BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ ………….………… …….……
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
TRẦN THÚY QUYÊN
PHÂN CẤP QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI GIÁO DỤC PHỔ THÔNG TẠI TỈNH KIÊN GIANG
LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG
TP.HỒ CHÍ MINH - NĂM 2018
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ ………….………… …….……
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
TRẦN THÚY QUYÊN
PHÂN CẤP QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI GIÁO DỤC PHỔ THÔNG TẠI TỈNH KIÊN GIANG
LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG
Chuyên ngành: Quản Lý công
Mã số: 60 34 04 03
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS LƯƠNG THANH CƯỜNG
TP.HỒ CHÍ MINH - NĂM 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan, Luận văn Thạc sĩ Quản lý công với đề tài “Phân cấp quản
lý nhà nước đối với giáo dục phổ thông tại tỉnh Kiên Giang” là do chính tôi nghiên
cứu và viết ra.
Nội dung của Luận văn dựa trên quan điểm cá nhân của tác giả, trên cơ sở
nghiên cứu lý luận, tổng hợp thực tiễn dưới sự hướng dẫn khoa học của thầy.
Tôi xin cam đoan rằng số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này là
trung thực và không trùng lặp với các đề tài khác. Tôi cũng xin cam đoan rằng mọi
sự gi p đ cho việc thực hiện luận văn này đã được cảm ơn và các thông tin trích
dẫn trong luận văn đã được chỉ rõ nguồn gốc. Tác giả xin chịu trách nhiệm về công
trình nghiên cứu khoa học của mình.
Kiên Giang, ngày tháng năm 2018
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành Luận văn Thạc sĩ Quản lý công với đề tài “Phân cấp quản lý
nhà nước đối với giáo dục phổ thông tại tỉnh Kiên Giang”, tác giả đã nhận được sự
động viên, gi p đ , hướng dẫn nhiệt tình của quý thầy, cô, đồng nghiệp và các bạn.
Tác giả xin bày tỏ lời cảm ơn sâu sắc tới PGS.TS Lương Thanh Cường,
người trực tiếp hướng dẫn, gi p đ về mặt khoa học – đã chỉ bảo tận tình, đầy trách
nhiệm để Luận văn được hoàn thành một cách tốt nhất.
Đồng thời, tác giả xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Ban Giám đốc Học
viện Hành chính, Khoa Sau Đại học, cùng quý thầy, cô đã tham gia quản lý, giảng
dạy và gi p đ tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu.
Bên cạnh đó, để có những số liệu, thông tin chính xác trong Luận văn, tác giả
xin chân thành cảm ơn: Ủy ban nhân dân tỉnh Kiên Giang; lãnh đạo, giáo viên các
trường Tiểu học, trung học cơ sở, THPT, trung tâm giáo dục thường xuyên trên địa
bàn tỉnh Kiên Giang; gia đình, đồng nghiệp đã động viên, cổ vũ, khích lệ và gi p đ
tôi trong suốt thời gian qua.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng trong suốt quá trình thực hiện đề tài, song chắc
chắn còn có nhiều mặt hạn chế, thiếu sót. Tác giả rất mong nhận góp ý và sự chỉ dẫn
của quý thầy, cô và các bạn đồng nghiệp để Luận văn được hoàn chỉnh hơn.
Kiên Giang, ngày tháng năm 2018
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Bảng chữ viết tắt
Mục lục ................................................................................................................ Trang
MỞ ĐẦU .................................................................................................................. 01
Chƣơng 1: LÝ LUẬN VỀ PHÂN CẤP QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC ĐỐI VỚI
GIÁO DỤC PHỔ THÔNG ................................................................. 12
1.1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ PHÂN CẤP QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC ............ 12
1.1.1. Khái niệm phân cấp quản lý nhà nước ................................................... 12
1.1.2. Nguyên tắc phân cấp quản lý nhà nước .................................................. 17
1.1.3. Ý nghĩa của phân cấp quản lý nhà nước................................................. 20
1.2. PHÂN CẤP QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC ĐỐI VỚI GIÁO DỤC PHỔ
THÔNG ........................................................................................................... 21
1.2.1. Giáo dục phổ thông và quản lý nhà nước đối với giáo dục phổ thông .. 21
1.2.2. Phân cấp quản lý nhà nước đối với giáo dục phổ thông ........................ 25
1.3. PHÂN CẤP QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC ĐỐI VỚI GIÁO DỤC PHỔ
THÔNG Ở MỘT SỐ ĐỊA PHƢƠNG VÀ GIÁ TRỊ THAM KHẢO
CHO KIÊN GIANG ....................................................................................... 35
1.3.1. Kinh nghiệm ở thành phố Hồ Chí Minh ................................................ 35
1.3.2. Kinh nghiệm ở tỉnh Hải Phòng .............................................................. 36
1.3.3 Giá trị tham khảo cho tỉnh Kiên Giang ................................................. 37
Tiểu kết chƣơng 1 .................................................................................................... 39
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG PHÂN CẤP QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC ĐỐI
VỚI GIÁO DỤC PHỔ THÔNG TẠI TỈNH KIÊN GIANG ........... 40
2.1 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ GIÁO DỤC PHỔ THÔNG VÀ QUẢN
LÝ NHÀ NƢỚC ĐỐI VỚI GIÁO DỤC PHỔ THÔNG TẠI TỈNH
KIÊN GIANG ................................................................................................. 40
2.1.1. Tình hình kinh tế- xã hội tỉnh Kiên Giang ............................................ 40
2.1.2. Tình hình giáo dục phổ thông tỉnh Kiên Giang ..................................... 43
2.1.3. Tình hình quản lý nhà nước đối với giáo dục phổ thông
tại Kiên Giang ........................................................................................ 45
2.2. THỰC HIỆN PHÂN CẤP QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC ĐỐI VỚI
GIÁO DỤC PHỔ THÔNG TẠI TỈNH KIÊN GIANG ............................... 48
2.2.1. Phân cấp quản lý về bộ máy .................................................................. 48
2.2.2. Phân cấp quản lý về nhân sự ................................................................. 54
2.2.3. Phân cấp quản lý về tài chính ................................................................ 58
2.2.4. Phân cấp quản lý về chuyên môn
(chương trình, giáo trình, tài liệu giảng dạy) ......................................... 64
2.2.5. Phân cấp quản lý học sinh ..................................................................... 66
2.3. NHẬN XÉT PHÂN CẤP QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC ĐỐI VỚI
GIÁO DỤC PHỔ THÔNG TẠI TỈNH KIÊN GIANG ............................... 68
2.3.1. Ưu điểm ................................................................................................. 68
2.3.2. Hạn chế .................................................................................................. 69
2.3.3. Nguyên nhân .......................................................................................... 70
Tiểu kết chƣơng 2 .................................................................................................... 72
Chƣơng 3: PHƢƠNG HƢỚNG, GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM PHÂN CẤP QUẢN
LÝ NHÀ NƢỚC ĐỐI VỚI GIÁO DỤC PHỔ THÔNG TẠI TỈNH
KIÊN GIANG ...................................................................................... 73
3.1. PHƢƠNG HƢỚNG BẢO ĐẢM PHÂN CẤP QUẢN LÝ NHÀ
NƢỚC ĐỐI VỚI GIÁO DỤC PHỔ THÔNG TẠI TỈNH KIÊN
GIANG ............................................................................................................ 73
3.1.1. Phân cấp quản lý nhà nước đối với giáo dục phổ thông phù hợp
điều kiện cụ thể tại tỉnh Kiên Giang ...................................................... 73
3.1.2. Phân cấp đồng thời với việc xác định rõ trách nhiệm của các
chủ thể quản lý nhà nước đối với giáo dục phổ thông tại tỉnh
Kiên Giang ............................................................................................. 74
3.1.3. Phân cấp quản lý nhà nước đối với giáo dục phổ thông phục vụ
thực hiện mục tiêu của giáo dục phổ thông tại tỉnh Kiên Giang ........... 74
3.2. GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM PHÂN CẤP QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC
ĐỐI VỚI GIÁO DỤC PHỔ THÔNG TẠI TỈNH KIÊN GIANG .............. 75
3.2.1. Tiếp tục hoàn thiện thể chế quản lý nhà nước đối với giáo dục
phổ thông nói chung và phân cấp đối với quản lý nhà nước đối
với giáo dục phổ thông nói riêng ........................................................... 75
3.2.2. Nâng cao năng lực quản lý nhà nước đối với giáo dục phổ
thông tại tỉnh Kiên Giang ...................................................................... 78
3.2.3 Bảo đảm nguồn lực vật chất phục vụ quản lý nhà nước đối với
giáo dục phổ thông tại tỉnh Kiên Giang ................................................ 82
3.2.4. Tăng cường kiểm tra, đánh giá, xử lý vi phạm, chế tài nghiêm
khắc liên quan đến hoạt động phân cấp quản lý nhà nước đối
với giáo dục phổ thông .......................................................................... 87
Tiểu kết chƣơng 3 .................................................................................................... 91
KẾT LUẬN ............................................................................................................. 92
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 94
Phụ lục
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài luận văn
GD và quản lý GD luôn luôn là vấn đề được mọi quốc gia trên thế giới quan
tâm. QLNN về GD - đào tạo có thể coi là khâu then chốt để thực hiện thắng lợi mọi
hoạt động GD. Phân cấp QLNN đối với GD là một nội dung quan trọng mà các
nước trên thế giới đều quan tâm nhằm nâng cao hiệu quả QLNN đối với GD. Đối
với nước ta, phân cấp, phân quyền giữa chính quyền trung ương và địa phương,
giữa các cơ quan quản lý HCNN cùng cấp là một nội dung quan trọng trong công
cuộc cải cách HCNN. Trước yêu cầu đổi mới mạnh mẽ của nền GD nước nhà vấn
đề phân cấp, phân quyền trong QLNN đối với GD cần được xem xét nghiên cứu
thấu đáo. Bởi vì, đây chính là một biện pháp hữu hiệu để nâng cao hiệu quả QLNN
đối với GD, là động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa; là điều kiện để phát triển nguồn lực con người – yếu tố cơ bản cho sự phát triển
xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững.
Trong hệ thống GD quốc dân, GDPT giữ vị trí nền tảng. Thế nhưng nhiều năm
nay, chất lượng GDPT nước ta còn thấp so với các nước trong khu vực và trên thế
giới. Một trong những nguyên nhân cơ bản là do công tác QLNN đối với GD còn
tồn tại nhiều hạn chế, bất cập. Một trong những giải pháp mang tính đột phá nhằm
nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả của hoạt động QLNN đối với GD, tiến tới đạt
được mục tiêu của chiến lược GD đến năm 2020 là cần phải đẩy mạnh thực hiện
đồng bộ phân cấp QLNN đối với GD&ĐT, trong đó có GDPT.
Kiên Giang là một tỉnh ven biển phía Tây Nam, thuộc khu vực đồng bằng
Sông Cửu Long. Nhìn chung, trong những năm qua, công tác QLNN đối với
GD&ĐT đạt được những thành tựu nhất định. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn tồn
tại một số hạn chế làm cho chất lượng GDPT chưa cao, còn thấp so với mặt bằng
chung của cả nước.
Nhận thức được tầm quan trọng và ý nghĩa của chủ trương phân cấp trong
QLNN nói chung và phân cấp trong QLNN đối với GD, tôi chọn nghiên cứu đề tài
“Phân cấp QLNN đối với GDPT tại tỉnh Kiên Giang” làm luận văn tốt nghiệp.
2
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn
Tìm hiểu các tư tưởng trên thế giới nghiên cứu về QLNN và QLNN đối với
GDPT, tác giả có một số nhận xét sau: QLNN về GDPT không phải là mảnh đất
mới chưa được “cày xới” mà GDPT là một vấn đề đã được các nhà nghiên cứu quan
tâm đến dưới các góc độ khác nhau.
Tác giả Đinh Thị Minh Tuyết (2006) trong bài “Đổi mới quản lý giáo dục đào
tạo ở nước ta hiện nay“ (Tạp chí QLNN- số 130 (11/2006) [41] đã nhấn mạnh yêu
cầu đổi mới quản lý giáo dục đào tạo ở nước ta hiện nay. Tác giả đặt ra yêu cầu cần
phải xác định rõ quyền hạn, trách nhiệm quản lý giáo dục đào tạo của Bộ GD&ĐT,
của các bộ và UBND tỉnh, thành phố, quận huyện và cơ sở GD về các khâu quy
hoạch, kế hoạch, tổ chức và cán bộ, tài chính, thanh tra và kiểm tra để có thể thực
hiện tốt các nội dung QLNN.
Tác giả Nguyễn Thị Minh Phương (2008) trong nghiên cứu “Về phân hóa
trong GDPT Việt Nam giai đoạn sau năm 2015” (Thuộc chương trình nghiên cứu
khoa học cấp bộ giai đoạn 2006-2008 “Phát triển GD&ĐT Việt Nam trong quá trình
hội nhập quốc tế”) [29], việc phát triển chương trình GD của nhiều quốc gia trên thế
giới đang chuyển từ “định hướng đầu vào” sang “định hướng đầu ra” - còn được gọi
là quan điểm phát triển chương trình dựa vào năng lực người học. Khả năng thực
hiện phân hoá GDPT Việt Nam sau năm 2015 được phân tích dựa trên: khả năng
nhận thức của học sinh và khả năng giảng dạy của giáo viên; khả năng xây dựng
chương trình; khả năng tổ chức và quản lý nhà trường và yêu cầu của xã hội đối với
chất lượng nguồn nhân lực.
Trên cơ sở đó, tác giả đã chỉ ra định hướng thực hiện phân hoá trong GDPT
sau năm 2015: 1/ Điều chỉnh GD tiểu học và GD trung học cơ sở từ phổ cập thành
bắt buộc. GD THPT được chia thành hai giai đoạn. 2/ Chương trình GDPT với mục
tiêu: hình thành và phát triển cho học sinh năng lực nhận thức, thực hành, xã hội và
cá nhân; nội dung học vấn: bắt buộc với 8 lĩnh vực học tập; tự chọn với nhiều trình
độ. 3/ Hình thức tổ chức phân hoá: thực hiện phân luồng sau trung học cơ sở và
THPT một cách triệt để; thực hiện tự chọn bắt buộc và tùy ý.
3
Với định hướng này, GDPT sẽ có nhiều chuyển biến mà GDPT vùng dân tộc
thiểu số cũng là một bộ phận trong đó. Tác giả cũng đã nêu rõ những điều kiện thực
hiện phân hoá trong GDPT Việt Nam là phát triển chương trình GDPT; đào tạo, bồi
dưỡng giáo viên; cơ sở vật chất, thiết bị dạy học; chính sách GD. Đây cũng chính là
những nội dung chính trong QLNN về GDPT.
Tác giả Nguyễn Thị Mỹ Lộc (2012) trong cuốn “Quản lý GD - một số vấn đề
lý luận và thực tiễn“ [27] đã đưa ra khung lý thuyết cơ bản về QLNN về GD. Tác
giả đã đề cập đến 4 cách tiếp cận trong QLNN về GD là (i) cách tiếp cận chức năng,
(ii) cách tiếp cận khách thể/đối tượng quản lý GD, (iii) cách tiếp cận hành vi/quan
hệ con người trong quản lý GD và (iv) cách tiếp cận quan hệ nhà nước trong quản lý
GD. Tác giả cũng chỉ ra những đặc điểm cơ bản của QLNN về GD theo cách tiếp
cận thứ tư, đó là (i) kết hợp quản lý hành chính và quản lý chuyên môn trong các
hoạt động quản lý, (ii) tính quyền lực nhà nước trong hoạt động quản lý, (iii) kết
hợp nhà nước – xã hội trong QLNN về GD. Đây là khung lý thuyết quan trọng, cần
thiết cho nghiên cứu của luận án.
Tác giả Trần Ngọc Giao (2012) trong đề tài nghiên cứu “Phát triển đội ngũ
lãnh đạo và QLNN về GD các cấp” [19] đã khẳng định: trong bối cảnh đổi mới căn
bản, toàn diện GD&ĐT Việt Nam hiện nay, đội ngũ cán bộ GD từ trung ương đến
địa phương đòi hỏi phải có các năng lực mới, kỹ năng quản lý phù hợp. Thông qua
khảo sát thực trạng đội ngũ cán bộ quản lý GD, tác giả cho rằng trong bối cảnh hiện
nay, người cán bộ quản lý GD cần có phẩm chất và năng lực là: nhà lãnh đạo, nhà
quản lý (quản lý tác nghiệp, quản lý hành chính và cung ứng các dịch vụ công), nhà
GD, nhà hoạt động kinh tế - xã hội. Họ cũng cần chú trọng các yếu tố: nhận thức
chính trị, đạo đức công vụ, khả năng thích ứng, tư duy hệ thống, quản lý đảm bảo
chất lượng, tập trung ưu tiên cho người học, quản lý xung đột, quản lý thông tin. Đề
tài đã đề xuất khung năng lực của cán bộ công chức GD gồm: nền tảng cá nhân,
năng lực lãnh đạo, năng lực tác nghiệp quản lý hành chính, công vụ, năng lực quan
hệ xã hội và năng lực quản lý thông tin. Đây chính là những yêu cầu về năng lực
cần có đối với cán bộ quản lý GD trong bối cảnh hiện nay. Đứng trên góc độ
4
QLNN, yếu tố nguồn nhân lực trong quản lý quyết định nhiều đến chất lượng của
hoạt động quản lý.
Cũng đề cập đến QLNN trong thời kì mới, Tác giả Vũ Ngọc Hải (2012) trong
đề tài nghiên cứu “Đổi mới QLNN về hệ thống giáo dục quốc dân trong hội nhập
quốc tế và xu thế toàn cầu hóa”[20] lại có cái nhìn tổng thể về cả hệ thống GD quốc
dân, trong đó, GDPT là một bộ phận quan trọng. Trên thực tế, hệ thống GD quốc
dân ở nước ta đang có bất cập lớn về cơ cấu khung và QLNN như phân luồng yếu,
thiếu tính liên thông, chưa đồng bộ, thiếu nhất quán. QLNN trong toàn hệ thống còn
có sự chồng chéo, chưa phân cấp rõ ràng, công khai, minh bạch; thiếu cơ chế trong
ngành GD và các ngành khác ở cả trung ương và địa phương; chưa có sự chuyển
đổi phù hợp với yêu cầu học tập suốt đời và xã hội học tập. Hiệu lực QLNN về GD
còn thấp, chưa thực hiện tốt được 3 công khai trong toàn hệ thống làm hạn chế phát
huy tính chủ động, sáng tạo, công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình trước
xã hội của các cơ sở GD đào tạo trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa và hội nhập quốc tế. Những đổi mới QLNN hệ thống GD được chỉ ra theo
hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế. Đây
cũng là yêu cầu đổi mới quản lý cho cả hệ thống GD quốc dân nói chung, GDPT
nói riêng.
Tuy không trực tiếp nghiên cứu về QLNN đối với GDPT mà chỉ nghiên cứu
về quản lý trong các trường phổ thông, tác giả Nguyễn Tiến Hùng (2012) trong đề
tài khoa học cấp Bộ “Đổi mới quản lý nhà trường phổ thông Việt Nam theo hướng
định hướng hiệu quả trong bối cảnh phân cấp quản lý GD” [23] cũng đã chỉ ra một
khía cạnh có ảnh hưởng lớn đến hiệu quả quản lý của các trường phổ thông đó là
phân cấp quản lý GD. Từ góc độ QLNN, phân cấp GD nếu làm tốt sẽ tạo điều kiện
thuận lợi cho các trường phổ thông đạt được hiệu lực và hiệu quả trong quản lý nội
bộ, do đó, phân cấp là một trong những vấn đề cần được quan tâm trong QLNN về
GDPT hiện nay.
Từ một góc độ tiếp cận cụ thể hơn, tác giả Trần Khánh Đức quan niệm: Chất
lượng GD là “kết quả của quá trình đào tạo được phản ánh ở các đặc trưng về phẩm
5
chất, giá trị nhân cách và giá trị sức lao động hay năng lực hành nghề của người tốt
nghiệp tương ứng với mục tiêu, chương trình đào tạo theo các ngành nghề cụ thể”
[18, tr.35]. Vấn đề cơ bản trong quan niệm của tác giả Trần Khánh Đức đó chính là
chất lượng GD đại học được thể hiện ở việc mục tiêu được hiện thực hoá trong
phẩm chất, khả năng, trình độ của người học.
Ngày 19/12/2012, tại Hà Nội, Bộ GD&ĐT phối hợp với Tổ chức Quốc tế
Pháp ngữ đã tổ chức Hội thảo quốc gia “Vai trò điều tiết của Nhà nước trong việc
đảm bảo chất lượng và công bằng GD”[7]. Điều tiết là nhà nước huy động tất cả
các thành tố của hệ thống GD phục vụ cho chiến lược tổng thể phát triển đất nước
trong đó GD đóng vai trò then chốt. Điều tiết liên quan đến các chính sách và hành
động của Nhà nước. Hội thảo được tổ chức nhằm tạo ra sự đồng thuận giữa các đối
tượng khác nhau tham gia GD về những điểm ưu tiên cần được điều tiết để đảm bảo
chất lượng và công bằng GD, trên cơ sở vẫn giữ nguyên tắc linh hoạt, hiệu quả và
hài hòa giữa sự tự chủ của các cơ sở GD và việc tuân thủ định hướng, tiêu chí của
chính sách GD quốc gia. Thông qua 4 chuyên đề của hội thảo gồm: “Sứ mạng của
hệ thống GD và khung tham chiếu: khái niệm về công bằng, chất lượng và điều
tiết”; “Xem xét, sửa đổi liệt kê các loại hình cơ sở GD và đặc điểm của từng loại cơ
sở GD”; “Các công cụ điều tiết hiện nay, thành công và hạn chế của các công cụ
đó”; và “Các nội dung cần điều tiết ưu tiên, giải pháp, công cụ pháp lý cần thiết”,
nhiều bài viết tại hội thảo đã đánh giá thực trạng công tác điều tiết của Nhà nước
trong lĩnh vực GD đại học với nhận định có những lĩnh vực nhà nước đã không thực
hiện hiệu quả vai trò điều tiết, chưa bảo đảm quyền tự chủ đủ mức cho các trường
đại học vận động vươn tới chất lượng cao hơn.
Theo tác giả Lâm Quang Thiệp, hiện trạng của GD đại học Việt Nam mà ở đó
là sức ép giữa việc mở rộng số lượng với yêu cầu bảo đảm chất lượng. Điều này đòi
hỏi sự chuyển mình của bản thân cơ sở GD và của các chính sách vĩ mô. Ở góc độ
vĩ mô, nhà nước cần phải làm tốt công tác dự báo về nhu cầu nhân lực đại học theo
các ngành, lĩnh vực để định hướng, hợp lý hóa về số lượng người học, đồng thời,
tạo ra những cơ chế đủ mạnh để các cơ sở GD có thể vận động theo hướng bảo đảm
6
chất lượng. Bản thân mỗi cơ sở GD cũng cần phải xây dựng năng lực để đáp ứng
nhu cầu của người học, để mở rộng số lượng mà không làm suy giảm chất lượng
[38].
Từ trên khái quát về lịch sử nghiên cứu vấn đề có thể nhận định rằng: QLNN
về GD trong đó có GDPT đã được quan tâm, đánh giá đúng mức tuy nhiên chỉ trên
mức độ giải pháp mà chưa mang tính tổng thể toàn quốc, vùng miền như vùng
Đồng Bằng sông Cửa Long. Tỉnh Kiên Giang, đến nay vẫn chưa có một nghiên cứu
nào nghiên cứu một cách hệ thống, toàn diện và sâu sắc về QLNN đối với GDPT
trên địa bàn tỉnh Kiên Giang, một vùng trọng yếu của Đồng bằng sông Cửu Long.
Vì vậy, việc thực hiện đề tài này sẽ không trùng lắp, đảm bảo tính độc lập và có ý
nghĩa lý luận và thực tiễn lớn về QLNN đối với GDPT trên địa bàn tỉnh Kiên Giang
nói riêng.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ của luận văn
3.1 Mục tiêu nghiên cứu
Trên cơ sở các kết quả nghiên cứu về mặt lý luận và thực tiễn, từ đó thấy được
những mặt ưu điểm, những mặt hạn chế, những thuận lợi, khó khăn trong công tác
QLNN đối với GDPT trên địa bàn tỉnh Kiên Giang. Trên cơ sở đó, đề xuất một số
giải pháp nâng cao hiệu quả QLNN với GDPT trên địa bàn tỉnh Kiên Giang trong
giai đoạn hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Một là, góp phần làm rõ cơ sở lý luận về QLNN và phân cấp QLNN đối với
GDPT.
Hai là, phân tích thực trạng phân cấp QLNN với GDPT trên địa bàn tỉnh Kiên
Giang. Từ đó có những đánh giá về phân cấp QLNN về GDPT trên địa bàn tỉnh
Kiên Giang.
Ba là, đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả phân cấp QLNN về
GDPT trên địa bàn tỉnh Kiên Giang trong thời gian tới.
7
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận và thực tiễn của
phân cấp QLNN đối với GDPT.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu công tác phân cấp QLNN đối với GDPT trên
địa bàn tỉnh Kiên Giang.
Thời gian: Giai đoạn 2016 – 2020, đề xuất giải pháp đến năm 2025.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận
Sử dụng các phương pháp nghiên cứu lý luận để tổng hợp, phân tích, so sánh,
khách quan nhằm xây dựng cơ sở lý luận cho đề tài.
5.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Nhóm phương pháp này nhằm thu thập các thông tin thực tiễn để xây dựng cơ
sở thực tiễn của đề tài. Thuộc nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn có các
phương pháp nghiên cứu cụ thể sau đây:
Thứ nhất, phương pháp tổng kết kinh nghiệm trong phân cấp QLNN về GDPT
trên địa bàn tỉnh Kiên Giang.
Thứ hai, phương pháp nghiên cứu sản phẩm về phân cấp QLNN về GDPT trên
địa bàn tỉnh Kiên Giang.
Thứ ba, phương pháp lấy ý kiến chuyên gia: là phương pháp thu thập ý kiến
của chuyên gia về lĩnh vực phân cấp QLNN về GDPT trên địa bàn tỉnh Kiên Giang.
Thứ tư, phương pháp điều tra bằng phiếu: nhằm mục đích khảo sát ý kiến của
cán bộ, và giáo viên trong các trường tiểu học, trung học cơ sở, THPT, trung tâm
GD thường xuyên trên địa bàn tỉnh Kiên Giang.
5.2.1. Mục đích nghiên cứu khảo sát
Nhằm đánh giá khách quan thực trạng phân cấp QLNN về GDPT trên địa
bàn tỉnh Kiên Giang, khái quát những việc đã làm được và chưa làm được, phân
tích nguyên nhân những hạn chế, tồn tại.
8
Cùng với cơ sở lý luận trình bày trong Chương 1, những kết luận rút ra từ
quá trình nghiên cứu khảo sát thực trạng ở Chương 2 là cơ sở thực tiễn xây dựng
các biện pháp phân cấp QLNN về GDPT trên địa bàn tỉnh Kiên Giang.
5.2.2. Nội dung nghiên cứu khảo sát
Phân tích các văn bản quản lý của Nhà nước, những văn bản liên quan đến
phân cấp QLNN đối với GDPT nói riêng và GD nói chung. Khảo sát các ý kiến của
các cấp quản lý, giáo viên về công tác phân cấp QLNN đối với GDPT để đánh giá
những việc đã làm được, chưa làm được. Tìm hiểu những tồn tại, bất cập trong phân
cấp QLNN đối với GDPT.
Trên cơ sở kết quả khảo sát, vận dụng những khái niệm, lý thuyết về phân
cấp QLNN đối với GDPT để tiến hành phân tích rõ những nguyên nhân, thực trạng,
những điểm mạnh, điểm yếu của phân cấp QLNN đối với GDPT trên địa bàn tỉnh
Kiên Giang. Trao đổi, xin ý kiến của các chuyên gia, những cán bộ quản lý có kinh
nghiệm, am hiểu về phân cấp QLNN đối với GDPT để phân tích rõ hơn, cụ thể hơn
những ưu điểm, những tồn tại. Vận dụng các nội dung lý thuyết trình bày ở Chương
1 về công tác QLNN nói chung và đối với GDPT nói riêng để tiến hành xây dựng
các biện pháp nhằm nâng cao chất lượng phân cấp QLNN đối với GDPT trên địa
bàn tỉnh Kiên Giang.
5.2.3. Đối tượng, địa bàn khảo sát
Xem xét các văn bản chỉ đạo, các Quyết định, thông tư để tiến hành thu thập,
xử lý thông tin; khảo sát ý kiến theo phiếu khảo sát với một số câu hỏi (phụ lục).
Tiến hành điều tra, khảo sát, thu thập ý kiến phản hồi qua phiếu hỏi với sự tham gia
của cán bộ quản lý, giảng viên. Khảo sát được thực hiện tại 16 trường tiểu học, 16
trường trung học cơ sở và 19 trường THPT trên địa bàn tỉnh Kiên Giang, mỗi
trường từ 6-9 phiếu trưng cầu ý kiến.
Gặp gỡ, trao đổi ý kiến với một số cán bộ quản lý, giáo viên nhằm làm rõ
hơn các ý kiến phản hồi qua phiếu hỏi và nhận xét rút ra từ kết quả phân tích tài
liệu; quan sát, suy ngẫm, làm cơ sở dữ liệu cho luận văn.
9
5.2.4. Phương pháp và xử lý kết quả khảo sát.
Để khảo sát thực trạng QLNN đối với tiểu học, trung học cơ sở, THPT, trung
tâm GD thường xuyên trên địa bàn tỉnh Kiên Giang, tác giả đề tài tiến hành xây
dựng mẫu phiếu trưng cầu ý kiến dành cho cán bộ quản lý, giáo viên các cơ sở
GDPT (mẫu phiếu tại Phụ lục).
Cách quy ước điểm số cho bảng hỏi: Mỗi mục đều có các lựa chọn và được
quy ước bằng các mức điểm khác nhau:
Chuẩn cho điểm:
1 điểm 2 điểm 3 điểm 4 điểm
Không hài lòng Ít hài lòng Hài lòng Rất hài lòng
Chưa đạt Trung bình Khá Tốt
Cách đánh giá:
Việc xử lý kết quả các phiếu trưng cầu dựa vào phương pháp toán thống kê
định lượng kết quả nghiên cứu. Đề tài sử dụng hai phương pháp đánh giá là: định
lượng theo tỷ lệ % và phương pháp cho điểm. Cụ thể:
Chuẩn đánh giá (theo điểm):
Câu hỏi 4 mức độ trả lời, đánh giá theo các mức sau:
- Mức 1: Tốt, rất ảnh hưởng (Rất hài lòng; Tốt): .
- Mức 2: Khá (Hài lòng; Khá): .
- Mức 3: Trung bình (Ít hài lòng; Trung bình): .
- Mức 4: Yếu, kém (Không hài lòng; Chưa đạt): .
Ý nghĩa sử dụng :
Điểm trung bình trong thống kê biểu hiện mức độ đại biểu theo một tiêu thức
số lượng nào đó của tổng thể đồng chất bao gồm nhiều đơn vị cùng loại. Điểm trung
bình phản ánh mức độ trung bình của hiện tượng, đồng thời so sánh hai (hay nhiều)
tổng thể hiện tượng nghiên cứu cùng loại, không có cùng quy mô.
10
Sử dụng công thức tính điểm trung bình:
: Điểm trung bình.
Xi: Điểm ở mức độ i.
Ki: Số người tham gia đánh giá ở mức độ Xi.
n: Số người tham gia đánh giá.
Thời gian khảo sát:
Từ tháng 02 đến tháng 3 năm 2017.
5.3. Nhóm phương pháp sử dụng thống kê toán học để xử lý các số liệu, thông
tin
Tính toán phần mềm Execl để xử lý các số liệu thu thập được qua điều tra
nhằm đưa ra các nhận định khoa học về thực trạng vấn đề nghiên cứu.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Góp phần vào hệ thống hoá lý luận về phân cấp QLNN và phân cấp QLNN về
GDPT; hệ thống hoá và xây dựng các nội dung của phân cấp QLNN về GDPT.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Qua phân tích, so sánh, đánh giá thực trạng, rút ra những mặt mạnh; những
hạn chế và nguyên nhân của thực trạng. Từ đó, làm tiền đề để nâng cao hiệu quả
phân cấp QLNN về GDPT trên địa bàn tỉnh Kiên Giang, đáp ứng yêu cầu của nền
kinh tế thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa của tỉnh và đất nước.
Luận văn đóng góp làm tài liệu tham khảo cho đội ngũ lãnh đạo, đội ngũ cán
bộ, các ngành trong việc quy hoạch phát triển hệ thống GDPT và học viên cao học
làm tài liệu tham khảo.
11
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, tài liệu tham khảo, kết cấu chính của luận văn gồm 3
chương, theo đó:
Chương 1: Lý luận về phân cấp QLNN đối với GDPT
Chương 2: Thực trạng phân cấp QLNN đối với GDPT trên địa bàn tỉnh Kiên
Giang
Chương 3: Phương hướng, giải pháp bảo đảm phân cấp QLNN đối với GDPT
tại tỉnh Kiên Giang
12
Chƣơng 1
LÝ LUẬN VỀ PHÂN CẤP QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC ĐỐI VỚI
GIÁO DỤC PHỔ THÔNG
1.1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ PHÂN CẤP QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC
1.1.1. Khái niệm phân cấp quản lý nhà nƣớc
Quản lý là sự tác động có tổ chức, có định hướng của chủ thể quản lý lên các
khách thể quản lý, nhằm đạt được các mục tiêu đã định trước[22]. C.Mác đã coi
“quản lý là một chức năng đặc biệt nảy sinh từ bản chất xã hội của quá trình lao
động”. Nhấn mạnh nội dung trên, ông viết: “Tất cả mọi lao động trong xã hội trực
tiếp hay lao động chung nào tiến hành trên quy mô tương đối lớn, thì ít nhiều cũng
cần một sự chỉ đạo để điều hòa những hoạt động của cá nhân và thực hiện những
chức năng chung… Một người độc tấu vĩ cầm tự mình điều khiển lấy mình, còn một
dàn nhạc thì cần phải có nhạc trưởng”.
Khi Nhà nước xuất hiện thì phần lớn (và là phần quan trọng) các công việc
của xã hội do Nhà nước quản lý. QLNN là một lĩnh vực quản lý đặc biệt. Đó là loại
quản lý gắn liền trực tiếp với hệ thống các cơ quan thuộc bộ máy quyền lực nhà
nước; gắn liền với việc sử dụng quyền lực nhà nước – một loại quyền lực đặc biệt,
khác hẳn với các loại quyền lực khác. Một cách khái quát, QLNN là hoạt động thực
thi quyền lực nhà nước; là sự tác động có tổ chức và điều chỉnh bằng quyền lực nhà
nước đối với các quá trình xã hội và hành vi hoạt động của con người do các cơ
quan thuộc bộ máy nhà nước từ trung ương đến địa phương tiến hành nhằm duy trì
và phát triển các mối quan hệ và trật tự xã hội, nhằm đáp ứng các nhu cầu hợp pháp
của con người, thực hiện các chức năng của nhà nước.
Quản lý: Là sự tác động có tổ chức, có hướng đích của chủ thể quản lý lên
đối tượng và khách thể quản lý nhằm sử dụng có hiệu quả nhất các nguồn lực, các
thời cơ của tổ chức để đạt mục tiêu đặt ra trong điều kiện môi trường luôn biến
động. [27, tr.68]
Khái niệm quản lý bao hàm một ý nghĩa chung: là những tác động có tính
13
hướng đích; hoạt động quản lý được tiến hành trong một tổ chức hay một nhóm xã
hội; quản lý là các hoạt động thực hiện nhằm đảm bảo hoàn thành công việc qua
những nỗ lực của mọi người trong tổ chức; quản lý là một hoạt động thiết yếu, đảm
bảo phối hợp những nỗ lực cá nhân nhằm đạt được các mục đích của nhóm; quản lý
là phương thức tốt nhất để đạt được mục tiêu chung của một nhóm người, một tổ
chức, một cơ quan hay nói rộng hơn là một quốc gia; quản lý là quá trình tác động
có định hướng, có tổ chức của chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý, thông qua các
cơ chế quản lý, nhằm sử dụng có hiệu quả các nguồn lực trong điều kiện môi trường
biến động để hệ thống ổn định, phát triển, đạt được những mục tiêu đã định.
Decentralization (thường được dịch sang tiếng việt là phân quyền) là một
thuật ngữ được sử dụng khá nhiều và không phải là vấn đề hoàn toàn mới mẻ ở Việt
Nam. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có cách hiểu và định nghĩa thống nhất về thuật
ngữ này trong mối quan hệ với các từ nước ngoài được sử dụng. Trên nguyên lý
chung, decentralization là một phạm trù hay mô hình quản lý tương phản với mô
hình quản lý (bao gồm cả QLNN) mang tính chất tập trung (centralization).
Mô hình quản lý mang tính chất tập trung (hay tập quyền) có thể biểu hiện ở
nhiều dạng khác nhau, trong đó nét đặc trưng chung nhất là việc đưa ra các quyết
định (các cấp độ khác nhau) đều tập trung ở một người, nhóm người hay ở một cấp.
Đây là phương thức quản lý đòi hỏi sự tập trung cao độ, việc giải quyết mọi vấn đề
Nhà nước tập trung vào chính quyền trung ương, ở đó không có sự phân quyền,
phân cấp. Mọi hoạt động của các thể chế cộng đồng địa phương đều căn cứ vào
những quyết định, chỉ thị của chính quyền trung ương, của cơ quan cấp trên.
Trong mô hình decentralization, nét đặc trưng chung là quyền quyết định
được phân chia cho nhiều người, nhiều cấp. Mỗi một cấp, căn cứ vào quy định
chung của tổ chức được quyền ra các quyết định trên những lĩnh vực cụ thể. Theo
đó, cơ quan nhà nước trung ương chuyển giao quyền xuống cho các cơ quan cấp
dưới. Decentralization trong trường hợp này gắn liền với hai khái niệm: cấp trên
cấp dưới (hệ thống thứ bậc) và sự chuyển giao quyền (các loại quyền). Tiếp cận
thuật ngữ này, thấy rằng đây là cách thức chuyển giao quyền quyết định để giải
14
quyết các nhiệm vụ nhất định ở các cấp độ khác nhau cho nhiều cấp khác nhau, phổ
biến bao gồm: phân công, tản quyền, ủy quyền và trao quyền. Theo đó:
Phân công về bản chất là một hình thức của mô hình tập trung quyền lực,
tuy nhiên chính quyền trung ương - để thực hiện quyền lực của mình trên thực tế -
tiến hành phân công, giao nhiệm vụ cho các cơ quan cấp dưới thực hiện. Biểu hiện
này được thấy rõ qua tinh thần của Hiến pháp Việt Nam qua các thời kỳ, theo đó
Hiến pháp luôn khẳng định “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công,
phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập
pháp, hành pháp, tư pháp”
Tản quyền (Deconcentration) về bản chất cũng là sự biểu hiện của tập trung,
nhưng để hạn chế những nhược điểm của tập quyền, giảm mật độ tập trung của
chính quyền Trung ương, hạn chế tình trạng quan liêu của chính quyền trung ương
trong việc giải quyết các vấn đề phát sinh tại các cộng đồng lãnh thổ, để thực hiện
các công việc của mình chính quyền trung ương đặt các bộ phận cơ cấu của mình tại
các địa phương để giải quyết những vấn đề thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của trung
ương. Hiện nay ở nước ta, các cơ quan QLNN trực thuộc theo ngành dọc có cơ cấu
tổ chức và quản lý theo mô hình tản quyền, như: hải quan, tòa án, thống kê, kho
bạc, ngân hàng nhà nước, viện kiểm sát, thuế,…
Ủy quyền (Delegation) thực chất là việc trao quyền cho cơ quan cấp dưới
thực hiện quyền của cơ quan cấp trên. Ủy quyền thường được thực hiện theo từng
vụ việc cụ thể, khi ủy quyền thì cơ quan cấp trên có thể trao cho cơ quan cấp dưới
cả các phương tiện vật chất, kỹ thuật, tài chính. Chính quyền cấp trên giữ quyền
kiểm tra, giám sát đối với cấp dưới nghiêm ngặt.
Trao quyền (Devolution) là việc cơ quan Nhà nước, người có thẩm quyền
giao quyền hạn hay tài sản cho một cơ quan, đơn vị trong hệ thống tổ chức bộ máy
để cơ quan, đơn vị đó sử dụng, quản lý một cách tự chủ, nhưng vẫn chịu sự kiểm
soát của chủ thể giao quyền.
Phân quyền (Decentralization) là nguyên tắc tổ chức thực hiện quyền lực có
thể được thực hiện theo hai hướng: phân quyền theo chiều ngang và phân quyền
15
theo chiều dọc. Phân quyền theo chiều ngang thực chất là sự phân công chức năng,
phân định thẩm quyền, trách nhiệm giữa các cơ quan Nhà nước cùng cấp tạo thành
một cơ chế có thể kiểm soát và kiềm chế lẫn nhau để tránh lạm quyền. Đó là sự
phân công thực hiện các chức năng lập pháp, hành pháp và tư pháp trong việc thực
thi quyền lực Nhà nước. Phân quyền theo chiều dọc thực chất là phân công chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn giữa các cấp chính quyền, mỗi cấp có những nhiệm vụ
quyền hạn riêng của mình, các cấp không can thiệp vào công việc của nhau, nhưng
cấp trên có quyền thanh tra, kiểm tra cấp dưới theo quy định của pháp luật.
Trong các văn kiện của Đảng và trong các văn bản quy phạm pháp luật, Nhà
nước ta ít sử dụng thuật ngữ phân quyền, mà dùng phổ biến thuật ngữ phân cấp
[37]. Phân cấp được hiểu là phân công chức năng, phân định nhiệm vụ quyền hạn
giữa các cấp quản lý. Theo cách hiểu đó, phân cấp và phân quyền theo chiều dọc có
những điểm tương đồng. Tuy nhiên, bản chất của phân cấp là phân quyền cho từng
cấp quản lý trên cơ sở văn bản quy phạm pháp luật và trên cơ sở quyết định cá biệt
của cấp có thẩm quyền. Ta có thể thấy phân quyền và phân cấp khác nhau ở những
điểm căn bản sau đây:
Chủ thể có quyền phân quyền chỉ có thể là cơ quan quyền lực nhà nước cao
nhất - Quốc hội. Phân quyền thể hiện mối quan hệ giữa nhà nước với cộng đồng
lãnh thổ, phân quyền được thể hiện dưới hình thức pháp lý - luật. Cấp chính quyền
được phân quyền có toàn quyền và chịu trách nhiệm về việc thực hiện nhiệm vụ,
quyền hạn dược phân quyền; phân quyền tạo nên sự độc lập giữa chính quyền địa
phương và chính quyền trung ương ở những nội dung được phân quyền, bảo đảm
cho cấp chính quyền được phân quyền à nhưng pháp nhân công quyền độc lập. Cơ
quan nhà nước cấp trên chỉ có thể kiểm tra, giám sát tính hợp hiến, hợp pháp trong
việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương về những vấn đề
được phân quyền.
Chủ thể phân cấp là các cơ quan nhà nước ở trung ương và chính quyền địa
phưong; đối tượng được phân cấp là chính quyền địa phương và cơ quan nhà nước
ở cấp dưới; phân cấp được thực hiện bằng việc ban hành văn bản quy phạm pháp
16
luật của cơ quan phân cấp. Cơ quan phân cấp có trách nhiệm hướng dẫn, kiểm tra
việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình đã phân cấp, còn cơ quan được phân
cấp chịu trách nhiệm trước cơ quan đã phân cấp về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền
hạn được phân cấp. Giữa cơ quan được phân cấp và cơ quan phân cấp có mối quan
hệ trực thuộc về tổ chức hoặc trực thuộc vể chức năng. Cơ quan phân cấp có thể
dựa vào thực tiễn thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan được phân cấp mà có
thể tiếp tục phân cấp hay “thu hồi sự phân cấp”. Việc phân cấp không mang tính ổn
định, lâu dài như phân quyền, mà tùy thuộc vào thực tiễn khả năng của cơ quan
được phân quyền [37]
Như vậy, phân cấp là việc phân công chức năng, phân định nhiệm vụ quyền
hạn cho từng cấp hành chính, nếu nhìn từ chế độ quản lý, thì bản chất của việc
phân cấp là cấp trên chuyển giao những nhiệm vụ quyền hạn do mình nắm giữ cho
cấp dưới thực hiện một cách thường xuyên, liên tục bằng phương thức ban hành
văn bản quy phạm pháp luật, hoặc bằng cách chuyển cho cấp dưới thực hiện nhiệm
vụ quyền hạn bằng các quyết định cụ thể [43, tr.10]
Nội dung của phân cấp là trao cho mỗi cấp chính quyền, mỗi khâu trong bộ
máy những nhiệm vụ, quyền hạn giải quyết những công việc nhất định. Nhiệm vụ,
quyền hạn của cơ quan Nhà nước thể hiện dưới dạng các quyền và trách nhiệm: (1)
Quyền và trách nhiệm về các công việc quản lý hoặc quyền cung ứng các dịch vụ
hành chính công ở những lĩnh vực, quy mô nhất định theo nguyên tắc các công việc
được trao “trọn gói” cho từng cấp quản lý, có nghĩa là việc của cấp này sẽ không
thuộc quyền của cấp khác. Tuy vậy, trong một số trường hợp thì công việc của cấp
này đồng thời cũng là công việc của cấp khác. (2) Để thực hiện các quyền, các công
việc tương ứng thì từng cấp được trao quyền về ngân sách, tài chính độc lập với cấp
khác. Đây là điều kiện đảm bảo kinh tế cho mọi hoạt động phân cấp. (3) Quyền về
tổ chức, nhân sự để đảm bảo thực hiện các nhiệm vụ, công việc quản lý hoặc cung
ứng các dịch vụ công.
17
1.1.2. Nguyên tắc phân cấp quản lý nhà nƣớc
Phân cấp trong hoạt động QLNN là một chủ trương lớn của Đảng và nhà
nước. Thực hiện phân cấp QLNN, cần lưu ý đến một số nguyên tắc chung như sau:
Một là, đảo đảm tính thống nhất của quyền lực nhà nước.
Sau khi ra đời, nhà nước thiết lập quyền lực công cộng đặc biệt, có bộ máy
cưỡng chế đảm bảo thực thi quyền lực đó. Đây là thứ quyền lực chỉ riêng nhà nước
mới có và nhờ quyền lực này, cho phép nhà nước thâu tóm quản lý hầu hết các
nguồn nhân lực, tài lực của một quốc gia. Ở nước ta, tư tưởng quyền lực nhà nước
là thống nhất và thuộc về nhân dân được thể hiện xuyên suốt và ngày càng hoàn
thiện qua các bản hiến pháp. Điều 1 Hiến pháp 1946 quy định: “…tất cả quyền bính
trong nước là của toàn dân Việt Nam,…”[31]. Điều 4 Hiến pháp 1959 khẳng định:
“tất cả quyền lực trong nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đều thuộc về nhân
dân”[32]. Điều 6 Hiến pháp 1980 ghi nhận: “ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, tất cả quyền lực thuộc về nhân dân” [35]. Điều 2 Hiến pháp 1992 quy
định “tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân” [33]. Khoản 3 Điều 2 – Hiến
pháp 2013 tiếp tục khẳng định “quyền lực nhà nước là thống nhất”, “tất cả quyền
lực nhà nước thuộc về nhân dân” [34]. Từ đó thấy rằng, các chủ thể QLNN, mặc dù
được phân công nắm giữ các nhiệm vụ khác nhau trong việc thực hiện các quyền
lập pháp, hành pháp, tư pháp, thì tất cả vẫn cùng hướng tới một mục tiêu chung,
một nhiệm vụ chung.
Thực hiện phân cấp QLNN cần lưu ý đảm bảo nguyên tắc hiến định “quyền
lực nhà nước là thống nhất”. Theo đó, việc phân cấp quản lý nhà nước một mặt
nhằm phát huy tính năng động, sáng tạo, quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của địa
phương, mặt khác cần đảm bảo sự tập trung thống nhất và thông suốt của chính
quyền trung ương, nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả của QLNN. Phân cấp nhưng
phải luôn giữ cho chính quyền trung ương vững mạnh, đủ khả năng để giải quyết
những vấn đề quan trọng của đất nước, đảm bảo sự kiểm soát của chính quyền trung
ương đối với chính quyền địa phương.
Hai là, bảo đảm tính hiệu quả.
18
Đề cập đến tính hiệu quả, hoạt động QLNN phải được xem xét từ các góc độ
kinh tế, góc độ xã hội với đầy đủ các yếu tố đầu vào, đầu ra, quá trình và kết quả.
Thực hiện phân cấp QLNN là một quá trình xem xét khả năng của một cấp chính
quyền trong việc thực hiện tốt nhất một nhiệm vụ QLNN nhất định. Theo đó, việc
lựa chọn chủ thể quản lý xuất phát từ tiêu chí hiệu quả, cấp nào có khả năng đạt
được mục tiêu, chất lượng và yêu cầu quản lý với chi phí thấp nhất và thời gian ít
nhất thì giao nhiệm vụ tương ứng cho cấp đó.
Ba là, bảo đảm tính phù hợp .
Tính phù hợp trong phân cấp QLNN thể hiện sự đánh giá các yếu tố khách
quan tác động đến hiệu quả QLNN. Hoạt động phân cấp được thực hiện đảm bảo
tính phù hợp sẽ mang lại hiệu quả cao trong QLNN và ngược lại. Sự phù hợp trong
phân cấp QLNN được xem xét dưới các khía cạnh như phù hợp với trình độ phát
triển kinh tế - xã hội, phù hợp với đặc thù QLNN của từng ngành – lĩnh vực, phù
hợp với đặc điểm của đơn vị hành chính – lãnh thổ… Theo đó:
Phân cấp QLNN phải đảm bảo phù hợp với trình độ phát triển kinh tế - xã
hội trong từng giai đoạn: vấn đề phân cấp QLNN đã được đặt ra ngay từ những
ngày đầu thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Đến nay, trên cơ sở các quy
định của pháp luật, hoạt động phân cấp đã được tiến hành khá thành công, đáp ứng
được những nhu cầu, đòi hỏi của đất nước ở mỗi thời kỳ phát triển nhất định. Trình
độ phát triển kinh tế xã hội chính là cơ sở nền tảng, là yếu tố khách quan quyết định
cho sự thành công của hoạt động phân cấp QLNN. Ví dụ, một số lĩnh vực hiện nay
đang được phân cấp theo tư duy mới là xã hội hóa để phát huy tính tích cực, chủ
động, hiệu quả của khu vực tư nhân, nhà nước giữ vai trò là nhà hoạch định chính
sách, giữ quyền thanh tra, kiểm tra việc thực hiện và xử lý vi phạm, giải quyết tranh
chấp. Tuy nhiên, hoạt động này chỉ có thể được thực hiện một khi khu vực tư nhân
đủ mạnh (về trình độ khoa học kỹ thuật, nguồn nhân lực và tài lực…) để thực hiện
được các mục tiêu của nhiệm vụ được phân cấp.
Phân cấp phải đảm bảo phù hợp với đặc thù QLNN trong từng ngành – lĩnh
vực: mỗi ngành, lĩnh vực khác nhau có những đặc thù riêng. Đối với một số lĩnh
19
vực QLNN đặt ra nhu cầu tập trung hoá quyền lực ở mức độ cao nhằm bảo đảm chủ
quyền quốc gia và tính thống nhất của quyền lực nhà nước; một số lĩnh vực khác -
lại đòi hỏi quá trình không những phi trung ương hoá, phi tập trung hoá mà còn có
thể áp dụng cơ chế chuyển giao mạnh mẽ một số thẩm quyền quản lý cho các tổ
chức xã hội. Vì vậy, việc phân cấp QLNN trong các ngành, lĩnh vực phải phản ánh
đầy đủ và đảm bảo phù hợp với đặc thù và yêu cầu đối với ngành, lĩnh vực.
Phân cấp phải đảm bảo phù hợp với đặc điểm của đơn vị hành chính – lãnh
thổ: đơn vị hành chính - lãnh thổ là địa bàn được hình thành dựa theo các tiêu chí đa
dạng như yếu tố dân cư, địa lý, diện tích, địa bàn nông thôn, đô thị, đồng bằng,
vùng biên giới, miền núi, hải đảo... Ngay các địa bàn cùng một loại như nông thôn
hay đô thị cũng được phân loại theo các tiêu chí như mức độ phát triển kinh tế - xã
hội, mật độ dân cư, mức độ đô thị hoá, tỷ lệ sản xuất nông nghiệp, thủ công nghiệp
và công nghiệp... Ngoài ra, một số đô thị cấp tỉnh còn được hưởng quy chế đặc thù
do vị trí và tầm quan trọng của chúng như những trung tâm chính trị, kinh tế, văn
hoá, xã hội. Sự đặc thù của đối tượng và địa bàn quản lý chi phối tính chất nhiệm
vụ, nội dung và phương thức QLNN. Vì vậy, phân cấp QLNN phải bảo đảm sự phù
hợp của từng loại hay nhóm đơn vị hành chính – lãnh thổ; trong một số trường hợp,
phải phù hợp và tạo đà phát triển cho đơn vị hành chính - lãnh thổ có quy chế đặc
biệt.
Bốn là, phải đảm bảo tương ứng giữa nhiệm vụ, thẩm quyền, trách nhiệm với
nguồn lực tài chính, tổ chức, nhân sự và các điều kiện cần thiết khác.
Nội dung của phân cấp là giao cho các cấp chính quyền, các bộ phận trong
bộ máy nhà nước những nhiệm vụ, quyền hạn để thực hiện, giải quyết những công
việc nhất định của nhà nước. Để hoạt động phân cấp đạt được hiệu quả thì song
song với việc chuyển giao nhiệm vụ phải đảm bảo được các nguồn lực để chủ thể
QLNN có thể hoàn thành nhiệm vụ được giao. Nguồn lực này có thể xuất phát từ
năng lực của chủ thể được phân cấp hoặc do chính quyền trung ương bổ sung hoặc
là nguồn lực tổng hợp.
20
Năm là, phải đảm bảo tính đồng bộ, ăn khớp với các ngành, lĩnh vực có liên
quan.
QLNN nói chung và quản lý HCNN nói riêng có đối tượng quản lý rất rộng,
bao gồm tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Do đó, để thực hiện phân cấp
QLNN có hiệu quả, cần thực hiện đồng bộ và có cơ chế phối hợp hợp lý, phân định
rõ trách nhiệm, quyền hạn của cơ quan chủ trì và cơ quan phối hợp.
1.1.3. Ý nghĩa của phân cấp QLNN
Nâng cao hiệu lực hiệu quả QLNN là mục tiêu của bất kỳ quốc gia nào trên
thế giới. Theo đó, phân cấp trong QLNN là một giải pháp hữu hiệu, được nhiều
quốc gia áp dụng. Thực hiện phân cấp QLNN mang lại nhiều ý nghĩa trên nhiều
khía cạnh khác nhau, cụ thể:
Thứ nhất, phân cấp QLNN là một biện pháp quan trọng mang tính pháp lý
nhằm giải quyết mối quan hệ giữa chính quyền trung ương và địa phương, xác định
địa vị pháp lý của từng cấp chính quyền theo tinh thần của hiến pháp 2013.
Thứ hai, phân cấp QLNN tạo ra quyền tự chủ, sáng tạo, phát huy tính năng
động của địa phương, khai thác được thế mạnh và tiềm năng của chính quyền cơ sở
là một biểu hiện rõ nét của dân chủ và phù hợp với xu thế hiện nay là tăng cường
tính tự quản địa phương trong việc quyết định những vấn đề của địa bàn lãnh thổ.
Thứ ba, phân cấp QLNN là tiền đề quan trọng trong việc thực hiện phân định
thẩm quyền rõ ràng giữa các cơ quan QLNN, phát huy tính hiệu quả của cơ chế
QLNN, tăng cường trách nhiệm và tinh thần phục vụ nhân dân của cán bộ công
chức các cơ quan nhà nước, và là cơ sở để nhân dân giám sát, kiểm tra hoạt động
của bộ máy nhà nước. Phân cấp QLNN làm tăng trách nhiệm của cơ quan HCNN
đối với nhân dân. Mặt khắc, nhân dân – bằng sự tham gia của mình vào công tác
quản lý, có điều kiện giám sát, đánh giá hoạt động của các cơ quan HCNN một cách
công khai, chính xác và đầy đủ hơn. Do vậy, sẽ giảm đáng kể nạn quan liêu, hách
dịch, tham ô, lãng phí của công,…
Thứ tư, thực hiện phân cấp QLNN tạo cơ hội cho nhân dân, cộng đồng tham
gia vào hoạt động QLNN, nhằm nâng cao hiệu lực hiệu quả của hoạt động QLNN.
21
Theo đó, nhờ vào sự tham gia của người dân, các quyết định của cơ quan QLNN sẽ
bám sát thực tế, phù hợp với nhu cầu, nguyện vọng của người dân hơn, thu hút được
nguồn nhân lực chất lượng phục vụ nhu cầu phát triển địa phương.
Thứ năm, phân cấp QLNN tạo sự thích ứng trong quá trình quản lý như sự
phân chia giữa chủ thể và đối tượng quản lý, phân chia các hoạt động quản lý thành
các nhóm hoạt động theo chức năng, theo đơn vị hành chính, lãnh thổ.
Thứ sáu, phân cấp QLNN tạo áp lực thúc đẩy các nhà chính trị, các nhà quản
lý địa phương phải không ngừng học tập, nâng cao tình độ chuyên môn, năng lực
quản lý của mình để đáp ứng yêu cầu tiếp nhận chuyển giao thẩm quyền trong quản
lý và cung ứng dịch vụ công do cơ quan nhà nước cấp trên chuyển xuống.
Thứ bảy, phân cấp QLNN tạo ra tinh thần làm việc tốt hơn với năng suất làm
việc cao hơn. Cơ quan QLNN cấp dưới, thông qua quá trình phân cấp, thực hiện
nhiệm vụ một cách độc lập, được quyền ra các quyết định quan trọng và chịu trách
nhiệm với các quyết định đó. Thông qua đó, cơ quan QLNN cấp trên tôn trọng, thừa
nhận năng lực của cơ quan QLNN cấp dưới. Từ đó, tạo nên môi trường làm việc
trách nhiệm, năng suất cao nhằm đạt được hiệu lực và hiệu quả QLNN cao nhất.
Thứ tám, phân cấp QLNN làm giảm áp lực cho chính quyền trung ương do
không phải trực tiếp giải quyết những công việc mang tính sự vụ để tập trung vào
các hoạt động mang tính quốc gia, vĩ mô như hoạch định chính sách, ban hành thể
chế, tổng kết, đánh giá, kiểm soát.
1.2. PHÂN CẤP QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC ĐỐI VỚI GIÁO DỤC PHỔ
THÔNG
1.2.1. Giáo dục phổ thông và quản lý nhà nƣớc đối với giáo dục phổ thông
1.2.1.1. Quan niệm về giáo dục phổ thông
Tùy theo đặc điểm và hoàn cảnh, mỗi nước trên thế giới có những quan
điểm và mô hình GD khác nhau, tuy nhiên về hệ thống GD của từng nước, có thể
thấy rõ những điểm tương tự nhau, theo đó bao gồm: GD mầm non, GDPT, GD dạy
nghề và đại học,… Luật GD Việt Nam cũng ghi nhận, hệ thống GD quốc dân bao
gồm: GD mầm non, GDPT, GD nghề nghiệp, GD đại học và GD thường xuyên.
22
Như vậy, GDPT là một mắc xích quan trọng trong hệ thống GD quốc dân ở Việt
Nam.
GDPT giữ vị trí nền tảng trong hệ thống GD&ĐT.
Khoản 1 Điều 26 Luật GD ghi nhận GDPT bao gồm: GD tiểu học, GD
trung học cơ sở, GD THPT. GD tiểu học được thực hiện trong năm năm học, từ lớp
một đến lớp năm, tuổi của học sinh vào học lớp một là sáu tuổi. GD trung học cơ sở
được thực hiện trong bốn năm học, từ lớp sáu đến lớp chín, học sinh vào học lớp
sáu phải hoàn thành chương trình tiểu học, có tuổi là mười một tuổi. GD THPT
được thực hiện trong ba năm học, từ lớp mười đến lớp mười hai, học sinh vào học
lớp mười phải có bằng tốt nghiệp trung học cơ sở, có tuổi là mười lăm tuổi [30].
Giữ vị trí và vai trò quan trọng trong hệ thống GD quốc dân, việc xác định
rõ mục tiêu của GDPT là một điều rất quan trọng và cần thiết, vì nó định hướng
chiến lược đầu tư GD, xây dựng nội dung chương trình, chọn lọc nội dung, xác định
và chi phối toàn bộ công tác quản lý, điều hành các bậc học và toàn bộ phương pháp
dạy và học. Luật GD hiện hành xác định mục tiêu GDPT là:
Một là, GDPT giúp học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể
chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản, phát triển năng lực cá nhân, tính năng động
và sáng tạo, hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng
tư cách và trách nhiệm công dân; chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học lên hoặc đi vào
cuộc sống lao động, tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Hai là, GD tiểu học nhằm giúp học sinh hình thành những cơ sở ban đầu
cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các
kỹ năng cơ bản để học sinh tiếp tục học trung học cơ sở.
Ba là, GD trung học cơ sở nhằm giúp học sinh củng cố và phát triển những
kết quả của GD tiểu học; có học vấn phổ thông ở trình độ cơ sở và những hiểu biết
ban đầu về kỹ thuật và hướng nghiệp để tiếp tục học THPT, trung cấp, học nghề
hoặc đi vào cuộc sống lao động.
Bốn là, GD THPT nhằm giúp học sinh củng cố và phát triển những kết quả
của GD trung học cơ sở, hoàn thiện học vấn phổ thông và có những hiểu biết thông
23
thường về kỹ thuật và hướng nghiệp, có điều kiện phát huy năng lực cá nhân để lựa
chọn hướng phát triển, tiếp tục học đại học, cao đẳng, trung cấp, học nghề hoặc đi
vào cuộc sống lao động.
Chiến lược phát triển GD giai đoạn 2011 – 2020, xác định mục tiêu cụ thể
của GDPT đến năm 2020 là: chất lượng GD toàn diện được nâng cao, đặc biệt là
chất lượng GD văn hóa, đạo đức, kỹ năng sống, pháp luật, ngoại ngữ, tin học. Đến
năm 2020, tỷ lệ đi học đúng độ tuổi ở tiểu học là 99%, trung học cơ sở là 95% và
80% thanh niên trong độ tuổi đạt trình độ học vấn THPT và tương đương; có 70%
trẻ em khuyết tật được đi học [40].
1.2.1.2. Quản lý nhà nước đối với giáo dục phổ thông
Về tổng thể, QLNN có thể hiểu là sự tác động tổ chức mang tính quyền lực
- pháp lý của các cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền, hoặc các tổ chức khi
được nhà nước trao quyền tới ý thức, hành vi, xử sự của cá nhân, tổ chức, cơ quan,
tới các quá trình xã hội hướng chúng vận động, phát triển nhằm đạt được mục tiêu
nhất định của QLNN và xã hội. Cũng cần phải lưu ý là sự tác động này không phải
là sự tác động một chiều mà có sự tác động hai chiều giữa chủ thể QLNN và đối
tượng QLNN nhằm tạo sự hài hòa về lợi ích của Nhà nước, cộng đồng và các đối
tượng có liên quan.
Từ cách tiếp cận này, QLNN đối với GDPT có thể được hiểu là sự tác động
có tổ chức bằng quyền lực nhà nước, trên cơ sở pháp luật do các cơ quan nhà nước
có thẩm quyền tiến hành để thực hiện chức năng, nhiệm vụ do nhà nước uỷ quyền
nhằm định hướng phát triển, nâng cao cao chất lượng GDPT đáp ứng mục tiêu xây
dựng con người xã hội chủ nghĩa cho quá trình phát triển kinh tế - xã hội của quốc
gia.
QLNN về GDPT là tổng thể hoạt động của các cơ quan QLNN nhằm định
hướng, điều tiết, tạo điều kiện, nâng cao chất lượng GDPT đáp ứng các mục tiêu về
nguồn nhân lực đại học cho phát triển kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ.
QLNN về đối với GDPT cần được hiểu đó là quá trình nhà nước định
hướng, tạo ra một hành lang pháp lý, lộ trình chuẩn hoá để các cơ sở GD đi đến
24
được mục tiêu chất lượng. QLNN về chất lượng có hiệu quả chính là một giải pháp
quản lý tổng thể, quan trọng trong QLNN đối với GDPT. Quá trình quản lý phải
bảo đảm các quá trình kiểm định chất lượng được thực hiện đúng quy trình, chuẩn
mực của pháp luật quy định. Kết quả đánh giá chất lượng hình thành nên những kết
luận chính xác, khách quan tạo ra sự đồng thuận cao từ bản thân cơ sở GD và cộng
đồng xã hội. Kết quả đánh giá từ cơ quan QLNN phải thực sự giúp cho cơ sở GD
nhận thức đúng mặt mạnh, mặt yếu và bức tranh chất lượng thực sự của mình. Công
tác QLNN không chỉ là việc định ra chính sách quản lý mà còn phải hỗ trợ cho đối
tượng quản lý thực hiện các chính sách đó. Hiệu quả của QLNN về GDPT cần được
đánh giá qua chất lượng của các cuộc kiểm định chất lượng và giá trị của những kết
quả kiểm định trong việc nâng cao chất lượng của cơ sở GDPT. Nói cách khác,
QLNN về GDPT phải tạo ra được những tác động tích cực cho quá trình nâng cao
chất lượng GDPT.
QLNN đối với GDPT là tổng thể hoạt động của các cơ quan QLNN nhằm
định hướng, điều tiết, tạo điều kiện, nâng cao chất lượng GD THPT đáp ứng các
mục tiêu về nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ.
Từ khái niệm trên, có thể thấy trong phạm vi hẹp QLNN đối với GDPT bao
gồm các nội dung sau:
Một là, tổ chức thực hiện chủ trương, chính sách GD&ĐT thông qua việc
thực hiện mục tiêu nội dung, kế hoạch GD và bảo đảm các quy chế chuyên môn, thi
cử… do Bộ trưởng Bộ GD&ĐT ban hành;
Hai là, quản lý đội ngũ sư phạm, sinh viên, cơ sở vật chất, tài chính…theo
các quy định của pháp luật;
Ba là, điều hành các hoạt động của nhà trường theo Điều lệ nhà trường, nội
quy nhà trường và giám sát sự tuân thủ đó.
Bốn là, kết hợp các hoạt động kiểm tra nội bộ trường học với thanh tra của
các cấp quán lý.
Trong khái niệm QLNN đối với GDPT nêu lên 3 bộ phận chính, đó là chủ
thể, khách thể và mục tiêu của GD&ĐT:
25
Chủ thể QLNN đối với GDPT là các cơ quan có thầm quyền (cơ quan lập
pháp, hành pháp).
Khách thể của QLNN đối với GDPT là hệ thống các trường trong bậc GDPT
và mọi hoạt động đào tạo và GD trong bậc GDPT.
1.2.2. Phân cấp quản lý nhà nƣớc đối với giáo dục phổ thông
1.2.2.1. Nguyên tắc phân cấp quản lý nhà nước đối với giáo dục phổ thông
Những nguyên tắc phân cấp QLNN đối với GDPT là những tư tưởng chỉ
đạo làm nền tảng cho tổ chức và hoạt động phân cấp QLNN đối với GDPT.
Tính hệ thống của các nguyên tắc phân cấp QLNN đối với GDPT được quy
định trước hết bởi tính thống nhất của hoạt động quản lý - một loại hoạt động cơ
bản của nhà nước ta và được điều phối từ một trung tâm là Chính phủ, đặt dưới sự
"điều chỉnh" và giám sát của Quốc hội và sự lãnh đạo của Đảng.
Nguyên tắc Đảng lãnh đạo
Vai trò lãnh đạo của Đảng được nhân dân thừa nhận và được ghi nhận tại
Điều 4 trong Hiến pháp của Nước Cộng hoà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Đảng lãnh đạo phân cấp QLNN đối với GDPT thông qua những cách thức
sau:
Thứ nhất, bằng các nghị quyết của các cơ quan Đảng ở các cấp, Đảng vạch
ra đường lối, chủ trương, nhiệm vụ cho QLNN phương hướng hoàn thiện hệ thống
các cơ quan quản lý về mặt tổ chức cơ cấu, cũng như các hình thức và phương pháp
hoạt động chung.
Thứ hai, Đảng lãnh đạo thông qua công tác cán bộ.
Đảng lãnh đạo phân cấp QLNN đối với GDPT nhưng không làm thay các
cơ quan chuyên trách.
Nguyên tắc nhân dân tham gia phân cấp phân cấp QLNN đối với GDPT:
Sự tham gia của nhân dân (cá nhân hoặc tập thể) vào quyền lực chính trị là
một trong những đặc trưng của chế độ dân chủ. Do đó phải xây dựng một cơ chế
bảo đảm thu hút đông đảo nhân dân tham gia phân cấp QLNN đối với GDPT. Nhân
26
dân có quyền tham gia phân cấp QLNN đối với GDPT một cách trực tiếp hoặc gián
tiếp.
Quyền tham gia trực tiếp thể hiện ở chỗ nhân dân được tham gia phúc quyết
những vấn đề lớn của đất nước và đóng góp ý kiến xây dựng Luật, kể cả Hiến pháp.
Bằng hình thức gián tiếp, thông qua cơ quan đại diện là Quốc hội, hội đồng
nhân dân các cấp bầu ra các cơ quan QLNN (Chính phủ, UBND các cấp); đồng thời
nhân dân còn tham gia quản lý HCNN một cách gián tiếp thông qua tổ chức chính
trị - xã hội.
Để thực hiện được nguyên tắc này phải thực hiện đúng phương châm "Dân
biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra" và thực hiện nghiêm túc quy chế dân chủ cơ
sở.
Nguyên tắc tập trung dân chủ:
Tập trung dân chủ là nguyên tắc quan trọng chỉ đạo mọi tổ chức hoạt động,
sinh hoạt nội bộ và phong cách làm việc của các cơ quan nhà nước.
Tập trung dân chủ là Nhà nước phải giữ quyền thống nhất quản lý những
vấn đề cơ bản ở cấp trung ương, đồng thời phải giao quyền hạn và trách nhiệm giải
quyết cho các địa phương, các ngành, tức là thực hiện phân cấp quản lý cho các cấp
các ngành. Trong tổ chức và hoạt động phân cấp QLNN đối với GDPT, hai mặt tập
trung và dân chủ là một hệ thống nhất không đối lập, hạn chế nhau.
Nguyên tắc kết hợp quản lý theo ngành với quản lý theo lãnh thổ:
Đây là nguyên tắc chung cho phân cấp QLNN trong mọi lĩnh vực trong đó
có phân cấp QLNN đối với GDPT.
Theo đó, quản lý ngành là sự chỉ đạo chuyên môn theo ngành dọc từ Bộ -
Sở - Phòng - Đơn vị. Quản lý theo lãnh thổ là quản lý theo cấp hành chính. Quản lý
ngành có chức năng, nhiệm vụ riêng, nhưng nó lại diễn ra trên một địa bàn cụ thể
nên phải xây dựng cơ chế phối hợp có hiệu quả.
1.2.2.2. Nội dung phân cấp quản lý nhà nước đối với giáo dục phổ thông
Điều 99 Luật GD quy định nội dung QLNN về GD bao gồm các hoạt động:
Xây dựng và chỉ đạo thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách phát
27
triển GD; ban hành và tổ chức thực hiện văn bản quy phạm pháp luật về GD; ban
hành điều lệ nhà trường; ban hành quy định về tổ chức và hoạt động của cơ sở GD
khác; quy định mục tiêu, chương trình, nội dung GD; tiêu chuẩn nhà giáo; tiêu
chuẩn cơ sở vật chất và thiết bị trường học; việc biên soạn, xuất bản, in và phát
hành sách giáo khoa, giáo trình; quy chế thi cử và cấp văn bằng, chứng chỉ; tổ chức,
quản lý việc bảo đảm chất lượng GD và kiểm định chất lượng GD; thực hiện công
tác thống kê, thông tin về tổ chức và hoạt động GD; tổ chức bộ máy quản lý GD; tổ
chức, chỉ đạo việc đào tạo, bồi dưỡng, quản lý nhà giáo và cán bộ quản lý GD; huy
động, quản lý, sử dụng các nguồn lực để phát triển sự nghiệp GD; tổ chức, quản lý
công tác nghiên cứu, ứng dụng khoa học, công nghệ trong lĩnh vực GD; tổ chức,
quản lý công tác hợp tác quốc tế về GD; quy định việc tặng danh hiệu vinh dự cho
người có nhiều công lao đối với sự nghiệp GD; thanh tra, kiểm tra việc chấp hành
pháp luật về GD; giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật
về GD.
Như vậy, QLNN về GDPT được thực hiện trên tất cả các mặt của hoạt động
GDPT: bộ máy, nhân sự, tài chính, chuyên môn,... Phân cấp là một nội dung quan
trọng trong thực hiện đổi mới quản lý GDPT, theo đó, phân cấp QLNN đối với
GDPT cũng được thực hiện trên những nội dung trên. Nội dung phân cấp QLNN
đối với GDPT được cụ thể hoá thông qua các mục tiêu, chức năng hoạt động cụ thể
của từng cơ quan HCNN, từng cấp, từng ngành và toàn hệ thống HCNN. Các cơ
quan HCNN với quyền hạn, thẩm quyền xác định, với cơ cấu tổ chức và đội ngũ
cán bộ, công chức tương ứng thực hiện chức năng hành pháp trong hành động trên
các lĩnh vực GDPT. Theo đó:
Phân cấp quản lý về bộ máy
Điều 100 – Luật GD quy định về cơ quan QLNN về GD bao gồm:
Chính phủ: thống nhất QLNN về GD. Chính phủ trình Quốc hội trước khi
quyết định những chủ trương lớn có ảnh hưởng đến quyền và nghĩa vụ học tập của
công dân trong phạm vi cả nước, những chủ trương về cải cách nội dung chương
28
trình của một cấp học; hằng năm báo cáo Quốc hội về hoạt động GD và việc thực
hiện ngân sách GD.
Bộ GD&ĐT: chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện QLNN về GD.
Bộ, cơ quan ngang bộ: phối hợp với Bộ GD&ĐT thực hiện QLNN về GD
theo thẩm quyền.
Uỷ ban nhân dân các cấp: thực hiện QLNN về GD theo sự phân cấp của
Chính phủ và có trách nhiệm bảo đảm các điều kiện về đội ngũ nhà giáo, tài chính,
cơ sở vật chất, thiết bị dạy học của các trường công lập thuộc phạm vi quản lý, đáp
ứng yêu cầu mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng và hiệu quả GD tại địa phương.
Như vậy hệ thống cơ quan QLNN bao gồm có: Chính phủ, Bộ GD&ĐT,
Bộ, cơ quan ngang Bộ có liên quan và UBND các cấp, Phòng và Sở GD&ĐT.
Trong đó, Chính phủ thống nhất QLNN về GD; Bộ GD&ĐT chịu trách nhiệm trước
Chính phủ thực hiện QLNN về GD; Bộ, cơ quan ngang Bộ phối hợp với Bộ
GD&ĐT thực hiện QLNN về GD theo thẩm quyền và UBND các cấp thực hiện
QLNN về GD&ĐT theo phân cấp được giao.
Để thực hiện các văn bản, chính sách của Nhà nước đối với các trường thì
Chính phủ, Quốc hội, Bộ GD&ĐT và các bộ liên ngành tạo thành hệ thống phân
cấp quản lý GD là “quá trình thiết kế lại hệ thống và các quy trình trách nhiệm,
quyền hạn và tính tự chịu trách nhiệm trong hệ thống GD. Việc thiết kế lại hệ thống
và quy trình này có nghĩa là: xác định lại và phân công lại các chức năng, nhiệm vụ
và quyền hạn của từng cấp (trung ương, tỉnh, huyện) cũng như quy trình quan hệ
trong công việc giữa các cấp khác nhau, giữa các cơ quan có liên quan thuộc khu
vực nhà nước và phi nhà nước”. [40, tr.28]
Phân cấp QLNN về GD&ĐT được quy định cụ thể tại: Hiến pháp năm
2013; Luật tổ chức Chính phủ năm 2015; Luật GD năm 2005; Luật Tổ chức chính
quyền địa phương năm 2015; Nghị định số 115/2010/NĐ-CP ngày 24 tháng 12 năm
2010 của Chính phủ quy định trách nhiệm QLNN về GD; Thông tư liên tịch số
21/2004/TTLT-BGDĐT-BNV ngày 23 tháng 7 năm 2004 của Bộ GD&ĐT và Bộ
29
Nội vụ hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của cơ quan
chuyên môn giúp UBND QLNN về GD&ĐT ở địa phương.
Hiện nay thẩm quyền quản lý GDPT là Quốc hội, Chính phủ và Bộ
GD&ĐT, cùng UBND cấp tỉnh/thành phố, Phòng và Sở GD&ĐT xác định rõ thẩm
quyền, trách nhiệm của các cơ quan QLNN trong lĩnh vực GD ở cấp trung ương với
địa phương. Theo đó, cơ quan QLNN về GD trung ương tập trung vào việc hoạch
định, xây dựng chính sách, quy hoạch mạng lưới cơ sở GD. Cơ quan QLNN địa
phương là UBND cấp tỉnh/thành phố xây dựng chiến lược, kế hoạch và thực thi
chính sách GD tại địa phương, khu vực trên cơ sở căn cứ chính sách, quy định và
điều kiện đặt thù của địa phương, vùng, miền.
Thiết chế tổ chức cơ quan chuyên môn QLNN về GD: quy định rõ vị trí,
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, thẩm quyền của cơ quan chuyên môn QLNN về
GD ở trung ương và địa phương, cơ chế phối hợp, hướng dẫn trong công tác QLNN
về GDPT.
Quy định khung về cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý cơ sở GD: Cơ quan
QLNN trung ương quy định khung cơ cấu tổ chức bộ máy cơ sở GD theo từng loại
hình, hạng trường, cơ sở GD phải xây dựng và thiết kế cơ cấu tổ chức bộ máy của
mình trình cơ quan QLNN theo thẩm quyền phê duyệt nhằm đảm bảo cơ cấu tổ
chức theo cơ cấu quy định đồng thời gắn với loại hình hoạt động của cơ sở GD.
Trên cơ sở các văn bản nêu trên, phân cấp về quản lý trong GD&ĐT được
thể hiện ở nhiệm vụ, quyền hạn của từng cơ quan QLNN về GD – đào tạo, đó là: Bộ
GD&ĐT và UBND các cấp, Sở và Phòng GD&ĐT.
Tóm lại, tổ chức bộ máy phân cấp về QLNN đối với GDPT cần đảm bảo:
Một là, về thẩm quyền quản lý: xác định rõ thẩm quyền, trách nhiệm của
các cơ quan QLNN trong lĩnh vực GD ở cấp trung ương với địa phương. Theo đó,
cơ quan QLNN về GD trung ương tập trung vào việc hoạch định, xây dựng chính
sách, quy hoạch mạng lưới cơ sở GDPT. Cơ quan QLNN địa phương xây dựng
chiến lược, kế hoạch và thực thi chính sách GDPT tại địa phương, khu vực trên cơ
sở căn cứ chính sách, quy định và điều kiện đặt thù của địa phương, vùng, miền.
30
Hai là, hoàn thiện thiết chế tổ chức cơ quan chuyên môn QLNN về GD:
quy định rõ vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, thẩm quyền của cơ quan chuyên
môn QLNN về GD ở trung ương và địa phương, cơ chế phối hợp, hướng dẫn trong
công tác QLNN về GDPT.
Ba là, quy định khung về cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý cơ sở GD: Cơ
quan QLNN trung ương quy định khung cơ cấu tổ chức bộ máy cơ sở GD theo từng
loại hình, hạng trường, cơ sở GD phải xây dựng và thiết kế cơ cấu tổ chức bộ máy
của mình trình cơ quan QLNN theo thẩm quyền phê duyệt nhằm đảm bảo cơ cấu tổ
chức theo cơ cấu quy định đồng thời gắn với loại hình hoạt động của cơ sở GD.
Phân cấp quản lý về nhân sự
Ban hành và tổ chức thực hiện văn bản quy phạm pháp luật về cán bộ, công
chức; Xây dựng kế hoạch, quy hoạch cán bộ, công chức; Quy định chức danh và cơ
cấu cán bộ; Quy định ngạch, chức danh, mã số công chức; mô tả, quy định vị trí
việc làm và cơ cấu công chức để xác định số lượng biên chế đối với công chức
trong các cơ quan, bộ, ban, ngành theo hàng dọc.
Về nhân sự của cơ quan QLNN: quy định rõ định mức biên chế, tiêu chuẩn
chuyên môn, nghiệp vụ theo vị trí việc làm trong cơ quan QLNN về GD để cơ quan
này được tuyển dụng theo yêu cầu công việc của mình đảm bảo đúng tiêu chuẩn và
quy trình quy định.
Về nhân sự cơ sở GD: Nhà nước quy định rõ vị trí việc làm, tiêu chuẩn
chuyên môn, nghiệp vụ của từng vị trí nhân sự trong hoạt động chuyên môn tại cơ
sở GD. Người đứng đầu cơ sở này thực hiện việc tuyển dụng nhân sự theo yêu cầu
công việc của đơn vị mình gắn với tiêu chuẩn chuyên môn, nghiệp vụ được quy
định, đồng thời chịu trách nhiệm toàn bộ kết quả hoạt động chuyên môn và chất
lượng nhân sự trước cơ quan QLNN.
Phân cấp quản lý về tài chính
Điều 101 – Luật GD quy định về nguồn tài chính đầu tư cho GD bao gồm:
Thứ nhất, ngân sách nhà nước: nhà nước dành ưu tiên hàng đầu cho việc bố
trí ngân sách GD, bảo đảm tỷ lệ tăng chi ngân sách GD hằng năm cao hơn tỷ lệ tăng
31
chi ngân sách nhà nước. Ngân sách nhà nước chi cho GD phải được phân bổ theo
nguyên tắc công khai, tập trung dân chủ; căn cứ vào quy mô GD, điều kiện phát
triển kinh tế - xã hội của từng vùng; thể hiện được chính sách ưu tiên của Nhà nước
đối với GD phổ cập, phát triển GD ở vùng dân tộc thiểu số và vùng có điều kiện
kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn. Cơ quan tài chính có trách nhiệm bố trí kinh phí
GD đầy đủ, kịp thời, phù hợp với tiến độ của năm học. Cơ quan quản lý GD có
trách nhiệm quản lý, sử dụng có hiệu quả phần ngân sách GD được giao và các
nguồn thu khác theo quy định của pháp luật.
Thứ hai, học phí, lệ phí tuyển sinh: là khoản tiền của gia đình người học
hoặc người học phải nộp để góp phần bảo đảm chi phí cho các hoạt động GD. Học
sinh tiểu học trường công lập không phải đóng học phí. Ngoài học phí và lệ phí
tuyển sinh, người học hoặc gia đình người học không phải đóng góp khoản tiền nào
khác. Chính phủ quy định cơ chế thu và sử dụng học phí đối với tất cả các loại hình
nhà trường và cơ sở GD khác. Bộ trưởng Bộ Tài chính phối hợp với Bộ trưởng Bộ
GD&ĐT, Thủ trưởng cơ quan QLNN về dạy nghề để quy định mức thu học phí, lệ
phí tuyển sinh đối với các cơ sở GD công lập trực thuộc trung ương. Hội đồng nhân
dân cấp tỉnh quy định mức thu học phí, lệ phí tuyển sinh đối với các cơ sở GD công
lập thuộc cấp tỉnh trên cơ sở đề nghị của Uỷ ban nhân dân cùng cấp. Cơ sở GD dân
lập, tư thục được quyền chủ động xây dựng mức thu học phí, lệ phí tuyển sinh
Thứ ba, các khoản thu từ hoạt động tư vấn, chuyển giao công nghệ, sản
xuất, kinh doanh, dịch vụ của các cơ sở GD; đầu tư của các tổ chức, cá nhân trong
nước và nước ngoài để phát triển GD; các khoản tài trợ khác của tổ chức, cá nhân
trong nước và nước ngoài theo quy định của pháp luật.
Bên cạnh đó Luật GD cũng quy định về ưu tiên tài chính và đất đai xây
dựng trường học (Điều 103) và khuyến khích đầu tư cho GD (Điều 104). Theo đó:
Bộ, cơ quan ngang bộ, Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân các cấp có trách
nhiệm đưa việc xây dựng trường học, các công trình thể dục, thể thao, văn hóa,
nghệ thuật phục vụ GD vào quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của
ngành và địa phương; ưu tiên đầu tư tài chính và đất đai cho việc xây dựng trường
32
học và ký túc xá cho học sinh, sinh viên trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội.
Nhà nước khuyến khích, tạo điều kiện cho tổ chức, cá nhân đầu tư, đóng góp trí tuệ,
công sức, tiền của cho GD. Các khoản đầu tư, đóng góp, tài trợ của doanh nghiệp
cho GD và các chi phí của doanh nghiệp để mở trường, lớp đào tạo tại doanh
nghiệp, phối hợp đào tạo với cơ sở GD, cử người đi đào tạo, tiếp thu công nghệ mới
phục vụ cho nhu cầu của doanh nghiệp là các khoản chi phí hợp lý, được trừ khi
tính thu nhập chịu thuế theo Luật thuế thu nhập doanh nghiệp. Các khoản đóng góp,
tài trợ của cá nhân cho GD được xem xét để miễn, giảm thuế thu nhập đối với người
có thu nhập cao theo quy định của Chính phủ. Tổ chức, cá nhân đầu tư xây dựng
công trình phục vụ cho GD; đóng góp, tài trợ, ủng hộ tiền hoặc hiện vật để phát
triển sự nghiệp GD được xem xét để ghi nhận bằng hình thức thích hợp.
Phân cấp QLNN về GDPT được tập trung các vấn đề:
Thứ nhất là, nhà nước quy định cơ chế quản lý tài chính trong hoạt động
GD&ĐT về học phí, kinh phí đóng góp, cơ chế, chính sách để thực hiện công tác xã
hội hóa GD.
Thứ hai là, giao cơ chế tự chủ tài chính đối với ngân sách cấp cho hoạt động
của cơ quan QLNN về GD địa phương.
Thứ ba là, giao quyền tự chủ về tài chính được cấp và nguồn thu khác theo
quy định cho cơ sở GD trong hoạt động chuyên môn.
Do vậy, nguồn tài chính từ đầu tư ngân sách nhà nước cần bổ sung và thiết
lập theo cấp học, được chú trọng vào các cơ sở vật chất trường lớp, đào tạo đội ngũ
cán bộ quản lý và đội ngũ giáo viên. Nhà nước quy định cơ chế quản lý tài chính
trong hoạt động GD&ĐT về học phí, kinh phí đóng góp, cơ chế, chính sách để thực
hiện công tác xã hội hóa GD và giao cơ chế tự chủ tài chính đối với ngân sách cấp
cho hoạt động của cơ quan QLNN về GD địa phương. Trong chính sách QLNN đối
GDPT, nhà nước đã giao quyền tự chủ về tài chính được cấp và nguồn thu khác
theo quy định cho cơ sở GD trong hoạt động chuyên môn. Nhà nước đã ban hành
một số văn bản về tài chính cũng như nguồn thu chi tại các cơ sở GD công lập hay
dân lập. Chính phủ có Nghị định số 16/2015/NĐ – CP quy định cơ chế tự chủ của
33
đơn vị sự nghiệp công lập trong đó đã quy định rõ về trách nhiệm QLNN với các
đơn vị sự nghiệp công lập và quy định tự chủ tài chính.
Phân cấp quản lý về chuyên môn (chƣơng trình, giáo trình, tài liệu
giảng dạy):
Chương trình dạy học là văn kiện có tính pháp qui do Nhà nước ban hành,
trong đó quy định một cách cụ thể: Vị trí, môn học trong kế hoạch dạy học; mục
đích yêu cầu của môn học (yêu cầu về tri thức, kỹ năng kỹ xảo, thái độ hành vi); nội
dung môn học (các phần, các chương, các bài); kế hoạch thời gian: số tiết dành cho
từng phần, từng chương, từng bài cũng như số tiết dành cho ôn tập, kiểm tra, thực
hành...; giải thích chương trình và hướng dẫn thực hiện chương trình.
Hiện nay chương trình GDPT do Bộ GD&ĐT ban hàng trên cơ sở đã xem
xét tính đặc thù vùng miền. Trên cơ sở đó Sở cùng Phòng GD&ĐT có thể triển khai
các hoạt động GD khác cho phù hợp với đặc điểm vùng miền, giáo viên và học sinh
thuộc địa bàn quản lý.
Phân cấp quản lý học sinh:
Quản lý học sinh là một nội dung quan trọng trong hoạt động GDPT và
QLNN đối với GDPT. Quản lý học sinh giúp điều khiển, tổ chức học sinh nắm
vững hệ thống tri thức khoa học phổ thông, cơ bản, hiện đại, phù hợp với thực tiễn
Việt Nam về tự nhiên xã hội – nhân văn, đồng thời rèn luyện cho các em hệ thống
kỹ năng, kỹ xảo tương ứng. Hoạt động học tập và kết quả học tập của học sinh là
hoạt động chủ đạo với mỗi học sinh khi tham gia học tập. Văn bản QLNN về GDPT
được Quốc hội, Bộ GD&ĐT ban hành, Sở và Phòng GD&ĐT ra chỉ thị riêng về
QLNN đối với học sinh trong hệ thống GDPT phù hợp với đặc thù trên địa bàn.
Quản lý học sinh bao gồm các vấn đề:
Một là, theo dõi, đánh giá ý thức học tập của học sinh; phân loại, xếp loại
học sinh cuối mỗi học kỳ, năm học, khoá học.
Hai là, điều khiển, tổ chức học sinh nắm vững hệ thống tri thức khoa học
phổ thông, cơ bản, hiện đại, phù hợp với thực tiễn Việt Nam về tự nhiên xã hội –
34
nhân văn, đồng thời rèn luyện cho các em hệ thống kỹ năng, kỹ xảo tương ứng.
Những tri thức hiện đại đó phải phù hợp với thực tiễn Việt Nam cũng như phù hợp
với đặc điểm lứa tuổi, đặc điểm hoạt động nhận thức của học sinh mà vẫn đảm bảo
được tính hệ thống, tính lôgíc khoa học và mối liên hệ chặt chẽ giữa các môn học.
Ba là, tổ chức, điều khiển học sinh hình thành phát triển năng lực và những
phẩm chất trí tuệ, đặc biệt là năng lực tư duy độc lập, sáng tạo. Năng lực hoạt động
trí tuệ được thể hiện ở năng lực vận dụng các thao tác trí tuệ, đặc biệt là các thao tác
tư duy. Quá trình chiếm lĩnh tri thức diễn ra thống nhất giữa một bên là nội dung
những tri thức với tư cách là “cái được phản ánh” và một bên là các thao tác trí tuệ
với tư cách là “phương thức phản ánh”. Như vậy, hệ thống tri thức được học sinh
lĩnh hội thông qua các thao tác trí tuệ của họ và ngược lại, chính các thao tác trí tuệ
cũng được hình thành và phát triển trong quá trình chiếm lĩnh tri thức rèn luyện kỹ
năng kỹ xảo.
Bốn là, tổ chức, điều khiển học sinh hình thành cơ sở thế giới quan khoa
học, những phẩm chất đạo đức nói riêng và phát triển nhân cách nói chung.
1.2.2.3. Các điều kiện bảo đảm phân cấp quản lý nhà nước đối với giáo dục phổ
thông
Thể chế QLNN tạo khuôn khổ pháp lý trao quyền tự chủ và bảo đảm trách
nhiệm xã hội của các trường phổ thông. Với vai trò chủ thể quản lý, nhà nước quyết
định trao quyền tự chủ phù hợp với năng lực thực hiện quyền tự chủ đối với các
trường phổ thông. Theo trình độ quản lý và yêu cầu thực tiễn, nhà nước xác lập
quyền tự chủ của đối với GDPT trong các lĩnh vực tổ chức và nhân sự, tài chính và
tài sản, đào tạo, khoa học và công nghệ, hợp tác quốc tế, bảo đảm chất lượng GD; tự
chủ quyết định phương thức tuyển sinh, chịu trách nhiệm về công tác tuyển sinh;
xác định chỉ tiêu tuyển sinh, chịu trách nhiệm công bố công khai chỉ tiêu tuyển sinh,
chất lượng đào tạo và các điều kiện bảo đảm chất lượng đào tạo; tự chủ, tự chịu
trách nhiệm trong việc xây dựng, thẩm định, ban hành chương trình đào tạo… Việc
giao quyền tự chủ, ban hành quy chế, quy định cho hoạt động GD&ĐT đi đúng định
hướng nhằm tạo điều kiện phát huy năng lực, nâng cao trách nhiệm xã hội của mỗi
35
cơ sở GD, nhằm khẳng định uy tín, năng lực và chất lượng đào tạo. Do đó, để phân
cấp QLNN về GDPT cần đảm bảo các điều kiện sau:
Một là, về nhận thức: cần đổi mới và nhận thức đúng bản chất của phân cấp
từ hai phía cơ quan QLNN cấp trên (cấp trao nhiệm vụ, quyền hạn, công việc) và cơ
quan cấp dưới (nhận nhiệm vụ, quyền hạn, và thực thi công việc).
Hai là, về năng lực: phân cấp QLNN đòi hỏi cả hai cấp trao và nhận quyền
đều phải có đầy đủ năng lực về nhận thức trong công tác quản lý, sử dụng quyền,
trách nhiệm trong quản lý theo hướng cấp trên phải “giao quyền gắn với trách
nhiệm, giao nhiệm vụ gắn với quyền hạn”.
Ba là, về thể chế: việc phân cấp QLNN chỉ được tiến hành và hoạt động
thuận lợi khi có hệ thống thể chế với các quy định cụ thể đầy đủ liên quan đến các
nội dung, lĩnh vực QLNN và nội dung lĩnh vực cần phân cấp quản lý.
Bốn là, về thiết chế tổ chức: tổ chức bộ máy QLNN được xây dựng, tổ chức
ổn định, phân định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, thẩm quyền, trách nhiệm
với cơ chế quản lý, phối hợp thông suốt, đồng bộ, trách nhiệm sẽ tạo điều kiện
thuận lợi cho phân cấp quản lý..
Năm là, về đội ngũ và tinh thần trách nhiệm: năng lực nhận thức, thực thi,
tinh thần trách nhiệm trong công việc của đội ngũ cán bộ QLNN, công chức chuyên
môn là yếu tố quyết định sự thành công của phân cấp QLNN đối với GDPT.
1.3. PHÂN CẤP QLNN ĐỐI VỚI GIÁO DỤC PHỔ THÔNG Ở MỘT SỐ ĐỊA
PHƢƠNG VÀ GIÁ TRỊ THAM KHẢO CHO KIÊN GIANG
1.3.1. Kinh nghiệm ở thành phố Hồ Chí Minh
Kinh nghiệm thành phố Hồ Chí Minh cho thấy để tăng trưởng kinh tế cần có
sự đồng bộ trong tiến trình phát triển, sự đồng bộ trong các yếu tố, các bộ phận cấu
thành lực lượng sản xuất, trong đó nhân tố quan trọng là đào tạo nguồn nhân lực:
“không một chính sách công nghệ nào có thể mang lại kết quả nếu không có chuyên
gia làm chủ và áp dụng kỹ thuật mới”.
Chính vì thế, trong xây dựng và phát triển kinh tế việc nâng cao chất lượng,
phát triển hệ thống trường phổ thông để tạo dựng nguồn nhân lực phải đi trước một
36
bước. Thành phố Hồ Chí Minh là một thành phố phát triển bậc nhất Nam Bộ. Trong
những năm vừa qua kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh luôn đạt ưu điểm nhất định,
tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm. Từ năm 2011 đến nay, thành phố cũng đạt mức
tăng trưởng kinh tế xấp xỉ 10%/năm, gấp 1,6 lần mức bình quân chung của cả nước.
GDP bình quân đầu người liên tục tăng nhanh, từ khoảng 700 USD giai đoạn 1995-
1996, đến năm 2014 đã đạt mức 5.131 USD.
Nguyên nhân cơ bản dẫn đến thành công này cũng chính là việc Thành phố
Hồ Chí Minh đã có những chiến lược, những chính sách hợp lý trong việc quản lý
đối với các cơ sở đào tạo chú trọng các trường phổ thông trên địa bàn. Tôn chỉ của
Thành phố Hồ Chí Minh đầu tư cho GD chính là một nguyên nhân dẫn đến thành
công của thành phố này.
Một nguyên nhân nữa dẫn đến thành công của Thành phố Hồ Chí Minh là do
việc xây dựng tạo hành lang pháp lý cho hoạt động đào tạo trên địa bàn. Bên cạnh
xu thế trẻ hoá đội ngũ giáo viên, Thành phố Hồ Chí Minh rất quan tâm xây dựng
các trường phổ thông đạt quy định trường chuẩn, phát triển mạnh đầu tư nước
ngoài, được bắt đầu từ việc xác lập công tác quy hoạch đào tạo, xây dựng bộ máy
đào tạo và cơ sở đào tạo đến việc thể chế hoá nguồn nhân lực.
1.3.2. Kinh nghiệm ở tỉnh Hải Phòng
Thành phố Hải Phòng nằm ở vị trí cửa ngõ phía Đông Bắc trên lưu vực đồng
bằng sông Hồng. Bờ biển Hải Phòng dài hơn 125 km, với 5 cửa sông lớn: Bạch
Đằng, Văn Úc, Cấm, Thái Bình, Lạch Tray. Địa hình bờ biển khúc khuỷu, quanh
co, tạo nhiều đảo, hang động đẹp và rất nhiều những bãi tắm tự nhiên kỳ thú, rất
thuận tiện để phát triển du lịch. Bán đảo Đồ Sơn, quần đảo Cát Bà, khu di tích lịch
sử và danh thắng Tràng Kênh. Cơ cấu kinh tế giai đoạn 2011 - 2020 tăng nhanh tỷ
trọng dịch vụ tạo ra một cơ cấu kinh tế bền vững và phù hợp với tiềm năng của tỉnh.
Hải Phòng đã áp dụng chiến lược phát triển công nghiệp và dịch vụ là động lực và
thực hiện chính sách xây dựng bộ máy hành chính gọn nhẹ, hữu hiệu.
Hải Phòng rất coi trọng phát triển GD, trong đó GD nền tảng GDPT, với
chính sách miễn thuế, cấp đất, tổ chức bồi dưỡng chuyên môn, trọng người tài. Đặc
37
biệt, tỉnh chỉ đạo trang bị và bổ sung kinh phí cho hoạt động GDPT để xây dựng
trường, thiết bị, sân bãi…
1.3. Giá trị tham khảo cho tỉnh Kiên Giang
Thứ nhất, cần xác định đúng vai trò và vị trí của GDPT trong phát triển kinh tế
- xã hội của tỉnh nhà. Trong tất cả các nguồn lực phát triển kinh tế, thì nguồn GDPT
luôn luôn đóng vai trò quan trọng đối với mọi hoạt động kinh tế, GD đặc biệt khi
mà khoa học đã thực sự trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp với sự phát triển
mạnh mẽ của nhiều ngành khoa học và công nghệ hiện đại, với hàm lượng chất xám
ngày càng chiếm tỷ lệ cao trong mỗi sản phẩm làm ra, con người càng tỏ rõ vai trò
quyết định của mình trong tiến trình phát triển.
Đặc biệt, đối với những nước kém phát triển thì nguồn nhân lực có chất lượng
là điều kiện để rút ngắn khoảng cách tụt hậu, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Bởi, quá
trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế đã tạo điều kiện thuận lợi và cơ hội cho các
nước đi sau có thể khắc phục sự yếu kém về trình độ khoa học - kỹ thuật, sự thiếu
hụt nguồn vốn nhưng để bảo đảm cho sự phát triển bền vững và rút ngắn khoảng
cách tụt hậu thì các nước này phải xây dựng được cho mình nền tảng GDPT, nhất là
nguồn nhân lực có chất lượng cao.
Thứ hai, để có GDPT đáp ứng yêu cầu phát triển, phải có hệ thống chính
sách đồng bộ, nhưng quan trọng nhất vẫn là chú trọng đầu tư cho GD, từ phổ thông
cho đến đại học và các trường nghề. Công tác đào tạo và phát triển giữ vị trí quyết
định đến chất lượng nguồn nhân lực.
Thứ ba, nâng cao hiệu quả quản lý và sử dụng nguồn nhân lực thông qua
việc đầu tư vào phát triển công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực ở các tổ
chức.
Thứ tư, tăng cường đầu tư xây dựng, nghiên cứu chính sách, quy mô, mô
hình cho GDPT. Từng bước hiện đại hoá các cơ sở này theo những tiêu chuẩn quốc
tế; đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp nghiên cứu, GD theo hướng của
các nước tiên tiến.
38
Thứ năm, QLNN đối với GDPT phải củng cố khả năng hội nhập quốc tế cũng
như khu vực trên cơ sở kế thừa và giữ vững những tinh hoa văn hoá dân tộc địa
phương. Do vậy, việc tăng cường học tập những kinh nghiệm quốc tế trong QLNN
về GDPT, phù hợp với truyền thống dân tộc và điều kiện phát triển kinh tế - xã hội
của tỉnh Kiên Giang.
39
Tiểu kết chƣơng 1
Trong chương 1, luận văn đã cơ bản giải quyết được các vấn đề lý luận về
phân cấp QLNN đối với GDPT. Bao gồm:
Thứ nhất, luận văn đã khái quát được những vấn đề chung nhất về phân cấp
QLNN như: khái niệm về phân cấp QLNN - phân biệt khái niệm phân cấp quản lý
với các khái niệm liên quan đến phi tập trung hóa như phân công, tản quyền, ủy
quyền, trao quyền trong QLNN; nguyên tắc và ý nghĩa của phân cấp QLNN.
Thứ hai, luận văn đề cập đến nội dung phân cấp QLNN đối với GDPT như:
khái niệm, vị trí, vai trò và mục tiêu của GDPT; khái niệm, chủ thể, đối tượng và
nội dung QLNN đối với GDPT; khái niệm phân cấp QLNN đối với GDPT, các
nguyên tắc, nội dung cũng như những điều kiện đảm bảo thực hiện phân cấp QLNN
đối với GDPT, đảm bảo hoạt động này được thực hiện một cách hiệu quả.
Thứ ba, luận văn đề cập đến hoạt động phân cấp QLNN đối với GDPT ở một
số địa phương như Thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng; từ đó nêu lên một số giá trị
tham khảo cho hoạt động phân cấp ở Kiên Giang.
40
Chƣơng 2
THỰC TRẠNG PHÂN CẤP QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC ĐỐI VỚI
GIÁO DỤC PHỔ THÔNG TẠI TỈNH KIÊN GIANG
2.1 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ GIÁO DỤC PHỔ THÔNG VÀ QUẢN LÝ
NHÀ NƢỚC ĐỐI VỚI GIÁO DỤC PHỔ THÔNG TẠI TỈNH KIÊN
GIANG
2.1.1. Tình hình kinh tế- xã hội tỉnh Kiên Giang
2.1.1.1. Về địa lý, tự nhiên
Vị trí địa lý: Kiên Giang nằm tận cùng phía tây nam của Việt Nam, trong đó
lãnh thổ bao gồm đất liền và hải đảo. Phần đất liền nằm trong tọa độ từ 9°23'50 -
10°32'30 vĩ Bắc và từ 104°26'40 - 105°32'40 kinh Đông. Phía Bắc giáp Campuchia,
đường biên giới dài 56,8 km, phía Nam giáp tỉnh Bạc Liêu và tỉnh Cà Mau, phía
Tây giáp vịnh Thái Lan với đường bờ biển dài 200 km, phía Đông lần lượt tiếp giáp
với các tỉnh là An Giang, thành phố Cần Thơ và tỉnh Hậu Giang. Phần hải đảo nằm
trong vịnh Thái Lan bao gồm hơn 100 hòn đảo lớn nhỏ, trong đó lớn nhất là đảo
Phú Quốc và xa nhất là quần đảo Thổ Chu, tập trung thành 5 quần đảo là quần đảo
Hải Tặc, quần đảo Bà Lụa, quần đảo An Thới, quần đảo Nam Du và quần đảo Thổ
Chu. Điểm cực Bắc thuộc địa phận xã Tân Khánh Hoà, huyện Giang Thành. Cực
Nam nằm ở xã Vinh Phong, huyện Vĩnh Thuận. Cực Tây tại xã Mỹ Đức, thị xã Hà
Tiên và điểm cực Đông nằm ở xã Hoà Lợi thuộc địa phận huyện Giồng Riềng.
Diện tích: 6.346,27 km2
Khí hậu: Kiên Giang có khí hậu nhiệt đới gió mùa, nóng ẩm quanh năm.
Mưa, bão tập trung vào từ tháng 8 đến tháng 10 với lượng mưa trung bình hàng năm là 2.146,8mm. Nhiệt độ trung bình hàng năm từ 26,4oC đến 28oC, tháng lạnh nhất là
tháng 12; không có hiện tượng sương muối xảy ra. Kiên Giang không chịu ảnh
hưởng trực tiếp của bão nhưng lượng nước mưa do bão chiếm một tỷ trọng đáng kể,
nhất là vào cuối mùa mưa. Điều kiện khí hậu thời tiết của Kiên Giang có những
41
thuận lợi cơ bản mà các tỉnh khác ở vùng đồng bằng sông Cửu Long không có được
như: ít thiên tai, không rét, không có bão đổ bộ trực tiếp, ánh sáng và nhiệt lượng
dồi dào, nên rất thuận lợi cho nhiều loại cây trồng và vật nuôi sinh trưởng.
2.1.1.2. Về cơ cấu kinh tế, tốc độ tăng trưởng
Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) 6 tháng đầu năm 2017 theo (giá so
sánh 2010) ước tính tăng 7,52% so với cùng kỳ năm 2016. Trong mức tăng chung,
khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản tăng 2,91%, đóng góp cho tăng trưởng
chung 1,11 điểm phần trăm, trong đó riêng lĩnh vực nông nghiệp tăng 1,18%; đóng
góp tăng trưởng 0,33 điểm phần trăm; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng
9,23%, đóng góp tăng trưởng chung 1,77 điểm phần trăm; khu vực dịch vụ tăng
10,94%, đóng góp tăng trưởng chung 4,34 điểm phần trăm; Thuế nhập khẩu, thuế
sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm tăng 10,32%, đóng góp tăng trưởng chung 0,30 điểm
phần trăm.
Khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản: Tổng giá trị tăng thêm (VA) ước
tính: 9.551,57 tỷ đồng, đạt 45,91% kế hoạch, tăng 2,91% so cùng kỳ, đóng góp
tăng trưởng chung khu vực I là 1,11 điểm phần trăm, trong đó: Giá trị tăng thêm
của ngành nông nghiệp là 6.790,88 tỷ đồng, đạt 47,70% kế hoạch, tăng 1,18% so
cùng kỳ, đóng góp tăng trưởng 0,33 điểm phần trăm; lĩnh vực thủy sản giá trị tăng
thêm ước thực hiện 2.680,29 tỷ đồng, đạt 41,93% kế hoạch, tăng 7,11% so cùng kỳ
năm trước, đóng góp tăng trưởng là 0,73 điểm phần trăm.
Khu vực công nghiệp và xây dựng: Tổng giá trị tăng thêm ước tính 5.063,58
tỷ đồng, đạt 45,34% kế hoạch, tăng 9,23%, đóng góp tăng trưởng chung khu vực II
là 1,77 điểm phần trăm, trong đó lĩnh vực công nghiệp giá trị tăng thêm ước
3.060,60 tỷ đồng, đạt 43,70% kế hoạch, tăng 7,71% so cùng kỳ, đóng góp tăng
trưởng là 0,90 điểm phần trăm; giá trị tăng thêm ngành xây dựng 2.002,98 tỷ đồng,
đạt 48,09% kế hoạch, tăng 11,64% so cùng kỳ, đóng góp tăng trưởng trong khu vực
II 0,86 điểm phần trăm.
Khu vực dịch vụ: Tổng giá trị tăng thêm ước 10.671,63 tỷ đồng, đạt 50,45%
kế hoạch, tăng 10,94% so cùng kỳ, đóng góp tăng trưởng chung là 4,34 điểm phần
42
trăm, trong đó tăng cao nhất thuộc các ngành thương mại, dịch vụ ăn uống và du
lịch, vận tải... còn lại các ngành dịch vụ khác có mức tăng trưởng đều cao hơn mức
chung. Đây là khu vực đóng góp cho tăng trưởng kinh tế cao nhất.
2.1.1.3. Đặc điểm dân số và văn hóa xã hội
Dân số: Tính đến năm 2012, dân số Kiên Giang đạt gần 1.726.200
người. Mật độ dân số: 272 người/km². Trong đó dân số tại thành thị đat gần 471.200
người, dân số sống tại nông thôn đạt 1.726.200 người.
Văn hóa xã hội: Kiên Giang có 13 huyện, 01 thành phố và 01 thị xã (thành
phố Rạch Giá và thị xã Hà Tiên) với hơn 1,7 triệu dân. Gồm 84,8% là người Kinh,
12,1% là ngườI Khmer, 2,9% là người Hoa, 0,2% là người các dân tộc khác. Nam
49,03%, nữ 50,97%. Thành thị 21,86%, nông thôn 78,14%. Tỷ lệ tăng dân số tự
nhiên 15,20%. Kiên Giang là vùng đất trù phú với thế mạnh kinh tế là nông, lâm,
thủy hải sản, công nghiệp và xây dựng và các ngành dịch vụ khác.
Giáo dục - đào tạo: Năm học 2016-2017 đã kết thúc, toàn tỉnh hiện có 671
trường, tăng 22 trường so với năm học trước, (bao gồm: 154 trường mầm non, tăng
18 trường; Tiểu học: 296 trường; Trung học cơ sở: 124 trường, tăng 02 trường; Phổ
thông cơ sở 45 trường, tăng 01 trường; THPT 52 trường, tăng 01 trường và GDTX
15 trường, không tăng giảm); hệ GDPT huy động được 11.754 lớp học và 335.806
học sinh (tăng 3.901 học sinh); tổng số giáo viên 18.767 người, tăng 1,16% (tăng
216 giáo viên) so năm học trước, (bao gồm: 2.330 giáo viên mầm non, tăng 250
giáo viên; 8.993 giáo viên tiểu học, giảm 61 giáo viên; 5.339 giáo viên trung học cơ
sở, tăng 33 giáo viên và 2.105 giáo viên THPT, giảm 6 giáo viên).
Hoàn thành chương trình kiên cố hóa trường lớp (giai đoạn II) và thay thế số
phòng học xuống cấp nặng, đảm bảo yêu cầu học tập cho học sinh. Củng cố, kiện
toàn nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên; đổi mới quản lý GD. Đẩy mạnh công
tác đào tạo, phát triển nguồn nhân lực của tỉnh. Trước hết, tăng cường đào tạo nghề
cho lực lượng lao động phổ thông, đào tạo các ngành nghề phục vụ cho tiềm năng,
thế mạnh của tỉnh và đào tạo đón đầu cho các khu công nghiệp, khu du lịch sắp hình
thành.
43
Từ khái quát trên có thể thấy, Kiên Giang là vùng địa lí tự nhiên phức tạp,
rộng lớn; dân số các dân tộc chiếm tỷ lệ khá lớn trong lực lượng dân cư; kinh tế - xã
hội chậm phát triển; tỉ lệ lao động qua đào tạo thấp; tỉ lệ hộ nghèo, cận nghèo cao,
đời sống vật chất và tinh thần của cộng đồng các dân tộc còn nhiều khó khăn, những
phong tục, tập quán lạc hậu vẫn còn hiện hữu trong đời sống tinh thần của cộng
đồng các dân tộc thiểu số,… Đây là những yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát
triển GD&ĐT nói chung và phân cấp quản lý GDPT tại tỉnh nói riêng.
2.1.2. Tình hình giáo dục phổ thông tại tỉnh Kiên Giang
2.1.2.1. Mạng lưới và phân bổ trường trong hệ thống giáo dục phổ thông
GDPT cung cấp những kiến thức phổ thông, cơ bản ban đầu giúp tuổi trẻ có
thể tiếp tục học nghề hoặc học lên trung cấp, cao đẳng, đại học. Đây là lực lượng
chủ lực, nòng cốt của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, của phát
triển đất nước trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế.
Cùng với những thành tựu về kinh tế - xã hội của đất nước, sự nghiệp
GD&ĐT của tỉnh Kiên Giang đã được quan tâm chăm lo phát triển và đã đạt được
những kết quả tốt. Quy mô trường lớp phát triển rộng khắp đến các địa bàn dân cư
với việc đa dạng hóa các loại hình trường lớp đã đáp ứng được nhu cầu học tập của
nhân dân.
Hiện nay trên địa bàn tỉnh Kiên Giang có 532 trường trong hệ thống GDPT
bao gồm: GD tiểu học 296 trường; phổ thông cơ sở 45 trường; trung học cơ sở 124
trường; GDPT 52 trường; GD thường xuyên 15 trung tâm. Các điểm trường chủ yếu
tập trung thị trấn, thành phố. Với số lượng các trường như trên cho thấy, còn số
lượng các cơ sở GDPT trong hệ thống GD của tỉnh còn hạn chế và chỉ tập trung chủ
yếu tại thành phố của tỉnh. Yếu tố khách quan này sẽ ảnh hưởng đến hiệu quả GD,
khi sỉ số của 1 lớp đông làm cho hiệu quả quản lý, tổ chức các hoạt động GD hay
học tập sẽ khó khăn.
2.1.2.2. Quy mô trường lớp
Cùng với những thành tựu về kinh tế - xã hội của đất nước, sự nghiệp
GD&ĐT của tỉnh Kiên Giang đã được quan tâm chăm lo phát triển và đã đạt được
44
những kết quả tốt. Quy mô trường lớp phát triển rộng khắp đến các địa bàn dân cư
với việc đa dạng hóa các loại hình trường lớp đã đáp ứng được nhu cầu học tập của
nhân dân.
Bảng 2.1. Thực trạng quy mô trƣờng lớp GDPT Tỉnh Kiên Giang
Bậc học Số lớp Tỷ lệ (%)
Tiểu học Trung học cơ sở THPT Trung tâm GD thường xuyên
62,63 27,26 9,38 0,73 TỔNG 6.374 2.774 955 74 10.177 (Nguồn: Sở GD&ĐT tỉnh Kiên Giang)
Phân tích các chỉ số ở bảng trên ta thấy: số trường, số lớp đã phân bố rộng
khắp trên địa bàn tỉnh và bậc GD tiểu học có tỷ lệ lớp cao nhất sau đó đến bậc trung
học cơ sở. Bậc THPT có tỷ lệ thấp nhất, điều đó cho thấy tỷ lệ học sinh tốt nghiệp
THPT thấp và số lượng học sinh theo học THPT còn chưa nhiều, số lượng học sinh
bỏ học giữa chừng còn nhiều.
2.1.2.3. Thực trạng quy mô học sinh
Phân cấp QLNN về GDPT có hiệu quả hay không được đánh giá qua tiêu chí
rất quan trọng là chất lượng GD. Chất lượng đào tạo phải được nhìn nhận từ hai
phía, chủ quan và khách quan. Về phía chủ quan, đó là mức độ đạt tới mục tiêu đào
tạo của cơ sở đào tạo. Trong phạm vi đề tài cho phép, tôi tổng kết số lượng học sinh
qua các cấp học như sau:
Bảng 2.2. Thực trạng số lƣợng học sinh GDPT tỉnh Kiên Giang
Bậc học
Tiểu học Trung học cơ sở THPT Trung tâm GD thường xuyên
Tỷ lệ(%) 54,33 32,56 12,40 0,71 TỔNG Số học sinh 158.037 94.705 36.061 2.064 290.867
(Nguồn: Sở GD&ĐT tỉnh Kiên Giang)
Về số lượng, học sinh GDPT tỉnh Kiên Giang được phân giải các cấp học.
Trong đó, tỷ lệ học sinh tiểu học chiếm tỷ lệ 54,33% cao nhất trong đó hệ GD
thường xuyên chiếm tỷ lệ thấp 0,71%. Đặc biệt sự mất cân đối giữa cấp học trung
45
học cơ sở và THPT chênh lệnh tỷ lệ khá lớn. Điều đó cho thấy, cơ chế quản lý
GDPT tại tỉnh Kiên Giang còn hạn chế.
2.1.2.4. Cơ cấu, trình độ đội ngũ
Bảng 2.3. Thực trạng số lƣợng giáo viên GDPT tỉnh Kiên Giang
Bậc học
Tiểu học Trung học cơ sở THPT Trung tâm GD thường xuyên
Tỷ lệ (%) 53,99 32,05 12,64 1,33 TỔNG Số giáo viên 8.993 5.339 2.105 221 16.658
(Nguồn: Sở GD&ĐT tỉnh Kiên Giang)
Tổng số giáo viên là 16.658 người, cơ bản đảm bảo số lượng. Tuy nhiên, thực
tế hiện nay, vẫn còn tình trạng mất cân đối, không đồng bộ trong cơ cấu đội ngũ ở
các địa bàn khác nhau (thừa giáo viên ở thị trấn, thiếu giáo viên ở những vùng khó
khăn), theo môn học (thừa giáo viên dạy văn hóa, thiếu giáo viên dạy các môn đặc
thù).
2.1.3. Tình hình quản lý nhà nƣớc đối với giáo dục phổ thông ở Kiên Giang
Qua khảo sát cho thấy, nhìn chung GDPT đã đạt được những thành tựu quan
trọng, góp phần thực hiện nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài
cho đất nước; đã hoàn thành mục tiêu xóa mù chữ, củng cố và nâng cao chất lượng
phổ cập GD tiểu học, phổ cập GD trung học cơ sở. Hệ thống văn bản quy phạm
pháp luật được ban hành tương đối đầy đủ, đã từng bước thể chế hóa các chủ
trương, quan điểm lớn của Uỷ ban nhân dân tỉnh Kiên Giang về GD, tạo hành lang
pháp lý cho GDPT phát triển. Quy mô và mạng lưới GDPT phát triển nhanh và khá
đa dạng về loại hình trường, cơ bản đáp ứng được nhu cầu học tập của học sinh.
Chương trình, sách giáo khoa GDPT về cơ bản đã thể hiện được quan điểm, đường
lối đổi mới GD của Đảng và Nhà nước, bước đầu thể hiện được quan điểm dạy học
phân hóa, tích hợp và tính liên thông, có nhiều tiến bộ về nội dung và hình thức
trình bày. Đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý GD đã có bước phát triển cả về số
lượng, trình độ và cơ cấu chuyên môn. Đầu tư cho GD được ưu tiên, cơ sở vật chất
46
nhà trường từng bước được cải thiện, nâng cấp theo hướng chuẩn hóa. Xã hội hóa
GD được đẩy mạnh. Công bằng xã hội trong GD được thực hiện tốt hơn.
Từ khái quát về đặc điểm kinh tế, xã hội tỉnh Kiên Giang với vị trí địa lý và
đặc điểm kinh tế - xã hội đã có một số thuận lợi nhưng cũng không ít những khó
khăn như: chuyển dịch kinh tế còn chậm, tỷ trọng thương mại dịch vụ còn thấp. Tốc
độ tăng trưởng chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế. Đời sống của nhân dân vùng
sâu, vùng xa còn nhiều khó khăn. Chất lượng GD chưa vững chắc, trang thiết bị dạy
và học còn thiếu, chưa đáp ứng được so với yêu cầu. Công tác xã hội hóa GD còn
hạn chế và chưa đều khắp. Công tác triển khai thực hiện kế hoạch xây dựng trường
đạt chuẩn quốc gia còn gặp nhiều khó khăn do nguồn vốn đầu tư không đảm bảo.
Các điều kiện cơ sở vật chất và trang thiết bị dạy học chưa đồng bộ ảnh hưởng đến
nâng cao chất lượng GD toàn diện và làm hạn chế chất lượng GDPT.
Tóm lại, từ những đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội và GDPT có thể rút ra
nhận xét về GDPT như sau:
Tỷ lệ học sinh học THPT và GD thường xuyên còn thấp. Yếu tố này do
nhiều nguyên nhân, trong đó có 2 nguyên nhân chủ yếu là kinh tế - xã hội chậm
phát triển và phong tục, tập quán lạc hậu vẫn còn hiện hữu trong đời sống của cộng
đồng các dân tộc như: lao động sớm đối với trẻ em gái; lấy vợ, lấy chồng sớm,...
Giáo viên GDPT cơ bản đảm bảo về số lượng. Về trình độ đào tạo, tỷ lệ nhà
giáo đạt chuẩn và trên chuẩn về trình độ đào tạo. Điều này chứng tỏ sự quan tâm
đầu tư đào tạo, bồi dưỡng để nâng chuẩn, nâng cao chất lượng đội ngũ của tỉnh. Tuy
nhiên, một thực tế không thể phủ nhận là giữa năng lực giảng dạy và trình độ đào
tạo của một bộ phận nhà giáo vẫn chưa tương xứng... Một số nhà giáo trình độ trên
chuẩn nhưng hạn chế về chuyên môn, kỹ năng sư phạm, tinh thần trách nhiệm và
đạo đức nhà giáo, chậm thích ứng với việc đổi mới, nên khó đáp ứng được yêu cầu
của thực tiễn.
Công tác quy hoạch phát triển mạng lưới cơ sở GDPT còn chậm, chưa theo
kịp yêu cầu ngày càng cao và sự đổi thay của cuộc sống, thời gian đầu chưa có quy
hoạch, việc xây dựng các cơ sở GD còn mang tính tự phát, tùy thuộc vào điều kiện
47
của từng địa phương. Nguồn kinh phí hạn hẹp, không đủ đáp ứng nhu cầu phát triển
nhà trường, dẫn đến việc phân bổ, đầu tư dàn trải, thiếu đồng bộ. Một số địa phương
khi tiến hành quy hoạch mạng lưới cơ sở GDPT chưa dự báo được khả năng biến
động về quy mô dân số trong độ tuổi đi học dẫn tới tình trạng nhiều cơ sở GD có
quá ít học sinh, quy mô số lớp nhỏ nên khó đầu tư để chuẩn hóa cơ sở vật chất.
Bên cạnh đó chất lượng GDPT nhìn chung vẫn chưa đáp ứng được mục tiêu
GD cũng như yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và còn thấp so với
nhiều nước trong khu vực và trên thế giới. Việc ban hành văn bản quy phạm pháp
luật nói chung còn chậm tiến độ, chưa đồng bộ, một số quy định thiếu tính cụ thể,
khả thi. Các loại hình GD chuyên biệt, ngoài công lập, chất lượng cao, có yếu tố
nước ngoài chưa bám sát định hướng, mục tiêu đề ra và còn bất cập về cơ chế hoạt
động và quản lý. Chương trình, sách giáo khoa còn thiên về truyền đạt kiến thức,
chưa chú trọng đúng mức việc rèn luyện tư duy sáng tạo và năng lực tự học, chưa
cân đối dạy kiến thức với GD đạo đức, lối sống, lịch sử, văn hóa dân tộc cũng như
định hướng nghề nghiệp. Chất lượng đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý GD vẫn
chưa đáp ứng được yêu cầu triển khai chương trình, sách giáo khoa mới nói riêng và
bảo đảm chất lượng GD nói chung. Đầu tư cho GDPT vẫn còn dàn trãi, bình quân,
chưa phù hợp với sự chuyển đổi kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Còn thiếu những cơ chế, chính sách nhằm huy động có hiệu quả các nguồn lực xã
hội cho GD và định hướng các cơ sở GDPT phát triển theo đúng mục tiêu, hợp quy
luật. Cơ sở vật chất, trang thiết bị ở nhiều trường học còn thiếu đồng bộ, chưa bám
sát và chưa đáp ứng được yêu cầu của việc thực hiện chương trình, sách giáo khoa
mới, hiệu quả sử dụng còn hạn chế.
Những hạn chế, tồn tại nêu trên về phân cấp QLNN đối với GDPT tại tỉnh
Kiên Giang là thách thức rất lớn đặt ra. Chính thực tế này là cơ sở để thúc đẩy
chúng tôi nên có giải pháp tích cực phát huy vai trò của phân cấp QLNN đối với
GDPT tại tỉnh Kiên Giang. Việc có giải pháp thiết thực, kịp thời nhằm nâng cao
chất lượng công tác bồi dưỡng đội ngũ này là vô cùng cần thiết. Không chỉ có tính
48
cấp bách, cần thiết đối với GDPT còn vừa có tính chiến lược, có tầm quan trọng đặc
biệt trong việc nâng cao kinh tế - xã hội của tỉnh.
2.2. THỰC HIỆN PHÂN CẤP QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC ĐỐI VỚI GIÁO DỤC
PHỔ THÔNG TẠI TỈNH KIÊN GIANG
2.2.1. Phân cấp quản lý về bộ máy
Bộ máy được tổ chức thống nhất từ trung ương đến địa phương. Theo Nghị
định 115/2010/NĐ-CP ngày 24/12/2010 của Thủ tướng Chính phủ quy định trách
nhiệm QLNN về GD, đối với GDPT, trách nhiệm quản lý của các cấp chính quyền
được quy định rõ: Bộ GD&ĐT, UBND cấp tỉnh, Sở GD&ĐT, UBND cấp huyện,
Phòng GD&ĐT. Chiến lược phát triển GD năm 2011- 2020 đã định hướng sự phát
triển của GDPT theo hướng hoàn thiện cơ cấu hệ thống GD, trong đó GDPT tỉnh
Kiên Giang cũng như cả nước. Định hướng chiến lược này là cơ sở quan trọng để
đổi mới hệ thống GDPT, đổi mới mục tiêu, chương trình nhằm đáp ứng yêu cầu xây
dựng con người xã hội chủ nghĩa. Do vậy, việc nghiên cứu mức độ hài về việc về
phân cấp quản lý bộ máy về GDPT tại tỉnh Kiên Giang có ý nghĩa quan trọng trong
QLNN đối với các GDPT hiện nay.
Bảng 2.5: Phân cấp quản lý về bộ máy
Mức độ thực hiện
Thứ Không hài Rất hài TT Tổ chức bộ máy trong QLNN Ít hài lòng Hài lòng bậc lòng lòng
SL % SL % SL % SL %
Xây dựng cơ chế, chính sách cho 1 30 10.0 94 31.3 118 39.3 88 29.3 2.80 7 hoạt động GDPT
Quy định rõ vị trí, chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn, thẩm quyền 2 30 10.0 55 18.3 108 36.0 137 45.7 3.07 1 của cơ quan chuyên môn QLNN
về GD ở trung ương và địa phương
3 Quy định trách nhiệm cũng như 30 10.0 70 23.3 98 32.7 132 44.0 3.01 2
49
phân định nhiệm vụ các cơ quan
ngang Bộ trong QLNN đối với
GDPT
Quy định về tổ chức, nhiệm vụ,
quyền hạn của cơ sở GDPT, hoạt
động khoa học và công nghệ, hoạt
4 động hợp tác quốc tế, bảo đảm 30 10.0 80 26.7 88 29.3 132 44.0 2.98 3
chất lượng GD, người học, tài
chính, chế độ làm việc với giáo
viên
Quy định nhiệm vụ và quyền hạn;
tổ chức và quản lý các trường phổ 5 27 9.0 99 33.0 109 36.3 95 31.7 2.82 6 thông; hoạt động GDPT; giáo viên
và người học; tài chính và tài sản
Xây dựng và ban hành thông tư
hướng dẫn thực hiện quyền tự chủ,
tự chịu trách nhiệm về thực hiện 6 50 16.7 59 19.7 106 35.3 118 39.3 2.90 4 nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên
chế đối với đơn vị sự nghiệp công
lập GD&ĐT
Xác định và phân công các chức
7 năng, nhiệm vụ và quyền hạn của 0.0 89 29.7 86 28.7 125 41.7 2.84 5
từng cấp (trung ương, tỉnh, trường)
Cơ quan QLNN trung ương quy
định khung cơ cấu tổ chức bộ máy 8 57 80 26.7 120 40.0 73 24.3 2.63 9 cơ sở GD theo từng loại hình, hạng
trường
Cơ sở GD phải xây dựng và thiết 9 85 28.3 60 20.0 90 30.0 95 31.7 2.59 8 kế cơ cấu tổ chức bộ máy của
50
mình trình cơ quan QLNN theo
thẩm quyền phê duyệt nhằm đảm
bảo cơ cấu tổ chức theo cơ cấu quy
định đồng thời gắn với loại hình
hoạt động của cơ sở GD.
Ban hành và tổ chức thực hiện văn
10 bản quy phạm pháp luật về cán bộ, 96 32.0 100 33.3 66 22.0 68 22.7 2.32 10
công chức
TRUNG BÌNH 12.6 26.2 32.9 35.4 2.79
Bảng số liệu với 10 nội dung cơ bản đánh giá mức độ hài lòng của cán bộ,
giáo viên của các trường trong hệ thống GDPT tại tỉnh Kiên Giang được đánh giá
mức độ ít hài lòng đến hài lòng, điểm trung bình từ 2.79 (Min = 1, Max = 4). Trong
đó, “Quy định rõ vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, thẩm quyền của cơ quan
chuyên môn QLNN về GD ở trung ương và địa phương” có trị trung bình cao nhất
( = 2.79). Xếp thứ 2 với điểm trung bình = 3.01 là nội dung “Quy định trách
nhiệm cũng như phân định nhiệm vụ các cơ quan ngang Bộ trong QLNN đối với
GDPT”.
Thực trạng hiện nay tổ chức bộ máy QLNN về phân cấp quản lý đối GDPT
tại tỉnh Kiên Giang, UBND tỉnh cũng như Sở GD&DT đã đưa ra văn bản quy định
về vấn đề này trên cơ sở những quy định chung của pháp luật có liên quan. Trong
đó UBND tỉnh đã ban hành công văn số 468/UBND-NCPC ngày 02/5/2012 hướng
dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức của Phòng GD&ĐT thuộc UBND
huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh Kiên Giang. Sở GD&ĐT tỉnh ban hành Quyết
định số 487/QD-SGĐT, ngày 22 tháng 4 năm 2013 về chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạng của các đơn vị giúp Giám đốc thực hiện chức năng QLNN thuộc Sở GD&ĐT
tỉnh kiên Giang,. Cũng trong phạm vi quy đinh chức năng QLNN đối với GDPTT,
UBND tỉnh Kiên Giang ra Quyết định số 976/QD-UBND, Quyết định về quy định
51
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Sở GD&ĐT tỉnh Kiên
Giang. Từ các văn bản trên có thể thấy:
Thứ nhất, UBND cấp tỉnh: chỉ đạo, hướng dẫn Sở GD và Đào tao và Phòng
GD&ĐT thực hiện quy hoạch, kế hoạch, tuyển chọn, sử dụng, đánh giá, luân
chuyển, đào tạo, bồi dưỡng, thực hiện chính sách đối với giáo viên; bảo đảm đủ
biên chế sự nghiệp.
Thứ hai, Sở GD&ĐT: hướng dẫn, tổ chức thực hiện, kiểm tra, thanh tra việc
thực hiện chương trình GDPT, tuyển chọn, sử dụng, luân chuyển, biệt phái, đào tạo,
đào tạo lại, bồi dưỡng, thực hiện chính sách đối với giáo viên.
Thứ ba, các cơ sở GDPT: tổ chức giảng dạy, học tập và các hoạt động GD
khác theo mục tiêu, chương trình GDPT do Bộ trưởng Bộ GD&ĐT ban hành; quản
lý giáo viên; tổ chức cho giáo viên tham gia hoạt động xã hội.
Thứ tư, sở Nội vụ là cơ quan quản lý công chức, viên chức của tỉnh. Sở Nội
vụ phối hợp với sở GD&ĐT trong tuyển dụng giáo viên trong hệ thống GDPT theo
kế hoạch được UBND tỉnh phê duyệt.
Bên cạnh mặt tích cực. Kết quả khảo sát còn hạn chế về các chính sách, văn
bản pháp quy về cơ quan QLNN trung ương quy định khung cơ cấu tổ chức bộ máy
cơ sở GD theo từng loại hình, hạng trường; cơ sở GD phải xây dựng và thiết kế cơ
cấu tổ chức bộ máy của mình trình cơ quan QLNN theo thẩm quyền phê duyệt nhằm
đảm bảo cơ cấu tổ chức theo cơ cấu quy định đồng thời gắn với loại hình hoạt động
của cơ sở GD; ban hành và tổ chức thực hiện văn bản quy phạm pháp luật về cán
bộ, công chức chưa được hài lòng về các nội dung trên. Thực tế cho thấy, mặc dù
Chính phủ, Nhà nước đã ban hành các văn bản và Bộ GD&ĐT chủ trì thực hiện,
trong đó các văn bản phân cấp về đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý trong GDPT,
chính sách GDPT còn bấp cập về thể chế:
Thứ nhất, bấp cập về phân cấp tổ chức bộ máy về nhiệm vụ, quyền hạn:
Ở cấp trung ương, Bộ GD&ĐT thực hiện chức năng QLNN về GD&ĐT
thuộc hệ thống GD quốc dân. Theo Quyết định số: 2439/QĐ-BGDĐT ngày
52
16/06/2010 của Bộ trưởng Bộ GD&ĐT quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
và cơ cấu tổ chức của các đơn vị giúp Bộ trưởng thực hiện chức năng QLNN.
Ở cấp địa phương, tổ chức bộ máy dần hình thành và hoàn thiện. Sở
GD&ĐT đã chủ động, tích cực tham mưu phân cấp quản lý theo Nghị định
115/2010/NĐ-CP về trách nhiệm quản lý GD và Thông tư liên tịch 47/2011/TTLT-
BGDĐT-BNV hướng dẫn về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức và
biên chế của Sở GD&ĐT thuộc UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương,
Phòng GD&ĐT thuộc UBND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh; xây dựng,
ban hành được Quy chế phối hợp giữa ngành GD với UBND các huyện, thành, thị
về quản lý GD&ĐT. Tuy nhiên, hiện tại tỉnh Kiên Giang mới ban hành Quyết định
quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức và biên chế của Sở
GD&ĐT, và Phòng GD&ĐT, việc phân cấp về quản lý nhân sự của bộ máy còn
thiếu minh bạch.
Thứ hai, trong thời gian qua, thực hiện đổi mới và nâng cao chất lượng
GDPT, quá trình biên soạn chương trình chính sách GDPT và sách hướng dẫn thực
hiện chương trình, Bộ GD&ĐT đã chỉ đạo lấy ý kiến của các chuyên gia, cán bộ
quản lý các cấp, giảng viên của 64 tỉnh thành trong cả nước (qua nhiều vòng). Vì
vậy, bộ chương trình chính sách GDPT và sách hướng dẫn thực hiện chương trình
được các địa phương đánh giá phù hợp thực tế. Tuy nhiên, việc xây dựng chương
trình, nội dung môn học do Bộ GD&ĐT chủ trì, tuy nhiên mỗi vùng lãnh thổ có đặc
điểm văn hóa, xã hội, kinh tế đặc thù riêng, việc “áp đặt”, “mô típ” chung về 1
chương trình, nội dung cho tất cả các trường Bắc-Trung-Nam chưa sát thực tế (đối
với cấp THPT). Có thể thấy, để ban hành chính sách, chương trình GDPT trên địa
bàn tỉnh, cần có sự phối hợp giữa cơ quan thẩm quyền chung (UBND tỉnh) và cơ
quan thẩm quyền riêng (Bộ GD&ĐT) vừa đảm bảo tính thống nhất trong công tác
chuyên môn vừa phù hợp với tình hình địa phương.
Thứ ba, hiện tại phân cấp quản lý giáo viên (quản lý viên chức nhà nước)
được quy định thống nhất chung trong toàn quốc, chưa có những quy định mang
53
tính đặc thù (quy định riêng) trong quản lý giáo viên tiểu học, giáo viên trung học
cơ sở, giáo viên THPT.
Thứ tư, thẩm quyền tổ chức bộ máy QLNN về GDPT chưa phân định rõ về
biên chế. Số lượng biên chế của Sở GD&ĐT là cố định, được quyết định bởi UBND
tỉnh. Chính vì thế, không thể thành lập thêm nhiều phòng chuyên môn của sở bởi
biên chế có hạn. Giải quyết tình huống phải cân bằng giữa biên chế có hạn và chức
năng, yêu cầu quản lý, các sở sử dụng giải pháp tình thế là cử cán bộ thuộc các
phòng chuyên môn làm kiêm nhiệm chức năng này, có thể giao cho một hoặc một
vài cán bộ kiêm nhiệm. Điều này vừa đảm bảo phù hợp với tình thế cần có đầu mối
quản lý để thực hiện nhiệm vụ, liên lạc với cấp trên cũng như các đơn vị có liên
quan đến các hoạt động giảng dạy, vừa phù hợp với thực tại chưa thể tổ chức phòng
GD dân tộc chính thức, do vướng mắc bởi nhiều yếu tố.
Thứ năm, trong phân cấp quản lý nhân sự, tài chính. Theo công văn số
486/UBND-NCPC về việc hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức
của Phòng GD&ĐT thuộc UBND huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh Kiên Giang
ngày 02/05/2012, tại mục nhiệm vụ, quyền hạn đã ghi rõ: Phòng GD&ĐT có nhiệm
vụ phối hợp với Phòng Nội vụ hướng dẫn các cơ sở GD xác định vị trí việc làm, số
người làm việc, tổng hợp vị trí việc làm, số người làm việc cho các cơ sở GD sau
khi đã được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt. Mục 2.12 cũng đưa ra Phòng
GD&ĐT cần “Phối hợp với Phòng nội vụ, Phòng tài chính-kế hoạch giúp UBND
cấp huyện kiểm tra, thanh tra thực hiện việc tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong các cơ
sở GD công lập. [45]. Như vậy, các văn bản vẫn chưa quy định thống nhất, việc
quản lý nhiều đơn vị tham gia gây chồng chéo, việc cấp phát kinh phí không kịp
thời, gây khó khăn cho các cơ sở GDPT trong việc thực hiện các hoạt động GD.
Như vậy, tổ chức bộ máy phân cấp quản lý GDPT tỉnh Kiên Giang nói riêng
chậm được đổi mới và còn tập trung nhiều vào vấn đề quản lý hành chính các cơ sở
GDPT. Trong suốt một thời kỳ dài, cơ quan QLNN đối với GDPT tập trung nhiều
việc tạo lập thể chế về tuyển sinh, về khung chương trình mà chưa quan tâm đến
việc tạo lập thể chế cho việc bảo đảm chất lượng, nâng cao trách nhiệm xã hội, tạo
54
lập thể chế trong việc trao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các cơ sở GDPT.
Phương pháp QLNN đối với GDPT một mặt còn tập trung, chưa có quy chế phối
hợp với các bộ, ngành, chưa phân cấp cho chính quyền địa phương, chưa tạo đủ
điều kiện để các cơ sở đào tạo thực hiện quyền và trách nhiệm tự chủ, mặt khác
không đủ khả năng đánh giá thực chất hoạt động và sự chấp hành luật pháp của
GDPT không có khả năng đánh giá chất lượng GD của toàn bộ hệ thống.
2.2.2. Phân cấp quản lý về nhân sự
Bảng 2.6: Phân cấp quản lý về nhân sự
Mức độ thực hiện
Thứ Trung TT Phân cấp quản lý về nhân sự Chƣa đạt Khá Tốt bậc bình
SL % SL % SL % SL %
Ban hành và tổ chức thực hiện văn
1 bản quy phạm pháp luật về cán bộ, 83 27.7 70 23.3 84 28.0 91 30.3 2.54 2
công chức
Xây dựng kế hoạch, quy hoạch cán
2 bộ, công chức; Quy định chức 76 25.3 110 36.7 80 26.7 64 21.3 2.40 3
danh và cơ cấu cán bộ
Quy định ngạch, chức danh, mã số
công chức; mô tả, quy định vị trí
việc làm và cơ cấu công chức để 3 117 39.0 58 19.3 82 27.3 73 24.3 2.34 4 xác định số lượng biên chế đối với
công chức trong các cơ quan, bộ,
ban, ngành theo hàng dọc.
Quy định rõ định mức biên chế,
tiêu chuẩn chuyên môn, nghiệp vụ 4 30 10.0 80 26.7 88 29.3 132 44.0 2.98 1 theo vị trí việc làm trong cơ quan
QLNN về GD
55
Lãnh đạo các trường thực hiện
việc tuyển dụng nhân sự theo yêu
5 cầu công việc của đơn vị mình gắn 120 40.0 60 20.0 60 20.0 90 30.0 2.36 5
với tiêu chuẩn chuyên môn, nghiệp
vụ được quy định
TRUNG BÌNH 28.4 25.2 26.2 30.0 2.52
Với 5 nội dung cơ bản về phân cấp quản lý đội ngũ thực hiện. Mức độ thực
hiện của các nội dung đạt với điểm trung bình từ 2.36 đến 2.98. Trong đó, “Quy
định rõ định mức biên chế, tiêu chuẩn chuyên môn, nghiệp vụ theo vị trí việc làm
trong cơ quan QLNN về GD” có trị trung bình cao nhất ( = 2.98). Xếp thứ 2 với
điểm trung bình = 2.54 là nội dung “Ban hành và tổ chức thực hiện văn bản quy
phạm pháp luật về cán bộ, công chức”. Nhận định vấn đề này, có thể thấy:
Thứ nhất, xây dựng quy hoạch phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý
GD: Trong quy định tại Quyết định số 976/QD-UBND, Quyết định về quy định
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Sở GD&ĐT tỉnh Kiên Giang
thì địa phương có sự rà soát về nguồn nhân lực GD để có sự quản lý phù hợp với
thực tiễn địa phương. Hoạt động rà soát, điều chỉnh quy hoạch, kế hoạch đào tạo,
bồi dưỡng và bố trí sắp xếp đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý cơ sở GD theo quy
định và phù hợp với tình hình thực tế của mỗi địa phương. Sở GD&ĐT đã làm tốt
công tác rà soát, điều chỉnh quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng và bố trí sắp
xếp đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý cơ sở GD theo quy định và phù hợp với
tình hình thực tế của mỗi địa phương. Thực hiện đầy đủ, kịp thời các chế độ chính
sách đối với nhà giáo và cán bộ quản lý cơ sở GD, đặc biệt là các nhà giáo và cán
bộ quản lý cơ sở GD công tác tại vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó
khăn.
Thứ hai, chăm lo đào tạo bồi dưỡng, chuẩn hóa đội ngũ giáo viên: Sở
GD&ĐT cũng rất chăm lo bồi dưỡng nghiệp vụ, tạo điều kiện cho giáo viên tham
56
gia các khóa đào tạo ở những cấp học cao hơn, học liên thông. Tham gia tập huấn
và triển khai có hiệu quả chương trình bồi dưỡng các cấp học theo yêu cầu của Bộ.
Bên cạnh đó, chú trọng, quan tâm phát triển nguồn nhân lực tại chỗ. Ưu tiên phát
triển đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý GD.
Tuy nhiên, phân cấp QLNN về đội ngũ nhân sự thực hiện chưa được đánh
giá cao ở các nội dung còn chưa chú trọng đến một số yếu tố như “Lãnh đạo các
trường thực hiện việc tuyển dụng nhân sự theo yêu cầu công việc của đơn vị mình
gắn với tiêu chuẩn chuyên môn, nghiệp vụ được quy định; quy định ngạch, chức
danh, mã số công chức; mô tả, quy định vị trí việc làm và cơ cấu công chức để xác
định số lượng biên chế đối với công chức trong các cơ quan, bộ, ban, ngành theo
hàng dọc”. Tiêu điểm cho các hạn chế này là:
Thứ nhất, về số lượng. Số lượng cán bộ, công chức QLNN về GDPT còn
thiếu, mỏng, chưa đủ đáp ứng yêu cầu. Nhiều địa phương còn chưa có cán bộ
chuyên trách, thường là kiêm nhiệm. Việc kiêm nhiệm khiến cho khối lượng công
việc cần phải giải quyết lớn, cán bộ công chức kiêm nhiệm phải quản lý, bao quát
trên địa bàn rộng lớn.
Thứ hai, về chất lượng. Đội ngũ cán bộ công chức QLNN về GD dân tộc
thiểu số còn yếu về chất lượng như chưa được chuẩn hóa (phần đa là giáo viên, cán
bộ đoàn thể chuyển sang làm cán bộ quản lý GD tại các phòng GD, Sở GD&ĐT);
trình độ chuyên môn, lý luận chính trị, trình độ pháp luật, kỹ năng QLNN còn hạn
chế.
Thứ ba, xây dựng quy hoạch phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý
GD. Các địa phương có sự rà soát về nguồn nhân lực GD vù để có sự quản lý phù
hợp với thực tiễn địa phương. Hoạt động rà soát, điều chỉnh quy hoạch, kế hoạch
đào tạo, bồi dưỡng và bố trí sắp xếp đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý cơ sở GD
theo quy định và phù hợp với tình hình thực tế của mỗi địa phương. Sở GD&ĐT đã
làm tốt công tác rà soát, điều chỉnh quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng và bố
trí sắp xếp đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý cơ sở GD theo quy định và phù hợp
với tình hình thực tế của mỗi địa phương. Thực hiện đầy đủ, kịp thời các chế độ
57
chính sách đối với nhà giáo và cán bộ quản lý cơ sở GD, đặc biệt là các nhà giáo và
cán bộ quản lý cơ sở GD công tác tại vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó
khăn.
Đánh giá về đội ngũ thực hiện các văn bản pháp quy hay các chính sách về
văn bản trong phân cấp QLNN đối với GDPT phải đánh giá tương đồng giữa quy
hoạch phát triển, chất lượng đào tạo cũng như quy mô học sinh. Đội ngũ cán bộ,
công chức làm công tác QLNN về GDPT hiện nay rất đa dạng bao gồm cán bộ,
công chức ở Bộ GD&ĐT, Phòng và Sở GD&ĐT. Tuy nhiên, về cơ bản đội ngũ cán
bộ, công chức trong bộ máy QLNN đối với GDPT tỉnh Kiên Giang còn chưa bảo
đảm về số lượng và chất lượng. Cán bộ, công chức làm công tác QLNN liên quan
đến GDPT hiện nay của Bộ GD&ĐT, Sở và Phòng GD&ĐT tập trung ở một số Vụ,
Cục, Phòng chuyên môn. Tuy nhiên, so với yêu cầu quản lý một số lượng lớn các
cơ sở GDPT trong cả nước, cũng như tỉnh Kiên Giang đội ngũ này vẫn còn mỏng về
số lượng. Hơn nữa, lực lượng này lại bị phân tán do phải thực hiện nhiều nhiệm vụ
chuyên môn. Bên cạnh đó, một bộ phận các cán bộ, công chức chưa có sự đào tạo
bài bản, chuyên sâu về quản lý GD nói chung và GDPT nói riêng (do cán bộ Phòng
và Sở hầu như chuyển từ địa phương như các trường tiểu học, trung học cơ sở, hay
THPT điều lên). Điều này tất yếu ảnh hưởng đến năng lực tư vấn, xây dựng chính
sách quản lý cũng như thực hiện các công tác QLNN khác. Việc quản lý đối với các
cơ sở GDPT cũng còn những hạn chế do chủ yếu tập trung vào việc phân công
người đứng đầu cơ sở GD. Việc quản lý chất lượng vì vậy chủ yếu phụ thuộc vào
năng lực, trách nhiệm của người đứng đầu này và nỗ lực nội tại của cơ sở GD.
58
2.2.3. Phân cấp quản lý về tài chính
Bảng 2.7: Phân cấp quản lý về tài chính
Mức độ thực hiện
Thứ Trung TT Phân cấp quản lý về tài chính Chƣa đạt Khá Tốt bậc bình
SL % SL % SL % SL %
Xây dựng và quy định cơ chế tự
1 chủ của đơn vị sự nghiệp công lập, 120 40.0 50 16.7 62 20.7 98 32.7 2.42 2
trong đó có hệ thống GDPT
Nhà nước quy định cơ chế quản lý
tài chính trong hoạt động GD&ĐT
2 về học phí, kinh phí đóng góp, cơ 120 40.0 36 12.0 83 27.7 91 30.3 2.44 1
chế, chính sách để thực hiện công
tác xã hội hóa GD.
Giao cơ chế tự chủ tài chính đối
với ngân sách cấp cho hoạt động 3 130 43.3 47 15.7 76 25.3 77 25.7 2.30 3 của cơ quan QLNN về GD địa
phương.
Giao quyền tự chủ về tài chính
được cấp và nguồn thu khác theo 4 147 49.0 30 10.0 91 30.3 62 20.7 2.21 4 quy định cho cơ sở GD trong hoạt
động chuyên môn.
TRUNG BÌNH 43.8 13.5 26.0 27.3 2.36
Kết quả khảo sát cho thấy, mức độ thực hiện của các nội dung đạt với điểm
trung bình từ 2.21 đến 2.44. Trong đó, “Nhà nước quy định cơ chế quản lý tài chính
trong hoạt động GD&ĐT về học phí, kinh phí đóng góp, cơ chế, chính sách để thực
hiện công tác xã hội hóa GD” có trị trung bình cao nhất ( = 2.44). Xếp thứ 2 với
59
điểm trung bình = 2.42 là nội dung “Xây dựng và quy định cơ chế tự chủ của
đơn vị sự nghiệp công lập, trong đó có hệ thống GDPT”.
Có thể thấy, nguồn lực tài chính cho GDPT tỉnh bao gồm hai nguồn: ngân
sách nhà nước và nguồn xã hội hóa. Sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đối với
GDPT tại tỉnh Kiên Giang nói riêng và GDPT cả nước nói chung bao gồm các
nguồn ngân sách. Các địa phương thực hiện chế độ, chính sách đối với GDPT theo
Quyết định số 82/2006/QĐ- TTg ngày 14/4/2006 của Thủ tướng Chính phủ, Thông
tư liên tịch số 43/2007/TTLT/BTC-BGDĐT ngày 02/5/2007 và Thông tư liên tịch
số 109/2009/TTLT/BTC-BGDĐT ngày 29/5/2009 của Bộ Tài chính và Bộ Giáo duc
và Đào tạo,…. Các chính sách này có thể lược thành các nội dung chủ yếu sau:
Một là, về định mức phân bổ chi sự nghiệp GD. Với việc đầu tư nguồn ngân
sách nhà nước ngày càng tăng cho GDPT được thể hiện về cơ sở vật chất, điều kiện
dạy và học, điều kiện sinh hoạt cho thầy và trò.
Hai là, hoạt động quản lý tài chính. Công tác quản lý tài chính được thực
hiện nghiêm túc và hiệu quả. Sở Tài chính và Sở GD&ĐT tỉnh Kiên Giang đã chỉ
đạo xây dựng kế hoạch ngân sách chi thường xuyên. Phối hợp với Sở Tài chính, Sở
Kế hoạch và Đầu tư thẩm định dự toán trình tỉnh phân bổ ngân sách chi thường
xuyên, vốn đầu tư phát triển, vốn chương trình mục tiêu, các chương trình dự án...
Thực hiện tốt quy chế công khai tài chính; quản lý đúng quy định các nguồn vốn,
các loại quỹ theo quy định hiện hành. Báo cáo tài chính, việc thực hiện chi thường
xuyên, chi đầu tư phát triển thực hiện đúng quy định hiện hành.
Ba là, đẩy mạnh công tác xã hội hóa GDPT. Công tác xã hội hóa được quan
tâm đẩy mạnh. Sở đã làm tốt công tác tuyên truyền, kêu gọi sự đầu tư, hỗ trợ của
mọi lực lượng trong xã hội để phát triển GD; tham mưu cho tỉnh chỉ thị, nghị quyết
quan trọng nhằm đẩy mạnh xã hội hóa GD.
Như vậy, ưu điểm lớn nhất trong phân cấp quản lý nguồn tài chính là nguồn
ngân sách chi đa dạng về hình thức và nội dung của các dự án GD, dự án phát triển
kinh tế, xã hội cho tỉnh.
60
Từ trên khảo sát cho thấy, bên cạnh mặt tích cực, mặt hạn chế của phân cấp
quản lý tài chính đối với GDPT trong tỉnh là:
Chính sách dành cho GDPT tỉnh Kiên Giang là sự thiếu đồng bộ trong các
chính sách. Chính sách mở rộng quy mô GD chưa song hành với chính sách phát
triển đội ngũ giáo viên, cơ sở vật chất, đầu tư tài chính, bảo đảm chất lượng. Điều
này đưa đến một hệ lụy là sự gia tăng về số lượng trường thì cũng kéo theo nguy cơ
về chất lượng GD suy giảm.
Sự thiếu thốn, hạn chế về cơ sở vật chất là rất lớn tại các địa phương trong
tỉnh. Đặc biệt cơ sở vật chất, thiết bị dạy học, nhất là ở vùng còn nhiều khó khăn,
hầu hết các trường vùng khó khăn chưa có phòng học chức năng, phòng học bộ
môn, thiếu phòng ở công vụ giáo viên, phòng ở học sinh bán trú và hạng mục công
trình phụ trợ cho các trường có học sinh bán trú. Hạ tầng công nghệ thông tin của
ngành GD nhìn chung còn thiếu, chưa đáp ứng nhu cầu. Môi trường GD với 3 yếu
tố: gia đình - nhà trường - xã hội tuy nhận thức của cộng đồng đã cao hơn, nhưng
hành động và sự phối hợp công tác ở một số lĩnh vực chưa cao.
Tiếp đó là chế độ lương, phụ cấp cho giáo viên và cán bộ quản lý GD còn
chưa tạo động lực.
Nhà giáo và cán bộ quản lý GD công tác tại vùng kinh tế - xã hội đặc biệt
khó khăn theo Quyết định số 244/2005/QĐ-TTg ngày 06/10/2005 của Thủ tướng
Chính phủ về chế độ phụ cấp ưu đãi đối với nhà giáo đang trực tiếp giảng dạy trong
các cơ sở GD công lập. Ngoài ra, các địa phương đã cân đối ngân sách, xây dựng
các cơ chế, chính sách ưu đãi thu hút, luân chuyển đối với giáo viên, cán bộ quản lý
GD công tác tại vùng kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, biên giới, hải đảo; góp
phần an tâm công tác và cải thiện đời sống.
Chức năng tài chính và nhân sự ở GDPT thực hiện theo Nghị định số
16/2015/NĐ-CP ngày ngày 14 tháng 2 năm 2015 của Chính phủ Quy định cơ chế tự
chủ của đơn vị sự nghiệp công lập, tuy nhiên việc thực hiện tự chủ này chưa triệt để
ở các trường phổ thông, cụ thể như sau:
61
Khoán quỹ tiền lương theo số biên chế được cấp có thẩm quyền giao và
khoán quỹ tiền lương của số lao động hợp đồng không xác định thời hạn theo quy
định của pháp luật được cấp có thẩm quyền phê duyệt. Khoán chi hoạt động thường
xuyên theo số biên chế được cấp có thẩm quyền giao và định mức phân bổ ngân
sách nhà nước hiện hành để các trường tự chủ về biên chế và thực hiện nhiệm vụ.
Tuy nhiên, theo quy định tại Thông tư liên tịch số 06/2015/TTLT-BGDĐT-BNV
ngày 16 tháng 03 năm 2015 quy định về danh mục khung vị trí việc làm và định
mức số lượng người làm việc trong các cơ sở GD công lập về định mức giáo viên.
Như vậy, số giáo viên bắt buộc tăng lên trong khi biên chế đã được duyệt cho ngành
GD ở địa phương là không thay đổi. Điều này gây khó khăn cho ngành GD ở địa
phương, nếu thực hiện đúng theo thông tư 06/2015/TTLT-BGDĐT-BNV thì không
đủ kinh phí trả lương, nếu thực hiện tự chủ bằng cách không tuyển dụng giáo viên
thì không đúng theo quy định của ngành.
Sự bất cập, thiếu hợp lý còn tồn tại ở một số nội dung:
Tiền lương giáo viên có thể không cao nhưng phụ cấp đứng lớp, phụ cấp khu
vực khiến cho thu nhập của họ cao hơn nhiều so với cán bộ quản lý GD dù trong
cùng địa bàn. Điều này khiến cho điều kiện sống của cán bộ quản lý GD gặp nhiều
khó khăn, ảnh hưởng đến hiệu quả công việc.
Cơ cấu phân bổ kinh phí chưa hợp lý: Chỉ tập trung đầu tư vào xây dựng cơ
sở vật chất, thiết bị; chi phí ăn ở, học tập cho học sinh còn thấp. Những khoản chi
thường xuyên còn rất hạn hẹp, nhiều trẻ đi học ở các lớp tạm. Nhiều trường lớp
được xây dựng khang trang nhưng thiếu đồng bộ (không có nhà vệ sinh đạt chuẩn),
phòng máy vi tính, thư viện được trang bị nhưng không sử dụng,... gây lãng phí,
khó khăn cho hoạt động dạy và học.
Quản lý dự án, chương trình gặp nhiều khó khăn do cơ chế phân bổ kinh phí,
chế độ quản lý dự án ở trung ương và địa phương chưa phù hợp. Có một số nguyên
nhân gây ách tắc, chậm về mặt thủ tục khiến cho việc triển khai từ trung ương
xuống các địa phương trong vùng gặp nhiều vướng mắc.
62
Sử dụng nguồn kinh phí chưa thực sự hiệu quả. Mặc dù kinh phí đầu tư cho
GDPT không phải là nhỏ song hiệu quả của nó đối với GD còn chưa rõ rệt, chất
lượng GD, đời sống của đại bộ phận giáo viên và học sinh không được cải thiện
tương xứng.
Bên cạnh đó, chính sách tài chính cho GDPT chậm được đổi mới. Theo
chính sách tự chủ tài chính hiện nay thì bản chất là việc giao khoán, tức là hàng năm
nhà nước vẫn cấp một phần ngân sách, còn lại là thu chi trong trường tự quản lý các
khoản đóng góp về dịch vụ công, thu học phí. Việc phân bổ ngân sách nhà nước
chưa gắn với nhu cầu kinh phí cần thiết cho việc đảm bảo chất lượng đào tạo, chưa
khuyến khích việc điều chỉnh nội dung, chương trình. Định mức phân bổ ngân sách
cho các trường trên địa bàn tỉnh về cơ bản vẫn mang nặng tính bao cấp, bình quân
và chủ yếu dựa vào các yếu tố "đầu vào" nên chưa gắn kết giữa kết quả sử dụng
nguồn lực ngân sách nhà nước với kết quả, hiệu quả thực hiện nhiệm vụ. Theo đó,
phần nào hạn chế tính năng động, sáng tạo của các trường trong việc huy động thêm
các nguồn lực xã hội mà còn trông chờ vào sự bao cấp của nhà nước. Các định mức
tổng hợp làm căn cứ phân bổ ngân sách còn chưa hợp lý, chưa có sự phân biệt theo
ngành nghề đào tạo và điều kiện thực tiễn theo vùng miền. Cơ chế sử dụng nguồn
thu chưa thật hiệu quả vì thiếu hệ thống khuyến khích về lợi ích. Các quy định về
cấp phát và kiểm tra sử dụng ngân sách nhà nước đối với GDPT còn quá chi tiết,
nhấn mạnh vào yếu tố đầu vào mà chưa coi trọng hiệu quả, chất lượng sản phẩm
GD.
Công cụ thực hiện phân cấp QLNN đối với GDPT là việc ban hành thể chế,
tuy nhiên việc ban hành cũng như thực thi nó còn nhiều hạn chế. Tư duy pháp lý đã
được đổi mới ở mức độ nhất định song còn mang nặng quan điểm pháp lý đơn
thuần, chưa chú ý đến sự vận động khách quan của hoạt động đào tạo và những điều
kiện thực tế đảm bảo thực hiện pháp luật trong đời sống.
Đặc biệt về thực hiện chế độ, chính sách đối với giáo viên theo hợp đồng làm
việc. Ở một số địa phương, nhiều giáo viên đã là biên chế, sau đó Phòng GD&ĐT
ký hợp đồng làm việc không thời hạn mà không giải thích cụ thể tạo nên tâm lý
63
không ổn định của giáo viên. Bên cạnh đó, một số giáo viên tham gia đào tạo cao
đẳng, đại học cho đủ chuẩn nhưng Phòng GD&ĐT không hoặc chậm chuyển ngạch,
bậc lương đúng ngành đào tạo gây sự bất bình trong đội ngũ giáo viên.
Theo quy định, địa phương dành tỷ lệ đầu tư ngân sách cho GDPT ít nhất
10% ngân sách GD thường xuyên hàng năm. Tuy nhiên, theo báo cáo tổng kết
ngành GD năm 2015-2016 của tỉnh Kiên Giang, tỷ lệ chưa đồng đều ở các địa bàn
trong tỉnh. Tỷ lệ ngân sách đầu tư rất cao từ 15-25 % do kế hoạch hàng năm ở địa
phương. Một số địa phương trong năm có kế hoạch xây dựng trường chuẩn quốc gia
hoặc xây dựng xã nông thôn mới sẽ đầu tư ngân sách tập trung cho GD, ở địa bàn
nào không có kế hoạch liên quan đến phát triển GD thì ngân sách đầu tư thấp. Nếu
đầu tư thấp thì các cơ sở GDPT chỉ có thể trả lương cho công chức, giáo viên,
không đủ kinh phí để mua sắm thiết bị và các hoạt động nâng cao chất lượng GD
trong năm học đó, từ đó ảnh hưởng đến chất lượng GD cũng như hiệu quả QLNN
đối với GDPT ở địa phương.
Bốn là, theo Luật viên chức, giáo viên hiện nay tuyển dụng bằng hình thức
ký hợp đồng làm việc. Quyền ra quyết định tuyển dụng chỉ do UBND hoặc Sở,
phòng GD&ĐT được ủy quyền quyết định, các trường không có tham gia vào quy
trình tuyển dụng trong khi đó chất lượng GD do chính chất lượng đội ngũ giáo viên
của nhà trường trực tiếp quyết định. Điều này phần nào ảnh hưởng đến công tác
quản lý nhân sự trong nhà trường, không chính thức kiểm tra yếu tố đầu vào nên
trong quá trình sử dụng tất yếu sẽ gặp nhiều khó khăn.
Như vậy, một trong những nguyên nhân khách quan là những chậm trễ trong
việc cải cách HCNN, trong việc đổi mới quản lý kinh tế, tài chính, sử dụng lao
động, chính sách tiền lương… là những yếu tố ngăn cản việc giải quyết có hiệu quả
những vướng mắc đối với GDPT tỉnh Kiên Giang trong việc huy động sức mạnh
tổng hợp của toàn xã hội vì sự nghiệp phát triển GD nói chung và GDPT nói riêng.
64
2.2.4. Phân cấp quản lý về chuyên môn (chƣơng trình, giáo trình, tài liệu giảng
dạy)
Tỉnh đã tập trung nâng cao chất lượng GDPT. Các cơ sở GDPT, vùng dân
tộc thiểu số, các trường phổ thông dân tộc nội trú áp dụng nhiều biện pháp nâng cao
chất lượng GD: tổ chức triển khai và ứng dụng những kiến thức, kỹ năng về quản
lý, giảng dạy, GD học sinh thông qua các lớp tập huấn nâng cao năng lực cho đội
ngũ cán bộ quản lý giáo viên trường chuyên biệt của Bộ GD&ĐT.
Bảng 2.8: Phân cấp quản lý về chuyên môn (chƣơng trình, giáo trình, tài liệu
giảng dạy)
Mức độ thực hiện
Thứ Trung Stt Phân cấp quản lý về tài chính Chƣa đạt Khá Tốt bậc bình
SL % SL % SL % SL %
Bộ GD&ĐT xây dựng quy định về
1 phạm vi, mục tiêu, nội dung, 118 39.3 57 19.0 87 29.0 68 22.7 2.32 4
chương trình GDPT
Quy định vị trí, môn học trong kế 2 88 30.6 70 24.3 82 28.5 90 31.3 2.53 1 hoạch dạy học
Xác định rõ mục đích yêu cầu của
3 môn học (yêu cầu về tri thức, kỹ 109 37.8 76 26.3 36 12.5 109 37.8 2.44 2
năng kỹ xảo, thái độ hành vi)
Bộ GD&ĐT ban hành nội dung
môn học (các phần, các chương, 4 89 30.9 96 33.3 80 27.8 65 22.6 2.37 3 các bài), Sở GD&ĐT xây dựng các
hoạt động phù hợp với địa phương
5 Nội dung khác
TRUNG BÌNH 34.7 25.7 24.4 25.6 2.41
65
Kết quả khảo sát cho thấy, mức độ thực hiện của các nội dung đạt với điểm
trung bình từ 2.32 đến 2.53 (Min=1, Max=4). Trong đó, “Quy định vị trí, môn học
trong kế hoạch dạy học” có trị trung bình cao nhất ( = 2.53). Xếp thứ 2 với điểm
trung bình = 2.44 là nội dung “Xác định rõ mục đích yêu cầu của môn học (yêu
cầu về tri thức, kỹ năng kỹ xảo, thái độ hành vi)”.
Kết quả khảo sát có thế thấy, phân cấp quản lý về chuyên môn hiện nay đã
đạt được một số ưu điểm nhất định trong đó xác định rõ nhiệm vụ: Bộ GD&ĐT xây
dựng chương trình, nội dung; Sở GD&ĐT cùng Phòng GD&ĐT chịu trách nhiệm
hướng dẫn thực thi nhiệm vụ. Nắm chắc và vận dụng tốt các phương pháp giảng
dạy đặc trưng của bộ môn, tích cực đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát
huy tính tích cực chủ động của học sinh trong học tập. Các quy chế, nền nếp hoạt
động chuyên môn được giáo viên thực hiện nghiêm túc. Giáo viên tích cực học tập
bồi dưỡng thường xuyên, đúc rút kinh nghiệm dạy học.
UBND tỉnh Kiên Giang ra Quyết định số 976/QD-UBND, quy định chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Sở GD&ĐT tỉnh Kiên Giang.
Trong đó, tại Điều 1, mục a đã quy định rõ chức năng của Sở GD&ĐT tỉnh có
nhiệm vụ tham mưu, giúp UBND tỉnh thực hiện chức năng QLNN về GD&ĐT bao
gồm: Mục tiêu, chương trình, nội dung, GD&ĐT, …đảm bảo chất lượng GD&ĐT”
[46]
Các trường trong hệ thống GDPT tổ chức tốt dạy học 2 buổi/ngày theo chuẩn
kiến thức, kỹ năng của chương trình GDPT. Công tác phụ đạo học sinh yếu, kém,
bồi dưỡng học sinh khá, giỏi, tổ chức các hoạt động ngoài giờ lên lớp cho học sinh
được tăng cường.
Song, nhìn chung, phân cấp về quản lý chuyên môn còn yếu kém, đặc biệt
các yếu điểm như sau:
Thứ nhất, chất lượng GDPT nhất là THPT tại tỉnh Kiên Giang còn thấp so
với mặt bằng chung của cả nước, đặc biệt tỷ lệ học sinh theo học và tốt nghiệp thấp
so với tỷ lệ học sinh tốt nghiệp trung học cơ sở và tiểu học.
66
Tại bảng 2.2 quy mô giữa các cấp học chênh nhau nhiều. Bậc tiểu học có
6.374 (chiếm 62,63%), đế THCS có 2.774 (chiếm 27,26%), tuy nhiên cấp THPT chỉ
có 955 lớp (chiếm tỷ lệ nhỏ 9,38%), trong đó TTGDTX cả tỉnh chiếm 0,73%.
Thứ hai, tình trạng lưu ban, bỏ học ở các vùng dân tộc vẫn còn cao, tỉ lệ học
sinh lưu ban, bỏ học ở các vùng có đông học sinh dân tộc thường cao hơn tỷ lệ
chung của cả nước.
Hạn chế lớn nhất của phân cấp quản lý chuyên môn là chương trình GD còn
coi nhẹ thực hành, vận dụng kiến thức; phương pháp GD, kiểm tra, thi và đánh giá
lạc hậu, thiếu thực chất; thiếu gắn kết giữa đào tạo với nghiên cứu khoa học, sản
xuất, kinh doanh và nhu cầu của thị trường lao động; chưa chú trọng đúng mức việc
GD đạo đức, lối sống và kĩ năng làm việc. Soạn thảo chương trình trách nhiệm
thuộc về Sở GD&ĐT, tuy nhiên qua nhiều năm, chương trình chưa thay đổi, không
cập nhật, thiếu thực tế.
2.2.5. Phân cấp quản lý học sinh.
Bảng 2.9: Phân cấp quản lý học sinh
Mức độ thực hiện
Thứ Phân cấp quản lý học sinh Trung Stt Chƣa đạt Khá Tốt bậc bình
SL % SL % SL % SL %
1 Điều khiển, tổ chức học sinh nắm
vững hệ thống tri thức khoa học 4 phổ thông, cơ bản, hiện đại, phù 120 41.7 67 23.3 78 27.1 65 22.6 2.27 5 hợp với thực tiễn Việt Nam về tự
nhiên xã hội- nhân văn
2 Tổ chức đánh giá theo dõi, đánh
giá ý thức học tập của học sinh; 1 98 34.0 68 23.6 63 21.9 101 35.1 2.51 phân loại, xếp loại học sinh cuối 1
mỗi học kỳ, năm học, khoá học.
67
3 Xây dựng chương trình môn học
hình thành phát triển năng lực và 2 những phẩm chất trí tuệ, đặc biệt 108 37.5 58 20.1 82 28.5 82 28.5 2.42 2 là năng lực tư duy độc lập, sáng
tạo
4 Tổ chức, điều khiển học sinh hình
thành cơ sở thế giới quan khoa 3 học, những phẩm chất đạo đức nói 120 41.7 60 20.8 60 20.8 90 31.3 2.36 3 riêng và phát triển nhân cách nói
chung
48.2 TRUNG BÌNH 29.1 29.9 36.0 2.97
Phân cấp quản lý học sinh trong hệ thống GDPT tỉnh Kiên Giang đã đạt
được một số ưu điểm nhất định.
Nội dung thực hiện có hiệu quả nhất là “Tổ chức đánh giá theo dõi, đánh giá
ý thức học tập của học sinh; phân loại, xếp loại học sinh cuối mỗi học kỳ, năm học,
khoá học.” có ĐTB= 2.61 và “Xây dựng chương trình môn học hình thành phát
triển năng lực và những phẩm chất trí tuệ, đặc biệt là năng lực tư duy độc lập, sáng
tạo” có ĐTB=2,42. Trong đó, những nội dung về “Điều khiển, tổ chức học sinh nắm
vững hệ thống tri thức khoa học phổ thông, cơ bản, hiện đại, phù hợp với thực tiễn
Việt Nam về tự nhiên xã hội- nhân văn; Tổ chức, điều khiển học sinh hình thành cơ
sở thế giới quan khoa học, những phẩm chất đạo đức nói riêng và phát triển nhân
cách nói chung” thực hiện còn yếu kém
Phân cấp hiện nay về quản lý học sinh theo chiều dọc như sau: Chính Phủ,
Quốc Hội ra chỉ thị, Bộ GD&ĐT xây dựng văn bản. Cấp trung học cơ sở và cấp tiểu
học do Phòng GD&ĐT quản lý, còn cấp THPT, trường phổ thông có nhiều cấp học,
phổ thông dân tộc nội trú, TTGDTX...do Sở GD&ĐT quản lý. Tuy nhiên, quy định
trách nhiệm quản lý học sinh hiện nay còn rườm rà. Cụ thể:
Về đinh hướng nghề cho học sinh trung học cơ sở, THPT còn lúng túng: Sự
phối hợp giữa các trường phổ thông với các trung tâm để thực hiện kế hoạch dạy
68
nghề cho học sinh còn gặp khó khăn. Mặt khác, các trường phổ thông không đủ
giáo viên chuyên môn để dạy đủ 11 nghề mà Bộ GD&ĐT đã ban hành tài liệu học
tập. Các giáo viên bộ môn Vật lý, Kỹ thuật, Sinh học, Công nghệ thường được phân
công “kiêm” thêm việc dạy nghề, có trường chỉ dạy cho học sinh một nghề duy nhất
là tin học văn phòng. Giáo viên dạy “kiêm nhiệm” nên thường mang tính qua loa,
đại khái, chất lượng hạn chế.
Hiện tại số lượng trường THPT dân lập của tỉnh rất ít, điều này đồng nghĩa
với việc học “chạy đua” vào trường công lập. Tỷ lệ học sinh vào được trường công
chiếm tỷ lệ ít, những học sinh không thi được sẽ chuyển vào trung tâm giáo dục
thường xuyên, chất lượng dạy học và “tâm lý” cha mẹ cũng như học sinh vào trung
tâm giáo dục thường xuyên phần nhiều là có bằng, hầu hết học sinh không có động
lực học, học sinh học trung tâm giáo dục thường xuyên bỏ học chiếm chỉ số không
nhỏ.
Thêm nữa là: cách thức quản lý đối với học sinh hư còn chưa rõ trách nhiệm.
Với học sinh bị vi phạm đạo đức nội quy, tệ nạn xã hội thì giữa nhà trường và chính
quyền (công an) đùn đẩy trách nhiệm. Đối với học sinh vi phạm đến nay chưa có
cách để giáo dục học sinh … Điều này, phân cấp QLNN đối với GDPT tại tỉnh Kiên
Giang còn bấp cập, hạn chế, chưa phân định rõ chức trách quản lý cũng như chế tài
thực hiện.
2.3. NHẬN XÉT PHÂN CẤP QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC ĐỐI VỚI GIÁO DỤC
PHỔ THÔNG TẠI TỈNH KIÊN GIANG
2.3.1. Ƣu điểm
QLNN đối với GD nói chung và GDPT tại tỉnh Kiên Giang nói riêng trong
những năm qua đã đạt được những kết quả quan trọng mà trước hết là bước chuyển
trong tư duy, cách thức phân cấp QLNN đối với GDPT theo hướng quản lý chất
lượng với những bước đi cụ thể và phù hợp với yêu cầu thực tiễn. Chính sách phân
cấp QLNN đối với GDPT đã được thể hiện trên góc độ tạo lập khung thể chế, chính
sách đến tổ chức bộ máy quản lý, chương trình, nội dung GD. Các cơ quan nhà
nước bước đầu đã tạo lập khung thể chế phân cấp QLNN đối với GDPT và áp dụng
69
vào thực tiễn. Hàng loạt các biện pháp như đổi mới tuyển sinh THPT, tốt nghiệp
THPT thông qua kỳ thi THPT quốc gia.
Hệ thống chính sách và văn bản pháp luật về GDPT ngày càng đồng bộ, hoàn
thiện và được thực hiện thống nhất, nghiêm túc trong tỉnh.
Bộ máy tổ chức QLNN về GDPT và nguồn nhân lực dần được ổn định, hoàn
thiện, đáp ứng yêu cầu quản lý.
Sự quản lý trên các mặt đặc thù như nội dung GD, chương trình sách giáo
khoa, dạy tiếng dân tộc, quản lý hệ thống trường chuyên biệt,... dần đi vào nề nếp,
đem lại những chuyển biến tích cực cho chất lượng GDPT trong tỉnh.
Bên cạnh đó, việc phát triển, quản lý các nguồn lực vật chất cho GDPT
không ngừng được quan tâm, đầu tư, đặc biệt là công tác xã hội hóa nhằm chăm lo
ngày càng tốt hơn việc dạy và học của thầy, trò.
2.3.2. Hạn chế
Thể chế phân cấp cấp QLNN đối GDPT còn nhiều bất cập. Các văn bản
QLNN làm cơ sở để quản lý đối với GDPT vẫn chưa thực sự được đảm bảo. Các
quy định về trách nhiệm cũng như tính tự chủ, các quy định về cơ chế, trách nhiệm
xã hội của GDPT, phân cấp, nâng cao tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của GDPT
vẫn còn là những vấn đề lớn cần có những quy định cụ thể trong thời gian tới.
Bên cạnh đó, bộ máy phân cấp QLNN đối với GDPT còn phân tán, đồng
thời, còn có sự chồng lấn giữa chức năng QLNN và chức năng cung ứng dịch vụ
công. Thẩm quyền ra quyết định trong hệ thống GDPT cả nước cũng như tỉnh Kiên
Giang phân tán khá rộng và hệ quả là việc quản lý hệ thống rất mỏng manh. Sự
phân tán thẩm quyền này đã hạn chế nghiêm trọng năng lực tạo ra sự tiến bộ theo
một cách thức dựa trên sự điều phối chung.
Cũng có nhiều vấn đề đặt ra trong việc xây dựng và thực hiện chính sách ở
tầm hệ thống. Bộ GD&ĐT chịu trách nhiệm ban hành các quy định và văn bản pháp
lý cho hệ thống GDPT nói chung, nhưng các Bộ chủ quản cũng lặp lại vai trò này,
và có rất ít trao đổi thảo luận giữa các Bộ, các cơ quan QLNN và chính quyền cấp
70
tỉnh về những vấn đề vận hành ảnh hưởng đến hiệu quả của hệ thống. Quy trình bảo
đảm sự áp dụng và thực hiện các chính sách ở tầm hệ thống còn yếu.
2.3.3. Nguyên nhân
Chính sách phân cấp QLNN đối với GDPT còn chậm được đổi mới theo
hướng quản lý chất lượng. Trong suốt một thời gian dài, cơ chế phân cấp QLNN đối
với GDPT mang tính quản lý hành chính đơn thuần, tập trung vào yếu tố đầu vào
với kỳ vọng sẽ bảo đảm chất lượng GDPT. Việc cơ quan QLNN đối GDPT tập
trung nhiều vào nhiệm vụ quản lý hành chính, quản lý tác nghiệp cụ thể đã dẫn đến
không có đủ thời gian và nguồn lực cho việc xây dựng các định hướng chiến lược,
khung thể chế cần thiết cho GDPT vận động và phát triển theo định hướng chất
lượng.
Năng lực, trình độ quản lý GD chưa theo kịp với thực tiễn và nhu cầu phát
triển khi nền kinh tế đang chuyển từ kế hoạch hóa tập trung sang thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa. Sự mở rộng quy mô nhanh chóng của các cơ sở GDPT đã
dẫn đến các cơ quan nhà nước quản lý gặp khó khăn trong việc giám sát, quản lý
chất lượng. Chưa phối hợp tốt và sử dụng có hiệu quả nguồn lực của nhà nước và xã
hội; chậm đổi mới cả về tư duy và phương thức quản lý; chậm đề ra các định hướng
chiến lược và chính sách vĩ mô đúng đắn để xử lý mối tương quan lớn giữa quy mô,
chất lựợng và hiệu quả trong GD. Các văn bản pháp quy cho GDPT chưa được ban
hành kịp thời; lý luận phát triển GD trong giai đoạn mới chưa được quan tâm
nghiên cứu đúng mức để định hướng các hoạt động thực tiễn.
Trong những năm gần đây, nhà nước có chủ trương đổi mới về GD và GDPT
nhưng một số chủ trương chưa được nghiên cứu, chuẩn bị chu đáo trước khi áp
dụng, tổ chức thực hiện lại có nhiều thiếu sót. Đổi mới chương trình GD, phát triển
nhiều loại hình GD nhưng có nhiều thiếu sót trong việc quản lý chương trình, nội
dung và chất lượng; công tác thanh tra GD còn yếu, thiếu những biện pháp hữu hiệu
để kiểm tra, đánh giá chất lượng đào tạo, đặc biệt là đối với hình thức trường “mở”,
bán công, dân lập, tư thục và không tập trung; chậm phát hiện và thiếu nghiêm túc
71
trong xử lý và khắc phục các biểu hiện tiêu cực trong GDPT; năng lực của cán bộ
QLNN đối GDPT chưa được chú trọng nâng cao.
Cơ chế, phương thức phân cấp QLNN đối GDPT còn nhiều điểm chưa hợp
lý, chưa tiếp cận đầy đủ theo yêu cầu quản lý chất lượng, có tình trạng vừa ôm đồm
sự vụ, vừa buông lỏng chức năng QLNN; chưa thực hiện tốt sự quản lý thống nhất,
giữ vững kỷ cương trong công tác GD, đồng thời chưa phát huy quyền chủ động và
trách nhiệm nhà trường.
Cơ chế phân cấp QLNN đối GDPT tại tỉnh hiện nay vừa mang tính tập trung
vừa phân tán. Về phương diện tập trung thì Bộ GD&ĐT hiện nay bao quát nhiều
nội dung phân cấp QLNN liên quan đến toàn bộ quy trình GDPT nhưng đồng thời,
GDPT cũng chịu sự quản lý của các bộ chủ quản, địa phương với những cách thức,
phương thức quản lý khác nhau (phân tán). GDPT nước ta và tỉnh Kiên Giang hiện
nay đang được quản lý bởi Bộ GD&ĐT, các bộ, ngành và UBND cấp tỉnh, Sở
GD&ĐT, Phòng GD&ĐT, UBND cấp huyện/quận. Về thẩm quyền, Bộ GD&ĐT là
cơ quan duy nhất được ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý GD
cấp Bộ nhưng hiện nhiều Bộ, ngành khác cũng như UBND các tỉnh/thành phố/
quận/ huyện tự ý ban hành các văn bản chồng chéo. Ngoài ra, chưa có quy chế phối
hợp giữa Bộ GD&ĐT và các bộ, ngành, UBND tỉnh, thành phố/ huyện/quận về
quản lý các cơ sở GD này. Điều này dẫn đến hệ lụy là Bộ GD&ĐT khó khăn trong
quản lý chất lượng, đánh giá đầy đủ chất lượng GD, mức độ tuân thủ các quy định
pháp luật liên quan đến đào tạo và hiệu quả đầu tư từ ngân sách cho GDPT.
72
Tiểu kết chƣơng 2
Qua nội dung khảo sát, phân tích đã trình bày, có thể nói, trong thời gian qua,
GDPT trên địa bàn tỉnh Kiên Giang đã đạt dược những kết quả, những thành tựu
nhất định. Điều này đã góp phần tích cực vào việc nâng cao chất lượng toàn diện
cho các trường nói riêng và GDPT nói chung.
Kết quả nghiên cứu, phân tích thực tiễn phân cấp QLNN đối với GDPT trên
địa bàn tỉnh Kiên Giang trong những năm qua cho thấy, hoạt động QLNN đối với
GDPT đã có những chuyển biến tích cực, được thể hiện trên các phương diện về tổ
chức bộ máy, quản lý đội ngũ nhân sự, phân cấp quản lý tài chính, phân cấp quản lý
chuyên môn và học sinh… Tuy nhiên, dựa vào thực tiễn luận văn có thể thấy rõ
những hạn chế, yếu kém về thể chế quản lý, bộ máy quản lý còn cồng kênh, kém
hiệu quả, nguồn lực tài chính còn non yếu. Thực tế này đặt ra nhiều thách thức, đòi
hỏi việc phân cấp QLNN đối với GDPT cần phải được xem xét hoàn thiện trên cơ
sở đề ra những phương hướng và giải pháp phù hợp.
Kết quả khảo sát thực trạng và những vấn đề đặt ra đã chỉ ra trên đây là cơ sở
quan trọng để nghiên cứu đề xuất các giải pháp đảm bảo phân cấp QLNN đối với
GDPT trên địa bàn tỉnh Kiên Giang ở chương tiếp theo.
73
Chƣơng 3
PHƢƠNG HƢỚNG, GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM PHÂN CẤP
QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC ĐỐI VỚI GIÁO DỤC PHỔ THÔNG
TẠI TỈNH KIÊN GIANGĐ
3.1. PHƢƠNG HƢỚNG BẢO ĐẢM PHÂN CẤP QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC
ĐỐI VỚI GIÁO DỤC PHỔ THÔNG TẠI TỈNH KIÊN GIANG
3.1.1. Phân cấp quản lý nhà nƣớc đối với giáo dục phổ thông phù hợp điều
kiện cụ thể tại tỉnh Kiên Giang
Xuất phát từ vai trò của GD&ĐT đối với sự phát triển kinh tế- xã hội của đất
nước, nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI khẳng định cần “Đổi mới căn
bản, toàn diện nền GD Việt Nam theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa,
dân chủ hóa và hội nhập quốc tế, trong đó, đổi mới cơ chế quản lý GD, phát triển
đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý GD là khâu then chốt” và “GD&ĐT có sứ
mệnh nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, góp phần
quan trọng xây dựng đất nước, xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam”.
Việc đổi mới cơ chế quản lý GD được đặt ra ở các cấp học, bậc học trong đó,
QLNN với các trường THPT có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Bởi bậc đào tạo này
gắn liền với việc tạo lập cơ sở nền tảng cho nguồn nhân lực có trình độ cao phục vụ
yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 (khóa XI) về đổi mới căn bản, toàn diện
GD&ĐT định hướng: “Xác định rõ trách nhiệm của các cơ quan QLNN về GD, đào
tạo và trách nhiệm quản lý theo ngành, lãnh thổ của các bộ, ngành, địa phương.
Phân định công tác QLNN với quản trị của cơ sở GD&ĐT. Đẩy mạnh phân cấp,
nâng cao trách nhiệm, tạo động lực và tính chủ động, sáng tạo của các cơ sở GD,
đào tạo”, “Chuẩn hóa các điều kiện bảo đảm chất lượng và quản lý quá trình đào
tạo; chú trọng quản lý chất lượng đầu ra. Xây dựng hệ thống kiểm định độc lập về
chất lượng GD, đào tạo”. Do vậy, phân cấp QLNN đối với GDPT cần đáp ứng mục
tiêu GDPT và cần phải phù hợp đặc điểm kinh tế, xã hội của tỉnh Kiên Giang. Trên
74
chính sách, chỉ đạo của Bộ GD&ĐT, UBND tỉnh cùng Sở GD&ĐT cần điều chỉnh,
phân định rõ chức năng quản lý cho phù hợp cấp học và bậc học.
3.1.2. Phân cấp đồng thời với việc xác định rõ trách nhiệm của các chủ thể
quản lý nhà nƣớc đối với giáo dục phổ thông tại tỉnh Kiên Giang
Để tạo lập khuôn khổ pháp lý cho phân cấp QLNN cần xác định rõ trách
nhiệm của các chủ thể QLNN đối với GDPT tại tỉnh Kiên Giang.
Thứ nhất, cần phải hoàn thiện thể chế QLNN về GDPT, xác lập đúng vai trò
của nhà nước đối với GDPT trong việc hoạch định chính sách, tạo lập khung thể
chế, giám sát, đánh giá sự phát triển GDPT, tạo lập môi trường cạnh tranh lành
mạnh cho sự phát triển của GDPT. Cần phải tạo lập thể chế để khẳng định nhà nước
là chủ thể tạo ra điều kiện phát triển, giám sát phát triển, kiến tạo môi trường cho
GDPT vận động và phát triển theo hướng chất lượng, hiệu quả.
Thứ hai, tạo lập thể chế về phân tầng GDPT trong đó xác định rõ nhiệm vụ
của Chính Phủ, Quốc Hội, Bộ GD&ĐT, Sở, Phòng GD&ĐT, Hiệu trưởng trường
phổ thông. Phân tầng GDPT là một yêu cầu cấp thiết để đáp ứng yêu cầu GDPT
chất lượng cao đồng thời đáp ứng nhu cầu học tập của cộng đồng xã hội, bảo đảm
mục tiêu phát triển GD.
3.1.3. Phân cấp quản lý nhà nƣớc đối với giáo dục phổ thông phục vụ thực
hiện mục tiêu của giáo dục phổ thông tại tỉnh Kiên Giang
Trong Luật GD đã quy định “mục tiêu của GDPT là giúp học sinh phát triển
toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản, phát triển
năng lực cá nhân, tính năng động và sáng tạo, hình thành nhân cách con người Việt
Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân; chuẩn bị cho học
sinh tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động, tham gia xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc”. Do vậy, phân cấp QLNN về GDPT tỉnh Kiên Giang cần phân định và xác
định rõ trách nhiệm cùng thực hiện mục tiêu GDPT cho các cấp học.
75
3.2. GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM PHÂN CẤP QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC ĐỐI VỚI
GIÁO DỤC PHỔ THÔNG TẠI TỈNH KIÊN GIANG
3.2.1. Tiếp tục hoàn thiện thể chế quản lý nhà nƣớc đối với giáo dục phổ thông
nói chung và phân cấp đối với quản lý nhà nƣớc đối với giáo dục phổ
thông nói riêng
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, nâng cao sức mạnh của nền kinh tế
và lao động, con đường duy nhất là phải nâng cao chất lượng nguồn nhân lực về
mọi mặt: sức khỏe, trình độ dân trí, tri thức, tay nghề, tác phong công nghiệp, tính
kỷ luật, chấp hành luật pháp. Muốn vậy, cần tổ chức thực hiện có hiệu quả Chiến
lược phát triển GD 2001- 2010, trong đó có GDPT. Đó là chiến lược nhằm mục tiêu
nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài của đất nước, phục vụ sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Chưa khi nào đất nước cần nguồn nhân lực
cao như hiện nay. Bởi vậy, ngay từ bây giờ cần phải tập trung vào GDPT, tăng
nhanh bộ phận lao động có trình độ chuyên môn, kỹ thuật cao, nhất là những nhà
quản lý, các chuyên gia kinh tế, chuyên gia kỹ thuật và đội ngũ công nhân bậc cao,
có thể lực và phẩm chất tốt để đi ngay vào kinh tế tri thức. [8].
Để hoàn thiện thể chế QLNN đối với GDPT nói chung và phân cấp đối với
QLNN đối với GDPT nói riêng, vấn đề quan trọng đầu tiên trong hệ thống thể chế
là xây dựng được mục tiêu GDPT cụ thể và phù hợp với yêu cầu của thời đại. Việc
xây dựng thể chế cần đáp ứng mục tiêu của nền GDPT phải là:
Hoàn thiện cơ cấu hệ thống và mạng lưới cơ sở GD, đa dạng hóa hình thức tổ
chức dạy học. Phát triển GD về số lượng, từng bước nâng cao chất lượng, thực hiện
linh hoạt các chương trình GD phù hợp với điều kiện học tập của người học; gắn
GD với thực tiễn phát triển kinh tế, xã hội, đặc điểm văn hóa địa phương. Đáp ứng
nhu cầu chính đáng của nhân dân về một nền GDPT cho số đông, mở đường tiến
thân cho các thành viên trong xã hội, tạo nên sự bình đẳng xã hội về GD.
Hoàn thiện thể chế QLNN đối với GDPT nói chung và phân cấp đối với
QLNN đối với GDPT nói riêng tỉnh Kiên Giang nhằm định hướng cho sự phát triển
của hệ thống GDPT, bảo đảm những điều kiện cần thiết cho việc xây dựng, duy trì
76
và nâng cao chất lượng GDPT. Để bảo đảm chất lượng GDPT, ở tầm quốc gia cần
có chiến lược bảo đảm chất lượng GDPT, xác định rõ lộ trình hướng đến về chất
lượng GDPT ở tầm mức quốc gia, khu vực và quốc tế. Chiến lược bảo đảm chất
lượng GDPT cần phải có sự đồng bộ với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, chiến
lược phát triển nguồn nhân lực của tỉnh Kiên Giang và nước ta nhằm tạo ra phối
hợp hiệu quả trong quá trình thực hiện.
Xây dựng thể chế là một nội dung quan trọng trong công tác QLNN và phân
cấp QLNN. Đối với QLNN về chất lượng GDPT việc xây dựng và hoàn thiện hệ
thống thể chế là điều kiện tiên quyết để nâng cao hiệu quả QLNN. Từ thực trạng hệ
thống thể chế đã được phân tích ở chương 2 của luận văn, có thể khẳng định các văn
bản QLNN đối với GDPT tại tỉnh Kiên Giang còn thiếu và chưa đồng bộ, chưa thực
sự trở thành công cụ để phân cấp Nhà nước quản lý hiệu quả.
Để hoàn thiện thể chế QLNN đối với GDPT nói chung và phân cấp đối với
QLNN đối với GDPT nói riêng tỉnh Kiên Giang cần:
Thứ nhất, rà soát hệ thống thể chế phân cấp QLNN đối với GDPT tỉnh Kiên
Giang
Cần rà soát lại hệ thống văn bản quy phạm pháp luật đối với GDPT tại tỉnh
Kiên Giang, khắc phục sự chồng chéo, trùng lắp giữa các văn bản quy phạm pháp
luật. Không kể Nghị định hướng dẫn, những loại văn bản chi phối hoạt động của
các cơ sở GDPT, bao gồm: Luật GD; Điều lệ chung; Quy chế tổ chức hoạt động
chung; Điều lệ riêng và Quy chế hoạt động của từng cơ sở GDPT, Điều lệ trường
tiểu học, trung học cơ sở, THPT. Trên thực tế để tạo lập khung thể chế cho sự vận
hành và phát triển của hệ thống GDPT chỉ cần Luật GD; Quy chế tổ chức và hoạt
động của các cơ sở GDPT; Điều lệ của từng trường trong hệ thống GDPT.
UBND tỉnh cần rà soát lại tất cả các văn bản đã quy định về GDPT trong đó
tập trung vào các văn bản, quyết định như văn bản số 486/UBND-NCPC (V/v
hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức của Phòng GD&ĐT thuộc
UBND huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh Kiên Giang); Quyết định Ban hành chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạnh của các đơn vị giúp Giám đốc thực hiện chức năng
77
QLNN thuộc Sở GD&ĐT tỉnh kiên Giang, Số 487/QD-SGĐT, UBND tỉnh Kiên
Giang ra Quyết định số 976/QD-UBND, Quyết định về quy định chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Sở GD&ĐT tỉnh Kiên Giang.
Thứ hai, nâng cao chất lượng hoạt động hoạch định, ban hành và thực thi
chính sách, kế hoạch GDPT của tỉnh.
Vai trò của QLNN đối với từng lĩnh vực thể hiện rõ trong hoạt động hoạch
định, ban hành và thực thi chính sách. Với GDPT tỉnh Kiên Giang cũng vậy. Chính
vì thế, tăng cường vai trò của nhà nước đối với GDPT tỉnh Kiên Giang chính là
nâng cao chất lượng của quy trình chính sách, từ hoạch định, ban hành đến thực thi
chính sách. Theo đó:
Về hoạch định chính sách: Cần đảm bảo việc hoạch định chính sách là kết
quả của một quá trình thu thập thông tin đầy đủ, chính xác, kịp thời, phản ánh đúng
yêu cầu từ xã hội của vấn đề chính sách. Xây dựng cơ sở thông tin dữ liệu về
GDPT, nhất là cơ sở dữ liệu về phát triển để làm cơ sở hoạch định và tổ chức triển
khai chính sách GDPT.
Về xây dựng chính sách: quy trình xây dựng chính sách hiện nay cần được
thực hiện một cách nghiêm túc, nhất là đối với khâu đánh giá, chuẩn bị cơ sở thông
tin, dữ liệu phục vụ quá trình xem xét, đánh giá. Việc lấy ý kiến rộng rãi và tập hợp
phản hồi thông tin về dự thảo chính sách cần được chú trọng để góp phần hoàn thiện
chính sách. Kỹ năng xây dựng chính sách của một số cơ quan, cá nhân trực tiếp
tham mưu chưa thực sự tốt cũng là nguyên nhân dẫn đến những hạn chế. Nhiều văn
bản góp ý chưa thể hiện đúng tầm của văn bản tham mưu chính sách.
Về thực thi chính sách: Đảm bảo tính thống nhất trong thực thi nhưng cũng
cần có sự linh hoạt, chủ động trong việc áp dụng tại từng vùng miền, địa phương
xuất phát từ những đặc thù của khu vực, của từng huyện trong tỉnh. Điều này hướng
tới mục tiêu cuối cùng là tính hiệu quả trong thực thi chính sách. Vai trò của nhà
nước thể hiện sâu sắc trong khâu thực thi. Cần đặc biệt chú ý nâng cao năng lực
thực thi chính sách, trực tiếp nhất là năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức quản lý
GD. Năng lực cần được nhìn nhận trên cả 3 khía cạnh: kiến thức, kỹ năng và thái
78
độ, tức là đội ngũ cán bộ, công chức quản lý GD tại các Sở, phòng GD phải có hiểu
biết, nhận thức về quản lý GD vùng dân tộc thiểu số và những vấn đề liên quan;
phải có kỹ năng quản lý HCNN vững vàng, nhuần nhuyễn; phải có thái độ tích cực,
chủ động. Chính vì thế, đào tạo, bồi dưỡng để nâng cao năng lực của đội ngũ quản
lý GD phải được coi là một trong những giải pháp căn bản.
3.2.2. Nâng cao năng lực quản lý nhà nƣớc đối với giáo dục phổ thông tại tỉnh
Kiên Giang
Thực hiện Chỉ thị số 40-CT/TW ngày 15 tháng 6 năm 2004 của Ban Bí thư,
Quyết định số 09/2005/QĐ-TTg ngày 11 tháng 01 năm 2005 của Thủ tướng Chính
phủ về xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý GD giai
đoạn 2005 - 2010.
Nhóm giải pháp này nhằm huy động, thu hút và nâng cao hiệu quả quản lý
các nguồn lực cho phát triển GDPT, bao gồm cả nguồn lực từ ngân sách nhà nước
và nguồn lực xã hội hóa. Đổi mới cơ chế quản lý tài chính công phục vụ GD theo
nguyên tắc đúng đối tượng, có hiệu quả là phù hợp với cải cách tài chính công hiện
nay; tăng cường xã hội hóa cho GDPT cũng là biện pháp phù hợp với chủ trương
chung hiện nay trong cải cách dịch vụ công ở nước ta.
Chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức quyết định chất lượng, hiệu quả phân
cấp QLNN đối với các GDPT nói chung và tỉnh Kiên Giang nói riêng. Để tạo bước
chuyển mới trong phân cấp QLNN đối với GDPT tại tỉnh Kiên Giang, đội ngũ cán
bộ, công chức cần được nâng cao một cách xứng tầm. Việc nâng cao chất lượng đội
ngũ cán bộ, công chức có tác động trực tiếp đến chất lượng thể chế và hiệu lực thực
hiện thể chế phân cấp QLNN đối với GDPT trên địa bàn tỉnh Kiên Giang.
QLNN đối với các trường tại tỉnh Kiên Giang gắn liền với việc xây dựng các
chính sách, các tiêu chuẩn, thẩm định, đánh giá, công bố các kết quả kiểm định và
xây dựng các chính sách liên quan đến công tác kiểm định. Chính vì vậy, việc nâng
cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác QLNN là vấn đề có tính
quan trọng quyết định đối với hiệu quả QLNN. Chất lượng cán bộ, công chức ở đây
bao gồm cả kiến thức, kỹ năng và thái độ. Trong đó vấn đề đầu tiên cần được chú ý
79
đến việc nâng cao trình độ trong hoạt động lập pháp, lập quy, trình độ pháp lý, chất
lượng luật pháp, tính khả thi của pháp luật có liên quan đến công tác QLNN về
kiểm định chất lượng đào tạo tại tỉnh Kiên Giang.
Kiện toàn bộ máy QLNN về GDPT giúp củng cố và hoàn thiện khung bộ
máy quản lý, bởi đây là chủ thể trực tiếp triển khai các chính sách, pháp luật vào
thực tiễn đời sống, nhất là tại các địa phương. Điều chỉnh lại nội dung của Quyết
định Ban hành chức năng, nhiệm vụ, quyền hạnh của các đơn vị giúp Giám đốc
thực hiện chức năng QLNN thuộc Sở GD&ĐT tỉnh kiên Giang, Số 487/QD-SGĐT,
ngày 22 tháng 4 năm 2013, trong đó xây dựng thang bậc tiêu chí cho từng cán bộ,
công chức trong mỗi đơn vị.
Trong đó đặc biệt nhấn mạnh đến tính chính thức của đầu mối phân cấp quản
lý về GDPT tại các cấp quản lý để sự chỉ đạo quản lý từ trung ương đến địa phương
cũng như sự phối hợp giữa các địa phương trong vùng, giữa các bên liên quan được
nhịp nhàng, thông suốt, thống nhất.
Để đạt được các điều đó có nhiều yếu tố quyết định như: tư duy pháp lý
GD&ĐT mới, đường lối chính sách của Đảng, trình độ năng lực của các cán bộ luật
pháp và cơ quan pháp luật, cơ quan quản lý GD, sự phối hợp giữa các cơ quan nhà
nước, dân chủ hóa hoạt động lập pháp, hành pháp… Trong đó, cần tập trung giải
quyết một số vấn đề sau:
Về việc kiện toàn, phân cấp QLNN đối với GDPT. Vụ GDPT - Bộ GD&ĐT
được thành lập là bước đi cụ thể trong công tác tổ chức bộ máy nhà nước về QLNN
đối với GDPT. Chức năng, nhiệm vụ đã rất rõ ràng, cơ cấu tổ chức cũng được kiện
toàn.
Một là, thống nhất quyền hạn về QLNN đối với GDPT cho Vụ GDPT, tránh
quyền hạn phân rải rác cho các vụ khác.
Hai là, nâng cao năng lực quản lý vĩ mô của cán bộ, công chức vụ GDPT -
Bộ GD&ĐT;
Ba là, tăng cường mối quan hệ, sự phối hợp, vai trò của Vụ GDPT đối với
các Vụ, đơn vị khác trong Bộ GD&ĐT, đối với các cơ quan khác của Nhà nước
80
Các Sở GD&ĐT tiếp tục tham mưu với cấp ủy, chính quyền địa phương về
phát triển GD&ĐT đối với GDPT; thực hiện nghiêm túc phân cấp quản lý về GD
dân tộc theo các quy định hiện hành,…
Phân cấp cho địa phương, tăng thẩm quyền cho địa phương chủ động trong
quản lý. Việc phân cấp cần được tiến hành mạnh mẽ, song phải trên cơ sở tuân thủ
nguyên tắc tập trung, dân chủ, tăng cường sự quản lý tập trung của nhà nước ở khâu
trọng yếu là quản lý vĩ mô và hoạch định chính sách. Việc phân cấp mạnh mẽ tạo cơ
hội cho chính quyền địa phương được chủ động, sáng tạo trong quản lý, điều hành,
khai thác được nguồn lực sẵn có của địa phương, tìm ra phương thức quản lý phù
hợp với địa phương, với đặc điểm học sinh dân tộc và tình hình GD dân tộc của địa
phương, qua đó nâng cao hiệu lực, hiệu quả QLNN. Cần phân định rõ thẩm quyền
của từng cấp, cụ thể về trách nhiệm của mỗi cấp, mỗi cơ quan quản lý GD và cá
nhân từng cán bộ quản lý:
Tăng cường sự phối hợp trong hoạt động của Sở GD&ĐT, sự phối hợp giữa
các Phòng GD, các đầu mối phụ trách GDPT để hợp tác, tương trợ trong việc thực
hiện những chính sách, chương trình chung cũng như trao đổi sáng kiến, kinh
nghiệm trong quản lý (như tổ chức các buổi tổng kết, giao lưu chia sẻ kinh nghiệm
trong công tác GD).
Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác QLNN:
Thứ nhất, nâng cao trình độ trong hoạt động lập pháp, lập quy, nâng cao
trình độ pháp lý trong quản lý GD&ĐT bằng pháp luật và tăng cường pháp chế xã
hội chủ nghĩa đòi hỏi phải xây dựng được một hệ thống văn bản pháp luật về GDPT
hoàn chỉnh về số lượng và đảm bảo về chất lượng.
Thứ hai, cần phải xây dựng một đội ngũ cán bộ pháp lý có tri thức tổng hợp
về GD, kinh tế, pháp luật và chính trị, có trình độ soạn thảo văn bản và có năng lực
thực hiện pháp luật trong điều kiện cơ chế mới. Các thuật ngữ dùng trong các văn
bản pháp luật về phân cấp QLNN đối với GDPT cần rõ ràng, ngắn gọn, chính xác
và dễ hiểu, không dùng những thuật ngữ khó nhận thức, đa nghĩa dễ dẫn tới việc có
thể thực hiện không được nhất quán và dễ tạo ra sơ hở, bị xuyên tạc, lợi dụng.
81
Ngoài ra với mục tiêu thực hiện hiệu quả công tác kiểm định, đánh giá chất lượng
GDPT hướng đến một nền GD chất lượng và chuyên nghiệp, ngành GD cần chú
trọng đào tạo các chuyên gia, kiểm định viên không chỉ giỏi chuyên môn mà còn là
vị “quan tòa” liêm chính, là chuyên gia tư vấn, sẵn sàng giúp các cơ sở GD giải
quyết khó khăn trong quá trình áp dụng các tiêu chuẩn đánh giá chất lượng.
Thứ ba, để nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác
QLNN, cần có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức QLNN về
chất lượng GDPT. Hàng năm, Bộ GD&ĐT chỉ đạo Sở cùng các trường cần dành
một khoản ngân sách để khuyến khích các cán bộ và lưu học sinh học tập lĩnh vực
kiểm định, đánh giá, nâng cao chất lượng và hiệu quả trường học. Việc này sẽ giúp
phát triển nguồn nhân lực cần thiết nhằm thực hiện các sáng kiến và nỗ lực cải tiến
chất lượng cho GDPT của tỉnh nhà trong tương lai. Việc đào tạo có thể được thực
hiện bằng nhiều hình thức khác nhau (đào tạo dài hạn, ngắn hạn; chương trình đào
tạo có bằng cấp hoặc không có bằng cấp...).
Thứ tư, cùng với việc nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ, công chức
QLNN về chất lượng GDPT thì vấn đề đạo đức công vụ cũng cần được chú ý. Đội
ngũ cán bộ, công chức phải thực sự công tâm, khách quan trong quá trình quản lý,
đánh giá, có tinh thần trách nhiệm với công việc của mình.
Thứ năm, hiện nay, đội ngũ công chức QLNN về GDPT nói chung và tỉnh
Kiên Giang nói riêng, chưa thật đảm bảo tính “vừa hồng, vừa chuyên”. Do vậy, phải
tiến hành bồi dưỡng, đào tạo nâng cao nghiệp vụ quản lý chuyên ngành, giúp cho họ
am hiểu sâu về công tác quản lý mang tính đặc thù này và là điều kiện thiết yếu bảo
đảm tăng cường hiệu quả QLNN. Trong hoạt động chuyên ngành, hiệu quả QLNN
được thể hiện bằng thước đo là hiệu quả thực tiễn và sự hài lòng của cộng đồng xã
hội với chất lượng GDPT tại tỉnh Kiên Giang.
Thứ sáu, bảo đảm nguồn lực khai thác và sử dụng tốt nguồn nhân lực tại chỗ.
Xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý và giáo viên đủ về số lượng, hợp lý về cơ cấu.
Thực hiện tốt những chính sách, chế độ hỗ trợ, khuyến khích thích hợp đối với đội
ngũ giáo viên, cán bộ quản lý ngành GD công tác tại vùng dân tộc như: chính sách
82
tuyển dụng, phụ cấp, luân chuyển, khen thưởng, chế độ nhà ở, tiếp cận thông tin và
các điều kiện vật chất, tinh thần khác… để họ ổn định cuộc sống, gắn bó lâu dài với
sự nghiệp GD.
3.2.3 Bảo đảm nguồn lực vật chất phục vụ quản lý nhà nƣớc đối với giáo dục
phổ thông tại tỉnh Kiên Giang
Tài chính, cơ sở vật chất, trang thiết bị có vai trò vô cùng quan trọng đối với
hoạt động GD, đào tạo, là yếu tố cần thiết để nâng cao chất lượng GDPT. UBND
tỉnh Kiên Giang cần cây dựng chương trình mục tiêu quốc gia về GDPT (bao gồm
cả xây dựng cơ bản) để tập trung đầu tư cho các cơ sở GDPT trọng điểm, hỗ trợ đầu
tư cho các trường thuộc hệ thống GDPT của các huyện khó khăn khó khăn, có chính
sách ưu đãi, hỗ trợ, khuyến khích các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài đầu tư
vào hệ thống các cơ sở GDPT và bảo đảm quyền sở hữu theo pháp luật và các
quyền lợi của nhà đầu tư.
Do vậy, để huy động, quản lý và sử dụng các nguồn lực để nâng cao hiệu lực
phân cấp QLNN đối với GDPT cần:
Thứ nhất, đa dạng và tăng cường nguồn lực đầu tư, đổi mới chính sách, cơ
chế tài chính cho GDPT.
UBND tỉnh Kiên Giang cần huy động mọi nguồn lực đầu tư cho QLNN đối
với GDPT từ các thành phần kinh tế, từ Nhà nước, doanh nghiệp, người học và từ
cộng đồng. Tăng tỷ trọng đầu tư từ xã hội cho đào tạo GDPT, trong đó Nhà nước
giữ vai trò chủ đạo.
GDPT chủ động thực hiện đa dạng hóa nguồn thu từ các hợp đồng với các
doanh nghiệp, cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ; thu từ các hoạt động dịch vụ, sản
xuất, kinh doanh phù hợp với mục tiêu GD.
Thứ hai, tăng cường đầu tư máy móc, trang thiết bị cho hoạt động GD. Nhà
nước tăng cường đầu tư máy móc thiết bị giá trị lớn, đào tạo nguồn nhân lực chất
lượng cao. Tập trung đầu tư xây dựng những trường đào tạo chất lượng cao đáp ứng
nhu cầu xây dựng cho các bậc học nền tảng.
83
Thứ ba, thu hút sự tham gia đông đảo của các doanh nghiệp thuộc mọi thành
phần kinh tế, các tổ chức, cá nhân tham gia đào tạo chất lượng cao.
Nhà nước cần tạo cơ chế, chính sách cho sự tham gia của các tổ chức xă hội
nghề nghiệp mà trước hết là phát huy được vai trò của chình quyền địa phương, phụ
huynh học sinh, mạnh thường quân,... Các tổ chức này sẽ tham gia vào quá trình
kiểm định chất lượng với các nội dung công việc cụ thể như:
- Tư vấn tự đánh giá cho cơ sở GD nào đăng ký thực hiện tự đánh giá;
- Thực hiện đánh giá ngoài đối với cơ sở nào đã tiến hành tự đánh giá;
- Báo cáo với Bộ GD&ĐT về kết quả kiểm định chất lượng của các cơ sở
GD nào đã hoàn thành kiểm định để Bộ cấp chứng nhận kết quả kiểm định cho cơ
sở đó.
Thứ tư, hoàn thiện thể chế về quyền tự chủ, trách nhiệm xã hội của các cơ sở
GD.
Trên cơ sở chủ trương, đường lối đổi mới GDPT và luật pháp hiện hành của
Đảng và Chính phủ, cần phải quy định cụ thể trao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm
cho các cơ sở GD. Các cơ sở GD được quyền tự chủ và chịu trách nhiệm về các
hoạt động nghiệp vụ và dịch vụ sau: quy chế tuyển sinh, tuyển dụng; chương trình
và khối lượng kiến thức thông qua môn học; tổ chức tuyển sinh, quá trình giảng dạy
của đội ngũ giáo viên và học tập của học sinh; đổi mới phương pháp giảng dạy, học
tập và định kỳ tiến hành kiểm định, kiểm tra, thanh tra, đánh giá kết quả học tập; tổ
chức viết, biên soạn sách giáo khoa, tài liệu tham khảo và phát hành theo luật định
của Nhà nước; …
Thứ năm, hoàn thiện chính sách phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ quản
lý trường tiểu học, trung học cơ sở, THPT, trung tâm GD thường xuyên.
Điều chỉnh về cơ chế chính sách đối với đội ngũ cán bộ, giáo viên hay công
chức trong công văn số 486/UBND-NCPC (V/v hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn và tổ chức của Phòng GD&ĐT thuộc UBND huyện, thị xã, thành phố
thuộc tỉnh Kiên Giang và ban hành Quyết định Số 487/QD-SGĐT quy định chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạng của các đơn vị giúp Giám đốc thực hiện chức năng
84
QLNN thuộc Sở GD&ĐT tỉnh kiên Giang. Đưa ra chính sách đối với giáo viên, cán
bộ làm hợp đồng thời gian dài nhưng ở chế độ ngắn hạn. Tỉnh nên có chế độ đối với
giáo viên độ tuổi cao (quá tuổi thi viên chức) được hợp đồng dài hạn. Bên cạnh đó
việc thống nhất phối hợp về tuyển dụng giáo viên cán bộ giảng dạy cần phân bổ cho
Phòng GD&ĐT chịu trách nhiệm xây dựng kế hoạch tuyển dụng, tiêu chí cũng như
có trách nhiệm ra quyết định tuyển dụng. Các chế độ khác cũng do Sở, Phòng quyết
định. Như hiện trạng, QLNN đối với GDPT cấp tỉnh dược phân cấp tốt (Sở
GD&ĐT được UBND tỉnh phân cấp thực hiện QLNN đối với bậc THPT trong tỉnh),
trong khi cấp huyện, Phòng GD&ĐT chỉ là đơn vị tham mưu giúp UBND cấp
huyện QLNN đối với bậc tiểu học và trung học cơ sở, dễ gây chồng chéo, lung túng
thực hiện cũng như rườm rà, ảnh hưởng đến chất lượng công chức ngành GD của
tỉnh.
Trước hết, cần tiến hành khảo sát, đánh giá thực trạng đội ngũ giáo viên về
tất cả các mặt: số lượng, chất lượng, bố trí sử dụng và sự chuyển tiếp giữa các thế
hệ theo tiêu chí, tiêu chuẩn định mức lao động. Trên cơ sở đó phải dự báo quy mô
đào tạo của trường thông qua việc phân tích số lượng, chất lượng học sinh phổ
thông và nguyện vọng của họ đối với các trường đào tạo... Những định hướng phát
triển nguồn nhân lực và chính sách của nhà trường đối với GDPT cũng như đối với
nhân lực cho các trường trong hệ thống GDPT là một căn cứ quan trọng đối với
việc quy hoạch đội ngũ giáo viên của nhà trường. Cách thức quy hoạch cần giải
quyết các vấn đề sau: Về quy mô nhà trường và số lượng học sinh, để tính toán số
lượng giáo viên cần có các thông số như: Số học sinh/giáo viên (tỷ lệ này không cố
định cho môn học khác nhau, cấp học khác nhau...). Về cơ cấu: cơ cấu về độ tuổi,
về trình độ...
Các biện pháp cụ thể quy hoạch đội ngũ giáo viên gồm:
Một là, rà soát, thẩm định văn bằng, chửng chỉ nhằm khẳng định các chuẩn
mực đã đạt được làm căn cứ cho việc xây dựng tháp cơ cấu.
Hai là, xây dựng tháp cơ cấu độ tuổi, cơ cấu trình độ, chuyên môn, giới
tính... tối ưu cho từng giai đoạn phát triển của nhà trường và của từng đơn vị.
85
Ba là, ấn định việc xem xét, điều chỉnh tháp quy hoạch hàng năm và lên kế
hoạch thực hiện quy hoạch đó.
Bốn là, phân công trách nhiệm cụ thể cho các bộ phận liên quan thực hiện
cho kế hoạch đã đề ra thông qua các biện pháp cụ thể, phù hợp.
Chất lượng đội ngũ giáo viên có vai trò quyết định trong việc đảm bảo và
nâng cao chất lượng GD nói chung và đối với GDPT nói riêng. Do vậy, việc phát
triển đội ngũ giáo viên được coi là giải phát đột phá trong việc nâng cao chất lượng
đào tạo nguồn nhân lực. Để phát triển đội ngũ giáo viên đủ về số lượng, đồng bộ về
cơ cấu và có chất lượng, bảo đảm sự kết nối một cách nhuần nhuyễn giữa các thế
hệ, trên cơ sở phân tích những vấn đề lý luận cơ bản về chất lượng giáo viên, thực
trạng đội ngũ giáo viên hiện nay, cần thực hiện tốt một số chính sách sau:
Một là, đổi mới công tác xây dựng quy hoạch, kế hoạch và sửa đổi, bổ sung
hoàn thiện các quy định về tuyển dụng giáo viên; xây dựng chính sách thu hút cán
bộ khoa học có trình độ chuyên môn cao về trường công tác.
Hai là, đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng, tự đào tạo và đào tạo lại đối
với đội ngũ giáo viên nhằm nâng cao chất lượng của giáo viên cả về năng lực
chuyên môn lẫn kiến thức, nghiệp vụ sư phạm.
Ba là, đổi mới công tác quản lý, sử dụng, đánh giá, sàng lọc đội ngũ giáo
viên theo hướng phân công, phân cấp về trách nhiệm, quyền hạn và giao quyền tự
chủ, tự chịu trách nhiệm cho các cơ sở GDPT.
Bốn là, bổ sung, hoàn thiện cơ chế, chính sách đãi ngộ đối với đội ngũ giáo
viên tương xứng với thành tích và năng lực cá nhân; điều chỉnh chính sách lương,
phụ cấp ưu đãi, cơ chế đãi ngộ phù hợp để cải thiện đời sống vật chất và tinh thần,
tạo động lực và điều kiện cho đội ngũ giáo viên nâng cao năng lực, trình độ.
Đối với cán bộ quản lý phải được đào tạo bài bản, chú trọng năng lực thực tế
và các tiêu chuẩn cần thiết khác. Thực tế cho thấy, hầu hết cán bộ quản lý GD các
trường tiểu học, trung học cơ sở, THPT, trung tâm giáo dục thường xuyên tại Kiên
Giang chưa được đào tạo một cách bài bản, đúng chuyên ngành “quản lý” mà
thường được đào tạo ở các chuyên ngành khác hoặc là giáo viên chuyển sang làm
86
quản lý, chính vì thế nhìn chung năng lực chuyên môn nghiệp vụ của họ chưa đáp
ứng được với yêu cầu công việc “quản trị trường học”. Thực chất đây cũng là một
nguyên nhân dẫn đến chất lượng GDPT của tỉnh còn hạn chế, tại chương 2 thực
trạng cho thấy tỷ lệ học sinh tốt nghiệp với tỷ lệ đầu vào chênh lệch cao. Bên cạnh
việc tăng cường nâng cao năng lực và chất lượng của giáo viên thì cũng cần chú
trọng nâng cao năng lực và chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý. Cần có kế hoạch rà
soát lại đội ngũ cán bộ quản lý để bổ sung, thay thế những cán bộ không đáp ứng
được yêu cầu công việc. Cần có kế hoạch đào tạo và đào tạo lại một cách bài bản
cho đội ngũ này, mặt khác phải chú trọng năng lực thực tế của họ để bố trí công
việc phù hợp.
Thứ sáu, đổi mới chính sách tài chính đối với GDPT. Định mức phân bổ
ngân sách cho các trường phổ thông về cơ bản vẫn mang nặng tính bao cấp, bình
quân và chủ yếu dựa vào các yếu tố “đầu vào” nên chưa gắn kết giữa kết quả sử
dụng nguồn lực ngân sách nhà nước với kết quả, hiệu quả thực hiện nhiệm vụ. Để
tháo gỡ và phát huy những kết quả đã đạt được, thời gian tới cần lưu tâm tới các vấn
đề, cụ thể như:
Nghiên túc thực hiện Nghị định Số: 16/2015/NĐ-CP ngày ngày 14 tháng 2
năm 2015 của Chính phủ Quy định cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập về
việc khoán chi hoạt động thường xuyên theo số biên chế được cấp có thẩm quyền
giao và định mức phân bổ ngân sách nhà nước hiện hành để các trường tự chủ về
biên chế và thực hiện nhiệm vụ.
Thứ bảy, nguồn ngoài ngân sách. Huy động nguồn tài chính ngoài ngân sách
cho hoạt động GDPT thông qua các nguồn như: tài trợ nước ngoài, các dự án đào
tạo bồi dưỡng, trang bị thiết bị trường học,… từ các tổ chức trong và ngoài nước;
Vận động và tranh thủ các cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp, nhà hảo tâm có
tâm huyết với GD dân tộc hỗ trợ xây dựng cơ sở vật chất, cung cấp thiết bị dạy học,
hỗ trợ học bổng cho học sinh, nâng cao năng lực cho giáo viên… Đặc biệt vận động
các doanh nhân thành đạt trên địa bàn địa phương đóng góp phát triển quỹ Khuyến
học của địa phương hoặc bằng những hành động thiết thực hỗ trợ phát triển GD cho
87
học sinh dân tộc thiểu số. Tổ chức đội ngũ thanh niên tình nguyện, trợ giúp GD dân
tộc thiểu số một cách thiết thực và hữu hiệu trong chiến dịch thanh niên tình
nguyện, mùa hè xanh; tận dụng sự tham gia dạy học của các thầy giáo mặc áo lính
là các chiến sĩ bộ đội biên phòng tại các địa bàn biên giới, hải đảo,… Điều này sẽ
giúp huy động được nguồn lực tổng hợp và mạnh mẽ cho GD, tăng cơ hội học tập
và nâng cao chất lượng cuộc sống cho học sinh phổ thông.
Có các biện pháp khuyến khích, hỗ trợ đối với các cá nhân, tổ chức tài trợ
cho GD dân tộc thiểu số: giải quyết nhanh gọn các thủ tục hành chính, cử cán bộ,
nhân viên thuộc Sở GD&ĐT hay Uỷ ban nhân dân các cấp (đại diện cho Nhà nước)
phối hợp cùng thực hiện các dự án nhằm đạt kết quả tốt nhất, thuận lợi nhất;
UBND tỉnh Kiên Giang có văn bản hướng dẫn nhiệm vụ trọng tâm năm học
tới các trường phổ thông và trong hệ thống GDPT trên địa bàn tỉnh. Ban hành kịp
thời các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn các trường về thực hiện các hoạt động thu chi
tài chính, tuyển dụng nhân sự.
3.2.4. Tăng cƣờng kiểm tra, đánh giá, xử lý vi phạm, chế tài nghiêm khắc liên
quan đến hoạt động phân cấp quản lý nhà nƣớc đối với giáo dục phổ
thông
Bộ GD&ĐT thiết lập, triển khai hoạt động hệ thống kiểm định chất lượng
đối với GDPT tại tỉnh Kiên Giang bao gồm: xây dựng và ban hành tiêu chí, tiêu
chuẩn kiểm định chất lượng về GDPT; quy trình kiểm định chất lượng GDPT; đào
tạo, bồi dưỡng đội ngũ kiểm định viên chất lượng GDPT.
Trên cơ sở đó, Sở GD&ĐT chỉ đạo các Phòng GD&ĐT tiến hành hoạt động
tự đánh giá căn cứ vào hệ thống tiêu chí, tiêu chuẩn đánh giá chất lượng để chỉ ra
các mặt mạnh, mặt yếu để từ đó xây dựng kế hoạch và các biện pháp thực hiện
nhằm đáp ứng mục tiêu đã đề ra.
Giữ gìn kỷ cương, đảm bảo nguyên tắc trong QLNN đối với GDPT tại tỉnh
Kiên Giang; biến quá trình thanh tra, kiểm tra thành quá trình tự thanh tra, kiểm tra
trong các cơ sở GDPT; đảm bảo công bằng và góp phần nâng cao chất lượng và
88
hiệu quả GDPT tại tỉnh Kiên Giang. Để tổ chức thanh tra, kiểm tra, giám sát và thực
hiện kiểm định chất lượng GDPT cần:
Thứ nhất, việc tăng cường và đảm bảo quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của
các trường phổ thông chỉ thực sự mang lại hiệu quả khi phải tiến hành cùng với việc
tăng cường QLNN của Sở GD&ĐT cũng như của các ngành chủ quản khác. Tổ
chức hệ thống thanh tra, kiểm tra GDPT cần tập trung thanh tra, kiểm tra các nội
dung quản lý chủ yếu trong việc chấp hành các quy định về phân cấp QLNN đối với
GDPT. Hoạt động thanh tra, kiểm tra cần có sự đổi mới về hình thức cũng như
phương pháp tiến hành, đảm bảo chất lượng nhưng về nguyên tắc không nên thay
thế hoạt động thanh tra, kiểm tra của các cơ sở GD, cần tiến hành hướng dẫn công
tác thanh tra, kiểm tra của các cơ sở như vai trò một nhà tư vấn. Mặt khác, cũng cần
chú trọng các hoạt động thanh tra, kiểm tra cấp bộ.
Thứ hai, trong giai đoạn hiện nay đối với tỉnh Kiên Giang, công tác thanh tra,
kiểm tra các nội dung phân cấp QLNN đối với GDPT cần tập trung vào công tác
tuyển sinh; chế độ tài chính, học phí, cấp phát văn bằng chứng chỉ và đảm bảo chất
lượng đào tạo, đảm bảo quyền lợi người học, tiến độ thực hiện cũng như chất lượng
đào tạo,...
Thứ ba, các hoạt động thanh tra, kiểm tra cần đổi mới theo hướng là “nhà tư
vấn” quá trình đào tạo cho các cơ sở GD. Để công tác thanh tra, kiểm tra phát huy
được ý nghĩa quan trọng của nó, các đơn vị thanh tra, kiểm tra cần có kế hoạch
thanh tra, kiểm tra tập trung vào các vấn đề trọng điểm như việc đảm bảo sự phù
hợp nội dung đào tạo với mục tiêu, sứ mệnh của ngành và cơ sở giáo dục.
Thứ tư, cần chú trọng xây dựng đội ngũ làm công tác thanh tra, kiểm tra có
đủ năng lực, kinh nghiệm, dám nghĩ, dám làm, không ngại va chạm và có phẩm
chất đạo đức qua việc đào tạo, bồi dưỡng về chuyên môn nghiệp vụ, trang bị và cập
nhật những kiến thức, kỹ năng, học hỏi kinh nghiệm của các nước có nền GD tiên
tiến để đội ngũ làm công tác thanh tra, kiểm tra hoàn thành tốt công tác của mình.
Thứ năm, hoàn thiện thể chế về đánh giá chất lượng GDPT.
89
Nhà nước cần hoàn thiện bộ tiêu chuẩn, tiêu chí đánh giá chất lượng GDPT
theo yêu cầu và định hướng chất lượng trong thời gian 5 năm một lần. Điều này
đảm bảo cho chúng ta có một bộ tiêu chuẩn đánh giá thống nhất, chuẩn hóa và dễ
dàng được các cơ sở GD chấp nhận. Điều này phù hợp với vai trò của cơ quan Nhà
nước - đề ra các văn bản quy phạm để quản lý. Việc hoàn thiện các tiêu chí đánh giá
cần gắn với những mục tiêu chính là:
(i) Các trường sử dụng bộ tiêu chí để tự đánh giá từng lĩnh vực hoặc toàn
diện hoạt động bảo đảm chất lượng đào tạo của một cấp học, một khoá đào tạo hoặc
của toàn trường;
(ii) Các trường sử dụng bộ tiêu chí để xây dựng kế hoạch chiến lược cho việc
bảo đảm chất lượng đào tạo của trường mình;
(iii) Các tổ chức kiểm định sử dụng tiêu chí để đánh giá về chất lượng của
một cơ sở GDPT;
Để cụ thể hóa các mục tiêu trên, các tiêu chí đánh giá chất lượng GDPT cần
được hoàn thiện. Những tiêu chí cần bổ sung như: các hoạt động dịch vụ GD phục
vụ xã hội, hoạt động chuyển giao công nghệ, sự tham gia vào hoạt động GD - đào
tạo và khoa học công nghệ trong khu vực và trên thế giới, quan hệ với người sử
dụng lao động, vai trò, vị trí đối với địa phương nơi trường đóng, sự tuân thủ các
quy định của nhà nước.
Trong từng tiêu chuẩn các tiêu chí cần phải được làm rõ như:
Đối với công tác tổ chức và quản lý chúng ta có thể bổ sung các tiêu chí về
tầm nhìn, năng lực của lãnh đạo nhà trường trong việc phát huy được quyền tự chủ
và tính tự chịu trách nhiệm của nhà trường; trách nhiệm xã hội của nhà trường đối
với sản phẩm đào tạo của mình.
Đối với tiêu chuẩn về người học cần đặc biệt chú ý đến các tiêu chí về khả
năng tự học, tự nghiên cứu, khả năng đáp ứng nhu cầu học tập suốt đời của người
học bởi thế kỷ XXI người mù chữ không phải là người không biết đọc, biết viết mà
là người không biết học, biết quên và tiếp tục học; vấn đề kỹ năng sống, kỹ năng
làm việc...;
90
Tiêu chuẩn về sự gắn kết giữa nhà trường và doanh nghiệp, nhà trường với
xã hội. Trong giai đoạn trước mắt, để góp phần tăng cường phân cấp QLNN nhằm
nâng cao chất lượng GDPT, bảo đảm tính khả thi trong thực hiện đánh giá chất
lượng GDPT ở nước ta và tỉnh Kiên Giang, cần đặc biệt chú ý đến các trọng số cho
các tiêu chí trong các lĩnh vực đánh giá: công tác tổ chức và quản lý; tỷ lệ học sinh
trên số cán bộ giảng dạy; tỷ lệ cán bộ giảng dạy có học hàm, học vị; năng lực của
học sinh; chương trình học và các tài liệu chuyên môn; phương pháp giảng dạy và
học tập; nghiên cứu khoa học; hệ thống cơ sở hạ tầng; kinh phí hàng năm; các hoạt
động hợp tác quốc tế phục vụ đào tạo và nghiên cứu khoa học.
91
Tiểu kết chƣơng 3
Kiên Giang có vị trí chiến lược quan trọng, nằm trong vùng vịnh Thái Lan,
gần với các nước thuộc khu vực Đông Nam Á. Kiên Giang có nhiều điều kiện thuận
lợi trong việc mở rộng giao lưu kinh tế trong khu vực, đồng thời đóng vai trò cầu
nối các tỉnh miền Tây Nam Bộ với bên ngoài.
Do vậy, phân cấp QLNN về GDPT tỉnh Kiên Giang một mặt hoạch định các
chính sách phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của tỉnh, mặt khác đảm bảo cho
hoạt động GD&ĐT nguồn nhân lực của tỉnh đi đúng định hướng, chiến lược.
Để nâng cao chất lượng và hiệu quả phân cấp QLNN về GDPT tỉnh Kiên
Giang, cần phải đảm bảo đúng định hướng. Trên cơ sở định hướng, hạn chế thực
trạng, tác giả đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả phân cấp QLNN về
GDPT trên địa bàn tỉnh Kiên Giang hiện nay như sau: (1) Tiếp tục hoàn thiện thể
chế QLNN đối với GDPT nói chung và phân cấp đối với QLNN đối với GDPT nói
riêng; (2) Nâng cao năng lực QLNN đối với GDPT tại tỉnh Kiên Giang; (3) Bảo
đảm nguồn lực vật chất phục vụ quản QLNN đối với GDPT tại tỉnh Kiên Giang và
một số giải pháp khác.
92
KẾT LUẬN
Kiên Giang có tiềm năng phát triển kinh tế với bờ biển dài, nhiều sông núi và
hải đảo, nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, vị trí và điều kiện tự nhiên thuận
lợi đã tạo cho tỉnh nhiều tiềm năng và lợi thế kinh tế phong phú, đa dạng như: kinh
tế nông - lâm nghiệp, kinh tế biển, công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng, công
nghiệp chế biến nông - thủy sản và du lịch; nhiều danh lam thắng cảnh và di tích
lịch sử, văn hóa tiêu biểu. Ngoài ra, với vị thế là cửa ngõ ở phía Tây Nam thông ra
Vịnh Thái Lan, Kiên Giang còn có tiềm năng lớn về kinh tế cửa khẩu, hàng hải và
mậu dịch quốc tế. Do vậy, phân cấp QLNN về GDPT có hiệu quả là tiền đề để xây
dựng nguồn nhân lực chất lượng cao nhằm khai thác các tiềm năng, thế mạnh của
tỉnh có ý nghĩa chiến lược trong giai đoạn hiện nay. Nghiên cứu đề tài “Phân cấp
QLNN đối với GDPT tại tỉnh Kiên Giang”, luận văn thu được kết quả như sau:
Trên cơ sở nghiên cứu hệ thống lý luận về các khái niệm chính của đề tài,
phân tích yếu tố cốt lõi về nội dung phân cấp QLNN đối với GDPT.
Đề tài cố gắng đánh giá đúng và khách quan thực trạng phân cấp QLNN về
GDPT trên địa bàn tỉnh Kiên Giang. Thực trạng cho thấy bên cạnh những ưu điểm,
phân cấp QLNN về GDPT còn những hạn chế, yếu kém nổi bật nhất về bộ máy
quản lý, đội ngũ quản lý, thể chế cũng như việc nguồn lực làm cho hoạt động
QLNN về GDPT còn hạn chế…. điều này đã đặt ra những vấn đề về phân cấp
QLNN về GDPT trên địa bàn tỉnh Kiên Giang.
Từ thực trạng – ưu điểm, yếu kém và những bất cập về phân cấp QLNN về
GDPT tại tỉnh Kiên Giang hiện nay, đòi hỏi phải quán triệt toàn diện các quan điểm
và triển khai thực hiện đồng bộ các giải pháp nhằm huy động tối đa, khai thác và sử
dụng tối ưu các nguồn lực để nâng cao chất lượng GDPT. Đây vừa là vấn đề mang
tính thời sự cấp thiết, vừa là nhiệm vụ cơ bản mang tính lâu dài. Vì vậy, cần có sự
đồng thuận, thống nhất nhận thức và hành động của Nhà nước, các cấp, các ngành,
chính quyền và từ bản thân mỗi trường phổ thông.
Trên cơ sở lý luận, hạn chế thực trạng đòi hỏi cần có giải pháp hữu hiệu để
nâng cao hiệu quả phân cấp QLNN về GDPT trên địa bàn tỉnh Kiên Giang. Từ nhận
93
thức trên, luận văn đưa ra một số giải pháp cơ bản gồm: (1) Tiếp tục hoàn thiện thể
chế QLNN đối với GDPT nói chung và phân cấp đối với QLNN đối với GDPT nói
riêng; (2) Nâng cao năng lực QLNN đối với GDPT tại tỉnh Kiên Giang; (3) Bảo
đảm nguồn lực vật chất phục vụ quản QLNN đối với GDPT tại tỉnh Kiên Giang và
một số giải pháp khác.
Để các giải pháp nâng cao hiệu quả phân cấp QLNN về GDPT trên địa bàn
tỉnh Kiên Giang phát huy hiệu quả, tác giả xin đưa ra một số kiến nghị như sau:
Đối với Quốc hội: Quốc hội cần nghiên cứu, xây dựng Luật Chất lượng GD
trong đó có nội dung, tiêu chí về chất lượng GDPT nhằm tạo sự đồng thuận chung
trong nhận thức, triển khai về chất lượng GDPT.
Đối với Chính phủ: Chính phủ ban hành tăng cường sự phối hợp liên ngành,
liên vùng trong xây dựng nội dung, chương trình GDPT tỉnh Kiên Giang và trong cả
nước, ở các ngành, các địa phương để GDPT thực sự đáp ứng nhu cầu phát triển
kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ.
Đối với Bộ GD&ĐT: Bộ GD&ĐT cần có những nghiên cứu, ban hành các
văn bản mang tính điều chỉnh, xử phạt các hành vi vi phạm các quy định về đánh
giá chất lượng GDPT, về nội dung, chương trình đã được luật định để góp phần
nâng cao phân cấp QLNN về đối với GDPT trên địa bàn tỉnh Kiên Giang, và cả
nước nói chung.
Đối với UBND tỉnh Kiên Giang: UBND tỉnh cần nghiên cứu tăng cường đầu
tư phát triển mạng lưới trường phổ thông, tăng cường năng lực các trường phổ
thông về cơ sở vật chất, trang thiết bị, phương tiện dạy học, ưu tiên và công khai
quỹ đất cho các cơ sở GDPT để nâng cao chất lượng đào tạo GDPT của tỉnh và cần
thực hiện giải pháp mang tính đột phá trong việc đầu tư cho từng bậc học.
UBND tỉnh có kế hoạch tập trung đầu tư hơn nữa cho các cơ sở GDPT cả về
đội ngũ giáo viên và kinh phí hoạt động thường xuyên nhằm đảm bảo quy mô và
chất lượng GDPT.
Tăng nguồn kinh phí chi thường xuyên cho GDPT, kinh phí đầu tư xây dựng
cơ sở vật chất, mua sắm máy móc thiết bị cho hoạt động GDPT.
94
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ GD&ĐT (2002), Ngành GD - đào tạo thực hiện Nghị quyết trung ương 2 khóa VIII
và Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX, NXB GD, Hà Nội.
2. Bộ trưởng Bộ GD&ĐT (2007), Quyết định số 33/2007/QĐ- BGDĐT ngày 20 tháng 6
năm 2007 ban hành Quy chế văn bằng, chứng chỉ của hệ thống GD quốc dân.
3. Bộ GD&ĐT (2007), Quyết định số 60/2007/QĐ-BGDĐT ngày 16 tháng 10 năm 2007
ban hành Quy chế đánh giá kết quả rèn luyện của học sinh, học sinh các cơ sở GD đại
học và trường trung cấp chuyên nghiệp hệ chính quy.
4. Bộ trưởng Bộ GD&ĐT (2009), Thông tư số 09/2009/TT- BGDĐT ngày 07 tháng 5
năm 2009 của Bộ trưởng Bộ GD&ĐT ban hành Quy chế thực hiện công khai đối với
cơ sở GD của hệ thống GD quốc dân.
5. Bộ GD&ĐT (2011), Chiến lược phát triển GD đào tạo đến năm 2020.
6. Bộ GD&ĐT (2013), Hội nghị tổng kết 3 năm thực hiện Chỉ thị 296/CT-TTg của Thủ
tướng Chính phủ và chương trình hành động của Bộ GD&ĐT.
7. Bộ GD&ĐT phối hợp với Tổ chức Quốc tế Pháp (2013), “Vai trò điều tiết của Nhà
nước trong việc đảm bảo chất lượng và công bằng GD”, Hội thảo quốc gia, Hà Nội.
8. Chiến lược phát triển GD Việt Nam 2001- 2010 (2002), NXB GD, Hà Nội.
9. Chính phủ (2013), Nghị định số 42/2013/NĐ-CP ngày 09 tháng 5 năm 2013 về tổ chức
và hoạt động thanh tra GD.
10. Chính phủ (2015), Nghị định 16/2015/NĐ-CP ngày 14 tháng 02 năm 2015 Quy định cơ
chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập.
11. Chính phủ (2006), Nghị định 43/2006/NĐ-CP quy định quyền tự chủ, tự chịu trách
nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với đơn vị sự
nghiệp công lập.
95
12. Chính phủ (2013), Nghị định số 42/2013/NĐ-CP ngày 09 tháng 5 năm 2013 về tổ chức
và hoạt động thanh tra GD.
13. Nguyễn Duy Dương (2011) “QLNN về GDPT Bắc Giang trong giai đoạn hiện nay”,
Luận văn Thạc sỹ Quản lý Hành chính công, Học viện Hành chính Quốc gia.
14. Đảng Cộng Sản Việt Nam (1997), Văn kiện hội nghị lần thứ 2 Ban chấp hành Trung
ương khoá VIII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
15. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Đại hội đại biểu Toàn quốc lần thứ IX ,
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
16. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
17. Trần Khánh Đức (2000), Công tác kiểm định các điều kiện bảo đảm chất lượng các
trường chuyên nghiệp và khả năng ứng dụng ở Việt Nam, Tạp chí Đào tạo nghề.
18. Trần Khánh Đức (2004), Quản lý và kiểm định chất lượng đào tạo nhân lực theo ISO
& TQM, NXB GD.
19. Trần Ngọc Giao (2012), “Phát triển đội ngũ lãnh đạo và QLNN về GD các cấp, NXB
Đại học sư phạm Hà Nội.
20. Vũ Ngọc Hải (2012) “Đổi mới QLNN về hệ thống GD quốc dân trong hội nhập quốc tế
và xu thế toàn cầu hóa”, NXB Chính trị. Hà Nội
21. Vũ Ngọc Hải, Đặng Bá Lãm, Trần Khánh Đức (2007), GD Việt Nam đổi mới và phát
triển hiện đại hóa, Nxb GD, Hà Nội.
22. Học viện hành chính (2008), Giáo trình Quản lý học đại cương, NXB Khoa học và Kỹ
thuật, Hà Nội.
23. Nguyễn Tiến Hùng (2012) “Đổi mới quản lý nhà trường phổ thông Việt Nam theo
hướng định hướng hiệu quả trong bối cảnh phân cấp quản lý GD”, đề tài khoa học cấp
Bộ, Viện Khoa học GD Việt Nam.
96
24. Đặng Thị Thanh Huyền (2001), GDPT với phát triển chất lượng nguồn nhân lực-
Những bài học thực tiễn từ Nhật Bản, NXB Khoa học xã hội.
25. Đặng Bá Lãm (chủ biên) (2005), QLNN về GD: Lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
26. Nguyễn Thu Linh (2002), QLNN về văn hóa, GD, y tế, NXB Đại học quốc gia, Hà Nội.
27. Nguyễn Thị Mỹ Lộc (2012) Quản lý GD- một số vấn đề lý luận và thực tiễn, NXB Đại
học Quốc gia, Hà Nội.
28. Hoàng Phê (chủ biên) (2009), Từ điển Tiếng Việt, NXB Đà Nẵng.
29. Nguyễn Thị Minh Phương (2008), Về phân hóa trong GDPT Việt Nam giai đoạn sau
năm 2015 (Thuộc chương trình nghiên cứu khoa học cấp bộ giai đoạn 2006-2008
“Phát triển GD&ĐT Việt Nam trong quá hội nhập quốc tế”).
30. Quốc hội (2005), Luật GD, Số 38/2005/QH11 ngày 14 tháng 6 năm 2005.
31. Quốc hội (1946), Hiến pháp Nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Hà Nội
32. Quốc hội (1959), Hiến pháp Nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Hà Nội
33. Quốc hội (1992), Hiến pháp Nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Hà Nội
34. Quốc hội (2013), Hiến pháp Nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Hà Nội
35. Quốc hội (1959), Hiến pháp Nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Hà Nội
36. Quốc Hội (2015), Luật tổ chức chính quyền địa phương, ngày 19 tháng 06 năm 2015,
Hà Nội.
37. Võ Kim Sơn (2004), Phân cấp Quản lý nhà nước – Lý luận và thực tiễn, NXB Chính trị
Quốc gia, Hà Nội
38. Lâm Quang Thiệp (2005), Giải quyết bài toán quan hệ giữa số lượng và chất lượng của
GD đại học nước ta, Tạp chí GD số 109/2005, tr.6-7,23.
97
39. Thủ tướng Chính phủ (2001), Quyết định số 201/2001/QĐ-TTg ngày 28 tháng 12 năm
2001 phê duyệt “Chiến lược phát triển GD 2001-2010”.
40. Thủ tướng Chính phủ, Quyết định 711/QĐ-TTg ngày 13 tháng 6 năm 2012 của Thủ
tướng Chính phủ năm 2012 phê duyệt "Chiến lược phát triển GD 2011-2020".
41. Nguyễn Thị Thu (2011) “QLNN về phát triển GD&ĐT vùng dân tộc thiểu số miền núi
phía Bắc nước ta” Luận văn thạc sĩ Quản lý Hành chính công (Học viện Hành chính
Quốc gia).
42. Đinh Thị Minh Tuyết (2006), Đổi mới quản lý GD đào tạo ở nước ta hiện nay, Tạp chí
QLNN- số 130 (11/2006).
43. Phạm Hồng Thái, Nguyễn Đăng Dung, Nguyễn Ngọc Chí (đồng chủ biên), Phân cấp
QLNN, NXB Công an nhân dân, trang 10.
44. UBND tỉnh Kiên Giang (2012), V/v hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ
chức của Phòng GD&ĐT thuộc UBND huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh Kiên Giang,
Số486/UBND-NCPC, ngày 02/05/2012, Kiên Giang.
45. UBND tỉnh Kiên Giang (2013), Quyết định Ba hành chức năng, nhiệm vụ, quyền hạnh
của các đơn vị giúp Giám đốc thực hiện chức năng QLNN thuộc Sở GD&ĐT tỉnh kiên
Giang, Số 486/QD-SGĐT, ngày 22 tháng 4 năm 2013, Kiên Giang.
46. UBND tỉnh Kiên Giang (2012), Quyết định số 976/QD-UBND, Quyết định về quy định
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Sở GD&ĐT tỉnh Kiên Giang,
số 976/QD-UBND, ngày 08 tháng 05 năm 2012, Kiên Giang.
47. Đặng Ứng Vận (2006), Phát triển GD Việt Nam trong cơ chế thị trường, Báo cáo tổng
hợp kết quả đề tài NCKH do Văn phòng Hội đồng quốc gia GD đại học chủ trì.
48. Viện Nghiên cứu Phát triển GD (2002), Chiến lược phát triển GD: kinh nghiệm của
các quốc gia, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
49. Viện Từ điển học và Bách khoa toàn thư Việt Nam, (2006), Từ điển học, Viện hàn lâm
khoa học xã hội Việt Nam.
98
50. Hồ Văn Vinh (2004), Giáo trình khoa học quản lý, Nxb Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh - Hà Nội.
PHIẾU TRƯNG CẦU Ý KIẾN
(Dành cho cán bộ quản lý và giáo viên)
Kính thưa quý Thầy/Cô!
Để nghiên cứu nâng cao hiệu quả phân cấp QLNN đối với GDPT trên địa bàn
tỉnh Kiên Giang, xin Thầy/Cô vui lòng cho biết ý kiến của mình về một số nội dung
dưới đây bằng cách đánh dấu “X” vào ô lựa chọn hoặc hoặc ghi phần trả lời theo
yêu cầu của câu hỏi. Ý kiến của Thầy/Cô chỉ phục vụ cho mục đích nghiên cứu
khoa học. Rất mong nhận được sự hợp tác của quý Thầy/Cô.
Trân trọng cảm ơn!
I. NỘI DUNG KHẢO SÁT
Câu 1. Đánh giá về phân cấp tổ chức bộ máy trong QLNN đối với GDPT?
Các mức độ
Không TT Nội dung Ít hài Hài Rất hài hài lòng lòng lòng lòng
Xây dựng cơ chế, chính sách cho hoạt 1 động GDPT
Quy định rõ vị trí, chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn, thẩm quyền của cơ quan 2 chuyên môn QLNN về GD ở trung ương
và địa phương
Quy định trách nhiệm cũng như phân định
3 nhiệm vụ các cơ quan ngang Bộ trong
QLNN đối với GDPT
1
Quy định về tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn
của cơ sở GDPT, hoạt động khoa học và
4 công nghệ, hoạt động hợp tác quốc tế, bảo
đảm chất lượng GD, người học, tài chính,
chế độ làm việc với giáo viên
Quy định nhiệm vụ và quyền hạn; tổ chức
và quản lý các trường phổ thông; hoạt 5 động GDPT; giáo viên và người học; tài
chính và tài sản
Xây dựng và ban hành Thông tư hướng
dẫn thực hiện quyền tự chủ, tự chịu trách
6 nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ
máy, biên chế đối với đơn vị sự
nghiệp công lập GD&ĐT
Xác định và phân công các chức năng,
7 nhiệm vụ và quyền hạn của từng cấp
(trung ương, tỉnh, trường)
Cơ quan QLNN trung ương quy định
8 khung cơ cấu tổ chức bộ máy cơ sở GD
theo từng loại hình, hạng trường
Cơ sở GD phải xây dựng và thiết kế cơ
cấu tổ chức bộ máy của mình trình cơ
quan QLNN theo thẩm quyền phê duyệt 9 nhằm đảm bảo cơ cấu tổ chức theo cơ cấu
quy định đồng thời gắn với loại hình hoạt
động của cơ sở GD.
Ban hành và tổ chức thực hiện văn bản 10 quy phạm pháp luật về cán bộ, công chức
2
Câu 2. Đánh giá phân cấp quản lý nhân sự trong QLNN đối với GDPT tỉnh
Kiên Giang
Các mức độ
Nội dung TT Chưa Trung Khá Tốt đạt bình
Ban hành và tổ chức thực hiện văn bản 1 quy phạm pháp luật về cán bộ, công chức
Xây dựng kế hoạch, quy hoạch cán bộ,
2 công chức; Quy định chức danh và cơ cấu
cán bộ
Quy định ngạch, chức danh, mã số công
chức; mô tả, quy định vị trí việc làm và cơ
3 cấu công chức để xác định số lượng biên
chế đối với công chức trong các cơ quan,
bộ, ban, ngành theo hàng dọc.
Quy định rõ định mức biên chế, tiêu chuẩn
4 chuyên môn, nghiệp vụ theo vị trí việc
làm trong cơ quan QLNN về GD
Lãnh đạo các trường thực hiện việc tuyển
dụng nhân sự theo yêu cầu công việc của 5 đơn vị mình gắn với tiêu chuẩn chuyên
môn, nghiệp vụ được quy định
3
Câu 3. Đánh giá phân cấp quản lý về tài chính trong QLNN đối với GDPT?
Các mức độ
TT Nội dung Chưa Trung Khá Tốt đạt bình
Xây dựng và quy định cơ chế tự chủ của đơn
1 vị sự nghiệp công lập, trong đó có hệ thống
GDPT
Nhà nước quy định cơ chế quản lý tài chính
trong hoạt động GD&ĐT về học phí, kinh phí 2 đóng góp, cơ chế, chính sách để thực hiện
công tác xã hội hóa GD.
Giao cơ chế tự chủ tài chính đối với ngân sách
3 cấp cho hoạt động của cơ quan QLNN về GD
địa phương.
Giao quyền tự chủ về tài chính được cấp và
4 nguồn thu khác theo quy định cho cơ sở GD
trong hoạt động chuyên môn.
Câu 4. Đánh giá phân cấp quản lý về chuyên môn trong QLNN đối với GDPT?
Các mức độ
TT Nội dung Chưa Trung Khá Tốt đạt bình
Bộ GD& ĐT xây dựng quy định về phạm vi, 1 mục tiêu, nội dung, chương trình GDPT
Quy định vị trí, môn học trong kế hoạch dạy 2 học
4
Xác định rõ mục đích yêu cầu của môn học
3 (yêu cầu về tri thức, kỹ năng kỹ xảo, thái độ
hành vi)
Bộ GD7ĐT ban hành nội dung môn học (các
4 phần, các chương, các bài), Sở GD&ĐT xây
dựng các hoạt động phù hợp với địa phương
Câu 5. Đánh giá phân cấp quản lý học sinh trong QLNN đối với GDPT tỉnh
Kiên Giang?
Các mức độ
TT Nội dung Chưa Trung Khá Tốt đạt bình
Điều khiển, tổ chức học sinh nắm vững hệ
thống tri thức khoa học phổ thông, cơ bản, 1 hiện đại, phù hợp với thực tiễn Việt Nam về tự
nhiên xã hội- nhân văn
Tổ chức đánh giá theo dõi, đánh giá ý thức
2 học tập của học sinh; phân loại, xếp loại học
sinh cuối mỗi học kỳ, năm học, khoá học.
Xây dựng chương trình môn học hình thành
3 phát triển năng lực và những phẩm chất trí tuệ,
đặc biệt là năng lực tư duy độc lập, sáng tạo
Tổ chức, điều khiển học sinh hình thành cơ sở
thế giới quan khoa học, những phẩm chất đạo 4 đức nói riêng và phát triển nhân cách nói
chung
5
II. THÔNG TIN CÁ NHÂN
Thầy/Cô vui lòng cho biết một số thông tin dưới đây:
1. Đơn vị công tác: ..............................................................................................
2. Giới tính: Nam Nữ
3. Thầy/Cô là: Ban Giám Hiệu Tổ trưởng Giáo viên
4. Thâm niên: Dưới 5 năm Từ 5 - 10 năm Trên 10 năm
5. Trình độ: Đại học Thạc sĩ Trên thạc sĩ
Xin chân thành cảm ơn các Thầy/Cô!
Chúc các Thầy/Cô mạnh khỏe, thành đạt!
6