VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGÔ THỊ THANH NGA
HOÀN THIỆN CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHIỆM VỤ KHOA HỌC
VÀ CÔNG NGHỆ CỦA VIỆN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
(NGHIÊN CỨU TRƯỜNG HỢP VIỆN SINH THÁI VÀ
TÀI NGUYÊN SINH VẬT)
LUẬN VĂN THẠC SĨ
QUẢN LÝ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
HÀ NỘI, 2019
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGÔ THỊ THANH NGA
HOÀN THIỆN CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHIỆM VỤ KHOA HỌC
VÀ CÔNG NGHỆ CỦA VIỆN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
(NGHIÊN CỨU TRƯỜNG HỢP VIỆN SINH THÁI VÀ
TÀI NGUYÊN SINH VẬT)
Ngành: Quản lý Khoa học và Công nghệ
Mã số: 8 34 04 12
HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. ĐẶNG DUY THỊNH
HÀ NỘI, 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan: Luận văn này là công trình nghiên cứu thực sự của
cá nhân tôi, được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của Tiến sỹ Đặng
Duy Thịnh.
Các số liệu sử dụng trong luận văn có trích dẫn nguồn rõ ràng. Các kết
luận nghiên cứu trong luận văn được đúc kết từ cơ sở lý luận đến thực tiễn
của vấn đề luận văn cần giải quyết.
Tôi xin chịu trách nhiệm về nghiên cứu của mình./.
Học viên
Ngô Thị Thanh Nga
LỜI CẢM ƠN
Luận văn này được Học viện Khoa học Xã hội, Viện hàn lâm Khoa học
Xã hội Việt Nam và Viện Chiến lược và Chính sách khoa học và công nghệ,
Bộ Khoa học và Công nghệ quyết định và cho phép thực hiện dưới sự hướng
dẫn của TS. Đặng Duy Thịnh.
Tôi xin gửi lời tri ân sâu sắc nhất tới thầy giáo hướng dẫn là TS. Đặng
Duy Thịnh đã trực tiếp tận tình hướng dẫn, chia sẻ kinh nghiệm và đóng góp
nhiều ý kiến quý báu giúp tôi hoàn thành luận văn.
Tôi xin gửi lời cảm ơn tới các thầy cô trong Khoa Chính sách công đã
tận tình giảng dạy, cung cấp kiến thức và tạo mọi điều kiện tốt nhất cho chúng
tôi trong thời gian học tập tại trường.
Nhân dịp này, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới Lãnh đạo Viện
Sinh thái và Tài nguyên sinh vật, các tổ chức và cá nhân, anh chị em đồng
nghiệp và gia đình đã luôn ở bên hỗ trợ tài liệu, tư vấn, chia sẻ kinh nghiệm
và tạo mọi điều kiện thuận lợi để tôi thực hiện luận văn.
Do thời gian và năng lực bản thân có hạn, luận văn này không tránh
khỏi những khiếm khuyết, tôi rất mong được sự thông cảm và nhận được
những góp ý của các thầy cô giáo, các chuyên gia trong lĩnh vực Quản lý
Khoa học và Công nghệ để Luận văn được hoàn thiện hơn.
Xin trân trọng cảm ơn !
Học viên
Ngô Thị Thanh Nga
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CÔNG TÁC QUẢN LÝ
NHIỆM VỤ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ CỦA VIỆN NGHIÊN CỨU
KHOA HỌC ............................................................................................................... 7
1.1. Các khái niệm, định nghĩa công cụ ............................................................... 7
1.2. Viện nghiên cứu khoa học và quản lý nhiệm vụ Khoa học và Công nghệ ....... 13
1.3. Nội dung và đặc điểm của công tác quản lý nhiệm vụ Khoa học và
Công nghệ của Viện nghiên cứu khoa học ......................................................... 19
1.4. Kinh nghiệm thực tiễn về quản lý nhiện vụ Khoa học và Công nghệ tại
Viện nghiên cứu khoa học .................................................................................. 24
Chương 2: CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHIỆM VỤ KHOA HỌC VÀ CÔNG
NGHỆ CỦA VIỆN SINH THÁI VÀ TÀI NGUYÊN SINH VẬT TỪ NĂM
2014 ĐẾN 2018 ........................................................................................................ 29
2.1. Tổng quan về Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật ................................. 29
2.2. Công tác quản lý các nguồn lực thực hiện nhiệm vụ Khoa học và Công
nghệ KH&CN ..................................................................................................... 38
2.3. Thực trạng công tác quản lý nhiệm vụ Khoa học và Công nghệ Viện
Sinh thái và Tài nguyên sinh vật 2014-2018 ...................................................... 43
2.4. Đánh giá chung về công tác quản lý nhiệm vụ Khoa học và Công nghệ
trong hoạt động Khoa học và Công nghệ của Viện Sinh thái và Tài nguyên
sinh vật ................................................................................................................ 49
Chương 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHIỆM VỤ
KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ CỦA VIỆN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC ......... 55
3.1. Bối cảnh, cơ hội ảnh hưởng đến công tác quản lý nhiệm vụ Khoa học
và Công nghệ của Viện nghiên cứu khoa học .................................................... 55
3.2. Một số giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện công tác quản lý nhiệm vụ
Khoa học và Công nghệ cho các viện Nghiên cứu khoa học ............................. 62
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 74
TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Bộ KHCN:
Bộ Khoa học và Công nghệ
CGCN:
Chuyển giao công nghệ
DNNN:
Doanh nghiệp nhà nước.
GS:
Giáo sư
HVCH:
Học viên cao học
KT-XH:
Kinh tế - Xã hội.
KH&CN:
Khoa học và Công nghệ.
KHXH&NV:
Khoa học xã hội và nhân văn
Luật KH&CN: Luật Khoa học và công nghệ
NC&TK:
Nghiên cứu và Triển khai.
NCCB:
Nghiên cứu cơ bản.
NCKH:
Nghiên cứu khoa học
NCS:
Nghiên cứu sinh
NCƯD:
Nghiên cứu ứng dụng.
NCVCC:
Nghiên cứu viên cao cấp
NSNN:
Ngân sách nhà nước.
Nghị định 115: Nghị định số 115/2005/NĐ-CP ngày 05/09/2005 của Chính phủ.
PGS:
Phó giáo sư
SX-KD:
Sản xuất – Kinh doanh.
SV:
Sinh viên
TKTN:
Triển khai thực nghiệm
Viện STTTNSV: Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật
Viện HL KHCNVN:Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam.
DANH MỤC BẢNG
Bảng 1.1. Tỷ suất thành công, thất bại của hoạt động NC&TK ..................... 19
Bảng 2.1: Nhân lực KHCN Viện STTNSV năm 2018 ................................... 33
Bảng 2.2. Số lượng kinh phí chia theo nguồn giai đoạn 2014-2018 .............. 34
Bảng 2.3. Kết qủa thực hiện các nhiệm vụ KH&CN giai đoạn 2014-2018.... 36
DANH MỤC HÌNH
Hình 1.1. Hoạt động NC&TK theo khái niệm của UNESCO, ......................... 8
Hình 1.2. Phân loại hoạt động NC&TK theo các giai đoạn .............................. 9
Hình 1.3. Chuỗi nghiên cứu và triển khai, người tham gia và tài chính ......... 14
Hình 2.1. Sơ đồ cơ cấu tổ chức của Viện STTNSV tại thời điểm thành lập và
phát triển trong giai đoạn 1990 ....................................................................... 31
Hình 2.2. Sơ đồ cơ cấu tổ chức của Viện STTNSV hiện nay ......................... 32
Hình 2.3. Quy trình xác định danh mục và xét chọn tổ chức, cá nhân chủ trì
nhiệm vụ KHCN.............................................................................................. 44
Hình 2.4. Quy trình quản lý chung thực hiện các nhiệm vụ KHCN cấp Viện
Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam ................................................... 45
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đảng và Nhà nước ta từ rất sớm đã xác định vai trò then chốt của cách mạng
khoa học và kỹ thuật. Trong thời gian gần đây, nhiều văn bản quan trọng về định
hướng chiến lược và cơ chế, chính sách phát triển khoa học và công nghệ đã được
ban hành: Luật Khoa học và Công nghệ (2013); Luật chuyển giao công nghệ (2017);
Chiến lược phát triển KH&CN Việt Nam 2011-2020; Nghị quyết 20-NQ/TW của
đảng về phát triển KH&CN phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đaị hóa trong
điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế (2012)
và nhiều chính sách cụ thể khác về xây dựng tiềm lực và đổi mới cơ chế quản lý khoa
học và công nghệ.
Mới đây, báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI
được Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII (20-28/01/2016) thông qua đã có
những nhận định, đánh giá về những ưu nhược của công tác quản lý KH&CN
như: Quản lý nhà nước về khoa học, công nghệ có đổi mới. Thị trường KH&CN
cũng như hợp tác quốc tế về KH&CN có bước tiến bộ nhưng còn thiếu định
hướng, hiệu quả thấp. Việc huy động nguồn lực của xã hội cho khoa học, công
nghệ chưa được chú trọng. Công tác quy hoạch, phát triển KH&CN chưa gắn kết
chặt chẽ với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và quốc phòng - an ninh. Báo cáo
cũng đã đề ra phương hướng quản lý KH&CN thời gian tới như sau: “Đến năm
2020 KH&CN Việt Nam đạt trình độ phát triển của nhóm các nước dẫn đầu
ASEAN; đến năm 2030 có một số lĩnh vực đạt trình độ tiên tiến thế giới”. Các
ngành KH&CN có nhiệm vụ cung cấp cơ sở khoa học cho việc xây dựng và triển
khai đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật. Có cơ chế thúc đẩy đổi mới
công nghệ theo hướng ứng dụng công nghệ mới, công nghệ hiện đại. Thực hiện
cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của tổ chức KH&CN công lập; Tăng cường
liên kết giữa các tổ chức KH&CN với doanh nghiệp; mở rộng hình thức liên kết
giữa Nhà nước, nhà khoa học, nhà doanh nghiệp, nhà nông. Khuyến khích, tạo
điều kiện để các doanh nghiệp tham gia nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng tiến
bộ KH&CN, đổi mới công nghệ; Xây dựng và thực hiện chính sách đào tạo, bồi
1
dưỡng, trọng dụng, đãi ngộ, tôn vinh đội ngũ cán bộ KH&CN, nhất là các chuyên
gia giỏi, có nhiều đóng góp. Kiện toàn, nâng cao năng lực bộ máy và đội ngũ cán bộ
quản lý nhà nước về KH&CN. Đối với công tác quản lý nhiệm vụ KH&CN, Luật
KH&CN 2013 đã đưa ra những đổi mới như cơ chế đặt hàng, cấp kinh phí KH&CN
thông qua cơ chế quỹ,...
Kết quả trong thời gian vừa qua, công tác quản lý nhiệm vụ KH&CN đã
được đổi mới, thể hiện ở chỗ đã tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho hoạt động
nghiên cứu KH&CN, bảo đảm quyền và lợi ích của tổ chức, cá nhân tham gia
công tác nghiên cứu KH&CN, bảo đảm sự phân công phân cấp, xác định trách
nhiệm giữa các đơn vị, tổ chức tham gia thực hiện nhiệm vụ KH&CN,.... Tuy
nhiên trên thực tế cho thấy vẫn còn những bất cập như thiếu sự phối hợp giữa
các loại nhiệm vụ cấp bộ (vd Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam)
với cấp cơ sở (vd Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật ); thiếu sự phối hợp chặt
chẽ giữa các đơn vị quản lý nhiệm vụ KH&CN các cấp; thiếu sự phân công,
phân cấp rõ ràng giữa nhiệm vụ KH&CN cấp bộ với nhiệm vụ nghiên cứu
thường xuyên theo chức năng của đơn vị cơ sở,... Viện Sinh thái và Tài nguyên
sinh vật (Viện STTNSV) là tổ chức KH&CN trực thuộc Viện Hàn lâm Khoa học
và Công nghệ Việt Nam (Viện HL KHCNVN), và là đơn vị hoạt động dưới sự
quản lý của Viện HL KHCNVN nói riêng và theo những quy định của Đảng và
Nhà nước nói chung. Viện STTNSV có chức năng điều tra nghiên cứu cơ bản và
phát triển công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực có trình độ cao trong lĩnh vực sinh
thái học, đa dạng sinh học và tài nguyên sinh vật. Do sự thay đổi của cơ chế
chính sách và nhu cầu phát triển của Viện STTNSV, công tác quản lý các nhiệm
vụ KH&CN của Viện đã có những điểm được hoàn thiện theo Luật KH&CN
2013, cơ chế tự chủ tại Nghị định 115 và Luật KH&CN 2013 và mới đây là Nghị
định 54/NĐ-CP về tự chủ của tổ chức KH&CN công lập. Tuy nhiên vẫn còn có
những điểm chưa theo kịp và không còn phù hợp với quá trình chuyển đổi hình
thức hoạt động như hiện nay.
Trong bối cảnh đó, tác giả lựa chọn nghiên cứu đề tài “Hoàn thiện công tác
quản lý nhiệm vụ khoa học và công nghệ của Viện nghiên cứu khoa học (Nghiên
cứu trường hợp Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật)” với mong muốn tìm hiểu
2
về cơ sở lý luận về công tác quản lý các nhiệm vụ KH&CN tại Viện nghiên cứu khoa
học; nghiên cứu thực trạng công tác quản lý nhiệm vụ KH&CN, tìm hiểu các nhân tố
tác động đến công tác quản lý nhiệm vụ KH&CN và trên cơ sở đó đề xuất hướng
quản lý phù hợp với chức năng, đặc điểm các nhiệm vụ KH&CN của Viện STTNSV
vật nói riêng và Viện nghiên cứu khoa học nói chung.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Công tác quản lý nhiệm vụ KH&CN tại Viện nghiên cứu khoa học một
cách hiệu quả luôn là vấn đề được quan tâm của Nhà nước và các cấp lãnh đạo
trong tình hình nền kinh tế thị trường hiện nay. Trong những năm gần đây, Viện
nghiên cứu khoa học chịu sự tác động của cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm
ngày càng diễn ra mạnh mẽ. Một số công trình nghiên cứu liên quan đến quản lý
nhiệm vụ KH&CN có thể kể đến như:
- "Đổi mới cơ chế quản lý khoa học và công nghệ" -TS. Lê Đăng Doanh
(NXB Khoa học & Kỹ thuật, Hà Nội, 2003);
- “Nghiên cứu đổi mới cơ chế, chính sách tài chính của Nhà nước đối với
hoạt động khoa học và công nghệ và hoạt động đổi mới (công nghệ )” - TS.
Đặng Duy Thịnh, Đề tài cấp bộ, Hà Nội, 2009;
- “Nghiên cứu phân tích, đánh giá hoạt động quản lý các nhiệm vụ KH&CN
sau 30 năm đổi mới” - TS. Hoàng Xuân Long, Đề tài cấp Bộ, Hà Nội, 2017.
Qua các nghiên cứu nêu ở trên, những nội dung cơ bản của đổi mới cơ chế
quản lý KH&CN; đổi mới hệ thống KH&CN, phát triển nguồn nhân lực, đổi mới cơ
chế tài chính, kế hoạch hoá hoạt động KH&CN, xây dựng thị trường KH&CN… đã
được đề cập và phân tích từ các góc độ khác nhau. Những nghiên cứu này đã từng
bước sáng rõ các vấn đề về quản lý KH&CN và thúc đẩy quá trình đổi mới đáp ứng
nhu cầu thực tế ở phạm vi quốc gia cũng như địa phương.
Trong thời gian qua, các nghiên cứu về đổi mới chính sách trong quản lý
KH&CN ở các Viện nghiên cứu khoa học được thực hiện rất ít. Ở phạm vi Viện
HL KHCNVN, những vấn đề nghiên cứu về phương pháp luận thường ít được
chú ý. Những nghiên cứu liên quan đến hoạt động KH&CN của Viện HL
3
KHCNVN trong những năm gần đây có thể kể đến là:
- Đa dạng hóa các hoạt động nghiên cứu ứng dụng nhằm nâng cao năng
lực tự chủ về tài chính cho các tổ chức KH&CN (trường hợp Viện Cơ học –Viện
HL KHCNVN) - Lành Thị Thúy Thanh, 2015.
- Nhận diện rào cản trong hoạt động thương mại hóa kết quả nghiên cứu tại
Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam - Phạm Nguyệt Minh, 2013.
- Xây dựng chính sách thu hút nhân lực khoa học và công nghệ chất lượng
cao trong điều kiện tự chủ, tự chịu trách nhiệm tại Viện Hàn lâm Khoa học và
công nghệ Việt Nam - Đỗ Thị Lâm Thanh, 2015
Qua những công trình nghiên cứu kể trên, cho đến thời điểm này chưa có
tác giả nào công bố các kết quả nghiên cứu về vấn đề quản lý nhiệm vụ KH&CN
của Viện nghiên cứu khoa học mà cụ thể là Viện STTNSV trong giai đoạn 2014-
2018 thuộc Viện HL KHCNVN. Đề tài nghiên cứu này có mục tiêu đầy đủ và có
tính kế thừa một số ý tưởng khoa học của các công trình nghiên cứu nêu trên.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Đánh giá, phân tích những bất cập trong công tác quản lý các nhiệm vụ
khoa học & công nghệ của Viện STTNSV trong giai đoạn 2014-2018.
- Đưa ra được một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản lý nhiệm vụ
khoa học và công nghệ của Viện nghiên cứu khoa học nói chung và Viện
STTNSV nói riêng.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu: Công tác quản lý nhiệm vụ khoa học và công
nghệ của Viện STTNSV.
4.2. Phạm vi nghiên cứu: Các đề tài/nhiệm vụ khoa học và công nghệ và
các nguồn lực thực hiện nhiệm vụ của Viện STTNSV.
4.3. Phạm vi thời gian đánh giá: 2014-2018
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1.Cơ sở lý luận
Cơ sở lý luận và thực tiễn về quản lý nhiệm vụ khoa học và công nghệ áp
4
dụng cho Viện nghiên cứu khoa học.
- Đánh giá thực trạng công tác quản lý nhiệm vụ KH&CN của Viện
STTNSV giai đoạn 2014-2018.
- Đề xuất một số giải pháp hoàn thiện, đổi mới công tác quản lý nhiệm vụ
KH&CN của Viện nghiên cứu khoa học nói chung và trường hợp Viện STTNSV
nói riêng.
Câu hỏi nghiên cứu
Thực trạng công tác quản lý nhiệm vụ khoa học và công nghệ của Viện
STTNSV trong 05 năm (2014-2018) như thế nào? có những điểm yếu, rào cản
nào cần khắc phục?
Cần những giải pháp nào để hoàn thiện, đổi mới công tác quản lý nhiệm vụ
KH&CN của một Viện nghiên cứu khoa học (Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh
vật) trong thời gian tới?
Giả thuyết nghiên cứu
Công tác quản lý nhiệm vụ khoa học và công nghệ của Viện STTNSV
thời gian qua chậm đổi mới ở khâu nào (vd tìm nguồn kinh phí cho hoạt động
KH&CN)? Thiếu cơ chế nào (vd khuyến khích công bố kết quả nghiên cứu)?
Công tác quản lý nhiệm vụ KH&CN của Viện STTNSV thời gian tới cần
hoàn thiện những giải pháp về xây dựng kế hoạch, xác định, tuyển chọn, quản lý
thực hiện nhiệm vụ, phân bổ, cấp kinh phí, nghiệm thu để nâng cao chất lượng
sản phẩm nghiên cứu, ứng dụng…; triển khai kế hoạch tham gia thực hiện các
nhiệm vụ KH&CN từ các nguồn khác (như Quỹ phát triển KH&CN quốc gia,
Chương trình KH&CN của Bộ KH&CN và các bộ ngành khác, hợp tác quốc tế,
doanh nghiệp,...)
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Các báo cáo tổng kết hoạt động
5.2 Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp trao đổi, thảo luận: Với Lãnh đạo và các nghiên cứu viên
KH&CN của Viện STTNSV trong các năm từ 2014 - 2018.
- Phương pháp thống kê.
5
thuộc Viện STTNSV.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ hệ thống hoá các lý luận và thực tiễn về
công tác tổ chức quản lý các nhiệm vụ KH&CN của Viện nghiên cứu khoa học,
đồng thời đánh giá thực trạng công tác quản lý nhiệm vụ KH&CN của Viện
STTNSV. Kết quả sẽ góp phần hoàn thiện lý luận về công tác quản lý nhiệm vụ
KH&CN của Viện nghiên cứu khoa học.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ là cơ sở khoa học cho Viện nghiên cứu
khoa học nói chung và Viện STTNSV nói riêng hoàn thiện công tác quản lý
nhiệm vụ KH&CN của Viện, góp phần nâng cao hiệu quả các hoạt động
KH&CN của Viện trong thực tiễn.
7. Kết cấu của luận văn
Nội dung của Luận văn có kết cấu thành 3 chương như sau:
Chương 1. Cơ sở lý luận và thực tiễn về quản lý nhiệm vụ KH&CN của
Viện nghiên cứu khoa học.
Chương 2. Công tác quản lý nhiệm vụ khoa học và công nghệ của Viện
STTNSV giai đoạn 2014-2018.
Chương 3. Giải pháp hoàn thiện, đổi mới công tác quản lý nhiệm vụ khoa
6
học và công nghệ của Viện Nghiên cứu khoa học.
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHIỆM VỤ
KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ CỦA VIỆN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
1.1. Các khái niệm, định nghĩa công cụ
1.1.1. Khái niệm Khoa học và công nghệ
Có rất nhiều khái niệm về Khoa học và Công nghệ. Nhưng ở luận văn
này, tác giả chỉ đề cập đến một số khái niệm về Khoa học và Công nghệ như sau:
- Theo Luật khoa học và công nghệ của Việt nam (2013), khoa học là hệ
thống tri thức về các hiện tượng, sự vật, quy luật của tự nhiên, xã hội và tư duy.
- Theo Từ điển Giáo dục, Khoa học là lĩnh vực hoạt động của con người
nhằm tạo ra và hệ thống hóa những tri thức khách quan về thực tiễn, là một trong
những hình thái ý thức xã hội bao gồm cả hoạt động để thu hái kiến thức mới lẫn
cả kết quả của hoạt động ấy, tức là toàn bộ những tri thức khách quan làm nên
nền tảng của một bức tranh về thế giới. Từ khoa học cũng còn dùng để chỉ những
lĩnh vực tri thức chuyên ngành. Những mục đích trực tiếp của khoa học là miêu
tả, giải thích và dự báo các quá trình và các hiện tượng của thực tiễn dựa trên cơ
sở những quy luật mà nó khám phá được.
- Sheldon (1997) cho rằng khoa học là một hoạt động trí tuệ được thực
hiện bởi con người, được thiết kế để khám phá cách thức hoạt động, tồn tại của
sự vật - hiện tượng.
- Công nghệ: theo ESCAP, Công nghệ là hệ thống kiến thức về quy trình
và kỹ thuật dùng để chế biến vật liệu và thông tin; các thành phần công nghệ
gồm các yếu tố: Kỹ thuật (Technoware), Con người (Humanware), Thông tin
(Inforware) và Tổ chức (Organware).
- Theo Bộ Luật dân sự và Luật chuyển giao công nghệ của Việt Nam
(2017), công nghệ là giải pháp, quy trình, bí quyết kỹ thuật có kèm hoặc không
7
kèm công cụ, phương tiện dùng để biến đổi nguồn lực thành sản phẩm.
1.1.2. Hoạt động KH&CN (NC&TK, Dịch vụ KH&CN)
Hoạt động KH &CN (Science and Technology Acitivities) là một thuật
ngữ được dùng trong thiêt kế chính sách của UNESCO bao gồm: hoạt động
nghiên cứu và triển khai (R&D) và hoạt động dịch vụ KH&CN (H 1.1.).
Hình 1.1. Hoạt động NC&TK theo khái niệm của UNESCO,
NC&TK (Research and Development)
NCCB
NCƯD
Triển khai
sản xuất
(Fundamental
(Applied
(Technological
(Production)
Research)
Research)
Experimental
Development)
Dịch vụ KH&CN (Science and Technology Services)
Nguồn: [3, 23]
1.1.2.1. Nghiên cứu và triển khai (R&D- Research and Development)
Năm 1980, UNESCO định nghĩa NC&TK (R&D) là tập hợp các hoạt
động có hệ thống và sáng tạo nhằm phát triển kho tàng kiến thức gồm các kiến
thức liên quan đến con người, tự nhiên và xã hội và nhằm sử dụng kiên thức đó
để tạo ra những áp dụng mới. Trong khi nghiên cứu khoa học (R) được định
nghĩa là tập hợp toàn bộ các hoạt động có hệ thống và sáng tạo nhằm phát triển
kho tàng kiến thức khoa học và áp dụng chúng vào thực tiễn thì triển khai (D)
được cho là một công việc có hệ thống nhằm vận dụng các kiến thức nghiên cứu
khoa học đã đạt được hoặc kinh nghiệm thực tiễn nhằm sản xuất ra sản phẩm
mới, công nghệ mới, phương pháp tiến hành mới, hệ thống dịch vụ mới và nhằm
cơ bản hoàn thiện những gì đã hoặc đang sử dụng/sản xuất [23]. UNESCO phân
hoạt động NC&TK thành các bước như sau: Ở bước Nghiên cứu bao gồm hai
bước con: NCCB và NCƯD, trong đó NCCB lại chia thành NCCB thuần túy và
NCCB định hướng. Sau bước Nghiên cứu là bước Triển khai. Quá trình “Triển
khai” bao gồm 3 giai đoạn: tạo vật mẫu, tạo quy trình để tạo công nghệ - sản
8
xuất thử loạt 0 hay làm “Sêri 0”.
Các giai đoạn của NC&TK là sự kế thừa lẫn nhau và các dòng tri thức
chảy theo các chiều mũi tên từ trên xuống dưới (H 1.2).
Hình 1.2. Phân loại hoạt động NC&TK theo các giai đoạn
Nguồn: [3]
1.1.2.2. Nghiên cứu cơ bản (FR - Fundamental Research)
NCCB là những nghiên cứu nhằm tìm ra các thuộc tính, cấu trúc, động
thái của các đối tượng nghiên cứu, các sự vật và hiện tuợng . Kêt qủa của
NCCB có thể là những phân tích lý luận, những kết luận về quy luật, định luật,
định lý,...Trên cơ sở đó, hình thành nên các phát hiện, phát minh và các hệ
thống lý thuyết mới. NCCB đuợc chia thành hai loại:
- NCCB thuần túy: còn gọi là NCCB tự do hay NCCB không định
hướng, là những nghiên cứu tìm hiểu về bản chất sự vật và quy luật của các
hiện tượng tự nhiên và xã hội, nhằm nâng cao nhận thức, tri thức mà chưa có
hoặc chưa bàn đến bất kỳ một ý nghĩa ứng dụng nào. Loại hình nghiên cứu
này, nhìn chung mang đậm dấu ấn cá nhân của nhà nghiên cứu.
- NCCB định hướng: còn gọi là nghiên cứu thăm dò, là những NCCB đã
dự kiến mục đích ứng dụng. NCCB định hướng lại được chia thành: Nghiên
cứu nền tảng và Nghiên cứu chuyên đề
1.1.2.3. Nghiên cứu ứng dụng (AR - Applied Research)
NCƯD là sự vận dụng các lý thuyết, quy luật thu được từ trong NCCB,
tức là dựa trên cơ sở các kết quả, sản phẩm của NCCB, để đưa ra những mô tả,
9
giải thích, dự báo hoặc những nguyên lý về các giải pháp (giải pháp được hiểu
theo nghĩa rộng nhất của thuật ngữ này, có thể là các giải pháp về công nghệ, vật
liệu, sản phẩm, giải pháp về xã hội, quản lý, tổ chức,...). NCƯD cũng có thể là
nghiên cứu để áp dụng các kết quả nghiên cứu đã thành công ở một môi trường
nhất định, vào trong một môi trường mới của sự vật, hiện tượng.
Kết quả của NCƯD có thể là một hệ thống tri thức về nhận dạng trạng
thái của sự vật, hiện tượng trong hiện tại và tương lai. Cũng có thể là một hệ
thống tri thức về giải thích nguyên nhân, nguồn gốc, động thái, cấu trúc, tương
tác, hậu quả, quy luật chung chi phối sự vật, hiện tượng. Sản phẩm của NCƯD
cũng có thể là một giải pháp mới có tính nguyên lý về công nghệ, vật liệu, sản
phẩm, về xã hội, tổ chức và quản lý. Trong đó, một sản phẩm đặc biệt của
NCƯD là các nguyên lý công nghệ.
Mặc dù gọi như vậy, nhưng kết quả của NCƯD vẫn chưa thể ứng dụng
được ngay mà còn phải trải qua một giai đoạn nữa, giai đoạn này gọi là triển
khai mới có thể đưa chúng vào sử dụng trong thực tế.
1.1.2.4. Triển khai thực nghiệm (D -Exprimental Development)
Triển khai hay còn gọi là triển khai thực nghiệm công nghệ là hoạt động
vận dụng các quy luật (kết qủa của NCCB) và các nguyên lý, giải pháp (kết qủa
của NCƯD) để tạo ra vật mẫu và công nghệ sản xuất vật mẫu với các tham số kỹ
thuật khả thi. Triển khai bao gồm ba giai đoạn:
- Tạo ra vật mẫu: là giai đoạn thực nghiệm nhằm tạo ra được sản phẩm
mẫu hay còn gọi là vật mẫu chức năng (Functional Prototype), mà chưa quan
tâm đến quy trình sản xuất ra vật mẫu và quy mô áp dụng vật mẫu đó.
- Tạo quy trình, công nghệ: là giai đoạn tìm kiếm, thử nghiệm (bán sản
xuất) và tạo ra công nghệ để sản xuất sản phẩm theo mẫu mới vừa thành công ở
giai đoạn trước.
- Sản xuât thử loạt đầu: là giai đoạn kiểm chứng độ tin cậy của công nghệ
trên quy mô nhỏ hay làm thí điểm, trong thực tế còn được gọi là sản xuất bán đại
trà hay bán công nghiệp.
10
Theo lý thuyết, kết quả nghiến cứu sau giai đoạn triển khai sẽ được
chuyển giao vào sản xuất thông qua CGCN. Tuy nhiên, thực tế có thể do doanh
nghiệp chưa sẵn sàng tiếp nhận, cũng có thể do tổ chức NC&TK còn muốn giữ
lại làm bí quyết hoặc muốn tiếp tục hoàn thiện công nghệ,...
1.1.2.5. Dịch vụ KH&CN (STS-Science and Technology Services)
Dịch vụ khoa học và công nghệ là hoạt động phục vụ, hỗ trợ kỹ thuật cho
việc nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ; hoạt động liên quan đến sở
hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ, tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, đo lường,
chất lượng sản phẩm, hàng hóa, an toàn bức xạ, hạt nhân và năng lượng nguyên
tử; dịch vụ về thông tin, tư vấn, đào tạo, bồi dưỡng, phổ biến, ứng dụng thành
tựu khoa học và công nghệ trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội.
1.1.3. Nhiệm vụ KH&CN (đề tài, đề án, dự án KH&CN)
Nhiệm vụ KH&CN là công việc KH&CN được tổ chức dưới hình thức
chương trình, đề tài, dự án, nhiệm vụ nghiên cứu theo chức năng của tổ chức
khoa học và công nghệ và các hình thức khác [7].
Các nhiệm vụ KH&CN có sử dụng ngân sách nhà nước theo quy định
được tổ chức dưới hình thức chương trình, đề tài, dự án và các hình thức khác.
Hai hình thức nhiệm vụ KH&CN có sử dụng ngân sách nhà nước thường hay
được sử dụng nhất, kể cả các nhiệm vụ KH&CN thuộc chương trình KH&CN là
đề tài và dự án sản xuất thử nghiệm.
Nhiệm vụ KH&CN sử dụng ngân sách nhà nước bao gồm nhiệm vụ
KH&CN cấp quốc gia, cấp bộ, cấp tỉnh và cấp cơ sở do cơ quan có thẩm quyền
quyết định, được quy định tại Điều 27 của Luật KH&CN 2013. Nhiệm vụ
KH&CN cấp quốc gia, cấp bộ, cấp tỉnh phải thực hiện theo hình thức đặt hàng
hoặc tuyển chọn.
Nhà nước khuyến khích, tạo điều kiện để mọi tổ chức, cá nhân đề xuất ý
tưởng khoa học để hình thành nhiệm vụ KH&CN của nhà nước. Trong đó, Chính
phủ quy định tiêu chí xác định nhiệm vụ KH&CN các cấp phù hợp với từng giai
đoạn phát triển và lĩnh vực KH&CN.
11
Nhiệm vụ KH&CN cấp quốc gia được đề ra phải đáp ứng các tiêu chí sau đây:
- Có tầm quan trọng đối với phát triển KH-XH, quốc phòng, an ninh
trong phạm vi cả nước; và nâng cao tiềm lực KH&CN quốc gia;
- Giải quyết các vấn đề KH&CN liên quan đến nhiều ngành, nhiều lĩnh
vực, liên vùng;
- Phải huy động nguồn lực quốc gia, có thể có sự tham gia của nhiều
ngành KH&CN.
Nhiệm vụ KH&CN cấp bộ cần phải đáp ứng các tiêu chí sau đây:
- Có tầm quan trọng đối với sự phát triển của ngành, lĩnh vực;
- Giải quyết các vấn đề KH&CN trong phạm vi ngành, lĩnh vực;
- Có sử dụng kinh phí sự nghiệp KH&CN của Bộ, ngành.
Nhiệm vụ KH&CN nhằm giải quyết các vấn đề KH&CN của cơ sở là các
nhiệm vụ KH&CN nằm trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ thường xuyên của
cơ sở, phải đạt được các tiêu chí sau đây, bao gồm:
- Phát triển nguồn nhân lực NC&TK cho tương lai của Viện;
- Những nghiên cứu cơ bản làm cơ sở cho các nghiên cứu tiếp theo.
1.1.4. Công tác quản lý nhiệm vụ KH&CN
Quản lý là việc quản trị của một tổ chức, cho dù đó là một doanh nghiệp,
một tổ chức phi lợi nhuận hoặc cơ quan chính phủ. Quản lý bao gồm các hoạt động
thiết lập chiến lược của một tổ chức và điều phối các nỗ lực của nhân viên để hoàn
thành các mục tiêu của mình thông qua việc áp dụng các nguồn lực sẵn có [5].
Đối với hoạt động KH&CN quá trình từ hình thành cho đến kết thúc một nhiệm
vụ KH&CN, công tác quản lý nhiệm vụ KH&CN bắt đầu từ khâu xác định tên, nội
dung, mục tiêu nhiệm vụ; tuyển chọn người thực hiện hoặc giao trực tiếp các nhiệm
vụ KH&CN; triển khai thực hiện các nội dung, mục tiêu các nhiệm vụ; đảm bảo tài
chính thực hiện nhiệm vụ; đánh giá, kiểm tra tiến độ thực hiện; đánh giá nghiệm thu
và sau nghiệm thu và công bố, chuyển giao kết quả nhiệm vụ KH&CN.
Công tác quản lý nhiệm vụ KH&CN nêu trên được tiến hành theo kế hoạch 5
năm và hàng năm do Thủ trưởng các cấp các ngành, cơ sở quyết định theo trách
nhiệm và quyền hạn của mình. Các tổ chức KH&CN cấp cơ sở, ngoài việc quyết
12
định các nhiệm vụ cấp cơ sở của mình và đưa vào kế hoạch thực hiện và quản lý
thực hiện, còn có kế hoạch tham gia thực hiện các nhiệm vụ KH&CN của cấp
quốc gia, cấp bộ, cấp tỉnh và các nhiệm vụ KH&CN khác (các quỹ về KH&CN,
hợp tác quốc tế, doanh nghiệp,...). Theo cơ chế trên, ngân sách nhà nước về
KH&CN được Bộ KH&CN kết hợp với Bộ Tài chính phân bổ hàng năm cho các
cấp và các cơ quan tài tính khác (quỹ của nhà nước,...) để tổ chức triển khai các
nhiệm vụ KH&CN các cấp theo kế hoạch 5 năm và hàng năm.
Các nguyên tắc chung trong quá trình quản lý nhiệm vụ KH&CN được
thực hiện trong thực tiễn quản lý hoạt động KH&CN tầm quốc gia, bộ và địa
phương theo Luật KH&CN quy định và các yêu cầu phát triển của Viện nghiên
cứu khoa học. Cụ thể:
- Tạo sự cạnh tranh bình đẳng, lành mạnh.
- Phải phục vụ cho phát triển kinh tế - xã hội và đảm bảo anh ninh - quốc
phòng của địa phương.
- Cơ chế quản lý phải phù hợp với tình hình thực tiễn.
- Lấy chất lượng KH&CN và hiệu quả kinh tế - xã hội làm tiêu chuẩn chủ
yếu để đánh giá nhiệm vụ KH&CN
- Thực hiện phân định rõ cho từng cấp quản lý và phân biệt giữa nhiệm vụ
thường xuyên của quản lý Nhà nước và nhiệm vụ KH&CN.
1.2. Viện nghiên cứu khoa học và quản lý nhiệm vụ Khoa học và Công nghệ
Viện nghiên cứu khoa học: Viện nghiên cứu khoa học (tiếng Anh: scientific
research institute) là một tổ chức tiến hành các hoạt động nghiên cứu khoa học . Các
Viện NC&TK nói chung có thể tập trung vào nghiên cứu cơ bản hoặc nghiên cứu
ứng dụng hoặc triển khai thực nghiệm hoặc có thể thực hiện cả ba hoạt động
nghiên cứu này với các mức độ khác nhau. Viện nghiên cứu khoa học là Viện
chủ yếu tiến hành các họat động nghiên cứu khoa học và ở mức độ nhất định tiến
hành cả các hoạt động triển khai. Thuật ngữ này thường chỉ những cơ sở nghiên
cứu khoa học tự nhiên và cũng dùng cho nhiều Viện nghiên cứu khoa học xã hội.
1.2.1. Chức năng, và vị trí của Viện nghiên cứu khoa học trong chuỗi nghiên
cứu và triển khai
13
Các tổ chức NCKH, tổ chức NC&TK được thành lập chủ yếu thực hiện
các nhiệm vụ KH&CN ưu tiên, trọng điểm của nhà nước nhằm cung cấp các
luận cứ khoa học cho việc định ra đường lối, chính sách, pháp luật, tạo ra các kết
quả KH&CN mới có ý nghĩa quan trọng đối với phát triển KT-XH, đảm bảo
quốc phòng - an ninh, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài về KH&CN. Các tổ
chức này được tổ chức dưới hình thức Viện Hàn lâm, Viện, Trung tâm, Phòng
thí nghiệm, Trạm nghiên cứu, Trạm quan trắc, Trạm thử nghiệm và hình thức
khác và có ở trong tất cả các lĩnh vực KH&CN. Các tổ chức nghiên cứu này có
thể tổ chức ở cấp quốc gia như là các Viện nghiên cứu khoa học của Viện Hàn
lâm khoa học, hoặc các Viện thuộc cấp Bộ, cấp tỉnh và cấp cơ sở.
Viện Hàn lâm khoa học là tổ chức NCKH, trong đó có các Viện nghiên cứu
khoa học với nhiều hướng chuyên môn khác nhau. Ở Việt Nam có hai cơ quan thuộc
loại hình này là: Viện HL KHCNVN và Viện HL KHXHVN. Theo đó, các Viện
nghiên cứu khoa học trong Viện Hàn lâm khoa học có chức năng nghiên cứu cơ bản là
chính, có thể có cả các hoạt động NCƯD và PTCN trong các lĩnh vực có liên quan.
Hình (H1.3.) chỉ rõ chức năng và vị trí của Viện nghiên cứu khoa học
trong hệ thống các tổ chức KH&CN của một quốc gia (các viện này nằm ở khu
vực Đại học, Phòng thí nghiệm của nhà nước và thực hiện các nghiên cứu khoa
14
học gồm NCCB và NCƯD là chủ yếu).
Hình 1.3. Chuỗi nghiên cứu và triển khai, người tham gia và tài chính
Các giai đoạn
n/cứu và sản xuất
công nghiệp
n ả b ơ c u ứ c n ê i h g N
n ề n u ứ c n ê i h g N
g n ứ u ứ c n ê i h g N
n ả s i a h k n ể i r T
g n ô c i a h k n ể i r T
g n ả t
g n ụ d
m ẩ h p
ệ h g n
t ấ u x n ả S
i ố h p n â h P
o ả h n à o H
i á o h t y u S
Tài chính chi ra ở g/đoạn n/cứu, thu về ở g/đoạn s/xuất
Công nghiệp
Đại học
Phòng thí nghiệm của nhà nước
Tổ chức KH&CN
Phạm vi hoạt động của các tổ chức KH&CN theo giai đoạn nghiên cứu
Các phòng thí nghiệm của nhà nước
Trường Đại học
Viện Công nghiệp
Mức ưu tiên các tổ chức KH&CN được nhà nước cấp tài chính
Công nghiệp
Nguồn [9]
1.2.2. Cơ cấu tổ chức một Viện nghiên cứu khoa học
Thông thường, cơ cấu Viện NC&TK cũng như Viện nghiên cứu khoa học
được tổ chức gồm các bộ phận như sau:
1- Ban Lãnh đạo Viện bao gồm: Viện trưởng và các Phó viện trưởng có
nhiệm vụ xây dựng chiến lược phát triển dài hạn và tiến hành công tác kế hoạch
hoạt động KH&CN của viện 5 năm và hàng năm.
2- Hội đồng khoa học bao gồm: Chủ tịch, phó chủ tịch, thư ký và các
thành viên được bầu trong và ngoài viện, có nhiệm vụ tư vấn cho Lãnh đạo viện
15
về chiến lược và kế hoạch phát triển viện.
3- Phòng Quản lý tổng hợp là cơ quan giúp việc, có nhiệm vụ phục vụ
công việc chung của Viện như: công việc hành chính - văn thư lưu trữ; tổ chức
cán bộ; công tác kế hoạch khoa học; đào tạo; hợp tác quốc tế; tài vụ. Trong đó
bộ phận kế hoạch khoa học là quan trọng trong việc tổ chức và triển khai, cũng
như quản lý các nhiệm vụ KH&CN.
4- Các phòng/ban/bộ môn/trung tâm chuyên môn. Các đơn vị này có chức
năng và nhiệm vụ tiến hành các hoạt động NC&TK và các nhiệm vụ KH&CN
khác theo các chuyên ngành khoa học, các chuyên đề khoa học, với mục tiêu
chung là phát triển đơn vị, phát triển chuyên ngành về KH&CN theo các nội
dung được quy định tại chức năng và nhiệm vụ của Viện.
5- Nhóm nghiên cứu là tập thể nhà khoa học tiến hành nhiệm vụ KH&CN
trong một hoặc liên các phòng/ban/bộ môn/trung tâm.
1.2.3. Tổ chức nhóm nghiên cứu khoa học
Nhóm nghiên cứu khoa học (NCKH) là hình thức thông thường được tổ
chức triển khai các nhiệm vụ KH&CN hiện nay tại các Viện. Đó là một tập thể
các nhà khoa học và học thuật có năng lực chuyên môn tốt, có tâm huyết, đạo
đức nghề nghiệp, có khát vọng định hướng cùng một mục đích, một lĩnh vực
chuyên môn nhất định; thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu và đào tạo tại một đơn vị
hạt nhân (hay xoay quanh đơn vị hạt nhân đó); được dẫn dắt bởi một (hay một
vài) nhà nghiên cứu có uy tín khoa học, đạo đức và đồng thời phải có khả năng
tổ chức, giao tiếp, tập hợp...; có văn hóa nhóm riêng biệt. Nói một cách khái
quát, mọi thành quả của nhóm phải xuất phát từ năng lực nội sinh.
Tiêu chí đánh giá mức độ thành công đối với nhóm NCKH đòi hỏi rất cao.
Trước hết, nhóm phải hoàn thành được nhiệm vụ chuyên môn, tức là phải tạo ra
được công trình khoa học có chất lượng cao. Thứ hai, phải tạo ra được một đội
ngũ những người tài làm việc có tinh thần đồng đội. Thứ ba, phải có ảnh hưởng
tới nền kinh tế - xã hội ở một mức độ nào đó, trong một phạm vi nào đó. Và cuối
cùng, với vai trò trung tâm, nhóm phải tạo dựng được một môi trường học thuật
16
tự do, công bằng, sáng tạo, có tinh thần tập thể trong đào tạo và nghiên cứu khoa
học. Ðiều này phải có sức lan tỏa và lũy tiến, tác động tốt trong cơ quan hay
trong địa phương.
1.2.4. Quản lý các nguồn lực thực hiện nhiệm vụ Khoa học và Công nghệ
Để một nhiệm vụ KH&CN triển khai được tốt, nó liên quan đến vấn đề
quản lý nguồn lực của một Viện nghiên cứu. Đó là: quản lý nguồn nhân lực làm
KH&CN, tài chính dành cho thực hiện nhiệm vụ KH&CN, cơ sở vật chất và
thông tin cung cấp cho hoạt động nghiên cứu KH&CN [5].
Quản lý nguồn nhân lực KH&CN đóng vai trò mấu chốt để phát huy năng
lực từng cá nhân nhà khoa học đóng góp nhiều nhất cho sự phát triển KH&CN
của Viện nghiên cứu khoa học. Cơ cấu nguồn nhân lực KH&CN của một Viện
liên quan đến chức vụ, chức danh của nhân lực KH&CN, cơ cấu chuyên môn, cơ
cấu trình độ, cơ cấu tuổi tác, cơ cấu trí năng và cơ cấu về giới. Cơ cấu tốt là chỗ
dựa cho việc tuyển chọn và phối hợp nhân tài, tổ chức và điều chỉnh hợp lý đội
ngũ KH&CN; là điểm then chốt để phát huy đầy đủ tác dụng của lực lượng
KH&CN hiện có và nâng cao hiệu quả tập thể KH&CN; là điều kiện trưởng
thành và phát huy tài năng, chỗ dựa cho quy hoạch nhân tài. Xuất phát từ cơ cấu
tốt của nhân lực KH&CN cho thấy công tác quản lý nguồn nhân lực KH&CN
của một viện phải được thực hiện có quy hoạch, kế hoạch; tiến hành tuyển chọn
và sử dụng hợp lý, đúng người đúng việc; đánh giá, đề bạt kịp thời, minh bạch;
đào tạo lại và tạo môi trường làm việc thuận lợi cho nhân lực KH&CN nhằm
động viên kịp thời đội ngũ nhân lực KH&CN cống hiến cho sự nghiệp KH&CN.
Công tác quản lý tài chính, kinh phí: Kinh phí là một nguồn lực cơ bản
cho việc thực hiện nhiệm vụ KH&CN của một viện, được ví như dòng máu để
nuôi cơ thể con người, thiếu kinh phí đề tài không thể triển khai. Các nguồn kinh
phí, tài chính của viện thường bao gồm kinh phí cho việc thực hiện chưc năng,
nhiệm vụ thường xuyên; kinh phí do tham gia, đấu thầu, thực hiện các hợp đồng
KH&CN do bên thứ ba cung cấp. Công tác quản lý kinh phi, tài chính được tiến
hành từ khâu lập dự toán, phê duyệt, phân bổ, giải ngân và thanh quyết toán cho
17
từng loại nhiệm vụ KH&CN theo các quy định liên quan đến từng nguồn. Trong
đó, cần quan tâm đến tính thời điểm cấp phát và tính hiệu quả của việc sử dụng
kinh phí, tài chính.
Công tác quản lý vật tư, thiết bị KH&CN: Vật tư thiết bị KH&CN là điều
kiện vật chất không thể thiếu được trong việc thực hiện nhiệm vụ KH&CN. Xét
từ ý nghĩa nào đó, vật tư và thiết bị là biểu hiện trình độ hiện đại hóa và phát
triển KH&CN của mộ đơn vị nghiên cứu. Quản lý vật tư, thiết bị KH&CN là chỉ
các loại hoạt động quản lý đối với công việc cung ứng, bảo quản, sử dụng các
loại vật tư cần thiết để triển khai các hoạt động KH&CN. Trong đó bao gồm kế
hoạch mua bán, cấp phát vật tư thiết bị KH&CN, phân loại kho chứa, sử dụng,
duy trì, bảo dưỡng thiết bị KH&CN. Công tác quản lý này cũng được thực hiện
theo kế hoạch, sử dụng có hiệu quả, không lãng phí, nhất là những vật tư, thiết bị
đắt tiền.
Quản lý thông tin KH&CN: Thông tin KH&CN là việc sử dụng các hình
thức như văn bản, hình ảnh, phù hiệu, ngôn ngữ,... để phản ánh thành quả
KH&CN của hoạt động NC&TK. Nó là tài sản tri thức chung của loài người, là
một nguồn chủ yếu để phát triển KH&CN hiện đại, là sự phản ánh đặc trưng và
trạng thái vận động của sự vật khách quan. Nội dung quản lý thông tin bao gồm:
i- thu thập cung cấp thông tin KH&CN dựa trên căn cứ vào nhu cầu của công tác
nghiên cứu KH&CN, thu thập rộng rãi một cách có tính mục địch những tư liệu
KH&CN; ii- chỉnh lý, phân tích thông tin, cụ thể là tiến hành đánh giá, phân loại,
lựa chọn ra những thông tin có giá trị sử dụng cho chuyên môn nghiên cứu của
viện; iii- xử lý thông tin KH&CN dựa trên cơ sở thu thập, phân tích, tiến hành
trình bày có tính chuyên ngành, tổng thuật đối với thông tin KH&CN, hình thành
các báo cáo chuyên đề, báo cáo nghiên cứu; iv- truyền đạt và phục vụ thông tin
thông qua các con đường khác nhau đến các nhân lực KH&CN để họ tham khảo,
18
sử dụng phục vụ cho thực hiện các nhiệm vụ KH&CN của viện.
1.3. Nội dung và đặc điểm của công tác quản lý nhiệm vụ Khoa học và Công
nghệ của Viện nghiên cứu khoa học
1.3.1. Đặc điểm của quản lý hoạt động nghiên cứu và triển khai
1.3.1.1. Đặc thù của hoạt động nghiên cứu và triển khai/lao động khoa học
Hoạt động NC&TK là một loại lạo động phức tạp, có tính đặc thù [5]. Nó
là những hoạt động của những người có tri thức chuyên môn sâu. Họ tiến hành
thu thập, chỉnh lý, gia công, nghiên cứu đối với những thông tin về tự nhiên hoặc
sự vật tự nhiên, về xã hội, con người để có được lý luận, phương pháp nhận biết
thế giới và tìm cách cải tạo thế giới phục vụ cho mục đích của con người. Đặc
thù của hoạt động NC&TK là như sau:
- Công tác nghiên cứu khoa học là một loại lao động trí óc, mang tính sáng
tạo, đặc điểm nổi bật nhất là tính sáng tạo. Đó chính là linh hồn của nghiên cứu
khoa học, là điểm cơ bản nhất phân biệt với lao động sản xuất mang tính lặp đi
lặp lại. Quá trình nghiên cứu khoa học chính là quá trình sáng tạo ra tri thức. Do
đó, đánh giá trình độ cao thấp của thành quả nghiên cứu khoa học chủ yếu là
xem độ lớn nhỏ của thành phần sáng tạo trong đó.
- Vì lao động nghiên cứu khoa học là lao động mang tính sáng tạo, tìm kiến
cái mới, cái chưa biết, do đó cũng có thể thành công và cũng có thể thất bại.
Thông thường, những nghiên cứu có nhiều thông số, đi sâu vào bản chất của sự
vật như nghiên cứu cơ bản thì độ rủi ro thất bại càng lớn. Bảng 1.1 chỉ rõ sự
thành công và thất bại đối với từng loại hoạt động NC&TK.
Bảng 1.1. Tỷ suất thành công, thất bại của hoạt động NC&TK
STT Các hoạt động KH&CN Tỷ suất thành công Tỷ suất thất bại
1 NCCB 0,25 0,75
2 NCUD 0,40 0,60
3 TKTN 0,60 0,40
4 Cải tiến công nghệ 0,90 0,10
Nguồn [5]
19
Sự rủi ro, thất bại của nghiên cứu khoa học là không thể tránh khỏi và nó
gia tăng cùng với sự gia tăng trình độ phức tạp số lượng các nghiên cứu khoa
học. Đương nhiên, thất bại cũng là một loại thu hoạch, nó giúp cảnh tỉnh cho
người sau trong tiến hành nghiên cứu khoa học.
- Đặc trưng tiếp theo của lao động NC&TK là tính kế thừa và tích lũy:
Hoạt đông nghiên cứu khoa học hiện đại đều không thể tách rời sự kế thừa thành
quả lao động KH&CN của người đi trước. Nó đều được tiến hành trên cơ sở
sáng tạo của người khác hoặc của người đi trước. Những tri thức mới mà họ sáng
tạo ra cũng sẽ được người khác hoặc người đời sau kê thừa.
Ba đặc thù của lao động nghiên cứu khoa học nêu trên có ảnh hưởng có
tính quyết định công tác quản lý lao động nghiên cứu khoa học.
1.3.1.2. Đặc điểm của quản lý hoạt động nghiên cứu và triển khai
Với ba đặc thù của hoạt động nghiên cứu khoa học dẫn đến các đặc diểm
của quản lý hoạt động KH&CN như sau:
- Quản lý hoạt động KH&CN có tính linh hoạt lớn (còn gọi là tính co giãn
đàn hồi, tính mềm, tính cơ động của quản lý). Nguyên nhân trước hết là do sự
thay đổi nhanh chóng, các nhân tố chưa biết quá nhiều của công tác nghiên cứu
khoa học cùng với sự chuyển dịch, tốc độ thay đổi rất nhanh trong hoạt động
KH&CN. Thứ hai là do đặc điểm tự thân của lao động KH&CN quyết định. Bởi
lẽ, lao động KH&CN là lao động trí óc, mang tính thăm dò, tìm kiếm và tính
sáng tạo là chính. Sau khi chọn đề tài, nhà nghiên cứu căn cứ vào lý luận khoa
học để hoạch định phương án nghiên cứu và xây dựng kế hoạch thực thi đề tài.
Khi triển khai nghiên cứu, thường hay xuất hiện những vấn đề không lường
trước được. Do vậy, lúc đó cần phải căn cứ vào tình hình thực tế để thay đổi
phương án, kế hoạch. Thứ ba là quyết định bởi độ tự do của bản thân lao động
KH&CN (độ tự do khác nhau giữa NCCB, NCƯD và TKTN). Sự khác biệt này
quyết định đến độ tự do của quản lý chúng. Không những cho phép về sự thay
đổi về phương án, kế hoạch của một nghiên cứu, thậm chí cho phép thất bại. Chỉ
có như vậy mới khơi dậy hết mức và phát huy đầy đủ tính tích cực và tính sáng
20
tạo cuả người làm khoa học.
- Quản lý KH&CN mang tính tổng thể và tính điều hòa phối hợp. Đặc điểm
này là nhằm thích ứng với sự đan xen lẫn nhau, sự hòa trộn thâm nhập vào nhau
giữa các bộ môn khoa học và sự xuất hiện của khoa học có tính tổng hợp. Quản
lý khoa học phái phản ánh đầy đủ quan hệ nội tại của lĩnh vực khoa học
KH&CN, đồng thời có năng lực điều hòa phối hợp thống nhất, làm cho toàn bộ
cơ cấu nghiên cứu khoa học hình thành một tổng thể hữu cơ, trở thành một hệ
thống công tác điều hòa phối hợp thống nhất.
- Quản lý KH&CN mang tính dự báo và tính lâu dài. Quản lý khoa học, bất
luận một quốc gia hay một cơ quan nghiên cứu khoa học cụ thể nào đó , đều phải có
mục tiêu chiến lược lâu dài và quy hoạch dài hạn và tiến hành dự công việc dự báo
dài khoa học (xu thế phát triển khoa học, thế mạnh của bản thân, chiến lược phát
triển bắt kịp xu hướng mới, sắp xếp tổ công tác nghiên cứu trước mắt và lâu dài).
Đặc biệt cơ cấu nghiên cứu, tuyển chọn đề tài và sắp xếp kế hoạch đều tương đối
phức tạp, trong quản lý chủ yếu thể hiện trong dự báo kế hoạch rất mạnh, tính thay
đổi và cạnh tranh lớn. Trong điều kiện ấy cần phải làm chu đáo kế hoạch lâu dài,
phát huy đầy đủ công tác thông tin KH&CN và công tác dự báo KH&CN.
1.3.2. Nội dung quản lý nhiệm vụ Khoa học và Công nghệ
1.3.2.1. Xác định nhiệm vụ Khoa học và Công nghệ
Cơ quan chủ quản KH&CN thông qua việc lấy ý kiến đề xuất các nhiệm
vụ KH&CN của các tổ chức, cá nhân các nhà khoa học, các nhà sản xuất để xác
định nhiệm vụ thực hiện trong kế hoạch 5 năm và hằng năm. Việc đề xuất cũng
như xác định các nhiệm vụ KH&CN phải căn cứ vào các hướng KH&CN ưu
tiên; chiến lược, quy hoạch phát triển KH&CN; các nhiệm vụ KH&CN chủ yếu
của cơ quan quản lý KH&CN đã công bố [7]. Kết quả của đề tài, dự án sản xuất
thử nghiệm phải có khả năng ứng dụng được vào thực tiễn sản xuất và đời sống
(đối với dự án sản xuất thử nghiệm còn yêu cầu phải được thị trường chấp nhận),
đáp ứng các mục tiêu của chương trình (đối với các đề tài thuộc chương trình).
21
Việc xác định, lựa chọn nhiệm vụ KH&CN thông thường được thực hiện thông
qua hình thức các Hội đồng KH&CN (gồm các nhà khoa học, nhà quản lý và nhà
hoạt động thực tiễn SX-KD,…) tư vấn xác định nhiệm vụ.
1.3.2.2. Đấu thầu, tuyển chọn, giao nhiệm vụ Khoa học và Công nghệ
Thủ trưởng các cơ quan KH&CN chủ trì khi xác định nhiệm vụ KH&CN
phải quyết định việc tổ chức thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu khoa học theo
phương thức tuyển chọn hay giao trực tiếp nhằm đạt được hiệu quả cao nhất.
Việc tuyển chọn cũng được thông qua tư vấn của Hội đồng tuyển chọn.
Người đứng đầu cơ quan quản lý nhà nước về KH&CN các cấp trên cơ sở tư vấn
của Hội đồng tuyển chọn, quyết định kết quả tuyển chọn tổ chức, cá nhân thực
hiện nhiệm vụ KH&CN. Hội đồng tuyển chọn do người đứng đầu cơ quan, tổ
chức thành lập.
Nhiệm vụ nghiên cứu được giao trực tiếp là các nhiệm vụ thuộc bí mật
quốc gia, đặc thù của an ninh, quốc phòng; một số nhiệm vụ nghiên cứu cấp
bách và các nhiệm vụ mà nội dung chỉ có một tổ chức KH&CN hoặc cá nhân có
đủ điều kiện về chuyên môn, trang thiết bị để thực hiện nhiệm vụ. Cơ quan quản
lý nhà nước về KH&CN các cấp thực hiện việc lựa chọn tổ chức, cá nhân có đủ
điều kiện để giao trực tiếp thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu. Tổ chức, cá nhân
được giao trực tiếp nhiệm vụ nghiên cứu phải lập đề cương và bảo vệ trước Hội
đồng KH&CN do cơ quan quản lý thành lập.
1.3.2.3. Triển khai thực hiện, kiểm tra, giám sát
Việc triền khai thực hiện nhiệm vụ KH&CN được thực hiện sau khi ký kết
hợp đồng nghiên cứu khoa học và công nghệ. Cơ quan quản lý về KH&CN các
cấp theo thẩm quyền phải tiến hành kiểm tra định kỳ và đánh giá kết quả thực
hiện nhiệm vụ KH&CN về nội dung khoa học, tiến độ thực hiện và việc sử dụng
kinh phí. Trong trường hợp cần thiết có thể điều chỉnh nội dung nghiên cứu cho
phù hợp với yêu cầu thực tiễn, hoặc chấm dứt việc thực hiện nhiệm vụ đó.
1.3.2.4. Đánh giá, nghiệm thu kết quả thực hiện nhiệm vụ Khoa học và Công nghệ
Việc đánh giá, nghiệm thu kết quả thực hiện nhiệm vụ KH&CN được thực
22
hiện khi nhiệm vụ KH&CN kết thúc. Cơ quan quản lý KH&CN thành lập Hội
đồng đánh giá nghiệm thu kết quả thực hiện nhiệm vụ KH&CN. Hội đồng tiến
hành đánh giá và nghiệm thu theo mục đích, yêu cầu, nội dung, kết quả, tiến độ
ghi trong hợp đồng đã được ký kết và chịu trách nhiệm trước cơ quan quản lý
KH&CN có thẩm quyền về đánh giá nghiệm thu kết quả nhiệm vụ KH&CN.
1.3.2.5. Đăng ký, công bố kết quả
Việc công bố kết quả nghiên cứu chủ yếu do Chủ nhiệm đề tài hoặc Tổ
chức chủ trì đề tài tiến hành. Các nội dung công bố có thể là từng phần kết quả,
hoặc toàn bộ kết quả nghiên cứu, kể cả những nội dung nghiên cứu còn đang
được trao đổi và theo ý kiến riêng của các tác giả.
Giá trị khoa học và giá trị vận dụng rất khác nhau giữa các kết quả nghiên
cứu trung gian và các kết quả nghiên cứu chính thức. Do vậy khi công bố kết quả
nghiên cứu cần cân nhắc về hình thức công bố. Nói chung, kết quả nghiên cứu
có thể được công bố dưới nhiều hình thức khác nhau:
- Các bài báo đăng trên các tập san, tạp chí;
- Các báo cáo khoa học đăng trên tuyển tập khoa học chuyên ngành, tạp
chí, tập san;
- Các sách chuyên khảo.
Đối với kết quả nghiên cứu trung gian thường công bố dưới dạng các bài
báo đăng trên tập san, tạp chí. Những kết quả nghiên cứu trung gian có kết luận
rõ ràng có thể đăng trong tuyển tập báo cáo khoa học, hoặc có thể in thành sách
dùng tham khảo nội bộ. Phạm vi lưu hành và sử dụng của các sản phẩm công bố
về kết quả trung gian có hạn chế, chủ yếu nhằm trao đổi thông tin khoa học lẫn
nhau giữa các nhà khoa học trong cùng lĩnh vực chuyên môn. Trách nhiệm đối
với các sản phẩm công bố về kết quả nghiên cứu trung gian hoàn toàn ở tác giả
đứng tên.
Đối với kết quả nghiên cứu chính thức, đã được Hội đồng KH&CN đánh
giá nghiệm thu công nhận, và được đăng ký kết quả nghiên cứu tại cơ quan quản
lý KH&CN, thì khi công bố kết quả nghiên cứu dưới dạng báo cáo khoa học
23
hoặc sách lưu hành rộng rãi, trách nhiệm đối với sản phẩm công bố ngoài các tác
giả là chủ yếu, còn có Hội đồng KH&CN đánh giá nghiệm thu và cơ quan quản
lý KH&CN cùng chịu trách nhiệm.
1.4. Kinh nghiệm thực tiễn về quản lý nhiện vụ Khoa học và Công nghệ tại
Viện nghiên cứu khoa học
1.4.1. Kinh nghiệm thực tiễn về quản lý nhiệm vụ Khoa học và Công nghệ
Viện nghiên cứu khoa học của nước ngoài
1.4.1.1. Kinh nghiệm về quản lý nhiệm vụ Khoa học và Công nghệ của một số
nước châu Âu
Các tổ chức nghiên cứu khoa học, tổ chức nghiên cứu ứng dụng và triển
khai của Đức (Max Planck, FhG,...), Phần Lan (TEKES), Hà Lan (TNO) từ lâu
đã áp dụng chế độ tự trị trong quản lý hoạt động KH&CN [24].
Cụ thể, các tổ chức KH&CN của các nước này:
- Các tổ chức KH&CN hoạt động theo nguyên tắc tự xác định, tìm kiếm
các nhiệm vụ KH&CN (từ nhà nước, từ xã hội như các quỹ, từ sản xuất, từ hợp
tác quốc tế) theo chức năng được giao. Các nhiệm vụ KH&CN theo chức năng
nghiên cứu thường xuyên được tiến hành tổ chức và quản lý theo quy trình xác
định nhiệm vụ; giao người chủ trì, ký hợp đồng; triển khai thực hiện, đôn đốc,
điều chỉnh đề tài; báo cáo, công bố kết quả. Đối với các nhiệm vụ KH&CN đấu
thầu, tuyển chọn, hợp đồng được tổ chức thực hiện và quản lý theo quy định của
bên đối tác.
- Các tổ chức KH&CN được tự chủ toàn phần hoặc một phần kinh phí
hoạt động thường xuyên. Phần ngân sách nhà nước phân bổ cho tổ chức
KH&CN được (i) thực hiện thông qua đấu thầu tuyển chọn nhiệm vụ KH&CN
tại các Chương trình KH&CN, Quỹ KH&CN của nhà nước hoặc (ii) tự xác định
nhiệm vụ nghiên cứu của đối với kinh phí giao cho thực hiện nhiệm vụ theo
chức nghiên cứu thường xuyên của tổ chức KH&CN. Đối với phần kinh phí tự
chủ, tổ chức KH&CN thực hiện thông qua việc ký hợp đồng với các tổ chức như
24
doanh nghiệp, các tổ chức khác,...thông qua cơ chế đặt hàng.
- Được chủ động trong việc tổ chức và nhân lực. Theo đó, các tổ chức
KH&CN được áp dụng cơ chế tổ chức linh hoạt (ít biên chế và chủ yếu là hợp
đồng có thời hạn, theo dự án), chủ động trong việc tái cấu trúc, sắp xếp tổ chức
chu chuyển nhân lực,…để thực hiện nhiệm vụ KH&CN.
- Thực hiện tự chủ trong đánh giá kết quả, hiệu quả và sử dụng kết quả
hoạt động KH&CN để trên cơ sở đó triển khai các hợp đồng KH&CN với doanh
nghiệp; phát triển bộ phận sản xuất công nghệ mới, sản phẩm mới và trong nhiều
trường hợp mở rộng sản xuất và chuyển toàn bộ tổ chức KH&CN thành doanh
nghiệp hoặc tách bộ phận có công nghệ mới, sản phẩm mới thành lập doanh
nghiệp mới [25].
1.4.1.2. Kinh nghiệm về quản lý nhiệm vụ Khoa học và Công nghệ ở CHLB Đức
Tại CHLB Đức, các viện nghiên cứu và triển khai đều được Nhà nước (Liên
Bang và Bang) đồng tài trợ cho hoạt động KH&CN và tùy theo tính chất của hoạt động
KH&CN (nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu ứng dụng, triển khai thực nghiệm, dịch vụ
KH&CN; nghiên cứu công ích; nghiên cứu phục vụ cạnh tranh của doanh nghiệp) mà
được Nhà nước cấp 100% hoặc 30-40% kinh phí hoạt động [12], cụ thể là:
- Các Viện nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu công nghệ nền, công nghệ phục
vụ công ích (dịch vụ y tế, nông nghiệp, môi trường, an toàn lao động), nghiên
cứu KHXH&NV được nhà nước đảm bảo 100% kinh phí hoạt động thường
xuyên. Đây là các Viện nghiên cứu có sản phẩm đầu ra được sử dụng phục vụ
cho các mục tiêu công ích của Nhà nước, không có tính thương mại.
- Các Viện NCƯD, nghiên cứu công nghệ công nghiệp được Nhà nước cấp
30-40% kinh phí hoạt động thường xuyên để thực hiện các nghiên cứu triển khai tự
lựa chọn, đi trước tạo ra những sản phẩm chuẩn bị cho các nghiên cứu theo hợp đồng
với doanh nghiệp. Phần kinh phí còn lại (60-70%) của các Viện loại này phải tự trang
trải bằng cách ký kết các hợp đồng NC&PT, dịch vụ kỹ thuật.
- Các tổ chức dịch vụ KH&CN công lập thì tùy theo nhu cầu của thị
trường mà các tổ chức dịch vụ KH&CN này được Nhà nước cấp khoảng 75% và
25
yêu cầu tự trang trải khoảng 25% kinh phí hoạt động [11].
1.4.1.3. Kinh nghiệm về tổ chức nhóm nghiên cứu của Nga và Hà Lan
- Trường Đại học tổng hợp Mátxcơva mang tên Lômônôxốp, có hệ thống
tổ chức điển hình cho một đại học hiện đại: Trường, rồi đến Khoa, dưới Khoa là
các Bộ môn và trong Bộ môn là các Nhóm nghiên cứu. Bộ môn Côn trùng,
ĐHTH Lômônôxốp là một Trường phái lớn của Thế giới về Phỏng sinh học với
ba tập thể nghiên cứu khoa học mạnh do ba giáo sư chủ trì, nghiên cứu về cơ chế
Thị giác, Thính giác và Cơ quan cảm giác hóa học của côn trùng. Ngoài các tập
thể như vậy trong mỗi Bộ môn, trong Trường còn có các Tập thể nghiên cứu
khoa học liên bộ môn, Liên khoa, các Viện và Trung tâm, tạo nên Hệ thống
NCKH rất vững mạnh của trường.
- Chương trình Hợp tác giữa các trường ĐH Hà Lan và Việt Nam, trong
đó có Đại học Tổng hợp trước đây. Các Chương trình này cũng đã được tổ chức
dưới hình thức các Nhóm nghiên cứu khoa học. Mỗi nhóm theo một chủ đề
chuyên môn được lựa chọn (thường là các vấn đề hiện đại) và bao gồm các cán
bộ của Việt Nam và Hà Lan cùng tham gia. Nội dung hợp tác bao gồm các
chương trình trao đổi và đào tạo cán bộ, cung cấp trang thiết bị và nghiên cứu khoa
học. Hiệu quả của Chương trình rất to lớn, nhất là trong hoạt động xây dựng năng
lực như: đào tạo nhân lực và cung cấp trang thiết bị.
1.4.2. Kinh nghiệm thực tiễn về quản lý nhiệm vụ Khoa học và Công nghệ
Viện nghiên cứu khoa học của Việt Nam
- Tại Viện Hóa học – Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam,
việc xác định, lựa chọn, quản lý các đề tài được tổ chức hàng năm của Viện Hóa
học được tiến hành theo văn bản hướng dẫn của Bộ KH&CN, của Viện HL
KHCNVN. Việc xác định nhiệm vụ KH&CN được giao cho Hội đồng KH&CN
của Viện thực hiện. Công tác nghiệm thu nhiệm vụ KH&CN được đánh giá quan
trọng, trong đó bước Kiểm tra trước nghiệm thu là một bước chính thức được đưa
vào quy trình quản lý thực hiện nhiệm vụ KH&CN của Viện Hóa học.
- Kinh nghiệm quản lý nhiệm vụ KH&CN của Viện Công nghệ sinh học.
Ngoài việc tuân thủ các quy định của Bộ KH&CN về quản lý nhiệm vụ KH&CN,
26
của Viện Hàn lâm KHCNVN thì còn là Viện quy định hình thức xử lý vi phạm
nghiêm khắc trong công tác quản lý nhiệm vụ KH&CN. Đối với các nhiệm vụ
KH&CN được đánh giá “không đạt” thì chủ nhiệm nhiệm vụ không được đăng ký
thực hiện nhiệm vụ KH&CN trong 02 năm tiếp theo tính từ thời điểm nghiệm thu
và đánh giá thi đua cuối năm chỉ xếp loại “hoàn thành nhiệm vụ”. Ngoài ra, Viện
Công nghệ sinh học còn áp dụng mức phạt tiền khác nhau đối với việc vi phạm về
đăng ký, giao nộp kết quả thực hiện nhiệm vụ KH&CN sử dụng ngân sách nhà
nước; vi phạm quy định trong hoạt động KH&CN; vi phạm quy định về quản lý, sử
27
dụng kinh phí ngân sách nhà nước dành cho hoạt động KH&CN.
Tiểu kết chương
Chương 1 về Cơ sở lý luận và thực tiễn về quản lý nhiệm vụ KH&CN đã
đề cập đến các nội dung sau đây:
Thứ nhất, đã làm rõ các khái niệm liên quan đến đề tài như KH&CN, hoạt
động KH&CN (NC&TK, dịch vụ KH&CN) và các khái niệm về NC&TK như
NCCB, NCUD, TKTN; các thuật ngữ liên quan đến nhiệm vụ KH&CN như đề
tài, dự án, đề án; nội hàm của công tác quản lý nhiệm vụ KH&CN (quản lý, kế
hoạch; 2 loại nhiệm vụ KH&CN của Viện: loại do đấu thầu, tuyển chọn và loại
thường xuyên theo chức năng) và các nguyên tắc cơ bản trong thực thi công tác
quản lý nhiệm vụ KH&CN tại viện.
Thứ hai, đã đề cập đến tổ chức viện và công tác quản lý nhiệm vụ
KH&CN, trong đó đã làm rõ chức năng, vị trí của Viện nghiên cứu khoa học
(chủ yếu làm NCCB, NCƯD); cơ cấu tổ chức viện; tổ chức nhóm nghiên cứu
trong viện (vai trò của thủ lĩnh); làm rõ về thực trạng nguồn lực (như nhân lực,
tài chính, thông tin, vật tư-thiết bị và hợp tác quốc tế) phục vụ cho thực hiện các
nhiệm vụ KH&CN của Viện nghiên cứu khoa học.
Thứ ba, đã đề cập đến nội dung và đặc điểm của công tác quản lý nhiệm
vụ KH&CN của viện, trong đó đã đề cập đến nội dung quản lý nhiệm vụ (xác
định nhiệm vụ; tuyển chọn, giao nhiệm vụ; kiểm tra, giám sát; đánh giá nghiệm
thu; đăng ký, công bố) và làm rõ đặc thù của hoạt động NC&TK/lao động khoa
học (tự do, sáng tạo; rủi ro; kế thừa người đi trước; tính mới, không như sản
xuất) và sau đó đã nêu đặc điểm của quản lý nhiệm vụ KH&CN (có tính linh
hoạt cao, tổng hợp, dự báo lâu dài) cho phù hợp với đặc điểm của hoạt động
NC&TK.
Thứ tư, kinh nghiệm thực tiễn về quản lý nhiệm vụ KH&CN, trong đó đề
cập kinh nghiệm của một số nước châu Âu nói chung (làm rõ Basic funding.
Project funding), của CHLB Đức (đảm bảo tài chình mức độ khác nhau cho từng
loại viện như Viện NCCB, Viện NCƯD,...); và kinh nghiệm của một số viện
28
nghiên cứu khoa học khác của Việt Nam.
Chương 2
CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHIỆM VỤ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
CỦA VIỆN SINH THÁI VÀ TÀI NGUYÊN SINH VẬT
TỪ NĂM 2014 ĐẾN 2018
2.1. Tổng quan về Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật
2.1.1. Chức năng, nhiệm vụ
Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật (Viện STTNSV) được thành lập
theo Quyết định số 65CT/HĐBT ngày 5/3/1990 của Chủ tịch Hội đồng Bộ
trưởng (nay là Thủ tướng Chính phủ), trên cơ sở Trung tâm sinh thái học thuộc
Trung tâm Khoa học Tự nhiên và Công nghệ Quốc gia. Trải qua hơn 30 năm xây
dựng và phát triển, Viện Sinh thái và TNSV đã thực sự trở thành viện nghiên
cứu đầu ngành trong lĩnh vực sinh thái và tài nguyên sinh vật ở nước ta.
Là một viện thuộc Viện HL KHCNVN, Viện STTNSV có chức năng,
nhiệm vụ cụ thể như sau:
- Điều tra nghiên cứu khu hệ sinh vật, soạn thảo thực vật chí, động vật chí,
sách đỏ Việt Nam về động vật, thực vật... Kiến nghị và thực hiện những biện
pháp bảo vệ, phục hồi và phát triển các loài sinh vật quý hiếm, bảo vệ nguồn gen
thiên nhiên, lưu trữ tiêu bản thực vật, động vật.
- Nghiên cứu sử dụng và phát triển nguồn tài nguyên sinh vật thiên nhiên
nhiệt đới nước ta. Ứng dụng các kết quả nghiên cứu và sản xuất, góp phần làm
tăng nguồn sản phẩm lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu
phục vụ 3 chương trình kinh tế lớn của Nhà nước.
- Nghiên cứu đánh giá tổng hợp nguồn tài nguyên sinh vật trên các vùng
lãnh thổ và trong cả nước, góp phần xây dựng cơ sở khoa học cho việc phát triển
kinh tế xã hội, sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên sinh vật.
- Nghiên cứu các hệ sinh thái đặc trưng trong thiên nhiên nhiệt đới của
29
Việt Nam, dự báo sinh thái, đề xuất phương hướng và biện pháp sử dụng hợp lý,
cải tạo, phục hồi các hệ sinh thái bị suy thoái, tham gia xây dựng các khu bảo tồn
thiên nhiên nhằm bảo vệ tài nguyên và môi trường ở nước ta.
- Tham gia đào tạo cán bộ và hợp tác quốc tế trong lĩnh vực sinh thái học
và tài nguyên sinh vật. Tham gia tư vấn khoa học cho cơ quan quản lý về công
tác liên quan đến Công ước CITES.
2.1.2. Quá trình hình thành cơ cấu tổ chức
Lịch sử thành lập Viện STTNSV có thể chia ra làm các giai đoạn như sau:
- Từ 1985 -1990: thành lập Trung tâm Sinh thái và Tài nguyên sinh vật
khi tách ra từ Viện Sinh vật học, để đáp ứng yêu cầu phát triển các hướng nghiên
cứu về sinh thái và tài nguyên sinh vật, phát triển khinh tế xã hội trong thời kỳ
mới cũng như xu thế phát triển của sinh học thế giới. Các đơn vị như: Phòng
Quản lý tổng hợp, Phòng Thực vật học, Phòng Động vật học có xương sống,
Phòng Ký sinh trùng học, Phòng hệ thống côn trùng, Phòng Sinh thái côn trùng,
Phòng Sinh thái thực vật, Phòng Tài nguyên thực vật
- Năm 1990: Thành lập Viện STTNSV trên cơ sở Trung tâm Sinh thái và
TNSV theo Quyết định số 65CT/HĐBT ngày 5/3/1990 của Chủ tịch Hội đồng
Bộ trưởng, trực thuộc Viện Khoa học Việt Nam. Đây là bước tiến quan trọng,
đánh dấu một giai đoạn mới của khối nghiên cứu sinh học cơ bản nói chung và
sinh thái tài nguyên sinh vật môi trường nói riêng. Các đơn vị mới có thêm như:
Phòng Bảo tàng động vật, Phòng Tài nguyên thực vật, Phòng Sinh thái thực vật,
Phòng Sinh thái côn trùng.
Viện STTNSV được xem là viện nghiên cứu có số lượng cán bộ vào loại
lớn của Viện HL KHCNVN. Năm 1990, Viện STTNSV được thành lập với 70
cán bộ, trong đó có 4 tiến sĩ khoa học (TSKH), 6 tiến sĩ (TS) và 60 cử nhân, kỹ
sư, kỹ thuật viên với 8 phòng nghiên cứu được phân chia theo các chuyên ngành:
Thực vật học, Động vật học, Sinh thái môi trường, Côn trùng học, Ký sinh trùng
30
học, Tài nguyên thực vật,
Hình 2.1. Sơ đồ cơ cấu tổ chức của Viện STTNSV tại thời điểm thành lập
và phát triển trong giai đoạn 1990
Phòng Quản lý Tổng hợp
LÃNH ĐẠO VIỆN
Phòng Sinh thái môi trường Phòng Sinh thái Côn trùng
Phòng Sinh thái thực vật
Phòng Tài nguyên thực vật
Phòng Ký sinh trùng học
HỘI ĐỒNG KHOA HỌC
Phòng động vật
Phòng Thực vật
Phòng Bảo tàng Động vật
[20]
- Từ năm 2000-2010, tổng số cán bộ của Viện lúc này là 126 người, trong
đó có 38 người có trình độ trên đại học (2 GS, 9 PGS, 22 TS) và tập trung theo 6
hướng nghiên cứu chính:
Thực vật học.
Động vật học
Sinh thái môi trường.
Côn trùng học.
Tài nguyên thực vật
Ký sinh trùng học
Cho đến nay, Tổng số cán bộ, nhân viên trong biên chế là 108 người,
trong đó có 9 nghiên cứu viên cao cấp, 39 nghiên cứu viên chính và 56 nghiên
cứu viên, 04 chuyên viên. Như vậy, nguồn nhân lực KH&CN của Viện STTNSV
có thể đánh giá là nguồn nhân lực chất lượng cao rất phù hợp cho một tổ chức
31
làm khoa học.
Hiện tại, Viện có cơ cấu tổ chức gồm: 16 phòng nghiên cứu chuyên môn,
1 phòng quản lý tổng hợp và 1 Trạm đa dạng sinh học.
Hình 2.2. Sơ đồ cơ cấu tổ chức của Viện STTNSV hiện nay
Phòng Quản lý Tổng hợp
Phòng Bảo tàng Động vật Phòng Công trùng học thực nghiệm
Phòng Động vật học có xương sống
LÃNH ĐẠO
Phòng Ký sinh trùng học
VIỆN
Phòng Sinh thái môi trường đất
Phòng Sinh thái môi trường nước
Phòng Sinh thái thực vật
Phòng Sinh thái viễn thám
HỘI ĐỒNG KHOA HỌC
Phòng Tài nguyên thực vật
Phòng Thực vật học
Phòng Thực vật dân tộc học
Phòng Tuyến trùng học
Phòng Hệ thống học phân tử và Di truyền bảo tồn
Trạm Đa dạng sinh học Mê Linh
Nguồn [13]
2.1.3. Nhân lực khoa học của Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật
Viện Sinh thái và TNSV có: 15 phòng chuyên môn; 01 trạm đa dạng sinh
32
học Mê Linh và Phòng Quản lý tổng hợp (Bảng 2.1).
Bảng 2.1: Nhân lực KHCN Viện STTNSV năm 2018
TT Tên phòng
4
1 Quản lý Tổng hợp 2 Bảo tàng động vật 3 Côn trùng học thực nghiệm 4 Động vật học xương sống 5 Hệ thống học côn trùng 6 Phòng Ký sinh trùng học 7 Sinh thái côn trùng 8 Sinh thái môi trường đất 9 Sinh thái môi trường nước 10 Sinh thái thực vật 11 Sinh thái viễn thám 12 Tài nguyên thực vật 13 Thực vật học 14 Thực vật dân tộc học 15 Tuyến trùng học 16
Phân loại theo trình độ PGS TS ThS ĐH Khác 1 2 3 2 3 2 5 1 2 3 3 2 2 2 2 1
1 1 1 1 1 2 1 1 1 1 1
3 1 1 1 1 1 1 1
1 2 2 1 5 1 5 4 2 1 4 3 2 5 5
1
Số người 9 5 7 6 5 9 8 6 7 6 5 8 7 4 8 6
Hệ thống học phân tử và Di truyền bảo tồn
17 Trạm Đa dạng sinh học Mê
1
3
2
6
Linh
Tổng
112
12
44
39
12
5 [Nguồn: 21]
Tổng số cán bộ, nhân viên trong biên chế: 108, trong đó có 9 nghiên cứu
viên cao cấp, 39 nghiên cứu viên chính và 56 nghiên cứu viên, 04 chuyên viên.
Phòng Quản lý tổng hợp có chức năng quản lý khoa học với 9 biên chế. Mặc dù
vậy, chỉ có 01cán bộ làm công tác quản lý khoa học và kiêm nhiệm công tác hợp
tác quốc tế của Viện.
2.1.4. Công tác tài chính thực hiện các nhiệm vụ Khoa học và Công nghệ
Trước năm 2005, đầu tư tài chính cho các nhiệm vụ KH&CN của Viện
STTNSV được thực hiện theo cơ chế bao cấp của ngân sách nhà nước. Từ khi
Nghị định 115/2005/NĐ-CP về quy định cơ chế tự chủ tự chịu trách nhiệm của
tổ chức KH&CN công lập, Viện được hoạt động theo quy định của Điều 4 khoản
33
3 Nghị định này, đó là “Tổ chức nghiên cứu khoa học hoạt động trong lĩnh vực
nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu chiến lược, chính sách phục vụ quản lý nhà nước
được ngân sách nhà nước bảo đảm kinh phí hoạt động thường xuyên theo nhiệm
vụ được giao”. Ngoài ra theo Luật KH&CN 2013 quy định tại Điều 13 về Quyền
của tổ chức khoa học và công nghệ thì Viện được quyền “Tự chủ, tự chịu trách
nhiệm trong hoạt động khoa học và công nghệ trong lĩnh vực đã được cấp giấy
chứng nhận đăng ký hoạt động” và “Đăng ký tham gia tuyển chọn hoặc được
giao trực tiếp thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ; ký kết hợp đồng khoa
học và công nghệ; đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài về khoa học và công
nghệ”. Viện STTNSV đã triển khai các quy định trên trong hoạt động KH&CN
của Viện. Kết quả về mặt đầu tư tài chính cho các nhiệm vụ KH&CN trong giai
đoạn 2014-2018 được thể hiện tại Bảng 2.2.
Bảng 2.2. Số lượng kinh phí chia theo nguồn giai đoạn 2014-2018
Nguồn kinh phí
2014
2015
2016
2017
2018
STT 1
Kinh phí thường xuyên (ĐT cơ sở)
2.732
2.579
2.775
2.727
2.740
2
Đề tài cấp Viện HL NV 7 Hướng
1.150
1.650
2.400
2.500
2.500
450
5100
1700
500
NV Độc lập Hợp tác với ngành và địa phương
600
400
300
300
850
528
548
400
500
400
NV HTQT NV Chủ tịch Viện giao
700
1200
NV SN Văn hóa
900
1.180
940
980
140
NV SN Kinh tế
1200
1.700
6430
7.785
800
400
200
400
200
NV SN Môi trường NV hợp tác cấp Bộ, ĐT độc lập cấp NN
5.373
3856
767
500 825
3.700 1.360
3
NV khác ĐT Quỹ pt KH&CN QG (NAFOSTED)
3.220
3.575
3.700
3.950
4.600
Tổng (triệu đồng)
15.365 15.738
19.270
21.672
24.865 [Nguồn: 21]
34
2.1.5. Cơ sở vật chất và trang thiết bị kỹ thuật
Khi mới thành lập, Viện chỉ có 01 dãy nhà cấp 4 đã xuống cấp. Việc xây
dựng trụ sở Viện đã được lãnh đạo và cán bộ của Viện lúc bấy giờ đặc biệt quan
tâm thực hiện. Tuy gặp rất nhiều khó khăn trong việc xin đất và xây dựng trụ sở
làm việc, cuối cùng đến năm 1998, Viện Khoa học Việt Nam cấp cho 1000m2
đất để xây dựng trụ sở. Năm 2001, Nhà 9 tầng cấp II với diện tích 1800m2 được
xây dựng và đưa vào sử dụng.
Song song với việc đầu tư và mở rộng trụ sở làm việc ngày càng rộng rãi
tiện lợi hơn, Viện STTNSV vật đặc biệt quan tâm việc đầu tư cơ sở vật chất,
trang thiết bị nghiên cứu khoa học, có những dự án đầu tư chiều sâu cho các
phòng nghiên cứu của Viện.
Viện STTNSV có đầy đủ các trang thiết bị chủ yếu phục vụ nghiên cứu
phân loại học, sinh thái học các loài động, thực vật và phân tích sinh học phân tử.
Qua những năm củng cố và phát triển và với sự đầu tư của Nhà nước với dự án
đầu tư chiều sâu cho các phòng thí nghiệm của Viện, các Phòng nghiên cứu của
Viện đã có các thiết bị đầu tay cơ bản phục vụ cho công tác nghiên cứu khoa học.
Ngoài các phòng thí nghiệm nghiên cứu, Viện còn có một cơ sở để thực
hiện các thí nghiệm thiên nhiên, phát triển các chương trình nghiên cứu ngoài
trời tại Trạm Đa dạng sinh học Mê Linh, Vĩnh Phúc với diện hơn 170 ha. Giai
đoạn gần đây, Viện STTNSV tiếp tục thực hiện thêm những dự án như: dự án
“Tăng cường trang thiết bị phục vụ nghiên cứu về lĩnh vực sinh thái và tài
nguyên sinh vật” (2010-2012)
Có thể thấy rõ thông qua các dự án này, các phòng thí nghiệm của Viện
STTNSV liên tục được trang bị các thiết bị máy móc hiện đại nhằm thực hiện
các nghiên cứu chuyên sâu, đặc biệt là các nghiên cứu ứng dụng, phục vụ thực
tiễn sản xuất.
2.1.6. Kết quả thực hiện các nhiệm vụ Khoa học và Công nghệ
Bảng 2.3.trình bày về việc Viện STTNSV đã sử dụng các nguồn lực được
cung cấp để triển khai thực hiện các nhiệm vụ KH&CN các cấp và các kết quả
35
KH&CN đã đạt được.
Bảng 2.3. Kết qủa thực hiện các nhiệm vụ KH&CN giai đoạn 2014-2018
TT
Năm
2014
2015
2016
2017
2018
1
Số lượng đề tài
73
69
70
68
82
2
Số lượng kinh phí (tr.đ)
15.365
15.738
19.270 21.672 24.865
3
Số sách khoa học
01
04
07
04
11
4
Số công trình khoa học
184
271
236
163
298
5
Số bài báo quốc tế
125
139
156
123
149
6
Sô bài báo trong nước
59
132
80
40
49
7
Sô Tiến sĩ được đào tạo
50
48
17
11
9
8
Số ThS được đào tạo
120
158
91
34
41
9
Số hội nghị, hội thảo
03
01
02
02
02
[Nguồn: 21]
Trong 5 năm gần đây đội ngũ các nhà khoa học Viện STTNSV đã thực hiện
được một số lượng lớn các đề tài, đề án có ý nghĩa khoa học và thực tiễn (trung
bình 75 đề tài/năm). Viện STTNSV đã chủ trì nhiều đề tài cấp Nhà nước và cấp
Bộ (Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Nông nghiệp
và Phát triển nông thôn, Viện HL KHCNVN,...) trong các lĩnh vực nghiên cứu
về khu hệ động vật và thực vật Việt Nam, đa dạng sinh học và bảo tồn, sinh thái
học, tài nguyên động - thực vật, đánh giá tác động môi trường, quan trắc và xử lý
ô nhiễm môi trường.
Trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước, Viện STTNSV đã có
nhiều đóng góp trong sự nghiệp bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, sử dụng và phát
triển bền vững tài nguyên sinh vật cả trên đất liền và hải đảo. Viện đã tham gia
nghiên cứu và xây dựng luận chứng kỹ thuật, dự án đầu tư thành lập khoảng 40
khu bảo tồn thiên nhiên và vườn quốc gia ở Việt Nam. Các cán bộ của Viện cũng
tham gia nhiều dự án đánh giá tác động môi trường của các công trình xây dựng
(thủy điện, nhiệt điện, điện hạt nhân), khai thác khoảng sản, làm đường, bến
36
cảng,...ở Việt Nam và Lào.
Trong những năm gần đây, Viện STTNSV đã chủ trì nhiều đề tài quan
trọng cấp quốc gia như: Chương trình Tây Nguyên 3 “Điều tra hệ sinh thái rừng
khộp và hệ sinh thái rừng lá rộng thường xanh ở Tây Nguyên và đề xuất giải
pháp bảo tồn”; Đề tài độc lập cấp Nhà nước “Điều tra, đánh giá các loài động vật,
thực vật có nguy cơ tuyệt chủng cần được ưu tiên bảo vệ nhằm tu chỉnh Sách Đỏ
Việt Nam”; Đề án 47: “Điều tra, đánh giá ký sinh trùng gây hại và vi sinh vật
trên các vùng biển Việt Nam nhằm bảo vệ hệ sinh thái biển và sức khỏe cộng
đồng”; Đề tài “Điều tra đa dạng thành phần loài các quần xã Tuyến trùng ký sinh
thực vật thủy sinh, Tuyến trùng sống tự do, Meiofauna và vai trò của chúng ở
các hệ sinh thái biển Việt Nam”; các đề tài liên quan đến phát triển nguồn dược
liệu, bảo tồn và ứng dụng tri thức bản địa trong sử dụng dược liệu.
Các đề tài do Quỹ Phát triển KH&CN Quốc gia (NAFOSTED), đề tài cấp
Viện HL KHCNVN, đề tài hợp tác với các tỉnh đều đạt kết quả tốt. Các dự án
hợp tác quốc tế và NGOs do nước ngoài tài trợ (Ngân hàng Thế giới, Ngân hàng
phát triển Châu Á, Quỹ Môi trường Toàn cầu, UNDP,...) cũng được đối tác
đánh giá cao và duy trì quan hệ hợp tác lâu dài.
Cán bộ của Viện đã tham gia tư vấn trong xây dựng luật, chính sách có liên
quan đến bảo tồn thiên nhiên ở Việt Nam cũng như tích cực tham gia các hoạt
động có liên quan đến các công ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết như Công
ước về Đa dạng sinh học (CBD), Công ước về buôn bán quốc tế các loài động,
thực vật hoang dã nguy cấp (CITES).
Trong 5 năm trở lại đây, các cán bộ và tập thể của Viện STTTNSV đã công
bố một khoảng 800 bài báo trên tạp chí quốc tế, hàng trăm bài báo trên các tạp
chí chuyên ngành và kỷ yếu hội nghị, hội thảo quốc tế và quốc gia. Biên soạn và
xuất bản hơn 20 đầu sách chuyên khảo. Đặc biệt, các nhà khoa học của Viện
STTNSV đã đăng ký thành công bản quyền 6 phát minh sáng chế về lĩnh vực
thực vật, đồng thời phát hiện và công bố hàng trăm loài mới cho khoa học.
Riêng trong năm 2017, cán bộ của Viện STTNSV đã công bố hơn 220
37
công trình, trong đó có 4 sách chuyên khảo, hơn 120 bài báo trên các tạp chí
quốc tế và hơn 100 bài báo trên các tạp chí quốc gia và kỷ yếu hội thảo quốc gia.
Kết quả trên không chỉ thể hiện năng lực chuyên nghiệp của đội ngũ cán bộ khoa
học mà còn thể hiện tính hiệu quả trong đầu tư cho các lĩnh vực nghiên cứu thế
mạnh của Viện trong thời gian qua. Bảng 2.3 cho thấy số bài báo quốc tế đạt
mức cao nhất 156 bài vào năm 2016 và số công trình nghiên cứu đạt nhiều nhất
là 298 công trình vào năm 2018.
Viện được Nhà nước giao nhiệm vụ đào tạo thạc sỹ và tiến sỹ nhiều
chuyên ngành trong lĩnh vực khoa học sự sống, Viện STTNSV phối hợp với Học
viện KH&CN, Đại học Thái Nguyên đã đào tạo được hơn 550 thạc sỹ và trên
150 tiến sĩ sinh học, trở thành cơ sở đào tạo có uy tín trên phạm vi cả nước. Đặc
biệt 2 năm 2014-2015, số lượng tiến sĩ và thạc sĩ được đào tạo rất lớn, tuy nhiên
các năm sau giảm đáng kể.
2.2. Công tác quản lý các nguồn lực thực hiện nhiệm vụ Khoa học và Công
nghệ KH&CN
2.2.1. Công tác quản lý nhân lực Khoa học và Công nghệ thực hiện các nhiệm
vụ Khoa học và Công nghệ
Luật KH&CN 2013 đã tạo bước đổi mới về chính sách sử dụng và trọng
dụng nhân lực khoa học và công nghệ. Các văn bản có liên quan trước và sau đó
là các Nghị định số 24/2010/NĐ-CP, số 29/2012/NĐ-CP, số 40/2014/NĐ-CP, số
87/2014/NĐ-CP. Tuy nhiên, trên thực tế, nhiều đơn vị còn chưa áp dụng đúng
các chế độ, chính sách đãi ngộ theo đúng các quy định tại Nghị định
40/2014/NĐ-CP. Các nhà khoa học trẻ dù có bằng thạc sĩ, tiến sĩ, có các công
trình khoa học xuất bản trong và ngoài nước vẫn phải hưởng lương theo định
mức, hệ số của Nhà nước. Người có bằng tiến sĩ do chỉ hưởng mức lương
khoảng ba triệu đồng, nên khó có thể chuyên tâm nghiên cứu. Tại nhiều tổ chức
khoa học công nghệ cũng như tại Viện STTNSV, những chính sách trọng dụng
vẫn chưa được triển khai rộng, chưa tạo một môi trường thật sự thông thoáng
khuyến khích hoạt động nghiên cứu sáng tạo. Chế độ đãi ngộ, tôn vinh các nhà
38
khoa học chưa tương xứng với chất xám mà họ bỏ ra cho các công trình nghiên
cứu. Các nhà khoa học trẻ cũng chưa được tin tưởng giao làm chủ nhiệm đề tài,
nhiệm vụ; chủ yếu chỉ tham gia với tư cách là thành viên đề tài. Vẫn chưa có các
chính sách rõ ràng để các nhà khoa học có thể tăng thu nhập, thay đổi môi
trường, tư duy làm việc.
Hiện nay, Viện STTNSV đang có xu hướng trẻ hóa cán bộ nghiên cứu,
tăng cường năng lực tiếng Anh và ưu đãi các nhà nghiên cứu được đào tạo ở
nước ngoài, cũng như khuyến khích các nhà KH&CN của Viện STTNSV được
ra nước ngoài đào tạo. Tuy nhiên, điểm yếu của nhân lực khoa học tại Viện
STTNSV thực tế là: (1) tỷ lệ cán bộ được đào tạo ở nước ngoài vẫn còn thấp, (2)
Tồn tại 3 - 4 thế hệ cán bộ được đào tạo ở nuớc ngoài trong đó chủ yếu vẫn là thế
hệ đào tạo tại các nước Liên Xô cũ (trên 55 tuổi), trong khi thế hệ được đào tạo ở
các nước có nền KH&CN tiên tiến và hội nhập nhu Mỹ, Đức, Nhật, Hàn Quốc,
Úc còn chiếm tỷ lệ ít hơn nhiều; (3) Ngoại ngữ vẫn luôn là một trở ngại đối với
các nhà KH&CN Viện STTNSV; (4) Mặt bằng năng lực của các cán bộ khoa
học trong Viện STTNSV là không đồng đều giữa các đơn vị với nhau và giữa
các ngành trong một đơn vị nghiên cứu. Cùng với đó, việc thành lập các nhóm
nghiên cứu xuất sắc liên ngành còn thấp, chưa hình thành được các nhóm nghiên
cứu mạnh.
2.2.2. Công tác quản lý tài chính cho thực hiện các nhiệm vụ Khoa học và
Công nghệ
Tài chính (kinh phí) luôn có ý nghĩa hết sức quan trọng quyết định sự
thành công cũng như chất lượng kết quả của việc thực hiện các nhiệm vụ
KH&CN. Việc cấp kinh phí thực nhiện nhiệm vụ KH&CN từ ngân sách Nhà
nước cho Viện nghiên cứu được thực hiện theo các quy định của Nghị định
115/2005/NĐ-CP về quy định cơ chế tự chủ tự chịu trách nhiệm của tổ chức
KH&CN công lập và luật KH&CN 2013, cụ thể cơ chế đó là: (i) Viện được cấp
trực tiếp một khoản kinh phí từ ngân sách nhà nước cho việc thực hiện chức
năng nghiên cứu thường xuyên của Viện (basic funding) - theo đó, hàng năm
39
Viện lập dự toán và được phê duyệt cấp một khoản kinh phí cho thực hiện các đề
tài cơ sở của Viện, và (ii) cấp kinh phí theo cơ chế đấu thầu, tuyển chọn đề tài
(project funding) – theo đó hàng năm, viện lên kế hoạch tham gia thực hiện các
nhiệm vụ KH&CN của các Chương trình KH&CN các cấp, của Viện HL
KHCNVN, của quỹ NAFOSTED, của địa phương. Ngoài hai phần kinh phí trên,
Viện còn thực hiện các hợp đồng nghiên cứu khoa học, các dự án KH&CN với
nước ngoài, tổ chức quốc tế và các tổ chức khác.
Trong thời gian qua, hàng năm Viện STTNSV đều tiến hành xây dựng kế
hoạch thực hiện KH&CN của Viện theo cơ chế nêu trên. Có thể nói, công tác kế
hoạch tài chính của viện đã được vận hành tương đối tốt.
Một trong những thay đổi căn bản trong cơ chế quản lý KH&CN về tài
chính mà Luật KH&CN 2013 đã quy định là đổi mới về cơ chế tài chính cho
nhiệm vụ KH&CN sử dụng ngân sách nhà nước (NSNN) như cấp kinh phí thông
qua cơ chế quỹ, khoán chi thực hiện nhiệm vụ KH&CN. Trong năm 2015, triển
khai Luật KH&CN 2013 theo hình thức khoán chi, Bộ KH&CN phối hợp với Bộ
Tài chính ban hành 03 Thông tư liên tịch quan trọng liên quan tới cơ chế tài
chính cho hoạt động KH&CN. Cụ thể là:
- Về hướng dẫn lập dự toán cho các nhiệm vụ KH&CN: Thông tư liên
tịch số 55/2015/TTLT-BTC-BKHCN (gọi tắt là Thông tư 55) Hướng dẫn định
mức xây dựng, phân bổ dự toán và quyết toán kinh phí đối với nhiệm vụ
KH&CN có sử dụng NSNN (thay thế Thông tư 44/2007/TTLT/BTC-BKHCN).
Công tác này đã được thực hiện tốt ở Viện STTNSV ngay sau khi ban hành. Nhờ
đó công tác dự toán và phân bổ kinh phí cho nhiệm vụ thường xuyên theo chức
năng đều thuận lợi.
- Về khoán chi đối với các nhiệm vụ KH&CN: Thông tư liên tịch số
27/2015/TTLT-BKHCN-BTC ngày 30/12/2015 (gọi tắt là Thông tư 27) Quy
định khoán chi thực hiện nhiệm vụ KH&CN sử dụng NSNN (thay thế Thông tư
93/2006/TTLT/BTC-BKHCN). Công tác này cũng đã được từng bước triển khai
thực hiện tại Viện STTNSV, nhưng vẫn gặp nhiều khó khăn về thủ tục hành
40
chính phức tạp.
- Về quản lý, xử lý tài sản của nhiệm vụ KH&CN: Viện thực hiện theo
Thông tư liên tịch số 16/2015/TTLT-BKHCN-BTC ngày 01/9/2015 hướng dẫn
việc quản lý, xử lý tài sản được hình thành thông qua việc triển khai thực hiện
nhiệm vụ KH&CN sử dụng NSNN. Công tác này đã được triển khai tương đối
thuận lợi tại các nhiệm vụ do Viện STTNSV chủ trì thực hiện.
2.2.3. Công tác quản lý vật tư, thiết bị cho thực hiện các nhiệm vụ Khoa học
và Công nghệ
Viện STTNSV là cơ sở nghiên cứu lớn nhất cả nước về chuyên ngành
sinh thái và tài nguyên sinh vật. Viện STTNSV sở hữu hạ tầng cơ sở vật chất
hiện đại của quốc gia (như các phòng thí nghiệm, các thiết bị nghiên cứu chuyên
ngành...). Tuy nhiên, các phương tiện nghiên cứu hiện đại của Viện STTNSV lại
dàn trải theo các đơn vị trực thuộc, thiếu đồng bộ trong kết nối các trang thiết bị
với nhau. Hạ tầng hiện có của Viện STTNSV so với nhu cầu của hội nhập quốc
tế về KH&CN vẫn ở mức thấp và đang trở thành một thách thức cho Viện
STTNSV trong quá trình phát triển: (1) Mặt bằng trang thiết bị còn thấp hơn so
với khu vực, thiếu đồng bộ; (2) Các phòng thí nghiệm hiện có của Viện
STTNSV chỉ ở quy mô nhỏ và vừa, trực tiếp phục vụ cho các hoạt động nghiên
cứu của đơn vị trực thuộc, hoặc các đề tài, nhiệm vụ trong nước; (3) Cơ sở hạ
tầng của KH&CN có tác động rất lớn đến việc nâng cao năng lực và chất lượng
nghiên cứu của các Viện KH&CN theo chuẩn mực quốc tế. Hiện tại, cơ sở hạ
tầng KH&CN của Viện STTNSV vẫn tao ra những khó khăn cho hoạt động
nghiên cứu: (1) Hạn chế tạo ra các kết quả nghiên cứu có chất lượng cao, đáp
ứng được các tiêu chuẩn quốc tế. (2) Hạn chế trong việc cạnh tranh để tham gia
các chương trình, dự án KH&CN lớn của khu vực hoặc quốc tế. (3) Hạn chế thu
hút được các nhà khoa học giỏi tham gia nghiên cứu tại viện. Hạ tầng KH&CN
(chất lượng phòng lab, các trang thiết bị cần thiết, ...) là một bộ phận cấu tạo nên
môi trường và chất lượng nghiên cứu của đơn vị. Chính những điều kiện yếu kém
nêu trên đã hạn chế rất nhiều đến khả năng tham gia thực hiện các nhiệm vụ
41
KH&CN quốc tế của Viện STTNSV thời gian qua.
2.2.4. Công tác quản lý thông tin Khoa học và Công nghệ thực hiện nhiệm vụ
Khoa học và Công nghệ
Năng lực thông tin KH&CN phục vụ công tác quản lý các nhiệm vụ
KH&CN của một Viện nghiên cứu khoa học bao gồm nguồn cung cấp, khả năng
tiếp cận các nguồn thông tin KH&CN trên thế giới và khả năng cung cấp/chia sẻ
thông tin KH&CN cho cộng đồng KH&CN quốc tế.
Qua điều tra cho thấy, phần lớn cán bộ nghiên cứu của Viện STTNSV
đều có khả năng sử dụng các phương tiện tiếp cận thông tin KH&CN như
internet, email. Các đơn vị thuộc Viện STTNSV cho biết có thường xuyên sử
dụng mạng VINAREN, đây là mạng thông tin KH&CN lớn nhất Việt Nam hỗ
trợ cho các nhà khoa học tiếp cận nhanh nhất đến kho tàng thông tin KH&CN
thế giới. Như vậy, nguồn lực thông tin KH&CN của Viện STTNSV phục vụ cho
hoạt động nghiên cứu và quản lý KH&CN đang ở mức độ khá về hạ tầng hiện
có, cũng như khả năng cung cấp thông tin cho cộng đồng KH&CN quốc tế. Khả
năng tiếp cận thông tin KH&CN theo chiều rộng ở mức tương đối, tuy nhiên khả
năng khai thác thông tin chiều sâu ở mức thấp: (i) Hạ tầng thông tin KH&CN
của Viện STTNSV về công nghệ để tạo điều kiện tiếp cận các nguồn dữ liệu
KH&CN quốc tế khá hoàn thiện (chủ yếu là internet có đường truyền ổn định và
tốc độ cao). Bên cạnh đó, một số điều kiện khác chưa đáp ứng cho nhu cầu của
công tác nghiên cứu. Ví dụ: số website bằng tiếng Anh, số lượng tạp chí và sách
báo chuyên ngành bằng tiếng Anh ít; hệ thống thư viện không đạt quy mô và
chuẩn mực; (ii) Khả năng tạo ra thông tin KH&CN đạt tiêu chuẩn quốc tế của
Viện STTNSV thấp. Mặc dù có một số thuận lợi, song hạ tầng trang thiết bị
thông tin chưa đạt chuẩn, do vậy cũng đã hạn chế việc triển khai các nhiệm vụ
KH&CN của Viện thời gian qua.
2.2.5. Công tác quản lý hợp tác quốc tế cho thực hiện nhiệm vụ Khoa học và
Công nghệ
Hợp tác quốc tế được quy định trong một số Nghị định của Chính phủ. Cụ
42
thể, Nghị định 95/NĐ - CP, ngày 17/10/2014 đã quy định nội dung chi sự nghiệp
KH&CN có chi mua kết quả nghiên cứu KH&CN (bao gồm cả từ nước ngoài);
hỗ trợ chuyển giao và nhập khẩu công nghệ (từ nước ngoài); hỗ trợ các hoạt
động hội nhập quốc tế về KH&CN: tham gia hội nghị, hội thảo quốc tế, tham gia
các sự kiện, vốn đối ứng các dự án quốc tế về KH&CN, bảo đảm hoạt động của
mạng lưới KH&CN ở nước ngoài…
Tuy có nhiều quy định về hợp tác quốc tế như vậy, nhưng tình hình hợp
tác quốc tế của Viện STTNSV thời gia qua vẫn chưa triển khai mạnh, chủ yếu
vẫn là triển khai thực hiện các nhiệm vụ trao đổi đoàn ra, đoàn vào, tổ chức hội
thảo, đào tạo, ký kết các bản ghi nhở hợp tác với các viện nghiên cứu nước
ngoài. Các dự án hợp tác nghiên cứu quốc tế cũng đã được thực hiện nhưng ở
mức khiêm tốn: năm 2014 và 2015 mỗi năm chỉ thực hiện 2 dự án, năm 2016 và
2017 mỗi năm thưc hiện 6 dự án và năm 2018 chỉ thực hiện có 3 dự án. Điều này
cho thấy vấn đề hợp tác nghiên cứu với nước ngoài đang là một bất cập của Viên
STTNSV. Nguyên nhân có thể do hạn chế về cơ sở vật chất, trang thiết bị hoặc
năng lực về ngoại ngữ tiếng Anh của cán bộ trong Viện còn yếu.
2.3. Thực trạng công tác quản lý nhiệm vụ Khoa học và Công nghệ Viện
Sinh thái và Tài nguyên sinh vật 2014-2018
Công tác quản lý hoạt động KH&CN nói chung trong cả nước và ở Viện
STTNSV là vấn đề đã được quan tâm từ nhiều năm nay và được coi là một trong
những nội dung chủ yếu của đổi mới cơ chế quản lý nhiệm vụ KH&CN Viện
trong giai đoạn 2014-2018.
2.3.1. Xác định, xét duyệt thuyết minh, kiểm tra, nghiệm thu nhiệm vụ Khoa
học và Công nghệ
- Việc xác định nhiệm vụ KH&CN cấp Quốc gia được thực hiện theo
Thông tư 07/2014TT- BKHCN ngày 26/5/2014 của Bộ KHCN, Chương trình và
công văn xây dựng kế hoạch của Viện HL KHCNVN. Trong đó có các điểm
cần lưu ý sau:
+ Đề xuất nhiệm vụ KHCN của các cá nhân, tập thế khoa học sẽ được cơ
43
quan chủ quản (Viện HL KHCNVN) tổ chức hội đồng KHCN hoặc lấy ý kiến
của chuyên gia độc lập để đánh giá và lựa chọn. Các đề xuất được lựa chọn sẽ
chuyển thành đề xuất của Viện HL KHCNVN, có cam kết sử dụng của lãnh đạo
bộ ngành, địa phương và gửi cho Bộ KHCN.
+ Bộ KHCN sẽ thành lập hội đồng KHCN để đánh giá lựa chọn các đề
xuất của các bộ, ngành, địa phương
Hình 2.3. Quy trình xác định danh mục và xét chọn tổ chức, cá nhân chủ trì
Hướng dẫn xây dựng kế hoạch
Kiểm tra, tiếp nhận hồ sơ
Tổng hợp danh mục đề xuất theo lĩnh vực
Tư vấn, xác định danh mục đề tài, DA đưa vào kế hoạch tuyển chọn tổ chức chủ trì, cá nhân chủ nhiệm
Phê duyệt (Danh mục đề xuất, kinh phí thực hiện)
Thông báo danh mục đề xuất cho các tổ chức, cá nhân
nhiệm vụ KHCN
44
Nguồn: Quy định của Viện HL KHCNVN về xác định nhiệm vụ KH&CN
Đề xuất Nhiệm vụ
Lựa chọn danh mục nhiệm vụ
Tuyển chọn, xét chọn nhiệm vụ
Thẩm định nội dung, dự toán nhiệm vụ
Phê duyệt thực hiện nhiệm vụ
Triển khai thực hiện nhiệm vụ
Đánh giá kết quả nhiệm vụ
Phê duyệt nghiệm thu nhiệm vụ
Hoàn chỉnh báo cáo theo ý kiến Hội đồng
Quyết toán kinh phí, thanh lý hợp đồng
Lưu hồ sơ, công bố
Hình 2.4. Quy trình quản lý chung thực hiện các nhiệm vụ KHCN cấp Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam
Nguồn: Quy định của Viện HL KHCNVN về quản lý thực hiện và nghiệm thu
45
nhiệm vụ KHCN
- Các nhiệm vụ cấp Viện HL KHCNVN: Hàng năm, trên cơ sở thồng báo
của Viện Hàn lâm, các đơn vị, cá nhân, tập thế khoa học tiến hành đề xuất các đề
tài, dự án và nhiệm vụ KHCN. Hồ sơ đăng ký đề xuất theo quy định của Viện
Hàn lâm đối với từng loại hình đề tài và các thông báo khác (nếu có). Thời hạn
nộp Hồ sơ đăng ký đề xuất đề tài theo thông báo của Viện Hàn lâm. Các đề xuất
đề tài có tính đột xuất, cấp bách do Chủ tịch Viện HL KHCNVN quyết định.
+ Tại Viện STTNSV- cụ thể là cán bộ phụ trách Quản lý khoa học tổng
hợp thông báo đến các phòng chuyên môn và tập hợp các đề xuất, lập danh mục
tổng hợp sơ bộ các đề tài, dự án theo các định hướng; thành lập hội đồng tư vấn
để tư vấn xác định Danh mục đề tài, dự án.
+ Căn cứ ý kiến tư vấn của Hội đồng khoa học của Viện STTNSV, cán bộ
phụ trách Quản lý khoa học tổng hợp danh mục đề tài, dự án trình Viện trưởng
xác định danh mục lần nữa. Sau đó trình Viện HL KHCNVN phê duyệt danh
mục nhiệm vụ KH&CN.
+ Sau khi có kết quả Viện HL KHCN thông báo đến Viện STTNSV để
Đơn vị chủ trì và cá nhân chủ nhiệm của các đề tài đạt yêu cầu sẽ hoàn chỉnh Hồ
sơ thuyết minh đề tài theo kết luận của Hội đồng thẩm định và gửi Hồ sơ đề tài
về Viện HL KHCNVN để thẩm định tài chính. Sau đó ký kết hợp đồng phê
duyệt triển khai đề tài.
- Phương thức thực hiện nhiệm vụ KHCN:
+ Đơn vị chủ trì và chủ nhiệm nhiệm vụ có trách nhiệm triển khai đề tài
theo thuyết minh và hợp đồng được phê duyệt và báo cáo kết quả thực hiện đề
tài về Viện HL KHCNVN khi có yêu cầu.
+ Trong quá trình thực hiện, các điều chỉnh của đề tài (về nội dung, tiến
độ, dự toán, nhân sự, thời gian thực hiện,...) tuân theo quy định. Mọi thay đổi
phải được sự cho phép của các cấp quản lý có thẩm quyền mới được triến khai
thực hiện;
+ Gia hạn thời gian thực hiện: Các nhiệm vụ được phép xin gia hạn thời
46
gian thực hiện nếu sản phẩm không đáp ứng yêu cầu đã đặt ra. Cá nhân chủ
nhiệm có đơn xin gia hạn thời gian thực hiện, đơn vị chủ trì có công văn đề nghị
Viện HL KHCNVN xem xét và phê duyệt.
- Đánh giá nghiệm thu kết quả nhiệm vụ KHCN: Việc đánh giá nghiệm
thu kết quả thực hiện nhiệm vụ được thực hiện theo hai cấp: Đánh giá nghiệm
thu cấp cơ sở và cấp Viện HL KHCNVN. Phương thức đánh nghiệm thu cấp cơ
sở do Thủ trưởng đơn vị chủ trì quy định. Nghiệm thu cấp Viện HL KHCNVN
chỉ thực hiện đối với các nhiệm vụ được Hội đồng đánh giá cấp cơ sở đánh giá,
xếp loại “Đạt” trở lên. Các nhiệm vụ được đánh giá “Không đạt” sẽ được xử lý
theo quy định của Viện HL KHCNVN và của nhà nước hiện hành.
- Đối với nhiệm vụ KH&CN là đề tài cấp cơ sở, Viện STTNSV, hàng năm
theo thông báo của Viện HL KHCNVN tiến hành xác định nhiệm vụ theo quy
trình tương tự như quy trình của Viện HL KHCNVN (yêu cầu các phòng chuyên
môn xác định tên nhiệm vụ KH&CN - tên đề tài cơ sở và lập thuyết minh đề
cương; hội đồng khoa học được Viện thành lập cho ý kiến; Viện tổng hợp thành
danh mục nhiệm vụ cùng kinh phí dự toán; đệ trình Viện HL KHCNVN phê
duyệt và phân bố kinh phí). Sau khi Viện HL KHCNVN duyệt nội dung và phê
duyệt kinh phí, Viện STTNSV được chủ động triển khai các nhiệm vụ KH&CN
cấp cơ sở tại các đơn vị phòng chuyên môn của mình.
Trên đây là quy trình xác định và thực hiện nhiệm vụ KH&CN cấp Viện
HL KHCNVN được áp dụng đối với tất cả các viện con, trong đó có Viện
STTNSV. Trong thời gian qua Viện STTNSV đã tích cực và chủ động thực hiện
công tác này.
2.3.2. Công tác quản lý tài chính nhiệm vụ Khoa học và Công nghệ
Hiện nay ở Viện STTNSV, các đơn vị còn ỷ lại ngân sách nhà nước để
xây dựng kế hoạch nhiệm vụ KH&CN hàng năm, không chủ động tham gia đấu
thầu, tuyển chọn, liên kết, hợp tác để tạo nguồn vốn riêng cho hoạt động
KH&CN. Cơ chế quản lý kinh phí nghiên cứu khoa học ở tầm vi mô còn bất cập,
chưa khuyến khích các phòng/nhóm, cá nhân tham gia nghiên cứu KH&CN,
47
thậm chí trong một số trường hợp còn làm mất đi tính tích cực của những người
muốn tham gia nghiên cứu KH&CN. Về cơ bản, các chế độ chi tiêu chưa phù
hợp với tính chất đặc thù của hoạt động NCKH; việc qui định các mức chi còn
cứng nhắc cho từng nội dung công việc đã làm cơ quan chủ trì, chủ nhiệm nhiệm
vụ không chủ động quyết định được mức chi, dẫn đến việc sử dụng ngân sách
chưa đáp ứng nhu cầu chi phù hợp với thực tế. Thủ tục thanh, quyết toán kinh
phí rườm rà (khoán chi, điều chỉnh nội dung nghiên cứu) đã làm cho cơ quan chủ
trì và người thực hiện đề tài, dự án mất nhiều thời gian chuẩn bị chứng từ tài
chính. Việc giải ngân, thanh quyết toán kinh phí vẫn thường xuyên bị chậm,
không đảm bảo tiến độ quyết toán ngân sách. Việc cấp kinh phí không đúng tiến
độ cũng làm ảnh hưởng đến việc kết quả thực hiện nhiệm vụ.
Để có hiệu quả hơn trong việc đầu tư kinh phí và quản lý kinh phí cho
hoạt động nghiên cứu của Viện, phải tiến hành đổi mới một cách đồng bộ từ
khâu xây dựng kế hoạch, cơ chế phân bổ ngân sách, cơ chế thanh quyết toán,
chính sách thu hút nhân tài trong khoa học của Viện. Nâng cao hiệu quả sử dụng
ngân sách nhà nước dành cho hoạt động KH&CN theo hướng phân bổ kinh phí
theo các chương trình, từng bước xoá bỏ cơ chế bao cấp bình quân tiến tới tự chủ
phần kinh phí được Nhà nước đầu tư, đồng thời tạo cơ hội bình đẳng và cạnh
tranh lành mạnh cho tất cả các tổ chức, cá nhân trong nghiên cứu khoa học tham
gia đấu thầu, tuyển chọn thực hiện nhiệm vụ KH&CN (project funding). Thực
hiện điểm trên cũng chính là thực hiện tốt tinh thần Nghị định số 54/2016/NĐ-
CP quy định cơ chế tự chủ của tổ chức KH&CN công lập (Nghị định thay thế
Nghị định 115).
2.3.3. Các văn bản quản lý nhiệm vụ Khoa học và Công nghệ đã ban hành
Để đưa công tác quản lý nhiệm vụ KH&CN đi vào nề nếp, đạt hiệu quả,
đáp ứng yêu cầu của Luật KH&CN, Viện HL KHCNVN và Viện STTNSV đã
ban hành một số văn bản theo thẩm quyền để điều hành công tác kế hoạch
nghiên cứu hàng năm và 5 năm tại Viện HL KHCNVN và Viện STTNSV sát với
48
sự vận động và phát triển của thực tiễn. Các văn bản cụ thể là:
- Quyết định số 1061/QĐ-VHL ngày 21/7/2014 của Viện HL KHCNVN
quy định về quản lý các đề tài thuộc các hướng ưu tiên cấp Viện HL KHCNVN.
Trong đó đã quy định các nội dung về: các hướng ưu tiên; đề xuất, phê duyệt
danh mục danh mục đề tài; tuyển chọn, phê duyệt; phương thức thực hiện đề tài;
đánh giá nghiệm thu, giao nộp kết quả.
- Quyết định số 1497/QĐ-VHL ngày 01/10/2014 của Chủ tịch Viện HL
KHCNVN quy định về quản lý các đề tài, dự án, nhiệm vụ KH&CN độc lập cấp Viện
HL KHCNVN. Trong đó đã quy định các nội dung về: các yêu cầu, điều kiện; cơ chế
đề xuất; phương thức thực hiện; đánh giá nghiệm thu, giao nộp kết quả nghiên cứu.
- Quyết định số 2073/QĐ-VHL ngày 31/12/2014 của Chủ tịch Viện HL
KHCNVN quy định về tạm thời về xử lý các đề tài, dự án, nhiệm vụ KH&CN
cấp Viện HL KHCNVN chậm nghiệm thu, không hoàn thành.
- Quyết định số 929/QĐ-VHL ngày 06/6/2017 về việc Ban hành Quy định
xử lý chậm tiến độ, không hoàn thành nhiệm vụ KH&CN và các nhiệm vụ khác
tại Viện HL KHCNVN.
- Quyết định số 79/QĐ-STTNSV ngày 12/02/2018 của Viện trưởng Viện
STTNSV về việc xử lý chậm tiến độ, không hoàn thành nhiệm vụ KH&CN do
Viện STTNSV chủ trì.
Các văn bản trên đã tác động tích cực đến các hoạt động triển khai thực
hiện các nhiệm vụ KH&CN tại Viện STTNSV thời gian qua.
2.4. Đánh giá chung về công tác quản lý nhiệm vụ Khoa học và Công nghệ
trong hoạt động Khoa học và Công nghệ của Viện Sinh thái và Tài nguyên
sinh vật
2.4.1. Những tồn tại, hạn chế trong quản lý nhiệm vụ Khoa học và Công nghệ
Trong thời gian qua, Viện STTNSV đã xây dựng và tổ chức thực hiện các
nhiệm vụ KH&CN theo hướng trọng tâm hơn, sát với tình hình phát triển và nhu
cầu thực tiễn của xã hội. Các nghiên cứu KH&CN đều xuất phát từ nhu cầu của
sản xuất và đời sống, khắc phục được phần nào tình trạng phân tán, dàn trải. Hệ
49
thống đề tài đã được bố trí cân đối hơn giữa nghiên cứu khoa học về sinh thái và
tài nguyên sinh vật, ứng dụng và phát triển công nghệ. Tuy vậy, trong thời gian
qua, việc quản lý các nhiệm vụ KH&CN của Viện STTNSVcòn có nhiều tồn tại,
hạn chế nhất định. Cụ thể là:
- Về xác định các nhiệm vụ KH&CN:
+ Việc xác định các nhiệm vụ KHCN hướng ưu tiên, chương trình chuyên
ngành còn thiếu sự gắn kết chặt chẽ với nhu cầu thực tế phát triển KT-XH của
đất nước. Các cấp lãnh đạo của Viện cũng chưa quan tâm đến việc đề xuất các
nhiệm vụ KH&CN.
+ Bước đăng ký đề tài, dự án được coi là quan trọng, có tính chất quyết
định đến hiệu quả ứng dụng của đề tài, dự án. Vì vậy, yêu cầu trước tiên là các
đơn vị, cá nhân phải cân nhắc kỹ lưỡng để xác định đúng nhiệm vụ nghiên cứu của
ngành/đơn vị. Có những trường hợp đơn vị, cá nhân vẫn đề xuất những đề tài, dự án
không làm rõ được tính cần thiết, hàm lượng khoa học thấp.
+ Hạn chế của bước xác định nhiệm vụ KH&CN là chưa tổ chức được
nhiều hình thức thực hiện mà mới chỉ tập trung tổng hợp từ sự đăng ký, đề xuất
của các cán bộ nghiên cứu.
Bên cạnh đó, Hội đồng KH&CN của Viện cũng chưa phát huy hết vai trò
của mình trong việc tham mưu đề xuất đề tài, dự án. Do các nhiệm vụ KH&CN
liên quan đến rất nhiều lĩnh vực chuyên ngành khác nhau, nên việc thành lập Hội
đồng chuyên ngành trong nhiều trường hợp gặp không ít khó khăn, do thiếu đội
ngũ chuyên gia theo chuyên ngành. Điều này ảnh hưởng đến kết quả lựa chọn, xác
định danh mục nhiệm vụ KH&CN. Chưa tổ chức được hình thức phản biện kín
trong Hội đồng tuyển chọn và xét duyệt thuyết minh đề cương nghiên cứu.
- Việc tổ chức triển khai nhiệm vụ KH&CN:
+ Viện HL KHCNVN là cơ quan quản lý trực tiếp Viện STTNSV, thực
hiện việc ký kết hợp đồng, kiểm tra tiến độ thực hiện, tổ chức đánh giá nghiệm
thu theo qui định. Mặc dù vậy, công tác quản lý đôi khi thiếu kiên quyết đối với
các trường hợp không thực hiện đúng tiến độ đã ký kết trong hợp đồng. Nên các
nhiệm vụ thường là thời gian thực hiện kéo dài so với thời gian ký kết trong hợp
50
đồng. Đến nay, đã có qui định xử lý việc chậm trễ, vi phạm hợp đồng nghiên cứu
(chủ yếu là thời gian thực hiện và kết quả nghiên cứu). Trên thực tế, để triển khai
xử lý việc chậm trễ, vi phạm hợp đồng nghiên cứu cũng rất khó.
+ Về phía Chủ nhiệm đề tài, dự án: các cá nhân chủ nhiệm hầu như không
tuân thủ tốt tiến độ quy định trong hợp đồng nghiên cứu, chậm nộp báo cáo,
chậm nộp sản phẩm nghiên cứu, làm thủ tục thanh quyết toán kinh phí không kịp
thời. Bời vì, phần lớn các cá nhân chủ nhiệm làm công tác quản lý nên không có
đủ thời gian cho việc nghiên cứu. Theo con số thống kê, trong giai đoạn 2014-
2018 có 180 nhiệm vụ KH&CN triển khai thì có gần 75% người chủ trì là lãnh
đạo, trưởng phòng. Đây là một hạn chế đã tồn tại từ lâu.
Việc tuyển chọn tổ chức chủ trì và cá nhân chủ nhiệm nhiệm vụ KH&CN
ở tầm quốc gia đã có sự tạo sự công bằng khách quan, nhưng thực tế ở Viện
STTNSV chưa có bước cải tiến. Nguyên nhân do đặt hàng của Lãnh đạo Viện
HL KHCNVN chậm được triển khai và có rất ít cơ quan, đơn vị nghiên cứu triển
khai. Bên cạnh đó một thực tế là Viện STTNSV còn thiếu chuyên gia có chuyên
môn sâu và có uy tín để tham gia các Hội đồng tư vấn xác định trúng được các
nhiệm vụ KH&CN cần thực hiện và xác định/tuyển chọn được các đơn vị, cá
nhân có đủ năng lực thực hiện nhiệm vụ đó.
- Về nghiệm thu đề tài, dự án KH&CN:
+ Hội đồng nghiệm thu có nhiều thành viên là cán bộ trong cùng cơ quan,
cùng ngành/ lĩnh vực. Bên cạnh đó, Chủ nhiệm đề tài, dự án thường là lãnh đạo
các phòng/ban. Do vậy, khi đánh giá nghiệm thu vẫn còn có trường hợp chưa
thực sự khách quan.
+ Việc đánh giá chất lượng đề tài, dự án cũng còn nhiều bất cập, nhiều khi
không chuẩn xác, không khuyến khích cho những người nghiên cứu làm việc
nghiêm túc, dễ tạo tâm lý chủ quan cho các nhà nghiên cứu.
+ Sau khi nghiệm thu, các chủ nhiệm đề tài, dự án, cơ quan chủ trì cũng
như cơ quan quản lý hầu như không có kế hoạch và biện pháp cụ thể để triển
khai ứng dụng kết quả nghiên cứu. Công tác quảng bá, tuyên truyền, phổ biến
51
kết quả nghiên cứu cũng còn hạn chế, làm cho nhiều thông tin về các kết quả
nghiên cứu ít được biết đến. Trách nhiệm của chủ nhiệm đề tài, dự án, cơ quan
chủ trì trong việc triển khai áp dụng kết quả đề tài, dự án không rõ ràng
- Về các công tác liên quan khác:
+ Công tác thẩm định thông tin đề tài, dự án chưa đáp ứng được yêu cẩu
thực tế. Tình trạng thiếu các chuyên gia giỏi cũng là trở ngại lớn cho việc nâng
cao chất lượng hoạt động nghiên cứu KH&CN của Viện. Thực tế, thời gian vừa
qua việc cung cấp thông tin KH&CN, đặc biệt là thông tin xây dựng thuyết minh
đề cương nghiên cứu còn nhiều hạn chế.
+ Phương pháp quản lý đối với KH&CN trong cơ chế thị trường chưa kịp
đổi mới; chưa làm rõ trách nhiệm của Nhà nước, các tổ chức, cá nhân trong hoạt
động KH&CN. Nhà nước vẫn được coi là người có trách nhiệm chính và gần
như là duy nhất đối với hoạt động KH&CN không chỉ của Viện HL KHCNVN,
mà cả cấp Viện STTNSV.
+ Về cơ chế quản lý tài chính cho hoạt động KH&CN: Cơ chế quản lý
kinh phí của các nhiệm vụ KHCN ở tầm vi mô còn bất cập. Các chế độ chi tiêu
cho hoạt động NCKH chưa phù hợp với thực tế. Thủ tục thanh quyết toán chưa
thanh thoát nên việc giải ngân kinh phí bị chậm, ảnh hưởng đến tiến độ thực hiện
nhiệm vụ KH&CN.
Công tác quản lý hoạt động KH&CN của Viện còn nhiều bất cập, nhất là
hệ thống tổ chức quản lý nhà nước theo tinh thần của Luật KH&CN 2013 về
phát triển KH&CN chưa được nhiều. Bản thân ngành KH&CN cũng đang còn
nhiều lúng túng trong việc xây dựng những chương trình KH&CN chuyên ngành
theo quy hoạch, kế hoạch phát triển KT-XH của ngành. Để từng bước hoàn thành
nhiệm vụ trên, công tác quản lý nhiệm vụ KH&CN cần phải hoàn thiện, đổi mới
mạnh mẽ hơn, đáp ứng được với yêu cầu của thực tế đặt ra, nhất là khâu xác định
nhiệm vụ và cơ chế tài chính thực hiện nhiệm vụ KH&CN ở cấp cơ sở.
2.4.2. Những nguyên nhân yếu kém trong quản lý nhiệm vụ Khoa học và
Công nghệ
Những nguyên nhân yếu kém trong công tác quản lý nhiệm vụ KH&CN
52
của Viện STTNSV có thể khái quát như sau:
- Có sự bất cập trong quản lý nhiệm vụ KH&CN hiện nay là tính áp đặt
đối với người nghiên cứu. Thủ tục hành chính cứng chắc, không có tác dụng
thiết thực trong việc nâng cao hiệu quả nghiên cứu. Sau đó là áp đặt mức chi cho
nội dung nghiên cứu…
- Cơ chế tổ chức thực hiện nhiệm vụ KH&CN thiếu tính chuyên nghiệp trong
hoạt động nghiên cứu KH&CN của Viện thời gian qua. Có những nhiệm vụ
KH&CN, người đứng tên nghiên cứu mà không trực tiếp làm nghiên cứu. Một số
người trực tiếp làm nghiên cứu và đóng góp trên lĩnh vực này lại chỉ làm tay trái,
không chuyên trách. Tình trạng thiếu tính chuyên nghiệp vẫn còn tồn tại tại Viện
STTNSV.
- Việc xác định nhiệm vụ và giao trực tiếp tổ chức và cá nhân chủ trì thực
hiện đề tài, dự án đang thực hiện thông qua các Hội đồng KH&CN chuyên
ngành. Nhiệm vụ của hội đồng chỉ có xét duyệt nội dung trong thuyết minh do
chủ nhiệm đề tài, dự án xây dựng, mang tính chất góp ý sửa chữa thuyết minh là
chính, hội đồng bỏ phiếu 100% các đề tài, dự án từ năm 2014-2018 đều đạt yêu
cầu. Chất lượng làm việc của hội đồng chưa tròn trách nhiệm.
- Kinh phí thực hiện nhiệm vụ KH&CN được cấp theo năm ngân sách và
phê duyệt ngay từ đầu khi phê duyệt danh mục và phê duyệt luôn kinh phí của
từng đề tài, dự án; không căn cứ vào nội dung, quy mô của nhiệm vụ. Các đề tài,
dự án căn cứ vào kinh phí được phân bổ để xây dựng mục tiêu, nội dung thực
hiện cho phù hợp với kinh phí được cấp. Vì vậy, thực tế có những đề tài, dự án
nhiều nội dung quy mô lớn thì kinh phí ít; đề tài, dự án ít nội dung, quy mô nhỏ
thì kinh phí nhiều…
- Sau khi nhiệm vụ KH&CN kết thúc, việc ứng dụng kết quả nghiên cứu
cũng không được theo dõi, đánh giá kịp thời. Việc ứng dụng các kết quả nghiên
53
cứu vào thực tế tại Viện còn hạn chế.
Tiểu kết chương
Chương 2 đề cập đến Công tác quản lý nhiệm vụ của Viện STTNSV trong
thời gian 2014 đến 2018, gồm bốn nội dung sau:
Thứ nhất, phần tổng quan về Viện STTNSV. Đây là viện đầu ngành, có
chức năng và nhiệm vụ là điều tra nghiên cứu cơ bản và triển khai ứng dụng vào
thực tiễn; Viện có 18 phòng ban, đội ngũ nhân lực khoa học mạnh với 108 người
(9 NCVCC, 56 NCVC,...), hoạt động theo cơ chế tự chủ, được đảm bảo 100%
kinh phí thường xuyên và có cơ sở vật chất tương đối hiện đại. Từ 2014 đến
2018, Viện đã thực hiện hàng năm khoảng 70-80 đề tài các cấp, kinh phí trung
bình 20 tỷ đồng/năm, qua đó đạt trung bình 230 công trình khoa học/năm và 138
bài báo quốc tế/năm,...
Thứ hai, về công tác quản lý nguồn lực: Nhân lực đã có bước phát triển
nhưng chủ yêu vẫn là được đào tạo từ thời đông Âu cũ, đào tạo mới từ các nước
phát triển ít; chế độ đãi ngộ còn thấp, lực lường trẻ vẫn chưa được trọng dụng;
trình độ ngoại ngữ yếu; hàng năm viện lập kế hoạch Tài chính theo cơ chế tự
chủ, tự chịu trách nhiệm; Cơ sở vật chất tuy hiện đại nhưng dàn trải, so với quốc
tế vẫn ở trình độ thấp; Công tác thông tin đã đảm bảo cho hoạt động nghiên cứu;
Công tác hợp tác quốc tế còn bất cập.
Thứ ba, việc quản lý nhiệm vụ KH&CN được thực hiện theo quy định của
Viện HL KHCNVN (xác định nhiệm vụ, tuyển chọn tổ chức, triển khai thực hiện
và đánh gía nghiệm thu, lưu trữ, công bố). Việc quản lý tài chính cho thấy chế độ
chi tiêu, định mức chi còn nhiều bất cập, thủ tục thanh quyết toán vẫn phức tạp
khó khăn, khoán chi vẫn chưa thanh thoát.
Thứ tư, về đánh giá chung công tác quản lý cho thấy các yếu kém chủ yếu
là chưa đề xuất được nhiệm vụ đúng tầm; kiểm tra đôn đốc thiếu chặt chẽ, người
chủ trì nhiệm vụ chấp hành tiến độ chưa nghiêm túc; công tác nghiệm thu vẫn
còn nể nang,..Những nguyên nhân là việc tổ chức các hội đồng vẫn chưa tốt,
chưa đúng tầm; vẫn còn áp đặt chủ quan; thiếu tính chuyên nghiệp; chưa theo
54
dõi được kết quả sau nghiệm thu.
Chương 3
GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHIỆM VỤ
KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ CỦA VIỆN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
3.1. Bối cảnh, cơ hội ảnh hưởng đến công tác quản lý nhiệm vụ Khoa học và
Công nghệ của Viện nghiên cứu khoa học
3.1.1. Bối cảnh, cơ hội quốc tế ảnh hưởng đến công tác quản lý nhiệm vụ
Khoa học và Công nghệ của Viện nghiên cứu khoa học
Hội nhập quốc tế vừa là cơ hội to lớn cho sự phát triển của mỗi quốc gia,
đồng thời cũng tạo ra những thách thức mà nếu không chuẩn bị nội lực và bỏ lỡ
thời cơ thì sẽ bị tụt hậu rất xa tên con đường tiến tới văn minh của nhân loại,
trong đó có hoạt động KH&CN.
Trong tiến trình phát triển kinh tế thế giới, KH&CN luôn đóng một vai trò
quan trọng trong việc nâng cao năng suất lao động và hiệu quả sản xuất-kinh
doanh và hiển nhiên trong bối cảnh toàn cầu hóa, lĩnh vực này cũng chịu những
ảnh hưởng không nhỏ, nhất là ở các nước đang phát triển như Việt Nam rất dễ bị
tụt hậu, mắc vào bẫy thu nhập trung bình.
Trong suốt quá trình xây dựng và phát triển quốc gia, Đảng và Nhà nước
ta đã xác định khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu. Tuy nhiên để sự
phát triển này đi đúng lộ trình và xu thế của thế giới cần phải nhận diện rõ những
cơ hội và thách thức của toàn cầu hóa đối với hoạt động KH&CN.
3.1.1.1.Về bối cảnh, cơ hội quốc tế
Trước hết, hội nhập quốc tế giúp KH&CN Việt Nam cũng như của các
Viện nghiên cứu khoa học từng bước hội nhập, giao lưu với nền khoa học công
nghệ của thế giới, tạo thuận lợi cho Việt Nam học tập kinh nghiệm, tiếp thu
những thành tựu KH&CN thế giới phục vụ cho sự phát triển của kinh tế - xã hội
của đất nước. Việc chuyển giao các dây chuyền công nghệ, khoa học tiên tiến
của thế giới vào từng ngành nghề, lĩnh vực cụ thể ở Việt Nam như: Công nghệ
55
sản xuất thiết bị di động cầm tay, chíp và các sản phẩm viễn thông (Samsung
Việt Nam), các công nghệ ứng dụng trong lĩnh vực nông nghiệp công nghệ cao
(Công nghệ tưới nhỏ giọt theo tiêu chuẩn Israel), công nghệ xây dựng cầu đường
và đặc biệt công nghệ thông tin trong các ngành dịch vụ tài chính, ngân hàng đã
góp phần đưa các ngành này từng bước tiếp cận và đạt đến trình độ của thế giới,
đồng thời ảnh hưởng rất nhiều đến hoạt động của các Viện NC&TK trong nước.
Hội nhập quốc tế tạo điều kiện thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực
KH&CN, đặc biệt là sự đầu tư của các nước tiên tiến có nền KH&CN phát triển
cao như Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapo. Sự tham gia liên doanh, liên kết
trong hoạt động KH&CN với các đối tác nước ngoài giúp cho các nhà khoa học
Việt Nam có cơ hội tiếp cận với KH&CN cao mà qua đó từng bước thu hẹp
khoảng cách về kiến thức, kỹ năng nghiên cứu phát triển cũng như nâng cao
năng lực sáng tạo KH&CN của cá nhân và nền KH&CN trong nước. Các chương
trình hợp tác đào tạo nhân lực khoa học công nghệ trình độ cao, có khả năng tiếp
nhận, chuyển giao và ứng dụng những thành tựu KH&CN tiên tiến của thế giới
sẽ góp phần nâng cao năng lực, trình độ của đội ngũ những người làm khoa học
hiện có và phát triển đội ngũ các nhà khoa học trẻ kế tục sự nghiệp phát triển nền
KH&CN quốc gia ngày càng hiện đại hơn.
3.1.1.2. Những khó khăn và thách thức:
Hội nhập quốc tế khiến cho các sản phẩm KH&CN của nước ngoài đặc
biệt là của các nước tiên tiến như Hoa Kỳ, Nhật Bản và các nước Châu Âu xâm
nhập mạnh mẽ vào thị trường trong nước khiến cho nền KH&CN Việt Nam bị
cạnh tranh gay gắt. Đặc biệt, nó làm nẩy sinh các vấn đề tranh chấp mới liên
quan đến sở hữu trí tuệ, bản quyền, nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý, kiểu dáng công
nghiệp - những lĩnh vực mà nước ta đang ở trình độ phát triển rất thấp so với họ.
Sự chênh lệch về trình độ phát triển KH&CN quá lớn trong một sân chơi có sự
cạnh tranh gay gắt khiến cho sự thua thiệt và yếu thế luôn nằm về phía các nhà
KH&CN Việt Nam. Chẳng hạn sự thống trị của giống lúa lai Trung quốc trên thị
trường giống lúa trong nước là bằng chứng rõ nhất về những thách thức của nền
56
KH&CN Việt Nam cho dù các giống lúa do các nhà khoa học Việt Nam tạo ra
không thua kém gì về chất lượng. Đây là một thách thức rất lớn của không chỉ
riêng ngành KH&CN.
Hiện nay, các sản phẩm KH&CN Việt Nam, dù đã được cải tiến và đổi
mới nhiều, song phần lớn vẫn sử dụng những công nghệ cũ, lạc hậu. Việc đổi
mới công nghệ so với mặt bằng chung vẫn còn chậm. Trong điều kiện nền kinh
tế còn nhiều khó khăn, việc đầu tư vào nghiên cứu và đổi mới công nghệ bị hạn
chế khiến cho các sản KH&CN vẫn bị tụt hậu so với thế giới, làm giảm năng lực
cạnh tranh trong lĩnh vực này. Mặt khác việc đổi mới công nghệ không chỉ đơn
giản là thay máy cũ bằng máy mới mà còn phải đổi mới cả một hệ thống quản lý
cũng như nguồn nhân lực chất lượng cao đi kèm mà những điều này vẫn còn
thiếu và yếu ở nước ta. Chiến lược phát triển KH&CN Việt Nam đến 2020 đã đặt
ra yêu cầu tốc độ đổi mới công nghệ phải đạt 15-20% mỗi năm, nghĩa là sau
khoảng 5 năm các doanh nghiệp Việt Nam phải đổi mới được một thế hệ công
nghệ. Thực tế, đây là con số quá cao nhưng mặt khác cũng lại được coi là quá
thấp đối với KH&CN Việt Nam.
Khung hành lang pháp lý, việc hoàn thiện thể chế, hệ thống chính sách để
bảo đảm Luật KH&CN được triển khai sâu rộng vào cuộc sống, tạo đà cho phát
triển kinh tế - xã hội, đưa KH&CN thực sự trở thành lực lượng sản xuất quan
trọng/trực tiếp để phát triển kinh tế vẫn còn nhiều bất cập. Việc ban hành các văn
bản dưới Luật như Nghị định, Thông tư hướng chậm chạp, khiến cho quá trình
thực hiện Luật KH&CN gặp nhiều khó khăn.
Đầu tư để phát triển KH&CN tuy đã có nhiều chuyển biến, được chú trọng
nhưng mới chỉ đạt 2% tổng chi ngân sách nhà nước - một con số quá thấp so với
nhu cầu của hoạt động KH&CN (nhưng quản lý nhiệm vụ KH&CN vẫn chưa đạt
hiệu quả cao). Các nước tiên tiến đầu tư cho phát triển khoa học công nghệ, đặc
biệt là nghiên cứu và triển khai luôn đạt từ 3 - 5% GDP và công tác quản lý
nhiệm vụ KH&CN đạt hiệu quả cao giữ vững những vị trí dẫn đầu. Rõ ràng sự
chênh lệch về vốn đầu tư cho KH&CN và cơ chế quản lý nhiệm vụ KH&CN
57
cũng đã là một thách thức lớn đối với nền KH&CN Việt Nam hiện nay.
Đội ngũ cán bộ làm công tác khoa học, đặc biệt là các nhà khoa học đầu
ngành còn thiếu và yếu, thiếu các trung tâm khoa học lớn; hiệu quả sử dụng các
phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia và kết quả hoạt động của các khu công
nghệ cao còn thấp. Thiếu cơ chế quản lý khoa học nhất là cơ chế tự chủ, tự chịu
trách nhiệm, trọng dụng, đãi ngộ nhân tài còn nhiều hạn chế, thiếu khuyến khich
phát triển nhóm nghiên cứu trẻ. Việc nâng cao số lượng và chất lượng đội ngũ
làm công tác khoa học không thể thực hiện trong thời gian ngắn mà đòi hỏi
nhiều thời gian và tâm sức cũng là những thách thức không nhỏ cho việc phát
triển nền KH&CN nước nhà
Để “khoa học và công nghệ thực sự là quốc sách hàng đầu, là động lực quan
trọng nhất để phát triển lực lượng sản xuất; phấn đấu đến năm 2020, khoa học và
công nghệ Việt Nam đạt trình độ phát triển của nhóm các nước dẫn đầu ASEAN,
đến năm 2030, có một số lĩnh vực đạt trình độ tiên tiến trên thế giới” cần thiết
phải ưu tiên, tập trung đầu tư trước một bước cho KH&CN, đồng thời đổi mới
mạnh mẽ, đồng bộ cơ chế quản lý KH&CN, nhất là cơ chế tài chính nhằm giải
phóng năng lực sáng tạo của nhà khoa học và công nghệ, đưa nhanh tiến bộ
KH&CN vào sản xuất và đời sống. Giải pháp đưa ra là tăng cường liên kết giữa
các tổ chức KH&CN với doanh nghiệp; liên kết 4 nhà: nhà nước, nhà khoa học,
nhà doanh nghiệp và nhà nông; tăng cường hợp tác quốc tế về khoa học, công
nghệ cao cùng với đổi mới thực sự cơ chế quản lý nhiệm vụ KH&CN phải là
hướng ưu tiên trong hội nhập quốc tế. Có như vậy nền KH&CN Việt Nam mới
không lạc lõng và tụt hậu so với thế giới.
3.1.2. Bối cảnh trong nước ảnh hưởng đến công tác quản lý nhiệm vụ Khoa
học và Công nghệ của Viện nghiên cứu khoa học
Đối với KH&CN, Đảng và Nhà nước ta luôn xác định đấy là nền tảng và
động lực đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và phát triển bền vững đất
nước. Điều này được thể hiện rất rõ qua việc Nhà nước ban hành một loạt văn
bản quan trọng về định hướng chiến lược và cơ chế, chính sách phát triển
58
KH&CN như: Nghị quyết Hội nghị Trung ương 2 khoá VIII (1996); Kết luận
của Hội nghị Trung ương 6 khoá IX (2002); Luật Khoa học và Công nghệ (2000,
2013); Luật CGCN (2006, 2017) Chiến lược phát triển khoa học và công nghệ
Việt Nam đến năm 2020 và nhiều chính sách cụ thể khác về xây dựng tiềm lực
và đổi mới cơ chế quản lý khoa học và công nghệ. Đặc biệt nhất là Luật
KH&CN 2013 đã quy định rõ quyền hạn và trách nhiệm của tổ chức KH&CN
cung như cơ chế quản lý nhiệm vụ KH&CN các cấp. Sau đó phải kể đến Nghị
định 115/2005/NĐ-CP của Chính phủ ban hành nhằm trao quyền tự chủ, tự chịu
trách nhiệm mạnh mẽ cho các tổ chức KH&CN và mới đây là Nghị định
54/2016/NĐ-CP của Chính phủ quy định về cơ chế tự chủ của tổ chức KH&CN
công lập một cách tự do, dân chủ và minh bạch (thay thế Nghị định 115 và Nghị
định 96).
Nhờ đó, hoạt động KH&CN đã có bước chuyển biến, đạt được một số tiến
bộ và kết quả nhất định, đóng góp tích cực vào sự phát triển kinh tế, xã hội, bảo
đảm an ninh, quốc phòng của đất nước.
Tuy nhiên, hoạt động KH&CN của nước ta hiện nay vẫn chưa đáp ứng
yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, nhất là trong xu
thế hội nhập kinh tế quốc tế và sự phát triển kinh tế tri thức trên thế giới. Đại hội
Đảng lần thứ XII đã chỉ ra những hạn chế cơ bản của hoạt động KH&CN hiện
nay là: Chưa thực sự gắn kết với nhu cầu và hoạt động của các ngành kinh tế, xã
hội; Chậm đưa vào ứng dụng những kết quả đã được nghiên cứu; Trình độ
KH&CN của ta còn thấp nhiều so với các nước xung quanh; Năng lực tạo ra
công nghệ mới còn rất có hạn; Các cơ quan nghiên cứu khoa học chậm được sắp
xếp cho đồng bộ, còn phân tán, thiếu phối hợp, do đó đạt hiệu quả thấp; Các
Viện nghiên cứu và các doanh nghiệp, các trường Đại học chưa gắn kết với
nhau; Việc đầu tư xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật thiếu tập trung và dứt điểm
cho từng mục tiêu. Cán bộ KH&CN có trình độ cao tuy còn ít, song chưa được
sử dụng tốt; Cơ chế quản lý nhiệm vụ KH&CN chậm đổi mới, chưa thực sự phát
huy được vai trò KH&CN là động lực, đóng góp xứng đáng, hiệu quả cao cho
59
phát triển kinh tế - xã hội.
Chiến lược phát triển KH&CN Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020 được ban
hành với Mục tiêu tổng quát là: Phát triển đồng bộ khoa học xã hội nhân văn,
khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật và công nghệ; đưa KH&CN thực sự trở
thành động lực then chốt, đáp ứng các yêu cầu cơ bản của một nước công nghiệp
theo hướng hiện đại. Đến năm 2020, KH&CN Việt Nam có một số lĩnh vực đạt
trình độ tiên tiến, hiện đại của khu vực ASEAN và thế giới, nhất là trong lĩnh
vực KHTN và KHCN.
Trong Chiến lược, đã đề ra giải pháp tập trung nguồn lực để thực hiện các
chương trình, đề án KH&CN quốc gia và nâng cao năng lực quản lý nhiệm vụ
KH&CN quốc gia và các cấp. Luật KH&CN 2013 và Nghị định 54/NĐ-CP về tự
chủ quả các tổ chức KH&CN công lập,…đã quy định về việc: Triển khai mô
hình hợp tác công – tư trong lĩnh vực KH&CN; Chuyển các tổ chức KH&CN
công lập sang cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm theo quy định của pháp luật;
Triển khai các nhiệm vụ KH&CN thường xuyên theo chức năng; Thực hiện cơ
chế Nhà nước “đặt hàng” đối với các nhiệm vụ KH&CN; Áp dụng các hình thức
mua, khoán sản phẩm phù hợp với từng loại hình hoạt động KH&CN; Bổ sung
và mở rộng nội dung chi, định mức chi, đơn giản hóa thủ tục hóa đơn, chứng từ
tài chính phù hợp với đặc thù hoạt động KH&CN (lao động tự do sáng tạo, tính
kế thừa và bất định cao…).
Đối với Viện HL KHCNVN (nơi có nhiều Viện nghiên cứu khoa học hoạt
động), “Quy hoạch tổng thể phát triển Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam
đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030” do Thủ tướng Chính Phủ đã phê
duyệt ngày 01/12/2011 thể hiện quan điểm phát triển đối với các Viện nghiên
cứu khoa học là:
- Quy hoạch tổng thể phát triển các Viện nghiên cứu khoa học phải phù
hợp với Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, Quy hoạch tổng thể phát triển
kinh tế - xã hội của cả nước, Chiến lược phát triển KH&CN và các chủ trương,
60
chính sách có liên quan của Đảng, Nhà nước.
- Phát triển các Viện nghiên cứu khoa học với bước đột phá mạnh mẽ, trở
thành một nơi nghiên cứu, đào tạo cán bộ khoa học và công nghệ mạnh, đa
ngành, làm đầu tàu, động lực phát triển KH&CN của đất nước, góp phần quan
trọng để đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an
ninh, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa và hội nhập
quốc tế.
- Tập trung xây dựng và hoàn thiện tổ chức bộ máy, nâng cao tiềm lực
KH&CN của các Viện nghiên cứu khoa học. Đẩy mạnh hoạt động hợp tác quốc
tế để thúc đẩy việc đổi mới công nghệ quốc gia, đặc biệt là công nghệ cao, đồng
thời góp phần nâng cao trình độ và khẳng định vị thế khoa học của Việt Nam
trong khu vực và trên thế giới.
- Đổi mới cơ bản việc xây dựng, tổ chức thực hiện và đánh giá hiệu quả
thực hiện các nhiệm vụ KH&CN trọng điểm cấp nhà nước. Đổi mới mạnh mẽ cơ
chế tài chính và phương thức đầu tư đối với hoạt động KH&CN của các Viện
nghiên cứu khoa học.
Và mục tiêu tổng quát là Xây dựng các Viện nghiên cứu khoa học trở
thành một Trung tâm KH&CN hàng đầu của cả nước, nghiên cứu đa ngành, đa
lĩnh vực, với đội ngũ cán bộ KH&CN có trình độ chuyên môn cao, cơ sở vật chất
kỹ thuật hiện đại, đạt trình độ tiên tiến trên thế giới, có quan hệ hợp tác quốc tế
sâu rộng với nhiều nước có nền khoa học và công nghệ phát triển, đáp ứng tốt
các yêu cầu phát triển KH&CN và sự phát triển kinh tế - xã hội bền vững của đất
nước; triển khai các nghiệp vụ KH&CN ngày càng đạt hiệu qủa cao đuổi kinh
thế giới,…
Để cụ thể hóa và triển khai tinh thần của Chiến lược KH&CN đến 2020,
ngày 15/5/2017, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Nghị định số 60/2017/NĐ-
CP quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Viện HL
KHCNVN. Theo đó, Viện HL KHCN Việt Nam là cơ quan thực hiện chức năng
nghiên cứu cơ bản về khoa học tự nhiên và phát triển công nghệ; cung cấp luận
61
cứ khoa học cho công tác quản lý khoa học, công nghệ và xây dựng chính sách,
chiến lược, quy hoạch phát triển kinh tế, xã hội; đào tạo nhân lực khoa học, công
nghệ có trình độ cao theo quy định của pháp luật.
Như vậy, đây là những cơ sở pháp lý vững chắc để các tổ chức KH&CN
như Viện nghiên cứu khoa học nói chung và Viện Sinh thái và TNSV nói riêng
thực hiện công tác tổ chức của Viện nghiên cứu khoa học và quản lý nhiệm vụ
KH&CN của mình một cách có hiệu quả và bền vững.
3.2. Một số giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện công tác quản lý nhiệm vụ
Khoa học và Công nghệ cho các viện Nghiên cứu khoa học
Đổi mới về cơ chế quản lý khoa học có nghĩa là đổi mới cả về lượng và
chất. Lượng ở đây là cả quá trình, xét từ chủ thể có nghĩa là theo chuỗi hệ thống
gắn bó chặt chẽ với nhau từ khâu đầu tiên đến khâu hậu kiểm. Chất ở đây chính
là sản phẩm làm ra phải thực tế đóng góp thiết thực vào sự nghiệp phát triển của
đất nước thông qua các chỉ số về bài báo, công trình khoa học quốc tế; các chỉ số
về bằng sáng chế và giải pháp hữu ích,...
Cần xem xét, đánh giá lại tổng thể các chính sách liên quan (tài chính, con
người, đầu tư...), chính sách nào phù hợp, không phù hợp, lỗi do đâu? Xem xét
lại hệ thống các tổ chức KH&CN, Viện nghiên cứu khoa học đã phù hợp chưa,
mô hình tổ chức nào là hiệu quả (theo chuỗi giá trị hay theo công đoạn). Đánh
giá mô hình quản lý KH&CN hiện nay, kinh nghiệm của thế giới, mối quan hệ
giữa Bộ KH&CN; Hội đồng chính sách; các Bộ, ngành, địa phương; các Viện;
Môi trường hoạt động KH&CN, v.v…
Vì vậy, để đưa ra một giải pháp khoa học và mang tính toàn diện cho bài
toán cơ chế quản lý khoa học ở các Viện nghiên cứu khoa học tại Việt Nam đòi
hỏi phải tham khảo học tập kinh nghiệm của các nước tiến tiến, có nghiên cứu
khoa học về quản lý một cách bài bản chứ không phải vừa làm vừa rút kinh
nghiệm, vừa sửa như đã làm trong thời gian vừa qua. Hoạt động KH&CN phải
lấy con người làm trung tâm. Từ đó chỉ ra được các điểm sai, các vấn đề then
chốt ở thượng tầng kiến trúc hay ở hạ tầng cơ sở để tiến hành điều chỉnh sửa đổi
62
cho phù hợp với xu thế thế giới.
3.2.1. Giải pháp hoàn thiện công tác quản lý các nguồn lực thực hiện nhiệm
vụ Khoa học và Công nghệ tại các Viện nghiên cứu khoa học
3.2.1.1. Nhân lực Khoa học và Công nghệ
- Đẩy mạnh triển khai chính sách sử dụng, trọng dụng và tôn vinh cán bộ
KH&CN; chính sách thu hút cá nhân hoạt động KH&CN là người Việt Nam ở
nước ngoài và chuyên gia nước ngoài tham gia hoạt động KH&CN tại Viện; đào
tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ, kỹ năng quản lý KH&CN của lực lượng cán bộ
quản lý KH&CN ở các cấp; Chuẩn hóa cán bộ đáp ứng tiêu chuẩn các chức danh
lãnh đạo, quản lý của cơ quan chuyên môn quản lý KH&CN ở tất cả các cấp;
Xây dựng cơ chế khuyến khích đào tạo, thu hút chuyên gia nghiên cứu và triển
khai làm việc tại Viện.
- Hoàn thiện cơ chế quản lý nhân lực KH&CN là sự quan tâm của các cấp
lãnh đạo đối với cán bộ KH&CN. Bố trí sắp xếp và sử dụng có hiệu quả nguồn
nhân lực KH&CN, kết hợp với bồi dưỡng, đào tạo để thu hút và khai thác có
hiệu quả tiềm năng và đội ngũ cán bộ KH&CN tại các Viện. Định kỳ khảo sát
đánh giá chất lượng đội ngũ cán bộ KH&CN, trên cơ sở đó xây dựng kế hoạch
đào tạo lại, bồi dưỡng nâng cao trình độ, nhằm đáp ứng với yêu cầu và nhiệm vụ
hiện nay. Xây dựng cơ chế ưu đãi mạnh mẽ đối với cán bộ KH&CN, cán bộ làm
công tác quản lý KH&CN có đóng góp lớn cho sự phát triển của Viện nghiên
cứu khoa học. Thực hiện tốt chính sách đối với cán bộ KH&CN theo đúng tinh
thần của Luật KH&CN 2013, coi KH&CN là động lực, là quốc sách hàng đầu
cho sự phát triển, nhân tố con người là trung tâm.
- Quy hoạch phát triển nhân lực KH&CN phải gắn kết chặt chẽ với quy
hoạch phát triển kinh tế - xã hội; đáp ứng nhu cầu phát triển của đất nước tới
năm 2020 và tầm nhìn năm 2030, đặc biệt là nhân lực KH&CN làm công tác
NC&PT tại các Viện nghiên cứu và trong doanh nghiệp.
- Xây dựng và thực hiện chính sách đào tạo, trọng dụng, tôn vinh đội ngũ
cán bộ KH&CN, nhất là các nhà khoa học giỏi có nhiều đóng góp thiết thực. Tạo
63
điều kiện thuận lợi để cán bộ KH&CN phát triển tài năng và hưởng lợi ích xứng
đáng. Nâng cao năng lực, trình độ và phẩm chất của cán bộ quản lý KH&CN ở
các ngành, các cấp, Viện nghiên cứu khoa học.
- Có chính sách trọng dụng đặc biệt đối với cán bộ KH&CN đầu ngành,
cán bộ KH&CN được giao chủ trì nhiệm vụ quan trọng của quốc gia, cán bộ
KH&CN trẻ tài năng chủ trì các nhóm nghiên cứu.
- Sử dụng hiệu quả và có chính sách hỗ trợ đội ngũ nghiên cứu sinh,
chuyên gia KH&CN học tập và làm việc có thời hạn tại các tổ chức KH&CN ở
nước ngoài.
- Có chính sách đãi ngộ, khen thưởng, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng
đối với tác giả các công trình được công bố quốc tế, các sáng chế được bảo hộ
trong và ngoài nước.
- Ðổi mới công tác tuyển dụng, bố trí, đánh giá và bổ nhiệm cán bộ
KH&CN. Có chính sách tiếp tục sử dụng cán bộ KH&CN trình độ cao đã hết
tuổi lao động vào làm công tác nghiên cứu khoa học.
- Hoàn thiện hệ thống chức danh, chức vụ KH&CN. Cải tiến các danh hiệu
Nhà nước tôn vinh cho cán bộ KH&CN, các giải thưởng KH&CN.
3.2.1.2. Tài chính Khoa học và Công nghệ
- Đổi mới cơ chế xây dựng kế hoạch và dự toán ngân sách đối với hoạt
động KH&CN phù hợp với đặc thù của nghiên cứu KH&CN và nhu cầu phát
triển của quốc gia, ngành, địa phương; gắn kết giữa định hướng phát triển dài
hạn, chương trình phát triển trung hạn với kế hoạch nghiên cứu, ứng dụng
KH&CN hàng năm.
- Dựa theo hướng căn cứ vào kết quả và hiệu quả sử dụng kinh phí
KH&CN của bộ/ngành/chuyên ngành để điều chỉnh phân bổ ngân sách nhà nước
cho hoạt động KH&CN, khắc phục tình trạng đầu tư dàn trải, kém hiệu quả.
- Đẩy mạnh cơ chế đặt hàng, đấu thầu, tuyển chọn thực hiện nhiệm vụ
KH&CN và cơ chế khoán kinh phí đến sản phẩm KH&CN cuối cùng theo kết
quả đầu ra. Xây dựng cơ chế đặc thù trong quản lý nhiệm vụ KH&CN theo
64
hướng giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho tổ chức, cá nhân chủ trì nhiệm
vụ KH&CN. Cơ chế tài chính của quỹ phát triển KH&CN cần được mở rộng áp
dụng. Hình thành cơ chế đánh giá độc lập, tư vấn, phản biện đối với các hoạt
động KH&CN.
- Thực hiện cơ chế đầu tư đặc biệt để triển khai một số dự án KH&CN quy
mô lớn phục vụ quốc phòng - an ninh hoặc có tác động mạnh mẽ đến năng suất,
chất lượng và sức cạnh tranh của sản phẩm quốc gia.
- Huy động mạnh mẽ nguồn vốn xã hội, đặc biệt là nguồn vốn từ doanh
nghiệp và các nguồn vốn nước ngoài đầu tư cho phát triển KH&CN. Nâng tổng
đầu tư xã hội cho KH&CN trên 2% GDP vào năm 2020 và khoảng 3% GDP vào
năm 2030. Có cơ chế sử dụng vốn sự nghiệp kinh tế hỗ trợ đổi mới và chuyển
giao công nghệ.
Đổi mới cơ chế quản lý tài chính cho thực hiện các nhiệm vụ KH&CN là
khâu đặc biệt quan trọng trong đổi mới cơ chế quản lý nhiệm vụ KH&CN. Đổi
mới căn bản cơ chế tài chính nhằm hạn chế tình trạng bao cấp tràn lan trong hoạt
động nghiên cứu khoa học, đồng thời điều chỉnh các chế độ, định mức tài chính
bất hợp lý trong hoạt động NC&TK.
3.2.1.3. Vật tư, thiết bị Khoa học và Công nghệ
Công tác vật tư, thiết bị có chức năng tham mưu, tổng hợp, đề xuất và tổ
chức thực hiện quản lý nhà nước và quản trị về công tác vật tư, thiết bị của Viện
nghiên cứu khoa học. Để đảm bảo thực hiện nhiệm vụ KH&CN đạt hiệu quả
cao, nhiều công trình đạt trình độ quốc tế và có thể tham gia đấu thầu các nhiệm
vụ KH&CN quốc tế, công tác này cần hoàn thiện theo hướng:
- Đẩy mạnh công tác lập kế hoạch mua sắm, thay thế, sửa chữa, thanh lý
tài sản, thiết bị trong Viện và tổ chức thực hiện việc cung ứng đầy đủ trang thiết
bị, vật tư tiêu hao theo kế hoạch, đảm bảo về thời gian, số lượng, tiêu chuẩn kỹ
thuật theo kế hoạch và đơn giá đã được duyệt.
- Tăng cường theo dõi, quản lý máy móc và thiết bị về tình trạng bảo
65
quản, vận hành, kỹ thuật và an toàn; Lập hồ sơ, lý lịch cho tất cả các loại máy,
thiết bị; phối hợp với các bộ phận sử dụng xây dựng quy trình vận hành, bảo
dưỡng và lập kế hoạch sử dụng hợp lý máy móc thiết bị khoa học.
- Tăng cường quản lý về sửa chữa, hiệu chuẩn các thiết bị, máy móc sử
dụng tại các phòng, trung tâm thuộc lĩnh vực chuyên ngành khoa học; lập kế
hoạch kiểm chuẩn trang thiết bị chuyên môn của Viện.
- Định kỳ đánh giá, báo cáo tình hình quản lý và sử dụng vật tư, thiết bị
của Viện; Chủ trì và phối hợp với các phòng, trung tâm tổ chức cho các viên
chức trong Viện học tập về bảo quản, sử dụng, sửa chữa thiết bị.
- Đẩy mạnh công tác phối hợp tổ chức đấu thầu, kiểm tra các hợp đồng
mua sắm vật tư trang thiết bị từ tất cả các nguồn kinh phí trong Viện; Cung cấp,
theo dõi, quản lý vật tư hóa chất của Viện, trong đó bao gồm tất cả các vật tư
thiết bị từ các đề tài, dự án,...trong và ngoài Viện.
3.2.1.4. Thông tin Khoa học và Công nghệ
Công tác quản lý thông tin KH&CN có chức năng giúp Viện nghiên cứu
thống nhất quản lý mạng lưới thông tin – tư liệu KH&CN thuộc Viện, đó là thu
thập, lưu trữ, xử lý, tuyên truyền và phổ biến kiến thức, kết quả nghiên cứu khoa
học và phát triển công nghệ trong lĩnh vực KH&CN của Viện. Thời gian tới
công tác này cần được hoàn thiện như sau:
- Đẩy mạnh quản trị, cập nhật và đưa vào khai thác các nguồn thông tin
khoa học và công nghệ được lưu giữ, bảo quản tại Viện; Tích cực tổ chức quản
lý, xây dựng kết nối nguồn tài nguyên điện tử và xây dựng môi trường tích hợp
tài nguyên thân thiện với người dùng.
- Tổ chức xây dựng và khai thác các cơ sở dữ liệu của cơ sở Thông tin –
Tư liệu (sách, tạp chí, báo cáo kết quả đề tài nghiên cứu khoa học, bài báo trích,
bộ sưu tập chuyên đề...) của Viện.
- Đẩy mạnh cung cấp các thông tin về thành tựu KH&CN mới trong và
ngoài nước cho lãnh đạo và các cán bộ khoa học thuộc Viện; Cung cấp các thông
tin liên quan đến các hoạt động Sở hữu trí tuệ.
66
- Lưu giữ các kết quả nghiên cứu khoa học do Viện chủ trì.
- Tập trung mạnh vào hiện đại hoá hệ thống thông tin khoa học và công
nghệ, xây dựng thư viện điện tử, xây dựng và áp dụng các tiêu chuẩn quốc gia,
quốc tế vào hoạt động thông tin – tư liệu của Viện.
- Tăng cường thông tin tuyên truyền về các hoạt động nghiên cứu khoa
học và triển khai công nghệ của Viện trên các phương tiện thông tin đại chúng
và quảng bá các sản phẩm khoa học và công nghệ của Viện.
3.2.1.5. Hợp tác quốc tế
Các hoạt động hợp tác quốc tế về KH&CN trong thời gian qua mới chỉ
được thực hiện trong khuôn khổ các thoả thuận hợp tác song phương hoặc đa
phương. Mối quan hệ hợp tác chủ yếu diễn ra theo hướng một chiều, trong đó
các đối tác của Việt Nam thường là bên được hỗ trợ, các đối tác nước ngoài là bên
hỗ trợ. Điều này dẫn đến sự phụ thuộc vào đối tác và không bình đẳng về nghĩa vụ
cũng như quyền lợi của mỗi bên. Đối với công tác hợp tác quốc tế về KH&CN thời
gian tới của Viện, cần hoàn thiện chính như sau:
- Tăng cường xây dựng và thực hiện các chương trình, dự án, nhiệm vụ
nghiên cứu chung trong khuôn khổ các thỏa thuận song phương, đa phương.
Khuyến khích hợp tác nghiên cứu giữa Viện nghiên cứu khoa học trong nước với
các Viện nghiên cứu nước ngoài.
- Tích cực tham gia các hội nghị, hội thảo khoa học ở nước ngoài và chủ
trì các hội nghị, hội thảo khoa học quốc tế tại Việt Nam. Tổ chức triển lãm giới
thiệu các thành tựu KH&CN mới, tiên tiến của Viện tại các nước và trên lãnh thổ
Việt Nam.
- Đẩy mạnh xây dựng kế hoạch thu hút các chuyên gia, nhà khoa học là
người nước ngoài, người Việt Nam ở nước ngoài tham gia các chương trình, dự
án nghiên cứu, đào tạo nhân lực KH&CN. Đặc biệt hình thành các nhóm nghiên
cứu mạnh ở Viện, chú trọng đến nhóm nghiên cứu khoa học trẻ.
- Đẩy mạnh xây dựng các nhóm nghiên cứu trên cơ sở hợp tác dài hạn
giữa Viện và các tổ chức nghiên cứu khoa học của nước ngoài. Tổ chức nhóm
67
chuyên gia theo lĩnh vực KH&CN ưu tiên của Viện.
3.2.2. Giải pháp hoàn thiện công tác quản lý nhiệm vụ Khoa học và Công nghệ
Công tác tổ chức và quản lý nhiệm vụ KH&CN tại các Viện nghiên cứu
khoa học được thực hiện theo Nghị định 54/2016/NĐ-CP về tự chủ của tổ chức
KH&CN công lập đối với nhiệm vụ KH&CN thường xuyên theo chức năng và
theo Quyết định số 506/QĐ-KHCNVN quy định về quản lý các đề tài thuộc các
hướng KH&CN ưu tiên cấp Viện KH&CN Việt Nam và Quyết định số
1497/QĐ-VHL quy định về quản lý các đề tài, dự án, nhiệm vụ KH&CN độc lập
cấp Viện HL KHCNVN. Trong thời gian qua Viện STTNSV đã triển khai thực
hiện nhiệm vụ KH&CN theo cơ chế quản lý nêu trên. Sau khi nghiên cứu việc
thực hiện 2 loại nhiệm vụ KH&CN của Viện STTNSV như nêu trên, có thể đề
xuất một số giải pháp hoàn thiện công tác quản lý nhiệm vụ KH&CN tại các
Viện nghiên cứu khoa học trong thời gian tới như sau đây.
3.2.2.1. Đề xuất, xác định, đặt hàng nhiệm vụ Khoa học và Công nghệ
- Viện và các nhà khoa học cần nhận thức rõ vai trò quan trọng của việc đề
xuât các đề tài cấp VHL và cấp cơ sở, vì nó quyết định đến phát triển của
ngành/lĩnh vực (phổ nghiên cứu và trình độ học thuật). Việc đề xuất tên đề tài nó
thể hiện năng lực giải quyết vấn đề của nhà khoa học liên quan đến cập nhật xu
thế phát triển KH&CN của thế giới và tính sát thực thực tiễn giải quyết các vấn
đề phát triển KT-XH của Việt Nam. Vậy nên, cần đầu tư ngay từ khâu đề xuất để
có được đề tài đíchh đáng đưa vào nghiên cứu.
- Cần có một chiến lược với các chương trình KH&CN 5 năm và dài hạn
cấp Viện HL KHCNVN, cấp cơ sở để có hướng nghiên cứu ổn định lâu dài làm
cơ sở cho nhà khoa học đề xuất các đề tài nghiên cứu phù hợp. Thực tế cho thấy
nếu không có chương trình KH&CN, các đề tài được đề xuất sẽ tản mạn và
thường hướng vào vấn đề ngắn hạn không mang tính lâu dài.
- Hội đồng khoa học ngành/ Hội đồng khoa học Viện nghiên cứu khoa học
cần tư vấn sâu về tên đề tài, mục tiêu và nội dung khái quát cần nghiên cứu (tính
thời sự và lâu dài) để hình thành đơn hàng nhiệm vụ KH&CN. Thành viên Hội
68
đồng xét chọn nhiệm vụ có thể mời thêm cả những nhà khoa học ngoài Hội đồng
khoa học ngành (Viện HL KHCNVN)/Hội đồng khoa học (Viện nghiên cứu
khoa học/Viện con) làm thành viên hội đồng.
- Cần có quy định rõ trách nhiệm và quyền hạn, mối quan hệ của các bên
có liên quan trong quá trình hình thành nhiệm vụ KH&CN cấp Viện HL
KHCNVN và nhiệm vụ KH&CN cấp cơ sở (Viện nghiên cứu khoa học). Đó là
các đơn vị/bộ phận quản lý nhiệm vụ, đơn vị/bộ phận quản lý kinh phí, đơn vị/bộ
phận chủ trì nhiệm vụ và các nhà khoa học tham gia đề xuất nhiệm vụ.
- Cần triển khai hình thức đề xuất nhiệm vụ KH&CN theo cơ chế đặt hàng
của tổ chức KH&CN, cơ quan Nhà nước, doanh nghiệp có liên quan.Cơ chế này
có điểm ưu việt, đó là người đặt hàng chính là người sử dụng kết quả thực hiện
nhiệm vụ KH&CN (địa chỉ ứng dụng đã có sẵn ngay khi bắt tay vào tiến hành
xác định nhiệm vụ KH&CN).
3.2.2.2. Tuyển chọn, giao trực tiếp
- Mặc dù tên đề tài, mục tiêu và nội dung nghiên cứu đã được Hội đồng
xét chọn xem xét kỹ, nhưng các nhà khoa học ứng tuyển sẽ được tuyển chọn,
giao nhiệm vụ là những người sau này trực tiếp thực hiện nhiệm vụ, do vậy nên
cho phép họ trong xây dựng thuyết minh đề cương đề tài được điều chỉnh, bổ
sung những vấn đề như tên đề tài, mục tiêu đề tài và nội dung nghiên cứu đề tài
cho sát với khả năng thực hiện của nhà khoa học.
- Cần quy định rõ trách nhiệm của Hội đồng và thành viên Hội đồng tuyển
chọn, giao nhiệm vụ và nâng cao chất lượng của Hội đồng. Cần xây dựng quỹ
chuyên gia để tạo nguồn thành viên Hội đồng, hình thành thông qua cơ chế lựa
chọn dân chủ (thông qua việc bầu tại các Viện, trường). Có thể mở rộng Hội
đồng khoa học gồm cả thành viên là người nước ngoài.
- Cần nâng cao trách nhiệm của đơn vị chủ trì nhiệm vụ, đặc biệt là các bộ
phận chức năng về kế hoạch khoa học - tài chính và trách nhiệm của nhà khoa
69
học trong quá trình hình thành thuyết minh đề cương đề tài.
3.2.2.3. Đánh giá giữa kỳ, nghiệm thu kết quả
- Cần quy định rõ trách nhiệm, quyền hạn của các cơ quan chưc năng có
liên quan như đơn vị chủ quản, đơn vị chủ trì,... trong việc kiểm tra đánh giá
giữa kỳ để đánh giá tiến độ và chất lượng khoa học.
- Cần có biện pháp quản lý linh hoạt trong quản lý thực hiện nhiệm vụ
KH&CN, cụ thể là trong việc xem xét điều chỉnh nội dung, phương pháp nghiên
cứu của đề tài cho phù hợp với sự biến động của thế giới. Cho phép nhà khoa
học được điều chỉnh, nhất là đối với đề tài nghiên cứu cơ bản.
- Hội đồng khoa học đánh giá nghiệm thu không cần đi sâu đánh giá về
chất lượng khoa học. Chất lượng khoa học nên để Nhà xuất bản khoa học, Ban
biên tập các tạp chí khoa học chuyên ngành đánh giá bằng cách họ chấp nhận
hay không chấp nhận đăng tải các sản phẩm của đề tài gửi đăng.
3.2.2.4. Lưu trữ, phổ biến, công bố
- Cần triển khai một cách bài bản, có quy chế về công tác lưu trữ sản
phẩm khoa học bao gồm báo cáo tổng hợp, báo cáo tóm tắt, báo cáo chuyên đề,
báo cáo điều tra, khảo sát, các dữ liệu khoa học thu thập được qua điều tra thực
địa, quan sát; các dữ liệu trong thí nghiệm, thử nghiệm trong quá trình triển khai
nghiên cứu đề tài đã thu thập được.
- Cần đẩy mạnh việc đăng ký sáng chế, giải pháp hữu ích các kết qủa
nghiên cứu có tính mới về kỹ thuật, công nghệ, giải pháp, phương pháp, quy
trình và tích cực thương mại hóa, phổ biến thông qua hoạt động chuyển giao
công nghệ, trường hợp đặc biệt có thể thành lập doanh nghiệp.
- Cần thúc đẩy đăng tải các giá trị khoa học của đề tài trên tạp chí chuyên
ngành hoặc xuất bản các công trình khoa học để xã hội thụ hưởng kết quả đó.
Việc đăng tải là tiêu chí để đánh giá giá trị khoa học mà nhà nghiên cứu đã đạt
được và mang lại cho xã hội. Cần đề cao trách nhiệm của nhà khoa học khi sử
70
dụng kinh phí của Nhà nước để thực hiện đề tài.
3.2.3. Hoàn thiện công tác quản lý nhiệm vụ thường xuyên theo chức năng
của Viện nghiên cứu khoa học
Nhiệm vụ thường xuyên theo chức năng của tổ chức KH&CN công lập
được quy định tại Khoản 2 Điều 4 Nghị định 54/2016/NĐ-CP quy định cơ chế tự
chủ của tổ chức KH&CN. Theo đó, một tổ chức KH&CN công lập (Viện nghiên
cứu khoa học) có ít nhất 2 loại nhiệm vụ KH&CN:
- Nhiệm vụ KH&CN sử dụng ngân sách nhà nước do cơ quan có thẩm
quyền tuyển chọn, giao cho Viện nghiên cứu khoa học công lập thực hiện theo
quy định hiện hành (các nhiệm vụ đấu thầu, tuyển chọn).
- Nhiệm vụ thường xuyên theo chức năng của Viện nghiên cứu khoa học
là nhiệm vụ ngoài nhiệm vụ khoa học và công nghệ được giao theo quy định nêu
trên. Nhiệm vụ này phải phù hợp với chức năng, nhiệm vụ quy định tại quyết
định thành lập, điều lệ hoặc quy chế tổ chức và hoạt động của Viện nghiên cứu
khoa học.
Nội dung của công tác quản lý nhiệm vụ thường xuyên theo chức năng
theo Nghị định 54/2016/NĐ-CP gồm các công việc cơ bản sau đây cần phải tích
cực triển khai trong thời gian tới:
- Nhiệm vụ thường xuyên theo chức năng được cơ quan có thẩm quyền
(Viện Hàn lâm) đặt hàng hoặc giao trực tiếp cho Viện nghiên cứu khoa học công
lập và được thực hiện theo phương thức khoán đến sản phẩm cuối cùng.
- Thẩm quyền phê duyệt danh mục, thuyết minh, dự toán, quyết toán kinh
phí thực hiện nhiệm vụ thường xuyên theo chức năng: Thủ trưởng đơn vị dự toán
cấp 1 là Viện Hàn lâm (có thể ủy quyền cho thủ trưởng đơn vị dự toán cấp 2-
nếu có) có thẩm quyền phê duyệt danh mục, thuyết minh, dự toán, quyết toán
kinh phí thực hiện nhiệm vụ thường xuyên theo chức năng của Viện nghiên cứu
khoa học công lập thuộc quyền quản lý.
- Xây dựng, tổ chức thực hiện và đánh giá, nghiệm thu nhiệm vụ thường
xuyên theo chức năng: Hằng năm, Viện nghiên cứu khoa học công lập căn cứ
71
vào chức năng, nhiệm vụ được giao, lập danh mục và dự toán kinh phí thực hiện
nhiệm vụ thường xuyên theo chức năng để trình thủ trưởng cơ quan có thẩm
quyền xem xét, phê duyệt và ký hợp đồng thực hiện. Khi kết thúc nhiệm vụ,
Viện nghiên cứu khoa học công lập có trách nhiệm lập báo cáo kết quả để cơ
quan có thẩm quyền đánh giá, nghiệm thu, làm cơ sở xem xét, giao hoặc không
giao thực hiện nhiệm vụ trong năm tiếp theo.
- Kinh phí thực hiện nhiệm vụ thường xuyên theo chức năng, bao gồm:
Tiền lương, tiền công, các khoản đóng góp theo lương của những người trực tiếp
và gián tiếp thực hiện nhiệm vụ; các khoản chi phí trực tiếp và gián tiếp phục vụ
thực hiện nhiệm vụ; các khoản chi hoạt động bộ máy của Viện nghiên cứu khoa
học công lập để thực hiện nhiệm vụ.
- Định mức các khoản chi trong dự toán kinh phí thực hiện nhiệm vụ
thường xuyên theo chức năng thực hiện theo các quy định hiện hành.
Để thực hiện các công việc trên, cơ quan cấp trên (Viện Hàn lâm) cần ban
hành quy định về nhiệm vụ thường xuyên theo chức năng của các Viện nghiên
cứu khoa học và cơ chế quản lý nhiệm vụ này (có thể vận dụng quy định của
72
Viện Hàn lâm về quản lý nhiệm vụ KH&CN cấp Viện Hàn lâm đã ban hành).
Tiểu kết chương
Chương 3 về giải pháp hoàn thiện công tác quản lý nhiệm vụ KH&CN của
Viện nghiên cứu khoa học bao gồm 2 nội chính. Cụ thể là:
Thứ nhất, đề cập vấn đề bối cảnh và cơ hội cũng như các thách thức tác
động đến công tác quản lý nhiệm vụ KH&CN của nước ta. Hoạt động KH&CN
ngày càng chi phối mạnh mẽ hoạt động KT-XH; ai làm chủ được KH&CN tiên
tiến sẽ chiến thắng. KH&CN Việt Nam phải vươn lên ngang tầm và cần hội nhập
với các nước phát triển trong khu vực và thế giới. Đây là nhiệm vụ đặt ra cho
việc Hoàn thiện công tác quản lý nhiệm vụ KH&CN.
Thứ hai, về Giải pháp hoàn thiện quản lý nhiệm vụ KH&CN. Trước hết là
quản lý nguồn lực: i- quản lý nhân lực (trọng dụng, tôn vinh, đãi ngộ, đảm bảo
lợi ích, đào tạo,...); ii- quản lý tài chính (đẩy mạnh huy động nhiều nguồn, đa
dạng cơ chế cấp tài chính; cải tiến chế độ thanh quyết toán, khoán chi,..); iii-
quản lý vật tư-thiết bị (đẩy mạnh kế hoạch đầu tư mua sắm hợp lý, bảo quản, sửa
chữa, hiệu chuẩn,...); iv- quản lý thông tin (đẩy mạnh cập nhật, khai thác, hiên
đại hóa,...); v- quản lý hợp tác quốc tế (đẩy mạnh trao đổi chuyên gia, nghiên
cứu chung,...). Thứ đến là quản lý nhiệm vụ KH&CN: i- đề xuất, xác định nhiệm
vụ (thành lập chương trình nghiên cứu, hoàn thiện hội đồng, quy định rõ trách
nhiệm các bên liên quan,...); ii- tuyển chọn, giao trực tiếp (nâng cao quyền và
trách nhiệm nhà khoa học, mở rộng thành viên hội đồng,...); iii- đánh giá giữa
kỳ, nghiệm thu (linh hoạt điều chỉnh bổ sung đề tài,...); iv- đẩy mạnh lưu trữ và
công bố,..; v- hoàn thiện nhiệm vụ thường xuyên theo chức năng theo NĐ
73
54/2016/NĐ-CP.
KẾT LUẬN
KH&CN ngày nay phát triển như vũ bão. Trong đó, công nghệ số và công
nghệ cao đã có bước phát triển ngoạn mục và đưa thế giới bước vào thời đại
công nghiệp 4.0. KH&CN ở đó đã tạo ra những thành tựu đột phá, làm cho bộ
mặt KT-XH thay đổi sâu sắc so với trước và ngày càng chứng tỏ vai trò động lực
của mình cho hoạt động SX-KD và đời sống xã hội. Sự nghiệp KH&CN của một
quốc gia phụ thuộc rất nhiều vào việc hoạch định các mục tiêu chiến lược, xác
định các nhiệm vụ KH&CN cần phải thực hiện trước mắt và lâu dài và quản lý
thực hiện nó. Qua đó sẽ nâng tầm KH&CN Quốc gia đuổi kịp trình độ KH&CN
các nước tiên tiến trên thế giới.
Việc quản lý các nhiệm vụ KH&CN không chỉ diễn ra ở tầng vĩ mô mà cả
ở tầm vi mô. Quản lý vi mô là bộ phận của quản lý vĩ mô và nó tích cực góp
phần vào thực hiện các mục tiêu của vĩ mô đề ra.
Đề tài “Hoàn thiện công tác quản lý nhiệm vụ khoa học và công nghệ
của Viện nghiên cứu khoa học (Nghiên cứu trường hợp Viện Sinh thái và Tài
nguyên sinh vật)” đã được đặt ra và thực hiện với tinh thần nêu trên. Trong
khuôn khổ một nghiên cứu khoa học, đề tài đã được thực hiện với các nội dung
có thể khái quát như sau:
1. Tổng quan một số khái niệm về KH&CN (i-NC&TK với các giai đoạn
NCCB, NCƯD, TKTN và ii-Dịch vụ KH&CN); nhiệm vụ KH&CN (đề tài, dự
án, đề án); công tác quản lý KH&CN (kế hoạch, nguyên tắc lập kế hoạch); Nội
dung về lý luận và thực tiễn quản lý nhiệm vụ KH&CN đã đề cấp đến chức
năng, vị trí, cơ cấu tổ chức, nhóm nghiên cứu và công tác quản lý nguồn lực của
một Viện nghiên cứu khoa học; Phần nội dung của quản lý nhiệm vụ KH&CN
đề cập đến quá trình từ xác định nhiệm vụ đến tuyển chọn giao nhiệm vụ, kiểm
tra giám sát, đánh giá giữa kỳ, nghiệm thu và cuối cùng là đăng ký công bố kết
quả; Phần đặc điểm của quản lý nhiệm vụ KH&CN đã làm rõ đặc thù của đối
tượng quản lý là lao động khoa học (tự do sáng tạo, rủi ro cao, kết thừa người đi
74
trước, tính mới, không lặp lại như sản xuất). Về đặc điểm của quản lý hoạt động
KH&CN đã đề cập đến tính linh hoạt, dự báo,...cần có để đảm bảo sự thích hợp
với đặc thù của lao động KH&CN. Nội dung về kinh nghiệm thực tiễn về quản
lý nhiệm vụ KH&CN, đã đề cập đến kinh nghiệm chung một số nước châu Âu,
CHLB Đức, Nga và Hà Lan.
2. Về thực trạng công tác quản lý nhiệm vụ KH&CN tại Viện STTNSV,
đã đề cập đến chức năng, nhiệm vụ của Viện (điều tra nghiên cứu cơ bản, ứng
dụng,...); quá trình hình thành và cấu trúc tổ chức (18 đơn vị trực thuộc); làm rõ
về các nguồn lực (như nhân lực có 9 NCVCC,.., tài chính chi 20 tỷ/năm, thông
tin, vật tư - thiết bị hiện đại,...); hoạt động theo cơ chế tự chủ, được đảm bảo
100% kinh phí thường xuyên; các kết qủa thực hiện 2014-2018 (70-80 đề
tài/năm; 230 công tình khoa học/năm, 138 bài báo quốc tế/năm,...); Về công tác
quản lý nguồn lực: Nhân lực đã có bước phát triển nhưng chủ yếu vẫn là được
đào tạo từ thời đông Âu cũ, đào tạo mới từ các nước phát triển ít; lực lượng trẻ
vẫn chưa được trọng dụng; trình độ ngoại ngữ yếu; hàng năm viện lập kế hoạch
Tài chính theo cơ chế tự chủ; Cơ sở vật chất dàn trải, trình độ thấp; Thông tin đã
đảm bảo; Công tác hợp tác quốc tế còn bất cập; Việc quản lý nhiệm vụ KH&CN
được thực hiện theo quy định của Viện Hàn lâm (từ xác định nhiệm vụ đến công
bố kết quả). Chế độ chi tiêu, định mức chi còn nhiều bất cập, thủ tục thanh quyết
toán vẫn phức tạp, khoán chi vẫn chưa thanh thoát. Về đánh giá chung công tác
quản lý cho thấy các yếu kém chủ yếu là chưa tổ chức được đề xuất nhiệm vụ đúng
tầm; kiểm tra đôn đốc thiếu chặt chẽ, chấp hành tiến độ chưa nghiêm túc; nghiệm
thu vẫn còn nể nang,..Những nguyên nhân là việc tổ chức các hội đồng vẫn chưa
tốt; vẫn còn áp đặt chủ quan; thiếu tính chuyên nghiệp; theo dõi kết quả yếu.
3. Hoạt động KH&CN ngày càng chi phối hoạt động KT-XH; ai làm chủ
được KH&CN tiên tiến sẽ chiến thắng. KH&CN Việt Nam phải vươn lên ngang
tầm các nước phát triển trong khu vực và thế giới. Để đạt được điều đó, các Giải
pháp hoàn thiện quản lý nhiệm vụ KH&CN gồm:
Trước hết là về quản lý nguồn lực: i- quản lý nhân lực: hoàn thiện trọng
75
dụng, tôn vinh, đãi ngộ, đảm bảo lợi ích, đào tạo,...; ii- quản lý tài chính: đẩy
mạnh huy động nhiều nguồn, đa dạng cơ chế cấp tài chính; cải tiến chế độ thanh
quyết toán, khoán chi,..; iii- quản lý vật tư-thiết bị: đẩy mạnh kế hoạch đầu tư
mua sắm, bảo quản, sửa chữa, hiệu chuẩn,...; iv- quản lý thông tin: đẩy mạnh
cập nhật, khai thác, hiên đại hóa,...; v- quản lý hợp tác quốc tế: đẩy mạnh trao
đổi chuyên gia, nghiên cứu chung,....
Thứ đến là về quản lý nhiệm vụ KH&CN: i- đề xuất, xác định nhiệm vụ:
thành lập chương trình trình nghiên cứu, hoàn thiện các hội đồng, quy định rõ
trách nhiệm các bên liên quan,...; ii- tuyển chọn, giao trực tiếp: nâng cao quyền
và trách nhiệm nhà khoa học, mở rộng thành viên hội đồng từ nhiều nguồn, cả
nước ngoài...; iii- đánh giá giữa kỳ, nghiệm thu: linh hoạt điều chỉnh bổ sung đề
tài, đảm bảo tiến độ; nghiệm thu không đi sâu vào học thuật (NXB hoặc Ban
biện tập tạp chí); iv- lưu trữ và công bố: đẩy mạnh và chuyên nghiệp hóa công
tác lưu trữ và công bố kết quả nghiên cứu quốc tế và trong nước....Đối với nhiệm
vụ KH&CN cấp cơ sở (nhiệm vụ thường xuyên theo chức năng): hoàn thiện thực
76
hiện theo NĐ 54/2016/NĐ-CP./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tiếng Việt
1. Chính phủ (2005), Nghị định 115/2005/NĐ-CP về tự chủ, tự chịu trách
nhiệm của tổ chức KH&CN công lập.
2. Chính phủ (2016), Nghị định 54/2016/NĐ-CP Quy định cơ chế tự chủ của tổ
chức khoa học và công nghệ công lập.
3. Vũ Cao Đàm (1999), Phương pháp luận và thực tiến nghiên cứu khoa học,
NXB Sự Thật, Hà Nội.
4. Hoàng Xuân Long (2017), Nghiên cứu phân tích , đánh giá hoạt động quản lý
các nhiệm vụ KH&CN sau 30 năm đổi mới, Đề tài cấp bộ, NISTPASS, Hà Nội.
5. Nguyễn Sĩ Lộc (chủ biên) (1997), Quản lý khoa học và công nghệ, NXB
KHKT, Hà Nội.
6. Quản lý-Wikipedia, Bách khoa thư tiếng Việt.
7. Quốc hội Việt Nam (2013), Luật Khoa học và Công nghệ năm 2013
8. Đặng Duy Thịnh (1999), Báo cáo về khảo sát về tổ chức và thực tiễn quản lý
KH&CN của CHLB Đức, Hà Nội.
9. Đặng Duy Thịnh (2006), Tăng cường các liên kết và đổi mới cấu trúc tổ
chức nhằm nhất thể hóa nghiên cứu và triển khai với sản xuất công nghiệp,
Nội san Nghiên cứu Chính sách KH&CN (số 12), tr.5-15.
10. Đặng Duy Thịnh (2006), Nghiên cứu đổi mới cơ chế, chính sách tài chính
của nhà nước đối với hoạt động KH&CN và hoạt động đổi mới (công nghệ),
Đề tài cấp bộ, NISTPASS, Hà Nội.
11. Đặng Duy Thịnh (2007), Bàn về cơ chế chuyển tổ chức KH&CN thành tổ
chức tự chủ tự chịu trách nhiệm nhằm gắn kết khoa học với sản xuất - Nội
san Nghiên cứu Chính sách KH&CN (số 14) tr.5-11.
12. Phạm Quang Trí (2001), Đề tài cấp cơ sở Nghiên cứu luận cứ khoa học cho
việc phân công, phân cấp quản lý và thực hiện các nhiệm vụ NC&PT của
Nhà nước, NISTPASS, Hà Nội.
13. Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam (2013), Quyết định số
324/QĐ-VHL ngày 01/03/2013 về việc Ban hành Quy chế tổ chức và hoạt
động của Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật, Hà Nội.
14. Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam (2014), Quyết định số
1061/QĐ-VHL ngày 21/7/2014 về việc Ban hành Quy định quản lý các đề tài
thuộc các hướng KH&CN ưu tiên cấp Viện Hàn lâm KH&CN VN, Hà Nội.
15. Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam (2014), Quyết định số
1496/QĐ-VHL ngày 01/10/2014 Ban hành Quy định về quản lý các đề tài,
nhiệm vụ, dự án KH&CN do Viện Hàn lâm KH&CN VN được ủy quyền phê
duyệt và nghiệm thu, Hà Nội.
16. Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam (2014), Quyết định số
1497/QĐ-VHL ngày 01/10/2014 Ban hành Quy định về quản lý các đề tài,
dự án, nhiệm vụ KH&CN độc lập cấp Viện Hàn lâm KH&CN VN, Hà Nội.
17. Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam (2014), Quyết định số
2073/QĐ-VHL ngày 31/12/2014 Ban hành Quy định tạm thời về xử lý các đề
tài, dự án, nhiệm vụ KH&CN cấp Viện Hàn lâm KH&CN VN chậm nghiệm
thu, không hoàn thành, Hà Nội.
18. Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam (2017), Quyết định số
929/QĐ-VHL ngày 06/6/2017 về việc Ban hành Quy định xử lý chậm tiến độ,
không hoàn thành nhiệm vụ KH&CN và các nhiệm vụ khác tại Viện Hàn lâm
KH&CN VN, Hà Nội.
19. Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam (2017), Quyết định số
1791/QĐ-VHL ngày 21/8/2017 về việc Ban hành Quy định quản lý các đề tài
thuộc các hướng KH&CN ưu tiên cấp Viện Hàn lâm KH&CN VN, Hà Nội.
20. Viện Khoa học Việt Nam (1990), Quyết định số 204/VKH-QĐ ngày
03/4/1990 về việc Quy định chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức bộ máy
của Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật, Hà Nội.
21. Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật (2014, 2015, 2016, 2017, 2018), Báo
cáo tổng kết, Hà Nội.
22. Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật (2018), Quyết định số 79/QĐ-STTNSV
ngày 12/02/2018 về việc Ban hành Quy định xử lý chậm tiến độ, không hoàn
thành nhiệm vụ KH&CN do Viện Sinh thái TNSV chủ trì, Hà Nội.
23. Y. de Hemptinne (1997), Những vấn đề then chốt của Chính sách KH&KT
(Trần Đức Quang dịch), Hà Nội 1987
Tài liệu Tiếng Anh, Đức
24. Felderer, B. and Campbell, David F.J (1994), Forschungsfinanzierung in
Eruopa -Trends -Modelle Empfehlung fuer Oestereich, Manzsche Verlags-
und Universitaetsbuchhandlung, Wien.
25. Martin Bell, R. (1993), Intergrating R&D with industrial production and
technical change: strengthening linkages and changing structures-Workshop on
Intergration of Science and Technology in the Development Planning and
Management Process in the ESCWA Region, Amman, 27-30 September 1993.
26. Lee Dal Hwan (1994), R&D Evaluation-a Case Study of the National R&D
Programm of Korea, STEPI.
27. Lee Dal Hwan (1995), Basic Concept of R&D Management. Science and
Technology Policy Institute (STEPI).