1

LÝ LUẬN VỀ PHÂN CẤP QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC ĐỐI VỚI

GIÁO DỤC PHỔ THÔNG

1.1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ PHÂN CẤP QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC

1.1.1. Khái niệm phân cấp quản lý nhà nƣớc

Quản lý là sự tác động có tổ chức, có định hướng của chủ thể quản lý lên các

khách thể quản lý, nhằm đạt được các mục tiêu đã định trước[22]. C.Mác đã coi

“quản lý là một chức năng đặc biệt nảy sinh từ bản chất xã hội của quá trình lao

động”. Nhấn mạnh nội dung trên, ông viết: “Tất cả mọi lao động trong xã hội trực

tiếp hay lao động chung nào tiến hành trên quy mô tương đối lớn, thì ít nhiều cũng

cần một sự chỉ đạo để điều hòa những hoạt động của cá nhân và thực hiện những

chức năng chung… Một người độc tấu vĩ cầm tự mình điều khiển lấy mình, còn một

dàn nhạc thì cần phải có nhạc trưởng”.

Khi Nhà nước xuất hiện thì phần lớn (và là phần quan trọng) các công việc

của xã hội do Nhà nước quản lý. QLNN là một lĩnh vực quản lý đặc biệt. Đó là loại

quản lý gắn liền trực tiếp với hệ thống các cơ quan thuộc bộ máy quyền lực nhà

nước; gắn liền với việc sử dụng quyền lực nhà nước – một loại quyền lực đặc biệt,

khác hẳn với các loại quyền lực khác. Một cách khái quát, QLNN là hoạt động thực

thi quyền lực nhà nước; là sự tác động có tổ chức và điều chỉnh bằng quyền lực nhà

nước đối với các quá trình xã hội và hành vi hoạt động của con người do các cơ

quan thuộc bộ máy nhà nước từ trung ương đến địa phương tiến hành nhằm duy trì

và phát triển các mối quan hệ và trật tự xã hội, nhằm đáp ứng các nhu cầu hợp pháp

của con người, thực hiện các chức năng của nhà nước.

Quản lý: Là sự tác động có tổ chức, có hướng đích của chủ thể quản lý lên

đối tượng và khách thể quản lý nhằm sử dụng có hiệu quả nhất các nguồn lực, các

thời cơ của tổ chức để đạt mục tiêu đặt ra trong điều kiện môi trường luôn biến

động. [27, tr.68]

Khái niệm quản lý bao hàm một ý nghĩa chung: là những tác động có tính

13

hướng đích; hoạt động quản lý được tiến hành trong một tổ chức hay một nhóm xã

hội; quản lý là các hoạt động thực hiện nhằm đảm bảo hoàn thành công việc qua

những nỗ lực của mọi người trong tổ chức; quản lý là một hoạt động thiết yếu, đảm

bảo phối hợp những nỗ lực cá nhân nhằm đạt được các mục đích của nhóm; quản lý

là phương thức tốt nhất để đạt được mục tiêu chung của một nhóm người, một tổ

chức, một cơ quan hay nói rộng hơn là một quốc gia; quản lý là quá trình tác động

có định hướng, có tổ chức của chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý, thông qua các

cơ chế quản lý, nhằm sử dụng có hiệu quả các nguồn lực trong điều kiện môi trường

biến động để hệ thống ổn định, phát triển, đạt được những mục tiêu đã định.

Decentralization (thường được dịch sang tiếng việt là phân quyền) là một

thuật ngữ được sử dụng khá nhiều và không phải là vấn đề hoàn toàn mới mẻ ở Việt

Nam. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có cách hiểu và định nghĩa thống nhất về thuật

ngữ này trong mối quan hệ với các từ nước ngoài được sử dụng. Trên nguyên lý

chung, decentralization là một phạm trù hay mô hình quản lý tương phản với mô

hình quản lý (bao gồm cả QLNN) mang tính chất tập trung (centralization).

Mô hình quản lý mang tính chất tập trung (hay tập quyền) có thể biểu hiện ở

nhiều dạng khác nhau, trong đó nét đặc trưng chung nhất là việc đưa ra các quyết

định (các cấp độ khác nhau) đều tập trung ở một người, nhóm người hay ở một cấp.

Đây là phương thức quản lý đòi hỏi sự tập trung cao độ, việc giải quyết mọi vấn đề

Nhà nước tập trung vào chính quyền trung ương, ở đó không có sự phân quyền,

phân cấp. Mọi hoạt động của các thể chế cộng đồng địa phương đều căn cứ vào

những quyết định, chỉ thị của chính quyền trung ương, của cơ quan cấp trên.

Trong mô hình decentralization, nét đặc trưng chung là quyền quyết định

được phân chia cho nhiều người, nhiều cấp. Mỗi một cấp, căn cứ vào quy định

chung của tổ chức được quyền ra các quyết định trên những lĩnh vực cụ thể. Theo

đó, cơ quan nhà nước trung ương chuyển giao quyền xuống cho các cơ quan cấp

dưới. Decentralization trong trường hợp này gắn liền với hai khái niệm: cấp trên

cấp dưới (hệ thống thứ bậc) và sự chuyển giao quyền (các loại quyền). Tiếp cận

thuật ngữ này, thấy rằng đây là cách thức chuyển giao quyền quyết định để giải

14

quyết các nhiệm vụ nhất định ở các cấp độ khác nhau cho nhiều cấp khác nhau, phổ

biến bao gồm: phân công, tản quyền, ủy quyền và trao quyền. Theo đó:

Phân công về bản chất là một hình thức của mô hình tập trung quyền lực,

tuy nhiên chính quyền trung ương - để thực hiện quyền lực của mình trên thực tế -

tiến hành phân công, giao nhiệm vụ cho các cơ quan cấp dưới thực hiện. Biểu hiện

này được thấy rõ qua tinh thần của Hiến pháp Việt Nam qua các thời kỳ, theo đó

Hiến pháp luôn khẳng định “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công,

phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập

pháp, hành pháp, tư pháp”

Tản quyền (Deconcentration) về bản chất cũng là sự biểu hiện của tập trung,

nhưng để hạn chế những nhược điểm của tập quyền, giảm mật độ tập trung của

chính quyền Trung ương, hạn chế tình trạng quan liêu của chính quyền trung ương

trong việc giải quyết các vấn đề phát sinh tại các cộng đồng lãnh thổ, để thực hiện

các công việc của mình chính quyền trung ương đặt các bộ phận cơ cấu của mình tại

các địa phương để giải quyết những vấn đề thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của trung

ương. Hiện nay ở nước ta, các cơ quan QLNN trực thuộc theo ngành dọc có cơ cấu

tổ chức và quản lý theo mô hình tản quyền, như: hải quan, tòa án, thống kê, kho

bạc, ngân hàng nhà nước, viện kiểm sát, thuế,…

Ủy quyền (Delegation) thực chất là việc trao quyền cho cơ quan cấp dưới

thực hiện quyền của cơ quan cấp trên. Ủy quyền thường được thực hiện theo từng

vụ việc cụ thể, khi ủy quyền thì cơ quan cấp trên có thể trao cho cơ quan cấp dưới

cả các phương tiện vật chất, kỹ thuật, tài chính. Chính quyền cấp trên giữ quyền

kiểm tra, giám sát đối với cấp dưới nghiêm ngặt.

Trao quyền (Devolution) là việc cơ quan Nhà nước, người có thẩm quyền

giao quyền hạn hay tài sản cho một cơ quan, đơn vị trong hệ thống tổ chức bộ máy

để cơ quan, đơn vị đó sử dụng, quản lý một cách tự chủ, nhưng vẫn chịu sự kiểm

soát của chủ thể giao quyền.

Phân quyền (Decentralization) là nguyên tắc tổ chức thực hiện quyền lực có

thể được thực hiện theo hai hướng: phân quyền theo chiều ngang và phân quyền

15

theo chiều dọc. Phân quyền theo chiều ngang thực chất là sự phân công chức năng,

phân định thẩm quyền, trách nhiệm giữa các cơ quan Nhà nước cùng cấp tạo thành

một cơ chế có thể kiểm soát và kiềm chế lẫn nhau để tránh lạm quyền. Đó là sự

phân công thực hiện các chức năng lập pháp, hành pháp và tư pháp trong việc thực

thi quyền lực Nhà nước. Phân quyền theo chiều dọc thực chất là phân công chức

năng, nhiệm vụ, quyền hạn giữa các cấp chính quyền, mỗi cấp có những nhiệm vụ

quyền hạn riêng của mình, các cấp không can thiệp vào công việc của nhau, nhưng

cấp trên có quyền thanh tra, kiểm tra cấp dưới theo quy định của pháp luật.

Trong các văn kiện của Đảng và trong các văn bản quy phạm pháp luật, Nhà

nước ta ít sử dụng thuật ngữ phân quyền, mà dùng phổ biến thuật ngữ phân cấp

[37]. Phân cấp được hiểu là phân công chức năng, phân định nhiệm vụ quyền hạn

giữa các cấp quản lý. Theo cách hiểu đó, phân cấp và phân quyền theo chiều dọc có

những điểm tương đồng. Tuy nhiên, bản chất của phân cấp là phân quyền cho từng

cấp quản lý trên cơ sở văn bản quy phạm pháp luật và trên cơ sở quyết định cá biệt

của cấp có thẩm quyền. Ta có thể thấy phân quyền và phân cấp khác nhau ở những

điểm căn bản sau đây:

Chủ thể có quyền phân quyền chỉ có thể là cơ quan quyền lực nhà nước cao

nhất - Quốc hội. Phân quyền thể hiện mối quan hệ giữa nhà nước với cộng đồng

lãnh thổ, phân quyền được thể hiện dưới hình thức pháp lý - luật. Cấp chính quyền

được phân quyền có toàn quyền và chịu trách nhiệm về việc thực hiện nhiệm vụ,

quyền hạn dược phân quyền; phân quyền tạo nên sự độc lập giữa chính quyền địa

phương và chính quyền trung ương ở những nội dung được phân quyền, bảo đảm

cho cấp chính quyền được phân quyền à nhưng pháp nhân công quyền độc lập. Cơ

quan nhà nước cấp trên chỉ có thể kiểm tra, giám sát tính hợp hiến, hợp pháp trong

việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương về những vấn đề

được phân quyền.

Chủ thể phân cấp là các cơ quan nhà nước ở trung ương và chính quyền địa

phưong; đối tượng được phân cấp là chính quyền địa phương và cơ quan nhà nước

ở cấp dưới; phân cấp được thực hiện bằng việc ban hành văn bản quy phạm pháp

16

luật của cơ quan phân cấp. Cơ quan phân cấp có trách nhiệm hướng dẫn, kiểm tra

việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình đã phân cấp, còn cơ quan được phân

cấp chịu trách nhiệm trước cơ quan đã phân cấp về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền

hạn được phân cấp. Giữa cơ quan được phân cấp và cơ quan phân cấp có mối quan

hệ trực thuộc về tổ chức hoặc trực thuộc vể chức năng. Cơ quan phân cấp có thể

dựa vào thực tiễn thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan được phân cấp mà có

thể tiếp tục phân cấp hay “thu hồi sự phân cấp”. Việc phân cấp không mang tính ổn

định, lâu dài như phân quyền, mà tùy thuộc vào thực tiễn khả năng của cơ quan

được phân quyền [37]

Như vậy, phân cấp là việc phân công chức năng, phân định nhiệm vụ quyền

hạn cho từng cấp hành chính, nếu nhìn từ chế độ quản lý, thì bản chất của việc

phân cấp là cấp trên chuyển giao những nhiệm vụ quyền hạn do mình nắm giữ cho

cấp dưới thực hiện một cách thường xuyên, liên tục bằng phương thức ban hành

văn bản quy phạm pháp luật, hoặc bằng cách chuyển cho cấp dưới thực hiện nhiệm

vụ quyền hạn bằng các quyết định cụ thể [43, tr.10]

Nội dung của phân cấp là trao cho mỗi cấp chính quyền, mỗi khâu trong bộ

máy những nhiệm vụ, quyền hạn giải quyết những công việc nhất định. Nhiệm vụ,

quyền hạn của cơ quan Nhà nước thể hiện dưới dạng các quyền và trách nhiệm: (1)

Quyền và trách nhiệm về các công việc quản lý hoặc quyền cung ứng các dịch vụ

hành chính công ở những lĩnh vực, quy mô nhất định theo nguyên tắc các công việc

được trao “trọn gói” cho từng cấp quản lý, có nghĩa là việc của cấp này sẽ không

thuộc quyền của cấp khác. Tuy vậy, trong một số trường hợp thì công việc của cấp

này đồng thời cũng là công việc của cấp khác. (2) Để thực hiện các quyền, các công

việc tương ứng thì từng cấp được trao quyền về ngân sách, tài chính độc lập với cấp

khác. Đây là điều kiện đảm bảo kinh tế cho mọi hoạt động phân cấp. (3) Quyền về

tổ chức, nhân sự để đảm bảo thực hiện các nhiệm vụ, công việc quản lý hoặc cung

ứng các dịch vụ công.

17

1.1.2. Nguyên tắc phân cấp quản lý nhà nƣớc

Phân cấp trong hoạt động QLNN là một chủ trương lớn của Đảng và nhà

nước. Thực hiện phân cấp QLNN, cần lưu ý đến một số nguyên tắc chung như sau:

Một là, đảo đảm tính thống nhất của quyền lực nhà nước.

Sau khi ra đời, nhà nước thiết lập quyền lực công cộng đặc biệt, có bộ máy

cưỡng chế đảm bảo thực thi quyền lực đó. Đây là thứ quyền lực chỉ riêng nhà nước

mới có và nhờ quyền lực này, cho phép nhà nước thâu tóm quản lý hầu hết các

nguồn nhân lực, tài lực của một quốc gia. Ở nước ta, tư tưởng quyền lực nhà nước

là thống nhất và thuộc về nhân dân được thể hiện xuyên suốt và ngày càng hoàn

thiện qua các bản hiến pháp. Điều 1 Hiến pháp 1946 quy định: “…tất cả quyền bính

trong nước là của toàn dân Việt Nam,…”[31]. Điều 4 Hiến pháp 1959 khẳng định:

“tất cả quyền lực trong nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đều thuộc về nhân

dân”[32]. Điều 6 Hiến pháp 1980 ghi nhận: “ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa

Việt Nam, tất cả quyền lực thuộc về nhân dân” [35]. Điều 2 Hiến pháp 1992 quy

định “tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân” [33]. Khoản 3 Điều 2 – Hiến

pháp 2013 tiếp tục khẳng định “quyền lực nhà nước là thống nhất”, “tất cả quyền

lực nhà nước thuộc về nhân dân” [34]. Từ đó thấy rằng, các chủ thể QLNN, mặc dù

được phân công nắm giữ các nhiệm vụ khác nhau trong việc thực hiện các quyền

lập pháp, hành pháp, tư pháp, thì tất cả vẫn cùng hướng tới một mục tiêu chung,

một nhiệm vụ chung.

Thực hiện phân cấp QLNN cần lưu ý đảm bảo nguyên tắc hiến định “quyền

lực nhà nước là thống nhất”. Theo đó, việc phân cấp quản lý nhà nước một mặt

nhằm phát huy tính năng động, sáng tạo, quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của địa

phương, mặt khác cần đảm bảo sự tập trung thống nhất và thông suốt của chính

quyền trung ương, nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả của QLNN. Phân cấp nhưng

phải luôn giữ cho chính quyền trung ương vững mạnh, đủ khả năng để giải quyết

những vấn đề quan trọng của đất nước, đảm bảo sự kiểm soát của chính quyền trung

ương đối với chính quyền địa phương.

Hai là, bảo đảm tính hiệu quả.

18

Đề cập đến tính hiệu quả, hoạt động QLNN phải được xem xét từ các góc độ

kinh tế, góc độ xã hội với đầy đủ các yếu tố đầu vào, đầu ra, quá trình và kết quả.

Thực hiện phân cấp QLNN là một quá trình xem xét khả năng của một cấp chính

quyền trong việc thực hiện tốt nhất một nhiệm vụ QLNN nhất định. Theo đó, việc

lựa chọn chủ thể quản lý xuất phát từ tiêu chí hiệu quả, cấp nào có khả năng đạt

được mục tiêu, chất lượng và yêu cầu quản lý với chi phí thấp nhất và thời gian ít

nhất thì giao nhiệm vụ tương ứng cho cấp đó.

Ba là, bảo đảm tính phù hợp .

Tính phù hợp trong phân cấp QLNN thể hiện sự đánh giá các yếu tố khách

quan tác động đến hiệu quả QLNN. Hoạt động phân cấp được thực hiện đảm bảo

tính phù hợp sẽ mang lại hiệu quả cao trong QLNN và ngược lại. Sự phù hợp trong

phân cấp QLNN được xem xét dưới các khía cạnh như phù hợp với trình độ phát

triển kinh tế - xã hội, phù hợp với đặc thù QLNN của từng ngành – lĩnh vực, phù

hợp với đặc điểm của đơn vị hành chính – lãnh thổ… Theo đó:

Phân cấp QLNN phải đảm bảo phù hợp với trình độ phát triển kinh tế - xã

hội trong từng giai đoạn: vấn đề phân cấp QLNN đã được đặt ra ngay từ những

ngày đầu thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Đến nay, trên cơ sở các quy

định của pháp luật, hoạt động phân cấp đã được tiến hành khá thành công, đáp ứng

được những nhu cầu, đòi hỏi của đất nước ở mỗi thời kỳ phát triển nhất định. Trình

độ phát triển kinh tế xã hội chính là cơ sở nền tảng, là yếu tố khách quan quyết định

cho sự thành công của hoạt động phân cấp QLNN. Ví dụ, một số lĩnh vực hiện nay

đang được phân cấp theo tư duy mới là xã hội hóa để phát huy tính tích cực, chủ

động, hiệu quả của khu vực tư nhân, nhà nước giữ vai trò là nhà hoạch định chính

sách, giữ quyền thanh tra, kiểm tra việc thực hiện và xử lý vi phạm, giải quyết tranh

chấp. Tuy nhiên, hoạt động này chỉ có thể được thực hiện một khi khu vực tư nhân

đủ mạnh (về trình độ khoa học kỹ thuật, nguồn nhân lực và tài lực…) để thực hiện

được các mục tiêu của nhiệm vụ được phân cấp.

Phân cấp phải đảm bảo phù hợp với đặc thù QLNN trong từng ngành – lĩnh

vực: mỗi ngành, lĩnh vực khác nhau có những đặc thù riêng. Đối với một số lĩnh

19

vực QLNN đặt ra nhu cầu tập trung hoá quyền lực ở mức độ cao nhằm bảo đảm chủ

quyền quốc gia và tính thống nhất của quyền lực nhà nước; một số lĩnh vực khác -

lại đòi hỏi quá trình không những phi trung ương hoá, phi tập trung hoá mà còn có

thể áp dụng cơ chế chuyển giao mạnh mẽ một số thẩm quyền quản lý cho các tổ

chức xã hội. Vì vậy, việc phân cấp QLNN trong các ngành, lĩnh vực phải phản ánh

đầy đủ và đảm bảo phù hợp với đặc thù và yêu cầu đối với ngành, lĩnh vực.

Phân cấp phải đảm bảo phù hợp với đặc điểm của đơn vị hành chính – lãnh

thổ: đơn vị hành chính - lãnh thổ là địa bàn được hình thành dựa theo các tiêu chí đa

dạng như yếu tố dân cư, địa lý, diện tích, địa bàn nông thôn, đô thị, đồng bằng,

vùng biên giới, miền núi, hải đảo... Ngay các địa bàn cùng một loại như nông thôn

hay đô thị cũng được phân loại theo các tiêu chí như mức độ phát triển kinh tế - xã

hội, mật độ dân cư, mức độ đô thị hoá, tỷ lệ sản xuất nông nghiệp, thủ công nghiệp

và công nghiệp... Ngoài ra, một số đô thị cấp tỉnh còn được hưởng quy chế đặc thù

do vị trí và tầm quan trọng của chúng như những trung tâm chính trị, kinh tế, văn

hoá, xã hội. Sự đặc thù của đối tượng và địa bàn quản lý chi phối tính chất nhiệm

vụ, nội dung và phương thức QLNN. Vì vậy, phân cấp QLNN phải bảo đảm sự phù

hợp của từng loại hay nhóm đơn vị hành chính – lãnh thổ; trong một số trường hợp,

phải phù hợp và tạo đà phát triển cho đơn vị hành chính - lãnh thổ có quy chế đặc

biệt.

Bốn là, phải đảm bảo tương ứng giữa nhiệm vụ, thẩm quyền, trách nhiệm với

nguồn lực tài chính, tổ chức, nhân sự và các điều kiện cần thiết khác.

Nội dung của phân cấp là giao cho các cấp chính quyền, các bộ phận trong

bộ máy nhà nước những nhiệm vụ, quyền hạn để thực hiện, giải quyết những công

việc nhất định của nhà nước. Để hoạt động phân cấp đạt được hiệu quả thì song

song với việc chuyển giao nhiệm vụ phải đảm bảo được các nguồn lực để chủ thể

QLNN có thể hoàn thành nhiệm vụ được giao. Nguồn lực này có thể xuất phát từ

năng lực của chủ thể được phân cấp hoặc do chính quyền trung ương bổ sung hoặc

là nguồn lực tổng hợp.

20

Năm là, phải đảm bảo tính đồng bộ, ăn khớp với các ngành, lĩnh vực có liên

quan.

QLNN nói chung và quản lý HCNN nói riêng có đối tượng quản lý rất rộng,

bao gồm tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Do đó, để thực hiện phân cấp

QLNN có hiệu quả, cần thực hiện đồng bộ và có cơ chế phối hợp hợp lý, phân định

rõ trách nhiệm, quyền hạn của cơ quan chủ trì và cơ quan phối hợp.

1.1.3. Ý nghĩa của phân cấp QLNN

Nâng cao hiệu lực hiệu quả QLNN là mục tiêu của bất kỳ quốc gia nào trên

thế giới. Theo đó, phân cấp trong QLNN là một giải pháp hữu hiệu, được nhiều

quốc gia áp dụng. Thực hiện phân cấp QLNN mang lại nhiều ý nghĩa trên nhiều

khía cạnh khác nhau, cụ thể:

Thứ nhất, phân cấp QLNN là một biện pháp quan trọng mang tính pháp lý

nhằm giải quyết mối quan hệ giữa chính quyền trung ương và địa phương, xác định

địa vị pháp lý của từng cấp chính quyền theo tinh thần của hiến pháp 2013.

Thứ hai, phân cấp QLNN tạo ra quyền tự chủ, sáng tạo, phát huy tính năng

động của địa phương, khai thác được thế mạnh và tiềm năng của chính quyền cơ sở

là một biểu hiện rõ nét của dân chủ và phù hợp với xu thế hiện nay là tăng cường

tính tự quản địa phương trong việc quyết định những vấn đề của địa bàn lãnh thổ.

Thứ ba, phân cấp QLNN là tiền đề quan trọng trong việc thực hiện phân định

thẩm quyền rõ ràng giữa các cơ quan QLNN, phát huy tính hiệu quả của cơ chế

QLNN, tăng cường trách nhiệm và tinh thần phục vụ nhân dân của cán bộ công

chức các cơ quan nhà nước, và là cơ sở để nhân dân giám sát, kiểm tra hoạt động

của bộ máy nhà nước. Phân cấp QLNN làm tăng trách nhiệm của cơ quan HCNN

đối với nhân dân. Mặt khắc, nhân dân – bằng sự tham gia của mình vào công tác

quản lý, có điều kiện giám sát, đánh giá hoạt động của các cơ quan HCNN một cách

công khai, chính xác và đầy đủ hơn. Do vậy, sẽ giảm đáng kể nạn quan liêu, hách

dịch, tham ô, lãng phí của công,…

Thứ tư, thực hiện phân cấp QLNN tạo cơ hội cho nhân dân, cộng đồng tham

gia vào hoạt động QLNN, nhằm nâng cao hiệu lực hiệu quả của hoạt động QLNN.

21

Theo đó, nhờ vào sự tham gia của người dân, các quyết định của cơ quan QLNN sẽ

bám sát thực tế, phù hợp với nhu cầu, nguyện vọng của người dân hơn, thu hút được

nguồn nhân lực chất lượng phục vụ nhu cầu phát triển địa phương.

Thứ năm, phân cấp QLNN tạo sự thích ứng trong quá trình quản lý như sự

phân chia giữa chủ thể và đối tượng quản lý, phân chia các hoạt động quản lý thành

các nhóm hoạt động theo chức năng, theo đơn vị hành chính, lãnh thổ.

Thứ sáu, phân cấp QLNN tạo áp lực thúc đẩy các nhà chính trị, các nhà quản

lý địa phương phải không ngừng học tập, nâng cao tình độ chuyên môn, năng lực

quản lý của mình để đáp ứng yêu cầu tiếp nhận chuyển giao thẩm quyền trong quản

lý và cung ứng dịch vụ công do cơ quan nhà nước cấp trên chuyển xuống.

Thứ bảy, phân cấp QLNN tạo ra tinh thần làm việc tốt hơn với năng suất làm

việc cao hơn. Cơ quan QLNN cấp dưới, thông qua quá trình phân cấp, thực hiện

nhiệm vụ một cách độc lập, được quyền ra các quyết định quan trọng và chịu trách

nhiệm với các quyết định đó. Thông qua đó, cơ quan QLNN cấp trên tôn trọng, thừa

nhận năng lực của cơ quan QLNN cấp dưới. Từ đó, tạo nên môi trường làm việc

trách nhiệm, năng suất cao nhằm đạt được hiệu lực và hiệu quả QLNN cao nhất.

Thứ tám, phân cấp QLNN làm giảm áp lực cho chính quyền trung ương do

không phải trực tiếp giải quyết những công việc mang tính sự vụ để tập trung vào

các hoạt động mang tính quốc gia, vĩ mô như hoạch định chính sách, ban hành thể

chế, tổng kết, đánh giá, kiểm soát.

1.2. PHÂN CẤP QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC ĐỐI VỚI GIÁO DỤC PHỔ

THÔNG

1.2.1. Giáo dục phổ thông và quản lý nhà nƣớc đối với giáo dục phổ thông

1.2.1.1. Quan niệm về giáo dục phổ thông

Tùy theo đặc điểm và hoàn cảnh, mỗi nước trên thế giới có những quan

điểm và mô hình GD khác nhau, tuy nhiên về hệ thống GD của từng nước, có thể

thấy rõ những điểm tương tự nhau, theo đó bao gồm: GD mầm non, GDPT, GD dạy

nghề và đại học,… Luật GD Việt Nam cũng ghi nhận, hệ thống GD quốc dân bao

gồm: GD mầm non, GDPT, GD nghề nghiệp, GD đại học và GD thường xuyên.

22

Như vậy, GDPT là một mắc xích quan trọng trong hệ thống GD quốc dân ở Việt

Nam.

GDPT giữ vị trí nền tảng trong hệ thống GD&ĐT.

Khoản 1 Điều 26 Luật GD ghi nhận GDPT bao gồm: GD tiểu học, GD

trung học cơ sở, GD THPT. GD tiểu học được thực hiện trong năm năm học, từ lớp

một đến lớp năm, tuổi của học sinh vào học lớp một là sáu tuổi. GD trung học cơ sở

được thực hiện trong bốn năm học, từ lớp sáu đến lớp chín, học sinh vào học lớp

sáu phải hoàn thành chương trình tiểu học, có tuổi là mười một tuổi. GD THPT

được thực hiện trong ba năm học, từ lớp mười đến lớp mười hai, học sinh vào học

lớp mười phải có bằng tốt nghiệp trung học cơ sở, có tuổi là mười lăm tuổi [30].

Giữ vị trí và vai trò quan trọng trong hệ thống GD quốc dân, việc xác định

rõ mục tiêu của GDPT là một điều rất quan trọng và cần thiết, vì nó định hướng

chiến lược đầu tư GD, xây dựng nội dung chương trình, chọn lọc nội dung, xác định

và chi phối toàn bộ công tác quản lý, điều hành các bậc học và toàn bộ phương pháp

dạy và học. Luật GD hiện hành xác định mục tiêu GDPT là:

Một là, GDPT giúp học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể

chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản, phát triển năng lực cá nhân, tính năng động

và sáng tạo, hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng

tư cách và trách nhiệm công dân; chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học lên hoặc đi vào

cuộc sống lao động, tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Hai là, GD tiểu học nhằm giúp học sinh hình thành những cơ sở ban đầu

cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các

kỹ năng cơ bản để học sinh tiếp tục học trung học cơ sở.

Ba là, GD trung học cơ sở nhằm giúp học sinh củng cố và phát triển những

kết quả của GD tiểu học; có học vấn phổ thông ở trình độ cơ sở và những hiểu biết

ban đầu về kỹ thuật và hướng nghiệp để tiếp tục học THPT, trung cấp, học nghề

hoặc đi vào cuộc sống lao động.

Bốn là, GD THPT nhằm giúp học sinh củng cố và phát triển những kết quả

của GD trung học cơ sở, hoàn thiện học vấn phổ thông và có những hiểu biết thông

23

thường về kỹ thuật và hướng nghiệp, có điều kiện phát huy năng lực cá nhân để lựa

chọn hướng phát triển, tiếp tục học đại học, cao đẳng, trung cấp, học nghề hoặc đi

vào cuộc sống lao động.

Chiến lược phát triển GD giai đoạn 2011 – 2020, xác định mục tiêu cụ thể

của GDPT đến năm 2020 là: chất lượng GD toàn diện được nâng cao, đặc biệt là

chất lượng GD văn hóa, đạo đức, kỹ năng sống, pháp luật, ngoại ngữ, tin học. Đến

năm 2020, tỷ lệ đi học đúng độ tuổi ở tiểu học là 99%, trung học cơ sở là 95% và

80% thanh niên trong độ tuổi đạt trình độ học vấn THPT và tương đương; có 70%

trẻ em khuyết tật được đi học [40].

1.2.1.2. Quản lý nhà nước đối với giáo dục phổ thông

Về tổng thể, QLNN có thể hiểu là sự tác động tổ chức mang tính quyền lực

- pháp lý của các cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền, hoặc các tổ chức khi

được nhà nước trao quyền tới ý thức, hành vi, xử sự của cá nhân, tổ chức, cơ quan,

tới các quá trình xã hội hướng chúng vận động, phát triển nhằm đạt được mục tiêu

nhất định của QLNN và xã hội. Cũng cần phải lưu ý là sự tác động này không phải

là sự tác động một chiều mà có sự tác động hai chiều giữa chủ thể QLNN và đối

tượng QLNN nhằm tạo sự hài hòa về lợi ích của Nhà nước, cộng đồng và các đối

tượng có liên quan.

Từ cách tiếp cận này, QLNN đối với GDPT có thể được hiểu là sự tác động

có tổ chức bằng quyền lực nhà nước, trên cơ sở pháp luật do các cơ quan nhà nước

có thẩm quyền tiến hành để thực hiện chức năng, nhiệm vụ do nhà nước uỷ quyền

nhằm định hướng phát triển, nâng cao cao chất lượng GDPT đáp ứng mục tiêu xây

dựng con người xã hội chủ nghĩa cho quá trình phát triển kinh tế - xã hội của quốc

gia.

QLNN về GDPT là tổng thể hoạt động của các cơ quan QLNN nhằm định

hướng, điều tiết, tạo điều kiện, nâng cao chất lượng GDPT đáp ứng các mục tiêu về

nguồn nhân lực đại học cho phát triển kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ.

QLNN về đối với GDPT cần được hiểu đó là quá trình nhà nước định

hướng, tạo ra một hành lang pháp lý, lộ trình chuẩn hoá để các cơ sở GD đi đến

24

được mục tiêu chất lượng. QLNN về chất lượng có hiệu quả chính là một giải pháp

quản lý tổng thể, quan trọng trong QLNN đối với GDPT. Quá trình quản lý phải

bảo đảm các quá trình kiểm định chất lượng được thực hiện đúng quy trình, chuẩn

mực của pháp luật quy định. Kết quả đánh giá chất lượng hình thành nên những kết

luận chính xác, khách quan tạo ra sự đồng thuận cao từ bản thân cơ sở GD và cộng

đồng xã hội. Kết quả đánh giá từ cơ quan QLNN phải thực sự giúp cho cơ sở GD

nhận thức đúng mặt mạnh, mặt yếu và bức tranh chất lượng thực sự của mình. Công

tác QLNN không chỉ là việc định ra chính sách quản lý mà còn phải hỗ trợ cho đối

tượng quản lý thực hiện các chính sách đó. Hiệu quả của QLNN về GDPT cần được

đánh giá qua chất lượng của các cuộc kiểm định chất lượng và giá trị của những kết

quả kiểm định trong việc nâng cao chất lượng của cơ sở GDPT. Nói cách khác,

QLNN về GDPT phải tạo ra được những tác động tích cực cho quá trình nâng cao

chất lượng GDPT.

QLNN đối với GDPT là tổng thể hoạt động của các cơ quan QLNN nhằm

định hướng, điều tiết, tạo điều kiện, nâng cao chất lượng GD THPT đáp ứng các

mục tiêu về nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ.

Từ khái niệm trên, có thể thấy trong phạm vi hẹp QLNN đối với GDPT bao

gồm các nội dung sau:

Một là, tổ chức thực hiện chủ trương, chính sách GD&ĐT thông qua việc

thực hiện mục tiêu nội dung, kế hoạch GD và bảo đảm các quy chế chuyên môn, thi

cử… do Bộ trưởng Bộ GD&ĐT ban hành;

Hai là, quản lý đội ngũ sư phạm, sinh viên, cơ sở vật chất, tài chính…theo

các quy định của pháp luật;

Ba là, điều hành các hoạt động của nhà trường theo Điều lệ nhà trường, nội

quy nhà trường và giám sát sự tuân thủ đó.

Bốn là, kết hợp các hoạt động kiểm tra nội bộ trường học với thanh tra của

các cấp quán lý.

Trong khái niệm QLNN đối với GDPT nêu lên 3 bộ phận chính, đó là chủ

thể, khách thể và mục tiêu của GD&ĐT:

25

Chủ thể QLNN đối với GDPT là các cơ quan có thầm quyền (cơ quan lập

pháp, hành pháp).

Khách thể của QLNN đối với GDPT là hệ thống các trường trong bậc GDPT

và mọi hoạt động đào tạo và GD trong bậc GDPT.

1.2.2. Phân cấp quản lý nhà nƣớc đối với giáo dục phổ thông

1.2.2.1. Nguyên tắc phân cấp quản lý nhà nước đối với giáo dục phổ thông

Những nguyên tắc phân cấp QLNN đối với GDPT là những tư tưởng chỉ

đạo làm nền tảng cho tổ chức và hoạt động phân cấp QLNN đối với GDPT.

Tính hệ thống của các nguyên tắc phân cấp QLNN đối với GDPT được quy

định trước hết bởi tính thống nhất của hoạt động quản lý - một loại hoạt động cơ

bản của nhà nước ta và được điều phối từ một trung tâm là Chính phủ, đặt dưới sự

"điều chỉnh" và giám sát của Quốc hội và sự lãnh đạo của Đảng.

Nguyên tắc Đảng lãnh đạo

Vai trò lãnh đạo của Đảng được nhân dân thừa nhận và được ghi nhận tại

Điều 4 trong Hiến pháp của Nước Cộng hoà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Đảng lãnh đạo phân cấp QLNN đối với GDPT thông qua những cách thức

sau:

Thứ nhất, bằng các nghị quyết của các cơ quan Đảng ở các cấp, Đảng vạch

ra đường lối, chủ trương, nhiệm vụ cho QLNN phương hướng hoàn thiện hệ thống

các cơ quan quản lý về mặt tổ chức cơ cấu, cũng như các hình thức và phương pháp

hoạt động chung.

Thứ hai, Đảng lãnh đạo thông qua công tác cán bộ.

Đảng lãnh đạo phân cấp QLNN đối với GDPT nhưng không làm thay các

cơ quan chuyên trách.

Nguyên tắc nhân dân tham gia phân cấp phân cấp QLNN đối với GDPT:

Sự tham gia của nhân dân (cá nhân hoặc tập thể) vào quyền lực chính trị là

một trong những đặc trưng của chế độ dân chủ. Do đó phải xây dựng một cơ chế

bảo đảm thu hút đông đảo nhân dân tham gia phân cấp QLNN đối với GDPT. Nhân

26

dân có quyền tham gia phân cấp QLNN đối với GDPT một cách trực tiếp hoặc gián

tiếp.

Quyền tham gia trực tiếp thể hiện ở chỗ nhân dân được tham gia phúc quyết

những vấn đề lớn của đất nước và đóng góp ý kiến xây dựng Luật, kể cả Hiến pháp.

Bằng hình thức gián tiếp, thông qua cơ quan đại diện là Quốc hội, hội đồng

nhân dân các cấp bầu ra các cơ quan QLNN (Chính phủ, UBND các cấp); đồng thời

nhân dân còn tham gia quản lý HCNN một cách gián tiếp thông qua tổ chức chính

trị - xã hội.

Để thực hiện được nguyên tắc này phải thực hiện đúng phương châm "Dân

biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra" và thực hiện nghiêm túc quy chế dân chủ cơ

sở.

Nguyên tắc tập trung dân chủ:

Tập trung dân chủ là nguyên tắc quan trọng chỉ đạo mọi tổ chức hoạt động,

sinh hoạt nội bộ và phong cách làm việc của các cơ quan nhà nước.

Tập trung dân chủ là Nhà nước phải giữ quyền thống nhất quản lý những

vấn đề cơ bản ở cấp trung ương, đồng thời phải giao quyền hạn và trách nhiệm giải

quyết cho các địa phương, các ngành, tức là thực hiện phân cấp quản lý cho các cấp

các ngành. Trong tổ chức và hoạt động phân cấp QLNN đối với GDPT, hai mặt tập

trung và dân chủ là một hệ thống nhất không đối lập, hạn chế nhau.

Nguyên tắc kết hợp quản lý theo ngành với quản lý theo lãnh thổ:

Đây là nguyên tắc chung cho phân cấp QLNN trong mọi lĩnh vực trong đó

có phân cấp QLNN đối với GDPT.

Theo đó, quản lý ngành là sự chỉ đạo chuyên môn theo ngành dọc từ Bộ -

Sở - Phòng - Đơn vị. Quản lý theo lãnh thổ là quản lý theo cấp hành chính. Quản lý

ngành có chức năng, nhiệm vụ riêng, nhưng nó lại diễn ra trên một địa bàn cụ thể

nên phải xây dựng cơ chế phối hợp có hiệu quả.

1.2.2.2. Nội dung phân cấp quản lý nhà nước đối với giáo dục phổ thông

Điều 99 Luật GD quy định nội dung QLNN về GD bao gồm các hoạt động:

Xây dựng và chỉ đạo thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách phát

27

triển GD; ban hành và tổ chức thực hiện văn bản quy phạm pháp luật về GD; ban

hành điều lệ nhà trường; ban hành quy định về tổ chức và hoạt động của cơ sở GD

khác; quy định mục tiêu, chương trình, nội dung GD; tiêu chuẩn nhà giáo; tiêu

chuẩn cơ sở vật chất và thiết bị trường học; việc biên soạn, xuất bản, in và phát

hành sách giáo khoa, giáo trình; quy chế thi cử và cấp văn bằng, chứng chỉ; tổ chức,

quản lý việc bảo đảm chất lượng GD và kiểm định chất lượng GD; thực hiện công

tác thống kê, thông tin về tổ chức và hoạt động GD; tổ chức bộ máy quản lý GD; tổ

chức, chỉ đạo việc đào tạo, bồi dưỡng, quản lý nhà giáo và cán bộ quản lý GD; huy

động, quản lý, sử dụng các nguồn lực để phát triển sự nghiệp GD; tổ chức, quản lý

công tác nghiên cứu, ứng dụng khoa học, công nghệ trong lĩnh vực GD; tổ chức,

quản lý công tác hợp tác quốc tế về GD; quy định việc tặng danh hiệu vinh dự cho

người có nhiều công lao đối với sự nghiệp GD; thanh tra, kiểm tra việc chấp hành

pháp luật về GD; giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật

về GD.

Như vậy, QLNN về GDPT được thực hiện trên tất cả các mặt của hoạt động

GDPT: bộ máy, nhân sự, tài chính, chuyên môn,... Phân cấp là một nội dung quan

trọng trong thực hiện đổi mới quản lý GDPT, theo đó, phân cấp QLNN đối với

GDPT cũng được thực hiện trên những nội dung trên. Nội dung phân cấp QLNN

đối với GDPT được cụ thể hoá thông qua các mục tiêu, chức năng hoạt động cụ thể

của từng cơ quan HCNN, từng cấp, từng ngành và toàn hệ thống HCNN. Các cơ

quan HCNN với quyền hạn, thẩm quyền xác định, với cơ cấu tổ chức và đội ngũ

cán bộ, công chức tương ứng thực hiện chức năng hành pháp trong hành động trên

các lĩnh vực GDPT. Theo đó:

Phân cấp quản lý về bộ máy

Điều 100 – Luật GD quy định về cơ quan QLNN về GD bao gồm:

Chính phủ: thống nhất QLNN về GD. Chính phủ trình Quốc hội trước khi

quyết định những chủ trương lớn có ảnh hưởng đến quyền và nghĩa vụ học tập của

công dân trong phạm vi cả nước, những chủ trương về cải cách nội dung chương

28

trình của một cấp học; hằng năm báo cáo Quốc hội về hoạt động GD và việc thực

hiện ngân sách GD.

Bộ GD&ĐT: chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện QLNN về GD.

Bộ, cơ quan ngang bộ: phối hợp với Bộ GD&ĐT thực hiện QLNN về GD

theo thẩm quyền.

Uỷ ban nhân dân các cấp: thực hiện QLNN về GD theo sự phân cấp của

Chính phủ và có trách nhiệm bảo đảm các điều kiện về đội ngũ nhà giáo, tài chính,

cơ sở vật chất, thiết bị dạy học của các trường công lập thuộc phạm vi quản lý, đáp

ứng yêu cầu mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng và hiệu quả GD tại địa phương.

Như vậy hệ thống cơ quan QLNN bao gồm có: Chính phủ, Bộ GD&ĐT,

Bộ, cơ quan ngang Bộ có liên quan và UBND các cấp, Phòng và Sở GD&ĐT.

Trong đó, Chính phủ thống nhất QLNN về GD; Bộ GD&ĐT chịu trách nhiệm trước

Chính phủ thực hiện QLNN về GD; Bộ, cơ quan ngang Bộ phối hợp với Bộ

GD&ĐT thực hiện QLNN về GD theo thẩm quyền và UBND các cấp thực hiện

QLNN về GD&ĐT theo phân cấp được giao.

Để thực hiện các văn bản, chính sách của Nhà nước đối với các trường thì

Chính phủ, Quốc hội, Bộ GD&ĐT và các bộ liên ngành tạo thành hệ thống phân

cấp quản lý GD là “quá trình thiết kế lại hệ thống và các quy trình trách nhiệm,

quyền hạn và tính tự chịu trách nhiệm trong hệ thống GD. Việc thiết kế lại hệ thống

và quy trình này có nghĩa là: xác định lại và phân công lại các chức năng, nhiệm vụ

và quyền hạn của từng cấp (trung ương, tỉnh, huyện) cũng như quy trình quan hệ

trong công việc giữa các cấp khác nhau, giữa các cơ quan có liên quan thuộc khu

vực nhà nước và phi nhà nước”. [40, tr.28]

Phân cấp QLNN về GD&ĐT được quy định cụ thể tại: Hiến pháp năm

2013; Luật tổ chức Chính phủ năm 2015; Luật GD năm 2005; Luật Tổ chức chính

quyền địa phương năm 2015; Nghị định số 115/2010/NĐ-CP ngày 24 tháng 12 năm

2010 của Chính phủ quy định trách nhiệm QLNN về GD; Thông tư liên tịch số

21/2004/TTLT-BGDĐT-BNV ngày 23 tháng 7 năm 2004 của Bộ GD&ĐT và Bộ

29

Nội vụ hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của cơ quan

chuyên môn giúp UBND QLNN về GD&ĐT ở địa phương.

Hiện nay thẩm quyền quản lý GDPT là Quốc hội, Chính phủ và Bộ

GD&ĐT, cùng UBND cấp tỉnh/thành phố, Phòng và Sở GD&ĐT xác định rõ thẩm

quyền, trách nhiệm của các cơ quan QLNN trong lĩnh vực GD ở cấp trung ương với

địa phương. Theo đó, cơ quan QLNN về GD trung ương tập trung vào việc hoạch

định, xây dựng chính sách, quy hoạch mạng lưới cơ sở GD. Cơ quan QLNN địa

phương là UBND cấp tỉnh/thành phố xây dựng chiến lược, kế hoạch và thực thi

chính sách GD tại địa phương, khu vực trên cơ sở căn cứ chính sách, quy định và

điều kiện đặt thù của địa phương, vùng, miền.

Thiết chế tổ chức cơ quan chuyên môn QLNN về GD: quy định rõ vị trí,

chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, thẩm quyền của cơ quan chuyên môn QLNN về

GD ở trung ương và địa phương, cơ chế phối hợp, hướng dẫn trong công tác QLNN

về GDPT.

Quy định khung về cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý cơ sở GD: Cơ quan

QLNN trung ương quy định khung cơ cấu tổ chức bộ máy cơ sở GD theo từng loại

hình, hạng trường, cơ sở GD phải xây dựng và thiết kế cơ cấu tổ chức bộ máy của

mình trình cơ quan QLNN theo thẩm quyền phê duyệt nhằm đảm bảo cơ cấu tổ

chức theo cơ cấu quy định đồng thời gắn với loại hình hoạt động của cơ sở GD.

Trên cơ sở các văn bản nêu trên, phân cấp về quản lý trong GD&ĐT được

thể hiện ở nhiệm vụ, quyền hạn của từng cơ quan QLNN về GD – đào tạo, đó là: Bộ

GD&ĐT và UBND các cấp, Sở và Phòng GD&ĐT.

Tóm lại, tổ chức bộ máy phân cấp về QLNN đối với GDPT cần đảm bảo:

Một là, về thẩm quyền quản lý: xác định rõ thẩm quyền, trách nhiệm của

các cơ quan QLNN trong lĩnh vực GD ở cấp trung ương với địa phương. Theo đó,

cơ quan QLNN về GD trung ương tập trung vào việc hoạch định, xây dựng chính

sách, quy hoạch mạng lưới cơ sở GDPT. Cơ quan QLNN địa phương xây dựng

chiến lược, kế hoạch và thực thi chính sách GDPT tại địa phương, khu vực trên cơ

sở căn cứ chính sách, quy định và điều kiện đặt thù của địa phương, vùng, miền.

30

Hai là, hoàn thiện thiết chế tổ chức cơ quan chuyên môn QLNN về GD:

quy định rõ vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, thẩm quyền của cơ quan chuyên

môn QLNN về GD ở trung ương và địa phương, cơ chế phối hợp, hướng dẫn trong

công tác QLNN về GDPT.

Ba là, quy định khung về cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý cơ sở GD: Cơ

quan QLNN trung ương quy định khung cơ cấu tổ chức bộ máy cơ sở GD theo từng

loại hình, hạng trường, cơ sở GD phải xây dựng và thiết kế cơ cấu tổ chức bộ máy

của mình trình cơ quan QLNN theo thẩm quyền phê duyệt nhằm đảm bảo cơ cấu tổ

chức theo cơ cấu quy định đồng thời gắn với loại hình hoạt động của cơ sở GD.

Phân cấp quản lý về nhân sự

Ban hành và tổ chức thực hiện văn bản quy phạm pháp luật về cán bộ, công

chức; Xây dựng kế hoạch, quy hoạch cán bộ, công chức; Quy định chức danh và cơ

cấu cán bộ; Quy định ngạch, chức danh, mã số công chức; mô tả, quy định vị trí

việc làm và cơ cấu công chức để xác định số lượng biên chế đối với công chức

trong các cơ quan, bộ, ban, ngành theo hàng dọc.

Về nhân sự của cơ quan QLNN: quy định rõ định mức biên chế, tiêu chuẩn

chuyên môn, nghiệp vụ theo vị trí việc làm trong cơ quan QLNN về GD để cơ quan

này được tuyển dụng theo yêu cầu công việc của mình đảm bảo đúng tiêu chuẩn và

quy trình quy định.

Về nhân sự cơ sở GD: Nhà nước quy định rõ vị trí việc làm, tiêu chuẩn

chuyên môn, nghiệp vụ của từng vị trí nhân sự trong hoạt động chuyên môn tại cơ

sở GD. Người đứng đầu cơ sở này thực hiện việc tuyển dụng nhân sự theo yêu cầu

công việc của đơn vị mình gắn với tiêu chuẩn chuyên môn, nghiệp vụ được quy

định, đồng thời chịu trách nhiệm toàn bộ kết quả hoạt động chuyên môn và chất

lượng nhân sự trước cơ quan QLNN.

Phân cấp quản lý về tài chính

Điều 101 – Luật GD quy định về nguồn tài chính đầu tư cho GD bao gồm:

Thứ nhất, ngân sách nhà nước: nhà nước dành ưu tiên hàng đầu cho việc bố

trí ngân sách GD, bảo đảm tỷ lệ tăng chi ngân sách GD hằng năm cao hơn tỷ lệ tăng

31

chi ngân sách nhà nước. Ngân sách nhà nước chi cho GD phải được phân bổ theo

nguyên tắc công khai, tập trung dân chủ; căn cứ vào quy mô GD, điều kiện phát

triển kinh tế - xã hội của từng vùng; thể hiện được chính sách ưu tiên của Nhà nước

đối với GD phổ cập, phát triển GD ở vùng dân tộc thiểu số và vùng có điều kiện

kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn. Cơ quan tài chính có trách nhiệm bố trí kinh phí

GD đầy đủ, kịp thời, phù hợp với tiến độ của năm học. Cơ quan quản lý GD có

trách nhiệm quản lý, sử dụng có hiệu quả phần ngân sách GD được giao và các

nguồn thu khác theo quy định của pháp luật.

Thứ hai, học phí, lệ phí tuyển sinh: là khoản tiền của gia đình người học

hoặc người học phải nộp để góp phần bảo đảm chi phí cho các hoạt động GD. Học

sinh tiểu học trường công lập không phải đóng học phí. Ngoài học phí và lệ phí

tuyển sinh, người học hoặc gia đình người học không phải đóng góp khoản tiền nào

khác. Chính phủ quy định cơ chế thu và sử dụng học phí đối với tất cả các loại hình

nhà trường và cơ sở GD khác. Bộ trưởng Bộ Tài chính phối hợp với Bộ trưởng Bộ

GD&ĐT, Thủ trưởng cơ quan QLNN về dạy nghề để quy định mức thu học phí, lệ

phí tuyển sinh đối với các cơ sở GD công lập trực thuộc trung ương. Hội đồng nhân

dân cấp tỉnh quy định mức thu học phí, lệ phí tuyển sinh đối với các cơ sở GD công

lập thuộc cấp tỉnh trên cơ sở đề nghị của Uỷ ban nhân dân cùng cấp. Cơ sở GD dân

lập, tư thục được quyền chủ động xây dựng mức thu học phí, lệ phí tuyển sinh

Thứ ba, các khoản thu từ hoạt động tư vấn, chuyển giao công nghệ, sản

xuất, kinh doanh, dịch vụ của các cơ sở GD; đầu tư của các tổ chức, cá nhân trong

nước và nước ngoài để phát triển GD; các khoản tài trợ khác của tổ chức, cá nhân

trong nước và nước ngoài theo quy định của pháp luật.

Bên cạnh đó Luật GD cũng quy định về ưu tiên tài chính và đất đai xây

dựng trường học (Điều 103) và khuyến khích đầu tư cho GD (Điều 104). Theo đó:

Bộ, cơ quan ngang bộ, Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân các cấp có trách

nhiệm đưa việc xây dựng trường học, các công trình thể dục, thể thao, văn hóa,

nghệ thuật phục vụ GD vào quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của

ngành và địa phương; ưu tiên đầu tư tài chính và đất đai cho việc xây dựng trường

32

học và ký túc xá cho học sinh, sinh viên trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội.

Nhà nước khuyến khích, tạo điều kiện cho tổ chức, cá nhân đầu tư, đóng góp trí tuệ,

công sức, tiền của cho GD. Các khoản đầu tư, đóng góp, tài trợ của doanh nghiệp

cho GD và các chi phí của doanh nghiệp để mở trường, lớp đào tạo tại doanh

nghiệp, phối hợp đào tạo với cơ sở GD, cử người đi đào tạo, tiếp thu công nghệ mới

phục vụ cho nhu cầu của doanh nghiệp là các khoản chi phí hợp lý, được trừ khi

tính thu nhập chịu thuế theo Luật thuế thu nhập doanh nghiệp. Các khoản đóng góp,

tài trợ của cá nhân cho GD được xem xét để miễn, giảm thuế thu nhập đối với người

có thu nhập cao theo quy định của Chính phủ. Tổ chức, cá nhân đầu tư xây dựng

công trình phục vụ cho GD; đóng góp, tài trợ, ủng hộ tiền hoặc hiện vật để phát

triển sự nghiệp GD được xem xét để ghi nhận bằng hình thức thích hợp.

Phân cấp QLNN về GDPT được tập trung các vấn đề:

Thứ nhất là, nhà nước quy định cơ chế quản lý tài chính trong hoạt động

GD&ĐT về học phí, kinh phí đóng góp, cơ chế, chính sách để thực hiện công tác xã

hội hóa GD.

Thứ hai là, giao cơ chế tự chủ tài chính đối với ngân sách cấp cho hoạt động

của cơ quan QLNN về GD địa phương.

Thứ ba là, giao quyền tự chủ về tài chính được cấp và nguồn thu khác theo

quy định cho cơ sở GD trong hoạt động chuyên môn.

Do vậy, nguồn tài chính từ đầu tư ngân sách nhà nước cần bổ sung và thiết

lập theo cấp học, được chú trọng vào các cơ sở vật chất trường lớp, đào tạo đội ngũ

cán bộ quản lý và đội ngũ giáo viên. Nhà nước quy định cơ chế quản lý tài chính

trong hoạt động GD&ĐT về học phí, kinh phí đóng góp, cơ chế, chính sách để thực

hiện công tác xã hội hóa GD và giao cơ chế tự chủ tài chính đối với ngân sách cấp

cho hoạt động của cơ quan QLNN về GD địa phương. Trong chính sách QLNN đối

GDPT, nhà nước đã giao quyền tự chủ về tài chính được cấp và nguồn thu khác

theo quy định cho cơ sở GD trong hoạt động chuyên môn. Nhà nước đã ban hành

một số văn bản về tài chính cũng như nguồn thu chi tại các cơ sở GD công lập hay

dân lập. Chính phủ có Nghị định số 16/2015/NĐ – CP quy định cơ chế tự chủ của

33

đơn vị sự nghiệp công lập trong đó đã quy định rõ về trách nhiệm QLNN với các

đơn vị sự nghiệp công lập và quy định tự chủ tài chính.

Phân cấp quản lý về chuyên môn (chƣơng trình, giáo trình, tài liệu

giảng dạy):

Chương trình dạy học là văn kiện có tính pháp qui do Nhà nước ban hành,

trong đó quy định một cách cụ thể: Vị trí, môn học trong kế hoạch dạy học; mục

đích yêu cầu của môn học (yêu cầu về tri thức, kỹ năng kỹ xảo, thái độ hành vi); nội

dung môn học (các phần, các chương, các bài); kế hoạch thời gian: số tiết dành cho

từng phần, từng chương, từng bài cũng như số tiết dành cho ôn tập, kiểm tra, thực

hành...; giải thích chương trình và hướng dẫn thực hiện chương trình.

Hiện nay chương trình GDPT do Bộ GD&ĐT ban hàng trên cơ sở đã xem

xét tính đặc thù vùng miền. Trên cơ sở đó Sở cùng Phòng GD&ĐT có thể triển khai

các hoạt động GD khác cho phù hợp với đặc điểm vùng miền, giáo viên và học sinh

thuộc địa bàn quản lý.

Phân cấp quản lý học sinh:

Quản lý học sinh là một nội dung quan trọng trong hoạt động GDPT và

QLNN đối với GDPT. Quản lý học sinh giúp điều khiển, tổ chức học sinh nắm

vững hệ thống tri thức khoa học phổ thông, cơ bản, hiện đại, phù hợp với thực tiễn

Việt Nam về tự nhiên xã hội – nhân văn, đồng thời rèn luyện cho các em hệ thống

kỹ năng, kỹ xảo tương ứng. Hoạt động học tập và kết quả học tập của học sinh là

hoạt động chủ đạo với mỗi học sinh khi tham gia học tập. Văn bản QLNN về GDPT

được Quốc hội, Bộ GD&ĐT ban hành, Sở và Phòng GD&ĐT ra chỉ thị riêng về

QLNN đối với học sinh trong hệ thống GDPT phù hợp với đặc thù trên địa bàn.

Quản lý học sinh bao gồm các vấn đề:

Một là, theo dõi, đánh giá ý thức học tập của học sinh; phân loại, xếp loại

học sinh cuối mỗi học kỳ, năm học, khoá học.

Hai là, điều khiển, tổ chức học sinh nắm vững hệ thống tri thức khoa học

phổ thông, cơ bản, hiện đại, phù hợp với thực tiễn Việt Nam về tự nhiên xã hội –

34

nhân văn, đồng thời rèn luyện cho các em hệ thống kỹ năng, kỹ xảo tương ứng.

Những tri thức hiện đại đó phải phù hợp với thực tiễn Việt Nam cũng như phù hợp

với đặc điểm lứa tuổi, đặc điểm hoạt động nhận thức của học sinh mà vẫn đảm bảo

được tính hệ thống, tính lôgíc khoa học và mối liên hệ chặt chẽ giữa các môn học.

Ba là, tổ chức, điều khiển học sinh hình thành phát triển năng lực và những

phẩm chất trí tuệ, đặc biệt là năng lực tư duy độc lập, sáng tạo. Năng lực hoạt động

trí tuệ được thể hiện ở năng lực vận dụng các thao tác trí tuệ, đặc biệt là các thao tác

tư duy. Quá trình chiếm lĩnh tri thức diễn ra thống nhất giữa một bên là nội dung

những tri thức với tư cách là “cái được phản ánh” và một bên là các thao tác trí tuệ

với tư cách là “phương thức phản ánh”. Như vậy, hệ thống tri thức được học sinh

lĩnh hội thông qua các thao tác trí tuệ của họ và ngược lại, chính các thao tác trí tuệ

cũng được hình thành và phát triển trong quá trình chiếm lĩnh tri thức rèn luyện kỹ

năng kỹ xảo.

Bốn là, tổ chức, điều khiển học sinh hình thành cơ sở thế giới quan khoa

học, những phẩm chất đạo đức nói riêng và phát triển nhân cách nói chung.

1.2.2.3. Các điều kiện bảo đảm phân cấp quản lý nhà nước đối với giáo dục phổ

thông

Thể chế QLNN tạo khuôn khổ pháp lý trao quyền tự chủ và bảo đảm trách

nhiệm xã hội của các trường phổ thông. Với vai trò chủ thể quản lý, nhà nước quyết

định trao quyền tự chủ phù hợp với năng lực thực hiện quyền tự chủ đối với các

trường phổ thông. Theo trình độ quản lý và yêu cầu thực tiễn, nhà nước xác lập

quyền tự chủ của đối với GDPT trong các lĩnh vực tổ chức và nhân sự, tài chính và

tài sản, đào tạo, khoa học và công nghệ, hợp tác quốc tế, bảo đảm chất lượng GD; tự

chủ quyết định phương thức tuyển sinh, chịu trách nhiệm về công tác tuyển sinh;

xác định chỉ tiêu tuyển sinh, chịu trách nhiệm công bố công khai chỉ tiêu tuyển sinh,

chất lượng đào tạo và các điều kiện bảo đảm chất lượng đào tạo; tự chủ, tự chịu

trách nhiệm trong việc xây dựng, thẩm định, ban hành chương trình đào tạo… Việc

giao quyền tự chủ, ban hành quy chế, quy định cho hoạt động GD&ĐT đi đúng định

hướng nhằm tạo điều kiện phát huy năng lực, nâng cao trách nhiệm xã hội của mỗi

35

cơ sở GD, nhằm khẳng định uy tín, năng lực và chất lượng đào tạo. Do đó, để phân

cấp QLNN về GDPT cần đảm bảo các điều kiện sau:

Một là, về nhận thức: cần đổi mới và nhận thức đúng bản chất của phân cấp

từ hai phía cơ quan QLNN cấp trên (cấp trao nhiệm vụ, quyền hạn, công việc) và cơ

quan cấp dưới (nhận nhiệm vụ, quyền hạn, và thực thi công việc).

Hai là, về năng lực: phân cấp QLNN đòi hỏi cả hai cấp trao và nhận quyền

đều phải có đầy đủ năng lực về nhận thức trong công tác quản lý, sử dụng quyền,

trách nhiệm trong quản lý theo hướng cấp trên phải “giao quyền gắn với trách

nhiệm, giao nhiệm vụ gắn với quyền hạn”.

Ba là, về thể chế: việc phân cấp QLNN chỉ được tiến hành và hoạt động

thuận lợi khi có hệ thống thể chế với các quy định cụ thể đầy đủ liên quan đến các

nội dung, lĩnh vực QLNN và nội dung lĩnh vực cần phân cấp quản lý.

Bốn là, về thiết chế tổ chức: tổ chức bộ máy QLNN được xây dựng, tổ chức

ổn định, phân định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, thẩm quyền, trách nhiệm

với cơ chế quản lý, phối hợp thông suốt, đồng bộ, trách nhiệm sẽ tạo điều kiện

thuận lợi cho phân cấp quản lý..

Năm là, về đội ngũ và tinh thần trách nhiệm: năng lực nhận thức, thực thi,

tinh thần trách nhiệm trong công việc của đội ngũ cán bộ QLNN, công chức chuyên

môn là yếu tố quyết định sự thành công của phân cấp QLNN đối với GDPT.

1.3. PHÂN CẤP QLNN ĐỐI VỚI GIÁO DỤC PHỔ THÔNG Ở MỘT SỐ ĐỊA

PHƢƠNG VÀ GIÁ TRỊ THAM KHẢO CHO KIÊN GIANG

1.3.1. Kinh nghiệm ở thành phố Hồ Chí Minh

Kinh nghiệm thành phố Hồ Chí Minh cho thấy để tăng trưởng kinh tế cần có

sự đồng bộ trong tiến trình phát triển, sự đồng bộ trong các yếu tố, các bộ phận cấu

thành lực lượng sản xuất, trong đó nhân tố quan trọng là đào tạo nguồn nhân lực:

“không một chính sách công nghệ nào có thể mang lại kết quả nếu không có chuyên

gia làm chủ và áp dụng kỹ thuật mới”.

Chính vì thế, trong xây dựng và phát triển kinh tế việc nâng cao chất lượng,

phát triển hệ thống trường phổ thông để tạo dựng nguồn nhân lực phải đi trước một

36

bước. Thành phố Hồ Chí Minh là một thành phố phát triển bậc nhất Nam Bộ. Trong

những năm vừa qua kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh luôn đạt ưu điểm nhất định,

tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm. Từ năm 2011 đến nay, thành phố cũng đạt mức

tăng trưởng kinh tế xấp xỉ 10%/năm, gấp 1,6 lần mức bình quân chung của cả nước.

GDP bình quân đầu người liên tục tăng nhanh, từ khoảng 700 USD giai đoạn 1995-

1996, đến năm 2014 đã đạt mức 5.131 USD.

Nguyên nhân cơ bản dẫn đến thành công này cũng chính là việc Thành phố

Hồ Chí Minh đã có những chiến lược, những chính sách hợp lý trong việc quản lý

đối với các cơ sở đào tạo chú trọng các trường phổ thông trên địa bàn. Tôn chỉ của

Thành phố Hồ Chí Minh đầu tư cho GD chính là một nguyên nhân dẫn đến thành

công của thành phố này.

Một nguyên nhân nữa dẫn đến thành công của Thành phố Hồ Chí Minh là do

việc xây dựng tạo hành lang pháp lý cho hoạt động đào tạo trên địa bàn. Bên cạnh

xu thế trẻ hoá đội ngũ giáo viên, Thành phố Hồ Chí Minh rất quan tâm xây dựng

các trường phổ thông đạt quy định trường chuẩn, phát triển mạnh đầu tư nước

ngoài, được bắt đầu từ việc xác lập công tác quy hoạch đào tạo, xây dựng bộ máy

đào tạo và cơ sở đào tạo đến việc thể chế hoá nguồn nhân lực.

1.3.2. Kinh nghiệm ở tỉnh Hải Phòng

Thành phố Hải Phòng nằm ở vị trí cửa ngõ phía Đông Bắc trên lưu vực đồng

bằng sông Hồng. Bờ biển Hải Phòng dài hơn 125 km, với 5 cửa sông lớn: Bạch

Đằng, Văn Úc, Cấm, Thái Bình, Lạch Tray. Địa hình bờ biển khúc khuỷu, quanh

co, tạo nhiều đảo, hang động đẹp và rất nhiều những bãi tắm tự nhiên kỳ thú, rất

thuận tiện để phát triển du lịch. Bán đảo Đồ Sơn, quần đảo Cát Bà, khu di tích lịch

sử và danh thắng Tràng Kênh. Cơ cấu kinh tế giai đoạn 2011 - 2020 tăng nhanh tỷ

trọng dịch vụ tạo ra một cơ cấu kinh tế bền vững và phù hợp với tiềm năng của tỉnh.

Hải Phòng đã áp dụng chiến lược phát triển công nghiệp và dịch vụ là động lực và

thực hiện chính sách xây dựng bộ máy hành chính gọn nhẹ, hữu hiệu.

Hải Phòng rất coi trọng phát triển GD, trong đó GD nền tảng GDPT, với

chính sách miễn thuế, cấp đất, tổ chức bồi dưỡng chuyên môn, trọng người tài. Đặc

37

biệt, tỉnh chỉ đạo trang bị và bổ sung kinh phí cho hoạt động GDPT để xây dựng

trường, thiết bị, sân bãi…

1.3. Giá trị tham khảo cho tỉnh Kiên Giang

Thứ nhất, cần xác định đúng vai trò và vị trí của GDPT trong phát triển kinh tế

- xã hội của tỉnh nhà. Trong tất cả các nguồn lực phát triển kinh tế, thì nguồn GDPT

luôn luôn đóng vai trò quan trọng đối với mọi hoạt động kinh tế, GD đặc biệt khi

mà khoa học đã thực sự trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp với sự phát triển

mạnh mẽ của nhiều ngành khoa học và công nghệ hiện đại, với hàm lượng chất xám

ngày càng chiếm tỷ lệ cao trong mỗi sản phẩm làm ra, con người càng tỏ rõ vai trò

quyết định của mình trong tiến trình phát triển.

Đặc biệt, đối với những nước kém phát triển thì nguồn nhân lực có chất lượng

là điều kiện để rút ngắn khoảng cách tụt hậu, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Bởi, quá

trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế đã tạo điều kiện thuận lợi và cơ hội cho các

nước đi sau có thể khắc phục sự yếu kém về trình độ khoa học - kỹ thuật, sự thiếu

hụt nguồn vốn nhưng để bảo đảm cho sự phát triển bền vững và rút ngắn khoảng

cách tụt hậu thì các nước này phải xây dựng được cho mình nền tảng GDPT, nhất là

nguồn nhân lực có chất lượng cao.

Thứ hai, để có GDPT đáp ứng yêu cầu phát triển, phải có hệ thống chính

sách đồng bộ, nhưng quan trọng nhất vẫn là chú trọng đầu tư cho GD, từ phổ thông

cho đến đại học và các trường nghề. Công tác đào tạo và phát triển giữ vị trí quyết

định đến chất lượng nguồn nhân lực.

Thứ ba, nâng cao hiệu quả quản lý và sử dụng nguồn nhân lực thông qua

việc đầu tư vào phát triển công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực ở các tổ

chức.

Thứ tư, tăng cường đầu tư xây dựng, nghiên cứu chính sách, quy mô, mô

hình cho GDPT. Từng bước hiện đại hoá các cơ sở này theo những tiêu chuẩn quốc

tế; đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp nghiên cứu, GD theo hướng của

các nước tiên tiến.

38

Thứ năm, QLNN đối với GDPT phải củng cố khả năng hội nhập quốc tế cũng

như khu vực trên cơ sở kế thừa và giữ vững những tinh hoa văn hoá dân tộc địa

phương. Do vậy, việc tăng cường học tập những kinh nghiệm quốc tế trong QLNN

về GDPT, phù hợp với truyền thống dân tộc và điều kiện phát triển kinh tế - xã hội

của tỉnh Kiên Giang.

39

Tiểu kết chƣơng 1

Trong chương 1, luận văn đã cơ bản giải quyết được các vấn đề lý luận về

phân cấp QLNN đối với GDPT. Bao gồm:

Thứ nhất, luận văn đã khái quát được những vấn đề chung nhất về phân cấp

QLNN như: khái niệm về phân cấp QLNN - phân biệt khái niệm phân cấp quản lý

với các khái niệm liên quan đến phi tập trung hóa như phân công, tản quyền, ủy

quyền, trao quyền trong QLNN; nguyên tắc và ý nghĩa của phân cấp QLNN.

Thứ hai, luận văn đề cập đến nội dung phân cấp QLNN đối với GDPT như:

khái niệm, vị trí, vai trò và mục tiêu của GDPT; khái niệm, chủ thể, đối tượng và

nội dung QLNN đối với GDPT; khái niệm phân cấp QLNN đối với GDPT, các

nguyên tắc, nội dung cũng như những điều kiện đảm bảo thực hiện phân cấp QLNN

đối với GDPT, đảm bảo hoạt động này được thực hiện một cách hiệu quả.

Thứ ba, luận văn đề cập đến hoạt động phân cấp QLNN đối với GDPT ở một

số địa phương như Thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng; từ đó nêu lên một số giá trị

tham khảo cho hoạt động phân cấp ở Kiên Giang.

40

Chƣơng 2

THỰC TRẠNG PHÂN CẤP QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC ĐỐI VỚI

GIÁO DỤC PHỔ THÔNG TẠI TỈNH KIÊN GIANG

2.1 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ GIÁO DỤC PHỔ THÔNG VÀ QUẢN LÝ

NHÀ NƢỚC ĐỐI VỚI GIÁO DỤC PHỔ THÔNG TẠI TỈNH KIÊN

GIANG

2.1.1. Tình hình kinh tế- xã hội tỉnh Kiên Giang

2.1.1.1. Về địa lý, tự nhiên

Vị trí địa lý: Kiên Giang nằm tận cùng phía tây nam của Việt Nam, trong đó

lãnh thổ bao gồm đất liền và hải đảo. Phần đất liền nằm trong tọa độ từ 9°23'50 -

10°32'30 vĩ Bắc và từ 104°26'40 - 105°32'40 kinh Đông. Phía Bắc giáp Campuchia,

đường biên giới dài 56,8 km, phía Nam giáp tỉnh Bạc Liêu và tỉnh Cà Mau, phía

Tây giáp vịnh Thái Lan với đường bờ biển dài 200 km, phía Đông lần lượt tiếp giáp

với các tỉnh là An Giang, thành phố Cần Thơ và tỉnh Hậu Giang. Phần hải đảo nằm

trong vịnh Thái Lan bao gồm hơn 100 hòn đảo lớn nhỏ, trong đó lớn nhất là đảo

Phú Quốc và xa nhất là quần đảo Thổ Chu, tập trung thành 5 quần đảo là quần đảo

Hải Tặc, quần đảo Bà Lụa, quần đảo An Thới, quần đảo Nam Du và quần đảo Thổ

Chu. Điểm cực Bắc thuộc địa phận xã Tân Khánh Hoà, huyện Giang Thành. Cực

Nam nằm ở xã Vinh Phong, huyện Vĩnh Thuận. Cực Tây tại xã Mỹ Đức, thị xã Hà

Tiên và điểm cực Đông nằm ở xã Hoà Lợi thuộc địa phận huyện Giồng Riềng.

Diện tích: 6.346,27 km2

Khí hậu: Kiên Giang có khí hậu nhiệt đới gió mùa, nóng ẩm quanh năm.

Mưa, bão tập trung vào từ tháng 8 đến tháng 10 với lượng mưa trung bình hàng năm là 2.146,8mm. Nhiệt độ trung bình hàng năm từ 26,4oC đến 28oC, tháng lạnh nhất là

tháng 12; không có hiện tượng sương muối xảy ra. Kiên Giang không chịu ảnh

hưởng trực tiếp của bão nhưng lượng nước mưa do bão chiếm một tỷ trọng đáng kể,

nhất là vào cuối mùa mưa. Điều kiện khí hậu thời tiết của Kiên Giang có những

41

thuận lợi cơ bản mà các tỉnh khác ở vùng đồng bằng sông Cửu Long không có được

như: ít thiên tai, không rét, không có bão đổ bộ trực tiếp, ánh sáng và nhiệt lượng

dồi dào, nên rất thuận lợi cho nhiều loại cây trồng và vật nuôi sinh trưởng.

2.1.1.2. Về cơ cấu kinh tế, tốc độ tăng trưởng

Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) 6 tháng đầu năm 2017 theo (giá so

sánh 2010) ước tính tăng 7,52% so với cùng kỳ năm 2016. Trong mức tăng chung,

khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản tăng 2,91%, đóng góp cho tăng trưởng

chung 1,11 điểm phần trăm, trong đó riêng lĩnh vực nông nghiệp tăng 1,18%; đóng

góp tăng trưởng 0,33 điểm phần trăm; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng

9,23%, đóng góp tăng trưởng chung 1,77 điểm phần trăm; khu vực dịch vụ tăng

10,94%, đóng góp tăng trưởng chung 4,34 điểm phần trăm; Thuế nhập khẩu, thuế

sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm tăng 10,32%, đóng góp tăng trưởng chung 0,30 điểm

phần trăm.

Khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản: Tổng giá trị tăng thêm (VA) ước

tính: 9.551,57 tỷ đồng, đạt 45,91% kế hoạch, tăng 2,91% so cùng kỳ, đóng góp

tăng trưởng chung khu vực I là 1,11 điểm phần trăm, trong đó: Giá trị tăng thêm

của ngành nông nghiệp là 6.790,88 tỷ đồng, đạt 47,70% kế hoạch, tăng 1,18% so

cùng kỳ, đóng góp tăng trưởng 0,33 điểm phần trăm; lĩnh vực thủy sản giá trị tăng

thêm ước thực hiện 2.680,29 tỷ đồng, đạt 41,93% kế hoạch, tăng 7,11% so cùng kỳ

năm trước, đóng góp tăng trưởng là 0,73 điểm phần trăm.

Khu vực công nghiệp và xây dựng: Tổng giá trị tăng thêm ước tính 5.063,58

tỷ đồng, đạt 45,34% kế hoạch, tăng 9,23%, đóng góp tăng trưởng chung khu vực II

là 1,77 điểm phần trăm, trong đó lĩnh vực công nghiệp giá trị tăng thêm ước

3.060,60 tỷ đồng, đạt 43,70% kế hoạch, tăng 7,71% so cùng kỳ, đóng góp tăng

trưởng là 0,90 điểm phần trăm; giá trị tăng thêm ngành xây dựng 2.002,98 tỷ đồng,

đạt 48,09% kế hoạch, tăng 11,64% so cùng kỳ, đóng góp tăng trưởng trong khu vực

II 0,86 điểm phần trăm.

Khu vực dịch vụ: Tổng giá trị tăng thêm ước 10.671,63 tỷ đồng, đạt 50,45%

kế hoạch, tăng 10,94% so cùng kỳ, đóng góp tăng trưởng chung là 4,34 điểm phần

42

trăm, trong đó tăng cao nhất thuộc các ngành thương mại, dịch vụ ăn uống và du

lịch, vận tải... còn lại các ngành dịch vụ khác có mức tăng trưởng đều cao hơn mức

chung. Đây là khu vực đóng góp cho tăng trưởng kinh tế cao nhất.

2.1.1.3. Đặc điểm dân số và văn hóa xã hội

Dân số: Tính đến năm 2012, dân số Kiên Giang đạt gần 1.726.200

người. Mật độ dân số: 272 người/km². Trong đó dân số tại thành thị đat gần 471.200

người, dân số sống tại nông thôn đạt 1.726.200 người.

Văn hóa xã hội: Kiên Giang có 13 huyện, 01 thành phố và 01 thị xã (thành

phố Rạch Giá và thị xã Hà Tiên) với hơn 1,7 triệu dân. Gồm 84,8% là người Kinh,

12,1% là ngườI Khmer, 2,9% là người Hoa, 0,2% là người các dân tộc khác. Nam

49,03%, nữ 50,97%. Thành thị 21,86%, nông thôn 78,14%. Tỷ lệ tăng dân số tự

nhiên 15,20%. Kiên Giang là vùng đất trù phú với thế mạnh kinh tế là nông, lâm,

thủy hải sản, công nghiệp và xây dựng và các ngành dịch vụ khác.

Giáo dục - đào tạo: Năm học 2016-2017 đã kết thúc, toàn tỉnh hiện có 671

trường, tăng 22 trường so với năm học trước, (bao gồm: 154 trường mầm non, tăng

18 trường; Tiểu học: 296 trường; Trung học cơ sở: 124 trường, tăng 02 trường; Phổ

thông cơ sở 45 trường, tăng 01 trường; THPT 52 trường, tăng 01 trường và GDTX

15 trường, không tăng giảm); hệ GDPT huy động được 11.754 lớp học và 335.806

học sinh (tăng 3.901 học sinh); tổng số giáo viên 18.767 người, tăng 1,16% (tăng

216 giáo viên) so năm học trước, (bao gồm: 2.330 giáo viên mầm non, tăng 250

giáo viên; 8.993 giáo viên tiểu học, giảm 61 giáo viên; 5.339 giáo viên trung học cơ

sở, tăng 33 giáo viên và 2.105 giáo viên THPT, giảm 6 giáo viên).

Hoàn thành chương trình kiên cố hóa trường lớp (giai đoạn II) và thay thế số

phòng học xuống cấp nặng, đảm bảo yêu cầu học tập cho học sinh. Củng cố, kiện

toàn nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên; đổi mới quản lý GD. Đẩy mạnh công

tác đào tạo, phát triển nguồn nhân lực của tỉnh. Trước hết, tăng cường đào tạo nghề

cho lực lượng lao động phổ thông, đào tạo các ngành nghề phục vụ cho tiềm năng,

thế mạnh của tỉnh và đào tạo đón đầu cho các khu công nghiệp, khu du lịch sắp hình

thành.

43

Từ khái quát trên có thể thấy, Kiên Giang là vùng địa lí tự nhiên phức tạp,

rộng lớn; dân số các dân tộc chiếm tỷ lệ khá lớn trong lực lượng dân cư; kinh tế - xã

hội chậm phát triển; tỉ lệ lao động qua đào tạo thấp; tỉ lệ hộ nghèo, cận nghèo cao,

đời sống vật chất và tinh thần của cộng đồng các dân tộc còn nhiều khó khăn, những

phong tục, tập quán lạc hậu vẫn còn hiện hữu trong đời sống tinh thần của cộng

đồng các dân tộc thiểu số,… Đây là những yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát

triển GD&ĐT nói chung và phân cấp quản lý GDPT tại tỉnh nói riêng.

2.1.2. Tình hình giáo dục phổ thông tại tỉnh Kiên Giang

2.1.2.1. Mạng lưới và phân bổ trường trong hệ thống giáo dục phổ thông

GDPT cung cấp những kiến thức phổ thông, cơ bản ban đầu giúp tuổi trẻ có

thể tiếp tục học nghề hoặc học lên trung cấp, cao đẳng, đại học. Đây là lực lượng

chủ lực, nòng cốt của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, của phát

triển đất nước trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế.

Cùng với những thành tựu về kinh tế - xã hội của đất nước, sự nghiệp

GD&ĐT của tỉnh Kiên Giang đã được quan tâm chăm lo phát triển và đã đạt được

những kết quả tốt. Quy mô trường lớp phát triển rộng khắp đến các địa bàn dân cư

với việc đa dạng hóa các loại hình trường lớp đã đáp ứng được nhu cầu học tập của

nhân dân.

Hiện nay trên địa bàn tỉnh Kiên Giang có 532 trường trong hệ thống GDPT

bao gồm: GD tiểu học 296 trường; phổ thông cơ sở 45 trường; trung học cơ sở 124

trường; GDPT 52 trường; GD thường xuyên 15 trung tâm. Các điểm trường chủ yếu

tập trung thị trấn, thành phố. Với số lượng các trường như trên cho thấy, còn số

lượng các cơ sở GDPT trong hệ thống GD của tỉnh còn hạn chế và chỉ tập trung chủ

yếu tại thành phố của tỉnh. Yếu tố khách quan này sẽ ảnh hưởng đến hiệu quả GD,

khi sỉ số của 1 lớp đông làm cho hiệu quả quản lý, tổ chức các hoạt động GD hay

học tập sẽ khó khăn.

2.1.2.2. Quy mô trường lớp

Cùng với những thành tựu về kinh tế - xã hội của đất nước, sự nghiệp

GD&ĐT của tỉnh Kiên Giang đã được quan tâm chăm lo phát triển và đã đạt được

44

những kết quả tốt. Quy mô trường lớp phát triển rộng khắp đến các địa bàn dân cư

với việc đa dạng hóa các loại hình trường lớp đã đáp ứng được nhu cầu học tập của

nhân dân.

Bảng 2.1. Thực trạng quy mô trƣờng lớp GDPT Tỉnh Kiên Giang

Bậc học Số lớp Tỷ lệ (%)

Tiểu học Trung học cơ sở THPT Trung tâm GD thường xuyên

62,63 27,26 9,38 0,73 TỔNG 6.374 2.774 955 74 10.177 (Nguồn: Sở GD&ĐT tỉnh Kiên Giang)

Phân tích các chỉ số ở bảng trên ta thấy: số trường, số lớp đã phân bố rộng

khắp trên địa bàn tỉnh và bậc GD tiểu học có tỷ lệ lớp cao nhất sau đó đến bậc trung

học cơ sở. Bậc THPT có tỷ lệ thấp nhất, điều đó cho thấy tỷ lệ học sinh tốt nghiệp

THPT thấp và số lượng học sinh theo học THPT còn chưa nhiều, số lượng học sinh

bỏ học giữa chừng còn nhiều.

2.1.2.3. Thực trạng quy mô học sinh

Phân cấp QLNN về GDPT có hiệu quả hay không được đánh giá qua tiêu chí

rất quan trọng là chất lượng GD. Chất lượng đào tạo phải được nhìn nhận từ hai

phía, chủ quan và khách quan. Về phía chủ quan, đó là mức độ đạt tới mục tiêu đào

tạo của cơ sở đào tạo. Trong phạm vi đề tài cho phép, tôi tổng kết số lượng học sinh

qua các cấp học như sau:

Bảng 2.2. Thực trạng số lƣợng học sinh GDPT tỉnh Kiên Giang

Bậc học

Tiểu học Trung học cơ sở THPT Trung tâm GD thường xuyên

Tỷ lệ(%) 54,33 32,56 12,40 0,71 TỔNG Số học sinh 158.037 94.705 36.061 2.064 290.867

(Nguồn: Sở GD&ĐT tỉnh Kiên Giang)

Về số lượng, học sinh GDPT tỉnh Kiên Giang được phân giải các cấp học.

Trong đó, tỷ lệ học sinh tiểu học chiếm tỷ lệ 54,33% cao nhất trong đó hệ GD

thường xuyên chiếm tỷ lệ thấp 0,71%. Đặc biệt sự mất cân đối giữa cấp học trung

45

học cơ sở và THPT chênh lệnh tỷ lệ khá lớn. Điều đó cho thấy, cơ chế quản lý

GDPT tại tỉnh Kiên Giang còn hạn chế.

2.1.2.4. Cơ cấu, trình độ đội ngũ

Bảng 2.3. Thực trạng số lƣợng giáo viên GDPT tỉnh Kiên Giang

Bậc học

Tiểu học Trung học cơ sở THPT Trung tâm GD thường xuyên

Tỷ lệ (%) 53,99 32,05 12,64 1,33 TỔNG Số giáo viên 8.993 5.339 2.105 221 16.658

(Nguồn: Sở GD&ĐT tỉnh Kiên Giang)

Tổng số giáo viên là 16.658 người, cơ bản đảm bảo số lượng. Tuy nhiên, thực

tế hiện nay, vẫn còn tình trạng mất cân đối, không đồng bộ trong cơ cấu đội ngũ ở

các địa bàn khác nhau (thừa giáo viên ở thị trấn, thiếu giáo viên ở những vùng khó

khăn), theo môn học (thừa giáo viên dạy văn hóa, thiếu giáo viên dạy các môn đặc

thù).

2.1.3. Tình hình quản lý nhà nƣớc đối với giáo dục phổ thông ở Kiên Giang

Qua khảo sát cho thấy, nhìn chung GDPT đã đạt được những thành tựu quan

trọng, góp phần thực hiện nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài

cho đất nước; đã hoàn thành mục tiêu xóa mù chữ, củng cố và nâng cao chất lượng

phổ cập GD tiểu học, phổ cập GD trung học cơ sở. Hệ thống văn bản quy phạm

pháp luật được ban hành tương đối đầy đủ, đã từng bước thể chế hóa các chủ

trương, quan điểm lớn của Uỷ ban nhân dân tỉnh Kiên Giang về GD, tạo hành lang

pháp lý cho GDPT phát triển. Quy mô và mạng lưới GDPT phát triển nhanh và khá

đa dạng về loại hình trường, cơ bản đáp ứng được nhu cầu học tập của học sinh.

Chương trình, sách giáo khoa GDPT về cơ bản đã thể hiện được quan điểm, đường

lối đổi mới GD của Đảng và Nhà nước, bước đầu thể hiện được quan điểm dạy học

phân hóa, tích hợp và tính liên thông, có nhiều tiến bộ về nội dung và hình thức

trình bày. Đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý GD đã có bước phát triển cả về số

lượng, trình độ và cơ cấu chuyên môn. Đầu tư cho GD được ưu tiên, cơ sở vật chất

46

nhà trường từng bước được cải thiện, nâng cấp theo hướng chuẩn hóa. Xã hội hóa

GD được đẩy mạnh. Công bằng xã hội trong GD được thực hiện tốt hơn.

Từ khái quát về đặc điểm kinh tế, xã hội tỉnh Kiên Giang với vị trí địa lý và

đặc điểm kinh tế - xã hội đã có một số thuận lợi nhưng cũng không ít những khó

khăn như: chuyển dịch kinh tế còn chậm, tỷ trọng thương mại dịch vụ còn thấp. Tốc

độ tăng trưởng chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế. Đời sống của nhân dân vùng

sâu, vùng xa còn nhiều khó khăn. Chất lượng GD chưa vững chắc, trang thiết bị dạy

và học còn thiếu, chưa đáp ứng được so với yêu cầu. Công tác xã hội hóa GD còn

hạn chế và chưa đều khắp. Công tác triển khai thực hiện kế hoạch xây dựng trường

đạt chuẩn quốc gia còn gặp nhiều khó khăn do nguồn vốn đầu tư không đảm bảo.

Các điều kiện cơ sở vật chất và trang thiết bị dạy học chưa đồng bộ ảnh hưởng đến

nâng cao chất lượng GD toàn diện và làm hạn chế chất lượng GDPT.

Tóm lại, từ những đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội và GDPT có thể rút ra

nhận xét về GDPT như sau:

Tỷ lệ học sinh học THPT và GD thường xuyên còn thấp. Yếu tố này do

nhiều nguyên nhân, trong đó có 2 nguyên nhân chủ yếu là kinh tế - xã hội chậm

phát triển và phong tục, tập quán lạc hậu vẫn còn hiện hữu trong đời sống của cộng

đồng các dân tộc như: lao động sớm đối với trẻ em gái; lấy vợ, lấy chồng sớm,...

Giáo viên GDPT cơ bản đảm bảo về số lượng. Về trình độ đào tạo, tỷ lệ nhà

giáo đạt chuẩn và trên chuẩn về trình độ đào tạo. Điều này chứng tỏ sự quan tâm

đầu tư đào tạo, bồi dưỡng để nâng chuẩn, nâng cao chất lượng đội ngũ của tỉnh. Tuy

nhiên, một thực tế không thể phủ nhận là giữa năng lực giảng dạy và trình độ đào

tạo của một bộ phận nhà giáo vẫn chưa tương xứng... Một số nhà giáo trình độ trên

chuẩn nhưng hạn chế về chuyên môn, kỹ năng sư phạm, tinh thần trách nhiệm và

đạo đức nhà giáo, chậm thích ứng với việc đổi mới, nên khó đáp ứng được yêu cầu

của thực tiễn.

Công tác quy hoạch phát triển mạng lưới cơ sở GDPT còn chậm, chưa theo

kịp yêu cầu ngày càng cao và sự đổi thay của cuộc sống, thời gian đầu chưa có quy

hoạch, việc xây dựng các cơ sở GD còn mang tính tự phát, tùy thuộc vào điều kiện

47

của từng địa phương. Nguồn kinh phí hạn hẹp, không đủ đáp ứng nhu cầu phát triển

nhà trường, dẫn đến việc phân bổ, đầu tư dàn trải, thiếu đồng bộ. Một số địa phương

khi tiến hành quy hoạch mạng lưới cơ sở GDPT chưa dự báo được khả năng biến

động về quy mô dân số trong độ tuổi đi học dẫn tới tình trạng nhiều cơ sở GD có

quá ít học sinh, quy mô số lớp nhỏ nên khó đầu tư để chuẩn hóa cơ sở vật chất.

Bên cạnh đó chất lượng GDPT nhìn chung vẫn chưa đáp ứng được mục tiêu

GD cũng như yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và còn thấp so với

nhiều nước trong khu vực và trên thế giới. Việc ban hành văn bản quy phạm pháp

luật nói chung còn chậm tiến độ, chưa đồng bộ, một số quy định thiếu tính cụ thể,

khả thi. Các loại hình GD chuyên biệt, ngoài công lập, chất lượng cao, có yếu tố

nước ngoài chưa bám sát định hướng, mục tiêu đề ra và còn bất cập về cơ chế hoạt

động và quản lý. Chương trình, sách giáo khoa còn thiên về truyền đạt kiến thức,

chưa chú trọng đúng mức việc rèn luyện tư duy sáng tạo và năng lực tự học, chưa

cân đối dạy kiến thức với GD đạo đức, lối sống, lịch sử, văn hóa dân tộc cũng như

định hướng nghề nghiệp. Chất lượng đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý GD vẫn

chưa đáp ứng được yêu cầu triển khai chương trình, sách giáo khoa mới nói riêng và

bảo đảm chất lượng GD nói chung. Đầu tư cho GDPT vẫn còn dàn trãi, bình quân,

chưa phù hợp với sự chuyển đổi kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Còn thiếu những cơ chế, chính sách nhằm huy động có hiệu quả các nguồn lực xã

hội cho GD và định hướng các cơ sở GDPT phát triển theo đúng mục tiêu, hợp quy

luật. Cơ sở vật chất, trang thiết bị ở nhiều trường học còn thiếu đồng bộ, chưa bám

sát và chưa đáp ứng được yêu cầu của việc thực hiện chương trình, sách giáo khoa

mới, hiệu quả sử dụng còn hạn chế.

Những hạn chế, tồn tại nêu trên về phân cấp QLNN đối với GDPT tại tỉnh

Kiên Giang là thách thức rất lớn đặt ra. Chính thực tế này là cơ sở để thúc đẩy

chúng tôi nên có giải pháp tích cực phát huy vai trò của phân cấp QLNN đối với

GDPT tại tỉnh Kiên Giang. Việc có giải pháp thiết thực, kịp thời nhằm nâng cao

chất lượng công tác bồi dưỡng đội ngũ này là vô cùng cần thiết. Không chỉ có tính

48

cấp bách, cần thiết đối với GDPT còn vừa có tính chiến lược, có tầm quan trọng đặc

biệt trong việc nâng cao kinh tế - xã hội của tỉnh.

2.2. THỰC HIỆN PHÂN CẤP QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC ĐỐI VỚI GIÁO DỤC

PHỔ THÔNG TẠI TỈNH KIÊN GIANG

2.2.1. Phân cấp quản lý về bộ máy

Bộ máy được tổ chức thống nhất từ trung ương đến địa phương. Theo Nghị

định 115/2010/NĐ-CP ngày 24/12/2010 của Thủ tướng Chính phủ quy định trách

nhiệm QLNN về GD, đối với GDPT, trách nhiệm quản lý của các cấp chính quyền

được quy định rõ: Bộ GD&ĐT, UBND cấp tỉnh, Sở GD&ĐT, UBND cấp huyện,

Phòng GD&ĐT. Chiến lược phát triển GD năm 2011- 2020 đã định hướng sự phát

triển của GDPT theo hướng hoàn thiện cơ cấu hệ thống GD, trong đó GDPT tỉnh

Kiên Giang cũng như cả nước. Định hướng chiến lược này là cơ sở quan trọng để

đổi mới hệ thống GDPT, đổi mới mục tiêu, chương trình nhằm đáp ứng yêu cầu xây

dựng con người xã hội chủ nghĩa. Do vậy, việc nghiên cứu mức độ hài về việc về

phân cấp quản lý bộ máy về GDPT tại tỉnh Kiên Giang có ý nghĩa quan trọng trong

QLNN đối với các GDPT hiện nay.

Bảng 2.5: Phân cấp quản lý về bộ máy

Mức độ thực hiện

Thứ Không hài Rất hài TT Tổ chức bộ máy trong QLNN Ít hài lòng Hài lòng bậc lòng lòng

SL % SL % SL % SL %

Xây dựng cơ chế, chính sách cho 1 30 10.0 94 31.3 118 39.3 88 29.3 2.80 7 hoạt động GDPT

Quy định rõ vị trí, chức năng,

nhiệm vụ, quyền hạn, thẩm quyền 2 30 10.0 55 18.3 108 36.0 137 45.7 3.07 1 của cơ quan chuyên môn QLNN

về GD ở trung ương và địa phương

3 Quy định trách nhiệm cũng như 30 10.0 70 23.3 98 32.7 132 44.0 3.01 2

49

phân định nhiệm vụ các cơ quan

ngang Bộ trong QLNN đối với

GDPT

Quy định về tổ chức, nhiệm vụ,

quyền hạn của cơ sở GDPT, hoạt

động khoa học và công nghệ, hoạt

4 động hợp tác quốc tế, bảo đảm 30 10.0 80 26.7 88 29.3 132 44.0 2.98 3

chất lượng GD, người học, tài

chính, chế độ làm việc với giáo

viên

Quy định nhiệm vụ và quyền hạn;

tổ chức và quản lý các trường phổ 5 27 9.0 99 33.0 109 36.3 95 31.7 2.82 6 thông; hoạt động GDPT; giáo viên

và người học; tài chính và tài sản

Xây dựng và ban hành thông tư

hướng dẫn thực hiện quyền tự chủ,

tự chịu trách nhiệm về thực hiện 6 50 16.7 59 19.7 106 35.3 118 39.3 2.90 4 nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên

chế đối với đơn vị sự nghiệp công

lập GD&ĐT

Xác định và phân công các chức

7 năng, nhiệm vụ và quyền hạn của 0.0 89 29.7 86 28.7 125 41.7 2.84 5

từng cấp (trung ương, tỉnh, trường)

Cơ quan QLNN trung ương quy

định khung cơ cấu tổ chức bộ máy 8 57 80 26.7 120 40.0 73 24.3 2.63 9 cơ sở GD theo từng loại hình, hạng

trường

Cơ sở GD phải xây dựng và thiết 9 85 28.3 60 20.0 90 30.0 95 31.7 2.59 8 kế cơ cấu tổ chức bộ máy của

50

mình trình cơ quan QLNN theo

thẩm quyền phê duyệt nhằm đảm

bảo cơ cấu tổ chức theo cơ cấu quy

định đồng thời gắn với loại hình

hoạt động của cơ sở GD.

Ban hành và tổ chức thực hiện văn

10 bản quy phạm pháp luật về cán bộ, 96 32.0 100 33.3 66 22.0 68 22.7 2.32 10

công chức

TRUNG BÌNH 12.6 26.2 32.9 35.4 2.79

Bảng số liệu với 10 nội dung cơ bản đánh giá mức độ hài lòng của cán bộ,

giáo viên của các trường trong hệ thống GDPT tại tỉnh Kiên Giang được đánh giá

mức độ ít hài lòng đến hài lòng, điểm trung bình từ 2.79 (Min = 1, Max = 4). Trong

đó, “Quy định rõ vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, thẩm quyền của cơ quan

chuyên môn QLNN về GD ở trung ương và địa phương” có trị trung bình cao nhất

( = 2.79). Xếp thứ 2 với điểm trung bình = 3.01 là nội dung “Quy định trách

nhiệm cũng như phân định nhiệm vụ các cơ quan ngang Bộ trong QLNN đối với

GDPT”.

Thực trạng hiện nay tổ chức bộ máy QLNN về phân cấp quản lý đối GDPT

tại tỉnh Kiên Giang, UBND tỉnh cũng như Sở GD&DT đã đưa ra văn bản quy định

về vấn đề này trên cơ sở những quy định chung của pháp luật có liên quan. Trong

đó UBND tỉnh đã ban hành công văn số 468/UBND-NCPC ngày 02/5/2012 hướng

dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức của Phòng GD&ĐT thuộc UBND

huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh Kiên Giang. Sở GD&ĐT tỉnh ban hành Quyết

định số 487/QD-SGĐT, ngày 22 tháng 4 năm 2013 về chức năng, nhiệm vụ, quyền

hạng của các đơn vị giúp Giám đốc thực hiện chức năng QLNN thuộc Sở GD&ĐT

tỉnh kiên Giang,. Cũng trong phạm vi quy đinh chức năng QLNN đối với GDPTT,

UBND tỉnh Kiên Giang ra Quyết định số 976/QD-UBND, Quyết định về quy định

51

chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Sở GD&ĐT tỉnh Kiên

Giang. Từ các văn bản trên có thể thấy:

Thứ nhất, UBND cấp tỉnh: chỉ đạo, hướng dẫn Sở GD và Đào tao và Phòng

GD&ĐT thực hiện quy hoạch, kế hoạch, tuyển chọn, sử dụng, đánh giá, luân

chuyển, đào tạo, bồi dưỡng, thực hiện chính sách đối với giáo viên; bảo đảm đủ

biên chế sự nghiệp.

Thứ hai, Sở GD&ĐT: hướng dẫn, tổ chức thực hiện, kiểm tra, thanh tra việc

thực hiện chương trình GDPT, tuyển chọn, sử dụng, luân chuyển, biệt phái, đào tạo,

đào tạo lại, bồi dưỡng, thực hiện chính sách đối với giáo viên.

Thứ ba, các cơ sở GDPT: tổ chức giảng dạy, học tập và các hoạt động GD

khác theo mục tiêu, chương trình GDPT do Bộ trưởng Bộ GD&ĐT ban hành; quản

lý giáo viên; tổ chức cho giáo viên tham gia hoạt động xã hội.

Thứ tư, sở Nội vụ là cơ quan quản lý công chức, viên chức của tỉnh. Sở Nội

vụ phối hợp với sở GD&ĐT trong tuyển dụng giáo viên trong hệ thống GDPT theo

kế hoạch được UBND tỉnh phê duyệt.

Bên cạnh mặt tích cực. Kết quả khảo sát còn hạn chế về các chính sách, văn

bản pháp quy về cơ quan QLNN trung ương quy định khung cơ cấu tổ chức bộ máy

cơ sở GD theo từng loại hình, hạng trường; cơ sở GD phải xây dựng và thiết kế cơ

cấu tổ chức bộ máy của mình trình cơ quan QLNN theo thẩm quyền phê duyệt nhằm

đảm bảo cơ cấu tổ chức theo cơ cấu quy định đồng thời gắn với loại hình hoạt động

của cơ sở GD; ban hành và tổ chức thực hiện văn bản quy phạm pháp luật về cán

bộ, công chức chưa được hài lòng về các nội dung trên. Thực tế cho thấy, mặc dù

Chính phủ, Nhà nước đã ban hành các văn bản và Bộ GD&ĐT chủ trì thực hiện,

trong đó các văn bản phân cấp về đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý trong GDPT,

chính sách GDPT còn bấp cập về thể chế:

Thứ nhất, bấp cập về phân cấp tổ chức bộ máy về nhiệm vụ, quyền hạn:

Ở cấp trung ương, Bộ GD&ĐT thực hiện chức năng QLNN về GD&ĐT

thuộc hệ thống GD quốc dân. Theo Quyết định số: 2439/QĐ-BGDĐT ngày

52

16/06/2010 của Bộ trưởng Bộ GD&ĐT quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn

và cơ cấu tổ chức của các đơn vị giúp Bộ trưởng thực hiện chức năng QLNN.

Ở cấp địa phương, tổ chức bộ máy dần hình thành và hoàn thiện. Sở

GD&ĐT đã chủ động, tích cực tham mưu phân cấp quản lý theo Nghị định

115/2010/NĐ-CP về trách nhiệm quản lý GD và Thông tư liên tịch 47/2011/TTLT-

BGDĐT-BNV hướng dẫn về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức và

biên chế của Sở GD&ĐT thuộc UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương,

Phòng GD&ĐT thuộc UBND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh; xây dựng,

ban hành được Quy chế phối hợp giữa ngành GD với UBND các huyện, thành, thị

về quản lý GD&ĐT. Tuy nhiên, hiện tại tỉnh Kiên Giang mới ban hành Quyết định

quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức và biên chế của Sở

GD&ĐT, và Phòng GD&ĐT, việc phân cấp về quản lý nhân sự của bộ máy còn

thiếu minh bạch.

Thứ hai, trong thời gian qua, thực hiện đổi mới và nâng cao chất lượng

GDPT, quá trình biên soạn chương trình chính sách GDPT và sách hướng dẫn thực

hiện chương trình, Bộ GD&ĐT đã chỉ đạo lấy ý kiến của các chuyên gia, cán bộ

quản lý các cấp, giảng viên của 64 tỉnh thành trong cả nước (qua nhiều vòng). Vì

vậy, bộ chương trình chính sách GDPT và sách hướng dẫn thực hiện chương trình

được các địa phương đánh giá phù hợp thực tế. Tuy nhiên, việc xây dựng chương

trình, nội dung môn học do Bộ GD&ĐT chủ trì, tuy nhiên mỗi vùng lãnh thổ có đặc

điểm văn hóa, xã hội, kinh tế đặc thù riêng, việc “áp đặt”, “mô típ” chung về 1

chương trình, nội dung cho tất cả các trường Bắc-Trung-Nam chưa sát thực tế (đối

với cấp THPT). Có thể thấy, để ban hành chính sách, chương trình GDPT trên địa

bàn tỉnh, cần có sự phối hợp giữa cơ quan thẩm quyền chung (UBND tỉnh) và cơ

quan thẩm quyền riêng (Bộ GD&ĐT) vừa đảm bảo tính thống nhất trong công tác

chuyên môn vừa phù hợp với tình hình địa phương.

Thứ ba, hiện tại phân cấp quản lý giáo viên (quản lý viên chức nhà nước)

được quy định thống nhất chung trong toàn quốc, chưa có những quy định mang

53

tính đặc thù (quy định riêng) trong quản lý giáo viên tiểu học, giáo viên trung học

cơ sở, giáo viên THPT.

Thứ tư, thẩm quyền tổ chức bộ máy QLNN về GDPT chưa phân định rõ về

biên chế. Số lượng biên chế của Sở GD&ĐT là cố định, được quyết định bởi UBND

tỉnh. Chính vì thế, không thể thành lập thêm nhiều phòng chuyên môn của sở bởi

biên chế có hạn. Giải quyết tình huống phải cân bằng giữa biên chế có hạn và chức

năng, yêu cầu quản lý, các sở sử dụng giải pháp tình thế là cử cán bộ thuộc các

phòng chuyên môn làm kiêm nhiệm chức năng này, có thể giao cho một hoặc một

vài cán bộ kiêm nhiệm. Điều này vừa đảm bảo phù hợp với tình thế cần có đầu mối

quản lý để thực hiện nhiệm vụ, liên lạc với cấp trên cũng như các đơn vị có liên

quan đến các hoạt động giảng dạy, vừa phù hợp với thực tại chưa thể tổ chức phòng

GD dân tộc chính thức, do vướng mắc bởi nhiều yếu tố.

Thứ năm, trong phân cấp quản lý nhân sự, tài chính. Theo công văn số

486/UBND-NCPC về việc hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức

của Phòng GD&ĐT thuộc UBND huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh Kiên Giang

ngày 02/05/2012, tại mục nhiệm vụ, quyền hạn đã ghi rõ: Phòng GD&ĐT có nhiệm

vụ phối hợp với Phòng Nội vụ hướng dẫn các cơ sở GD xác định vị trí việc làm, số

người làm việc, tổng hợp vị trí việc làm, số người làm việc cho các cơ sở GD sau

khi đã được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt. Mục 2.12 cũng đưa ra Phòng

GD&ĐT cần “Phối hợp với Phòng nội vụ, Phòng tài chính-kế hoạch giúp UBND

cấp huyện kiểm tra, thanh tra thực hiện việc tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong các cơ

sở GD công lập. [45]. Như vậy, các văn bản vẫn chưa quy định thống nhất, việc

quản lý nhiều đơn vị tham gia gây chồng chéo, việc cấp phát kinh phí không kịp

thời, gây khó khăn cho các cơ sở GDPT trong việc thực hiện các hoạt động GD.

Như vậy, tổ chức bộ máy phân cấp quản lý GDPT tỉnh Kiên Giang nói riêng

chậm được đổi mới và còn tập trung nhiều vào vấn đề quản lý hành chính các cơ sở

GDPT. Trong suốt một thời kỳ dài, cơ quan QLNN đối với GDPT tập trung nhiều

việc tạo lập thể chế về tuyển sinh, về khung chương trình mà chưa quan tâm đến

việc tạo lập thể chế cho việc bảo đảm chất lượng, nâng cao trách nhiệm xã hội, tạo

54

lập thể chế trong việc trao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các cơ sở GDPT.

Phương pháp QLNN đối với GDPT một mặt còn tập trung, chưa có quy chế phối

hợp với các bộ, ngành, chưa phân cấp cho chính quyền địa phương, chưa tạo đủ

điều kiện để các cơ sở đào tạo thực hiện quyền và trách nhiệm tự chủ, mặt khác

không đủ khả năng đánh giá thực chất hoạt động và sự chấp hành luật pháp của

GDPT không có khả năng đánh giá chất lượng GD của toàn bộ hệ thống.

2.2.2. Phân cấp quản lý về nhân sự

Bảng 2.6: Phân cấp quản lý về nhân sự

Mức độ thực hiện

Thứ Trung TT Phân cấp quản lý về nhân sự Chƣa đạt Khá Tốt bậc bình

SL % SL % SL % SL %

Ban hành và tổ chức thực hiện văn

1 bản quy phạm pháp luật về cán bộ, 83 27.7 70 23.3 84 28.0 91 30.3 2.54 2

công chức

Xây dựng kế hoạch, quy hoạch cán

2 bộ, công chức; Quy định chức 76 25.3 110 36.7 80 26.7 64 21.3 2.40 3

danh và cơ cấu cán bộ

Quy định ngạch, chức danh, mã số

công chức; mô tả, quy định vị trí

việc làm và cơ cấu công chức để 3 117 39.0 58 19.3 82 27.3 73 24.3 2.34 4 xác định số lượng biên chế đối với

công chức trong các cơ quan, bộ,

ban, ngành theo hàng dọc.

Quy định rõ định mức biên chế,

tiêu chuẩn chuyên môn, nghiệp vụ 4 30 10.0 80 26.7 88 29.3 132 44.0 2.98 1 theo vị trí việc làm trong cơ quan

QLNN về GD

55

Lãnh đạo các trường thực hiện

việc tuyển dụng nhân sự theo yêu

5 cầu công việc của đơn vị mình gắn 120 40.0 60 20.0 60 20.0 90 30.0 2.36 5

với tiêu chuẩn chuyên môn, nghiệp

vụ được quy định

TRUNG BÌNH 28.4 25.2 26.2 30.0 2.52

Với 5 nội dung cơ bản về phân cấp quản lý đội ngũ thực hiện. Mức độ thực

hiện của các nội dung đạt với điểm trung bình từ 2.36 đến 2.98. Trong đó, “Quy

định rõ định mức biên chế, tiêu chuẩn chuyên môn, nghiệp vụ theo vị trí việc làm

trong cơ quan QLNN về GD” có trị trung bình cao nhất ( = 2.98). Xếp thứ 2 với

điểm trung bình = 2.54 là nội dung “Ban hành và tổ chức thực hiện văn bản quy

phạm pháp luật về cán bộ, công chức”. Nhận định vấn đề này, có thể thấy:

Thứ nhất, xây dựng quy hoạch phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý

GD: Trong quy định tại Quyết định số 976/QD-UBND, Quyết định về quy định

chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Sở GD&ĐT tỉnh Kiên Giang

thì địa phương có sự rà soát về nguồn nhân lực GD để có sự quản lý phù hợp với

thực tiễn địa phương. Hoạt động rà soát, điều chỉnh quy hoạch, kế hoạch đào tạo,

bồi dưỡng và bố trí sắp xếp đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý cơ sở GD theo quy

định và phù hợp với tình hình thực tế của mỗi địa phương. Sở GD&ĐT đã làm tốt

công tác rà soát, điều chỉnh quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng và bố trí sắp

xếp đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý cơ sở GD theo quy định và phù hợp với

tình hình thực tế của mỗi địa phương. Thực hiện đầy đủ, kịp thời các chế độ chính

sách đối với nhà giáo và cán bộ quản lý cơ sở GD, đặc biệt là các nhà giáo và cán

bộ quản lý cơ sở GD công tác tại vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó

khăn.

Thứ hai, chăm lo đào tạo bồi dưỡng, chuẩn hóa đội ngũ giáo viên: Sở

GD&ĐT cũng rất chăm lo bồi dưỡng nghiệp vụ, tạo điều kiện cho giáo viên tham

56

gia các khóa đào tạo ở những cấp học cao hơn, học liên thông. Tham gia tập huấn

và triển khai có hiệu quả chương trình bồi dưỡng các cấp học theo yêu cầu của Bộ.

Bên cạnh đó, chú trọng, quan tâm phát triển nguồn nhân lực tại chỗ. Ưu tiên phát

triển đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý GD.

Tuy nhiên, phân cấp QLNN về đội ngũ nhân sự thực hiện chưa được đánh

giá cao ở các nội dung còn chưa chú trọng đến một số yếu tố như “Lãnh đạo các

trường thực hiện việc tuyển dụng nhân sự theo yêu cầu công việc của đơn vị mình

gắn với tiêu chuẩn chuyên môn, nghiệp vụ được quy định; quy định ngạch, chức

danh, mã số công chức; mô tả, quy định vị trí việc làm và cơ cấu công chức để xác

định số lượng biên chế đối với công chức trong các cơ quan, bộ, ban, ngành theo

hàng dọc”. Tiêu điểm cho các hạn chế này là:

Thứ nhất, về số lượng. Số lượng cán bộ, công chức QLNN về GDPT còn

thiếu, mỏng, chưa đủ đáp ứng yêu cầu. Nhiều địa phương còn chưa có cán bộ

chuyên trách, thường là kiêm nhiệm. Việc kiêm nhiệm khiến cho khối lượng công

việc cần phải giải quyết lớn, cán bộ công chức kiêm nhiệm phải quản lý, bao quát

trên địa bàn rộng lớn.

Thứ hai, về chất lượng. Đội ngũ cán bộ công chức QLNN về GD dân tộc

thiểu số còn yếu về chất lượng như chưa được chuẩn hóa (phần đa là giáo viên, cán

bộ đoàn thể chuyển sang làm cán bộ quản lý GD tại các phòng GD, Sở GD&ĐT);

trình độ chuyên môn, lý luận chính trị, trình độ pháp luật, kỹ năng QLNN còn hạn

chế.

Thứ ba, xây dựng quy hoạch phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý

GD. Các địa phương có sự rà soát về nguồn nhân lực GD vù để có sự quản lý phù

hợp với thực tiễn địa phương. Hoạt động rà soát, điều chỉnh quy hoạch, kế hoạch

đào tạo, bồi dưỡng và bố trí sắp xếp đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý cơ sở GD

theo quy định và phù hợp với tình hình thực tế của mỗi địa phương. Sở GD&ĐT đã

làm tốt công tác rà soát, điều chỉnh quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng và bố

trí sắp xếp đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý cơ sở GD theo quy định và phù hợp

với tình hình thực tế của mỗi địa phương. Thực hiện đầy đủ, kịp thời các chế độ

57

chính sách đối với nhà giáo và cán bộ quản lý cơ sở GD, đặc biệt là các nhà giáo và

cán bộ quản lý cơ sở GD công tác tại vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó

khăn.

Đánh giá về đội ngũ thực hiện các văn bản pháp quy hay các chính sách về

văn bản trong phân cấp QLNN đối với GDPT phải đánh giá tương đồng giữa quy

hoạch phát triển, chất lượng đào tạo cũng như quy mô học sinh. Đội ngũ cán bộ,

công chức làm công tác QLNN về GDPT hiện nay rất đa dạng bao gồm cán bộ,

công chức ở Bộ GD&ĐT, Phòng và Sở GD&ĐT. Tuy nhiên, về cơ bản đội ngũ cán

bộ, công chức trong bộ máy QLNN đối với GDPT tỉnh Kiên Giang còn chưa bảo

đảm về số lượng và chất lượng. Cán bộ, công chức làm công tác QLNN liên quan

đến GDPT hiện nay của Bộ GD&ĐT, Sở và Phòng GD&ĐT tập trung ở một số Vụ,

Cục, Phòng chuyên môn. Tuy nhiên, so với yêu cầu quản lý một số lượng lớn các

cơ sở GDPT trong cả nước, cũng như tỉnh Kiên Giang đội ngũ này vẫn còn mỏng về

số lượng. Hơn nữa, lực lượng này lại bị phân tán do phải thực hiện nhiều nhiệm vụ

chuyên môn. Bên cạnh đó, một bộ phận các cán bộ, công chức chưa có sự đào tạo

bài bản, chuyên sâu về quản lý GD nói chung và GDPT nói riêng (do cán bộ Phòng

và Sở hầu như chuyển từ địa phương như các trường tiểu học, trung học cơ sở, hay

THPT điều lên). Điều này tất yếu ảnh hưởng đến năng lực tư vấn, xây dựng chính

sách quản lý cũng như thực hiện các công tác QLNN khác. Việc quản lý đối với các

cơ sở GDPT cũng còn những hạn chế do chủ yếu tập trung vào việc phân công

người đứng đầu cơ sở GD. Việc quản lý chất lượng vì vậy chủ yếu phụ thuộc vào

năng lực, trách nhiệm của người đứng đầu này và nỗ lực nội tại của cơ sở GD.

58

2.2.3. Phân cấp quản lý về tài chính

Bảng 2.7: Phân cấp quản lý về tài chính

Mức độ thực hiện

Thứ Trung TT Phân cấp quản lý về tài chính Chƣa đạt Khá Tốt bậc bình

SL % SL % SL % SL %

Xây dựng và quy định cơ chế tự

1 chủ của đơn vị sự nghiệp công lập, 120 40.0 50 16.7 62 20.7 98 32.7 2.42 2

trong đó có hệ thống GDPT

Nhà nước quy định cơ chế quản lý

tài chính trong hoạt động GD&ĐT

2 về học phí, kinh phí đóng góp, cơ 120 40.0 36 12.0 83 27.7 91 30.3 2.44 1

chế, chính sách để thực hiện công

tác xã hội hóa GD.

Giao cơ chế tự chủ tài chính đối

với ngân sách cấp cho hoạt động 3 130 43.3 47 15.7 76 25.3 77 25.7 2.30 3 của cơ quan QLNN về GD địa

phương.

Giao quyền tự chủ về tài chính

được cấp và nguồn thu khác theo 4 147 49.0 30 10.0 91 30.3 62 20.7 2.21 4 quy định cho cơ sở GD trong hoạt

động chuyên môn.

TRUNG BÌNH 43.8 13.5 26.0 27.3 2.36

Kết quả khảo sát cho thấy, mức độ thực hiện của các nội dung đạt với điểm

trung bình từ 2.21 đến 2.44. Trong đó, “Nhà nước quy định cơ chế quản lý tài chính

trong hoạt động GD&ĐT về học phí, kinh phí đóng góp, cơ chế, chính sách để thực

hiện công tác xã hội hóa GD” có trị trung bình cao nhất ( = 2.44). Xếp thứ 2 với

59

điểm trung bình = 2.42 là nội dung “Xây dựng và quy định cơ chế tự chủ của

đơn vị sự nghiệp công lập, trong đó có hệ thống GDPT”.

Có thể thấy, nguồn lực tài chính cho GDPT tỉnh bao gồm hai nguồn: ngân

sách nhà nước và nguồn xã hội hóa. Sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đối với

GDPT tại tỉnh Kiên Giang nói riêng và GDPT cả nước nói chung bao gồm các

nguồn ngân sách. Các địa phương thực hiện chế độ, chính sách đối với GDPT theo

Quyết định số 82/2006/QĐ- TTg ngày 14/4/2006 của Thủ tướng Chính phủ, Thông

tư liên tịch số 43/2007/TTLT/BTC-BGDĐT ngày 02/5/2007 và Thông tư liên tịch

số 109/2009/TTLT/BTC-BGDĐT ngày 29/5/2009 của Bộ Tài chính và Bộ Giáo duc

và Đào tạo,…. Các chính sách này có thể lược thành các nội dung chủ yếu sau:

Một là, về định mức phân bổ chi sự nghiệp GD. Với việc đầu tư nguồn ngân

sách nhà nước ngày càng tăng cho GDPT được thể hiện về cơ sở vật chất, điều kiện

dạy và học, điều kiện sinh hoạt cho thầy và trò.

Hai là, hoạt động quản lý tài chính. Công tác quản lý tài chính được thực

hiện nghiêm túc và hiệu quả. Sở Tài chính và Sở GD&ĐT tỉnh Kiên Giang đã chỉ

đạo xây dựng kế hoạch ngân sách chi thường xuyên. Phối hợp với Sở Tài chính, Sở

Kế hoạch và Đầu tư thẩm định dự toán trình tỉnh phân bổ ngân sách chi thường

xuyên, vốn đầu tư phát triển, vốn chương trình mục tiêu, các chương trình dự án...

Thực hiện tốt quy chế công khai tài chính; quản lý đúng quy định các nguồn vốn,

các loại quỹ theo quy định hiện hành. Báo cáo tài chính, việc thực hiện chi thường

xuyên, chi đầu tư phát triển thực hiện đúng quy định hiện hành.

Ba là, đẩy mạnh công tác xã hội hóa GDPT. Công tác xã hội hóa được quan

tâm đẩy mạnh. Sở đã làm tốt công tác tuyên truyền, kêu gọi sự đầu tư, hỗ trợ của

mọi lực lượng trong xã hội để phát triển GD; tham mưu cho tỉnh chỉ thị, nghị quyết

quan trọng nhằm đẩy mạnh xã hội hóa GD.

Như vậy, ưu điểm lớn nhất trong phân cấp quản lý nguồn tài chính là nguồn

ngân sách chi đa dạng về hình thức và nội dung của các dự án GD, dự án phát triển

kinh tế, xã hội cho tỉnh.

60

Từ trên khảo sát cho thấy, bên cạnh mặt tích cực, mặt hạn chế của phân cấp

quản lý tài chính đối với GDPT trong tỉnh là:

Chính sách dành cho GDPT tỉnh Kiên Giang là sự thiếu đồng bộ trong các

chính sách. Chính sách mở rộng quy mô GD chưa song hành với chính sách phát

triển đội ngũ giáo viên, cơ sở vật chất, đầu tư tài chính, bảo đảm chất lượng. Điều

này đưa đến một hệ lụy là sự gia tăng về số lượng trường thì cũng kéo theo nguy cơ

về chất lượng GD suy giảm.

Sự thiếu thốn, hạn chế về cơ sở vật chất là rất lớn tại các địa phương trong

tỉnh. Đặc biệt cơ sở vật chất, thiết bị dạy học, nhất là ở vùng còn nhiều khó khăn,

hầu hết các trường vùng khó khăn chưa có phòng học chức năng, phòng học bộ

môn, thiếu phòng ở công vụ giáo viên, phòng ở học sinh bán trú và hạng mục công

trình phụ trợ cho các trường có học sinh bán trú. Hạ tầng công nghệ thông tin của

ngành GD nhìn chung còn thiếu, chưa đáp ứng nhu cầu. Môi trường GD với 3 yếu

tố: gia đình - nhà trường - xã hội tuy nhận thức của cộng đồng đã cao hơn, nhưng

hành động và sự phối hợp công tác ở một số lĩnh vực chưa cao.

Tiếp đó là chế độ lương, phụ cấp cho giáo viên và cán bộ quản lý GD còn

chưa tạo động lực.

Nhà giáo và cán bộ quản lý GD công tác tại vùng kinh tế - xã hội đặc biệt

khó khăn theo Quyết định số 244/2005/QĐ-TTg ngày 06/10/2005 của Thủ tướng

Chính phủ về chế độ phụ cấp ưu đãi đối với nhà giáo đang trực tiếp giảng dạy trong

các cơ sở GD công lập. Ngoài ra, các địa phương đã cân đối ngân sách, xây dựng

các cơ chế, chính sách ưu đãi thu hút, luân chuyển đối với giáo viên, cán bộ quản lý

GD công tác tại vùng kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, biên giới, hải đảo; góp

phần an tâm công tác và cải thiện đời sống.

Chức năng tài chính và nhân sự ở GDPT thực hiện theo Nghị định số

16/2015/NĐ-CP ngày ngày 14 tháng 2 năm 2015 của Chính phủ Quy định cơ chế tự

chủ của đơn vị sự nghiệp công lập, tuy nhiên việc thực hiện tự chủ này chưa triệt để

ở các trường phổ thông, cụ thể như sau:

61

Khoán quỹ tiền lương theo số biên chế được cấp có thẩm quyền giao và

khoán quỹ tiền lương của số lao động hợp đồng không xác định thời hạn theo quy

định của pháp luật được cấp có thẩm quyền phê duyệt. Khoán chi hoạt động thường

xuyên theo số biên chế được cấp có thẩm quyền giao và định mức phân bổ ngân

sách nhà nước hiện hành để các trường tự chủ về biên chế và thực hiện nhiệm vụ.

Tuy nhiên, theo quy định tại Thông tư liên tịch số 06/2015/TTLT-BGDĐT-BNV

ngày 16 tháng 03 năm 2015 quy định về danh mục khung vị trí việc làm và định

mức số lượng người làm việc trong các cơ sở GD công lập về định mức giáo viên.

Như vậy, số giáo viên bắt buộc tăng lên trong khi biên chế đã được duyệt cho ngành

GD ở địa phương là không thay đổi. Điều này gây khó khăn cho ngành GD ở địa

phương, nếu thực hiện đúng theo thông tư 06/2015/TTLT-BGDĐT-BNV thì không

đủ kinh phí trả lương, nếu thực hiện tự chủ bằng cách không tuyển dụng giáo viên

thì không đúng theo quy định của ngành.

Sự bất cập, thiếu hợp lý còn tồn tại ở một số nội dung:

Tiền lương giáo viên có thể không cao nhưng phụ cấp đứng lớp, phụ cấp khu

vực khiến cho thu nhập của họ cao hơn nhiều so với cán bộ quản lý GD dù trong

cùng địa bàn. Điều này khiến cho điều kiện sống của cán bộ quản lý GD gặp nhiều

khó khăn, ảnh hưởng đến hiệu quả công việc.

Cơ cấu phân bổ kinh phí chưa hợp lý: Chỉ tập trung đầu tư vào xây dựng cơ

sở vật chất, thiết bị; chi phí ăn ở, học tập cho học sinh còn thấp. Những khoản chi

thường xuyên còn rất hạn hẹp, nhiều trẻ đi học ở các lớp tạm. Nhiều trường lớp

được xây dựng khang trang nhưng thiếu đồng bộ (không có nhà vệ sinh đạt chuẩn),

phòng máy vi tính, thư viện được trang bị nhưng không sử dụng,... gây lãng phí,

khó khăn cho hoạt động dạy và học.

Quản lý dự án, chương trình gặp nhiều khó khăn do cơ chế phân bổ kinh phí,

chế độ quản lý dự án ở trung ương và địa phương chưa phù hợp. Có một số nguyên

nhân gây ách tắc, chậm về mặt thủ tục khiến cho việc triển khai từ trung ương

xuống các địa phương trong vùng gặp nhiều vướng mắc.

62

Sử dụng nguồn kinh phí chưa thực sự hiệu quả. Mặc dù kinh phí đầu tư cho

GDPT không phải là nhỏ song hiệu quả của nó đối với GD còn chưa rõ rệt, chất

lượng GD, đời sống của đại bộ phận giáo viên và học sinh không được cải thiện

tương xứng.

Bên cạnh đó, chính sách tài chính cho GDPT chậm được đổi mới. Theo

chính sách tự chủ tài chính hiện nay thì bản chất là việc giao khoán, tức là hàng năm

nhà nước vẫn cấp một phần ngân sách, còn lại là thu chi trong trường tự quản lý các

khoản đóng góp về dịch vụ công, thu học phí. Việc phân bổ ngân sách nhà nước

chưa gắn với nhu cầu kinh phí cần thiết cho việc đảm bảo chất lượng đào tạo, chưa

khuyến khích việc điều chỉnh nội dung, chương trình. Định mức phân bổ ngân sách

cho các trường trên địa bàn tỉnh về cơ bản vẫn mang nặng tính bao cấp, bình quân

và chủ yếu dựa vào các yếu tố "đầu vào" nên chưa gắn kết giữa kết quả sử dụng

nguồn lực ngân sách nhà nước với kết quả, hiệu quả thực hiện nhiệm vụ. Theo đó,

phần nào hạn chế tính năng động, sáng tạo của các trường trong việc huy động thêm

các nguồn lực xã hội mà còn trông chờ vào sự bao cấp của nhà nước. Các định mức

tổng hợp làm căn cứ phân bổ ngân sách còn chưa hợp lý, chưa có sự phân biệt theo

ngành nghề đào tạo và điều kiện thực tiễn theo vùng miền. Cơ chế sử dụng nguồn

thu chưa thật hiệu quả vì thiếu hệ thống khuyến khích về lợi ích. Các quy định về

cấp phát và kiểm tra sử dụng ngân sách nhà nước đối với GDPT còn quá chi tiết,

nhấn mạnh vào yếu tố đầu vào mà chưa coi trọng hiệu quả, chất lượng sản phẩm

GD.

Công cụ thực hiện phân cấp QLNN đối với GDPT là việc ban hành thể chế,

tuy nhiên việc ban hành cũng như thực thi nó còn nhiều hạn chế. Tư duy pháp lý đã

được đổi mới ở mức độ nhất định song còn mang nặng quan điểm pháp lý đơn

thuần, chưa chú ý đến sự vận động khách quan của hoạt động đào tạo và những điều

kiện thực tế đảm bảo thực hiện pháp luật trong đời sống.

Đặc biệt về thực hiện chế độ, chính sách đối với giáo viên theo hợp đồng làm

việc. Ở một số địa phương, nhiều giáo viên đã là biên chế, sau đó Phòng GD&ĐT

ký hợp đồng làm việc không thời hạn mà không giải thích cụ thể tạo nên tâm lý

63

không ổn định của giáo viên. Bên cạnh đó, một số giáo viên tham gia đào tạo cao

đẳng, đại học cho đủ chuẩn nhưng Phòng GD&ĐT không hoặc chậm chuyển ngạch,

bậc lương đúng ngành đào tạo gây sự bất bình trong đội ngũ giáo viên.

Theo quy định, địa phương dành tỷ lệ đầu tư ngân sách cho GDPT ít nhất

10% ngân sách GD thường xuyên hàng năm. Tuy nhiên, theo báo cáo tổng kết

ngành GD năm 2015-2016 của tỉnh Kiên Giang, tỷ lệ chưa đồng đều ở các địa bàn

trong tỉnh. Tỷ lệ ngân sách đầu tư rất cao từ 15-25 % do kế hoạch hàng năm ở địa

phương. Một số địa phương trong năm có kế hoạch xây dựng trường chuẩn quốc gia

hoặc xây dựng xã nông thôn mới sẽ đầu tư ngân sách tập trung cho GD, ở địa bàn

nào không có kế hoạch liên quan đến phát triển GD thì ngân sách đầu tư thấp. Nếu

đầu tư thấp thì các cơ sở GDPT chỉ có thể trả lương cho công chức, giáo viên,

không đủ kinh phí để mua sắm thiết bị và các hoạt động nâng cao chất lượng GD

trong năm học đó, từ đó ảnh hưởng đến chất lượng GD cũng như hiệu quả QLNN

đối với GDPT ở địa phương.

Bốn là, theo Luật viên chức, giáo viên hiện nay tuyển dụng bằng hình thức

ký hợp đồng làm việc. Quyền ra quyết định tuyển dụng chỉ do UBND hoặc Sở,

phòng GD&ĐT được ủy quyền quyết định, các trường không có tham gia vào quy

trình tuyển dụng trong khi đó chất lượng GD do chính chất lượng đội ngũ giáo viên

của nhà trường trực tiếp quyết định. Điều này phần nào ảnh hưởng đến công tác

quản lý nhân sự trong nhà trường, không chính thức kiểm tra yếu tố đầu vào nên

trong quá trình sử dụng tất yếu sẽ gặp nhiều khó khăn.

Như vậy, một trong những nguyên nhân khách quan là những chậm trễ trong

việc cải cách HCNN, trong việc đổi mới quản lý kinh tế, tài chính, sử dụng lao

động, chính sách tiền lương… là những yếu tố ngăn cản việc giải quyết có hiệu quả

những vướng mắc đối với GDPT tỉnh Kiên Giang trong việc huy động sức mạnh

tổng hợp của toàn xã hội vì sự nghiệp phát triển GD nói chung và GDPT nói riêng.

64

2.2.4. Phân cấp quản lý về chuyên môn (chƣơng trình, giáo trình, tài liệu giảng

dạy)

Tỉnh đã tập trung nâng cao chất lượng GDPT. Các cơ sở GDPT, vùng dân

tộc thiểu số, các trường phổ thông dân tộc nội trú áp dụng nhiều biện pháp nâng cao

chất lượng GD: tổ chức triển khai và ứng dụng những kiến thức, kỹ năng về quản

lý, giảng dạy, GD học sinh thông qua các lớp tập huấn nâng cao năng lực cho đội

ngũ cán bộ quản lý giáo viên trường chuyên biệt của Bộ GD&ĐT.

Bảng 2.8: Phân cấp quản lý về chuyên môn (chƣơng trình, giáo trình, tài liệu

giảng dạy)

Mức độ thực hiện

Thứ Trung Stt Phân cấp quản lý về tài chính Chƣa đạt Khá Tốt bậc bình

SL % SL % SL % SL %

Bộ GD&ĐT xây dựng quy định về

1 phạm vi, mục tiêu, nội dung, 118 39.3 57 19.0 87 29.0 68 22.7 2.32 4

chương trình GDPT

Quy định vị trí, môn học trong kế 2 88 30.6 70 24.3 82 28.5 90 31.3 2.53 1 hoạch dạy học

Xác định rõ mục đích yêu cầu của

3 môn học (yêu cầu về tri thức, kỹ 109 37.8 76 26.3 36 12.5 109 37.8 2.44 2

năng kỹ xảo, thái độ hành vi)

Bộ GD&ĐT ban hành nội dung

môn học (các phần, các chương, 4 89 30.9 96 33.3 80 27.8 65 22.6 2.37 3 các bài), Sở GD&ĐT xây dựng các

hoạt động phù hợp với địa phương

5 Nội dung khác

TRUNG BÌNH 34.7 25.7 24.4 25.6 2.41

65

Kết quả khảo sát cho thấy, mức độ thực hiện của các nội dung đạt với điểm

trung bình từ 2.32 đến 2.53 (Min=1, Max=4). Trong đó, “Quy định vị trí, môn học

trong kế hoạch dạy học” có trị trung bình cao nhất ( = 2.53). Xếp thứ 2 với điểm

trung bình = 2.44 là nội dung “Xác định rõ mục đích yêu cầu của môn học (yêu

cầu về tri thức, kỹ năng kỹ xảo, thái độ hành vi)”.

Kết quả khảo sát có thế thấy, phân cấp quản lý về chuyên môn hiện nay đã

đạt được một số ưu điểm nhất định trong đó xác định rõ nhiệm vụ: Bộ GD&ĐT xây

dựng chương trình, nội dung; Sở GD&ĐT cùng Phòng GD&ĐT chịu trách nhiệm

hướng dẫn thực thi nhiệm vụ. Nắm chắc và vận dụng tốt các phương pháp giảng

dạy đặc trưng của bộ môn, tích cực đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát

huy tính tích cực chủ động của học sinh trong học tập. Các quy chế, nền nếp hoạt

động chuyên môn được giáo viên thực hiện nghiêm túc. Giáo viên tích cực học tập

bồi dưỡng thường xuyên, đúc rút kinh nghiệm dạy học.

UBND tỉnh Kiên Giang ra Quyết định số 976/QD-UBND, quy định chức

năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Sở GD&ĐT tỉnh Kiên Giang.

Trong đó, tại Điều 1, mục a đã quy định rõ chức năng của Sở GD&ĐT tỉnh có

nhiệm vụ tham mưu, giúp UBND tỉnh thực hiện chức năng QLNN về GD&ĐT bao

gồm: Mục tiêu, chương trình, nội dung, GD&ĐT, …đảm bảo chất lượng GD&ĐT”

[46]

Các trường trong hệ thống GDPT tổ chức tốt dạy học 2 buổi/ngày theo chuẩn

kiến thức, kỹ năng của chương trình GDPT. Công tác phụ đạo học sinh yếu, kém,

bồi dưỡng học sinh khá, giỏi, tổ chức các hoạt động ngoài giờ lên lớp cho học sinh

được tăng cường.

Song, nhìn chung, phân cấp về quản lý chuyên môn còn yếu kém, đặc biệt

các yếu điểm như sau:

Thứ nhất, chất lượng GDPT nhất là THPT tại tỉnh Kiên Giang còn thấp so

với mặt bằng chung của cả nước, đặc biệt tỷ lệ học sinh theo học và tốt nghiệp thấp

so với tỷ lệ học sinh tốt nghiệp trung học cơ sở và tiểu học.

66

Tại bảng 2.2 quy mô giữa các cấp học chênh nhau nhiều. Bậc tiểu học có

6.374 (chiếm 62,63%), đế THCS có 2.774 (chiếm 27,26%), tuy nhiên cấp THPT chỉ

có 955 lớp (chiếm tỷ lệ nhỏ 9,38%), trong đó TTGDTX cả tỉnh chiếm 0,73%.

Thứ hai, tình trạng lưu ban, bỏ học ở các vùng dân tộc vẫn còn cao, tỉ lệ học

sinh lưu ban, bỏ học ở các vùng có đông học sinh dân tộc thường cao hơn tỷ lệ

chung của cả nước.

Hạn chế lớn nhất của phân cấp quản lý chuyên môn là chương trình GD còn

coi nhẹ thực hành, vận dụng kiến thức; phương pháp GD, kiểm tra, thi và đánh giá

lạc hậu, thiếu thực chất; thiếu gắn kết giữa đào tạo với nghiên cứu khoa học, sản

xuất, kinh doanh và nhu cầu của thị trường lao động; chưa chú trọng đúng mức việc

GD đạo đức, lối sống và kĩ năng làm việc. Soạn thảo chương trình trách nhiệm

thuộc về Sở GD&ĐT, tuy nhiên qua nhiều năm, chương trình chưa thay đổi, không

cập nhật, thiếu thực tế.

2.2.5. Phân cấp quản lý học sinh.

Bảng 2.9: Phân cấp quản lý học sinh

Mức độ thực hiện

Thứ Phân cấp quản lý học sinh Trung Stt Chƣa đạt Khá Tốt bậc bình

SL % SL % SL % SL %

1 Điều khiển, tổ chức học sinh nắm

vững hệ thống tri thức khoa học 4 phổ thông, cơ bản, hiện đại, phù 120 41.7 67 23.3 78 27.1 65 22.6 2.27 5 hợp với thực tiễn Việt Nam về tự

nhiên xã hội- nhân văn

2 Tổ chức đánh giá theo dõi, đánh

giá ý thức học tập của học sinh; 1 98 34.0 68 23.6 63 21.9 101 35.1 2.51 phân loại, xếp loại học sinh cuối 1

mỗi học kỳ, năm học, khoá học.

67

3 Xây dựng chương trình môn học

hình thành phát triển năng lực và 2 những phẩm chất trí tuệ, đặc biệt 108 37.5 58 20.1 82 28.5 82 28.5 2.42 2 là năng lực tư duy độc lập, sáng

tạo

4 Tổ chức, điều khiển học sinh hình

thành cơ sở thế giới quan khoa 3 học, những phẩm chất đạo đức nói 120 41.7 60 20.8 60 20.8 90 31.3 2.36 3 riêng và phát triển nhân cách nói

chung

48.2 TRUNG BÌNH 29.1 29.9 36.0 2.97

Phân cấp quản lý học sinh trong hệ thống GDPT tỉnh Kiên Giang đã đạt

được một số ưu điểm nhất định.

Nội dung thực hiện có hiệu quả nhất là “Tổ chức đánh giá theo dõi, đánh giá

ý thức học tập của học sinh; phân loại, xếp loại học sinh cuối mỗi học kỳ, năm học,

khoá học.” có ĐTB= 2.61 và “Xây dựng chương trình môn học hình thành phát

triển năng lực và những phẩm chất trí tuệ, đặc biệt là năng lực tư duy độc lập, sáng

tạo” có ĐTB=2,42. Trong đó, những nội dung về “Điều khiển, tổ chức học sinh nắm

vững hệ thống tri thức khoa học phổ thông, cơ bản, hiện đại, phù hợp với thực tiễn

Việt Nam về tự nhiên xã hội- nhân văn; Tổ chức, điều khiển học sinh hình thành cơ

sở thế giới quan khoa học, những phẩm chất đạo đức nói riêng và phát triển nhân

cách nói chung” thực hiện còn yếu kém

Phân cấp hiện nay về quản lý học sinh theo chiều dọc như sau: Chính Phủ,

Quốc Hội ra chỉ thị, Bộ GD&ĐT xây dựng văn bản. Cấp trung học cơ sở và cấp tiểu

học do Phòng GD&ĐT quản lý, còn cấp THPT, trường phổ thông có nhiều cấp học,

phổ thông dân tộc nội trú, TTGDTX...do Sở GD&ĐT quản lý. Tuy nhiên, quy định

trách nhiệm quản lý học sinh hiện nay còn rườm rà. Cụ thể:

Về đinh hướng nghề cho học sinh trung học cơ sở, THPT còn lúng túng: Sự

phối hợp giữa các trường phổ thông với các trung tâm để thực hiện kế hoạch dạy

68

nghề cho học sinh còn gặp khó khăn. Mặt khác, các trường phổ thông không đủ

giáo viên chuyên môn để dạy đủ 11 nghề mà Bộ GD&ĐT đã ban hành tài liệu học

tập. Các giáo viên bộ môn Vật lý, Kỹ thuật, Sinh học, Công nghệ thường được phân

công “kiêm” thêm việc dạy nghề, có trường chỉ dạy cho học sinh một nghề duy nhất

là tin học văn phòng. Giáo viên dạy “kiêm nhiệm” nên thường mang tính qua loa,

đại khái, chất lượng hạn chế.

Hiện tại số lượng trường THPT dân lập của tỉnh rất ít, điều này đồng nghĩa

với việc học “chạy đua” vào trường công lập. Tỷ lệ học sinh vào được trường công

chiếm tỷ lệ ít, những học sinh không thi được sẽ chuyển vào trung tâm giáo dục

thường xuyên, chất lượng dạy học và “tâm lý” cha mẹ cũng như học sinh vào trung

tâm giáo dục thường xuyên phần nhiều là có bằng, hầu hết học sinh không có động

lực học, học sinh học trung tâm giáo dục thường xuyên bỏ học chiếm chỉ số không

nhỏ.

Thêm nữa là: cách thức quản lý đối với học sinh hư còn chưa rõ trách nhiệm.

Với học sinh bị vi phạm đạo đức nội quy, tệ nạn xã hội thì giữa nhà trường và chính

quyền (công an) đùn đẩy trách nhiệm. Đối với học sinh vi phạm đến nay chưa có

cách để giáo dục học sinh … Điều này, phân cấp QLNN đối với GDPT tại tỉnh Kiên

Giang còn bấp cập, hạn chế, chưa phân định rõ chức trách quản lý cũng như chế tài

thực hiện.

2.3. NHẬN XÉT PHÂN CẤP QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC ĐỐI VỚI GIÁO DỤC

PHỔ THÔNG TẠI TỈNH KIÊN GIANG

2.3.1. Ƣu điểm

QLNN đối với GD nói chung và GDPT tại tỉnh Kiên Giang nói riêng trong

những năm qua đã đạt được những kết quả quan trọng mà trước hết là bước chuyển

trong tư duy, cách thức phân cấp QLNN đối với GDPT theo hướng quản lý chất

lượng với những bước đi cụ thể và phù hợp với yêu cầu thực tiễn. Chính sách phân

cấp QLNN đối với GDPT đã được thể hiện trên góc độ tạo lập khung thể chế, chính

sách đến tổ chức bộ máy quản lý, chương trình, nội dung GD. Các cơ quan nhà

nước bước đầu đã tạo lập khung thể chế phân cấp QLNN đối với GDPT và áp dụng

69

vào thực tiễn. Hàng loạt các biện pháp như đổi mới tuyển sinh THPT, tốt nghiệp

THPT thông qua kỳ thi THPT quốc gia.

Hệ thống chính sách và văn bản pháp luật về GDPT ngày càng đồng bộ, hoàn

thiện và được thực hiện thống nhất, nghiêm túc trong tỉnh.

Bộ máy tổ chức QLNN về GDPT và nguồn nhân lực dần được ổn định, hoàn

thiện, đáp ứng yêu cầu quản lý.

Sự quản lý trên các mặt đặc thù như nội dung GD, chương trình sách giáo

khoa, dạy tiếng dân tộc, quản lý hệ thống trường chuyên biệt,... dần đi vào nề nếp,

đem lại những chuyển biến tích cực cho chất lượng GDPT trong tỉnh.

Bên cạnh đó, việc phát triển, quản lý các nguồn lực vật chất cho GDPT

không ngừng được quan tâm, đầu tư, đặc biệt là công tác xã hội hóa nhằm chăm lo

ngày càng tốt hơn việc dạy và học của thầy, trò.

2.3.2. Hạn chế

Thể chế phân cấp cấp QLNN đối GDPT còn nhiều bất cập. Các văn bản

QLNN làm cơ sở để quản lý đối với GDPT vẫn chưa thực sự được đảm bảo. Các

quy định về trách nhiệm cũng như tính tự chủ, các quy định về cơ chế, trách nhiệm

xã hội của GDPT, phân cấp, nâng cao tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của GDPT

vẫn còn là những vấn đề lớn cần có những quy định cụ thể trong thời gian tới.

Bên cạnh đó, bộ máy phân cấp QLNN đối với GDPT còn phân tán, đồng

thời, còn có sự chồng lấn giữa chức năng QLNN và chức năng cung ứng dịch vụ

công. Thẩm quyền ra quyết định trong hệ thống GDPT cả nước cũng như tỉnh Kiên

Giang phân tán khá rộng và hệ quả là việc quản lý hệ thống rất mỏng manh. Sự

phân tán thẩm quyền này đã hạn chế nghiêm trọng năng lực tạo ra sự tiến bộ theo

một cách thức dựa trên sự điều phối chung.

Cũng có nhiều vấn đề đặt ra trong việc xây dựng và thực hiện chính sách ở

tầm hệ thống. Bộ GD&ĐT chịu trách nhiệm ban hành các quy định và văn bản pháp

lý cho hệ thống GDPT nói chung, nhưng các Bộ chủ quản cũng lặp lại vai trò này,

và có rất ít trao đổi thảo luận giữa các Bộ, các cơ quan QLNN và chính quyền cấp

70

tỉnh về những vấn đề vận hành ảnh hưởng đến hiệu quả của hệ thống. Quy trình bảo

đảm sự áp dụng và thực hiện các chính sách ở tầm hệ thống còn yếu.

2.3.3. Nguyên nhân

Chính sách phân cấp QLNN đối với GDPT còn chậm được đổi mới theo

hướng quản lý chất lượng. Trong suốt một thời gian dài, cơ chế phân cấp QLNN đối

với GDPT mang tính quản lý hành chính đơn thuần, tập trung vào yếu tố đầu vào

với kỳ vọng sẽ bảo đảm chất lượng GDPT. Việc cơ quan QLNN đối GDPT tập

trung nhiều vào nhiệm vụ quản lý hành chính, quản lý tác nghiệp cụ thể đã dẫn đến

không có đủ thời gian và nguồn lực cho việc xây dựng các định hướng chiến lược,

khung thể chế cần thiết cho GDPT vận động và phát triển theo định hướng chất

lượng.

Năng lực, trình độ quản lý GD chưa theo kịp với thực tiễn và nhu cầu phát

triển khi nền kinh tế đang chuyển từ kế hoạch hóa tập trung sang thị trường định

hướng xã hội chủ nghĩa. Sự mở rộng quy mô nhanh chóng của các cơ sở GDPT đã

dẫn đến các cơ quan nhà nước quản lý gặp khó khăn trong việc giám sát, quản lý

chất lượng. Chưa phối hợp tốt và sử dụng có hiệu quả nguồn lực của nhà nước và xã

hội; chậm đổi mới cả về tư duy và phương thức quản lý; chậm đề ra các định hướng

chiến lược và chính sách vĩ mô đúng đắn để xử lý mối tương quan lớn giữa quy mô,

chất lựợng và hiệu quả trong GD. Các văn bản pháp quy cho GDPT chưa được ban

hành kịp thời; lý luận phát triển GD trong giai đoạn mới chưa được quan tâm

nghiên cứu đúng mức để định hướng các hoạt động thực tiễn.

Trong những năm gần đây, nhà nước có chủ trương đổi mới về GD và GDPT

nhưng một số chủ trương chưa được nghiên cứu, chuẩn bị chu đáo trước khi áp

dụng, tổ chức thực hiện lại có nhiều thiếu sót. Đổi mới chương trình GD, phát triển

nhiều loại hình GD nhưng có nhiều thiếu sót trong việc quản lý chương trình, nội

dung và chất lượng; công tác thanh tra GD còn yếu, thiếu những biện pháp hữu hiệu

để kiểm tra, đánh giá chất lượng đào tạo, đặc biệt là đối với hình thức trường “mở”,

bán công, dân lập, tư thục và không tập trung; chậm phát hiện và thiếu nghiêm túc

71

trong xử lý và khắc phục các biểu hiện tiêu cực trong GDPT; năng lực của cán bộ

QLNN đối GDPT chưa được chú trọng nâng cao.

Cơ chế, phương thức phân cấp QLNN đối GDPT còn nhiều điểm chưa hợp

lý, chưa tiếp cận đầy đủ theo yêu cầu quản lý chất lượng, có tình trạng vừa ôm đồm

sự vụ, vừa buông lỏng chức năng QLNN; chưa thực hiện tốt sự quản lý thống nhất,

giữ vững kỷ cương trong công tác GD, đồng thời chưa phát huy quyền chủ động và

trách nhiệm nhà trường.

Cơ chế phân cấp QLNN đối GDPT tại tỉnh hiện nay vừa mang tính tập trung

vừa phân tán. Về phương diện tập trung thì Bộ GD&ĐT hiện nay bao quát nhiều

nội dung phân cấp QLNN liên quan đến toàn bộ quy trình GDPT nhưng đồng thời,

GDPT cũng chịu sự quản lý của các bộ chủ quản, địa phương với những cách thức,

phương thức quản lý khác nhau (phân tán). GDPT nước ta và tỉnh Kiên Giang hiện

nay đang được quản lý bởi Bộ GD&ĐT, các bộ, ngành và UBND cấp tỉnh, Sở

GD&ĐT, Phòng GD&ĐT, UBND cấp huyện/quận. Về thẩm quyền, Bộ GD&ĐT là

cơ quan duy nhất được ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý GD

cấp Bộ nhưng hiện nhiều Bộ, ngành khác cũng như UBND các tỉnh/thành phố/

quận/ huyện tự ý ban hành các văn bản chồng chéo. Ngoài ra, chưa có quy chế phối

hợp giữa Bộ GD&ĐT và các bộ, ngành, UBND tỉnh, thành phố/ huyện/quận về

quản lý các cơ sở GD này. Điều này dẫn đến hệ lụy là Bộ GD&ĐT khó khăn trong

quản lý chất lượng, đánh giá đầy đủ chất lượng GD, mức độ tuân thủ các quy định

pháp luật liên quan đến đào tạo và hiệu quả đầu tư từ ngân sách cho GDPT.

72

Tiểu kết chƣơng 2

Qua nội dung khảo sát, phân tích đã trình bày, có thể nói, trong thời gian qua,

GDPT trên địa bàn tỉnh Kiên Giang đã đạt dược những kết quả, những thành tựu

nhất định. Điều này đã góp phần tích cực vào việc nâng cao chất lượng toàn diện

cho các trường nói riêng và GDPT nói chung.

Kết quả nghiên cứu, phân tích thực tiễn phân cấp QLNN đối với GDPT trên

địa bàn tỉnh Kiên Giang trong những năm qua cho thấy, hoạt động QLNN đối với

GDPT đã có những chuyển biến tích cực, được thể hiện trên các phương diện về tổ

chức bộ máy, quản lý đội ngũ nhân sự, phân cấp quản lý tài chính, phân cấp quản lý

chuyên môn và học sinh… Tuy nhiên, dựa vào thực tiễn luận văn có thể thấy rõ

những hạn chế, yếu kém về thể chế quản lý, bộ máy quản lý còn cồng kênh, kém

hiệu quả, nguồn lực tài chính còn non yếu. Thực tế này đặt ra nhiều thách thức, đòi

hỏi việc phân cấp QLNN đối với GDPT cần phải được xem xét hoàn thiện trên cơ

sở đề ra những phương hướng và giải pháp phù hợp.

Kết quả khảo sát thực trạng và những vấn đề đặt ra đã chỉ ra trên đây là cơ sở

quan trọng để nghiên cứu đề xuất các giải pháp đảm bảo phân cấp QLNN đối với

GDPT trên địa bàn tỉnh Kiên Giang ở chương tiếp theo.

73

Chƣơng 3

PHƢƠNG HƢỚNG, GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM PHÂN CẤP

QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC ĐỐI VỚI GIÁO DỤC PHỔ THÔNG

TẠI TỈNH KIÊN GIANGĐ

3.1. PHƢƠNG HƢỚNG BẢO ĐẢM PHÂN CẤP QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC

ĐỐI VỚI GIÁO DỤC PHỔ THÔNG TẠI TỈNH KIÊN GIANG

3.1.1. Phân cấp quản lý nhà nƣớc đối với giáo dục phổ thông phù hợp điều

kiện cụ thể tại tỉnh Kiên Giang

Xuất phát từ vai trò của GD&ĐT đối với sự phát triển kinh tế- xã hội của đất

nước, nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI khẳng định cần “Đổi mới căn

bản, toàn diện nền GD Việt Nam theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa,

dân chủ hóa và hội nhập quốc tế, trong đó, đổi mới cơ chế quản lý GD, phát triển

đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý GD là khâu then chốt” và “GD&ĐT có sứ

mệnh nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, góp phần

quan trọng xây dựng đất nước, xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam”.

Việc đổi mới cơ chế quản lý GD được đặt ra ở các cấp học, bậc học trong đó,

QLNN với các trường THPT có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Bởi bậc đào tạo này

gắn liền với việc tạo lập cơ sở nền tảng cho nguồn nhân lực có trình độ cao phục vụ

yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội.

Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 (khóa XI) về đổi mới căn bản, toàn diện

GD&ĐT định hướng: “Xác định rõ trách nhiệm của các cơ quan QLNN về GD, đào

tạo và trách nhiệm quản lý theo ngành, lãnh thổ của các bộ, ngành, địa phương.

Phân định công tác QLNN với quản trị của cơ sở GD&ĐT. Đẩy mạnh phân cấp,

nâng cao trách nhiệm, tạo động lực và tính chủ động, sáng tạo của các cơ sở GD,

đào tạo”, “Chuẩn hóa các điều kiện bảo đảm chất lượng và quản lý quá trình đào

tạo; chú trọng quản lý chất lượng đầu ra. Xây dựng hệ thống kiểm định độc lập về

chất lượng GD, đào tạo”. Do vậy, phân cấp QLNN đối với GDPT cần đáp ứng mục

tiêu GDPT và cần phải phù hợp đặc điểm kinh tế, xã hội của tỉnh Kiên Giang. Trên

74

chính sách, chỉ đạo của Bộ GD&ĐT, UBND tỉnh cùng Sở GD&ĐT cần điều chỉnh,

phân định rõ chức năng quản lý cho phù hợp cấp học và bậc học.

3.1.2. Phân cấp đồng thời với việc xác định rõ trách nhiệm của các chủ thể

quản lý nhà nƣớc đối với giáo dục phổ thông tại tỉnh Kiên Giang

Để tạo lập khuôn khổ pháp lý cho phân cấp QLNN cần xác định rõ trách

nhiệm của các chủ thể QLNN đối với GDPT tại tỉnh Kiên Giang.

Thứ nhất, cần phải hoàn thiện thể chế QLNN về GDPT, xác lập đúng vai trò

của nhà nước đối với GDPT trong việc hoạch định chính sách, tạo lập khung thể

chế, giám sát, đánh giá sự phát triển GDPT, tạo lập môi trường cạnh tranh lành

mạnh cho sự phát triển của GDPT. Cần phải tạo lập thể chế để khẳng định nhà nước

là chủ thể tạo ra điều kiện phát triển, giám sát phát triển, kiến tạo môi trường cho

GDPT vận động và phát triển theo hướng chất lượng, hiệu quả.

Thứ hai, tạo lập thể chế về phân tầng GDPT trong đó xác định rõ nhiệm vụ

của Chính Phủ, Quốc Hội, Bộ GD&ĐT, Sở, Phòng GD&ĐT, Hiệu trưởng trường

phổ thông. Phân tầng GDPT là một yêu cầu cấp thiết để đáp ứng yêu cầu GDPT

chất lượng cao đồng thời đáp ứng nhu cầu học tập của cộng đồng xã hội, bảo đảm

mục tiêu phát triển GD.

3.1.3. Phân cấp quản lý nhà nƣớc đối với giáo dục phổ thông phục vụ thực

hiện mục tiêu của giáo dục phổ thông tại tỉnh Kiên Giang

Trong Luật GD đã quy định “mục tiêu của GDPT là giúp học sinh phát triển

toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản, phát triển

năng lực cá nhân, tính năng động và sáng tạo, hình thành nhân cách con người Việt

Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân; chuẩn bị cho học

sinh tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động, tham gia xây dựng và bảo vệ

Tổ quốc”. Do vậy, phân cấp QLNN về GDPT tỉnh Kiên Giang cần phân định và xác

định rõ trách nhiệm cùng thực hiện mục tiêu GDPT cho các cấp học.

75

3.2. GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM PHÂN CẤP QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC ĐỐI VỚI

GIÁO DỤC PHỔ THÔNG TẠI TỈNH KIÊN GIANG

3.2.1. Tiếp tục hoàn thiện thể chế quản lý nhà nƣớc đối với giáo dục phổ thông

nói chung và phân cấp đối với quản lý nhà nƣớc đối với giáo dục phổ

thông nói riêng

Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, nâng cao sức mạnh của nền kinh tế

và lao động, con đường duy nhất là phải nâng cao chất lượng nguồn nhân lực về

mọi mặt: sức khỏe, trình độ dân trí, tri thức, tay nghề, tác phong công nghiệp, tính

kỷ luật, chấp hành luật pháp. Muốn vậy, cần tổ chức thực hiện có hiệu quả Chiến

lược phát triển GD 2001- 2010, trong đó có GDPT. Đó là chiến lược nhằm mục tiêu

nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài của đất nước, phục vụ sự

nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Chưa khi nào đất nước cần nguồn nhân lực

cao như hiện nay. Bởi vậy, ngay từ bây giờ cần phải tập trung vào GDPT, tăng

nhanh bộ phận lao động có trình độ chuyên môn, kỹ thuật cao, nhất là những nhà

quản lý, các chuyên gia kinh tế, chuyên gia kỹ thuật và đội ngũ công nhân bậc cao,

có thể lực và phẩm chất tốt để đi ngay vào kinh tế tri thức. [8].

Để hoàn thiện thể chế QLNN đối với GDPT nói chung và phân cấp đối với

QLNN đối với GDPT nói riêng, vấn đề quan trọng đầu tiên trong hệ thống thể chế

là xây dựng được mục tiêu GDPT cụ thể và phù hợp với yêu cầu của thời đại. Việc

xây dựng thể chế cần đáp ứng mục tiêu của nền GDPT phải là:

Hoàn thiện cơ cấu hệ thống và mạng lưới cơ sở GD, đa dạng hóa hình thức tổ

chức dạy học. Phát triển GD về số lượng, từng bước nâng cao chất lượng, thực hiện

linh hoạt các chương trình GD phù hợp với điều kiện học tập của người học; gắn

GD với thực tiễn phát triển kinh tế, xã hội, đặc điểm văn hóa địa phương. Đáp ứng

nhu cầu chính đáng của nhân dân về một nền GDPT cho số đông, mở đường tiến

thân cho các thành viên trong xã hội, tạo nên sự bình đẳng xã hội về GD.

Hoàn thiện thể chế QLNN đối với GDPT nói chung và phân cấp đối với

QLNN đối với GDPT nói riêng tỉnh Kiên Giang nhằm định hướng cho sự phát triển

của hệ thống GDPT, bảo đảm những điều kiện cần thiết cho việc xây dựng, duy trì

76

và nâng cao chất lượng GDPT. Để bảo đảm chất lượng GDPT, ở tầm quốc gia cần

có chiến lược bảo đảm chất lượng GDPT, xác định rõ lộ trình hướng đến về chất

lượng GDPT ở tầm mức quốc gia, khu vực và quốc tế. Chiến lược bảo đảm chất

lượng GDPT cần phải có sự đồng bộ với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, chiến

lược phát triển nguồn nhân lực của tỉnh Kiên Giang và nước ta nhằm tạo ra phối

hợp hiệu quả trong quá trình thực hiện.

Xây dựng thể chế là một nội dung quan trọng trong công tác QLNN và phân

cấp QLNN. Đối với QLNN về chất lượng GDPT việc xây dựng và hoàn thiện hệ

thống thể chế là điều kiện tiên quyết để nâng cao hiệu quả QLNN. Từ thực trạng hệ

thống thể chế đã được phân tích ở chương 2 của luận văn, có thể khẳng định các văn

bản QLNN đối với GDPT tại tỉnh Kiên Giang còn thiếu và chưa đồng bộ, chưa thực

sự trở thành công cụ để phân cấp Nhà nước quản lý hiệu quả.

Để hoàn thiện thể chế QLNN đối với GDPT nói chung và phân cấp đối với

QLNN đối với GDPT nói riêng tỉnh Kiên Giang cần:

Thứ nhất, rà soát hệ thống thể chế phân cấp QLNN đối với GDPT tỉnh Kiên

Giang

Cần rà soát lại hệ thống văn bản quy phạm pháp luật đối với GDPT tại tỉnh

Kiên Giang, khắc phục sự chồng chéo, trùng lắp giữa các văn bản quy phạm pháp

luật. Không kể Nghị định hướng dẫn, những loại văn bản chi phối hoạt động của

các cơ sở GDPT, bao gồm: Luật GD; Điều lệ chung; Quy chế tổ chức hoạt động

chung; Điều lệ riêng và Quy chế hoạt động của từng cơ sở GDPT, Điều lệ trường

tiểu học, trung học cơ sở, THPT. Trên thực tế để tạo lập khung thể chế cho sự vận

hành và phát triển của hệ thống GDPT chỉ cần Luật GD; Quy chế tổ chức và hoạt

động của các cơ sở GDPT; Điều lệ của từng trường trong hệ thống GDPT.

UBND tỉnh cần rà soát lại tất cả các văn bản đã quy định về GDPT trong đó

tập trung vào các văn bản, quyết định như văn bản số 486/UBND-NCPC (V/v

hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức của Phòng GD&ĐT thuộc

UBND huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh Kiên Giang); Quyết định Ban hành chức

năng, nhiệm vụ, quyền hạnh của các đơn vị giúp Giám đốc thực hiện chức năng

77

QLNN thuộc Sở GD&ĐT tỉnh kiên Giang, Số 487/QD-SGĐT, UBND tỉnh Kiên

Giang ra Quyết định số 976/QD-UBND, Quyết định về quy định chức năng, nhiệm

vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Sở GD&ĐT tỉnh Kiên Giang.

Thứ hai, nâng cao chất lượng hoạt động hoạch định, ban hành và thực thi

chính sách, kế hoạch GDPT của tỉnh.

Vai trò của QLNN đối với từng lĩnh vực thể hiện rõ trong hoạt động hoạch

định, ban hành và thực thi chính sách. Với GDPT tỉnh Kiên Giang cũng vậy. Chính

vì thế, tăng cường vai trò của nhà nước đối với GDPT tỉnh Kiên Giang chính là

nâng cao chất lượng của quy trình chính sách, từ hoạch định, ban hành đến thực thi

chính sách. Theo đó:

Về hoạch định chính sách: Cần đảm bảo việc hoạch định chính sách là kết

quả của một quá trình thu thập thông tin đầy đủ, chính xác, kịp thời, phản ánh đúng

yêu cầu từ xã hội của vấn đề chính sách. Xây dựng cơ sở thông tin dữ liệu về

GDPT, nhất là cơ sở dữ liệu về phát triển để làm cơ sở hoạch định và tổ chức triển

khai chính sách GDPT.

Về xây dựng chính sách: quy trình xây dựng chính sách hiện nay cần được

thực hiện một cách nghiêm túc, nhất là đối với khâu đánh giá, chuẩn bị cơ sở thông

tin, dữ liệu phục vụ quá trình xem xét, đánh giá. Việc lấy ý kiến rộng rãi và tập hợp

phản hồi thông tin về dự thảo chính sách cần được chú trọng để góp phần hoàn thiện

chính sách. Kỹ năng xây dựng chính sách của một số cơ quan, cá nhân trực tiếp

tham mưu chưa thực sự tốt cũng là nguyên nhân dẫn đến những hạn chế. Nhiều văn

bản góp ý chưa thể hiện đúng tầm của văn bản tham mưu chính sách.

Về thực thi chính sách: Đảm bảo tính thống nhất trong thực thi nhưng cũng

cần có sự linh hoạt, chủ động trong việc áp dụng tại từng vùng miền, địa phương

xuất phát từ những đặc thù của khu vực, của từng huyện trong tỉnh. Điều này hướng

tới mục tiêu cuối cùng là tính hiệu quả trong thực thi chính sách. Vai trò của nhà

nước thể hiện sâu sắc trong khâu thực thi. Cần đặc biệt chú ý nâng cao năng lực

thực thi chính sách, trực tiếp nhất là năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức quản lý

GD. Năng lực cần được nhìn nhận trên cả 3 khía cạnh: kiến thức, kỹ năng và thái

78

độ, tức là đội ngũ cán bộ, công chức quản lý GD tại các Sở, phòng GD phải có hiểu

biết, nhận thức về quản lý GD vùng dân tộc thiểu số và những vấn đề liên quan;

phải có kỹ năng quản lý HCNN vững vàng, nhuần nhuyễn; phải có thái độ tích cực,

chủ động. Chính vì thế, đào tạo, bồi dưỡng để nâng cao năng lực của đội ngũ quản

lý GD phải được coi là một trong những giải pháp căn bản.

3.2.2. Nâng cao năng lực quản lý nhà nƣớc đối với giáo dục phổ thông tại tỉnh

Kiên Giang

Thực hiện Chỉ thị số 40-CT/TW ngày 15 tháng 6 năm 2004 của Ban Bí thư,

Quyết định số 09/2005/QĐ-TTg ngày 11 tháng 01 năm 2005 của Thủ tướng Chính

phủ về xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý GD giai

đoạn 2005 - 2010.

Nhóm giải pháp này nhằm huy động, thu hút và nâng cao hiệu quả quản lý

các nguồn lực cho phát triển GDPT, bao gồm cả nguồn lực từ ngân sách nhà nước

và nguồn lực xã hội hóa. Đổi mới cơ chế quản lý tài chính công phục vụ GD theo

nguyên tắc đúng đối tượng, có hiệu quả là phù hợp với cải cách tài chính công hiện

nay; tăng cường xã hội hóa cho GDPT cũng là biện pháp phù hợp với chủ trương

chung hiện nay trong cải cách dịch vụ công ở nước ta.

Chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức quyết định chất lượng, hiệu quả phân

cấp QLNN đối với các GDPT nói chung và tỉnh Kiên Giang nói riêng. Để tạo bước

chuyển mới trong phân cấp QLNN đối với GDPT tại tỉnh Kiên Giang, đội ngũ cán

bộ, công chức cần được nâng cao một cách xứng tầm. Việc nâng cao chất lượng đội

ngũ cán bộ, công chức có tác động trực tiếp đến chất lượng thể chế và hiệu lực thực

hiện thể chế phân cấp QLNN đối với GDPT trên địa bàn tỉnh Kiên Giang.

QLNN đối với các trường tại tỉnh Kiên Giang gắn liền với việc xây dựng các

chính sách, các tiêu chuẩn, thẩm định, đánh giá, công bố các kết quả kiểm định và

xây dựng các chính sách liên quan đến công tác kiểm định. Chính vì vậy, việc nâng

cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác QLNN là vấn đề có tính

quan trọng quyết định đối với hiệu quả QLNN. Chất lượng cán bộ, công chức ở đây

bao gồm cả kiến thức, kỹ năng và thái độ. Trong đó vấn đề đầu tiên cần được chú ý

79

đến việc nâng cao trình độ trong hoạt động lập pháp, lập quy, trình độ pháp lý, chất

lượng luật pháp, tính khả thi của pháp luật có liên quan đến công tác QLNN về

kiểm định chất lượng đào tạo tại tỉnh Kiên Giang.

Kiện toàn bộ máy QLNN về GDPT giúp củng cố và hoàn thiện khung bộ

máy quản lý, bởi đây là chủ thể trực tiếp triển khai các chính sách, pháp luật vào

thực tiễn đời sống, nhất là tại các địa phương. Điều chỉnh lại nội dung của Quyết

định Ban hành chức năng, nhiệm vụ, quyền hạnh của các đơn vị giúp Giám đốc

thực hiện chức năng QLNN thuộc Sở GD&ĐT tỉnh kiên Giang, Số 487/QD-SGĐT,

ngày 22 tháng 4 năm 2013, trong đó xây dựng thang bậc tiêu chí cho từng cán bộ,

công chức trong mỗi đơn vị.

Trong đó đặc biệt nhấn mạnh đến tính chính thức của đầu mối phân cấp quản

lý về GDPT tại các cấp quản lý để sự chỉ đạo quản lý từ trung ương đến địa phương

cũng như sự phối hợp giữa các địa phương trong vùng, giữa các bên liên quan được

nhịp nhàng, thông suốt, thống nhất.

Để đạt được các điều đó có nhiều yếu tố quyết định như: tư duy pháp lý

GD&ĐT mới, đường lối chính sách của Đảng, trình độ năng lực của các cán bộ luật

pháp và cơ quan pháp luật, cơ quan quản lý GD, sự phối hợp giữa các cơ quan nhà

nước, dân chủ hóa hoạt động lập pháp, hành pháp… Trong đó, cần tập trung giải

quyết một số vấn đề sau:

Về việc kiện toàn, phân cấp QLNN đối với GDPT. Vụ GDPT - Bộ GD&ĐT

được thành lập là bước đi cụ thể trong công tác tổ chức bộ máy nhà nước về QLNN

đối với GDPT. Chức năng, nhiệm vụ đã rất rõ ràng, cơ cấu tổ chức cũng được kiện

toàn.

Một là, thống nhất quyền hạn về QLNN đối với GDPT cho Vụ GDPT, tránh

quyền hạn phân rải rác cho các vụ khác.

Hai là, nâng cao năng lực quản lý vĩ mô của cán bộ, công chức vụ GDPT -

Bộ GD&ĐT;

Ba là, tăng cường mối quan hệ, sự phối hợp, vai trò của Vụ GDPT đối với

các Vụ, đơn vị khác trong Bộ GD&ĐT, đối với các cơ quan khác của Nhà nước

80

Các Sở GD&ĐT tiếp tục tham mưu với cấp ủy, chính quyền địa phương về

phát triển GD&ĐT đối với GDPT; thực hiện nghiêm túc phân cấp quản lý về GD

dân tộc theo các quy định hiện hành,…

Phân cấp cho địa phương, tăng thẩm quyền cho địa phương chủ động trong

quản lý. Việc phân cấp cần được tiến hành mạnh mẽ, song phải trên cơ sở tuân thủ

nguyên tắc tập trung, dân chủ, tăng cường sự quản lý tập trung của nhà nước ở khâu

trọng yếu là quản lý vĩ mô và hoạch định chính sách. Việc phân cấp mạnh mẽ tạo cơ

hội cho chính quyền địa phương được chủ động, sáng tạo trong quản lý, điều hành,

khai thác được nguồn lực sẵn có của địa phương, tìm ra phương thức quản lý phù

hợp với địa phương, với đặc điểm học sinh dân tộc và tình hình GD dân tộc của địa

phương, qua đó nâng cao hiệu lực, hiệu quả QLNN. Cần phân định rõ thẩm quyền

của từng cấp, cụ thể về trách nhiệm của mỗi cấp, mỗi cơ quan quản lý GD và cá

nhân từng cán bộ quản lý:

Tăng cường sự phối hợp trong hoạt động của Sở GD&ĐT, sự phối hợp giữa

các Phòng GD, các đầu mối phụ trách GDPT để hợp tác, tương trợ trong việc thực

hiện những chính sách, chương trình chung cũng như trao đổi sáng kiến, kinh

nghiệm trong quản lý (như tổ chức các buổi tổng kết, giao lưu chia sẻ kinh nghiệm

trong công tác GD).

Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác QLNN:

Thứ nhất, nâng cao trình độ trong hoạt động lập pháp, lập quy, nâng cao

trình độ pháp lý trong quản lý GD&ĐT bằng pháp luật và tăng cường pháp chế xã

hội chủ nghĩa đòi hỏi phải xây dựng được một hệ thống văn bản pháp luật về GDPT

hoàn chỉnh về số lượng và đảm bảo về chất lượng.

Thứ hai, cần phải xây dựng một đội ngũ cán bộ pháp lý có tri thức tổng hợp

về GD, kinh tế, pháp luật và chính trị, có trình độ soạn thảo văn bản và có năng lực

thực hiện pháp luật trong điều kiện cơ chế mới. Các thuật ngữ dùng trong các văn

bản pháp luật về phân cấp QLNN đối với GDPT cần rõ ràng, ngắn gọn, chính xác

và dễ hiểu, không dùng những thuật ngữ khó nhận thức, đa nghĩa dễ dẫn tới việc có

thể thực hiện không được nhất quán và dễ tạo ra sơ hở, bị xuyên tạc, lợi dụng.

81

Ngoài ra với mục tiêu thực hiện hiệu quả công tác kiểm định, đánh giá chất lượng

GDPT hướng đến một nền GD chất lượng và chuyên nghiệp, ngành GD cần chú

trọng đào tạo các chuyên gia, kiểm định viên không chỉ giỏi chuyên môn mà còn là

vị “quan tòa” liêm chính, là chuyên gia tư vấn, sẵn sàng giúp các cơ sở GD giải

quyết khó khăn trong quá trình áp dụng các tiêu chuẩn đánh giá chất lượng.

Thứ ba, để nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác

QLNN, cần có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức QLNN về

chất lượng GDPT. Hàng năm, Bộ GD&ĐT chỉ đạo Sở cùng các trường cần dành

một khoản ngân sách để khuyến khích các cán bộ và lưu học sinh học tập lĩnh vực

kiểm định, đánh giá, nâng cao chất lượng và hiệu quả trường học. Việc này sẽ giúp

phát triển nguồn nhân lực cần thiết nhằm thực hiện các sáng kiến và nỗ lực cải tiến

chất lượng cho GDPT của tỉnh nhà trong tương lai. Việc đào tạo có thể được thực

hiện bằng nhiều hình thức khác nhau (đào tạo dài hạn, ngắn hạn; chương trình đào

tạo có bằng cấp hoặc không có bằng cấp...).

Thứ tư, cùng với việc nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ, công chức

QLNN về chất lượng GDPT thì vấn đề đạo đức công vụ cũng cần được chú ý. Đội

ngũ cán bộ, công chức phải thực sự công tâm, khách quan trong quá trình quản lý,

đánh giá, có tinh thần trách nhiệm với công việc của mình.

Thứ năm, hiện nay, đội ngũ công chức QLNN về GDPT nói chung và tỉnh

Kiên Giang nói riêng, chưa thật đảm bảo tính “vừa hồng, vừa chuyên”. Do vậy, phải

tiến hành bồi dưỡng, đào tạo nâng cao nghiệp vụ quản lý chuyên ngành, giúp cho họ

am hiểu sâu về công tác quản lý mang tính đặc thù này và là điều kiện thiết yếu bảo

đảm tăng cường hiệu quả QLNN. Trong hoạt động chuyên ngành, hiệu quả QLNN

được thể hiện bằng thước đo là hiệu quả thực tiễn và sự hài lòng của cộng đồng xã

hội với chất lượng GDPT tại tỉnh Kiên Giang.

Thứ sáu, bảo đảm nguồn lực khai thác và sử dụng tốt nguồn nhân lực tại chỗ.

Xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý và giáo viên đủ về số lượng, hợp lý về cơ cấu.

Thực hiện tốt những chính sách, chế độ hỗ trợ, khuyến khích thích hợp đối với đội

ngũ giáo viên, cán bộ quản lý ngành GD công tác tại vùng dân tộc như: chính sách

82

tuyển dụng, phụ cấp, luân chuyển, khen thưởng, chế độ nhà ở, tiếp cận thông tin và

các điều kiện vật chất, tinh thần khác… để họ ổn định cuộc sống, gắn bó lâu dài với

sự nghiệp GD.

3.2.3 Bảo đảm nguồn lực vật chất phục vụ quản lý nhà nƣớc đối với giáo dục

phổ thông tại tỉnh Kiên Giang

Tài chính, cơ sở vật chất, trang thiết bị có vai trò vô cùng quan trọng đối với

hoạt động GD, đào tạo, là yếu tố cần thiết để nâng cao chất lượng GDPT. UBND

tỉnh Kiên Giang cần cây dựng chương trình mục tiêu quốc gia về GDPT (bao gồm

cả xây dựng cơ bản) để tập trung đầu tư cho các cơ sở GDPT trọng điểm, hỗ trợ đầu

tư cho các trường thuộc hệ thống GDPT của các huyện khó khăn khó khăn, có chính

sách ưu đãi, hỗ trợ, khuyến khích các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài đầu tư

vào hệ thống các cơ sở GDPT và bảo đảm quyền sở hữu theo pháp luật và các

quyền lợi của nhà đầu tư.

Do vậy, để huy động, quản lý và sử dụng các nguồn lực để nâng cao hiệu lực

phân cấp QLNN đối với GDPT cần:

Thứ nhất, đa dạng và tăng cường nguồn lực đầu tư, đổi mới chính sách, cơ

chế tài chính cho GDPT.

UBND tỉnh Kiên Giang cần huy động mọi nguồn lực đầu tư cho QLNN đối

với GDPT từ các thành phần kinh tế, từ Nhà nước, doanh nghiệp, người học và từ

cộng đồng. Tăng tỷ trọng đầu tư từ xã hội cho đào tạo GDPT, trong đó Nhà nước

giữ vai trò chủ đạo.

GDPT chủ động thực hiện đa dạng hóa nguồn thu từ các hợp đồng với các

doanh nghiệp, cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ; thu từ các hoạt động dịch vụ, sản

xuất, kinh doanh phù hợp với mục tiêu GD.

Thứ hai, tăng cường đầu tư máy móc, trang thiết bị cho hoạt động GD. Nhà

nước tăng cường đầu tư máy móc thiết bị giá trị lớn, đào tạo nguồn nhân lực chất

lượng cao. Tập trung đầu tư xây dựng những trường đào tạo chất lượng cao đáp ứng

nhu cầu xây dựng cho các bậc học nền tảng.

83

Thứ ba, thu hút sự tham gia đông đảo của các doanh nghiệp thuộc mọi thành

phần kinh tế, các tổ chức, cá nhân tham gia đào tạo chất lượng cao.

Nhà nước cần tạo cơ chế, chính sách cho sự tham gia của các tổ chức xă hội

nghề nghiệp mà trước hết là phát huy được vai trò của chình quyền địa phương, phụ

huynh học sinh, mạnh thường quân,... Các tổ chức này sẽ tham gia vào quá trình

kiểm định chất lượng với các nội dung công việc cụ thể như:

- Tư vấn tự đánh giá cho cơ sở GD nào đăng ký thực hiện tự đánh giá;

- Thực hiện đánh giá ngoài đối với cơ sở nào đã tiến hành tự đánh giá;

- Báo cáo với Bộ GD&ĐT về kết quả kiểm định chất lượng của các cơ sở

GD nào đã hoàn thành kiểm định để Bộ cấp chứng nhận kết quả kiểm định cho cơ

sở đó.

Thứ tư, hoàn thiện thể chế về quyền tự chủ, trách nhiệm xã hội của các cơ sở

GD.

Trên cơ sở chủ trương, đường lối đổi mới GDPT và luật pháp hiện hành của

Đảng và Chính phủ, cần phải quy định cụ thể trao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm

cho các cơ sở GD. Các cơ sở GD được quyền tự chủ và chịu trách nhiệm về các

hoạt động nghiệp vụ và dịch vụ sau: quy chế tuyển sinh, tuyển dụng; chương trình

và khối lượng kiến thức thông qua môn học; tổ chức tuyển sinh, quá trình giảng dạy

của đội ngũ giáo viên và học tập của học sinh; đổi mới phương pháp giảng dạy, học

tập và định kỳ tiến hành kiểm định, kiểm tra, thanh tra, đánh giá kết quả học tập; tổ

chức viết, biên soạn sách giáo khoa, tài liệu tham khảo và phát hành theo luật định

của Nhà nước; …

Thứ năm, hoàn thiện chính sách phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ quản

lý trường tiểu học, trung học cơ sở, THPT, trung tâm GD thường xuyên.

Điều chỉnh về cơ chế chính sách đối với đội ngũ cán bộ, giáo viên hay công

chức trong công văn số 486/UBND-NCPC (V/v hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ,

quyền hạn và tổ chức của Phòng GD&ĐT thuộc UBND huyện, thị xã, thành phố

thuộc tỉnh Kiên Giang và ban hành Quyết định Số 487/QD-SGĐT quy định chức

năng, nhiệm vụ, quyền hạng của các đơn vị giúp Giám đốc thực hiện chức năng

84

QLNN thuộc Sở GD&ĐT tỉnh kiên Giang. Đưa ra chính sách đối với giáo viên, cán

bộ làm hợp đồng thời gian dài nhưng ở chế độ ngắn hạn. Tỉnh nên có chế độ đối với

giáo viên độ tuổi cao (quá tuổi thi viên chức) được hợp đồng dài hạn. Bên cạnh đó

việc thống nhất phối hợp về tuyển dụng giáo viên cán bộ giảng dạy cần phân bổ cho

Phòng GD&ĐT chịu trách nhiệm xây dựng kế hoạch tuyển dụng, tiêu chí cũng như

có trách nhiệm ra quyết định tuyển dụng. Các chế độ khác cũng do Sở, Phòng quyết

định. Như hiện trạng, QLNN đối với GDPT cấp tỉnh dược phân cấp tốt (Sở

GD&ĐT được UBND tỉnh phân cấp thực hiện QLNN đối với bậc THPT trong tỉnh),

trong khi cấp huyện, Phòng GD&ĐT chỉ là đơn vị tham mưu giúp UBND cấp

huyện QLNN đối với bậc tiểu học và trung học cơ sở, dễ gây chồng chéo, lung túng

thực hiện cũng như rườm rà, ảnh hưởng đến chất lượng công chức ngành GD của

tỉnh.

Trước hết, cần tiến hành khảo sát, đánh giá thực trạng đội ngũ giáo viên về

tất cả các mặt: số lượng, chất lượng, bố trí sử dụng và sự chuyển tiếp giữa các thế

hệ theo tiêu chí, tiêu chuẩn định mức lao động. Trên cơ sở đó phải dự báo quy mô

đào tạo của trường thông qua việc phân tích số lượng, chất lượng học sinh phổ

thông và nguyện vọng của họ đối với các trường đào tạo... Những định hướng phát

triển nguồn nhân lực và chính sách của nhà trường đối với GDPT cũng như đối với

nhân lực cho các trường trong hệ thống GDPT là một căn cứ quan trọng đối với

việc quy hoạch đội ngũ giáo viên của nhà trường. Cách thức quy hoạch cần giải

quyết các vấn đề sau: Về quy mô nhà trường và số lượng học sinh, để tính toán số

lượng giáo viên cần có các thông số như: Số học sinh/giáo viên (tỷ lệ này không cố

định cho môn học khác nhau, cấp học khác nhau...). Về cơ cấu: cơ cấu về độ tuổi,

về trình độ...

Các biện pháp cụ thể quy hoạch đội ngũ giáo viên gồm:

Một là, rà soát, thẩm định văn bằng, chửng chỉ nhằm khẳng định các chuẩn

mực đã đạt được làm căn cứ cho việc xây dựng tháp cơ cấu.

Hai là, xây dựng tháp cơ cấu độ tuổi, cơ cấu trình độ, chuyên môn, giới

tính... tối ưu cho từng giai đoạn phát triển của nhà trường và của từng đơn vị.

85

Ba là, ấn định việc xem xét, điều chỉnh tháp quy hoạch hàng năm và lên kế

hoạch thực hiện quy hoạch đó.

Bốn là, phân công trách nhiệm cụ thể cho các bộ phận liên quan thực hiện

cho kế hoạch đã đề ra thông qua các biện pháp cụ thể, phù hợp.

Chất lượng đội ngũ giáo viên có vai trò quyết định trong việc đảm bảo và

nâng cao chất lượng GD nói chung và đối với GDPT nói riêng. Do vậy, việc phát

triển đội ngũ giáo viên được coi là giải phát đột phá trong việc nâng cao chất lượng

đào tạo nguồn nhân lực. Để phát triển đội ngũ giáo viên đủ về số lượng, đồng bộ về

cơ cấu và có chất lượng, bảo đảm sự kết nối một cách nhuần nhuyễn giữa các thế

hệ, trên cơ sở phân tích những vấn đề lý luận cơ bản về chất lượng giáo viên, thực

trạng đội ngũ giáo viên hiện nay, cần thực hiện tốt một số chính sách sau:

Một là, đổi mới công tác xây dựng quy hoạch, kế hoạch và sửa đổi, bổ sung

hoàn thiện các quy định về tuyển dụng giáo viên; xây dựng chính sách thu hút cán

bộ khoa học có trình độ chuyên môn cao về trường công tác.

Hai là, đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng, tự đào tạo và đào tạo lại đối

với đội ngũ giáo viên nhằm nâng cao chất lượng của giáo viên cả về năng lực

chuyên môn lẫn kiến thức, nghiệp vụ sư phạm.

Ba là, đổi mới công tác quản lý, sử dụng, đánh giá, sàng lọc đội ngũ giáo

viên theo hướng phân công, phân cấp về trách nhiệm, quyền hạn và giao quyền tự

chủ, tự chịu trách nhiệm cho các cơ sở GDPT.

Bốn là, bổ sung, hoàn thiện cơ chế, chính sách đãi ngộ đối với đội ngũ giáo

viên tương xứng với thành tích và năng lực cá nhân; điều chỉnh chính sách lương,

phụ cấp ưu đãi, cơ chế đãi ngộ phù hợp để cải thiện đời sống vật chất và tinh thần,

tạo động lực và điều kiện cho đội ngũ giáo viên nâng cao năng lực, trình độ.

Đối với cán bộ quản lý phải được đào tạo bài bản, chú trọng năng lực thực tế

và các tiêu chuẩn cần thiết khác. Thực tế cho thấy, hầu hết cán bộ quản lý GD các

trường tiểu học, trung học cơ sở, THPT, trung tâm giáo dục thường xuyên tại Kiên

Giang chưa được đào tạo một cách bài bản, đúng chuyên ngành “quản lý” mà

thường được đào tạo ở các chuyên ngành khác hoặc là giáo viên chuyển sang làm

86

quản lý, chính vì thế nhìn chung năng lực chuyên môn nghiệp vụ của họ chưa đáp

ứng được với yêu cầu công việc “quản trị trường học”. Thực chất đây cũng là một

nguyên nhân dẫn đến chất lượng GDPT của tỉnh còn hạn chế, tại chương 2 thực

trạng cho thấy tỷ lệ học sinh tốt nghiệp với tỷ lệ đầu vào chênh lệch cao. Bên cạnh

việc tăng cường nâng cao năng lực và chất lượng của giáo viên thì cũng cần chú

trọng nâng cao năng lực và chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý. Cần có kế hoạch rà

soát lại đội ngũ cán bộ quản lý để bổ sung, thay thế những cán bộ không đáp ứng

được yêu cầu công việc. Cần có kế hoạch đào tạo và đào tạo lại một cách bài bản

cho đội ngũ này, mặt khác phải chú trọng năng lực thực tế của họ để bố trí công

việc phù hợp.

Thứ sáu, đổi mới chính sách tài chính đối với GDPT. Định mức phân bổ

ngân sách cho các trường phổ thông về cơ bản vẫn mang nặng tính bao cấp, bình

quân và chủ yếu dựa vào các yếu tố “đầu vào” nên chưa gắn kết giữa kết quả sử

dụng nguồn lực ngân sách nhà nước với kết quả, hiệu quả thực hiện nhiệm vụ. Để

tháo gỡ và phát huy những kết quả đã đạt được, thời gian tới cần lưu tâm tới các vấn

đề, cụ thể như:

Nghiên túc thực hiện Nghị định Số: 16/2015/NĐ-CP ngày ngày 14 tháng 2

năm 2015 của Chính phủ Quy định cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập về

việc khoán chi hoạt động thường xuyên theo số biên chế được cấp có thẩm quyền

giao và định mức phân bổ ngân sách nhà nước hiện hành để các trường tự chủ về

biên chế và thực hiện nhiệm vụ.

Thứ bảy, nguồn ngoài ngân sách. Huy động nguồn tài chính ngoài ngân sách

cho hoạt động GDPT thông qua các nguồn như: tài trợ nước ngoài, các dự án đào

tạo bồi dưỡng, trang bị thiết bị trường học,… từ các tổ chức trong và ngoài nước;

Vận động và tranh thủ các cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp, nhà hảo tâm có

tâm huyết với GD dân tộc hỗ trợ xây dựng cơ sở vật chất, cung cấp thiết bị dạy học,

hỗ trợ học bổng cho học sinh, nâng cao năng lực cho giáo viên… Đặc biệt vận động

các doanh nhân thành đạt trên địa bàn địa phương đóng góp phát triển quỹ Khuyến

học của địa phương hoặc bằng những hành động thiết thực hỗ trợ phát triển GD cho

87

học sinh dân tộc thiểu số. Tổ chức đội ngũ thanh niên tình nguyện, trợ giúp GD dân

tộc thiểu số một cách thiết thực và hữu hiệu trong chiến dịch thanh niên tình

nguyện, mùa hè xanh; tận dụng sự tham gia dạy học của các thầy giáo mặc áo lính

là các chiến sĩ bộ đội biên phòng tại các địa bàn biên giới, hải đảo,… Điều này sẽ

giúp huy động được nguồn lực tổng hợp và mạnh mẽ cho GD, tăng cơ hội học tập

và nâng cao chất lượng cuộc sống cho học sinh phổ thông.

Có các biện pháp khuyến khích, hỗ trợ đối với các cá nhân, tổ chức tài trợ

cho GD dân tộc thiểu số: giải quyết nhanh gọn các thủ tục hành chính, cử cán bộ,

nhân viên thuộc Sở GD&ĐT hay Uỷ ban nhân dân các cấp (đại diện cho Nhà nước)

phối hợp cùng thực hiện các dự án nhằm đạt kết quả tốt nhất, thuận lợi nhất;

UBND tỉnh Kiên Giang có văn bản hướng dẫn nhiệm vụ trọng tâm năm học

tới các trường phổ thông và trong hệ thống GDPT trên địa bàn tỉnh. Ban hành kịp

thời các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn các trường về thực hiện các hoạt động thu chi

tài chính, tuyển dụng nhân sự.

3.2.4. Tăng cƣờng kiểm tra, đánh giá, xử lý vi phạm, chế tài nghiêm khắc liên

quan đến hoạt động phân cấp quản lý nhà nƣớc đối với giáo dục phổ

thông

Bộ GD&ĐT thiết lập, triển khai hoạt động hệ thống kiểm định chất lượng

đối với GDPT tại tỉnh Kiên Giang bao gồm: xây dựng và ban hành tiêu chí, tiêu

chuẩn kiểm định chất lượng về GDPT; quy trình kiểm định chất lượng GDPT; đào

tạo, bồi dưỡng đội ngũ kiểm định viên chất lượng GDPT.

Trên cơ sở đó, Sở GD&ĐT chỉ đạo các Phòng GD&ĐT tiến hành hoạt động

tự đánh giá căn cứ vào hệ thống tiêu chí, tiêu chuẩn đánh giá chất lượng để chỉ ra

các mặt mạnh, mặt yếu để từ đó xây dựng kế hoạch và các biện pháp thực hiện

nhằm đáp ứng mục tiêu đã đề ra.

Giữ gìn kỷ cương, đảm bảo nguyên tắc trong QLNN đối với GDPT tại tỉnh

Kiên Giang; biến quá trình thanh tra, kiểm tra thành quá trình tự thanh tra, kiểm tra

trong các cơ sở GDPT; đảm bảo công bằng và góp phần nâng cao chất lượng và

88

hiệu quả GDPT tại tỉnh Kiên Giang. Để tổ chức thanh tra, kiểm tra, giám sát và thực

hiện kiểm định chất lượng GDPT cần:

Thứ nhất, việc tăng cường và đảm bảo quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của

các trường phổ thông chỉ thực sự mang lại hiệu quả khi phải tiến hành cùng với việc

tăng cường QLNN của Sở GD&ĐT cũng như của các ngành chủ quản khác. Tổ

chức hệ thống thanh tra, kiểm tra GDPT cần tập trung thanh tra, kiểm tra các nội

dung quản lý chủ yếu trong việc chấp hành các quy định về phân cấp QLNN đối với

GDPT. Hoạt động thanh tra, kiểm tra cần có sự đổi mới về hình thức cũng như

phương pháp tiến hành, đảm bảo chất lượng nhưng về nguyên tắc không nên thay

thế hoạt động thanh tra, kiểm tra của các cơ sở GD, cần tiến hành hướng dẫn công

tác thanh tra, kiểm tra của các cơ sở như vai trò một nhà tư vấn. Mặt khác, cũng cần

chú trọng các hoạt động thanh tra, kiểm tra cấp bộ.

Thứ hai, trong giai đoạn hiện nay đối với tỉnh Kiên Giang, công tác thanh tra,

kiểm tra các nội dung phân cấp QLNN đối với GDPT cần tập trung vào công tác

tuyển sinh; chế độ tài chính, học phí, cấp phát văn bằng chứng chỉ và đảm bảo chất

lượng đào tạo, đảm bảo quyền lợi người học, tiến độ thực hiện cũng như chất lượng

đào tạo,...

Thứ ba, các hoạt động thanh tra, kiểm tra cần đổi mới theo hướng là “nhà tư

vấn” quá trình đào tạo cho các cơ sở GD. Để công tác thanh tra, kiểm tra phát huy

được ý nghĩa quan trọng của nó, các đơn vị thanh tra, kiểm tra cần có kế hoạch

thanh tra, kiểm tra tập trung vào các vấn đề trọng điểm như việc đảm bảo sự phù

hợp nội dung đào tạo với mục tiêu, sứ mệnh của ngành và cơ sở giáo dục.

Thứ tư, cần chú trọng xây dựng đội ngũ làm công tác thanh tra, kiểm tra có

đủ năng lực, kinh nghiệm, dám nghĩ, dám làm, không ngại va chạm và có phẩm

chất đạo đức qua việc đào tạo, bồi dưỡng về chuyên môn nghiệp vụ, trang bị và cập

nhật những kiến thức, kỹ năng, học hỏi kinh nghiệm của các nước có nền GD tiên

tiến để đội ngũ làm công tác thanh tra, kiểm tra hoàn thành tốt công tác của mình.

Thứ năm, hoàn thiện thể chế về đánh giá chất lượng GDPT.

89

Nhà nước cần hoàn thiện bộ tiêu chuẩn, tiêu chí đánh giá chất lượng GDPT

theo yêu cầu và định hướng chất lượng trong thời gian 5 năm một lần. Điều này

đảm bảo cho chúng ta có một bộ tiêu chuẩn đánh giá thống nhất, chuẩn hóa và dễ

dàng được các cơ sở GD chấp nhận. Điều này phù hợp với vai trò của cơ quan Nhà

nước - đề ra các văn bản quy phạm để quản lý. Việc hoàn thiện các tiêu chí đánh giá

cần gắn với những mục tiêu chính là:

(i) Các trường sử dụng bộ tiêu chí để tự đánh giá từng lĩnh vực hoặc toàn

diện hoạt động bảo đảm chất lượng đào tạo của một cấp học, một khoá đào tạo hoặc

của toàn trường;

(ii) Các trường sử dụng bộ tiêu chí để xây dựng kế hoạch chiến lược cho việc

bảo đảm chất lượng đào tạo của trường mình;

(iii) Các tổ chức kiểm định sử dụng tiêu chí để đánh giá về chất lượng của

một cơ sở GDPT;

Để cụ thể hóa các mục tiêu trên, các tiêu chí đánh giá chất lượng GDPT cần

được hoàn thiện. Những tiêu chí cần bổ sung như: các hoạt động dịch vụ GD phục

vụ xã hội, hoạt động chuyển giao công nghệ, sự tham gia vào hoạt động GD - đào

tạo và khoa học công nghệ trong khu vực và trên thế giới, quan hệ với người sử

dụng lao động, vai trò, vị trí đối với địa phương nơi trường đóng, sự tuân thủ các

quy định của nhà nước.

Trong từng tiêu chuẩn các tiêu chí cần phải được làm rõ như:

Đối với công tác tổ chức và quản lý chúng ta có thể bổ sung các tiêu chí về

tầm nhìn, năng lực của lãnh đạo nhà trường trong việc phát huy được quyền tự chủ

và tính tự chịu trách nhiệm của nhà trường; trách nhiệm xã hội của nhà trường đối

với sản phẩm đào tạo của mình.

Đối với tiêu chuẩn về người học cần đặc biệt chú ý đến các tiêu chí về khả

năng tự học, tự nghiên cứu, khả năng đáp ứng nhu cầu học tập suốt đời của người

học bởi thế kỷ XXI người mù chữ không phải là người không biết đọc, biết viết mà

là người không biết học, biết quên và tiếp tục học; vấn đề kỹ năng sống, kỹ năng

làm việc...;

90

Tiêu chuẩn về sự gắn kết giữa nhà trường và doanh nghiệp, nhà trường với

xã hội. Trong giai đoạn trước mắt, để góp phần tăng cường phân cấp QLNN nhằm

nâng cao chất lượng GDPT, bảo đảm tính khả thi trong thực hiện đánh giá chất

lượng GDPT ở nước ta và tỉnh Kiên Giang, cần đặc biệt chú ý đến các trọng số cho

các tiêu chí trong các lĩnh vực đánh giá: công tác tổ chức và quản lý; tỷ lệ học sinh

trên số cán bộ giảng dạy; tỷ lệ cán bộ giảng dạy có học hàm, học vị; năng lực của

học sinh; chương trình học và các tài liệu chuyên môn; phương pháp giảng dạy và

học tập; nghiên cứu khoa học; hệ thống cơ sở hạ tầng; kinh phí hàng năm; các hoạt

động hợp tác quốc tế phục vụ đào tạo và nghiên cứu khoa học.

91

Tiểu kết chƣơng 3

Kiên Giang có vị trí chiến lược quan trọng, nằm trong vùng vịnh Thái Lan,

gần với các nước thuộc khu vực Đông Nam Á. Kiên Giang có nhiều điều kiện thuận

lợi trong việc mở rộng giao lưu kinh tế trong khu vực, đồng thời đóng vai trò cầu

nối các tỉnh miền Tây Nam Bộ với bên ngoài.

Do vậy, phân cấp QLNN về GDPT tỉnh Kiên Giang một mặt hoạch định các

chính sách phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của tỉnh, mặt khác đảm bảo cho

hoạt động GD&ĐT nguồn nhân lực của tỉnh đi đúng định hướng, chiến lược.

Để nâng cao chất lượng và hiệu quả phân cấp QLNN về GDPT tỉnh Kiên

Giang, cần phải đảm bảo đúng định hướng. Trên cơ sở định hướng, hạn chế thực

trạng, tác giả đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả phân cấp QLNN về

GDPT trên địa bàn tỉnh Kiên Giang hiện nay như sau: (1) Tiếp tục hoàn thiện thể

chế QLNN đối với GDPT nói chung và phân cấp đối với QLNN đối với GDPT nói

riêng; (2) Nâng cao năng lực QLNN đối với GDPT tại tỉnh Kiên Giang; (3) Bảo

đảm nguồn lực vật chất phục vụ quản QLNN đối với GDPT tại tỉnh Kiên Giang và

một số giải pháp khác.

92

KẾT LUẬN

Kiên Giang có tiềm năng phát triển kinh tế với bờ biển dài, nhiều sông núi và

hải đảo, nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, vị trí và điều kiện tự nhiên thuận

lợi đã tạo cho tỉnh nhiều tiềm năng và lợi thế kinh tế phong phú, đa dạng như: kinh

tế nông - lâm nghiệp, kinh tế biển, công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng, công

nghiệp chế biến nông - thủy sản và du lịch; nhiều danh lam thắng cảnh và di tích

lịch sử, văn hóa tiêu biểu. Ngoài ra, với vị thế là cửa ngõ ở phía Tây Nam thông ra

Vịnh Thái Lan, Kiên Giang còn có tiềm năng lớn về kinh tế cửa khẩu, hàng hải và

mậu dịch quốc tế. Do vậy, phân cấp QLNN về GDPT có hiệu quả là tiền đề để xây

dựng nguồn nhân lực chất lượng cao nhằm khai thác các tiềm năng, thế mạnh của

tỉnh có ý nghĩa chiến lược trong giai đoạn hiện nay. Nghiên cứu đề tài “Phân cấp

QLNN đối với GDPT tại tỉnh Kiên Giang”, luận văn thu được kết quả như sau:

Trên cơ sở nghiên cứu hệ thống lý luận về các khái niệm chính của đề tài,

phân tích yếu tố cốt lõi về nội dung phân cấp QLNN đối với GDPT.

Đề tài cố gắng đánh giá đúng và khách quan thực trạng phân cấp QLNN về

GDPT trên địa bàn tỉnh Kiên Giang. Thực trạng cho thấy bên cạnh những ưu điểm,

phân cấp QLNN về GDPT còn những hạn chế, yếu kém nổi bật nhất về bộ máy

quản lý, đội ngũ quản lý, thể chế cũng như việc nguồn lực làm cho hoạt động

QLNN về GDPT còn hạn chế…. điều này đã đặt ra những vấn đề về phân cấp

QLNN về GDPT trên địa bàn tỉnh Kiên Giang.

Từ thực trạng – ưu điểm, yếu kém và những bất cập về phân cấp QLNN về

GDPT tại tỉnh Kiên Giang hiện nay, đòi hỏi phải quán triệt toàn diện các quan điểm

và triển khai thực hiện đồng bộ các giải pháp nhằm huy động tối đa, khai thác và sử

dụng tối ưu các nguồn lực để nâng cao chất lượng GDPT. Đây vừa là vấn đề mang

tính thời sự cấp thiết, vừa là nhiệm vụ cơ bản mang tính lâu dài. Vì vậy, cần có sự

đồng thuận, thống nhất nhận thức và hành động của Nhà nước, các cấp, các ngành,

chính quyền và từ bản thân mỗi trường phổ thông.

Trên cơ sở lý luận, hạn chế thực trạng đòi hỏi cần có giải pháp hữu hiệu để

nâng cao hiệu quả phân cấp QLNN về GDPT trên địa bàn tỉnh Kiên Giang. Từ nhận

93

thức trên, luận văn đưa ra một số giải pháp cơ bản gồm: (1) Tiếp tục hoàn thiện thể

chế QLNN đối với GDPT nói chung và phân cấp đối với QLNN đối với GDPT nói

riêng; (2) Nâng cao năng lực QLNN đối với GDPT tại tỉnh Kiên Giang; (3) Bảo

đảm nguồn lực vật chất phục vụ quản QLNN đối với GDPT tại tỉnh Kiên Giang và

một số giải pháp khác.

Để các giải pháp nâng cao hiệu quả phân cấp QLNN về GDPT trên địa bàn

tỉnh Kiên Giang phát huy hiệu quả, tác giả xin đưa ra một số kiến nghị như sau:

Đối với Quốc hội: Quốc hội cần nghiên cứu, xây dựng Luật Chất lượng GD

trong đó có nội dung, tiêu chí về chất lượng GDPT nhằm tạo sự đồng thuận chung

trong nhận thức, triển khai về chất lượng GDPT.

Đối với Chính phủ: Chính phủ ban hành tăng cường sự phối hợp liên ngành,

liên vùng trong xây dựng nội dung, chương trình GDPT tỉnh Kiên Giang và trong cả

nước, ở các ngành, các địa phương để GDPT thực sự đáp ứng nhu cầu phát triển

kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ.

Đối với Bộ GD&ĐT: Bộ GD&ĐT cần có những nghiên cứu, ban hành các

văn bản mang tính điều chỉnh, xử phạt các hành vi vi phạm các quy định về đánh

giá chất lượng GDPT, về nội dung, chương trình đã được luật định để góp phần

nâng cao phân cấp QLNN về đối với GDPT trên địa bàn tỉnh Kiên Giang, và cả

nước nói chung.

Đối với UBND tỉnh Kiên Giang: UBND tỉnh cần nghiên cứu tăng cường đầu

tư phát triển mạng lưới trường phổ thông, tăng cường năng lực các trường phổ

thông về cơ sở vật chất, trang thiết bị, phương tiện dạy học, ưu tiên và công khai

quỹ đất cho các cơ sở GDPT để nâng cao chất lượng đào tạo GDPT của tỉnh và cần

thực hiện giải pháp mang tính đột phá trong việc đầu tư cho từng bậc học.

UBND tỉnh có kế hoạch tập trung đầu tư hơn nữa cho các cơ sở GDPT cả về

đội ngũ giáo viên và kinh phí hoạt động thường xuyên nhằm đảm bảo quy mô và

chất lượng GDPT.

Tăng nguồn kinh phí chi thường xuyên cho GDPT, kinh phí đầu tư xây dựng

cơ sở vật chất, mua sắm máy móc thiết bị cho hoạt động GDPT.

94

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ GD&ĐT (2002), Ngành GD - đào tạo thực hiện Nghị quyết trung ương 2 khóa VIII

và Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX, NXB GD, Hà Nội.

2. Bộ trưởng Bộ GD&ĐT (2007), Quyết định số 33/2007/QĐ- BGDĐT ngày 20 tháng 6

năm 2007 ban hành Quy chế văn bằng, chứng chỉ của hệ thống GD quốc dân.

3. Bộ GD&ĐT (2007), Quyết định số 60/2007/QĐ-BGDĐT ngày 16 tháng 10 năm 2007

ban hành Quy chế đánh giá kết quả rèn luyện của học sinh, học sinh các cơ sở GD đại

học và trường trung cấp chuyên nghiệp hệ chính quy.

4. Bộ trưởng Bộ GD&ĐT (2009), Thông tư số 09/2009/TT- BGDĐT ngày 07 tháng 5

năm 2009 của Bộ trưởng Bộ GD&ĐT ban hành Quy chế thực hiện công khai đối với

cơ sở GD của hệ thống GD quốc dân.

5. Bộ GD&ĐT (2011), Chiến lược phát triển GD đào tạo đến năm 2020.

6. Bộ GD&ĐT (2013), Hội nghị tổng kết 3 năm thực hiện Chỉ thị 296/CT-TTg của Thủ

tướng Chính phủ và chương trình hành động của Bộ GD&ĐT.

7. Bộ GD&ĐT phối hợp với Tổ chức Quốc tế Pháp (2013), “Vai trò điều tiết của Nhà

nước trong việc đảm bảo chất lượng và công bằng GD”, Hội thảo quốc gia, Hà Nội.

8. Chiến lược phát triển GD Việt Nam 2001- 2010 (2002), NXB GD, Hà Nội.

9. Chính phủ (2013), Nghị định số 42/2013/NĐ-CP ngày 09 tháng 5 năm 2013 về tổ chức

và hoạt động thanh tra GD.

10. Chính phủ (2015), Nghị định 16/2015/NĐ-CP ngày 14 tháng 02 năm 2015 Quy định cơ

chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập.

11. Chính phủ (2006), Nghị định 43/2006/NĐ-CP quy định quyền tự chủ, tự chịu trách

nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với đơn vị sự

nghiệp công lập.

95

12. Chính phủ (2013), Nghị định số 42/2013/NĐ-CP ngày 09 tháng 5 năm 2013 về tổ chức

và hoạt động thanh tra GD.

13. Nguyễn Duy Dương (2011) “QLNN về GDPT Bắc Giang trong giai đoạn hiện nay”,

Luận văn Thạc sỹ Quản lý Hành chính công, Học viện Hành chính Quốc gia.

14. Đảng Cộng Sản Việt Nam (1997), Văn kiện hội nghị lần thứ 2 Ban chấp hành Trung

ương khoá VIII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

15. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Đại hội đại biểu Toàn quốc lần thứ IX ,

Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

16. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb

Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

17. Trần Khánh Đức (2000), Công tác kiểm định các điều kiện bảo đảm chất lượng các

trường chuyên nghiệp và khả năng ứng dụng ở Việt Nam, Tạp chí Đào tạo nghề.

18. Trần Khánh Đức (2004), Quản lý và kiểm định chất lượng đào tạo nhân lực theo ISO

& TQM, NXB GD.

19. Trần Ngọc Giao (2012), “Phát triển đội ngũ lãnh đạo và QLNN về GD các cấp, NXB

Đại học sư phạm Hà Nội.

20. Vũ Ngọc Hải (2012) “Đổi mới QLNN về hệ thống GD quốc dân trong hội nhập quốc tế

và xu thế toàn cầu hóa”, NXB Chính trị. Hà Nội

21. Vũ Ngọc Hải, Đặng Bá Lãm, Trần Khánh Đức (2007), GD Việt Nam đổi mới và phát

triển hiện đại hóa, Nxb GD, Hà Nội.

22. Học viện hành chính (2008), Giáo trình Quản lý học đại cương, NXB Khoa học và Kỹ

thuật, Hà Nội.

23. Nguyễn Tiến Hùng (2012) “Đổi mới quản lý nhà trường phổ thông Việt Nam theo

hướng định hướng hiệu quả trong bối cảnh phân cấp quản lý GD”, đề tài khoa học cấp

Bộ, Viện Khoa học GD Việt Nam.

96

24. Đặng Thị Thanh Huyền (2001), GDPT với phát triển chất lượng nguồn nhân lực-

Những bài học thực tiễn từ Nhật Bản, NXB Khoa học xã hội.

25. Đặng Bá Lãm (chủ biên) (2005), QLNN về GD: Lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị

Quốc gia, Hà Nội.

26. Nguyễn Thu Linh (2002), QLNN về văn hóa, GD, y tế, NXB Đại học quốc gia, Hà Nội.

27. Nguyễn Thị Mỹ Lộc (2012) Quản lý GD- một số vấn đề lý luận và thực tiễn, NXB Đại

học Quốc gia, Hà Nội.

28. Hoàng Phê (chủ biên) (2009), Từ điển Tiếng Việt, NXB Đà Nẵng.

29. Nguyễn Thị Minh Phương (2008), Về phân hóa trong GDPT Việt Nam giai đoạn sau

năm 2015 (Thuộc chương trình nghiên cứu khoa học cấp bộ giai đoạn 2006-2008

“Phát triển GD&ĐT Việt Nam trong quá hội nhập quốc tế”).

30. Quốc hội (2005), Luật GD, Số 38/2005/QH11 ngày 14 tháng 6 năm 2005.

31. Quốc hội (1946), Hiến pháp Nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Hà Nội

32. Quốc hội (1959), Hiến pháp Nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Hà Nội

33. Quốc hội (1992), Hiến pháp Nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Hà Nội

34. Quốc hội (2013), Hiến pháp Nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Hà Nội

35. Quốc hội (1959), Hiến pháp Nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Hà Nội

36. Quốc Hội (2015), Luật tổ chức chính quyền địa phương, ngày 19 tháng 06 năm 2015,

Hà Nội.

37. Võ Kim Sơn (2004), Phân cấp Quản lý nhà nước – Lý luận và thực tiễn, NXB Chính trị

Quốc gia, Hà Nội

38. Lâm Quang Thiệp (2005), Giải quyết bài toán quan hệ giữa số lượng và chất lượng của

GD đại học nước ta, Tạp chí GD số 109/2005, tr.6-7,23.

97

39. Thủ tướng Chính phủ (2001), Quyết định số 201/2001/QĐ-TTg ngày 28 tháng 12 năm

2001 phê duyệt “Chiến lược phát triển GD 2001-2010”.

40. Thủ tướng Chính phủ, Quyết định 711/QĐ-TTg ngày 13 tháng 6 năm 2012 của Thủ

tướng Chính phủ năm 2012 phê duyệt "Chiến lược phát triển GD 2011-2020".

41. Nguyễn Thị Thu (2011) “QLNN về phát triển GD&ĐT vùng dân tộc thiểu số miền núi

phía Bắc nước ta” Luận văn thạc sĩ Quản lý Hành chính công (Học viện Hành chính

Quốc gia).

42. Đinh Thị Minh Tuyết (2006), Đổi mới quản lý GD đào tạo ở nước ta hiện nay, Tạp chí

QLNN- số 130 (11/2006).

43. Phạm Hồng Thái, Nguyễn Đăng Dung, Nguyễn Ngọc Chí (đồng chủ biên), Phân cấp

QLNN, NXB Công an nhân dân, trang 10.

44. UBND tỉnh Kiên Giang (2012), V/v hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ

chức của Phòng GD&ĐT thuộc UBND huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh Kiên Giang,

Số486/UBND-NCPC, ngày 02/05/2012, Kiên Giang.

45. UBND tỉnh Kiên Giang (2013), Quyết định Ba hành chức năng, nhiệm vụ, quyền hạnh

của các đơn vị giúp Giám đốc thực hiện chức năng QLNN thuộc Sở GD&ĐT tỉnh kiên

Giang, Số 486/QD-SGĐT, ngày 22 tháng 4 năm 2013, Kiên Giang.

46. UBND tỉnh Kiên Giang (2012), Quyết định số 976/QD-UBND, Quyết định về quy định

chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Sở GD&ĐT tỉnh Kiên Giang,

số 976/QD-UBND, ngày 08 tháng 05 năm 2012, Kiên Giang.

47. Đặng Ứng Vận (2006), Phát triển GD Việt Nam trong cơ chế thị trường, Báo cáo tổng

hợp kết quả đề tài NCKH do Văn phòng Hội đồng quốc gia GD đại học chủ trì.

48. Viện Nghiên cứu Phát triển GD (2002), Chiến lược phát triển GD: kinh nghiệm của

các quốc gia, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

49. Viện Từ điển học và Bách khoa toàn thư Việt Nam, (2006), Từ điển học, Viện hàn lâm

khoa học xã hội Việt Nam.

98

50. Hồ Văn Vinh (2004), Giáo trình khoa học quản lý, Nxb Chính trị quốc gia Hồ Chí

Minh - Hà Nội.

PHIẾU TRƯNG CẦU Ý KIẾN

(Dành cho cán bộ quản lý và giáo viên)

Kính thưa quý Thầy/Cô!

Để nghiên cứu nâng cao hiệu quả phân cấp QLNN đối với GDPT trên địa bàn

tỉnh Kiên Giang, xin Thầy/Cô vui lòng cho biết ý kiến của mình về một số nội dung

dưới đây bằng cách đánh dấu “X” vào ô lựa chọn hoặc hoặc ghi phần trả lời theo

yêu cầu của câu hỏi. Ý kiến của Thầy/Cô chỉ phục vụ cho mục đích nghiên cứu

khoa học. Rất mong nhận được sự hợp tác của quý Thầy/Cô.

Trân trọng cảm ơn!

I. NỘI DUNG KHẢO SÁT

Câu 1. Đánh giá về phân cấp tổ chức bộ máy trong QLNN đối với GDPT?

Các mức độ

Không TT Nội dung Ít hài Hài Rất hài hài lòng lòng lòng lòng

Xây dựng cơ chế, chính sách cho hoạt 1 động GDPT

Quy định rõ vị trí, chức năng, nhiệm vụ,

quyền hạn, thẩm quyền của cơ quan 2 chuyên môn QLNN về GD ở trung ương

và địa phương

Quy định trách nhiệm cũng như phân định

3 nhiệm vụ các cơ quan ngang Bộ trong

QLNN đối với GDPT

1

Quy định về tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn

của cơ sở GDPT, hoạt động khoa học và

4 công nghệ, hoạt động hợp tác quốc tế, bảo

đảm chất lượng GD, người học, tài chính,

chế độ làm việc với giáo viên

Quy định nhiệm vụ và quyền hạn; tổ chức

và quản lý các trường phổ thông; hoạt 5 động GDPT; giáo viên và người học; tài

chính và tài sản

Xây dựng và ban hành Thông tư hướng

dẫn thực hiện quyền tự chủ, tự chịu trách

6 nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ

máy, biên chế đối với đơn vị sự

nghiệp công lập GD&ĐT

Xác định và phân công các chức năng,

7 nhiệm vụ và quyền hạn của từng cấp

(trung ương, tỉnh, trường)

Cơ quan QLNN trung ương quy định

8 khung cơ cấu tổ chức bộ máy cơ sở GD

theo từng loại hình, hạng trường

Cơ sở GD phải xây dựng và thiết kế cơ

cấu tổ chức bộ máy của mình trình cơ

quan QLNN theo thẩm quyền phê duyệt 9 nhằm đảm bảo cơ cấu tổ chức theo cơ cấu

quy định đồng thời gắn với loại hình hoạt

động của cơ sở GD.

Ban hành và tổ chức thực hiện văn bản 10 quy phạm pháp luật về cán bộ, công chức

2

Câu 2. Đánh giá phân cấp quản lý nhân sự trong QLNN đối với GDPT tỉnh

Kiên Giang

Các mức độ

Nội dung TT Chưa Trung Khá Tốt đạt bình

Ban hành và tổ chức thực hiện văn bản 1 quy phạm pháp luật về cán bộ, công chức

Xây dựng kế hoạch, quy hoạch cán bộ,

2 công chức; Quy định chức danh và cơ cấu

cán bộ

Quy định ngạch, chức danh, mã số công

chức; mô tả, quy định vị trí việc làm và cơ

3 cấu công chức để xác định số lượng biên

chế đối với công chức trong các cơ quan,

bộ, ban, ngành theo hàng dọc.

Quy định rõ định mức biên chế, tiêu chuẩn

4 chuyên môn, nghiệp vụ theo vị trí việc

làm trong cơ quan QLNN về GD

Lãnh đạo các trường thực hiện việc tuyển

dụng nhân sự theo yêu cầu công việc của 5 đơn vị mình gắn với tiêu chuẩn chuyên

môn, nghiệp vụ được quy định

3

Câu 3. Đánh giá phân cấp quản lý về tài chính trong QLNN đối với GDPT?

Các mức độ

TT Nội dung Chưa Trung Khá Tốt đạt bình

Xây dựng và quy định cơ chế tự chủ của đơn

1 vị sự nghiệp công lập, trong đó có hệ thống

GDPT

Nhà nước quy định cơ chế quản lý tài chính

trong hoạt động GD&ĐT về học phí, kinh phí 2 đóng góp, cơ chế, chính sách để thực hiện

công tác xã hội hóa GD.

Giao cơ chế tự chủ tài chính đối với ngân sách

3 cấp cho hoạt động của cơ quan QLNN về GD

địa phương.

Giao quyền tự chủ về tài chính được cấp và

4 nguồn thu khác theo quy định cho cơ sở GD

trong hoạt động chuyên môn.

Câu 4. Đánh giá phân cấp quản lý về chuyên môn trong QLNN đối với GDPT?

Các mức độ

TT Nội dung Chưa Trung Khá Tốt đạt bình

Bộ GD& ĐT xây dựng quy định về phạm vi, 1 mục tiêu, nội dung, chương trình GDPT

Quy định vị trí, môn học trong kế hoạch dạy 2 học

4

Xác định rõ mục đích yêu cầu của môn học

3 (yêu cầu về tri thức, kỹ năng kỹ xảo, thái độ

hành vi)

Bộ GD7ĐT ban hành nội dung môn học (các

4 phần, các chương, các bài), Sở GD&ĐT xây

dựng các hoạt động phù hợp với địa phương

Câu 5. Đánh giá phân cấp quản lý học sinh trong QLNN đối với GDPT tỉnh

Kiên Giang?

Các mức độ

TT Nội dung Chưa Trung Khá Tốt đạt bình

Điều khiển, tổ chức học sinh nắm vững hệ

thống tri thức khoa học phổ thông, cơ bản, 1 hiện đại, phù hợp với thực tiễn Việt Nam về tự

nhiên xã hội- nhân văn

Tổ chức đánh giá theo dõi, đánh giá ý thức

2 học tập của học sinh; phân loại, xếp loại học

sinh cuối mỗi học kỳ, năm học, khoá học.

Xây dựng chương trình môn học hình thành

3 phát triển năng lực và những phẩm chất trí tuệ,

đặc biệt là năng lực tư duy độc lập, sáng tạo

Tổ chức, điều khiển học sinh hình thành cơ sở

thế giới quan khoa học, những phẩm chất đạo 4 đức nói riêng và phát triển nhân cách nói

chung

5

II. THÔNG TIN CÁ NHÂN

Thầy/Cô vui lòng cho biết một số thông tin dưới đây:

1. Đơn vị công tác: ..............................................................................................

2. Giới tính: Nam Nữ

3. Thầy/Cô là: Ban Giám Hiệu Tổ trưởng Giáo viên

4. Thâm niên: Dưới 5 năm Từ 5 - 10 năm Trên 10 năm

5. Trình độ: Đại học Thạc sĩ Trên thạc sĩ

Xin chân thành cảm ơn các Thầy/Cô!

Chúc các Thầy/Cô mạnh khỏe, thành đạt!

6