BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ
…………/………… ……/……
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
HOÀNG ANH BIÊN
QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ
THI ĐUA, KHEN THƢỞNG TRÊN ĐỊA BÀN
TỈNH ĐẮK NÔNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG
ĐẮK LẮK - NĂM 2017
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ
…………/………… ……/……
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
HOÀNG ANH BIÊN
QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ
THI ĐUA, KHEN THƢỞNG TRÊN ĐỊA BÀN
TỈNH ĐẮK NÔNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG
MÃ SỐ: 60340403
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS NGUYỄN BÁ CHIẾN
ĐẮK LẮK - NĂM 2017
LỜI CAM ĐOAN
Luận văn "Quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng trên địa bàn tỉnh
Đắk Nông” là sản phẩm của quá trình nghiên cứu, tổng hợp, phân tích và
trình bày của tác giả về đề tài luận văn. Các số liệu, quan điểm, kết luận của
các tài liệu và các nhà nghiên cứu khác được trích dẫn theo đúng quy định.
Chính vì vậy, tác giả luận văn xin cam đoan đây là công trình nghiên
cứu của riêng mình.
Đắk Lắk, ngày 25 tháng 10 năm 2017
Học viên
Hoàng Anh Biên
LỜI CẢM ƠN
Thời gian học tập tuy 02 năm, nhưng trong quá trình học tập tại Học
viện Hành chính Quốc gia cũng như trong quá trình nghiên cứu, thực hiện đề
tài "Quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng trên địa bàn tỉnh Đắk Nông”,
tôi đã nhận được sự truyền đạt, hướng dẫn, động viên, giúp đỡ quý báu của
các giảng viên Học viện Hành chính Quốc gia, gia đình, cơ quan và bạn bè,
đồng nghiệp.
Tôi xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ qúy báu, giảng dạy tận tình và
đầy trách nhiệm của các giảng viên, các bộ phận của Học viện Hành chính
Quốc gia - Phân viện Tây Nguyên và các giảng viên, các khoa, phòng, ban
của Học viện Hành chính Quốc gia. Xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ trong
quá trình nghiên cứu cũng như góp ý của các đồng chí công tác tại Ban Thi
đua - Khen thưởng tỉnh Đắk Nông. Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến
PGS.TS Nguyễn Bá Chiến, thầy hướng dẫn khoa học đã tận tình chỉ bảo,
động viên, giúp đỡ, tạo điều kiện cho tôi hoàn thành luận văn này.
Vì thời gian và điều kiện nghiên cứu của tác giả luận văn có hạn, chắc
chắn không thể tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót. Kính mong các thầy
giáo, cô giáo, bạn bè, đồng nghiệp thông cảm và có những đóng góp chân
thành để tác giả hoàn thiện nội dung đã nghiên cứu, bổ trợ cho các công
trình tiếp theo.
Trân trọng cảm ơn!
Học viên
Hoàng Anh Biên
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................... 1
1. Lý do lựa chọn đề tài. .............................................................................. 1
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài. ............................................. 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài. ........................................ 4
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài. ................................................ 4
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu. ..................................... 5
6. Dự kiến đóng góp của đề tài. .................................................................. 5
7. Kết cấu của Luận văn. ............................................................................. 5
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ
THI ĐUA, KHEN THƢỞNG ........................................................................... 7
1.1. Thi đua, khen thưởng ........................................................................... 7
1.2. Quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng ........................................ 13
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng36
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ THI ĐUA
KHEN THƢỞNG TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐẮK NÔNG ............................ 39
2.1. Tổng quan về sự hình thành và phát triển công tác thi đua, khen
thưởng ở nước ta qua các thời kỳ ...................................................................... 39
2.2. Giới thiệu sơ lược về tỉnh Đắk Nông ................................................. 46
2.3. Hoạt động thi đua, khen thưởng của tỉnh Đắk Nông ......................... 48
2.4. Tác động tích cực của phong trào thi đua đối với sự phát triển kinh
tế - xã hội 5 năm qua ......................................................................................... 53
2.5. Phân tích thực trạng quản lý nhà nước về thi đua, Khen thưởng ở
Đắk Nông .......................................................................................................... 56
2.6. Đánh giá thực trạng quản lý nhà nước đối với thi đua khen thưởng ở
tỉnh Đắk Nông ................................................................................................... 72
CHƢƠNG 3: NHIỆM VỤ VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT
LƢỢNG QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ THI ĐUA, KHEN THƢỞNG TRÊN
ĐỊA BÀN TỈNH ĐẮK NÔNG ........................................................................ 79
3.1. Nhiệm vụ nâng cao chất lượng quản lý nhà nước về thi đua, khen
thưởng............................................................................................................ ....79
3.2. Giải pháp chủ yếu nâng cao chất lượng quản lý nhà nước về thi đua,
khen thưởng ....................................................................................................... 80
KẾT LUẬN ............................................................................................ 100
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................. 102
PHỤ LỤC …………………………………………………..………... 106
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
- CB, CC : Cán bộ, công chức
- TĐKT : Thi đua, khen thưởng
- UBND : Ủy ban nhân dân
- XHCN : Xã hội chủ nghĩa
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU VÀ HÌNH VẼ
Biểu số 1: Thống kê các phong trào thi đua tiêu biểu của tỉnh từ năm
2011-2016 ...................................................................................................... 106
Biểu số 2 : Thống kê số lượng các khen thưởng cấp Nhà nước hàng
năm từ năm 2011 – 2016 ............................................................................... 109
Biểu số 3: Thống kê số lượng khen thưởng cấp Tỉnh hàng năm từ năm
2011-2016 ........................................................................................................ 10
Biểu số 4: Thống kê các hình thức khen thưởng cấp nhà nước hàng
năm từ năm 2011 – 2016 ................................................................................. 11
Biểu số 5: Thống kê các hình thức khen thưởng thuộc thẩm quyền tỉnh
hàng năm từ năm 2011 – 2016 ...................................................................... 115
Hình 2.1: Bản đồ hành chính tỉnh Đắk Nông ....................................... 46
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Ngay từ khi Nhà nước ra đời, Bác Hồ đã rất quan tâm đến Thi đua,
khen thưởng. Người nói “Thi đua là yêu nước, ai yêu nước thì phải thi đua.
Và những người thi đua là những người yêu nước nhất ” [20, tr. 473].
Phong trào thi đua yêu nước do Người khởi xướng và lãnh đạo từ
những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp đã nhanh chóng phát triển
sâu rộng và liên tục qua nhiều thập kỷ, trong từng giai đoạn lịch sử của đất
nước. Mục tiêu của thi đua nhằm tạo động lực động viên, lôi cuốn, khuyến
khích mọi cá nhân, tập thể phát huy truyền thống yêu nước, năng động, sáng
tạo vươn lên hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao vì mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Tỉnh Đắk Nông được tái thành lập hơn
13 năm thì càng thấy được vai trò, vị trí quan trọng của thi đua, khen thưởng.
Trong những năm gần đây, công tác thi đua, khen thưởng đã được tỉnh
Đắk Nông nhằm thẳng vào những việc khó, việc trọng tâm, trọng điểm của
địa phương để phát động các phong trào thi đua nhằm đưa các nghị quyết,
chỉ thị của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước vào cuộc sống, đã
chú trọng đổi mới nội dung và hình thức thi đua, khen thưởng. Sự đa dạng
về nội dung, phong phú hình thức của các phong trào thi đua đã có những
tác động tích cực, thu hút lực lượng đông đảo toàn Đảng, toàn quân, toàn
dân tỉnh Đắk Nông tham gia hưởng ứng và đạt nhiều kết quả quan trọng trên
các lĩnh vực phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh. Qua các phong
trào thi đua đã kịp thời biểu dương, tôn vinh, khen thưởng các tập thể và cá
nhân đạt thành tích xuất sắc trong phong trào thi đua yêu nước, góp phần
thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị của tỉnh.
Tuy nhiên trong những năm gần đây, công tác chỉ đạo, tổ chức phong trào
thi đua yêu nước ở một số đơn vị, địa phương trong tỉnh Đắk Nông chưa thường
xuyên, còn nặng về sơ kết, tổng kết, hiệu quả chưa cao, triển khai phong trào thi
2
đua còn mang tính hình thức, chưa hướng thi đua vào tập trung giải quyết những
nhiệm vụ trọng tâm và đột xuất. Nhận thức về ý nghĩa, vai trò, vị trí và tầm quan
trọng của công tác thi đua, khen thưởng trong một số cấp ủy Đảng, chính quyền,
đoàn thể còn hạn chế, chưa quán triệt sâu sắc chủ trương, chính sách của Đảng
và Nhà nước về đổi mới công tác thi đua, khen thưởng.
Để khắc phục những hạn chế của công tác thi đua, khen thưởng tại tỉnh
Đắk Nông, một trong những vấn đề đặt ra cần phải giải quyết đó là nâng cao
chất lượng công tác thi đua, khen thưởng, trước hết là nâng cao chất lượng
quản lý nhà nước đối với công tác này.
Là một công chức đã từng công tác tại Ban Thi đua - Khen thưởng tỉnh
Đắk Nông, tôi rất quan tâm đến vấn đề này và để kết thúc khóa học Cao học
Quản lý công tôi chọn đề tài “Quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng
trên địa bàn tỉnh Đắk Nông” và mong rằng đề tài này có thể đóng góp một
phần vào công tác quản lý thi đua, khen thưởng tại tỉnh Đắk Nông.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Chủ đề về thi đua, khen thưởng đã được nhiều học giả, các nhà nghiên
cứu quan tâm và có nhiều công trình nghiên cứu, các luận văn, luận án, bài
viết đã được công bố, phát hành, đáng chú ý có các công trình sau:
- Viện Thi đua - Khen thưởng Nhà nước (1999): Bác Hồ với thi đua ái
quốc và tư tưởng chỉ đạo của Đảng về công tác thi đua, khen thưởng trong
tình hình cách mạng mới, Tài liệu tham khảo.
- Trần Thị Hà (2015) - Thứ trưởng Bộ Nội vụ, Trưởng Ban Thi đua -
Khen thưởng Trung ương: Đổi mới công tác thi đua, khen thưởng theo tư
tưởng Hồ Chí Minh, Tạp chí Cộng sản.
- Trương Quốc Bảo (2010), Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về thi đua
yêu nước trong xây dựng và hoàn thiện pháp luật thi đua, khen thưởng, cNXB
Chính trị quốc gia, Hà Nội
3
- Trần Thị Hà (2010) - Thứ trưởng Bộ Nội vụ, Trưởng Ban Thi đua -
Khen thưởng Trung ương: Cơ sở lý luận và thực tiễn đổi mới thi đua, khen
thưởng trong giai đoạn hiện nay, Đề tài cấp nhà nước, Mã số đề tài: 02/2010.
- PGS.TS Nguyễn Viết Vượng (2006): Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh
về thi đua yêu nước trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước”, NXB Lao động, Hà Nội.
Hay một số luận văn Thạc sỹ trên một số ngành, địa phương như:
- "Đổi mới công tác thi đua, khen thưởng góp phần tạo động lực làm
việc cho cán bộ, công chức ngành tài chính trong điều kiện hiện nay” (2011) -
Luận văn Thạc sỹ Quản lý Hành chính công của tác giả Phùng Thị Thanh
Loan, Học viện Hành chính Quốc gia.
- “Quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng trong lĩnh vực giáo dục
trên địa bàn tỉnh Bắc Giang” (2015)- Luận văn Thạc sỹ chuyên ngành Quản lý
công của tác giả Nghiêm Đức Dũng, Học viện Hành chính Quốc gia.
- "Đổi mới quản lý nhà nước về công tác thi đua, khen thưởng ở địa
phương” (2007) Luận văn Thạc sỹ Quản lý Hành chính công của tác giả
Dương Thị Thanh, Học viện Hành chính Quốc gia.
“Tăng cường quản lý nhà nước về thi đua khen thương giai đoạn 2011
– 2020” (2010) - Luận văn Thạc sỹ chuyên ngành Quản lý công của Lê Xuân
Khánh, Học viện Hành chính Quốc gia;
- “Quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng trên địa bàn tỉnh Phú
Yên” (2017) - Luận văn Thạc sỹ quản lý công của tác giả Nguyễn Vũ Lộc, ,
Học viện Hành chính Quốc gia.
Các tài liệu phục vụ hội nghị tập huấn Luật sửa đổi, bổ sung một số
điều của Luật Thi đua, Khen thưởng năm 2013 do Ban Thi đua - Khen thưởng
Trung ương phát hành.
Các báo cáo tổng kết phong trào thi đua yêu nước từng giai đoạn; các
báo cáo công tác thi đua, khen thưởng thường niên của tỉnh Đắk Nông.
4
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu, các luận văn cao học, các bài
viết đều tập trung tuyên truyền về tư tưởng Chủ tịch Hồ Chí Minh với phong
trào thi đua yêu nước; phân tích làm sâu sắc các nội dung về vị trí, vai trò của
thi đua, khen thưởng trong phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững quốc phòng -
an ninh; đánh giá thực trạng phong trào thi đua, công tác khen thưởng và đề
xuất các nhóm giải pháp để nâng cao hiệu quả các phong trào thi đua và công
tác khen thưởng cũng như tổ chức, cán bộ làm công tác thi đua, khen thưởng
các cấp; đổi mới công tác quản lý về thi đua, khen thưởng hoặc về các chính
sách tạo động lực cho cán bộ, công chức thông qua thi đua, khen thưởng…
Đây là những tài liệu quan trọng, quý giá để tôi tham khảo, nghiên cứu trong
quá trình triển khai thực hiện luận văn này.
Tuy nhiên bản thân tôi nhận thấy rằng, từ trước đến nay chưa có đề tài
nào nghiên cứu về quản lý nhà nước về công tác thi đua, khen thưởng tại địa
bàn Tây Nguyên nói chung và tỉnh Đắk Nông nói riêng. Với tầm nhìn của học
viên mới được lĩnh hội những kiến thức quý báu về quản lý công nên tôi chọn
đề tài “Quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng trên địa bàn tỉnh Đắk
Nông” làm đề tài nghiên cứu của mình và có sự tiếp thu, chọn lọc những
quan điểm của các đề tài trước có liên quan.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Luận văn đề xuất một số giải pháp chủ yếu để tăng cường quản lý nhà
nước về thi đua, khen thưởng trên địa bàn tỉnh Đắk Nông trong thời gian tới.
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
- Nghiên cứu, hệ thống lại những vấn đề lý luận cơ bản về thi đua, khen
thưởng; hệ thống lại một số vấn đề lý luận chung về hoạt động quản lý nhà
nước đối với công tác thi đua, khen thưởng.
- Nghiên cứu khảo sát, phân tích đánh giá về thực trạng hoạt động quản
lý nhà nước thi đua, khen thưởng trên địa bàn tỉnh Đắk Nông; Đánh giá các
5
yếu tố tác động đến thi đua, khen thưởng và quản lý nhà nước về thi đua, khen
thưởng tỉnh Đắk Nông những mặt được, những hạn chế, bất cập và rút ra
những nguyên nhân khách quan, chủ quan…
- Đề xuất giải pháp nhằm đổi mới và nâng cao hiệu quả của công tác
này trong giai đoạn hiện nay.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu đề tài
- Đối tượng: Các nội dung quản lý nhà nước về thi đua khen thưởng;
các phong trào thi đua yêu nước và công tác khen thưởng trên địa bàn tỉnh
Đắk Nông.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Về không gian: Trên địa bàn tỉnh Đắk Nông, bao gồm các sở, ban,
ngành, đoàn thể cấp tỉnh; các huyệ n,thị xã.
+ Về thời gian: Giai đoạn 2011 - 2016, có tham khảo các thời kỳ trước đó.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác -
Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối cách mạng và quan điểm của Đảng
và Nhà nước ta về quản lý nhà nước công tác thi đua, khen thưởng.
Luận văn sử dụng kết hợp các phương pháp: Phương pháp phân tích,
tổng hợp, đặc biệt là phương pháp tổng kết kinh nghiệm để đưa ra những kết
luận cần thiết để có cơ sở đưa ra các giải pháp quản lý nhà nước về thi đua,
khen thưởng trong thời gian tới.
6. Dự kiến đóng góp của đề tài
- Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng quản lý nhà nước về
thi đua, khen thưởng của tỉnh.
- Là tài liệu để giúp cơ quan thi đua, khen thưởng ở địa phương tham khảo
trong quá trình thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng.
7. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm 3 chương:
6
Chƣơng 1: Cơ sở lý luận của quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng
Chƣơng 2: Thực trạng quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng trên
địa bàn Đắk Nông
Chƣơng 3: Phương hướng và giải pháp nâng cao chất lượng quản lý
nhà nước về thi đua, khen thưởng trên địa bàn tỉnh Đắk Nông
7
Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC
VỀ THI ĐUA, KHEN THƢỞNG
1.1. Thi đua, khen thƣởng
1.1.1. Khái niệm thi đua
Theo C.Mác "Thi đua nảy nở trong quá trình hợp tác lao động, trong
hoạt động chung và kế hoạch của con người. Sự tiếp xúc xã hội tạo nên thi
đua và sự nâng cao theo lối đặc biệt nghị lực sinh động tăng thêm nghị lực
cho riêng từng người" [8, tr.50].
Theo Lê Nin viết trong cuốn: Bàn về ngày thứ bảy lao động cộng sản, đã
nói đến thi đua xã hội chủ nghĩa đó là phong trào lao động tự nguyện, góp sức
giải quyết khó khăn, xây dựng xã hội mới của quần chúng lao động được giải
phóng khỏi ách áp bức bóc lột. Lê Nin coi đây là một sáng kiến vĩ đại, chính
quyền cách mạng cần chăm lo, tổng kết, phổ biến sáng kiến kinh nghiệm.
Theo Phêđôxêép nhà khoa học Viện Hàn lâm khoa học Liên Xô cho
rằng: Thi đua là sự đọ sức trong lao động và sáng tạo, mang đặc tính của con
người trong xã hội, được sinh ra bởi sự hợp tác lao động và bởi mối quan hệ
xã hội của con người trong quá trình sản xuất...
Theo Đại từ điển Tiếng Việt thì “Thi đua là việc cùng nhau đưa hết khả
năng ra làm nhằm thúc đẩy lẫn nhau đạt được thành tích tốt nhất trong một
hoạt động nào đó” [36, tr. 1599].
Theo quan điểm của Hồ Chí Minh về thi đua, thì thi đua là hiện tượng
tồn tại khách quan trong xã hội, Bác nói: “...Tưởng lầm rằng thi đua là một
việc làm khác với những công việc hàng ngày. Thật ra công việc hàng ngày
chính là nền tảng thi đua. Thí dụ: Từ trước đến nay ta vẫn ăn, vẫn mặc, vẫn ở.
Nay ta thi đua ăn, mặc, ở cho sạch, cho hợp vệ sinh, khỏi đau ốm. Xưa nay ta
8
vẫn làm ruộng nay ta thi đua làm ruộng tốt hơn, sản xuất nhiều hơn. Mọi việc
đều thi đua như vậy” [19, tr. 656].
Trên cơ sở lý luận và tư tưởng lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, Nhà nước,
ngày 26/11/2003, tại kỳ họp thứ 4 Quốc hội khoá XI đã thông qua Luật Thi
đua, Khen thưởng, trong đó nêu rõ: "Thi đua là hoạt động có tổ chức với sự
tham gia tự nguyện của cá nhân, tập thể nhằm phấn đấu đạt được thành tích
tốt nhất trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” [22, tr.1].
Như vậy, thi đua là một hoạt động có tổ chức dựa trên nguyên tắc tự
nguyện, “Xác định rõ mục tiêu, phạm vi, đối tượng thi đua, trên cơ sở đó đề ra
các chỉ tiêu và nội dung thi đua cụ thể. Việc xác định nội dung và chỉ tiêu thi
đua phải đảm bảo khoa học, phù hợp với thực tế của cơ quan, đơn vị, địa
phương và có tính khả thi.” [10, tr. 3]. Phong trào thi đua phải “Có chủ đề, tên
gọi dễ nhớ, dễ tuyên truyền, dễ thực hiện; nội dung bám sát nhiệm vụ chính
trị, nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách để đề ra nội dung, phương pháp thi đua cụ
thể, thiết thực, phù hợp với điều kiện, khả năng tham gia của cơ quan, tổ
chức, đơn vị, cá nhân” [7, tr. 3]. Do vậy thi đua là hoạt động nhằm thu được
kết quả nhất định, thi đua phải đạt được thành tích tốt nhất.
Thi đua yêu nước chính là biện pháp xây dựng con người mới, rèn
luyện nhân cách cao đẹp cho người lao động. Thi đua yêu nước làm cho
người người đoàn kết, gắn bó và thân tình, cởi mở với nhau hơn, bảo đảm lợi
ích cho mình, cho tập thể và cho xã hội. Thi đua là đòn bẩy mạnh mẽ của tiến
bộ kinh tế xã hội, là trường học giáo dục chính trị lao động và đạo đức cho
nhân dân lao động.
Dưới chủ nghĩa tư bản thi đua biểu hiện thành cạnh tranh trong cuộc
chạy đua nhằm kiếm lợi nhuận nhiều hơn, thể hiện ở xu hướng muốn chiến
thắng đối thủ bằng mọi giá trong cuộc đấu tranh sinh tồn. Trái với cạnh tranh,
một nhân tố chia rẽ mọi người, làm cho mọi người đối lập với nhau, cô lập
9
nhau, thi đua xã hội chủ nghĩa xét về mặt khách quan đã làm cho mọi người
đoàn kết trong hoạt động lao động chung nhằm đạt đến mục đích chung.
Phong trào thi đua yêu nước không chỉ là tạo ra tiềm lực về vật chất,
tinh thần mà còn có tác dụng cải tạo người lao động, cải tạo con người, giúp
con người loại bỏ những tư tưởng lạc hậu, bảo thủ để tiến bộ: “Thi đua là một
cách rất tốt, rất thiết thực để làm cho mọi người tiến bộ” [20, tr. 270].
1.1.2. Khái niệm khen thưởng
Khen thưởng gắn liền với thưởng phạt của nhà nước thuộc các chế độ
xã hội khác nhau, là công việc đã tồn tại khá lâu trong lịch sử xã hội.
Ở nước ta, việc khen thưởng đã được thực hiện từ các triều đại phong
kiến trước đây. Nguyễn Trãi đã từng nói: Một Nhà nước mà thưởng phạt
nghiêm minh, kịp thời là Nhà nước vững mạnh. Nhà nước nào phạt nhiều hơn
thưởng là Nhà nước đang suy tàn. Nhà nước nào thưởng nhiều hơn phạt là
Nhà nước phồn vinh. Trong sách Đại Việt sử ký toàn thư của Ngô Sỹ Liên đã
ghi rõ những hình thức khen thưởng, như sau:
- Khen thưởng người có công trong chiến trận.
- Khen thưởng người có công trong việc đi sứ.
- Khen thưởng người phò tá có công lao tài đức.
- Khen thưởng người tiến cử, người hiền tài.
- Khen thưởng người có lời tâu đúng.
- Khen thưởng người cấp dưới giữ đúng phép công, không vị nể người
quyền quý cấp trên.
- Khen thưởng người có công làm thủy lợi.
- Khen thưởng người có tài văn chương.
- Khen thưởng người cao tuổi...
Đảng, Bác Hồ đã rất quan tâm đến việc biểu dương khích lệ động viên
người tốt, việc tốt. Mỗi khi đọc báo, nghe đài, thấy có nghĩa cử đẹp là Bác
10
cho đi kiểm tra ngay để Bác khen thưởng. Bác thường nhắc nhở khen thưởng
phải chính xác và kịp thời để động viên phát huy mặt ưu điểm, tích cực, khắc
phục và đẩy lùi mặt khuyết điểm, tiêu cực nhằm xây dựng con người mới vì
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh.
Bác Hồ đã chỉ thị “Có công thì thưởng, có lỗi thì phạt, khen thưởng
phải có tác dụng giáo dục, động viên, nêu gương...” khen thưởng còn là một
chính sách của nhà nước để ghi công, tôn vinh các cá nhân, tập thể có thành
tích trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Luật Thi đua, Khen thưởng đã nêu rõ: “Khen thưởng là việc ghi nhận,
biểu dương, tôn vinh công trạng và khuyến khích bằng lợi ích vật chất đối với
cá nhân, tập thể có thành tích trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” [22, tr.1].
Như vậy, khen thưởng là một vấn đề thuộc phạm trù khoa học xã hội.
Khen thưởng là hình thức ghi nhận công lao, thành tích của nhà nước bằng
quyết định khen thưởng của cơ quan có thẩm quyền. Khen thưởng vừa có ý
nghĩa động viên về tinh thần và khích lệ bằng vật chất. Công tác khen thưởng
tồn tại trong nhiều chế độ gắn liền với tồn tại nhà nước. Khen thưởng trong cơ
chế thị trường phải được tiến hành một cách năng động và khách quan, nâng
cao chuẩn mực của nền đạo đức xã hội thể hiện trong quy định, chính sách mới
về khen thưởng. Tiêu chuẩn khen thưởng cần được coi như chuẩn mực đạo đức
xã hội, đồng thời mở rộng đối tượng khen thưởng trong các thành phần kinh tế,
các tầng lớp xã hội, khen thưởng phải chính xác, kịp thời và bình đẳng.
Trong điều kiện nước ta hiện nay, khen thưởng là một khâu quan trọng
trong quá trình tổ chức và chỉ đạo các nhiệm vụ của Đảng và Nhà nước, của
mọi cơ quan, tổ chức, là một biện pháp quan trọng trong việc đánh giá kết quả
thành tựu, kết quả công việc, là việc thực hiện các chính sách xã hội. Khen
thưởng có vai trò quan trọng là động lực thúc đẩy xã hội phát triển, là biện
pháp của người quản lý thực hiện nhiệm vụ trọng tâm chính trị của đơn vị, địa
11
phương mình nhằm khuyến khích, động viên mọi tầng lớp trong xã hội tích
cực hăng hái thi đua lập thành tích trong lao động sản xuất và công tác.
1.1.3. Mối quan hệ giữa thi đua và khen thưởng
Hồ Chủ tịch nói “Thi đua là gieo trồng, khen thưởng là thu hoạch” [35,
tr.138], như vậy, thi đua trở thành nền tảng để trên cơ sở đó lựa chọn được
những tập thể, cá nhân tiêu biểu nhất, xứng đáng nhất, đầy đủ và kịp thời nhất
cho việc khen thưởng; có tổ chức tốt phong trào thi đua thì kết quả đem lại
của công tác khen thưởng mới cao. Khen thưởng kịp thời, chính xác, có tác
dụng động viên, khuyến khích cho mùa thi đua sau được kết quả cao hơn. Do
vậy, không coi nhẹ khen thưởng trong thi đua, ngược lại không có thi đua thì
không có căn cứ đánh giá thành tích để khen thưởng.
Trong các phương pháp tạo động lực, thi đua là một phương pháp mang
tính đòn bẩy. Khen thưởng là chất xúc tác của thi đua, thúc đẩy phong trào thi
đua phát triển.
Thi đua là động lực thúc đẩy tập thể, cá nhân phát huy tinh thần đoàn
kết, sáng tạo, nỗ lực vượt mọi khó khăn, phấn đấu vươn lên hoàn thành nhiệm
vụ chính trị được giao, như Hồ Chí Minh nói: “Thi đua tăng cường đoàn kết,
mà đoàn kết đẩy mạnh thi đua. Đoàn kết ấy là đoàn kết thật sự và rất chặt
chẽ” [1, tr. 112].
Chính thi đua là động lực thúc đẩy hoàn thành, trên cơ sở đó để thực
hiện chính sách khen thưởng; thực tiễn cho thấy ở đâu phong trào thi đua hấp
dẫn, sôi nổi, thực sự là động lực thì ở đó xã hội phát triển quần chúng nhân
dân phấn khởi và khen thưởng chính xác, ngược lại ở đâu phong trào thi đua
trầm lắng, đơn điệu, hình thức hoặc không phát động phong trào thi đua, thì ở
đó xã hội trì trệ, ảnh hưởng đến việc bình xét khen thưởng khó khăn, không
chính xác, nhân dân lao động kém phấn khởi, có khi sinh ra những tiêu cực.
12
Chính khen thưởng vừa là kết quả, vừa là yếu tố thúc đẩy phong trào
thi đua phát triển, thực tế cho thấy: Ở đâu làm tốt công tác khen thưởng, một
cách chính xác, khách quan dựa trên trên cơ sở kết quả của phong trào thi đua
thì ở đó nhân dân, cán bộ sẽ tin tưởng, phấn khởi, sẽ có những thắng lợi mới,
nhân tố mới trong phong trào thi đua thời gian tới, hoặc ngược lại.
Cùng với thi đua, công tác khen thưởng góp phần quan trọng vào việc
khẳng định lý tưởng sống, khẳng định chuẩn mực đạo đức và nhân cách thời
đại. Bác Hồ dạy: “Trong mỗi con người đều có mặt thiện, mặt ác. Nhiệm vụ
của chúng ta là làm cho mặt thiện sinh sôi, nảy nở như hoa mùa xuân, mặt ác
phải đẩy lùi”. Nhưng nếu không có phong trào thi đua thì công tác khen
thưởng rất khó làm tròn nhiệm vụ của mình. Bởi vì chính phong trào thi đua
là môi trường rèn luyện tạo nên những điển hình tiêu biểu, những gương
người tốt, việc tốt.
Xét cả hai phương diện lý luận và thực tiễn cho thấy thi đua, khen
thưởng luôn tương tác, hỗ trợ cho nhau, có thể nói thi đua và khen thưởng có
mối quan hệ hữu cơ và biện chứng với nhau; đó là hai mặt của một vấn đề, là
hai nhân tố tác động lẫn nhau của một quá trình đem đến một hiệu quả chung.
Bên cạnh đó, cũng có những hình thức khen thưởng không thông qua từ
kết quả của phong trào thi đua như: Khen thưởng tổng kết thành tích hai cuộc
kháng chiến; khen thưởng cho cán bộ lãnh đạo có quá trình cống hiến lâu dài
trong cơ quan, tổ chức, đoàn thể; khen thưởng đối với những cá nhân tổ chức
trong nước và ngoài nước có công lao, đóng góp cho đất nước Việt Nam nói
chung và các tỉnh, thành phố nói riêng; khen thưởng đột xuất cho cá nhân
dũng cảm cứu người, tài sản... nhưng việc khen thưởng các thành tích trên
cũng có quan hệ nhất định đối với thi đua, nó cũng bị ảnh hưởng nhất định từ
kết quả truyền thống thi đua yêu nước của dân tộc và của các phong trào thi
đua hiện nay đem lại.
13
1.2. Quản lý nhà nƣớc về thi đua, khen thƣởng
1.2.1. Khái niệm quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng
Quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng (TĐKT) là một nội dung
trong quản lý nhà nước về xã hội.
"Quản lý nhà nước về TĐKT là sự tác động, điều chỉnh thường xuyên của
nhà nước bằng quyền lực nhà nước đối với hoạt động TĐKT của một quốc gia để các
hoạt động đó diễn ra theo các quy định của pháp luật TĐKT, góp phần thúc đẩy sự
phát triển kinh tế - xã hội" [17, tr.5].
Hiện nay, xuất phát từ tính phức tạp, năng động và nhạy cảm của nền
kinh tế thị trường đòi hỏi cần có sự quản lý của nhà nước để tổ chức và điều
hành các hoạt động quản lý nhà nước về TĐKT. Chủ thể ấy là nhà nước mà cụ
thể hơn là các cơ quan nhà nước, có sự tham gia giám sát của các tổ chức
chính trị - xã hội, tổ chức xã hội được trao quyền. Để hoàn thành sứ mệnh của
mình Nhà nước phải xây dựng, tổ chức và quản lý các hoạt động về TĐKT.
Pháp luật là cơ sở và là công cụ quản lý hàng đầu, công cụ không thể
thay thế do xuất phát từ hoạt động của xã hội, xã hội càng phát triển thì con
người càng muốn khẳng định mình, càng phấn đấu thi đua lao động, sáng tạo
nên cần có sự quản lý nhà nước.
Trong xã hội Việt Nam hiện nay, khi chúng ta đang vận hành nền kinh
tế thị trường theo định hướng XHXN, có rất nhiều biểu hiện tiêu cực diễn ra
như Đảng ta đã dự báo có tình trạng “chạy chức, chạy quyền, chạy Huân
chương” diễn ra phức tạp và đa dạng đòi hỏi sự quản lý nhà nước.
Để thực hiện tốt vai trò quản lý nhà nước phải sử dụng đồng bộ các văn
bản pháp luật. Đây là một công cụ hữu hiệu nhất và không thể thiếu được
trong việc quản lý các hoạt động kinh tế - xã hội cũng như trong lĩnh vực
quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng.
14
Việc quản lý nhà nước về TĐKT đòi hỏi cần có một bộ máy thực hiện
các hoạt động quản lý hiệu lực và hiệu quả, có đủ đức - đủ tầm để làm nhiệm
vụ và một hệ thống pháp luật về TĐKT đồng bộ, hoàn chỉnh.
1.2.2. Sự cần thiết phải quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng
Công tác thi đua, khen thưởng từ lâu đã được đã được đề cao, cụ thể:
- Mác - Lê Nin đã thấy về vấn đề thi đua
+ C.Mác thấy rằng thi đua nảy nở trong quá trình hợp tác lao động,
trong hoạt động chung và kế hoạch của con người. Sự hợp tác lao động tạo ra
sức mạnh tập thể lớn hơn sức mạnh của từng lao động cá nhân cộng lại, đây là
một phát hiện hết sức có ý nghĩa. Chính thi đua nảy nở trong quá trình hợp tác
lao động, trong hoạt động chung và có kế hoạch của con người. Sự tiếp xúc xã
hội đẻ ra thi đua, thi đua làm tăng năng suất lao động của người công nhân.
+ Lê Nin đã chỉ rõ “Tổ chức thi đua giữa (tất cả) các công xã tiêu dùng
và sản xuất trong nước nhằm nâng cao không ngừng tính tổ chức, tính kỷ luật,
năng suất lao động, nhằm chuyển lên một trình độ kỹ thuật cao hơn, nhằm tiết
kiệm lao động và sản phẩm; nhằm giảm dần từng bước ngày lao động xuống
6 giờ trong một ngày” [34, tr. 94]. Lê Nin chỉ ra sự khác biệt giữa cạnh tranh
và thi đua: “Những người xã hội chủ nghĩa chưa hề bao giờ đả kích việc thi
đua cả, mà chỉ đả kích sự cạnh tranh thôi. Cạnh tranh là một thứ hình thức thi
đua đặc biệt mà xã hội tư bản chủ nghĩa vốn có, là sự giành giật miếng ăn,
giành giật ảnh hưởng và địa vị trên thị trường giữa những người sản xuất
riêng lẻ” [34, tr. 185]. Ông cho rằng chỉ có trong điều kiện xã hội mới, tính
tháo vát, tinh thần thi đua, óc sáng kiến của đông đảo quần chúng nhân dân
mới được phát huy rộng rãi trên quy mô thật sự to lớn. Thi đua làm cho người
lao động sau hàng thế kỷ lao động cho người khác, phải lao dịch nô lệ cho
bọn bóc lột, lần đầu tiên họ đã có thể lao động cho mình và lao động dựa trên
tất cả những thành quả của kỹ thuật hiện đại và của văn hóa hiện đại.
15
- Chủ tịch Hồ Chí Minh nhìn nhận vai trò của thi đua, khen thưởng:
Thi đua là một cách yêu nước thiết thực nhất, những người thi đua là
những người yêu nước nhất. Nước nhà đang kháng chiến và kiến quốc, mục
đích thi đua ái quốc là làm sao cho kháng chiến mau thắng lợi, kiến thiết
chóng thành công. Người khẳng định rõ: “Thật ra, công việc hàng ngày chính
là nền tảng thi đua” [19, tr. 658]. Đây là luận điểm có giá trị bổ sung và phát
triển lý luận Mác-Lênin về thi đua trong xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Theo Người, thi đua để phát huy hiệu quả, vai trò cần phải có kế hoạch,
có nội dung cụ thể, không làm chung chung, được chăng hay chớ. Người nhấn
mạnh thi đua: “Phải có kế hoạch tỷ mỷ. Kế hoạch ấy phải do từng đơn vị nhỏ,
từng gia đình, từng cá nhân bàn bạc kỹ, hiểu biết thấu, vui vẻ làm, nghĩa là
phải sao cho mỗi nhóm, mỗi người tự giác, tự động… Nội dung của kế hoạch
phải thiết thực, rõ ràng, đúng mực, khi đặt kế hoạch phải tuyệt đối tránh sự sơ
suất, đại khái, quá cao, phiền phức, miễn cưỡng” [20, tr. 270]. Và kết quả thi
đua không phải được một lần rồi đóng đấy, mà kết quả thi đua phải đạt chất
lượng, có sự phát triển về phong trào và sự cố gắng liên tục không ngừng
nghỉ. Người chỉ rõ: “Mức thi đua phải tiến dần mãi và tiến mãi mãi. Những
người và những nhóm hiện nay đã đạt được mức cao, thì phải làm cho chất
lượng tốt hơn nữa và phải gắng tiến lên nữa, giúp đỡ những người và những
nhóm còn kém theo kịp. Trí khôn, sáng kiến, học hỏi, tiến bộ và tinh thần hy
sinh của người ta không có giới hạn, nó cứ tiến mãi. Cho nên mức thi đua
cũng không có hạn, nó cũng tiến lên mãi” [20, tr. 472].
- Vài trò của thi đua, khen thưởng qua quan điểm của Đảng và Nhà nước ta:
Tư tưởng Hồ Chí Minh về thi đua yêu nước, về cách thức tổ chức phong
trào thi đua, về kết quả thi đua được Đảng và Nhà nước ta vận dụng sáng tạo
và thực sự các phong trào thi đua có đóng góp to lớn trong cuộc cách mạng
đổi mới của đất nước, cuộc cách mạng coi tầm quan trọng của con người, coi
16
con người là trung tâm và các phong trào thi đua, khen thưởng hướng đến
khuyến khích người lao động trực tiếp, người có công trong lao động.
Các phong trào thi đua yêu nước đã gặt hái được nhiều thành công lớn
trên mọi miền của Tổ quốc, từ trung ương đến địa phương, từ miền xuôi đến
miền ngược, các phong trào thi đua yêu nước trên các lĩnh vực kinh tế, văn
hóa, xã hội, an ninh quốc phòng đều được phát động rộng rãi, trở thành động
lực, niềm tin yêu của người dân vào công cuộc đổi mới của Đảng và đất nước.
Sự cần thiết cần có quản lý của nhà nước về TĐKT: Các hoạt động về
TĐKT thuộc lĩnh vực hoạt động xã hội, điều đó cần có sự quản lý của nhà
nước về TĐKT, bởi vì:
- Thi đua, khen thưởng là một lĩnh vực hoạt động rộng lớn của hàng
triệu hàng triệu cán bộ, chiến sỹ và các tầng lớp nhân dân thông qua phong
trào thi đua; huy động các tổ chức trong hệ thống chính trị tham gia phong
trào thi đua, thông qua đó phát huy được nội lực của các tập thể, cá nhân
trong cả nước, góp phần thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển, bảo vệ và giữ
vững quốc phòng - an ninh.
- Thi đua là hoạt động rộng khắp ở tất cả các lĩnh vực: chính trị, kinh
tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh ở các ngành, các cấp, rất đa dạng,
phong phú, đồng thời mục tiêu, hình thức, biện pháp thi đua thường xuyên
cần thay đổi để phù hợp với sự phát triển kinh tế - xã hội.
- Khen thưởng là việc thực hiện các chính sách của nhà nước, là lĩnh
vực nhạy cảm, là cán cân công lý biểu thị sự công minh trong bình xét và
khen thưởng. Khen thưởng là một quá trình, một biện pháp quan trọng trong
việc đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ, vì vậy cần tránh khen nhầm người
gây tác hại phản phong trào thi đua.
Kết quả bình xét thi đua cần có sự đánh giá đúng, khách quan; thưởng -
phạt công bằng, kịp thời, rõ ràng để động viên khuyến khích mọi tầng lớp
17
trong xã hội tham gia vào phong trào thi đua, đồng thời uốn nắn những lệch
lạc, sai trái trong thực hiện công tác TĐKT.
Lịch sử cho thấy các nhà nước trước đây trên thế giới cũng như ở Việt
Nam đều thực hiện vai trò thưởng, phạt, đó là ban thưởng những người có
công và trách phạt những người có tội.
Nhận thức đúng vị trí, vai trò và tầm quan trọng của công tác TĐKT, sự
quản lý của nhà nước đối với hoạt động TĐKT mới có được sự thống nhất, tạo
được sức mạnh để thi đua trở thành động lực thúc đẩy xã hội phát triển, nhất
là hiện nay trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường, thi đua không phải là
"ganh đua, không phải cá lớn nuốt cá bé" mà thi đua của chúng ta với tinh
thần cạnh tranh lành mạnh, có sự quản lý của nhà nước để phong trào thi đua
thực sự gắn kết ý thức đóng góp công sức vào xây dựng và bảo vệ đất nước,
kết hợp hài hòa các lợi ích cá nhân, tập thể. Do đó, công tác TĐKT đã có
những đóng góp không nhỏ vào sự nghiệp xây dựng, phát triển và bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam XHCN. Vì vậy, Nhà nước phải quản lý hiệu quả công tác TĐKT.
Chỉ thị số 39-CT/TW ngày 21/5/2004 của Bộ Chính trị cũng như Chỉ
thị số 34-CT/TW ngày 07/4/2014 của Bộ Chính trị về “Tiếp tục đổi mới công
tác thi đua, khen thưởng” đã chỉ rõ: “Các cấp ủy, tổ chức đảng, người đứng
đầu cơ quan, đơn vị phải trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo và chịu trách nhiệm về
chất lượng, hiệu quả công tác TĐKT; tăng cường kiểm tra, giám sát, kịp thời
phát hiện, ngăn ngừa tiêu cực trong công tác TĐKT, tránh tình trạng khen
thưởng tràn lan, không thực chất; đổi mới nội dung, hình thức, phương pháp
tổ chức các phong trào thi đua yêu nước; thực hiện nghiêm túc việc đôn đốc,
kiểm tra, sơ kết, tổng kết các phong trào thi đua, lựa chọn các tập thể, cá nhân
có thành tích tiêu biểu để biểu dương, tôn vinh, khen thưởng kịp thời; thực
hiện đổi mới công tác khen thưởng bảo đảm chính xác, kịp thời, công khai,
minh bạch...Chú trọng khen thưởng tập thể nhỏ, công nhân, nông dân, nông
18
dân và người lao động trực tiếp sản xuất…Chủ động xem xét, khen thưởng
cho tập thể, cá nhân người nước ngoài có đóng góp lớn trong công cuộc xây
dựng và phát triển kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng của Việt Nam."[5, tr. 2].
1.2.3. Nội dung quản lý nhà nƣớc về thi đua, khen thƣởng
Tại điều 90 của Luật TĐKT quy định 8 nội dung quản lý nhà nước về
TĐKT , như sau:
1. Ban hành các văn bản pháp luật về thi đua, khen thưởng;
2. Xây dựng chính sách về thi đua, khen thưởng;
3. Tuyên truyền, phổ biến, hướng dẫn và tổ chức thực hiện các quy định
của pháp luật về thi đua, khen thưởng;
4. Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức làm công tác thi đua, khen
thưởng;
5. Sơ kết, tổng kết, tặng thưởng các hình thức khen thưởng; đánh giá
hiệu quả công tác thi đua, khen thưởng;
6. Hợp tác quốc tế về thi đua, khen thưởng;
7. Thanh tra, kiểm tra việc thực hiện các quy định pháp luật về thi đua,
khen thưởng;
8. Giải quyết khiếu nại, tố cáo, xử lý vi phạm pháp luật về thi đua,
khen thưởng [22, tr.15].
1.2.3.1 Ban hành các văn bản pháp luật về thi đua, khen thưởng
Văn bản pháp luật là công cụ quan trọng nhất để nhà nước quản lý xã
hội nói chung và quản lý công tác TĐKT nói riêng. Nhà nước quản lý công
tác TĐKT bằng pháp luật. Các văn bản quy phạm pháp luật của nhà nước là
sự thể hiện, cụ thể hoá quan điểm, đường lối của Đảng về công tác TĐKT,
đồng thời cũng là sự tập trung nguyện vọng của quần chúng nhân dân trong
lao động, sản xuất, công tác, học tập đóng góp vào sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ tổ quốc.
19
Văn bản pháp luật tạo ra hành lang pháp lý để các tổ chức, các tầng lớp
nhân dân và các cá nhân phát huy lòng nhiệt tình hăng hái tham gia thi đua và
đón nhận những kết quả, phần thưởng xứng đáng; hành lang đó tạo ra sự
thống nhất công tác thi đua, khen thưởng ở các ngành, các cấp trong cả nước.
Nhận biết được tầm quan trọng đó, ngay sau khi nước nhà giành độc
lập, ngày 20/01/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thay mặt Chính phủ, Nhà
nước ra Quốc lệnh ban hành 10 điều thưởng với lời mở đầu: “Trong một
nước, thưởng phạt phải nghiêm minh thì nhân dân mới yên ổn, kháng chiến
mới thắng lợi, kiến quốc mới thành công” [1, tr. 163]. Có thể nói đây là văn
bản quan trọng, đặt nền móng hình thành chính sách khen thưởng; trong giai
đoạn từ năm 1945 - 1998, nhà nước ta đã ngoài ban hành 1 quốc lệnh, còn ban
hành 15 sắc lệnh, 6 quyết nghị, 5 pháp lệnh và nhiều nghị định, thông tư, chỉ
thị để tổ chức thực hiện công tác thi đua, khen thưởng từ đó đã thúc đẩy các
phong trào thi đua yêu nước đánh thắng các thế lực bảo vệ miền Bắc xã hội
chủ nghĩa, giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, cả nước đi lên chủ
nghĩa xã hội.
Nhận thấy công tác TĐKT trong giai đoạn đổi mới công tác TĐKT
ngày càng mang tính hình thức, không phát huy được vị trí vai trò trong công
cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước. Ngày 03/5/1998 Bộ chính trị đã ban hành
Chỉ thị số 35-CT/TW về đổi mới công tác TĐKT trong giai đoạn mới. Ngày
21/5/2004 Bộ Chính trị tiếp tục ban hành chỉ thị số 39-CT/TW về tiếp tục đổi
mới, đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước, phát hiện, bồi dưỡng, tổng kết và
nhân rộng điển hình tiên tiến. Sau 10 năm thực hiện chỉ thị số 39-CT/TW,
ngày 07/4/2014 Bộ Chính trị đã ban hành chỉ thị số 34-CT/TW về tiếp tục đổi
mới, công tác TĐKT...
Ngày 26/11/2003, Quốc hội chính thức thông qua Luật Thi đua, Khen
thưởng, đánh dấu một bước quan trọng trong quá trình hình thành và phát triển
20
của công tác TĐKT từ sau ngày thành lập nước. Luật Thi đua, Khen thưởng
trở thành cơ sở pháp lý quan trọng góp phần ngày càng hoàn thiện pháp luật
về TĐKT trong thời kỳ quá độ đi lên Chủ nghĩa xã hội và công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước. Luật Thi đua, Khen thưởng năm 2003 tiếp đó được sửa
đổi bổ sung lần lượt vào các năm 2005, 2013.
Cùng với sự ra đời của Luật Thi đua, Khen thưởng là hệ thống các văn
bản hướng dẫn thi hành như: Nghị định số 121/2005/NĐ-CP ngày 30/9/2005
của Chính phủ qui định chi tiết và hướng dẫn một số điều của Luật Thi đua,
khen thưởng và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi đua, khen
thưởng; Nghị định số 122/2005/NĐ-CP ngày 04/10/2005 của Chính phủ quy
định tổ chức làm công tác thi đua, khen thưởng; Nghị định số 42/2010/NĐ-
CP ngày 15/4/2010 của Chính phủ qui định chi tiết và hướng dẫn một số điều
của Luật Thi đua, khen thưởng và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật
Thi đua, khen thưởng năm 2005; Nghị định số 65/2010/NĐ-CP ngày
01/7/2014 của Chính phủ qui định chi tiết và hướng dẫn một số điều của Luật
Thi đua, khen thưởng và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi đua,
khen thưởng năm 2013; Nghị định số 91/2017/NĐ-CP ngày 31/7/2017 của
Chính phủ về việc quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Thi đua,
khen thưởng…đã từng bước thực hiện đổi mới công tác TĐKT.
Trên cơ sở quy định của Luật Thi đua, khen thưởng và các văn bản
hướng dẫn thi hành, các địa phương, đơn vị đã đề ra những quy định cụ thể
hóa công tác TĐKT cho phù hợp với địa phương, đơn vị mình theo chức năng
nhiệm vụ và điều kiện thực tế cho phép để từng bước đưa Luật Thi đua, khen
thưởng vào cuộc sống, góp phần đẩy mạnh công cuộc xây dựng xã hội chủ
nghĩa và bảo vệ tổ quốc.
Với việc ban hành đồng bộ các văn bản pháp luật về TĐKT đã tạo ra cơ
sở, cũng là công cụ quan trọng nhất để nhà nước quản lý công tác TĐKT bằng
21
pháp luật. Các văn bản pháp luật của nhà nước là sự thể hiện, cụ thể hoá quan
điểm, đường lối của Đảng về công tác TĐKT, đồng thời cũng là sự tập trung
nguyện vọng của quần chúng nhân dân trong học tập, lao động, sản xuất, công
tác, nghiên cứu, chiến đấu đóng góp vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
1.2.3.2. Xây dựng chính sách về thi đua, khen thưởng
Việc xây dựng chính sách về TĐKT là hết sức cần thiết để động viên,
khuyến khích mọi người hăng hái thi đua lao động, sản xuất và sáng tạo góp
phần xây dựng quê hương đất nước. Vì vậy, công tác xây dựng các chính sách
về TĐKT luôn được Đảng và Nhà nước ta quan tâm, cụ thể ngay sau khi
giành được chính quyền, năm 1946 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Quốc lệnh
ban hành 10 điều thưởng. Điều này chứng minh rằng các chính sách về TĐKT
được xác định rất quan trọng để động viên, khuyến khích mọi tầng lớp nhân
dân trong xã hội thi đua lao động, sản xuất và sáng tạo để phát huy sức mạnh
tổng hợp của nhân dân.
Trong thời kỳ kháng chiến, kiến quốc, đất nước còn nghèo và còn nhiều
khó khăn, các danh hiệu thi đua, hình thức khen thưởng chỉ nhằm động viên
tinh thần là chủ yếu; đến nay, nền kinh tế đang phát triển, nhất là khi đất nước
ta đang phát triển nền kinh tế thị trường, hội nhập sâu rộng với quốc tế, Đảng
và nhà nước ta rất quan tâm đến quyền lợi và chế độ đối với người lao động nói
chung và đối với những cá nhân, tập thể có thành tích xuất sắc hoặc có nhưng
công lao, cống hiến được khen thưởng nói riêng. Do vậy khi xây dựng chính
sách về TĐKT phải chú trọng đến chế độ khen thưởng nhằm khuyến khích,
động viên những cá nhân, tập thể hăng hái trong phong trào thi đua yêu nước.
Trong những năm qua, thực hiện chủ trương của Đảng, Quốc hội,
Chính phủ và các cơ quan liên quan đã kịp thời ban hành Luật và nhiều văn
bản quy phạm pháp luật về công tác TĐKT; ở cấp tỉnh từ lúc tái thành lập
năm 2004 đến nay cũng đã ban hành các quy định, quy chế về chính sách
22
TĐKT phù hợp với tình hình đặc điểm của địa phương. Đây là việc làm để cụ
thể hóa các chủ trương chính sách lớn của Đảng và Nhà nước. Cuộc sống phát
triển rất sinh động phong phú, vì vậy phong trào thi đua yêu nước cũng không
ngừng đổi mới và phát triển đa dạng về nội dung và hình thức, nhất là ở các
ngành, các địa phương cho đến cơ sở. Xây dựng chính sách về thi đua, khen
thưởng trong giai đoạn hiện nay cần phải sát đúng với thực tế, chính sách này
phải đáp ứng kịp thời sự phát triển của cuộc sống xã hội, khích lệ được mọi
người tham gia phong trào thi đua, điều này thể hiện như việc xét nâng lương
trước thời hạn cho cán bộ, công chức viên chức có thành tích đặc biệt xuất
sắc, hay khi xét khen thưởng thành tích đột xuất là không nhất thiết xét theo
tuần tự, thành tích đến đâu, khen thưởng đến đó, trong động viên khen thưởng
là “khen phải đi đôi với thưởng”….
1.2.3.3 Tuyên truyền, phổ biến, hướng dẫn và tổ chức thực hiện các
quy định của pháp luật về thi đua, khen thưởng
Trong công tác TĐKT, tuyên truyền phổ biến, hướng dẫn và tổ chức
thực hiện TĐKT đây là một nội dung mà nhà nước cần phải quản lý. Tại Điều
12 và Điều 13 Luật Thi đua, Khen thưởng ghi rõ: “Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận và các tổ chức xã hội khác trong
phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm: tuyên truyền, động
viên các thành viên của mình tham gia với các cơ quan chức năng tuyên
truyền, động viên nhân dân thực hiện pháp luật về thi đua, khen thưởng; Tổ
chức hoặc phối hợp với cơ quan nhà nước tổ chức các cuộc vận động, các
phong trào thi đua; Giám sát việc thực hiện pháp luật về thi đua, khen thưởng.
Các cơ quan thông tin đại chúng có trách nhiệm thường xuyên tuyên truyền,
phổ biến, nêu gương các điển hình tiên tiến, người tốt việc tốt, cổ động phong
trào thi đua, khen thưởng” [22, tr. 3].
23
Cơ quan thông tin đại chúng có trách nhiệm phản ánh đúng kết quả của
phong trào thi đua và công tác khen thưởng; thường xuyên tuyên truyền chủ
trương của đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về TĐKT; phát hiện các
cá nhân, tập thể có thành tích xuất sắc trong phong trào thi đua; biểu dương,
tôn vinh, nêu gương các điển hình tiên tiến, người tốt, việc tốt; đấu tranh với
các hành vi vi phạm pháp luật về TĐKT.
Qua thực tiễn thực hiện Luật Thi đua, Khen thưởng, Đảng và nhà nước
ta thấy rõ tầm quan trọng đặc biệt của công tác tuyên truyền, phổ biến, hướng
dẫn và tổ chức thực hiện các quy định của pháp luật về TĐKT, coi đây là một
biện pháp để đưa Luật Thi đua, Khen thưởng và các văn bản hướng dẫn đi
vào cuộc sống; Luật Thi đua, Khen thưởng khẳng định Mặt trận Tổ quốc và
các thành viên có trách nhiệm tuyên truyền, phổ biến, giám sát đến các tổ
chức, hội viên, đoàn viên của mình ở cơ sở; tổ chức nhà nước có trách nhiệm
tổ chức và phối hợp tuyên truyền, phổ biến, giám sát; các cơ quan thông tin
đại chúng có trách nhiệm thường xuyên tuyên truyền, mở các chuyên trang,
chuyên mục phổ biến, nêu gương các điển hình tiên tiến, các gương người tốt,
việc tốt, cổ động phong trào TĐKT góp phần phát triển kinh tế - xã hội, giữ
vững quốc phòng, an ninh.
Trong công tác TĐKT tuyên truyền phổ biến, hướng dẫn và tổ chức thực
hiện TĐKT là một khâu rất quan trọng và đây cũng là nhiệm vụ của các cấp,
các ngành, các đơn vị, địa phương khi tiến hành triển khai thực hiện công tác
TĐKT. Tuy nhiên, ở mỗi ngành, mỗi cấp, mỗi địa phương tổ chức thực hiện
nhiệm vụ này có những yêu cầu, đối tượng, nội dung cụ thể khác nhau. Một
khi toàn bộ các cấp, các ngành, địa phương thực hiện nhiệm vụ này sẽ tạo ra
được sự thống nhất nhận thức, hành động trong cả nước từ Trung ương đến cơ
sở đối với các quy định pháp luật về TĐKT.
24
1.2.3.4. Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức làm công tác thi
đua, khen thưởng
Nhà nước muốn quản lý tốt công tác thi đua, khen thưởng trước hết
phải có đội ngũ cán bộ có đủ năng lực, phẩm chất để làm công tác này. Vì vậy
cần xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức làm thi đua, khen thưởng có phẩm
chất chính trị tốt, có năng lực tham mưu, nghiên cứu cụ thể hoá các chủ
trương, chính sách, pháp luật về TĐKT và có khả năng tổ chức vận động quần
chúng nhân dân tham gia vào các phong trào thi đua yêu nước, mà muốn có
đội ngũ cán bộ tốt thì phải đào tạo bồi dưỡng để nâng cao chất lượng cán bộ,
công chức cả về phẩm chất lẫn chuyên môn nghiệp vụ nên phải thường xuyên
tổ chức tập huấn, bồi dưỡng về chủ trương, chính sách, pháp luật về TĐKT và
chuyên môn, nghiệp vụ cho cán bộ, công chức làm công tác TĐKT.
Đào tạo, bồi dưỡng về chính trị là để nâng cao sự hiểu biết, về đường
lối chính sách của Đảng và nhà nước về quan điểm chỉ đạo phong trào thi đua,
tư tưởng Hồ Chí Minh về TĐKT, trên cơ sở đó nâng cao về năng lực tổ chức
phong trào thi đua yêu nước và có phẩm chất đạo đức trung thực khách quan
để làm tốt công tác này.
Đào tạo, bồi dưỡng về chuyên môn nghiệp vụ nhất là đối với cán
bộ, công chức làm công tác TĐKT ở cơ sở là rất cần thiết. Nếu cán bộ,
công chức ở cơ sở không thông thạo về chuyên môn nghiệp vụ thì không
thể tham mưu đề xuất với cấp uỷ, chính quyền về tổ chức phong trào thi
đua thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh ở
địa phương và khó khăn trong việc đề xuất, xét duyệt khen thưởng được
chính xác, kịp thời...
Đối với cán bộ, công chức làm công tác TĐKT cũng phải được tiêu
chuẩn hoá, được đào tạo, bồi dưỡng thường xuyên, phải am hiểu và có kiến
thức kinh tế - xã hội, có nhận thức tốt, kịp thời tiếp cận các thông tin mới,
25
nhanh nhạy nắm bắt chủ trương, chính sách mới của Đảng và Nhà nước thì
mới đáp ứng được yêu cầu về tham mưu cho cấp uỷ Đảng, chính quyền các
cấp về các kế hoạch tổ chức và giải pháp trong chỉ đạo và thực hiện phong
trào thi đua.
Trong giai đoạn hiện nay tổ chức bộ máy làm công tác TĐKT thường
có sự thay đổi nên nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng là cấp thiết.
1.2.3.5. Sơ kết, tổng kết, tặng thưởng các hình thức khen thưởng;
đánh giá hiệu quả công tác thi đua, khen thưởng
Việc tổ chức sơ kết, tổng kết là nội dung hết sức quan trọng trong công
tác quản lý nhà nước về TĐKT. Nhiệm vụ của sơ kết, tổng kết là nhằm đánh
giá được kết quả phong trào thi đua và kết quả thực hiện chính sách khen
thưởng của Đảng và Nhà nước trong từng đợt, từng giai đoạn; tôn vinh, biểu
dương những tập thể, cá nhân điển hình xuất hiện qua các phong trào thi đua,
đồng thời nêu ra những ưu, khuyết điểm và nguyên nhân, bài học kinh nghiệm
trong lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp uỷ Đảng và chính quyền, đoàn thể, đơn vị
đối với công tác TĐKT; qua sơ kết, tổng kết để đề xuất các chủ trương, giải
pháp tiếp tục đổi mới công tác TĐKT trong giai đoạn tiếp theo góp phần phát
triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh của địa phương, của đất nước.
Nội dung tổng kết phải đánh giá được công tác lãnh đạo, chỉ đạo của
các cấp uỷ Đảng, chính quyền, đoàn thể trong việc tổ chức các phong trào thi
đua thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội.
Trong tình hình thực tế, bệnh quan liêu, hình thức còn đang nặng nề
trong các đơn vị, địa phương thì việc tổng kết, sơ kết càng phải đặt ra với chất
lượng cao hơn để tránh hình thức, phô trương, tốn kém mà không hiệu quả.
1.2.3.6. Hợp tác quốc tế về thi đua, khen thưởng
Trong xu thế hội nhập sâu rộng như hiện nay thì việc động viên, khen
thưởng kịp thời cũng là động lực quan trọng giúp các tổ chức, cá nhân người
26
nước ngoài tiếp tục có những hành động, những đóng góp tích cực vào công
cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Điều 51, Luật Thi đua, Khen thưởng đã quy định về “Huân chương
Hữu nghị” để tặng hoặc truy tặng cho người nước ngoài, tặng cho tập thể
người nước ngoài có những đóng góp to lớn trong xây dựng, củng cố và phát
triển tình hữu nghị giữa Việt Nam và các nước trên thế giới; ở cấp bộ, ban,
ngành, đoàn thể trung ương [24, tr.15], cấp tỉnh cũng đã ban hành các quy
định tiêu chuẩn tặng bằng khen và thưởng bằng hiện vật lưu niệm cho tập thể,
cá nhân người nước ngoài có thành tích đóng góp vào sự phát triển của bộ,
ngành, địa phương.
Chỉ thị số 34-CT/TW ngày 07/4/2014 của Bộ Chính trị đã nêu: “Chủ
động xem xét, khen thưởng cho tập thể, cá nhân người nước ngoài có đóng
góp lớn trong công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội, an ninh,
quốc phòng của Việt Nam, có nhiều thành tích trong việc củng cố và phát
triển mối quan hệ hữu nghị, hợp tác nhiều mặt giữa Việt Nam với các
nước, các tổ chức quốc tế”.
Nên đây là nội dung nhà nước cần quản lý đối với công tác TĐKT gồm:
- Trao đổi học tập kinh nghiệm quản lý của các nước bạn về khen
thưởng và về các chính sách khuyến khích người dân tham gia vào công việc
của xã hội.
- Giới thiệu hình thức thi đua, khen thưởng của Việt Nam với các
nước bạn.
- Theo dõi phát hiện những cá nhân, tổ chức nước ngoài có đóng góp
lớn trong công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội, an ninh, quốc
phòng của Việt Nam, có nhiều thành tích trong việc củng cố và phát triển
mối quan hệ hữu nghị, hợp tác nhiều mặt giữa Việt Nam với các nước, các
tổ chức quốc tế.
27
- Đề xuất những hình thức khen thưởng phù hợp, tương xứng với thành
tích của các cá nhân, tổ chức nước ngoài đã có đóng góp lớn trong công cuộc
xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng của Việt Nam
hoặc giúp các bộ, ngành, các địa phương trong phát triển kinh tế - xã hội cũng
được đề nghị khen thưởng.
1.2.3.7. Thanh tra, kiểm tra việc thực hiện các quy định pháp luật về
thi đua, khen thưởng
Thanh tra, kiểm tra việc thực hiện các quy định pháp luật về TĐKT là
nội dung có ý nghĩa quan trọng trong quản lý nhà nước về công tác TĐKT.
Qua thanh tra, kiểm tra để đôn đốc, nhắc nhở, uốn nắn việc thực hiện pháp
luật về TĐKT, nâng cao trách nhiệm quản lý nhà nước của các ngành, các
cấp; làm cho luật pháp được thực hiện một cách nghiêm minh. Đồng thời qua
thanh tra, kiểm tra nắm bắt được tình hình thực hiện pháp luật về TĐKT ở các
cơ quan, đơn vị thuộc thẩm quyền. Qua đó, thấy được những thiếu sót cũng
như những vướng mắc trong việc thực hiện các chính sách pháp luật để kịp
thời chỉ đạo, hướng dẫn hoặc đề xuất sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện chính sách
pháp luật về TĐKT.
Nội dung thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, xử lý vi phạm
việc thực hiện các quy định pháp luật về TĐKT được quy định tại Điều 96
Luật Thi đua, Khen thưởng, vì quản lý nhà nước ở bất kỳ lĩnh vực nào, ngành
nào cũng đều phải có thanh tra, kiểm tra, nếu không thanh tra, kiểm tra sẽ bị
buông lỏng công tác quản lý nhà nước.
Công tác thanh tra, kiểm tra được tiến hành trong những nội dung sau:
- Việc thực hiện Luật Thi đua, Khen thưởng, các văn bản hướng dẫn thi
hành luật, các quy định, chính sách của nhà nước về TĐKT.
28
- Công tác thanh tra, kiểm tra theo định kỳ hàng quý, hàng năm hoặc
theo đợt phát động phong trào thi đua, kết thúc phong trào thi đua, hoặc thanh
tra đột xuất khi thấy có vấn đề về công tác TĐKT.
- Thanh tra khi có dấu hiệu vi phạm việc bình xét TĐKT không đúng
tiêu chuẩn, không đúng đối tượng hoặc khi có khiếu nại, tố cáo.
Để thực hiện tốt việc thanh tra, kiểm tra các quy định pháp luật về
TĐKT hàng năm, cơ quan làm công tác TĐKT phải xây dựng chương trình,
kế hoạch cụ thể để giúp thủ trưởng cơ quan quản lý cùng cấp tiến hành thanh
tra, kiểm tra. Nội dung chương trình, kế hoạch thanh tra, kiểm tra cần cụ thể,
có trọng tâm, trọng điểm và có sự thống nhất, tránh trùng lặp nhiều đoàn
thanh tra trong cùng một năm về cùng nội dung liên quan; sau các đợt thanh
tra, kiểm tra phải có thông báo kết luận gửi đến các cơ quan liên quan và đơn
vị được thanh tra.
1.2.3.8. Giải quyết khiếu nại, tố cáo, xử lý vi phạm pháp luật về thi
đua, khen thưởng
Trong quy trình bình xét thi đua, khen thưởng do thiếu khách quan,
cảm tình, nể nang, chủ quan hay một số cá nhân, đơn vị lợi dụng những sai
sót trong phương pháp, tinh thần trách nhiệm của người thực hiện nhiệm vụ,
các cá nhân, tập thể khai man thành tích để được khen thưởng... đây là một
trong những nguyên nhân dẫn đến có đơn thư tố cáo, khiếu nại của quần
chúng nhân dân về khen sai, khen không đúng tiêu chuẩn, tố giác những
người khai man thành tích, thực hiện không đúng chính sách về khen thưởng
của Đảng và nhà nước. Vì vậy, cơ quan quản lý nhà nước về thi đua, khen
thưởng các cấp phải giải quyết để thực hiện tốt Luật Khiếu nại và Luật Tố cáo
năm 2011 đảm bảo quyền lợi, chính sách trong TĐKT.
Công tác quản lý nhà nước trong việc thanh tra, kiểm tra giải quyết các
khiếu nại, tố cáo và đặc biệt là xử lý những vi phạm pháp luật về TĐKT phải
29
chặt chẽ, kịp thời để Luật Thi đua, Khen thưởng thực sự đi vào cuộc sống,
đảm bảo được nguyên tắc của thi đua là tự nguyện, tự giác, nguyên tắc của
khen thưởng là chính xác, công khai, công bằng và kịp thời. Có được như vậy
TĐKT mới thực sự là động lực cho mỗi cá nhân, tập thể trong lao động, sản
xuất, công tác, học tập tốt hơn và mới có tác dụng thúc đẩy sự phát triển kinh
tế - xã hội của đơn vị, địa phương cũng như của đất nước.
Trên đây là những nội dung chủ yếu của quản lý nhà nước về TĐKT.
Các nội dung này có quan hệ chặt chẽ với nhau, phải được tiến hành đồng bộ
thì quản lý nhà nước về TĐKT mới đạt hiệu quả.
1.2.4. Hệ thống cơ quan thực hiện công tác Thi đua, khen thƣởng
1.2.4.1. Ở Trung ương
- Ban Thi đua, khen thưởng Trung ương được thành lập theo Quyết
định 158/2004/NĐ-CP ngày 25/8/2004 của Chính phủ về việc thành lập
Ban Thi đua, khen thưởng Trung ương. Để giảm bớt cơ quan đầu mối thuộc
Chính phủ. Ngày 08/8/2007 Chính phủ có Nghị định số 08/2007/NĐ-CP
quy định Ban Thi đua, khen thưởng Trung ương thuộc Bộ Nội vụ, giúp
Chính phủ quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng trong phạm vi cả
nước và tổ chức các hoạt động thi đua, khen thưởng theo qui định của pháp
luật; quản lý nhà nước các dịch vụ công thuộc lĩnh vực, phạm vi quản lý
của Ban theo quy định của pháp luật.
Theo Quyết định số 158/QĐ-CP Ban Thi đua, khen thưởng Trung ương
có tư cách pháp nhân, có con dấu hình quốc huy, kinh phí hoạt động do ngân
sách nhà nước cấp, có tài khoản riêng, trụ sở đặt tại Hà Nội.
Ngày 16 tháng 4 năm 2009, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định
số 59/2009/QĐ-TTg quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ
chức của Ban Thi đua - Khen thưởng Trung ương trực thuộc Bộ Nội vụ.
30
Ban Thi đua – Khen thưởng Trung ương thực hiện các nhiệm vụ, quyền
hạn theo quy định của Luật Thi đua, Khen thưởng, các quy định của pháp luật
có liên quan và những nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể sau đây:
- Là cơ quan thường trực của Hội đồng Thi đua – Khen thưởng Trung ương.
- Trình Bộ trưởng Bộ Nội vụ để trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ
xem xét, quyết định: Các dự án luật, dự thảo nghị quyết của Quốc hội, dự án
pháp lệnh, dự thảo nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, dự thảo nghị
định của Chính phủ, dự thảo quyết định, chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ về
thi đua, khen thưởng. Chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, các chương trình mục
tiêu quốc gia, chương trình hành động, đề án, dự án quan trọng về thi đua,
khen thưởng;
- Trình Bộ trưởng Bộ Nội vụ xem xét, quyết định: Kế hoạch dài hạn,
năm năm, hàng năm phát triển ngành thi đua, khen thưởng và các đề án, dự án
về thi đua, khen thưởng; Kế hoạch phối hợp hoạt động giữa Bộ, cơ quan
ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh (sau đây gọi
chung là các Bộ, ngành, địa phương), tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị -
xã hội, tổ chức xã hội ở Trung ương trong việc thực hiện các nhiệm vụ về thi
đua, khen thưởng.
- Hướng dẫn, đôn đốc, kiểm tra, các Bộ, ngành, địa phương, Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam, tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã
hội ở Trung ương tổ chức triển khai thực hiện các phong trào thi đua và thực
hiện chính sách khen thưởng của Đảng và Nhà nước.
- Thẩm định hồ sơ trình khen thưởng của các Bộ, ngành, địa phương,
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội,
tổ chức xã hội ở Trung ương. Thực hiện theo ủy quyền của Bộ trưởng Bộ Nội
vụ trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ quyết định khen thưởng hoặc trình
31
Thủ tướng Chính phủ đề nghị Chủ tịch nước quyết định khen thưởng theo quy
định của pháp luật.
- Chỉ đạo và tổ chức thực hiện các chương trình, kế hoạch, các đề án,
dự án về thi đua, khen thưởng sau khi được cấp có thẩm quyền phê duyệt.
- Xây dựng nội dung, chương trình đào tạo, bồi dưỡng, nghiệp vụ cho
cán bộ, công chức, viên chức làm công tác thi đua, khen thưởng ở các Bộ,
ngành và địa phương; tổ chức nghiên cứu, ứng dụng khoa học, công nghệ
trong lĩnh vực thi đua, khen thưởng.
- Phối hợp với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức chính trị, các tổ
chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội ở Trung ương, các cơ quan thông
tin đại chúng tổ chức các phong trào thi đua và tuyên truyền, nhân rộng
các điển hình tiên tiến.
- Quản lý, lưu trữ hồ sơ khen thưởng theo quy định của pháp luật; xây
dựng và quản lý cơ sở dữ liệu về thi đua, khen thưởng.
- Chịu trách nhiệm chuẩn bị hiện vật, bảo quản, cấp phát hiện vật khen
thưởng kèm theo các hình thức khen thưởng của Chủ tịch nước, Chính phủ,
Thủ tướng Chính phủ; thu hồi, cấp, đổi hiện vật khen thưởng theo quy định
của pháp luật.
- Thực hiện chương trình cải cách hành chính theo mục tiêu và nội
dung chương trình cải cách hành chính nhà nước đã được cấp có thẩm quyền
phê duyệt.
- Vận động các nguồn tài trợ và quản lý, sử dụng quỹ thi đua, khen
thưởng Trung ương; chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra việc quản lý quỹ thi đua,
khen thưởng ở các cấp, các ngành theo quy định của pháp luật.
- Tổ chức thực hiện công tác thanh tra, kiểm tra việc thực hiện chủ
trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về công tác
32
thi đua, khen thưởng; tổ chức tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo về
công tác thi đua, khen thưởng theo quy định của pháp luật.
- Thực hiện hợp tác quốc tế về thi đua, khen thưởng theo quy định của
pháp luật.
- Quản lý tổ chức bộ máy, biên chế, tài chính, tài sản được giao; thực
hiện chế độ tiền lương và các chế độ, chính sách đãi ngộ, khen thưởng, kỷ
luật, đào tạo, bồi dưỡng đối với cán bộ, công chức, viên chức và nhân viên
thuộc phạm vi quản lý của Ban theo quy định của pháp luật và phân cấp của
Bộ trưởng Bộ Nội vụ.
- Thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn khác do Bộ trưởng Bộ Nội vụ
giao và theo quy định của pháp luật.
Ban Thi đua – Khen thưởng Trung ương có Cơ cấu tổ chức: Vụ Nghiên
cứu – Tổng hợp (gọi tắt là Vụ I); Vụ Thi đua – Khen thưởng các Bộ, ngành,
đoàn thể ở Trung ương (gọi tắt là Vụ II); Vụ Thi đua – Khen thưởng các tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương (gọi tắt là Vụ III); Vụ Tổ chức cán bộ;
Thanh tra; Văn phòng; Cơ quan đại diện tại thành phố Hồ Chí Minh; Trung
tâm Tin học; Tạp chí Thi đua, Khen thưởng.
1.2.4.2. Ở địa phương
Cấp tỉnh từ năm 1964 đến năm 1976 chuyển bộ phận khen thưởng tổng
kết kháng chiến ở Ban Tổ chức Chính quyền sang Ban Thi đua, từ đó thành
Ban Thi đua và Khen thưởng. Ban Thi đua và Khen thưởng là cơ quan chuyên
môn thuộc Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh có tư cách pháp nhân, có con dấu và tài
khoản riêng.
Ngày 16 tháng 04 năm 2010, Bộ Nội vụ ban hành Thông tư số
01/2010/TT-BNV về hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức và
biên chế của Ban Thi đua – Khen thưởng trực thuộc Sở Nội vụ thuộc Ủy ban
nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
Ban Thi đua – Khen thưởng tỉnh là tổ chức trực thuộc Sở Nội vụ,
33
giúp Giám đốc Sở Nội vụ tham mưu cho Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thực
hiện chức năng quản lý nhà nước về công tác thi đua – khen thưởng; chịu
sự chỉ đạo, quản lý về tổ chức, biên chế và hoạt động của Sở Nội vụ; đồng
thời chịu sự hướng dẫn về chuyên môn, nghiệp vụ của Ban Thi đua – Khen
thưởng Trung ương trực thuộc Bộ Nội vụ; Ban Thi đua – Khen thưởng
(tương đương chi cục) có tư cách pháp nhân, có con dấu và tài khoản riêng,
có trụ sở, biên chế, kinh phí hoạt động do ngân sách nhà nước cấp theo quy
định của pháp luật.
Ban Thi đua – Khen thưởng tỉnh có nhiệm vụ và quyền hạn:
- Là cơ quan thường trực của Hội đồng Thi đua – Khen thưởng cấp tỉnh.
- Giúp Giám đốc Sở Nội vụ thực hiện các nhiệm vụ sau:
- Xây dựng trình cấp có thẩm quyền ban hành chương trình, quy hoạch,
kế hoạch dài hạn, năm năm và hàng năm về lĩnh vực thi đua, khen thưởng.
- Xây dựng trình cấp có thẩm quyền ban hành các văn bản quy phạm
pháp luật về lĩnh vực thi đua, khen thưởng; hướng dẫn, tổ chức thực hiện các
văn bản quy phạm pháp luật, chương trình, quy hoạch, kế hoạch dài hạn, năm
năm và hàng năm, các đề án và dự án về lĩnh vực thi đua, khen thưởng trên
địa bàn tỉnh sau khi được cấp có thẩm quyền phê duyệt;
- Tham mưu giúp Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và Hội đồng thi
đua – khen thưởng cấp tỉnh tổ chức các phong trào thi đua; hướng dẫn, đôn
đốc, kiểm tra các sở, ban, ngành, địa phương, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức
chính trị, chính trị - xã hội và các tổ chức kinh tế thực hiện các phong trào thi
đua và chính sách khen thưởng của Đảng, Nhà nước trên địa bàn tỉnh;
- Chủ trì, phối hợp với Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị, tổ chức
chính trị - xã hội, tổ chức xã hội ở địa phương và các cơ quan thông tin đại
chúng phát hiện, tuyên truyền và nhân rộng các điển hình tiên tiến;
34
- Tổ chức thực hiện kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, hướng dẫn chuyên
môn, nghiệp vụ cho đội ngũ công chức làm công tác thi đua, khen thưởng ở
các sở, ban, ngành, địa phương và doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh; ứng dụng
khoa học công nghệ trong lĩnh vực thi đua, khen thưởng;
- Thực hiện công tác thanh tra, kiểm tra những vấn đề liên quan đến
công tác thi đua, khen thưởng và giải quyết các khiếu nại, tố cáo về lĩnh vực
thi đua, khen thưởng theo quy định của pháp luật.
- Thẩm định hồ sơ đề nghị khen thưởng của các sở, ban, ngành, địa
phương. Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ
chức xã hội và các tổ chức kinh tế ở địa phương và cơ sở, trình Ủy ban nhân
dân cấp tỉnh quyết định khen thưởng hoặc đề nghị cấp có thẩm quyền quyết
định khen thưởng.
- Quản lý, lưu trữ hồ sơ khen thưởng theo quy định của pháp luật; xây
dựng và quản lý cơ sở dữ liệu về thi đua, khen thưởng; tổng hợp, báo cáo định
kỳ về thi đua, khen thưởng theo quy định.
- Xây dựng, quản lý và sử dụng Quỹ thi đua, khen thưởng theo quy
định của pháp luật; quản lý, cấp phát, thu hồi, cấp đổi hiện vật khen thưởng
theo phân cấp; tham mưu tổ chức thực hiện việc trao tặng, đón nhận các hình
thức khen thưởng theo quy định của pháp luật.
- Quản lý về tổ chức, bộ máy, biên chế, tài chính, tài sản được giao;
thực hiện chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức của Ban theo phân cấp
của Giám đốc Sở Nội vụ và theo quy định của pháp luật.
-Thực hiện các nhiệm vụ khác do Giám đốc Sở Nội vụ giao hoặc cơ
quan có thẩm quyền giao theo quy định của pháp luật.
Cơ cấu tổ chức và biên chế Ban Thi đua – Khen thưởng tỉnh:
- Lãnh đạo Ban: Ban Thi đua – Khen thưởng có Trưởng ban và không
quá 03 Phó Trưởng ban; Trưởng Ban Thi đua – Khen thưởng là Phó Giám
35
đốc Sở Nội vụ và là Phó Chủ tịch thường trực Hội đồng Thi đua – Khen
thưởng tỉnh, chịu trách nhiệm trước Giám đốc Sở Nội vụ và trước pháp luật
về toàn bộ hoạt động của Ban; Các Phó Trưởng ban giúp Trưởng ban, chịu
trách nhiệm trước Trưởng ban và trước pháp luật về các nhiệm vụ được phân
công; khi Trưởng ban vắng mặt, một Phó Trưởng ban được Trưởng ban ủy
nhiệm điều hành các hoạt động của Ban; Việc bổ nhiệm Trưởng ban, Phó
Trưởng ban theo tiêu chuẩn chuyên môn, nghiệp vụ do Ủy ban nhân dân cấp
tỉnh ban hành, thực hiện theo quy định của pháp luật và phân cấp quản lý cán
bộ, công chức của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh.
- Cơ cấu tổ chức Ban Thi đua – Khen thưởng tỉnh: Căn cứ khối lượng
công việc quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng ở địa phương, Giám đốc Sở
Nội vụ trình Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định cụ thể về số lượng, tên gọi các
tổ chức của Ban cho phù hợp và hiệu quả nhưng không quá 03 phòng được
thành lập theo lĩnh vực công tác, bao gồm: Tổng hợp – Hành chính: Thi đua,
khen thưởng các sở, ban ngành; Thi đua, khen thưởng các quận, huyện, thị xã,
thành phố, cơ sở và doanh nghiệp thuộc tỉnh; Phòng có Trưởng Phòng và 01 Phó
Trưởng phòng. Trưởng phòng chịu trách nhiệm trước Trưởng ban và trước pháp
luật về lĩnh vực công tác được phân công. Phó Trưởng phòng chịu trách nhiệm
trước Trưởng phòng và trước pháp luật về lĩnh vực công tác được phân công.
Biên chế Ban Thi đua – Khen thưởng tỉnh: Biên chế của Ban Thi đua –
Khen thưởng là biên chế hành chính nằm trong tổng số biên chế hành chính
của Sở Nội vụ được Ủy ban nhân dân cấp tỉnh giao. Trưởng Ban Thi đua –
Khen thưởng xác định vị trí việc làm của Ban để Giám đốc Sở Nội vụ trình
Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định bảo đảm đủ biên chế để thực hiện tốt
chức năng, nhiệm vụ, công tác TĐKT của địa phương
- Ở cấp huyện, thị xã có cán bộ chuyên trách làm công TĐKT trực
thuộc Phòng Nội vụ.
36
- Ở cấp xã, phường không có cán bộ biên chế chuyên trách làm công
tác TĐKT, do cán bộ văn phòng Uỷ ban nhân dân xã, phường kiêm nhiệm.
Như vậy hệ thống cơ quan làm công tác TĐKT từ Trung ương đến cơ sở
xã, phường được hình thành và phát triển cùng với bộ máy công quyền nhà nước.
Nó được hình thành theo quy định thể hiện trong Nghị định 122/2005/NĐ-CP
ngày 04/10/2005 của Chính phủ quy định tổ chức làm công tác TĐKT; tuy nhiên
qua thời gian, tùy vào tình hình đã có những điều chỉnh thay đổi cho phù hợp với
chức năng, nhiệm vụ công tác TĐKT trong tình hình mới.
1.3. Các yếu tố ảnh hƣởng đến quản lý nhà nƣớc về thi đua, khen
thƣởng
1.3.1. Sự lãnh đạo của cấp ủy, chính quyền và vai trò của người
đứng đầu
Thực tế cho thấy, thủ trưởng nào thì phong trào ấy, có nghĩa là là nếu
người đứng đầu đơn vị cùng với cấp ủy, chính quyền và các đoàn thể quan
tâm đến các phong trào thi đua, thường xuyên có sự lãnh đạo, chỉ đạo kịp thời
thì các phong trào thi đua của đơn vị sẽ phát triển mạnh mẽ và thu được kết
quả tích cực và ngược lại. Từ nhận thức của người đứng đầu, sự vào cuộc của
cấp ủy, chính quyền và các tổ chức đoàn thể trong việc tuyên truyền mọi
người thấy được vai trò, vị trí tầm quan trọng của công tác thi đua, khen
thưởng đối việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị của đơn vị cũng như của
ngành, làm cho thi đua trở thành ý thức tự giác của mỗi cấp, mỗi ngành, mỗi
người, mỗi đơn vị và cá nhân.
Thi đua là hoạt động có tổ chức, cần có sự quản lý tốt mới đạt hiệu quả
do vậy trong công tác thi đua, khen thưởng vai trò lãnh đạo, chỉ đạo thống
nhất và sự phối hợp thường xuyên giữa cấp ủy, chính quyền, các đoàn thể có
ý nghĩa quyết định đến hiệu quả tổ chức thực hiện công tác thi đua, khen
thưởng tại địa phương, đơn vị.
37
1.3.2. Các quy định pháp luật về thi đua, khen thưởng
Hệ thống các văn bản về thi đua, khen thưởng bao gồm Luật, Nghị
định, Thông tư đã cụ thể hóa các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước
về thi đua, khen thưởng, tạo sự thống nhất trong quản lý trên toàn quốc. Trên
cơ sở các văn bản quy phạm của trung ương, các địa phương đã có sự cụ thể
hóa thành các chính sách cụ thể phù hợp với thực tế địa phương để tổ chức
triển khai thực hiện công tác thi đua, khen thưởng một cách thiết thực, hiệu
quả.
1.3.3. Bộ máy tổ chức và đội ngũ cán bộ làm thi đua, khen thưởng
Đối với công tác thi đua, khen thưởng hiện nay hệ thống tổ chức bộ
máy làm công tác thi đua, khen thưởng từ trung ương đến cơ sở đã được củng
cố kiện toàn khá đầy đủ, đồng bộ. Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản nhằm
củng cố hệ thống các cơ quan, tổ chức làm công tác thi đua từ trung ương đến
các địa phương như: Nghị định 158/2004/NĐ-CP ngày 25/8/2004 của Chính
phủ về thành lập Ban Thi đua - Khen thưởng Trung ương; Nghị định
122/2005/NĐ-CP ngày 4/10/2005 của Chính phủ Quy định tổ chức làm công
tác thi đua, khen thưởng; Quyết định 59/2009/QĐ-TTg ngày 17/4/2009 của
Thủ tướng Chính phủ về việc quy định chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức
của Ban Thi đua - Khen thưởng Trung ương trực thuộc Bộ Nội vụ. Các Nghị
định số 13, 14/2008/NĐ-CP trong đó quy định tổ chức làm công tác thi đua,
khen thưởng ở cấp tỉnh, cấp huyện…
Với việc củng cố về tổ chức bộ máy và nâng cao chất lượng đội ngũ,
cán bộ công chức làm thi đua, khen thưởng đã góp phần nâng cao chất lượng
công tác tham mưu, tư vấn cho các cấp ủy, chính quyền trong việc lãnh đạo,
chỉ đạo công tác thi đua, khen thưởng ngày càng hiệu quả, đặc biệt là công tác
quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng ngày càng đi vào nền nếp góp phần
38
tích cực vào thực hiện nhiệm vụ chính trị của mỗi cấp, mỗi ngành, mỗi địa
phương, đơn vị.
Tiểu kết chƣơng 1
Thông qua việc nghiên cứu công tác quản lý nhà nước về thi đua,
khen thưởng đã làm sáng tỏ những vấn đề cơ bản của công tác quản lý nhà
nước về thi đua, khen thưởng. Biện pháp quan trọng và hiệu hiểu nhất để
quản lý nhà nước và xã hội tốt chính là thực hiện tốt công tác thi đua, khen
thưởng. Từ việc hiểu rõ những vấn đề thuộc về lý luận và thực tiễn nói
chung trong quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng; những nội dung cơ
bản quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng và hệ thống cơ quan thực
hiện công tác thi đua, khen thưởng; những yếu tố ảnh hưởng đến công tác
thi đua, khen thưởng là những nền tảng và cơ sở để nghiên cứu sâu hơn
hoạt động thi đua, khen thưởng; những tác động tích cực của phong trào thi
đua đối với sự phát triển kinh tế - xã hội; phân tích, đánh giá thực trạng
công tác quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng tại địa phương. Để từ đó
đưa ra những nhiệm vụ, đồng thời đưa ra những giải pháp hữu hiệu nhằm
nâng cao hiệu quả của công tác thi đua, khen thưởng, góp phần thực hiện
tốt nhiệm vụ chính trị của địa phương.
39
Chƣơng 2
THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ THI ĐUA
KHEN THƢỞNG TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐẮK NÔNG
2.1. Tổng quan về sự hình thành và phát triển công tác thi đua,
khen thƣởng ở nƣớc ta qua các thời kỳ
2.1.1. Thời kỳ bảo vệ, xây dựng chính quyền non trẻ
Nhà nước ta mới ra đời, còn non trẻ đứng trước vô vàn khó khăn, trong
thế ngàn cân treo sợi tóc. Thực dân Pháp nổ súng quay lại miền Nam, 28 vạn
quân Tưởng vào miền Bắc giải giáp quân đội Nhật, theo sau là bọn tay sai
Việt gian phản động định lật đổ chính quyền cách mạng; lũ lụt thiên tai hoành
hành, nhân dân đói khổ, dịch bệnh, mù chữ. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát
động ngay chiến dịch tăng gia sản xuất để diệt giặc đói, mở chiến dịch chống
nạn mù chữ để diệt giặc dốt, "mở chiến dịch giáo dục lại tinh thần dân chúng
bằng cách thực hiện cần, kiệm, liêm, chính" và sau đó tổ chức phong trào
"tuần lễ vàng", phong trào Nam tiến chi viện cho Nam Bộ kháng chiến chống
xâm lược Pháp...Trong điều kiện lịch sử lúc đó, việc phát động toàn dân tham
gia thực hiện các chiến dịch và phong trào này không chỉ nhanh chóng giải
quyết được nạn đói, nạn dốt, tăng cường chi viện cho kháng chiến ở miền
Nam mà còn nâng cao nhận thức chính trị và khẳng định trên thực tế quyền
làm chủ thực sự của nhân dân đối với đất nước mới được độc lập.
2.1.2. Thời kỳ kháng chiến chống pháp
Thời kỳ này Đảng và Nhà nước ta cũng rất quan tâm đến công tác thi
đua, khen thưởng đó là:
Để có tổ chức bộ máy và cán bộ thực hiện các chủ trương, chính sách
khen thưởng, ngày 17/9/1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 83/SL,
đặt ra Viện Huân chương thuộc Chủ tịch phủ. Việc đặt ra Viện Huân chương
40
bên cạnh người đứng đầu Nhà nước là biểu hiện tính pháp luật và giá trị cao
quý của các phần thưởng Huân chương, Huy chương trong chế độ ta, đồng
thời xác lập tổ chức làm quản lý nhà nước về khen thưởng từ đó được hình
thành và hoạt động trong suốt 70 năm qua.
Ngày 27/3/1948 theo sáng kiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Trung ương
đã ra chỉ thị “Phát động phong trào thi đua ái quốc”.
Ngày 1/6/1948, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Sắc lệnh số 195 thành lập
Ban Vận động thi đua Ái quốc Trung ương, do đồng chí Tôn Đức Thắng làm
Trưởng ban. Ban này gồm có đại biểu Chính phủ, Quốc hội và các đoàn thể
nhân dân. Ban Vận động thi đua Ái quốc các cấp có nhiệm vụ vận động, đôn
đốc, thu thập và phổ biến kinh nghiệm về việc thi đua. "Các Ủy ban kháng
chiến hành chính liên khu, tỉnh, huyện, xã đặt kế hoạch thi đua Ái quốc cho
địa phương mình. Nhưng có thể ủy quyền ấy cho các Ban Vận động thi đua
Ái quốc cấp mình."
Ngày 11/6/1948 nhân dịp kỷ niệm 1.000 ngày kháng chiến, kiến quốc;
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra “Lời kêu gọi thi đua ái quốc”. Người nhấn mạnh:
“Thi đua là yêu nước, yêu nước thì phải thi đua. Những người thi đua là
những người yêu nước nhất”. Thực hiện Lời kêu gọi thi đua ái quốc của
Người, các phong trào thi đua ái quốc được phát động và lan rộng khắp các
vùng miền, cuốn hút, cổ vũ, động viên đồng bào và chiến sĩ cả nước thi đua
hăng say lao động, sản xuất, thực hành tiết kiệm, chống giặc đói; thi đua học
tập, xoá nạn mù chữ, chống giặc dốt và dũng cảm ngoan cường trong chiến
đấu diệt giặc ngoại xâm…
Ngày 20/8/1948, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh 207/SL cử ông
Hoàng Đạo Thuý về làm Tổng Bí thư Ban vận động Thi đua ái quốc Trung
ương. Trong buổi gặp mặt để nhận nhiệm vụ mới, ông Hoàng Đạo Thuý đã
nhận được từ Chủ tịch Hồ Chí Minh một chiếc quạt giấy cùng lời căn dặn:
41
Chú dùng cái quạt này để quạt phong trào lớn mạnh lên. Thực hiện lời căn
dặn của Người, Ban vận động thi đua ái quốc đã từng bước định hướng được
các phong trào thi đua phát triển có chiều sâu, huy động lực lượng tinh thần to
lớn phục vụ cách mạng.
Để tổng kết phong trào thi đua và biểu dương gương điển hình xuất sắc
trong cuộc kháng chiến và kiến quốc được phát động từ năm 1948, Chính phủ
đã tổ chức Đại hội toàn quốc các chiến sĩ thi đua và cán bộ gương mẫu, họp
từ ngày 1/5 - 6/5/1952 tại chiến khu Việt Bắc, với sự tham gia của trên 154
đại biểu. Đại hội đã tuyên dương 7 Anh hùng tiêu biểu và tặng Huân chương
Kháng chiến hạng Nhất cho 23 chiến sĩ xuất sắc. Trong đó có: Anh hùng Cù
Chính Lan, chiến sĩ La Văn Cầu, nữ trung đội trưởng du kích Nguyễn Thị
Chiên, chiến sĩ Ngô Gia Khảm, Hoàng Hanh, Giáp Văn Khương, Quang
Vinh...
Chỉ sau 9 năm kể từ khi giành được độc lập, quân và dân cả nước với
khẩu hiệu: Toàn dân kháng chiến, toàn diện kháng chiến, với chiến dịch Điện
Biên Phủ chúng ta đã chiến thắng chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp
hoàn toàn giải phóng miền Bắc.
2.1.3. Thời kỳ xây dựng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, giải phóng
miền Nam và thống nhất đất nước
Năm 1954, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược kết thúc
thắng lợi, nhưng nước ta tạm thời bị chia cắt làm hai miền với hai chế độ khác
nhau. Nhiệm vụ chính trị thời kỳ này của cả nước của toàn Đảng và toàn dân
ta là thực hiện song song hai nhiệm vụ chiến lược quan trọng: Ở miền Bắc
xây dựng chủ nghĩa xã hội và chi viện cho miền Nam; ở miền Nam tiến hành
cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược giải phóng miền Nam với mục
tiêu chung là: Thống nhất nước nhà và cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Từ
sau khi có Nghị quyết đẩy mạnh phong trào thi đua ái quốc của Ban Bí thư
42
ngày 26/01/1961, các phong trào thi đua yêu nước thực sự nở rộ trên khắp các
lĩnh vực, trong các giới: quân đội, giáo dục, công nghiệp, thủ công nghiệp,
nông nghiệp, trong thanh niên, phụ nữ, trí thức, phụ lão...tiêu biểu như phong
trào “Ba nhất” trong quân đội, phong trào “Gió Đại Phong” , phong trào “Thi
đua bốn biển” với khẩu hiệu “làm ngày chưa đủ, tranh thủ làm đêm” trong
nông nghiệp”, phong trào “Sóng Duyên Hải” trong công nghiệp, phong trào
“Hai tốt” trong giáo dục, trong thanh niên xuất hiện phong trào “Ba sẵn sàng”
và “Năm xung phong”, trong phụ nữ xuất hiện phong trào “Ba đảm đang”,
trong giới trí thức phát động phong trào “Ba quyết tâm”. Ngoài ra phải kể đến
phong trào “Thi đua Ấp Bắc, giết giặc lập công”, phong trào “Thi đua yêu
nước, chống Mỹ” , phong trào “Mỗi người làm việc bằng hai vì miền Nam ruột
thịt”. Ở một số địa phương cũng xuất hiện nhiều phong trào với các khẩu hiệu
như: “Bám đất giữ làng”; “Một tấc không đi, một ly không dời”, “Giết giặc lập
công”, “Dũng sĩ diệt Mỹ”, “Tìm Mỹ mà đánh, tìm nguỵ mà diệt”, “Bám thắt
lưng địch mà đánh”, “Căng địch ra mà đánh, vây chúng lại mà diệt”,…
Trong thời kỳ này, bên cạnh chú trọng các phong trào thi đua, yêu
nước, Nhà nước đã ban hành, bổ sung nhiều văn bản pháp luật quy định các
hình thức, tiêu chuẩn khen thưởng các loại Huân chương Hữu nghị, Huân
chương, Huy chương Chiến thắng, Huân chương, Huy chương Quân giải
phóng Việt Nam, Huân chương, Huy chương chiến sỹ vẻ vang để khen
thưởng thành tích thuộc lực lượng vũ trang được ban hành. Ở miềm Nam từ
năm 1962 - 1967 Uỷ ban Mặt trận dân tộc giải phóng và Chính phủ cách
mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam lần lượt ban hành các quyết
định đặt ra Huân chương Tổ quốc, Huân chương Thần đồng, Huân chương
Giải phóng, Huân chương Chiến công giải phóng, Huân chương Quyết thắng,
danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân giải phóng để động viên
43
khen thưởng quân và dân miền Nam, hăng hái thi đua đánh giặc lập công tiến
lên giải phóng miền Nam.
Các phong trào thi đua, các chính sách khen thưởng kịp thời đã phát huy
cao độ truyền thống yêu nước, góp phần bồi dưỡng và củng cố niềm tin mãnh
liệt vào chiến thắng, tạo sự thống nhất tư tưởng và hành động; bồi dưỡng, tăng
cường đại đoàn kết toàn dân tộc vì mục tiêu đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, giải
phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.
2.1.4. Thời kỳ xây dựng đất nước từ năm 1975 đến nay
Ngày 8/12/1987 Hội đồng Bộ trưởng đã ban hành Nghị định số
223/HĐBT đổi tên Viện Huân chương thành Viện Thi đua và Khen thưởng
Nhà nước với nhiệm vụ là cơ quan giúp việc cho Hội đồng Thi đua và Khen
thưởng Trung ương về thi đua, khen thưởng.
Thời kỳ này, công tác thi đua và khen thưởng bộc lộ yếu kém bất cập
trước tình hình mới, chưa thành động lực cổ vũ mọi tầng lớp nhân dân.
Trước tình hình trên, ngày 3/6/1998 Bộ Chính trị đã họp và ra Chỉ thị số 35-
CT/TW về đổi mới công tác TĐKT trong giai đoạn mới, nội dung chính của
Chỉ thị là: “Trên cơ sở những bài học kinh nghiệm của 50 năm qua các cấp
ủy đảng cần chỉ đạo tiến hành đổi mới công tác thi đua và khen thưởng trong
giai đoạn mới tập trung vào các vấn đề cơ bản như: làm rõ vị trí, vai trò quan
trọng của công tác TĐKT trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong
giai đoạn cách mạng mới; khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng và quản lý
của Nhà nước đối với công tác TĐKT; kiện toàn và đổi mới tổ chức - cán bộ
của các cơ quan tham mưu TĐKT, đổi mới nội dung và hình thức TĐKT,
quy trình phát hiện, xem xét, lựa chọn, phong tặng các danh hiệu thi đua và
những vấn đề có liên quan tới việc khen thưởng như: tiêu chuẩn, danh hiệu,
đối tượng khen thưởng”.
44
Ngày 26/11/2003 Luật Thi đua, Khen thưởng đã được Quốc hội nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XI, kỳ họp thứ 4 thông qua. Luật
Thi đua, khen thưởng được ban hành vừa bảo đảm quán triệt và thể chế hoá
đường lối, chủ trương, chính sách TĐKT của Đảng và Nhà nước ta trong giai
đoạn mới, vừa thể hiện truyền thống đạo lý tốt đẹp “uống nước nhớ nguồn”
của dân tộc, kế thừa những bài học quý báu về công tác TĐKT qua các giai
đoạn cách mạng, tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của các nước trong khu
vực và thế giới. Luật đã quy định bộ máy tổ chức làm công tác TĐKT từ
Trung ương, đến các địa phương. Bộ máy tổ chức này đã được cụ thể hoá
theo nghị định số 122 ngày 04 tháng 10 năm 2005. Quy định tổ chức làm
công tác thi đua, khen thưởng.
Nhằm tiếp tục tạo sự chuyển biến mạnh mẽ phong trào thi đua yêu
nước trong những năm tới, 21 tháng 5 năm 2004 Bộ Chính trị khóa IX ban
hành Chỉ thị số 39-CT/TW về việc tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh phong trào thi
đua yêu nước, phát hiện, bồi dưỡng, tổng kết và nhân điển hình tiên tiến.
Ngày 16/11/2013, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi đua,
khen thưởng được ban hành nhằm hệ thống tiêu chuẩn của danh hiệu thi đua
và các hình thức khen thưởng theo hướng nâng cao tiêu chuẩn, đảm bảo chặt
chẽ hơn, không lấy danh hiệu thi đua để làm căn cứ xét khen thưởng nhằm
tránh việc tích lũy thành tích trong khen thưởng; đặc biệt xây dựng các tiêu
chuẩn cụ thể đối với các hình thức khen thưởng huân chương, bằng khen, giấy
khen cho nông dân, công nhân, người lao động trực tiếp; bổ sung thêm về
chức năng, nhiệm vụ, thành phần của Hội đồng Thi đua – Khen thưởng trung
ương và Hội đồng Thi đua - Khen thưởng các cấp. Ngoài ra, sửa đổi, bổ sung
một số nội dung liên quan đến quy định chung, nguyên tắc khen thưởng, thẩm
quyền ban hành danh hiệu TĐKT và thủ tục hồ sơ xét tặng các danh hiệu thi
đua và hình thức khen thưởng.
45
Ðể đổi mới công tác TĐKT, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong tổ chức
thực hiện phong trào thi đua yêu nước và công tác khen thưởng thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và chủ động hội nhập quốc tế,
ngày 07/4/2014, Bộ Chính trị ban hành chỉ thị số 34-CT/TW về tiếp tục đổi
mới công tác thi đua, khen thưởng.
Bên cạnh đó, sau khi nước nhà thống nhất để động viên quân dân cả
nước hăng hái lập công trong lao động sản xuất, học tâp, chiến đấu xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc, năm 1981 Nhà nước có Huy chương Quân kỳ quyết thắng,
năm 1984 có Huy chương vì an ninh Tổ quốc, năm 1985 có danh hiệu vinh dự
nhà nước: Thầy thuốc, Thầy giáo, Nghệ sỹ nhân dân, ưu tú để khen thưởng
thành tích cho cán bộ, chiến sĩ trong lực lượng Quân đội, Công an, trong các
ngành Y tế, Giáo dục, Văn hoá đã có thành tích xuất sắc. Đặc biệt năm 1995
ban hành pháp lệnh Danh hiệu vinh dự nhà nước “Bà mẹ Việt Nam anh hùng”
để tặng cho các bà mẹ đã có nhiều con là liệt sỹ hy sinh vì sự nghiệp cách
mạng của dân tộc.
Như vậy, thời gian qua công tác TĐKT đã được Đảng và nhà nước
đặc biệt quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo. Nội dung và hình thức thi đua bước
đầu được đổi mới phù hợp với tình hình thực tiễn và đang trở thành động
lực phát triển kinh tế - xã hội. Các phong trào được phát triển và nhân
rộng từ cơ sở, tạo nên hiệu quả thiết thực. Những nhân tố mới những mô
hình mới của những Chiến sĩ thi đua, Anh hùng lao động, những tập thể
Lao động xuất sắc, những đơn vị Anh hùng lao động dẫn đầu phong trào
thi đua ở các ngành các cấp đã được tuyên dương ở các kỳ Đại hội thi đua
yêu nước lần thứ VI, VII, VIII, IX. Đó cũng chính là kết quả của phong
trào thi đua yêu nước trong thời kỳ đổi mới và hội nhập.
46
2.2. Giới thiệu sơ lƣợc về tỉnh Đắk Nông
Tỉnh Đắk Nông được tái lập vào ngày 01 tháng 01 năm 2004, theo
Nghị quyết số 23/2003/QH11 ban hành ngày 26 tháng 11 năm 2003 của
Quốc hội trên cơ sở chia tách tỉnh Đắk Lắk thành 2 tỉnh mới là Đắk Nông
và Đắk Lắk.
Hình 2.1: Bản đồ hành chính tỉnh Đắk Nông
"Nguồn: Trang thông tin điện tử Thương mại Biên giới, Miền núi, Hải đảo"
47
Đắk Nông nằm ở phía Tây Nam của vùng Tây Nguyên, đoạn cuối dãy
Trường Sơn; được xác định trong khoảng tọa độ địa lý: 11 45' đến 12 50' vĩ
độ Bắc, 107 13' đến 108 10' kinh độ Đông. Phía Bắc và Đông Bắc giáp tỉnh
Đắk Lắk, phía Đông và Đông Nam giáp tỉnh Lâm Đồng, phía Nam và Tây
Nam giáp tỉnh Bình Phước, phía Tây giáp Vương quốc Campuchia. Đăk
Nông là tỉnh nằm trong khu vực tam giác phát triển Việt Nam – Lào –
Campuchia. Diện tích tự nhiên có 650.927 ha, có 08 đơn vị hành chính cấp
huyện, thị xã với dân số thống kê năm 2016 là 636.000 người. Cơ cấu dân tộc
đa dạng, chủ yếu là dân tộc kinh, M'Nông, Tày, Thái, Ê Đê, Nùng, dân tộc
Kinh chiếm tỷ lệ khoảng 65,5%, M'Nông chiếm 9,7%, các dân tộc khác chiếm
tỷ lệ nhỏ. Trung tâm tỉnh lỵ là Thị xã Gia Nghĩa. Nằm ở cửa ngõ phía Tây
Nam của Tây Nguyên, Đắk Nông có Quốc lộ 14 nối thành phố Hồ Chí Minh
và các tỉnh Miền đông Nam bộ với các tỉnh Tây nguyên, cách Thành phố Hồ
Chí Minh 230 km về phía Bắc và cách Thành phố Ban Mê Thuột (Đắk Lăk)
120 km về phía Tây Nam; có Quốc lộ 28 nối Đắk Nông với Lâm Đồng, Bình
Thuận và các tỉnh Duyên hải miền Trung, cách Thành phố Đà Lạt (Lâm
Đồng) 180 km và Thành phố Phan Thiết (Bình Thuận) 230 km về phía Đông.
Đăk Nông có 130 km đường biên giới với nước bạn Campuchia, có 02 cửa
khẩu Bu Prăng và Dak Peur nối thông với Mondulkiri, Kratie, Kandal, Pnom
Penh, Siem Reap, v.v. Trong tương lai, khi được triển khai thì các tuyến
đường sắt Đắk Nông-Chơn Thành-Di An ra cảng Thị Vải, Đăk Nông – Tân
Rai ra cảng Kê Gà sẽ mở ra cơ hội lớn cho Đắk Nông đẩy mạnh khai thác các
thế mạnh của tỉnh. Vị trí địa lý như trên sẽ tạo điều kiện cho Đắk Nông có thể
mở rộng giao lưu với các tỉnh trong khu vực Tây nguyên; vùng kinh tế trọng
điểm phía Nam; Duyên hải miền Trung và nước bạn Campuchia, là nguồn
động lực để Đăk Nông thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, trong tương lai sẽ
trở thành trung tâm phát triển kinh tế năng động của khu vực Tây Nguyên.
48
2.3. Hoạt động thi đua, khen thƣởng của tỉnh Đắk Nông
Trong những năm qua, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo cấp uỷ Đảng, chính
quyền các cấp, hoạt động công tác thi đua, khen thưởng tỉnh Đắk Nông
luôn bám sát mục tiêu, nhiệm vụ trọng tâm, trọng điểm và tình hình thực
tiễn địa phương, đơn vị để phát động phong trào thi đua; đã cụ thể hoá
những chủ trương, biện pháp để triển khai thực hiện có hiệu quả Chỉ thị số
39-CT/TW ngày 21/5/2004, Chỉ thị số 34-CT/TW ngày 07/4/2014 của Bộ
Chính trị về đổi mới công tác thi đua, khen thưởng; Chỉ thị số 725/CT-TTg
của Thủ tướng Chính phủ về phát động phong trào thi đua thực hiện thắng
lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội và kế hoạch 5 năm 2011- 2015; Chỉ
thị số 35/CT-TTg ngày 19/12/2014 của Thủ tướng Chính phủ về việc đẩy
mạnh phong trào thi đua yêu nước chào mừng đại hội Đảng các cấp, tiến
tới Đại hội Đảng lần thứ XII, Đại hội Thi đua yêu nước toàn quốc lần thứ
IX và các ngày lễ lớn trong năm 2015.
Công tác tham mưu xây dựng các văn bản về lãnh đạo, chỉ đạo phong
trào thi đua và công tác khen thưởng đã có bước đổi mới. Tỉnh ủy, Ủy ban
nhân dân tỉnh, Hội đồng Thi đua - Khen thưởng tỉnh đã ban hành nhiều chỉ
thị, văn bản chỉ đạo, chính sách về thi đua, khen thưởng gắn với triển khai
thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng, an
ninh gắn với tiếp tục đẩy mạnh việc “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức
Hồ Chí Minh”, góp phần động viên, khích lệ, tạo khí thế thi đua sôi nổi trong
các tầng lớp nhân dân. Vì vậy, phong trào thi đua yêu nước của tỉnh ngày
càng phát triển sâu rộng, thiết thực, hiệu quả, có sức lan toả lớn.
Hưởng ứng các phong trào thi đua do Chính phủ, bộ, ngành, đoàn thể
trung ương phát động, UBND tỉnh đã tổ chức nhiều phong trào thi đua thiết
thực, sâu rộng trong toàn tỉnh, bao quát được trong toàn bộ lĩnh vực đời sống
xã hội, một số phong trào lớn như: Hàng năm phát động phong trào thi đua
49
“thực hiện thắng lợi các chỉ tiêu kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh của tỉnh”;
Phong trào thi đua “Đắk Nông chung sức xây dựng nông thôn mới giai đoạn
2017 - 2020”; “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”; Phong
trào thi đua " Doanh nghiệp Đắk Nông hội nhập và phát triển”; Phong trào thi
đua "Đắk Nông chung tay vì người nghèo - Không để ai bị bỏ lại phía sau";
Phong trào thi đua "Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính trên địa bàn tỉnh
Đắk Nông giai đoạn 2017 - 2020" ; phong trào "Thi đua lập thành tích chào
mừng Đại lễ kỷ niệm 1000 năm Thăng Long-Hà Nội"; phong trào thi đua
“Hướng về biển đảo quê hương"; phát động cuộc thi viết về “Gương người tốt,
việc tốt, điển hình tiên tiến xuất sắc”.
Bên cạnh việc hưởng ứng, tham gia các phong trào thi đua tiêu biểu do
Hội đồng Thi đua - Khen thưởng, các bộ, ngành Trung ương phát động, tỉnh
Đắk Nông đã tổ chức phát động nhiều phong trào thi đua trên các lĩnh vực đời
sống xã hội, các phong trào thi đua lan tỏa rộng rãi từng đơn vị, địa phương,
thu hút đông đảo quần chúng tham gia, tiêu biểu như: Phong trào "50 gương
người tốt, 100 gương người tốt điển hình tiêu biểu" của Đảng uỷ khối các cơ
quan tỉnh; phong trào "cải cách hành chính" của Sở Nội vụ; phong trào thi đua
"Giữ vững kỷ cương - Tăng cường trách nhiệm - Chủ động, sáng tạo - Đoàn
kết, hợp tác" của Thanh tra tỉnh; các phong trào thi đua "Đoàn kết, sáng tạo,
lập công dâng Đảng", "Tiếp bước chiến sĩ Điện Biên, tiến lên giành 3 nhất",
"Phất cao Cờ hồng tháng Tám", "Sáng mãi phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ" của Bộ
chỉ huy quân sự tỉnh; phong trào "Nêu cao tinh thần trách nhiệm, chống chủ
nghĩa cá nhân, nói đi đôi với làm" của UBMTTQVN tỉnh; phong trào thi đua
"Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”, "Thi đua dạy tốt, học
tốt” của Sở Giáo dục và Đào tạo; Văn phòng Đoàn ĐBQH và HĐND tỉnh
phát động phong trào với khẩu hiệu "Cán bộ văn phòng chủ động, sáng tạo,
đoàn kết, trách nhiệm, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ đáp ứng các yêu cầu đổi
50
mới cơ quan, phục vụ nhân dân, làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh";
Ngân hàng Nhà nước, chi nhánh Đắk Nông phát động phong trào với chủ đề
"Đồng lòng, chung sức, quyết tâm phấn đấu vượt khó hoàn thành xuất sắc
nhiệm vụ chính trị được giao"; Sở Giao thông vận tải phát động phong trào
"Xây dựng người cán bộ, công chức trung thành, gương mẫu, tận tụy, sáng
tạo"; Sở Công thương phát động phong trào chuyên đề với chủ đề "An toàn
thực phẩm thức ăn đường phố" đã góp phần lập lại trật tự kỷ cương trong hoạt
động sản xuất kinh doanh; Sở Tư pháp phát động phong trào "Toàn ngành Tư
pháp đồng thuận, vượt khó, thi đua hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao"
... Các phong trào thi đua đã tạo nên bức tranh phong phú, sôi động về phong
trào thi đua yêu nước, tạo động lực, khí thế thi đua sôi nổi, lôi cuốn đông đảo
các tầng lớp nhân dân hăng hái thi đua lao động, sản xuất, phấn đấu hoàn
thành xuất sắc nhiệm vụ được giao.
Hiện nay, tỉnh Đắk Nông có 2 cụm, 15 khối thi đua các đơn vị thuộc
tỉnh; 48 cụm, khối thi đua các đơn vị thuộc huyện; 59 khối thi đua các đơn vị
thuộc các Sở, ngành và tương đương. Việc phân chia cụm, khối thi đua phù
hợp với đặc điểm, tính chất hoạt động và nhiệm vụ chính trị của từng cơ quan,
đơn vị trong cụm, khối thi đua; đồng thời đã phân công thành viên Hội đồng
Thi đua - Khen thưởng tỉnh theo dõi hoạt động từng cụm, khối thi đua. Các
cụm, khối thi đua hoạt động tích cực, có nhiều đổi mới, bám sát quy chế và
hướng dẫn của Hội đồng Thi đua Khen thưởng tỉnh nên chất lượng sinh hoạt
ngày càng được nâng cao. Mỗi cụm, khối đều xây dựng tiêu chí chấm điểm
thi đua cụ thể, rõ ràng, làm cơ sở cho việc suy tôn, khen thưởng, đảm bảo sát
đúng; đồng thời, tổ chức ký kết giao ước thi đua, phát động phong trào thi
đua, tổ chức nhiều hoạt động giao lưu văn nghệ, thể thao, trao đổi kinh
nghiệm, cách làm hay, sáng tạo của các đơn vị,... qua đó, đã gắn kết các đơn
vị trong cụm, khối và tạo điều kiện giúp đỡ nhau hoàn thành tốt nhiệm vụ.
51
Công tác xây dựng, bồi dưỡng và nhân rộng điển hình tiên tiến: Nhận
thức rõ công tác phát hiện, bồi dưỡng, tuyên truyền nhân rộng các nhân tố
mới, điển hình tiên tiến là nội dung quan trọng trong tổ chức phong trào thi
đua yêu nước, là nhiệm vụ trọng tâm và phương thức quan trọng nhằm cổ
động, tuyên dương kịp thời các nhân tố mới, điển hình tiên tiến, thi đua thực
hiện thắng lợi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà
nước. UBND tỉnh thường xuyên chỉ đạo các cấp, các ngành tổ chức tốt các
phong trào thi đua, để từ đó phát hiện, bồi dưỡng và nhân các điển hình tiên
tiến, nhân tố mới, gương “người tốt, việc tốt” ở từng ngành, lĩnh vực trở thành
hạt nhân gương mẫu đi đầu trong các phong trào thi đua yêu nước của ngành,
đơn vị, địa phương. Để công tác phát hiện, bồi dưỡng, nhân rộng điển hình
tiên tiến của tỉnh phát huy hiệu quả, tạo động lực mạnh mẽ trong các phong
trào thi đua yêu nước. UBND tỉnh đã tổ chức Lễ phát động Cuộc thi viết về
"gương người tốt, việc tốt" tỉnh Đắk Nông giai đoạn 2011-2015. Cuộc thi đến
nay cơ bản đã kết thúc, Ban Tổ chức đã công nhận và khen thưởng 13 tác
phẩm chất lượng nhất. Bên cạnh đó, UBND tỉnh còn chỉ đạo các cơ quan
thông tin đại chúng tích cực phối hợp với Ban Thi đua – Khen thưởng tỉnh,
các đơn vị có liên quan để tuyên truyền, nêu gương, nhân rộng điển hình tiên
tiến, gương “người tốt, việc tốt” ở các đơn vị, địa phương, trên các ngành,
lĩnh vực cho các tập thể, cá nhân trong toàn tỉnh học tập, làm theo. Ban
TĐKT tỉnh đã phối hợp với Hội Nông dân tỉnh đẩy mạnh phong trào thi đua
yêu nước, tuyên truyền, phát hiện và nhân rộng điển hình tiên tiến của tỉnh
giai đoạn 2014-2018; phối hợp với Đài PTTH tỉnh ký kết chương trình phối
hợp tuyên truyền và đẩy mạnh công tác tuyên truyền phong trào thi đua yêu
nước và nhân rộng điển hình tiên tiến, gương, việc tốt.
Công tác khen thưởng của tỉnh trong những năm qua được thực hiện
kịp thời, đảm bảo các tiêu chuẩn, chặt chẽ, đảm bảo tính dân chủ, công khai,
52
công bằng, đúng người, đúng thành tích. Quan tâm chỉ đạo thực hiện chủ
trương chuyển trọng tâm công tác thi đua, khen thưởng về cơ sở, chú trọng
khen thưởng tập thể nhỏ, công nhân, nông dân; người lao động trực tiếp sản
xuất, kinh doanh; cán bộ, chiến sỹ lực lượng vũ trang; dân quân, tự vệ, công
an xã, bảo vệ dân phố, dân phòng, bảo vệ cơ quan, doanh nghiệp; quan tâm
khen thưởng cơ sở, vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới và vùng dân tộc thiểu
số. Để kịp thời động viên, khuyến khích, ghi nhận những thành tích của các
tập thể, cá nhân đã đạt được trong các phong trào thi đua, từ năm 2011 đến
năm 2016 tỉnh Đắk Nông đã chủ động khen thưởng và trình cấp trên khen
thưởng với kết quả như sau:
- Khen thưởng cấp tỉnh: Cờ thi đua của UBND tỉnh cho 158 tập thể;
Tập thể lao động xuất sắc cho 959 tập thể; Chiến sĩ thi đua cấp tỉnh cho 639
cá nhân, trong đó 133 cá nhân trực tiếp lao động, sản xuất, công tác; Bằng
khen của Chủ tịch UBND tỉnh: 6617 trong đó 4762 cá nhân, khen theo thành
tích, công trạng 1774, khen thưởng đột xuất, chuyên đề 4828, khen thưởng
cho người trực tiếp lao động, sản xuất, công tác 1311.
- Khen thưởng cấp Trung ương:
Khen thưởng thường xuyên: Huân chương độc Lập hạng nhì: 01 tập
thể; Huân chương lao động hạng Nhì: 16 tập thể, cá nhân; Huân chương lao
động hạng Ba: 68 tập thể và cá nhân; Cờ thi đua của Chính phủ: 23 tập thể;
Chiến sỹ thi đua toàn quốc: 13 cá nhân; Bằng khen của Thủ tướng: 143 tập
thể, cá nhân. Phong tặng Danh hiệu vinh dự Nhà nước "Mẹ Việt Nam anh
hùng": 16 mẹ.
Khen thưởng kháng chiến: Huy chương kháng chiến chống Pháp hạng
hạng Nhất: 02 cá nhân; Huân chương kháng chiến chống Mỹ hạng Nhất: 09
cá nhân; Huân chương kháng chiến chống Mỹ hạng Nhì: 159 cá nhân; Huân
chương kháng chiến chống Mỹ hạng Ba: 104 cá nhân; Huy chương kháng
53
chiến chống Mỹ hạng Nhất: 143 cá nhân; Huy chương kháng chiến chống Mỹ
hạng Nhì: 119 cá nhân; Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ: 11 cá nhân.
Phong trào thi đua và công tác bình xét thi đua, khen thưởng trong thời
gian qua của tỉnh có nhiều đổi mới đã làm cho phong trào thi đua yêu nước
ngày càng sôi nổi, thiết thực và rộng khắp trên tất cả các lĩnh vực. Thi đua và
khen thưởng đã có sự gắn kết chặt chẽ hơn, góp phần to lớn vào việc thực
hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng,
an ninh của tỉnh.
2.4. Tác động tích cực của phong trào thi đua đối với sự phát triển
kinh tế - xã hội 5 năm qua
Nhờ tổ chức tốt các phong trào thi đua yêu nước, nên trong giai đoạn
2011 - 2015, tỉnh đã huy động được nhiều nguồn lực, tạo được sức mạnh tổng
hợp và đạt được những thành tựu nổi bật trên tất cả các lĩnh vực:
2.4.1. Trên lĩnh vực kinh tế - xã hội, hạ tầng
Tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt 12,62%, trong đó: Nông nghiệp đạt
9,3%; công nghiệp, xây dựng đạt 16,83%; dịch vụ đạt 14,98%. GRDP bình
quân đầu người đạt 36,48 triệu đồng. Tổng vốn đầu tư toàn xã hội đạt 55,68 tỷ
đồng, tăng 17,3%. Tổng thu ngân sách tăng 10,3%. Kim ngạch xuất khẩu đạt
700 triệu USD, tăng 22,87%. Đảm bảo nguồn nước cho 68% diện tích cây
trồng có nhu cầu tưới. Nhựa hóa 100% đường tuyến tỉnh, 80% đường tuyến
huyện, 100% bon, buôn có từ 1-2 km đường nhựa. 99,5% thôn, bon, buôn có
lưới điện quốc gia, 95% số hộ được sử dụng điện.
2.4.2. Trên lĩnh vực văn hóa - xã hội, khoa học và công nghệ
Tỷ lệ dân số tự nhiên là 1,3%; tỷ lệ tăng dân số bình quân hằng năm là
2,52%; dân số trung bình của tỉnh là 578 nghìn người. Đào tạo nghề cho
24.020 người; giải quyết việc làm cho 88.620 lao động. Tỷ lệ hộ nghèo bình
quân giảm mỗi năm là 3,1% trên tổng số hộ nghèo toàn tỉnh. Tỷ lệ trẻ em
54
dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng là 21%; dân số dủng nước hợp vệ sinh 97%; có
15,1 giường bệnh và 7,3 bác sỹ/1 vạn dân. 100% xã, phường, thị trấn đạt
chuẩn phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ dưới 5 tuổi; mỗi năm có 7/7 trường
đạt chuẩn quốc gia. 75% gia đình; 60% thôn, buôn; 85% cơ quan, đơn vị;
16% xã, phường, thị trấn đạt tiêu chuẩn văn hóa.
2.4.3. Trên lĩnh vực quốc phòng, an ninh, nội chính
Đã huy động được sức mạnh của cả hệ thống chính trị, giữ vững ổn
định chính trị, trật tự an toàn xã hội, không để xảy ra biểu tình, bạo loạn, vượt
biên, xâm nhập biên giới trái phép, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, xây
dựng thế trận quốc phòng an ninh và thế trận lòng dân vững chắc. Công tác
tuyên truyền giáo dục pháp luật được chú trọng, hoạt động của các cơ quan tư
pháp từng bước đổi mới và nâng cao chất lượng. Công tác phòng chống tham
nhũng, lãng phí có chuyển biến tích cực. Kịp thời sửa đổi bổ sung quy chế, lề
lối làm việc trong cả hệ thống chính trị.
2.4.4. Trên lĩnh vực đối ngoại và hội nhập quốc tế
Thực hiện ký kết hợp tác toàn diện với tỉnh Mondulkiri, vương quốc
Camphuchia. Hình thành khá rõ nét các kênh ngoại giao của chính quyền, lực
lượng vũ trang, nhân dân, các tổ chức chính trị - xã hội giữa hai tỉnh. Thực
hiện chủ trương hội nhập quốc tế, đã thu hút thêm 8 dự án ODA với tổng số
vốn là 2.608 tỷ đồng, 4 dự án FDI với tổng vốn đăng ký là 20 triệu USD.
2.4.5. Trên lĩnh vực xây dựng Đảng và hệ thống chính trị
- Công tác xây dựng Đảng
Công tác chính trị, tư tưởng được coi trọng và tăng cường, từng bước
được đổi mới về nội dung, hình thức, dần di vào chiều sâu. Đã tập trung chỉ
đạo, tổ chức thực hiện chỉ thị 03 của Bộ Chính trị về "Học tập và làm theo
tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh", gắn với Nghị quyết Trung ương 4 (khóa
XI) "Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay". Công tác tổ chức
xây dựng đảng được quan tâm đúng mức, đồng bộ, liên tục đạt nhiều kết quả
55
tích cực. Số lượng, chất lượng tổ chức đảng, đội ngũ cán bộ, đảng viên được
nâng lên, có77,2% tổ chức cơ sở Đảng có phát triển đảng viên; 95,3% chi bộ
trực thuộc Đảng bộ xã, phường, trị trấn cso kết nạp đảng viên; 99,1% thôn,
buôn, bon có chi bộ là đảng viên tại chỗ; hằng năm có 58,06% số tổ chức cơ
sở đảng đạt trong sạch, vững mạnh.
- Công tác xây dựng chính quyền
Chất lượng hoạt động của Hội đồng nhân dân các cấp ngày càng được
nâng lên, cơ quan hành chính nhà nước đã được củng cố, toàn diện. Các Nghị
quyết của HĐND ban hành đã cụt thể hóa các chủ trương, đường lối của
Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước trong tình hình thực tế ở địa
phương. Công tác cải cách hành chính đã góp phần cải thiện mối quan hệ giữa
cơ quan hành chính và nhân dân, nhất là ở cơ sở. Chỉ số cải cách hành chính
của tỉnh từ vị trí 45/63 năm 2012 lên vị trí 36/63 năm 2014.
- Hoạt động của Mặt trận tổ quốc và các đoàn thể
Công tác tuyên truyền, vận động quần chúng được tăng cường, dân chủ
được phát huy, tập hợp, đoàn kết rộng rãi và động viên được các tầng lớp
nhân dân tham gia vào các phong trào thi đua yêu nước, các cuộc vận động,
các hoạt động xã hội, mỡ rộng và nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại nhân
dân, tăng cường đoàn kết quốc tế. Mặt trận tổ quốc các cấp và các tổ chức
thành viên đã có nhiều đổi mới trong công tác tập hợp, đoàn kết nhân dân,
bám sát cơ sở, phát huy tốt vai trò của các cá nhân tiêu biểu, người có uy tín
trong các dân tộc, tôn giáo, tri thức, doanh nhân.
Có thể khẳng định rằng, có được kết quả cao trên tất cả các lĩnh vực
trên thì công tác thi đua, khen thưởng đã đóng một vai trò hết sức quan trọng,
đã huy động được nhiều nguồn lực, tạo được sức mạnh tổng hợp để triển khai
và đạt kết nêu trên.
56
2.5. Phân tích thực trạng quản lý nhà nƣớc về thi đua, Khen
thƣởng ở Đắk Nông
2.5.1. Thực hiện và xây dựng các văn bản pháp luật về thi đua,
khen thưởng
Trong 05 năm qua, thực hiện chức năng quản lý nhà nước về TĐKT,
tỉnh Đắk Nông đã tổ chức nhiều hội nghị để quán triệt các nội dung của các
chỉ thị của Đảng, Luật Thi đua, Khen thưởng và các văn bản hướng dẫn Luật
Thi đua, Khen thưởng đến cán bộ chủ chốt của tỉnh, sau đó được triển khai
đến các cơ quan, đơn vị, các đoàn thể quần chúng nhân dân.
Trong 05 năm qua, Tỉnh ủy đã tập trung chỉ đạo triển khai phong trào
thi đua của tỉnh bằng nhiều hình thức, trong đó, ban hành các văn bản chỉ
đạo như: Chỉ thị số 05-CT/TU ngày 04/11/2011 về việc đổi mới, đẩy mạnh
phong trào thi đua yêu nước, phát hiện, bồi dưỡng, tổng kết và nhân điển
hình tiên tiến; Hướng dẫn số 05-HD/TU ngày 24/5/2013 về việc hướng dẫn
các hình thức biểu dương, khen thưởng và tổ chức gặp mặt các tập thể, cá
nhân tiêu biểu, điển hình trong học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ
Chí Minh; Chỉ thị số 20-CT/TU ngày 07/11/2014 về tiếp tục đổi mới công
tác thi đua, khen thưởng.
Song song với sự quan tâm chỉ đạo của Tỉnh ủy, UBND tỉnh đã ban
hành: Chỉ thị số 17/CT-UBND ngày 12/7/2011 về việc phát động phong trào
thi đua thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2011 và
kế hoạch 05 năm (2011-2015); Kế hoạch 150/KH-UBND ngày 27/4/2012 về
việc tổ chức thực hiện phong trào thi đua “Đắk Nông chung sức xây dựng
nông thôn mới”; Kế hoạch số 113/KH-UBND ngày 09/4/2013 về việc tổ chức
hội nghị biểu dương điển hình tiên tiến các cấp, tiến tới tổ chức Hội nghị biểu
dương điên hình tiên tiến - nhân kỷ niệm 10 năm thành lập tỉnh. Quyết định
số 321/QĐ-UBND ngày 09/3/2015 của Ủy ban nhân dân tỉnh về việc kiện tòa
57
Hội đồng Thi đua - Khen thưởng tỉnh. Quyết định số 291/QĐ-UBND ngày
27/2/2015 của Ủy ban nhân dân tỉnh về quy định tổ chức và hoạt động của
cụm, khối thi đua của tỉnh. Đặc biệt, UBND tỉnh đã ban hành 02 quyết định
quy định công tác thi đua, khen thưởng trên địa bàn tỉnh cho phù hợp với đặc
điểm tình hình của tỉnh, cụ thể là: Quyết định 1463/QĐ-UBND, ngày 06
tháng 10 năm 2011 2016 của Ủy ban Nhân dân tỉnh Đắk Nông quy định công
tác TĐKT trên địa bàn tỉnh Đắk Nông và Quyết định 276/QĐ-UBND, ngày
26 tháng 02 năm 2015 của Ủy ban Nhân dân tỉnh Đắk Nông quy định về quản
lý công tác TĐKT trên địa bàn tỉnh Đắk Nông. Quyết định 2246/QĐ-UBND,
ngày 08 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Nhân dân tỉnh Đắk Nông quy định về
xét sáng kiến trên địa bàn tỉnh Đắk Nông; Quyết định số 1122/QĐ-UBND
ngày 04/7/2017 của UBND tỉnh về Quyết định ban hành Quy định khen
thưởng phong trào thi đua ”Đắk Nông chung sức xây dựng nông thôn mới”
giai đoạn 2017 – 2020; Công văn số 2269/UBND-TH ngày 09/9/2009 về việc
phát động phong trào thi đua hướng tới kỷ niệm 1000 năm Thăng Long – Hà
Nội; Quyết định số 2034/QĐ-UBND ngày 23 tháng 11 năm 2016 của UBND
tỉnh về việc ban hành Kế hoạch tổ chức thực hiện phong trào thi đua “Đắk
Nông chung sức xây dựng nông thôn mới” giai đoạn 2016 – 2020…..
Ngoài ra, hàng năm Ủy ban nhân dân Tỉnh ban hành nhiều văn bản chỉ
đạo, tổ chức triển khai thực hiện công tác thi đua, khen thưởng theo đúng tinh
thần chỉ đạo của Trung ương, phù hợp với đặc điểm tình hình của địa phương,
tạo khí thế thi đua sôi nổi, thu hút đông đảo các tầng lớp nhân dân tích cực
hưởng ứng tham gia: Chỉ thị phát động phong trào thi đua; Đăng ký giao ước
thi đua; Quyết định kiện toàn Cụm, Khối thi đua thuộc tỉnh; hướng dẫn tổ
chức hoạt động, bình xét thi đua đối với các Cụm, Khối thi đua thuộc tỉnh;
Văn bản nâng cao chất lượng công tác TĐKT; Quyết định kiện toàn thành
viên Hội đồng Thi đua – Khen thưởng tỉnh; Kế hoạch kiểm tra, giám sát
58
nhiệm vụ công tác TĐKT; hướng dẫn tổng kết công tác TĐKT; kế hoạch tổ
chức hội nghị tổng kết công tác TĐKT và nhiều văn bản chỉ đạo triển khai,
thực hiện khác về công tác TĐKT.
Với việc quan tâm của cấp ủy Đảng, chính quyền của tỉnh Đắk Nông,
nhất là việc ban hành nhiều văn bản chỉ đạo về công tác TĐKT là hành lang
pháp lý để tổ chức và thực hiện các phong trào thi đua cũng như công tác
quản lý nhà nước đạt kết quả tốt.
2.5.2. Về chính sách thi đua, khen thưởng
Nhận thức được ý nghĩa vai trò của chính sách trong thi đua, khen
thưởng một yếu tố quan trọng tạo ra động lực của thi đua, khen thưởng, tỉnh
Đắk Nông đã thực hiện đầy đủ những quy định về chính sách trong công tác
thi đua, khen thưởng.
Xuất phát từ đặc điểm của địa phương, tỉnh Đắk Nông đã có chính
sách cụ thể, thể hiện sự chủ động, vận dụng sáng tạo chính sách chung của
nhà nước vào địa phương, cụ thể là việc ban hành nhiều văn bản để thực hiện
phong trào thi đua và công tác khen thưởng phù hợp với tình hình thực tiễn
của địa phương như: Hướng dẫn số 05-HD/TU ngày 24/5/2013 về việc hướng
dẫn các hình thức biểu dương, khen thưởng và tổ chức gặp mặt các tập thể, cá
nhân tiêu biểu, điển hình trong học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ
Chí Minh; Quyết định 1463/QĐ-UBND, ngày 06 tháng 10 năm 2011 2016
của Ủy ban Nhân dân tỉnh Đắk Nông quy định công tác thi đua, khen thưởng
trên địa bàn tỉnh Đắk Nông và Quyết định 276/QĐ-UBND, ngày 26 tháng 02
năm 2015 2016 của Ủy ban Nhân dân tỉnh Đắk Nông quy định về quản lý
công tác thi đua, khen thưởng trên địa bàn tỉnh Đắk Nông; Quyết định
2246/QĐ-UBND, ngày 08 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Nhân dân tỉnh Đắk
Nông quy định về xét sáng kiến trên địa bàn tỉnh Đắk Nông.
59
Theo Quyết định 276/QĐ-UBND, ngày 26 tháng 02 năm 2015 của Ủy
ban Nhân dân tỉnh Đắk Nông quy định về quản lý công tác thi đua, khen
thưởng trên địa bàn tỉnh Đắk Nông, cụ thể:
Chỉ xét đề nghị tặng thưởng Bằng khen của Chủ tịch UBND tỉnh một
lần đối với khen thưởng theo chuyên đề. Khi xét khen thưởng cuối năm chỉ đề
nghị một hình thức tặng thưởng Bằng khen của Chủ tịch UBND tỉnh hoặc
danh hiệu Chiến sĩ thi đua cấp tỉnh.
Khi tiến hành sơ, tổng kết đợt hoặc chuyên đề thi đua chủ yếu thực hiện
hình thức khen thưởng của cấp phát động thi đua. Chỉ đề nghị Chủ tịch
UBND tỉnh khen thưởng khi tổng kết các phong trào thi đua chuyên đề có xây
dựng tiêu chí thi đua cụ thể và đăng ký thi đua với Hội đồng Thi đua - Khen
thưởng tỉnh. Chủ yếu khen thưởng cho đối tượng trực tiếp lao động sản xuất,
công tác; thực tế từ năm 2011-2016, trong tổng số 6617 tập thể, cá nhân được
Chủ tịch UBND tỉnh tặng Bằng khen thì có 1311 cá nhân, tập thể, chiếm 20%
là tập thể nhỏ, trực tiếp lao động, sản xuất, công tác.
Cá nhân phải được từ 2/3 số phiếu bầu trở lên (bỏ phiếu kín) tính trên
tổng số thành viên của Hội đồng Thi đua - Khen thưởng cấp cơ sở mới đủ
điều kiện công nhận danh hiệu Chiến sĩ thi đua cở sở (nếu thành viên Hội
đồng vắng mặt thì lấy ý kiến bằng phiếu bầu).
Tỷ lệ công nhận danh hiệu Chiến sĩ thi đua cơ sở cho cán bộ quản lý
trong tổng số cá nhân đạt danh hiệu Chiến sĩ thi đua cơ sở của đơn vị quy
định như sau: Đối với cơ quan hành chính: Không quá 50%; Đối với đơn vị
sự nghiệp: Không quá 30%; Đối với doanh nghiệp: Không quá 30%.
Đối với các tập thể thuộc đối tượng xét danh hiệu Tập thể lao động tiên
tiến thì tập thể đó phải đạt danh hiệu Tập thể lao động tiên tiến thì mới công
nhận danh hiệu Chiến sĩ thi đua cơ sở cho cán bộ quản lý.
Trong năm đề nghị xét công nhận danh hiệu Chiến sĩ thi đua cấp tỉnh:
60
- Đối với cá nhân là thủ trưởng các sở, ban, ngành, đoàn thể cấp tỉnh và
tương đương; Lãnh đạo các huyện, thị xã thì đơn vị phải có từ 2/3 số đơn vị
trực thuộc trực tiếp trở lên đạt danh hiệu Tập thể lao động tiên tiến mới xét
công nhận danh hiệu Chiến sĩ thi đua cấp tỉnh.
- Đối với cá nhân giữ chức vụ trưởng các phòng, ban thuộc các sở, ban,
ngành, đoàn thể cấp tỉnh và tương đương, các phòng, ban thuộc huyện, thị xã
thì phòng, ban đó phải đạt danh hiệu Tập thể lao động xuất sắc mới xét công
nhận danh hiệu Chiến sĩ thi đua cấp tỉnh.
- Đối với lãnh đạo các đơn vị kinh tế thì năm đề nghị khen thưởng đơn
vị phải hoàn thành vượt mức toàn diện các chỉ tiêu, kế hoạch sản xuất kinh
doanh. Thực hiện đầy đủ, kịp thời các chế độ chính sách đối với người lao
động và nghĩa vụ đối với nhà nước.
Tỷ lệ đề nghị công nhận danh hiệu Tập thể Lao động xuất sắc không
quá 40% số tập thể đạt danh hiệu Lao động tiên tiến của đơn vị.
Bằng khen của Chủ tịch UBND tỉnh để tặng cho gia đình gương mẫu
chấp hành tốt chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, có
nhiều đóng góp về công sức, đất đai và tài sản cho địa phương, xã hội có giá
trị từ 50 triệu đồng trở lên đối với khu vực nông thôn, có giá trị từ 100 triệu
đồng trở lên đối với khu vực thành thị.
Một số quy định chung về đề nghị Chủ tịch UBND tỉnh tặng thưởng
Bằng khen: Không đề nghị Chủ tịch UBND tỉnh khen thưởng việc thực hiện
luật, pháp lệnh, nghị định hoặc phục vụ hội nghị, hội thảo, diễn đàn; Đối các
phong trào thi đua do các bộ, ban, ngành phát động khi đề nghị Chủ tịch
UBND tỉnh tặng Bằng khen phải có hướng dẫn xét khen thưởng của các bộ,
ban, ngành; Khen thưởng đối ngoại (tập thể, cá nhân có thành tích đóng góp
cho sự phát triển của địa phương): Đối với tập thể, cá nhân người nước ngoài
phải có chủ trương đồng ý của Thường trực Tỉnh ủy; Đối với tập thể, cá nhân
61
trong nước phải có ý kiến của Chủ tịch UBND tỉnh khi đề nghị khen thưởng;
Chỉ xét đề nghị Chủ tịch UBND tỉnh khen thưởng nhân kỷ niệm ngày thành
lập, ngày truyền thống các cơ quan, tổ chức, đơn vị khi có Chủ trương đồng ý
của Tỉnh ủy hoặc UBND dân tỉnh và thời gian đề nghị tính theo mốc là 5 hoặc
10 năm; Khi xét khen thưởng chuyên đề, chủ yếu khen tập thể nhỏ và cá nhân
trực tiếp thực hiện chuyên đề. Đối với cán bộ lãnh đạo tham gia trong Ban chỉ
đạo hoặc Ban tổ chức thì không xét khen thưởng mà thành tích được tính
chung vào nhiệm vụ để xét khen thưởng cuối năm.
Bằng khen của Chủ tịch UBND tỉnh tặng cho các tập thể và cá nhân đạt
một trong các thành tích sau:
- Các sở, ban, ngành, đoàn thể cấp tỉnh và tương đương được Tỉnh ủy,
Ủy ban nhân dân tỉnh công nhận hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ hàng năm.
- Các giáo viên, học sinh đạt thành tích cao tại các kỳ thi cấp tỉnh, khu
vực, quốc gia và quốc tế, cụ thể: Học sinh đạt giải tại các kỳ thi quốc tế, kỳ thi
học sinh giỏi Quốc gia; Học sinh đạt giải Nhất, Nhì, Ba các kỳ thi trên
Internet: IOE, Violympic cấp quốc gia; Học sinh đạt giải Nhất kỳ thi chọn học
sinh giỏi cấp tỉnh các môn văn hóa đối với cấp THPT, THCS; đối với học
sinh là dân tộc thiểu số đạt giải Nhất, Nhì, Ba; Giáo viên đạt danh hiệu giáo
viên dạy giỏi cấp quốc gia các môn văn hóa.
- Các tập thể, cá nhân trong tỉnh đạt thành tích tại các hội thi, hội diễn,
giải thi đấu cấp khu vực, quốc gia và quốc tế, cụ thể: Cá nhân đạt huy chương
vàng, bạc, đồng trong các cuộc thi quốc tế; Cá nhân đạt huy chương vàng,
bạc, đồng tại Đại hội Thể dục thể thao toàn quốc; Cá nhân đạt huy chương
vàng, bạc tại giải vô địch quốc gia (nằm trong hệ thống chương trình thi đấu
giải quốc gia); Cá nhân đạt huy chương vàng, bạc, đồng tại giải thể thao dành
cho người khuyết tật toàn quốc; Tập thể giải nhất, nhì toàn đoàn; cá nhân đạt
huy chương vàng tại Đại hội thể thao các dân tộc thiểu số toàn quốc; Tập thể
62
đạt giải nhất, nhì, ba toàn đoàn tại Đại hội thể dục thể thao cấp tỉnh; Giải nhất,
nhì, ba toàn đoàn (hoặc giải A, B. C) cho tập thể; Huy chương vàng, bạc,
đồng (hoặc giải A, B, C) và giải Đạo diễn, diễn viên, tuyên truyền viên xuất
sắc cho cá nhân tại Hội thi, Hội diễn, Liên hoan cấp quốc tế; Giải nhất toàn
đoàn (hoặc giải A) cho tập thể; Huy chương vàng (hoặc giải A) và giải Đạo
diễn, diễn viên, tuyên truyền viên xuất sắc cho cá nhân tại Hội thi, Hội diễn,
Liên hoan cấp quốc gia.
- Các Doanh nghiệp và Doanh nhân tiêu biểu hàng năm.
- Các tập thể, cá nhân tiêu biểu đạt nhiều thành tích xuất sắc trong công
tác thu, nộp ngân sách nhà nước hàng năm. Ban Thi đua - Khen thưởng tỉnh
phối hợp với Sở Kế hoạch và Đầu tư, Sở Lao động, Thương binh và Xã hội,
Hiệp hội các doanh nghiệp tỉnh xây dựng quy chế khen thưởng cho các Doanh
nghiệp và Doanh nhân tiêu biểu hàng năm. Ban Thi đua - Khen thưởng tỉnh
phối hợp Cục thuế tỉnh xây dựng quy chế khen thưởng cho các tập thể, cá
nhân tiêu biểu đạt nhiều thành tích xuất sắc trong công tác thu, nộp ngân sách
nhà nước hàng năm.
Với việc xây dựng và thực hiện các chính sách về thi đua, khen thưởng
khá toàn diện ở các lĩnh vực đã góp phần tạo động lực thi đua trong các tầng
lớp nhân dân.
Tuy nhiên, việc thực hiện chưa tốt chính sách sau khen thưởng, đồng
thời hiệu quả của việc gắn kết quả TĐKT với các chính sách có ảnh hưởng
trực tiếp đến quyền lợi người được khen thưởng còn thấp như: bổ nhiệm, đề
bạt và các chế độ đãi ngộ khác nên chưa tạo được sức hấp dẫn cho mọi người.
2.5.3. Tuyên truyền, phổ biến, hướng dẫn và tổ chức thực hiện các
quy định của pháp luật về Thi đua, khen thưởng
Trong thời gian qua, công tác tuyên truyền, phổ biến hướng dẫn và
tổ chức thực hiện các quy định của pháp luật về TĐKT được tỉnh quan tâm,
63
mỗi khi có văn bản mới về pháp luật TĐKT Trung ương hoặc của tỉnh,
Tỉnh đã kịp thời chỉ đạo Hội đồng Phổ biến giáo dục pháp luật của tỉnh,
Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy ban hành kế hoạch tuyên truyền, tổ chức phổ biến,
hướng dẫn cho cán bộ chủ chốt của tỉnh và sau đó là đội ngũ cán bộ, công
chức cấp tỉnh đồng thời chỉ đạo các đơn vị, địa phương tổ chức tuyên
truyền, phổ biến hướng dẫn đến tận cơ sở và nhân dân tùy theo yêu cầu đối
tượng vận động, thực hiện. Ngoài việc tuyên truyền phổ biến, hướng dẫn
thông qua các cơ quan thông tin đại chúng như: Đài Phát thanh - Truyền
hình Đắk Nông, Báo Đắk Nông, cổng thông tin điện tử tỉnh, hệ thống trang
Website các đơn vị; hệ thống phát thanh địa phương, các ấn phẩm tuyên
truyền... các sở, ban ngành, đoàn thể của tỉnh còn tổ chức tuyên truyền, phổ
biến và hướng dẫn theo ngành dọc của mình đến tận đối tượng cần phổ
biến. Ngoài việc tuyên truyền các mô hình, điển hình tiêu biểu của các
phong trào thi đua, cũng đã tuyên truyền, phổ biến các nội dung về các văn
bản pháp luật về TĐKT, cũng như các chính sách mới về TĐKT cho hàng
vạn lượt người dân được biết.
Tỉnh đã có những hướng dẫn rất cụ thể trong việc thực hiện các văn bản
pháp luật về TĐKT. Ngoài những văn bản hướng dẫn, chỉ đạo chung còn có
những văn bản hướng dẫn cụ thể về nghiệp vụ như: Ban hành hướng dẫn,
mẫu báo cáo, mẫu biểu thống kê...
Trên cơ sở tuyên truyền phổ biến quán triệt, tỉnh rất coi trọng việc tổ
chức thực hiện các quy định của pháp luật về TĐKT chẳng hạn trong công tác
thi đua, tỉnh đã yêu cầu các ngành các cấp, các huyện, thị xã thuộc tỉnh cụ thể
hóa mục tiêu thi đua, tiêu chuẩn thi đua và chấm điểm thi đua đối với ngành,
huyện, thị xã; xã, phường, thị trấn, các trường học...
64
Đối với công tác khen thưởng, tỉnh đã có những quy định cụ thể hóa về
nguyên tắc, đối tượng, tiêu chuẩn, hình thức, thủ tục, hồ sơ quy trình xét khen
thưởng và đã chỉ đạo áp dụng thống nhất trong toàn tỉnh.
Nhìn chung, tỉnh Đắk Nông đã làm khá tốt công tác tuyên truyền phổ
biến, hướng dẫn và tổ chức thực hiện, đã gắn hai khâu tuyên truyền và tổ chức
thực hiện với nhau do vậy các văn bản quy định của pháp luật về TĐKTđã
được triển khai một cách nghiêm túc và bước đầu có hiệu quả.
Tuy nhiên, vẫn còn tình trạng coi nhẹ công tác tuyên truyền, phổ biến,
hướng dẫn và tổ chức thực hiện các quy định của pháp luật về TĐKT chỉ làm
mùa vụ mà không làm thường xuyên; có nhiều đơn vị chưa quan tâm đúng
mức đến việc phát hiện, xây dựng mô hình, nhân tố mới, còn lúng lúng trong
phương pháp bồi dưỡng, tôn vinh và nhân rộng điển hình tiên tiến nên đã làm
giảm phần nào hiệu quả công tác TĐKT.
2.5.4. Công tác thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại tố cáo xử lý
vi phạm pháp luật về thi đua khen thưởng
Xác định công tác thanh tra, kiểm tra là hết sức cần thiết trong công tác
lãnh đạo, chỉ đạo nói chung và thanh tra, kiểm tra việc thực hiện công tác
TĐKT nói riêng. Hàng năm, Hội đồng Thi đua - Khen thưởng tỉnh ban hành
quyết định thành lập các đoàn thanh tra, kiểm tra do Thành viên Hội đồng Thi
đua - Khen thưởng tỉnh làm trưởng đoàn để kiểm tra việc tổ chức, triển khai
thực hiện các Chỉ thị của Bộ Chính trị, Chỉ thị của Tỉnh ủy về công tác
TĐKT; thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về công tác TĐKT các băn
bản hướng dẫn thi hành luật, các quy định, chính sách của nhà nước về
TĐKT; việc xây dựng và cách thức tổ chức đăng ký, phát động, công tác
tuyên truyền các phong trào thi đua của đơn vị; việc đăng ký thi đua và các
danh hiệu thi đua; công tác xây dựng, bồi dưỡng, biểu dương khen thưởng và
nhân rộng điển hình tiên tiến; kết quả công tác khen thưởng thường xuyên,
65
chuyên đề, đột xuất; tình hình hoạt động và quy trình xét sáng kiến của Hội
đồng xét duyệt sáng kiến; tình hình hoạt động của Hội đồng Thi đua - Khen
thưởng; việc củng cố, kiện toàn, sắp xếp cán bộ làm công tác TĐKT; Quy
trình xét khen thưởng của Hội đồng Thi đua - Khen thưởng cơ sở. Sau khi
kiểm tra, thanh tra đều có kết luận ở từng đơn vị, từng ngành, từng cấp trong
việc thực hiện chính sách khen thưởng đã giúp Hội đồng Thi đua - Khen
thưởng tỉnh nắm tình hình triển khai, thực hiện các Chỉ thị của Đảng, các quy
định về chính sách khen thưởng được quy định cụ thể trong Luật Thi đua,
Khen thưởng và các văn bản chỉ đạo của Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân Tỉnh về
công tác TĐKT; Từ công tác thanh tra, kiểm tra phát hiện những hạn chế, từ
đó đề ra các biện pháp, giải pháp tiếp tục nâng cao nhận thức, đẩy mạnh công
tác tuyên truyền, vận động các tầng lớp nhân dân tham gia các phong trào thi
đua, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị và nâng cao chất lượng công tác
khen thưởng ở các đơn vị, địa phương. Phát hiện những vấn đề khó khăn,
vướng mắc trong tổ chức, chỉ đạo, thực hiện nhiệm vụ công tác thi đua, khen
thưởng; đề xuất những nội dung về các cơ chế chính sách, các quy định hiện
hành về công tác thi đua, khen thưởng; xem xét, đề xuất giải quyết những
trường hợp vi phạm pháp luật về thi đua, khen thưởng. Đồng thời, qua thanh
tra, kiểm tra phát hiện các mô hình, cách làm hay, điển hình tiên tiến trong
các phong trào thi đua yêu nước để kịp thời biểu dương, khen thưởng, bồi
dưỡng, nhân rộng,… nhằm thúc đẩy, cổ vũ phong trào thi đua lan tỏa rộng
khắp trong xã hội.
Việc thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại tố cáo xử lý vi phạm pháp
luật về thi đua khen thưởng ở tỉnh Đăk Nông bước đầu đạt những kết quả nhất
định, đã giúp các đơn vị, địa phương thực hiện tốt hơn trong chỉ đạo và thực
hiện công tác TĐKT, đảm bảo được nguyên tắc của thi đua là tự nguyện, tự
giác và nguyên tắc khen thưởng là chính xác, công khai, công bằng và kịp thời.
66
Tuy nhiên, công tác thanh tra, kiểm tra về TĐKT vẫn còn hình thức,
quy trình và chất lượng thanh tra chưa cao; ở cấp huyện chưa thực hiện tốt
công tác này dẫn đến đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân thường gửi vượt
cấp về tỉnh.
2.5.5. Tổ chức bộ máy và công tác đào tạo bồi dưỡng cán bộ, công
chức làm công tác thi đua, khen thưởng
Hệ thống tổ chức, bộ máy làm công tác TĐKT và quy định chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của cơ quan quản lý nhà nước về
TĐKT được Chính phủ quy định và quản lý rất chặt chẽ.
Đối với cấp tỉnh là:
*Ban Thi đua - Khen thưởng tỉnh
Tỉnh Đắk Nông được thành lập ngày 01/01/2004, từ ngày thành lập tỉnh
bộ máy làm công tác TĐKTcủa tỉnh là phòng TĐKT trực thuộc Văn phòng
UBND tỉnh. Từ năm 2008 đến nay, thực hiện chủ trương của Bộ Chính trị,
Ban Thi đua - Khen thưởng Trung ương sáp nhập vào Bộ Nội vụ; ở cấp tỉnh
thực hiện theo Nghị định số 13/2008/NĐ-CP ngày 04/02/2008 của Chính phủ
về quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương, theo đó, Phòng Thi đua - Khen thưởng tỉnh được sáp
nhập vào Sở Nội vụ. Ban Thi đua - Khen thưởng tỉnh được thành lập theo
Quyết định số 1412/QĐ-UBND ngày 15/9/2009 của UBND tỉnh về việc thành
lập, quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ban Thi
đua - Khen thưởng trực thuộc Sở Nội vụ tỉnh Đắk Nông. Ban Thi đua - Khen
thưởng tỉnh Đắk Nông hiện có 02 phòng: phòng Nghiệp vụ và phòng Hành
chính - Tổng hợp với tổng số cán bộ, công chức là 14 người, Ban lãnh đạo
gồm 01 Trưởng ban và 02 Phó Trưởng ban.
Ban Thi đua - Khen thưởng tỉnh là tổ chức tương đương Chi cục trực
thuộc Sở Nội vụ, giúp Giám đốc Sở Nội vụ tham mưu cho UBND tỉnh quản
67
lý nhà nước về công tác TĐKT trên địa bàn tỉnh. Chịu sự chỉ đạo, quản lý về
tổ chức, biên chế và hoạt động của Sở Nội vụ; đồng thời chịu sự hướng dẫn
về chuyên môn, nghiệp vụ của Ban Thi đua - Khen thưởng Trung ương.
Ban Thi đua - Khen thưởng (tương đương chi cục) có tư cách pháp
nhân, có con dấu và tài khoản riêng, biên chế, kinh phí hoạt động do ngân
sách Nhà nước cấp theo quy định của pháp luật.
Ban Thi đua - Khen thưởng tỉnh có chức năng giúp Giám đốc Sở Nội
vụ thực hiện quản lý nhà nước về TĐKT trên địa bàn tỉnh Đắk Nông và thực
hiện 14 nhiệm vụ, cụ thể như sau:
- Tham mưu cấp có thẩm quyền chỉ đạo, thống nhất quản lý nhà nước
công tác TĐKT; cụ thể hóa chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của
Nhà nước về TĐKT phù hợp với tình hình của tỉnh;
- Tham mưu giúp Giám đốc Sở Nội vụ trình cấp có thẩm quyền ban
hành các quyết định, chỉ thị và chương trình, giải pháp, biện pháp huy động,
phối hợp liên ngành trong lĩnh vực TĐKT.
- Giúp Giấm đốc Sở Nội vụ hướng dẫn, kiểm tra, giám sát và chịu trách
nhiệm tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật, chính sách, chiến
lược, quy hoạch, kế hoạch, các chương trình mục tiêu, chương trình hành
động về TĐKT sau khi được phê duyệt.
- Làm nhiệm vụ Thường trực Hội đồng Thi đua - Khen thưởng tỉnh.
- Xây dựng chương trình, kế hoạch, nội dung thi đua, khen thưởng cho
từng thời kỳ, từng lĩnh vực nhằm thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển
kinh tế - xa hội, quốc phòng - an ninh trên địa bàn tỉnh.
- Giúp UBND tỉnh tổ chức các phong trào thi đua và thực hiện chính
sách khen thưởng.
68
- Tuyên truyền, phổ biến, hướng dẫn; tổ chức kiểm tra, đôn đốc các
sở, ban, ngành cấp tỉnh; UBND các huyện, thị xã thực hiện công tác thi
đua, khen thưởng.
- Giúp UBND tỉnh sơ kết, tổng kết, phát hiện điển hình, đúc rút và phổ
biến kinh nghiệm, nhân rộng phong trào thi đua và các điển hình tiên tiến;
kiến nghị đổi mới công tác thi đua, khen thưởng; xem xét, thẩm định, đề xuất
các hình thức khen thưởng đảm bảo chính xác, kịp thời theo đúng quy định
của pháp luật.
- Tổ chức bồi dưỡng về các chủ trương chính sách, nâng cao trình độ
chuyên môn nghiệp vụ về thi đua, khen thưởng cho cán bộ, công chức làm
công tác thi đua, khen thưởng.
- Kiểm tra việc thực hiện các quy định về chính sách khen thưởng;
tham gia giải quyết khiếu nại, tố cáo về công tác thi đua, khen thưởng.
- Xây dựng và Quản lý Quỹ thi đua, khen thưởng theo quy định của
pháp luật.
- Xây dựng và quản lý, cấp phát, thu hồi, cấp đổi hiện vật khen thưởng
theo phân cấp; tham mưu tổ chức thực hiện việc trao tặng, đón nhận các hình
thức khen thưởng theo quy định của pháp luật.
- Tổ chức nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học ký thuật, xây dựng hệ
thống thông tin, lưu trữ phục vụ công tác TĐKT.
- Thực hiện một số nhiệm vụ khác do UBND tỉnh giao
* Hội đồng Thi đua - Khen thưởng tỉnh:
Hội đồng Thi đua – Khen thưởng tỉnh được kiện toàn theo Quyết
định số 321/QĐ-UBND ngày 09/3/2015, Quyết định số 1608/QĐ-UBND
ngày 21/10/2015 và Quyết định số 734/QĐ-UBND ngày 04/5/2017 của
UBND tỉnh Đắk Nông gồm 22 thành viên. Chủ tịch UBND tỉnh là Chủ
69
tịch Hội đồng, Trưởng Ban Thi đua – Khen thưởng tỉnh là Phó Chủ tịch
Thường trực.
Ở các sở, ban, ngành, đoàn thể cấp tỉnh
Từ khi có Nghị định 122/2005/NĐ-CP ngày 04/10/2005 của Chính phủ
quy định tổ chức làm công tác TĐKT, đặc biệt là khi Ban Thi đua - Khen
thưởng tỉnh được thành lập từ năm 2009 đến nay, tổ chức làm công tác TĐKT
ở các Sở, ban, ngành, đoàn thể cấp tỉnh cơ bản được ổn định, được bố trí
trong Văn phòng hoặc Phòng Tổ chức cán bộ của đơn vị; các đơn vị đã cử 01
công chức kiêm nhiệm làm tham mưu, giúp việc cho Thủ trưởng cơ quan về
lĩnh vực thi đua, khen thưởng.
Đối với các huyện, thị xã; UBND cấp xã: Cùng với sự biến động
trong tổ chức làm công tác TĐKT từ trung ương đến địa phương, công tác thi
đua, khen thưởng ở các huyện, thị xã chuyển nguyên trạng từ Văn phòng
UBND cấp huyện về Phòng Nội vụ cùng cấp, với biên chế từ 01 - 02 công
chức. Các huyện, thị xã đã kịp thời kiện toàn lại Hội đồng Thi đua - Khen
thưởng; cử 01 phó Trưởng phòng phụ trách công tác thi đua - khen thưởng.
Ủy ban nhân dân cấp xã không có cán bộ biên chế chuyên trách TĐKT
mà bố trí công chức Văn phòng hoặc Văn hóa - Xã hội kiêm nhiệm.
Về công tác, đào tạo, bồi dưỡng CB,CC: Mặc dù nhà nước chưa có
trường đào tạo nghiệp vụ về TĐKT, nhưng hàng năm tỉnh vẫn quan tâm cử
cán bộ chuyên trách công tác TĐKT của Ban Thi đua - Khen thưởng tỉnh và
cán bộ làm công tác TĐKT ở các huyện, thị xã đi đào tạo, bồi dưỡng do Ban
Thi đua - Khen thưởng Trung ương tổ chức; ngoài ra để nâng cao năng lực
hoạt động, công tác và đủ yêu cầu về trình độ theo ngạch công chức, tỉnh
cũng đã quan tâm, tạo điều điều kiện cử cán bộ chuyên trách công tác TĐKT
ở các sở, ban, ngành, đoàn thể cấp tỉnh; các huyện, thị xã đi tham gia các khóa
học như: lý luận chính trị, quản lý hành chính nhà nước, chuyên môn, ngoại
70
ngữ, tin học và những lớp ngắn hạn tại Trường Chính trị tỉnh tổ chức để bồi
dưỡng chuyên môn nghiệp vụ.
Hàng năm, Ban Thi đua - Khen thưởng tỉnh đã tổ chức nhiều đợt tập huấn
nghiệp vụ cho cán bộ, công chức làm công tác TĐKT các huyện, thị xã, sở, ban,
ngành, đoàn thể cấp tỉnh, các doanh nghiệp đóng trên địa bàn tỉnh. Chỉ đạo các
huyện, thị xã tổ chức các lớp tập huấn nghiệp vụ cho cán bộ, công chức làm công tác
TĐKT các xã, phường, thị trấn; các trường học thuộc ngành Giáo dục & Đào tạo.
Kết quả trong 05 năm (từ năm 2011 đến năm 2016) tỉnh đã mở được 6
lớp bồi dưỡng nghiệp vụ về công tác TĐKT, mỗi lớp trung bình 100 cán bộ,
công chức tham gia.
Nội dung tập huấn tập trung vào nghiên cứu các chủ trương, đường lối
của Đảng, tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về thi đua yêu nước, Luật Thi
đua, Khen thưởng và các văn bản pháp luật về thi đua, khen thưởng, các bài
thực hành về cách thức thể hiện một báo cáo thành tích, thực hành nghi thức
trao thưởng, giải đáp những khó khăn, chưa hiểu trong quá trình làm công tác
TĐKT…Với sự quan tâm của tỉnh trong công tác đào tạo bồi dưỡng và tinh
thần học tập, sáng tạo đã góp phần nâng cao được trình độ năng lực hoạt động
của đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác TĐKT, tạo điều kiện cho đội ngũ
này hoàn thành được nhiệm vụ được giao, góp phần đắc lực công tác tham
mưu cho các đơn vị, địa phương.
Tuy nhiên, ở một số đơn vị, địa phương vẫn chưa quan tâm đến công tác
đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ về công tác TĐKT, chưa bố trí cán bộ, công chức
kiêm nhiệm công tác này dẫn đến khi tham mưu gặp nhiều khó khăn, hạn chế.
2.5.6. Sơ kết, tổng kết phong trào thi đua và thực hiện công tác
khen thưởng
Việc sơ kết, tổng kết, đánh giá hiệu quả các phong trào thi đua và thực
hiện công tác khen thưởng thành tích phong trào thi đua là một nội dung quan
71
trọng trong công tác quản lý nhà nước về TĐKT. Tỉnh Đắk Nông đã nhận
thức đầy đủ được tầm quan trọng và trách nhiệm của các cấp, các ngành đối
với công tác này trong quá trình thực hiện quản lý, tỉnh rất quan tâm đế việc
quán triệt mục đích, yêu cầu sơ kết, tổng kết. Vì vậy, từ lúc thành lập tỉnh
đến nay đã tổ chưc 03 lần Đại hội thi đua yêu nước và hàng năm đều tổ chức
tổng kết phong trào thi đua, công tác khen thưởng qua đó đánh giá kết quả
việc tổ chức triển khai thực hiện các phong trào thi đua, công tác khen thưởng
trong toàn tỉnh; biểu dương các tập thể cá nhân có thành tích trong phong trào
thi đua; rút kinh nghiệm, chỉ ra những mặt còn tồn tại hạn chế để đưa ra giải
pháp khắc phục cho những năm tiếp theo; biểu dương, ghi nhận những cách
làm hay, những mô hình mới, những sáng kiến kinh nghiệm trong các lĩnh
vực để nhân rộng học tập và làm theo.
Hàng năm, Hội đồng TĐKT tỉnh chỉ đạo các Cụm, khối thi đua tiến
hành tổ chức sơ, tổng kết nhằm đánh giá kết quả thực hiện các chỉ tiêu thi đua
đã đăng ký, các biện pháp triển khai công tác TĐKT; trao đổi nghiệp vụ công
tác TĐKT và giao lưu gặp gỡ, học tập các mô hình mới, các điển hình tiên
tiến. Bên cạnh đó, các Cụm, Khối thi đua còn tổ chức các hoạt động giao lưu
văn hóa, văn nghệ, thể dục, thể thao, trao đổi chuyên môn nghiệp vụ, học tập
kinh nghiệm, cách làm hiệu quả... để giao lưu học hỏi, tăng cường đoàn kết,
nâng cao chất lượng hoạt động của Cụm, Khối
Hàng năm, trên cơ sở Hội đồng Thi đua-Khen thưởng tỉnh đã có hướng
dẫn về tiêu chuẩn, cơ cấu số lượng khen thưởng; trình tự thủ tục hồ sơ khen
thưởng. Trên cơ sở đó, các sở, ban, ngành, ủy ban nhân dân các huyện, thị xã
tiếp tục cụ thể hóa hướng dẫn đến các đơn vị trực thuộc để thống nhất thực hiện.
Việc bình xét khen thưởng được thực hiện dựa trên kết quả đăng ký thi đua đầu
năm và kết quả công tác đạt được; bám sát các tiêu chí tiêu chuẩn theo quy định
của Luật Thi đua, Khen thưởng và các văn bản hướng dẫn thi hành đối với từng
72
danh hiệu thi đua và hình thức khen thưởng của từng tập thể, cá nhân. Hội đồng
Thi đua, Khen thưởng các cấp tiến hành xét khen thưởng đảm bảo khách quan,
dân chủ, công bằng. Những năm gần đây công tác khen thưởng đã có nhiều đổi
mới, đã quy định cụ thể tỷ lệ phần trăm cho từng đối tượng khen thưởng, vì vậy
tăng cường khen thưởng các tập thể, cá nhân trực tiếp lao động sản xuất, công
tác, khen đột xuất, khen chuyên đề, tỷ lệ khen thưởng người lao động trực tiếp
tăng dần theo từng năm, qua đó tạo động lực lôi cuốn, khuyến khích mọi người,
mọi ngành tích cực tham gia các phong trào thi đua.
2.6. Đánh giá thực trạng quản lý nhà nƣớc đối với thi đua khen
thƣởng ở tỉnh Đắk Nông
2.6.1. Về ưu điểm
Trong giai đoạn 2011 - 2016, công tác quản lý nhà nước về TĐKT trên
địa bàn tỉnh Đắk Nông đã được các cấp ủy Đảng, lãnh đạo chính quyền các cấp
quan tâm, lãnh đạo, chỉ đạo; Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân đã có
sự phối hợp chặt chẽ trong công tác tuyên truyền, vận động và chỉ đạo phong
trào thi đua; Các phong trào thi đua đã được phát động đến từng đơn vị, địa
phương với nhiều hình thức, nội dung phong phú, tiêu chí cụ thể. Thu hút được
đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia hưởng ứng tích cực và phát huy có
hiệu quả. Các phong trào thi đua yêu nước trong 5 năm qua đã bám sát nhiệm
vụ chính trị, những mục tiêu kinh tế - xã hội trọng tâm của tỉnh, của các ngành,
các địa phương, đơn vị; các phong trào thi đua đã được gắn kết với việc “Học
tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” và phong trào thi đua “Đắk
Nông chung tay xây dựng nông thôn mới”. Các phong trào thi đua thực sự thu
hút hưởng ứng nhiệt tình của các tầng lớp nhân dân trên địa bàn tỉnh, đã khơi
dậy, động viên và tập hợp được sức mạnh của cả hệ thống chính trị, phát huy
được sự năng động, sáng tạo của các tầng lớp nhân dân làm tăng thêm niềm tin
của nhân dân đối với Đảng, trở thành động lực, biện pháp quản lý hữu hiệu,
73
góp phần tích cực vào việc thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ phát triển kinh tế -
xã hội, quốc phòng, an ninh và từng bước cải thiện đời sống nhân dân.
Công tác tổ chức quán triệt và triển khai các Chỉ thị của Đảng; các văn
bản pháp lý về TĐKT, cũng như các văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn về
TĐKT được thực hiện cơ bản nghiêm túc và đạt được kết quả đáng kể.
Công tác khen thưởng được chỉ đạo thực hiện kịp thời, nghiêm túc, chặt
chẽ, đảm bảo khen thưởng đúng người, đúng thành tích. Đã quan tâm khen
thưởng nhiều hơn các trường hợp lập thành tích đột xuất, người trực tiếp lao
động sản xuất. Đã khẩn trương trình cấp trên khen thưởng các cá nhân có thành
tích tham gia kháng chiến chống Pháp, Mỹ. Thi đua, khen thưởng đã có sự gắn
kết chặt chẽ hơn, thông qua các phong trào thi đua đã xuất hiện nhiều mô hình
mới, nhân tố mới, nhiều điển hình tiên tiến xuất sắc, có tính sáng tạo được biểu
dương và nhân rộng.
Việc tuyên truyền, biểu dương nhân rộng các điển hình tiên tiến, gương
người tốt việc tốt được chú trọng. Hội đồng Thi đua - Khen thưởng, Hội đồng
Khoa học, Sáng kiến của các địa phương, đơn vị đã được thành lập và đi vào
hoạt động có nề nếp. Bộ máy cán bộ làm công tác TĐKT trên địa bàn tỉnh được
kiện toàn và cơ bản ổn định. Công tác tập huấn nghiệp vụ cho cán bộ làm công
tác TĐKT ở các đơn vị, địa phương thuộc cấp huyện đã được quan tâm triển
khai. Công tác thanh tra, kiểm tra và giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo, giải
đáp những kiến nghị của công dân về chế độ, chính sách khen thưởng đã có
những cố gắng tích cực.Việc sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm các phong trào
thi đua luôn được chú trọng.
2.6.2. Nguyên nhân ưu điểm
Công tác thi đua, khen thưởng đã tác động tích cực vào sự phát triển
kinh tế - xã hội của tỉnh Đắk Nông. Đạt được thành tích trên trước hết bắt
nguồn từ việc thực hiện đúng đắn chủ trương đường lối, quan điểm của
74
Đảng, pháp luật, chính sách của nhà nước về TĐKT; sự lãnh đạo, chỉ đạo
của Trung ương Đảng, Quốc hội, Chính phủ, các bộ, ngành, đoàn thể
Trung ương; sự lãnh đạo, chỉ đạo sát đúng của Tỉnh uỷ, Hội đồng nhân
dân, UBND tỉnh và sự nỗ lực phấn đấu của các cấp, các ngành, các đơn vị
cơ sở. Đó còn là biểu hiện của tinh thần thi đua yêu nước, truyền thống
đoàn kết, khắc phục khó khăn, tinh thần lao động cần cù, thông minh,
sáng tạo của nhân dân, cán bộ, chiến sỹ toàn tỉnh trong đó có những nhân
tố mới, những điển hình tiên tiến làm nòng cốt trong phong trào thi đua.
Đồng thời còn có sự đóng góp không nhỏ của cơ quan và cán bộ công
chức làm công tác quản lý nhà nước về TĐKT trên địa bàn tỉnh.
2.6.3. Về tồn tại
Bên cạnh những ưu điểm trên, công tác quản lý nhà nước về TĐKT
trên địa bàn tỉnh Đắk Nông còn có những nhược điểm, hạn chế đó là:
Một số chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước về
thi đua, khen thưởng chậm triển khai đồng bộ tới cơ sở; Luật Thi đua, Khen
thưởng và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật chưa được quán triệt đầy đủ,
nhiều thay đổi nên trong thực hiện, vận dụng còn nhiều vướng mắc, lúng túng
và chồng chéo.
Nhận thức về ý nghĩa, vai trò, vị trí và tầm quan trọng của công tác thi
đua, khen thưởng trong một số cấp ủy Đảng, chính quyền, đoàn thể và một bộ
phận cán bộ chủ chốt ở cơ sở còn hạn chế, chưa quán triệt sâu sắc chủ trương,
chính sách của Đảng và Nhà nước về đổi mới công tác thi đua, khen thưởng.
Công tác chỉ đạo, tổ chức phong trào thi đua yêu nước ở một số đơn vị,
địa phương chưa đi vào thực chất, chưa thường xuyên, còn nặng về sơ kết,
tổng kết, hiệu quả chưa cao, triển khai phong trào thi đua còn mang tính hình
thức, chưa hướng thi đua vào tập trung giải quyết những nhiệm vụ trọng tâm
75
và đột xuất. Nhiều lãnh đạo ở các đơn vị, địa phương chưa quan tâm và nhận
thức được tầm quan trọng của thi đua, khen thưởng.
Chất lượng thẩm định các hình thức khen thưởng tuy có được nâng lên,
nhưng vẫn còn biểu hiện nể nang, cào bằng; thẩm định chủ yếu dựa trên căn cứ
hồ sơ trình khen thưởng là chủ yếu, chưa có nhiều canh thông tin để xác minh,
đối chiếu. Trong bình xét, khen thưởng, tỷ lệ khen thưởng cho cá nhân là cán
bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý vẫn còn cao hơn so với người lao động trực tiếp.
Việc xác định tiêu chuẩn thi đua vẫn còn lúng túng, bình xét khen thưởng vẫn
còn nhiều điều bất cập chưa đảm bảo tính tiêu biểu, nêu gương và giáo dục.
Chưa khen thưởng được nhiều cho đối tượng là công nhân, nông dân, đồng bào
dân tộc thiểu số tại chỗ
Công tác lãnh đạo, chỉ đạo phong trào thi đua và tổ chức thực hiện chưa
đi vào nền nếp. Nhiều nơi khi tổ chức phát động thi đua làm rầm rộ nhưng sau
đó lại không tích cực triển khai thực hiện dẫn đến tình trạng phong trào “có
phát mà không động”. Việc kiểm tra, đôn đốc phong trào chưa thực hiện
thường xuyên; công tác sơ kết, tổng kết chưa đi sâu phân tích các nguyên
nhân hạn chế để tìm các giải pháp hữu hiệu, còn nặng về hình thức theo kiểu
báo cáo thành tích. Một số địa phương, đơn vị có phong trào thi đua tốt nhưng
lại chưa thực sự quan tâm đến tổng kết, rút kinh nghiệm để phát triển phong
trào mạnh hơn. Việc phát hiện bồi dưỡng và nhân điển hình tiên tiến thiếu
khoa học, hiệu quả chưa thực sự cao.
Một số khối thi đua còn lúng túng về phương thức hoạt động, tiêu chí
ký kết giao ước thi đua chưa thực sự cụ thể, sát thực; một số đơn vị chưa tích
cực tham gia sinh hoạt cụm, khối thi đua; công tác trao đổi, học hỏi kinh
nghiệm, điển hình, sáng kiến chưa được chú trọng; việc tổ chức hội nghị điển
hình thi đua yêu nước thiếu sinh động nên bộc lộ những hạn chế trong tổ chức
các phong trào thi đua.
76
Thủ tục hồ sơ đề nghị khen thưởng tuy đã được cải cách theo nội
dung Đề án 30 của Chính phủ, theo tiêu chuẩn ISO nhưng vẫn nặng về thủ
tục hành chính; quy trình xét khen thưởng còn rườm rà, phức tạp, qua
nhiều “cổng” thẩm định; việc thông báo kết quả khen thưởng chưa kịp thời
nên chưa phát huy được tính thời sự, cổ vũ, khuyến khích động viên đối
tượng được khen thưởng.
Bộ máy, nhân sự làm công tác thi đua, khen thưởng chưa ngang tầm
với nhiệm vụ được giao, phần lớn cán bộ thi đua, khen thưởng ở cơ sở đều
là kiêm nhiệm, lại thường xuyên thay đổi vị trí công tác do vậy thiếu tính
kế thừa, năng lực và tinh thần trách nhiệm của đội ngũ cán bộ chuyên trách
chưa đồng đều. Một số cơ quan, đơn vị, Hội đồng TĐKT hoạt động chưa
thực sự hiệu quả.
2.6.4. Nguyên nhân của tồn tại
2.6.4.1 Nguyên nhân khách quan:
Hệ thống các văn bản pháp luật về TĐKT, nhất là Luật Thi đua, Khen
thưởng và các văn bản hướng dẫn Luật còn chồng chéo, bất cập trong thực tiễn
cuộc sống, nhiều lúc luật ban hành nhưng phải đợi Nghị định và các văn bản
hướng dẫn, sửa đổi, bổ sung; một số văn bản quy định của trung ương về
công tác TĐKT thường xuyên có sự thay đổi, dẫn đến ở cơ sở điều chỉnh
không kịp thời nên chất lượng, hiệu quả phong trào thi đua và công tác TĐKT
còn có những mặt hạn chế nhất định.
Bộ máy làm TĐKT không ổn định, theo đó đội ngũ cán bộ hay biến
động, nhiều cán bộ còn yếu về chuyên môn, nghiệp vụ, năng lực tham mưu,
nghiên cứu cụ thể hóa các chủ trương, chính sách của Đảng, chính sách pháp
luật của nhà nước còn có nhiều hạn chế; công tác TĐKT còn bị hành chính
hóa. Biên chế chuyên trách công tác TĐKT ở các sở, ngành, cấp huyện, cấp xã
chưa thực hiện đúng quy định.
77
2.6.4.2 Nguyên nhân chủ quan
Có nơi, có lúc phong trào thi đua chưa được các cấp ủy, tổ chức Đảng,
chính quyền quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo thường xuyên, kịp thời; người đứng
đầu chưa phát huy vai trò trong việc lãnh đạo, chỉ đạo và chịu trách nhiệm về
chất lượng, hiệu quả phong trào thi đua và công tác khen thưởng; còn có biểu
hiện coi nhẹ, buông lỏng công tác lãnh đạo, chỉ đạo, khoán trắng cho tổ chức,
cán bộ làm TĐKT và các tổ chức đoàn thể nhân dân.
Việc khen thưởng còn mang nặng tính cộng dồn thành tích lấy thành
tích bậc thấp để làm căn cứ đề nghị hình thức khen cao hơn dẫn đến khen
thưởng chỉ tập trung ưu tiên vào đối tượng cán bộ lãnh đạo, quản lý, khen
thưởng theo kiểu “đến hạn lại lên”.
Công tác tuyên truyền, phổ biến các chủ trương, chính sách, pháp luật
của Đảng, nhà nước về TĐKT đôi lúc chưa thực sự kịp thời và sâu rộng. Chưa
phát huy hết vai trò của cơ quan thông tấn, báo chí tuyên truyền, các phương
tiện thông tin đại chúng nên việc tuyên truyền, giới thiệu, học tập các tấm
gương điển hình tiên tiến trên các phương tiện thông tin đại chúng còn ít so
với thông tin phản ánh về các hiện tượng tiêu cực của xã hội.
Sự phối hợp giữa chính quyền với Mặt trận và các đoàn thể nhân dân ở
một số địa phương về công tác TĐKT có lúc thiếu chặt chẽ, chưa đồng bộ, chỉ
chú trọng đến việc đề nghị khen thưởng mà coi nhẹ tổ chức phong trào thi
đua, chưa thực sự coi trọng đến mối quan hệ giữa thi đua và khen thưởng.
Hoạt động của Hội đồng Thi đua - Khen thưởng ở cấp cơ sở còn nhiều
hạn chế, hoạt động chủ yếu là xét công nhận danh hiệu và đề nghị khen thưởng,
chưa thực sự coi trọng trong công tác tham mưu, tư vấn cho Chủ tịch Hội đồng
Thi đua - Khen thưởng về công tác kiểm tra, chỉ đạo phong trào thi đua và
công tác khen thưởng.
78
Tiểu kết chƣơng 2
Từ việc nghiên cứu về đặc điểm tình hình tỉnh Đắk Nông; đồng thời
phân tích, đánh giá hoạt động thi đua, khen thưởng của tỉnh, những tác động
tích cực của công tác thi đua, khen thưởng đến sự phát triển kinh tế, xã hội;
đánh giá về thực trạng hoạt động quản lý nhà nước thi đua, khen thưởng trên
địa bàn tỉnh Đắk Nông những năm qua đã chỉ ra được những vấn đề thực tiễn
trong quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng của tỉnh. Từ kết quả nghiên
cứu cũng đã chỉ ra được những mặt được, những hạn chế và những nguyên
nhân, từ đó đưa ra những phương hướng, giải pháp phù hợp trong công tác
quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng. Từ thực trạng để đưa ra các giải
pháp sẽ góp phần làm cho công tác thi đua, khen thưởng tác động tích cực vào
cuộc sống, tác động tích cực đến mọi tầng lớp nhân dân và các cấp quản lý về
vị trí, vai trò của thi đua, khen thưởng nhằm góp phần vào sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam nói chung và tỉnh Đắk Nông nói riêng.
79
Chƣơng 3
NHIỆM VỤ VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG QUẢN LÝ
NHÀ NƢỚC VỀ THI ĐUA, KHEN THƢỞNG TRÊN ĐỊA BÀN
TỈNH ĐẮK NÔNG
3.1. Nhiệm vụ nâng cao chất lƣợng quản lý nhà nƣớc về thi đua,
khen thƣởng
Trong những năm qua, công tác TĐKT trên địa bàn tỉnh Đắk Nông mới
chỉ quan tâm đến góc độ làm TĐKT, còn vấn đề về cơ sở lý luận và thực tiễn
của hoạt động quản lý nhà nước về TĐKT có thể nói chưa được nghiên cứu
làm rõ. Do vậy, để đánh giá hiệu quả của công tác này đòi hỏi phải nhìn nhận
một cách toàn diện, sâu sắc từ cơ sở lý luận và thực tiễn để đạt được các mục
tiêu trong quản lý.
Việc nghiên cứu để tìm ra các giải pháp nâng cao chất lượng quản lý
nhà nước về TĐKT trên địa bàn tỉnh Đắk Nông nhằm đạt được các nhiệm vụ
trọng tâm trong công tác TĐKT trên địa bàn tỉnh Đắk Nông trong thời gian
tới, đó là:
Huy động được sức mạnh của cả hệ thống chính trị tham gia vào công
tác thi đua, khen thưởng, trong đó, các cấp ủy Đảng đóng vai trò lãnh đạo, đề
ra chủ trương, mục tiêu; chính quyền các cấp đề ra chính sách cụ thể; mặt trận
Tổ quốc và các hội, đoàn thể tập hợp, hướng dẫn, động viên các tầng lớp nhân
dân tích cực hưởng ứng và tham gia phong trào thi đua yêu nước. Làm sao để
công tác TĐKT phải tạo được động lực tinh thần to lớn thúc đẩy mọi người
hăng hái lao động, học tập, công tác phấn đấu thực hiện thắng lợi các nhiệm
vụ chính trị của cơ quan, đơn vị và của ngành.
Tiếp tục đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của các phong
trào thi đua. Mục tiêu thi đua tập trung vào việc thực hiện và hoàn thành
nhiệm vụ chính trị của đơn vị, địa phương; đồng thời phải hướng tới giải
80
quyết có kết quả những vấn đề phát sinh từ cơ sở. Nội dung thi đua phải cụ
thể, thiết thực, rõ ràng, sát với thực tế. Hình thức thi đua phải đa dạng, phù
hợp để mọi người dễ hiểu, tạo thuận lợi trong việc tham gia đánh giá, suy tôn.
Quan tâm công tác phát hiện, đầu tư xây dựng, nhân rộng các mô hình điển
hình tiên tiến trong các phong trào thi đua, tạo nhân tố tích cực thúc đẩy các
phong trào thi đua ngày càng phát triển.
Tăng cường chỉ đạo, hướng dẫn để củng cố, kiện toàn tổ chức cán bộ
làm công tác TĐKT ở các cấp, các ngành. Triển khai tập huấn nghiệp vụ công
tác thi đua, khen thưởng cho đội ngũ làm công tác TĐKT các cấp.
Tăng cường công tác quản lý nhà nước về TĐKT thông qua các hoạt
động kiểm tra, giám sát việc thực hiện các phong trào thi đua và công tác
khen thưởng của Hội đồng TĐKT các cấp; tiếp tục thực hiện cải cách hành
chính trong lĩnh vực TĐKT theo hướng công khai, minh bạch, công bằng, dân
chủ, đơn giản các thủ tục hành chính nhằm mục tiêu thúc đẩy phong trào thi
đua và công tác khen thưởng của tỉnh.
Tiếp tục đổi mới và nâng cao chất lượng công tác khen thưởng, để mỗi
hình thức khen thưởng đều thực sự khích lệ, động viên mỗi tập thể, mỗi cá
nhân tích cực tâm huyết và có nhiều đóng góp cho sự phát triển kinh tế - xã hội
chung của tỉnh. Khen thưởng, tuyên dương các gương điển hình phải chú trọng
tính thường xuyên, tính lan tỏa. Khắc phục bệnh thành tích, tính hình thức
trong thi đua, khen thưởng. Chú trọng khen thưởng các tập thể nhỏ, người trực
tiếp lao động làm ra của cải vật chất cho xã hội, các vùng miền khó khăn, kịp
thời động viên những việc làm tốt, những gương điển hình, tiên tiến.
3.2. Giải pháp chủ yếu nâng cao chất lƣợng quản lý nhà nƣớc về thi
đua, khen thƣởng
Để tổ chức phong trào thi đua có hiệu quả trong giai đoạn hiện nay, cần
có những phương pháp cụ thể, thiết thực. Kết hợp những kinh nghiệm quý
81
tổng kết từ các phong trào thi đua qua các giai đoạn cách mạng, phương pháp
và quan điểm, tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về thi đua yêu nước cùng
với những giải pháp được đúc kết từ thực tiễn trong môi trường cạnh tranh
lành mạnh của cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước
ta, có thể chỉ ra một số giải pháp chủ yếu nâng cao chất lượng quản lý nhà
nước về TĐKT giai đoạn hiện nay, đó là:
3.2.1. Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng đối với công tác
thi đua, khen thưởng
Đảng Cộng sản Việt Nam có vai trò là Đảng cầm quyền, là người đưa
ra các quyết sách lãnh đạo để Nhà nước, Chính phủ Nước Cộng hòa XHCN
Việt Nam tổ chức thực hiện. Cơ chế hoạt động của hệ thống chính trị ở
nước ta là: Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ. Tuy nhiên,
đã có lúc sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác TĐKT bị buông lỏng dẫn
đến công tác quản lý nhà nước về TĐKT các cấp chưa bắt kịp được những
yêu cầu, đòi hỏi của thời đại công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh
tế quốc tế. Do đó, trong bối cảnh tình hình đất nước đổi mới hiện nay, Đảng
cần bổ sung những đường lối lãnh đạo mới, thiết thực hơn nữa đối với công
tác TĐKT để phù hợp với giai đoạn mới.
Chỉ thị số 34-CT/TW ngày 07/4/2014 của Bộ Chính trị đã nói rõ nguyên
nhân chủ yếu của hạn chế, yếu kém trong công tác TĐKT thời gian qua đó là:
“Sự quan tâm lãnh đạo của cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền ở một số bộ,
ngành, địa phương, cơ quan, đơn vị, nhất là người đứng đầu còn chưa đầy đủ,
toàn diện. Nhiều nơi, bộ máy làm công tác TĐKT chưa ổn định, thống nhất;
năng lực tham mưu của CB, CC làm công tác này còn hạn chế.”
Chỉ thị 34/CT-TW ngày 07/4/2014 của Bộ Chính trị (khóa XI) về “tiếp
tục đổi mới công tác thi đua, khen thưởng” cũng đã chỉ rõ: “Nâng cao trách
nhiệm của các cấp ủy, tổ chức đảng trong chỉ đạo tổ chức các phong trào thi
82
đua, bảo đảm thiết thực, hiệu quả. Các cấp ủy, tổ chức Đảng, người đứng đầu
cơ quan, đơn vị phải trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo và chịu trách nhiệm về chất
lượng, hiệu quả công tác thi đua, khen thưởng; tăng cường kiểm tra, giám sát,
kịp thời phát hiện, ngăn ngừa tiêu cực trong công tác TĐKT, tránh tình trạng
khen thưởng tràn lan, không thực chất. Mỗi chi bộ, đảng viên cần phát huy tốt
vai trò tiên phong, gương mẫu và là hạt nhân trong các phong trào thi đua ở
cơ sở, gắn với việc "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh",
làm cho phong trào thi đua trở thành phong trào hành động cách mạng sâu
rộng trong toàn Ðảng, toàn dân, toàn quân”.
Nhằm tăng cường sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng các cấp đối với việc
quản lý nhà nước về TĐKT trên địa bàn tỉnh Đắk Nông, bao gồm một số nội
dung chính sau:
Một là: Cần quán triệt sâu sắc quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh
“Cách mạng càng khó khăn, càng phải tổ chức các phong trào thi đua yêu
nước”. Coi công tác TĐKT phải là nội dung lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng,
lãnh đạo các đơn vị, địa phương trên địa bàn tỉnh.
Hai là: Cấp ủy Đảng, chính quyền trong tỉnh trên cơ sở các quan
điểm, chủ trương, đường lối của Đảng về TĐKT trong các văn kiện, nghị
quyết, chỉ thị của Đảng, chính sách, pháp Luật của Nhà nước để tuyên
truyền, giải thích, động viên cho mọi người tự nguyện, tự giác tham gia
phong trào thi đua, trên cơ sở kế hoạch, mục tiêu cụ thể, rõ ràng, phù hợp
tình hình đơn vị, địa phương; khéo léo đề ra được tên phong trào với
những khẩu hiệu hành động, tuyên truyền sắc bén, phù hợp với nguyện
vọng và lợi ích của quần chúng nhân dân cũng như yêu cầu thúc đẩy việc
thực hiện các nhiệm vụ cách mạng. Cán bộ, đảng viên phải tích cực vận
động quần chúng tham gia các phong trào thi đua và phải gương mẫu đi
đầu tham gia phong trào.
83
Ba là: Cần quan tâm xây dựng bộ máy, cán bộ, đảng viên làm công tác
TĐKT; tuyển chọn cán bộ, đảng viên có đủ phẩm chất năng lực, nắm vững
các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước. Thường xuyên
quan tâm công tác đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn nghiệp vụ nâng cao kiến thức,
trình độ đội ngũ cán bộ, đảng viên làm công tác TĐKT để làm tốt công tác
tham mưu có hiệu quả. Xác định đây là yếu tố hết sức quan trọng, quyết định
chất lượng công tác tham mưu và kết quả triển khai tổ chức thực hiện phong
trào thi đua và công tác khen thưởng.
Bốn là: Cấp ủy Đảng, chính quyền, người đứng đầu tổ chức, cơ quan, đơn
vị cần coi trọng việc phát hiện, xây dựng điển hình, có nhiều hình thức biểu
dương, tôn vinh các điển hình tiên tiến, các tập thể, cá nhân có thành tích tiêu
biểu trong học tập và làm theo tấm gương đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh,
tạo sức lan tỏa rộng khắp trong toàn xã hội; chú trọng phổ biến những kinh
nghiệm trong phong trào thi đua đồng thời phải có trách nhiệm đôn đốc, kiểm
tra, đánh giá, tổng kết phong trào thi đua. Phải kết hợp chặt chẽ thi đua với khen
thưởng, trên quan điểm “Thi đua là gieo trồng, khen thưởng là thu hoạch”. Khen
thưởng đúng người, đúng việc, kịp thời sẽ động viên, giáo dục và thúc đẩy
phong trào thi đua phát triển liên tục. Cần kịp thời biểu dương những tấm gương
“Người tốt, việc tốt”; khen thưởng bằng vật chất hoặc tinh thần nhằm động viên,
khuyến khích phát triển và tạo điều kiện để các điển hình tiên tiến được tuyên
truyền nêu gương, tạo sự lan tỏa trong cơ quan, đơn vị.
Có thể khẳng định tăng cường sự lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng đối với
công tác TĐKT giữ vai trò quyết định chất lượng, hiệu quả công tác thi đua, khen
thưởng nói chung cũng như tổ chức thực hiện các phong trào thi đua. Vì vậy tăng
cường sự lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng đối với công tác TĐKT là một nhiệm vụ
hết sức quan trọng và cần thiết trong thời điểm hiện nay và thời gian tới.
84
3.2.2. Nâng cao hơn nữa về nhận thức đối với công tác thi đua, khen
thưởng và quản lý nhà nước đối với công tác này
Nhận thức có vai trò rất quan trọng đối với hoạt động của con người. Có
nhận thức đúng đắn mới có hành động đúng và từ đó mới có kết quả và đạt được
thành công. Nếu có nhận thức đúng đắn về vị trí, vai trò, bản chất của công tác
TĐKT và quyết tâm hành động trong thực tế, nhất định phong trào thi đua và
công tác khen thưởng sẽ có chất lượng và hiệu quả. Đặc biệt, trong cơ chế thị
trường việc nhận thức đúng về thi đua, khen thưởng có ý nghĩa rất lớn đối với
các cấp uỷ Đảng, chính quyền địa phương, đoàn thể. Ở đâu cấp uỷ Đảng, chính
quyền, đoàn thể có nhận thức đúng, sâu sắc về vị trí, vai trò của công tác TĐKT
thì ở đó sẽ thật sự quan tâm, đề cao trách nhiệm trong lãnh đạo, chỉ đạo và tổ
chức thực hiện công tác TĐKT, vai trò nòng cốt của đội ngũ cán bộ, đảng viên
trong phong trào thi đua được phát huy đúng mức; đội ngũ cán bộ, công chức
phấn khởi, tự giác, hào hứng tham gia thi đua, thi đua thật sự trở động lực thúc
đẩy CB, CC trong thực hiện nhiệm vụ được giao.
Ngược lại, ở đâu, lúc nào công tác TĐKT không được nhận thức một cách
đầy đủ, đúng đắn thì ở đó công tác TĐKT sẽ được thực hiện một cách hình thức,
hời hợt, chiếu lệ, làm giảm vị trí, vai trò, ý nghĩa của công tác TĐKT, khi đó công
tác TĐKT không tạo được động lực làm việc cho CB, CC và người lao động.
Do vậy, trong tình hình hiện nay công tác TĐKT cần có sự chuyển biến
mạnh về nhận thức để có sự thống nhất trước những vấn đề đã và đang đặt ra.
Đó là trong kinh tế thị trường định hướng XHCN hiện nay vẫn cần có TĐKT và
càng phải đẩy mạnh công tác TĐKT nhằm tạo ra động lực khuyến khích, động
viên cán bộ, công chức phát huy cao nhất năng lực của mình trong thực thi công
vụ. Tuy nhiên nội dung, hình thức, cách tổ chức TĐKT cần có sự đổi mới để
phù hợp với điều kiện mới.
85
Nhằm tạo sự chuyển biến mạnh mẽ, nâng cao nhận thức của CB, CC và
người lao động về vị trí, vai trò của công tác TĐKT trong thực hiện nhiệm vụ
chính trị được giao cần quan tâm một số việc sau đây:
Một là: Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức của đội ngũ
cán bộ lãnh đạo và cán bộ, công chức và người lao động về mục đích, ý nghĩa
của TĐKT, đặc biệt là người đứng đầu trong các cơ quan, đơn vị, cần phải công
minh trong việc bình xét khen thưởng để chọn đúng người xứng đáng, người
được khen thật sự phải là điển hình nổi bật, là tấm gương để người khác học hỏi,
để trở thành động lực phần đấu của mỗi người.
Hai là: Quán triệt chủ trương, đường lối và các chỉ thị của Đảng về công
tác TĐKT; tiếp tục thực hiện có hiệu quả Luật Thi đua, Khen thưởng năm 2003,
Luật Thi đua, Khen thưởng năm 2013 và các văn bản pháp luật của nhà nước về
TĐKT một cách đầy đủ, khoa học và hiệu quả thiết thực tới các đơn vị, địa
phương trên địa bàn tỉnh.
Ba là: Ðổi mới nội dung, hình thức, phương pháp tổ chức các phong trào
thi đua yêu nước theo hướng: Tập trung về cơ sở, bám sát nhiệm vụ chính trị,
nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách để tổ chức phát động với các hình thức thi đua
phong phú, hấp dẫn, có chủ đề, tên gọi dễ nhớ, có tiêu chí cụ thể, nội dung thiết
thực, triển khai có hiệu quả, chống hình thức, từ đó nâng cao nhận thức của mọi
người về vai trò, tầm quan trọng trong công tác TĐKT.
Bốn là: Tiến hành tốt công tác sơ kết, tổng kết các phong trào thi đua và
công tác khen thưởng để kịp thời biểu dương, tôn vinh các điển hình tiên tiến,
đồng thời đúc kết kinh nghiệm, phổ biến, nhân rộng các điển hình tiên tiến trong
nhân dân, góp phần chuyển biến về nhận thức đối với công tác TĐKT.
86
3.2.3 Đẩy mạnh sự phối hợp giữa các cơ quan, đơn vị, với Mặt trận
và các tổ chức đoàn thể nhân dân trong công tác thi đua, khen thưởng
Chỉ thị 39/CT-TW của Bộ Chính trị ngày 21/5/2004 đã chỉ rõ: “Chính
quyền, Mặt trận và các đoàn thể các cấp phải phối hợp chặt chẽ trong việc tổ
chức chỉ đạo công tác thi đua làm cho phong trào thi đua trở thành phong trào
cách mạng sâu rộng trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân”
Đẩy mạnh hơn nữa sự phối hợp chặt chẽ giữa cấp ủy, chính quyền với
Mặt trận và các tổ chức đoàn thể trong công tác TĐKT, làm sao để cả hệ
thống chính trị làm TĐKT và cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân
dân, thi đua là phong trào của quần chúng nhân dân nhằm thực hiện thắng
lợi các mục tiêu, nhiệm vụ đề ra.
Vì vậy, có tăng cường sự phối hợp giữa các tổ chức đó mới huy động
được toàn thể CB, CC và toàn thể các tầng lớp nhân dân toàn tỉnh tham gia
quản lý, giám sát công tác TĐKT. Các cơ quan, đơn vị, Mặt trận và các đoàn
thể thông qua vị trí, chức năng, nhiệm vụ của tổ chức mình để tham gia
phong trào và tham gia quản lý, giám sát đối với công tác TĐKT. Trong đó,
các cấp ủy Đảng đóng vai trò lãnh đạo đề ra chủ trương, mục tiêu của công
tác TĐKT; Chính quyền các đơn vị tổ chức thực hiện, đề ra các chính sách cụ
thể cho việc triển khai các nhiệm vụ của công tác TĐKT; các đoàn thể tập
hợp, hướng dẫn, động viên các đoàn viên, hội viên trong tổ chức mình tích
cực hưởng ứng và tham gia thực hiện những nội dung của công tác TĐKT
như thế, sẽ huy động được sức mạnh to lớn, tổng hợp của toàn Đảng, toàn
quân và toàn dân vào công tác TĐKT.
Các cơ quan, đơn vị, Mặt trận và các đoàn thể tham gia công tác TĐKT
thông qua các hoạt động chủ yếu sau:
Một là: Tham gia đóng góp ý kiến xây dựng các văn bản quy định,
hướng dẫn về công tác TĐKT của tỉnh.
87
Hai là: Quán triệt và tổ chức thực hiện các văn bản pháp luật, các văn
bản hướng dẫn về công tác TĐKT trong tổ chức, đơn vị của mình.
Ba là: Tham gia với tư cách thành viên Hội đồng Thi đua - Khen
thưởng của đơn vị, địa phương.
Bốn là: Tham gia xây dựng các văn bản, các chính sách liên quan đến
công tác TĐKT; kiểm tra, giám sát, đánh giá, tổng kết công tác TĐKT.
3.2.4. Tiếp tục đổi mới nội dung, hình thức tổ chức, tuyên truyền các
phong trào thi đua
Chỉ thị số 34-CT/TW ngày 07/4/2014 của Bộ Chính trị Ban Chấp hành
Trung ương Đảng (Khóa XI) về tiếp tục đổi mới công tác thi đua, khen
thưởng đã chỉ rõ:“Ðổi mới nội dung, hình thức, phương pháp tổ chức các
phong trào thi đua yêu nước theo hướng: Tập trung về cơ sở, bám sát nhiệm
vụ chính trị, nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách để tổ chức phát động với các hình
thức thi đua phong phú, hấp dẫn, có chủ đề, tên gọi dễ nhớ, có tiêu chí cụ thể,
nội dung thiết thực, triển khai có hiệu quả, chống hình thức. Thực hiện
nghiêm túc việc đôn đốc, kiểm tra, sơ kết, tổng kết các phong trào thi đua, lựa
chọn các tập thể, cá nhân có thành tích tiêu biểu để biểu dương, tôn vinh,
khen thưởng kịp thời”.
Phong trào thi đua phải nhằm động viên và phát huy được sức mạnh
tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị vào
việc thực hiện công cuộc đổi mới đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa. Phong trào thi đua phải thiết thực, sâu rộng và bao
quát toàn bộ các lĩnh vực đời sống xã hội, các tầng lớp nhân dân, các thành
phần kinh tế, các cơ quan Đảng, Nhà nước, Mặt trận, các đoàn thể và lực
lượng vũ trang.Thông qua các phong trào thi đua phải tạo được động lực cách
mạng của quần chúng, phát huy được sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc,
vượt qua những khó khăn, thách thức, góp phần tích cực vào việc thực hiện
88
thắng lợi nhiệm vụ chính trị của địa phương, đơn vị. Để đổi mới nội dung tổ
chức phong trào thi đua, cần thực hiện tốt một số nội dung, yêu cầu sau:
Một là, Cấp có thẩm quyền phát động các phong trào thi đua chỉ phát
động, triển khai phong trào thi đua khi đã xác định rõ mục tiêu, chỉ tiêu, đối
tượng, nội dung, biện pháp, phạm vi tổ chức phong trào. Trong đó nội dung
quan trọng nhất để tổ chức phong trào thi đua hiện nay là phải bám sát nhiệm
vụ chính trị của địa phương, đơn vị để đề ra các phong trào thi đua hoàn thành
toàn diện, vượt mức các nhiệm vụ, chỉ tiêu trong chương trình, kế hoạch đề ra
hàng năm hoặc từng thời điểm cụ thể. Nội dung và phương thức tổ chức
phong trào thi đua phải được gắn kết chặt chẽ với việc thực hiện nhiệm vụ
chính trị, mục tiêu, chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, từng
đơn vị cơ sở.
Hai là, Khi xây dựng kế hoạch thực hiện các phong trào thi đua cần có
nội dung kiểm tra, giám sát và phân công trách nhiệm, tiến độ trong quá trình
thực hiện. Kế hoạch phải cụ thể và chỉ rõ: cơ quan, đơn vị khởi xướng, chủ
trì; cơ quan, đơn vị phối hợp; lực lượng và điều kiện thực thi; công tác kiểm
tra, giám sát, đánh giá sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm và đề xuất khen
thưởng. Phong trào thi đua cần hướng về cơ sở và người trực tiếp công tác,
học tập, lao động, sản xuất và chiến đấu, là lực lượng đông đảo thực hiện
nhiệm vụ chính trị của cơ quan, tổ chức, đơn vị. Với các phong trào lớn,
phong trào mới, nhiệm vụ đề ra nhiều cần nghiên cứu, xem xét việc chọn, chỉ
đạo điểm trong thời gian nhất định, để rút kinh nghiệm từ chỉ đạo điểm trước
khi nhân rộng phong trào.
Ba là, Gắn kết các phong trào thi đua với việc thực hiện Nghị quyết hội
nghị lần thứ 4 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về tăng cường xây
dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị,
đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội
89
bộ; đặc biệt, gắn kết các phong trào thi đua với việc đẩy mạnh việc“Học tập và
làm theo tư tưởng, tấm gương, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” theo tinh
thần Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị (Khóa XII), để tư
tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh luôn được biểu hiện và sống mãi qua
các phong trào thi đua yêu nước, qua đó nâng cao chất lượng các phong trào thi
đua. Từ các chuyên đề liên quan đến việc “Học tập và làm theo tấm gương đạo
đức phong cách Hồ Chí Minh” như: Đăng ký thực hiện các chuẩn mực đạo đức
theo tư tưởng Hồ Chí Minh; nêu cao vai trò trách nhiệm của người đứng đầu;
các chuyên đề “Học tập tư tưởng Hồ Chí Minh trong nói và làm”, “Học tập tư
tưởng Hồ Chí Minh về chống chủ nghĩa cá nhân”, “Tư tưởng Hồ Chí Minh về
đạo đức công vụ”… Các cơ quan, tổ chức, đơn vị có thể gắn với nhiệm vụ
chính trị, nhiệm vụ chuyên môn để đổi mới, đa dạng hóa các nội dung tổ chức
phong trào thi đua trong phạm vi, đối tượng cụ thể của mình.
Bốn là, Bên cạnh các phong trào thi đua thực hiện nhiệm vụ chính trị
thường xuyên, cần chú trọng phát động các phong trào thi đua thực hiện các
nhiệm vụ đột xuất, cấp bách hoặc đột phá vào những nhiệm vụ, lĩnh vực trọng
tâm, trọng điểm để giải quyết những khó khăn, những mặt yếu kém của từng
đơn vị, địa phương.
Cùng với đổi mới nội dung, đổi mới hình thức, phương thức tổ chức
các phong trào thi đua yêu nước là yêu cầu tất yếu trong mọi giai đoạn cách
mạng, là vấn đề quan trọng trong quá trình phát động triển khai các phong
trào thi đua và là một trong những giải pháp để tổ chức phong trào thi đua đạt
hiệu quả trong giai đoạn hiện nay. Để đổi mới hình thức tổ chức phong trào
thi đua, cần quan tâm một số giải pháp, cụ thể là:
Một là, Hình thức tổ chức phong trào thi đua trước hết phải phù hợp
với nội dung của phong trào và việc đổi mới hình thức thực hiện sẽ làm phong
trào thi đua sinh động, đa dạng và hấp dẫn hơn là gắn với sự kiện chính trị,
90
lịch sử, văn hóa của đất nước, của dân tộc, của Đảng; gắn với ngày truyền
thống, ngày kỷ niệm hoặc sự kiện lớn của ngành, địa phương, đơn vị, khi đó
sẽ tập hợp đông đảo lực lượng tham dự, chứng kiến và lồng ghép trong đó để
cấp có thẩm quyền phát động các phong trào thi đua. Các phong trào thi đua
được phát động, tổ chức ngoài trời, trong không gian rộng, thoáng sẽ hiệu quả
hơn rất nhiều với việc phát động, triển khai trong hội trường. Cũng có thể kết
hợp việc phát động, triển khai trong hội trường với tổ chức hoạt động tiếp
theo ở bên ngoài hội trường. Hình thức này được thực hiện khi phát động
phong trào thi đua và có gắn với các hoạt động bề nổi như văn hóa, thể thao
để tạo khí thế.
Hai là, Hình thức tổ chức phong trào thi đua cũng phải phù hợp với đặc
điểm, nhiệm vụ từng địa phương, đơn vị và khả năng tham gia của từng đối
tượng cụ thể. Cơ quan, tổ chức, đơn vị triển khai phong trào thi đua cần
nghiên cứu khả năng, điều kiện, chức năng, nhiệm vụ và nhất là đối tượng sẽ
hưởng ứng, tham gia phong trào để thiết kế hình thức tổ chức phù hợp nhất
với từng loại hình, đối tượng. Căn cứ vào thế mạnh, đặc thù của đối tượng
hướng tới để có hình thức phù hợp trong thiết kế, tổ chức sẽ tạo nên hiệu quả
cao của phong trào thi đua.
Ba là, Tiếp tục mở rộng và nâng cao chất lượng hình thức tổ chức thi
đua theo cụm, khối trên địa bàn toàn tỉnh, qua đó xây dựng mối quan hệ đoàn
kết, hợp tác cùng phát triển vì mục tiêu hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Đắk Nông.
Bốn là, Đẩy mạnh công tác tuyên truyền các phong trào thi đua:
Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ muốn vận động được nhiều
tập thể và cá nhân tích cực tham gia phong trào thi đua yêu nước, cần phải
biết tuyên truyền giải thích động viên tinh thần trong toàn Đảng, toàn dân. Cụ
thể là dùng các hình thức như sách báo, phát thanh, truyền hình, tranh ảnh,
91
thơ ca, nhạc kịch, diễn thuyết, nói chuyện... để cổ động, tuyên truyền cho ai
cũng đều hiểu rõ mục đích và thể lệ thi đua, và đều hăng hái, phấn khởi tham
gia thi đua. Cán bộ, đảng viên phải là những người hăng hái tích cực vận động
quần chúng tham gia thi đua và cùng họ xung phong đi đầu làm gương mẫu
cho mọi ngươì trong phong trào thi đua yêu nước. Vì vậy, huy động được sức
mạnh tổng hợp của các cơ quan tuyên truyền, giáo dục của Đảng, các đoàn
thể nhân dân, các phương tiện thông tin đại chúng tham gia tích cực công tác
tuyên truyền, cổ vũ các phong trào thi đua là một nhiệm vụ quan trọng trong
tổ chức thực hiện phong trào thi đua yêu nước. Một số hình thức tuyên truyền
cụ thể như sau:
Một là, Đối với tuyên truyền trên các phương tiện truyền thông: Đổi
mới hoạt động của các cơ quan truyền thông, định hướng dư luận, tôn vinh,
tuyên truyền các gương điển hình tiên tiến, hạn chế đẩy lùi các mặt tiêu cực
trong xã hội là những việc làm cụ thể và hết sức quan trọng góp phần tích cực
trong đẩy mạnh và thực hiện có hiệu quả các phong trào thi đua yêu
nước. Các cơ quan truyền thông phải xác định việc tuyên truyền, phổ biến các
phong trào thi đua yêu nước, các điển hình tiên tiến là trọng tâm trong các
hoạt động tuyên truyền và phải bám sát các nội dung, mục tiêu, chỉ tiêu thi
đua đã đề ra để tập trung tuyên truyền. Chủ động, tích cực, tập trung tuyên
truyền, cổ vũ các phong trào thi đua yêu nước, các điển hình, nhân tố mới nảy
sinh từ các phong trào thi đua.
Hai là, Tuyên truyền thông qua các hoạt động: Hình thức tuyên truyền
rất hiệu quả chính là lồng ghép các nội dung cần tuyên truyền, phổ biến thông
qua các hoạt động phong trào của từng cơ quan, tổ chức, đơn vị. Cần thường
xuyên tuyên truyền, phổ biến những cách làm hay, những phương pháp vận
động hiệu quả để định hướng, triển khai thực hiện phong trào thi đua. Cùng
với tuyên truyền qua các hoạt động, cơ quan, tổ chức, đơn vị cũng có thể sử
92
dụng và kết hợp hài hòa các hình thức tuyên truyền bằng báo cáo viên, tuyên
truyền viên, chú trọng hình thức tuyên truyền miệng để phổ biến, trao đổi trực
tiếp tới đối tượng được tuyên truyền. Công tác tuyên truyền các phong trào thi
đua yêu nước thông qua các điển hình tiên tiến tại các cơ quan, tổ chức, đơn
vị cũng cần trở thành nội dung sinh hoạt định kỳ tại sinh hoạt từ cơ sở và kết
hợp, lồng ghép tuyên truyền qua hoạt động phối hợp với các đoàn thể nhân
dân trên địa bàn; tuyên truyền, phổ biến qua các cuộc vận động xã hội. Đây là
môi trường làm công tác tuyên truyền, phổ biến các phong trào thi đua và các
điển hình tiên tiến có hiệu quả thiết thực.
3.2.5. Nâng cao chất lượng khen thưởng nhằm khích lệ đúng người,
đúng việc được khen thưởng
Trước tiên cần nâng cao chất lượng và sự công bằng trong xét khen
thưởng. Khen thưởng phải đúng người, đúng việc, công khai, công bằng,
khách quan, kịp thời như một cán cân công lý đo thành tích. Khen thưởng
phải cân xứng giữa giá trị vật chất và tinh thần. Nâng cao giá trị tôn vinh của
các hình thức khen thưởng.
Bên cạnh việc khen thưởng tổng kết năm, khen chuyên đề, cần chú ý quan
tâm và tăng cường số lượng khen thưởng thành tích đột xuất trên các lĩnh vực
như: Tấn công trấn áp tội phạm, nghiên cứu khoa học, những sáng kiến, cải tiến
kỹ thuật, công tác từ thiện, an sinh xã hội. Bên cạnh đó nên hạn chế việc khen
thưởng cho các tập thể theo niên hạn, theo ngày kỷ niệm thành lập ngành, đơn
vị, địa phương thành lập mang tính chất truyền thống như trước đây.
Cải tiến thủ tục hành chính xét khen thưởng đảm bảo gọn nhẹ, có hiệu
lực, chống nặng nề phức tạp, tránh rườm ra hình thức gây phiền hà khó khăn
cho cấp dưới và đối tượng được đề nghị khen thưởng; cần mở rộng hơn đối
tượng khen thưởng, đặc biệt quan tâm khen thưởng người trực tiếp lao động,
sản xuất, công tác; khen thưởng không chú trọng đến vị trí làm việc thấp cao.
93
Đồng thời quan tâm tới đội ngũ cán bộ trẻ, năng động, sáng tạo, lập được
nhiều thành tích trong công tác để biểu dương, khen thưởng kịp thời. Cần chú
trọng đến khen thưởng đột xuất để kịp thời động viên và nêu gương. Nên có
quy định tỷ lệ phần trăm khen thưởng cho cán bộ, công chức giữ chức vụ lãnh
đạo, quản lý để tránh tình trạng khen nhiều cho đối tượng này.
Đề nghị chỉ nên quy định yêu cầu có sáng kiến, cải tiến để xét danh
hiệu Chiến sĩ thi đua đối với CB, CC, người lao động ở các cơ quan, đơn vị,
còn nông dân, công nhân thì đặc cách. Tăng cường ứng dụng công nghệ thông
tin trong quá trình thẩm định hồ sơ khen thưởng nhằm đẩy nhanh thời gian xét
khen thưởng đồng thời đảm bảo yêu cầu công khai, minh bạch, kịp thời.
Đa dạng hóa các hình thức trao thưởng, nhất là tổ chức trao thưởng
tại cơ sở nhằm động viên, nêu gương kịp thời các CB, CC và người lao
động có thành tích được khen thưởng, qua đó khen thưởng sẽ có tính lan
tỏa cao. Từ đó mới tạo được hiệu ứng tâm lý mạnh mẽ của khen thưởng,
tạo được khí thế, động lực cho mọi người phấn đấu thi đua trong các phong
trào thi đua thời gian tới.
3.2.6. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát trong việc
thực hiện các quy định về công tác thi đua, khen thưởng; sơ kết, tổng kết
phong trào thi đua, kịp thời tuyên dương, khen thưởng điển hình tiên tiến
Kiểm tra thực hiện công tác TĐKT nhằm nắm tình hình triển khai, thực
hiện các văn bản chỉ đạo của Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân Tỉnh và văn bản
hướng dẫn Trung ương về công tác thi đua và khen thưởng; đề ra các biện
pháp, giải pháp tiếp tục nâng cao nhận thức, đẩy mạnh công tác tuyên truyền,
vận động các tầng lớp nhân dân tham gia các phong trào thi đua, thực hiện
thắng lợi nhiệm vụ chính trị và nâng cao chất lượng công tác khen thưởng ở
các đơn vị, địa phương; phát hiện, bồi dưỡng các mô hình lao động sáng tạo,
cách làm hay, điển hình tiên tiến trong các phong trào thi đua yêu nước để kịp
94
thời biểu dương, khen thưởng, nhân rộng,… nhằm thúc đẩy, cổ vũ phong trào
thi đua lan tỏa rộng khắp trong xã hội. Đồng thời phát hiện những vấn đề khó
khăn, vướng mắc trong tổ chức, chỉ đạo, thực hiện nhiệm vụ công tác TĐKT;
đề xuất những nội dung về các cơ chế chính sách, các quy định hiện hành về
công tác TĐKT; xem xét, đề xuất giải quyết những trường hợp vi phạm pháp
luật về TĐKT.
Nội dung thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại tố cáo về công tác
TĐKT được quy định tại Điều 96 của Luật Thi đua, khen thưởng. Tuy nhiên,
tùy vào đặc điểm tình hình của địa phưuơng, đơn vị để có nội dung và hình
thức cho phù hợp. Trong thời gian tới, tỉnh cần phải tăng cường và đổi mới
công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát những nội dung chủ yếu sau:
- Phải tiến hành theo định kỳ, hàng quý, hàng năm hoặc theo đợt phát
động phong trào thi đua. Tăng cường thanh tra, kiểm tra đột xuất khi phát
hiện những vấn đề tiêu cực trong công tác TĐKT.
- Hình thức thanh tra, kiểm tra cần được đổi mới, có sự kết hợp giữa
thanh tra, kiểm tra chuyên môn, nghiệp vụ với việc thực hiện các quy định về
công tác TĐKT. Trong trường hợp cần thiết có thể thanh tra, kiểm tra chuyên
đề về TĐKT nhằm đánh giá sâu hơn, hiệu quả hơn công tác này.
- Qua công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát phát hiện những sai sót, bất
cập của những kế hoạch, chính sách, những quy định của pháp luật trong công
tác thi đua, khen thưởng, từ đó đề ra những giải pháp hoặc kiến nghị với các
cơ quan có thẩm quyền điều chỉnh cho phù hợp.
- Sau khi thanh tra, kiểm tra phải có kết luận, đánh giá đối với từng địa
phương, đơn vị trong việc triển khai và thực hiện các nội dung trong công tác
thi đua, khen thưởng. Công tác quản lý nhà nước trong việc thanh tra, kiểm
tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo phải được quan tâm thường xuyên để những
quy định của pháp luật về TĐKT được thực hiện một cách bài bản, có hệ
95
thống, nâng cao hiệu quả, hiệu lực trong hoạt động quản lý nhà nước về thi
đua, khen thưởng. Có như vậy, thi đua, khen thưởng mới thật sự là động lực
cho mọi cá nhân, tập thể tích cực thi đua hoàn thành xuất sắc công việc của
mình góp phần vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng
trong công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Sơ kết, tổng kết là khâu rất quan trọng trong quá trình quản lý nhà
nước. Tiến hành tốt công tác sơ kết, tổng kết thì các phong trào thi đua và
công tác khen thưởng thi đua mới duy trì và từng bước nâng cao chất lượng,
hiệu quả của công tác thi đua, khen thưởng. Trong sơ kết, tổng kết, bên cạnh
việc tôn vinh, khen thưởng các điển hình tiên tiến còn có một việc hết sức
quan trọng, cần được quan tâm triển khai thực hiện tốt hơn trong thời gian tới
là đúc kết kinh nghiệm, phổ biến, nhân rộng các điển hình tiên tiến. Từ các
tấm gương sáng tiêu biểu, điển hình tiên tiến trong các phong trào thi đua
được tuyên dương, tuyên truyền rộng rãi sẽ có ảnh hưởng tích cực trong việc
giáo dục, nêu gương đối với cán bộ, công chức và người lao động trong thực
hiện nhiệm vụ chính trị, góp phần thực hiện thắng lợi của đơn vị, địa phương.
3.2.7. Thực hiện đồng bộ các nội dung quản lý Nhà nước về công tác
thi đua khen thưởng
Để thực hiện tốt công tác quản lý nhà nước về TĐKT, cần phải thực hiện
đồng bộ các nội dung trong quản lý nhà nước về TĐKT, đó là ban hành kịp thời,
đầy đủ các văn bản pháp luật về TĐKT; xây dựng chính sách về TĐKT phù hợp
với thực tiễn, kích thích được mọi tổ chức, cá nhân hưởng ứng tham gia thi đua;
đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến, hướng dẫn và tổ chức thực hiện các quy định
của pháp luật về TĐKT; chú trọng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức làm
công tác TĐKT; định kỳ sơ kết, tổng kết, tặng thưởng các hình thức khen
thưởng; đánh giá hiệu quả công tác thi đua, khen thưởng; mở rộng hợp tác quốc
tế về TĐKT; tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra việc thực hiện các quy định
96
pháp luật về thi đua, khen thưởng và cuối cùng là thực hiện tốt việc giải quyết
khiếu nại, tố cáo, xử lý vi phạm pháp luật về thi đua, khen thưởng. Đó là những
nội dung quản lý nhà nước, các nội dung này quan hệ chặt chẽ với nhau, thống
nhất với nhau thành một quy trình quản lý. Do vậy, nếu thực hiện không đồng
bộ, hoặc chỉ tập trung thực hiện một vài nội dung nào đó, coi nhẹ hoặc không
thực hiện các nội dung khác sẽ dẫn đến quản lý không hiệu quả.
3.2.8. Tăng cường năng lực hoạt động của tổ chức bộ máy thực hiện
nhiệm vụ quản lý nhà nước đối với công tác thi đua khen thưởng
Trong những năm qua, tổ chức bộ máy làm công tác TĐKT của đơn vị, địa
phương trong tỉnh còn nhiều bất cập, chưa thống nhất; cơ sở vật chất còn thiếu thốn.
Đội ngũ CB, CC làm công tác TĐKT chưa ngang tầm với nhiệm vụ được giao, vừa
thiếu - vừa thừa về số lượng, chuyên môn chưa cao, năng lực tổ chức phong trào thi
đua còn ít, đa số là cán bộ kiêm nhiệm, thường xuyên có sự luân phiên, thay đổi,
mới làm nghiệp vụ xét khen thưởng, chưa tập trung làm nghiệp vụ thi đua.
Xuất phát từ thực tế về công tác TĐKT trong những năm qua cho thấy
để làm tốt công tác TĐKT trong tình hình mới, góp phần tăng cường quản lý
nhà nước về thi đua, khen thưởng cần phải có tổ chức bộ máy làm công tác
TĐKT ổn định, thống nhất; đội ngũ CB, CC làm công tác TĐKT có tâm, đủ
sức, đủ tầm, nhiệt tình với công việc và được đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn
nghiệp vụ cũng như nâng cao kiến thức chính trị, kinh tế - xã hội. Để khắc
phục tình trạng trên và đảo bảo chất lượng công tác thi đua, khen thưởng
trong thời gian tới, cần tập trung những nội dung sau:
- Tổ chức bộ máy
Để hệ thống cơ quan này hoạt động tốt, có hiệu quả cần bố trí một
cách hợp lý các bộ phận hoạt động chuyên môn nghiệp vụ. Phải lấy nhiệm vụ
để quy định tổ chức chứ không quy định tổ chức để xắp xếp con người. Theo
tác giả luận văn, Ban Thi đua - Khen thưởng tỉnh nên tách ra khỏi Sở Nội vụ
97
và trở thành một cơ quan chuyên môn trực thuộc UBND tỉnh hoặc trực thuộc
Văn phòng UBND tỉnh để ngang tầm với nhiệm vụ mới và thuận tiện công
tác trình khen thưởng.
Cần xây dựng chức năng, nhiệm vụ của các tổ chức làm TĐKT trên
nguyên tắc gắn kết chặt chẽ với chiến lược xây dựng và phát triển của ngành,
phù hợp với các quy định của Đảng, Nhà nước và đảm bảo gọn nhẹ đầu mối,
nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động, đảm bảo tính chuyên nghiệp, đám ứng
tốt với những yêu cầu đòi hỏi trong tình hình mới.
Củng cố, kiện toàn Hội đồng Thi đua - Khen thưởng; Hội đồng
Khoa học, sáng kiến các cấp chất lượng, đúng quy định, phát huy tốt
chức năng tư vấn cho nhà lãnh đạo ra quyết định khen thưởng chính xác,
kịp thời vừa hướng dẫn, đôn đốc tổ chức thực hiện, kiểm tra, tổng kết
kinh nghiệm, vừa phải bao quát, vừa phải sâu sát phong trào, phối hợp
với cơ quan, đơn vị trong ngành. Bố trí đủ về số lượng và chất lượng cán
bộ chuyên trách TĐKT các sở, ban, ngành, huyện, thị xã và cán bộ kiêm
nhiệm thi đua cấp xã, phường, thị trấn.
- Cán bộ, công chức
Vai trò của người cán bộ, công chức trực tiếp làm công tác TĐKT
rất quan trọng. Khi nói đến thi đua là nói đến hoạt động phong trào, chúng
ta thường vẫn có câu “cán bộ nào, phong trào đó” hàm ý đề cao vai trò
của người lãnh đạo, người cán bộ trực tiếp làm phong trào. Đối với người
làm công tác TĐKT ngoài nắm vững các chủ trương, đường lối của Đảng,
kiến thức chuyên môn nghiệp vụ, cần có lòng nhiệt tình, trung thực với
công việc và phải có năng lực trong tổ chức phong trào, gần gũi với mọi
người, cụ thể, tỉ mỉ trong từng công việc. Người làm công tác phong trào
cần có năng lực tổ chức để hướng cho mọi người trong tập thể phấn đấu
đạt mục tiêu đề ra.
98
Việc bố trí, điều động cán bộ đảm nhận cương vị lãnh đạo các cơ quan
này, cần có những cán bộ, công chức đủ trình độ, năng lực, có tâm huyết với
công tác thi đua, khen thưởng.
Có kế hoạch đào tạo bồi dưỡng đội ngũ CB, CC làm công tác TĐKT, kể
cả những cán bộ, công chức chuyên trách và kiêm nhiệm, cụ thể:
Tiến hành khảo sát, điều tra thực trạng trình độ và nhu cầu đào tạo
bồi dưỡng của đội ngũ CB, CC làm công tác TĐKT hiện có, dự báo sự phát
triển và nhu cầu về CB, CC làm công tác TĐKT trong thời gian tới trên cơ
sở đó xây dựng và thực hiện kế hoạch đào tạo bồi dưỡng để đội ngũ này có
đủ các yêu cầu về trình độ theo các ngạch công chức; tiêu chuẩn của các
chức vụ đảm nhận và được đào tạo bồi dưỡng về chuyên môn, nghiệp vụ,
kiến thức về kinh tế - xã hội, Luật, kỹ năng nghiệp vụ làm công tác TĐKT,
nhất là về năng lực tổ chức phong trào thi đua.
Cần đầu tư xây dựng chương trình, giáo trình, tài liệu và có đội ngũ
giảng viên thực hiện đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ và kỹ năng cho
các CB, CC đảm nhận công tác TĐKT của các đơn vị, địa phương. Xây dựng
đội ngũ CB, CC làm công tác TĐKT trên địa bàn tỉnh Đắk Nông đáp ứng được
các yêu cầu về năng lực, trình độ trong tình hình mới.
Ngoài ra, cần tăng cường đào tạo, bồi dưỡng, cập nhật các văn bản mới về
thi đua, khen thưởng thông qua các hội thảo, hội nghị trao đổi về nghiệp vụ do
UBND tỉnh tổ chức, tổ chức các cuộc gặp mặt, đối thoại giữa các đơn vị và khảo
sát, học tập kinh nghiệm quốc tế về thi đua, khen thưởng.
- Về cơ sở vật chất
Hiện nay cơ sở vật chất, điều kiện làm việc của cơ quan làm công tác
TĐKT ở tỉnh Đắk Nông chưa được đầu tư một cách cơ bản, hệ thống. Nhất là
trong bối cảnh của thời đại công nghệ thông tin như hiện nay, điều kiện làm việc
của các cơ quan này lại càng cần được quan tâm. Do vậy, trong thời gian tới cần
99
có sự đầu tư về cơ sở vật chất và trang thiết bị làm việc cho các cơ quan giúp
việc này. Nhất là việc triển khai ứng dụng công nghệ thông tin trong việc tiếp
nhận, thẩm định, lưu trữ hồ sơ thi đua, khen thưởng, đặc biệt tra cứu lịch sử khen
thưởng kháng chiến.
Những giải pháp chủ yếu trên là cấp bách, nó có quan hệ chặt chẽ với
nhau, tác động lẫn nhau, ảnh hưởng trực tiếp đến việc tăng cường quản lý nhà
nước về TĐKT trên địa bàn tỉnh Đắk Nông.
100
KẾT LUẬN
Từ ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi thi đua ái quốc, dưới sự
lãnh đạo của Đảng, các phong trào thi đua yêu nước đã liên tục được phát
động, góp phần vào việc động viên cổ vũ đông đảo các tầng lớp nhân dân
phát huy truyền thống yêu nước, ý chí kiên cường bất khuất của dân tộc,
vượt qua mọi khó khăn, thử thách, lập nên những chiến công hiển hách
trong kháng chiến chống đế quốc xâm lược cũng như trong sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ tổ quốc.
Để góp phần nâng cao chất lượng quản lý nhà nước về TĐKT trên địa
bàn tỉnh Đắk Nông, bằng nhiều phương pháp tiếp cận, nghiên cứu luận văn
đã khai thác và làm rõ cơ sở lý luận về công tác thi đua, khen thưởng và
quản lý nhà nước về TĐKT; mối quan hệ hữu cơ giữa thi đua và khen
thưởng; đi sâu phân tích, làm sáng tỏ các nội dung quản lý nhà nước đã được
nêu trong Luật Thi đua, Khen thưởng; tổ chức, triển khai thực hiện đối với
tỉnh Đắk Nông. Luận văn đã tập trung phân tích thực trạng và làm rõ từng
nội dung quản lý nhà nước về TĐKT trên địa bàn tỉnh Đắk Nông giai đoạn
2011- 2016 với những kết quả đạt được và những hạn chế của quản lý nhà
nước về TĐKT, những tác động tích cực của phong trào thi đua đối với sự
phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Đắk Nông. Đồng thời, luận văn cũng nêu ra
các nguyên nhân của tồn tại trong việc quản lý nhà nước về TĐKT trên địa
bàn tỉnh trong thời gian qua. Để từ đó, trên cơ sở nhiệm vụ chính trị của tỉnh
trong thời gian tới đưa ra những nhiệm vụ trọng tâm mà công tác TĐKT của
tỉnh cần tâm trong thực hiện trong những năm tới. Đặc biệt, trong khuôn khổ
một luận văn cao học, tác giả luận văn đã vận dụng những kiến thức lý luận
được tiếp thu từ các nhà khoa học, các thầy, cô hướng dẫn và thông qua các
tài liệu, đồng thời bằng kiến thức, kinh nghiệm thực tiễn những năm công
tác tại Ban Thi đua - Khen thưởng tỉnh Đắk Nông; những ý kiến góp ý, chia
101
sẽ của cán bộ công tác tại Ban Thi đua - Khen thưởng tỉnh Đắk Nông hiện
nay nên bước đầu tác giả luận văn xin mạnh dạn đề xuất những giải pháp
chủ yếu để nâng cao chất lượng quản lý nhà nước về TĐKT trên địa bàn tỉnh
Đắk Nông trong thời gian sắp tới.
Tuy nhiên, đây là một vấn đề lớn và phức tạp, chưa có nhiều công trình
khoa học nghiên cứu, vì vậy những vấn đề đã được tác giả luận văn đưa ra
giải quyết chỉ là bước đầu, có tính tham khảo, hy vọng sẽ đóng góp một phần
nhỏ bé vào việc tăng cường quản lý nhà nước về TĐKT trên địa bàn tỉnh Đắk
Nông, góp phần vào việc thực hiện thắng lợi nhiệm vụ, kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội của tỉnh Đắk Nông trong những năm tới./.
102
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban Thi đua-Khen thưởng Trung ương (2008), Chủ tịch Hồ Chí
Minh với phong trào thi đua yêu nước, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
2. Ban Thi đua - Khen thưởng Trung ương (2010), Đổi mới công tác thi
đua, khen thưởng trong thời kỳ mới, Đề tài khoa học cấp Bộ.
3. Bộ Chính trị (1998), Chỉ thị 35-CT/TW về đổi mới công tác thi đua,
khen thưởng trong giai đoạn mới, Hà Nội.
4. Bộ Chính trị (2004), Chỉ thị số 39-CT/TW về tiếp tục đổi mới, đẩy
mạnh phong trào thi đua yêu nước, phát hiện, bồi dưỡng, tổng kết và nhân
điển hình tiên tiến”, Hà Nội.
5. Bộ Chính trị (2014), Chỉ thị số 34-CT/TW về đổi mới công tác thi
đua, khen thưởng, Hà Nội.
6. Bộ Nội vụ (2011), Thông tư số 02/2011/TT-BNV về hướng dẫn thực
hiện Nghị định số 42/2010/NĐ-CP ngày 15 tháng 4 năm 2010 của Chính phủ
quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Thi đua, Khen thưởng và Luật
sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi đua, Khen thưởng, Hà Nội.
7. Bộ Nội vụ (2011), Thông tư số 07/2014/TT-BNV hướng dẫn thi hành
một số điều của Nghị định số 42/2010/NĐ-CP ngày 15 tháng 4 năm 2010 của
Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Thi đua, Khen
thưởng và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi đua, Khen thưởng,
Nghị định số 39/2012/NĐ-CP ngày 27 tháng 4 năm 2012 của Chính phủ sửa
đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 42/2010/NĐ-CP ngày 15 tháng 4
năm 2010 của Chính phủ và Nghị định số 65/2014/NĐ-CP ngày 01 tháng 7
năm 2014 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật sửa đổi, bổ sung một
số điều của Luật Thi đua, Khen thưởng năm 2013, Hà Nội.
8. Các Mác (1993), Bộ Tư bản luận, Tập 1, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
103
9. Chính phủ (2005), Nghị định số 122/2005/NĐ-CP ngày 04/10/2005
về Quy định tổ chức làm công tác thi đua, khen thưởng, Hà Nội.
10. Chính phủ (2010), Nghị định số 42/2010/NĐ - CP ngày 15/4/2010
quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Thi đua, Khen thưởng và Luật
sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi đua, Khen thưởng, Hà Nội.
11. Chính phủ (2012), Nghị định số 39/2012/NĐ - CP ngày 27/4/2012
về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 42/2010/NĐ - CP ngày
15/4/2010 của Chính phủ, Hà Nội.
12. Chính phủ (2014), Nghị định số 65/2014/NĐ-CP ngày 01/7/2014
quy định chi tiết thi hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi đua,
Khen thưởng năm 2013, Hà Nội.
13. Chính phủ (2014), Nghị định số 85/2014/NĐ-CP ngày 10/9/2014
quy định mẫu Huân chương, Huy chương, Huy hiệu, Kỷ niệm chương; mẫu
bằng, khung, hộp, cờ của các hình thức khen thưởng và danh hiệu thi đua;
quản lý cấp, phát, cấp đổi, cấp lại, thu hồi hiện vật khen thưởng, Hà Nội.
14. Chính phủ (2017), Nghị định số 91/2017/NĐ-CP ngày 31/7/2017
quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật thi đua, khen thưởng, Hà Nội.
15. Trần Thị Hà, Thứ trưởng Bộ Nội vụ, Trưởng Ban Thi đua - Khen
thưởng Trung ương (2015), Đổi mới công tác thi đua, khen thưởng theo tư
tưởng Hồ Chí Minh, Tạp chí Cộng sản.
16. Học viện Hành chính (2012), Tài liệu bồi dưỡng về Quản lý hành chính
nhà nước (chương trình chuyên viên), phần II, Nxb Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội.
17. Phùng Thị Thanh Loan (2013), "Đổi mới công tác thi đua, khen
thưởng góp phần tạo động lực làm việc cho cán bộ, công chức ngành tài
chính trong điều kiện hiện nay”, Luận văn Thạc sỹ Quản lý Hành chính công,
Học viện Hành chính.
18. Hồ Chí Minh (1984), Toàn tập, tập 4, NXB Sự thật, Hà Nội.
104
19. Hồ Chí Minh (1994), Toàn tập, tập 5, NXB CTQG, Hà Nội.
20. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, tập 6, , NXB CTQG, Hà Nội.
21. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, tập 10, NXB CTQG, Hà Nội.
22. Quốc hội (2003), Luật Thi đua, Khen thưởng ngày 26/11/2003,
Hà Nội.
23. Quốc hội (2005), Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi
đua, Khen thưởng ngày 14/6/2005, Hà Nội.
24. Quốc hội (2013), Luật sửa đổi, bổ sung một số Điều của Luật Thi
đua, Khen thưởng ngày 16/11/2013, Hà Nội.
25. Dương Thị Thanh (2007), Đổi mới quản lý nhà nước về công tác
thi đua, khen thưởng ở địa phương, Luận văn Thạc sỹ Quản lý hành chính
công, Học viện Hành chính.
26. UBND tỉnh Đắk Nông (2015), Báo cáo số 376/BC-UBND ngày
31/8/2015 về tổng kết phong trào thi đua yêu nước và công tác khen thưởng giai
đoạn 2011-2015; phương hướng, nhiệm vụ giai đoạn 2016-2020, Đắk Nông.
27. UBND Tỉnh Đắk Nông (2015), Kỷ yếu Đại hội thi đua yêu nước
tỉnh Đắk Nông Lần thứ III - 2015, Đắk Nông.
28. UBND tỉnh Đắk Nông (2009), Quyết định 1412/QĐ-UBND ngày
15/9/2009 về việc thành lập, quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu
tổ chức của Ban Thi đua - Khen thưởng trực thuộc Sở Nội vụ, Đắk Nông.
29. UBND tỉnh Đắk Nông (2010), Quyết định 1860/QĐ-UBND ngày
23/11/2010 về việc ban hành Quy chế tổ chức và hoạt động của Hội đồng Thi
đua - khen thưởng tỉnh Đắk nông, Đắk Nông.
30. UBND tỉnh Đắk Nông (2011), Quyết định 1463/QĐ-UBND ngày
06/10/2011về việc quy định công tác thi đua, khen thưởng trên địa bàn tỉnh
Đắk Nông, Đắk Nông.
105
31. UBND tỉnh Đắk Nông (2015), Quyết định 276/QĐ-UBND ngày
26/02/2015 quy định về quản lý công tác thi đua, khen thưởng trên địa bàn tỉnh
Đắk Nông, Đắk Nông.
32. UBND tỉnh Đắk Nông (2016), Quyết định 2246/QĐ-UBND ngày
08/12/2016 quy định về xét sáng kiến trên địa bàn tỉnh Đắk Nông, Đắk Nông.
33. UBND tỉnh Đắk Nông (2017), Quyết định 1122/QĐ-UBND ngày
04/7/2017 về ban hành Quy định khen thưởng phong trào thi đua ”Đắk Nông
chung sức xây dựng nông thôn mới” giai đoạn 2017 – 2020, Đắk Nông.
34. V.I.Lênin (1977), Toàn tập, tập 36, NXB Tiến Bộ, Mátxcơva.
35. Viện Thi đua - Khen thưởng Nhà nước (1999), Bác Hồ với thi đua
ái quốc và tư tưởng chỉ đạo của Đảng về công tác thi đua, khen thưởng trong
tình hình cách mạng mới, Hà Nội.
36. Nguyễn Như Ý (1999), Đại từ điển tiếng Việt, NXB Bộ Giáo dục và
Đào tạo, Hà Nội.
106
PHỤ LỤC
TỈNH ĐẮK NÔNG Biểu số 01
THỐNG KÊ CÁC PHONG TRÀO THI ĐUA TIÊU BIỂU CỦA
TỈNH ĐẮK NÔNG
(Giai đoạn 2011 – 2016)
STT Tên phong trào thi đua
Phong trào thi đua thực hiện thắng lợi các chỉ tiêu kinh tế - xã hội, 1 quốc phòng, an ninh của tỉnh
2 Đắk Nông chung tay xây dựng nông thôn mới
Phong trào thi đua “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí 3 Minh”.
4 Phong trào thi đua " Doanh nghiệp Đắk Nông hội nhập và phát triển”
Phong trào thi đua "Đắk Nông chung tay vì người nghèo - Không để ai 5 bị bỏ lại phía sau"
Phong trào thi đua "Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính trên địa bàn 6 tỉnh Đắk Nông”.
Phong trào "Thi đua lập thành tích chào mừng Đại lễ kỷ niệm 1000 7 năm Thăng Long-Hà Nội”.
8 Phong trào thi đua “Hướng về biển đảo quê hương"
Phát động Cuộc thi viết về “Gương người tốt, việc tốt, điển hình tiên 9 tiến xuất sắc”.
Phong trào "50 gương người tốt, 100 gương người tốt điển hình tiêu 10 biểu" của Đảng uỷ khối các cơ quan tỉnh.
11 Phong trào "cải cách hành chính" của Sở Nội vụ.
Phong trào “Xanh - sạch - đẹp, bảo đảm an toàn vệ sinh lao động” của
12 Liên đoàn Lao động Tỉnh
107
Các phong trào thi đua "Đoàn kết, sáng tạo, lập công dâng Đảng",
"Tiếp bước chiến sĩ Điện Biên, tiến lên giành 3 nhất", "Phất cao Cờ 13 hồng tháng Tám", "Sáng mãi phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ" của Bộ chỉ huy
quân sự tỉnh
Phong trào “Vì an ninh Tổ quốc”, “Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc” 14 của Công an Tỉnh
Phong trào "Nêu cao tinh thần trách nhiệm, chống chủ nghĩa cá nhân, 15 nói đi đôi với làm" của UBMTTQVN tỉnh.
Phong trào thi đua "Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích 16 cực”, "Thi đua dạy tốt, học tốt” của Sở Giáo dục và Đào tạo.
Văn phòng Đoàn ĐBQH và HĐND tỉnh phát động phong trào với khẩu
hiệu "Cán bộ văn phòng chủ động, sáng tạo, đoàn kết, trách nhiệm, 17 hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ đáp ứng các yêu cầu đổi mới cơ quan,
phục vụ nhân dân, làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh".
Ngân hàng Nhà nước, chi nhánh Đắk Nông phát động phong trào với
18 chủ đề "Đồng lòng, chung sức, quyết tâm phấn đấu vượt khó hoàn
thành xuất sắc nhiệm vụ chính trị được giao".
Sở Giao thông vận tải phát động phong trào "Xây dựng người cán bộ,
công chức trung thành, gương mẫu, tận tụy, sáng tạo; Sở Tư pháp phát 19 động phong trào "Toàn ngành Tư pháp đồng thuận, vượt khó, thi đua
hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao".
Thanh tra tỉnh phát động phong trào "Giữ vững kỷ cương - Tăng
cường trách nhiệm - Chủ động, sáng tạo - Đoàn kết, hợp tác; quyết tâm
phấn đấu hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ thanh tra, giải quyết khiếu nại, 20 tố cáo, đấu tranh phòng chống tham nhũng, xây dựng tổ chức thanh tra
trong sạch, vững mạnh".
108
Sở Công thương phát động phong trào chuyên đề với chủ đề "An toàn
21 thực phẩm thức ăn đường phố" đã góp phần lập lại trật tự kỷ cương
trong hoạt động sản xuất kinh doanh;
“Phụ nữ tích cực học tập, lao động sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh 22 phúc” của Hội Liêp hiệp phụ nữ Tỉnh
“Cựu chiến binh giúp nhau phát triển kinh tế gia đình, xóa nghèo, xóa
23 nhà ở tạm, làm kinh tế giỏi và hoạt động tình nghĩa” của Hội Cựu
chiến binh tỉnh
“Tuổi trẻ Đắk Nông chung tay xây dựng nông thôn mới”, “Thanh niên
lập nghiệp, tuổi trẻ giữ nước; Thi đua tình nguyện xây dựng và bảo vệ
24 Tổ quốc; 5 xung kích phát triển kinh tế xã hội và bảo vệ Tổ quốc - 4
đồng hành với thanh niên lập thân, lập nghiệp” của Tỉnh đoàn Đắk
Nông
109
TỈNH ĐẮK NÔNG Biểu số 02
THỐNG KÊ CÁC HÌNH THỨC KHEN THƢỞNG CẤP NHÀ NƢỚC
TỪ NĂM 2011 - 2016
Khen thƣởng theo công
Khen thƣởng chuyên
trạng, thành tích đạt đƣợc
đề, đột xuất
Tổng
Tổng số
số đã
đã có
trình
quyết
Hình thức
Thủ
stt
định
khen thƣởng
tƣớng
khen
Tổng số
Tỷ lệ %
Tổng số
Tỷ lệ %
Chính
thƣởng
phủ
6
2
3
4
9
10
1
5
1 Huân chương các loại
- Huân chương độc lập
1
1
100
1
hạng nhì
- Huân chương lao động
18
16
100
18
hạng nhì
- Huân chương lao động
77
68
100
77
hạng ba
Danh hiệu vinh dự nhà
23
16
100
23
2
nước: Bà mẹ VNAH
Cờ thi đua của Chính
25
26
23
95,7%
1
4,3%
3
phủ
Bằng khen của Thủ
157
143
151
96%
6
4%
4
tướng Chính phủ
Chiến sĩ thi đua toàn
16
13
16
100
5
quốc
110
TỈNH ĐẮK NÔNG Biểu số 03
THỐNG KÊ CÁC HÌNH THỨC KHEN THƢỞNG
CẤP TỈNH TỪ NĂM 2011 - 2016
Khen thưởng
cho công
Khen thưởng
Trong đó khen
nhân, nông
Khen thưởng
theo công
đột xuất, chuyên
thưởng cho cá
dân; người
trạng, thành
đề
nhân
trực tiếp lao
tích
động, công
Tổng
tác
số
Số
Tỷ lệ
Tổng
Tỷ
Tổng
Tỷ
Tổng
Tỷ
lượng
%
số
lệ
số
lệ
số
lệ
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
Bằng khen của Chủ
6617
4762
72%
1774
27%
4828
72%
1311
20%
1
tịch UBND tỉnh
Chiến sĩ thi đua cấp
639
133
21%
2
tỉnh
Cờ thi đua của
158
3
UBND tỉnh
Tập thể lao động
959
4
xuất sắc
111
TỈNH ĐẮK NÔNG Biểu số 04
THỐNG KÊ CÁC HÌNH THỨC KHEN THƢỞNG CẤP NHÀ NƢỚC HÀNG
NĂM TỪ NĂM 2011 - 2016
Khen thƣởng theo công trạng,
Khen thƣởng chuyên đề, đột
thành tích đạt đƣợc
xuất
Số cá
Tổng
nhân là
số đã
Số cá
Số
Số
Tổng số đã có
nhân là
lượng
lượng
lãnh đạo
stt
trình Thủ
Hình thức khen thƣởng
quyết định
quản
Tổng
Tổng
lãnh đạo quản lý
cá nhân không
cá nhân không
khen
Tỷ lệ
Tỷ lệ
tƣớng Chính
số
số
thƣởng
%
%
lý (lãnh
phủ
(lãnh đạo từ cấp
phải là lãnh
phải là lãnh
phòng trở lên)
đạo quản lý
đạo quản lý
đạo từ cấp phòng trở
lên)
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
Năm 2011
Huân chương
1
các loại
14
14
14
100
13
0
Huân chương lao động hạng
ba
2
2
2
Cờ thi đua của Chính
phủ
Bằng khen
của Thủ
3
45
45
45
100
39
0
tướng Chính phủ
4 Chiến sĩ thi
4
4
4
100
4
0
đua toàn quốc
112
Năm 2012
1
Huân chương các loại
2
2
2
100
2
0
- Huân chương lao động hạng nhì
16
16
16
100
14
14
- Huân chương lao động hạng ba
2
2
2
Cờ thi đua của Chính phủ
31
31
31
100
24
3
0
Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ
2
2
2
100
2
4
0
Chiến sĩ thi đua toàn quốc
Năm 2013
1
Huân chương các loại
1
1
1
- Huân chương độc lập hạng nhì
5
5
5
100
4
0
- Huân chương lao động hạng nhì
30
30
30
100
27
0
- Huân chương lao động hạng ba
2
Danh hiệu vinh dự nhà nước
4
4
3
Cờ thi đua của Chính phủ
47
47
47
100
37
4
0
Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ
1
1
1
100
1
5
Chiến sĩ thi đua toàn quốc
0
113
Năm 2014
1
2
4
4
4
100
2
0
4
4
4
100
2
0
3
10
10
4
4
4
5
7
7
7
100
5
0
6
3
2
2
100
2
0
Huân chương các loại - Huân chương lao động hạng nhì - Huân chương lao động hạng ba Danh hiệu vinh dự nhà nước - Bà mẹ VN Anh hùng Cờ thi đua của Chính phủ Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ Chiến sĩ thi đua toàn quốc
Năm 2015
1
5
5
5
100
4
0
4
4
4
100
3
0
Huân chương các loại - Huân chương lao động hạng nhì - Huân chương lao động hạng ba 2 Huy chương
3
6
6
4
8
8
1
12,5
5
6
4
46
6
13
13
13
100
Danh hiệu vinh dự nhà nước - Bà mẹ VN Anh hùng Cờ thi đua của Chính phủ Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ
3
0
6 Chiến sĩ thi
3
3
3
100
đua toàn quốc
114
Năm 2016
Huân chương
1
các loại
- Huân chương
lao động hạng
2
2
100
2
0
0
nhì
- Huân chương
9
100
7
lao động hạng
0
9
0
ba
Danh hiệu vinh
2
dự nhà nước
- Bà mẹ VN
0
7
Anh hùng
Cờ thi đua của
3
3
6
Chính phủ
Bằng khen của
0
4
Thủ tướng
14
14
100
14
0
Chính phủ
Chiến sĩ thi đua
3
100
3
5
0
3
0
toàn quốc
115
TỈNH ĐẮK NÔNG Biểu số 05
THỐNG KÊ CÁC HÌNH THỨC KHEN THƢỞNG THUỘC THẨM QUYỀN TỈNH
HÀNG NĂM TỪ NĂM 2011 - 2016
Số lƣợng khen thƣởng trong năm
Khen thƣởng theo công trạng, thành tích đạt đƣợc
Khen thƣởng chuyên đề, đột xuất
Trong đó khen thưởng
cho cá nhân
Số lượng
Số lượng
khen
khen
thưởng cho nông
Số cá nhân
thưởng cho nông
Số cá
Hình thức
nhân là
dân/công nhân/
là lãnh
dân/công nhân/
stt
Tổng
khen thƣởng
lãnh đạo
số
Tỷ
người lao động trực
đạo quản
người lao động trực
lệ
tiếp/
lý
tiếp/
Tổng số
Tỷ lệ %
quản lý (lãnh
Tổng số
Số lượng
Tỷ lệ %
%
công chức,
(lãnh đạo
công chức,
đạo từ cấp
phòng
viên chức
từ cấp phòn
viên chức
trở lên)
không làm công
g trở lên)
không làm công
tác quản
tác quản
lý
lý
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
Năm 2011
Bằng khen của Chủ tịch
1
UBND tỉnh
1032
737
71,4
268
26,0
147
85
749
72,6
411
79
Chiến sĩ thi đua cấp tỉnh
2
76
76
76
100
75
1
Cờ thi đua của UBND
3
tỉnh
10
10
100
10
Tập thể lao động xuất sắc
4
75
75
75
100
Tổng
1193
898
429
222
86
749
411
79
116
Năm 2012
Bằng khen
của Chủ tịch
1
UBND tỉnh
816
553
67,8
236
28,9
157
33
580
71,1
131
232
Chiến sĩ thi
2
đua cấp tỉnh
111
111
111
100
100
11
Cờ thi đua
của UBND
3
tỉnh
16
16
16
100
Tập thể lao
4
động xuất sắc
99
99
100
99
Tổng
1042
779
462
257
44
580
131
232
Năm 2013
Bằng khen
của Chủ tịch
1
UBND tỉnh
1439
1007
70,0
373
25,9
266
60
1066
74,1
532
149
Chiến sĩ thi
2
đua cấp tỉnh
96
96
96
100
75
21
Cờ thi đua
của UBND
3
tỉnh
19
19
19
100
Tập thể lao
4
động xuất sắc
134
134
134
100
Tổng
1688
1256
622
341
81
1066
532
149
Năm 2014
Bằng khen
của Chủ tịch
1
UBND tỉnh
960
640
66,7
353
36,8
199
80
607
63,2
269
95
Chiến sĩ thi
2
đua cấp tỉnh
136
136
136
100
105
31
Cờ thi đua
của UBND
3
tỉnh
24
24
24
100
Tập thể lao
động xuất sắc
170
170
170
100
4
Tổng
1290
970
683
304
111
607
269
95
117
Năm 2015
Bằng khen
của Chủ tịch
1
UBND tỉnh
1042
796
76,4
253
24,3
153
40
789
75,7
417
186
Chiến sĩ thi
2
đua cấp tỉnh
156
156
156
100
110
46
Cờ thi đua
của UBND
3
tỉnh
41
41
41
100
Tập thể lao
247
4
động xuất sắc
247
247
100
697
Tổng
1486
1240
263
86
789
417
186
Năm 2016
Bằng khen
của Chủ tịch
1
UBND tỉnh
1328
1029
77,5
291
21,9
222
69
1037
78,1
586
203
Chiến sĩ thi
2
đua cấp tỉnh
64
64
64
100
41
23
Cờ thi đua
của UBND
3
tỉnh
48
48
48
100
Tập thể lao
4
động xuất sắc
234
234
234