VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
N G Ô T H
Ị T H U H À
NGÔ THỊ THU HÀ
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ PHÒNG, CHỐNG MA TÚY TỪ THỰC TIỄN
THỊ XÃ BUÔN HỒ, TỈNH ĐĂK LĂK
Í
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH
N G À N H L U Ậ T H I Ế N P H Á P V À H À N H C H N H
Đ Ợ T 1 N Ă M 2 0 1 9
Đăk Lăk, 2021
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGÔ THỊ THU HÀ
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ PHÒNG, CHỐNG MA TÚY TỪ THỰC TIỄN
THỊ XÃ BUÔN HỒ, TỈNH ĐẮK LẮK
Ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số: 8.38.01.02
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
GS.TS. VÕ KHÁNH VINH
Đăk Lăk, 2021
Đăk Lăk, 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng
tôi và được sự hướng dẫn khoa học của GS.TS Võ Khánh Vinh. Các số liệu sử
dụng phân tích trong luận văn có nguồn gốc rõ ràng, đã công bố theo đúng quy
định. Các kết quả nghiên cứu trong luận văn do tôi tự tìm hiểu, phân tích một cách
trung thực, khách quan và phù hợp với thực tiễn của Việt Nam. Các kết quả này
chưa từng được công bố trong bất kỳ nghiên cứu nào khác. Tôi xin cam đoan và
chịu trách nhiệm về nội dung luận văn của mình.
Tác giả
Ngô Thị Thu Hà
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................................................... 1
Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ
PHÒNG CHỐNG MA TÚY ................................................................................................. 6
1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của quản lý nhà nước về phòng, chống ma túy ..... 6
1.2. Mục đích, nguyên tắc, nội dung quản lý nhà nước về phòng, chống ma túy ..... 10
1.3. Các hình thức quản lý nhà nước về phòng, chống ma túy .................................... 18
1.4. Những nhân tố ảnh hưởng đến quản lý nhà nước về phòng, chống ma túy ...... 22
Tiểu kết chương 1 .................................................................................................................. 29
Chương 2 THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ PHÒNG, CHỐNG MA
TÚY TRÊN ĐỊA BÀN THỊ XÃ BUÔN HỒ, TỈNH ĐẮK LẮK ................................. 30
2.1. Thực trạng tệ nạn ma túy trên địa bàn thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk ............. 30
2.2. Thực trạng quản lý nhà nước về phòng, chống ma túy trên địa bàn thị xã Buôn
Hồ, tỉnh Đắk Lắk ................................................................................................................... 36
2.3. Những hạn chế, nguyên nhân và kết quả đạt được trong công tác quản lý nhà
nước về phòng, chống ma túy ............................................................................................. 47
Tiểu kết chương 2 .................................................................................................................. 51
Chương 3 PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG QUẢN LÝ NHÀ
NƯỚC VỀ PHÒNG, CHỐNG MA TÚY TRÊN ĐỊA BÀN THỊ XÃ BUÔN HỒ,
TỈNH ĐẮK LẮK ................................................................................................................... 53
3.1. Dự báo tình hình ma túy ở thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk ................................... 53
3.2. Định hướng, quan điểm, chủ trương phòng, chống ma túy trên địa bàn thị xã
Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk ........................................................................................................ 59
3.3. Các giải pháp tăng cường quản lý nhà nước về phòng, chống ma túy trên địa
bàn thị xã thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk ......................................................................... 61
Tiểu kết chương 3 .................................................................................................................. 74
KẾT LUẬN ............................................................................................................................ 76
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................... 78
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
CAND : Công an nhân dân
HĐND : Hội đồng nhân dân.
UBND : Uỷ ban nhân dân.
XHCN : Xã hội chủ nghĩa
CNXH : Chủ nghĩa xã hội
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1. Số liệu đối tượng đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc – Nguồn Công an
thị xã Buôn Hồ.
Bảng 2.2. Số liệu các vụ án đã khởi tố – Nguồn Công an thị xã Buôn Hồ.
Bảng 2.3. Số liệu các buổi tuyên truyền, mitting – Nguồn Công an thị xã Buôn Hồ.
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tình hình hoạt động của các loại tội phạm ở trên thế giới nói chung và ở Việt
Nam có chiều hướng gia tăng. Theo đó tội phạm về ma túy ở nước ta cũng gia tăng
và diễn biến hết sức phức tạp. Tội phạm ma túy gắn kết với tội phạm rửa tiền, buôn
bán vũ khí, buôn bán người,… gây ra những hậu quả nghiêm trọng về kinh tế, bất
ổn về an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội. Tình trạng người nghiện và sử dụng
đồng thời nhiều loại chất ma túy ngày càng phổ biến. Tình trạng lợi dụng các quán
bar, vũ trường, nhà nghỉ để mua bán, sử dụng trái phép chất ma túy tổng hợp ở các
thành phố lớn. Hiện tượng trẻ vị thành niên, học sinh, sinh viên sử dụng các chất
gây nghiện, ma túy như Cỏ mỹ, nước vui, bóng cười tại các tụ điểm vui chơi như:
Bar, karaoke, vũ trường dưới hình thức tiệc sinh nhật, lễ hội âm nhạc, giải trí tiếp
tục diễn ra cũng khá phức tạp, khó kiểm soát và gây bức xúc, lo lắng trong nhân
dân. Song một số quy định của Luật Phòng, chống ma túy và các văn bản quy định
chi tiết hướng dẫn thi hành không đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất với quy định
của một số luật được Quốc hội thông qua sau thời điểm Luật Phòng, chống ma túy
có hiệu lực, như Luật Phòng, chống HIV/AIDS, Luật Xử lý vi phạm hành chính…
Vì vậy, đấu tranh phòng, chống ma túy là một trong những nhiệm vụ quan trọng
hàng đầu không chỉ của mỗi quốc gia, dân tộc mà còn là nhiệm vụ cao cả của cộng
đồng quốc tế. Nhận thức được ý nghĩa quan trọng của công tác này, những năm qua
Đảng và Nhà nước ta đã đề ra nhiều chủ trương, chính sách pháp luật về phòng,
chống ma tuý. Đối với địa bàn thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk đã và đang đẩy mạnh
công tác phòng, chống và kiểm soát tội phạm và tệ nạn ma túy, qua đó góp phần
thực hiện tốt công tác quản lý nhà nước về phòng, chống ma túy trên địa bàn thị xã
Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk. Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác quản lý nhà
nước về phòng, chống ma túy trên địa bàn vẫn còn một số hạn, chế, tồn tại. Để có
phương hướng và giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước về phòng, chống ma túy
trong điều kiện hiện nay trên thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk. Chính vì vậy, tác giả
1
chọn đề tài “Quản lý nhà nước về phòng, chống ma túy trên địa bàn thị xã Buôn Hồ,
tỉnh Đắk Lắk” để nghiên cứu và viết luận văn thạc sĩ chuyên ngành.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Quá trình nghiên cứu liên quan đến đề tài này, tác giả thấy gần đây có một số
công trình và đề tài như sau:
- Đề tài nghiên cứu khoa học cấp nhà nước “Luận cứ khoa học cho những
giải pháp nâng cao hiệu quả phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm về ma túy” của
Giáo sư, Tiến sỹ Nguyễn Phùng Hồng, Tạp chí CAND và Đại tá Vũ Hùng Vương,
Cục Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy năm 2001. Đề tài tập trung đi sâu, phân
tích làm rõ thực trạng công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm về ma túy, nguyên
nhân của những tồn tại, hạn chế, từ đó phân tích làm rõ những luận cứ khoa học
cho các giải pháp mà tác giả nghiên cứu và đưa ra.
- Công trình “Một số vấn đề về xây dựng thế trận phòng, chống tội phạm về
ma túy của lực lượng Cảnh sát Điều tra Tội phạm về ma túy” của Đại tá Vũ Hùng
Vương, Nhà xuất bản CAND, Hà Nội, năm 2000. Công trình đã trình bày cơ sở
khoa học để xây dựng thế trận phòng, chống tội phạm về ma túy của lực lượng
Công an nhân dân, đưa ra khái niệm về thế trận phòng chống tội phạm ma túy, cơ
sở lý luận để xây dựng thế trận phòng, chống tội phạm ma túy của lực lượng Công
an nhân dân.
- Cuốn sách “Tội phạm về ma túy, thực trạng, nguyên nhân và các giải pháp
phòng ngừa” của Tiến sỹ Vũ Quang Vinh, Nhà xuất bản Thanh niên, Hà Nội năm
2005.
- Đề tài luận văn thạc sĩ “Quản lý nhà nước về phòng, chống ma túy trên địa
bàn tỉnh Phú Yên” của tác giả Nguyễn Thị Mai Anh.
Tuy nhiên, qua nghiên cứu, khảo sát thì ở địa bàn tỉnh Đắk Lăk chưa có một
công trình khoa học nào nghiên cứu một cách toàn diện, có hệ thống công tác quản
lý nhà nước về phòng, chống ma túy.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
2
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận quản lý nhà nước về phòng, chống ma túy, phân
tích, đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về phòng, chống ma túy trên địa bàn thị
xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk, đề xuất những phương hướng và giải pháp hoàn thiện
quản lý nhà nước về phòng, chống ma túy trên địa bàn.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để phân phân tích, đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về phòng, chống ma
túy trên địa bàn thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk và đề ra phương hướng và giải pháp
hoàn thiện quản lý nhà nước về phòng, chống ma túy trên địa bàn, luận văn tập
trung giải quyết các vấn đề:
- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận của quản lý nhà nước về phòng, chống
ma túy.
- Đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về phòng, chống ma túy tại thị xã
Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk
- Đề ra phương hướng, giải pháp tăng cường quản lý nhà nước về phòng,
chống ma túy tại thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Lĩnh vực quản lý nhà nước về phòng, chống ma túy là rất rộng. Vì vậy, Luận
văn tập trung nghiên cứu nội dung, hình thức và phương pháp quản lý nhà nước về
phòng, chống ma túy của các cơ quan có chức năng, có thẩm quyền và những yếu
tố tác động đến quản lý nhà nước về phòng, chống ma túy ở thị xã Buôn Hồ, tỉnh
Đắk Lắk.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi nội dung: Những vấn đề lý luận và thực tiễn trong việc quản lý Nhà
nước về phòng chống ma túy.
- Phạm vi không gian: Thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk.
- Phạm vi thời gian: Từ năm 2017 đến năm 2020.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
3
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phép biện chứng duy vật của Chủ nghĩa
Mác - Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh; lý luận khoa học luật, khoa học điều tra
hình sự, tâm lý và tội phạm học; các quan điểm đường lối chính sách của Đảng,
Nhà nước về đấu tranh phòng, chống ma túy.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được tiến hành trên cơ sở sử dụng phối hợp các phương pháp nghiên
cứu cụ thể sau đây:
- Phương pháp nghiên cứu lý thuyết: Nghiên cứu tài liệu, sách, các tạp chí,
các thông tin khoa học về kết quả nghiên cứu có liên quan đến đề tài đã được công
bố trên các ấn phẩm và các báo cáo khoa học; các văn bản chủ yếu về chủ trương,
chính sách của Đảng, pháp luật nhà nước về đổi mới công tác đấu tranh đối với tệ
nạn ma túy và quản lý nhà nước về phòng, chống ma túy để tiếp thu có chọn lọc các
thành quả nghiên cứu trước đó về những vấn đề có liên quan đến đề tài.
- Phương pháp thống kê: Sử dụng các số liệu thống kê thu thập được và trong
các báo cáo.
- Phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp: Phân tích, tổng hợp những dữ
liệu thu thập được làm cơ sở lý luận cho nghiên cứu đề tài luận văn, từ đó xây dựng
cách tiếp cận toàn diện, khách quan những nội dung nghiên cứu; Khảo sát và phân
tích tài liệu thu thập được nhằm phát hiện những vấn đề trong phòng, chống ma túy
để tìm giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước đối với tệ nạn này trên địa bàn thị xã
Buôn Hồ, tỉnh Đăk Lắk.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa quan trọng đối với xây dựng cơ chế,
chính sách, lựa chọn phương thức quản lý phù hợp nhằm hoàn thiện quản lý nhà
nước về phòng, chống ma túy trên địa bàn thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đăk Lắk trong thời
kỳ mới
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Trên cơ sở tổng hợp, hệ thống hóa các văn bản pháp luật về phòng, chống ma
4
túy và các số liệu nghiên cứu từ thực tiễn, luận văn chỉ ra những ưu điểm, bất cập,
hạn chế của quản lý nhà nước về phòng, chống ma túy và những nguyên nhân làm
hạn chế trong lĩnh vực này để đề xuất các giải pháp phù hợp.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn gồm phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo; nội dung
của luận văn được kết cấu thành 3 chương như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận của quản lý nhà nước về phòng, chống ma túy.
Chương 2: Thực trạng quản lý nhà nước về phòng, chống ma túy trên địa bàn
thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk.
Chương 3: Phương hướng và giải pháp tăng cường quản lý nhà nước về
phòng, chống ma túy từ thực tiễn thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk.
5
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA QUẢN LÝ
NHÀ NƯỚC VỀ PHÒNG CHỐNG MA TÚY
1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của quản lý nhà nước về phòng, chống
ma túy
1.1.1. Khái niệm quản lý nhà nước về phòng, chống ma túy
Theo gốc Hán - Việt ma túy có nghĩa là “ làm mê mẩn”. Chất ma túy lúc đầu
dùng để chỉ các chất có tác dụng gây ngủ, gây mê, sau này khi khoa học phát triển
con người tổng hợp được các chất tự nhiên có khả năng gây nghiện thì chất ma túy
được hiểu là những chất có tính gây nghiện, có khả năng bị lạm dụng. Hay ma túy
là một chất được dẫn xuất từ moocphin, khi hút hay uống hoặc tiêm người ta cảm
giác thấy thần kinh tê liệt, lạm dụng sẽ rất nguy hiểm.
Theo quan điểm của tổ chức Y tế thế giới (WHO) ma túy là bất cứ chất nào
khi đưa vào cơ thể con người có tác dụng làm thay đổi một số chức năng của cơ thể.
Hiện nay theo quan điểm của Liên Hợp Quốc ma túy là những chất có nguồn gốc tự
nhiên hoặc tổng hợp. Khi xâm nhập vào cơ thể con người có tác dụng làm thay đổi
ý thức và trí tuệ, làm cho con người lệ thuộc vào nó. Theo tinh thần của các Công
ước thì chất ma túy gồm có các chất gây nghiện và chất hướng thần, ở nước ta gọi
chung là các chất này là chất ma túy hoặc ngắn gọn hơn nữa là ma túy.
Ngày 27/6/1985, Quốc Hội Việt Nam thông qua Bộ luật hình sự đầu tiên của
nước Cộng hòa XHCN Việt Nam trong đó chỉ có một điều luật trực tiếp quy định
đối tượng tác động của tội phạm là ma túy, đó là Điều 203 “tội tổ chức dùng chất
ma túy” [19]. Và lần đầu tiên khái niệm chất ma túy được Luật Phòng chống ma túy
2000 quy định, chất ma túy là các chất gây nghiện, chất hướng thần được quy định
trong các danh mục do Chính phủ ban hành. Từ các quy định của Liên Hợp Quốc và
pháp luật Việt Nam chúng ta có thể hiểu ma túy là các chất có nguổn gốc tự nhiên
hoặc tổng hợp, khi được đưa vào cơ thể con người nó có tác dụng làm thay đổi
trạng thái ý thức và sinh lý của con người. Nếu lạm dụng ma túy con người sẽ lệ
thuộc vào nó. Khi đó gây tổn thương và nguy hại cho người sử dụng và cộng đồng.
6
Như vậy qua đó ta có thể thấy được đặc tính nguy hiểm của chất ma túy và
chất hướng thần thể hiện ở khả năng gây nghiện cho người sử dụng các chất này.
Con người chỉ cần sử dụng một vài lần chất ma túy hoặc chất hướng thần sẽ có nhu
cầu được cung cấp thường xuyên và với liều lượng ngày càng cao hơn. Sự lệ thuộc
ngày càng lớn vào chất ma túy hoặc hướng thần chính là tác hại gây nghiện của chất
ma túy, chất hướng thần đối với người dùng các chất đó. Để thỏa mãn cơn nghiện
vốn đòi hỏi số lần dùng và số liều dùng ngày càng cao họ có thể làm bất cử điều gì
kể cả phạm tội để có tiền mua ma túy thỏa mãn cơn nghiện.
Nhà nước là chủ thể độc quyền và thống nhất quản lí chất ma túy là loại chất
gây nghiện nguy hiểm với những quy định rất nghiêm ngặt. Điều I Nghị định số
67/2001/NĐ-CP, ngày 01/10/2001 đã quy định: “Các chất ma tuý rất độc, tuyệt đối
cấm sử dụng; việc sử dụng các chất này trong phân tích, kiểm nghiệm, nghiên cứu
khoa học, điều tra tội phạm theo quy định đặc biệt của cơ quan có thẩm quyền” [7].
Vi phạm các quy dịnh về chế độ quản lí các chất ma túy không chỉ gây khó khăn
cho việc kiểm soát chất ma túy của Nhà nước mà còn góp phần tạo ra một lớp người
nghiện, qua đó đe dọa đến an toàn, trật tự công cộng, sức khỏe và sự phát triển lành
mạnh của nòi giống cũng như ảnh hưởng xấu đến nhiều mặt của đời sống xã hội.
Do tác hại lâu dài và nhiều mặt của hành vi vi phạm chế dộ quản lý chất ma túy như
vậy nên mọi hành vi vi phạm các quy định về chế độ quản lý chất ma túy đều bị xử
lý theo quy định.
1.1.2. Đặc điểm quản lý nhà nước về phòng, chống ma túy
Quản lý nhà nước xuất hiện cùng với sự xuất hiện của Nhà nước. Quản lý nhà
nước thay đổi phụ thuộc vào chế độ chính trị, trình độ phát triển kinh tế - xã hội của
mỗi quốc gia qua các giai đoạn lịch sử. Ngày nay quản lý nhà nước bao gồm hoạt
động lập pháp của cơ quan lập pháp, hoạt động hành pháp của Chính phủ và hoạt
động tư pháp của cơ quan tư pháp. Có thể hiểu quản lý nhà nước là một dạng quản
lý xã hội đặc biệt, mang tính quyền lực nhà nước và sử dụng pháp luật nhà nước để
điều chỉnh các hành vi của con người trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội do
7
các cơ quan trong bộ máy nhà nước thực hiện, nhằm thỏa mãn nhu cầu hợp pháp
của con người, duy trì sự ổn định và phát triển của xã hội.
Quản lý nhà nước là sự tác động có tổ chức và điều chỉnh bằng quyền lực Nhà
nước đối với các quá trình xã hội và hành vi hoạt động của con người để duy trì trật
tự và đảm bảo sự phát triển của xã hội theo một định hướng thống nhất. Quản lý nhà
nước về đấu tranh phòng, chống tội phạm ma túy là hoạt động chấp hành và điều
hành của các cơ quan nhà nước hoặc các tổ chức xã hội do nhà nước ủy quyền,
được tiến hành trên cơ sở pháp luật, để thi hành pháp luật nhằm thực hiện các chức
năng quản lý nhà nước trong lĩnh vực phòng, chống tội phạm ma túy.
Quản lý Nhà nước Việt Nam về phòng, chống ma túy có những đặc điểm chủ
yếu sau:
- Quản lý hành chính nhà nước về phòng, chống ma túy mang tính quyền lực
nhà nước. Các chủ thể phải nghiêm chỉnh chấp hành, nếu có vi phạm sẽ bị xử lý
theo quy định của pháp luật.
- Quản lý hành chính nhà nước về phòng, chống ma túy có mục tiêu chiến
lược, có chương trình, kế hoạch để thực hiện mục tiêu.
- Quản lý hành chính nhà nước về phòng, chống ma túy có tính chủ động, sáng
tạo và linh hoạt.
- Quản lý hành chính nhà nước về phòng, chống ma túy có tính liên tục, tương
đối ổn định và thích ứng.
- Quản lý hành chính nhà nước về phòng, chống ma túy có tính chuyên môn
hóa và nghề nghiệp cao.
- Quản lý hành chính nhà nước về phòng, chống ma túy có tính hệ thống thứ
bậc chặt chẽ.
- Quản lý hành chính nhà nước về phòng, chống ma túy ở nước ta không có sự
tách biệt tuyệt đối giữa người quản lý và người bị quản lý.
- Quản lý hành chính nhà nước về phòng, chống ma túy không vì lợi nhuận.
8
- Quản lý hành chính nhà nước về phòng, chống ma túy mang tính nhân
đạo. Quản lý nhà nước về phòng, chống ma túy là hoạt động không thể thiếu của bất
kỳ quốc gia nào, với tình hình kinh tế và hội nhập hiện nay.
- Quản lý hành chính nhà nước về phòng, chống ma túy mang tính quyết định
trong việc thực hiện thành công các kế hoạch phát triển của cả đất nước.
1.1.3. Vai trò quản lý nhà nước về phòng, chống ma túy
Quản lý nhà nước về phòng, chống tội phạm ma túy là một nhiệm vụ trọng
yếu trong quản lý nhà nước về trật tự an toàn xã hội. Quản lý nhà nước về đấu tranh
phòng, chống tội phạm ma túy, như đã phân tích, là một bộ phận trong quản lý nhà
nước về an ninh, trật tự, vì vậy, mục đích của công tác này cũng phải được định
hướng và nhằm góp phần thực hiện mục đích chung. Theo đó, mục đích cuối cùng
của quản lý nhà nước về đấu tranh phòng, chống tội phạm ma túy là bảo vệ vững
chắc nền an ninh trật tự của Tổ quốc, bảo đảm sự ổn định và bình yên của xã hội,
thực hiện thắng lợi mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, dân giàu, nước
mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. Mục tiêu cụ thể của quản lý nhà nước
về đấu tranh phòng, chống tội phạm ma túy là nhằm thực hiện tốt các nhiệm vụ bảo
vệ an toàn các cơ quan nhà nước, các tổ chức, bảo vệ trật tự pháp luật và các kỷ
cương xã hội, đấu tranh có hiệu quả đối với tình trạng phạm tội, với các vi phạm
pháp luật và các loại tệ nạn xã hội, giữ cho xã hội luôn luôn ở trong trạng thái bình
yên, trật tự, nề nếp, kỷ cương... Thực tiễn chứng minh rằng, nếu như quản lý trên
lĩnh vực an ninh chính trị nhằm đảm bảo thực hiện nhiệm vụ bảo vệ vững chắc Tổ
quốc Việt Nam, bảo vệ chế độ chính trị, bảo vệ nhà nước XHCN, kịp thời phát hiện
và dập tắt mọi âm mưu, hoạt động của các thế lực thù địch chống phá CNXH,
chống phá cách mạng Việt Nam, thì quản lý nhà nước về đấu tranh phòng, chống tội
phạm, bảo đảm trật tự an toàn xã hội giành ưu tiên cho mục tiêu đảm bảo cho các
quá trình xã hội, các hoạt động trong đời sống xã hội, đời sống cá nhân trong cộng
đồng...được diễn ra một cách bình thường, an toàn... trên cơ sở tôn trọng và tuân thủ
các quy định của pháp luật và các quy tắc của lối sống, đạo đức XHCN. Giữa an
ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội có mối quan hệ mật thiết, gắn bó với nhau.
9
An ninh quốc gia được bảo vệ vững chắc mới tạo điều kiện cơ bản thuận lợi để
bảo vệ tốt trật tự an toàn xã hội. Ngược lại, trật tự an toàn xã hội được giữ vững sẽ
góp phần tích cực vào việc bảo vệ vững chắc an ninh quốc gia, tăng cường lòng
tin của quần chúng vào Đảng, nhà nước, vào chế độ XHCN. Cần nhấn mạnh rằng:
Nếu tình hình trật tự an toàn xã hội diễn biến phức tạp, nghiêm trọng kéo dài,
không kiểm soát được sẽ gây ảnh hưởng rất xấu, thậm chí chuyển hóa thành vấn
đề chống đối chính trị, điều đó rõ ràng tác động tiêu cực đến an ninh quốc gia. Do
đó, vai trò quản lý nhà nước về đấu tranh phòng, chống tội phạm ma túy có ý
nghĩa đặc biệt quan trọng đối với đảm bảo an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự an toàn
xã hội của đất nước.
1.2. Mục đích, nguyên tắc, nội dung quản lý nhà nước về phòng, chống
ma túy
1.2.1. Mục đích của quản lý nhà nước về phòng, chống ma túy
Mục đích Đảng Cộng sản Việt Nam là người lãnh đạo trực tiếp, toàn diện,
tuyệt đối sự nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia và giữ gìn trật tự an toàn xã hội, vì vậy,
Nghị quyết của Đảng là định hướng cho việc xác định mục đích công tác quản lý
nhà nước trên mọi lĩnh vực trong giai đoạn hiện nay, trong đó có quản lý nhà nước
về đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung và tội phạm ma túy nói riêng. Cụ
thể, trong các lĩnh vực chủ yếu của đời sống, công tác quản lý nhà nước về đấu
tranh phòng, chống ma túy và tệ nạn ma túy hiện nay có mục đích như sau:
Về chính trị: Giữ vững sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự vững
chắc của chế độ chính trị XHCN và tăng cường hiệu lực quản lý của nhà nước đối
với lĩnh vực đấu tranh phòng, chống ma túy;
Về kinh tế - xã hội: Đảm bảo sự ổn định và phát triển các thành phần kinh tế -
xã hội theo định hướng XHCN, phòng ngừa, ngăn chặn và đấu tranh với những hoạt
động tội phạm và những vi phạm pháp luật trên lĩnh vực kinh tế.
Về tư tưởng văn hóa: Bảo vệ chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
cùng những giá trị trong truyền thống và bản sắc dân tộc, phát hiện kịp thời và có
10
những biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn, đấu tranh với hoạt động tội phạm, tệ nạn
xã hội và những vi phạm pháp luật trên lĩnh vực này.
Về đối ngoại: Góp phần tích cực trong thực hiện chính sách đối ngoại độc lập,
tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan
hệ, chủ động và tích cực hội nhập, hợp tác quốc tế, tôn trọng độc lập, chủ quyền và
toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng, cùng
có lợi của Đảng, củng cố và nâng cao vị thế của Việt Nam trên thế giới.
Về an ninh, quốc phòng: Xây dựng vững chắc nền an ninh nhân dân và thế
trận an ninh nhân dân gắn với nền quốc phòng toàn dân và thế trận quốc phòng toàn
dân. Xây dựng lực lượng CAND và Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy tinh
nhuệ, từng bước hiện đại; ưu tiên hiện đại hóa một số quân chủng, binh chủng, lực
lượng; đảm bảo số lượng hợp lý, có sức chiến đấu cao, hoàn thành tốt nhiệm vụ.
Nguyên tắc Đảng lãnh đạo toàn diện, tuyệt đối, trực tiếp, đây là nguyên tắc cơ
bản nhất, quan trọng nhất, chủ đạo và chi phối các nguyên tắc khác. Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã khẳng định, đấu tranh bảo vệ an ninh trật tự là nhiệm vụ nặng nề, gian
khổ, âm thầm, nhưng rất quan trọng, quan hệ trực tiếp đến vận mệnh của toàn dân,
đến sự mất còn của dân tộc. Một sự nghiệp như vậy phải đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt
đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng. Nếu thoát ly đường lối chính trị của Đảng thì
không đạt được kết quả. Trong Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương
Đảng tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã chỉ rõ: “Bảo đảm sự
lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với Quân đội nhân dân và
CAND; nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về quốc phòng, an ninh” [Đảng Cộng
sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI. Nxb Chính trị quốc
gia. Hà Nội - 2011, tr. 235]. Tại Đại hội lần thứ XII, Đảng Cộng sản Việt Nam
khẳng định: "Tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự
quản lý tập trung, thống nhất của Nhà nước đối với Quân đội nhân dân, CAND và
sự nghiệp bảo vệ an ninh Tổ quốc" [Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ XII. Văn phòng Trung ương Đảng. Hà Nội 2016, tr. 150].
Trong quá trình lãnh đạo công tác quản lý nhà nước về đấu tranh phòng, chống ma
11
túy, các cấp ủy Đảng cần phân định rõ chức năng lãnh đạo của mình với chức năng
quản lý của cơ quan nhà nước, không được biến các tổ chức Đảng thành các cơ
quan hành chính, bao biện làm thay, nhưng cũng không khoán trắng cho chính
quyền, cho các cơ quan chuyên môn. Đảng lãnh đạo bằng đường lối, chính sách,
bằng công tác cán bộ và công tác tổ chức, bằng công tác vận động quần chúng và
công tác giám sát, kiểm tra hoạt động quản lý nhà nước trên lĩnh vực này.
1.2.2. Nguyên tắc của quản lý nhà nước về phòng, chống ma túy
Quá trình quản lý nhà nước về đấu tranh phòng, chống ma túy đòi hỏi các chủ
thể phải dựa trên cơ sở hệ thống văn bản pháp luật nhà nước. Pháp luật thể chế hóa
đường lối, chủ trương của Đảng, thể hiện ý chí của nhân dân. Do vậy, tăng cường
pháp chế trong quản lý nhà nước về đấu tranh phòng, chống ma túy là hết sức quan
trọng và là nguyên tắc bắt buộc. Trong hoạt động quản lý, không cho phép các chủ
thể thực hiện một cách chủ quan, tùy tiện mà phải làm theo đúng pháp luật. Dựa vào
pháp luật, cơ quan nhà nước mới có thể tiến hành giải quyết những vụ việc phức tạp
xảy ra, phát hiện và xử lý người có hành vi phạm tội, vi phạm pháp luật một cách
chính xác, nghiêm minh.
Nguyên tắc pháp chế XHCN trong quản lý nhà nước về đấu tranh phòng,
chống ma túy đòi hỏi quá trình xây dựng các văn bản pháp luật về đấu tranh phòng,
chống ma túy phải kịp thời, thống nhất và ổn định tương đối, đáp ứng được yêu cầu
của công tác bảo vệ an ninh trật tự đặt ra. Mặt khác, nguyên tắc này cũng đòi hỏi
cần phải hoàn chỉnh hệ thống pháp luật, tổ chức tuyên truyền phổ biến, giáo dục ý
thức pháp luật cho công dân, phát hiện kịp thời và xử lý nghiêm minh các hành vi vi
phạm pháp luật.
Nguyên tắc kết hợp quản lý theo ngành và theo lãnh thổ. Đây là một nguyên
tắc rất cần thiết và mang tính tất yếu khách quan xuất phát từ đặc điểm quản lý Nhà
nước về đấu tranh phòng, chống tội phạm ma túy, từ mô hình tổ chức và thực tiễn
hoạt động quản lý nhà nước về đấu tranh phòng, chống tội phạm ma túy của lực
lượng CAND. Ở Trung ương, Bộ Công an thực hiện chức năng quản lý nhà nước về
đấu tranh phòng, chống ma túy trên phạm vi cả nước. Ngoài việc xây dựng các
12
chiến lược, kế hoạch quản lý tầm vĩ mô, các lực lượng thuộc Bộ Công an còn phải
trực tiếp tiến hành các hoạt động quản lý, đấu tranh phòng, chống các thế lực thù
địch, hoạt động tội phạm, những hành vi vi phạm pháp luật. Công an các cấp được
tổ chức theo nguyên tắc song trùng trực thuộc: vừa chịu sự lãnh đạo của các cấp ủy
Đảng, chính quyền cùng cấp, vừa chịu sự chỉ đạo về chuyên môn nghiệp vụ của
Công an cấp trên. Xuất phát từ tính chất, đặc điểm, đặc trưng về chuyên môn nghiệp
vụ của công tác Công an, cũng như từ nguyên tắc song trùng, nên trong quản lý nhà
nước về đấu tranh phòng, chống tội phạm ma túy cần phải quán triệt nguyên tắc kết
hợp quản lý theo ngành kết hợp với quản lý theo lãnh thổ, trong đó quản lý theo
ngành là chủ yếu.
1.2.3. Nội dung quản lý nhà nước về phòng, chống ma túy
Khái niệm “quản lý” là một hoạt động có từ lâu đời trong xã hội. Nói đến hoạt
động quản lý trong xã hội là trực tiếp đề cập đến sự tác động, chỉ huy, điểu khiển
các quá trình xã hội và hành vi hoạt động của con người phát triển phù hợp với quy
luật, đạt tới mục đích đề ra và đúng với ý chí của chủ thể quản lý. Quản lý là sự tác
động có mục đích của chủ thể quản lý đối với đối tượng quản lý bằng các phương
pháp nhất định nhằm đạt được mục tiêu đã đề ra của nhà quản lý. Chủ thể quản lý là
những cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền; đối tượng quản lý là các quá trình
xã hội và hành vi của con người có liên quan. Trong hoạt động quản lý xã hội, có
rất nhiều chủ thể tham gia: các đảng phái chính trị, nhà nước, các tổ chức chính trị -
xã hội, các hội nghề nghiệp,...trong đó nhà nước giữ vai trò quan trọng. Nhà nước là
trung tâm của hệ thống chính trị, là công cụ quan trọng nhất để quản lý xã hội, bảo
đảm trật tự xã hội và thúc đẩy xã hội phát triển. Quản lý nhà nước là một dạng của
quản lý xã hội nhưng là dạng quản lý xã hội đặc biệt, xuất hiện và tồn tại cùng với
sự xuất hiện và tồn tại của nhà nước. Đó chính là hoạt động quản lý gắn liền với hệ
thống các cơ quan thực thi quyền lực nhà nước - bộ phận quan trọng của quyền lực
chính trị trong xã hội, có tính chất cưỡng chế đơn phương đối với xã hội. Trong
hoạt động quản lý xã hội, có rất nhiều chủ thể tham gia: Đảng phái chính trị, nhà
nước, các tổ chức chính trị - xã hội, các hội nghề nghiệp...trong đó nhà nước giữ vai
13
trò quan trọng. Quản lý nhà nước được hiểu trước hết là hoạt động của các cơ quan
nhà nước thực thi quyền lực nhà nước. Bằng quyền lực nhà nước đối với các quá
trình xã hội và hành vi hoạt động của con người, quản lý nhà nước tác động có tổ
chức, điều chỉnh để duy trì trật tự cũng như đảm bảo sự phát triển công dân, của xã
hội theo một định hướng thống nhất. Trên cơ sở pháp luật, quản lý nhà nước về đấu
tranh phòng, chống ma túy là hoạt động chấp hành và điều hành của các cơ quan
tiến hành tố tụng, UBND các cấp hoặc các tổ chức xã hội được nhà nước ủy quyền
để thực thi pháp luật hoặc tiến hành các biện pháp phòng, chống tệ nạn ma túy trong
toàn xã hội đảm bảo thực hiện chức năng quản lý nhà nước trong lĩnh vực này.
Quản lý nhà nước về phòng, chống ma túy là nhiệm vụ của toàn đảng, toàn dân,
trong đó nhà nước được giao nhiệm vụ trọng yếu trong công tác đấu tranh phòng,
chống ma túy góp phần quản lý nhà nước về trật tự an toàn xã hội được đảm bảo.
Nội dung quản lý nhà nước về phòng, chống ma túy bao gồm:
Xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược, chủ trương, chính sách, kế hoạch
về phòng, chống ma túy. Theo đó, Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về
phòng, chống ma túy. Bộ Công an chịu trách nhiệm trước Chính phủ chủ trì phối
hợp với các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ thực hiện việc thống
nhất quản lý nhà nước về phòng, chống ma túy. Các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan
thuộc Chính phủ trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm thực
hiện và phối hợp với các cơ quan hữu quan trong phòng, chống ma túy. UBND các
cấp thực hiện quản lý nhà nước về phòng, chống ma túy tại địa phương mình, tăng
cường sự lãnh đạo, chỉ đạo công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật.
Thường xuyên tổ chức phòng, chống ma túy trên địa bàn. Tăng cường công atc1
quản lý việc cai nghiện ma túy tại các cơ sở cai nghiện bắt buộc, tạo việc làm ổn
định để người sau cai nghiện tái hòa nhập cộng đồng.
Ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về phòng,
chống ma túy, sửa đổi, bổ sung, công bố danh mục chất ma túy, tiền chất, thuốc gây
nghiện, thuốc hướng thần. Bộ công an chủ trì việc ban hành và tổ chức thực hiện
quy chế quản lý chất ma túy và tiền chất phục vụ đấu tranh chống tội phạm về ma
14
túy; Cấp, thu hồi giấy phép hoạt động hợp pháp liên quan đến ma túy. Quyết định
thành lập, giải thể cơ sở cai nghiện ma túy bắt buộc. Cấp, thu hồi giấy phép hoạt
động của các cơ sở khác về cai nghiện ma túy. Tổ chức và quản lý việc cai nghiện
ma túy và hòa nhập cộng đồng cho người đã cai nghiện ma túy.
Tổ chức đấu tranh phòng, chống tội phạm về ma túy. Bộ công an chủ trì phối
hợp với các cơ quan nhà nước hữu quan trong việc đấu tranh phòng, chống tội phạm
về ma túy; tổ chức tiếp nhận và xử lý thông tin về tội phạm ma túy; tổ chức lực
lượng điều tra các tội phạm về ma túy, hướng dẫn các cơ quan khác tiến hành điều
tra ban đầu các tội phạm này theo quy định của pháp luật; Phối hợp với Bộ Lao
động - Thương binh và Xã hội chỉ đạo việc lập hồ sơ và tổ chức đưa người nghiện
ma túy vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, giữ gìn an ninh, trật tự tại các cơ sở cai
nghiện, kiểm tra hoạt động cai nghiện ma túy tại cộng đồng và trong các cơ sở cai
nghiện. Bộ quốc phòng phối hợp với cơ quan hữu quan của nước khác để phát hiện,
ngăn chặn các hành vi mua bán, vận chuyển trái phép chất ma túy, tiền chất, thuốc
gây nghiện, thuốc hướng thần qua biên giới. Bộ Tài chính có trách nhiệm chủ trì
phối hợp với bộ, ngành, chính quyền địa phương xây dựng dự toán kinh phí phòng,
chống ma túy trình cấp có thẩm quyền phê duyệt và triển khai thực hiện theo quy
định của pháp luật.
Tổ chức bộ máy, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ về phòng, chống ma túy và tội
phạm về ma túy: Trước yêu cầu đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chuyên
trách phòng, chống ma túy, Đảng, nhà nước ta cần xác định mục tiêu đào tạo cán bộ
làm công tác phòng, chống, ma túy không chỉ giỏi về chuyên môn, nghiệp vụ mà
còn vững về lập trường tư tưởng, bản lĩnh chiến đấu; quan tâm làm tốt công tác giáo
dục, định hướng nghề nghiệp cho học viên chuyên ngành, chú trọng đào tạo kỹ
năng điều tra theo hướng tăng cường thời lượng học tập các môn chuyên ngành; cần
tiếp tục phối hợp với các đơn vị địa phương, các lực lượng trực tiếp đấu tranh với
tội phạm về ma túy để giao lưu, trao đổi kinh nghiệm và gắn nhiệm vụ đào tạo với
thực tiễn công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm về ma túy; đào tạo, bồi dưỡng
lực lượng chuyên trách phòng, chống ma túy, kịp thời bổ sung hàng nghìn cán bộ có
15
trình độ cao trên mặt trận phòng, chống ma túy không chỉ cho ngành Công an mà
còn cho các lực lượng khác như: Biên phòng, Hải quan, Cảnh sát biển, y tế, các cơ
quan tư pháp. Nội dung, phương pháp đào tạo, bồi dưỡng luôn được quan tâm điều
chỉnh, bổ sung, cập nhật, chú trọng gắn đào tạo lý luận với thực tiễn chiến đấu của
lực lượng phòng, chống ma túy cũng như công tác xét xử trong tình hình mới.
Thực hiện thống kê nhà nước về phòng, chống ma túy: Bộ công an thực hiện
thống kê nhà nước về phòng, chống ma túy; quản lý thông tin về các tội phạm về
ma túy; Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội có trách nhiệm thống kê, đánh giá
tình hình cai nghiện ma túy, quản lý sau cai nghiện và giải quyết các vấn đề xã hội
sau cai nghiện.
Tổ chức nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ về phòng,
chống ma túy: Trong bối cảnh của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 các đối tượng
triệt để lợi dụng tài nguyên, không gian mạng để phạm tội về ma túy. Do vậy, khoa
học và công nghệ phải theo kịp sự phát triển của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0
để đấu tranh, ngăn chặn tội phạm ma túy lợi dụng hoạt động. Trước diễn biến phức
tạp của tình hình tội phạm ma túy, thủ đoạn hoạt động của tội phạm ma túy ngày
càng manh động, liều lĩnh, sẵn sàng chống trả lực lượng chức năng khi bị phát hiện,
truy bắt. Việc sử dụng các phương tiện kỹ thuật nghiệp vụ, công cụ hỗ trợ hiện đại
và bố trí đầu tư trang bị vũ khí, phương tiện, thiết bị kỹ thuật góp phần thực hiện vai
trò nòng cốt, chủ trì trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm; đầu tư trang
thiết bị cho Bộ y tế để kịp thời phát hiện chất ma túy, tiền chất ma túy mới đưa vào
danh mục chất ma túy, tiền chất, thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần của nhà nước.
Trong lĩnh vực điều trị và cai nghiện ma túy, với sự hỗ trợ của Cơ quan quản lý điều
trị các chất gây nghiện và sức khỏe tâm thần (SAMHSA) thuộc Bộ Y tế Mỹ, Trung
tâm chuyển giao công nghệ điều trị nghiện chất đã từng bước được thiết lập và đi
vào hoạt động tại Đại học Y Hà Nội, Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh và
Đại học Lao động - Xã hội, góp phần đào tạo và cung cấp những kiến thức mới nhất
của quốc tế trong lĩnh vực điều trị nghiện chất cho các cán bộ y tế và cán bộ xã hội
làm công tác này. Ngoài ra, trên cơ sở hợp tác giữa Việt Nam với các nước và cộng
16
đồng quốc tế, các cơ quan chức năng Việt Nam còn cử nhiều lượt cán bộ tham gia
các khóa đào tạo, tập huấn nghiệp vụ phòng, chống ma túy tại nước ngoài, qua đó
học tập, giao lưu và trao đổi kinh nghiệm trong công tác này. Tuy nhiên, so với thực
tế, công tác đào tạo lực lượng phòng, chống ma túy chưa đáp ứng yêu cầu.
Tổ chức tuyên truyền, giáo dục về phòng, chống ma túy: Bộ Giáo dục và Đào
tạo có trách nhiệm ban hành và tổ chức thực hiện chương trình giáo dục phòng,
chống ma túy; xây dựng, tổ chức thực hiện các dự án giáo dục phòng, chống ma túy
trong nhà trường, các cơ sở giáo dục khác; Bộ Thông tin và Truyền thông, Bộ Văn
hóa, Thể thao và Du lịch có trách nhiệm chỉ đạo, hướng dẫn các cơ quan hữu quan
thực hiện hoạt động thông tin, tuyên truyền, giáo dục về công tác phòng, chống ma
túy. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn có trách nhiệm chủ trì, phối hợp với
Ủy ban Dân tộc và các cơ quan, tổ chức hữu quan khác tuyên truyền, giáo dục, tổ
chức xóa bỏ cây có chứa chất ma túy; thực hiện chương trình trợ giúp chuyển
hướng sản xuất có hiệu quả, ổn định đời sống của nhân dân.
Hợp tác quốc tế về phòng, chống ma túy được thực hiện thông qua công tác
phối hợp phát hiện, ngăn chặn các hành vi vi phạm pháp luật về phòng, chống ma
túy theo quy định của pháp luật Việt Nam và của nước có liên quan. Ký kết các
Điều ước quốc tế đa phương và song phương về phòng, chống tình trạng nghiện ma
túy, tội phạm ma túy và các hành vi trái phép khác về ma túy. Phối hợp tổ chức hội
nghị, hội thảo về các vấn đề liên quan trong công tác phòng, chống ma túy và xử lý
tội phạm về ma túy liên quan đến cá nhân, tổ chức nước ngoài ở Việt Nam, cá nhân,
tổ chức Việt Nam ở nước ngoài. Hỗ trợ lẫn nhau về cơ sở vật chất, công nghệ, tăng
cường năng lực pháp luật trong hoạt động phòng, chống ma túy. Bộ Quốc phòng có
trách nhiệm xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch phòng, chống ma túy ở khu
vực biên giới trên đất liền, khu vực biên giới trên biển, vùng tiếp giáp lãnh hải,
vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Bộ y tế thực hiện hợp tác quốc tế về kiểm
soát, thu hồi giấy phép nhập khẩu, xuất khẩu thuốc gây nghiện, tiền chất, thuốc
hướng thần sử dụng trong lĩnh vực y tế, phân tích, kiểm nghiệm và nghiên cứu khoa
17
học; Bộ Công Thương thực hiện hợp tác quốc tế về kiểm soát tiền chất sử dụng
trong lĩnh vực công nghiệp.
Kiểm tra, thanh tra việc thực hiện các quy định về quản lý các hoạt động hợp
pháp liên quan đến ma túy; phòng ngừa, ngăn chặn và đấu tranh chống tệ nạn ma
túy; cai nghiện ma túy và quản lý sau cai nghiện; nghiên cứu khoa học, huấn luyện
nghiệp vụ phòng, chống ma túy; Xử lý các vi phạm hành chính theo quy định của
pháp luật và yêu cầu cơ quan điều tra khởi tố, điều tra các hành vi có dấu hiệu của
tội phạm về ma túy.
1.3. Các hình thức quản lý nhà nước về phòng, chống ma túy
1.3.1. Tuyên truyền pháp luật về phòng, chống ma túy
Tập trung tuyên truyền sâu rộng tới mọi tầng lớp nhân dân về tác hại của ma
túy đối với người sử dụng, đối với mỗi gia đình, cộng đồng và toàn thể xã hội; lưu ý
tới tác hại và hậu quả đặc biệt nguy hiểm gây ra bởi một số loại ma túy mới xuất
hiện trong thời gian qua; kết hợp với tuyên truyền chủ trương, đường lối, chính sách
và quy định của Chính phủ về công tác cai nghiện ma túy nhằm tạo sự chuyển biến
mạnh mẽ về nhận thức cho cộng đồng và nêu cao tinh thần trách nhiệm của các cấp
ủy, chính quyền, các ngành và các tổ chức chính trị, xã hội, huy động sự tham gia
của các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp cùng chung tay thực hiện công tác đấu tranh
phòng, chống ma túy.
Duy trì các hình thức, mô hình tuyên truyền sẵn có và phát triển, xây dựng
mới các chương trình, kế hoạch… tuyên truyền theo hướng chuyên sâu, đa dạng về
hình thức, phong phú về nội dung, bảo đảm phù hợp nguồn lực và từng nhóm đối
tượng cụ thể để nâng cao nhận thức, cảnh báo người dân, nhất là nhóm đối tượng có
nguy cơ cao, giáo viên, học sinh, sinh viên và trẻ em vị thành niên về hiểm họa ma
túy, tác hại sử dụng ma túy.
Xây dựng chương trình, kế hoạch, tổ chức phát động phong trào "Toàn dân
tham gia phòng, chống ma túy" gắn với cuộc vận động "Toàn dân đoàn kết xây
dựng nông thôn mới, đô thị văn minh", phong trào "Toàn dân tham gia bảo vệ an
ninh Tổ quốc", triển khai quyết liệt, có hiệu quả dự án “Nâng cao hiệu quả công tác
18
phòng, chống ma túy tại xã, phường, thị trấn” và các phong trào thi đua khác nhằm
kiềm chế, làm giảm số xã, phường có tệ nạn ma túy.
Tổ chức truyền thông sâu rộng, thường xuyên, liên tục thông qua các phương
tiện truyền thông sẵn có kết hợp với ứng dụng công nghệ thông tin nhằm tăng
cường, mở rộng và nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục
pháp luật về phòng, chống, kiểm soát ma túy, các kỹ năng nhận biết chất ma túy,
phòng ngừa tệ nạn ma túy tại cộng đồng với từng nhóm đối tượng cụ thể, trọng tâm
là học sinh, công nhân, người lao động, các cơ sở kinh doanh dịch vụ có điều
kiện… và các viên chức, đoàn viên công đoàn ở các cơ quan, đoàn thể.
Lồng ghép, kết hợp tuyên truyền thông qua các phương tiện truyền thông đại
chúng với tuyên truyền trực tiếp, gặp gỡ, vận động, cảm hóa…, trong đó, chú ý vai
trò của các tổ chức, cá nhân có uy tín, ảnh hưởng, các hoạt động văn nghệ, thể thao
sinh động, các hội thi, hội thảo mang thông điệp dự phòng, giảm tác hại tệ nạn ma
túy, sử dụng và nghiện ma túy; đồng thời đẩy mạnh phong trào toàn dân tham gia
phát hiện, tố giác, cung cấp nguồn tin các đối tượng, điểm, tụ điểm, ổ, nhóm, mua
bán, vận chuyển, tàng trữ và sử dụng trái phép chất ma túy.
1.3.2. Triển khai đồng bộ các biện pháp; phối hợp với các cơ quan chức năng
và các lực lượng chuyên trách đấu tranh phòng, chống tội phạm và tệ nạn về ma túy
Việc ban hành kế hoạch nhằm triển khai đồng bộ các biện pháp; phối hợp với
liên ngành tư pháp và các lực lượng chuyên trách đấu tranh phòng, chống tội phạm
và tệ nạn về ma túy; thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của từng ngành, tăng cường
trách nhiệm của các cấp, các ngành trong việc thực hiện các giải pháp nhằm kiềm
chế, ngăn chặn tệ nạn ma túy trong đời sống, xã hội; xử lý nghiêm các vụ việc về
ma túy, từng bước xóa bỏ các đường dây, tụ điểm sản xuất, mua bán, vận chuyển,
tàng trữ và sử dụng trái phép chất ma túy; phát huy tinh thần, trách nhiệm của mỗi
công chức, viên chức, người lao động trong từng ngành, đối với công tác phòng,
chống ma túy, góp phần làm giảm tội phạm nói chung và tội phạm ma túy nói riêng;
bảo đảm thực hiện đạt và vượt chỉ tiêu, nhiệm vụ trong các chỉ thị, nghị quyết của
19
Đảng, Quốc hội, kế hoạch, chương trình công tác của từng ngành, đặc biệt là trong
lĩnh vực tư pháp.
Bên cạnh đó, thông qua thực hiện chức năng, nhiệm vụ, kết hợp với tuyên
truyền pháp luật về phòng, chống ma túy, các biện pháp ngăn ngừa tội phạm và tệ
nạn ma túy; kịp thời phát hiện những sơ hở, thiếu sót trong công tác quản lý nhà
nước đối với các chất ma túy và tiền chất để ban hành văn bản kiến nghị với cơ
quan chủ quản liên quan có biện pháp khắc phục, sửa chữa kịp thời. Qua công tác
điều tra, truy tố, xét xử tội phạm về ma túy thường xuyên nghiên cứu, đánh giá,
tổng hợp những khó khăn, vướng mắc, bất cập trong thực tiễn thi hành Bộ luật Hình
sự, Bộ luật Tố tụng hình sự, Luật phòng, chống ma túy và các văn bản quy phạm
pháp luật có liên quan.
Các địa phương tổ chức quán triệt, triển khai đầy đủ các chương trình, kế
hoạch công tác phòng, chống ma túy của cấp trên và các nghị quyết, chương trình,
kế hoạch công tác phòng, chống ma túy của cấp ủy và chính quyền địa phương. Căn
cứ vào diễn biến tình hình vi phạm, tội phạm và tệ nạn ma túy trên địa bàn và đặc
điểm cụ thể của mỗi đơn vị để xây dựng chương trình, kế hoạch công tác phòng,
chống ma túy cho phù hợp với điều kiện thực tế của đơn vị mình. Tích cực tham gia
góp ý xây dựng vào dự thảo sửa đổi, bổ sung Luật phòng, chống ma túy và hoàn
thiện các văn bản pháp luật có liên quan. Thu thập, quản lý hệ thống dữ liệu và phân
tích, xử lý thông tin về tình hình ma túy nghiên cứu, đánh giá thực chất diễn biến
tình hình tội phạm và tệ nạn về ma túy theo địa bàn; từ đó, đưa ra đề xuất, kiến
nghị, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện chức năng, nhiệm vụ.
Phối hợp thực hiện dự án “Hỗ trợ, nâng cao năng lực phòng, chống ma túy cho
các lực lượng chuyên trách của Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Tài chính và năng
lực xử lý án ma túy của Viện kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân các cấp”.
Phối hợp chặt chẽ với lực lượng chuyên trách trong các đợt cao điểm tấn công,
trấn áp tội phạm về ma túy; tăng cường các biện pháp phòng, chống tội phạm, vi
phạm pháp luật có liên quan đến ma túy, ngay cả trong cơ quan, đơn vị mình. Triển
khai, tham gia có hiệu quả các hoạt động hưởng ứng “Tháng hành động phòng,
20
chống ma túy”, “Ngày toàn dân phòng, chống ma túy” 26/6 hằng năm theo sự chỉ
đạo chung của Chính phủ và chính quyền các địa phương.
Công tác kiểm sát việc chấp hành pháp luật tại các nhà tạm giữ, trại tạm giam
và trại giam cần chú ý đến các biện pháp đấu tranh phòng ngừa việc đưa ma túy vào
trong để sử dụng trái phép; thực hiện kế hoạch kiểm sát định kỳ hoặc đột xuất để
phát hiện nắm tình hình vi phạm, chú ý các dấu hiệu khả nghi từ các phạm nhân và
các thông tin, dư luận từ quần chúng nhân dân để phát hiện kịp thời các trường hợp
sử dụng hoặc mua bán trái phép chất ma túy trong nhà tạm giữ, trại tạm giam hoặc
trại giam.
Công an nhân dân, Phòng lao động Thương binh – Xã hội phối hợp chặt chẽ
với Tòa án nhân dân cùng cấp để hoàn thiện hồ sơ, mở phiên họp áp dụng biện pháp
xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc theo đúng quy định, bảo đảm
đúng đối tượng, đúng trình tự, thủ tục theo Pháp lệnh 09/2014/UBTVQH13 ngày
20/01/2014 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về trình tự, thủ tục xem xét, quyết định
áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại Tòa án nhân dân. Viện kiểm sát làm tốt
chức năng kiểm sát, tham gia phiên họp, đảm bảo kiểm sát đầy đủ các phiên họp
xem xét Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện
bắt buộc theo đúng quy định, kiên quyết không đồng ý với các trường hợp không
đảm bảo về thủ tục pháp lý. Nếu phát hiện việc mở phiên họp không đúng trình tự,
thủ tục theo quy định thì thực hiện quyền kháng nghị, kiến nghị theo pháp luật.
Duy trì quan hệ hợp tác quốc tế và tương trợ tư pháp trong đấu tranh phòng,
chống tội phạm và vi phạm có liên quan đến ma túy. Đối với những vụ án có yếu tố
nước ngoài, các đơn vị chú trọng thực hiện tốt công tác tương trợ tư pháp theo quy
định của pháp luật; kịp thời kiểm tra, xác minh, thu thập thông tin khi có yêu cầu
tương trợ tư pháp về hình sự đối với các vụ án về ma túy thuộc trách nhiệm giải
quyết, đảm bảo đúng quy định pháp luật; các địa phương, nhất là các địa phương có
đường biên giới cần phải chủ động phối hợp với các Cơ quan tiến hành tố tụng và
cơ quan có thẩm quyền (cơ quan ngoại vụ) của địa phương để có các hình thức, biện
21
pháp trao đổi thông tin và tương trợ giúp đỡ khi xử lý các tội phạm về ma túy theo
đúng quy định.
1.4. Những nhân tố ảnh hưởng đến quản lý nhà nước về phòng, chống ma túy
1.4.1. Tác động của nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế
Tác động của tình hình tệ nạn, tội phạm ma túy trên thế giới và khu vực: Theo
đánh giá của Cơ quan phòng, chống ma túy và tội phạm của Liên Hợp Quốc
(UNODC), tình hình tội phạm ma túy sẽ tiếp tục diễn biến phức tạp, tiềm ẩn nhiều
yếu tố khó lường [9]. Tình hình các tội phạm về ma túy trên thế giới diễn biến ngày
càng phức tạp và khó lường, xuất hiện nhiều loại ma túy mới như các loại thực vật
dạng cỏ, nhiều dạng ma túy mới chưa có trong các danh mục cấm. Tình hình sản
xuất, mua bán, vận chuyển và sử dụng các loại ma túy tổng hợp, Heroin, các chất
hướng thần gia tăng ở hầu hết các Châu lục, quốc gia trên thế giới, nếu không có
biện pháp kiềm chế thì xu hướng này có thể rất khó kiểm soát và trở thành vấn nạn
lớn. Với địa hình khá phức tạp, đường biển kéo dài, một số quốc gia có dân trí thấp
nên Châu Á đã trở thành thị trường tiêu thụ nhiều loại ma túy từ thuốc phiện, các
loại ma túy dạng thực vật, phổ biến nhất vẫn là ma túy tổng hợp và các chất hướng
thần. Vì lí do trên, khu vực Đông Nam Á cũng bị tác động không hề nhỏ, diện tích,
sản lượng thuốc phiện liên tục tăng với nhiều thủ đoạn tinh vi, cây thuốc phiện được
trồng trên diện tích lớn thậm chí trong các nhà kính ở đô thị. Các đường dây vận
chuyển ma túy từ các nước Mỹ La-tinh được phát hiện, bắt giữ gần đây cho thấy
loại tội phạm này đang nhằm vào thị trường khu vực Đông Nam Á. Khu vực Tam
giác vàng tiếp tục trở thành trung tâm sản xuất ma túy tổng hợp của thế giới, hình
thành những đường dây mua bán, vận chuyển lớn trong khu vực, trong đó, có Việt
Nam. Cộng đồng ASEAN được hình thành cùng với sự hội nhập và giao thương
kinh tế,với những chính sách thông thoáng thì đó cũng là mặt trái tạo điều kiện để
các loại tội phạm nói chung, tội phạm ma túy nói riêng lợi dụng triệt để hình thành
các tổ chức Mafia, hoạt động tội phạm ngày càng tinh vi, thủ đoạn. Việc mua bán,
vận chuyển ma túy tạo nên một khoản thu nhập siêu lợi nhuận nên một số ít quốc
gia có xu hướng hợp pháp hóa việc sử dụng và lưu hành một số loại ma túy phổ
22
biến. Điều này tạo nên những tác động trái chiều, ảnh hưởng không nhỏ đến tư
tưởng, truyền thống của mỗi dân tộc trong khu vực. Việc làm trên cũng gây nên
những tác động tiêu cực trong việc đề ra phương hướng, chiến lược về phòng,
chống ma túy lâu dài tại nước ta.
Tác động của tình hình tội phạm về ma túy và tệ nạn ma túy ở nước ta:
Tình hình tội phạm và tệ nạn ma túy ở nước ta giai đoạn 2017-2020 được dự
báo vẫn diễn biến phức tạp do tác động của các quốc gia trong khu vực và trên thế
giới, biểu hiện ở các mặt sau:
- Nguồn lợi thu được từ ma túy là siêu lợi nhuận, nên các hoạt động để kiếm
lời từ ma túy ngày càng tinh vi, xảo quyệt, manh động. Phương thức, thủ đoạn thay
đổi thường xuyên để “qua mắt” lực lượng chức năng chúng sử dụng phương tiện kỹ
thuật hiện đại để liên, quá trình vận chuyển ma túy trên các tuyến giao thông,
phương tiện giao thông linh hoạt, sử dụng các lối mòn độc đạo khó phát hiện. Quá
trình sản xuất, vận chuyển ma túy chúng luôn trang bị vũ khí quân dụng, hung khí
nguy hiểm sẵn sàng chống trả quyết liệt khi bị lực lượng chức năng phát hiện, truy
đuổi; tội phạm về ma túy thường xuyên nắm bắt những kẽ hở mà các cơ quan chức
năng chưa kiểm soát, thiếu đề phòng từ cơ sở hạ tầng, tình hình giao thông, phương
tiên liên lạc, thương mại trong nước và khu vực, đặc biệt là kẽ hở từ pháp luật mỗi
nước để thực hiện hành vi phạm tội.
- Do ảnh hưởng bởi vị trí địa lý, tác động của nhu cầu trong nước nên các
đường dây mua bán, vận chuyển ma túy xuyên quốc gia và quốc tế tiếp tục hoạt
động nhằm biến nước ta thành thị trường tiêu thụ và trung chuyển (chỉ khoảng 20%
lượng ma túy thẩm lậu vào được sử dụng trong nước). Tình hình phức tạp trên tất cả
các tuyến (đường bộ, đường hàng không, đường biển) và trên nhiều địa bàn.
- Số lượng người nghiện ma túy trong nước lớn (hơn 0,2% dân số); thành phần
người nghiện đa dạng; tỷ lệ người nghiện, sử dụng ma túy phạm các tội hình sự
khác cao (trên 34% tổng số người phạm tội), đặc biệt là số người nghiện, sử dụng
ma túy tổng hợp có xu hướng gia tăng, thường phạm những tội đặc biệt nghiêm
trọng, gây hoang mang, bất ổn trong xã hội; phạm vi tác động của tệ nạn ma túy
23
rộng (hơn 72,3% số xã, phường, thị trấn có tệ nạn ma túy) và chưa có xu hướng
giảm sẽ tác động đến tình hình quốc phòng - an ninh, trật tự an toàn xã hội và các
chính sách kinh tế - xã hội theo chiều hướng tiêu cực.
- Trong quá trình quản lý nhà nước hiện nay vẫn còn bộc lộ một số hạn chế
yếu kém trong một số lĩnh vực: tình trang di dân tự do, những khó khăn về kinh tế;
truyền thống và kinh nghiệm canh tác của đồng bào dân tộc thiểu số dẫn đến tình
trạng trồng cây thuốc phiện vẫn còn diễn biến khá phức tạp, thêm vào đó đồng bào
dân tộc thiểu số thường sinh sống ở vùng núi, vùng cao, đi lại khó khăn nên các lực
lượng chức năng khó phát hiện; bên cạnh đó tội phạm về ma túy lợi dụng khoa học
- kỹ thuật và sự yếu kém hiểu biết của nhân dân để hoạt động tội phạm; những năm
gần đây tình trạng trồng cây thuốc phiện có chứa chất ma túy, sản xuất trái phép
chất ma túy được kiểm soát phần nào nhưng thay vào đó là sự phát triển của các
loại ma túy tổng hợp và các loại thực vật khô có chứa chất gây nghiện, nhiều dạng
không có trong danh mục cấm của Chính phủ gây khó khăn cho lực lượng khi xử lý
các tội phạm buôn bán, sử dụng những loại ma túy dạng mới này.
1.4.2. Cơ chế phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nước về phòng, chống
ma túy
Trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước về phòng, chống ma túy, Luật
phòng, chống ma túy, quy định cụ thể trách nhiệm quản lý nhà nước về phòng,
chống ma túy của các cơ quan như sau:
Chính phủ quy định cụ thể về điều kiện, thủ tục, thẩm quyền và trách nhiệm
của cơ quan chuyên trách phòng, chống tội phạm về ma túy trong việc thực hiện,
phối hợp thực hiện các hoạt động, theo đó: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ
chức thành viên cùng với nhà trường, các cơ sở giáo dục, cơ quan, tổ chức, các cơ
quan thông tin, truyền thông, báo chí chủ động tuyên truyền đến cá nhân, gia đình
và mọi tầng lớp nhân dân trong xã hội. Đặc biệt các cơ quan, tổ chức này trách
nhiệm phối hợp với cơ quan, tổ chức, nòng cốt là đơn vị vũ trang nhân dân, thông
qua việc tổ chức tuyên truyền để người dân, nhất là trong tầng lớp thanh thiếu niên
nhận biết được tác hại của ma túy; nâng cao trách nhiệm của gia đình, nhà trường và
24
toàn xã hội trong việc quản lý, giáo dục con em của mình tránh xa các tệ nạn ma
túy. Thông qua các phương tiện thông tin đại chúng hoặc từ những buổi tuyên
truyền trực tiếp, từng cơ quan, tổ chức chủ động lồng ghép tuyên truyền các chủ
trương, chính sách, pháp luật, của nhà nước về phòng, chống ma túy; các biện pháp
phòng ngừa, ngăn chặn người của cơ quan, tổ chức mình và mọi công dân tham gia
tệ nạn ma túy và các hoạt động liên quan đến ma túy. Tăng cường hơn nữa công tác
giám sát hoạt động phòng, chống ma túy ở cơ quan, trường học, các cơ sở giáo dục,
nghề nghiệp khác và trên địa bàn dân cư nhất định. Tùy theo tình hình ở mỗi địa
phương, chính quyền các cấp, các cơ quan có thẩm quyền phối hợp với các cơ quan
có liên quan để quản lý các đối tượng nghiện ma túy, vận động cai nghiện ma túy
hoặc có biện pháp đưa đi cai nghiện bắt buộc. Qua đó, tạo điều kiện để người
nghiện, sau cai nghiện được tham gia giáo dục, học nghề, tìm việc làm... quan
trọng nhất là giúp đỡ người đã cai nghiện ma túy hòa nhập cộng đồng, trở thành
công dân có ích cho xã hội. Tổ chức các biện pháp điều trị, giáo dục để phòng,
chống tái nghiện.
Cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang nhân dân, cơ quan chuyên trách phòng,
chống tội phạm về ma túy thuộc CAND, cơ quan chuyên trách phòng, chống tội
phạm về ma túy thuộc Bộ đội biên phòng, lực lượng Cảnh sát biển, cơ quan Hải
quan có trách nhiệm phối hợp với các cơ quan hữu quan khác thực hiện các hoạt
động ngăn chặn, đấu tranh phòng, chống tội phạm về ma túy trong phạm vi nhiệm
vụ, quyền hạn của mình; Ngoài nhiệm vụ chuyên môn theo quy định, các cơ quan
này phải gương mẫu đi đầu trong công tác tổ chức phòng, chống ma túy ở cơ quan,
đơn vị mình như: phòng ngừa, ngăn chặn cán bộ, công chức và cán bộ, chiến sĩ đơn
vi mình tham gia tệ nạn ma túy. Thường xuyên tuyên truyền, vận động quần chùng
nhân dân phát hiện, tố giác với tệ nạn ma túy ở địa phương mình. Cán bộ, công
chức, cán bộ chiến sĩ trong các lực lượng vũ trang nhân dân đấu tranh tích cực đối
với tệ nạn ma túy, tạo niềm tin và chỗ dựa cho nhân dân cùng tham gia. Tuân thủ
các biện pháp nghiệp vụ, thường xuyên thực hiện các biện pháp cần thiết theo quy
định của pháp luật để áp dụng vào thực tiễn, kịp thời phòng ngừa, ngăn chặn từ xa,
25
kể cả mầm mống tệ nạn đang có nguy cơ làm cho tệ nạn ma túy tăng cao. Tùy từng
nhiệm vụ của từng đơn vị vũ trang mà xử lý nghiêm các hành vi mua bán, vận
chuyển trái phép chất ma túy, tiền chất, thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần do cơ
quan, đơn vị thuộc mình quản lý và kiểm soát.
1.4.3. Hệ thống văn bản pháp luật
Hệ thống pháp luật thực tiễn cho thấy, hệ thống khuôn khổ pháp luật về đấu
tranh phòng, chống ma túy khá nhiều song không phải bao giờ cũng bao quát được
các vấn đề phát sinh trong thực tế. Trong thực tiễn áp dụng pháp luật về phòng,
chống ma túy còn nhiều vấn đề khó khăn cần được giải quyết. Nhiều tình huống, vụ
việc cụ thể không có văn bản pháp luật áp dụng, có nhiều tình huống, vụ việc cụ thể
xảy ra nằm ngoài phạm vi điều chỉnh của pháp luật hoặc chưa được quy định rõ
ràng, cụ thể trong hệ thống pháp luật. Vì vậy, thực tiễn đặt ra, cần phải có văn bản
hướng dẫn cụ thể, phù hợp với từng cơ quan quản lý. Một số quy định của pháp
luật, văn bản quy pháp pháp luật chưa đồng bộ, thiếu chưa chặt chẽ tạo ra một số kẽ
hở trong công tác quản lý nhà nước về phòng, chống ma túy. Việc thiếu những quy
định pháp luật cụ thể, minh bạch đã làm ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng của
các hoạt động quản lý nhà nước trong công tác này từ cấp trung ương đến các địa
phương cụ thể. Do đos, việc ban hành văn bản và các quy định hướng dẫn thực hiện
pháp luật về đấu tranh phòng, chống tội phạm ma túy của các cơ quan quản lý nhà
nước là một trong các yếu tố có ảnh hưởng đến công tác quản lý nhà nước ở lĩnh
vực này. Yếu tố này đòi hỏi phải có tính chính xác và tính kịp thời, nếu một vấn đề
phát sinh liên quan mà không được hướng dẫn giải quyết chính xác thì nó sẽ gây ra
hậu quả nghiêm trọng hoặc sự áp dụng pháp luật một cách tùy nghi. Ngoài ra, nếu
vấn đề mang tính chất cấp bách mà không được giải quyết kịp thời thì cũng đem lại
hậu quả không mong muốn. Chính vì vậy, nếu thực hiện tốt việc ban hành văn bản
và quy định hướng dẫn sẽ có tác động tích cực và mang lại hiệu quả cho công tác
quản lý và thực thi pháp luật, ngược lại nếu thực hiện không tốt việc ban hành văn
bản và quy định hướng dẫn sẽ dẫn đến việc bỏ lọt các hành vi, các vi phạm gây ra
tác động tiêu cực trong xã hội.
26
Việc thực thi pháp luật về đấu tranh phòng, chống ma túy hiện nay kém hiệu
quả, một số chính sách về kinh tế, xã hội chậm đổi mới tạo sơ hở cho tội phạm hoạt
động phát triển. Thực tiễn cho thấy hệ thống pháp luật ở nước ta về công tác phòng
ngừa, ngăn chăn còn thiếu và hạn chế. So với các quốc gia có hệ thống pháp luật
hoàn thiện, các quốc gia trong khu vực và pháp luật quốc tế thì hệ thống pháp luật
nước ta còn nhiều mặt hạn chế, bất cập, chưa thực sự tương thích và đồng bộ, chưa
có hiệp ước về dẫn độ cũng là nguyên nhân, kẽ hở để tội phạm ma túy và một số
loại tội phạm lợi dụng hoạt động. Ngoài những bất cập trong công tác quản lý, chỉ
đạo điều hành thì chủ trương chính sách về kinh tế xã hội và pháp luật chậm đổi
mới, đã bộc lộ những yếu kém, thậm chí là sơ hở để cho một số cơ quan, tổ chức,
đối tượng lợi dụng hoạt động phạm tội và thực hiện nhiều hành vi vi phạm pháp
luật. Do đó phải hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật ở nước ta nói chung, hệ
thống chính sách, pháp luật về phòng, chống ma túy nói riêng. Ngoài những quy
định về tội phạm ma túy được quy định cụ thể trong Bộ luật hình sự thì cần nghiên
cứu sửa đổi các hiệp ước quốc tế song phương và đa phương cho phù hợp với tình
hình và xu thế phát triển trên thế giới hiện nay. Tiếp tục bổ sung, hoàn thiện Luật
phòng, chống ma túy và các văn bản hướng dẫn thi hành, khắc phục kịp thời những
hạn chế thiếu sót còn tồn tại.
1.4.4. Yếu tố con người
Việc xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã có đủ trình độ, năng lực và
phẩm chất đáp ứng yêu cầu mới đã được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm,
ban hành nhiều chủ trương, chính sách cần thiết. Công tác quản lý nhà nước về đấu
tranh phòng, chống ma túy muốn thành công và đạt được hiệu quả cao phụ thuộc rất
lớn vào năng lực, trình độ của các cán bộ, công chức. Do vậy, việc đào tạo đội ngũ
cán bộ, công chức nói chung, đội ngũ cán bộ công tác trong lĩnh vực quản lý nhà
nước về phòng, chống ma túy cần được quan tâm, chú trọng hơn nữa. Công tác đấu
tranh chống tội phạm, trong đó có tội phạm, tệ nạn ma túy của các cơ quan chức
năng nói chung và của ngành công an nói phụ thuộc phần lớn vào trình độ nghiệp
vụ, pháp luật của đội ngũ cán bộ, công chức. Yêu cầu thực tiễn đòi hỏi cán bộ, công
27
chức làm công tác này phải có trình độ, năng lực nhất định, song cùng với quá trình
hội nhập dẫn đến một số cán bộ, công chức thoái hóa, biến chất, thậm chí là tiếp tay
cho tội phạm, tệ nạn ma túy. Trong quá trình công tác khi được giao nhiệm vụ đôi
lúc còn né tránh, buông lỏng công tác quản lý, đấu tranh trấn áp tội phạm, tệ nạn
này. Hiệu quả quản lý nhà nước trong đấu tranh phòng, chống ma túy còn bị tác
động rất lớn bởi ý thức và sự tham gia của quần chúng nhân dân. Ở đâu có sự tham
gia, ủng hộ nhiệt tình của nhân dân, ở đó tội phạm, tệ nạn không có điều kiện tồn
tại. Một số địa phương chưa phát huy được sức mạnh của quần chúng nhân dân nên
phong trào quần chúng tham gia đấu tranh phòng chống tệ nạn và tố giác tội phạm ở
một số nơi chưa chực sự mạnh mẽ, chưa thực sự hiệu quả. Bên cạnh đó cũng chưa
phát huy được sức mạnh của quần chúng trong công tác giáo dục, cải tạo và tái hoà
nhập cộng đồng cho người nghiện sau cai nghiện trở về. Để công tác quản lý nhà
nước về phòng, chống ma túy đạt được hiệu quả cao cần phát huy và huy động sức
mạnh của cả hệ thống chính trị. Trước tiên là tăng cường sự lãnh đạo của cấp ủy
đảng ở từng địa phương. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý, điều hành của chính
quyền các cấp. Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc, có sự phối hợp chặt chẽ giữa
các tổ chức đoàn thể với quần chúng các cấp trong công tác phòng, chống ma túy.
Công tác tuyên truyền, giáo dục cho cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, đoàn
viên, hội viên trong các cơ quan, tổ chức được chú trọng và đẩy mạnh để nâng cao ý
thức, trách nhiệm của từng cá nhân. Đối với lãnh đạo, chỉ đạo điều hành phải cương
quyết, kết hợp các biện pháp tổ chức và thực hiện nhiệm vụ phòng, chống ma túy
theo chương trình, kế hoạch cụ thể. Theo Chỉ thị số 48/CT-TW, ngày 22-10-2010
của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng,
chống tội phạm trong tình hình mới thì yêu cầu được nêu trước hết là trách nhiệm
của tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên, người đứng đầu cơ quan, tổ chức. Các tổ chức
đảng, cơ quan nhà nước, đoàn thể quần chúng cần xác định phòng, chống ma túy là
nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên và đưa vào chương trình phát triển để chỉ đạo, tổ
chức thực hiện. Các chỉ tiêu về phòng, chống ma túy cần được coi là một trong
những tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ của tổ chức và cá nhân trong
28
các tổ chức thuộc hệ thống chính trị. Chú trọng tăng cường, nâng cao hiệu quả các
biện pháp phòng ngừa xã hội. Coi trọng phòng ngừa tội phạm từ gia đình, trong gia
đình và ở cơ sở. Rà soát, đánh giá ảnh hưởng của các chính sách phát triển và quá
trình thực hiện các chính sách phát triển đến tình hình phòng, chống ma túy, đề xuất
khắc phục hạn chế những sơ hở, thiếu sót, bất cập.
Tiểu kết chương 1
Tệ nạn ma tuý đang là hiểm hoạ của các quốc gia, dân tộc trên toàn thế giới; là
một trong những nguyên nhân chủ yếu làm phát sinh nhiều tệ nạn xã hội và nguy cơ
lây nhiễm HIV/AIDS trong công động. Tác hại ma tuý gây ra ảnh hưởng nghiêm
trọng đến phát triển kinh tế - xã hội và an ninh trật tự của mỗi quốc gia và giống
nòi. Do vậy, phòng, chống ma túy là trách nhiệm của mọi cá nhân, tổ chức, trong đó
trước hết và quan trọng nhất là vai trò, trách nhiệm quản lý của cơ quan Nhà nước
các cấp. Để tạo chuyển biến mạnh mẽ trong công tác phòng, chống và kiểm soát ma
tuý trong tình hình mới, chúng ta cần hiểu rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của
mỗi cơ quan Nhà nước, đồng thời cần xác định rõ nội dung, hình thức, phương pháp
quản lý các đối tượng liên quan nhằm đấu tranh có hiệu quả với tệ nạn ma túy trên
địa bàn. Với tinh thần đó, Chương 1 của luận văn đã đưa ra một số khái niệm cơ
bản; mục đích, nguyên tắc, nội dung của quản lý nhà nước về đấu tranh phòng,
chống tội phạm ma túy và các chủ thể của quản lý nhà nước về phòng, chống ma
túy. Kết quả nghiên cứu ở Chương 1 là cơ sở khoa học để từ đó luận văn đánh giá
thực trạng của hoạt động quản lý nhà nước về đấu tranh phòng, chống tội phạm ma
túy trên địa bàn thị xã Buôn Hồ hiện nay.
29
Chương 2
THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ PHÒNG, CHỐNG MA TÚY
TRÊN ĐỊA BÀN THỊ XÃ BUÔN HỒ, TỈNH ĐẮK LẮK
2.1. Thực trạng tệ nạn ma túy trên địa bàn thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk
2.1.1. Khái quát chung về thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk
Thị xã Buôn Hồ được thành lập vào ngày 23/12/2008 theo Nghị định số
07/NĐ-CP của Chính phủ, là đô thị trung tâm có vai trò là trung tâm kinh tế, chính
trị, văn hóa, khoa học kỹ thuật của khu vực phía Bắc tỉnh Đắk Lắk, có vị trí an ninh
quốc phòng đặc biệt quan trọng nằm ở phía Đông Bắc của thành phố Buôn Ma
Thuột, cách trung tâm tỉnh lỵ Đắk Lắk 40 km về phía Đông Bắc, chạy dọc theo
Quốc lộ 14 (đường Hồ Chí Minh):
- Phía Đông giáp huyện Krông Năng, EaKar;
- Phía Tây giáp huyện Cư M’Gar;
- Phía Nam giáp huyện Krông Pắk;
- Phía Bắc giáp huyện Krông Búk.
Bên cạnh đó Thị xã Buôn Hồ còn có các tuyến quốc lộ huyết mạch nối liền
các tỉnh Gia Lai, Kon Tum với Thành phố Buôn Ma Thuột. Hệ thống giao thông
thuận lợi, đường ô tô đến hầu hết các trung tâm đông dân cư theo tuyến Quốc lộ 14,
quốc lộ 29 và các tuyến đường liên xã, liên phường, thuận lợi cho việc đi lại và vận
chuyển hàng hóa, dịch vụ thương mại.
Thị xã Buôn Hồ có diện tích 28.205,89 với hơn 101.554 nhân khẩu, có 12 đơn
vị hành chính trực thuộc, bao gồm 7 phường: An Lạc, An Bình, Thiện An, Đoàn
Kết, Thống Nhất, Bình Tân và Đạt Hiếu; 05 xã: Ea Siên, Ea Đrông, Ea Blang, Bình
Thuận và Cư Bao. Hiện tại, trên địa bàn có hơn 22 dân tộc anh em cùng sinh sống
như: GiaRai, Kinh, Tày, Ê Đê, Nùng… Do vậy, nền văn hóa, phong tục tập quán
trên địa bàn khá đa dạng, đậm đà bản sắc dân tộc, nhiều nét văn hóa đặc trưng của
đồng bào dân tộc tây nguyên hiện vẫn còn được lưu giữ.
Thị xã nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, mỗi năm có hai mùa rõ rệt:
mùa mưa và mùa khô, có biểu hiện đặc trưng của vùng Cao nguyên Nam Trung Bộ.
30
Thông thường mùa mưa bắt đầu từ tháng 4 đến tháng 10, lượng mưa trung bình
hàng năm khoảng 1.700mm, nhiệt độ trung bình là 24.0C. Với lợi thế về thời tiết
nên rất thuận lợi cho các loại cây công nghiệp như cà phê, cao su, ca cao, hồ tiêu và
các loại cây ăn trái và cây lương thực như ngô lai, đậu tương.
Hiện nay, Buôn Hồ đã là "tâm điểm" của vùng chuyên canh cây cà phê nổi
tiếng, được trải rộng ra các huyện lân cận, bao gồm huyện Cư M'gar, Krông Năng,
Ea H'Leo và Krông Buk với diện tích gần 100.000 ha. Ðồng thời, đây cũng là vùng
có hệ sinh thái phong phú và đa dạng với các khu rừng đặc dụng, rừng phòng hộ
tiêu biểu như: đèo Hà Lan, rừng thông Buôn Tring... nên rất có tiềm năng trong việc
phát triển du lịch sinh thái, gắn với văn hóa truyền thống của người dân bản địa. Ở
đó Buôn Hồ được coi như một "địa chỉ đỏ" có sức lan tỏa, ảnh hưởng rộng
khắp toàn vùng. Với những đặc trưng đó, Buôn Hồ được xác định là đô thị kinh tế-
sinh thái-văn hóa cấp vùng của tỉnh.
Khai thác thế mạnh của thiên nhiên, điều kiện văn hóa, xã hội để phát triển du
lịch văn hóa - sinh thái, hướng dẫn người dân trong việc tạo việc làm, tham gia các
hoạt động dịch vụ du lịch, cải thiện đời sống cho đồng bào nhằm phát triển kinh tế -
xã hội địa phương, bảo vệ môi trường sinh thái, giữ vững quốc phòng - an ninh, là
vấn đề đang được cấp ủy, chính quyền của tỉnh Đăk Lăk và thị xã Buôn Hồ quan
tâm thực hiện, góp phần phát triển một cách toàn diện hoạt động kinh tế - xã hội của
thị xã.
Bên cạnh những thuận lợi như vậy thì thị xã Buôn Hồ cũng có một số khó
khăn nhất định như:
- Đa số nhân dân trên địa bàn còn hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp,
chiếm hơn 70 % dân số, còn lại là kinh doanh buôn bán, sản xuất công nghiệp - tiểu
thủ công nghiệp, thương mại và dịch vụ.
- Đời sống nhân dân trong các xã vùng sâu còn gặp nhiều khó khăn, đặc biệt là
các đồng bào dân tộc thiểu số, vì vậy nên có ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống,
trình độ dân trí trong vùng.
31
- Địa hình khá phức tạp, độ dốc cao ảnh hưởng đến các vấn đề tưới tiêu trong
sản xuất và đời sống cũng như các hoạt động giao thông vận tải nội địa.
- Dân số cơ học tăng nhanh trong khi đó diện tích đất tự nhiên cố định hiện là
áp lực đối với sự phát triển kinh tế xã hội là vấn đề đang cần giải quyết.
2.1.2. Khái quát tệ nạn ma túy trên địa bàn thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk
Thị xã Buôn Hồ có vị trí nằm ở phía bắc thành phố Buôn Ma Thuột, giáp ranh
với 04 huyện Cư M'gar, Krông Năng, Ea H'Leo và Krông Buk, có tuyến đường Hồ
Chí Minh, Quốc lộ 29 đi qua, dân cư đông, có một lượng lớn người nhập cư từ nơi
khác đến địa bàn thị xã sinh sống. Chính vì vậy mà tình hình về tệ nạn và tội phạm
ma túy diễn biến phức tạp, ma túy xuất hiện đến vùng sâu, vùng xa. Các đối tượng
chủ yếu phạm tội về mua bán, tàng trữ trái phép chất ma túy. Phương thức hoạt
động phạm tội về ma túy ngày càng tinh vi, xảo quyệt. Các đối tượng thường móc
nối với nhau qua phương tiện thông tin liên lạc công nghệ hiện đại gây khó khăn
cho công tác theo dõi, quản lý và thu thập tài liệu chứng cứ để đấu tranh, phòng
ngừa, ngăn chặn. Thủ đoạn mua bán ma túy với nhiều hình thức ngụy trang không
qua giao nhận trực tiếp đã gây khó khăn cho công tác bắt quả tang. Nhiều loại ma
túy tổng hợp mới xuất hiện nhất là Cỏ Mỹ. Tình hình tệ nạn ma túy và tội phạm ma
túy trên địa bàn thị xã Buôn Hồ diễn biến phức tạp, phát hiện tội phạm và tệ nạn ma
túy ở 12/12 xã, phường.
Trong quản lý con người, quản lý nhân hộ khẩu ở các xã, phường vẫn còn
nhiều sơ hở, không nắm bắt hết các đối tượng đến tạm trú, tạm vắng; Công tác
phòng ngừa nghiệp vụ, theo dõi, quản lý, các đối tượng có tiền án, tiền sự cũng như
việc tuần tra, canh gác của các tổ dân phố, bảo vệ thôn buôn và của Cơ quan công
an một số địa phương trong thời gian qua chưa chặt chẽ, chưa thường xuyên. Công
tác phòng ngừa xã hội đạt hiệu quả chưa cao, việc tuyên truyền, phổ biến giáo dục
pháp luật về phòng, chống tội phạm còn hạn chế, chưa phát huy hết được tác dụng,
chưa huy động được đông đảo nhân dân và toàn bộ hệ thống chính trị tham gia đấu
tranh phòng chống tội phạm nói chung và tội phạm ma túy nói riêng. Việc phối hợp
quản lý, giáo dục giữa gia đình và xã hội đối với một số đối tượng nghiện ma túy,
32
có tiền án, tiền sự, nhân thân xấu còn chưa đạt hiệu quả cao, dẫn đến việc các đối
tượng này thường xuyên dụ dỗ, lôi kéo người khác mua bán, sử dụng chất ma túy....
Số người nghiện, người sử dụng loại ma túy tổng hợp có chiều hướng gia tăng,
nhất là tình trạng thanh thiếu niên sử dụng ma túy tổng hợp theo xu hướng tập thể
tại các cơ sở kinh doanh có điều kiện về an ninh trật tự như: Karaoke, nhà trọ, nhà
nghỉ, khách sạn. Các đối tượng sau khi áp dụng các biện pháp cai nghiện đa phần tái
nghiện trở lại. Người nghiện ma túy ngoài xã hội trong các tháng cuối năm có chiều
hướng giảm dần do người nghiện bị đưa đi cai nghiện bắt buộc và bị bắt tạm giữ,
tạm giam để điều tra. Công tác phòng ngừa nghiệp vụ, phòng ngừa xã hội được chú
trọng nên trên địa bàn không để xảy ra trồng cây có chứa chất ma túy.
Chưa phát hiện, xử lý vụ việc vi phạm pháp luật liên quan đến thuốc gây
nghiện, thuốc hướng thần, tiền chất của các cơ quan, doanh nghiệp, các cơ sở hoạt
động hợp pháp liên quan đến ma túy trên địa bàn thị xã.
Tình hình tệ nạn ma túy diễn biến khá phổ biến, phức tạp và có chiều hướng
gia tăng theo từng năm. Các đối tượng chủ yếu phạm tội về mua bán, tàng trữ trái
phép chất ma túy. Đáng chủ ý là các hành vi vi phạm pháp luật về ma túy ngày càng
tinh vi, xảo quyệt để qua mắt các cơ quan chức năng. Các đối tượng móc nối nhau
qua phương tiện thông tin liên lạc công nghệ hiện đại gây khó khăn cho công tác
theo dõi, thu thập tài liệu chứng cứ. Thủ đoạn mua bán ma túy không qua giao nhận
trực tiếp đã gây khó khăn cho công tác bắt quả tang. Nhiều loại ma túy tổng hợp
mới xuất hiện nhất là Cỏ Mỹ, bóng cười. Tình hình người nghiện ma túy gia tăng
đáng kể so với năm 2018 nhưng đã giảm dần từ đầu năm 2019 đến cuối năm 2019
do nỗ lực trong đưa đi cai nghiện bắt buộc. Người nghiện ma túy tổng hợp ngày
càng tăng cao, kéo theo các hoạt động tổ chức, môi giới sử dụng trái phép chất ma
túy cũng tăng cao. Tình hình mua bán, sử dụng ma túy tổng hợp có xu hướng gia
tăng. Trong đó tập trung tại các địa bàn trọng điểm như: phường Bình Tân, phường
An Lạc và xã Ea Siên. Ma túy chủ yếu là hêrôin, Methamphetamine. Bên cạnh đó
tình hình người nghiện ma túy tiếp tục tăng và diễn biến phức tạp, toàn thị xã có 61
người nghiện ma túy (năm 2018 tăng 18 người so với cùng kỳ năm 2017) Lý do
33
tăng: phát hiện mới 22 người, hết thời gian cai nghiện bắt buộc trở về địa phương
05 người, đưa đi cai nghiện bắt buộc 09 người, chết 01 người. Tập trung ở xã Ea
Siên, xã Bình Thuận; phường An Lạc và phường An Bình [10].
Bảng 2.1.Số liệu đối tượng đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc
Năm 2017 2018 2019 2020 Tổng
Số hồ sơ đề nghị 08 11 19 17 55
Số người bị áp dụng 06 09 18 10 43
Nguồn: Công an thị xã Buôn Hồ
Bảng 2.2.Số liệu các vụ án đã khởi tố
Năm 2017 2018 2019 2020 Tổng
Số vụ án 06 vụ - 05 vụ - 09 vụ - 09 15 vụ - 20 bị 35 vụ - 41 bị can
khởi tố 06 bị can 06 bị can bị can can
Thu giữ - 2,7572 - 0,28 - 2,621 - 2,6717 gam - 11,2871 gam
gam gam gam Hêroine Hêroine
Hêroine Hêroine Hêroine - 26,569 gam - 38,697.1827
- 28,9493 - 3,8534 - 107,6644 methaphetami gam
gam gam gam ne methaphetamine.
methaphe methaphe methapheta - 6,2304 gam - 6,2304 gam
tamine tamine mine thuốc phiện thuốc phiện
- 12,60 gam - 12,60 gam
FUB-144 và FUB-144 và
FUB-AMB; FUB-AMB;
- 0.98 gam 5F- - 0.98 gam 5F-
MDMB-PICA. MDMB-PICA.
Nguồn: Công an thị xã Buôn Hồ
2.1.3. Khái quát công tác phòng, chống ma túy trên địa bàn thị xã Buôn Hồ,
tỉnh Đắk Lắk
Trong những năm gần đây, các cơ quan, tổ chức có liên quan, đặc biệt là
UBND thị xã thị xã đã từng bước nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của nhà nước,
34
sự phối hợp chặt chẽ, đồng bộ của các cấp, các ngành và các tổ chức chính trị - xã
hội, phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và các tầng lớp nhân dân
nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác cai nghiện và hỗ trợ sau cai nghiện,
kìm hãm sự gia tăng số người nghiện mới, quản lý chặt chẽ người nghiện ngoài
cộng đồng, không để phát sinh tụ điểm phức tạp, góp phần xây dựng môi trường xã
hội an toàn, lành mạnh phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của thị xã.
Về công tác phòng ngừa xã hội: Công an thị xã đã làm tốt công tác tham mưu
cho cấp ủy, chính quyền chỉ đạo đẩy mạnh thực hiện Chỉ thị 21/CT – TW ngày
26/03/2008 của Bộ Chính trị về “tiếp tục tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo công tác
phòng, chống và kiểm soát ma túy trong tình hình mới” [3] nhằm phát huy sức
mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị trong phòng, chống tội phạm về ma túy
đảm bảo trật tự an toàn xã hội.
Đội cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy tham mưu cho công an thị xã triển
khai thực hiện công tác nghiệp vụ cơ bản trên địa bàn thị xã theo Chị thị 02, các
Thông tư 18, 19, 20, 21, 22 của Bộ Công an về hướng dẫn một số nội dung về công
tác công tác nghiệp vụ cơ bản của lực lượng cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy.
Ngay từ đầu năm cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thị xã đã xây dựng
kế hoạch công tác năm và đã nghiêm túc triển khai thực hiện. Đã tham mưu cho ban
chỉ đạo phòng chống tội phạm thị xã Buôn Hồ triển khai thực hiện các chỉ thị, nghị
định trên lĩnh vực phòng chống tội phạm, tệ nạn ma túy.
Xây dựng và triển khai thực hiện dự án “Xây dựng xã, phường, thị trấn không
có tệ nạn ma túy” đến 07 phường và 05 xã trên địa bàn thị xã.
Kịp thời tham mưu xây dụng kế hoạch về việc mở đợt cao điểm triệt xóa các
điểm sử dụng ma túy và lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đối
với người nghiện ma túy trên địa bàn; chủ động xây dựng các kế hoạch các đợt cao
điểm tấn công trấn áp tội phạm và tệ nạn ma túy.
Xây dựng tờ trình đề nghị UBND thị xã xử phạt vi phạm hành chính đối với
cơ sở kinh doanh dịch vụ Karaoke, nhà trọ, khách sạn... ngoài ra con tham mưu,
35
hướng dẫn lực lượng công an các xã, phường lập hồ sơ giáo dục xã phường, cai
nghiện bắt buộc đối với các đối tượng nghiện trên địa bàn.
Về công tác phối hợp, tuyên truyền, phát động luật phòng, chống ma túy, tình
hình tội phạm và tệ nạn ma túy, cách phòng chống ma túy. Kết quả triển khai công
tác tuyên truyền, giác dục về phòng, chống ma túy thông qua các phương tiện
truyền thông; tham gia hưởng ứng các đợt cao điểm về phòng, chống ma túy và xóa
việc trồng cây có chứa chất ma túy tại địa phương.
Trước năm 2017, Liên ngành tư pháp thị xã thực hiện việc xét xử lưu động
toàn bộ đối với các vụ án về ma túy nhằm tuyên truyền đến mọi tầng lớp nhân dân
tại địa bàn về tác hại của ma túy đến đời sống con người, phát triển tri thức và giống
nòi, đặc biệt tuyên truyền đến người dân về ý thức phòng, chống, đấu tranh với các
tội phạm về ma túy, người phạm tội đều phải bị nghiêm trị.
Bảng 2.3. Số liệu các buổi tuyên truyền, mitting
Năm 2017 2018 2019 2020 Tổng
Số buổi tuyên truyền 13 18 10 11 52
Số lượt người 2.247 2.936 2.136 5.195 12.514
Nguồn: Công an thị xã Buôn Hồ
Về công tác phòng ngừa nghiệp vụ
- Phòng lao động - thương binh và xã hội phối hợp với Công an xã, phường
lập hồ sơ giáo dục tại xã, phường về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy theo
nghị định 111/NĐ-CP ngày 30/09/2013 của chính phủ.
- Công an thị xã phối hợp với Công an xã, phường quản lý đối tượng tù tha về
tội ma túy và quản lý đối với đối tượng đã cai nghiện ma túy trở về địa phương ma
túy trên địa bàn thị xã.
2.2. Thực trạng quản lý nhà nước về phòng, chống ma túy trên địa bàn thị
xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk
2.2.1. Xây dựng kế hoạch và tổ chức thực hiện
Tăng cường vai trò lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền đối với công tác
điều trị, cai nghiện ma túy:
36
- Công tác phòng, chống và kiểm soát ma túy nói chung, cai nghiện ma túy nói
riêng phải đặt dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của cấp ủy, quản lý điều hành của
chính quyền, tham gia phối hợp của Mặt trận Tổ quốc các cấp và huy động sức
mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và toàn dân. Trong đó, người đứng đầu
phải nhận thức đầy đủ vai trò, trách nhiệm và chỉ đạo thực hiện quyết liệt, nghiêm
túc, có hiệu quả Chỉ thị số 36-CT/TW, ngày 16/8/2019 của Ban chấp hành Trung
ương về tăng cường, nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống và kiểm soát ma túy.
- Xây dựng chương trình, kế hoạch lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra, giám sát, tổ
chức thực hiện công tác theo dõi, thống kê, phân loại số người nghiện ma tuý tại
từng địa phương và lập hồ sơ quản lý trên cơ sở đó tuyên truyền, vận động người
nghiện ma tuý chủ động đăng ký hình thức cai nghiện hoặc áp dụng các biện pháp
xử lý hành chính theo quy định pháp luật.
- Xây dựng, triển khai kế hoạch thực hiện các chỉ tiêu về cai nghiện ma túy,
đồng thời, tăng cường bố trí kinh phí tổ chức thực hiện nhiệm vụ cai nghiện ma tuý
tại gia đình, cai nghiện tại cộng đồng và hỗ trợ các vấn đề xã hội cho người sau cai
nghiện. Bảo đảm đủ kinh phí thực hiện các chính sách, chế độ đối với người cai
nghiện ma túy theo quy định pháp luật. Trong đó, đặc biệt chú trọng đến chế độ bảo
đảm, hỗ trợ, miễn, giảm chi phí cai nghiện đối với người cai nghiện ma túy tự
nguyện tại các cơ sở cai nghiện công lập, cai nghiện bắt buộc tại cộng đồng, cai
nghiện tự nguyện tại gia đình và cộng động.
- Định kỳ hàng quý, 06 tháng và cả năm tổng kết, đánh giá tình hình kết quả
thực hiện nhiệm vụ cai nghiện phục hồi để có sự điều chỉnh kịp thời trong chỉ đạo,
quản lý và ngăn chặn sự gia tăng số người nghiện mới, không để phát sinh tệ nạn xã
hội. Người đứng đầu cấp ủy, chính quyền các cấp chịu trách nhiệm về tổ chức, triển
khai thực hiện nhiệm vụ cai nghiện ma túy tại địa phương, cơ quan, đơn vị được
giao phụ trách, theo dõi. Lấy kết quả, hiệu quả thực hiện các chỉ tiêu về cai nghiện
ma túy trên địa bàn phụ trách, theo dõi là một chỉ tiêu đánh giá, xếp loại hàng năm.
Đẩy mãnh và nâng cao công tác thông tin, truyền thông và tuyên truyền trên
địa bàn:
37
- Xây dựng chương trình, kế hoạch, tổ chức phát động phong trào "Toàn dân
tham gia phòng, chống ma túy" gắn với cuộc vận động "Toàn dân đoàn kết xây
dựng nông thôn mới, đô thị văn minh", phong trào "Toàn dân tham gia bảo vệ an
ninh Tổ quốc", triển khai quyết liệt, có hiệu quả dự án “Nâng cao hiệu quả công tác
phòng, chống ma túy tại xã, phường, thị trấn” và các phong trào thi đua khác nhằm
kiềm chế, làm giảm số xã, phường có tệ nạn ma túy.
- Tổ chức truyền thông sâu rộng, thường xuyên, liên tục thông qua các phương
tiện truyền thông, phòng ngừa tệ nạn ma túy tại cộng đồng với từng nhóm đối tượng
cụ thể, trọng tâm là học sinh, công nhân, người lao động, các cơ sở kinh doanh dịch
vụ có điều kiện… và các viên chức, đoàn viên công đoàn ở các cơ quan, đoàn thể
trong toàn thị xã.
Nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ quản lý, cán bộ làm công tác cai nghiện ma
túy và dự phòng giảm tác hại:
- Tiếp tục củng cố, kiện toàn, nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ tham
mưu, phụ trách công tác hỗ trợ, cai nghiện, dự phòng. Phân công trách nhiệm rõ
ràng, phát huy vai trò, trách nhiệm đội ngũ cán bộ, công chức thực hiện nhiệm vụ
cai nghiện ma túy, trong đó lực lượng nòng cốt là Tổ công tác cai nghiện, Công an,
Văn hóa - Xã hội, Y tế tại các xã, phường; phối hợp chặt chẽ giữa đội ngũ cán bộ,
công chức trong các đoàn thể chính trị - xã hội với thành viên Đội công tác xã hội
tình nguyện, tình nguyện viên, tuyên truyền viên cấp xã trong việc thực hiện nhiệm
vụ giúp đỡ, hỗ trợ, tư vấn, giáo dục, vận động, cảm hóa người sử dụng, người
nghiện và người sau cai nghiện ma túy nhằm hạn chế sự gia tăng người nghiện mới
tại các xã, phường.
- Quan tâm, ưu tiên bố trí kinh phí cho công tác đào tạo, tập huấn nâng cao
năng lực, chuyên môn nghiệp vụ; cập nhật, bổ sung, cung cấp kiến thức cơ bản về
dự phòng giảm tác hại, điều trị cai nghiện, hỗ trợ các nhu cầu xã hội sau cai nghiện,
tái hòa nhập cộng đồng bền vững cho lực lượng tham gia công tác dự phòng, hỗ trợ,
tư vấn điều trị nghiện ma túy tại các xã, phường.
38
- Tập huấn tuyên truyền các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của
Nhà nước về phòng, chống và kiểm soát ma túy trong tình hình mới, các chủ
trương, chính sách của Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh liên quan đến công tác cai
nghiện ma túy nói chung và chế độ ưu đãi, khuyến khích đối với người tham gia cai
nghiện ma túy nói riêng cho hệ thống các tổ chức đoàn thể cấp cơ sở, đặc biệt là
Măt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên.
Thực hiện lồng ghép nhiệm vụ cai nghiện ma túy với các chương trình kinh tế
- xã hội khác:
- Xây dựng, triển khai các hoạt động phòng ngừa tệ nạn ma túy tại cơ sở thông
qua lồng ghép Dự án “Nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống ma túy tại xã,
phường, thị trấn” với việc thực hiện Nghị quyết Liên tịch số 01/2008/ NQLT-
BLĐTBXH-BCA-BVHTTDL-UBTUMTTQVN ngày 28/8/2008 của Bộ Lao động -
Thương binh và Xã hội, Bộ Công an, Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch và Ủy ban
Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam về việc ban hành các tiêu chí phân loại,
chấm điểm đánh giá và biểu thống kê báo cáo về công tác xây dựng xã, phường, thị
trấn lành mạnh không có tệ nạn ma túy, mại dâm. Đồng thời, tăng cường chỉ đạo,
đôn đốc, hướng dẫn trong tổ chức thực hiện; coi trọng phòng ngừa ngay từ gia đình,
nhà trường, khu dân cư, tổ dân phố, xã, phường, tập trung vào nhóm đối tượng có
nguy cơ cao và nêu cao tinh thần cảnh giác, phát hiện, tố giác tội phạm, các tụ điểm
mua bán, tổ chức sử dụng chất ma túy trong nhân dân nhằm kéo giảm số xã, phường
có tệ nạn ma túy.
- Thực hiện kế hoạch điều trị, cai nghiện ma tuý và hỗ trợ sau cai nghiện đảm
bảo thực chất, có hiệu quả, tập trung các chỉ tiêu, nhiệm vụ tương đồng, phù hợp
nguồn lực hiện có để tạo sự chuyển biến rõ nét, sâu rộng về ý thức, nhận thức, trách
nhiệm của các cấp, các ngành, các tầng lớp nhân dân và cả hệ thống chính trị trong
công tác dự phòng, giảm tác hại, nâng cao hiệu quả công tác hỗ trợ, điều trị cai
nghiện ma túy trên địa bàn thị xã.
- Thực hiện công tác quản lý người sau cai nghiện tái hòa nhập cộng đồng và
lồng ghép công tác hỗ trợ các vấn đề xã hội sau cai nghiện với các chương trình, kế
39
hoạch cụ thể như vay vốn tín dụng ưu đãi, hướng dẫn tìm việc làm, kết nối giới
thiệu việc làm… và các chương trình kinh tế - xã hội khác để hạn chế tái sử dụng
ma túy và ngăn chặn, đẩy lùi sự gia tăng người nghiện mới tại các xã, phường.
Tăng cường bố trí nguồn lực hỗ trợ, quản lý và khuyến khích, vận động người
nghiện ma túy tham gia các chương trình cai nghiện:
- Tăng cường bố trí kinh phí từ ngân sách, bảo đảm thực hiện các chế độ,
chính sách cho người cai nghiện ma túy và người tham gia quản lý, hỗ trợ, cai
nghiện ma túy là nhiệm vụ chính trị của các cấp chính quyền địa phương, đồng thời
là giải pháp căn cơ để quản lý, vận động, hỗ trợ, tạo điều kiện cho người nghiện ma
túy có cơ hội tiếp cận các dịch vụ điều trị, cai nghiện, làm giảm tệ nạn ma túy và
kiềm chế phát sinh các loại tội phạm khác. Đặc biệt là các người nghiện ma túy
thuộc đối tượng là hộ nghèo, trẻ em mồ côi, người nhiễm HIV/AIDS, người khuyết
tật, thương binh, người dân tộc thiểu số ở các xã đặc biệt khó khăn, xã biên giới...
- Chỉ đạo thực hiện, kiểm tra, giám sát kết quả, hiệu quả thực hiện các chế độ,
chính sách của HĐND, UBND tỉnh đối với người cai nghiện ma túy; người tham
gia quản lý, hỗ trợ và thực hiện nhiệm vụ cai nghiện ma túy tại các xã, phường,
trong đó có các chính sách đã ban hành bao gồm:
(i) Chế độ, chính sách đối với Đội công tác xã hội tình nguyện tại các xã,
phường (Nghị quyết số 107/2013/NQ-HĐND, ngày 20/12/2013 của HĐND tỉnh
Đăk Lăk).
(ii) Chế độ miễn, giảm chi phí đối với người nghiện ma túy cai nghiện bắt
buộc tại cộng đồng (Nghị quyết số 08/2018/NQ-HĐND, ngày 12/12/2018 của
HĐND tỉnh Đăk Lăk).
(iii) Chế độ hỗ trợ cán bộ theo dõi, quản lý đối tượng cai nghiện ma túy tại gia
đình và cai nghiện ma túy tại cộng đồng thuộc các xã, phường (quyết định số
17/2019/QĐ-UBND, ngày 30/7/2019 của UBND tỉnh Đăk Lăk).
(iv) Chế độ hỗ trợ chi phí đối với người cai nghiện ma túy tự nguyện tại gia
đình và cộng đồng; Chế độ hỗ trợ đối với người cai nghiện tự nguyện tại cơ sở cai
40
nghiện ma túy công lập (Nghị quyết số 13/2019/NQ-HĐND, ngày 06/12/2019 của
HĐND tỉnh Đăk Lăk) [27].
Xây dựng chương trình quản lý, giám sát, đánh giá công tác điều trị, cai
nghiện ma tuý:
- Bám sát thực trạng, diễn biến người nghiện tại từng địa bàn dân cư và xây
dựng chương trình, kế hoạch kiểm tra, đánh giá quá trình hoạt động qua đó chấn
chỉnh, đôn đốc, hướng dẫn thực hiện có hiệu quả công tác điều trị, cai nghiện và hỗ
trợ sau cai.
- Kiểm tra, hướng dẫn công tác lập, thẩm tra hồ sơ và đề nghị áp dụng các biện
pháp hành chính đối với người sử dụng trái phép chất ma tuý. Trong đó, có trình tự,
thủ tục, thẩm quyền lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện
bắt buộc.
- Ban hành văn bản chỉ đạo, điều hành, đôn đốc UBND các xã, phường thực
hiện các quy định pháp luật về cai nghiện tại gia đình, cai nghiện tại cộng đồng và
quản lý, giáo dục, hỗ trợ người sau cai nghiện.
- Triển khai thực hiện có hiệu quả hoạt động điều trị thay thế nghiện bằng thuốc
Methadone theo Nghị định số 90/2016/NĐ-CP, ngày 01/7/2016 của Chính phủ.
2.2.2. Ban hành văn bản quy phạm pháp luật về phòng, chống ma túy trên địa
bàn thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk
Cùng với các địa phương trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk, thị xã Buôn Hồ luôn chủ
động trong công tác phòng chống ma túy. Từ việc đề ra các chủ trương biện pháp
đến tăng cường nguồn lực cho cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm ma túy. Thị
ủy, UBND thị xã Buôn Hồ đã có sự chuẩn bị về phương tiện, cơ sở vật chất, kế
hoạch thực hiện khá toàn diện, phối hợp có hiệu quả trong việc triển khai thực hiên
chương trình mục tiêu 3 giảm, trong đó tập trung hàng đầu cho công tác phòng,
chống ma túy. HĐND đề ra nghị quyết, UBND, Công an thị xã ban hành các
chương trình, kế hoạch nhằm triển khai thực hiện quyết liệt, đồng bộ, thực chất, có
hiệu quả công tác phòng, chống ma túy trên địa bàn.
41
2.2.3. Phối hợp với các cơ quan, tổ chức trong quản lý Nhà nước về phòng,
chống ma túy
Phòng Lao động - Thương binh và Xã hội thị xã:
- Chủ trì, phối hợp với các ban, ngành, đoàn thể và UBND các xã, phường tổ
chức triển khai thực hiện kế hoạch này.
- Tăng cường hướng dẫn UBND các xã, phường xây dựng kế hoạch, thực hiện
có hiệu quả, thực chất nhiệm vụ cai nghiện tại gia đình, cai nghiện tại cộng đồng và
quản lý, giáo dục, hỗ trợ người sau cai nghiện.
- Tăng cường công tác phối hợp, đôn đốc các ngành chức năng đẩy nhanh
công tác lập, thẩm tra hồ sơ và đề nghị Tòa án nhân dân thị xã áp dụng biện pháp
đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc bảo đảm đúng trình tự, thủ tục, thẩm quyền theo
quy định của pháp luật.
- Tổ chức tập huấn và bồi dưỡng nghiệp vụ nâng cao năng lực quản lý cho cán
bộ làm công tác cai nghiện ma túy tại gia đình, cộng đồng và công tác quản lý sau
cai nghiện, Đội công tác xã hội tình nguyện. Đánh giá hiệu quả hoạt động của các
Đội công tác xã hội tình nguyện xã, phường trong công tác hỗ trợ, cảm hóa, vận
động, hỗ trợ, cai nghiện ma tuý tại gia đình, cộng đồng.
- Chủ trì, phối hợp với Công an, phòng Y tế thị xã và các ban ngành, đoàn thể
liên quan hướng dẫn, kiểm tra, giám sát việc thực hiện các chế độ chính sách đối
với người cai nghiện; tạo điều kiện cho những người đã cai nghiện có điều kiện tái
hòa nhập cộng đồng.
- Kiểm tra, hướng dẫn thực hiện công tác điều trị, cai nghiện, hỗ trợ sau cai
nghiện ma túy trên địa bàn thị xã và tham mưu UBND thị xã báo cáo đột xuất, định
kỳ và đề xuất giải quyết những vướng mắc với UBND tỉnh và Sở Lao động -
Thương binh và Xã hội trong quá trình triển khai thực hiện.
Công an thị xã:
- Chủ trì, phối hợp với các ban, ngành liên quan rà soát, thống kê, phân loại
người sử dụng, người nghiện ma túy đặc biệt là ma túy tổng hợp và sử dụng nhiều
loại ma túy, tổ chức các đợt cao điểm thu gom đối tượng nghiện ma túy lang thang
42
không có nơi cư trú nhất định và tổ chức quản lý người nghiện ma túy có hồ sơ
quản lý trên địa bàn thị xã.
- Chỉ đạo, hướng dẫn Công an xã, phường trong việc thu thập tài liệu, lập hồ
sơ đề nghị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường đưa vào cơ sở cai nghiện bắt
buộc theo quy định pháp luật.
- Chỉ đạo, hướng dẫn lực lượng Công an xã, phường phối hợp với cán bộ Y tế,
cán bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, các cơ quan và tổ chức chính trị - xã hội
giúp UBND xã, phường trong việc thu thập tài liệu, lập và thẩm tra hồ sơ người
nghiện ma túy để tổ chức cai nghiện tại gia đình, cai nghiện tại cộng đồng.
- Tăng cường công tác đấu tranh, triệt phá tội phạm ma túy; truy tìm đối tượng
bỏ trốn; đưa người phải chấp hành quyết định vào cơ sở cai nghiện bắt buộc; đảm
bảo an ninh trật tự tại các cơ sở cai nghiện ma túy, bao gồm: cơ sở công lập, cơ sở
ngoài công lập, cơ sở điều trị thay thế Methadone, tại gia đình và tại cộng đồng.
Phòng Y tế thị xã: Phối hợp với Trung tâm Y tế, Bệnh viện Đa khoa thị xã xác
định người nghiện ma túy, tham gia công tác cai nghiện ma túy tại gia đình và cộng
đồng. Chuẩn bị đầy đủ thuốc hỗ trợ cắt cơn, phục hồi chức năng cho người nghiện
ma túy trong quá trình cai nghiện; chủ động, tích cực tham gia có hiệu quả công tác
cai nghiện ma túy tại cộng đồng.
Phòng Giáo dục và Đào tạo thị xã và các trường trung học phổ thông trên địa
bàn thị xã: Chỉ đạo tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục phòng, chống ma
túy tại các trường học, các cấp học trên địa bàn thị xã. Phối hợp với phòng Lao
động – Thương binh và Xã hội thị xã, phòng Y tế thị xã và Công an thị xã tổ chức
phòng ngừa, đấu tranh phòng, chống tội phạm, tệ nạn xã hội tạo dựng môi trường
giáo dục lành mạnh, an toàn và không có tệ nạn ma túy.
Phòng Văn hóa – Thông tin thị xã và Đài Truyền thanh - Truyền hình thị xã:
- Đẩy mạnh việc thông tin tuyên truyền chính sách, pháp luật về phòng, chống
ma túy tạo sự đồng thuận của xã hội trong công tác này; tăng cường công tác kiểm
tra, giám sát nhằm phòng ngừa việc lợi dụng các phương tiện thông tin trong hoạt
động mua bán ma túy.
43
- Chỉ đạo công chức văn hóa xã, phường triển khai các hoạt động tuyên truyền
sâu rộng trong các tầng lớp nhân dân nhằm nâng cao nhận thức; ý thức chấp hành
pháp luật, trách nhiệm cá nhân trong phòng, chống, kiểm soát và cai nghiện ma túy,
các biện pháp dự phòng chữa trị cai nghiện.
- Xây dựng chuyên mục, thực hiện các phóng sự, đưa tin, tuyên truyền phổ
biến các văn bản pháp luật về phòng, chống tệ nạn ma túy; về các hoạt động hưởng
ứng về phòng, chống tệ nạn ma túy...
Ủy ban nhân dân các xã, phường:
- Xây dựng kế hoạch, bố trí kinh phí và tổ chức triển khai các hoạt động cai
nghiện ma túy tại gia đình, cộng đồng.
- Chỉ đạo Tổ công tác cai nghiện xây dựng kế hoạch và tổ chức cai nghiện ma
túy tại gia đình, cộng đồng. Thực hiện chế độ báo cáo, thống kê về công tác cai
nghiện ma túy theo quy định.
- Củng cố, nâng cao năng lực và hiệu quả hoạt động của Đội hoạt động xã hội
tình nguyện xã, phường.
- Thực hiện tốt việc thống kê, lập danh sách, hồ sơ người nghiện trên địa bàn
để có kế hoạch quản lý, cai nghiện, quản lý sau cai có hiệu quả; tổ chức triển khai
thực hiện áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường.
- Chỉ đạo lực lượng Công an phối hợp với các ngành, đoàn thể tại địa phương
lập hồ sơ áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường và đề nghị áp dụng biện pháp
cai nghiện ma túy bắt buộc đối với người sử dụng trái phép chất ma tuý; đồng thời
chỉ đạo các ngành, đoàn thể, tổ chức chính trị - xã hội tích cực phối hợp với gia
đình có người nghiện ma túy tham gia quản lý, hỗ trợ, giúp đỡ người nghiện trong
thời gian giáo dục tại xã, phường và trong thời gian lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện
pháp cai nghiện ma túy bắt buộc.
- Thành lập các câu lạc bộ, tổ chức các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục,
thể thao và các hoạt động xã hội khác nhằm giúp người điều trị, cai nghiện ma túy
phục hồi hành vi, nhân cách sớm hòa nhập cộng đồng.
44
- Hỗ trợ, tạo điều kiện cho người đã chấp hành xong quyết định cai nghiện ma
túy bắt buộc, người điều trị cai nghiện tự nguyện và những người lầm lỡ sử dụng
ma túy được tư vấn học nghề, tư vấn tìm việc làm, hỗ trợ chương trình tín dụng ưu
đãi để sản xuất - kinh doanh và tự tạo việc làm, đồng thời tạo thuận lợi trong việc
tiếp cận các dịch vụ y tế, xã hội và phòng, chống tái nghiện.
- Kiểm tra, giám sát hoạt động cai nghiện ma túy tại gia đình và cộng đồng;
định kỳ báo cáo kết quả thực hiện cho UBND thị xã (thông qua phòng Lao động –
Thương binh và Xã hội thị xã) để theo dõi, chỉ đạo.
Đề nghị các ngành, đoàn thể thị xã:
- Đề nghị ủy ban mặt trận tổ quốc Việt Nam thị xã và các tổ chức thành viên
theo chức năng nhiệm vụ phối hợp các cơ quan liên quan tuyên truyền, vận động
các tầng lớp Nhân dân tích cực tham gia công tác phòng, chống tệ nạn ma tuý; giảm
kỳ thị, phân biệt đối xử, hỗ trợ, giúp đỡ người sử dụng, người nghiện, người cai
nghiện ma túy và người sau cai nghiện.
- Đề nghị thị đoàn Buôn Hồ chủ động chỉ đạo các tổ chức Đoàn trực thuộc
trong toàn thị xã đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền, giáo dục, tư vấn, hỗ trợ, giúp đỡ
người nghiện ma túy điều trị, cai nghiện, tái hòa nhập cộng đồng; phối hợp với các
tổ chức, đoàn thể xây dựng các kế hoạch, chương trình có lồng ghép các hoạt động
dự phòng, can thiệp, giảm tác hại cho người nghiện ma túy trong thị xã, trong đó
chú trọng đến các nhóm đối tượng có nguy cơ cao như thanh thiếu niên, học sinh,
sinh viên…
- Đề nghị Tòa án nhân dân thị xã kịp thời xem xét hồ sơ, ra quyết định áp dụng
biện pháp xử lý hành chính đưa người nghiện ma túy vào cơ sở cai nghiện bắt buộc
theo quy định pháp luật.
- Đề nghị Viện kiểm sát nhân dân thị xã tiến hành kiểm sát chặt chẽ việc tuân
thủ theo pháp luật của các cơ quan được giao lập hồ sơ, quyết định áp dụng biện
pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, đảm bảo đúng trình tự,
thủ tục, thẩm quyền.
45
2.2.4. Xử lý vi phạm trong quản lý nhà nước về phòng, chống ma túy trên địa
bàn thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk
Thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm là công tác quan trọng nhằm đánh giá
tình hình và nhằm phát hiện những hạn chế tồn tại và xử lý những vi phạm trong
công tác quản lý nhà nước về phòng, chống ma túy. Điều 53 Luật phòng chống ma
túy năm 2000 quy định:
“Điều 53
1. Mọi hành vi vi phạm pháp luật về phòng, chống ma tuý phải được xử lý kịp
thời, nghiêm minh theo quy định của pháp luật; việc xử lý phải kiên quyết, công
khai và thông báo cho cơ quan, tổ chức, chính quyền cơ sở nơi người vi phạm làm
việc hoặc cư trú.
2. Người nào sử dụng tài sản, phương tiện của mình để chứa chấp hoặc tạo
điều kiện cho các hoạt động trái phép về ma tuý; không thực hiện hoặc thực hiện
không đầy đủ yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền về phòng, chống ma tuý; cản trở,
chống đối, xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm của người tố giác,
người làm chứng, người bị hại, người thi hành công vụ hoặc có hành vi khác vi
phạm các quy định của Luật này thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý
hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường
theo quy định của pháp luật.
3. Người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn vi phạm các quy định của Luật này
trong khi thi hành nhiệm vụ về phòng, chống ma tuý thì tuỳ theo tính chất, mức độ
vi phạm mà bị xử lý kỷ luật hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì
phải bồi thường theo quy định của pháp luật.” [20].
Thời điểm từ năm 2017-2020, trên địa bàn thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk chủ
yếu xử lý vi phạm hành chính về phòng, chống và kiểm soát ma túy đối với hành vi
người chủ hoặc người có trách nhiệm quản lý nhà hàng, cơ sở cho thuê lưu trú, câu
lạc bộ, các phương tiện giao thông và các nơi khác để cho người khác lợi dụng sử
dụng chất ma túy trong khu vực, phương tiện mình quản lý theo nghị định
167/2013/NĐ-CP ngày 12 tháng 11 năm 2013, quy định xử phạt vi phạm hành
46
chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội;
phòng cháy và chữa cháy; phòng, chống bạo lực gia đình với mức phạt từ 2.000.000
đồng đến 10.000.000 đồng. Phổ biến là các chủ nhà trọ, khách sạn, nhà nghỉ để cho
các đối tượng sử dụng chất ma túy trong khu vực, đại điểm do mình quản lý.
2.3. Những hạn chế, nguyên nhân và kết quả đạt được trong công tác
quản lý nhà nước về phòng, chống ma túy
2.3.1. Hạn chế
Các đối tượng hoạt động phạm tội về ma túy ngày càng có nhiều thủ đoạn hoạt
động, tinh vi, xảo quyệt, manh động để đối phó, chống đối lực lượng Cảnh sát điều
tra tội phạm về ma túy. Quá trình đấu tranh bắt quả tang các đối tượng không khai
nhận hành vi gây khó khăn trong công tác điều tra. Bắt quả tang các đối tượng hoạt
động phạm tội về ma túy có khả năng lây nhiễm HIV cho lực lượng bắt. Hiện chưa
có sẵn thuốc phơi nhiễm và xét nghiệm định kỳ cho lực lượng Cảnh sát điều tra tội
phạm về ma túy.
Việc xét nghiệm ma túy các đối tượng gặp nhiều khó khăn do các đối tượng
thường chống đối, né tránh. Việc tạm giữ các đối tượng để xác định tình trạng
nghiện ma túy phục vụ cho công tác lập hồ sơ chưa được pháp luật quy định. Đa số
việc xác định tình trạng nghiện ma túy còn thực hiện mang tính hình thức.
Nghị định 112/NĐ -CP ngày 02/10/2013 của Chính Phủ quy định về hình thức
áp giải người vi phạm nhưng chưa có quy định áp giải đối với đối tượng có quyết
định của Tòa án về đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Việc đưa đối tượng đi cơ sở
cai nghiện bắt buộc gặp khó khăn và nguy hiểm. Việc triển khai thực hiện dự án
“Xây dựng xã, phường thị trấn không có tệ nạn ma túy” tuy có triển khai thực hiện
nhưng chưa được các ban ngành đoàn thể quan tâm, chưa thực hiện đồng bộ nên kết
quả không cao.
Sau khi có quyết định của Tòa án đối tượng thường bỏ trốn dẫn đến phát sinh
thông báo truy tìm. Chưa có quy định cụ thể về việc tạm giữ hành chính đối tượng
có quyết định của Tòa án, về áp giải các đối tượng trong trường hợp tìm thấy đối
47
tượng bỏ trốn, chưa có quy định về thời hiện đối với các đội tượng đã bị áp dụng
biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc nhưng trốn không thi hành.
Kinh phí cho công tác xét nghiệm ma túy đối với người nghi sử dụng ma túy
và kinh phí trong xét nghiệm HIV trong trường hợp lực lượng Cảnh sát điều tra tội
phạm về ma túy bắt quả tang, tiếp xúc trực tiếp máu nghi có HIV của các đối tượng
ma túy còn hạn chế và chưa có văn bản quy định từng trường hợp cụ thể.
Lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy chưa được cấp các trang thiết
bị, dụng cụ để thử chất ma túy, thử nhanh nước tiểu tìm chất ma túy. Chưa được cấp
các trang bị để bảo vệ cơ thể để phòng tránh lây nhiễm HIV.
Tình trạng sử dụng ma túy tổng hợp tại các cơ sở kinh doanh có điều kiện về
an ninh trật tự như: Karaoke, Nhà trọ, Nhà nghỉ, Khách sạn rất khó kiểm soát, phát
hiện. Các vụ sử dụng trái phép chất ma túy được phát hiện, xử lý đa phần là do thực
hiện các biện pháp nghiệp vụ. Lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy chưa
được luật hóa để tiến hành các biện kiểm tra định kỳ công khai để ngăn ngừa hoạt
động tệ nạn và phạm tội về ma túy.
Bệnh viện đa khoa cấp huyện toàn tỉnh Đăk Lăk nói chung và Bệnh viện đa
khoa thị xã Buôn Hồ nói riêng chưa xét nghiệm và xác định tình trạng nghiện được
số đối tượng sử dụng các loại ma túy mới xuất hiện trên địa bàn thị xã như: Cỏ mỹ,
bóng cười, nước vui. Dẫn tới chưa xử lý các đối tượng sử dụng các loại ma túy mới.
Tâm lí bao che, bảo vệ thành viên gia đình của người nhà các đối tượng
nghiện. Thực tế nhiều gia đình bao che cho thành viên gia đình đến mức người
nghiện nặng, có biểu hiện ăn trộm thì mới báo cơ quan Công an. Chưa có chế tài
pháp luật xử lý hành vi không chấp hành xét nghiệm ma túy, hành vi bao che đối
tượng liên quan đến ma túy. Công tác hỗ trợ các vấn đề xã hội sau cai nghiện ma
tuý còn nhiều hạn chế, số người sau cai nghiện được học nghề, dạy nghề, tạo việc
làm, hỗ trợ vay vốn tín dụng ưu đãi… chưa đạt chỉ tiêu so với kế hoạch đề ra. Chủ
yếu là người đang cai nghiện được bố trí lao động trị liệu, dạy nghề và cấp chứng
chỉ sơ cấp đối với những nghề giản đơn tại Cơ sở điều trị, cai nghiện ma túy tỉnh
Đắk Lắk.
48
Công tác tuyên truyền phòng chống tội phạm về ma túy đã được chú trọng
thực hiện thường xuyên liên tục. Nhưng phải nhìn thẳng thực tế biện pháp phòng
ngừa xã hội này có hai mặt tích cực và tiêu cực. Nếu tuyên truyền đến công dân
chấp hành tốt pháp luật thì hiệu quả tích cực. Trường hợp tuyên truyền đến một bộ
phận nhỏ công dân không có ý thức chấp hành pháp luật sẽ dẫn tới tò mò về chất ma
túy, coi sử dụng ma túy để thể hiện bản thân, coi phạm tội về ma túy là biện pháp để
mưu sinh, kiếm sống và một số đối tượng phạm tội sẽ hoạt động tinh vi hơn.
Kinh phí cho công tác phòng chống ma túy tuy đã được quan tâm nhưng còn
thiếu so với thực tế. Kinh phí xét nghiệm chất ma túy, kinh phí đưa đối tượng đi cai
nghiện bắt buộc, kinh phí cho cán bộ quản lý giáo dục đối tượng nghiện theo Nghị
định 111/2013 ngày 30/9/2013 của Chính phủ về quy định chế độ áp dụng biện
pháp xử lý hành chính giáo dục tại xã, phường chưa sẵn nguồn bố trí.
Qua giám sát, Ban Pháp chế hội đồng nhân dân thị xã Buôn Hồ cũng đã chỉ ra
nhiều hạn chế về công tác cai nghiện và quản lý sau cai nghiện ma túy, đó là: Hệ
thống văn bản quy định liên quan đến công tác phòng, chống ma túy và cai nghiện
ma túy được ban hành tương đối đầy đủ. Tuy nhiên, quá trình triển khai thực hiện,
phát sinh những bất cập, chưa phù hợp với tình hình thực tế ở địa phương; công tác
cai nghiện ma túy tại gia đình và cộng đồng hiệu quả chưa cao. Các xã, phường, thị
trấn chưa thành lập tổ công tác cai nghiện tại gia đình theo Nghị định 94/2010/NĐ-
CP. Cấp ủy, chính quyền địa phương ở một số nơi chưa thật sự coi trọng trong công
tác cai nghiện ma túy và quản lý sau cai nghiện, địa phương chưa đề ra những biện
pháp, giải pháp cụ thể, khả thi để thực hiện có hiệu quả mặt công tác này; còn hiện
tượng khoán trắng cho ngành Công an. Công tác quản lý, giám sát các đối tượng
còn lỏng lẻo, chưa chú trọng giúp đỡ, giáo dục người nghiện ma túy tái hòa nhập
cộng đồng, tình trạng kỳ thị vẫn còn diễn ra trong cộng đồng, đây là một trong
những nguyên nhân dẫn đến tình trạng tái nghiện. Các chương trình an sinh xã hội
như xóa đói, giảm nghèo, học nghề, tạo việc làm, hỗ trợ vay vốn cho các đối tượng
này còn hạn chế... dẫn đến, tỷ lệ người tái nghiện còn cao.
2.3.2. Nguyên nhân
49
Nguyên nhân của tệ nạn ma túy ở nước ta có rất nhiều, nhưng một trong
những nguyên nhân đầu tiên và quan trọng, đó là việc phân công quản lý nhà nước
về phòng, chống ma túy chưa hợp lý và điều này cần được tháo gỡ ở tầm quốc gia,
Chính phủ. Thời gian qua, tình hình tội phạm và tệ nạn ma túy trên địa bàn cả nước
nói chung và thị xã Buôn Hồ có nhiều diễn biến phức tạp, tội phạm không chỉ tập
trung ở thành thị mà đã phát triển ở hầu hết các địa bàn nông thôn; loại ma túy
thẩm lậu vào nước ta chủ yếu là Heroin, các loại ma túy tổng hợp và các loại chất
gây nghiện. Nhiều vụ ma túy được phát hiện, bắt giữ với số lượng ma túy lớn,
nhiều đối tượng.
Người nghiện gia tăng, tạo ra nhu cầu sử dụng ma tuý rất lớn, càng kích thích
số đối tượng mua bán, vận chuyển ma tuý từ nước ngoài vào nước ta. Tệ nạn ma túy
cũng là nguyên nhân chủ yếu làm gia tăng tệ nạn xã hội và lây nhiễm HIV/AIDS,
gây ra những hậu quả nghiêm trọng về kinh tế, xã hội và sức khỏe cộng đồng; trở
thành hiểm họa lớn, đe dọa giống nòi, gây mất ổn định chính trị - xã hội… Gần đây
là hiện tượng “ngáo đá” gây lo lắng cho xã hội.
Công tác phòng chống ma tuý hiện nay vẫn còn tồn tại một số hạn chế như: Số
lượng cán bộ chuyên trách làm công tác còn thiếu so với tình hình thực tế, nhất là
tại các địa bàn trọng điểm, phổ biến về tệ nạn ma túy; trình độ chuyên môn, nghiệp
vụ của cán bộ cơ sở chưa đồng đều, trang thiết bị còn hạn chế, lạc hậu so với các
nước trên thế giới; đặc biệt là những hạn chế, vướng mắc trong thi hành pháp luật
về phòng, chống ma túy…
Trong công tác cai nghiện, trên thực tế, nhiều địa phương, chính quyền đã có
những cách làm khác nhau trong việc quản lý các Trung tâm cai nghiện như phần
lớn các địa phương giao việc quản lý các cơ sở chữa bệnh cho người nghiện ma tuý
cho ngành Lao động - Thương binh và Xã hội quản lý;
Công tác tuyên truyền, phòng ngừa đã có chuyển biến tích cực nhưng chưa
hiệu quả mạnh mẽ. Việc tuyên truyền phòng, chống ma túy cho các đối tượng
nghiện và có nguy cơ nghiện cao còn hạn chế. Hiện nay, việc tuyên truyền, giáo dục
phòng, chống ma túy của các Bộ, ngành hoàn toàn là kiêm nhiệm, chúng ta thiếu
50
các cơ quan hướng dẫn tuyên truyền giáo dục chuyên trách về phòng, chống ma túy.
Công tác giảm cầu, tuyên truyền giáo dục phòng, chống ma túy trong nhà trường,
trong cán bộ công nhân viên chức, trên các tuyến giao thông vận tải... rất hạn chế.
2.3.3. Kết quả đạt được
Làm tốt công tác tham mưu cho cấp ủy, chính quyền chỉ đạo đẩy mạnh thực
hiện Chỉ thị 21/CT – TW ngày 26/03/2008 của Bộ Chính trị về “tiếp tục tăng
cường lãnh đạo, chỉ đạo công tác phòng, chống và kiểm soát ma túy trong tình hình
mới” [2] nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị trong phòng,
chống tội phạm về ma túy đảm bảo trật tự an toàn xã hội.
Ngành Công an quản lý ngày càng tốt hơn các đối tượng đã cai nghiện ma tuý,
từng bước nắm bắt và quản lý chặt chẽ những người nghiện tái nghiện nhiều lần, có
tiền án, tiền sự với tư cách là những người vi phạm pháp luật và tội phạm.
Tại Công an phường, xã đã thành lập Tổ Cảnh sát phòng, chống ma túy tập
trung vào phát hiện các đường dây, ổ nhóm mua bán ma tuý, đấu tranh chống tổ
chức sử dụng và sử dụng ma túy, giám sát việc cai nghiện ma túy tại cộng đồng và
gia đình, quản lý sau cai nghiện;
Phòng lao động thương binh và xã hội làm tốt công tác lập hồ sơ cai nghiện và
đưa người nghiện ma tuý vào các Cơ sở chữa bệnh theo quy định của Luật xử lý vi
phạm hành chính. Phân công cán bộ Công an phối hợp với Trạm Y tế, tổ trưởng
dân phố, trưởng bản, trưởng thôn, trưởng xóm, gia đình và các đoàn thể xã hội
giám sát quản lý từng người nghiện ma túy và các đối tượng phạm tội về ma tuý
tại cộng đồng.
Tiểu kết chương 2
Dự báo trong thời gian tới tình hình tội phạm và tệ nạn ma túy tiếp tục diễn
biến phức tạp, đối tượng lợi dụng nhà hàng, khách sạn, quán karaoke… để tổ chức
sử dụng ma túy tổng hợp, gây khó khăn cho công tác phòng ngừa, đấu tranh. Để
kiềm chế, kiểm soát tình hình tội phạm, tệ nạn ma túy, thời gian tới, lực lượng các
cấp,các ngành cần chủ động nắm tình hình, triển khai đồng bộ các biện pháp
nghiệp vụ, mở nhiều đợt cao điểm tấn công, trấn áp tội phạm, nhất là tại những địa
51
bàn trọng điểm, phức tạp. Qua việc phân tích, đánh giá thực trạng quản lý nhà nước
về phòng, chống ma túy cho thấy công tác phòng chống tội phạm và tệ nạn ma túy
liên quan đến nhiều chủ thể, đối tượng trong toàn hệ thống chính trị. Kết quả cho
thấy thực trạng tệ nạn ma túy trên địa bàn thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk vừa cho
thấy kết quả quản lý nhà nước trên cả phương diện hiệu lực và hiệu quả, vừa chỉ ra
những tồn tại hạn chế để khắc phục công tác này. Đồng thời cho thấy nguyên nhân
chủ quan và khách quan ảnh hưởng đến những tồn tại, hạn chế trong quản lý nhà
nước phòng, chống ma túy.
52
Chương 3
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
VỀ PHÒNG, CHỐNG MA TÚY TRÊN ĐỊA BÀN THỊ XÃ BUÔN HỒ, TỈNH
ĐẮK LẮK
3.1. Dự báo tình hình ma túy ở thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk
3.1.1. Những tác động tích cực
Chính sách mở cửa hội nhập, thu hút đầu tư nước ngoài, đẩy mạnh phát triển
kinh tế - văn hóa - xã hội, công tác đầu tư cho giáo dục được chú trọng, đời sống
người dân được nâng cao. Công tác quán lý cai nghiện và sau cai nghiện, giải quyết
hỗ trợ việc làm cho người sau cai nghiện thời gian qua tại địa bàn thị xã Buôn Hồ
đã có nhiều cố gắng, đạt được kết quả nhất định. Các chương trình hợp tác quốc tế
về phòng chống ma tứy đã và đang được tiến hành, các chương trình phòng, chống
ma túy bước đầu đạt được những kết quả nhất định góp phần nâng cao khả năng đấu
tranh phòng, chống tội phạm tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép, chiếm đoạt
chất ma túy và tệ nạn ma túy trong thời gian tới.
Trong thời gian qua, công tác đấu tranh phòng, chống ma túy đã đạt được
những thành tựu nhất định. Qua đó, các cơ quan chức năng đã đánh giá được mức
độ nguy hiểm tính phức tạp của tội phạm trong từng thời kì và rút ra được nhiều
kinh nghiệm phục vụ công tác phòng ngừa trong tương lai. Bên cạnh việc phát huy
sức mạnh nội lực và không ngừng mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế về phòng,
chống và kiểm soát ma túy, đặc biệt với các nước láng giềng và các nước trong khu
vực là điều kiện tốt để đạt được hiệu quả cao trong đấu tranh.
3.1.2. Những tác động tiêu cực
Thực hiện chính sách mở cửa hội nhập bên cạnh tiếp thu khoa học - kĩ thuật
thu hút đầu tư, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại thì những tác động tiêu cực của
nền kinh tế thị trường, của văn hóa phương Tây đã ảnh hưởng xấu đến tư tưởng
quan điểm sống của một bộ phận dân cư. Bên cạnh đó là tình trạng nhập cư ồ ạt, đói
nghèo, thất nghiệp, tệ nạn cờ bạc, rượu chè, mại dâm...là nguyên nhân làm cho tình
hình tội phạm ma túy ngày càng gia tăng và diễn biến phức tạp hơn. Do chịu ảnh
53
hưởng trực tiếp tình hình tội phạm và tệ nạn ma túy trong khu vực, trên thế giới,
tình hình hoạt động tội phạm ma túy ở nước ta diễn biến hết sức phức tạp. Các
đường dây vận chuyển ma túy vào Việt Nam không chỉ từ các nước láng giềng,
trong khu vực, các nước ASEAN, Châu Á, mà còn từ các nước thuộc các châu lục
khác như Bắc Mỹ, Châu Âu. Đặc biệt, nghiêm trọng hơn là nhiều băng nhóm tội
phạm ma túy cấu kết chặt chẽ với nhau hoạt động theo kiểu “xã hội đen” để vận
chuyển trái phép chất ma túy vào nước ta với tính chất, thủ đoạn ngày càng tinh vi,
xảo quyệt.
3.1.3. Dự báo những khó khăn và thách thức trong phòng chống ma túy ở thị
xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk
Sự phát triển của bất kỳ ngành khoa học nào cũng đều trải qua các giai đoạn
như sau: Đầu tiên là mô tả hiện tượng, tiếp đến là giải thích hiện tượng và cuối cùng
là dự báo hiện tượng. Cùng với sự phát triển về khoa học tri thức cũng như của nền
kinh tế - xã hội mà khoa học dự báo ngày càng được quan tâm, chú trọng, theo đó
các nhà quản lý sử dụng và phát triển khoa học dự báo hiện đại, hoàn thiện hơn. Khi
nghiên cứu xã hội học, thuật ngữ dự báo được sử dụng để biểu thị tình hình cụ thể
của mỗi hiện tượng. Qua đó, các nhà nghiên cứu thu nhận được những thông tin đầy
đủ, cụ thể về trạng thái trong tương lai của một khách thể xã hội nào đó để xâ dựng
các chương trình, kế hoạch cho phù hợp. Dự báo tình hình tội phạm hay tệ nạn về
ma túy thực chất là phán đoán khả năng của tình hình tội phạm hay tệ nạn trong
tương lai, về chiều hướng phát triển, gia tăng hay nguyên nhân làm phát sinh mới.
Từ đó tạo tiền đề, cơ sở để xây dựng các chương trình và kế hoạch phòng ngừa
trong phạm vi cả nước, từng địa phương hay từng khu vực địa lý nhất định. Trên cơ
sở xây dựng các chương trình và kế hoạch phòng ngừa trong phạm vi vĩ mô là cơ sở
hình thành nhiệm vụ, phương hướng phòng ngừa cụ thể.
Tình hình tội phạm và tệ nạn, ma túy trên toàn thế thế giới và trong khu vực
diễn biến phức tạp, tác động không nhỏ đến tình hình tội phạm và tệ nạn, ma túy ở
nước ta, tiềm ẩn nhiều yếu tố khó lường. Theo đó, trên thế giớ và ở nước ta bắt đầu
xuất hiện của nhiều loại ma túy tổng hợp mới, phương thức sản xuất khá đa dạng,
54
công thức đơn giản. Không chỉ nhiều loại ma túy tổng hợp mới xuất hiện mà các
chất hướng thần mới cũng gia tăng ở hầu hết các quốc gia trong khu vực và trên thế
giới. Tạo thành xu hướng toàn cầu và rất khó kiểm soát. Châu Á là nền kinh tế đang
phát triển, nền văn hóa và dân cư khá đa dạng tạo thành thị trường tiêu thụ các loại
ma túy tổng hợp và các chất hướng thần rộng lớn, khó kiểm soát. Cùng với xu
hướng gia tăng trong khu vực, ở Đông Nam Á ngoài sự gia tăng trong việc sản xuất
các loại ma túy tổng hợp, các chất hướng thần thì hiện tượng trồng cây cần sa trên
diện tích lớn, cùng với sản lượng thuốc phiện liên tục gia tăng và phổ biến. Vùng
Tam giác vàng hình thành khá lâu đời và tiếp tục trở thành trung tâm tàng trữ, sản
xuất, vận chuyển ma túy lớn của khu vực và thế giới. Tuy một số đường dây vận
chuyển cocaine từ các nước Mỹ La-tinh vào thị trường Đông Nam Á đã được phát
hiện, triệt phá song con số này không lớn. Cho thấy thị trường ma túy ở khu vực
Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam là mục tiêu hướng tới của các đối tượng sản
xuất, buôn bán ma túy trái phép. Cộng đồng ASEAN hình thành tạo điều kiện thuận
lợi cho sự phát triển kinh tế và thương trong khu vực với nhiều chính sách thông
thoáng nhưng đây cũng chính là kẽ hở tạo điều kiện để tình hình tội phạm, tệ nạn
ma túy lợi dụng để hoạt động. Ngoài ra ở một số quốc gia bắt đầu xuất hiện khuynh
hướng muốn hợp pháp hóa việc sử dụng và lưu hành một số loại ma túy. Điều này
tạo nên tác động trái chiều, tiêu cực làm ảnh hưởng đến tư tưởng và việc đề ra
những chiến lược và quyết sách về phòng, chống ma túy tại nước ta.
Với chiều hướng gia tăng về tình hình, phương thức sản xuất, buôn bán, vận
chuyển ma túy trên thế giới. Do vậy các nhà nghiên cứu dự báo tình hình sản xuất,
buôn bán, vận chuyển ma túy ở nước ta vẫn diễn biến phức tạp, khó lường, biểu
hiện qua các phương diện sau:
Với nguồn lợi nhuận khá cao từ ma túy nên các đối tượng hoạt động trong lĩnh
vực này sử dụng phương tiện giao thông, liên lạc khá hiện đại, chúng sử dụng cả vũ
khí quân dụng; khi bị phát hiện, truy đuổi, bắt giữ luôn sẵn sàng chủ động chống trả
quyết liệt để tẩu thoát. Chúng sử dụng nhiều phương thức, thủ đoạn tinh vi và
thường xuyên thay đổi thay đổi địa điểm sản xuất, vận chuyển để che mắt các cơ
55
quan chức năng. Ngoài tác động của nhu cầu trong nước và siêu lợi nhuận thụ được
từ mua bán, vận chuyển ma túy thì vị trí địa lý ở nước ta cũng ảnh hưởng lớn đến
việc hình thành các đường dây mua bán, vận chuyển ma túy trong khu vực và xuyên
quốc gia. Tuy có khoảng 20% lượng ma túy thẩm lậu vào nước ta được sử dụng
nhưng các đội tượng này tiếp tục hoạt động mạnh mẽ nhằm biến nước ta thành thị
trường tiêu thụ và trung chuyển các chất ma túy, chất hướng thần. Phổ biến rộng rãi
trên tất cả các tuyến đường bộ, đường hàng không, đường biển... trên nhiều địa bàn,
đặc biệt là ở các địa bàn có đường biên giới với các nước trong khu vực.
Phạm vi tác động của tệ nạn ma túy rất rộng lớn, bao trùm toàn xã hội và chưa
có chiều hướng giảm, Không chỉ tác động tiêu cực tới tình hình trị an trong cả nước
mà còn tác động tiêu cực đến tình hình quốc phòng - an ninh, i và các chính sách
kinh tế - xã hội, văn hóa - giáo dục trong cả nước. Số lượng người nghiện ma túy
trong cả nước tương đối lớn. Thành phần, tầng lớp người nghiện ma túy khá đa
dạng về độ tuổi, nghề nghiệp... Kéo theo sự gia tăng tỷ lệ những người nghiện, sử
dụng ma túy phạm các tội hình sự khác tăng cao như trộm cắp, cướp, cướp giật...
Cùng với sự xuất hiện của nhiều loại ma túy mới thì số người nghiện, sử dụng ma
túy tổng hợp mới cũng có xu hướng gia tăng, nhiều loại ma túy mới gây ảo giác và
kích thích mạnh làm cho người nghiện, sử dụng ma túy này bị về hạn chế năng lực
điều hiển hành vi, thường phạm những tội đặc biệt nghiêm trọng, gây hoang mang,
bất ổn trong dư luận xã hội.
Trước khi có sự xuất hiện của nhiều loại ma tý tổng hợp thì tình trạng trồng
cây thuốc phiện có chứa chất ma túy ở nước ta diễn ra khá phổ biến, đặc biệt là ở
các khu vực miền núi. Trong những năng gần đây Đảng, nhà nước ta đã thực hiện
nhiều biện pháp để kiểm soát và ở hạn chế ở mức thấp nhất tình trạng trồng, sản
xuất trái phép chất ma túy nhưng vẫn còn tiềm ẩn những quy cơ và diễn biến phức
tạp mà chủ yếu là do các yếu tố kinh tế, xã hội tác động ngược trở lại như: Trong
quản lý nhà nước ở một số lĩnh vực còn bộc lộ nhiều hạn chế, yếu kém. Trong vùng
đồng bào dân tộc thiểu số còn gặp nhiều khó khăn về kinh tế cùng với truyền thống
và kinh nghiệm canh tác dẫn đến tình trạng di dân tự do và trồng cây thuốc phiện.
56
Tội phạm về ma túy lợi dụng triệt để sự phát triển của khoa học - kỹ thuật cũng như
sự kém hiểu biết của nhân dân để phát triển mạng lưới ma túy trái phép.
Xuất hiện nhiều loại ma túy như Heroin, Methamphetamine, thuộc phiện và
Cần sa. Các loại ma túy vận chuyển vào Đắk Lắk chủ yếu qua đường bộ, cá biệt có
trường hợp gửi qua đường bưu điện. Phương thức hoạt động của các đối tượng ngày
càng tinh vi, sảo quyệt và manh động hơn, ma túy được vận chuyển với số lượng
lớn hơn, hình thành các đường dây mua bán liên tỉnh.
Tình trạng mua bán nhỏ lẻ, tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy diễn ra khá
phức tạp, tại các nhà nghỉ, nơi công cộng và tại các gia đình. Đáng báo động có một
số vụ có sự tham gia của các em học sinh.
Tình trạng trồng cây có chứa chất ma túy (chủ yếu là cây Cần sa) diễn biến
phức tạp, ngoài việc trồng cây cần sa xen kẽ với các loại cây trồng khác đã xuất
hiện việc trồng cây cần sa với diện tích lớn trên 2000m2. Đối tượng phạm tội ma túy
chủ yếu là nam giới, lứa tuổi từ 18 đến 45 trong đó có đối tượng chưa thành niên,
nghề nghiệp không ổn định; phần lớn các đối tượng bị phát hiện là người nghiện ma
túy. Thủ đoạn phạm tội rất đa dạng, song phần lớn người nghiện mua ma túy về sử
dụng sau đó làm quen với đường dây, rồi lấy ma túy về bán để kiếm lời lấy ma túy
sử dụng. Các đối tượng trong đường dây ma túy hoạt động bí mật và tính tổ chức
chặt chẽ nên khi một đối tượng trong đường dây bị phát hiện chúng thường không
khai đồng bọn nên trong quá trình điều tra thường chỉ phát hiện được một đối tượng
còn những đối tượng khác không bị phát hiện. Do lợi nhuận của việc mua bán ma
túy cao nên dù đã áp dụng hình phạt rất cao cũng không phát huy được tính răn đe
và phòng ngừa. Thực tế có gia đình sau khi con đi tù thì người mẹ lại đứng ra bán
ma túy; chồng đi tù thì vợ lại tiếp tục bán ma túy… Hoạt động cung cấp ma túy
thường diễn ra di động để tránh sự theo dõi của cơ quan pháp luật. Thường khi có
nhu cầu mua thì các đối tượng liên hệ với nhau để hẹn địa điểm mua bán, cũng có
nhiều đối tượng không trực tiếp gặp nhau mà gửi tiền qua nhà xe rồi đóng hàng và
bí mật giấu ma túy bên trong thùng hàng để gửi qua xe khách.
57
Hiện nay loại ma túy các đối tượng thường sử dụng là Hêrôin, thuộc loại ma
túy “nặng” có mức độ gây kích thích cao và rất dễ gây nghiện, chỉ cần sử dụng một
vài lần là đã có thể nghiện. Nguồn ma túy chủ yếu do các đối tượng đưa từ các tỉnh
phía Bắc như Cao Bằng, Thái Nguyên, Bắc Ninh, Nam Định, Ninh Bình, Hải Phòng
được vận chuyển chủ yếu bằng đường bộ.
Tỉnh Đắk Lắk nói chung, thị xã Buôn Hồ nói riêng có địa bàn rộng, có đường
Quốc lộ 14 đi qua nối liền giữa các tỉnh duyên hải miền Trung và Tây Nguyên, giao
thông đường bộ thuận lợi cho việc đi lại giữa các tỉnh miền Bắc và miền Nam, dân
số đa dạng từ hầu khắp các vùng miền di cư đến sinh sống vì vậy việc vận chuyển
ma túy từ các tỉnh thành phố lớn trong cả nước đến rất dễ dàng. Song song với sự
phát triển của nền kinh tế của tỉnh thì tốc độ đô thị hóa quá nhanh, xã hội có sự phát
triển vượt bậc thì khi năng lực quản lý của chính quyền địa phương chưa đáp ứng
được yêu cầu phát triển đã dẫn đến sự buông lỏng quản lý, thiếu văn bản quy phạm
pháp luật và thiếu cương quyết trong việc thực hiện chủ trương, chính sách của
Đảng, Nhà nước đã dẫn đến việc hình thành, khá nhiều địa bàn thuận lợi cho hoạt
động tội phạm. Việc mua bán ma túy thu lợi nhuận rất cao nên không dễ gì làm cho
người mua bán, vận chuyển ma túy từ bỏ được việc hành nghề để thu lợi nhuận. Số
người nghiện ma túy tăng cao nhất là sau khi Bộ luật hình sự bỏ tội sử dụng trái
phép chất ma túy.
Dự báo tình hình tội phạm trong thời gian tới: tình hình tội phạm ma túy tiếp
tục diển biến phức tạp và có chiều hướng tăng, các đối tượng hoạt động tinh vi hơn
và tìm mọi cách để che dấu hành vi phạm tội của mình, sẽ có nhiều loại ma túy mới
xuất hiện, việc mua bán, giao nhận ma túy của đối tượng diển ra nhanh chóng sau
khi dùng điện thoại di động để mua bán với nhau, để ma túy ở một địa điểm nào đó
rồi giao nhận gây khó khăn cho việc bắt quả tang, xử lý theo quy định pháp luật.
Người nghiện ma túy ở địa bàn thị xã Buôn Hồ chủ yếu đi ra ngoài địa bàn để mua
ma túy về sử dụng. Tội phạm, tệ nạn về ma túy trên địa bàn thị xã Buôn Hồ có thể
tăng trong thời gian tới và liên quan đến tội phạm hình sự như trộm cắp, cướp, cướp
giật, cưỡng đoạt tài sản….
58
3.2. Định hướng, quan điểm, chủ trương phòng, chống ma túy trên địa
bàn thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk
3.2.1. Quan điểm và phương hướng chỉ đạo
Công tác phòng, chống và kiểm soát ma túy nói chung, cai nghiện ma túy nói
riêng phải đặt dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của cấp ủy, quản lý điều hành của
chính quyền, tham gia phối hợp của Mặt trận Tổ quốc các cấp và huy động sức
mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và toàn dân. Trong đó, người đứng đầu
phải nhận thức đầy đủ vai trò, trách nhiệm và chỉ đạo thực hiện quyết liệt, nghiêm
túc, có hiệu quả Chỉ thị số 36-CT/TW, ngày 16/8/2019 của Ban chấp hành Trung
ương về tăng cường, nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống và kiểm soát ma túy.
Tổ chức triển khai các biện pháp phòng, chống ma túy kết hợp với tổ chức tuyên
truyền, kiến thức về phòng, chống ma túy và giáo dục tầng lớp thanh thiếu niên để
nắm được tác hại cảu ma túy thông qua phương tiện truyền thông, tuyên truyền trực
tiếp. Xây dựng nội dung phù hợp từng đại phương vùng, miền, độ tuổi và từng loại
đối tượng. Nêu ra những ví dụ cụ thể về tác hại và xu hướng sử dụng ma túy tổng
hợp, chất hướng thần và một số chất ma túy mới. Khuyến khích để nhân rộng các
mô hình phòng, chống ma túy có hiệu quả ở các địa bàn trọng điểm về ma túy;
Ngoài tuyên truyền, phổ biến biện pháp phòng, chống ma túy, chú ý lồng ghép các
chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước.
3.2.2. Những mục tiêu, định hướng và nhiệm vụ
Xác định phòng, chống và kiểm soát ma tuý là nhiệm vụ vừa trọng tâm, vừa
cấp bách, vừa thường xuyên, liên tục, lâu dài; tiếp tục quán triệt và thực hiện
nghiêm túc các Chỉ thị, Nghị quyết của Trung ương Đảng, Quốc hội, Chính phủ về
phòng, chống và kiểm soát ma túy, nhất là Kết luận số 95-KL/TW của Ban Bí thư
về tiếp tục thực hiện Chỉ thị 21-CT/TW của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo,
chỉ đạo công tác phòng, chống và kiểm soát ma túy trong tình hình mới; tiếp tục
thực hiện tốt các mục tiêu, yêu cầu, nhiệm vụ, giải pháp được đề ra trong Kế hoạch
thực hiện Chiến lược phòng chống, kiểm soát ma túy đến năm 2020 và định hướng
đến năm 2030 trên địa bàn thị xã; lồng ghép với các Chương trình, kế hoạch phát
59
triển kinh tế - văn hóa - xã hội của thị xã, các chính sách an sinh xã hội, Chương
trình Giảm nghèo, tăng hộ khá…đề cao trách nhiệm, kiểm điểm và xử lý nghiêm
minh về trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy, chính quyền địa phương, đơn vị
để xảy ra tình hình phức tạp về ma túy kéo dài; tăng cường thực hiện chức năng
giám sát của HĐND thị xã, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị thị xã; phát
huy tính gương mẫu của cán bộ, đảng viên, không để con em sa vào ma túy, vi
phạm pháp luật.
Nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về an ninh, trật tự trên
địa bàn thị xã, nhất là quản lý tiền chất ma túy, tăng cường các hoạt động thanh tra,
kiểm tra, kịp thời phát hiện xử lý, loại bỏ những sơ hở, thiếu sót, những môi trường
xấu và nguyên nhân làm phát sinh tội phạm, tệ nạn ma túy trên địa bàn thị xã; nâng
cao hiệu quả hoạt động của Ban Chỉ đạo phòng, chống tội phạm và tệ nạn xã hội các
cấp, đảm bảo chỉ đạo tập trung, thống nhất và nâng cao trách nhiệm của các thành
viên Ban Chỉ đạo, của từng ngành, của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể, các địa
phương, các cơ quan, đơn vị, xí nghiệp, trường học trong tổ chức thực hiện; kịp thời
xử lý các vấn đề phát sinh, đồng thời tạo được những mô hình để nhân rộng những
mô hình hay, thực hiện tốt;
Tổ chức phòng ngừa, tuyên truyền các biện pháp cai nghiện có hiệu quả để
kiềm chế, ngăn chặn sự gia tăng của tệ nạn ma túy; trong tuyên truyền, giáo dục
phải làm cho nhân dân, nhất là thanh thiếu niên nhận thức rõ hiểu rõ tác hại của ma
túy, của các loại ma túy tổng hợp, các chất hướng thần mới, để tự giác tích cực tham
gia phòng, chống; qua đó, phải tạo được chuyển biến tích cực tại các phường, xã, thị
trấn, đến từng khu phố, từng ấp, từng địa bàn dân cư, từng hộ gia đình, gắn kết với
phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở, xây dựng gia đình
văn hóa với chương trình giảm nghèo bền vững, với chương trình xây dựng nông
thôn mới...;
Tăng cường ngăn chặn có hiệu quả tình trạng mua bán, vận chuyển ma túy từ
nước ngoài vào nước ta; nâng cao tính chủ động, vai trò nòng cốt của lực lượng
Công an trong phối hợp các lực lượng Hải quan, Bộ đội Biên phòng để nâng cao
60
năng lực phòng, chống ma túy tại cửa khẩu, hàng khôn, cảng biển; phát hiện, triệt
phá kịp thời các cơ sở sản xuất ma túy; thường xuyên mở các đợt cao điểm tấn công
trấn áp triệt để tội phạm và tệ nạn ma túy ở các tuyến, địa bàn, đối tượng trọng
điểm; đánh giá phân loại chính xác và đẩy mạnh công tác đấu tranh chuyển hóa
tuyến, địa bàn phức tạp về ma túy; đẩy mạnh tiến độ điều tra, truy tố, xét xử nghiêm
minh các vụ án ma túy đúng pháp luật, tạo sự răn đe cần thiết.
Tiếp tục đa dạng hóa, xã hội hóa các hình thức, biện pháp cai nghiện; hướng
dẫn triển khai hình thức cai nghiện và quản lý sau cai tại gia đình, cộng đồng theo
quy định của pháp luật hiện hành; mở rộng Đề án điều trị nghiện các chất dạng
thuốc phiện bằng liệu pháp Methadone nhằm giảm thiểu tác hại do ma túy gây ra; tổ
chức sơ, tổng kết, đánh giá hiệu quả một số mô hình cai nghiện và quản lý sau cai
nghiện có hiệu quả để tiếp tục chỉ đạo triển khai nhân rộng; tiếp tục nâng cao hiệu
quả công tác quản lý, giáo dục, giúp đỡ người sau cai nghiện tái hòa nhập cộng
đồng; tăng cường công tác phòng, chống tái nghiện và vi phạm pháp luật của người
được trở về gia đình; thực hiện tốt công tác quản lý sau cai nghiện tại địa phương;
Nâng cao hiệu quả các hoạt động hợp tác quốc tế trong phòng, chống ma túy,
tranh thủ sự hỗ trợ từ các nguồn viện trợ quốc tế, trang thiết bị kỹ thuật; huy động
sự đóng góp của các tổ chức xã hội, doanh nghiệp và nhân dân nhằm phục vụ công
tác phòng chống HIV/AIDS, công tác cai nghiện ma túy trên địa bàn thị xã; tăng
cường công tác nghiên cứu khoa học, sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm trong công
tác phòng, chống ma túy, tổ chức công tác điều tra xã hội học về người nghiện ma
túy để có biện pháp ngăn ngừa, từng bước xóa bỏ môi trường gây nghiện.
3.3. Các giải pháp tăng cường quản lý nhà nước về phòng, chống ma túy
trên địa bàn thị xã thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk
Quyết định số 1001/QĐ-TTg ngày 27/6/2011 của Thủ tướng Chính phủ Phê
duyệt “Chiến lược Quốc gia phòng, chống và kiểm soát ma túy ở Việt Nam đến
năm 2020 và định hướng đến năm 2030 đã đề ra 07 nhóm giải pháp: Nhóm giải
pháp chính trị, xã hội; nhóm các giải pháp về pháp luật, chế độ chính sách; nhóm
giải pháp về nâng cao năng lực quản lý; nhóm giải pháp về thông tin, tuyên truyền
61
phòng, chống ma túy; nhóm các giải pháp giảm cung và giảm cầu về ma túy; nhóm
giải pháp huy động nguồn lực; nhóm giải pháp tăng cường hợp tác quốc tế phòng,
chống và kiểm soát ma túy. Nội dung Chương trình quốc gia tại Việt Nam (2012-
2017) mà Việt Nam đã ký kết với Cơ quan Phòng, chống Ma túy và Tội phạm của
Liên Hợp Quốc (UNODC) đưa ra nhận định: “Trong những năm vừa qua, khi việc
sản xuất ma túy trái phép đã được cơ bản xóa bỏ, thì tình trạng sử dụng ma túy, hầu
hết là heroin và hoạt động tiêu thụ các chất ma túy dạng amphetamine ngày càng
tăng, đặt ra nhiều thách thức cho phát triển kinh tế và xã hội. Hoạt động cai nghiện
cần được cải thiện, cung cấp dịch vụ dựa trên cơ sở khoa học và nhân phẩm của
người bệnh...” [internet]. Trên cơ sở đó, tiểu chương trình 5 về “Giảm cầu ma túy
và HIV/AIDS” liên quan đến sức khỏe và phát triển con người trong bối cảnh tội
phạm sử dụng ma túy bất hợp pháp bao gồm các vấn đề sau: Phòng ngừa sử dụng
ma túy, điều trị lệ thuộc ma túy, phòng ngừa, điều trị chăm sóc và hỗ trợ đối với hậu
quả về sức khỏe và xã hội của sử dụng ma túy... Như vậy, UNODC đã lựa chọn giải
pháp thứ 5 do Chính phủ Việt Nam đưa ra để hỗ trợ triển khai thực hiện chiến lược
phòng ngừa tội phạm về ma túy.
Quyết định số 424/QĐ-TTg ngày 07/4/2017 của Thủ tướng Chính phủ về việc
phê duyệt Chương trình phòng, chống ma túy đến năm 2020 đã đề ra 04 mục tiêu và
05 nhiệm vụ trọng tâm. Cụ thể:
- Về mục tiêu, Chương trình nhằm phát huy trách nhiệm, năng lực lãnh đạo
điều hành của cá nhân, tổ chức. nâng cao hơn nữa ý thức trách nhiệm trong thực
hiện có hiệu lực, hiệu quả công tác phòng, chống ma túy. Nhằm phát huy những
thành tựu, kết quả đạt được trong công tác này và có giải pháp khắc phục một số
hạn chế tồn tại trong thời gian qua; tiến tới đẩy lùi, kiềm chế sự gia tăng tệ nạn ma
túy trong cộng đồng, gồm:
+ Phổ biến, giáo dục kiến thức phòng, chống ma túy kết hợp tuyên truyền với
nhiều hình thức phong phú, xây dựng chương trình, nội dung phù hợp với 100% số
xã, phường, thôn, buôn, tổ dân phố trên đại bàn thị xã.
62
+ Các tội phạm về sản xuất, mua bán, tàng trữ, vận chuyển trái phép chất ma
túy đều được phát hiện, xử lý tăng hơn 6% so với năm trước; xử lý triệt để các tụ
điểm về ma túy trên đại bàn thị xã; giảm diện tích cây có chứa chất ma túy trồng trái
phép tiến tới triệt phá 100% diện tích được phát hiện.
+ Hạn chế tối đa phát sinh người nghiện mới, số người nghiện ma túy có hồ sơ
quản lý đủ tiêu chuẩn đưa ra khỏi diện và giảm hơn 5% số xã, phường, thôn, buôn,
tổ dân phố có ma túy so với năm trước; đến năm 2020, có hơn 25% số xã, phường
trọng điểm về ma túy giảm mức độ phức tạp so với năm 2017; mỗi xã, phường,
thôn, buôn, tổ dân phố xây dựng được 1 mô hình điểm về phòng, chống ma túy tại
xã, phường, thôn, buôn, tổ dân phố /năm.
+ Hằng năm, 90% số người nghiện và sử dụng ma túy được cơ quan có thẩm
quyền lập hồ sơ quản lý và tiếp cận các dịch vụ tư vấn, điều trị, cai nghiện. 100%
cơ sở cai nghiện đucợ đầu tư, xây dựng đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn, điều kiện về
cai nghiện ma túy.
- Nhiệm vụ trọng tâm:
+ Tăng cường các biện pháp phòng, chống ma túy và tác hại của ma túy: Tổ
chức tuyên truyền, giáo dục kiến thức phòng, chống ma túy kết hợp với tuyên
truyền, phổ biến chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước.
+ Chú trọng nắm tình hình, ngăn chặn ma túy thẩm lậu vào nước ta. Quyết liệt
trong công tác đấu tranh phòng ngừa tiến tới triệt xóa các tụ điểm, điểm phức tạp về
ma túy trong nước. Tăng cường và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế về phòng,
chống ma túy.
+ Chủ động phòng ngừa, phát hiện, xử lý triệt để những hành vi liên quan đến
trồng cây cần sa, cây có chứa chất ma túy và sản xuất trái phép ma túy trong nước,
nhất là các chấ ma túy tổng hợp, các dạng cỏ thực vật có chứa chất gây nghiện.
Kiểm soát chặt chẽ các hoạt động hợp pháp về ma túy, không để thất thoát tiền chất,
các dược phẩm có chứa chất ma túy và chất hướng thần sử dụng sai mục đích, xử lý
nghiêm khi phát hiện.
63
+ Tiếp tục đổi mới, mở rộng các hình thức, biện pháp dự phòng nghiện ma
túy, cai nghiện và giảm tác hại cho người nghiện ma túy; tổ chức quản lý chặt chẽ,
hiệu quả số lượng người nghiện ma túy; rà soát, thống kê, phân loại có hiệu quả
người nghiện ma túy theo từng tiêu chí cụ thể như: loại ma túy thường sử dụng, độ
tuổi, nghề nghiệp…; Thực hiện có hiệu quả, đồng thời hỗ trợ công tác quản lý sau
cai nghiện tại cộng đồng, gia đình, phòng ngừa, ngăn chặn tái nghiện.
+ Huy động nguồn lực trong xã hội tham gia phòng, chống ma túy. Tăng
cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành tổ chức thực hiện và mở rộng các hình
thức, biện pháp xã hội phòng, chống ma túy;
Các giải pháp tăng cường phòng ngừa các tội phạm về ma túy:
- Đề xuất các giải pháp cơ bản dưới góc độ tội phạm học để thực hiện mục tiêu
kiểm soát tội phạm chứ không thể xóa bỏ nó.
Phòng ngừa tội phạm là một vấn đề có ý nghĩa khoa học và thực tiễn quan
trọng. Tội phạm học có mục đích đưa ra những kiến nghị về các giải pháp nhằm
tăng cường hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội phạm. Phòng ngừa tội phạm là mục
đích cuối cùng của tội phạm học, tức là phải kiến giải được hệ thống các biện pháp
ngăn ngừa tội phạm (ngăn ngừa không cho tội phạm xảy ra; ngăn ngừa không cho
tội phạm thực hiện đến cùng và ngăn ngừa không cho tái phạm) và loại trừ tội phạm
khỏi đời sống xã hội. Đó chính là mục đích biện chứng Mác-xít của tội phạm học
Việt Nam. Dưới góc độ của tội phạm học Việt Nam, phòng ngừa tội phạm được
hiểu là tổng thể các biện pháp do các cơ quan, tổ chức và mọi công dân tiến hành
dưới sự lãnh đạo của Đảng cầm quyền nhằm tác động vào các yếu tố làm phát sinh
tội phạm cũng như loại trừ các yếu tố này vì mục đích ngăn chặn và tiến tới đẩy lùi
tội phạm ra khỏi đời sống xã hội. Nói một cách vắn tắt, phòng ngừa tội phạm là
ngăn chặn và loại trừ tội phạm khỏi đời sống xã hội.
Theo GS.TS. Võ Khánh Vinh chủ biên, "Nguyên nhân và điều kiện của tình
hình tội phạm được hiểu là hệ thống các hiện tượng xã hội tiêu cực trong hình thái
kinh tế - xã hội tương ứng quyết định sự ra đời của tình hình tội phạm như là hậu
64
quả của mình"; "Các nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm tạo thành
một hệ thống gồm nhiều bộ phận cấu thành nó" [15].
Lý luận cơ bản về phòng ngừa tội phạm không xác định các biện pháp phòng
ngừa cụ thể mà chỉ đưa ra những chỉ dẫn có tính nguyên tắc, định hướng cho việc
nghiên cứu, đề xuất các biện pháp phòng ngừa tội phạm trên cơ sở khảo sát, đánh
giá tình hình tội phạm và xác định nguyên nhân của nhóm tội (hay tội) cụ thể trong
phạm vi không gian và thời gian xác định. Phòng ngừa tội phạm là ngăn chặn và
loại trừ tội phạm khỏi đời sống xã hội, tạo thành hai hệ thống biện pháp cụ thể của
phòng ngừa tội phạm ở từng quốc gia và giữa chúng có mối quan hệ biện chứng với
nhau. Đây chính là cơ sở cho việc nghiên cứu, xây dựng cũng như tổ chức thực hiện
các biện pháp phòng ngừa tội phạm về ma túy theo cấp độ và phạm vi nhất định
trên cơ sở kết quả đánh giá tình hình và xác định nguyên nhân của tội phạm theo
cấp độ và phạm vi tương ứng trên một địa bàn. Hệ thống các biện pháp phòng ngừa
các tội phạm về ma túy xét cho đến cùng nhằm loại trừ và thủ tiêu các nguyên nhân
và điều kiện phạm tội, xóa bỏ các tác nhân là điều kiện tạo thuận lợi việc phát sinh
ra tội phạm.
- Các biện pháp ngăn chặn các tội phạm về ma túy: Về cơ bản, có thể hiểu một
cách hệ thống và khái quát về các biện pháp loại trừ và ngăn chặn tội phạm (tình
hình tội phạm) như sau: Nếu như các biện pháp loại trừ tội phạm là các biện pháp
mà Đảng, Nhà nước, các cấp chính quyền, các cơ quan nhà nước, các tổ chức, các
đoàn thể và mọi công dân tiến hành nhằm nâng cao mọi mặt của đời sống xã hội,
loại trừ những yếu tố tiêu cực ảnh hưởng xấu đến lối sống cộng đồng, đến quá trình
hình thành nhân cách con người và là những biện pháp mang tính chiến lược, cơ
bản, lâu dài để khắc phục tận gốc các yếu tố làm phát sinh tình hình tội phạm, từng
bước đẩy lùi tội phạm ra khỏi đời sống xã hội, thì biện pháp ngăn chặn tội phạm lại
có mục đích tác động trực tiếp đến những khía cạnh có khả năng phát sinh tội phạm,
cũng như những đối tượng có khả năng sẽ phạm tội, các đối tượng đã phạm tội và
đã được thống kê để quản lý, tránh cho họ tiếp tục thực hiện hành vi tiêu cực và
phạm tội. Với tính cách là một bộ phận không tách rời của việc pḥòng ngừa các tội
65
phạm về ma túy, các biện pháp ngăn chặn tội phạm có cơ sở thực tế là tình hình tội
phạm tiềm năng, cái được xác định trên cơ sở thực trạng của tình hình tội phạm về
ma túy và nó có ba trạng thái thể hiện:
(1) Tiềm tàng ở trạng thái tội phạm chưa xảy ra;
(2) Tiềm tàng ở trạng thái tội phạm đang xảy ra;
(3) Tiềm tàng ở trạng thái tội phạm đã được xử lý theo pháp luật hình sự và
người phạm tội đã thi hành xong hình phạt đối với mình. Tương ứng với với các
trạng thái này là nhóm biện pháp ngăn chặn.
- Các biện pháp ngăn chặn tội phạm tiềm năng: Những biện pháp ngăn chặn
không cho tội phạm xảy ra được hiểu là những biện pháp kiểm soát xã hội và quản
lý xã hội đối với điều kiện tồn tại của hành vi phạm tội tiềm tàng, người phạm tội
tiềm tàng và nạn nhân tiềm tàng của tội phạm nhằm làm tê liệt quá trình chuẩn bị và
thực hiện tội phạm. Những biện pháp ngăn chặn không cho tội phạm xảy ra được
xây dựng trên cơ sở của trạng thái chưa xảy ra của các tội phạm về ma túy nhưng nó
sắp xảy ra và đang tiềm tàng. Do đó, cần thiết phải có những biện pháp thích ứng để
ngăn chặn, không để nó xảy ra (những yếu tố tiêu cực thuộc về nguyên nhân của tội
phạm này thì vẫn còn tồn tại); các biện pháp này gồm có 3 đối tượng tác động:
(1) Tác động vào phương thức thực hiện các tội phạm về ma túy;
(2) Tác động vào chủ thể tiềm tàng của các tội phạm về ma túy;
(3) Tác động vào nạn nhân tiềm tàng của các tội phạm về ma túy.
Các lực lượng chức năng có nhiệm vụ nắm vững tình hình tội phạm về ma túy
ở những vùng, những khu vực hay lĩnh vực có nguy cơ cao của sự thực hiện các tội
phạm cụ thể về ma túy (những người có điều kiện, khả năng phạm tội về ma túy).
- Các biện pháp ngăn chặn tội phạm đang xảy ra là những biện pháp ngăn chặn
ở giai đoạn động cơ hoá hành vi phạm tội, ở giai đoạn kế hoạch hoá và cả ở giai
đoạn hiện thực hoá hành vi phạm tội. Với tính cách là một bộ phận của phòng ngừa
tội phạm trong tội phạm học, nghiên cứu việc ngăn chặn tội phạm áp dụng trong
trường hợp tội phạm đang xảy ra là cần thiết. Qua nghiên cứu thực tế, thấy rằng
mục tiêu cơ bản của việc ngăn chặn tội phạm là không để cho tội phạm được thực
66
hiện đến cùng. Biện pháp này được hiểu là: (1) Kịp thời phát hiện nhằm chặn đứng
hành vi phạm tội về ma túy đang diễn ra, không để cho nó gây thêm thiệt hại thông
qua các chủ thể chức năng hoặc được phát hiện bởi các chủ thể khác như các tổ
chức, đoàn thể, cơ quan quản lý hành chính nhà nước,... và nhân dân; (2) Chặn đứng
quá trình lặp lại của hành vi phạm tội về ma túy, không để cho tội phạm được thực
hiện nhiều lần. Các biện pháp ngăn chặn đối với trường hợp này phải được phát
hiện sớm bởi lực lượng chức năng hoặc các các chủ thể khác để kịp thời tố giác, tin
báo nhằm xác minh, xử lý kịp thời.
Yêu cầu đặt ra cho công tác phòng ngừa tội phạm đối với biện pháp này là mọi
hành vi phạm tội về ma túy phải được phát hiện kịp thời, xử lý nhanh chóng, công
minh theo đúng quy định của pháp luật. Nói cách khác, là ngăn chặn không để
người phạm tội về ma túy che giấu hành vi phạm tội và tiếp tục lặp lại hành vi phạm
tội đã thực hiện (có thể rơi vào trường hợp phạm tội nhiều lần, tức là có thể có từ
hai lần trở lên phạm cùng một loại tội, trong đó mỗi lần đều đã có đủ yếu tố cấu
thành tội phạm, chưa bị truy cứu trách nhiệm hình sự và chưa hết thời hiệu truy cứu
trách nhiệm hình sự, nay các lần phạm tội đó được xét xử trong cùng một bản án).
Trên thực tế, xử lý tội phạm về ma túy cho thấy nếu không phát hiện kịp thời thì ở
lần phạm tội sau, mức độ thường nghiêm trọng hơn. Các biện pháp ngăn chặn tội
phạm đang xảy ra tập trung vào hai vấn đề sau:
(1) Ngăn chặn khi tội phạm đang được thực hiện;
(2) Ngăn chặn những trường hợp lặp lại của hành vi phạm tội về ma túy.
- Các biện pháp ngăn chặn tái phạm
Với số lượng lớn tội phạm về ma túy đã điều tra, truy tố, xét xử và áp dụng
các hình phạt hình sự trên toàn quốc trong thời gian qua thì nhất thiết phải quan tâm
đến phòng ngừa tái phạm, tái phạm nguy hiểm nhằm ngăn chặn sự lặp lại của hành
vi phạm tội đối với những người đã chấp hành xong hình phạt, đã trở lại với cộng
đồng, xã hội hoặc đang được áp dụng các hình phạt án treo, cải tạo không giam giữ.
Những biện pháp loại trừ tội phạm được hiểu là các biện pháp do Đảng và
Nhà nước, các tổ chức và đoàn thể xã hội và mọi công dân tiến hành nhằm nâng
67
cao mọi mặt của đời sống xã hội và đẩy lùi những yếu tố tiêu cực, ảnh hưởng xấu
đến lối sống cộng đồng, ảnh hưởng xấu đến quá trình hình thành nhân cách của
từng cá nhân.
- Biện pháp về kinh tế xã hội: Những giải pháp về kinh tế, xã hội có tác động
trực tiếp đến các nguyên nhân gốc rễ của tội phạm, vì vậy, chúng có ý nghĩa quyết
định đối với việc phòng ngừa tội phạm.
Kinh tế, xã hội là chủ trương, là chính sách, là kế hoạch hoạt động chung của
toàn xã hội. Các nhà tội phạm học có trách nhiệm góp phần xây dựng những nội
dung đó có ý nghĩa trực tiếp đối với việc loại trừ nguyên nhân của tội phạm. Đồng
thời, các nhà tội phạm học cũng có trách nhiệm phải xác định được những ảnh
hưởng xấu, những kẽ hở của chính kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội mà những
ảnh hưởng xấu, những kẽ hở đó có thể trở thành nguyên nhân của tội phạm. Điều
57, Hiến pháp năm 2013 của nhà nước ta quy định: “Nhà nước khuyến khích, tạo
điều kiện để tổ chức, cá nhân tạo việc làm cho người lao động. Nhà nước bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của người lao động, người sử dụng lao động và tạo điều
kiện xây dựng quan hệ lao động tiến bộ, hài hòa và ổn định” [17].
- Biện pháp về văn hóa - giáo dục: Hiến pháp năm 2013 ghi nhận rất rõ về văn
hóa và giáo dục tại các Điều 60 và 61. Khoản 3 Điều 60 quy định: “Nhà nước, xã
hội tạo môi trường xây dựng gia đình Việt Nam ấm no, tiến bộ, hạnh phúc; xây
dựng con người Việt Nam có sức khỏe, văn hóa, giàu lòng yêu nước, có tinh thần
đoàn kết, ý thức làm chủ, trách nhiệm công dân”. Khoản 3 Điều 61 quy định: “Nhà
nước ưu tiên phát triển giáo dục ở miền núi, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu
số và vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; ưu tiên sử dụng, phát
triển nhân tài; tạo điều kiện để người khuyết tật và người nghèo được học văn hoá
và học nghề” [17].
Trong tội phạm học, giáo dục và đào tạo cần được xem là một biện pháp
phòng ngừa cơ bản đối với tình hình tội phạm. Để phòng ngừa tội phạm, những biện
pháp về văn hóa, giáo dục cần đặt trong sự kết hợp hài hòa, tạo thành một hệ thống
giáo dục trên phạm vi toàn xã hội như: Giáo dục tại gia đình; giáo dục tại tổ dân
68
phố, thôn, xóm, phường, xã; giáo dục trong nhà trường; giáo dục tại nơi làm việc;...
và sử dụng các kênh thông tin như sách, báo, đài, vô tuyến truyền hình,... Đặc biệt
là cần có sự nghiên cứu, xây dựng cơ chế kiểm soát chặt chẽ đối thông tin trên môi
trường mạng xã hội [Internet].
- Biện pháp về tổ chức, quản lý xã hội: Điều 46 Hiến pháp năm 2013 quy
định: “Công dân có nghĩa vụ tuân theo Hiến pháp và pháp luật; tham gia bảo vệ an
ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội và chấp hành những quy tắc sinh hoạt công
cộng” [17]. Đấu tranh phòng chống ma túy với tính chất là một hoạt động của các
cơ quan nhà nước nhằm thực hiện các chức năng của Nhà nước trong lĩnh vực này
cần phải được xác lập về mặt pháp luật phù hợp với đòi hỏi của cuộc sống, phản
ánh được các quan hệ xã hội phù hợp với những quy luật của bản thân pháp luật với
tính chất là một hiện tượng xã hội. Biện pháp này hướng tới sự hoàn thiện, củng cố
bộ máy Nhà nước, đẩy mạnh công khai, dân chủ, minh bạch trong hoạt động của
các cơ quan Nhà nước, trong mối quan hệ giữa các cơ quan Nhà nước với công dân.
Hiến pháp năm 2013 khẳng định tại Điều 3: “Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền
làm chủ của Nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người,
quyền công dân; thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn
diện.” [17.] Phạm vi nghiên cứu hướng vào các chủ thể của hoạt động phòng ngừa
các tội phạm về ma túy.
Cần có ác biện pháp để nâng cao ý thức và trách nhiệm của toàn Đảng, toàn
dân trong hoạt động phòng, chống ma túy, tiến tới xóa bỏ những cơ sở xã hội,
những điều kiện làm nảy sinh tệ nạn ma túy.
- Biện pháp về pháp luật: Pháp luật và đạo đức là hai lĩnh vực khác nhau thuộc
hình thái ý thức xã hội. Pháp luật là một biện pháp để khẳng định một chuẩn mực
đạo đức. Hoàn thiện hệ thống pháp luật về phòng, chống ma túy là một nhiệm vụ
quan trọng nhằm nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống ma túy ở Việt Nam và
các quốc gia khác trên toàn thế giới. Việc xây dựng các chính sách pháp luật tại
Việt Nam dựa trên nền tảng chung là Công ước quốc tế và kiểm soát ma túy: Công
69
ước thống nhất về các chất ma túy năm 1961 (sửa đổi theo Nghị định thư 1972);
Công ước về các chất hướng thần năm 1971; Công ước về chống buôn bán bất hợp
pháp các chất ma túy và chất hướng thần năm 1988). Đặc biệt, phải khắc phục được
những tồn tại hạn chế như: Thiếu thống nhất; chưa chặt chẽ; chưa khả thi trong thực
tế; thiếu cơ chế phối hợp thực hiện;… Việc thường xuyên rà soát các quy định của
pháp luật nhằm kịp thời khắc phục những hạn chế của pháp luật trong công tác đấu
tranh phòng, chống ma túy là hết sức cần thiết. Do đó, tiếp tục hoàn thiện các quy
định về pháp luật để xử lý các tội phạm và các hành vi vi phạm về ma túy.
Thực hiện nghiêm chương trình xây dựng pháp luật của Quốc hội; phối hợp,
đẩy nhanh việc xây dựng, ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành luật, nhất là Bộ
luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự.
Đề xuất Ủy ban Thường vụ Quốc hội giải thích, hướng dẫn những quy định
pháp luật, các nghị quyết của Quốc hội hướng dẫn thi hành về ma túy còn vướng
mắc, bất cập; Hoàn thiện hệ thống pháp luật và chính sách pháp luật về phòng,
chống ma túy
- Các giải pháp chủ yếu theo Chương trình phòng, chống ma túy đến năm
2020 của Chính phủ
Nâng cao hiệu quả, hiệu lực trong công tác chỉ đạo thực hiện toàn diện công
tác phòng, chống ma túy
Nâng cao năng lực nắm tình hình, phát hiện, điều tra, xử lý các vụ vi phạm
pháp luật về phòng, chống ma túy, nhất là các vụ án phức tạp, nghiêm trọng và đặc
biệt nghiêm trọng.
Nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan phòng, chống ma túy theo
hướng chuyên môn hóa, phù hợp yêu cầu, nhiệm vụ, trong đó, ưu tiên tăng cường
lực lượng, nâng cao năng lực cho lực lượng chuyên trách và bộ phận làm công tác
tham mưu, quản lý nhà nước về phòng, chống ma túy.
Hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật về phòng, chống ma túy, trước mắt
là khẩn trương rà soát, đề xuất sửa đổi, bổ sung Luật Phòng, chống ma túy, Luật Xử
lý vi phạm hành chính và các quy định pháp luật khác liên quan; tổ chức quản lý
70
chặt chẽ những ngành, nghề dễ bị tội phạm ma túy lợi dụng thực hiện hoạt động
phạm tội, các hoạt động xuất nhập khẩu, sử dụng tiền chất ma túy, thuốc hướng thần
và thuốc có chứa chất ma túy.
Bảo đảm các nguồn lực, có chính sách đãi ngộ thích đáng, động viên, khuyến
khích việc tham gia các hoạt động phòng, chống ma túy của các cá nhân, tổ chức
kinh tế - xã hội và cả hệ thống chính trị; định kỳ có kế hoạch tổ chức điều tra cơ
bản, rà soát, đánh giá tình hình tệ nạn ma túy để điều chỉnh các nhiệm vụ, giải pháp
phòng, chống ma túy phù hợp với từng thời điểm và từng địa bàn.
Áp dụng hiệu quả các thành tựu khoa học tiên tiến và công nghệ hiện đại vào
công tác phòng, chống và kiểm soát ma túy; ưu tiên lĩnh vực đấu tranh, giám định
chất ma túy và thống kê về phòng, chống ma túy.
Nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền phòng, chống ma túy
Xác định rõ vai trò, phân công cụ thể trách nhiệm của các cơ quan chủ trì, phối
hợp và thống nhất nội dung tuyên truyền, giáo dục về phòng, chống ma túy giữa các
cơ quan chức năng; tiến hành nghiên cứu, cải tiến phương pháp, nội dung, hình
thức, xây dựng các chương trình tuyên truyền theo hướng chuyên sâu, phù hợp với
từng nhóm đối tượng cụ thể.
Xây dựng chương trình, kế hoạch, gia tăng thời lượng và đa dạng các hình
thức, biện pháp tuyên truyền, giáo dục phòng, chống ma túy trên các phương tiện
thông tin đại chúng; tiếp tục triển khai thực hiện có hiệu quả công tác phối hợp
tuyên truyền phòng, chống ma túy giữa các bộ, ngành, địa phương; xây dựng các
phóng sự, thông điệp và những thông tin phòng, chống ma túy cần thiết, thu hút
được sự quan tâm của đại đa số người dân vào những thời điểm thích hợp; đưa nội
dung tuyên truyền phòng, chống ma túy trên mạng viễn thông, Internet, đồng thời,
có biện pháp hạn chế việc quảng bá, lôi kéo sử dụng bất hợp pháp các chất ma túy
qua các mạng này.
Kết hợp các hình thức tuyên truyền qua các phương tiện truyền thông đại
chúng với tuyên truyền trực tiếp, trong đó chú ý vai trò của các tổ chức, cá nhân có
uy tín, ảnh hưởng; các hoạt động văn nghệ, thể thao sinh động mang thông điệp
71
phòng, chống ma túy; xây dựng và triển khai thực hiện các chương trình tuyên
truyền, giáo dục kỹ năng phòng, chống ma túy phù hợp với từng nhóm đối tượng cụ
thể, trọng tâm là học sinh - sinh viên, công nhân, viên chức, đoàn viên công đoàn và
nhân dân ở các vùng có nguy cơ trồng cây có chứa chất ma túy.
Triển khai kế hoạch bồi dưỡng, đào tạo cho đội ngũ cán bộ làm công tác tuyên
truyền phòng, chống ma túy theo từng năm và từng chương trình trọng điểm. Tập
trung phổ biến kiến thức nghiệp vụ chuyên sâu, đặc biệt là kỹ năng cho cán bộ
chuyên trách từ trung ương đến địa phương. Bố trí, phân công cán bộ phù hợp với
năng lực, trình độ để thực hiện công tác này.
Chú trọng triển khai, tổ chức thực hiện các hoạt động tuyên truyền nhằm làm
tốt công tác phòng, chống ma túy; Hỗ trợ nguồn lực cho cấp cơ sở để tổ chức triển
khai đồng bộ các hoạt động phòng, chống ma túy; chú trọng bồi dưỡng, nâng cao
trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho lực lượng chuyên trách và các tổ chức, đoàn
thể về phòng, chống ma túy; biểu dương, khen thưởng và duy trì các mô hình tiên
tiến, hoạt động có hiệu quả trong công tác đấu tranh và phòng ngừa ma túy.
Phát huy năng lực của các lực lượng chuyện trách làm công tác đấu tranh
phòng, chống ma túy
Cần tăng cường lực lượng, bố trí phù hợp, kết hợp bồi dưỡng, nâng cao năng
lực phòng, chống ma túy cho các lực lượng chuyên trách, bảo đảm đáp ứng những
yêu cầu cấp thiết đề ra, phù hợp tình hình thực tiễn và các chính sách pháp luật hiện
hành; bổ sung, sửa chữa, nâng cấp, trang cấp những trang thiết bị cần thiết, hiện đại
cho các lực lượng chuyên trách; đặc biệt là những trang thiết bị phục vụ cho cơ
động chiến đấu, thông tin liên lạc, đảm bảo hiệu lực và an toàn cho cán bộ chiến sỹ
trực tiếp đấu tranh; hỗ trợ trang cấp thiết bị hiện đại, phù hợp cho các cấp nhằm đáp
ứng thực tiễn.
Tăng cường phối, kết hợp giữa các lực lượng chuyên trách ở địa phương, nhất
là những địa phương trọng điểm phức tạp về ma túy; kịp thời rút kinh nghiệm việc
thực hiện các kế hoạch phối hợp nhằm bổ sung các biện pháp phù hợp để triển khai
thực hiện có hiệu quả các kế hoạch này.
72
Triển khai các hoạt động nghiệp vụ nhằm phát hiện, đấu tranh, xử lý triệt để
tội phạm về ma túy, nhất là các vụ phạm tội nghiêm trọng và tại các địa bàn trọng
điểm phức tạp như: Điều tra cơ bản, xây dựng kế hoạch đấu tranh sát với tình hình;
ngăn chặn ma túy xâm nhập ở khu vực biên giới; triệt xóa các điểm, tụ điểm phức
tạp về ma túy; phối hợp các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử; phòng ngừa, kiểm
soát nhằm phát hiện sớm và tổ chức triệt xóa cây có chất ma túy; truy bắt tội phạm,
thu hồi triệt để tài sản do phạm tội mà có.
Xây dựng, tổ chức thực hiện những kế hoạch phối hợp trong quản lý, kiểm tra,
giám sát để ngăn chặn hiệu quả việc thất thoát, thẩm lậu các tiền chất, hóa chất,
dược liệu vào việc sản xuất ma túy tổng hợp trong nước; chủ động tổ chức các biện
pháp ngăn chặn việc trồng trái phép cây có chứa chất ma túy.
Đa dạng hóa, nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác cai nghiện ma túy, xây
dựng phác đồ điều trị hiện đại, phù hợp với đặc điểm người nghiện: Triển khai thực
hiện có hiệu quả Đề án đổi mới công tác cai nghiện được Thủ tướng Chính phủ phê
duyệt tại Quyết định số 2596/QĐ-TTg ngày 27/12/2013 và Chương trình đầu tư
phát triển hệ thống dịch vụ xã hội hỗ trợ người nghiện ma túy giai đoạn 2016 -
2020; tăng cường xã hội hóa, huy động các nguồn lực vào công tác điều trị và cai
nghiện ma túy; tăng cường công tác quản lý người sử dụng, người nghiện, người cai
nghiện ma túy và đảm bảo an ninh trật tự tại các cơ sở cai nghiện ma túy; nghiên
cứu, xây dựng, trình Chính phủ ban hành Nghị định sửa đổi, bổ sung, thay thế các
Nghị định quy định về quản lý người nghiện và cai nghiện ma túy hiện hành.
Xây dựng các tiêu chí xác định mức độ lạm dụng, nghiện ma túy và phác đồ
điều trị nghiện, rối loạn do sử dụng ma túy phù hợp với các quy định pháp lý và
thực tế trong nước; tổ chức đào tạo, tập huấn nâng cao năng lực về chuyên môn
nghiệp vụ cho cán bộ quản lý, cán bộ trực tiếp thực hiện công tác tư vấn, điều trị cai
nghiện ma túy.
Tiếp tục rà soát, quy hoạch, nâng cấp, cải tạo các cơ sở cai nghiện ma túy theo
hướng đa chức năng, thân thiện và dễ tiếp cận đối với người nghiện; nghiên cứu,
đổi mới công tác cai nghiện tại gia đình và cộng đồng phù hợp tình hình thực tế;
73
nghiên cứu, thí điểm, xây dựng quy trình và tiến hành điều trị nghiện ma túy có hiệu
quả với từng loại ma túy, đặc biệt là ma túy tổng hợp để áp dụng tại các cơ sở cai
nghiện ma túy và cơ sở y tế.
Hỗ trợ nâng cấp, cải tạo, chuyển đổi công năng các cơ sở cai nghiện ma túy,
điều trị lồng ghép điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay
thế (Methadone) tại cộng đồng hoặc theo cụm xã, phường, thị trấn; hỗ trợ công tác
dạy nghề, tạo việc làm cho người sau cai nghiện. Mở rộng điều trị Methadone cho
phạm nhân trong trại giam.
Xây dựng và thực hiện các cơ chế, chính sách hạn chế người nghiện bỏ việc
điều trị, khuyến khích cai nghiện tự nguyện; thí điểm và nhân rộng các mô hình cai
nghiện và quản lý người nghiện kết hợp với dạy nghề, tạo việc làm theo hướng xã
hội hóa.
Nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế: Tiếp tục triển khai, thực hiện đồng bộ và
hiệu quả các hiệp định song phương, đa phương, các thảo thuận hợp tác, Công ước
quốc tế về kiểm soát ma túy, về hợp tác phòng, chống ma túy mà Việt Nam đã ký
kết hoặc tham gia, tiến tới sửa đổi, bổ sung hoàn thiện các công ước, hiệp định này
cho phù hợp với tình hình thực tiễn ổ nước ta. Nâng cao khả năng hợp tác cho các
lực lượng chuyên trách về phòng, chống ma túy trong nước với các tổ chức quốc tế,
các nước trong khu vực và trên thế giới; ưu tiên hợp tác với các nước có chung
đường biên giới, khu vực; đào tạo và tạo điều kiện cho cán bộ có năng lực làm việc
tại các tổ chức về phòng, chống ma túy quốc tế.
Tiểu kết chương 3
Trong điều kiện xã hội hiện nay, các yếu tố của nền kinh tế thị trường và hội
nhập quốc tế dẫn đến tội phạm và tệ nạn ma túy ở nước ta nói chung, địa bàn thị xã
Buôn Hồ nói riêng diễn biến phức tạp.Tội phạm ma túy gắn kết các loại tội phạm
nguy hiểm như tham nhũng, rửa tiền,buôn bán vũ khí, trẻ em và phụ nữ...Đây sẽ là
thách thức lớn đối vớ toàn xã hội, ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của cộng
đồng, sự phát triển giống nòi.
74
Trên cơ sở nghiên cứu có hệ thống, đầy đủ về các cơ sở lý luận khoa học và
thực tiễn hoạt động quản lý nhà nước về phòng, chống ma túy trong tình hình hiện
nay. Từ đó đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng và hoàn thiện quản lý
nhà nước về phòng chống ma túy trên địa bàn thị xã Buôn Hồ trong thời gian tới,
đồng thời góp phần giải quyết những vấn đề cấp bách đối với tệ nạn ma túy. Các
giải pháp tập trung hiệu lực hiệu quả nhằm nâng cao năng lực phòng chống tội
phạm và tệ nạn ma túy của cơ quan nhà nước nói chung, lực lượng công an nói
riêng. Tiến tới ngăn chặn, đẩy lùi tội phạm và tệ nạn ma túy trên thị xã Buôn Hồ.
75
KẾT LUẬN
Công tác quản lý nhà nước về phòng, chống ma túy trong tình hình hiện nay
đã và đang đi vào nề nếp, công tác quản lý nhà nước về phòng, chống ma túy đạt
được những hiệu quả nhất định; nhận thức của cán bộ, công chức các cấp và đông
đảo người dân trong xã hội về tác hại của ma túy và trách nhiệm của mỗi cơ quan,
tổ chức, cá nhân được nâng lên. Tuy nhiên, do sự phát triển nhanh và đa dạng của
nền kinh tế, đời sống văn hóa – xã hội nên một số quan hệ xã hội mới liên quan đến
phòng, chống ma túy xuất hiện nhưng chưa có quy định điều chỉnh để phù hợp với
thực tiễn, như: chưa có quy định về quản lý người sử dụng trái phép chất ma túy,
tình hình tội phạm này ngày càng nguy hiểm và thủ đoạn tinh vi, liều lĩnh hơn; Các
loại ma túy mới liên tục xuất hiện, trong đó nhiều loại mạnh, cực độc, gây tác hại
nghiêm trọng cho người sử dụng và là nguyên nhân của nhiều loại vi phạm pháp
luật. Hiện nay, trên thế giới có khoảng 600 loại ma túy tổng hợp, hiện diện ở Việt
Nam chúng ta trên 550 loại. Trong khi đó, các trang thiết bị, phương tiện kỹ thuật,
công cụ, nghiệp vụ của các lực lượng chuyên trách phòng, chống tội phạm của ta
chưa ngang tầm với yêu cầu này, Một số quy định của Luật Phòng, chống ma túy và
các văn bản quy định chi tiết hướng dẫn thi hành không đảm bảo tính đồng bộ,
thống nhất với quy định của một số luật được Quốc hội thông qua sau thời điểm
Luật Phòng, chống ma túy có hiệu lực, như Luật Phòng, chống HIV/AIDS, Luật Xử
lý vi phạm hành chính, việc tổ chức cai nghiện bắt buộc đối với người đã cai nghiện
tại gia đình, cộng đồng mà tái nghiện và với nghiện chưa thành niên, không có nơi
cư trú nhất định thì không được thực hiện trên thực tế do vênh giữa Luật Xử lý vi
phạm hành chính năm 2012 và Luật Phòng, chống ma túy. Do vậy, để thể chế hóa
quan điểm của Đảng, chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ về công tác phòng, chống
ma túy, đồng thời bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ của pháp luật, đảm bảo hiệu
lực, hiệu quả công tác phòng, chống ma túy trong tình hình mới đã đặt ra yêu cầu tất
yếu. Công tác phòng, chống ma túy phải được Đảng, Nhà nước và cả hệ thống
chính trị đặt ở vị trí quan trọng đặc biệt để có sự quan tâm đầu tư đúng mức, không
chỉ nêu thành khẩu hiệu mà phải bằng hành động thực tế và được quan tâm thỏa
76
đáng. Phải xem xét giao cho cơ quan nào có đủ điều kiện để quản lý và tổ chức các
biện pháp phòng, chống có hiệu quả, không nên để như hiện nay. Nhà nước cần đầu
tư cơ sở vật chất, kinh phí thỏa đáng để phục vụ cho công tác phòng, chống ma túy
một cách triệt để và có hiệu quả. Cần xây dựng một hành lang pháp lý có hiệu lực,
hiệu quả để xử lý người có hành vi phạm tội về ma túy và người nghiện ma túy
cũng như bảo vệ những người thuộc nhóm người “nhạy cảm” dễ bị lôi kéo như học
sinh, sinh viên, thanh thiếu niên. Cần phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan tiến hành
tố tụng nhất là giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát cần phải nhanh chóng, kịp
thời và đồng bộ. Với mục đích quản lý tốt người nghiện, người sử dụng trái phép
chất ma túy, góp phần ngăn chặn, đấu tranh từng bước loại trừ tệ nạn ma túy, tội
phạm ma túy ra khỏi đời sống xã hội…
77
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ chính trị (1996), Chỉ thị số 06-CT/TW, về tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo
công tác phòng, chống và kiểm soát ma túy.
2. Bộ chính trị (2008), Chỉ thị số 21-CT/TW, về tiếp tục tăng cường sự lãnh đạo,
chỉ đạo công tác phòng, chống và kiểm soát ma túy trong tình hình mới.
3. Bộ chính trị (2014), Kết luận số 95-KL/TW, về tiếp tục tăng cường sự thực
hiện chỉ thị 21-CT/TW ngày 26-3-28 về tiếp tục tăng cường lãnh đạo, chỉ
đạo công tác phòng, chống và kiểm soát ma túy trong tình hình mới.
4. Bộ chính trị (2014) nghị quyết số 98/NQ-CP, về tăng cường chỉ đạo công tác
phòng, chống, kiểm soát ma túy trong tình hình mới
5. Bộ chính trị (2013) nghị định số 221/NQ-CP, quy định về chế độ áp dụng
biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.
6. Bộ chính trị (2009) nghị định số 94/NQ-CP thực hiện công tác quản lý sau cai
nghiện.
7. Bộ chính trị (2001) nghị định số 67/NQ-CP ban hành vào danh mục các chất
ma túy và tiền chất.
8. Bộ Công an, Thông tư 18, 19, 20, 21, 22, về hướng dẫn một số nội dung về
công tác công tác nghiệp vụ cơ bản của lực lượng cảnh sát điều tra tội phạm
về ma túy.
9. Bộ Công an, báo cáo số 44/BC-BCA-C41 ngày 23/02/2016.
10. Công an thị xã Buôn Hồ (2017-2020) Báo cáo tổng kết công tác đấu tranh
phòng, chống tội phạm ma túy từ năm 2017 đến năm 2020.
11. Công trình “Một số vấn đề về xây dựng thế trận phòng, chống tội phạm về
ma túy của lực lượng Cảnh sát Điều tra Tội phạm về ma túy” của Đại tá Vũ
Hùng Vương, Nhà xuất bản CAND, Hà Nội, năm 2000.
12. Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ XI.
13. Đề tài nghiên cứu khoa học cấp nhà nước “Luận cứ khoa học cho những
giải pháp nâng cao hiệu quả phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm về ma
78
túy” của Giáo sư, Tiến sỹ Nguyễn Phùng Hồng, Tạp chí CAND và Đại tá Vũ
Hùng Vương, Cục cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy năm 2001.
14. Đề tài luận văn thạc sĩ “Quản lý nhà nước về phòng, chống ma túy trên địa
bàn tỉnh Phú Yên” của tác giả Nguyễn Thị Mai Anh.
15. Giáo trình tội phạm học (Chủ biên ts Võ Khánh Vinh) (2008), Nxb Công an
nhân dân.
16. Giáo trình tội phạm học (Chủ biên ts Nguyễn Thi Mai Nga) (2018), Nxb
Công an nhân dân.
17. Hiến pháp năm 2013.
18. Học viện cảnh sát nhân dân (2002), giáo trình công tác phòng, chống và
kiểm soát ma túy của lực lượng CAND, nhà xuất bản CAND.
19. Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam (1985), Luật số 17-
LCT/HD9NN17.
20. Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam (2000), Luật số 23/2000/QH10
Luật phòng, chống ma túy.
21. Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam (2015), Luật số 99/2015/QH13
Luật tổ chức cơ quan điều tra hình sự.
22. Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam (2015), Luật số 99/2015/QH13
Luật tổ chức cơ quan điều tra hình sự.
23. Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam (2015), Luật số 100/2015/QH13
Bộ luật hình sự.
24. Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam (2015), Luật số 101/2015/QH13
Bộ luật tố tụng hình sự.
25. Quyết định số 424/QĐ-TTg ngày 07/4/2017 của Thủ tướng Chính phủ về
việc phê duyệt Chương trình phòng, chống ma túy đến năm 2020.
26. Ủy ban thường vụ Quốc Hội (2014), Pháp lệnh số 09/2014/UBTVQH13,
trình tự, thủ tục xem xét, quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính
tại Tòa án nhân dân.
27. Ủy ban nhân dân thị xã Buôn Hồ (2017-2020), kế hoạch thực hiện công tác
79
phòng, chống ma túy từ năm 2017 đến năm 2020.
28. “Tội phạm về ma túy, thực trạng, nguyên nhân và các giải pháp phòng
ngừa” của Tiến sỹ Vũ Quang Vinh, Nhà xuất bản Thanh niên, Hà Nội năm
2005.
29. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nhà xuất bản Chính trị Quốc
gia Sự thật.
80