BỘ NỘI VỤ
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
ĐOÀN DIỆU LINH
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC BẰNG PHÁP LUẬT VỀ
QUYỀN TÁC GIẢ TẠI BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH
LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG
HÀ NỘI, 2021
BỘ NỘI VỤ
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
ĐOÀN DIỆU LINH
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC BẰNG PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN
TÁC GIẢ TẠI BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH
LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG
Chuyên ngành: Quản lý công
Mã số: 8 34 04 03
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. Trần Thúy Vân
HÀ NỘI, 2021
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của cá nhân tôi,
dưới sự hướng dẫn của TS. Trần Thúy Vân. Các nội dung nghiên cứu, số liệu và
kết quả nghiên cứu trong đề tài này là trung thực và chưa từng được ai công bố
trong bất kỳ công trình nghiên cứu nào trước đây. Những số liệu trong các bảng
biểu phục vụ cho việc phân tích, đánh giá, nhận xét được chính tác giả thu thập từ
nhiều nguồn thông tin khác nhau và đã ghi rõ trong phần tài liệu tham khảo. Ngoài
ra đề tài cũng sử dụng một số nhận xét, đánh giá cũng như số liệu của các tác giả,
tổ chức cơ quan khác và cũng được thể hiện trong phần tài liệu tham khảo.
Tôi xin cam đoan rằng số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này là
của riêng tôi, trung thực và chưa hề được sử dụng để bảo vệ một học vị nào.
Hà Nội, Ngày......tháng......năm 2021
Tác giả Luận văn
Đoàn Diệu Linh
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành chương trình cao học và viết luận văn này, tôi đã nhận được
sự hướng dẫn, giúp đỡ và góp ý của các thầy, cô giáo tại Học viện Hành Chính
Quốc gia. Xin chân thành gửi lời cảm ơn đến quý thầy cô, Ban Quản lý sau Đại
học, đặc biệt là những thầy cô đã tận tình dạy bảo cho tôi suốt thời gian học tập
tại trường. Đặc biệt, tôi xin gửi lời biết ơn sâu sắc đến TS. Trần Thúy Vân, người
hướng dẫn khoa học đã dành thời gian và tâm huyết giúp tôi hoàn thành luận văn
này. Mặc dù đã có nhiều cố gắng, tuy nhiên luận văn không tránh khỏi những
thiếu sót. Tôi rất mong nhận được những đóng góp quý báu của quý thầy cô và
các bạn. Để đáp lại tấm chân tình đó, tôi sẽ cố gắng vận dụng các kiến thức mà
mình đã được trang bị vào thực tiễn cuộc sống một cách có hiệu quả nhất nhằm
đem lại lợi ích cho mình và cho cộng đồng.
Hà Nội, Ngày......tháng......năm 2021
Tác giả Luận văn
Đoàn Diệu Linh
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC BẰNG
PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN TÁC GIẢ .................................................................. 8
1.1. Khái niệm, đặc điểm quản lý nhà nước bằng pháp luật về quyền tác giả ...... 8
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm quyền tác giả ............................................................. 8
1.1.2. Khái niệmquản lý nhà nước bằng pháp luật về quyền tác giả .................. 12
1.1.3. Đặc điểm quản lý nhà nước bằng pháp luật về quyền tác giả ................... 14
1.2. Các nội dung cơ bản của quản lý nhà nước bằng pháp luật về quyền tác
giả ....................................................................................................................... 16
1.2.1. Xây dựng và hoàn thiện pháp luật về quyền tác giả, về quản lý nhà nước về
quyền tác giả ........................................................................................................ 16
1.2.2. Tổ chức thực hiện pháp luật về quyền tác giả ........................................... 18
1.3. Vai trò của quản lý nhà nước bằng pháp luật về quyền tác giả ................... 26
1.3.1. Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tác giả; khuyến khích đầu tư sáng
tạo; cân bằng lợi ích của tác giả, lợi ích của người khai thác, sử dụng và công
chúng hưởng thụ .................................................................................................. 26
1.3.2. Góp phần bảo đảm phát triển công nghiệp bản quyền và phát triển văn hoá,
kinh tế, xã hội ...................................................................................................... 28
1.3.3. Góp phần thúc đẩy quá trình hợp tác và hội nhập kinh tế quốc tế ............ 29
1.4. Các yếu tố chủ yếu ảnh hưởng đến quản lý nhà nước bằng pháp luật về quyền
tác giả .................................................................................................................. 31
1.4.1. Sự hoàn thiện của hệ thống pháp luật về quyền tác giả ............................ 31
1.4.2. Năng lực, đạo đức công vụ của cán bộ, công chức thực hiện quản lý nhà
nước về quyền tác giả .......................................................................................... 32
1.4.3. Ý thức của người dân về pháp luật quyền tác giả ..................................... 33
1.4.4. Hợp tác quốc tế trong quản lý, thực thi bảo hộ quyền tác giả .................. 35
1.5. Kinh nghiệm quản lý nhà nước bằng pháp luật về quyền tác giả ở một số quốc
gia trên thế giới .................................................................................................... 37
1.5.1. Quản lý nhà nước bằng pháp luật về quyền tác giả ở một số nước trên thế
giới. ...................................................................................................................... 37
1.5.2. Một số kinh nghiệm có thể vận dụng ở Việt Nam .................................... 41
Tiểu kết Chương 1 ............................................................................................... 42
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC BẰNG PHÁP LUẬT
VỀ QUYỀN TÁC GIẢ TẠI BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH
............................................................................................................................. 44
2.1. Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch và Cục Bản quyền tác giả trong quản lý nhà
nước về quyền tác giả .......................................................................................... 44
2.1.1. Nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch trong quản lý
nhà nước về quyền tác giả ................................................................................... 44
2.1.2. Cục Bản quyền tác giả thuộc Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch .............. 45
2.2. Tình hình quản lý nhà nước bằng pháp luật về quyền tác giả, những kết quả
đạt được tại Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch giai đoạn 2015-2020 ................. 48
2.2.1. Xây dựng, ban hành và tuyên truyền,hướng dẫn việc thực hiện các văn bản
pháp luật về quyền tác giả ................................................................................... 48
2.2.2. Thực hiện các biện pháp bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước,
tổ chức, cá nhân trong lĩnh vực bảo hộ quyền tác giả ......................................... 53
2.2.3. Hướng dẫn việc cung cấp, hợp tác, đặt hàng, sử dụng và đảm bảo quyền tác
giả đối với tác phẩm ............................................................................................ 54
2.2.4. Quản lý hoạt động cấp, cấp lại, đổi, hủy bỏ hiệu lực Giấy chứng nhận đăng
ký quyền tác giả ................................................................................................... 57
2.2.5. Quản lý hoạt động giám định về quyền tác giả; hoạt động đại diện, tư vấn,
dịch vụ quyền tác giả ........................................................................................... 58
2.2.6. Hợp tác quốc tế trong quản lý, thực thi bảo hộ quyền tác giả .................. 58
2.2.7. Giải quyết khiếu nại, tố cáo; thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm pháp luật
về quyền tác giả ................................................................................................... 60
2.3. Những hạn chế và nguyên nhân của hạn chế trong quản lý nhà nước bằng
pháp luật về quyền tác giả tại Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch giai đoạn 2015 -
2020 ..................................................................................................................... 61
2.3.1. Trong việc xây dựng, hướng dẫn thực hiện các văn bản pháp luật về quyền
tác giả .................................................................................................................. 61
2.3.2. Trong thực hiện các biện pháp bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà
nước, tổ chức, cá nhân trong lĩnh vực bảo hộ quyền tác giả ............................... 63
2.3.3. Trong hoạt động quản lý tập thể quyền tác giả ......................................... 69
2.3.4. Trong quản lý hoạt động giám định về quyền tác giả ............................... 69
2.3.5. Trong hợp tác quốc tế trong quản lý, thực thi bảo hộ quyền tác giả ........ 70
2.3.6. Trong giải quyết khiếu nại, tố cáo; thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm pháp
luật về quyền tác giả ............................................................................................ 71
2.3.7. Một số căn nguyên chung của các hạn chế ............................................... 72
Tiểu kết Chương 2 ............................................................................................... 74
CHƯƠNG 3. QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN
LÝ NHÀ NƯỚC BẰNG PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN TÁC GIẢ ....................... 76
3.1. Quan điểm vềquản lý nhà nước bằng pháp luật về quyền tác giả ................ 76
3.1.1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước ........................................................... 76
3.1.2. Quan điểm khoa học .................................................................................. 78
3.2. Giải pháp đảm bảo quản lý nhà nước bằng pháp luật về quyền tác giả tại Bộ
Văn hoá, Thể thao và Du lịch .............................................................................. 80
3.2.1. Giải pháp chung ........................................................................................ 80
3.2.2. Giải pháp riêng đối với Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch ....................... 89
Tiểu kết Chương 3 ............................................................................................. 100
KẾT LUẬN ....................................................................................................... 101
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................... 103
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài luận văn
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, vấn đề bảo hộ
quyền tác giả đang trở thành một trong những mối quan tâm hàng đầu của các cơ
quan quản lý Nhà nước. Việc bảo hộ quyền tác giả ở mỗi quốc gia có hiệu quả sẽ
khuyến khích các hoạt động sáng tạo, tạo môi trường đầu tư an toàn để thu hút
các nhà đầu tư, góp phần phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của đất nước. Bảo hộ
quyền tác giả là lĩnh vực mới ở Việt Nam, nhưng đã và đang đóng vai trò quan
trọng trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập kinh tế quốc tế, và
xây dựng nền kinh tế tri thức của đất nước. Chính vì vậy, trong những năm qua,
hoạt động bảo hộ quyền tác giả đã được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm.
Tuy nhiên, tình trạng xâm phạm quyền tác giả vẫn còn diễn ra ở hầu hết các lĩnh
vực, với nhiều hình thức và mức độ khác nhau gây thiệt hại cho chủ sở hữu quyền
và ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động sáng tạo, môi trường đầu tư, phát triển kinh
tế, văn hóa, xã hội của đất nước và tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Nguyên
nhân của tình trạng trên nói trên chủ yếu là do nhận thức, hiểu biết, đặc biệt là ý
thức chấp hành pháp luật quyền tác giả của nhiều tổ chức, cá nhân khai thác, sử
dụng còn nhiều hạn chế và chưa nghiêm túc; hệ thống quản lý và thực thi quyền
tác giả của các cấp chính quyền chưa đáp ứng yêu cầu bảo hộ theo quy định pháp
luật.
Bên cạnh đó, trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế,
trước sự phát triển như vũ bão của công nghệ thông tin, của môi trường kỹ thuật
số đã và đang đặt ra những thách thức lớn đối với việc quản lý nhà nước bằng
pháp luật về quyền tác giả. Nền kinh tế mới, bối cảnh mới đang làm nảy sinh hàng
loạt vấn đề lý luận và thực tiễn không chỉ liên quan đến nhận thức, quan điểm về
quyền tác giả mà còn liên quan đến cơ sở lý luận và thực tiễn về vai trò quản lý
của nhà nước bằng pháp luật về quyền tác giả. Một hệ thống các quy phạm pháp
1
luật hoàn chỉnh, một cơ chế chính sách đồng bộ, nhất quán, một bộ máy thực thi
có hiệu quả, phù hợp với các yêu cầu của hoạt động bảo hộ quyền tác giả ở Việt
Nam trong nền kinh tế thị trường, định nghĩa xã hội chủ nghĩa là mục tiêu của các
nhà làm luật, các cơ quan quản lý nhà nước về quyền tác giả. Đó cũng là mong
muốn của các tác giả, các nhà đầu tư trong nước và ngoài nước, của những người
khai thác sử dụng và công chúng hưởng thụ.
Chính vì vậy các cơ quan quản lý Nhà nước cần chú trọng hơn nữa trong
vấn đề quản lý, giám sát quyền tác giả, quyền liên quan. Đối với Việt Nam, tăng
cường quản lý Nhà nước bằng pháp luật về quyền tác giả có vai trò đặc biệt quan
trọng, nó tạo điều kiện cho các hoạt động sáng tạo tác phẩm văn học, nghệ thuật
và khoa học, góp phần bảo tồn, phát triển nền văn hóa dân tộc, hiện đại, nhân văn;
tiếp thu tinh hoa văn hóa và tiến bộ về khoa học - công nghệ của nhân loại, tạo
điều kiện cho phát triển công nghiệp bản quyền, thúc đẩy phát triển kinh tế, văn
hóa, xã hội.Tuy nhiên, vì quyền tác giả là một lĩnh vực mới đối với Việt Nam cho
nên nhận thức và hiểu biết của các cơ quan quản lý, chỉ đạo các cấp chưa đầy đủ;
ý thức chấp hành và hiểu biết của nhân dân, kể cả các tác giả và tổ chức cá nhân
có quyền và nghĩa vụ liên quan còn chưa cao. Từ đó, việc thực thi các quy định
của pháp luật về quyền tác giả còn nhiều hạn chế, tình trạng vi phạm quyền tác
giả xảy ra nhiều, có vụ việc nghiêm trọng.Do vậy, bên cạnh những thành tựu đạt
được bước đầu trong lĩnh vực quyền tác giả, thực tiễn cũng đang đặt ra những vấn
đề bức bách đòi hỏi phải giải quyết trước áp lực trong và ngoài nước về bảo hộ
quyền tác giả khi Việt Nam hội nhập vào khu vực và thế giới. Một trong những
nhân tố quan trọng quyết định đến hiệu quả của hoạt động bảo hộ quyền tác giả
là phải hoàn thiện quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với lĩnh vực quyền tác giả.
Cả lý luận và thực tiễn đều đã khẳng định hoạt động bảo hộ quyền tác giả
bất kỳ quốc gia nào, trong bất kỳ thời kỳ nào cũng đều cần đến sự quản lý của
Nhà nước. Vì vậy, việc hoàn thiện quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với lĩnh
vực quyền tác giả là nhu cầu tất yếu, khách quan của sự nghiệp phát triển kinh tế-
2
xã hội của các quốc gia trên thế giới cũng như đối với nước ta hiện nay.
Đó cũng chính là lý do chúng tôi lựa chọn nghiên cứu đề tài: “Quản lý nhà
nước bằng pháp luật về quyền tác giả tại Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch”
với mong muốn đóng góp một tiếng nói chung vào việc thực thi và nâng cao hiệu
lực, hiệu quả quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với một lĩnh vực rất quan trọng
trong đời sống của xã hội - lĩnh vực quyền tác giả.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn
Ở nước ta, quyền tác giả còn là một lĩnh vực còn khá mới mẻ, cho đến nay
đã có nhiều bài viết, bài báo, bài nghiên cứu cũng như trong hội thảo khoa học đã
đề cập đến vấn đề quyền tác giả, nhưng tập trung chủ yếu vào pháp luật quyền tác
giả và việc hoàn thiện hệ thống pháp luật quyền tác giả sao cho phù hợp với đòi
hỏi của thực tiễn thi hành và hội nhập kinh tế quốc tế.
Một số đề tài nghiên cứu liên quan đến nội dung này gồm có:
Việc nghiên cứu về quyền tác giả ở Việt Nam những năm gần đây đã có
một số công trình khoa học như: Luận án phó tiến sĩ khoa học luật học của tác giả
Lê Xuân Thảo “Đổi mới và hoàn thiện cơ chế điều chỉnh pháp luật về bảo hộ
quyền sở hữu trí tuệ trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam” (1996). Luận án
chủ yếu đề cập tới cơ chế điều chỉnh pháp luật về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ
trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam mà chưa đi sâu về quyền tác giả; Luận án
tiến sĩ Luật học của tác giả Hoàng Minh Thái “Thực hiện pháp luật về bảo hộ
quyền tác giả ở Việt Nam hiện nay”. Luận án chủ yếu nghiên cứu về thực trạng
thực thi bảo hộ quyền tác giả bằng pháp luật tại Việt Nam.
Ngoài ra còn có một số Luận văn thạc sĩ luật học như: Luận văn thạc sĩ luật
học của tác giả Đoàn Thanh Nô“Hoàn thiện pháp luật về quyền sở hữu trí tuệ đối
với tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian ở Việt Nam hiện nay”(2008). Luận văn
chủ yếu đề cập đến thực trạng quản lý quyền sở hữu trí tuệ đối với loại hình tác
phẩm văn học nghệ thuật từ đó đưa ra các giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật
về quyền sở hữu trí tuệ đối với các tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian tại Việt
Nam; Luận văn thạc sĩ luật học của tác giả Nguyễn Thị Ngọc Hà: “Quyền tác giả
3
đối với tác phẩm theo pháp luật Việt Nam” (2007).
Các sách tham khảo về vấn đề này không có nhiều, điển hình có một số
sách tham khảo như: “Sáng tạo văn học nghệ thuật và quyền tác giả ở Việt Nam”
của TS. Vũ Mạnh Chu“Bình luận về quyền tác giả theo pháp luật Việt Nam” của
nhóm tác giả Nguyễn Bình, Nguyễn Thị Chính, Nguyễn Huy Ngát, Nguyễn Thị
Bích Ngọc, nhóm tác giả đi sâu nghiên cứu và bình luận cả về lý luận và thực tiễn
trong việc thực thi và bảo hộ quyền tác giả trong hệ thống pháp luật tại Việt Nam ;
“Công ước Berne 1886 công cụ hữu hiệu bảo hộ quyền tác giả” của các tác giả
Nguyễn Bá Bình, Phạm Thanh Tùng, nhóm tác giả đề cập đến các công cụ bảo hộ
quyền tác giả tại Công ước Berne 1886 qua đó đưa ra nhiều bài học kinh nghiệm
trong vấn đề xây dựng pháp luật về bảo hộ quyền tác giả tại Việt Nam; “Pháp luật
và thực thi” của Tiến sĩ Vũ Mạnh Chu và một số tài liệu hội thảo khoa học có liên
quan cũng có đề cập đến vấn đề quản lý Nhà nước trong lĩnh vực quyền tác giả.
Trong một số tạp chí nghiên cứu về nhà nước và pháp luật có một số bài
nghiên cứu như “Vấn đề bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ ở các nước đang phát triển”
của tác giả Phan Việt Dũng (Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 6-2003) tập trung
nghiên cứu chủ yếu về thực trạng bảo hộ quyền tác giả tại các nước đang phát
triển; “Bảo hộ và thực thi quyền sở hữu trí tuệ hiện nay” của tác giả Nguyễn Bá
Diến (Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 4-2005).
Bên cạnh đó còn có một số tài liệu hội thảo khoa học có liên quan như:
“Bản quyền tác giả trong lĩnh vực xuất bản-thực trạng và giải pháp” năm 1998;
“Quyền tác giả trong lĩnh vực sản xuất các chương trình băng, đĩa âm nhạc”
tháng 10/1998; “Quyền tác giả trong hoạt động báo chí” tháng 10/2000; “Quyền
tác giả trong lĩnh vực nghệ thuật tạo hình” tháng 6/2001; “Quyền tác giả trong
lĩnh vực công nghiệp ghi âm” tháng 8/2002; “Quyền tác giả trong lĩnh vực nhiếp
ảnh” tháng 9/2002; “Quyền tác giả sách văn học học dịch” tháng 11/2002; “Quyền
tác giả trong lĩnh vực nghệ thuật sân khấu” tháng 7/2003; “ Hội nghị toàn quốc
về thực thi quyền sở hữu trí tuệ tại Việt Nam” tháng 9/2004; “Các công ước và
4
hiệp ước quốc tế về quyền tác giả, quyền liên quan” tháng 8/2008.
Một số Kỷ yếu Hội thảo quyền tác giả trong lĩnh vực Báo chí, Xuất bản, Mỹ
thuật, Nhiếp ảnh, Nghệ thuật sân khấu, Âm nhạc…
Tuy nhiên chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện khía
cạnh quản lý nhà nước đối với lĩnh vực quyền tác giả. Chính vì vậy, với đề tài
“Quản lý nhà nước bằng pháp luật về quyền tác giả tại Bộ Văn hoá, Thể thao và
Du lịch” chúng tôi mong muốn có một sự đóng góp nhỏ vào sự phát triển của
khoa học quản lý nói chung và quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với lĩnh vực
quyền tác giả nói riêng.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích
Mục đích của luận văn là nghiên cứu cơ sở khoa học củaquản lý nhà nước
bằng pháp luật vềquyền tác giả; phân tích, đánh giá thực tiễn quản lý nhà nước
bằng pháp luậtvề quyền tác giả tại Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch, từ đó đề xuất
một số giải pháp đảm bảo quản lý nhà nước bằng pháp luật về quyền tác giả tại
Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch.
3.2. Nhiệm vụ
-Nghiên cứu, làm rõ hơncơ sở lý luận củaquản lý nhà nước bằng pháp luật
vềquyền tác giả;
-Phân tích, đánh giá thực tiễn quản lý nhà nước bằng pháp luậtvề quyền tác
giả tại Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch;
- Đề xuất một số giải pháp đảm bảo quản lý nhà nước bằng pháp luật về
quyền tác giả tại Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1.Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề cơ bản của cơ sở khoa học,
cơ sở lý luận về quản lý nhà nước bằng pháp luật về quyền tác giả; thực tiễn hoạt
động quản lý nhà nước bằng pháp luật về quyền tác giả tại Bộ Văn hoá, Thể thao
và Du lịch, những thành tựu đạt được, những hạn chế còn tồn tại; từ đó đưa ra một
5
số giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước bằng pháp luật về quyền tác giả.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Trong phạm vi một luận văn thạc sỹ chuyên ngành quản lý công, luận văn
tập trung nghiên cứu quản lý nhà nước về quyền tác giả trong phạm vi sau đây:
- Các vấn đề cơ bản nhất của cơ sở khoa học (bao gồm kinh nghiệm một số
nước phát triển) về quản lý nhà nước về quyền tác giả; các hoạt động quản lý nhà
nước chủ yếu nhất của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch trong lĩnh vực quyền tác
giả.
- Các quy định pháp luật hiện hành và hoạt động quản lý nhà nước về quyền
tác giả tại Bộ văn hoá, Thể thao và Du lịch giai đoạn 2015-2020.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
- Phương pháp luận: Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp
luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lênin; quan điểm của
Đảng và tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp quyền, của dân,
do dân và vì dân.
- Phương pháp nghiên cứu:Luận văn phối hợp sử dụng những phương
pháp nghiên cứu cụ thể như: thống kê, phân tích, tổng hợp, so sánh để làm sáng
tỏ những vấn đề nghiên cứu, tìm hiểu những nguyên nhân của hạn chế trong quản
lý, trên cơ sở đó làm rõ và đề xuất giải pháp đảm bảo hoạt động quản lý nhà nước
bằng pháp luật về quyền tác giả.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Các kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm sáng tỏ thêm cơ sở
khoa học về hoạt động quản lý nhà nước bằng pháp luật về quyền tác giả.
- Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo trong xây dựng và thực hiện quản
lý nhà nước bằng pháp luật về quyền tác giả; trong giảng dạy, nghiên cứuquản lý
nhà nước bằng pháp luật về quyền tác giả.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài Mở đầu, Mục lục, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Phụ lục,
6
nội dung của luận văn được kết cấu làm 3 Chương:
Chương 1:Một số vấn đề lý luận về quản lý nhà nước bằng pháp luật về
quyền tác giả.
Chương 2: Thực trạng quản lý nhà nước bằng pháp luật về quyền tác giả
tại Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch.
Chương 3: Quan điểm và giải phápnâng cao hiệu quả quản lý nhà nước
7
nhà nước bằng pháp luật về quyền tác giả.
CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC BẰNG PHÁP
LUẬT VỀ QUYỀN TÁC GIẢ
1.1. Khái niệm, đặc điểm quản lý nhà nước bằng pháp luật về quyền
tác giả
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm quyền tác giả
Từ những năm 80 trở lại đây, do tác động mạnh mẽ của khoa học và công
nghệ hiện đại, đặc biệt là công nghệ thông tin, sinh học, vật liệu mới, năng
lượng...nền kinh tế thế giới đang biến đổi sâu sắc, toàn diện, chuyển từ kinh tế
công nghiệp sang kinh tế tri thức- nền kinh tế được xây bằng gạch vữa đang được
thay thế bằng nền kinh tế của những ý tưởng và sáng tạo.
Những thành quả do trí tuệ con người tạo ra thông qua hoạt động tư duy,
sáng tạo trong các lĩnh vực của đời sống xã hội được gọi là tài sản trí tuệ. Đây là
một loại tài sản vô hình, không xác định được bởi đặc điểm vật chất của chính nó
nhưng lại có giá trị lớn vì có khả năng sinh ra lợi nhuận. Tài sản trí tuệ bao gồm:
tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học, ý tưởng; chương trình biểu diễn, bản ghi
âm, chương trình phát sóng; sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, chỉ dẫn địa lý, nhãn
hiệu, tên thương mại; bí quyết kinh doanh, công thức pha chế; giống cây trồng
mới, phầm mềm máy tính…
Sở hữu tài sản trí tuệ thường được gọi là sở hữu trí tuệ. Sở hữu trí tuệ là
một phạm trù rộng bao gồm các lĩnh vực khác nhau như quyền tác giả và quyền
liên quan, quyền sở hữu công nghiệp, quyền đối với giống cây trồng.
Quyền tác giả không chỉ là một thuật ngữ pháp lý, mà còn là một chế định
pháp luật gồm tổng thể các quy phạm pháp luật xác định và bảo hộ quyền nhân
thân, quyền tài sản của tác giả, chủ sở hữu tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa
học - các tác phẩm mang tính nguyên gốc; chống lại sự sao chép trái phép tác
phẩm được bảo hộ quyền tác giả và các quyền liên quan bao gồm cả quyền của
8
người biểu diễn đối với các chương trình biểu diễn của họ; quyền của nhà sản xuất
bản ghi âm, ghi hình đối với các bản ghi của họ; quyền của tổ chức phát thành,
truyền hình đối với các chương trình phát thanh truyền hình của họ.
Quyền nhân thân bao gồm các quyền sau đây:
+ Đặt tên cho tác phẩm;
+ Đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm; được nêu tên thật hoặc bút danh
khi tác phẩm được công bố, sử dụng;
+ Công bố tác phẩm hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm;
+ Bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm, không cho người khác sửa chữa, cắt xén
hoặc xuyên tạc tác phẩm dưới bất kỳ hình thức nào gây phương hại đến danh dự
và uy tín của tác giả[40].
Quyền tài sản bao gồm các quyền sau đây:
+ Làm tác phẩm phái sinh;
+ Biểu diễn tác phẩm trước công chúng;
+ Sao chép tác phẩm;
+ Phân phối, nhập khẩu bản gốc hoặc bản sao tác phẩm;
+ Truyền đạt tác phẩm đến công chúng bằng phương tiện hữu tuyến, vô tuyến,
mạng thông tin điện tử hoặc bất kỳ phương tiện kỹ thuật nào khác;
+ Cho thuê bản gốc hoặc bản sao tác phẩm điện ảnh, chương trình máy tính[40].
Tác giả được hưởng quyền nhân thân vô thời hạn, còn với quyền tài sản tác
giả được hưởng trong một thời gian nhất định. Bên cạnh việc ghi nhận các quyền
dành cho tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả, pháp luật cũng quy định các giới hạn
quyền và các ngoại lệ nhằm cân bằng lợi ích giữa chủ sở hữu quyền, người khai
thác, sử dụng quyền tác giả. Pháp luật cũng quy định sự bảo hộ cho những người
góp phần phổ biến tác phẩm đến công chúng, việc bảo hộ tốt quyền và lợi ích của
những cá nhân, tổ chức này sẽ gián tiếp bảo hộ quyền lợi của tác giả.
Quyền liên quan đến quyền tác giả (gọi tắt là quyền liên quan) là quyền của
tổ chức, cá nhân đối với cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát
sóng. Trong phạm vi Luận văn này, thuật ngữ quyền tác giả được hiểu bao gồm
9
cả quyền tác giả và quyền liên quan.
Đặc điểm của quyền tác giả:
Quyền tác giả là một loại quyền đặc biệt dotính chất đặc biệt của tài sản -
tài sản vô hình.Quyền tác giả có các đặc điểm sau đây:
Thứ nhất: quyền tác giả thiên về việc bảo hộ hình thức thể hiện tác phẩm.
Pháp luật về quyền tác giả chỉ bảo hộ hình thức chứa đựng tác phẩm khi nó
được tạo ra và thể hiện dưới hình thức nhất định mà không bảo hộ nội dung sáng
tạo tác phẩm. Quyền tác giả đối với tác phẩm chỉ được giới hạn trong phạm vi thể
hiện cụ thể của tác phẩm mà không bao gồm ý tưởng của tác giả thể hiện trong
tác phẩm. Những ý tưởng, cách sắp xếp, trình bày đã có trong suy nghĩ của tác giả
nhưng chưa được thể hiện ra bên ngoài bằng hình thức nhất định thì không có căn
cứ để công nhận và bảo hộ.
Pháp luật về quyền tác giả không quy định điều kiện về nội dung đối với
tác phẩm được bảo hộ. Trong khi đó, quyền sở hữu công nghiệp bảo hộ nội dung
của đối tượng, đối tượng sở hữu công nghiệp phải đáp ứng được các điều kiện
nhất định.
Thứ hai:quyền tác giả phát sinh một cách tự động kể từ khi tác phẩm được
sáng tạo và được thể hiện dưới một hình thức vật chất nhất định, không phân biệt
nội dung, chất lượng, phương tiện, ngôn ngữ. Việc bảo hộ này không phụ thuộc
vào việc tác phẩm đã được công bố hay chưa công bố, đã được đăng ký hay chưa
đăng ký. Việc đăng ký quyền tác giả không phải là căn cứ làm phát sinh quyền
tác giả mà chỉ có giá trị pháp lý là chứng cứ chứng minh khi có tranh chấp.
Thứ ba: quyền tác giả bị giới hạn về không gian và thời gian.
Về không gian, bảo hộ quyền tác giả mang tính chất lãnh thổ, quyền tác giả
chỉ có hiệu lực trong phạm vi lãnh thổ từng quốc gia. Điều này có nghĩa là sẽ chỉ
bảo hộ quyền tác giả nếu nó đáp ứng các yêu cầu pháp lý của pháp luật quốc gia
nơi yêu cầu bảo hộ. Quyền tác giả có thể được bảo hộ mở rộng ra bên ngoài lãnh
thổ quốc gia thông qua các cam kết song phương và đa phương.
Về thời gian, tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả được bảo hộ quyền tài sản
10
trong một khoảng thời gian nhất định, sau thời gian đó tác phẩm thuộc về công
chúng. Khi đó công chúng được tự do sử dụng tác phẩm mà không phải xin phép
và trả tiền bản quyền nữa. Thời hạn bảo hộ quyền tác giả tùy thuộc pháp luật các
quốc gia quy định. Thời hạn bảo hộ quyền nhân thân thường là vĩnh viễn. Còn
thời hạn bảo hộ quyền tài sản được tính theo hai nguyên tắc. Nguyên tắc thứ nhất
tính theo đời người, tức là thời hạn bảo hộ đối với tác phẩm là suốt cuộc đời tác
giả và một số năm nhất định. Thông thường pháp luật các nước quy định thời hạn
này là 50 năm. Tuy nhiên, xu hướng hiện nay của các nước Châu Âu là 70 năm.
Còn pháp luật Việt Nam quy định thời hạn bảo hộ đối với loại hình này là suốt
cuộc đời tác giả và 50 năm sau khi tác giả chết. Nguyên tắc thứ hai là thời hạn bảo
hộ sẽ là một số năm nhất định tính từ thời điểm công bố hoặc định hình. Pháp luật
Việt Nam quy định thời hạn bảo hộ đối với một số loại hình tác phẩm như điện
ảnh, mỹ thuật ứng dụng, nhiếp ảnh là 75 năm kể từ khi công bố, trong trường hợp
tác phẩm chưa công bố trong vòng 25 năm kể từ khi định hình thì thời hạn bảo hộ
là 100 năm kể từ khi định hình.
Thứ tư: quyền tác giả là tài sản vô hình nên có thể khai thác, sử dụng trong
cùng một thời gian bởi nhiều chủ thể khác nhau ở nhiều nơi.
Các tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học là các sáng tạo trong các lĩnh
vực đời sống tinh thần, với đặc tính vô hình, nên nó có thể được lan truyền rộng
rãi, do đó rất khó cho việc kiểm soát việc khai thác, sử dụng. Vì vậy, khai thác
quyền sử dụng là nội dung quan trọng nhất của quyền tác giả với đặc tính gắn liền
với mục đích thương mại. Đặc biệt, ngày nay khi công nghệ kỹ thuật số phát triển,
cùng với sự ra đời của internet, thì đây vừa là cơ hội khai thác thương mại các tác
phẩm trong môi trường số, vừa là thách thức đặt ra cho việc bảo hộ quyền tác giả
trong môi trường kỹ thuật số. Việc kiểm soát các hành vi sao chép, phân phối trên
mạng, sử dụng tác phẩm không xin phép tác giả, chủ sở hữu gặp rất nhiều khó
khăn. Để ngăn chặn, phát hiện và xử lý nhanh chóng các hành vi xâm phạm quyền
tác giả, bên cạnh việc có đầy đủ hệ thống văn bản pháp luật với các chế tài đủ sức
răn đe, đòi hỏi hệ thống các cơ quan quản lý và thực thi có đủ năng lực và hợp tác
11
có hiệu quả để bảo hộ quyền tác giả.
1.1.2. Khái niệm quản lý nhà nước bằng pháp luật về quyền tác giả
Quản lý: là một khái niệm được tiếp cận từ nhiều góc độ khác nhau. Theo
từ điển Luật học, quản lý được hiểu là sự tác động của chủ thể lên đối tượng theo
mục tiêu nhất định [53, tr.633]. Theo quan niệm của khoa học điều khiển, quản lý
là: “điều khiển, chỉ đạo một hệ thống hay một quá trình, căn cứ vào những quy
luật, định luật hay nguyên tắc tương ứng để cho hệ thống hay quá trình ấy vận
động theo ý muốn của người quản lý nhằm đạt được những mục đích đã định
trước”[50, tr.7]. Như vậy, có thể hiểu quản lý là sự tác động có kế hoạch, có tính
toán trước của người quản lý lên đối tượng được quản lý nhằm đạt được những
mục đích đã được định trước. Quan niệm trên đây không những phù hợp với sự
vận động của thiết bị tự động hóa, máy móc cơ giới mà còn đúng với cả tập thể
người, tổ chức hay cơ quan nhà nước, và cũng phù hợp với quản lý xã hội. Khi xã
hội càng phát triển thì nhu cầu quản lý xã hội càng tăng và nội dung quản lý theo
đó càng trở nên phức tạp. Do đó để thực hiện hoạt động quản lý cần phải có tổ
chức và quyền uy. Quyền uy là phương tiện quan trọng để chủ thể quản lý, điều
khiển, chỉ đạo cũng như bắt buộc các đối tượng quản lý thực hiện yêu cầu, mệnh
lệnh của mình.
Theo những quan niệm trên, chúng ta có thể hiểu quản lý là sự tác động
của chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý bằng công cụ quản lý nhằm đạt được
mục tiêu nhất định đã đề ra.
Quản lý nhà nước là một dạng của quản lý xã hội đặc biệt, mang tính quyền
lực nhà nước, sử dụng pháp luật của nhà nước để điều chỉnh hành vi hoạt động
của con người trong các lĩnh vực của đời sống xã hội, do các cơ quan có thẩm
quyền trong bộ máy nhà nước thực hiện, nhằm thỏa mãn nhu cầu hợp pháp của
con người, duy trì sự ổn định và phát triển của xã hội.
Dựa trên khái niệm quản lý và sự phân tích trên, có thể đưa ra khái niệm
quản lý nhà nước là toàn bộ hoạt động của bộ máy nhà nước dựa trên cơ sở pháp
luật để điều chỉnh các quy trình xã hội, các hoạt động của các tổ chức kinh tế, tổ
12
chức xã hội, các hành vi của các công dân và giữ gìn an ninh trật tự xã hội nhằm
thực hiện các mục tiêu kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội và các mục tiêu khác mà
nhà nước đã đề ra.
Quản lý nhà nước là sự tác động mang tính quyền lực nhà nước của chủ thể
quản lý lên các đối tượng quản lý nhằm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của
nhà nước. Việc tác động ở đây là sự tác động của các chủ thể được Nhà nước trao
quyền, sự tác động đó phải bằng công cụ pháp luật lên các đối tượng chịu sự quản
lý của nhà nước nhằm thực hiện một cách tốt nhất chức năng, nhiệm vụ của nhà
nước.
Trong quá trình thực hiện quản lý, Nhà nước sử dụng nhiều công cụ quản
lý khác nhau. Mỗi công cụ có vai trò, vị trí độc lập tương đối và được sử dụng
phù hợp với hoàn cảnh, thời điểm nhất định của hoạt động quản lý. Tuy nhiên,
với những đặc thù riêng của mình, pháp luật có khả năng triển khai trên quy mô
rộng các chủ trương, chính sách của đảng cầm quyền và Nhà nước một cách có
hệ thống, nhanh và hiệu quả nhất. Dựa trên cơ sở pháp luật, Nhà nước phát huy
quyền lực, kiểm tra, kiểm soát hoạt động của các cơ quan, tổ chức và mọi công
dân. Bên cạnh đó, pháp luật cũng quy định nguyên tắc tổ chức, hoạt động, quyền
hạn và nghĩa vụ của các cá nhân, tổ chức, trên cơ sở đó Nhà nước thực hiện và
nâng cao hiệu quả trong hoạt động quản lý của mình.
Như vậy, quản lý nhà nước bằng pháp luật là một phương thức quản lý của
nhà nước, thông qua việc sử dụng công cụ pháp luật tác động vào các đối tượng
quản lý để định hướng và điều chỉnh các hành vi xã hội nhằm đạt được mục tiêu
quản lý của nhà nước.
Quản lý nhà nước bằng pháp luật về quyền tác giả: Quản lý nhà nước bằng
pháp luật được thực hiện trên nhiều lĩnh vực của đời sống. Quản lý nhà nước bằng
pháp luật về quyền tác giả là một dạng của quản lý nhà nước - là một phương thức
mà bằng pháp luật, Nhà nước tác động vào đối tượng quản lý để định hướng cho
hoạt động bảo hộ quyền tác giả vận động, phát triển mục tiêu nhất định. Mục tiêu
13
nhất định ở đây là khuyến khích sáng tạo, tạo môi trường pháp lý an toàn cho các
nhà đầu tư, đồng thời bảo vệ, cân bằng lợi ích giữa các chủ thể quyền, người sử
dụng và công chúng hưởng thụ.
Quản lý nhà nước bằng pháp luật về quyền tác giả là hoạt động của Chính
phủ, các Bộ, các Cơ quan ngang Bộ, Uỷ ban nhân dân các cấp và các cơ quan quản
lý chuyên môn về quyền tác giả trong việc ban hành các văn bản quy phạm pháp
luật về quyền tác giả, dựa trên cơ sở pháp luật để quản lý hoạt động bảo hộ quyền
tác giả: xây dựng, chỉ đạo, thực hiện chiến lược, chính sách bảo hộ quyền tác giả,
đồng thời thực hiện thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm
pháp luật về quyền tác giả, cấp giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả, quyền liên
quan, tổ chức hoạt động thông tin, thống kê, giám định, hợp tác quốc tế về quyền
tác giả, quản lý hoạt động của các tổ chức quản lý tập thể quyền tác giả.
Từ sự phân tích trên, có thể hiểu quản lý nhà nước bằng pháp luật về quyền
tác giả là việc Nhà nước ban hành pháp luật và sử dụng pháp luật như một công
cụ quản lý, tác động lên các hoạt động liên quan đến quyền tác giả theo những
phương thức nhất định,nhằm đạt mục đích quan trọng của Nhà nước là bảo đảm
được quyền lợi của chủ thể sáng tạo, khuyến khích hoạt động sáng tạo, đồng
thờiđảm bảoquyền, lợi ích của người khai thác, sử dụng và công chúng hưởng thụ.
1.1.3. Đặc điểm quản lý nhà nước bằng pháp luật về quyền tác giả
Quản lý nhà nước bằng pháp luật về quyền tác giả có các đặc điểm sau:
Thứ nhất, quản lý nhà nước bằng pháp luật về quyền tác giả là quản lý
thuộc lĩnh vực văn hóa - tư tưởng.
Với thuộc tính là hoạt động văn hóa - tư tưởng, hoạt động sản xuất kinh
doanh, “công nghiệp quyền tác giả” chịu sự tác động đồng thời của hệ thống các
quy luật phát triển văn hóa và hệ thống các quy luật kinh tế. Do tính chất phức tạp
như vậy nên yêu cầu quản lý nhà nước bằng pháp luật được đặt ra bức thiết hơn.
Quản lý nhà nước bằng pháp luật phải định hướng cho tự do sáng tạo, đồng thời
cũng bảo vệ và ngăn chặn được những độc hại, tiêu cực do công nghiệp quyền tác
giả gây ra đối với văn hóa, tư tưởng; phải định hướng cho công nghiệp quyền tác
14
giả phát triển theo đúng quy luật kinh tế, ngăn ngừa những tác hại từ mặt trái của
cơ chế thị trường. Trong quản lý nhà nước bằng pháp luật, nếu chúng ta coi công
nghiệp quyền tác giả là hoạt động kinh tế đơn thuần sẽ dẫn đến tình trạng thương
mại hóa hoạt động này, chỉ chạy theo lợi nhuận kinh doanh; nếu chúng ta chỉ đề
cao vai trò của công nghiệp quyền tác giả ở phương diện văn hóa, tư tưởng sẽ dẫn
đến khả năng bất chấp quy luật kinh tế. Như vậy, hoạt động của công nghiệp
quyền tác giả sẽ phá sản trong điều kiện kinh tế thị trường.
Có thể nói, quản lý nhà nước bằng pháp luật về quyền tác giả là quản lý
hoạt động kinh tế trong văn hóa, tư tưởng, đồng thời quản lý hoạt động văn hóa,
tư tưởng trong cơ chế thị trường. Đó là hai mặt của một vấn đề phải được quản lý
hài hòa, đảm bảo cho công nghiệp quyền tác giả hoạt động đúng quy luật và phát
triển đúng trật tự của pháp luật.
Thứ hai, quản lý nhà nước bằng pháp luật về quyền tác giả mang tính
chuyên môn hóa, và nghề nghiệp cao.
Quản lý nhà nước bằng pháp luật về quyền tác giả có nội dung phức tạp và
đa dạng bởi đối tượng bảo hộ quyền tác giả là các tác phẩm thuộc nhiều lĩnh vực
văn học, nghệ thuật, khoa học; hơn nữa trước sự phát triển mạnh mẽ của khoa
học, công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin, việc khai thác sử dụng tác phẩm
trong môi trường số đặc biệt phát triển như hiện nay; đòi hỏi hoạt động quản lý
nhà nước bằng pháp luật về quyền tác giả phải có tinh chuyên môn hóa và nghề
nghiệp cao. Các chủ thể quản lý phải có kiến thức chuyên môn sâu rộng, không
chỉ am hiểu pháp luật mà còn am hiểu các lĩnh vực văn học, nghệ thuật, khoa học,
công nghệ thông tin…Trong hoạt động quản lý nhà nước bằng pháp luật, ngoài
hệ thống văn bản pháp luật đầy đủ, hoàn chỉnh, thống nhất, thì tiêu chuẩn về năng
lực, chuyên môn của đội ngũ cán bộ, công chức cũng là một trong những yếu tố
hàng đầu để đảm bảo hoạt động quản lý nhà nước bằng pháp luật có tính hiệu quả,
linh hoạt.
Thứ ba, quản lý nhà nước bằng pháp luật về quyền tác giả gắn bó mật thiết
với yêu cầu khách quan của quan hệ thương mại quốc tế trong bối cảnh hội nhập
15
kinh tế quốc tế.
Trong số các cam kết cần thực hiện ngay khi Việt Nam chính thức trở thành
thành viên của WTO có những cam kết về quyền sở hữu trí tuệ. Có thể khẳng định
rằng vai trò của pháp luật về sở hữu trí tuệ trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc
tế là hết sức to lớn; không chỉ thống nhất, hoàn chỉnh, phù hợp nhu cầu thực tế
trong nước mà còn phải phù hợp với pháp luật quốc tế và pháp luật khu vực. Các
điều ước quốc tế về sở hữu trí tuệ là nguồn luật quan trọng để điều chỉnh và nội
luật hóa các quy định về sở hữu trí tuệ của mỗi quốc gia thành viên. Do các quy
phạm pháp luật quốc tế không có hiệu lực trực tiếp đối với các thể nhân và pháp
nhân trong phạm vi lãnh thổ quốc gia, nên các quốc gia phải chuyển hóa nội dung
của các cam kết đó vào pháp luật nước mình với mục đích thi hành pháp luật quốc
tế. Pháp luật về sở hữu trí tuệ nói chung, pháp luật về quyền tác giả nói riêng cũng
cần được sửa đổi, hoàn thiện để phù hợp với các điều ước, cam kết quốc tế tạo
một sân chơi an toàn, bình đẳng, thúc đẩy các quan hệ thương mại trong nước và
quan hệ thương mại với nước ngoài phát triển.
1.2. Các nội dung cơ bản của quản lý nhà nước bằng pháp luật về
quyền tác giả
Về lĩnh vực quyền tác giả, nội dung hoạt động quản lý nhà nước bằng pháp
luật được quy định tại điều 5 Nghị định số 22/2018/NĐ-CP ngày 23/02/2018 của
Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành luật sở hữu trí tuệ
năm 2005 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật sở hữu trí tuệ năm 2009
về quyền tác giả và quyền liên quan. Theo đó, hoạt động quản lý nhà nước bằng
pháp luật về quyền tác giả gồm các nhóm nội dung cơ bản sau đây:
1.2.1. Xây dựng và hoàn thiện pháp luật về quyền tác giả, về quản lý nhà
nước về quyền tác giả
Quản lý nhà nước về quyền tác giả đòi hỏi Nhà nước phải ban hành hệ
thống các quy phạm pháp luật về quyền tác giả để điều chỉnh các quan hệ về quyền
tác giả mà Nhà nước xác định cần có sự tác động điều chỉnh bằng pháp luật.
Hệ thống pháp luật là tổng thể các quy định do Nhà nước ban hành, tạo
16
thành một hệ thống thống nhất, bao gồm những văn bản luật và những văn bản
quản lý nhà nước (văn bản pháp quy dưới luật), các văn bản luật và các văn bản
pháp quy đều chứa định các quy phạm pháp luật có tính chất bắt buộc chung đối
với toàn xã hội hoặc một nhóm trong xã hội, và được thực hiện tương đối ổn định,
lâu dài.
Xây dựng và hoàn thiện pháp luật về quyền tác giả, về quản lý nhà nước về
quyền tác giả là kết quả của quá trình quan sát, nhận thức, đánh giá, nghiên cứu
sự vận động, phát triển của các quan hệ về quyền tác giả, từ đó xây dựng các quy
định pháp luật, các chế định quản lý phù hợp, tạo hành lang cho các quan hệ đó
phát triển theo đúng định hướng, quan điểm chỉ đạo của Đảng, Nhà nước.
Hoạt động xây dựng, ban hành văn bản pháp luật về quyền tác giả là một
nội dung cơ bản của quản lý nhà nước bằng pháp luật về quyền tác giả, vì các văn
bản pháp luật về quyền tác giả là cơ sở đầu tiên, là nền tảng quan trọng để quản
lý nhà nước bằng pháp luật về quyền tác giả có hiệu quả.
Hoạt động xây dựng, ban hành văn bản quy phạm phạm pháp luật về quyền
tác giả phải thể chế hóa được các chủ trường, đường lối của Đảng, chính sách của
Nhà nước, phải phủ hợp với thực tiễn, phản ánh được xu thế vận động của các
quy luật khách quan, bảo đảm tính đồng bộ trong hệ thống quy định của pháp luật
về quyền tác giả; quy định pháp luật phải cụ thể, ngôn ngữ diễn đạt rõ ràng, chính
xác, đồng thời cũng phải bảo đảm tính tương đối ổn định; các quy định pháp luật
phải kịp thời điều chỉnh những quan hệ xã hội mới phát sinh trong lĩnh vực quyền
tác giả.
Đáp ứng yêu cầu tăng cường quản lý nhà nước bằng pháp luật về quyền tác
giả trong tình hình hiện nay, đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế, và đáp ứng
được những thay đổi nhanh chóng về khoa học, công nghệ, đòi hỏi phải xây dựng
một hệ thống pháp luật về quyền tác giả, về quản lý nhà nước bằng pháp luật về
quyền tác giả đầy đủ, hoàn thiện, đảm bảo tính hệ thống, nhất quán, phù hợp với
điều ước quốc tế, có tính nghiêm khắc, có sức mạnh răn đe để bảo hộ quyền tác
17
giả một cách hiệu quả.
1.2.2. Tổ chức thực hiện pháp luật về quyền tác giả
Xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật đồng bộ, hoàn chỉnh, có chất lượng
cao là tiền đề cho hoạt động quản lý nhà nước. Tổ chức thực hiện pháp luậtlà bước
quan trọng tiếp theo của quản lý nhà nước.
Theo Lênin, “sự quan trọng của pháp luật không phải nằm ở chỗ chúng
được ghi trên giấy, mà là ở chỗ được đem ra thi hành”[51,tr.31]. Nếu không có
những hoạt động triển khai, tổ chức, thực hiện thì những quy định của pháp luật
cũng chỉ nằm trên giấy, không có tác động gì đến thực tiễn cuộc sống.
Tổ chức thực hiện pháp luật quyền tác giả của các cơ quan quản lý nhà nước
có thẩm quyền là khâu trung tâm trong quá trình quản lý nhà nước về quyền tác
giả, là cầu nối giữa quy định của pháp luật quyền tác giả với các quan hệ quyền
tác giả phát sinh trong đời sống xã hội. Vì vậy, hiệu lực, hiệu quả của tổ chức thực
hiện pháp luật quyền tác giả không chỉ phụ thuộc vào hệ thống cơ quan, cơ chế
hoạt động, con người của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, mà còn phụ thuộc
vào sự phù hợp của hệ thống quy định pháp luật quyền tác giả với thực tiễn xã
hội.
Tổ chức thực hiện pháp luật trong lĩnh vực quyền tác giả bao gồm những
nội dung dưới đây:
a) Tuyên truyền, phổ biến, hướng dẫn thực hiện các văn bản pháp luật về quyền
tác giả
Khi có quy định mới, hoặc quy định sửa đổi, bổ sung quy định về quyền
tác giả, về quản lý nhà nước bằng pháp luật về quyền tác giả; phải tổ chức các đợt
tập huấn, sinh hoạt chuyên đề pháp luật,học tập, trao đổi thông tin pháp luật cho
cán bộ quản lý và tổ chức tuyên truyền, phổ biến rộng rãi trong nhân dân. Cán bộ
được học tập, tập huấn mới nắm vững nội dung quy định mới để thực hiện trong
quá trình thực thi công vụ về quản lý nhà nước, còn cá nhân nắm được các quy
định mới để tuân thủ thực thi theo yêu cầu của pháp luật. Hoạt động tuyên truyền
18
phổ biến pháp luật có thể được thực hiện ngay trong quần chúng nhân dân qua các
buổi tuyên truyền, tư vấn tại cơ sở, hoặc qua đài, báo, internet, phương tiện thông
tin đại chúng.
Cần nghiên cứu, áp dụng các chương trình, nội dung, hình thức, phương
pháp phổ biến, tuyên truyền, giáo dục pháp luật thích hợp với từng đối tượng tiếp
nhận. Ý thức pháp luật được hình thành trước hết từ trình độ hiểu biết, kiến thức
pháp luật rồi mới nâng lên thành nhận thức, trách nhiệm đối với pháp luật và
chuyển hóa thành hành vi tuân thủ pháp luật.
b) Thực hiện các biện pháp bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tổ
chức, cá nhân trong lĩnh vực bảo hộ quyền tác giả
Luật pháp quy định sự bảo hộ không chỉ dành cho tác giả, chủ sở hữu quyền
tác giả mà còn dành cho cả những người góp phần phổ biến các tác phẩm đó đến
công chúng. Việc bảo hộ tốt quyền lợi của những cá nhân, tổ chức này sẽ gián
tiếp bảo hộ quyền lợi của tác giả. Ở góc độ khác, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của những cá nhân, tổ chức này cũng là bảo vệ quyền và lợi ích của Nhà nước bên
ngoài lãnh thổ quốc gia thông qua các cam kết song phương và đa phương.
Pháp luật quy định chi tiết những biện pháp tự bảo vệ quyền, và những biện
pháp xử lý hành vi xâm phạm.
Chủ thể quyền sở hữu nói chung, chủ thể quyền tác giả nói riêng có quyền
áp dụng các biện pháp sau đây:
- Áp dụng biện pháp công nghệ nhằm ngăn ngừa hành vi xâm phạm quyền
sở hữu trí tuệ;
- Yêu cầu tổ chức, cá nhân có hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ phải
chấm dứt hành vi xâm phạm, xin lỗi, cải chính công khai, bồi thường
thiệt hại;
- Yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý hành vi xâm phạm
quyền sở hữu trí tuệ theo quy định của pháp luật;
- Khởi kiện ra tòa án hoặc trọng tài để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của
19
mình.
Ngoài ra, pháp luật cũng quy định những biện pháp xử lý hành vi xâm phạm
quyền sở hữu trí tuệ:
- Tổ chức, cá nhân có hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ của tổ chức,
cá nhân khác thì tuỳ theo tính chất, mức độ xâm phạm, có thể bị xử lý
bằng biện pháp dân sự, hành chính hoặc hình sự.
- Trong trường hợp cần thiết, cơ quan nhà nước có thẩm quyền có thể áp
dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, biện pháp kiểm soát hàng hoá xuất
khẩu, nhập khẩu liên quan đến sở hữu trí tuệ, biện pháp ngăn chặn và
bảo đảm xử phạt hành chính theo quy định của Luật này và các quy định
khác của pháp luật có liên quan.
c) Hướng dẫn việc cung cấp, hợp tác, đặt hàng, sử dụng và đảm bảo quyền tác
giả đối với tác phẩm
Khai thác quyền tác giả đối với tác phẩm là một trong những biện pháp kinh
tế để thu được lợi nhuận từ việc sử dụng tác phẩm đó. Chủ thể có nhu cầu khai
thác quyền tác giả có thể lựa chọn giao kết hợp đồng với tác giả theo các hình
thức: hợp đồng đặt hàng, hợp đồng hợp tác, hợp đồng chuyển nhượng quyền tác
giả... Pháp luật quy định chi tiết, cụ thể đối tượng của hợp đồng chuyển nhượng
quyền tác giả, quyền liên quan bao gồm một số quyền nhân thân và quyền tài sản.
Khai thác quyền tác giả cũng là một trong các hoạt động thuộc quản lý
quyền tác giả, chính vì vậy pháp luật cũng đã có những quy định cụ thể để định
hướng, hướng dẫn nhằm khuyến khích các chủ thể đầu tư, kinh doanh, và cũng
đảm bảo lợi ích nhất định cho tác giả, chủ sở hữu tác phẩm.
d) Quản lý, khai thác các quyền tác giả đối với tác phẩm thuộc về sở hữu nhà
nước.
Đối với tác phẩm thuộc sở hữu nhà nước, pháp luật quy định rõ việc sử
dụng tác phẩm thuộc sở hữu nhà nước chỉ được phép khi có sự đồng ý chủ sở hữu
quyền tác giả; tổ chức, cá nhân sử dụng tác phẩm thuộc sở hữu nhà nước cũng
phải tôn trọng các quyền nhân thân, khi phát hiện các hành vi xâm phạm quyền.
20
Ngoài ra pháp luật cũng quy định việc chuyển giao quyền tác giả, và trách nhiệm
quản lý quyền tác giả đối với tác phẩm thuộc sở hữu nhà nước cho một số cơ quan,
đơn vị có chức năng.
đ) Quản lý hoạt động cấp, cấp lại, đổi, hủy bỏ hiệu lực giấy chứng nhận đăng ký
quyền tác giả
Đặc trưng của quyền tác giả là quyền phát sinh tự nhiên, không phụ thuộc
vào bất cứ một thủ tục pháp lý nào. Việc đăng ký quyền tác giả có tác dụng giúp
ích cho các chủ thể quyền tác giả trong trường hợp có tranh chấp xảy ra. Nếu đã
đăng ký bảo hộ quyền tác giả, cá nhân đã đăng ký bảo hộ chỉ cần xuất trình văn
bằng bảo hộ mà không có nghĩa vụ chứng minh trong trường hợp pháp sinh tranh
chấp, trừ khi có chứng cứ ngược lại.
Đăng ký quyền tác giả, quyền liên quan là một thủ tục hành chính không
bắt buộc, hoạt động quản lý nhà nước về đăng ký quyền tác giả chủ yếu gói gọn
trong quy trình đăng ký quyền tác giả bao gồm các hoạt động: tiếp nhận, thụ lý hồ
sơ, cấp, cấp lại, hủy bỏ giấy chứng nhận đăng ký, thống kê và công bố dữ liệu
đăng ký. Cơ quan quản lý nhà nước về đăng kí quyền tác giả chỉ xem xét hồ sơ
hợp pháp, đúng quy trình thủ tục quy định, không xác minh tác phẩm có phải do
chính tư duy của tác giả đăng ký sáng tạo ra hay không, tác phẩm có sao chép từ
một tác phẩm khác hay không.
Trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước về đăng ký quyền tác giả là hủy
bỏ giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả, giấy chứng nhận đăng ký quyền liên
quan sau khi có căn cứ phát hiện ra vi phạm từ đơn yêu cầu của các cá nhân, tổ
chức; từ viêc giải quyết khiếu nại tố cáo về quyền tác giả; từ bản án có hiệu lực
pháp luật của Tòa án, và từ quyết định xử phạt vi phạm hành chính của các cơ
quan có thẩm quyền.
e) Quản lý hoạt động giám định về quyền tác giả; hoạt động đại diện, tư vấn, dịch
vụ quyền tác giả
Cùng với sự phát triển nhanh chóng và đa dạng của các quan hệ xã hội, các
tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ nói chung; về quyền tác giả, quyền liên quan
21
nói riêng ngày càng tăng về số lượng và tính chất phức tạp. Hoạt động giám định
về quyền tác giả là hoạt động vô cùng quan trọng và có ý nghĩa to lớn trong quá
trình giải quyết tranh chấp về quyền tác giả, quyền liên quan. Hoạt động giám
định quyền tác giả được pháp luật quy định và hướng dẫn rất chi tiết, đây là hoạt
động quan trọng giải quyết vấn đề nguồn chứng cứ hợp lệ, chỉ có kết luận giám
định được ban hành bởi chủ thể có chức năng giám định được nhà nước thừa nhận,
mới được coi là nguồn chứng cứ hợp pháp, trợ giúp cho thẩm phán giải quyết các
tranh chấp về quyền tác giả, quyền liên quan tại Tòa án.
Hoạt động đại diện quyền tác giả cũng là một trong những hoạt động tích
cực, góp phần quản lý quyền tác giả. Pháp luật quy định về cơ cấu, tổ chức, nhiệm
vụ, chức năng của tổ chức đại diện tập thể quyền tác giả, quyền liên quan. Đây là
tổ chức phi lợi nhuận do các tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả, chủ sở hữu quyền
liên quan thỏa thuận thành lập, có chức năng thực hiện việc quản lý quyền tác giả:
đàm phán cấp phép, thu chi và phân tiền nhuận bút, thù lao, các quyền lợi vật chất
khác từ việc cho phép khai thác các quyền được ủy quyền; bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp của thành viên; tổ chức hòa giải khi có tranh chấp.Hiện nay tại Việt
Nam có 4 tổ chức đại diện quyền tác giả, quyền liên quan gồm: Trung tâm bảo vệ
quyền tác giả âm nhạc Việt Nam; Trung tâm Quyền tác giả văn học Việt Nam;
Hiệp hội công nghiệp ghi âm Việt Nam; Hiệp hội quyền sao chép Viêt Nam. Ngoài
đại diện tập thể quyền tác giả, quyền liên quan, pháp luật cũng quy định về dịch
vụ đại diện sở hữu công nghiệp.
Ngoài ra pháp luật cũng quy định về hoạt động tổ chức tư vấn, dịch vụ
quyền tác giả, quyền liên quan; theo đó, tổ chức tư vấn, dịch vụ quyền tác giả,
quyền liên quan được thành lập và hoạt động theo quy định pháp luật với chức
năng:
- Tư vấn những vấn đề có liên quan đến quy định của pháp luật về quyền
tác giả, quyền liên quan;
- Đại diện cho tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả, chủ sở hữu quyền liên
quan tiến hành thủ tục nộp đơn đăng ký quyền tác giả, quyền liên quan
22
theo uỷ quyền;
- Tham gia các quan hệ pháp luật khác về quyền tác giả, quyền liên
quan, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tác giả, chủ sở hữu quyền
tác giả, chủ sở hữu quyền liên quan theo uỷ quyền.
g) Hợp tác quốc tế trong quản lý, thực thi bảo hộ quyền tác giả
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, việc bảo hộ quyền tác giả không
chỉ giới hạn trong phạm vi lãnh thổ quốc gia, mà còn liên quan đến tác giả, các
chủ sở hữu quyền là người nước ngoài và các tác phẩm của họ. Đặc biệt trong
điều kiện giao lưu quốc tế, nhất là về văn hóa, nghệ thuật và khoa học, ngày càng
trở nên rộng lớn hơn và đã trở thành yếu tố không thể thiếu được trong quá trình
phát triển của quốc gia đó. Pháp luật bảo hộ quyền tác giả Việt Nam không thể
đứng ngoài quỹ đạo này, thông qua hoạt động hợp tác quốc tế trong quản lý, Việt
Nam có thể tiếp thu chọn lọc các giá trị chuẩn mực quốc tế trong việc xây dựng
pháp luật, học tập những kinh nghiệm của các nước đi trước, để làm cho hệ thống
pháp luật của Việt Nam về bảo hộ quyền tác giả hình thành đồng bộ, tương thích
với pháp luật quốc tế, tạo hành lang pháp lý an toàn, khuyến khích tiềm năng sáng
tạo, bảo vệ tài sản trí tuệ của công dân, bảo đảm quyền lợi cho các nhà đầu tư, đáp
ứng các yêu cầu của hội nhập khu vực và quốc tế.
h) Giải quyết khiếu nại, tố cáo về quyền tác giả
Trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường, hội nhập mở rộng quan hệ
quốc tế, với nhiều thành phần, nhiều đối tượng tham gia quan hệ, các lĩnh vực của
đời sống văn hóa, nghệ thuật, khoa học cũng phát triển đa dạng và phức tạp hơn
rất nhiều, trong khi đó cơ quan quản lý nhà nước lại chưa có nhiều kinh nghiệm,
hệ thống pháp luật lại chưa thực sự hoàn chỉnh…nên tranh chấp, khiếu nại, tố cáo
diễn ra là điều khó tránh khỏi.
Trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ quản lý của mình các cơ quan quản lý
nhà nước về quyền tác giả có trách nhiệm giải quyết các tranh chấp, khiếu nại, tố
cáo phát sinh trong hoạt động thương mại quyền tác giả. Tổ chức cho các bên
trong tranh chấp căn cứ vào pháp luật để hòa giải, thương lượng giải quyết tranh
23
chấp trên cơ sở mong muốn của các bên, nếu các bên không đạt được mong muốn,
thỏa thuận không thành thì các bên có thể yêu cầu cơ quan có trách nhiệm giải
quyết theo thủ tục hành chính hay thủ tục tố tụng. Với yêu cầu về khiếu nại, tố
cáo thì cơ quan quản lý nhà nước giải quyết theo đúng trình tự, thủ tục, thẩm
quyền mà pháp luật quy định.
Việc giải quyết đúng đắn, kịp thời, khách quan các tranh chấp và khiếu nại,
tố cáo về quyền tác giả có vai trò cực kỳ quan trọng. Việc này không những bảo
vệ kỷ cương, pháp luật trong quản lý nhà nước, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của các tổ chức, cá nhân trong hoạt động thương mại về quyền tác giả, củng cố
niềm tin cho các nhà đầu tư, kinh doanh đối với thị trường và môi trường đầu tư.
i,Thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm pháp luật về quyền tác giả
Thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm là một nội dung quan trọng của quản lý
nhà nước bằng pháp luật về quyền tác giả. Đây là hoạt động nhằm đảm bảo cho
pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh trên thực tế.
Hoạt động này được thực hiện thông qua các hoạt động cụ thể sau:
- Các chủ thể quản lý phải thường xuyên tổ chức thanh tra, kiểm tra việc
thực hiện pháp luật về quyền tác giả để kịp thời phát hiện những sai sót, vi phạm.
Thông qua việc thanh tra, kiểm tra việc thực hiện pháp luật về quyền tác
giả của các đối tượng có liên quan, các cơ quan quản lý nhà nước xem xét một
cách cụ thể các hoạt động của các đối tượng này có phù hợp với các quy định của
pháp luật hay không. Trong quá trình kiểm tra phát hiện có các hành vi vi phạm
thì phải kiên quyết xử lý kịp thời nhằm khôi phục và thiết lập trật tự trong hoạt
động quản lý của Nhà nước. Đồng thời qua kiểm tra, thanh tra nếu thấy có những
sai sót trong hoạt động quản lý của các chủ thể quản lý thì nhanh chóng sửa sai,
chấn chỉnh kịp thời để phục vụ tốt hoạt động quản lý về quyền tác giả.
Hoạt động thanh tra, kiểm tra được thực hiện bởi các chủ thể quản lý. Các
cơ quan được giao nhiệm vụ thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm về quyền tác giả
bao gồm:
Thanh tra chuyên ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch từ Trung ương đến
24
địa phương có nhiệm vụ thanh tra, xử lý vi phạm về quyền tác giả, giải quyết các
tranh chấp về quyền tác giả. Các cơ quan quản lý thị trường thuộc ngành thương
mại là cơ quan kiểm soát hàng hóa liên quan đến quyền tác giả lưu thông trên thị
trường. Cơ quan công an, cảnh sát cũng tham gia vào hoạt động bảo hộ quyền tác
giả theo thẩm quyền của mình. Hải quan, bộ đội biên phòng, cảnh sát biển là lực
lượng kiểm tra tại cửa khẩu, biên giới về hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa liên
quan đến quyền tác giả. Các cơ quan thuế thuộc ngành tài chính, thực hiện các
nhiệm vụ theo thẩm quyền của mình đối với các hoạt động sáng tạo, sản xuất,
kinh doanh và dịch vụ liên quan đến quyền tác giả.
- Xử lý nghiêm minh các vi phạm đã được phát hiện, bất cứ cá nhân, tổ chức
nào có hành vi vi phạm cũng đều phải bị xử lý theo pháp luật, đảm bảo nguyên tắc
bình đẳng trước pháp luật, mọi người sống và làm việc theo pháp luật.
Cùng với việc ban hành và triển khai thực hiện pháp luật về tác giả thì hoạt
động xử lý vi phạm pháp luật về quyền tác giả sẽ góp phần bảo đảm cho các quy
định của pháp luật được thực hiện trong thực tế. Thông qua xử lý vi phạm pháp
luật về quyền tác giả cũng là một hình thức đấu tranh chống các biểu hiện vi phạm
pháp luật về quyền tác giả, làm lành mạnh các quan hệ pháp luật về quyền tác giả,
thúc đẩy và tăng cường sự quản lý của Nhà nước. Xử lý vi phạm pháp luật về
quyền tác giả còn là yếu tố bảo đảm tính công bằng, sự bỉnh đẳng trước pháp luật.
Việc xử lý chính xác và kịp thời các hành vi vi phạm sẽ bảo đảm cho các thiết chế
luật pháp được thực hiện nghiêm túc nhất, bảo hộ quyền tác giả một cách có hiệu
quả.
- Xây dựng quy trình thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm chặt chẽ, hợp lý,
không gây phiền hà cho các cá nhân, tổ chức.
Việc phát hiện và xử lý vi phạm về quyền tác giả được xây dựng theo những
quy trình nhất định, tránh sự tùy tiện, bảo đảm việc xử lý phải khách quan, chính
xác. Khi xem xét giải quyết đều dựa trên quan điểm toàn diện và xử lý theo đúng
các quy định của pháp luật để vừa nâng cao trách nhiệm và hiệu quả trong quản
lý, vừa bảo vệ các quyền lợi và lợi ích chính đáng của các cá nhân, tổ chức có liên
25
quan.
1.3. Vai trò của quản lý nhà nước bằng pháp luật về quyền tác giả
1.3.1. Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tác giả; khuyến khích đầu tư
sáng tạo; cân bằng lợi ích của tác giả, lợi ích của người khai thác, sử dụng và
công chúng hưởng thụ
Tác phẩm là kết quả của sự nỗ lực sáng tạo không ngừng, qua việc sử dụng
trí tuệ của con người, do đó, Nhà nước cần phải thực hiện những nỗ lực cao nhất
để khuyến khích sáng tạo. Việc bảo hộ thích đáng và có hiệu quả quyền tác giả là
một trong những điều kiện tiên quyết để thúc đẩy hoạt động sáng tạo.
Việc bảo hộ quyền tác giả là một trong những công cụ hữu hiệu nhằm
khuyến khích các tác giả sáng tạo ra các tác phẩm làm giàu kho tàng tri thức. Số
lượng các tác phẩm văn học nghệ thuật càng nhiều thì tài sản trí tuệ của quốc gia
đó càng lớn, lực lượng những người góp phần sáng tạo trong việc đưa tác phẩm
đến với công chúng như các nghệ sĩ biểu diễn, nhà sản xuất chương trình ghi âm,
tổ chức phát thanh, truyền hình ngày càng nhiều, thông qua đó đại bộ phận công
chúng được tiếp thu và hưởng lợi nhiều giá trị tinh thần hơn.
Những lợi thế của quản lý nhà nước bằng pháp luật về quyền tác giả mang
lại cho tác giả, chủ sở hữu quyền sự chủ động trong sáng tạo, đầu tư sáng tạo và
phát triển công nghiệp bản quyền trên khuôn khổ pháp lý mà nhà nước quy định
về quyền tác giả. Pháp luật là phương tiện tạo lập môi trường tự do và bình đẳng
cho mọi hoạt động sáng tạo, công bố và phổ biến tác phẩm, đồng thời pháp luật
là phương tiện bảo vệ lợi ích chính đáng của tác giả, chủ sở hữu tác phẩm. Thông
qua việc nhà nước thừa nhận các tác giả, chủ sở hữu được hưởng những quyền
độc quyền nhất định và tạo cho họ khả năng nhận được phần thưởng cho những
nỗ lực sáng tạo của mình, cùng với các quy định về cơ chế đảm bảo thực hiện, là
cơ sở pháp lý cho việc bảo hộ quyền tác giả. Chính sự ghi nhận các quyền và lợi
ích hợp pháp của các tác giả, các chủ sở hữu quyền đã giúp họ có được môi trường
pháp lý an toàn, khuyến khích họ đầu tư sáng tạo.“Thông qua việc quản lý Nhà
26
nước bằng pháp luật về quyền tác giả, Nhà nước tiếp tục khuyến khích năng lực
sáng tạo của văn nghệ sĩ, trí thức để có nhiều sản phẩm văn hóa tinh thần có giá
trị phục vụ xã hội”[25].
Trong quá trình xây dựng pháp luật, việc nhận thức các lợi ích xã hội là
bước khởi điểm của hoạt động xây dựng pháp luật, điều chỉnh cho phù hợp giữa
các lợi ích là vấn đề quan trọng trong xây dựng pháp luật. Pháp luật về quyền tác
giả phải có sự lựa chọn để điều chỉnh cho phù hợp, cân bằng lợi ích giữa quyền
độc quyền của các chủ thể với lợi ích của công chúng trong xã hội, quyền của
công chúng được tiếp cận với tri thức, thông tin và lợi ích chung của xã hội trong
việc thúc đẩy phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội.
Quản lý nhà nước bằng pháp luật về quyền tác giả nhằm khuyến khích sự
sáng tạo tri thức, thúc đẩy tiến bộ khoa học, kỹ thuật, phát triển kinh tế, văn hóa,
xã hội. Sự phát triển của xã hội đòi hỏi các sản phẩm trí tuệ phải phong phú và đa
dạng. Trong đó, những người sáng tạo được độc quyền đối với sản phẩm trí tuệ là
một cơ chế pháp lý quan trọng nhằm khích lệ sản phẩm trí tuệ. Tuy nhiên việc
trao độc quyền tuyệt đối sẽ hạn chế tự do lưu thông tri thức và thông tin. Vì vậy,
cần có sự cân bằng lợi ích giữa độc quyền và quyền cùng được hưởng thụ tri thức
nhằm tăng phúc lợi xã hội một cách tối đa. Nguyên tắc cân bằng lợi ích là nguyên
tắc cơ bản của pháp luật quyền tác giả. Trong phần mở đầu của Hiệp ước WIPO
về quyền tác giả đã nêu mục tiêu chính của Hiệp ước là bảo đảm cân bằng giữa
quyền lợi của tác giả với quyền và lợi ích của công chúng, đặc biệt là quyền được
giáo dục, nghiên cứu và được biết thông tin.
Quyền tác giả được pháp luật quy định theo yêu cầu cân bằng lợi ích không
chỉ đòi hỏi “đầy đủ và hữu hiệu” mà còn phải “thích đáng và hợp lý”. Căn cứ vào
nguyên lý pháp lý học, “quyền lợi là sự pháp luật hóa lợi ích, là sự tự do trong
phạm vi nhất định do luật định”. Điều này chứng tỏ bất cứ quyền lợi nào cũng đều
có giới hạn. Giới hạn này là giới hạn hoặc điểm cân bằng giữa lợi ích của người
này với lợi ích của người khác. Xét từ góc độ phối hợp quyền lợi của quyền tác
27
giả, thì việc bảo hộ một cách thích đáng và hợp lý vừa bảo đảm được nhu cầu kích
thích sự sáng tạo trí tuệ vừa khiến cho việc thực hiện quyền tác giả không trở
thành trở ngại đối với công chúng trong việc tiếp cận tri thức.
Trên cơ sở điều kiện kinh tế, xã hội cụ thể của quốc gia, bên cạnh việc bảo
hộ các quyền và lợi ích hợp pháp của các tác giả, chủ sở hữu quyền, để đảm bảo
sự cân bằng lợi ích giữa chủ sở hữu quyền, người khai thác sử dụng và công chúng
hưởng thụ, nhà nước thông qua pháp luật quy định các giới hạn quyền và các
ngoại lệ nhất định để công chúng có thể tiếp cận được các tác phẩm một cách tự
do, tuy nhiên phải tuân theo những điều kiện nhất định.
1.3.2. Góp phần bảo đảm phát triển công nghiệp bản quyền và phát triển
văn hoá, kinh tế, xã hội
Mục đích của bảo hộ quyền tác giả là nhằm khuyến khích sự sáng tạo, thu
hút và bảo hộ đầu tư, góp phần phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội. Thông qua việc
thúc đẩy sáng tạo, công chúng được hưởng thụ các tác phẩm văn học và nghệ thuật
hay, có giá trị. Khi quyền tác giả được tôn trọng, người sáng tạo được nhận lợi ích
tương xứng khi tác phẩm của họ được sử dụng sẽ là động lực kinh tế khiến tác giả
sáng tạo ra nhiều tác phẩm hơn, có chất lượng cao hơn. Qua thời gian, chất lượng
và số lượng tác phẩm sẽ tự nhiên tăng lên và thu nhập của các tác giả, chủ sở hữu
quyền tác giả, lực lượng khai thác sử dụng tác phẩm sẽ cao hơn. Các nguồn thu từ
việc khai thác tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả sẽ góp phần tăng nguồn thu cho
Nhà nước, đóng góp vào sự phát triển quốc gia. Lợi ích kinh tế tiềm năng sẽ tạo ra
sự khuyến khích mạnh mẽ để đổi mới [27, tr.9]. Do đó, quyền tác giả đóng vai trò
quan trọng trong phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội.
Quyền tác giả và sự phát triển kinh tế ngày càng trở nên gắn bó chặt chẽ,
bởi vì sở hữu trí tuệ nói chung, quyền tác giả nói riêng đang là vấn đề nổi bật trong
các cuộc tranh luận, đàm phán kinh tế quốc tế, nó đã trở thành một trong những
nội dung quan trọng trong hoạt động thương mại quốc tế.
Những năm gần đây, vai trò kinh tế của quyền tác giả đã thu hút nhiều sự
quan tâm của các quốc gia. “Công nghiệp bản quyền” được hình thành từ thực
28
tiễn phát triển của khoa học, công nghệ, góp phần tạo ra sự tăng trưởng lớn trong
thương mại quốc tế, đồng thời do quy mô sản xuất và chất lượng tác phẩm ngày
càng nâng cao, làm cho người ta càng chú ý đến giá trị của việc sản xuất và truyền
bá văn hóa, tin tức, vui chơi, giải trí. Sức mạnh của các sản phẩm và dịch vụ mà
ngành công nghiệp bản quyền tạo ra là không thể phủ nhận.
Qua thống kê ở một số nước cho thấy, ở Hòa Kỳ, năm 2004 ngành công
nghiệp quyền tác giả đóng góp một khoản ước tính 1.300 tỉ USD, chiếm 11,09%
GDP. Năm 2005, ngành công nghiệp quyền tác giả đóng góp một khoản ước tính
1.388 tỉ cho nền kinh tế, chiếm 11,12% GPD. Hàng năm ngành công nghiệp bản
quyền giải quyết việc làm cho 11 triệu lao động, chiếm 8,5% lực lượng lao động
của các nước[28].
Qua số liệu khảo sát của tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới năm 2005, tại một
số quốc gia, cho thấy công nghiệp bản quyền có đóng góp đáng kể vào tổng sản
phẩm quốc nội, tạo ra một lượng lớn công ăn việc làm. Ở Hà Lan, ngành công
nghiệp bản quyền đóng góp 30,5 tỷ Euro chiếm 5,9% GDP, giải quyết việc làm
cho 567.214 người chiếm 8,8% nhân công lao động. Ở Canada ngành công nghiệp
bản quyền chiếm 4,5% GDP, nhân công lao động chiếm 5,6% của cả nước. Ở
Phliippines ngành công nghiệp bản quyền chiếm 4,9% GDP, nhân công lao động
chiếm 11,1% của cả nước. Ở Hàn Quốc ngành công nghiệp bản quyền chiếm 8,7%
GDP, nhân công lao động chiếm 4,3% của cả nước[28].
Việc bảo hộ quyền tác giả hiệu quả sẽ tạo ra một cơ chế tác động qua lại về
lợi ích giữa những người sáng tạo và lợi ích chung của xã hội thông qua việc công
bố, phổ biến tác phẩm phục vụ công chúng, góp phần thúc đẩy xã hội phát triển.
Sự thừa nhận quyền tác giả đối với các sáng tạo văn học, nghệ thuật, khoa học có
tác dụng khuyến khích việc sáng tạo, thông qua sự sáng tạo cũng kích thích sự
phát triển kinh tế.
1.3.3. Góp phần thúc đẩy quá trình hợp tác và hội nhập kinh tế quốc tế
Thực hiện chính sách mở cửa hội nhập và hợp tác quốc tế với phương châm
Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước. Thực tế, Việt nam đã thiết lập quan
29
hệ với nhiều nước, vùng lãnh thổ và tổ chức trên thế giới. Để quá trình hợp tác,
hội nhập quốc tế diễn ra thuận lợi, đạt mục đích đặt ra một cách tốt nhất, hai bên
đều phải tìm hiểu truyền thống văn hóa, mọi lĩnh vực đời sống xã hội của nhau và
cách tìm hiểu đạt hiệu quả cao và phổ biến là trao đổi các tác phẩm cho nhau.
Quản lý nhà nước bằng pháp luật về quyền tác giả ở Việt Nam có vai trò giải
quyết vấn đề này thông qua việc tham gia các điều ước quốc tế, xác định rõ các
tác phẩm của các tổ chức, cá nhân nước ngoài được bảo hộ quyền tác giả tại Việt
Nam và đồng thời xác định rõ tác phẩm của công dân, tổ chức của Việt Nam được
hưởng sự bảo hộ tại những quốc gia nào.
Thông qua việc quản lý nhà nước bằng pháp luật về quyền tác giả, hoạt
động bảo hộ quyền tác giả có vai trò quan trọng đối với tiến trình chủ động hội
nhập quốc tế theo chủ trương của Đảng và Nhà nước ta được thể hiện ở một số
khía cạnh sau:
- Bảo hộ quyền tác giả giúp nền kinh tế giữ được thế chủ động trong quá
trình hội nhập, góp phần thúc đẩy, giao lưu thương mại phát triển. Mặt khác, cũng
tạo ra cơ chế hữu hiệu nhằm bảo hộ, khuyến khích sáng tạo trong nước. Đặc biệt,
khi Việt Nam tham gia vào các khu vực mậu dịch tự do, bảo hộ quyền tác giả là
một công cụ quan trọng nhằm bảo vệ các nhà sáng tạo, các nhà đầu tư chân chính
trong nước trước sự cạnh tranh của các sản phẩm văn hóa cùng loại trên thị trường,
đặc biệt là sự tràn lan của hành vi vi phạm quyền tác giả. Bên cạnh đó, việc bảo
hộ quyền tác giả còn góp phần chỉ ra và khẳng định lợi thế cạnh tranh. Lợi thế
cạnh tranh này được tạo ra từ lợi thế của các nhà sáng tạo, các nhà đầu tư để sáng
tạo ra những tác phẩm có giá trị được sử dụng và bảo hộ không chỉ trong nước mà
còn được hưởng sự bảo hộ tại các quốc gia thành viên của điều ước quốc tế;
- Bảo hộ quyền tác giả góp phần tạo ra cho các nhà sáng tạo, đầu tư sáng
tạo những hành trang vững chắc khi tham gia vào thị trường trong và ngoài nước,
tạo thế chủ động cho họ trong hoạt động thương mại, tránh những rủi ro không
đáng có xảy ra như một tiền lệ xấu trong giao lưu thương mại.
- Bảo hộ quyền tác giả cũng đóng vai trò thúc đẩy tiến trình chủ động hội
30
nhập kinh tế quốc tế theo chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước ta. Hệ
thống pháp luật về bảo hộ quyền tác giả, công cụ cơ bản thực hiện hoạt động quản
lý nhà nước đối với lĩnh vực này được coi như một yếu tố cấu thành thể chế nhằm
phát triển kinh tế, thông qua vai trò thu hút và hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài
tham gia vào thị trường Việt Nam. Bởi lẽ, một trong các yếu tố quan trọng tác
động tới quyết định đầu tư vào thị trường nước ngoài đó chính là sự tồn tại và tính
hiệu quả của hệ thống pháp luật về bảo hộ quyền sở hữu nói chung và quyền tác
giả nói riêng.
1.4. Các yếu tố chủ yếu ảnh hưởng đến quản lý nhà nước bằng pháp
luật về quyền tác giả
1.4.1. Sự hoàn thiện củahệ thống pháp luật về quyền tác giả
Một xã hội văn minh là một xã hội sống và làm việc theo pháp luật. Không
có pháp luật thì mọi quan hệ xã hội không được điều chỉnh bằng một ý chí thống
nhất, xã hội không có trật tự kỉ cương. Do đó, để đảm bảo quản lý nhà nước bằng
pháp luật về quyền tác giả thì yếu tố đầu tiên và quan trọng nhất là phải xây dựng
được cơ sở pháp lý cho hoạt động của các chủ thể pháp luật quyền tác giả, đảm
bảo đúng yêu cầu, mục đích của chủ thể quản lý.
Pháp luật về quyền tác giả là cơ sở pháp lý cho các cơ quan, tổ chức, cán
bộ, công chức có thẩm quyền tiến hành hoạt động quản lý nhà nước, hoạt động
bảo hộ quyền tác giả. Để trở thành phương tiện điều chỉnh các hoạt động quản lý
nhà nước về quyền tác giả, đòi hỏi pháp luật về quyền tác giả phải đầy đủ, đồng
bộ, công khai, minh bạch. Văn bản pháp luật phải thống nhất, đồng bộ, không trái
với Hiến pháp, không chồng chéo mâu thuẫn giữa các văn bản luật hiện hành,
đồng thời phải thể hiện được ý chí chung của nhân dân, lợi ích chung, lợi ích của
đất nước. Điều rất quan trọng là phải ban hành kịp thời, đồng bộ các văn bản
hướng dẫn thi hành luật để luật thực sự đi vào cuộc sống.
Hoàn thiện hơn nữa chất lượng của hệ thống pháp luật về quyền tác giả, bởi
pháp luật càng đầy đủ, hoàn thiện, phù hợp với thực tế bao nhiêu, thì càng được
Nhà nước và xã hội tự giác tôn trọng, thực hiện nghiêm chỉnh bấy nhiêu. Do vậy,
31
cần thường xuyên rà soát, tổng thể, đánh giá thực tiễn pháp luật để xây dựng và
hoàn thiện hệ thống pháp luật về quyền tác giả. Hệ thống pháp luật cần được ban
hành toàn diện, đồng bộ, phù hợp với các điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa, xã
hội của đất nước. Khi xây dựng pháp luật nhất thiết phải xuất phát từ những kinh
nghiệm, những hoạt động pháp lý thực tiễn sao cho các quy định của pháp luật về
quyền tác giả phải có khả năng được thực hiện trên thực tế.
Tính minh bạch công khai của các quy phạm pháp luật về quyền tác giả cần
phải được thể hiện ngay từ quá trình xây dựng pháp luật, để người dân có điều
kiện tham gia vào quá trình soạn thảo văn bản pháp luật, tham gia thảo luận, góp
ý kiến, qua đó đề cao dân chủ, góp phần nâng cao ý thức tham gia vào hoạt động
quản lý nhà nước, quản lý xã hội của nhân dân. Sau khi ban hành văn bản pháp
luật phải được công khai trên công báo và các phương tiện thông tin đại chúng
cho nhân dân biết để thực hiện.
1.4.2. Năng lực, đạo đức công vụ của cán bộ, công chức thực hiện quản
lý nhà nước về quyền tác giả
Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh “cán bộ là cái gốc của mọi công
việc”[29,tr.269], “muôn việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”
[29,tr.240]. Người cán bộ, công chức tốt là người có đủ trình độ năng lực, hoàn
thành tốt công việc được giao, đồng thời là người có phẩm chất chính trị, đạo đức
tốt. Trình độ năng lực quản lý và phẩm chất chính trị đạo đức của cán bộ, công
chức là một trong những điều kiện đảm bảo quản lý nhà nước bằng pháp luật về
quyền tác giả đạt hiệu quả trên thực tế. Nếu trình độ, năng lực quản lý của cán bộ,
công chức yếu kém, cộng với sự thiếu trách nhiệm, thiếu chủ động trong việc triển
khai thực hiện các văn bản pháp luật thì pháp luật dù có đúng đắn, đầy đủ, đồng
bộ cũng chỉ nằm trên giấy mà không đi vào thực tế cuộc sống được.
Phẩm chất, chính trị, đạo đức của cán bộ, công chức có ảnh hưởng trực tiếp
đến việc thực hiện quản lý nhà nước bằng pháp luật về quyền tác giả. Người cán
bộ, công chức có phẩm chất chính trị, đạo đức tốt không những luôn luôn chấp
32
hành, tuân thủ pháp luật nghiêm minh, có những xử sự theo đúng yêu cầu của
pháp luật mà trong quá trình thực thi công vụ của họ còn đảm bảo xử lý nghiêm
minh, kịp thời.
Ngày nay trong xu thế hội nhập kinh tế, trong điều kiện khoa học công nghệ
thay đổi nhanh chóng, đặc biệt là môi trường kỹ thuật số, nó ảnh hưởng rất nhiều
đến hoạt động quản lý nhà nước về quyền tác giả. Để đáp ứng được đòi hỏi của
thực tế đặt ra, bên cạnh việc tăng cường công tác quản lý, kiểm tra, giám sát, giáo
dục, rèn luyện phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống cho cán bộ, công chức, đòi
hỏi phải có kế hoạch đào tạo, nâng cao năng lực chuyên môn nghiệp vụ, trình độ
ngoại ngữ, kiến thức pháp lý, kiến thức quản lý nhà nước cho cán bộ, công chức
thực hiện việc quản lý nhà nước bằng pháp luật về quyền tác giả.
Cán bộ, công chức nhà nước không chỉ gương mẫu trong cuộc sống và làm
việc theo pháp luật mà còn phải biết cách tổ chức cho các chủ thể khác thực hiện
đầy đủ, nghiêm chỉnh các quy định pháp luật. Hiểu biết pháp luật là một trong
những điều kiện quan trọng để có thái độ đúng đắn đối với pháp luật, với quá trình
tích cực, tự giác thực hiện pháp luật, đặc biệt là đối với đội ngũ cán bộ, công chức.
Việc vận dụng pháp luật vào từng trường hợp cá biệt phải thông qua lăng kính ý
thức pháp luật và trình độ chuyên môn cũng như đạo đức nghề nghiệp của cán bộ
công chức. Việc thường xuyên cập nhật kiến thức pháp lý cho cán bộ, công chức
là một trong những yêu cầu bắt buộc để giúp họ tự tin, thực hiện đúng đắn, chính
xác nhiệm vụ, quyền hạn của mình.
1.4.3. Ý thức của người dân về pháp luật quyền tác giả
Ý thức pháp luật của mỗi cá nhân, tổ chức và cả xã hội nói chung là một
trong những điều kiện quan trọng để đảm bảo quản lý nhà nước bằng pháp luật
đạt hiệu quả.
Ý thức pháp luật được hiểu là tổng thể những học thuyết, tư tưởng, quan
điểm, tình cảm của con người thể hiện thái độ, sự đánh giá về tính công bằng hay
không công bằng, đúng đắn hay không đúng đắn của pháp luật, về tính hợp pháp
hay không hợp pháp trong cách xử sự của con người, trong hoạt động của các cơ
33
quan, tổ chức xã hội [46,tr.394].
Pháp luật quyền tác giả dù có được xây dụng đầy đủ đến đâu, nhưng pháp
luật đó có được nhận thức đầy đủ và tự giác thi hành hay không lại phụ thuộc vào
trình độ văn hoá và ý thức pháp luật của các tác giả, chủ sở hữu quyền, người khai
thác, sử dụng tác phẩm, của công chúng nói chung và của các cán bộ, công chức
của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Thực tiễn cho thấy nhiều trường hợp vi phạm pháp luật về quyền tác giả là
do trình độ văn hóa thấp, thiếu hiểu biết pháp luật của một bộ phận nhân dân. Tuy
vậy, vẫn còn một bộ phận công dân có trình độ văn hóa nhất định, hiểu biết pháp
luật nhưng đạo đức, nhân cách thấp kém vẫn cố tình vi phạm pháp luật, có những
hành vi xử sự không đúng với yêu cầu của pháp luật.
Nhìn chung, trong một xã hội phát triển, trình độ văn hóa của nhân dân
ngày càng được nâng cao sẽ tạo cơ sở thực hiện giáo dục pháp luật, nâng cao ý
thức pháp luật của nhân dân. Nhờ có trình độ văn hóa nhất định mới có thể tiếp
thu, nhận thức, nâng cao hiểu biết pháp luật, xây dựng tình cảm, lòng tin vào pháp
luật và chuyển hóa thành hành vi tích cực thực hiện theo yêu cầu của pháp luật.
Mặt khác, trình độ văn hóa, ý thức pháp luật của nhân dân được nâng cao, tạo cơ
sở thuận lợi để nhân dân tham gia các hoạt động giám sát và phản biện xã hội đối
với việc quản lý nhà nước của các cơ quan nhà nước và các cán bộ, công chức
Nhà nước, góp phần nâng cao hiệu quả của việc quản lý nhà nước bằng pháp luật
về quyền tác giả [32].
Một xã hội ổn định và có kỷ cương phải là một xã hội mà trong đó mọi tầng
lớp nhân dân đều ý thức được rằng tự do và lợi ích của mình được đảm bảo bằng
sự tôn trọng tự do và lợi ích của người khác, tôn trọng và thực hiện pháp luật
nghiêm chỉnh. Và ở đâu có được sự nhận thức, hành động như vậy thì có thể khẳng
định rằng ở đó ý thức pháp luật đã đạt tới trình độ cao [26].
Khi ý thức của các chủ thể trong quan hệ pháp luật quyền tác giả về quyền
và nghĩa vụ của mình được thể hiện đầy đủ, tự giác, nhận thức trong xã hội về sự
cần thiết của việc bảo hộ quyền tác giả được nâng cao, sẽ hình thành văn hóa pháp
34
lý về quyền tác giả trong xã hội. Văn hóa pháp lý là việc mọi chủ thể pháp luật
điều chỉnh hành vi của mình một cách tự giác, phù hợp với quy định của pháp
luật, không làm những việc mà pháp luật cấm. Văn hóa pháp lý về quyền tác giả
ở trình độ cao thể hiện ở chỗ người sáng tạo nào, khi sáng tạo ra một tác phẩm,
đều sẵn lòng đưa tác phẩm đến với công chúng, đem lại những giá trị tinh thần và
nhân văn cao đẹp cho xã hội. Người khai thác, sử dụng tác phẩm, khi được hưởng
lợi từ tác phẩm, có nghĩa vụ trả nhuận bút, thù lao, coi đó là sự đền bù mà người
sáng tạo xứng đáng được hưởng để tiếp tục sáng tạo ra những tác phẩm mởi. Nhà
nước xây dựng và tổ chức thực hiện pháp luật về quyền tác giả, hướng dẫn công
dân thực hiện tốt quyền và nghĩa vụ do pháp luật quy định, giải quyết các tranh
chấp phát sinh, xử lý nghiêm minh và kịp thời các hành vi xâm phạm quyền tác
giả.
Việc xây dựng, nâng cao ý thức pháp luật về quyền tác giả trong nhân dân
là quá trình nâng cao sự hiểu biết pháp luật về quyền tác giả của mỗi người dân,
khuyến khích thói quen sống, làm việc theo pháp luật, tạo năng lực đánh giá đúng
đắn và thực hiện các hành vi trong xã hội. Những năm qua ở nước ta, nhiều người
dân chưa nhận thức đúng và đầy đủ về pháp luật quyền tác giả, ít quan tâm tới
pháp luật. Do vậy, một số người đã vi phạm pháp luật do kém hiểu biết và sự kém
hiểu biết về pháp luật đôi khi còn làm cho họ thậm chí không ý thức được rằng
quyền, lợi ích hợp pháp của họ có bị vi phạm hay không. Điều này, một mặt làm
giảm khả năng của chủ thể quyền tự bảo vệ quyền lợi của mình khi bị xâm phạm,
mặt khác cũng góp phần làm tăng khả năng khiếu kiện bừa bãi, không đủ căn cứ,
không đúng trình tự, thẩm quyền, dẫn đến bất ổn định xã hội. Tình trạng kém hiểu
biết pháp luật về quyền tác giả dễ tạo nên tâm lý thờ ơ, lãnh đạm, thậm chí coi
thường pháp luật, dẫn đến có những hành vi xử sự không đúng với quy định của
pháp luật.
1.4.4. Hợp tác quốc tế trong quản lý, thực thi bảo hộ quyền tác giả
Ngày nay, quyền tác giả đã trở thành một bộ phận của thương mại quốc tế,
đây là vấn đề được đặt ra trên bàn đàm phán của hầu hết các hiệp định kinh tế
35
giữa các quốc gia và khu vực, như trong các cuộc đàm phàn về GATT/TRIPS (tài
sản trí tuệ có liên quan đến Hiệp định buôn bán chung và Hiệp định mậu dịch),
NAFTA (Hiệp định mậu dịch tự do Bắc Mỹ) và hàng loạt các hiệp định song
phương với Mỹ và Cộng đồng Châu Âu, Hiệp định đối tác kinh tế Việt Nam –
Nhật Bản...
Trước sự phát triển như vũ bão của công nghệ thông tin, đặc biệt là internet,
vấn đề bảo hộ quyền tác giả không chỉ là vấn đề của mỗi quốc gia mà nó đã trở
thành vấn đề mang tính chất quốc tế. Trong điều kiện giao lưu văn hóa và hội
nhập kinh tế quốc tế sâu rộng như hiện nay, giá trị khoa học, nghiên cứu, giáo dục
của các tác phẩm là các tác giả ở nước phát triển có thể được khai thác, sử dụng
ở một nước đang phát triển, và ngược lại, giá trị văn hóa phong phú, đa dạng của
các tác phẩm văn học, nghệ thuật của tác giả của các nước đang phát triển có thể
tìm hiểu và phổ biến ở các nước phát triển. Do đó, đặt ra nhu cầu hợp tác quốc tế
trong việc bảo hộ quyền tác giả. Bảo hộ quyền tác giả khuyến khích công dân tự
do sáng tạo và phổ biến các tác phẩm văn học và nghệ thuật, thúc đẩy sự giao lưu,
trao đổi văn hóa giữa các quốc gia dựa trên tính đa dạng của nền văn hóa và những
quan tâm về công nghệ. Việc trao đổi, hợp tác đó sẽ đem lại cho quốc gia những
lợi ích tích cực.
Về nguyên tắc, luật quyền tác giả của một nước chỉ có hiệu lực ở nước đó,
việc bảo hộ quyền tác giả chỉ bó hẹp trong phạm vi của từng nước. Trong khi đó,
tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học ngày càng được sáng tạo ra nhiều hơn, và
chúng đã vượt biên giới các nước như một loại hàng hóa, không một ai có thể
ngăn cản. Vì vậy, các nước đã phải tiến hành ký kết các hiệp định song phương,
đa phương về vấn đề này để bảo hộ quyền tác giả một cách hữu hiệu.
Việt Nam đã là thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), chúng
ta đã tham gia 5 công ước quốc tế về quyền tác giả, quyền liên quan, và cam kết
tại Hiệp định Bảo hộ quyền Sở hữu trí tuệ với Liên bang Thụy Sĩ, Hiệp định
Thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ. Việc thực hiện các công ước quốc tế cũng như
các Hiệp định song phương về lĩnh vực này vừa là thách thức, vừa là thời cơ cho
36
việc thúc đẩy hoạt động bảo hộ trong nước và hội nhập quốc tế. Quy tắc đãi ngộ
quốc gia được quy định trong luật quyền tác giả quốc tế, có nghĩa là quyền lợi của
cá nhân, tổ chức nước ngoài được đãi ngộ như cá nhân, tổ chức trong nước.
Nguyên tắc này là nền tảng trong quan hệ mậu dịch quốc tế đối với việc bảo hộ
quyền lợi cho tác phẩm và sản phẩm văn hóa.
Trong “tầm nhìn và định hướng chiến lược của WIPO”, Tổng giám đốc
WIPO đã khẳng định: Sở hữu trí tuệ có ý nghĩa trung tâm đối với sự tăng trưởng
kinh tế và thịnh vượng bao nhiêu thì sự thách thức trong việc xây dựng hệ thống
sở hữu trí tuệ quốc tế để sao cho nó trở thành công cụ phát triển kinh tế và xã hội
sẽ càng lớn bấy nhiêu. Thêm vào đó, trong khi nhấn mạnh lợi ích kinh tế của
những sáng tạo thuộc sở hữu trí tuệ thì cũng nhất thiết phải dành một vị trí thích
đáng cho các khía cạnh văn hóa tuy ít cụ thể hơn về kinh tế nhưng có tầm quan
trọng không kém, cụ thể là cho niềm vui nghệ thuật và trí tuệ mà những sự sáng
tạo đó mang lại, làm giàu cho cuộc sống hàng ngày và nền văn hóa trường tồn của
chúng ta.
Bảo hộ quyền tác giả là một lĩnh vực còn mới mẻ ở các quốc gia đang phát
triển, trong đó có Việt Nam. Thông qua hợp tác quốc tế, các quốc gia phát triển,
các tổ chức quốc tế trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ, với kinh nghiệm lâu năm trong
việc bảo hộ quyền tác giả, có thể giúp đỡ các quốc gia đang phát triển về chuyên
môn, kỹ thuật, tài chính để bảo hộ quyền tác giả đạt hiệu quả.
1.5. Kinh nghiệm quản lý nhà nước bằng pháp luật về quyền tác giả ở
một số quốc gia trên thế giới
1.5.1. Quản lý nhà nước bằng pháp luật về quyền tác giả ở một số nước
trên thế giới.
Hoạt động bảo hộ quyền tác giả đã ra đời cách đây gần 300 năm và ngày
càng phát triển. Cho đến nay, hầu như quốc gia nào cũng đã thiết lập hệ thống bảo
hộ quyền tác giả cho quốc gia mình. Mỗi quốc gia xây dựng hệ thống bảo hộ
quyền tác giả với những nét riêng phù hợp nhưng đều có những điểm chung, cơ
bản giống nhau, đó là: Hệ thống các quy định của pháp luật tạo cơ sở pháp lý cho
37
hoạt động bảo hộ quyền tác giả, quyền liên quan; Hệ thống các cơ quan có thẩm
quyền liên quan đến thực thi bảo hộ quyền tác giả, quyền liên quan; Hệ thống các
tổ chức đại diện quyền tác giả, quyền liên quan.
Tham khảo hệ thống bảo hộ quyền tác giả, quyền liên quan của một số quốc
gia giúp chúng ta rút ra được những kinh nghiệm bổ ích trong hoạt động quản lý
nhà nước bằng pháp luật ở nước ta. Việc tham khảo này sẽ được xem xét trên khía
quy định của pháp luật; cơ quan thực thi; cơ quan quản lý và hệ thống các tổ chức
đại diện quyền tác giả, quyền liên quan.
Hoa Kỳ: có Luật Bản quyền (Luật số 17 Bộ luật Hợp chủng quốc Hoa Kỳ).
Hệ thống các cơ quan thực thi bao gồm Bộ An ninh nội địa, Cục Điều tra Liên
bang, Bộ Tư pháp, Bộ Ngoại giao…Để kết nối giữa các cơ quan thực thi toàn Liên
bang, Hoa Kỳ thành lập Trung tâm điều phối quyền tác giả thuộc Bộ An ninh nội
địa. Trung tâm có nhiệm vụ tiếp nhận các khiếu nại, các thông tin vi phạm về
quyền tác giả, quyền liên quan; hợp tác các cơ quan để giải quyết. Trung tâm
thường xuyên tổ chức trao đổi thông tin và tổ chức đào tạo, cung cấp các phương
tiện kỹ thuật để phục vụ cho việc kiểm tra, kiểm soát chống vi phạm Tài chính
của Trung tâm do Quốc hội cấp trực tiếp. Cơ quan quản lý quyền tác giả Hoa Kỳ
trực thuộc Thư viện Quốc hội có khoảng 630 nhân viên, thực hiện chức năng quản
lý Luật quyền tác giả, đăng ký tác phẩm, cung cấp thông tin…Mỗi năm, cấp giấy
chứng nhận đăng ký khoảng một triệu tác phẩm, đối tượng quyền liên quan.
Hệ thống quản lý tập thể: Hiệp hội tác giả, nhà soạn nhạc và nhà xuất bản
Hoa Kỳ (ALCS), Cơ quan đăng kí tác giả (The Authours Registry), Hiệp hội âm
nhạc phát thanh, truyền hình (BMI), Trung tâm cấp phép bản quyền (Copyright
Clearance center), Cơ quan cấp phép quyền xuất bản Liên hiệp nhà văn quốc gia
(National Writer Union Publications Right Clearinghouse)…
Singapore: Singapore có Luật quyền tác giả, cơ quan sở hữu trí tuệ
Singapore (IPOS) trực thuộc Bộ Công nghiệp. Năm 2000, Cơ quan được chuyển
đổi thành cơ quan nửa tự chủ theo luật, ngoài những chức năng khác cơ quan này
được giao trách nhiệm quản lý hệ thống sở hữu trí tuệ ở Singapore. Trên mặt trận
38
thực thi quyền sở hữu trí tuệ, cơ quan trước tiên chịu trách nhiệm thực thi trong
nước là Chi nhánh quyền sở hữu trí tuệ - một phòng về tội phạm đặc biệt thuộc
Cục điều tra hình sự, trong khi đó việc thực thi tại biên giới do Cục thuế và Hải
quan thực hiện. Trong lĩnh vực giáo dục, Singapore tiến hành chiến dịch giáo dục
công chúng dưới sự chỉ đạo của cơ quan Sở hữu trí tuệ Singapore và Hội đồng
Khoa học và công nghệ quốc gia, nhằm mục đích tăng cường nhận thức của công
chúng về sở hữu trí tuệ.
Singapore nhận ra tầm quan trọng của tài sản quyền tác giả đối với nền kinh
tế của họ, vừa như là nguồn tài nguyên quốc gia và là nhân tố thu hút đầu tư nước
ngoài. Để phát triển quyền tác giả như một tài sản có tính chiến lược và khả năng
cạnh tranh, Singapore đã thông qua chính sách ủng hộ tích cực đối với quyền tác
giả nhằm phát triển các ngành công nghiệp có giá trị gia tăng và hàm lượng trí tuệ
sáng tạo cao.
Pháp: Bộ luật Sở hữu trí tuệ quy định cho tất cả các đối tượng sở hữu trí
tuệ, trong đó có quyền tác giả, một hệ thống thực thi gồm: Công an, Hải quan,
Tòa án dân sự, Tòa án hình sự; cơ quan quản lý quyền tác giả thuộc Bộ văn hòa
và Pháp ngữ. Có một số tổ chức quản lý tập thể như Hiệp hội tác giả văn học,
Hiệp hội tác giả nghệ thuật tạo hình, Hiệp hội tác giả, nhà soạn nhạc và nhà xuất
bản âm nhạc, Hiệp hội các tác giả và nhà soạn nhạc đối với tác phẩm nhạc kịch,
Hiệp hội quản lý quyền sao chép của tác giả, nhà soạn nhạc và các nhà xuất bản
âm nhạc…
Thái Lan: Đạo luật quyền tác giả số 2537 ban hành năm 1994; cơ quan thực
thi gồm: Cảnh sát Hoàng gia Thái Lan, Cục Hải quan Hoàng Gia, Cục điều tra
đặc biệt. Tòa án Sở hữu trí tuệ và thương mại quốc tế trung tâm được thành lập
năm 1997. Cục Sở hữu trí tuệ thuộc Bộ Thương mại, thành lập 1992, quản lý
quyền tác giả, sáng chế và các đối tượng sở hữu trí tuệ khác. Cục sở hữu trí tuệ
thúc đẩy việc khai thác, sử dụng tài sản trí tuệ nhằm mục đích thương mại và phối
hợp với các cơ quan chính phủ có liên quan tổ chức các hoạt động thực thi. Thái
Lan tiến hành các chiến dịch chống hàng sao chép lậu, nâng cao nhận thức công
39
chúng về ảnh hưởng của hàng sao chép lậu, nâng cao nhận thức công chúng về
ảnh hưởng của hàng sao chép lậu đối với xã hội, khuyến khích công chúng sử
dụng hàng hóa có bản quyền. Hệ thống tổ chức đại diện quyền tác giả, quyền liên
quan: Công ty TNHH QTG âm nhạc, Công ty TNHH quyền ghi âm.
Trung Quốc: có Luật quyền tác giả; Hệ thống các cơ quan thực thi: Công
an, hải quan, có Tòa về sở hữu trí tuệ trong đó có tòa chuyên trách về quyền tác
giả, cơ quan quản lý quyền tác giả trực thuộc Hội đồng nhà nước, cơ quan quản
lý quyền tác giả ở trung ương và địa phương; Hệ thống tổ chức đại diện quyền tác
giả, quyền liên quan: có hiệp hội quyền tác giả, hiệp hội quyền tác giả âm nhạc.
Từ năm 2005 đến nay, hàng năm Chính phủ Trung Quốc ban hành các chiến lược
bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, trong đó có các kế hoạch cụ thể cho từng lĩnh vực.
Nhật Bản: có Luật quyền tác giả; Hệ thống các cơ quan thực thi: Công an,
hải quan, cơ quan quản lý quyền tác giả thuộc cơ quan Ngoại giao văn hóa; Hệ
thống tổ chức đại diện quyền tác giả, quyền liên quan: có hiệp hội các tác giả, nhà
soạn nhạc và nhà xuất bản, hiệp hội các nhà văn, trung tâm quyền sao chụp, hiệp
hội công nghiệp ghi âm, trung tâm quản lý quyền của người biểu diễn…
Hàn Quốc: có Luật quyền tác giả; Hệ thống các cơ quan thực thi: Công an,
hải quan, cơ quan quản lý quyền tác giả thuộc Bộ văn hòa và du lịch; Hệ thống tổ
chức đại diện quyền tác giả, quyền liên quan: hiệp hội quyền tác giả âm nhạc, hiệp
hội những người biểu diễn nghệ thuật, hiệp hội nhà sản xuất bản ghi âm ghi hình…
Từ thực tiễn xây dựng và quản lý quyền tác giả, quyền liên quan của các
nước, có thể thấy rằng:
- Về hệ thống pháp luật: Các nước trên thế giới đều quản lý hoạt động quyền
tác giả, quyền liên quan thông qua hệ thống các quy định về quyền tác giả, quyền
liên quan. Hầu hết các nước đều xây dựng một luật riêng về quyền tác giả, quyền
liên quan. Một số ít nước gộp tất cả các đối tượng của sở hữu trí tuệ vào một bộ
luật sở hữu trí tuệ trong đó có quyền tác giả, quyền liên quan.
- Hệ thống cơ quan thực thi gồm công an, hải quan, tòa án. Xu hướng có
nhiều quốc gia hướng tới việc thành lập các cơ quan chuyên trách được đào tạo
40
bài bản, có kinh nghiệm, được trao những quyền hạn đặc biệt: thực thi và cưỡng
chế thực hiện pháp luật về quyền tác giả, quyền liên quan như Thái Lan, Trung
Quốc.
- Về hệ thống cơ quan quản lý quyền tác giả: Hầu hết các nước đều bố trí
cơ quan quản lý quyền tác giả thuốc hệ thống cơ quan công quyền, chưa có nước
nào thiết lập dạng tư nhân. Qua thống kê số liệu của Tổ chức sở hữu trí tuệ thế
giới, có tới trên 130 nước có cơ quan quản lý quyền tác giả, quyền liên quan độc
lập với cơ quan quản lý sở hữu công nghiệp.
1.5.2. Một số kinh nghiệm có thể vận dụng ở Việt Nam
Trong điều kiện kinh tế, xã hội có nhiều thay đổi như hiện nay, các nhà lập
pháp đang phải đối diện với rất nhiều vấn đề, thay vì phải đối diện với những giải
pháp có nguy cơ kém khả thi, họ có thể khai thác, nghiên cứu, tham khảo, vận
dụng, rút kinh nghiệm từ những quy định pháp luật của nước ngoài. Những bài
học kinh nghiệm từ các quốc gia trong khu vực hoặc thế giới có thể áp dụng, vận
dụng linh hoạt để trở thành giải pháp đơn giản, ít tốn kém mà lại hiệu quả cao.
Tuy nhiên, có những nguyên tắc và cơ chế điều chỉnh pháp luật chỉ có thể hoạt
động có hiệu quả trong một số điều kiện đặc thù của từng quốc gia, vì vậy có thể
không phù hợp, thậm chí gây nguy hiểm đối với một số nước có truyền thống và
loại hình xã hội khác. Vì vậy, khi chúng ta học hỏi kinh nghiệm pháp luật nước
ngoài cần hết sức xem xét và thận trọng sao cho phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh,
kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của nước ta.
Học tập và rút kinh nghiệm các nước, Việt Nam đặc biệt chú trọng xây
dựng hệ thống pháp luật về quyền tác giả, đáp ứng được điều kiện phát triển trong
nước và phù hợp với thông lệ, luật pháp quốc tế. Hệ thống cơ quan quản lý nhà
nước về pháp luật trực thuộc hệ thống cơ quan công quyền, thống nhất quản lý từ
trung ương đến địa phương. Việt Nam cũng xây dựng và phát triển hệ thống tổ
chức đại diện quyền tác giả, quyền liên quan hay còn gọi là tổ chức quản lý tập
41
thể quyền tác giả.
Tiểu kết Chương 1
Những thành quả trí tuệ do con người tạo ra thông qua hoạt động sáng tạo
với hàm lượng chất xám của lao động được kết tinh ở các tác phẩm văn học, nghệ
thuật, khoa học được thừa nhận là tài sản trí tuệ. Sở hữu tài sản trí tuệ hay sở hữu
trí tuệ là phạm trù rộng bao gồm nhiều lĩnh vực khác nhau, trong đó có quyền tác
giả và quyền liên quan. Hoạt động bảo hộ quyền tác giả là một trong những nhiệm
vụ quan trọng khi thực hiện các cam kết gia nhập WTO của Việt Nam. Hoạt động
bảo hộ quyền tác giả nhằm mục đích khuyến khích sáng tạo, thu hút và bảo hộ
đầu tư, góp phần phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, thông qua đó, công chúng
được tiếp cận và hưởng thụ các tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học có giá trị.
Thực hiện quản lý hoạt động bảo hộ quyền tác giả, Nhà nước sử dụng công
cụ quan trọng, có tính hệ thống, và hiệu quả cao, đó chính là pháp luật. Thông qua
pháp luật, Nhà nước tác động vào các đối tượng, và chủ thể của quyền tác giả để
định hướng cho hoạt động bảo hộ quyền tác giả vận động, phát triển theo những
mục tiêu nhất định trong từng giai đoạn.
Trong nền kinh tế khoa học kỹ thuật số phát triển không ngừng, hoạt động
sáng tạo, khai thác và sử dụng quyền tác giả diễn ra hết sức phức tạp với sự đa
dạng về chủ thể, về hình thức và quy mô khai thác, chính vì vậy, Nhà nước phải
đảm bảo cho hoạt động bảo hộ quyền tác giả có tính tổ chức cao, ổn định, công
bằng và có định hướng rõ rệt. Nhà nước phải ban hành pháp luật và dùng pháp
luật làm công cụ để bảo hộ quyền tác giả. Chỉ trên cở sở một hệ thống pháp luật
đầy đủ, đồng bộ, phù hợp với thực tiễn và trình độ phát triển của kinh tế, xã hội,
Nhà nước mới có thể phát huy được vai trò và chức năng quản lý nhà nước của
mình nói chung và quản lý nhà nước trong hoạt động bảo hộ quyền tác giả nói
riêng.
Trong tiến trình hội nhập và hợp tác quốc tế, yêu cầu về bảo hộ quyền tác
giả của mỗi quốc gia đã trở thành một điều kiện tiên quyết. Hoạt động bảo hộ
42
quyền tác giả có vai trò quan trọng, giúp nền kinh tế giữ được thế chủ động trong
quá trình hội nhập, góp phần thúc đẩy, giao lưu thương mại quốc tế, thông qua
quản lý nhà nước bằng pháp luật, đã tạo một hành lang pháp lý an toàn, một cơ
chế bảo hộ hữu hiệu, khuyến khích sáng tạo trong nước, bảo vệ các nhà sáng tạo,
các nhà đầu tư trong nước trước sự cạnh tranh của các sản phẩm văn hóa cùng
loại trên thị trường, đặc biệt là sự tràn lan của hành vi vi phạm quyền tác giả.
Chính vì vậy, việc hoàn thiện quản lý nhà nước đối với lĩnh vực quyền tác giả là
nhu cầu tất yếu, khách quan của sự nghiệp phát triển kinh tế-xã hội của các quốc
43
gia trên thế giới cũng như đối với nước ta hiện nay.
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC BẰNG PHÁP LUẬT
VỀ QUYỀN TÁC GIẢ TẠI BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH
2.1. Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch và Cục Bản quyền tác giả trong
quản lý nhà nước về quyền tác giả
2.1.1. Nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch trong
quản lý nhà nước về quyền tác giả
Theo quy định của pháp luật, Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về
quyền tác giả, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch là cơ quan của Chính phủ chịu
trách nhiệm trước Chính phủ, chủ trì, phối hợp với các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ
quan thuộc Chính phủ, Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
trong việc quản lý nhà nước về quyền tác giả. Theo Nghị định 22/2018/NĐ-CP
quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005
và sửa đổi bổ sung một số điều của Luật sở hữu trí tuệ năm 2009 về quyền tác giả,
quyền liên quan, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch có nhiệm vụ và quyền hạn sau:
- Xây dựng, ban hành, chỉ đạo và tổ chức thực hiện pháp luật, cơ chế, chính
sách bảo hộ quyền tác giả, quyền liên quan.
- Thực hiện các biện pháp bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước,
tổ chức, cá nhân trong lĩnh vực bảo hộ quyền tác giả, quyền liên quan.
- Quản lý, khai thác quyền tác giả đối với tác phẩm, quyền liên quan đối
với cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng thuộc về sở hữu
nhà nước; nhận chuyển giao quyền tác giả của các tổ chức, cá nhân cho nhà nước
theo quy định của pháp luật.
- Hướng dẫn việc cung cấp, hợp tác, đặt hàng, sử dụng và đảm bảo quyền
tác giả đối với tác phẩm, quyền liên quan đối với cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi
hình, chương trình phát sóng.
44
- Tổ chức việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ về quyền tác giả, quyền liên quan.
- Quản lý hoạt động của các tổ chức đại diện tập thể quyền tác giả, quyền
liên quan, tổ chức tư vấn, dịch vụ quyền tác giả, quyền liên quan.
- Cấp, cấp lại, đổi, hủy bỏ hiệu lực Giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả,
Giấy chứng nhận đăng ký quyền liên quan.
- Lập và quản lý Sổ đăng ký quốc gia về quyền tác giả, quyền liên quan.
- Xuất bản và phát hành Công báo về quyền tác giả, quyền liên quan.
- Tổ chức, chỉ đạo hoạt động giáo dục, tuyên truyền, phổ biến kiến thức,
pháp luật, cơ chế, chính sách và hoạt động thông tin, thống kê về quyền tác giả,
quyền liên quan.
- Quản lý hoạt động giám định về quyền tác giả, quyền liên quan.
- Thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật về quyền tác giả, quyền liên
quan; giải quyết khiếu nại, tố cáo về quyền tác giả, quyền liên quan.
- Thực hiện hợp tác quốc tế về quyền tác giả, quyền liên quan.
2.1.2. Cục Bản quyền tác giả thuộc Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch
a) Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Cục Bản quyền tác giả
Cục Bản quyền tác giả (tiền thân là hãng bảo hộ quyền tác giả Việt Nam)
được thành lập theo quyết định số 28-VH/QĐ ngày 20/02/1987 của Bộ trưởng Bộ
Văn hóa. Trải qua hơn 30 năm thành lập và phát triển, sau nhiều lần bổ sung và
sửa đổi, đến nay chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cục Bản
quyền tác giả được quy định tại Quyết định số 3954/QĐ-BVHTTDL ngày
20/10/2017 của Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch. Theo đó, Cục Bản
quyền tác giả là tổ chức thuộc Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch, có chức năng
tham mưu giúp Bộ trưởng thực hiện quản lý nhà nước về bảo hộ quyền tác giả,
quyền liên quan và công nghiệp văn hóa theo chủ trương, đường lối của Đảng và
chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Cục Bản quyền có nhiệm vụ và quyền hạn chính như sau:
- Trình Bộ trưởng dự thảo văn bản quy phạm pháp luật, chiến lược, cơ chế,
chính sách, kế hoạch về bảo hộ quyền tác giả, quyền liên quan và phát triển các
45
ngành công nghiệp văn hóa; dự thảo phương án đàm phán các Điều ước quốc tế,
cam kết quốc tế, chương trình hợp tác quốc tế về quyền tác giả, quyền liên quan,
phát triển các ngành công nghiệp văn hóa và tổ chức thực hiện sau khi được cấp
có thẩm quyền phê duyệt.
- Trình Bộ trưởng quy định về phát triển các ngành công nghiệp văn hóa,
cung cấp, hợp tác, đặt hàng và đảm bảo quyền tác giả đối với tác phẩm, quyền
liên quan đối với cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng và
tổ chức thực hiện sau khi được phê duyệt.
- Tổ chức thực hiện các biện pháp phát triển các ngành công nghiệp văn
hóa thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của nhà nước, tổ chức, cá nhân về quyền tác giả, quyền liên quan.
- Quản lý quyền tác giả đối với tác phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học,
quyền liên quan đối với cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát
sóng thuộc sở hữu Nhà nước theo quy định của pháp luật.
- Xây dựng và quản lý bộ máy về quyền tác giả, quyền liên quan về công
nghiệp văn hóa; tổ chức bồi dưỡng cán bộ về quyền tác giả, quyền liên quan, phát
triển các ngành công nghiệp văn hóa.
- Hướng dẫn nghiệp vụ bảo hộ quyền tác giả, quyền liên quan và phát triển
các ngành công nghiệp văn hóa cho cán bộ, công chức, viên chức của các Sở Văn
hóa, thể thao, và du lịch, Sở Văn hóa và Thể thao các ngành, địa phương, doanh
nghiệp và các tổ chức xã hội.
- Quản lý các hoạt động của các tổ chức đại diện tập thể quyền tác giả,
quyền liên quan theo quy định của pháp luật.
- Quản lý hoạt động giám định quyền tác giả, quyền liên quan, hoạt động
đại diện, tư vấn, dịch vụ về quyền tác giả, quyền liên quan theo quy định của pháp
luật.
- Cấp, cấp lại, đổi, hủy bỏ hiệu lực Giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả,
46
giấy chứng nhận đăng ký quyền liên quan.
- Phối hợp tổ chức hoạt động giáo dục, tuyên truyền, phổ biến kiến thức
pháp luật, cơ chế, chính sách về quyền tác giả, quyền liên quan và phát triển các
ngành công nghiệp văn hóa.
- Tổ chức các hoạt động thông tin, thống kê, xuất bản Niên giám đăng ký
về quyền tác giả, quyền liên quan và về công nghiệp văn hóa.
- Giải quyết khiếu nại, tố cáo về quyền tác giả, quyền liên quan theo quy
định của pháp luật.
- Thực hiện hợp tác quốc tế về quyền tác giả, quyền liên quan và công
nghiệp văn hóa theo quyết định của Bộ trưởng.
- Giúp Bộ trưởng phối hợp với Bộ Khoa học và công nghệ xây dựng các
chủ trương, chính sách, pháp luật chung về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, tổng hợp
thông tin chung về sở hữu trí tuệ, thực hiện các dự án họp tác quốc tế chung về sở
hữu trí tuệ và các công việc chung khác có liên quan.
- Quản lý tổ chức bộ máy, biên chế, thực hiện chính sách, chế độ đối với
công chức, viên chức và người lao động thuộc phạm vi quản lý của Cục.
b) Cơ cấu tổ chức của Cục Bản quyền tác giả
Hiện nay, cơ cấu tổ chức của Cục Bản quyền tác giả có 01 Cục trưởng, 03
Phó cục trưởng, 06 phòng và tương đương: văn phòng Cục; phòng quản lý quyền
tác giả, quyền liên quan; phòng quản lý công nghiệp văn hóa; phòng đăng ký
quyền tác giả, quyền liên quan; phòng thông tin và hợp tác quốc tế; Trung tâm
giám định quyền tác giả, quyền liên quan.
Cục bản quyền tác giả hiện nay có 29 công chức, 04 viên chức, 01 hợp đồng
lao động theo nghị định 68, trong đó có 02 công chức thuộc phòng đăng ký quyền
tác giả, quyền liên quan công tác tại thành phố Hồ Chí Minh và thành phố Đà
Nẵng. Các công chức, viên chức của Cục có trình độ học vấn từ đại học trở lên,
trong đó có 01 tiến sĩ và 15 thạc sĩ. Đội ngũ lãnh đạo cấp phòng và tương đương
47
của Cục hiện có 05 trưởng phòng, 04 phó trưởng phòng.
2.2. Tình hình quản lý nhà nước bằng pháp luật về quyền tác giả,
những kết quả đạt được tại Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch giai đoạn
2015-2020
2.2.1. Xây dựng, ban hành và tuyên truyền,hướng dẫn việc thực hiện các
văn bản pháp luật về quyền tác giả
Nhằm khuyến khích các cá nhân, tổ chức tham gia vào việc sáng tạo và phổ
biến các tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học, Nhà nước đã ban hành nhiều
chính sách và văn bản pháp luật bảo hộ quyền và lợi ích hợp pháp của những
người sáng tạo ra các tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học, đồng thời bảo vệ
lợi ích của công chúng hưởng thụ.
Trải qua hơn 20 năm, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về quyền tác
giả, quyền liên quan đã liên tục được hoàn thiện. Từ Bộ luật Dân sự năm 1995,
với 36 điều quy định về quyền tác giả tại chương I phần thứ 6 và phần thứ 7; cho
đến Bộ luật Dân sự 2005 vẫn là những quy định chung điều chỉnh các quan hệ
dân sự trong lĩnh vực quyền tác giả cho đến khi được quy định cụ thể hóa riêng
biệt bằng luật chuyên ngành là Luật Sở hữu trí tuệ 2005 với 222 điều trong đó, có
46 điều quy định riêng về quyền tác giả, quyền liên quan. Luật sở hữu trí tuệ 2005
quy định cụ thể về tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả, chủ sở hữu quyền liên quan,
điều kiện bảo hộ, nội dung quyền, giới hạn quyền và thời hạn bảo hộ, các hành vi
bị coi là xâm phạm quyền, chuyển giao quyền, chứng nhận đăng ký quyền, tổ
chức đại diện, tư vấn, dịch vụ, các biện pháp tự bảo vệ quyền, xử lý xâm phạm
quyền bằng các biện pháp dân sự, hành chính, hình sự...
Bộ Luật Dân sự năm 2005 và Luật sở hữu trí tuệ 2005 được đánh giá là bảo
đảm đáp ứng được các mục tiêu và đòi hỏi khắt khe của quá trình hội nhập, khắc
phục được các bất cập hiện đang tồn tại, làm cho hệ thống quy phạm pháp luật về
sở hữu trí tuệ của nước ta tiến gần hơn với hệ thống của nhiều nước trên thế giới.
Đồng thời đây là công cụ quan trọng góp phần thúc đẩy hoạt động sáng tạo,
48
khuyến khích cạnh tranh lành mạnh, thu hút đầu tư trong và ngoài nước, phát triển
thị trường công nghệ, từ đó nâng cao hiệu lực của pháp luật, hiệu quả quản lý,
thực thi, góp phần phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội.
Để hướng dẫn các quy định của Bộ luật Dân sự 2005 và Luật Sở hữu trí tuệ
2005 Chính phủ ban hành: Nghị định số 100/2006/NĐ-CP ngày 21/9/2006 Quy
định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật Dân sự, Luật Sở hữu
trí tuệ về quyền tác giả và quyền liên quan; Nghị định số 105/2006/NĐ-CP Quy
định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật sở hữu trí tuệ về bảo vệ
quyền sở hữu trí tuệ và quản lý nhà nước về sở hữu trí tuệ.
Ngày 19/6/2009, tại kỳ họp thứ 5 Quốc hội khóa XII đã thông qua Luật Sửa
đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ, với 33 điều sửa đổi, bổ sung.
Phần quyền tác giả, sửa đổi điều 26 và điều 33 về giới hạn quyền tác giả, quyền
liên quan cho phù hợp với điều 11 bis Công ước Berne và kéo dài thời hạn bảo hộ
tác phẩm điện ảnh, nhiếp ảnh, mỹ thuật ứng dụng, tác phẩm khuyết danh từ 50 lên
75 năm cho phù hợp với Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ và nguyên tắc
đối xử tối huệ quốc của Hiệp định TRIPs. Luật sửa đổi bổ sung một số điều của
Luật Sở hữu trí tuệ nhằm đáp ứng yêu cầu của thực tiễn hội nhập, thể chế hóa
Nghị quyết số 71/2006/ NQ-QH11 của Quốc hội về việc phê chuẩn Nghị định thư
gia nhập Hiệp định thành lập WTO của Việt Nam.
Nghị định số 100/2006/NĐ-CP ngày 21/9/2006 quy định chi tiết và hướng
dẫn thi hành một số điều của Bộ luật dân sự, Luật sở hữu trí tuệ về quyền tác giả
và quyền liên quan được thay thế bằng Nghị định số 22/2018/NĐ-CP ngày
23/02/2018 quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành luật sở hữu trí tuệ
năm 2005 và luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ năm 2009
về quyền tác giả, quyền liên quan.
Ngày 14/6/2019 tại kỳ họp thứ 7 Quốc hội khóa XIV đã thông qua Luật sửa
đổi, bổ sung một số điều của Luật Kinh doanh bảo hiểm, Luật Sở hữu trí tuệ (Luật
số 42/2019/QH14). Luật này được Quốc hội thông qua theo trình tự, thủ tục rút
gọn nhằm kịp thời nội luật hóa các nghĩa vụ phải thi hành ngay trong Hiệp định
49
Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) đã có hiệu lực
với Việt Nam từ ngày 14/01/2019. Các nội dung liên quan đến sở hữu trí tuệ trong
Luật sửa đổi lần này tập trung vào 5 nhóm vấn đề lớn, bao gồm: cách thức nộp
đơn đăng ký xác lập quyền sở hữu công nghiệp; sáng chế; nhãn hiệu; chỉ dẫn địa
lý và bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ; đã khắc phục những tồn tại bất cập, đồng thời
bảo vệ quyền, lợi ích của cá nhân, tổ chức Việt Nam bình đẳng với công dân và
pháp nhân của các quốc gia, nhằm thúc đẩy các hoạt động thực thi tại Việt Nam
và hội nhập quốc tế.
Bên cạnh đó, hệ thống các chế tài về hành chính, dân sự và hình sự đã được
ban hành, và đổi mới qua từng giai đoạn nhằm đảm bảo cho các quy định pháp
luật về quyền tác giả được thi hành với bộ máy cưỡng chế của Nhà nước.
Hầu hết các quan hệ xã hội về quyền tác giả, quyền liên quan đã được điều
chỉnh bởi các văn bản quy phạm pháp luật. Về cơ bản pháp luật hiện hành phù
hợp với các chuẩn mực quốc tế, tạo tiền đề cho sự hội nhập sâu rộng với cộng
đồng quốc tế. Hoạt động lập pháp, lập quy về quyền tác giả, quyền liên quan đã
có những bước phát triển vượt bậc.
Với vai trò là cơ quan đầu ngành của Chính phủ chịu trách nhiệm cao nhất
về quản lý nhà nước về quyền tác giả, trong giai đoạn 2015 - 2020, Bộ Văn hóa,
Thể thao và Du lịch đã rất tích cực trong hoạt động xây dựng, ban hành văn bản
pháp luật về quyền tác giả, quyền liên quan.
Chỉ tính riêng 5 năm gần đây Bộ đã chủ trì, xây dựng, soạn thảo, trình Thủ
tướng Chính phủ kí ban hành 02 Nghị định; ban hành theo thẩm quyền 04 Thông
tư; xây dựng, hoàn thiện 3 đề án bao gồm:
- Nghị định số 28/2017/NĐ-CP ngày 20 /3/2017 sửa đổi, bổ sung một số
điều của Nghị định số 131/2013/NĐ-CP ngày 16 tháng 10 năm 2013 của Chính
phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính về quyền tác giả, quyền liên quan và
Nghị định số 158/2013/NĐ-CP ngày 12 tháng 11 năm 2013 của Chính phủ Quy
định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực văn hóa, thể thao, du lịch và quảng
50
cáo;
- Nghị định 22/2018/NĐ-CP ngày 23/2/2018 về hướng dẫn Luật Sở hữu trí
tuệ năm 2005 và Luật Sở hữu trí tuệ sửa đổi năm 2009 về quyền tác giả, quyền
liên quan;
- Thông tư số 04/2016/TT-BVHTTDL ngày 29 tháng 6 năm 2016 của Bộ
trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông
tư số 15/2012/TT-BVHTTDL; Thông tư số 07/2012/TT-BVHTTDL; Thông tư số
88/2008/TT-BVHTTDL và Thông tư số 05/2013/TT-BVHTTDL, có hiệu lực thi
hành kể từ ngày 15 tháng 8 năm 2016;
- Thông tư 08/2016/TT-BVHTTDL quy định các biểu mẫu trong hoạt động
đăng ký quyền tác giả, quyền liên quan do Bộ Văn hóa thể thao và du lịch ban
hành
- Thông tư số 35/2018/TT-BVHTTDL ngày 19 tháng 11 năm 2018 của Bộ
trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông
tư số 15/2012/TT-BVHTTDL, Thông tư số 10/2013/TT-BVHTTDL, Thông tư số
11/2014/TT-BVHTTDL và Thông tư số 04/2016/TT-BVHTTDL, có hiệu lực thi
hành kể từ ngày 15 tháng 01 năm 2019.
- Thông tư 02/2019/TT-BVHTTDL quy định quy trình giám định tư pháp
về quyền tác giả, quyền liên quan do Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch
ban hành.
- Đề án: “Tăng cường năng lực quản lý và thực thi có hiệu quả pháp luật
bảo hộ quyền tác giả, quyền liên quan giai đoạn 2016 - 2020”.
- Đề án: “Trung tâm giám định là đơn vị sự nghiệp công lập thực hiện giám
định quyền tác giả, quyền liên quan”.
- Đề án: “Nâng cao nhận thức và ý thức thực thi các quy định pháp luật về
quyền tác giả và quyền liên quan trong toàn xã hội giai đoạn 2016 - 2020”.
Bên cạnh đó, Bộ cũng tổ chức nghiên cứu, đóng góp ý kiến đối với Dự thảo
Bộ luật Dân sự sửa đổi, Bộ luật Hình sự sửa đổi, và nhiều văn bản khác có liên
quan khi có yêu cầu phối hợp; Năm 2019, Bộ chủ trì xây dựng nội dung quyền
tác giả, quyền liên quan, phối hợp với Bộ Khoa học và Công nghệ trình Thủ tướng
51
phê duyệt Chiến lược sở hữu trí tuệ đến năm 2030.
Có thể thấy, hoạt động lập pháp, lập quy về quyền tác giả, quyền liên quan
những năm gần đây đã có những bước phát triển tích cực, tạo lập được hành lang
pháp lý an toàn, khuyến khích các hoạt động sáng tạo phát triển, đồng thời bảo hộ
thành quả lao động sáng tạo đã kết tinh trong các tác phẩm văn học, nghệ thuật và
khoa học. Trong kết quả của hoạt động lập pháp và lập quy nêu trên, có phần đóng
góp lớn của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch- cơ quan quản lý nhà nước về quyền
tác giả, quyền liên quan.Bộ đã nỗ lực, quyết tâm caotrong chỉ đạo, tổ chức nghiên
cứu, xây dựng và trình các cấp có thẩm quyền ban hành hoặc ban hành theo thẩm
quyền văn bản pháp luậtvề quyền tác giả.
Không chỉ tích cực trong hoạt động xây dựng, ban hành văn bản pháp luật,
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã phối hợp với các cơ quan, ban ngành có liên
quan, các địa phương tổ chức triển khai thi hành pháp luật về quyền tác giả đến
các đối tượng có liên quan.
Trong công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục tới công chúng, các phương
tiện thông tấn báo chí đã có những đóng góp tích cực, nhiều báo, tạp chí, bản tin,
đài phát thanh truyền hình đã mở chuyên mục, giới thiệu, giải đáp pháp luật về
quyền tác giả. Nhiều sách, báo, tài liệu về quyền tác giả được xuất bản nhằm phổ
biến kiến thức về quyền tác giả đến công chúng. Cục bản quyền thuộc Bộ Văn
hóa, Thể thao và Du lịch đã tổ chức biên soạn, dịch, xuất bản trên 10 đầu sách,
phối hợp với các tạp chí có liên quan xuất bản các số đặc san về quyền tác giả
trong các lĩnh vực báo chí, mỹ thuật, điện ảnh, nhiếp ảnh…
Để đánh giá tình hình thi hành các quy định pháp luật, phân tích kết quả,
hạn chế, trao đổi kinh nghiệm và đề ra giải pháp thúc đẩy hoạt động bảo hộ quyền
tác giả, Bộ đã tổ chức nhiều hội nghị triển khai, lớp tập huấn, hội thảo quốc gia
và quốc tế về quyền tác giả. Năm 2015, Bộ tổ chức 06 hội thảo, hội nghị, lớp tập
huấn trong đó có 02 hội thảo phối hợp với Uỷ ban quyền tác giả Hàn Quốc và Tổ
chức Sở hữu trí tuệ thế giới. Năm 2016, Bộ tổ chức 2 hội thảo về quản lý tập thể
quyền tác giả, phối hợp với Cơ quan bản quyền tác giả Hàn Quốc tổ chức Diễn
đàn Việt Nam - Hàn Quốc về VKFTA. Năm 2017, Bộ phối hợp với JCO và CODA
52
tổ chức hội thảo về thực thi quyền tác giả, quyền liên quan; phối hợp với Tổ chức
Sở hữu trí tuệ Thế giới WIPO tổ chức Hội thảo về quyền tác giả (Hiệp ước WCT
và Hiệp ước WPPT); tổ chức 3 hội nghị tập huấn, lấy ý kiến Dự thảo “Nghị định
quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Sở hữu trí tuệ về quyền
tác giả, quyền liên quan” tại Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, và Thành phố Đà
Nẵng. Năm 2018, Bộ đã chủ trì, phối hợp tổ chức 11 hội nghị, hội thảo, tập huấn
cho khoảng 1800 đại biểu về thực thi quyền tác giả, quyền liên quan và các biện
pháp thi hành Luật sở hữu trí tuệ về quyền tác giả, quyền liên quan. Năm 2019,
đã tổ chức 07 hội nghị, hội thảo cho khoảng 650 đại biểu về nội dung quyền tác
giả, quyền liên quan. 6 tháng đầu năm 2020 do ảnh hưởng của dịch bệnh Covid
nên hội thảo, hội nghị đang tạm hoãn [13].
Website Quyền tác giả Việt Nam (www.cov.gov.vn) với hơn 30 triệu lượt
truy cập trong 5 năm (2015 - 2020) chứa dữ liệu về hệ thống pháp luật Việt Nam,
các điều ước quốc tế, tổ chức bộ máy quản lý và thực thi của Việt Nam, các tổ
chức quốc tế liên quan và hoạt động bảo hộ quyền tác giả, quyền liên quan bằng
tiếng Việt và tiếng Anh, Bộ Niên giám đăng ký quyền tác giả Việt Nam thông tin
dữ liệu đăng ký quyền tác giả, quyền liên quan từ năm 1986 được xuất bản lần
đầu năm 2004, xuất bản thường niên từ năm 2005 trở đi.
Hằng năm, hưởng ứng ngày Sách và Bản quyền thế giới (23/4) và ngày Sở
hữu trí tuệ thế giới (26/4), một số chương trình tuyên truyền được tổ chức hoặc
phối hợp tổ chức như gameshow “Bản quyền và Sáng tạo” - sân chơi cho các bạn
sinh viên tìm hiểu về bản quyền; phát tờ rơi nội dung tuyên truyền về hoạt động
bảo hộ quyền tác giả, quyền liên quan; tổ chức giao lưu, nói chuyện với sinh viên
đại học về vấn đề bản quyền; trình chiếu clip tuyên truyền về tôn trọng quyền tác
giả, quyền liên quan…
2.2.2. Thực hiện các biện pháp bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà
nước, tổ chức, cá nhân trong lĩnh vực bảo hộ quyền tác giả
Luật pháp quy định sự bảo hộ không chỉ dành cho tác giả, chủ sở hữu quyền
tác giả mà còn dành cho cả những người góp phần phổ biến các tác phẩm đó đến
53
công chúng. Việc bảo hộ tốt quyền lợi của những cá nhân, tổ chức này sẽ gián
tiếp bảo hộ quyền lợi của tác giả. Ở góc độ khác, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của những cá nhân, tổ chức này cũng là bảo vệ quyền và lợi ích của Nhà nước.
Ý thức được việc tự bảo vệ quyền, các cá nhân, tổ chức đã chủ động đăng
ký xin cấp giấy chứng nhận quyền tác giả, việc đăng ký không phải là điều kiện
bắt buộc để được hưởng sự bảo hộ quyền tác giả, tuy nhiên theo quy định của
pháp luật, cá nhân, tổ chức thực hiện việc đăng ký quyền tác giả có lợi thế trong
trường hợp phát sinh tranh chấp, họ không có nghĩa vụ phải chứng minh trước.
Qua phân tích số liệu đăng ký tác phẩm từ năm 2010 đến nay cho thấy, hầu
hết các loại hình tác phẩm được pháp luật bảo hộ đều được nộp đơn đăng ký, trong
đó các loại hình tác phẩm thường xảy ra tranh chấp có tỷ lệ nộp đơn đăng ký cao,
như tác phẩm mỹ thuật ứng dụng chiếm 48,85%; các tác phẩm văn học chiếm
22,06%; 6,5% là các tác phẩm âm nhạc; 6,3% là chương trình máy tính; các thể
loại còn lại chiếm tỷ lệ nhỏ: tác phẩm tạo hình 2,98%; tác phẩm nhiếp ảnh 2%; sơ
đồ, bản đồ, bản vẽ chiếm 1,67%; bài giảng, sách giáo khoa giáo trình chiếm
1,58%; tác phẩm kiến trúc 0,27%; tác phẩm sân khấu 0,18%; tác phẩm điện ảnh
0,56% và công trình khoa học chỉ chiếm 0,21% [13].
Luật sở hữu trí tuệ cũng quy định chi tiết những biện pháp tự bảo vệ quyền,
và những biện pháp xử lý hành vi xâm phạm, góp phần bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của Nhà nước, tổ chức, cá nhân trong lĩnh vực bảo hộ quyền tác giả.
2.2.3. Hướng dẫn việc cung cấp, hợp tác, đặt hàng, sử dụng và đảm bảo
quyền tác giả đối với tác phẩm
Pháp luật sở hữu trí tuệ quy định tác giả có các quyền nhân thân và quyền
tài sản đối với tác phẩm do mình sáng tạo ra. Khi tác giả sáng tạo tác phẩm theo
nhiệm vụ được giao, theo hợp đồng đặt hàng hoặc chuyển giao quyền tác giả cho
tổ chức, cá nhân khác thì tác giả chỉ còn giữ quyền nhân thân, bao gồm quyền đặt
tên tác phẩm, quyền đứng tên tác giả của tác phẩm và quyền phản đối các hành vi
cắt xén, bóp méo hoặc sửa đổi đối với tác phẩm có thể gây phương hại đến danh
dự và uy tín của tác giả. Chủ sở hữu tác phẩm có quyền cho phép hoặc phản đối
54
việc khai thác sử dụng tác phẩm mà không được phép chủ sở hữu, dưới các hình
thức sao chép, phân phối, nhập khẩu, cho thuê, biểu diễn công cộng, phát sóng và
truyền đạt đến công chúng, làm tác phẩm phái sinh.
Thực tiễn hoạt động khai thác, chuyển giao quyền tác giả, quyền liên quan
ở Việt Nam thể hiện qua các mặt như sau:
- Đăng ký, chuyển giao quyền tác giả, quyền liên quan của chủ sở hữu
quyền
Số lượng tác phẩm, đối tượng quyền liên quan được chuyển giao phổ biến
đến công chúng được tăng lên theo từng năm. Số lượng tác phẩm, đối tượng quyền
liên quan được chuyển nhượng quyền tác giả, quyền liên quan cho chủ sở hữu
quyền tác giả, quyền liên quan đến đăng ký ước tính chiếm khoảng 70%. Các tác
phẩm đã và đang được khai thác, chuyển giao một cách có hiệu quả, thông qua đó
mang lại lợi ích đáng kể cho tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả, quyền liên quan,
tổ chức cá nhân khai thác sử dụng và công chúng hưởng thụ, góp phần thúc đẩy
kinh tế, văn hoá phát triển.
- Việc uỷ thác của chủ sở hữu quyền cho các tổ chức đại diện quyền tác giả,
quyền liên quan.
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã phối hợp với một số Bộ, ngành hữu
quan nghiên cứu, chỉ đạo về chuyên môn, nghiệp vụ, hỗ trợ tài chính ban đầu để
thành lập tổ chức đại diện tập thể quyền tác giả, quyền liên quan đối với một số
lĩnh vực mà khả năng tự quản lý, khai thác cá nhân tỏ ra không hiệu quả; từng
bước tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong hoạt động, đặc biệt là thực hiện đàm
phán cấp phép, thu và phân phối tiền bản quyền sử dụng tác phẩm, đối tượng
quyền liên quan cho các chủ thể đã ủy thác cho các tổ chức đại diện tập thể quyền
tác giả, quyền liên quan đó.
Đến nay, đã có 05 Tổ chức đại diện tập thể quyền tác giả, quyền liên quan
được thành lập và hoạt động; đó là Trung tâm Bảo vệ quyền tác giả âm nhạc Việt
Nam - VCPMC (ra đời năm 2002), Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Việt Nam - RIAV
55
(năm 2003) và Trung tâm Quyền tác giả văn học Việt Nam - VLCC (năm 2004),
Hiệp hội Quyền sao chép Việt Nam - VIETRRO (năm 2010) và Hội Bảo vệ quyền
của nghệ sỹ biểu diễn âm nhạc Việt Nam - APPA (năm 2015).
VCPMC, trực thuộc Hội Nhạc sỹ Việt Nam, thực hiện quản lý tập thể đối
với các quyền tác giả âm nhạc được ủy quyền. Tính đến nay, VCPMC được ủy
thác quyền từ 4.297 tác giả với 164.333 tác phẩm trong nước; ký hợp đồng hợp
tác song phương với 63 Tổ chức quốc tế tương ứng với 5.021.656 tác phẩm quốc
tế, nhờ đó, các tác phẩm âm nhạc Việt Nam được VCPMC quản lý, khai thác ở
157 quốc gia và vùng lãnh thổ, các tác phẩm âm nhạc của nước ngoài cũng được
quản lý, khai thác sử dụng tại Việt Nam thông qua VCPMC [62].
RIAV tập hợp các đơn vị hoạt động trong lĩnh vực sản xuất băng đĩa (ghi
âm và hình) ở Việt Nam. Hiện RIAV quản lý cấp phép thu tiền khai thác, sử dụng
bản ghi thông qua các hợp đồng ủy thác quyền với hội viên, hợp đồng với các đối
tác.
VLCC trực thuộc Hội Nhà văn Việt Nam, tính đến cuối năm 2019, có hơn
1.300 tác giả văn học ủy quyền với hơn 9.000 đầu tác phẩm, trong đó có hơn 1.000
tác phẩm có bản mềm và sách cứng [60].
VIETRRO là tổ chức đại diện theo ủy quyền cho các cá nhân, tổ chức trong
việc quản lý tập thể quyền sao chép tác phẩm tồn tại dưới dạng ấn phẩm. Tính đến
tháng 12/2019, VIETRRO có 1.957 hội viên cá nhân ủy thác với 65.887 tác phẩm
[59].
APPA là Hiệp hội bảo vệ quyền của các nghệ sỹ biểu diễn âm nhạc Việt
Nam, được thành lập ngày 1/12/2015 và tính đến ngày 25/2/2020, có gần 200 hội
viên [56].
Các tổ chức đại diện tập thể này được thành lập theo quy định của pháp
luật, thông lệ quốc tế và đang từng bước hướng tới hoạt động công khai, minh
bạch, chuyên nghiệp, có hiệu quả, tạo niềm tin cho các văn nghệ sĩ, trí thức ủy
thác quyền.
- Chuyển giao quyền sử dụng tác phẩm cho các nhà xuất bản
Hiện nay, đã có một số lượng khá lớn đầu sách của tác giả, chủ sở hữu
56
quyền tác giả chuyển giao cho nhà xuất bản khai thác sử dụng để xuất bản, công
bố phổ biến đến công chúng. Năm 2019 có gần 30 ngàn đầu sách được xuất bản,
công bố [56].
Tuy nhiên, hoạt động khai thác, chuyển giao quyền tác giả, quyền liên quan
trong thời gian qua cũng đang gặp những khó khăn, chủ yếu do việc nhiều tác
phẩm bị sử dụng trái phép, hoặc chủ sở hữu tác phẩm khó xác định giá cả, thoả
thuận mức tiền bản quyền khi khai thác, chuyển giao, thu tiền bản quyền của các
đối tượng sử dụng. Thực tế đã có rất nhiều vụ vi phạm quyền tác giả như: tái bản
sách, biểu diễn sân khấu, thu băng đĩa nhạc, băng hình… không xin phép tác giả,
không trả nhuận bút cho tác giả.
2.2.4. Quản lý hoạt động cấp, cấp lại, đổi, hủy bỏ hiệu lực Giấy chứng
nhận đăng ký quyền tác giả
Theo quy định của pháp luật, đăng ký quyền tác giả, quyền liên quan không
phải là thủ tục bắt buộc để được hưởng quyền tác giả, quyền liên quan. Tuy nhiên,
nhận thức được lợi ích của việc đăng ký quyền tác giả, quyền liên quan; nhiều tác
giả, chủ sở hữu quyền tác giả, quyền liên quan đã nộp hồ sơ để được cấp Giấy
chứng nhận đăng ký quyền tác giả, Giấy chứng nhận đăng ký quyền liên quan.
Từ 1/1/2015 đến 30/6/2020 Cục Bản quyền thuộc Bộ Văn hóa, Thể thao và
Du lịch đã thụ lý, cấp 33.510 giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả, quyền liên
quan cụ thể: [13].
Năm
Số lượng hồ sơ tiếp nhận, thụ lý, cấp
Ghi chú
Miền Nam Miền Bắc Miền Trung Toàn quốc
Năm 2015 2.426
2.953
131
5.510
Tăng 21,96% so với năm 2014
Năm 2016 2.614
3.501
151
6.266
Tăng 6.16% so với năm 2015
Năm 2017 2.916
3.151
227
6.294
Tăng 0.45% so với năm 2016
Năm 2018 2.602
3.749
125
6.476
Tăng 2.89% so với năm 2017
Năm 2019 3.110
4.627
195
7.932
Tăng 22,48% so với năm 2018
Đến 6/2020 1.370
2.746
195
4.165
Tăng 1.05% so với cùng kỳ 2019
Việc thụ lý hồ sơ, cấp giấy chứng nhận đăng ký đảm bảo đúng trình tự, thủ
57
tục pháp lý và các yêu cầu của công tác cải cách thủ tục hành chính.
Việc cấp lại, đổi, hủy bỏ hiệu lực Giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả,
quyền liên quan trung bình mỗi năm Cục xử lý khoảng 100 hồ sơ [13], do các lý
do về tranh chấp quyền tác giả, quyền liên quan. Việc hủy bỏ, cấp lại, cấp đổi giấy
chứng nhận quyền tác giả, giấy chứng nhận quyền liên qua được thực hiện đúng
quy trình, thủ tục pháp lý và yêu cầu của các bên có liên quan.
2.2.5. Quản lý hoạt động giám định về quyền tác giả; hoạt động đại diện,
tư vấn, dịch vụ quyền tác giả
Hoạt động giám định về quyền tác giả, quyền liên quan được Bộ Văn hóa
Thể thao và Du lịch đánh giá là một trong những hoạt động chuyên môn cao, trong
thời gian qua, Bộ đã tiếp nhận và xử lý hồ sơ theo Đơn yêu cầu giám định 14 vụ
việc; tư vấn, hướng dẫn, cho ý kiến chuyên môn thuộc thẩm quyền về quy trình
thủ tục yêu cầu giám định quyền tác giả, quyền liên quan cho các tổ chức, cá nhân;
thực hiện số hóa toàn bộ 14 hồ sơ yêu cầu giám định [13].
Các tổ chức tư vấn, dịch vụ quyền tác giả, quyền liên quan thực hiện các
hoạt động theo yêu cầu của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả, quyền liên quan.
Theo thống kê chưa đấy đủ, hiện nay có khoảng gần 100 công ty đang hoạt động
tư vấn pháp luật về quyền tác giả, thực hiện các dịch vụ theo ủy quyền của tác giả.
Trong 6 năm qua, các tổ chức tư vấn dịch vụ đã nộp hồ sơ cấp 14.380 Giấy chứng
nhận đăng ký quyền tác giả, quyền liên quan, chiếm khoảng 42% tổng số Giấy
chứng nhận được cấp [13].
Hệ thống các tổ chức tư vấn và dịch vụ quyền tác giả, quyền liên quan đã
góp phần không nhỏ trong công tác bổ trợ, hỗ trợ các hoạt động thực hiện pháp
luật, bảo vệ quyền lợi cho tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả, quyền liên quan tại
các cơ quan hành chính nhà nước hoặc Tòa án.
2.2.6. Hợp tác quốc tế trong quản lý, thực thi bảo hộ quyền tác giả
Hợp tác quốc tế trong lĩnh vực bảo hộ quyền tác giả trong những năm vừa
qua đã thu được những kết quả đáng kể. Đến nay, Việt Nam đã tham gia 05 Điều
58
ước quốc tế đa phương:
+ Công ước Berne về bảo hộ các tác phẩm văn học, nghệ thuật từ ngày
26/10/2004.
+ Công ước Geneve về bảo hộ nhà xuất bản, ghi âm chống việc sao chép
không được phép từ ngày 06/07/2005.
+ Công ước Brussel liên quan đến việc phân phối tín hiệu vệ tinh mang
chương trình được mã hóa qua vệ tinh từ ngày 12/01/2006.
+ Công ước Rome về bảo hộ quyền của người biểu diễn, nhà sản xuất bản
ghi âm, tổ chức phát sóng từ ngày 1/3/2007.
+ Hiệp định TRIPs về khía cạnh liên quan tới thương mại của quyền sở hữu
trí tuệ từ ngày 12/1/2007.
Việt Nam đã đàm phán, ký kết 04 Hiệp định song phương (Hiệp định quyền
tác giả và Hiệp định Bảo hộ Sở hữu trí tuệ) và 14 Hiệp định kinh tế, thương mại
tự do song phương, đa phương với các quốc gia, khu vực kinh tế khác nhau trên
thế giới có nội dung về quyền tác giả, quyền liên quan (Hiệp định Thương mại,
AFTA, ACFTA, AKFTA, AJFTA, AIFTA, AANZFTA, TIFA, VCFTA, VJEPA,
VKFTA, VCUFTA, EVFTA, TPP). Theo các cam kết quốc tế này, tác giả, chủ sở
hữu quyền tác giả, quyền liên quan của Việt Nam được hưởng sự bảo hộ tại các
quốc gia thành viên và ngược lại, Việt Nam có nghĩa vụ bảo hộ quyền tác giả,
quyền liên quan cho tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả, quyền liên quan của các
quốc gia thành viên.
Mặt khác, trong khuôn khổ Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) và các
chương trình hợp tác với các nước như Nhật Bản, Hàn Quốc..., Việt Nam đã tiếp
nhận sự giúp đỡ kỹ thuật, đặc biệt là đào tạo nguồn nhân lực và nâng cao nhận
thức về quyền tác giả, trao đổi, học tập kinh nghiệm trong xây dựng hoàn thiện
pháp luật và thực thi bảo hộ quyền tác giả, quyền liên quan.
Trong vòng 10 năm trở lại đây, trong khuôn khổ hoạt động hợp tác của tổ
chức Sở hữu trí tuệ thế giới WIPO, Dự án STAR Việt Nam - Hoa Kỳ, dự án SPC
của Liên bang Thụy Sĩ, Dự án ECAP II, ECAP III của Liên minh Châu Âu về Sở
59
hữu trí tuệ, Dự án SIDA Việt Nam - Thụy Điển, Dự án JICA Việt Nam -Nhật Bản
và một số quốc gia khác với Việt Nam, đã có trên 200 đoàn với hơn 500 lượt cán
bộ Việt Nam thuộc các cơ quan quản lý và thực thi của bộ, ngành, địa phương đã
ra nước ngoài tham dự hội thảo, hội nghị, tập huấn, khảo sát học tập kinh nghiệm
về quyền tác giả tại các hội thảo, hội nghị, tập huấn, khảo sát học tập kinh nghiệm
về quyền tác giả [63].
Quan hệ hợp tác quốc tế trong thời gian qua đã mang lại những lợi ích đáng
kể đối với nước ta, trong đó có việc nhận đượcsự trợ giúp kỹ thuật quý báu của
các tổ chức quốc tế và các quốc gia.
2.2.7. Giải quyết khiếu nại, tố cáo; thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm
pháp luật về quyền tác giả
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch ban hành nhiều văn bản về thanh tra, kiểm
tra và quản lý, thực thi bảo hộ quyền tác giả, quyền liên quan. Đồng thời, Bộ đã
tổ chức nhiều đợt thanh, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật về quyền tác giả, quyền
liên quan. Năm 2017, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã phối hợp với các đơn
vị chức năng, trong đó có Cục Cảnh sát phòng chống tội phạm công nghệ cao, Bộ
Công an đã thanh tra 63 doanh nghiệp, kiểm tra 2.472 máy tính, trong đó có 54
doanh nghiệp có hành vi sao chép chương trình phần mềm máy tính mà không
được phép của chủ sở hữu, xử lý vi phạm hành chính là 1,65 tỷ đồng và đã nộp
vào ngân sách nhà nước. Riêng đầu năm 2018, Thanh tra Bộ tiếp tục tiến hành
thanh tra việc chấp hành các quy định của pháp luật về quyền tác giả đối với
chương trình phần mềm máy tính tại 26 doanh nghiệp, xử phạt vi phạm hành chính
750 triệu đồng. Trong môi trường số, đã xử phạt vi phạm hành chính một số công
ty có các website lưu trữ, cung cấp và phổ biến đến công chúng số lượng lớn các
bản ghi không được sự đồng ý của chủ sở hữu, nộp thu ngân sách Nhà nước 443
triệu đồng và yêu cầu buộc tháo gỡ các file âm nhạc vi phạm bản quyền trên máy
chủ các công ty này; trong hoạt động triển lãm mỹ thuật và nhiếp ảnh, đã lập các
Đoàn kiểm tra..[63]
Bộ đã chỉ đạo các Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch, hoặc Sở Văn hóa và
60
Thể thao xây dựng chương trình và tiến hành thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm
về quyền tác giả, quyền liên quan; chủ động phối hợp chặt chẽ với các cơ quan
hữu quan như cơ quan công an, quản lý thị trường mở các đợt kiểm tra đột xuất
tại các điểm dịch vụ văn hóa công cộng như kinh doanh karaoke, cơ sở bán băng,
đĩa, các hoạt động biểu diễn nghệ thuật. Riêng địa bàn thành phố Hồ Chí Minh
phát hiện 301 vụ vi phạm về quyền tác giả, quyền liên quan, nhiều băng đĩa được
phát hiện và xử phạt vi phạm hành chính, nộp thu ngân sách nhà nước hơn 16 tỷ
đồng, tịch thu nhiều tang vật đĩa, nhãn đĩa, sách, ổ đĩa, tranh, block lịch, bảng
kẽm…[63]
Trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo, tính từ tháng 1/2015 – 6/2020,
Cục Bản quyền tác giả Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch tiếp nhận, thụ lý và giải
quyết 105 vụ việc khiếu nại, tố cáo vi phạm về quyền tác giả, quyền liên quan,
trong đó có những vụ việc phức tạp, thời gian giải quyết kéo dài. Tiếp nhận và trả
lời nghiệp vụ 47 trường hợp xin ý kiến chuyên môn nghiệp vụ [13].
Nhìn chung công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo; thanh tra, kiểm tra và xử
lý vi phạm pháp luật về quyền tác giả nói riêng, công tác đấu tranh chống vi phạm
quyền sở hữu trí tuệ nói chung, so với những năm trước đây đã có những chuyển
biến rõ rệt về nhận thức và hành động, góp phần tích cực bảo vệ quyền và lợi ích
chính đáng của người tiêu dùng, và các chủ sở hữu quyền sở hữu trí tuệ, nâng cao
hiệu lực của pháp luật, hiệu quả quản lý, thực thi, góp phần phát triển kinh tế -
văn hóa - xã hội.
2.3. Những hạn chế và nguyên nhân của hạn chế trong quản lý nhà
nước bằng pháp luật về quyền tác giả tại Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch
giai đoạn 2015-2020
2.3.1. Trong việc xây dựng, hướng dẫn thực hiện các văn bản pháp luật
về quyền tác giả
Hầu hết các quan hệ xã hội về quyền tác giả đã được điều chỉnh bởi các văn
bản quy phạm pháp luật, cơ bản phù hợp với các chuẩn mực quốc tế, tạo tiền đề
cho hoạt động hội nhập. Tuy nhiên, vẫn còn một số tồn tại cần khắc phục trong
61
hoạt động lập pháp, đó là có một số quy định chưa rõ ràng, chưa phù hợp với các
Điều ước quốc tế, việc hướng dẫn thi hành chưa đồng bộ, đã gây khó khăn cho
việc quản lý, điều hành và thực thi cần được điều chỉnh, bổ sung phù hợp.
Thực tiễn mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế cho thấy bên cạnh những
thành công thì chúng ta cũng gặp không ít những khó khăn vướng mắc do hệ thống
pháp luật chưa đầy đủ như: thiếu quy định về sản xuất và nhập khẩu đĩa quang,
trách nhiệm của nhà cung cấp dịch vụ internet, chưa quy định về quyền bán lại
bản gốc tác phẩm mỹ thuật, bản thảo viết tay, chưa quy định cụ thể bảo hộ chương
trình máy tính với những đặc thù của nó...Ngoài ra, các quy định hiện hành trong
Luật Sở hữu trí tuệ về tổ chức quản lý quản lý tập thể mới chỉ mang tính nguyên
tắc, chưa đủ khuôn khổ pháp lý cho các tổ chức quản lý tập thể hoạt động. Bên
cạnh đó, giới hạn quyền tác giả cũng là một vấn đề cần phải xem xét. Để đảm bảo
cân bằng lợi ích giữa các chủ thể quyền và người khai thác sử sụng và công chúng
hường thụ, Điều 25,26,32,33 Luật Sở hữu trí tuệ đã có quy định về ngoại lệ và
giới hạn quyền, tuy nhiên có trường hợp lại quy định quá rộng, chẳng hạn như
quy định tại điều 26 Luật sở hữu trí tuệ về việc giới hạn quyền đối với việc sử
dụng tác phẩm đã công bố để phát sóng không phải xin phép nhưng phải trả tiền
nhuận bút, thù lao. Nếu không quy định rõ phạm vi của việc “sử dụng” và phạm
vi của “phát sóng” thì sẽ dẫn đến mâu thuẫn với các công ước quốc tế mà Việt
Nam đã ký kết hoặc tham gia. Giới hạn quyền tác giả trong hoạt động thư viện,
cơ quan lưu trữ, trong các trường học, viện nghiên cứu là những quy định còn
mang tính nguyên tắc, chưa quy định cụ thể, dẫn đến khó khăn trong thực hiện
pháp luật. Phụ lục Công ước Berne có các quy định về hạn chế quyền dịch và
quyền sao chép dành cho các nước đang phát triển. Cho đến nay đã 5 năm trôi qua
kể từ khi Việt Nam đã trở thành thành viên của công ước Berne, nhưng vẫn chưa
có văn bản nội luật hóa các quy định này.
Hệ thống pháp lý của nước ta về sở hữu trí tuệ đã tương đối hoàn thiện, quy
định gần như toàn bộ các hoạt động liên quan đến bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ
theo tiêu chuẩn quốc tế. Luật sở hữu trí tuệ hiện hành được các chuyên gia nước
62
ngoài đánh giá là rất tiến bộ, nó đi trước cả sự phát triển kinh tế, xã hội của Việt
nam, tuy nhiên nhiều điều luật còn mang tính nguyên tắc, chưa cụ thể, các quy
định về cơ chế thực thi quyền sở hữu trí tuệ còn tương đối sơ khai nên sẽ khó khăn
trong việc thực hiện, cần được hoàn thiện thêm để tăng cường các biện pháp răn
đe và nâng cao nhận thức của cá nhân, tổ chức, công chúng Việt Nam.
2.3.2. Trong thực hiện các biện pháp bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của Nhà nước, tổ chức, cá nhân trong lĩnh vực bảo hộ quyền tác giả
Mặc dù đã có nhiều nỗ lực ngăn chặn từ phía các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền, nhưng hầu hết các khách thể quyền đều bị xâm hại, từ các loại hình tác
phẩm đến các cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng. Tình
trạng này được biểu hiện ở các hình thức sử dụng, khai thác khác nhau, từ hoạt
động xuất bản, âm nhạc, sân khấu, điện ảnh đến phát thanh truyền hình...Hoạt
động sáng tạo chân chính đang bị cản trở và có nguy cơ bị thui chột vì tệ nạn sao
chép. Nếu không có biện pháp ngăn chặn kịp thời và phòng ngừa thích hợp thì
tình trạng vi phạm bản quyền sẽ dẫn đến thủ tiêu động lực sáng tạo, ảnh hưởng
xấu đến môi trường đầu tư của nước ta.
Trong lĩnh vực chương trình máy tính: chương trình máy tính tiếp tục bị
sao chép và phân phối bất hợp pháp bởi các cơ sở kinh doanh máy tính, gây thiệt
hại cho các nhà đầu tư, cho ngành công nghệ thông tin còn non trẻ của Việt Nam.
Theo Cục sở hữu trí tuệ Việt Nam, bản quyền phần mềm máy tính hiện vẫn là một
trong những lĩnh vực bị xâm phạm về sở hữu trí tuệ nhiều nhất tại Việt Nam. Thực
tế cho thấy, dù Việt Nam đã đạt được nhiều bước tiến trong công việc giảm tỷ lệ
vi phạm bản quyền phần mềm, nhưng tỷ lệ vi phạm theo công bố của BSA vẫn là
78% (tính đến năm 2016) [63]. Nhiều phần mềm của tác giả nước ngoài và tác giả
Việt Nam bị các tổ chức, cá nhân sao chép, sử dụng không được phép của tác giả
như phần mềm. Trong đó, những phần mềm bị vi phạm bản quyền nhiều nhất
trong môi trường doanh nghiệp bao gồm Symantec Norton Anti-Virus, Adobe
Acrobat, Symantec PC Anywhere, Adobe PhotoShop... Bên cạnh đó, những phần
63
mềm bị vi phạm bản quyền trên Internet thường là McAfee VirusScan, Symantec
Norton Anti-Virus, Adobe Acrobat, Intuit Quicken Home and Business,
Symantec Norton pcAnywhere, Symantec Norton Ghost và Adobe Creative Suit.
Điều này xuất phát từ một số nguyên nhân như sau:
Thứ nhất, sự hiểu biết của toàn xã hội đối với vấn đề bảo hộ sở hữu trí tuệ
còn hạn chế, chưa hình thành ý thức tôn trọng quyền sở hữu trí tuệ. Chúng ta vẫn
còn mang nặng tư tưởng dùng miễn phí mà không phải trả tiền. Đại đa số người
dân và thậm chí là những doanh nghiệp vẫn vô tư sử dụng những phần mềm được
cài, tải miễn phí mà không hề nghĩ đến việc phải trả phí hay xin phép chủ sở hữu.
Thứ hai, hàng rào pháp lý ở nước ta vẫn chưa phát huy được tối đa quyền
lực của mình. Mặc dù chúng ta đã ban hành một hệ thống văn bản pháp luật tương
đối đầy đủ và ký kết các điều ước quốc tế trong việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ
nhưng hệ thống các cơ quan thi hành pháp luật và xử lý vi phạm trong lĩnh vực sở
hữu trí tuệ nói chung và bản quyền phần mềm máy tính nói riêng vẫn chưa thực
sự phát huy tối đa vai trò của mình trong việc ngăn chặn và xử lý các vi phạm.
Trong lĩnh vực xuất bản: Tình trạng in lậu sách diễn ra thường xuyên, số
lượng các vụ in lậu, vi phạm quyền tác giả lẫn nhau vẫn không giảm, tính chất các
vụ vi phạm ngày càng phức tạp. Nhiều nhà xuất bản đang bị thiệt hại lớn bởi nạn
in lậu sách chưa được ngăn chặn. Tình trạng đáng quan tâm và lo ngại khi Việt
Nam đã là thành viên Công ước Berne 5 năm, nhưng nhiều tác phẩm được cấp
phép bản quyền để dịch xuất bản bằng tiếng Việt đã bị các công ty tư nhân làm
sách chiếm đoạt, gây thiệt hại cho các nhà xuất bản đã đầu tư tài chính, chấp hành
nghiêm chỉnh điều ước quốc tế đa phương.
Những tác phẩm mà Công ty văn hóa sáng tạo Trí Việt – First New đã mua
bản quyền của Mỹ và liên kết với nhà xuất bản Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh
ấn hành cũng bị in lậu. Công ty sách First New đã thống kê và công bố danh sách
33 fanpage chuyên bán sách giả, sách in lậu ở Việt Nam. Thủ đoạn của những
fanpage này là trưng bày, quảng cáo sách thật nhưng khi bán, giao hàng lại là sách
kém chất lượng, sai sót, với các đầu sách của First News, Alpha Books, Đông A,
64
Văn học… Sách in lậu có giá bán chỉ bằng 50%, thậm chí là 30% giá bán của sách
được xuất bản hợp pháp đã và đang ảnh hưởng nghiệm trọng đến doanh thu và sự
tồn tại của các nhà xuất bản.
Ngược lại, chính các nhà xuất bản cũng vi phạm quyền của tác giả như
không xin phép tác giả khi xuất bản. Ví dụ trường hợp: Năm 2018, nhiếp ảnh gia
Lê Xuân Bách đã phát hiện cuốn sách “Công dung ngôn hạnh phụ nữ Việt Nam
xưa và nay” do tác giả PGS.TS. Lê Thị Bừng chủ biên, Nhà xuất bản Thanh Niên
phát hành, sử dụng một bức ảnh do chính anh sở hữu để làm trang bìa mà không
có sự cho phép. Năm 2020, tác giả Hồ Huy Sơn đã từng lên tiếng vè việc Nhà
xuất bản Giáo dục Việt Nam sử dụng hai bài viết của anh là Con đường rơm và
Hãy can đảm lên trong hai cuốn sách Luyện tập tiếng Việt 3 và 35 đề ôn luyện
tiếng Việt 3 mà chưa xin phép [60A].
Thậm chí tình trạng in lậu sách đã trở thành vấn nạn khi in lậu, in giả, in
nối bản trái phép diễn biến ngày càng phức tạp với quy mô lớn. Nhất là thực trạng
in lậu sách giáo khoa nói riêng và sách giáo dục nói chung, gây ảnh hưởng trực
tiếp tới quá trình học tập của học sinh.
Nhà xuất bản giáo dục Việt Nam cho biết: trong tháng 5-2019, cơ quan
chức năng phát hiện số lượng lớn sách của NXBGD Việt Nam bị in lậu được tập
kết tại một kho thuộc huyện Hoài Ðức (Hà Nội) với số lượng 47 nghìn sách và 87
nghìn đĩa CD gồm SGK, sách tham khảo, sách Tiếng Anh cùng nhiều sản phẩm
khác. Khoảng đầu tháng 6, đoàn kiểm tra liên ngành phòng, chống in lậu tỉnh Bình
Ðịnh đã phát hiện và thu giữ số lượng xuất bản phẩm lậu hơn 72 nghìn bản, phần
lớn là sách giáo dục của NXBGD Việt Nam [56A]. Những cuốn sách giáo dục bị
làm giả, đưa đi tiêu thụ phần lớn là sách Tiếng Anh, sách bổ trợ, sách khai thác
bản quyền từ nước ngoài, bản đồ giáo dục, át-lát (Atlas) địa lý, đĩa CD nghe nhìn
giáo dục. Ngoài ra, các phiên bản sách giáo dục điện tử cũng bị phát tán tràn lan
dưới nhiều định dạng, nguồn gốc khác nhau. Những cuốn sách này còn được bày
bán công khai tại nhiều cửa hàng, nhà sách lớn nhỏ, lọt vào trong các cơ sở giáo
dục, nhà trường trên toàn quốc. Vấn nạn này không chỉ ảnh hưởng tới quyền và
65
lợi ích kinh tế của các tác giả, nhà xuất bản, mà đối tượng bị ảnh hưởng lớn nhất
bởi những cuốn sách giáo khoa giả là bộ phận công chúng – là các em học sinh,
do sách in lậu biên soạn cẩu thả, sai sót, chất lượng kém.
Nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng in lậu tràn lan, gia tăng là do chế tài,
khung hình phạt chưa đủ mạnh. Mức xử phạt hành vi in, phát hành sách lậu, sách
giả, cần phải nâng cao cả mức phạt hành chính và khung hình phạt hình sự để có
thể giải quyết căn cơ, tận gốc vấn nạn in lậu xuất bản phẩm hiện nay.
Trong lĩnh vực mỹ thuật, tạo hình, nhiếp ảnh: tình trạng tranh giả, tranh
chép trên thị trường khá phổ biến, tranh ký tên các họa sĩ nổi tiếng trên thị trường
nhiều gấp hàng chục lần số tranh đích thực do các họa sĩ nổi tiếng này vẽ. Nhiều
báo chí đưa tin về việc các bức tranh, logo của một số tác giả đoạt giải bị sao chép,
như tháng 3 vừa qua, họa sĩ Bùi Thanh Tâm phát hiện một tác phẩm thuộc bộ
tranh Crazy People của anh bị sao chép trắng trợn, treo trên tường trang trí tại một
quán cà phê ở Quảng Ninh mà không hề xin phép. Hay trường hợp gia đình cố
họa sĩ Nam Sơn phải lên tiếng đòi lại công bằng khi phát hiện bức tranh Chân
dung nhà sư (Bonze) của ông bị làm giả từ nét vẽ đến chữ ký. Bức tranh giả được
rao bán trên trang Facebook Đồ Gỗ Gia Bảo với giá 5 triệu đồng, sau đó thấy có
nhiều người hỏi, bèn lên giá 8 triệu đồng.
Chia sẻ về việc họa sĩ bị sao chép tranh một cách công khai, thậm chí còn
được trưng bày trong triển lãm, họa sĩ Trần Thanh Cảnh kể câu chuyện về bức
tranh Chân dung cô Kim Anh của họa sĩ Thành Chương từng bị mạo danh trong
triển lãm Bộ sưu tập tranh Mỹ thuật Đông Dương tại Bảo tàng Mỹ thuật TP.HCM,
dưới cái tên Tạ Tỵ.
Các tác phẩm mỹ thuật, tạo hình, nhiếp ảnh chưa được tác giả chú trọng
nhiều đến việc đăng ký quyền tác giả, quyền liên quan. Tác giả chỉ chú trọng tới
việc giới thiệu tác phẩm của mình ra cống chúng, khi đưa tác phẩm lên mạng xã
hội, hoặc khi tác phẩm được đăng trên báo, mang đi triển lãm thì tác giả lấy những
dấu mốc đó để khẳng định tác phẩm là của mình mà không biết rằng những điều
này chỉ mang tính tham chiếu. Họ không quan tâm tới việc tự bảo vệ quyền tác
66
giả của chính mình, một số tác giả chưa nổi tiếng muốn lấy tiếng vang, thậm chí
còn cho rằng việc tác phẩm của mình được sao chép trái phép nhiều còn giúp công
chúng biết đến mình nhiều hơn, có lợi hơn.
Trong môi trường kỹ thuật số: tình trạng sử dụng bất hợp pháp trong môi
trường kỹ thuật số có nhiều diễn biến phức tạp. Các hành vi xâm hại, gian lận diễn
ra tinh vi, khó kiểm soát đã đưa môi trường số vào loại hình khó khăn nhất trong
việc bảo hộ tại các quốc gia, kể cả các quốc gia phát triển.
Với sự phát triển của công nghệ thông tin, đặc biệt internet, việc trao đổi
thông tin ngày càng trở lên nhanh chóng và dễ dàng hơn. Vai trò của internet trong
thế giới công nghệ thông tin ngày càng được nâng cao, các loại hình tác phẩm
truyền thông như văn học, nghệ thuật, mỹ thuật, âm nhạc, nghe nhìn…ngay nay
đều xuất hiện ngập tràn trên các trang mạng. Môi trường internet với tính năng ưu
việt trong việc truyền đạt, lưu trữ toàn bộ các loại hình tác phẩm, cuộc biểu diễn,
bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng, tạo cơ hội cho công chúng có thể
tiếp cận được tác phẩm ở bất kỳ địa điểm, thời gian nào do họ lựa chọn. Tính ưu
việt, hữu ích đó đã bị không ít cá nhân, tổ chức lợi dụng để khai thác, sử dụng bất
hợp pháp các tác phẩm, cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát
sóng. Không ít bảo điện tử, các website, truyền hình kỹ thuật số…sao chép, phát
sóng bất hợp pháp tác phẩm, cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình
phát sóng trên mạng, thu lợi bất chính.
Theo số liệu do Thanh tra Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch cung cấp cho
thấy, có một số trường hợp một công ty ký hợp đồng mua quyền sử dụng với 150
bài hát để đưa lên website của mình, nhưng thực tế họ đã đưa lên tới 24.390 bài
hát, một công ty khác ký hợp đồng sử dụng 3.000 bài hát nhưng lại đưa lên tới
63.374 bài.
Bên cạnh đó, cũng dễ dàng thấy hàng trăm website, ứng dụng di động, các
tài khoản cá nhân trên Facebook, Youtube ngang nhiên vi phạm bản quyền các
chương trình phát sóng của VTV để thu lợi bất chính. Gần đây là World Cup 2018,
khi VTV phải rất khó khăn mới mua được bản quyền thì chỉ ngay sau khi phát
67
sóng được hai ngày thì đã phát hiện 700 tài khoản vi phạm.
Riêng trong lĩnh vực điện ảnh, âm nhạc, theo con số được một số tổ chức
đưa ra ở Việt Nam hiện có khoảng hơn 400 website tiếng Việt đang công khai
chiếu hàng chục ngàn bộ phim trên Internet, hơn 200 website nhạc tên miền “.vn”,
nhiều website cung cấp các ấn phẩm của nhà xuất bản mà không được phép, chưa
tính đến số website sử dụng tên miền quốc tế.
Ngày 14/9/2017, Cục Phát thanh Truyền hình và Thông tin điện tử đã đăng
công khai trên trang web của Cục danh sách 83 trang web có dấu hiệu vi phạm
bản quyền nội dung chương trình truyền hình, trong đó có: bilutv.com,
hayhaytv.com, hdviet.com, phimmoi.net, hdonline.vn, phimbathu.com.
Việt Nam chưa tham gia một số điều ước quốc tế đa phương quan trọng
trong lĩnh vực quyền tác giả, trực tiếp điều chỉnh các vấn đề bảo vệ quyền tác giả,
quyền liên quan trong môi trường kỹ thuật số. Đó là: (i) Hiệp ước WIPO về bản
quyền (WCT, có hiệu lực từ ngày 6 tháng 3 năm 2002, hiện có 91 quốc gia thành
viên), được ký để làm rõ một số điều khoản của Công ước Berne về bảo vệ tác
phẩm văn học và nghệ thuật trong môi trường kỹ thuật số , ví dụ, làm rõ quyền
sao chép, quyền truyền đạt công việc trong môi trường kỹ thuật số. Đồng thời,
Công ước này cũng bổ sung một số quyền, quyền và nghĩa vụ của tác giả của các
quốc gia thành viên trong việc bảo vệ bản quyền trong môi trường kỹ thuật số; (ii)
Hiệp ước WIPO về quyền của người biểu diễn (WPPT, có hiệu lực từ ngày 20
tháng 5 năm 2002, hiện có 92 quốc gia thành viên) được ký kết để làm rõ và bổ
sung một số điều khoản. Công ước Rome năm 1961 để bảo vệ người biểu diễn,
nhà sản xuất bản ghi âm, ghi video và tổ chức phát sóng trong môi trường kỹ thuật
số.
Trong thời gian tới, việc hoàn thiện các quy định pháp luật, thống nhất quản
lý về quyền tác giả, quyền liên quan đối với tác phẩm trong môi trường kỹ thuật
số là vô cùng cần thiết nhằm đáp ứng kịp thời sự phát triển không ngừng của công
nghệ kỹ thuật số, kiểm soát, để bảo vệ hiệu quả hơn nữa quyền và lợi ích hợp pháp
68
của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả.
2.3.3. Trong hoạt động quản lý tập thể quyền tác giả
Hệ thống quản lý tập thể quyền tác giả vẫn là cách thức tốt nhất để bảo đảm
quyền lợi những người sáng tạo trong thời đại số. Mặc dù tổ chức quản lý tập thể
quyền tác giả được hình thành và đi vào hoạt động tại Việt Nam đã đạt được
những kết quả ban đầu đáng khích lệ. Tuy nhiên vẫn còn nhiều vấn đề đặt ra trong
thực tiễn thi hành.
Hoạt động của các tổ chức quản lý tập thể quyền tác giả ở nước ta hiện nay
mới chỉ dừng ở việc thực hiện cấp phép khai thác, sử dụng tác phẩm, thu và phân
phổi tiền bản quyền, bồi dưỡng kiến thức pháp luật và thông tin cho hội viên, gửi
văn bản đề nghị các cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết khi có vụ việc
tranh chấp. Chưa có trường hợp nào tổ chức quản lý tập thể quyền tác giả thay
mặt hội viên bảo vệ quyền lợi tại tòa án.
Hiệp hội công nghiệp ghi âm và trung tâm quyền tác giả văn học hoạt động
còn chưa mang tính chuyên nghiệp, thể hiện từ xây dựng chương trình, kế hoạch
công tác, thông tin công khai hoạt động bảo vệ quyền đến việc xây dựng cơ chế
thu và phân phối tiền bản quyền theo đúng quy định pháp luật. Cơ sở vật chất của
các tổ chức quản lý tập thể hiện còn thiếu thốn. Kinh phí thiếu nên chưa bố trí
được cán bộ chuyên trách, chưa xây dựng được cơ sở dữ liệu để quản lý thông tin
về tác giả, hội viên. Một số loại hình tác phẩm chưa hình thành tổ chức quản lý
tập thể để thay mặt các chủ sở hữu quyền quản lý việc khai thác sử dụng quyền
tác giả trong lĩnh vực đó.
2.3.4. Trong quản lý hoạt động giám định về quyền tác giả
Giám định quyền tác giả, quyền liên quan là một dạng của giám định tư
pháp theo đó người giám định tư pháp sử dụng kiến thức, phương tiện, phương
pháp khoa học, kỹ thuật, nghiệp vụ để kết luận về chuyên môn những vấn đề có
liên quan đến hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự, giải quyết
vụ việc dân sự, vụ án hành chính theo trưng cầu của cơ quan tiến hành tố tụng,
69
người tiến hành tố tụng hoặc theo yêu cầu của người yêu cầu giám.
Trung tâm giám định quyền tác giả, quyền liên quan trực thuộc Cục bản
quyền tác giả được thành lập theo quyết định 1981/QĐ-BVHTTDL ngày
03/6/2016. Sau hơn 3 năm thành lập, có lẽ do tính phức tạp và đa dạng có riêng ở
lĩnh vực quyền tác giả, quyền liên quan, nên hoạt động giám định chỉ bắt đầu khi
thông tư 02/2019/TT-BVHTTDL hướng dẫn về quy trình giám định quyền tác
giả, quyền liên quan được ban hành. Tuy nhiên, qua quá trình hoạt động thực tiễn,
Trung tâm giám định quyền tác giả đang gặp khó khăn trong việc nghiên cứu xây
dựng bộ tiêu chí đánh giá cũng như tìm kiếm các chuyên gia có trình độ cho các
kỳ kiểm tra nghiệp vụ đảm bảo người được cấp Thẻ giám định vừa có kinh nghiệm
thực tế, vừa có đầy đủ kiến thức chuyên sâu về lĩnh vực quyền tác giả, đáp ứng
yêu cầu thực tế của xã hội. Bên cạnh đó, mức chi phí giám định về sở hữu trí tuệ
chưa hề được quy định cụ thể tại bất kỳ văn bản nào nên người áp dụng cũng
thường thấy lúng túng.. Điều này đã dẫn đến hiện tượng đùn đẩy trách nhiệm
trưng cầu giám định giữa các bên chủ thể có liên quan. Ngoài ra thời hạn giám
định quyền tác giả cũng chưa được quy định cụ thể, cho nên việc chờ đợi thời gian
dài cũng gây ảnh hưởng đến nhu cầu giải quyết, điều tra vụ việc.
Trong thời gian tới, cần có những quy định chi tiết, cụ thể hơn về những
vấn đề nêu trên để hoạt động giám định quyền tác giả được thuận lợi, góp phần
tích cực giải quyết nút thắt về nguồn chứng cứ hợp lệ, thúc đẩy quá trình giải
quyết các tranh chấp về quyền tác giả.
2.3.5. Trong hợp tác quốc tế trong quản lý, thực thi bảo hộ quyền tác giả
Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế luôn đặt ra vấn đề là làm sao để tận dụng
được những cơ hội, tiếp thu những cái mới, tạo điều kiện cho sự tăng trưởng kinh
tế, xã hội để nhanh chóng đưa nước ta tiến kịp các nước khác trong khu vực và
trên thế giới. Đồng thời bảo vệ được lợi ích của đất nước, giữ gìn những giá trị
truyền thống và bản sắc văn hóa dân tộc, bảo đảm định hướng phát triển xã hội
chủ nghĩa của đất nước.
Toàn cầu hóa là quá trình phát triển tất yêu của thế giới ngày nay, nó tạo ra
70
rất nhiều cơ hội, nhưng cũng nhiều thách thức cho mỗi quốc gia, trong đó có Việt
Nam. Qúa trình mở cửa hội nhập luôn song hành hai mặt tích cực và tiêu cực. Vì
vậy bên cạnh việc tiếp thu những điều mới mẻ, chúng ta cũng cần tỉnh táo chống
lại những mặt tiêu cực, tránh những ảnh hưởng không tốt tới đời sống xã hội nước
ta. Pháp luật phải luôn phát huy tối đa vai trò tích cực chủ động của mình, thực sự
là công cụ, phương tiện có hiệu lực và hiệu quả nhất để quản lý đất nước, bảo vệ
và thúc đấy sự phát triển của đất nước.
Để khai thác tốt hơn nữa điều kiện quốc tế trong việc thực hiện pháp luật
bảo hộ quyền tác giả, Việt Nam còn phải khắc phục một số hạn chế như trình độ
chuyên môn và trình độ ngoại ngữ của đội ngũ cán bộ, công chức. Chúng ta phải
chủ động khai thác sự giúp đỡ chuyên môn, kỹ thuật, tài chính của các tổ chức
quốc tế, các tổ chức, các cá nhân nước ngoài để có thể đào tạo được những chuyên
gia có trình độ cao về pháp luật bảo hộ quyền tác giả trong cơ quan lập pháp, hành
pháp, tư pháp. Từ đó, giúp cho sự phối hợp giữa các cơ quan này trong việc thực
hiện pháp luật được nhịp nhàng, đồng bộ, có hiệu quả.
Hiện nay, Việt Nam chưa thành lập được Trung tâm thông tin quốc gia về
quyền tác giả theo quy định tại Điều IV phụ lục Công ước Berne. Trong bối cảnh
hiện nay khi các doanh nghiệp nước ngoài, các tập đoàn đa quốc gia đến Việt Nam
tìm kiếm cơ hội đầu tư, kinh doanh....
2.3.6. Trong giải quyết khiếu nại, tố cáo; thanh tra, kiểm tra và xử lý vi
phạm pháp luật về quyền tác giả
Mặc dù theo quy định của các văn bản pháp luật, cơ quan thực thi về quyền
tác giả gồm có Thanh tra Văn hóa, Thể thao và Du lịch, quản lý thị trường, cảnh
sát kinh tế, hải quan, bộ đội biên phòng, cảnh sát biển, nhưng trên thực tế, hầu hết
các vụ thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm về quyền tác giả là do Thanh tra Bộ Văn
hóa, Thể thao và Du lịch thực hiện, các cơ quan còn lại hầu như chưa thực sự vào
cuộc.
Công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật về quyền tác giả của
lực lượng thanh tra chuyên ngành văn hóa, thể thao và du lịch thực hiện chưa
71
thường xuyên, xử lý không dứt điểm, chỉ tập trung ở các tỉnh, thành phố lớn như
Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh. Trình độ chuyên môn, nghiệp vụ về quyền tác
giả của lực lượng thanh tra chuyên ngành văn hóa, thể thao và du lịch còn hạn
chế, chưa đủ sức đáp ứng yêu cầu thanh tra, kiểm tra xử lý vi phạm về quyền tác
giả.
Hoạt động kiểm tra và xử lý vi phạm có lúc, có nơi chưa được thực hiện
thường xuyên và nghiêm túc. Thông thường chỉ khi có đơn thư thì thanh tra
chuyên ngành và cơ qun quản lý nhà nước về quyền tác giả mới vào cuộc. Các vi
phạm diễn ra phổ biến, với tính chất phức tạp trong mọi lĩnh vực. Với sự phát
triển của công nghệ thông tin và truyền thông hiện đại, các vi phạm về quyền tác
giả ngày càng trở nên đa dạng, tinh vi và khó phát hiện xử lý. Việc xử phạt cũng
chưa được áp dụng nghiêm khắc với mọi hành vi xâm phạm và chưa có tác dụng
răn đe mạnh, trong khi các tổ chức, cá nhân vi phạm đôi khi vẫn bất chấp, vẫn tiếp
tục vi phạm do kiếm được khoản lợi nhuận bất hợp pháp rất lớn, điều này dẫn đến
tư tưởng coi thường pháp luật trong những tổ chức, cá nhân vi phạm quyền tác
giả.
Qua thực tiễn thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm về quyền tác giả cho thấy
hoạt động thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm mới chỉ tập trung ở lĩnh vực phần
mềm máy tính, các lĩnh vực khác hầu như còn chưa được sự quan tâm chú ý của
lực lượng thanh tra, đặc biệt là Thanh tra Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch.
2.3.7. Một số căn nguyên chung của các hạn chế
Quyền tác giả là một lĩnh vực mới ở Việt Nam cho nên nhận thức và hiểu
biết của các cơ quan quản lý, sự thống nhất quản lý, chỉ đạo của các cấp chưa dầy
đủ, ý thức chấp hành và hiểu biết của nhân dân, kể cả các tác giả và tổ chức, cá
nhân có quyền và nghĩa vụ liên quan còn thấp. Từ đó, việc quản lý nhà nước bằng
pháp luật về quyền tác giả còn có những hạn chế, đặc biệt là việc thực thi các quy
định của pháp luật về quyền tác giả. Tình trạng vi phạm bản quyền diễn ra ở hầu
hết các lĩnh vực với các hình thức và mức độ khác nhau, nhất là trong lĩnh vực âm
nhạc, văn học, chương trình máy tính, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát
72
sóng, kỹ thuật số… Tình trạng này gây thiệt hại và ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt
động sáng tạo, môi trường đầu tư, phát triển kinh tế, văn hóa-xã hội của đất nước
và tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Các tác giả, các chủ thể quyền chưa thực sự
quan tâm đến việc bảo vệ quyền của mình, các thiết chế hỗ trợ thực thi quyền tác
giả chưa thực sự vào cuộc. Nhiều tổ chức hiệp hội chưa nhận thức được sự cần
thiết phải đứng ra bảo vệ quyền lợi của các thành viên, ý thức chấp hành pháp luật
của phần lớn nhân dân trong xã hội chưa cao. Các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền chưa quan tâm đúng mức đến việc bảo hộ quyền tác giả. Việc xử lý các
hành vi vi phạm của các cơ quan, tổ chức chưa được thực hiện một cách nghiêm
túc. Cơ chế phối hợp giữa các cơ quan chưa đồng bộ, thiếu kinh nghiệm và chưa
đủ mạnh mẽ về chuyên môn cũng như các phương tiện cần thiết để có khả năng
xử lý các vi phạm một cách hữu hiệu. Vai trò các cơ quan thực thi pháp luật chưa
được phát huy một cách hữu hiệu. Những tồn tại trên có nguyên nhân chính là do:
cơ chế bảo đảm thực thi chưa hoàn thiện, chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tế,
phương thức tổ chức các hoạt động và sự phối hợp của các thiết chế trong hệ thống
bảo đảm thực thi chưa thực sự hiệu quả; sự hiểu biết và ý thức pháp luật của cộng
đồng xã hội đối với vấn đề của bảo hộ quyền tác giả còn nhiều hạn chế; bản thân
các chủ thể hưởng quyền tác giả chưa thực sự tích cực, chủ động trong việc bảo
73
vệ quyền lợi ích hợp pháp của mình.
Tiểu kết Chương 2
Quyền tác giả là lĩnh vực phức tạp và tương đối mới mẻ đối với Viêt Nam.
Trải qua hơn 15 năm thi hành Luật sở hữu trí tuệ 2005 về quyền tác giả, quyền
liên quan, chúng ta đã đạt được những kết quả đáng tự hào. Luật Sở hữu trí tuệ và
các văn bản hướng dẫn thi hành về quyền tác giả, quyền liên quan đã tiến gần tới
chuẩn mực quốc tế, đặt nền móng pháp lý cho việc thiết lập cơ chế bảo hộ quyền
tác giả, quyền liên quan và bộ máy vận hành cơ chế đó. Các quy định pháp luật
về quyền tác giả, quyền liên quan; về cơ bản, đã đi vào cuộc sống, đóng vai trò
tích cực, thúc đẩy sáng tạo văn học, nghệ thuật và khoa học, bảo vệ lợi ích hợp
pháp của người sáng tạo, nhà sử dụng và công chúng thụ hưởng. Các quyền cơ
bản gồm quyền nhân thân và quyền tài sản của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả,
chủ sở hữu quyền liên quan được tôn trọng, từ quyền đứng tên, đặt tên tác phẩm
do mình sáng tạo, quyền công bố, quyền cho hoặc không cho người khác sử dụng
tác phẩm, bảo vệ toàn vẹn tác phẩm, đến quyền được hưởng nhuận bút, thù lao và
các lợi ích vật chất do việc cho phép sử dụng tác phẩm để biểu diễn, xuất bản,
phát thanh, truyền hình, trưng bày, triển lãm, dựng phim, xây dựng chương trình
sân khấu...
Hệ thống cơ quan quản lý và thực thi pháp luật về bảo hộ quyền tác giả,
quyền liên quan đã được hình thành với tổ chức bộ máy từ Trung ương đến địa
phương.
Hoạt động thanh, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, xử lý vi phạm đã
đạt được những kết quả nhất định, góp phần đưa pháp luật quyền tác giả, quyền
liên quan vào đời sống, khuyến khích hoạt động sáng tạo và sử dụng thành quả
sáng tạo trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật, khoa học.
Công tác phổ biến, giáo dục pháp luật về quyền tác giả, quyền liên quan đã
được tăng cường, triển khai đến các đối tượng có liên quan. Giới khai thác, sử
dụng và công chúng đã có nhận thức và bước đầu thể hiện sự tôn trọng bản quyền
74
trong các hoạt động khai thác, sử dụng, phổ biến tác phẩm, cuộc biểu diễn, bản
ghi âm, ghi hình và chương trình phát sóng thông qua việc thực hiện nghĩa vụ thỏa
thuận và trả tiền sử dụng cho chủ sở hữu quyền tác giả, quyền liên quan ở hầu hết
hình thức sử dụng từ báo chí, xuất bản, sân khấu, âm nhạc, điện ảnh, tạo hình,
kiến trúc, đến phát thanh, truyền hình, sản xuất bản ghi âm - hình.
Bên cạnh những kết quả đáng khích lệ nêu trên, vẫn còn tồn tại những hạn
chế bất cập nhất định: từ vấn đề nhận thức chung của cộng động về bảo hộ quyền
tác giả còn hạn chế, chưa hình thành ý thức tôn trọng quyền tác giả. Bản thân các
chủ thể quyền có quyền và người sử dụng đối tượng thuộc quyền của người khác
chưa có hiểu biết về pháp luật quyền tác giả hoặc ý thức tuân thủ còn kém; các
chủ thể quyền chưa chủ động thực hiện bảo vệ quyền và tài sản của mình, mà còn
mang nặng tâm lý trông chờ, ý lại vào Nhà nước.
Bộ máy thực thi bảo hộ quyền tác giả chưa được hoàn thiện và tăng cường
đủ sức đáp ứng yêu cầu thực thi nhiệm vụ. Hệ thống cơ quan quản lý và thực thi
quyền tác giả, quyền liên quan bao gồm nhiều cơ quan từ Trung ương đến địa
phương chưa có sự phối hợp chặt chẽ, hiệu quả thực thi còn hạn chế. Đội ngũ cán
bộ quản lý và thực thi quyền tác giả, quyền liên quan còn thiếu và kiêm nhiệm
nhiều công việc. Các Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch không có biên chế quản lý
quyền tác giả, quyền liên quan, đa số bố trí cán bộ kiêm nhiệm dẫn đến mức độ
chuyên sâu của nhân lực quản lý và thực thi quyền tác giả, quyền liên quan còn
hạn chế.
Hệ thống tổ chức đại diện tập thể quyền tác giả, quyền liên quan mới được
hình thành, hoạt động còn thiếu chuyên nghiệp, thiếu quy phạm điều chỉnh, thiếu
nhân lực, vật lực, cơ sở vật chất.
Vì vậy, việc kiến nghị đưa ra các giải pháp nhằm hoàn thiện, nâng cao hiệu
quả của hoạt động bảo hộ và thực thi quyền tác giả trong thời gian tới là vô cùng
75
cần thiết.
CHƯƠNG 3
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ NHÀ
NƯỚC BẰNG PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN TÁC GIẢ
3.1. Quan điểm vềquản lý nhà nước bằng pháp luật về quyền tác giả
Qua nghiên cứu về lý luận và thực tiễn quản lý nhà nước bằng pháp luật về
quyền tác giả, nghiên cứu những chủ trương, đường lối của Đảng về phát triển
kinh tế, văn hóa - xã hội, có thể thấy quản lý nhà nước bằng pháp luật về quyền
tác giả ở Việt Nam phải quán triệt những quan điểm cơ bản sau đây:
3.1.1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước
Quản lý nhà nước bằng pháp luật về quyền tác giả phải được thực hiện đúng
đắn, có hiệu lực, hiệu quả bảo đảm phù hợp với đường lối, chủ trương, chính sách
của Đảng. Đảng lãnh đạo là một nguyên tắc của tổ chức và hoạt động của Nhà
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Mọi hoạt động của Nhà nước và xã
hội đều được đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Việc tăng cường
quản lý nhà nước bằng pháp luật về quyền tác giả phải đảm bảo tuân thủ, nhất
quán với các chủ trương, đường lối của Đảng.
Mục tiêu, phương hướng thúc đẩy hoạt động bảo hộ quyền tác giả trong
thời gian tới là: Phát huy những thành tựu đã đạt được, khắc phục những tồn tại,
thúc đẩy hoạt động thực thi, từng bước hoàn thiện bộ máy, cơ chế, pháp luật và hội
nhập quốc tế nhằm: “làm tốt công tác bảo vệ bản quyền tác giả” theo tinh thần Nghị
quyết Trung ương 5 khóa VIII về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc và “thực hiện chính sách bảo hộ quyền sở hữu trí
tuệ” theo tinh thần Nghị quyết Đại hội IX Đảng Cộng sản Việt Nam. Nghị quyết
trung ương 5 Khóa VIII đã xác định “tạo điều kiện để nhân dân tham gia tích cực
sáng tạo và phê bình, được hưởng thụ ngày càng nhiều tác phẩm văn nghệ có giá
trị trong nước và ngoài nước”, “Chăm sóc đời sống vật chất, tinh thần, tạo điều kiện
làm việc thuận lợi cho văn nghệ sĩ. Chú trọng bồi dưỡng, đào tạo lớp văn nghệ sĩ
76
trẻ. Làm tốt công tác bảo vệ bản quyền tác giả”[24].
Trong hoạt động sáng tạo, mục tiêu của Đảng và Nhà nước ta là “phát huy
tiềm năng, khuyến khích sáng tạo văn học, nghệ thuật, tạo ra những tác phẩm có
giá trị cao về tư tưởng và nghệ thuật”[25, tr106], “bảo đảm tự do sáng tác đi đôi
với nêu cao trách nhiệm công dân, trách nhiệm xã hội của văn nghệ sĩ, các nhà
văn hóa”[24]. Tại Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa
IX tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng đã khẳng định: “Nhà nước
khuyến khích các hoạt động sáng tạo, hoàn thiện và ứng dụng công nghệ mới,
thông qua các chính sách hỗ trợ phát triển, công nhận và bảo hộ quyền sở hữu trí
tuệ”[25, tr.100]. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Chiến lược phát triển
kinh tế-xã hội 2011-2020, quan điểm của Đảng là “tăng trưởng kinh tế phải kết
hợp hài hoà với phát triển văn hoá”.
Để thực hiện những mục tiêu nói trên, Đảng và Nhà nước chủ trương hội
nhập quốc tế để phát triển kinh tế thị trường, nhưng vẫn phải bảo vệ được lợi ích
dân tộc, độc lập, chủ quyền, an ninh quốc gia và an ninh kinh tế, trật tự an toàn xã
hội, bảo vệ và phát triển, giữ gìn bản sắc văn hóa Việt Nam, giao lưu hội nhập với
các nền văn hóa thế giới, tạo điều kiện cho nhân dân hưởng thụ ngày càng nhiều
tinh hoa văn hóa nhân loại cũng như giới thiệu các giá trị văn hóa tinh thần của
nhân dân Việt Nam ra thế giới.
Trong giai đoạn hiện nay, mục tiêu trọng tâm của Chiến lược phát triển văn
hóa cần phải đạt được đó là “phát huy cao tính sáng tạo của trí thức, văn nghệ sĩ;
đào tạo tài năng văn hóa, nghệ thuật; tạo cơ chế, chính sách và cơ sở vật chất để
có nhiều sản phẩm văn hóa, nghệ thuật chất lượng cao xứng tầm với dân tộc và
thời đại”.
Chính sách khuyến khích sáng tạo trong các hoạt động văn hóa đòi hỏi tăng
nguồn đầu tư thích đáng cho khu vực sáng tạo văn hóa, nghệ thuật [24]. Thực hiện
chính sách hỗ trợ, bảo trợ, và đặt hàng cho các tác phẩm văn học, nghệ thuật. Tăng
cường bảo hộ và thực thi quyền tác giả; xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật,
77
tăng cường năng lực quản lý, năng lực chuyên môn của cán bộ quản lý nhà nước
về quyền tác giả, từ đó tạo hành lang, môi trường pháp lý an toàn cho các chủ thể
tự do sáng tạo.
3.1.2. Quan điểm khoa học
Quản lý nhà nước bằng pháp luật nói chung, quản lý nhà nước bằng pháp
luật về quyền tác giả là vấn đề có ý nghĩa quan trọng đối với sở hữu công nghiệp
và kinh tế tri thức. Hiện nay trong xu thế toàn cầu hóa, mở cửa, hội nhập với thế
giới và khu vực, nhà nước đóng vai trò là định hướng, dẫn dắt sự phát triển kinh
tế, đảm bảo thống nhất các lợi ích cơ bản trong xã hội. Khoa học pháp lý, cụ thể
là lý luận chung về nhà nước và pháp luật chứng minh rằng: bất kỳ chính sách nào
của nhà nước, chỉ có thể thực hiện và phát huy đầy đủ, có hiệu quả nhất khi được
xác lập dưới một hình thức pháp luật nhất định. Sở dĩ như vậy, vì tính tổ chức và
điều chỉnh phổ biến của pháp luật là công cụ đảm bảo hữu hiệu cho sự quản lý
của nhà nước trên phạm vi toàn xã hội.
Trong quá trình phát triển kinh tế thị trường, xây dựng nhà nước pháp
quyền, chủ động hội nhập khu vực và quốc tế, hoạt động thương mại hóa tài sản
trí tuệ nói ngày càng phát triển sôi động, diễn biến phức tạp, cần phải tăng cường
quản lý nhà nước bằng pháp luật để ngăn chặn những hoạt động lệch lạc, những
tác động tiêu cực của mặt trái cơ chế thị trường, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của chủ thể quyền sở hữu trí tuệ, lợi ích của nhà nước, của quốc gia, dân tộc.
Quản lý nhà nước bằng pháp luật về quyền tác giả vừa liên quan đến những
lý luận cơ bản của khoa học pháp lý, vừa là lĩnh vực quản lý nhà nước chuyên
ngành. Vì thế nghiên cứu vấn đề tăng cường quản lý nhà nước bằng pháp luật về
quyền tác giả không chỉ có ý nghĩa về nhận thức mà còn có ý nghĩa phương pháp
luận giúp đánh giá chính xác thực trạng, đề xuất và luận chứng được với tính
thuyết phục của các giải pháp tăng cường lĩnh vực quản lý nhà nước bằng pháp
luật trong lĩnh vực này.
Để bảo vệ lợi ích chính đáng của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả nói riêng,
chủ sở hữu tài sản trí tuệ nói chung, bảo vệ lợi ích của các nhà đầu tư, khách hàng,
78
cũng như công chúng thưởng thức, và toàn xã hội, quản lý nhà nước bằng pháp
luật về quyền tác giả phải là công cụ pháp lý năng động, nhanh nhạy, đảm bảo
tính an toàn cao về mặt pháp lý, tạo hành lang an toàn, môi trường đầu tư thuận
lợi để phát triển hoạt động sáng tạo, phát triển kinh tế trí thức. Hơn thế nữa, việc
tạo hành lang pháp lý riêng cho hoạt động bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ nói chung,
quyền tác giả nói riêng đòi hỏi Nhà nước, các Bộ, ngành quản lý phải điều chỉnh,
kiểm soát, điều tiết một cách hợp lý, công bằng mối quan hệ giữa nhà đầu tư, tác
giả, chủ sở hữu tài sản trí tuệ, công chúng…làm cho thương mại tài sản trí tuệ
ngày một phát triển, đáp ứng nhu cầu, lợi ích của các chủ thể, cũng như lợi ích
của quốc gia, tạo lập môi trường cho giao lưu kinh tế, thương mại quốc tế.
Tuy nhiên nhận thức về tầm quan trọng, thực trạng, nội dung, quan điểm,
giải pháp tăng cường quản lý nhà nước bằng pháp luật trong lĩnh vực này chưa
đầy đủ, thiếu nhất quán, còn bị chi phối bới lợi ích cục bộ của từng Bộ, ngành, địa
phương. Chính vì vậy, cần thống nhất nhận thức, nâng cao quyết tâm chính trị
trong tổ chức thực hiện, quản lý nhà nước về quyền tác giả nhằm tạo được sự
chuyển biến theo kịp yêu cầu quản lý đối với lĩnh vực quyền tác giả ở Việt Nam
hiện nay.
Đối với Việt Nam, việc xây dựng và duy trì một hệ thống bảo hộ quyền tác
giả hữu hiệu là một trong những yếu tố quan trọng quyết định thành công của quá
trình hội nhập kinh tế quốc tế. Việc gia nhập WTO buộc chúng ta phải đạt được
hai chuẩn mực lớn về nội dung bảo hộ (tính đầy đủ) và hiệu lực thực thi pháp luật
(tính hiệu quả) của hệ thống luật sở hữu trí tuệ hiện hành. Như vậy, bảo hộ quyền
tác giả, quyền liên quan vừa xuất phát từ nhu cầu tự thân của nền kinh tế - xã hội
nước ta trong quá trình phát triển, vừa là một yêu cầu bắt buộc khi tham gia các
quan hệ kinh tế quốc tế và hội nhập.
Trước sức ép của hội nhập, trong điều kiện phát triển các mối quan hệ hợp
tác đa phương, pháp luật đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong việc đảm bảo môi
trường hợp tác đa phương có hiệu quả. Trong xu hướng đó, pháp luật về quyền
tác giả của Việt Nam không thể tách rời với pháp luật về quyền tác giả của quốc
79
tế, Việt Nam phải có chiến lược xây dựng cơ chế điều chỉnh pháp luật của mình
sao cho cơ chế đó phù hợp với những điều kiện trong nước, đồng thời thích ứng
với xu hướng hợp tác và hội nhập tạo ra môi trường ổn định cho việc thiết lập mối
quan hệ nhiều mặt giữa các quốc gia trên thế giới và trong khu vực.
3.2. Giải pháp đảm bảo quản lý nhà nước bằng pháp luật về quyền
tác giả tại Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch
3.2.1. Giải pháp chung
Lý luận và thực tiễn đã khẳng định rằng để bảo hộ quyền tác giả ở bất kỳ
quốc gia nào đều cần đến sự quản lý của Nhà nước bằng pháp luật. Vì vậy, việc
hoàn thiện quản lý nhà nước bằng pháp luật về quyền tác giả là nhu cầu tất yếu,
khách quan của sự nghiệp phát triển kinh tế-xã hội của các quốc gia trên thế giới
cũng như đối với nước ta hiện nay. Qua nghiên cứu lý luận và thực tiễn, để tăng
cường quản lý nhà nước bằng pháp luật về quyền tác giả, cần thực hiện các nhóm
giải pháp sau:
a) Hoàn thiện pháp luật về quyền tác giả
Chất lượng, hiệu quả quản lý xã hội của Nhà nước pháp luật xã hội chủ
nghĩa phụ thuộc rất nhiều vào mức độ hoàn thiện của hệ thống pháp luật. Vì vậy,
yêu cầu về một hệ thống văn bản quy phạm pháp luật đồng bộ trong lĩnh vực
quyền tác giả là hết sức cần thiết.
Pháp luật về quyền tác giả phải thể hiện sự hài hòa lợi ích giữa các chủ thể
sáng tạo với các chủ thể sử dụng và công chúng hưởng thụ, có như vậy nó mới có
khả năng đi vào đời sống để phát huy hiệu quả trong thực tế. Pháp luật về quyền
tác giả không những bảo đảm đáp ứng được các mục tiêu và đòi hỏi khắt khe của
quá trình hội nhập, khắc phục được các bất cập hiện đang tồn tại, làm cho hệ thống
quy phạm pháp luật về quyền tác giả của nước ta tiến gần hơn với hệ thống của
nhiều nước trên thế giới, mà còn là một công cụ quan trọng góp phần thúc đẩy
hoạt động sáng tạo, khuyến khích cạnh tranh lành mạnh, thu hút đầu tư trong và
ngoài nước, phát triển thị trường công nghệ, từ đó nâng cao hiệu lực của pháp
80
luật, hiệu quả quản lý, thực thi, góp phần phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội.
Luật Sở hữu trí tuệ được ban hành năm 2005 và được sửa đổi, bổ sung năm
2009, 2019 là dấu mốc quan trọng trong lịch sử xây dựng, phát triển và hoàn thiện
pháp luật về sở hữu trí tuệ của Việt Nam. Đạo luật này đã thay đổi toàn bộ cấu
trúc của hệ thống các văn bản pháp luật trước đây về sở hữu trí tuệ, chuyển từ hệ
thống các văn bản pháp luật đơn hành thành một đạo luật chuyên ngành thống
nhất, đồng bộ, làm nền tảng pháp lý cơ bản để điều chỉnh các vấn đề có liên quan
việc bảo hộ và thực thi quyền sở hữu trí tuệ. Do đây là một đạo luật được ra đời
trong bối cảnh kế thừa và khắc phục các hạn chế của các luật đơn lẻ trước đó,
đồng thời tiếp thu những tiến bộ cũng như đáp ứng các yêu cầu khi Việt Nam trở
thành thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) cho nên về cơ bản, nội
dung của Luật sở hữu trí tuệ đã bảo đảm tiêu chuẩn về tính đầy đủ và hiệu quả.
Trong đó có phần quyền tác giả, quyền liên quan, đây là những quy định có tính
chất cơ bản điều chỉnh các quan hệ về quyền tác giả, quyền liên quan; góp phần
quan trọng khuyến khích công dân tự do sáng tạo ra các giá trị văn học, nghệ thuật
và khoa học; thúc đẩy hoạt động bảo hộ quyền tác giả, quyền liên quan ở Việt
Nam đạt được những tiến bộ mới; tạo tiền đề pháp lý cho việc đàm phán ký kết
và thi hành các Điều ước quốc tế đa phương và song phương về lĩnh vực này. Tuy
nhiên, cần làm rõ một số thuật ngữ, khái niệm sau đây:
Về thuật ngữ “đồng tác giả”
Luật sở hữu trí tuệ không định nghĩa thuật ngữ “đồng tác giả” mà mặc nhiên
quan niệm trong trường hợp có từ hai tác giả trở lên cùng sáng tạo lên một tác
phẩm thì họ là các đồng tác giả của tác phẩm đó. Quan niệm này chỉ điều chỉnh
được mối quan hệ về quyền tài sản đối với tác phẩm giữa các đồng tác giả đối với
các trường hợp sau: tác phẩm được coi là đồng sở hữu chung duy nhất; hoặc tác
phẩm được coi là đồng sở hữu chung theo phần, trường hợp này được điều chỉnh
bởi Điều 38 của Luật: các đồng tác giả sáng tạo ra tác phẩm, nếu có phần riêng
biệt có thể tách ra sử dụng độc lập mà không làm phương hại đến phần của các
đồng tác giả khác thì có các quyền nhân thân và quyền tài sản đối với phần riêng
81
biệt đó.
Quan niệm quá đơn giản như trên là không phổ quát, bởi lẽ nó không thể
điều chỉnh được quyền nhân thân đối với tác phẩm mà các ví dụ sau đây là minh
chứng:
Một bài thơ được công bố, sau đó một nhạc sĩ phổ nhạc cho bài thơ thành
bài hát, giả định rằng tác giả bài thơ chỉ biết đến bài hát khi nó được công bố. Nếu
coi bài hát (bao gồm phần nhạc và phần lời) là một tác phẩm đồng tác giả thì pháp
luật không thể điều chỉnh được khi xảy ra tranh chấp về quyền nhân thân giữa các
đồng tác giả, bởi lẽ ngoài việc mỗi đồng tác giả có các quyền nhân thân đối với
phần riêng biệt của mình thì họ còn có quyền nhân thân chung đối với toàn bộ tác
phẩm đồng tác giả;
Tác giả của một bản nhạc không lời đã chết, một người viết thêm lời vào
bản nhạc thành bài hát có lời, nếu quan niệm như trên thì phải coi bài hát là một
tác phẩm đồng tác giả vì đã có hai tác giả cùng sáng tạo nên một tác phẩm, như
trường hợp nhạc sĩ Dương Thụ và ca sĩ Mỹ Linh đối với Album “Chat với Mozar”.
Để hoàn thiện vấn đề này, nên tham khảo quy định về tác phẩm đồng tác
giả trong Luật quyền tác giả của Hoa Kỳ: “Tác phẩm đồng tác giả là tác phẩm
được sáng tạo bởi hai hoặc nhiều tác giả với chủ ý là sự đóng góp của họ được kết
hợp thành các phần không thể tách rời và phụ thuộc lẫn nhau trong một tổng thể
hoàn chỉnh”, trong đó nhất thiết các đồng tác giả phải chủ ý cùng sáng tạo nên
một tác phẩm chung.
Về thuật ngữ “chủ sở hữu quyền tác giả”
Thuật ngữ “chủ sở hữu quyền tác giả” xuất hiện tại Điều 13 và một số điều
khác của Luật sở hữu trí tuệ sửa đổi, bổ sung 2019. Điều 36 định nghĩa: “Chủ sở
hữu quyền tác giả là tổ chức, cá nhân nắm giữ một, một số hoặc toàn bộ các quyền
tài sản quy định tại Điều 20”.
Định nghĩa trên đây là chưa chính xác, bởi lẽ nội dung của quyền tác giả
được quy định tại điều 18 bao gồm quyền nhân thân và quyền tài sản, như vậy về
mặt hình thức chủ sở hữu quyền tác giả phải nắm toàn bộ nội dung quyền tác giả
82
(bao gồm quyền nhân thân và quyền tài sản). Nhưng như điều 36 định nghĩa thì
cho thấy chủ sở hữu quyền tác giả chỉ nắm quyền tài sản chứ không hề nắm quyền
nhân thân.
Mặt khác, người nắm giữ toàn bộ quyền tài sản đối với tác phẩm thì có
quyền công bố tác phẩm hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm như được
quy định tại khoản 3 điều 19 của Luật.
Theo quan điểm cá nhân nên hoàn thiện vấn đề này theo hướng sau:
Sửa đổi thuật ngữ “chủ sở hữu quyền tác giả” thành thuật ngữ “chủ sở hữu
tác phẩm”; quy định thêm chủ sở hữu tác phẩm có quyền công bố tác phẩm hoặc
cho phép người khác công bố tác phẩm.
Tiến trình đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi pháp luật Việt Nam
cần được sửa đổi, bổ sung theo hướng:
- Cần có văn bản hướng dẫn cụ thể đối với một số lĩnh vực quan trọng và
phức tạo như quyền tác giả đối với chương trình máy tính, quyền tác giả đối với
tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian.
- Hội nhập quốc tế làm cho quan hệ các quốc gia xích lại gần nhau hơn về
mọi lĩnh vực, trong đó có cả pháp luật. Trong tiến trình hội nhập đòi hỏi mỗi quốc
gia phải hài hòa các vấn đề của quốc gia mình cho tương thích với những chuẩn
mực chung đã được hầu hết các quốc gia khác thừa nhận. Chúng ta cần nội địa
hóa một số quy định của các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia hoặc ký kết
vào hệ thống pháp luật Việt Nam về quyền tác giả. Luật sở hữu trí tuệ về cơ bản
đã quy định các quyền nhân thân và tài sản được bảo hộ của tác giả, người biểu
diễn, nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình, tổ chức phát sóng phù hợp với các Điều
ước quốc tế về quyền tác giả, quyền liên quan. Tuy nhiên, cần thiết phải nghiên
cứu các quy định bổ sung một số quyền mang tính đặc thù đối với một số loại
hình tác phẩm, phù hợp với thông lệ quốc tế như:
Về quyền bán lại đối với bản gốc tác phẩm mỹ thuật và những bản thảo gốc
của nhà văn, nhà soạn nhạc (quy định tại điều 14ter Công ước Berne). Theo quy
định của công ước Berne, với những bản gốc các tác phẩm mỹ thuật và những bản
83
thảo gốc của nhà văn, nhà soạn nhạc mà tác giả đã chuyển nhượng thì tác giả hoặc
chủ sở hữu quyền tác giả có quyền được hưởng một phần khoản tiền chênh lệch
liên quan đến việc bán tác phẩm đó so với khi tác giả đã chuyển nhượng lần đầu.
Công ước Berne quy định rằng quyền bán lại chỉ được bảo hộ nếu như pháp
luật của quốc gia thành viên mà tác giả là công dân thừa nhận sự bảo hộ đó và
trong khuôn khổ quy định của pháp luật quốc gia thành viên nới sự bảo hộ được
yêu cầu. Cũng theo Công ước Berne thì thể thức thu và mức lợi ích mà tác giả
được hưởng sẽ do pháp luật của mỗi quốc gia thành viên quy định.
Hiện nay, pháp luật về quyền tác giả Việt Nam, cụ thể là Luật sở hữu trí tuệ
Việt Nam chưa có quy định về việc tác giả được hưởng quyền này, do đó các tác
giả Việt Nam cũng không được hưởng quyền này tại các quốc gia thành viên khác.
Về quyền đối với chương trình máy tính:
Điều 22 Luật sở hữu trí tuệ sửa đổi, bổ sung 2019 quy định chương trình
máy tính, dù được thể hiện dưới dạng mã nguồn hay mã máy được bảo hộ như tác
phẩm văn học là phù hợp với điều 10 của Hiệp định Trips và thông lệ quốc tế.
Tuy nhiên, do đây là loại hình tác phẩm được bảo hộ theo cơ chế đặc thù, nên luật
pháp quốc gia cần bổ sung một số quy định riêng cho phù hợp.
Đối với người sử dụng hợp pháp chương trình máy tính, căn cứ theo nhu
cầu sử dụng, có quyền sao thêm bản dự phòng để đề phòng bản sao bị hư hỏng.
Tuy nhiên, bản dự phòng này không được giao cho người khác sử dụng bằng bất
cứ phương thức nào, đồng thời khi người sử dụng mất quyền sở hữu bản sao hợp
pháp đó thì phải có trách nhiệm tuy hủy bản sao dự phòng; đồng thời, người sử
dụng hợp pháp chương trình máy tính cũng có quyền tiến hành những thay đổi
cần thiết để ứng dụng chương trình máy tính vào hoàn cảnh thực tế hoặc cải tiến
công dụng, tính năng chương trình máy tính nhưng không được giao chương trình
máy tính sau khi đã thay đổi cho bên thứ ba nếu chưa được chủ sở hữu quyền tác
giả cho phép, trừ trường hợp hợp đồng có quy định khác.
Quy định về sản xuất đĩa quang:
Sao chép bất hợp pháp là một trong những vấn đề nổi cộm hiện nay. Việc
84
sản xuất, xuất khẩu, nhập khẩu và phân phối trong nước các đĩa quang để sao chép
bất hợp pháp các đối tượng được bảo hộ quyền tác giả là lý do khiến nền kinh tế
APEC phải chịu các khoản lỗ lớn. Để đối phó với các hoạt động sản xuất đĩa
quang lậu, thì biện pháp giám sát các hoạt động sản xuất đĩa quang theo luật định
sẽ đơn giản và hiệu quả hơn các biện pháp dân sự và hình sự áp dụng đối với hành
vi xâm phạm bản quyền. Trước yêu cầu đó, các nước thành viên APEC, trong đó
có Việt Nam đã cam kết sẽ ban hành văn bản pháp luật điều chỉnh các hoạt động
sản xuất đĩa quang. Năm 2008, Cục bản quyền tác giả - Bộ Văn hóa, Thể thao và
Du lịch đã xây dựng và đưa ra lấy ý kiến về dự thảo nghị định về sản xuất, xuất
nhập khẩu và lưu hành đĩa quang; tuy nhiên đến nay Việt Nam vẫn chưa ban hành
văn bản chính thức nào điều chỉnh hoạt động sản xuất đĩa quang. Trong thời gian
tới, cần hoàn thiện và nhanh chóng ban hành các quy định để thống nhất điều
chỉnh, quản lý hoạt động này.
Quy định về trách nhiệm pháp lý của nhà cung cấp dịch vụ internet:
Với những thành tựu sáng tạo của công nghệ thông tin, trong môi trường
kỹ thuật số, con người có thể dễ dàng tiếp cận, khai thác, sự dụng các nguồn thông
tin, đồng nghĩa với việc vi phạm quyền tác giả cũng có thể xảy ra một cách dễ
dàng và phổ biến. Ví dụ như, khó có thể đánh giá được việc sử dụng một cách hợp
pháp hay không đối với các tác phẩm âm nhạc khi chứng xuất hiện trên những
chiếc điện thoại di động, máy nghe nhạc hoặc trên các website cho phép nghe và
tải nhạc. Thực tế cho thấy chỉ có một số ít các nhà cung ứng dịch vụ các thiết bị
số chủ động và tự nguyện thiết lập các thỏa thuận về bản quyền với tác giả khi
phổ biến tác phẩm của họ. Thực tiễn này đã đặt ra vấn đề trách nhiệm giới hạn
pháp lý của các nhà cung cấp dịch vụ mạng.
Hiện nay vấn đề trách nhiệm của các nhà cung cấp dịch vụ tao ra mạng xã
hội đang trở nên nổi cộm. Theo quan điểm cá nhân, dù các nhà cung cấp dịch vụ
tạo ra sân chơi, các nội dung chia sẻ thông thường thuộc quyền sở hữu hợp pháp
của thành viên thì các chủ trang web (hoặc người quản trị mạng) phải yêu cầu
85
thành viên chứng minh quyền sở hữu đó. Dù là thông tin thành viên chia sẻ nhưng
chính các trang web tạo môi trường cho thông tin đó lưu thông, đó là hành vi phân
phối bản ghi âm, ghi hình và chủ web phải liên đới chịu trách nhiệm.
Có thể thấy, trước bối cảnh mới với nhiều chuyển biến mạnh mẽ tác động
đến mọi mặt của kinh tế - xã hội như quá trình hội nhập quốc tế ngày càng sâu
rộng của Việt Nam thông qua việc tham gia các hiệp định thương mại tự do thế
hệ mới, làn sóng của cách mạng công nghiệp 4.0, xu hướng bảo hộ thương mại
gia tăng cũng như mục tiêu hướng tới một Chính phủ kiến tạo, việc sửa đổi Luật
Sở hữu trong giai đoạn hiện nay trở nên cần thiết hơn bao giờ hết. Nghị quyết số
11-NQ/TW ngày 3/6/2017 của Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương
Đảng khóa XII về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa đã xác định một trong những nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu là “hoàn thiện
thể chế về sở hữu trí tuệ theo hướng khuyến khích sáng tạo, bảo đảm tính minh
bạch và độ tin cậy cao; quyền sở hữu trí tuệ được bảo vệ và thực thi hiệu quả”.
Vừa qua, đề nghị xây dựng Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật sở
hữu trí tuệ đã chính thức được Quốc hội đồng ý đưa vào chương trình xây dựng
luật, pháp lệnh năm 2021 với dự kiến sẽ xem xét thông qua tại kỳ họp thứ ba Quốc
hội khóa XV vào tháng 6-2022. Hiện nay, đề cương các điều khoản cần sửa đổi,
bổ sung trong Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật sở hữu trí tuệ đang bắt
đầu được dự thảo và sẽ đăng tải, lấy ý kiến rộng rãi trong thời gian tới.
Nội dung sửa đổi Luật lần này cơ bản sẽ tập trung vào các nhóm chính sách
lớn, bao gồm: Bảo đảm quy định rõ về tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả, người
biểu diễn, chủ sở hữu quyền liên quan trong các trường hợp chuyển nhượng,
chuyển giao quyền; khuyến khích tạo ra, khai thác và phổ biến tác phẩm, sáng
chế, kiểu dáng công nghiệp; tạo thuận lợi cho quá trình thực hiện thủ tục đăng ký
và xác lập quyền; bảo đảm mức độ bảo hộ thỏa đáng và cân bằng; tăng cường hiệu
quả hoạt động hỗ trợ về sở hữu trí tuệ; nâng cao hiệu quả của hoạt động thực thi
quyền sở hữu trí tuệ; bảo đảm thi hành đầy đủ và nghiêm túc các cam kết quốc tế
86
trong quá trình hội nhập.
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch cũng trình Thủ tướng đề nghị xây dựng
dự án Luật sửa đổi, bổ sung Luật sở hữu trí tuệ về nội dung quyền tác giả, quyền
liên quan theo hướng xây dựng, ban hành Luật Bản quyền tác giả. Hy vọng trong
thời gian tới, dự án này sẽ được Chính phủ và Quốc hội thông qua, để ban hành
đạo luật riêng về quyền tác giả như hầu hết các nước trên thế giới.
b) Tăng cường tuyên truyền, phổ biến pháp luật về quyền tác giả
Việc nâng cao nhận thức, tri thức và ý thức chấp hành các quy định pháp
luật về quyền tác giả trong cộng đồng, đặc biệt là đối với các tổ chức, cá nhân có
quyền và nghĩa vụ liên quan là chiếc chìa khóa để tăng cường hiểu biết, tôn trọng
và thúc đẩy bảo hộ quyền tác giả. Tuyên truyền, giáo dục pháp luật nhằm nâng
cao ý thức pháp luật là một giải pháp quan trọng trong việc tăng cường quản lý
nhà nước bằng pháp luật về quyền tác giả, nhất là trong giai đoạn hiện nay. Để
hoạt động này mang lại hiệu quả cao chúng ta cần có những hình thức và phương
pháp thích hợp đối với từng đối tượng cụ thể và từng giai đoạn cụ thể.
Trước tiên, cần nâng cao nhận thức cộng đồng về vai trò của quyền tác giả,
pháp luật quyền tác giả. Chỉ khi chúng ta có nhận thức đúng đắn về vai trò của
quyền tác giả và pháp luật quyền tác giả, chúng ta mới thực thi quyền tác giả đạt
kết quả tốt. Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới cũng khẳng định vấn đề nâng cao nhận
thức của cộng đồng là mấu chốt để nâng cao chất lượng của pháp luật quyền tác
giả và hiệu quả thực thi. Đồng thời, cần nâng cao trình độ pháp luật, trình độ
chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng của các cán bộ xây dựng pháp luật nói chung và
pháp luật quyền tác giả nói riêng.
Các hình thức tuyên truyền pháp luật cần đa dạng, phong phú và thích hợp
với các đối tượng khác nhau. Tiếp tục tổ chức các hội thảo chuyên đề, các lớp tập
huấn, bồi dưỡng kiến thức về quyền tác giả cho các loại đối tượng khác nhau từ
các nhà sáng tạo, các tổ chức, cá nhân sử dụng khai thác tác phẩm, người tiêu
dùng, đến các đối tượng quản lý hành chính và tư pháp. Đối với công chúng nói
chung, cần được trang bị kiến thức cơ bản về quyền tác giả, giáo dục về trách
87
nhiệm phát hiện, tố cáo bất kỳ hành vi xâm phạm quyền tác giả để đảm bảo thực
thi pháp luật. Các hình thức tuyên truyền như thông tin trên báo chí về các vụ xâm
phạm quyền tác giả và hình thức xử lý, bài giới thiệu, giải đáp pháp luật quyền
tác già, tổ chức các cuộc thi tìm hiểu pháp luật quyền tác giả… Các hoạt động
tuyên truyền pháp luật này cần tiến hành đều đặn, thường xuyên.
Cần nghiên cứu để sớm đưa môn học về quyền tác giả vào giảng dạy tại
các trường đại học, phổ thông. Bộ Giáo dục và Đào tạo cần đẩy nhanh tiến độ đưa
và chương trình giáo dục phổ thông, cao đẳng và đại học để trang bị kiến thức về
quyền tác giả cho học sinh, sinh viên. Các trường Đại học Luật, Khoa Luật của
các trường đại học cần sớm hình thành khoa hoặc tổ bộ môn về sở hữu trí tuệ. Hệ
thống các trường bồi dưỡng cán bộ của các bộ ngành, đặc biệt ngành văn hóa, thể
thao và du lịch cần đưa vào chương trình bồi dưỡng kiến thức về sở hữu trí tuệ
trong đó có quyền tác giả.
Phát động các chiến dịch với chủ đề “Nói không với vi phạm quyền tác giả”
trong quần chúng nhân dân. Kinh nghiệm từ Thụy Sĩ cho thấy, Thụy Sỹ đưa việc
giáo dục pháp luật vào các chương trình biểu diễn nghệ thuật, mời nghệ sĩ tham
gia biểu diễn và tuyên truyền với học sinh, sinh viên về ý thức tôn trọng bản
quyền. Nhật Bản tiến hành sản xuất các bộ phim tài liệu, phim hoạt hình nhằm
tuyên truyền về ý thức tôn trọng bản quyền và trình chiếu tại các trường học, xuất
bản các nội dung chuyện tranh có nội dung liên quan đến việc tôn trọng bản quyền
và phát cho các học sinh tiểu học; tổ chức các cuộc thi tìm hiểu trong học sinh,
sinh viên về bản quyền… Đây là những cách làm hay mà chúng ta nên học tập.
Tận dụng tối đa lợi thế của phương tiện thông tin đại chúng, xuất bản, báo
chí trong hoạt động tuyên truyền giáo dục pháp luật quyền tác giả. Tổ chức xuất
bản sách báo và tài liệu liên quan nhằm trang bị công cụ cho bộ máy thực thi
quyền tác giả, quyền liên quan.
Để công tác tuyền truyền, giáo dục pháp luật có hiệu quả, đòi hỏi phải có
sự phối hợp đồng bộ của nhiều cơ quan, nhiều ngành, nhiều cấp khác nhau, phải
thực hiện công tác tổng kết, đánh giá kết quả, vận động thi đua, khen thưởng các
88
cá nhân, tổ chức đạt thành tích cao trong công tác tuyên truyền pháp luật.
3.2.2. Giải pháp riêng đối với Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch
a) Kiện toàn bộ máy quản lý nhà nước về quyền tác giả; xây dựng cơ chế
phối hợp quản lý nhà nước về quyền tác giả
Hiện nay việc tổ chức thực thi pháp luật về quyền tác giả của các cơ quan
quản lý nhà nước vẫn còn chồng chéo, chưa có sự đồng bộ, thống nhất. Vì vậy,
cần kiện toàn bộ máy quản lý nhà nước về quyền tác giả, bổ sung các quy định
nhằm cải tiến lề lối, phương thức làm việc, tăng cường cơ chế phối hợp quản lý
giữa các cơ quan quản lý và thực thi về quyền tác giả.
- Tăng cường tổ chức, bộ máy, cán bộ, công chức cho Cục bản quyền đủ
khả năng giúp Nhà nước quản lý điều hành một số lĩnh vực mới mẻ và phức tạp
về quyền tác giả. Thực hiện việc đào tạo chuyên gia quản lý quyền tác giả từ thực
tiễn công tác, đồng thời cử đi đào tạo tại các cơ sở trong và ngoài nước. Đồng thời
lựa chọn những cán bộ có khả năng phát triển đề đào tạo cán bộ lãnh đạo, quản
lý, chuyên gia đầu ngành lâu dài.
- Tăng cường ngân sách và cơ sở vật chất kỹ thuật cho Cục bản quyền tác
giả để nâng cấp hệ thống điện tử hóa toàn bộ hoạt động quản lý, điều hành, lưu
giữ tài liệu; tổ chức đăng ký quyền tác giả trên mạng. Bảo hộ quyền tác giả trong
môi trường kỹ thuật số là một vấn đề mới và phức tạp, vì vậy cơ quan quản lý nhà
nước về quyền tác giả cần phải thành lập một bộ phận xử lý các vấn đề về quyền
tác giả trong môi trường số với một đội ngũ cán bộ được đào tạo, am hiểu về công
nghệ thông tin.
- Tại các Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch cần thiết phải có ít nhất một biên
chế quản lý chuyên trách về quyền tác giả để tham mưu cho lãnh đạo Sở, cũng
như theo dõi xử lý các vấn đề quyền tác giả phát sinh trên địa phương. Đối với
các tỉnh, thành phố như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh cần có một bộ phận độc
lập trực thuộc lãnh đạo Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch.
- Quy định thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực sở hữu
trí tuệ theo hướng giảm bớt đấu mối và tăng cường công tác quản lý, chỉ đạo; quy
89
định rõ ràng thẩm quyền của từng cơ quan và phạm vi cũng như cách thức phối
hợp giữa những cơ quan này khi xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực sở hữu
trí tuệ.
- Tăng cường về số lượng và chất lượng cho lực lượng thanh tra văn hóa
làm công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật về quyền tác giả. Lập
các nhóm, đội kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật về quyền tác giả trên mạng
Internet.
- Từng bước hoàn thiện và nâng cao năng lực, hiệu quả hoạt động của Bộ
máy thực thi quyền tác giả. Về bộ máy thực thi, cần tiếp tục hoàn thiện cơ chế
phối hợp giữa cơ quan quản lý nhà nước về quyền tác giả với các cơ quan hải
quan, quản lý thị trường, cảnh sát kinh tế. Tăng cường các hoạt động kiểm tra, xử
lý vi phạm. Cần xử lý nghiêm các hành vi xâm phạm quyền tác giả.
- Các cơ quan hải quan phải tăng cường năng lực phát hiện, xử lý hàng hóa
xuất nhập khẩu vi phạm quyền tác giả. Lực lượng hải quan cần khai thác thông
tin, dữ liệu đăng ký đang lưu trữ trên mạng Internet phục vụ công tác kiểm tra,
phát hiện và xử lý hàng hóa vi phạm.
- Lực lượng quản lý thị trường cần nhập cuộc tích cực hơn trong hoạt động
kiểm tra, xử lý hành hóa lưu thông trên thị trường nội địa. Lực lượng quản lý thị
trường thuộc Bộ Công thương và thanh tra chuyên ngành văn hóa, thể thao và du
lịch thuộc Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch cần hợp tác, phát huy sức mạnh tổng
hợp của hai lực lượng trong việc kiểm tra, xử lý hàng hóa lưu thông trên thị trường
toàn quốc. Cần khai thác thông tin dữ liệu đăng ký truyền trên mạng Internet phục
vụ công tác kiểm tra xử lý vi phạm.
- Cảnh sát kinh tế, An ninh văn hóa, lực lượng của ngành Thuế, Bộ đội biên
phòng, Kiểm lâm cũng cần đề cao trách nhiệm trong việc kiểm tra, phát hiện, phối
hợp xử lý đối với hàng hóa vi phạm quyền tác giả.
- Sắp xếp lại và tăng cường năng lực của các cơ quan thực thi, tạo điều kiện
áp dụng các biện pháp nhằm thực thi có hiệu quả, khắc phục sự chồng chéo, phân
công rõ ràng chức năng quyền hạn của từng cơ quan theo hướng một cơ quan đầu
90
mối, đó là thanh tra chuyên trách, còn tóa án giải quyết các vụ kiện dân sự, UBND,
thanh tra, quản lý thị trường quyết định xử phạt (tùy theo hình thức và mức phạt),
cánh sát kinh tế chỉ có chức năng điều tra, hải quan kiểm soát ở biên giới về sở
hữu trí tuệ.
b) Tổ chức thực hiện nghiêm túc pháp luật về quyền tác giả
Trong những năm qua, hoạt động bảo hộ quyền tác giả, quyền liên quan đã
được Nhà nước đặc biệt quan tâm. Hoạt động nghiên cứu, xây dựng, hoàn thiện
và thực thi pháp luật có những tiến bộ quan trọng. Quyền và lợi ích hợp pháp của
các chủ thể từng bước được bảo hộ. Một số bộ, ngành, địa phương đã có chương
trình triển khai thi hành cụ thể, có hiệu quả. Nhiều cá nhân và tổ chức có quyền
đã áp dụng các biện pháp để tự bảo vệ quyền của mình. Các tổ chức quản lý tập
thể quyền tác giả, quyền liên quan đã được hình thành, bước đầu đã có các hoạt
động tích cực, đáng khích lệ.
Tuy nhiên, tình trạng vi phạm bản quyền diễn ra ở hầu hết các lĩnh vực với
các hình thức và mức độ khác nhau, nhất là trong lĩnh vực âm nhạc, văn học,
chương trình máy tính, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng, kỹ thuật số
… Tình trạng này gây thiệt hại và ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động sáng tạo, môi
trường đầu tư, phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội của đất nước và tiến trình hội
nhập kinh tế quốc tế.
Nguyên nhân của tình trạng nói trên chủ yếu là do nhận thức, hiểu biết, đặc
biệt là ý thức chấp hành pháp luật quyền tác giả, quyền liên quan của nhiều tổ
chức, cá nhân khai thác, sử dụng còn nhiều hạn chế và chưa nghiêm túc; hệ thống
thực thi quyền tác giả, quyền liên quan của các cấp chính quyền chưa đáp ứng yêu
cầu bảo hộ theo quy định pháp luật.
Để tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện nghiêm chỉnh, có hiệu quả các quy
định pháp luật Việt Nam và các cam kết quốc tế về quyền tác giả, quyền liên quan,
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch có trách nhiệm:
- Tăng cường hơn nữa công tác thanh tra, kiểm tra, phát hiện và xử lý
nghiêm minh, kịp thời các trường hợp vi phạm pháp luật về quyền tác giả, quyền
91
liên quan;
- Tổ chức tổng kiểm tra việc thực thi pháp luật về quyền tác giả, quyền liên
quan trong các hoạt động sản xuất, kinh doanh và dịch vụ liên quan trên phạm vi
cả nước, đề xuất các biện pháp cần thiết để thực thi pháp luật. Tập trung vào các
lĩnh vực có nhiều vi phạm, gây thiệt hại nghiêm trọng cho các tổ chức, cá nhân,
các nhà đầu tư có liên quan. Phối hợp với ngành tòa án, kiểm sát và các cơ quan
tố tụng khác trong hoạt động điều tra, xử lý nghiêm minh, kịp thời các hành vi vi
phạm pháp luật quyền tác giả, quyền liên quan;
- Tăng cường nhân lực, cơ sở vật chất, phương tiện và các điều kiện thuận
lợi cho cơ quan quản lý và thực thi quyền tác giả, quyền liên quan thuộc Bộ; tổ
chức đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ nòng cốt làm công tác quản lý, thực thi quyền
tác giả, quyền liên quan trên phạm vi cả nước;
- Chủ trì, phối hợp với Bộ Tư pháp tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện pháp luật
về quyền tác giả, quyền liên quan;
- Đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về quyền
tác giả, quyền liên quan; xuất bản sách, tạp chí chuyên ngành về quyền tác giả,
quyền liên quan;
- Chỉ đạo hệ thống khách sạn, các khu vui chơi giải trí nghiêm túc thực hiện
nghĩa vụ trả tiền bản quyền khi sử dụng tác phẩm, bản ghi âm, ghi hình, chương
trình phát sóng;
- Chỉ đạo Hội Nhạc sĩ Việt Nam, Hội Nhà văn Việt Nam, Hiệp hội Công
nghiệp ghi âm Việt Nam xây dựng Đề án “Tăng cường năng lực quản lý, thực thi
có hiệu quả pháp luật bảo hộ quyền tác giả, quyền liên quan” theo từng lĩnh vực
chuyên ngành.
c) Tăng cường hợp tác quốc tế về quyền tác giả
- Tăng cường hợp tác với các nước, các tổ chức quốc tế trong lĩnh vực quản
lý nhà nước về quyền tác giả
Mỗi quốc gia có điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội khác nhau nên
có sự khác khau trong hoạt động và tổ chức thực hiện quản lý nhà nước về quyền
92
tác giả. Tuy nhiên, trong xu thế hội nhập toàn cầu, hoạt động bảo hộ quyền tác giả
cần đáp ứng yêu cầu thu hẹp sự khác biệt về phương thức, công nghệ quản lý và
thực thi quyền với các nước trong khu vực và trên thế giới. Sự hợp tác quốc tế về
quản lý nhà nước về bảo hộ quyền tác giả phải bảo đảm vừa phát triển quan hệ,
nhanh chóng hội nhập vừa đảm bảo chủ quyền, độc lập dân tộc, bình đẳng, các
bên cùng có lợi. Trước hết cần tổ chức, thực hiện tốt các cam kết quốc tế tại các
Điều ước quốc tế đa phương và song phương về quyền tác giả, quyền liên quan
mà Việt Nam đã ký kết, tham gia. Chủ động xây dựng các kế hoạch khảo sát kinh
nghiệm quản lý và thực thi bảo hộ quyền tác giả ở một số nước trên thế giới, học
tập các mô hình tiên tiến vận dụng sao cho phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của
Việt Nam; tham gia các hội nghị quốc tế về quyền tác giả, quyền liên quan như:
Hội nghị ngoại giao các nước thành viên WIPO về quyền tác giả, quyền liên quan;
Diễn đàn về quyền tác giả của các nước thành viên APEC, các nước ASEAN...
Chúng ta phải thiết lập và cải thiện cơ chế giao dịch và trao đổi thông tin
về bảo hộ quyền tác giả, tăng cường hợp tác quốc tế với các tổ chức quốc tế trong
việc bảo hộ quyền tác giả như Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO); duy trì và
phát triển cơ chế hợp tác song phương và đa phương trong lĩnh vực quyền tác giả,
mở rộng phạm vi và nội dung hợp tác thông qua các phương tiện khác nhau; phối
hợp với WIPO tổ chức các Hội thảo khu vực về bản quyền; đẩy mạnh giao lưu và
hợp tác quốc tế trong cuộc chiến chống vi phạm bản quyền, đẩy mạnh hợp tác về
chiều rộng và chiều sâu, tiếp tục phối hợp thực hiện các dự án trong khuôn khổ
hợp tác hiện có.
- Tăng cường, chủ động hợp tác và giao lưu quốc tế về văn hóa
Trong bối cảnh quan hệ quốc tế hiện nay, ngoại giao văn hóa giữ một vị trí
quan trọng trong chính sách đối ngoại của các quốc gia. Xu thế mở rộng và tăng
cường giao lưu, hợp tác về văn hóa của nước ta với thế giới là tất yếu. Ngày nay,
việc giao lưu, hợp tác văn hóa không chỉ thuần túy vì mục đích phát triển văn hóa,
mà thông qua đó, mở rộng hợp tác trên các lĩnh vực khác. Cần chủ động đón nhận
cơ hội phát triển cũng như bản lĩnh vượt qua các thử thách để giữ gìn bản sắc văn
93
hóa của dân tộc, góp phần làm đa dạng, phong phú thêm nền văn hóa thế giới,
đồng thời tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, làm giàu thêm nền văn hóa Việt
nam, tiến kịp với thời đại. Chú trọng ngăn chặn, loại bỏ những ảnh hưởng tiêu
cực, mặt trái của toàn cầu hóa đối với văn hóa nước ta.
- Mở rộng hợp tác quốc tế trong xây dựng pháp luật về quyền tác giả
Trong điều kiện phát triển hợp tác quốc tế đa phương trên các lĩnh vực khác
nhau của đời sống xã hội, việc hợp tác với các quốc gia khác trong lĩnh vực xây
dựng pháp luật về quyền tác giả có ý nghĩa quan trọng trong quá trình hoàn thiện
hệ thống pháp luật. Kinh nghiệm xây dựng pháp luật về quyền tác giả của các
nước trên thế giới giúp cho chúng ta tránh được những sai lầm trong quá hoàn
thiện hệ thống pháp luật về quyền tác giả. Quyền tác giả là một lĩnh vực mới mẻ
ở nước ta, trong khi đã từ lâu được quan tâm và đầu tư thích đáng ở hầu hết các
nước khác trên thế giới. Cho nên, thông qua quan hệ hợp tác quốc tế, chúng ta
tham khảo pháp luật cũng như kinh nghiệm trong lĩnh vực này của các nước phát
triển và của các nước có bối cảnh kinh tế-xã hội gần với chúng ta. Tuy nhiên,
chúng ta không nên dập khuôn một cách máy móc mà cần xem xét kỹ lưỡng hoàn
cảnh, điều kiện cụ thể của Việt Nam.
Từ năm 2004 đến nay, Việt Nam đã là thành viên của 5 Điều ước quốc tế
đa phương về quyền tác giả, quyền liên quan. Tháng 3 năm 2020, Bộ Văn hóa,
Thể thao và Du lịch đã có quyết định giao Cục Bản quyền tác giả phối hợp với
các cơ quan liên quan xây dựng và hoàn thiện hồ sơ đề xuất gia nhập Hiệp ước về
quyền tác giả của Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (Hiệp ước WCT) và Hiệp ước
về cuộc biểu diễn và bản ghi âm của Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (Hiệp ước
WPPT).
Đây là một trong số nội dung cam kết về sở hữu trí tuệ trong Hiệp định
thương mại tự do Việt Nam – EU (EVFTA) mà Việt Nam thực hiện trong vòng 3
năm kể từ khi EVFTA có hiệu lực.
Cục Bản quyền tác giả sẽ phối hợp với các cơ quan chức năng thành lập tổ
nghiên cứu xây dựng hồ sơ, tham vấn chuyên gia nước ngoài, rà soát, đánh giá sự
94
phù hợp giữa quy định của hai Hiệp ước này với quy định của pháp luật Việt Nam
cũng như sự tương thích với các điều ước về quyền tác giả, quyền liên quan mà
Việt Nam là thành viên.
Thời gian tới, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch vẫn phải tiếp tục phối hợp
với các bộ, ngành có liên quan chỉ đạo, thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ, cam kết
theo quy định tại Hiệp định TRIPs, Công ước Berne, Công ước Geneva, Công ước
Brussels, Công ước Rome; tham gia vào các chương trình nghị sự về bản quyền
của các tổ chức quốc tế, tiếp tục tham gia trong các cuộc đàm phán về bản quyền
trong các hiệp định thương mại, hiệp định đối tác kinh tế, hiệp định mậu dịch tự
do...
d) Nâng cao chất lượng giải quyết khiếu nại, tố cáo; tăng cường thanh tra,
kiểm travà xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về quyền tác giả
Xâm phạm quyền tác giả đã xảy ra ở hầu hết các lĩnh vực với quy mô ngày
càng tinh hơn với sự giúp đỡ của phương tiện kỹ thuật, công nghệ hiện đại. Đặc
biệt với công nghệ số, internet, xâm phạm quyền tác giả ngày càng có điều kiện
phát triển hơn và gây nhiều phiền phức, khó khăn hơn về pháp lý, bởi các hành vi
được thực hiện với tốc độ cực nhanh, chất lượng cao, thủ đoạn tinh vi, phạm vi
xuyên biên giới.
Trước tình trạng này đòi hỏi Thanh tra Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch
phải tăng cường hoạt động thanh tra, kiểm tra, xử lý nghiêm minh những hành vi
vi phạm pháp luật về quyền tác giả; nâng cao hiệu quả, chất lượng trong công tác
giải quyết khiếu nại, tố cáo, cụ thể:
Nội dung thanh tra, kiểm tra:
- Kiểm tra việc thực hiện, đặc biệt là việc chỉ đạo thực hiện của các cơ quan
có thẩm quyền tại địa phương, kiểm tra việc khai thác, sử dụng tác phẩm của các
tổ chức, cá nhân. Kịp thời chỉ đạo, uốn nắn những lệch lạc về nhận thức, hiểu biết
và thực thi pháp luật về quyền tác giả.
- Tăng cường các hoạt động thanh tra, kiểm tra và xử lý nghiêm minh, kịp
thời theo các quy định pháp luật đối với các hành vi vi phạm. Tổ chức các chiến
95
dịch đặc biệt nhằm chống lại hành vi xâm phạm bản quyền trên mạng và sao chép
bất hợp pháp, thu và phát các chương trình phát song và chương trình truyền hình
bất hợp pháp.
- Phối hợp với các cơ quan bảo vệ pháp luật khởi tố vụ án hình sự vi phạm
nghiêm trọng quyền tác giả trong việc sao chép, nhập khẩu các chương trình băng
đĩa âm thanh, băng đĩa hình, chương trình máy tính, tín hiệu vệ tinh mang chương
trình đã mã hóa, trong môi trường kỹ thuật số...
- Tổ chức các chiến dịch thanh tra, kiểm tra, tập trung vào các lĩnh vực như
phổ biến phim trực tuyến, văn hóa mạng và truyền tin tức trực tuyến, để chủ động
kiểm tra nội dung phổ biến có bản quyền hay không, và chuẩn hóa việc sử dụng
trực tuyến các tác phẩm để chống vi phạm bản quyền trên mạng internet.
Hình thức, phương pháp, cách thức thanh tra, kiểm tra:
- Việc kiểm tra nên tiến hành thường xuyên. Trường hợp cần thiết và liên
quan đến nhiều ngành thì cần có sự phối hợp giữa các cơ quan thực thi như thanh
tra Văn hóa, cảnh sát kinh tế, quản lý thị trường, hải quan... Trường hợp phức tạp,
cần sự tham gia của cơ quan quản lý để xác định hành vi xâm phạm quyền tác giả.
Ngoài ra, Thanh tra Bộ nên thiết lập đường dây nóng về thông tin xâm phạm
quyền tác giả, cá nhân, tổ chức phát hiện có vi phạm quyền tác giả chỉ cần thông
báo đến số điện thoại, không cần có bằng chứng vi phạm, để từ thông tin tố giác
đó, Thanh tra Bộ tiến hành kiểm tra bất thường, nếu phát hiện vi phạm thì xử lý,
ngăn chặn ngay.
- Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch cũng nên xây dựng cơ chế phối hợp làm
việc với Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Thông tin và truyền thông, tăng cường
phối hợp toàn diện trong việc thực thi Chỉ thị về tăng cường quản lý và thực thi
bảo hộ quyền tác giả của Thủ tướng Chính phủ.
Xây dựng cơ chế phối hợp trong một nỗ lực chung nhằm tăng cường bảo
hộ quyền tác giả. Xây dựng cơ chế “Kết nối online, chia sẻ thông tin” giữa các cơ
quan quản lý và thực thi bảo hộ quyền tác giả. Xây dựng và thực hiện hướng dẫn
96
cơ quan thực thi xử lý các trường hợp xâm phạm quyền tác giả, thống nhất hiểu
biết về pháp lý và chuẩn hóa hệ thống xử lý các trường hợp. Đẩy mạnh việc thanh
tra, kiểm tra, xử lý vi phạm.
- Tăng cường liên hệ với các doanh nghiệp và hiệp hội ngành công nghiệp
chủ chốt bị ảnh hưởng tự nạn xâm phạm bản quyền và hàng giả, và tạo điều kiện
cho họ phát huy được vai trò của mình trong việc tự bảo hộ quyền tác giả một
cách có hiệu quả.
- Cải thiện hơn nữa trong hoạt động thực thi về quyền tác giả, ví dụ như hệ
thống báo cáo, trợ giúp việc kiểm tra, thông báo, thống kê. Thực hiện chế độ khen
thưởng thích đáng với các cá nhân, tổ chức có thành tích trong việc phát hiện, tố
giác, điều tra chống xâm phạm quyền tác giả.
Đối với công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo
Những năm qua, công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo về quyền tác giả đã
được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đặc biệt quan tâm, chú trọng giám sát. Vì
vậy công tác này đã có nhiều chuyển biến tích cực, giải quyết được nhiều vụ việc
ngay từ khi mới phát sinh, hạn chế tối đa khiếu nại, tố cáo vượt cấp, hoặc đơn thư
khiếu nại nhiều lần. Đối với những vụ việc phức tạp, Bộ trực tiếp chỉ đạo, yêu cầu
các Cục, ban ngành, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch ở các địa phương, phối hợp
kiểm tra, rà soát, thống nhất phương án, đề xuất giải pháp giải quyết đảm bảo chặt
chẽ, khách quan, đúng quy định của pháp luật Sở hữu trí tuệ hiện hành.
Nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo của
tổ chức, cá nhân về quyền tác giả, Bộ cần quan tâm xem xét một số vấn đề sau:
- Quan tâm công tác ứng dụng công nghệ thông tin trong tiếp nhận, xử lý,
giải quyết khiếu nại, tố cáo, tạo cơ sở dữ liệu thống nhất.
- Chỉ đạo chấn chỉnh, nâng cao hiệu quả công tác hòa giải, tránh hình thức,
chiếu lệ.
- Các khiếu nại, tố cáo phát sinh chủ yếu ở những thành phố lớn, trung tâm
văn hóa. Vì vậy, khi phát sinh các tranh chấp, vi phạm trên địa bàn địa phương,
97
UBND tỉnh cần chỉ đạo các Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch phối hợp chặt chẽ
với chính quyền địa phương ngay từ đầu, góp phần thuận lợi trong giải quyết
khiếu nại, tố cáo về sau.
- Tiếp tục quan tâm chỉ đạo công tác phổ biến pháp luật, tập huấn, hướng
dẫn nghiệp vụ công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo, công tác cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
- Xử lý nghiêm theo quy định đối với những cơ quan, người có thẩm quyền
thiếu tinh thần trách nhiệm trong công tác tiếp công dân, xử lý, giải quyết khiếu
nại, tố cáo.
- Rà soát, tập trung xử lý, giải quyết dứt điểm các vụ việc khiếu nại, tố cáo
còn tồn đọng, phức tạp. Chỉ đạo rà soát, củng cố hồ sơ quản lý đất đai, làm cơ sở
pháp lý cho công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo.
- Quan tâm củng cố cơ sở vật chất, sắp xếp, củng cố, kiện toàn đội ngũ cán
bộ, công chức làm công tác tiếp công dân, đảm bảo về số lượng và nâng cao trình
độ, chất lượng tham mưu giải quyết khiếu nại, tố cáo có đủ trình độ, năng lực
chuyên môn, nhằm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.
đ) Nâng cao năng lực, rèn luyện đạo đức công vụ củađội ngũ cán bộ, công
chức thuộc Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch thực hiện quản lý nhà nước về quyền
tác giả
Năng lực của cán bộ, công chức trong các cơ quan quản lý và thực thi bảo
hộ quyền tác giả đóng vai trò quan trọng trong việc hoạch định chính sách, xây
dựng pháp luật, tổ chức thực hiện pháp luật, thanh tra, kiểm tra, xử lý các hành vi
vi phạm pháp luật quyền tác giả. Vì vậy, để hoạt động quản lý và thực thi bảo hộ
quyền tác giả đạt hiệu quả cao, cần phải nâng cao năng lực cho các cán bộ, công
chức trong các cơ quan quản lý và thực thi bảo hộ quyền tác giả. Phải tăng cường
đào tạo, bồi dưỡng kiến thức pháp luật nói chung và pháp luật về quyền tác giả,
kiến thức chung về các lĩnh vực văn học, nghệ thuật, khoa học cho các cán bộ
công chức trong các cơ quan quản lý và thực thi bảo hộ quyền tác giả.
Để làm được điều này, Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch cần phải thực hiện
98
các công việc cụ thể sau:
- Xây dựng kế hoạch cụ thể trong từng giai đoạn về công tác đào tạo bồi
dưỡng cán bộ làm công tác quản lý và thực thi bảo hộ quyền tác giả trong cơ quan,
đơn vị sự nghiệp của Bộ; Đầu tư thích đáng nguồn ngân sách của Nhà nước cho
công tác đào tạo đội ngũ công chức trong các cơ quan quản lý và thực thi bảo hộ
quyền tác giả;
- Các phòng, ban, đơn vị sự nghiệp tạo điều kiện về mặt vật chất và tinh
thần để các cán bộ của mình tự rèn luyện, nâng cao trình độ chuyên môn và khả
năng ứng dụng những thành tựu của khoa học và công nghệ trong hoạt động của
mình;
- Từng bước tiêu chuẩn hóa về trình độ chuyên môn đối với cán bộ công
chức trong các cơ quan quản lý và thực thi bảo hộ quyền tác giả. Trong đó mạnh
dạn sử dụng đội ngũ cán bộ trẻ có năng lực được đào tạo chính quy, từng bước
đào tạo đồi ngũ cán bộ kế cận;
- Thường xuyên kiểm tra, đánh giá năng lực của cán bộ để có kế hoạch đào
tạo, đào tạo nâng cao trình độ đối với cán bộ trong cơ quan quản lý và thực thi
bảo hộ quyền tác giả.
- Tăng cường hợp tác quốc tế và đào tạo cán bộ, công chức trong các cơ
quan quản lý và thực thi bảo hộ quyền tác giả, dưới nhiều hình thức khác nhau
như phối hợp đào tạo, cử cán bộ, sinh viên nghiên cứu học tập tại các nước có hệ
thống đào tạo pháp luật ở trình độ cao. Tiếp tục cử cán bộ, công chức tham gia
các khóa tập huấn, khảo sát tại các quốc gia có nền công nghiệp bản quyền phát
triển. Đồng thời lựa chọn những cán bộ có khả năng phát triển đề đào tạo cho lâu
99
dài.
Tiểu kết Chương 3
Bảo đảm quản lý nhà nước bằng pháp luật về quyền tác giả ở Việt Nam
hiện nay là nhu cầu tất yếu, khách quan; vì vậy cần quán triệt các quan điểm của
Đảng và Nhà nước có tính chất phương pháp luận, chỉ đạo, chi phối toàn bộ nội
dung quản lý. Trên cơ sở các quan điểm này, bảo đảm quản lý nhà nước bằng
pháp luật về quyền tác giả cần thực hiện đồng bộ các giải pháp sau đây: tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động quản lý nhà nước bằng pháp luật
về quyền tác giả; đổi mới tư duy, nhận thức trong quản lý nhà nước bằng pháp
luật về quyền tác giả; hoàn thiện hệ thống pháp luật sở hữu trí tuệ về quyền tác
giả; đẩy mạnh tổ chức thực hiện pháp luật sở hữu trí tuệ về quyền tác giả; đổi mới
cơ chế quản lý, khắc phục sự quản lý chồng chéo, nâng cao trình độ, năng lực,
phẩm chất đội ngũ cán bộ quản lý; tăng cường giám sát, thanh tra, kiểm tra, xử lý
nghiêm minh, kịp thời mọi vi phạm pháp luật, xâm phạm quyền tác giả.
Trong các giải pháp nêu trên cần ưu tiên quan tâm giải pháp về hoàn thiện
pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý. Mặc dù Luật sở hữu trí
tuệ 2005 sửa đổi, bổ sung 2009 và 2019 đã có nhiều quy định thay đổi phù hợp,
đáp ứng yêu cầu khách quan của đời sống xã hội, tuy nhiên vẫn còn nhiều quy
định chưa thực sự bao quát, chưa bắt kịp với các quan hệ pháp luật phát sinh trong
thực tiễn. Do đó, hoàn thiện hệ thống pháp luật về quyền tác giả, quyền liên quan;
đáp ứng nhu cầu thực tiễn phát triển của xã hội, phù hợp, đảm bảo tuân thủ luật
pháp quốc tế là điều kiện quan trọng nhất để tạo hành lang pháp lý cho hoạt động
bảo hộ quyền tác giả. Có thể nói đây là nhiệm vụ nặng nề, phức tạp, nhưng được
Đảng và Nhà nước rất chú trọng, quan tâm và tích cực chỉ đạo. Những giải pháp
nêu ở chương 3 được tác giả nêu trên cơ sở hài hòa giữa hội nhập và phát triển
kinh tế- xã hội, nhất là trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế,
vấn đề bảo hộ quyền tác giả đang trở thành một trong những mối quan tâm hàng
100
đầu trong các quan hệ kinh tế quốc tế.
KẾT LUẬN
Quyền sở hữu trí tuệ nói chung, quyền tác giả nói riêng ngày càng đóng vai
trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế của đất nước. Thương mại quyền sở
hữu trí tuệ, quyền tác giả đã phát triển nhanh chóng, với hình thức ngày càng
phong phú, đa dạng và diễn ra trên phạm vi toàn cầu, nhất là trong bối cảnh nền
kinh tế thế giới đang dịch chuyển từ nền kinh tế sản xuất hàng hóa sang nền kinh
tế tri thức. Vấn đề bảo hộ quyền tác giả ngày càng được các quốc gia chú ý và
được đặt ra tại hầu hết các diễn đàn kinh tế quốc tế. Việt Nam đã là thành viên
của Tổ chức Thương mại Thế giới WTO, chúng ta có nghĩa vụ phải tuân thủ đầy
đủ các cam kết quốc tế về quyền sở hữu trí tuệ nói chung, quyền tác giả nói riêng.
Quản lý nhà nước bằng pháp luật về quyền tác giả là một trong những nhiệm
vụ trọng tâm theo tinh thần xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc của Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII. Việc xây dựng và duy
trì một hệ thống bảo hộ quyền tác giả hữu hiệu là một trong những yếu tố quan
trọng quyết định thành công của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Thực trạng quản lý nhà nước bằng pháp luật về quyền tác giả từ năm 2015
đến năm 2020 vừa qua cho thấy, hoạt động bảo hộ quyền tác giả, quyền liên liên
đã được Nhà nước và Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đặc biệt quan tâm, chú
trọng. Hoạt động nghiên cứu, xây dựng, hoàn thiện và thực thi pháp luật có những
tiến bộ quan trọng, điển hình ở việc tiếp tục hoàn thiện, xây dựng, ban hành Luật
sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật sở hữu trí tuệ 2019; ban hành Nghị định
22/2018/NĐ-CP ngày 23/02/2018 quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi
hành Luật sở hữu trí tuệ năm 2005 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật
sở hữu trí tuệ năm 2009 về quyền tác giả, quyền liên quan.
Thông qua đó, quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể từng bước được
bảo hộ. Nhiều nhà sáng tạo, tổ chức đã áp dụng các biện pháp tự bảo vệ quyền
của mình. Hệ thống quản lý tập thể quyền tác giả hình thành và đã có những hoạt
101
động tích cực, đáng khích lệ. Bộ máy thực thi quyền tác giả ở Việt Nam về cơ bản
đã thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình, tuy nhiên còn có sự
chồng chéo và chưa đồng bộ giữa các cơ quan trong bộ máy. Hoạt động thanh tra,
kiểm tra chưa thường xuyên, xử lý vi phạm chưa nghiêm minh, tình trạng xâm
phạm quyền tác giả vẫn xảy ra ở hầu hết các lĩnh vực.
Nghiên cứu đề tài quản lý nhà nước bằng pháp luật về quyền tác giả ở Bộ
Văn hóa, Thể thao và Du lịch, bằng việc trình bày một số vấn đề lý luận về quản
lý nhà nước bằng pháp luật về quyền tác giả, từ những khái niệm cơ bản về quyền
tác giả, quản lý nhà nước, quản lý nhà nước bằng pháp luật về quyền tác giả, tác
giả đi phân tích các đặc điểm, nội dung, vai trò của quản lý nhà nước bằng pháp
luật về quyền tác giả. Tác giả cũng trình bày tình hình thực tế công tác quản lý
nhà nước bằng pháp luật về quyền tác giả tại Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch từ
năm 2015 đến tháng 6 năm 2020, nêu rõ những kết quả đạt được và chỉ ra hạn chế
cũng như nguyên nhân của những hạn chế đó. Trên cơ sở đó đề ra một số nhóm
giải pháp nhằm tăng cường hiệu quả của hoạt động quản lý nhànước bằng pháp
luật về quyền tác giả trong thời gian tới.
Kết thúc Luận văn này, một lần nữa tác giả muốn nhấn mạnh giá trị to lớn
của hoạt động sáng tạo văn học, nghệ thuật, khoa học. Đây là một nguồn lực vô
tận, một kho tài sản vô cùng giá trị, việc Nhà nước công nhận và bảo hộ nguồn
lực này, khai thác và tận dụng nó như một tài sản kinh tế sẽ là chìa khóa vàng cho
102
sự thịnh vượng.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. Tài liệu Tiếng Việt
1. C.Mác và Ph. Ăngghen (1993), Toàn tập, tập 23, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội.
2. C.Mác và Ph. Ăngghen (1993), Toàn tập, tập 33, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội.
3. Nguyễn Bình, Nguyễn Thị Chính, Nguyễn Huy Ngát, Nguyễn Bích Ngọc
(2005), Bình luận về quyền tác giả theo pháp luật Việt Nam, Nxb Tư pháp,
Hà Nội.
4. Nguyễn Bá Bình, Phạm Thanh Tùng (2006), Công ước Berne 1886 công cụ
hữu hiệu bảo hộ quyền tác giả, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
5. Chính phủ (2018), Nghị định 22/2018/NĐ-CP ngày 23/02/2018 quy định chi
tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật sở hữu trí tuệ năm 2005 và Luật
sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật sở hữu trí tuệ năm 2009 về quyền tác
giả, quyền liên quan.
6. Chính phủ (2013), Nghị định số 131/2013/NĐ-CP ngày 16/10/2013 của Chính
phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính về quyền tác giả và quyền liên
quan.
7. Chính phủ (2015), Nghị định số 21/2015/NĐ-CP ngày 14/02/2015 của Chính
phủ quy định về nhuận bút, thù lao đối với tác phẩm điện ảnh, mỹ thuật,
nhiếp ảnh, sân khấu và các loại hình nghệ thuật biểu diễn khác.
8. Chính phủ (2007), Chỉ thị số 04/2007/CT-TTg ngày 14/02/2007 của Thủ tướng
Chính phủ về việc tăng cường quản lý và thực thi bảo hộ phần mềm máy
tính.
9. Chính phủ (2008), Chỉ thị số 36/2008/CT-TTg ngày 31 tháng 12 năm 2008 của
Thủ tướng Chính phủ về việc tăng cường quản lý và thực thi bảo hộ quyền
103
tác giả, quyền liên quan.
10. Chính phủ (2020), Quyết định số 581/QĐ-TTg ngày 6/5/2009 phê duyệt chiến
lược phát triển văn hoá Việt Nam đến năm 2020.
11. Vũ Mạnh Chu (2009), Hài hoà lợi ích bản quyền – Pháp luật và Thực thi, Nxb
Thế giới, Hà Nội.
12. Vũ Mạnh Chu (2010), Cẩm nang bản quyền, Nxb Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.
13. Cục Bản quyền tác giả, Báo cáo tổng kết công tác các năm 2002, 2003, 2004,
2005, 2006, 2007, 2008, 2009, 2010, 2011, 2012, 2013, 2014, 2015, 2016,
2017, 2018, 2019.
14. Cục Bản quyền tác giả, Công ước quốc tế về bảo hộ các tác phẩm văn học và
nghệ thuật (Công ước BERNE).
15. Cục Bản quyền tác giả, Công ước về bảo hộ người sản xuất bản ghi âm, chống
việc sao chép trái phép (Công ước GENEVA).
16. Cục Bản quyền tác giả, Công ước quốc tế về bảo hộ người biểu diễn, nhà sản
xuẩt bản ghi âm, tổ chức phát song (Công ước ROME).
17. Cục Bản quyền tác giả, Công ước liên quan đến việc phân phối các tín hiệu
mang chương trình truyền qua vệ tinh (Công ước BRUSSELS).
18. Cục Bản quyền tác giả, Hiệp định về các khía cạnh liên quan tới thương mại
của quyền sở hữu trí tuệ (Hiệp định TRIPs).
19. Cục Bản quyền tác giả, Hiệp ước của WIPO về quyền tác giả (Hiệp ước WCT).
20. Cục Bản quyền tác giả, Hiệp ước của WIPO về biểu diễn và bản ghi âm (Hiệp
ước WPPT).
21. Cục Bản quyền tác giả (2010), Từ điển Thuật ngữ quyền tác giả, quyền liên
quan, NXB Thế Giới, Hà Nội.
22. Đại học Quốc gia Hà Nội, Khoa Luật (2007), Giáo trình lý luận chung về nhà
nước và pháp luật, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội.
23. Đại học Quốc gia Hà Nội (2005), Hoàn thiện cơ chế thực thi pháp luật về bảo
hộ quyền sở hữu trí tuệ trong tiến trình hội nhập quốc tế của Việt Nam, Đề
tài nghiên cứu khoa học trọng điểm cấp quốc gia, Mã số QGTĐ.03.05, Hà
104
Nội.
24. Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII về xây dựng
nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
25. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
26. Nguyễn Minh Đoan (2008), “Ý thức pháp luật với đời sống xã hội”, Tạp chí
Luật học, tr 22-28.
27. GS. Kamil Idris (2005), Sở hữu trí tuệ - một công cụ đắc lực để phát triển kinh
tế, Bản dịch của Cục Sở hữu trí tuệ, Hà Nội.
28. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Nhà nước và Pháp luật
(2007), Tài liệu học tập và nghiên cứu môn học Lý luận chung về Nhà nước
và pháp luật (tập 1), Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
29. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
30. Lê Đình Nghị – Vũ Thị Hải Yến (2009), Giáo trình Luật Sở hữu trí tuệ, Nxb
Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.TS. Lê Nết (2006), Tài liệu bài giảng Quyền sở
hữu trí tuệ (bổ sung, sửa đổi theo Luật Sở hữu trí tuệ 2005)Nxb Đại học
Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.
31. Đoàn Thanh Nô (2008), “Hoàn thiện pháp luật về quyền sở hữu trí tuệ đối với
tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian ở Việt Nam hiện nay”, Luận văn thạc
sĩ luật học, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh.
32. Nguyễn Văn Mạnh (2008), “Các yếu tố bảo đảm thực hiện pháp luật”, Thông
tin Nhà nước và pháp luật, tr 14-19.
33. Shahid Alikhan (2007), Lợi ích kinh tế xã hội của việc bảo hộ sở hữu trí tuệ ở
các nước đang phát triển, Bản dịch của Cục Sở hữu trí tuệ, Hà Nội.
34. Ngô Ngọc Phương (2006), Bảo hộ quyền tác giả tại Việt Nam với việc gia
nhập Công ước Berne, Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật Đại học Quốc
gia Hà Nội.
35. Quốc hội (2016), Hiến pháp 1946, 1959, 1980, 1992, 2013 Nxb Pháp lý - Nxb
105
Sự thật, Hà Nội.
36. Quốc hội (1957), Sắc lệnh số 102/SL/L004 ngày 20/5/1957 ban hành Luật quy
định quyền lập hội.
37. Quốc hội (1994), Pháp lệnh Bảo hộ quyền tác giả.
38. Quốc hội (1995), Bộ luật Dân sự 1995.
39. Quốc hội (2005), Bộ luật Dân sự 2005.
40. Quốc hội (2005), Luật Sở hữu trí tuệ.
41. Quốc hội (2009), Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ.
42. Shahid Alikhan (2007), Lợi ích kinh tế xã hội của việc bảo hộ sở hữu trí tuệ ở
các nước đang phát triển, Bản dịch của Cục Sở hữu trí tuệ, Hà Nội.
43. Phùng Trung Tập (2004), Các yếu tố của quyền sở hữu trí tuệ, NxbTư pháp.
44. Hoàng Minh Thái (2010),Thực hiện pháp luật về bảo hộ quyền tác giả ở Việt
Nam hiện nay, Luận án Tiến sĩ Luật học, Học viện Chính trị – Hành chính
quốc gia Hồ Chí Minh.
45. Lê Xuân Thảo (1996), “Đổi mới và hoàn thiện cơ chế điều chỉnh pháp luật về
bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam”, Luận
án phó tiến sỹ khoa học Luật học, Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
46. Lê Minh Tâm (chủ biên) (1996), Giáo trình Lý luận về nhà nước và pháp luật,
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
47. Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (2006), “Cẩm nang sở hữu trí tuệ”,Bản dịch
của Cục Sở hữu trí tuệ, Hà Nội.
48. Trường Đại học Luật Hà Nội (2003), Giáo trình lý luận nhà nước và pháp
luật, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
49. Trường Đại học Luật Hà Nội (2007), Giáo trình luật dân sự Việt Nam, tập II,
Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
50. Trường Đại học Luật Hà Nội (2008), Giáo trình luật hành chính Việt Nam,
Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
51. V.I.Lênin(1962), Toàn tập, Tập 33, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
52. Trần Thúy Vân, Bảo vệ quyền tác giả ở Cộng hòa liên bang Nga, Tạp chí văn
106
hóa nghệ thuật, tr 106.
52A. Vụ Công tác pháp luật (2006),Những nội dung cơ bản của Luật Sở hữu trí
tuệ, NxbTư pháp.
53. Viện Khoa học Pháp lý Bộ Tư pháp (2006), Từ điển Luật học, Nxb Từ điển
Bách khoa và Nxb Tư pháp, Hà Nội.
54. Vụ phổ biến, giáo dục pháp luật Bộ Tư pháp, Cục sở hữu trí tuệ Bộ khoa học
Công nghệ , Đề cương giới thiệu Luật Sở hữu trí tuệ.
55. Cục Bản quyền tác giả (2010), Từ điển Thuật ngữ quyền tác giả, quyền liên
quan, NXB Thế Giới, Hà Nội.
56.http://appa.vhv.vn/
56A. https://nhandan.com.vn/tin-tuc-giao-duc/xu-ly-tan-goc-tinh-trang-in-lau-in-
gia-sach-giao-duc-363406/
57. https://luatminhkhue.vn/
58. https://riav.org.vn/
59. http://vietrro.org.vn/
60. http://vlcc.vn/
60A. https://sohuutritue.net.vn/nhiep-anh-gia-le-xuan-bach-to-nxb-thanh-nien-
vi-pham-ban-quyen-d36672.html
61. http://www.cov.gov.vn/
62. https://www.vcpmc.org/vcpmc/
II. Tài liệu Tiếng Anh
63. https://cms.iccwbo.org/content/uploads/sites/3/2019/05/bascap-vietnam-
country-report-translation-vietnam-vnm.pdf.
64. http://norcode.no.
65. www.wipo.int/copyright/en/management.
66. http://www.wipo.int/wipolex.
67. http://www.wipo.int/wipolex/en/text.jsp?file_id=228674.
107
68. http://www.wipo.int/wipolex/en/text.jsp?file_id=181505.
69. Stephen E. Siwek (November 2006), Copyright Industries in the US.
Economy: The 2006 Report, the International Intellectual Property Alliance
(IIPA).
70. Jorna Leenheer, Simon Bremer, Jules Theeuwes (December 2008), SEO
Economic Research Commissioned by the Dutch Ministry of Economic
Affairs, The Economic Contribution of the Copyright – Based Industries in
the Netherlands, A study based on the WIPO Guide, Amsterdam.
71. Japan Copyright Institute Copyright Research and Information Center (August
2009), Copyright White Paper – A view from the perspective of copyright
industries (Vol.3), Japan.
72. World Intellectual Property Organization, Glossary: Term and Definitions,
website: www.wipo.int..
108
73. WIPO, SEO Economic Research.