BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ …………/………… …../…..
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
LÊ THÀNH NHÂN
QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ HỘ TỊCH
TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN KIM SƠN, TỈNH NINH BÌNH
LUẬN VĂN THẠC SỸ QUẢN LÝ CÔNG
HÀ NỘI - NĂM 2020
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ …………/………… …../…..
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
LÊ THÀNH NHÂN
QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ HỘ TỊCH
TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN KIM SƠN, TỈNH NINH BÌNH
LUẬN VĂN THẠC SỸ
CHUYÊN NGÀNH: QUẢN LÝ CÔNG
MÃ SỐ: 8 34 04 03
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. VŨ THỊ MINH NGỌC
HÀ NỘI - NĂM 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi; các kết
quả trong luận văn chưa được công bố trong bất kì công trình nghiên cứu
khoa học nào khác. Các số liệu, ví dụ, bảng kê và trích dẫn trong luận văn
được tác giả trích dẫn nguồn đầy đủ, đúng quy định của cơ sở đào tạo.
Tác giả luận văn
Lê Thành Nhân
LỜI CẢM ƠN
Sau thời gian học tập và nghiên cứu tại Học viện Hành chính Quốc gia,
tôi đã hoàn thành Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Quản lý công.
Xin trân trọng cảm ơn TS. Vũ Thị Minh Ngọc, người đã tận tình hướng
dẫn, giúp đỡ tôi trong suốt thời gian nghiên cứu và hoàn thành Luận văn.
Xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Ban Giám đốc Học viện Hành chính
Quốc gia, Khoa Sau đại học và toàn thể các giảng viên của Học viện đã trực
tiếp giảng dạy, truyền đạt các kiến thức cũng như tạo điều kiện thuận lợi cho
tôi hoàn thành Luận văn.
Cảm ơn gia đình, bạn bè và đồng nghiệp đã tạo điều kiện tốt nhất để tôi
hoàn thành Luận văn.
Hà Nội, ngày tháng năm 2020 Tác giả luận văn Lê Thành Nhân
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
NỘI DUNG ................................................................................................... 9
Chƣơng 1 ...................................................................................................... 9
CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ HỘ TỊCH ......... 9
1.1. Các khái niệm công cụ ............................................................................ 9
1.2. Nội dung, nguyên tắc, vai trò của quản lý nhà nước về hộ tịch .............. 20
1.3. Yếu tố ảnh hưởng đến quản lý nhà nước về hộ tịch trên địa bàn cấp huyện ..... 30
1.4. Kinh nghiệm Quản lý nhà nước về hộ tịch ở một số địa phương............ 35
Tiểu kết Chương 1 ........................................................................................ 41
Chƣơng 2 .................................................................................................... 43
THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ HỘ TỊCH TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN KIM SƠN TỈNH NINH BÌNH ....................... 43
2.1. Khái quát về huyện Kim Sơn tỉnh Ninh Bình ........................................ 43
2.2. Phân tích thực trạng quản lý nhà nước về hộ tịch trên địa bàn huyện Kim
Sơn tỉnh Ninh Bình, giai đoạn 2016 - 2019 .................................................. 47
2.3. Đánh giá thực trạng công tác quản lý, đăng ký hộ tịch trên địa bàn huyện
Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình, giai đoạn 2016 - 2019.......................................... 63
Tiểu kết chương 2 ........................................................................................ 75
Chƣơng 3 .................................................................................................... 77
ĐỊNH HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ HỘ TỊCH TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN KIM SƠN, TỈNH NINH BÌNH .... 77
3.1. Định hướng bảo đảm quản lý nhà nước về hộ tịch ................................. 77
3.2. Một số giải pháp tăng cường quản lý nhà nước về hộ tịch trên địa bàn
huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình ................................................................... 81
Tiểu kết Chương 3 ........................................................................................ 97
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................ 101
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Số hiệu Tên biểu đồ Trang
51
Biểu đồ số 2.1 Trình độ lý luận, chính trị của công chức Tư pháp - Hộ tịch trên địa bàn huyện Kim Sơn, tháng 12/2019
51
Biểu đồ số 2.2 Trình độ đào tạo của công chức Tư pháp - Hộ tịch trên địa bàn huyện Kim Sơn, tháng 12/2019
52
Trình độ tin học của công chức Tư pháp - Hộ tịch trên địa bàn huyện Kim Sơn, tháng 12/2019 Biểu đồ số 2.3
Tỷ lệ đăng ký khai sinh quá hạn theo từng năm
Biểu đồ số 2.4 (2016 - 2029) 55
Tỷ lệ đăng ký khai tử quá hạn theo từng năm
Biểu đồ số 2.5 (2016 - 2019) 56
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quản lý nhà nước về hộ tịch đã là một yêu cầu mà nhà nước luôn quan
tâm, dành nhiều thời gian, công sức và tiền của cho lĩnh vực này. Theo quy
định thì hộ tịch là những sự kiện cơ bản xác định tình trạng nhân thân của một
người từ khi sinh ra đến khi chết, liên quan trực tiếp đến quyền cơ bản của
công dân. Các sự kiện nhân thân cơ bản nhất của mỗi cá nhân được đăng ký
và quản lý trong hộ tịch gồm có: Khai sinh; kết hôn; giám hộ; nhận cha, mẹ,
con; thay đổi, cải chính hộ tịch, xác định lại dân tộc, bổ sung thông tin hộ
tịch; khai tử,...
Nhận thức được tầm quan trọng của công tác quản lý hộ tịch trong tiến
trình phát triển của xã hội, trong thời gian qua Đảng và Nhà nước đã ban hành
nhiều chính sách, pháp luật về quản lý hộ tịch bước đầu tạo cơ sở pháp lý
vững chắc cho hoạt động này. Trong đó, Luật Hộ tịch ra đời, có hiệu lực từ
ngày 01/01/2016 với nhiều chế định mới, phân cấp mới, thủ tục mới, Luật Hộ
tịch đã thổi một luồng sinh khí mới cho công tác đăng ký và quản lý hộ tịch
và đích đến là gần gũi hơn với người dân, phục vụ tốt hơn các yêu cầu của
người dân và các cơ quan, tổ chức có liên quan.
Trong những năm qua, nhất là từ ngày 01/01/2016, áp dụng thực hiện
Luật Hộ tịch năm 2014, công tác quản lý và đăng ký hộ tịch trên địa bàn
huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình đã có nhiều chuyển biến tích cực. Tuy nhiên,
trên địa bàn huyện hiện nay, công tác đăng ký và quản lý hộ tịch vẫn còn một
số hạn chế, bất cập, chưa đáp ứng được yêu cầu cải cách hành chính và cải
cách tư pháp. Nhiều cơ quan, tổ chức, đoàn thể chưa xác định đúng giá trị
pháp lý của giấy tờ hộ tịch, còn gây nhiều khó khăn cho công dân, nhất là giá
trị pháp lý của Giấy khai sinh. Thực trạng trên có nguyên nhân xuất phát từ
nhận thức chưa đầy đủ quy định của pháp luật về đăng ký và quản lý hộ tịch
1
của một bộ phận cán bộ, công chức và người dân; sự phối hợp thiếu nhịp
nhàng giữa các cơ quan liên quan trong việc giải quyết những sai sót trong hồ
sơ, giấy tờ cá nhân; công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về
đăng ký và quản lý hộ tịch chưa thực sự sâu, rộng; năng lực thực thi công vụ
của một số công chức còn hạn chế.
Những hạn chế này đã làm giảm hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về
hộ tịch, ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Vì vậy,
nghiên cứu quản lý nhà nước về hộ tịch nói chung cũng như ở thực tế của
huyện Kim Sơn nói riêng nhằm làm rõ hơn nữa cơ sở khoa học của quản lý hộ
tịch, chỉ ra hạn chế và nguyên nhân của các hạn chế; trên cơ sở đó, đưa ra
những khuyến nghị góp phần nâng cao hơn nữa hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà
nước về hộ tịch trên địa bàn huyện là một vấn đề được quan tâm hiện nay. Vì
thế tôi lựa chọn đề tài “Quản lý nhà nước về hộ tịch trên địa bàn huyện Kim
Sơn, tỉnh Ninh Bình” làm đề tài Luận văn tốt nghiệp thạc sĩ ngành Quản lý
công của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn
Đề tài hộ tịch đã thu hút sự quan tâm, chú ý của nhiều nhà khoa học,
những người làm công tác lý luận nghiên cứu ở nhiều khía cạnh, góc độ khác
nhau kể cả trong nước và trên thế giới. Cho đến nay, đã có nhiều công trình
khoa học nghiên cứu về hộ tịch của cá nhân, tập thể được công bố. Về tổng
thể, các nghiên cứu đã đi sâu nghiên cứu làm rõ bản chất, nội dung, lịch sử
quản lý hộ tịch, các sự kiện, phương thức quản lý và đăng ký hộ tịch. Các tác
giả cũng chỉ ra các phương hướng và giải pháp nhất định nhằm nâng cao hiệu
quả quản lý nhà nước về hộ tịch; cụ thể một số nhóm công trình như:
Thứ nhất, nhóm các công trình nghiên cứu lý luận về hộ tịch và quản
lý hộ tịch:
2
- Viện nghiên cứu khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp (1995), “Chuyên
đề thông tin khoa học pháp lý về hộ tịch”[59]: Là công trình tổng kết, khái
quát với trọng tâm là các thông tin khoa học pháp lý về hộ tịch ở Việt Nam
qua nhiều giai đoạn.
- Phạm Trọng Cường (2007), Từ quản lý đinh đến quản lý hộ tịch,
NXB Tư Pháp, Hà Nội [26]: Trong cuốn sách chuyên khảo này, tác giả đã
khái quát từ quản lý đinh có liên quan đến thuế thân, nộp thân còn gọi là
thuế đinh - một trong thứ thuế của chế độ phong kiến và quân chủ, đến quản
lý hộ tịch trong xã hội hiện đại với nhiều kiến thức có giá trị cho các nhà
nghiên cứu.
- Giáo trình Quản lý hành chính - tư pháp của Học viện Hành chính,
Nhà xuất bản khoa học kỹ thuật, năm 2008 (dành cho đào tạo trung cấp
hành chính) [35]: Cuốn giáo trình hướng đến nhóm đối tượng ở bậc trung
học hành chính, nhằm trang bị cho nhóm đối tượng này kiến thức, kỹ năng
liên quan đến hoạt động hành chính và tư pháp trong thực tiễn.
Thứ hai, nhóm các công trình hướng dẫn nghiệp vụ:
- Bộ Tư pháp (2006) “Hướng dẫn nghiệp vụ Đăng ký và quản lý hộ
tịch”, NXB Tư pháp, Hà Nội [5]: Tài liệu hướng dẫn nghiệp vụ cụ thể đối với
công tác đăng ký và quản lý hộ tịch của các chủ thể có thẩm quyền trên cơ sở
các văn bản quy phạm pháp luật về hộ tịch đang có hiệu lực thi hành.
- Bộ Tư pháp (2010) “Tài liệu Hướng dẫn nghiệp vụ Tư pháp xã,
phường, thị trấn”, NXB Tư pháp, Hà Nội [8]: Trong chuyên đề số 4, các tác
giả đã khái quát chung về nhiệm vụ, quyền hạn của UBND các xã, phường,
thị trấn và công chức tư pháp - hộ tịch trong quản lý nhà nước về hộ tịch;
nghiên cứu cụ thể các quy định của pháp luật về hộ tịch và đăng ký hộ tịch;
hướng dẫn cụ thể về thẩm quyền, trình tự, thủ tục đăng ký hộ tịch tại UBND
cấp xã.
3
- Bộ Tư pháp (2019) "Tài liệu bồi dưỡng nghiệp vụ tư pháp cấp
huyện"; NXB Tư pháp, Hà Nội [9]: Trong chuyên đề "Công tác đăng ký, quản
lý Hộ tịch của UBND, Phòng Tư pháp cấp huyện", tác giả đã làm rõ, nhiệm
vụ, quyền hạn của UBND cấp huyện trọng quản lý nhà nước về Hộ tịch ở địa
phương, đồng thời hướng dẫn các kỹ năng, nghiệp vụ giải quyết các việc hộ
tịch cụ thể thuộc thẩm quyền.
Thứ ba, nhóm các công trình khoa học mang tính ứng dụng: Chủ yếu là
các luận văn ngành quản lý công; ngành luật, cụ thể:
- Phạm Hồng Hoàn, Quản lý nhà nước về hộ tịch ở cấp xã trên địa bàn
huyện Đan Phượng, thành phố Hà Nội, Luận văn Thạc sĩ quản lý hành chính
công, 2011 [33]: Tác giả đã tập trung nghiên cứu về mặt không gian được giới
hạn ở các xã trên địa bàn huyện Đan Phượng, thành phố Hà Nội; tác giả đã
làm rõ hơn nữa cơ sở lý luận, thực tiễn của quản lý nhà nước về hộ tịch; đánh
giá thực trạng quản lý nhà nước về hộ tịch ở cấp xã, huyện Đan Phượng; nêu
ra những kết quả đạt được và hạn chế cũng như nguyên nhân của chúng. Qua
đó đưa ra những đề xuất góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả của quản lý
nhà nước về hộ tịch trên địa bàn cấp xã, huyện Đan Phượng.
- Trần Thị Thu Hiền, Quản lý nhà nước về hộ tịch ở cấp xã trên địa bàn
huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội, Luận văn Thạc sĩ quản lý công, Học viện
Hành chính quốc gia, 2016 [34]: Luận văn đã hệ thống hóa cơ sở lý luận và
đánh giá thực trạng công tác quản lý nhà nước về hộ tịch ở cấp xã của huyện
Hoài Đức, thành phố Hà Nội; xác định được phương hướng, giải pháp tiếp tục
hoàn thiện quản lý nhà nước về hộ tịch ở cấp xã, huyện Hoài Đức, thành phố
Hà Nội.
- Trương Thị Vân Anh, Quản lý nhà nước về hộ tịch ở cấp xã, thực tiễn
ở huyện Mê Linh, Thành phố Hà Nội, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Khoa Luật -
Đại học Quốc gia Hà Nội, 2015 [2]: Luận văn nghiên cứu cơ sở lý luận và
4
thực tiễn của quản lý nhà nước về hộ tịch cấp xã; tìm hiểu và làm rõ các mô
hình quản lý và đăng ký hộ tịch ở Việt Nam qua các thời kỳ; đánh giá thực
trạng quản lý nhà nước về hộ tịch ở cấp xã huyện Mê Linh, thành phố Hà Nội,
tìm ra nguyên nhân của những hạn chế và đề ra các giải pháp cơ quan để hoàn
thiện quản lý nhà nước về hộ tịch ở cấp xã trên địa bàn huyện Mê Linh, thành
phố Hà Nội.
- Phạm Ngọc Sơn, Quản lý nhà nước bằng pháp luật về hộ tịch trên địa
bàn tỉnh Ninh Bình, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Đại học Vinh, 2020 [52]: Tác
giả đã làm rõ hơn những vấn đề lý luận liên quan đến quản lý nhà nước bằng
pháp luật về hộ tịch; thực trạng quản lý nhà nước bằng pháp luật về hộ tịch
trên địa bàn tỉnh Ninh Bình và đề xuất quan điểm và giải pháp để nâng cao
hiệu quả công tác này trên địa bàn tỉnh Ninh Bình trong thời gian tới.
Thứ tư, những bài báo khoa học riêng lẻ:
- Bài “Yêu cầu đối với quản lý nhà nước về hộ tịch”, tác giả Phạm
Trọng Cường, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, tháng 12 năm 2004 [28]: Tác
giả nêu lên kết quả thực hiện Nghị định 83/1998/NĐ-CP về đăng ký hộ tịch
và thực hiện Đề án 278/TP-HT ngày 23/4/2001 và thực hiện Nghi quyết số
35/2000/QH10 ngày 09/6/2000 của Quốc hội). Qua kết quả đạt được trong
thời gian tới yêu cầu đặt ra đối với công tác đăng ký và quản lý nhà nước về
hộ tịch cần thiết phải thể hiện được tính kịp thời trong thực hiện các sự kiện
hộ tịch phát sinh cho nhân dân, hạn chế đăng ký quá hạn, hoặc chung sống
như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn; tính đầy đủ cũng được tác giả đề
cập đến sổ sách lưu gữi, mẫu hiểu, hồ sơ phải đảm bảo tính đồng đều; tính
chính xác, khách quan.
- Bài “Thực trạng đội ngũ công chức Tư pháp - Hộ tịch và yêu cầu
chuẩn hoá” của tác giả Trần Thị Lệ Hoa, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số
chuyên đề pháp luật hộ tịch năm 2013 [32]: Tác giả đã thống kê và phản ánh
5
thực trạng đội ngũ công chức tư pháp - hộ tịch cấp xã trong cả nước; xu thế
công tác đăng ký và quản lý hộ tịch trong tình hình mới ở nước ta và những
yêu cầu cần phải chuẩn hóa đội ngũ công chức Tư pháp Hộ tịch.
Các công trình nghiên cứu, mặc dù đã nghiên cứu làm rõ bản chất, nội
dung, lịch sử quản lý hộ tịch, các sự kiện, phương thức quản lý và đăng ký hộ
tịch và đề xuất những giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về hộ
tịch. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu trên mới đưa ra các giải pháp
chung, được nghiên cứu ở các lĩnh vực, các địa phương khác nhau, chưa đi
sâu nghiên cứu thực tiễn quản lý nhà nước về hộ tịch trên địa bàn huyện Kim
Sơn tỉnh Ninh Bình.
3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà
nước về hộ tịch trên địa bàn huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
- Nghiên cứu cơ sở khoa học của quản lý nhà nước về hộ tịch, quản lý
nhà nước về hộ tịch ở cấp huyện, cấp xã.
- Phân tích thực trạng quản lý nhà nước về hộ tịch trên địa bàn tỉnh
huyện Kim Sơn từ năm 2016 đến hết năm 2019, đánh giá những kết quả đạt
được và hạn chế, các nguyên nhân của hạn chế.
- Đưa ra những định hướng và giải pháp góp phần đảm bảo quản lý nhà
nước về hộ tịch trên địa bàn huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình trong thời gian tới.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là cơ sở khoa học của quản lý nhà
nước về hộ tịch và công tác quản lý nhà nước về Hộ tịch trên địa bàn huyện
Kim Sơn tỉnh Ninh Bình.
6
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn giới hạn phạm vi nghiên cứu là nội dung hoạt động quản lý
nhà nước về hộ tịch tại Ủy ban nhân dân (UBND) huyện và UBND của 27 xã,
thị trấn trên địa bàn huyện Kim Sơn tỉnh Ninh Bình từ trong khoảng thời gian
từ 01/01/2016 đến hết năm 2019. Cụ thể:
Về không gian: 27 xã, thị trấn trên địa bàn huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh
Bình.
Về thời gian: 01/01/2016 - 31/12/2019.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Phương pháp luận
Luận văn được nghiên cứu dựa trên quan điểm và phương pháp luận
của chủ nghĩa Mác - Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về quản lý nhà nước.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Các phương pháp tác giả sử dụng trong luận văn là: Phương pháp phân
tích tài liệu thứ cấp; phương pháp quan sát, phỏng vấn,…
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Làm rõ cơ sở khoa học của quản lý nhà nước về hộ tịch thông qua các
nội dung: Khái niệm, đặc điểm, vai trò cũng như nội dung của quản lý nhà
nước về hộ tịch ở cấp huyện, cấp xã. Đồng thời chỉ ra các yếu tố tác động đến
quản lý nhà nước về hộ tịch ở cấp huyện, cấp xã.
- Làm rõ thực trạng quản lý nhà nước về hộ tịch trên địa bàn huyện
Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình; nhận xét, đánh giá về mức độ, hiệu quả thi hành
pháp luật về hộ tịch trên địa bàn huyện. Qua đó, đề xuất một số giải pháp
nhằm nâng cao hiệu quả, hiệu lực quản lý nhà nước về hộ tịch trên địa bàn
huyện Kim Sơn tỉnh Ninh Bình.
7
- Làm tài liệu tham khảo trong việc tổng kết thực tiễn, đề xuất giải pháp
bảo đảm thực hiện pháp luật về hộ tịch, cũng như nghiên cứu, giảng dạy của
các tổ chức, cá nhân liên quan.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục và tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn được cấu trúc trong 3 chương:
Chương 1. Cơ sở khoa học của quản lý nhà nước về hộ tịch.
Chương 2. Thực trạng công tác quản lý nhà nước về hộ tịch trên địa bàn
huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình.
Chương 3. Định hướng và giải pháp đảm bảo thực hiện quản lý nhà
nước về hộ tịch trên địa bàn huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình.
8
NỘI DUNG
Chƣơng 1
CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ HỘ TỊCH
1.1. Các khái niệm công cụ
1.1.1. Hộ tịch
Những quan niệm về thuật ngữ ”hộ tịch” được thể hiện khá đầy đủ và
đa diện theo nghiên cứu Thông tin chuyên đề - Một số vấn đề lý luận và so
sánh pháp luật về hộ tịch của Viện Nghiên cứu Lập pháp, theo đó:
* Về khía cạnh ngôn ngữ
“Hộ tịch” là một từ ngoại lai được du nhập vào ngôn ngữ tiếng Việt
nhưng chưa xác định thời điểm xuất hiện. Khảo cứu qua các bộ sử liệu như :
“Lịch triều hiến chương loại chí”, “Đại Việt sử ký toàn thư”, “Việt sử thông
cương mục”,.. có thể thấy thuật ngữ “hộ tịch” đã xuất hiện từ rất sớm, bên
cạnh nó còn các từ cổ có liên quan và cùng nằm trong phạm trù quản lý dân
dân cư: “hộ khẩu”, “sổ dân bạ”, “tiểu điển”, “đại điển”, “phụ tịch”, “chính
hộ”, “khách hộ”, v.v... Tuy nhiên, theo “Đại Nam Quốc âm tự vị”, cuốn từ
điển của tác giả Paulus Huỳnh Tịnh Của biên soạn năm 1895 với phương
pháp “tham dụng chữ Nho và lấy 24 chữ cái phương Tây làm chữ bộ” thì
trong bộ chữ “hộ” chưa có từ “hộ tịch” [25].
“Hộ tịch” là một từ ghép gốc Hán chính phụ, được ghép bởi hai thành
tố có nghĩa độc lập, trong đó “tịch” là thành tố chính. Các từ điển tiếng Việt
hiện nay khá thống nhất trong cách hiểu về từng từ đơn này. Theo đó, từ “hộ”
- khi sử dụng là danh từ có nhiều nghĩa khác nhau, nhưng trong đó có một
nghĩa trực tiếp là “dân sự” hoặc “nhà ở”, hiểu rộng ra là “đơn vị để quản lý
dân số, gồm những người cùng ăn ở với nhau”. Tương tự, từ “tịch” có nghĩa
là “sổ sách” hoặc là “sổ sách đăng ký quan hệ lệ thuộc”. Tuy nhiên, việc tổ
hợp hai từ đơn này thành danh từ “hộ tịch” lại là một trường hợp rất đặc biệt
9
về mặt ngôn ngữ, và được sử dụng với thuộc tính kết hợp hạn chế (hạn chế về
việc sử dụng và khả năng tổ hợp của từ ngữ). Chính do tính chất đặc biệt ấy
nên khảo cứu qua các từ điển tiếng Việt thì thấy có nhiều cách giải nghĩa từ
“hộ tịch” rất khác nhau, cụ thể một số trường hợp:
Các Từ điển Hán - Việt của nhiều tác giả khác nhau (Đào Duy Anh,
Nguyễn Văn Khôn, Bửu Kế,…) đều có sự tương đồng và những khía cạnh
khác biệt trong cách giải nghĩa từ “hộ tịch”. Một số cách giải nghĩa như:
“Hộ tịch: Quyển sổ của Chính phủ biên chép số người, chức nghiệp và
tịch quán của từng người” [1, tr.384];
“Hộ tịch: Sổ biên dân số có ghi rõ tên họ, quê quán và chức nghiệp của
từng người” [40, tr.404];
“Hộ tịch: Sổ sách ghi chép tên, họ, nghề nghiệp dân cư ngụ trong xã
phường” [38, tr.814];
Như vậy, nghĩa của từ "hộ tịch" xét về góc độ ngôn ngữ còn tồn tại
nhiều cách hiểu khác nhau.
* Về khía cạnh pháp lý trong lịch sử ở Việt Nam và thế giới
- Quan niệm của một số học giả miền Nam Việt Nam thời kỳ trước năm
1975, theo nghiên cứu của tác giả Nguyễn Anh Tú [55, tr.28-29]:
Thuật ngữ “hộ tịch” lần đầu tiên được định nghĩa trong các giáo trình
giảng dạy của Đại học Luật khoa Sài Gòn dưới chế độ Việt Nam Cộng hoà,
trong đó nổi lên quan điểm của một số tác giả sau:
Tác giả Phan Văn Thiết có thể coi là người đầu tiên trình bày quan
niệm “hộ tịch” trong cuốn tài liệu chuyên khảo xuất bản năm 1958 như sau:
“Hộ tịch - còn gọi là nhân thế bộ - là cách sinh hợp pháp của một công
dân trong gia đình và trong xã hội. Hộ tịch căn cứ vào ba hiện tượng quan
trọng nhất của con người: sinh, giá thú và tử”.
10
Các tác giả Vũ Văn Mẫu - Lê Đình Chân lại trình bày một định nghĩa
khác về khái niệm “hộ tịch”:
“Hộ tịch là sổ biên chép các việc liên hệ đến các người trong nhà. Hộ
tịch gồm ba sổ để ghi chép các sự khai giá thú, khai sinh và khai tử”.
Tác giả Trần Thúc Linh, tác giả cuốn Danh từ pháp luật lược giải - vốn
được đánh giá là một trong những từ điển chuyên ngành pháp lý đầu tiên -
không đưa ra định nghĩa về “hộ tịch” mà chỉ định nghĩa “chứng thư hộ tịch”:
“Chứng thư hộ tịch là những giấy tờ công chứng dùng để chứng minh
một cách chính xác thân trạng người ta như ngày tháng sanh, tử, giá thú, họ
tên, con trai con gái, con chính thức hay con tư sanh, tư cách vợ chồng... tóm
lại tình trạng xã hội của con người từ lúc sinh ra đến khi chết.
Các sổ sách hộ tịch ghi lại mọi việc sanh, tử, giá thú và các việc thay
đổi về thân trạng người ta (nhìn nhận con ngoại hôn, chính thức hoá con tư
sinh, khước từ phụ hệ, ly thân...)”.
Nhìn một cách tổng quát có thể thấy các học giả miền Nam Việt Nam
thời kỳ trước năm 1975, tuy đưa ra những cách định nghĩa khác nhau về “hộ
tịch” nhưng trong những cách định nghĩa này đều chỉ ra các dấu hiệu đặc
trưng của hộ tịch, đó là:
Hộ tịch là việc ghi chép các quan hệ gia đình của một người;
Các quan hệ gia đình thuộc phạm vi quan tâm của hộ tịch phải là những
quan hệ phát sinh trên cơ sở ba sự kiện quan trọng trong cuộc đời mỗi con
người, đó là: Sự kiện sinh, hôn nhân và tử;
Chứng thư hộ tịch là những loại giấy tờ pháp lý có giá trị chứng minh
chính xác các đặc điểm nhân thân cơ bản của một cá nhân.
- Quan niệm của khoa học pháp lý nước ngoài
Theo nghiên cứu của tác giả Nguyễn Anh Tú [55, tr.30-31] từ khía cạnh
pháp lý, “hộ tịch” được định nghĩa trong một số tài liệu nước ngoài như sau:
11
Trong tiếng Anh, khái niệm “Civil Registration” được hiểu là “Việc
đăng ký đúng hạn các sự kiện sinh, tử, kết hôn với chính quyền trong thời hạn
quy định”.
Trong tiếng Đức, khái niệm “das Personenstandsregister” được hiểu là
"Việc đăng ký công về tình trạng dân sự của mỗi cá nhân được thực hiện bởi
các cơ quan hộ tịch".
Trong Bộ luật dân sự của Cộng hoà Pháp, chế định hộ tịch là một trong
những chế định hết sức quan trọng. Tuy nhiên, luật dân sự Pháp không đưa ra
khái niệm về hộ tịch mà chỉ đưa ra khái niệm chứng thư hộ tịch.
- Khái niệm “hộ tịch” trong hệ thống pháp luật Việt Nam trước đây
Khái niệm “hộ tịch” cũng là một trường hợp đặc biệt trong hệ thống
khái niệm pháp lý tiếng Việt. Khái niệm này hoàn toàn không dễ định nghĩa
một cách minh bạch, điều đó cũng có nghĩa là việc sử dụng nó không thuận
tiện theo nguyên tắc sử dụng ngôn ngữ khi xây dựng văn bản quy phạm pháp
luật. Đã từng có những cuộc thảo luận trong giới chuyên môn về việc thay thế
khái niệm này bằng một khái niệm khác thông dụng hơn, dễ hiểu hơn. Tuy
nhiên, do khái niệm này, trải qua một quá trình lịch sử đã dần trở thành ngôn
ngữ phổ thông, ăn sâu trong nhận thức nhân dân nên giải pháp đi tìm khái
niệm Việt hoá thay thế không được lựa chọn, thay vào đó, các nhà xây dựng
pháp luật đã dung hoà bằng giải pháp mà Luật Ban hành văn bản quy phạm
pháp luật cho phép, đó là sử dụng khái niệm này với tư cách là một thuật ngữ
chuyên môn và được định nghĩa trong văn bản. Theo đó, định nghĩa về “hộ
tịch” được duy trì từ Nghị định số 83/1998/NĐ-CP của Chính phủ ngày
10/10/1998 về đăng ký hộ tịch cho đến Nghị định 158/2005/NĐ-CP ngày
27/12/2005 về đăng ký và quản lý hộ tịch như sau: “Hộ tịch là những sự kiện
cơ bản xác định tình trạng nhân thân của một người từ khi sinh ra đến khi
chết”[18, tr.1]. Cách định nghĩa này, thực chất chỉ là một sự ước định. Về giá
12
trị biểu đạt, với cách định nghĩa như vậy, sẽ chính xác hơn nếu coi đây là định
nghĩa cho thuật ngữ “sự kiện hộ tịch” chứ không phải thuật ngữ “hộ tịch”.
Bên cạnh đó, bản thân cách định nghĩa này cũng chưa xác định được rõ
ràng nội hàm của khái niệm nên cùng với khái niệm “hộ tịch”, Nghị định
158/2005/NĐ-CP còn nêu thêm khái niệm “đăng ký hộ tịch” bằng phương
pháp mô tả, bao gồm: Xác nhận các sự kiện (sinh; kết hôn; tử; nuôi con nuôi;
giám hộ; nhận cha, mẹ, con; thay đổi, cải chính, bổ sung, điều chỉnh hộ tịch;
xác định lại giới tính; xác định lại dân tộc) và Căn cứ vào quyết định của cơ
quan nhà nước có thẩm quyền, ghi vào sổ hộ tịch các việc: xác định cha, mẹ,
con; thay đổi quốc tịch; ly hôn; huỷ việc kết hôn trái pháp luật; chấm dứt
nuôi con nuôi.” [18, tr.1.]
Về mặt kỹ thuật, trong khái niệm “đăng ký hộ tịch”, chữ “tịch” đã có
giá trị biểu đạt tương đương với “đăng ký”, điều này tạo nên sự trùng lặp về ý
nghĩa khi giải thích khái niệm. Đây là một nét đặc trưng của việc sử dụng
ngôn ngữ Hán Việt. Hạn chế này có thể được khắc phục nếu thay thế khái
niệm “đăng ký hộ tịch” bằng khái niệm thuần Việt “đăng ký tình trạng dân
sự”. Tuy nhiên, đây là khái niệm xa lạ với người dân, do đó, việc sử dụng
khái niệm thay thế “đăng ký tình trạng dân sự” mặc dù có thể đạt được sự
chặt chẽ về mặt học thuật nhưng lại không có ưu thế về hiệu quả sử dụng do
không có tính đại chúng, hạn chế khả năng phổ biến trong đời sống xã hội.
* Khái niệm, đặc điểm hộ tịch căn cứ theo Luật Hộ tịch năm 2014
- Khái niệm hộ tịch
Luật Hộ tịch năm 2014 khái niệm về hộ tịch như sau: Hộ tịch là những
sự kiện được quy định tại Điều 3 của Luật này, xác định tình trạng nhân thân
của cá nhân từ khi sinh ra đến khi chết [47, tr.1].
Những sự kiện quy định tại Điều 3 Luật Hộ tịch gồm: Xác nhận vào Sổ
hộ tịch các sự kiện hộ tịch (khai sinh; kết hôn; giám hộ; nhận cha, mẹ, con;
13
thay đổi, cải chính hộ tịch, xác định lại dân tộc, bổ sung thông tin hộ tịch;
khai tử); ghi vào Sổ hộ tịch việc thay đổi hộ tịch của cá nhân theo bản án,
quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền (thay đổi quốc tịch; xác định
cha, mẹ, con; xác định lại giới tính; nuôi con nuôi, chấm dứt việc nuôi con
nuôi; ly hôn, huỷ việc kết hôn trái pháp luật, công nhận việc kết hôn; công
nhận giám hộ; tuyên bố hoặc huỷ tuyên bố một người mất tích, đã chết, bị mất
hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự); ghi vào Sổ hộ tịch sự kiện của công
dân Việt Nam đã được giải quyết của cơ quan có thẩm quyền nước ngoài
(Khai sinh; kết hôn; ly hôn; huỷ việc kết hôn; giám hộ; nhận cha, mẹ, con; xác
định cha, mẹ, con; nuôi con nuôi;thay đổi hộ tịch; khai tử); xác nhận hoặc ghi
vào Sổ hộ tịch các việc hộ tịch khác theo quy định của pháp luật. [47, tr1-2.]
Như vậy, có thể hiểu hộ tịch là những sự kiện xác định tình trạng nhân
thân của cá nhân từ khi sinh ra đến khi chết đi bao gồm: Khai sinh; kết hôn;
giám hộ; nhận cha, mẹ, con; thay đổi, cải chính hộ tịch, xác định lại dân tộc,
bổ sung thông tin hộ tịch; khai tử; thay đổi quốc tịch; xác định cha, mẹ, con;
xác định lại giới tính; nuôi con nuôi, chấm dứt việc nuôi con nuôi; ly hôn, huỷ
việc kết hôn trái pháp luật, công nhận việc kết hôn; công nhận giám hộ; tuyên
bố hoặc huỷ tuyên bố một người mất tích, đã chết, bị mất hoặc hạn chế năng
lực hành vi dân sự.
Có thể thấy, khái niệm "hộ tịch" được quy định trong Luật Hộ tịch năm
2014 cơ bản giống như Nghị định 158/2005/NĐ-CP ngày 27/12/2005 của
Chính phủ, nhưng đã quy định cụ thể hơn, điều này là cần thiết bởi cần phải
có sự thống nhất trong cách hiểu và áp dụng pháp luật về hộ tịch.
- Đặc điểm của hộ tịch:
Từ quan niệm, khái niệm về hộ tịch, có thể thấy, hộ tịch có những đặc
điểm chủ yếu sau:
14
Thứ nhất, hộ tịch là những giá trị gắn liền với mỗi cá nhân (quyền nhân
thân), gắn chặt với cá nhân con người, giúp phân biệt cá nhân này với cá nhân
khác, không thể có điểm chung về nhân thân của người này với người khác.
Mỗi người chỉ có một thời điểm sinh, một thời điểm chết, các dấu hiệu về cha
đẻ, mẹ đẻ, dân tộc, giới tính và là các giá trị nhân thân quan trọng phát sinh
gắn chặt với một con người từ khi sinh ra đến khi chết.
Thứ hai, hộ tịch là những giá trị không chuyển đổi cho người khác.
Theo đó có thể thấy hộ tịch là một giá trị nhân thân không gắn với tài sản, vậy
nên nó không thể bị chuyển dịch cho người khác.
Thứ ba, hộ tịch là có tính phi vật chất, với bản chất của hộ tịch là việc
ghi lại những sự kiện gắn với nhân thân của con người như sự kiện sinh, tử,
kết hôn…do vậy nó có tính chất phi vật chất, không thể cân đong đo đếm
được và cũng không phải là một loại hàng hóa có thể trao đổi trên thị trường.
1.1.2. Quản lý nhà nước về hộ tịch
* Khái niệm quản lý nhà nước về hộ tịch
Quản lý nhà nước về hộ tịch là một nội dung của quản lý nhà nước nói
chung. Đó là hoạt động của các cơ quan có thẩm quyền tiến hành nhằm đảm
bảo cho các hoạt động về hộ tịch được thực hiện đầy đủ và theo đúng mục
tiêu, định hướng của Nhà nước mong muốn. Quản lý nhà nước về hộ tịch thực
chất là quản lý việc thực hiện pháp luật, chính sách của nhà nước liên quan
đến các sự kiện hộ tịch.
Ở nước ta, vấn đề quản lý hộ tịch hình thành từ rất sớm. Trải qua các
thời kỳ phong kiến, thực dân, mặc dù chưa có các quy định cụ thể nhưng vấn
đề quản lý hộ tịch - con người là vấn đề trọng yếu của Nhà nước, luôn được
quan tâm thực hiện bên cạnh vấn đề quản lý đất đai. Điều đó cho thấy công
tác hộ tịch luôn được quan tâm trong bất kì hoàn cảnh nào.
15
Bản Điều lệ hộ tịch được Chính phủ ban hành kèm theo Nghị định số
764/TTg ngày 08/05/1956, gồm 34 điều quy định những nguyên tắc và thủ tục
đăng ký các việc sinh, tử, kết hôn, sửa chữa các điều đã đăng ký; ghi chú các
việc thay đổi về hộ tịch và cấp phát giấy chứng nhận các việc đó. Bản điều lệ
này sau đó được thay thế bằng Nghị định số 04/CP kèm theo Bản Điều lệ
đăng ký hộ tịch (1961). Bản điều lệ này có hiệu lực thi hành từ 01/4/1961 và
có hiệu lực trong gần 40 năm cho đến khi có văn bản mới thay thế. Tuy nhiên,
có thể thấy trong tất cả các văn bản nêu trên các nhà khoa học pháp lý chưa
đưa ra được một khái niệm cụ thể về quản lý hộ tịch.
Khái niệm quản lý nhà nước về hộ tịch được đề cập lần đầu tiên trong
Nghị định số 83/1998/NĐ-CP ngày 10/10/1998 về đăng ký hộ tịch, cụ thể:
“Quản lý hộ tịch được xem là công việc thường xuyên của các cơ quan nhà
nước có thẩm quyền thực hiện để theo dõi thực trạng và sự biến động về hộ
tịch nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức, tạo cơ sở xây
dựng, phát triển kinh tế, xã hội, an ninh quốc phòng và chính sách dân số, kế
hoạch hóa gia đình”[17, tr.1].
Nghị định số 158/2005/NĐ-CP ngày 27/12/2005 tiếp cận khái niệm
quản lý hộ tịch cũng từ góc độ xác định mục đích, cụ thể: “Quản lý hộ tịch là
nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên của chính quyền các cấp nhằm theo dõi
thực trạng và sự biến động về hộ tịch, trên cơ sở đó bảo hộ các quyền và lợi
ích hợp pháp của cá nhân và gia đình, đồng thời góp phần xây dựng các chính
sách về kinh tế, xã hội, an ninh quốc phòng và dân số, kế hoạch hóa gia đình”
[18, tr.1].
Luật Hộ tịch năm 2014 ra đời đã xác định rõ ràng các sự kiện hộ tịch,
nội dung quản lý nhà nước và trách nhiệm quản lý nhà nước về hộ tịch.
Như vậy, các văn bản trên đều hiểu: Quản lý hộ tịch là sự tác động của
cơ quan nhà nước có thẩm quyền tới sự kiện nhân thân của cá nhân nhằm thực
16
hiện chức năng kiểm soát dân cư và phục vụ cho hoạt động quản lý trong các
lĩnh vực khác nhau như: An ninh, quốc phòng, dân số, kế hoạch hóa gia
đình… Hoạt động quản lý hộ tịch hướng đến đối tượng là các sự kiện xác
định tình trạng nhân thân của con người từ khi sinh ra cho đến khi chết.
Những sự kiện này mang đặc điểm là có tính ổn định cao. Nếu có thay đổi thì
sự thay đổi đó phải được xác nhận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và
phải được tiến hành theo một trình tự thủ tục rất chặt chẽ.
Đăng ký hộ tịch là một vấn đề cần quan tâm khi xem xét đến quản lý
nhà nước về hộ tịch. Rất khó để có thể tách rời hai khái niệm: Đăng ký hộ tịch
và quản lý hộ tịch. Bởi lẽ đăng ký hộ tịch cũng là một yếu tố, một động tác cơ
bản của hoạt động quản lý hộ tịch.
Đăng ký hộ tịch là hoạt động nằm trong hoạt động quản lý nhà nước về
hộ tịch của cơ quan hành chính nhà nước. Bên cạnh việc đăng ký hộ tịch, nội
dung của hoạt động quản lý nhà nước về hộ tịch còn thực hiện rất nhiều hoạt
động khác như: Xây dựng pháp luật về hộ tịch; hướng dẫn chỉ đạo nghiệp vụ
chuyên môn về hộ tịch; ban hành và quản lý các loại sổ sách, biểu mẫu hộ
tịch; thống kê hộ tịch; thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại tố cáo về hộ
tịch…
Từ sự phân tích các khái niệm nêu trên, có thể hiểu: Quản lý nhà nước
về hộ tịch là một hình thức hoạt động quản lý của Nhà nước thông qua việc
đăng ký hộ tịch do các chủ thể có thẩm quyền thực hiện trên cơ sở pháp luật
và để thi hành pháp luật trong lĩnh vực hộ tịch, góp phần bảo đảm, bảo vệ
quyền con người, quyền công dân, phục vụ cho công cuộc phát triển kinh tế -
xã hội.
* Đặc điểm của quản lý nhà nước về hộ tịch
Quản lý nhà nước về hộ tịch mang những đặc điểm chủ yếu sau đây:
17
- Quản lý nhà nước về hộ tịch là hoạt động mang tính quyền lực Nhà
nước.
Tính quyền lực nhà nước trong quản lý nhà nước về hộ tịch trước hết
thể hiện ở việc các chủ thể có thẩm quyền thể hiện ý chí nhà nước thông qua
phương tiện nhất định, trong đó phương tiện cơ bản và đặc biệt quan trọng
được sử dụng là các văn bản quản lý hộ tịch
Thông qua việc ban hành văn bản, chủ thể quản lý hộ tịch thể hiện ý chí
của mình dưới dạng các hoạt động áp dụng pháp luật; trực tiếp thực hiện
quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia quan hệ quản lý về hộ tịch; đưa ra
mệnh lệnh chỉ đạo trong tổ chức thực hiện pháp luật trong thực tiễn; cung cấp
thông tin, hướng dẫn người dân để thực hiện việc đăng ký hộ tịch thông qua
hệ thống của bộ máy quản lý hộ tịch của Nhà nước.
Mặt khác, quyền lực nhà nước còn thể hiện trong việc các chủ thể có
thẩm quyền tiến hành những hoạt động cần thiết để bảo đảm thực hiện ý chí
Nhà nước, như các biện pháp về tổ chức, phổ biến, giáo dục, thuyết phục, hòa
giải,… Những biện pháp này là sự thể hiện tập trung và rõ nét của sức mạnh
Nhà nước, một bộ phận tạo nên quyền lực nhà nước, nhờ đó ý chí của chủ thể
quản lý nhà nước về hộ tịch được bảo đảm thực hiện.
- Quản lý nhà nước về hộ tịch là hoạt động được tiến hành với những
chủ thể có quyền năng hành pháp là công chức trong bộ máy nhà nước.
Chủ thể chủ yếu thực hiện quản lý nhà nước về hộ tịch là các cơ quan
quản lý hành chính nhà nước, người có thẩm quyền (Chính phủ; các Bộ;
UBND các cấp; cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh, cấp huyện; đội
ngũ công chức làm công tác hộ tịch).
- Quản lý nhà nước về hộ tịch là hoạt động có tính thống nhất, được tổ
chức chặt chẽ.
18
Để đảm bảo tính pháp chế trong hoạt động quản lý nhà nước về hộ tịch,
bộ máy các cơ quan hộ tịch được tổ chức thành một khối thống nhất từ Trung
ương tới địa phương, nhờ đó các hoạt động của bộ máy được chỉ đạo, điều
hành thống nhất, bảo đảm lợi ích chung của cả nhà nước, bảo đảm sự liên kết,
phối hợp nhịp nhàng giữa các địa phương tạo ra sức mạnh tổng hợp của cả
nước, tránh được sự cục bộ phân hóa giữa các địa phương hay vùng miền
khác nhau.
Tuy nhiên, do mỗi địa phương đều có những nét đặc thù riêng về điều
kiện kinh tế - xã hội, nên để có thể phát huy tối đa những yếu tố của từng địa
phương, tạo sự năng động sáng tạo trong quản lý, điều hành của từng địa
phương, bộ máy quản lý hộ tịch còn được tổ chức theo hướng phân cấp, trao
quyền tự quyết, tạo sự chủ động sáng tạo cho chính quyền địa phương.
- Quản lý nhà nước về hộ tịch là hoạt động có tính chấp hành và điều
hành.
Tính chấp hành và điều hành thể hiện trong quản lý nhà nước về hộ tịch
là việc những hoạt động này được tiến hành trên cơ sở pháp luật và nhằm mục
đích thực hiện pháp luật về hộ tịch, cho dù đó là hoạt động chủ động, sáng tạo
của chủ thể quản lý thì cũng được vượt quá khuôn khổ pháp luật, điều hành
cấp dưới, trực tiếp áp dụng pháp luật hoặc tổ chức những hoạt động thực tiễn,
trên cơ sở quy định pháp luật nhằm hiện thực hóa pháp luật.
Tính điều hành của hoạt động quản lý nhà nước về hộ tịch thể hiện
trong việc chủ thể có thẩm quyền tổ chức thi hành pháp luật về hộ tịch trong
đời sống xã hội. Trong quá trình đó, các chủ thể này không chỉ tự mình thi
hành pháp luật mà quan trọng hơn cả là các chủ thể này đảm nhận chức năng
chỉ đạo nhằm vận hành hoạt động của các cơ quan, đơn vị trực thuộc theo một
quy trình thống nhất; tổ chức để mọi đối tượng có liên quan thi hành pháp luật
nhằm hiện thực hóa các quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ quản lý.
19
- Quản lý nhà nước về hộ tịch là hoạt động mang tính liên tục.
Quản lý nhà nước về hộ tịch luôn cần có tính liên tục, kịp thời và linh
hoạt để đáp ứng sự vận động không ngừng của đời sống xã hội. Chính điểm
đặc thù này được coi là một cơ sở quan trọng trong việc xác lập quy định về
tổ chức và hoạt động của bộ máy quản lý hộ tịch; tạo ra bộ máy quản lý hộ
tịch gọn nhẹ, có sự linh hoạt trong tổ chức, có đội ngũ công chức quản lý hộ
tịch năng động sáng tạo, quyết đoán và chịu sự ràng buộc trách nhiệm đối với
hoạt động của mình.
1.2. Nội dung, nguyên tắc, vai trò của quản lý nhà nƣớc về hộ tịch
1.2.1. Nội dung quản lý nhà nước về hộ tịch
Nội dung chung về quản lý nhà nước về hộ tịch ở nước ta hiện nay
được quy định pháp luật quy định cụ thể, bao gồm: Ban hành hoặc trình cơ
quan có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật về đăng ký và
quản lý hộ tịch; tổ chức triển khai thực hiện pháp luật về hộ tịch; ứng dụng
công nghệ thông tin trong đăng ký và quản lý hộ tịch; xây dựng và quản lý Cơ
sở dữ liệu hộ tịch điện tử; thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và
xử lý vi phạm pháp luật về đăng ký và quản lý hộ tịch; thống kê hộ tịch; hợp
tác quốc tế về hộ tịch [47, tr.22-23].
Như vậy, khi so sánh nội dung quản lý nhà nước về hộ tịch của nước ta
hiện nay so với với thời kỳ trước đây (thời kỳ thực hiện Điều lệ đăng ký hộ
tịch ban hành kèm theo Nghị định số 04/CP ngày 16/01/1961 của Hội đồng
Chính phủ năm 1961) có thể thấy nội dung quản lý hộ tịch ngày càng được
mở rộng hơn (theo Điều lệ hộ tịch năm 1961 thì nội dung quản lý hộ tịch rất
đơn giản, chỉ giới hạn trong các loại việc cơ bản như: Sinh, tử, kết hôn ghi
chú các thay đổi về hộ tịch). Đây là một bước tiến quan trọng cho thấy hoạt
động quản lý con người ngày càng được quan tâm một cách toàn diện. Tuy
nhiên sự mở rộng phạm vi và nội dung quản lý cũng đặt ra rất nhiều vấn đề
20
phức tạp đòi hỏi hoạt động quản lý hộ tịch phải được nâng lên một trình độ
cao hơn.
UBND cấp huyện, UBND cấp xã được phân cấp thực hiện các nội dung
quản lý nhà nước về hộ tịch, cụ thể:
- UBND cấp huyện thực hiện chức năng quản lý nhà nước trên địa bàn,
chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra về công tác đăng ký hộ tịch tại cấp xã; thực hiện
việc đăng ký hộ tịch có yếu tố nước ngoài theo phân cấp; quản lý, lưu trữ, cập
nhật, khai thác Sổ, hồ sơ hộ tịch, Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử theo quy định.
Phòng Tư pháp giúp UBND cấp huyện thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn
trong quản lý nhà nước về hộ tịch [47, tr.25-26].
Như vậy, hoạt động quản lý nhà nước về hộ tịch của UBND cấp huyện
bao gồm các nội dung chủ yếu như sau:
Thứ nhất, Xây dựng tổ chức thực hiện các chương trình, kế hoạch,
hoạch định về hoạt động hộ tịch.
Đây là hoạt động mang tính chất định hướng và có một vị trí quan trọng
trong quá trình quản lý hộ tịch tại địa phương. Căn cứ vào tình hình kinh tế-
xã hội, các chương trình, kế hoạch của cơ quan cấp trên; kết quả quản lý hộ
tịch năm trước, UBND cấp huyện hàng năm sẽ ban hành các chương trình, kế
hoạch về công tác tư pháp trong đó có công tác quản lý và đăng ký hộ tịch.
Việc ban hành chương trình, kế hoạch hàng năm sẽ giúp cho chính cơ quan
ban hành cũng như cơ quan cấp dưới nắm được đầu việc và thực hiện công
việc có hiệu quả.
Thứ hai, thực hiện tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật về hộ tịch
Pháp luật của nhà nước là sự thể chế hóa đường lối, chính sách của
đảng, thể hiện nguyện vọng, ý chí của nhân dân và phải được thực hiện thống
nhất trong cả nước. Để nhân dân hiểu biết, tuân thủ pháp luật nói chung và
pháp luật về hộ tịch nói riêng thì phải tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp
21
luật. Theo quy định tại Hiến pháp 2013 và các văn bản pháp luật khác thì
công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật là nhiệm vụ của tất cả các
ngành, các cấp, các cơ quan, đơn vị, trong đó cơ quan tư pháp giữ vai trò quan
trọng. Để thực hiện công việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật về hộ tịch đạt
hiệu quả thì các chủ thể thực hiện chức năng tuyên truyền, mà trực tiếp là
Phòng Tư pháp cấp huyện cần theo dõi, cập nhật các văn bản pháp luật, bám
sát, sự chỉ đạo, hướng dẫn của cơ quan cấp trên và nhiệm vụ chính trị của địa
phương để chủ động xây dựng và phát huy và thu hút sự tham gia của đông
đảo các tổ chức, đoàn kết và các cá nhân ở địa phương.
Thứ ba, quản lý về mặt tổ chức và hoạt động của các cơ quan quản lý
nhà nước về hộ tịch.
Để đảm bảo hoạt động quản lý và đăng ký hộ tịch được thực hiện hiệu
quả cần có sự bố trí, tổ chức về mặt nhân lực một cách hợp lý và đảm bảo đủ
về số lượng cũng như chất lượng để có thể thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn
theo đúng thẩm quyền quy định. Bên cạnh đó, việc tổ chức hệ thống hoạt
động của cơ quan quản lý nhà nước về hộ tịch phải đảm bảo được sự tinh
giản, gọn nhẹ, có hiệu quả, tránh rườm rà dễ gây gánh nặng cho Nhà nước.
UBND cấp huyện trên cơ sở quy định của pháp luật về cơ cấu tổ chức, chức
năng nhiệm vụ của các cơ quan chuyện môn và tổng giao biên chế hằng năm
quy định cơ cấu tổ chức và chức năng, nhiệm vụ của cơ quan thực hiện nhiệm
vụ tham mưu về quản lý nhà nước về hộ tịch trên địa bàn huyện cũng như
tuyển dụng, bồi dưỡng, bố trí, sắp xếp công chức làm nhiệm vụ hộ tịch ở cấp
xã trên địa bàn.
Thứ tư, thực hiện thường xuyên liên tục thanh tra, kiểm tra trong hoạt
động hộ tịch
Đây là một nội dung quan trọng để đảm bảo cho hoạt động quản lý và
đăng ký hộ tịch được thực hiện nghiêm túc và hiệu quả. Đối với UBND cấp
22
huyện, công việc thanh tra, kiểm tra về hộ tịch đối với UBND cấp xã phải
được thực hiện thường xuyên liên tục dưới nhiều hình thức như: Kiểm tra
theo định kỳ, kiểm tra đột xuất, kiểm tra chuyên đề, lồng ghép. Qua kết quả
kiểm tra cần có những biện pháp xử lý kịp thời với những trường hợp vi phạm
và động viên, khen thưởng những trường hợp thực hiện tốt hoặc có những đổi
mới trong hoạt động quản lý và đăng ký hộ tịch.
Thứ năm, thực hiện đăng ký hộ tịch theo thẩm quyền
Xác nhận vào sổ hộ tịch các sự kiện hộ tịch (khai sinh; kết hôn; giám
hộ; nhận cha, mẹ, con; thay đổi, cải chính hộ tịch, xác định lại dân tộc, bổ sung
thông tin hộ tịch; khai tử) có yếu tố nước ngoài;
Đăng ký thay đổi, cải chính hộ tịch cho công dân Việt Nam từ đủ 14
tuổi trở lên cư trú ở trong nước; xác định lại dân tộc;
Ghi vào Sổ hộ tịch sự kiện khai sinh; kết hôn; ly hôn; hủy việc kết hôn;
giám hộ; nhận cha, mẹ, con; xác định cha, mẹ, con; nuôi con nuôi; thay đổi hộ
tịch; khai tử của công dân Việt Nam đã được giải quyết tại cơ quan có thẩm
quyền của nước ngoài [47, tr.5].
Thứ sáu, thực hiện một số nội dung khác như: Ứng dụng sáng kiến sáng
tạo, ứng dụng công nghệ thông tin vào quản lý và đăng ký hộ tịch; xây dựng cơ
sở dữ liệu hộ tịch điện tử; lưu trữ sổ hộ tịch, hồ sơ đăng ký hộ tịch; thống kê
nhà nước về hộ tịch, tổng kết, báo cáo cơ quan nhà nước cấp trên về hoạt động
hộ tịch; xử lý vi phạm hành chính, giải quyết khiếu nại, tố cáo liên quan đến hộ
tịch.
Việc ứng dụng công nghệ thông tin vào quản lý và đăng ký hộ tịch;
thống kê, báo cáo về hộ tịch là cơ sở để cơ quan nhà nước có những cải tiến,
phát triển vượt bậc về công tác quản lý hộ tịch. Giúp cho các đơn vị liên quan
nắm bắt được các số liệu từ đó rút ra những kinh nghiệm, tạo thuận lợi cho
công tác thực tiễn. Xây dựng cơ sở sữ liệu điện tử về hộ tịch, đây sẽ là một
23
ngân hàng dữ liệu số, dữ liệu về dân số chuẩn xác, tích hợp đầy đủ thông tin
cho một cá nhân người dân giúp người dân thuận tiện hơn trong quá trình làm
việc, giải quyết các thủ tục pháp luật, pháp lý, hành chính, chính quyền.
- UBND cấp xã và công chức tư pháp - hộ tịch:
Là cấp hành chính cơ sở trực tiếp đảm nhiệm việc đăng ký hộ tịch nên
các nhiệm vụ, quyền hạn của UBND cấp xã chủ yếu liên quan đến hoạt động
đăng ký hộ tịch. Tuy nhiên, ngoài hoạt động đăng ký hộ tịch UBND cấp xã
còn phải thực hiện một số nhiệm vụ khác như tuyên truyền, phổ biến, vận
động nhân dân chấp hành pháp luật về hộ tịch; chấp hành chế độ thống kê,
báo cáo tình hình đăng ký hộ tịch, chế độ sử dụng, lưu trữ sổ hộ tịch; giải
quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm về đăng ký và quản lý hộ tịch theo
thẩm quyền [47, tr.26]. Trong cơ cấu tổ chức của UBND cấp xã, công chức
Tư pháp - Hộ tịch là công chức chuyên trách có nhiệm vụ giúp UBND cấp xã
thực hiện hoạt động quản lý hộ tịch. Đối với những xã, phường, thị trấn có
đông dân cư, số lượng công việc hộ tịch nhiều, thì phải có công chức chuyên
trách làm công tác hộ tịch, không kiêm nhiệm các công tác tư pháp khác.
Trong quy định hiện hành của pháp luật về hộ tịch, chủ thể trực tiếp
thực hiện đăng ký hộ tịch là đội ngũ công chức làm công tác hộ tịch, bao
gồm: Công chức tư pháp - hộ tịch ở cấp xã; công chức làm công tác hộ tịch ở
Phòng Tư pháp thuộc UBND cấp huyện; viên chức ngoại giao, lãnh sự làm
công tác hộ tịch tại Cơ quan đại diện. Các công chức làm công tác hộ tịch đều
phải đảm bảo điều kiện, tiêu chuẩn theo quy định [47, tr.27], gồm: Công chức
tư pháp - hộ tịch cấp xã phải có trình độ từ trung cấp luật trở lên và đã được
bồi dưỡng nghiệp vụ hộ tịch; có chữ viết rõ ràng và trình độ tin học phù hợp
theo yêu cầu công việc. Công chức làm công tác hộ tịch tại Phòng Tư pháp
phải có trình độ cử nhân luật trở lên và đã được bồi dưỡng nghiệp vụ hộ tịch.
24
Viên chức ngoại giao, lãnh sự làm công tác hộ tịch tại Cơ quan đại diện đã
được bồi dưỡng nghiệp vụ hộ tịch.
1.2.2. Nguyên tắc quản lý nhà nước về hộ tịch
Nguyên tắc quản lý nhà nước về hộ tịch hiện nay được quy định tại
Điều 5 của Luật Hộ tịch năm 2014 [47, tr.3-4], bao gồm:
Một là, tôn trọng và bảo đảm quyền nhân thân của cá nhân.
Hai là, mọi sự kiện hộ tịch của cá nhân phải được đăng ký đầy đủ, kịp
thời, trung thực, khách quan và chính xác; trường hợp không đủ điều kiện
đăng ký hộ tịch theo quy định của pháp luật thì người đứng đầu cơ quan đăng
ký hộ tịch từ chối bằng văn bản và nêu rõ lý do.
Đây là nguyên tắc cơ bản nhất trong công tác quản lý hộ tịch. Phạm vi
quản lý của hoạt động quản lý hộ tịch là các đặc điểm nhân thân làm nên căn
cước của mỗi cá nhân, có các thuộc tính: Ổn định, công khai, có khả năng phổ
biến thông tin. Việc đăng ký đầy đủ, kịp thời, chính xác các thông tin này là
cơ sở để công tác quản lý hộ tịch của Nhà nước được đầy đủ, hệ thống, chính
xác, phản ánh đúng nhất sự phát triển, vận động của dân số xã hội.
Ba là, đối với những việc hộ tịch mà Luật này không quy định thời hạn
giải quyết thì được giải quyết ngay trong ngày; trường hợp nhận hồ sơ sau 15
giờ mà không giải quyết được ngay thì trả kết quả trong ngày tiếp theo.
Bốn là, mỗi sự kiện hộ tịch chỉ được đăng ký tại một nơi theo đúng
thẩm quyền.
Nguyên tắc “đăng ký một nơi” thể hiện tính chất “duy nhất” của đặc
điểm nhân thân từng cá nhân, đồng thời là cơ sở để bảo đảm thông qua hoạt
động quản lý hộ tịch, đặc điểm dân số, sự phát triển của dân số xã hội trong
từng vùng miền, địa phương có sự phân biệt rõ ràng.
Năm là, mọi sự kiện hộ tịch sau khi đăng ký vào Sổ hộ tịch phải được
cập nhật kịp thời, đầy đủ vào Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử.
25
Với nguyên tắc này, Nhà nước đòi hỏi các thông tin về hộ tịch phải
được đảm bảo chính xác, điều này phù hợp với đặc điểm của đối tượng, phạm
vi của quản lý hộ tịch là các đặc điểm nhân thân của từng cá nhân với các
thuộc tính: Ổn định, công khai, có khả năng phổ biến thông tin. Khi cập nhật
vào dữ liệu thì không thể chỉnh sửa, nên khi lấy thông tin phải chính xác, việc
chỉnh sửa phải thực hiện ở cơ quan có thẩm quyền.
Sáu là, nội dung khai sinh, kết hôn, ly hôn, khai tử, thay đổi, cải chính,
bổ sung hộ tịch, xác định lại giới tính, xác định lại dân tộc của cá nhân trong
Cơ sở dữ liệu hộ tịch là thông tin đầu vào của Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân
cư.
Bảy là, bảo đảm công khai, minh bạch thủ tục đăng ký hộ tịch.
Đây là nguyên tắc về “tính công khai” trong công tác quản lý hộ tịch,
bảo đảm cho mọi người dân dễ dàng thực hiện các quyền và nghĩa vụ về đăng
ký hộ tịch, qua đó khuyến khích người dân tự nguyện, tự giác thực hiện đầy
đủ, kịp thời các quyền và nghĩa vụ về đăng ký hộ tịch.
Những nguyên tắc trên đảm bảo cho việc quản lý hộ tịch được thực
hiện chính xác, kịp thời, đầy đủ, góp phần bảo đảm, bảo vệ quyền con người,
quyền công dân. Thực tế cho thấy, các giấy tờ về hộ tịch nếu trong quá trình
thực hiện có sai sót mà không phát hiện kịp thời sẽ gây khó khăn cho công tác
quản lý cũng như khắc phục, sửa chữa sai sót và đặc biệt sẽ gây ra không ít
những phiền hà cho công dân trong việc thống nhất giấy tờ quan trọng khác
sau này: Căn cước công dân; hồ sơ học tập, xin việc làm, xuất cảnh, thậm chí
còn liên quan đến việc xác định độ tuổi để đánh giá năng lực hành vi, năng
lực chịu trách nhiệm pháp lý của từng cá nhân,...
1.2.3. Vai trò quản lý nhà nước về hộ tịch
Trong xã hội hiện đại, khi mà khái niệm quyền con người đã được nhận
thức như một giá trị chung của nhân loại thì cùng với nó, hầu như tất cả các
26
quốc gia đều nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của việc quản lý nhà
nước về hộ tịch. Nếu như hoạt động quản lý dân cư được coi là nội dung quan
trọng hàng đầu trong tổng thể hoạt động quản lý xã hội thì quản lý nhà nước
về hộ tịch, với các lợi ích, giá trị tiềm tàng của nó, được coi là khâu nằm ở vị
trí trung tâm của hoạt động quản lý dân cư.
Xét về lý luận, hoạt động quản lý nhà nước về hộ tịch có những vai trò
cơ bản như sau:
Thứ nhất, quản lý nhà nước về hộ tịch có vai trò tổ chức thực hiện
đường lối chủ trương, chính sách của Đảng đối với vấn đề hộ tịch.
Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 đã
khẳng định: Ở Việt Nam, Đảng Cộng sản có vai trò lãnh đạo toàn bộ hệ thống
chính trị. Sự lãnh đạo của Đảng thông qua việc ban hành các chính sách, nghị
quyết về tất cả các lĩnh vực. Các chính sách, nghị quyết của Đảng được thể
hiện thông qua hoạt động lập pháp của cơ quan lập pháp ở Việt Nam.
Trong lĩnh vực Hộ tịch, quan điểm và chính sách của Đảng đã được thể
hiện trong các văn bản pháp luật về hộ tịch hiện hành. Việc các cơ quan nhà
nước có thẩm quyền sử dụng hệ thống pháp luật về hộ tịch để thực hiện quản
lý nhà nước về hộ tịch chính là đưa pháp luật về hộ tịch vào thực tiễn cuộc
sống. Điều đó cũng đồng nghĩa với việc thực hiện các chính sách, nghị quyết
của Đảng về hộ tịch nhằm ổn định xã hội, đảm bảo các quyền và nghĩa vụ của
cá nhân, tổ chức về hộ tịch.
Thứ hai, quản lý nhà nước về hộ tịch là cơ sở cho việc hoạch định các
chính sách phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh quốc phòng…và tổ
chức thực hiện có hiệu quả các chính sách đó.
Một hệ thống quản lý dữ liệu hộ tịch đầy đủ, chính xác, được cập nhật
thường xuyên, kịp thời sẽ là nguồn tài sản thông tin hết sức quý giá luôn sẵn
sàng hỗ trợ đắc lực cho việc hoạch định các chính sách xã hội một cách chính
27
xác, có tính khả thi, tiết kiệm chi phí xã hội; thông qua việc theo dõi biến
động về hộ tịch các cơ quan quản lý nhà nước có thể xây dựng chính sách phù
hợp dựa trên dân số theo độ tuổi, giới tính, nguồn nhân lực. Từ đó có những
phân tích đánh giá cụ thể làm cơ sở hoạch định các chính sách về phát triển
kinh tế, văn hóa, xã hội, thể dục thể thao, xây dựng cơ sở y tế, trường học, bố
trí giáo viên, chăm sóc sức khỏe trong nhân dân, đảm bảo cân bằng giới tính,
phục vụ an ninh quốc phòng…
Thứ ba, hoạt động quản lý và đăng ký hộ tịch thể hiện tập trung nhất,
sinh động nhất sự tôn trọng của Nhà nước đối với việc thực hiện một số quyền
nhân thân cơ bản của con người, của công dân.
Các quyền thân nhân cơ bản của con người, của công dân đã được ghi
nhận trong các bản Hiến pháp của nước ta, nhất là bản Hiến pháp năm 2013
và Bộ luật Dân sự 2015, ví dụ như quyền đối với họ tên, quyền thay đổi họ
tên, quyền xác định dân tộc, quyền đối với quốc tịch, quyền kết hôn, quyền
được nuôi con nuôi và được nhận làm con nuôi, v.v. Ở phương diện này, đăng
ký hộ tịch chính là phương tiện để người dân thực hiện, hưởng thụ các quyền
nhân thân đó. Các dữ liệu về căn cước của mỗi cá nhân thể hiện trên chứng
thư hộ tịch (Giấy khai sinh, Giấy chứng nhận kết hôn,…) là sự khẳng định có
giá trị pháp lý về đặc điểm nhân thân của mỗi người, mà qua đó các cơ quan,
tổ chức, cá nhân khác có thể đánh giá người đó có khả năng điều kiện để tham
gia vào các quan hệ pháp luật nhất định hay không. Hành vi đăng ký khai sinh
của cơ quan đăng ký hộ tịch đánh dấu điểm khởi đầu của hoạt động quản lý
Nhà nước đối với từng người dân, đồng thời cũng là điểm khởi đầu cho mọi
mối quan hệ giữa người dân với nhà nước. Như vậy, thông qua hoạt động
đăng ký hộ tịch, người dân thực hiện và hưởng thụ các quyền nhân thân.
Thứ tư, quản lý nhà nước về hộ tịch có vai trò bảo đảm trật tự xã hội.
28
Trong lĩnh vực hoạt động tư pháp, Giấy khai sinh là một giấy tờ quan
trọng chứa đựng các dữ liệu gốc về nhân thân của cá nhân để đánh giá năng
lực chủ thể của một cá nhân có thể được sử dụng với tính chất là chứng cứ;
các thông tin thể hiện trên giấy khai sinh có thể giúp cơ quan tiến hành tố tụng
đánh giá nhiều vấn đề trong các vụ án hình sự, dân sự, lao động…Trong hoạt
động tư pháp khi cần đánh giá về hành vi của một chủ thể nào đó thì các
thông tin dữ liệu trong bản chính Giấy khai sinh cũng là những chứng cứ quan
trọng phục vụ cho công tác điều tra, truy tố, xét xử của các cơ quan tố tụng.
Thứ năm, quản lý nhà nước về hộ tịch có vai trò quan trọng trong hoạt
động quản lý dân cư.
Quản lý dân cư là lĩnh vực trọng yếu của nền hành chính mà mọi quốc
gia hiện đại, không phân biệt chế độ chính trị và trình độ phát triển đều phải
quan tâm. Cơ cấu dân số và chất lượng dân số là hai vấn đề đặc biệt mà quản
lý hộ tịch cung cấp thông tin trong quá trình quản lý dân cư. Cơ cấu dân số có
thể phân loại dựa trên cơ cấu sinh học, nhưng thông tin về cơ cấu dân số này
lại có được thông qua hoạt động đăng ký hộ tịch. Từ số liệu đăng ký khai
sinh, đăng ký khai tử, các cơ quan quản lý dân số có thể nắm bắt được phần
nào số lượng dân tộc, cơ cấu giới tính,... Thông qua các hoạt động như đăng
ký kết hôn, đăng ký giám hộ, xác nhận tình trạng hôn nhân,… các cơ quan
quản lý dân cư cũng dễ dàng nắm bắt được chất lượng dân số của địa phương.
Như vậy, khi công tác quản lý nhà nước về hộ tịch được tiến hành theo quy
định, không thiếu sót thì sẽ mang lại những hiệu quả lớn trong công tác quản
lý dân cư, cung cấp được thông tin và số liệu cho công tác điều tra dân số.
Với vai trò ý nghĩa quan trọng như vậy, nên trong sự phát triển của mỗi
quốc gia, vấn đề xây dựng hệ thống quản lý nhà nước về hộ tịch và khai thác
hiệu quả của nó phục vụ cho công tác quản lý nhà nước luôn được quan tâm.
29
1.3. Yếu tố ảnh hƣởng đến quản lý nhà nƣớc về hộ tịch trên địa bàn
cấp huyện
Từ thực tiễn quản lý về hộ tịch cho thấy, mặc dù pháp luật đã quy định
trách nhiệm của các cơ quan nhà nước và công dân trong việc đăng ký và
quản lý hộ tịch, đồng thời triển khai thực hiện nhiều biện pháp nhằm tăng
cường hiệu quả của công tác quản lý, đăng ký hộ tịch nhưng trên thực tế hoạt
động này vẫn còn gặp khó khăn và hạn chế. Chính vì vậy, cần xác định những
những yếu tố ảnh hưởng đến quản lý nhà nước về hộ tịch trên địa bàn cấp
huyện để xây dựng được những giải pháp hiệu quả cho hoạt động này. Có thể
quan tâm đến một số yếu tố trọng tâm như sau:
1.3.1. Yếu tố chính trị
Hệ thống chính trị ở nước ta có đặc điểm “Đảng Cộng sản Việt Nam là
Đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội” do vậy, Đảng có vai trò quan
trọng đối với tổ chức và phương thức hoạt động của bộ máy hành chính. Như
trong hoạt động lập quy, Chính phủ không chỉ cụ thể hóa quy định trong các
đạo luật mà còn phải thể chế hóa các chủ trương, chính sách của Đảng. Đối
với công tác tổ chức, quản lý, phát triển nguồn nhân lực, kể từ khâu quy
hoạch, tuyển dụng, sử dụng, đề bạt, kỷ luật cho đến chế độ, chính sách đối với
cán bộ, công chức, viên chức đều gắn với công tác đảng. Vì vậy chủ trương,
đường lối và sự lãnh đạo của Đảng có tác động quan trọng đến các quy định
của pháp luật về hộ tịch cũng như đội ngũ công chức làm hộ tịch.
Mặt khác, các tổ chức chính trị - xã hội, cũng có vai trò quan trọng
trong việc xây dựng và thực thi các quy định của pháp luật về hộ tịch, như vai
trò giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Do vậy, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước nói chung và quản lý nhà
nước về hộ tịch phải trên cơ sở bảo đảm tính đồng bộ trong chỉnh thể đổi mới
toàn bộ hệ thống chính trị ở Việt Nam.
30
1.3.2. Thể chế quản lý nhà nước về hộ tịch
Khi vận hành các nguyên tắc do nhà nước ban hành về lĩnh vực hộ tịch,
thì cần hiểu Nhà nước không chỉ ban hành đủ các văn bản về hộ tịch như Luật
Hộ tịch, các văn bản hướng dẫn thi hành, hay những văn bản luật liên quan
hoặc điều chỉnh các lĩnh vực hộ tịch hoặc một lĩnh vực hộ tịch nào đó. Yếu tố
chính đòi hỏi là chất lượng văn bản quy định có đầy đủ không, có phù hợp
không, có đáp ứng được yêu cầu thực tiễn hay không? Bên cạnh hệ thống văn
bản pháp luật mang tính nguyên tắc quy phạm thì còn ấn định theo đó là cách
thức, thủ tục, trình tự để các cơ quan quản lý thực hiện. Mặt khác việc cải
cách hành chính cũng là để giảm tải khối lượng công việc, thời gian, tiết kiệm
chi phí và hạn chế các sai phạm trong quá trình vận hành thể chế.
Một thể chế quản lý nhà nước về hộ tịch khi đưa vào vận hành có hiệu
quả, phù hợp, điều đó sẽ đảm bảo tính thống nhất, tính hệ thống, tính khoa
học, khách quan, tính ổn định, công khai, là các yếu tố quan trọng để giải
quyết và quản lý các vấn đề của hộ tịch một cách hiệu quả. Ngược lại nếu đưa
vào vận hành một thể chế không phù hợp, kém thực tế, thì quản lý nhà nước
về hộ tịch sẽ có hiệu quả thấp và không đáp ứng được yêu cầu quản lý nhà
nước trong điều kiện hiện nay và thời gian tới.
1.3.3. Chất lượng và sự hoàn thiện, đồng bộ của hệ thống pháp luật
nói chung và pháp luật liên quan đến quản lý nhà nước về hộ tịch nói riêng
Việc ban hành, sửa đổi và bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật
luôn luôn là một vấn đề hết sức quan trọng để Nhà nước có thể quản lý tốt xã
hội. Khi hệ thống pháp luật nói chung, pháp luật liên quan đến quản lý hộ tịch
nói riêng được hoàn thiện, có chất lượng cao sẽ là một yếu tố quan trọng để
đảm bảo cho việc quản lý nhà nước về hộ tịch sẽ được tiến hành thuận lợi, có
hiệu quả. Khi xem xét về sự hoàn thiện của hệ thống pháp luật chúng ta có thể
căn cứ vào một số tiêu chí cơ bản như: Trình độ pháp điển hóa, tính hệ thống
31
hóa,… của hệ thống pháp luật đó. Chất lượng của hệ thống pháp luật có vai
trò quan trọng trong quản lý xã hội, nó là một trong những cơ sở để bảo đảm
cho việc thực hiện và áp dụng pháp luật đạt được kết quả cao trong thực tiễn,
đồng thời cho phép dự báo được khả năng hiện thực hóa các quy định pháp
luật trong đời sống xã hội.
Ở nước ta, công tác xây dựng hệ thống pháp luật nói chung và hệ thống
pháp luật về hộ tịch nói riêng ngày càng được hoàn thiện và có những quy
định chặt chẽ đến từng sự kiện cụ thể từng đối tượng trong xã hội, đặc biệt là
Luật Hộ tịch năm 2014 ra đời kèm theo đó là các văn bản hướng dẫn thi hành
Luật như Nghị định 123/2015/NĐ-CP ngày 15/11/2015 của Chính phủ,
Thông tư 15/2015/TT-BTP ngày 16/11/2015 của Bộ Tư pháp đã nâng cao vị
trí, vai trò của công tác quản lý nhà nước về hộ tịch bên cạnh đó khắc phục
được những hạn chế tồn tại mà trước đây chưa có Luật quy định. Điều này
cho thấy sự hoàn thiện, đồng bộ của pháp luật có ảnh hưởng lớn tới hiệu lực,
hiệu quả quản lý nhà nước về hộ tịch.
1.3.4. Năng lực, trình độ và phẩm chất đạo đức của đội ngũ cán bộ,
công chức các cơ quan quản lý nhà nước về hộ tịch
Do tính chất phức tạp của hộ tịch nên hiệu quả quản lý nhà nước về hộ
tịch phụ thuộc vào nhiều điều kiện, yếu tố như trình độ, năng lực, phẩm chất
đạo đức của đội ngũ cán bộ, công chức của các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền quản lý nhà nước về hộ tịch. Để đạt được hiệu quả cao trong quản lý
nhà nước bằng pháp luật về hộ tịch đòi hỏi người cán bộ, công chức và những
người có thẩm quyền quản lý nhà nước phải có nghiệp vụ chuyên sâu, nắm
vững các quy định của pháp luật về hành chính, về quản lý nhà nước trong
lĩnh vực hộ tịch. Do vậy, việc bồi dưỡng, nâng cao trình độ nghiệp vụ đối với
cán bộ có thẩm quyền quản lý nhà nước bằng pháp luật về hộ tịch là hết sức
quan trọng và có ý nghĩa to lớn.
32
Ngoài các điều kiện về chuyên môn, những người có thẩm quyền quản
lý nhà nước về hộ tịch còn phải có phẩm chất đạo đức tốt, trình độ lý luận
chính trị cao thì mới tránh được các hiện tượng tiêu cực xảy ra trong quá trình
thực hiện chức năng quản lý nhà nước về hộ tịch. Trong hoạt động nghề
nghiệp, cán bộ, công chức phải đảm bảo được yếu tố đạo đức, công bằng, vô
tư, khách quan, lương tâm, nhân đạo, không vụ lợi cá nhân... Đây là điều kiện
cần thiết để hình thành tư duy sắc bén, định hướng nhận thức và hành động,
xác định quan điểm đúng đắn trước khi đưa ra các quyết định liên quan đến
quản lý hộ tịch, là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến hiệu quả quản lý nhà
nước về hộ tịch.
1.3.5. Ý thức pháp luật và sự tham gia của người dân
Đây là nhân tố có vai trò quan trọng đối với việc quản lý nhà nước về
hộ tịch. Thực tế cho thấy, một bộ phận không nhỏ dân cư nhận thức về tầm
quan trọng của pháp luật và công tác hộ tịch còn thấp, ảnh hưởng của thói
quen trọng “lệ” hơn trọng “luật” vẫn tồn tại ở một số nơi. Còn một bộ phân
dân cư ít quan tâm nắm bắt thông tin pháp luật thiết yếu để áp dụng vào thực
tiễn cuộc sống. Tâm lý không đề cao pháp luật, thậm chí coi thường pháp luật
nhiều nơi trở thành thói quen. Một bộ phận dân cư vẫn chưa hình thành được
thói quen sử dụng các cơ quan tư pháp cũng như sử dụng pháp luật để bảo vệ
các quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi phát sinh tranh chấp nên nhiều
khi đã tự xử lý, bỏ qua các quyền và lợi ích chính đáng của mình, thậm chí
còn vi phạm pháp luật.
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của dân,
do dân và vì dân. Do đó, chỉ khi nào người dân thực sự đóng vai trò quan
trọng trong quá trình hoạt động quản lý của Nhà nước thì việc xây dựng và
hoàn thiện Nhà nước pháp quyền mới thực sự thành công; mặt khác sự tham
gia của người dân vào công việc quản lý nhà nước, nhằm bảo đảm cho Nhà
33
nước giữ vững bản chất là Nhà nước của dân, do dân và vì dân, bảo đảm hiệu
lực, hiệu quả của các chính sách, pháp luật được ban hành. Chính vì vậy việc
tham gia của người dân sẽ có ảnh hưởng quan trọng đến hiệu lực, hiệu quả
quản lý nhà nước nói chung, cũng như hoạt động quản lý nhà nước về hộ tịch
nói riêng.
1.3.6. Công tác tổ chức và phối hợp giữa các cơ quan có thẩm quyền
quản lý nhà nước về hộ tịch
Quản lý nhà nước về hộ tịch mang tính quyền lực nhà nước, hay nói
cách khác nó vốn là hoạt động do các cơ quan hoặc các chủ thể có thẩm
quyền tiến hành như Chính phủ, Bộ, UBND,.. Hoạt động quản lý nhà nước về
hộ tịch có tính chất quan trọng và phức tạp nên chủ thể bị quản lý có thể được
hưởng lợi ích rất lớn nhưng cũng có thể phải chịu những hậu quả bất lợi vì
vậy cần có sự xác định rõ ràng cơ sở, điều kiện, trình tự thủ tục... của các chủ
thể trong quá trình quản lý nhà nước về hộ tịch. Cũng chính vì lý do nêu trên
đòi hỏi các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cần được tổ chức một cách khoa
học, có sự phân công rõ ràng về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, thẩm quyền
của mỗi cơ quan, mỗi bộ phận để tránh hiện tượng chồng chéo, mâu thuẫn cản
trở nhau trong công việc của các cơ quan này.
1.3.5. Yếu tố về kinh phí, cơ sở vật chất, kỹ thuật và sự phát triển của
khoa học công nghệ
Quản lý nhà nước về hộ tịch có thể xem là hoạt động áp dụng pháp luật
của các cơ quan nhà nước về hộ tịch vào thực tiễn. Thực tế chứng minh rằng
việc xây dựng pháp luật cũng như áp dụng pháp luật đòi hỏi phải có những
điều kiện vật chất đầy đủ. Muốn được thực hiện trong thực tế các văn bản
pháp luật, đòi hỏi phải có chi phí rất lớn về sức người và trang bị vật chất kỹ
thuật, nhất là trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghệ 4.0 hiện nay nếu
thiếu phương tiện, trang thiết bị làm việc công tác quản lý nhà nước về hộ tịch
34
sẽ không đạt hiệu quả, thậm chí không thể triển khai. Để việc quản lý nhà
nước về hộ tịch có hiệu quả có thể nói kinh phí cho hoạt động quản lý nhà
nước là một trong điều kiện cần thiết quan trọng.
1.4. Kinh nghiệm quản lý nhà nƣớc về hộ tịch ở một số địa phƣơng
1.4.1. Ứng dụng công nghệ thông tin trong lưu trữ sổ hộ tịch và tra
cứu dữ liệu hộ tịch quận Long Biên, thành phố Hà Nội
Thủ đô Hà Nội là trung tâm chính trị, văn hóa - giáo dục của cả nước
với vị trí, vai trò trung tâm của Thủ đô và trách nhiệm của chính quyền trong
công tác quản lý dân cư nói chung, công tác đăng ký và quản lý hộ tịch nói
riêng, công tác quản lý hộ tịch cần đáp ứng yêu cầu thực tiễn xã hội theo
hướng giảm tải công việc cho cán bộ, đẩy mạnh cải cách hành chính.Thành
phố Hà Nội đang từng bước số hóa toàn bộ sổ hộ tịch với dữ liệu của hơn 7,6
triệu người dân, tạo nền tảng phát triển chính quyền điện tử, phục vụ người
dân ngày càng tốt hơn.
Long Biên là một quận có diện tích lớn nhất Hà Nội, với mức độ di
động, biến động dân cư phức tạp. Cùng với Nam Từ Liêm, Hai Bà Trưng,
hiện quận Long Biên thực hiện thí điểm chủ trương số hóa sổ hộ tịch đã triệt
để loại bỏ các loại “đơn”, rút ngắn nhiều quy trình, thời gian giải quyết các sự
kiện hộ tịch, thực hiện nhiều nội dung mang tính cởi mở, thực hiện việc phân
cấp mạnh cho UBND cấp xã, phường để phục vụ người dân tốt hơn.
Tại quận Long Biên, toàn bộ dữ liệu từ sổ hộ tịch năm 2015 của quận
đã được số hóa và đồng bộ vào hệ thống eSAMS của thành phố với tổng số
64 quyển sổ khai sinh và đăng ký kết hôn. Tại quận Long Biên, số lượng hồ
sơ hành chính trong lĩnh vực tư pháp hộ tịch thường chiếm tỷ lệ cao (cấp
phường chiếm trên 80%). Nếu trước đây, khi phát sinh yêu cầu của công dân,
công chức Tư pháp - Hộ tịch thường phải tìm sổ hộ tịch mất nhiều thời gian,
35
dễ phát sinh sai sót, nhầm lẫn, thì hiện nay, công dân chỉ cần khai họ tên, năm
sinh là công chức có thể tra cứu dữ liệu nhanh chóng, thuận tiện.
Kết quả số hóa đã nâng cao hiệu quả việc lưu trữ, khai thác các dịch vụ
công trực tuyến tại UBND quận và các phường trực thuộc. Ở chiều ngược lại,
người dân cũng được hưởng lợi. Điểm ưu việt khi thực hiện các thủ tục về hộ
tịch thời kỳ số hóa là người dân không phải mang giấy tờ gì và có thể làm ở
bất kỳ địa điểm nào, thời gian nhanh gọn.
Xác định ứng dụng công nghệ thông tin trong lĩnh vực hộ tịch là nền
tảng phát triển chính quyền điện tử, UBND TP Hà Nội đã chỉ đạo Sở Tư pháp
tiếp tục khảo sát tình hình lưu trữ, thống kê cơ bản về số lượng hồ sơ hộ tịch
để xác định quy mô, khối lượng công việc số hóa cần triển khai của toàn
thành phố cũng như tại từng đơn vị. Tuy nhiên, quá trình triển khai phần mềm
đăng ký, quản lý hộ tịch cũng xuất hiện những bất cập như việc lấy mã số
định danh cho trẻ, nhiều khi không có kết nối giữa Bộ Tư pháp và Bộ Công
an nên không thực hiện được ngay. Về việc thay đổi thông tin cha mẹ trẻ khi
trẻ được cho làm con nuôi, việc khai sinh của trẻ đã thực hiện trước đó trên
phần mềm, nhưng khi cha mẹ nuôi yêu cầu thay đổi thông tin về cha mẹ thì
lại không thay đổi được trên phần mềm. Với trường hợp này, công chức tư
pháp - hộ tịch vẫn phải làm thủ tục thay đổi thông tin về cha mẹ trẻ, dẫn đến
việc thông tin của trẻ được quản lý trên phần mềm và thông tin trẻ sử dụng
sau này không đồng nhất…
Nhằm tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc, Hà Nội đã đưa ra nhiều
kiến nghị, đề xuất, cam kết sẽ cùng các bộ, ngành hoàn thiện cơ chế phối hợp.
Đồng thời, Sở Tư pháp tiếp tục tổ chức giao ban định kỳ với lãnh đạo phòng
tư pháp cấp huyện để nắm bắt vướng mắc, định hướng các nhiệm vụ chuyên
môn, giúp hạn chế những sai sót trong quá trình giải quyết hồ sơ, nâng cao
hiệu quả thực hiện các nhiệm vụ về hộ tịch.
36
1.4.2. Đẩy mạnh công tác đăng ký, quản lý hộ tịch tại huyện Lý
Nhân, tỉnh Hà Nam trong tình hình mới
Huyện Lý Nhân là một trong 06 đơn vị hành chính của tỉnh Hà Nam.
Vị trí địa lý nằm ở phía Đông tỉnh. Phía Nam giáp tỉnh Nam Định và huyện
Bình Lục, phía Tây giáp huyện Bình Lục và Duy Tiên, phía Đông giáp sông
Hồng, phía Bắc giáp huyện Duy Tiên; diện tích tự nhiên toàn huyện là 167,045 km2; Lý Nhân có 22 xã và 01 thị trấn, với gần 200.000 nhân khẩu.
Với đặc điểm là huyện có dân cư đông của tỉnh Hà Nam, trong những năm
qua, nhất là từ khi triển khai thi hành Luật Hộ tịch năm 2014, Phòng Tư pháp,
với chức năng là cơ quan tham mưu cho UBND huyện trong việc quản lý,
đăng ký hộ tịch trên địa bàn đã thường xuyên nắm bắt, giải đáp các vướng
mắc về nghiệp vụ chuyên môn cho công chức làm công tác hộ tịch ở cơ sở;
thường xuyên kiểm tra việc khắc phục hồ sơ, sổ sách trong công tác quản lý,
đăng ký hộ tịch.
Huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam đã thực hiện việc tiếp nhận và giải quyết
hồ sơ đăng ký hộ tịch ngày càng có hiệu quả, đảm bảo đúng quy định của
pháp luật. Về quy trình thực hiện đã bám sát trình tự, thủ tục theo quy định tại
Quyết định số 2090/QĐ-UBND ngày 04/12/2017 của UBND tỉnh Hà Nam về
việc công bố thủ tục hành chính (TTHC) thuộc thẩm quyền giải quyết của
UBND cấp xã trên địa bàn tỉnh Hà Nam và Quyết định số 2089/QĐ-UBND
ngày 04/12/2017 của UBND tỉnh Hà Nam về việc công bố TTHC thuộc thẩm
quyền giải quyết của UBND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Hà Nam. UBND
huyện và UBND cấp xã trên địa bàn đã chủ động triển khai, áp dụng đồng bộ,
thống nhất và đạt được những kết quả tích cực, cụ thể: Các TTHC được cải
cách, đơn giản hoá và cắt giảm nhiều giấy tờ, tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho
người dân; các sự kiện hộ tịch của cá nhân cơ bản được đăng ký đầy đủ, kịp
37
thời, trung thực, khách quan và chính xác, qua đó góp phần nâng cao hiệu quả
quản lý nhà nước.
Thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông, UBND huyện đã bố trí
01 công chức tiếp nhận và trả kết quả tại Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả của
huyện; UBND các xã, thị trấn trên địa bàn đều bố trí 01 công chức Tư pháp -
Hộ tịch thực hiện việc giải quyết TTHC tại Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả
của xã. Thực hiện Quyết định số 2247/QĐ-BTP ngày 25/12/2015 của Bộ
trưởng Bộ Tư pháp ban hành Chương trình bồi dưỡng nghiệp vụ hộ tịch cho
công chức làm công tác hộ tịch; Kế hoạch số 431/KH-UBND ngày 19/3/2015
của UBND tỉnh Hà Nam triển khai thi hành Luật Hộ tịch năm 2014, Công văn
số 742/BTP-TCCB ngày 12/3/2018 của Bộ Tư pháp về việc bồi dưỡng nghiệp
vụ hộ tịch cho công chức làm công tác hộ tịch, từ ngày 19/10/2019 đến ngày
03/11/2019, UBND huyện Lý Nhân đã cử 23 công chức làm công tác hộ tịch
của huyện và xã tham dự lớp bồi dưỡng nghiệp vụ hộ tịch do Sở Tư pháp tỉnh
Hà Nam phối hợp với Học viện Tư pháp tổ chức, đảm bảo trước ngày
31/12/2019, 100% công chức làm công tác hộ tịch được bồi dưỡng nghiệp vụ
Nhằm từng bước xây dựng và tạo lập dữ liệu cho Cơ sở dữ liệu hộ tịch
hộ tịch theo quy định của Luật Hộ tịch.
điện tử toàn quốc, đảm bảo triển khai áp dụng thống nhất, có sự kết nối liên
thông, chia sẻ dữ liệu giữa các cơ quan đăng ký, quản lý hộ tịch trên phạm vi
toàn quốc và đồng bộ các thông tin cơ bản của cá nhân với Cơ sở dữ liệu quốc
gia về dân cư theo yêu cầu của pháp luật về hộ tịch, trên cơ sở Công văn số
1437/BTP-CNTT ngày 25/4/2019 của Bộ Tư pháp về việc hướng dẫn số hóa
Sổ hộ tịch; Kế hoạch số 2260/KH-UBND ngày 02/8/2019 của UBND tỉnh Hà
Nam về triển khai thực hiện số hoá dữ liệu hộ tịch lịch sử trên địa bàn tỉnh Hà
Nam, Phòng Tư pháp huyện Lý Nhân cũng triển khai thực hiện việc số hoá Sổ
hộ tịch và cập nhật dữ liệu hộ tịch lịch sử. Cụ thể: Thực hiện việc chuyển đổi
38
dữ liệu hộ tịch từ sổ giấy (đối với những dữ liệu được hình thành từ năm 2016
trở về trước) sang dữ liệu số theo 3 giai đoạn:
Năm 2019: Chuyển đổi dữ liệu hộ tịch từ sổ giấy sang dữ liệu số đối
với toàn bộ dữ liệu hộ tịch đã đăng ký từ ngày 01/01/2016 đến hết ngày
31/10/2016.
Năm 2020: Chuyển đổi dữ liệu hộ tịch từ sổ giấy sang dữ liệu số đối
với toàn bộ dữ liệu hộ tịch đã đăng ký từ năm 2006 đến hết năm 2015.
Năm 2021: Chuyển đổi dữ liệu hộ tịch từ sổ giấy sang dữ liệu số đối
với toàn bộ dữ liệu hộ tịch đã đăng ký từ năm 2005 trở về trước.
Với nguyên tắc dữ liệu hộ tịch do cấp nào tạo lập (đăng ký) thì cấp đó
thực hiện việc số hóa. Trường hợp sổ hộ tịch do UBND cấp xã đăng ký nhưng
lưu tại 02 cấp (cấp xã và cấp huyện) thì cấp xã là đơn vị có trách nhiệm thực
hiện việc số hóa. Đối với dữ liệu mà theo lịch sử hiện không xác định được cơ
quan tạo lập (do chia tách, sáp nhập địa giới hành chính hoặc sổ hộ tịch hiện
chỉ còn lưu ở 01 cấp hành chính) thì cấp lưu sổ hộ tịch thực hiện việc số hóa.
Việc triển khai thực hiện đòi hỏi phải bám sát các mục tiêu, nhiệm vụ
và thực tiễn của địa phương, nghiêm túc, đúng tiến độ và có hiệu quả. Việc
chuyển đổi dữ liệu hộ tịch từ sổ giấy sang dữ liệu số phải bảo đảm chính xác,
đầy đủ, phục vụ tốt cho việc tra cứu và sử dụng thông tin.
1.4.3. Bài học kinh nghiệm có thể áp dụng cho quản lý hộ tịch ở
huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình
Qua nghiên cứu tình hình thực hiện công tác quản lý nhà nước về hộ
tịch ở 02 đơn vị cấp huyện (01 quận ở thành phố Hà Nội và 01 huyện ở tỉnh
Hà Nam), nhất là đối với huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam, là đơn vị cấp huyện
có điều kiện kinh tế - xã hội và dân cư khá tương đồng với huyện Kim Sơn,
tỉnh Ninh Bình, có thể rút ra một số bài học cụ thể, có giá trị tham khảo trong
39
việc thực hiện quản lý hộ tịch trên địa bàn huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình,
trong thời gian tới như sau:
* Thứ nhất, việc số hóa sổ hộ tịch
Việc triển khai thực hiện số hóa sổ hộ tịch trên địa bàn huyện nhằm xây
dựng cơ sở dữ liệu hộ tịch trên địa bàn huyện và từng bước xây dựng và tạo
lập dữ liệu cho Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử toàn quốc; đảm bảo triển khai áp
dụng thống nhất, có sự kết nối liên thông, chia sẻ dữ liệu giữa các cơ quan
đăng ký, quản lý hộ tịch trên phạm vi toàn quốc và đồng bộ các thông tin cơ
bản của cá nhân với Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư theo yêu cầu của pháp
luật về hộ tịch. Hiện nay, nhiểu tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trên cả
nước đã ban hành kế hoạch triển khai thực hiện lộ trình số hóa sổ hộ tịch,
trong đó có thành phố Hà Nội và tỉnh Hà Nam và đã được quận Long Biên và
huyện Lý Nhân triển khai thực hiện. Việc triển khai số hóa sổ hộ tịch tạo điều
kiện thuận lợi không chỉ cho công tác quản lý nhà nước về hô tịch mà còn tạo
điều kiện cho người dân thực hiện TTHC về hộ tịch.
Tuy nhiên việc triển khai số hóa sổ hộ tịch cần phải có lộ trình phù hợp
và cần một lượng kinh phí rất lớn, nếu không có chương trình, đề án cụ thể,
việc bố trí kinh phí thực hiện đối với địa phương, nhất là UBND cấp xã trên
địa bàn huyện sẽ gặp rất nhiều khó khăn, thậm chí có địa phương không bố trí
được kinh phí để thực hiện.
Mặt khác, với nguyên tắc cấp nào thực hiện tạo lập sổ hộ tịch thì cấp đó
phải thực hiện số hóa, thì việc số hóa chủ yếu được thực hiện bởi UBND cấp
xã; yêu cầu cao nhất của việc số hóa sổ hộ tịch là phải đảm bảo chính xác, đầy
đủ phục vụ cho khai thác sử dụng và quản lý nhà nước về hộ tịch, mà trình độ
tin học của đội ngũ công chức tư pháp - hộ tịch chưa đảm bảo, nên nếu thực
hiện việc số hóa thủ công sổ hộ tịch sẽ có nhiều thiếu sót, nhầm lẫn ảnh
hưởng lớn đến việc khai thác, sử dụng sổ hộ tịch điện tử.
40
* Thứ hai, bồi dưỡng nghiệp vụ cho công chức làm công tác hộ tịch
Đội ngũ công chức làm công tác hộ tịch, nhất là công chức tư pháp - hộ
tịch làm công tác hộ tịch phải được thực hiện bồi dưỡng nghiệp vụ hộ tịch
theo đúng quy định [43, tr.27]; tuy nhiên ở nước ta nói chung và trên địa bàn
huyện nói riêng, đội ngũ công chức Tư pháp - Hộ tịch luôn luôn biến động do
công tác cán bộ của địa phương, vì thế việc bồi dưỡng nghiệp vụ cho đội ngũ
công chức làm công tác hộ tịch, ngoài việc được thực hiện theo kế hoạch triển
khai thi hành Luật Hộ tịch thì còn phải được thực hiện thường xuyên, liên tục
đối với các công chức mới được giao thực hiện công tác hộ tịch, để đảm bảo
đúng quy định của Luật Hộ tịch [47, tr.27]. Trong khi đó hiện nay chỉ có một
số cơ sở đào tạo được giao nhiệm vụ bồi dưỡng và cấp chứng chỉ công nhận
hoàn thành chương trình bồi dưỡng nghiệp vụ về hộ tịch nên sẽ rất khó khăn
trong việc bồi dưỡng nghiệp vụ hộ tịch kịp thời cho công chức mới được phân
công làm công tác hộ tịch khi có sự thay đổi, luân chuyển cán bộ, công chức.
Tiểu kết Chƣơng 1
Chương 1 của luận văn tác giả đã phân tích làm rõ các vấn đề lý luận
liên quan đến quản lý nhà nước về hộ tịch như:
Hộ tịch là những vấn đề cơ bản, liên quan đến nhân thân của con người;
Quản lý nhà nước về hộ tịch là sự thực hiện chức năng quản lý của cơ
quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật;
Chủ thể thực hiện quản lý nhà nước về hộ tịch là cơ quan hành chính
nhà nước, gồm: Chính phủ; Bộ; UBND (cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã), cơ quan
chuyên môn giúp việc cho UBND cấp tỉnh, cấp huyện trong quản lý nhà nước
về hộ tịch (Sở Tư pháp, Phòng Tư pháp) và công chức tư pháp - hộ tịch.
Nội dung quản lý nhà nước về hộ tịch tập trung vào các hoạt động: Ban
hành hoặc trình cơ quan có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật
41
về hộ tịch; triển khai thi hành pháp luật về hộ tịch; quản lý hệ thống tổ chức
và hoạt động của các cơ quan, tổ chức trong hoạt động hộ tịch; đào tạo, bồi
dưỡng, hướng dẫn nghiệp vụ về hộ tịch; kiểm tra, thanh tra, giải quyết khiếu
nại, tố cáo trong hoạt động hộ tịch; ứng dụng công nghệ thông tin, bảo đảm
kinh phí, cơ sở vật chất, phương tiện cho hoạt động hộ tịch, xây dựng và quản
lý cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử; thống kê nhà nước về hộ tịch; hợp tác quốc tế
về hộ tịch;
Các yếu tố ảnh hướng đến quản lý nhà nước về hộ tịch: Hệ thống pháp
luật nói chung và hệ thống pháp luật về hộ tịch nói riêng; tổ chức bộ máy,
nhân lực; ý thức pháp luật và sự tham gia của người dân quản lý của nhà
nước; cơ sở vật chất phục vụ cho sự quản lý của nhà nước về hộ tịch. Bài học
kinh nghiệm được rút ra từ thực tiễn quản lý hộ tịch tại quận Long Biên,
thành phố Hà Nội và huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam.
Những nội dung được làm sáng tỏ trong Chương 1 được tác giả sử dụng
làm cơ sở cho việc nghiên cứu những nội dung quan trọng trong Chương 2
của luận văn.
42
Chƣơng 2
THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ HỘ TỊCH
TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN KIM SƠN TỈNH NINH BÌNH
2.1. Khái quát về huyện Kim Sơn tỉnh Ninh Bình
2.1.1. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên
Huyện Kim Sơn là huyện đồng bằng ven biển, nằm ở phía Đông Nam
tỉnh Ninh Bình, cách trung tâm thành phố Ninh Bình 28 km, được thành lập
năm 1829, do Nhà Doanh điền sứ Uy viễn Tướng công Nguyễn Công Trứ
lãnh đạo khẩn hoang; phía Tây giáp huyện Nga Sơn (tỉnh Thanh Hoá), phía
Đông giáp huyện Nghĩa Hưng (tỉnh Nam Định), phía Nam giáp biển Đông.
Huyện Kim Sơn có địa hình bằng phẳng và được chia thành hai vùng
chính là vùng đồng bằng và vùng ven biển với hệ thống sông ngòi dày đặc.
Diện tích đất tự nhiên của huyện là 21.571,4 ha, trong đó có 4.851,61 ha vùng
bãi bồi ven biển và khoảng 700 ha Cồn Nổi, hàng năm lấn ra biển từ 80 đến
100m. Do được thiên nhiên ban tặng nên huyện Kim Sơn có những điều kiện
thuận lợi về phát triển nông nghiệp và thủy sản:
2.1.2. Đặc điểm về hành chính và dân cư
Huyện Kim Sơn có 27 đơn vị hành chính cấp xã, gồm 25 xã và 02 thị
trấn (đến tháng 02/2020 thực hiện sắp xếp lại đơn vị hành chính, hiện nay
huyện Kim Sơn còn 25 đơn vị hành chính) được chia thành 05 tiểu khu, trong
đó có 05 xã được phê duyệt là xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang ven biển
và hải đảo, giai đoạn 2016 - 2020 tại Quyết định số 131/QĐ-TTg ngày
25/01/2017 của Thủ tướng Chính phủ, gồm các xã: Kim Mỹ, Kim Tân, Cồn
Thoi, Kim Trung và Kim Hải. Tính đến năm 2019, dân số của huyện là
183.322 người; có 2 tôn giáo chính là Phật giáo và Công giáo chiếm 52,29%
dân số, trong đó đạo Công giáo chiếm 47,07% [30].
43
2.1.3. Điều kiện kinh tế
Sản xuất nông nghiệp phát triển toàn diện, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ
về cơ cấu giống, cơ cấu mùa vụ, ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào
sản xuất, nâng cao trình độ thâm canh, nên đã giành được thắng lợi cả trong
trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản. Kim Sơn luôn là huyện dẫn đầu
tỉnh về năng suất lúa, diện tích gieo cấy lúa đạt trên 16.000 ha/năm, năng suất
đạt 122,44tạ/ha, sản lượng lương thực đạt 102.845 tấn (đạt 97,02% mục tiêu);
lúa chất lượng cao đạt 81.275 tấn; chiếm gần 1/3 tổng sản lượng lương thực
của tỉnh Ninh Bình. Diện tích lúa đặc sản, lúa chất lượng cao ngày càng tăng
góp phần nâng cao giá trị sản xuất trên 1ha đất nông nghiệp [30, tr.2].
Kinh tế biển luôn là vùng có tiềm năng để phát triển thành một vùng
sản xuất hàng hóa phong phú và đa dạng. Nuôi trồng và khai thác thuỷ hải sản
đang dần trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của huyện, với trên 4.800 ha vùng
bãi bồi ven biển và có khoảng 700ha Cồn Nổi là vùng khai thác tự nhiên rất
phù hợp cho việc khai thác nuôi trồng thủy sản và phát triển du lịch. Nuôi
trồng thủy hải sản phát triển, một số mô hình nuôi trồng thủy, hải sản ứng
dụng công nghệ cao được nhân rộng, góp phần nâng cao giá trị sản xuất. Diện
tích nuôi trồng thủy sản hàng năm tăng, năm 2019 đạt 4.370,7ha, sản lượng
28.000 tấn; sản lượng thủy, hải sản bình quân hàng năm đạt 26.581 tấn, chiếm
trên 50% sản lượng thủy sản toàn tỉnh. Hiện nay, tỉnh đang thực hiện lập Quy
hoạch chung và quy hoạch chi tiết vùng bãi bồi ven để khai thác hết tiềm năng
thế mạnh của kinh tế biển [30, tr.2].
Sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp tiếp tục duy trì và phát
triển, giá trị sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp đến năm 2019 (theo
giá 2010) đạt 2.330 tỷ đồng, tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm đạt 11%.
Hoạt động của các cơ sở sản xuất trên địa bàn cơ bản ổn định, góp phần giải
quyết việc làm cho hơn 27 nghìn lao động. Cơ sở hạ tầng của Cụm công
44
nghiệp Đồng Hướng từng bước được đầu tư nâng cấp, mở rộng, hiện có 09
doanh nghiệp đang hoạt động với khoảng 3.000 công nhân, thu nhập bình
quân khoảng 4,5-5 triệu đồng/người/tháng; khu vực vùng bãi bồi ven biển có
một số doanh nghiệp đang khảo sát, lập dự án đầu tư. Cùng với phát triển
công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp; huyện còn tập trung duy trì, phát triển các
nghề truyền thống và đưa các ngành nghề mới về các thôn, xóm, tạo thêm
việc làm cho lao động nông thôn. Hiện nay, trên địa bàn huyện có tổng số 25
làng nghề cấp tỉnh, trong đó có 01 làng nghề truyền thống [30, tr.2-3].
Các hoạt động dịch vụ phát triển, đáp ứng nhu cầu sản xuất và tiêu
dùng của Nhân dân. Tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm đạt 7,62%; tổng
mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ trên địa bàn hàng năm tăng. Các
loại hình dịch vụ vận tải, viễn thông, internet, đại lý, nhà hàng... tiếp tục phát
triển ngày càng đa dạng, cơ bản đáp ứng nhu cầu của Nhân dân. Lượng khách
du lịch đến địa bàn ngày càng tăng. Giá trị xuất khẩu trên địa bàn bình quân
hàng năm ước đạt 21,6 triệu USD. Các tổ chức tín dụng thực hiện cải cách thủ
tục, quy trình cho vay theo hướng rõ ràng, minh bạch, đơn giản, tạo điều kiện
tối đa cho khách hàng trong việc tiếp cận vốn vay để sản xuất, kinh doanh.
Công tác xây dựng nông thôn mới đạt được kết quả tích cực, đã thay
đổi diện mạo nông thôn; hạ tầng thiết yếu và kinh tế nông thôn có bước phát
triển; đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện về nhiều mặt.
Đến nay trên địa bàn huyện đã có 16/23 xã đạt chuẩn nông thôn mới [30, tr.2].
2.1.4. Về văn hóa xã hội
Các hoạt động văn hoá, thông tin, truyền thanh, thể dục thể thao phát
triển mạnh mẽ, từng bước đáp ứng nhu cầu vật chất, tinh thần của nhân dân.
Công tác chăm sóc, bảo vệ sức khoẻ cho nhân dân được quan tâm, cơ sở vật
chất, trang thiết bị y tế được tăng cường.
45
Chất lượng giáo dục toàn diện ở tất cả các bậc học được nâng lên; số
học sinh của huyện thi đỗ vào các trường Đại học hàng năm đều tăng. Trong 5
năm, toàn huyện có 1.986 học sinh giỏi cấp tỉnh; 212 học sinh giỏi cấp Quốc
gia; 2.799 học sinh thi đỗ Đại học; có 03 học sinh Trung học phổ thông vào
vòng chung kết cuộc thi Đường lên đỉnh Olympia, trong đó có 01 học sinh đạt
giải Nhất [30, tr.5].
Huyện luôn triển khai thực hiện có hiệu quả công tác đảm bảo an sinh
xã hội, xoá đói giảm nghèo, chăm sóc người có công, các gia đình chính sách;
việc thực hiện chính sách đối với người có công và an sinh xã hội được triển
khai nghiêm túc, đúng đối tượng; số người tham gia các loại bảo hiểm tăng,
trong đó BHYT đạt 86% tổng số dân. Công tác dạy nghề, nâng cao chất lượng
nguồn lao động, tạo việc làm được chú trọng, tập trung vào các ngành nghề
phù hợp, thiết thực với nhu cầu người học; xuất khẩu lao động được chỉ đạo
tích cực, trong 5 năm đã giới thiệu và xuất khẩu được gần 900 lao động, đem
lại nguồn thu nhập khá cho người dân [30, tr.5-6].
2.1.5. Về an ninh - quốc phòng, biên phòng
Được xác định là huyện trọng điểm của tỉnh Ninh Bình về công tác an
ninh, quốc phòng, biên phòng nên song song với phát triển kinh tế - xã hội,
huyện luôn chú trọng và thực hiện tốt nhiệm vụ đảm bảo an ninh, quốc phòng,
biên phòng tại địa phương, do đó an ninh chính trị của huyện luôn được giữ
vững, quốc phòng địa phương được tăng cường, hằng năm hoàn thành 100%
chỉ tiêu giao quân; trật tự an toàn xã hội được đảm bảo; thực hiện tốt công tác
biên phòng trên tuyến biên giới biển.
Trong những năm qua, tập trung phát triển kinh tế - xã hộ là điểm nhấn
quan trọng trong thực hiện nhiệm vụ chính trị của địa phương. Tuy vậy sự
phát triển kinh tế - xã hội giữa các tiểu khu trên địa bàn huyện trong những
năm qua là không đồng đều, trong đó có sự chênh lệch khá lớn giữa các xã xa
46
trung tâm huyện với các xã, thị trấn trung tâm huyện và các xã ven biển.
Chính sự phát triển kinh tế - xã hội giữa các xã, các tiểu khu của huyện không
đồng đều cũng ảnh hưởng tới chất lượng quản lý nhà nước trên địa bàn nói
chung và quản lý nhà nước về hộ tịch nói riêng.
2.2. Phân tích thực trạng quản lý nhà nƣớc về hộ tịch trên địa bàn
huyện Kim Sơn tỉnh Ninh Bình, giai đoạn 2016 - 2019
2.2.1. Ban hành văn bản chỉ đạo, quản lý nhà nước về hộ tịch
Xác định được tầm quan trọng của công tác quản lý nhà nước trên địa
bàn, trong những năm qua UBND huyện Kim Sơn đã ban hành nhiều văn bản
để chỉ đạo, triển khai thực hiện pháp luật về hộ tịch trên địa bàn, cụ thể như:
Kế hoạch số 16/KH-UBND ngày 02/02/2016 về triển khai thực hiện Luật Hộ
tịch; Kế hoạch số 62/KH-UBND ngày 16/5/2017 về triển khai thực hiện
chương trình hành động Quốc gia của Việt Nam về Đăng ký và thống kê hộ
tịch giai đoạn 2017-2024 trên địa bàn huyện Kim Sơn; Công văn số
143/UBND ngày 23/02/2016 về việc triển khai thi hành Luật Hộ tịch; Công
văn số 144/UBND ngày 23/02/2016 về việc trang bị máy tính phục vụ công
tác đăng ký, quản lý hộ tịch; Công văn số 373/UBND ngày 29/4/2016 về việc
thực hiện triển khai ứng dụng cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử; Công văn số
460/UBND ngày 31/5/2016 về việc thực hiện nghiêm túc quy định về đăng ký
lại khai sinh, thay đổi cải chính hộ tịch); Công văn số 269/UBND-PTP ngày
20/3/2017 về việc đẩy mạnh đăng ký, quản lý hộ tịch trên hệ thống phần mềm
hộ tịch; Công văn số 1022/UBND-TP ngày 26/7/2018 về việc triển khai thực
hiện Kế hoạch số 68/KH-UBND ngày 12/7/2018 của UBND tỉnh Ninh Bình
thực hiện Chỉ thị số 03/CT-TTg ngày 19/01/2018 về việc tăng cường công tác
giải quyết việc nuôi con nuôi trong tình hình mới; Công văn số 1532/UBND-
TP ngày 5/8/2019 về việc thực hiện Kế hoạch số 76/KH-UBND ngày
05/6/2019 của UBND tỉnh Ninh Bình về triển khai thực hiện Nghị định số
47
24/2019/NĐ-CP ngày 05/3/2019 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều
của Nghị định số 19/2011/NĐ-CP ngày 21/3/2011/NĐ-CP về quy định chi tiết
một số điều của Luật Nuôi con nuôi.
Các văn bản chỉ đạo, quản lý nhà nước về hộ tịch được UBND huyện
Kim Sơn ban hành là sự cụ thể hóa các quy định của pháp luật và sự chỉ đạo,
hướng dẫn của các cơ quan cấp trên có thẩm quyền, đồng thời chỉ đạo, triển
khai thi hành pháp luật về hộ tịch trên địa bàn huyện theo những điều kiện cụ
thể của địa phương, trong đó chú trọng chỉ đạo sự tuân thủ pháp luật về hộ
tịch, Phòng Tư pháp, Uỷ ban nhân dân các xã, thị trấn trên địa bàn tiếp tục cải
tiến phong cách, lề lối làm việc công chức Phòng tư pháp đảm nhiệm công tác
hộ tịch; công chức tư pháp - hộ tịch cấp xã,…
2.2.2. Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về hộ tịch
Xác định công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về hộ tịch
là khâu đầu tiên triển khai thi hành pháp luật về hộ tịch; đặc biệt, năm 2016 là
năm đầu tiên triển khai thi hành Luật Hộ tịch năm 2014 - Luật đầu tiên về hộ
tịch ở nước ta, vì thế, công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về hộ tịch
được UBND huyện, Phòng Tư pháp và UBND cấp xã triển khai kịp thời,
thường xuyên và liên tục, nhất là trong năm 2016, bằng nhiều hình thức đa
dạng, thiết thực như tổ chức Hội nghị, tọa đàm, qua hệ thống thông tin đại
chúng… Kết quả cụ thể như sau:
Tổ chức hội nghị cấp huyện để quán triệt, triển khai thi hành Luật Hộ
tịch và các văn bản hướng dẫn thi hành đến toàn bộ cán bộ cốt cán của huyện,
lãnh đạo UBND các xã,thị trấn và đội ngũ công chức làm công tác hộ tịch
trên địa bàn.
Tổ chức 12 hội nghị tuyên truyền lồng ghép cho công chức tư pháp - hộ
tịch các xã, thị trấn tại các buổi giao ban công tác tư pháp. UBND các xã, thị
trấn trên địa bàn huyện tổ chức được 120 hội nghị tuyên truyền, phổ biến Luật
48
Hộ tịch và các văn bản hướng dẫn thi hành cho cán bộ, công chức, đoàn viên,
hội viên và người dân trên địa bàn; Đài Truyền thanh huyện, Đài Truyền
thanh các xã, thị trấn phát trên 2.000 lượt tin bài có nội dung liên quan đến
các quy định về đăng ký, quản lý hộ tịch,... Bên cạnh đó, công tác tuyên
truyền, phổ biến pháp luật về hộ tịch còn được các đơn vị thực hiện thông qua
các hình thức như: Tổ chức lồng ghép qua các cuộc họp giao ban với công
chức tư pháp - hộ tịch; lồng ghép với các hoạt động trợ giúp pháp lý; sinh
hoạt câu lạc bộ pháp luật; tủ sách pháp luật; tuyên truyền trên Trang thông tin
điện tử của huyện; biên soạn đề cương; tài liệu hỏi đáp...
Việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật về hộ tịch đã tạo điều kiện cho
công chức tư pháp - hộ tịch nắm vững được pháp luật về hộ tịch, phục vụ
công tác đăng ký, quản lý hộ tịch trên địa bàn, đồng thời giúp cho người dân
biết và hiểu được những quy định liên quan đến công tác quản lý, đăng ký hộ
tịch và tầm quan trọng của công tác hộ tịch.
2.2.3. Tổ chức bộ máy, nhân lực thực hiện công tác quản lý, đăng ký
hộ tịch trên địa bàn huyện
Trong giai đoạn hiện nay, yêu cầu của công tác xây dựng pháp luật, cải
cách hành chính, cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam trong xu hướng hội nhập quốc tế đã, đang và sẽ tác động
mạnh tới toàn bộ tổ chức và hoạt động của ngành Tư pháp, đặc biệt là công
chức tư pháp - hộ tịch cấp xã. Bởi cơ sở là nơi trực tiếp đưa các chủ trương
chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước vào cuộc sống và kiểm nghiệm
tính đúng đắn của các chủ trương, chính sách, pháp luật đó.
Trên địa bàn huyện Kim Sơn, bộ máy và nguồn nhân lực thực hiện
quản lý nhà nước về hộ tịch được bố trí ở cấp huyện và cấp xã:
* Tại UBND huyện: Thực hiện quản lý nhà nước về hộ tịch trong địa
bàn huyện và do Phòng Tư pháp trực tiếp tham mưu thực hiện. Trong 04 năm
49
qua (2016 - 2019) cơ cấu của Phòng Tư pháp tương đối ổn định, luôn duy trì
04 biên chế (02 Nam; 02 Nữ), trong đó có 01 Trưởng phòng, 01 Phó Trưởng
phòng và 02 Chuyên viên. Cả 04 biên chế của Phòng Tư pháp đều có trình độ
Đại học (03 đồng chí đang theo học sau Đại học), trong đó: 02 biến chế tốt
nghiệp Đại học chuyên ngành luật: 02 biên chế tốt nghiệp Đại học chuyên
ngành khác; về trình độ lý luận chính trị, gồm có: 02 biên chế có trình độ
Trung cấp; 02 biên chế có trình độ sơ cấp. Phòng bố trí cho 01 Chuyên viên
có trình độ Đại học luật đảm nhiệm công tác hộ tịch.
* Tại UBND cấp xã:
Ở cấp xã, đội ngũ công chức Tư pháp - Hộ tịch của xã là những người
chịu trách nhiệm chính trong công tác tham mưu, giúp UBND cấp xã thực
hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về hộ tịch, đồng thời cũng là người thực hiện
các nghiệp vụ liên quan đến tất cả các khâu của công tác đăng ký, quản lý hộ
tịch thuộc thẩm quyền cấp xã, vì vậy chất lượng của đội ngũ này ảnh hưởng
trực tiếp đến chất lượng công tác quản lý nhà nước về hộ tịch trên địa bàn các
xã, thị trấn. Chính vì thế tiêu chuẩn của công chức tư pháp - hộ tịch đảm
nhiệm công tác hộ tịch đã được luật hóa [43, tr.27], đó là: Có trình độ từ
Trung cấp luật trở lên và đã được bồi dưỡng nghiệp vụ hộ tịch; có chữ viết rõ
ràng và trình độ tin học phù hợp theo yêu cầu công việc.
Để triển khai thi hành Luật Hộ tịch năm 2014, đến năm 2016 tất cả các
xã, thị trấn trên địa bàn huyện Kim Sơn đều đã được bố trí được công chức tư
pháp - hộ tịch; việc bố trí công chức tư pháp - hộ tịch được thực hiện theo
Nghị định số 92/2009/NĐ-CP ngày 22/10/2009 của Chính phủ về chức danh,
số lượng; một số chính sách, chế độ đối với cán bộ, công chức ở xã, phường,
thị trấn và những người hoạt động không chuyên trách cấp xã và Quyết định
số 09/2010/QĐ-UBND ngày 18/5/2010 của UBND tỉnh Ninh Bình về ban
50
hành quy định về bố trí chức danh cán bộ, công chức cấp xã theo quy định tại
Nghị định số 92/2009/NĐ-CP ngày 22/10/2009 của Chính phủ.
Theo thống kê của Phòng Tư pháp và Phòng Nội vụ huyện Kim Sơn,
trình độ lý luận chính trị, trình độ chuyên môn và trình độ tin học của đội ngũ
công chức tư pháp - hộ tịch trên địa bàn huyện Kim Sơm tính đến tháng
12/2019 như sau:
Biểu đồ 2.1: Trình độ lý luận chính trị của công chức tƣ pháp - hộ tịch các xã, thị trấn huyện Kim Sơn, tháng 12/2019
Nguồn: Phụ lục 1
Biểu đồ 2.2: Trình độ đào tạo công chức tƣ pháp - hộ tịch các xã, thị trấn huyện Kim Sơn, tháng 12/2019
51
Nguồn: Phụ lục 1
Biểu đồ 2.3: Trình độ tin học công chức tƣ pháp - hộ tịch các xã, thị trấn huyện Kim Sơn, tháng 12/2019
Nguồn: Phụ lục 1
Theo số liệu thống kê (Phụ lục số 01 và các biểu đồ 2.1; 2.2; 2.3); tính
đến tháng 12/2019 trên địa bàn huyện Kim Sơn có 48 công chức tư pháp - hộ
tịch (trong đó xã có 2 biên chế công chức tư pháp - hộ tịch trở lên là 18 xã).
Về trình độ chuyên môn: Trình độ Đại học luật 25 người, Trung cấp luật 10
người; trình độ Đại học, Trung cấp ngành khác 13 người. Có 18 xã bố trí 01
công chức tư pháp - hộ tịch đảm nhiệm chuyên trách công tác hộ tịch; 09 xã,
thị trấn công chức tư pháp - hộ tịch làm công tác hộ tịch đồng thời kiêm
nhiệm tham mưu thực hiện các công việc khác thuộc lĩnh vực tư pháp. Hầu
hết công chức đảm nhận công tác hộ tịch tại các xã, thị trấn đều có trình độ
chuyên môn luật hoặc có thâm niên công tác trong ngành ít nhất là 5 năm trở
lên; công tác hộ tịch phát sinh tại các xã, thị trấn đều được công chức tư pháp
- hộ tịch tiếp nhận và tham mưu giải quyết kịp thời, đúng quy định, cơ bản
đáp ứng được nhu cầu của người dân (Phụ lục số 01).
Để bồi dưỡng nghiệp vụ cho đội ngũ công chức làm công tác hộ tịch
cấp huyện, cấp xã, hằng năm, UBND huyện Kim Sơn cử công chức tham gia
đầy đủ, nghiêm túc các lớp tập huấn về hộ tịch do cấp trên tổ chức, đồng thời
tổ chức tập huấn nghiệp vụ hộ tịch cho công chức làm công tác hộ tịch trên
52
địa bàn: Năm 2016, tổ chức 01 lớp tập huấn phần mềm hộ tịch; năm 2018 tổ
chức 02 lớp tập huấn về nghiệp vụ tư pháp, trong đó có chuyên đề hướng dẫn
về nghiệp vụ hộ tịch. Bên cạnh đó theo quy định của Luật Hộ tịch năm 2014
các công chức làm công tác hộ tịch phải được bồi dưỡng nghiệp vụ, năm
2019, UBND huyện đã báo cáo với Sở Tư pháp tỉnh Ninh Bình tổ chức liên
kết với Trường Trung cấp Luật Thái Nguyên mở lớp bồi dưỡng nghiệp vụ hộ
tịch cho công chức làm công tác hộ tịch UBND cấp huyện và UBND cấp xã,
đảm bảo 100% công chức làm công tác hộ tịch trên địa bàn huyện hoàn thành
Chương trình bồi dưỡng nghiệp vụ hộ tịch của Bộ Tư pháp trước ngày
01/01/2020 và được cấp chứng chỉ nghiệp vụ hộ tịch theo quy định.
2.2.4. Cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ công tác quản lý, đăng ký
hộ tịch trên địa bàn huyện
Xác định điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ cho công tác
có ảnh hưởng quan trọng đến hoạt động quản lý nhà nước về hộ tịch. UBND
huyện Kim Sơn và UBND các xã, thị trấn trên địa bàn luôn quan tâm và bố trí
kinh phí để đảm bảo cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ công tác quản lý
nhà nước về hộ tịch.
Ngay từ đầu năm 2016, công tác đăng ký hộ tịch đều được UBND
huyện và UBND các xã, thị trấn thực hiện tại Bộ phận tiếp nhận và trả kết
quả; tại đây cơ bản đã bố trí đầy đủ cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ giải
quyết các TTHC nói chung và đăng ký hộ tịch nói riêng, cụ thể:
Diện tích phòng làm việc của Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả của huyện: 94m2; có bố trí chỗ ngồi chờ công dân đúng quy định; trang thiết bị
gồm có: 11 bộ máy vi tính, 06 máy in, 01 máy photocopy, 01 máy scan, có hệ
thống mạng, hệ thống mã vạch, 02 màn hình cảm ứng, 02 máy tính quản trị hệ
thống màn hình cảm ứng và hệ thống máy chủ, 01 máy điện thoại cố định, 07
bàn làm việc, 05 quạt máy, 02 điều hòa, 05 tủ đựng tài liệu, 15 ghế ngồi chờ
53
giải quyết công việc cho tổ chức, công dân; hệ thống xếp hàng tự động, hệ
thống camera; có sổ, bố trí hòm thư, số điện thoại đường dây nóng để công
dân góp ý kiến đối với hoạt động của Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả.
- 100% các xã, thị trấn trên địa bàn đã bố trí diện tích Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả từ 40m2 trở lên, có bàn ghế đảm bảo theo quy định; có đầy
đủ máy tính kết nối internet, máy in. Tuy nhiên nhiều xã chưa bố trí được máy
fax, máy scan, máy photocopy.
Triển khai thực hiện Kế hoạch số 05/KH-STP ngày 09/3/2016 tỉnh
Ninh Bình về triển khai ứng dụng Phần mềm đăng ký và quản lý hộ tịch trên
địa bàn tỉnh Ninh Bình, UBND huyện Kim Sơn đã chỉ đạo Phòng Tư pháp và
UBND các xã tổ chức rà soát và đầu tư, trang bị các phương tiện, thiết bị máy
móc cần thiết để kết nối cơ sở dữ liệu hộ tịch. Từ năm 2016, Phòng Tư pháp
và UBND của 27/27 xã, thị trấn đã triển khai sử dụng Phần mềm hộ tịch để
thực hiện đăng ký, quản lý hộ tịch. Hiện nay 100% cơ quan đăng ký hộ tịch
trên địa bàn huyện đều được trang bị máy vi tính và kết nối internet để sử
dụng cho việc tiếp nhận và đăng ký hộ tịch. Do vậy, việc đăng ký và quản lý
hộ tịch ngày càng ổn định, chính xác, hạn chế được sai sót trong các giấy tờ
hộ tịch của người dân so với trước đây, việc thống kê báo cáo dễ dàng, chính
xác, giúp giảm tải công việc cho cán bộ chuyên môn, góp phần giải quyết
nhanh gọn các thủ tục hành chính, giảm bớt thời gian, tiền bạc của nhân dân,
nâng cao hiệu quả công tác cải cách TTHC.
Ngoài ra, việc trang bị các loại tủ để lưu trữ các loại sổ, hồ sơ về hộ
tịch cũng được đầu tư thoả đáng, góp phần thực hiện quản lý nhà nước về hộ
tịch ngày càng hoàn thiện.
2.2.5. Thực hiện thủ tục hành chính đăng ký hộ tịch trên địa bàn
huyện
54
Từ khi Luật Hộ tịch năm 2014 có hiệu lực đến cuối năm 2019, UBND
huyện Kim Sơn đã lãnh đạo, chỉ đạo việc đăng ký và quản lý hộ tịch tại cấp
xã và trực tiếp thực hiện việc đăng ký, quản lý hộ tịch theo thẩm quyền đạt
được hiệu quả, cơ bản đảm bảo được yêu cầu quản lý nhà nước về hộ tịch trên
địa bàn. Theo báo cáo tổng kết công tác tư pháp các năm từ năm 2016 đến
năm 2019, kết quả thực hiện đăng ký hộ tịch trên địa bàn huyện Kim Sơn cụ
thể được trình bày cụ thể ở Phụ lục 3.
Nhìn vào phụ lục về các việc đăng ký hộ tịch trên địa bàn, có thể thấy,
trong giai đoạn từ 2016 đến hết năm 2019, huyện Kim Sơn đã giải quyết
lượng công việc khá lớn, nhiều đầu việc, thể hiện sự quan tâm chỉ đạo đúng
mức của các cơ quan có thẩm quyền. Là một huyện có dân số đông, tỷ lệ
người dân có Đạo Công giáo cao (hơn 47%), có địa hình ven biển nên có một
lượng lớn người dân lao động ở vùng đầm, bãi, việc tiếp cận các thông tin
chính thống của chính quyền gặp nhiều khó khăn, cũng ảnh hưởng không
thuận lợi đến công tác quản lý, đăng ký hộ tịch trên địa bàn. Mặc dù vậy, với
sự nỗ lực của Đảng bộ và chính quyền, thời gian qua việc thực hiện quản lý
nhà nước về hộ tịch trên địa bàn huyện đã đạt được những kết quả đáng kể.
Tình trạng đăng ký hộ tịch quá hạn cũng có những chuyển biến nhất
định (Cụ thể được phân tích tại các biểu đồ 2.4 và 2.5).
55
Biểu đồ 2.4. Tỷ lệ đăng ký khai sinh quá hạn theo từng năm
(Từ năm 2016 - 2019)
Nguồn: Phụ lục số 03
Biểu đồ 2.5. Tỷ lệ đăng ký khai tử quá hạn theo từng năm
(Từ năm 2016 - 2019)
Nguồn: Phụ lục số 03
Việc đăng ký khai sinh cho trẻ em mới sinh còn được UBND các xã, thị
trấn trên địa bàn huyện thực hiện liên thông các TTHC theo Thông tư liên tịch
số 05/2015/TTLT/BTP-BCA-BYT ngày 15/5/2015 của Bộ trưởng Bộ Tư
pháp, Bộ trưởng Bộ Công an, Bộ trưởng Bộ Y tế về hướng dẫn thực hiện liên
thông các TTHC về đăng ký khai sinh, đăng ký thường trú, cấp thẻ bảo hiểm
y tế cho trẻ em dưới 6 tuổi, hướng dẫn thực hiện liên thông các TTHC về
đăng khai sinh, đăng ký thường trú, cấp thẻ bảo hiểm y tế cho trẻ em dưới 6
tuổi đã tạo điều kiện thuận lợi, tiết kiệm được chi phí và thời gian đi lại của
công dân, đã gắn quyền lợi của trẻ em với trách nhiệm của gia đình trong việc
đăng ký khai sinh cho trẻ em để khắc phục tình trạng đăng ký khai sinh quá
hạn. Trong 04 năm qua, 27/27 xã, thị trấn đã triển khai thực hiện theo quy
trình liên thông 02 TTHC: Đăng ký khai sinh, đăng ký thường trú, cấp thẻ
56
Bảo hiểm Y tế cho trẻ dưới 6 tuổi. Kết quả tiếp nhận và giải quyết hồ sơ liên
thông trên địa bàn huyện từ 01/01/2016 đến hết năm 2019 là 18.431 hồ sơ.
Việc triển khai thực hiện đăng ký và quản lý hộ tịch trên hệ thống phần
mềm của Bộ Tư pháp đảm bảo ngày càng ổn định, chính xác; hạn chế được
sai sót trong các giấy tờ hộ tịch của người dân so với trước đây, việc thống kê
báo cáo dễ dàng hơn, giúp giảm tải công việc cho công chức chuyên môn, góp
phần giải quyết nhanh gọn các TTHC, giảm bớt thời gian và tiền bạc của
người dân, nâng cao hiệu quả công tác cải cách TTHC.
Như vậy, có thể thấy sau 04 năm triển khai thực hiện Luật Hộ tịch và
các văn bản hướng dẫn thi hành, công tác đăng ký hộ tịch trên địa bàn huyện
cơ bản đã đi vào nề nếp và có nhiều chuyển biến tích cực; giải quyết kịp thời
các yêu cầu về hộ tịch cho tổ chức, công dân, do đó phần nào đã tạo thuận lợi
cho người dân, tạo sự yên tâm cho cơ quan, tổ chức khi tiếp nhận, giải quyết
TTHC. Việc tiếp nhận hồ sơ và trả kết quả hộ tịch tại cấp huyện, cấp xã được
thực hiện theo cơ chế “một cửa”, TTHC được niêm yết công khai về trình tự,
thủ tục, hồ sơ, mức thu lệ phí tại bộ phận tiếp nhận và trả kết quả theo đúng
quy định. Công chức được giao nhiệm vụ trực tiếp giải quyết TTHC đều nêu
cao tinh thần trách nhiệm, có thái độ hòa nhã khi thi hành công vụ, không
sách nhiễu, gây phiền hà đối với các tổ chức, công dân khi đến giao dịch, liên
hệ công việc.
2.2.6. Lưu trữ sổ, hồ sơ, giấy tờ về hộ tịch trên địa bàn huyện
Dữ liệu về hộ tịch trên địa bàn huyện Kim Sơn từ năm 2016 trở lại đây
được quản lý và lưu trữ bằng 02 hình thức, bao gồm: Quản lý và lưu trữ ở các
loại sổ hộ tịch và hồ sơ hộ tịch được lưu trữ bằng giấy; quản lý và lưu trữ trên
phần mềm hộ tịch do Bộ Tư pháp cung cấp.
Trong những năm gần đây, do nhận thức được tầm quan trọng của việc
lưu trữ sổ, hồ sơ hộ tịch (sổ và hồ sơ hộ tịch là tài liệu được lưu trữ vĩnh
57
viễn) nên công tác lưu trữ hệ thống sổ hộ tịch, hồ sơ hộ tịch của các cơ quan
đăng ký hộ tịch trên địa bàn huyện ngày càng được quan tâm và dần đi vào nề
nếp; cơ bản các đơn vị đã thực hiện mở, khóa sổ hộ tịch và lưu trữ, bảo quản
đầy đủ; hồ sơ đăng ký lưu trữ tương đối tốt, theo đúng quy định. UBND một
số xã, thị trấn đã đã bố trí được kho lưu trữ riêng để lưu trữ hồ sơ hộ tịch.
Tuy nhiên trong công tác lưu trữ hồ sơ, sổ đăng ký hộ tịch còn một số
hạn chế, nhất là sổ, hồ sơ hộ tịch đã hình thành từ trước năm 2016 thì chỉ thực
hiện việc lưu trữ thô sơ ở dạng sổ và hồ sơ hộ tịch bằng giấy nên dữ liệu hộ
tịch còn xảy ra tình trạng nát, hư hỏng; nhiều sự kiện hộ tịch đã được đăng ký
trong những năm trước đây (trước năm 1998) hiện không còn lưu được sổ hộ
tịch, hồ sơ hộ tịch; việc bàn giao hồ sơ, tài liệu khi chuyển giao công chức tư
pháp - hộ tịch có địa phương không được thực hiện nghiêm túc, chính vì vậy
nên việc đùn đẩy trách nhiệm trong việc lưu trữ sổ, giấy tờ hộ tịch vẫn xảy ra;
sự quan tâm của cấp uỷ chính quyền đôi khi chưa được sâu sát nên việc đầu tư
cơ sở vật chất để quản lý sổ hộ tịch, hồ sơ hộ tịch còn lỏng lẻo; nhiều đơn vị
chưa bố trí được kho riêng để lưu trữ sổ, hồ sơ hộ tịch bằng giấy dẫn đến tình
trạng thông tin trong sổ hộ tịch có sự không thống nhất với giấy tờ hộ tịch làm
khó khăn trong việc quản lý nhà nước về lĩnh vực hộ tịch.
Bên cạnh đó, những thay đổi về thông tin hộ tịch do các quyết định, bản
án của cơ quan có thẩm quyền ban hành không thông báo kịp thời đến nơi
công dân cư trú, nên thông tin trong sổ và hồ sơ hộ tịch bị sai lệch, ảnh hưởng
đến hoạt động quản lý nhà nước về hộ tịch, đôi khi việc cung cấp thông tin về
hộ tịch của cơ quan đăng ký hộ tịch sai quy định do không cập nhật kịp thời
thông tin từ các bản án, quyết định của cơ quan có thẩm quyền ban hành.
58
2.2.7. Thanh tra, kiểm tra đăng ký, quản lý hộ tịch trên địa bàn
huyện
Đây là một nội dung quan trọng đã được cấp uỷ, chính quyền từ huyện
đến các xã, thị trấn quan tâm chỉ đạo, tổ chức thực hiện việc thanh tra, kiểm
tra đột xuất và theo định kỳ đối với UBND cấp xã nhằm phát hiện những
thiếu sót trong quản lý nhà nước về hộ tịch ở xã, thị trấn, từ đó để nâng cao
vai trò trách nhiệm của tập thể, cá nhân người đứng đầu ở chính quyền các
xã, thị trấn nói chung và của công chức tư pháp - hộ tịch nói riêng trong thực
hiện đăng ký và quản lý hộ tịch thuộc thẩm quyền,
Ngay từ đầu năm 2016, để triển khai thi hành Luật Hộ tịch năm 2014
trên địa bàn theo đúng quy định, UBND huyện Kim Sơn đã chỉ đạo Phòng tư
pháp huyện Kim Sơn thực hiện việc kiểm tra công tác triển khai thi hành pháp
luật về hộ tịch trên địa bàn. Phòng Tư pháp huyện đã xây dựng và triển khai
thực hiện Kế hoạch số 03/KH-PTP ngày 21/3/2016 về việc kiểm tra công tác
triển khai thi hành Luật Hộ tịch trên địa bàn, kết quả kiểm tra cho thấy công
tác thi hành pháp luật trong lĩnh vực hộ tịch đã được UBND các xã, thị trấn
quan tâm chỉ đạo và triển khai tổ chức thực hiện theo đúng quy định.
Bên cạnh đó, UBND huyện đã chỉ đạo Phòng Tư pháp huyện trong việc
xây dựng kế hoạch kiểm tra chuyên môn, nghiệp vụ công tác tư pháp thì xác
định kiểm tra việc thi hành pháp luật về hộ tịch là một nội dung trọng tâm.
Trong 4 năm qua Phòng Tư pháp đã kiểm tra trên 40 lượt UBND các xã, thị
trấn trên địa bàn, trong quá trình kiểm tra hồ sơ thực tế đã chỉ ra những sai sót
trong việc thực hiện các quy định pháp luật về hộ tịch, đưa ra những hướng
dẫn về việc áp dụng pháp luật cụ thể đối với từng hồ sơ của từng địa phương
để rút kinh nghiệm và góp phần khắc phục những hạn chế, giải đáp những
thắc mắc cụ thể của các địa phương trong việc thi hành pháp luật trong lĩnh
vực hộ tịch.
59
Song song với việc kiểm tra công tác thi hành pháp luật về hộ tịch đối
với cấp xã, UBND huyện Kim Sơn cũng chỉ đạo Phòng Tư pháp, UBND các
xã thường xuyên tự kiểm tra, rà soát hoàn chỉnh hồ sơ, tài liệu về quản lý,
đang ký hộ tịch; chuẩn bị chu đáo các nội dung, điều kiện để làm việc với các
Đoàn thanh tra, kiểm tra về công tác thi hành pháp luật về hộ tịch trên địa
bàn. Trong 04 năm qua, UBND huyện đã đón 01 Đoàn kiểm tra, UBND cấp
xã đã đón 02 Đoàn thanh tra của Sở Tư pháp tỉnh Ninh Bình.
Qua công tác kiểm tra, thanh tra chưa phát hiện trường hợp nào bị thu
hồi, hủy bỏ giấy tờ hộ tịch do UBND huyện và UBND cấp xã cấp trái quy
định của pháp luật. Nhưng vẫn còn những sai phạm trong việc đăng ký khai
sinh, khai tử, kết hôn, thay đổi, cải chính hộ tịch; sai phạm chủ yếu là về hồ
sơ, trình tự, thủ tục và cách ghi chép, khóa sổ hộ tịch, sửa chữa trong sổ hộ
tịch không đúng quy định, cụ thể một số sai phạm phổ biến như sau:
Trong đăng ký khai sinh:
Khi tiếp nhận Giấy chứng sinh để làm thủ tục Đăng ký khai sinh, công
chức tư pháp - hộ tịch đã nhận Giấy chứng sinh không hợp lệ, như: Giấy
chứng sinh không ghi ngày, tháng, năm cấp; không có chữ ký của người đỡ
đẻ; lưu bản phô tô Giấy chứng sinh…Có sự sai lệch thông tin trong giấy
chứng sinh và trong sổ đăng ký khai sinh.
Về đăng ký lại khai sinh: Hồ sơ đăng ký lại việc sinh còn sơ sài; xác
định thông tin để đăng ký lại khai sinh chưa chính xác.
Trong trong đăng ký kết hôn: Công chức tư pháp - hộ tịch còn có sai
sót trong việc tiếp nhận tờ khai đăng ký kết hôn, như tờ khai ghi chưa hết nội
dung, ghi không đúng hướng dẫn, không ghi ngày, tháng, năm; lưu trữ hồ sơ
(thiếu thành phần hồ sơ: Tờ khai đăng ký kết hôn, quyết định ly hôn, giấy xác
nhận tình trạng hôn nhân,…); việc ghi chép trong sổ đăng ký kết hôn không
đúng quy định, như: Thiếu thông tin (chữ ký người thực hiện đăng ký kết hôn,
60
ngày tháng xác lập quan hệ hôn nhân,…); không thống nhất giữa thông tin
trong tờ khai đăng ký kết hôn và sổ đăng ký kết hôn; sửa chữa trong sổ đăng
ký kết hôn không đúng quy định. Việc xác nhận tình trạng hôn nhân để đăng
ký kết hôn ghi không đúng nội dung và mục đích cấp Giấy xác nhận tình
trạng hôn nhân theo hướng dẫn tại Thông tư số 15/2015/TT-BTP ngày
16/11/2015 của Bộ trưởng Bộ tư pháp.
Trong đăng ký khai tử: Một số hồ sơ đăng ký khai tử chưa đảm bảo
theo quy định, không có giấy tờ chứng minh cho việc chết, hoặc giấy chứng
minh không đúng quy định (chết ở nơi khác nhưng địa phương cấp giấy báo
tử, chết vì nguyên nhân khác,….) không đầy đủ thông tin trong sổ đăng ký
khai tử (chữ ký người đi đăng ký khai tử, ngày, tháng, năm sinh của người
chết,.. Đăng ký lại khai tử hồ sơ còn sơ sài, chưa hợp lệ,….
Thay đổi, cải chính, bổ sung hộ tịch: Một số xã còn nhầm lẫn giữa thay
đổi và cải chính hộ tịch; một số hồ sơ không lưu hoặc không lưu đủ thành
phần,…, hồ sơ lưu là bản chụp, công chức tư pháp - hộ tịch chưa ký vào văn
bản việc đã đối chiếu với bản chính hoặc chứng thực; một số trường hợp cải
chính hộ tịch không thuộc thẩm quyền của UBND cấp xã (cải chính hộ tịch
cho công dân Việt Nam trên 14 tuổi),…
2.2.8. Xử phạt vi phạm hành chính về hộ tịch trên địa bàn huyện
Xử phạt vi phạm hành chính là một trong những biện pháp hữu hiệu để
quản lý nhà nước nói chung và quản lý nhà nước về hộ tịch nói riêng, nhằm
răn đe người vi phạm, đảm bảo kỷ cương, pháp luật.
Việc xử phạm vi phạm hành chính về hộ tịch trên địa bàn huyện (từ
năm 2016 - 2019) được thực hiện theo quy định của Nghị định số
110/2013/NĐ-CP ngày 24/9/2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp, hôn nhân và gia
đình, thi hành án dân sự, phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã. Trong 4 năm qua
61
trên địa bàn huyện đã phát hiện 113 vụ vi phạm hành chính trong lĩnh vực hộ
tịch, trong đó hành vi vi phạm phổ biến là đăng ký khai sinh quá hạn, sửa
chữa, tẩy xóa giấy tờ hộ tịch… Nguyên nhân dẫn tới các hành vi VPHC do
nhận thức của người dân còn hạn chế, ý thức chấp hành pháp luật chưa cao,
nhiều người không ý thức được hành vi tẩy xóa giấy tờ hộ tịch là vi phạm
pháp luật (chủ yếu là tự sửa chữa thông tin trong giấy khai sinh); những
trường hợp đăng ký khai sinh quá hạn là do người dân chưa chủ động đi đăng
ký khai sinh kịp thời, khi đi đăng ký khai sinh chưa đảm bảo giấy tờ theo quy
định hoặc sinh con trước thời kỳ hôn nhân và sau khi đăng ký kết hôn mới
khai sinh cho con dẫn đến việc đăng ký khai sinh quá hạn.
Chủ tịch UBND các xã, thị trấn đã ban hành 133 quyết định xử phạt vi
phạm hành chính (phạt cảnh cáo 131 vụ, phạt tiền 02 vụ). Lý do áp dụng hình
thức phạt cảnh cáo vì hầu hết các đối tượng vi phạm lần đầu, tính chất của
hành vi không phức tạp, nguy hiểm (đăng ký khai sinh quá hạn). Các cá nhân
có hành vi vi phạm sau khi nhận quyết định xử phạt đều có ý thức chấp hành,
không có khiếu nại, khởi kiện đối với các quyết định xử phạt vi phạm hành
chính đã được ban hành.
2.2.9. Giải quyết phản ánh, kiến nghị, khiếu nại, tố cáo liên quan đến
quản lý nhà nước về hộ tịch trên địa bàn
Xác định được tầm quan trọng của giải quyết phản ánh, kiến nghị,
khiếu nại, tố cáo liên quan đến quản lý nhà nước về hộ tich trên địa bàn;
UBND huyện Kim Sơn, UBND các xã, thị trấn trên địa bàn luôn triển khai
thực hiện nghiêm túc việc tiếp công dân và giải quyết các phản ánh, kiến
nghị, khiếu nại, tố cáo của công dân. Tại Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả của
huyện và UBND các xã, thị trấn đều bố trí hòm thư góp ý, niêm yết số điện
thoại đường dây nóng, địa chỉ tiếp nhận kiến nghị, phán ảnh về TTHC nói
chung và TTHC về hộ tịch nói riêng,… Trong 04 năm qua, UBND huyện
62
Kim Sơn và UBND các xã, thị trấn trên địa bàn chưa nhận được kiến nghị,
phán ánh bằng văn bản của của công dân liên quan đến quản lý nhà nước về
hộ tịch; những kiến nghị, phản ánh, thắc mắc trực tiếp của công dân đều được
công chức làm công tác hộ tịch, cán bộ, công chức có liên quan giải đáp,
hướng dẫn kịp thời và thỏa đáng theo đúng quy định. Do đó không phát sinh
việc khiếu nại, tố cáo liên quan đến quản lý nhà nước về hộ tịch trên địa bàn.
2.3. Đánh giá thực trạng công tác quản lý, đăng ký hộ tịch trên địa
bàn huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình, giai đoạn 2016 - 2019
2.3.1. Kết quả đạt được
Luật Hộ tịch năm 2014 chính thức có hiệu lực từ 01/01/2016 đã tạo một
bước ngoặt lớn trong việc quản lý, đăng ký hộ tịch ở nước ta nói chung và
trên địa bàn huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình nói riêng; đây là cơ sở pháp lý
đầy đủ, thống nhất, có hiệu lực cao cho công tác quản lý nhà nước về hộ tịch.
Luật Hộ tịch năm 2014 và các văn bản hướng dẫn thi hành (Nghị định số
123/2015/NĐ-CP ngày 15/11/2015 của Chính phủ; Thông tư số 15/2015/TT-
BTP ngày 16/11/2015,..) đã tạo bước chuyển biến tích cực, tháo gỡ nhiều khó
khăn, vướng mắc trong đăng ký và quản lý hộ tịch trên địa bàn. Cùng với sự
quan tâm chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền từ huyện đến xã, sự nỗ lực, cố gắng
của đội ngũ công chức làm hộ tịch và ý thức pháp luật và của người dân trong
việc đăng ký hộ tịch, công tác quản lý nhà nước về hộ tịch trên địa bàn huyện
Kim Sơn, đã đạt được những kết quả tích cực, có thể điểm qua một số kết quả
tiêu biểu như sau:
Thứ nhất, công tác quản lý nhà nước về hộ tịch đã được chính quyền từ
huyện đến các xã quan tâm, chỉ đạo chỉ đạo và triển khai thực hiện theo đúng
quy định của pháp luật.
Công tác đăng ký, quản lý hộ tịch có vai trò và vị trí quan trọng trong
công tác quản lý nhà nước trên địa bàn; giúp chính quyền địa phương thực
63
hiện tốt chức năng quản lý nhà nước về tình hình biến động dân cư, dân số
của địa phương, là cơ sở để qua đó đề ra các chương trình, kế hoạch về xây
dựng và phát triển kinh tế, xã hội của địa phương sát thực và phù hợp. Công
tác quản lý nhà nước về hộ tịch còn làm cơ sở, điều kiện cho các hoạt động
quản lý nhà nước khác, như công tác quản lý hộ khẩu của ngành công an;
công tác y tế, dân số và kế hoạch hóa gia đình của ngành y tế; là cơ sở để
hoạch định và thực hiện quyền học tập của trẻ em khi đủ tuổi đến trường; là
căn cứ pháp lý để công dân thực hiện các quyền về lao động, học tập, và các
quyền về chính trị, xã hội khác của mình. Chính vì thế quản lý nhà nước về
hộ tịch luôn được chính quyền địa phương quan tâm tạo điều kiện thực hiện;
hoạt động đăng ký và quản lý hộ tịch của các địa phương trong những năm
qua, đã trở nên nề nếp.
Các quy định của pháp luật về hộ tịch đã được tuân thủ chấp hành thực
hiện nghiêm chỉnh với tinh thần cải cách TTHC, vì Nhân dân phục vụ; cơ bản
các yêu cầu về đăng ký hộ tịch đã được giải quyết đầy đủ, kịp thời và đúng
quy định của pháp luật. Bên cạnh đó việc ứng dụng công nghệ thông tin để
đăng ký và quản lý hộ tịch đã làm cho việc đăng ký và quản lý hộ tịch ngày
càng ổn định, chính xác, hạn chế được sai sót trong các giấy tờ hộ tịch của
người dân so với trước đây, góp phần giải quyết nhanh gọn các thủ tục, giảm
bớt thời gian và kinh phí của người dân.
Việc chuyển giao thẩm quyền đăng ký hộ tịch có yếu tố nước ngoài về
UBND huyện cũng là thực hiện một bước căn bản về cải cách TTHC trong
lĩnh vực hộ tịch, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho người dân, giúp người dân
tiết kiệm thời gian và thuận lợi trong thực hiện các TTHC.
Thứ hai, công tác tuyên truyền pháp luật về hộ tịch đã được quan tâm.
Để thực hiện tốt công tác quản lý nhà nước về hộ tịch, trước hết phải
làm cho cán bộ và nhân dân hiểu biết về mục đích, ý nghĩa của công tác quản
64
lý hộ tịch; quyền và nghĩa vụ công dân về đăng ký hộ tịch. Vì vậy, UBND
huyện đã tổ chức hội nghị triển khai và tổ chức các lớp tập huấn Luật Hộ tịch
năm 2014 và các văn bản hướng dẫn thi hành cho toàn bộ cán bộ cốt cán cấp
huyện, cấp xã và đội ngũ công chức làm công tác tư pháp trên địa bàn. Với
việc triển khai đa dạng nội dung và hình thức tuyên truyền pháp luật về hộ
tịch, đa số người dân đã nhận thức được việc đăng ký hộ tịch vừa là quyền,
vừa là nghĩa vụ của mình nên đã tự giác đi đăng ký theo quy định.
Thứ ba, cơ sở vật chất, phương tiện làm việc phục vụ công tác quản lý
nhà nước về hộ tịch đã được quan tâm đầu tư.
Trong thời gian vừa qua, cùng với việc đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng
theo chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới, cơ sở vật chất,
trang thiết bi phục vụ cho việc đăng ký, quản hộ tịch đã được quan tâm đầu tư
đáng kể, nhất là cơ sở vật chất để phục vụ người dân khi đến thực hiện TTHC
về hộ tịch (phòng, bàn ghế đón tiếp; khu vực công khai TTHC,…); trang thiết
bị đáp ứng yêu cầu ứng dụng công nghệ thông tin để đăng ký, quản lý hộ tịch
(máy tính kết nối internet, máy in; bản quyền phần mềm,..). Với sự đầu tư cơ
sở vật chất, trang thiết bị phục vụ quản lý hộ tịch đã góp phần nâng cao chất
lượng, hiệu quả quản lý nhà nước về hộ tịch trên địa bàn.
Thứ tư, công tác thanh tra, kiểm tra về quản lý hộ tịch được thực hiện
đúng theo quy định.
Công tác thanh tra, kiểm tra được coi là nhiệm vụ thường xuyên có tính
chất quyết định, do vậy hàng năm Phòng Tư pháp huyện với chức năng,
nhiệm vụ được giao đã tiến hành xây dựng kế hoạch tổ chức kiểm tra định kỳ
và đột xuất nhằm phát hiện và giải quyết những khó khăn, vướng mắc trong
quản lý hộ tịch ở UBND các xã, thị trấn; đồng thời cũng chấn chỉnh những sai
sót, vi phạm trong quá trình quản lý nhà nước về hộ tịch để kịp thời xử lý,
65
khắc phục, đảm bảo hiệu lực hiệu quả quản lý nhà nước trên địa bàn cũng như
quyền lợi, nhu cầu chính đáng của người dân.
Thứ năm, công tác lưu trữ, thống kê, báo cáo thực hiện theo quy định.
Các loại sổ, biểu mẫu dùng để đăng ký hộ tịch được sử dụng đúng mẫu
Bộ Tư pháp ban hành và được lưu trữ theo quy định; chữ viết trong sổ hộ tịch
rõ ràng, dễ đọc. Do sử dụng phần mềm của Bộ tư pháp để thực hiện đăng ký
và quản lý hộ tịch, vì thế công tác thống kê, báo cáo về hộ tịch (cả định kỳ và
đột xuất) của UBND huyện và UBND các xã, thị trấn trên địa bàn đều được
thực hiện kịp thời, nghiêm túc, đúng biểu mẫu, đúng quy định của pháp luật.
2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân
*Hạn chế:
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, hiện tại công tác quản lý, đăng ký
hộ tịch vẫn còn những hạn chế, khó khăn, ảnh hưởng không nhỏ đến chất
lượng công tác quản lý nhà nước về hộ tịch, cụ thể như sau:
Thứ nhất, vẫn còn sai sót, vi phạm về đăng ký và quản lý nhà nước về
hộ tịch.
Sai sót, vi phạm trong hoạt động đăng ký và quản lý nhà nước về hộ
tịch diễn ra trong các sự kiện hộ tịch từ đăng ký khai sinh, đăng ký khai tử,
đăng ký kết hôn, cải chính hộ tịch... ở các mức độ và hình thức khác nhau;
trong đó phố biến là những sai sót, vi phạm như:
Tiến hành đăng ký hộ tịch khi thiếu căn cứ pháp lý và các điều kiện cần
và đủ theo quy định của pháp luật, do sự nể nang, hoặc thiếu hiểu biết của
công chức tư pháp - hộ tịch, như: Đăng ký khai sinh thiếu giấy chứng sinh
(hoặc hồ sơ chỉ lưu bản sao giấy chứng sinh); đăng ký lại khai sinh, khai tử,
kết hôn nhưng không có hồ sơ, giấy tờ đủ căn cứ pháp lý, …cá biệt có trường
hợp không có hồ sơ theo quy định. Chính vì thế, trong một số trường hợp, giá
66
trí pháp lý của giấy tờ hộ tịch không được các cơ quan, tổ chức tin cậy; nhất
là các giấy tờ hộ tịch do UBND cấp xã cấp.
Sai thẩm quyền trong việc thực hiện đăng ký hộ tịch, theo nguyên tắc
đăng ký hộ tịch "Mỗi sự kiện hộ tịch chỉ được đăng ký tại một cơ quan đăng
ký hộ tịch có thẩm quyền”. Tuy nhiên trong thực tế, do công chức hộ tịch
không kiểm tra kỹ thông tin về nơi cứ trú của công dân nên thực hiện đăng ký
hộ tịch không đúng thẩm quyền; mặt khác, có những trường hợp cơ quan
đăng ký hộ tịch cho công dân mà không phải nơi thường trú của công dân
nhưng không thông báo về nơi thường trú của công dân sự kiện hộ tịch mà
mình đã đăng ký nên khi công dân đến nơi thường trú đăng ký hộ tịch vẫn
được thực hiện (hai nơi đều đăng ký sự kiện hộ tịch).
Sai sót trong ghi chép sổ đăng ký hộ tịch: Thông tin trong sổ đăng ký
hộ tịch (khai sinh, khai tử, kết hôn) và thông tin trong tờ khai không trùng
khớp nhau; thiếu thông tin (chủ yếu là phần ghi thông tin của người thực hiện
đăng ký hộ tịch; người đi đăng ký,…); sửa chữa trong sổ đăng ký hộ tịch
không đúng quy định; không khóa sổ đăng ký hộ tịch hoặc khóa sổ không
đúng theo quy định.
Thứ hai, tình trạng không đăng ký hoặc đăng ký hộ tịch quá hạn vẫn
tồn tại.
Tại Khoản 2, Điều 5, Luật Hộ tịch năm 2014 quy định nguyên tắc :
“Mọi sự kiện hộ tịch của cá nhân phải được đăng ký đầy đủ, trung thực,
khách quan và chính xác". Tuy nhiên, trên thực tế, nguyên tắc này vẫn không
được tuân thủ một cách nghiêm túc. Tình trạng không đăng ký hộ tịch vẫn
còn tồn tại, nhất là đối với việc đăng ký khai tử, một số thân nhân của người
chết chỉ đi đăng ký khai tử khi phải trình giấy tờ liên quan đến hồ sơ giải
quyết các quyền lợi liên quan (chế độ mai táng phí, bồi thường thiệt hại, bảo
hiểm,…);
67
Theo quy định, trong thời hạn 60 ngày, kể từ ngày sinh con, cha, mẹ có
trách nhiệm đi khai sinh cho con; nếu cha mẹ không thể đi khai sinh, thì ông
bà hoặc những người thân thích khác đi khai sinh cho trẻ em [47, tr.7], tuy
nhiên, thực tế trên địa bàn huyện vẫn còn vẫn còn những trường hợp đăng ký
khai sinh quá thời gian trên.
Trong 04 năm (từ 2016 - 2019) việc đăng ký khai sinh quá hạn trên địa
bàn huyện Kim Sơn vẫn còn ở tỷ lệ cao (năm 2016: 6,42%; năm 2017: 6,00%;
năm 2018: 7,24%; năm 2019: 5,7%) và chưa có chuyển biến tích cực rõ nét.
Tương tự, theo quy định, trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày có người
chết thì vợ, chồng hoặc con, cha, mẹ hoặc người thân thích khác của người
chết có trách nhiệm đi đăng ký khai tử [47, tr.13]. Tuy nhiên trên thực tế
những trường hợp có thân nhân người chết không thực hiện đăng ký khai tử
khi không có quyền lợi liên quan; trong trường hợp người đã chết được hưởng
các chế độ chính sách thì có thể người nhà sau đó khoảng 1 tháng đến 2 tháng
mới thực hiện thủ tục đăng ký khai tử để làm thủ tục hưởng chế độ chính
sách. Theo thống kê trên địa bàn huyện trong 04 năm qua, tỷ lệ đăng ký khai
tử quá hạn vẫn còn cao, tuy có chiều hướng giảm nhưng chưa rõ nét, cụ thể:
Năm 2016 tỷ lệ đăng ký khai tử quá hạn là: 9.89%; năm 2017: 8,00%; năm
2018: 11,38%; năm 2019: 8,32%.
Tình trạng này có ảnh hưởng không nhỏ đến thi hành pháp luật về hộ
tịch và quản lý nhà nước về hộ tịch của chính quyền địa phương từ huyện
xuống cơ sở.
Thứ ba, việc thực hiện liên thông TTHC trong lĩnh vực hộ tịch theo
Thông tư liên tịch số 05/2015/TTLT-BTP-BCA, ngày 15/5/2015 của Bộ Tư
pháp, Bộ Công an và Bộ Y tế chưa được nhịp nhàng, hiệu quả.
68
Sự phối hợp giữa Công an, Bảo hiểm xã hội, Tư pháp trong quá trình
thực hiện liên thông các TTHC nhiều nơi còn chưa nhịp nhàng, đồng bộ nhất
là đối với việc thực hiện đăng ký khai sinh và đăng ký thường trú.
Tại Khoản 3 Điều 10 của Thông tư liên tịch số 05/2015/TTLT-BTP-
BCA ngày 15/5/2015 của Bộ Tư pháp, Bộ Công an và Bộ Y tế quy định
"UBND cấp xã có trách nhiệm chuyển hồ sơ và lệ phí đăng ký thường trú cho
cơ quan có thẩm quyền đăng ký cư trú theo quy định tại khoản 2 Điều 4
Thông tư liên tịch này và chuyển hồ sơ cấp thẻ bảo hiểm y tế cho Bảo hiểm xã
hội cấp huyện. Tùy thuộc điều kiện thực tế, Ủy ban nhân dân cấp xã có thể
chuyển trước thông tin của người tham gia bảo hiểm y tế đến cơ quan Bảo
hiểm xã hội cấp huyện thông qua mạng điện tử". Tuy nhiên Thông tư không
quy định rõ trách nhiệm thuộc công chức phụ trách bộ phận nào vì vậy dễ dẫn
dến tình trạnh đùn đẩy trách nhiệm của các công chức trong UBND cấp xã.
Mặt khác việc thực hiện liên thông TTHC chỉ là sự phối hợp của các bộ phận,
chưa được chuyển giao cho 01 công chức chuyên trách, vì vậy thời gian giải
quyết liên thông thủ tục trên thực tế thường dài hơn so với quy định.
* Nguyên nhân của hạn chế
Thứ nhất, thể chế đăng ký, quản lý nhà nước về hộ tịch còn một số hạn
chế, bất cập.
Sự ra đời của Luật Hộ tịch và các văn bản hướng dẫn thi hành mặc dù
đã có sự phân cấp quản lý, đăng ký hộ tịch khá rõ ràng. Tuy nhiên thể chế
trong lĩnh vực hộ tịch chưa đồng bộ, nhiều nội dung quy định trong Luật Hộ
tịch năm 2014, Nghị định số 123/2015/NĐ-CP và Thông tư số 15/2015/TT-
BTP chưa cụ thể hóa, thống nhất với các quy định pháp luật khác có liên quan
gây khó khăn cho cơ quan có thẩm quyền giải quyết và tổ chức, cá nhân có
yêu cầu đăng ký hộ tịch. Bên cạnh đó, một số quy định của Luật Hộ tịch năm
2014 còn chưa cụ thể hoặc chưa có quy định điều chỉnh, gây khó khăn vướng
69
mắc cho công chức thực hiện, mặc dù đã có những văn bản chỉ đạo, hướng
dẫn của các cơ quan cấp trên đối với một số trường hợp cụ thể (Cục Hộ tịch,
Quốc tịch, Chứng thực và Sở Tư pháp tỉnh Ninh Bình) nhưng không được ban
hành ở dạng văn bản quy phạm pháp luật, cụ thể một số nội dung như sau:
Về thủ tục chung
Luật Hộ tịch và các văn bản hướng dẫn quy định người yêu cầu đăng
ký hộ tịch xuất trình giấy tờ chứng minh nhân thân và chứng minh nơi cư trú.
Các giấy tờ này được công chức kiểm tra và trả lại cho công dân, quy định
như trên gây khó khăn cho công tác thanh tra, kiểm tra, nhất là việc xác định
thẩm quyền giải quyết vì các giấy tờ này không được lưu trong hồ sơ đăng ký
hộ tịch, Luật cũng không quy định về việc khi tiếp nhận bản chính giấy tờ do
công dân xuất trình, công chức tiếp nhận TTHC phải phô tô và lưu tại hồ sơ
mà chỉ quy định là công chức “có thể” phô tô và lưu tại hồ sơ.
Thủ tục Đăng ký khai sinh
Trường hợp phụ nữ Việt Nam đăng ký kết hôn hợp pháp với công dân
nước ngoài, sinh con tại Việt Nam, cháu bé ở với người thân và chưa được
đăng ký khai sinh, nhưng hiện nay cả bố mẹ cháu bé đều đã sang nước ngoài
sinh sống mà gia đình không thể liên lạc được. Người thân của cháu bé có yêu
cầu đăng ký khai sinh nhưng vướng mắc về thủ tục là phải có giấy thỏa thuận
về việc chọn quốc tịch cho con của cha mẹ nên việc đăng ký khai sinh chưa
thực hiện được. Đây là trường hợp vướng mắc mà pháp luật chưa có quy định
điều chỉnh.
Giấy tờ, tài liệu của công dân có ngày sinh là 30/02, trong khi thực tế
không có ngày đó. Theo hướng dẫn của Cục Hộ tịch, quốc tịch, chứng thực
thì cơ quan đăng ký hộ tịch khi đăng ký lại khai sinh phải ghi đúng ngày sinh
trong lịch mà không làm thủ tục cải chính hộ tịch. Tuy nhiên, do từ trước đến
nay các giấy tờ công dân sử dụng đều ghi ngày 30/02, nếu ghi ngày sinh thì
70
công chứ chỉ có thể căn cứ vào lời khai của công dân mà không có căn cứ để
xác định là ngày sinh đó có chính xác hay không.
Theo Luật Hộ tịch công dân mất bản chính Giấy khai sinh chỉ có thể
yêu cầu cấp bản sao Trích lục, không được cấp lại bản chính, nhưng thực tế
một số công dân bị mất bản chính khi đến giao dịch với các cơ quan đều yêu
cầu xuất trình bản chính Giấy khai sinh chứ không chấp nhận bản sao Trích
lục. Mà Giấy khai sinh vẫn là giấy tờ gốc có giá trị rất quan trọng cho công
dân. Việc bỏ thủ tục cấp lại bản chính Giấy khai sinh gây nhiều bất cập cho
công dân vì một số trường hợp (thay đổi, cải chính hộ tịch, đăng ký nhận cha
mẹ con…) sau khi hoàn tất các thủ tục thì có rất nhiều giấy tờ buộc phải đi
kèm với nhau, gây khó khăn cho công dân khi giao dịch phải mang nhiều giấy
tờ thay vì cấp lại cho công dân bản chính Giấy khai sinh.
Thủ tục Đăng ký kết hôn
Về đăng ký kết hôn với người nước ngoài, Luật Hộ tịch không quy định
thủ tục phỏng vấn khi kết hôn nên khi công dân đến làm thủ tục đăng ký kết
hôn, công chức Phòng Tư pháp không biết ngôn ngữ của người nước ngoài
dẫn đến khó khăn trong giao tiếp; mặt khác để xác định rõ kết hôn tự nguyện
hay không, với mục đích gì, hầu hết khi muốn biết thông tin thì đều do một
bên là người Việt Nam phiên dịch.
Thủ tục Đăng ký khai tử
Quy định về thủ tục đăng ký khai tử trong trường hợp chết tại nơi cư trú
còn chưa hợp lý, UBND xã vừa là cơ quan cấp Giấy báo tử vừa đăng ký khai
tử (cùng một cơ quan vừa cấp căn cứ để đăng ký hộ tịch, vừa thực hiện đăng
ký hộ tịch) là không cần thiết.
Việc xử lý vi phạm hành chính đối với hành vi không đăng ký khai
sinh, khai tử đúng hạn, không đăng ký việc nuôi con nuôi… không phù hợp
với điều kiện kinh tế, xã hội, trình độ dân trí nhiều địa phương hiện nay.
71
Tại Điều 24, 25, 26 Nghị định số 123/2015/NĐ-CP ngày 15/11/2015
của Chính phủ quy định về điều kiện, thẩm quyền và thủ tục đăng ký lại khai
sinh, kết hôn và khai tử: Công chức Tư pháp - Hộ tịch tùy vào từng trường
hợp và tùy vào từng loại giấy tờ mà đương sự mang đến, tiến hành “áp dụng
linh hoạt” các quy định của Nghị định, thì hầu hết công thức Tư pháp - Hộ
tịch tham mưu giải quyết các yêu cầu về hộ tịch đều coi những giấy tờ của cá
nhân có nội dung hưởng chế độ chính sách của nhà nước đã được cơ quan có
thẩm quyền cấp trước đây là loại giấy tờ “cấp chính thức hợp lệ đầu tiên”.
Tuy nhiên, những loại giấy tờ đó chỉ có giá trị tham khảo, bổ sung hồ sơ và
không được coi đó là giấy tờ “chính thức hợp lệ đầu tiên” để làm căn cứ giải
quyết các yêu cầu về hộ tịch cho công dân. Do đó, việc hiểu loại giấy tờ “cấp
chính thức hợp lệ đầu tiên” là chưa rõ ràng, thống nhất nên dẫn đến việc giải
quyết các vấn đề hộ tịch ở một số địa phương còn tùy tiện, thiếu chặt chẽ và
không đúng quy định của pháp luật.
Thứ hai, tình hình kinh tế - xã hội trên địa bàn huyện vẫn còn những
hạn chế ảnh hưởng tới quản nhà nước lý về hộ tịch.
Trong những năm gần đây, mặc dù nền kinh tế của huyện cũng đã có sự
tăng trưởng đáng kể, nhưng nhìn chung điều kiện sống của người dân trên địa
bàn còn chưa đồng đều, nhất là người dân ở những xã xa trung tâm (Tiểu
khu1), người dân lao động ở khu vực đầm bãi; do chưa bố trí được nhiều việc
làm nên người dân ở độ tuổi lao động đi làm ăn xa nhiều, dẫn đến việc đăng
ký hộ tịch nhiều khi không kịp thời.
Thứ ba, tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về đăng ký và quản
lý nhà nước về hộ tịch chưa thực sự hiệu quả.
Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao nhận thức pháp
luật cho người dân còn chưa thường xuyên, đa dạng, phong phú về nội dung
và hình thức, chưa phù hợp với từng đối tượng nhất là những đối tượng ở
72
những xã xa trung tâm, thường xuyên làm ăn vắng nhà. Công tác tuyên truyền
chủ yếu là do đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên pháp luật thực hiện, đội
ngũ này còn mỏng, năng lực còn yếu. Bên cạnh đó do đặc thù là huyện ven
biển, dân cư phân tán, thường xuyên đi làm ăn vắng nhà, trình độ dân trí thấp;
nên các hình thức tuyên truyền như dùng hệ thống loa truyền thanh, tờ rơi, mở
hội nghị cũng chưa mang lại hiệu quả như mong muốn.
Thứ tư, nhận thức và ý thức tuân thủ pháp luật về hộ tịch của người
dân không đồng đều.
Là huyện ven biển, xuất phát từ đặc điểm, tình hình dân cư, nghề
nghiệp, ảnh hưởng tư tưởng và sự ràng buộc của giáo lý tôn giáo đối với
người có đạo, người dân Kim Sơn trước đây ít quan tâm đến việc tìm hiểu
pháp luật cũng như tuân thủ và thi hành pháp luật, mọi hoạt động về đời sống
xã hội, dân sự, về quyền công dân hầu như vẫn còn dựa vào các quy định của
tôn giáo, do đó ảnh hưởng nhất định đến quyền và lợi ích hợp pháp của mình
và sự bảo hộ của nhà nước và chính quyền địa phương đối với công dân. Hệ
lụy chính là việc một bộ phận người dân không chỉ xem nhẹ đăng ký hộ tịch,
các quyền nhân thân mà ngay cả các lĩnh vực có liên quan đến lợi ích gián
tiếp cũng không được người dân quan tâm đúng mức.
Thứ năm, đội ngũ công chức làm công tác hộ tịch trên địa bàn một số
xã chưa đảm bảo về số lượng, chất lượng; trình độ chuyên môn, nghiệp vụ
không đồng đều.
Theo quy định một số xã loại 1 và loại 2 trên địa bàn phải bố trí 02
công chức tư pháp - hộ tịch làm công tác tư pháp, đến cuối năm 2019 vẫn còn
những xã loại 1, loại 2 trên địa bàn huyện mới chỉ bố trí được 01 công chức tư
pháp - hộ tịch (Đồng Hướng, Lai Thành,..); mặt khác trình độ lý luận chính trị
và chuyên môn nghiệp vụ của các công chức cũng không đồng đều, một số
công chức mới luân chuyển cũng ảnh hưởng đến chất lượng và hiệu quả công
73
tác đăng ký hộ tịch trên địa bàn; vì ngoài việc công chức phải nắm chắc các
quy định của pháp luật về hộ tịch còn phải nắm chắc các quy định khác có
liên quan như Bộ Luật Dân sự, Luật Hôn nhân và Gia đình, Luật Nuôi con
nuôi; Luật Quốc tịch; đảm nhiệm nhiều công việc như công tác tự kiểm tra, rà
soát văn bản quy phạm pháp luật, chứng thực, tuyên truyền phổ biến giáo dục
pháp luật, hòa giải...
Công chức tư pháp hộ tịch đảm nhiệm nhiều công việc nên thời gian
dành nghiên cứu về công tác hộ tịch chưa nhiều, việc tự học tập nâng cao
trình độ còn hạn chế. Công chức làm hộ tịch tại UBND các xã, thị trấn phần
nhiều chưa qua đào tạo, bồi dưỡng bài bản về công nghệ thông tin; mặc dù
được trang bị máy tính, nhưng chưa sử dụng được hoặc sử dụng chưa có hiệu
quả, đây là khó khăn lớn khi triển khai thực hiện cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử.
Mặt khác xây dựng đội ngũ công chức chuyên trách làm công tác hộ
tịch chưa đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao đối với pháp luật quản lý về
hộ tịch. Việc giáo dục chính trị tư tưởng đối với đội ngũ công chức chuyên
trách thực hiện quản lý nhà nước về hộ tịch từ huyện đến cơ sở còn chưa kịp
thời, vẫn còn tình trạng buông lỏng, thiếu quan tâm chỉ đạo kiểm tra. Một số
công chức chưa thường xuyên rèn luyện phẩm chất đạo đức và tinh thần trách
nhiệm trong công việc, chưa có ý thức thượng tôn pháp luật, tôn trọng công
vụ và chưa coi trọng việc học tập, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ.
Thứ sáu, công tác giám sát, thanh tra, xử lý vi phạm trong quá trình
thực hiện pháp luật quản lý về hộ tịch còn chưa đạt được yêu cầu đặt ra.
Công tác giám sát quản lý nhà nước về hộ tịch trên địa bàn huyện Kim
Sơn còn chưa được tiến hành nhất quán, chưa có cơ chế hoàn thiện để huy
động sức mạnh của toàn xã hội vào hoạt động này. Công tác kiểm tra mặc dù
đã được thực hiện thường xuyên nhưng vẫn còn những biểu hiện nể nang,
thiếu kiên quyết. Ở huyện Kim Sơn, chưa tổ chức được việc thanh tra trực
74
tiếp quản lý nhà nước về hộ tịch, kiểm tra đăng ký hộ tịch được lồng ghép
trong kiểm chuyên môn, nghiệp vụ công tác tư pháp.
Việc xử lý vi phạm trong quản lý nhà nước về hộ tịch có lúc chưa triệt
để, nhất là các hành vi liên quan tới công chức tư pháp - hộ tịch; việc xử lý vi
phạm có biểu hiện nương nhẹ, chủ yếu là xử lý nội bộ, chưa phát huy được
tác dụng giáo dục răn đe và phòng ngừa công chức có hành vi trái pháp luật.
Việc làm rõ các nguyên nhân này là rất quan trọng để tìm ra các giải
pháp phù hợp nhằm bảo đảm cho quản lý nhà nước về hộ tịch trên địa bàn
huyện Kim Sơn có hiệu lực, hiệu quả hơn.
Tiểu kết chƣơng 2
Tại Chương 2, tác giả đã khái quát một số đăc điểm tự nhiên, kinh tế -
xã hội có ảnh hưởng đến quản lý nhà nước về hộ tịch tại huyện Kim Sơn;
đồng thời thống kê khá đầy đủ những kết quả hộ tịch trong quá trình quản lý
nhà nước về hộ tịch từ năm 2016 - 2019.
Trên cơ sở thu thập dữ liệu về hộ tịch từ kết quả khảo sát và số liệu thứ
cấp của huyện Kim Sơn trong thời gian qua, kết hợp kết quả phân tích, đánh
giá thực trạng công tác quản lý nhà nước về hộ tịch trên cơ sở lý luận tại
Chương 1, chỉ ra những kết quả đạt được, hạn chế và nguyên nhân của hạn
chế làm cơ sở cho việc đề xuất các giải pháp quản lý nhà nước về hộ tịch trên
địa bàn huyện Kim Sơn hiệu quả hơn. Từ kết quả nghiên cứu thực tiễn, có thể
kết luận sau:
Một là, thể chế quản lý nhà nước về hộ tịch từ năm 2016 đã xây dựng
một cách tương đối hoàn thiện với sự ra đời của Luật Hộ tịch năm 2014 và
các văn bản hướng dẫn thi hành; thể chế quản lý nhà nước về hộ tịch được
đánh giá là khá phù hợp so với lý luận và thực tiễn, cũng như định hướng mở
trong thời gian tới. Tuy nhiên thực tiễn cho thấy vẫn còn những hạn chế, tồn
75
tại trong một số quy định của pháp luật về hộ tịch, dẫn đến những ảnh hưởng
chưa có lợi cho người dân khi đăng ký hộ tịch.
Hai là, nguồn nhân lực quản lý nhà nước về hộ tịch còn bộc lộ những
hạn chế, bên cạnh đó các yếu tố tự nhiên, kinh tế, xã hội, phong tục tập quán,
các điều kiện cơ sở vật chất có ảnh hưởng không nhỏ đến quản lý nhà nước về
hộ tịch ở địa phương.
Tóm lại, quá trình triển khai thực hiện hộ tịch tại huyện Kim Sơn trong
thời gian qua đã mang lại những kết quả tích cực trong quản lý nhà nước về
hộ tịch. Nhưng các kết quả này chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu quản lý
nhà nước về hộ trên địa bàn, thực tế cho tới nay những bất cập của nó vẫn
đang tồn tại.
Để khắc phục những hạn chế đó, các cơ quan có thẩm quyền cần có
những giải pháp hữu hiệu để bảo đảm quản lý nhà nước về hộ tịch trên địa
bàn huyện Kim Sơn trong thời gian tới.
76
Chƣơng 3
ĐỊNH HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ
HỘ TỊCH TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN KIM SƠN, TỈNH NINH BÌNH
3.1. Định hƣớng bảo đảm quản lý nhà nƣớc về hộ tịch
3.1.1. Quản lý nhà nước về hộ tịch gắn với đảm bảo quyền dân chủ,
quyền con người, quyền công dân
Hiến pháp năm 2013 thể hiện rõ về quan điểm xây dựng nhà nước của
Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Theo đó, các quyền con người được
ghi nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm được thực hiện. Nếu Hiến pháp năm
1992 chỉ quy định chủ thể quyền là công dân thì Hiến pháp năm 2013 quy
định chủ thể quyền không chỉ là công dân mà quyền của con người, của mọi
người, quyền của mỗi người đều có chứ không chỉ công dân. Như vậy, với
những quyền này, không chỉ công dân Việt Nam mà tất cả mọi người, mỗi
người với tư cách thành viên xã hội, người nước ngoài có mặt trên lãnh thổ
Việt Nam… cũng được Hiến pháp và pháp luật Việt Nam bảo đảm.
Mối quan hệ giữa Nhà nước và công dân thể hiện qua các quy định
pháp luật về đăng ký hộ tịch phản ánh một cách tập trung, sinh động, khách
quan các giá trị dân chủ trong một Nhà nước “của dân, do dân, vì dân”. Bởi
vậy, việc đổi mới quản lý hộ tịch cần quán triệt sâu sắc quan điểm phát huy
yếu tố con người và lấy việc phục vụ con người là mục đích cao nhất của mọi
hoạt động, coi nguồn lực con người là quý báu nhất, có vai trò quyết định đối
với sự phát triển nhanh và bền vững.
Luật Hộ tịch năm 2014 ra đời đã thể chế hóa Hiến pháp năm 2013
trong lĩnh vực quản lý nhà nước về hộ tịch, đồng thời thể hiện sự hoàn thiện
cơ bản, tạo hành lang pháp lý chặt chẽ trong công tác quản lý nhà nước về hộ
tịch. Hộ tịch là những sự kiện được quy định tại Điều 3 của Luật này, xác
định tình trạng nhân thân của cá nhân từ khi sinh ra đến khi chết.” [47, tr1.] và
77
đăng ký hộ tịch là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác nhận hoặc ghi
vào Sổ hộ tịch các sự kiện hộ tịch của cá nhân, tạo cơ sở pháp lý để Nhà nước
bảo hộ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, thực hiện quản lý về dân cư [47,
tr.1]. Như vậy, Luật Hộ tịch đã ấn định nội hàm pháp lý đối với thuật ngữ “hộ
tịch” chính là các sự kiện cơ bản xảy ra đối với mỗi cá nhân con người từ khi
sinh ra cho đến khi chết đi, các sự kiện cơ bản này cho phép xác định tình
trạng nhân thân với các quyền và nghĩa vụ tương ứng với sự kiện hộ tịch cụ
thể. Điều 3 Luật Hộ tịch năm 2014 cũng quy định các sự kiện hộ tịch chủ yếu
là: Khai sinh; kết hôn; giám hộ; Nhận cha, mẹ, con; Thay đổi, cải chính hộ
tịch, xác định lại dân tộc, bổ sung thông tin hộ tịch; khai tử; nuôi con nuôi.
Có thể nói đây là đạo luật quan trọng liên quan đến việc bảo đảm thực hiện
quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân đã được ghi nhận
trong Hiến pháp năm 2013.
Trong thời gian qua, triển khai thi hành Luật Hộ tịch và các văn bản
hướng dẫn thi hành, công tác đăng ký và quản lý hộ tịch đã đạt được những
kết quả quan trọng; yêu cầu đăng ký hộ tịch của người dân cơ bản được giải
quyết kịp thời; Trình tự, thủ tục đăng ký hộ tịch được cải cách mạnh mẽ, đơn
giản hóa và cắt giảm giấy tờ không cần thiết, tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho
người dân. Tuy nhiên, việc thực hiện đăng ký hộ tịch nhằm đảm bảo quyền
con người vẫn còn một số hạn chế cả về thể chế, lẫn tổ chức thực hiện,…
(như đã phân tích ở trên). Vì thế để đảm bảo quản lý nhà nước về hộ tịch gắn
với đảm bảo quyền con người, quyền công dân quyền công dân theo Hiến
pháp năm 2013, cần phải thực hiện một số quan điểm như sau:
Luật Hộ tịch năm 2014 và nhất là các văn bản hướng dẫn thi hành vẫn
cần có những sửa đổi, quy định cụ thể các vấn đề liên quan đến thẩm quyền,
trình tự, thủ tục giải quyết các sự kiện hộ tịch, theo hướng bảo đảm sự phù
hợp hơn nữa với các quy định có liên quan của Hiến pháp năm 2013, sự đồng
78
bộ, thống nhất với các luật liên quan, như: Bộ luật Dân sự năm 2015, Luật
Hôn nhân và Gia đình, Luật Căn cước công dân, Luật Quốc tịch, Luật Nuôi
con nuôi...; đồng thời thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng về cải cách
hành chính, nhất là cải cách TTHC trong lĩnh vực đăng ký hộ tịch theo hướng
ứng dụng công nghệ thông tin, đơn giản, minh bạch, tạo sự kết nối với các
lĩnh vực khác liên quan đến công dân, tiết kiệm chi phí cho người dân và Nhà
nước.
Các cơ quan có thẩm quyền cần tiếp tục thực hiện tốt hơn các hoạt động
tham mưu quản lý nhà nước của mình; nghiên cứu, đề xuất các giải pháp
nhằm hạn chế tình trạng công dân chậm được đăng ký hộ tịch, hoặc không đi
đăng ký hộ tịch làm ảnh hưởng đến quyền lợi của họ, coi việc tạo điều kiện
thuận lợi cho công dân thực hiện quyền và nghĩa vụ đăng ký hộ tịch là trách
nhiệm của cơ quan đăng ký hộ tịch.
3.1.2. Công khai, minh bạch, chính xác, thuận tiện trong đăng ký,
quản lý hộ tịch
Đảm bảo công khai các thủ tục hành về hộ tịch phải đầy đủ, chính xác,
kịp thời bằng các hình thức theo quy định của pháp luật: Công khai trên Cơ
sở dữ liệu quốc gia về TTHC; công khai tại trụ sở cơ quan, đơn vị trực tiếp
tiếp nhận, giải quyết TTHC thông qua việc niêm yết hoặc sử dụng các hình
thức điện tử phù hợp với điều kiện cơ sở vật chất, kỹ thuật trên cơ sở quyết
định công bố TTHC hoặc kết xuất, kết nối, tích hợp dữ liệu TTHC trên Cơ sở
dữ liệu quốc gia về TTHC; đăng tải trên Cổng thông tin điện tử của Chính
phủ, Cổng thông tin điện tử của bộ, cơ quan ngang bộ, Ủy ban nhân dân tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương trên cơ sở kết nối, tích hợp với Cơ sở dữ liệu
quốc gia về TTHC. Bên cạnh các hình thức công khai bắt buộc như trên, việc
công khai TTHC có thể thực hiện theo các hình thức khác phù hợp với điều
kiện thực tế của cơ quan, đơn vị và đối tượng thực hiện TTHC [22,tr.4].
79
Tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính theo yêu cầu đơn giản hóa quy
đình, rút ngắn thời gian giải quyết, giảm bớt chi phí và phiền hà cho công dân
khi thực hiện các thủ tục đăng ký hộ tịch. Để người dân được hưởng lợi thực
sự từ quá trình cải cách hành chính, đòi hỏi công chức làm công tác hộ tịch
phải là những người có đạo đức, có tâm với nghề nghiệp, bảo đảm am hiểu
pháp luật, tinh thông về kỹ năng, nghiệp vụ.
3.1.3. Quản lý nhà nước về hộ tịch trên cơ sở hiện đại hóa công tác
quản lý, đăng ký hộ tịch
Trước 01/01/2016, trên địa bàn tỉnh Ninh Bình nói chung và huyện
Kim Sơn nói riêng đều thực hiện việc quản lý sổ sách hộ tịch chủ yếu bằng
phương pháp thủ công và đã gặp nhiều hạn chế, bất cập; nhất là trong quá
trình bảo quản (rách nát, mối mọt,…) cũng như tra cứu thông tin phục vụ nhu
cầu của người dân cũng như nhiệm vụ quản lý nhà nước. Do đó, cải tiến
phương thức thức quản lý nhà nước về hộ tịch, xây dựng hệ thống cơ sở dữ
liệu quốc gia về hộ tịch theo quy định của Luật Hộ tịch 2014 sẽ góp phần
hoàn thiện hoạt động quản lý dân cư của Nhà nước theo hướng quản lý dân cư
tích hợp lĩnh vực hộ tịch, dân số và hộ khẩu; tạo nhiều thuận lợi cho công tác
đăng ký và quản lý hộ tịch, việc thống kê, tra cứu hộ tịch được thực hiện một
cách nhanh chóng kịp thời, phục vụ đắc lực cho việc xây dựng, hoạch định
chính sách, phát triển kinh tế - xã hội cũng như phục vụ nhu cầu của người
dân. Đây là phương hướng hiện đại hóa quản lý nhà nước về hộ tịch, hướng
đến sự phát triển lâu dài, ổn định. Để thực hiện được mục tiêu này cần phải
thực hiện việc tổng rà soát, lập lại hệ thống sổ bộ hộ tịch trên địa bàn. Đây là
tiền đề để thực hiện việc xây dựng cơ sở dữ liệu thông tin về hộ tịch được đầy
đủ và hoàn chỉnh.
Bên cạnh đó, cần đẩy mạnh hơn nữa việc ứng dụng công nghệ thông tin
trong việc giải quyết TTHC lĩnh vực Hộ tịch đảm bảo các yêu cầu, mục tiêu
80
trong xây dựng Chính phủ điện tử theo Nghị quyết số 17/NQ-CP ngày
07/3/2019 của Chính phủ về một số nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm phát triển
Chính phủ điện tử giai đoạn 2019 - 2020, định hướng đến 2025; tích cực triển
khai đồng bộ các giải pháp để nâng tỷ lệ sử dụng dịch vụ công trực tuyến nhất
là dịch vụ công trực tuyến mức độ 3 và 4 trong giải quyết TTHC về hộ tịch.
Thực hiện tốt những quan điểm chỉ đạo và định hướng nêu trên để hoàn
thiện quản lý nhà nước về hộ tịch là nhu cầu, đòi hỏi từ thực tiễn quản lý nhà
nước. Quản lý nhà nước về hộ tịch là một trong những lĩnh vực dịch vụ công,
gắn bó chặt chẽ với yêu cầu cải cách hành chính, phản ánh rõ nét hiệu quả
quản lý đối với dân cư nên được xem như một phép thử để đo hiệu suất chỉ
đạo của các cấp ủy, chính quyền. Từ đó, có những giải pháp thích hợp để
hoàn thiện hơn công tác quản lý nhà nước về hộ tịch trong cả nước nói chung
và trên địa bàn huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình nói riêng.
3.2. Một số giải pháp tăng cƣờng quản lý nhà nƣớc về hộ tịch trên
địa bàn huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình
3.2.1. Tiếp tục hoàn thiện thể chế về hộ tịch
Đất nước ta đang trong quá trình mở cửa và hội nhập, về đối nội thực
hiện cải cách bộ máy và nhà nước và phát huy dân chủ thực chất đi đôi với kỷ
cương, phép nước (xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa); trong
đó pháp luật nói chung và pháp luật về hộ tịch nói riêng từng bước được xây
dựng theo hướng mở rộng quyền dân chủ, bảo đảm, bảo vệ quyền con người,
quyền công dân; bởi vì đăng ký hộ tịch phát sinh từ quyền con người được
quy định trong Hiến pháp. Vì vậy cần hoàn thiện thể chế về hộ tịch để đáp
ứng với yêu cầu đặt ra trong quá trình phát triển hội nhập của Đất nước. Giải
pháp này không chỉ áp dụng trong quản lý nhà nước về hộ tịch trên địa bàn
huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình mà còn là giải pháp quan trọng để hoàn thiện
quản lý nhà nước về hộ tịch trong phạm vi cả nước.
81
Pháp luật về hộ tịch mới ra đời (Luật Hộ tịch năm 2014 và các văn bản
hướng dẫn thi hành) đã ghi nhận nhiều sự đổi mới, tạo thuận lợi hơn rất nhiều
cho người dân đi đăng ký hộ tịch, tuy nhiên trên thực tế khi triển khai vẫn gặp
phải những vướng mắc như đã phân tích ở Chương 2. Điều cần thiết là các cơ
quan chức năng cần ban hành những văn bản hướng dẫn cụ thể, đảm bảo tính
pháp lý, để làm rõ các quy định của pháp luật, khắc phục sự chưa đồng bộ đối
với các quy định pháp luật có liên quan cũng như thực tiễn thi hành; để tạo
điều kiện cho việc thực hiện pháp luật được hiệu quả và chính xác.
Tính đến ngày 31/12/2019, để hướng dẫn thi hành Luật Hộ tịch năm
2014, Chính phủ mới ban hành 01 Nghị định [20] và Bộ trưởng Bộ Tư pháp
ban hành 01 Thông tư [10]; Nghị định quy định chi tiết một số điều và biện
pháp thi hành Luật Hộ tịch; Thông tư quy định chi tiết một số điều của Nghị
định quy định chi tiết và biện pháp thi hành Luật Hộ tịch; ban hành, hướng
dẫn sử dụng, quản lý Sổ hộ tịch, Giấy khai sinh, Giấy chứng nhận kết hôn,
trích lục hộ tịch và các biểu mẫu hộ tịch khác; điều kiện, trình tự đăng ký khai
sinh, kết hôn, khai tử lưu động; ủy quyền thực hiện đăng ký hộ tịch, vì vậy đề
nghị Chính phủ và các Bộ Tư pháp và các bộ, ngành ở Trung ương có liên
quan cần tiếp tục nghiên cứu xây dựng hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật
quy định chi tiết những nội dung của Luật Hộ tịch như: Cần ban hành quy
định chi tiết một số điều của Luật Hộ tịch cụ thể, vì hiện nay mặc dù Chính
phủ đã ban hành Nghị định 123/2015/NĐ-CP ngày 15/11/2015 của Chính
phủ, quy định chi tiết thi hành Luật Hộ tịch, nhưng tại Nghị định này có quá
nhiều các tham chiếu tới các văn bản khác. Ban hành quy định đảm bảo cho
việc kết nối, cung cấp, trao đổi thông tin cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử, đăng ký
hộ tịch trực tuyến,…; rà soát, đề xuất sửa đổi, bổ sung các văn bản pháp luật
hiện hành liên quan đến Luật Hộ tịch.
82
Khi có quy định về Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử, đăng ký hộ tịch trực
tuyến và Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử được
hoàn thành, liên thông với nhau thì việc giải quyết các vấn đề hộ tịch qua hệ
thống đăng ký hộ tịch trực tuyến sẽ bảo đảm nhanh chóng, gọn nhẹ và giảm
thiểu chi phí, thời gian trong thực hiện TTHC về hộ tịch, tạo điều kiện thuận
lợi cho quản lý nhà nước về hộ tịch cũng như đáp ứng nhu cầu của người dân.
Đề nghị cơ quan có thẩm quyền khi đề xuất, sửa đổi, bổ sung Luật Hộ
tịch năm 2014, trong đó nên xem xét, bổ sung quy định về việc cấp lại bản
chính một số loại giấy tờ hộ tịch bị thất lạc (nhất là bản chính Giấy khai sinh).
Thực tế cá nhân bị thất lạc các loại giấy tờ bản chính thì sẽ không thực hiện
được các dịch vụ chứng thực bản sao từ bản chính, và gặp phải khó khăn khi
có những cơ quan, tổ chức nước ngoài và ngay cả trong nước yêu cầu xuất
trình bản chính, hoặc phải dịch từ bản chính ra tiếng nước ngoài,...
Bên cạnh đó, để đảm bảo tính cưỡng chế trong quản lý nhà nước về hộ
tịch; cần phải sửa đổi, bổ sung quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực hộ tịch, theo hướng có chế tài nặng hơn đối với những hành vi cố
tình vi phạm pháp luật về hộ tịch.
3.2.2. Nâng cao đạo đức và năng lực thực thi công vụ của đội ngũ
công chức làm công tác hộ tịch trên địa bàn
Nâng cao phẩm chất và năng lực thực thi công vụ của đội ngũ công
chức làm công tác hộ tịch là một trong những mục tiêu quan trọng trong của
cả nước nói chung và của huyện Kim Sơn nói riêng.
Với nhận thức, đạo đức, năng lực thực thi công vụ của công chức tư
pháp - hộ tịch có ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả của quản lý nhà nước về hộ
tịch, tại cấp huyện và cấp cấp xã hiện nay theo quy định của Luật Hộ tịch, thì
đây chính là đầu mối then chốt trực tiếp giải quyết các yêu cầu của công dân,
bên cạnh đó là việc tham mưu trong quản lý nhà nước về hộ tịch trong phạm
83
vi thẩm quyền và địa phương. Nếu như đội ngũ tư pháp được đào tạo, bồi
dưỡng bài bản, có năng lực, có tinh thần, trách nhiệm và phẩm chất đạo đức
đáp ứng được yêu cầu, thì hoạt động quản lý nhà nước về hộ tịch tại địa
phương đó sẽ hiệu quả, quản lý nhà nước về hộ tịch tại nơi đó sẽ đáp ứng
được mục tiêu đề ra. Ngược lại với một đội ngũ công chức tư pháp - hộ tịch
yếu kém thì quản lý nhà nước về hộ tịch tại địa phương đó sẽ gặp khó khăn và
không hoàn thành được mục tiêu quản lý, hoặc có thể mang lại hậu quả xấu.
Với trách nhiệm quản lý nhà nước trong lĩnh vực hộ tịch trên địa bàn,
UBND huyện Kim Sơn đã thường xuyên quan tâm thực hiện các giải pháp
nhằm nâng cao đạo đức và chất lượng thực thi công vụ của đội ngũ này.
Trong thời gian tới cần phải thực hiện các giải pháp sau:
Thứ nhất, nâng cao đạo đức công vụ cho đội ngũ công chức làm hộ
tịch. Hiểu một cách chung nhất, đạo đức công vụ là hệ thống các chuẩn mực,
quy tắc, nguyên tắc, hành vi trong hoạt động công vụ của cán bộ, công chức
nhằm điều chỉnh thái độ, hành vi, cách ứng xử, chức trách, bổn phận, nghĩa
vụ của cán bộ, công chức trong hoạt động công vụ. Giá trị cốt lõi mà công
chức đảm nhận thể hiện ở cách họ xử sự và đóng góp để xã hội tốt đẹp hơn,
bao gồm dịch vụ công tốt và từng cá nhân công chức phải trau dồi, bồi dưỡng
về mọi mặt để tiến bộ hơn, qua đó xây dựng một nền công vụ trách nhiệm,
chuyên nghiệp và trong sạch, tận tụy, công tâm. Nâng cao đạo đức công vụ
cho đội ngũ công chức hộ tịch chính là nâng cao lòng yêu nghề, tinh thần tận
tụy với công việc; nâng cao thái độ tôn trọng người dân, tận tâm phục vụ, lắng
nghe ý kiến của người dân, chịu sự giám sát của người dân; thực hành cần,
kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư trong hoạt động công vụ; là nâng cao chủ
nghĩa tập thể, tinh thần hợp tác, tôn trọng pháp luật, tôn trọng đồng nghiệp
trong thực thi công vụ.
84
Thứ hai, tiến hành rà soát tổng thể và phân loại đội ngũ công chức tư
pháp - hộ tịch phục vụ việc bố trí đúng, đủ số lượng công chức tư pháp - hộ
tịch theo quy định (nhất là những xã có đông dân cư như Lai Thành, Đồng
Hướng, hiện nay chưa được bố trí đủ công chức tư pháp - hộ tịch) cũng như
xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng. Tiêu chí rà soát cần đảm bảo tính toàn
diện, bao gồm cả về số lượng, trình độ, độ tuổi, thời gian công tác và năng
lực, kết quả làm việc trong thời gian qua. Rà soát cần tiến hành phân loại theo
các nhóm công chức, để lưu ý đến công tác bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ,
vừa để triển khai thực hiện các quy định mới về đăng ký và quản lý hộ tịch
theo Luật Hộ tịch, vừa để có kế hoạch đào tạo, bố trí, sử dụng phù hợp.
Thứ ba, thường xuyên, liên tục tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên
môn và trình độ tin học cho công chức làm hộ tịch. Căn cứ kết quả rà soát,
phân loại tổng thể đội ngũ công chức làm hộ tịch phải xây dựng kế hoạch, lộ
trình bồi dưỡng cho phù hợp với từng nhóm đối tượng đã phân loại để đạt
hiệu quả cao nhất. Bên cạnh đó, những nhiệm vụ mới, với những quy định về
trình tự, thủ tục thực hiện thay đổi, đặc biệt là ứng dụng công nghệ thông tin
trong đăng ký, quản lý hộ tịch để phù hợp với mục tiêu xây dựng Chính phủ
điện tử, xây dựng cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử, đăng ký hộ tịch trực tuyến, đòi
hỏi trình độ của công chức làm hộ tịch phải được chuẩn hóa và từng bước
được nâng cao cả về chuyên môn, nghiệp vụ và trình độ công nghệ thông tin,
do đó cần phải tổ chức các lớp bồi dưỡng về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ
và ứng dụng công nghệ thông tin đối với đội ngũ này.
Thứ tư, trong công tác tuyển dụng cán bộ, từng bước bố trí, sắp xếp tiến
tới 100% công chức tư pháp - hộ tịch đạt chuẩn, phấn đấu 100% công chức
làm hộ tịch từ huyện đến cơ sở có trình độ cử nhân luật. Tiêu chuẩn đặt ra đối
với công chức làm hộ tịch cấp xã, cấp huyện phải là những người có trình độ
từ đại học luật trở lên. Những công chức này phải được tuyển dụng theo các
85
yêu cầu năng lực thực tế mới có thể đáp ứng được nhiệm vụ. Cần nhận thức
vai trò của quản lý nhà nước về hộ tịch không đơn thuần chỉ là thực hiện các
tác nghiệp giản đơn về hộ tịch, mà yêu cầu của công chức hộ tịch phải có tầm,
tức là ngoài khả năng thực hiện chuyên môn, thì còn phát huy tốt chức năng
tham mưu, chủ động và thực hiện quản lý nhà nước về hộ tịch đáp ứng được
xu hướng hiện tại và tương lai. Cần nghiên cứu để có chế độ đãi ngộ xứng
đáng cho đội ngũ này.
Đối với cấp huyện, để đáp ứng được yêu cầu của công tác hộ tịch có
yếu tố nước ngoài theo quy định của Luật Hộ tịch năm 2014, đây là những
hoạt động rất phức tạp về chuyên môn, nghiệp vụ, nên công chức làm công
tác hộ tịch bên cạnh việc có trình độ cử nhân Luật và được bồi dưỡng thường
xuyên về nghiệp vụ hộ tịch thì cần có trình độ ngoại ngữ giao tiếp cơ bản.
3.2.3. Nâng cao chất lượng phổ biến, giáo dục pháp luật liên quan
đến hộ tịch cho cán bộ, công chức và người dân trên địa bàn
Giải pháp phổ biến, giáo dục pháp luật là một công cụ quan trọng để tác
động lên cán bộ, công chức và người dân trong việc thực thi pháp luật. Ý
nghĩa của hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật là nhằm hình thành ý thức
pháp luật dưới dạng lòng tin, thói quen, trở thành động cơ của hành vi tích
cực của các chủ thể. Lĩnh vực hộ tịch liên quan gắn bó mật thiết với các
quyền nhân thân của cá nhân nên nếu có phương pháp tuyên truyền phù hợp
sẽ dễ đi vào niềm tin, xây dựng tính nhân văn trong đời sống Nhân dân như
quan hệ giữa vợ chồng, cha mẹ và con; thực hiện giám hộ, nhận nuôi con
nuôi, nhận cha mẹ con.
Để sử dụng hiệu quả phổ biến, giáo dục pháp luật về hộ tịch, một yêu
cầu đặt ra là phải xác định đối tượng tuyên truyền là ai, mục tiêu tuyên truyền,
tài liệu tuyên truyền, xác định được hiệu quả tuyên truyền. Trong thực tiễn
cho thấy ở nhiều địa phương trên địa bàn huyện, việc tuyên truyền vẫn còn
86
mang nặng tính hình thức, số lượng người nghe đa dạng, tài liệu nhiều loại,
phương pháp tổ chức và tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật chưa khoa
học hiệu quả, quản lý công tác tuyên truyền còn lỏng lẻo, tài chính đầu tư còn
hạn chế,… Vì thế hiệu quả từ thực tế thấp; nhận thức người dân chưa có
chuyển biến rõ rệt.
Vì vậy, nâng cao chất lượng phổ biến, giáo dục pháp luật về hộ tịch
trên địa bàn huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình cần phải thực hiện một số nội
dung chủ yếu như sau:
Thứ nhất, cần xác định mục đích phổ biến, giáo dục pháp luật; cần phải
phổ biến, giáo dục những nội dung gì và bằng hình thức nào? đối với cán bộ,
công chức và người dân trên địa bàn huyện thì nội dung phổ biến, giáo dục
pháp luật về hộ tịch nên là những quy định cụ thể, có liên quan trực tiếp đến
người dân và thường hay phát sinh trên địa bàn, như trong lĩnh vực đăng ký
hộ tịch thì cần phổ biến những quy định về nguyên tắc đăng ký hộ tịch, thẩm
quyền đăng ký các sự kiện hộ tịch, trình tự, thủ tục đăng ký các sự kiện hộ
tịch, nhất là trách nhiệm và quyền lợi của công dân trong đăng ký hộ tịch và
xử phạt hành chính trong lĩnh vực hộ tịch.
Thứ hai, phổ biến, giáo dục pháp luật về hộ tịch gắn với các lĩnh vực
quản lý nhà nước khác có liên quan, như: Y tế; bảo hiểm xã hội; hôn nhân và
gia đình,.. để người nghe sẽ nhận thấy giữa các lĩnh vực có sự liên quan đến
nhau, khi làm việc này thì cần thiết phải làm việc tiếp theo, như đi đăng ký
khai sinh cho trẻ mới sinh thì cần làm tiếp các thủ tục đăng ký bảo hiểm y tế
và nhập hộ khẩu cho trẻ.
Thứ ba, phổ biến, giáo dục pháp luật về hộ tịch phải có sự kết hợp giữa
các cơ quan liên quan, giữa các ngành của huyện với các địa phương, với đặc
thù là huyện có 03 xã giáp biển, có lực lượng Bộ đội Biên phòng đóng quân
trên địa bàn, vì thế việc phối hợp giữa các cơ quan chuyên môn của huyện,
87
UBND các xã và lực lượng Bộ đội Biên phòng trong việc phổ biến, giáo dục
pháp luật nói chung và phổ biến, giáo dục pháp luật về hộ tịch sẽ đem lại
những hiệu quả tích cực. Mặt khác, việc vào cuộc của cả hệ thống chính trị,
các cấp, các ngành của huyện cũng sẽ tạo điều kiện thuân lợi để đa dạng hóa
hình thức, phương pháp tuyên truyền, phổ biến pháp luật bằng những cách
thức như tọa đàm, buổi nói chuyện, buổi trợ giúp pháp lý, qua hệ thống loa
phát thanh cơ sở, tờ rơi, biểu diễn văn nghệ, kịch… để người dân có thể dễ
dàng tiếp cận hơn.
Thứ tư, nâng cao chất lượng công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trong
nhà trường, nhất là các trường trung học cơ sở, trung học phổ thông và giáo
dục nghề nghiệp của huyện, vì học sinh, học viên khi có kiến thức pháp luật
về hộ tịch có thể là người thực hiện việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật về
hộ tịch cho gia đình và cộng đồng. Tại các trường học từ bậc trung học cơ sở
trở lên, xây dựng các bài học pháp luật để giáo dục thường xuyên với học sinh
trong đó có pháp luật về hộ tịch. Thay đổi cơ cấu tổ chức, xây dựng cơ chế
phối hợp giữa các cơ quan và tăng cường phổ biến, giáo dục pháp luật về
đăng ký hộ tịch có vai rò rất quan trọng trong việc nâng cao chất lượng công
tác quản lý nhà nước về hộ tịch.
3.2.4. Tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan, đơn vị liên quan
trong giải quyết các việc liên quan đến hộ tịch
Cần tăng cường sự chỉ đạo của Huyện ủy, UBND huyện trong việc giải
quyết các việc liên quan đến hộ tịch; phối hợp đồng bộ và nhịp nhàng giữa
các cơ quan chuyên môn của huyện, UBND các xã, thị trấn trên địa bàn để
giải quyết các việc liên quan đến hộ tịch; ban hành văn bản phải đồng bộ về
cấp độ để việc giải quyết TTHC được kịp thời, nhanh chóng và theo quy định.
Nội dung đăng ký khai sinh là thông tin hộ tịch cơ bản của cá nhân,
được ghi vào Sổ hộ tịch, Giấy khai sinh, cập nhật vào Cơ sở dữ liệu hộ tịch
88
điện tử và Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư. Hồ sơ, giấy tờ của cá nhân liên
quan đến thông tin khai sinh phải phù hợp với nội dung đăng ký khai sinh của
người đó [47, tr.7]. Mặt khác Giấy khai sinh là giấy tờ gốc của cá nhân. Mọi
hồ sơ, giấy tờ của cá nhân có nội dung ghi về họ, chữ đệm, tên; ngày, tháng,
năm sinh; giới tính; dân tộc; quốc tịch; quê quán; quan hệ cha, mẹ, con phải
phù hợp với Giấy khai sinh của người đó. Trường hợp nội dung trong hồ sơ,
giấy tờ cá nhân khác với nội dung trong Giấy khai sinh của người đó thì Thủ
trưởng cơ quan, tổ chức quản lý hồ sơ hoặc cấp giấy tờ có trách nhiệm điều
chỉnh hồ sơ, giấy tờ theo đúng nội dung trong Giấy khai sinh [20, tr.5-6]. Như
vậy, các giấy tờ có liên quan về nhân thân của một người phải có nội dung
phù hợp với Giấy khai sinh và Giấy khai sinh được xem như là giấy tờ gốc để
điều chỉnh các giấy tờ khác khi có sự sai sót hoặc nhầm lẫn các yếu tố về
nhân thân. Chính vì vậy, công tác quản lý nhà nước về hộ tịch liên quan mật
thiết đến nhiều công tác quản lý nhà nước khác, điều đó đòi hỏi phải tăng
cường phối hợp các cơ quan, tổ chức trong quản lý nhà nước về hộ tịch, nhất
là giải quyết các vấn đề liên quan đến hộ tịch cho công dân; một số trường
hợp cụ thể như:
Đối với ngành Công an trong quản lý Hộ khẩu, căn cước công dân
khẳng định rằng các giấy tờ hộ tịch do cơ quan có thẩm quyền cấp cho cá
nhân là căn cứ pháp lý để xác định nhân thân của người đó, nên khi thực hiện
làm thủ tục liên quan đến hộ khẩu thì phải yêu cầu xuất trình Giấy khai sinh
để xác định nhân thân của người đó trong hộ khẩu và khi thực hiện làm căn
cước công dân thì xuất trình hộ khẩu và các giấy tờ hộ tịch có liên quan để
xác định nhân thân của người đó trong giấy căn cước công dân. Trong thời
gian qua, trên địa bàn huyện đang tiến hành thu thập thông tin và rà soát, kiểm
tra, đánh giá kết quả thông tin đã thu thập được để xây dựng cơ sở dữ liệu
quốc gia về dân cư; đây là một trong những nhiệm vụ trọng tâm để đảm bảo
89
sự thống nhất, chính xác thông tin cơ bản về dân cư, tạo sự đổi mới căn bản
về tổ chức, hoạt động quản lý nhà nước về dân cư theo hướng hiện đại, đơn
giản hóa các TTHC, giảm phiền hà cho người dân. Cơ sở dữ liệu quốc gia
được hoàn thiện sẽ xóa bỏ tình trạng công dân phải sử dụng nhiều loại giấy
tờ; mỗi công dân sẽ được cấp 01 mã số định danh cá nhân để truy xuất thông
tin của bản thân và giải quyết các TTHC. Trong công tác xây dựng cơ sở dữ
liệu quốc gia về dân cư, lực lượng Công an có nhiệm vụ xây dựng, quản lý,
vận hành, khai thác Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư; thu thập thông tin về
dân cư; cấp số định danh cá nhân...
Để thông tin thu thập đầu vào để đảm bảo tính tin cậy, chính xác phải
có sự phối hợp chặt chẽ của công chức tư pháp - hộ tịch trong quá trình thu
thập, rà soát, thẩm tra, phúc tra thông tin. Trong trường hợp có sự vênh lệch
giữa thông tin hộ tịch và tàng thư chứng minh nhân dân, tàng thư căn cước
công dân cần phải xử lý thỏa đáng, kịp thời theo quy định của pháp luật, đảm
bảo quyền lợi chính đáng của công dân cũng như đáp ứng yêu cầu quản lý nhà
nước. Mặt khác Cơ quan công an cũng cần có sự phối hợp tốt trong việc kiểm
tra, giám sát dân cư thông qua các quy định về cư trú và hệ thống cơ quan,
cán bộ ngành. Bên cạnh hệ thống quản lý nhân khẩu địa phương, thì mạng
lưới công an xã sẽ phối hợp tốt trong việc quản lý, theo dõi, giám sát trẻ em
có mặt tại nơi cư trú, điều này giúp cho công chức tư pháp - hộ tịch trong việc
khai sinh cho trẻ, cũng như đăng ký nuôi con nuôi,...
Với chức năng là cơ quan tham mưu cho UBND huyện về việc quản lý
hồ sơ cán bộ, công chức, viên chức trên địa bàn, Phòng Nội vụ cần có sự phối
hợp chạt chẽ với Phòng Tư pháp trong việc xử lý những sai lệch giữa giấy tờ
cá nhân của cán bộ, công chức, viên chức và giấy tờ hộ tịch được cấp theo
đúng quy định. Vì trong thực tế, quản lý hồ sơ cán bộ, công chức, viên chức
trên địa bàn huyện trong những năm vừa qua vẫn còn nhiều hồ sơ có nhiều
90
loại giấy tờ ghi ngày, tháng, năm sinh khác nhau (nhất là đối với cán bộ, công
chức cấp xã), nên việc xác định tuổi để thực hiện các bước của quy trình bổ
nhiệm, ứng cử, bầu cử cho cán bộ và thực hiện chế độ nghỉ bảo hiểm xã hội
còn gặp nhiều khó khăn. Vì vậy, cần tăng hơn nữa sự phối hợp để trao đổi,
cung cấp thông tin, xử lý kịp thời, đúng quy định của pháp luật đối các loại
giấy tờ của cán bộ, công chức, viên chức.
Các ban ngành, đoàn thể từ huyện đến cơ sở như Hội Liên hiệp Phụ nữ,
Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Nông dân, Hôi Cựu chiến binh
cần nêu cao vai trò, trách nhiệm trong việc tuyên truyền, nâng cao nhận thức
của đoàn viên, hội viên và các tầng lớp Nhân dân trên địa bàn huyện trong
thực hiện quyền và nghĩa vụ đăng ký hộ tịch. Mặc dù, cùng với sự phát triển
kinh tế - xã hội của huyện, các ban, ngành, đoàn thể của huyện đã tổ chức
được nhiều hoạt động tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật nói chung và
pháp luật về hộ tịch nói riêng cho đoàn viên, hội viên và người dân … Từ đó
góp phần nâng cao nhận thức của đoàn viên, hội viên và người dân trong việc
thực hiện quyền, nghĩa vụ về đăng ký hộ tịch. Tuy nhiên, công tác tuyên
truyền trong thời gian qua còn gặp nhiều khó khăn, như: Nội dung tuyên
truyền chưa sâu, thiếu đồng bộ, phong phú, chưa sát với thực tế và đối tượng,
tài liệu tuyên truyền chưa đáp ứng được yêu cầu. Trong thời gian tới cần có sự
phối hợp thường xuyên của cơ quan đăng ký hộ tịch với ban, ngành. đoàn thể
có liên quan để thực hiện tốt hơn công tác tuyên truyền các văn bản pháp luật
có liên quan về lĩnh vực hộ tịch đến với cán bộ và người dân.
Ngoài ra, còn liên quan đến một số lĩnh vực khác, như: Y tế, trong việc
cấp Giấy chứng sinh để thực hiện đăng ký khai sinh, cũng như xác định
nguyên nhân chết trong các trường hợp chết ở bệnh viện để thực hiện đăng ký
khai tử; cùng với Chi cục Thống kê huyện để thống kê tỷ lệ trẻ em được đăng
ký khai sinh, tỷ lệ người chết trong năm được đăng ký khai tử hàng năm trên
91
địa bàn huyện. Số liệu thống kê hộ tịch bảo đảm đầy đủ, chính xác, thống
nhất, kịp thời.
3.2.5. Đầu tư cơ sở vật chất, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin
trong việc quản lý, đăng ký hộ tịch
Cơ sở vật chất, trang thiết bị làm việc là một yếu tố quan trọng đảm bảo
cho các hoạt động nói chung và hoạt động quản lý hộ tịch nói riêng được thực
hiện một cách hiệu quả. Đối với địa bàn huyện Kim Sơn hiện nay, cơ sở vật
chất đã cơ bản đáp ứng cho quản lý nhà nước về hộ tịch, trong tâm trong thời
gian tới là là đảm bảo trang thiết bị làm việc và ứng dụng công nghệ thông tin
trong quản lý và đăng ký hộ tịch. Vì hiện nay đăng ký và quản lý nhà nước về
hộ tịch trên địa bàn được Phòng Tư pháp và công chức tư pháp - hộ tịch thực
hiện thông qua Hệ thống thông tin đăng ký và quản lý hộ tịch dùng chung của
Bộ Tư pháp Với việ sử dụng Hệ thống đăng ký và quản lý hộ tịch của Bộ tư
pháp đã tạo điều kiện thuận lợi cho công tác đăng ký, tra cứu thông tin khi
cần thiết cũng như công tác thanh tra, kiểm tra và hướng dẫn nghiệp vụ.
Ngoài ra còn giúp cho công tác đăng ký, quản lý nhà nước về hộ tịch được
thực hiện một cách chính xác, khoa học, thống nhất trong phạm vi toàn quốc,
từ trung ương đến địa phương.
Việc ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác đăng ký, quản lý nhà
nước về hộ tịch được coi là một giải pháp để kiện toàn tổ chức bộ máy, vì sẽ
giảm bớt sức lao động thủ công, vừa tạo ra sự kết nối giữa các cơ quan thực
hiện đăng ký, quản lý nhà nước về hộ tịch.
Ứng dụng công nghệ thông tin thực hiện cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử
đòi hỏi từ huyện đến UBND các xã, thị trấn phải đầu tư cơ sở vật chất đồng
bộ mà cơ bản nhất là bảo đảm có máy tính riêng, có kết nối mạng internet,
đường truyền internet băng thông rộng, phục vụ cho công tác đăng ký hộ tịch
và quản lý nhà nước về hộ tịch. Hiện nay mặc dù hệ thống máy tính đã được
92
trang bị riêng cho công chức làm công tác hộ tịch nhưng chất lượng nhiều
máy chưa đảm bảo (nhiều máy đã cũ, hay hỏng hóc) ảnh hưởng rất nhiều đến
chất lượng, hiệu quả và thời gian thực hiện công tác đăng ký hộ tịch. Vì vậy,
để ứng dụng thông tin thực sự phát huy hiệu quả góp phần tích cực trong quản
lý nhà nước về hộ tịch trên địa bàn huyện, đòi hỏi các cơ quan đăng ký hộ tịch
trên địa bàn huyện phải rà soát, nâng cấp, bổ sung trang thiết bị phục vụ việc
triển khai hệ thống thông tin đăng ký và quản lý hộ tịch (bao gồm: Máy tính,
máy in được kết nối internet) cho công chức làm công tác hộ tịch tại Phòng
Tư pháp và UBND các xã, thị trấn. Đảm bảo thực hiện xây dựng, quản lý cơ
sở dữ liệu hộ tịch điện tử tại địa phương; kết nối, chia sẻ, cung cấp thông tin
cho Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử của tỉnh, Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử toàn
quốc, Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư và các cơ sở dữ liệu chuyên ngành
khác có liên quan.
Để hoàn thiện việc xây dựng cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử, hiện nay
UBND huyện Kim Sơn đang chỉ đạo các cơ quan đăng ký hộ tịch trên địa bàn
thực hiện việc số hóa Sổ hộ tịch theo hướng dẫn tại Công văn số 1437/BTP-
CNTT ngày 25/4/2019, của Bộ Tư pháp, kèm theo tài liệu "Hướng dẫn thực
hiện số hóa Sổ hộ tịch" đã được Bộ Tư pháp đăng tải trên Cổng thông tin điện
tử của Bộ. Trước hết, thực hiện giai đoạn 1 và giai đoạn 2 là thu thập, phân
loại các Sổ hộ tịch cần số hóa; Scan/chụp Sổ hộ tịch, tạo lập các file dữ liệu
Exel, ...để thực hiện được nhiệm vụ này, đề nghị UBND tỉnh Ninh Bình cần
có kế hoạch cụ thể và phân bổ kinh phí cho các địa phương để thực hiện số
hóa dữ liệu hộ tịch đảm bảo chất lượng và hiệu quả.
Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin để triển khai đăng ký hộ tịch
trực tuyến; việc đăng ký hộ tịch trực tuyến là một phương thức hiện đại giúp
cá nhân và cơ quan có thẩm quyền thực hiện thủ tục hành chính thuận lợi,
nhanh chóng, chính xác, bên cạnh 2 phương thức truyền thống là nộp hồ sơ
93
trực tiếp tại trụ sở cơ quan có thẩm quyền và gửi hồ sơ qua hệ thống bưu
chính. Việc thực hiện các thủ tục hành chính trên môi trường điện tử mang lại
nhiều lợi ích cho cả cơ quan quản lý nhà nước về hộ tịch cũng như người dân.
Để thực hiện có hiệu quả phương thức đăng ký hộ tịch này thì bên cạnh việc
trang bị cơ sở vật chất tương thích thì cần từng bước nâng cao trình độ ứng
dụng công nghệ thông tin của công chức tư pháp - hộ tịch và người dân trên
địa bàn huyện.
3.2.6. Tăng cường giám sát, thanh tra, kiểm tra công tác đăng ký,
quản lý hộ tịch trên địa bàn
Thực tế, trong thời gian qua công tác giám sát, thanh tra, kiểm tra việc
thực hiện quản lý nhà nước về hộ tịch trên địa bàn mặc dù đã được thực hiện
nhưng chưa quyết liệt, đôi khi còn nể nang, hiệu quả chưa cao, việc phát hiện
những sai sót trong vấn đề quản lý hộ tịch chưa kịp thời; các sai sót khi được
phát hiện chủ yếu là tự khắc phục, rút kinh nghiệm; chưa có sự cương quyết
trong việc xử lý công chức để xảy ra sai sót trong quá trình thực hiện, nhất là
đối với một số trường hợp cố tình làm sai. Trong thực tiễn, thanh tra, kiểm
tra, giám sát, xử lý vi phạm hằng năm được thực hiện từ huyện đến cấp xã.
Kết quả cho thấy có nhiều vấn đề sai phạm cần chỉnh đốn. Tuy nhiên hình
thức xử lý các trường hợp vi phạm của công chức tư pháp - hộ tịch và cán bộ
lãnh đạo xã chưa được xử lý kịp thời, chưa nghiêm, chưa kiên quyết.
Việc tổ chức thanh tra, kiểm tra của Phòng Tư pháp đối với công tác hộ
tịch ở các xã, thị trấn gặp nhiều khó khăn do biên chế chưa đảm bảo. Trong
nhiều năm qua Phòng Tư pháp huyện Kim Sơn chỉ được bố trí 04 biên chế
(01 Trưởng phòng, 01 Phó Trưởng phòng và 02 Chuyên viên), trong đó có
một Chuyên viên được phân công phụ trách theo dõi công tác hộ tịch trên địa
bàn huyện.
94
Giải pháp tăng cường và nâng cao hiệu quả thanh tra, kiểm tra, giám
sát, xử lý vi phạm trong quản lý nhà nước về hộ tịch trên địa bàn huyện Kim
Sơn, tỉnh Ninh Bình cần được xem xét và thực hiện như sau:
Thứ nhất, Tôn trọng sự phân cấp, tập trung và đề cao trách nhiệm của
người phụ trách hộ tịch (Chủ tịch, hay Phó chủ tịch UBND UBND các xã, thị
trấn), theo đó, quy trách nhiệm chính trị và trách nhiệm pháp lý đối với người
phụ trách trực tiếp.
Mặt khác, công tác đăng ký hộ tịch trên địa bàn huyện được thực hiện
theo mô hình một cửa. Do vậy, lãnh đạo UBND xã phải quan tâm chỉ đạo và
giám sát thực hiện chặt chẽ; phân công trách nhiệm cụ thể, rõ ràng cho công
chức trực bộ phận một cửa; xây dựng cơ chế giám sát sự tuân thủ quy chế của
công chức thực hiện hộ tịch; nâng cao năng lực nghiệp vụ và văn hoá phục vụ
nhân dân cho công chức hộ tịch; tăng cường công tác kiểm tra, rà soát, bãi bỏ
các quy định sai pháp luật, đi ngược lại quy chế dân chủ, gây phiền hà cho
người dân có yêu cầu.
Thứ hai, tăng cường thanh tra, kiểm tra, giám sát, xử lý vi phạm trong
quản lý nhà nước về hộ tịch trên địa bàn huyện, tập trung vào chuyên môn
nghiệp vụ của đội ngũ tư pháp. Kịp thời phát hiện các sai sót vi phạm về
nghiệp vụ, tùy theo mức độ vi phạm sẽ có hình thức xử lý, mạnh dạn sử dụng
các biện pháp chỉnh đốn từ rút kinh nghiệm cho tới hạn bậc lương, buộc thôi
việc. Đặc biệt, những hành vi trái pháp luật do công chức làm công tác hộ tịch
gây ra cần phải xử lý kịp thời, nghiêm minh, không thiên vị. Tùy thuộc vào
tính chất, mức độ của hành vi trái pháp luật, người vi phạm có thể bị xử lý kỷ
luật, xử lý hành chính, bồi hoàn một phần thiệt hại vật chất, thậm chí phải
truy cứu trách nhiệm hình sự. Giải pháp này sẽ giúp cho công chức tư pháp -
hộ tịch không dám tùy tiện tác nghiệp hoặc cố tính làm trái pháp luật, dẫn đến
hậu quả do mình phải gánh chịu.
95
Thứ ba, Có cơ chế, cách thức để mở rộng quyền trực tiếp giám sát của
nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà nước, thường xuyên lắng nghe ý
kiến đóng góp của họ để thực thi công vụ đạt chất lượng, hiệu quả.
Thứ tư, kiểm soát kết luận sau thanh tra, kiểm tra, giám sát, xử lý vi
phạm để đảm bảo các kết luận được thực thi nghiêm túc, kịp thời. Thực tế có
nơi, sau khi thực hiện thanh tra, kiểm tra xong, các sai phạm vẫn được công
chức tư pháp - hộ tịch giữ nguyên như cũ, nghĩa là cấp xã không có chỉnh
đốn. Kết luận trong thanh, kiểm tra sẽ không được các công chức coi trọng,
không sử đổi, chậm chuyển biến, coi việc thanh, kiểm tra là một công việc
của cấp trên không ảnh hưởng đến quyền lợi của họ.
Có thể khẳng định, thanh tra, kiểm tra, giám sát, xử lý vi phạm về quản
lý nhà nước về hộ tịch là một công cụ của chủ thể quản lý là cơ quan nhà
nước thực hiện, nhằm mục tiêu quản lý đạt hiệu quả mong muốn, góp phần
quan trong trong cải cách hành chính, cải cách tư pháp theo yêu cầu hiện nay.
UBND huyện cần có sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo trong việc xem xét đến
các vấn đề mà các xã đang cần, như việc bố trí, đào tạo, quy hoạch công chức
và xây dựng kế hoạch, chương trình quản lý nhà nước về hộ tịch. Từ những
giải pháp mang tính đồng bộ, và hợp lý, đồng thời với phương pháp quản lý
khoa học, thì hoạt động thanh tra, kiểm tra và giám sát cũng sẽ góp phần
mang lại hiệu quả quản lý nhà nước về hộ tịch trên địa bàn huyện được tốt
hơn.
96
Tiểu kết Chƣơng 3
Hoàn thiện công tác quản lý nhà nước về hộ tịch là một đòi hỏi tất yếu
của quá trình phát triển. Việc hoàn thiện pháp luật và công tác quản lý nhà
nước trên lĩnh vực này phải được thực hiện trong bối cảnh tổng thể của cải
cách hành chính nhà nước, cải cách tư pháp và xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam; với những cơ sở vững chắc, những lộ
trình phù hợp, nhằm tạo điều kiện cho phát triển kinh tế, xã hội, nâng cao
năng lực quản lý nhà nước. Đây không chỉ là nhiệm vụ của Nhà nước, mà còn
là một vấn đề cần sự quan tâm, hỗ trợ tích cực từ xã hội, công dân.
Để quản lý nhà nước về hộ tịch trên địa bàn huyện Kim Sơn được thực
hiện có hiệu lực, hiệu quả cần phải tiến hành đồng bộ các giải pháp như: Hoàn
thiện thể chế quản lý nhà nước về hộ tịch; đẩy mạnh công tác tuyên truyền
phổ biến giáo dục pháp luật về hộ tịch trong nhân dân; kiện toàn, nâng cao
trình độ chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ công chức tư pháp hộ tịch; tăng
cường hợp tác giữa các cơ quan, đơn vị trong giải quyết các việc liên quan
đến hộ tịch; đầu tư cơ sở vật chất, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin
trong việc quản lý, đăng ký hộ tịch; đẩy mạnh công tác giám sát, thanh tra,
kiểm tra, xử lý vi phạm trong pháp luật quản lý về hộ tịch,...
97
KẾT LUẬN
Quản lý nhà nước về hộ tịch là sự thực hiện chức năng quản lý của cơ
quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật, hiện nay hoạt
động quản lý về hộ tịch ở nước ta được quy định trực tiếp trong Luật Hộ
tịch 2014, hiệu lực từ ngày 01/01/2016. Quản lý nhà nước về hộ tịch có ý
nghĩa quan trọng đối với Nhà nước và Nhân dân; thông qua việc đăng ký,
quản lý hộ tịch, tạo cơ sở pháp lý để Nhà nước công nhận, bảo vệ và bảo
đảm quyền con người, quyền công dân đã được Hiện pháp nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định.
Thông qua việc tìm hiểu, nghiên cứu cơ sở khoa học của quản lý nhà
nước về hộ tịch đã làm rõ các quy định của pháp luật hiện hành về thẩm
quyền quản lý và đăng ký hộ tịch hiện nay theo pháp luật Việt Nam, đó là:
Chính phủ; Bộ Tư pháp; Bộ Công an; Bộ Ngoại giao và cơ quan Đại diện
ngoại giao, Lãnh sự của Việt Nam ở nước ngoài; UBND cấp tỉnh và Sở Tư
pháp; UBND cấp huyện và Phòng Tư pháp; UBND cấp xã và công chức tư
pháp - hộ tịch.
Luận văn tập trung nghiên cứu về hoạt động quản lý nhà nước về hộ
tịch trên địa bàn huyện Kim Sơn tỉnh Ninh Bình với đề tài “Quản lý nhà
nước về hộ tịch trên địa bàn huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình”.
Luận văn đã hệ thống hóa các quy định pháp lý về thẩm quyền, trách
nhiệm của các cơ quan hành chính nhà nước, nhất UBND cấp huyện,
UBND cấp xã trong hoạt động quản lý nhà nước về Hộ tịch. Khảo sát kết
quả thực hiện quản lý, đăng ký hộ tịch trên địa bàn huyện (2016 - 2019).
Cùng với việc tổng hợp, phân tích các số liệu. trong các báo cáo của Phòng
tư pháp, Uỷ ban nhân huyện, quan sát thực tiễn tình hình quản lý, đăng ký
hộ tịch ở một số địa phương, kết quả cho thấy, bên cạnh những kết quả đạt
được, như: Đã có sự chuẩn bị và triển khai tốt công tác thi hành pháp luật
98
về hộ tịch; từ việc bố trí công chức; phổ biến, giáo dục pháp luật về hộ tịch;
đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị; thanh tra, kiểm tra,… Thì công tác quản
lý, đăng ký hộ tịch trên địa bàn huyện vẫn còn hạn chế, bất cập, đó là: Trình
độ chuyên môn nghiệp vụ và đạo đức công vụ của đội ngũ công chức làm
công tác hộ tịch chưa đồng đều; công tác tuyên truyền chưa sâu rộng; tình
trạng không đăng ký hộ tịch, hoặc đăng ký hộ tịch quá hạn vẫn tồn tại,…
Mỗi một hạn chế, bất cập có nguyên nhân chủ quan và khách quan
khác nhau, tuỳ phạm vi và mức độ. Tuy nhiên có thể khái quát thành những
nguyên nhân cơ bản, gồm: Hệ thống pháp luật về hộ tịch, bất cập giữa các
quy định giữa các văn bản liên quan với nhau, điều này đã đồng thời khiến
cho công tác quản lý, đăng ký hộ tịch ở cấp huyện và cấp xã còn nhiều
vướng mắc, vi phạm; năng lực và trách nhiệm của công chức thực hiện
đăng ký và quản lý hộ tịch còn yếu kém và công tác giám sát, thanh tra,
kiểm tra việc thực hiện quản lý nhà nước về hộ tịch chưa phát huy được
hiệu quả cao.
Trên cơ sở phân tích các nguyên nhân và những yêu cầu đặt ra đối
với công tác quản lý nhà nước về hộ tịch trên địa bàn huyện Kim Sơn, tỉnh
Ninh Bình, Luận văn đề xuất và luận giải một số quan điểm và giải pháp
nhằm nâng cao chất lượng quản lý nhà nước về hộ tịch trên địa bàn huyện,
cụ thể một số giải pháp, đó là:
Thứ nhất, tiếp tục hoàn thiện thể chế về hộ tịch;
Thứ hai, tăng cường công tác phổ biến, giáo dục pháp luật liên quan
đến hộ tịch cho cán bộ, công chức và người dân trên địa bàn;
Thứ ba, Nâng cao phẩm chất và năng lực thực thi công vụ của đội
ngũ công chức làm công tác hộ tịch trên địa bàn;
Thứ tư, tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan, đơn vị liên quan
trong giải quyết các việc liên quan đến hộ tịch;
99
Thứ năm, đầu tư cơ sở vật chất, ứng dụng công nghệ thông tin trong
việc quản lý, đăng ký hộ tịch;
Thứ sáu, tăng cường giám sát, thanh tra, kiểm tra công tác đăng ký,
quản lý hộ tịch trên địa bàn.
Việc thực hiện các giải pháp trong khuôn khổ đề tài luận văn nêu ra
sẽ góp một phần vào việc quản lý nhà nước về hộ tịch trên địa bàn huyện
Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình ngày một hoàn thiện hơn. Bên cạnh đó góp phần
vào việc giải quyết những việc cụ thể, bức xúc trong thực tế về công tác
đăng ký hộ tịch./.
100
TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Đào Duy Anh (1992), Giản yếu Hán Việt từ điển, quyển thượng, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội.
2. Trương Thị Vân Anh (2015), Quản lý nhà nước về hộ tịch ở cấp xã,
thực tiễn ở huyện Mê Linh, Thành phố Hà Nội, Luận văn Thạc sĩ Luật
học, Đại học Quốc gia, Hà Nội.
3. Bộ Tư pháp (2012), Báo cáo tổng kết công tác đăng ký, quản lý hộ tịch
và thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về hộ tịch, tài liệu Hội
nghị chuyên đề về hộ tịch tháng 6/2012, Hà Nội.
4. Bộ Tư pháp (2007), Công chứng, hộ tịch và quốc tịch: Phần 2 hộ tịch
và quốc tịch.
5. Bộ Tư pháp (2006), Hướng dẫn nghiệp vụ Đăng ký và quản lý hộ tịch,
Nxb Tư pháp, Hà Nội.
6. Bộ Tư pháp (2018), Quyết định ban hành kế hoạch triển khai thực hiện
đề án tổng thể đơn giản hóa TTHC, giấy tờ công dân liên quan đến
quản lý dân cư năm 2018, Hà Nội.
7. Bộ Tư pháp (2007), Số chuyên đề về “Công chứng, hộ tịch và quốc
tịch”, phần 2 Hộ tịch và quốc tịch, Hà Nội.
8. Bộ Tư pháp (2010), Tài liệu Hướng dẫn nghiệp vụ Tư pháp xã, phường,
thị trấn, Nxb. Tư pháp, Hà Nội.
9. Bộ Tư pháp (2019) "Tài liệu bồi dưỡng nghiệp vụ tư pháp cấp huyện";
NXB Tư pháp, Hà Nội.
10. Bộ Tư pháp (2015), Thông tư số 15/2015/TT-BTP ngày 16/11/2015 quy
định chi tiết một số điều của Luật Hộ tịch và Nghị định số
123/2015/NĐ-CP ngày 15/11/2015 của Chính phủ quy định chi tiết một
số điều và biện pháp thi hành Luật Hộ tịch, Hà Nội.
11. Bộ Tư pháp (2016), Thông tư số 04/2016/TT-BTP ngày 03/3/2016
101
Quy định một số nội dung về hoạt động thống kê của ngành Tư pháp,
Hà Nội.
12. Bộ Tư pháp (2020), Thông tư số 04/2020/TT-BTP ngày 28/05/2020 quy
định chi tiết một số điều của Luật Hộ tịch và Nghị định số
123/2015/NĐ-CP ngày 15/11/2015 của Chính phủ quy định chi tiết một
số điều và biện pháp thi hành Luật Hộ tịch, Hà Nội.
13. Bộ Tư pháp, Bộ Công an, Bộ Y tế (2015), Thông tư liên tịch số
05/2015/TTLT-BTP-BCA-BYT hướng dẫn thực hiện liên thông các thủ
tục hành chính về đăng ký khai sinh, đăng ký thường trú và cấp thẻ bảo
hiểm y tế cho trẻ em dưới 6 tuổi , Hà Nội.
14. Bộ Tư pháp - Bộ Nội vụ (2014), Thông tư liên tịch số 23/2014/TTLT-
BTP- BNV hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ
chức của Sở Tư pháp thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương và Phòng Tư pháp thuộc Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị
xã, thành phố thuộc tỉnh, Hà Nội.
15. Trần Minh Chiến (2017), Quản lý hộ tịch ở cấp xã trên địa bàn tỉnh
Kiên Giang. Luận văn thạc sĩ Quản lý công, Học viện Hành chính, Hà
Nội.
16. Chính phủ (1961), Nghị định số 04/CP ngày 16/01/1961 ban hành Bản
Điều lệ Đăng ký hộ tịch, Hà Nội.
17. Chính phủ (2005), Nghị định số 83/1998/NĐ-CP ngày 10/10/1998 về
về đăng ký hộ tịch, Hà Nội.
18. Chính phủ (2005), Nghị định số 158/2005/NĐ-CP ngày 27/12/2005 về
quản lý và đăng ký hộ tịch, Hà Nội.
19. Chính phủ (2014), Nghị định số 126/2014/NĐ-CP ngày 31/ 12/2014 quy
định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Hôn nhân và Gia
đình, Hà Nội.
102
20. Chính phủ (2015), Nghị định 123/2015/NĐ-CP ngày 15 tháng 11 năm
2015 Quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Hộ tịch,
Hà Nội.
21. Chính phủ (2013), Nghị định số 110/2013/NĐ-CP ngày 24/9/2013
quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp,
hành chính tư pháp, hôn nhân và gia đình, thi hành án dân sự, phá sản
doanh nghiệp, hợp tác xã, Hà Nội.
22. Chính phủ (2017), Nghị định 92/2017/NĐ-CP ngày 07/8/2017 về sửa
đổi, bổ sung một số nghị định về kiểm soát TTHC, Hà Nội.
23. Chính phủ (2011), Nghị quyết 30c/NQ-CP ngày 08/11/2011 về ban hành
Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011-2020,
Hà Nội.
24. Phan Huy Chú (1993), Lịch triều hiến chương loại chí, quyển 2, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội.
25. Huỳnh Tịnh Paulus Của (1895), Đại nam Quốc âm tự vị, quyển 1,
Sài Gòn.
26. Phạm Trọng Cường (2013), Sự biến đổi mô hình cơ quan quản lý và
đăng ký hộ tịch từ năm 1945 đến nay, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số
Chuyên đề Pháp luật về hộ tịch, tr.149-162.
27. Phạm Trọng Cường (2007), Từ quản lý đinh đến quản lý hộ tịch, Nxb.
Tư Pháp, Hà Nội.
28. Phạm Trọng Cường (2004), Yêu cầu đối với quản lý nhà nước về hộ
tịch, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật.
29. Đại học Quốc gia Hà Nội (2001), Giáo trình Luật Hành chính Việt
Nam, Hà Nội.
30. Đảng bộ huyện Kim Sơn (2020), Văn kiện Đại hội Đảng bộ huyện Kim
Sơn lần thứ XXIV, nhiệm kỳ 2020 - 2025, Ninh Bình.
103
31. Đinh Ngọc Giang (2015), Quản lý nhà nước về hộ tịch ở nước ta hiện
nay, Tạp chí quản lý nhà nước (số 228), tr.52-56.
32. Trần Thị Lệ Hoa (2013), Thực trạng đội ngũ công chức tư pháp - hộ
tịch và yêu cầu chuẩn hóa, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, Số chuyên đề
Pháp luật về hộ tịch, tr.48-49.
33. Phạm Hồng Hoàn (2012), Quản lý nhà nước về hộ tịch cấp xã, huyện
Đan Phượng, thành phố Hà Nội, Luận văn Thạc sỹ Quản lý Hành chính
công, Học viện hành chính quốc gia, Hà Nội.
34. Trần Thị Thu Hiền (2016), Quản lý nhà nước về hộ tịch ở cấp xã trên
địa bàn huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội, Luận văn Thạc sỹ Quản lý
Hành chính công, Học viện hành chính quốc gia, Hà Nội.
35. Học viện Hành chính (2008), Giáo trình Quản lý hành chính - tư pháp,
Nxb Khoa học kỹ thuật, Hà Nội.
36. Lê Thị Tú Hồng (2013), Mô hình đăng ký và quản lý hộ tịch của một số
quốc gia trên thế giới, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, Số chuyên đề
Pháp luật về hộ tịch, tr.163-187.
37. Lê Thị Thanh Huyền (2019) "Tìm hiểu pháp luật về hộ tịch và căn cước
công dân", NXB Lao động - Xã hội, Hà Nội.
38. Bửu Kế (1999), Từ điển Hán - Việt từ nguyên, Nxb Thuận Hóa, thành phố
Hồ Chí Minh.
39. Nguyễn Công Khanh (2013), Định hướng xây dựng cơ sở dữ liệu hộ tịch điện
tử toàn quốc, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, Số chuyên đề Pháp luật về hộ tịch,
tr.116-128.
40. Nguyễn Văn Khôn (1960), Hán - Việt từ điển, Nhà sách Khai trí, Sài Gòn.
41. Nguyễn Lân (Chủ biên) (1989), Từ điển từ và ngữ Hán Việt, Nxb Thành
phố Hồ Chí Minh.
42. Nam Minh (2013), Tiếp tục phân cấp thẩm quyền, cải cách phương thức
104
quản lý và đăng ký hộ tịch, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, Số chuyên đề
Pháp luật về Hộ tịch, tr.129-137.
43. Nguyễn Hoài Nam (2013), Bàn về thẩm quyền trình tự, thủ tục đăng ký hộ
tịch và một số giải pháp hoàn thiện, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, Số
chuyên đề Pháp luật về hộ tịch, tr.85-92.
44. Trần Kim Phụng (2017), Quản lý hộ tịch ở cấp xã trên địa bàn huyện
Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang. Luận văn thạc sĩ Quản lý công, Học viện
Hành chính, Hà Nội.
45. Quốc hội (2015), Bộ Luật Dân sự, Hà Nội.
46. Quốc hội (2013), Hiến pháp, Hà Nội.
47. Quốc hội (2014), Luật Hộ tịch, Hà Nội.
48. Quốc hội (2014), Luật Hôn nhân và gia đình, Hà Nội.
49. Quốc hội (2010), Luật Nuôi con nuôi, Hà Nội.
50. Quốc hội (2015), Luật Tổ chức Chính phủ, Hà Nội.
51. Quốc hội (2016), Luật Trẻ em năm, Hà Nội.
52. Phạm Ngọc Sơn (2020), “Quản lý nhà nước bằng pháp luật về hộ tịch
trên địa bàn tỉnh Ninh Bình”, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Trường Đại
học Vinh, Nghệ An.
53. Vũ Xuân Thái (1999), "Gốc và Nghĩa từ Việt thông dụng", NXB Văn
hóa thông tin, Hà Nội.
54. Trung tâm Thông tin khoa học – Viện Nghiên cứu lập pháp - Ủy ban
Thường vụ Quốc hội (2013), Thông tin chuyên đề “Một số vấn đề lý
luận và so sánh pháp luật về hộ tịch”, Hà Nội.
55. Nguyễn Anh Tú (2018), “Quản lý nhà nước về hộ tịch tại các tỉnh biên
giới phía Bắc Việt Nam hiện nay”, Luận án tiến sĩ Quản lý công, Học
viện Hành chính Quốc gia, Hà Nôi.
56. Viện ngôn ngữ học (Hoàng Phê chủ biên) (1998), Từ điển tiếng Việt, in
105
lần thứ 5, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng.
57. Viện nghiên cứu khoa học pháp lý (1995), Chuyên đề thông tin khoa
học pháp lý về hộ tịch,Hà Nội.
58. Viện Sử học (1983), Đại Việt sử ký toàn thư, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
59. Website Dự thảo online (duthaoonline.quochoi.vn), vị trí vai trò của
công tác đăng ký quản lý hộ tịch và các giải pháp thực hiện, tác giả
Phan Thanh Tâm.
60. Website Tạp chí dân chủ và pháp luật (tcdcpl.moj.gov.vn), một số vấn
đề về triển khai Luật Hộ tịch, tác giả Uyên Nhi.
61. Website Thư viện pháp luật (thuvienphapluat.vn), truy cập các Nghị
quyết, Nghị định, Thông tư, Quyết định liên quan.
62. Website huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình (kimson.ninhbinh.gov.vn).
63. Website tỉnh Hà Nam (hanam.gov.vn).
64. Website quận Long Biên, thành phố Hà Nội (Longbien.hanoi.gov.vn)./.
106
Phụ lục số 1
TIÊU CHUẨN CÔNG CHỨC TƢ PHÁP - HỘ TỊCH CẤP XÃ TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN KIM SƠN
(Tính đến tháng 12/2019)
Đơn vị tính: Người
Chuyên môn
Chính trị
Luật
Khác
Stt
Tên xã
Tin học A
Đạt chuẩn
Trình độ văn hóa
Chƣa đạt chuẩn
ĐH TC ĐH
TC
Tổng số công chức tƣ pháp - hộ tịch
Đã bồi dƣỡng nghiệp vụ Hộ tịch
Sơ cấp
Trung cấp
1
1
1
1
1
1
1
1 1
1 1
1
1
Xuân Thiện Chính Tâm Chất Bình Hồi Ninh Kim Định Ân Hòa Hùng Tiến Như Hòa
1 1
1
1
Phát Diệm
1 1 2 2 2 2 2 2 2 1 1 1 2 2
12/12 12/12 12/12 12/12 12/12 12/12 12/12 12/12 12/12 12/12 12/12 12/12 12/12 12/12
2 2 1 1 1 1 1 1 1
1 1 1
1 1 2 1 2 1 1 2 1
1 1 2 2 2 2 2 2 2 1 1 1 2 2
1 2 3 4 5 6 7 8 9 Quang Thiện 10 Đồng Hướng Yên Mật 11 Kim Chính 12 13 Thượng Kiệm 14
1 1 1 2 2 2 1 2 1 1 1 2 2
1 1 1 2 2 2 1 2 1 1 1 2 2
1
1
1
1
1
1
1 1 1
1 1
1 1
1
1 1
2 1
1 1 2
1
1
1
1
2 1
1
1 1 1 2 2 2 2
1
Lưu Phương Tân Thành Yên Lộc Lai Thành Định Hóa Văn Hải Kim Mỹ Cồn Thoi Bình Minh Kim Tân Kim Hải Kim Trung Kim Đông
1
1
15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27
1 2 2 1 2 2 2 2
1 2 2 1 2 2 2 2
2 1 2 1 2 2 2 3 1 2 2 3 2 48
12/12 12/12 12/12 12/12 12/12 12/12 12/12 12/12 12/12 12/12 12/12 12/12 12/12 1192779
10
25
1 1 1 1 2 1 2 1 3 25
2 1 2 1 2 2 2 3 1 2 2 3 2 48
Tổng cộng
11
2
10
36
36
12
(Nguồn: Phòng Tư pháp, Phòng Nội vụ huyện Kim Sơn)
Phụ lục số 02
SỔ LƢỢNG CÔNG CHỨC TƢ PHÁP - HỘ TỊCH TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN
(Từ năm 2016 - 2019)
Đơn vị tính: Người
Chuyên môn
Chính trị
Luật
Khác
Stt
Năm
Nữ
Trình độ văn hóa
Tin học
Đạt chuẩn
Tổng số công chức tƣ pháp - hộ tịch
ĐH
TC
ĐH
TC
Sơ cấp
Trung cấp
1
39
12
12/12
20
12
6
1
17
17
25
24
Năm 2016
2
49
14
12/12
28
2
10
12
29
35
35
9
Năm 2017
3
49
14
12/12
28
2
10
12
29
35
35
9
Năm 2018
4
48
14
12/12
24
10
2
10
10
25
36
36
Năm 2019
(Nguồn: Phòng Tư pháp, Phòng Nội vụ huyện Kim Sơn)
Phụ lục số 03
KẾT QUẢ ĐĂNG KÝ HỘ TỊCH TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN
(Từ năm 2016 - 2019)
Đơn vị tính: Trường hợp
Số lƣợng đăng ký
TT
Nội dung đăng ký
Năm 2016 Quá hạn
Năm 2018 Quá hạn
1
Đăng ký khai sinh
Đúng hạn 3.657
251
Đăng ký lại 1.189
Đúng hạn 3.571
Năm 2017 Quá hạn 228
Đăng ký lại 1.503
Đúng hạn 2.948
Năm 2019 Quá hạn 221
Đúng hạn 3.656
Đăng ký lại 1.106
Đăng ký lại 1.198
230
2
Đăng ký khai tử
792
101
87
14
861
75
14
786
23
870
79
33
3
1.527
26
1.199
37
1.361
58
1.218
61
4
6
8 33
7 22
7
Đăng ký kết hôn Đăng ký việc nuôi con nuôi Thay đổi hộ tịch Cải chính hộ tịch
168
196
8 Bổ sung hộ tịch
6 15 53 2
5
6 27 62 15
4
9
10
Xác định lại dân tộc Nhận cha, mẹ con
2 8
1 4
11
Giám hộ
17 11
17 12
12
12
21
11
18
Ghi vào sổ các thay đổi hộ tịch khác
13
1.655
960
1.564
1.567
Cấp giấy xác nhận tình trạng hôn nhân
(Nguồn Phòng Tƣ pháp huyện Kim Sơn)
Phụ lục số 04
SỐ LƢỢNG CÔNG CHỨC TƢ PHÁP - HỘ TỊCH
CÒN THIẾU THEO LOẠI XÃ
Tên xã
(Tính đến tháng 12/2019)
Stt
Loại xã
Diện tích (Km2)
Dân số (Ngƣời)
Số công chức còn thiếu theo xã
Tổng số công chức tƣ pháp - hộ tịch (Ngƣời) 1
Xuân Thiện
3,79
3
1
2.636
Chính Tâm
3,16
3
1
2
3.052
Chất Bình
5,92
2
2
3
5.661
Hồi Ninh
5,74
2
2
4
5.636
Kim Định
4,9
2
2
5
5.981
Ân Hòa
7,35
2
2
6
7.846
Hùng Tiến
5,36
2
2
7
5.993
Như Hòa
5,19
2
2
8
5.660
Quang Thiện
8,09
2
2
9
9.347
Đồng Hướng
6,77
2
1
1
10
8.697
Yên Mật
2,23
3
1
11
2.166
Kim Chính
7,23
2
1
1
12
8.555
Thượng Kiệm
6,83
2
2
13
6.914
Phát Diệm
1,05
2
2
14
9.768
Lưu Phương
6,47
2
2
15
7.747
Tân Thành
4,45
3
1
16
4.905
Yên Lộc
7,12
2
2
Lai Thành
10,49
8.797 12.963
2
1
17 18
1
19
Định Hóa Văn Hải
6,64 6,64
7.442
2 2
2 2
20
Kim Mỹ
8,49
1
2
1
21
8.502 11.213
Cồn Thoi
8,31
1
3
22
9.051
Bình Minh
9,11
3
1
23
4.193
Kim Tân
8,16
2
2
24
7.006
Kim Hải
5,76
1
2
1
25
4.023
Kim Trung
4,47
1
3
26
4.585
Kim Đông
6,52
1
2
1
27
Tổng cộng
166,24
48
7
4.983 183.322
(Nguồn Phòng Tƣ pháp, Phòng Nội vụ huyện Kim Sơn)