ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ ĐỖ THÀNH NAM HOÀN THIỆN CƠ CHẾ QUẢN LÝ TÀI CHÍNH
CÁC CƠ SỞ GIÁO DỤC ĐẠI HỌC CÔNG LẬP
THỰC HIỆN TỰ CHỦ Ở VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ KINH TẾ
CHƢƠNG TRÌNH ĐỊNH HƢỚNG ỨNG DỤNG
Hà Nội - 2018
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ ĐỖ THÀNH NAM HOÀN THIỆN CƠ CHẾ QUẢN LÝ TÀI CHÍNH
CÁC CƠ SỞ GIÁO DỤC ĐẠI HỌC CÔNG LẬP
THỰC HIỆN TỰ CHỦ Ở VIỆT NAM
Chuyên ngành: Quản lý kinh tế
Mã số:
60 34 04 10
LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ KINH TẾ
CHƢƠNG TRÌNH ĐỊNH HƢỚNG ỨNG DỤNG
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. TRẦN ANH TÀI
XÁC NHẬN CỦA CHỦ TỊCH HĐ
CHẤM LUẬN VĂN
PGS.TS.LÊ DANH TỐN
XÁC NHẬN CỦA CÁN BỘ HƢỚNG DẪN PGS.TS. TRẦN ANH TÀI
Hà Nội - 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn này là kết quả nghiên cứu của riêng tôi, chưa
được công bố trong bất cứ một công trình nghiên cứu nào của người khác.
Việc sử dụng kết quả, trích dẫn tài liệu của người khác đảm bảo theo đúng các
quy định. Các nội dung trích dẫn và tham khảo các tài liệu, sách báo, thông
tin được đăng tải trên các tác phẩm, tạp chí và trang web theo danh mục tài
liệu tham khảo của luận văn.
Học viên
Đỗ Thành Nam
LỜI CÁM ƠN
Đầu tiên, tôi xin được bày tỏ lời cám ơn sâu sắc tới Thầy hướng dẫn
khoa học PGS.TS Trần Anh Tài đã tận tình chỉ bảo, hướng dẫn cho tôi trong
suốt quá trình nghiên cứu và thực hiện đề tài luận văn tốt nghiệp.
Tôi cũng xin chân thành cảm ơn tập thể lãnh đạo Trường Đại học Kinh
tế - Đại ho ̣c Quốc gia Hà Nội, Khoa Kinh tế Chính trị, Hô ̣i đồng khoa ho ̣c và
các thầy, cô giáo đã giảng da ̣y , truyền đạt kiến thức trong suốt thời gian học tập và thực hiện đề tài luận văn tốt nghiệp.
Tôi muốn gửi lời cảm ơn tới các tác giả của những tài liệu tham khảo,
những người đi trước đã để lại cho chúng tôi những kinh nghiệm quý báu.
Tôi xin được cám ơn Ban giám hiệu các Trường đại học đã tạo điều kiện
thuận lợi cho tôi thu thập hồ sơ, số liệu để thực hiện luận văn và xin cám ơn
bạn bè, đồng nghiệp đã động viên, đóng góp ý kiến cho tôi trong suốt thời
gian học tập và hoàn thành luận văn tốt nghiệp này.
Xin chân thành cảm ơn!
Học viên
Đỗ Thành Nam
MỤC LỤC
Danh mục hình ……………………………………..…………………….ii
Trang Danh mục bảng……………………………………………………............i
LỜI MỞ ĐẦU ..................................................................................................... 1 CHƢƠNG 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CƠ CHẾ QUẢN LÝ TÀI CHÍNH CÁC CƠ SỞ GIÁO DỤC ĐẠI HỌC CÔNG LẬP ........................................................... 5 1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài .......................... 5 1.2. Cơ sở lý luận về cơ chế quản lý tài chính tại cơ sở giáo dục đại học công lập thực hiện tự chủ ............................................................................ 8 1.2.1. Khái quát về cơ sở giáo dục đại học công lập .................................. 8 1.2.2. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của cơ chế tự chủ tài chính .............. 12 1.2.3. Cơ chế quản lý tài chính cơ sở giáo dục đại học công lập ............. 18 1.3. Kinh nghiệm quốc tế về cơ chế quản lý tài chính các cơ sở giáo dục đại học công lập thực hiện tự chủ ............................................................. 30 1.3.1. Kinh nghiệm của một số nước trên thế giới .................................... 30 1.3.2. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam ................................................. 32 CHƢƠNG 2. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ............................................ 35 2.1. Phương pháp thu thập tài liệu, số liệu ................................................ 35 2.2. Phương pháp xử lý tài liệu, số liệu .................................................... 35 CHƢƠNG 3. THỰC TRẠNG CƠ CHẾ QUẢN LÝ TÀI CHÍNH CƠ SỞ GIÁO DỤC ĐẠI HỌC CÔNG LẬP THỰC HIỆN TỰ CHỦ Ở VIỆT NAM ................. 37 3.1. Khái quát về đề án tự chủ của các trường đại học công lập và về một số trường đại học công lập thực hiện tự chủ theo Nghị quyết số 77/2014/NQ-CP của Chính phủ ................................................................ 37 3.1.1. Khái quát về đề án tự chủ của các trường đại học công lập theo Nghị quyết số 77/2014/NQ-CP của Chính phủ ......................................... 37 3.1.2. Khái quát về một số trường đại học công lập thực hiện tự chủ theo Nghị quyết số 77/2014/NQ-CP của Chính phủ ......................................... 40 3.2. Thực trạng thực hiện cơ chế quản lý tài chính trước và sau khi được phê duyệt Đề án tự chủ theo Nghị quyết số 77/2014/NQ-CP của Chính phủ ............................................................................................................. 41 3.2.1. Về cơ chế thu và quản lý các nguồn thu tài chính .......................... 41 3.2.2. Về cơ chế sử dụng các nguồn thu tài chính .................................... 46 3.2.3. Về cơ chế giám sát .......................................................................... 49
i
3.3. Đánh giá mức độ hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính cơ sở giáo dục đại học công lập thực hiện tự chủ ............................................................. 50 3.3.1. Tính hiệu lực của cơ chế quản lý tài chính ..................................... 50 3.3.2. Tính hiệu quả của cơ chế quản lý tài chính .................................... 52 3.3.3. Tính linh hoạt của cơ chế quản lý tài chính ................................... 54 3.3.4. Tính công bằng của cơ chế quản lý tài chính ................................. 55 3.3.5. Tính ràng buộc về mặt tổ chức của cơ chế quản lý tài chính ......... 59 3.3.6. Sự thừa nhận của cộng đồng .......................................................... 60 CHƢƠNG 4. CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CƠ CHẾ QUẢN LÝ TÀI CHÍNH CƠ SỞ GIÁO DỤC ĐẠI HỌC CÔNG LẬP THỰC HIỆN TỰ CHỦ Ở VIỆT NAM.......................................................................................... 62 4.1. Quan điểm, định hướng của việc thực hiện cơ chế tự chủ tài chính các trường đại học công lập Việt Nam ............................................................ 62 4.1.1. Nhà nước tạo ra cơ chế quản lý tài chính phù hợp thực tế, phù hợp năng lực phát triển của các cơ sở giáo dục đại học công lập .................. 62 4.1.2. Đổi mới nhận thức về vai trò, địa vị pháp lý, môi trường hoạt động của cơ sở giáo dục đại học công lập trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN............................................................................................. 63 4.1.3. Nâng cao nhận thức vai trò quản lý của Nhà nước trong việc tạo nguồn tài chính cho các cơ sở giáo dục đại học công lập hoạt động và nâng cao chất lượng đào tạo. ................................................................... 64 4.2. Các giải pháp hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính cơ sở giáo dục đại học công lập ở Việt Nam .......................................................................... 65 4.2.1. Nhóm giải pháp nâng cao tính hiệu lực của cơ chế quản lý tài chính ..... 66 4.2.2. Nhóm giải pháp nâng cao tính hiệu quả của cơ chế quản lý tài chính .......................................................................................................... 69 4.2.3. Nhóm giải pháp nâng cao tính linh hoạt của cơ chế quản lý tài chính .......................................................................................................... 75 4.2.4. Nhóm giải pháp nâng cao tính công bằng của cơ chế quản lý tài chính .......................................................................................................... 75 4.2.5. Nhóm giải pháp nâng cao tính ràng buộc tổ chức của cơ chế quản lý tài chính ................................................................................................. 78 4.2.6. Nhóm giải pháp nâng cao sự đồng thuận của cộng đồng xã hội ... 79 4.3. Một số điều kiện để thực hiện giải pháp .......................................... 81 KẾT LUẬN .............................................................................................. 84 TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................... 86
ii
DANH MỤC BẢNG
STT Bảng Nội dung Trang
So sánh khung học phí theo Nghị định số 49/2010/NĐ-CP với chi phí bình quân tối thiểu để đào tạo một sinh viên của Đề án “Đổi mới cơ chế tài chính của giáo dục và đào tạo Việt Nam giai đoạn 2008 - 2012” của Bộ Giáo dục và Đào tạo
Bảng 3.1 1 42
Bảng 3.2 Dự kiến chi phí đầu tư cho 01 sinh viên/năm 2 45
So sánh cơ cấu chi của 4 trường năm học 2014 - 2015 so với năm học 2015 - 2016
Bảng 3.3 3 46
Kết quả nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ (CGCN) của các trường trước và sau khi thực hiện tự chủ
Bảng 3.4 4 48
Bảng 3.5 Dự kiến thu - chi giai đoạn 2017 - 2020 5 53
iii
DANH MỤC HÌNH
STT Hình Nội dung Trang
1 Hình 3.1 43 So sánh số thu học phí, lệ phí trước và sau khi thực hiện tự chủ
2 Hình 3.2 47 Cơ cấu sử dụng các quỹ của 4 trường tự chủ năm học 2015 - 2016
iv
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
1.1. Lý do chọn đề tài nghiên cứu
Trong bối cảnh những năm gần đây giáo dục đại học ở Việt Nam có rất
nhiều thay đổi, ngày càng có nhiều trường đại học ngoài công lập, đại học
nước ngoài và nhiều chương trình du học tại chỗ của nước ngoài tham gia vào
thị trường cung cấp dịch vụ giáo dục đại học ở Việt Nam. Điều này, đã đặt
các cơ sở giáo dục đại học công lập của Việt Nam vào một vị thế cạnh tranh
với những tổ chức cung cấp dịch vụ giáo dục đại học trong nước và nước
ngoài ngày càng cao hơn. Do vậy, việc trao quyền tự chủ và đổi mới, hoàn
thiện cơ chế quản lý tài chính tại các các cơ sở giáo dục đại học công lập ở
Việt Nam là điều kiện tiên quyết để nâng cao khả năng cạnh tranh, thu hút
sinh viên, tạo ra nhiều nguồn thu của các trường, đồng thời sẽ giảm gánh nặng
ngân sách nhà nước chi cho giáo dục đại học.
Để đạt được mục tiêu đó, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số
77/NQ-CP ngày 24/10/2014 về thí điểm đổi mới cơ chế hoạt động đối với các
cơ sở giáo dục Đại học công lập giai đoạn 2014 - 2017 nhằm khuyến khích
các cơ sở giáo dục đại học công lập đổi mới, chủ động khai thác, sử dụng hợp
lý nguồn ngân sách nhà nước, tăng cường thu hút các nguồn lực ngoài ngân
sách, cải thiện môi trường đào tạo, tăng khả năng cạnh tranh, thu hút sinh viên
của các cơ sở giáo dục công lập ở Việt Nam, đồng thời tạo cơ hội cho các đơn
vị này nâng cao tính tích cực chủ động, sáng tạo trong quản lý tài chính và tài
sản của đơn vị để tăng khả năng đáp ứng của trường đại học với môi trường
xã hội, kinh tế, thích ứng với sáng tạo và công nghệ thay đổi.
Đứng trước cơ hội đổi mới nhưng cũng là khó khăn, thách thức đối với
các cơ sở giáo dục đại học công lập khi nguồn thu từ ngân sách nhà nước cấp
1
cho giáo dục đại học ngày càng thu hẹp, học phí vẫn bị khống chế bởi mức
trần thu học phí theo quy định, cơ quan quản lý và các cơ sở giáo dục đại học
công lập ngày càng nhận thức được tầm quan trọng của cơ chế quản lý tài
chính đối với việc tạo nguồn thu và sử dụng hiệu quả các nguồn lực tài chính
để đảm bảo nhu cầu chi tiêu và phát triển bền vững của đơn vị. Tuy nhiên, cơ
chế quản lý tài chính đối với các cơ sở giáo dục đại học công lập với những
bất cập, hạn chế trong quá trình quản lý ngân sách, trong huy động và sử dụng
các nguồn lực tài chính từ xã hội hay phân cấp quản lý giữa các chủ thể tham
gia cơ chế quản lý tài chính,... đã ảnh hưởng không nhỏ tới mục tiêu cũng như
hiệu quả hoạt động của các đơn vị. Những điểm này trở thành thách thức
không nhỏ cho các cơ sở giáo dục đại học công lập ở Việt Nam nếu muốn
nâng cao chất lượng đào tạo trong xu thế hội nhập và phát triển giáo dục đại
học. Vì vậy, nghiên cứu hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính cơ sở giáo dục đại
học công lập ở Việt Nam có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn .
Từ thực trạng trên cùng với những kiến thức lý luận được đào tạo và
kinh nghiệp thực tiễn trong quá trình công tác, tôi lựa chọn đề tài "Hoàn
thiện cơ chế quản lý tài chính các cơ sở giáo dục đại học công lập thực
hiện tự chủ ở Việt Nam" để làm luận văn thạc sỹ của mình.
1.2. Câu hỏi nghiên cứu đối với vấn đề nghiên cứu
Luận văn của tôi trả lời câu hỏi nghiên cứu: Cơ chế quản lý tài chính
các cơ sở giáo dục đại học công lập thực hiện tự chủ ở Việt Nam hiện nay đã
phù hợp chưa? có điều gì bất cập? các giải pháp nào cần được thực hiện để
hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính các cơ sở giáo dục đại học công lập thực
hiện tự chủ ở Việt Nam.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
2
Đề xuất các giải pháp đối với cơ quan quản lý nhà nước hoàn thiện cơ
chế quản lý tài chính các cơ sở giáo dục đại học công lập thực hiện tự chủ ở
Việt Nam.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
+ Hệ thống hóa những vấn đề lý luận và thực tiễn về cơ chế quản lý tài
chính tại các cơ sở giáo dục đại học công lập thực hiện tự chủ.
+ Phân tích và đánh giá thực trạng cơ chế quản lý tài chính tại các cơ sở
giáo dục đại học công lập thực hiện tự chủ.
+ Đề xuất những giải pháp hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính tại các
cơ sở giáo dục đại học công lập thực hiện tự chủ.
3. Đối tƣợng nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của luận văn là cơ chế quản lý tài chính tại một
số cơ sở giáo dục đại học công lập thực hiện tự chủ ở Việt Nam.
- Phạm vi nghiên cứu giới hạn tại 04 trường: Đại học Công nghiệp
thành phố Hồ Chí Minh, Đại học Công nghiệp Thực phẩm thành phố Hồ Chí
Minh, Đại học Điện lực và Đại học Công nghiệp Dệt may Hà Nội được Chính
phủ phê duyệt thí điểm đổi mới cơ chế hoạt động đối với các cơ sở giáo dục
đại học công lập giai đoạn 2014 - 2017 theo Nghị quyết số 77/NQ-CP ngày
24/10/2014; số liệu sử dụng giai đoạn năm 2014 - 2016. Về nội dung, luận
văn nghiên cứu các nội dung của cơ chế quản lý tài chính các cơ sở giáo dục
đại học công lập ở Việt Nam theo cách tiếp cận của chuyên ngành quản lý
kinh tế.
4. Kết cấu của luận văn:
Luận văn được bố cục gồm 4 Chương, cụ thể như sau:
Phần mở đầu.
- Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu và cơ sở lý luận
- Chương 2: Phương pháp nghiên cứu.
3
- Chương 3: Đánh giá thực trạng về cơ chế quản lý tài chính cơ sở giáo
dục đại học công lập thực hiện tự chủ ở Việt Nam.
- Chương 4: Các giải pháp hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính cơ sở
giáo dục đại học công lập thực hiện tự chủ ở Việt Nam.
Kết luận
Tài liệu tham khảo
4
CHƢƠNG 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CƠ CHẾ QUẢN LÝ TÀI CHÍNH CÁC CƠ SỞ GIÁO DỤC ĐẠI HỌC CÔNG LẬP
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Cơ chế quản lý tài chính các cơ sở giáo dục đại học công lập thực hiện
tự chủ ở Việt Nam đã có rất nhiều bài nghiên cứu của các nhà khoa học trong
nước hướng đến việc phân tích thực trạng tài chính trong cơ sở giáo dục đại
học công lập tại Việt Nam, đồng thời đề xuất các khuyến nghị cải cách, đổi
mới nhằm thúc đẩy, đổi mới hơn nữa cơ chế quản lý tài chính ở các trường
đại học công lập. Các công trình nghiên cứu từ trước tới nay, có thể khái quát
như sau:
Một là, nêu lên xu thế, kinh nghiệm tự chủ tại các cơ sở giáo dục đại
học công lập của một số nước, kinh nghiệm ở một số cơ sở giáo dục đại học
công lập Việt Nam (Vũ Trường Giang, 2011); nêu ra một số lý luận về tự chủ,
tự chủ tài chính trong thực hiện nhiệm vụ đào tạo, nghiên cứu khoa học (Ngô
Thế Chi, 2011). Một số tác giá đã nêu ra mối quan hệ, điều kiện thực hiện tự
chủ, tác động của chính sách tăng học phí. Tác giả Bùi Tiến Hanh (2006) đã
nghiên cứu và luận giải cơ chế để thực hiện xã hội hóa giáo dục, cơ chế quản
lý tài chính công đối với giáo dục công lập, cơ chế khuyến khích và quản lý
đối với hoạt động giáo dục ngoài công lập, cơ chế thu và sử dụng học phí,...
Tuy nhiên trong nghiên cứu của tác giả, phương pháp tiếp cận về chính sách
học phí vẫn bị ảnh hưởng bởi quan điểm coi học phí là nguồn thu thuộc ngân
sách nhà nước, được Nhà nước cho phép các trường đại học thu trên cơ sở
hoạt động đào tạo do nhà nước đầu tư. Nghiên cứu chưa coi giáo dục đại học
là một loại hàng hóa và mang lại lợi ích tư do đó người được hưởng lợi ích
phải chịu chi trả chi phí tương xứng với chất lượng hàng hóa theo quan điểm
chia sẻ chi phí.
5
Hai là, sơ bộ đánh giá thực trạng, những tác động tích cực của cơ chế
quản lý tài chính như tạo ra cơ sở pháp lý để các trường thực hiện tự chủ tài
chính; giảm sự can thiệp trực tiếp của cơ quan quản lý nhà nước; tạo điều kiện
cho các trường chủ động nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn tài chính gắn với
chất lượng hoạt động (như tiết kiệm chi, chống lãng phí). Đa dạng hóa và tăng
nguồn thu sự nghiệp, nguồn tài trợ từ doanh nghiệp, các dự án (Hoàng Văn
Châu, 2011). Tác giả Lê Phước Minh tập trung nghiên cứu, đánh giá chính
sách tài chính cho giáo dục đại học, đi sâu phân tích thực trạng chính sách tài
chính cho giáo dục ở Việt Nam, làm rõ các cơ hội, thách thức và đề xuất quan
điểm, giải pháp nhằm hoàn thiện chính sách tài chính cho giáo dục đại học ở
nước ta. Với góc độ tiếp cận nhằm phân tích chính sách tài chính cho giáo dục
đại học nên những kết quả đóng góp của Luận án có giá trị tham khảo tốt với
các cơ quan quản lý vĩ mô nhưng chưa đánh giá đầy đủ cơ chế quản lý tài
chính đối với riêng cơ sở giáo dục đại học công lập.
Ba là, chỉ ra những vướng mắc, khó khăn liên quan tới cơ chế quản lý
tài chính cơ sở giáo dục đại học công lập, đó là sự chưa đồng nhất giữa cơ chế
và thực tê, phân bổ ngân sách cho chi thường xuyên còn nặng tính bình quân,
dựa trên yếu tố “đầu vào”, chưa chú trọng đầu ra là chất lượng, nhu cầu đào
tạo, cơ cấu ngành nghề. Trong đó, khó khăn nhất vẫn là chưa có cơ chế phù
hợp để tăng nguồn thu tài chính phục vụ cho hoạt động của đơn vị. Nguồn thu
tài chính chủ yếu thu từ ngân sách nhà nước, các khoản học phí, lệ phí. Tuy
nhiên, Nguyễn Trường Giang (2014) chỉ ra "mức học phí tại các trường đại
học hiện nay rất thấp, không đủ bù đắp chi thường xuyên: Chính sách học phí
của Việt Nam đã được giữ nguyên trong một thời gian trên 10 năm (từ 1998
đến 2009), đến năm 2010 được điều chỉnh theo quy định tại Nghị định số
49/2010/NĐ-CP với mức điều chỉnh theo lộ trình tăng dần từ 20-25% mỗi
năm. Tuy vậy theo tính toán đến năm 2015 mức thu học phí cũng chỉ đáp ứng
6
được từ 40% - 50% chi phí đào tạo cần thiết". Đồng quan điểm đó, Phạm Thị
Vân Anh (2017) đánh giá mức học phí quy định chưa đảm bảo bù đắp đủ chi
phí hoạt động cần thiết, chưa sát với yêu cầu chi phí đặc thù của từng ngành,
nghề đào tạo, cào bằng cũng như chưa gắn với yêu cầu về chất lượng, thương
hiệu của từng trường. Mặt khác, cơ chế quản lý chưa đưa ra tiêu chí đánh giá
mức độ hoàn thành nhiệm vụ của đơn vị được giao quyền tự chủ. Cơ chế
kiểm soát theo yếu tố đầu vào chưa làm rõ trách nhiệm giải trình của các
trường. Việc ra quyết định đầu tư, sửa chữa, mua sắm tài sản chịu sự quản lý,
chi phối của nhiều văn bản (Luật xây dựng, đấu thầu, quản lý tài sản...) làm
cho các trường gặp khó khăn trong đầu tư, nâng cấp cở sở vật chất để nâng
cao chất lượng đào tạo.
Bốn là, các tác giả đã đề xuất một số giải pháp, như duy trì tỷ lệ chi
ngân sách cho giáo dục đại học (2%÷2,4% tổng chi ngân sách); đầu tư một số
trường đạt chuẩn quốc tế; thay đổi cách phân bổ ngân sách; thí điểm cơ chế
đặt hàng, “mua” dịch vụ công đối với các ngành học. Đẩy mạnh xã hội hóa,
có lộ trình tính đủ chi phí đào tạo đại học theo các mức độ (Nguyễn Trường
Giang, 2014). Các nghiên cứu cũng đã khẳng định, trong các nội dung của tự
chủ tài chính trong các trường đại học, việc hình thành cơ chế quản lý tài
chính là vấn đề quan trọng nhất. Thực tế đó đòi hỏi các trường đại học cần
phải xây dựng cho mình một cơ chế sử dụng kinh phí, sử dụng các nguồn thu
đáp ứng được yêu cầu công khai, minh bạch, tiết kiệm và hiệu quả. Nguyễn
Thị Ngọc Loan (2016) đưa ra một số giải pháp như "các trường cũng cần tiếp
tục đổi mới toàn diện: Xây dựng quy chế chi tiêu nội bộ mang tính chi tiết,
đảm bảo tính công khai, dân chủ và công bằng; Xây dựng hệ thống tiêu chí
đánh giá kết quả hoạt động của từng người lao động. Trong đó, chú trọng giải
pháp chi trả thu nhập theo hiệu quả công việc, khuyến khích, hấp dẫn, thu hút
người có năng lực, có trình độ". Mở rộng hơn, Vũ Minh Đạo (2017) đề xuất
7
"Về tài chính và tài sản, cơ sở giáo dục đại học có đủ năng lực thực hiện tự
chủ ở mức cao nhất, tự bảo đảm toàn bộ kinh phí thường xuyên và kinh phí
đầu tư thì được tự chủ về quản lý, sử dụng kết quả tài chính theo cơ chế tài
chính của doanh nghiệp".
Nhìn chung, các nghiên cứu đều thống nhất cần tiếp tục hoàn thiện cơ
chế quản lý tài chính, cơ chế trả thu nhập, quản lý tài sản. Tuy nhiên, những
nghiên cứu này chủ yếu nhìn nhận vấn đề từ góc độ quản lý nói chung như cơ
chế tự chủ, chính sách phân bổ tài chính cho giáo dục đại học và chính sách
học phí, chưa đi sâu nghiên cứu vào vấn đề cụ thể, đặc biệt quan trọng là cơ
chế quản lý tài chính cho các cơ sở giáo dục đại học công lập hiện nay, gồm:
cơ chế thu học phí và thu sự nghiệp, cơ chế quản lý các nguồn thu và cơ chế
sử dụng các nguồn thu. Các kết quả nghiên cứu mang tính chất chuyên biệt về
một nội dung như công tác kế toán, công tác đào tạo chuyên môn... chưa có
điều kiện sử dụng số liệu tài chính để phân tích, làm rõ tác động của cơ chế
tới việc mở rộng, đa dạng hóa nguồn thu; đổi mới, nâng cao chất lượng. Đặc
biệt, chưa phân tích sâu cơ cấu thu chi. Giải pháp chỉ mang tính gợi mở, đơn lẻ
cho một trường, chưa làm rõ trách nhiệm giải trình, chưa khái quát chung cho
các trường có cùng đặc điểm cơ chế quản lý tài chính tự chủ toàn diện.
1.2. Cơ sở lý luận về cơ chế quản lý tài chính tại cơ sở giáo dục đại
học công lập thực hiện tự chủ
1.2.1. Khái quát về cơ sở giáo dục đại học công lập
1.2.1.1. Khái niệm và vai trò của các cơ sở giáo dục đại học công lập
Khái niệm, mô hình và địa vị pháp lý của trường đại học công có sự
khác nhau trong hệ thống giáo dục đại học ở mỗi quốc gia. Tuy nhiên khái
niệm về trường đại học công lập có thể được hiểu như sau: Trường đại học
công lập là trường do chính quyền thành lập và quản lý. Nguồn kinh phí đảm
bảo cho các trường đại học công lập hoạt động phụ thuộc vào chính sách đầu
8
tư tài chính và mức độ xã hội hóa nguồn lực dành cho giáo dục đại học của
mỗi quốc gia.
Theo Luật Giáo dục đại học được Quốc hội ban hành năm 2012, cơ sở
giáo dục đại học công lập là đơn vị thuộc sở hữu nhà nước, do Nhà nước đầu
tư, xây dựng cơ sở vật chất. Đồng thời, Luật Giáo dục đại học cũng nhắc đến
quyền tự chủ của cơ sở giáo dục đại học trong các hoạt động chủ yếu thuộc
các lĩnh vực tổ chức và nhân sự, tài chính và tài sản, đào tạo, khoa ho ̣c và
công nghê ̣, hợp tác quốc tế, bảo đảm chất lượng giáo dục đại học. Cơ sở giáo
dục đại học thực hiện quyền tự chủ ở mức độ cao hơn phù hợp với năng lực,
kết quả xếp hạng và kết quả kiểm đi ̣nh chất lươ ̣ng giáo d ục. Tuy nhiên, trong
khái niệm này, chưa có một nội hàm cụ thể thế nào là cơ chế quản lý tài
chính, cơ chế tự chủ tài chính thì sẽ được làm gì, và không được làm gì.
Vai trò của các cơ sở giáo dục đại học công lập trong hệ thống giáo dục
đại học
Các cơ sở giáo dục đại học công lập đóng vai trò quan trọng đối với sự
phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia, thể hiện khái quát qua các mặt sau:
Sự ra đời và hoạt động của các cơ sở giáo dục đại học công lập thể hiện
vai trò của Nhà nước đối với giáo dục đại học. Nhà nước thông qua các hoạt
động của cơ sở giáo dục đại học công lập để điều tiết các nguồn lực xã hội sao
cho có hiệu quả nhất, từ đó điều tiết cơ cấu đào tạo nhân lực hợp lý, duy trì và
phát triển giáo dục đào tạo. Thông qua các cơ sở giáo dục đại học công lập, Nhà
nước muốn đầu tư nhằm đảm bảo lợi ích công về giáo dục đại học. Lợi ích này
lan tỏa ra toàn xã hội, đảm bảo tất cả mọi người đều có cơ hội bình đẳng tiếp
cận với giáo dục đại học.
Các cơ sở giáo dục đại học công lập là nơi triển khai các chính sách đầu
tư phát triển giáo dục địa học của mỗi quốc gia. Các cơ sở giáo dục đại học
công lập thuộc sở hữu Nhà nước, được Chính phủ hoặc chính quyền ở các địa
9
phương cấp ngân sách để triển khai các chính sách phát triển giáo dục đại học
của chính quyền các cấp. Ở Việt Nam các cơ sở giáo dục đại học công lập được
Nhà nước giao kinh phí, tài sản, cơ sở vật chất để thực hiện các mục tiêu và
chính sách ưu tiên đầu tư cho giáo dục đào tạo của đất nước.
Các cơ sở giáo dục đại học công lập giữ vai trò định hướng cho hoạt động
và sự phát triển của hệ thống giáo dục đại học của quốc gia. Các cơ sở giáo dục
đại học công lập định hướng cho phát triển các chương trình đào tạo bằng cách
bổ sung, hoàn thiện các chương trình đã có sẵn, xây dựng các chương trình đào
tạo mới phù hợp với xu thế phát triển của xã hội; định hướng cho nghiên cứu
khoa học thông qua việc xây dựng các nhóm nghiên cứu mạnh, duy trì các
hướng nghiên cứu cơ bản, triển khai cáchướng nghiên cứu mới,...
Các cơ sở giáo dục đại học công lập có sứ mạng đào tạo, cung cấp nguồn
nhân lực chất lượng cao, nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ đáp
ứng nhu cầu phát triển của đất nước. Trong hệ thống giáo dục đại học, các cơ sở
giáo dục đại học công lập có lợi thế hơn các trường tư thục về điều kiện đảm
bảo chất lượng như đội ngũ cán bộ, cơ sở vật chất, học liệu, thư viện để thực
hiện được các sứ mạng nêu trên.
1.2.1.2. Một số đặc điểm riêng của các cơ sở giáo dục đại học công lập
Các cơ sở giáo dục đại học công lập có một số đặc điểm riêng, ảnh hưởng
quyết định tới cơ chế tài chính của trường đại học đối với hoạt động đào tạo,
nghiên cứu khoa học và các hoạt động khác của nhà trường. Các đặc điểm đó là:
Về cơ chế quản lý và bộ máy tổ chức hoạt động
Trường đại học công lập do chính quyền thành lập nên chịu sự quản lý,
kiểm tra, giám sát về tổ chức bộ máy, hoạt động hành chính theo quy định của
Nhà nước hoặc chính quyền các cấp. Bộ máy quản lý, điều hành của trường đại
học công lập được tổ chức phù hợp với điều kiện cụ thể của từng trường nhưng
phải tuân thủ các quy định về lĩnh vực này trong các văn bản pháp luật của Nhà
10
nước hoặc địa phương. Bộ máy quản lý điều hành của trường đại học công lập
thường có Ban Giám hiệu, các phòng chức năng và khoa đào tạo, viện nghiên
cứu chuyên ngành.
Ngoài ra, các trường đại học công lập còn chịu sự quản lý chuyên môn
của cơ quan quản lý Nhà nước về giáo dục đại học, chịu sự quản lý hoặc giám
sát về nội dung chương trình đào tạo, về chỉ tiêu và phương thức tuyển sinh của
các trường đại học.
Về nguồn tài chính và cơ chế quản lý tài chính
Các cơ sở giáo dục đại học công lập còn có đặc điểm quan trọng là sở
hữu thuộc về Nhà nước. Các trường đại học công lập do Nhà nước thành lập và
đầu tư kinh phí để xây dựng và hoạt động nên tính chất hoạt động của các
trường đại học công lập thường không vì mục đích lợi nhuận.
Về nguồn kinh phí: (1) Nhà nước cấp kinh phí đầu tư cơ sở vật chất, bảo
đảm chi phí hoạt động thường xuyên để thực hiện nhiệm vụ chính trị, chuyên
môn được giao; (2) trường được phép thu một số khoản phí, lệ phí (được coi là
nguồn thu thuộc NSNN), mức thu học phí bị khống chế trong khung quy định
của Nhà nước; (3) trường tổ chức hoạt động sản xuất cung ứng dịch vụ để có
nguồn thu khác. NSNN chiếm tỷ trọng chủ yếu trong tổng nguồn tài chính của
trường đại học công lập.
Về cơ chế quản lý tài chính: Các cơ sở giáo dục đại học công lập được tự
chủ trong khuôn khổ quy định. Các cơ sở được tự chủ tối đa ở một số khoản chi
nhất định; nhưng đồng thời phải tuân thủ các khoản mục chi đã được ấn định
bởi cơ quan phân bổ và giao dự toán. Điều này chưa cho phép các trường đại
học công lập thực hiện được chính sách ưu đãi đối với người dạy và người học
hoặc tập trung đầu tư để nâng cao chất lượng.
Như vậy, các cơ sở giáo dục đại học công lập là một thiết chế vô cùng
quan trọng của xã hội và trong bối cảnh của nền kinh tế tri thức toàn cầu, trách
11
nhiệm của các cơ sở giáo dục đại học công lập ngày càng quan trọng đối với sự
phát triển của đất nước. Đồng thời các cơ sở giáo dục đại học công lập có tính
tự chủ rất cao trong các hoạt động học thuật, trong phương thức tổ chức quản lý
và đào tạo,… Nhận thức về vai trò, sứ mạng và đặc điểm của các cơ sở giáo dục
đại học công lập là nền tảng để hoạch định chính sách giáo dục đại học, quyết
định một cơ chế quản lý (trong đó bao gồm cả cơ chế quản lý tài chính) phù hợp
để các cơ sở giáo dục đại học công lập hoạt động thực sự có chất lượng, đáp
ứng được nhu cầu và kỳ vọng của cả xã hội.
1.2.2. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của cơ chế tự chủ tài chính
1.2.2.1. Khái niệm chung về cơ chế tự chủ tài chính
Cơ chế tự chủ tài chính là một văn bản pháp luật chứa đựng những quy
định về quyền tự chủ tài chính của cơ sở giáo dục đại học công lập. Nó là một
tập hợp những quy định nhằm chuyển đổi quyền hạn ra quyết định về tài chính
của nhà nước sang các trường có thể hoạt động độc lập trong lĩnh vực tài chính.
Nội dung cơ chế tự chủ tài chính của các quốc gia khác nhau, nó phụ
thuộc vào quan điểm tập trung hay phân cấp quản lý của nhà nước. Trong nền
kinh tế kế hoạch hoá tập trung, hầu như các trường không có quyền tự chủ tài
chính. Cấp trên giao kế hoạch ngân sách chi thường xuyên, nghiên cứu khoa
học, đầu tư, sửa chữa tài sản; mức thu học phí, cấp học bổng cho từng đối tượng
sinh viên, quy định nội dung chương trình, thời lượng đào tạo; phân bổ sản
phẩm đào tạo về đâu?... Các trường chỉ có trách nhiệm tổ chức chi đúng khoản
mục; kinh phí chi không hết, chi không đúng mục thì phải nộp lại nhà nước,
không được chuyển sang năm sau. Ở các nước có nền kinh tế thị trường phát
triển thì các trường có quyền tự chủ tài chính cao hơn là được tự do khai thác,
phân bổ các nguồn tài trợ của chính phủ và các nguồn tài chính tư nhân, được
quyết định mức học phí…
1.2.2.2. Một số đặc điểm của tự chủ tài chính
12
Tự chủ trong quản lý và khai thác các nguồn thu:
Nguồn thu là những khoản kinh phí nhà trường nhận được không phải
hoàn trả. Theo luật pháp, nó được dùng cho việc triển khai hoạt động đào tạo,
nghiên cứu khoa học và các hoạt động khác của nhà trường. Nó bao gồm: (1)
Nguồn thu từ ngân sách cấp cho chi thường xuyên, chương trình mục tiêu quốc
gia, nghiên cứu khoa học, đầu tư xây dựng cơ bản và các loại kinh phí khác như
tinh giản biên chế; đào tạo lại; kinh phí đối ứng; thực hiện các nhiệm vụ đặt
hàng của nhà nước; kinh phí y tế; xây dựng cơ sở hạ tầng (điện, nước, đường
giao thông…); ký túc xá sinh viên... Các nguồn thu này được quản lý, sử dụng
theo sự phân loại dự toán chi tiêu của nhà nước. (2) Nguồn thu hoạt động sự
nghiệp là các khoản thu nhận được từ thu phí, lệ phí của người học theo quy
định của pháp luật; khoản thu hoạt động dịch vụ; tiền lãi chia từ hoạt động liên
doanh, liên kết, tiền gửi ngân hàng; thu nhập do các đơn vị trực thuộc nộp lên;
thu nhập khác như tiền thư viện, ký túc xá sinh viên... (3) Nguồn thu từ nguồn
viện trợ, tài trợ, quà biếu, cho, tặng theo quy định của pháp luật. (4) Nguồn thu
khác là nguồn thu ngoài phạm vi quy định nói trên như vốn vay tín dụng, vốn
huy động của cán bộ công nhân viên; vốn liên doanh, liên kết.
Trong tự chủ tài chính yêu cầu các trường quản lý và khai thác các nguồn
thu theo đúng chế độ, đúng phạm vi và định mức, sử dụng phiếu thu phù hợp,
phải đưa vào dự toán và được quản lý, hạch toán đúng pháp luật. Các khoản thu
đảm bảo tính công khai, minh bạch, kết hợp chặt chẽ giữa yếu tố thẩm quyền và
trách nhiệm. Những khoản thu theo quy định thì nhà trường có nghĩa vụ thu
đúng, thu đủ. Hoạt động có tính đặc thù, phục vụ nhu cầu xã hội, hoạt động sản
xuất kinh doannh, cung ứng dịch vụ, liên doanh liên kết thì các trường tự quyết
định mức thu theo nguyên tắc bù đắp đủ chi phí và có tích luỹ...
Tự chủ trong quản lý chi tiêu
13
Chi tiêu là chỉ các loại chi phí phát sinh khi các trường triển khai hoạt
động, bao gồm: (1) Chi thường xuyên là những khoản chi hoạt động theo chức
năng, nhiệm vụ được giao; chi thu phí, lệ phí; chi hoạt động dịch vụ (kể cả thực
hiện nghĩa vụ với ngân sách nhà nước, trích khấu hao, trả vốn, trả lãi vay). Nội
dung chi thường xuyên, bao gồm: chi tiền lương, tiền công, phụ cấp, BHXH,
học bổng, tiền thưởng; chi mua hàng hóa dịch vụ như điện nước, xăng dầu, văn
phòng phẩm, thông tin liên lạc, công tác phí, thuê mướn, sửa chữa nhỏ, mua vật
tư phục vụ đào tạo… và những chi phí khác. (2) Chi không thường xuyên là
những khoản chi thực hiện nhiệm vụ khoa học công nghệ; đào tạo lại; chương
trình mục tiêu quốc gia; nhiệm vụ nhà nước đặt hàng (điều tra, quy hoạch, khảo
sát…); vốn đối ứng dự án có nguồn vốn nước ngoài; thực hiện nhiệm vụ đột
xuất do cấp có thẩm quyền giao; tinh giản biên chế; đầu tư xây dựng cơ bản,
mua sắm thiết bị, sửa chữa lớn; hoạt động liên doanh, liên kết và chi khác theo
quy định.
Yêu cầu chi tiêu tài chính là các khoản chi của nhà trường phải dựa trên
các tiêu chuẩn, định mức khoa học, hợp lý; đảm bảo tiết kiệm, chính xác, trung
thực, đúng số phát sinh, đúng mục đích, phạm vi chi tiêu và hiệu quả sử dụng;
chấp hành nghiêm chế độ tài chính kế toán của nhà nước và nhà trường quy
định.
Để tạo ra sự tự chủ trong chi tiêu thì các trường cần được giao quyền hạn
rõ ràng trong phân bổ nguồn lực để thực hiện cung cấp dịch vụ công một cách
nhanh chóng, hiệu quả nhất. Nhưng đi kèm với quyền hạn thì phải gắn trách
nhiệm cụ thể, có như vậy ngân sách nhà nước cũng như các nguồn lực khác
phân bổ, cung cấp cho nhà trường mới được sử dụng hợp lý, hiệu quả. Việc cân
bằng giữa quyền quản lý và trách nhiệm là vấn đề cốt lõi trong quản lý chi tiêu
của các nhà trường.
Tự chủ trong quản lý và sử dụng tài sản của nhà trường
14
Nó được hiểu là các trường có trách nhiệm tăng cường quản lý, khai thác
và nâng cao hiệu suất, hiệu quả sử dụng tài sản cho việc thực hiện sứ mạng,
nhiệm vụ được giao, đồng thời góp phần tạo ra nguồn thu cho nhà trường.
1.2.2.3. Vai trò của cơ chế tự chủ tài chính
Việc ứng dụng cơ chế tự chủ tài chính trong các cơ sở giáo dục đại học
công lập là một tất yếu do yêu cầu phát triển đặt ra. Tuy nhiên, vai trò của nó
được thể hiện qua những tác động tới các nhà trường.
Những tác động tích cực
Nếu cơ chế tự chủ tài chính được xây dựng theo hướng đề cao, tăng
cường quyền tự chủ, những quy định trong nó phù hợp với quy luật vận động
của các phạm trù kinh tế, tài chính, xã hội… thì có tác động tích cực tới sự phát
triển của các nhà trường, bao gồm:
Một là, nâng cao khả năng cạnh tranh cho các cơ sở giáo dục đại học
công lập, nó góp phần cải thiện, nâng cao được chất lượng đào tạo. Bởi vì, các
trường muốn giữ vững và nâng cao uy tín, danh tiếng thì phải phải chú trọng tới
các hoạt động của mình. Từ khâu tuyển sinh, các trường phải tuyển những sinh
viên, học viên có trình độ, có chất lượng phù hợp với nội dung, chương trình
đào tạo, không để xảy ra hiện tượng tuyển sinh ồ ạt, chỉ quan tâm tới số lượng.
Trong quá trình đào tạo, sẽ thúc đẩy nhà trường phải đổi mới nội dung,
chương trình giảng dạy, học tập đảm bảo cập nhật được xu thế phát triển của
thời đại để thu hút thêm sinh viên đăng ký và dự học tại nhà trường. Muốn tạo
ra nguồn thu, các trường phải tích cực chủ động đa dạng hóa, nâng cấp các
chương trình và hình thức đào tạo như đào tạo chất lượng cao, đào tạo đại trà;
học chính quy, học bán thời gian, học từ xa; học ngắn hạn, dài hạn… đáp ứng
mọi nhu cầu học tập của xã hội. Mặt khác, cơ chế tự chủ tài chính sẽ khuyến
khích và bắt buộc các trường phải tích cực hơn trong việc tìm kiếm các hợp
đồng đào tạo, nghiên cứu khoa học. Đặc biệt là tìm kiếm các cơ hội liên kết với
15
các trường đại học có uy tín trên thế giới nhằm tạo điều kiện cho sinh viên tiếp
cận với các nền giáo dục tiên tiến, nâng cao chất lượng giáo dục của nhà trường,
cung cấp nguồn nhân lực có chất lượng cao, góp phần vào việc phát triển kinh
tế xã hội của đất nước.
Hai là, thúc đẩy các cơ sở giáo dục đại học công lập nâng cao hiệu quả
hoạt động, khuyến khích các trường làm tốt hơn các nhiệm vụ, sứ mạng của
mình, giảm được thời gian và những chi phí vô ích. Trong khi cơ chế kế hoạch
hóa tập trung, từ việc nhỏ đến việc lớn (mua sắm thường xuyên đến sắp xếp tổ
chức...) đều phải trải qua các bước thủ tục hành chính phức tạp. Các trường phải
báo cáo, xin ý kiến cấp trên, gây tốn kém về thời gian, kinh phí thực hiện. Giao
quyền tự chủ tài chính sẽ giúp các trường năng động, sáng tạo, chủ động hơn
trong thực hiện các nhiệm vụ được giao và mọi hoạt động đều gắn với trách
nhiệm thì các trường sẽ làm việc có hiệu quả, có năng suất hơn; như vậy sẽ làm
giảm chi phí kiểm tra, kiểm soát của quá trình thực hiện.
Ba là, thúc đẩy việc tăng thu, tiết kiệm chi, nâng cao hiệu quả hoạt động,
tăng thu nhập cho cán bộ công nhân viên. Điều này góp phần tạo động lực để
cán bộ công nhân viên nhà trường yên tâm tập trung vào công việc giảng dạy,
nghiên cứu khoa học, quản lý, nâng cao chất lượng giáo dục, tăng nguồn thu …
sẽ củng cố được lòng tin, uy tín của nhà trường, thu hút thêm sinh viên, tạo cơ
hội liên kết, hợp tác đào tạo với các cơ sở trong và ngoài nước.
Những tác động tiêu cực
Bên cạnh những tác động tích cực của cơ chế tự chủ tài chính, nó cũng có
thể xảy ra những tác động tiêu cực, bao gồm:
Một là, mục tiêu xã hội của giáo dục đại học có thể bị ảnh hưởng. Vì, nếu
những quy định trong cơ chế không đảm bảo sự minh bạch, chặt chẽ, để xảy ra
việc quá đề cao quyền tự chủ tài chính nhưng không làm rõ trách nhiệm, biện
pháp quản lý đi kèm thì có thể gây tổn hại nghiêm trọng đến sự thống nhất, sự
16
công bằng và tiến bộ xã hội. Nó dễ tạo ra cơ chế khuyến khích các trường bỏ
qua trách nhiệm xã hội, mà chỉ tập trung vào việc cung ứng các dịch vụ đáp ứng
cho những người có khả năng chi trả, làm cho người nghèo sẽ mất đi cơ hội sử
dụng dịch vụ giáo dục đại học. Đặc biệt trường hợp các trường áp dụng biện
pháp tăng học phí để tăng nguồn thu. Để đảm bảo cơ hội giáo dục bình đẳng
cho mọi người dân thì Nhà nước và các tổ chức xã hội cần có những chính sách
hỗ trợ, giúp đỡ sinh viên nghèo thông qua chính sách cho vay; hỗ trợ học
bổng...
Hai là, có thể xảy ra sự cạnh tranh không lành mạnh giữa các trường có
cùng ngành nghề, nội dung đào tạo. Nguyên nhân là do muốn thu hút người
học, các trường thường đưa ra những ưu đãi khác nhau; trong đó, có biện pháp
giảm học phí... Khi cắt giảm học phí sẽ làm cho các trường thiếu hụt nguồn thu,
buộc phải cắt giảm thời gian, nội dung, chương trình đào tạo, cắt giảm dịch vụ
đi kèm như dịch vụ thư viện; thiết bị thí nghiệm, thực hành, thực tập… dẫn tới
giảm chất lượng.
Ba là, các trường nhỏ, các trường mới thành lập sẽ gặp khó khăn. Bởi vì,
các trường này thường có cơ sở vật chất nhỏ, chưa có uy tín, khó tạo lòng tin
với các đối tác và cũng gặp khó khăn trong việc thu hút người học.
Bốn là, có thể làm nảy sinh khuynh hướng các trường chạy theo lợi
nhuận, chạy theo nguồn thu dẫn tới vi phạm các quy định, quy chế giáo dục đại
học. Vì nguồn thu, vì lợi nhuận, một số trường sẽ tăng cường mở rộng quy mô
đào tạo tức là tăng số sinh viên, học viên; tăng số giờ giảng dạy và các hình thức
đào tạo nhưng lại buông lỏng quản lý. Chẳng hạn, nới lỏng tiêu chuẩn đầu vào
với người học; dẫn tới chất lượng đầu vào của sinh viên, của học viên thấp;
không phù hợp với nội dung, chương trình đào tạo làm cho quá trình đào tạo
của nhà trường sẽ không hiệu quả, gây lãng phí.
17
Qua những phân tích nêu trên, có thể thấy cơ chế tự chủ tài chính đóng
vai trò rất quan trọng. Nó góp phần tạo ra môi trường pháp lý cho các trường
hoạt động với tư cách là một chủ thể nhằm huy động tối đa các nguồn lực tiền
tệ, phi tiền tệ và sử dụng các nguồn lực này một cách hiệu quả, đáp ứng tốt nhất
cho việc thực hiện nhiệm vụ, sứ mạng của nhà trường. Mặt khác, nó cũng có
những tác động tiêu cực đến mục tiêu hoạt động, khả năng cạnh tranh của các
cơ sở giáo dục đào tạo công lập ở Việt Nam.
Về mặt lý luận cũng như thực tiễn cho thấy đối với bất kỳ một đơn vị,
một tổ chức, một doanh nghiệp nào thì hoạt động tài chính là hoạt động trung
tâm, hoạt động then chốt. Bởi vì, nó là hoạt động nhằm đảm bảo những điều
kiện vật chất cho đơn vị, tổ chức, doanh nghiệp đó tồn tại và phát triển. Đặc
biệt, trong bối cảnh cơ chế tự chủ tài chính cho các cơ sở giáo dục đại học công
lập ngày càng được mở rộng, trao quyền tự chủ ngày một cao hơn, công tác
quản lý tài chính ngày càng đòi hỏi cần phải hoàn thiện, đổi mới trên cơ sở cơ
chế quản lý tài chính đang dần được định hình ở Việt Nam. Quản lý tài chính
được coi là hợp lý, có hiệu quả nếu nó tạo ra được một cơ chế quản lý thích
hợp, có tác động tích cực tới các quá trình kinh tế xã hội theo các phương hướng
phát triển đã được hoạch định.
1.2.3. Cơ chế quản lý tài chính cơ sở giáo dục đại học công lập
1.2.3.1. Khái niệm cơ chế quản lý tài chính
Quản lý tài chính
Quản lý tài chính theo quan điểm của các nhà khoa học [27] được xem
xét theo hai nghĩa:
(1) Theo nghĩa hẹp là quản lý thu chi ngân sách theo nghĩa này thì nội
dung chủ yếu của quản lý tài chính là làm như thế nào để đảm bảo hoạt động
thu chi ngân sách được tiến hành thông suốt và có hiệu quả; (2) theo nghĩa rộng
là sử dụng tài chính làm công cụ quản lý kinh tế vĩ mô của Nhà nước. Nhà nước
18
thông qua hoạt động tài chính để điều tiết hoạt động của nền kinh tế quốc dân
theo mục tiêu đã định. Xét theo nghĩa này, nội dung của quản lý tài chính chủ
yếu là việc lựa chọn và xác định chính xác các chính sách tài chính hữu hiệu và
lấy đó làm căn cứ để quy định nội dung cụ thể của thu chi ngân sách.
Như vậy, nếu xét theo cả hai nghĩa được nêu trên thì quản lý tài chính là
dùng công cụ tài chính của Nhà nước thông qua các chính sách, phương thức,
hệ thống khác nhau nhằm đạt được mục tiêu quản lý. Tuy nhiên, quan điểm này
chưa làm rõ sự khác biệt cơ chế quản lý tài chính với quản lý tài chính dẫn đến
quan điểm đồng nhất giữa quản lý tài chính và cơ chế quản lý tài chính.
Tác giả Võ Văn Thường phân tích khái niệm về "cơ chế kinh tế" và "cơ
chế quản lý kinh tế" xuất phát từ mối quan hệ giữa kinh tế và tài chính hay nói
cách khác, tài chính phản ánh các quan hệ kinh tế. Trong mối quan hệ này kinh
tế là gốc song cũng nhấn mạnh tài chính không thụ động phản ánh các quan hệ
kinh tế mà nó gây tác động tích cực ngược lại đối với các quan hệ kinh tế, ngay
cả điều chỉnh các quan hệ kinh tế đồng hành. Như vậy, xuất phát từ nghiên cứu
về khái niệm "cơ chế kinh tế" và "cơ chế quản lý kinh tế" tác giả này làm sáng
tỏ bản chất của "cơ chế tài chính" và "cơ chế quản lý tài chính" theo góc độ nói
trên. Các kết quả trong nghiên cứu này đã đưa đến khái niệm rằng: Cơ chế quản
lý tài chính đó là hệ thống các hình thức, phương pháp và biện pháp tài chính
được sử dụng để tác động vào quá trình vận hành của các quan hệ kinh tế tương
ứng nhằm đạt các mục tiêu quản lý được xác định. Cơ chế quản lý tài chính
được hiểu theo quan điểm này chưa phản ánh rõ vai trò của chủ thể quản lý và
mối quan hệ tương tác giữa các chủ thể quản lý khi vận hành cơ chế.
Kết quả của nhóm nghiên cứu do TS Phạm Văn Ngọc chủ trì [18] bước
đầu giả định rằng mỗi một doanh nghiệp trong nền kinh tế đều phải đứng trước
sự khan hiếm về nguồn lực tài chính mà nó có thể sở hữu. Do đó, doanh nghiệp
đó cần sử dụng hiệu quả nguồn tài chính mà nó có được. Muốn vậy nó cần có
19
một cơ chế quản lý tài chính tốt để thực hiện mục tiêu tài chính của nó. Từ đó,
có thể hiểu định nghĩa về cơ chế quản lý tài chính như sau: "Cơ chế quản lý tài
chính là một tập hợp các phương pháp, công cụ phù hợp với pháp luật hiện hành
nhằm thực hiện mục tiêu tài chính của đơn vị kinh tế trong điều kiện khan hiếm
các nguồn lực tài chính và những nguồn lực khác".
Như vậy, qua nghiên cứu các tài liệu, giáo trình và các công trình khoa
học có liên quan, các tác giả đều có quan điểm khá thống nhất về nội hàm của
cơ chế quản lý tài chính. Tuy nhiên, ở các khái niệm nêu trên đều có nhược
điểm là chưa thấy rõ được vai trò của chủ thể quản lý khi sử dụng các phương
pháp, công cụ tác động đến đối tượng quản lý; sự tương tác qua lại giữa các chủ
thể trong quá trình vận hành các chính sách, phương tiện, hệ thống,... Các yếu tố
này là một phần của cơ chế quản lý tài chính.
Theo quan điểm của tác giả, có thể nêu khái niệm về cơ chế quản lý tài
chính như sau: Cơ chế quản lý tài chính là tổng hợp các phương pháp, công cụ
phù hợp với pháp luật hiện hành được nhà quản lý áp dụng để quản lý hoạt động
tài chính liên quan đến đối tượng quản lý trong điều kiện cụ thể nhằm đạt các
mục tiêu đã đề ra.
1.2.3.2. Đặc điểm cơ chế quản lý tài chính
Theo cách định nghĩa như trên thì cơ chế quản lý tài chính có mối quan
hệ phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của nhà quản lý, là các chủ thể quản lý vận
hành các phương thức và công cụ tác động đến mục tiêu và quá trình hoạt động
giáo dục đại học của đơn vị. Đồng thời phụ thuộc vào quyết tâm, hành động của
lãnh đạo nhà trường khi đưa ra các quyết định quản lý, điều hành, triển khai
thực hiện. Điều này sẽ có ảnh hưởng để cơ chế quản lý tài chính hoặc là bàn đạp
hỗ trợ cho sự phát triển của cơ sở giáo dục đại học công lập hoặc ngược lại.
Cơ chế quản lý tài chính đối với cơ sở giáo dục đại học công lập thuộc
lĩnh vực quản lý tài chính công. Cải cách quản lý tài chính công sẽ tăng hiệu
20
quả sử dụng nguồn lực tài chính của xã hội. Các nội dung cải cách quan trọng
phổ biến là cải cách quản lý chi tiêu ngân sách; phương thức lập, phân bổ ngân
sách theo kết quả đầu ra; phương thức huy động các nguồn lực xã hội hóa,...
Đối với giáo dục đại học, Chính phủ cũng thực hiện nhiều chính sách cải cách
cơ chế quản lý tài chính trong các thập kỳ vừa qua. Các xu hướng cải cách được
tập trung theo hướng: thay đổi quan điểm về lợi ích giáo dục đại học, chia sẻ chi
phí giữa Nhà nước và người học để giảm bớt gánh nặng cho ngân sách; đầu tư
tập trung cho các chương trình đào tạo nhân tài, đào tạo chất lượng cao,...
Các cơ sở giáo dục đại học công lập là chủ thể vận hành cơ chế quản lý
tài chính đối với giáo dục đại học công lập theo quy định của lĩnh vực tài chính
công. Tuy nhiên, hoạt động thu, chi tài chính của các trường đại học giống như
hoạt động kinh tế vi mô của bất kỳ một doanh nghiệp nào. Nó chịu sự tác động
của các quy luật kinh tế thị trường. Vì vậy, cơ chế quản lý tài chính đối với các
cơ sở giáo dục đại học công lập cũng không nằm ngoài sự tác động nói trên,
cũng vận hành theo cơ chế thị trường.
Cơ chế quản lý tài chính phụ thuộc vào các điều kiện để tổ chức thực hiện
việc quản lý tài chính (nguồn lực tài chính; tài sản; đội ngũ cán bộ giảng viên và
quản lý; ứng dụng công nghệ thông tin;...) và phải tuân thủ các quy định quản lý
tài chính hiện hành của Nhà nước trong phạm vi có liên quan.
1.2.3.3. Nội dung của cơ chế quản lý tài chính ở các trường đại học công
lập
Thứ nhất, cơ chế quản lý nguồn ngân sách nhà nước
Triển khai các chương trình đào tạo là một hoạt động của các cơ sở giáo
dục đại học công lập, thực hiện chức năng cung cấp dịch vụ giáo dục và đào tạo
cho xã hội. Nhiệm vụ này được Chính phủ giao cho các cơ sở giáo dục đại học
công lập và cung cấp nguồn ngân sách để thực hiện. Thông thường kinh phí
được Chính phủ cung cấp cho các cơ sở giáo dục đại học công lập nằm trong
21
khoản ngân sách chi cho giáo dục đại học. Để thực hiện vai trò quản lý, Chính
phủ sẽ sử dụng công cụ ngân sách Nhà nước kết hợp với các phương thức, biện
pháp hành chính khác để tác động đến hoạt động của các cơ sở giáo dục đại học
công lập nhằm đạt được mục tiêu đã đề ra. Do đó, cơ chế quản lý nguồn ngân
sách của Chính phủ chi cho hoạt động này sẽ tuân thủ quy trình quản lý từ khâu
lập dự toán, xét duyệt và cấp ngân sách như một hoạt động của khu vực công.
Thứ hai, cơ chế quản lý nguồn thu ngoài ngân sách cấp
Cơ chế quản lý nguồn thu ngoài ngân sách của các cơ sở giáo dục đại học
công lập được xem xét trên các nội dung sau:
(1) Nguồn thu từ học phí
Học phí ở hầu hết các nước là nguồn thu ngoài ngân sách cấp đầu tư lớn
nhất cho giáo dục đại học. Với quan điểm hiện nay của Nhà nước, học phí là sự
chia sẻ chi phí theo hướng người học cần trả một phần quan trọng chi phí cho
giáo dục đại học trong khi nhu cầu đại học ngày càng tăng, xu hướng giảm cấp
tài chính cho giáo dục đại học của Nhà nước; giáo dục đại học đem lại lợi ích
cho riêng cá nhân nhiều hơn là so với lợi ích chung cho xã hội, do đó việc người
hưởng thụ giáo dục đại học phải trang trải chi phí nhiều hơn là công bằng.
Tuy nhiên, do chịu sự ảnh hưởng trong một thời gian dài được bao cấp
nên việc tính đúng, tính đủ chi phí để xác định mức thu học phí là không phù
hợp với thu nhập của đại đa số người dân ở Việt Nam. Vì vậy, Nhà nước cần sử
dụng kết hợp hiệu quả công cụ ngân sách và học phí để giải quyết mâu thuẫn
giữa quy mô, chất lượng và nguồn lực khan hiếm trong giáo dục đại học. Hiện
nay, tuy cho phép một số cơ sở giáo dục đại học công lập được tự chủ xây dựng
mức thu học phí nhưng Nhà nước vẫn ban hành quy định mức trần học phí để
đảm bảo lợi ích giữa nhà trường với người học.
Trong chi phí đào tạo thường xuyên, về nguyên tắc không dễ dàng để bóc
tách khoản chi nào sẽ được chi từ ngân sách nhà nước và khoản chi nào sẽ được
22
bù đắp chi từ nguồn học phí. Việc sử dụng học phí để bù đắp chi phí các trường
được hoàn toàn tự chủ. Các trường sử dụng học phí phụ thuộc vào yêu cầu và
đặc thù của ngành nghề đào tạo (có thể cần đầu tư cho trang thiết bị thí nghiệm,
đầu tư cho các chương trình thực hành, thực tập kỹ năng,...).
(2) Nguồn thu từ hoạt động nghiên cứu khoa học, tư vấn, cung cấp dịch
vụ
Nguồn thu từ hoạt động nghiên cứu khoa học có được xuất phát từ một
trong các chức năng cơ bản của các cơ sở giáo dục đại học công lập là nơi triển
khai các nghiên cứu khoa học cơ bản và chuyển giao kết quả nghiên cứu phục
vụ xã hội. Chiến lược đa dạng hóa nguồn tài chính nhằm giảm bớt gánh nặng
ngân sách đã buộc các trường đại học quan tâm nhiều hơn đến nguồn thu từ
hoạt động này. Ở các nước phát triển, hoạt động này đóng góp phần không nhỏ
trong cơ cấu nguồn lực tài chính của các trường đại học. Nguồn kinh phí thu
được từ hoạt động nghiên cứu khoa học của các cơ sở giáo dục đại học công lập
có thể có được từ các chương trình, dự án khoa học được nhà nước tài trợ hoặc
thông qua việc thực hiện chương trình, dự án khoa học, chuyển giao công nghệ
và bán sản phẩm cho các doanh nghiệp bên ngoài.
Tương tự là việc xây dựng cơ chế thu đối với các nguồn thu khác một
cách hợp lý để bù đắp các khoản chi hoạt động trong năm. Đồng thời phải đa
dạng các nguồn thu trên cơ sở liên doanh, liên kết trong lĩnh vực đào tạo với các
đối tác trong nước và ngoài nước; tăng cường hợp tác quốc tế trên lĩnh vực đào
tạo, học thuật, nghiên cứu khoa học để trao đổi kinh nghiệm và tìm kiếm thêm
những khoản viện trợ cho đào tạo.
1.2.3.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến cơ chế quản lý tài chính
Các chủ trương, đường lối, chính sách của Nhà nước
23
Trong nền kinh tế thị trường, Nhà nước có vai trò quản lý vĩ mô, cho nên
mọi đường lối, chính sách của Nhà nước đều ảnh hưởng tới các cơ sở giáo dục
đại học công lập. Nguyên nhân:
Thứ nhất, Nhà nước là người xây dựng hệ thống luật pháp, định hướng
phát triển các trường và kiểm tra, giám sát những việc gì được làm trong khuôn
khổ pháp luật.
Thứ hai, hệ thống chính sách và công cụ như chính sách tài chính, đầu tư,
tiền lương, thu nhập, chi tiêu của Nhà nước có tác động rất lớn đến cơ chế quản
lý tài chính của các trường. Hệ thống chính sách này phải phù hợp với cơ chế
thị trường, có tính cạnh tranh thì mới tăng cường sự chủ động cho các trường.
Nói cách khác, cơ chế quản lý tài chính mới phát huy tác dụng, góp phần thúc
đẩy các cơ sở giáo dục đại học công lập phát triển.
Hệ thống pháp luật của Nhà nước
Hệ thống pháp Luật của nhà nước có tác động rất lớn tới hoạt động đào
tạo, nghiên cứu khoa học của các cơ sở giáo dục đại học công lập. Bởi vì, nó
chính là cơ sở pháp lý để các trường có thể tăng cường huy động các nguồn lực
tài chính từ nhà nước, từ xã hội…
Ở góc độ quản lý, các trường chịu ảnh hưởng của Luật Giáo dục; Luật
Giáo dục Đại học; Luật Ngân sách; Luật Quản lý, sử dụng tài sản nhà nước;
Luật doanh nghiệp; Luật Khoa học công nghệ; Luật Công chức, Viên chức.
Sự phát triển của thị trường lao động
Trong kinh tế thị trường, sự phát triển của thị trường sức lao động có vai
trò rất quan trọng, nó có tác động thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của một
trường đại học công lập. Bởi vì, nó liên quan tới nhu cầu xã hội hoá giáo dục đại
học, thị trường lao động càng phát triển thì càng có tác động lớn tới cơ chế quản
lý tài chính của trường đại học công lập, nguyên nhân là do:
24
Thứ nhất, thị trường là nơi sử dụng sản phẩm đào tạo, nghiên cứu khoa
học nó là nơi cuối cùng thẩm định chất lượng của một nhà trường. Nếu sản
phẩm đào tạo, nghiên cứu khoa học của nhà trường được các doanh nghiệp, cơ
quan nhà nước sử dụng thì trường đại học đó mới tồn tại, phát triển được.
Thứ hai, sự ủng hộ của xã hội đối với lĩnh vực đào tạo. Vì người sử dụng
sản phẩm đào tạo là xã hội. Cho nên sự ủng hộ của xã hội là điều kiện quan
trọng để trường thực hiện cơ chế quản lý tài chính.
Thứ ba, thực hiện quan hệ thị trường trong quá trình đào tạo và sử dụng
sản phẩm đào tạo. Bởi vì, trong kinh tế thị trường, sản phẩm đào tạo là một loại
hàng hoá đầu vào của quá trình sản xuất. Cho nên, quá trình đào tạo và sử dụng
sản phẩm cũng phải vận dụng quan hệ thị trường. Nghĩa là người học, người sử
dụng sản phẩm phải trả chi phí đào tạo. Tuỳ theo mức độ thị trường hoá mà
mức chi phí đào tạo được xác lập khác nhau. Tuy nhiên, chi phí này cần đảm
bảo cho nhà trường có thể tái sản xuất mở rộng quá trình đào tạo.
Năng lực quản lý của cơ quan chủ quản
Là nhân tố tạo môi trường thúc đẩy sự chuyển biến về công tác đào tạo,
nghiên cứu khoa học, hoạt động dịch vụ của các trường đại học công lập. Bởi
vì, nó vừa là cơ sở để hiện thực hoá, vừa là rào cản cho mọi chủ trương chính
sách của ðảng, Nhà nước trong lĩnh vực giáo dục đại học.
Năng lực nội sinh của các trường đại học
Năng lực nội sinh của trường đại học, nó chính là nguồn tài chính, nguồn
nhân lực, vật lực, môi trường, thông tin,... cần thiết cho công tác giảng dạy, học
tập, nghiên cứu khoa học.
1.2.3.5. Các tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính
Để đo lường và phản ánh chất lượng, tác động của cơ chế quản lý tài
chính đối với cơ sở giáo dục công lập thì cần phải có một hệ thống các tiêu chí
25
có tính chất định tính và định lượng để đánh giá. Nó bao gồm một số tiêu chí
sau đây:
Thứ nhất là tính hiệu lực
Cơ chế quản lý tài chính phải có “giá trị thi hành” trên thực tiễn [29], có
nghĩa nó phải đảm bảo tính hợp hiến, hợp pháp, tính đồng bộ (không xảy ra hiện
tượng chồng chéo, mâu thuẫn với các văn bản pháp luật hiện hành khác), tính
toàn diện (có đầy đủ các quy định cần thiết), tính phù hợp (nó được thể hiện là
sự tương thích với trình độ phát triển kinh tế xã hội, chế độ chính trị, tập quán,
văn hóa truyền thống và xu hướng hội nhập quốc tế). Suy cho cùng, hiệu lực
của cơ chế quản lý tài chính được thể hiện khi nó đạt được tính khả thi. Đây là
thước đo thực tế của cơ chế quản lý tài chính.
Như vậy, những quy định, quy trình, thủ tục, hồ sơ liên quan tới việc thực
hiện cơ chế quản lý tài chính của các cơ sở giáo dục đại học công lập phải có
tính công khai, minh bạch, rõ ràng, logic, thống nhất với nhau để tạo thành một
chỉnh thể. Các điều kiện áp dụng cơ chế quản lý tài chính vào thực tế phải dễ
dàng không tạo ra cơ chế “xin cho”.
Nói cách khác, cơ chế quản lý tài chính phải tạo ra một khung pháp lý
hoàn chỉnh cho các cơ sở giáo dục đại học dựa vào đó để chủ động tổ chức các
hoạt động tài chính của mình một cách hiệu quả, đáp ứng mục tiêu, sứ mạng của
nhà trường một cách tốt nhất. Vì vậy, cơ chế quản lý tài chính phải có các chỉ
tiêu về mặt định tính và định lượng, nó bao hàm được tất cả hoạt động của các
cơ sở giáo dục đại học trong quá trình tạo lập và sử dụng nguồn thu.
Thứ hai là tính hiệu quả
Hiệu quả của một cơ chế có thể được “đo lường” dưới hai khía cạnh cơ
bản là lợi ích và chi phí. Một cơ chế được xem là hiệu quả khi nó đáp ứng được
mong muốn của người ban hành và đạt được mục tiêu đặt ra là “tác động” tới
các quan hệ liên quan để điều chỉnh theo hướng tích cực, với một mức chi phí
26
thấp nhất. Hiệu quả của cơ chế trước tiên được thể hiện về chất lượng nội dung
của những quy định, chính sách đưa ra trong cơ chế. Hơn nữa, nó phải được
xem xét ở trạng thái sau khi cơ chế tác động lên các quan hệ xã hội, tức là kết
quả đạt được trên thực tế. Muốn đánh giá hiệu quả của cơ chế quản lý tài chính
thì chúng ta cần thực hiện theo hai bước:
(1) So sánh giữa trạng thái các quan hệ liên quan trước và sau khi áp
dụng cơ chế để xác định những biến đổi thực tế đạt được do sự tác động của cơ
chế;
(2) Đối chiếu với mục đích mong muốn đạt được của người có trách
nhiệm ký ban hành cơ chế.
Tính hiệu quả là một chỉ tiêu rất quan trọng để phản ánh kết quả của cơ
chế quản lý tài chính đem lại so với thời kỳ chưa áp dụng cơ chế quản lý tài
chính cho các cơ sở giáo dục đại học công lập. Nó được thể hiện qua sự tăng,
giảm của các chỉ tiêu có liên quan tới tài chính như sự tiết kiệm chi phí, hoặc lợi
ích đem lại cao hơn chi phí bỏ ra, nâng cao hiệu quả của việc phân bổ các nguồn
lực tiền tệ và phi tiền tệ trong các trường…
Chỉ tiêu định lượng dùng đo lường tính hiệu quả của cơ chế quản lý tài
chính bao gồm: Quy mô, cơ cấu nguồn thu chi hàng năm; Hiệu quả sử dụng vốn
ngân sách nhà nước; Thu nhập tăng thêm của cán bộ công nhân viên; Suất đầu
tư cho 1 sinh viên; Cơ cấu, tỷ lệ giảng viên trên sinh viên; Số bài báo, công trình
nghiên cứu khoa học hàng năm của nhà trường…
Trong đó, quy mô nguồn thu chi phản ánh năng lực tài chính của từng
trường trong quá trình hoạt động. Nếu quy mô nguồn thu chi càng lớn thì chứng
tỏ nhà trường càng có năng lực về tài chính và có nhiều hoạt động khác nhau.
Cơ cấu nguồn thu là tỷ lệ của mỗi nguồn thu trong tổng nguồn thu, bao
gồm: nguồn ngân sách, học phí, dịch vụ, nghiên cứu khoa học, viện trợ… Cơ
cấu nguồn thu cho biết khả năng quản lý tài chính của nhà trường, bởi vì nguồn
27
thu càng đa dạng thì khả năng quản lý tài chính càng cao. Tỷ lệ nguồn thu sẽ
cho biết nhà trường đang hoạt động dựa vào nguồn tài chính nào là chủ yếu. Cơ
cấu nguồn thu cũng cho biết trong điều kiện, khả năng của mình, các trường nên
tìm giải pháp để tăng thu từ nguồn nào.
Cơ cấu nguồn chi là tỷ lệ của các mục chi (như chi tiền lương, tiền công,
thu nhập tăng thêm; điện nước, xăng dầu; mua vật tư, dụng cụ thí nghiệm, thực
hành, thực tập, mua tài liệu; chi đầu tư phát triển; chi nghiên cứu khoa học…)
so với tổng nguồn chi hoạt động trong năm của nhà trường. Cơ cấu nguồn chi
cho biết khả năng tiết kiệm và hiệu quả sử dụng nguồn kinh phí trong năm của
nhà trường. Nguồn kinh phí của nhà trường đang đầu tư chủ yếu cho vấn đề gì?
trong tương lai cần thay đổi theo hướng nào? để duy trì sự cạnh canh và phù
hợp với chiến lược phát triển nhà trường.
Thứ ba là tính linh hoạt
Tính linh hoạt của cơ chế quản lý tài chính là những quy định trong nó
phải có khả năng thích nghi với sự thay đổi của môi trường kinh tế xã hội, xu
hướng phát triển của thị trường giáo dục đại học trong nước và quốc tế. Cho
phép các trường được tự do lựa chọn tìm kiếm, sử dụng các nguồn kinh phí phù
hợp với chức năng, nhiệm vụ theo đuổi trong ngắn hạn và dài hạn. Chẳng hạn,
mức độ linh hoạt của cơ chế cấp ngân sách, quyền tự chủ về tính học phí… sẽ
tác động tới phản ứng của các trường trong việc thay đổi mục tiêu, đối tượng, số
lượng tuyển sinh phù hợp với năng lực, nhu cầu đào tạo của xã hội. Ví dụ, Nhà
nước muốn giảm sự mất cân đối về chỉ tiêu đào tạo giữa các ngành kinh tế, kỹ
thuật, y tế… thì chỉ cần tăng hoặc giảm hệ số định mức ngân sách cấp cho mỗi
loại chỉ tiêu đào tạo. Các trường phải tự điều chỉnh chỉ tiêu được ngân sách cấp
kinh phí thấp.
Thứ tư là tính công bằng
28
Những quy định trong cơ chế quản lý tài chính phải tạo ra sự công bằng
giữa quyền tự chủ và trách nhiệm đi kèm. Trong đó, trách nhiệm của cơ sở giáo
dục đại học công lập là trách nhiệm đối với sinh viên, cha mẹ sinh viên, người
sử dụng lao động, công chúng nói chung và Nhà nước nói riêng. Nó bao gồm
việc đảm bảo chất lượng đào tạo, sử dụng hiệu quả các nguồn lực, đem lại sự
hài lòng cho sinh viên và cộng đồng, các thông tin tài chính của nhà trường phải
đảm bảo tính minh bạch và giải trình công khai.
Tuy nhiên, những quy định trong cơ chế cần đảm bảo sự hài hòa giữa
quyền hạn và trách nhiệm, phải cân bằng giữa chi phí và lợi ích đem lại. Ví dụ,
chương trình đào tạo chất lượng cao thì nhà trường được quyền đưa ra mức học
phí tương ứng hay người học phải chi trả học phí cao phù hợp với chất lượng
nhận được.
Thứ năm là tính ràng buộc về mặt tổ chức
Để đảm bảo tính hiệu quả thì những quy định trong cơ chế quản lý tài
chính phải phù hợp với pháp luật hiện hành. Ngoài ra, nó cần phải có sự hỗ trợ
về mặt hành chính để thực hiện các quy định của các trường trong thực tiễn. Bởi
vì, đôi khi hiệu lực của các quy định bị cản trở do những ràng buộc về quyền
thực thi pháp lý trong thiết kế và thực hiện các biện pháp của các quy định đó.
Đối với một số loại quy định thì những khó khăn có thể nảy sinh với các chức
năng điều phối, giám sát và đánh giá.
Tính ràng buộc tổ chức của cơ chế quản lý tài chính còn thể hiện ở chỗ,
nó có tác dụng thúc đẩy các trường chủ động tìm kiếm nguồn lực tài chính
ngoài ngân sách. Tuy nhiên, ở Việt Nam chưa có chính sách thích hợp, chưa có
quy định cụ thể về mặt luật pháp, nhiều trường chưa quan tâm dẫn tới chưa khơi
thông được nguồn tài chính này.
Thứ sáu là sự thừa nhận của cộng đồng
29
Cơ chế quản lý tài chính được xem như là một bản thỏa thuận giữa nhà
nước và các trường nhằm đảm bảo sự đồng thuận chung về quản lý thu chi tài
chính. Vì vậy, cơ chế quản lý tài chính có mục đích thay việc Nhà nước thường
xuyên phải nâng mức chi ngân sách bằng việc trao quyền để các trường chủ
động khai thác, sử dụng các nguồn lực tài chính một cách hiệu quả, đáp ứng tốt
nhất cho việc nâng cao chất lượng đào tạo.Sự thành công của cơ chế quản lý tài
chính phụ thuộc vào mức độ cộng đồng thừa nhận nó.
1.3. Kinh nghiệm quốc tế về cơ chế quản lý tài chính các cơ sở giáo
dục đại học công lập thực hiện tự chủ
1.3.1. Kinh nghiệm của một số nƣớc trên thế giới
Phân bổ nguồn ngân sách nhà nước cho các cơ sở giáo dục đại học công
lập theo sản phẩm đầu ra
Hiện nay, hệ thống giáo dục đại học Úc có khoảng gần 40 trường đại học
công lập và 2 trường đại học tư. Trong đó nhiều chương trình đào tạo của các
trường đại học công lập được các tổ chức kiểm định độc lập đánh giá cao.
Chính phủ Úc cung cấp nguồn NSNN cho các trường đại học công lập để thực
hiện các chương trình này. Năm 2008, Chính phủ nước này đã tiến hành cuộc
đánh giá có quy mô lớn đối với giáo dục đại học do GS Dennis Bradley
(Nguyên Giám đốc Đại học Nam Úc) chủ trì. Các khuyến nghị từ kết quả của
cuộc nghiên cứu đã được Chính phủ xem xét, phê duyệt thực hiện để điều chỉnh
trong chính sách tài chính đối với đại học [3]:
Cơ chế cấp kinh phí theo nhu cầu và lấy sinh viên làm trung tâm; sử dụng
các chỉ số thực hiện được xây dựng cho bốn lĩnh vực rõ ràng là căn cứ phân bổ
nguồn kinh phí: sự tham gia và mức độ giáo dục hòa nhập của sinh viên, kinh
nghiệm của sinh viên, kiến thức của sinh viên, chất lượng đầu ra.
Đảm bảo chất lượng trong đó nhận mạnh các chuẩn và kết quả đầu ra
được thực hiện thông qua Tổ chức tiến hành kiểm định và giám sát hoạt động
30
của cơ sở đào tạo. Trong khi đó, học phí vẫn nằm trong cơ chế điều tiết của
Chính phủ.
Đẩy mạnh tự chủ tài chính, thay đổi cơ chế quản lý tài chính để đào tạo
giáo dục đại học là xu hướng phổ biến ở các nước
Tác giả Phùng Xuân Nhạ và nhóm nghiên cứu [4], đánh giá sơ bộ cho
biết về mức độ tự chủ, cơ chế quản lý tài chính đại học công lập trong khu vực
Đông Á như sau:
Nhật đẩy mạnh quyền tự chủ tài chính, cũng như thay đổi cơ chế quản lý
tài chính của các trường đại học sau khi có luật cải cách giáo dục tháng 7/2003
với sự khuyến khích kiểu doanh nghiệp đại học. Bắt đầu từ năm 2004, các
trường đại học quốc gia lần đầu tiên được nhận kinh phí trọn gói để chi tiêu.
Tuy Bộ Giáo dục và Đào tạo vẫn quy định mức học phí hàng năm, nhưng các
cơ sở giáo dục đại học được phép điều chỉnh tăng mức học phí tăng khoảng
20%.
Singapore cho phép các trường đại học được tự chủ và khuyến khích các
trường đa dạng hóa các nguồn tài chính, đặc biệt là từ doanh nghiệp. Chính phủ
vẫn cấp ngân sách chính cho giáo dục đại học, nhưng các trường được tự định
mức học phí và được trao quyền tự chủ hoàn toàn về nguồn nhân lực.
Hàn Quốc có cơ chế khác. Trong khi các trường công vẫn tiếp tục chịu sự
hạn chế trong những lĩnh tài chính thì các trường đại học tư thục lại được mở
rộng tự chủ về tài chính. Tuy nhiên, từ năm 2008, Hàn Quốc cũng đã thí điểm
việc tăng cường tự chủ nói chung và tự chủ tài chính nói riêng cho các trường
đại học. Một số đại học lớn như Đại học Seoul được trao quyền nhiều hơn trong
các quyết định tài chính của họ.
Chính phủ các nước thu nhập trung bình ở Đông Á trao cơ chế quản lý tài
chính cho một số trường đại học, dưới dạng phân bổ ngân sách công theo cơ chế
tài trợ trọn gói và cho phép cơ sở linh hoạt hơn trong ấn định mức học phí cho
31
một số chương trình và trong một số trường hợp. Tuy vậy, ngay cả những cơ sở
tự chủ vẫn bị hạn chế trong việc vay vốn thương mại và sở hữu tài sản.
Ví dụ, ở Thái Lan, các trường đại học tự chủ nhận ngân sách nhà nước
thông qua chế độ phân bổ kinh phí trọn gói, được tự chủ trong xác định cơ chế
quản lý và sử dụng nhân sự. Các trường này cũng được quyền quản lý, sử dụng
tài sản công. Các trường đại học tự chủ ở Indonexia về mặt pháp lý được trao
quyền tự chủ đáng kể, tuy nhiên điều này không phải lúc nào cũng dẫn đến tự
chủ tài chính thực sự. Nhưng Indonexia cũng đã thành công trong việc áp dụng
một số loại hình ngân sách cạnh tranh, ngoài các trường đại học tự chủ. Các cơ
sở giáo dục đại học của Malaysia cũng nhận ngân sách nhà nước thông qua kinh
phí cấp trọn gói.
Ở Lào, nước có thu nhập thấp, trường Đại học Quốc gia Lào đã được trao
quyền tự chủ tài chính một phần. Cơ chế quản lý tài chính được thiết lập cho
phép trường tự quản lý nguồn thu dưới sự giám sát của Hội đồng trường.
1.3.2. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
Từ việc khảo sát, nghiên cứu kinh nghiệm của các nước về cơ chế quản
lý tài chính đối với các cơ sở giáo dục đại học công lập có thể rút ra các bài học
kinh nghiệm áp dụng cho Việt Nam.
Thứ nhất, các trường đại học công lập là hạt nhân cho mục tiêu nâng cao
chất lượng đào tạo.
- Các nước có nền kinh tế phát triển cao đều đã rất quan tâm phát triển
giáo dục, đào tạo và chiến lược con người, đặc biệt là chiến lược nhân tài.
- Các chương trình đào tạo tài năng, chất lượng cao thường được thực
hiện rộng rãi và có hiệu quả ở các trường đại học công lập, các trường có danh
tiếng và uy tín cao.
Thứ hai, Nhà nước sử dụng công cụ phân bổ, cấp phát ngân sách để ưu
tiên về cơ chế và đầu tư tài chính cho các cơ sở giáo dục đại học công lập.
32
- NSNN cấp cho chương trình đào tạo của các trường đại học đại học
công lập dựa trên các sản phẩm đầu ra của chương trình.
- Nhà nước tập trung ưu tiên đầu tư thích đáng cho các chương trình đào
tạo nguồn nhân lực cả về nguồn lực tài chính và các nguồn lực khác.
- Đối với các chương trình đào tạo chất lượng cao có thể xây dựng cơ chế
tài chính đặc thù nhằm phát huy các thế mạnh của cơ sở đào tạo.
Thứ ba, các cơ sở giáo dục đại học công lập được giao quyền tự chủ tài
chính phù hợp với năng lực thực hiện các chương trình đào tạo chất lượng
- Các nước có xu hướng ngày càng tăng quyền tự chủ tài chính, trao cơ
chế quản lý tài chính theo hướng tự chủ cho các cơ sở giáo dục đại học công
lập. Việc tăng quyền tự chủ tài chính phụ thuộc vào năng lực của các cơ sở giáo
dục đại học. Trước hết tăng quyền tự chủ cho các trường đại học lớn, có uy tín,
có năng lực cạnh tranh.
- Tạo cơ chế quản lý tài chính thuận lợi, trao quyền tự chủ tài chính cho
các trường đồng thời nhà nước vẫn đảm nhiệm vai trò đầu tư, đặc biệt là đầu tư
có trọng điểm cho các chương trình đào tạo.
- Khi trao quyền tự chủ tài chính, các trường có xu hướng được tự xác
định mức học phí, đối với các chương trình đào tạo chất lượng cao được phép
định mức học phí cao hơn. Đi kèm với tự chủ tài chính, một số nước cho phép
các trường tự chủ về chỉ tiêu cán bộ và mức lương.
- Không có nước nào, cho phép tự chủ hoàn toàn tất cả các mặt. Đi kèm
với việc giao quyền tự chủ là việc tăng cường trách nhiệm giải trình của các
trường, tăng cường giám sát của nhà nước và cộng đồng với các trường qua các
tiêu chí cụ thể và minh bạch thông qua cơ chế quản lý tài chính.
Việc phân tích làm rõ các khái niệm về quản lý tài chính, cơ chế quản lý
tài chính, cơ chế tự chủ tài chính cũng như việc nghiên cứu kinh nghiệm của
một số nước trên thế giới có thể khẳng định rằng việc giao nhiều quyền tự chủ
33
tài chính, đổi mới cơ chế quản lý tài chính hiện nay đang đi đúng hướng, hợp
quy luật, hỗ trợ các trường phát triển. Tuy nhiên, Nhà nước và mỗi cơ sở giáo
dục đại học công lập cần thường xuyên phân tích đánh giá cơ chế quản lý tài
chính để phát huy những mặt tích cực và hạn chế những mặt tiêu cực.
34
CHƢƠNG 2. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Phƣơng pháp thu thập tài liệu, số liệu
Nghiên cứu sử dụng nguồn số liệu thứ cấp từ các tài liệu có sẵn như: số
liệu từ Báo cáo tài chính năm hàng năm, cơ chế quản lý tài chính, quy chế chi
tiêu nội bộ của các trường đại học công lập, cũng như các báo cáo tổng kết của
cơ quan chuyên ngành công bố trên trang thông tin, các nghiên cứu cũng được
thu thập, sử dụng để tìm hiểu thực trạng đầu tư tài chính, cơ chế quản lý tài
chính của trường.
2.2. Phƣơng pháp xử lý tài liệu, số liệu
Phương pháp nghiên cứu phân tích tài liệu được sử dụng trong toàn bộ
các chương của luận văn, được dùng nhiều nhất và tập trung ở chương tổng
quan tài liệu. Phương pháp này sử dụng trong công việc khảo cứu các công trình
nghiên cứu liên quan đến đề tài, phân tích những nội dung chính, phương pháp
được sử dụng và các kết luận đã đạt được cũng như những điểm cần tiếp tục
nghiên cứu trong các nghiên cứu trước đó. Qua việc sử dụng phương pháp này,
tác giả đã chứng minh được khoảng trống cần nghiên cứu chính là đề tài luận
văn thạc sĩ này. Hơn nữa, tác giả cũng kế thừa được một số nội dung cơ bản về
mặt lý luận và thực tiễn để sử dụng cho việc phân tích nội dung tại các chương
khác của luận văn. Phương pháp cụ thể:
* Phương pháp thống kê so sánh
- Thống kê, đối chiếu, tìm hiểu sự tương đồng và khác biệt trong các
nghiên cứu về cơ chế quản lý tài chính tại các cơ sở giáo dục đại học thực hiện
tự chủ để thấy được tổng quan và sự đa dạng của vấn đề nghiên cứu.
- Thông qua việc so sánh các ưu nhược điểm của cơ chế quản lý tài chính
sẽ làm sâu sắc hơn quá trình đánh giá, nhìn nhận về tình hình quản lý tài chính
tại các cơ sở giáo dục đại học thực hiện tự chủ. Trên cơ sở đó rút ra bài học kinh
35
nghiệm và có những khuyến nghị sát thực, hiệu quả cho cơ chế quản lý tài chính
tại các cơ sở giáo dục đại học thực hiện tự chủ một cách hiệu quả.
* Phương pháp phân tích và tổng hợp
Đọc, phân tích, tổng hợp, phân loại, hệ thống hoá tài liệu để xây dựng cơ
sở lý luận cho đề tài.
Nghiên cứu các lý thuyết về cơ chế quản lý tài chính tại các cơ sở giáo
dục đại học tự chủ, mối quan hệ tương quan giữa cơ chế quản lý tài chính với
chất lượng đào tạo giáo dục đại học.
Kinh nghiệm về cơ chế quản lý tài chính của các trường đại học công lập
thực hiện tự chủ ở một số quốc gia.
Sau khi phân tích các thông tin đã thu thập được, luận văn tổng hợp các
kết quả phân tích để đưa ra bức tranh chung về cơ chế quản lý tài chính tại các
cơ sở giáo dục đại học thực hiện tự chủ. Đây là cơ sở quan trọng cho kết luận và
các kiến nghị của tác giả đối với cơ chế quản lý tài chính tại các cơ sở giáo dục
đại học thực hiện tự chủ theo Đề án thí điểm đổi mới cơ chế hoạt động theo
Nghị quyết số 77/NQ-CP ngày 24/10/2014 của Chính phủ.
36
CHƢƠNG 3. THỰC TRẠNG CƠ CHẾ QUẢN LÝ TÀI CHÍNH CƠ SỞ GIÁO DỤC ĐẠI HỌC CÔNG LẬP THỰC HIỆN TỰ CHỦ Ở VIỆT NAM
3.1. Khái quát về đề án tự chủ của các trƣờng đại học công lập và
về một số trƣờng đại học công lập thực hiện tự chủ theo Nghị quyết số
77/2014/NQ-CP của Chính phủ
3.1.1. Khái quát về đề án tự chủ của các trƣờng đại học công lập
theo Nghị quyết số 77/2014/NQ-CP của Chính phủ
Luật Giáo dục đại học ban hành ngày 18 tháng 6 năm 2012 đã quy định
"Quyền tự chủ của trường đại học". Tiếp theo Luật giáo dục đại học, Điều lệ
trường đại học ban hành ngày 10 tháng 12 năm 2014 đã quy định cụ thể tại
Điều 5 quyền tự chủ trong các lĩnh vực cho các trường đại học công lập và
ngoài công lập. Đến nay, tự chủ đại học đã được cụ thể hóa hơn nữa tại một
số văn bản như: Nghị quyết số 77/2014/NQ-CP ngày 24 tháng 12 năm 2014
của Chính phủ về thí điểm đổi mới cơ chế hoạt động đối với các cơ sở giáo
dục đại học công lập giai đoạn 2014 - 2017 (sau đây gọi tắt là Nghị quyết 77)
và Nghị định số 16/2015/NĐ-CP ngày 14 tháng 2 năm 2015 của Chính phủ
quy định cơ chế tự chủ các đơn vị sự nghiệp công lập. Đối với các cơ sở giáo
dục đại học công lập, Nghị quyết 77 là chìa khóa mở ra cánh cửa tự chủ tương
đối rộng trong các mặt: đào tạo và nghiên cứu khoa học, tổ chức bộ máy,
nhân sự, tài chính, đầu tư.
Ngay sau khi Nghị quyết 77 được ban hành, một số trường đã xây dựng
Đề án Thí điểm đổi mới cơ chế hoạt động và đã được Chính phủ ra Quyết
định phê duyệt Đề án tự chủ.
Đề án thí điểm đổi mới cơ chế hoạt động của của các trường với những
nội dung chủ yếu sau đây:
Mục tiêu chung:
37
Phát triển các trường thành trường đại học chất lượng cao, đa ngành, đa
lĩnh vực theo các chuẩn mực khu vực và quốc tế; hoạt động tự chủ gắn với
trách nhiệm giải trình, trách nhiệm bảo đảm các đối tượng chính sách, đối
tượng thuộc hộ nghèo có cơ hội học tập, nghiên cứu tại Trường.
Về tài chính:
- Nguồn thu từ thu học phí: (1) Trường thực hiện cơ chế thu, quản lý
học phí theo quy định của Nghị định số 86/2015/NĐ-CP ngày 02 tháng 10
năm 2015 của Chính phủ về cơ chế thu, quản lý học phí đối với cơ sở giáo
dục thuộc hệ thống giáo dục quốc dân và chính sách miễn, giảm học phí, hỗ
trợ chi phí học tập từ năm học 2015 - 2016 đến năm học 2020 - 2021; (2)
Trường thực hiện tính toán và công khai mức thu học phí cho từng nhóm
ngành, chuyên ngành, chương trình đào tạo căn cứ vào nhu cầu của xã hội
trước khi tuyển sinh, bảo đảm mức thu học phí bình quân của các nhóm ngành
(của các chương trình đại trà) không vượt quá mức thu học phí bình quân tối
đa của Trường theo quy định; (3) Trường quyết định mức thu học phí đối với
các chương trình đặc thù theo đề án mở chương trình được cơ quan nhà nước
có thẩm quyền phê duyệt;
- Nguồn thu sự nghiệp: Trường thực hiện các hoạt động dịch vụ hỗ trợ
đào tạo, chuyển giao công nghệ, các nhiệm vụ do Nhà nước đặt hàng và cấp
kinh phí thực hiện trên nguyên tắc cạnh tranh trong đấu thầu, kinh phí tiết
kiệm được bổ sung vào kinh phí hoạt động của Trường. Khoản thu từ các hoạt
động này được công khai theo nguyên tắc bảo đảm bù đắp chi phí và có tích
lũy hợp lý.
- Tiền lương và thu nhập: Ngoài tiền lương ngạch, bậc theo quy định
của nhà nước, Trường quyết định mức thu nhập tăng thêm của người lao động
từ nguồn chênh lệch thu lớn hơn chi sau khi đã trích lập các quỹ theo quy
38
định; theo Quy chế chi tiêu nội bộ, bảo đảm công bằng trên cơ sở chất lượng
và hiệu quả công việc thực hiện.
- Sử dụng nguồn thu: (1) Thực hiện tự chủ và chịu trách nhiệm trong
việc lập kế hoạch và quyết định sử dụng kinh phí từ các nguồn thu hợp pháp
của Trường để tiếp tục đầu tư mở rộng cơ sở vật chất, đào tạo nhân lực và bảo
đảm chất lượng đào tạo, nghiên cứu khoa học và hợp tác quốc tế; (2) Sau khi
thực hiện bù đắp các chi phí thường xuyên, phần chênh lệch thu lớn hơn chi
còn lại của Trường được trích lập các quỹ sau: Quỹ phát triển hoạt động sự
nghiệp tối thiểu bằng 25% chênh lệch thu chi, Quỹ khen thưởng, Quỹ phúc
lợi, Quỹ dự phòng ổn định thu nhập và các quỹ hỗ trợ sinh viên theo quy định
hiện hành; (3) Khoản thu học phí và các khoản thu sự nghiệp được gửi tại
ngân hàng thương mại; tiền lãi của các khoản tiền gửi này được sử dụng để
lập quỹ học bổng và hỗ trợ sinh viên của nhà trường.
- Về cơ chế giám sát: (1) Trường có trách nhiệm xây dựng và công khai
phương án tổ chức thực hiện Đề án thí điểm đổi mới cơ chế hoạt động trong
toàn Trường; (2) Trường sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các quy chế bảo đảm
công khai minh bạch; kiện toàn Hội đồng trường là cấp có thực quyền trong
hoạt động quản trị Trường, bảo đảm hoạt động hiệu lực, hiệu quả, phát huy
dân chủ, theo đúng quy định; (3) Xây dựng Quy chế chi tiêu nội bộ phù hợp
với Điều kiện của đơn vị tự chủ, bảo đảm tính công khai, minh bạch.
Sau ba năm triển khai, đến nay có 23 trường đại học công lập được thí
điểm đổi mới cơ chế hoạt động theo Nghị quyết 77 với kết quả đạt được theo
báo cáo tổng kết của Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức hội nghị tổng kết thực
hiện Nghị quyết số 77/NQ-CP của Chính phủ như sau: Các trường thí điểm tự
chủ đã có cơ cấu nguồn nhân lực hợp lý hơn, tỷ lệ giảng viên có chức danh
giáo sư, phó giáo sư tăng. Về tài chính, tổng thu giai đoạn tự chủ của các
trường so với giai đoạn trước tự chủ tăng 16,6%; nguồn ngân sách nhà nước
39
cấp cho hoạt động thường xuyên và không thường xuyên giảm 16,51%,
nhưng nguồn cho xây dựng cơ bản tăng 85,1%. Cơ cấu chi của các trường thí
điểm tự chủ có thay đổi, trong đó tăng khoảng 40% chi học bổng cho sinh
viên... Tuy nhiên, việc thí điểm tự chủ cũng còn những vướng mắc như thiếu
các quy định cụ thể, chưa xác định tự chủ gắn liền với tự chịu trách nhiệm;
các trường đại học không nhận được sự hướng dẫn cụ thể từ cơ quan quản lý
nhà nước; nhiều trường chưa thành lập được hội đồng trường theo quy định…
3.1.2. Khái quát về một số trƣờng đại học công lập thực hiện tự chủ
theo Nghị quyết số 77/2014/NQ-CP của Chính phủ
Ngay sau khi Nghị quyết số 77 của Chính phủ được ban hành, một số
trường đại học công lập đã có nguyện vọng tự chủ xây dựng Đề án Thí điểm
đổi mới cơ chế hoạt động. Năm 2015, có 3 trường trực thuộc và 1 trường
thuộc Bộ Công Thương được Chính phủ ra Quyết định phê duyệt Đề án tự
chủ. Đó là các trường: Đại học Công nghiệp thành phố Hồ Chí Minh, Đại học
Công nghiệp Thực phẩm thành phố Hồ Chí Minh, Đại học Điện lực và Đại
học Công nghiệp Dệt may Hà Nội. Riêng với Đại học Công nghiệp Dệt may
Hà Nội được Chính phủ phê duyệt mô hình tự chủ đặc biệt, theo đó Trường
hoàn toàn độc lập, tự chủ trong quản lý, không trực thuộc một Bộ chủ quản
nào (Trường chịu sự quản lý nhà nước về giáo dục đại học của Bộ Giáo dục
và Đào tạo, quản lý hành chính theo lãnh thổ của Ủy ban Nhân dân thành phố
Hà Nội, Bộ Công Thương chỉ có trách nhiệm chỉ định Chủ tịch Hội đồng
trường nhiệm kỳ đầu tiên và quyết định công nhận Hiệu trưởng nhà trường).
Các trường tự xác định chỉ tiêu tuyển sinh trên cơ sở các tiêu chí, quy
định hiện hành của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Phương án tuyển sinh dựa trên
nguyên tắc chất lượng đầu vào đảm bảo yêu cầu và phù hợp từng hệ, ngành
đào tạo, được công bố công khai trên các phương tiên thông tin đại chúng.
Kết quả tuyển sinh hàng năm cho thấy mặc dù các trường đều có mức thu học
40
phí cao hơn các trường công lập khác (mức thu học phí riêng theo Đề án tự
chủ được phê duyệt), nhưng vẫn đạt kết quả tuyển sinh tốt. Điều đó thể hiện
uy tín, chất lượng đào tạo và thương hiệu của các trường trong hệ thống giáo
dục hiện nay. Đây là một trong những điều kiện quan trọng để có thể thực
hiện tự chủ thành công.
3.2. Thực trạng thực hiện cơ chế quản lý tài chính trƣớc và sau khi
đƣợc phê duyệt Đề án tự chủ theo Nghị quyết số 77/2014/NQ-CP của
Chính phủ
Trong số các nội dung của cơ chế quản lý tài chính trong các trường đại
học, cơ chế quản lý thu nhập và chi tiêu tài chính là những vấn đề quan trọng
nhất. Thu nhập của trường đại học bao gồm: nguồn thu do Ngân sách nhà
nước cấp; nguồn thu sự nghiệp; nguồn thu từ hoạt động kinh doanh và thu
nhập khác. Các khoản chi của trường đại học bao gồm: chi sự nghiệp; chi hoạt
động kinh doanh; chi cho xây dựng cơ bản và chi bổ trợ cho các đơn vị trực
thuộc.
3.2.1. Về cơ chế thu và quản lý các nguồn thu tài chính
Trước đây, cơ chế quản lý tài chính đối với cơ sở giáo dục đào tạo công
lập được xây dựng theo Nghị định số 43/2006/NĐ-CP và Nghị định
49/2010/NĐ-CP ngày 10 tháng 5 năm 2010 của Thủ tướng Chính phủ quy
định về cơ chế thu, sử dụng học phí đối với cơ sở giáo dục thuộc hệ thống
giáo dục quốc dân từ năm học 2010 - 2011 đến 2014 - 2015 ngày càng bộc lộ
nhiều nội dung không còn phù hợp với yêu cầu thực tiễn, xuất hiện một số nội
dung bất cập.
Trong suốt một thời gian dài, các trường đại học công lập không được
tự chủ quản lý các nguồn thu một cách tương xứng, phải gửi toàn bộ số học
phí thu được vào Kho bạc nhà nước theo quy định của Nghị định số
49/2010/NĐ-CP ngày 14/5/2010 của Chính phủ. Cơ chế quản lý tài chính này
41
đã tạo rào cản đối với các trường đại học công lập trong công tác chi tiêu, sử
dụng kinh phí duy trì hoạt động hàng năm của đơn vị, do thiếu sự linh hoạt,
thiếu tính kịp thời, không có đầy đủ quyền chủ động trong việc sử dụng kinh
phí do phải hoàn thiện các thủ tục hành chính mất nhiều thời gian. Dẫn đến,
các trường thường xuyên để lại một phần các khoản thu học phí thu được tọa
chi tại đơn vị vi phạm quy định.
Bên cạnh đó, việc quy định khung học phí của Nhà nước đối với các
trường công lập hiện nay vẫn mang tính là ngân sách Nhà nước hỗ trợ cho các
cơ sở giáo dục công lập, hỗ trợ cho người học mà chưa xác định là giá dịch vụ
đào tạo (chưa được xác định dựa trên chi phí đào tạo). Nguồn thu từ học phí
mới đáp ứng một phần chi phí cần thiết để cung cấp dịch vụ đào tạo nên chưa
tạo điều kiện cho phát triển đào tạo và nâng cao chất lượng của cơ sở giáo dục
đại học. Mức học phí hiện nay đang áp dụng chỉ là quy định mức đóng góp
của người học, vì vậy thấp hơn nhiều so với chi phí tối thiểu bình quân để đào
Bảng 3.1. So sánh khung học phí theo Nghị định số 49/2010/NĐ-CP với chi phí bình quân tối thiểu để đào tạo một sinh viên của Đề án “Đổi mới cơ chế tài chính của giáo dục và đào tạo Việt Nam giai đoạn 2008 - 2012” của Bộ Giáo dục và Đào tạo
Đơn vị tính: nghìn đồng/tháng/1 sinh viên
tạo một sinh viên, cụ thể được so sánh trong bảng dưới đây:
STT
Nội dung
Năm 2010
Năm 2011
Năm 2012
Năm 2013
Năm 2014
I. Khung học phí theo Nghị định 49/NĐ-CP Hệ đại học chính quy
1
Thạc sĩ
2
Nghiên cứu sinh
3
290 435 725
355 532,5 887,5
420 630 1.050
485 727,5 1.212,5
550 825 1.375
II
Chi phí thƣờng xuyên tối thiểu bình quân 1 sinh viên của Đề án của Bộ GD&ĐT Hệ đại học chính quy
1
Thạc sĩ
2
Nghiên cứu sinh
3
900 1.300 2.200
1.000 1.530 2.500
1.200 1.800 3.000
1.300 1.950 3.250
1.570 2.350 3.930
III
So sánh tỷ lệ % khung học phí theo NĐ 49 với chi phí của Đề án của Bộ GD&ĐT Hệ đại học chính quy
1
Thạc sĩ
2
3
32,2 33,5 32,9
33,5 34,8 35,5
37.3 37,3 37,3
35 35 35
35 35,1 Nghiên cứu sinh 34,9 Như vậy, ngay cả mức thu học phí đang áp dụng hiện nay theo Nghị
định 49 của Chính phủ đối với các hệ đào tạo chính quy tại các trường cũng
mới chỉ bằng khoảng 35% chi phí tối thiểu bình quân để đào tạo một sinh viên
42
hệ đại học đại trà theo Đề án của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Cụ thể, mức học
phí đang áp dụng so với chi phí tối thiểu bình quân để đào tạo một sinh viên
đại học năm 2010 đạt được 32,2%, đến năm 2014 mới đạt được 35%, hệ đào
tạo thạc sĩ năm 2010 là 33,5% đến năm 2014 đạt được khoảng 35,1% hệ đào
tạo nghiên cứu sinh năm 2010 là 32,9% đến năm 2014 mới đạt được 34%.
Hiện nay, sau khi được phê duyệt Đề án thí điểm theo Nghị quyết 77,
qua tổng hợp tình hình quản lý nguồn thu của 04 trường gồm: Đại học Công
nghiệp thành phố Hồ Chí Minh (viết tắt là IUH), Đại học Công nghiệp Thực
phẩm thành phố Hồ Chí Minh (viết tắt là HUFI), Đại học Điện lực (viết tắt là
EPU) và Đại học Công nghiệp Dệt may Hà Nội (viết tắt là HICT), hiệu quả
của cơ chế quản lý tài chính được thể hiện qua các chỉ tiêu như sau:
- Tăng quy mô nguồn thu học phí
Với mức thu học phí tăng, số thu học phí năm học 2015 - 2016 ở hầu
hết các trường đều tăng nên tổng thu học phí, lệ phí của 4 trường đã tăng lên
khoảng 9% so với năm học 2014 - 2015.
Hình 3.1. So sánh số thu học phí, lệ phí trước và sau khi thực hiện tự chủ (Nguồn: Báo cáo tài chính của các trường năm 2015, năm 2016)
43
Do chi phí đào tạo đã được tính tương đối đủ vào học phí hơn so với
các năm trước nên trường không phải thu thêm nhiều khoản thu khác. Mức
thu của các khoản thu sự nghiệp khác ngoài học phí này cũng được các trường
xây dựng theo tiêu chí: bù đắp chi phí, tích lũy hợp lý. Vì vậy tổng số thu sự
nghiệp khác của cả 4 trường không tăng mà giảm 3%. Do tập trung vào nhiệm
vụ đào tạo, tổng thu từ sản xuất kinh doanh dịch vụ của các trường cũng giảm
12%. Từ trước khi thực hiện tự chủ, ngân sách nhà nước cấp cho chi thường
xuyên cũng gần như không bố trí ở các trường này. Xét về tổng thể, số thu từ
tất cả các nguồn của cả 4 trường đều tăng, cơ cấu nguồn thu có sự dịch
chuyển theo đúng hướng là phát huy vai trò s ứ mệnh đào tạo nguồn nhân lực của các trường trong điều kiện tự chủ tài chính.
- Thay đổi cơ cấu nguồn thu:
Sau khi Nghị quyết số 77/NQ-CP ra đời, đã phần nào giải quyết được
tồn tại khi cho phép khoản thu học phí và các khoản thu sự nghiệp khác của
trường đại học công lập tự chủ được gửi ngân hàng thương mại, để các trường
có thêm nguồn thu từ lãi tiền gửi ngân hàng, đây cũng là điểm khác biệt giữa
các trường đại học cam kết tự bảo đảm toàn bộ kinh phí hoạt động chi thường
xuyên và chi đầu tư so với các trường thực hiện theo quy định của Nghị định
số 43/2006/NĐ-CP ngày 25 tháng 4 năm 2006 của Chính phủ quy định quyền
tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế
và tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập.
- Suất đầu tư của sinh viên được cải thiện
Việc thực hiện theo Đề án tự chủ được Chính phủ phê duyệt theo Nghị
quyết 77 đã tạo điều kiện cho các trường có cơ hội tăng thêm nguồn thu, mức
thu học phí sẽ đảm bảo cân đối thu - chi, có tích lũy nhằm thực hiện chiến
lược phát triển nhà trường, ngoài ra các trường còn được sử dụng tiền lãi ngân
44
hàng để lập quỹ học bổng cho sinh viên. Do vậy, chi phí đầu tư tối thiểu cho
01 sinh viên hàng năm sẽ tăng, cụ thể:
Đvt: triệu đồng
Bảng 3.2. Dự kiến chi phí đầu tư cho 01 sinh viên/năm
STT
Nội dung chi
Năm học 2015-2016
Năm học 2016-2017
Năm học 2017-2018
6,1 3,8 0,6 0,4 0,4 0,8 3,8 0,4 0,4 0,3 0,2 0,4 1,3 0,9 7,5
I 1 2 3 4 5 II 1 2 3 4 5 6 7 III
4,6 3,0 0,4 0,3 0,3 0,6 3,0 0,3 0,2 0,2 0,1 0,3 1,0 0,7 6,7
5,46 3,58 0,55 0,39 0,33 0,62 3,38 0,39 0,32 0,21 0,19 0,35 1,12 0,80 7,07
1
0,4
0,45
0,6
2 3
Chi thanh toán cá nhân Tiền lương, tiền công Phụ cấp lương Các khoản đóng góp Học bổng sinh viên Phúc lợi, khen thưởng Chi cho nghiệp vụ chuyên môn Chi thanh toán dịch vụ công cộng Vật tư văn phòng Thông tin, tuyên truyền liên lạc Công tác phí Chi phí thuê mướn Chi phí nghiệp vụ chuyên môn Chi khác Chi mua sắm, sửa chữa TSCĐ Sửa chữa tài sản phục vụ công tác chuyên môn, bảo dưỡng cơ sở hạ tầng Mua sắm tài sản dùng cho công tác chuyên môn Đầu tư phát triển
1,7 3,1
1,9 3,13
2,1 3,2
4
Chi phí khấu hao tài sản cố định
1,5
1,55
1,6
IV V VI
TỔNG CHI ĐÀO TẠO Đề xuất mức học phí : Bình quân mức thu học phí/tháng
14,2 14 1,4
15,91 16 1,6
17,44 17,5 1,75
(Nguồn: Báo cáo tình hình thực hiện thí điểm đổi mới cơ chế hoạt động
theo Nghị quyết 77/NQ-CP của các trường)
Theo ước tính của Bộ Tài chính, trong những năm gần đây, chi phí bình
quân trên mỗi sinh viên đại học công lập khoảng 13 triệu đồng/năm (nguồn:
Tờ trình 742/TTr-BGDĐT ngày 29/8/2014 của Bộ Giáo dục và Đào tạo trình
Chính phủ về Nghị quyết thí điểm đổi mới cơ chế hoạt động đối với các cơ sở
giáo dục đại học công lập giai đoạn 2014 - 2017). Như vậy, có thể thấy suất
đầu tư cho 1 sinh viên/năm học khi thực hiện theo Đề án tự chủ sẽ đạt mức
chi phí bình quân trên mỗi sinh viên đại học công lập.
45
3.2.2. Về cơ chế sử dụng các nguồn thu tài chính
Việc chuyển dịch cơ cấu thu, chi của các trường năm qua thể hiện
hướng đi tích cực của cơ chế quản lý tài chính tự chủ theo đúng mục tiêu nâng
cao hiệu quả sử dụng nguồn lực đảm bảo chất lượng đào tạo. Nếu trong năm
học 2014 - 2015, chi thường xuyên hoạt động bộ máy của 4 trường chiếm
khoảng 67% thì sau khi được tự chủ về tài chính, tỷ lệ chi thường xuyên cho
hoạt động bộ máy của các trường giảm 7,7%, do đó các trường có thể tăng
Bảng 3.3. So sánh cơ cấu chi của 4 trường năm học 2014 - 2015 so với năm học 2015 - 2016
Đơn vị tính: đồng
thêm khả năng tích lũy, tái đấu tư cho cơ sở vật chất phục vụ đào tạo.
STT I 1
NỘI DUNG CHI Chi thanh toán cá nhân Tiền lương
Năm học 2014 - 2015 Năm học 2015 - 2016 627.880.000 269.325.833
478.131.500 153.378.500
2
Phụ cấp lương
80.219.333
140.864.167
3
Các khoản đóng góp
33.850.667
31.890.833
4
4.662.167
7.865.000
5
206.020.833
177.934.167
II
91.080.000
124.895.833
1
23.074.333
47.886.667
2
Học bổng sinh viên Các khoản thanh toán khác cho cá nhân Chi cho nghiệp vụ chuyên môn Chi thanh toán dịch vụ công cộng Vật tư văn phòng
5.008.667
17.994.167
3
Thông tin, tuyên truyền liên lạc
3.866.500
13.786.667
4
Công tác phí
5.512.833
11.064.167
5
Chi khác
53.617.667
34.164.167
III Chi mua sắm, sửa chữa TSCĐ 1
274.136.500 113.655.667
506.550.000 56.384.167
2
51.144.500
144.164.167
Sửa chữa tài sản Mua sắm tài sản dùng cho công tác chuyên môn Đầu tư phát triển
3
0
210.833.333
4
Chi phí khấu hao TSCĐ
109.336.333
95.168.333
TỔNG CHI ĐÀO TẠO
843.348.000
1.259.325.833
(Nguồn: Báo cáo tình hình thực hiện thí điểm đổi mới cơ chế hoạt động theo Nghị quyết 77/NQ-CP của các trường)
Về việc sử dụng các quỹ, năm học 2015 - 2016, có sự thay đổi rõ rệt về
chi hỗ trợ sinh viên, tăng từ hơn 1% lên gần 7% với việc hỗ trợ các sinh viên
nghèo vượt khó, học bổng cho sinh viên học giỏi, sinh viên có hoàn cảnh đặc
46
biệt và chi bù đắp chênh lệch giữa số miễn giảm học phí ngân sách cấp bù và
học phí của trường. Thu nhập tăng thêm đã được điều chỉnh tăng theo Quy
chế chi tiêu nội bộ, tỷ lệ chi thu nhập tăng thêm trong cơ cấu chi từ các quỹ
tăng khoảng 12% so với năm trước, tính trên tổng quỹ của tất cả các trường.
H
ình 3.2. Cơ cấu sử dụng các quỹ của 4 trường tự chủ năm học 2015 - 2016
(Nguồn: Báo cáo tài chính của các trường năm 2015, năm 2016)
- Số lượng, chất lượng bài báo, công trình nghiên cứu khoa học
Ngoài ra, một dấu hiệu nữa, tuy nhỏ nhưng đã thể hiện sự chuyển biến
tích cực trong cơ cấu chi là tỷ lệ chi cho nghiên cứu khoa học đã tăng từ 0,2%
lên gần 1% trong năm qua. Trong số 4 trường, HICT là trường có sự gia tăng
đột biến về chi cho nghiên cứu khoa học với tỷ lệ 2%. Ở Nhật, tỷ lệ này được
chia theo các loại hình nghiên cứu, theo đó, tỷ lệ % kinh phí năm 2005 cho
nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu ứng dụng và nghiên cứu phát triển của các
trường đào tạo đại học và cao học trên tổng chi tương ứng là: 55,1%; 35,8%;
9,1%. Ví dụ trên cho thấy tỷ lệ chi này của các trường cần được tiếp tục cải
thiện trong các năm tới.
Để tập trung đầu tư hơn cho nghiên cứu khoa học và nâng cao chất
lượng giảng viên, các trường đã thể chế hóa quyền tự chủ trong nghiên cứu
47
khoa học ở Quy chế chi tiêu nội bộ (xây dựng định mức cho công tác nghiên
cứu khoa học, biên soạn giáo trình, mức thưởng các bài báo khoa học...), quy
định thời gian dành cho nghiên cứu khoa học của mỗi giảng viên; xây dựng
quy trình xét duyệt đề tài nghiên cứu khoa học cấp Trường; ban hành Quy
định về biên soạn, thẩm định và xuất bản giáo trình phục vụ công tác giảng
Bảng 3.4. Kết quả nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ (CGCN)
của các trường trước và sau khi thực hiện tự chủ
Năm học 2014 - 2015
Số công trình khoa học công bố từ kết quả đề tài nghiên cứu
Tỷ lệ chi NCKH so với tổng chi (%)
Trường
Số hợp đồng CGCN
Bài đăng trong nước
Phát minh sáng chế
Số hợp đồng CGCN từ kết quả nghiên cứu
Tỷ lệ thu từ NCKH & CGCN trên tổng thu (%)
Bài đăng quốc tế thuộc hệ thống ISI & scopus
Bài đăng Hội thảo quốc tế
IUH
1
57
115
68
75
2
2
1,34
HUFI
0
0
4
1
0,59
0.74
EPU
33
0.38
1,64
HICT
Năm học 2015 - 2016
Số công trình khoa học công bố từ kết quả đề tài nghiên cứu
Tỷ lệ chi NCKH so với tổng chi (%)
Trường
Số hợp đồng CGCN
Bài đăng trong nước
Phát minh sáng chế
Số hợp đồng CGCN từ kết quả nghiên cứu
Tỷ lệ thu từ NCKH & CGCN trên tổng thu (%)
Bài đăng quốc tế thuộc hệ thống ISI & scopus
Bài đăng Hội thảo quốc tế
IUH
0
61
188
40
111
11
5,1
2,1
HUFI
0
0
100
10
4
0,61
2,11
EPU
1
16
0.24
1,57
HICT
1
9
1
2
3 (Nguồn: Báo cáo tình hình thực hiện thí điểm đổi mới cơ chế hoạt động theo Nghị quyết 77/NQ-CP của các trường)
dạy và nghiên cứu khoa học.
48
Theo báo cáo, trường có bước tiến rõ rệt về nghiên cứu khoa học so với
trước khi thực hiện tự chủ là IUH: công bố khoa học năm học 2015-2016 tăng
23,6% so với năm học 2014 - 2015; lực lượng giảng viên tham gia nghiên cứu
khoa học tăng 7,4%; doanh thu nghiên cứu khoa học tăng 25,8% (năm 2014
đạt 4,75 tỷ đồng, năm 2015 đạt 6,41 tỷ đồng).
3.2.3. Về cơ chế giám sát
Cơ chế kiểm tra, giám sát đối với cơ chế quản lý nguồn tài chính từ
ngân sách nhà nước dành cho các các cơ sở giáo dục đại học công lập về cơ
bản thực hiện theo các quy định hiện hành của Nhà nước đối với lĩnh vực tài
chính và quản lý ngân sách. Ngoài ra, có thể thực hiện thêm các chế độ kiểm
tra, báo cáo theo yêu cầu của từng cấp quản lý.
Hệ thống kiểm tra, giám sát được tổ chức ở các cấp sau:
Nhà nước, đại diện là các cơ quan kiểm tra giám sát có thẩm quyền như
Kiểm toán Nhà nước, Thanh tra Chính phủ và các cơ quan kiểm tra chuyên
ngành của các Bộ, cơ quan quản lý ngành, lĩnh vực.
Các trường đại học công lập thực hiện kiểm tra giám sát nội bộ và kiểm
tra giám sát đối với cấp dưới, giảng viên và người học.
Các đối tượng có liên quan kiểm tra giám sát hiệu quả sử dụng tài chính
của các trường đại học.
Đối với việc quản lý nguồn tài chính từ ngân sách nhà nước thì vai trò
kiểm tra, giám sát của Nhà nước là quan trọng nhất. Nhà nước thông qua các
cơ quan chức năng của mình thực hiện kiểm tra, giám sát việc tuân thủ các
quy định của pháp luật, đánh giá kết quả sử dụng, hiệu quả quản lý nguồn tài
chính ngân sách cấp. Việc kiểm tra giám sát hiện nay khá thường xuyên,
mang tính chất định kỳ nhưng mới ở bước kiểm tra, giám sát việc tuân thủ.
Cơ chế kiểm tra giám sát hiện nay chưa yêu cầu gắn nguồn tài chính ngân
sách được giao với kết quả và đầu ra các hoạt động của chương trình đào tạo.
49
Ví dụ đơn cử đối với các chương trình đạo tạo công nghệ thông tin đang thực
hiện tại các trường đại học. Tính đến nay, ngân sách Nhà nước cấp cho các
chương trình đào tạo thuộc Đề án công nghệ thông tin đều đáp ứng mức được
phê duyệt, hàng năm Bộ Giáo dục và Đào tạo vẫn tổ chức đánh giá và có báo
cáo tổng kết về chương trình. Báo cáo hàng năm đã nêu tình hình kết quả đạt
được của các hoạt động. Tuy nhiên, báo cáo còn mang nặng tính hành chính,
không được đánh giá hiệu quả đầu tư cho từng chương trình cụ thể; mức độ
hoàn thành nhiệm vụ tương ứng với kinh phí được giao dựa trên các sản phẩm
đầu ra.
3.3. Đánh giá mức độ hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính cơ sở giáo
dục đại học công lập thực hiện tự chủ:
3.3.1. Tính hiệu lực của cơ chế quản lý tài chính
So với trước đây, chủ trương của Nghị quyết 77 tạo ra một hành lang
pháp lý để các trường tổ chức các hoạt động tài chính một cách hiệu quả hơn,
đáp ứng mục tiêu, sứ mạng tốt hơn. Nó có giá trị thi hành trong thực tế. Mục
tiêu, nội dung và những quy định về quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm khá rõ
ràng, phù hợp với điều kiện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của nước ta và
xu hướng hội nhập quốc tế. Ví dụ, mở rộng quyền thu học phí, huy động vốn,
quản lý nguồn thu, mở rộng quyền tổ chức các hoạt động dịch vụ, liên doanh
liên kết theo chức năng nhiệm vụ ...
Việc giao dự toán đã chú ý tới tính ổn định, tính bao quát, tính khoa
học, sự chi tiết hóa các nguồn thu, chi phát sinh của năm kế hoạch. Trong
thực hiện dự toán, các trường được tự điều chỉnh các mục chi phù hợp với
chức năng nhiệm vụ được giao (trừ nguồn chi không thường xuyên). Kinh phí
chi thường xuyên (kể cả phần ngân sách cấp) trong năm báo cáo chưa sử dụng
được chuyển sang năm sau thực hiện…
50
Như vậy, về mục tiêu cũng như quy trình, thủ tục liên quan tới quyền tự
chủ, tự chịu trách nhiệm trong Nghị quyết 77 phần nào đã đảm bảo sự công
khai, minh bạch, thừa nhận các trường là những chủ thể, có tư cách pháp nhân
chịu trách nhiệm đưa ra các quyết định để nâng cao hiệu quả khai thác, sử
dụng nguồn lực của mình.
Tuy nhiên, hiệu lực triển khai của Nghị quyết 77 trong thực tế cũng còn
có những bất cập nhất định, bao gồm:
Một là, tính đồng bộ với các cơ chế chính sách khác chưa cao, các quy
định hướng dẫn thực hiện còn chồng chéo. Nhiều khi chưa kịp thực hiện, vừa
mới thực hiện đã thay đổi hoặc chưa có hướng dẫn kịp thời. Ví dụ, các Bộ,
ngành, cơ quan chủ quản còn chậm, thậm chí chưa ban hành các văn bản
hướng dẫn mức thu học phí kịp thời (tháng 12/2015 mới ban hành Nghị định
86 về mức thu học phí, tháng 3/2016 mới ban hành hướng dẫn Nghị định 86,
thời điểm năm học đã gần kết thúc). Nhiều trường có chương trình đào tạo
chất lượng cao, hợp tác liên doanh liên kết với các cơ sở nước ngoài nhưng
Bộ, ngành chưa có văn bản hướng dẫn thống nhất về công tác quản lý; về thu,
chi của các loại hình này, làm cho các trường rất lúng túng trong việc tổ chức
thực hiện.
Nhà trường được quyết định các dự án đầu tư sử dụng nguồn thu hợp
pháp của nhà trường và các nguồn hợp pháp khác do nhà trường tự huy động;
thực hiện các thủ tục theo quy định của pháp luật về đầu tư. Tuy nhiên, cơ
quan chủ quản đã phân cấp đầu tư, mua sắm tài sản cho các trường tự thực
hiện nhưng quy mô, giá trị được phân cấp thấp và có sự khác nhau. Quy trình,
thủ tục, các bước thực hiện đầu tư xây dựng cơ bản, mua sắm tài sản còn phức
tạp, qua nhiều cấp kiểm soát là cơ quan chủ quản và kho bạc. Các trường e
ngại rằng việc họ tự ra quyết định vẫn là ngược với các quy định hiện hành và
sẽ gặp khó khăn khi giải trình với các cơ quan kiểm tra, kiểm toán.
51
Quy định về chi đầu tư xây dựng cơ bản, mua sắm tài sản cố định chưa
phù hợp với bản chất của công tác đào tạo. Ví dụ, theo quy định hiện nay, số
tiền chi xây dựng cơ bản, mua tài sản cố định phục vụ giảng dạy, học tập
trong năm không được tính là chi phí thường xuyên, không dùng nguồn học
phí để trang trải, điều này làm cho việc đầu tư, mua sắm trong năm báo cáo
gặp khó khăn như phải lập dự toán riêng trình cơ quan chủ quản phê duyệt và
phải được kho bạc chấp nhận thanh toán.
Các trường chưa được tự chủ trong sử dụng cơ sở vật chất được giao,
chưa được giao vốn và tài sản để chủ động trong liên doanh liên kết, hoặc thế
chấp vay vốn. Đặc biệt là sử dụng đất đai, tài sản để liên doanh liên kết và cho
thuê, phải trình cơ quan có thẩm quyền phê duyệt cả về chủ trương, kê hoạch
lựa chọn đơn vị liên kết.
Hai là, về bản chất, Nghị quyết mới chỉ giao một phần quyền tự chủ tài
chính cho các trường trong tổ chức chi, các trường chưa được tự do thiết lập
học phí tương xứng với nhu cầu nâng cao chất lượng đào tạo cũng như cải
thiện thu nhập cho cán bộ công nhân viên để thu hút giảng viên cũng như sinh
viên tham gia học tập, giảng dạy.
3.3.2. Tính hiệu quả của cơ chế quản lý tài chính
Như đã khẳng định, Nghị quyết 77 đã mang lại một số thay đổi rất tích
cực, đạt hiệu quả rất lớn, làm tăng quy mô nguồn thu, nâng cao hiệu quả sử
dụng các nguồn kinh phí, suất đầu tư/1 sinh viên, số lượng công trình nghiên
cứu khoa học hàng năm của các trường được cải thiện.
Việc ban hành mức thu theo lộ trình tăng từng năm, cũng như nâng cao
hiệu quả sử dụng các nguồn kinh phí như đã nêu còn giúp các trường tăng
thêm khả năng tích lũy của trường và trích quỹ khen thưởng, phúc lợi để nâng
cao đời sống cho tập thể giảng viên, cán bộ công nhân viên đồng thời có tích
lũy để đầu tư xây dựng cơ sở đào tạo, nghiên cứu khoa học, làm nền tảng cho
52
sự phát triển của các trường đại học công lập thực hiện tự chủ. Thể hiện qua
Bảng 3.5. Dự kiến thu - chi giai đoạn 2017 - 2020
bảng sau:
STT
NỘI DUNG CHI
Đơn vị tính: triệu đồng Năm học 2019 - 2020
Năm học 2018 - 2019
TỔNG THU
I Chi thanh toán cá nhân Tiền lương 1 Phụ cấp lương 2 3 Các khoản đóng góp 4 Học bổng sinh viên
Năm học 2017 - 2018 1.599.846 1.839.823 2.115.797 830.371 946.623 1.088.617 356.183 406.049 466.956 186.293 212.374 244.230 42.176 48.080 55.292 10.401 11.858 13.636
5
235.318 268.262 308.502
II
137.697 156.975 180.521
1
52.795 60.187 69.215
Các khoản thanh toán khác cho cá nhân Chi cho nghiệp vụ chuyên môn Chi thanh toán dịch vụ công cộng 2 Vật tư văn phòng
19.839 22.616 26.008
3
15.200 17.328 19.927
4 5
12.198 13.906 15.992 37.665 42.938 49.379
III
593.314 676.378 777.834
1
68.225 77.776 89.443
2
175.082 199.593 229.532
Thông tin, tuyên truyền liên lạc Công tác phí Chi khác Chi mua sắm, sửa chữa TSCĐ Sửa chữa tài sản Mua sắm tài sản dùng cho công tác chuyên môn
3 Đầu tư phát triển 4 Chi phí khấu hao TSCĐ IV TỔNG CHI ĐÀO TẠO V Chênh lệch thu - chi
250.822 285.937 328.828 99.185 113.071 130.032 1.561.382 1.779.976 2.046.972 38.464 59.847 68.824 (Nguồn: Báo cáo tình hình thực hiện thí điểm đổi mới cơ chế hoạt động theo Nghị quyết 77/NQ-CP của các trường)
Tuy nhiên, hiện nay hầu hết các trường chỉ thu học phí bằng khoảng
90% so với nhu cầu tối thiểu để duy trì hoạt động và bằng khoảng 70% so với
mức thu quy định cho phép (không tính chi phí khấu hao tài sản cố định, chi
phí mua sắm hiện đại thiết bị dạy học,…), chưa sử dụng hết quyền thu học phí
53
của mình, một phần do yếu tố đầu vào đang có sự cạnh tranh giữa các trường
cùng khối ngành và phản ứng tiêu cực của người học do đã quen với sự bao
cấp của Nhà nước. Vì vậy đòi hỏi các trường phải xây dựng cơ chế thu đối
với các nguồn thu khác một cách hợp lý để bù đắp các khoản chi hoạt động
trong năm. Đồng thời phải đa dạng các nguồn thu trên cơ sở liên doanh, liên
kết trong lĩnh vực đào tạo với các đối tác trong nước và ngoài nước; tăng
cường hợp tác quốc tế trên lĩnh vực đào tạo, học thuật, nghiên cứu khoa học
để trao đổi kinh nghiệm và tìm kiếm thêm những khoản viện trợ cho đào tạo.
3.3.3. Tính linh hoạt của cơ chế quản lý tài chính
Nghị quyết 77 đã tạo điều kiện cho các trường chủ động, linh hoạt hơn
trong tìm kiếm, khai thác, đa dạng hóa nguồn thu từ ngân sách và ngoài ngân
sách như đã chủ động tham gia đấu thầu các dự dán, đề tài nghiên cứu khoa
học cấp bộ, cấp nhà nước; đề xuất đổi mới, mở rộng các chương trình đào tạo
(như các lớp ngắn hạn; chất lượng cao… để đáp ứng nhu cầu người học, nhu
cầu xã hội), ứng dụng chuyển giao khoa học công nghệ tới các doanh nghiệp,
đơn vị, tổ chức sử dụng sản phẩm đào tạo của nhà trường.
Việc cho phép ban hành, sử dụng quy chế chi tiêu nội bộ trong chi tiêu
đã khuyến khích, thúc đẩy các trường tăng cường công tác quản lý nội bộ;
tích cực đổi mới phương thức hoạt động theo hướng tiết kiệm, sử dụng hiệu
quả các nguồn lực, các nguồn kinh phí. Giảm bớt tư tưởng trông chờ, phụ
thuộc vào nguồn ngân sách cấp.
Phần ngân sách cấp cho chi hoạt động thường xuyên được thực hiện
theo phương thức khoán, số dư chưa sử dụng hết trong năm không bị thu hồi
nộp trả ngân sách mà được kết chuyển sang năm sau thực hiện tiếp. Điều này
góp phần làm giảm hiện tượng lãng phí cố gắng chi hết tiền trong niên độ kế
toán. Tạo điều kiện để các trường tích tụ vốn phục vụ nhu cầu cải thiện, bổ
54
sung kinh phí đầu tư, nâng cấp cơ sở vật chất; ổn định thu nhập cho cán bộ
công nhân viên; khuyến khích mọi người hoàn thành tốt công việc được giao.
Cơ chế quản lý tài chính theo Nghị quyết 77 đã tạo điều kiện cho các
trường chủ động phân bổ, sử dụng nguồn lực tài chính cho các nhiệm vụ cấp
bách, thiết thực hơn như đầu tư đổi mới nội dung, chương trình, giáo trình
giảng dạy; mua vật tư hàng hóa phục vụ thí nghiệm, thực hành, thực tập nâng
cao kỹ năng nghề nghiệp cho người học…
Thời gian giao dự toán năm kế hoạch đã được thực hiện sớm hơn (hoàn
thành trước ngày 31/12 của năm báo cáo); các thủ tục hành chính liên quan
được giảm bớt (ví dụ, trước đây nếu nhà trường có nhu cầu điều chỉnh dự toán
chi giữa các mục với nhau thì phải lập lại dự toán chi và báo cáo cơ quan chủ
quản, cơ quan chủ quản báo cáo Bộ Tài chính, Bộ Tài chính đồng ý thì các
trường mới được điều chỉnh mục chi. Nhưng hiện nay, việc điều chỉnh dự
toán chi đã đơn giản hóa hơn là nhà trường chỉ lập lại dự toán chi gửi cho cơ
quan chủ quản và kho bạc để theo dõi, quản lý).
Bên cạnh những thuận lợi thì cơ chế quản lý tài chính vẫn có những
điểm chưa linh hoạt như các trường vẫn phải chịu sự quản lý, kiểm soát của
nhiều cơ quan chức năng. Ví dụ như Đại học Công nghiệp Hà Nội, Đại học
Công nghiệp TP.HCM chịu sự quản lý, kiểm soát của Bộ Công Thương (cơ
quan chủ quản), Bộ LĐ-TB&XH (cơ quan quản lý về lĩnh vực dạy nghề), Bộ
Tài chính (cơ quan quản lý về tài chính).
3.3.4. Tính công bằng của cơ chế quản lý tài chính
Cơ chế quản lý tài chính đã làm cho các đối tượng tham gia vào giáo
dục đại học với vị trí ngang bằng hơn. Người học có quyền chọn lựa chương
trình, chất lượng, thời gian đào tạo theo khả năng tài chính của mình. Các
trường muốn thu hút sinh viên phải tích cực đưa ra những cơ hội mới cho
người học, người thụ hưởng kết quả đào tạo, nghiên cứu chuyển giao công
55
nghệ của nhà trường. Đồng thời nó cũng thúc đẩy sự công khai về cơ sở vật
chất, thư viện, giáo trình, đội ngũ giảng viên của các chương trình đào tạo.
Các trường muốn thu học phí cao thì phải giải trình được sự ưu việt của
chương trình mới so với các chương trình hiện tại.
Việc chi trả thu nhập tăng thêm cho cán bộ công nhân viên theo nguyên
tắc người bỏ công sức, trí tuệ nhiều hơn; có hiệu suất công tác cao, đóng góp
nhiều cho việc tăng thu, tiết kiệm chi thì được hưởng thu nhập cao hơn và
tương xứng hiệu quả mang lại. Điều này đảm bảo sự công bằng trong lao
động, tạo ra sự gắn kết giữa quyền lợi và trách nhiệm của từng cá nhân, tập
thể với nhiệm vụ được giao.
Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy cơ chế quản lý tài chính hiện hành chưa
đảm bảo sự công bằng cho cán bộ công nhân viên và các trường tham gia thực
hiện; nó chỉ khuyến khích các trường mở rộng quy mô, tăng nguồn thu tài
chính mà chưa gắn với việc nâng cao chất lượng đào tạo, nghiên cứu khoa
học; việc phân bổ ngân sách nhà nước cho các trường chưa gắn với việc thực
hiện mục tiêu công bằng và hiệu quả trong giáo dục đại học… Nó được thể
hiện như sau:
Thứ nhất, mức học phí chưa tương xứng với nhu cầu đạo tạo dẫn tới
chưa bù đắp đủ chi phí hoạt động thường xuyên, do khó khăn trong việc tuyển
sinh sinh viên nên nhiều trường không muốn chuyển sang mô hình tự đảm
bảo chi phí hoạt động toàn diên, đồng nghĩa với việc tăng quyền tự chủ,
những trường này vẫn tiếp tục hoạt động trên số kinh phí được ngân sách nhà
nước cấp.
Học phí là một nguồn thu ngoài ngân sách, nó là nguồn tài chính chủ
yếu để duy trì sự hoạt động, phát triển của trường ĐH nhưng ở nước ta Nhà
nước có chủ trương hỗ trợ người học cho nên học phí chưa được xác định
theo giá dịch vụ mà chỉ là sự chia sẻ một phần chi phí của người học.
56
Chính sách học phí thấp, không theo kịp thời giá, nó được áp dụng
đồng đều cho các trường. Dẫn tới nhiều trường không muốn chuyển sang mô
hình tự đảm bảo chi phí hoạt động (vì không được hỗ trợ kinh phí từ ngân
sách) hoặc phải ban hành những khoản thu ngoài quy định, tạo ra sự thiếu
công khai, minh bạch về nguồn thu và sử dụng nguồn thu trong nhà trường.
Một hệ lụy nữa là các trường không có đủ nguồn tài chính cần thiết để đảm
bảo trang thiết bị, phòng học, thư viện, giáo trình, đội ngũ giảng viên… cho
quá trình đào tạo do suất đầu tư/1 sinh viên thấp. Để có thêm nguồn thu, hầu
hết các trường đã phải tăng quy mô đào tạo, mở rộng loại hình liên kết, đào
tạo không chính quy, điều này càng làm trầm trọng thêm sự gia tăng tỷ lệ sinh
viên/giảng viên; tỷ lệ sinh viên/thư viện, phòng thí nghiệm, xưởng thực
hành… dẫn tới giảm chất lượng đào tạo.
Thứ hai, cơ chế quản lý tài chính chưa tạo sự công bằng trong chính
sách tuyển sinh và tăng lương tối thiểu cho cán bộ công nhân viên. Cụ thể,
Nhà nước quy định mức thu lệ phí tuyển sinh thấp, không đủ bù đắp chi phí,
dẫn tới các trường phải sử dụng một phần kinh phí chi thường xuyên để bù lỗ
cho tuyển sinh. Mỗi khi nhà nước tăng lương tối thiểu cho cán bộ công nhân
viên thì các trường phải tự cân đối nguồn chi. Điều này càng làm cho các
trường khó cân đối nguồn tài chính chi cho đầu tư phát triển, nâng cao chất
lượng đào tạo, nghiên cứu khoa học, tăng thu nhập cho cán bộ công nhân
viên.
Thứ ba, phân bổ NSNN chưa gắn với cơ cấu ngành nghề, nhu cầu đào
tạo và chưa tạo ra sự công bằng xã hội.
Từ năm 2002 trở lại đây, các trường được phân bổ ngân sách chi
thường xuyên theo cơ chế khoán, không gắn với ngành nghề; số lượng sinh
viên đào tạo (kể cả trường hợp giao thêm nhiệm vụ, giao thêm chỉ tiêu đào tạo
hệ cử tuyển), chỉ căn cứ vào dự toán năm trước liền kề để làm cơ sở giao kinh
57
phí năm sau cộng với một tỷ lệ về tăng chi của Nhà nước cho giáo dục đại học
(các cơ quan chủ quản có tỷ lệ tăng chi khác nhau, thường tăng 10%÷15% so
với năm trước). Phần ngân sách cấp cho chi không thường xuyên để mua sắm
tài sản, xây dựng cơ bản… thì cơ quan chủ quản tự cân đối để đưa ra thứ tự
ưu tiên giao dự toán cho từng trường, dẫn tới cuối năm một số trường còn dư
kinh phí do triển khai chậm hoặc chưa triển khai hoạt động chuyên môn.
Việc Nhà nước cho phép các trường mở rộng quy mô đào tạo hệ không
chính quy (tại chức, vừa học vừa làm, đào tạo từ xa…) nhằm đáp ứng nhu cầu
học tập của xã hội, đồng thời cũng tạo điều kiện cho các trường khai thác tiềm
năng sẵn có, tăng cường nguồn lực tài chính với nguyên tắc ngân sách không
hỗ trợ, người học phải đóng đủ chi phí đào tạo. Thực tiễn cho thấy, mặc dù
mức thu học phí của hệ không chính quy đã cao gấp 2-3 lần so với hệ chính
quy nhưng vẫn chưa bù đắp đủ chi phí đào tạo, dẫn tới các trường phải sử
dụng một phần định mức phân bổ ngân sách cho hệ chính quy để hỗ trợ đào
tạo hệ không chính quy. Nó đã tạo ra một nghịch lý, các trường càng tăng quy
mô đào tạo hệ không chính quy thì suất đầu tư về ngân sách tính trên một sinh
viên ngày càng giảm (mặc dù tổng nguồn thu của nhà trường ngày càng tăng
lên). Đây là một bất cập, một sự không công bằng do cơ chế tài chính tạo ra.
Ngoài ra, xét trên phương diện công bằng xã hội thì phương thức phân
bổ nguồn ngân sách hiện nay vẫn thể hiện sự ưu tiên, sự bao cấp của Nhà
nước với cơ sở giáo dục đại học công lập, chưa khuyến khích phát triển các
trường ngoài công lập. Nhà nước cũng chưa tạo ra cơ chế phân bổ ngân sách
cho những trường có khả năng sử dụng hiệu quả nhất.
Thứ tư, trong cơ chế quản lý tài chính chưa có chế tài xử lý, gắn trách
nhiệm giải trình tài chính của các trường và các cơ quan chức năng nhà nước,
dẫn tới việc lập và giao dự toán thu sự nghiệp cho các trường thiếu chính xác,
không phù hợp với thực tế. Chẳng hạn, Bộ chủ quản giao dự toán thu sự
58
nghiệp quá thấp hoặc việc lập dự toán của các trường còn mang tính hình
thức, không căn cứ vào nguồn thu năm trước, bỏ sót, tính thiếu nguồn thu làm
cho số thực thu cao hơn nhiều so với số lập dự toán. Nguyên nhân là do các
trường vẫn có tâm lý e ngại, nếu tính toán đủ các khoản thu sẽ làm cho tổng
nguồn thu tăng lên, như vậy có thể bị cấp trên cắt giảm ngân sách cấp cho chi
thường xuyên và không thường xuyên hoặc không còn được hỗ trợ kinh phí
từ nhà nước, phải chuyển sang loại đơn vị tự bảo đảm chi phí hoạt động.
3.3.5. Tính ràng buộc về mặt tổ chức của cơ chế quản lý tài chính
Cơ chế quản lý tài chính đã tạo động lực cho các trường phải liên tục
phấn đấu vươn lên về mọi mặt bằng cách tiết kiệm, sử dụng các nguồn lực
một cách hiệu quả, đúng mục tiêu, mục đích đã xác định. Tạo ra sự đoàn kết,
nhất trí của tập thể cán bộ, giảng viên, nhân viên để cùng nhau xây dựng uy
tín, thương hiệu của nhà trường.
Tuy nhiên, cơ chế quản lý tài chính hiện hành chưa quy định các trường
phải tự xây dựng đăng ký mức phấn đấu và có cam kết với các cơ quan quản
lý nhà nước về đảm bảo cơ cấu tổ chức bộ máy (thành lập hội đồng trường,
xây dựng cơ chế đại diện chủ sở hữu nhà nước, bảo vai trò kiểm tra, giám sát
của tập thể, của cộng đồng), về các chỉ tiêu tài chính cho từng năm, từng thời
kỳ (như số lượng, chất lượng các công trình nghiên cứu khoa học; cơ cấu, giá
trị nguồn thu hoạt động nghiên cứu khoa học, nguồn khác; số suất học bổng
và giá trị kinh phí hỗ trợ sinh viên; suất đầu tư trên sinh viên; …) dẫn tới chưa
tạo ra sự ràng buộc, thúc ép các trường phải huy động cả trí lực, vật lực cho
việc tăng cường đưa ra các giải pháp có tính thực tiễn cao; gắn hoạt động
giảng dạy, nghiên cứu khoa học của nhà trường với hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp, nhu cầu phát triển kinh tế xã hội của đất nước trong
tìm kiếm, khai thác và cải thiện cơ cấu nguồn tài chính theo hướng tăng quy
mô nhưng được sử dụng một cách tiết kiệm và có hiệu quả nhất.
59
3.3.6. Sự thừa nhận của cộng đồng
Việc đổi mới cơ chế quản lý tài chính thực sự đã đem lại những quyền
lợi mới cho các cơ sở giáo dục đại học công lập và cả cộng đồng xã hội cùng
nhau góp phần nâng cao chất lượng đào tạo, nghiên cứu khoa học của từng
nhà trường. Trong thực tiễn, nó đã được các trường và cả xã hội thừa nhận
như một xu thế tất yếu khách quan.
Mặc dù ngân sách nhà nước cấp chi thường xuyên hàng năm rất hạn
chế và có xu hướng giảm dần qua các năm, tuy nhiên các trường đang chủ
động đổi mới cơ chế quản lý tài chính và mở rộng các hoạt động để tăng
nguồn thu, từng bước tự chủ nguồn vốn để đầu tư tăng cường cơ sở vật chất,
đổi mới trang thiết bị, cải thiện đời sống cán bộ - giáo viên, góp phần nâng
cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực cho xã hội. Đây có thể nói là bước
chuyển đổi mạnh mẽ về cơ chế, tạo điều kiện cho các trường trong việc tự
quyết định và giảm bớt gánh nặng bao cấp cho Nhà nước. Nói cách khác, cơ
chế quản lý tài chính phù hợp sẽ tạo ra động lực đổi mới và tạo ra một khuôn
khổ pháp lý phù hợp để các trường thực hiện tốt nhiệm vụ được giao, tăng
khả năng cạnh tranh, xây dựng uy tín, thương hiệu của mình trong môi trường
hội nhập quốc tế về giáo dục đại học.
Nguyên nhân chung của các bất cập, hạn chế nêu trên
Qua việc nghiên cứu và phân tích thực trạng có thể nhận định được các
nguyên nhân dẫn tới hiện trạng nêu trên đó là phương thức phân bổ và cấp
kinh phí của Nhà nước cho các trường đại học triển khai đào tạo ở nước ta
hiện nay về cơ bản vẫn phản ánh mối quan hệ tài chính công. Mối quan hệ đó
được hình thành giữa một bên là Nhà nước sử dụng tài chính như là một công
cụ để quản lý, đảm bảo dịch vụ công cho xã hội với một bên là trường đại học
được nhận ngân sách để cung ứng dịch vụ công. Cơ chế này không phản ánh
đầy đủ quan hệ giữa Nhà nước và trường đại học trong nền kinh tế thị trường
60
hiện nay. Kinh phí ngân sách nhà nước cấp không dựa trên chi phí, giá cả của
dịch vụ đào tạo mà trường đại học cung cấp. Nhà nước trả để “mua” nhưng
không có cơ sở để đánh giá mức độ tương xứng với kết quả đầu ra của trường
đại học. Như vậy, mục tiêu học tập, vận dụng cơ chế đối với các cơ sở giáo
dục đại học công lập dường như không đạt được.
Vì vậy, để hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính đối với các cơ sở giáo
dục đại học công lập Việt Nam cần cân nhắc, đưa ra những đề xuất giải pháp
và kiến nghị chi tiết. Các giải pháp cần thực hiện theo lộ trình thích hợp với
điều kiện phát triển của Việt Nam trên cơ sở học tập và áp dụng các bài học
kinh nghiệm quốc tế.
61
CHƢƠNG 4. CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CƠ CHẾ QUẢN LÝ TÀI CHÍNH CƠ SỞ GIÁO DỤC ĐẠI HỌC CÔNG LẬP THỰC HIỆN TỰ CHỦ Ở VIỆT NAM
4.1. Quan điểm, định hƣớng của việc thực hiện cơ chế tự chủ tài
chính các trƣờng đại học công lập Việt Nam
4.1.1. Nhà nƣớc tạo ra cơ chế quản lý tài chính phù hợp thực tế,
phù hợp năng lực phát triển của các cơ sở giáo dục đại học công lập
Sau 25 năm đổi mới, nền kinh tế nước ta đã có những chuyển biến rất
tích cực, đạt được nhiều thành tựu to lớn, ngày càng hội nhập sâu rộng với
nền kinh tế thế giới, trong đó, giáo dục đại học đã không ngừng phát triển về
quy mô, loại hình đào tạo. Nhưng một bất cập lớn nảy sinh khi đại chúng hóa
giáo dục đại học là sự giảm sút về chất lượng. Nguyên nhân là do nguồn ngân
sách nhà nước đầu tư cho giáo dục đại học tăng không đáng kể, dẫn tới nhiều
trường không có đủ nguồn lực tài chính để duy trì, nâng cao chất lượng và sức
cạnh tranh với các trường đại học khác trong khu vực và quốc tế.
Để cải thiện tình hình trên, đòi hỏi Nhà nước ta cần đổi mới cơ chế
quản lý tài chính, giao quyền tự chủ tài chính ở mức độ cao cho các cơ sở
giáo dục đại học công lập. Có như vậy, các trường mới nâng cao quyền tự
chủ một cách đầy đủ để quản lý nhà trường tốt hơn. Các khoản thu chi trong
nhà trường sẽ được công khai, dân chủ hóa hơn, thực hành tiết kiệm chi tiêu,
chống lãng phí, nâng cao đời sống vật chất cho đội ngũ cán bộ công nhân
viên, thúc đẩy nâng cao chất lượng toàn diện của nhà trường.
Ở góc độ trách nhiệm của cơ sở giáo dục đại học công lập phải chủ
động tìm kiếm, sử dụng nguồn tài chính hợp lý; sắp xếp lại biên chế, bố trí tổ
chức lao động một cách khoa học; mở rộng hoặc sắp xếp lại cơ cấu đào tạo,
nghiên cứu khoa học và các hoạt động khác cho phù hợp với khả năng, năng
62
lực của nhà trường. Những điều này có ý nghĩa thực tiễn to lớn trong lộ trình
cải cách hành chính công của nước ta giai đoạn 2012÷2020 [28].
4.1.2. Đổi mới nhận thức về vai trò, địa vị pháp lý, môi trƣờng hoạt
động của cơ sở giáo dục đại học công lập trong nền kinh tế thị trƣờng
định hƣớng XHCN.
Từ năm 1986, nền kinh tế nước ta chuyển sang hoạt động theo nền kinh
tế thị trường định hướng XHCN, mọi hoạt động đào tạo, nghiên cứu khoa học
của các cơ sở giáo dục đại học công lập không chỉ phục vụ cho các cơ quan,
thành phần kinh tế nhà nước mà còn đáp ứng nhu cầu của tất cả các thành
phần kinh tế khác. Nó đóng vai trò cung cấp dịch vụ về tri thức ở bậc đại học
cho cá nhân và cả xã hội. Nó chính là lực lượng sản xuất trực tiếp trong quá
trình tạo ra một hàng hoá đặc biệt là con người có trình độ tri thức cao.
Nói cách khác, trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, các cơ
sở giáo dục đại học công lập có sứ mạng phục vụ cả nhiệm vụ chính trị và
phục vụ nhu cầu của xã hội trong nước cũng như quốc tế. Vì vậy, các cơ sở
giáo dục đại học công lập luôn luôn chịu sự tác động, chi phối của quy luật,
nguyên tắc khác nhau, bao gồm: quy luật, nguyên tắc sư phạm; quy luật,
nguyên tắc quản lý hệ thống xã hội; quy luật hài hoà lợi ích trong xã hội; các
quy luật, nguyên tắc của kinh tế thị trường; các quy luật, nguyên tắc của hoạt
động khoa học công nghệ [34].
Dưới góc độ quản lý và môi trường phát triển kinh tế xã hội của một
quốc gia và cả thế giới cho thấy nếu chúng ta xem xét cơ sở giáo dục đại học
công lập như một đơn vị sự nghiệp có thu thì đây là cách hiểu giản đơn nhằm
thực hiện nhiệm vụ chính trị mà chưa coi trọng nhiệm vụ cung ứng dịch vụ
đáp ứng nhu cầu xã hội. Chính điều này đã vô tình thu hẹp các hoạt động của
các nhà trường trong thời kỳ hội nhập quốc tế về giáo dục đại học.
63
Bởi vì, khi các cơ sở giáo dục đại học công lập cung cấp dịch vụ giáo
dục đại học cho cả khu vực tư nhân trong nước và nhu cầu của quốc tế dẫn tới
tỷ trọng thu nhập từ các nguồn kinh phí ngoài ngân sách cấp ngày càng tăng.
Điều này đã làm cho các trường phải cạnh tranh gay gắt với các trường đại
học khác trong nước, ngoài nước để giành các nguồn lực tài chính. Vì thế,
Nhà nước phải căn cứ vào cả tính “lợi ích” hay “lợi nhuận” để có cơ chế quản
lý tài chính phù hợp (nếu cơ sở giáo dục đại học công lập hoạt động chỉ vì
“lợi ích” của mình thì nhà nước không cần phải đầu tư ngân sách).
4.1.3. Nâng cao nhận thức vai trò quản lý của Nhà nƣớc trong việc
tạo nguồn tài chính cho các cơ sở giáo dục đại học công lập hoạt động và
nâng cao chất lƣợng đào tạo.
Cơ chế quản lý tài chính được vận hành và hoạt động trong môi trường,
thể chế pháp lý do cơ quan quản lý tạo ra. Cơ chế đó có vận hành hiệu quả
hay không phụ thuộc nhiều vào yếu tố môi trường, thể chế có thuận lợi hay
không. Do vậy, Nhà nước cần thể hiện vai trò của mình trong việc tạo cơ chế,
hoàn thiện cơ chế để các cơ sở giáo dục công lập có thêm điều kiện mở rộng
hoạt động, nâng cao chất lượng đào tạo để tạo thêm nhiều nguồn thu tài chính.
Nhà nước cần giao quyền tự chủ tài chính ở mức độ cao cũng như ban
hành cơ chế quản lý tài chính phù hợp để các trường có được sự bình đẳng,
chủ động tham gia vào các hoạt động cung cấp dịch vụ giáo dục đại học cho
xã hội. Nhà nước chỉ nên tạo cơ chế quản lý tài chính, giữ vai trò tạo môi
trường, khuôn khổ pháp lý, vai trò giám sát, quản lý các trường ở tầm vĩ mô
mà không trực tiếp tham gia vào việc thực hiện chính sách, không làm thay
chức năng, nghiệp vụ của các trường. Tiếp tục xây dựng hệ thống các văn bản
về quy trình, quy định minh bạch, rõ ràng để đảm bảo tính cạnh tranh bình
đẳng trong việc tiếp cận các chính sách của Nhà nước về đào tạo cán bộ quản
lý, đội ngũ giảng viên; trợ giúp kỹ thuật và chuyển giao công nghệ; hỗ trợ
64
phát triển nghiên cứu khoa học, tham gia chương trình, dự án đào tạo của
Nhà nước.
Vài năm gần đây, sự ra đời của quá nhiều cơ sở giáo dục đại học khiến
xã hội lo ngại về chất lượng. Tuy nhiên, giao quyền tự chủ đại học ở mức độ
cao không có nghĩa buông lỏng quản lý mà phải gắn với trách nhiệm giải
trình; đảm bảo công bằng giữa quyền lợi và nghĩa vụ thực hiện, buộc các
trường phải tồn tại bằng chất lượng. Đồng nghĩa với việc đổi mới cơ chế quản
lý tài chính phải đi đôi với tạo ra cơ chế giám sát để gắn trách nhiệm của đơn
vị thực hiện trong quá trình hoạt động.
Để thực hiện chức năng kiểm tra giám sát, Nhà nước cần ban hành các
quy định về tiêu chí xác định hiệu quả hoạt động, chất lượng đào tạo. Trên cơ
sở các tiêu chí, các cơ quan chức năng sẽ thực hiện kiểm tra, giám sát hoạt
động giáo dục đào tạo cũng như giám sát tài chính của đơn vị. Đây là căn cứ
để trường đại học được áp dụng các cơ chế quản lý tài chính đối với các cơ sở
giáo dục đại học công lập.
Song song với việc kiểm tra giám sát cần tăng cường vai trò quản lý,
chỉ đạo điều hành của cơ quan quản lý nhà nước và cơ quan chủ quản đối với
các cơ sở giáo dục đại học trong việc triển khai công tác đảm bảo và kiểm
định chất lượng giáo dục đại học. Kiểm định chương trình đào tạo phải được
quy định là yêu cầu bắt buộc và là một căn cứ để đánh giá. Kết quả kiểm định
là căn cứ để các trường đại học xác định chi phí tương xứng với chất lượng
cần đạt được. Đây là cơ sở để Nhà nước cấp kinh phí ngân sách hoặc các
trường đại học xác định mức thu học phí phù hợp.
4.2. Các giải pháp hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính cơ sở giáo
dục đại học công lập ở Việt Nam
Để phát huy những kết quả đã đạt được và tháo gỡ những khó khăn
vướng mắc của cơ chế chính sách, Nhà nước cần tiếp tục hoàn thiện các cơ
65
chế chính sách quản lý tài chính theo hướng giao quyền tự chủ tài chính ở
mức độ cao cho các cơ sở giáo dục đại học công lập. Mỗi trường cần nhận
thức đầy đủ và quyết tâm thực hiện cơ chế tự chủ tài chính với các giải pháp
cụ thể để đảm bảo tính đồng bộ, hiệu lực, linh hoạt và sự đồng thuận trong
quá trình phát triển, hội nhập với các cơ sở giáo dục đại học trong khu vực và
quốc tế.
4.2.1. Nhóm giải pháp nâng cao tính hiệu lực của cơ chế quản lý tài
chính
Nghị quyết 77 sẽ tạo ra sự công khai, minh bạch hóa các hoạt động của
các trường. Tuy nhiên, để khắc phục những vấn đề còn tồn tại, bất cập, nâng
cao tính hiệu lực của cơ chế trong thực tế thì đòi hỏi Nhà nước và mỗi trường
cần giải quyết tốt các vấn đề của riêng mình.
Các cơ quan chức năng rà soát, xây dựng, ban hành các văn bản pháp
lý giao quyền quản lý tài chính
Văn bản ban hành của các Bộ, ngành, cơ quan chủ quản cần đảm bảo
nguyên tắc tăng thời gian hiệu lực; giảm sự chồng chéo; đơn giản hóa thủ tục
hành chính, chế độ chứng từ kế toán, có tác dụng hỗ trợ, thúc đẩy hoạt động
quản lý tài chính của các trường.
Một là, Bộ quản lý ngành, lĩnh vực cần chủ trì phối hợp với Bộ liên
quan ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện quyền tự chủ, tự chịu trách
nhiệm:
Ban hành các văn bản quy định tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thành,
chất lượng và kết quả hoạt động các trường được giao quyền tự chủ. Hướng
dẫn thống nhất công tác quản lý thu chi của các chương trình đào tạo chất
lượng cao, chương trình liên doanh, liên kết, hợp tác với các cơ sở nước ngoài
để thu học phí tương xứng với chất lượng đào tạo đã quy định tại khoản 6
điều 65 của Luật Giáo dục đại học.
66
Tăng cường phân cấp quản lý đầu tư xây dựng cơ bản, mua sắm tài sản
cho các trường tự thực hiện với giá trị lớn hơn tương ứng với thời giá. Đơn
giản hóa quy trình, thủ tục, các bước thực hiện đầu tư xây dựng cơ bản, mua
sắm tài sản. Cho phép các trường dùng nguồn học phí, nguồn tiết kiệm chi
thường xuyên trong năm báo cáo để đầu tư xây dựng cơ bản, mua tài sản cố
định có giá trị lớn.
Hai là, cơ quan chức năng cần tổng kết các bài học kinh nghiệm về mô
hình hoạt động của những trường được giao thí điểm đổi mới cơ chế hoạt
động theo Nghị quyết 77 của Chính phủ và đánh giá kết quả thực hiện Nghị
quyết 77 để có luận cứ khoa học, từ đó rút kinh nghiệm, đề xuất giải pháp
hoàn chỉnh các quy định trong cơ chế quản lý tài chính phù hợp với thực tiễn,
tiến tới áp dụng đại trà cho các trường. Chẳng hạn, một số quy định tại Nghị
quyết 77 chưa rõ, đồng thời chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể nên việc triển
khai còn nhiều lúng túng, đặc biệt chưa rõ thẩm quyền được tự chủ của các
trường, dẫn đến còn nhiều quan điểm khác nhau giữa trường và các cơ quan
quản lý, gây khó khăn cho việc tổ chức thực hiện; cần có hướng dẫn cụ thể
quyền tự chủ trong việc quyết định các mức chi; chưa quy định tự chủ về chế
độ làm việc của giảng viên, về giờ chuẩn và nghĩa vụ giảng dạy, nghiên cứu
khoa học; thiếu hướng dẫn về việc sử dụng nguồn lực tham gia liên doanh,
liên kết để tăng nguồn thu cho các trường…
Ba là, Nhà nước nên giao cho các trường tự quyết định thời điểm, mức
chi thu nhập cho cán bộ công nhân viên nhằm khuyến khích mọi cá nhân, tập
thể không ngừng nỗ lực tiết kiệm, chống lãng phí, tìm giải pháp nâng cao hiệu
quả thực hiện nhiệm vụ được giao. Hơn nữa, nó tạo ra sự ổn định thu nhập
hàng tháng đảm bảo mức sống và sự yên tâm công tác của cán bộ công nhân
viên.
67
Bốn là, Nhà nước tiếp tục có cơ chế ưu đãi, hỗ trợ tài chính cho các
trường ở các vùng miền khó khăn; đào tạo ngành nghề đặc thù, khó thu hút
sinh viên, khó có cơ hội tham gia vào sản xuất, chuyển giao công nghệ như
đào tạo khoa học cơ bản; sư phạm; ngành nghề truyền thống; văn hóa nghệ
thuật thì ngân sách đầu tư lớn hơn và tăng đóng góp từ người học.
Nâng cao tính công khai, minh bạch hóa của cơ chế quản lý tài chính
trong các hoạt động nội bộ nhà trường.
Việc công khai hóa, minh bạch hóa lĩnh vực tài chính sẽ tạo ra sức ép;
buộc cá nhân, tập thể và các cấp quản lý phải tự giác tham gia vào quá trình
đổi mới nhà trường theo hướng hiệu quả, xây dựng uy tín, thương hiệu trước
người học và xã hội.
Công cụ hỗ trợ cho sự công khai, minh bạch hóa là các trường nên sử
dụng ISO, đặc biệt là đưa tiến bộ công nghệ thông tin, nối mạng vào quản lý
tài chính, quản lý đào tạo, quản lý người học, quản lý công nhân viên. Bởi vì,
công nghệ thông tin đảm bảo tính tiện ích, đem lại những lợi ích to lớn cho
mỗi cá nhân, mỗi tổ chức:
Thứ nhất, làm giảm chi phí hành chính. Vì nó có thể tích hợp, chia sẻ
được nhiều dữ liệu dẫn tới cắt giảm được thời gian, chi phí thu thập, xử lý
thông tin. đối với nhà trường nó giúp cắt giảm khối lượng thời gian, công sức
trong sắp xếp thời khóa biểu, phân công giảng dạy, thanh toán hợp đồng, thu
học phí, phân loại sinh viên…
Thứ hai, cho phép mỗi cá nhân, tổ chức thích ứng kịp thời với những
thay đổi của môi trường vì nó không còn khoảng cách về không gian, thời
gian để người sử dụng tiếp cận nhanh, trực tiếp công việc.
Trên thực tế, mặc dù Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản pháp quy
(như Luật Công nghệ thông tin năm 2006; Nghị định 64/2007/NĐ-CP về ứng
dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của cơ quan nhà nước) nhưng việc
68
ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý, quản lý tài chính của các trường
vẫn còn bất cập. Bởi vì, các trường vẫn cho rằng tài chính là vấn đề nhạy cảm,
bí mật, chỉ một số ít người được tiếp cận nên không cần ứng dụng công nghệ
thông tin để xử lý. Hệ thống cơ sở hạ tầng về công nghệ thông tin của các
trường chưa đồng bộ, chưa kết nối giữa các bộ phận liên quan. Mặt khác do
trình độ công nghệ thông tin của một số cán bộ kế toán, tài chính của nhiều
trường còn hạn chế, dẫn tới ngại đưa công nghệ thông tin vào sử dụng, đặc
biệt là áp dụng trong một phạm vi rộng. Vì sợ không bảo mật được thông tin
hoặc việc đặt bài toán cho nhà sản xuất phần mềm chưa đủ dữ liệu, phần hành
chưa phù hợp với tính đặc thù của nhà trường như thiếu chức năng, thiếu tính
hệ thống…
4.2.2. Nhóm giải pháp nâng cao tính hiệu quả của cơ chế quản lý tài
chính
Nhà nước cần ban hành văn bản quy định bắt buộc phân tích tài chính,
phân tích các hoạt động của nhà trường theo các tiêu chí xác định.
Bởi vì, lợi ích của phân tích tài chính, phân tích hoạt động là làm rõ
được trách nhiệm giải trình, tính hiệu quả của cơ chế quản lý tài chính đang
áp dụng tại các trường. Kết quả của nó sẽ cung cấp thông tin cho hoạt động
giám sát của các cơ quan chức năng đối với nhà trường một cách hiệu quả
hơn. Đồng thời, nó còn hỗ trợ cho hoạt động lên kế hoạch, xây dựng chính
sách và ra quyết định của nhà trường. Chẳng hạn, phải tăng học phí đến mức
nào để có thu nhập phù hợp với mục tiêu nhà trường đã xác định.
Phân tích tài chính sẽ cung cấp cho chúng ta một cái nhìn toàn diện hơn
về chi phí, năng suất, hiệu quả chứa đựng trong các hoạt động quá khứ và
hiện tại của nhà trường. Từ đó, các nhà quản lý có thể phát hiện những vấn đề
còn tồn tại để có giải pháp khắc phục. Vì vậy, Nhà nước cần quy định các
trường phải nộp báo cáo định kỳ theo quý, 6 tháng, 1 năm về phân tích tài
69
chính để làm cơ sở đánh giá hiệu quả của việc phân bổ, sử dụng các nguồn
lực tài chính trong các trường như thế nào? Chẳng hạn, qua cơ cấu nguồn thu
sẽ cho chúng ta biết nhà trường đang hoạt động nhờ vào nguồn lực tài chính
nào; Nhà nước có cần tăng cường sự hỗ trợ hay không? Nếu Nhà nước hỗ trợ
thì nên hỗ trợ như thế nào, bằng việc ban hành chính sách hay cung cấp trực
tiếp thông qua việc tăng ngân sách nhà nước cấp? Kết cấu các khoản chi sẽ
cho chúng ta biết tính hiệu quả của việc quản lý ngân sách công trong nhà
trường, từ đó Nhà nước có cơ chế giám sát để tăng sự tiết kiệm, chống lãng
phí và có nên tăng quyền tự chủ tài chính cho các trường hay không? Nếu cần
đổi mới cơ chế quản lý tài chính thì nên đổi mới ở lĩnh vực, phạm vi nào cho
phù hợp với năng lực quản lý của từng nhà trường.
Tóm lại, phân tích tài chính, phân tích các hoạt động của cơ sở giáo dục
đại học công lập là để Nhà nước quản lý, giám sát sử dụng nguồn lực ngân
sách một cách hiệu quả, đúng mục tiêu hơn. Ngoài ra, nó giúp cho các trường
trong việc xây dựng chính sách, xây dựng cơ cấu và tỷ lệ học phí trong nguồn
thu, lên kế hoạch phân bổ nguồn lực hợp lý, quản lý các khâu nhân sự, cơ sở
vật chất tốt hơn.
Các trường cần chủ động xây dựng cơ chế quản lý tài chính như một
biện pháp hữu hiệu trong khai thác, mở rộng, nâng cao chất lượng nguồn thu;
tăng cường hiệu quả phân bổ, sử dụng nguồn tài chính. Để tạo ra nguồn lực
tài chính cho hoạt động và để tăng khả năng quản lý tài chính thì các trường
cần giải quyết tốt các vấn đề sau:
Thứ nhất, nâng cao chất lượng đào tạo, gắn đào tạo với nghiên cứu và
chuyển giao khoa học công nghệ, tăng cường gắn kết giữa nhà trường với
doanh nghiệp.
Trong bối cảnh nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế để tạo ra uy
tín, thu hút được người học, các trường cần xây dựng và mở rộng những
70
chương trình đào tạo có tính chất quốc tế. Thực hiện đổi mới phương pháp
giảng dạy, học tập theo hướng hiện đại hoá, lấy sinh viên làm trung tâm,
khuyến khích hoạt động giao lưu quốc tế của giáo viên và sinh viên. Đẩy
mạnh quan hệ hợp tác với những trường đại học danh tiếng trong khu vực và
trên thế giới. Mở rộng các hoạt động dịch vụ, hoạt động liên doanh liên kết
với các cơ sở đào tạo, các doanh nghiệp trong và ngoài nước nhằm thu hút,
huy động tối đa các nguồn về nhân lực, về tài chính... phục vụ công tác đào
tạo.
Thứ hai, các trường cần sắp xếp lại bộ máy, tổ chức với cơ cấu tinh
giản, linh hoạt. Tăng cường tiết kiệm, chống lãng phí. Chủ động nghiên cứu
thị trường, thành lập và đẩy mạnh hoạt động quảng bá hình ảnh, thương hiệu
nhà trường tới người học, người sử dụng lao động và công chúng.
Định kỳ các cơ sở giáo dục đại học công lập cần tái cơ cấu lại bộ máy
tổ chức (các đơn vị học thuật; các bộ phận quản lý, phục vụ) theo hướng tinh
giản, gọn nhẹ, có sự linh hoạt cao trong quy trình giảng dạy và làm việc nhằm
đảm bảo tăng quy mô và chất lượng giảng viên; đảm bảo công khai hóa về
quy trình, thủ tục hành chính. điều này làm giảm chi phí hành chính nhưng lại
tăng cường được năng suất lao động và hiệu quả trong quá trình hoạt động
của nhà trường.
Mặt khác, các trường cần xây dựng được lộ trình phân cấp (phân
quyền) quản lý cho từng đơn vị về đào tạo, nghiên cứu khoa học; xây dựng,
nâng cao chất lượng đội ngũ, quản lý người học, quản lý cơ sở vật chất, thiết
bị, tài chính. Định kỳ rà soát, tính toán, xây dựng lại định mức khoán của
những khoản chi phí hành chính cho các đơn vị trong nội bộ về tiền điện, điện
thoại, văn phòng phẩm, thiết bị… đảm bảo sự tiết kiệm, chống lãng phí và
nâng cao được trách nhiệm của cá nhân và các tập thể trong nhà trường.
71
Thứ ba, đổi mới cơ chế chi trả thu nhập cho cán bộ công nhân viên trên
cơ sở hoàn thành nhiệm vụ và theo phương thức cạnh tranh.
Các quy định trong quy chế chi tiêu nội bộ của nhà trường phải đảm
bảo công khai về quyền lợi, nghĩa vụ đối với tập thể và cá nhân được giao
nhiệm vụ. Việc chi trả thu nhập cho cán bộ công nhân viên cần được chia
thành hai phần riêng biệt, bao gồm: 1) trả tiền lương, tiền công theo quy định
của Nhà nước, nó được căn vào mức độ hoàn thành khối lượng giảng dạy,
nghiên cứu khoa học của cá nhân. 2) Mức chi trả thu nhập tăng thêm cho các
đối tượng không nên mang tính chất bình quân mà cần có khoảng cách đủ lớn,
thể hiện được tính cạnh tranh và được dựa trên một bộ tiêu chí định lượng rõ
ràng như học hàm, học vị, hệ số mức lương đang hưởng, thâm niên công tác,
nhiệm vụ, chức vụ đảm nhận, sự đóng góp các công trình khoa học từ cấp Bộ,
ngành trở lên… không căn cứ vào số giờ thực giảng dạy. Cách trả thu nhập
tăng thêm này sẽ hạn chế động lực dạy nhiều để tăng thu nhập, giảng viên
phải giành nhiều thời gian hơn cho nghiên cứu khoa học, tăng thời gian tiếp
xúc với sinh viên và nâng cao chất lượng giờ giảng.
Trong thời gian tới, Nhà nước nên cho áp dụng thí điểm mô hình Hiệu
trưởng quyết định mức thu nhập cho cán bộ, giảng viên, nhân viên trên
nguyên tắc vị trí, chất lượng công việc được giao nhằm đảm bảo cán bộ công
nhân viên có thể sống bằng thu nhập để họ thực sự yên tâm công hiến cho nhà
trường, cống hiến cho sự nghiệp trồng người.
Thứ tư, tăng cường đổi mới cơ chế quản lý, đầu tư cơ sở vật chất theo
hướng tiết kiệm, hiệu quả, chống lãng phí; thúc đẩy việc đào tạo, nâng cao
trình độ cho đội ngũ cán bộ, nhân viên làm nhiệm vụ quản lý cơ sở vật chất.
Mỗi cơ sở giáo dục đại học công lập cần xây dựng được quy hoạch
tổng thể trong đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, bảo đảm tính thiết thực và hiệu
quả. điều này có nghĩa là nhà trường phải có quy hoạch, có lộ trình, cơ chế
72
đầu tư thư viện, xây dựng cơ bản, mua sắm thiết bị... phù hợp với nhiệm vụ,
sứ mạng phát triển nhà trường trong mỗi năm, mỗi giai đoạn.
Việc đầu tư cần có tính trọng tâm, trọng điểm, tiết kiệm nguồn lực,
tránh dàn trải và dựa trên mục tiêu xây dựng, phát triển ngành, nghề đào tạo
của nhà trường. Ví dụ, để tăng cường hiệu quả sử dụng trang thiết bị thì nhà
trường nên sử dụng phương án đầu tư, quản lý phòng máy tính, thiết bị thí
nghiệm, thực hành cơ bản có tính chất sử dụng chung giữa các đơn vị trong
nội bộ. Kiến nghị Nhà nước có cơ chế thực hiện việc chia sẻ trong mua sắm,
sử dụng thiết bị (đặc biệt là các thiết bị đắt tiền); chia sẻ cơ sở vật chất với các
trường khác hoặc với các doanh nghiệp để giảm chi phí đầu tư, sử dụng tối ưu
năng lực của thiết bị, của cơ sở vật chất cho việc tăng thu (như sử dụng hội
trường cho thuê các hội nghị, hội thảo; sử dụng không gian cho thuê mở dịch
vụ ATM, tổ chức dịch vụ căng tin, gửi xe …).
Giao quyền tự chủ cho các đơn vị (phòng, khoa, viện, trung tâm…) và
cá nhân trực tiếp chịu trách nhiệm quản lý, khai thác, đề xuất đầu tư cơ sở vật
chất. Biện pháp này sẽ tạo ra tính hiệu quả của việc đầu tư, mua sắm tài sản,
trang thiết bị; tránh xảy ra sự lãng phí trong đầu tư.
Thứ năm, tăng cường đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ tài chính kế
toán theo hướng giỏi chuyên môn, có tinh thần trách nhiệm cao, phẩm chất
đạo đức tốt.
Lựa chọn đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý, quản lý tài chính là một
vấn đề rất quan trọng, nó có tác động thúc đẩy hoặc ngăn cản các hoạt động
của nhà trường. Người làm công tác quản lý tài chính kế toán của trường,
ngoài tiêu chuẩn có chuyên môn nghiệp vụ vững vàng, tư cách đạo đức tốt,
cần có một yếu tố rất quan trọng là phải hiểu biết, có kiến thức cả về giảng
dạy và nghiên cứu. Vấn đề này đang là hạn chế cơ bản của các cơ sở giáo dục
đại học công lập nước ta, phần nhiều cán bộ làm công tác tài chính kế toán chỉ
73
tuyển chọn theo nghiệp vụ, chưa làm công tác giảng dạy, nghiên cứu dẫn tới
thiếu quan điểm toàn diện, chưa đóng góp cao cho việc thực hiện sứ mạng,
chiến lược phát triển nhà trường. Cụ thể là chưa có giải pháp hữu hiệu để tập
trung nguồn lực tài chính cho nghiên cứu, đổi mới phương pháp giảng dạy,
học tập, tăng cường tự do học thuật... mà vẫn mang nặng việc đo đếm hiệu
quả trước mắt, đo đếm giữa chi phí và nguồn thu của mỗi hoạt động riêng lẻ
trong giảng dạy, nghiên cứu. Vì vậy, các trường cần chú trọng việc đào tạo lại
đội ngũ làm công tác tài chính kế toán để họ có tư duy, có kiến thức; hiểu
biết, nắm vững nhiệm vụ đào tạo, nghiên cứu và có tầm nhìn về sứ mạng nhà
trường trong môi trường cạnh tranh và hội nhập quốc tế.
Về giải pháp, các trường nên ưu tiên tuyển chọn cán bộ làm công tác kế
toán, tài chính là những người đã từng tham gia giảng dạy. đồng thời thường
xuyên cử cán bộ quản lý; cán bộ kế toán, tài chính đi tham dự các khóa học về
chuyên môn, nghiệp vụ, tập huấn tham quan các trường trong và ngoài nước
để có tư duy thực tiễn nhằm tạo ra sự đổi mới trong công tác tài chính kế toán
luôn song hành với sự đổi mới nâng cao chất lượng đào tạo, nghiên cứu khoa
học của nhà trường. Các trường cần ban hành những văn bản quy định rõ
trách nhiệm, nhiệm vụ cho cá nhân và tập thể của bộ phận làm công tác tài
chính kế toán. Trong đó, cần nhấn mạnh tới yêu cầu xây dựng kế hoạch, giải
pháp, chiến lược tài chính đáp ứng nhiệm vụ đào tạo, nghiên cứu khoa học
trong từng giai đoạn, từng thời điểm đảm bảo tính khoa học, phù hợp với thực
tiễn và tính đặc thù của nhà trường. Xây dựng quy trình, thủ tục tài chính trên
nguyên tắc đơn giản, dễ thực hiện để nhà trường công khai hóa việc tạm ứng,
thanh quyết toán kinh phí nhằm tạo ra sự chủ động, đồng thuận của cán bộ
công nhân viên trong hoàn thành, nâng cao chất lượng, hiệu quả nhiệm vụ
được giao.
74
4.2.3. Nhóm giải pháp nâng cao tính linh hoạt của cơ chế quản lý
tài chính
Để tăng cường tính linh hoạt cho việc thực hiện cơ chế quản lý tài
chính trong thực tế, đòi hỏi Nhà nước cần có sự thay đổi về chế độ kiểm tra,
giám sát, bao gồm:
Một là, khi đã có các quy định trong quy chế chi tiêu nội bộ thì cho
phép các trường được chi những khoản chi cao hơn định mức quy định của
Nhà nước.
Hai là, cần giảm bớt sự kiểm soát chi của kho bạc. Các trường chỉ phải
mở tài khoản tại kho bạc để phản ánh các khoản kinh phí thuộc ngân sách cấp.
Phần kinh phí trích lập các quỹ; khoản thu học phí, lệ phí và các nguồn thu
hợp pháp khác thì cần có hướng dẫn cụ thể về việc mở tài khoản tiền gửi tại
ngân hàng thương mại để hưởng lãi, tiền lãi này được sử dụng là một nguồn
thu hợp pháp. Có như vậy, mới tạo thêm nguồn thu và nâng cao hiệu quả sử
dụng nguồn tài chính nhàn rỗi của các trường.
Ba là, ngân sách cấp cho các trường theo chế độ khoán và hậu kiểm
theo phương thức thanh tra, kiểm toán định kỳ; trong năm các trường được
trích lập quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp từ nguồn ngân sách cấp cho chi
hoạt động thường xuyên để các trường có nguồn vốn chi cho đầu tư xây dựng
cơ bản, mua sắm tài sản cố định nhằm giảm bớt khó khăn cho các trường có
nguồn thu ngoài ngân sách thấp.
4.2.4. Nhóm giải pháp nâng cao tính công bằng của cơ chế quản lý
tài chính
Nhà nước cần hoàn thiện hệ thống các quy định pháp luật về mô hình
phát triển tài chính cho các cơ sở giáo dục đại học công lập.
Trong bối cảnh của Việt Nam, nguồn lực tài chính của Nhà nước còn
hạn chế cả về quy mô và phạm vi sử dụng, cho nên mô hình phát triển tài
75
chính cho giáo dục đại học nói chung và các cơ sở giáo dục công lập nói riêng
cần được đổi mới theo các hướng sau:
Thứ nhất, học phí thấp hoặc được miễn học phí chỉ nên áp dụng cho các
ít được người học quan tâm ... Và để đảm bảo sự năng động, sáng tạo và nâng
cao chất lượng thì các trường này được ưu tiên về nguồn lực tài chính nhưng
Nhà nước cần thực hiện cơ chế cấp kinh phí dựa vào kết quả kiểm định chất
lượng, xếp hạng nhà trường.
Thứ hai, gia tăng học phí kết hợp với mở rộng các chính sách hỗ trợ.
Nó là mô hình phù hợp với cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà
chúng ta đang theo đuổi nhằm giảm bớt gánh nặng đầu tư ngân sách cho giáo
dục đại học. Chính phủ cần xây dựng khung học phí khác nhau; gắn với các
tiêu chí ngành nghề, chương trình, cấp bậc đào tạo, đối tượng người học, kết
quả kiểm định, vị trí xếp hạng của trường đại học. Trong đó, cho phép các
trường tính đủ học phí theo chi phí đào tạo; đây là thông lệ quốc tế, học đại
học là để có nghề, tạo thu nhập kiếm sống nuôi bản thân và gia đình nên
người học phải có trách nhiệm học tốt ngành nghề mình lựa chọn và đóng góp
kinh phí để đáp ứng được yêu cầu. Tuy nhiên, để phù hợp với điều kiện phát
triển kinh tế - xã hội của nước ta trong hiện tại và tương lai, đồng thời nhận
được sự đồng thuận của xã hội thì lộ trình tính đủ chi phí đào tạo giáo dục đại
học trong học phí nên chia thành ba giai đoạn, bao gồm:
Giai đoạn 1: Các trường được phép tính đủ chi phí hoạt động thường
xuyên như tiền lương, tiền công, chi phí hành chính, chi phí chuyên môn…
Giai đoạn 2: Các trường được tính đủ chi phí hoạt động thường xuyên
và chi phí hao mòn tài sản cố định sử dụng cho quá trình đào tạo.
Giai đoạn 3: Các trường được tính đủ chi phí hoạt động thường xuyên,
chi phí hao mòn tài sản cố định và được tính một phần chi phí cho đầu tư phát
triển (tức là có tích lũy để đầu tư cho cơ sở vật chất của nhà trường).
76
Đối với các chương trình đào tạo theo nhu cầu xã hội, theo địa chỉ, theo
đơn đặt hàng, chương trình liên kết, chương trình chất lượng cao… thì cho
phép các trường được tự xác định mức thu học phí nhằm tránh xảy ra hiện
tượng người có nhu cầu phải chuyển sang cơ sở khác hoặc phải ra nước ngoài
học tập dẫn tới không tận thu được nguồn lực đầu tư cho các trường. đây cũng
là giải pháp nhằm giảm áp lực tăng đầu tư ngân sách cho giáo dục đại học.
Để có cơ sở khoa học cho việc xác định mức học phí thì các cơ quan
quản lý cần chỉ đạo các cơ sở đào tạo xây dựng các định mức kinh tế, kỹ thuật
ngành do nhà trường đào tạo, từ đó xây dựng chi phí đơn vị cho mỗi nhóm
ngành đào tạo.
Khi cho phép các trường tính đủ chi phí đào tạo thông qua học phí thì
Nhà nước cần chú ý tới chính sách hỗ trợ cho các đối tượng chính sách như
người có công với đất nước, dân tộc thiểu số, khuyết tật, hộ nghèo, vùng sâu,
vùng xa... để tạo ra sự công bằng xã hội cho mọi tầng lớp nhân dân tham gia
giáo dục đại học. Nhà nước cần đẩy mạnh việc hỗ trợ sinh viên bằng chế độ
cho vay, giảm lãi suất như mở rộng đối tượng cho vay, nâng mức vay đủ đảm
bảo mức đóng học phí và chi phí sinh hoạt trong quá trình học tập, phân loại
đối tượng để thu hồi nợ sớm hơn…
Trong trước mắt và lâu dài, các cơ sở giáo dục đại học công lập vẫn
giữa vai trò chủ đạo trong đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho đất
nước. Vì vậy, Nhà nước cần tăng quy mô ngân sách đầu tư cho các trường.
Tuy nhiên, để phát huy tính tích cực của ngân sách trong việc hỗ trợ, tác
động, điều chỉnh hoạt động đào tạo của các trường theo hướng giảm chi phí,
nâng cao chất lượng; thay đổi cơ cấu, ngành nghề đào tạo phù hợp với quy
hoạch chung thì Nhà nước cần tăng cường biện pháp quản lý chặt chẽ và có
hiệu quả đối với các nguồn đầu tư từ ngân sách bằng việc đổi mới cách phân
bổ ngân sách cho các trường theo hướng công khai hóa, minh bạch hóa quy
77
trình và các tiêu chí đánh giá đầu ra về chất lượng đào tạo, nghiên cứu; dựa
trên nguyên tắc cạnh tranh, thúc đẩy xã hội hóa nhưng vẫn có sự ưu tiên đối
với những lĩnh vực trọng điểm.
4.2.5. Nhóm giải pháp nâng cao tính ràng buộc tổ chức của cơ chế
quản lý tài chính
Một là, để tăng cường tính hiệu quả của cơ sở giáo dục đại học công lập
thì Nhà nước và cộng đồng xã hội cần thừa nhận nhà trường là một chủ thể
pháp lý độc lập, trong cơ chế thị trường nó được điều hành, được hoạt động
giống như những doanh nghiệp không vì lợi nhuận. Về mặt pháp luật, các
trường được quyền thiết lập, quyết định các mức học phí đối với từng chương
trình đào tạo, được quyền hợp tác theo khuôn khổ pháp luật với bất kỳ ai để
tạo nguồn lực, môi trường cho việc theo đuổi sứ mạng riêng của mình.
Hai là, các cơ sở giáo dục đại học công lập cần thành lập Hội đồng
trường theo đúng nghĩa là một Hội đồng có quyền lực cao nhất trong nhà
trường với đầy đủ các thành viên độc lập bên ngoài thay cho Hội đồng trường
mang kiểu hành chính nội bộ như hiện nay (gồm Ban giám hiệu; trưởng phó
các phòng, khoa; đảng ủy, Công đoàn...). Hội đồng trường có vai trò rất quan
trọng, nó chính là nhân tố tạo nên sự đổi mới của một nhà trường vì nó đảm
bảo được tính độc lập, khách quan do số thành viên bên ngoài nhiều hơn bên
trong nhà trường. Việc thành lập Hội đồng trường theo đúng nghĩa sẽ tạo điều
kiện chuyển dần quyền lực từ Bộ chủ quản về nhà trường, từ đó có thể xóa bỏ
cơ chế bộ chủ quản theo Nghị quyết 14/2005 của Chính phủ.
Ba là, để tăng cường khả năng giám sát, tăng cường trách nhiệm giải
trình của các trường thì Nhà nước nên có quy định bắt buộc các trường phải
đăng ký các chỉ tiêu tài chính thực hiện cho từng năm, từng thời kỳ.
Bốn là, các cơ sở giáo dục đại học công lập cần xây dựng được quy chế
chi tiêu nội bộ với các tiêu chí rõ ràng về quyền lợi, nghĩa vụ cho cá nhân, tập
78
thể chủ động hoàn thành và nâng cao chất lượng nhiệm vụ được giao với chi
phí thấp nhất. Thu nhập chi trả cho cán bộ công nhân viên trên nguyên tắc
hiệu quả công việc; có sự khuyến khích, hấp dẫn người có năng lực, có trình
độ và nó được công bố công khai tới mọi thành viên trong nhà trường. Trong
cơ chế điều hành, giám sát, đánh giá của nhà trường cần đảm bảo tính minh
bạch theo các tiêu chí định lượng, không được định tính. Nó chính là thước
đo, tiêu chuẩn cho các cá nhân, đơn vị trong nhà trường thực hiện, phấn đấu
vượt chuẩn.
4.2.6. Nhóm giải pháp nâng cao sự đồng thuận của cộng đồng xã
hội
Bộ Giáo dục và Đào tạo cần hoàn thiện và tổ chức thực hiện kiểm định
chất lượng, xếp hạng các trường để mỗi trường phải tự giác nâng cao chất
lượng, hiệu quả đào tạo; đáp ứng yêu cầu của sinh viên và toàn xã hội.
Chất lượng và hiệu quả luôn là hai yếu tố song hành của mọi hoạt động,
của mọi thời đại. Trong quản lý, nó thể hiện lúc đầu chỉ chú trọng vào chất
lượng nhưng sự ra đời của kinh tế thị trường đã làm cho quản lý ngày càng
chú trọng đến hiệu quả nhiều hơn. Các nhà quản lý đã liên tục cải tiến các
phương pháp để nâng cao chất lượng hiệu quả quản lý.
Hiện nay, các cơ sở giáo dục đại học công lập nước ta đang được quản
lý với nhiều mô hình khác nhau. Nhiều trường Bộ chủ quản quản lý về tổ
chức bộ máy, biên chế, tài chính..., Bộ Giáo dục và Đào tạo chỉ quản lý về
chuyên môn. điều này đang tạo nên sự khép kín trong từng Bộ, ngành, dẫn tới
có sự cục bộ, không có mặt bằng chung về trình độ, chuẩn kiến thức. Chất
lượng đào tạo và nghiên cứu tại các Bộ, ngành là khác nhau. Các trường vẫn
có tư tưởng phụ thuộc trông chờ vào Bộ Giáo dục và Đào tạo; cơ quan chủ
quản đã làm nảy sinh vấn đề chỉ đạo chồng chéo; giảm năng lực, hiệu quả
79
hoạt động càng làm cho các cơ sở giáo dục đại học công lập tụt hậu xa so với
các trường trên thế giới.
Vì vậy, Nhà nước cần thay đổi phương thức quản lý giáo dục đại học
theo hướng một đầu mối. Nhà nước bỏ cơ chế Bộ chủ quản là để không lẫn
lộn, tách bạch rõ chức năng của cơ quan quản lý nhà nước với chức năng tác
nghiệp của các đơn vị cơ sở. Giao cho các trường quyền tự chủ về mọi mặt
(tự chủ về tổ chức, nhân sự, đào tạo, tài chính), tự chịu trách nhiệm trước xã
hội, tự xây dựng, bảo vệ uy tín, thương hiệu của mình trong quá trình phát
triển.
Các trường cần tăng cường trách nhiệm giải trình trước cộng đồng XH.
Ở nước ta, việc thực hiện trách nhiệm giải trình của các trường còn rất yếu, nó
cần được tăng cường theo chủ trương của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Bởi nguồn
kinh phí hoạt động của các trường đa phần là ngân sách cấp và học phí đóng
góp từ người học. Cho nên, các trường phải chịu sự kiểm tra, giám sát của
Nhà nước, của người học, của xã hội. Các trường cần làm tốt việc báo cáo,
giải trình với các đối tượng có liên quan.
Nhà trường cần tăng cường tuyên truyền, phổ biến chủ trương, đường
lối, chính sách của đảng, Nhà nước về cơ chế quản lý tài chính đến cán bộ
công nhân viên trong trường để tạo ra sự chung sức trong khai thác, mở rộng
nguồn thu; nâng cao hiệu quả chi, tiết kiệm, chống lãng phí thì nhà trường cần
chú trọng công tác tuyên truyền, vận động để cán bộ công nhân viên hiểu
đúng vai trò, địa vị pháp lý, nhiệm vụ, sứ mạng của nhà trường. Đảm bảo sự
thống nhất chỉ đạo từ Đảng, chính quyền và các đoàn thể, tạo ra sự đồng
thuận của cán bộ công nhân viên tham gia tìm giải pháp, hướng đi cho sự phát
triển của nhà trường.
80
4.3. Một số điều kiện để thực hiện giải pháp
Các cơ quan chức năng của nhà nước cần nhận thức rõ về chức năng
nhiệm vụ của mình trong quản lý các cơ sở giáo dục đại học công lập.
Thứ nhất, đó là giám sát, kiểm tra, không kiểm soát từng hoạt động
riêng lẻ của nhà trường. Chính vì vậy, các cơ quan chức năng của nhà nước
cần làm tốt vai trò xây dựng “hành lang pháp lý” như điều kiện thành lập; mở
ngành đào tạo; điều lệ trường; quy chế tuyển dụng, đào tạo, tuyển sinh, quản
lý chất lượng; quyền hạn, trách nhiệm của giảng viên; quy chế quản lý tài
chính, xây dựng cơ sở vật chất... nhằm thúc đẩy các trường có trách nhiệm
hơn với Nhà nước, với người học và cộng đồng. Kiên quyết không làm thay
việc của cơ sở, phải để cho các trường tự chủ động thực hiện chức năng,
nhiệm vụ, sứ mạng của mình một cách trách nhiệm và hiệu quả nhất.
Chính phủ cần giao cho các Bộ chuyên ngành nghiên cứu, xây dựng các
chính sách để từng bước giao quyền tự chủ đại học cho các trường, xây dựng
cơ chế quản lý tài chính phù hợp với lộ trình phát triển giáo dục đại học của
đất nước. Cơ chế quản lý tài chính chỉ đạt được kết quả cao, góp phần tích
cực cho việc nâng cao chất lượng đào tạo, nghiên cứu khoa học khi Nhà nước
giao quyền tự chủ đại học cho các trường. Trong đó, quy định rõ trách nhiệm,
phạm vi hoạt động đào tạo của nhà trường, chẳng hạn đưa ra các tiêu chí đối
với trường được giao quyền xây dựng nội dung, chương trình, thời gian đào
tạo. Bởi vì, vấn đề này gắn liền với khả năng khai thác, tìm kiếm nguồn thu
trong lĩnh vực đào tạo. Nếu các trường bị ràng buộc quá chặt chẽ, không được
phép tự chịu trách nhiệm trong thiết kế nội dung, chương trình, thời gian học
thì rất khó thu hút các đối tượng có nhu cầu học tập đến đăng ký theo học.
Khi có ít chương trình, ít người tham gia học tập thì rất khó mở rộng và nâng
cao chất lượng nguồn thu, dẫn tới nhà trường không đủ nguồn lực tài chính
cho việc nâng cao chất lượng đào tạo.
81
Để nâng cao tính hiệu quả và tiết kiệm nguổn lực tài chính cho các
trường thì Nhà nước nên có cơ chế, chính sách và các văn bản pháp quy cho
phép các trường được góp vốn chung cùng đầu tư vào những dự án phục vụ
đào tạo, nghiên cứu khoa học của mỗi trường. Chẳng hạn, góp vốn chung để
mua sắm 1 thiết bị đắt tiền làm công cụ nghiên cứu, học tập cho giảng viên và
sinh viên, cũng như có thêm tài sản để tham gia hoạt động dịch vụ, tăng
nguồn thu. Nhà nước cho phép các trường được toàn quyền sử dụng tài sản để
thế chấp, vay vốn ngân hàng cho mục đích phát triển, nâng cao chất lượng
đào tạo, nghiên cứu khoa học trên nguyên tắc được cấp trên phê duyệt phương
án…
Hai là, việc tăng học phí ở bậc giáo dục đại học là một tất yếu khách
quan nhằm giảm bớt sự bao cấp của ngân sách cho bậc học này, nó cũng là
giải pháp để Nhà nước có thể tập trung chăm lo cho giáo dục phổ thông.
Nhưng để các trường thu đúng, thu đủ chi phí đào tạo từ người học thông qua
học phí thì Nhà nước cần thiết lập khung học phí rộng (theo sự phân tầng và
chất lượng đào tạo), đi kèm với chính sách hỗ trợ như cho vay, trợ cấp cho
sinh viên có hoàn cảnh khó khăn, diện chính sách.
Ba là, xây dựng cơ chế quản lý tài chính phải dựa vào năng lực quản lý,
chất lượng nhà trường.
Trong bối cảnh các cơ sở giáo dục đại học công lập của nước ta chưa có
sự phát triển đồng đều về nhiều mặt như chưa đồng đều về quy mô; chất
lượng đào tạo, nghiên cứu khoa học; có trường có cơ sở vật chất, thiết bị dạy
học; đội ngũ cán bộ, giảng viên còn mỏng, quản lý chưa vững vàng; nhiều
trường chưa đạt chuẩn mực của một cơ sở giáo dục đại học thực thụ. Vì vậy,
Chính phủ không thể đồng loạt và cào bằng trong giao quyền tự chủ, xây
dựng cơ chế quản lý tài chính cho các trường cùng một lúc, mà phải căn cứ
vào chất lượng giáo dục (dựa trên kết quả kiểm định, xếp hạng) và khả năng
82
tài chính. Những trường có chất lượng tốt và có nguồn thu lớn thì sẽ được
giao quyền tự chủ nhiều hơn, cơ chế quản lý tài chính được tự chủ cao hơn.
Có như vậy mới khuyến khích các trường tự năng động, sáng tạo, tự cạnh
tranh để tồn tại và nâng cao chất lượng vì người học.
Các giải pháp hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính theo hướng tạo ra
hành lang pháp lý, môi trường cạnh tranh bình đẳng để các trường tự điều
chỉnh, thay đổi phương thức quản trị theo hướng tiệm cận với quản trị của
doanh nghiệp, gắn chất lượng đào tạo với thu hút sinh viên và tăng nguồn thu.
Việc thay đổi cơ chế phân bổ ngân sách sẽ làm tăng chất lượng, hiệu
quả sử dụng ngân sách. Nhà nước có điều kiện tập trung ngân sách cho những
ngành nghề cần, những ngành nghề xã hội còn đang bị mất cân đối. Trên bình
diện xã hội, giải pháp hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính sẽ làm cho nguồn
lực tài chính công được phân bổ công khai, minh bạch hướng tới các trường
có khả năng sử dụng tốt nhất. Nó tạo ra sự công bằng trong tiếp cận dịch vụ
giáo dục đại học cho mọi đối tượng tham gia là phải trả đủ chi đào tạo. Các
trường có điều kiện huy động nguồn lực cho đầu tư phát triển; cấn bộ công
nhân viên có thêm thu nhập. Tuy nhiên, xây dựng cơ chế quản lý tài chính cần
có lộ trình và được gắn kết với đặc điểm mỗi trường, mỗi thời kỳ.
83
KẾT LUẬN
Trong những năm qua, Nhà nước đã ưu tiên xây dựng, triển khai cải
cách cơ chế quản lý tài chính ở các cơ sở giáo dục đại học công lập nhằm
khuyến khích các cơ sở giáo dục đại học công lập tăng cường công tác
quản lý tài chính đạt hiệu quả cũng như nâng cao chất lượng giáo dục đại
học nhằm cung cấp nguồn nhân lực có trình độ cao cho các ngành kinh
tế xã hội. Tuy nhiên, để mang lại hiệu quả tương xứng thì Nhà nước cùng
các cơ sở giáo dục đại học công lập cần nhận thức vai trò quan trọng của
cơ chế quản lý tài chính. Do vậy, việc hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính
các cơ sở giáo dục đại học công lập đang là yêu cầu cần thiết được đặt ra
nhằm nâng cao chất lượng giáo dục đại học. Đồng thời, nó góp phần đổi
mới cơ chế quản lý tài chính công ở nước ta.
Trên cơ sở xác định rõ mục tiêu, đối tượng, phạm vi nghiên cứu,
luận án đã giải quyết những nội dung cơ bản đã đặt ra:
1. Đã bổ sung và hệ thống hóa cơ sở lý luận, làm rõ bản chất, phân
tích các nhân tố ảnh hưởng đến cơ chế quản lý tài chính; tổng kết bài học
kinh nghiệm của một số nước về cơ chế quản lý tài chính; đưa ra các tiêu
chí đánh giá mức độ hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính.
2. Phân tích thực trạng Nghị quyết 77 của Chính phủ và tác động của
Nghị quyết 77 đến hoạt động giáo dục đại học của các trường. Cụ thể,
Nghị quyết tạo tiền đề thúc đẩy sự đa dạng hóa hoạt động, đa dạng hóa
nguồn thu, các trường nâng cao được hiệu quả sử dụng nguồn tài chính để
tăng thu nhập cho cán bộ công nhân viên; nâng cấp cơ sở vật chất phục
vụ đào tạo, nghiên cứu khoa học. Luận văn cũng chỉ ra những điểm còn
hạn chế trong cơ chế quản lý tài chính cần được thay đổi, hoàn chỉnh hơn.
3. Luận văn đưa ra các nhóm giải pháp hoàn thiện cơ chế quản lý tài
84
chính cơ sở giáo dục đại học công lập, phù hợp với hoàn cảnh của Việt
Nam nhằm tăng tính tự chủ, tăng trách nhiệm giải trình của các nhà
trường trước Nhà nước, người học và cộng đồng xã hội.
Những kết quả thu được của luận án có ý nghĩa cả về lý luận và thực
tiễn, nó góp phần vào việc hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính cơ sở giáo
dục đại học công lập ở nước ta trong tiến trình cải cách giáo dục và đổi
mới cơ chế quản lý tài chính công. Với những kết quả đã đạt được, có thể
khẳng định việc hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính và giao quyền tự chủ
tài chính ở mức độ cao cho các cơ sở giáo dục công lập là phù hợp với xu
thế phát triển của thời đại, tạo điều kiện cho các trường vươn lên chủ
động hội nhập quốc tế.
85
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu Tiếng Việt
1. Bộ Giáo dục và Đào tạo, 2007. Quyết định số 43/2007/QĐ-
BGDĐT ngày 15 tháng 8 năm 2007 ban hành Quy chế đào tạo đại học và
cao đẳng hệ chính quy theo hệ thống tín chỉ. Hà Nội, tháng 8 năm 2007.
2. Bộ Giáo dục và Đào tạo, 2009. Đề án đổi mới cơ chế tài chính
giáo dục giai đoạn 2009 - 2014. Hà Nội, tháng 5 năm 2009.
3. Bộ Tài chính và Ủy ban Tài chính - Ngân sách của Quốc hội,
2012. Kỷ yếu hội thảo Đổi mới cơ chế tài chính giáo dục đại học công
lập. Hà Nội, tháng 11 năm 2012.
4. Bộ Tài chính, 2006. Thông tư số 71/2006/TT-BTC ngày 09 tháng
8 năm 2006 hướng dẫn thực hiện nghị định số 43/2006/NĐ-CP ngày
25/4/2006 của chính phủ quy định quyền tự chủ,tự chịu trách nhiệm về
thực hiện, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với đơn vị
sự nghiệp công lập. Hà Nội, tháng 8 năm 2006.
5. Bộ Tài chính, 2011. Đánh giá tình hình thực hiện tự chủ tài chính
và định hướng đổi mới cơ chế tài chính đối với các trường đại học công
lập giai đoạn 2012-2020. Hà Nội, năm 2011
6. Chính phủ, 2010. Nghị định số 49/2010/NĐ-CP ngày 14 tháng 5
năm 2010 quy định về miễn giảm học phí, hỗ trợ chi phí học tập và cơ
chế thu, sử dụng học phí đối với cơ sở giáo dục thuộc hệ thống giáodục
quốc dân từ năm học 2010 - 2011 đến năm học 2014 - 2015. Hà Nội,
tháng 5 năm 2010.
7. Chính phủ, 2014. Nghị quyết số 77/NQ-CP ngày 24 tháng 10 năm
2014 về thí điểm đổi mới cơ chế hoạt động đối với các cơ sở giáo dục Đại
học công lập giai đoạn 2014 - 2017. Hà Nội, tháng 10 năm 2014.
86
8. Chính phủ, 2015. Nghị định số 16/2015/NĐ-CP ngày 14 tháng 02
năm 2015 về việc quy định cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập.
Hà Nội, tháng 02 năm 2015.
9. Chính phủ, 2015. Nghị định số 86/2015/NĐ-CP ngày 02 tháng 10
năm 2015 quy định về cơ chế thu, quản lý học phí đối với cơ sở giáo dục
thuộc hệ thống giáo dục quốc dân và chính sách miễn, giảm học phí, hỗ
trợ chi phí học tập từ năm học 2015 - 2016 đến năm học 2020 - 2021. Hà
Nội, tháng 10 năm 2015.
10. Hoàng Văn Châu, 2011. Một số vấn đề về thực hiện tự chủ, tự
chịu trách nhiệm tại trường ĐH Ngoại Thương. Hội thảo khoa học: Đổi
mới cơ chế tài chính đối với cơ sở giáo dục đại học công lập. Bộ Tài
chính, Hà Nội, tháng 11 năm 2011.
11. Ngô Thế Chi, 2011. Tiếp tục đổi mới cơ chế tài chính đối với cơ
sở Giáo dục Đại học công lập. Hội thảo khoa học: Đổi mới cơ chế tài
chính đối với cơ sở giáo dục đại học công lập. Bộ Tài chính, Hà Nội,
tháng 11 năm 2011.
12. Đặng Văn Du, 2004. Các giải pháp nâng cao hiệu quả đầu tư tài
chính cho đào tạo Đại học ở Việt Nam. Luận án Tiến sĩ. Học viện Tài
chính.
13. Đỗ Thị Thùy Dương, 2015. Hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính
đối với giáo dục đại học công lập ở Việt Nam: Trường hợp Đại học Quốc
Gia Hà Nội. Luận văn Thạc sĩ. Trường Đại học Kinh tế - Đại học Quốc
gia Hà Nội.
14. Nguyễn Trường Giang, 2014. Đổi mới cơ chế tài chính góp phần
cải cách giáo dục đại học. Hội thảo Cải cách giáo dục đại học VED 2014.
Nhóm Đối thoại giáo dục phối hợp với Lãnh sự quán Hoa Kỳ, Thành phố
Hồ Chí Minh, tháng 8 năm 2014.
87
15. Bùi Tiến Hanh, 2006. Hoàn thiện cơ chế tài chính nhằm thúc
đẩy xã hội hóa giáo dục Việt Nam. Luận án Tiến sĩ. Học viện Tài chính.
16. Hoàng Trần Hậu, 2011. Tự chủ ĐH qua nghiên cứu tình huống
Học viện Tài chính. Hội thảo khoa học: Đổi mới cơ chế tài chính đối với
cơ sở giáo dục đại học công lập. Bộ Tài chính, Hà Nội, tháng 11 năm
2011.
17. Lê Phước Minh, 2005. Hoàn thiện chính sách tài chính cho giáo
dục đại học Việt Nam. Luận án Tiến sĩ. Học viện Ngân hàng.
18. Phạm Văn Ngọc, 2007. Hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính của
ĐHQGHN trong tiến trình đổi mới quản lý tài chính công ở nước ta hiện
nay. Luận án Tiến sĩ. Học viện Chính trị Quốc gia.
19. Quốc hội, 2012. Luật Giáo dục đại học số 08/2012/QH13.
20. Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội, 2017. Đề án thí điểm đổi
mới cơ chế hoạt động theo Nghị quyết 77/NQ-CP. Hà Nội, tháng 4 năm
2017.
21. Trường Đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh, 2014. Đề
án thí điểm đổi mới cơ chế hoạt động theo Nghị quyết 77/NQ-CP. Thành
phố Hồ Chí Minh, tháng 12 năm 2014.
22. Trường Đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh, 2016.
Báo cáo tình hình thực hiện thí điểm đổi mới cơ chế hoạt động theo Nghị
quyết 77/NQ-CP. Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 9 năm 2016.
23. Trường Đại học Công nghiệp thực phẩm Thành phố Hồ Chí
Minh, 2015. Đề án thí điểm đổi mới cơ chế hoạt động theo Nghị quyết
77/NQ-CP. Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 01 năm 2015.
24. Trường Đại học Công nghiệp Thực phẩm Thành phố Hồ Chí
Minh, 2016. Báo cáo tình hình thực hiện thí điểm đổi mới cơ chế hoạt
động theo Nghị quyết 77/NQ-CP. Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 9 năm 2016.
88
25. Trường Đại học Điện lực, 2015. Đề án thí điểm đổi mới cơ chế
hoạt động theo Nghị quyết 77/NQ-CP. Hà Nội, tháng 3 năm 2015.
26. Trường Đại học Điện lực, 2016. Báo cáo tình hình thực hiện thí
điểm đổi mới cơ chế hoạt động theo Nghị quyết 77/NQ-CP. Hà Nội, tháng
9 năm 2016.
27. Đỗ Hoàng Toàn và Mai Văn Bưu, 2005. Giáo trình quản lý nhà
nước về kinh tế. Trường Đại học Kinh tế quốc dân.
28. Nguyễn Thanh Tuyền, 2009. Tự chủ tài chính: Yếu tố quan trọng
trong việc mở rộng quyền tự chủ toàn diện đối với các trường Đại học.
Hội thảo khoa học: Vấn đề tự chủ - tự chịu trách nhiệm ở các trường Đại
học, Cao đẳng Việt Nam. Hiệp hội các trường Đại học và Cao đẳng Việt
Nam, Đắk Lắk, tháng 10 năm 2009.
29. Viện ngôn ngữ học, 2010. Từ điển tiếng Việt. Hà Nội: Nhà xuất
bản Phương Đông.
Tài liệu Internet
30. Phạm Thị Vân Anh, 2017. Cơ sở pháp lý về tự chủ tài chính với
chinh-sach/binh-luan-chinh-sach/co-so-phap-ly-ve-tu-chu-tai-chinh-voi-giao-
duc-dai-hoc-va-nhung-van-de-dat-ra-114412.html>. [Ngày truy cập: 09 tháng 6
năm 2017]
giáo dục đại học và những vấn đề đặt ra. 31. Vũ Minh Đạo, 2017. Đổi mới cơ chế hoạt động của các cơ sở doi/trao-doi-binh-luan/doi-moi-co-che-hoat-dong-cua-cac-co-so-giao-duc-dai- hoc-cong-lap-114342.html>. [Ngày truy cập: 09 tháng 6 năm 2017] giáo dục đại học công lập. 32. Vũ Trường Giang, 2011. Tài chính cho giáo dục đại học ở một số nước trên thế giới và khuyến nghị đối với Việt Nam. 89 thuc/2011/12794/Tai-chinh-cho-giao-duc-dai-hoc-o-mot-so-nuoc-tren.aspx >. [Ngày truy cập: 09 tháng 6 năm 2017] 33. Nguyễn Thị Ngọc Loan, 2016. Tự chủ tài chính đối với đại học công lập: Lý luận và giải pháp. trao-doi/trao-doi-binh-luan/tu-chu-tai-chinh-doi-voi-dai-hoc-cong-lap-ly- luan-va-giai-phap-96896.html>. [Ngày truy cập: 09 tháng 6 năm 2017] 34. Nguyễn Thiện Nhân, 2010. Đổi mới giáo dục đại học Việt Nam giao-duc-dai-hoc-Viet-Nam-theo-dung-quy-luat-phat-trien/20106/32482.vgp >. [Ngày truy cập: 09 tháng 6 năm 2017] theo đúng quy luật phát triển. 35. Hoàn Nhung, 2017. Tự chủ tài chính với giáo dục đại học và một luan/tu-chu-tai-chinh-voi-giao-duc-dai-hoc-va-mot-so-van-de-dat-ra- 106554.html>. [Ngày truy cập: 09 tháng 6 năm 2017] số vấn đề đặt ra. 90