BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ

…………/………… ……/……

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

ĐÀO NGỌC KHÁNH

CÔNG TÁC QUẢN LÝ TÀI CHÍNH TẠI CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG LẬP KHỐI NGÀNH KINH TẾ

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG

HÀ NỘI - NĂM 2024

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ

…………/………… ……/……

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

ĐÀO NGỌC KHÁNH

CÔNG TÁC QUẢN LÝ TÀI CHÍNH

TẠI CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG LẬP KHỐI NGÀNH KINH TẾ

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG

Chuyên ngành: QUẢN LÝ CÔNG

Mã số: 8340403

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC TS. PHẠM THỊ THANH VÂN

HÀ NỘI - NĂM 2024

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan bản luận văn là công trình nghiên cứu của riêng

tôi. Các số liệu kết quả nêu trong luận văn là trung thực có nguồn gốc rõ

ràng và được trích dẫn đầy đủ theo quy định.

Học viên

iii

Đào Ngọc Khánh

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BTC: Bộ Tài chính

CSGDĐHCL: Cơ sở giáo dục đại học công lập

DN: Doanh nghiệp

ĐH: Đại học

ĐHCL: Đại học công lập

ĐVSNCL: Đơn vị sự nghiệp công lập

GDĐH: Giáo dục đại học

GD&ĐT: Giáo dục và Đào tạo

GDĐHCL: Giáo dục đại học công lập

NSNN: Ngân sách nhà nước

NCKH: Nghiên cứu khoa học

KHCN: Khoa học công nghệ

TT: Trung tâm

DANH MỤC BẢNG, HÌNH

Bảng 2.1: So sánh kế hoạch thu và kết quả thực hiện của 3 trường: ĐH Ngoại

thương, ĐH Mở Hà Nội, ĐH Tài chính - QTKD (2021 - 2023) Lỗi!

Thẻ đánh dấu không được xác định.0

Bảng 2.2: Cơ sở vật chất của 3 trường năm học 2022 - 2023: ĐH Ngoại

thương, ĐH Mở Hà Nội, ĐH Tài chính - QTKD ........ 75Lỗi! Thẻ

đánh dấu không được xác định.

Mô hình 3.1: Mô hình chi phí theo hoạt động cho các trường đại học ........ 92

iv

Bảng 3.2: Bảng xác định các trung tâm trách nhiệm .................................. 94

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1

Chương 1: CƠ SỞ KHOA HỌC VỀ CÔNG TÁC QUẢN LÝ TÀI

CHÍNH TẠI CÁC ĐƠN VỊ SỰ NGHIỆP CÔNG LẬP ................................... 8

1.1. Tổng quan về đơn vị sự nghiệp công lập ................................................... 8

1.2. Công tác quản lý tài chính tại các đơn vị sự nghiệp công lập ..... Lỗi! Thẻ

đánh dấu không được xác định.

1.3. Kinh nghiệm công tác quản lý tài chính tại các trường đại học công lập

khối ngành kinh tế trên thế giới và bài học cho Việt Nam . Lỗi! Thẻ đánh dấu

không được xác định.

Chương 2: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ TÀI CHÍNH TẠI

CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG LẬP KHỐI NGÀNH KINH TẾLỗi! Thẻ

đánh dấu không được xác định.

2.1. Khái quát về các trường đại học công lập khối ngành kinh tế ...... Lỗi! Thẻ

đánh dấu không được xác định.

2.2. Thực trạng công tác quản lý tài chính tại các trường đại học công lập khối

ngành kinh tế ................................. Lỗi! Thẻ đánh dấu không được xác định.

2.3. Đánh giá về công tác quản lý tài chính tại các trường đại học công lập

khối ngành kinh tế ........................ Lỗi! Thẻ đánh dấu không được xác định.

Chương 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÔNG

TÁC QUẢN LÝ TÀI CHÍNH TẠI CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG

LẬP KHỐI NGÀNH KINH TẾ .................................................................... 80

3.1. Định hướng phát triển công tác quản lý tài chính tại các trường đại học

công lập khối ngành kinh tế trong những năm tới .......................................... 80

3.2. Giải pháp hoàn thiện công tác quản lý tài chính tại các trường đại học

v

công lập khối ngành kinh tế .......... Lỗi! Thẻ đánh dấu không được xác định.

3.3. Các kiến nghị ........................ Lỗi! Thẻ đánh dấu không được xác định.0

KẾT LUẬN ................................. Lỗi! Thẻ đánh dấu không được xác định.1

vi

TÀI LIỆU THAM KHẢO ............. Lỗi! Thẻ đánh dấu không được xác định.

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu

Sự phát triển cả về chất và lượng của GDĐH là một trong những yếu tố

cần thiết để phát triển bền vững nền kinh tế và là mục tiêu cao nhất được đặt ra

trong những năm gần đây. Trong bối cảnh chịu sự cạnh tranh với GDĐH trên

thế giới, bản thân các trường ĐHCL trong nước muốn tìm được chỗ đứng luôn

phải nỗ lực không ngừng nhằm nâng cao chất lượng đào tạo và các dịch vụ đào

tạo khác mà trường cung cấp.

Chất lượng GDĐH không chỉ được đánh giá thông qua chất lượng giảng

dạy, mà còn thông qua các tiêu chí cơ bản khác, như khung chương trình đào

tạo, cơ sở hạ tầng, chất lượng đội ngũ giảng dạy, khả năng nghiên cứu… những

tiêu chí này bị chi phối và chịu ảnh hưởng lớn từ nhân tố tài chính. Bởi lẽ, chỉ

khi nguồn tài chính được đảm bảo và được phân chia hợp lý thì các tiêu chí này

mới đem lại hiệu quả và ngược lại, những tiêu chí đánh giá chất lượng được

đảm bảo cũng là nền tảng cho việc tăng uy tín, tăng lượng sinh viên muốn theo

học, thu hút sự đầu tư của xã hội cho GDĐH… từ đó làm tăng nguồn thu cho

các đơn vị.

Ở Việt Nam, nhiều nghiên cứu cũng đã cho thấy, đổi mới cơ chế tự chủ

đồng nghĩa với tái cơ cấu hệ thống giáo dục đào tạo và nhà trường. Cùng với

việc tái cơ cấu này, nhà trường sẽ phải thay đổi cơ chế quản lý trường theo mô

hình truyền thống, và chuyển sang trạng thái năng động như DN để đa dạng

hóa nguồn thu, cải thiện thu nhập cho người lao động, thu hút và khuyến khích

nhân tài. Trước đây, quan hệ trong các trường ĐH rất hạn chế, các trường chỉ

chú trọng đến việc điều hành các hoạt động thường nhật. Ngày nay, các trường

không còn thu mình được nữa, không thể hoạt động độc lập mà đang chịu sự

1

giám sát và đánh giá của xã hội. Chính vì vậy lãnh đạo các trường ĐH phải tự

xem trường mình là những DN thực thụ và phải thường xuyên điều chỉnh chiến

lược phát triển trong môi trường cạnh tranh hiện nay. Theo GS.TSKH Bùi Văn

Ga - Thứ trưởng Bộ GD&ĐT, các trường ĐH Việt Nam phải áp dụng mô hình

quản lý theo kiểu công ty. Tuy nhiên, khác với tài chính trong các công ty, việc

quản lý tài chính trong các tổ chức công vẫn còn khá mơ hồ và chưa thật sự

đem lại hiệu quả trong quá trình hoạt động. Trong lĩnh vực NCKH thì nội dung

này chưa được tìm hiểu một cách bài bản. Vì thế, các trường ĐHCL đang gặp

nhiều khó khăn và lúng túng cả về lý luận và thực tiễn về quản lý và công tác

quản lý tài chính tại làm sao đáp ứng được nhu cầu của xã hội về chất lượng

đào tạo.

Sau khi hội nhập kinh tế toàn cầu thì các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư

vào Việt Nam nhiều hơn, kéo theo nhu cầu công việc, các ngành nghề tăng lên,

đặc biệt là ngành kinh tế. Kinh tế - Quản trị là lĩnh vực rộng và có nhiều tiềm

năng để phát triển cũng như cần đội ngũ nguồn nhân lực có kiến thức, có kỹ

năng. Ngành kinh tế là một trong những khối ngành luôn thu hút nhiều thí sinh

trong những năm qua bởi tiềm năng đem đến cơ hội việc làm rộng mở cho

người học sau khi tốt nghiệp.

Với các lý do nêu trên, tác giả đã chọn đề tài “Công tác quản lý tài chính

tại các trường đại học công lập khối ngành kinh tế” làm luận văn thạc sỹ

chuyên ngành quản lý công.

2. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

Quản lý nói chung, quản lý tài chính nói riêng luôn là chủ đề được các

nhà nghiên cứu, nhà quản lý chú ý và đi sâu tìm hiểu. Việc giải quyết khó khăn,

vướng mắc, hoàn thiện quản lý nói chung, quản lý tài chính nói riêng khi đứng

dưới góc độ quản lý nhà nước đã được xem xét và phân tích ở nhiều đề tài

nghiên cứu, ở nhiều lĩnh vực khác nhau. Một số đề tài có thể kể tới:

2

- Đề tài luận văn tiến sĩ (2012), "Quản lý tài chính các trường đại học công

lập ở Việt Nam" [27], tác giả Vũ Thị Thanh Thủy đã phân tích, đánh giá những

kết quả đạt được, những hạn chế trong quản lý tài chính đối với các trường đại

học công lập ở Việt Nam. Đồng thời cũng chỉ ra những nguyên nhân dẫn đến

hạn chế và đề xuất nhóm giải pháp vĩ mô và nhóm giải pháp vi mô một cách

khá toàn diện, nhằm hoàn thiện quản lý tài chính đối với các trường đại học

công lập Việt Nam.

- Đề tài luận văn tiến sĩ (2016), "Quản lý tài chính các trường đại học công

lập trực thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo ở Việt Nam" [13], tác giả Lương Thị

Huyền đã nghiên cứu thực trạng quản lý thu, quản lý chi và quản lý việc phân

phối kết quả hoạt động tài chính tại các trường đại học công lập thuộc Bộ Giáo

dục và Đào tạo, với 3 trường được chọn mẫu điển hình, thuộc các mức độ phân

loại tự đảm bảo chi phí hoạt động thường xuyên khác nhau, để chỉ ra những kết

quả đạt được, những hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế đối với các cơ

chế hiện hành.

- Đề tài luận văn tiến sĩ (2017), "Quản lý tài chính các trường đại học công

lập trực thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh

trong điều kiện tự chủ" [14], tác giả Trương Thị Hiền đã tổng kết và có những

đánh giá khá cụ thể về quản lý tài chính các trường đại học công lập trực thuộc

Bộ Giáo dục và Đào tạo trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh, đi sâu nghiên

cứu công tác quản lý tài chính các trường đại học công lập trong điều kiện tự

chủ.

- Đề tài luận văn tiến sĩ (2019), "Quản lý tài chính các đơn vị sự nghiệp

đào tạo, bồi dưỡng trực thuộc Bộ Giao thông vận tải" [36], tác giả Đinh Thị Hải

Yến đã trình bày có hệ thống cơ sở khoa học về quản lý tài chính đơn vị sự

nghiệp công lập đào tạo, bồi dưỡng.

Bên cạnh những đề tài khoa học, vấn đề quản lý tài chính cũng là một

3

trong những nội dung được đề cập đến trong nhiều đầu sách và bài báo. Có thể

kể đến như Phạm Thị Thanh Vân (2022), với bài viết “Hoàn thiện quản lý tài

chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập”, đăng trên Tạp chí Quản lý nhà nước

– Số 316 (5/2022) [35]. Qua bài viết, tác giả đã đưa đến cho độc giả những

nhận thức khái quát về quản lý tài chính đối với ĐVSNCL, những nội dung mới

trong quy định của Nghị định số 60/2021/NĐ-CP và những điểm còn hạn chế,

gây khó khăn cho các ĐVSNCL khi thực hiện Nghị định này; qua phân tích,

tác giả đã đề xuất một số giải pháp thực hiện nhằm hoàn thiện quản lý tài chính

của ĐVSNCL.

Các công trình liên quan đến công tác quản lý tài chính nói chung đều

tập trung phân tích và tìm ra giải pháp nhằm hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính,

tăng cường tự chủ tài chính của các đơn vị sự nghiệp, các trường đại học công

lập nói chung hoặc các trường đại học công lập tại một Bộ, ngành nhưng chưa

có một công trình khoa học nào nghiên cứu và công bố đề cập đến quản lý tài

chính các các trường đại học công lập khối ngành kinh tế. Vì vậy, nghiên cứu

của đề tài không có sự trùng lặp với các công trình trên, trong phạm vi nghiên

cứu được đặt ra, đề tài sẽ giải quyết những hạn chế, vướng mắc trong công tác

quản lý tài chính tại các trường ĐHCL khối ngành kinh tế.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu của luận văn là xây dựng những luận cứ khoa học

về công tác quản lý tài chính tại các ĐVSNCL, từ đó đề xuất các giải pháp để

áp dụng công tác quản lý tài chính tại các trường ĐHCL khối ngành kinh tế.

Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, luận văn có nhiệm vụ:

- Tổng kết và hệ thống hóa những vấn đề lý luận về ĐVSNCL với những

vai trò và đặc điểm cơ bản, quản lý và chức năng của quản lý, đưa ra khái niệm

riêng về công tác quản lý tài chính tại ĐVSNCL và chỉ ra mục tiêu, nội dung

4

khi thực hiện công tác quản lý tài chính tại các ĐVSNCL.

- Phân tích và đánh giá thực trạng công tác quản lý tài chính tại các

trường ĐHCL khối ngành kinh tế, trong đó tập trung trên ba khía cạnh: quản lý

thu, quản lý chi, quản lý tài sản trong các đơn vị này, đồng thời xác định rõ kết

quả đạt được, những tồn tại bất cập và nguyên nhân của những bất cập đó trong

việc công tác quản lý tài chính tại các trường ĐHCL khối ngành kinh tế hiện

nay.

- Trên cơ sở định hướng phát triển công tác quản lý tài chính tại các

trường ĐHCL khối ngành kinh tế, dựa trên những đánh giá thực trạng để đề

xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản lý tài chính tại các trường

ĐHCL khối ngành kinh tế trong thời gian tới.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

- Đối tượng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận và

thực tiễn về công tác quản lý tài chính tại trong các trường ĐHCL khối ngành

kinh tế.

- Phạm vi nghiên cứu:

+ Phạm vi không gian: Đề tài nghiên cứu công tác công tác quản lý tài chính tại các trường ĐHCL khối ngành kinh tế, trong đó 03 trường ĐH được tác giả chọn mẫu điển hình là: Trường ĐH Ngoại thương và Trường ĐH Tài chính - QTKD - trường đào tạo tất cả các ngành thuộc kinh tế, Trường ĐH Mở Hà Nội - trường trường đào tạo một số ngành thuộc kinh tế. Theo Nghị định số 60/2021/NĐ-CP, Trường ĐH Ngoại thương là trường có nguồn thu tự bảo đảm chi thường xuyên và chi đầu tư, Trường ĐH Mở Hà Nội là trường có nguồn thu tự bảo đảm chi thường xuyên; Trường ĐH Tài chính - QTKD là trường có nguồn thu tự bảo đảm một phần chi thường xuyên (khoảng 40%).

+ Phạm vi thời gian: Các số liệu được thu thập cho giai đoạn 2021-2023,

định hướng nghiên cứu đến năm 2030 và những năm sau.

5

5. Phương pháp nghiên cứu

Luận văn sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng

và duy vật lịch sử để nghiên cứu các vấn đề, đảm bảo tính logic, tính toàn diện,

tính hệ thống và tính thực tiễn, đồng thời luận văn sử dụng tổng hợp các phương

pháp NCKH kinh tế như: phương pháp phân tích, phương pháp hệ thống hóa,

phương pháp so sánh, phương pháp diễn giải…

Phương pháp phân tích định tính sẽ được dùng để phân tích thực tế quản

lý tài chính trong các trường ĐHCL khối ngành kinh tế.

6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn

Về mặt lý luận, luận văn làm rõ bản chất của công tác quản lý tài chính

tại ĐVSNCL, đưa ra các mục tiêu của công tác quản lý tài chính tại ĐVSNCL,

đặc biệt đã đưa ra nội dung công tác quản lý tài chính tại ĐVSNCL trên ba khía

cạnh: quản lý thu, quản lý chi, quản lý tài sản theo quy trình quản lý, đồng thời

làm rõ việc áp dụng các công cụ công tác quản lý tài chính tại được áp dụng cụ

thể vào từng nội dung quản lý thu, quản lý chi, quản lý tài sản như thế nào.

Về mặt thực tiễn, luận văn tiến hành phân tích thực trạng công tác quản

lý tài chính tại các trường ĐHCL khối ngành kinh tế, trong đó tập trung trên ba

khía cạnh: quản lý thu, quản lý chi, quản lý tài sản. Đánh giá những kết quả đạt

được, hạn chế và nguyên nhân của hạn chế trong công tác quản lý tài chính tại

các trường ĐHCL khối ngành kinh tế. Từ đó, đưa ra một số giải pháp có tính

thực tiễn nhằm hoàn thiện công tác quản lý tài chính tại các trường ĐHCL khối

ngành kinh tế trong thời gian tới. Kết quả nghiên cứu sẽ là tài liệu tham khảo

cho những nghiên cứu tiếp theo về công tác quản lý tài chính tại các trường

ĐHCL khối ngành kinh tế.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn

được kết cấu thành 03 chương:

6

Chương 1: Cơ sở khoa học về công tác quản lý tài chính tại các ĐVSNCL.

Chương 2: Thực trạng công tác quản lý tài chính tại các trường ĐHCL

khối ngành kinh tế.

Chương 3: Định hướng và giải pháp hoàn thiện công tác quản lý tài chính

7

tại các trường ĐHCL khối ngành kinh tế.

Chương 1

CƠ SỞ KHOA HỌC VỀ CÔNG TÁC QUẢN LÝ TÀI CHÍNH

TẠI CÁC ĐƠN VỊ SỰ NGHIỆP CÔNG LẬP

1.1. Tổng quan về đơn vị sự nghiệp công lập

1.1.1. Khái niệm, vai trò của đơn vị sự nghiệp công lập

Theo khoản 1 Điều 2 Nghị định số 60/2021/NĐ-CP, ĐVSNCL là tổ chức

"do cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước thành lập theo quy định của pháp

luật, có tư cách pháp nhân, có con dấu, tài khoản riêng theo quy định của pháp

luật, cung cấp dịch vụ sự nghiệp công hoặc phục vụ quản lý nhà nước” [7].

Theo khái niệm trên, ĐVSNCL được thành lập với vai trò:

Thứ nhất, các ĐVSNCL cung cấp các dịch vụ công phục vụ nhân dân

trong các lĩnh vực y tế, giáo dục, khoa học, văn hóa,... với chất lượng ngày càng

cao và đa dạng về loại hình dịch vụ, qua đó đáp ngày càng tốt hơn các nhu cầu

của xã hội.

Thứ hai, các ĐVSNCL đảm bảo cung cấp các dịch vụ cơ bản, thiết yếu

đáp ứng nhu cầu của xã hội, như: về y tế, giáo dục tại miền núi, vùng dân tộc

thiểu số, hải đảo, biên giới, vùng sâu, vùng xa, vùng có điều kiện kinh tế - xã

hội đặc biệt khó khăn.

Thứ ba, các ĐVSNCL thực hiện chức năng về quản lý nhà nước, như:

thực hiện chức năng kiểm định, hiệu chuẩn, kiểm tra chất lượng sản phẩm, hàng

hóa; nghiên cứu, xây dựng định mức kinh tế - kỹ thuật theo yêu cầu; quản lý

thông tin, tư liệu, số liệu về lĩnh vực quản lý nhà nước được phân công;....

Thứ tư, các ĐVSNCL thực hiện các nhiệm vụ được nhà nước giao, như:

thực hiện khám chữa bệnh và bảo vệ sức khỏe cho nhân dân; thực hiện đào tạo,

cung cấp cho xã hội nguồn nhân lực chất lượng cao; thực hiện nghiên cứu, ứng

8

dụng các kết quả KHCN; cung cấp các sản phẩm văn hóa, nghệ thuật... làm

giàu đời sống tinh thần cho người dân.

Thứ năm, ở mỗi lĩnh vực hoạt động, các ĐVSNCL đều có vai trò chính

trong việc đề xuất, tham gia thực hiện các đề tài, đề án, nhiệm vụ, thông qua đó

góp phần vào việc hoạch định, thực thi các chính sách phát triển chung của đất

nước.

Thứ sáu, việc không ngừng đa dạng hóa các sản phẩm, dịch vụ theo chức

năng, nhiệm vụ được pháp luật quy định của các ĐVSNCL đã khuyến khích và

huy động các nguồn lực trong xã hội, đóng góp vào sự phát triển kinh tế chung

của đất nước.

1.1.2. Phân loại đơn vị sự nghiệp công lập

Mỗi tiêu chí có cách phân loại ĐVSNCL khác nhau. Từ góc độ pháp lý,

xét trên tiêu chí cơ quan có thẩm quyền thành lập, ĐVSNCL có thể chia thành

các nhóm: Một là, ĐVSNCL thuộc phạm vi quản lý của Bộ và cơ quan ngang

bộ: ĐVSNCL thuộc Bộ; ĐVSNCL thuộc Tổng cục và các tổ chức tương đương

Tổng cục thuộc Bộ; ĐVSNCL thuộc Cục, Chi cục thuộc Cục thuộc Bộ;

ĐVSNCL thuộc Văn phòng thuộc Bộ; ĐVSNCL thuộc Cục thuộc Tổng cục

thuộc Bộ. Hai là, ĐVSNCL thuộc Cơ quan thuộc Chính phủ, bao gồm cả các

ĐVSNCL ở nước ngoài. Ba là, ĐVSNCL thuộc tổ chức do Chính phủ, Thủ

tướng Chính phủ thành lập nhưng không phải là ĐVSNCL. Bốn là, ĐVSNCL

thuộc phạm vi quản lý của Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung

ương: ĐVSNCL thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh (ví dụ Đài phát thanh truyền hình);

đơn vị nghiệp công lập thuộc cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh

(Sở) (ví dụ Bệnh viện Thanh Nhàn thuộc Sở Y tế Hà Nội); ĐVSNCL thuộc Chi

cục và tương đương thuộc Sở (ví dụ Trung tâm Kỹ thuật TCĐLCL thuộc Chi

cục TCĐLCL thuộc sở KHCN Cà Mau); ĐVSNCL thuộc tổ chức hành chính

khác thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh. Năm là, ĐVSNCL thuộc Ủy ban nhân

9

dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực

thuộc trung ương (ví dụ Trung tâm giáo dục thường xuyên huyện, Trung tâm

dịch vụ nông nghiệp,..).

Nếu phân loại theo ngành, lĩnh vực hoạt động, gồm: ĐVSNCL trong lĩnh

vực y tế, gồm các cơ sở khám, chữa bệnh (bệnh viện thuộc sở y tế, trung tâm y

tế huyện,...); ĐVSNCL trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo, gồm các cơ sở giáo

dục (giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, giáo dục đại học, giáo dục nghề

nghiệp,...); ĐVSNCL trong lĩnh vực KHCN, là các tổ chức KHCN công lập;

ĐVSNCL trong lĩnh vực văn hóa, thể thao, du lịch (các đơn vị nghệ thuật biểu

diễn công lập; ĐVSNCL trong lĩnh vực thông tin và truyền thông;...

Phân loại theo mức độ tự chủ về tài chính, ĐVSNCL được chia thành 04

nhóm: ĐVSNCL tự đảm bảo chi thường xuyên và chi đầu tư; ĐVSNCL tự đảm

bảo chi thường xuyên; ĐVSNCL tự đảm bảo một phần chi thường xuyên;

ĐVSNCL do Nhà nước đảm bảo chi thường xuyên.

1.2. Công tác quản lý tài chính tại các đơn vị sự nghiệp công lập

1.2.1. Khái niệm công tác quản lý tài chính tại các đơn vị sự nghiệp

công lập

Quản lý là một loạt các hoạt động (bao gồm lập kế hoạch và ra quyết

định, tổ chức, lãnh đạo và kiểm soát) với đối tượng là các nguồn lực của một

tổ chức (con người, tài chính, vật chất và thông tin) với mục tiêu nhằm đạt được

các mục đích của tổ chức một cách có kết quả và có hiệu quả. Có hiệu quả nghĩa

là thực hiện công việc một cách đúng đắn và liên quan đến mối quan hệ giữa

đầu vào và đầu ra. Có kết quả nghĩa là theo đuổi các hoạt động một cách thành

công hay nói cách khác là thực hiện đúng công việc.

Công tác quản lý tài chính tại các ĐVSNCL bản thân đã là một hoạt động

quản lý. Bản chất của quản lý là một quá trình tác động thường xuyên và có tổ

10

chức của chủ thể quản lý đến đối tượng quản lý nhằm phối hợp các hoạt động

của các cá nhân, các bộ phận và các nguồn lực để đạt tới mục tiêu của tổ chức

với hiệu quả cao nhất.

Ở đây, khái niệm về công tác quản lý tài chính tại ĐVSNCL cần trả lời

được các vấn đề: Ai quản lý tài chính tại ĐVSNCL? Công tác quản lý tài chính

tại ĐVSNCL cụ thể là cái gì?

Ai quản lý tài chính tại ĐVSNCL? Nhà quản lý tài chính tại ĐVSNCL

là những người làm việc trong các ĐVSNCL, điều khiển công việc của người

khác và chịu trách nhiệm về những kết quả hoạt động của họ. Nhà quản lý tài

chính tại ĐVSNCL có thể được chia theo 2 cấp quản lý trong cơ cấu tổ chức

bộ máy quản lý tài chính. Nhà quản lý tài chính tại cấp cao là người chịu trách

nhiệm về thành quả cuối cùng trong hoạt động tài chính của đơn vị, có nhiệm

vụ đưa ra các quyết định chiến lược để duy trì và phát triển ĐVSNCL trong dài

hạn. Các chức danh của nhà quản lý tài chính cấp cao tại ĐVSNCL như: Giám

đốc, Phó Giám đốc, Hội đồng trường, Hiệu trưởng,… Nhà quản lý tài chính

cấp cơ sở tại ĐVSNCL là nhà quản lý hoạt động bộ phận tham mưu tài chính,

có nhiệm vụ đưa ra các quyết định chiến thuật, thực hiện các kế hoạch và chính

sách tài chính của đơn vị, phối hợp các hoạt động, các công việc để hoàn thành

mục tiêu chung. Các chức danh của nhà quản lý tài chính tại cấp cơ sở như:

Trưởng, Phó ban Tài chính - kế hoạch, Kế toán trưởng, Phụ trách kế toán,

Trưởng, phó phòng Tài chính - kế toán,…

Công tác quản lý tài chính tại ĐVSNCL cụ thể là cái gì? Là quản lý các

hoạt động thu, chi, tài sản phát sinh trong ĐVSNCL, bao gồm việc lập kế hoạch

thu chi, tổ chức thực hiện, khai thác các khoản thu, tổ chức xác định chi phí,

kiểm tra kiểm soát, đánh giá các khoản thu chi của đơn vị, quản lý quá trình

hình thành tài sản, sử dụng tài sản, kết thúc sử dụng tài sản.

Với các phân tích trên, có thể đưa ra khái niệm về công tác quản lý tài

11

chính tại các ĐVSNCL như sau: “Công tác quản lý tài chính tại các ĐVSNCL

là việc các nhà quản lý tài chính tại các ĐVSNCL sử dụng các phương pháp,

công cụ quản lý tài chính tác động lên các hoạt động thu, chi, tài sản phát sinh

trong ĐVSNCL để thực hiện các chức năng cơ bản từ việc lập kế hoạch tài

chính, tổ chức tạo nguồn và sử dụng nguồn tài chính đến kiểm tra, kiểm soát

nhằm đạt được những mục tiêu đề ra”.

1.2.2. Mục tiêu công tác quản lý tài chính tại các đơn vị sự nghiệp công

lập

Công tác quản lý tài chính tại các ĐVSNCL nhằm đạt được các mục tiêu

sau:

Thứ nhất là tăng thu, thu đúng, thu đủ, thu kịp thời.

Hiện nay các nguồn tài chính của các ĐVSNCL chủ yếu tập trung vào

hai nguồn đó là NSNN và nguồn ngoài NSNN (phí, lệ phí, thu khác...). Trong

bối cảnh nguồn NSNN ngày càng hạn hẹp, chi phí ngày càng gia tăng, áp lực

tài chính cho các ĐVSNCL để duy trì các hoạt động thường xuyên ngày càng

lớn, đòi hỏi các ĐVSNCL phải tìm cách gia tăng nguồn thu. Một trong những

nguồn thu mà hầu hết các ĐVSNCL hiện nay chưa phát huy được đó là thu từ

dịch vụ, NCKH và nguồn thu từ đóng góp của xã hội như thu từ đóng góp của

nhà hảo tâm, nguồn tài trợ, viện trợ trong và ngoài nước. Điều này thể hiện sự

kém bền vững, kém phát triển của nguồn tài chính. Để phát triển các nguồn tài

chính theo hướng bền vững, các ĐVSNCL cần thực hiện công tác thu theo đúng

quy định của Nhà nước đồng thời tăng cường khai thác, đa dạng hóa các nguồn

tài chính ngoài NSNN, tăng dần tỷ trọng các nguồn thu ngoài ngân sách trong

điều kiện và khả năng của đơn vị, khai thác những tiềm năng sẵn có tạo ra ngày

càng nhiều nguồn thu hợp pháp đáp ứng kịp thời nhu cầu nguồn tài chính cho

hoạt động của đơn vị. Không phải vì mục tiêu tăng thu mà ĐVSNCL tự đặt ra

các khoản thu trái với quy định của Nhà nước. Bên cạnh đó, việc đổi mới chính

12

sách thu phí, coi đây là hình thức giá dịch vụ là một yêu cầu rất bức thiết. Chính

vì vậy, các ĐVSNCL phải tính toán, xác định đúng đắn mức thu giá dịch vụ

nhằm bù đắp chi phí mà các ĐVSNCL đã bỏ ra trong quá trình cung ứng theo

lộ trình quy định của Nhà nước. Đối với các hoạt động dịch vụ khác đơn vị

được tự quyết định khoản thu, mức thu theo nguyên tắc lấy thu bù chi và có

tích lũy. Để xác định đúng đắn mức thu cho các hoạt động dịch vụ đơn vị cần

xác định đầy đủ chi phí cho các hoạt động này. Việc xác định mức thu còn tùy

thuộc vào quan điểm của mỗi nhà quản lý, tuy nhiên nếu đơn vị đặt ra mức thu

quá cao thì sẽ không thu được khoản thu này. Với mục tiêu thu đúng, ngoài

việc xác định đúng mức thu thì việc xác định đúng đối tượng thu, tổ chức thu

đúng quy trình cũng vô cùng quan trọng. Các ĐVSNCL cần đảm bảo xác định

đúng đắn đối tượng nộp, tính đúng các khoản thu nộp, thủ tục nộp, thanh tra,

quyết toán các khoản thu nộp; xây dựng hệ thống chính sách thu hợp lý, phù

hợp với thực tế quản lý của đơn vị; xây dựng kế hoạch thu sát đúng, phù hợp

với thực tế của từng năm, quý, tháng; lựa chọn quy trình thu khoa học hợp lý,

gọn nhẹ, hiệu quả, đảm bảo thu đúng, thu đủ, thu kịp thời, tránh thất thoát; công

khai, minh bạch mức thu, quy trình thu, số thu được.

Thứ hai là chi đúng, chi đủ, chi hiệu quả, tiết kiệm.

Một trong những mục tiêu quan trọng của công tác quản lý tài chính tại

trong các ĐVSNCL là phải đảm bảo chi đúng, chi đủ, chi hiệu quả, tiết kiệm.

Khi nguồn lực luôn có giới hạn và nhu cầu chi không có giới hạn thì việc chi

tiết kiệm, hiệu quả là một trong những nguyên tắc hàng đầu của công tác quản

lý tài chính tại. Trong quá trình phân bổ và sử dụng các nguồn lực khan hiếm

đó phải tính toán sao cho với chi phí thấp nhất nhưng vẫn đạt hiệu quả cao nhất.

Mục tiêu chi đúng được hiểu là chi đúng nội dung theo đúng mục đích, đúng

chính sách chế độ chi, đúng nguồn, đúng dự toán, đúng định mức, đúng đối

tượng… Các ĐVSNCL cần xây dựng kế hoạch chi sát với thực tế hàng năm,

13

quý, tháng; xác lập định mức chi khoa học và phù hợp với thực tế; xác định và

phân loại đúng đắn các khoản chi phí; xác lập thứ tự ưu tiên các khoản chi trong

từng thời kỳ nhất định; xây dựng một chính sách, cơ cấu chi tiêu hợp lý, phù

hợp; xây dựng quy trình cấp phát, kiểm soát, thanh toán các khoản chi một cách

chặt chẽ, hợp lý; xây dựng được ý thức thường xuyên tiết kiệm chi; công khai,

minh bạch quy chế chi tiêu nội bộ; thực hiện kiểm tra, kiểm toán nội bộ đảm

bảo chi tiêu tiết kiệm và hiệu quả; xây dựng các chỉ tiêu đánh giá thành quả

hoạt động của các ĐVSNCL.

Thứ ba là mua sắm, sử dụng tài sản hiệu quả, hợp lý, đúng mục đích.

Phần lớn tài sản của các ĐVSNCL được Nhà nước giao cho để trực tiếp

quản lý và sử dụng hoặc cấp kinh phí đầu tư mua sắm cho các trường nhằm

thực hiện các mục tiêu sự nghiệp. Khi đó các ĐVSNCL phải sử dụng tài sản

sao cho hiệu quả, hợp lý, đúng mục đích thông qua việc đầu tư, mua sắm đúng

mức, đảm bảo tiết kiệm, chống lãng phí, cũng như quản lý và sử dụng có hiệu

quả tài sản. Bên cạnh đó, phải nắm chắc và kiểm soát chặt chẽ nguồn lực tài

sản hiện có để kịp thời đưa ra các giải pháp quản lý, sử dụng tài sản phù hợp ở

tất cả các khâu thuộc vòng đời của tài sản: đầu tư, mua sắm, bảo dưỡng, sửa

chữa nâng cấp, thu hồi, điều chuyển, bán, thanh lý, tiêu hủy…; tổ chức khai

thác, sử dụng tài sản của đơn vị cho thuê, liên doanh, liên kết đúng quy định

của Nhà nước nhằm phát huy công suất và hiệu quả sử dụng tài sản, đem lại

nguồn thu cho đơn vị; hạch toán đúng đắn các chi phí cấu thành nguyên giá tài

sản, chi phí sửa chữa, chi phí khấu hao, hạch toán đầy đủ về hiện vật và giá trị

theo quy định của pháp luật.

1.2.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến công tác quản lý tài chính tại các

đơn vị sự nghiệp công lập

1.2.3.1. Các nhân tố bên ngoài

* Cơ chế quản lý tài chính của nhà nước

14

Một văn bản pháp quy quan trọng quy định về cơ chế quản lý tài chính

cho các ĐVSNCL là Nghị định số 43/2006/NĐ-CP quy định quyền tự chủ, tự

chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính

đối với ĐVSNCL. Ngày 21/6/2021, Chính phủ ban hành Nghị định số

60/2021/NĐ-CP thay thế Nghị định số 43/2006/NĐ-CP nhằm tiếp tục đẩy

mạnh việc thực hiện cơ chế tự chủ đối với ĐVSNCL. Cơ chế quản lý tài chính

của nhà nước tạo ra môi trường pháp lý cho việc tạo lập và sử dụng các nguồn

lực tài chính nhằm đáp ứng các yêu cầu hoạt động của đơn vị. Nó được xây

dựng dựa trên quan điểm định hướng về chính sách quản lý ĐVSNCL trong

từng giai đoạn cụ thể của nhà nước nhằm cụ thể hoá các chính sách đó. Cơ chế

này sẽ vạch ra các khung pháp lý về mô hình quản lý tài chính của ĐVSNCL,

từ việc xây dựng các tiêu chuẩn, định mức, các quy định về lập dự toán, điều

chỉnh dự toán, cấp phát kinh phí, kiểm tra, kiểm soát nhằm phát huy tối đa hiệu

quả quản lý vĩ mô gắn với tinh thần tự chủ, tự chịu trách nhiệm của ĐVSNCL.

Do đó, nếu cơ chế quản lý tài chính phù hợp sẽ tạo điều kiện tăng cường và tập

trung nguồn lực tài chính, đảm bảo sự linh hoạt, năng động và hữu hiệu của các

nguồn lực tài chính, giúp cho ĐVSNCL quản lý tài chính hiệu quả hơn.

* Tình hình kinh tế xã hội của quốc gia

Những thay đổi điều kiện kinh tế - xã hội và chính sách chi tiêu công cho

các ĐVSNCL là những yếu tố ảnh hưởng tới quản lý tài chính trong các

ĐVSNCL. Đứng trước mỗi sự biến động của môi trường kinh tế xã hội, nhà

nước phải có những chính sách mới nhằm phát triển đất nước phù hợp với tình

hình mới dẫn đến những thay đổi về nhiều mặt, trong đó có phương thức quản

lý, cơ chế hoạt động. Ngày nay, dưới tác động của quá trình công nghiệp hóa

và cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật, các ĐVSNCL phải áp dụng công nghệ

mới, nâng cao chất lượng hàng hóa, dịch vụ. Việc đổi mới thiết bị và phát triển

hàng hóa dịch vụ mới đòi hỏi các ĐVSNCL phải thực hiện cơ chế một cách

15

linh hoạt để mang lại hiệu quả, tiết kiệm chi phí.

1.2.3.2. Các nhân tố bên trong

* Chiến lược phát triển của ĐVSNCL

Hầu hết các ĐVSNCL đã lập kế hoạch chiến lược phát triển nhằm xác

định cụ thể mục tiêu, nhiệm vụ, phương hướng phát triển của ĐVSNCL trong

từng thời kỳ cụ thể. Khi xây dựng mục tiêu và phương hướng phát triển các

ĐVSNCL cũng đồng thời phải xác định được nhu cầu về nguồn tài chính và

khả năng huy động nguồn tài chính để thực hiện thành công mục tiêu và phương

hướng phát triển đã đề ra. Trong từng thời kỳ cụ thể, khi nhiệm vụ, mục tiêu và

phương hướng phát triển của các ĐVSNCL thay đổi, cơ chế tài chính nói chung

và nguồn tài chính nói riêng của ĐVSNCL cũng thay đổi theo cho phù hợp. Do

đó, nó ảnh hưởng đến các công tác công tác quản lý tài chính tại ĐVSNCL, ảnh

hưởng đến trật tự ưu tiên các khoản chi trong từng thời kỳ.

* Việc sử dụng các công cụ quản lý tài chính tại ĐVSNCL

Để nâng cao hiệu quả quản lý tài chính trong các ĐVSNCL thì việc sử

dụng các công cụ quản lý tài chính là rất cần thiết. Việc áp dụng các công cụ

trong quản lý tài chính ngày nay đã và đang thực sự chứng tỏ vai trò không thể

thiếu được của nó. Các công cụ chủ yếu mà các nhà quản lý tài chính trong

ĐVSNCL có thể áp dụng như hệ thống KSNB, kế toán quản trị, kiểm toán nội

bộ. Hệ thống KSNB là các quy định, các thủ tục kiểm soát do đơn vị xây dựng

và áp dụng nhằm đảm bảo cho việc tuân thủ pháp luật và các quy định để kiểm

tra, kiểm soát, ngăn ngừa và phát hiện gian lận, sai sót, nhằm bảo vệ, quản lý

và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của đơn vị. Nếu đơn vị có hệ thống KSNB

chặt chẽ, hữu hiệu, thiết lập bộ phận kiểm toán nội bộ trong đơn vị, tổ chức kế

toán quản trị… sẽ giúp cho công tác công tác quản lý tài chính tại được thuận

lợi, hệ thống kế toán được vận hành có hiệu quả, chặt chẽ. Ngược lại, nếu đơn

vị chưa chú trọng tạo lập hệ thống KSNB, bộ phận kiểm toán nội bộ, kế toán

16

quản trị… thì sẽ không phát hiện kịp thời sai sót, không ngăn chặn hành vi gian

lận, không kịp thời chấn chỉnh thì công tác công tác quản lý tài chính tại sẽ kém

hiệu lực, hiệu quả.

* Tổ chức bộ máy quản trị của ĐVSNCL

Có nhiều yếu tố để làm nên hiệu quả trong hoạt động công tác quản lý

tài chính tại của một ĐVSNCL, nhưng yếu tố quyết định chính là việc tổ chức

bộ máy quản trị. Việc tổ chức, sắp xếp bộ máy quản trị một cách khoa học, phù

hợp với nhiệm vụ đặc thù của đơn vị, đảm bảo thông tin được thông suốt, thuận

lợi trong việc thực hiện kiểm tra giám sát và phát huy được khả năng của mỗi

người trong bộ máy sẽ là điều kiện để hoạt động công tác quản lý tài chính tại

của đơn vị đi đúng hướng và đạt hiệu quả cao nhất. Ngược lại, bộ máy cồng

kềnh, chức năng chồng chéo, sự phối hợp không đạt hiệu quả sẽ là nguyên nhân

làm trì trệ và cản trở hoạt động tài chính của toàn đơn vị.

* Kỹ năng quản trị của lãnh đạo ĐVSNCL

Kỹ năng quản trị của lãnh đạo đơn vị tác động rất lớn đến công tác công

tác quản lý tài chính tại tại đơn vị đó. Thủ trưởng đơn vị là nhà quản trị hoạt

động ở bậc cao nhất trong đơn vị, là người chịu trách nhiệm về những thành

quả cuối cùng của đơn vị. Kỹ năng cần có của nhà quản trị chủ yếu như kỹ năng

lãnh đạo, kỹ năng hoạch định, kỹ năng giải quyết vấn đề, kỹ năng giao tiếp, kỹ

năng tư duy…

* Năng lực chuyên môn, nghiệp vụ của đội ngũ làm công tác công tác

quản lý tài chính tại ĐVSNCL

Suy cho cùng, hiệu quả của công tác công tác quản lý tài chính tại các

ĐVSNCL đều do con người quyết định. Nếu đội ngũ làm công tác quản lý trực

tiếp hoạt động tài chính của ĐVSNCL có chuyên môn nghiệp vụ giỏi sẽ tham

mưu cho lãnh đạo đưa ra những quyết định tài chính hợp lý và tổ chức thực

hiện các quyết định đó một cách có kết quả. Ngược lại, nếu đội ngũ này có

17

chuyên môn, nghiệp vụ hạn chế sẽ tham mưu cho lãnh đạo ra các quyết định

tài chính hạn chế, đồng thời thiếu cách thức tổ chức thực hiện các quyết định

trong thực tế.

1.2.4. Nội dung công tác quản lý tài chính tại các đơn vị sự nghiệp

công lập

1.2.4.1. Quản lý thu tại các đơn vị sự nghiệp công lập

Quản lý thu trong các ĐVSNCL bao hàm việc lập kế hoạch thu; tổ chức

thực hiện, khai thác các khoản thu; kiểm tra kiểm soát, đánh giá các khoản thu

của đơn vị.

* Lập kế hoạch thu

+ Nội dung các khoản thu

Các khoản thu của ĐVSNCL gồm các khoản thu từ NSNN cấp, thu từ

các hoạt động dịch vụ và các khoản thu khác.

- Thu từ NSNN cấp bao gồm: kinh phí thực hiện các nghiệp vụ thường

xuyên, chương trình mục tiêu quốc gia, NCKH, đầu tư XDCB và các loại kinh

phí khác như tinh giản biên chế; đào tạo lại; kinh phí đối ứng; thực hiện các

nhiệm vụ đặt hàng của Nhà nước (như điều tra, quy hoạch, khảo sát... ); đầu tư

xây dựng cơ sở vật chất, mua sắm trang thiết bị phục vụ hoạt động sự nghiệp

theo dự án và kế hoạch hàng năm, vốn đối ứng cho các dự án được cấp có thẩm

quyền phê duyệt.

- Thu từ hoạt động dịch vụ phù hợp với lĩnh vực chuyên môn và khả năng

của đơn vị và các khoản thu khác: Các ĐVSNCL có thể tận dụng lợi thế sẵn có

của mình để thực hiện các hoạt động dịch vụ như thu phí, thu từ hợp đồng dịch

vụ với các tổ chức trong và ngoài nước; thu từ các hoạt động sản xuất, tiêu thụ

sản phẩm thực hành thực tập, sản phẩm thí nghiệm; thu từ các hợp đồng dịch

vụ khoa học và công nghệ; lãi được chia từ các hoạt động liên doanh, liên kết,

18

lãi tiền gửi ngân hàng từ các hoạt động dịch vụ và các khoản thu khác theo quy

định của pháp luật như tiền thu từ bán giáo trình, dịch vụ giữ xe, nhà ăn, quầy

văn phòng phẩm… theo nguyên tắc bảo đảm bù đắp chi phí và có tích lũy.

+ Phương pháp lập kế hoạch thu

Khi lập kế hoạch thu người ta thường sử dụng 2 phương pháp là phương

pháp dựa vào quá khứ (còn gọi là phương pháp gia tăng - Incremental

Budgeting Method - IB) và phương pháp không dựa vào quá khứ (hay phương

pháp dựa trên số 0 - Zero Basic Budgeting Method - ZBB).

- Phương pháp dựa vào quá khứ:

Phương pháp này dựa vào số liệu phát sinh thực tế ở kỳ trước để xây

dựng kế hoạch thu cho kỳ tương lai bằng việc điều chỉnh các chỉ tiêu thu thực

tế ở kỳ trước theo tỷ lệ tăng trưởng có tính đến ảnh hưởng của lạm phát. Đây là

phương pháp truyền thống được sử dụng rộng rãi trong các đơn vị.

Khi lập kế hoạch thu theo phương pháp này ngoài việc điều chỉnh các

chỉ tiêu theo sự thay đổi của nhiệm vụ được giao hoặc quy mô hoạt động còn

phải tính đến ảnh hưởng của lạm phát. Như vậy mỗi chỉ tiêu kế hoạch thu sẽ

Chỉ tiêu Chỉ tiêu Tỷ lệ Tỷ lệ kế hoạch = thực tế x (100 + tăng ) x (100 + lạm) (Công thức 1.1)

thu năm sau thu năm trước trưởng phát

được xác định theo công thức 1.1:

Phương pháp dựa vào quá khứ có ưu điểm là tương đối đơn giản và dễ

hiểu, dễ dàng nhận ra ảnh hưởng từ việc thay đổi các điều kiện lập kế hoạch,

kết quả kế hoạch đáng tin cậy, các nhà quản lý có thể tiếp tục sử dụng kinh

nghiệm đã có để điều hành đơn vị. Tuy vậy, phương pháp này cũng tồn tại các

nhược điểm như: Không tạo cơ hội khuyến khích sáng tạo hoặc đề xuất các ý

tưởng mới vì khi lập kế hoạch người ta đã giả thiết đơn vị tiếp tục hoạt động

theo cách thức và các phương pháp mà các năm trước họ đã làm; Kế hoạch có

19

thể lạc hậu không sử dụng được nếu khi lập kế hoạch không lường trước sự

thay đổi của quy mô và các điều kiện ảnh hưởng đến hoạt động của đơn vị. Như

vậy phương pháp này thường được áp dụng để lập kế hoạch thu cho các hoạt

động tương đối ổn định của đơn vị.

- Phương pháp không dựa vào quá khứ:

Phương pháp này dựa trên nhiệm vụ hoặc mục tiêu hoạt động của đơn vị

để xây dựng các phương án thực hiện khác nhau dựa trên các giả thiết đặt ra

phù hợp với điều kiện đơn vị. Kế hoạch thu được lập cho mỗi bộ phận không

phụ thuộc vào kết quả và phương thức hoạt động của đơn vị ở kỳ trước mà dựa

vào mục tiêu hoạt động của đơn vị. Trên cơ sở phân tích nhiệm vụ của đơn vị

để xác định các bộ phận liên quan cần phải lập kế hoạch thu. Các kế hoạch thu

phải thể hiện được chi phí và kết quả hoạt động của mỗi bộ phận theo các

phương án khác nhau. Đơn vị xem xét và xếp các phương án thu theo thứ tự ưu

tiên dựa vào hiệu quả của chúng.

Phương pháp này có ưu điểm là cho phép các nhà quản lý đánh giá chi

tiết chi phí và lợi ích của phương án thu trong phạm vi quản lý của họ, khuyến

khích sáng tạo các phương án thu mới để so sánh với các phương án hiện có.

Như vậy phương án mới có thể được áp dụng nếu như nó hiệu quả hơn. Các kế

hoạch thu không hiệu quả bị bỏ qua nên hạn chế được lãng phí và bỏ qua các

dự án kém hiệu quả. Tuy nhiên, phương pháp này cũng có nhược điểm là quá

trình lập kế hoạch thu phức tạp và tốn kém vì phải xây dựng nhiều phương án

khác nhau và không sử dụng được kinh nghiệm đã có trước đó; người lập kế

hoạch thu thường gặp khó khăn khi phải đánh giá và sắp xếp các kế hoạch theo

thứ tự ưu tiên. Các kế hoạch có thể lạc hậu do các điều kiện hoạt động của đơn

vị thay đổi. Phương pháp này thích hợp để lập kế hoạch thu cho các dự án,

chương trình mà trước đó chưa được thực hiện ở đơn vị.

20

+ Xác định mức thu

Giá dịch vụ đóng hai vai trò quan trọng: thứ nhất, nó ảnh hưởng đến tổng

số sản phẩm/dịch vụ khách hàng sẽ mua; thứ hai, nó trả lời cho câu hỏi “Liệu

rằng việc cung cấp dịch vụ có thể mang lại lợi nhuận cho tổ chức hay không?”.

Như vậy chiến lược giá cả là quan trọng đối với các ĐVSNCL bởi vì đơn vị

dựa vào thu nhập để hoạt động, đặc biệt trong hoàn cảnh Nhà nước giảm hỗ trợ

ngân sách cho các ĐVSNCL.

Đối với các hoạt động dịch vụ, NCKH và các dịch vụ khác đơn vị được

tự quyết định khoản thu, mức thu theo nguyên tắc lấy thu bù chi và có tích lũy.

Để xác định đúng đắn mức thu cho các hoạt động dịch vụ đơn vị cần xác định

đầy đủ chi phí cho các hoạt động này. Việc xác định mức thu còn tùy thuộc vào

quan điểm của mỗi nhà quản lý. Nhiều nhà quản lý cho rằng mức thu hoạt động

dịch vụ phải bù đắp được tất cả các chi phí và tạo ra mức lợi nhuận mục tiêu

Mức thu để đạt

(Công thức 1.2)

=

lãi mong muốn

Định phí + Lãi mong muốn Tỷ lệ lãi sau biến phí x Sản lượng tiêu thụ

cho đơn vị (Công thức 1.2).

Việc xác định mức thu như trên có thể làm mất ý nghĩa việc phân biệt

định phí, biến phí, phân biệt chi phí chìm. Do định phí là chi phí chìm nên có

thể cho rằng mức thu chỉ cần bù đắp được biến phí và tạo ra lợi nhuận mục tiêu

(Công thức 1.3)

=

Mức thu để đạt lãi mong muốn

Lãi mong muốn Tỷ lệ lãi sau biến phí x Sản lượng tiêu thụ

(Công thức 1.3).

Việc xác định mức thu ở công thức 1.3 này dựa trên cơ sở khuyến khích

nhà quản lý đưa ra mức thu thấp nhằm tăng sản lượng tiêu thụ song mức thu

quá gần so với biến phí sẽ làm cho đơn vị không bù đắp được định phí.

21

* Tổ chức thực hiện, khai thác các khoản thu

+ Đối với khoản thu từ NSNN cấp:

Tình trạng phổ biến ở tất cả các nước là nguồn NSNN cấp mặc dù chiếm

tỷ trọng lớn, song đang có xu hướng giảm một cách tương đối trong những năm

gần đây. Đối với việc quản lý khoản thu này, các ĐVSNCL phải quản lý theo

đúng chu trình quản lý NSNN từ khâu lập dự toán, chấp hành và quyết toán.

Hàng năm hoặc theo định kỳ, các ĐVSNCL phải lập dự toán chi được đảm bảo

bằng nguồn ngân sách và dự toán này phải được cơ quan thẩm quyền chấp nhận.

Trong quá trình chấp hành ngân sách, các ĐVSNCL phải giao dịch với KBNN

thông qua kiểm soát chi của KBNN và phải đáp ứng các điều kiện kiểm soát

chi. Định kỳ theo chế độ, các ĐVSNCL phải thực hiện quyết toán kinh phí đã

sử dụng để làm cơ sở cho cơ quan tài chính tổng hợp quyết toán từ ngân sách.

+ Đối với các khoản thu từ hoạt động dịch vụ phù hợp với lĩnh vực

chuyên môn và khả năng của đơn vị và các khoản thu khác:

Các ĐVSNCL cần nghiên cứu tìm kiếm, khai thác và phát triển các hoạt

động sự nghiệp nhằm gia tăng nguồn thu cho đơn vị thông qua các hoạt động

hợp pháp như: tiếp cận các nguồn viện trợ, tài trợ trong và ngoài nước, đẩy

mạnh các hoạt động hợp tác để tạo nguồn thu từ sự đóng góp trên cơ sở nâng

cao chất lượng dịch vụ, thực hiện cơ chế giá dịch vụ, tăng cường liên kết, thúc

đẩy hợp tác công tư và đẩy mạnh hợp tác quốc tế với các đối tác có cùng lĩnh

vực hoạt động. Các khoản thu từ hoạt động dịch vụ phù hợp với lĩnh vực chuyên

môn và khả năng của đơn vị, liên doanh liên kết, khai thác cơ sở vật chất và các

khoản thu khác đơn vị phải dựa vào hợp đồng, mức thu quy định để thu, nộp

đầy đủ vào đơn vị.

* Kiểm tra kiểm soát, đánh giá các khoản thu

Công tác kiểm tra kiểm soát, đánh giá các khoản thu trong ĐVSNCL là

một hoạt động rất quan trọng, không thể thiếu được bởi lẽ kiểm tra kiểm soát,

22

đánh giá có tác dụng tăng cường quản lý các khoản thu, thúc đẩy việc tăng thu,

tránh thất thu trong đơn vị. Kiểm tra kiểm soát, đánh giá các khoản thu là tổng

thể các hình thức, phương pháp, công cụ được sử dụng trong quá trình kiểm tra,

kiểm soát các khoản thu của ĐVSNCL. Kiểm tra kiểm soát, đánh giá các khoản

thu trong các ĐVSNCL chủ yếu liên quan đến hệ thống KSNB, công tác kế

toán quản trị, báo cáo kế toán quản trị, kiểm toán nội bộ.

Để tiến hành kiểm soát các khoản thu trong đơn vị, các ĐVSNCL cần

xây dựng hệ thống các hoạt động kiểm soát phù hợp và có hiệu lực. Hoạt động

kiểm soát là những chính sách và những thủ tục đối phó rủi ro và đảm bảo đạt

được mục tiêu, nhiệm vụ của đơn vị. Để đạt được hiệu quả, hoạt động kiểm

soát phải phù hợp, nhất quán giữa các thời kỳ, dễ hiểu, đáng tin cậy và liên hệ

trực tiếp đến mục tiêu kiểm soát. Hoạt động kiểm soát có mặt xuyên suốt trong

tổ chức, ở các mức độ và các chức năng. Hoạt động kiểm soát bao gồm kiểm

soát phòng ngừa và phát hiện rủi ro. Cân bằng giữa thủ tục kiểm soát phát hiện

và phòng ngừa là phối hợp các hoạt động kiểm soát để hạn chế, bổ sung lẫn

nhau giữa các thủ tục kiểm soát.

Thông qua kiểm toán nội bộ giúp phát hiện và cải tiến những điểm yếu

trong hệ thống quản lý của đơn vị, đồng thời lãnh đạo nhà trường có thể kiểm

soát nguồn thu tốt hơn, quản lý rủi ro tốt hơn, ngăn chặn và xử lý gian lận, sai

sót trong hoạt động thu, góp phần nâng cao hiệu quả công tác thu của đơn vị.

1.2.4.2. Quản lý chi tại các đơn vị sự nghiệp công lập

Chi phí là sự tiêu hao các nguồn lực đơn vị sử dụng để cung cấp các dịch

vụ, sản phẩm hay đạt được mục đích nào đó. Chi phí được xác định bằng một

lượng tiền chi ra, một mức giảm sút giá trị tài sản, một khoản nợ dịch vụ, thuế…

Tuy nhiên, dưới góc độ các đơn vị công, các khoản chi thường gắn liền với

từng hoạt động, chương trình cụ thể phụ thuộc vào tính chất, chức năng hoặc

23

mục đích nào đó - còn gọi là các khoản chi hoạt động tại các đơn vị công. Hay

nói cách khác, hiện nay các ĐVSNCL mới chỉ coi trọng chi mà chưa coi trọng

chi phí.

Theo cơ sở kế toán tiền mặt, các khoản chi hoạt động được xác định theo

các khoản tiền chi ra để sử dụng cho các hoạt động của đơn vị nhằm đạt được

mục tiêu xác định. Tuy nhiên, trên cơ sở kế toán dồn tích, các khoản chi hoạt

động có thể được xem xét theo tính chất như chi tiền lương, tiền công; chi khấu

hao; chi mua vật tư… Nếu xét theo chức năng hoạt động thì các khoản chi hoạt

động bao gồm chi thường xuyên và chi không thường xuyên gắn với một kỳ

hoạt động xác định. Có thể nói rằng, nếu dựa trên nguyên tắc kế toán trên cơ sở

kế toán tiền mặt thì các khoản chi hoạt động tại các trường ĐHCL có sự khác

biệt nhất định với chi phí do sự không phù hợp giữa thời gian phát sinh chi hoạt

động và thời gian phát huy tác dụng của chi phí đó đối với mục tiêu của đơn vị.

Khoản chi phí phát sinh ở kỳ này nhưng có thể được phân bổ vào chi phí kỳ

sau, khoản chi phí trích trước vào chi phí ở kỳ này nhưng thực chi ở kỳ sau.

Với xu hướng phát triển khoa học kế toán, trong tương lai kế toán công được

xây dựng và vận hành theo nguyên tắc cơ sở kế toán dồn tích thì chi hoạt động

tại các ĐVSNCL được xem là các khoản chi phí theo đúng bản chất kinh tế của

nó.

Hệ thống quản lý chi phí có thể được định nghĩa là bao gồm một hệ thống

các phương pháp được phát triển để lập kế hoạch và kiểm soát các hoạt động

phát sinh, chi phí của tổ chức liên quan đến những mục tiêu ngắn hạn và các

chiến lược dài hạn. Quản lý chi trong các trường ĐHCL bao hàm việc lập kế

hoạch chi, tổ chức xác định chi phí, kiểm tra kiểm soát, đánh giá các khoản chi

của đơn vị.

* Lập kế hoạch chi

24

+ Phương pháp lập kế hoạch chi

Tương tự như lập kế hoạch thu, khi lập kế hoạch chi người ta thường sử

dụng 2 phương pháp là phương pháp dựa vào quá khứ (còn gọi là phương pháp

gia tăng - Incremental Budgeting Method - IB) và phương pháp không dựa vào

quá khứ (hay phương pháp dựa trên số 0 - Zero Basic Budgeting Method -

ZBB).

+ Xây dựng định mức chi

Định mức là công cụ để kiểm soát hoạt động của nhà quản lý, là cơ sở

để lập dự toán chi, là cơ sở để xác định đơn giá sản phẩm, dịch vụ và là cơ sở

để phân tích biến động chi phí. Thông thường các định mức được xây dựng

gồm định mức về thời gian, hiện vật và giá trị. Trong quá trình xây dựng định

mức chi có hai loại là định mức lý tưởng và định mức thực tế. Định mức lý

tưởng thường được xây dựng trong điều kiện hoàn hảo nhất của hoạt động.

Định mức thực tế được xây dựng trong điều kiện thực tế của hoạt động có tính

hết các yếu tố thực tiễn tác động.

Quá trình tổ chức xây dựng định mức chi trong một đơn vị là một công

việc đòi hỏi rất cao về trình độ chuyên môn và tính trách nhiệm đối với người

xây dựng định mức. Khi tổ chức xây dựng định mức cần phải xem xét toàn bộ

kết quả đã thực hiện một cách nghiêm túc và kết hợp với những thay đổi về

điều kiện kinh tế, về đặc điểm giữa cung cầu, về đặc tính kỹ thuật để điều chỉnh

và bổ sung cho phù hợp với điều kiện thực tế. Thực tế cho thấy trách nhiệm

xây dựng các định mức không chỉ thuộc về chuyên viên kế toán quản trị mà cả

những kỹ thuật viên, nhà quản lý có hiểu biết về hoạt động của đơn vị để cung

cấp thông tin cần thiết về kỹ thuật, giá cả, các chi phí khác… Để tổ chức xây

dựng được định mức có thể sử dụng các phương pháp như: phương pháp kỹ

thuật; phương pháp phân tích số liệu lịch sử; phương pháp điều chỉnh; phương

25

pháp phân tích nhiệm vụ.

Thông thường các đơn vị xây dựng một bộ định mức cho tất cả các hoạt

động của đơn vị. Đối với các ĐVSNCL, các định mức được quy chế hóa trong

quy chế chi tiêu nội bộ. Quy chế chi tiêu nội bộ bao gồm các quy định về chế

độ, tiêu chuẩn, định mức chi áp dụng thống nhất trong đơn vị để thực hiện

nhiệm vụ chi thường xuyên phù hợp với hoạt động đặc thù của đơn vị nhằm sử

dụng kinh phí có hiệu quả và tăng cường công tác quản lý. Các ĐVSNCL đã

sử dụng quy chế chi tiêu nội bộ để kiểm soát các hoạt động của đơn vị theo

đúng yêu cầu của đơn vị sự nghiệp có thu công lập.

* Tổ chức xác định chi phí

Để đảm bảo công tác quản lý đạt được hiệu quả trong đơn vị, các phương

pháp xác định chi phí cho các đối tượng chịu phí ngày càng được hoàn thiện

hơn. Tùy theo đặc điểm của hoạt động mà ĐVSNCL vận dụng phương pháp

xác định chi phí phù hợp, từ đó xác định giá thành sản phẩm, dịch vụ hoàn

thành và có thể thực hiện theo một trong các phương pháp sau:

+ Phương pháp xác định chi phí theo công việc

Theo phương pháp này, chi phí được theo dõi, hạch toán trực tiếp cho

từng công việc. Kế toán thu thập thông tin ban đầu ghi sổ sách kế toán để tập

hợp chi theo từng công việc. Các khoản chi trực tiếp sẽ được ghi nhận thẳng

cho từng công việc, các khoản chi gián tiếp được phân bổ theo một cách thức

hợp lý và có hệ thống. Tỷ lệ phân bổ chi phí gián tiếp có thể là theo tỷ lệ phân

bổ chi phí trực tiếp thực tế hoặc theo tỷ lệ phân bổ chi phí trực tiếp dự toán.

Phương pháp này thường được áp dụng đối với các đơn vị cung cấp các dịch

vụ thực hiện theo đơn đặt hàng.

+ Phương pháp xác định chi phí theo quá trình

Để xác định chi phí kế toán tiến hành tập hợp, xác định chi phí theo quá

trình, các khoản chi được tập hợp theo địa điểm phát sinh chi phí như các đơn

26

vị: Viện, TT, các khoa, các phòng. Hệ thống chi phí theo quá trình thích hợp

trong trường hợp các đơn vị mà sản phẩm của nó có tính đồng nhất cao, không

có sự khác biệt nhiều giữa các đơn hàng, các lần sản xuất. Trong các ĐVSNCL

có thể áp dụng tính chi phí là chi phí cho 1 sinh viên theo từng chuyên ngành,

chi phí cho 1 khóa học, chi phí cho 1 đơn vị học trình hoặc theo tín chỉ. Các chi

phí của các phòng ban phục vụ phân bổ trực tiếp. Trường hợp các khoa chuyên

ngành có giảng dạy cho các khoa chuyên ngành khác thì cần tính toán phần

khối lượng phục vụ phân bổ lẫn nhau. Trường hợp các đối tượng đào tạo đa

dạng thì có thể sử dụng, quy đổi toàn bộ các sinh viên hệ đào tạo chính quy tập

trung, ngắn hạn, từ xa, vừa làm vừa học về một loại “sinh viên chính quy tương

đương”.

+ Phương pháp xác định chi phí theo hoạt động

Phương pháp xác định chi phí truyền thống như chi phí theo công việc,

chi phí theo quá trình thường chỉ xác định được chi phí cho các đối tượng tính

phí là các công việc, các sản phẩm. Tuy nhiên, việc xác định chi phí cho các

đối tượng tính chi phí có thể thiếu chính xác do việc phân bổ các chi phí gián

tiếp không hợp lý. Để khắc phục những hạn chế đó, các nhà kinh tế nghiên cứu

và ứng dụng phương pháp xác định chi phí mới, thực chất là phương pháp phân

bổ chi phí sản xuất chung mới - phương pháp tính toán chi phí theo hoạt động

(Activity Based Costing - ABC). Phương pháp ABC gắn liền với một triết lý

mới trong quản lý là quản lý dựa trên hoạt động (Activity Based Management

- ABM). Quản lý dựa trên hoạt động là một trong những phương pháp quan

trọng nhất để dành chiến thắng trong cạnh tranh. Theo phương pháp ABC, các

chi phí được tập hợp theo từng hoạt động rồi phân bổ cho các sản phẩm, dịch

vụ, đơn đặt hàng theo mối quan hệ giữa các hoạt động với việc tạo ra sản phẩm,

dịch vụ theo các yếu tố dẫn dắt chi phí. Hơn nữa, thông qua việc xác định chi

phí cho đối tượng hoạt động sẽ giúp nhà quản lý trong các ĐVSNCL thực hiện

27

quản lý chi phí theo từng hoạt động.

* Kiểm tra kiểm soát, đánh giá các khoản chi

Kiểm tra kiểm soát, đánh giá các khoản chi là tổng thể các hình thức,

phương pháp, công cụ được sử dụng trong quá trình kiểm tra, kiểm soát các

khoản chi của ĐVSNCL. Kiểm tra kiểm soát, đánh giá các khoản chi trong các

trường ĐHCL chủ yếu liên quan đến thiết kế các TT trách nhiệm, thiết lập hệ

thống KSNB, xây dựng hệ thống báo cáo kế toán quản trị, kiểm toán nội bộ.

+ Thiết kế các trung tâm trách nhiệm trong các ĐVSNCL để kiểm soát

chi phí và đánh giá kết quả hoạt động

Các TT trách nhiệm được hình thành dựa trên đặc điểm cơ cấu tổ chức

quản lý và mục tiêu của nhà quản lý. Mỗi TT sẽ xác định quyền và trách nhiệm

đối với từng đối tượng cụ thể của từng cấp. Cơ sở để xác định một bộ phận là

TT gì căn cứ trên nguồn lực, trách nhiệm, quyền hạn mà nhà quản lý đó được

giao. Có 4 TT trách nhiệm: TT chi phí, TT doanh thu, TT lợi nhuận và TT đầu

tư.

TT chi phí là TT trách nhiệm trong đó nhà quản lý kiểm soát chi phí

nhưng không kiểm soát mức thu nhập hoặc vốn đầu tư. Các tổ chức đánh giá

việc thực hiện công việc của các nhà quản lý tại TT chi phí bằng cách so sánh

các chi phí thực tế của TT với các mức dự toán hoặc tiêu chuẩn đối với tổng

giá trị và loại công việc được thực hiện. Vì vậy, báo cáo hoạt động của các TT

chi phí sẽ thể hiện chi phí thực tế phát sinh, chi phí dự toán và mức chênh lệch

giữa thực tế và dự toán.

TT thu nhập là TT trách nhiệm mà nhà quản lý kiểm soát thu nhập chứ

không kiểm soát việc chế tạo hoặc chi phí để có được sản phẩm hoặc dịch vụ

mà TT bán hoặc mức đầu tư được thực hiện tại TT.

TT lợi nhuận là TT trách nhiệm trong đó các nhà quản lý kiểm soát cả

thu nhập và chi phí của các sản phẩm hoặc dịch vụ mà họ cung cấp. Để đánh

28

giá hoạt động của các TT lợi nhuận chúng ta lập các báo cáo kết quả hoạt động

của từng TT (báo cáo bộ phận). Lợi nhuận bộ phận (số dư bộ phận) là chỉ tiêu

quan trọng để đánh giá hiệu quả hoạt động của các TT lợi nhuận.

TT đầu tư là TT trách nhiệm trong đó các nhà quản lý kiểm soát cả thu

nhập, chi phí và nguồn lực đầu tư vào TT. Các nhà quản lý TT đầu tư được

đánh giá trên cơ sở hiệu quả sử dụng vốn đầu tư vào TT, thông qua các chỉ tiêu

tỷ suất sinh lời của vốn đầu tư (ROI) và lợi nhuận thặng dư (RI).

+ Thiết lập hệ thống kiểm soát nội bộ, kiểm toán nội bộ

Tương tự như kiểm soát các khoản thu, để kiểm soát các khoản chi, các

ĐVSNCL cũng cần phải xây dựng hệ thống các hoạt động kiểm soát chi phí

phù hợp và có hiệu lực. Các hoạt động kiểm soát chi phí trong các ĐVSNCL

cũng phải tuân thủ theo các nguyên tắc phân công, phân nhiệm (tức là các công

việc liên quan đến quá trình chi được phân công cho tất cả mọi người, tránh

việc một số người phải làm việc quá nhiều trong khi đó một số người khác lại

không có việc làm), nguyên tắc bất kiêm nhiệm (tức là công việc phải được

phân định cho từng người riêng biệt, ví dụ bất kiêm nhiệm trong việc người đi

mua sắm, chi tiêu với kế toán, ban lãnh đạo nhà trường với người thực hiện các

khoản chi, người điều hành với người có trách nhiệm ghi sổ), nguyên tắc phê

chuẩn, ủy quyền (tức là các nghiệp vụ chi phải được phê chuẩn đúng đắn).

Chức năng của kiểm toán nội bộ trong các ĐVSNCL là giám sát, kiểm

tra và đánh giá một cách thường xuyên về toàn bộ hoạt động của đơn vị, trong

đó có cả hệ thống KSNB. Bộ phận kiểm toán nội bộ hoạt động có hiệu quả sẽ

giúp cho đơn vị kiểm soát được chặt chẽ các khoản chi, giúp cho việc thực hiện

chi được đúng đắn, đầy đủ, tiết kiệm, hiệu quả. Tuy nhiên, bộ phận kiểm toán

nội bộ chỉ có thể phát huy tác dụng tốt nếu nó được tổ chức và đảm bảo sự độc

lập so với tất cả các bộ phận khác trong đơn vị, được giao quyền hạn đầy đủ

theo chức năng và thực hiện báo cáo trực tiếp cho cấp có quyền hạn cao nhất

29

trong đơn vị.

+ Hệ thống báo cáo kế toán quản trị chi phí

Báo cáo kế toán quản trị là kết quả cuối cùng của quy trình kế toán quản

trị. Báo cáo kế toán quản trị chi phí là sự chi tiết hóa thông tin thu nhận về chi

phí theo các chỉ tiêu phù hợp với nhu cầu về thông tin của nhà quản lý trong

quá trình quản lý. Do vậy, nội dung và kết cấu của báo cáo kế toán quản trị chi

phí cần phải đảm bảo đầy đủ các chỉ tiêu mà nhà quản lý yêu cầu để phân tích,

đánh giá và theo dõi tình hình chi tiêu.

Do sự khác nhau về đặc điểm ngành nghề, quy mô tổ chức, trình độ, nhận

thức của nhà quản lý cũng như nhân viên thực hiện công việc kế toán quản trị

cho nên hệ thống báo cáo kế toán quản trị chi phí cũng có sự khác nhau giữa

các tổ chức. Ngoài ra, sự thay đổi trong quá trình quản lý dẫn đến nhu cầu về

thông tin quản lý cũng luôn thay đổi, do vậy nội dung và yêu cầu về thông tin

kế toán quản trị cũng thay đổi liên tục theo nhu cầu về thông tin quản lý trong

từng thời kỳ.

Dựa trên chức năng của báo cáo kế toán quản trị, hệ thống báo cáo kế

toán quản trị chi phí bao gồm các báo cáo như: Báo cáo đánh giá tình hình thực

hiện tiêu chuẩn kiểm soát, Báo cáo mang tính định lượng hoạt động. Nếu dựa

theo phạm vi lập báo cáo, báo cáo kế toán quản trị gồm có báo cáo bộ phận và

báo cáo tổng hợp. Nếu lập báo cáo kế toán quản trị theo kỳ lập báo cáo, báo

cáo kế toán quản trị gồm có báo cáo định kỳ và báo cáo đột xuất theo yêu cầu

của nhà quản lý.

1.2.4.3. Quản lý tài sản tại các đơn vị sự nghiệp công lập

Tài sản tại các ĐVSNCL là một bộ phận tài sản nhà nước mà Nhà nước

giao cho các ĐVSNCL trực tiếp quản lý và sử dụng để thực hiện các mục tiêu

30

sự nghiệp phục vụ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước bao gồm:

+ Khuôn viên đất là tổng diện tích đất ĐVSNCL trực tiếp quản lý, sử

dụng được Nhà nước giao, nhận chuyển nhượng hoặc do tiếp quản từ chế độ cũ

được xác lập sở hữu nhà nước theo quy định của pháp luật;

+ Nhà cửa, vật kiến trúc và công trình xây dựng khác gắn liền với đất

thuộc khuôn viên trụ sở làm việc: nhà làm việc, giảng đường, nhà hội trường,

nhà câu lạc bộ, nhà văn hoá, nhà tập và thi đấu thể thao, nhà xưởng, KTX, bệnh

viện, trạm xá, nhà khách, nhà công vụ…

+ Phương tiện đi lại: Xe ô tô, xe máy…

+ Máy móc, thiết bị: Máy vi tính, máy in, máy photocopy, máy chiếu,

máy huỷ tài liệu, máy đun nước, thiết bị lọc nước, máy hút ẩm, máy hút bụi,

máy điều hoà không khí, tủ lạnh, tủ đá, máy giặt, thiết bị nghe nhìn, thiết bị lưu

trữ thông tin dữ liệu, thiết bị phòng cháy chữa cháy, bộ bàn ghế, tủ, két sắt, máy

móc thiết bị đo lường phân tích, máy móc thiết bị thí nghiệm...

* Quản lý quá trình hình thành tài sản

Khi ĐVSNCL được thành lập, đơn vị được cấp một số tài sản gồm trụ

sở làm việc, phương tiện đi lại và các tài sản khác… Bên cạnh tài sản được cấp,

ĐVSNCL được đầu tư xây dựng mới, mua sắm tài sản từ nguồn NSNN hoặc

các nguồn khác được phép sử dụng theo quy định của pháp luật. Quá trình này

gồm hai giai đoạn: quyết định chủ trương và thực hiện đầu tư mua sắm tài sản.

Việc quyết định chủ trương đầu tư mua sắm tài sản phải căn cứ vào định mức,

tiêu chuẩn sử dụng tài sản, chế độ quản lý tài sản, nắm vững khả năng và nhu

cầu đầu tư, xây dựng, mua sắm tài sản của đơn vị; xác định nhu cầu vốn cho

đầu tư mua sắm tài sản được ghi vào dự toán NSNN hàng năm. Sau khi có chủ

trương đầu tư, mua sắm tài sản, việc thực hiện đầu tư, mua sắm tài sản phải

được thực hiện theo quy định về quản lý đầu tư XDCB và quy định về mua sắm

31

tài sản do cơ quan Nhà nước quy định.

Mua sắm tài sản là khâu có vị trí then chốt để bảo đảm hiệu quả trong sử

dụng, quản lý. Mua sắm tài sản quyết định sự phù hợp hay không phù hợp về

tài sản phục vụ cho hoạt động của ĐVSNCL; quyết định việc tài sản được sử

dụng lâu dài hay không lâu dài tùy thuộc vào chất lượng của tài sản mua sắm;

quyết định chi phí về tài sản trong tổng chi của đơn vị. Do đó, việc mua sắm tài

sản phải đáp ứng được các yêu cầu: phù hợp tiêu chuẩn, định mức sử dụng tài

sản và chế độ quản lý, sử dụng tài sản, đáp ứng một cách tối ưu nhu cầu về tài

sản để phục vụ cho hoạt động của ĐVSNCL trong điều kiện khả năng ngân

sách có hạn, tuân thủ các quy định của pháp luật về đấu thầu mua sắm tài sản,

bảo đảm công khai, minh bạch.

* Quản lý quá trình sử dụng tài sản

Đây là quá trình quyết định tính hiệu quả của tài sản, chứng minh cho

những luận chứng kỹ thuật được đưa ra ở giai đoạn hình thành tài sản. Quá trình

này hết sức phức tạp, bởi vì thời gian khai thác, sử dụng tùy thuộc đặc điểm

tính chất, độ bền của mỗi loại tài sản, thậm chí còn phụ thuộc vào trình độ vận

hành, sử dụng của từng con người cụ thể. Thời gian của quá trình sử dụng tài

sản được tính từ ngày bàn giao, tiếp nhận về đơn vị đến khi không còn sử dụng

được phải thanh lý, nhượng bán. Có thể khái quát những nội dung chủ yếu của

quá trình này như sau:

- Lập hồ sơ, quản lý tài sản;

- Xây dựng quy chế quản lý tài sản;

- Tính hao mòn và trích khấu hao TSCĐ;

- Công tác bảo dưỡng, sửa chữa tài sản;

- Công tác kiểm kê tài sản;

Tài sản của ĐVSNCL không tạo ra lợi nhuận trực tiếp, vì vậy việc đánh

giá hiệu quả khai thác tài sản chính là mức độ hoàn thành công việc và định

32

mức sử dụng hợp lý trong công việc. Mỗi tài sản có đặc điểm khác nhau nên

công tác đánh giá hiệu quả là rất khó. Chính vì vậy đối với tài sản ĐVSNCL

thực hiện quản lý việc sử dụng phải theo công năng, mục đích nhất định. Những

tài sản cần thiết và có điều kiện quản lý theo tiêu chuẩn, định mức sử dụng thì

phải xây dựng tiêu chuẩn, định mức sử dụng và phải thực hiện quản lý theo tiêu

chuẩn, định mức sử dụng; đồng thời, tất cả các tài sản phải có chế độ quản lý

sử dụng; trong đó, chú ý đến việc đăng ký sử dụng tài sản, xây dựng quy chế

quản lý từng loại tài sản. Đặt ra định mức sử dụng là nghiệp vụ hết sức khoa

học và phức tạp quyết định hiệu quả cho quản lý, khai thác. Định mức cũng là

một trong những cơ sở khởi nguồn cho công tác xây mới, mua sắm hay thuê

mua. Đối với DN do lợi nhuận, chi phí chi phối còn ĐVSNCL do công việc

nên định mức cần được xây dựng cho từng nội dung công việc, hoạt động và

cả kinh phí khoán nếu có. Đây cũng là một vấn đề mà rất ít nước đặt ra được

một phương pháp lượng hóa khoa học cho quản lý.

* Quản lý quá trình kết thúc sử dụng tài sản

Sau quá trình khai thác sử dụng tại ĐVSNCL, xét thấy tài sản không cần

thiết hay không thể phục vụ cho công việc, ĐVSNCL sẽ tiến hành thủ tục kết

thúc quá trình sử dụng. Nhìn chung, việc kết thúc sử dụng tài sản của DN, cá

nhân dễ dàng và nhanh gọn tùy thuộc tính chất của tài sản, nhưng đối với tài

sản của Nhà nước công việc phải tuân thủ những quy trình và thủ tục cần thiết,

vì quyền lợi đem lại cho Nhà nước, nhưng cá nhân hay tổ chức đứng ra thực

hiện là viên chức không gắn quyền lợi thụ hưởng trực tiếp hay sở hữu trực tiếp

nhưng lại gắn trách nhiệm viên chức trong công tác xử lý kết thúc quá trình sử

dụng tài sản công.

Tài sản công, trừ một số tài sản có thời gian sử dụng vĩnh viễn hoặc có

thời gian sử dụng dài hàng trăm năm trở lên, số còn lại đều là tài sản có thời

hạn sử dụng nhất định. Tuy nhiên, có tài sản kết thúc sử dụng trên phương diện

33

tài sản công nhưng nó vẫn còn giá trị sử dụng, vẫn được xã hội cần sử dụng, ví

dụ như: nhà cửa, phương tiện vận tải và một số loại máy móc, trang thiết bị làm

việc, phục vụ NCKH; có tài sản còn có giá trị thu hồi… Do đó, một tài sản công

khi kết thúc quá trình sử dụng phải được quản lý chặt chẽ để tránh lãng phí, thất

thoát tài sản. Khi kết thúc sử dụng tài sản phải thực hiện đánh giá hiện trạng tài

sản cả về vật chất và giá trị tài sản; thực hiện kiểm kê, xác định giá trị hiện tại

của tài sản; lập phương án xử lý khác nhau. Vấn đề định giá bán để bán thanh

lý tài sản chính là yếu tố nhạy cảm quyết định hiệu quả của quá trình này. Đối

với bán thanh lý đơn vị thường xây dựng quy chế cụ thể tùy theo pháp luật

chung của từng quốc gia. Đơn vị có thể đưa ra đấu giá công khai hay chỉ định

giá bán. Mức giá bán khởi điểm để đấu giá hay chỉ định giá bán thường dựa

trên thị trường và tham chiếu biểu giá chung nhưng thấp hơn một tỷ lệ phần

trăm nhất định.

1.3. Kinh nghiệm công tác quản lý tài chính tại các trường đại học

công lập khối ngành kinh tế trên thế giới và bài học cho Việt Nam

1.3.1. Kinh nghiệm trên thế giới

* Kinh nghiệm của Mỹ

Nếu như trước năm 2008, giá cả và chi phí cho GDĐH liên tục tăng cao,

khiến cho các trường ĐH phải loay hoay trong việc cân đối thu chi để tránh

tăng học phí thì từ năm 2008, dưới ảnh hưởng của khủng hoảng và suy thoái

kinh tế toàn cầu mà tâm điểm chính là Mỹ, các nguồn thu cho GDĐH lại lâm

vào tình trạng “đã khó càng thêm khó”. Có nhiều phương án đã được các trường

ĐH Mỹ nghiên cứu và áp dụng, cụ thể là:

- Giảm giá thành: Để đạt được mục tiêu đề ra, mỗi hoạt động của nhà

trường đều cần có nguồn kinh phí. Tuy nhiên, nhà trường cần phải tính toán và

cân đối kinh phí cho từng hoạt động, lập kế hoạch phân bổ ngay từ ban đầu sao

cho hợp lý nhất, có thể gắn kết các nguồn lực với mục tiêu chiến lược của

34

trường. Kế hoạch chiến lược chính là chìa khóa để giúp cho hoạt động phân bổ

ngân sách của trường đạt hiệu quả. Bên cạnh đó các trường cũng có thể giảm

giá thành bằng cách sử dụng có hiệu quả hơn các trang thiết bị, phương tiện kỹ

thuật, năng lực của đội ngũ giảng viên. Một lớp học trực tuyến hoàn toàn có thể

giải quyết được tình trạng thiếu hụt về cơ sở vật chất, giảng đường, phòng học

cho các trường ĐH, khiến cho trường có thể sử dụng các trang thiết bị, phương

tiện sẵn có với hiệu suất cao nhất.

- Đa dạng hóa nguồn thu: Ở Mỹ, việc đào tạo nguồn nhân lực có trình độ

cao được các công ty Mỹ rất chú trọng. Mỗi năm, các công ty Mỹ đóng góp

trên 150 tỷ USD cho GDĐH. Các trường ĐHCL Mỹ chịu tác động sâu sắc của

thị trường và có mối quan hệ đa dạng với thị trường thông qua các DN. Họ

nhận được sự đầu tư dồi dào của các DN thông qua cạnh tranh các hợp đồng

nghiên cứu khoa học, dịch vụ tư vấn, đào tạo nhân lực chất lượng cao. Bên cạnh

đó, họ cũng quản lý nhiều dịch vụ bổ sung tạo ra một nguồn thu đáng kể, chẳng

hạn như ký túc xá sinh viên, căng tin, nhà sách và các hoạt động khác liên quan

đến đời sống sinh viên. Một số trường ĐH Mỹ làm chủ hoặc điều hành cả những

bệnh viện tạo ra một nguồn thu đáng kể. Một nguồn thu khác là từ những dự án

hợp tác nghiên cứu do nhà trường tổ chức thực hiện. Ở Mỹ, dựa vào nguồn thu

ngoài NSNN là một xu hướng ngày càng phát triển trong những thập kỷ gần

đây, vì các trường đang tìm cách làm giảm sự phụ thuộc vào NSNN và học phí

trong việc duy trì, mở rộng tầm hoạt động của mình. Ngoài ra đối với những

trường ĐH có hoạt động KHCN thì một nguồn thu tiềm năng có thể đến từ tiền

bán các bản quyền và sở hữu trí tuệ. Tuy nhiên, thủ tục pháp lý còn chưa rõ

ràng trong phân chia bản quyền và quyền tác giả giữa các cá nhân với bản thân

trường ĐH. Các trường ĐH Mỹ đều quy định rõ ràng thu nhập từ khám phá và

phát minh được chia sẻ cho giảng viên và đơn vị nhằm khuyến khích nghiên

cứu khoa học. Nước Mỹ là điển hình về huy động quà tặng, từ thiện nhằm cung

35

cấp nguồn tài chính tăng thêm cho GDĐH. Trong khi những nghiên cứu công

nghiệp được tài trợ của Mỹ năm 1985 đạt trên 500 triệu USD thì các nhà từ

thiện đã tặng cho các trường ĐH Mỹ số tiền gấp 10 lần số tiền trên. Qùa tặng,

từ thiện cho GDĐH ở Mỹ đã có lịch sử lâu đời và trong những năm gần đây

tiếp tục tăng lên vững chắc vì các lý do sau: hoạt động từ thiện tự nguyện đã có

truyền thống lâu dài trong giáo dục đại học Mỹ, từ thời còn là thuộc địa, một

số trường ĐH lớn, chẳng hạn như Stanford đã được thành lập bởi một sang lập

viên độc thân; thông qua các hội cựu sinh viên và tổ chức các hoạt động thể

thao góp phần tạo mối quan hệ gần gũi về tình cảm giữa các cựu sinh viên và

trường ĐHCL, chính hoạt động thể thao tạo cơ hội cho các cựu sinh viên đến

thăm trường cũ của họ và củng cố sự ủng hộ của họ đối với nhà trường; các quỹ

từ thiện gây quỹ dễ dàng hơn và mỗi năm đóng góp từ 25% - 30% chi tiêu của

họ cho GDĐH; nhiều trường ĐHCL có bộ phận gây quỹ chuyên nghiệp hoạt

động rất tốt.

- Xác định mức thu học phí phù hợp: Học phí các trường ĐHCL của Mỹ

đang áp dụng rất khác nhau và phụ thuộc vào đặc điểm của mỗi trường, phụ

thuộc vào giai đoạn học, loại học và chi phí của chương trình học cũng như tình

trạng cư trú của sinh viên. Ở nhiều trường ĐHCL, học phí cho hai năm đầu của

bậc ĐH thấp hơn học phí áp dụng cho hai năm cuối. Học phí ĐH thấp hơn học

phí sau ĐH. Học phí các ngành kỹ thuật, y, nha khoa, kiến trúc thường cao hơn

các ngành khác. Các học sinh không cư trú tại bang cung cấp kinh phí cho các

trường thường phải trả học phí cao hơn các học sinh cư trú tại chính bang đó.

- Áp dụng chuẩn mực kế toán chi phí: Tại nước Mỹ, từ năm 2008, Ủy

ban chuẩn mực kế toán đã đưa ra các chuẩn mực về kế toán chi phí áp dụng cho

các cơ sở đào tạo có nhận một mức tài trợ nhất định từ Chính phủ liên bang.

Các chuẩn mực này nhằm đảm bảo các cơ sở đào tạo đó thực hiện một cách

nhất quán các thủ tục và chính sách về kế toán chi phí đồng thời tuân thủ các

36

quy định liên quan của Chính phủ.

Để tiến hành các hoạt động trên, Hội đồng quản trị trường ĐH phải thông

qua Ban Giám hiệu giải quyết mọi vấn đề. Ở Mỹ, Hội đồng quản trị trường ĐH

có quyền quyết định đồng thời cũng phải chịu trách nhiệm chính về các vấn đề

tài chính, chiến lược, thực hiện sứ mạng của nhà trường, đánh giá hoạt động

của nhà trường và Ban Giám hiệu. Hiệu trưởng hay Viện trưởng sẽ là người đại

diện cho trường, được Hội đồng quản trị ủy quyền trong các hoạt động lãnh đạo

nhà trường, quản lý và xây dựng kế hoạch trong mọi lĩnh vực, trong đó có lĩnh

vực tài chính. Tuy nhiên, những quyết định quan trọng cuối cùng vẫn phải có

sự thông qua của Hội đồng quản trị trường.

* Kinh nghiệm của Singapore

Singapore có hệ thống giáo dục chất lượng cao, có uy tín trong khu vực

và đang vươn lên trở thành trung tâm giáo dục của thế giới. Đối với GDĐH,

Singapore đã thực thi tập đoàn hóa các trường ĐH công vào năm 2006. Đặc

điểm cơ bản của tập đoàn hóa đại học ở Singapore là: (1) Đa dạng hóa nguồn

tài chính, trong đó có việc phát triển mạnh quỹ hiến tặng; (2) Không coi thầy

giáo là công chức; (3) Trả lương cạnh tranh theo mức độ hoàn thiện của công

việc; (4) Tăng quyền tự chủ cho các trường. Đặc biệt, các trường ĐHCL ở

Singapore rất chú trọng đầu tư cho đội ngũ nhân lực quản lý bởi đó là nhân tố

có tính quyết định đến sự phát triển nhanh và bền vững, đặc biệt coi trọng và

phát huy năng lực đầu tàu của “Người lãnh đạo quản lý giáo dục”. Cụ thể là

nếu trường chưa có cán bộ đủ trình độ làm giám đốc, hiệu trưởng một trường

ĐH đạt chuẩn quốc tế thì thuê người có đủ khả năng đảm nhiệm từ các trường

ĐH hàng đầu thế giới. Ví dụ như Trường ĐH Quản lý Singapore (SMU) đã

thuê cả giám đốc và phó giám đốc từ Mỹ và Anh. Đầu tư cao độ cho nhân lực

quản lý GDĐH là một bí quyết thành công trong đổi mới GDĐH của Singapore.

Các trường ĐH của Singapore sẵn sàng thuê các nhà quản lý trong giai đoạn

37

đầu khi chưa đủ trình độ tự mình quản lý. Người được thuê đó phải làm ba việc:

một là quản lý trường đó theo chuẩn quốc tế, hai là chỉ định và đào tạo người

đủ năng lực để tiếp quản công việc này, ba là chuyển giao toàn bộ qui trình

công nghệ quản lý đó cho người được lựa chọn kế nhiệm. Theo lý giải của các

nhà quản lý GDĐH Singapore, phải áp dụng như vậy vì nhập công nghệ giáo

dục - vốn là thứ công nghệ khó chuyển tải nhất bởi vì nó không tường minh

như những công nghệ kỹ thuật thông thường - đòi hỏi có sự chuyển giao trực

tiếp giữa người với người, giữa những người thực hiện, không thể chuyển giao

đơn thuần bằng giấy tờ, bản vẽ, hướng dẫn đơn thuần... Nhưng đầu tư cho

nguồn nhân lực cũng phải có giải pháp hợp lý: có thể thuê cả chủ nhiệm khoa,

chủ nhiệm bộ môn với phương hướng rõ ràng: thỏa thuận rõ sau bao nhiêu năm

thuê thì phải có một chủ nhiệm khoa, chủ nhiệm bộ môn nội địa đạt chuẩn quốc

tế.

Singapore đưa ra hệ thống giáo dục mở, thu hút du học sinh từ khắp nơi

trên thế giới sang sinh sống và học tập tại Singapore. Các trường có chính sách

quảng cáo và tiếp cận, thu hút sinh viên nước ngoài như xây dựng trang web

hết sức đầy đủ về những thông tin cần thiết cho bất cứ du học sinh nào muốn

học tại Singapore, tổ chức các buổi hội thảo, triển lãm du học, trả tiền hoa hồng

cho các trung tâm môi giới du học. Mức hoa hồng giới thiệu phổ biến hiện nay

là 10% học phí năm học đầu tiên của sinh viên đó, có trường trả 20%, có trường

trả đến 50%. Trường càng nổi tiếng thì hoa hồng càng thấp và ngược lại.

* Kinh nghiệm của Vương quốc Anh

Với lịch sử gần 800 năm, phương pháp giáo dục của Vương quốc Anh

đã có ảnh hưởng rất lớn đến hệ thống giáo dục trên toàn thế giới. Các tiêu chuẩn

về chất lượng giáo dục của Anh luôn đứng ở vị trí hàng đầu trên thế giới, đồng

thời, phương pháp giáo dục không chỉ là quá trình thu nhận thông tin một chiều

mà luôn có sự phản hồi, kiểm nghiệm các kiến thức trên cơ sở môi trường học

38

tập được đầu tư rất lớn với đầy đủ trang thiết bị hiện đại; hệ thống giảng viên

luôn được kiểm định, đánh giá chất lượng định kỳ, chi phí đào tạo phản ánh

đầy đủ các chi phí cần thiết để đào tạo một sinh viên theo ngành học với những

tiêu chí chất lượng nhất định. Ở các trường đại học của Anh, chi phí đào tạo là

chỉ tiêu nội bộ của mỗi trường và hầu như không được công khai. Học phí của

các trường được xác định tùy theo trình độ đào tạo: đại học, sau đại học, các

chứng chỉ chuyên ngành, các khóa đào tạo tiếng Anh… Chính sách học phí đối

với bậc học đại học tại các trường được xác định cho 2 nhóm đối tượng sinh

viên: sinh viên người bản xứ và sinh viên đến từ các nước thuộc khối Liên minh

châu Âu; sinh viên quốc tế. Phương thức xác định mức học phí tại các trường

đại học của Vương quốc Anh thường được xây dựng trên cơ sở ngành đào tạo

và đặc thù của khối ngành đào tạo cơ bản. Học phí hầu hết các trường đại học

của Vương quốc Anh được xác định cho từng ngành đào tạo cụ thể. Trong một

trường đại học, các ngành đào tạo khác nhau thường có mức phí không giống

nhau. Bên cạnh việc xác định mức học phí theo từng ngành học, ở một số trường

mức học phí còn được xác định chung cho một khối ngành dựa trên đặc thù của

phương pháp đào tạo với từng khối ngành đó. Thông thường, học phí được xác

định cho ba khối cơ bản: khối ngành học không có phòng thí nghiệm, có phòng

thí nghiệm và khối ngành về khám và điều trị bệnh. Đối với khối ngành trong

quá trình đào tạo cần có phòng thí nghiệm hoặc phòng thực hành song song với

quá trình học lý thuyết như các ngành về: môi trường, khoa học trái đất, kỹ

thuật cơ khí, chế tạo máy, công nghệ thông tin, nghệ thuật… học phí thường

cao hơn so với khối ngành đào tạo không cần phòng thí nghiệm; còn với khối

ngành liên quan đến khám và điều trị bệnh thì ngay trong quá trình đào tạo sinh

viên không những học lý thuyết trên lớp mà còn phải thực hành tại các bệnh

viện, phòng khám, phòng thí nghiệm… do vậy, học phí xây dựng cho khối

ngành này thường cao nhất, chẳng hạn tại ĐH Bristol năm 2016 mức học phí

39

áp dụng cho sinh viên quốc tế theo học khối ngành không có phòng thí nghiệm

là 10.800 GBP/năm; 13.900 GBP/năm đối với ngành học cần có phòng thí

nghiệm và mức 25.100 GBP/năm đối với ngành khám và điều trị bệnh. Cho dù

xác định học phí theo ngành học hay theo đặc thù của phương pháp đào tạo đối

với khối ngành, ở các quốc gia khác nhau cũng như các trường có vị thế khác

nhau thì học phí tại các trường ĐH của Anh không những phản ánh được chi

phí cần thiết để đạt được chất lượng đào tạo chuẩn mực, đáp ứng các tiêu chuẩn

chất lượng nghiệm ngặt của các cơ quan quản lý và kiểm định chất lượng các

trường ĐH mà còn phản ánh cả các chi phí liên quan mà sinh viên được thụ

hưởng trong quá trình học tập cũng như giá trị, uy tín của bằng cấp nhận được.

1.3.2. Bài học kinh nghiệm rút ra cho Việt Nam

Từ việc nghiên cứu kinh nghiệm công tác quản lý tài chính tại các ĐHCL

khối ngành kinh tế trên thế giới, tác giả đề xuất một số bài học kinh nghiệm có

thể vận dụng tại Việt Nam như sau:

Thứ nhất, đa dạng hóa nguồn thu nhằm tăng thu nhập cho các trường

ĐHCL khối ngành kinh tế. Các trường ĐHCL khối ngành kinh tế có thể khai

thác mọi tiềm năng, lợi thế như: thành lập doanh nghiệp trong các trường đại

học; thực hiện việc liên kết đào tạo giữa các trường nhằm tận dụng lợi thế về

cơ sở vật chất, trang thiết bị, phòng thí nghiệm, giáo trình, nghiên cứu khoa

học…; thực hiện việc liên kết giữa trường với doanh nghiệp nhằm cung ứng

nguồn nhân lực có chất lượng cao cho doanh nghiệp; tăng cường thực hiện việc

liên kết đào tạo với các trường quốc tế, khuyến khích việc nghiên cứu đề tài

khoa học cấp Nhà nước, mở rộng và nâng cao dịch vụ tư vấn đào tạo… Bên

cạnh đó, cần tăng cường hoạt động từ thiện: Thông thường hoạt động này huy

động được nguồn thu từ những người giàu, có học vấn cao, những doanh nghiệp

lớn, những cựu sinh viên thành đạt và việc hỗ trợ ưu đãi từ phía nhà nước. Kinh

40

nghiệm các nước trên thế giới cho thấy nguồn thu từ hoạt động từ thiện đóng

vai trò không lớn và nên được sự hỗ trợ của Nhà nước về việc không đánh thuế

từ nguồn thu hoạt động từ thiện.

Thứ hai, lập kế hoạch phân bổ và kiểm soát hiệu quả nguồn lực. Kinh

nghiệm các nước cho thấy việc lập kế hoạch phân bổ tài chính nên chú ý các

hoạt động chính của trường, ví dụ phần kinh phí dành cho hoạt động giảng dạy,

hoạt động thường xuyên nên đóng vai trò cơ bản nhất (chiếm tỷ lệ khoảng 60-

70% tổng kinh phí); Kinh phí dành cho nghiên cứu khoa học khoảng dưới 30%.

Cơ chế phân bổ kinh phí cho hoạt động giảng dạy các trường ĐHCL khối ngành

kinh tế nên áp dụng linh hoạt theo xu hướng đổi mới, có cạnh tranh để tăng

cường hiệu quả, tạo điều kiện để nhà trường chủ động trong các hoạt động và

cơ hội tiếp cận GDĐH cho các đối tượng khác nhau. Kinh phí dành cho nghiên

cứu khoa học nên được phân bổ trên cơ sở có cạnh tranh.

Thứ ba, xác định chi phí đào tạo đại học cần phản ánh đủ mọi chi phí cần

thiết để đào tạo một sinh viên theo ngành học với những tiêu chí chất lượng

nhất định. Khi xác định chi phí đào tạo cần thiết phải xác định đầy đủ không

chỉ nhóm các chi phí thực tế mà còn cả những chi phí cơ hội. Chỉ có thể phản

ánh đầy đủ các loại chi phí này mới có thể cho biết chính xác toàn bộ chi phí

phát sinh trong quá trình đào tạo. Khi tính đầy đủ mọi chi phí trong chi phí đào

tạo đại học mới có thể xác định được giá thành dịch vụ đào tạo.

Thứ tư, xác định mức thu học phí phù hợp. Các trường ĐHCL khối ngành

kinh tế xác định mức thu học phí dựa trên cơ sở ngành, khối ngành đào tạo.

Học phí được xác định cho từng ngành đào tạo cụ thể. Trong một trường ĐHCL

khối ngành kinh tế, các ngành đào tạo khác nhau có mức học phí không giống

nhau. Tuy nhiên, cho dù xác định học phí theo ngành học hay theo đặc thù của

phương pháp đào tạo đối với khối ngành thì học phí không những phản ánh

được chi phí cần thiết để đạt được chất lượng đào tạo chuẩn mực, đáp ứng các

41

tiêu chuẩn chất lượng nghiệm ngặt của các cơ quan quản lý và kiểm định chất

lượng các trường ĐHCL khối ngành kinh tế mà còn phản ánh cả các chi phí

liên quan mà sinh viên được thụ hưởng trong quá trình học tập cũng như giá trị,

uy tín của bằng cấp nhận được.

Thứ năm, các trường ĐHCL khối ngành kinh tế cần đổi mới công tác

quản lý tài chính tại theo hướng quản trị, chuyển sang tư duy quản trị theo kiểu

“ĐH - DN”, phân định rạch ròi giữa những người làm khoa học chuyên môn

và những người làm công tác quản lý. Hiệu trưởng các trường ĐHCL khối

ngành kinh tế không nhất thiết phải là giáo sư hay tiến sĩ, mà phải là những

người quản lý giỏi.

Tiểu kết chương 1

Công tác quản lý tài chính tại các ĐVSNCL là một vấn đề rất mới, khá

phức tạp. Mục tiêu của công tác quản lý tài chính tại các ĐVSNCL là tăng thu,

thu đúng, thu đủ, thu kịp thời; đảm bảo chi đúng, chi đủ, chi hiệu quả, tiết kiệm;

mua sắm, sử dụng tài sản hiệu quả, hợp lý, đúng mục đích. Với những nghiên

cứu chi tiết về công tác quản lý tài chính tại các ĐVSNCL, tác giả đã làm rõ

được một số vấn đề sau:

- Hệ thống hóa các lý luận cơ bản về ĐVSNCL, đưa ra khái niệm riêng

và chỉ ra mục tiêu, nhân tố ảnh hưởng khi thực hiện công tác quản lý tài chính

tại các ĐVSNCL.

- Hệ thống hóa nội dung công tác quản lý tài chính tại trên ba khía cạnh

chủ yếu: quản lý thu, quản lý chi và quản lý tài sản. Trong quản lý thu, tác giả

đã đưa ra những nội dung cụ thể như lập kế hoạch thu, tổ chức thực hiện, khai

thác các khoản thu, kiểm tra kiểm soát đánh giá các khoản thu trong các

ĐVSNCL. Trong quản lý chi, tác giả cũng đưa ra những nội dung cụ thể như

lập kế hoạch chi, tổ chức xác định chi phí, kiểm tra kiểm soát đánh giá các

42

khoản chi. Trong quản lý tài sản, tác giả đưa ra những nội dung cụ thể như quản

lý quá trình hình thành tài sản, quản lý quá trình sử dụng tài sản, quản lý quá

trình kết thúc sử dụng tài sản.

- Tìm hiểu những kinh nghiệm về công tác quản lý tài chính tại của các

trường đại học trên thế giới như kinh nghiệm của Mỹ, Singapore, Vương quốc

Anh và rút ra năm bài học cho các trường ĐHCL khối ngành kinh tế.

Toàn bộ những nội dung nghiên cứu được trình bày trong chương 1 của

luận văn là cơ sở để vận dụng nghiên cứu thực trạng quản lý tài chính trong các

43

trường ĐHCL Việt Nam ở chương 2.

Chương 2

THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ TÀI CHÍNH TẠI

CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG LẬP KHỐI NGÀNH KINH TẾ

2.1. Hệ thống các trường đại học công lập khối ngành kinh tế

2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển

Trường ĐH hiện đại đầu tiên của Việt Nam là trường ĐH Đông Dương,

tiền thân của ĐH Quốc gia Hà Nội được thành lập ngày 16 tháng 5 năm 1906

được tổ chức theo mô hình đa ngành, đa lĩnh vực. Ngày 15 tháng 11 năm 1945,

ngay sau khi giành được chính quyền từ tay thực dân Pháp, Nhà nước dân chủ

nhân dân đã thành lập trường ĐH Quốc gia Việt Nam trên cơ sở kế thừa trường

ĐH Đông Dương. Năm 1956 trường được đổi tên thành ĐH Tổng hợp. Cùng

với sự kế thừa trường ĐH Đông Dương, Nhà nước ta đã thành lập một số trường

ĐH mới như Trường Kinh tế Tài chính (nay là trường ĐH Kinh tế quốc dân),

ĐH Chuyên nghiệp Bách khoa (nay là trường ĐH Bách khoa Hà Nội), ĐH

Hàng hải, Học viện Nông lâm Hà Nội (nay là ĐH Nông nghiệp 1 Hà Nội và

ĐH Lâm nghiệp Việt Nam)… Khởi đầu với số lượng trường ít ỏi, cho đến nay

trải qua hơn một nửa thế kỷ, đội ngũ các trường ĐHCL tăng lên đáng kể, giữ

vai trò then chốt trong mạng lưới các trường ĐH Việt Nam. Năm 1991, Việt

Nam chỉ có một vài trường ĐH. Đến năm 2023, số lượng các trường ĐHCL đã

tăng lên thành 174 trường ĐH. Tuy nhiên, các số liệu dường như cũng cho thấy

số lượng gia tăng nhanh chóng đã phải đánh đổi với chất lượng khi mà tỷ lệ

giảng viên có bằng tiến sỹ giảm liên tục trong suốt 10 năm qua và tỷ lệ số sinh

viên trên một giảng viên ngày càng tăng lên (khoảng 25-27 sinh viên trên 1

giảng viên).

Cùng với sự nghiệp đổi mới của đất nước, các trường ĐHCL Việt Nam

44

có những bước phát triển mạnh mẽ và được phân loại thành các trường ĐH theo

ngành dân sự các trường ĐH và học viện quân sự, công an, các trường ĐH vùng

và cấp vùng, ĐH quốc gia, trường ĐH địa phương, trường ĐH, học viện theo

ngành, đa ngành gồm các trường ĐH, học viện trực thuộc cùng lúc Bộ GD &

ĐT và bộ ngành đào tạo, hoặc tổ chức, đoàn thể...

Ngành kinh tế là một ngành đặc biệt quan trọng của tất cả các quốc gia

trên thế giới. Ngành kinh tế cũng giống như một mạng lưới toàn cầu bao gồm

nhiều ngành nghề trong đó và các hoạt động kinh tế được liên kết chặt chẽ với

nhau một cách thống nhất. Do đó một quốc gia muốn phát triển kinh tế thì việc

đào tạo và ươm mầm những thế hệ tài năng học ngành kinh tế là rất cần thiết

và quan trọng. Ngành kinh tế là một trong những khối ngành luôn thu hút nhiều

thí sinh trong những năm qua bởi tiềm năng đem đến cơ hội việc làm rộng mở

cho người học sau khi tốt nghiệp.

Trong tổng số 174 trường ĐHCL có 72 trường đào tạo ngành kinh tế,

trong đó có trường chuyên đào tạo về kinh tế như Đại học Kinh tế quốc dân,

Đại học Ngoại thương, Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh…, có trường

không chuyên về đào tạo kinh tế có đào tạo ngành kinh tế như Đại học Bách

Khoa Hà Nội, Đại học Mở Hà Nội, Đại học Thủy Lợi…

Ngành kinh tế bao quát khá nhiều kiến thức sâu rộng, có ý nghĩa trực tiếp

đối với đời sống xã hội nên được chia thành một số nhóm ngành chính như sau:

- Nhóm ngành kinh tế quản trị: Trong khối ngành kinh tế, quản trị được

xem là ngành học quan trọng. Nhóm ngành này gồm các chuyên ngành kinh tế

cụ thể như Quản trị kinh doanh, Quản trị lữ hành, Quản trị nguồn nhân lực,

Kinh doanh quốc tế,… Sinh viên theo ngành này sẽ được cung cấp những kiến

thức để trở thành một nhà quản trị. Một số ngành có thể làm sau khi tốt nghiệp

ngành kinh tế quản trị: Quản trị marketing, Quản trị nhân sự, Quản trị tài chính,

45

Cố vấn kinh tế - Tài chính.

- Nhóm ngành kinh tế tài chính: Đây là nhóm ngành được nhiều sinh viên

quan tâm và lựa chọn nhất trong những năm gần đây. Nhóm ngành này bao

gồm các lĩnh vực cụ thể như: Tài chính doanh nghiệp, Quản trị tài chính, Tài

chính quốc tế, Thị trường chứng khoán, Hệ thống thông tin tài chính,… Sinh

viên tốt nghiệp trong nhóm ngành này có thể làm những công việc như: Nhân

viên ngân hàng, Tư vấn tài chính, Nhân viên bảo hiểm,…

- Nhóm ngành kế toán - kiểm toán: Kế toán - kiểm toán cũng là một

nhóm quan trọng trong khối ngành kinh tế. Sinh viên theo ngành sẽ được cung

cấp kiến thức về thu thập, xử lý, kiểm tra và cung cấp thông tin về tình hình tài

chính. Cũng như hiệu quả kinh doanh thông qua các nghiệp vụ: Tính phí, dự

toán, phân bổ ngân sách, quản lý doanh thu theo sát kế hoạch kinh doanh của

doanh nghiệp.

Bên cạnh đó, hệ thống các trường đại học ngành kinh tế với nhiều tên tuổi

nổi bật về chất lượng đào tạo như Đại học Kinh tế quốc dân, Đại học Ngoại

thương, Học viện Ngân hàng,…

2.1.2. Đặc điểm tổ chức quản lý hoạt động

Cơ cấu tổ chức cụ thể của trường đại học, mối quan hệ và mức độ tự chủ

của đơn vị thuộc, trực thuộc trường đại học được quy định tại Luật GDĐH số

08/2012/QH13 và Điều lệ Trường ĐH được Thủ tướng Chính phủ ban hành

theo Quyết định số 70/2014/QĐ-TTg ngày 10/12/2014, nhưng nhìn chung, cơ

cấu tổ chức của hầu hết các trường ĐHCL khối ngành kinh tế đều bao gồm:

- Hội đồng trường đại học, hội đồng học viện.

- Hiệu trưởng trường đại học, giám đốc học viện; phó hiệu trưởng trường

đại học, phó giám đốc học viện.

- Hội đồng khoa học và đào tạo; hội đồng khác (nếu có).

- Khoa, phòng chức năng, thư viện, tổ chức khoa học và công nghệ, tổ

46

chức phục vụ đào tạo khác.

- Trường, phân hiệu, viện nghiên cứu, cơ sở dịch vụ, doanh nghiệp, cơ

sở kinh doanh và đơn vị khác (nếu có) theo nhu cầu phát triển của trường đại

học.

Hiệu trưởng là người điều hành tổ chức, bộ máy của trường ĐH, chịu

trách nhiệm quản lý các hoạt động của trường ĐH. Hiệu trưởng có nhiệm vụ tổ

chức thực hiện nghị quyết của Hội đồng trường; tổ chức thực hiện các hoạt

động đào tạo, NCKH, hợp tác quốc tế, bảo đảm chất lượng GDĐH; xây dựng

chiến lược và kế hoạch phát triển đào tạo và NCKH của nhà trường trình Hội

đồng trường phê duyệt… Hiệu trưởng là chủ tài khoản, chịu trách nhiệm trước

pháp luật về toàn bộ công tác quản lý tài chính và tài sản của trường ĐH; thực

hiện quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm công khai, minh bạch về tài chính

theo quy định của pháp luật...

Trên cơ sở quy định chung, mỗi trường ĐH tiến hành tổ chức bộ máy

hoạt động phù hợp theo quy mô và lĩnh vực riêng của mình. Đối với 3 trường

ĐH mà tác giả khảo sát, các trường có cơ cấu tổ chức về cơ bản tuân thủ theo

quy định của Điều lệ Trường ĐH. Tuy nhiên việc thành lập các Hội đồng và

các tổ chức nghiên cứu và phát triển, đơn vị sự nghiệp, cơ sở sản xuất, kinh

doanh, dịch vụ trong trường ĐH, tạp chí KHCN đối với các trường là khác nhau.

Cụ thể:

+ Trường ĐH Ngoại thương ngoài Hội đồng trường còn tổ chức Hội

đồng Khoa học và Đào tạo, Hội đồng tư vấn. Trường có 2 cơ sở tại TP Hồ Chí

Minh và Quảng Ninh. Tại Hà Nội, trường có 14 khoa bộ môn đào tạo chuyên

ngành và 18 phòng, khoa, TT chức năng. Các đơn vị kinh doanh dịch vụ, tổ

chức nghiên cứu phát triển của trường gồm Viện Kinh tế và thương mại quốc

tế, TT Nghiên cứu, bồi dưỡng và tư vấn kinh tế đối ngoại, TT Hợp tác nguồn

47

nhân lực Việt Nam - Nhật Bản.

+ Trường ĐH Mở Hà Nội là một trường ĐH công lập tương đối trẻ, được

thành lập năm 1993 và có tổ chức Hội đồng trường. Hiện nay trường có 12 khoa

đào tạo chuyên ngành và 8 khoa, phòng chức năng. Trường có 8 đơn vị KHCN

- thông tin kinh tế như TT Học liệu, TT phát triển đào tạo, TT Hợp tác đào tạo,

TT đào tạo E-learning, TT ĐH Mở Hà Nội tại Đà Nẵng, TT Thông tin - Thư

viện, TT Công nghệ thông tin, TT Giáo dục thể chất và Quốc phòng - An ninh.

+ Trường ĐH Tài chính - QTKD trực thuộc Bộ Tài chính được thành lập

trên cơ sở nâng cấp trường Cao đẳng Tài chính - QTKD từ năm 2012 và có quy

mô không lớn, có 08 khoa đào tạo chuyên ngành với 11 phòng ban chức năng.

Trường không tổ chức Hội đồng trường, Hội đồng giáo sư, chỉ tổ chức Hội

đồng khoa học và Đào tạo. Trường có 3 TT là TT Ngoại ngữ - Tin học, TT hỗ

trợ sinh viên và quan hệ DN, TT Dịch vụ tư vấn tài chính – kế toán.

2.2. Thực trạng công tác quản lý tài chính tại các trường đại học

công lập khối ngành kinh tế

2.2.1. Cơ sở pháp lý về công tác quản lý tài chính tại các trường đại

học công lập khối ngành kinh tế

Các trường ĐH công lập khối ngành kinh tế là ĐVSNCL do Nhà nước

thành lập và tài trợ nguồn kinh phí nên mọi hoạt động công tác quản lý tài chính

tại của các trường phải tuân thủ theo những quy định của Nhà nước trong các

văn bản pháp lý. Liên quan đến hoạt động quản lý nội bộ các trường ĐHCL,

năm 2012, Quốc hội đã thông qua Luật GDĐH số 08/2012/QH13. Luật GDĐH

quy định về tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của trường ĐHCL, hoạt động đào

tạo, hoạt động khoa học và công nghệ, hoạt động hợp tác quốc tế, bảo đảm chất

lượng và kiểm định chất lượng GDĐH, giảng viên, người học, tài chính, tài sản

của cơ sở GDĐH. Bên cạnh Luật GDĐH và các văn bản hướng dẫn thi hành,

hoạt động công tác quản lý tài chính tại các trường còn chịu sự chi phối của

48

Luật NSNN số 88/2015/QH13. Theo quy định của Luật này, các trường ĐHCL

phải lập dự toán thu, chi NS hàng năm và lập kế hoạch tài chính - NSNN 3 năm.

Bên cạnh đó Luật cũng cho phép các trường ĐHCL được chủ động sử dụng

nguồn thu phí và các nguồn thu hợp pháp khác để phát triển và nâng cao chất

lượng, hiệu quả hoạt động theo quy định, hướng tới quản lý NSNN theo kết quả

thực hiện nhiệm vụ.

Một văn bản pháp quy quan trọng khác quy định về quản lý tài chính cho

các ĐVSNCL nói chung, các trường ĐHCL nói riêng là Nghị định số

43/2006/NĐ-CP quy định quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm

vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với ĐVSNCL. Ngày 21/6/2021,

Chính phủ ban hành Nghị định số 60/2021/NĐ-CP thay thế Nghị định số

43/2006/NĐ-CP nhằm tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện cơ chế tự chủ đối với

ĐVSNCL. Việc phân loại ĐVSNCL được dựa trên mức độ tự chủ về tài chính

của các đơn vị cả về chi thường xuyên và chi đầu tư. Theo đó, tại Nghị định số

60/2021/NĐ-CP quy định 4 loại ĐVSNCL: (i) đơn vị sự nghiệp công tự bảo

đảm chi thường xuyên và chi đầu tư, (ii) đơn vị sự nghiệp công tự bảo đảm chi

thường xuyên, (iii) đơn vị sự nghiệp công tự bảo đảm một phần chi thường

xuyên, (iv) đơn vị sự nghiệp công do Nhà nước bảo đảm chi thường xuyên.

Tương ứng với từng loại hình ĐVSNCL, Nghị định quy định việc tự chủ của

các đơn vị trong thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, nhân sự và tài chính trên

nguyên tắc các đơn vị tự đảm bảo kinh phí hoạt động càng nhiều thì mức độ tự

chủ càng cao để khuyến khích các đơn vị tăng thu, giảm dần bao cấp từ NSNN,

trong đó có bao cấp tiền lương tăng thêm để dần chuyển sang các loại hình đơn

vị tự đảm bảo chi thường xuyên, đơn vị tự đảm bảo chi thường xuyên và chi

đầu tư.

Theo Nghị định số 60/2021/NĐ-CP, Trường ĐH Ngoại thương là trường

có nguồn thu tự bảo đảm chi thường xuyên và chi đầu tư, Trường ĐH Mở Hà

49

Nội là trường có nguồn thu tự bảo đảm chi thường xuyên; Trường ĐH Tài chính

- QTKD là trường có nguồn thu tự bảo đảm một phần chi thường xuyên (khoảng

40%).

2.2.2. Thực trạng quản lý thu tại các trường đại học công lập khối

ngành kinh tế

2.2.2.1. Lập kế hoạch thu

* Nội dung các khoản thu

Các khoản thu của các trường ĐHCL khối ngành kinh tế hiện nay bao

gồm thu từ NSNN cấp, thu học phí, lệ phí và các khoản thu khác.

- Thu từ NSNN cấp: Để đảm bảo hoạt động của nhà trường nhằm thực

hiện các chức năng, nhiệm vụ được giao, Nhà nước cấp kinh phí từ NSNN cho

các trường. Nguồn NSNN cấp bao gồm:

+ Kinh phí giao tự chủ: NSNN cấp cho hoạt động thường xuyên đối

với trường ĐHCL tự bảo đảm một phần chi phí hoạt động và trường ĐHCL do

NSNN cấp toàn bộ chi phí hoạt động;

+ Kinh phí không giao tự chủ: NSNN cấp cho các nhiệm vụ không

thường xuyên như để thực hiện các đề tài NCKH cấp Nhà nước, bộ, ngành;

chương trình mục tiêu quốc gia; các nhiệm vụ đột xuất khác được giao; vốn

đầu tư cơ sở vật chất, mua sắm trang thiết bị, sửa chữa lớn TSCĐ phục vụ hoạt

động đào tạo và NCKH theo dự án và kế hoạch hàng năm; vốn đối ứng các dự

án có nguồn vốn nước ngoài được cấp có thẩm quyền phê duyệt…

- Phần để lại từ số thu học phí, lệ phí của sinh viên theo quy định của

Nhà nước;

- Các khoản thu khác bao gồm:

+ Thu từ các hoạt động liên kết đào tạo với các tổ chức trong và

ngoài nước;

+ Thu từ các hoạt động cung ứng dịch vụ gắn với hoạt động của Nhà

50

trường, kể cả việc khai thác cơ sở vật chất;

+ Thu từ các hợp đồng KHCN với các tổ chức cá nhân trong và ngoài

nước;

+ Lãi lãi tiền gửi ngân hàng từ các hoạt động dịch vụ.

+ Thu từ viện trợ, tài trợ, quà biếu, tặng, cho theo quy định của pháp luật.

+ Thu khác, gồm: Nguồn vốn vay của các tổ chức tín dụng, vốn huy

động của cán bộ, viên chức trong đơn vị; Nguồn vốn liên doanh, liên kết của

các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước theo quy định của pháp luật.

* Xác định mức thu

Học phí là một nguồn thu quan trọng bổ sung nguồn lực tài chính cho

các trường ĐHCL. Ngày 27/8/2021, Chính phủ ban hành Nghị định số

81/2021/NĐ-CP quy định về cơ chế thu, quản lý học phí đối với cơ sở giáo dục

thuộc hệ thống giáo dục quốc dân và chính sách miễn, giảm học phí, hỗ trợ chi

phí học tập; giá dịch vụ trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo. Theo đó, giá dịch vụ

trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo là số tiền người sử dụng dịch vụ phải trả cho

từng dịch vụ trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo và giáo dục nghề nghiệp, bao

gồm: học phí (theo các cấp học và trình độ đào tạo) và giá các dịch vụ khác

trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo (giá dịch vụ tuyển sinh; giá dịch vụ kiểm định

chất lượng giáo dục; giá cấp phát các loại phôi văn bằng, chứng chỉ; giá dịch

vụ hỗ trợ đào tạo, cung ứng nguồn nhân lực thông qua việc nghiên cứu xây

dựng chiến lược, chính sách, quy hoạch, kế hoạch về đào tạo nhân lực theo nhu

cầu xã hội; giá dịch vụ điều tra, phân tích và dự báo nhu cầu nhân lực thông

qua việc kết nối cơ sở đào tạo với đơn vị sử dụng lao động nhằm khai thác các

nguồn lực cho hoạt động đào tạo phát triển nguồn nhân lực; giá dịch vụ bồi

dưỡng nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục; giá dịch vụ tư vấn cho các tổ chức,

cá nhân xây dựng kế hoạch, quy hoạch phát triển nguồn nhân lực, tham gia bồi

dưỡng phát triển các kỹ năng cần thiết cho người học; giá các dịch vụ hỗ trợ

51

hoạt động giáo dục, đào tạo).

Qua kết quả khảo sát, có thể thấy hiện nay các trường ĐHCL khối ngành

kinh tế căn cứ vào mức trần học phí do Nhà nước quy định rồi xác định mức

thu học phí thấp hơn hoặc bằng thường dựa vào những yếu tố như “Chi phí

đào tạo cho toàn khóa học”, “Danh tiếng và thương hiệu của trường”, “Địa

điểm học tập”, “Chất lượng giảng dạy, đào tạo của trường”, “Cơ sở vật chất kỹ

thuật và hệ thống phục vụ học tập”, “Ngành nghề đang được xem là dễ xin

việc”, “Khả năng chi trả của gia đình người học”. Bên cạnh đó vẫn còn một số

trường xác định mức thu học phí dựa vào “Ý muốn chủ quan của Ban lãnh đạo

nhà trường”. Thông thường, các trường ĐHCL thuộc Trung ương quản lý, với

địa điểm học tập ở các thành phố lớn thường quy định mức thu cao hơn các

trường ĐHCL do địa phương quản lý.

* Lập kế hoạch thu

Các trường ĐHCL khối ngành kinh tế hiện nay đều sử dụng phương

pháp lập kế hoạch dựa vào quá khứ. Quá trình lập kế hoạch thu chia làm hai

bước là xây dựng kế hoạch thu về lượng, sau đó xây dựng các kế hoạch về ngân

sách. Quá trình xây dựng kế hoạch thu về lượng được thực hiện ở các đơn vị

chức năng như đào tạo, khoa học đối ngoại, quản lý thiết bị... bao gồm các kế

hoạch: chỉ tiêu tuyển sinh ở từng bậc và từng hệ đào tạo; các hợp đồng, đề tài

NCKH, dự án KHCN; kế hoạch mở các lớp bồi dưỡng... Nhân sự ở các đơn vị

chức năng xây dựng kế hoạch về lượng không phải là nhân sự chuyên trách mà

kiêm nhiệm, phần lớn do các trưởng đơn vị chức năng tổ chức chỉ đạo, xây

dựng các kế hoạch. Kế hoạch ngân sách được xây dựng trên cơ sở các kế hoạch

về lượng do các bộ phận chức năng chuyển đến. Phương pháp ưu tiên áp dụng

là dựa trên kế hoạch của năm trước với tỷ lệ phát triển trung bình, của các

khoản mục chi để xây dựng chỉ tiêu của năm kế hoạch hay còn gọi là phương

pháp dựa vào quá khứ. Khác với xây dựng kế hoạch về lượng, việc xây dựng

52

kế hoạch ngân sách có bộ phận chuyên trách thực hiện, được bố trí tại phòng

kế hoạch tài chính của các trường và là bộ phận đầu mối tổng hợp kế hoạch

của toàn trường.

Bảng 2.1: So sánh kế hoạch thu và kết quả thực hiện của 3 trường: ĐH

Ngoại thương, ĐH Mở Hà Nội, ĐH Tài chính - QTKD (2021 - 2023)

Từ NSNN cấp

Nội dung thu

Từ học phí, lệ phí

Từ nguồn khác

Đơn vị tính: Triệu đồng

Trường

Năm

Kinh phí giao tự chủ

2021

ĐH Ngoại thương

2022

2023

2021

ĐH Mở Hà Nội

2022

2023

2021

ĐH Tài chính – QTKD

2022

2023

Kế hoạch Thực hiện So sánh TH/KH Kế hoạch Thực hiện So sánh TH/KH Kế hoạch Thực hiện So sánh TH/KH Kế hoạch Thực hiện So sánh TH/KH Kế hoạch Thực hiện So sánh TH/KH Kế hoạch Thực hiện So sánh TH/KH 25.187 Kế hoạch Thực hiện 26.851 So sánh TH/KH 106,61% 28.357 Kế hoạch 27.175 Thực hiện 95,83% So sánh TH/KH 27.192 Kế hoạch 22.342 Thực hiện 82,16% So sánh TH/KH

Kinh phí không giao tự chủ 25.973 26.420 101,72% 22.375 21.969 98,19% 13.538 12.502 92,35% 4.904 4.904 100,00% 1.800 1.695 94,17% 2.250 2.485 110,44% 3.910 4.736 121,13% 9.124 8.994 98,58% 4.591 2.558 55,72%

197.332 172.330 87,33% 162.441 183.500 112,96% 175.436 182.124 103,8% 161.930 189.819 117,22% 185.374 177.636 95,83% 160.500 174.369 108,64% 18.695 21.213 113,47% 19.952 22.664 113,59% 20.435 23.518 115,09%

100.629 82.850 82,33% 89.769 78.400 87,34% 89.126 78.942 88,57% 6.215 8.420 135,48% 16.537 18.635 112,69% 21.951 18.429 83,96% 1.632 2.160 132,42% 1.329 2.910 218,96% 3.561 5.555 156,00%

Nguồn: Dự toán và Báo cáo quyết toán của 3 trường ĐHCL

53

So sánh số liệu giữa kế hoạch thu và kết quả thực hiện trong 3 năm từ

2021 – 2023 của 3 trường ĐHCL mà tác giả khảo sát cho thấy sự chênh lệch

tương đối giữa kế hoạch và thực hiện (Bảng 2.1). Cụ thể là 2 trường ĐH Ngoại

thương và Trường ĐH Mở Hà Nội có sự chênh lệch giữa kế hoạch và thực hiện

không lớn, khoảng từ 80 - 135% do công tác lập kế hoạch của 2 trường rất được

quan tâm chú trọng. Trường ĐH Tài chính - QTKD có sự chênh lệch giữa kế

hoạch và thực hiện khá lớn, khoảng từ 50 - 210%. Nguyên nhân do lập kế

hoạch số lượng sinh viên, học viên chưa chính xác hoặc do không theo dõi sát

sao công tác thu hồi công nợ cũng như dự đoán nguồn thu từ liên kết đào tạo…

2.2.2.2. Tổ chức thực hiện, khai thác các khoản thu

Đối với nguồn kinh phí NSNN cấp, nhìn chung các trường ĐHCL khối

ngành kinh tế đã thực hiện quản lý theo đúng chu trình quản lý NSNN, đúng

quy định của Nhà nước. Chu trình quản lý NSNN được thực hiện từ khâu lập

dự toán, chấp hành và quyết toán. Hàng năm, các trường tiến hành lập dự toán

chi được đảm bảo bằng nguồn NSNN, trình cơ quan có thẩm quyền xét duyệt

và chấp nhận. Việc tiếp nhận, sử dụng và quyết toán kinh phí về cơ bản các

trường tuân thủ Luật NSNN và sự hướng dẫn của cơ quan tài chính, cơ quan

chủ quản.

Nhìn chung, các trường ĐHCL khối ngành kinh tế trong thời gian qua

đã có những bước thay đổi tích cực trong công tác quản lý tài chính tại của

đơn vị, đặc biệt trong nỗ lực tìm kiếm khai thác các khoản thu, mở các ngành

đào tạo có chất lượng cao, các chương trình liên kết đào tạo với nước ngoài,

nhất là các trường tự đảm bảo chi thường xuyên. Việc tổ chức các hoạt động

dịch vụ khác để tạo thêm nguồn thu được Nhà nước khuyến khích và thể chế

hóa bằng văn bản tại Nghị định số 43/2006/NĐ-CP, Nghị định số

60/2021/NĐ-CP. Theo đó, các trường ĐHCL khối ngành kinh tế được sử dụng

54

cơ sở vật chất sẵn có, sau khi đã thực hiện các nhiệm vụ chính được Nhà nước

giao, để tạo thêm nguồn thu. Một số hoạt động dịch vụ chủ yếu của các trường

ĐHCL khối ngành kinh tế là:

- Nguồn thu từ tổ chức đào tạo bậc cử nhân, bậc thạc sĩ liên kết với nước

ngoài.

- Nguồn thu từ việc thực hiện các hợp đồng đào tạo theo nhu cầu như:

dạy ngoại ngữ, tổ chức đào tạo, bồi dưỡng ngắn hạn…

- Nguồn thu từ việc tận dụng cơ sở vật chất để cung cấp các dịch vụ: cho

thuê hội trường, phòng học, KTX, nhà ăn sinh viên, nhà khách…

- Nguồn thu từ các hoạt động cung cấp dịch vụ KHCN, chuyển giao công

nghệ như: triển khai kỹ thuật, các hợp đồng phần mềm, nghiên cứu thử

nghiệm…

- Nguồn thu từ các hoạt động kinh tế khác như liên kết sản xuất, sản xuất

kinh doanh phân bón, máy tính, giống cây trồng, tư vấn thiết kế…

Nhiều trường ĐHCL khối ngành kinh tế đã đa dạng hóa và chuẩn hóa lại

các chương trình đào tạo theo nhu cầu xã hội. Một số trường ĐH đã xây dựng

Chương trình chất lượng cao giảng dạy bằng tiếng Anh. Cùng với đó là việc

tăng cường các chương trình liên kết với nước ngoài. Các trường cũng đã chủ

động tích cực tìm kiếm các trường ĐH uy tín trên thế giới để hợp tác xây dựng

các chương trình đào tạo liên kết cả bậc cử nhân và thạc sỹ. Các đối tác chủ yếu

đến từ Hoa Kỳ, Úc, Anh, Đan Mạch, Pháp, Nhật Bản, Đài Loan… và thu hút

sinh viên quốc tế. Theo báo cáo của Bộ GD & ĐT, tổng số các chương trình

đào tạo được liên kết với các trường ĐH quốc tế tính đến tháng 4 năm 2011 là

142 chương trình được Bộ GD & ĐT cấp phép (chưa kể các chương trình do 2

ĐH Quốc gia và các ĐH vùng cấp phép). Trong đó có rất nhiều chương trình

được liên kết với các trường ĐH có thứ hạng và chất lượng cao trên thế giới.

Kết quả hợp tác đã hình thành nên các chương trình đào tạo chất lượng cao, đáp

55

ứng tốt hơn các nhu cầu của xã hội. Các chương trình này không được Nhà

nước cấp ngân sách nhưng đã góp phần tạo ra nguồn thu rất lớn hỗ trợ các hoạt

động của trường ĐH, nâng cao thu nhập cho cán bộ, giảng viên.

Hộp 2.1: Công tác đào tạo và hợp tác quốc tế của Trường ĐH Ngoại thương

Bắt đầu từ năm học 2005-2006, nhà trường đã phát triển các chương trình đào tạo chất lượng cao với những đặc điểm riêng có như giảng dạy bằng Tiếng Anh, có sự tham gia của DN, tăng cường tính thực tiễn và phương pháp học tập, giảng dạy của toàn bộ chương trình. Hiện tại, nhà trường đang triển khai 3 chương trình chất lượng cao về Kinh doanh quốc tế, Kinh tế đối ngoại và Tài chính Ngân hàng với tổng số sinh viên lên đến 300 sinh viên/năm. Bên cạnh đó, bắt đầu từ năm học 2007-2008, nhà trường đã liên kết với trường ĐH Colorado (Hoa kỳ) triển khai giảng dạy Chương trình Tiên tiến, và đã tuyển sinh từ năm học 2008-2009 với 80 sinh viên. Từ năm 2009, nhà trường bắt đầu triển khai Chương trình tiến tiến thứ hai có chuyên ngành đào tạo về Kinh doanh quốc tế với trường ĐH California State University, Fullerton.

Trên cơ sở mạng lưới hợp tác quốc tế được phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu này, ĐH Ngoại thương tận dụng các cơ hội để thúc đẩy mạnh mẽ các hoạt động hợp tác trên tất cả các lĩnh vực bao gồm trao đổi sinh viên, trao đổi giảng viên, tổ chức các hội thảo khoa học quốc tế, liên kết nghiên cứu, liên kết đào tạo. Hiện nay, nhà trường có hơn 30 chương trình liên kết đào tạo có yếu tố quốc tế. Các chương trình kiên kết đào tạo tiêu biểu của trường có thể kể đến là: Chương trình liên kết đào tạo Thạc sỹ Luật kinh doanh quốc tế giảng dạy bằng tiếng Pháp hợp tác với Trường ĐH Tổng hợp Francois Rebelais Tours; Chương trình Thạc sỹ Kinh doanh quốc tế giảng dạy bằng Tiếng Anh, liên kết với Trường ĐH Latrobe (Úc); Chương trình Thạc sỹ Quản trị dự án hợp tác với trường ĐH Nantes (Pháp); Chương trình Thạc sỹ Kinh tế Á – Âu hợp tác với ĐH Rennes 2; Chương trình liên kết đào tạo cử nhân và thạc sỹ liên kết với ĐH Bedfordshire (Anh Quốc); Chương trình tiên tiến ngành Kinh tế quốc tế phối hợp với trường ĐH

Colorado (Hoa kỳ); Chương trình tiên tiến QTKD quốc tế phối hợp với trường ĐH California State Fullerton (Hoa Kỳ); Chương trình MBA về logistics với trường Kinh doanh Nauy; Chương trình hợp tác đào tạo cử nhân 1,5 + 3 với trường ĐH Aomori Chuo Gakuin (Nhật Bản); Chương trình đào tạo cử nhân quản lý tài chính và dịch vụ với trường ĐH Niels Brock Copenhagen Business College (Đan Mạch)…

Nguồn: Trích Trường ĐH Ngoại thương 50 năm xây dựng và phát triển - Phần 3: Trường

ĐH Ngoại thương trong thời kỳ mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế [32].

Nhiều trường ĐHCL khối ngành kinh tế đã có chính sách khuyến khích

các đơn vị, bộ phận, cá nhân trong trường tăng cường tìm kiếm và thu hút các

nguồn thu bằng việc quy định cụ thể trong Quy chế chi tiêu nội bộ.

Để khuyến khích các đơn vị trực thuộc trường khai thác tăng nguồn thu,

56

trường ĐH Ngoại thương trong Quy chế chi tiêu nội bộ năm 2021 quy định các

đơn vị độc lập và các đơn vị, TT trực thuộc trường không hạch toán độc lập khi

mở các lớp bồi dưỡng ngắn hạn và các hoạt động có thu khác đóng góp cho nhà

trường 10% trên tổng thu (đối với hoạt động có thu thực hiện tại trường của

đơn vị không hạch toán độc lập còn đóng góp thêm chi phí sử dụng cơ sở vật

chất) [31].

Trường ĐH Mở Hà Nội phân cấp rất mạnh về thu, chi cho các khoa, TT

của trường nhằm khuyến khích tăng thu. Cụ thể là trong Quy chế chi tiêu nội

bộ năm 2022, Trường ủy quyền cho 15 Khoa, TT thu học phí, lệ phí và các

khoản thu khác và nộp về Trường và chịu trách nhiệm về khoản thu đó. Để

khuyến khích tăng thu, Trường trích lại 70% trên tổng thu học phí, lệ phí, các

loại phí để chi một số công việc như: thuê cơ sở vật chất phục vụ giảng dạy học

tập, văn phòng cho đơn vị đào tạo; chi các hoạt động trực tiếp giảng dạy, phục

vụ giảng dạy; chi thường xuyên; hỗ trợ hoạt động của sinh viên; chi học bổng

sinh viên. Trong quá trình thực hiện nếu còn kinh phí thì có thể hỗ trợ thêm cho

công tác quản lý của đơn vị [33].

Để khuyến khích tăng nguồn thu từ cho thuê phòng ở KTX, Trường ĐH

Tài chính - QTKD quy định trong Quy chế chi tiêu nội bộ năm 2023: “Ban

quản lý KTX được hưởng công khai thác và thu tiền phòng ở KTX theo các

mức sau đây: Khai thác đến 80% công suất nhà ở: hưởng 5% trên tổng số thu;

Khai thác từ 81% đến 90% công suất nhà ở: hưởng 10% trên tổng số thu; Khai

thác từ 91% trở lên: hưởng 20% trên tổng số thu”. Đối với các dịch vụ đào tạo,

bồi dưỡng cấp chứng chỉ do 2 TT của trường thực hiện, ở Điều 33, mục 2 quy

định: “Khoán nộp kinh phí về nhà trường theo các mức trên số kinh phí thực

thu: lớp học sử dụng phòng máy vi tính nộp 25%; lớp học sử dụng hội trường,

lớp học nộp 13%; lớp học thực hiện ở các địa điểm ngoài trường nộp 8%” [29].

57

2.2.2.3. Kiểm tra kiểm soát, đánh giá các khoản thu

Trong Quy chế chi tiêu nội bộ của các trường ĐHCL khối ngành kinh tế

hầu như ít quy định về khoản thu, mức thu các hoạt động dịch vụ, cho thuê, liên

kết đào tạo… dễ gây nảy sinh tiêu cực, tham nhũng. Hầu như các trường đều

có nguồn thu từ các hoạt động dịch vụ, cho thuê, liên kết đào tạo nhưng trong

Quy chế chi tiêu nội bộ của trường chỉ tập trung vào quy định mức chi. Một số

trường có đưa vào nội dung các khoản thu nhưng cũng không đưa ra mức thu.

Trường ĐH Ngoại thương có thu từ hoạt động cung ứng dịch vụ gắn với

hoạt động của nhà trường, kể cả việc khai thác cơ sở vật chất… tuy nhiên trong

Quy chế chi tiêu nội bộ năm 2021 ban hành theo Quyết định số 67/QĐ-ĐHNT

ngày 12/1/2021 không có nội dung quy định về mức thu, chỉ quy định về nghĩa

vụ đóng góp của các đơn vị trực thuộc trường khi thực hiện các hoạt động có

thu [31]. Mức thu từ khai thác cơ sở vật chất chỉ được quy định ở Quy định về

quản lý, sử dụng cơ sở vật chất, mua sắm tài sản của trường ĐH Ngoại thương

theo Quyết định số 73/QĐ-QTTB ngày 1/3/2021 [30].

Trong Quy chế chi tiêu nội bộ năm 2022 của Trường ĐH Mở Hà Nội

ban hành theo Quyết định số 08/QĐ-ĐHM ngày 8/1/2022 không có nội dung

nào quy định về mức thu, nội dung thu [33].

Mặc dù ở Trường ĐH Tài chính - QTKD có các khoản thu từ cho thuê

địa điểm, cơ sở vật chất thực hiện các dịch vụ kinh doanh ăn uống, giải khát,

trông giữ xe, từ cho thuê hội trường… nhưng trong Quy chế chi tiêu nội bộ năm

2023 của Trường ĐH Tài chính - QTKD ban hành theo Quyết định số 141/QĐ-

ĐHTCQTKD ngày 31/3/2023 chỉ quy định mức thu cho thuê hội trường (Hội

trường lớn cơ sở 1 mức thu 3.000.000đồng/lần, Hội trường lớn cơ sở 2:

5.000.000đồng/lần, Hội trường khác: 500.000đ/lần) [29].

Như vậy, những quy định chưa chặt chẽ, công khai, minh bạch, rõ ràng

58

như thế này sẽ rất dễ gây nảy sinh tiêu cực, tham nhũng, nếu như có sự thông

đồng giữa bộ phận chức năng với đối tượng sử dụng dịch vụ và Ban lãnh đạo

nhà trường.

Văn bản quy định của Nhà nước về “Kiểm soát nội bộ” và “Kiểm toán

nội bộ” vẫn còn mờ nhạt. Hiện nay, văn bản quy định liên quan đến “KSNB”

là ở Điều 39 Luật kế toán số 88/2015/QH13. Theo đó, KSNB là việc thiết lập

và tổ chức thực hiện trong nội bộ đơn vị kế toán các cơ chế, chính sách, quy

trình, quy định nội bộ phù hợp với quy định của pháp luật nhằm bảo đảm phòng

ngừa, phát hiện, xử lý kịp thời rủi ro và đạt được yêu cầu đề ra. Đơn vị kế toán

phải thiết lập hệ thống KSNB trong đơn vị để tài sản của đơn vị được bảo đảm

an toàn, tránh sử dụng sai mục đích, không hiệu quả, các nghiệp vụ được phê

duyệt đúng thẩm quyền và được ghi chép đầy đủ làm cơ sở cho việc lập và trình

bày báo cáo tài chính trung thực, hợp lý. Bên cạnh đó, khái niệm kiểm toán nội

bộ vẫn còn mờ nhạt, đặc biệt là đối với các trường ĐHCL. Hiện nay, mới có

một số văn bản đã nhắc đến “kiểm toán nội bộ” trong đơn vị sự nghiệp. Cụ thể

là ở Điều 38 Nghị định số 60/2021/NĐ-CP ngày 21/6/2021 quy định cơ chế tự

chủ của ĐVSNCL quy định: “Trách nhiệm của của đơn vị sự nghiệp công: Xây

dựng và tổ chức thực hiện quy chế chi tiêu nội bộ, quy chế sử dụng tài sản, quy

chế dân chủ cơ sở, quy chế công khai tài chính, kiểm toán nội bộ theo quy định”.

Tiếp theo văn bản có tính pháp lý cao hơn là ở Điều 39 Luật kế toán số

88/2015/QH13 đã quy định: “Kiểm toán nội bộ là việc kiểm tra, đánh giá, giám

sát tính đầy đủ, thích hợp và tính hữu hiệu của KSNB”. Tuy nhiên đến thời

điểm này Chính phủ vẫn chưa có văn bản quy định chi tiết về KSNB và kiểm

toán nội bộ trong đơn vị sự nghiệp nên các trường ĐHCL vẫn chưa có đủ căn

cứ pháp lý để tổ chức bộ máy kiểm toán nội bộ trong nhà trường. Chính vì vậy

nên trong thời gian vừa qua chưa có trường ĐHCL nào có bộ phận kiểm toán

nội bộ thực hiện chức năng tư vấn và hỗ trợ cho nhà quản lý một cách chính

59

thức và chuyên nghiệp.

2.2.3. Thực trạng quản lý chi tại các trường đại học công lập khối

ngành kinh tế

2.2.3.1. Lập kế hoạch chi

* Xây dựng định mức chi:

Xây dựng định mức chi là một công việc cần thiết và quan trọng và bắt

buộc đối với các trường ĐHCL khối ngành kinh tế. Hiện nay các trường đã xây

dựng định mức chi tiêu và được cụ thể hóa trong Quy chế chi tiêu nội bộ. Hệ

thống định mức chi bao gồm định mức về lượng và định mức về tiền. Các

trường ĐHCL khối ngành kinh tế đã xây dựng Quy chế chi tiêu nội bộ để công

khai các định mức cho toàn thể cán bộ công chức viên chức trong trường và

gửi cho các cơ quan chức năng của nhà nước để kiểm soát chi. Một số trường

ĐHCL khối ngành kinh tế còn công khai Quy chế chi tiêu nội bộ trang trên web

của trường.

Các trường ĐHCL khối ngành kinh tế tổ chức xây dựng Quy chế chi tiêu

nội bộ đều thành lập tiểu ban xây dựng Quy chế chi tiêu nội bộ do Phòng kế

hoạch tài chính làm đầu mối và các thành viên bao gồm các đơn vị chức năng

như đào tạo, tổ chức cán bộ, khoa học đối ngoại... đại diện của tổ chức công

đoàn và các chuyên gia trong từng lĩnh vực tùy theo từng trường. Các thành

viên làm việc không thường xuyên, được huy động làm việc theo từng thời kỳ

xây dựng hoặc hoàn thiện Quy chế chi tiêu nội bộ. Quy chế xây dựng xong

được toàn thể cán bộ công chức tham gia góp ý. Sau đó tiểu ban sẽ xem xét

hoàn thiện trước khi trình Hiệu trưởng ký ban hành.

Nội dung các định mức chi cụ thể và cơ sở xây dựng thường bao gồm:

- Hệ thống định mức về lượng:

Định mức về lượng được xây dựng cho các công việc đã lượng hóa được

theo chuẩn quy định của Nhà nước như định mức giờ làm việc theo nhiệm vụ

60

như giảng lý thuyết, thực hành, hướng dẫn sinh viên tốt nghiệp, chấm bài... của

giảng viên quy đổi theo giờ giảng chuẩn, định mức NCKH của giáo viên theo

nhiệm vụ NCKH như bài báo, công trình NCKH, viết giáo trình, sách chuyên

khảo, tham khảo... được quy đổi ra giờ chuẩn NCKH.

Đối với cán bộ quản lý giáo dục do không lượng hóa được công việc

bằng định mức quy chuẩn nên phần lớn các trường kiểm soát khối lượng công

việc của nhóm này bằng thời gian làm việc và khối lượng công việc chuẩn theo

từng chức danh.

- Hệ thống định mức về tiền:

Trên cơ sở định mức về lượng xác định định mức về tiền, các định mức

chi được cụ thể cho từng công việc, định mức chi của các trường không giống

nhau căn cứ vào nguồn tài chính và điều kiện quản lý tại từng trường để quyết

định, song các định mức cụ thể tại các mẫu nghiên cứu bao gồm: Nhóm định

mức chi thanh toán cá nhân (như định mức tiền lương và các khoản phụ cấp

lương, thu nhập tăng thêm cho cá nhân…); Nhóm định mức chi quản lý hành

chính (như định mức chi hội nghị, hội thảo, định mức chi tiền tàu xe, phụ cấp

lưu trú, thuê phòng nghỉ,hỗ trợ cước phí điện thoại phục vụ công tác điều hành

quản lý, khoán văn phòng phẩm, khoán xăng dầu…); Nhóm định mức chi

nghiệp vụ chuyên môn (như định mức chi phí tuyển sinh, định mức chi cho

công tác thi tốt nghiệp, định mức chi công tác biên soạn giáo trình, tài liệu, định

mức chi thanh toán vượt định mức giảng dạy, định mức chi hướng dẫn luận án,

luận văn cao học, khóa luận, chuyên đề, định mức kinh phí NCKH cho các đề

tài, chi cho công việc nghiệm thu đề tài NCKH, định mức chi hoạt động NCKH

của sinh viên, định mức hỗ trợ cán bộ, công chức học cao học, nghiên cứu sinh

trong nước theo quyết định của trường, đi học tập bồi dưỡng ngắn hạn, dự Hội

nghị cấp trên triệu tập… ); Nhóm định mức về trích lập và sử dụng các quỹ

(như định mức chi khen thưởng, định mức chi tiền các ngày lễ, tết trong năm

61

cho cán bộ công chức... ); Nhóm định mức chi cho các hoạt động khác (như

định mức chi hỗ trợ kinh phí hoạt động của tổ chức Đảng và các tổ chức chính

trị - xã hội, chi hỗ trợ kinh phí hoạt động đối với tổ chức Hội đồng trường, chi

hỗ trợ hoạt động học tập, sinh hoạt chính trị, công tác tuyên truyền…).

* Xây dựng kế hoạch chi

Về cơ bản kế hoạch chi của các trường ĐHCL khối ngành kinh tế được

xây dựng khá đầy đủ nhưng chủ yếu vẫn sử dụng phương pháp lập kế hoạch

dựa vào quá khứ. Kế hoạch chi ngân sách được xây dựng chi tiết hàng năm trên

cơ sở nguồn thu các trường tự cân đối giữa thu và chi. Kế hoạch chi ngân sách

được xây dựng tổng quát và chi tiết theo từng nhiệm vụ, chẳng hạn như nhiệm

vụ đào tạo ĐH được xây dựng chi tiết theo nhiệm vụ chi thanh toán cá nhân,

chi nhiệm vụ chuyên môn, chi xây dựng mua sắm, chi khác. Các khoản chi

được xây dựng trên cơ sở dự đến từng nội dung chi và định mức chi dự kiến

hoặc trên cơ sở số liệu năm trước ước đoán tỷ lệ phát triển của từng khoản chi

(căn cứ vào số liệu thực tế từ các năm trước tính trên tỷ lệ phát triển trung bình).

Về cơ bản, các trường ĐHCL khối ngành kinh tế đều sử dụng phương pháp lập

kế hoạch dựa vào quá khứ. Các dự toán chi tiết:

- Dự toán chi thanh toán cho cá nhân theo mục lục ngân sách: Các khoản

thanh toán cho cá nhân theo mục lục ngân sách bao gồm chi tiền lương và các

khoản phụ cấp lương theo quy định; thu nhập tăng thêm của trường; tiền lương

làm thêm giờ. Trên cơ sở kế hoạch hoạt động từng giai đoạn, chi tiết theo từng

năm học và định mức các khoản chi cho cá nhân, trường xây dựng dự toán

thanh toán cho cá nhân từ hai nguồn: nguồn NSNN cấp và nguồn thu được để

lại đơn vị sử dụng theo chế độ quy định.

- Dự toán chi phục vụ chuyên môn nghiệp vụ tại các khoa, phòng, ban,

đơn vị trực thuộc trường: Trên cơ sở dự toán chi tổng thể theo từng nhiệm vụ

của năm kế hoạch, khi thực hiện nhiệm vụ, các đơn vị lập dự toán chi cho từng

62

nhiệm vụ như Dự toán chi tuyển sinh, dự toán chi đi công tác, dự toán chi hội

nghị… được bộ phận chức năng và Ban giám hiệu phê duyệt là căn cứ để thực

hiện nhiệm vụ và quyết toán.

- Dự toán chi thực hiện nhiệm vụ KHCN: Từng nhiệm vụ KHCN khi

thực hiện đều có dự toán, đối với đề tài NCKH các cấp dự toán được lập căn

cứ vào từng nội dung và định mức chi cho từng khoản, các đề tài cho Nhà nước

cấp kinh phí căn cứ định mức chi KHCN theo quy định, các đề tài từ nguồn

kinh phí tự chủ của nhà trường có thể căn cứ vào định mức, nhà trường có thể

quyết định mức chi tăng hay giảm tùy theo yêu cầu quản lý. Dự toán chi được

xây dựng từ khi các chủ nhiệm đề tài làm thuyết minh đề tài, đây là căn cứ để

thanh quyết toán các đề tài. Đối với hội thảo KHCN và các nội dung chi khác

đều xây dựng dự toán trước khi thực hiện nhiệm vụ, các hội thảo KHCN do

kinh phí NSNN cấp lập dự toán căn cứ vào nội dung hội thảo và định mức chi

hiện hành; các hội thảo KHCN và nhiệm vụ KHCN khác do nguồn kinh phí tự

chủ căn cứ vào quy chế chi tiêu nội bộ của Trường để lập dự toán chi.

- Dự toán chi thực hiện hoạt động sản xuất dịch vụ: Hoạt động sản xuất

dịch vụ chủ yếu là liên kết đào tạo và các lớp cấp chứng chỉ, đào tạo ngắn hạn,

toàn bộ các hoạt động này đều xây dựng dự toán từ trước khi thực hiện nhiệm

vụ. Dự toán thu, chi thực hiện hoạt động dịch vụ được xây dựng cho từng hoạt

động dịch vụ, từng lớp học… Dự toán là cơ sở để thực hiện kiểm soát chi phí

đối với từng lớp học, dịch vụ do đơn vị thực hiện.

- Dự toán chi đầu tư phát triển, tăng cường cơ sở vật chất: Thực hiện các

chương trình mục tiêu quốc gia về tăng cường cơ sở vật chất trường học, đưa

tin học vào nhà trường, trên cơ sở khảo sát thực trạng cơ sở vật chất hiện có và

yêu cầu sử dụng của trường, trường lập phương án đầu tư (bao gồm cả dự toán

kinh phí đầu tư) trình Bộ phê duyệt. Trong đó, dự toán đầu tư được xây dựng

theo Công văn của Bộ GD&ĐT về hướng dẫn xây dựng dự toán chi đầu tư phát

63

triển và nhu cầu đầu tư cho từng hạng mục, công trình, chương trình mục tiêu

quốc gia cụ thể. Khi phương án đầu tư được Bộ phê duyệt, căn cứ vào tiến độ

thực hiện dự án, bộ phận kế hoạch tài chính sẽ xây dựng dự toán chi đầu tư cho

từng giai đoạn.

2.2.3.2. Tổ chức xác định chi phí

Từ đặc thù sản phẩm của các cơ sở GDĐH không chỉ là số lượng và chất

lượng sinh viên tốt nghiệp ra trường hàng năm mà còn bao gồm cả số lượng và

chất lượng các đề tài KHCN đang thực hiện, đã hoàn thành... Do vậy, các

trường không áp dụng một phương pháp xác định chi phí nào làm chuẩn mà

tùy thuộc vào từng loại dịch vụ và kết quả sản phẩm dịch vụ cung ứng mà

phương pháp xác định chi phí được áp dụng là khác nhau.

+ Đối với nguồn kinh phí từ NSNN cấp cho hoạt động sự nghiệp theo

nhiệm vụ thường xuyên Nhà nước giao cho đơn vị là chi cho sự nghiệp đào tạo

ĐH, sau ĐH, khoản chi này được xác định vào nội dung “Chi phí hoạt động

thường xuyên giao tự chủ” chi tiết theo năm tài chính, đồng thời hạch toán theo

loại, khoản, mục trong mục lục ngân sách. Phương pháp xác định chi hoạt động

áp dụng cho hoạt động sự nghiệp là xác định chi phí theo quá trình hoạt động,

toàn bộ khoản chi cho các nhiệm vụ khi phát sinh căn cứ vào chứng từ gốc như

giấy rút dự toán, bảng thanh toán lương, phiếu chi, ủy nhiệm chi và các chứng

từ gốc liên quan...

+ Đối với khoản chi theo chương trình, dự án, đơn đặt hàng, XDCB theo

nhiệm vụ nhà nước giao như nhiệm vụ KHCN, chương trình mục tiêu quốc gia,

chi kinh phí ủy quyền, chi XDCB... , là khoản chi không giao tự chủ, đơn vị

không được phép tự chủ nội dung chi theo từng nhiệm vụ. Định mức chi cũng

như thủ tục chi phải tuân thủ theo quy định của Nhà nước và tiền được kiểm

soát chi qua kho bạc Nhà nước. Quá trình ghi nhận và xác định chi phí được

64

thực hiện theo từng công việc. Kế toán các trường theo dõi vào nội dung “Chi

phí không giao tự chủ” chi tiết theo kỳ kế toán năm đồng thời chi tiết theo loại,

mục, khoản theo mục lục ngân sách theo yêu cầu kiểm soát của Nhà nước.

+ Đối với hoạt động sản xuất dịch vụ như KHCN, hoạt động liên kết đào

tạo theo dự án, khóa đào tạo cấp chứng chỉ thì áp dụng phương pháp xác định

chi phí theo công việc. Khi đó, kiểm soát chi phí thực hiện theo từng đề tài,

từng nhiệm vụ KHCN, theo từng dự án, từng khóa đào tạo... Theo báo cáo quyết

toán kinh phí năm 2022 của các trường ĐH Ngoại thương, Viện ĐH Mở Hà

Nội, Trường ĐH Tài chính - QTKD thì kế toán hoạt động này là hoạt động sản

xuất dịch vụ được theo dõi vào nội dung “Chi phí hoạt động sản xuất kinh

doanh”, mở chi tiết theo từng dự án, từng hợp đồng hoặc từng khóa đào tạo

đồng thời chi tiết chi phân loại theo nội dung kinh tế và phân loại chi phí trực

tiếp và chi phí chung.

Bên cạnh đó, phần lớn các trường chưa tính được đầy đủ chi phí, đặc biệt

là chi phí về cơ sở vật chất. Do đặc thù hệ thống kế toán hiện tại của các trường

ĐHCL được thực hiện trên cơ sở kế toán tiền mặt có điều chỉnh nên phần lớn

chi phí khấu hao cơ sở vật chất không có trong giá phí, thay vào đó chi phí đầu

tư mới hàng năm lại được tính toàn bộ vào chi phí hoạt động nên những năm

nào đầu tư ít thì quy mô chi phí chung thấp, những năm nào đầu tư nhiều thì

quy mô chi phí chung cao làm cho thông tin cung cấp cho người quản lý là

không có độ xác thực cao.

2.2.3.3. Kiểm tra kiểm soát, đánh giá các khoản chi

a. Xác định các trung tâm trách nhiệm trong các trường ĐHCL khối

ngành kinh tế để kiểm soát chi phí

Mặc dù các trường đều có nhu cầu cao trong việc kiểm soát chi phí, và

kiểm soát chi phí tương đối tốt, tuy nhiên vẫn chưa vận dụng trung tâm trách

nhiệm để phát huy tối đa hiệu quả kiểm soát chi phí. Khái niệm TT trách nhiệm

65

là một lĩnh vực khá mới mẻ, đặc biệt là đối với các trường ĐHCL hoạt động đa

ngành, đa cấp bậc, có cơ cấu tổ chức gắn với trách nhiệm của nhiều đơn vị, cá

nhân. Hầu hết các trường đều chưa nhận thức được về nội dung, phạm vi, cũng

như chức năng của TT trách nhiệm một cách rõ ràng. Chi phí mang nặng tính

bao cấp, bình quân và chủ yếu dựa vào các yếu tố “đầu vào” nên chưa gắn kết

giữa kết quả sử dụng nguồn lực NSNN với kết quả, hiệu quả thực hiện nhiệm

vụ. Đối với phương thức đánh giá trách nhiệm quản lý của các trường, do các

trường chưa phân chia cơ cấu tổ chức thành từng TT trách nhiệm mà thực hiện

quản lý dựa vào chức năng nhiệm vụ được phân công cho từng đơn vị trong

trường theo Quy chế hoạt động của trường nên nhà quản lý cấp cao chỉ đánh

giá một cách chung chung bằng hình thức xếp loại thi đua với thang đo hoàn

thành tốt nhiệm vụ, hoàn thành nhiệm vụ, chưa hoàn thành nhiệm vụ. Các

trường chưa thiết lập được hệ thống thang đo để động viên, khuyến khích các

nhà quản lý bộ phận tích cực hoàn thành nhiệm vụ, chưa thiết lập báo cáo trách

nhiệm để cung cấp thông tin cho các nhà quản lý kiểm soát, điều chỉnh hành vi

của mình cho phù hợp với mục tiêu chung của toàn đơn vị.

b. Hệ thống kiểm soát nội bộ, kiểm toán nội bộ

Hệ thống KSNB của các trường ĐHCL khối ngành kinh tế hiện nay hoạt

động chưa thực sự hiệu quả, chưa thành lập bộ phận kiểm toán nội bộ trong

trường ĐHCL khối ngành kinh tế. Để kiểm soát chi phí, việc thiết lập các chính

sách và thủ tục kiểm soát chính là nhân tố quyết định đến sự vận hành và liên

tục của hệ thống KSNB. Đồng thời với việc thiết lập các chính sách và thủ tục

kiểm soát, để kiểm soát chi phí, việc thiết lập bộ phận kiểm toán nội bộ trong

trường ĐHCL là rất quan trọng. Bộ phận kiểm toán nội bộ sẽ giám sát, kiểm

tra và đánh giá một cách thường xuyên về toàn bộ hoạt động của đơn vị, trong

đó có cả hệ thống KSNB giúp cho đơn vị kiểm soát được chặt chẽ các khoản

chi, giúp cho việc thực hiện chi được đúng đắn, đầy đủ, tiết kiệm, hiệu quả. Tuy

66

nhiên, bộ phận kiểm toán nội bộ hiện nay chưa có trường ĐHCL nào thành lập.

c. Hệ thống báo cáo kế toán quản trị chi phí

Các trường ĐHCL khối ngành kinh tế đang thực hiện đầy đủ hệ thống

báo cáo tài chính theo quy định của Nhà nước chứ chưa thực hiện hệ thống báo

cáo kế toán quản trị chi phí. Nhiều trường hiện nay, đặc biệt là các trường quy

mô lớn đều tiến hành phân cấp quản lý tài chính, và do đó có nhiều TT trách

nhiệm trong trường ĐH. Mỗi bộ phận dịch vụ, lao động - sản xuất trong trường

có thể coi là một TT lợi nhuận hoặc TT chi phí. Ví dụ: KTX sinh viên là một

TT chi phí; bộ phận căng tin là một TT lợi nhuận; mỗi TT tư vấn, đào tạo ngắn

hạn là một TT lợi nhuận; mỗi DN trực thuộc trường là một TT đầu tư. Mặc dù

việc phân cấp tài chính trong các trường tương đối rõ ràng nhưng các trường

hầu như chưa lập các báo cáo kế toán quản trị chi phí (báo cáo kết quả hoạt

động của các đơn vị trực thuộc, báo cáo đánh giá tình hình thực hiện dự toán

của các đơn vị trực thuộc…) để đánh giá hoạt động của các đơn vị trực thuộc

này. Các trường ĐH đang thực hiện đầy đủ hệ thống báo cáo tài chính theo quy

định của Nhà nước chứ chưa thực hiện hệ thống báo cáo kế toán quản trị chi

phí mặc dù qua bảng câu hỏi hầu hết các trường đều có nhu cầu về báo cáo

phản ánh biến động, kết quả và nguyên nhân hoạt động cho từng bộ phận, tuy

nhiên họ lại sử dụng các báo cáo chưa phù hợp với yêu cầu. Điều này ảnh hưởng

đến hiệu quả hoạt động của các đơn vị trực thuộc và ảnh hưởng tới nguồn thu

chung của toàn trường.

2.2.4. Thực trạng quản lý tài sản tại các trường đại học công lập khối

ngành kinh tế

Những năm gần đây, Đảng và Nhà nước đã quan tâm đầu tư cho giáo

dục đào tạo, xây dựng cơ sở vật chất, tăng cường trang thiết bị… cho các trường

ĐHCL. Nhiều trường được hưởng nguồn đầu tư từ dự án nước ngoài đã có thêm

cơ sở vật chất như phòng thí nghiệm, phòng học ngoại ngữ, hệ thống máy vi

67

tính… Nhìn chung, cơ sở vật chất phục vụ đào tạo các trường đã được cải thiện

Bảng 2.2: Cơ sở vật chất của 3 trường năm học 2022 - 2023: ĐH Ngoại

thương, ĐH Mở Hà Nội, ĐH Tài chính - QTKD

TT

Nội dung

Đơn vị tính

ĐH Mở Hà Nội

ĐH Tài chính - QTKD

I Diện tích đất đai II Diện tích sàn xây dựng 1 Giảng đường Số phòng Tổng diện tích 2 Phòng học máy tính

Số phòng Tổng diện tích

3 Phòng học ngoại ngữ

Số phòng Tổng diện tích

4 Thư viện 5 Phòng thí nghiệm

m2 m2 phòng m2 phòng m2 phòng m2 m2 phòng m2

Số phòng Tổng diện tích

6 Xưởng thực tập, thực

ĐH Ngoại thương (Cơ sở Hà Nội) 22.050 90 30.510 06 391 03 186 3.045

12.492 121 9.755 16 919 15 663 957 7 500

20.800 95 12.271 05 210 12 905 910

phòng m2

hành Số phòng Tổng diện tích

7 2.053

10 1.110

phòng m2

7 Ký túc xá thuộc cơ sở đào tạo quản lý Số phòng Tổng diện tích 8 Diện tích nhà ăn của

125 7.973 1.000

328

178 7.150 385

cơ sở đào tạo

9 Diện tích khác:

400 401 2.240

1.186

1.420 875

m2 m2 Diện tích hội trường Diện tích nhà văn hóa m2 Diện tích nhà thi đấu đa năng Diện tích bể bơi Diện tích sân vận động

m2 m2 m2

1.115

Nguồn: Biểu mẫu 22 - Công khai cơ sở vật chất năm học 2022-2023 của 3 trường

68

một bước nhưng vẫn chưa đảm bảo cho các trường đáp ứng nhu cầu học tập và

nghiên cứu. Do nhu cầu học tập của xã hội ngày càng gia tăng, yêu cầu của

công cuộc đổi mới kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế đặt ra nhiều vấn đề mới,

do đó tình trạng thiếu giảng đường, phòng học cho sinh viên, thiếu phòng làm

việc của giảng viên, thiếu giáo trình, tài liệu, thiếu phương tiện học tập vẫn còn

phổ biến ở hầu hết các trường ĐHCL. Chương trình đào tạo lạc hậu và không

hội nhập được lĩnh vực đào tạo quốc tế. Thực tế cho thấy, nguồn đầu tư của

Nhà nước cho các chương trình ĐH về lĩnh vực này thông qua các chương trình

mục tiêu còn rất hạn hẹp. Những năm gần đây tỷ lệ đầu tư cho các chương trình

mục tiêu chiếm khoảng 5,5 - 5,8% tổng chi NSNN và khoảng 2 - 3% tổng chi

toàn xã hội cho các trường ĐHCL. Với tỷ lệ đầu tư đó, các trường ĐHCL khó

có khả năng nghiên cứu để xây dựng và hoàn thiện hệ thống chương trình, giáo

trình, có được hệ thống học liệu hiện đại, cập nhật tình hình trong nước và quốc

tế.

Trong 3 trường ĐHCL tác giả khảo sát thì Trường ĐH Ngoại thương và

Trường ĐH Tài chính - QTKD có diện tích đất và diện tích phòng học lớn hơn

Trường ĐH Mở Hà Nội. Mặc dù Trường ĐH Tài chính - QTKD là trường ĐH

còn “non trẻ” nhưng do địa điểm đặt ở Hưng Yên nên cũng được tạo điều kiện

cấp đất đảm bảo cho việc đào tạo (Bảng 2.2). Trường ĐH Mở Hà Nội là trường

có hệ thống cơ sở vật chất kém nhất. Với diện tích đất được cấp quá nhỏ hẹp

(1.962m2) nên trường chỉ đặt các phòng ban để làm việc. Toàn bộ phòng học

và phòng làm việc của các khoa đều phải đi thuê. Chi phí thuê nhà hàng năm

trung bình khoảng 15 tỷ đồng (chiếm khoảng 8% tổng chi của đơn vị).

2.2.4.1. Thực trạng quản lý quá trình hình thành tài sản

Nhìn chung, hoạt động trang cấp tài sản tại các trường ĐHCL khối ngành

kinh tế được thực hiện theo các quy định của pháp luật về đấu thầu mua sắm,

69

XDCB, các quy định về trình tự thủ tục tiếp nhận tài sản được cấp phát, điều

chuyển và quy chế tài chính, theo đúng định mức, tiêu chuẩn sử dụng. Nhờ có

sự cạnh tranh giữa các nhà thầu mà hiệu quả kinh tế đã cao hơn, tiết kiệm được

chi phí và nâng cao sự cạnh tranh lành mạnh giữa các nhà thầu với nhau.

Mặc dù ở các trường ĐHCL khối ngành kinh tế, công tác kế hoạch liên

quan đến mua sắm sửa chữa vẫn được lập định kỳ hàng năm, tuy nhiên kế hoạch

này thường không có sự điều chỉnh trong năm và chỉ điều chỉnh vào cuối mỗi

năm để phục vụ công tác lập kế hoạch năm sau. Chính vì vậy, đôi khi công tác

mua sắm trang thiết bị chưa bám sát kế hoạch, xảy ra tình trạng phát sinh dự

toán nhiều làm bị động khả năng tài chính.

Quy trình hiện chưa thật sự xem trọng các bước xác định và đánh giá nhu

cầu tài sản, sự cần thiết phải mua sắm tài sản, đánh giá tính năng kỹ thuật, công

suất thiết kế… phù hợp với nhu cầu, chưa cân đo đong đếm giữa chi phí bỏ ra

và lợi ích khai thác từ tài sản, nên có thể dẫn đến tình trạng hàng mua về không

khai thác sử dụng được hoặc sử dụng không đạt hiệu quả.

Quy trình hiện nay các trường đang sử dụng có sẵn các “chốt” kiểm soát,

tuy nhiên các chốt kiểm soát này đôi khi chưa thực sự phát huy hiệu lực. Bộ

phận tham gia thực hiện mua hàng là Phòng Quản trị Thiết bị và cũng chính

phòng này theo dõi lập báo cáo, nghiệm thu bàn giao do đó có khả năng tạo ra

sự thông đồng với bên trong và bên ngoài gây thiệt hại cho lợi ích tập thể. Nếu

xét trên nguyên lý của tam giác gian lận thì chu trình này làm nảy sinh cơ hội

cho một trong ba đỉnh của tam giác gian lận. Hơn nữa, cách làm như vậy cũng

vi phạm nguyên tắc bất kiêm nhiệm.

Bên cạnh đó, trong quá trình thực hiện xây dựng, mua sắm tài sản vi

phạm về quản lý thực hiện thường xuyên xuất hiện ở các công đoạn sau:

- Lập và trình duyệt kế hoạch đấu thầu: Kế hoạch đấu thầu của một gói

thầu hoặc dự án do người có thẩm quyền phê duyệt dựa trên báo cáo của chủ

70

đầu tư. Nội dung của kế hoạch đấu thầu đóng vai trò quan trọng trong định

hướng, trong quá trình lựa chọn nhà thầu. Một kế hoạch đấu thầu có nội dung

tốt, phù hợp với pháp luật và tạo ra các cuộc cạnh tranh lành mạnh khi người

có thẩm quyền có được bộ máy giúp việc có năng lực và bản thân người có

thẩm quyền có kiến thức về nội dung mình phê duyệt. Nếu không chủ đầu tư là

đơn vị lập kế hoạch đấu thầu, họ sẽ tính toán để đưa vào nội dung những phần

có lợi nhất. Vi phạm trong bước lập kế hoạch đấu thầu thường được biểu hiện

trong việc lựa chọn áp dụng các hình thức lựa chọn nhà thầu, điều kiện này tạo

cơ hội để chủ đầu tư thực hiện các ý đồ riêng trong việc lựa chọn nhà thầu.

- Hồ sơ mời thầu: giống như kế hoạch đấu thầu, hồ sơ mời thầu do bên

mời thầu lập để chủ đầu tư trình người có thẩm quyền phê duyệt. Hồ sơ mời

thầu là toàn bộ yêu cầu cho một gói thầu làm căn cứ pháp lý để các nhà thầu

chuẩn bị hồ sơ dự thầu và để bên mời thầu đánh giá hồ sơ dự thầu. Nếu coi đấu

thầu là một cuộc thi thì hồ sơ mời thầu chính là đề thi. Vi phạm bước lập hồ sơ

mời thầu thường biểu hiện ở chỗ: đưa ra các yêu cầu cao hoặc không bình

thường nhằm định hướng cho đối tác đã xác định trước, hạn chế cạnh tranh gây

thiệt hại cả về kinh tế và xã hội, đưa vào hồ sơ mời thầu những nội dung trái

luật như: tên, mác, nhãn hiệu, xuất xứ hàng hóa, đưa ra chỉ tiêu đánh giá hồ sơ

dự thầu không rõ ràng, mập mờ dễ bề thao túng trong bước đánh giá.

- Đánh giá hồ sơ dự thầu: Vi phạm trong bước này chính là việc đánh giá

hồ sơ dự thầu không tuân thủ các quy định về mua sắm của pháp luật, nhiều tổ

chuyên gia đánh giá hồ sơ dự thầu chỉ làm được một việc duy nhất là hợp thức

hóa việc trúng thầu cho nhà thầu.

- Công đoạn thẩm định: Thẩm định là công việc rà soát lại về tính pháp

lý, sự hợp lý và quy định lựa chọn nhà thầu, quy định xây dựng kế hoạch đấu

thầu, quy trình xây dựng hồ sơ mời thầu trong hoạt động mua sắm trước khi

người có thẩm quyền phê duyệt kết quả đấu thầu, kế hoạch đấu thầu, hồ sơ mời

71

thầu. Vi phạm thường thấy trong khâu này là không phát hiện được điều bất

thường, bất hợp lý và không còn phù hợp với pháp luật của các văn bản trình.

Nhiều cơ quan thẩm định còn cố tìm cách hợp lý những sai trái để vừa lòng chủ

đầu tư.

Hầu hết các sai phạm trong hoạt động mua sắm tài sản đều gắn liền với

lợi ích cá nhân tham gia, song chế tài chưa đủ mạnh nên vi phạm vẫn thường

xuyên xảy ra và không bị xử lý.

2.2.4.2. Thực trạng quản lý quá trình sử dụng tài sản

Tại các trường ĐHCL, việc quản lý tài sản mới chỉ dừng lại ở việc khai

thác và bảo quản những tài sản hữu hình. Các trường sử dụng một số biện pháp

như: kiểm kê định kỳ, bảo dưỡng… Song việc quản lý và khai thác sử dụng hệ

thống tài sản này cũng chưa được hiệu quả. Cách thức khai thác không hiệu

quả, thực trạng kiểm tra, giám sát của Nhà nước còn lỏng lẻo, chưa có quy trình

cụ thể. Một số trường với chỉ tiêu tuyển sinh cao, kinh nghiệm đào tạo lớn thì

hệ thống phòng học, giảng đường và nơi làm việc không đủ.

Đối với các trường ĐH, hệ thống bài giảng, giáo trình, công trình NCKH

là loại tài sản có giá trị, song việc khai thác hay quản lý bản quyền tác giả chưa

chú trọng. Đối với hệ thống trang thiết bị máy móc về cơ bản đã được sử dụng

hiệu quả phục vụ cho hoạt động đào tạo của các trường, song đối với một số

trường tự đảm bảo một phần chi thường xuyên thì việc quản lý tài sản dường

như chưa thực sự hiệu quả.

- Về lập hồ sơ, quản lý tài sản:

Nhìn chung, hoạt động bàn giao tài sản được thực hiện nghiêm chỉnh

đúng quy định của Nhà nước như thành lập Hội đồng giao nhận tài sản với đầy

đủ thành phần quy định, các bước tiếp nhận và kiểm tra tài sản được thực hiện

nghiêm túc.

Đối với cán bộ chuyển công tác, việc bàn giao tài sản hầu như chưa được

72

thực hiện nghiêm chỉnh. Người tiếp nhận tài sản thường không thực hiện kiểm

tra thiết bị chi tiết dẫn tới nhiều vướng mắc trong quá trình sử dụng sau đó ví

dụ như hư hỏng, cấu hình bị thay đổi.. Nguyên nhân một phần do ý thức của

người sử dụng và một phần do chưa có hướng dẫn cụ thể của đơn vị đối với

hoạt động bàn giao này.

Các tài sản trước khi bàn giao cho đơn vị, bộ phận, cá nhân sử dụng

thường được dán nhãn. Nếu đơn vị sử dụng tiếp nhận bàn giao từ nhà cung cấp

thì trường sẽ thông báo mã hiệu tài sản cho đơn vị để đơn vị tự in và dán nhãn.

Đối với hoạt động điều chuyển nội bộ, hiện nay các bộ phận trong trường

thường không báo cáo cụ thể về hiện trạng dư thừa và nhu cầu sử dụng tài sản

của mình nên trường đã không có phương án điều chuyển kịp thời. Vì vậy, đã

có hiện tượng lãng phí trong mua sắm, sử dụng vì có những tài sản không được

sử dụng thường xuyên thường xuống cấp và hư hỏng rất nhanh.

Việc tổ chức, sắp xếp thời gian biểu học tập, thi cử chưa hợp lý, vẫn còn

để trống thời gian rất nhiều dẫn tới tình trạng công suất hoạt động của tài sản

trong trường chưa được tận dụng triệt để. Phòng Hành chính - Quản trị chưa

được thực hiện hoàn toàn chức năng quản lý tài sản của mình.

- Về xây dựng và ban hành nội quy, quy chế quản lý tài sản:

Phần lớn các trường đều xây dựng và thực hiện Quy chế quản lý tài sản.

Trong 3 trường tác giả khảo sát chỉ có 1 trường xây dựng quy chế quản lý tài

sản là Trường ĐH Ngoại thương, còn Trường ĐH Mở Hà Nội và trường ĐH

Tài chính - QTKD chưa xây dựng. Trong Quy chế đã đưa vào khá đầy đủ những

nội dung quan trọng như: Quy định cụ thể quyền và nghĩa vụ của từng bộ phận,

cá nhân có liên quan đến đầu tư xây dựng, mua sắm, tiếp nhận, thuê, sử dụng,

thu hồi, điều chuyển, bán, thanh lý, tiêu huỷ tài sản; lập, quản lý, lưu trữ hồ sơ

tài sản; bảo vệ tài sản; bảo dưỡng, sửa chữa tài sản; kiểm kê, kiểm tra tài sản

phù hợp với pháp luật hiện hành; Trách nhiệm bàn giao tài sản khi thay đổi tổ

73

chức bộ máy, thay đổi người đứng đầu; Xử lý đối với các tổ chức, cá nhân vi

phạm Quy chế… Tuy nhiên, việc áp dụng quy chế chưa mang lại hiệu quả như

mong muốn. Nhiều cán bộ giảng viên không biết đến Quy chế hoặc biết nhưng

không thực hiện theo quy định dẫn đến nhiều sai sót trong quản lý tài sản tại

đơn vị.

Bên cạnh đó, nội dung xử phạt vi phạm đối với các tổ chức, cá nhân vi

phạm quy chế, các trường đưa ra còn chung chung, chưa rõ ràng cụ thể mức xử

phạt cũng như hành vi bị xử phạt. Ví dụ: Trong Điều 12 - “Quy định về quản

lý, sử dụng cơ sở vật chất, tài sản của Trường ĐH Ngoại thương” quy định:

“Đơn vị và cá nhân vi phạm nội quy, quy định quản lý và sử dụng cơ sở vật

chất, tài sản của Nhà trường, tùy theo mức độ nặng nhẹ sẽ bị xử lý kỷ luật theo

quy định hiện hành” [30].

- Về tính hao mòn và trích khấu hao TSCĐ:

Công tác xác định hao mòn của TSCĐ các trường đã tuân thủ theo đúng

quy định hiện hành. Tuy nhiên, một số trường ĐHCL có sử dụng tài sản vào

mục đích kinh doanh, cung cấp dịch vụ nhưng hầu như chưa có trường nào thực

hiện việc tính và phân bổ khấu hao giữa hoạt động sự nghiệp và hoạt động dịch

vụ để thu hồi vốn.

- Về công tác bảo dưỡng, sửa chữa tài sản:

Hàng năm, các đơn vị, bộ phận trong trường lập kế hoạch duy tu, bảo

dưỡng và sửa chữa tài sản, trình Hiệu trưởng phê duyệt và triển khai thực hiện

theo kế hoạch và quy định hiện hành. Bên cạnh đó, trong quá trình sử dụng các

trang thiết bị, phương tiện làm việc nếu có hư hỏng cần sửa chữa, Trưởng đơn

vị cũng đề nghị sửa chữa. Đối với các tài sản dùng chung, người sử dụng trực

tiếp báo cáo tình hình hư hỏng cần sửa chữa, hoặc phản ánh tình trạng hư hỏng

thông qua Sổ nhật ký theo dõi sử dụng tài sản, trang thiết bị. Đơn vị quản lý tài

74

sản làm các thủ tục sửa chữa theo quy định.

Thông thường, từng lần bảo dưỡng, sửa chữa không được cập nhật vào

hồ sơ tài sản nên các trường rất khó kiểm soát chi phí bảo dưỡng sửa chữa đối

với từng tài sản từ năm này qua năm khác mà chỉ kiểm soát được chi phí của

từng lần thực hiện. Do đó, các trường ĐHCL không có điều kiện để đánh giá

hiệu quả hoạt động của từng tài sản, gây lãng phí khi tổng chi phí sửa chữa, bảo

dưỡng quá lớn mà đôi khi việc đầu tư mua mới tài sản thay thế có thể lại hiệu

quả hơn.

- Về công tác kiểm kê tài sản:

Theo quy định định kỳ mỗi năm các trường ĐHCL phải tổ chức kiểm kê

thực tế tài sản một lần vào thời điểm 0 giờ ngày 01 tháng 01. Tuy nhiên trong

thực tế do khối lượng tài sản lớn, việc kiểm kê thực hiện theo phương pháp thủ

công nên cũng còn có những trường không thực hiện đúng theo quy định này.

Trong quá trình kiểm kê, các bộ phận thực hiện tiến hành ghi chép vào các sổ

theo dõi tài sản, xác định rõ nguyên nhân hư hỏng mất mát, đề xuất biện pháp

xử lý tài sản, báo cáo với Ban kiểm kê Trường theo đúng quy định. Phòng Hành

chính - Quản trị có trách nhiệm tổ chức đối chiếu sổ sách tài sản của đơn vị với

sổ sách tài sản do trường quản lý, đề xuất các hình thức xử lý tài sản đối với

những tài sản không cần dùng hoặc hư hỏng.

2.2.4.3. Thực trạng quản lý quá trình kết thúc sử dụng tài sản

Khi tài sản hết hạn sử dụng hoặc bị hư hỏng không thể sử dụng được

hoặc việc sửa chữa không có hiệu quả, các trường ĐHCL tiến hành thủ tục

thanh lý tài sản. Tài sản được thanh lý theo các phương thức: Bán tài sản; Phá

dỡ, hủy bỏ tài sản. Việc thanh lý theo hình thức bán tài sản nhà nước được thực

hiện công khai, theo cơ chế thị trường.

2.3. Đánh giá chung thực trạng công tác quản lý tài chính tại các

trường đại học công lập khối ngành kinh tế

75

2.3.1. Kết quả đạt được

- Nhìn chung, các trường ĐHCL khối ngành kinh tế trong thời gian qua

đã có những bước thay đổi tích cực trong công tác quản lý tài chính tại của đơn

vị, đặc biệt trong nỗ lực tìm kiếm khai thác các khoản thu, mở các ngành đào

tạo có chất lượng cao, trình độ cao, nhất là các trường tự đảm bảo chi thường

xuyên. Đối với nguồn kinh phí NSNN cấp, phần lớn các trường đã thực hiện

quản lý theo đúng chu trình quản lý NSNN, đúng quy định của Nhà nước. Các

trường đã có chính sách khuyến khích các đơn vị, bộ phận, cá nhân trong trường

tăng cường tìm kiếm và thu hút các nguồn thu bằng việc quy định cụ thể trong

Quy chế chi tiêu nội bộ.

- Các trường ĐHCL khối ngành kinh tế đã thực hiện phân loại và hạch

toán chi phí chủ yếu phục vụ cho việc trình bày và báo cáo tài chính theo yêu

cầu của kế toán tài chính theo nội dung kinh tế của khoản chi theo quy định của

mục lục NSNN. Hiện nay các trường đã xây dựng định mức chi tiêu và được

cụ thể hóa trong Quy chế chi tiêu nội bộ. Về cơ bản kế hoạch chi của các trường

được xây dựng khá đầy đủ nhưng chủ yếu vẫn sử dụng phương pháp lập kế

hoạch dựa vào quá khứ. Hầu hết các trường ĐHCL mới sử dụng một số phương

pháp như phương pháp so sánh để đánh giá mức độ hoàn thành của TT chi phí,

phương pháp loại trừ để đánh giá các nhân tố ảnh hưởng đến các chỉ tiêu trong

quá trình phân tích chi phí.

- Trong quản lý tài sản của các trường ĐHCL về cơ bản là đã tuân thủ và

thực hiện đúng theo các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý, sử dụng tài

sản, thực hiện việc đầu tư, mua sắm bằng nguồn vốn NSNN theo đúng quy định,

chấp hành các chế độ quản lý đầu tư XDCB, quy chế mua sắm hiện hành góp

phần thực hiện tốt quản lý, sử dụng cơ sở vật chất của các trường. Việc đầu tư

xây dựng và mua sắm tài sản được thực hiện theo quy hoạch, kế hoạch, định

mức, tiêu chuẩn và được xác định trong dự toán NSNN hàng năm. Các trường

76

đã thực hiện việc báo cáo thống kê hàng năm, quản lý, theo dõi, ghi chép đầy

đủ trên sổ sách, tính giá trị hao mòn tài sản theo quy định, quy trình quản lý,

theo dõi và xử lý tài sản theo đúng quy định hiện hành của nhà nước.

2.3.2. Hạn chế

- Việc xác định mức thu học phí cụ thể của các trường vẫn còn chủ yếu

mang tính chất cảm tính. Việc xác định giá dịch vụ đào tạo ĐHCL ở các trường

chưa được thực hiện đầy đủ. Cách lập kế hoạch thu hiện nay các trường đang

áp dụng là chưa hoàn toàn phù hợp, việc lập kế hoạch thu chưa sát với thực tế

của đơn vị. Việc tổ chức thực hiện khai thác, huy động nguồn thu ngoài NSNN

chưa được thực hiện đồng bộ, chưa có các giải pháp phù hợp để huy động các

nguồn thu khác như từ việc hợp tác với các DN, viện trợ, tài trợ, quà biếu tặng,

huy động vay vốn và huy động vốn… Hoạt động giám sát các khoản thu còn

rất lỏng lẻo, chỉ mang tính hình thức, chưa đi vào thực chất. Trong Quy chế chi

tiêu nội bộ của các trường hầu như ít quy định về khoản thu, mức thu các hoạt

động dịch vụ, cho thuê, liên kết đào tạo… dễ gây nảy sinh tiêu cực, tham nhũng.

Văn bản quy định của Nhà nước về “Kiểm soát nội bộ” và “Kiểm toán nội bộ”

vẫn còn mờ nhạt.

- Phần lớn các trường chưa tính được đầy đủ chi phí, đặc biệt là chi phí

về cơ sở vật chất. Nhìn chung các trường ĐHCL xác định chi phí hình thành

giá dịch vụ đào tạo ĐHCL chưa chính xác, chủ yếu vẫn theo cơ sở kế toán tiền

mặt và chưa đưa chi phí khấu hao TSCĐ vào. Mặc dù các trường đều có nhu

cầu cao trong việc kiểm soát chi phí, và kiểm soát chi phí tương đối tốt, tuy

nhiên vẫn chưa vận dụng TT trách nhiệm để phát huy tối đa hiệu quả kiểm soát

chi phí. Hệ thống KSNB của các trường ĐHCL hiện nay hoạt động chưa thực

sự hiệu quả, chưa thành lập bộ phận kiểm toán nội bộ trong trường ĐHCL. Các

trường ĐH đang thực hiện đầy đủ hệ thống báo cáo tài chính theo quy định của

77

Nhà nước chứ chưa thực hiện hệ thống báo cáo kế toán quản trị chi phí.

- Trong quá trình thực hiện xây dựng, mua sắm tài sản vẫn còn có nhiều

hành vi vi phạm. Có sự nhập nhằng trong việc sử dụng tài sản được Nhà nước

trang bị phục vụ mục đích sự nghiệp với tài sản được sử dụng cho hoạt động

sản xuất kinh doanh dịch vụ hoặc có những tài sản được sử dụng đồng thời cho

cả hai mục đích nhưng không được tính và phân bổ khấu hao thu hồi vốn. Công

tác kiểm kê tài sản còn mang tính hình thức, mất nhiều thời gian. -Quy chế quản

lý tài sản chưa được phổ biến rộng rãi và phát huy vai trò hướng dẫn như yêu

cầu khi nhiều cán bộ trong đơn vị đã lúng túng vì phải xử lý những tình huống

liên quan đến quản lý tài sản do chưa đọc hướng dẫn trong quy chế như các vấn

đề bàn giao tài sản, báo hỏng, sửa chữa, bảo dưỡng, đăng ký sử dụng, mang tài

sản ra khỏi đơn vị đi triển khai thử nghiệm..

2.3.3. Nguyên nhân

- Mặc dù, kết quả đạt được rất đáng khích lệ, việc thực hiện quản lý thu

vẫn chưa thể hiện rõ tính trách nhiệm của lãnh đạo và tập thể cán bộ giảng viên

các trường ĐHCL. Cơ chế bao cấp tồn tại quá lâu cũng là nguyên nhân ăn sâu

vào người dân rằng, hoạt động giáo dục là trách nhiệm của Nhà nước. Đặc biệt,

cơ chế phân bổ NSNN chưa thể hiện được tính hiệu quả và công bằng rõ nét

khi phân bổ dàn trải cho mọi đối tượng, chưa khuyến khích sự cạnh tranh trong

các trường.

- Các thủ tục kiểm soát thu hầu hết được thiết lập từ lâu, chỉ đưa ra được

các biện pháp kiểm soát cơ bản nhất, do đó, trong nhiều trường hợp, sự kiểm

soát không tồn tại và cần phải có biện pháp bổ sung. Các quy trình kiểm soát

thu chưa thực sự quan tâm đến mặt kiểm soát hiệu quả tài chính, kiểm soát việc

thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, còn nhiều chỗ chưa chặt chẽ. Việc ban

hành các quy chế, quy trình phục vụ cho công tác kiểm soát thu còn chậm, chưa

78

đầy đủ. Các quy chế, quy trình đã được ban hành thường không chứa đựng đầy

đủ cơ chế kiểm soát, không xác định rõ trách nhiệm của từng cá nhân, bộ phận

trong thực thi nhiệm vụ.

- Do nhận thức chưa đầy đủ, tại các đơn vị vẫn chưa hiểu hết về vai trò

vị trí cũng như nội dung của loại kiểm toán nội bộ, chưa hình dung được hết

những lợi ích và rào cản mà kiểm toán nội bộ đem lại. Do lịch sử phát triển của

ngành kiểm toán nói chung và kiểm toán nội bộ nói riêng, có thể nói khái niệm

kiểm toán nội bộ còn tương đối “mới mẻ” trong nền kinh tế của nước ta.

- Do trình độ cán bộ làm kế toán còn nhiều hạn chế, nhận thức về quản

lý chi phí chưa cao nên việc triển khai ứng dụng quản lý chi phí chưa được

đồng bộ. Nhận thức của nhà quản lý trong các trường ĐHCL đối với các thông

tin tài chính trong việc ra quyết định chưa được chú trọng.

- Các trường ĐHCL là đơn vị sự nghiệp nên tuân thủ theo hệ thống kế

toán công, được xây dựng trên cơ sở tiền mặt có điều chỉnh, vì vậy nên khoản

chi hoạt động ghi nhận trong kỳ kế toán không phản ánh đầy đủ nội dung chi,

các khoản chi thực tế có thể cao hơn hoặc thấp hơn các hoạt động cung cấp dịch

vụ trong kỳ, do đó việc áp dụng lý thuyết kế toán quản trị vào các đơn vị sự

nghiệp trở nên khó khăn.

- Do đặc thù của đơn vị sự nghiệp là các khoản chi hoạt động đều phải

xây dựng dự toán và thực hiện theo dự toán, nên các trường trong mẫu nghiên

cứu đã thực hiện tương đối tốt từ các dự toán dài hạn, trung hạn, hàng năm cho

đến các vụ việc trên cơ sở công việc để xác định kinh phí. Tuy nhiên, các dự

toán được xây dựng về kinh phí tính theo thời kỳ thì phần cơ sở vật chất được

dự toán chi trên cơ sở tổng chi phí đầu tư về cơ sở vật chất cho một thời kỳ trên

cơ sở tiền mặt. Còn các dự toán cho từng dự án, hợp đồng hoặc vụ việc cụ thể

thì chi phí cơ sở vật chất vả chi phí quản lý chung được tính chủ yếu dựa vào

kinh nghiệm mà ít có nghiên cứu cụ thể để đưa ra cơ sở tính toán có căn cứ

79

khoa học.

- Chưa có các tiêu chí đánh giá kết quả quản lý tài sản công trong các

trường ĐHCL. Nội dung và phương pháp xây dựng Quy chế quản lý tài sản

chưa cụ thể, rõ ràng. Vai trò công tác kiểm tra nội bộ đối với việc quản lý tài

sản chưa phát huy tác dụng nhằm phát hiện và ngăn ngừa các sai phạm.

Tiểu kết chương 2

Khi Nhà nước thay đổi phương thức phân bổ NSNN cho các trường

ĐHCL theo các thông số đầu vào sang kết quả đầu ra, gắn với tiêu chí chất

lượng và hiệu quả thì các trường ĐH phải tự thu hút sinh viên thông qua việc

nâng cao chất lượng đào tạo và thu đủ học phí để trang trải chi phí đào tạo.

Cách làm trên sẽ dẫn đến thay đổi một cách cơ bản về quản lý tài chính đối với

các trường ĐHCL khối ngành kinh tế , các trường sẽ phải tiếp cận với phương

thức quản lý của DN, theo hướng gắn kết giữa chất lượng đào tạo với việc thu

hút học sinh và nguồn thu của trường. Việc quản lý tài chính hợp lý, khoa học

và có hiệu quả sẽ giúp các trường xác định đúng đắn nhu cầu kinh phí cần thiết

cho hoạt động của nhà trường trong từng thời kỳ, từ đó lựa chọn các phương

pháp và hình thức thích hợp để mở rộng được nguồn thu, khai thác những tiềm

năng sẵn có tạo ra ngày càng nhiều nguồn thu hợp pháp đáp ứng kịp thời nhu

cầu nguồn tài chính cho hoạt động đào tạo, NCKH nhằm thực hiện tốt mục tiêu

đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho xã hội.

Nghiên cứu đặc điểm hoạt động và tổ chức quản lý của các trường ĐHCL,

thực trạng quản lý thu, chi, tài sản trong các trường ĐHCL khối ngành kinh tế

hiện nay sẽ là cơ sở đề để ra các giải pháp nhằm hoàn thiện quản lý tài chính

80

trong các trường ĐHCL khối ngành kinh tế.

Chương 3

ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN

CÔNG TÁC QUẢN LÝ TÀI CHÍNH TẠI CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC

CÔNG LẬP KHỐI NGÀNH KINH TẾ

3.1. Định hướng phát triển công tác quản lý tài chính tại các trường

đại học công lập khối ngành kinh tế trong những năm tới

Hoàn thiện công tác quản lý tài chính tại các trường ĐHCL khối ngành

kinh tế là yêu cầu cần thiết trong việc đổi mới căn bản, toàn diện GDĐH ở nước

ta. Các định hướng phát triển công tác quản lý tài chính tại các trường ĐHCL

khối ngành kinh tế cần được thực hiện trên cơ sở quán triệt các quan điểm cơ

bản sau:

- Một là, đổi mới công tác quản lý tài chính tại các trường ĐHCL khối

ngành kinh tế theo hướng quản trị.

GDĐH ngày nay là lĩnh vực có tính cạnh tranh cao trên toàn cầu, sản

phẩm đào tạo ngày càng có tính thương mại hóa cao và nó bị ảnh hưởng với

năng lực canh tranh tương tự như các ngành nghề kinh doanh khác trong nền

kinh tế. Trong khi đó, các trường ĐHCL khối ngành kinh tế hiện đang phải đối

mặt với thách thức: tài trợ của Chính phủ giảm, cạnh tranh toàn cầu tăng, chi

phí giáo dục tăng, lợi nhuận tạo ra bị san sẻ, loại hình giáo dục truyền thống

không còn bền vững… Do đó các trường ĐHCL khối ngành kinh tế cần phải

có chiến lược và kế hoạch phát triển trong tương lai, sớm tiếp cận với phương

thức quản trị DN, thực hiện hạch toán chí phí đầy đủ để có thể tồn tại và phát

triển trong môi trường cạnh tranh trên phạm vi toàn cầu. Ngày 7/1/2021, tại Đà

Nẵng, Bộ GD&ĐT tổ chức hội nghị “Giải pháp nâng cao chất lượng GDĐH”.

Để nâng cao chất lượng đào tạo, theo Bộ trưởng Phùng Xuân Nhạ, cần đổi mới

81

quản trị ĐH, các trường ĐH phải thay đổi quan hệ với DN, chứ không thể cho

rằng ĐH có uy tín là người ta tự tìm đến, mà phải đổi từ quản lý sang quản trị,

phân định rạch ròi giữa những người làm khoa học chuyên môn và những người

làm công tác quản lý. Hiệu trưởng các trường ĐH không nhất thiết phải là giáo

sư hay tiến sĩ, mà phải là những người quản lý giỏi.

- Hai là, các trường ĐHCL khối ngành kinh tế chủ động thực hiện đa

dạng hóa nguồn tài chính đầu tư cho giáo dục đại học, khai thác triệt để các

nguồn lực từ nghiên cứu và triển khai, nguồn lực từ các dịch vụ và tư vấn,

nguồn lực ngoài nhà nước và các đầu tư của nước ngoài.

Việt Nam hiện nay đang trong điều kiện nguồn ngân sách dành cho

GDĐH còn hạn hẹp, thì việc đa dạng hóa nguồn tài chính đầu tư cho GDĐH,

khai thác triệt để các nguồn lực từ nghiên cứu và triển khai, nguồn lực từ các

dịch vụ và tư vấn, nguồn lực ngoài nhà nước và các đầu tư của nước ngoài là

một tất yếu. Các trường ĐHCL khối ngành kinh tế khai thác mọi tiềm năng, lợi

thế của trường nhằm tăng nguồn lực tài chính đầu tư như thành lập DN trong

các trường ĐH, thực hiện việc liên kết đào tạo giữa các trường nhằm tận dụng

lợi thế về cơ sở vật chất, trang thiết bị, phòng thí nghiệm, giáo trình, NCKH… ;

thực hiện việc liên kết giữa trường với DN nhằm cung ứng nguồn nhân lực chất

lượng cao cho DN; tăng cường thực hiện việc liên kết đào tạo với các trường

quốc tế; khuyến khích việc nghiên cứu đề tài khoa học cấp Nhà nước; mở rộng

và nâng cao dịch vụ tư vấn đào tạo… Bên cạnh đó, các trường ĐHCL khối

ngành kinh tế cũng cần mở rộng thu hút vốn đầu tư của các tổ chức, cá nhân

nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài trong việc đầu tư xây dựng

các trường ĐH.

- Ba là, thực hiện nguyên tắc nhà trường được tự chủ về hạch toán thu -

chi theo nguyên tắc từ nhiều nguồn thu tài chính đủ bù các khoản chi hợp lý,

82

có tích lũy cần thiết để phát triển cơ sở vật chất phục vụ đào tạo và nghiên cứu.

Trong điều kiện kinh tế xã hội hiện nay, đòi hỏi giáo dục nước ta phải

thay đổi để đáp ứng nhu cầu xã hội, thực ra là nhu cầu thị trường. John (2008)

khi hệ thống và khái quát xu hướng toàn cầu trong quản trị ĐH về thể chế hóa

và địa vị pháp lý của các trường ĐH công trên thế giới đã chỉ ra rằng, tự chủ

ĐH trên cơ sở giảm bớt sự kiểm soát của Nhà nước, trao quyền tự chủ tài chính

cho các trường, nhà trường được tự chủ về hạch toán thu - chi theo nguyên tắc

từ nhiều nguồn thu tài chính đủ bù các khoản chi hợp lý, có tích lũy cần thiết

để phát triển cơ sở vật chất phục vụ đào tạo và nghiên cứu... là điều hiển nhiên.

Do vậy, cùng với việc gia nhập các tổ chức quốc tế trong bối cảnh hội nhập

buộc chúng ta phải thay đổi quan điểm, cơ chế quản lý dịch vụ đào tạo, nhất là

đối với đào tạo ĐH ở các trường ĐHCL.

3.2. Giải pháp hoàn thiện công tác quản lý tài chính tại các trường

đại học công lập khối ngành kinh tế

3.2.1. Hoàn thiện phương pháp xác định giá dịch vụ đào tạo đại học

công lập

Trong điều kiện của nền kinh tế thị trường, dịch vụ giáo dục là một ngành

kinh tế quan trọng. Nền kinh tế đang được vận hành theo các nguyên tắc của

kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước. Các nguyên tắc căn bản của

kinh tế thị trường đòi hỏi dịch vụ giáo dục phải được trao đổi ngang giá, giá cả

dịch vụ giáo dục phải được xác định trong quan hệ trao đổi giữa người tiêu

dùng và người cung ứng trên thị trường dịch vụ giáo dục. Trên thực tế, mức

học phí GDĐH mặc dù được điều chỉnh tăng trong một vài năm gần đây, về cơ

bản vẫn là mức phí bị áp đặt từ phía Nhà nước và được xác định thấp rất nhiều

so với chi phí thực tế mà các trường ĐHCL và cả phía người học phải bỏ ra.

Nhiều khoản chi phí “không chính thức” mà người học phải bỏ ra nằm ngoài

học phí. Mức học phí thực sự mà người học phải bỏ ra đôi khi vượt gấp nhiều

83

lần học phí danh nghĩa mà họ nộp cho cơ sở giáo dục.

Giá giá dịch vụ đào tạo ĐHCL phải trở thành thước đo hiệu quả đào tạo

của các trường ĐHCL. Về lâu dài, Nhà nước không thể định giá dịch vụ đào

tạo ĐHCL mà phải để cho thị trường quyết định. Người mua và người cung

ứng dịch vụ tham gia thị trường dịch vụ giáo dục là người quyết định về mức

giá và số lượng dịch vụ được trao đổi tại mức giá đó. Các trường ĐHCL với

chất lượng đào tạo, uy tín hình ảnh thương hiệu đạt được ở mức cao sẽ có quyền

đặt giá dịch vụ cao và ngược lại. Giá dịch vụ đào tạo ĐHCL phải là một trong

những tín hiệu để người học nhận ra những trường cung cấp dịch vụ tốt hơn.

Về phía người mua, họ có quyền trả giá cao hơn và theo đó kỳ vọng nhận được

dịch vụ chất lượng cao hơn. Sự cào bằng, “bình quân chủ nghĩa” trong xác định

mức học phí trong các trường ĐHCL đã triệt tiêu động lực phát triển của các

trường ĐH.

3.2.2. Khai thác nguồn thu qua việc tăng cường gắn kết giữa nhà

trường và doanh nghiệp

Hợp tác giữa trường ĐHCL và DN trong liên kết đào tạo, NCKH và

chuyển giao công nghệ… để tăng nguồn thu cho trường vẫn là xu thế phổ biến

trên thế giới. Các hình thức liên kết giữa nhà trường và DN bao gồm:

- Hợp tác thực hiện các chương trình đào tạo dài hạn và ngắn hạn:

Trường chủ trì xây dựng các chương trình đào tạo, biên soạn giáo trình, tài liệu

và phối hợp với DN thực hiện các khóa đào tạo ở các trình độ khác nhau, các

chuyên ngành khác nhau theo yêu cầu của DN hoặc đáp ứng nhu cầu của các

cá nhân về trang bị những kiến thức và kỹ năng vượt quá yêu cầu của công việc

hiện tại. Một số khóa học được thiết kế theo yêu cầu của DN, phục vụ trực tiếp

cho nhu cầu nguồn nhân lực của DN. Trong trường hợp này DN thường tham

gia thiết kế chương trình và chi trả học phí cho nhân viên của mình theo học.

Một số khóa học khác các học viên tham gia với những lý do cá nhân như tự

84

nâng cao kiến thức hoặc phát triển nghề nghiệp.

- Liên kết trong nghiên cứu: Kinh nghiệm cho thấy, ở các nước có nền

giáo dục tiên tiến, liên kết Nhà trường - DN phát triển rất mạnh không phải

trong đào tạo mà chủ yếu là trong NCKH và chuyển giao công nghệ. Hai bên

cùng nhau xây dựng đề án hợp tác NCKH cụ thể cho từng giai đoạn để phối

hợp triển khai thực hiện các đề tài nghiên cứu thuộc các lĩnh vực mà cả hai bên

cùng quan tâm. DN sẽ cử đại diện làm điều phối chương trình hợp tác với nhà

trường; cung cấp nguồn nhân lực thực hiện các chương trình hợp tác, dự án

nghiên cứu. DN sẽ tạo điều kiện cho cán bộ, giảng viên, sinh viên của nhà

trường tham gia các diễn đàn kinh tế, hội nghị, hội thảo do DN chủ trì tổ chức.

Lợi ích mà quan hệ hợp tác nghiên cứu mang lại cho nhà trường là tăng cường

tính thực tiễn, khả năng triển khai ứng dụng của các công trình NCKH bằng

việc hướng cán bộ nghiên cứu tiếp cận và trực tiếp xử lý các vấn đề của thực

tiễn DN. Đồng thời qua hợp tác NCKH, nhà trường có cơ hội tăng nguồn thu,

nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ của nhà trường qua đó góp phần nâng cao

chất lượng đào tạo. Các hình thức hợp tác nghiên cứu giữa nhà trường và DN

bao gồm: DN tài trợ cho hoạt động nghiên cứu của nhà trường (thường là để

nghiên cứu các đề tài, chương trình, dự án theo đơn đặt hàng của DN); thành

lập nhóm nghiên cứu giữa nhà trường và DN để thực hiện các dự án, đề tài khoa

học mang tính liên ngành; hai bên cùng nhau phối hợp tổ chức các hội nghị, hội

thảo khoa học; thành lập các TT hợp tác nghiên cứu Nhà trường - DN.

3.2.3. Xây dựng mô hình quản lý chi phí dựa trên hoạt động (phương

pháp ABC)

Một mô hình quản lý chi phí lý tưởng là mô hình mà trong đó chi phí sẽ

được bóc tách không chỉ ở cấp độ khoa, viện, TT (đơn vị trực tiếp thực hiện

hoạt động) mà còn được phân bổ cho từng đối tượng tính phí. Các đối tượng

tính phí có thể được coi như các hoạt động và cần có cách đo lường chi phí một

85

cách riêng biệt. Các đối tượng chi phí có thể được coi là đầu ra của tổ chức giáo

dục. Điều này không những giúp cho Ban giám hiệu có cái nhìn sâu sắc hơn

mà còn giúp chia nhỏ các hoạt động của các khoa, viện, TT. Bởi vì thông

thường các đơn vị này có thể thực hiện chung các học phần giảng dạy hoặc các

dự án nghiên cứu. Ngoài ra phương án này không chỉ xem xét chi phí của đầu

ra mà còn xem xét dòng thu nhập đi kèm với các đầu ra này. Sự liên kết thu

nhập với đầu ra tương tự với phương án quản lý dựa trên giá trị.

Các khóa học, chương trình đào tạo cấp bằng là thành phẩm chính của

các trường ĐH. Các hoạt động trong các trường ĐH là giảng dạy, nghiên cứu,

dịch vụ… Các hoạt động này được hỗ trợ bởi các yếu tố như quản lý, bảo trì cơ

sở vật chất, thư viện, phòng thí nghiệm các tài nguyên phục vụ học tập khác.

Ngân sách của các khoa trong trường ĐH thường dựa trên các yếu tố như số tín

chỉ thực hiện được, số lượng sinh viên, số lượng giảng viên. Cách tính chi phí

truyền thống ở các trường ĐH thường coi các khóa học đều như nhau, kế toán

chi phí chỉ theo dõi mức độ tuân thủ ngân sách. Mô hình tính giá truyền thống

có một số nhược điểm như chi phí được phân bổ dựa trên một cơ sở duy nhất,

không phân biệt giữa chi phí cố định và chi phí biến đổi, đồng thời mô hình giả

định rằng tất cả các khóa học cần các hoạt động đều như nhau và với mức độ

như nhau nhưng trong thực tế thì các chương trình, khóa học được hỗ trợ bởi

các hoạt động không giống nhau.

Nhằm xác định chi phí đào tạo của các khóa học được chính xác, tránh

được những nhược điểm của phương pháp tính chi phí truyền thống, tác giả đề

xuất phương pháp xác định chi phí dựa trên hoạt động (ABC) (Mô hình 3.1).

Để vận dụng được phương pháp ABC đạt được hiệu quả, các trường

ĐHCL cần phải tiến hành qua các bước sau:

- Xác định đối tượng chi phí: Đối tượng chi phí đó là khóa đào tạo theo

từng ngành cụ thể như kế toán, tài chính, quản lý kinh doanh… ở các bậc cử

86

nhân hay thạc sỹ.

- Xác định các hoạt động: Các hoạt động đó chính là nơi tạo ra chi phí

cho đào tạo như hoạt động xây dựng chương trình cho một ngành cụ thể, hoạt

động hỗ trợ giảng đường, hoạt động giảng dạy…

- Phân bổ chi phí từ các hoạt động cho các đối tượng chịu phí: Cần chọn

tiêu thức đại diện cho chi phí hoạt động để phân bổ. Các tiêu thức có thể áp

dụng là mức sử dụng phòng máy, mức sử dụng cơ sở vật chất, mức sử dụng

dịch vụ giảng dạy…

Mô hình 3.1: Mô hình chi phí theo hoạt động cho các trường đại học

Nguồn lực

Dịch vụ sinh viên

Lương của giảng viên

Lương của ban điều hành

Phòng máy, phòng thí nghiệm

Cơ sở vật chất

Dịch vụ liên quan đến giảng dạy

Giai đoạn phân bổ thứ nhất:

Yếu tố dẫn dắt Chi phí Số lượng Số giờ Diện tích Số lượng Số lượng nguồn lực thực khoa sử dụng sử dụng giảng viên sinh viên

Khoa A

Khoa B

Tổ hợp chi phí hoạt động

Giai đoạn phân bổ thứ hai

Yếu tố dẫn

Số khóa học

Số khóa học

dắt chi phí hoạt động

Đối tượng chi phí

Khóa học cấp bằng

Nguồn: Tác giả đề xuất

3.2.4. Xây dựng trung tâm trách nhiệm nhằm kiểm soát chi phí trong

87

trường đại học công lập khối ngành kinh tế

Dựa vào chức năng, quyền hạn của các bộ phận và sự phân cấp quản lý

trong các trường, căn cứ “đầu vào” và “đầu ra” thì có thể nhận diện các TT

trong mô hình kế toán trách nhiệm bao gồm:

- TT đầu tư: gắn với cấp quản lý cao nhất đó là Ban giám hiệu, Ban giám

đốc, Hội đồng trường với chức năng là phụ trách chung, chịu trách nhiệm toàn

bộ các hoạt động của nhà trường từ kế hoạch, quá trình đào tạo, NCKH, thu chi

tài chính, XDCB, khen thưởng và kỷ luật… Đầu vào là đo lường chi phí, đầu

ra là đo lường kết quả tài chính, hiệu quả sử dụng các nguồn lực để tăng tỷ lệ

trích lập quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp, tăng thu nhập và trích lập các quỹ

khen thưởng, quỹ phúc lợi, quỹ ổn định thu nhập.

- TT chi phí: TT chi phí của các trường được phân thành 2 nhóm:

Nhóm TT chi phí định mức: gắn với Trưởng các Khoa/Tổ bộ môn với

chức năng đào tạo các chuyên ngành cụ thể và NCKH, nơi phát sinh các chi phí

trực tiếp. Đào tạo sinh viên đối với nhóm ngành xã hội, đầu vào chỉ có giờ công

(thù lao trả cho giảng viên), tuy nhiên đối với nhóm ngành kỹ thuật còn có

nguyên vật liệu (vật tư thực hành), ngoài ra còn có các chi phí như văn phòng

phẩm, nước uống phục vụ giảng viên trực tiếp giảng dạy, chi phí sửa chữa trang

thiết bị… Về công tác NCKH, đầu vào đo lường chi phí trả thù lao cho giảng

viên.

Nhóm TT chi phí dự toán: gắn với Trưởng các phòng chức năng như

phòng đào tạo, phòng tổ chức hành chính, phòng kế hoạch tài chính, phòng

công tác học sinh sinh viên, phòng thanh tra, phòng khảo thí… , các TT chức

năng như y tế, thông tin thư viện… là nơi phát sinh các chi phí gián tiếp. Đầu

vào đo lường chi phí: chi phí lương nhân viên, văn phòng phẩm, trang thiết bị,

công tác phí, tiếp khách… Đầu ra cung cấp dịch vụ phục vụ cho sinh viên,

88

giảng viên, ban giám hiệu.

- TT lợi nhuận: gắn với các TT cung cấp dịch vụ ngoài nhiệm vụ được

giao như các TT đào tạo ngắn hạn (ngoại ngữ, tư vấn tài chính kế toán, tin

học…) nơi phát sinh cả doanh thu và chi phí. Giám đốc TT là người chịu trách

nhiệm quyết định các vấn đề như mức học phí, tuyển sinh, cấp chứng chỉ ngắn

hạn, tiền lương trả cho giảng viên, cộng tác viên và các chi phí khác liên quan

đến hoạt động của TT. Lợi nhuận chịu ảnh hưởng trực tiếp từ doanh thu (nguồn

thu học phí) và chi phí nên Giám đốc các TT thuộc TT lợi nhuận.

Bảng 3.2: Bảng xác định các trung tâm trách nhiệm

Cấp quản lý

Người quản lý

TT trách nhiệm

TT đầu tư

Ban giám hiệu, Ban giám đốc, Hội đồng trường

Hiệu trưởng, Giám đốc, Chủ tịch Hội đồng trường

Khoa/Tổ bộ môn

Trưởng Khoa/Tổ trưởng

TT chi phí (định

mức)

Phòng/Ban/TT chức

Trưởng phòng/Trưởng

TT chi phí

năng

ban/Giám đốc TT

(không định mức

được)

TT ngắn hạn

Giám đốc TT

TT lợi nhuận

Nguồn: Tác giả đề xuất

3.2.5. Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện quy chế quản lý tài sản

Để những quy chế quản lý tài sản được áp dụng vào thực tế hoạt động

của đơn vị một cách tự nhiên và trở thành một công cụ quản lý hiệu quả, các

trường ĐHCL cần thực hiện một số công việc sau:

- Đổi mới phương pháp xây dựng quy chế quản lý tài sản

+ Quy chế quản lý tài sản cần được thảo luận rộng rãi và công khai: Sau

khi hoàn thành dự thảo, người soạn thảo cần đưa ra thảo luận rộng rãi và công

khai trong đơn vị để lấy ý kiến đóng góp. Các ý kiến được ghi nhận và nghiên

cứu sử dụng để hoàn thiện quy chế quản lý tài sản.

+ Trong quá trình triển khai áp dụng quy chế, đơn vị cần tiếp tục thu thập

89

ý kiến đóng góp để tiếp tục sửa đổi, hoàn thiện các quy trình quản lý.

+ Khi có những biến động khiến những quy định cũ không còn phù hợp

nữa như thay đổi mô hình tổ chức quản lý (đổi tên, sáp nhập hoặc tách các bộ

phận, phòng ban… ); quy chế quản lý tài sản cả Nhà nước có những quy định

mới… thì trường cần cập nhật sửa đổi nội dung quy chế cho phù hợp với tình

hình mới.

- Cải tiến nội dung và phương pháp trình bày:

+ Đối với nội dung “Xử lý vi phạm trong việc quản lý, sử dụng tài sản

nhà nước” cần đưa ra các quy định về xử phạt cụ thể hơn, rõ ràng hơn, có mức

phạt cụ thể cho từng lỗi cụ thể.

+ Các quy trình cần được trình bày bằng ngôn ngữ giản dị, dễ hiểu, ngắn

gọn, xúc tích và nên trình bày dưới dạng bảng biểu hoặc lưu đồ kèm theo phần

diễn giải ở từng bước công việc.

+ Bổ sung các biểu mẫu quy định thống nhất trong toàn đơn vị như biên

bản bàn giao, biên bản nghiệm thu, giấy báo hỏng, giấy đăng ký sử dụng xe ô

tô… Tất cả những biểu mẫu văn bản này đều cần được thiết kế đơn giản và có

phần hướng dẫn lập bảng biểu.

+ Nội dung từng quy trình cần quy định chi tiết, chặt chẽ đặc biệt là các

quy trình mua sắm. mang tài sản ra khỏi trường, quy trình thanh lý tài sản đồng

thời quy chế phải bao quát toàn bộ các nội dung quản lý tài sản trong đơn vị.

+ Ở mỗi bước công việc cần có những tham chiếu về những văn bản liên

quan như văn bản pháp quy của Nhà nước, văn bản nội bộ… những văn bản

này là điều kiện cần để thực hiện bước công việc và những biểu mẫu sẵn có

kèm quy trình.

- Công khai quy chế:

Sau khi được lãnh đạo đơn vị phê duyệt, quy chế quản lý cần được ban

90

hành và phổ biến đến từng bộ phận, cá nhân trong đơn vị. Mọi hoạt động quản

lý tài sản cần được tham chiếu đến các quy trình quản lý đã ban hành và thực

hiện đúng như quy định.

3.2.6. Tăng cường công tác kiểm tra nội bộ đối với việc quản lý tài sản

Hệ thống kiểm soát bao gồm bộ phận hành chính quản lý và kế toán phải

thường xuyên theo dõi kiểm tra và hướng dẫn các bộ phận, cá nhân trong đơn

vị thực hiện quy trình, thực hiện chặt chẽ công tác thanh quyết toán có liên quan

đến hoạt động quản lý tài sản. Hoạt động kiểm tra thường xuyên việc thực hiện

các quy trình giúp cho đơn vị ngăn ngừa những sai sót vô ý và cố ý đồng thời

phát hiện, điều chỉnh kịp thời những bất hợp lý để hoàn thiện quy trình.

Đơn vị cần có những chế tài nghiêm khắc đủ sức răn đe mọi hành vi

không giữ gìn tài sản, cố ý làm trái với những quy định đã nêu trong quy trình

quản lý của đơn vị đồng thời giải quyết triệt để những vấn đề tồn đọng về quản

lý tài sản sau khi được phát hiện và lập biên bản.

Các nội dung cần kiểm tra cụ thể như sau:

+ Kiểm tra việc xây dựng, mua sắm tài sản, bao gồm: mục đích sử dụng,

nguồn kinh phí, chất lượng tài sản, định mức, tiêu chuẩn được mua…

+ Kiểm tra việc ghi chép trong hồ sơ gốc của tài sản, bao gồm: Việc ghi

chép thẻ TSCĐ, xác định nguyên giá, nguồn hình thành tài sản, nguyên nhân

tăng giảm, tình trạng tài sản, thủ tục giao nhận, kiểm nhận, thanh toán… Đối

chiếu giữa số ghi trên sổ kế toán với thực tế hiện có của tài sản và phải có sự

điều chỉnh phù hợp khi có những chênh lệch.

+ Kiểm tra việc luân chuyển thông tin về tài sản, về số liệu ghi chép giữa

các thẻ theo dõi tài sản.

+ Kiểm tra tình hình huy động và hiệu quả sử dụng tài sản, tình hình tài

sản không sử dụng, tài sản thuê ngoài…

+ Kiểm tra việc tính hao mòn, phần tính khấu hao, phân bổ khấu hao cho

91

hoạt động sản xuất và cung ứng dịch vụ.

+ Kiểm tra việc sửa chữa lớn tài sản, tính hợp pháp của những chi phí

làm tăng nguyên giá của tài sản…

+ Kiểm tra tình hình tài sản đã thanh lý, chờ thanh lý, xem xét nguyên

nhân thanh lý, việc tổ chức thanh lý tài sản, chi phí, thu nhập từ việc thanh lý.

+ Kiểm tra việc quản lý sử dụng tài sản thuê ngoài đúng theo những cam

kết trong hợp đồng thuê.

+ Kiểm tra việc ghi chép kế toán và lưu trữ tài liệu kế toán kịp thời, đầy

đủ đối với các tài sản do đơn vị mình quản lý.

3.2.7. Thiết lập bộ máy kiểm toán nội bộ, tăng cường công tác kiểm

toán nội bộ

Trong cơ chế quản lý tài chính theo hướng tự chủ, công tác quản lý tài

chính trong các trường ĐHCL không chỉ có nhiệm vụ nuôi dưỡng, phát triển,

khai thác các nguồn lực; thúc đẩy, duy trì tăng thu, tiết kiệm chi, tăng thu nhập

mà còn phải quản lý, sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực của đơn vị. Để nâng

cao tính hiệu quả trong quản lý tài chính thì hệ thống tài chính phải công khai,

minh bạch, các chủ thể quản lý thực sự được đảm bảo thẩm quyền và chịu trách

nhiệm về những quyết định của mình. Như vậy công khai, minh bạch, kiểm tra,

kiểm soát và trách nhiệm là những điều kiện cần thiết cho việc thực hiện

phương thức quản lý tốt thu chi của đơn vị.

Bên cạnh kiểm toán nhà nước, kiểm toán độc lập, với chức năng kiểm

tra, đánh giá, xác nhận tính đúng đắn hợp pháp độ tin cậy của các thông tin, số

liệu về thu chi, về hoạt động tài chính sẽ góp phần nâng cao chất lượng độ tin

cậy của các thông tin tài chính kế toán của nhà trường thì vai trò của kiểm toán

nội bộ cũng không kém phần quan trọng trong việc giúp các trường nâng cao

được hiệu quả quản lý tài chính. Kiểm toán nội bộ được xem như một bộ phận

không thể thiếu trong hoạt động quản lý tài chính, là một công cụ hiệu quả

92

nhằm cải thiện hoạt động của các đơn vị nói chung và các trường ĐHCL nói

riêng đáp ứng yêu cầu nâng cao trách nhiệm giải trình và tính minh bạch trong

hoạt động của đơn vị, góp phần nâng cao hiệu quả quản lý tài chính cho đơn vị.

Vì thế các trường ĐHCL khối ngành kinh tế, đặc biệt là các trường

ĐHCL có quy mô lớn như các trường ĐH vùng cần thiết phải tổ chức bộ phận

kiểm toán nội bộ. Thiết lập bộ phận kiểm toán nội bộ sẽ giúp cho hoạt động

giám sát của nhà trường đạt hiệu quả. Bởi kiểm toán nội bộ có thể kiểm toán

ngay trong quá trình hoạt động của nhà trường nhằm kịp thời phát hiện những

yếu kém, vi phạm để đưa ngay ý kiến đề xuất giúp nhà trường khắc phục tình

hình lập tức. Kiểm toán nội bộ theo suốt quá trình hoạt động của nhà trường,

đánh giá các yếu tố bên trong của nhà trường. Là một bộ phận độc lập, với vai

trò, chức năng, nhiệm vụ của mình, kiểm toán nội bộ kiểm tra, đánh giá, xác

nhận tính hiệu quả của công tác quản lý rủi ro và tính hữu hiệu của hệ thống

KSNB, từ đó xác lập được các thông tin về tài chính, tình hình hoạt động giúp

nhà trường nắm bắt được một cách kịp thời các nguy cơ, tiềm ẩn rủi ro, mức độ

hoàn thành mục tiêu, kế hoạch, xác định và phân bổ nguồn lực, hoạch định

chính sách và định hướng chiến lược cho mọi hoạt động của nhà trường. Tuy

nhiên, khi thiết lập hệ thống kiểm toán nội bộ, người quản lý phải cân nhắc giữa

chi phí và lợi ích mà kiểm toán nội bộ đem lại. Với phạm vi kiểm toán bao trùm

tất cả các hoạt động trong đơn vị, lợi ích của kiểm toán nội bộ có thể được khai

thác ở nhiều góc độ, nhưng nổi bật nhất là các nội dung liên quan đến quản lý

tài chính, hiệu quả trong hoạt động và sự tuân thủ các quy định, quy chế liên

quan đến quá trình vận hành của chính đơn vị đó.

3.2.8. Hoàn thiện về tổ chức lập hệ thống báo cáo kế toán quản trị

trong các trường đại học công lập khối ngành kinh tế

Hệ thống báo cáo kế toán quản trị tại các trường ĐHCL khối ngành kinh

tế hiện nay hầu như chưa có trong khi việc phân cấp quản lý tài chính trong các

93

trường đã khá rõ rệt. Để góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động nghiên cứu và

đào tạo, các trường ĐHCL khối ngành kinh tế cần tiến hành xây dựng hệ thống

báo cáo kế toán quản trị.

Trên cơ sở nhu cầu thông tin của nhà quản lý, báo cáo kế toán quản trị

phải được thiết kế phù hợp với đối tượng chi phí, mục đích sử dụng của nhà

quản lý. Tuy nhiên, khi xây dựng báo cáo kế toán quản trị cần đảm bảo yêu cầu

là ghi nhận chi tiết các chi phí phát sinh theo từng đối tượng. Ngoài ra, để đảm

bảo báo cáo có ý nghĩa và không gây lãng phí thời gian, chi phí cho việc lập

báo cáo thì các chỉ tiêu trên báo cáo phải có ý nghĩa. Định kỳ, hàng tháng, quý,

năm cần lập các báo cáo đánh giá hoạt động của các bộ phận trong trường, các

bộ phận đó chính là các TT trách nhiệm như: TT chi phí, TT lợi nhuận, TT đầu

tư…

3.2.9. Nghiên cứu xây dựng mô hình công tác quản lý tài chính tại

trường đại học công lập khối ngành kinh tế theo mô hình quản trị doanh

nghiệp

Xây dựng mô hình công tác quản lý tài chính tại trường ĐHCL khối

ngành kinh tế phù hợp với yêu cầu phát triển GDĐH, phù hợp với yêu cầu phát

triển kinh tế xã hội và xu hướng phát triển của nền kinh tế thị trường là yêu cầu

cần thiết. Nhằm tăng cường hiệu quả hoạt động của trường ĐHCL khối ngành

kinh tế, tăng cường hiệu quả sử dụng các nguồn lực tài chính và đảm bảo chất

lượng đào tạo, NCKH và chuyển giao công nghệ, theo xu hướng hoạt động của

trường ĐH cũng giống như DN là đầu vào và đầu ra đều do thị trường quyết

định, tác giả đề nghị nghiên cứu và xây dựng mô hình công tác quản lý tài

chính tại trường ĐH theo mô hình quản trị DN. Theo mô hình này, trường

ĐHCL khối ngành kinh tế sẽ được Nhà nước chốt vốn đã có và giao vốn, có

đại diện của Nhà nước tham gia quản lý vốn của Nhà nước. Song song đó, cần

phải có Hội đồng trường - cơ quan quản lý cao nhất của nhà trường, nơi “quyết

94

nghị các chủ trương lớn để thực hiện quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm”. Mô

hình quản lý ĐH của Việt Nam hiện nay đang tồn tại song song một Hội đồng

trường cùng một Ban chấp hành Đảng bộ để định hướng và giám sát toàn bộ

hoạt động của nhà trường. Quyền quyết định cho các hoạt động quản lý của

nhà trường chủ yếu do Ban giám hiệu (Hiệu trưởng và các Hiệu phó) thống

nhất. Phần lớn Ban Giám hiệu của các trường chỉ giới hạn công việc quản lý,

lãnh đạo của mình thông qua việc chấp hành và thực hiện những nghị quyết

của Ban chấp hành Đảng bộ. Như vậy, có thể thấy, Hội đồng trường của các

trường ĐHCL Việt Nam chỉ thực sự phát huy vai trò của mình khi định vị được

mình đang ở đâu trong mối quan hệ giữa Đảng ủy và Ban giám hiệu. Điều đó

cũng có nghĩa là tổ chức Đảng phải chắc chắn rằng không làm thay công việc

của Hội đồng trường. Vai trò của Đảng ủy trong quan hệ với việc quản lý nhà

trường khá phức tạp bởi quy định về vai trò lãnh đạo của Đảng trong hệ thống

quốc gia. Vì vậy, giải pháp đơn giản nhất là Đảng ủy có thành viên tham gia

trong Hội đồng trường. Hội đồng trường là cầu nối liên kết giữa nhà trường và

xã hội, có nhiệm vụ trọng tâm là xây dựng chính sách, quyết định chiến lược

của nhà trường, quyết định kế hoạch hoạt động hàng năm và kế hoạch tài chính

để lãnh đạo nhà trường hoạt động đúng mục tiêu đã định; theo dõi, kiểm tra và

đánh giá việc quản lý nhà trường của hiệu trưởng. Hội đồng trường có quyền

tuyển chọn và sa thải hiệu trưởng/giám đốc điều hành nếu hiệu trưởng/giám

đốc điều hành hoạt động không hiệu quả. Bên dưới Hội đồng trường sẽ bao

gồm ban giám hiệu, hội đồng khoa học trường, các khoa, bộ môn, phòng ban,

các đơn vị trực thuộc và liên kết (như các công ty/ tổ chức đào tạo, cơ sở dịch

vụ).

3.3. Một số kiến nghị

3.3.1. Đối với Chính phủ

Hiện nay văn bản quy định của Nhà nước về “Kiểm soát nội bộ” và

95

“Kiểm toán nội bộ” vẫn còn mờ nhạt, chung chung trong Luật Kế toán số

88/2015/QH13 và Nghị định số 60/2021/NĐ-CP. Đến thời điểm này Chính phủ

vẫn chưa có văn bản quy định chi tiết về KSNB và kiểm toán nội bộ trong đơn

vị sự nghiệp nên các trường ĐHCL vẫn chưa có đủ căn cứ pháp lý để tổ chức

bộ máy kiểm toán nội bộ trong nhà trường. Trong thời gian vừa qua chưa có

trường ĐHCL nào có bộ phận kiểm toán nội bộ thực hiện chức năng tư vấn và

hỗ trợ cho nhà quản lý một cách chính thức và chuyên nghiệp. Chính vì vậy

nên Chính phủ cần có văn bản quy định chi tiết về KSNB và kiểm toán nội bộ

trong đơn vị sự nghiệp công lập.

3.3.2. Đối với Bộ Tài chính

Kế toán quản trị là một công cụ quan trọng để cung cấp thông tin cho nhà

công tác quản lý tài chính tại nhằm lập kế hoạch và ra quyết định, trợ giúp nhà

quản lý trong việc điều hành và kiểm soát hoạt động của tổ chức, thúc đẩy các

nhà quản lý đạt được mục tiêu của tổ chức và đo lường hiệu quả hoạt động của

các nhà quản lý và các bộ phận trực thuộc trong tổ chức. Việc áp dụng công cụ

kế toán quản trị trong các đơn vị sự nghiệp công lập là rất cần thiết, phục vụ

cho công tác quản lý tài chính tại trong đơn vị. Hiện nay Bộ Tài chính mới chỉ

hướng dẫn áp dụng kế toán quản trị trong doanh nghiệp ở Thông tư số

53/2006/TT-BTC. Theo Luật Kế toán số 88/2015/QH13 quy định Bộ Tài chính

hướng dẫn áp dụng kế toán quản trị phù hợp với từng lĩnh vực hoạt động. Chính

vì vậy, Bộ Tài chính cần sớm có văn bản hướng dẫn áp dụng kế toán quản trị

trong đơn vị sự nghiệp công lập.

Tiểu kết chương 3

Trên cơ sở phân tích lý thuyết và thực tiễn về tầm quan trọng của quản

lý tài chính trong các trường ĐHCL khối ngành kinh tế , nghiên cứu những hạn

chế và những nguyên nhân dẫn đến hạn chế, tác giả đã đưa ra một số giải pháp

96

hoàn thiện quản lý tài chính trong các trường ĐHCL khối ngành kinh tế. Các

giải pháp sẽ góp phần triển khai các chương trình, đề án đổi mới cơ bản và toàn

diện GDĐH Việt Nam một cách có hiệu quả, đạt được các mục tiêu đề ra. Các

giải pháp cụ thể như:

- Hoàn thiện phương pháp xác định giá dịch vụ đào tạo ĐHCL, khai thác

tăng thu qua việc tăng cường gắn kết giữa nhà trường và DN, xây dựng quy

trình theo dõi quản lý nguồn thu của trường;

- Hoàn thiện tổ chức xác định chi phí, xây dựng TT trách nhiệm trong

trường ĐHCL nhằm kiểm soát chi phí;

- Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện quy chế quản lý tài sản, tăng cường công

tác kiểm tra nội bộ đối với việc quản lý tài sản;

- Hoàn thiện hệ thống KSNB trong các trường ĐHCL, thiết lập bộ máy

kiểm toán nội bộ, tăng cường công tác kiểm toán nội bộ, hoàn thiện kế toán

quản trị trong các trường ĐHCL;

- Nghiên cứu xây dựng mô hình quản lý trường ĐHCL theo mô hình

quản trị DN, nâng cao kỹ năng quản trị trong trường ĐHCL;

Bên cạnh đó tác giả cũng nêu ra những kiến nghị đối với Chính phủ, với

Bộ Giáo dục và Đào tạo và với Bộ Tài chính để hoàn thiện công tác quản lý tài

chính tại các trường ĐHCL khối ngành kinh tế .

Nếu được triển khai và thực hiện nghiêm túc các giải pháp nêu trên, công

tác quản lý tài chính tại trong các trường ĐHCL khối ngành kinh tế sẽ được

hoàn thiện và đạt được mục tiêu cuối cùng của quản lý tài chính từ đó là điều

97

kiện để nâng cao chất lượng GDĐH.

KẾT LUẬN

Đổi mới cơ chế tự chủ đồng nghĩa với tái cơ cấu hệ thống giáo dục đào

tạo và nhà trường. Cùng với việc tái cơ cấu này, nhà trường sẽ phải thay đổi cơ

chế quản lý trường theo mô hình truyền thống, và chuyển sang trạng thái năng

động như DN để đa dạng hóa nguồn thu, cải thiện thu nhập cho người lao động,

thu hút và khuyến khích nhân tài. Việc quản lý tài chính hợp lý, khoa học và có

hiệu quả sẽ giúp các trường xác định đúng đắn nhu cầu kinh phí cần thiết cho

hoạt động của nhà trường trong từng thời kỳ, từ đó lựa chọn các phương pháp

và hình thức thích hợp để mở rộng được nguồn thu, khai thác những tiềm năng

sẵn có tạo ra ngày càng nhiều nguồn thu hợp pháp đáp ứng kịp thời nhu cầu

nguồn tài chính cho hoạt động đào tạo, NCKH nhằm thực hiện tốt mục tiêu đào

tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho xã hội. Bằng việc vận dụng các phương

pháp nghiên cứu, tác giả đã tập trung giải quyết các vấn đề sau:

- Làm rõ các vấn đề lý luận cơ bản về công tác quản lý tài chính tại các

ĐVSNCL;

- Phân tích từng nội dung quản lý thu, quản lý chi, quản lý tài sản tại các

ĐVSNCL;

- Phân tích thực trạng công tác quản lý tài chính tại các trường ĐHCL

khối ngành kinh tế, qua đó đánh giá kết quả đạt được, những hạn chế và nguyên

nhân của hoạt động công tác quản lý tài chính tại hiện hành trong các trường

ĐHCL khối ngành kinh tế ;

- Trên cơ sở những phân tích về hạn chế và nguyên nhân hạn chế cũng

như chủ trương định hướng phát triển quản lý tài chính các trường ĐHCL khối

ngành kinh tế của Đảng và Nhà nước, luận văn đề xuất các giải pháp hoàn thiện

công tác quản lý tài chính tại các trường ĐHCL khối ngành kinh tế và một số

kiến nghị đối với Chính phủ, với Bộ Tài chính để hoàn thiện công tác quản lý

98

tài chính tại các trường ĐHCL khối ngành kinh tế.

[1]. Bob Tricker (2012), Kiểm soát quản trị, Nhà xuất bản Thời đại, Thành phố

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

[2]. Bộ Tài chính (2004), Quyết định số 67/2004/QĐ-BTC ngày 13/8/2004 về

Hồ Chí Minh.

việc ban hành “Quy chế về tự kiểm tra tài chính, kế toán tại các cơ quan,

[3]. Chính phủ (2006), Nghị định số 43/2006/NĐ-CP ngày 25/4/2006 của Chính

đơn vị có sử dụng kinh phí NSNN”.

phủ quy định quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ

[4]. Chính phủ (2013), Nghị định số 141/2013/NĐ-CP ngày 24/10/2013 của

chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập.

Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật

[5]. Chính phủ (2015), Nghị định số 16/2015/NĐ-CP ngày 14/2/2015 quy định

GDĐH.

[6]. Chính phủ (2021), Nghị định số 81/2021/NĐ-CP ngày 27/8/2021 quy định

cơ chế tự chủ của ĐVSNCL.

về cơ chế thu, quản lý học phí đối với cơ sở giáo dục thuộc hệ thống giáo

dục quốc dân và chính sách miễn, giảm học phí, hỗ trợ chi phí học tập; giá

[7]. Chính phủ (2021), Nghị định số 60/2021/NĐ-CP ngày 21/6/2021 quy định

dịch vụ trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo

[8]. Phạm Văn Đăng (2013), Hoàn thiện kế toán quản trị chi phí trong các

cơ chế tự chủ của ĐVSNCL.

trường đại học khối kinh tế, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở, Học viện

[9]. Nguyễn Hữu Đồng (2011), Hoàn thiện hệ thống thông tin kế toán trong các

Tài chính, Hà Nội.

trường ĐHCL Việt Nam, Luận văn tiến sĩ kinh tế, Trường Đại học Kinh tế

[10]. Bùi Văn Ga (2008), “Cải tổ và đẩy mạnh nguồn nhân lực”, Báo Sài Gòn

99

Quốc dân, Hà Nội.

[11]. Nguyễn Phú Giang, Nguyễn Trúc Lê (2015), Kiểm toán nội bộ, Nhà xuất

Giải Phóng, số ngày 24/3/2008.

[12]. Ngô Thanh Hoàng, Phạm Văn Trường (2015), Xác định chi phí hình thành

bản tài chính, Hà Nội.

giá dịch vụ và công cụ quản lý chi phí dịch vụ đào tạo ĐHCL khối kinh tế

trong điều kiện hiện nay ở Việt Nam, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ,

[13]. Lương Thị Huyền (2016), Quản lý tài chính các trường ĐHCL trực thuộc

Bộ Tài chính.

Bộ GD & ĐT ở Việt Nam, Luận văn tiến sĩ kinh tế, Học viện Tài chính, Hà

[14]. Trương Thị Hiền (2015), Quản lý tài chính các trường đại học công lập

Nội.

trực thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh

trong điều kiện tự chủ, Luận văn tiến sĩ kinh tế, Học viện Tài chính, Hà

[15]. Nguyễn Thu Hương (2014), Hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính đối với các

Nội.

chương trình đào tạo chất lượng cao trong các trường ĐHCL Việt Nam,

[16]. Martin Grimwood (2008), Sổ tay kiểm toán nội bộ, Nhà xuất bản Giao thông

Luận văn tiến sĩ kinh tế, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội.

[17]. Mai Trọng Nhuận (2005), Tuổi trẻ Online, “Đổi mới giáo dục đại học ở

vận tải.

Singapore”, http://tuoitre.vn/tin/giao-duc/20051120/doi-moi-giao-duc-dai-

[18]. Hương Thảo Nguyên (2008), Đông Dương, Đại học hiện đại đầu tiên của

hoc-o-singapore/ 109078.html

[19]. Nguyễn Ngọc Quang (2014), Giáo trình Kế toán quản trị, Nhà xuất bản ĐH

Việt Nam, http://www.baodatviet.vn/Utilities/PrintView.aspx?ID=34434.

[20]. Quốc hội (2012), Luật Giáo dục đại học số 08/2012/QH13.

100

Kinh tế quốc dân, Hà Nội.

[21]. Quốc hội (2015), Luật Ngân sách nhà nước số 83/2015/QH13.

[22]. Quốc hội (2015), Luật Kế toán số 88/2015/QH13.

[23]. Linh San

(2009), "Chuyện kiểm toán nội bộ ngân hàng",

http://vneconomy.vn/tai-chinh/chuyen-kiem-toan-noi-bo-ngan-hang-

[24]. Phạm Vũ Thắng (2012), Kết quả nghiên cứu xác định chi phí đào tạo một

2009020509302176.htm.

sinh viên ĐH ở Việt Nam và khuyến nghị về chính sách tài chính GDĐH

[25]. Trần Thị Hoa Thơm (2011), Sử dụng công cụ kế toán và kiểm toán để nâng

Việt Nam, Kỷ yếu hội thảo “Đổi mới cơ chế tài chính đối với GDĐH”.

cao hiệu quả quản lý tài chính ở các trường ĐHCL Việt Nam, Luận văn tiến

[26]. Thủ tướng Chính phủ (2014), Quyết định số 70/2014/QĐ-TTg ngày

sĩ kinh tế, Học viện Tài chính, Hà Nội.

[27]. Vũ Thị Thanh Thủy (2012), Quản lý tài chính các trường ĐHCL khối ngành

10/12/2014 ban hành Điều lệ trường đại học.

[28]. Nguyễn Thị Hồng Thúy (2014), Nghiên cứu hệ thống kiểm soát nội bộ của

kinh tế , Luận văn tiến sĩ kinh tế, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội.

trường ĐH Kinh tế quốc dân, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở, Trường

[29]. Trường ĐH Tài chính - QTKD (2023), Quyết định số 141/QĐ-ĐHTCQTKD

Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội.

[30]. Trường ĐH Ngoại thương (2021), Quyết định số 73/QĐ-QTTB ngày

ngày 31/3/2023 ban hành Quy chế chi tiêu nội bộ năm 2023.

1/3/2021 Quy định về quản lý, sử dụng cơ sở vật chất, mua sắm tài sản của

[31]. Trường ĐH Ngoại thương (2021), Quyết định số 67/QĐ-ĐHNT ngày

Trường ĐH Ngoại thương.

[32]. Trường ĐH Ngoại thương (2021), “Trường ĐH Ngoại thương 50 năm xây

12/1/2021 ban hành Quy chế chi tiêu nội bộ năm 2021.

101

dựng và phát triển - Phần 3: Trường ĐH Ngoại thương trong thời kỳ mở

cửa và hội nhập kinh tế quốc tế”, http://www.ftu.edu.vn/gioi-thieu/19-ve-

ftu/607-tru-ng-dh-ngo-i-thuong-50-nam-xay-d-ng-va-phat-tri-n-ph-n-3-tru-

ng-d-i-h-c-ngo-i-thuong-trong-th-i-ky-m-c-a-va-h-i-nh-p-kinh-t-qu-c-

[33]. Trường ĐH Mở Hà Nội (2022), Quyết định số 08/QĐ-ĐHM ngày 8/1/2022

t.html.

[34]. Nguyễn Minh Tuấn (2015), Tác động của công tác quản lý tài chính đến

ban hành Quy chế chi tiêu nội bộ năm 2022.

chất lượng GDĐH - nghiên cứu điển hình tại các trường đại học thuộc Bộ

Công thương, Luận văn tiến sĩ kinh tế, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân,

[35]. Phạm Thị Thanh Vân (2022),“Hoàn thiện quản lý tài chính đối với đơn

Hà Nội.

[36]. Đinh Thị Hải Yến (2019), Quản lý tài chính các đơn vị sự nghiệp đào tạo,

vị sự nghiệp công lập”, Tạp chí Quản lý nhà nước, Số 316 (5/2022).

bồi dưỡng trực thuộc Bộ Giao thông vận tải, Luận văn tiến sĩ kinh tế, Học

[37]. Victor Z.Brink and Herbert Witt (2000), Kiểm toán nội bộ hiện đại, Nhà

viện Tài chính, Hà Nội.

102

xuất bản Tài chính.