BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ …………/………… …../…..

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

LÊ THÀNH NHÂN

QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ HỘ TỊCH

TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN KIM SƠN, TỈNH NINH BÌNH

LUẬN VĂN THẠC SỸ QUẢN LÝ CÔNG

HÀ NỘI - NĂM 2020

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ …………/………… …../…..

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

LÊ THÀNH NHÂN

QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ HỘ TỊCH

TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN KIM SƠN, TỈNH NINH BÌNH

LUẬN VĂN THẠC SỸ

CHUYÊN NGÀNH: QUẢN LÝ CÔNG

MÃ SỐ: 8 34 04 03

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. VŨ THỊ MINH NGỌC

HÀ NỘI - NĂM 2020

LỜI CAM ĐOAN

Tôi cam đoan luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi; các kết

quả trong luận văn chưa được công bố trong bất kì công trình nghiên cứu

khoa học nào khác. Các số liệu, ví dụ, bảng kê và trích dẫn trong luận văn

được tác giả trích dẫn nguồn đầy đủ, đúng quy định của cơ sở đào tạo.

Tác giả luận văn

Lê Thành Nhân

LỜI CẢM ƠN

Sau thời gian học tập và nghiên cứu tại Học viện Hành chính Quốc gia,

tôi đã hoàn thành Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Quản lý công.

Xin trân trọng cảm ơn TS. Vũ Thị Minh Ngọc, người đã tận tình hướng

dẫn, giúp đỡ tôi trong suốt thời gian nghiên cứu và hoàn thành Luận văn.

Xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Ban Giám đốc Học viện Hành chính

Quốc gia, Khoa Sau đại học và toàn thể các giảng viên của Học viện đã trực

tiếp giảng dạy, truyền đạt các kiến thức cũng như tạo điều kiện thuận lợi cho

tôi hoàn thành Luận văn.

Cảm ơn gia đình, bạn bè và đồng nghiệp đã tạo điều kiện tốt nhất để tôi

hoàn thành Luận văn.

Hà Nội, ngày tháng năm 2020 Tác giả luận văn Lê Thành Nhân

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1

NỘI DUNG ................................................................................................... 9

Chƣơng 1 ...................................................................................................... 9

CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ HỘ TỊCH ......... 9

1.1. Các khái niệm công cụ ............................................................................ 9

1.2. Nội dung, nguyên tắc, vai trò của quản lý nhà nước về hộ tịch .............. 20

1.3. Yếu tố ảnh hưởng đến quản lý nhà nước về hộ tịch trên địa bàn cấp huyện ..... 30

1.4. Kinh nghiệm Quản lý nhà nước về hộ tịch ở một số địa phương............ 35

Tiểu kết Chương 1 ........................................................................................ 41

Chƣơng 2 .................................................................................................... 43

THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ HỘ TỊCH TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN KIM SƠN TỈNH NINH BÌNH ....................... 43

2.1. Khái quát về huyện Kim Sơn tỉnh Ninh Bình ........................................ 43

2.2. Phân tích thực trạng quản lý nhà nước về hộ tịch trên địa bàn huyện Kim

Sơn tỉnh Ninh Bình, giai đoạn 2016 - 2019 .................................................. 47

2.3. Đánh giá thực trạng công tác quản lý, đăng ký hộ tịch trên địa bàn huyện

Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình, giai đoạn 2016 - 2019.......................................... 63

Tiểu kết chương 2 ........................................................................................ 75

Chƣơng 3 .................................................................................................... 77

ĐỊNH HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ HỘ TỊCH TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN KIM SƠN, TỈNH NINH BÌNH .... 77

3.1. Định hướng bảo đảm quản lý nhà nước về hộ tịch ................................. 77

3.2. Một số giải pháp tăng cường quản lý nhà nước về hộ tịch trên địa bàn

huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình ................................................................... 81

Tiểu kết Chương 3 ........................................................................................ 97

TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................ 101

DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ

Số hiệu Tên biểu đồ Trang

51

Biểu đồ số 2.1 Trình độ lý luận, chính trị của công chức Tư pháp - Hộ tịch trên địa bàn huyện Kim Sơn, tháng 12/2019

51

Biểu đồ số 2.2 Trình độ đào tạo của công chức Tư pháp - Hộ tịch trên địa bàn huyện Kim Sơn, tháng 12/2019

52

Trình độ tin học của công chức Tư pháp - Hộ tịch trên địa bàn huyện Kim Sơn, tháng 12/2019 Biểu đồ số 2.3

Tỷ lệ đăng ký khai sinh quá hạn theo từng năm

Biểu đồ số 2.4 (2016 - 2029) 55

Tỷ lệ đăng ký khai tử quá hạn theo từng năm

Biểu đồ số 2.5 (2016 - 2019) 56

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Quản lý nhà nước về hộ tịch đã là một yêu cầu mà nhà nước luôn quan

tâm, dành nhiều thời gian, công sức và tiền của cho lĩnh vực này. Theo quy

định thì hộ tịch là những sự kiện cơ bản xác định tình trạng nhân thân của một

người từ khi sinh ra đến khi chết, liên quan trực tiếp đến quyền cơ bản của

công dân. Các sự kiện nhân thân cơ bản nhất của mỗi cá nhân được đăng ký

và quản lý trong hộ tịch gồm có: Khai sinh; kết hôn; giám hộ; nhận cha, mẹ,

con; thay đổi, cải chính hộ tịch, xác định lại dân tộc, bổ sung thông tin hộ

tịch; khai tử,...

Nhận thức được tầm quan trọng của công tác quản lý hộ tịch trong tiến

trình phát triển của xã hội, trong thời gian qua Đảng và Nhà nước đã ban hành

nhiều chính sách, pháp luật về quản lý hộ tịch bước đầu tạo cơ sở pháp lý

vững chắc cho hoạt động này. Trong đó, Luật Hộ tịch ra đời, có hiệu lực từ

ngày 01/01/2016 với nhiều chế định mới, phân cấp mới, thủ tục mới, Luật Hộ

tịch đã thổi một luồng sinh khí mới cho công tác đăng ký và quản lý hộ tịch

và đích đến là gần gũi hơn với người dân, phục vụ tốt hơn các yêu cầu của

người dân và các cơ quan, tổ chức có liên quan.

Trong những năm qua, nhất là từ ngày 01/01/2016, áp dụng thực hiện

Luật Hộ tịch năm 2014, công tác quản lý và đăng ký hộ tịch trên địa bàn

huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình đã có nhiều chuyển biến tích cực. Tuy nhiên,

trên địa bàn huyện hiện nay, công tác đăng ký và quản lý hộ tịch vẫn còn một

số hạn chế, bất cập, chưa đáp ứng được yêu cầu cải cách hành chính và cải

cách tư pháp. Nhiều cơ quan, tổ chức, đoàn thể chưa xác định đúng giá trị

pháp lý của giấy tờ hộ tịch, còn gây nhiều khó khăn cho công dân, nhất là giá

trị pháp lý của Giấy khai sinh. Thực trạng trên có nguyên nhân xuất phát từ

nhận thức chưa đầy đủ quy định của pháp luật về đăng ký và quản lý hộ tịch

1

của một bộ phận cán bộ, công chức và người dân; sự phối hợp thiếu nhịp

nhàng giữa các cơ quan liên quan trong việc giải quyết những sai sót trong hồ

sơ, giấy tờ cá nhân; công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về

đăng ký và quản lý hộ tịch chưa thực sự sâu, rộng; năng lực thực thi công vụ

của một số công chức còn hạn chế.

Những hạn chế này đã làm giảm hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về

hộ tịch, ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Vì vậy,

nghiên cứu quản lý nhà nước về hộ tịch nói chung cũng như ở thực tế của

huyện Kim Sơn nói riêng nhằm làm rõ hơn nữa cơ sở khoa học của quản lý hộ

tịch, chỉ ra hạn chế và nguyên nhân của các hạn chế; trên cơ sở đó, đưa ra

những khuyến nghị góp phần nâng cao hơn nữa hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà

nước về hộ tịch trên địa bàn huyện là một vấn đề được quan tâm hiện nay. Vì

thế tôi lựa chọn đề tài “Quản lý nhà nước về hộ tịch trên địa bàn huyện Kim

Sơn, tỉnh Ninh Bình” làm đề tài Luận văn tốt nghiệp thạc sĩ ngành Quản lý

công của mình.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn

Đề tài hộ tịch đã thu hút sự quan tâm, chú ý của nhiều nhà khoa học,

những người làm công tác lý luận nghiên cứu ở nhiều khía cạnh, góc độ khác

nhau kể cả trong nước và trên thế giới. Cho đến nay, đã có nhiều công trình

khoa học nghiên cứu về hộ tịch của cá nhân, tập thể được công bố. Về tổng

thể, các nghiên cứu đã đi sâu nghiên cứu làm rõ bản chất, nội dung, lịch sử

quản lý hộ tịch, các sự kiện, phương thức quản lý và đăng ký hộ tịch. Các tác

giả cũng chỉ ra các phương hướng và giải pháp nhất định nhằm nâng cao hiệu

quả quản lý nhà nước về hộ tịch; cụ thể một số nhóm công trình như:

Thứ nhất, nhóm các công trình nghiên cứu lý luận về hộ tịch và quản

lý hộ tịch:

2

- Viện nghiên cứu khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp (1995), “Chuyên

đề thông tin khoa học pháp lý về hộ tịch”[59]: Là công trình tổng kết, khái

quát với trọng tâm là các thông tin khoa học pháp lý về hộ tịch ở Việt Nam

qua nhiều giai đoạn.

- Phạm Trọng Cường (2007), Từ quản lý đinh đến quản lý hộ tịch,

NXB Tư Pháp, Hà Nội [26]: Trong cuốn sách chuyên khảo này, tác giả đã

khái quát từ quản lý đinh có liên quan đến thuế thân, nộp thân còn gọi là

thuế đinh - một trong thứ thuế của chế độ phong kiến và quân chủ, đến quản

lý hộ tịch trong xã hội hiện đại với nhiều kiến thức có giá trị cho các nhà

nghiên cứu.

- Giáo trình Quản lý hành chính - tư pháp của Học viện Hành chính,

Nhà xuất bản khoa học kỹ thuật, năm 2008 (dành cho đào tạo trung cấp

hành chính) [35]: Cuốn giáo trình hướng đến nhóm đối tượng ở bậc trung

học hành chính, nhằm trang bị cho nhóm đối tượng này kiến thức, kỹ năng

liên quan đến hoạt động hành chính và tư pháp trong thực tiễn.

Thứ hai, nhóm các công trình hướng dẫn nghiệp vụ:

- Bộ Tư pháp (2006) “Hướng dẫn nghiệp vụ Đăng ký và quản lý hộ

tịch”, NXB Tư pháp, Hà Nội [5]: Tài liệu hướng dẫn nghiệp vụ cụ thể đối với

công tác đăng ký và quản lý hộ tịch của các chủ thể có thẩm quyền trên cơ sở

các văn bản quy phạm pháp luật về hộ tịch đang có hiệu lực thi hành.

- Bộ Tư pháp (2010) “Tài liệu Hướng dẫn nghiệp vụ Tư pháp xã,

phường, thị trấn”, NXB Tư pháp, Hà Nội [8]: Trong chuyên đề số 4, các tác

giả đã khái quát chung về nhiệm vụ, quyền hạn của UBND các xã, phường,

thị trấn và công chức tư pháp - hộ tịch trong quản lý nhà nước về hộ tịch;

nghiên cứu cụ thể các quy định của pháp luật về hộ tịch và đăng ký hộ tịch;

hướng dẫn cụ thể về thẩm quyền, trình tự, thủ tục đăng ký hộ tịch tại UBND

cấp xã.

3

- Bộ Tư pháp (2019) "Tài liệu bồi dưỡng nghiệp vụ tư pháp cấp

huyện"; NXB Tư pháp, Hà Nội [9]: Trong chuyên đề "Công tác đăng ký, quản

lý Hộ tịch của UBND, Phòng Tư pháp cấp huyện", tác giả đã làm rõ, nhiệm

vụ, quyền hạn của UBND cấp huyện trọng quản lý nhà nước về Hộ tịch ở địa

phương, đồng thời hướng dẫn các kỹ năng, nghiệp vụ giải quyết các việc hộ

tịch cụ thể thuộc thẩm quyền.

Thứ ba, nhóm các công trình khoa học mang tính ứng dụng: Chủ yếu là

các luận văn ngành quản lý công; ngành luật, cụ thể:

- Phạm Hồng Hoàn, Quản lý nhà nước về hộ tịch ở cấp xã trên địa bàn

huyện Đan Phượng, thành phố Hà Nội, Luận văn Thạc sĩ quản lý hành chính

công, 2011 [33]: Tác giả đã tập trung nghiên cứu về mặt không gian được giới

hạn ở các xã trên địa bàn huyện Đan Phượng, thành phố Hà Nội; tác giả đã

làm rõ hơn nữa cơ sở lý luận, thực tiễn của quản lý nhà nước về hộ tịch; đánh

giá thực trạng quản lý nhà nước về hộ tịch ở cấp xã, huyện Đan Phượng; nêu

ra những kết quả đạt được và hạn chế cũng như nguyên nhân của chúng. Qua

đó đưa ra những đề xuất góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả của quản lý

nhà nước về hộ tịch trên địa bàn cấp xã, huyện Đan Phượng.

- Trần Thị Thu Hiền, Quản lý nhà nước về hộ tịch ở cấp xã trên địa bàn

huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội, Luận văn Thạc sĩ quản lý công, Học viện

Hành chính quốc gia, 2016 [34]: Luận văn đã hệ thống hóa cơ sở lý luận và

đánh giá thực trạng công tác quản lý nhà nước về hộ tịch ở cấp xã của huyện

Hoài Đức, thành phố Hà Nội; xác định được phương hướng, giải pháp tiếp tục

hoàn thiện quản lý nhà nước về hộ tịch ở cấp xã, huyện Hoài Đức, thành phố

Hà Nội.

- Trương Thị Vân Anh, Quản lý nhà nước về hộ tịch ở cấp xã, thực tiễn

ở huyện Mê Linh, Thành phố Hà Nội, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Khoa Luật -

Đại học Quốc gia Hà Nội, 2015 [2]: Luận văn nghiên cứu cơ sở lý luận và

4

thực tiễn của quản lý nhà nước về hộ tịch cấp xã; tìm hiểu và làm rõ các mô

hình quản lý và đăng ký hộ tịch ở Việt Nam qua các thời kỳ; đánh giá thực

trạng quản lý nhà nước về hộ tịch ở cấp xã huyện Mê Linh, thành phố Hà Nội,

tìm ra nguyên nhân của những hạn chế và đề ra các giải pháp cơ quan để hoàn

thiện quản lý nhà nước về hộ tịch ở cấp xã trên địa bàn huyện Mê Linh, thành

phố Hà Nội.

- Phạm Ngọc Sơn, Quản lý nhà nước bằng pháp luật về hộ tịch trên địa

bàn tỉnh Ninh Bình, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Đại học Vinh, 2020 [52]: Tác

giả đã làm rõ hơn những vấn đề lý luận liên quan đến quản lý nhà nước bằng

pháp luật về hộ tịch; thực trạng quản lý nhà nước bằng pháp luật về hộ tịch

trên địa bàn tỉnh Ninh Bình và đề xuất quan điểm và giải pháp để nâng cao

hiệu quả công tác này trên địa bàn tỉnh Ninh Bình trong thời gian tới.

Thứ tư, những bài báo khoa học riêng lẻ:

- Bài “Yêu cầu đối với quản lý nhà nước về hộ tịch”, tác giả Phạm

Trọng Cường, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, tháng 12 năm 2004 [28]: Tác

giả nêu lên kết quả thực hiện Nghị định 83/1998/NĐ-CP về đăng ký hộ tịch

và thực hiện Đề án 278/TP-HT ngày 23/4/2001 và thực hiện Nghi quyết số

35/2000/QH10 ngày 09/6/2000 của Quốc hội). Qua kết quả đạt được trong

thời gian tới yêu cầu đặt ra đối với công tác đăng ký và quản lý nhà nước về

hộ tịch cần thiết phải thể hiện được tính kịp thời trong thực hiện các sự kiện

hộ tịch phát sinh cho nhân dân, hạn chế đăng ký quá hạn, hoặc chung sống

như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn; tính đầy đủ cũng được tác giả đề

cập đến sổ sách lưu gữi, mẫu hiểu, hồ sơ phải đảm bảo tính đồng đều; tính

chính xác, khách quan.

- Bài “Thực trạng đội ngũ công chức Tư pháp - Hộ tịch và yêu cầu

chuẩn hoá” của tác giả Trần Thị Lệ Hoa, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số

chuyên đề pháp luật hộ tịch năm 2013 [32]: Tác giả đã thống kê và phản ánh

5

thực trạng đội ngũ công chức tư pháp - hộ tịch cấp xã trong cả nước; xu thế

công tác đăng ký và quản lý hộ tịch trong tình hình mới ở nước ta và những

yêu cầu cần phải chuẩn hóa đội ngũ công chức Tư pháp Hộ tịch.

Các công trình nghiên cứu, mặc dù đã nghiên cứu làm rõ bản chất, nội

dung, lịch sử quản lý hộ tịch, các sự kiện, phương thức quản lý và đăng ký hộ

tịch và đề xuất những giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về hộ

tịch. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu trên mới đưa ra các giải pháp

chung, được nghiên cứu ở các lĩnh vực, các địa phương khác nhau, chưa đi

sâu nghiên cứu thực tiễn quản lý nhà nước về hộ tịch trên địa bàn huyện Kim

Sơn tỉnh Ninh Bình.

3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà

nước về hộ tịch trên địa bàn huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình.

3.2. Nhiệm vụ của luận văn

- Nghiên cứu cơ sở khoa học của quản lý nhà nước về hộ tịch, quản lý

nhà nước về hộ tịch ở cấp huyện, cấp xã.

- Phân tích thực trạng quản lý nhà nước về hộ tịch trên địa bàn tỉnh

huyện Kim Sơn từ năm 2016 đến hết năm 2019, đánh giá những kết quả đạt

được và hạn chế, các nguyên nhân của hạn chế.

- Đưa ra những định hướng và giải pháp góp phần đảm bảo quản lý nhà

nước về hộ tịch trên địa bàn huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình trong thời gian tới.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận văn là cơ sở khoa học của quản lý nhà

nước về hộ tịch và công tác quản lý nhà nước về Hộ tịch trên địa bàn huyện

Kim Sơn tỉnh Ninh Bình.

6

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Luận văn giới hạn phạm vi nghiên cứu là nội dung hoạt động quản lý

nhà nước về hộ tịch tại Ủy ban nhân dân (UBND) huyện và UBND của 27 xã,

thị trấn trên địa bàn huyện Kim Sơn tỉnh Ninh Bình từ trong khoảng thời gian

từ 01/01/2016 đến hết năm 2019. Cụ thể:

Về không gian: 27 xã, thị trấn trên địa bàn huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh

Bình.

Về thời gian: 01/01/2016 - 31/12/2019.

5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn

5.1. Phương pháp luận

Luận văn được nghiên cứu dựa trên quan điểm và phương pháp luận

của chủ nghĩa Mác - Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về quản lý nhà nước.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

Các phương pháp tác giả sử dụng trong luận văn là: Phương pháp phân

tích tài liệu thứ cấp; phương pháp quan sát, phỏng vấn,…

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

- Làm rõ cơ sở khoa học của quản lý nhà nước về hộ tịch thông qua các

nội dung: Khái niệm, đặc điểm, vai trò cũng như nội dung của quản lý nhà

nước về hộ tịch ở cấp huyện, cấp xã. Đồng thời chỉ ra các yếu tố tác động đến

quản lý nhà nước về hộ tịch ở cấp huyện, cấp xã.

- Làm rõ thực trạng quản lý nhà nước về hộ tịch trên địa bàn huyện

Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình; nhận xét, đánh giá về mức độ, hiệu quả thi hành

pháp luật về hộ tịch trên địa bàn huyện. Qua đó, đề xuất một số giải pháp

nhằm nâng cao hiệu quả, hiệu lực quản lý nhà nước về hộ tịch trên địa bàn

huyện Kim Sơn tỉnh Ninh Bình.

7

- Làm tài liệu tham khảo trong việc tổng kết thực tiễn, đề xuất giải pháp

bảo đảm thực hiện pháp luật về hộ tịch, cũng như nghiên cứu, giảng dạy của

các tổ chức, cá nhân liên quan.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục và tài liệu tham khảo, nội dung

của luận văn được cấu trúc trong 3 chương:

Chương 1. Cơ sở khoa học của quản lý nhà nước về hộ tịch.

Chương 2. Thực trạng công tác quản lý nhà nước về hộ tịch trên địa bàn

huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình.

Chương 3. Định hướng và giải pháp đảm bảo thực hiện quản lý nhà

nước về hộ tịch trên địa bàn huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình.

8

NỘI DUNG

Chƣơng 1

CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ HỘ TỊCH

1.1. Các khái niệm công cụ

1.1.1. Hộ tịch

Những quan niệm về thuật ngữ ”hộ tịch” được thể hiện khá đầy đủ và

đa diện theo nghiên cứu Thông tin chuyên đề - Một số vấn đề lý luận và so

sánh pháp luật về hộ tịch của Viện Nghiên cứu Lập pháp, theo đó:

* Về khía cạnh ngôn ngữ

“Hộ tịch” là một từ ngoại lai được du nhập vào ngôn ngữ tiếng Việt

nhưng chưa xác định thời điểm xuất hiện. Khảo cứu qua các bộ sử liệu như :

“Lịch triều hiến chương loại chí”, “Đại Việt sử ký toàn thư”, “Việt sử thông

cương mục”,.. có thể thấy thuật ngữ “hộ tịch” đã xuất hiện từ rất sớm, bên

cạnh nó còn các từ cổ có liên quan và cùng nằm trong phạm trù quản lý dân

dân cư: “hộ khẩu”, “sổ dân bạ”, “tiểu điển”, “đại điển”, “phụ tịch”, “chính

hộ”, “khách hộ”, v.v... Tuy nhiên, theo “Đại Nam Quốc âm tự vị”, cuốn từ

điển của tác giả Paulus Huỳnh Tịnh Của biên soạn năm 1895 với phương

pháp “tham dụng chữ Nho và lấy 24 chữ cái phương Tây làm chữ bộ” thì

trong bộ chữ “hộ” chưa có từ “hộ tịch” [25].

“Hộ tịch” là một từ ghép gốc Hán chính phụ, được ghép bởi hai thành

tố có nghĩa độc lập, trong đó “tịch” là thành tố chính. Các từ điển tiếng Việt

hiện nay khá thống nhất trong cách hiểu về từng từ đơn này. Theo đó, từ “hộ”

- khi sử dụng là danh từ có nhiều nghĩa khác nhau, nhưng trong đó có một

nghĩa trực tiếp là “dân sự” hoặc “nhà ở”, hiểu rộng ra là “đơn vị để quản lý

dân số, gồm những người cùng ăn ở với nhau”. Tương tự, từ “tịch” có nghĩa

là “sổ sách” hoặc là “sổ sách đăng ký quan hệ lệ thuộc”. Tuy nhiên, việc tổ

hợp hai từ đơn này thành danh từ “hộ tịch” lại là một trường hợp rất đặc biệt

9

về mặt ngôn ngữ, và được sử dụng với thuộc tính kết hợp hạn chế (hạn chế về

việc sử dụng và khả năng tổ hợp của từ ngữ). Chính do tính chất đặc biệt ấy

nên khảo cứu qua các từ điển tiếng Việt thì thấy có nhiều cách giải nghĩa từ

“hộ tịch” rất khác nhau, cụ thể một số trường hợp:

Các Từ điển Hán - Việt của nhiều tác giả khác nhau (Đào Duy Anh,

Nguyễn Văn Khôn, Bửu Kế,…) đều có sự tương đồng và những khía cạnh

khác biệt trong cách giải nghĩa từ “hộ tịch”. Một số cách giải nghĩa như:

“Hộ tịch: Quyển sổ của Chính phủ biên chép số người, chức nghiệp và

tịch quán của từng người” [1, tr.384];

“Hộ tịch: Sổ biên dân số có ghi rõ tên họ, quê quán và chức nghiệp của

từng người” [40, tr.404];

“Hộ tịch: Sổ sách ghi chép tên, họ, nghề nghiệp dân cư ngụ trong xã

phường” [38, tr.814];

Như vậy, nghĩa của từ "hộ tịch" xét về góc độ ngôn ngữ còn tồn tại

nhiều cách hiểu khác nhau.

* Về khía cạnh pháp lý trong lịch sử ở Việt Nam và thế giới

- Quan niệm của một số học giả miền Nam Việt Nam thời kỳ trước năm

1975, theo nghiên cứu của tác giả Nguyễn Anh Tú [55, tr.28-29]:

Thuật ngữ “hộ tịch” lần đầu tiên được định nghĩa trong các giáo trình

giảng dạy của Đại học Luật khoa Sài Gòn dưới chế độ Việt Nam Cộng hoà,

trong đó nổi lên quan điểm của một số tác giả sau:

Tác giả Phan Văn Thiết có thể coi là người đầu tiên trình bày quan

niệm “hộ tịch” trong cuốn tài liệu chuyên khảo xuất bản năm 1958 như sau:

“Hộ tịch - còn gọi là nhân thế bộ - là cách sinh hợp pháp của một công

dân trong gia đình và trong xã hội. Hộ tịch căn cứ vào ba hiện tượng quan

trọng nhất của con người: sinh, giá thú và tử”.

10

Các tác giả Vũ Văn Mẫu - Lê Đình Chân lại trình bày một định nghĩa

khác về khái niệm “hộ tịch”:

“Hộ tịch là sổ biên chép các việc liên hệ đến các người trong nhà. Hộ

tịch gồm ba sổ để ghi chép các sự khai giá thú, khai sinh và khai tử”.

Tác giả Trần Thúc Linh, tác giả cuốn Danh từ pháp luật lược giải - vốn

được đánh giá là một trong những từ điển chuyên ngành pháp lý đầu tiên -

không đưa ra định nghĩa về “hộ tịch” mà chỉ định nghĩa “chứng thư hộ tịch”:

“Chứng thư hộ tịch là những giấy tờ công chứng dùng để chứng minh

một cách chính xác thân trạng người ta như ngày tháng sanh, tử, giá thú, họ

tên, con trai con gái, con chính thức hay con tư sanh, tư cách vợ chồng... tóm

lại tình trạng xã hội của con người từ lúc sinh ra đến khi chết.

Các sổ sách hộ tịch ghi lại mọi việc sanh, tử, giá thú và các việc thay

đổi về thân trạng người ta (nhìn nhận con ngoại hôn, chính thức hoá con tư

sinh, khước từ phụ hệ, ly thân...)”.

Nhìn một cách tổng quát có thể thấy các học giả miền Nam Việt Nam

thời kỳ trước năm 1975, tuy đưa ra những cách định nghĩa khác nhau về “hộ

tịch” nhưng trong những cách định nghĩa này đều chỉ ra các dấu hiệu đặc

trưng của hộ tịch, đó là:

Hộ tịch là việc ghi chép các quan hệ gia đình của một người;

Các quan hệ gia đình thuộc phạm vi quan tâm của hộ tịch phải là những

quan hệ phát sinh trên cơ sở ba sự kiện quan trọng trong cuộc đời mỗi con

người, đó là: Sự kiện sinh, hôn nhân và tử;

Chứng thư hộ tịch là những loại giấy tờ pháp lý có giá trị chứng minh

chính xác các đặc điểm nhân thân cơ bản của một cá nhân.

- Quan niệm của khoa học pháp lý nước ngoài

Theo nghiên cứu của tác giả Nguyễn Anh Tú [55, tr.30-31] từ khía cạnh

pháp lý, “hộ tịch” được định nghĩa trong một số tài liệu nước ngoài như sau:

11

Trong tiếng Anh, khái niệm “Civil Registration” được hiểu là “Việc

đăng ký đúng hạn các sự kiện sinh, tử, kết hôn với chính quyền trong thời hạn

quy định”.

Trong tiếng Đức, khái niệm “das Personenstandsregister” được hiểu là

"Việc đăng ký công về tình trạng dân sự của mỗi cá nhân được thực hiện bởi

các cơ quan hộ tịch".

Trong Bộ luật dân sự của Cộng hoà Pháp, chế định hộ tịch là một trong

những chế định hết sức quan trọng. Tuy nhiên, luật dân sự Pháp không đưa ra

khái niệm về hộ tịch mà chỉ đưa ra khái niệm chứng thư hộ tịch.

- Khái niệm “hộ tịch” trong hệ thống pháp luật Việt Nam trước đây

Khái niệm “hộ tịch” cũng là một trường hợp đặc biệt trong hệ thống

khái niệm pháp lý tiếng Việt. Khái niệm này hoàn toàn không dễ định nghĩa

một cách minh bạch, điều đó cũng có nghĩa là việc sử dụng nó không thuận

tiện theo nguyên tắc sử dụng ngôn ngữ khi xây dựng văn bản quy phạm pháp

luật. Đã từng có những cuộc thảo luận trong giới chuyên môn về việc thay thế

khái niệm này bằng một khái niệm khác thông dụng hơn, dễ hiểu hơn. Tuy

nhiên, do khái niệm này, trải qua một quá trình lịch sử đã dần trở thành ngôn

ngữ phổ thông, ăn sâu trong nhận thức nhân dân nên giải pháp đi tìm khái

niệm Việt hoá thay thế không được lựa chọn, thay vào đó, các nhà xây dựng

pháp luật đã dung hoà bằng giải pháp mà Luật Ban hành văn bản quy phạm

pháp luật cho phép, đó là sử dụng khái niệm này với tư cách là một thuật ngữ

chuyên môn và được định nghĩa trong văn bản. Theo đó, định nghĩa về “hộ

tịch” được duy trì từ Nghị định số 83/1998/NĐ-CP của Chính phủ ngày

10/10/1998 về đăng ký hộ tịch cho đến Nghị định 158/2005/NĐ-CP ngày

27/12/2005 về đăng ký và quản lý hộ tịch như sau: “Hộ tịch là những sự kiện

cơ bản xác định tình trạng nhân thân của một người từ khi sinh ra đến khi

chết”[18, tr.1]. Cách định nghĩa này, thực chất chỉ là một sự ước định. Về giá

12

trị biểu đạt, với cách định nghĩa như vậy, sẽ chính xác hơn nếu coi đây là định

nghĩa cho thuật ngữ “sự kiện hộ tịch” chứ không phải thuật ngữ “hộ tịch”.

Bên cạnh đó, bản thân cách định nghĩa này cũng chưa xác định được rõ

ràng nội hàm của khái niệm nên cùng với khái niệm “hộ tịch”, Nghị định

158/2005/NĐ-CP còn nêu thêm khái niệm “đăng ký hộ tịch” bằng phương

pháp mô tả, bao gồm: Xác nhận các sự kiện (sinh; kết hôn; tử; nuôi con nuôi;

giám hộ; nhận cha, mẹ, con; thay đổi, cải chính, bổ sung, điều chỉnh hộ tịch;

xác định lại giới tính; xác định lại dân tộc) và Căn cứ vào quyết định của cơ

quan nhà nước có thẩm quyền, ghi vào sổ hộ tịch các việc: xác định cha, mẹ,

con; thay đổi quốc tịch; ly hôn; huỷ việc kết hôn trái pháp luật; chấm dứt

nuôi con nuôi.” [18, tr.1.]

Về mặt kỹ thuật, trong khái niệm “đăng ký hộ tịch”, chữ “tịch” đã có

giá trị biểu đạt tương đương với “đăng ký”, điều này tạo nên sự trùng lặp về ý

nghĩa khi giải thích khái niệm. Đây là một nét đặc trưng của việc sử dụng

ngôn ngữ Hán Việt. Hạn chế này có thể được khắc phục nếu thay thế khái

niệm “đăng ký hộ tịch” bằng khái niệm thuần Việt “đăng ký tình trạng dân

sự”. Tuy nhiên, đây là khái niệm xa lạ với người dân, do đó, việc sử dụng

khái niệm thay thế “đăng ký tình trạng dân sự” mặc dù có thể đạt được sự

chặt chẽ về mặt học thuật nhưng lại không có ưu thế về hiệu quả sử dụng do

không có tính đại chúng, hạn chế khả năng phổ biến trong đời sống xã hội.

* Khái niệm, đặc điểm hộ tịch căn cứ theo Luật Hộ tịch năm 2014

- Khái niệm hộ tịch

Luật Hộ tịch năm 2014 khái niệm về hộ tịch như sau: Hộ tịch là những

sự kiện được quy định tại Điều 3 của Luật này, xác định tình trạng nhân thân

của cá nhân từ khi sinh ra đến khi chết [47, tr.1].

Những sự kiện quy định tại Điều 3 Luật Hộ tịch gồm: Xác nhận vào Sổ

hộ tịch các sự kiện hộ tịch (khai sinh; kết hôn; giám hộ; nhận cha, mẹ, con;

13

thay đổi, cải chính hộ tịch, xác định lại dân tộc, bổ sung thông tin hộ tịch;

khai tử); ghi vào Sổ hộ tịch việc thay đổi hộ tịch của cá nhân theo bản án,

quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền (thay đổi quốc tịch; xác định

cha, mẹ, con; xác định lại giới tính; nuôi con nuôi, chấm dứt việc nuôi con

nuôi; ly hôn, huỷ việc kết hôn trái pháp luật, công nhận việc kết hôn; công

nhận giám hộ; tuyên bố hoặc huỷ tuyên bố một người mất tích, đã chết, bị mất

hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự); ghi vào Sổ hộ tịch sự kiện của công

dân Việt Nam đã được giải quyết của cơ quan có thẩm quyền nước ngoài

(Khai sinh; kết hôn; ly hôn; huỷ việc kết hôn; giám hộ; nhận cha, mẹ, con; xác

định cha, mẹ, con; nuôi con nuôi;thay đổi hộ tịch; khai tử); xác nhận hoặc ghi

vào Sổ hộ tịch các việc hộ tịch khác theo quy định của pháp luật. [47, tr1-2.]

Như vậy, có thể hiểu hộ tịch là những sự kiện xác định tình trạng nhân

thân của cá nhân từ khi sinh ra đến khi chết đi bao gồm: Khai sinh; kết hôn;

giám hộ; nhận cha, mẹ, con; thay đổi, cải chính hộ tịch, xác định lại dân tộc,

bổ sung thông tin hộ tịch; khai tử; thay đổi quốc tịch; xác định cha, mẹ, con;

xác định lại giới tính; nuôi con nuôi, chấm dứt việc nuôi con nuôi; ly hôn, huỷ

việc kết hôn trái pháp luật, công nhận việc kết hôn; công nhận giám hộ; tuyên

bố hoặc huỷ tuyên bố một người mất tích, đã chết, bị mất hoặc hạn chế năng

lực hành vi dân sự.

Có thể thấy, khái niệm "hộ tịch" được quy định trong Luật Hộ tịch năm

2014 cơ bản giống như Nghị định 158/2005/NĐ-CP ngày 27/12/2005 của

Chính phủ, nhưng đã quy định cụ thể hơn, điều này là cần thiết bởi cần phải

có sự thống nhất trong cách hiểu và áp dụng pháp luật về hộ tịch.

- Đặc điểm của hộ tịch:

Từ quan niệm, khái niệm về hộ tịch, có thể thấy, hộ tịch có những đặc

điểm chủ yếu sau:

14

Thứ nhất, hộ tịch là những giá trị gắn liền với mỗi cá nhân (quyền nhân

thân), gắn chặt với cá nhân con người, giúp phân biệt cá nhân này với cá nhân

khác, không thể có điểm chung về nhân thân của người này với người khác.

Mỗi người chỉ có một thời điểm sinh, một thời điểm chết, các dấu hiệu về cha

đẻ, mẹ đẻ, dân tộc, giới tính và là các giá trị nhân thân quan trọng phát sinh

gắn chặt với một con người từ khi sinh ra đến khi chết.

Thứ hai, hộ tịch là những giá trị không chuyển đổi cho người khác.

Theo đó có thể thấy hộ tịch là một giá trị nhân thân không gắn với tài sản, vậy

nên nó không thể bị chuyển dịch cho người khác.

Thứ ba, hộ tịch là có tính phi vật chất, với bản chất của hộ tịch là việc

ghi lại những sự kiện gắn với nhân thân của con người như sự kiện sinh, tử,

kết hôn…do vậy nó có tính chất phi vật chất, không thể cân đong đo đếm

được và cũng không phải là một loại hàng hóa có thể trao đổi trên thị trường.

1.1.2. Quản lý nhà nước về hộ tịch

* Khái niệm quản lý nhà nước về hộ tịch

Quản lý nhà nước về hộ tịch là một nội dung của quản lý nhà nước nói

chung. Đó là hoạt động của các cơ quan có thẩm quyền tiến hành nhằm đảm

bảo cho các hoạt động về hộ tịch được thực hiện đầy đủ và theo đúng mục

tiêu, định hướng của Nhà nước mong muốn. Quản lý nhà nước về hộ tịch thực

chất là quản lý việc thực hiện pháp luật, chính sách của nhà nước liên quan

đến các sự kiện hộ tịch.

Ở nước ta, vấn đề quản lý hộ tịch hình thành từ rất sớm. Trải qua các

thời kỳ phong kiến, thực dân, mặc dù chưa có các quy định cụ thể nhưng vấn

đề quản lý hộ tịch - con người là vấn đề trọng yếu của Nhà nước, luôn được

quan tâm thực hiện bên cạnh vấn đề quản lý đất đai. Điều đó cho thấy công

tác hộ tịch luôn được quan tâm trong bất kì hoàn cảnh nào.

15

Bản Điều lệ hộ tịch được Chính phủ ban hành kèm theo Nghị định số

764/TTg ngày 08/05/1956, gồm 34 điều quy định những nguyên tắc và thủ tục

đăng ký các việc sinh, tử, kết hôn, sửa chữa các điều đã đăng ký; ghi chú các

việc thay đổi về hộ tịch và cấp phát giấy chứng nhận các việc đó. Bản điều lệ

này sau đó được thay thế bằng Nghị định số 04/CP kèm theo Bản Điều lệ

đăng ký hộ tịch (1961). Bản điều lệ này có hiệu lực thi hành từ 01/4/1961 và

có hiệu lực trong gần 40 năm cho đến khi có văn bản mới thay thế. Tuy nhiên,

có thể thấy trong tất cả các văn bản nêu trên các nhà khoa học pháp lý chưa

đưa ra được một khái niệm cụ thể về quản lý hộ tịch.

Khái niệm quản lý nhà nước về hộ tịch được đề cập lần đầu tiên trong

Nghị định số 83/1998/NĐ-CP ngày 10/10/1998 về đăng ký hộ tịch, cụ thể:

“Quản lý hộ tịch được xem là công việc thường xuyên của các cơ quan nhà

nước có thẩm quyền thực hiện để theo dõi thực trạng và sự biến động về hộ

tịch nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức, tạo cơ sở xây

dựng, phát triển kinh tế, xã hội, an ninh quốc phòng và chính sách dân số, kế

hoạch hóa gia đình”[17, tr.1].

Nghị định số 158/2005/NĐ-CP ngày 27/12/2005 tiếp cận khái niệm

quản lý hộ tịch cũng từ góc độ xác định mục đích, cụ thể: “Quản lý hộ tịch là

nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên của chính quyền các cấp nhằm theo dõi

thực trạng và sự biến động về hộ tịch, trên cơ sở đó bảo hộ các quyền và lợi

ích hợp pháp của cá nhân và gia đình, đồng thời góp phần xây dựng các chính

sách về kinh tế, xã hội, an ninh quốc phòng và dân số, kế hoạch hóa gia đình”

[18, tr.1].

Luật Hộ tịch năm 2014 ra đời đã xác định rõ ràng các sự kiện hộ tịch,

nội dung quản lý nhà nước và trách nhiệm quản lý nhà nước về hộ tịch.

Như vậy, các văn bản trên đều hiểu: Quản lý hộ tịch là sự tác động của

cơ quan nhà nước có thẩm quyền tới sự kiện nhân thân của cá nhân nhằm thực

16

hiện chức năng kiểm soát dân cư và phục vụ cho hoạt động quản lý trong các

lĩnh vực khác nhau như: An ninh, quốc phòng, dân số, kế hoạch hóa gia

đình… Hoạt động quản lý hộ tịch hướng đến đối tượng là các sự kiện xác

định tình trạng nhân thân của con người từ khi sinh ra cho đến khi chết.

Những sự kiện này mang đặc điểm là có tính ổn định cao. Nếu có thay đổi thì

sự thay đổi đó phải được xác nhận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và

phải được tiến hành theo một trình tự thủ tục rất chặt chẽ.

Đăng ký hộ tịch là một vấn đề cần quan tâm khi xem xét đến quản lý

nhà nước về hộ tịch. Rất khó để có thể tách rời hai khái niệm: Đăng ký hộ tịch

và quản lý hộ tịch. Bởi lẽ đăng ký hộ tịch cũng là một yếu tố, một động tác cơ

bản của hoạt động quản lý hộ tịch.

Đăng ký hộ tịch là hoạt động nằm trong hoạt động quản lý nhà nước về

hộ tịch của cơ quan hành chính nhà nước. Bên cạnh việc đăng ký hộ tịch, nội

dung của hoạt động quản lý nhà nước về hộ tịch còn thực hiện rất nhiều hoạt

động khác như: Xây dựng pháp luật về hộ tịch; hướng dẫn chỉ đạo nghiệp vụ

chuyên môn về hộ tịch; ban hành và quản lý các loại sổ sách, biểu mẫu hộ

tịch; thống kê hộ tịch; thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại tố cáo về hộ

tịch…

Từ sự phân tích các khái niệm nêu trên, có thể hiểu: Quản lý nhà nước

về hộ tịch là một hình thức hoạt động quản lý của Nhà nước thông qua việc

đăng ký hộ tịch do các chủ thể có thẩm quyền thực hiện trên cơ sở pháp luật

và để thi hành pháp luật trong lĩnh vực hộ tịch, góp phần bảo đảm, bảo vệ

quyền con người, quyền công dân, phục vụ cho công cuộc phát triển kinh tế -

xã hội.

* Đặc điểm của quản lý nhà nước về hộ tịch

Quản lý nhà nước về hộ tịch mang những đặc điểm chủ yếu sau đây:

17

- Quản lý nhà nước về hộ tịch là hoạt động mang tính quyền lực Nhà

nước.

Tính quyền lực nhà nước trong quản lý nhà nước về hộ tịch trước hết

thể hiện ở việc các chủ thể có thẩm quyền thể hiện ý chí nhà nước thông qua

phương tiện nhất định, trong đó phương tiện cơ bản và đặc biệt quan trọng

được sử dụng là các văn bản quản lý hộ tịch

Thông qua việc ban hành văn bản, chủ thể quản lý hộ tịch thể hiện ý chí

của mình dưới dạng các hoạt động áp dụng pháp luật; trực tiếp thực hiện

quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia quan hệ quản lý về hộ tịch; đưa ra

mệnh lệnh chỉ đạo trong tổ chức thực hiện pháp luật trong thực tiễn; cung cấp

thông tin, hướng dẫn người dân để thực hiện việc đăng ký hộ tịch thông qua

hệ thống của bộ máy quản lý hộ tịch của Nhà nước.

Mặt khác, quyền lực nhà nước còn thể hiện trong việc các chủ thể có

thẩm quyền tiến hành những hoạt động cần thiết để bảo đảm thực hiện ý chí

Nhà nước, như các biện pháp về tổ chức, phổ biến, giáo dục, thuyết phục, hòa

giải,… Những biện pháp này là sự thể hiện tập trung và rõ nét của sức mạnh

Nhà nước, một bộ phận tạo nên quyền lực nhà nước, nhờ đó ý chí của chủ thể

quản lý nhà nước về hộ tịch được bảo đảm thực hiện.

- Quản lý nhà nước về hộ tịch là hoạt động được tiến hành với những

chủ thể có quyền năng hành pháp là công chức trong bộ máy nhà nước.

Chủ thể chủ yếu thực hiện quản lý nhà nước về hộ tịch là các cơ quan

quản lý hành chính nhà nước, người có thẩm quyền (Chính phủ; các Bộ;

UBND các cấp; cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh, cấp huyện; đội

ngũ công chức làm công tác hộ tịch).

- Quản lý nhà nước về hộ tịch là hoạt động có tính thống nhất, được tổ

chức chặt chẽ.

18

Để đảm bảo tính pháp chế trong hoạt động quản lý nhà nước về hộ tịch,

bộ máy các cơ quan hộ tịch được tổ chức thành một khối thống nhất từ Trung

ương tới địa phương, nhờ đó các hoạt động của bộ máy được chỉ đạo, điều

hành thống nhất, bảo đảm lợi ích chung của cả nhà nước, bảo đảm sự liên kết,

phối hợp nhịp nhàng giữa các địa phương tạo ra sức mạnh tổng hợp của cả

nước, tránh được sự cục bộ phân hóa giữa các địa phương hay vùng miền

khác nhau.

Tuy nhiên, do mỗi địa phương đều có những nét đặc thù riêng về điều

kiện kinh tế - xã hội, nên để có thể phát huy tối đa những yếu tố của từng địa

phương, tạo sự năng động sáng tạo trong quản lý, điều hành của từng địa

phương, bộ máy quản lý hộ tịch còn được tổ chức theo hướng phân cấp, trao

quyền tự quyết, tạo sự chủ động sáng tạo cho chính quyền địa phương.

- Quản lý nhà nước về hộ tịch là hoạt động có tính chấp hành và điều

hành.

Tính chấp hành và điều hành thể hiện trong quản lý nhà nước về hộ tịch

là việc những hoạt động này được tiến hành trên cơ sở pháp luật và nhằm mục

đích thực hiện pháp luật về hộ tịch, cho dù đó là hoạt động chủ động, sáng tạo

của chủ thể quản lý thì cũng được vượt quá khuôn khổ pháp luật, điều hành

cấp dưới, trực tiếp áp dụng pháp luật hoặc tổ chức những hoạt động thực tiễn,

trên cơ sở quy định pháp luật nhằm hiện thực hóa pháp luật.

Tính điều hành của hoạt động quản lý nhà nước về hộ tịch thể hiện

trong việc chủ thể có thẩm quyền tổ chức thi hành pháp luật về hộ tịch trong

đời sống xã hội. Trong quá trình đó, các chủ thể này không chỉ tự mình thi

hành pháp luật mà quan trọng hơn cả là các chủ thể này đảm nhận chức năng

chỉ đạo nhằm vận hành hoạt động của các cơ quan, đơn vị trực thuộc theo một

quy trình thống nhất; tổ chức để mọi đối tượng có liên quan thi hành pháp luật

nhằm hiện thực hóa các quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ quản lý.

19

- Quản lý nhà nước về hộ tịch là hoạt động mang tính liên tục.

Quản lý nhà nước về hộ tịch luôn cần có tính liên tục, kịp thời và linh

hoạt để đáp ứng sự vận động không ngừng của đời sống xã hội. Chính điểm

đặc thù này được coi là một cơ sở quan trọng trong việc xác lập quy định về

tổ chức và hoạt động của bộ máy quản lý hộ tịch; tạo ra bộ máy quản lý hộ

tịch gọn nhẹ, có sự linh hoạt trong tổ chức, có đội ngũ công chức quản lý hộ

tịch năng động sáng tạo, quyết đoán và chịu sự ràng buộc trách nhiệm đối với

hoạt động của mình.

1.2. Nội dung, nguyên tắc, vai trò của quản lý nhà nƣớc về hộ tịch

1.2.1. Nội dung quản lý nhà nước về hộ tịch

Nội dung chung về quản lý nhà nước về hộ tịch ở nước ta hiện nay

được quy định pháp luật quy định cụ thể, bao gồm: Ban hành hoặc trình cơ

quan có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật về đăng ký và

quản lý hộ tịch; tổ chức triển khai thực hiện pháp luật về hộ tịch; ứng dụng

công nghệ thông tin trong đăng ký và quản lý hộ tịch; xây dựng và quản lý Cơ

sở dữ liệu hộ tịch điện tử; thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và

xử lý vi phạm pháp luật về đăng ký và quản lý hộ tịch; thống kê hộ tịch; hợp

tác quốc tế về hộ tịch [47, tr.22-23].

Như vậy, khi so sánh nội dung quản lý nhà nước về hộ tịch của nước ta

hiện nay so với với thời kỳ trước đây (thời kỳ thực hiện Điều lệ đăng ký hộ

tịch ban hành kèm theo Nghị định số 04/CP ngày 16/01/1961 của Hội đồng

Chính phủ năm 1961) có thể thấy nội dung quản lý hộ tịch ngày càng được

mở rộng hơn (theo Điều lệ hộ tịch năm 1961 thì nội dung quản lý hộ tịch rất

đơn giản, chỉ giới hạn trong các loại việc cơ bản như: Sinh, tử, kết hôn ghi

chú các thay đổi về hộ tịch). Đây là một bước tiến quan trọng cho thấy hoạt

động quản lý con người ngày càng được quan tâm một cách toàn diện. Tuy

nhiên sự mở rộng phạm vi và nội dung quản lý cũng đặt ra rất nhiều vấn đề

20

phức tạp đòi hỏi hoạt động quản lý hộ tịch phải được nâng lên một trình độ

cao hơn.

UBND cấp huyện, UBND cấp xã được phân cấp thực hiện các nội dung

quản lý nhà nước về hộ tịch, cụ thể:

- UBND cấp huyện thực hiện chức năng quản lý nhà nước trên địa bàn,

chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra về công tác đăng ký hộ tịch tại cấp xã; thực hiện

việc đăng ký hộ tịch có yếu tố nước ngoài theo phân cấp; quản lý, lưu trữ, cập

nhật, khai thác Sổ, hồ sơ hộ tịch, Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử theo quy định.

Phòng Tư pháp giúp UBND cấp huyện thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn

trong quản lý nhà nước về hộ tịch [47, tr.25-26].

Như vậy, hoạt động quản lý nhà nước về hộ tịch của UBND cấp huyện

bao gồm các nội dung chủ yếu như sau:

Thứ nhất, Xây dựng tổ chức thực hiện các chương trình, kế hoạch,

hoạch định về hoạt động hộ tịch.

Đây là hoạt động mang tính chất định hướng và có một vị trí quan trọng

trong quá trình quản lý hộ tịch tại địa phương. Căn cứ vào tình hình kinh tế-

xã hội, các chương trình, kế hoạch của cơ quan cấp trên; kết quả quản lý hộ

tịch năm trước, UBND cấp huyện hàng năm sẽ ban hành các chương trình, kế

hoạch về công tác tư pháp trong đó có công tác quản lý và đăng ký hộ tịch.

Việc ban hành chương trình, kế hoạch hàng năm sẽ giúp cho chính cơ quan

ban hành cũng như cơ quan cấp dưới nắm được đầu việc và thực hiện công

việc có hiệu quả.

Thứ hai, thực hiện tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật về hộ tịch

Pháp luật của nhà nước là sự thể chế hóa đường lối, chính sách của

đảng, thể hiện nguyện vọng, ý chí của nhân dân và phải được thực hiện thống

nhất trong cả nước. Để nhân dân hiểu biết, tuân thủ pháp luật nói chung và

pháp luật về hộ tịch nói riêng thì phải tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp

21

luật. Theo quy định tại Hiến pháp 2013 và các văn bản pháp luật khác thì

công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật là nhiệm vụ của tất cả các

ngành, các cấp, các cơ quan, đơn vị, trong đó cơ quan tư pháp giữ vai trò quan

trọng. Để thực hiện công việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật về hộ tịch đạt

hiệu quả thì các chủ thể thực hiện chức năng tuyên truyền, mà trực tiếp là

Phòng Tư pháp cấp huyện cần theo dõi, cập nhật các văn bản pháp luật, bám

sát, sự chỉ đạo, hướng dẫn của cơ quan cấp trên và nhiệm vụ chính trị của địa

phương để chủ động xây dựng và phát huy và thu hút sự tham gia của đông

đảo các tổ chức, đoàn kết và các cá nhân ở địa phương.

Thứ ba, quản lý về mặt tổ chức và hoạt động của các cơ quan quản lý

nhà nước về hộ tịch.

Để đảm bảo hoạt động quản lý và đăng ký hộ tịch được thực hiện hiệu

quả cần có sự bố trí, tổ chức về mặt nhân lực một cách hợp lý và đảm bảo đủ

về số lượng cũng như chất lượng để có thể thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn

theo đúng thẩm quyền quy định. Bên cạnh đó, việc tổ chức hệ thống hoạt

động của cơ quan quản lý nhà nước về hộ tịch phải đảm bảo được sự tinh

giản, gọn nhẹ, có hiệu quả, tránh rườm rà dễ gây gánh nặng cho Nhà nước.

UBND cấp huyện trên cơ sở quy định của pháp luật về cơ cấu tổ chức, chức

năng nhiệm vụ của các cơ quan chuyện môn và tổng giao biên chế hằng năm

quy định cơ cấu tổ chức và chức năng, nhiệm vụ của cơ quan thực hiện nhiệm

vụ tham mưu về quản lý nhà nước về hộ tịch trên địa bàn huyện cũng như

tuyển dụng, bồi dưỡng, bố trí, sắp xếp công chức làm nhiệm vụ hộ tịch ở cấp

xã trên địa bàn.

Thứ tư, thực hiện thường xuyên liên tục thanh tra, kiểm tra trong hoạt

động hộ tịch

Đây là một nội dung quan trọng để đảm bảo cho hoạt động quản lý và

đăng ký hộ tịch được thực hiện nghiêm túc và hiệu quả. Đối với UBND cấp

22

huyện, công việc thanh tra, kiểm tra về hộ tịch đối với UBND cấp xã phải

được thực hiện thường xuyên liên tục dưới nhiều hình thức như: Kiểm tra

theo định kỳ, kiểm tra đột xuất, kiểm tra chuyên đề, lồng ghép. Qua kết quả

kiểm tra cần có những biện pháp xử lý kịp thời với những trường hợp vi phạm

và động viên, khen thưởng những trường hợp thực hiện tốt hoặc có những đổi

mới trong hoạt động quản lý và đăng ký hộ tịch.

Thứ năm, thực hiện đăng ký hộ tịch theo thẩm quyền

Xác nhận vào sổ hộ tịch các sự kiện hộ tịch (khai sinh; kết hôn; giám

hộ; nhận cha, mẹ, con; thay đổi, cải chính hộ tịch, xác định lại dân tộc, bổ sung

thông tin hộ tịch; khai tử) có yếu tố nước ngoài;

Đăng ký thay đổi, cải chính hộ tịch cho công dân Việt Nam từ đủ 14

tuổi trở lên cư trú ở trong nước; xác định lại dân tộc;

Ghi vào Sổ hộ tịch sự kiện khai sinh; kết hôn; ly hôn; hủy việc kết hôn;

giám hộ; nhận cha, mẹ, con; xác định cha, mẹ, con; nuôi con nuôi; thay đổi hộ

tịch; khai tử của công dân Việt Nam đã được giải quyết tại cơ quan có thẩm

quyền của nước ngoài [47, tr.5].

Thứ sáu, thực hiện một số nội dung khác như: Ứng dụng sáng kiến sáng

tạo, ứng dụng công nghệ thông tin vào quản lý và đăng ký hộ tịch; xây dựng cơ

sở dữ liệu hộ tịch điện tử; lưu trữ sổ hộ tịch, hồ sơ đăng ký hộ tịch; thống kê

nhà nước về hộ tịch, tổng kết, báo cáo cơ quan nhà nước cấp trên về hoạt động

hộ tịch; xử lý vi phạm hành chính, giải quyết khiếu nại, tố cáo liên quan đến hộ

tịch.

Việc ứng dụng công nghệ thông tin vào quản lý và đăng ký hộ tịch;

thống kê, báo cáo về hộ tịch là cơ sở để cơ quan nhà nước có những cải tiến,

phát triển vượt bậc về công tác quản lý hộ tịch. Giúp cho các đơn vị liên quan

nắm bắt được các số liệu từ đó rút ra những kinh nghiệm, tạo thuận lợi cho

công tác thực tiễn. Xây dựng cơ sở sữ liệu điện tử về hộ tịch, đây sẽ là một

23

ngân hàng dữ liệu số, dữ liệu về dân số chuẩn xác, tích hợp đầy đủ thông tin

cho một cá nhân người dân giúp người dân thuận tiện hơn trong quá trình làm

việc, giải quyết các thủ tục pháp luật, pháp lý, hành chính, chính quyền.

- UBND cấp xã và công chức tư pháp - hộ tịch:

Là cấp hành chính cơ sở trực tiếp đảm nhiệm việc đăng ký hộ tịch nên

các nhiệm vụ, quyền hạn của UBND cấp xã chủ yếu liên quan đến hoạt động

đăng ký hộ tịch. Tuy nhiên, ngoài hoạt động đăng ký hộ tịch UBND cấp xã

còn phải thực hiện một số nhiệm vụ khác như tuyên truyền, phổ biến, vận

động nhân dân chấp hành pháp luật về hộ tịch; chấp hành chế độ thống kê,

báo cáo tình hình đăng ký hộ tịch, chế độ sử dụng, lưu trữ sổ hộ tịch; giải

quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm về đăng ký và quản lý hộ tịch theo

thẩm quyền [47, tr.26]. Trong cơ cấu tổ chức của UBND cấp xã, công chức

Tư pháp - Hộ tịch là công chức chuyên trách có nhiệm vụ giúp UBND cấp xã

thực hiện hoạt động quản lý hộ tịch. Đối với những xã, phường, thị trấn có

đông dân cư, số lượng công việc hộ tịch nhiều, thì phải có công chức chuyên

trách làm công tác hộ tịch, không kiêm nhiệm các công tác tư pháp khác.

Trong quy định hiện hành của pháp luật về hộ tịch, chủ thể trực tiếp

thực hiện đăng ký hộ tịch là đội ngũ công chức làm công tác hộ tịch, bao

gồm: Công chức tư pháp - hộ tịch ở cấp xã; công chức làm công tác hộ tịch ở

Phòng Tư pháp thuộc UBND cấp huyện; viên chức ngoại giao, lãnh sự làm

công tác hộ tịch tại Cơ quan đại diện. Các công chức làm công tác hộ tịch đều

phải đảm bảo điều kiện, tiêu chuẩn theo quy định [47, tr.27], gồm: Công chức

tư pháp - hộ tịch cấp xã phải có trình độ từ trung cấp luật trở lên và đã được

bồi dưỡng nghiệp vụ hộ tịch; có chữ viết rõ ràng và trình độ tin học phù hợp

theo yêu cầu công việc. Công chức làm công tác hộ tịch tại Phòng Tư pháp

phải có trình độ cử nhân luật trở lên và đã được bồi dưỡng nghiệp vụ hộ tịch.

24

Viên chức ngoại giao, lãnh sự làm công tác hộ tịch tại Cơ quan đại diện đã

được bồi dưỡng nghiệp vụ hộ tịch.

1.2.2. Nguyên tắc quản lý nhà nước về hộ tịch

Nguyên tắc quản lý nhà nước về hộ tịch hiện nay được quy định tại

Điều 5 của Luật Hộ tịch năm 2014 [47, tr.3-4], bao gồm:

Một là, tôn trọng và bảo đảm quyền nhân thân của cá nhân.

Hai là, mọi sự kiện hộ tịch của cá nhân phải được đăng ký đầy đủ, kịp

thời, trung thực, khách quan và chính xác; trường hợp không đủ điều kiện

đăng ký hộ tịch theo quy định của pháp luật thì người đứng đầu cơ quan đăng

ký hộ tịch từ chối bằng văn bản và nêu rõ lý do.

Đây là nguyên tắc cơ bản nhất trong công tác quản lý hộ tịch. Phạm vi

quản lý của hoạt động quản lý hộ tịch là các đặc điểm nhân thân làm nên căn

cước của mỗi cá nhân, có các thuộc tính: Ổn định, công khai, có khả năng phổ

biến thông tin. Việc đăng ký đầy đủ, kịp thời, chính xác các thông tin này là

cơ sở để công tác quản lý hộ tịch của Nhà nước được đầy đủ, hệ thống, chính

xác, phản ánh đúng nhất sự phát triển, vận động của dân số xã hội.

Ba là, đối với những việc hộ tịch mà Luật này không quy định thời hạn

giải quyết thì được giải quyết ngay trong ngày; trường hợp nhận hồ sơ sau 15

giờ mà không giải quyết được ngay thì trả kết quả trong ngày tiếp theo.

Bốn là, mỗi sự kiện hộ tịch chỉ được đăng ký tại một nơi theo đúng

thẩm quyền.

Nguyên tắc “đăng ký một nơi” thể hiện tính chất “duy nhất” của đặc

điểm nhân thân từng cá nhân, đồng thời là cơ sở để bảo đảm thông qua hoạt

động quản lý hộ tịch, đặc điểm dân số, sự phát triển của dân số xã hội trong

từng vùng miền, địa phương có sự phân biệt rõ ràng.

Năm là, mọi sự kiện hộ tịch sau khi đăng ký vào Sổ hộ tịch phải được

cập nhật kịp thời, đầy đủ vào Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử.

25

Với nguyên tắc này, Nhà nước đòi hỏi các thông tin về hộ tịch phải

được đảm bảo chính xác, điều này phù hợp với đặc điểm của đối tượng, phạm

vi của quản lý hộ tịch là các đặc điểm nhân thân của từng cá nhân với các

thuộc tính: Ổn định, công khai, có khả năng phổ biến thông tin. Khi cập nhật

vào dữ liệu thì không thể chỉnh sửa, nên khi lấy thông tin phải chính xác, việc

chỉnh sửa phải thực hiện ở cơ quan có thẩm quyền.

Sáu là, nội dung khai sinh, kết hôn, ly hôn, khai tử, thay đổi, cải chính,

bổ sung hộ tịch, xác định lại giới tính, xác định lại dân tộc của cá nhân trong

Cơ sở dữ liệu hộ tịch là thông tin đầu vào của Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân

cư.

Bảy là, bảo đảm công khai, minh bạch thủ tục đăng ký hộ tịch.

Đây là nguyên tắc về “tính công khai” trong công tác quản lý hộ tịch,

bảo đảm cho mọi người dân dễ dàng thực hiện các quyền và nghĩa vụ về đăng

ký hộ tịch, qua đó khuyến khích người dân tự nguyện, tự giác thực hiện đầy

đủ, kịp thời các quyền và nghĩa vụ về đăng ký hộ tịch.

Những nguyên tắc trên đảm bảo cho việc quản lý hộ tịch được thực

hiện chính xác, kịp thời, đầy đủ, góp phần bảo đảm, bảo vệ quyền con người,

quyền công dân. Thực tế cho thấy, các giấy tờ về hộ tịch nếu trong quá trình

thực hiện có sai sót mà không phát hiện kịp thời sẽ gây khó khăn cho công tác

quản lý cũng như khắc phục, sửa chữa sai sót và đặc biệt sẽ gây ra không ít

những phiền hà cho công dân trong việc thống nhất giấy tờ quan trọng khác

sau này: Căn cước công dân; hồ sơ học tập, xin việc làm, xuất cảnh, thậm chí

còn liên quan đến việc xác định độ tuổi để đánh giá năng lực hành vi, năng

lực chịu trách nhiệm pháp lý của từng cá nhân,...

1.2.3. Vai trò quản lý nhà nước về hộ tịch

Trong xã hội hiện đại, khi mà khái niệm quyền con người đã được nhận

thức như một giá trị chung của nhân loại thì cùng với nó, hầu như tất cả các

26

quốc gia đều nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của việc quản lý nhà

nước về hộ tịch. Nếu như hoạt động quản lý dân cư được coi là nội dung quan

trọng hàng đầu trong tổng thể hoạt động quản lý xã hội thì quản lý nhà nước

về hộ tịch, với các lợi ích, giá trị tiềm tàng của nó, được coi là khâu nằm ở vị

trí trung tâm của hoạt động quản lý dân cư.

Xét về lý luận, hoạt động quản lý nhà nước về hộ tịch có những vai trò

cơ bản như sau:

Thứ nhất, quản lý nhà nước về hộ tịch có vai trò tổ chức thực hiện

đường lối chủ trương, chính sách của Đảng đối với vấn đề hộ tịch.

Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 đã

khẳng định: Ở Việt Nam, Đảng Cộng sản có vai trò lãnh đạo toàn bộ hệ thống

chính trị. Sự lãnh đạo của Đảng thông qua việc ban hành các chính sách, nghị

quyết về tất cả các lĩnh vực. Các chính sách, nghị quyết của Đảng được thể

hiện thông qua hoạt động lập pháp của cơ quan lập pháp ở Việt Nam.

Trong lĩnh vực Hộ tịch, quan điểm và chính sách của Đảng đã được thể

hiện trong các văn bản pháp luật về hộ tịch hiện hành. Việc các cơ quan nhà

nước có thẩm quyền sử dụng hệ thống pháp luật về hộ tịch để thực hiện quản

lý nhà nước về hộ tịch chính là đưa pháp luật về hộ tịch vào thực tiễn cuộc

sống. Điều đó cũng đồng nghĩa với việc thực hiện các chính sách, nghị quyết

của Đảng về hộ tịch nhằm ổn định xã hội, đảm bảo các quyền và nghĩa vụ của

cá nhân, tổ chức về hộ tịch.

Thứ hai, quản lý nhà nước về hộ tịch là cơ sở cho việc hoạch định các

chính sách phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh quốc phòng…và tổ

chức thực hiện có hiệu quả các chính sách đó.

Một hệ thống quản lý dữ liệu hộ tịch đầy đủ, chính xác, được cập nhật

thường xuyên, kịp thời sẽ là nguồn tài sản thông tin hết sức quý giá luôn sẵn

sàng hỗ trợ đắc lực cho việc hoạch định các chính sách xã hội một cách chính

27

xác, có tính khả thi, tiết kiệm chi phí xã hội; thông qua việc theo dõi biến

động về hộ tịch các cơ quan quản lý nhà nước có thể xây dựng chính sách phù

hợp dựa trên dân số theo độ tuổi, giới tính, nguồn nhân lực. Từ đó có những

phân tích đánh giá cụ thể làm cơ sở hoạch định các chính sách về phát triển

kinh tế, văn hóa, xã hội, thể dục thể thao, xây dựng cơ sở y tế, trường học, bố

trí giáo viên, chăm sóc sức khỏe trong nhân dân, đảm bảo cân bằng giới tính,

phục vụ an ninh quốc phòng…

Thứ ba, hoạt động quản lý và đăng ký hộ tịch thể hiện tập trung nhất,

sinh động nhất sự tôn trọng của Nhà nước đối với việc thực hiện một số quyền

nhân thân cơ bản của con người, của công dân.

Các quyền thân nhân cơ bản của con người, của công dân đã được ghi

nhận trong các bản Hiến pháp của nước ta, nhất là bản Hiến pháp năm 2013

và Bộ luật Dân sự 2015, ví dụ như quyền đối với họ tên, quyền thay đổi họ

tên, quyền xác định dân tộc, quyền đối với quốc tịch, quyền kết hôn, quyền

được nuôi con nuôi và được nhận làm con nuôi, v.v. Ở phương diện này, đăng

ký hộ tịch chính là phương tiện để người dân thực hiện, hưởng thụ các quyền

nhân thân đó. Các dữ liệu về căn cước của mỗi cá nhân thể hiện trên chứng

thư hộ tịch (Giấy khai sinh, Giấy chứng nhận kết hôn,…) là sự khẳng định có

giá trị pháp lý về đặc điểm nhân thân của mỗi người, mà qua đó các cơ quan,

tổ chức, cá nhân khác có thể đánh giá người đó có khả năng điều kiện để tham

gia vào các quan hệ pháp luật nhất định hay không. Hành vi đăng ký khai sinh

của cơ quan đăng ký hộ tịch đánh dấu điểm khởi đầu của hoạt động quản lý

Nhà nước đối với từng người dân, đồng thời cũng là điểm khởi đầu cho mọi

mối quan hệ giữa người dân với nhà nước. Như vậy, thông qua hoạt động

đăng ký hộ tịch, người dân thực hiện và hưởng thụ các quyền nhân thân.

Thứ tư, quản lý nhà nước về hộ tịch có vai trò bảo đảm trật tự xã hội.

28

Trong lĩnh vực hoạt động tư pháp, Giấy khai sinh là một giấy tờ quan

trọng chứa đựng các dữ liệu gốc về nhân thân của cá nhân để đánh giá năng

lực chủ thể của một cá nhân có thể được sử dụng với tính chất là chứng cứ;

các thông tin thể hiện trên giấy khai sinh có thể giúp cơ quan tiến hành tố tụng

đánh giá nhiều vấn đề trong các vụ án hình sự, dân sự, lao động…Trong hoạt

động tư pháp khi cần đánh giá về hành vi của một chủ thể nào đó thì các

thông tin dữ liệu trong bản chính Giấy khai sinh cũng là những chứng cứ quan

trọng phục vụ cho công tác điều tra, truy tố, xét xử của các cơ quan tố tụng.

Thứ năm, quản lý nhà nước về hộ tịch có vai trò quan trọng trong hoạt

động quản lý dân cư.

Quản lý dân cư là lĩnh vực trọng yếu của nền hành chính mà mọi quốc

gia hiện đại, không phân biệt chế độ chính trị và trình độ phát triển đều phải

quan tâm. Cơ cấu dân số và chất lượng dân số là hai vấn đề đặc biệt mà quản

lý hộ tịch cung cấp thông tin trong quá trình quản lý dân cư. Cơ cấu dân số có

thể phân loại dựa trên cơ cấu sinh học, nhưng thông tin về cơ cấu dân số này

lại có được thông qua hoạt động đăng ký hộ tịch. Từ số liệu đăng ký khai

sinh, đăng ký khai tử, các cơ quan quản lý dân số có thể nắm bắt được phần

nào số lượng dân tộc, cơ cấu giới tính,... Thông qua các hoạt động như đăng

ký kết hôn, đăng ký giám hộ, xác nhận tình trạng hôn nhân,… các cơ quan

quản lý dân cư cũng dễ dàng nắm bắt được chất lượng dân số của địa phương.

Như vậy, khi công tác quản lý nhà nước về hộ tịch được tiến hành theo quy

định, không thiếu sót thì sẽ mang lại những hiệu quả lớn trong công tác quản

lý dân cư, cung cấp được thông tin và số liệu cho công tác điều tra dân số.

Với vai trò ý nghĩa quan trọng như vậy, nên trong sự phát triển của mỗi

quốc gia, vấn đề xây dựng hệ thống quản lý nhà nước về hộ tịch và khai thác

hiệu quả của nó phục vụ cho công tác quản lý nhà nước luôn được quan tâm.

29

1.3. Yếu tố ảnh hƣởng đến quản lý nhà nƣớc về hộ tịch trên địa bàn

cấp huyện

Từ thực tiễn quản lý về hộ tịch cho thấy, mặc dù pháp luật đã quy định

trách nhiệm của các cơ quan nhà nước và công dân trong việc đăng ký và

quản lý hộ tịch, đồng thời triển khai thực hiện nhiều biện pháp nhằm tăng

cường hiệu quả của công tác quản lý, đăng ký hộ tịch nhưng trên thực tế hoạt

động này vẫn còn gặp khó khăn và hạn chế. Chính vì vậy, cần xác định những

những yếu tố ảnh hưởng đến quản lý nhà nước về hộ tịch trên địa bàn cấp

huyện để xây dựng được những giải pháp hiệu quả cho hoạt động này. Có thể

quan tâm đến một số yếu tố trọng tâm như sau:

1.3.1. Yếu tố chính trị

Hệ thống chính trị ở nước ta có đặc điểm “Đảng Cộng sản Việt Nam là

Đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội” do vậy, Đảng có vai trò quan

trọng đối với tổ chức và phương thức hoạt động của bộ máy hành chính. Như

trong hoạt động lập quy, Chính phủ không chỉ cụ thể hóa quy định trong các

đạo luật mà còn phải thể chế hóa các chủ trương, chính sách của Đảng. Đối

với công tác tổ chức, quản lý, phát triển nguồn nhân lực, kể từ khâu quy

hoạch, tuyển dụng, sử dụng, đề bạt, kỷ luật cho đến chế độ, chính sách đối với

cán bộ, công chức, viên chức đều gắn với công tác đảng. Vì vậy chủ trương,

đường lối và sự lãnh đạo của Đảng có tác động quan trọng đến các quy định

của pháp luật về hộ tịch cũng như đội ngũ công chức làm hộ tịch.

Mặt khác, các tổ chức chính trị - xã hội, cũng có vai trò quan trọng

trong việc xây dựng và thực thi các quy định của pháp luật về hộ tịch, như vai

trò giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

Do vậy, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước nói chung và quản lý nhà

nước về hộ tịch phải trên cơ sở bảo đảm tính đồng bộ trong chỉnh thể đổi mới

toàn bộ hệ thống chính trị ở Việt Nam.

30

1.3.2. Thể chế quản lý nhà nước về hộ tịch

Khi vận hành các nguyên tắc do nhà nước ban hành về lĩnh vực hộ tịch,

thì cần hiểu Nhà nước không chỉ ban hành đủ các văn bản về hộ tịch như Luật

Hộ tịch, các văn bản hướng dẫn thi hành, hay những văn bản luật liên quan

hoặc điều chỉnh các lĩnh vực hộ tịch hoặc một lĩnh vực hộ tịch nào đó. Yếu tố

chính đòi hỏi là chất lượng văn bản quy định có đầy đủ không, có phù hợp

không, có đáp ứng được yêu cầu thực tiễn hay không? Bên cạnh hệ thống văn

bản pháp luật mang tính nguyên tắc quy phạm thì còn ấn định theo đó là cách

thức, thủ tục, trình tự để các cơ quan quản lý thực hiện. Mặt khác việc cải

cách hành chính cũng là để giảm tải khối lượng công việc, thời gian, tiết kiệm

chi phí và hạn chế các sai phạm trong quá trình vận hành thể chế.

Một thể chế quản lý nhà nước về hộ tịch khi đưa vào vận hành có hiệu

quả, phù hợp, điều đó sẽ đảm bảo tính thống nhất, tính hệ thống, tính khoa

học, khách quan, tính ổn định, công khai, là các yếu tố quan trọng để giải

quyết và quản lý các vấn đề của hộ tịch một cách hiệu quả. Ngược lại nếu đưa

vào vận hành một thể chế không phù hợp, kém thực tế, thì quản lý nhà nước

về hộ tịch sẽ có hiệu quả thấp và không đáp ứng được yêu cầu quản lý nhà

nước trong điều kiện hiện nay và thời gian tới.

1.3.3. Chất lượng và sự hoàn thiện, đồng bộ của hệ thống pháp luật

nói chung và pháp luật liên quan đến quản lý nhà nước về hộ tịch nói riêng

Việc ban hành, sửa đổi và bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật

luôn luôn là một vấn đề hết sức quan trọng để Nhà nước có thể quản lý tốt xã

hội. Khi hệ thống pháp luật nói chung, pháp luật liên quan đến quản lý hộ tịch

nói riêng được hoàn thiện, có chất lượng cao sẽ là một yếu tố quan trọng để

đảm bảo cho việc quản lý nhà nước về hộ tịch sẽ được tiến hành thuận lợi, có

hiệu quả. Khi xem xét về sự hoàn thiện của hệ thống pháp luật chúng ta có thể

căn cứ vào một số tiêu chí cơ bản như: Trình độ pháp điển hóa, tính hệ thống

31

hóa,… của hệ thống pháp luật đó. Chất lượng của hệ thống pháp luật có vai

trò quan trọng trong quản lý xã hội, nó là một trong những cơ sở để bảo đảm

cho việc thực hiện và áp dụng pháp luật đạt được kết quả cao trong thực tiễn,

đồng thời cho phép dự báo được khả năng hiện thực hóa các quy định pháp

luật trong đời sống xã hội.

Ở nước ta, công tác xây dựng hệ thống pháp luật nói chung và hệ thống

pháp luật về hộ tịch nói riêng ngày càng được hoàn thiện và có những quy

định chặt chẽ đến từng sự kiện cụ thể từng đối tượng trong xã hội, đặc biệt là

Luật Hộ tịch năm 2014 ra đời kèm theo đó là các văn bản hướng dẫn thi hành

Luật như Nghị định 123/2015/NĐ-CP ngày 15/11/2015 của Chính phủ,

Thông tư 15/2015/TT-BTP ngày 16/11/2015 của Bộ Tư pháp đã nâng cao vị

trí, vai trò của công tác quản lý nhà nước về hộ tịch bên cạnh đó khắc phục

được những hạn chế tồn tại mà trước đây chưa có Luật quy định. Điều này

cho thấy sự hoàn thiện, đồng bộ của pháp luật có ảnh hưởng lớn tới hiệu lực,

hiệu quả quản lý nhà nước về hộ tịch.

1.3.4. Năng lực, trình độ và phẩm chất đạo đức của đội ngũ cán bộ,

công chức các cơ quan quản lý nhà nước về hộ tịch

Do tính chất phức tạp của hộ tịch nên hiệu quả quản lý nhà nước về hộ

tịch phụ thuộc vào nhiều điều kiện, yếu tố như trình độ, năng lực, phẩm chất

đạo đức của đội ngũ cán bộ, công chức của các cơ quan nhà nước có thẩm

quyền quản lý nhà nước về hộ tịch. Để đạt được hiệu quả cao trong quản lý

nhà nước bằng pháp luật về hộ tịch đòi hỏi người cán bộ, công chức và những

người có thẩm quyền quản lý nhà nước phải có nghiệp vụ chuyên sâu, nắm

vững các quy định của pháp luật về hành chính, về quản lý nhà nước trong

lĩnh vực hộ tịch. Do vậy, việc bồi dưỡng, nâng cao trình độ nghiệp vụ đối với

cán bộ có thẩm quyền quản lý nhà nước bằng pháp luật về hộ tịch là hết sức

quan trọng và có ý nghĩa to lớn.

32

Ngoài các điều kiện về chuyên môn, những người có thẩm quyền quản

lý nhà nước về hộ tịch còn phải có phẩm chất đạo đức tốt, trình độ lý luận

chính trị cao thì mới tránh được các hiện tượng tiêu cực xảy ra trong quá trình

thực hiện chức năng quản lý nhà nước về hộ tịch. Trong hoạt động nghề

nghiệp, cán bộ, công chức phải đảm bảo được yếu tố đạo đức, công bằng, vô

tư, khách quan, lương tâm, nhân đạo, không vụ lợi cá nhân... Đây là điều kiện

cần thiết để hình thành tư duy sắc bén, định hướng nhận thức và hành động,

xác định quan điểm đúng đắn trước khi đưa ra các quyết định liên quan đến

quản lý hộ tịch, là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến hiệu quả quản lý nhà

nước về hộ tịch.

1.3.5. Ý thức pháp luật và sự tham gia của người dân

Đây là nhân tố có vai trò quan trọng đối với việc quản lý nhà nước về

hộ tịch. Thực tế cho thấy, một bộ phận không nhỏ dân cư nhận thức về tầm

quan trọng của pháp luật và công tác hộ tịch còn thấp, ảnh hưởng của thói

quen trọng “lệ” hơn trọng “luật” vẫn tồn tại ở một số nơi. Còn một bộ phân

dân cư ít quan tâm nắm bắt thông tin pháp luật thiết yếu để áp dụng vào thực

tiễn cuộc sống. Tâm lý không đề cao pháp luật, thậm chí coi thường pháp luật

nhiều nơi trở thành thói quen. Một bộ phận dân cư vẫn chưa hình thành được

thói quen sử dụng các cơ quan tư pháp cũng như sử dụng pháp luật để bảo vệ

các quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi phát sinh tranh chấp nên nhiều

khi đã tự xử lý, bỏ qua các quyền và lợi ích chính đáng của mình, thậm chí

còn vi phạm pháp luật.

Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của dân,

do dân và vì dân. Do đó, chỉ khi nào người dân thực sự đóng vai trò quan

trọng trong quá trình hoạt động quản lý của Nhà nước thì việc xây dựng và

hoàn thiện Nhà nước pháp quyền mới thực sự thành công; mặt khác sự tham

gia của người dân vào công việc quản lý nhà nước, nhằm bảo đảm cho Nhà

33

nước giữ vững bản chất là Nhà nước của dân, do dân và vì dân, bảo đảm hiệu

lực, hiệu quả của các chính sách, pháp luật được ban hành. Chính vì vậy việc

tham gia của người dân sẽ có ảnh hưởng quan trọng đến hiệu lực, hiệu quả

quản lý nhà nước nói chung, cũng như hoạt động quản lý nhà nước về hộ tịch

nói riêng.

1.3.6. Công tác tổ chức và phối hợp giữa các cơ quan có thẩm quyền

quản lý nhà nước về hộ tịch

Quản lý nhà nước về hộ tịch mang tính quyền lực nhà nước, hay nói

cách khác nó vốn là hoạt động do các cơ quan hoặc các chủ thể có thẩm

quyền tiến hành như Chính phủ, Bộ, UBND,.. Hoạt động quản lý nhà nước về

hộ tịch có tính chất quan trọng và phức tạp nên chủ thể bị quản lý có thể được

hưởng lợi ích rất lớn nhưng cũng có thể phải chịu những hậu quả bất lợi vì

vậy cần có sự xác định rõ ràng cơ sở, điều kiện, trình tự thủ tục... của các chủ

thể trong quá trình quản lý nhà nước về hộ tịch. Cũng chính vì lý do nêu trên

đòi hỏi các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cần được tổ chức một cách khoa

học, có sự phân công rõ ràng về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, thẩm quyền

của mỗi cơ quan, mỗi bộ phận để tránh hiện tượng chồng chéo, mâu thuẫn cản

trở nhau trong công việc của các cơ quan này.

1.3.5. Yếu tố về kinh phí, cơ sở vật chất, kỹ thuật và sự phát triển của

khoa học công nghệ

Quản lý nhà nước về hộ tịch có thể xem là hoạt động áp dụng pháp luật

của các cơ quan nhà nước về hộ tịch vào thực tiễn. Thực tế chứng minh rằng

việc xây dựng pháp luật cũng như áp dụng pháp luật đòi hỏi phải có những

điều kiện vật chất đầy đủ. Muốn được thực hiện trong thực tế các văn bản

pháp luật, đòi hỏi phải có chi phí rất lớn về sức người và trang bị vật chất kỹ

thuật, nhất là trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghệ 4.0 hiện nay nếu

thiếu phương tiện, trang thiết bị làm việc công tác quản lý nhà nước về hộ tịch

34

sẽ không đạt hiệu quả, thậm chí không thể triển khai. Để việc quản lý nhà

nước về hộ tịch có hiệu quả có thể nói kinh phí cho hoạt động quản lý nhà

nước là một trong điều kiện cần thiết quan trọng.

1.4. Kinh nghiệm quản lý nhà nƣớc về hộ tịch ở một số địa phƣơng

1.4.1. Ứng dụng công nghệ thông tin trong lưu trữ sổ hộ tịch và tra

cứu dữ liệu hộ tịch quận Long Biên, thành phố Hà Nội

Thủ đô Hà Nội là trung tâm chính trị, văn hóa - giáo dục của cả nước

với vị trí, vai trò trung tâm của Thủ đô và trách nhiệm của chính quyền trong

công tác quản lý dân cư nói chung, công tác đăng ký và quản lý hộ tịch nói

riêng, công tác quản lý hộ tịch cần đáp ứng yêu cầu thực tiễn xã hội theo

hướng giảm tải công việc cho cán bộ, đẩy mạnh cải cách hành chính.Thành

phố Hà Nội đang từng bước số hóa toàn bộ sổ hộ tịch với dữ liệu của hơn 7,6

triệu người dân, tạo nền tảng phát triển chính quyền điện tử, phục vụ người

dân ngày càng tốt hơn.

Long Biên là một quận có diện tích lớn nhất Hà Nội, với mức độ di

động, biến động dân cư phức tạp. Cùng với Nam Từ Liêm, Hai Bà Trưng,

hiện quận Long Biên thực hiện thí điểm chủ trương số hóa sổ hộ tịch đã triệt

để loại bỏ các loại “đơn”, rút ngắn nhiều quy trình, thời gian giải quyết các sự

kiện hộ tịch, thực hiện nhiều nội dung mang tính cởi mở, thực hiện việc phân

cấp mạnh cho UBND cấp xã, phường để phục vụ người dân tốt hơn.

Tại quận Long Biên, toàn bộ dữ liệu từ sổ hộ tịch năm 2015 của quận

đã được số hóa và đồng bộ vào hệ thống eSAMS của thành phố với tổng số

64 quyển sổ khai sinh và đăng ký kết hôn. Tại quận Long Biên, số lượng hồ

sơ hành chính trong lĩnh vực tư pháp hộ tịch thường chiếm tỷ lệ cao (cấp

phường chiếm trên 80%). Nếu trước đây, khi phát sinh yêu cầu của công dân,

công chức Tư pháp - Hộ tịch thường phải tìm sổ hộ tịch mất nhiều thời gian,

35

dễ phát sinh sai sót, nhầm lẫn, thì hiện nay, công dân chỉ cần khai họ tên, năm

sinh là công chức có thể tra cứu dữ liệu nhanh chóng, thuận tiện.

Kết quả số hóa đã nâng cao hiệu quả việc lưu trữ, khai thác các dịch vụ

công trực tuyến tại UBND quận và các phường trực thuộc. Ở chiều ngược lại,

người dân cũng được hưởng lợi. Điểm ưu việt khi thực hiện các thủ tục về hộ

tịch thời kỳ số hóa là người dân không phải mang giấy tờ gì và có thể làm ở

bất kỳ địa điểm nào, thời gian nhanh gọn.

Xác định ứng dụng công nghệ thông tin trong lĩnh vực hộ tịch là nền

tảng phát triển chính quyền điện tử, UBND TP Hà Nội đã chỉ đạo Sở Tư pháp

tiếp tục khảo sát tình hình lưu trữ, thống kê cơ bản về số lượng hồ sơ hộ tịch

để xác định quy mô, khối lượng công việc số hóa cần triển khai của toàn

thành phố cũng như tại từng đơn vị. Tuy nhiên, quá trình triển khai phần mềm

đăng ký, quản lý hộ tịch cũng xuất hiện những bất cập như việc lấy mã số

định danh cho trẻ, nhiều khi không có kết nối giữa Bộ Tư pháp và Bộ Công

an nên không thực hiện được ngay. Về việc thay đổi thông tin cha mẹ trẻ khi

trẻ được cho làm con nuôi, việc khai sinh của trẻ đã thực hiện trước đó trên

phần mềm, nhưng khi cha mẹ nuôi yêu cầu thay đổi thông tin về cha mẹ thì

lại không thay đổi được trên phần mềm. Với trường hợp này, công chức tư

pháp - hộ tịch vẫn phải làm thủ tục thay đổi thông tin về cha mẹ trẻ, dẫn đến

việc thông tin của trẻ được quản lý trên phần mềm và thông tin trẻ sử dụng

sau này không đồng nhất…

Nhằm tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc, Hà Nội đã đưa ra nhiều

kiến nghị, đề xuất, cam kết sẽ cùng các bộ, ngành hoàn thiện cơ chế phối hợp.

Đồng thời, Sở Tư pháp tiếp tục tổ chức giao ban định kỳ với lãnh đạo phòng

tư pháp cấp huyện để nắm bắt vướng mắc, định hướng các nhiệm vụ chuyên

môn, giúp hạn chế những sai sót trong quá trình giải quyết hồ sơ, nâng cao

hiệu quả thực hiện các nhiệm vụ về hộ tịch.

36

1.4.2. Đẩy mạnh công tác đăng ký, quản lý hộ tịch tại huyện Lý

Nhân, tỉnh Hà Nam trong tình hình mới

Huyện Lý Nhân là một trong 06 đơn vị hành chính của tỉnh Hà Nam.

Vị trí địa lý nằm ở phía Đông tỉnh. Phía Nam giáp tỉnh Nam Định và huyện

Bình Lục, phía Tây giáp huyện Bình Lục và Duy Tiên, phía Đông giáp sông

Hồng, phía Bắc giáp huyện Duy Tiên; diện tích tự nhiên toàn huyện là 167,045 km2; Lý Nhân có 22 xã và 01 thị trấn, với gần 200.000 nhân khẩu.

Với đặc điểm là huyện có dân cư đông của tỉnh Hà Nam, trong những năm

qua, nhất là từ khi triển khai thi hành Luật Hộ tịch năm 2014, Phòng Tư pháp,

với chức năng là cơ quan tham mưu cho UBND huyện trong việc quản lý,

đăng ký hộ tịch trên địa bàn đã thường xuyên nắm bắt, giải đáp các vướng

mắc về nghiệp vụ chuyên môn cho công chức làm công tác hộ tịch ở cơ sở;

thường xuyên kiểm tra việc khắc phục hồ sơ, sổ sách trong công tác quản lý,

đăng ký hộ tịch.

Huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam đã thực hiện việc tiếp nhận và giải quyết

hồ sơ đăng ký hộ tịch ngày càng có hiệu quả, đảm bảo đúng quy định của

pháp luật. Về quy trình thực hiện đã bám sát trình tự, thủ tục theo quy định tại

Quyết định số 2090/QĐ-UBND ngày 04/12/2017 của UBND tỉnh Hà Nam về

việc công bố thủ tục hành chính (TTHC) thuộc thẩm quyền giải quyết của

UBND cấp xã trên địa bàn tỉnh Hà Nam và Quyết định số 2089/QĐ-UBND

ngày 04/12/2017 của UBND tỉnh Hà Nam về việc công bố TTHC thuộc thẩm

quyền giải quyết của UBND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Hà Nam. UBND

huyện và UBND cấp xã trên địa bàn đã chủ động triển khai, áp dụng đồng bộ,

thống nhất và đạt được những kết quả tích cực, cụ thể: Các TTHC được cải

cách, đơn giản hoá và cắt giảm nhiều giấy tờ, tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho

người dân; các sự kiện hộ tịch của cá nhân cơ bản được đăng ký đầy đủ, kịp

37

thời, trung thực, khách quan và chính xác, qua đó góp phần nâng cao hiệu quả

quản lý nhà nước.

Thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông, UBND huyện đã bố trí

01 công chức tiếp nhận và trả kết quả tại Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả của

huyện; UBND các xã, thị trấn trên địa bàn đều bố trí 01 công chức Tư pháp -

Hộ tịch thực hiện việc giải quyết TTHC tại Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả

của xã. Thực hiện Quyết định số 2247/QĐ-BTP ngày 25/12/2015 của Bộ

trưởng Bộ Tư pháp ban hành Chương trình bồi dưỡng nghiệp vụ hộ tịch cho

công chức làm công tác hộ tịch; Kế hoạch số 431/KH-UBND ngày 19/3/2015

của UBND tỉnh Hà Nam triển khai thi hành Luật Hộ tịch năm 2014, Công văn

số 742/BTP-TCCB ngày 12/3/2018 của Bộ Tư pháp về việc bồi dưỡng nghiệp

vụ hộ tịch cho công chức làm công tác hộ tịch, từ ngày 19/10/2019 đến ngày

03/11/2019, UBND huyện Lý Nhân đã cử 23 công chức làm công tác hộ tịch

của huyện và xã tham dự lớp bồi dưỡng nghiệp vụ hộ tịch do Sở Tư pháp tỉnh

Hà Nam phối hợp với Học viện Tư pháp tổ chức, đảm bảo trước ngày

31/12/2019, 100% công chức làm công tác hộ tịch được bồi dưỡng nghiệp vụ

Nhằm từng bước xây dựng và tạo lập dữ liệu cho Cơ sở dữ liệu hộ tịch

hộ tịch theo quy định của Luật Hộ tịch.

điện tử toàn quốc, đảm bảo triển khai áp dụng thống nhất, có sự kết nối liên

thông, chia sẻ dữ liệu giữa các cơ quan đăng ký, quản lý hộ tịch trên phạm vi

toàn quốc và đồng bộ các thông tin cơ bản của cá nhân với Cơ sở dữ liệu quốc

gia về dân cư theo yêu cầu của pháp luật về hộ tịch, trên cơ sở Công văn số

1437/BTP-CNTT ngày 25/4/2019 của Bộ Tư pháp về việc hướng dẫn số hóa

Sổ hộ tịch; Kế hoạch số 2260/KH-UBND ngày 02/8/2019 của UBND tỉnh Hà

Nam về triển khai thực hiện số hoá dữ liệu hộ tịch lịch sử trên địa bàn tỉnh Hà

Nam, Phòng Tư pháp huyện Lý Nhân cũng triển khai thực hiện việc số hoá Sổ

hộ tịch và cập nhật dữ liệu hộ tịch lịch sử. Cụ thể: Thực hiện việc chuyển đổi

38

dữ liệu hộ tịch từ sổ giấy (đối với những dữ liệu được hình thành từ năm 2016

trở về trước) sang dữ liệu số theo 3 giai đoạn:

Năm 2019: Chuyển đổi dữ liệu hộ tịch từ sổ giấy sang dữ liệu số đối

với toàn bộ dữ liệu hộ tịch đã đăng ký từ ngày 01/01/2016 đến hết ngày

31/10/2016.

Năm 2020: Chuyển đổi dữ liệu hộ tịch từ sổ giấy sang dữ liệu số đối

với toàn bộ dữ liệu hộ tịch đã đăng ký từ năm 2006 đến hết năm 2015.

Năm 2021: Chuyển đổi dữ liệu hộ tịch từ sổ giấy sang dữ liệu số đối

với toàn bộ dữ liệu hộ tịch đã đăng ký từ năm 2005 trở về trước.

Với nguyên tắc dữ liệu hộ tịch do cấp nào tạo lập (đăng ký) thì cấp đó

thực hiện việc số hóa. Trường hợp sổ hộ tịch do UBND cấp xã đăng ký nhưng

lưu tại 02 cấp (cấp xã và cấp huyện) thì cấp xã là đơn vị có trách nhiệm thực

hiện việc số hóa. Đối với dữ liệu mà theo lịch sử hiện không xác định được cơ

quan tạo lập (do chia tách, sáp nhập địa giới hành chính hoặc sổ hộ tịch hiện

chỉ còn lưu ở 01 cấp hành chính) thì cấp lưu sổ hộ tịch thực hiện việc số hóa.

Việc triển khai thực hiện đòi hỏi phải bám sát các mục tiêu, nhiệm vụ

và thực tiễn của địa phương, nghiêm túc, đúng tiến độ và có hiệu quả. Việc

chuyển đổi dữ liệu hộ tịch từ sổ giấy sang dữ liệu số phải bảo đảm chính xác,

đầy đủ, phục vụ tốt cho việc tra cứu và sử dụng thông tin.

1.4.3. Bài học kinh nghiệm có thể áp dụng cho quản lý hộ tịch ở

huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình

Qua nghiên cứu tình hình thực hiện công tác quản lý nhà nước về hộ

tịch ở 02 đơn vị cấp huyện (01 quận ở thành phố Hà Nội và 01 huyện ở tỉnh

Hà Nam), nhất là đối với huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam, là đơn vị cấp huyện

có điều kiện kinh tế - xã hội và dân cư khá tương đồng với huyện Kim Sơn,

tỉnh Ninh Bình, có thể rút ra một số bài học cụ thể, có giá trị tham khảo trong

39

việc thực hiện quản lý hộ tịch trên địa bàn huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình,

trong thời gian tới như sau:

* Thứ nhất, việc số hóa sổ hộ tịch

Việc triển khai thực hiện số hóa sổ hộ tịch trên địa bàn huyện nhằm xây

dựng cơ sở dữ liệu hộ tịch trên địa bàn huyện và từng bước xây dựng và tạo

lập dữ liệu cho Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử toàn quốc; đảm bảo triển khai áp

dụng thống nhất, có sự kết nối liên thông, chia sẻ dữ liệu giữa các cơ quan

đăng ký, quản lý hộ tịch trên phạm vi toàn quốc và đồng bộ các thông tin cơ

bản của cá nhân với Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư theo yêu cầu của pháp

luật về hộ tịch. Hiện nay, nhiểu tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trên cả

nước đã ban hành kế hoạch triển khai thực hiện lộ trình số hóa sổ hộ tịch,

trong đó có thành phố Hà Nội và tỉnh Hà Nam và đã được quận Long Biên và

huyện Lý Nhân triển khai thực hiện. Việc triển khai số hóa sổ hộ tịch tạo điều

kiện thuận lợi không chỉ cho công tác quản lý nhà nước về hô tịch mà còn tạo

điều kiện cho người dân thực hiện TTHC về hộ tịch.

Tuy nhiên việc triển khai số hóa sổ hộ tịch cần phải có lộ trình phù hợp

và cần một lượng kinh phí rất lớn, nếu không có chương trình, đề án cụ thể,

việc bố trí kinh phí thực hiện đối với địa phương, nhất là UBND cấp xã trên

địa bàn huyện sẽ gặp rất nhiều khó khăn, thậm chí có địa phương không bố trí

được kinh phí để thực hiện.

Mặt khác, với nguyên tắc cấp nào thực hiện tạo lập sổ hộ tịch thì cấp đó

phải thực hiện số hóa, thì việc số hóa chủ yếu được thực hiện bởi UBND cấp

xã; yêu cầu cao nhất của việc số hóa sổ hộ tịch là phải đảm bảo chính xác, đầy

đủ phục vụ cho khai thác sử dụng và quản lý nhà nước về hộ tịch, mà trình độ

tin học của đội ngũ công chức tư pháp - hộ tịch chưa đảm bảo, nên nếu thực

hiện việc số hóa thủ công sổ hộ tịch sẽ có nhiều thiếu sót, nhầm lẫn ảnh

hưởng lớn đến việc khai thác, sử dụng sổ hộ tịch điện tử.

40

* Thứ hai, bồi dưỡng nghiệp vụ cho công chức làm công tác hộ tịch

Đội ngũ công chức làm công tác hộ tịch, nhất là công chức tư pháp - hộ

tịch làm công tác hộ tịch phải được thực hiện bồi dưỡng nghiệp vụ hộ tịch

theo đúng quy định [43, tr.27]; tuy nhiên ở nước ta nói chung và trên địa bàn

huyện nói riêng, đội ngũ công chức Tư pháp - Hộ tịch luôn luôn biến động do

công tác cán bộ của địa phương, vì thế việc bồi dưỡng nghiệp vụ cho đội ngũ

công chức làm công tác hộ tịch, ngoài việc được thực hiện theo kế hoạch triển

khai thi hành Luật Hộ tịch thì còn phải được thực hiện thường xuyên, liên tục

đối với các công chức mới được giao thực hiện công tác hộ tịch, để đảm bảo

đúng quy định của Luật Hộ tịch [47, tr.27]. Trong khi đó hiện nay chỉ có một

số cơ sở đào tạo được giao nhiệm vụ bồi dưỡng và cấp chứng chỉ công nhận

hoàn thành chương trình bồi dưỡng nghiệp vụ về hộ tịch nên sẽ rất khó khăn

trong việc bồi dưỡng nghiệp vụ hộ tịch kịp thời cho công chức mới được phân

công làm công tác hộ tịch khi có sự thay đổi, luân chuyển cán bộ, công chức.

Tiểu kết Chƣơng 1

Chương 1 của luận văn tác giả đã phân tích làm rõ các vấn đề lý luận

liên quan đến quản lý nhà nước về hộ tịch như:

Hộ tịch là những vấn đề cơ bản, liên quan đến nhân thân của con người;

Quản lý nhà nước về hộ tịch là sự thực hiện chức năng quản lý của cơ

quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật;

Chủ thể thực hiện quản lý nhà nước về hộ tịch là cơ quan hành chính

nhà nước, gồm: Chính phủ; Bộ; UBND (cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã), cơ quan

chuyên môn giúp việc cho UBND cấp tỉnh, cấp huyện trong quản lý nhà nước

về hộ tịch (Sở Tư pháp, Phòng Tư pháp) và công chức tư pháp - hộ tịch.

Nội dung quản lý nhà nước về hộ tịch tập trung vào các hoạt động: Ban

hành hoặc trình cơ quan có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật

41

về hộ tịch; triển khai thi hành pháp luật về hộ tịch; quản lý hệ thống tổ chức

và hoạt động của các cơ quan, tổ chức trong hoạt động hộ tịch; đào tạo, bồi

dưỡng, hướng dẫn nghiệp vụ về hộ tịch; kiểm tra, thanh tra, giải quyết khiếu

nại, tố cáo trong hoạt động hộ tịch; ứng dụng công nghệ thông tin, bảo đảm

kinh phí, cơ sở vật chất, phương tiện cho hoạt động hộ tịch, xây dựng và quản

lý cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử; thống kê nhà nước về hộ tịch; hợp tác quốc tế

về hộ tịch;

Các yếu tố ảnh hướng đến quản lý nhà nước về hộ tịch: Hệ thống pháp

luật nói chung và hệ thống pháp luật về hộ tịch nói riêng; tổ chức bộ máy,

nhân lực; ý thức pháp luật và sự tham gia của người dân quản lý của nhà

nước; cơ sở vật chất phục vụ cho sự quản lý của nhà nước về hộ tịch. Bài học

kinh nghiệm được rút ra từ thực tiễn quản lý hộ tịch tại quận Long Biên,

thành phố Hà Nội và huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam.

Những nội dung được làm sáng tỏ trong Chương 1 được tác giả sử dụng

làm cơ sở cho việc nghiên cứu những nội dung quan trọng trong Chương 2

của luận văn.

42

Chƣơng 2

THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ HỘ TỊCH

TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN KIM SƠN TỈNH NINH BÌNH

2.1. Khái quát về huyện Kim Sơn tỉnh Ninh Bình

2.1.1. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên

Huyện Kim Sơn là huyện đồng bằng ven biển, nằm ở phía Đông Nam

tỉnh Ninh Bình, cách trung tâm thành phố Ninh Bình 28 km, được thành lập

năm 1829, do Nhà Doanh điền sứ Uy viễn Tướng công Nguyễn Công Trứ

lãnh đạo khẩn hoang; phía Tây giáp huyện Nga Sơn (tỉnh Thanh Hoá), phía

Đông giáp huyện Nghĩa Hưng (tỉnh Nam Định), phía Nam giáp biển Đông.

Huyện Kim Sơn có địa hình bằng phẳng và được chia thành hai vùng

chính là vùng đồng bằng và vùng ven biển với hệ thống sông ngòi dày đặc.

Diện tích đất tự nhiên của huyện là 21.571,4 ha, trong đó có 4.851,61 ha vùng

bãi bồi ven biển và khoảng 700 ha Cồn Nổi, hàng năm lấn ra biển từ 80 đến

100m. Do được thiên nhiên ban tặng nên huyện Kim Sơn có những điều kiện

thuận lợi về phát triển nông nghiệp và thủy sản:

2.1.2. Đặc điểm về hành chính và dân cư

Huyện Kim Sơn có 27 đơn vị hành chính cấp xã, gồm 25 xã và 02 thị

trấn (đến tháng 02/2020 thực hiện sắp xếp lại đơn vị hành chính, hiện nay

huyện Kim Sơn còn 25 đơn vị hành chính) được chia thành 05 tiểu khu, trong

đó có 05 xã được phê duyệt là xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang ven biển

và hải đảo, giai đoạn 2016 - 2020 tại Quyết định số 131/QĐ-TTg ngày

25/01/2017 của Thủ tướng Chính phủ, gồm các xã: Kim Mỹ, Kim Tân, Cồn

Thoi, Kim Trung và Kim Hải. Tính đến năm 2019, dân số của huyện là

183.322 người; có 2 tôn giáo chính là Phật giáo và Công giáo chiếm 52,29%

dân số, trong đó đạo Công giáo chiếm 47,07% [30].

43

2.1.3. Điều kiện kinh tế

Sản xuất nông nghiệp phát triển toàn diện, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ

về cơ cấu giống, cơ cấu mùa vụ, ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào

sản xuất, nâng cao trình độ thâm canh, nên đã giành được thắng lợi cả trong

trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản. Kim Sơn luôn là huyện dẫn đầu

tỉnh về năng suất lúa, diện tích gieo cấy lúa đạt trên 16.000 ha/năm, năng suất

đạt 122,44tạ/ha, sản lượng lương thực đạt 102.845 tấn (đạt 97,02% mục tiêu);

lúa chất lượng cao đạt 81.275 tấn; chiếm gần 1/3 tổng sản lượng lương thực

của tỉnh Ninh Bình. Diện tích lúa đặc sản, lúa chất lượng cao ngày càng tăng

góp phần nâng cao giá trị sản xuất trên 1ha đất nông nghiệp [30, tr.2].

Kinh tế biển luôn là vùng có tiềm năng để phát triển thành một vùng

sản xuất hàng hóa phong phú và đa dạng. Nuôi trồng và khai thác thuỷ hải sản

đang dần trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của huyện, với trên 4.800 ha vùng

bãi bồi ven biển và có khoảng 700ha Cồn Nổi là vùng khai thác tự nhiên rất

phù hợp cho việc khai thác nuôi trồng thủy sản và phát triển du lịch. Nuôi

trồng thủy hải sản phát triển, một số mô hình nuôi trồng thủy, hải sản ứng

dụng công nghệ cao được nhân rộng, góp phần nâng cao giá trị sản xuất. Diện

tích nuôi trồng thủy sản hàng năm tăng, năm 2019 đạt 4.370,7ha, sản lượng

28.000 tấn; sản lượng thủy, hải sản bình quân hàng năm đạt 26.581 tấn, chiếm

trên 50% sản lượng thủy sản toàn tỉnh. Hiện nay, tỉnh đang thực hiện lập Quy

hoạch chung và quy hoạch chi tiết vùng bãi bồi ven để khai thác hết tiềm năng

thế mạnh của kinh tế biển [30, tr.2].

Sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp tiếp tục duy trì và phát

triển, giá trị sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp đến năm 2019 (theo

giá 2010) đạt 2.330 tỷ đồng, tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm đạt 11%.

Hoạt động của các cơ sở sản xuất trên địa bàn cơ bản ổn định, góp phần giải

quyết việc làm cho hơn 27 nghìn lao động. Cơ sở hạ tầng của Cụm công

44

nghiệp Đồng Hướng từng bước được đầu tư nâng cấp, mở rộng, hiện có 09

doanh nghiệp đang hoạt động với khoảng 3.000 công nhân, thu nhập bình

quân khoảng 4,5-5 triệu đồng/người/tháng; khu vực vùng bãi bồi ven biển có

một số doanh nghiệp đang khảo sát, lập dự án đầu tư. Cùng với phát triển

công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp; huyện còn tập trung duy trì, phát triển các

nghề truyền thống và đưa các ngành nghề mới về các thôn, xóm, tạo thêm

việc làm cho lao động nông thôn. Hiện nay, trên địa bàn huyện có tổng số 25

làng nghề cấp tỉnh, trong đó có 01 làng nghề truyền thống [30, tr.2-3].

Các hoạt động dịch vụ phát triển, đáp ứng nhu cầu sản xuất và tiêu

dùng của Nhân dân. Tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm đạt 7,62%; tổng

mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ trên địa bàn hàng năm tăng. Các

loại hình dịch vụ vận tải, viễn thông, internet, đại lý, nhà hàng... tiếp tục phát

triển ngày càng đa dạng, cơ bản đáp ứng nhu cầu của Nhân dân. Lượng khách

du lịch đến địa bàn ngày càng tăng. Giá trị xuất khẩu trên địa bàn bình quân

hàng năm ước đạt 21,6 triệu USD. Các tổ chức tín dụng thực hiện cải cách thủ

tục, quy trình cho vay theo hướng rõ ràng, minh bạch, đơn giản, tạo điều kiện

tối đa cho khách hàng trong việc tiếp cận vốn vay để sản xuất, kinh doanh.

Công tác xây dựng nông thôn mới đạt được kết quả tích cực, đã thay

đổi diện mạo nông thôn; hạ tầng thiết yếu và kinh tế nông thôn có bước phát

triển; đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện về nhiều mặt.

Đến nay trên địa bàn huyện đã có 16/23 xã đạt chuẩn nông thôn mới [30, tr.2].

2.1.4. Về văn hóa xã hội

Các hoạt động văn hoá, thông tin, truyền thanh, thể dục thể thao phát

triển mạnh mẽ, từng bước đáp ứng nhu cầu vật chất, tinh thần của nhân dân.

Công tác chăm sóc, bảo vệ sức khoẻ cho nhân dân được quan tâm, cơ sở vật

chất, trang thiết bị y tế được tăng cường.

45

Chất lượng giáo dục toàn diện ở tất cả các bậc học được nâng lên; số

học sinh của huyện thi đỗ vào các trường Đại học hàng năm đều tăng. Trong 5

năm, toàn huyện có 1.986 học sinh giỏi cấp tỉnh; 212 học sinh giỏi cấp Quốc

gia; 2.799 học sinh thi đỗ Đại học; có 03 học sinh Trung học phổ thông vào

vòng chung kết cuộc thi Đường lên đỉnh Olympia, trong đó có 01 học sinh đạt

giải Nhất [30, tr.5].

Huyện luôn triển khai thực hiện có hiệu quả công tác đảm bảo an sinh

xã hội, xoá đói giảm nghèo, chăm sóc người có công, các gia đình chính sách;

việc thực hiện chính sách đối với người có công và an sinh xã hội được triển

khai nghiêm túc, đúng đối tượng; số người tham gia các loại bảo hiểm tăng,

trong đó BHYT đạt 86% tổng số dân. Công tác dạy nghề, nâng cao chất lượng

nguồn lao động, tạo việc làm được chú trọng, tập trung vào các ngành nghề

phù hợp, thiết thực với nhu cầu người học; xuất khẩu lao động được chỉ đạo

tích cực, trong 5 năm đã giới thiệu và xuất khẩu được gần 900 lao động, đem

lại nguồn thu nhập khá cho người dân [30, tr.5-6].

2.1.5. Về an ninh - quốc phòng, biên phòng

Được xác định là huyện trọng điểm của tỉnh Ninh Bình về công tác an

ninh, quốc phòng, biên phòng nên song song với phát triển kinh tế - xã hội,

huyện luôn chú trọng và thực hiện tốt nhiệm vụ đảm bảo an ninh, quốc phòng,

biên phòng tại địa phương, do đó an ninh chính trị của huyện luôn được giữ

vững, quốc phòng địa phương được tăng cường, hằng năm hoàn thành 100%

chỉ tiêu giao quân; trật tự an toàn xã hội được đảm bảo; thực hiện tốt công tác

biên phòng trên tuyến biên giới biển.

Trong những năm qua, tập trung phát triển kinh tế - xã hộ là điểm nhấn

quan trọng trong thực hiện nhiệm vụ chính trị của địa phương. Tuy vậy sự

phát triển kinh tế - xã hội giữa các tiểu khu trên địa bàn huyện trong những

năm qua là không đồng đều, trong đó có sự chênh lệch khá lớn giữa các xã xa

46

trung tâm huyện với các xã, thị trấn trung tâm huyện và các xã ven biển.

Chính sự phát triển kinh tế - xã hội giữa các xã, các tiểu khu của huyện không

đồng đều cũng ảnh hưởng tới chất lượng quản lý nhà nước trên địa bàn nói

chung và quản lý nhà nước về hộ tịch nói riêng.

2.2. Phân tích thực trạng quản lý nhà nƣớc về hộ tịch trên địa bàn

huyện Kim Sơn tỉnh Ninh Bình, giai đoạn 2016 - 2019

2.2.1. Ban hành văn bản chỉ đạo, quản lý nhà nước về hộ tịch

Xác định được tầm quan trọng của công tác quản lý nhà nước trên địa

bàn, trong những năm qua UBND huyện Kim Sơn đã ban hành nhiều văn bản

để chỉ đạo, triển khai thực hiện pháp luật về hộ tịch trên địa bàn, cụ thể như:

Kế hoạch số 16/KH-UBND ngày 02/02/2016 về triển khai thực hiện Luật Hộ

tịch; Kế hoạch số 62/KH-UBND ngày 16/5/2017 về triển khai thực hiện

chương trình hành động Quốc gia của Việt Nam về Đăng ký và thống kê hộ

tịch giai đoạn 2017-2024 trên địa bàn huyện Kim Sơn; Công văn số

143/UBND ngày 23/02/2016 về việc triển khai thi hành Luật Hộ tịch; Công

văn số 144/UBND ngày 23/02/2016 về việc trang bị máy tính phục vụ công

tác đăng ký, quản lý hộ tịch; Công văn số 373/UBND ngày 29/4/2016 về việc

thực hiện triển khai ứng dụng cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử; Công văn số

460/UBND ngày 31/5/2016 về việc thực hiện nghiêm túc quy định về đăng ký

lại khai sinh, thay đổi cải chính hộ tịch); Công văn số 269/UBND-PTP ngày

20/3/2017 về việc đẩy mạnh đăng ký, quản lý hộ tịch trên hệ thống phần mềm

hộ tịch; Công văn số 1022/UBND-TP ngày 26/7/2018 về việc triển khai thực

hiện Kế hoạch số 68/KH-UBND ngày 12/7/2018 của UBND tỉnh Ninh Bình

thực hiện Chỉ thị số 03/CT-TTg ngày 19/01/2018 về việc tăng cường công tác

giải quyết việc nuôi con nuôi trong tình hình mới; Công văn số 1532/UBND-

TP ngày 5/8/2019 về việc thực hiện Kế hoạch số 76/KH-UBND ngày

05/6/2019 của UBND tỉnh Ninh Bình về triển khai thực hiện Nghị định số

47

24/2019/NĐ-CP ngày 05/3/2019 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều

của Nghị định số 19/2011/NĐ-CP ngày 21/3/2011/NĐ-CP về quy định chi tiết

một số điều của Luật Nuôi con nuôi.

Các văn bản chỉ đạo, quản lý nhà nước về hộ tịch được UBND huyện

Kim Sơn ban hành là sự cụ thể hóa các quy định của pháp luật và sự chỉ đạo,

hướng dẫn của các cơ quan cấp trên có thẩm quyền, đồng thời chỉ đạo, triển

khai thi hành pháp luật về hộ tịch trên địa bàn huyện theo những điều kiện cụ

thể của địa phương, trong đó chú trọng chỉ đạo sự tuân thủ pháp luật về hộ

tịch, Phòng Tư pháp, Uỷ ban nhân dân các xã, thị trấn trên địa bàn tiếp tục cải

tiến phong cách, lề lối làm việc công chức Phòng tư pháp đảm nhiệm công tác

hộ tịch; công chức tư pháp - hộ tịch cấp xã,…

2.2.2. Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về hộ tịch

Xác định công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về hộ tịch

là khâu đầu tiên triển khai thi hành pháp luật về hộ tịch; đặc biệt, năm 2016 là

năm đầu tiên triển khai thi hành Luật Hộ tịch năm 2014 - Luật đầu tiên về hộ

tịch ở nước ta, vì thế, công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về hộ tịch

được UBND huyện, Phòng Tư pháp và UBND cấp xã triển khai kịp thời,

thường xuyên và liên tục, nhất là trong năm 2016, bằng nhiều hình thức đa

dạng, thiết thực như tổ chức Hội nghị, tọa đàm, qua hệ thống thông tin đại

chúng… Kết quả cụ thể như sau:

Tổ chức hội nghị cấp huyện để quán triệt, triển khai thi hành Luật Hộ

tịch và các văn bản hướng dẫn thi hành đến toàn bộ cán bộ cốt cán của huyện,

lãnh đạo UBND các xã,thị trấn và đội ngũ công chức làm công tác hộ tịch

trên địa bàn.

Tổ chức 12 hội nghị tuyên truyền lồng ghép cho công chức tư pháp - hộ

tịch các xã, thị trấn tại các buổi giao ban công tác tư pháp. UBND các xã, thị

trấn trên địa bàn huyện tổ chức được 120 hội nghị tuyên truyền, phổ biến Luật

48

Hộ tịch và các văn bản hướng dẫn thi hành cho cán bộ, công chức, đoàn viên,

hội viên và người dân trên địa bàn; Đài Truyền thanh huyện, Đài Truyền

thanh các xã, thị trấn phát trên 2.000 lượt tin bài có nội dung liên quan đến

các quy định về đăng ký, quản lý hộ tịch,... Bên cạnh đó, công tác tuyên

truyền, phổ biến pháp luật về hộ tịch còn được các đơn vị thực hiện thông qua

các hình thức như: Tổ chức lồng ghép qua các cuộc họp giao ban với công

chức tư pháp - hộ tịch; lồng ghép với các hoạt động trợ giúp pháp lý; sinh

hoạt câu lạc bộ pháp luật; tủ sách pháp luật; tuyên truyền trên Trang thông tin

điện tử của huyện; biên soạn đề cương; tài liệu hỏi đáp...

Việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật về hộ tịch đã tạo điều kiện cho

công chức tư pháp - hộ tịch nắm vững được pháp luật về hộ tịch, phục vụ

công tác đăng ký, quản lý hộ tịch trên địa bàn, đồng thời giúp cho người dân

biết và hiểu được những quy định liên quan đến công tác quản lý, đăng ký hộ

tịch và tầm quan trọng của công tác hộ tịch.

2.2.3. Tổ chức bộ máy, nhân lực thực hiện công tác quản lý, đăng ký

hộ tịch trên địa bàn huyện

Trong giai đoạn hiện nay, yêu cầu của công tác xây dựng pháp luật, cải

cách hành chính, cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ

nghĩa Việt Nam trong xu hướng hội nhập quốc tế đã, đang và sẽ tác động

mạnh tới toàn bộ tổ chức và hoạt động của ngành Tư pháp, đặc biệt là công

chức tư pháp - hộ tịch cấp xã. Bởi cơ sở là nơi trực tiếp đưa các chủ trương

chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước vào cuộc sống và kiểm nghiệm

tính đúng đắn của các chủ trương, chính sách, pháp luật đó.

Trên địa bàn huyện Kim Sơn, bộ máy và nguồn nhân lực thực hiện

quản lý nhà nước về hộ tịch được bố trí ở cấp huyện và cấp xã:

* Tại UBND huyện: Thực hiện quản lý nhà nước về hộ tịch trong địa

bàn huyện và do Phòng Tư pháp trực tiếp tham mưu thực hiện. Trong 04 năm

49

qua (2016 - 2019) cơ cấu của Phòng Tư pháp tương đối ổn định, luôn duy trì

04 biên chế (02 Nam; 02 Nữ), trong đó có 01 Trưởng phòng, 01 Phó Trưởng

phòng và 02 Chuyên viên. Cả 04 biên chế của Phòng Tư pháp đều có trình độ

Đại học (03 đồng chí đang theo học sau Đại học), trong đó: 02 biến chế tốt

nghiệp Đại học chuyên ngành luật: 02 biên chế tốt nghiệp Đại học chuyên

ngành khác; về trình độ lý luận chính trị, gồm có: 02 biên chế có trình độ

Trung cấp; 02 biên chế có trình độ sơ cấp. Phòng bố trí cho 01 Chuyên viên

có trình độ Đại học luật đảm nhiệm công tác hộ tịch.

* Tại UBND cấp xã:

Ở cấp xã, đội ngũ công chức Tư pháp - Hộ tịch của xã là những người

chịu trách nhiệm chính trong công tác tham mưu, giúp UBND cấp xã thực

hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về hộ tịch, đồng thời cũng là người thực hiện

các nghiệp vụ liên quan đến tất cả các khâu của công tác đăng ký, quản lý hộ

tịch thuộc thẩm quyền cấp xã, vì vậy chất lượng của đội ngũ này ảnh hưởng

trực tiếp đến chất lượng công tác quản lý nhà nước về hộ tịch trên địa bàn các

xã, thị trấn. Chính vì thế tiêu chuẩn của công chức tư pháp - hộ tịch đảm

nhiệm công tác hộ tịch đã được luật hóa [43, tr.27], đó là: Có trình độ từ

Trung cấp luật trở lên và đã được bồi dưỡng nghiệp vụ hộ tịch; có chữ viết rõ

ràng và trình độ tin học phù hợp theo yêu cầu công việc.

Để triển khai thi hành Luật Hộ tịch năm 2014, đến năm 2016 tất cả các

xã, thị trấn trên địa bàn huyện Kim Sơn đều đã được bố trí được công chức tư

pháp - hộ tịch; việc bố trí công chức tư pháp - hộ tịch được thực hiện theo

Nghị định số 92/2009/NĐ-CP ngày 22/10/2009 của Chính phủ về chức danh,

số lượng; một số chính sách, chế độ đối với cán bộ, công chức ở xã, phường,

thị trấn và những người hoạt động không chuyên trách cấp xã và Quyết định

số 09/2010/QĐ-UBND ngày 18/5/2010 của UBND tỉnh Ninh Bình về ban

50

hành quy định về bố trí chức danh cán bộ, công chức cấp xã theo quy định tại

Nghị định số 92/2009/NĐ-CP ngày 22/10/2009 của Chính phủ.

Theo thống kê của Phòng Tư pháp và Phòng Nội vụ huyện Kim Sơn,

trình độ lý luận chính trị, trình độ chuyên môn và trình độ tin học của đội ngũ

công chức tư pháp - hộ tịch trên địa bàn huyện Kim Sơm tính đến tháng

12/2019 như sau:

Biểu đồ 2.1: Trình độ lý luận chính trị của công chức tƣ pháp - hộ tịch các xã, thị trấn huyện Kim Sơn, tháng 12/2019

Nguồn: Phụ lục 1

Biểu đồ 2.2: Trình độ đào tạo công chức tƣ pháp - hộ tịch các xã, thị trấn huyện Kim Sơn, tháng 12/2019

51

Nguồn: Phụ lục 1

Biểu đồ 2.3: Trình độ tin học công chức tƣ pháp - hộ tịch các xã, thị trấn huyện Kim Sơn, tháng 12/2019

Nguồn: Phụ lục 1

Theo số liệu thống kê (Phụ lục số 01 và các biểu đồ 2.1; 2.2; 2.3); tính

đến tháng 12/2019 trên địa bàn huyện Kim Sơn có 48 công chức tư pháp - hộ

tịch (trong đó xã có 2 biên chế công chức tư pháp - hộ tịch trở lên là 18 xã).

Về trình độ chuyên môn: Trình độ Đại học luật 25 người, Trung cấp luật 10

người; trình độ Đại học, Trung cấp ngành khác 13 người. Có 18 xã bố trí 01

công chức tư pháp - hộ tịch đảm nhiệm chuyên trách công tác hộ tịch; 09 xã,

thị trấn công chức tư pháp - hộ tịch làm công tác hộ tịch đồng thời kiêm

nhiệm tham mưu thực hiện các công việc khác thuộc lĩnh vực tư pháp. Hầu

hết công chức đảm nhận công tác hộ tịch tại các xã, thị trấn đều có trình độ

chuyên môn luật hoặc có thâm niên công tác trong ngành ít nhất là 5 năm trở

lên; công tác hộ tịch phát sinh tại các xã, thị trấn đều được công chức tư pháp

- hộ tịch tiếp nhận và tham mưu giải quyết kịp thời, đúng quy định, cơ bản

đáp ứng được nhu cầu của người dân (Phụ lục số 01).

Để bồi dưỡng nghiệp vụ cho đội ngũ công chức làm công tác hộ tịch

cấp huyện, cấp xã, hằng năm, UBND huyện Kim Sơn cử công chức tham gia

đầy đủ, nghiêm túc các lớp tập huấn về hộ tịch do cấp trên tổ chức, đồng thời

tổ chức tập huấn nghiệp vụ hộ tịch cho công chức làm công tác hộ tịch trên

52

địa bàn: Năm 2016, tổ chức 01 lớp tập huấn phần mềm hộ tịch; năm 2018 tổ

chức 02 lớp tập huấn về nghiệp vụ tư pháp, trong đó có chuyên đề hướng dẫn

về nghiệp vụ hộ tịch. Bên cạnh đó theo quy định của Luật Hộ tịch năm 2014

các công chức làm công tác hộ tịch phải được bồi dưỡng nghiệp vụ, năm

2019, UBND huyện đã báo cáo với Sở Tư pháp tỉnh Ninh Bình tổ chức liên

kết với Trường Trung cấp Luật Thái Nguyên mở lớp bồi dưỡng nghiệp vụ hộ

tịch cho công chức làm công tác hộ tịch UBND cấp huyện và UBND cấp xã,

đảm bảo 100% công chức làm công tác hộ tịch trên địa bàn huyện hoàn thành

Chương trình bồi dưỡng nghiệp vụ hộ tịch của Bộ Tư pháp trước ngày

01/01/2020 và được cấp chứng chỉ nghiệp vụ hộ tịch theo quy định.

2.2.4. Cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ công tác quản lý, đăng ký

hộ tịch trên địa bàn huyện

Xác định điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ cho công tác

có ảnh hưởng quan trọng đến hoạt động quản lý nhà nước về hộ tịch. UBND

huyện Kim Sơn và UBND các xã, thị trấn trên địa bàn luôn quan tâm và bố trí

kinh phí để đảm bảo cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ công tác quản lý

nhà nước về hộ tịch.

Ngay từ đầu năm 2016, công tác đăng ký hộ tịch đều được UBND

huyện và UBND các xã, thị trấn thực hiện tại Bộ phận tiếp nhận và trả kết

quả; tại đây cơ bản đã bố trí đầy đủ cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ giải

quyết các TTHC nói chung và đăng ký hộ tịch nói riêng, cụ thể:

Diện tích phòng làm việc của Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả của huyện: 94m2; có bố trí chỗ ngồi chờ công dân đúng quy định; trang thiết bị

gồm có: 11 bộ máy vi tính, 06 máy in, 01 máy photocopy, 01 máy scan, có hệ

thống mạng, hệ thống mã vạch, 02 màn hình cảm ứng, 02 máy tính quản trị hệ

thống màn hình cảm ứng và hệ thống máy chủ, 01 máy điện thoại cố định, 07

bàn làm việc, 05 quạt máy, 02 điều hòa, 05 tủ đựng tài liệu, 15 ghế ngồi chờ

53

giải quyết công việc cho tổ chức, công dân; hệ thống xếp hàng tự động, hệ

thống camera; có sổ, bố trí hòm thư, số điện thoại đường dây nóng để công

dân góp ý kiến đối với hoạt động của Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả.

- 100% các xã, thị trấn trên địa bàn đã bố trí diện tích Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả từ 40m2 trở lên, có bàn ghế đảm bảo theo quy định; có đầy

đủ máy tính kết nối internet, máy in. Tuy nhiên nhiều xã chưa bố trí được máy

fax, máy scan, máy photocopy.

Triển khai thực hiện Kế hoạch số 05/KH-STP ngày 09/3/2016 tỉnh

Ninh Bình về triển khai ứng dụng Phần mềm đăng ký và quản lý hộ tịch trên

địa bàn tỉnh Ninh Bình, UBND huyện Kim Sơn đã chỉ đạo Phòng Tư pháp và

UBND các xã tổ chức rà soát và đầu tư, trang bị các phương tiện, thiết bị máy

móc cần thiết để kết nối cơ sở dữ liệu hộ tịch. Từ năm 2016, Phòng Tư pháp

và UBND của 27/27 xã, thị trấn đã triển khai sử dụng Phần mềm hộ tịch để

thực hiện đăng ký, quản lý hộ tịch. Hiện nay 100% cơ quan đăng ký hộ tịch

trên địa bàn huyện đều được trang bị máy vi tính và kết nối internet để sử

dụng cho việc tiếp nhận và đăng ký hộ tịch. Do vậy, việc đăng ký và quản lý

hộ tịch ngày càng ổn định, chính xác, hạn chế được sai sót trong các giấy tờ

hộ tịch của người dân so với trước đây, việc thống kê báo cáo dễ dàng, chính

xác, giúp giảm tải công việc cho cán bộ chuyên môn, góp phần giải quyết

nhanh gọn các thủ tục hành chính, giảm bớt thời gian, tiền bạc của nhân dân,

nâng cao hiệu quả công tác cải cách TTHC.

Ngoài ra, việc trang bị các loại tủ để lưu trữ các loại sổ, hồ sơ về hộ

tịch cũng được đầu tư thoả đáng, góp phần thực hiện quản lý nhà nước về hộ

tịch ngày càng hoàn thiện.

2.2.5. Thực hiện thủ tục hành chính đăng ký hộ tịch trên địa bàn

huyện

54

Từ khi Luật Hộ tịch năm 2014 có hiệu lực đến cuối năm 2019, UBND

huyện Kim Sơn đã lãnh đạo, chỉ đạo việc đăng ký và quản lý hộ tịch tại cấp

xã và trực tiếp thực hiện việc đăng ký, quản lý hộ tịch theo thẩm quyền đạt

được hiệu quả, cơ bản đảm bảo được yêu cầu quản lý nhà nước về hộ tịch trên

địa bàn. Theo báo cáo tổng kết công tác tư pháp các năm từ năm 2016 đến

năm 2019, kết quả thực hiện đăng ký hộ tịch trên địa bàn huyện Kim Sơn cụ

thể được trình bày cụ thể ở Phụ lục 3.

Nhìn vào phụ lục về các việc đăng ký hộ tịch trên địa bàn, có thể thấy,

trong giai đoạn từ 2016 đến hết năm 2019, huyện Kim Sơn đã giải quyết

lượng công việc khá lớn, nhiều đầu việc, thể hiện sự quan tâm chỉ đạo đúng

mức của các cơ quan có thẩm quyền. Là một huyện có dân số đông, tỷ lệ

người dân có Đạo Công giáo cao (hơn 47%), có địa hình ven biển nên có một

lượng lớn người dân lao động ở vùng đầm, bãi, việc tiếp cận các thông tin

chính thống của chính quyền gặp nhiều khó khăn, cũng ảnh hưởng không

thuận lợi đến công tác quản lý, đăng ký hộ tịch trên địa bàn. Mặc dù vậy, với

sự nỗ lực của Đảng bộ và chính quyền, thời gian qua việc thực hiện quản lý

nhà nước về hộ tịch trên địa bàn huyện đã đạt được những kết quả đáng kể.

Tình trạng đăng ký hộ tịch quá hạn cũng có những chuyển biến nhất

định (Cụ thể được phân tích tại các biểu đồ 2.4 và 2.5).

55

Biểu đồ 2.4. Tỷ lệ đăng ký khai sinh quá hạn theo từng năm

(Từ năm 2016 - 2019)

Nguồn: Phụ lục số 03

Biểu đồ 2.5. Tỷ lệ đăng ký khai tử quá hạn theo từng năm

(Từ năm 2016 - 2019)

Nguồn: Phụ lục số 03

Việc đăng ký khai sinh cho trẻ em mới sinh còn được UBND các xã, thị

trấn trên địa bàn huyện thực hiện liên thông các TTHC theo Thông tư liên tịch

số 05/2015/TTLT/BTP-BCA-BYT ngày 15/5/2015 của Bộ trưởng Bộ Tư

pháp, Bộ trưởng Bộ Công an, Bộ trưởng Bộ Y tế về hướng dẫn thực hiện liên

thông các TTHC về đăng ký khai sinh, đăng ký thường trú, cấp thẻ bảo hiểm

y tế cho trẻ em dưới 6 tuổi, hướng dẫn thực hiện liên thông các TTHC về

đăng khai sinh, đăng ký thường trú, cấp thẻ bảo hiểm y tế cho trẻ em dưới 6

tuổi đã tạo điều kiện thuận lợi, tiết kiệm được chi phí và thời gian đi lại của

công dân, đã gắn quyền lợi của trẻ em với trách nhiệm của gia đình trong việc

đăng ký khai sinh cho trẻ em để khắc phục tình trạng đăng ký khai sinh quá

hạn. Trong 04 năm qua, 27/27 xã, thị trấn đã triển khai thực hiện theo quy

trình liên thông 02 TTHC: Đăng ký khai sinh, đăng ký thường trú, cấp thẻ

56

Bảo hiểm Y tế cho trẻ dưới 6 tuổi. Kết quả tiếp nhận và giải quyết hồ sơ liên

thông trên địa bàn huyện từ 01/01/2016 đến hết năm 2019 là 18.431 hồ sơ.

Việc triển khai thực hiện đăng ký và quản lý hộ tịch trên hệ thống phần

mềm của Bộ Tư pháp đảm bảo ngày càng ổn định, chính xác; hạn chế được

sai sót trong các giấy tờ hộ tịch của người dân so với trước đây, việc thống kê

báo cáo dễ dàng hơn, giúp giảm tải công việc cho công chức chuyên môn, góp

phần giải quyết nhanh gọn các TTHC, giảm bớt thời gian và tiền bạc của

người dân, nâng cao hiệu quả công tác cải cách TTHC.

Như vậy, có thể thấy sau 04 năm triển khai thực hiện Luật Hộ tịch và

các văn bản hướng dẫn thi hành, công tác đăng ký hộ tịch trên địa bàn huyện

cơ bản đã đi vào nề nếp và có nhiều chuyển biến tích cực; giải quyết kịp thời

các yêu cầu về hộ tịch cho tổ chức, công dân, do đó phần nào đã tạo thuận lợi

cho người dân, tạo sự yên tâm cho cơ quan, tổ chức khi tiếp nhận, giải quyết

TTHC. Việc tiếp nhận hồ sơ và trả kết quả hộ tịch tại cấp huyện, cấp xã được

thực hiện theo cơ chế “một cửa”, TTHC được niêm yết công khai về trình tự,

thủ tục, hồ sơ, mức thu lệ phí tại bộ phận tiếp nhận và trả kết quả theo đúng

quy định. Công chức được giao nhiệm vụ trực tiếp giải quyết TTHC đều nêu

cao tinh thần trách nhiệm, có thái độ hòa nhã khi thi hành công vụ, không

sách nhiễu, gây phiền hà đối với các tổ chức, công dân khi đến giao dịch, liên

hệ công việc.

2.2.6. Lưu trữ sổ, hồ sơ, giấy tờ về hộ tịch trên địa bàn huyện

Dữ liệu về hộ tịch trên địa bàn huyện Kim Sơn từ năm 2016 trở lại đây

được quản lý và lưu trữ bằng 02 hình thức, bao gồm: Quản lý và lưu trữ ở các

loại sổ hộ tịch và hồ sơ hộ tịch được lưu trữ bằng giấy; quản lý và lưu trữ trên

phần mềm hộ tịch do Bộ Tư pháp cung cấp.

Trong những năm gần đây, do nhận thức được tầm quan trọng của việc

lưu trữ sổ, hồ sơ hộ tịch (sổ và hồ sơ hộ tịch là tài liệu được lưu trữ vĩnh

57

viễn) nên công tác lưu trữ hệ thống sổ hộ tịch, hồ sơ hộ tịch của các cơ quan

đăng ký hộ tịch trên địa bàn huyện ngày càng được quan tâm và dần đi vào nề

nếp; cơ bản các đơn vị đã thực hiện mở, khóa sổ hộ tịch và lưu trữ, bảo quản

đầy đủ; hồ sơ đăng ký lưu trữ tương đối tốt, theo đúng quy định. UBND một

số xã, thị trấn đã đã bố trí được kho lưu trữ riêng để lưu trữ hồ sơ hộ tịch.

Tuy nhiên trong công tác lưu trữ hồ sơ, sổ đăng ký hộ tịch còn một số

hạn chế, nhất là sổ, hồ sơ hộ tịch đã hình thành từ trước năm 2016 thì chỉ thực

hiện việc lưu trữ thô sơ ở dạng sổ và hồ sơ hộ tịch bằng giấy nên dữ liệu hộ

tịch còn xảy ra tình trạng nát, hư hỏng; nhiều sự kiện hộ tịch đã được đăng ký

trong những năm trước đây (trước năm 1998) hiện không còn lưu được sổ hộ

tịch, hồ sơ hộ tịch; việc bàn giao hồ sơ, tài liệu khi chuyển giao công chức tư

pháp - hộ tịch có địa phương không được thực hiện nghiêm túc, chính vì vậy

nên việc đùn đẩy trách nhiệm trong việc lưu trữ sổ, giấy tờ hộ tịch vẫn xảy ra;

sự quan tâm của cấp uỷ chính quyền đôi khi chưa được sâu sát nên việc đầu tư

cơ sở vật chất để quản lý sổ hộ tịch, hồ sơ hộ tịch còn lỏng lẻo; nhiều đơn vị

chưa bố trí được kho riêng để lưu trữ sổ, hồ sơ hộ tịch bằng giấy dẫn đến tình

trạng thông tin trong sổ hộ tịch có sự không thống nhất với giấy tờ hộ tịch làm

khó khăn trong việc quản lý nhà nước về lĩnh vực hộ tịch.

Bên cạnh đó, những thay đổi về thông tin hộ tịch do các quyết định, bản

án của cơ quan có thẩm quyền ban hành không thông báo kịp thời đến nơi

công dân cư trú, nên thông tin trong sổ và hồ sơ hộ tịch bị sai lệch, ảnh hưởng

đến hoạt động quản lý nhà nước về hộ tịch, đôi khi việc cung cấp thông tin về

hộ tịch của cơ quan đăng ký hộ tịch sai quy định do không cập nhật kịp thời

thông tin từ các bản án, quyết định của cơ quan có thẩm quyền ban hành.

58

2.2.7. Thanh tra, kiểm tra đăng ký, quản lý hộ tịch trên địa bàn

huyện

Đây là một nội dung quan trọng đã được cấp uỷ, chính quyền từ huyện

đến các xã, thị trấn quan tâm chỉ đạo, tổ chức thực hiện việc thanh tra, kiểm

tra đột xuất và theo định kỳ đối với UBND cấp xã nhằm phát hiện những

thiếu sót trong quản lý nhà nước về hộ tịch ở xã, thị trấn, từ đó để nâng cao

vai trò trách nhiệm của tập thể, cá nhân người đứng đầu ở chính quyền các

xã, thị trấn nói chung và của công chức tư pháp - hộ tịch nói riêng trong thực

hiện đăng ký và quản lý hộ tịch thuộc thẩm quyền,

Ngay từ đầu năm 2016, để triển khai thi hành Luật Hộ tịch năm 2014

trên địa bàn theo đúng quy định, UBND huyện Kim Sơn đã chỉ đạo Phòng tư

pháp huyện Kim Sơn thực hiện việc kiểm tra công tác triển khai thi hành pháp

luật về hộ tịch trên địa bàn. Phòng Tư pháp huyện đã xây dựng và triển khai

thực hiện Kế hoạch số 03/KH-PTP ngày 21/3/2016 về việc kiểm tra công tác

triển khai thi hành Luật Hộ tịch trên địa bàn, kết quả kiểm tra cho thấy công

tác thi hành pháp luật trong lĩnh vực hộ tịch đã được UBND các xã, thị trấn

quan tâm chỉ đạo và triển khai tổ chức thực hiện theo đúng quy định.

Bên cạnh đó, UBND huyện đã chỉ đạo Phòng Tư pháp huyện trong việc

xây dựng kế hoạch kiểm tra chuyên môn, nghiệp vụ công tác tư pháp thì xác

định kiểm tra việc thi hành pháp luật về hộ tịch là một nội dung trọng tâm.

Trong 4 năm qua Phòng Tư pháp đã kiểm tra trên 40 lượt UBND các xã, thị

trấn trên địa bàn, trong quá trình kiểm tra hồ sơ thực tế đã chỉ ra những sai sót

trong việc thực hiện các quy định pháp luật về hộ tịch, đưa ra những hướng

dẫn về việc áp dụng pháp luật cụ thể đối với từng hồ sơ của từng địa phương

để rút kinh nghiệm và góp phần khắc phục những hạn chế, giải đáp những

thắc mắc cụ thể của các địa phương trong việc thi hành pháp luật trong lĩnh

vực hộ tịch.

59

Song song với việc kiểm tra công tác thi hành pháp luật về hộ tịch đối

với cấp xã, UBND huyện Kim Sơn cũng chỉ đạo Phòng Tư pháp, UBND các

xã thường xuyên tự kiểm tra, rà soát hoàn chỉnh hồ sơ, tài liệu về quản lý,

đang ký hộ tịch; chuẩn bị chu đáo các nội dung, điều kiện để làm việc với các

Đoàn thanh tra, kiểm tra về công tác thi hành pháp luật về hộ tịch trên địa

bàn. Trong 04 năm qua, UBND huyện đã đón 01 Đoàn kiểm tra, UBND cấp

xã đã đón 02 Đoàn thanh tra của Sở Tư pháp tỉnh Ninh Bình.

Qua công tác kiểm tra, thanh tra chưa phát hiện trường hợp nào bị thu

hồi, hủy bỏ giấy tờ hộ tịch do UBND huyện và UBND cấp xã cấp trái quy

định của pháp luật. Nhưng vẫn còn những sai phạm trong việc đăng ký khai

sinh, khai tử, kết hôn, thay đổi, cải chính hộ tịch; sai phạm chủ yếu là về hồ

sơ, trình tự, thủ tục và cách ghi chép, khóa sổ hộ tịch, sửa chữa trong sổ hộ

tịch không đúng quy định, cụ thể một số sai phạm phổ biến như sau:

Trong đăng ký khai sinh:

Khi tiếp nhận Giấy chứng sinh để làm thủ tục Đăng ký khai sinh, công

chức tư pháp - hộ tịch đã nhận Giấy chứng sinh không hợp lệ, như: Giấy

chứng sinh không ghi ngày, tháng, năm cấp; không có chữ ký của người đỡ

đẻ; lưu bản phô tô Giấy chứng sinh…Có sự sai lệch thông tin trong giấy

chứng sinh và trong sổ đăng ký khai sinh.

Về đăng ký lại khai sinh: Hồ sơ đăng ký lại việc sinh còn sơ sài; xác

định thông tin để đăng ký lại khai sinh chưa chính xác.

Trong trong đăng ký kết hôn: Công chức tư pháp - hộ tịch còn có sai

sót trong việc tiếp nhận tờ khai đăng ký kết hôn, như tờ khai ghi chưa hết nội

dung, ghi không đúng hướng dẫn, không ghi ngày, tháng, năm; lưu trữ hồ sơ

(thiếu thành phần hồ sơ: Tờ khai đăng ký kết hôn, quyết định ly hôn, giấy xác

nhận tình trạng hôn nhân,…); việc ghi chép trong sổ đăng ký kết hôn không

đúng quy định, như: Thiếu thông tin (chữ ký người thực hiện đăng ký kết hôn,

60

ngày tháng xác lập quan hệ hôn nhân,…); không thống nhất giữa thông tin

trong tờ khai đăng ký kết hôn và sổ đăng ký kết hôn; sửa chữa trong sổ đăng

ký kết hôn không đúng quy định. Việc xác nhận tình trạng hôn nhân để đăng

ký kết hôn ghi không đúng nội dung và mục đích cấp Giấy xác nhận tình

trạng hôn nhân theo hướng dẫn tại Thông tư số 15/2015/TT-BTP ngày

16/11/2015 của Bộ trưởng Bộ tư pháp.

Trong đăng ký khai tử: Một số hồ sơ đăng ký khai tử chưa đảm bảo

theo quy định, không có giấy tờ chứng minh cho việc chết, hoặc giấy chứng

minh không đúng quy định (chết ở nơi khác nhưng địa phương cấp giấy báo

tử, chết vì nguyên nhân khác,….) không đầy đủ thông tin trong sổ đăng ký

khai tử (chữ ký người đi đăng ký khai tử, ngày, tháng, năm sinh của người

chết,.. Đăng ký lại khai tử hồ sơ còn sơ sài, chưa hợp lệ,….

Thay đổi, cải chính, bổ sung hộ tịch: Một số xã còn nhầm lẫn giữa thay

đổi và cải chính hộ tịch; một số hồ sơ không lưu hoặc không lưu đủ thành

phần,…, hồ sơ lưu là bản chụp, công chức tư pháp - hộ tịch chưa ký vào văn

bản việc đã đối chiếu với bản chính hoặc chứng thực; một số trường hợp cải

chính hộ tịch không thuộc thẩm quyền của UBND cấp xã (cải chính hộ tịch

cho công dân Việt Nam trên 14 tuổi),…

2.2.8. Xử phạt vi phạm hành chính về hộ tịch trên địa bàn huyện

Xử phạt vi phạm hành chính là một trong những biện pháp hữu hiệu để

quản lý nhà nước nói chung và quản lý nhà nước về hộ tịch nói riêng, nhằm

răn đe người vi phạm, đảm bảo kỷ cương, pháp luật.

Việc xử phạm vi phạm hành chính về hộ tịch trên địa bàn huyện (từ

năm 2016 - 2019) được thực hiện theo quy định của Nghị định số

110/2013/NĐ-CP ngày 24/9/2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm

hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp, hôn nhân và gia

đình, thi hành án dân sự, phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã. Trong 4 năm qua

61

trên địa bàn huyện đã phát hiện 113 vụ vi phạm hành chính trong lĩnh vực hộ

tịch, trong đó hành vi vi phạm phổ biến là đăng ký khai sinh quá hạn, sửa

chữa, tẩy xóa giấy tờ hộ tịch… Nguyên nhân dẫn tới các hành vi VPHC do

nhận thức của người dân còn hạn chế, ý thức chấp hành pháp luật chưa cao,

nhiều người không ý thức được hành vi tẩy xóa giấy tờ hộ tịch là vi phạm

pháp luật (chủ yếu là tự sửa chữa thông tin trong giấy khai sinh); những

trường hợp đăng ký khai sinh quá hạn là do người dân chưa chủ động đi đăng

ký khai sinh kịp thời, khi đi đăng ký khai sinh chưa đảm bảo giấy tờ theo quy

định hoặc sinh con trước thời kỳ hôn nhân và sau khi đăng ký kết hôn mới

khai sinh cho con dẫn đến việc đăng ký khai sinh quá hạn.

Chủ tịch UBND các xã, thị trấn đã ban hành 133 quyết định xử phạt vi

phạm hành chính (phạt cảnh cáo 131 vụ, phạt tiền 02 vụ). Lý do áp dụng hình

thức phạt cảnh cáo vì hầu hết các đối tượng vi phạm lần đầu, tính chất của

hành vi không phức tạp, nguy hiểm (đăng ký khai sinh quá hạn). Các cá nhân

có hành vi vi phạm sau khi nhận quyết định xử phạt đều có ý thức chấp hành,

không có khiếu nại, khởi kiện đối với các quyết định xử phạt vi phạm hành

chính đã được ban hành.

2.2.9. Giải quyết phản ánh, kiến nghị, khiếu nại, tố cáo liên quan đến

quản lý nhà nước về hộ tịch trên địa bàn

Xác định được tầm quan trọng của giải quyết phản ánh, kiến nghị,

khiếu nại, tố cáo liên quan đến quản lý nhà nước về hộ tich trên địa bàn;

UBND huyện Kim Sơn, UBND các xã, thị trấn trên địa bàn luôn triển khai

thực hiện nghiêm túc việc tiếp công dân và giải quyết các phản ánh, kiến

nghị, khiếu nại, tố cáo của công dân. Tại Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả của

huyện và UBND các xã, thị trấn đều bố trí hòm thư góp ý, niêm yết số điện

thoại đường dây nóng, địa chỉ tiếp nhận kiến nghị, phán ảnh về TTHC nói

chung và TTHC về hộ tịch nói riêng,… Trong 04 năm qua, UBND huyện

62

Kim Sơn và UBND các xã, thị trấn trên địa bàn chưa nhận được kiến nghị,

phán ánh bằng văn bản của của công dân liên quan đến quản lý nhà nước về

hộ tịch; những kiến nghị, phản ánh, thắc mắc trực tiếp của công dân đều được

công chức làm công tác hộ tịch, cán bộ, công chức có liên quan giải đáp,

hướng dẫn kịp thời và thỏa đáng theo đúng quy định. Do đó không phát sinh

việc khiếu nại, tố cáo liên quan đến quản lý nhà nước về hộ tịch trên địa bàn.

2.3. Đánh giá thực trạng công tác quản lý, đăng ký hộ tịch trên địa

bàn huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình, giai đoạn 2016 - 2019

2.3.1. Kết quả đạt được

Luật Hộ tịch năm 2014 chính thức có hiệu lực từ 01/01/2016 đã tạo một

bước ngoặt lớn trong việc quản lý, đăng ký hộ tịch ở nước ta nói chung và

trên địa bàn huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình nói riêng; đây là cơ sở pháp lý

đầy đủ, thống nhất, có hiệu lực cao cho công tác quản lý nhà nước về hộ tịch.

Luật Hộ tịch năm 2014 và các văn bản hướng dẫn thi hành (Nghị định số

123/2015/NĐ-CP ngày 15/11/2015 của Chính phủ; Thông tư số 15/2015/TT-

BTP ngày 16/11/2015,..) đã tạo bước chuyển biến tích cực, tháo gỡ nhiều khó

khăn, vướng mắc trong đăng ký và quản lý hộ tịch trên địa bàn. Cùng với sự

quan tâm chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền từ huyện đến xã, sự nỗ lực, cố gắng

của đội ngũ công chức làm hộ tịch và ý thức pháp luật và của người dân trong

việc đăng ký hộ tịch, công tác quản lý nhà nước về hộ tịch trên địa bàn huyện

Kim Sơn, đã đạt được những kết quả tích cực, có thể điểm qua một số kết quả

tiêu biểu như sau:

Thứ nhất, công tác quản lý nhà nước về hộ tịch đã được chính quyền từ

huyện đến các xã quan tâm, chỉ đạo chỉ đạo và triển khai thực hiện theo đúng

quy định của pháp luật.

Công tác đăng ký, quản lý hộ tịch có vai trò và vị trí quan trọng trong

công tác quản lý nhà nước trên địa bàn; giúp chính quyền địa phương thực

63

hiện tốt chức năng quản lý nhà nước về tình hình biến động dân cư, dân số

của địa phương, là cơ sở để qua đó đề ra các chương trình, kế hoạch về xây

dựng và phát triển kinh tế, xã hội của địa phương sát thực và phù hợp. Công

tác quản lý nhà nước về hộ tịch còn làm cơ sở, điều kiện cho các hoạt động

quản lý nhà nước khác, như công tác quản lý hộ khẩu của ngành công an;

công tác y tế, dân số và kế hoạch hóa gia đình của ngành y tế; là cơ sở để

hoạch định và thực hiện quyền học tập của trẻ em khi đủ tuổi đến trường; là

căn cứ pháp lý để công dân thực hiện các quyền về lao động, học tập, và các

quyền về chính trị, xã hội khác của mình. Chính vì thế quản lý nhà nước về

hộ tịch luôn được chính quyền địa phương quan tâm tạo điều kiện thực hiện;

hoạt động đăng ký và quản lý hộ tịch của các địa phương trong những năm

qua, đã trở nên nề nếp.

Các quy định của pháp luật về hộ tịch đã được tuân thủ chấp hành thực

hiện nghiêm chỉnh với tinh thần cải cách TTHC, vì Nhân dân phục vụ; cơ bản

các yêu cầu về đăng ký hộ tịch đã được giải quyết đầy đủ, kịp thời và đúng

quy định của pháp luật. Bên cạnh đó việc ứng dụng công nghệ thông tin để

đăng ký và quản lý hộ tịch đã làm cho việc đăng ký và quản lý hộ tịch ngày

càng ổn định, chính xác, hạn chế được sai sót trong các giấy tờ hộ tịch của

người dân so với trước đây, góp phần giải quyết nhanh gọn các thủ tục, giảm

bớt thời gian và kinh phí của người dân.

Việc chuyển giao thẩm quyền đăng ký hộ tịch có yếu tố nước ngoài về

UBND huyện cũng là thực hiện một bước căn bản về cải cách TTHC trong

lĩnh vực hộ tịch, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho người dân, giúp người dân

tiết kiệm thời gian và thuận lợi trong thực hiện các TTHC.

Thứ hai, công tác tuyên truyền pháp luật về hộ tịch đã được quan tâm.

Để thực hiện tốt công tác quản lý nhà nước về hộ tịch, trước hết phải

làm cho cán bộ và nhân dân hiểu biết về mục đích, ý nghĩa của công tác quản

64

lý hộ tịch; quyền và nghĩa vụ công dân về đăng ký hộ tịch. Vì vậy, UBND

huyện đã tổ chức hội nghị triển khai và tổ chức các lớp tập huấn Luật Hộ tịch

năm 2014 và các văn bản hướng dẫn thi hành cho toàn bộ cán bộ cốt cán cấp

huyện, cấp xã và đội ngũ công chức làm công tác tư pháp trên địa bàn. Với

việc triển khai đa dạng nội dung và hình thức tuyên truyền pháp luật về hộ

tịch, đa số người dân đã nhận thức được việc đăng ký hộ tịch vừa là quyền,

vừa là nghĩa vụ của mình nên đã tự giác đi đăng ký theo quy định.

Thứ ba, cơ sở vật chất, phương tiện làm việc phục vụ công tác quản lý

nhà nước về hộ tịch đã được quan tâm đầu tư.

Trong thời gian vừa qua, cùng với việc đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng

theo chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới, cơ sở vật chất,

trang thiết bi phục vụ cho việc đăng ký, quản hộ tịch đã được quan tâm đầu tư

đáng kể, nhất là cơ sở vật chất để phục vụ người dân khi đến thực hiện TTHC

về hộ tịch (phòng, bàn ghế đón tiếp; khu vực công khai TTHC,…); trang thiết

bị đáp ứng yêu cầu ứng dụng công nghệ thông tin để đăng ký, quản lý hộ tịch

(máy tính kết nối internet, máy in; bản quyền phần mềm,..). Với sự đầu tư cơ

sở vật chất, trang thiết bị phục vụ quản lý hộ tịch đã góp phần nâng cao chất

lượng, hiệu quả quản lý nhà nước về hộ tịch trên địa bàn.

Thứ tư, công tác thanh tra, kiểm tra về quản lý hộ tịch được thực hiện

đúng theo quy định.

Công tác thanh tra, kiểm tra được coi là nhiệm vụ thường xuyên có tính

chất quyết định, do vậy hàng năm Phòng Tư pháp huyện với chức năng,

nhiệm vụ được giao đã tiến hành xây dựng kế hoạch tổ chức kiểm tra định kỳ

và đột xuất nhằm phát hiện và giải quyết những khó khăn, vướng mắc trong

quản lý hộ tịch ở UBND các xã, thị trấn; đồng thời cũng chấn chỉnh những sai

sót, vi phạm trong quá trình quản lý nhà nước về hộ tịch để kịp thời xử lý,

65

khắc phục, đảm bảo hiệu lực hiệu quả quản lý nhà nước trên địa bàn cũng như

quyền lợi, nhu cầu chính đáng của người dân.

Thứ năm, công tác lưu trữ, thống kê, báo cáo thực hiện theo quy định.

Các loại sổ, biểu mẫu dùng để đăng ký hộ tịch được sử dụng đúng mẫu

Bộ Tư pháp ban hành và được lưu trữ theo quy định; chữ viết trong sổ hộ tịch

rõ ràng, dễ đọc. Do sử dụng phần mềm của Bộ tư pháp để thực hiện đăng ký

và quản lý hộ tịch, vì thế công tác thống kê, báo cáo về hộ tịch (cả định kỳ và

đột xuất) của UBND huyện và UBND các xã, thị trấn trên địa bàn đều được

thực hiện kịp thời, nghiêm túc, đúng biểu mẫu, đúng quy định của pháp luật.

2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân

*Hạn chế:

Bên cạnh những kết quả đã đạt được, hiện tại công tác quản lý, đăng ký

hộ tịch vẫn còn những hạn chế, khó khăn, ảnh hưởng không nhỏ đến chất

lượng công tác quản lý nhà nước về hộ tịch, cụ thể như sau:

Thứ nhất, vẫn còn sai sót, vi phạm về đăng ký và quản lý nhà nước về

hộ tịch.

Sai sót, vi phạm trong hoạt động đăng ký và quản lý nhà nước về hộ

tịch diễn ra trong các sự kiện hộ tịch từ đăng ký khai sinh, đăng ký khai tử,

đăng ký kết hôn, cải chính hộ tịch... ở các mức độ và hình thức khác nhau;

trong đó phố biến là những sai sót, vi phạm như:

Tiến hành đăng ký hộ tịch khi thiếu căn cứ pháp lý và các điều kiện cần

và đủ theo quy định của pháp luật, do sự nể nang, hoặc thiếu hiểu biết của

công chức tư pháp - hộ tịch, như: Đăng ký khai sinh thiếu giấy chứng sinh

(hoặc hồ sơ chỉ lưu bản sao giấy chứng sinh); đăng ký lại khai sinh, khai tử,

kết hôn nhưng không có hồ sơ, giấy tờ đủ căn cứ pháp lý, …cá biệt có trường

hợp không có hồ sơ theo quy định. Chính vì thế, trong một số trường hợp, giá

66

trí pháp lý của giấy tờ hộ tịch không được các cơ quan, tổ chức tin cậy; nhất

là các giấy tờ hộ tịch do UBND cấp xã cấp.

Sai thẩm quyền trong việc thực hiện đăng ký hộ tịch, theo nguyên tắc

đăng ký hộ tịch "Mỗi sự kiện hộ tịch chỉ được đăng ký tại một cơ quan đăng

ký hộ tịch có thẩm quyền”. Tuy nhiên trong thực tế, do công chức hộ tịch

không kiểm tra kỹ thông tin về nơi cứ trú của công dân nên thực hiện đăng ký

hộ tịch không đúng thẩm quyền; mặt khác, có những trường hợp cơ quan

đăng ký hộ tịch cho công dân mà không phải nơi thường trú của công dân

nhưng không thông báo về nơi thường trú của công dân sự kiện hộ tịch mà

mình đã đăng ký nên khi công dân đến nơi thường trú đăng ký hộ tịch vẫn

được thực hiện (hai nơi đều đăng ký sự kiện hộ tịch).

Sai sót trong ghi chép sổ đăng ký hộ tịch: Thông tin trong sổ đăng ký

hộ tịch (khai sinh, khai tử, kết hôn) và thông tin trong tờ khai không trùng

khớp nhau; thiếu thông tin (chủ yếu là phần ghi thông tin của người thực hiện

đăng ký hộ tịch; người đi đăng ký,…); sửa chữa trong sổ đăng ký hộ tịch

không đúng quy định; không khóa sổ đăng ký hộ tịch hoặc khóa sổ không

đúng theo quy định.

Thứ hai, tình trạng không đăng ký hoặc đăng ký hộ tịch quá hạn vẫn

tồn tại.

Tại Khoản 2, Điều 5, Luật Hộ tịch năm 2014 quy định nguyên tắc :

“Mọi sự kiện hộ tịch của cá nhân phải được đăng ký đầy đủ, trung thực,

khách quan và chính xác". Tuy nhiên, trên thực tế, nguyên tắc này vẫn không

được tuân thủ một cách nghiêm túc. Tình trạng không đăng ký hộ tịch vẫn

còn tồn tại, nhất là đối với việc đăng ký khai tử, một số thân nhân của người

chết chỉ đi đăng ký khai tử khi phải trình giấy tờ liên quan đến hồ sơ giải

quyết các quyền lợi liên quan (chế độ mai táng phí, bồi thường thiệt hại, bảo

hiểm,…);

67

Theo quy định, trong thời hạn 60 ngày, kể từ ngày sinh con, cha, mẹ có

trách nhiệm đi khai sinh cho con; nếu cha mẹ không thể đi khai sinh, thì ông

bà hoặc những người thân thích khác đi khai sinh cho trẻ em [47, tr.7], tuy

nhiên, thực tế trên địa bàn huyện vẫn còn vẫn còn những trường hợp đăng ký

khai sinh quá thời gian trên.

Trong 04 năm (từ 2016 - 2019) việc đăng ký khai sinh quá hạn trên địa

bàn huyện Kim Sơn vẫn còn ở tỷ lệ cao (năm 2016: 6,42%; năm 2017: 6,00%;

năm 2018: 7,24%; năm 2019: 5,7%) và chưa có chuyển biến tích cực rõ nét.

Tương tự, theo quy định, trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày có người

chết thì vợ, chồng hoặc con, cha, mẹ hoặc người thân thích khác của người

chết có trách nhiệm đi đăng ký khai tử [47, tr.13]. Tuy nhiên trên thực tế

những trường hợp có thân nhân người chết không thực hiện đăng ký khai tử

khi không có quyền lợi liên quan; trong trường hợp người đã chết được hưởng

các chế độ chính sách thì có thể người nhà sau đó khoảng 1 tháng đến 2 tháng

mới thực hiện thủ tục đăng ký khai tử để làm thủ tục hưởng chế độ chính

sách. Theo thống kê trên địa bàn huyện trong 04 năm qua, tỷ lệ đăng ký khai

tử quá hạn vẫn còn cao, tuy có chiều hướng giảm nhưng chưa rõ nét, cụ thể:

Năm 2016 tỷ lệ đăng ký khai tử quá hạn là: 9.89%; năm 2017: 8,00%; năm

2018: 11,38%; năm 2019: 8,32%.

Tình trạng này có ảnh hưởng không nhỏ đến thi hành pháp luật về hộ

tịch và quản lý nhà nước về hộ tịch của chính quyền địa phương từ huyện

xuống cơ sở.

Thứ ba, việc thực hiện liên thông TTHC trong lĩnh vực hộ tịch theo

Thông tư liên tịch số 05/2015/TTLT-BTP-BCA, ngày 15/5/2015 của Bộ Tư

pháp, Bộ Công an và Bộ Y tế chưa được nhịp nhàng, hiệu quả.

68

Sự phối hợp giữa Công an, Bảo hiểm xã hội, Tư pháp trong quá trình

thực hiện liên thông các TTHC nhiều nơi còn chưa nhịp nhàng, đồng bộ nhất

là đối với việc thực hiện đăng ký khai sinh và đăng ký thường trú.

Tại Khoản 3 Điều 10 của Thông tư liên tịch số 05/2015/TTLT-BTP-

BCA ngày 15/5/2015 của Bộ Tư pháp, Bộ Công an và Bộ Y tế quy định

"UBND cấp xã có trách nhiệm chuyển hồ sơ và lệ phí đăng ký thường trú cho

cơ quan có thẩm quyền đăng ký cư trú theo quy định tại khoản 2 Điều 4

Thông tư liên tịch này và chuyển hồ sơ cấp thẻ bảo hiểm y tế cho Bảo hiểm xã

hội cấp huyện. Tùy thuộc điều kiện thực tế, Ủy ban nhân dân cấp xã có thể

chuyển trước thông tin của người tham gia bảo hiểm y tế đến cơ quan Bảo

hiểm xã hội cấp huyện thông qua mạng điện tử". Tuy nhiên Thông tư không

quy định rõ trách nhiệm thuộc công chức phụ trách bộ phận nào vì vậy dễ dẫn

dến tình trạnh đùn đẩy trách nhiệm của các công chức trong UBND cấp xã.

Mặt khác việc thực hiện liên thông TTHC chỉ là sự phối hợp của các bộ phận,

chưa được chuyển giao cho 01 công chức chuyên trách, vì vậy thời gian giải

quyết liên thông thủ tục trên thực tế thường dài hơn so với quy định.

* Nguyên nhân của hạn chế

Thứ nhất, thể chế đăng ký, quản lý nhà nước về hộ tịch còn một số hạn

chế, bất cập.

Sự ra đời của Luật Hộ tịch và các văn bản hướng dẫn thi hành mặc dù

đã có sự phân cấp quản lý, đăng ký hộ tịch khá rõ ràng. Tuy nhiên thể chế

trong lĩnh vực hộ tịch chưa đồng bộ, nhiều nội dung quy định trong Luật Hộ

tịch năm 2014, Nghị định số 123/2015/NĐ-CP và Thông tư số 15/2015/TT-

BTP chưa cụ thể hóa, thống nhất với các quy định pháp luật khác có liên quan

gây khó khăn cho cơ quan có thẩm quyền giải quyết và tổ chức, cá nhân có

yêu cầu đăng ký hộ tịch. Bên cạnh đó, một số quy định của Luật Hộ tịch năm

2014 còn chưa cụ thể hoặc chưa có quy định điều chỉnh, gây khó khăn vướng

69

mắc cho công chức thực hiện, mặc dù đã có những văn bản chỉ đạo, hướng

dẫn của các cơ quan cấp trên đối với một số trường hợp cụ thể (Cục Hộ tịch,

Quốc tịch, Chứng thực và Sở Tư pháp tỉnh Ninh Bình) nhưng không được ban

hành ở dạng văn bản quy phạm pháp luật, cụ thể một số nội dung như sau:

Về thủ tục chung

Luật Hộ tịch và các văn bản hướng dẫn quy định người yêu cầu đăng

ký hộ tịch xuất trình giấy tờ chứng minh nhân thân và chứng minh nơi cư trú.

Các giấy tờ này được công chức kiểm tra và trả lại cho công dân, quy định

như trên gây khó khăn cho công tác thanh tra, kiểm tra, nhất là việc xác định

thẩm quyền giải quyết vì các giấy tờ này không được lưu trong hồ sơ đăng ký

hộ tịch, Luật cũng không quy định về việc khi tiếp nhận bản chính giấy tờ do

công dân xuất trình, công chức tiếp nhận TTHC phải phô tô và lưu tại hồ sơ

mà chỉ quy định là công chức “có thể” phô tô và lưu tại hồ sơ.

Thủ tục Đăng ký khai sinh

Trường hợp phụ nữ Việt Nam đăng ký kết hôn hợp pháp với công dân

nước ngoài, sinh con tại Việt Nam, cháu bé ở với người thân và chưa được

đăng ký khai sinh, nhưng hiện nay cả bố mẹ cháu bé đều đã sang nước ngoài

sinh sống mà gia đình không thể liên lạc được. Người thân của cháu bé có yêu

cầu đăng ký khai sinh nhưng vướng mắc về thủ tục là phải có giấy thỏa thuận

về việc chọn quốc tịch cho con của cha mẹ nên việc đăng ký khai sinh chưa

thực hiện được. Đây là trường hợp vướng mắc mà pháp luật chưa có quy định

điều chỉnh.

Giấy tờ, tài liệu của công dân có ngày sinh là 30/02, trong khi thực tế

không có ngày đó. Theo hướng dẫn của Cục Hộ tịch, quốc tịch, chứng thực

thì cơ quan đăng ký hộ tịch khi đăng ký lại khai sinh phải ghi đúng ngày sinh

trong lịch mà không làm thủ tục cải chính hộ tịch. Tuy nhiên, do từ trước đến

nay các giấy tờ công dân sử dụng đều ghi ngày 30/02, nếu ghi ngày sinh thì

70

công chứ chỉ có thể căn cứ vào lời khai của công dân mà không có căn cứ để

xác định là ngày sinh đó có chính xác hay không.

Theo Luật Hộ tịch công dân mất bản chính Giấy khai sinh chỉ có thể

yêu cầu cấp bản sao Trích lục, không được cấp lại bản chính, nhưng thực tế

một số công dân bị mất bản chính khi đến giao dịch với các cơ quan đều yêu

cầu xuất trình bản chính Giấy khai sinh chứ không chấp nhận bản sao Trích

lục. Mà Giấy khai sinh vẫn là giấy tờ gốc có giá trị rất quan trọng cho công

dân. Việc bỏ thủ tục cấp lại bản chính Giấy khai sinh gây nhiều bất cập cho

công dân vì một số trường hợp (thay đổi, cải chính hộ tịch, đăng ký nhận cha

mẹ con…) sau khi hoàn tất các thủ tục thì có rất nhiều giấy tờ buộc phải đi

kèm với nhau, gây khó khăn cho công dân khi giao dịch phải mang nhiều giấy

tờ thay vì cấp lại cho công dân bản chính Giấy khai sinh.

Thủ tục Đăng ký kết hôn

Về đăng ký kết hôn với người nước ngoài, Luật Hộ tịch không quy định

thủ tục phỏng vấn khi kết hôn nên khi công dân đến làm thủ tục đăng ký kết

hôn, công chức Phòng Tư pháp không biết ngôn ngữ của người nước ngoài

dẫn đến khó khăn trong giao tiếp; mặt khác để xác định rõ kết hôn tự nguyện

hay không, với mục đích gì, hầu hết khi muốn biết thông tin thì đều do một

bên là người Việt Nam phiên dịch.

Thủ tục Đăng ký khai tử

Quy định về thủ tục đăng ký khai tử trong trường hợp chết tại nơi cư trú

còn chưa hợp lý, UBND xã vừa là cơ quan cấp Giấy báo tử vừa đăng ký khai

tử (cùng một cơ quan vừa cấp căn cứ để đăng ký hộ tịch, vừa thực hiện đăng

ký hộ tịch) là không cần thiết.

Việc xử lý vi phạm hành chính đối với hành vi không đăng ký khai

sinh, khai tử đúng hạn, không đăng ký việc nuôi con nuôi… không phù hợp

với điều kiện kinh tế, xã hội, trình độ dân trí nhiều địa phương hiện nay.

71

Tại Điều 24, 25, 26 Nghị định số 123/2015/NĐ-CP ngày 15/11/2015

của Chính phủ quy định về điều kiện, thẩm quyền và thủ tục đăng ký lại khai

sinh, kết hôn và khai tử: Công chức Tư pháp - Hộ tịch tùy vào từng trường

hợp và tùy vào từng loại giấy tờ mà đương sự mang đến, tiến hành “áp dụng

linh hoạt” các quy định của Nghị định, thì hầu hết công thức Tư pháp - Hộ

tịch tham mưu giải quyết các yêu cầu về hộ tịch đều coi những giấy tờ của cá

nhân có nội dung hưởng chế độ chính sách của nhà nước đã được cơ quan có

thẩm quyền cấp trước đây là loại giấy tờ “cấp chính thức hợp lệ đầu tiên”.

Tuy nhiên, những loại giấy tờ đó chỉ có giá trị tham khảo, bổ sung hồ sơ và

không được coi đó là giấy tờ “chính thức hợp lệ đầu tiên” để làm căn cứ giải

quyết các yêu cầu về hộ tịch cho công dân. Do đó, việc hiểu loại giấy tờ “cấp

chính thức hợp lệ đầu tiên” là chưa rõ ràng, thống nhất nên dẫn đến việc giải

quyết các vấn đề hộ tịch ở một số địa phương còn tùy tiện, thiếu chặt chẽ và

không đúng quy định của pháp luật.

Thứ hai, tình hình kinh tế - xã hội trên địa bàn huyện vẫn còn những

hạn chế ảnh hưởng tới quản nhà nước lý về hộ tịch.

Trong những năm gần đây, mặc dù nền kinh tế của huyện cũng đã có sự

tăng trưởng đáng kể, nhưng nhìn chung điều kiện sống của người dân trên địa

bàn còn chưa đồng đều, nhất là người dân ở những xã xa trung tâm (Tiểu

khu1), người dân lao động ở khu vực đầm bãi; do chưa bố trí được nhiều việc

làm nên người dân ở độ tuổi lao động đi làm ăn xa nhiều, dẫn đến việc đăng

ký hộ tịch nhiều khi không kịp thời.

Thứ ba, tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về đăng ký và quản

lý nhà nước về hộ tịch chưa thực sự hiệu quả.

Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao nhận thức pháp

luật cho người dân còn chưa thường xuyên, đa dạng, phong phú về nội dung

và hình thức, chưa phù hợp với từng đối tượng nhất là những đối tượng ở

72

những xã xa trung tâm, thường xuyên làm ăn vắng nhà. Công tác tuyên truyền

chủ yếu là do đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên pháp luật thực hiện, đội

ngũ này còn mỏng, năng lực còn yếu. Bên cạnh đó do đặc thù là huyện ven

biển, dân cư phân tán, thường xuyên đi làm ăn vắng nhà, trình độ dân trí thấp;

nên các hình thức tuyên truyền như dùng hệ thống loa truyền thanh, tờ rơi, mở

hội nghị cũng chưa mang lại hiệu quả như mong muốn.

Thứ tư, nhận thức và ý thức tuân thủ pháp luật về hộ tịch của người

dân không đồng đều.

Là huyện ven biển, xuất phát từ đặc điểm, tình hình dân cư, nghề

nghiệp, ảnh hưởng tư tưởng và sự ràng buộc của giáo lý tôn giáo đối với

người có đạo, người dân Kim Sơn trước đây ít quan tâm đến việc tìm hiểu

pháp luật cũng như tuân thủ và thi hành pháp luật, mọi hoạt động về đời sống

xã hội, dân sự, về quyền công dân hầu như vẫn còn dựa vào các quy định của

tôn giáo, do đó ảnh hưởng nhất định đến quyền và lợi ích hợp pháp của mình

và sự bảo hộ của nhà nước và chính quyền địa phương đối với công dân. Hệ

lụy chính là việc một bộ phận người dân không chỉ xem nhẹ đăng ký hộ tịch,

các quyền nhân thân mà ngay cả các lĩnh vực có liên quan đến lợi ích gián

tiếp cũng không được người dân quan tâm đúng mức.

Thứ năm, đội ngũ công chức làm công tác hộ tịch trên địa bàn một số

xã chưa đảm bảo về số lượng, chất lượng; trình độ chuyên môn, nghiệp vụ

không đồng đều.

Theo quy định một số xã loại 1 và loại 2 trên địa bàn phải bố trí 02

công chức tư pháp - hộ tịch làm công tác tư pháp, đến cuối năm 2019 vẫn còn

những xã loại 1, loại 2 trên địa bàn huyện mới chỉ bố trí được 01 công chức tư

pháp - hộ tịch (Đồng Hướng, Lai Thành,..); mặt khác trình độ lý luận chính trị

và chuyên môn nghiệp vụ của các công chức cũng không đồng đều, một số

công chức mới luân chuyển cũng ảnh hưởng đến chất lượng và hiệu quả công

73

tác đăng ký hộ tịch trên địa bàn; vì ngoài việc công chức phải nắm chắc các

quy định của pháp luật về hộ tịch còn phải nắm chắc các quy định khác có

liên quan như Bộ Luật Dân sự, Luật Hôn nhân và Gia đình, Luật Nuôi con

nuôi; Luật Quốc tịch; đảm nhiệm nhiều công việc như công tác tự kiểm tra, rà

soát văn bản quy phạm pháp luật, chứng thực, tuyên truyền phổ biến giáo dục

pháp luật, hòa giải...

Công chức tư pháp hộ tịch đảm nhiệm nhiều công việc nên thời gian

dành nghiên cứu về công tác hộ tịch chưa nhiều, việc tự học tập nâng cao

trình độ còn hạn chế. Công chức làm hộ tịch tại UBND các xã, thị trấn phần

nhiều chưa qua đào tạo, bồi dưỡng bài bản về công nghệ thông tin; mặc dù

được trang bị máy tính, nhưng chưa sử dụng được hoặc sử dụng chưa có hiệu

quả, đây là khó khăn lớn khi triển khai thực hiện cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử.

Mặt khác xây dựng đội ngũ công chức chuyên trách làm công tác hộ

tịch chưa đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao đối với pháp luật quản lý về

hộ tịch. Việc giáo dục chính trị tư tưởng đối với đội ngũ công chức chuyên

trách thực hiện quản lý nhà nước về hộ tịch từ huyện đến cơ sở còn chưa kịp

thời, vẫn còn tình trạng buông lỏng, thiếu quan tâm chỉ đạo kiểm tra. Một số

công chức chưa thường xuyên rèn luyện phẩm chất đạo đức và tinh thần trách

nhiệm trong công việc, chưa có ý thức thượng tôn pháp luật, tôn trọng công

vụ và chưa coi trọng việc học tập, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ.

Thứ sáu, công tác giám sát, thanh tra, xử lý vi phạm trong quá trình

thực hiện pháp luật quản lý về hộ tịch còn chưa đạt được yêu cầu đặt ra.

Công tác giám sát quản lý nhà nước về hộ tịch trên địa bàn huyện Kim

Sơn còn chưa được tiến hành nhất quán, chưa có cơ chế hoàn thiện để huy

động sức mạnh của toàn xã hội vào hoạt động này. Công tác kiểm tra mặc dù

đã được thực hiện thường xuyên nhưng vẫn còn những biểu hiện nể nang,

thiếu kiên quyết. Ở huyện Kim Sơn, chưa tổ chức được việc thanh tra trực

74

tiếp quản lý nhà nước về hộ tịch, kiểm tra đăng ký hộ tịch được lồng ghép

trong kiểm chuyên môn, nghiệp vụ công tác tư pháp.

Việc xử lý vi phạm trong quản lý nhà nước về hộ tịch có lúc chưa triệt

để, nhất là các hành vi liên quan tới công chức tư pháp - hộ tịch; việc xử lý vi

phạm có biểu hiện nương nhẹ, chủ yếu là xử lý nội bộ, chưa phát huy được

tác dụng giáo dục răn đe và phòng ngừa công chức có hành vi trái pháp luật.

Việc làm rõ các nguyên nhân này là rất quan trọng để tìm ra các giải

pháp phù hợp nhằm bảo đảm cho quản lý nhà nước về hộ tịch trên địa bàn

huyện Kim Sơn có hiệu lực, hiệu quả hơn.

Tiểu kết chƣơng 2

Tại Chương 2, tác giả đã khái quát một số đăc điểm tự nhiên, kinh tế -

xã hội có ảnh hưởng đến quản lý nhà nước về hộ tịch tại huyện Kim Sơn;

đồng thời thống kê khá đầy đủ những kết quả hộ tịch trong quá trình quản lý

nhà nước về hộ tịch từ năm 2016 - 2019.

Trên cơ sở thu thập dữ liệu về hộ tịch từ kết quả khảo sát và số liệu thứ

cấp của huyện Kim Sơn trong thời gian qua, kết hợp kết quả phân tích, đánh

giá thực trạng công tác quản lý nhà nước về hộ tịch trên cơ sở lý luận tại

Chương 1, chỉ ra những kết quả đạt được, hạn chế và nguyên nhân của hạn

chế làm cơ sở cho việc đề xuất các giải pháp quản lý nhà nước về hộ tịch trên

địa bàn huyện Kim Sơn hiệu quả hơn. Từ kết quả nghiên cứu thực tiễn, có thể

kết luận sau:

Một là, thể chế quản lý nhà nước về hộ tịch từ năm 2016 đã xây dựng

một cách tương đối hoàn thiện với sự ra đời của Luật Hộ tịch năm 2014 và

các văn bản hướng dẫn thi hành; thể chế quản lý nhà nước về hộ tịch được

đánh giá là khá phù hợp so với lý luận và thực tiễn, cũng như định hướng mở

trong thời gian tới. Tuy nhiên thực tiễn cho thấy vẫn còn những hạn chế, tồn

75

tại trong một số quy định của pháp luật về hộ tịch, dẫn đến những ảnh hưởng

chưa có lợi cho người dân khi đăng ký hộ tịch.

Hai là, nguồn nhân lực quản lý nhà nước về hộ tịch còn bộc lộ những

hạn chế, bên cạnh đó các yếu tố tự nhiên, kinh tế, xã hội, phong tục tập quán,

các điều kiện cơ sở vật chất có ảnh hưởng không nhỏ đến quản lý nhà nước về

hộ tịch ở địa phương.

Tóm lại, quá trình triển khai thực hiện hộ tịch tại huyện Kim Sơn trong

thời gian qua đã mang lại những kết quả tích cực trong quản lý nhà nước về

hộ tịch. Nhưng các kết quả này chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu quản lý

nhà nước về hộ trên địa bàn, thực tế cho tới nay những bất cập của nó vẫn

đang tồn tại.

Để khắc phục những hạn chế đó, các cơ quan có thẩm quyền cần có

những giải pháp hữu hiệu để bảo đảm quản lý nhà nước về hộ tịch trên địa

bàn huyện Kim Sơn trong thời gian tới.

76

Chƣơng 3

ĐỊNH HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ

HỘ TỊCH TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN KIM SƠN, TỈNH NINH BÌNH

3.1. Định hƣớng bảo đảm quản lý nhà nƣớc về hộ tịch

3.1.1. Quản lý nhà nước về hộ tịch gắn với đảm bảo quyền dân chủ,

quyền con người, quyền công dân

Hiến pháp năm 2013 thể hiện rõ về quan điểm xây dựng nhà nước của

Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Theo đó, các quyền con người được

ghi nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm được thực hiện. Nếu Hiến pháp năm

1992 chỉ quy định chủ thể quyền là công dân thì Hiến pháp năm 2013 quy

định chủ thể quyền không chỉ là công dân mà quyền của con người, của mọi

người, quyền của mỗi người đều có chứ không chỉ công dân. Như vậy, với

những quyền này, không chỉ công dân Việt Nam mà tất cả mọi người, mỗi

người với tư cách thành viên xã hội, người nước ngoài có mặt trên lãnh thổ

Việt Nam… cũng được Hiến pháp và pháp luật Việt Nam bảo đảm.

Mối quan hệ giữa Nhà nước và công dân thể hiện qua các quy định

pháp luật về đăng ký hộ tịch phản ánh một cách tập trung, sinh động, khách

quan các giá trị dân chủ trong một Nhà nước “của dân, do dân, vì dân”. Bởi

vậy, việc đổi mới quản lý hộ tịch cần quán triệt sâu sắc quan điểm phát huy

yếu tố con người và lấy việc phục vụ con người là mục đích cao nhất của mọi

hoạt động, coi nguồn lực con người là quý báu nhất, có vai trò quyết định đối

với sự phát triển nhanh và bền vững.

Luật Hộ tịch năm 2014 ra đời đã thể chế hóa Hiến pháp năm 2013

trong lĩnh vực quản lý nhà nước về hộ tịch, đồng thời thể hiện sự hoàn thiện

cơ bản, tạo hành lang pháp lý chặt chẽ trong công tác quản lý nhà nước về hộ

tịch. Hộ tịch là những sự kiện được quy định tại Điều 3 của Luật này, xác

định tình trạng nhân thân của cá nhân từ khi sinh ra đến khi chết.” [47, tr1.] và

77

đăng ký hộ tịch là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác nhận hoặc ghi

vào Sổ hộ tịch các sự kiện hộ tịch của cá nhân, tạo cơ sở pháp lý để Nhà nước

bảo hộ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, thực hiện quản lý về dân cư [47,

tr.1]. Như vậy, Luật Hộ tịch đã ấn định nội hàm pháp lý đối với thuật ngữ “hộ

tịch” chính là các sự kiện cơ bản xảy ra đối với mỗi cá nhân con người từ khi

sinh ra cho đến khi chết đi, các sự kiện cơ bản này cho phép xác định tình

trạng nhân thân với các quyền và nghĩa vụ tương ứng với sự kiện hộ tịch cụ

thể. Điều 3 Luật Hộ tịch năm 2014 cũng quy định các sự kiện hộ tịch chủ yếu

là: Khai sinh; kết hôn; giám hộ; Nhận cha, mẹ, con; Thay đổi, cải chính hộ

tịch, xác định lại dân tộc, bổ sung thông tin hộ tịch; khai tử; nuôi con nuôi.

Có thể nói đây là đạo luật quan trọng liên quan đến việc bảo đảm thực hiện

quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân đã được ghi nhận

trong Hiến pháp năm 2013.

Trong thời gian qua, triển khai thi hành Luật Hộ tịch và các văn bản

hướng dẫn thi hành, công tác đăng ký và quản lý hộ tịch đã đạt được những

kết quả quan trọng; yêu cầu đăng ký hộ tịch của người dân cơ bản được giải

quyết kịp thời; Trình tự, thủ tục đăng ký hộ tịch được cải cách mạnh mẽ, đơn

giản hóa và cắt giảm giấy tờ không cần thiết, tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho

người dân. Tuy nhiên, việc thực hiện đăng ký hộ tịch nhằm đảm bảo quyền

con người vẫn còn một số hạn chế cả về thể chế, lẫn tổ chức thực hiện,…

(như đã phân tích ở trên). Vì thế để đảm bảo quản lý nhà nước về hộ tịch gắn

với đảm bảo quyền con người, quyền công dân quyền công dân theo Hiến

pháp năm 2013, cần phải thực hiện một số quan điểm như sau:

Luật Hộ tịch năm 2014 và nhất là các văn bản hướng dẫn thi hành vẫn

cần có những sửa đổi, quy định cụ thể các vấn đề liên quan đến thẩm quyền,

trình tự, thủ tục giải quyết các sự kiện hộ tịch, theo hướng bảo đảm sự phù

hợp hơn nữa với các quy định có liên quan của Hiến pháp năm 2013, sự đồng

78

bộ, thống nhất với các luật liên quan, như: Bộ luật Dân sự năm 2015, Luật

Hôn nhân và Gia đình, Luật Căn cước công dân, Luật Quốc tịch, Luật Nuôi

con nuôi...; đồng thời thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng về cải cách

hành chính, nhất là cải cách TTHC trong lĩnh vực đăng ký hộ tịch theo hướng

ứng dụng công nghệ thông tin, đơn giản, minh bạch, tạo sự kết nối với các

lĩnh vực khác liên quan đến công dân, tiết kiệm chi phí cho người dân và Nhà

nước.

Các cơ quan có thẩm quyền cần tiếp tục thực hiện tốt hơn các hoạt động

tham mưu quản lý nhà nước của mình; nghiên cứu, đề xuất các giải pháp

nhằm hạn chế tình trạng công dân chậm được đăng ký hộ tịch, hoặc không đi

đăng ký hộ tịch làm ảnh hưởng đến quyền lợi của họ, coi việc tạo điều kiện

thuận lợi cho công dân thực hiện quyền và nghĩa vụ đăng ký hộ tịch là trách

nhiệm của cơ quan đăng ký hộ tịch.

3.1.2. Công khai, minh bạch, chính xác, thuận tiện trong đăng ký,

quản lý hộ tịch

Đảm bảo công khai các thủ tục hành về hộ tịch phải đầy đủ, chính xác,

kịp thời bằng các hình thức theo quy định của pháp luật: Công khai trên Cơ

sở dữ liệu quốc gia về TTHC; công khai tại trụ sở cơ quan, đơn vị trực tiếp

tiếp nhận, giải quyết TTHC thông qua việc niêm yết hoặc sử dụng các hình

thức điện tử phù hợp với điều kiện cơ sở vật chất, kỹ thuật trên cơ sở quyết

định công bố TTHC hoặc kết xuất, kết nối, tích hợp dữ liệu TTHC trên Cơ sở

dữ liệu quốc gia về TTHC; đăng tải trên Cổng thông tin điện tử của Chính

phủ, Cổng thông tin điện tử của bộ, cơ quan ngang bộ, Ủy ban nhân dân tỉnh,

thành phố trực thuộc trung ương trên cơ sở kết nối, tích hợp với Cơ sở dữ liệu

quốc gia về TTHC. Bên cạnh các hình thức công khai bắt buộc như trên, việc

công khai TTHC có thể thực hiện theo các hình thức khác phù hợp với điều

kiện thực tế của cơ quan, đơn vị và đối tượng thực hiện TTHC [22,tr.4].

79

Tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính theo yêu cầu đơn giản hóa quy

đình, rút ngắn thời gian giải quyết, giảm bớt chi phí và phiền hà cho công dân

khi thực hiện các thủ tục đăng ký hộ tịch. Để người dân được hưởng lợi thực

sự từ quá trình cải cách hành chính, đòi hỏi công chức làm công tác hộ tịch

phải là những người có đạo đức, có tâm với nghề nghiệp, bảo đảm am hiểu

pháp luật, tinh thông về kỹ năng, nghiệp vụ.

3.1.3. Quản lý nhà nước về hộ tịch trên cơ sở hiện đại hóa công tác

quản lý, đăng ký hộ tịch

Trước 01/01/2016, trên địa bàn tỉnh Ninh Bình nói chung và huyện

Kim Sơn nói riêng đều thực hiện việc quản lý sổ sách hộ tịch chủ yếu bằng

phương pháp thủ công và đã gặp nhiều hạn chế, bất cập; nhất là trong quá

trình bảo quản (rách nát, mối mọt,…) cũng như tra cứu thông tin phục vụ nhu

cầu của người dân cũng như nhiệm vụ quản lý nhà nước. Do đó, cải tiến

phương thức thức quản lý nhà nước về hộ tịch, xây dựng hệ thống cơ sở dữ

liệu quốc gia về hộ tịch theo quy định của Luật Hộ tịch 2014 sẽ góp phần

hoàn thiện hoạt động quản lý dân cư của Nhà nước theo hướng quản lý dân cư

tích hợp lĩnh vực hộ tịch, dân số và hộ khẩu; tạo nhiều thuận lợi cho công tác

đăng ký và quản lý hộ tịch, việc thống kê, tra cứu hộ tịch được thực hiện một

cách nhanh chóng kịp thời, phục vụ đắc lực cho việc xây dựng, hoạch định

chính sách, phát triển kinh tế - xã hội cũng như phục vụ nhu cầu của người

dân. Đây là phương hướng hiện đại hóa quản lý nhà nước về hộ tịch, hướng

đến sự phát triển lâu dài, ổn định. Để thực hiện được mục tiêu này cần phải

thực hiện việc tổng rà soát, lập lại hệ thống sổ bộ hộ tịch trên địa bàn. Đây là

tiền đề để thực hiện việc xây dựng cơ sở dữ liệu thông tin về hộ tịch được đầy

đủ và hoàn chỉnh.

Bên cạnh đó, cần đẩy mạnh hơn nữa việc ứng dụng công nghệ thông tin

trong việc giải quyết TTHC lĩnh vực Hộ tịch đảm bảo các yêu cầu, mục tiêu

80

trong xây dựng Chính phủ điện tử theo Nghị quyết số 17/NQ-CP ngày

07/3/2019 của Chính phủ về một số nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm phát triển

Chính phủ điện tử giai đoạn 2019 - 2020, định hướng đến 2025; tích cực triển

khai đồng bộ các giải pháp để nâng tỷ lệ sử dụng dịch vụ công trực tuyến nhất

là dịch vụ công trực tuyến mức độ 3 và 4 trong giải quyết TTHC về hộ tịch.

Thực hiện tốt những quan điểm chỉ đạo và định hướng nêu trên để hoàn

thiện quản lý nhà nước về hộ tịch là nhu cầu, đòi hỏi từ thực tiễn quản lý nhà

nước. Quản lý nhà nước về hộ tịch là một trong những lĩnh vực dịch vụ công,

gắn bó chặt chẽ với yêu cầu cải cách hành chính, phản ánh rõ nét hiệu quả

quản lý đối với dân cư nên được xem như một phép thử để đo hiệu suất chỉ

đạo của các cấp ủy, chính quyền. Từ đó, có những giải pháp thích hợp để

hoàn thiện hơn công tác quản lý nhà nước về hộ tịch trong cả nước nói chung

và trên địa bàn huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình nói riêng.

3.2. Một số giải pháp tăng cƣờng quản lý nhà nƣớc về hộ tịch trên

địa bàn huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình

3.2.1. Tiếp tục hoàn thiện thể chế về hộ tịch

Đất nước ta đang trong quá trình mở cửa và hội nhập, về đối nội thực

hiện cải cách bộ máy và nhà nước và phát huy dân chủ thực chất đi đôi với kỷ

cương, phép nước (xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa); trong

đó pháp luật nói chung và pháp luật về hộ tịch nói riêng từng bước được xây

dựng theo hướng mở rộng quyền dân chủ, bảo đảm, bảo vệ quyền con người,

quyền công dân; bởi vì đăng ký hộ tịch phát sinh từ quyền con người được

quy định trong Hiến pháp. Vì vậy cần hoàn thiện thể chế về hộ tịch để đáp

ứng với yêu cầu đặt ra trong quá trình phát triển hội nhập của Đất nước. Giải

pháp này không chỉ áp dụng trong quản lý nhà nước về hộ tịch trên địa bàn

huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình mà còn là giải pháp quan trọng để hoàn thiện

quản lý nhà nước về hộ tịch trong phạm vi cả nước.

81

Pháp luật về hộ tịch mới ra đời (Luật Hộ tịch năm 2014 và các văn bản

hướng dẫn thi hành) đã ghi nhận nhiều sự đổi mới, tạo thuận lợi hơn rất nhiều

cho người dân đi đăng ký hộ tịch, tuy nhiên trên thực tế khi triển khai vẫn gặp

phải những vướng mắc như đã phân tích ở Chương 2. Điều cần thiết là các cơ

quan chức năng cần ban hành những văn bản hướng dẫn cụ thể, đảm bảo tính

pháp lý, để làm rõ các quy định của pháp luật, khắc phục sự chưa đồng bộ đối

với các quy định pháp luật có liên quan cũng như thực tiễn thi hành; để tạo

điều kiện cho việc thực hiện pháp luật được hiệu quả và chính xác.

Tính đến ngày 31/12/2019, để hướng dẫn thi hành Luật Hộ tịch năm

2014, Chính phủ mới ban hành 01 Nghị định [20] và Bộ trưởng Bộ Tư pháp

ban hành 01 Thông tư [10]; Nghị định quy định chi tiết một số điều và biện

pháp thi hành Luật Hộ tịch; Thông tư quy định chi tiết một số điều của Nghị

định quy định chi tiết và biện pháp thi hành Luật Hộ tịch; ban hành, hướng

dẫn sử dụng, quản lý Sổ hộ tịch, Giấy khai sinh, Giấy chứng nhận kết hôn,

trích lục hộ tịch và các biểu mẫu hộ tịch khác; điều kiện, trình tự đăng ký khai

sinh, kết hôn, khai tử lưu động; ủy quyền thực hiện đăng ký hộ tịch, vì vậy đề

nghị Chính phủ và các Bộ Tư pháp và các bộ, ngành ở Trung ương có liên

quan cần tiếp tục nghiên cứu xây dựng hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật

quy định chi tiết những nội dung của Luật Hộ tịch như: Cần ban hành quy

định chi tiết một số điều của Luật Hộ tịch cụ thể, vì hiện nay mặc dù Chính

phủ đã ban hành Nghị định 123/2015/NĐ-CP ngày 15/11/2015 của Chính

phủ, quy định chi tiết thi hành Luật Hộ tịch, nhưng tại Nghị định này có quá

nhiều các tham chiếu tới các văn bản khác. Ban hành quy định đảm bảo cho

việc kết nối, cung cấp, trao đổi thông tin cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử, đăng ký

hộ tịch trực tuyến,…; rà soát, đề xuất sửa đổi, bổ sung các văn bản pháp luật

hiện hành liên quan đến Luật Hộ tịch.

82

Khi có quy định về Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử, đăng ký hộ tịch trực

tuyến và Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử được

hoàn thành, liên thông với nhau thì việc giải quyết các vấn đề hộ tịch qua hệ

thống đăng ký hộ tịch trực tuyến sẽ bảo đảm nhanh chóng, gọn nhẹ và giảm

thiểu chi phí, thời gian trong thực hiện TTHC về hộ tịch, tạo điều kiện thuận

lợi cho quản lý nhà nước về hộ tịch cũng như đáp ứng nhu cầu của người dân.

Đề nghị cơ quan có thẩm quyền khi đề xuất, sửa đổi, bổ sung Luật Hộ

tịch năm 2014, trong đó nên xem xét, bổ sung quy định về việc cấp lại bản

chính một số loại giấy tờ hộ tịch bị thất lạc (nhất là bản chính Giấy khai sinh).

Thực tế cá nhân bị thất lạc các loại giấy tờ bản chính thì sẽ không thực hiện

được các dịch vụ chứng thực bản sao từ bản chính, và gặp phải khó khăn khi

có những cơ quan, tổ chức nước ngoài và ngay cả trong nước yêu cầu xuất

trình bản chính, hoặc phải dịch từ bản chính ra tiếng nước ngoài,...

Bên cạnh đó, để đảm bảo tính cưỡng chế trong quản lý nhà nước về hộ

tịch; cần phải sửa đổi, bổ sung quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong

lĩnh vực hộ tịch, theo hướng có chế tài nặng hơn đối với những hành vi cố

tình vi phạm pháp luật về hộ tịch.

3.2.2. Nâng cao đạo đức và năng lực thực thi công vụ của đội ngũ

công chức làm công tác hộ tịch trên địa bàn

Nâng cao phẩm chất và năng lực thực thi công vụ của đội ngũ công

chức làm công tác hộ tịch là một trong những mục tiêu quan trọng trong của

cả nước nói chung và của huyện Kim Sơn nói riêng.

Với nhận thức, đạo đức, năng lực thực thi công vụ của công chức tư

pháp - hộ tịch có ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả của quản lý nhà nước về hộ

tịch, tại cấp huyện và cấp cấp xã hiện nay theo quy định của Luật Hộ tịch, thì

đây chính là đầu mối then chốt trực tiếp giải quyết các yêu cầu của công dân,

bên cạnh đó là việc tham mưu trong quản lý nhà nước về hộ tịch trong phạm

83

vi thẩm quyền và địa phương. Nếu như đội ngũ tư pháp được đào tạo, bồi

dưỡng bài bản, có năng lực, có tinh thần, trách nhiệm và phẩm chất đạo đức

đáp ứng được yêu cầu, thì hoạt động quản lý nhà nước về hộ tịch tại địa

phương đó sẽ hiệu quả, quản lý nhà nước về hộ tịch tại nơi đó sẽ đáp ứng

được mục tiêu đề ra. Ngược lại với một đội ngũ công chức tư pháp - hộ tịch

yếu kém thì quản lý nhà nước về hộ tịch tại địa phương đó sẽ gặp khó khăn và

không hoàn thành được mục tiêu quản lý, hoặc có thể mang lại hậu quả xấu.

Với trách nhiệm quản lý nhà nước trong lĩnh vực hộ tịch trên địa bàn,

UBND huyện Kim Sơn đã thường xuyên quan tâm thực hiện các giải pháp

nhằm nâng cao đạo đức và chất lượng thực thi công vụ của đội ngũ này.

Trong thời gian tới cần phải thực hiện các giải pháp sau:

Thứ nhất, nâng cao đạo đức công vụ cho đội ngũ công chức làm hộ

tịch. Hiểu một cách chung nhất, đạo đức công vụ là hệ thống các chuẩn mực,

quy tắc, nguyên tắc, hành vi trong hoạt động công vụ của cán bộ, công chức

nhằm điều chỉnh thái độ, hành vi, cách ứng xử, chức trách, bổn phận, nghĩa

vụ của cán bộ, công chức trong hoạt động công vụ. Giá trị cốt lõi mà công

chức đảm nhận thể hiện ở cách họ xử sự và đóng góp để xã hội tốt đẹp hơn,

bao gồm dịch vụ công tốt và từng cá nhân công chức phải trau dồi, bồi dưỡng

về mọi mặt để tiến bộ hơn, qua đó xây dựng một nền công vụ trách nhiệm,

chuyên nghiệp và trong sạch, tận tụy, công tâm. Nâng cao đạo đức công vụ

cho đội ngũ công chức hộ tịch chính là nâng cao lòng yêu nghề, tinh thần tận

tụy với công việc; nâng cao thái độ tôn trọng người dân, tận tâm phục vụ, lắng

nghe ý kiến của người dân, chịu sự giám sát của người dân; thực hành cần,

kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư trong hoạt động công vụ; là nâng cao chủ

nghĩa tập thể, tinh thần hợp tác, tôn trọng pháp luật, tôn trọng đồng nghiệp

trong thực thi công vụ.

84

Thứ hai, tiến hành rà soát tổng thể và phân loại đội ngũ công chức tư

pháp - hộ tịch phục vụ việc bố trí đúng, đủ số lượng công chức tư pháp - hộ

tịch theo quy định (nhất là những xã có đông dân cư như Lai Thành, Đồng

Hướng, hiện nay chưa được bố trí đủ công chức tư pháp - hộ tịch) cũng như

xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng. Tiêu chí rà soát cần đảm bảo tính toàn

diện, bao gồm cả về số lượng, trình độ, độ tuổi, thời gian công tác và năng

lực, kết quả làm việc trong thời gian qua. Rà soát cần tiến hành phân loại theo

các nhóm công chức, để lưu ý đến công tác bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ,

vừa để triển khai thực hiện các quy định mới về đăng ký và quản lý hộ tịch

theo Luật Hộ tịch, vừa để có kế hoạch đào tạo, bố trí, sử dụng phù hợp.

Thứ ba, thường xuyên, liên tục tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên

môn và trình độ tin học cho công chức làm hộ tịch. Căn cứ kết quả rà soát,

phân loại tổng thể đội ngũ công chức làm hộ tịch phải xây dựng kế hoạch, lộ

trình bồi dưỡng cho phù hợp với từng nhóm đối tượng đã phân loại để đạt

hiệu quả cao nhất. Bên cạnh đó, những nhiệm vụ mới, với những quy định về

trình tự, thủ tục thực hiện thay đổi, đặc biệt là ứng dụng công nghệ thông tin

trong đăng ký, quản lý hộ tịch để phù hợp với mục tiêu xây dựng Chính phủ

điện tử, xây dựng cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử, đăng ký hộ tịch trực tuyến, đòi

hỏi trình độ của công chức làm hộ tịch phải được chuẩn hóa và từng bước

được nâng cao cả về chuyên môn, nghiệp vụ và trình độ công nghệ thông tin,

do đó cần phải tổ chức các lớp bồi dưỡng về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ

và ứng dụng công nghệ thông tin đối với đội ngũ này.

Thứ tư, trong công tác tuyển dụng cán bộ, từng bước bố trí, sắp xếp tiến

tới 100% công chức tư pháp - hộ tịch đạt chuẩn, phấn đấu 100% công chức

làm hộ tịch từ huyện đến cơ sở có trình độ cử nhân luật. Tiêu chuẩn đặt ra đối

với công chức làm hộ tịch cấp xã, cấp huyện phải là những người có trình độ

từ đại học luật trở lên. Những công chức này phải được tuyển dụng theo các

85

yêu cầu năng lực thực tế mới có thể đáp ứng được nhiệm vụ. Cần nhận thức

vai trò của quản lý nhà nước về hộ tịch không đơn thuần chỉ là thực hiện các

tác nghiệp giản đơn về hộ tịch, mà yêu cầu của công chức hộ tịch phải có tầm,

tức là ngoài khả năng thực hiện chuyên môn, thì còn phát huy tốt chức năng

tham mưu, chủ động và thực hiện quản lý nhà nước về hộ tịch đáp ứng được

xu hướng hiện tại và tương lai. Cần nghiên cứu để có chế độ đãi ngộ xứng

đáng cho đội ngũ này.

Đối với cấp huyện, để đáp ứng được yêu cầu của công tác hộ tịch có

yếu tố nước ngoài theo quy định của Luật Hộ tịch năm 2014, đây là những

hoạt động rất phức tạp về chuyên môn, nghiệp vụ, nên công chức làm công

tác hộ tịch bên cạnh việc có trình độ cử nhân Luật và được bồi dưỡng thường

xuyên về nghiệp vụ hộ tịch thì cần có trình độ ngoại ngữ giao tiếp cơ bản.

3.2.3. Nâng cao chất lượng phổ biến, giáo dục pháp luật liên quan

đến hộ tịch cho cán bộ, công chức và người dân trên địa bàn

Giải pháp phổ biến, giáo dục pháp luật là một công cụ quan trọng để tác

động lên cán bộ, công chức và người dân trong việc thực thi pháp luật. Ý

nghĩa của hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật là nhằm hình thành ý thức

pháp luật dưới dạng lòng tin, thói quen, trở thành động cơ của hành vi tích

cực của các chủ thể. Lĩnh vực hộ tịch liên quan gắn bó mật thiết với các

quyền nhân thân của cá nhân nên nếu có phương pháp tuyên truyền phù hợp

sẽ dễ đi vào niềm tin, xây dựng tính nhân văn trong đời sống Nhân dân như

quan hệ giữa vợ chồng, cha mẹ và con; thực hiện giám hộ, nhận nuôi con

nuôi, nhận cha mẹ con.

Để sử dụng hiệu quả phổ biến, giáo dục pháp luật về hộ tịch, một yêu

cầu đặt ra là phải xác định đối tượng tuyên truyền là ai, mục tiêu tuyên truyền,

tài liệu tuyên truyền, xác định được hiệu quả tuyên truyền. Trong thực tiễn

cho thấy ở nhiều địa phương trên địa bàn huyện, việc tuyên truyền vẫn còn

86

mang nặng tính hình thức, số lượng người nghe đa dạng, tài liệu nhiều loại,

phương pháp tổ chức và tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật chưa khoa

học hiệu quả, quản lý công tác tuyên truyền còn lỏng lẻo, tài chính đầu tư còn

hạn chế,… Vì thế hiệu quả từ thực tế thấp; nhận thức người dân chưa có

chuyển biến rõ rệt.

Vì vậy, nâng cao chất lượng phổ biến, giáo dục pháp luật về hộ tịch

trên địa bàn huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình cần phải thực hiện một số nội

dung chủ yếu như sau:

Thứ nhất, cần xác định mục đích phổ biến, giáo dục pháp luật; cần phải

phổ biến, giáo dục những nội dung gì và bằng hình thức nào? đối với cán bộ,

công chức và người dân trên địa bàn huyện thì nội dung phổ biến, giáo dục

pháp luật về hộ tịch nên là những quy định cụ thể, có liên quan trực tiếp đến

người dân và thường hay phát sinh trên địa bàn, như trong lĩnh vực đăng ký

hộ tịch thì cần phổ biến những quy định về nguyên tắc đăng ký hộ tịch, thẩm

quyền đăng ký các sự kiện hộ tịch, trình tự, thủ tục đăng ký các sự kiện hộ

tịch, nhất là trách nhiệm và quyền lợi của công dân trong đăng ký hộ tịch và

xử phạt hành chính trong lĩnh vực hộ tịch.

Thứ hai, phổ biến, giáo dục pháp luật về hộ tịch gắn với các lĩnh vực

quản lý nhà nước khác có liên quan, như: Y tế; bảo hiểm xã hội; hôn nhân và

gia đình,.. để người nghe sẽ nhận thấy giữa các lĩnh vực có sự liên quan đến

nhau, khi làm việc này thì cần thiết phải làm việc tiếp theo, như đi đăng ký

khai sinh cho trẻ mới sinh thì cần làm tiếp các thủ tục đăng ký bảo hiểm y tế

và nhập hộ khẩu cho trẻ.

Thứ ba, phổ biến, giáo dục pháp luật về hộ tịch phải có sự kết hợp giữa

các cơ quan liên quan, giữa các ngành của huyện với các địa phương, với đặc

thù là huyện có 03 xã giáp biển, có lực lượng Bộ đội Biên phòng đóng quân

trên địa bàn, vì thế việc phối hợp giữa các cơ quan chuyên môn của huyện,

87

UBND các xã và lực lượng Bộ đội Biên phòng trong việc phổ biến, giáo dục

pháp luật nói chung và phổ biến, giáo dục pháp luật về hộ tịch sẽ đem lại

những hiệu quả tích cực. Mặt khác, việc vào cuộc của cả hệ thống chính trị,

các cấp, các ngành của huyện cũng sẽ tạo điều kiện thuân lợi để đa dạng hóa

hình thức, phương pháp tuyên truyền, phổ biến pháp luật bằng những cách

thức như tọa đàm, buổi nói chuyện, buổi trợ giúp pháp lý, qua hệ thống loa

phát thanh cơ sở, tờ rơi, biểu diễn văn nghệ, kịch… để người dân có thể dễ

dàng tiếp cận hơn.

Thứ tư, nâng cao chất lượng công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trong

nhà trường, nhất là các trường trung học cơ sở, trung học phổ thông và giáo

dục nghề nghiệp của huyện, vì học sinh, học viên khi có kiến thức pháp luật

về hộ tịch có thể là người thực hiện việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật về

hộ tịch cho gia đình và cộng đồng. Tại các trường học từ bậc trung học cơ sở

trở lên, xây dựng các bài học pháp luật để giáo dục thường xuyên với học sinh

trong đó có pháp luật về hộ tịch. Thay đổi cơ cấu tổ chức, xây dựng cơ chế

phối hợp giữa các cơ quan và tăng cường phổ biến, giáo dục pháp luật về

đăng ký hộ tịch có vai rò rất quan trọng trong việc nâng cao chất lượng công

tác quản lý nhà nước về hộ tịch.

3.2.4. Tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan, đơn vị liên quan

trong giải quyết các việc liên quan đến hộ tịch

Cần tăng cường sự chỉ đạo của Huyện ủy, UBND huyện trong việc giải

quyết các việc liên quan đến hộ tịch; phối hợp đồng bộ và nhịp nhàng giữa

các cơ quan chuyên môn của huyện, UBND các xã, thị trấn trên địa bàn để

giải quyết các việc liên quan đến hộ tịch; ban hành văn bản phải đồng bộ về

cấp độ để việc giải quyết TTHC được kịp thời, nhanh chóng và theo quy định.

Nội dung đăng ký khai sinh là thông tin hộ tịch cơ bản của cá nhân,

được ghi vào Sổ hộ tịch, Giấy khai sinh, cập nhật vào Cơ sở dữ liệu hộ tịch

88

điện tử và Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư. Hồ sơ, giấy tờ của cá nhân liên

quan đến thông tin khai sinh phải phù hợp với nội dung đăng ký khai sinh của

người đó [47, tr.7]. Mặt khác Giấy khai sinh là giấy tờ gốc của cá nhân. Mọi

hồ sơ, giấy tờ của cá nhân có nội dung ghi về họ, chữ đệm, tên; ngày, tháng,

năm sinh; giới tính; dân tộc; quốc tịch; quê quán; quan hệ cha, mẹ, con phải

phù hợp với Giấy khai sinh của người đó. Trường hợp nội dung trong hồ sơ,

giấy tờ cá nhân khác với nội dung trong Giấy khai sinh của người đó thì Thủ

trưởng cơ quan, tổ chức quản lý hồ sơ hoặc cấp giấy tờ có trách nhiệm điều

chỉnh hồ sơ, giấy tờ theo đúng nội dung trong Giấy khai sinh [20, tr.5-6]. Như

vậy, các giấy tờ có liên quan về nhân thân của một người phải có nội dung

phù hợp với Giấy khai sinh và Giấy khai sinh được xem như là giấy tờ gốc để

điều chỉnh các giấy tờ khác khi có sự sai sót hoặc nhầm lẫn các yếu tố về

nhân thân. Chính vì vậy, công tác quản lý nhà nước về hộ tịch liên quan mật

thiết đến nhiều công tác quản lý nhà nước khác, điều đó đòi hỏi phải tăng

cường phối hợp các cơ quan, tổ chức trong quản lý nhà nước về hộ tịch, nhất

là giải quyết các vấn đề liên quan đến hộ tịch cho công dân; một số trường

hợp cụ thể như:

Đối với ngành Công an trong quản lý Hộ khẩu, căn cước công dân

khẳng định rằng các giấy tờ hộ tịch do cơ quan có thẩm quyền cấp cho cá

nhân là căn cứ pháp lý để xác định nhân thân của người đó, nên khi thực hiện

làm thủ tục liên quan đến hộ khẩu thì phải yêu cầu xuất trình Giấy khai sinh

để xác định nhân thân của người đó trong hộ khẩu và khi thực hiện làm căn

cước công dân thì xuất trình hộ khẩu và các giấy tờ hộ tịch có liên quan để

xác định nhân thân của người đó trong giấy căn cước công dân. Trong thời

gian qua, trên địa bàn huyện đang tiến hành thu thập thông tin và rà soát, kiểm

tra, đánh giá kết quả thông tin đã thu thập được để xây dựng cơ sở dữ liệu

quốc gia về dân cư; đây là một trong những nhiệm vụ trọng tâm để đảm bảo

89

sự thống nhất, chính xác thông tin cơ bản về dân cư, tạo sự đổi mới căn bản

về tổ chức, hoạt động quản lý nhà nước về dân cư theo hướng hiện đại, đơn

giản hóa các TTHC, giảm phiền hà cho người dân. Cơ sở dữ liệu quốc gia

được hoàn thiện sẽ xóa bỏ tình trạng công dân phải sử dụng nhiều loại giấy

tờ; mỗi công dân sẽ được cấp 01 mã số định danh cá nhân để truy xuất thông

tin của bản thân và giải quyết các TTHC. Trong công tác xây dựng cơ sở dữ

liệu quốc gia về dân cư, lực lượng Công an có nhiệm vụ xây dựng, quản lý,

vận hành, khai thác Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư; thu thập thông tin về

dân cư; cấp số định danh cá nhân...

Để thông tin thu thập đầu vào để đảm bảo tính tin cậy, chính xác phải

có sự phối hợp chặt chẽ của công chức tư pháp - hộ tịch trong quá trình thu

thập, rà soát, thẩm tra, phúc tra thông tin. Trong trường hợp có sự vênh lệch

giữa thông tin hộ tịch và tàng thư chứng minh nhân dân, tàng thư căn cước

công dân cần phải xử lý thỏa đáng, kịp thời theo quy định của pháp luật, đảm

bảo quyền lợi chính đáng của công dân cũng như đáp ứng yêu cầu quản lý nhà

nước. Mặt khác Cơ quan công an cũng cần có sự phối hợp tốt trong việc kiểm

tra, giám sát dân cư thông qua các quy định về cư trú và hệ thống cơ quan,

cán bộ ngành. Bên cạnh hệ thống quản lý nhân khẩu địa phương, thì mạng

lưới công an xã sẽ phối hợp tốt trong việc quản lý, theo dõi, giám sát trẻ em

có mặt tại nơi cư trú, điều này giúp cho công chức tư pháp - hộ tịch trong việc

khai sinh cho trẻ, cũng như đăng ký nuôi con nuôi,...

Với chức năng là cơ quan tham mưu cho UBND huyện về việc quản lý

hồ sơ cán bộ, công chức, viên chức trên địa bàn, Phòng Nội vụ cần có sự phối

hợp chạt chẽ với Phòng Tư pháp trong việc xử lý những sai lệch giữa giấy tờ

cá nhân của cán bộ, công chức, viên chức và giấy tờ hộ tịch được cấp theo

đúng quy định. Vì trong thực tế, quản lý hồ sơ cán bộ, công chức, viên chức

trên địa bàn huyện trong những năm vừa qua vẫn còn nhiều hồ sơ có nhiều

90

loại giấy tờ ghi ngày, tháng, năm sinh khác nhau (nhất là đối với cán bộ, công

chức cấp xã), nên việc xác định tuổi để thực hiện các bước của quy trình bổ

nhiệm, ứng cử, bầu cử cho cán bộ và thực hiện chế độ nghỉ bảo hiểm xã hội

còn gặp nhiều khó khăn. Vì vậy, cần tăng hơn nữa sự phối hợp để trao đổi,

cung cấp thông tin, xử lý kịp thời, đúng quy định của pháp luật đối các loại

giấy tờ của cán bộ, công chức, viên chức.

Các ban ngành, đoàn thể từ huyện đến cơ sở như Hội Liên hiệp Phụ nữ,

Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Nông dân, Hôi Cựu chiến binh

cần nêu cao vai trò, trách nhiệm trong việc tuyên truyền, nâng cao nhận thức

của đoàn viên, hội viên và các tầng lớp Nhân dân trên địa bàn huyện trong

thực hiện quyền và nghĩa vụ đăng ký hộ tịch. Mặc dù, cùng với sự phát triển

kinh tế - xã hội của huyện, các ban, ngành, đoàn thể của huyện đã tổ chức

được nhiều hoạt động tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật nói chung và

pháp luật về hộ tịch nói riêng cho đoàn viên, hội viên và người dân … Từ đó

góp phần nâng cao nhận thức của đoàn viên, hội viên và người dân trong việc

thực hiện quyền, nghĩa vụ về đăng ký hộ tịch. Tuy nhiên, công tác tuyên

truyền trong thời gian qua còn gặp nhiều khó khăn, như: Nội dung tuyên

truyền chưa sâu, thiếu đồng bộ, phong phú, chưa sát với thực tế và đối tượng,

tài liệu tuyên truyền chưa đáp ứng được yêu cầu. Trong thời gian tới cần có sự

phối hợp thường xuyên của cơ quan đăng ký hộ tịch với ban, ngành. đoàn thể

có liên quan để thực hiện tốt hơn công tác tuyên truyền các văn bản pháp luật

có liên quan về lĩnh vực hộ tịch đến với cán bộ và người dân.

Ngoài ra, còn liên quan đến một số lĩnh vực khác, như: Y tế, trong việc

cấp Giấy chứng sinh để thực hiện đăng ký khai sinh, cũng như xác định

nguyên nhân chết trong các trường hợp chết ở bệnh viện để thực hiện đăng ký

khai tử; cùng với Chi cục Thống kê huyện để thống kê tỷ lệ trẻ em được đăng

ký khai sinh, tỷ lệ người chết trong năm được đăng ký khai tử hàng năm trên

91

địa bàn huyện. Số liệu thống kê hộ tịch bảo đảm đầy đủ, chính xác, thống

nhất, kịp thời.

3.2.5. Đầu tư cơ sở vật chất, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin

trong việc quản lý, đăng ký hộ tịch

Cơ sở vật chất, trang thiết bị làm việc là một yếu tố quan trọng đảm bảo

cho các hoạt động nói chung và hoạt động quản lý hộ tịch nói riêng được thực

hiện một cách hiệu quả. Đối với địa bàn huyện Kim Sơn hiện nay, cơ sở vật

chất đã cơ bản đáp ứng cho quản lý nhà nước về hộ tịch, trong tâm trong thời

gian tới là là đảm bảo trang thiết bị làm việc và ứng dụng công nghệ thông tin

trong quản lý và đăng ký hộ tịch. Vì hiện nay đăng ký và quản lý nhà nước về

hộ tịch trên địa bàn được Phòng Tư pháp và công chức tư pháp - hộ tịch thực

hiện thông qua Hệ thống thông tin đăng ký và quản lý hộ tịch dùng chung của

Bộ Tư pháp Với việ sử dụng Hệ thống đăng ký và quản lý hộ tịch của Bộ tư

pháp đã tạo điều kiện thuận lợi cho công tác đăng ký, tra cứu thông tin khi

cần thiết cũng như công tác thanh tra, kiểm tra và hướng dẫn nghiệp vụ.

Ngoài ra còn giúp cho công tác đăng ký, quản lý nhà nước về hộ tịch được

thực hiện một cách chính xác, khoa học, thống nhất trong phạm vi toàn quốc,

từ trung ương đến địa phương.

Việc ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác đăng ký, quản lý nhà

nước về hộ tịch được coi là một giải pháp để kiện toàn tổ chức bộ máy, vì sẽ

giảm bớt sức lao động thủ công, vừa tạo ra sự kết nối giữa các cơ quan thực

hiện đăng ký, quản lý nhà nước về hộ tịch.

Ứng dụng công nghệ thông tin thực hiện cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử

đòi hỏi từ huyện đến UBND các xã, thị trấn phải đầu tư cơ sở vật chất đồng

bộ mà cơ bản nhất là bảo đảm có máy tính riêng, có kết nối mạng internet,

đường truyền internet băng thông rộng, phục vụ cho công tác đăng ký hộ tịch

và quản lý nhà nước về hộ tịch. Hiện nay mặc dù hệ thống máy tính đã được

92

trang bị riêng cho công chức làm công tác hộ tịch nhưng chất lượng nhiều

máy chưa đảm bảo (nhiều máy đã cũ, hay hỏng hóc) ảnh hưởng rất nhiều đến

chất lượng, hiệu quả và thời gian thực hiện công tác đăng ký hộ tịch. Vì vậy,

để ứng dụng thông tin thực sự phát huy hiệu quả góp phần tích cực trong quản

lý nhà nước về hộ tịch trên địa bàn huyện, đòi hỏi các cơ quan đăng ký hộ tịch

trên địa bàn huyện phải rà soát, nâng cấp, bổ sung trang thiết bị phục vụ việc

triển khai hệ thống thông tin đăng ký và quản lý hộ tịch (bao gồm: Máy tính,

máy in được kết nối internet) cho công chức làm công tác hộ tịch tại Phòng

Tư pháp và UBND các xã, thị trấn. Đảm bảo thực hiện xây dựng, quản lý cơ

sở dữ liệu hộ tịch điện tử tại địa phương; kết nối, chia sẻ, cung cấp thông tin

cho Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử của tỉnh, Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử toàn

quốc, Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư và các cơ sở dữ liệu chuyên ngành

khác có liên quan.

Để hoàn thiện việc xây dựng cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử, hiện nay

UBND huyện Kim Sơn đang chỉ đạo các cơ quan đăng ký hộ tịch trên địa bàn

thực hiện việc số hóa Sổ hộ tịch theo hướng dẫn tại Công văn số 1437/BTP-

CNTT ngày 25/4/2019, của Bộ Tư pháp, kèm theo tài liệu "Hướng dẫn thực

hiện số hóa Sổ hộ tịch" đã được Bộ Tư pháp đăng tải trên Cổng thông tin điện

tử của Bộ. Trước hết, thực hiện giai đoạn 1 và giai đoạn 2 là thu thập, phân

loại các Sổ hộ tịch cần số hóa; Scan/chụp Sổ hộ tịch, tạo lập các file dữ liệu

Exel, ...để thực hiện được nhiệm vụ này, đề nghị UBND tỉnh Ninh Bình cần

có kế hoạch cụ thể và phân bổ kinh phí cho các địa phương để thực hiện số

hóa dữ liệu hộ tịch đảm bảo chất lượng và hiệu quả.

Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin để triển khai đăng ký hộ tịch

trực tuyến; việc đăng ký hộ tịch trực tuyến là một phương thức hiện đại giúp

cá nhân và cơ quan có thẩm quyền thực hiện thủ tục hành chính thuận lợi,

nhanh chóng, chính xác, bên cạnh 2 phương thức truyền thống là nộp hồ sơ

93

trực tiếp tại trụ sở cơ quan có thẩm quyền và gửi hồ sơ qua hệ thống bưu

chính. Việc thực hiện các thủ tục hành chính trên môi trường điện tử mang lại

nhiều lợi ích cho cả cơ quan quản lý nhà nước về hộ tịch cũng như người dân.

Để thực hiện có hiệu quả phương thức đăng ký hộ tịch này thì bên cạnh việc

trang bị cơ sở vật chất tương thích thì cần từng bước nâng cao trình độ ứng

dụng công nghệ thông tin của công chức tư pháp - hộ tịch và người dân trên

địa bàn huyện.

3.2.6. Tăng cường giám sát, thanh tra, kiểm tra công tác đăng ký,

quản lý hộ tịch trên địa bàn

Thực tế, trong thời gian qua công tác giám sát, thanh tra, kiểm tra việc

thực hiện quản lý nhà nước về hộ tịch trên địa bàn mặc dù đã được thực hiện

nhưng chưa quyết liệt, đôi khi còn nể nang, hiệu quả chưa cao, việc phát hiện

những sai sót trong vấn đề quản lý hộ tịch chưa kịp thời; các sai sót khi được

phát hiện chủ yếu là tự khắc phục, rút kinh nghiệm; chưa có sự cương quyết

trong việc xử lý công chức để xảy ra sai sót trong quá trình thực hiện, nhất là

đối với một số trường hợp cố tình làm sai. Trong thực tiễn, thanh tra, kiểm

tra, giám sát, xử lý vi phạm hằng năm được thực hiện từ huyện đến cấp xã.

Kết quả cho thấy có nhiều vấn đề sai phạm cần chỉnh đốn. Tuy nhiên hình

thức xử lý các trường hợp vi phạm của công chức tư pháp - hộ tịch và cán bộ

lãnh đạo xã chưa được xử lý kịp thời, chưa nghiêm, chưa kiên quyết.

Việc tổ chức thanh tra, kiểm tra của Phòng Tư pháp đối với công tác hộ

tịch ở các xã, thị trấn gặp nhiều khó khăn do biên chế chưa đảm bảo. Trong

nhiều năm qua Phòng Tư pháp huyện Kim Sơn chỉ được bố trí 04 biên chế

(01 Trưởng phòng, 01 Phó Trưởng phòng và 02 Chuyên viên), trong đó có

một Chuyên viên được phân công phụ trách theo dõi công tác hộ tịch trên địa

bàn huyện.

94

Giải pháp tăng cường và nâng cao hiệu quả thanh tra, kiểm tra, giám

sát, xử lý vi phạm trong quản lý nhà nước về hộ tịch trên địa bàn huyện Kim

Sơn, tỉnh Ninh Bình cần được xem xét và thực hiện như sau:

Thứ nhất, Tôn trọng sự phân cấp, tập trung và đề cao trách nhiệm của

người phụ trách hộ tịch (Chủ tịch, hay Phó chủ tịch UBND UBND các xã, thị

trấn), theo đó, quy trách nhiệm chính trị và trách nhiệm pháp lý đối với người

phụ trách trực tiếp.

Mặt khác, công tác đăng ký hộ tịch trên địa bàn huyện được thực hiện

theo mô hình một cửa. Do vậy, lãnh đạo UBND xã phải quan tâm chỉ đạo và

giám sát thực hiện chặt chẽ; phân công trách nhiệm cụ thể, rõ ràng cho công

chức trực bộ phận một cửa; xây dựng cơ chế giám sát sự tuân thủ quy chế của

công chức thực hiện hộ tịch; nâng cao năng lực nghiệp vụ và văn hoá phục vụ

nhân dân cho công chức hộ tịch; tăng cường công tác kiểm tra, rà soát, bãi bỏ

các quy định sai pháp luật, đi ngược lại quy chế dân chủ, gây phiền hà cho

người dân có yêu cầu.

Thứ hai, tăng cường thanh tra, kiểm tra, giám sát, xử lý vi phạm trong

quản lý nhà nước về hộ tịch trên địa bàn huyện, tập trung vào chuyên môn

nghiệp vụ của đội ngũ tư pháp. Kịp thời phát hiện các sai sót vi phạm về

nghiệp vụ, tùy theo mức độ vi phạm sẽ có hình thức xử lý, mạnh dạn sử dụng

các biện pháp chỉnh đốn từ rút kinh nghiệm cho tới hạn bậc lương, buộc thôi

việc. Đặc biệt, những hành vi trái pháp luật do công chức làm công tác hộ tịch

gây ra cần phải xử lý kịp thời, nghiêm minh, không thiên vị. Tùy thuộc vào

tính chất, mức độ của hành vi trái pháp luật, người vi phạm có thể bị xử lý kỷ

luật, xử lý hành chính, bồi hoàn một phần thiệt hại vật chất, thậm chí phải

truy cứu trách nhiệm hình sự. Giải pháp này sẽ giúp cho công chức tư pháp -

hộ tịch không dám tùy tiện tác nghiệp hoặc cố tính làm trái pháp luật, dẫn đến

hậu quả do mình phải gánh chịu.

95

Thứ ba, Có cơ chế, cách thức để mở rộng quyền trực tiếp giám sát của

nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà nước, thường xuyên lắng nghe ý

kiến đóng góp của họ để thực thi công vụ đạt chất lượng, hiệu quả.

Thứ tư, kiểm soát kết luận sau thanh tra, kiểm tra, giám sát, xử lý vi

phạm để đảm bảo các kết luận được thực thi nghiêm túc, kịp thời. Thực tế có

nơi, sau khi thực hiện thanh tra, kiểm tra xong, các sai phạm vẫn được công

chức tư pháp - hộ tịch giữ nguyên như cũ, nghĩa là cấp xã không có chỉnh

đốn. Kết luận trong thanh, kiểm tra sẽ không được các công chức coi trọng,

không sử đổi, chậm chuyển biến, coi việc thanh, kiểm tra là một công việc

của cấp trên không ảnh hưởng đến quyền lợi của họ.

Có thể khẳng định, thanh tra, kiểm tra, giám sát, xử lý vi phạm về quản

lý nhà nước về hộ tịch là một công cụ của chủ thể quản lý là cơ quan nhà

nước thực hiện, nhằm mục tiêu quản lý đạt hiệu quả mong muốn, góp phần

quan trong trong cải cách hành chính, cải cách tư pháp theo yêu cầu hiện nay.

UBND huyện cần có sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo trong việc xem xét đến

các vấn đề mà các xã đang cần, như việc bố trí, đào tạo, quy hoạch công chức

và xây dựng kế hoạch, chương trình quản lý nhà nước về hộ tịch. Từ những

giải pháp mang tính đồng bộ, và hợp lý, đồng thời với phương pháp quản lý

khoa học, thì hoạt động thanh tra, kiểm tra và giám sát cũng sẽ góp phần

mang lại hiệu quả quản lý nhà nước về hộ tịch trên địa bàn huyện được tốt

hơn.

96

Tiểu kết Chƣơng 3

Hoàn thiện công tác quản lý nhà nước về hộ tịch là một đòi hỏi tất yếu

của quá trình phát triển. Việc hoàn thiện pháp luật và công tác quản lý nhà

nước trên lĩnh vực này phải được thực hiện trong bối cảnh tổng thể của cải

cách hành chính nhà nước, cải cách tư pháp và xây dựng Nhà nước pháp

quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam; với những cơ sở vững chắc, những lộ

trình phù hợp, nhằm tạo điều kiện cho phát triển kinh tế, xã hội, nâng cao

năng lực quản lý nhà nước. Đây không chỉ là nhiệm vụ của Nhà nước, mà còn

là một vấn đề cần sự quan tâm, hỗ trợ tích cực từ xã hội, công dân.

Để quản lý nhà nước về hộ tịch trên địa bàn huyện Kim Sơn được thực

hiện có hiệu lực, hiệu quả cần phải tiến hành đồng bộ các giải pháp như: Hoàn

thiện thể chế quản lý nhà nước về hộ tịch; đẩy mạnh công tác tuyên truyền

phổ biến giáo dục pháp luật về hộ tịch trong nhân dân; kiện toàn, nâng cao

trình độ chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ công chức tư pháp hộ tịch; tăng

cường hợp tác giữa các cơ quan, đơn vị trong giải quyết các việc liên quan

đến hộ tịch; đầu tư cơ sở vật chất, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin

trong việc quản lý, đăng ký hộ tịch; đẩy mạnh công tác giám sát, thanh tra,

kiểm tra, xử lý vi phạm trong pháp luật quản lý về hộ tịch,...

97

KẾT LUẬN

Quản lý nhà nước về hộ tịch là sự thực hiện chức năng quản lý của cơ

quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật, hiện nay hoạt

động quản lý về hộ tịch ở nước ta được quy định trực tiếp trong Luật Hộ

tịch 2014, hiệu lực từ ngày 01/01/2016. Quản lý nhà nước về hộ tịch có ý

nghĩa quan trọng đối với Nhà nước và Nhân dân; thông qua việc đăng ký,

quản lý hộ tịch, tạo cơ sở pháp lý để Nhà nước công nhận, bảo vệ và bảo

đảm quyền con người, quyền công dân đã được Hiện pháp nước Cộng hòa

xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định.

Thông qua việc tìm hiểu, nghiên cứu cơ sở khoa học của quản lý nhà

nước về hộ tịch đã làm rõ các quy định của pháp luật hiện hành về thẩm

quyền quản lý và đăng ký hộ tịch hiện nay theo pháp luật Việt Nam, đó là:

Chính phủ; Bộ Tư pháp; Bộ Công an; Bộ Ngoại giao và cơ quan Đại diện

ngoại giao, Lãnh sự của Việt Nam ở nước ngoài; UBND cấp tỉnh và Sở Tư

pháp; UBND cấp huyện và Phòng Tư pháp; UBND cấp xã và công chức tư

pháp - hộ tịch.

Luận văn tập trung nghiên cứu về hoạt động quản lý nhà nước về hộ

tịch trên địa bàn huyện Kim Sơn tỉnh Ninh Bình với đề tài “Quản lý nhà

nước về hộ tịch trên địa bàn huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình”.

Luận văn đã hệ thống hóa các quy định pháp lý về thẩm quyền, trách

nhiệm của các cơ quan hành chính nhà nước, nhất UBND cấp huyện,

UBND cấp xã trong hoạt động quản lý nhà nước về Hộ tịch. Khảo sát kết

quả thực hiện quản lý, đăng ký hộ tịch trên địa bàn huyện (2016 - 2019).

Cùng với việc tổng hợp, phân tích các số liệu. trong các báo cáo của Phòng

tư pháp, Uỷ ban nhân huyện, quan sát thực tiễn tình hình quản lý, đăng ký

hộ tịch ở một số địa phương, kết quả cho thấy, bên cạnh những kết quả đạt

được, như: Đã có sự chuẩn bị và triển khai tốt công tác thi hành pháp luật

98

về hộ tịch; từ việc bố trí công chức; phổ biến, giáo dục pháp luật về hộ tịch;

đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị; thanh tra, kiểm tra,… Thì công tác quản

lý, đăng ký hộ tịch trên địa bàn huyện vẫn còn hạn chế, bất cập, đó là: Trình

độ chuyên môn nghiệp vụ và đạo đức công vụ của đội ngũ công chức làm

công tác hộ tịch chưa đồng đều; công tác tuyên truyền chưa sâu rộng; tình

trạng không đăng ký hộ tịch, hoặc đăng ký hộ tịch quá hạn vẫn tồn tại,…

Mỗi một hạn chế, bất cập có nguyên nhân chủ quan và khách quan

khác nhau, tuỳ phạm vi và mức độ. Tuy nhiên có thể khái quát thành những

nguyên nhân cơ bản, gồm: Hệ thống pháp luật về hộ tịch, bất cập giữa các

quy định giữa các văn bản liên quan với nhau, điều này đã đồng thời khiến

cho công tác quản lý, đăng ký hộ tịch ở cấp huyện và cấp xã còn nhiều

vướng mắc, vi phạm; năng lực và trách nhiệm của công chức thực hiện

đăng ký và quản lý hộ tịch còn yếu kém và công tác giám sát, thanh tra,

kiểm tra việc thực hiện quản lý nhà nước về hộ tịch chưa phát huy được

hiệu quả cao.

Trên cơ sở phân tích các nguyên nhân và những yêu cầu đặt ra đối

với công tác quản lý nhà nước về hộ tịch trên địa bàn huyện Kim Sơn, tỉnh

Ninh Bình, Luận văn đề xuất và luận giải một số quan điểm và giải pháp

nhằm nâng cao chất lượng quản lý nhà nước về hộ tịch trên địa bàn huyện,

cụ thể một số giải pháp, đó là:

Thứ nhất, tiếp tục hoàn thiện thể chế về hộ tịch;

Thứ hai, tăng cường công tác phổ biến, giáo dục pháp luật liên quan

đến hộ tịch cho cán bộ, công chức và người dân trên địa bàn;

Thứ ba, Nâng cao phẩm chất và năng lực thực thi công vụ của đội

ngũ công chức làm công tác hộ tịch trên địa bàn;

Thứ tư, tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan, đơn vị liên quan

trong giải quyết các việc liên quan đến hộ tịch;

99

Thứ năm, đầu tư cơ sở vật chất, ứng dụng công nghệ thông tin trong

việc quản lý, đăng ký hộ tịch;

Thứ sáu, tăng cường giám sát, thanh tra, kiểm tra công tác đăng ký,

quản lý hộ tịch trên địa bàn.

Việc thực hiện các giải pháp trong khuôn khổ đề tài luận văn nêu ra

sẽ góp một phần vào việc quản lý nhà nước về hộ tịch trên địa bàn huyện

Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình ngày một hoàn thiện hơn. Bên cạnh đó góp phần

vào việc giải quyết những việc cụ thể, bức xúc trong thực tế về công tác

đăng ký hộ tịch./.

100

TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Đào Duy Anh (1992), Giản yếu Hán Việt từ điển, quyển thượng, Nxb

Khoa học xã hội, Hà Nội.

2. Trương Thị Vân Anh (2015), Quản lý nhà nước về hộ tịch ở cấp xã,

thực tiễn ở huyện Mê Linh, Thành phố Hà Nội, Luận văn Thạc sĩ Luật

học, Đại học Quốc gia, Hà Nội.

3. Bộ Tư pháp (2012), Báo cáo tổng kết công tác đăng ký, quản lý hộ tịch

và thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về hộ tịch, tài liệu Hội

nghị chuyên đề về hộ tịch tháng 6/2012, Hà Nội.

4. Bộ Tư pháp (2007), Công chứng, hộ tịch và quốc tịch: Phần 2 hộ tịch

và quốc tịch.

5. Bộ Tư pháp (2006), Hướng dẫn nghiệp vụ Đăng ký và quản lý hộ tịch,

Nxb Tư pháp, Hà Nội.

6. Bộ Tư pháp (2018), Quyết định ban hành kế hoạch triển khai thực hiện

đề án tổng thể đơn giản hóa TTHC, giấy tờ công dân liên quan đến

quản lý dân cư năm 2018, Hà Nội.

7. Bộ Tư pháp (2007), Số chuyên đề về “Công chứng, hộ tịch và quốc

tịch”, phần 2 Hộ tịch và quốc tịch, Hà Nội.

8. Bộ Tư pháp (2010), Tài liệu Hướng dẫn nghiệp vụ Tư pháp xã, phường,

thị trấn, Nxb. Tư pháp, Hà Nội.

9. Bộ Tư pháp (2019) "Tài liệu bồi dưỡng nghiệp vụ tư pháp cấp huyện";

NXB Tư pháp, Hà Nội.

10. Bộ Tư pháp (2015), Thông tư số 15/2015/TT-BTP ngày 16/11/2015 quy

định chi tiết một số điều của Luật Hộ tịch và Nghị định số

123/2015/NĐ-CP ngày 15/11/2015 của Chính phủ quy định chi tiết một

số điều và biện pháp thi hành Luật Hộ tịch, Hà Nội.

11. Bộ Tư pháp (2016), Thông tư số 04/2016/TT-BTP ngày 03/3/2016

101

Quy định một số nội dung về hoạt động thống kê của ngành Tư pháp,

Hà Nội.

12. Bộ Tư pháp (2020), Thông tư số 04/2020/TT-BTP ngày 28/05/2020 quy

định chi tiết một số điều của Luật Hộ tịch và Nghị định số

123/2015/NĐ-CP ngày 15/11/2015 của Chính phủ quy định chi tiết một

số điều và biện pháp thi hành Luật Hộ tịch, Hà Nội.

13. Bộ Tư pháp, Bộ Công an, Bộ Y tế (2015), Thông tư liên tịch số

05/2015/TTLT-BTP-BCA-BYT hướng dẫn thực hiện liên thông các thủ

tục hành chính về đăng ký khai sinh, đăng ký thường trú và cấp thẻ bảo

hiểm y tế cho trẻ em dưới 6 tuổi , Hà Nội.

14. Bộ Tư pháp - Bộ Nội vụ (2014), Thông tư liên tịch số 23/2014/TTLT-

BTP- BNV hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ

chức của Sở Tư pháp thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc

Trung ương và Phòng Tư pháp thuộc Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị

xã, thành phố thuộc tỉnh, Hà Nội.

15. Trần Minh Chiến (2017), Quản lý hộ tịch ở cấp xã trên địa bàn tỉnh

Kiên Giang. Luận văn thạc sĩ Quản lý công, Học viện Hành chính, Hà

Nội.

16. Chính phủ (1961), Nghị định số 04/CP ngày 16/01/1961 ban hành Bản

Điều lệ Đăng ký hộ tịch, Hà Nội.

17. Chính phủ (2005), Nghị định số 83/1998/NĐ-CP ngày 10/10/1998 về

về đăng ký hộ tịch, Hà Nội.

18. Chính phủ (2005), Nghị định số 158/2005/NĐ-CP ngày 27/12/2005 về

quản lý và đăng ký hộ tịch, Hà Nội.

19. Chính phủ (2014), Nghị định số 126/2014/NĐ-CP ngày 31/ 12/2014 quy

định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Hôn nhân và Gia

đình, Hà Nội.

102

20. Chính phủ (2015), Nghị định 123/2015/NĐ-CP ngày 15 tháng 11 năm

2015 Quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Hộ tịch,

Hà Nội.

21. Chính phủ (2013), Nghị định số 110/2013/NĐ-CP ngày 24/9/2013

quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp,

hành chính tư pháp, hôn nhân và gia đình, thi hành án dân sự, phá sản

doanh nghiệp, hợp tác xã, Hà Nội.

22. Chính phủ (2017), Nghị định 92/2017/NĐ-CP ngày 07/8/2017 về sửa

đổi, bổ sung một số nghị định về kiểm soát TTHC, Hà Nội.

23. Chính phủ (2011), Nghị quyết 30c/NQ-CP ngày 08/11/2011 về ban hành

Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011-2020,

Hà Nội.

24. Phan Huy Chú (1993), Lịch triều hiến chương loại chí, quyển 2, Nxb

Khoa học xã hội, Hà Nội.

25. Huỳnh Tịnh Paulus Của (1895), Đại nam Quốc âm tự vị, quyển 1,

Sài Gòn.

26. Phạm Trọng Cường (2013), Sự biến đổi mô hình cơ quan quản lý và

đăng ký hộ tịch từ năm 1945 đến nay, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số

Chuyên đề Pháp luật về hộ tịch, tr.149-162.

27. Phạm Trọng Cường (2007), Từ quản lý đinh đến quản lý hộ tịch, Nxb.

Tư Pháp, Hà Nội.

28. Phạm Trọng Cường (2004), Yêu cầu đối với quản lý nhà nước về hộ

tịch, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật.

29. Đại học Quốc gia Hà Nội (2001), Giáo trình Luật Hành chính Việt

Nam, Hà Nội.

30. Đảng bộ huyện Kim Sơn (2020), Văn kiện Đại hội Đảng bộ huyện Kim

Sơn lần thứ XXIV, nhiệm kỳ 2020 - 2025, Ninh Bình.

103

31. Đinh Ngọc Giang (2015), Quản lý nhà nước về hộ tịch ở nước ta hiện

nay, Tạp chí quản lý nhà nước (số 228), tr.52-56.

32. Trần Thị Lệ Hoa (2013), Thực trạng đội ngũ công chức tư pháp - hộ

tịch và yêu cầu chuẩn hóa, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, Số chuyên đề

Pháp luật về hộ tịch, tr.48-49.

33. Phạm Hồng Hoàn (2012), Quản lý nhà nước về hộ tịch cấp xã, huyện

Đan Phượng, thành phố Hà Nội, Luận văn Thạc sỹ Quản lý Hành chính

công, Học viện hành chính quốc gia, Hà Nội.

34. Trần Thị Thu Hiền (2016), Quản lý nhà nước về hộ tịch ở cấp xã trên

địa bàn huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội, Luận văn Thạc sỹ Quản lý

Hành chính công, Học viện hành chính quốc gia, Hà Nội.

35. Học viện Hành chính (2008), Giáo trình Quản lý hành chính - tư pháp,

Nxb Khoa học kỹ thuật, Hà Nội.

36. Lê Thị Tú Hồng (2013), Mô hình đăng ký và quản lý hộ tịch của một số

quốc gia trên thế giới, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, Số chuyên đề

Pháp luật về hộ tịch, tr.163-187.

37. Lê Thị Thanh Huyền (2019) "Tìm hiểu pháp luật về hộ tịch và căn cước

công dân", NXB Lao động - Xã hội, Hà Nội.

38. Bửu Kế (1999), Từ điển Hán - Việt từ nguyên, Nxb Thuận Hóa, thành phố

Hồ Chí Minh.

39. Nguyễn Công Khanh (2013), Định hướng xây dựng cơ sở dữ liệu hộ tịch điện

tử toàn quốc, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, Số chuyên đề Pháp luật về hộ tịch,

tr.116-128.

40. Nguyễn Văn Khôn (1960), Hán - Việt từ điển, Nhà sách Khai trí, Sài Gòn.

41. Nguyễn Lân (Chủ biên) (1989), Từ điển từ và ngữ Hán Việt, Nxb Thành

phố Hồ Chí Minh.

42. Nam Minh (2013), Tiếp tục phân cấp thẩm quyền, cải cách phương thức

104

quản lý và đăng ký hộ tịch, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, Số chuyên đề

Pháp luật về Hộ tịch, tr.129-137.

43. Nguyễn Hoài Nam (2013), Bàn về thẩm quyền trình tự, thủ tục đăng ký hộ

tịch và một số giải pháp hoàn thiện, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, Số

chuyên đề Pháp luật về hộ tịch, tr.85-92.

44. Trần Kim Phụng (2017), Quản lý hộ tịch ở cấp xã trên địa bàn huyện

Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang. Luận văn thạc sĩ Quản lý công, Học viện

Hành chính, Hà Nội.

45. Quốc hội (2015), Bộ Luật Dân sự, Hà Nội.

46. Quốc hội (2013), Hiến pháp, Hà Nội.

47. Quốc hội (2014), Luật Hộ tịch, Hà Nội.

48. Quốc hội (2014), Luật Hôn nhân và gia đình, Hà Nội.

49. Quốc hội (2010), Luật Nuôi con nuôi, Hà Nội.

50. Quốc hội (2015), Luật Tổ chức Chính phủ, Hà Nội.

51. Quốc hội (2016), Luật Trẻ em năm, Hà Nội.

52. Phạm Ngọc Sơn (2020), “Quản lý nhà nước bằng pháp luật về hộ tịch

trên địa bàn tỉnh Ninh Bình”, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Trường Đại

học Vinh, Nghệ An.

53. Vũ Xuân Thái (1999), "Gốc và Nghĩa từ Việt thông dụng", NXB Văn

hóa thông tin, Hà Nội.

54. Trung tâm Thông tin khoa học – Viện Nghiên cứu lập pháp - Ủy ban

Thường vụ Quốc hội (2013), Thông tin chuyên đề “Một số vấn đề lý

luận và so sánh pháp luật về hộ tịch”, Hà Nội.

55. Nguyễn Anh Tú (2018), “Quản lý nhà nước về hộ tịch tại các tỉnh biên

giới phía Bắc Việt Nam hiện nay”, Luận án tiến sĩ Quản lý công, Học

viện Hành chính Quốc gia, Hà Nôi.

56. Viện ngôn ngữ học (Hoàng Phê chủ biên) (1998), Từ điển tiếng Việt, in

105

lần thứ 5, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng.

57. Viện nghiên cứu khoa học pháp lý (1995), Chuyên đề thông tin khoa

học pháp lý về hộ tịch,Hà Nội.

58. Viện Sử học (1983), Đại Việt sử ký toàn thư, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

59. Website Dự thảo online (duthaoonline.quochoi.vn), vị trí vai trò của

công tác đăng ký quản lý hộ tịch và các giải pháp thực hiện, tác giả

Phan Thanh Tâm.

60. Website Tạp chí dân chủ và pháp luật (tcdcpl.moj.gov.vn), một số vấn

đề về triển khai Luật Hộ tịch, tác giả Uyên Nhi.

61. Website Thư viện pháp luật (thuvienphapluat.vn), truy cập các Nghị

quyết, Nghị định, Thông tư, Quyết định liên quan.

62. Website huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình (kimson.ninhbinh.gov.vn).

63. Website tỉnh Hà Nam (hanam.gov.vn).

64. Website quận Long Biên, thành phố Hà Nội (Longbien.hanoi.gov.vn)./.

106

Phụ lục số 1

TIÊU CHUẨN CÔNG CHỨC TƢ PHÁP - HỘ TỊCH CẤP XÃ TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN KIM SƠN

(Tính đến tháng 12/2019)

Đơn vị tính: Người

Chuyên môn

Chính trị

Luật

Khác

Stt

Tên xã

Tin học A

Đạt chuẩn

Trình độ văn hóa

Chƣa đạt chuẩn

ĐH TC ĐH

TC

Tổng số công chức tƣ pháp - hộ tịch

Đã bồi dƣỡng nghiệp vụ Hộ tịch

Sơ cấp

Trung cấp

1

1

1

1

1

1

1

1 1

1 1

1

1

Xuân Thiện Chính Tâm Chất Bình Hồi Ninh Kim Định Ân Hòa Hùng Tiến Như Hòa

1 1

1

1

Phát Diệm

1 1 2 2 2 2 2 2 2 1 1 1 2 2

12/12 12/12 12/12 12/12 12/12 12/12 12/12 12/12 12/12 12/12 12/12 12/12 12/12 12/12

2 2 1 1 1 1 1 1 1

1 1 1

1 1 2 1 2 1 1 2 1

1 1 2 2 2 2 2 2 2 1 1 1 2 2

1 2 3 4 5 6 7 8 9 Quang Thiện 10 Đồng Hướng Yên Mật 11 Kim Chính 12 13 Thượng Kiệm 14

1 1 1 2 2 2 1 2 1 1 1 2 2

1 1 1 2 2 2 1 2 1 1 1 2 2

1

1

1

1

1

1

1 1 1

1 1

1 1

1

1 1

2 1

1 1 2

1

1

1

1

2 1

1

1 1 1 2 2 2 2

1

Lưu Phương Tân Thành Yên Lộc Lai Thành Định Hóa Văn Hải Kim Mỹ Cồn Thoi Bình Minh Kim Tân Kim Hải Kim Trung Kim Đông

1

1

15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27

1 2 2 1 2 2 2 2

1 2 2 1 2 2 2 2

2 1 2 1 2 2 2 3 1 2 2 3 2 48

12/12 12/12 12/12 12/12 12/12 12/12 12/12 12/12 12/12 12/12 12/12 12/12 12/12 1192779

10

25

1 1 1 1 2 1 2 1 3 25

2 1 2 1 2 2 2 3 1 2 2 3 2 48

Tổng cộng

11

2

10

36

36

12

(Nguồn: Phòng Tư pháp, Phòng Nội vụ huyện Kim Sơn)

Phụ lục số 02

SỔ LƢỢNG CÔNG CHỨC TƢ PHÁP - HỘ TỊCH TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN

(Từ năm 2016 - 2019)

Đơn vị tính: Người

Chuyên môn

Chính trị

Luật

Khác

Stt

Năm

Nữ

Trình độ văn hóa

Tin học

Đạt chuẩn

Tổng số công chức tƣ pháp - hộ tịch

ĐH

TC

ĐH

TC

Sơ cấp

Trung cấp

1

39

12

12/12

20

12

6

1

17

17

25

24

Năm 2016

2

49

14

12/12

28

2

10

12

29

35

35

9

Năm 2017

3

49

14

12/12

28

2

10

12

29

35

35

9

Năm 2018

4

48

14

12/12

24

10

2

10

10

25

36

36

Năm 2019

(Nguồn: Phòng Tư pháp, Phòng Nội vụ huyện Kim Sơn)

Phụ lục số 03

KẾT QUẢ ĐĂNG KÝ HỘ TỊCH TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN

(Từ năm 2016 - 2019)

Đơn vị tính: Trường hợp

Số lƣợng đăng ký

TT

Nội dung đăng ký

Năm 2016 Quá hạn

Năm 2018 Quá hạn

1

Đăng ký khai sinh

Đúng hạn 3.657

251

Đăng ký lại 1.189

Đúng hạn 3.571

Năm 2017 Quá hạn 228

Đăng ký lại 1.503

Đúng hạn 2.948

Năm 2019 Quá hạn 221

Đúng hạn 3.656

Đăng ký lại 1.106

Đăng ký lại 1.198

230

2

Đăng ký khai tử

792

101

87

14

861

75

14

786

23

870

79

33

3

1.527

26

1.199

37

1.361

58

1.218

61

4

6

8 33

7 22

7

Đăng ký kết hôn Đăng ký việc nuôi con nuôi Thay đổi hộ tịch Cải chính hộ tịch

168

196

8 Bổ sung hộ tịch

6 15 53 2

5

6 27 62 15

4

9

10

Xác định lại dân tộc Nhận cha, mẹ con

2 8

1 4

11

Giám hộ

17 11

17 12

12

12

21

11

18

Ghi vào sổ các thay đổi hộ tịch khác

13

1.655

960

1.564

1.567

Cấp giấy xác nhận tình trạng hôn nhân

(Nguồn Phòng Tƣ pháp huyện Kim Sơn)

Phụ lục số 04

SỐ LƢỢNG CÔNG CHỨC TƢ PHÁP - HỘ TỊCH

CÒN THIẾU THEO LOẠI XÃ

Tên xã

(Tính đến tháng 12/2019)

Stt

Loại xã

Diện tích (Km2)

Dân số (Ngƣời)

Số công chức còn thiếu theo xã

Tổng số công chức tƣ pháp - hộ tịch (Ngƣời) 1

Xuân Thiện

3,79

3

1

2.636

Chính Tâm

3,16

3

1

2

3.052

Chất Bình

5,92

2

2

3

5.661

Hồi Ninh

5,74

2

2

4

5.636

Kim Định

4,9

2

2

5

5.981

Ân Hòa

7,35

2

2

6

7.846

Hùng Tiến

5,36

2

2

7

5.993

Như Hòa

5,19

2

2

8

5.660

Quang Thiện

8,09

2

2

9

9.347

Đồng Hướng

6,77

2

1

1

10

8.697

Yên Mật

2,23

3

1

11

2.166

Kim Chính

7,23

2

1

1

12

8.555

Thượng Kiệm

6,83

2

2

13

6.914

Phát Diệm

1,05

2

2

14

9.768

Lưu Phương

6,47

2

2

15

7.747

Tân Thành

4,45

3

1

16

4.905

Yên Lộc

7,12

2

2

Lai Thành

10,49

8.797 12.963

2

1

17 18

1

19

Định Hóa Văn Hải

6,64 6,64

7.442

2 2

2 2

20

Kim Mỹ

8,49

1

2

1

21

8.502 11.213

Cồn Thoi

8,31

1

3

22

9.051

Bình Minh

9,11

3

1

23

4.193

Kim Tân

8,16

2

2

24

7.006

Kim Hải

5,76

1

2

1

25

4.023

Kim Trung

4,47

1

3

26

4.585

Kim Đông

6,52

1

2

1

27

Tổng cộng

166,24

48

7

4.983 183.322

(Nguồn Phòng Tƣ pháp, Phòng Nội vụ huyện Kim Sơn)