BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
HOÀNG VŨ
TỔ CHỨC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT TRONG PHÒNG NGỪA,
ĐẤU TRANH PHÒNG CHỐNG TỘI PHẠM CƢỚP GIẬT
TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG
HÀ NỘI, NĂM 2018
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
HOÀNG VŨ
TỔ CHỨC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT TRONG PHÒNG NGỪA,
ĐẤU TRANH PHÒNG CHỐNG TỘI PHẠM CƢỚP GIẬT
TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
Chuyên ngành: Quản lý công
Mã số: 8 34 04 03
LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. ĐÀM BÍCH HIÊN
HÀ NỘI, NĂM 2018
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn này là công trình nghiên cứu của riêng
tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chƣa đƣợc công bố trong bất kỳ công
trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính
chính xác, tin cậy và trung thực. Trong Luận văn có sử dụng một số kết quả
điều tra khảo sát về đấu tranh phòng chống tội phạm của Phòng cảnh sát
hình sự - Công an Thành phố Hà Nội và các cơ quan tiến hành tố tụng của
Thành phố Hà Nội./.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Hoàng Vũ
ii
LỜI CẢM ƠN
Trong thời gian học tập, nghiên cứu tại học viện Hành chính Quốc gia
từ năm 2016 đến 2018; tôi đã đƣợc các thầy giáo, cô giáo truyền đạt, hƣớng
dẫn, cung cấp những kiến thức trong lĩnh vực Quản lý công. Đây là nền tảng
quan trọng giúp tôi thực hiện ngày càng tốt hơn nhiệm vụ đƣợc giao.
Quá trình thực hiện luận văn tốt nghiệp, nhờ sự giúp đỡ của các đơn vị,
cá nhân, tôi đã hoàn thành đƣợc luận văn với đề tài: “Tổ chức thực hiện pháp
luật trong phòng ngừa, đấu tranh phòng chống tội phạm cướp giật tài sản
trên địa bàn thành phố Hà Nội”.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo Học viện Hành chính Quốc
gia, Công an thành phố Hà Nội, Phòng cảnh sát hình sự - Công an thành phố
Hà Nội, Toà án nhân dân thành phố Hà Nội đã giúp đỡ để tôi hoàn thành đề
tài nghiên cứu này. Đặc biệt, xin gửi lời cảm ơn TS. Đàm Bích Hiên - Học
viện Hành chính quốc gia đã tận tình hƣớng dẫn tôi trong suốt quá trình thực
hiện luận văn./.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Hoàng Vũ
iii
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BLHS Bộ luật hình sự
CAH Công an Huyện
CAP Công an Phƣờng
CAQ Công an Quận
CBCC Cán bộ công chức
CGTS Cƣớp giật tài sản
CSHS Cảnh sát hình sự
ĐTKP Điều tra khám phá
TA Tiền án
TATS Tiền án tiền sự
TS Tiền sự
iv
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN .............................................................................................. i
LỜI CẢM ƠN ................................................................................................... ii
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT ........................................................................... iii
DANH MỤC BIỂU BẢNG, SƠ ĐỒ ............................................................... vi
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ....................................................................................... 1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài ....................................................................... 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn ....................................... 4
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn ........................................ 5
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn ................... 5
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn ................................................. 6
7. Kết cấu luận văn ........................................................................................ 7
Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN
PHÁP LUẬT TRONG PHÒNG NGỪA, ĐẤU TRANH PHÒNG CHỐNG
TỘI PHẠM CƢỚP GIẬT TÀI SẢN ................................................................ 8
1.1. Một số khái niệm .................................................................................... 8
1.2. Đặc điểm của tổ chức thực hiện pháp luật trong phòng ngừa, đấu
tranh phòng chống tội phạm cƣớp giật tài sản ............................................. 19
1.3. Vai trò của tổ chức thực hiện pháp luật trong phòng ngừa, đấu tranh
phòng chống tội phạm cƣớp giật tài sản ...................................................... 20
1.4. Nội dung tổ chức thực hiện pháp luật trong phòng ngừa, đấu tranh
phòng chống tội phạm cƣớp giật tài sản ...................................................... 22
1.5. Các yếu tố ảnh hƣởng đến tổ chức thực hiện pháp luật trong phòng
ngừa, đấu tranh phòng chống tội phạm cƣớp giật tài sản ............................ 22
1.6. Các điều kiện đảm bảo tổ chức thực hiện pháp luật trong phòng ngừa,
đấu tranh phòng chống tội phạm cƣớp giật tài sản ...................................... 26
TIỂU KẾT CHƢƠNG 1 .................................................................................. 32
v
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG TỔ CHỨC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT TRONG
PHÒNG NGỪA, ĐẤU TRANH PHÒNG CHỐNG TỘI PHẠM CƢỚP
GIẬT TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI .......................... 34
2.1. Khái quát chung về tình hình kinh tế xã hội Hà Nội có ảnh hƣởng đến
tình hình phòng ngừa, đấu tranh phòng chống tội phạm cƣớp giật tài sản . 34
2.2. Tình hình tổ chức thực hiện pháp luật trong phòng ngừa, đấu tranh
phòng chống tội phạm cƣớp giật tài sản từ năm 2010 đến năm 2017 ......... 37
2.3. Đánh giá về tổ chức thực hiện pháp luật trong phòng ngừa, đấu tranh
phòng chống tội phạm cƣớp giật tài sản trên địa bàn thành phố Hà Nội từ
năm 2010 - 2017 .......................................................................................... 52
TIỂU KẾT CHƢƠNG 2 .................................................................................. 70
Chƣơng 3: PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP TỔ CHỨC THỰC HIỆN
PHÁP LUẬT TRONG PHÒNG NGỪA, ĐẤU TRANH PHÒNG CHỐNG
TỘI PHẠM CƢỚP GIẬT TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ
NỘI .................................................................................................................. 72
3.1. Phƣơng hƣớng đảm bảo tổ chức thực hiện pháp luật trong phòng
ngừa, đấu tranh phòng chống tội phạm cƣớp giật tài sản trên địa bàn thành
phố Hà Nội. .................................................................................................. 72
3.2. Giải pháp đảm bảo tổ chức thực hiện pháp luật trong phòng ngừa, đấu
tranh phòng chống tội phạm cƣớp giật tài sản trên địa bàn thành phố Hà
Nội................................................................................................................ 74
TIỂU KẾT CHƢƠNG 3 .................................................................................. 92
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 93
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................ 95
PHỤ LỤC ........................................................................................................ 98
vi
Biểu đồ 2.1. Tình hình tội phạm cƣớp giật tài sản từ năm 2010 đến 2017 ..... 42
DANH MỤC BIỂU BẢNG, SƠ ĐỒ
Biểu đồ 2.2. Số vụ và số bị cáo cƣớp giật tài sản trên địa bàn Thành phố Hà
Nội từ năm 2010 đến năm 2017 ...................................................................... 45
Bảng 2.1: Bảng thống kê số lƣợng thụ lý và giải quyết vụ án tội phạm cƣớp
giật tài sản tại thành phố Hà Nội từ năm 2010 - 2017 ..................................... 46
Bảng 2.2: Bảng thống kê số lƣợng thụ lý và giải quyết vụ án tội phạm hình sự
tại thành phố Hà Nội từ năm 2010 - 2017 ........................................................ 46
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Tổ chức thực hiện pháp luật trong phòng ngừa, đấu tranh phòng chống
tội phạm nói chung và tội phạm cƣớp giật tài sản nói riêng là một trong những
nhiệm vụ trọng yếu, cấp bách, thƣờng xuyên, liên tục và lâu dài nhằm thực
hiện Hiến pháp, pháp luật; góp phần bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con ngƣời,
quyền công dân, bảo vệ lợi ích của nhà nƣớc, quyền và lợi ích hợp pháp của
tổ chức, cá nhân. Dƣới sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện của Đảng, sự quản lý,
chỉ đạo điều hành thống nhất của Nhà nƣớc, song song với công cuộc đổi mới
và xây dựng đất nƣớc, công tác phòng ngừa, đấu tranh phòng chống tội phạm
là một nội dung quan trọng luôn đƣợc Đảng và Nhà nƣớc quan tâm. Thành
phố Hà Nội là trung tâm văn hóa - kinh tế - chính trị của cả nƣớc. Với vị trí
giao thông thuận lợi cả đƣờng thủy, đƣờng hàng không và đƣờng bộ, có nhiều
khu công nghiệp với nhiều nhà máy có số lƣợng công nhân, dân cƣ rất đông
đúc. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trƣờng và xu thế hội nhập quốc
tế hiện nay Hà Nội đã thu hút đƣợc nhiều nhà đầu tƣ trong và ngoài nƣớc và
cũng đã đạt đƣợc những thành tựu nhất định trong phát triển kinh tế, nâng cao
đời sống của ngƣời dân thủ đô. Tuy nhiên đi kèm với đó cũng làm phát sinh
nhiều mặt tiêu cực, nổi bật là vấn đề tội phạm, điển hình là tội phạm cƣớp giật
tài sản. Tình hình tội phạm cƣớp giật tài sản có những diễn biến phức tạp và
xu hƣớng ngày càng gia tăng không chỉ về số vụ mà cả về tính chất, hậu quả
thiệt hại về tài sản, về tính mạng sức khỏe và tinh thần con ngƣời ngày càng
trầm trọng, gây ảnh hƣởng xấu đến hình ảnh của Thành phố Hà Nội với tƣ
cách là Thủ đô của cả nƣớc. Tổ chức thực hiện pháp luật trong phòng ngừa,
đấu tranh phòng chống tội phạm cƣớp giật tài sản là một trong những yếu tố
quyết định đến chất lƣợng công tác phòng ngừa, đấu tranh phòng chống, đẩy
lùi tội phạm cƣớp giật tài sản. Nhận thức rõ vai trò, tầm quan trọng của công
tác tổ thực hiện pháp luật trong phòng ngừa, đấu tranh phòng chống tội phạm
2
cƣớp giật tài sản nhằm giúp các nhà quản lý chủ động có các giải pháp nâng
cao hiệu quả đấu tranh phòng ngừa tội phạm, đƣa pháp luật về bảo vệ quyền
sở hữu vào cuộc sống, nâng cao chất lƣợng hoạt động thực thi công vụ, đáp
ứng yêu cầu cải cách hành chính. Trong những năm qua, pháp luật về phòng
ngừa, đấu tranh phòng chống tội phạm cƣớp giật tài sản trên địa bàn Thành
phố Hà Nội đã đƣợc quan tâm triển khai thực hiện nên đã đạt đƣợc những kết
quả tích cực. Bên cạnh đó vẫn còn những tồn tại hạn chế nhất định. Vì vậy,
luận văn nghiên cứu về lý luận, thực tiễn tổ chức thực hiện pháp luật trong
phòng ngừa, đấu tranh phòng chống tội phạm cƣớp giật tài sản, trên cơ sở đó
đề xuất các giải pháp đảm bảo tổ chức thực hiện pháp luật trong phòng ngừa,
đấu tranh phòng chống tội phạm cƣớp giật tài sản trên địa bàn Thành phố Hà
Nội, nhằm phòng ngừa, hạn chế tội phạm cƣớp giật tài sản đem lại sự tin
tƣởng vào pháp luật cho mọi ngƣời dân trên địa bàn Thành phố Hà Nội, đồng
thời tôn vinh hình ảnh Thủ đô trên trƣờng quốc tế.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề tổ chức thực hiện pháp luật trong phòng ngừa, đấu tranh phòng
chống tội phạm cƣớp giật tài sản đã đƣợc đề cập, nghiên cứu ở nhiều mức độ,
khía cạnh khác nhau nhƣ: Trong các giáo trình luật hình sự; trong các tập bình
luận khoa học về luật hình sự, trong các luận án tiến sỹ, luận văn thạc sĩ, trong
các bài báo và tạp chí cụ thể nhƣ sau:
- Các công trình nghiên cứu về tội phạm cƣớp giật tài sản gồm:
+ Luận án tiến sỹ luật học của Nguyễn Ngọc Chí năm 2000 về “Trách
nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm sở hữu”;
+ Giáo trình “Luật hình sự Việt Nam” (Phần các tội phạm), Khoa Luật
- Đại học Quốc gia Hà Nội, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội (2001, tái bản năm
2003 và 2007 do GS.TSKH Lê Cảm (chủ biên));
+ Giáo trình “Luật Hình sự Việt Nam” (Phần các tội phạm), Nxb Công
an nhân dân, Hà Nội (2001) do GS.TS Võ Khánh Vinh (chủ biên);
3
+ Sách “Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 1999” - Phần các tội
phạm, Tập II: Các tội xâm phạm sở hữu, Nxb Tổng hợp, Thành phố Hồ Chí
Minh, 2006 của Ths. Đinh Văn Quế;
+ Sách “Tìm hiểu Bộ luật hình sự nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam - Bình luận và chú giải” Nxb Lao động, Hà Nội, 2002 của TS. Trần Minh
Hƣởng;
+ Giáo trình “Luật hình sự Việt Nam” (Phần các tội phạm), Nxb Công
an nhân dân (2010) do GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa (chủ biên), trong Chƣơng
XX - Các tội xâm phạm sở hữu đã đề cập đến tội phạm cƣớp giật tài sản;
+ Sách “Bình luận Bộ luật hình sự của nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam đã sửa đổi, bổ sung năm 2009” của ThS. Đinh Thế Hƣng và
ThS. Trần Văn Biên,, Nxb Lao động, 2010 - Chƣơng XIV: Các tội xâm phạm
sở hữu.
+ Luận văn thạc sĩ luật học của Nguyễn Thị Toàn năm 2015 về “Tội cướp
giật tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Hưng Yên”;
+ Luận văn thạc sĩ luật học của Trần Thị Hƣơng năm 2016 về “Tội
cướp giật tài sản theo luật hình sự Việt Nam”;
Các công trình trên chủ yếu đi sâu nghiên cứu về các yếu tố cấu thành
của tội phạm cƣớp giật tài sản và hình phạt đối với loại tội phạm này.
- Các công trình nghiên cứu về đấu tranh phòng chống tội phạm cƣớp
giật tài sản gồm:
+ Luận án tiến sĩ Luật học của Đỗ Kim Tuyến“Đấu tranh phòng, chống
tội cướp tài sản trên địa bàn Hà Nội”, Trƣờng Đại học Luật Hà Nội, 2001;
+ Luận văn thạc sĩ của Lê Thị Thu Hà năm 2004 về “Tội cướp giật tài
sản theo pháp luật hình sự Việt Nam một số khía cạnh và pháp lý hình sự và
tội phạm học”;
+ Luận văn thạc sĩ của Lê Tấn Hùng năm 2012 về “Tội cướp giật tài
sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi”;
4
+ Luận văn thạc sĩ luật học của Phan Thị Thu Lê năm 2015 về “Tội
cướp giật tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn quận Hà Đông,
thành phố Hà Nội”;
Các công trình nghiên cứu này đã phân tích nguyên nhân, điều kiện của
tội phạm cƣớp giật tài sản và các biện pháp phòng ngừa, đấu tranh phòng
chống tội phạm cƣớp giật tài sản.
Nhƣ vậy, trong các công trình khoa học nêu trên đã có sự nghiên cứu,
phân tích về tội cƣớp giật tài sản và phòng chống tội phạm cƣớp giật tài sản ở
nhiều góc độ khác nhau. Tuy nhiên, chƣa có một công trình khoa học nào
nghiên cứu chuyên sâu về tổ chức thực hiện pháp luật trong phòng ngừa, đấu
tranh phòng chống tội phạm cƣớp giật tài sản một cách đầy đủ, có hệ thống
trên địa bàn thành phố Hà Nội. Vì vậy, luận văn này là công trình khoa học
đầu tiên nghiên cứu về tổ chức thực hiện pháp luật trong phòng ngừa, đấu
tranh phòng chống tội phạm cƣớp giật tài sản ở Hà Nội và không có sự trùng
lặp về phạm vi, đối tƣợng nghiên cứu với các công trình khoa học đã đƣợc
công bố.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1 Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn tổ chức thực hiện pháp luật
trong phòng ngừa, đấu tranh phòng chống tội phạm cƣớp giật tài sản trên địa
bàn Thành phố Hà Nội, luận văn đề xuất các giải pháp đảm bảo tổ chức thực
hiện pháp luật trong phòng ngừa, đấu tranh phòng chống tội phạm cƣớp giật
tài sản trên địa bàn Thành phố Hà Nội.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận về tổ chức thực hiện pháp luật trong
phòng ngừa, đấu tranh phòng chống tội phạm cƣớp giật tài sản.
- Đánh giá thực trạng tổ chức thực hiện pháp luật trong phòng ngừa, đấu
tranh phòng chống tội phạm cƣớp giật tài sản trên địa bàn Thành phố Hà Nội.
5
- Đề xuất các giải pháp đảm bảo tổ chức thực hiện pháp luật trong
phòng ngừa, đấu tranh phòng chống tội phạm cƣớp giật tài sản trên địa bàn
Thành phố Hà Nội.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu của luận văn là hoạt động tổ chức thực hiện pháp
luật trong phòng ngừa, đấu tranh phòng chống tội phạm cƣớp giật tài sản trên
địa bàn Thành phố Hà Nội.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về mặt không gian: Luận văn nghiên cứu việc tổ chức thực hiện pháp
luật trong phòng ngừa, đấu tranh phòng chống tội phạm cƣớp giật tài sản
trong phạm vi Thành phố Hà Nội.
- Về mặt thời gian: Luận văn nghiên cứu về tổ chức thực hiện pháp luật
trong phòng ngừa, đấu tranh phòng chống tội phạm cƣớp giật tài sản trên địa
bàn Thành phố Hà Nội từ năm 2010 đến năm 2017.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Phương pháp luận
Luận văn nghiên cứu dựa trên lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tƣ
tƣởng Hồ Chí Minh và quan điểm, đƣờng lối của Đảng về pháp luật, thực hiện
pháp luật, về tội phạm và đấu tranh phòng chống tội phạm.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
- Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận
Nghiên cứu những tài liệu lý luận, văn bản, sách báo, các công trình đã
nghiên cứu có liên quan đến đề tài để nhằm mục đích tổng quan nghiên cứu
vấn đề và xây dựng cơ sở lý luận về thực trạng tổ chức thực hiện pháp luật
trong phòng ngừa, đấu tranh phòng chống tội phạm cƣớp giật tài sản trên địa
bàn Thành phố Hà Nội.
6
- Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Sử dụng các phƣơng pháp nghiên cứu: điều tra, quan sát, tổng kết kinh
nghiệm để khảo sát đánh giá thực trạng tổ chức thực hiện pháp luật trong
phòng ngừa, đấu tranh phòng chống tội phạm cƣớp giật tài sản trên địa bàn
Thành phố Hà Nội.
Ngoài ra các phƣơng pháp nghiên cứu đƣợc sử dụng trong luận văn còn
bao gồm: Phƣơng pháp thống kê đƣợc sử dụng để thu thập, tổng hợp, trình
bày số liệu và tính toán các đặc trƣng của tổ chức thực hiện pháp luật trong
phòng ngừa, đấu tranh phòng chống tội phạm cƣớp giật tài sản trong phạm vi
Thành phố Hà Nội.
Phƣơng pháp phân tích và tổng hợp, so sánh dùng để đánh giá thực
trạng và đề xuất biện pháp đảm bảo tổ chức thực hiện pháp luật trong phòng
ngừa, đấu tranh phòng chống tội phạm cƣớp giật tài sản trên địa bàn Thành
phố Hà Nội.
Phƣơng pháp khảo sát tại các các cơ quan tiến hành tố tụng để nắm bắt
về tình hình tội phạm cũng nhƣ công tác tổ chức thực hiện pháp luật trong
phòng ngừa, đấu tranh phòng chống tội phạm cƣớp giật tài sản trên địa bàn
Thành phố Hà Nội.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Luận văn là công trình nghiên cứu khoa học làm rõ những vấn đề lý
luận và đánh giá thực trạng tổ chức thực hiện pháp luật trong phòng ngừa, đấu
tranh phòng chống tội phạm cƣớp giật tài sản trên địa bàn Thành phố Hà Nội
trong giai đoạn từ năm 2010 đến 2017. Trên cơ sở phân tích các thành tựu,
hạn chế và nguyên nhân của hạn chế trong việc tổ chức thực hiện pháp luật
trong phòng ngừa, đấu tranh phòng chống tội phạm cƣớp giật tài sản trên địa
bàn Thành phố Hà Nội. Luận văn đã đề xuất phƣơng hƣớng, giải pháp nhằm
đảm bảo tổ chức thực hiện pháp luật trong phòng ngừa, đấu tranh phòng
chống tội phạm cƣớp giật tài sản ở Thành phố Hà Nội.
7
- Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm sáng tỏ thêm những
vấn đề lý luận và thực tiễn về tổ chức thực hiện pháp luật trong phòng ngừa,
đấu tranh phòng chống tội phạm cƣớp giật tài sản.
- Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho các cơ quan, tổ chức, cá
nhân có trách nhiệm tổ chức thực hiện pháp luật trong phòng ngừa, đấu tranh
phòng chống tội phạm cƣớp giật tài sản trong cả nƣớc nói chung và trên địa
bàn Thành phố Hà Nội nói riêng.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, danh mục tài liệu tham khảo,
phụ lục, nội dung luận văn đƣợc chia thành 03 Chƣơng:
Chƣơng 1: Những vấn đề lý luận về tổ chức thực hiện pháp luật trong
phòng ngừa, đấu tranh phòng chống tội phạm cƣớp giật tài sản.
Chƣơng 2: Thực trạng tổ chức thực hiện pháp luật trong phòng ngừa, đấu
tranh phòng chống tội phạm cƣớp giật tài sản trên địa bàn thành phố Hà Nội.
Chƣơng 3: Phƣơng hƣớng và giải pháp đảm bảo tổ chức thực hiện
pháp luật trong phòng ngừa, đấu tranh phòng chống tội phạm cƣớp giật tài sản
trên địa bàn Thành phố Hà Nội.
8
Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT
TRONG PHÒNG NGỪA, ĐẤU TRANH PHÒNG CHỐNG
TỘI PHẠM CƢỚP GIẬT TÀI SẢN
1.1. Một số khái niệm
1.1.1. Khái niệm tổ chức thực hiện pháp luật
Pháp luật đƣợc hiểu là “Hệ thống các quy tắc xử sự do nhà nƣớc ban
hành và bảo đảm thực hiện, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị trong xã hội,
là nhân tố điều chỉnh các quan hệ xã hội” [14, tr.30]. Để pháp luật phát huy
đƣợc vai trò điều chỉnh các quan hệ xã hội, các qui phạm pháp luật do nhà
nƣớc ban hành phải đƣợc thực hiện trong thực tế. Vì vậy thực hiện pháp luật
luôn là một nội dung quan trọng trong lý luận nhà nƣớc và pháp luật. Theo
đó, các giáo trình, các công trình nghiên cứu nhƣ: Giáo trình Lý luận nhà
nƣớc và pháp luật của Đại học Luật Hà Nội; Giáo trình lý luận chung về nhà
nƣớc và pháp luật của Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội hoặc cuốn sách
Áp dụng pháp luật ở Việt Nam hiện nay - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn
của TS Nguyễn Thị Hồi chủ biên… đều khẳng định thực hiện pháp luật là giai
đoạn thứ hai, sau khi đã tiến hành giai đoạn xây dựng pháp luật và là giai
đoạn quan trọng, không thể thiếu vì pháp luật chỉ có thể phát huy đƣợc vai
trò, giá trị trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội, duy trì trật tự và tạo điều
kiện cho xã hội phát triển khi đƣợc tôn trọng, thực hiện đầy đủ, nghiêm minh.
Theo Giáo trình Lý luận nhà nƣớc và pháp luật của Đại học Luật Hà
Nội thì “thực hiện pháp luật là hoạt động có mục đích nhằm hiện thực hóa
các quy định của pháp luật, làm cho chúng đi vào cuộc sống, trở thành những
hành vi thực tế hợp pháp của các chủ thể pháp luật” [7, tr.185]. Tƣơng tự
nhƣ vậy, Giáo trình Lý luận chung về nhà nƣớc và pháp luật của Khoa Luật -
Đại học quốc gia Hà Nội định nghĩa: “Thực hiện pháp luật là một quá trình
9
hoạt động có mục đích làm cho những quy định của pháp luật đi vào cuộc
sống, trở thành những hành vi thực tế hợp pháp của các chủ thể pháp luật”
[20, tr.494]. Định nghĩa nêu trên nhận đƣợc sự đồng thuận của nhiều tác giả
khi nghiên cứu về thực hiện pháp luật, ví dụ nhƣ: TS Nguyễn Minh Đoan
trong cuốn Thực hiện và áp dụng pháp luật ở Việt Nam [8, tr.15] hay TS Ngọ
Văn Nhân trong cuốn Xã hội học pháp luật [23, tr.278]. Tuy nhiên, theo TS.
Nguyễn Thị Hồi thì các khái niệm nêu trên vẫn chƣa thể hiện đƣợc đầy đủ
nhất nội hàm của khái niệm về thực hiện pháp luật [14, tr.12-16], lý do
là: Không phải hành vi thực hiện pháp luật nào cũng phải là một quá trình
hoạt động, vì có những trƣờng hợp thực hiện pháp luật chỉ là những hành vi
đơn lẻ (ví dụ: Hành vi dừng lại trƣớc đèn đỏ khi đi đƣờng); Không phải trong
tất cả các trƣờng hợp, chủ thể thực hiện pháp luật đều nhằm mục đích đƣa
pháp luật vào cuộc sống, mà đa số các chủ thể đều nhằm thực hiện những mục
đích riêng của mình, vì những hành vi hợp pháp đƣợc thực hiện trong trƣờng
hợp chủ thể chƣa hoặc không nhận thức đƣợc tại sao phải làm nhƣ vậy hoặc
do kết quả của việc áp dụng các biện pháp cƣỡng chế nhà nƣớc hoặc do sợ bị
áp dụng các biện pháp đó thì không thể coi là có mục đích đƣa các quy định
của pháp luật đi vào cuộc sống. Do vậy, TS Nguyễn Thị Hồi cho rằng: “Thực
hiện pháp luật là hành vi (hành động hoặc không hành động) hợp pháp của
chủ thể có năng lực hành vi pháp luật”. Trong cuốn Lý luận Nhà nƣớc và
pháp luật, khi định nghĩa về thực hiện pháp luật, GS.TS Phạm Hồng Thái và
PGS.TS Đinh Văn Mậu cũng không đề cập đến yếu tố “có mục đích” của các
chủ thể pháp luật [31, tr.400]. Mặc dù có những điểm khác nhau nhất định khi
đƣa ra định nghĩa, song các tác giả, các công trình nghiên cứu nêu trên đều
nhận thấy thực hiện pháp luật có các đặc điểm (dấu hiệu) cơ bản nhƣ: (i) Thực
hiện pháp luật là hành vi pháp luật (hành động hoặc không hành động) hợp
pháp, nghĩa là hành vi đó hoàn toàn phù hợp với yêu cầu, đòi hỏi của pháp
luật; (ii) Thực hiện pháp luật phải là hành vi xác định hay xử sự thực tế của
10
con người và (iii) Thực hiện pháp luật là xử sự của các chủ thể nhằm hiện
thực hóa các quy định pháp luật. Ngoài ra, trên cơ sở yêu cầu của Nhà nƣớc
đối với các chủ thể đƣợc thể hiện trong các quy định của pháp luật khá đa
dạng nên cách thức thực hiện các quy định đó cũng khác nhau, có thể bằng
hành động tích cực, song cũng có thể bằng không hành động của chủ thể.
“Thực hiện pháp luật là quá trình các thành viên trong xã hội thực hiện
các hành vi xử sự theo yêu cầu của pháp luật dưới những hình thức và tính
chất thực hiện khác nhau nhưng cùng nhằm mục đích bảo đảm cho pháp luật
được thực hiện, tăng cường pháp chế trong đời sống nhà nước và xã hội” [7,
tr.227-229]
Dƣới góc độ pháp lý thì thực hiện pháp luật là hoạt động có mục đích
nhằm hiện thực hóa các quy định của pháp luật làm cho chúng đi vào cuộc
sống trở thành những hành vi thực tế hợp pháp của các chủ thể pháp luật.
Từ những phân tích trên về thực hiện pháp luật, có thể đƣa ra khái niệm
về tổ chức thực hiện pháp luật nhƣ sau: Tổ chức thực hiện pháp luật là quá
trình hƣớng dẫn, chuẩn bị các nguồn lực, điều kiện đảm bảo nhƣ con ngƣời, tổ
chức bộ máy, cơ sở vật chất để nhằm đƣa pháp luật vào cuộc sống.
1.1.2. Khái niệm pháp luật trong phòng ngừa, đấu tranh phòng
chống tội phạm cướp giật tài sản
Các quan điểm trong khoa học pháp lý hiện nay đều thống nhất cho
rằng: phòng ngừa, đấu tranh phòng chống tội tội phạm là không để cho tội
phạm xảy ra, thủ tiêu các nguyên nhân và điều kiện của tội phạm...hay không
để cho tội phạm gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội, thủ tiêu nguyên nhân và
kiểm soát đƣợc tội phạm, hoàn thiện hệ thống pháp luật về đấu tranh chống
tội phạm và vi phạm pháp luật, cũng nhƣ có các biện pháp cải tạo, giáo dục
ngƣời phạm tội, đƣa họ trở thành những công dân có ích cho xã hội và cho
cộng đồng...
11
Phòng ngừa, đấu tranh phòng chống tội phạm là hoạt động của tất cả
các cơ quan nhà nƣớc và tổ chức xã hội và của mọi công dân trong xã hội áp
dụng tổng hợp và đồng bộ các biện pháp khác nhau hƣớng vào thủ tiêu những
nguyên nhân và điều kiện phạm tội, cũng nhƣ loại bỏ các yếu tố tiêu cực ảnh
hƣởng đến quá trình hình thành tội phạm, đồng thời từng bƣớc hạn chế, đẩy
lùi và tiến tới loại bỏ tội phạm ra khỏi đời sống xã hội.
Đấu tranh chống tội phạm đƣợc tiến hành theo phƣơng châm nhanh
chóng và kịp thời phát hiện tội phạm, không bỏ lọt tội phạm và ngƣời phạm
tội, tránh làm oan ngƣời vô tội, trừng trị và giáo dục, cải tạo ngƣời phạm tội,
hình thành thói quen phản ứng tích cực và hƣởng ứng của Nhà nƣớc và xã hội
đối với tội phạm.
Tội cƣớp giật tài sản, đƣợc hiểu là hành vi công khai chiếm đoạt tài sản
của ngƣời khác một cách nhanh chóng và bất ngờ rồi tẩu thoát để tránh sự phản
kháng của chủ sở hữu hoặc ngƣời quản lý tài sản. Hình phạt và tội danh Tội
cƣớp giật tài sản đƣợc quy định tại điều Điều 171 - Bộ luật hình sự năm 2015.
Dấu hiệu pháp lý tội cướp giật tài sản:
Khách thể: Khách thể của Tội cƣớp giật tài sản cũng tƣơng tự nhƣ tội
cƣớp tài sản và tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản, tức là cùng một lúc xâm
phạm đến hai khách thể (quan hệ sở hữu và quan hệ nhân thân), nhƣng chủ
yếu là quan hệ tài sản. Tuy nhiên, trong tình hình hiện nay nhiều vụ cƣớp giật
tài sản đã gây ra những hậu quả rất nghiêm trọng đến tính mạng, sức khoẻ của
ngƣời bị hại nhƣ các vụ cƣớp giật của ngƣời đang điều khiển xe đạp, xe máy
làm cho những ngƣời này ngã xe gây tai nạn. Mặc dù những thiệt hại về tính
mạng, sức khoẻ không phải là đối tƣợng mà ngƣời phạm tội nhằm vào, nhƣng
trƣớc khi thực hiện hành vi cƣớp giật, ngƣời phạm tội nhận thức đƣợc tính
chất nguy hiểm của hành vi và hậu quả nguy hiểm của hành vi nhƣng vẫn
thực hiện, muốn ra sao thì ra. Cũng chính vì vậy Bộ luật hình sự năm 2015
khi quy định tội cƣớp giật tài sản đã đƣa vào trong cấu thành dấu hiệu về thiệt
12
hại đến tính mạng, sức khoẻ và coi đây là những tình tiết định khung hình
phạt. Khẳng định khách thể của tội cƣớp giật tài sản là quan hệ sở hữu và
quan hệ nhân thân không chỉ đúng với lý luận mà còn phù hợp với thực tiễn
đấu tranh phòng chống loại tội phạm này trong tình hình hiện nay.
Chủ thể: Chủ thể của tội cƣớp giật tài sản đƣợc quy định tại Điều 12,
Điều 9, Điều 171 Bộ luật hình sự năm 2015. Theo đó thì chủ thể của tội cƣớp
giật tài sản là cá nhân (ngƣời) từ 14 tuổi trở lên có năng lực trách nhiệm hình
sự không có chủ thể là pháp nhân.
Mặt khách quan:
Bất cứ tội phạm nào khi xảy ra cũng đều có những biểu hiện diễn ra
hoặc tồn tại bên ngoài mà con ngƣời có thể trực tiếp nhận biết đƣợc. Đó là:
hành vi nguy hiểm cho xã hội, hậu quả nguy hiểm cho xã hội cũng nhƣ mối
quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả, các điều kiện bên ngoài của việc
thực hiện hành vi phạm tội. Tổng hợp những biểu hiện trên đây tạo thành mặt
khách quan của tội phạm. Nhƣ vậy, mặt khách quan của tội phạm là mặt bên
ngoài của tội phạm, bao gồm những biểu hiện của tội phạm diễn ra hoặc tồn
tại bên ngoài thế giới khách quan. Đối với tội cƣớp giật tài sản, dấu hiệu mặt
khách quan của tội phạm đƣợc qui định tại Điều 171 BLHS 2015 chính là
hành vi công khai chiếm đoạt tài sản một cách nhanh chóng.
Hành vi khách quan trong tội cƣớp giật tài sản là hành vi chiếm đoạt tài
sản của ngƣời khác. Hành vi chiếm đoạt là hành vi dịch chuyển tài sản đang
do ngƣời khác quản lý thành tài sản của mình một cách bất hợp pháp. Hành vi
chiếm đoạt bao gồm sự thống nhất giữa biểu hiện khách quan (là sự chuyển
dịch tài sản) với ý thức chủ quan (mong muốn chiếm đoạt tài sản của ngƣời
khác một cách bất hợp pháp).
Trong tội cƣớp giật tài sản, hành vi chiếm đoạt thực hiện bằng hình
thức công khai và nhanh chóng. Đây là những dấu hiệu đặc trƣng, là cơ sở để
phân biệt tội cƣớp giật tài sản với những tội phạm khác.
13
Dấu hiệu công khai chiếm đoạt.
Trƣớc hết, dấu hiệu công khai đƣợc hiểu là ngƣời phạm tội không có ý
thức che giấu hành vi phạm tội của mình và khi thực hiện việc chiếm đoạt cho
phép chủ tài sản biết ngay có hành vi chiếm đoạt xảy ra. Dấu hiệu này vừa chỉ
tính khách quan của hành vi chiếm đoạt vừa thể hiện ý thức chủ quan của
ngƣời phạm tội. Về khách quan, ngƣời phạm tội không che giấu hành vi
chiếm đoạt, công khai và ngang nhiên thực hiện hành vi đó. Ngay sau khi
thực hiện hành vi, ngƣời xung quanh có thể nhận thấy ngay hành vi của ngƣời
phạm tội. Về mặt chủ quan, ngƣời phạm tội không có ý định che giấu hành vi
phạm tội của mình mà cố ý thực hiện hành vi là chiếm đoạt bằng đƣợc tài sản
của chủ tài sản.
Tính chất công khai của hành vi cƣớp giật tài sản là công khai khi thực
hiện hành vi đó đối với chủ sở hữu hoặc ngƣời có trách nhiệm quản lý tài sản
bị cƣớp giật. Nếu ngƣời phạm tội thực hiện hành vi vào ban đêm hoặc với
những thủ đoạn làm cho chủ sở hữu tài sản không nhận đƣợc ngƣời phạm tội
nhƣ: đeo mặt nạ, hóa trang công khai, chiếm đoạt tài sản thì hành vi phạm tội
vẫn bị coi là hành vi cƣớp giật tài sản.
Đặc trƣng của tội cƣớp giật tài sản là công khai và không dùng vũ lực,
đe dọa dùng vũ lực hoặc bất cứ thủ đoạn uy hiếp tinh thần nào đối với ngƣời
khác để chiếm đoạt tài sản. Đây cũng là dấu hiệu để phân biệt với các tội
phạm khác.
Tội cƣớp giật tài sản với dấu hiệu đặc trƣng là ngƣời phạm tội thực
hiện hành vi chiếm đoạt tài sản của ngƣời khác một cách công khai. Tuy
nhiên, trong một số trƣờng hợp, ngƣời phạm tội còn có thủ đoạn lừa dối để
“đánh lừa” chủ tài sản hoặc ngƣời khác để dễ dàng chiếm đoạt đƣợc tài sản.
Nhƣng đấy chỉ là thủ đoạn để tiếp cận tài sản, để có thể dễ dàng thực hiện
hành vi chiếm đoạn.
14
Dấu hiệu công khai là dấu hiệu đặc trƣng của tội cƣớp giật tài sản,
không thể thiếu trong cấu thành tội phạm. Nhƣng chỉ công khai thôi thì chƣa
đủ cơ sở để truy cứu trách nhiệm hình sự một ngƣời về tội cƣớp giật tài sản.
Bởi trong nhóm các tội xâm phạm sở hữu có nhiều tội mà hành vi chiếm đoạt
tài sản cũng có dấu hiệu công khai.
Dấu hiệu nhanh chóng chiếm đoạt.
“Nhanh chóng” là khái niệm nói đến sự gấp gáp, khẩn trƣơng trong
việc thực hiện hành vi phạm tội. Để thực hiện hành vi chiếm đoạt vừa nhanh
chóng vừa công khai, ngƣời phạm tội đã có thủ đoạn lợi dụng sơ hở của chủ
tài sản hoặc ngƣời phạm tội chủ động tạo ra sơ hở này rồi nhanh chóng tiếp
cận, nhanh chóng chiếm đoạt và nhanh chóng tẩu thoát. Thủ đoạn nhanh
chóng chiếm đoạt có thể diễn ra dƣới các hình thức khác nhau, tùy thuộc vào
đặc điểm tài sản chiếm đoạt, vị trí, cách thức giữ tài sản cũng nhƣ hoàn cảnh
khác nhau. Thông thƣờng hình thức nhanh chóng có thể là giật lấy tài sản,
giằng lấy tài sản, chộp lấy tài sản và nhanh chóng tẩu thoát.
Dấu hiệu nhanh chóng tẩu thoát ở đây dùng để chỉ sự lẩn tránh khỏi sự
tìm kiếm của chủ tài sản. Tùy thuộc vào từng hoàn cảnh mà sự lẩn tránh này
có thể đƣợc thực hiện ở một trong những cách sau: chạy đi nhanh chóng hoặc
đứng im một chỗ có lợi. Thực tiễn xét xử, gặp nhiều trƣờng hợp, ngƣời cƣớp
giật tài sản nhanh chóng tẩu thoát bằng cách chạy trốn, do đó có quan điểm
cho rằng chạy trốn là dấu hiệu bắt buộc trong mặt khách quan của tội này.
Trong tội cƣớp giật tài sản, ngƣời phạm tội không sử dụng vũ lực, đe dọa
dùng vũ lực hoặc bất cứ thủ đoạn nào khác nhằm làm tê liệt ý chí của chủ tài
sản mà chỉ lợi dụng sơ hở để chiếm đoạt tài sản một cách nhanh chóng. Và
sau khi ngƣời phạm tội thực hiện hành vi cƣớp giật tài sản thì chủ tài sản và
ngƣời xung quanh đều biết; do đó, chủ tài sản vẫn có đủ các điều kiện để thực
hiện các biện pháp chống lại hành vi chiếm đoạt để bảo vệ tài sản của mình.
Ngƣời phạm tội nhận thức đƣợc điều đó nên để đảm bảo an toàn, để không bị
15
bắt giữ thì ngƣời phạm tội phải lẩn tránh hoặc tẩu thoát. Vì vậy, tẩu thoát chỉ
là thủ đoạn thƣờng gặp của hành vi cƣớp giật tài sản mà không phải là dấu
hiệu bắt buộc của tội này. Thực tiễn, có nhiều trƣờng hợp, ngƣời phạm tội sau
khi chiếm đoạt đƣợc tài sản họ không chạy trốn cũng nhƣ không có hành vi
nào đe dọa vũ lực hay uy hiếp tinh thần của ngƣời chủ tài sản.
Hành vi chiếm đoạt là một trong những hình thức thể hiện của hành vi
khách quan trong các tội xâm phạm sở hữu. Tuy nhiên, ở từng tội phạm cụ
thể, hành vi này thể hiện một cách khác nhau. Trong tội cƣớp giật tài sản,
hành vi chiếm đoạt đƣợc thực hiện bằng hình thức: công khai và nhanh
chóng. Đây cũng là những dấu hiệu có ý nghĩa rất quan trọng trong việc định
tội, xác định trách nhiệm hình sự một cách đúng đắn.
Tính nguy hiểm khách quan của tội phạm là ở chỗ, tội phạm đã gây
thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho các quan hệ xã hội đƣợc luật hình sự
bảo vệ. Sự gây thiệt hại này là một trong những nội dung biểu hiện của yếu tố
mặt khách quan của tội phạm. Đó là hậu quả nguy hiểm cho xã hội - hậu quả
của hành vi khách quan.
Nhƣ vậy, hậu quả của tội phạm là thiệt hại do hành vi khách quan phạm
tội gây ra cho quan hệ xã hội là khách thể bảo vệ của luật hình sự. Trong tội
cƣớp giật tài sản, hậu quả nguy hiểm cho xã hội trực tiếp là những thiệt hại về
vật chất nhƣng dấu hiệu này không là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội
phạm song nó có ý nghĩa trong việc đánh giá mức độ nguy hiểm của tội phạm
đã thực hiện.
Mặt chủ quan của tội phạm: Tội phạm là thể thống nhất của hai mặt
khách quan và chủ quan. Mặt khách quan là những biểu hiện ra bên ngoài của
tội phạm, mặt chủ quan là hoạt động tâm lí bên trong của ngƣời phạm tội. Với
ý nghĩa là một mặt của hiện tƣợng thống nhất, mặt chủ quan của tội phạm
không tồn tại độc lập mà luôn luôn gắn liền với mặt khách quan của tội phạm.
Mặt khách quan của tội phạm là hoạt động tâm lý bên trong của ngƣời phạm
16
tội, bao gồm các nội dung: lỗi, động cơ, mục đích phạm tội. Đối với tội cƣớp
giật tài sản, mặt chủ quan của tội phạm gồm dấu hiệu lỗi, động cơ và mục
đích phạm tội.
Lỗi của ngƣời phạm tội cƣớp giật tài sản là lỗi cố ý trực tiếp. Khi
thực hiện hành vi cƣớp giật tài sản, ngƣời phạm tội biết mình có hành vi công
khai, nhanh chóng chiếm đoạt tài sản của ngƣời khác, thấy trƣớc hậu quả
nguy hiểm do hành vi của mình gây ra nhƣng lại mong muốn hậu quả đó xảy
ra, mong muốn thực hiện trọn vẹn quá trình phạm tội. Xét về yếu tố lỗi tội
cƣớp giật tài sản chủ thể tội phạm đều phải có dấu hiệu lỗi cố ý. Đây chính là
thái độ tâm lý của ngƣời phạm tội đối với hành vi của mình và đối với hậu
quả xảy ra. Ngƣời có hành vi cƣớp giật tài sản phải có mục đích chiếm đoạt
tài sản từ trƣớc khi hành động. Họ mong muốn hậu quả xảy ra là chiếm đoạt
đƣợc tài sản của ngƣời khác (cố ý với hậu quả) và hành động tự nguyện để
thực hiện mong muốn của mình (cố ý với hành vi). Nếu ngƣời thực hiện hành
vi giật tài sản nhƣng lại không mong muốn chiếm đoạt tài sản, tức là họ đó
không có lỗi cố ý đối với hậu quả nhƣ trêu đùa giật ví của bạn…thì ngƣời đó
không thể là chủ thể của tội cƣớp giật tài sản.
Trong mặt chủ quan của tội cƣớp giật tài sản, ngoài lỗi là dấu hiệu bắt
buộc còn có động cơ và mục đích phạm tội.
Động cơ của tội cƣớp giật tài sản đƣợc hiểu là động lực bên trong
thúc đẩy ngƣời phạm tội thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản của ngƣời
khác một cách cố ý.
Mục đích của tội cƣớp giật tài sản là kết quả trong ý thức chủ quan mà
ngƣời phạm tội đặt ra phải đạt đƣợc khi thực hiện hành vi phạm tội.
Trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội:
Mức hình phạt đối với tội này đƣợc chia thành bốn khung, cụ thể nhƣ sau:
- Khung một (khoản 1)
17
Có mức phạt tù từ một năm đến năm năm. Đƣợc áp dụng đối với
trƣờng hợp phạm tội có đủ dấu hiệu cấu thành cơ bản của tội này nếu ở mặt
khách quan.
- Khung hai (khoản 2)
Có mức phạt tù từ ba năm đến mƣời năm. Đƣợc áp dụng đối với một
trong các trƣờng hợp phạm tội sau đây:
+ Có tổ chức.
+ Có tính chất chuyên nghiệp.
+ Dùng thủ đoạn nguy hiểm. Đƣợc hiểu là trƣờng hợp ngƣời phạm tội
thực hiện hành vi cƣớp giật tài sản rất táo bạo, có thể gây thiệt hại đến sức
khoẻ, tính mạng của chủ sở hữu tài sản, hoặc ngƣời quản lý tài sản nhƣ cƣớp
giật tài sản của ngƣời đang đi xe gắn máy trên đƣờng phố rồi đạp ngƣời bị hại
ngã để tẩu thoát.
+ Hành hung để tẩu thoát. Đƣợc hiểu là hành vi của ngƣời phạm tội
dùng vũ lực (nhƣ đấm, đá, dùng gậy đánh, ném bột ớt…) chống trả lại việc
đuổi bắt nhằm mục đích tẩu thoát khỏi sự truy đuổi của ngƣời bị hại hoặc
những ngƣời khác.
+ Gây thƣơng tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ ngƣời khác mà tỷ lệ
thƣơng tật từ 11% đến 30%.
+ Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mƣơi triệu đồng đến dƣới hai
trăm triệu đồng.
+ Gây hậu quả nghiêm trọng.
- Khung ba (khoản 3)
Có mức phạt tù từ bảy năm đến mƣời lăm năm. Đƣợc áp dụng đối với
một trong các trƣờng hợp phạm tội sau đây:
+ Gây thƣơng tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ ngƣời khác mà tỷ lệ
thƣơng tật từ 31% đến 60%.
18
+ Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dƣới năm
trăm triệu đồng.
+ Gây hậu quả rất nghiêm trọng
- Khung bốn (khoản 4)
Có mức phạt tù từ mƣời hai năm đến hai mƣơi năm hoặc tù chung thân.
Đƣợc áp dụng đối với một trong các trƣờng hợp phạm tội sau đây:
+ Gây thƣơng tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ ngƣời khác mà tỷ lệ
thƣơng tật từ 61% trở lên hoặc làm chết ngƣời.
+ Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên.
+ Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.
- Hình phạt bổ sung (khoản 5)
Ngoài việc chịu một trong các hình phạt chính nêu trên, tuỳ từng
trƣờng hợp cụ thể, ngƣời phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ mƣời triệu đồng
đến một trăm triệu đồng.
Từ những phân tích trên có thể khẳng định phòng ngừa, đấu tranh
phòng chống tội phạm cƣớp giật tài sản là hoạt động của tất cả các cơ quan
nhà nƣớc và tổ chức xã hội và của mọi công dân trong xã hội áp dụng tổng
hợp và đồng bộ các biện pháp khác nhau hƣớng vào thủ tiêu những nguyên
nhân và điều kiện phạm tội, cũng nhƣ loại bỏ các yếu tố tiêu cực ảnh hƣởng
đến quá trình hình thành tội phạm, đồng thời từng bƣớc hạn chế, đẩy lùi và
tiến tới loại bỏ tội phạm cƣớp giật tài sản ra khỏi đời sống xã hội.
Nhƣ vậy, Pháp luật trong phòng ngừa, đấu tranh phòng chống tội phạm
cướp giật tài sản là hệ thống các qui phạm pháp luật điều chỉnh hoạt động của
các cơ quan nhà nước và tổ chức xã hội và của mọi công dân trong áp dụng
tổng hợp và đồng bộ các biện pháp khác nhau hướng vào thủ tiêu những
nguyên nhân và điều kiện phạm tội, cũng như loại bỏ các yếu tố tiêu cực ảnh
hưởng đến quá trình hình thành tội phạm, đồng thời từng bước hạn chế, đẩy lùi
và tiến tới loại bỏ tội phạm cướp giật tài sản ra khỏi đời sống xã hội.
19
Trên cơ sở khái niệm tổ chức thực hiện pháp luật và pháp luật trong
phòng ngừa, đấu tranh phòng chống tội phạm cƣớp giật tài sản, có thể rút ra
khái niệm tổ chức thực hiện pháp luật trong phòng ngừa, đấu tranh phòng
chống tội phạm cướp giật tài sản là hoạt động của các cơ quan, tổ chức, cá
nhân có thẩm quyền trong việc hướng dẫn, chuẩn bị các nguồn lực, điều kiện
đảm bảo các qui phạm pháp luật điều chỉnh hoạt động của các cơ quan nhà
nước và tổ chức xã hội và của mọi công dân trong áp dụng tổng hợp và đồng
bộ các biện pháp khác nhau hướng vào thủ tiêu những nguyên nhân và điều
kiện phạm tội, cũng như loại bỏ các yếu tố tiêu cực ảnh hưởng đến quá trình
hình thành tội phạm, đồng thời từng bước hạn chế, đẩy lùi và tiến tới loại bỏ
tội phạm cướp giật tài sản ra khỏi đời sống xã hội, được thực hiện trên thực tế.
1.2. Đặc điểm của tổ chức thực hiện pháp luật trong phòng ngừa,
đấu tranh phòng chống tội phạm cƣớp giật tài sản
Trên cơ sở tính chất của hoạt động thực hiện các quy phạm pháp luật,
khoa học pháp lý xác định thực hiện pháp luật đƣợc tiến hành thông qua 04
hình thức cụ thể là: Tuân thủ pháp luật; thi hành (chấp hành) pháp luật; sử
dụng pháp luật và áp dụng pháp luật. Giữa các hình thức thực hiện pháp luật
có sự đan xen, không biệt lập nhau. Các chủ thể thông thƣờng phải cùng đồng
thời thực hiện các quy định pháp luật dƣới nhiều hình thức khác nhau, trong
đó riêng hình thức áp dụng pháp luật đƣợc xác định là hoạt động thực hiện
pháp luật của chủ thể có thẩm quyền, vừa là hình thức thực hiện pháp luật,
vừa là giai đoạn mà chủ thể có thẩm quyền tiến hành tổ chức cho các chủ thể
pháp luật khác thực hiện quy định pháp luật.
Tổ chức thực hiện pháp luật trong phòng ngừa, đấu tranh phòng chống
tội phạm cƣớp giật tài sản có những đặc điểm sau:
- Tổ chức thực hiện pháp luật trong phòng ngừa, đấu tranh phòng
chống tội phạm cƣớp giật tài sản là hoạt động đƣa kết quả của hoạt động xây
dựng pháp luật là các văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực thi hành vào
20
cuộc sống nghĩa là các quy phạm pháp luật sẽ đƣợc các chủ thể khác nhau
thực hiện một cách hợp pháp trong thực tế cuộc sống. Trong đấu tranh phòng
ngừa tội phạm cƣớp giật tài sản đƣợc thực hiện bởi tất cả các chủ thể trong xã
hội, không phải của riêng tổ chức hay cá nhân nào.
- Tổ chức thực hiện pháp luật trong phòng ngừa, đấu tranh phòng
chống tội phạm cƣớp giật tài sản là hành vi hợp pháp của các chủ thể pháp
luật trong đấu tranh phòng ngừa tội phạm cƣớp giật tài sản. Các hành vi của
các chủ thể này không trái pháp luật, không vƣợt quá phạm vi các quy định
của pháp luật, phù hợp với quy định của pháp luật và có lợi cho xã hội, cho
Nhà nƣớc. Hành vi xử sự của các chủ thể theo yêu cầu của pháp luật. Hành vi
đó đƣợc thể hiện dƣới dạng hành động hoặc không hành động
- Tổ chức thực hiện pháp luật trong phòng ngừa, đấu tranh phòng chống
tội phạm cƣớp giật tài sản tiến hành bởi nhiều chủ thể với nhiều cách thức khác
nhau nhƣ các cơ quan của Đảng, các cơ quan quyền lực nhà nƣớc, các cơ quan
hành chính, cơ quan tƣ pháp, các tổ chức xã hội…nhƣng chủ yếu thuộc về
trách nhiệm và chức năng của hệ thống cơ quan hành pháp. Chủ thể quan trọng
nhất trong chức thực hiện pháp luật trong phòng ngừa, đấu tranh phòng chống
tội phạm cƣớp giật tài sản là cơ quan Công an, Viện kiểm sát và Tòa án nhân
dân các cấp. Từ đặc điểm này đòi hỏi phải có sự phân định rõ ràng quyền hạn,
trách nhiệm cũng nhƣ cơ chế phối hợp giữa các cơ quan trong đó nòng cốt là
các cơ quan bảo vệ pháp luật trong tổ chức thực hiện pháp luật trong phòng
ngừa, đấu tranh phòng chống tội phạm cƣớp giật tài sản.
1.3. Vai trò của tổ chức thực hiện pháp luật trong phòng ngừa, đấu
tranh phòng chống tội phạm cƣớp giật tài sản
Tổ chức thực hiện pháp luật trong phòng ngừa, đấu tranh phòng chống
tội phạm cƣớp giật tài sản là một trong những yếu tố quyết định đến chất
lƣợng công tác phòng ngừa, đấu tranh phòng chống, đẩy lùi tội phạm cƣớp
giật tài sản. Nhận thức rõ vai trò, tầm quan trọng của công tác tổ thực hiện
21
pháp luật phòng ngừa tội phạm nhằm giúp các nhà quản lý nhận thức rõ sự
cần thiết, ý nghĩa của công tác tổ chức thực hiện pháp luật, từ đó chủ động có
các giải pháp nâng cao hiệu quả công tác tổ chức thực hiện pháp luật về đấu
tranh phòng ngừa tội phạm, đƣa pháp luật về bảo vệ quyền sở hữu vào cuộc
sống, nâng cao chất lƣợng hoạt động thực thi công vụ, đáp ứng yêu cầu cải
cách hành chính, góp phần đẩy mạnh quá trình xây dựng Nhà nƣớc pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Thông qua việc tổ chức thực hiện pháp luật trong phòng ngừa, đấu
tranh phòng chống tội phạm cƣớp giật tài sản nâng cao năng lực của đội ngũ
công chức, cơ quan tiến hành tố tụng, góp phần vào việc chấp hành nghiêm
chỉnh các văn bản quy phạm pháp luật về phòng chống, đấu tranh với tội
phạm cƣớp giật tài sản. Bên cạnh đó, tổ chức thực hiện pháp luật trong phòng
ngừa, đấu tranh phòng chống tội phạm cƣớp giật tài sản còn góp phần nâng
cao chất lƣợng của hệ thống phòng chống tội phạm, đảm bảo tính thống nhất,
khả thi đáp ứng yêu cầu giải quyết các vấn đề thực tiễn trong công tác đấu
tranh phòng ngừa tội phạm. Qua đó đảm bảo phù hợp với hệ thống chính trị ở
nƣớc ta, mặt khác phải đảm bảo đƣợc yếu tố chuyên nghiệp của đội ngũ công
chức, đạt mục tiêu xây dựng đội ngũ công chức có đủ phẩm chất, năng lực,
trình độ đáp ứng yêu cầu phát triển đất nƣớc và hội nhập quốc tế cũng nhƣ
đáp ứng đƣợc công tác đấu tranh phòng ngừa tội phạm cƣớp giật tài sản nói
riêng và phòng chống tội phạm hình sự nói chung.
Thông qua việc tổ chức thực hiện pháp luật trong phòng ngừa, đấu
tranh phòng chống tội phạm cƣớp giật tài sản nâng cao ý thức cảnh giác tội
phạm cho nhân dân. Đây là biện pháp bảo vệ tốt nhất tài sản của công dân
cũng nhƣ nâng cao hiệu quả bảo vệ chế độ, ngăn ngừa tội phạm xâm phạm
quyền sở hữu của nhà nƣớc.
22
1.4. Nội dung tổ chức thực hiện pháp luật trong phòng ngừa, đấu
tranh phòng chống tội phạm cƣớp giật tài sản
Tổ chức thực hiện pháp luật trong phòng ngừa, đấu tranh phòng chống
tội phạm cƣớp giật tài sản gồm những nội dung cơ bản sau:
- Ban hành văn bản pháp luật hƣớng dẫn, triển khai thực hiện các qui
định của pháp luật trong phòng ngừa, đấu tranh phòng chống tội phạm cƣớp
giật tài sản.
- Hoàn thiện các thiết chế thực hiện pháp luật trong phòng ngừa, đấu
tranh phòng chống tội phạm cƣớp giật tài sản.
- Đảm bảo thực hiện các qui định của pháp luật về phát hiện, điều tra,
truy tố, xét xử kịp thời, nghiêm minh các hành vi cƣớp giật tài sản.
- Tuyên truyền, phổ biến pháp luật về phòng, chống tội phạm cƣớp giật
tài sản cho nhân dân.
- Đảm bảo các nguồn lực về con ngƣời, về cơ sở vật chất đối với hoạt
động phòng chống tội phạm cƣớp giật tài sản.
- Kiểm tra, thanh tra việc thực hiện pháp luật trong phòng ngừa, đấu
tranh phòng chống tội phạm cƣớp giật tài sản.
1.5. Các yếu tố ảnh hƣởng đến tổ chức thực hiện pháp luật trong
phòng ngừa, đấu tranh phòng chống tội phạm cƣớp giật tài sản
- Chính sách pháp luật trong tổ chức thực hiện pháp luật trong
phòng ngừa, đấu tranh phòng chống tội phạm cướp giật tài sản.
Với vị trí là công cụ chủ yếu để quản lý xã hội, vai trò to lớn của pháp
luật chỉ có thể đƣợc phát huy trong cuộc sống khi có một quá trình “tổ chức
để thực thi”, để từng văn bản pháp luật sau khi ban hành đƣợc các cơ quan, tổ
chức và các chủ thể chủ động tiếp cần, sử dụng, tuân thủ, thi hành một cách tự
giác tạo thành các sự kiện, hành vi pháp lý khi tham gia các quan hệ xã hội.
Do đó, các giải pháp đƣa pháp luật vào cuộc sống phải xuất phát từ cuộc
sống, gắn với cuộc sống để xác định rõ đối tƣợng hành vi và trách nhiệm, trở
23
thành yêu cầu bắt buộc dần dần tạo nên thói quen tự giác, chủ động chấp hành
pháp luật của công chức, viên chức và mọi ngƣời dân. Quan điểm gắn mọi
hoạt động của xã hội vào pháp luật nếu đƣợc quán triệt sẽ làm chuyển biến
mạnh mẽ nhận thức và ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân, hình
thành nếp sống và làm việc theo pháp luật, ngăn ngừa vi phạm pháp luật, duy
trì ổn định trật tự xã hội, thúc đẩy kinh tế phát triển.
Chính vì vậy, cần phải đồng bộ hóa từ chuẩn bị nguồn lực, xây dựng và
triển khai thực hiện đồng bộ các giải pháp cụ thể của từng khâu trong cả ba
khâu: Xây dựng pháp luật, tổ chức thực hiện pháp luật và bảo vệ pháp luật
nhằm góp phần xác định rõ trách nhiệm của từng ngành, từng cấp, từng cơ
quan nhà nƣớc, các tổ chức và công dân. Bởi vì nếu công tác lập pháp, tƣ pháp
không có các giải pháp phù hợp, hoạt động không có chất lƣợng, hiệu quả thì
sẽ không có tiền đề cho việc tổ chức thực thi pháp luật trong cuộc sống. Chỉ khi
pháp luật đƣợc xây dựng, hoàn thiện, thực sự là đại lƣợng thể hiện ý chí chung,
dung hòa các lợi ích của mọi lực lƣợng xã hội thì mới đƣợc toàn dân thực sự
đón nhận và tự giác thực hiện, cũng nhƣ chỉ khi các cơ quan bảo vệ pháp luật
vào cuộc tăng cƣờng vận dụng pháp luật, xử lý nghiêm minh, không bỏ lọt tội
phạm và tránh oan sai mới có tác dụng răn đe và phòng ngừa để mọi công dân,
công chức đều phải tuân thủ pháp luật chỉ khi đó pháp luật mới là công cụ thực
sự của nhà nƣớc để quản lý xã hội.
Phòng ngừa, đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung và trong phòng
ngừa, đấu tranh phòng chống tội phạm cƣớp giật tài sản nói riêng là một trong
những nhiệm vụ trọng yếu, cấp bách, thƣờng xuyên, liên tục và lâu dài nhằm
thực hiện Hiến pháp, pháp luật và các văn bản hƣớng dẫn thi hành, góp phần
bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con ngƣời, quyền công dân, bảo vệ lợi ích của
Nhà nƣớc, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Dƣới sự lãnh đạo
trực tiếp, toàn diện của Đảng, sự quản lý, chỉ đạo Điều hành thống nhất của
Nhà nƣớc. Song song với công cuộc đổi mới và xây dựng đất nƣớc, công tác
24
phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm là một nội dung quan trọng luôn đƣợc
Đảng và Nhà nƣớc quan tâm. Trong những năm gần đây, Đảng và Nhà nƣớc
đã ban hành nhiều các văn bản chỉ đạo công tác đấu tranh phòng chống tội
phạm nói chung, trong đó có tội phạm tội cƣớp giật tài sản tạo điều kiện thuận
lợi cho tổ chức thực hiện pháp luật trong phòng ngừa, đấu tranh phòng chống
tội phạm cƣớp giật tài sản.
- Năng lực thực thi công vụ của các chủ thể thực hiện pháp luật
trong đấu tranh phòng chống tội phạm cướp giật tài sản.
Năng lực thực thi công vụ là thuật ngữ chỉ khả năng thể chất và trí tuệ
của CBCC trong việc sử dụng tổng hợp các yếu tố nhƣ kiến thức, kỹ năng,
thái độ, hành vi để thực hiện công việc đƣợc giao. Năng lực thực thi công vụ
còn bao hàm khả năng kết hợp hài hòa các yếu tố trên trong những điều kiện,
hoàn cảnh cụ thể nhằm đạt đƣợc hiệu quả công việc cao nhất.
Năng lực thực thi công vụ của CBCC được tiếp cận trên nhiều khía cạnh:
Thứ nhất, về kiến thức: là tổng hợp những tri thức mà CBCC thu nhận
đƣợc biểu hiện qua bằng cấp, trình độ đào tạo, kiến thức và kinh nghiệm xã
hội mà họ tích lũy và học hỏi đƣợc trong cuộc sống. Kiến thức có đƣợc qua
đào tạo của CBCC bao gồm: trình độ chuyên môn nghiệp vụ, trình độ văn
hóa, trình độ tin học, ngoại ngữ, lý luận chính trị và các kiến thức nền tảng về
văn hóa, kinh tế - xã hội.
Thứ hai, về kỹ năng: là tổng hợp các cách thức, phƣơng thức, biện pháp
tổ chức và thực hiện công việc, thể hiện ở khả năng vận dụng kiến thức
chuyên môn vào thực tế giải quyết các công việc cụ thể. Để đạt đƣợc những
kỹ năng xử lý công việc thành thạo, mỗi CBCC cần có những kỹ năng cơ bản
nhƣ: kỹ năng thu thập và xử lý thông tin, kỹ năng làm việc độc lập, làm việc
nhóm, kỹ năng lãnh đạo, quản lý, kỹ năng ra quyết định…
Thứ ba, về thái độ: là sự phản ánh tâm lý về những công việc cụ thể mà
CBCC đang thực hiện với bản thân và với ngƣời khác liên quan đến sự thỏa
25
mãn hay không thỏa mãn nhu cầu cá nhân. Đó là tinh thần, ý thức trách nhiệm,
sự nhiệt tình, mức độ nỗ lực cố gắng của CBCC với công việc mà họ đang thực
hiện. Thái độ là yếu tố có ảnh hƣởng lớn tới quá trình thực hiện và kết quả
công việc. Khi ngƣời CBCC có thái độ làm việc đúng đắn, chuẩn mực, có tinh
thần trách nhiệm cao sẽ ảnh hƣởng tích cực tới hiệu quả công việc.
Lao động của CBCC có vai trò quan trọng trong đảm bảo trật tự, kỷ
cƣơng phép nƣớc, bảo vệ pháp luật và công lý, bảo vệ quyền tự do, dân chủ,
quyền con ngƣời, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, chống lại các hành vi
vi phạm pháp luật. Họ cũng là những ngƣời đóng vai trò tiên phong trong cuộc
đấu tranh liên tục, không khoan nhƣợng với các hiện tƣợng quan liêu, hành vi
tham nhũng, cửa quyền, tiêu cực khác, làm cho bộ máy nhà nƣớc trong sạch,
vững mạnh, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả. Vì vậy, hiệu quả của tổ chức thực
hiện pháp luật trong phòng ngừa, đấu tranh phòng chống tội phạm cƣớp giật tài
sản xét đến cùng đƣợc quyết định bởi phẩm chất, năng lực và hiệu quả công tác
của đội ngũ CBCC.
- Yếu tố ý thức pháp luật của nhân dân.
Những năm gần đây, đất nƣớc ta đã có những thành tựu không nhỏ về
phát triển kinh tế ngƣời dân có nhiều tài sản có giá trị hơn, một điều không
thể phủ nhận đời sống của các tầng lớp nhân dân đang đƣợc nâng cao, đi cùng
với nó là sự nâng lên của trình độ tri thức, nhận thức nói chung và nhận thức
pháp luật nói riêng. Nhận thức pháp luật về bảo vệ quyền của mình, đặc biệt
là quyền bảo vệ tài sản. Nhân dân ngày càng quan tâm hơn đến pháp luật, ý
thức chấp hành, thực hiện pháp luật có những tiến bộ rõ rệt. Họ đã tiếp thu
khá nhiệt tình, tích cực sự tuyên truyền pháp luật từ phía các cơ quan, ban
ngành cũng nhƣ hƣởng ứng nhiệt tình các cuộc vận động pháp luật. Vì vậy,
nhân dân đã nhận thức sâu sắc hơn hành vi của mình để có thể thực hiện tốt
hơn những quy định của pháp luật trong đấu tranh phòng chống tội phạm
cƣớp giật tài sản.
26
- Yếu tố cơ sở vật chất và công cụ hỗ trợ phục vụ công tác tổ chức thực
hiện pháp luật trong đấu tranh phòng chống tội phạm cướp giật tài sản.
Tài chính và điều kiện vật chất kỹ thuật cũng là yếu tố ảnh hƣởng đến
tổ chức thực hiện pháp luật trong phòng ngừa, đấu tranh phòng chống tội
phạm cƣớp giật tài sản. Cần xác định rõ các hoạt động tổ chức thực hiện pháp
luật để dự liệu về phƣơng tiện làm việc, nguồn kinh phí sát với yêu cầu của
nhiệm vụ phòng ngừa tội phạm cƣớp giật tài sản. Tăng cƣờng nguồn kinh phí
cho học tập luật, bồi dƣỡng nâng cao năng lực, trang bị công nghệ tin học, tài
liệu phục vụ cho hoạt động công vụ của đội ngũ cán bộ, công chức, kinh phí
hỗ trợ các đoàn thể trong việc tuyên truyền phòng ngừa, đấu tranh tội phạm
cƣớp giật tài sản, song song với đó là cơ chế hƣớng dẫn kiểm tra đảm bảo sử
dụng nguôn kinh phí và các nguồn cơ sở vật chất có hiệu quả. Ghi nhận sự
đóng góp của xã hội về cơ sở vật chất trong phòng ngừa, đấu tranh phòng
chống tội phạm cƣớp giật tài sản.
- Các thiết chế tổ chức thực hiện pháp luật trong phòng ngừa, đấu
tranh phòng chống tội phạm cướp giật tài sản.
Tổ chức thực hiện pháp luật trong phòng ngừa, đấu tranh phòng chống
tội phạm cƣớp giật tài sản là trách nhiệm của rất nhiều cơ quan, tổ chức. Vì
vậy việc thiết lập các cơ quan, tổ chức phù hợp, chức năng nhiệm vụ rõ ràng,
không chồng chéo cũng góp phần nâng cao chất lƣợng, hiệu quả của tổ chức
thực hiện pháp luật trong phòng ngừa, đấu tranh phòng chống tội phạm cƣớp
giật tài sản.
1.6. Các điều kiện đảm bảo tổ chức thực hiện pháp luật trong
phòng ngừa, đấu tranh phòng chống tội phạm cƣớp giật tài sản
Để quản lý xã hội bằng pháp luật và pháp luật có vị trí thƣợng tôn, việc
tổ chức thực hiện pháp luật là một yếu tố rất quan trọng. Một mặt, Nhà nƣớc
có trách nhiệm tổ chức thực hiện pháp luật một cách có hiệu quả, hiệu lực
nhất, mặt khác, bản thân Nhà nƣớc cũng phải tuyệt đối tuân thủ các quy định
27
của pháp luật. Hai yếu tố này có mối quan hệ tƣơng hỗ với nhau. Việc Nhà
nƣớc tuyệt đối tuân thủ các quy định pháp luật là cơ sở để tổ chức thực hiện
pháp luật có hiệu quả, hiệu lực. Ngƣợc lại, việc tổ chức thực hiện pháp luật có
hiệu quả đặt ra yêu cầu tất yếu là Nhà nƣớc phải tuân thủ tuyệt đối các quy
định của pháp luật.
Để việc thực hiện pháp luật đƣợc hiệu quả cần có các điều kiện đảm
bảo cho việc tổ chức thực hiện pháp luật đặc biệt là trong đấu tranh phòng
chống tội phạm cƣớp giật tài sản cần có các điều kiện cụ thể nhƣ sau:
1.6.1. Đảm bảo điều kiện về pháp luật
Các văn bản quy phạm pháp luật phải rõ ràng, đảm bảo tính hệ thống.
Để đảm bảo tính khả thi của một văn bản quy phạm pháp luật, quy trình và kỹ
thuật soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật phải bảo đảm những yêu cầu nhất
định. Trƣớc hết, việc xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật phải đƣợc
tiến hành trên cơ sở xác định rõ các vấn đề của cuộc sống và các mục tiêu
chính sách rõ ràng cần phải đạt đến. Xác định các mục tiêu của chính sách
cũng chính là thiết lập các tiêu chí để đánh giá hiệu quả của việc tổ chức thực
hiện pháp luật về sau. Pháp luật quy định không rõ ràng, hoặc chồng chéo có
thể là nguyên nhân của việc làm thế nào cũng đƣợc hoặc không biết phải làm
thế nào. Nhƣ vậy, có nhiều hành vi làm phát sinh các vấn đề xã hội do chính
các quy định của hệ thống pháp luật hiện hành gây ra. Đối với tội phạm cƣớp
giật tài sản các quy định của pháp luật trong Bộ luật hình sự năm 2015 đã rất
rõ ràng, so với bộ luật hình sự năm 1999, Bộ luật hình sự 2015 đã sửa đổi, bổ
sung thêm một số tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự và bỏ đi đƣợc một
số tình tiết tăng nặng không còn phù hợp, gây bối rối và thiếu nhất quán cho
các cơ quan tiến hành tố tụng trong quá trình định tội danh và quyết định hình
phạt. Điều này, đã giúp cho việc tổ chức thực hiện pháp luật đƣợc hiệu quả
giúp cơ quan tiến hành tố tụng định tội danh và hình phạt đƣợc thống nhất,
28
đúng quy định của pháp luật, tuy nhiên vẫn chƣa định nghĩa pháp lý cụ thể
trong điều luật về tội cƣớp giật tài sản.
1.6.2. Các điều kiện về năng lực của các cơ quan thực hiện pháp luật
Vai trò của cơ quan tổ chức thực hiện pháp luật, hay chính xác hơn là
cơ quan chịu trách nhiệm bảo đảm thực hiện văn bản, là rất quan trọng, đặc
biệt là trong hoàn cảnh ý thức tuân thủ pháp luật của các đối tƣợng có trách
nhiệm thực hiện pháp luật chƣa cao. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là làm sao để
phát huy đƣợc vai trò của các cơ quan chịu trách nhiệm đảm bảo thực thi pháp
luật trong việc tổ chức thực hiện pháp luật. Vấn đề cơ bản nhất cần lƣu ý
chính là yếu tố hành vi của các công chức, viên chức trực tiếp chịu trách
nhiệm thực hiện nhiệm vụ trong những cơ quan này. Cán bộ không có năng
lực thì công việc không thể đƣợc giải quyết. Nếu năng lực của cán bộ thực thi
pháp luật kém, không đáp ứng đƣợc những biến động của tội phạm cũng nhƣ
quan hệ xã hội thì việc tổ chức thực hiện pháp luật không hiệu quả.
Các quy định pháp luật thƣờng chỉ đề cập đến cơ quan chịu trách nhiệm
tổ chức thực hiện pháp luật với tƣ cách là một tập thể hay nói cách khác, các
cơ quan đó đƣợc đề cập đến nhƣ một chủ thể có lý trí riêng lẻ. Ví dụ nhƣ quy
định: “Bộ Tài chính quy định việc thực hiện...” đề cập đến Bộ Tài chính nhƣ
một chủ thể riêng biệt. Tuy nhiên, nhiều nghiên cứu khác nhau đã cho thấy
việc xem các tổ chức là những chủ thể có ý thức riêng lẻ là không phù hợp.
Về cơ bản, vận hành của các tổ chức đó vẫn là do các thành viên đơn lẻ có ý
thức và tƣ duy độc lập thực hiện. Hành vi chung của tổ chức chỉ có thể đƣợc
định hƣớng trong khuôn khổ các quy định chung về hành vi đƣợc đặt ra đối
với các thành viên đơn lẻ của tổ chức.
Đảm bảo công khai, minh bạch và dân chủ để cơ chế THPL đƣợc vận
hành hiệu quả. Công khai, minh bạch vừa là yêu cầu vừa là điều kiện để tổ
chức thực hiện pháp luật có hiệu quả. Đây cũng chính là yếu tố rất đƣợc coi
trọng trong Nhà nƣớc pháp quyền.
29
Đảm bảo công khai, minh bạch trong việc tổ chức thực hiện pháp luật
trƣớc hết đƣợc thể hiện ở việc công khai các quy định về mặt nội dung, quy
trình tổ chức thực hiện làm cơ sở để tăng cƣờng sự hiểu biết của ngƣời dân
đối với việc tổ chức thực hiện pháp luật. Sự hiểu biết pháp luật của những chủ
thể tham gia vào quá trình thực hiện pháp luật là điều kiện cơ bản nhất để tổ
chức thực hiện pháp luật có hiệu quả. Ngƣợc lại, việc tuyên truyền, thông tin
đầy đủ về nội dung của các quy định pháp luật cũng nhƣ cách thức thực hiện
pháp luật là yếu tố tạo nên thành công trong việc tổ chức thực hiện một số văn
bản luật. Đảm bảo công khai, minh bạch trong việc tổ chức thực hiện pháp
luật còn bao hàm nghĩa tạo cơ hội cho các chủ thể trong xã hội đƣợc tham gia
phản biện về nội dung của các quy định pháp luật cũng nhƣ cách thức tổ chức
thực hiện các quy định pháp luật đó. Tạo cơ hội để thu nhận các phản biện sẽ
giúp cho những cơ quan chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện pháp luật phát
hiện đƣợc những điểm bất cập trong quá trình thực hiện công việc. Đó là
những cơ sở quan trọng đề điều chỉnh, hoàn thiện và nâng cao hiệu quả của
việc tổ chức thực hiện pháp luật.
Việc xác định một quy trình làm việc không rõ ràng đƣơng nhiên sẽ dẫn
đến tình trạng việc tổ chức thực hiện công việc kém hiệu quả. Các công chức,
viên chức trong chuỗi quy trình ra quyết định của tổ chức nếu không rõ mình
phải làm gì, trong giai đoạn nào, các đầu vào, đầu ra đối với công việc của mình
ra sao thì rõ ràng hiệu quả công việc sẽ không đảm bảo hoặc thậm chí, quy trình
công việc không thể vận hành. Thực tế đã cho thấy có nhiều trƣờng hợp do thiếu
các quy định hƣớng dẫn về quy trình, thủ tục tiến hành công việc mà một số cơ
quan nhà nƣớc đã từ chối tiếp nhận việc thực hiện các quy định của pháp luật.
1.6.3. Cơ chế giám sát việc tổ chức thực hiện pháp luật một cách chặt chẽ
Giám sát và đánh giá có rất nhiều ý nghĩa đối với việc nâng cao hiệu
quả của việc tổ chức thực hiện pháp luật. Đó là công cụ để kiểm soát việc
thực hiện pháp luật và đặc biệt là để hạn chế sự lạm quyền của các công chức,
30
viên chức trong quá trình tổ chức thực thi các văn bản quy phạm pháp luật.
Giám sát và đánh giá cũng tạo ra áp lực để các cá nhân, tổ chức có trách
nhiệm tổ chức thực hiện pháp luật phải thực hiện theo đúng bổn phận của
mình, tránh trƣờng hợp trễ nải trong việc thực hiện nhiệm vụ. Và giám sát,
đánh giá cũng là công cụ để thu thập phản hồi nhằm điều chỉnh bản thân các
quy định của văn bản quy phạm pháp luật.
Ở góc độ vĩ mô, cơ chế giám sát việc tổ chức thực hiện pháp luật gắn liền
với việc cơ chế kiểm soát lẫn nhau giữa các nhánh của quyền lực nhà nƣớc.
Kiểm soát quyền lực nhà nƣớc trong Nhà nƣớc pháp quyền đƣợc hiểu là
một hệ thống những cơ chế đƣợc thực hiện bởi Nhà nƣớc và xã hội nhằm giữ
cho việc thực thi quyền lực nhà nƣớc đúng mục đích, hiệu quả. Kiểm soát
quyền lực nhà nƣớc bao gồm kiểm soát phạm vi hoạt động của cơ quan nhà
nƣớc; kiểm soát quá trình thông qua và sửa đổi Hiến pháp; kiểm soát tổ chức
và hoạt động của bộ máy nhà nƣớc; kiểm soát những ngƣời thực thi quyền lực
và có thể kiểm soát từ bên ngoài và bên trong nhà nƣớc. Kiểm soát từ bên
ngoài nhà nƣớc là kiểm soát từ nhân dân và xã hội, kiểm soát từ bên trong là
kiểm soát do chính Nhà nƣớc thực hiện. Trong hệ thống đó, trách nhiệm tổ
chức thực hiện pháp luật ở tầm vĩ mô của các cơ quan nhà nƣớc sẽ đƣợc xác
định rõ ràng. Và đây cũng chính là động lực chính trị cơ bản nhất để vận hành
có hiệu quả hệ thống cơ quan có trách nhiệm tổ chức thực hiện pháp luật.
1.6.4. Đảm bảo sự độc lập của cơ quan tư pháp
Một trong những đòi hỏi của tƣ pháp trong Nhà nƣớc pháp quyền là
phải độc lập trƣớc các nhánh quyền lực khác của Nhà nƣớc. Tính độc lập của
tƣ pháp cho phép Tòa án đƣa ra những phán quyết đúng đắn, chống lại sự tùy
tiện của các nhánh quyền lực khác. Để có đƣợc tầm ảnh hƣởng trên thực tế,
nguyên tắc của Nhà nƣớc pháp quyền đƣợc đảm bảo bằng sự hiện diện của
các cơ quan tố tụng độc lập, có thẩm quyền tài phán đối với các tranh chấp
giữa các chủ thể pháp lý khác nhau bằng cách áp dụng đồng thời nguyên tắc
31
hợp pháp (vốn có đƣợc từ sự tồn tại của một trật tự các quy phạm) và nguyên
tắc bình đẳng (vốn đối lập với sự xét xử phân biệt giữa các chủ thể pháp lý).
Sự độc lập của cơ quan tƣ pháp là điều kiện cần thiết để các chủ thể trong xã
hội có thể tiếp cận đƣợc với công lý, đảm bảo sự nghiêm minh của pháp luật.
Các hành vi lạm quyền hoặc vi phạm các quyền tự do cơ bản của công dân có
thể bị khởi kiện và đƣợc xem xét theo những thủ tục độc lập, rõ ràng và công
minh sẽ là cơ sở cho việc làm tăng niềm tin của ngƣời dân vào hệ thống pháp
luật nói chung và việc thực hiện pháp luật nói riêng. Đây có thể nói là một
trong những yếu tố cơ bản nhất làm tăng ý thức tuân thủ pháp luật của các chủ
thể trong xã hội, là cơ sở cho việc thực hiện pháp luật có hiệu quả.
Ở góc độ vi mô, Toà án cũng có vai trò rất lớn đối với việc tổ chức thực
hiện các văn bản pháp luật cụ thể. Ở những nƣớc Toà án có thẩm quyền tài phán
lớn và có tính độc lập cao trong hoạt động, Tòa án có quyền từ chối không áp
dụng những văn bản dƣới luật mâu thuẫn với văn bản luật (theo quan điểm của
Tòa án). Đây chính là cơ sở quan trọng cho Tòa án đảm bảo tính tối cao của
pháp luật trong đời sống xã hội. Bất kỳ hành vi nào của các cơ quan có trách
nhiệm tổ chức thực hiện pháp luật trái với các đạo luật đều có thể bị Tòa án
tuyên bố là vô hiệu.
Bên cạnh đó, khi đƣợc tổ chức một cách độc lập và có thẩm quyền tài
phán đầy đủ, Toà án cũng có vai trò nhất định trong việc thúc đẩy việc tổ
chức thực hiện pháp luật của các cơ quan nhà nƣớc. Chẳng hạn, một đạo luật
do Quốc hội ban hành đã ghi nhận cho các công dân quyền đƣợc đầu tƣ vào
những lĩnh vực nhất định thì các cơ quan có trách nhiệm tổ chức thực hiện
không thể viện dẫn lý do chƣa có đầy đủ các văn bản hƣớng dẫn thực hiện của
cơ quan hành pháp để từ chối việc thực hiện các quyền đó của công dân. Khi
đó, rõ ràng quyền lợi của các công dân đã bị ảnh hƣởng vì sự chậm trễ của các
cơ quan nhà nƣớc. Và nếu quyền khởi kiện của công dân lên Toà án để bảo
đảm quyền, lợi ích của mình đƣợc ghi nhận thì đó sẽ là những áp lực rất lớn
32
đối với các cơ quan chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện pháp luật, tránh sự tuỳ
tiện và đảm bảo việc tổ chức thực hiện pháp luật phải đƣợc thực hiện theo
đúng quy định pháp luật.
1.6.5. Đảm bảo các điều kiện về kinh tế trong tổ chức thực hiện pháp
luật trong đấu tranh phòng chống tội phạm cướp giật tài sản
Điều kiện về kinh tế để trang trải các khoản chi cho công tác tổ chức
thực hiện pháp luật nhƣ kinh phí cho công tác tổ chức, thù lao, lƣơng cho hệ
thống cơ quan thực thi pháp luật, chi phí cho việc tuyên truyền phổ biến giáo
dục pháp luật, cơ sở vật chất, trang thiết bị bảo đảm phù hợp luôn là một trong
những yếu tố tiên quyết đến hiệu quả của công tác tổ chức thực hiện pháp luật
nói chung và trong công tác phòng chống tội phạm cƣớp giật tài sản nói riêng.
Đặc biệt, yếu tố về con ngƣời phải đƣợc chú trọng, có các chính sách, chế độ
đãi ngộ phù hợp; tạo môi trƣờng làm việc tốt, trang bị công cụ phụ trợ đầy đủ
cho cán bộ tốt tạo điều kiện cho đội ngũ thực thi pháp luật phát huy hết khả
năng để nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật. Kinh phí hàng năm để hỗ trợ
thực hiện công tác phòng, chống tội phạm phải phù hợp với tình hình diễn
biến tội phạm cƣớp giật tài sản hiện nay.
TIỂU KẾT CHƢƠNG 1
Trên cơ sở phân tích tài liệu lý luận đề tài xác định và sử dụng các vấn
đề lý luận cơ bản trong luận văn:
- Tổ chức thực hiện pháp luật là quá trình hƣớng dẫn, chuẩn bị các
nguồn lực, điều kiện đảm bảo nhƣ con ngƣời, tổ chức bộ máy, cơ sở vật chất
để nhằm đƣa pháp luật vào cuộc sống.
- Tổ chức thực hiện pháp luật trong phòng ngừa, đấu tranh phòng chống
tội phạm cƣớp giật tài sản là hoạt động của các cơ quan, tổ chức, cá nhân có
thẩm quyền trong việc hƣớng dẫn, chuẩn bị các nguồn lực, điều kiện đảm bảo
các qui phạm pháp luật điều chỉnh hoạt động của các cơ quan nhà nƣớc và tổ
33
chức xã hội và của mọi công dân trong áp dụng tổng hợp và đồng bộ các biện
pháp khác nhau hƣớng vào thủ tiêu những nguyên nhân và điều kiện phạm tội,
cũng nhƣ loại bỏ các yếu tố tiêu cực ảnh hƣởng đến quá trình hình thành tội
phạm, đồng thời từng bƣớc hạn chế, đẩy lùi và tiến tới loại bỏ tội phạm cƣớp
giật tài sản ra khỏi đời sống xã hội, đƣợc thực hiện trên thực tế.
- Các điều kiện đảm bảo tổ chức thực hiện pháp luật trong phòng ngừa,
đấu tranh phòng chống tội phạm cƣớp giật tài sản nhƣ điều kiện về lập pháp,
điều kiện về năng lực của cơ quan thực hiện pháp luật, cơ chế giám sát việc tổ
chức thực hiện pháp luật.... Thông qua việc tổ chức thực hiện pháp luật trong
phòng ngừa, đấu tranh phòng chống tội phạm cƣớp giật tài sản nâng cao ý
thức cảnh giác tội phạm cho nhân dân. Đây là biện pháp bảo vệ tốt nhất tài
sản của công dân cũng nhƣ nâng cao hiệu quả bảo vệ chế độ, ngăn ngừa tội
phạm xâm phạm quyền sở hữu của nhà nƣớc.
Những vấn đề lý luận cơ bản này là cơ sở để làm rõ thực trạng công tác
tổ chức thực hiện pháp luật về phòng ngừa, đấu tranh phòng chống tội phạm
cƣớp giật tài sản trên địa bàn thành phố Hà Nội giai đoạn từ năm 2010 đến
năm 2017 và đƣa ra những dự báo về tình hình tội phạm cƣớp giật tài sản trên
địa bàn Thủ đô trong các năm tiếp theo tại Chƣơng 2.
34
Chƣơng 2
THỰC TRẠNG TỔ CHỨC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT TRONG
PHÒNG NGỪA, ĐẤU TRANH PHÒNG CHỐNG TỘI PHẠM CƢỚP
GIẬT TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
2.1. Khái quát chung về tình hình kinh tế - xã hội thành phố Hà
Nội có ảnh hƣởng đến phòng ngừa, đấu tranh phòng chống tội phạm
cƣớp giật tài sản
2.1.1. Khái quát tình hình kinh tế - xã hội thành phố Hà Nội
Hà Nội, thủ đô nƣớc Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, là trung
tâm chính trị, kinh tế, văn hóa và khoa học công nghệ của cả nƣớc. Nằm hai
bên bờ sông Hồng và ở hữu ngạn con sông Đà, giữa vùng đồng bằng Bắc bộ
trù phú, Hà Nội có đƣợc vị thế thuận lợi để trở thành nơi giao lƣu thƣơng mại trong nƣớc và quốc tế. Tổng diện tích tự nhiên khoảng 3.324,52 km2, đơn vị
hành chính gồm có 12 quận, 17 huyện, 01 thị xã (Sơn Tây); phía Bắc tiếp giáp
với các tỉnh Thái Nguyên, Vĩnh Phúc; phía Nam giáp Hà Nam, Hòa Bình;
phía Đông giáp các tỉnh Bắc Giang, Bắc Ninh và Hƣng Yên; phía Tây giáp
Phú Thọ đây là vị trí rất thuận lợi trong việc giao thƣơng. Chính điều kiện địa
lý địa lý nhƣ vậy đã đƣa Thành phố Hà Nội là trung tâm đầu não về chính trị,
hành chính quốc gia, trung tâm văn hóa, khoa học công nghệ của cả nƣớc,
đồng thời là trung tâm lớn về kinh tế và giao dịch quốc tế.
Theo báo cáo tổng kết tình hình kinh tế xã hội 6 tháng đầu năm 2018
của UBND Thành phố Hà Nội, kinh tế vĩ mô tiếp tục ổn định; thu hút đầu tƣ
tiếp tục tăng, tổng vốn đầu tƣ xã hội tăng 9,9% so với cùng kỳ; giá cả hàng
hóa và dịch vụ ổn định; công nghiệp, thƣơng mại và du lịch tăng mạnh so với
cùng kỳ; nông nghiệp phát triển tốt, hƣớng vào chất lƣợng… Trong đó sản
xuất công nghiệp đạt kết quả tích cực; chỉ số sản xuất công nghiệp ƣớc tăng
8% , cao hơn mức 6,07% của 6 tháng năm 2017. Thị trƣờng hàng hóa và dịch
vụ tăng cao hơn mức cùng kỳ;tổng mức lƣu chuyển hàng hoá bán ra và doanh
35
thu dịch vụ ƣớc đạt 1.181 nghìn tỷ đồng, tăng 10,14% (cùng kỳ: 7,2%). Giá
cả thị trƣờng ổn định, chỉ số giá tiêu dùng bình quân 6 tháng đầu năm tăng
khoảng 3,23%-3,34%, thấp hơn cùng kỳ (3,86%).
Công tác an sinh xã hội luôn đƣợc thành phố đặc biệt chú trọng. 6 tháng
đầu năm 2018, đã giải quyết việc làm cho 89.000/152.000 lao động, đạt 58,5%
kế hoạch, tạo việc làm cho 21.900 lao động; các đơn vị hoạt động dịch vụ đƣa
ngƣời lao động đi làm việc ở nƣớc ngoài theo hợp đồng đã đƣa 1.450 ngƣời lao
động đi làm việc có thời hạn ở nƣớc ngoài. Công tác đảm bảo an toàn lao động
tiếp tục đƣợc tăng cƣờng quản lý.
Công tác lao động - tiền lƣơng - bảo hiểm xã hội cho ngƣời lao động
tiếp tục đƣợc quan tâm chỉ đạo và tuyên truyền sâu rộng cho ngƣời lao động,
ngƣời sử dụng lao động. Giáo dục nghề nghiệp, trong 6 tháng đầu năm toàn
thành phố tuyển sinh và đào tạo cho hơn 44 nghìn lƣợt ngƣời, đạt 24,5% kế
hoạch; đào tạo theo đặt hàng của doanh nghiệp hơn 5 nghìn học viên; tổ chức
thành công hội thi tay nghề thành phố và tham gia thi tay nghề quốc gia đạt
giải Nhất toàn đoàn. Cùng với đó thành phố thực hiện kịp thời, đầy đủ chế độ,
chính sách đối với ngƣời có công, đối tƣợng bảo trợ xã hội. [39].
2.1.2. Ảnh hưởng của tình hình kinh tế - xã hội thành phố Hà Nội
đến phòng ngừa, đấu tranh phòng chống tội phạm cướp giật tài sản
Hà Nội là nơi tập trung đông dân cƣ. Trong mức dân số trung bình của
Hà Nội năm 2017, khu vực thành thị là 3.764,1 nghìn ngƣời, chiếm 49,2% và
tăng 1,7%; khu vực nông thôn là 3.890,7 nghìn ngƣời, chiếm 50,8% và tăng 1,8% so với cùng kỳ năm 2016. Mật độ dân số trung bình là 2.279 ngƣời/km2,
phân bố dân cƣ không đều, tốc độ đô thị hóa phát triển tƣơng đối nhanh. Mật
độ dân số tập trung tại các quận khá cao, mật độ dân số trung bình 12 quận là 11.220 ngƣời/km2, cao nhất là quận Đống Đa 42.171 ngƣời/km2 và thấp nhất là quận Long Biên 4.840 ngƣời/km2, cao gấp 4,9 lần so với mật độ dân số
trung bình của toàn Thành phố. Biến động dân số đối với khu vực nông thôn
36
chủ yếu là do việc di dân đi làm ăn kiếm sống tại đô thị hoặc học tập. Xu
hƣớng dịch cƣ từ các tỉnh quanh Hà Nội, lƣợng dịch cƣ đa số chọn các vùng
ven đô để sinh sống, đi làm tại vùng nội đô.
Về lực lƣợng lao động năm 2017, khu vực thành thị là 2 triệu ngƣời;
khu vực nông thôn là 1,8 triệu ngƣời. Tỷ lệ tham gia lực lƣợng lao động là
67,8%, trong đó khu vực thành thị là 62,3% và khu vực nông thôn là
75,3%. Ƣớc tính số ngƣời có việc làm trong năm 2017 đạt trên 3,7 triệu ngƣời
chiếm 97,4% so với tổng số lao động trong độ tuổi từ 15 trở lên. Trong đó,
khu vực khu vực thành thị chiếm 53,1%; khu vực nông thôn chiếm 46,9%.
Bên cạnh đó, tỷ lệ lao động đang làm việc qua đào tạo của Hà Nội ƣớc đạt
60,7% và tỷ lệ thất nghiệp khu vực thành thị ở mức 3,1%.
Thành phố Hà Nội là nơi tập trung nhiều tuyến đƣờng, đầu mối giao
thông quan trọng, nơi tập trung các trung tâm du lịch lữ hành và khách du lịch
đông so với cả nƣớc. Theo báo cáo mới nhất của Tổ chức Du lịch thế giới -
UNWTO, năm 2017, Hà Nội đƣợc đánh giá xếp thứ 7 trong top 10 thành phố có
tăng trƣởng du lịch nhanh nhất thế giới. Năm 2017 Hà Nội đón 23,83 triệu lƣợt
khách, tăng 9% so với năm 2016. Với số lƣợng khách du lịch đông nhƣ vậy đây
đƣợc xem là điều kiện thuận lợi để các đối tƣợng phạm tội cƣớp giật tài sản lợi
dụng hoạt động. Bên cạnh đó Hà Nội còn là nơi tập trung rất nhiều nhà máy, xí
nghiệp, các trƣờng Đại học, Cao đẳng, Trung học chuyên nghiệp vì vậy đây là
nơi tập trung của nhiều sinh viên học sinh từ khắc các nơi trên cả nƣớc đổ về nên
có thể xem Hà Nội là một địa bàn hết sức phức tạp cho công tác đấu tranh phòng
chống tội phạm nói chung, tội phạm cƣớp giật tài sản nói riêng.
Đƣợc sự quan tâm của Đảng, Nhà nƣớc, kinh tế - xã hội vùng thủ đô những
năm qua đã có những bƣớc phát triển mạnh mẽ, đời sống vật chất và tinh thần của
nhân dân không ngừng đƣợc cải thiện; công tác xóa đói giảm nghèo, an sinh và
phúc lợi xã hội đƣợc cấp ủy, chính quyền các cấp quan tâm thực hiện và đạt kết
quả cao, tác động tích cực đến sự ổn định tình hình an ninh chính trị và trật tự, an
toàn xã hội; công tác quốc phòng, an ninh đƣợc triển khai có hiệu quả.
37
Tuy nhiên bên cạnh đó, do ảnh hƣởng của các yếu tố địa lý, lịch sử, tự
nhiên, xã hội nhƣ đã nói ở trên đã có tác động đến sự gia tăng tội phạm trên
địa bàn thủ đô, tình hình hoạt động tội phạm nói chung, tội phạm cƣớp giật tài
sản những năm qua có diễn biến phức tạp, có xu hƣớng gia tăng cả về tính
chất và mức độ… Trƣớc tình hình đó, lực lƣợng Công an Hà Nội đã phối hợp
chặt chẽ với các lực lƣợng nghiệp vụ của Bộ Công an cũng nhƣ các lực lƣợng
chuyên trách phòng chống tội phạm, tích cực tham mƣu cho các cấp ủy đảng,
chính quyền các cấp tổ chức triển khai các chƣơng trình, kế hoạch đấu tranh
phòng, chống tội phạm nói chung và tội phạm cƣớp giật tài sản nói riêng. Lực
lƣợng Công an các đơn vị đã có sự phối hợp chặt chẽ, chủ động phát hiện bắt
giữ, điều tra, xử lý tội phạm; đẩy mạnh phong trào toàn dân tham gia đấu
tranh phòng, chống tội phạm.
2.2. Tình hình tổ chức thực hiện pháp luật trong phòng ngừa, đấu
tranh phòng chống tội phạm cƣớp giật tài sản từ năm 2010 đến năm 2017
2.2.1. Ban hành văn bản pháp luật hướng dẫn, triển khai thực hiện
các qui định của pháp luật trong phòng ngừa, đấu tranh phòng chống tội
phạm cướp giật tài sản
Các cơ quan của thành phố Hà Nội đã ban hành các văn bản pháp luật
để triển khai thực hiện các biện pháp bảo đảm thi hành Hiến pháp và pháp
luật; bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và công dân;
áp dụng các biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn các hành vi vi phạm pháp luật
trong đó có tội cƣớp giật tài sản. Cụ thể:
+ Mệnh lệnh số 01/ML-CAHN-PV11 ngày 09/10/2017 của Giám Đốc
Công an thành phố Hà Nội về tổng kiểm tra, kiểm soát hành chính ban đêm
để phòng ngừa, trấn áp tội phạm;
+ Kế hoạch số 227/KH-BCĐ ngày 01/11/2017 của Ban chỉ đạo
138/CATP về thực hiện Đề án chuyển hóa địa bàn trọng điểm, phức tạp về
trật tự an toàn xã hội đến năm 2020 trên địa bàn Thành phố Hà Nội;
38
+ Kế hoạch số 1285/KH-CAHN-PV11 ngày 25/4/2017 của Công an
thành phố Hà Nội về phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm cƣớp, cƣớp giật tài sản,
trộm cắp tài sản trên địa bàn Thành phố;
+ Thông báo số 636/TB-PC45-Đ8 ngày 10/4/2015 của Phòng Cảnh sát
hình sự - Công an thành phố Hà Nội về chủ động phòng ngừa, ngăn chặn có hiệu
quả tội phạm cƣớp, cƣớp giật tài sản trên địa bàn Thành phố;
+ Kế hoạch số 348/KH-CAHN-PV11 ngày 20/11/2016 của Công an
thành phố Hà Nội về Tổ chức thực hiện chuyên đề "Phòng chống đối tƣợng
hình sự là ngƣời tỉnh ngoài, đối tƣợng hoạt động lƣu động" trên địa bàn
Thành phố.
+ Kế hoạch số 59/KH-UBND ngày 10/5/2011 của Uỷ ban nhân dân
Thành phố triển khai Chỉ thị số 48/CT-TW về tăng cƣờng sự lãnh đạo của
Đảng đối với công tác phòng chống tội phạm trong tình hình mới.
+ Kế hoạch số 147/KH-UBND ngày 19/12/2012 của Uỷ ban nhân dân
Thành phố về đấu tranh phòng, chống các loại tội phạm xâm hại trẻ em, tội
phạm trong lứa tuổi chƣa thành niên trên địa bàn Thành phố Hà Nội giai đoạn
2013-2015.
+ Kế hoạch số 350/KH-CAHN-PV11 ngày 20/11/2016 của Công an
thành phố Hà Nội về "Phòng, chống tội phạm cƣớp có vũ khí tại các ngân
hàng, cơ sở kinh doanh vàng, bạc và các đối tƣợng có biểu hiện tàng trữ vũ
khí trái phép trên địa bàn thành phố Hà Nội".
+ Công văn số 2452/CAHN-PV11 ngày 01/6/2018 của Công an thành
phố Hà Nội về việc triển khai thực hiện chỉ đạo của đc Bí thƣ thành ủy và
Chủ tich Uỷ ban nhân dân Thành phố về phòng ngừa, đấu tranh, xử lý một số
loại tội phạm trên địa bàn Thành phố.
39
2.2.2. Đảm bảo thực hiện các qui định của pháp luật về phát hiện,
điều tra, truy tố, xét xử kịp thời, nghiêm minh các hành vi cướp giật tài sản
Giai đoạn 2011 - 2016, các ngành Công an, Viện kiểm sát, Tòa án, Thi
hành án dân sự của thành phố đã nỗ lực thực hiện công tác điều tra, truy tố,
xét xử, thi hành án đạt đƣợc nhiều kết quả tích cực, có chuyển biến tốt hơn
qua từng năm, góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, duy
trì ổn định và phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn thành phố. Tuy nhiên,
chất lƣợng, hiệu quả công tác điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án nói chung,
thi hành án hình sự nói riêng vẫn còn những hạn chế, chƣa đáp ứng yêu cầu;
việc thực hiện một số chỉ tiêu nghiệp vụ theo quy định của Quốc hội, của từng
ngành đạt tỷ lệ chƣa cao.
Đối với công tác điều tra các hành vi phạm tội cướp giật tài sản trên
địa bàn thành phố thời gian qua:
Theo báo cáo của Phòng PC45 - Công an Thành phố Hà Nội, tình hình
đấu tranh phòng chống tội phạm cƣớp giật tài sản qua các năm từ 2010 đến
2017 cụ thể nhƣ sau:
Trong năm 2010, trên địa bàn thành phố xảy ra 514 vụ cƣớp giật tài
sản, giảm 166 vụ =24% so với năm 2009. Toàn thành phố trong năm điều tra
khám phá 152 vụ, bắt 220 đối tƣợng, khai thác mở rộng làm rõ 228 vụ cƣớp
giật khác, đạt tỉ lệ điều tra khám phá 68%.
Năm 2011, trên địa bàn thành phố xảy ra 362 vụ đối tƣợng sử dụng xe
máy cƣớp giật tài sản, giảm 33 vụ (= 12%) so với năm 2010, kết quả điều tra
khám phá toàn thành phố Hà Nội điều tra khám phá 62 vụ, bắt 111 đối tƣợng,
trong đó xác lập và khám phá 3 VA- 9 đối tƣợng, khai thác mở rộng làm rõ 181
vụ cƣớp giật khác, có 120 vụ xảy ra trong 6 tháng, đạt tỉ lệ điều tra khám phá
72,5%.
Năm 2012, toàn thành phố xảy ra 384 vụ tăng 22 vụ so với năm 2011
tuy nhiên tình hình tội phạm cƣớp giật tuy giảm so với thời gian trƣớc, nhƣng
40
vẫn diễn biến phức tạp, số vụ cƣớp giật tài sản của ngƣời nƣớc ngoài và tài
sản có giá trị lớn vẫn xảy ra. Đối tƣợng thực hiện hành vi phạm tội táo bạo và
trắng trợn hơn, kể cả trên các tuyến đƣờng đông ngƣời qua lại, gần trụ sở cơ
quan công an và cơ quan Nhà nƣớc.
Năm 2013, trên địa bàn thành phố xảy ra 527 vụ. Năm 2013, tình hình
tội phạm cƣớp giật tăng so với năm 2012 và có diễn biến phức tạp, số vụ cƣớp
giật tài sản của ngƣời nƣớc ngoài và tài sản có giá trị lớn vẫn xảy ra. Đối tƣợng
thực hiện hành vi phạm tội táo bạo và trắng trợn hơn, kể cả trên các tuyến
đƣờng đông ngƣời qua lại, gần trụ sở cơ quan công an và cơ quan nhà nƣớc.
Trong năm 2014, trên địa bàn thành phố xảy ra 529 vụ, tăng 02 vụ =
0,4% so với cùng kỳ năm 2013. Trong đó, có 27 vụ cƣớp giật tài sản của ngƣời
nƣớc ngoài (bằng so với năm 2013). Các địa bàn tăng gồm: Cầu Giấy tăng 7
vụ; Thanh Xuân tăng 4 vụ. Các địa bàn giảm gồm: Từ Liêm giảm 3 vụ; Hai Bà
Trƣng giảm 2 vụ; Tây Hồ giảm 2 vụ; Hoàn Kiếm giảm 1 vụ; Đống Đa giảm 1
vụ; Long Biên giảm 1 vụ; Ba Vì giảm 1 vụ. (Chi tiết tại bảng 2.9 phụ lục).
Trong năm 2015, trên địa bàn thành phố xảy ra 464 vụ, giảm 65 vụ =
12.28 6% so với cùng kỳ năm 2014 (529 vụ). Trong đó có 20 vụ cƣớp giật tài
sản của ngƣời nƣớc ngoài (giảm 07 vụ so với năm 2014), xảy ra trên các địa
bàn Hoàn Kiếm: 09 vụ, Nam Từ Liêm: 03 vụ, Ba Đình: 02 vụ, Hai Bà Trƣng:
01 vụ, Cầu Giấy: 02 vụ, Hoàng Mai: 01 vụ, Tây Hồ: 02 vụ.
Trong năm 2016, trên địa bàn thành phố xảy ra 362 vụ cƣớp giật tài
sản, giảm 102 vụ so với cùng kỳ năm 2015. Xảy ra 18 vụ cƣớp giật tài sản của
ngƣời nƣớc ngoài, cụ thể: Địa bàn Hoàn Kiếm (05 vụ), Cầu Giấy (04 vụ), Hai
Bà Trƣng (03 vụ), Ba Đình (02 vụ), Nam Từ Liêm (02 vụ), Bắc Từ Liêm (01
vụ), Long Biên (01 vụ). Điều tra khám phá 129 vụ (trong đó 17 vụ bắt đƣợc
do các đơn vị trong quá trình tuần tra kiểm soát, mật phục bắt quả tang đối
tƣợng gây án); bắt giữ 174 đối tƣợng, mở rộng 143 vụ, đạt tỉ lệ 75.1%.
41
Trong năm 2017, trên địa bàn thành phố xảy ra 334 vụ cƣớp giật tài
sản, giảm 28 vụ so với năm 2016 (=7,7%). Địa bàn xảy ra nhiều vẫn tập trung
ở một số quận nội thành: Nam Từ Liêm 34 vụ, Long Biên 28 vụ, Hoàn Kiếm
26 vụ, Hai Bà Trƣng 25 vụ, Hoàng Mai 24 vụ, Đống Đa 22 vụ, Cầu Giấy 19
vụ. Tình hình cƣớp giật ở các huyện ngoại thành không có gì phức tạp, tuy
nhiên có một số địa bàn cần chú ý nhƣ: Đông Anh (14 vụ), Sóc Sơn (11 vụ),
Chƣơng Mỹ (10 vụ). Để làm giảm đƣợc tình hình cƣớp giật là do các đơn vị
đã tổ chức tuyên truyền phòng ngừa tốt và chủ động tổ chức điều tra, bắt
trúng các ổ nhóm hoạt động hiện hành, xử lý nghiêm trƣớc pháp luật.
Phƣơng thức, thủ đoạn hoạt động của tội phạm cƣớp giật tài sản trong
năm 2017 không có gì mới, tình hình không có đột biến bất ngờ. Thời gian
gây án các vụ cƣớp giật không tập trung vào khoảng thời gian nào cố định.
Tài sản cƣớp giật thƣờng là tài sản gọn nhẹ, có giá trị, dễ giằng giật, dễ tiêu
thụ, nhƣ: túi xách, ví cầm tay, dây chuyền, điện thoại di động.
Các đối tƣợng phạm tội phần lớn là nam giới, ở độ tuổi trung bình từ 18
đến trên 26 tuổi, không có nghề nghiệp, chủ yếu là ngƣời thƣờng trú trên địa
bàn thành phố Hà Nội, số đối tƣợng tỉnh ngoài về thành phố gây án cƣớp giật
tài sản là 34 đối tƣợng chiếm tỉ lệ (19.3%). Số đối tƣợng này thƣờng đến
thành phố ở cùng ngƣời quen hoặc thuê trọ một thời gian ngắn sau khi gây án
lại trở về địa phƣơng nên rất khó phát hiện và quản lý.
Trong năm 2017, toàn thành phố tuần tra kiểm soát bắt quả tang đƣợc
53 vụ cƣớp giật tài sản, trong đó lực lƣợng công an bắt đƣợc 30 vụ, gồm:
CAQ Hoàng Mai 07 vụ, Nam Từ Liêm 04 vụ, Hai Bà Trƣng 03 vụ, Tây Hồ
02 vụ, Hoàn Kiếm 02 vụ, Bắc Từ Liêm 02 vụ, Long Biên 04 vụ, Thanh Xuân
01 vụ, Ba Đình 01 vụ, Cầu Giấy 01 vụ, Hà Đông 01 vụ, Ứng Hòa 01 vụ, Phú
Xuyên 01 vụ; còn lại 23 vụ do quần chúng nhân dân bắt quả tang, bàn giao
cho cơ quan công an giải quyết theo thẩm quyền.
42
Tình hình tội phạm cƣớp giật tài sản từ năm 2010 đến năm 2017 đƣợc
529
600
527
464
500
395
362
384
362
334
400
300
200
100
0
2010
2011
2012
2013
2014
2015
2016
2017
thể hiện qua biểu đồ 2.1 dƣới đây:
Biểu đồ 2.1. Tình hình tội phạm cướp giật tài sản từ năm 2010 đến 2017
Nguồn: Công an Thành phố Hà Nội
Tính chất nguy hiểm cho xã hội của tình hình cƣớp giật tài sản còn
đƣợc thể hiển qua phƣơng thức, thủ đoạn phạm tội. Trƣớc đây, tội phạm cƣớp
giật tài sản đa số do bộc phát, do hoàn cảnh tức thời, mức độ ít nghiêm trọng.
nhƣng thời gian gần đây, tội phạm cƣớp giật tài sản có nhiều mƣu mô, thủ
đoạn nhằm chiếm đoạt tài sản của ngƣời khác bằng nhiều chiêu thức tấn công
ngƣời bị hại rất bất ngờ hoặc tạo ra sự bất ngờ cho ngƣời khác để chiếm đoạt
tài sản. Tội phạm cƣớp giật tài sản còn có sự chuẩn bị trƣớc và rất quyết tâm
thực hiện tội phạm đến cùng. Các đối tƣợng phạm tội thƣờng rình rập tại các
ngân hàng, hiệu vàng, cửa hàng cầm đồ, những nơi vắng vẻ, đêm tối,.. và
nhằm vào đối tƣợng là những ngƣời mang theo tài sản giá trị lớn. Phƣơng tiện
để thực hiện hành vi phạm tội cƣớp giật tài sản là xe máy đã tháo biển số, lắp
biển số giả hoặc che biển số nhằm mục đích trốn thoát khỏi sự truy bắt sau
khi thực hiện hành vi cƣớp giật. Hiện tƣợng chuẩn bị phạm tội cƣớp giật tài
sản còn thể hiện ở việc các đối tƣợng phạm tội tạo thành băng, nhóm đi theo
từng tốp để che chắn, hỗ trợ cho đồng bọn thực hiện hành vi cƣớp giật tài sản
43
và tẩu thoát. Phụ nữ là đối tƣợng mà tội phạm chọn để thực hiện hành vi cƣớp
giật tài sản, vì phụ nữ ít có khả năng chống trả và dễ dàng thoát thân. Có thể
nói, chƣa khi nào các đối tƣợng cƣớp giật tài sản lại nghĩ ra nhiều phƣơng
thức, thủ đoạn phạm tội nhƣ thời gian qua.
Các đối tƣợng cƣớp giật tài sản thƣờng tập trung gây án ở các khu vực
có sự đô thị hoá nhanh, vì tại đây ngƣời nhập cƣ đông, quản lý nhân khẩu
không theo kịp sự gia tăng của dân cƣ, các cơ sở kinh doanh dịch vụ phát
triển nhanh trong khi đó các cấp quản lý tại cơ sở chƣa có biện pháp quản lý
chặt chẽ, vì vậy các đối tƣợng thƣờng lợi dụng ẩn náu để phạm tội. Sau khi
phạm tội các đối tƣợng thƣờng thay đổi chỗ ở để trốn tránh điều tra của Công
an và chuyển đến địa điểm mới để thực hiện hành vi cƣớp giật tài sản.
Số đối tƣợng phạm tội cƣớp giật sau khi thụ án quay trở lại phạm tội
chiếm tỷ lệ lớn. Đa số tính chất mức độ của hành vi phạm tội trở lại cao hơn,
nguy hiểm hơn so với hành vi phạm tội lần đầu và các đối tƣờng thƣờng có
nhiều mánh khoé đối phó với các với các cơ quan chức năng. Phần lớn ngƣời
tái phạm nghĩ ra nhiều mƣu mô, thủ đoạn để thực hiện hành vi đến cùng, có
nhiều đối tƣợng thực hiện hành vi nguy hiểm một cách quyết liệt, thể hiện ý
thức phạm tội nằm sâu trong tiềm thức họ. Rất nhiều các đối thƣợng thực hiện
hành vi phạm tội là các đối tƣợng nghiện ma tuý, mới đi cai nghiện về hoặc
mới ra tù, thậm chí có đối tƣợng đã nhiễm HIV và sống với tâm lý “không
còn gì để mất”. Nghiện ma tuý là một tệ nạn xã hội rất nguy hại có tác động
rất lớn đến các mối quan hệ xã hội đƣợc pháp luật bảo vệ. Đặc biệt, nó góp
phần không nhỏ vào sự gia tăng số tội phạm cƣớp giật tài sản.
Nhân thân ngƣời phạm tội cƣớp giật tài sản có đặc trƣng là nghiện ma
túy, trình độ văn hóa thấp, thất nghiệp. Trình độ văn hóa thấp dẫn đến thiếu
hiểu biết về pháp luật cũng nhƣ nhận thức lệch chuẩn về các vấn đề xã hội.
Tình trạng thất nghiệp sẽ dẫn đến không có thu nhập để đáp ứng nhu cầu bản
thân. Hai yếu tố đó kết hợp với nhau, thúc đẩy tạo ra các hành vi phạm tội
44
cƣớp giật tài sản. Do nhận thức pháp luật và xã hội kém nên những ngƣời
phạm tội cƣớp giật tài sản trở nên liều lĩnh, táo bạo.
Tính chất hành vi cƣớp giật tài sản là trực tiếp xâm phạm tới tài sản của
ngƣời khác một cách trắng trợn, không che dấu hành vi phạm tội. Do đó, ngƣời
phạm tội cƣớp giật tài sản là nam giới chiếm 97%, trong đó 91% là ngƣời thành
niên đang trong độ tuổi lao động và 9% còn lại là số chƣa thành niên. Đây là hệ
lụy rất lớn cho đất nƣớc nói chung và cho sự nghiệp xây dựng, phát triển Thủ
đô nói riêng.
Trong nghiên cứu 200 vụ án, với 425 đối tƣợng phạm tội cƣớp giật tài sản
đƣợc khảo sát thì số đối tƣợng trên địa bàn Thành phố Hà Nội là 252 ngƣời
phạm tội, chiếm tỷ lệ 59,29%, ở các tỉnh khác đến địa bàn Thành phố hoạt động
là 167 ngƣời, chiếm tỷ lệ 39,29% và còn lại là nghiện ngập không nơi cƣ trú cố
định. Nhƣ vậy chiếm tỷ lệ cao nhất là diện đối tƣợng cƣ trú trên địa bàn Thành
phố Hà Nội và thấp nhất là các đối tƣợng không có nơi cƣ trú. Qua nghiên cứu
các vụ án do các đối tƣợng tỉnh ngoài đến Hà Nội để cƣớp giật tài sản thì các đối
tƣợng không hoạt động riêng lẻ mà câu kết với nhau thành từng nhóm có bàn
bạc có tổ chức, một số còn câu kết với các đối tƣợng trên địa bàn để hoạt động
phạm tội. Các đối tƣợng tỉnh ngoài thƣờng đến Hà Nội và thực hiện cƣớp giật
đƣợc tài sản xong thì lập tức quay về và đi tiêu thụ tài sản xong lấy tiền tiêu sài,
chứ không ở lại Hà Nội, tài sản chủ yếu chúng cƣớp đƣợc đƣợc là điện thoại và
túi xách đắt tiền.
45
Biểu đồ 2.2. Số vụ và số bị cáo cướp giật tài sản trên địa bàn
Thành phố Hà Nội từ năm 2010 đến năm 2017
Nguồn: Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội
Qua số liệu thống kê xét xử ở biểu đồ 2.4. cho thấy từ năm 2010 đến
năm 2017 hàng năm số vụ và số bị cáo bị xét xử về tội cƣớp giật tài sản tuy ít
nhƣng phức tạp, số vụ tuy giảm nhƣng số bị cáo tăng. Số liệu trên cũng cho ta
thấy tình hình tội phạm cƣớp giật tài sản có diễn biến tăng giảm thất thƣờng
cho thấy nguy cơ tăng đột biến của tội phạm này trên địa bàn Thành phố Hà
Nội. Số bị cáo tăng cho thấy tội phạm cƣớp giật tài sản không hoạt động đơn
lẻ, ngày càng phức tạp, phần lớn là có tổ chức phân công chặt chẽ giữa các
đối tƣợng, bằng những thủ đoạn tinh vi có bài bản để lôi kéo các đối tƣợng
tham gia cũng nhƣ chọn đối tƣợng để thực hiện tội phạm.
- Tình hình xét xử các vụ án tội cƣớp giật tài sản tại thành phố Hà Nội
từ năm 2010 - 2017.
46
Bảng 2.1: Bảng thống kê số lượng thụ lý và giải quyết vụ án tội phạm cướp
giật tài sản tại thành phố Hà Nội từ năm 2010 - 2017
Thụ lý Giải quyết Năm
2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 Tổng Vụ 222 219 168 192 173 190 153 116 992 Bị cáo 344 353 266 287 258 292 218 149 1,470 Vụ 217 200 164 175 157 162 138 110 906 Bị cáo 330 322 255 262 225 234 194 139 1,309
Nguồn: Báo cáo tổng kết của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội
Bảng 2.2: Bảng thống kê số lượng thụ lý và giải quyết vụ án tội phạm hình
sự tại thành phố Hà Nội từ năm 2010 - 2017
Thụ lý Giải quyết Năm
2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 Tổng Vụ 6,725 8,509 9,538 9,378 9,142 8,887 7,753 7,757 52,455 Bị cáo 12,181 15,493 17,884 16,393 16,524 14,931 13,116 13,144 91,992 Vụ 6,669 8,452 9,490 9,270 9,063 8,702 1,670 7,667 45,862 Bị cáo 11,991 15,318 17,716 16,111 16,257 14,479 12,820 12,804 90,187
Theo thống kê của Phòng Cảnh sát Hình sự - Công an Thành phố Hà
Nội thì từ đầu năm 2010 đến cuối năm 2017 trên địa thủ đô đã xảy ra 26.105
vụ phạm pháp hình sự, trung bình mỗi năm xảy ra 5.221 vụ. Trong đó, các tội
xâm phạm sở hữu đã xảy ra 18.847 vụ, chiếm 72,2% trong tổng số các vụ
47
phạm pháp hình sự. Trong nhóm tội xâm phạm sở hữu đã xảy ra, đặc biệt
đáng chú ý là đã phát hiện xảy ra 2.282 vụ cƣớp giật tài sản, trong đó nổi lên
tình trạng cƣớp giật tài sản của ngƣời nƣớc ngoài và các du khách khi đến
thăm quan, hợp tác, đầu tƣ... tại Thủ đô. Tính nguy hiểm của hành vi cƣớp
giật tài sản thể hiện ở việc các đối tƣợng đã hình thành băng nhóm, hoạt động
có tổ chức, gây án liên tục, rất manh động, liều lĩnh, táo bạo và sẵn sàng
chống trả nếu bị truy đuổi khi thực hiện hành vi cƣớp giật tài sản. Tội cƣớp
giật tài sản đã và đang gây ra những thiệt hại nghiêm trọng về tài sản, sức
khỏe của ngƣời khác, gây tâm lý hoang mang, lo lắng lan rộng trong nhân
dân, tác động xấu tới tình hình an ninh trật tự ở Thủ đô. Trƣớc tình hình đó,
các cơ quan bảo vệ và áp dụng pháp luật đã tích cực đấu tranh ngăn chặn các
hành vi xâm phạm sở hữu, nhất là hành vi cƣớp giật tài sản nhằm lập lại trật
tự xã hội để không ảnh hƣởng đến môi trƣờng du lịch, hợp tác, đầu tƣ...trên
địa bàn Thủ đô.
2.2.3. Thiết lập, hoàn thiện các thiết chế tổ chức thực hiện pháp luật
trong phòng ngừa, đấu tranh phòng chống tội phạm cướp giật tài sản ở Hà Nội
Hiến pháp 2013 quy định Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nƣớc cao
nhất của nƣớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền hành
pháp, là cơ quan chấp hành của Quốc hội, có nhiệm vụ tổ chức thi hành Hiến
pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thƣờng
vụ Quốc hội, lệnh, quyết định của Chủ tịch nƣớc (Điều 96); Thủ tƣớng Chính
phủ lãnh đạo việc tổ chức thi hành pháp luật (Điều 98); Bộ trƣởng, Thủ trƣởng
cơ quan ngang bộ tổ chức thi hành và theo dõi việc thi hành pháp luật liên quan
đến ngành, lĩnh vực trong phạm vi toàn quốc (Điều 99).
Hiện thực hóa Hiến pháp. Đảng, chính quyền thanh phố Hà Nội ban
hành nhiều văn bản quyết định việc thực hiện các biện pháp bảo đảm thi hành
Hiến pháp và pháp luật ở địa phƣơng; bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp
48
của cơ quan, tổ chức và công dân; áp dụng các biện pháp phòng ngừa, ngăn
chặn các hành vi vi phạm pháp luật trong đó có tội cƣớp giật tài sản.
Các tổ chức đảng trên địa bàn thành phố Hà Nội giữ vai trò lãnh đạo
toàn diện trong đó có việc thực hiện pháp luật trên địa bàn thành phố Hà Nội,
đề ra các chủ trƣơng, đƣờng lối và yêu cầu các tổ chức và đảng viên của Đảng
gƣơng mẫu trong thực hiện pháp luật và tuyên truyền, vận động, kiểm tra việc
thực hiện pháp luật trong đó có phòng ngừa, đấu tranh phòng chống tội phạm
cƣớp giật tài sản.
Các đoàn thể và tổ chức xã hội là lực lƣợng to lớn trong thực hiện pháp
luật của Nhà nƣớc và tuyên truyền, phổ biến và động viên các hội viên, tổ
chức của mình cũng nhƣ toàn dân thực hiện pháp luật và giám sát việc thi
hành pháp luật. Các tổ chức này đóng góp vai trò quan trọng trong Các tổ
chức đảng: giữ vai trò lãnh đạo toàn diện trong đó có việc thực hiện pháp luật
ở địa phƣơng. Đảng đề ra các chủ trƣơng, đƣờng lối và yêu cầu các tổ chức và
đảng viên của Đảng gƣơng mẫu trong thực hiện pháp luật và tuyên truyền,
vận động, kiểm tra việc thực hiện pháp luật trong đó có phòng ngừa, đấu tranh
phòng chống tội phạm cƣớp giật tài sản.
Công an nhân dân, Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân các cấp
của Thành phố Hà Nội là những cơ quan bảo vệ pháp luật, bảo vệ lợi ích của
Nhà nƣớc, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân đây là
những cơ quan tham gia trực tiếp vào công tác phòng ngừa, đấu tranh phòng
chống tội phạm cƣớp giật tài sản.
Với đặc thù của tình hình tội phạm và an ninh trật tự của Thủ đô. Thành
phố Hà Nội đã xây dựng những thiết chế đặc biệt để nâng cao hiệu quả của
công tác phòng ngừa, đấu tranh phòng chống tội phạm cƣớp giật tài sản cụ thể
nhƣ: Mô hình tuần tra liên ngành 141 của Công an Thành phố: Tổ chức các tổ
Cảnh sát gồm 3 lực lƣợng Cảnh sát giao thông, Cảnh sát Hình sự, Cảnh sát
Cơ động chốt chặn, kiểm tra hành chính các đối tƣợng có biểu hiện nghi vấn,
49
vi phạm luật giao thông từ đó phát hiện các đối tƣợng phạm tội; Mô hình Tổ
Cảnh sát 142 tại các bệnh viện, bến xe, bến tàu để triệt xóa nạn cò mồi, móc
túi, trộm cắp, cƣớp giật tài sản tại các bệnh viện, bến xe, bến tàu.
2.2.4. Tuyên truyền, phổ biến pháp luật về phòng, chống tội phạm
cướp giật tài sản cho nhân dân
Việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật về phòng, chống tội phạm cƣớp
giật tài sản cho nhân dân là một trong những nội dung quan trọng của tổ chức
thực hiện pháp luật trong phòng ngừa, đấu tranh phòng chống tội phạm cƣớp
giật tài sản. Mặc dù cùng với sự phát triển kinh tế xã hội của Hà Nội những
năm qua, trình độ dân trí, ý thức pháp luật của ngƣời dân ngày càng đƣợc
nâng cao nhƣng ý thức pháp luật trong nhân dân vẫn còn nhiều hạn chế, ý
thức bảo vệ tài sản của mình cũng còn chƣa thực sự đủ mức cảnh giác cần
thiết trƣớc tình hình phạm tội cƣớp giật tài sản ngày một tinh vi và táo bạo
hơn. Một bộ phận không nhỏ nhân dân trình độ nhận thức pháp luật kém.
Kiến thức pháp luật của nhân dân, đặc biệt những vùng nông thôn, ngoại
thành còn thấp. Điều đáng cảnh báo là số vụ cƣớp giật tài sản trên địa bàn
Thủ đô vẫn gia tăng theo những thành tựu đạt đƣợc về phát triển kinh tế. Các
vụ cƣớp giật tài sản xảy ra nhiều vụ phạm tội, có những vụ rất thƣơng tâm và
đau lòng. Có ngƣời sẵn sàng cƣớp giật tài sản chỉ vì cần tiền hút trích, ăn chơi
hay để trả thù. Hiện nay, ở nƣớc ta một bộ phận thanh thiếu niên trình độ văn
hoá nói chung, trình độ nhận thức pháp luật cũng nhƣ ý thức pháp luật rất
thấp. Số vụ vi phạm pháp luật ở tuổi vị thành niên ngày càng tăng và phức tạp
hơn… Ở nhiều địa bàn trên cả nƣớc hiện tƣợng thanh thiếu niên bỏ học, bỏ
nhà đi lang thang, ăn chơi sa đoạ dẫn đến phạm pháp với các hành vi: Nghiện
ngập, giết ngƣời, cƣớp của, trộm cắp, cƣớp tài sản… trở thành nỗi lo ngại cho
gia đình và xã hội. Tất cả những điều đó đã và đang gióng một tiếng chuông
cảnh báo về tình trạng vi phạm pháp luật hiện nay ở nƣớc ta. Những vi phạm
đó xuất phát rất nhiều từ vấn đề ý thức pháp luật của quần chúng.. Những
50
hành vi vi phạm pháp luật của ngƣời dân có thể do không nhận thức đƣợc
hành động của mình, có thể nhận thức đƣợc nhƣng vẫn cố tình vi phạm vì
mục đích cá nhân. Ngoài ra còn nhiều nguyên nhân khác nhƣ những ảnh
hƣởng tiêu cực của nền kinh tế thị trƣờng, sự tác động của tƣ tƣởng, tâm lý xã
hội tiêu cực, lạc hậu…
Công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về phòng, chống tội phạm
cƣớp giật cho nhân dân Hà Nội từ năm 2010 đến năm 2017 tập trung vào
tuyên truyền, phổ biến những văn bản sau:
- Nghị quyết số 37/2012/QH13 của Quốc hội ngày 23/11/2012 về công
tác phòng, chống vi phạm pháp luật và tội phạm, công tác thi hành án năm 2013.
- Nghị quyết số 63/2013/QH13 ngày 27/11/2013 của Quốc hội về tăng
cƣờng các biện pháp đấu tranh phòng, chống tội phạm.
- Nghị quyết số 111/2015/QH13 ngày 27/11/2015 của Quốc hội về công
tác phòng, chống vi phạm pháp luật và tội phạm, công tác của Viện kiểm sát
nhân dân, của Toà án nhân dân và công tác thi hành án năm 2016 và các năm
tiếp theo.
- Nghị quyết số 21/NQ-CP ngày 12/5/2009 của Chính phủ về Chiến
lƣợc quốc gia phòng, chống tham nhũng đến năm 2020.
- Nghị quyết số 98/NQ-Cp ngày 26/12/2014 của Chính phủ về tăng
cƣờng chỉ đạo công tác phòng, chống, kiểm soát và cai nghiện ma túy trong
tình hình mới…
- Tội cƣớp giật tài sản quy định tại Điều 171 Bộ luật hình sự 2015. Trƣớc
đó đƣợc quy định tại điều 136 Bộ luật hình sự 1999 và tại Điều 131 và Điều 154
Bộ luật hình sự năm 1985. Theo quy định tại điều 171 BLHS 2015, tội cƣớp giật
tài sản đƣợc thiết kế thành 05 khoản. Trong đó khoản 1 quy định cấu thành cơ
bản của tội phạm cƣớp giật tài sản. Khoản 2,3,4 quy định cấu thành tăng nặng
đối với tội phạm này và khoản 5 quy định về hình phạt bổ sung.
51
- Thông tƣ liên tịch số 02/TTLT/TAND-VKS-BCA-BTP giữa Tòa án
nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an và Bộ Tƣ pháp
ban hành ngày 25/12 hƣớng dẫn áp dụng một số quy định trong chƣơng XIV -
Các tội xâm phạm sở hữu của Bộ luật hình sự năm 1999 trong đó có qui định
về phƣơng hƣớng xét xử một số tội xâm phạm sở hữu trong đó có tội cƣớp
giật tài sản nhƣ:
+ Từ sự quan tâm chỉ đạo sát sao của Đảng và hệ thống chính quyền nói
chung. Với đặc thù diễn biến về tình hình tội phạm cƣớp giật tài sản của thủ đô
Hà Nội. Thành phố Hà Nội đã ban hành những chỉ thị, quyết định quy định về
trách nhiệm, cơ cấu tổ chức, thành lập những cơ quan đặc biệt để phục vụ công
tác phòng chống tội phạm, đặc biệt là tội phạm cƣớp giật tài sản.
2.2.5. Đảm bảo các nguồn lực về con người, về cơ sở vật chất đối với
hoạt động phòng chống tội phạm cướp giật tài sản
Công an nhân dân, Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân các cấp
của Thành phố Hà Nội là những cơ quan tham gia trực tiếp vào công tác
phòng ngừa, đấu tranh phòng chống tội phạm cƣớp giật tài sản. Những cơ
quan này đƣợc đảm bảo về ngân sách hoạt động, có một đội ngũ công chức
đƣợc đào tạo về chuyên môn đáp ứng đƣợc yêu cầu của hoạt động phòng
chống tội phạm nói chung và tội cƣớp giật tài sản nói riêng.
Kinh phí, trang thiết bị hỗ trợ cho hoạt động nghiệp vụ trinh sát để
phòng ngừa tội phạm cƣớp giật tài sản trên các tuyến giao thông đƣờng bộ địa
bàn thành phố Hà Nội đã đƣợc quan tâm ở mức độ nhất định.
2.2.6. Kiểm tra, thanh tra, giám sát việc thực hiện pháp luật trong
phòng ngừa, đấu tranh phòng chống tội phạm cướp giật tài sản
Hoạt động kiểm tra, thanh tra, giám sát việc thực hiện pháp luật trong
phòng ngừa, đấu tranh phòng chống tội phạm cƣớp giật tài sản ở Hà Nội đƣợc
thực hiện theo qui định của pháp luật gồm:
52
- Hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân các cấp ở Hà Nội đối với
Ủy ban nhân dân cùng cấp trong việc thi hành pháp luật nói chung và pháp luật
trong phòng ngừa, đấu tranh phòng chống tội phạm cƣớp giật tài sản nói riêng.
- Hoạt động thanh tra, kiểm tra của Uỷ ban nhân dân các cấp ở Thành
phố Hà Nội và các cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân.
- Hoạt động giám sát xã hội của các đoàn thể quần chúng đối với hoạt
động thi hành pháp luật của cơ quan nhà nƣớc.
- Giám sát của công dân đối với hoạt động thi hành pháp luật của cơ
quan Nhà nƣớc.
2.3. Đánh giá về tổ chức thực hiện pháp luật trong phòng ngừa, đấu
tranh phòng chống tội phạm cƣớp giật tài sản trên địa bàn thành phố Hà
Nội từ năm 2010 - 2017
2.3.1. Những kết quả đạt được
Với vai trò là thủ đô của đất nƣớc, Thành phố Hà Nội luôn đƣợc Đảng,
Nhà nƣớc quan tâm, tạo điều kiện tốt nhất để bảo vệ an ninh chính trị, trật tự
an toàn xã hội. Tuy nhiên, Hà Nội là thành phố lớn, hàng ngày diễn ra nhiều
hoạt động trên các mặt kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội và ngày càng phát
triển. Hoạt động phạm tội cũng thƣờng xuyên diễn ra và phát triển theo xu
hƣớng chung, đe dọa sự ổn định trật tự an toàn xã hội, gây ảnh hƣởng xấu đến
các mặt kinh tế - chính trị. Nhiệm vụ đảm bảo, giữ gìn an ninh chính trị và trật
tự an toàn xã hội trên địa bàn Hà Nội là rất quan trọng. Để thực hiện nhiệm vụ
quan trọng này, thành phố Hà Nội phải kiềm chế đƣợc sự gia tăng của tội
phạm, làm giảm các loại án có tính chất nghiêm trọng cao, nâng cao hiệu quả
công tác điều tra, khám phá các vụ phạm pháp đi đôi với công tác phòng
chống tội phạm nói chung và tội phạm cƣớp giật tài sản nói riêng.
Thành phố Hà Nội luôn tổ chức các mặt công tác phòng, chống tội
phạm nhằm kiềm chế sự gia tăng của tội phạm cƣớp giật tài sản với hai hƣớng
cơ bản đó là: phổ biến, tuyên truyền trên phƣơng tiện thông tin đại chúng nhƣ
53
báo chí, truyền thanh, truyền hình qua đó tạo ý thức, nâng cao hiểu biết cho
nhân dân về thủ đoạn hoạt động của bọn tội phạm, giúp nhân dân chủ động và
tự giác trong việc thực hiện các biện pháp phòng ngừa tội phạm. Về phía Nhà
nƣớc, cơ quan Công an phối hợp với chính quyền địa phƣơng trong việc tập
huấn kỹ năng phòng, chống tội phạm, thành lập lực lƣợng tự quản, lập chốt
phòng, chống tội phạm…
Về phía ngƣời dân, qua việc tôn vinh, khen thƣởng các điển hình tiến
tiến, ngƣời tốt việc tốt… đã góp phần phát huy vai trò của nhân dân trong việc
phát hiện và tố giác tội phạm, nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổ chức
quần chúng làm nòng cốt trong phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ
quốc, qua đó phát huy đƣợc sức mạnh tổng hợp của nhân dân trong phòng
ngừa tội phạm cƣớp giật tài sản. Về phía các tổ chức chính trị - xã hội, thông
qua các hoạt động, phong trào của tổ chức mình nhƣ thanh niên tình nguyện,
phụ nữ đảm đang… đã tạo sân chơi, môi trƣờng sinh hoạt lành mạnh cho các
thành viên đồng thời giúp cho các đối tƣợng phạm pháp, nghiện ma túy, lầm
lỡ tái hòa nhập cộng đồng, ngăn chặn nguy cơ tái phạm hoặc phạm tội.
- Về việc ban hành văn bản pháp luật hướng dẫn, triển khai thục hiện
các qui định của pháp luật trong phòng ngừa, đấu tranh phòng chống tội
phạm cướp giật tài sản.
Các cơ quan của Thành phố Hà Nội nhƣ Ủy ban nhân dân Thành phố
Hà Nội, Công an Thành phố Hà Nội đã quan tâm và kịp thời ban hành các văn
bản pháp luật để triển khai thực hiện các biện pháp tổ chức thực hiện pháp
luật trong phòng ngừa, đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung và đặc biệt
đối với tội phạm cƣớp giật tài sản nói riêng nhƣ: Kế hoạch số 1285/CAHN
ngày 25/4/2017 về phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm cƣớp, cƣớp giật tài sản,
trộm cắp tài sản trên địa bàn Thành phố; Thông báo số 636/TB- PC45(Đ8)
ngày 10/4/2015 về chủ động phòng ngừa, ngăn chặn có hiệu quả tội phạm
cƣớp, cƣớp giật tài sản trên địa bàn Thành phố…Các văn bản này là cơ sở để
54
các chủ thể có trách nhiệm chủ động triển khai thực hiện có hiệu quả các qui
định của pháp luật trong phòng ngừa, đấu tranh phòng chống tội phạm cƣớp
giật tài sản trên địa bàn Thành phố Hà Nội.
- Về công tác điều tra, khám phá các vụ cướp giật tài sản tại thành phố
Hà Nội:
Song song với việc chủ động thực hiện các biện pháp phòng, chống tội
phạm cƣớp giật tài sản, Thành phố Hà Nội cũng tiến hành đấu tranh có hiệu
quả với mọi hành vi phạm tội, tập trung điều tra làm rõ, đƣa xử lý kịp thời các
vụ cƣớp giật tài sản. Qua việc làm tốt công tác điều tra, xử lý nghiêm minh tội
phạm cƣớp giật tài sản cũng tạo điều kiện cho công tác phòng chống tội phạm
cƣớp giật tài sản. Theo thống kê về số vụ án đã xét xử từ năm 2010 - 2017,
Toà án nhân dân Thành phố Hà Nội đã xét xử sơ thẩm đối với 12.689 vụ xâm
phạm sở hữu tƣơng ứng với 24.311 bị cáo, trong đó tội cƣớp giật tài sản 848
vụ với 1.311 bị cáo, bình quân mỗi năm đƣa ra xét xử 169 vụ 262 bị cáo, kết
quả trên cho thấy thực trạng của tình hình tội cƣớp giật tài sản về số lƣợng các
vụ và số ngƣời thực hiện cƣớp giật tài sản trên địa bàn Thủ đô ở từng giai
đoạn khác nhau. Từ đó phần nào đã giúp chúng ta thấy đƣợc bức tranh về tình
hình tội phạm cƣớp giật tài sản xảy ra trong đời sống của xã hội của Thủ đô.
Trong công tác điều tra các vụ cƣớp giật tài sản, cơ quan điều tra đã
quan tâm và tập trung điều tra bóc dỡ nhiều băng nhóm tội phạm có tính
chuyên nghiệp, gây án liên tục. Hoạt động điều tra đó đƣợc tăng cƣờng củng
cố ở các khâu, từ khâu tiếp nhận tin báo tội phạm, công tác thu thập chứng cứ
đƣợc tiến hành khẩn trƣơng, kịp thời. Đặc biệt trong điều tra truy xét nóng các
vụ án, thông tin thu thập đƣợc của lực lƣợng điều tra tại hiện trƣờng đó đƣợc
thực hiện tốt, do đó kết quả điều tra đạt đƣợc khá cao. Đã tập trung chỉ đạo tốt
việc điều tra làm rõ hành vi của từng ngƣời phạm tội trong các vụ cƣớp giật
tài sản, tập hợp đầy đủ chứng cứ chứng minh hành vi phạm tội để đƣa ra truy
tố xét xử. Công tác mở rộng điều tra vụ án cũng thực hiện tốt, đây là một
55
nguyên nhân của việc những năm gần đây tỷ lệ điều tra khám phá tội phạm
cƣớp giật tài sản đạt cao.
Qua nghiên cứu 348 đối tƣợng phạm tội cƣớp giật tài sản trên các tuyến
giao thông đƣờng bộ bị bắt giữ cho thấy đặc điểm về nhân thân đối tƣợng
phạm tội: số đối tƣợng phạm tội chủ yếu là nam giới (chiếm tỷ lệ 98,9%,
322/348 đối tƣợng, không nghề nghiệp (chiếm 80,8%, 281/348 đối tƣợng), ở
độ tuổi trung bình từ 18 đến 30 tuổi (chiếm tỷ lệ 51,4%, 195/348 đối tƣợng).
Số đối tƣợng phạm tội không có tiền án, tiền sự chiếm tỷ lệ lớn (83%,
287/348 đối tƣợng). Về trình độ học vấn của đối tƣợng phạm tội chủ yếu là
trung học phổ thông trở xuống (chiếm 94,3%). Từ kết quả trên cho thấy tội
phạm cƣớp giật tài sản chủ yếu là các đối tƣợng đang ở độ tuổi vàng về sức
khỏe nhƣng lại không làm việc để nuôi sống bản thân và cống hiến cho xã hội
mà lại có suy nghĩ tiêu cực đi cƣớp của ngƣời khác về tiêu dùng.
Về phƣơng thức, thủ đoạn phạm tội: Qua nghiên cứu thực tế cho thấy,
thủ đoạn gây án phổ biến là: Trƣớc khi thực hiện hành vi phạm tội cƣớp giật
tài sản, đối tƣợng thƣờng có sự chuẩn bị về thủ đoạn cƣớp giật tài sản,
phƣơng án tẩu thoát, nơi tiêu thụ tài sản cƣớp giật đƣợc; tìm kiếm, lựa chọn,
nghiên cứu mục tiêu tấn công; lựa chọn thời gian, địa điểm gây án; chuẩn bị
phƣơng tiện, hóa trang. Khi thực hiện hành vi phạm tội, đối tƣợng thƣờng đột
ngột tăng tốc độ áp sát phƣơng tiện của ngƣời có tài sản rồi bất ngờ, nhanh
chóng giằng giật tài sản. Trƣờng hợp hoạt động theo ổ, nhóm, các đối tƣợng
thƣờng phân công nhiệm vụ rõ ràng nhƣ: các đối tƣợng có nhiệm vụ giật tài
sản, các đối tƣợng còn lại có nhiệm vụ cản đƣờng. Sau khi chiếm đoạt đƣợc
tài sản của ngƣời bị hại, các đối tƣợng phạm tội thƣờng điều khiển xe lạng
lách, đánh võng, chạy xe với tốc độ cao để tẩu thoát và hạn chế khả năng nhận
dạng của ngƣời bị hại, ngƣời làm chứng, ngƣời tham gia đuổi bắt.
Về thời gian, địa điểm gây án: Thực tiễn cho thấy, các đối tƣợng phạm
tội có thể gây án vào bất cứ thời gian nào, tuy nhiên thời điểm xảy ra nhiều
56
nhất là khoảng thời gian từ 16 giờ đến 22 giờ hằng ngày vì đây là thời gian
lƣợng ngƣời tham gia giao thông nhiều, là thời điểm mọi ngƣời đi làm về, đi
dạo mát, tập thể dục, đi mua sắm, thƣờng mang nhiều tài sản, đồ trang sức.
Địa điểm tội phạm cƣớp giật tài sản thƣờng xảy ra trên các tuyến giao thông
đƣờng bộ ở các đƣờng Quốc lộ, tuyến phố vắng ngƣời, đặc biệt là khu vực
các tuyến đƣờng đê các quận huyện ngoại thành. Nguyên nhân của tình trạng
này là do tại các tuyến đƣờng trên tập trung nhiều ngƣời tham gia giao thông
nhất là các khu công nghiệp, ngƣời dân thƣờng lơ là, mất cảnh giác trong
quản lý tài sản. Đây là những tuyến đƣờng giao thông dễ tẩu thoát hoặc có sự
đan xen với hàng nghìn các ngõ, ngách là điều kiện thuận lợi để các đối tƣợng
phạm tội cƣớp giật tài sản hoạt động cũng nhƣ chạy trốn khi bị đuổi bắt.
Về tài sản bị chiếm đoạt: Tài sản mà đối tƣợng phạm tội chiếm đoạt
thƣờng là tài sản gọn nhẹ, có giá trị, dễ tiêu thụ nhƣ túi xách, điện thoại di
động, đồ trang sức ngƣời bị hại đeo trên ngƣời, máy tính xách tay mà ngƣời
mang theo tài sản thƣờng mất cảnh giác trong quản lý, cất giữ.
Về ngƣời bị hại: Qua nghiên cứu thực tiễn cho thấy, ngƣời bị hại hầu
hết là phụ nữ, học sinh, sinh viên, trẻ em (chiếm tỷ lệ 96,2%). Những ngƣời
này có thể trạng yếu, có nhiều sơ hở trong quản lý tài sản, mất cảnh giác, họ
thƣờng sử dụng đồ trang sức có giá trị nhƣ dây chuyền, bông tai, điện thoại,
đây là những tài sản gọn nhẹ, dễ cất giấu, tiêu thụ sau khi chiếm đoạt. Mặt
khác, phản ứng của phụ nữ trƣớc hành vi cƣớp giật tài sản thƣờng hoảng sợ,
mất kiểm soát, không nhanh nhẹn, không có khả năng đuổi bắt, do đó để đối
tƣợng phạm tội dễ dàng tẩu thoát.
- Trong hoạt động tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật: kể từ khi
Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật năm 2012 có hiệu lực, đặc biệt với đội ngũ
hỗ trợ tƣ pháp nhƣ tuyên truyền viên pháp luật, luật sƣ, xã hội hóa một phần
các hoạt động tƣ pháp đã làm cho công tác tuyên truyền phổ biến giáo dục
57
pháp luật đã đƣợc cải thiện rõ rệt, điều này cũng góp phần nâng cao công tác
phòng chống tội phạm nói chung và tội phạm cƣớp giật tài sản nói riêng...
- Với đặc thù diễn biến về tình hình tội phạm cƣớp giật tài sản của thủ đô
Hà Nội. Thành phố Hà Nội đã thành lập những cơ quan đặc biệt để phục vụ
công tác phòng chống tội phạm, đặc biệt là tội cƣớp giật tài sản hoạt động đạt
kết quả tốt.
Hiện nay, Công an Thành phố Hà Nội đã tổ chức 15 tổ công tác, thƣờng
xuyên tổ chức kiểm tra trên toàn địa bàn thành phố, đã phát hiện trên 100 vụ
và nhiều đối tƣợng có dấu hiệu phạm pháp hình sự bàn giao cho các đơn vị
chức năng giải quyết theo thẩm quyền xử lý theo quy định. Qua công tác kiểm
tra đã phát hiện, đấu tranh ban đầu làm cơ sở để đấu tranh, làm rõ rất nhiều
đối tƣợng cƣớp giật tài sản.
Mô hình Tổ Cảnh sát 142 tại các bệnh viện, bến xe, bến tàu đang hoạt
động rất hiệu quả với 15 tổ công tác, tạo đƣợc sự an tâm cho nhân dân khi
khám chữa bệnh và đi lại trong thành phố.
- Hoạt động theo dõi đánh giá công tác tổ chức thực hiện pháp luật
trong phòng ngừa, đấu tranh phòng và chống tội phạm cƣớp giật tài sản đƣợc
thực hiện theo Nghị định số 59/2012/NĐ-CP của Chính phủ quy định về theo
dõi tình hình thi hành pháp luật, có hiệu lực kể từ ngày 01/10/2012 đã đảm
bảo chính xác, hệ thống, cụ thể, phục vụ cho việc tổ chức thực hiện pháp luật
trong phòng ngừa, đấu tranh phòng chống tội phạm cƣớp giật tài sản.
- Đội ngũ công chức có trách nhiệm trong tổ chức thực hiện pháp luật
về phòng ngừa, đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung và tội phạm cƣớp
giật tài sản nói riêng đƣợc quan tâm cả về số lƣợng và chất lƣợng. Cơ sở vật
chất, trang thiết bị đối với hoạt động tổ chức thực hiện pháp luật phòng chống
tội phạm cƣớp giật tài sản ngày càng đầy đủ hơn.
- Công tác kiểm tra, thanh tra việc thực hiện pháp luật trong phòng
ngừa, đấu tranh phòng chống tội phạm cƣớp giật tài sản đƣợc tiến hành
58
thƣờng xuyên góp phần nâng cao hiệu quả tổ chức thực hiện pháp luật phòng
chống tội phạm cƣớp giật tài sản.
2.3.2. Những tồn tại, hạn chế
Bên cạnh những kết quả đạt đƣợc trong tổ chức thực hiện pháp luật về
phòng ngừa, đấu tranh phòng chống tội phạm cƣớp giật tài sản còn tồn tại
những hạn chế sau:
- Còn nhiều các vụ cƣớp giật tài sản xảy ra mà chƣa đƣợc đƣa ra ánh
sáng, chƣa đƣợc phát hiện, xử lý theo quy định của pháp luật hình sự hoặc
không có trong thống kê tội phạm. So sánh số vụ xảy ra, số vụ điều tra khám
phá và số vụ tòa án giải quyết thể hiện trong biểu đồ 2.1 và 2.2 và bảng 2.3 cho
thấy việc phát hiện, điều tra, và xét xử các hành vi cƣớp giật tài sản chƣa đạt
hiệu quả vì những lý do sau:
+ Các đối tƣợng phạm tội luôn muốn che dấu hành vi phạm tội của
mình, tận dụng mọi khả năng, điều kiện có thể để che dấu hành vi phạm tội và
tạo ra những cản trở để tránh sự phát hiện, tố giác tội phạm.
+ Do ngƣời bị hại không muốn trình báo việc bị cƣớp giật tài sản với cơ
quan chức năng, việc không trình báo có thể với lý do tài sản bị cƣớp giật có
giá trị không lớn; bị hại còn mong muốn giữ kín sự kiện phạm tội vì sợ bị lộ,
hoặc bị phiền hà về thông tin tài sản mình có, tài sản bị cƣớp giật...
+ Ngƣời làm chứng không muốn tố giác tội phạm mặc dù có chứng
kiến hành vi phạm tội vì họ sợ mất thời gian đi lại, ngại tiếp xúc với cơ quan
Công an, sợ phiền hà về thủ tục, không tin vào khả năng điều tra, khám phá
của lực lƣợng chức năng hoặc có thể biết đƣợc khi trình báo thì bị trả thù,
hoặc thủ phạm chính là ngƣời thân thích trong gia đình.
- Hoạt động của các cơ quan có trách nhiệm trong tổ chức thực hiện
pháp luật trong phòng ngừa, đấu tranh phòng chống tội phạm cƣớp giật tài sản
hiệu quả chƣa cao. Cụ thể:
59
+ Đối với cơ quan điều tra các cấp: Có chức năng tiếp nhận, giải quyết tin
báo tố giác tội phạm cƣớp giật tài sản đã tiếp nhận nhƣng còn tồn tại việc không
tiến hành các trình tự, thủ tục tiếp theo của quy trình tiếp nhận và giải quyết theo
quy định; các cơ quan có thẩm quyền điều tra các vụ án cƣớp giật tài sản, đã
khởi tố vụ án, tiến hành điều tra theo quy định nhƣng không thể tìm ra ngƣời đã
thực hiện hành vi phạm tội hoặc trong quá trình điều tra, đấu tranh làm rõ hành
vi cƣớp giật tài sản của đối tƣợng nhƣng không tìm thấy bị hại nên đã ra quyết
định tạm đình chỉ điều tra vụ án.
+ Đối với cơ quan Viện Kiểm sát nhân dân các cấp: Qua đánh giá các
dấu hiệu của vụ án đã có trƣờng hợp không phê chuẩn quyết định khởi tố điều
tra một số vụ án cƣớp giật tài sản. Vì vậy, vụ án hoặc đối tƣợng cƣớp giật tài
sản không bị điều tra để đƣa ra xử lý trƣớc pháp luật nên đã đƣợc lọt lƣới
pháp luật.
+ Đối với cơ quan Tòa án: Còn tồn tại việc Hội đồng xét xử trong quá
trình xét xử một vụ án cƣớp giật tài sản đƣa ra một bản án xác định việc phạm
tội của bị cáo, qua công tác phân tích những chứng cứ xác định có tội và
chứng cứ xác định vô tội, đã xác định không đúng các dấu hiệu về hành vi
cƣớp giật tài sản theo quy định tại điều 171 Bộ luật hình sự 2015. Do vậy đã
không phát hiện ra tội phạm và không đƣa ra bản án về cƣớp giật tài sản cho
bị cáo cũng làm ẩn đi tội danh cƣớp giật tài sản của bị cáo.
- Công tác thống kê tội phạm nói chung và tội cƣớp giật tài sản nói
riêng đã đặt ra các tiêu chí thống kê theo quy định có tính chất pháp lý đối với
công tác thống kê chuyên ngành hiện nay, đặc biệt là trong thống kê liên
ngành, từ đó bỏ sót không đƣa vào đƣợc hết, ghi chép đƣợc hết số tội phạm và
số ngƣời phạm tội đã đƣợc các cơ quan tƣ pháp hình sự xử lý. Dẫn chứng: Cơ
quan Công an thống kê số vụ việc phát hiện và khám phá trong năm, trong khi
đó Toà án, Viện Kiểm sát chỉ thống kê số vụ đã khởi tố, xét xử. Nhƣ vậy rõ
ràng có một số lƣợng đáng kể những hành vi phạm tội cƣớp giật tài sản các bị
60
cáo đã thực hiện và đã bị điều tra, truy tố, xét xử và bị tuyên án nhƣng lại
không đƣợc đƣa vào số liệu thống kê tội phạm hàng năm. Đây chính là tội
phạm ẩn thống kê. Các số liệu không đƣợc đƣa vào dẫn đến việc đánh giá các
số liệu tình hình tội phạm cƣớp giật tài sản cũng không đƣợc chính xác.
- Công tác tuyên truyền pháp luật trong phòng ngừa, đấu tranh phòng
chống tội phạm cƣớp giật tài sản trong quần chúng chƣa toàn diện, chƣa sâu
rộng và chƣa hiệu quả. Công tác tuyên truyền mặc dù đã đƣợc triển khai
nhƣng các đơn vị làm chƣa sâu rộng, chƣa phổ biến hết đƣợc đến ngƣời dân
làm nghề xe ôm và lái xe taxi nên vẫn có ngƣời dân làm nghề xe ôm, lái xe
taxi bị cƣớp tài sản mà không đƣợc phổ biến các biện pháp phòng ngừa, nhất
là các chủ xe làm thời vụ. Công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục ý thức
pháp luật từ trƣờng học đến các địa bàn dân cƣ còn rất yếu, chƣa phát huy hết
khả năng của các đơn vị. Bên cạnh đó việc tuyên truyền còn mang tính thời
vụ, không thƣờng xuyên, không phù hợp với từng đối tƣợng, từng hoàn cảnh,
không có những chủ đề tập trung dẫn tới việc tuyên truyền dàn trải, chủ yếu
tập trung vào các đơn vị hành chính mà chƣa đi sâu tuyên truyền vào đời sống
dân cƣ và chủ yếu tập trung vào những lĩnh vực nóng nhƣ ma tuý, giao thông
mà chƣa có những hình thức thích hợp tuyên truyền phổ biến kiến thức pháp
luật về phòng ngừa, đấu tranh với các tội phạm cụ thể. Dẫn đến sự mơ hồ,
hoài nghi về các chủ trƣơng đƣờng lối chính sách của Đảng, Nhà nƣớc của
ngƣời dân dẫn đến dễ bị lôi kéo, tham gia vào các băng ổ nhóm tội phạm nói
chung và tội phạm cƣớp giật tài sản. Việc phối hợp tuyên truyền phổ biến
giáo dục ý thức pháp luật giữa gia đình nhà trƣờng và xã hội chƣa đƣợc đầu
tƣ, quan tâm đúng mức.
- Kinh phí, trang thiết bị hỗ trợ cho hoạt động nghiệp vụ trinh sát để
phòng ngừa tội phạm cƣớp giật tài sản trên các tuyến giao thông đƣờng bộ địa
bàn thành phố Hà Nội còn hạn chế, chƣa đáp ứng đƣợc yêu cầu nhiệm vụ.
Hiện tại các trinh sát viên không đƣợc trang bị các phƣơng tiện kỹ thuật trinh
61
sát nhƣ camera, máy ảnh độ phân giải cao chụp đối tƣợng di chuyển; phƣơng
tiện đi lại chủ yếu là phƣơng tiện cá nhân của trinh sát (chủ yếu là xe mô tô)
tự trang bị.
2.3.3. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế
- Đội ngũ công chức có trách nhiệm tổ chức thực hiện pháp luật trong
phòng ngừa, đấu tranh phòng và chống tội phạm cƣớp giật tài sản còn thiếu về
số lƣợng và yếu về chất lƣợng.
Thành phố Hà Nội là một địa bàn có tình hình tội phạm về trật tự xã hội
tƣơng đối phức tạp ở khu vực miền Bắc, là đầu mối kết nối về mọi mặt trong
cả nƣớc, địa bàn rộng trong khi đó biên chế của lực lƣợng CSHS còn mỏng,
nhất là trong công tác trinh sát. Thời gian gần đây, công tác bổ nhiệm, luân
chuyển, điều động cán bộ diễn ra nhiều tạo nên sự thiếu hụt lớn về biên chế
đối với các Đội CSHS ở các huyện, thị xã, nhất là sau khi Thông tƣ số
28/2014/TT-BCA ngày 07 tháng 7 năm 2014 của Bộ trƣởng Bộ Công an quy
định về công tác điều tra hình sự trong Công an nhân dân đƣợc triển khai thực
hiện. Trình độ của cán bộ, chiến sĩ trong lực lƣợng CSHS không đồng đều. Số
cán bộ, chiến sĩ đƣợc đào tạo bài bản về chuyên ngành Cảnh sát hình sự còn
quá ít, trong khi đó cán bộ, chiến sĩ không đƣợc đào tạo đúng chuyên môn
chiếm tỷ lệ cao. Do đó, khi triển khai hoạt động nghiệp vụ trinh sát còn lúng
túng, không đúng bài bản.
- Các cơ quan tiến hành tố tụng còn có những hạn chế trong việc thực
hiện nhiệm vụ, quyền hạn. Các cơ quan này có liên quan trực tiếp đến kết quả
của công tác thực hiện pháp luật trong đấu tranh phòng ngừa tội phạm cƣớp
giật tài sản.
Trong hoạt động tố tụng, cơ quan tố tụng mới chỉ tập trung vào việc xử
lý tội phạm mà chƣa thực sự quan tâm đến công tác tuyên truyền, giáo dục
pháp luật đến ngƣời dân, chƣa đạt đƣợc hiệu quả phòng ngừa chung. Các
phiên tòa xét xử tội phạm cƣớp giật tài sản đã đƣợc triển khai xét xử lƣu động
62
nhƣng chƣa nhiều đôi khi còn mang tính hình thức. Việc xét xử còn thiếu sót,
chƣa triệt để, tình trạng xét xử chƣa nghiêm, hình phạt còn nhẹ hơn so với
tính chất và mức độ của hành vi phạm tội, thậm chí còn bỏ lọt tội danh… đã
làm giảm tác dụng về tuyên truyền pháp luật, hạn chế về tính giáo dục và
ngăn ngừa tội phạm. Một số vụ cƣớp giật tài sản còn chậm đƣợc đƣa ra xét
xử, bỏ lọt tội phạm dẫn đến dƣ luận không tốt trong quần chúng nhân dân.
Công tác tiếp nhận thông tin, đơn thƣ tố giác tội phạm với cơ quan tiến
hành tố tụng là một đầu mối để phát hiện đáng kể tội phạm xảy ra, tuy nhiên
nếu không đƣợc quan tâm, làm tròn trách nhiệm, cũng nhƣ có thái độ cửa
quyền, hách dịch khi tiếp dân đến trình báo, tố giác tội phạm hoặc xử lý
chậm, thiếu chính xác sẽ làm mất niềm tin của quần chúng nhân dân và tác
động làm xuất hiện tâm lý ngại trình báo, ngại hợp tác với lực lƣợng chức
năng trong đấu tranh, phòng chống tội phạm. Các hoạt động của cơ quan điều
tra, Viện kiểm sát, Tòa án các cấp trong thực thi pháp luật cũng là yếu tố tác
động đến kết quả đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung và tội phạm
cƣớp giật tài sản nói riêng. Do đó việc cơ quan cảnh sát điều tra có tập trung
lực lƣợng và ý thức trách nhiệm của điều tra viên để điều tra, giải quyết vụ
việc, thông tin có liên quan đến cƣớp giật tài sản; việc thực hiện quyền kiểm
sát điều tra, kiểm sát xét xử và thực hiện quyền công tố của kiểm sát viên các
cấp, sự phối hợp của kiểm sát viên và điều tra viên trong giai đoạn điều tra và
đƣa ra xét xử vụ án cƣớp giật tài sản, việc xét xử của tòa án có công tâm, quan
tâm nghiên cứu hồ sơ làm sảng tỏ sự thật khách quan của vụ án và xét xử
đúng ngƣời, đúng tội, cũng là yếu tố tác động đến tổ chức thực hiện pháp luật
trong phòng ngừa, đấu tranh phòng chống tội phạm cƣớp giật tài sản.
Công tác điều tra cơ bản còn lúng túng trong việc xác định tuyến trọng
điểm, địa bàn trên tuyến, địa bàn trọng điểm; công tác sƣu tra còn bỏ lọt nhiều
đối tƣợng, nhất là đối tƣợng thuộc danh mục 3 (đối tƣợng chƣa có tiền án, tiền
sự); đội ngũ cộng tác viên bí mật còn mỏng, chƣa quán xuyến đƣợc địa bàn, đặc
63
biệt hiện tại không có đặc tình loại 3; công tác xác minh hiềm nghi, đấu tranh
chuyên án trinh sát còn chƣa chủ động, chƣa đáp ứng đƣợc nhu cầu thực tiễn.
Công tác tuần tra, kiểm soát trên các tuyến đƣờng của thành phố của các
lực lƣợng chức năng còn chƣa thƣờng xuyên, liên tục do lực lƣợng mỏng, địa
bàn rất rộng và phức tạp cũng là điều kiện để các đối tƣợng phạm tội lợi dụng
thời điểm để thực hiện hành vi phạm tội. Khi xảy ra các vụ án, Đội CSHS công
an các quận, huyện, đã cử cán bộ trực tiếp xuống hiện trƣờng chỉ đạo Công an
phƣờng, đồn, trạm lập hồ sơ ban đầu và tổ chức điều tra truy xét. Tuy nhiên các
đơn vị chƣa làm quyết liệt, chỉ lập hồ sơ ban đầu theo quy định.
Công tác tuần tra mật phục chống cƣớp giật đã đƣợc các đơn vị đặc
biệt là công an 12 quận duy trì thực hiện, có phân công lực lƣợng cụ thể. Tuy
nhiên việc tuần tra mật phục của các đơn vị vẫn làm hình thức, chƣa thƣờng
xuyên, liên tục; quân số không đủ và đa số không có chỉ huy đội tham gia
cùng, không có việc kiểm tra hành chính các đối tƣợng trên địa bàn nên hiệu
quả thấp.
Hạn chế về lực lƣợng, phƣơng tiện và sức ép của số lƣợng vụ việc phải
giải quyết nên chƣa tập trung làm chuyên sâu về công tác phòng ngừa, đấu
tranh chống tội phạm cƣớp giật, hiệu quả công tác chƣa cao.
Các đơn vị còn bị động trong việc phối hợp thực hiện các biện pháp kỹ
thuật, phụ thuộc nhiều vào các nhà mạng.
Công tác xây dựng mạng lƣới bí mật chuyên sâu nắm tình hình về tội
phạm cƣớp giật của các đơn vị hầu nhƣ không có nên công tác đấu tranh từ
nguồn tin do mạng lƣới bí mật cung cấp đạt hiệu quả thấp.
Các đơn vị (12 quận) đã xây dựng lịch tuần tra chống cƣớp giật, phân
công lực lƣợng cụ thể nhƣng việc tuần tra của các đơn vị vẫn mang tính hình
thức, chƣa thƣờng xuyên, liên tục, quân số không đầy đủ, không kiểm tra
hành chính các đối tƣợng nghi vấn trên địa bàn.
64
Một số vụ án xảy ra các đơn vị chỉ tập trung điều tra thời gian đầu, sau
đó không khám phá đƣợc thì không xác lập chuyên án để sử dụng các biện
pháp trinh sát làm rõ, thông báo truy tìm tang vật không đƣợc rà soát kỹ mà chỉ
gửi cho các đơn vị theo quy định sau đó không có sự đôn đốc, kiểm tra kết quả
thực hiện.
Các đơn vị hầu hết không tổ chức tuần tra chống cƣớp đêm mà chỉ kết
hợp đi tuần tra với chống trộm đêm nên không bắt đƣợc quả tang hoặc kiểm tra
hành chính để phát hiện đối tƣợng hoạt động cƣớp tài sản. Công tác rà soát, dựng
các ổ nhóm có biểu hiện hoạt động cƣớp của các đơn vị chƣa tốt, không có đơn
vị nào phát hiện và dựng đƣợc đối tƣợng và ổ nhóm nghi vấn để xác lập hiềm
nghi, chuyên án.
- Sự phối hợp giữa các cơ quan trong tổ chức thực hiện pháp luật trong
phòng ngừa, đấu tranh phòng chống tội phạm cƣớp giật tài sản còn chƣa hiệu
quả, đặc biệt sự phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng. Sự chồng chéo
trong chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan nhà nƣớc dẫn đến tình trạng đùn
đẩy việc tiếp nhận, giải quyết khiếu nại, tố cáo dẫn đến việc ngƣời dân ngại
trình báo các vụ cƣớp giật tài sản. Mối quan hệ phối hợp giữa các lực lƣợng
nghiệp vụ khác với lực lƣợng cảnh sát hình sự trong phòng ngừa tội phạm
cƣớp giật tài sản trên các tuyến giao thông đƣờng bộ bằng hoạt động nghiệp
vụ trinh sát chƣa đƣợc sâu rộng, chƣa phát huy, tổng hợp đƣợc những ƣu
điểm của từng lực lƣợng dẫn đến mối quan hệ phối hợp này đôi lúc còn mang
tính hình thức, hiệu quả chƣa cao.
- Các điều kiện để tổ chức thực hiện pháp luật trong phòng ngừa, đấu
tranh phòng chống tội phạm cƣớp giật tài sản trên địa bàn thành phố Hà Nội
chƣa đƣợc đảm bảo đầy đủ.
65
2.3.4. Dự báo về tình hình tội phạm cướp giật tài sản trên địa bàn
thành phố Hà Nội trong thời gian tới
Hà Nội là thủ đô của đất nƣớc, diện tích rộng, dân số đông, phân bố
dân cƣ cũng nhƣ trình độ dân trí không đồng đều giữa các vùng. Trong những
năm qua, kinh tế thủ đô có những bƣớc phát triển nhảy vọt kéo theo phân hoá
giàu nghèo trong xã hội ngày một lớn, lực lƣợng lao động di cƣ vào thành phố
ngày một nhiều mà chƣa có sự quản lý của nhà nƣớc. Kinh tế thủ đô phát triển
nhƣng hạ tầng cơ sở cùng những vấn đề về giáo dục, y tế, an sinh xã hội chƣa
theo kịp tốc độ phát triển kinh tế dẫn tới tình hình an ninh trật tự và tội phạm
nói chung và tội phạm cƣớp giật tài sản diễn biến ngày một phức tạp với tính
chất mức độ ngày một nguy hiểm và trắng trợn hơn. Trong những năm qua,
tốc độ phát triển kinh tế của Hà Nội luôn đứng đầu cả nƣớc. Tuy nhiên, cơ sở
hạ tầng còn yếu kém, tốc độ đô thị hóa diễn ra quá nhanh khiến một lƣợng đất
nông nghiệp bị thu hồi làm khu công nghiệp, đô thị. Tất cả những điều này đã
dẫn tới những xáo trộn trong lao động, trong suy nghĩ, trong hành vi của một
bộ phận nhân dân. Khoảng cách giàu nghèo ngày một lớn dẫn tới những hậu
quả không lƣờng trong đời sống xã hội. Sự phân hóa giàu nghèo trong xã hội
ngày càng rõ rệt. Một bộ phận ngƣời dân giàu lên nhanh chóng thì có bộ phận
không nhỏ dân cƣ nghèo, thu nhập ngƣời dân có sự chênh lệch cao giữa thành
thị và nông thôn. Sự phân hóa này là một yếu tố tác động mạnh mẽ làm nảy
sinh tiêu cực của một bộ phận cá nhân trong hoàn cảnh túng quẫn giám thực
hiện các hành vi kể cả vi phạm pháp luật để kiếm sống và thỏa mãn nhu cầu
cá nhân. Qua nghiên cứu 200 vụ án cƣớp giật tài sản với 321 bị cáo, cho thấy
có đến 295 bị cáo, chiếm tỷ lệ 91,90% thực hiện hành vi phạm tội cƣớp giật
tài sản nhằm mục đích có tiền thoả mãn nhu cầu cá nhân. Việc hội nhập kinh
tế quốc tế và xây dựng nền kinh tế thị trƣờng tạo ra tình trạng thất nghiệp,
thiếu việc làm ngày càng cao. Công tác thu hồi đất để xây dựng các khu công
nghiệp, khu chế xuất tại Thủ đô khiến ngƣời nông dân không còn đất để sản
66
xuất. Bên cạnh đó công tác đào tạo nghề, hỗ trợ chuyển đổi nghề còn nhiều
bất cập; ngoài ra, tình trạng bỏ học để lao động kiếm sống đã tạo ra tình trạng
trình độ hiểu biết xã hội trên mặt bằng chung không cao… đây chính là các
mầm mống, nguy cơ tiềm ẩn về tội phạm nói chung và tội cƣớp giật tài sản
nói riêng. Tuy nhiên, cũng có thể khẳng định rằng không phải tất cả những cá
nhân trong xã hội khó khăn về kinh tế đều phạm tội; sự túng thiếu về kinh tế
cộng với ý thức tiêu cực từ nội tại của cá nhân, từ những suy nghĩ lệch lạc và
thực hiện việc thỏa mãn các nhu cầu của bản thân bất chấp mọi thứ, từ đó mới
dẫn đến hành vi phạm tội. Ngoài những điều trên, kinh tế xã hội phát triển
hơn thì các loại hình dịch vụ phục vụ nhu cầu giải trí của con ngƣời cũng
bùng phát và mọc lên nhiều nhƣ Karaoke, Mát xa, nhà nghỉ, khách sạn,
internet, Game online, cầm đồ... Bên cạnh việc giải trí lành mạnh, thì sự mất
an ninh trật tự và các vụ việc tiêu cực xuất phát từ các loại hình này cũng rất
nhiều đặc biệt là tệ nạn ma túy, mại dâm, đồng thời có nhiều đối tƣợng muốn
có tiền ăn chơi không còn cách nào khác là phạm tội, yếu tố này làm gia tăng
tình hình tội phạm cƣớp giật tài sản.
Tại Hội thảo khoa học - thực tiễn "Phòng, chống tội phạm cƣớp giật tài
sản" do Học viện Cảnh sát nhân dân- Bộ Công an tổ chức vào cuối tháng
12/2017 tại TP Hồ Chí Minh đã có nhận định: Với số vụ cƣớp giật tài sản khá
cao nhƣng tỷ lệ khám phá lại tƣơng đối thấp, thực tế này đã làm ảnh hƣởng
xấu đến tình hình an ninh trật tự, gây tâm lý lo lắng trong quần chúng nhân
dân. Công tác phòng ngừa, điều tra khám phá trong lĩnh vực án truy xét đối
với loại tội phạm này thời gian qua còn những hạn chế nhất định, hiệu quả
chƣa cao. Những năm gần đây, tình hình tội phạm cƣớp giật tài sản có chiều
hƣớng gia tăng, gây tâm lý hoang mang trong các tầng lớp nhân dân và gây
nhiều khó khăn trong công tác phòng ngừa, đấu tranh…
Bên cạnh sự gia tăng về số vụ, kết quả nghiên cứu, thống kê cũng cho
thấy, hậu quả tác hại và tính chất nghiêm trọng của tội phạm này cũng không
67
ngừng gia tăng. Nhiều vụ cƣớp giật tài sản, bên cạnh việc chiếm đoạt tài sản, đối
tƣợng phạm tội còn gây thƣơng tích nặng cho ngƣời bị hại, mất an toàn giao
thông…
Tội phạm cƣớp giật tài sản đang có xu hƣớng trẻ hóa, phức tạp về thành
phần, độ tuổi, giới tính… với những phƣơng thức, thủ đoạn ngày càng tinh vi,
nguy hiểm, manh động, câu kết thành băng, ổ nhóm hoạt động chuyên nghiệp,
lƣu động trên địa bàn rộng.
Nhiều đối tƣợng phạm tội có tiền án, tiền sự, đặc biệt số đối tƣợng bị
bắt giữ về phạm tội cƣớp giật tài sản có liên quan đến ma túy chiếm tỷ lệ cao
(khoảng 80%). Đáng chú ý, số đối tƣợng là học sinh, sinh viên phạm tội cƣớp
giật tài sản có xu hƣớng tăng, thƣờng tập trung vào những trƣờng hợp lƣời
học, bỏ học, nghiện game online, nghiện ma túy… thiếu sự quan tâm, giáo
dục của gia đình, nhà trƣờng.
Trƣớc đây, tình hình tội phạm cƣớp giật tài sản chỉ xảy ra tại khu vực
trung tâm thành phố, những nơi vắng vẻ, thƣờng vào buổi tối. Thời gian gần
đây, bọn tội phạm này thực hiện vào thời gian bất kỳ trong ngày và ở cả
những chỗ đông ngƣời, tính chất hành vi ngày càng táo bạo, chúng rủ nhau
tạo thành những băng nhóm, xông thẳng và các cửa hàng, nhà dân để cƣớp
giật tài sản. Bọn chúng có sự tính toán chủ động tìm những ngƣời có tài sản
giá trị để cƣớp giật.
Trong thời gian tới Việt Nam cũng nhƣ các nƣớc trên toàn thế giới tiếp
tục phải gánh chịu hậu quả của khủng hoảng kinh tế và tình hình nợ công
đang có diễn biến xấu. Bên cạnh đó, quá trình toàn cầu hóa và khu vực diễn ra
mạnh mẽ; xu hƣớng cạnh tranh, tranh giành ảnh hƣởng về kinh tế, chính trị
trở nên quyết liệt hơn. Những yếu tố an ninh phi truyền thống, mang tính toàn
cầu nhƣ khủng bố, chiến tranh mạng, an ninh tài chính, hàng hải, hàng không
diễn biến ngày càng phức tạp, gay gắt hơn. Những yếu tố trên có tác động rất
lớn đến công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nƣớc nói chung, công cuộc phát
68
triển kinh tế và công tác bảo đảm an ninh Quốc gia, trật tự an toàn xã hội trên
địa bàn Thủ đô. Do đó, THTP nói chung và tình hình tội phạm cƣớp giật tài
sản nói riêng sẽ có nhiều biến động trong những năm tới.
Tại thành phố Hà Nội, hoạt động của một số loại tội phạm vẫn diễn biến
phức tạp, khó lƣờng với những thủ đoạn, phƣơng thức hoạt động mới, tinh vi,
nguy hiểm hơn; những điều kiện làm phát sinh, gia tăng tội phạm chƣa đƣợc
giải quyết triệt để. Các vấn đề về môi trƣờng sinh thái, dịch bệnh… ngày càng
diễn biến phức tạp, tiềm ẩn nguy cơ gây thiệt hại lớn về ngƣời, tài sản và gây
mất ổn định về an ninh, trật tự. Trong khi đó, những yếu kém, thiếu xót, bất cập
trong quản lý kinh tế - xã hội, quản lý Nhà nƣớc; những sơ hở trong hệ thống
pháp luật; những hạn chế của đội ngũ cán bộ tổ chức, quản lý, điều hành của
các cơ quan quản lý Nhà nƣớc; tình trạng suy thoái về tƣ tƣởng chính trị, đạo
đức, lối sống, tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong một bộ phận cán bộ,
đảng viên... sẽ tiếp tục là yếu tố tiềm ẩn làm phát sinh những vấn đề phức tạp
về an ninh, trật tự.
Cùng với sự phát triển kinh tế và sự phát triển của khoa học công nghệ
trên cả nƣớc, số lƣợng phƣơng tiện ô tô, xe máy của thành phố Hà Nội tăng
nhanh, hạ tầng giao thông không đáp ứng đƣợc nhu cầu thực tế. Bên cạnh đó,
các khu đô thị, khu công nghiệp và du lịch phát triển nhanh thu hút một lƣợng
lớn dân cƣ từ khắp nơi đến sinh sống, làm việc, du lịch tạo áp lực lớn cho công
tác quản lý nhà nƣớc trong đảm bảo an ninh trật tự, an toàn xã hội. Việc vận
chuyển mang theo tài sản có giá trị trên địa bàn thành phố diễn ra thƣờng xuyên
trở thành mục tiêu chiếm đoạt của các loại đối tƣợng hình sự.
Những vấn đề nêu trên là thách thức lớn trong công tác đảm bảo an
ninh quốc gia và giữ gìn trật tự an toàn xã hội trên địa bàn Thủ đô trong
những năm tới. Đặc biệt, vấn đề trên sẽ trực tiếp tác động và có ảnh hƣởng
sâu sắc tới tình hình tội phạm nói chung và tình hình tội phạm cƣớp giật tài
sản nói riêng trên địa bàn thành phố Hà Nội.
69
Trên cơ sở nghiên cứu về tình hình phát triển kinh tế xã hội của Thủ đô Hà
Nội và diễn biến của các loại tội phạm nói chung, tình hình tội phạm cƣớp giật tài
sản nói riêng trên địa bàn Thành phố Hà Nội từ năm 2010 đến năm 2017, tác giả
đƣa ra một số dự báo:
Một là, tình hình cƣớp giật tài sản trên địa bàn thành phố Hà Nội sẽ có
những diễn biến phức tạp, số vụ cƣớp giật tài sản sẽ tăng đáng kể trong những
năm tới, đặc biệt tại địa bàn các quận nội thành, trung tâm các huyện, thị xã,
các khu dân cƣ có các cụm công nghiệp và có khu du lịch.
Hai là, Việc hình thành những ổ nhóm tội phạm nguy hiểm do những
đối tƣợng thất nghiệp, không có công việc, sa đà vào các tệ nạn xã hội, đặc
biệt là nghiện ma túy, cờ bạc, cá độ bóng đá, đối tƣợng nhiều tiền án liên kết
với nhau để thực hiện hành vi phạm tội. Cơ sở hạ tầng liên kết giữa Hà Nội
với các vùng giáp ranh đƣợc đầu tƣ mở rộng giúp giao thông đi lại thuận lợi,
đây là điều kiện để bọn lƣu manh chuyên nghiệp từ các địa bàn tỉnh khác đến
địa bàn Hà Nội hoạt động phạm tội, góp phần làm gia tăng tình hình tội phạm
nói chung và tình hình tội phạm cƣớp giật tài sản nói riêng trong thời gian tới.
Ba là, độ tuổi đối tƣợng gây án sẽ trẻ hóa hơn mức từ 18 đến 30 tuổi; tỷ
lệ đối tƣợng gây án là học sinh, sinh viên ra trƣờng không có công việc, thất
nghiệp, mắc các tệ nạn xã hội nhƣ ma túy, cờ bạc và mại dâm sẽ tăng lên. Để
có tiền thỏa mãn các nhu cầu cá nhân đây là những đối tƣợng dễ bị lôi kéo
tham ra thực hiện hành vi cƣớp giật tài sản.
Bốn là, địa bàn gây án sẽ là những nơi đông dân cƣ nhƣ các quận nội
thành, các khu công nghiệp, các khu đô thị mới, các địa điểm du lịch tâm linh,
các lễ hội lớn, các tuyến đƣờng quốc lộ, các khu vực có tập trung nhiều tài sản
và các khu công cộng khác.
Năm là, phƣơng thức, thủ đoạn của bọn tội phạm cƣớp giật tài sản sẽ
táo bạo và trắng trợn hơn. Chúng lợi dụng những sơ hở thiếu sót, sự mất cảnh
giác của ngƣời bị hại trong quản lý tài sản để lựa chọn mục tiêu gây án, thực
70
hiện hành vi phạm tội. Đối tƣợng gây án tiếp tục tìm hiểu, trao đổi thông tin,
sử dụng những phƣơng tiện hiện đại nhƣ phƣơng tiện giao thông, phƣơng tiện
thông tin liên lạc rồi đi thị sát, thăm dò, theo dõi chủ tài sản nếu thấy sơ hở sẽ
trực tiếp thực hiện hoặc gọi điện thoại cho đối tƣợng đồng bọn phục sẵn ở
nhƣng địa bàn thuận lợi để thực hiện hành vi cƣớp giật tài sản; những thủ
đoạn gây án mới nhƣ vờ hỏi đƣờng, hỏi thăm ngƣời quen...thấy thuận lợi là
cƣớp giật tài sản, tạo ra va quệt giao thông rồi lợi dụng tình huống chủ xe
không chú ý, bị thƣơng để đối tƣợng khác vào giật tài sản nhƣ điện thoại, ví
tiền... hoặc chúng dùng thủ đoạn đóng giả các lực lƣợng chức năng dừng kiểm
tra xe rồi để đồng bọn thực hiện hành vi giật tài sản...
TIỂU KẾT CHƢƠNG 2
Chƣơng 2 luận văn đã tiến hành phân tích thực trạng tổ chức thực hiện
pháp luật về phòng ngừa, đấu tranh phòng chống tội phạm cƣớp giật tài sản
trên địa bàn Thành phố Hà Nội. Căn cứ vào lý luận đã trình bày ở Chƣơng 1
tác giả đã đánh giá kết quả đạt đƣợc trong tổ chức thực hiện pháp luật về
phòng ngừa, đấu tranh phòng chống tội phạm cƣớp giật tài sản trên các mặt:
công tác điều tra, khám phá các vụ cƣớp giật tài sản; tuyên truyền phổ biến
giáo dục pháp luật; xây dựng thiết chế đặc thù trong tổ chức thực hiện pháp
luật; xây dựng đội ngũ công chức và thực hiện công tác kiểm tra, thanh tra,
giám sát hoạt động tổ chức thực hiện pháp luật về phòng ngừa, đấu tranh
phòng chống tội phạm cƣớp giật tài sản. Bên cạnh những kết quả đạt đƣợc,
tác giả cũng đã phân tích những hạn chế trong tổ chức thực hiện pháp luật về
phòng ngừa, đấu tranh phòng chống tội phạm cƣớp giật tài sản nhƣ việc phát
hiện, điều tra, và xét xử các hành vi cƣớp giật tài sản chƣa đạt hiệu quả. Hoạt
động của các cơ quan có trách nhiệm trong tổ chức thực hiện pháp luật trong
phòng ngừa, đấu tranh phòng chống tội phạm cƣớp giật tài sản hiệu quả chƣa
cao. Công tác tuyên truyền pháp luật trong phòng ngừa, đấu tranh phòng
71
chống tội phạm cƣớp giật tài sản trong quần chúng chƣa toàn diện, chƣa sâu
rộng. Những hạn chế này có nguyên nhân từ năng lực đội ngũ công chức, sự
phối hợp giữa các cơ quan cũng nhƣ việc chƣa đảm bảo đầy đủ các điều kiện
cho việc tổ chức thực hiện pháp luật về phòng ngừa, đấu tranh phòng chống
tội phạm cƣớp giật tài sản.
Với vai trò là thủ đô của đất nƣớc, Thành phố Hà Nội luôn đƣợc Đảng,
Nhà nƣớc quan tâm, tạo điều kiện tốt nhất để bảo vệ an ninh chính trị, trật tự
an toàn xã hội. Tuy nhiên, Hà Nội là thành phố lớn, hàng ngày diễn ra nhiều
hoạt động trên các mặt kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội và ngày càng phát
triển. Hoạt động phạm tội cũng thƣờng xuyên diễn ra và phát triển theo xu
hƣớng chung, đe dọa sự ổn định trật tự an toàn xã hội, gây ảnh hƣởng xấu đến
các mặt kinh tế - chính trị. Nhiệm vụ đảm bảo, giữ gìn an ninh chính trị và trật
tự an toàn xã hội trên địa bàn Hà Nội là rất quan trọng. Để thực hiện nhiệm vụ
quan trọng này, thành phố Hà Nội phải kiềm chế đƣợc sự gia tăng của tội
phạm, làm giảm các loại án có tính chất nghiêm trọng cao, nâng cao hiệu quả
công tác điều tra, khám phá các vụ phạm pháp đi đôi với công tác phòng
chống tội phạm nói chung và tội phạm cƣớp giật tài sản nói riêng.
Trên cơ sở nghiên cứu về tình hình phát triển kinh tế xã hội và thực
trạng của tình hình tội cƣớp giật tài sản trên địa bàn thành phố Hà Nội tác giả
đƣa ra một số dự báo tình hình tội cƣớp giật tài sản trong những năm tới.
Những kết quả nghiên cứu trên là cơ sở khoa học để đề xuất những phƣơng
hƣớng và giải pháp đảm bảo tổ chức thực hiện pháp luật về phòng ngừa, đấu
tranh phòng chống tội phạm cƣớp giật tài sản trên địa bàn thành phố Hà Nội
tại Chƣơng 3 của luận văn.
72
Chƣơng 3
GIẢI PHÁP TỔ CHỨC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT TRONG PHÒNG
NGỪA, ĐẤU TRANH PHÒNG CHỐNG TỘI PHẠM CƢỚP GIẬT TÀI
SẢN TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
3.1. Phƣơng hƣớng đảm bảo tổ chức thực hiện pháp luật trong
phòng ngừa, đấu tranh phòng chống tội phạm cƣớp giật tài sản trên địa
bàn thành phố Hà Nội
3.1.1. Hoàn thiện thể chế chính sách pháp luật về tổ chức thực hiện
pháp luật trong đấu tranh phòng ngừa tội phạm cướp giật tài sản
Hoàn thiện thể chế về công vụ, theo đó xác định rõ phạm vi trách
nhiệm của mỗi cơ quan, của ngƣời đứng đầu mỗi cơ quan. Đề cao nguyên tắc
chịu trách nhiệm cá nhân của ngƣời đứng đầu nhƣng đồng thời phải có thiết
chế kiểm soát quyền lực nhằm ngăn ngừa hành vi tham nhũng, làm giàu bất
chính. Tổ chức triển khai thực hiện có hiệu quả Chiến lƣợc quốc gia phòng,
chống tội phạm giai đoạn 2016-2025 và định hƣớng đến năm 2030 cụ thể:
Xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật, phân bổ ngân sách bảo đảm các
điều kiện về cơ sở vật chất, vũ khí, công cụ hỗ trợ, phƣơng tiện, thiết bị nghiệp
vụ cho công tác phòng, chống tội phạm. Nâng cao vai trò trách nhiệm, xử lý
nghiêm trách nhiệm của ngƣời đứng đầu cơ quan, đơn vị, địa phƣơng để xảy ra
tình hình tội phạm phức tạp, kéo dài, hoạt động lộng hành hoặc bao che cho tội
phạm; Đẩy nhanh tiến độ đổi mới, cải cách hành chính, cải cách tƣ pháp.
Xây dựng cơ chế Điều hành, chỉ đạo, kiểm tra, đôn đốc, đánh giá việc
thực hiện chiến lƣợc cải cách hành chính, cải cách tƣ pháp thống nhất từ
Trung ƣơng đến địa phƣơng.
Tăng cƣờng, hoàn thiện mối quan hệ phối hợp liên ngành trong phòng,
chống tội phạm. Thƣờng xuyên trao đổi thông tin tội phạm và phƣơng thức,
73
thủ đoạn hoạt động mới của các loại tội phạm để có đối sách kịp thời, hiệu
quả trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm.
Nắm chắc diễn biến, đánh giá, thống kê chính xác về tình hình tội
phạm; tiếp tục hoàn thiện, đổi mới công tác thông tin, thống kê tội phạm, xây
dựng, bổ sung hệ thống thống kê công tác xử lý vi phạm hành chính. Thƣờng
xuyên tổng kết, nghiên cứu, xây dựng các luận cứ khoa học về tội phạm, dự
báo về tình hình tội phạm hàng năm, giữa kỳ và từng giai đoạn để điều chỉnh,
bổ sung các mục tiêu, giải pháp, chính sách cho phù hợp yêu cầu thực tiễn.
Hoàn thiện chính sách pháp luật về tổ chức thực hiện pháp luật, cơ chế
phối hợp giữa các cơ quan thực hiện pháp luật trong công tác thực hiện pháp
luật đấu tranh phòng chống tội phạm cƣớp giật tài sản. Tổ chức rà soát các văn
bản quy phạm pháp luật có nội dung liên quan đến quản lý nhà nƣớc về trật tự,
an ninh, an toàn xã hội, đấu tranh phòng, chống tội phạm; từ đó có những sửa
đổi, bổ sung mới phù hợp tình hình đối với những tồn tại, hạn chế đƣợc phát
hiện, đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ trong toàn hệ thống pháp luật.
3.1.2. Bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò của các tổ
chức trong hệ thống chính trị tạo thành sức mạnh tổng hợp bảo đảm tổ
chức thực hiện pháp luật trong đấu tranh phòng chống tội phạm cướp giật
tài sản trên địa bàn thành phố
Thực hiện tốt Chỉ thị số 09-CT/TƢ của Ban bí thƣ về tăng cƣờng sự
lãnh đạo của Đảng đối với công tác xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ an
ninh tổ quốc; các nghị quyết liên tịch, kế hoạch phối hợp giữa các ngành, các
cấp về công tác phòng, chống tội phạm. Đẩy mạnh công tác xây dựng mô
hình, nhân điển hình tiên tiến trong phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ
quốc; chú trọng phát triển và nâng cao chất lƣợng các mô hình tổ chức quần
chúng tự quản, tự phòng, tự bảo vệ, tự hòa giải về an ninh, trật tự ngay từ gia
đình, cộng đồng dân cƣ, trong từng cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp và nhà
trƣờng; thƣờng xuyên tổ chức sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm, nhân rộng mô
74
hình có hiệu quả cao, nghiên cứu xây dựng những mô hình mới phù hợp với
tình hình đặc điểm từng địa bàn. Tổ chức cho nhân dân, cán bộ, công nhân
viên, học sinh, sinh viên ký cam kết xây dựng khu dân cƣ, xã, phƣờng, cơ
quan, doanh nghiệp, nhà trƣờng “An toàn về an ninh, trật tự”. Kịp thời khen
thƣởng các tập thể, cá nhân có thành tích xuất sắc trong phong trào toàn dân
bảo vệ an ninh Tổ quốc, có chính sách thỏa đáng đối với những trƣờng hợp bị
thƣơng, hy sinh hoặc thiệt hại về tài sản khi tham gia phòng, chống tội phạm.
Theo đó, lãnh đạo các cấp ngành của thành phố Hà Nội tiếp tục chỉ đạo
lồng ghép việc thực hiện Nghị quyết số 09/NQ-CP Chƣơng trình mục tiêu
quốc gia phòng, chống tội phạm của Chính phủ; Chƣơng trình hành động số
04-CTr/TU của Thành ủy về thực hiện Chỉ thị số 48-CT/TW của Bộ chính trị
về tăng cƣờng sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tội phạm
trong tình hình mới; Chƣơng trình hành động phòng, chống tội phạm và các
Chƣơng trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của Thành phố, các chính
sách an sinh xã hội, chƣơng trình giảm nghèo, tăng hộ khá…để ngày càng
nâng cao chất lƣợng cuộc sống ngƣời dân tạo công ăn việc làm ổn định cho
ngƣời dân.
3.2. Giải pháp đảm bảo tổ chức thực hiện pháp luật trong phòng
ngừa, đấu tranh phòng chống tội phạm cƣớp giật tài sản trên địa bàn
thành phố Hà Nội
3.2.1. Nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan tổ chức thực
hiện pháp luật trong phòng ngừa, đấu tranh phòng chống tội phạm cướp
giật tài sản trên địa bàn thành phố Hà Nội
- Đối với cơ quan điều tra.
+ Nâng cao tính chủ động, phát huy vai trò nòng cốt của lực lƣợng
Công an trong công tác phòng ngừa, đấu tranh các loại tội phạm; chú trọng
các giải pháp phòng ngừa xã hội để hạn chế nguyên nhân, điều kiện làm gia
tăng tội phạm hình sự nói chung và tội phạm cƣớp giật tài sản nói riêng; tiếp
75
tục phối hợp với các ban, ngành liên quan để giải quyết cơ bản tệ nạn ma túy,
mại dâm, cờ bạc và tệ nạn xã hội khác; tăng cƣờng lực lƣợng và các biện pháp
công tác nhằm đảm bảo an ninh trật tự trong các dịp lễ, tết, trong đó tập trung
nắm tình hình, chủ động phát hiện và kịp thời giải quyết các vụ việc phức tạp
liên quan đến trật tự an toàn xã hội; đẩy mạnh công tác phòng, chống các loại
tội phạm, nhất là tội phạm có tổ chức, tội phạm lƣu động, các loại tội phạm
xâm phạm sở hữu tài sản, tội phạm có yếu tố nƣớc ngoài, tội phạm về ma túy,
tội phạm trong lứa tuổi chƣa thành niên. Đẩy mạnh tiến độ điều tra, truy tố,
xét xử các vụ án đảm bảo đúng pháp luật, đặc biệt là các vụ án gây bức xúc
hoang mang dƣ luận.
+ Công an thành phố chỉ đạo lực lƣợng Công an các cấp tiếp tục tổng rà
soát các loại đối tƣợng hình sự, kinh tế, ma túy và tệ nạn xã hội, chú ý đối
tƣợng tù tha về, đặc xá, cƣớp giật, trộm cắp tài sản, những đối tƣợng có tiền
án, tiền sự về tội cƣớp giật, trộm cắp chuyên nghiệp. Sử dụng các biện pháp
nghiệp vụ tiến hành rà soát từng gia đình, từng ngƣời, lên danh sách, lập lý
lịch và chụp ảnh từng đối tƣợng lập hồ sơ lƣu, thông qua cấp Ủy, chính
quyền, đoàn thể, khu vực đồng ý ký vào danh sách, qua đó phân loại và có
biện pháp xử lý, quản lý nhƣ: bắt giam, truy tố, lập án đấu tranh, lập hồ sơ
đƣa vào cơ sở giáo dục, trƣờng giáo dƣỡng, các trung tâm cai nghiện, cơ sở
chữa bệnh và cai nghiện tại cộng đồng; riêng số đối tƣợng bị công khai hóa
trƣớc dân, giáo dục tại xã, phƣờng, thị trấn, cho làm cam kết không tái phạm,
sau đó giao lại các ban, ngành, đoàn thể quản lý, theo dõi, giúp đỡ.
+ Mở các cao điểm tấn công trấn áp các loại tội phạm và tệ nạn xã hội,
tập trung đấu tranh quyết liệt, có hiệu quả các băng, ổ, nhóm tội phạm, các đối
tƣợng hình sự, ma túy, tội phạm cƣớp giật, trộm cắp chuyên nghiệp, các
đƣờng dây tội phạm hoạt động lƣu động, liên tuyến, liên tỉnh, các đƣờng dây
vận chuyển, tụ điểm tàng trữ, mua bán, tổ chức sử dụng ma túy trái phép; số
thanh thiếu niên hƣ hỏng tụ tập thành băng nhóm có dao lê, mã tấu, hoạt động
76
theo kiểu “xã hội đen”…, xử lý triệt để các băng nhóm tụ tập gây mất an ninh
trật tự. Khi xảy ra những vụ xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, tài sản của
nhân dân, lực lƣợng Công an phải có mặt ngay tại hiện trƣờng, tiến hành điều
tra xử lý dứt điểm theo quy định của pháp luật, chấm dứt tình trạng tội phạm
xảy ra, dân đến báo nhƣng Công an không giải quyết, để tội phạm lộng hành
gây án, làm mất lòng tin của nhân dân.
+ Nâng cao chất lƣợng nhận và xử lý thông tin về tội phạm, hiệu quả
điều tra tội cƣớp giật tài sản.
Cần nâng cao trách nhiệm trong việc tiếp nhận thông tin về tội phạm
nhƣ: đƣờng dây nóng, thƣ tố giác tội phạm... Đa dạng hoá các điều kiện thu
lƣợm thông tin, tạo điều kiện cho nhân dân có thể cung cấp tối đa thông tin về
tội phạm cho lực lƣợng Công an. Đồng thời, cần khẩn trƣơng xác minh thông
tin để xác định có hay không hành vi cƣớp giật tài sản xảy ra hay không để
quyết định một số biện pháp trong điều tra, khai thác nhanh tài liệu phục vụ
truy xét nóng: bắt giữ đối tƣợng gây án, truy tìm tang vật. Cần tạo điều kiện
về kỹ thuật, vật chất để cán bộ điều tra có thể tiếp cận hiện trƣờng, thông tin
về tội phạm nhanh nhất. Chú trọng việc thu thập chứng cứ nhanh chóng, đúng
pháp luật. Cơ quan điều tra phải thực hiện tốt các công tác khám nghiệm hiện
trƣờng, thu thập tài liệu, lời khai nhân chứng, bị hại, ngƣời liên quan… Kết
hợp công tác nắm tình hình, di biến động của những đối tƣợng thƣờng xuyên
hoạt động trên địa bàn.
+ Công an các quận, huyện, thị xã phải tăng cƣờng công tác phòng
ngừa và quyết liệt đấu tranh với tội phạm cƣớp giật tài sản.
Tăng cƣờng công tác xây dựng cơ sở bí mật vào các hiệu cầm đồ, cửa
hàng mua bán điện thoại di động để chủ động cung cấp thông tin cho cơ quan
công an về các đối tƣợng có biểu hiện nghi vấn.
+ Các đơn vị tập trung truy bắt các đối tƣợng cƣớp giật tài sản có tài
liệu đang bỏ trốn. Thƣờng xuyên rà soát số đối tƣợng tù tha, đối tƣợng có biểu
77
hiện nghi vấn hoạt động cƣớp, cƣớp giật đƣa vào sƣu tra quản lý theo phân
cấp, thực hiện đối sách (chú ý số đối tƣợng cải tạo yếu kém mà các trại đã
thông báo). Đội Hình sự công an quận, huyện rút hồ sơ sƣu tra hệ cƣớp, cƣớp
giật tài sản về quản lý theo quy định.
+ Quy hoạch, xây dựng, sử dụng cộng tác viên mật theo địa bàn, tuyến,
hệ loại đối tƣợng để chủ động nắm tình hình phục vụ phòng ngừa, đấu tranh.
+ Thƣờng xuyên thực hiện việc gọi hỏi răn đe, giáo dục số đối tƣợng
sƣu tra hệ cƣớp, cƣớp giật tài sản; quản lý số đối tƣợng trọng điểm, số đối
tƣợng sƣu tra tỉnh ngoài, nắm di biến động và có đối sách cụ thể.
+ Tăng cƣờng công tác tuần tra kiểm soát, kiểm tra hành chính khép
kín địa bàn, đặc biệt là vào ban đêm (tập trung vào khoảng thời gian từ
21h00 đến 5h00 ) tại các địa bàn vắng vẻ, ít ngƣời qua lại.... Qua đó làm
giảm đáng kể tình hình tội phạm hoạt động cƣớp, cƣớp giật tài sản trên đƣờng
phố, và địa bàn công cộng.
+ Khi có vụ việc xảy ra, Đội Hình sự chủ động phối hợp công an
phƣờng, đồn, trạm tập trung điều tra ban đầu, điều tra rà soát kỹ hiện trƣờng,
dựng đƣợc đặc điểm đối tƣợng, phƣơng tiện gây án, phƣơng thức thủ đoạn,
quy luật hoạt động (chú ý các vụ liên quan ngƣời nƣớc ngoài, các vụ nhạy
cảm cần làm kỹ), tăng cƣờng biện pháp tổ chức điều tra truy xét. Các vụ đã rõ
đối tƣợng cần phối hợp để xác minh khai thác mở rộng, đánh giá kỹ nhân thân
đối tƣợng, thủ đoạn gây án cũng nhƣ việc tiêu thụ tang vật để rút kinh nghiệm
cho các vụ việc khác.
+ Căn cứ vào tình hình địa bàn, các Đội Hình sự xây dựng lịch kiểm
tra, phân công lực lƣợng cụ thể (báo cáo lịch vào sáng thứ 4 hàng tuần).
Phòng Cảnh sát hình sự chủ động kiểm tra việc tuần tra mật phục của các đơn
vị. Các địa bàn xảy ra nhiều vụ việc, Phòng Cảnh sát hình sự sẽ tăng cƣờng
lực lƣợng phối hợp, tuần tra mật phục, điều tra truy xét.
78
+ Làm tốt công tác nắm tình hình tội phạm, thƣờng xuyên phân tích
quy luật, đặc điểm đối tƣợng, phƣơng tiện, phƣơng thức thủ đoạn hoạt động,
chỉ ra đƣợc các tuyến đƣờng hay xảy ra cƣớp giật tài sản. Khi xảy ra các vụ
cƣớp giật tà sản, đảm bảo chế độ thông tin báo cáo tới các cấp lãnh đạo,
không đƣợc giấu thông tin, các đơn vị tiếp nhận tin báo phải lập hồ sơ và tổ
chức truy xét nóng ngay.
+ Tăng cƣờng xây dựng đặc tình, cơ sở bí mật đi sâu vào các ổ nhóm
hoạt động cƣớp giật tài sản, xác lập hiềm nghi, chuyên án để tổ chức đấu
tranh. Xây dựng mạng lƣới cộng tác viên trên các tuyến đƣờng hay xảy ra
cƣớp giật để nắm tình hình.
+ Quản lý tốt các hiệu cầm đồ, cửa hàng kinh doanh điện thoại di động,
vàng bạc. Mọi thông tin về đặc điểm tang vật phải đƣợc thông báo tới từng
điểm kinh doanh trên và yêu cầu cam kết không đƣợc tiêu thụ những đồ vật
đã đƣợc thông báo.
+ Tăng cƣờng công tác quản lý nhà nƣớc về trật tự xã hội, nhất là các
mặt công tác quản lý nhân hộ khẩu, tạm trú, tạm vắng, quản lý các ngành,
nghề kinh doanh có điều kiện. Thƣờng xuyên tổ chức kiểm tra, chấn chỉnh
hoạt động của các cơ sở kinh doanh, dịch vụ có điều kiện nhƣ: khách sạn, nhà
trọ, cơ sở in ấn, photocopy, vũ trƣờng, karaoke… không để bọn tội phạm và
các phần tử xấu lợi dụng những nơi này ẩn náu hoạt động. Tiếp tục vận động
nhân dân thu gom, giao nộp vũ khí, vật liệu nổ; đấu tranh ngăn chặn có hiệu
quả các vụ buôn bán vũ khí, vật liệu nổ trên địa bàn, không để xảy ra tình
trạng tội phạm dùng vũ khí gây án.
+ Tiếp tục xây dựng và nhân rộng các mô hình tự quản, tự phòng; thực
hiện có hiệu quả các Nghị quyết liên tịch giữa các ngành, các Đoàn thể và
nhân rộng hình thức cam kết giữa các đơn vị, tổ chức trong phòng chống tội
phạm; thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở, tạo điều kiện cho nhân dân tham
gia phòng chống tôi phạm. Tiến hành sơ kết, đánh giá những ƣu, khuyết điểm,
79
tồn tại hạn chế trong công tác đấu tranh chuyển hóa tại các địa bàn trọng điểm
phức tạp về an ninh trật tự đƣợc chọn thí điểm; từ đó đúc kết những mô hình,
giải pháp chuyển hóa đạt hiệu quả để tổ chức triển khai, nhân rộng trên
toàn thành phố.
- Đối với Viện kiểm sát.
Trong những năm qua, với vai trò giám sát các hoạt động tƣ pháp, Viện
kiểm sát đã kịp thời phát hiện những bất cập, sơ hở trong pháp luật và trong phát
hiện thực thi pháp luật của các ngành, các cấp, những sơ hở trong quản lý nhà
nƣớc từ đó chủ động tham mƣu cho Đảng, chính quyền trong công tác phòng
ngừa tội phạm nói chung và tội phạm cƣớp giật tài sản nói riêng. Đóng góp xây
dựng các văn bản pháp luật, các cơ chế quản lý nhà nƣớc và kinh tế, văn hóa, xã
hội ảnh hƣởng trực tiếp đến tình hình tội phạm cƣớp giật tài sản. Tuy nhiên, hoạt
động kiểm soát tội phạm xã hội của Viện kiểm sát theo chức năng, nhiệm vụ,
thẩm quyền của mình vẫn còn nhiều bất cập, tồn tại tình trạng bỏ lọt tội phạm
trên các lĩnh vực.
Để phòng ngừa tội phạm có hiệu quả đòi hỏi Viện kiểm sát phải thực hiện
một cách đầy đủ chức năng, nhiệm vụ của mình trong quá trình thực thi luật tố
tụng hình sự, đồng thời thực hiện có hiệu quả công tác phối hợp, giúp đỡ lẫn
nhau trong thực hiện nhiệm vụ phòng ngừa với các chủ thể khác.Viện kiểm sát
phải giám sát chặt chẽ các hoạt động tƣ pháp nhằm phát hiện những sai phạm,
oan sai trong thực hiện tố tụng đối với các loại tội phạm trong đó có tội phạm
cƣớp giật tài sản để kịp thời yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị. Đặc biệt, qua thực
hiện công tác phải quan tâm chú ý phát hiện những sơ hở thiếu sót trong công
tác quản lý nhà nƣớc để kiến nghị các cơ quan chức năng có biện pháp chấn
chỉnh, khắc phục nhằm ngăn ngừa tội phạm cƣớp giật tài sản xảy ra.Viện kiểm
sát nhân dân cần chủ động bàn bạc với các cơ quan tiến hành tố tụng xác định
các vụ án trọng điểm để tập trung chỉ đạo điều tra, truy tố, xét xử nhanh nhằm
phục vụ yêu cầu chính trị của địa phƣơng. Tích cực phối hợp với Toà án Thành
80
phố tổ chức các phiên toà xét xử lƣu động nhằm thông qua việc thực hành công
tố đối với những vụ án cƣớp giật tài sản nhằm giáo dục tuyên truyền, nâng cao ý
thức chấp hành pháp luật của nhân dân.
Viện kiểm sát nhân dân cấp quận, huyện phải thực hiện tích cực trong
việc quản lý và xử lý tin báo tố giác tội phạm, bằng hình thức duy trì hiệu quả
hòm thƣ tố giác tội phạm, thông báo số điện thoại công khai để nhân dân cung
cấp về tình hình tội phạm, duy trì thƣờng xuyên chế độ trực nghiệp vụ, từ đó
Viện kiểm sát nhân dân có thể trực tiếp khởi tố hoặc yêu cầu Cơ quan điều tra
khởi tố nhiều vụ án về cƣớp giật tài sản để tiến hành điều tra, chống bỏ lọt tội
phạm, đẩy nhanh tiến độ giải quyết vụ án.
Để thực hiện đảm bảo yêu cầu nhiệm vụ Chiến lƣợc cải cách tƣ pháp
đến năm 2020, nhất là việc bổ sung các nhiệm vụ theo quy định của Bộ luật
Tố tụng dân sự (sửa đổi, bổ sung), Luật Tố tụng hành chính, Luật thi hành án
hình sự, Luật thi hành án dân sự, Viện kiểm sát nhân dân cần phải phát triển
khai nghiên cứu các chuyên đề nhằm tổng kết thực tiễn, đúc rút kinh nghiệm
từ những vụ việc cụ thể, từ đó phối hợp với các cơ quan chức năng tổ chức
tuyên truyền, phổ biến rộng rãi trong toàn xã hội. Cần có các quy định pháp
luật về trách nhiệm của Viện kiểm sát nhân dân trong phòng ngừa tội phạm.
Đề xuất: Đầu tƣ cơ sở vật chất và tăng cƣờng nguồn nhân lực đƣợc đào tạo
đúng chuyên ngành cho Viện kiểm sát nhân dân các cấp để đáp ứng đƣợc yêu
cầu công tác trong tình hình mới.
- Đối với cơ quan xét xử
Với chức năng là cơ quan xét xử của nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, Tòa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con
ngƣời, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của
Nhà nƣớc, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
Trong những năm qua, để giúp cho các cơ quan tiến hành tố tụng nói
chung và các Tòa án nói riêng áp dụng thống nhất các quy định của pháp luật,
81
nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng chống tội phạm, trong phạm vi
nhiệm vụ, quyền hạn của mình, Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành hoặc
phối hợp với các Bộ, ngành có liên quan xây dựng và ban hành nhiều văn bản
quy phạm pháp luật hƣớng dẫn thi hành các quy định của Bộ luật hình sự, Bộ
luật tố tụng hình sự. Tòa án nhân dân tối cao cũng rất chú trọng, quan tâm tới
công tác tổng kết kinh nghiệm xét xử, phục vụ cho xây dựng pháp luật, hƣớng
dẫn áp dụng thống nhất pháp luật và giải đáp các vƣớng mắc trong thực tiễn
công tác xét xử nhằm nâng cao hiệu quả công tác xét xử. Tại hội nghị tổng kết
công tác hàng năm, cũng nhƣ các hội nghị sơ kết, tổng kết thi đua của các cụm
thi đua của Tòa án nhân dân đều đƣa ra việc rút kinh nghiệm về áp dụng pháp
luật trong công tác giải quyết, xét xử các loại vụ án trong đó có các vụ án về
hình sự. Mặc dù cũng còn những hạn chế, tồn tại nhất định, nhƣng có thể thấy
rằng, công tác giải quyết, xét xử các vụ án hình sự của các Tòa án đã góp
phần quan trọng trong việc giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội,
tạo môi trƣờng ổn định cho sự phát triển kinh tế của đất nƣớc. Bên cạnh đó,
các Tòa án cũng đã tham gia tích cực vào quá trình hoàn thiện hệ thống pháp
luật nói chung và pháp luật hình sự nói riêng, tạo cơ sở pháp lý ngày càng đầy
đủ, hiệu quả phục vụ công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm. Đồng thời,
xuất phát từ hoạt động thực tiễn của mình, các Tòa án cũng đã phối hợp với
các cơ quan có liên quan đề xuất với các cấp có thẩm quyền đề ra nhiều giải
pháp nâng cao hiệu quả kiểm soát tội phạm xã hội trong thời gian qua.
Trong thời gian tới, Tòa án nhân dân các cấp cần phát huy việc đƣa ra xét
xử công khai, xét xử lƣu động nhiều hơn các vụ án cƣớp giật tài sản. Công tác
này thời gian qua dã phát huy đƣợc tính giáo dục quần chúng nhân dân, ngăn
chăn và răn đe nhũng đối tƣợng đang manh nha hành vi cƣớp giật tài sản khi
thấy cái giá phải trả quá cao.
Đào tạo và tuyển chọn những thẩm phán vừa có đức vừa có tài để xứng
đáng khi nhân danh Nhà nƣớc đƣa ra những phán quyết đảm bảo sự công minh
82
của pháp luật, làm cho nhân dân tin tƣởng vào đƣờng lối, chủ trƣơng, chính sách
của Đảng, pháp luật của Nhà nƣớc, ngƣời phạm tội nhận thức đƣợc sai phạm.
Từ đó, góp phần nâng cao hiệu quả công tác phòng ngừa tình hình tội phạm.
Thông qua xét xử phát hiện sớm các nguyên nhân và điều kiện, hiện
tƣợng xã hội tiêu cực của xã hội, những sơ hở trong công tác quản lý nhà nƣớc
để phối hợp với các cơ quan chức năng khác trong phòng ngừa tội phạm. Đặc
biệt chú ý đào tạo những Thẩm phán có chuyên môn hiểu biết về tâm sinh lý và
khoa học giáo dục của ngƣời chƣa thành niên phạm tội. Để trong tƣơng lai khi
xây dựng hệ thống tƣ pháp cho ngƣời chƣa thành niên thì đây sẽ là lực lƣợng
nòng cốt thực hiện nhiệm vụ.
3.2.2. Nâng cao chất lượng, năng lực, trình độ của đội ngũ cán bộ,
công chức có trách nhiệm tổ chức thực hiện pháp luật trong phòng ngừa,
đấu tranh phòng chống tội phạm cướp giật tài sản
- Phải thƣờng xuyên đào tạo, bồi dƣỡng nghiệp vụ cho cán bộ, công chức
có trách nhiệm tổ chức thực hiện pháp luật trong phòng ngừa, đấu tranh phòng
chống tội phạm cƣớp giật tài sản để nâng cao năng lực nhận thức đặc biệt là
năng lực áp dụng quy định pháp luật hình sự về tội phạm cƣớp giật tài sản.
Lý luận về tội cƣớp giật tài sản là tƣơng đối ổn định, ít thay đổi trong
hệ thống pháp luật hình sự. Tuy vậy, trong thực tế hành vi cƣớp giật tài sản
đôi khi còn có các yếu tố khác gây tranh cãi trong việc định tội. Bên cạnh đó,
các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, định khung cũng có những nhận thức, cách
hiểu khác nhau dẫn đến việc áp dụng không đồng nhất. Trong quá trình áp
dụng pháp luật hình sự, có không ít những vấn đề vƣớng mắc phát sinh trong
cả nhận thức và trong thực thi nhiệm vụ của cán bộ các ngành, các cấp. Trong
quá trình điều tra, truy tố, xét xử có khá nhiều nhầm lẫn giữa hành vi tội cƣớp
giật tài sản với tội cƣớp tài sản, tội công nhiên chiếm đoạt tài sản, hay tội
trộm cắp tài sản... khi có yếu tố sử dụng vũ lực. Do đó việc nghiên cứu, phân
tích đánh giá một cách toàn diện và chi tiết các yếu tố cấu thành tội cƣớp giật
83
tài sản theo Điều 171 Bộ luật hình sự 2015 tạo cơ sở quan trọng trong việc áp
dụng pháp luật xử lý đúng ngƣời, đúng tội và đƣa ra chế tài xác đáng. Đây
cũng là căn cứ để phân biệt giữa các hành vi phạm tội có những dấu hiệu
giống nhau trong quá trình xét xử nhằm không ngừng nâng cao hiệu quả của
công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm cƣớp giật tài sản.
- Chú trọng việc giáo dục chính trị - tƣ tƣởng, nâng cao đạo đức nghề
nghiệp cho đội ngũ cán bộ, công chức, xây dựng ngƣời cán bộ, công chức có
đạo đức, có văn hóa, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tƣ. Khi phát hiện cán
bộ, công chức có biểu hiện lệch lạc, vi phạm nguyên tắc trong hoạt động tổ
chức thực hiện pháp luật thì phải có biện pháp chấn chỉnh kịp thời, nếu vi
phạm pháp luật thì phải xử lý nghiêm.
- Tập trung xây dựng lực lƣợng Công an cơ sở, bổ sung Cảnh sát khu
vực đảm bảo đủ sức hoàn thành nhiệm vụ, đối với những đồng chí không có
năng lực, có nhiều khuyết điểm, sai phạm cƣơng quyết điều chuyển, đƣa
những đồng chí có năng lực, trình độ, đƣợc quần chúng tín nhiệm vào phụ
trách Công an xã, phƣờng, thị trấn, khu vực để làm nòng cốt cho phong trào.
Tiếp tục tổ chức các diễn đàn Công an đối thoại và lắng nghe ý kiến đóng góp
của nhân dân để trả lời những băn khoăn, thắc mắc của nhân dân, đồng
thời để nhân dân đóng góp ý kiến về những sai sót, khuyết điểm của lực lƣợng
Công an, từ đó củng cố, xây dựng lực lƣợng Công an nhân dân ngày càng
trong sạch, vững mạnh.
3.2.3. Đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền giáo dục
pháp luật trong phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm cướp giật tài sản
Đổi mới công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật trong nhân
dân, đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, nhất là giáo dục về đạo đức, lối
sống, chính sách pháp luật. Thƣờng xuyên cải tiến hình thức, phƣơng pháp
tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức trách nhiệm của nhân dân về
phòng, chống tội phạm: Kết hợp nhiều hình thức tuyên truyền, vừa rộng rãi,
84
vừa mở đợt tập trung, vừa tuyên truyền cá biệt; tuyên truyền qua các phƣơng
tiện thông tin đại chúng, các cuộc họp của tổ chức Đảng, cơ quan Nhà nƣớc,
Mặt trận Tổ quốc, tổ chức chính trị xã hội, đơn vị, trƣờng học, tổ dân phố,
cụm dân cƣ. Chú trọng hình thức tuyên truyền, vận động cá biệt đối với các
đối tƣợng có nguy cơ phạm tội, tái phạm và tại các địa bàn trọng điểm về trật
tự, an toàn xã hội.
- Tuyên truyền, phổ biến kịp thời các phƣơng thức thủ đoạn hoạt động
gây án của tội phạm cƣớp giật tài sản đến tất cả các đơn vị, các cơ quan, doanh
nghiệp, khu chung cƣ, ngƣời dân….trên địa bàn để tổ chức công tác phòng
ngừa. Kiến nghị các lực lƣợng chức năng tổ chức tuần tra lƣu động tại các khu
vực có nguy cơ cao các đối tƣợng phạm tội cƣớp giật lợi dụng để thực hiện
hành vi phạm tội. Tuyên truyền sâu rộng đến các tổ chức đoàn thể, quần chúng
nhân đân để nâng cao ý thức cảnh giác, chủ động phòng ngừa tội phạm.
- Tăng cƣờng công tác tuyên truyền trực tiếp, nhất là tại những nơi công
cộng hoặc tham quan du lịch, những tụ điểm phức tạp về an ninh trật tự.
Thông qua hoạt động tuyên truyền này giúp họ tự bảo vệ tài sản, triệt tiêu
những sơ hở trong khâu quản lý tài sản.
- Thông báo trên các phƣơng tiện truyền thông hữu hiệu nhƣ: Đài
truyền hình, báo, đài VOV giao thông... về thời gian, địa điểm, phƣơng thức,
thủ đoạn hoạt động của các đối tƣợng cƣớp giật tài sản để mọi ngƣời dân
cảnh giác và hợp tác với cơ quan Công an trong điều tra tội phạm này.
- Ở những nơi công cộng đông ngƣời qua lại nhƣ bến tàu, bến xe, nhà
ga, sân bay hoặc tại các lễ hội, các khu du lịch cần dán những cảnh báo hoặc
tuyên truyền thông qua các phƣơng tiện thông tin đại chúng để mọi ngƣời đề
cao cảnh giác, quản lý tốt tài sản của mình.
Cần tăng cƣờng hơn nữa công tác tuyên truyền giáo dục cho quần chúng
nhân dân về tinh thần cảnh giác, ý thức chấp hành pháp luật, đặc biệt là ý thức
tự bảo vệ tài sản và tích cực tham gia đấu tranh chống tội phạm cƣớp giật tài
85
sản trên các tuyến giao thông đƣờng bộ, ngay tại các khu dân cƣ tƣởng chừng
nhƣ an toàn nhất nhƣng vẫn bị kẻ gian lợi dụng thực hiện hành vi phạm tội.
Việc nâng cao cảnh giác này phải đƣợc thực hiện mọi lúc mọi nơi. Công tác
tuyên truyền, giáo dục phải đƣợc tăng cƣờng hơn nữa và phải tiến hành thƣờng
xuyên trên khắp các địa bàn, cơ quan, đơn vị, trƣờng học và đặc biệt là những
địa bàn có nhiều tuyến đƣờng giao thông thƣờng xảy ra các vụ cƣớp giật tài
sản. Nội dung công tác tuyên truyền, giáo dục: Ý thức bảo vệ tài sản của mình
khi tham gia giao thông trên đƣờng bộ; thủ đoạn hoạt động của tội phạm;
những tuyến đƣờng và thời gian thƣờng xảy ra cƣớp giật tài sản để ngƣời dân
nâng cao cảnh giác đề phòng; chú ý quan sát ghi nhận đặc điểm nhận dạng đối
tƣợng, phƣơng tiện chúng sử dụng, hƣớng tẩu thoát sau khi gây án, giúp cơ
quan chức năng nhanh chóng phát hiện bắt giữ hoặc để phục vụ cho công tác
điều tra vụ án. Phƣơng thức tuyên truyền, giáo dục: Thông qua các phƣơng tiện
thông tin đại chúng nhƣ: Báo chí, đài phát thanh truyền hình…các tổ chức đoàn
thể, xã hội, trƣờng học đóng trên địa bàn để tuyên truyền giáo dục hoặc trực
tiếp tiến hành tuyên truyền, giáo dục bằng nhiều hình thức khác nhau.
- Tập trung tuyên truyền một số biện pháp đề phòng cụ thể trong công tác
thực hiện pháp luật trong đấu tranh phòng chống tội phạm cƣớp giật tài sản:
+ Khuyến cáo ngƣời dân không phô trƣơng, cất giữ, mang theo nhiều
tiền bạc, tài sản, trƣng diện đồ trang sức có giá trị một cách không cần thiết,
hoặc sơ hở. Nhất là ở những nơi đông ngƣời: chợ, bến tàu, bến xe, hoặc trên
đƣờng phố.
+ Không treo giỏ xách, để giỏ xách, đồ vật có giá trị trên giỏ xe máy,
ba-ga xe máy, xe đạp khi đi ngoài đƣờng.
+ Cần nâng cao cảnh giác đề phòng cho du khách khi đi bộ mang theo
tài sản: camera, túi xách, tài sản có giá trị, ở những trƣờng hợp nêu trên.
86
+ Phụ nữ đi xe máy tay ga không nên treo, máng giỏ xách, mà nên để
trong cốp xe. Không xuất hiện, đi lại bằng xe máy vào ban đêm ở khu vực
vắng ngƣời, nguy hiểm, đơn độc và không có biện pháp phòng ngừa hiệu quả.
+ Học sinh không để giỏ xách trên giỏ xe đạp, xe đạp điện, mà nên
dùng ba-lô sau lƣng.
+ Khi đi dạo bộ, cần chú ý bảo vệ túi xách, đồ vật: dây chuyền, máy
ảnh, điện thoại di động. Ví dụ: không đi bộ dƣới lòng đƣờng; hoặc đi sát lề
đƣờng nhƣng treo giỏ xách bên vai trái (phía lòng đƣờng), vì đối tƣợng dễ
giật đƣợc tài sản.
+ Không vừa chạy xe, vừa nghe điện thoại di động.
- Các cửa hàng kinh doanh hàng hóa có giá trị: vàng bạc, đá quý; điện
thoại di động, đồng hồ… cần có các biện pháp cảnh giác, đề phòng thủ đoạn
vờ mua hàng, xem hàng rồi ra tay cƣớp giật.
- Những cửa hàng kinh doanh tài sản có giá trị: vàng, bạc, đá quý, đồ
trang sức, điện thoại di động… cần lắp đặt các thiết bị bảo vệ: tủ trƣng bày
lắp kính cƣờng lực; camera theo dõi; khóa chống trộm; chuông báo động…
- Khi gặp trƣờng hợp các đối tƣợng cƣớp có vũ khí nguy hiểm nhƣ
súng, thuốc nổ, dao… có thể trực tiếp đe dọa đến tính mạng thì không nên vì
tiếc tài sản mà phản ứng ngay lập tức, thƣờng sẽ dẫn đến hậu quả thiệt mạng,
nên cố gắng chấn tĩnh tìm cơ hội chống trả, bắt giữ đối tƣợng hoặc cố gắng
ghi nhớ đặc điểm của các đối tƣợng (về con ngƣời, phƣơng tiện, công cụ, vũ
khí… của đối tƣợng) để cung cấp cho cơ quan Công an, phục vụ công tác
điều tra khám phá.
3.2.4. Xây dựng cơ sở vật chất và công cụ hỗ trợ phục vụ công tác tổ
chức thực hiện pháp luật trong đấu tranh phòng chống tội phạm cướp giật
tài sản
Ứng dụng các biện pháp khoa học kỹ thuật trong công tác điều tra vụ
án cƣớp giật tài sản. Đề xuất Công an Thành phố bổ sung vào trang thông tin
87
điện tử của Công an Thành phố nội dung về tin báo tố giác tội phạm để ngƣời
dân khi bị xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm và tài sản có
thể đăng nhập và trình báo với cơ quan Công an.
Đề xuất Uỷ ban nhân dân Thành phố đầu tƣ xây dựng hệ thống camera
giám sát trật tự an toàn giao thông và quản lý an ninh, trật tự tại các quận nội
thành, những nơi trung tâm công cộng lớn, một số huyện giáp ranh nội thành và
những tuyến đƣờng giao thông trọng điểm…. Những hình ảnh theo dõi ghi nhận
đƣợc có thể coi là chứng cứ chứng minh hành vi phạm tội của các loại đối tƣợng.
Hệ thống camera đƣợc lắp đặt nhằm giám sát quản lý tình hình an ninh trật tự ở
các địa bàn trọng điểm, các nút giao thông, cửa ngõ của Thành phố, quận, huyện,
các trung tâm công cộng nhà ga, bến xe, bãi đỗ xe... và đƣợc kết nối về trung tâm
thông tin, chỉ huy của Công an Thành phố Hà Nội. Đáp ứng đƣợc yêu cầu trên sẽ
góp phần bảo đảm ngăn chặn, xử lý nhanh chóng kịp thời, có hiệu quả các hành vi
vi phạm an ninh, trật tự; đồng thời, phục vụ có hiệu quả việc chỉ huy truy bắt đối
tƣợng gây án trong các phƣơng án truy bắt thủ phạm cƣớp giật tài sản.
Lắp đặt hệ thống báo động bằng âm thanh, hệ thống camera cục bộ ở
những nơi công cộng, tuyến đƣờng giao thông thƣờng xuyên xảy ra các vụ
cƣớp giật tài sản để ghi hình ảnh, bắt quả tang các đối tƣợng phạm tội. Đây là
một giải pháp rất thích hợp với các tụ điểm, địa bàn đông dân cƣ, khu vực
quận, huyện, thị xã, thị trấn, các bến bãi... Việc thực hiện giải pháp này phải
lựa chọn địa điểm hợp lý, tạo điều kiện thuận lợi để bọn tội phạm hành động
theo ý đồ của lực lƣợng Công an, đảm bảo yếu tố bất ngờ và đảm bảo đƣợc
các tình huống nghiệp vụ đặt ra.
Nhanh chóng hoàn thiện cơ sở dữ liệu về phƣơng tiện trên địa bàn thủ
đô trên cơ sở đó tổ chức quản lý, tra cứu trên hệ thống máy vi tính thông qua
mạng LAN trong Công an Thành phố để xác định nguồn gốc phƣơng tiện gây
án, trong đó chú trọng công tác tuyên truyền hƣớng dẫn việc chấp hành của
nhân dân trong đăng ký, quản lý, sử dụng xe máy cá nhân theo đúng quy định
88
của Pháp luật. Để đáp ứng đòi hỏi công tác điều tra tội phạm trong thời kỳ
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Công an Thành phố phải tổ chức đào tạo
nguồn nhân lực có trình độ khoa học kỹ thuật, tin học cho các cơ quan điều
tra và các đơn vị trinh sát, lực lƣợng nghiệp vụ khác để có thể nhanh chóng,
khai thác phục vụ kịp thời cho công tác điều tra. Tổ chức kết nối dữ liệu
Internet và trang bị máy Ipad mini cho CSGT, CSKV tra cứu nhanh các thông
tin vụ án và thông tin đối tƣợng, tang vật và tài sản bị cƣớp giật...
Nội dung hết sức quan trọng là phải giáo dục, nâng cao nhận thức của
cán bộ chiến sỹ làm công tác điều tra tội phạm về ý nghĩa to lớn trong việc
quan tâm ứng dụng các biện pháp khoa học kỹ thuật vào công tác điều tra tội
phạm hình sự nói chung, các vụ án cƣớp giật tài sản nói riêng trên địa bàn
Thành phố Hà Nội trong thời gian tới.
3.2.5. Tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát việc thi
hành pháp luật trong phòng ngừa, đấu tranh phòng chống tội phạm cướp
giật tài sản trên địa bàn Thành phố Hà Nội
- Tăng cƣờng công tác giám sát của Hội đồng nhân dân Thành phố và
Hội đồng nhân dân quận, huyện, thị xã, Hội đồng nhân dân xã, phƣờng, thị
trấn để kịp thời phát hiện, góp ý kiến để các cơ quan có trách nhiệm tổ chức
thực hiện pháp luật trong phòng ngừa, đấu tranh phòng chống tội phạm cƣớp
giật tài sản, điều chỉnh, bổ sung hoạt động đúng quy định của pháp luật, tạo
chuyển biến mới sau các cuộc giám sát.
- Nâng cao hiệu quả của hoạt động thanh tra, kiểm tra hoạt động thi
hành pháp luật trong phòng ngừa, đấu tranh phòng chống tội phạm cƣớp giật
tài sản. Hoạt động kiểm tra, thanh tra phải đƣợc tiến hành theo đúng thẩm
quyền, trình tự, thủ tục pháp luật quy định. Việc ban hành kết luận thanh tra,
kiểm tra, các kiến nghị và các quyết định xử lý kết quả thanh tra, kiểm tra
phải đúng pháp luật, khách quan, kịp thời, nghiêm minh, nhƣng cũng phải bảo
đảm phù hợp với thực tiễn của Thành phố Hà Nội và có tính khả thi.
89
3.2.6. Thực hiện những giải pháp đồng bộ để phòng ngừa tội phạm
cướp giật tài sản trên địa bàn Thành phố Hà Nội
- Giải pháp kinh tế
Bản chất của các giải pháp kinh tế là nâng cao đời sống vật chất, giải
quyết công ăn việc làm cho ngƣời lao động, xóa đói giảm nghèo trong xã hội
là một trong những biện pháp căn bản giải quyết vấn đề tội phạm trong xã hội
nói chung và tội phạm cƣớp giật tài sản nói riêng.
Chiếm đoạt tài sản là động cơ, mục đích mà ngƣời thực hiện hành vi
cƣớp giật tài sản hƣớng đến, hay nói sâu xa hơn là mọi hành vi cƣớp giật tài
sản đều hƣớng đến mục đích kinh tế và một trong những yếu tố tác động
nhiều đến tình hình tội cƣớp giật tài sản cũng là yếu tố xuất phát từ kinh tế đã
nêu trong Chƣơng 1, vì vậy vấn đề quan trọng nhất đối với công tác phòng
ngừa tội phạm cƣớp giật tài sản là tiếp tục tổ chức thực hiện quản lý kinh tế,
đề ra các biện pháp nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân.
Chính quyền các cấp cần tăng cƣờng cải cách hành chính, kêu gọi vốn
đầu tƣ phát triển hạ tầng, phát triển các khu công nghiệp và các ngành nghề mới
từ đó tạo công ăn việc làm, giải quyết nạn thất nghiệp. Có chính sách hỗ trợ các
doanh nghiệp tƣ nhân địa bàn Thành phố mở rộng sản xuất, kinh doanh từ đó đa
dạng hóa các ngành nghề, lĩnh vực kinh tế tạo khả năng cạnh tranh trên thị
trƣờng trong nƣớc và quốc tế.
Chú trọng, quan tâm đến các chính sách cho những hộ nghèo, khó khăn
về kinh tế đƣợc vay vốn để sản xuất kinh doanh; Cử cán bộ, nhà khoa học
giúp ngƣời dân về mặt kiến thức khoa học kỹ thuật trồng trọt, chăn nuôi, tổ
chức các lớp học trên từng địa bàn xã phƣờng, thị trấn, cán bộ khuyến nông
cần phải đi sát cơ sở, nắm bắt tình hình chăn nuôi, trồng trọt của bà con để
kiểm tra và xử lý kịp thời các sự cố, bệnh tật gây thiệt hại cho ngƣời dân… và
phải thƣờng xuyên giám sát việc sử dụng vốn vay của những ngƣời dân đảm
bảo vốn đƣợc sử dụng đúng mục đích.
90
Tăng cƣờng quảng bá, đầu tƣ vào du lịch trên địa bàn thành phố Hà Nội,
mở rộng hoạt động của các làng nghề truyền thống, tận dụng đƣợc nguồn lao
động nhàn rỗi, đồng thời lƣu giữ, duy trì đƣợc các nghề thủ công truyền thống,
có bản sắc dân tộc.
- Các giải pháp xã hội
Để giảm thiểu tối đa tội phạm cần phải có những chính sách xã hội thiết
thực, trực tiếp, liên tục đối với những ngƣời có nguy có phạm tội cao. Tìm ra các
nguyên nhân và điều kiện từ phía xã hội để đƣa ra các giải pháp triệt tiêu tình
hình tội phạm cƣớp giật tài sản hiện nay tại thành phố Hà Nội.
Nhân cách của ngƣời phạm tội cƣớp giật tài sản chịu ảnh hƣởng trực tiếp
của môi trƣờng xã hội, của những mặt tiêu cực, mặt trái của xã hội. Vì vậy, song
song với biện pháp kinh tế là những vấn đề xã hội cần đƣợc giải quyết. Đó là
tạo việc làm cho các gia đình đối tƣợng chính sách, những ngƣời có khó khăn
trong cuộc sống, những gia đình bị thu hồi đất nông nghiệp, những ngƣời nghèo,
những ngƣời có tiền án, tiền sự.
Trƣớc hết cần xây dựng và triển khai chƣơng trình đào tạo nghề, tạo công
ăn việc làm cho ngƣời dân lao động, hạn chế thấp nhất tình trạng thất nghiệp,
trƣớc mắt ƣu tiên giải quyết việc làm cho những ngƣời có hoàn cảnh khó khăn,
những đối tƣợng chấp hành xong án phạt tù, những đối tƣợng đi cơ sở giáo dục,
trƣờng giáo dƣỡng về địa phƣơng nhằm tạo điều kiện cho họ có điều kiện hoà
nhập cộng đồng, giảm thiểu đƣợc tình trạng tái phạm trở lại. Đây là giải pháp có
hiệu quả thiết thực cao, làm tốt điều này không những làm giảm THTP nói
chung mà còn làm giảm việc tham gia vào các tệ nạn xã hội khác.
Các chính sách nhƣ xoá đói giảm nghèo, chính sách với gia đình ngƣời
có công, gia đình thƣơng binh liệt sỹ, các hoạt động nhân đạo, từ thiện, chăm
sóc bảo vệ sức khoẻ, nâng cao thể chất, tinh thần của nhân dân phải đƣợc thực
hiện có hiệu quả. Đẩy lùi tệ nạn xã hội, nhằm tạo niềm tin của nhân dân đối
với các chủ trƣơng, đƣờng lối chính sách của Đảng và nhà nƣớc, tạo ý thức
91
trách nhiệm xây dựng môi trƣờng sống lành mạnh, trong sạch, bền vững đến
từng con ngƣời.
Tổ chức hƣớng nghiệp cho những ngƣời lao động, ngƣời chƣa thành
niên, những trẻ em đang đi học và trẻ em đã bỏ học. Ngoài ra, cũng cần mở
rộng hợp tác trong lĩnh vực xuất khẩu lao động nhằm giải quyết việc làm cho
ngƣời lao động, đồng thời tranh thủ tận dụng cơ hội để đƣa ngƣời lao động có
trình độ tay nghề cao đƣợc ra nƣớc ngoài làm việc, kiếm thu nhập.
Các tổ chức xã hội, tổ chức đoàn thể nhƣ Đoàn Thanh niên, Hội phụ
nữ, Mặt trận Tổ quốc các cấp...tổ chức thực hiện nhiều hình thức giáo dục
pháp luật, giáo dục tri thức, ý thức công dân và đặc biệt là ý thức tôn trọng tài
sản của ngƣời khác qua đó tạo thói quen tuân thủ pháp luật và nếp sống cộng
đồng cho nhân dân Thủ đô.
Công an các cấp thƣờng xuyên tuyên truyền vận động quần chúng nhân
dân đấu tranh phòng chống tội phạm, lồng ghép với các nội dung xây dựng
thôn xóm, khu phố, nhà trƣờng với các nội dung trong yêu cầu công tác đấu
tranh phòng chống tội phạm.
- Các giải pháp về văn hoá
Bản sắc văn hoá dân tộc là cái hồn, là sức sống nội sinh; là nền tảng tinh
thần của xã hội và là mục tiêu động lực thúc đẩy kinh tế xã hội phát triển. Do đó
văn hoá là vấn đề hết sức quan trọng trong quá trình đấu tranh phòng chống tội
phạm. Chính vì vậy, cả hệ thống chính trị của Thủ đô cần phải vào cuộc trong
việc duy trì công tác quản lý văn hoá phẩm, kiểm soát các nội dung có tính chất
đồi truỵ, chống sự thâm nhập văn hoá trái với thuần phong mỹ tục của dân tộc.
Củng cố và tiếp tục xây dựng môi trƣờng văn hoá lành mạnh, phong phú, đa
dạng; đẩy mạnh xây dựng nếp sống văn minh trong cộng đồng dân cƣ, tuyên
truyền và phát triển nền văn hoá nghệ thuật Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc, giàu chất nhân văn. Chú trọng phát huy mạnh mẽ chức năng thông tin,
giáo dục, tổ chức và phản biện xã hội vì lợi ích nhân dân thủ đô.
92
TIỂU KẾT CHƢƠNG 3
Trên cơ sở nghiên cứu lí luận và khảo sát thực trạng công tác tổ chức
thực hiện pháp luật trong phòng ngừa, đấu tranh phòng chống tội phạm cƣớp
giật tài sản trên địa bàn thành phố Hà Nội, luận văn đề xuất 6 giải pháp đảm
bảo tổ chức thực hiện pháp luật trong phòng ngừa, đấu tranh phòng chống tội
phạm cƣớp giật tài sản trên địa bàn thành phố Hà Nội:
- Nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan tổ chức thực hiện pháp
luật trong phòng ngừa, đấu tranh phòng chống tội phạm cƣớp giật tài sản trên
địa bàn thành phố Hà Nội.
- Nâng cao chất lƣợng, năng lực, trình độ của đội ngũ cán bộ, công
chức có trách nhiệm tổ chức thực hiện pháp luật trong phòng ngừa, đấu tranh
phòng chống tội phạm cƣớp giật tài sản.
- Đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền giáo dục pháp luật
trong phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm cƣớp giật tài sản.
- Xây dựng cơ sở vật chất và công cụ hỗ trợ phục vụ công tác tổ chức
thực hiện pháp luật trong đấu tranh phòng chống tội phạm cƣớp giật tài sản.
- Tăng cƣờng công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát việc thi hành pháp
luật trong phòng ngừa, đấu tranh phòng chống tội phạm cƣớp giật tài sản trên
địa bàn Thành phố Hà Nội.
- Thực hiện những giải pháp đồng bộ để phòng ngừa tội phạm cƣớp
giật tài sản trên địa bàn Thành phố Hà Nội.
93
KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu về công tác tổ chức thực hiện pháp luật trong phòng
ngừa, đấu tranh phòng chống tội phạm cƣớp giật tài sản trên địa bàn thành
phố Hà Nội, bƣớc đầu Luận văn đã cố gắng làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận
và thực tiễn để từ đó tìm ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của
cuộc đấu tranh phòng và chống loại tội này trên địa bàn nghiên cứu. Từ quá
trình nghiên cứu luận văn đƣa ra một số kết luận chung dƣới đây:
1. Tổ chức thực hiện pháp luật trong phòng ngừa, đấu tranh phòng chống
tội phạm cƣớp giật tài sản là hoạt động của các cơ quan, tổ chức, cá nhân có
thẩm quyền trong việc hƣớng dẫn, chuẩn bị các nguồn lực, điều kiện đảm bảo
các qui phạm pháp luật điều chỉnh hoạt động của các cơ quan nhà nƣớc và tổ
chức xã hội và của mọi công dân trong áp dụng tổng hợp và đồng bộ các biện
pháp khác nhau hƣớng vào thủ tiêu những nguyên nhân và điều kiện phạm tội,
cũng nhƣ loại bỏ các yếu tố tiêu cực ảnh hƣởng đến quá trình hình thành tội
phạm, đồng thời từng bƣớc hạn chế, đẩy lùi và tiến tới loại bỏ tội phạm cƣớp
giật tài sản ra khỏi đời sống xã hội, đƣợc thực hiện trên thực tế.
Tình hình tội phạm cƣớp giật tài sản ở Hà Nội đã và đang diễn ra phức
tạp, tăng giảm thất thƣờng. Tuy chiếm tỷ lệ không lớn trong tổng số tội phạm
và là loại tội đứng thứ sáu trong nhóm tội có tính chiếm đoạt, nhƣng tính chất
mức độ nguy hiểm cho xã hội rất lớn, hậu quả gây ra cho xã hội ngày càng
nghiêm trọng, thiệt hại cả tài sản và sức khoẻ của con ngƣời, gây tâm lý
hoang mang lo lắng trong nhân dân, tác động tới trật tự an toàn xã hội ở Thủ
đô. Từ đó ảnh hƣởng đến sự phát triển kinh tế và ổn định chính trị của thành
phố. Trong tƣơng lai nó có xu hƣớng gia tăng không chỉ về số vụ mà cả về
tính chất và mức độ ngày càng trầm trọng. Để phòng chống tội phạm cƣớp
giật tài sản có hiệu quả cần phải tổ chức tốt việc thực hiện pháp luật trong
phòng ngừa, đấu tranh phòng và chống tội phạm cƣớp giật tài sản.
94
2. Luận văn đã nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản nhất về tổ
chức thực hiện pháp luật trong phòng ngừa, đấu tranh phòng chống tội phạm
cƣớp giật tài sản gồm: Khái niệm, đặc điểm, vai trò, nội dung các yếu tố ảnh
hƣởng và các điều kiện đảm bảo đến tổ chức thực hiện pháp luật trong phòng
ngừa, đấu tranh phòng chống tội phạm cƣớp giật tài sản. Trên cơ sở đó đã đánh
giá kết quả đạt đƣợc trong tổ chức thực hiện pháp luật về phòng ngừa, đấu
tranh phòng chống tội phạm cƣớp giật tài sản trên các mặt: kết quả đạt đƣợc,
những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân. Luận văn đã đề xuất các giải pháp
đảm bảo tổ chức thực hiện pháp luật trong đấu tranh phòng ngừa tội phạm
cƣớp giật tài sản trên địa bàn Thành phố Hà Nội.
3. Để đảm bảo tổ chức thực hiện tốt pháp luật trong phòng ngừa, đấu
tranh phòng chống tội phạm cƣớp giật tài sản trên địa bàn Thành phố Hà Nội
phải tiến hành đồng bộ các biện pháp, giải pháp, phát huy sức mạnh tổng hợp
của toàn xã hội theo hai hƣớng: ngăn chặn sự phát sinh tội phạm từ đối tƣợng
mới và ngăn ngừa tái phạm tội. Các giải pháp cụ thể: 1) Nâng cao hiệu quả
hoạt động của các cơ quan tổ chức thực hiện pháp luật trong phòng ngừa, đấu
tranh phòng chống tội phạm cƣớp giật tài sản trên địa bàn thành phố Hà Nội.
2) Nâng cao chất lƣợng, năng lực, trình độ của đội ngũ cán bộ, công chức có
trách nhiệm tổ chức thực hiện pháp luật trong phòng ngừa, đấu tranh phòng
chống tội phạm cƣớp giật tài sản. 3) Đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác
tuyên truyền giáo dục pháp luật trong phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm
cƣớp giật tài sản. 4) Xây dựng cơ sở vật chất và công cụ hỗ trợ phục vụ công
tác tổ chức thực hiện pháp luật trong đấu tranh phòng chống tội phạm cƣớp
giật tài sản. 5) Tăng cƣờng công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát việc thi hành
pháp luật trong phòng ngừa, đấu tranh phòng chống tội phạm cƣớp giật tài sản
trên địa bàn Thành phố Hà Nội. 6) Thực hiện những giải pháp đồng bộ để
phòng ngừa tội phạm cƣớp giật tài sản trên địa bàn Thành phố Hà Nội.
95
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lê Cảm (2005), Những vấn đề cơ bản trong khoa học luật hình sự (phần
chung), Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
2. Lê Cảm (chủ biên - 2007), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần các tội
phạm), Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
3. Chánh án TANDTC (2002), Công văn 81/2002/TANDTC ngày 10/6/2002
về Giải đáp các vấn đề nghiệp vụ, Hà Nội.
4. Nguyễn Ngọc Chí (2000), “Trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm
sở hữu”, Luận án tiến sỹ luật học, Hà Nội.
5. Công an thành phố Hà Nội (2011-2017), Báo cáo tổng kết công tác năm,
Hà Nội.
6. Công an thành phố Hà Nội, Phòng Cảnh sát hình sự (2010 - 2017), Báo
cáo tổng kết công tác năm, Hà Nội.
7. Đại học Luật Hà Nội (2011), Giáo trình Lý luận nhà nước và pháp luật,
Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
8. Nguyễn Minh Đoan (2009), Thực hiện và áp dụng pháp luật ở Việt Nam,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
9. Lê Thị Thu Hà (2004), Tội cướp giật tài sản theo pháp luật hình sự Việt
Nam: Một số khía cạnh pháp lý và tội phạm học, Luận văn thạc sĩ.
10. Nguyễn Ngọc Hòa (1990), “Một số ý kiến về tình tiết hành hung để tẩu
thoát trong Bộ luật hình sự”, Tạp chí Tòa án nhân dân, Hà Nội.
11. Nguyễn Ngọc Hòa (chủ biên - 2010), Chƣơng XX - Các tội xâm phạm sở
hữu trong Giáo trình luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm), Nxb
Công an nhân dân, Hà Nội.
12. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (2014), Giáo trình trung cấp lý
luận Chính trị - Hành chính, Nxb Lý luận Chính trị, Hà Nội.
13. Học viện Hành chính Quốc gia (2015), Giáo trình quản lý công, Nxb Bách
khoa, Hà Nội.
96
14. Nguyễn Thị Hồi (chủ biên - 2009), Áp dụng pháp luật ở Việt Nam hiện nay
- Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Tƣ pháp, Hà Nội.
15. Đinh Thế Hƣng, Trần Văn Biên (2010), Bình luận Bộ luật hình sự của
nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã sửa đổi, bổ sung năm 2009 -
Chƣơng XIV: Các tội xâm phạm sở hữu, Nxb Lao động, Hà Nội.
16. Lê Tấn Hùng (2012), “Tội cướp giật tài sản theo pháp luật hình sự Việt
Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi”, Luận văn thạc sĩ luật học, Hà Nội.
17. Trần Minh Hƣởng (2002), Tìm hiểu Bộ luật hình sự nƣớc cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam - Bình luận và chú giải - Chƣơng IV: Các tội xâm
phạm quyền sở hữu, Nxb Lao động, Hà Nội.
18. Trần Thị Hƣơng (2016), “Tội cướp giật tài sản theo luật hình sự Việt
Nam”, Luận văn thạc sĩ luật học, Hà Nội.
19. Lê Thị Khanh (2007), Đấu tranh phòng, chống các tội xâm phạm sở hữu có tính
chiếm đoạt trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa, Luận văn thạc sĩ luật học, Hà Nội.
20. Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội (2005), Giáo trình lý luận chung về
nhà nước và pháp luật, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội.
21. Phan Thị Thu Lê (2015), “Tội cướp giật tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam
từ thực tiễn quận Hà Đông, TP. Hà Nội”, Luận văn thạc sĩ luật học, Hà Nội.
22. Dƣơng Tuyết Miên (2004), Định tội danh và quyết định hình phạt, Nxb
Công an nhân dân, Hà Nội.
23. Ngọ Văn Nhân (2010), Xã hội học pháp luật, Nxb Tƣ pháp, Hà Nội.
24. Cao Thị Oanh (2010), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần các tội
phạm) Chƣơng IV: Các tội phạm sở hữu, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
25. Đinh Văn Quế (2006), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 1999 -
Phần các tội phạm, Tập II: Các tội xâm phạm sở hữu, Nxb Tổng hợp,
Thành phố Hồ Chí Minh.
26. Quốc hội nƣớc CHXHCN Việt Nam (2013), Hiến pháp, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
97
27. Quốc hội nƣớc CHXHCN Việt Nam (2008), Luật thi hành án dân sự, Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
28. Quốc hội nƣớc CHXHCN Việt Nam (2015), Bộ luật dân sự, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
29. Quốc hội nƣớc CHXHCN Việt Nam (2015), Bộ luật hình sự Việt Nam
(1999) sửa đổi bổ sung 2015, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
30. Quốc hội nƣớc CHXHCN Việt Nam (2015), Bộ luật tố tụng hình sự, Nxb
Chính trị Quốc gia, HàNội.
31. Phạm Hồng Thái, Đinh Văn Mậu (2009), Lý luận Nhà nước và pháp luật,
Nxb Giao thông vận tải, Hà Nội.
32. Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội (2010 - 2017), Báo cáo tổng kết công
tác các năm, Hà Nội.
33. Nguyễn Thị Toàn (2015), “Tội cướp giật tài sản theo pháp luật hình sự
Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Hưng Yên”, Luận văn thạc sĩ luật học, Hà Nội.
34. Đỗ Kim Tuyến (2001), Đấu tranh phòng, chống tội cướp tài sản trên địa
bàn Hà Nội, Luận án tiến sĩ luật học, Trƣờng Đại học Luật Hà Nội.
35. Phùng Thế Vắc (chủ biên - 2001), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm
1999 (Phần các tội phạm) - Chƣơng IV: Các tội xâm phạm sở hữu, Nxb
Công an nhân dân, Hà Nội.
36. Viện khoa học pháp lý - Bộ Tƣ pháp (2010), Từ điển Luật học, Nxb Tƣ
pháp, Hà Nội.
37. Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hà Nội (2010 - 2017), Báo cáo tổng
38. Võ Khánh Vinh (chủ biên - 2010), Giáo trình luật hình sự Việt Nam (Phần
kết các năm, Hà Nội.
các tội phạm), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
39. www.http://laodongthudo.vn/kinh-te-xa-hoi-thu-do-6-thang-dau-nam-
2018-phat-trien-toan-dien-75230.html
98
PHỤ LỤC
Bảng 2.1: Bảng thống kê số lƣợng thụ lý và giải quyết vụ án tội cƣớp
giật tại thành phố Hà Nội từ năm 2010 - 2017
Thụ lý Giải quyết Năm
Vụ 222 219 168 192 173 190 153 116 992 Bị cáo 344 353 266 287 258 292 218 149 1,470 Vụ 217 200 164 175 157 162 138 110 906 Bị cáo 330 322 255 262 225 234 194 139 1,309 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 Tổng
Bảng 2.2: Bảng thống kê số lƣợng thụ lý và giải quyết vụ án tội phạm
hình sự tại thành phố Hà Nội từ năm 2010 - 2017.
Thụ lý Giải quyết Năm
Vụ 6,725 8,509 9,538 9,378 9,142 8,887 7,753 7,757 52,455 Bị cáo 12,181 15,493 17,884 16,393 16,524 14,931 13,116 13,144 91,992 Vụ 6,669 8,452 9,490 9,270 9,063 8,702 1,670 7,667 45,862 Bị cáo 11,991 15,318 17,716 16,111 16,257 14,479 12,820 12,804 90,187 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 Tổng
99
Bảng 2.3: Cơ cấu của tình hình tội cƣớp giật tài sản xét theo độ tuổi
ngƣời phạm tội.
Tổng số bị cáo Độ tuổi
đã xét xử Năm Từ 14 tuổi đến Từ 18 tuổi đến Trên 30
sơthẩm dƣới 18 tuổi 30 tuổi
2011 306 15 93 198
2012 250 12 68 170
2013 275 25 61 189
2014 235 9 43 183
2015 245 9 41 195
1.311 70 306 935 Tổng
Nguồn: Theo báo cáo của tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội
Bảng 2.4: Cơ cấu của tình hình tội cƣớp giật tài sản xét theo trình
độ học vấn ngƣời phạm tội.
Trình độ học vấn
Năm Số bị cáo Không biết Tiểu học, THPT Cao đẳng,
THCS Đại học chữ
2011 306 164 16 77 0
2012 250 120 47 54 0
2013 275 107 25 79 4
2014 235 97 24 73 0
2015 245 85 37 65 0
Tổng 1.311 573 149 348 4
Nguồn: Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội
100
Bảng 2.5: Cơ cấu của tình hình tội cƣớp giật tài sản xét theo nghề
nghiệp của ngƣời phạm tội
Nghề nghiệp
Lao động Cán bộ Học sinh, Không các nghề cá thể, công Năm Số bị cáo sinh viên nghề khác làm ruộng chức
195 51 50 0 2011 306 9
125 48 70 1 2012 250 6
180 59 25 0 2013 275 11
105 63 63 0 2014 235 4
117 69 56 0 2015 245 3
722 1 1.311 290 264 33 Tổng
Nguồn: Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội
Bảng 2.6: Cơ cấu của tình hình tội cƣớp giật tài sản xét theo tiền án,
tiền sự của ngƣời phạm tội
Tổng số Có tiền án, Chƣa có Năm bị cáo tiền sự tiền án, tiền sự
207 99 2011 306
191 59 2012 250
202 73 2013 275
165 70 2014 235
147 98 2015 245
912 399 Tổng 1.311
Nguồn: Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội
101
Bảng 2.7: Bảng thống kê, phân tích số vụ việc xảy ra từ năm 2011
đến năm 2015 của Công an Thành phố Hà Nội
Số vụ việc xảy ra
Tỷ lệ % Số vụ phạm pháp Số vụ cƣớp giật Năm hình sự tài sản
2011 5.198 436 8,38
2012 5.062 439 8,67
2013 5.442 527 9,68
2014 5.255 471 8,96
2015 5.148 409 7,94
26.105 8,74 Tổng 2.282
Nguồn: Theo báo cáo của Ban Chỉ đạo 197 Thành phố Hà Nội
Bảng 2.9: Bảng thống kê, phân tích tỷ lệ điều tra, khám phá theo địa
bàn thành phố Hà Nội từ năm 2010 đến năm 2017
Xảy ra ĐTKP Bắt Mở rộng Ghi Số Địa bàn (vụ) (vụ) (Đối tƣợng) (vụ) chú TT
101 116 1 Hoàn Kiếm 320 22
2 Ba Đình 140 35 47 15
3 Hai Bà Trƣng 278 69 93 42
4 Đống Đa 288 81 92 14
5 Thanh Xuân 171 30 49 20
6 Cầu Giấy 296 71 84 40
7 Tây Hồ 87 28 43 6
8 Long Biên 166 46 48 30
9 Hoàng Mai 211 58 73 18
10 Thanh Trì 41 20 28 8
11 Gia Lâm 55 24 39 14
102
76 12 Bắc Từ Liêm 527 97 29
12 13 Nam Từ Liêm 180 21 7
23 78 14 Đông Anh 27 3
25 56 15 Sóc Sơn 38 19
8 56 16 Mê Linh 10 0
30 139 17 Hà Đông 55 33
18 48 18 Sơn Tây 29 10
21 71 19 Chƣơng Mỹ 29 4
5 26 20 Thanh Oai 7 0
7 19 21 Ứng Hòa 9 0
10 24 22 Thƣờng Tín 13 0
3 10 23 Phú Xuyên 6 0
9 20 24 Mỹ Đức 14 1
4 33 25 Quốc Oai 6 0
9 22 26 Thạch Thất 11 0
12 31 27 Hoài Đức 22 0
10 31 28 Đan Phƣợng 14 0
18 28 29 Phúc Thọ 28 0
25 37 30 Ba Vì 39 26
223 31 Phòng PC45 748 321 495
584 Tổng 4,237 1,209 1,682
Nguồn: Theo báo cáo của phòng PC 45 Công an Thành phố Hà Nội
103
Bảng 2.10: Bảng thống kê, phân tích tỷ lệ điều tra, khám phá theo
địa bàn thành phố Hà Nội năm 2010
Xảy ra ĐTKP Bắt Mở rộng Ghi Số Địa bàn (vụ) (vụ) (Đối tƣợng) (vụ) chú TT
1 Hoàn Kiếm 20 30 27
2 Ba Đình 8 8 12
3 Hai Bà Trƣng 9 15 12
4 Đống Đa 19 34 20
5 Thanh Xuân 7 12 14
6 Cầu Giấy 15 32 21
7 Tây Hồ 7 12 14
8 Long Biên 2 3 3
9 Hoàng Mai 8 23 12
10 Thanh Trì 1 3 1
11 Gia Lâm 5
12 Bắc Từ Liêm 110 23 39
13 Đông Anh 6 18 7
14 Sóc Sơn 1 1 1
15 Mê Linh 2 26 4
16 Hà Đông 5 7 10
17 Sơn Tây 4 7 5
18 Chƣơng Mỹ 4 7 2
19 Thanh Oai 1 1 1
20 Ứng Hòa 2 3 3
21 Thƣờng Tín 1 2 1
22 Phú Xuyên 2 5 3
23 Mỹ Đức 1 5 2
104
24 Quốc Oai 1 1 1
25 Thạch Thất 2 7 2
26 Hoài Đức 2 3 4
27 Đan Phƣợng 1 2 2
28 Phúc Thọ 2 2 3
12 19 29 Ba Vì
30 Phòng PC45
Tổng
Bảng 2.11: Bảng thống kê, phân tích tỷ lệ điều tra, khám phá theo
địa bàn thành phố Hà Nội năm 2011.
Xảy ra ĐTKP Bắt Mở rộng Ghi Số Địa bàn (vụ) (vụ) (Đối tƣợng) (vụ) chú TT
13 17 1 Hoàn Kiếm 33
2 Ba Đình 5 33 6
3 Hai Bà Trƣng 3 39 8
4 Đống Đa 9 30 13
5 Thanh Xuân 2 3 4
6 Cầu Giấy 4 19 5
7 Tây Hồ 1 8 1
8 Long Biên 5 30 7
9 Hoàng Mai 1 19 1
10 Thanh Trì 1 2 2
11 Gia Lâm 2 4 3
12 Từ Liêm 5 79 7
13 Đông Anh 1 3 1
14 Sóc Sơn 1 4 1
105
1 1 Mê Linh 2 15
1 20 Hà Đông 1 16
1 9 Sơn Tây 2 17
2 6 Chƣơng Mỹ 5 18
1 1 Thanh Oai 1 19
1 4 Ứng Hòa 2 20
2 2 Thƣờng Tín 2 21
1 1 Phú Xuyên 2 22
1 1 Mỹ Đức 2 23
1 3 Quốc Oai 2 24
1 1 Thạch Thất 2 25
2 5 Hoài Đức 4 26
1 1 Đan Phƣợng 1 27
2 2 Phúc Thọ 3 28
1 1 Ba Vì 1 29
8 Phòng PC45 11 10 30
Tổng
Bảng 2.12: Bảng thống kê, phân tích tỷ lệ điều tra, khám phá theo
địa bàn thành phố Hà Nội năm 2012
Xảy ra ĐTKP Bắt Mở rộng Ghi Số
TT Địa bàn (vụ) (vụ) (Đối tƣợng) (vụ) chú
Hoàn Kiếm 30 20 27 1
Ba Đình 8 8 12 2
Hai Bà Trƣng 15 9 12 3
Đống Đa 34 19 20 4
Thanh Xuân 12 7 14 5
106
6 Cầu Giấy 32 15 21
7 Tây Hồ 12 7 14
8 Long Biên 3 2 3
9 Hoàng Mai 23 8 12
10 Thanh Trì 3 1 1
11 Gia Lâm 5
12 Từ Liêm 100 17 29
14 Đông Anh 10 6 9
15 Sóc Sơn 18 6 7
16 Mê Linh 1
17 Hà Đông 26
18 Sơn Tây 5 7 10
19 Chƣơng Mỹ 4 7 5
20 Thanh Oai 4 7 2
21 Ứng Hòa 1 1 1
22 Thƣờng Tín 2 3 3
23 Phú Xuyên 1 2 1
24 Mỹ Đức 5
25 Quốc Oai 1 5 2
26 Thạch Thất 1 1 1
27 Hoài Đức 2 7 2
28 Đan Phƣợng 2 3 4
29 Phúc Thọ 1 2 2
30 Ba Vì 2 2 3
31 Phòng PC45 12 19 15
Tổng
107
Bảng 2.13: Bảng thống kê, phân tích tỷ lệ điều tra, khám phá theo
địa bàn thành phố Hà Nội năm 2013
Xảy ra ĐTKP Bắt Mở rộng Ghi Số Địa bàn (vụ) (vụ) (Đối tƣợng) (vụ) chú TT
1 Hoàn Kiếm 33 53 26
2 Ba Đình 6 11 9
3 Hai Bà Trƣng 17 28 24
4 Đống Đa 24 50 26
5 Thanh Xuân 5 11 7
6 Cầu Giấy 16 38 19
7 Tây Hồ 4 5 7
8 Long Biên 14 26 7
9 Hoàng Mai 9 38 14
10 Thanh Trì 10 13 13
11 Gia Lâm 6 7 9
31 12 Bắc Từ Liêm 135 30
13 Nam Từ Liêm
14 Đông Anh 2 8 3
15 Sóc Sơn 8 13 10
16 Mê Linh 1 1 2
17 Hà Đông 10 32 17
18 Sơn Tây 4 8 7
19 Chƣơng Mỹ 5 10 9
20 Thanh Oai 1 5 1
21 Ứng Hòa 3
22 Thƣờng Tín 1 6 1
23 Phú Xuyên
24 Mỹ Đức
25 Quốc Oai 1 4 1
108
26 Thạch Thất 2 1 1
27 Hoài Đức 3 2 4
28 Đan Phƣợng 7 1 1
29 Phúc Thọ 8 5 13
30 Ba Vì 22
31 Phòng PC45 12 19
Tổng 229 547 280 0
Bảng 2.14: Bảng thống kê, phân tích tỷ lệ điều tra, khám phá theo
địa bàn thành phố Hà Nội năm 2014.
Số Xảy ra ĐTKP Bắt Mở rộng Ghi chú TT Địa bàn (vụ) (vụ) (Đối tƣợng) (vụ)
1 Hoàn Kiếm 49 8 9 7
2 Ba Đình 22 5 6
3 Hai Bà Trƣng 40 12 16 11
4 Đống Đa 27 7 8 1
5 Thanh Xuân 44 7 11 16
6 Cầu Giấy 65 15 16 11
7 Tây Hồ 15 5 7 5
8 Long Biên 32 7 9 13
9 Hoàng Mai 32 10 11 5
10 Thanh Trì 8 4 6 4
11 Gia Lâm 12 6 10 1
12 Bắc Từ Liêm 28 5 6
Chƣa tách
13 Nam Từ Liêm 54 6 9
Quận: 36 vụ
14 Đông Anh 4 3 3
15 Sóc Sơn 9 5 7 6
109
16 Mê Linh
17 Hà Đông 35 5 11 33
18 Sơn Tây 6 4 6 6
19 Chƣơng Mỹ 19 4 7
20 Thanh Oai 6
21 Ứng Hòa 3 1 1
22 Thƣờng Tín 2
23 Phú Xuyên
24 Mỹ Đức 1 1 3
25 Quốc Oai 2
26 Thạch Thất 3
27 Hoài Đức 5 2 6
28 Đan Phƣợng 3 1 2
29 Phúc Thọ 3 2 4
30 Ba Vì 5 1 2
31 Phòng PC45 21 44 82
Tổng 534 147 220 201
Bảng 2.15: Bảng thống kê, phân tích tỷ lệ điều tra, khám phá theo
địa bàn thành phố Hà Nội năm 2015
Xảy ra ĐTKP Bắt Mở rộng Số Ghi chú TT Địa bàn (vụ) (vụ) (Đối tƣợng) (vụ)
Hoàn Kiếm 42 12 15 10 1
Ba Đình 14 3 3 4 2
Hai Bà Trƣng 53 12 14 10 3
Đống Đa 25 9 12 11 4
Thanh Xuân 37 3 4 5
110
11 11 6 Cầu Giấy 52 16
7 Tây Hồ 9 4 4
8 Long Biên 11 3 3
9 Hoàng Mai 31 8 9 1
10 Thanh Trì 7 1 1 4
11 Gia Lâm 6 3 6 10
12 Bắc Từ Liêm 23 6 8 10
13 Nam Từ Liêm 51 6 12 7
14 Đông Anh 14 6 6 3
15 Sóc Sơn 11 4 8 12
16 Mê Linh 4 3 4
17 Hà Đông 22 4 8
18 Sơn Tây 6 1 1
19 Chƣơng Mỹ 15 2 4 4
20 Thanh Oai 4 0 0 0
21 Ứng Hòa 0 0 0 0
22 Thƣờng Tín 3 3 5
23 Phú Xuyên 1 0 0 0
24 Mỹ Đức 3 3 3
25 Quốc Oai 5 0 0
26 Thạch Thất 1 1 1
27 Hoài Đức 5 3 3
28 Đan Phƣợng 5 2 3
29 Phúc Thọ 1 1 1
30 Ba Vì 2 0 0
31 Phòng PC45 0 17 28 49
Tổng 463 131 177 151
111
Bảng 2.16: Bảng thống kê, phân tích tỷ lệ điều tra, khám phá theo
địa bàn thành phố Hà Nội năm 2016
Xảy ra ĐTKP Bắt Mở rộng Ghi Số Địa bàn (vụ) (vụ) (Đối tƣợng) (vụ) chú TT
1 Hoàn Kiếm 6 23 7 1
2 Ba Đình 4 12 6 10
12 14 3 Hai Bà Trƣng 37 21
4 Đống Đa 5 19 5 0
5 Thanh Xuân 3 33 4 4
6 Cầu Giấy 5 32 6 5
7 Tây Hồ 2 14 4 1
8 Long Biên 6 22 7 0
9 Hoàng Mai 9 26 11 3
10 Thanh Trì 1 3 1 0
11 Gia Lâm 3 8 5 2
12 Bắc Từ Liêm 9 24 12 13
13 Nam Từ Liêm 14 41 16 12
14 Đông Anh 2 6 4 0
15 Sóc Sơn 3 6 5 0
16 Mê Linh 0 0 0 0
17 Hà Đông 2 11 3 0
18 Sơn Tây 0 1 0 0
19 Chƣơng Mỹ 2 3 3 0
20 Thanh Oai 1 2 2 0
21 Ứng Hòa 0 1 0 0
22 Thƣờng Tín 2 5 2 0
23 Phú Xuyên 1 1 2 0
24 Mỹ Đức 1 2 2 1
25 Quốc Oai 1 13 2 0
112
Xảy ra ĐTKP Bắt Mở rộng Ghi Số Địa bàn (vụ) (vụ) (Đối tƣợng) (vụ) chú TT
26 Thạch Thất 2 2 0 2
27 Hoài Đức 1 4 0 2
28 Đan Phƣợng 1 1 0 1
29 Phúc Thọ 8 4 0 6
30 Ba Vì 5 5 1 3
31 Phòng PC45 0 21 35 69
Tổng 129 362 174 143
Bảng 2.17: Bảng thống kê, phân tích tỷ lệ điều tra, khám phá theo
địa bàn thành phố Hà Nội năm 2017.
Địa bàn Số TT Xảy ra (vụ) ĐTKP (vụ) Bắt (Đối tƣợng) Mở rộng (vụ) Ghi chú
Hoàn Kiếm Ba Đình Hai Bà Trƣng Đống Đa Thanh Xuân Cầu Giấy Tây Hồ Long Biên Hoàng Mai Thanh Trì Gia Lâm Bắc Từ Liêm Nam Từ Liêm Đông Anh Sóc Sơn Mê Linh Hà Đông Sơn Tây 26 13 25 22 13 19 15 28 24 2 11 15 34 14 11 5 12 5 15 5 5 8 5 6 6 12 15 4 6 5 14 3 6 3 4 5 4 1 0 2 0 8 0 17 9 0 1 6 30 0 1 0 0 4 9 4 4 8 3 5 5 9 13 2 4 3 8 3 4 3 3 3 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18
113
Địa bàn Xảy ra (vụ) ĐTKP (vụ) Bắt (Đối tƣợng) Mở rộng (vụ) Ghi chú Số TT
Chƣơng Mỹ Thanh Oai Ứng Hòa Thƣờng Tín Phú Xuyên Mỹ Đức Quốc Oai Thạch Thất Hoài Đức Đan Phƣợng Phúc Thọ Ba Vì Phòng PC45 Tổng 10 4 2 5 2 3 5 1 1 3 2 2 0 334 3 1 2 2 1 2 0 1 0 2 1 1 7 116 3 1 3 2 2 2 0 1 0 2 2 2 14 161 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 23 106 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31