BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ
…………/………… ……/……
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
ĐÀO NGỌC KHÁNH
CÔNG TÁC QUẢN LÝ TÀI CHÍNH TẠI CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG LẬP KHỐI NGÀNH KINH TẾ
LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG
HÀ NỘI - NĂM 2024
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ
…………/………… ……/……
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
ĐÀO NGỌC KHÁNH
CÔNG TÁC QUẢN LÝ TÀI CHÍNH
TẠI CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG LẬP KHỐI NGÀNH KINH TẾ
LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG
Chuyên ngành: QUẢN LÝ CÔNG
Mã số: 8340403
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC TS. PHẠM THỊ THANH VÂN
HÀ NỘI - NĂM 2024
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan bản luận văn là công trình nghiên cứu của riêng
tôi. Các số liệu kết quả nêu trong luận văn là trung thực có nguồn gốc rõ
ràng và được trích dẫn đầy đủ theo quy định.
Học viên
iii
Đào Ngọc Khánh
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BTC: Bộ Tài chính
CSGDĐHCL: Cơ sở giáo dục đại học công lập
DN: Doanh nghiệp
ĐH: Đại học
ĐHCL: Đại học công lập
ĐVSNCL: Đơn vị sự nghiệp công lập
GDĐH: Giáo dục đại học
GD&ĐT: Giáo dục và Đào tạo
GDĐHCL: Giáo dục đại học công lập
NSNN: Ngân sách nhà nước
NCKH: Nghiên cứu khoa học
KHCN: Khoa học công nghệ
TT: Trung tâm
DANH MỤC BẢNG, HÌNH
Bảng 2.1: So sánh kế hoạch thu và kết quả thực hiện của 3 trường: ĐH Ngoại
thương, ĐH Mở Hà Nội, ĐH Tài chính - QTKD (2021 - 2023) Lỗi!
Thẻ đánh dấu không được xác định.0
Bảng 2.2: Cơ sở vật chất của 3 trường năm học 2022 - 2023: ĐH Ngoại
thương, ĐH Mở Hà Nội, ĐH Tài chính - QTKD ........ 75Lỗi! Thẻ
đánh dấu không được xác định.
Mô hình 3.1: Mô hình chi phí theo hoạt động cho các trường đại học ........ 92
iv
Bảng 3.2: Bảng xác định các trung tâm trách nhiệm .................................. 94
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
Chương 1: CƠ SỞ KHOA HỌC VỀ CÔNG TÁC QUẢN LÝ TÀI
CHÍNH TẠI CÁC ĐƠN VỊ SỰ NGHIỆP CÔNG LẬP ................................... 8
1.1. Tổng quan về đơn vị sự nghiệp công lập ................................................... 8
1.2. Công tác quản lý tài chính tại các đơn vị sự nghiệp công lập ..... Lỗi! Thẻ
đánh dấu không được xác định.
1.3. Kinh nghiệm công tác quản lý tài chính tại các trường đại học công lập
khối ngành kinh tế trên thế giới và bài học cho Việt Nam . Lỗi! Thẻ đánh dấu
không được xác định.
Chương 2: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ TÀI CHÍNH TẠI
CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG LẬP KHỐI NGÀNH KINH TẾLỗi! Thẻ
đánh dấu không được xác định.
2.1. Khái quát về các trường đại học công lập khối ngành kinh tế ...... Lỗi! Thẻ
đánh dấu không được xác định.
2.2. Thực trạng công tác quản lý tài chính tại các trường đại học công lập khối
ngành kinh tế ................................. Lỗi! Thẻ đánh dấu không được xác định.
2.3. Đánh giá về công tác quản lý tài chính tại các trường đại học công lập
khối ngành kinh tế ........................ Lỗi! Thẻ đánh dấu không được xác định.
Chương 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÔNG
TÁC QUẢN LÝ TÀI CHÍNH TẠI CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG
LẬP KHỐI NGÀNH KINH TẾ .................................................................... 80
3.1. Định hướng phát triển công tác quản lý tài chính tại các trường đại học
công lập khối ngành kinh tế trong những năm tới .......................................... 80
3.2. Giải pháp hoàn thiện công tác quản lý tài chính tại các trường đại học
v
công lập khối ngành kinh tế .......... Lỗi! Thẻ đánh dấu không được xác định.
3.3. Các kiến nghị ........................ Lỗi! Thẻ đánh dấu không được xác định.0
KẾT LUẬN ................................. Lỗi! Thẻ đánh dấu không được xác định.1
vi
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............. Lỗi! Thẻ đánh dấu không được xác định.
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Sự phát triển cả về chất và lượng của GDĐH là một trong những yếu tố
cần thiết để phát triển bền vững nền kinh tế và là mục tiêu cao nhất được đặt ra
trong những năm gần đây. Trong bối cảnh chịu sự cạnh tranh với GDĐH trên
thế giới, bản thân các trường ĐHCL trong nước muốn tìm được chỗ đứng luôn
phải nỗ lực không ngừng nhằm nâng cao chất lượng đào tạo và các dịch vụ đào
tạo khác mà trường cung cấp.
Chất lượng GDĐH không chỉ được đánh giá thông qua chất lượng giảng
dạy, mà còn thông qua các tiêu chí cơ bản khác, như khung chương trình đào
tạo, cơ sở hạ tầng, chất lượng đội ngũ giảng dạy, khả năng nghiên cứu… những
tiêu chí này bị chi phối và chịu ảnh hưởng lớn từ nhân tố tài chính. Bởi lẽ, chỉ
khi nguồn tài chính được đảm bảo và được phân chia hợp lý thì các tiêu chí này
mới đem lại hiệu quả và ngược lại, những tiêu chí đánh giá chất lượng được
đảm bảo cũng là nền tảng cho việc tăng uy tín, tăng lượng sinh viên muốn theo
học, thu hút sự đầu tư của xã hội cho GDĐH… từ đó làm tăng nguồn thu cho
các đơn vị.
Ở Việt Nam, nhiều nghiên cứu cũng đã cho thấy, đổi mới cơ chế tự chủ
đồng nghĩa với tái cơ cấu hệ thống giáo dục đào tạo và nhà trường. Cùng với
việc tái cơ cấu này, nhà trường sẽ phải thay đổi cơ chế quản lý trường theo mô
hình truyền thống, và chuyển sang trạng thái năng động như DN để đa dạng
hóa nguồn thu, cải thiện thu nhập cho người lao động, thu hút và khuyến khích
nhân tài. Trước đây, quan hệ trong các trường ĐH rất hạn chế, các trường chỉ
chú trọng đến việc điều hành các hoạt động thường nhật. Ngày nay, các trường
không còn thu mình được nữa, không thể hoạt động độc lập mà đang chịu sự
1
giám sát và đánh giá của xã hội. Chính vì vậy lãnh đạo các trường ĐH phải tự
xem trường mình là những DN thực thụ và phải thường xuyên điều chỉnh chiến
lược phát triển trong môi trường cạnh tranh hiện nay. Theo GS.TSKH Bùi Văn
Ga - Thứ trưởng Bộ GD&ĐT, các trường ĐH Việt Nam phải áp dụng mô hình
quản lý theo kiểu công ty. Tuy nhiên, khác với tài chính trong các công ty, việc
quản lý tài chính trong các tổ chức công vẫn còn khá mơ hồ và chưa thật sự
đem lại hiệu quả trong quá trình hoạt động. Trong lĩnh vực NCKH thì nội dung
này chưa được tìm hiểu một cách bài bản. Vì thế, các trường ĐHCL đang gặp
nhiều khó khăn và lúng túng cả về lý luận và thực tiễn về quản lý và công tác
quản lý tài chính tại làm sao đáp ứng được nhu cầu của xã hội về chất lượng
đào tạo.
Sau khi hội nhập kinh tế toàn cầu thì các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư
vào Việt Nam nhiều hơn, kéo theo nhu cầu công việc, các ngành nghề tăng lên,
đặc biệt là ngành kinh tế. Kinh tế - Quản trị là lĩnh vực rộng và có nhiều tiềm
năng để phát triển cũng như cần đội ngũ nguồn nhân lực có kiến thức, có kỹ
năng. Ngành kinh tế là một trong những khối ngành luôn thu hút nhiều thí sinh
trong những năm qua bởi tiềm năng đem đến cơ hội việc làm rộng mở cho
người học sau khi tốt nghiệp.
Với các lý do nêu trên, tác giả đã chọn đề tài “Công tác quản lý tài chính
tại các trường đại học công lập khối ngành kinh tế” làm luận văn thạc sỹ
chuyên ngành quản lý công.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Quản lý nói chung, quản lý tài chính nói riêng luôn là chủ đề được các
nhà nghiên cứu, nhà quản lý chú ý và đi sâu tìm hiểu. Việc giải quyết khó khăn,
vướng mắc, hoàn thiện quản lý nói chung, quản lý tài chính nói riêng khi đứng
dưới góc độ quản lý nhà nước đã được xem xét và phân tích ở nhiều đề tài
nghiên cứu, ở nhiều lĩnh vực khác nhau. Một số đề tài có thể kể tới:
2
- Đề tài luận văn tiến sĩ (2012), "Quản lý tài chính các trường đại học công
lập ở Việt Nam" [27], tác giả Vũ Thị Thanh Thủy đã phân tích, đánh giá những
kết quả đạt được, những hạn chế trong quản lý tài chính đối với các trường đại
học công lập ở Việt Nam. Đồng thời cũng chỉ ra những nguyên nhân dẫn đến
hạn chế và đề xuất nhóm giải pháp vĩ mô và nhóm giải pháp vi mô một cách
khá toàn diện, nhằm hoàn thiện quản lý tài chính đối với các trường đại học
công lập Việt Nam.
- Đề tài luận văn tiến sĩ (2016), "Quản lý tài chính các trường đại học công
lập trực thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo ở Việt Nam" [13], tác giả Lương Thị
Huyền đã nghiên cứu thực trạng quản lý thu, quản lý chi và quản lý việc phân
phối kết quả hoạt động tài chính tại các trường đại học công lập thuộc Bộ Giáo
dục và Đào tạo, với 3 trường được chọn mẫu điển hình, thuộc các mức độ phân
loại tự đảm bảo chi phí hoạt động thường xuyên khác nhau, để chỉ ra những kết
quả đạt được, những hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế đối với các cơ
chế hiện hành.
- Đề tài luận văn tiến sĩ (2017), "Quản lý tài chính các trường đại học công
lập trực thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh
trong điều kiện tự chủ" [14], tác giả Trương Thị Hiền đã tổng kết và có những
đánh giá khá cụ thể về quản lý tài chính các trường đại học công lập trực thuộc
Bộ Giáo dục và Đào tạo trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh, đi sâu nghiên
cứu công tác quản lý tài chính các trường đại học công lập trong điều kiện tự
chủ.
- Đề tài luận văn tiến sĩ (2019), "Quản lý tài chính các đơn vị sự nghiệp
đào tạo, bồi dưỡng trực thuộc Bộ Giao thông vận tải" [36], tác giả Đinh Thị Hải
Yến đã trình bày có hệ thống cơ sở khoa học về quản lý tài chính đơn vị sự
nghiệp công lập đào tạo, bồi dưỡng.
Bên cạnh những đề tài khoa học, vấn đề quản lý tài chính cũng là một
3
trong những nội dung được đề cập đến trong nhiều đầu sách và bài báo. Có thể
kể đến như Phạm Thị Thanh Vân (2022), với bài viết “Hoàn thiện quản lý tài
chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập”, đăng trên Tạp chí Quản lý nhà nước
– Số 316 (5/2022) [35]. Qua bài viết, tác giả đã đưa đến cho độc giả những
nhận thức khái quát về quản lý tài chính đối với ĐVSNCL, những nội dung mới
trong quy định của Nghị định số 60/2021/NĐ-CP và những điểm còn hạn chế,
gây khó khăn cho các ĐVSNCL khi thực hiện Nghị định này; qua phân tích,
tác giả đã đề xuất một số giải pháp thực hiện nhằm hoàn thiện quản lý tài chính
của ĐVSNCL.
Các công trình liên quan đến công tác quản lý tài chính nói chung đều
tập trung phân tích và tìm ra giải pháp nhằm hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính,
tăng cường tự chủ tài chính của các đơn vị sự nghiệp, các trường đại học công
lập nói chung hoặc các trường đại học công lập tại một Bộ, ngành nhưng chưa
có một công trình khoa học nào nghiên cứu và công bố đề cập đến quản lý tài
chính các các trường đại học công lập khối ngành kinh tế. Vì vậy, nghiên cứu
của đề tài không có sự trùng lặp với các công trình trên, trong phạm vi nghiên
cứu được đặt ra, đề tài sẽ giải quyết những hạn chế, vướng mắc trong công tác
quản lý tài chính tại các trường ĐHCL khối ngành kinh tế.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là xây dựng những luận cứ khoa học
về công tác quản lý tài chính tại các ĐVSNCL, từ đó đề xuất các giải pháp để
áp dụng công tác quản lý tài chính tại các trường ĐHCL khối ngành kinh tế.
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, luận văn có nhiệm vụ:
- Tổng kết và hệ thống hóa những vấn đề lý luận về ĐVSNCL với những
vai trò và đặc điểm cơ bản, quản lý và chức năng của quản lý, đưa ra khái niệm
riêng về công tác quản lý tài chính tại ĐVSNCL và chỉ ra mục tiêu, nội dung
4
khi thực hiện công tác quản lý tài chính tại các ĐVSNCL.
- Phân tích và đánh giá thực trạng công tác quản lý tài chính tại các
trường ĐHCL khối ngành kinh tế, trong đó tập trung trên ba khía cạnh: quản lý
thu, quản lý chi, quản lý tài sản trong các đơn vị này, đồng thời xác định rõ kết
quả đạt được, những tồn tại bất cập và nguyên nhân của những bất cập đó trong
việc công tác quản lý tài chính tại các trường ĐHCL khối ngành kinh tế hiện
nay.
- Trên cơ sở định hướng phát triển công tác quản lý tài chính tại các
trường ĐHCL khối ngành kinh tế, dựa trên những đánh giá thực trạng để đề
xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản lý tài chính tại các trường
ĐHCL khối ngành kinh tế trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận và
thực tiễn về công tác quản lý tài chính tại trong các trường ĐHCL khối ngành
kinh tế.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Phạm vi không gian: Đề tài nghiên cứu công tác công tác quản lý tài chính tại các trường ĐHCL khối ngành kinh tế, trong đó 03 trường ĐH được tác giả chọn mẫu điển hình là: Trường ĐH Ngoại thương và Trường ĐH Tài chính - QTKD - trường đào tạo tất cả các ngành thuộc kinh tế, Trường ĐH Mở Hà Nội - trường trường đào tạo một số ngành thuộc kinh tế. Theo Nghị định số 60/2021/NĐ-CP, Trường ĐH Ngoại thương là trường có nguồn thu tự bảo đảm chi thường xuyên và chi đầu tư, Trường ĐH Mở Hà Nội là trường có nguồn thu tự bảo đảm chi thường xuyên; Trường ĐH Tài chính - QTKD là trường có nguồn thu tự bảo đảm một phần chi thường xuyên (khoảng 40%).
+ Phạm vi thời gian: Các số liệu được thu thập cho giai đoạn 2021-2023,
định hướng nghiên cứu đến năm 2030 và những năm sau.
5
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng
và duy vật lịch sử để nghiên cứu các vấn đề, đảm bảo tính logic, tính toàn diện,
tính hệ thống và tính thực tiễn, đồng thời luận văn sử dụng tổng hợp các phương
pháp NCKH kinh tế như: phương pháp phân tích, phương pháp hệ thống hóa,
phương pháp so sánh, phương pháp diễn giải…
Phương pháp phân tích định tính sẽ được dùng để phân tích thực tế quản
lý tài chính trong các trường ĐHCL khối ngành kinh tế.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
Về mặt lý luận, luận văn làm rõ bản chất của công tác quản lý tài chính
tại ĐVSNCL, đưa ra các mục tiêu của công tác quản lý tài chính tại ĐVSNCL,
đặc biệt đã đưa ra nội dung công tác quản lý tài chính tại ĐVSNCL trên ba khía
cạnh: quản lý thu, quản lý chi, quản lý tài sản theo quy trình quản lý, đồng thời
làm rõ việc áp dụng các công cụ công tác quản lý tài chính tại được áp dụng cụ
thể vào từng nội dung quản lý thu, quản lý chi, quản lý tài sản như thế nào.
Về mặt thực tiễn, luận văn tiến hành phân tích thực trạng công tác quản
lý tài chính tại các trường ĐHCL khối ngành kinh tế, trong đó tập trung trên ba
khía cạnh: quản lý thu, quản lý chi, quản lý tài sản. Đánh giá những kết quả đạt
được, hạn chế và nguyên nhân của hạn chế trong công tác quản lý tài chính tại
các trường ĐHCL khối ngành kinh tế. Từ đó, đưa ra một số giải pháp có tính
thực tiễn nhằm hoàn thiện công tác quản lý tài chính tại các trường ĐHCL khối
ngành kinh tế trong thời gian tới. Kết quả nghiên cứu sẽ là tài liệu tham khảo
cho những nghiên cứu tiếp theo về công tác quản lý tài chính tại các trường
ĐHCL khối ngành kinh tế.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được kết cấu thành 03 chương:
6
Chương 1: Cơ sở khoa học về công tác quản lý tài chính tại các ĐVSNCL.
Chương 2: Thực trạng công tác quản lý tài chính tại các trường ĐHCL
khối ngành kinh tế.
Chương 3: Định hướng và giải pháp hoàn thiện công tác quản lý tài chính
7
tại các trường ĐHCL khối ngành kinh tế.
Chương 1
CƠ SỞ KHOA HỌC VỀ CÔNG TÁC QUẢN LÝ TÀI CHÍNH
TẠI CÁC ĐƠN VỊ SỰ NGHIỆP CÔNG LẬP
1.1. Tổng quan về đơn vị sự nghiệp công lập
1.1.1. Khái niệm, vai trò của đơn vị sự nghiệp công lập
Theo khoản 1 Điều 2 Nghị định số 60/2021/NĐ-CP, ĐVSNCL là tổ chức
"do cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước thành lập theo quy định của pháp
luật, có tư cách pháp nhân, có con dấu, tài khoản riêng theo quy định của pháp
luật, cung cấp dịch vụ sự nghiệp công hoặc phục vụ quản lý nhà nước” [7].
Theo khái niệm trên, ĐVSNCL được thành lập với vai trò:
Thứ nhất, các ĐVSNCL cung cấp các dịch vụ công phục vụ nhân dân
trong các lĩnh vực y tế, giáo dục, khoa học, văn hóa,... với chất lượng ngày càng
cao và đa dạng về loại hình dịch vụ, qua đó đáp ngày càng tốt hơn các nhu cầu
của xã hội.
Thứ hai, các ĐVSNCL đảm bảo cung cấp các dịch vụ cơ bản, thiết yếu
đáp ứng nhu cầu của xã hội, như: về y tế, giáo dục tại miền núi, vùng dân tộc
thiểu số, hải đảo, biên giới, vùng sâu, vùng xa, vùng có điều kiện kinh tế - xã
hội đặc biệt khó khăn.
Thứ ba, các ĐVSNCL thực hiện chức năng về quản lý nhà nước, như:
thực hiện chức năng kiểm định, hiệu chuẩn, kiểm tra chất lượng sản phẩm, hàng
hóa; nghiên cứu, xây dựng định mức kinh tế - kỹ thuật theo yêu cầu; quản lý
thông tin, tư liệu, số liệu về lĩnh vực quản lý nhà nước được phân công;....
Thứ tư, các ĐVSNCL thực hiện các nhiệm vụ được nhà nước giao, như:
thực hiện khám chữa bệnh và bảo vệ sức khỏe cho nhân dân; thực hiện đào tạo,
cung cấp cho xã hội nguồn nhân lực chất lượng cao; thực hiện nghiên cứu, ứng
8
dụng các kết quả KHCN; cung cấp các sản phẩm văn hóa, nghệ thuật... làm
giàu đời sống tinh thần cho người dân.
Thứ năm, ở mỗi lĩnh vực hoạt động, các ĐVSNCL đều có vai trò chính
trong việc đề xuất, tham gia thực hiện các đề tài, đề án, nhiệm vụ, thông qua đó
góp phần vào việc hoạch định, thực thi các chính sách phát triển chung của đất
nước.
Thứ sáu, việc không ngừng đa dạng hóa các sản phẩm, dịch vụ theo chức
năng, nhiệm vụ được pháp luật quy định của các ĐVSNCL đã khuyến khích và
huy động các nguồn lực trong xã hội, đóng góp vào sự phát triển kinh tế chung
của đất nước.
1.1.2. Phân loại đơn vị sự nghiệp công lập
Mỗi tiêu chí có cách phân loại ĐVSNCL khác nhau. Từ góc độ pháp lý,
xét trên tiêu chí cơ quan có thẩm quyền thành lập, ĐVSNCL có thể chia thành
các nhóm: Một là, ĐVSNCL thuộc phạm vi quản lý của Bộ và cơ quan ngang
bộ: ĐVSNCL thuộc Bộ; ĐVSNCL thuộc Tổng cục và các tổ chức tương đương
Tổng cục thuộc Bộ; ĐVSNCL thuộc Cục, Chi cục thuộc Cục thuộc Bộ;
ĐVSNCL thuộc Văn phòng thuộc Bộ; ĐVSNCL thuộc Cục thuộc Tổng cục
thuộc Bộ. Hai là, ĐVSNCL thuộc Cơ quan thuộc Chính phủ, bao gồm cả các
ĐVSNCL ở nước ngoài. Ba là, ĐVSNCL thuộc tổ chức do Chính phủ, Thủ
tướng Chính phủ thành lập nhưng không phải là ĐVSNCL. Bốn là, ĐVSNCL
thuộc phạm vi quản lý của Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương: ĐVSNCL thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh (ví dụ Đài phát thanh truyền hình);
đơn vị nghiệp công lập thuộc cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh
(Sở) (ví dụ Bệnh viện Thanh Nhàn thuộc Sở Y tế Hà Nội); ĐVSNCL thuộc Chi
cục và tương đương thuộc Sở (ví dụ Trung tâm Kỹ thuật TCĐLCL thuộc Chi
cục TCĐLCL thuộc sở KHCN Cà Mau); ĐVSNCL thuộc tổ chức hành chính
khác thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh. Năm là, ĐVSNCL thuộc Ủy ban nhân
9
dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực
thuộc trung ương (ví dụ Trung tâm giáo dục thường xuyên huyện, Trung tâm
dịch vụ nông nghiệp,..).
Nếu phân loại theo ngành, lĩnh vực hoạt động, gồm: ĐVSNCL trong lĩnh
vực y tế, gồm các cơ sở khám, chữa bệnh (bệnh viện thuộc sở y tế, trung tâm y
tế huyện,...); ĐVSNCL trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo, gồm các cơ sở giáo
dục (giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, giáo dục đại học, giáo dục nghề
nghiệp,...); ĐVSNCL trong lĩnh vực KHCN, là các tổ chức KHCN công lập;
ĐVSNCL trong lĩnh vực văn hóa, thể thao, du lịch (các đơn vị nghệ thuật biểu
diễn công lập; ĐVSNCL trong lĩnh vực thông tin và truyền thông;...
Phân loại theo mức độ tự chủ về tài chính, ĐVSNCL được chia thành 04
nhóm: ĐVSNCL tự đảm bảo chi thường xuyên và chi đầu tư; ĐVSNCL tự đảm
bảo chi thường xuyên; ĐVSNCL tự đảm bảo một phần chi thường xuyên;
ĐVSNCL do Nhà nước đảm bảo chi thường xuyên.
1.2. Công tác quản lý tài chính tại các đơn vị sự nghiệp công lập
1.2.1. Khái niệm công tác quản lý tài chính tại các đơn vị sự nghiệp
công lập
Quản lý là một loạt các hoạt động (bao gồm lập kế hoạch và ra quyết
định, tổ chức, lãnh đạo và kiểm soát) với đối tượng là các nguồn lực của một
tổ chức (con người, tài chính, vật chất và thông tin) với mục tiêu nhằm đạt được
các mục đích của tổ chức một cách có kết quả và có hiệu quả. Có hiệu quả nghĩa
là thực hiện công việc một cách đúng đắn và liên quan đến mối quan hệ giữa
đầu vào và đầu ra. Có kết quả nghĩa là theo đuổi các hoạt động một cách thành
công hay nói cách khác là thực hiện đúng công việc.
Công tác quản lý tài chính tại các ĐVSNCL bản thân đã là một hoạt động
quản lý. Bản chất của quản lý là một quá trình tác động thường xuyên và có tổ
10
chức của chủ thể quản lý đến đối tượng quản lý nhằm phối hợp các hoạt động
của các cá nhân, các bộ phận và các nguồn lực để đạt tới mục tiêu của tổ chức
với hiệu quả cao nhất.
Ở đây, khái niệm về công tác quản lý tài chính tại ĐVSNCL cần trả lời
được các vấn đề: Ai quản lý tài chính tại ĐVSNCL? Công tác quản lý tài chính
tại ĐVSNCL cụ thể là cái gì?
Ai quản lý tài chính tại ĐVSNCL? Nhà quản lý tài chính tại ĐVSNCL
là những người làm việc trong các ĐVSNCL, điều khiển công việc của người
khác và chịu trách nhiệm về những kết quả hoạt động của họ. Nhà quản lý tài
chính tại ĐVSNCL có thể được chia theo 2 cấp quản lý trong cơ cấu tổ chức
bộ máy quản lý tài chính. Nhà quản lý tài chính tại cấp cao là người chịu trách
nhiệm về thành quả cuối cùng trong hoạt động tài chính của đơn vị, có nhiệm
vụ đưa ra các quyết định chiến lược để duy trì và phát triển ĐVSNCL trong dài
hạn. Các chức danh của nhà quản lý tài chính cấp cao tại ĐVSNCL như: Giám
đốc, Phó Giám đốc, Hội đồng trường, Hiệu trưởng,… Nhà quản lý tài chính
cấp cơ sở tại ĐVSNCL là nhà quản lý hoạt động bộ phận tham mưu tài chính,
có nhiệm vụ đưa ra các quyết định chiến thuật, thực hiện các kế hoạch và chính
sách tài chính của đơn vị, phối hợp các hoạt động, các công việc để hoàn thành
mục tiêu chung. Các chức danh của nhà quản lý tài chính tại cấp cơ sở như:
Trưởng, Phó ban Tài chính - kế hoạch, Kế toán trưởng, Phụ trách kế toán,
Trưởng, phó phòng Tài chính - kế toán,…
Công tác quản lý tài chính tại ĐVSNCL cụ thể là cái gì? Là quản lý các
hoạt động thu, chi, tài sản phát sinh trong ĐVSNCL, bao gồm việc lập kế hoạch
thu chi, tổ chức thực hiện, khai thác các khoản thu, tổ chức xác định chi phí,
kiểm tra kiểm soát, đánh giá các khoản thu chi của đơn vị, quản lý quá trình
hình thành tài sản, sử dụng tài sản, kết thúc sử dụng tài sản.
Với các phân tích trên, có thể đưa ra khái niệm về công tác quản lý tài
11
chính tại các ĐVSNCL như sau: “Công tác quản lý tài chính tại các ĐVSNCL
là việc các nhà quản lý tài chính tại các ĐVSNCL sử dụng các phương pháp,
công cụ quản lý tài chính tác động lên các hoạt động thu, chi, tài sản phát sinh
trong ĐVSNCL để thực hiện các chức năng cơ bản từ việc lập kế hoạch tài
chính, tổ chức tạo nguồn và sử dụng nguồn tài chính đến kiểm tra, kiểm soát
nhằm đạt được những mục tiêu đề ra”.
1.2.2. Mục tiêu công tác quản lý tài chính tại các đơn vị sự nghiệp công
lập
Công tác quản lý tài chính tại các ĐVSNCL nhằm đạt được các mục tiêu
sau:
Thứ nhất là tăng thu, thu đúng, thu đủ, thu kịp thời.
Hiện nay các nguồn tài chính của các ĐVSNCL chủ yếu tập trung vào
hai nguồn đó là NSNN và nguồn ngoài NSNN (phí, lệ phí, thu khác...). Trong
bối cảnh nguồn NSNN ngày càng hạn hẹp, chi phí ngày càng gia tăng, áp lực
tài chính cho các ĐVSNCL để duy trì các hoạt động thường xuyên ngày càng
lớn, đòi hỏi các ĐVSNCL phải tìm cách gia tăng nguồn thu. Một trong những
nguồn thu mà hầu hết các ĐVSNCL hiện nay chưa phát huy được đó là thu từ
dịch vụ, NCKH và nguồn thu từ đóng góp của xã hội như thu từ đóng góp của
nhà hảo tâm, nguồn tài trợ, viện trợ trong và ngoài nước. Điều này thể hiện sự
kém bền vững, kém phát triển của nguồn tài chính. Để phát triển các nguồn tài
chính theo hướng bền vững, các ĐVSNCL cần thực hiện công tác thu theo đúng
quy định của Nhà nước đồng thời tăng cường khai thác, đa dạng hóa các nguồn
tài chính ngoài NSNN, tăng dần tỷ trọng các nguồn thu ngoài ngân sách trong
điều kiện và khả năng của đơn vị, khai thác những tiềm năng sẵn có tạo ra ngày
càng nhiều nguồn thu hợp pháp đáp ứng kịp thời nhu cầu nguồn tài chính cho
hoạt động của đơn vị. Không phải vì mục tiêu tăng thu mà ĐVSNCL tự đặt ra
các khoản thu trái với quy định của Nhà nước. Bên cạnh đó, việc đổi mới chính
12
sách thu phí, coi đây là hình thức giá dịch vụ là một yêu cầu rất bức thiết. Chính
vì vậy, các ĐVSNCL phải tính toán, xác định đúng đắn mức thu giá dịch vụ
nhằm bù đắp chi phí mà các ĐVSNCL đã bỏ ra trong quá trình cung ứng theo
lộ trình quy định của Nhà nước. Đối với các hoạt động dịch vụ khác đơn vị
được tự quyết định khoản thu, mức thu theo nguyên tắc lấy thu bù chi và có
tích lũy. Để xác định đúng đắn mức thu cho các hoạt động dịch vụ đơn vị cần
xác định đầy đủ chi phí cho các hoạt động này. Việc xác định mức thu còn tùy
thuộc vào quan điểm của mỗi nhà quản lý, tuy nhiên nếu đơn vị đặt ra mức thu
quá cao thì sẽ không thu được khoản thu này. Với mục tiêu thu đúng, ngoài
việc xác định đúng mức thu thì việc xác định đúng đối tượng thu, tổ chức thu
đúng quy trình cũng vô cùng quan trọng. Các ĐVSNCL cần đảm bảo xác định
đúng đắn đối tượng nộp, tính đúng các khoản thu nộp, thủ tục nộp, thanh tra,
quyết toán các khoản thu nộp; xây dựng hệ thống chính sách thu hợp lý, phù
hợp với thực tế quản lý của đơn vị; xây dựng kế hoạch thu sát đúng, phù hợp
với thực tế của từng năm, quý, tháng; lựa chọn quy trình thu khoa học hợp lý,
gọn nhẹ, hiệu quả, đảm bảo thu đúng, thu đủ, thu kịp thời, tránh thất thoát; công
khai, minh bạch mức thu, quy trình thu, số thu được.
Thứ hai là chi đúng, chi đủ, chi hiệu quả, tiết kiệm.
Một trong những mục tiêu quan trọng của công tác quản lý tài chính tại
trong các ĐVSNCL là phải đảm bảo chi đúng, chi đủ, chi hiệu quả, tiết kiệm.
Khi nguồn lực luôn có giới hạn và nhu cầu chi không có giới hạn thì việc chi
tiết kiệm, hiệu quả là một trong những nguyên tắc hàng đầu của công tác quản
lý tài chính tại. Trong quá trình phân bổ và sử dụng các nguồn lực khan hiếm
đó phải tính toán sao cho với chi phí thấp nhất nhưng vẫn đạt hiệu quả cao nhất.
Mục tiêu chi đúng được hiểu là chi đúng nội dung theo đúng mục đích, đúng
chính sách chế độ chi, đúng nguồn, đúng dự toán, đúng định mức, đúng đối
tượng… Các ĐVSNCL cần xây dựng kế hoạch chi sát với thực tế hàng năm,
13
quý, tháng; xác lập định mức chi khoa học và phù hợp với thực tế; xác định và
phân loại đúng đắn các khoản chi phí; xác lập thứ tự ưu tiên các khoản chi trong
từng thời kỳ nhất định; xây dựng một chính sách, cơ cấu chi tiêu hợp lý, phù
hợp; xây dựng quy trình cấp phát, kiểm soát, thanh toán các khoản chi một cách
chặt chẽ, hợp lý; xây dựng được ý thức thường xuyên tiết kiệm chi; công khai,
minh bạch quy chế chi tiêu nội bộ; thực hiện kiểm tra, kiểm toán nội bộ đảm
bảo chi tiêu tiết kiệm và hiệu quả; xây dựng các chỉ tiêu đánh giá thành quả
hoạt động của các ĐVSNCL.
Thứ ba là mua sắm, sử dụng tài sản hiệu quả, hợp lý, đúng mục đích.
Phần lớn tài sản của các ĐVSNCL được Nhà nước giao cho để trực tiếp
quản lý và sử dụng hoặc cấp kinh phí đầu tư mua sắm cho các trường nhằm
thực hiện các mục tiêu sự nghiệp. Khi đó các ĐVSNCL phải sử dụng tài sản
sao cho hiệu quả, hợp lý, đúng mục đích thông qua việc đầu tư, mua sắm đúng
mức, đảm bảo tiết kiệm, chống lãng phí, cũng như quản lý và sử dụng có hiệu
quả tài sản. Bên cạnh đó, phải nắm chắc và kiểm soát chặt chẽ nguồn lực tài
sản hiện có để kịp thời đưa ra các giải pháp quản lý, sử dụng tài sản phù hợp ở
tất cả các khâu thuộc vòng đời của tài sản: đầu tư, mua sắm, bảo dưỡng, sửa
chữa nâng cấp, thu hồi, điều chuyển, bán, thanh lý, tiêu hủy…; tổ chức khai
thác, sử dụng tài sản của đơn vị cho thuê, liên doanh, liên kết đúng quy định
của Nhà nước nhằm phát huy công suất và hiệu quả sử dụng tài sản, đem lại
nguồn thu cho đơn vị; hạch toán đúng đắn các chi phí cấu thành nguyên giá tài
sản, chi phí sửa chữa, chi phí khấu hao, hạch toán đầy đủ về hiện vật và giá trị
theo quy định của pháp luật.
1.2.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến công tác quản lý tài chính tại các
đơn vị sự nghiệp công lập
1.2.3.1. Các nhân tố bên ngoài
* Cơ chế quản lý tài chính của nhà nước
14
Một văn bản pháp quy quan trọng quy định về cơ chế quản lý tài chính
cho các ĐVSNCL là Nghị định số 43/2006/NĐ-CP quy định quyền tự chủ, tự
chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính
đối với ĐVSNCL. Ngày 21/6/2021, Chính phủ ban hành Nghị định số
60/2021/NĐ-CP thay thế Nghị định số 43/2006/NĐ-CP nhằm tiếp tục đẩy
mạnh việc thực hiện cơ chế tự chủ đối với ĐVSNCL. Cơ chế quản lý tài chính
của nhà nước tạo ra môi trường pháp lý cho việc tạo lập và sử dụng các nguồn
lực tài chính nhằm đáp ứng các yêu cầu hoạt động của đơn vị. Nó được xây
dựng dựa trên quan điểm định hướng về chính sách quản lý ĐVSNCL trong
từng giai đoạn cụ thể của nhà nước nhằm cụ thể hoá các chính sách đó. Cơ chế
này sẽ vạch ra các khung pháp lý về mô hình quản lý tài chính của ĐVSNCL,
từ việc xây dựng các tiêu chuẩn, định mức, các quy định về lập dự toán, điều
chỉnh dự toán, cấp phát kinh phí, kiểm tra, kiểm soát nhằm phát huy tối đa hiệu
quả quản lý vĩ mô gắn với tinh thần tự chủ, tự chịu trách nhiệm của ĐVSNCL.
Do đó, nếu cơ chế quản lý tài chính phù hợp sẽ tạo điều kiện tăng cường và tập
trung nguồn lực tài chính, đảm bảo sự linh hoạt, năng động và hữu hiệu của các
nguồn lực tài chính, giúp cho ĐVSNCL quản lý tài chính hiệu quả hơn.
* Tình hình kinh tế xã hội của quốc gia
Những thay đổi điều kiện kinh tế - xã hội và chính sách chi tiêu công cho
các ĐVSNCL là những yếu tố ảnh hưởng tới quản lý tài chính trong các
ĐVSNCL. Đứng trước mỗi sự biến động của môi trường kinh tế xã hội, nhà
nước phải có những chính sách mới nhằm phát triển đất nước phù hợp với tình
hình mới dẫn đến những thay đổi về nhiều mặt, trong đó có phương thức quản
lý, cơ chế hoạt động. Ngày nay, dưới tác động của quá trình công nghiệp hóa
và cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật, các ĐVSNCL phải áp dụng công nghệ
mới, nâng cao chất lượng hàng hóa, dịch vụ. Việc đổi mới thiết bị và phát triển
hàng hóa dịch vụ mới đòi hỏi các ĐVSNCL phải thực hiện cơ chế một cách
15
linh hoạt để mang lại hiệu quả, tiết kiệm chi phí.
1.2.3.2. Các nhân tố bên trong
* Chiến lược phát triển của ĐVSNCL
Hầu hết các ĐVSNCL đã lập kế hoạch chiến lược phát triển nhằm xác
định cụ thể mục tiêu, nhiệm vụ, phương hướng phát triển của ĐVSNCL trong
từng thời kỳ cụ thể. Khi xây dựng mục tiêu và phương hướng phát triển các
ĐVSNCL cũng đồng thời phải xác định được nhu cầu về nguồn tài chính và
khả năng huy động nguồn tài chính để thực hiện thành công mục tiêu và phương
hướng phát triển đã đề ra. Trong từng thời kỳ cụ thể, khi nhiệm vụ, mục tiêu và
phương hướng phát triển của các ĐVSNCL thay đổi, cơ chế tài chính nói chung
và nguồn tài chính nói riêng của ĐVSNCL cũng thay đổi theo cho phù hợp. Do
đó, nó ảnh hưởng đến các công tác công tác quản lý tài chính tại ĐVSNCL, ảnh
hưởng đến trật tự ưu tiên các khoản chi trong từng thời kỳ.
* Việc sử dụng các công cụ quản lý tài chính tại ĐVSNCL
Để nâng cao hiệu quả quản lý tài chính trong các ĐVSNCL thì việc sử
dụng các công cụ quản lý tài chính là rất cần thiết. Việc áp dụng các công cụ
trong quản lý tài chính ngày nay đã và đang thực sự chứng tỏ vai trò không thể
thiếu được của nó. Các công cụ chủ yếu mà các nhà quản lý tài chính trong
ĐVSNCL có thể áp dụng như hệ thống KSNB, kế toán quản trị, kiểm toán nội
bộ. Hệ thống KSNB là các quy định, các thủ tục kiểm soát do đơn vị xây dựng
và áp dụng nhằm đảm bảo cho việc tuân thủ pháp luật và các quy định để kiểm
tra, kiểm soát, ngăn ngừa và phát hiện gian lận, sai sót, nhằm bảo vệ, quản lý
và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của đơn vị. Nếu đơn vị có hệ thống KSNB
chặt chẽ, hữu hiệu, thiết lập bộ phận kiểm toán nội bộ trong đơn vị, tổ chức kế
toán quản trị… sẽ giúp cho công tác công tác quản lý tài chính tại được thuận
lợi, hệ thống kế toán được vận hành có hiệu quả, chặt chẽ. Ngược lại, nếu đơn
vị chưa chú trọng tạo lập hệ thống KSNB, bộ phận kiểm toán nội bộ, kế toán
16
quản trị… thì sẽ không phát hiện kịp thời sai sót, không ngăn chặn hành vi gian
lận, không kịp thời chấn chỉnh thì công tác công tác quản lý tài chính tại sẽ kém
hiệu lực, hiệu quả.
* Tổ chức bộ máy quản trị của ĐVSNCL
Có nhiều yếu tố để làm nên hiệu quả trong hoạt động công tác quản lý
tài chính tại của một ĐVSNCL, nhưng yếu tố quyết định chính là việc tổ chức
bộ máy quản trị. Việc tổ chức, sắp xếp bộ máy quản trị một cách khoa học, phù
hợp với nhiệm vụ đặc thù của đơn vị, đảm bảo thông tin được thông suốt, thuận
lợi trong việc thực hiện kiểm tra giám sát và phát huy được khả năng của mỗi
người trong bộ máy sẽ là điều kiện để hoạt động công tác quản lý tài chính tại
của đơn vị đi đúng hướng và đạt hiệu quả cao nhất. Ngược lại, bộ máy cồng
kềnh, chức năng chồng chéo, sự phối hợp không đạt hiệu quả sẽ là nguyên nhân
làm trì trệ và cản trở hoạt động tài chính của toàn đơn vị.
* Kỹ năng quản trị của lãnh đạo ĐVSNCL
Kỹ năng quản trị của lãnh đạo đơn vị tác động rất lớn đến công tác công
tác quản lý tài chính tại tại đơn vị đó. Thủ trưởng đơn vị là nhà quản trị hoạt
động ở bậc cao nhất trong đơn vị, là người chịu trách nhiệm về những thành
quả cuối cùng của đơn vị. Kỹ năng cần có của nhà quản trị chủ yếu như kỹ năng
lãnh đạo, kỹ năng hoạch định, kỹ năng giải quyết vấn đề, kỹ năng giao tiếp, kỹ
năng tư duy…
* Năng lực chuyên môn, nghiệp vụ của đội ngũ làm công tác công tác
quản lý tài chính tại ĐVSNCL
Suy cho cùng, hiệu quả của công tác công tác quản lý tài chính tại các
ĐVSNCL đều do con người quyết định. Nếu đội ngũ làm công tác quản lý trực
tiếp hoạt động tài chính của ĐVSNCL có chuyên môn nghiệp vụ giỏi sẽ tham
mưu cho lãnh đạo đưa ra những quyết định tài chính hợp lý và tổ chức thực
hiện các quyết định đó một cách có kết quả. Ngược lại, nếu đội ngũ này có
17
chuyên môn, nghiệp vụ hạn chế sẽ tham mưu cho lãnh đạo ra các quyết định
tài chính hạn chế, đồng thời thiếu cách thức tổ chức thực hiện các quyết định
trong thực tế.
1.2.4. Nội dung công tác quản lý tài chính tại các đơn vị sự nghiệp
công lập
1.2.4.1. Quản lý thu tại các đơn vị sự nghiệp công lập
Quản lý thu trong các ĐVSNCL bao hàm việc lập kế hoạch thu; tổ chức
thực hiện, khai thác các khoản thu; kiểm tra kiểm soát, đánh giá các khoản thu
của đơn vị.
* Lập kế hoạch thu
+ Nội dung các khoản thu
Các khoản thu của ĐVSNCL gồm các khoản thu từ NSNN cấp, thu từ
các hoạt động dịch vụ và các khoản thu khác.
- Thu từ NSNN cấp bao gồm: kinh phí thực hiện các nghiệp vụ thường
xuyên, chương trình mục tiêu quốc gia, NCKH, đầu tư XDCB và các loại kinh
phí khác như tinh giản biên chế; đào tạo lại; kinh phí đối ứng; thực hiện các
nhiệm vụ đặt hàng của Nhà nước (như điều tra, quy hoạch, khảo sát... ); đầu tư
xây dựng cơ sở vật chất, mua sắm trang thiết bị phục vụ hoạt động sự nghiệp
theo dự án và kế hoạch hàng năm, vốn đối ứng cho các dự án được cấp có thẩm
quyền phê duyệt.
- Thu từ hoạt động dịch vụ phù hợp với lĩnh vực chuyên môn và khả năng
của đơn vị và các khoản thu khác: Các ĐVSNCL có thể tận dụng lợi thế sẵn có
của mình để thực hiện các hoạt động dịch vụ như thu phí, thu từ hợp đồng dịch
vụ với các tổ chức trong và ngoài nước; thu từ các hoạt động sản xuất, tiêu thụ
sản phẩm thực hành thực tập, sản phẩm thí nghiệm; thu từ các hợp đồng dịch
vụ khoa học và công nghệ; lãi được chia từ các hoạt động liên doanh, liên kết,
18
lãi tiền gửi ngân hàng từ các hoạt động dịch vụ và các khoản thu khác theo quy
định của pháp luật như tiền thu từ bán giáo trình, dịch vụ giữ xe, nhà ăn, quầy
văn phòng phẩm… theo nguyên tắc bảo đảm bù đắp chi phí và có tích lũy.
+ Phương pháp lập kế hoạch thu
Khi lập kế hoạch thu người ta thường sử dụng 2 phương pháp là phương
pháp dựa vào quá khứ (còn gọi là phương pháp gia tăng - Incremental
Budgeting Method - IB) và phương pháp không dựa vào quá khứ (hay phương
pháp dựa trên số 0 - Zero Basic Budgeting Method - ZBB).
- Phương pháp dựa vào quá khứ:
Phương pháp này dựa vào số liệu phát sinh thực tế ở kỳ trước để xây
dựng kế hoạch thu cho kỳ tương lai bằng việc điều chỉnh các chỉ tiêu thu thực
tế ở kỳ trước theo tỷ lệ tăng trưởng có tính đến ảnh hưởng của lạm phát. Đây là
phương pháp truyền thống được sử dụng rộng rãi trong các đơn vị.
Khi lập kế hoạch thu theo phương pháp này ngoài việc điều chỉnh các
chỉ tiêu theo sự thay đổi của nhiệm vụ được giao hoặc quy mô hoạt động còn
phải tính đến ảnh hưởng của lạm phát. Như vậy mỗi chỉ tiêu kế hoạch thu sẽ
Chỉ tiêu Chỉ tiêu Tỷ lệ Tỷ lệ kế hoạch = thực tế x (100 + tăng ) x (100 + lạm) (Công thức 1.1)
thu năm sau thu năm trước trưởng phát
được xác định theo công thức 1.1:
Phương pháp dựa vào quá khứ có ưu điểm là tương đối đơn giản và dễ
hiểu, dễ dàng nhận ra ảnh hưởng từ việc thay đổi các điều kiện lập kế hoạch,
kết quả kế hoạch đáng tin cậy, các nhà quản lý có thể tiếp tục sử dụng kinh
nghiệm đã có để điều hành đơn vị. Tuy vậy, phương pháp này cũng tồn tại các
nhược điểm như: Không tạo cơ hội khuyến khích sáng tạo hoặc đề xuất các ý
tưởng mới vì khi lập kế hoạch người ta đã giả thiết đơn vị tiếp tục hoạt động
theo cách thức và các phương pháp mà các năm trước họ đã làm; Kế hoạch có
19
thể lạc hậu không sử dụng được nếu khi lập kế hoạch không lường trước sự
thay đổi của quy mô và các điều kiện ảnh hưởng đến hoạt động của đơn vị. Như
vậy phương pháp này thường được áp dụng để lập kế hoạch thu cho các hoạt
động tương đối ổn định của đơn vị.
- Phương pháp không dựa vào quá khứ:
Phương pháp này dựa trên nhiệm vụ hoặc mục tiêu hoạt động của đơn vị
để xây dựng các phương án thực hiện khác nhau dựa trên các giả thiết đặt ra
phù hợp với điều kiện đơn vị. Kế hoạch thu được lập cho mỗi bộ phận không
phụ thuộc vào kết quả và phương thức hoạt động của đơn vị ở kỳ trước mà dựa
vào mục tiêu hoạt động của đơn vị. Trên cơ sở phân tích nhiệm vụ của đơn vị
để xác định các bộ phận liên quan cần phải lập kế hoạch thu. Các kế hoạch thu
phải thể hiện được chi phí và kết quả hoạt động của mỗi bộ phận theo các
phương án khác nhau. Đơn vị xem xét và xếp các phương án thu theo thứ tự ưu
tiên dựa vào hiệu quả của chúng.
Phương pháp này có ưu điểm là cho phép các nhà quản lý đánh giá chi
tiết chi phí và lợi ích của phương án thu trong phạm vi quản lý của họ, khuyến
khích sáng tạo các phương án thu mới để so sánh với các phương án hiện có.
Như vậy phương án mới có thể được áp dụng nếu như nó hiệu quả hơn. Các kế
hoạch thu không hiệu quả bị bỏ qua nên hạn chế được lãng phí và bỏ qua các
dự án kém hiệu quả. Tuy nhiên, phương pháp này cũng có nhược điểm là quá
trình lập kế hoạch thu phức tạp và tốn kém vì phải xây dựng nhiều phương án
khác nhau và không sử dụng được kinh nghiệm đã có trước đó; người lập kế
hoạch thu thường gặp khó khăn khi phải đánh giá và sắp xếp các kế hoạch theo
thứ tự ưu tiên. Các kế hoạch có thể lạc hậu do các điều kiện hoạt động của đơn
vị thay đổi. Phương pháp này thích hợp để lập kế hoạch thu cho các dự án,
chương trình mà trước đó chưa được thực hiện ở đơn vị.
20
+ Xác định mức thu
Giá dịch vụ đóng hai vai trò quan trọng: thứ nhất, nó ảnh hưởng đến tổng
số sản phẩm/dịch vụ khách hàng sẽ mua; thứ hai, nó trả lời cho câu hỏi “Liệu
rằng việc cung cấp dịch vụ có thể mang lại lợi nhuận cho tổ chức hay không?”.
Như vậy chiến lược giá cả là quan trọng đối với các ĐVSNCL bởi vì đơn vị
dựa vào thu nhập để hoạt động, đặc biệt trong hoàn cảnh Nhà nước giảm hỗ trợ
ngân sách cho các ĐVSNCL.
Đối với các hoạt động dịch vụ, NCKH và các dịch vụ khác đơn vị được
tự quyết định khoản thu, mức thu theo nguyên tắc lấy thu bù chi và có tích lũy.
Để xác định đúng đắn mức thu cho các hoạt động dịch vụ đơn vị cần xác định
đầy đủ chi phí cho các hoạt động này. Việc xác định mức thu còn tùy thuộc vào
quan điểm của mỗi nhà quản lý. Nhiều nhà quản lý cho rằng mức thu hoạt động
dịch vụ phải bù đắp được tất cả các chi phí và tạo ra mức lợi nhuận mục tiêu
Mức thu để đạt
(Công thức 1.2)
=
lãi mong muốn
Định phí + Lãi mong muốn Tỷ lệ lãi sau biến phí x Sản lượng tiêu thụ
cho đơn vị (Công thức 1.2).
Việc xác định mức thu như trên có thể làm mất ý nghĩa việc phân biệt
định phí, biến phí, phân biệt chi phí chìm. Do định phí là chi phí chìm nên có
thể cho rằng mức thu chỉ cần bù đắp được biến phí và tạo ra lợi nhuận mục tiêu
(Công thức 1.3)
=
Mức thu để đạt lãi mong muốn
Lãi mong muốn Tỷ lệ lãi sau biến phí x Sản lượng tiêu thụ
(Công thức 1.3).
Việc xác định mức thu ở công thức 1.3 này dựa trên cơ sở khuyến khích
nhà quản lý đưa ra mức thu thấp nhằm tăng sản lượng tiêu thụ song mức thu
quá gần so với biến phí sẽ làm cho đơn vị không bù đắp được định phí.
21
* Tổ chức thực hiện, khai thác các khoản thu
+ Đối với khoản thu từ NSNN cấp:
Tình trạng phổ biến ở tất cả các nước là nguồn NSNN cấp mặc dù chiếm
tỷ trọng lớn, song đang có xu hướng giảm một cách tương đối trong những năm
gần đây. Đối với việc quản lý khoản thu này, các ĐVSNCL phải quản lý theo
đúng chu trình quản lý NSNN từ khâu lập dự toán, chấp hành và quyết toán.
Hàng năm hoặc theo định kỳ, các ĐVSNCL phải lập dự toán chi được đảm bảo
bằng nguồn ngân sách và dự toán này phải được cơ quan thẩm quyền chấp nhận.
Trong quá trình chấp hành ngân sách, các ĐVSNCL phải giao dịch với KBNN
thông qua kiểm soát chi của KBNN và phải đáp ứng các điều kiện kiểm soát
chi. Định kỳ theo chế độ, các ĐVSNCL phải thực hiện quyết toán kinh phí đã
sử dụng để làm cơ sở cho cơ quan tài chính tổng hợp quyết toán từ ngân sách.
+ Đối với các khoản thu từ hoạt động dịch vụ phù hợp với lĩnh vực
chuyên môn và khả năng của đơn vị và các khoản thu khác:
Các ĐVSNCL cần nghiên cứu tìm kiếm, khai thác và phát triển các hoạt
động sự nghiệp nhằm gia tăng nguồn thu cho đơn vị thông qua các hoạt động
hợp pháp như: tiếp cận các nguồn viện trợ, tài trợ trong và ngoài nước, đẩy
mạnh các hoạt động hợp tác để tạo nguồn thu từ sự đóng góp trên cơ sở nâng
cao chất lượng dịch vụ, thực hiện cơ chế giá dịch vụ, tăng cường liên kết, thúc
đẩy hợp tác công tư và đẩy mạnh hợp tác quốc tế với các đối tác có cùng lĩnh
vực hoạt động. Các khoản thu từ hoạt động dịch vụ phù hợp với lĩnh vực chuyên
môn và khả năng của đơn vị, liên doanh liên kết, khai thác cơ sở vật chất và các
khoản thu khác đơn vị phải dựa vào hợp đồng, mức thu quy định để thu, nộp
đầy đủ vào đơn vị.
* Kiểm tra kiểm soát, đánh giá các khoản thu
Công tác kiểm tra kiểm soát, đánh giá các khoản thu trong ĐVSNCL là
một hoạt động rất quan trọng, không thể thiếu được bởi lẽ kiểm tra kiểm soát,
22
đánh giá có tác dụng tăng cường quản lý các khoản thu, thúc đẩy việc tăng thu,
tránh thất thu trong đơn vị. Kiểm tra kiểm soát, đánh giá các khoản thu là tổng
thể các hình thức, phương pháp, công cụ được sử dụng trong quá trình kiểm tra,
kiểm soát các khoản thu của ĐVSNCL. Kiểm tra kiểm soát, đánh giá các khoản
thu trong các ĐVSNCL chủ yếu liên quan đến hệ thống KSNB, công tác kế
toán quản trị, báo cáo kế toán quản trị, kiểm toán nội bộ.
Để tiến hành kiểm soát các khoản thu trong đơn vị, các ĐVSNCL cần
xây dựng hệ thống các hoạt động kiểm soát phù hợp và có hiệu lực. Hoạt động
kiểm soát là những chính sách và những thủ tục đối phó rủi ro và đảm bảo đạt
được mục tiêu, nhiệm vụ của đơn vị. Để đạt được hiệu quả, hoạt động kiểm
soát phải phù hợp, nhất quán giữa các thời kỳ, dễ hiểu, đáng tin cậy và liên hệ
trực tiếp đến mục tiêu kiểm soát. Hoạt động kiểm soát có mặt xuyên suốt trong
tổ chức, ở các mức độ và các chức năng. Hoạt động kiểm soát bao gồm kiểm
soát phòng ngừa và phát hiện rủi ro. Cân bằng giữa thủ tục kiểm soát phát hiện
và phòng ngừa là phối hợp các hoạt động kiểm soát để hạn chế, bổ sung lẫn
nhau giữa các thủ tục kiểm soát.
Thông qua kiểm toán nội bộ giúp phát hiện và cải tiến những điểm yếu
trong hệ thống quản lý của đơn vị, đồng thời lãnh đạo nhà trường có thể kiểm
soát nguồn thu tốt hơn, quản lý rủi ro tốt hơn, ngăn chặn và xử lý gian lận, sai
sót trong hoạt động thu, góp phần nâng cao hiệu quả công tác thu của đơn vị.
1.2.4.2. Quản lý chi tại các đơn vị sự nghiệp công lập
Chi phí là sự tiêu hao các nguồn lực đơn vị sử dụng để cung cấp các dịch
vụ, sản phẩm hay đạt được mục đích nào đó. Chi phí được xác định bằng một
lượng tiền chi ra, một mức giảm sút giá trị tài sản, một khoản nợ dịch vụ, thuế…
Tuy nhiên, dưới góc độ các đơn vị công, các khoản chi thường gắn liền với
từng hoạt động, chương trình cụ thể phụ thuộc vào tính chất, chức năng hoặc
23
mục đích nào đó - còn gọi là các khoản chi hoạt động tại các đơn vị công. Hay
nói cách khác, hiện nay các ĐVSNCL mới chỉ coi trọng chi mà chưa coi trọng
chi phí.
Theo cơ sở kế toán tiền mặt, các khoản chi hoạt động được xác định theo
các khoản tiền chi ra để sử dụng cho các hoạt động của đơn vị nhằm đạt được
mục tiêu xác định. Tuy nhiên, trên cơ sở kế toán dồn tích, các khoản chi hoạt
động có thể được xem xét theo tính chất như chi tiền lương, tiền công; chi khấu
hao; chi mua vật tư… Nếu xét theo chức năng hoạt động thì các khoản chi hoạt
động bao gồm chi thường xuyên và chi không thường xuyên gắn với một kỳ
hoạt động xác định. Có thể nói rằng, nếu dựa trên nguyên tắc kế toán trên cơ sở
kế toán tiền mặt thì các khoản chi hoạt động tại các trường ĐHCL có sự khác
biệt nhất định với chi phí do sự không phù hợp giữa thời gian phát sinh chi hoạt
động và thời gian phát huy tác dụng của chi phí đó đối với mục tiêu của đơn vị.
Khoản chi phí phát sinh ở kỳ này nhưng có thể được phân bổ vào chi phí kỳ
sau, khoản chi phí trích trước vào chi phí ở kỳ này nhưng thực chi ở kỳ sau.
Với xu hướng phát triển khoa học kế toán, trong tương lai kế toán công được
xây dựng và vận hành theo nguyên tắc cơ sở kế toán dồn tích thì chi hoạt động
tại các ĐVSNCL được xem là các khoản chi phí theo đúng bản chất kinh tế của
nó.
Hệ thống quản lý chi phí có thể được định nghĩa là bao gồm một hệ thống
các phương pháp được phát triển để lập kế hoạch và kiểm soát các hoạt động
phát sinh, chi phí của tổ chức liên quan đến những mục tiêu ngắn hạn và các
chiến lược dài hạn. Quản lý chi trong các trường ĐHCL bao hàm việc lập kế
hoạch chi, tổ chức xác định chi phí, kiểm tra kiểm soát, đánh giá các khoản chi
của đơn vị.
* Lập kế hoạch chi
24
+ Phương pháp lập kế hoạch chi
Tương tự như lập kế hoạch thu, khi lập kế hoạch chi người ta thường sử
dụng 2 phương pháp là phương pháp dựa vào quá khứ (còn gọi là phương pháp
gia tăng - Incremental Budgeting Method - IB) và phương pháp không dựa vào
quá khứ (hay phương pháp dựa trên số 0 - Zero Basic Budgeting Method -
ZBB).
+ Xây dựng định mức chi
Định mức là công cụ để kiểm soát hoạt động của nhà quản lý, là cơ sở
để lập dự toán chi, là cơ sở để xác định đơn giá sản phẩm, dịch vụ và là cơ sở
để phân tích biến động chi phí. Thông thường các định mức được xây dựng
gồm định mức về thời gian, hiện vật và giá trị. Trong quá trình xây dựng định
mức chi có hai loại là định mức lý tưởng và định mức thực tế. Định mức lý
tưởng thường được xây dựng trong điều kiện hoàn hảo nhất của hoạt động.
Định mức thực tế được xây dựng trong điều kiện thực tế của hoạt động có tính
hết các yếu tố thực tiễn tác động.
Quá trình tổ chức xây dựng định mức chi trong một đơn vị là một công
việc đòi hỏi rất cao về trình độ chuyên môn và tính trách nhiệm đối với người
xây dựng định mức. Khi tổ chức xây dựng định mức cần phải xem xét toàn bộ
kết quả đã thực hiện một cách nghiêm túc và kết hợp với những thay đổi về
điều kiện kinh tế, về đặc điểm giữa cung cầu, về đặc tính kỹ thuật để điều chỉnh
và bổ sung cho phù hợp với điều kiện thực tế. Thực tế cho thấy trách nhiệm
xây dựng các định mức không chỉ thuộc về chuyên viên kế toán quản trị mà cả
những kỹ thuật viên, nhà quản lý có hiểu biết về hoạt động của đơn vị để cung
cấp thông tin cần thiết về kỹ thuật, giá cả, các chi phí khác… Để tổ chức xây
dựng được định mức có thể sử dụng các phương pháp như: phương pháp kỹ
thuật; phương pháp phân tích số liệu lịch sử; phương pháp điều chỉnh; phương
25
pháp phân tích nhiệm vụ.
Thông thường các đơn vị xây dựng một bộ định mức cho tất cả các hoạt
động của đơn vị. Đối với các ĐVSNCL, các định mức được quy chế hóa trong
quy chế chi tiêu nội bộ. Quy chế chi tiêu nội bộ bao gồm các quy định về chế
độ, tiêu chuẩn, định mức chi áp dụng thống nhất trong đơn vị để thực hiện
nhiệm vụ chi thường xuyên phù hợp với hoạt động đặc thù của đơn vị nhằm sử
dụng kinh phí có hiệu quả và tăng cường công tác quản lý. Các ĐVSNCL đã
sử dụng quy chế chi tiêu nội bộ để kiểm soát các hoạt động của đơn vị theo
đúng yêu cầu của đơn vị sự nghiệp có thu công lập.
* Tổ chức xác định chi phí
Để đảm bảo công tác quản lý đạt được hiệu quả trong đơn vị, các phương
pháp xác định chi phí cho các đối tượng chịu phí ngày càng được hoàn thiện
hơn. Tùy theo đặc điểm của hoạt động mà ĐVSNCL vận dụng phương pháp
xác định chi phí phù hợp, từ đó xác định giá thành sản phẩm, dịch vụ hoàn
thành và có thể thực hiện theo một trong các phương pháp sau:
+ Phương pháp xác định chi phí theo công việc
Theo phương pháp này, chi phí được theo dõi, hạch toán trực tiếp cho
từng công việc. Kế toán thu thập thông tin ban đầu ghi sổ sách kế toán để tập
hợp chi theo từng công việc. Các khoản chi trực tiếp sẽ được ghi nhận thẳng
cho từng công việc, các khoản chi gián tiếp được phân bổ theo một cách thức
hợp lý và có hệ thống. Tỷ lệ phân bổ chi phí gián tiếp có thể là theo tỷ lệ phân
bổ chi phí trực tiếp thực tế hoặc theo tỷ lệ phân bổ chi phí trực tiếp dự toán.
Phương pháp này thường được áp dụng đối với các đơn vị cung cấp các dịch
vụ thực hiện theo đơn đặt hàng.
+ Phương pháp xác định chi phí theo quá trình
Để xác định chi phí kế toán tiến hành tập hợp, xác định chi phí theo quá
trình, các khoản chi được tập hợp theo địa điểm phát sinh chi phí như các đơn
26
vị: Viện, TT, các khoa, các phòng. Hệ thống chi phí theo quá trình thích hợp
trong trường hợp các đơn vị mà sản phẩm của nó có tính đồng nhất cao, không
có sự khác biệt nhiều giữa các đơn hàng, các lần sản xuất. Trong các ĐVSNCL
có thể áp dụng tính chi phí là chi phí cho 1 sinh viên theo từng chuyên ngành,
chi phí cho 1 khóa học, chi phí cho 1 đơn vị học trình hoặc theo tín chỉ. Các chi
phí của các phòng ban phục vụ phân bổ trực tiếp. Trường hợp các khoa chuyên
ngành có giảng dạy cho các khoa chuyên ngành khác thì cần tính toán phần
khối lượng phục vụ phân bổ lẫn nhau. Trường hợp các đối tượng đào tạo đa
dạng thì có thể sử dụng, quy đổi toàn bộ các sinh viên hệ đào tạo chính quy tập
trung, ngắn hạn, từ xa, vừa làm vừa học về một loại “sinh viên chính quy tương
đương”.
+ Phương pháp xác định chi phí theo hoạt động
Phương pháp xác định chi phí truyền thống như chi phí theo công việc,
chi phí theo quá trình thường chỉ xác định được chi phí cho các đối tượng tính
phí là các công việc, các sản phẩm. Tuy nhiên, việc xác định chi phí cho các
đối tượng tính chi phí có thể thiếu chính xác do việc phân bổ các chi phí gián
tiếp không hợp lý. Để khắc phục những hạn chế đó, các nhà kinh tế nghiên cứu
và ứng dụng phương pháp xác định chi phí mới, thực chất là phương pháp phân
bổ chi phí sản xuất chung mới - phương pháp tính toán chi phí theo hoạt động
(Activity Based Costing - ABC). Phương pháp ABC gắn liền với một triết lý
mới trong quản lý là quản lý dựa trên hoạt động (Activity Based Management
- ABM). Quản lý dựa trên hoạt động là một trong những phương pháp quan
trọng nhất để dành chiến thắng trong cạnh tranh. Theo phương pháp ABC, các
chi phí được tập hợp theo từng hoạt động rồi phân bổ cho các sản phẩm, dịch
vụ, đơn đặt hàng theo mối quan hệ giữa các hoạt động với việc tạo ra sản phẩm,
dịch vụ theo các yếu tố dẫn dắt chi phí. Hơn nữa, thông qua việc xác định chi
phí cho đối tượng hoạt động sẽ giúp nhà quản lý trong các ĐVSNCL thực hiện
27
quản lý chi phí theo từng hoạt động.
* Kiểm tra kiểm soát, đánh giá các khoản chi
Kiểm tra kiểm soát, đánh giá các khoản chi là tổng thể các hình thức,
phương pháp, công cụ được sử dụng trong quá trình kiểm tra, kiểm soát các
khoản chi của ĐVSNCL. Kiểm tra kiểm soát, đánh giá các khoản chi trong các
trường ĐHCL chủ yếu liên quan đến thiết kế các TT trách nhiệm, thiết lập hệ
thống KSNB, xây dựng hệ thống báo cáo kế toán quản trị, kiểm toán nội bộ.
+ Thiết kế các trung tâm trách nhiệm trong các ĐVSNCL để kiểm soát
chi phí và đánh giá kết quả hoạt động
Các TT trách nhiệm được hình thành dựa trên đặc điểm cơ cấu tổ chức
quản lý và mục tiêu của nhà quản lý. Mỗi TT sẽ xác định quyền và trách nhiệm
đối với từng đối tượng cụ thể của từng cấp. Cơ sở để xác định một bộ phận là
TT gì căn cứ trên nguồn lực, trách nhiệm, quyền hạn mà nhà quản lý đó được
giao. Có 4 TT trách nhiệm: TT chi phí, TT doanh thu, TT lợi nhuận và TT đầu
tư.
TT chi phí là TT trách nhiệm trong đó nhà quản lý kiểm soát chi phí
nhưng không kiểm soát mức thu nhập hoặc vốn đầu tư. Các tổ chức đánh giá
việc thực hiện công việc của các nhà quản lý tại TT chi phí bằng cách so sánh
các chi phí thực tế của TT với các mức dự toán hoặc tiêu chuẩn đối với tổng
giá trị và loại công việc được thực hiện. Vì vậy, báo cáo hoạt động của các TT
chi phí sẽ thể hiện chi phí thực tế phát sinh, chi phí dự toán và mức chênh lệch
giữa thực tế và dự toán.
TT thu nhập là TT trách nhiệm mà nhà quản lý kiểm soát thu nhập chứ
không kiểm soát việc chế tạo hoặc chi phí để có được sản phẩm hoặc dịch vụ
mà TT bán hoặc mức đầu tư được thực hiện tại TT.
TT lợi nhuận là TT trách nhiệm trong đó các nhà quản lý kiểm soát cả
thu nhập và chi phí của các sản phẩm hoặc dịch vụ mà họ cung cấp. Để đánh
28
giá hoạt động của các TT lợi nhuận chúng ta lập các báo cáo kết quả hoạt động
của từng TT (báo cáo bộ phận). Lợi nhuận bộ phận (số dư bộ phận) là chỉ tiêu
quan trọng để đánh giá hiệu quả hoạt động của các TT lợi nhuận.
TT đầu tư là TT trách nhiệm trong đó các nhà quản lý kiểm soát cả thu
nhập, chi phí và nguồn lực đầu tư vào TT. Các nhà quản lý TT đầu tư được
đánh giá trên cơ sở hiệu quả sử dụng vốn đầu tư vào TT, thông qua các chỉ tiêu
tỷ suất sinh lời của vốn đầu tư (ROI) và lợi nhuận thặng dư (RI).
+ Thiết lập hệ thống kiểm soát nội bộ, kiểm toán nội bộ
Tương tự như kiểm soát các khoản thu, để kiểm soát các khoản chi, các
ĐVSNCL cũng cần phải xây dựng hệ thống các hoạt động kiểm soát chi phí
phù hợp và có hiệu lực. Các hoạt động kiểm soát chi phí trong các ĐVSNCL
cũng phải tuân thủ theo các nguyên tắc phân công, phân nhiệm (tức là các công
việc liên quan đến quá trình chi được phân công cho tất cả mọi người, tránh
việc một số người phải làm việc quá nhiều trong khi đó một số người khác lại
không có việc làm), nguyên tắc bất kiêm nhiệm (tức là công việc phải được
phân định cho từng người riêng biệt, ví dụ bất kiêm nhiệm trong việc người đi
mua sắm, chi tiêu với kế toán, ban lãnh đạo nhà trường với người thực hiện các
khoản chi, người điều hành với người có trách nhiệm ghi sổ), nguyên tắc phê
chuẩn, ủy quyền (tức là các nghiệp vụ chi phải được phê chuẩn đúng đắn).
Chức năng của kiểm toán nội bộ trong các ĐVSNCL là giám sát, kiểm
tra và đánh giá một cách thường xuyên về toàn bộ hoạt động của đơn vị, trong
đó có cả hệ thống KSNB. Bộ phận kiểm toán nội bộ hoạt động có hiệu quả sẽ
giúp cho đơn vị kiểm soát được chặt chẽ các khoản chi, giúp cho việc thực hiện
chi được đúng đắn, đầy đủ, tiết kiệm, hiệu quả. Tuy nhiên, bộ phận kiểm toán
nội bộ chỉ có thể phát huy tác dụng tốt nếu nó được tổ chức và đảm bảo sự độc
lập so với tất cả các bộ phận khác trong đơn vị, được giao quyền hạn đầy đủ
theo chức năng và thực hiện báo cáo trực tiếp cho cấp có quyền hạn cao nhất
29
trong đơn vị.
+ Hệ thống báo cáo kế toán quản trị chi phí
Báo cáo kế toán quản trị là kết quả cuối cùng của quy trình kế toán quản
trị. Báo cáo kế toán quản trị chi phí là sự chi tiết hóa thông tin thu nhận về chi
phí theo các chỉ tiêu phù hợp với nhu cầu về thông tin của nhà quản lý trong
quá trình quản lý. Do vậy, nội dung và kết cấu của báo cáo kế toán quản trị chi
phí cần phải đảm bảo đầy đủ các chỉ tiêu mà nhà quản lý yêu cầu để phân tích,
đánh giá và theo dõi tình hình chi tiêu.
Do sự khác nhau về đặc điểm ngành nghề, quy mô tổ chức, trình độ, nhận
thức của nhà quản lý cũng như nhân viên thực hiện công việc kế toán quản trị
cho nên hệ thống báo cáo kế toán quản trị chi phí cũng có sự khác nhau giữa
các tổ chức. Ngoài ra, sự thay đổi trong quá trình quản lý dẫn đến nhu cầu về
thông tin quản lý cũng luôn thay đổi, do vậy nội dung và yêu cầu về thông tin
kế toán quản trị cũng thay đổi liên tục theo nhu cầu về thông tin quản lý trong
từng thời kỳ.
Dựa trên chức năng của báo cáo kế toán quản trị, hệ thống báo cáo kế
toán quản trị chi phí bao gồm các báo cáo như: Báo cáo đánh giá tình hình thực
hiện tiêu chuẩn kiểm soát, Báo cáo mang tính định lượng hoạt động. Nếu dựa
theo phạm vi lập báo cáo, báo cáo kế toán quản trị gồm có báo cáo bộ phận và
báo cáo tổng hợp. Nếu lập báo cáo kế toán quản trị theo kỳ lập báo cáo, báo
cáo kế toán quản trị gồm có báo cáo định kỳ và báo cáo đột xuất theo yêu cầu
của nhà quản lý.
1.2.4.3. Quản lý tài sản tại các đơn vị sự nghiệp công lập
Tài sản tại các ĐVSNCL là một bộ phận tài sản nhà nước mà Nhà nước
giao cho các ĐVSNCL trực tiếp quản lý và sử dụng để thực hiện các mục tiêu
30
sự nghiệp phục vụ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước bao gồm:
+ Khuôn viên đất là tổng diện tích đất ĐVSNCL trực tiếp quản lý, sử
dụng được Nhà nước giao, nhận chuyển nhượng hoặc do tiếp quản từ chế độ cũ
được xác lập sở hữu nhà nước theo quy định của pháp luật;
+ Nhà cửa, vật kiến trúc và công trình xây dựng khác gắn liền với đất
thuộc khuôn viên trụ sở làm việc: nhà làm việc, giảng đường, nhà hội trường,
nhà câu lạc bộ, nhà văn hoá, nhà tập và thi đấu thể thao, nhà xưởng, KTX, bệnh
viện, trạm xá, nhà khách, nhà công vụ…
+ Phương tiện đi lại: Xe ô tô, xe máy…
+ Máy móc, thiết bị: Máy vi tính, máy in, máy photocopy, máy chiếu,
máy huỷ tài liệu, máy đun nước, thiết bị lọc nước, máy hút ẩm, máy hút bụi,
máy điều hoà không khí, tủ lạnh, tủ đá, máy giặt, thiết bị nghe nhìn, thiết bị lưu
trữ thông tin dữ liệu, thiết bị phòng cháy chữa cháy, bộ bàn ghế, tủ, két sắt, máy
móc thiết bị đo lường phân tích, máy móc thiết bị thí nghiệm...
* Quản lý quá trình hình thành tài sản
Khi ĐVSNCL được thành lập, đơn vị được cấp một số tài sản gồm trụ
sở làm việc, phương tiện đi lại và các tài sản khác… Bên cạnh tài sản được cấp,
ĐVSNCL được đầu tư xây dựng mới, mua sắm tài sản từ nguồn NSNN hoặc
các nguồn khác được phép sử dụng theo quy định của pháp luật. Quá trình này
gồm hai giai đoạn: quyết định chủ trương và thực hiện đầu tư mua sắm tài sản.
Việc quyết định chủ trương đầu tư mua sắm tài sản phải căn cứ vào định mức,
tiêu chuẩn sử dụng tài sản, chế độ quản lý tài sản, nắm vững khả năng và nhu
cầu đầu tư, xây dựng, mua sắm tài sản của đơn vị; xác định nhu cầu vốn cho
đầu tư mua sắm tài sản được ghi vào dự toán NSNN hàng năm. Sau khi có chủ
trương đầu tư, mua sắm tài sản, việc thực hiện đầu tư, mua sắm tài sản phải
được thực hiện theo quy định về quản lý đầu tư XDCB và quy định về mua sắm
31
tài sản do cơ quan Nhà nước quy định.
Mua sắm tài sản là khâu có vị trí then chốt để bảo đảm hiệu quả trong sử
dụng, quản lý. Mua sắm tài sản quyết định sự phù hợp hay không phù hợp về
tài sản phục vụ cho hoạt động của ĐVSNCL; quyết định việc tài sản được sử
dụng lâu dài hay không lâu dài tùy thuộc vào chất lượng của tài sản mua sắm;
quyết định chi phí về tài sản trong tổng chi của đơn vị. Do đó, việc mua sắm tài
sản phải đáp ứng được các yêu cầu: phù hợp tiêu chuẩn, định mức sử dụng tài
sản và chế độ quản lý, sử dụng tài sản, đáp ứng một cách tối ưu nhu cầu về tài
sản để phục vụ cho hoạt động của ĐVSNCL trong điều kiện khả năng ngân
sách có hạn, tuân thủ các quy định của pháp luật về đấu thầu mua sắm tài sản,
bảo đảm công khai, minh bạch.
* Quản lý quá trình sử dụng tài sản
Đây là quá trình quyết định tính hiệu quả của tài sản, chứng minh cho
những luận chứng kỹ thuật được đưa ra ở giai đoạn hình thành tài sản. Quá trình
này hết sức phức tạp, bởi vì thời gian khai thác, sử dụng tùy thuộc đặc điểm
tính chất, độ bền của mỗi loại tài sản, thậm chí còn phụ thuộc vào trình độ vận
hành, sử dụng của từng con người cụ thể. Thời gian của quá trình sử dụng tài
sản được tính từ ngày bàn giao, tiếp nhận về đơn vị đến khi không còn sử dụng
được phải thanh lý, nhượng bán. Có thể khái quát những nội dung chủ yếu của
quá trình này như sau:
- Lập hồ sơ, quản lý tài sản;
- Xây dựng quy chế quản lý tài sản;
- Tính hao mòn và trích khấu hao TSCĐ;
- Công tác bảo dưỡng, sửa chữa tài sản;
- Công tác kiểm kê tài sản;
Tài sản của ĐVSNCL không tạo ra lợi nhuận trực tiếp, vì vậy việc đánh
giá hiệu quả khai thác tài sản chính là mức độ hoàn thành công việc và định
32
mức sử dụng hợp lý trong công việc. Mỗi tài sản có đặc điểm khác nhau nên
công tác đánh giá hiệu quả là rất khó. Chính vì vậy đối với tài sản ĐVSNCL
thực hiện quản lý việc sử dụng phải theo công năng, mục đích nhất định. Những
tài sản cần thiết và có điều kiện quản lý theo tiêu chuẩn, định mức sử dụng thì
phải xây dựng tiêu chuẩn, định mức sử dụng và phải thực hiện quản lý theo tiêu
chuẩn, định mức sử dụng; đồng thời, tất cả các tài sản phải có chế độ quản lý
sử dụng; trong đó, chú ý đến việc đăng ký sử dụng tài sản, xây dựng quy chế
quản lý từng loại tài sản. Đặt ra định mức sử dụng là nghiệp vụ hết sức khoa
học và phức tạp quyết định hiệu quả cho quản lý, khai thác. Định mức cũng là
một trong những cơ sở khởi nguồn cho công tác xây mới, mua sắm hay thuê
mua. Đối với DN do lợi nhuận, chi phí chi phối còn ĐVSNCL do công việc
nên định mức cần được xây dựng cho từng nội dung công việc, hoạt động và
cả kinh phí khoán nếu có. Đây cũng là một vấn đề mà rất ít nước đặt ra được
một phương pháp lượng hóa khoa học cho quản lý.
* Quản lý quá trình kết thúc sử dụng tài sản
Sau quá trình khai thác sử dụng tại ĐVSNCL, xét thấy tài sản không cần
thiết hay không thể phục vụ cho công việc, ĐVSNCL sẽ tiến hành thủ tục kết
thúc quá trình sử dụng. Nhìn chung, việc kết thúc sử dụng tài sản của DN, cá
nhân dễ dàng và nhanh gọn tùy thuộc tính chất của tài sản, nhưng đối với tài
sản của Nhà nước công việc phải tuân thủ những quy trình và thủ tục cần thiết,
vì quyền lợi đem lại cho Nhà nước, nhưng cá nhân hay tổ chức đứng ra thực
hiện là viên chức không gắn quyền lợi thụ hưởng trực tiếp hay sở hữu trực tiếp
nhưng lại gắn trách nhiệm viên chức trong công tác xử lý kết thúc quá trình sử
dụng tài sản công.
Tài sản công, trừ một số tài sản có thời gian sử dụng vĩnh viễn hoặc có
thời gian sử dụng dài hàng trăm năm trở lên, số còn lại đều là tài sản có thời
hạn sử dụng nhất định. Tuy nhiên, có tài sản kết thúc sử dụng trên phương diện
33
tài sản công nhưng nó vẫn còn giá trị sử dụng, vẫn được xã hội cần sử dụng, ví
dụ như: nhà cửa, phương tiện vận tải và một số loại máy móc, trang thiết bị làm
việc, phục vụ NCKH; có tài sản còn có giá trị thu hồi… Do đó, một tài sản công
khi kết thúc quá trình sử dụng phải được quản lý chặt chẽ để tránh lãng phí, thất
thoát tài sản. Khi kết thúc sử dụng tài sản phải thực hiện đánh giá hiện trạng tài
sản cả về vật chất và giá trị tài sản; thực hiện kiểm kê, xác định giá trị hiện tại
của tài sản; lập phương án xử lý khác nhau. Vấn đề định giá bán để bán thanh
lý tài sản chính là yếu tố nhạy cảm quyết định hiệu quả của quá trình này. Đối
với bán thanh lý đơn vị thường xây dựng quy chế cụ thể tùy theo pháp luật
chung của từng quốc gia. Đơn vị có thể đưa ra đấu giá công khai hay chỉ định
giá bán. Mức giá bán khởi điểm để đấu giá hay chỉ định giá bán thường dựa
trên thị trường và tham chiếu biểu giá chung nhưng thấp hơn một tỷ lệ phần
trăm nhất định.
1.3. Kinh nghiệm công tác quản lý tài chính tại các trường đại học
công lập khối ngành kinh tế trên thế giới và bài học cho Việt Nam
1.3.1. Kinh nghiệm trên thế giới
* Kinh nghiệm của Mỹ
Nếu như trước năm 2008, giá cả và chi phí cho GDĐH liên tục tăng cao,
khiến cho các trường ĐH phải loay hoay trong việc cân đối thu chi để tránh
tăng học phí thì từ năm 2008, dưới ảnh hưởng của khủng hoảng và suy thoái
kinh tế toàn cầu mà tâm điểm chính là Mỹ, các nguồn thu cho GDĐH lại lâm
vào tình trạng “đã khó càng thêm khó”. Có nhiều phương án đã được các trường
ĐH Mỹ nghiên cứu và áp dụng, cụ thể là:
- Giảm giá thành: Để đạt được mục tiêu đề ra, mỗi hoạt động của nhà
trường đều cần có nguồn kinh phí. Tuy nhiên, nhà trường cần phải tính toán và
cân đối kinh phí cho từng hoạt động, lập kế hoạch phân bổ ngay từ ban đầu sao
cho hợp lý nhất, có thể gắn kết các nguồn lực với mục tiêu chiến lược của
34
trường. Kế hoạch chiến lược chính là chìa khóa để giúp cho hoạt động phân bổ
ngân sách của trường đạt hiệu quả. Bên cạnh đó các trường cũng có thể giảm
giá thành bằng cách sử dụng có hiệu quả hơn các trang thiết bị, phương tiện kỹ
thuật, năng lực của đội ngũ giảng viên. Một lớp học trực tuyến hoàn toàn có thể
giải quyết được tình trạng thiếu hụt về cơ sở vật chất, giảng đường, phòng học
cho các trường ĐH, khiến cho trường có thể sử dụng các trang thiết bị, phương
tiện sẵn có với hiệu suất cao nhất.
- Đa dạng hóa nguồn thu: Ở Mỹ, việc đào tạo nguồn nhân lực có trình độ
cao được các công ty Mỹ rất chú trọng. Mỗi năm, các công ty Mỹ đóng góp
trên 150 tỷ USD cho GDĐH. Các trường ĐHCL Mỹ chịu tác động sâu sắc của
thị trường và có mối quan hệ đa dạng với thị trường thông qua các DN. Họ
nhận được sự đầu tư dồi dào của các DN thông qua cạnh tranh các hợp đồng
nghiên cứu khoa học, dịch vụ tư vấn, đào tạo nhân lực chất lượng cao. Bên cạnh
đó, họ cũng quản lý nhiều dịch vụ bổ sung tạo ra một nguồn thu đáng kể, chẳng
hạn như ký túc xá sinh viên, căng tin, nhà sách và các hoạt động khác liên quan
đến đời sống sinh viên. Một số trường ĐH Mỹ làm chủ hoặc điều hành cả những
bệnh viện tạo ra một nguồn thu đáng kể. Một nguồn thu khác là từ những dự án
hợp tác nghiên cứu do nhà trường tổ chức thực hiện. Ở Mỹ, dựa vào nguồn thu
ngoài NSNN là một xu hướng ngày càng phát triển trong những thập kỷ gần
đây, vì các trường đang tìm cách làm giảm sự phụ thuộc vào NSNN và học phí
trong việc duy trì, mở rộng tầm hoạt động của mình. Ngoài ra đối với những
trường ĐH có hoạt động KHCN thì một nguồn thu tiềm năng có thể đến từ tiền
bán các bản quyền và sở hữu trí tuệ. Tuy nhiên, thủ tục pháp lý còn chưa rõ
ràng trong phân chia bản quyền và quyền tác giả giữa các cá nhân với bản thân
trường ĐH. Các trường ĐH Mỹ đều quy định rõ ràng thu nhập từ khám phá và
phát minh được chia sẻ cho giảng viên và đơn vị nhằm khuyến khích nghiên
cứu khoa học. Nước Mỹ là điển hình về huy động quà tặng, từ thiện nhằm cung
35
cấp nguồn tài chính tăng thêm cho GDĐH. Trong khi những nghiên cứu công
nghiệp được tài trợ của Mỹ năm 1985 đạt trên 500 triệu USD thì các nhà từ
thiện đã tặng cho các trường ĐH Mỹ số tiền gấp 10 lần số tiền trên. Qùa tặng,
từ thiện cho GDĐH ở Mỹ đã có lịch sử lâu đời và trong những năm gần đây
tiếp tục tăng lên vững chắc vì các lý do sau: hoạt động từ thiện tự nguyện đã có
truyền thống lâu dài trong giáo dục đại học Mỹ, từ thời còn là thuộc địa, một
số trường ĐH lớn, chẳng hạn như Stanford đã được thành lập bởi một sang lập
viên độc thân; thông qua các hội cựu sinh viên và tổ chức các hoạt động thể
thao góp phần tạo mối quan hệ gần gũi về tình cảm giữa các cựu sinh viên và
trường ĐHCL, chính hoạt động thể thao tạo cơ hội cho các cựu sinh viên đến
thăm trường cũ của họ và củng cố sự ủng hộ của họ đối với nhà trường; các quỹ
từ thiện gây quỹ dễ dàng hơn và mỗi năm đóng góp từ 25% - 30% chi tiêu của
họ cho GDĐH; nhiều trường ĐHCL có bộ phận gây quỹ chuyên nghiệp hoạt
động rất tốt.
- Xác định mức thu học phí phù hợp: Học phí các trường ĐHCL của Mỹ
đang áp dụng rất khác nhau và phụ thuộc vào đặc điểm của mỗi trường, phụ
thuộc vào giai đoạn học, loại học và chi phí của chương trình học cũng như tình
trạng cư trú của sinh viên. Ở nhiều trường ĐHCL, học phí cho hai năm đầu của
bậc ĐH thấp hơn học phí áp dụng cho hai năm cuối. Học phí ĐH thấp hơn học
phí sau ĐH. Học phí các ngành kỹ thuật, y, nha khoa, kiến trúc thường cao hơn
các ngành khác. Các học sinh không cư trú tại bang cung cấp kinh phí cho các
trường thường phải trả học phí cao hơn các học sinh cư trú tại chính bang đó.
- Áp dụng chuẩn mực kế toán chi phí: Tại nước Mỹ, từ năm 2008, Ủy
ban chuẩn mực kế toán đã đưa ra các chuẩn mực về kế toán chi phí áp dụng cho
các cơ sở đào tạo có nhận một mức tài trợ nhất định từ Chính phủ liên bang.
Các chuẩn mực này nhằm đảm bảo các cơ sở đào tạo đó thực hiện một cách
nhất quán các thủ tục và chính sách về kế toán chi phí đồng thời tuân thủ các
36
quy định liên quan của Chính phủ.
Để tiến hành các hoạt động trên, Hội đồng quản trị trường ĐH phải thông
qua Ban Giám hiệu giải quyết mọi vấn đề. Ở Mỹ, Hội đồng quản trị trường ĐH
có quyền quyết định đồng thời cũng phải chịu trách nhiệm chính về các vấn đề
tài chính, chiến lược, thực hiện sứ mạng của nhà trường, đánh giá hoạt động
của nhà trường và Ban Giám hiệu. Hiệu trưởng hay Viện trưởng sẽ là người đại
diện cho trường, được Hội đồng quản trị ủy quyền trong các hoạt động lãnh đạo
nhà trường, quản lý và xây dựng kế hoạch trong mọi lĩnh vực, trong đó có lĩnh
vực tài chính. Tuy nhiên, những quyết định quan trọng cuối cùng vẫn phải có
sự thông qua của Hội đồng quản trị trường.
* Kinh nghiệm của Singapore
Singapore có hệ thống giáo dục chất lượng cao, có uy tín trong khu vực
và đang vươn lên trở thành trung tâm giáo dục của thế giới. Đối với GDĐH,
Singapore đã thực thi tập đoàn hóa các trường ĐH công vào năm 2006. Đặc
điểm cơ bản của tập đoàn hóa đại học ở Singapore là: (1) Đa dạng hóa nguồn
tài chính, trong đó có việc phát triển mạnh quỹ hiến tặng; (2) Không coi thầy
giáo là công chức; (3) Trả lương cạnh tranh theo mức độ hoàn thiện của công
việc; (4) Tăng quyền tự chủ cho các trường. Đặc biệt, các trường ĐHCL ở
Singapore rất chú trọng đầu tư cho đội ngũ nhân lực quản lý bởi đó là nhân tố
có tính quyết định đến sự phát triển nhanh và bền vững, đặc biệt coi trọng và
phát huy năng lực đầu tàu của “Người lãnh đạo quản lý giáo dục”. Cụ thể là
nếu trường chưa có cán bộ đủ trình độ làm giám đốc, hiệu trưởng một trường
ĐH đạt chuẩn quốc tế thì thuê người có đủ khả năng đảm nhiệm từ các trường
ĐH hàng đầu thế giới. Ví dụ như Trường ĐH Quản lý Singapore (SMU) đã
thuê cả giám đốc và phó giám đốc từ Mỹ và Anh. Đầu tư cao độ cho nhân lực
quản lý GDĐH là một bí quyết thành công trong đổi mới GDĐH của Singapore.
Các trường ĐH của Singapore sẵn sàng thuê các nhà quản lý trong giai đoạn
37
đầu khi chưa đủ trình độ tự mình quản lý. Người được thuê đó phải làm ba việc:
một là quản lý trường đó theo chuẩn quốc tế, hai là chỉ định và đào tạo người
đủ năng lực để tiếp quản công việc này, ba là chuyển giao toàn bộ qui trình
công nghệ quản lý đó cho người được lựa chọn kế nhiệm. Theo lý giải của các
nhà quản lý GDĐH Singapore, phải áp dụng như vậy vì nhập công nghệ giáo
dục - vốn là thứ công nghệ khó chuyển tải nhất bởi vì nó không tường minh
như những công nghệ kỹ thuật thông thường - đòi hỏi có sự chuyển giao trực
tiếp giữa người với người, giữa những người thực hiện, không thể chuyển giao
đơn thuần bằng giấy tờ, bản vẽ, hướng dẫn đơn thuần... Nhưng đầu tư cho
nguồn nhân lực cũng phải có giải pháp hợp lý: có thể thuê cả chủ nhiệm khoa,
chủ nhiệm bộ môn với phương hướng rõ ràng: thỏa thuận rõ sau bao nhiêu năm
thuê thì phải có một chủ nhiệm khoa, chủ nhiệm bộ môn nội địa đạt chuẩn quốc
tế.
Singapore đưa ra hệ thống giáo dục mở, thu hút du học sinh từ khắp nơi
trên thế giới sang sinh sống và học tập tại Singapore. Các trường có chính sách
quảng cáo và tiếp cận, thu hút sinh viên nước ngoài như xây dựng trang web
hết sức đầy đủ về những thông tin cần thiết cho bất cứ du học sinh nào muốn
học tại Singapore, tổ chức các buổi hội thảo, triển lãm du học, trả tiền hoa hồng
cho các trung tâm môi giới du học. Mức hoa hồng giới thiệu phổ biến hiện nay
là 10% học phí năm học đầu tiên của sinh viên đó, có trường trả 20%, có trường
trả đến 50%. Trường càng nổi tiếng thì hoa hồng càng thấp và ngược lại.
* Kinh nghiệm của Vương quốc Anh
Với lịch sử gần 800 năm, phương pháp giáo dục của Vương quốc Anh
đã có ảnh hưởng rất lớn đến hệ thống giáo dục trên toàn thế giới. Các tiêu chuẩn
về chất lượng giáo dục của Anh luôn đứng ở vị trí hàng đầu trên thế giới, đồng
thời, phương pháp giáo dục không chỉ là quá trình thu nhận thông tin một chiều
mà luôn có sự phản hồi, kiểm nghiệm các kiến thức trên cơ sở môi trường học
38
tập được đầu tư rất lớn với đầy đủ trang thiết bị hiện đại; hệ thống giảng viên
luôn được kiểm định, đánh giá chất lượng định kỳ, chi phí đào tạo phản ánh
đầy đủ các chi phí cần thiết để đào tạo một sinh viên theo ngành học với những
tiêu chí chất lượng nhất định. Ở các trường đại học của Anh, chi phí đào tạo là
chỉ tiêu nội bộ của mỗi trường và hầu như không được công khai. Học phí của
các trường được xác định tùy theo trình độ đào tạo: đại học, sau đại học, các
chứng chỉ chuyên ngành, các khóa đào tạo tiếng Anh… Chính sách học phí đối
với bậc học đại học tại các trường được xác định cho 2 nhóm đối tượng sinh
viên: sinh viên người bản xứ và sinh viên đến từ các nước thuộc khối Liên minh
châu Âu; sinh viên quốc tế. Phương thức xác định mức học phí tại các trường
đại học của Vương quốc Anh thường được xây dựng trên cơ sở ngành đào tạo
và đặc thù của khối ngành đào tạo cơ bản. Học phí hầu hết các trường đại học
của Vương quốc Anh được xác định cho từng ngành đào tạo cụ thể. Trong một
trường đại học, các ngành đào tạo khác nhau thường có mức phí không giống
nhau. Bên cạnh việc xác định mức học phí theo từng ngành học, ở một số trường
mức học phí còn được xác định chung cho một khối ngành dựa trên đặc thù của
phương pháp đào tạo với từng khối ngành đó. Thông thường, học phí được xác
định cho ba khối cơ bản: khối ngành học không có phòng thí nghiệm, có phòng
thí nghiệm và khối ngành về khám và điều trị bệnh. Đối với khối ngành trong
quá trình đào tạo cần có phòng thí nghiệm hoặc phòng thực hành song song với
quá trình học lý thuyết như các ngành về: môi trường, khoa học trái đất, kỹ
thuật cơ khí, chế tạo máy, công nghệ thông tin, nghệ thuật… học phí thường
cao hơn so với khối ngành đào tạo không cần phòng thí nghiệm; còn với khối
ngành liên quan đến khám và điều trị bệnh thì ngay trong quá trình đào tạo sinh
viên không những học lý thuyết trên lớp mà còn phải thực hành tại các bệnh
viện, phòng khám, phòng thí nghiệm… do vậy, học phí xây dựng cho khối
ngành này thường cao nhất, chẳng hạn tại ĐH Bristol năm 2016 mức học phí
39
áp dụng cho sinh viên quốc tế theo học khối ngành không có phòng thí nghiệm
là 10.800 GBP/năm; 13.900 GBP/năm đối với ngành học cần có phòng thí
nghiệm và mức 25.100 GBP/năm đối với ngành khám và điều trị bệnh. Cho dù
xác định học phí theo ngành học hay theo đặc thù của phương pháp đào tạo đối
với khối ngành, ở các quốc gia khác nhau cũng như các trường có vị thế khác
nhau thì học phí tại các trường ĐH của Anh không những phản ánh được chi
phí cần thiết để đạt được chất lượng đào tạo chuẩn mực, đáp ứng các tiêu chuẩn
chất lượng nghiệm ngặt của các cơ quan quản lý và kiểm định chất lượng các
trường ĐH mà còn phản ánh cả các chi phí liên quan mà sinh viên được thụ
hưởng trong quá trình học tập cũng như giá trị, uy tín của bằng cấp nhận được.
1.3.2. Bài học kinh nghiệm rút ra cho Việt Nam
Từ việc nghiên cứu kinh nghiệm công tác quản lý tài chính tại các ĐHCL
khối ngành kinh tế trên thế giới, tác giả đề xuất một số bài học kinh nghiệm có
thể vận dụng tại Việt Nam như sau:
Thứ nhất, đa dạng hóa nguồn thu nhằm tăng thu nhập cho các trường
ĐHCL khối ngành kinh tế. Các trường ĐHCL khối ngành kinh tế có thể khai
thác mọi tiềm năng, lợi thế như: thành lập doanh nghiệp trong các trường đại
học; thực hiện việc liên kết đào tạo giữa các trường nhằm tận dụng lợi thế về
cơ sở vật chất, trang thiết bị, phòng thí nghiệm, giáo trình, nghiên cứu khoa
học…; thực hiện việc liên kết giữa trường với doanh nghiệp nhằm cung ứng
nguồn nhân lực có chất lượng cao cho doanh nghiệp; tăng cường thực hiện việc
liên kết đào tạo với các trường quốc tế, khuyến khích việc nghiên cứu đề tài
khoa học cấp Nhà nước, mở rộng và nâng cao dịch vụ tư vấn đào tạo… Bên
cạnh đó, cần tăng cường hoạt động từ thiện: Thông thường hoạt động này huy
động được nguồn thu từ những người giàu, có học vấn cao, những doanh nghiệp
lớn, những cựu sinh viên thành đạt và việc hỗ trợ ưu đãi từ phía nhà nước. Kinh
40
nghiệm các nước trên thế giới cho thấy nguồn thu từ hoạt động từ thiện đóng
vai trò không lớn và nên được sự hỗ trợ của Nhà nước về việc không đánh thuế
từ nguồn thu hoạt động từ thiện.
Thứ hai, lập kế hoạch phân bổ và kiểm soát hiệu quả nguồn lực. Kinh
nghiệm các nước cho thấy việc lập kế hoạch phân bổ tài chính nên chú ý các
hoạt động chính của trường, ví dụ phần kinh phí dành cho hoạt động giảng dạy,
hoạt động thường xuyên nên đóng vai trò cơ bản nhất (chiếm tỷ lệ khoảng 60-
70% tổng kinh phí); Kinh phí dành cho nghiên cứu khoa học khoảng dưới 30%.
Cơ chế phân bổ kinh phí cho hoạt động giảng dạy các trường ĐHCL khối ngành
kinh tế nên áp dụng linh hoạt theo xu hướng đổi mới, có cạnh tranh để tăng
cường hiệu quả, tạo điều kiện để nhà trường chủ động trong các hoạt động và
cơ hội tiếp cận GDĐH cho các đối tượng khác nhau. Kinh phí dành cho nghiên
cứu khoa học nên được phân bổ trên cơ sở có cạnh tranh.
Thứ ba, xác định chi phí đào tạo đại học cần phản ánh đủ mọi chi phí cần
thiết để đào tạo một sinh viên theo ngành học với những tiêu chí chất lượng
nhất định. Khi xác định chi phí đào tạo cần thiết phải xác định đầy đủ không
chỉ nhóm các chi phí thực tế mà còn cả những chi phí cơ hội. Chỉ có thể phản
ánh đầy đủ các loại chi phí này mới có thể cho biết chính xác toàn bộ chi phí
phát sinh trong quá trình đào tạo. Khi tính đầy đủ mọi chi phí trong chi phí đào
tạo đại học mới có thể xác định được giá thành dịch vụ đào tạo.
Thứ tư, xác định mức thu học phí phù hợp. Các trường ĐHCL khối ngành
kinh tế xác định mức thu học phí dựa trên cơ sở ngành, khối ngành đào tạo.
Học phí được xác định cho từng ngành đào tạo cụ thể. Trong một trường ĐHCL
khối ngành kinh tế, các ngành đào tạo khác nhau có mức học phí không giống
nhau. Tuy nhiên, cho dù xác định học phí theo ngành học hay theo đặc thù của
phương pháp đào tạo đối với khối ngành thì học phí không những phản ánh
được chi phí cần thiết để đạt được chất lượng đào tạo chuẩn mực, đáp ứng các
41
tiêu chuẩn chất lượng nghiệm ngặt của các cơ quan quản lý và kiểm định chất
lượng các trường ĐHCL khối ngành kinh tế mà còn phản ánh cả các chi phí
liên quan mà sinh viên được thụ hưởng trong quá trình học tập cũng như giá trị,
uy tín của bằng cấp nhận được.
Thứ năm, các trường ĐHCL khối ngành kinh tế cần đổi mới công tác
quản lý tài chính tại theo hướng quản trị, chuyển sang tư duy quản trị theo kiểu
“ĐH - DN”, phân định rạch ròi giữa những người làm khoa học chuyên môn
và những người làm công tác quản lý. Hiệu trưởng các trường ĐHCL khối
ngành kinh tế không nhất thiết phải là giáo sư hay tiến sĩ, mà phải là những
người quản lý giỏi.
Tiểu kết chương 1
Công tác quản lý tài chính tại các ĐVSNCL là một vấn đề rất mới, khá
phức tạp. Mục tiêu của công tác quản lý tài chính tại các ĐVSNCL là tăng thu,
thu đúng, thu đủ, thu kịp thời; đảm bảo chi đúng, chi đủ, chi hiệu quả, tiết kiệm;
mua sắm, sử dụng tài sản hiệu quả, hợp lý, đúng mục đích. Với những nghiên
cứu chi tiết về công tác quản lý tài chính tại các ĐVSNCL, tác giả đã làm rõ
được một số vấn đề sau:
- Hệ thống hóa các lý luận cơ bản về ĐVSNCL, đưa ra khái niệm riêng
và chỉ ra mục tiêu, nhân tố ảnh hưởng khi thực hiện công tác quản lý tài chính
tại các ĐVSNCL.
- Hệ thống hóa nội dung công tác quản lý tài chính tại trên ba khía cạnh
chủ yếu: quản lý thu, quản lý chi và quản lý tài sản. Trong quản lý thu, tác giả
đã đưa ra những nội dung cụ thể như lập kế hoạch thu, tổ chức thực hiện, khai
thác các khoản thu, kiểm tra kiểm soát đánh giá các khoản thu trong các
ĐVSNCL. Trong quản lý chi, tác giả cũng đưa ra những nội dung cụ thể như
lập kế hoạch chi, tổ chức xác định chi phí, kiểm tra kiểm soát đánh giá các
42
khoản chi. Trong quản lý tài sản, tác giả đưa ra những nội dung cụ thể như quản
lý quá trình hình thành tài sản, quản lý quá trình sử dụng tài sản, quản lý quá
trình kết thúc sử dụng tài sản.
- Tìm hiểu những kinh nghiệm về công tác quản lý tài chính tại của các
trường đại học trên thế giới như kinh nghiệm của Mỹ, Singapore, Vương quốc
Anh và rút ra năm bài học cho các trường ĐHCL khối ngành kinh tế.
Toàn bộ những nội dung nghiên cứu được trình bày trong chương 1 của
luận văn là cơ sở để vận dụng nghiên cứu thực trạng quản lý tài chính trong các
43
trường ĐHCL Việt Nam ở chương 2.
Chương 2
THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ TÀI CHÍNH TẠI
CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG LẬP KHỐI NGÀNH KINH TẾ
2.1. Hệ thống các trường đại học công lập khối ngành kinh tế
2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển
Trường ĐH hiện đại đầu tiên của Việt Nam là trường ĐH Đông Dương,
tiền thân của ĐH Quốc gia Hà Nội được thành lập ngày 16 tháng 5 năm 1906
được tổ chức theo mô hình đa ngành, đa lĩnh vực. Ngày 15 tháng 11 năm 1945,
ngay sau khi giành được chính quyền từ tay thực dân Pháp, Nhà nước dân chủ
nhân dân đã thành lập trường ĐH Quốc gia Việt Nam trên cơ sở kế thừa trường
ĐH Đông Dương. Năm 1956 trường được đổi tên thành ĐH Tổng hợp. Cùng
với sự kế thừa trường ĐH Đông Dương, Nhà nước ta đã thành lập một số trường
ĐH mới như Trường Kinh tế Tài chính (nay là trường ĐH Kinh tế quốc dân),
ĐH Chuyên nghiệp Bách khoa (nay là trường ĐH Bách khoa Hà Nội), ĐH
Hàng hải, Học viện Nông lâm Hà Nội (nay là ĐH Nông nghiệp 1 Hà Nội và
ĐH Lâm nghiệp Việt Nam)… Khởi đầu với số lượng trường ít ỏi, cho đến nay
trải qua hơn một nửa thế kỷ, đội ngũ các trường ĐHCL tăng lên đáng kể, giữ
vai trò then chốt trong mạng lưới các trường ĐH Việt Nam. Năm 1991, Việt
Nam chỉ có một vài trường ĐH. Đến năm 2023, số lượng các trường ĐHCL đã
tăng lên thành 174 trường ĐH. Tuy nhiên, các số liệu dường như cũng cho thấy
số lượng gia tăng nhanh chóng đã phải đánh đổi với chất lượng khi mà tỷ lệ
giảng viên có bằng tiến sỹ giảm liên tục trong suốt 10 năm qua và tỷ lệ số sinh
viên trên một giảng viên ngày càng tăng lên (khoảng 25-27 sinh viên trên 1
giảng viên).
Cùng với sự nghiệp đổi mới của đất nước, các trường ĐHCL Việt Nam
44
có những bước phát triển mạnh mẽ và được phân loại thành các trường ĐH theo
ngành dân sự các trường ĐH và học viện quân sự, công an, các trường ĐH vùng
và cấp vùng, ĐH quốc gia, trường ĐH địa phương, trường ĐH, học viện theo
ngành, đa ngành gồm các trường ĐH, học viện trực thuộc cùng lúc Bộ GD &
ĐT và bộ ngành đào tạo, hoặc tổ chức, đoàn thể...
Ngành kinh tế là một ngành đặc biệt quan trọng của tất cả các quốc gia
trên thế giới. Ngành kinh tế cũng giống như một mạng lưới toàn cầu bao gồm
nhiều ngành nghề trong đó và các hoạt động kinh tế được liên kết chặt chẽ với
nhau một cách thống nhất. Do đó một quốc gia muốn phát triển kinh tế thì việc
đào tạo và ươm mầm những thế hệ tài năng học ngành kinh tế là rất cần thiết
và quan trọng. Ngành kinh tế là một trong những khối ngành luôn thu hút nhiều
thí sinh trong những năm qua bởi tiềm năng đem đến cơ hội việc làm rộng mở
cho người học sau khi tốt nghiệp.
Trong tổng số 174 trường ĐHCL có 72 trường đào tạo ngành kinh tế,
trong đó có trường chuyên đào tạo về kinh tế như Đại học Kinh tế quốc dân,
Đại học Ngoại thương, Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh…, có trường
không chuyên về đào tạo kinh tế có đào tạo ngành kinh tế như Đại học Bách
Khoa Hà Nội, Đại học Mở Hà Nội, Đại học Thủy Lợi…
Ngành kinh tế bao quát khá nhiều kiến thức sâu rộng, có ý nghĩa trực tiếp
đối với đời sống xã hội nên được chia thành một số nhóm ngành chính như sau:
- Nhóm ngành kinh tế quản trị: Trong khối ngành kinh tế, quản trị được
xem là ngành học quan trọng. Nhóm ngành này gồm các chuyên ngành kinh tế
cụ thể như Quản trị kinh doanh, Quản trị lữ hành, Quản trị nguồn nhân lực,
Kinh doanh quốc tế,… Sinh viên theo ngành này sẽ được cung cấp những kiến
thức để trở thành một nhà quản trị. Một số ngành có thể làm sau khi tốt nghiệp
ngành kinh tế quản trị: Quản trị marketing, Quản trị nhân sự, Quản trị tài chính,
45
Cố vấn kinh tế - Tài chính.
- Nhóm ngành kinh tế tài chính: Đây là nhóm ngành được nhiều sinh viên
quan tâm và lựa chọn nhất trong những năm gần đây. Nhóm ngành này bao
gồm các lĩnh vực cụ thể như: Tài chính doanh nghiệp, Quản trị tài chính, Tài
chính quốc tế, Thị trường chứng khoán, Hệ thống thông tin tài chính,… Sinh
viên tốt nghiệp trong nhóm ngành này có thể làm những công việc như: Nhân
viên ngân hàng, Tư vấn tài chính, Nhân viên bảo hiểm,…
- Nhóm ngành kế toán - kiểm toán: Kế toán - kiểm toán cũng là một
nhóm quan trọng trong khối ngành kinh tế. Sinh viên theo ngành sẽ được cung
cấp kiến thức về thu thập, xử lý, kiểm tra và cung cấp thông tin về tình hình tài
chính. Cũng như hiệu quả kinh doanh thông qua các nghiệp vụ: Tính phí, dự
toán, phân bổ ngân sách, quản lý doanh thu theo sát kế hoạch kinh doanh của
doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, hệ thống các trường đại học ngành kinh tế với nhiều tên tuổi
nổi bật về chất lượng đào tạo như Đại học Kinh tế quốc dân, Đại học Ngoại
thương, Học viện Ngân hàng,…
2.1.2. Đặc điểm tổ chức quản lý hoạt động
Cơ cấu tổ chức cụ thể của trường đại học, mối quan hệ và mức độ tự chủ
của đơn vị thuộc, trực thuộc trường đại học được quy định tại Luật GDĐH số
08/2012/QH13 và Điều lệ Trường ĐH được Thủ tướng Chính phủ ban hành
theo Quyết định số 70/2014/QĐ-TTg ngày 10/12/2014, nhưng nhìn chung, cơ
cấu tổ chức của hầu hết các trường ĐHCL khối ngành kinh tế đều bao gồm:
- Hội đồng trường đại học, hội đồng học viện.
- Hiệu trưởng trường đại học, giám đốc học viện; phó hiệu trưởng trường
đại học, phó giám đốc học viện.
- Hội đồng khoa học và đào tạo; hội đồng khác (nếu có).
- Khoa, phòng chức năng, thư viện, tổ chức khoa học và công nghệ, tổ
46
chức phục vụ đào tạo khác.
- Trường, phân hiệu, viện nghiên cứu, cơ sở dịch vụ, doanh nghiệp, cơ
sở kinh doanh và đơn vị khác (nếu có) theo nhu cầu phát triển của trường đại
học.
Hiệu trưởng là người điều hành tổ chức, bộ máy của trường ĐH, chịu
trách nhiệm quản lý các hoạt động của trường ĐH. Hiệu trưởng có nhiệm vụ tổ
chức thực hiện nghị quyết của Hội đồng trường; tổ chức thực hiện các hoạt
động đào tạo, NCKH, hợp tác quốc tế, bảo đảm chất lượng GDĐH; xây dựng
chiến lược và kế hoạch phát triển đào tạo và NCKH của nhà trường trình Hội
đồng trường phê duyệt… Hiệu trưởng là chủ tài khoản, chịu trách nhiệm trước
pháp luật về toàn bộ công tác quản lý tài chính và tài sản của trường ĐH; thực
hiện quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm công khai, minh bạch về tài chính
theo quy định của pháp luật...
Trên cơ sở quy định chung, mỗi trường ĐH tiến hành tổ chức bộ máy
hoạt động phù hợp theo quy mô và lĩnh vực riêng của mình. Đối với 3 trường
ĐH mà tác giả khảo sát, các trường có cơ cấu tổ chức về cơ bản tuân thủ theo
quy định của Điều lệ Trường ĐH. Tuy nhiên việc thành lập các Hội đồng và
các tổ chức nghiên cứu và phát triển, đơn vị sự nghiệp, cơ sở sản xuất, kinh
doanh, dịch vụ trong trường ĐH, tạp chí KHCN đối với các trường là khác nhau.
Cụ thể:
+ Trường ĐH Ngoại thương ngoài Hội đồng trường còn tổ chức Hội
đồng Khoa học và Đào tạo, Hội đồng tư vấn. Trường có 2 cơ sở tại TP Hồ Chí
Minh và Quảng Ninh. Tại Hà Nội, trường có 14 khoa bộ môn đào tạo chuyên
ngành và 18 phòng, khoa, TT chức năng. Các đơn vị kinh doanh dịch vụ, tổ
chức nghiên cứu phát triển của trường gồm Viện Kinh tế và thương mại quốc
tế, TT Nghiên cứu, bồi dưỡng và tư vấn kinh tế đối ngoại, TT Hợp tác nguồn
47
nhân lực Việt Nam - Nhật Bản.
+ Trường ĐH Mở Hà Nội là một trường ĐH công lập tương đối trẻ, được
thành lập năm 1993 và có tổ chức Hội đồng trường. Hiện nay trường có 12 khoa
đào tạo chuyên ngành và 8 khoa, phòng chức năng. Trường có 8 đơn vị KHCN
- thông tin kinh tế như TT Học liệu, TT phát triển đào tạo, TT Hợp tác đào tạo,
TT đào tạo E-learning, TT ĐH Mở Hà Nội tại Đà Nẵng, TT Thông tin - Thư
viện, TT Công nghệ thông tin, TT Giáo dục thể chất và Quốc phòng - An ninh.
+ Trường ĐH Tài chính - QTKD trực thuộc Bộ Tài chính được thành lập
trên cơ sở nâng cấp trường Cao đẳng Tài chính - QTKD từ năm 2012 và có quy
mô không lớn, có 08 khoa đào tạo chuyên ngành với 11 phòng ban chức năng.
Trường không tổ chức Hội đồng trường, Hội đồng giáo sư, chỉ tổ chức Hội
đồng khoa học và Đào tạo. Trường có 3 TT là TT Ngoại ngữ - Tin học, TT hỗ
trợ sinh viên và quan hệ DN, TT Dịch vụ tư vấn tài chính – kế toán.
2.2. Thực trạng công tác quản lý tài chính tại các trường đại học
công lập khối ngành kinh tế
2.2.1. Cơ sở pháp lý về công tác quản lý tài chính tại các trường đại
học công lập khối ngành kinh tế
Các trường ĐH công lập khối ngành kinh tế là ĐVSNCL do Nhà nước
thành lập và tài trợ nguồn kinh phí nên mọi hoạt động công tác quản lý tài chính
tại của các trường phải tuân thủ theo những quy định của Nhà nước trong các
văn bản pháp lý. Liên quan đến hoạt động quản lý nội bộ các trường ĐHCL,
năm 2012, Quốc hội đã thông qua Luật GDĐH số 08/2012/QH13. Luật GDĐH
quy định về tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của trường ĐHCL, hoạt động đào
tạo, hoạt động khoa học và công nghệ, hoạt động hợp tác quốc tế, bảo đảm chất
lượng và kiểm định chất lượng GDĐH, giảng viên, người học, tài chính, tài sản
của cơ sở GDĐH. Bên cạnh Luật GDĐH và các văn bản hướng dẫn thi hành,
hoạt động công tác quản lý tài chính tại các trường còn chịu sự chi phối của
48
Luật NSNN số 88/2015/QH13. Theo quy định của Luật này, các trường ĐHCL
phải lập dự toán thu, chi NS hàng năm và lập kế hoạch tài chính - NSNN 3 năm.
Bên cạnh đó Luật cũng cho phép các trường ĐHCL được chủ động sử dụng
nguồn thu phí và các nguồn thu hợp pháp khác để phát triển và nâng cao chất
lượng, hiệu quả hoạt động theo quy định, hướng tới quản lý NSNN theo kết quả
thực hiện nhiệm vụ.
Một văn bản pháp quy quan trọng khác quy định về quản lý tài chính cho
các ĐVSNCL nói chung, các trường ĐHCL nói riêng là Nghị định số
43/2006/NĐ-CP quy định quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm
vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với ĐVSNCL. Ngày 21/6/2021,
Chính phủ ban hành Nghị định số 60/2021/NĐ-CP thay thế Nghị định số
43/2006/NĐ-CP nhằm tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện cơ chế tự chủ đối với
ĐVSNCL. Việc phân loại ĐVSNCL được dựa trên mức độ tự chủ về tài chính
của các đơn vị cả về chi thường xuyên và chi đầu tư. Theo đó, tại Nghị định số
60/2021/NĐ-CP quy định 4 loại ĐVSNCL: (i) đơn vị sự nghiệp công tự bảo
đảm chi thường xuyên và chi đầu tư, (ii) đơn vị sự nghiệp công tự bảo đảm chi
thường xuyên, (iii) đơn vị sự nghiệp công tự bảo đảm một phần chi thường
xuyên, (iv) đơn vị sự nghiệp công do Nhà nước bảo đảm chi thường xuyên.
Tương ứng với từng loại hình ĐVSNCL, Nghị định quy định việc tự chủ của
các đơn vị trong thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, nhân sự và tài chính trên
nguyên tắc các đơn vị tự đảm bảo kinh phí hoạt động càng nhiều thì mức độ tự
chủ càng cao để khuyến khích các đơn vị tăng thu, giảm dần bao cấp từ NSNN,
trong đó có bao cấp tiền lương tăng thêm để dần chuyển sang các loại hình đơn
vị tự đảm bảo chi thường xuyên, đơn vị tự đảm bảo chi thường xuyên và chi
đầu tư.
Theo Nghị định số 60/2021/NĐ-CP, Trường ĐH Ngoại thương là trường
có nguồn thu tự bảo đảm chi thường xuyên và chi đầu tư, Trường ĐH Mở Hà
49
Nội là trường có nguồn thu tự bảo đảm chi thường xuyên; Trường ĐH Tài chính
- QTKD là trường có nguồn thu tự bảo đảm một phần chi thường xuyên (khoảng
40%).
2.2.2. Thực trạng quản lý thu tại các trường đại học công lập khối
ngành kinh tế
2.2.2.1. Lập kế hoạch thu
* Nội dung các khoản thu
Các khoản thu của các trường ĐHCL khối ngành kinh tế hiện nay bao
gồm thu từ NSNN cấp, thu học phí, lệ phí và các khoản thu khác.
- Thu từ NSNN cấp: Để đảm bảo hoạt động của nhà trường nhằm thực
hiện các chức năng, nhiệm vụ được giao, Nhà nước cấp kinh phí từ NSNN cho
các trường. Nguồn NSNN cấp bao gồm:
+ Kinh phí giao tự chủ: NSNN cấp cho hoạt động thường xuyên đối
với trường ĐHCL tự bảo đảm một phần chi phí hoạt động và trường ĐHCL do
NSNN cấp toàn bộ chi phí hoạt động;
+ Kinh phí không giao tự chủ: NSNN cấp cho các nhiệm vụ không
thường xuyên như để thực hiện các đề tài NCKH cấp Nhà nước, bộ, ngành;
chương trình mục tiêu quốc gia; các nhiệm vụ đột xuất khác được giao; vốn
đầu tư cơ sở vật chất, mua sắm trang thiết bị, sửa chữa lớn TSCĐ phục vụ hoạt
động đào tạo và NCKH theo dự án và kế hoạch hàng năm; vốn đối ứng các dự
án có nguồn vốn nước ngoài được cấp có thẩm quyền phê duyệt…
- Phần để lại từ số thu học phí, lệ phí của sinh viên theo quy định của
Nhà nước;
- Các khoản thu khác bao gồm:
+ Thu từ các hoạt động liên kết đào tạo với các tổ chức trong và
ngoài nước;
+ Thu từ các hoạt động cung ứng dịch vụ gắn với hoạt động của Nhà
50
trường, kể cả việc khai thác cơ sở vật chất;
+ Thu từ các hợp đồng KHCN với các tổ chức cá nhân trong và ngoài
nước;
+ Lãi lãi tiền gửi ngân hàng từ các hoạt động dịch vụ.
+ Thu từ viện trợ, tài trợ, quà biếu, tặng, cho theo quy định của pháp luật.
+ Thu khác, gồm: Nguồn vốn vay của các tổ chức tín dụng, vốn huy
động của cán bộ, viên chức trong đơn vị; Nguồn vốn liên doanh, liên kết của
các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước theo quy định của pháp luật.
* Xác định mức thu
Học phí là một nguồn thu quan trọng bổ sung nguồn lực tài chính cho
các trường ĐHCL. Ngày 27/8/2021, Chính phủ ban hành Nghị định số
81/2021/NĐ-CP quy định về cơ chế thu, quản lý học phí đối với cơ sở giáo dục
thuộc hệ thống giáo dục quốc dân và chính sách miễn, giảm học phí, hỗ trợ chi
phí học tập; giá dịch vụ trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo. Theo đó, giá dịch vụ
trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo là số tiền người sử dụng dịch vụ phải trả cho
từng dịch vụ trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo và giáo dục nghề nghiệp, bao
gồm: học phí (theo các cấp học và trình độ đào tạo) và giá các dịch vụ khác
trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo (giá dịch vụ tuyển sinh; giá dịch vụ kiểm định
chất lượng giáo dục; giá cấp phát các loại phôi văn bằng, chứng chỉ; giá dịch
vụ hỗ trợ đào tạo, cung ứng nguồn nhân lực thông qua việc nghiên cứu xây
dựng chiến lược, chính sách, quy hoạch, kế hoạch về đào tạo nhân lực theo nhu
cầu xã hội; giá dịch vụ điều tra, phân tích và dự báo nhu cầu nhân lực thông
qua việc kết nối cơ sở đào tạo với đơn vị sử dụng lao động nhằm khai thác các
nguồn lực cho hoạt động đào tạo phát triển nguồn nhân lực; giá dịch vụ bồi
dưỡng nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục; giá dịch vụ tư vấn cho các tổ chức,
cá nhân xây dựng kế hoạch, quy hoạch phát triển nguồn nhân lực, tham gia bồi
dưỡng phát triển các kỹ năng cần thiết cho người học; giá các dịch vụ hỗ trợ
51
hoạt động giáo dục, đào tạo).
Qua kết quả khảo sát, có thể thấy hiện nay các trường ĐHCL khối ngành
kinh tế căn cứ vào mức trần học phí do Nhà nước quy định rồi xác định mức
thu học phí thấp hơn hoặc bằng thường dựa vào những yếu tố như “Chi phí
đào tạo cho toàn khóa học”, “Danh tiếng và thương hiệu của trường”, “Địa
điểm học tập”, “Chất lượng giảng dạy, đào tạo của trường”, “Cơ sở vật chất kỹ
thuật và hệ thống phục vụ học tập”, “Ngành nghề đang được xem là dễ xin
việc”, “Khả năng chi trả của gia đình người học”. Bên cạnh đó vẫn còn một số
trường xác định mức thu học phí dựa vào “Ý muốn chủ quan của Ban lãnh đạo
nhà trường”. Thông thường, các trường ĐHCL thuộc Trung ương quản lý, với
địa điểm học tập ở các thành phố lớn thường quy định mức thu cao hơn các
trường ĐHCL do địa phương quản lý.
* Lập kế hoạch thu
Các trường ĐHCL khối ngành kinh tế hiện nay đều sử dụng phương
pháp lập kế hoạch dựa vào quá khứ. Quá trình lập kế hoạch thu chia làm hai
bước là xây dựng kế hoạch thu về lượng, sau đó xây dựng các kế hoạch về ngân
sách. Quá trình xây dựng kế hoạch thu về lượng được thực hiện ở các đơn vị
chức năng như đào tạo, khoa học đối ngoại, quản lý thiết bị... bao gồm các kế
hoạch: chỉ tiêu tuyển sinh ở từng bậc và từng hệ đào tạo; các hợp đồng, đề tài
NCKH, dự án KHCN; kế hoạch mở các lớp bồi dưỡng... Nhân sự ở các đơn vị
chức năng xây dựng kế hoạch về lượng không phải là nhân sự chuyên trách mà
kiêm nhiệm, phần lớn do các trưởng đơn vị chức năng tổ chức chỉ đạo, xây
dựng các kế hoạch. Kế hoạch ngân sách được xây dựng trên cơ sở các kế hoạch
về lượng do các bộ phận chức năng chuyển đến. Phương pháp ưu tiên áp dụng
là dựa trên kế hoạch của năm trước với tỷ lệ phát triển trung bình, của các
khoản mục chi để xây dựng chỉ tiêu của năm kế hoạch hay còn gọi là phương
pháp dựa vào quá khứ. Khác với xây dựng kế hoạch về lượng, việc xây dựng
52
kế hoạch ngân sách có bộ phận chuyên trách thực hiện, được bố trí tại phòng
kế hoạch tài chính của các trường và là bộ phận đầu mối tổng hợp kế hoạch
của toàn trường.
Bảng 2.1: So sánh kế hoạch thu và kết quả thực hiện của 3 trường: ĐH
Ngoại thương, ĐH Mở Hà Nội, ĐH Tài chính - QTKD (2021 - 2023)
Từ NSNN cấp
Nội dung thu
Từ học phí, lệ phí
Từ nguồn khác
Đơn vị tính: Triệu đồng
Trường
Năm
Kinh phí giao tự chủ
2021
ĐH Ngoại thương
2022
2023
2021
ĐH Mở Hà Nội
2022
2023
2021
ĐH Tài chính – QTKD
2022
2023
Kế hoạch Thực hiện So sánh TH/KH Kế hoạch Thực hiện So sánh TH/KH Kế hoạch Thực hiện So sánh TH/KH Kế hoạch Thực hiện So sánh TH/KH Kế hoạch Thực hiện So sánh TH/KH Kế hoạch Thực hiện So sánh TH/KH 25.187 Kế hoạch Thực hiện 26.851 So sánh TH/KH 106,61% 28.357 Kế hoạch 27.175 Thực hiện 95,83% So sánh TH/KH 27.192 Kế hoạch 22.342 Thực hiện 82,16% So sánh TH/KH
Kinh phí không giao tự chủ 25.973 26.420 101,72% 22.375 21.969 98,19% 13.538 12.502 92,35% 4.904 4.904 100,00% 1.800 1.695 94,17% 2.250 2.485 110,44% 3.910 4.736 121,13% 9.124 8.994 98,58% 4.591 2.558 55,72%
197.332 172.330 87,33% 162.441 183.500 112,96% 175.436 182.124 103,8% 161.930 189.819 117,22% 185.374 177.636 95,83% 160.500 174.369 108,64% 18.695 21.213 113,47% 19.952 22.664 113,59% 20.435 23.518 115,09%
100.629 82.850 82,33% 89.769 78.400 87,34% 89.126 78.942 88,57% 6.215 8.420 135,48% 16.537 18.635 112,69% 21.951 18.429 83,96% 1.632 2.160 132,42% 1.329 2.910 218,96% 3.561 5.555 156,00%
Nguồn: Dự toán và Báo cáo quyết toán của 3 trường ĐHCL
53
So sánh số liệu giữa kế hoạch thu và kết quả thực hiện trong 3 năm từ
2021 – 2023 của 3 trường ĐHCL mà tác giả khảo sát cho thấy sự chênh lệch
tương đối giữa kế hoạch và thực hiện (Bảng 2.1). Cụ thể là 2 trường ĐH Ngoại
thương và Trường ĐH Mở Hà Nội có sự chênh lệch giữa kế hoạch và thực hiện
không lớn, khoảng từ 80 - 135% do công tác lập kế hoạch của 2 trường rất được
quan tâm chú trọng. Trường ĐH Tài chính - QTKD có sự chênh lệch giữa kế
hoạch và thực hiện khá lớn, khoảng từ 50 - 210%. Nguyên nhân do lập kế
hoạch số lượng sinh viên, học viên chưa chính xác hoặc do không theo dõi sát
sao công tác thu hồi công nợ cũng như dự đoán nguồn thu từ liên kết đào tạo…
2.2.2.2. Tổ chức thực hiện, khai thác các khoản thu
Đối với nguồn kinh phí NSNN cấp, nhìn chung các trường ĐHCL khối
ngành kinh tế đã thực hiện quản lý theo đúng chu trình quản lý NSNN, đúng
quy định của Nhà nước. Chu trình quản lý NSNN được thực hiện từ khâu lập
dự toán, chấp hành và quyết toán. Hàng năm, các trường tiến hành lập dự toán
chi được đảm bảo bằng nguồn NSNN, trình cơ quan có thẩm quyền xét duyệt
và chấp nhận. Việc tiếp nhận, sử dụng và quyết toán kinh phí về cơ bản các
trường tuân thủ Luật NSNN và sự hướng dẫn của cơ quan tài chính, cơ quan
chủ quản.
Nhìn chung, các trường ĐHCL khối ngành kinh tế trong thời gian qua
đã có những bước thay đổi tích cực trong công tác quản lý tài chính tại của
đơn vị, đặc biệt trong nỗ lực tìm kiếm khai thác các khoản thu, mở các ngành
đào tạo có chất lượng cao, các chương trình liên kết đào tạo với nước ngoài,
nhất là các trường tự đảm bảo chi thường xuyên. Việc tổ chức các hoạt động
dịch vụ khác để tạo thêm nguồn thu được Nhà nước khuyến khích và thể chế
hóa bằng văn bản tại Nghị định số 43/2006/NĐ-CP, Nghị định số
60/2021/NĐ-CP. Theo đó, các trường ĐHCL khối ngành kinh tế được sử dụng
54
cơ sở vật chất sẵn có, sau khi đã thực hiện các nhiệm vụ chính được Nhà nước
giao, để tạo thêm nguồn thu. Một số hoạt động dịch vụ chủ yếu của các trường
ĐHCL khối ngành kinh tế là:
- Nguồn thu từ tổ chức đào tạo bậc cử nhân, bậc thạc sĩ liên kết với nước
ngoài.
- Nguồn thu từ việc thực hiện các hợp đồng đào tạo theo nhu cầu như:
dạy ngoại ngữ, tổ chức đào tạo, bồi dưỡng ngắn hạn…
- Nguồn thu từ việc tận dụng cơ sở vật chất để cung cấp các dịch vụ: cho
thuê hội trường, phòng học, KTX, nhà ăn sinh viên, nhà khách…
- Nguồn thu từ các hoạt động cung cấp dịch vụ KHCN, chuyển giao công
nghệ như: triển khai kỹ thuật, các hợp đồng phần mềm, nghiên cứu thử
nghiệm…
- Nguồn thu từ các hoạt động kinh tế khác như liên kết sản xuất, sản xuất
kinh doanh phân bón, máy tính, giống cây trồng, tư vấn thiết kế…
Nhiều trường ĐHCL khối ngành kinh tế đã đa dạng hóa và chuẩn hóa lại
các chương trình đào tạo theo nhu cầu xã hội. Một số trường ĐH đã xây dựng
Chương trình chất lượng cao giảng dạy bằng tiếng Anh. Cùng với đó là việc
tăng cường các chương trình liên kết với nước ngoài. Các trường cũng đã chủ
động tích cực tìm kiếm các trường ĐH uy tín trên thế giới để hợp tác xây dựng
các chương trình đào tạo liên kết cả bậc cử nhân và thạc sỹ. Các đối tác chủ yếu
đến từ Hoa Kỳ, Úc, Anh, Đan Mạch, Pháp, Nhật Bản, Đài Loan… và thu hút
sinh viên quốc tế. Theo báo cáo của Bộ GD & ĐT, tổng số các chương trình
đào tạo được liên kết với các trường ĐH quốc tế tính đến tháng 4 năm 2011 là
142 chương trình được Bộ GD & ĐT cấp phép (chưa kể các chương trình do 2
ĐH Quốc gia và các ĐH vùng cấp phép). Trong đó có rất nhiều chương trình
được liên kết với các trường ĐH có thứ hạng và chất lượng cao trên thế giới.
Kết quả hợp tác đã hình thành nên các chương trình đào tạo chất lượng cao, đáp
55
ứng tốt hơn các nhu cầu của xã hội. Các chương trình này không được Nhà
nước cấp ngân sách nhưng đã góp phần tạo ra nguồn thu rất lớn hỗ trợ các hoạt
động của trường ĐH, nâng cao thu nhập cho cán bộ, giảng viên.
Hộp 2.1: Công tác đào tạo và hợp tác quốc tế của Trường ĐH Ngoại thương
Bắt đầu từ năm học 2005-2006, nhà trường đã phát triển các chương trình đào tạo chất lượng cao với những đặc điểm riêng có như giảng dạy bằng Tiếng Anh, có sự tham gia của DN, tăng cường tính thực tiễn và phương pháp học tập, giảng dạy của toàn bộ chương trình. Hiện tại, nhà trường đang triển khai 3 chương trình chất lượng cao về Kinh doanh quốc tế, Kinh tế đối ngoại và Tài chính Ngân hàng với tổng số sinh viên lên đến 300 sinh viên/năm. Bên cạnh đó, bắt đầu từ năm học 2007-2008, nhà trường đã liên kết với trường ĐH Colorado (Hoa kỳ) triển khai giảng dạy Chương trình Tiên tiến, và đã tuyển sinh từ năm học 2008-2009 với 80 sinh viên. Từ năm 2009, nhà trường bắt đầu triển khai Chương trình tiến tiến thứ hai có chuyên ngành đào tạo về Kinh doanh quốc tế với trường ĐH California State University, Fullerton.
Trên cơ sở mạng lưới hợp tác quốc tế được phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu này, ĐH Ngoại thương tận dụng các cơ hội để thúc đẩy mạnh mẽ các hoạt động hợp tác trên tất cả các lĩnh vực bao gồm trao đổi sinh viên, trao đổi giảng viên, tổ chức các hội thảo khoa học quốc tế, liên kết nghiên cứu, liên kết đào tạo. Hiện nay, nhà trường có hơn 30 chương trình liên kết đào tạo có yếu tố quốc tế. Các chương trình kiên kết đào tạo tiêu biểu của trường có thể kể đến là: Chương trình liên kết đào tạo Thạc sỹ Luật kinh doanh quốc tế giảng dạy bằng tiếng Pháp hợp tác với Trường ĐH Tổng hợp Francois Rebelais Tours; Chương trình Thạc sỹ Kinh doanh quốc tế giảng dạy bằng Tiếng Anh, liên kết với Trường ĐH Latrobe (Úc); Chương trình Thạc sỹ Quản trị dự án hợp tác với trường ĐH Nantes (Pháp); Chương trình Thạc sỹ Kinh tế Á – Âu hợp tác với ĐH Rennes 2; Chương trình liên kết đào tạo cử nhân và thạc sỹ liên kết với ĐH Bedfordshire (Anh Quốc); Chương trình tiên tiến ngành Kinh tế quốc tế phối hợp với trường ĐH
Colorado (Hoa kỳ); Chương trình tiên tiến QTKD quốc tế phối hợp với trường ĐH California State Fullerton (Hoa Kỳ); Chương trình MBA về logistics với trường Kinh doanh Nauy; Chương trình hợp tác đào tạo cử nhân 1,5 + 3 với trường ĐH Aomori Chuo Gakuin (Nhật Bản); Chương trình đào tạo cử nhân quản lý tài chính và dịch vụ với trường ĐH Niels Brock Copenhagen Business College (Đan Mạch)…
Nguồn: Trích Trường ĐH Ngoại thương 50 năm xây dựng và phát triển - Phần 3: Trường
ĐH Ngoại thương trong thời kỳ mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế [32].
Nhiều trường ĐHCL khối ngành kinh tế đã có chính sách khuyến khích
các đơn vị, bộ phận, cá nhân trong trường tăng cường tìm kiếm và thu hút các
nguồn thu bằng việc quy định cụ thể trong Quy chế chi tiêu nội bộ.
Để khuyến khích các đơn vị trực thuộc trường khai thác tăng nguồn thu,
56
trường ĐH Ngoại thương trong Quy chế chi tiêu nội bộ năm 2021 quy định các
đơn vị độc lập và các đơn vị, TT trực thuộc trường không hạch toán độc lập khi
mở các lớp bồi dưỡng ngắn hạn và các hoạt động có thu khác đóng góp cho nhà
trường 10% trên tổng thu (đối với hoạt động có thu thực hiện tại trường của
đơn vị không hạch toán độc lập còn đóng góp thêm chi phí sử dụng cơ sở vật
chất) [31].
Trường ĐH Mở Hà Nội phân cấp rất mạnh về thu, chi cho các khoa, TT
của trường nhằm khuyến khích tăng thu. Cụ thể là trong Quy chế chi tiêu nội
bộ năm 2022, Trường ủy quyền cho 15 Khoa, TT thu học phí, lệ phí và các
khoản thu khác và nộp về Trường và chịu trách nhiệm về khoản thu đó. Để
khuyến khích tăng thu, Trường trích lại 70% trên tổng thu học phí, lệ phí, các
loại phí để chi một số công việc như: thuê cơ sở vật chất phục vụ giảng dạy học
tập, văn phòng cho đơn vị đào tạo; chi các hoạt động trực tiếp giảng dạy, phục
vụ giảng dạy; chi thường xuyên; hỗ trợ hoạt động của sinh viên; chi học bổng
sinh viên. Trong quá trình thực hiện nếu còn kinh phí thì có thể hỗ trợ thêm cho
công tác quản lý của đơn vị [33].
Để khuyến khích tăng nguồn thu từ cho thuê phòng ở KTX, Trường ĐH
Tài chính - QTKD quy định trong Quy chế chi tiêu nội bộ năm 2023: “Ban
quản lý KTX được hưởng công khai thác và thu tiền phòng ở KTX theo các
mức sau đây: Khai thác đến 80% công suất nhà ở: hưởng 5% trên tổng số thu;
Khai thác từ 81% đến 90% công suất nhà ở: hưởng 10% trên tổng số thu; Khai
thác từ 91% trở lên: hưởng 20% trên tổng số thu”. Đối với các dịch vụ đào tạo,
bồi dưỡng cấp chứng chỉ do 2 TT của trường thực hiện, ở Điều 33, mục 2 quy
định: “Khoán nộp kinh phí về nhà trường theo các mức trên số kinh phí thực
thu: lớp học sử dụng phòng máy vi tính nộp 25%; lớp học sử dụng hội trường,
lớp học nộp 13%; lớp học thực hiện ở các địa điểm ngoài trường nộp 8%” [29].
57
2.2.2.3. Kiểm tra kiểm soát, đánh giá các khoản thu
Trong Quy chế chi tiêu nội bộ của các trường ĐHCL khối ngành kinh tế
hầu như ít quy định về khoản thu, mức thu các hoạt động dịch vụ, cho thuê, liên
kết đào tạo… dễ gây nảy sinh tiêu cực, tham nhũng. Hầu như các trường đều
có nguồn thu từ các hoạt động dịch vụ, cho thuê, liên kết đào tạo nhưng trong
Quy chế chi tiêu nội bộ của trường chỉ tập trung vào quy định mức chi. Một số
trường có đưa vào nội dung các khoản thu nhưng cũng không đưa ra mức thu.
Trường ĐH Ngoại thương có thu từ hoạt động cung ứng dịch vụ gắn với
hoạt động của nhà trường, kể cả việc khai thác cơ sở vật chất… tuy nhiên trong
Quy chế chi tiêu nội bộ năm 2021 ban hành theo Quyết định số 67/QĐ-ĐHNT
ngày 12/1/2021 không có nội dung quy định về mức thu, chỉ quy định về nghĩa
vụ đóng góp của các đơn vị trực thuộc trường khi thực hiện các hoạt động có
thu [31]. Mức thu từ khai thác cơ sở vật chất chỉ được quy định ở Quy định về
quản lý, sử dụng cơ sở vật chất, mua sắm tài sản của trường ĐH Ngoại thương
theo Quyết định số 73/QĐ-QTTB ngày 1/3/2021 [30].
Trong Quy chế chi tiêu nội bộ năm 2022 của Trường ĐH Mở Hà Nội
ban hành theo Quyết định số 08/QĐ-ĐHM ngày 8/1/2022 không có nội dung
nào quy định về mức thu, nội dung thu [33].
Mặc dù ở Trường ĐH Tài chính - QTKD có các khoản thu từ cho thuê
địa điểm, cơ sở vật chất thực hiện các dịch vụ kinh doanh ăn uống, giải khát,
trông giữ xe, từ cho thuê hội trường… nhưng trong Quy chế chi tiêu nội bộ năm
2023 của Trường ĐH Tài chính - QTKD ban hành theo Quyết định số 141/QĐ-
ĐHTCQTKD ngày 31/3/2023 chỉ quy định mức thu cho thuê hội trường (Hội
trường lớn cơ sở 1 mức thu 3.000.000đồng/lần, Hội trường lớn cơ sở 2:
5.000.000đồng/lần, Hội trường khác: 500.000đ/lần) [29].
Như vậy, những quy định chưa chặt chẽ, công khai, minh bạch, rõ ràng
58
như thế này sẽ rất dễ gây nảy sinh tiêu cực, tham nhũng, nếu như có sự thông
đồng giữa bộ phận chức năng với đối tượng sử dụng dịch vụ và Ban lãnh đạo
nhà trường.
Văn bản quy định của Nhà nước về “Kiểm soát nội bộ” và “Kiểm toán
nội bộ” vẫn còn mờ nhạt. Hiện nay, văn bản quy định liên quan đến “KSNB”
là ở Điều 39 Luật kế toán số 88/2015/QH13. Theo đó, KSNB là việc thiết lập
và tổ chức thực hiện trong nội bộ đơn vị kế toán các cơ chế, chính sách, quy
trình, quy định nội bộ phù hợp với quy định của pháp luật nhằm bảo đảm phòng
ngừa, phát hiện, xử lý kịp thời rủi ro và đạt được yêu cầu đề ra. Đơn vị kế toán
phải thiết lập hệ thống KSNB trong đơn vị để tài sản của đơn vị được bảo đảm
an toàn, tránh sử dụng sai mục đích, không hiệu quả, các nghiệp vụ được phê
duyệt đúng thẩm quyền và được ghi chép đầy đủ làm cơ sở cho việc lập và trình
bày báo cáo tài chính trung thực, hợp lý. Bên cạnh đó, khái niệm kiểm toán nội
bộ vẫn còn mờ nhạt, đặc biệt là đối với các trường ĐHCL. Hiện nay, mới có
một số văn bản đã nhắc đến “kiểm toán nội bộ” trong đơn vị sự nghiệp. Cụ thể
là ở Điều 38 Nghị định số 60/2021/NĐ-CP ngày 21/6/2021 quy định cơ chế tự
chủ của ĐVSNCL quy định: “Trách nhiệm của của đơn vị sự nghiệp công: Xây
dựng và tổ chức thực hiện quy chế chi tiêu nội bộ, quy chế sử dụng tài sản, quy
chế dân chủ cơ sở, quy chế công khai tài chính, kiểm toán nội bộ theo quy định”.
Tiếp theo văn bản có tính pháp lý cao hơn là ở Điều 39 Luật kế toán số
88/2015/QH13 đã quy định: “Kiểm toán nội bộ là việc kiểm tra, đánh giá, giám
sát tính đầy đủ, thích hợp và tính hữu hiệu của KSNB”. Tuy nhiên đến thời
điểm này Chính phủ vẫn chưa có văn bản quy định chi tiết về KSNB và kiểm
toán nội bộ trong đơn vị sự nghiệp nên các trường ĐHCL vẫn chưa có đủ căn
cứ pháp lý để tổ chức bộ máy kiểm toán nội bộ trong nhà trường. Chính vì vậy
nên trong thời gian vừa qua chưa có trường ĐHCL nào có bộ phận kiểm toán
nội bộ thực hiện chức năng tư vấn và hỗ trợ cho nhà quản lý một cách chính
59
thức và chuyên nghiệp.
2.2.3. Thực trạng quản lý chi tại các trường đại học công lập khối
ngành kinh tế
2.2.3.1. Lập kế hoạch chi
* Xây dựng định mức chi:
Xây dựng định mức chi là một công việc cần thiết và quan trọng và bắt
buộc đối với các trường ĐHCL khối ngành kinh tế. Hiện nay các trường đã xây
dựng định mức chi tiêu và được cụ thể hóa trong Quy chế chi tiêu nội bộ. Hệ
thống định mức chi bao gồm định mức về lượng và định mức về tiền. Các
trường ĐHCL khối ngành kinh tế đã xây dựng Quy chế chi tiêu nội bộ để công
khai các định mức cho toàn thể cán bộ công chức viên chức trong trường và
gửi cho các cơ quan chức năng của nhà nước để kiểm soát chi. Một số trường
ĐHCL khối ngành kinh tế còn công khai Quy chế chi tiêu nội bộ trang trên web
của trường.
Các trường ĐHCL khối ngành kinh tế tổ chức xây dựng Quy chế chi tiêu
nội bộ đều thành lập tiểu ban xây dựng Quy chế chi tiêu nội bộ do Phòng kế
hoạch tài chính làm đầu mối và các thành viên bao gồm các đơn vị chức năng
như đào tạo, tổ chức cán bộ, khoa học đối ngoại... đại diện của tổ chức công
đoàn và các chuyên gia trong từng lĩnh vực tùy theo từng trường. Các thành
viên làm việc không thường xuyên, được huy động làm việc theo từng thời kỳ
xây dựng hoặc hoàn thiện Quy chế chi tiêu nội bộ. Quy chế xây dựng xong
được toàn thể cán bộ công chức tham gia góp ý. Sau đó tiểu ban sẽ xem xét
hoàn thiện trước khi trình Hiệu trưởng ký ban hành.
Nội dung các định mức chi cụ thể và cơ sở xây dựng thường bao gồm:
- Hệ thống định mức về lượng:
Định mức về lượng được xây dựng cho các công việc đã lượng hóa được
theo chuẩn quy định của Nhà nước như định mức giờ làm việc theo nhiệm vụ
60
như giảng lý thuyết, thực hành, hướng dẫn sinh viên tốt nghiệp, chấm bài... của
giảng viên quy đổi theo giờ giảng chuẩn, định mức NCKH của giáo viên theo
nhiệm vụ NCKH như bài báo, công trình NCKH, viết giáo trình, sách chuyên
khảo, tham khảo... được quy đổi ra giờ chuẩn NCKH.
Đối với cán bộ quản lý giáo dục do không lượng hóa được công việc
bằng định mức quy chuẩn nên phần lớn các trường kiểm soát khối lượng công
việc của nhóm này bằng thời gian làm việc và khối lượng công việc chuẩn theo
từng chức danh.
- Hệ thống định mức về tiền:
Trên cơ sở định mức về lượng xác định định mức về tiền, các định mức
chi được cụ thể cho từng công việc, định mức chi của các trường không giống
nhau căn cứ vào nguồn tài chính và điều kiện quản lý tại từng trường để quyết
định, song các định mức cụ thể tại các mẫu nghiên cứu bao gồm: Nhóm định
mức chi thanh toán cá nhân (như định mức tiền lương và các khoản phụ cấp
lương, thu nhập tăng thêm cho cá nhân…); Nhóm định mức chi quản lý hành
chính (như định mức chi hội nghị, hội thảo, định mức chi tiền tàu xe, phụ cấp
lưu trú, thuê phòng nghỉ,hỗ trợ cước phí điện thoại phục vụ công tác điều hành
quản lý, khoán văn phòng phẩm, khoán xăng dầu…); Nhóm định mức chi
nghiệp vụ chuyên môn (như định mức chi phí tuyển sinh, định mức chi cho
công tác thi tốt nghiệp, định mức chi công tác biên soạn giáo trình, tài liệu, định
mức chi thanh toán vượt định mức giảng dạy, định mức chi hướng dẫn luận án,
luận văn cao học, khóa luận, chuyên đề, định mức kinh phí NCKH cho các đề
tài, chi cho công việc nghiệm thu đề tài NCKH, định mức chi hoạt động NCKH
của sinh viên, định mức hỗ trợ cán bộ, công chức học cao học, nghiên cứu sinh
trong nước theo quyết định của trường, đi học tập bồi dưỡng ngắn hạn, dự Hội
nghị cấp trên triệu tập… ); Nhóm định mức về trích lập và sử dụng các quỹ
(như định mức chi khen thưởng, định mức chi tiền các ngày lễ, tết trong năm
61
cho cán bộ công chức... ); Nhóm định mức chi cho các hoạt động khác (như
định mức chi hỗ trợ kinh phí hoạt động của tổ chức Đảng và các tổ chức chính
trị - xã hội, chi hỗ trợ kinh phí hoạt động đối với tổ chức Hội đồng trường, chi
hỗ trợ hoạt động học tập, sinh hoạt chính trị, công tác tuyên truyền…).
* Xây dựng kế hoạch chi
Về cơ bản kế hoạch chi của các trường ĐHCL khối ngành kinh tế được
xây dựng khá đầy đủ nhưng chủ yếu vẫn sử dụng phương pháp lập kế hoạch
dựa vào quá khứ. Kế hoạch chi ngân sách được xây dựng chi tiết hàng năm trên
cơ sở nguồn thu các trường tự cân đối giữa thu và chi. Kế hoạch chi ngân sách
được xây dựng tổng quát và chi tiết theo từng nhiệm vụ, chẳng hạn như nhiệm
vụ đào tạo ĐH được xây dựng chi tiết theo nhiệm vụ chi thanh toán cá nhân,
chi nhiệm vụ chuyên môn, chi xây dựng mua sắm, chi khác. Các khoản chi
được xây dựng trên cơ sở dự đến từng nội dung chi và định mức chi dự kiến
hoặc trên cơ sở số liệu năm trước ước đoán tỷ lệ phát triển của từng khoản chi
(căn cứ vào số liệu thực tế từ các năm trước tính trên tỷ lệ phát triển trung bình).
Về cơ bản, các trường ĐHCL khối ngành kinh tế đều sử dụng phương pháp lập
kế hoạch dựa vào quá khứ. Các dự toán chi tiết:
- Dự toán chi thanh toán cho cá nhân theo mục lục ngân sách: Các khoản
thanh toán cho cá nhân theo mục lục ngân sách bao gồm chi tiền lương và các
khoản phụ cấp lương theo quy định; thu nhập tăng thêm của trường; tiền lương
làm thêm giờ. Trên cơ sở kế hoạch hoạt động từng giai đoạn, chi tiết theo từng
năm học và định mức các khoản chi cho cá nhân, trường xây dựng dự toán
thanh toán cho cá nhân từ hai nguồn: nguồn NSNN cấp và nguồn thu được để
lại đơn vị sử dụng theo chế độ quy định.
- Dự toán chi phục vụ chuyên môn nghiệp vụ tại các khoa, phòng, ban,
đơn vị trực thuộc trường: Trên cơ sở dự toán chi tổng thể theo từng nhiệm vụ
của năm kế hoạch, khi thực hiện nhiệm vụ, các đơn vị lập dự toán chi cho từng
62
nhiệm vụ như Dự toán chi tuyển sinh, dự toán chi đi công tác, dự toán chi hội
nghị… được bộ phận chức năng và Ban giám hiệu phê duyệt là căn cứ để thực
hiện nhiệm vụ và quyết toán.
- Dự toán chi thực hiện nhiệm vụ KHCN: Từng nhiệm vụ KHCN khi
thực hiện đều có dự toán, đối với đề tài NCKH các cấp dự toán được lập căn
cứ vào từng nội dung và định mức chi cho từng khoản, các đề tài cho Nhà nước
cấp kinh phí căn cứ định mức chi KHCN theo quy định, các đề tài từ nguồn
kinh phí tự chủ của nhà trường có thể căn cứ vào định mức, nhà trường có thể
quyết định mức chi tăng hay giảm tùy theo yêu cầu quản lý. Dự toán chi được
xây dựng từ khi các chủ nhiệm đề tài làm thuyết minh đề tài, đây là căn cứ để
thanh quyết toán các đề tài. Đối với hội thảo KHCN và các nội dung chi khác
đều xây dựng dự toán trước khi thực hiện nhiệm vụ, các hội thảo KHCN do
kinh phí NSNN cấp lập dự toán căn cứ vào nội dung hội thảo và định mức chi
hiện hành; các hội thảo KHCN và nhiệm vụ KHCN khác do nguồn kinh phí tự
chủ căn cứ vào quy chế chi tiêu nội bộ của Trường để lập dự toán chi.
- Dự toán chi thực hiện hoạt động sản xuất dịch vụ: Hoạt động sản xuất
dịch vụ chủ yếu là liên kết đào tạo và các lớp cấp chứng chỉ, đào tạo ngắn hạn,
toàn bộ các hoạt động này đều xây dựng dự toán từ trước khi thực hiện nhiệm
vụ. Dự toán thu, chi thực hiện hoạt động dịch vụ được xây dựng cho từng hoạt
động dịch vụ, từng lớp học… Dự toán là cơ sở để thực hiện kiểm soát chi phí
đối với từng lớp học, dịch vụ do đơn vị thực hiện.
- Dự toán chi đầu tư phát triển, tăng cường cơ sở vật chất: Thực hiện các
chương trình mục tiêu quốc gia về tăng cường cơ sở vật chất trường học, đưa
tin học vào nhà trường, trên cơ sở khảo sát thực trạng cơ sở vật chất hiện có và
yêu cầu sử dụng của trường, trường lập phương án đầu tư (bao gồm cả dự toán
kinh phí đầu tư) trình Bộ phê duyệt. Trong đó, dự toán đầu tư được xây dựng
theo Công văn của Bộ GD&ĐT về hướng dẫn xây dựng dự toán chi đầu tư phát
63
triển và nhu cầu đầu tư cho từng hạng mục, công trình, chương trình mục tiêu
quốc gia cụ thể. Khi phương án đầu tư được Bộ phê duyệt, căn cứ vào tiến độ
thực hiện dự án, bộ phận kế hoạch tài chính sẽ xây dựng dự toán chi đầu tư cho
từng giai đoạn.
2.2.3.2. Tổ chức xác định chi phí
Từ đặc thù sản phẩm của các cơ sở GDĐH không chỉ là số lượng và chất
lượng sinh viên tốt nghiệp ra trường hàng năm mà còn bao gồm cả số lượng và
chất lượng các đề tài KHCN đang thực hiện, đã hoàn thành... Do vậy, các
trường không áp dụng một phương pháp xác định chi phí nào làm chuẩn mà
tùy thuộc vào từng loại dịch vụ và kết quả sản phẩm dịch vụ cung ứng mà
phương pháp xác định chi phí được áp dụng là khác nhau.
+ Đối với nguồn kinh phí từ NSNN cấp cho hoạt động sự nghiệp theo
nhiệm vụ thường xuyên Nhà nước giao cho đơn vị là chi cho sự nghiệp đào tạo
ĐH, sau ĐH, khoản chi này được xác định vào nội dung “Chi phí hoạt động
thường xuyên giao tự chủ” chi tiết theo năm tài chính, đồng thời hạch toán theo
loại, khoản, mục trong mục lục ngân sách. Phương pháp xác định chi hoạt động
áp dụng cho hoạt động sự nghiệp là xác định chi phí theo quá trình hoạt động,
toàn bộ khoản chi cho các nhiệm vụ khi phát sinh căn cứ vào chứng từ gốc như
giấy rút dự toán, bảng thanh toán lương, phiếu chi, ủy nhiệm chi và các chứng
từ gốc liên quan...
+ Đối với khoản chi theo chương trình, dự án, đơn đặt hàng, XDCB theo
nhiệm vụ nhà nước giao như nhiệm vụ KHCN, chương trình mục tiêu quốc gia,
chi kinh phí ủy quyền, chi XDCB... , là khoản chi không giao tự chủ, đơn vị
không được phép tự chủ nội dung chi theo từng nhiệm vụ. Định mức chi cũng
như thủ tục chi phải tuân thủ theo quy định của Nhà nước và tiền được kiểm
soát chi qua kho bạc Nhà nước. Quá trình ghi nhận và xác định chi phí được
64
thực hiện theo từng công việc. Kế toán các trường theo dõi vào nội dung “Chi
phí không giao tự chủ” chi tiết theo kỳ kế toán năm đồng thời chi tiết theo loại,
mục, khoản theo mục lục ngân sách theo yêu cầu kiểm soát của Nhà nước.
+ Đối với hoạt động sản xuất dịch vụ như KHCN, hoạt động liên kết đào
tạo theo dự án, khóa đào tạo cấp chứng chỉ thì áp dụng phương pháp xác định
chi phí theo công việc. Khi đó, kiểm soát chi phí thực hiện theo từng đề tài,
từng nhiệm vụ KHCN, theo từng dự án, từng khóa đào tạo... Theo báo cáo quyết
toán kinh phí năm 2022 của các trường ĐH Ngoại thương, Viện ĐH Mở Hà
Nội, Trường ĐH Tài chính - QTKD thì kế toán hoạt động này là hoạt động sản
xuất dịch vụ được theo dõi vào nội dung “Chi phí hoạt động sản xuất kinh
doanh”, mở chi tiết theo từng dự án, từng hợp đồng hoặc từng khóa đào tạo
đồng thời chi tiết chi phân loại theo nội dung kinh tế và phân loại chi phí trực
tiếp và chi phí chung.
Bên cạnh đó, phần lớn các trường chưa tính được đầy đủ chi phí, đặc biệt
là chi phí về cơ sở vật chất. Do đặc thù hệ thống kế toán hiện tại của các trường
ĐHCL được thực hiện trên cơ sở kế toán tiền mặt có điều chỉnh nên phần lớn
chi phí khấu hao cơ sở vật chất không có trong giá phí, thay vào đó chi phí đầu
tư mới hàng năm lại được tính toàn bộ vào chi phí hoạt động nên những năm
nào đầu tư ít thì quy mô chi phí chung thấp, những năm nào đầu tư nhiều thì
quy mô chi phí chung cao làm cho thông tin cung cấp cho người quản lý là
không có độ xác thực cao.
2.2.3.3. Kiểm tra kiểm soát, đánh giá các khoản chi
a. Xác định các trung tâm trách nhiệm trong các trường ĐHCL khối
ngành kinh tế để kiểm soát chi phí
Mặc dù các trường đều có nhu cầu cao trong việc kiểm soát chi phí, và
kiểm soát chi phí tương đối tốt, tuy nhiên vẫn chưa vận dụng trung tâm trách
nhiệm để phát huy tối đa hiệu quả kiểm soát chi phí. Khái niệm TT trách nhiệm
65
là một lĩnh vực khá mới mẻ, đặc biệt là đối với các trường ĐHCL hoạt động đa
ngành, đa cấp bậc, có cơ cấu tổ chức gắn với trách nhiệm của nhiều đơn vị, cá
nhân. Hầu hết các trường đều chưa nhận thức được về nội dung, phạm vi, cũng
như chức năng của TT trách nhiệm một cách rõ ràng. Chi phí mang nặng tính
bao cấp, bình quân và chủ yếu dựa vào các yếu tố “đầu vào” nên chưa gắn kết
giữa kết quả sử dụng nguồn lực NSNN với kết quả, hiệu quả thực hiện nhiệm
vụ. Đối với phương thức đánh giá trách nhiệm quản lý của các trường, do các
trường chưa phân chia cơ cấu tổ chức thành từng TT trách nhiệm mà thực hiện
quản lý dựa vào chức năng nhiệm vụ được phân công cho từng đơn vị trong
trường theo Quy chế hoạt động của trường nên nhà quản lý cấp cao chỉ đánh
giá một cách chung chung bằng hình thức xếp loại thi đua với thang đo hoàn
thành tốt nhiệm vụ, hoàn thành nhiệm vụ, chưa hoàn thành nhiệm vụ. Các
trường chưa thiết lập được hệ thống thang đo để động viên, khuyến khích các
nhà quản lý bộ phận tích cực hoàn thành nhiệm vụ, chưa thiết lập báo cáo trách
nhiệm để cung cấp thông tin cho các nhà quản lý kiểm soát, điều chỉnh hành vi
của mình cho phù hợp với mục tiêu chung của toàn đơn vị.
b. Hệ thống kiểm soát nội bộ, kiểm toán nội bộ
Hệ thống KSNB của các trường ĐHCL khối ngành kinh tế hiện nay hoạt
động chưa thực sự hiệu quả, chưa thành lập bộ phận kiểm toán nội bộ trong
trường ĐHCL khối ngành kinh tế. Để kiểm soát chi phí, việc thiết lập các chính
sách và thủ tục kiểm soát chính là nhân tố quyết định đến sự vận hành và liên
tục của hệ thống KSNB. Đồng thời với việc thiết lập các chính sách và thủ tục
kiểm soát, để kiểm soát chi phí, việc thiết lập bộ phận kiểm toán nội bộ trong
trường ĐHCL là rất quan trọng. Bộ phận kiểm toán nội bộ sẽ giám sát, kiểm
tra và đánh giá một cách thường xuyên về toàn bộ hoạt động của đơn vị, trong
đó có cả hệ thống KSNB giúp cho đơn vị kiểm soát được chặt chẽ các khoản
chi, giúp cho việc thực hiện chi được đúng đắn, đầy đủ, tiết kiệm, hiệu quả. Tuy
66
nhiên, bộ phận kiểm toán nội bộ hiện nay chưa có trường ĐHCL nào thành lập.
c. Hệ thống báo cáo kế toán quản trị chi phí
Các trường ĐHCL khối ngành kinh tế đang thực hiện đầy đủ hệ thống
báo cáo tài chính theo quy định của Nhà nước chứ chưa thực hiện hệ thống báo
cáo kế toán quản trị chi phí. Nhiều trường hiện nay, đặc biệt là các trường quy
mô lớn đều tiến hành phân cấp quản lý tài chính, và do đó có nhiều TT trách
nhiệm trong trường ĐH. Mỗi bộ phận dịch vụ, lao động - sản xuất trong trường
có thể coi là một TT lợi nhuận hoặc TT chi phí. Ví dụ: KTX sinh viên là một
TT chi phí; bộ phận căng tin là một TT lợi nhuận; mỗi TT tư vấn, đào tạo ngắn
hạn là một TT lợi nhuận; mỗi DN trực thuộc trường là một TT đầu tư. Mặc dù
việc phân cấp tài chính trong các trường tương đối rõ ràng nhưng các trường
hầu như chưa lập các báo cáo kế toán quản trị chi phí (báo cáo kết quả hoạt
động của các đơn vị trực thuộc, báo cáo đánh giá tình hình thực hiện dự toán
của các đơn vị trực thuộc…) để đánh giá hoạt động của các đơn vị trực thuộc
này. Các trường ĐH đang thực hiện đầy đủ hệ thống báo cáo tài chính theo quy
định của Nhà nước chứ chưa thực hiện hệ thống báo cáo kế toán quản trị chi
phí mặc dù qua bảng câu hỏi hầu hết các trường đều có nhu cầu về báo cáo
phản ánh biến động, kết quả và nguyên nhân hoạt động cho từng bộ phận, tuy
nhiên họ lại sử dụng các báo cáo chưa phù hợp với yêu cầu. Điều này ảnh hưởng
đến hiệu quả hoạt động của các đơn vị trực thuộc và ảnh hưởng tới nguồn thu
chung của toàn trường.
2.2.4. Thực trạng quản lý tài sản tại các trường đại học công lập khối
ngành kinh tế
Những năm gần đây, Đảng và Nhà nước đã quan tâm đầu tư cho giáo
dục đào tạo, xây dựng cơ sở vật chất, tăng cường trang thiết bị… cho các trường
ĐHCL. Nhiều trường được hưởng nguồn đầu tư từ dự án nước ngoài đã có thêm
cơ sở vật chất như phòng thí nghiệm, phòng học ngoại ngữ, hệ thống máy vi
67
tính… Nhìn chung, cơ sở vật chất phục vụ đào tạo các trường đã được cải thiện
Bảng 2.2: Cơ sở vật chất của 3 trường năm học 2022 - 2023: ĐH Ngoại
thương, ĐH Mở Hà Nội, ĐH Tài chính - QTKD
TT
Nội dung
Đơn vị tính
ĐH Mở Hà Nội
ĐH Tài chính - QTKD
I Diện tích đất đai II Diện tích sàn xây dựng 1 Giảng đường Số phòng Tổng diện tích 2 Phòng học máy tính
Số phòng Tổng diện tích
3 Phòng học ngoại ngữ
Số phòng Tổng diện tích
4 Thư viện 5 Phòng thí nghiệm
m2 m2 phòng m2 phòng m2 phòng m2 m2 phòng m2
Số phòng Tổng diện tích
6 Xưởng thực tập, thực
ĐH Ngoại thương (Cơ sở Hà Nội) 22.050 90 30.510 06 391 03 186 3.045
12.492 121 9.755 16 919 15 663 957 7 500
20.800 95 12.271 05 210 12 905 910
phòng m2
hành Số phòng Tổng diện tích
7 2.053
10 1.110
phòng m2
7 Ký túc xá thuộc cơ sở đào tạo quản lý Số phòng Tổng diện tích 8 Diện tích nhà ăn của
125 7.973 1.000
328
178 7.150 385
cơ sở đào tạo
9 Diện tích khác:
400 401 2.240
1.186
1.420 875
m2 m2 Diện tích hội trường Diện tích nhà văn hóa m2 Diện tích nhà thi đấu đa năng Diện tích bể bơi Diện tích sân vận động
m2 m2 m2
1.115
Nguồn: Biểu mẫu 22 - Công khai cơ sở vật chất năm học 2022-2023 của 3 trường
68
một bước nhưng vẫn chưa đảm bảo cho các trường đáp ứng nhu cầu học tập và
nghiên cứu. Do nhu cầu học tập của xã hội ngày càng gia tăng, yêu cầu của
công cuộc đổi mới kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế đặt ra nhiều vấn đề mới,
do đó tình trạng thiếu giảng đường, phòng học cho sinh viên, thiếu phòng làm
việc của giảng viên, thiếu giáo trình, tài liệu, thiếu phương tiện học tập vẫn còn
phổ biến ở hầu hết các trường ĐHCL. Chương trình đào tạo lạc hậu và không
hội nhập được lĩnh vực đào tạo quốc tế. Thực tế cho thấy, nguồn đầu tư của
Nhà nước cho các chương trình ĐH về lĩnh vực này thông qua các chương trình
mục tiêu còn rất hạn hẹp. Những năm gần đây tỷ lệ đầu tư cho các chương trình
mục tiêu chiếm khoảng 5,5 - 5,8% tổng chi NSNN và khoảng 2 - 3% tổng chi
toàn xã hội cho các trường ĐHCL. Với tỷ lệ đầu tư đó, các trường ĐHCL khó
có khả năng nghiên cứu để xây dựng và hoàn thiện hệ thống chương trình, giáo
trình, có được hệ thống học liệu hiện đại, cập nhật tình hình trong nước và quốc
tế.
Trong 3 trường ĐHCL tác giả khảo sát thì Trường ĐH Ngoại thương và
Trường ĐH Tài chính - QTKD có diện tích đất và diện tích phòng học lớn hơn
Trường ĐH Mở Hà Nội. Mặc dù Trường ĐH Tài chính - QTKD là trường ĐH
còn “non trẻ” nhưng do địa điểm đặt ở Hưng Yên nên cũng được tạo điều kiện
cấp đất đảm bảo cho việc đào tạo (Bảng 2.2). Trường ĐH Mở Hà Nội là trường
có hệ thống cơ sở vật chất kém nhất. Với diện tích đất được cấp quá nhỏ hẹp
(1.962m2) nên trường chỉ đặt các phòng ban để làm việc. Toàn bộ phòng học
và phòng làm việc của các khoa đều phải đi thuê. Chi phí thuê nhà hàng năm
trung bình khoảng 15 tỷ đồng (chiếm khoảng 8% tổng chi của đơn vị).
2.2.4.1. Thực trạng quản lý quá trình hình thành tài sản
Nhìn chung, hoạt động trang cấp tài sản tại các trường ĐHCL khối ngành
kinh tế được thực hiện theo các quy định của pháp luật về đấu thầu mua sắm,
69
XDCB, các quy định về trình tự thủ tục tiếp nhận tài sản được cấp phát, điều
chuyển và quy chế tài chính, theo đúng định mức, tiêu chuẩn sử dụng. Nhờ có
sự cạnh tranh giữa các nhà thầu mà hiệu quả kinh tế đã cao hơn, tiết kiệm được
chi phí và nâng cao sự cạnh tranh lành mạnh giữa các nhà thầu với nhau.
Mặc dù ở các trường ĐHCL khối ngành kinh tế, công tác kế hoạch liên
quan đến mua sắm sửa chữa vẫn được lập định kỳ hàng năm, tuy nhiên kế hoạch
này thường không có sự điều chỉnh trong năm và chỉ điều chỉnh vào cuối mỗi
năm để phục vụ công tác lập kế hoạch năm sau. Chính vì vậy, đôi khi công tác
mua sắm trang thiết bị chưa bám sát kế hoạch, xảy ra tình trạng phát sinh dự
toán nhiều làm bị động khả năng tài chính.
Quy trình hiện chưa thật sự xem trọng các bước xác định và đánh giá nhu
cầu tài sản, sự cần thiết phải mua sắm tài sản, đánh giá tính năng kỹ thuật, công
suất thiết kế… phù hợp với nhu cầu, chưa cân đo đong đếm giữa chi phí bỏ ra
và lợi ích khai thác từ tài sản, nên có thể dẫn đến tình trạng hàng mua về không
khai thác sử dụng được hoặc sử dụng không đạt hiệu quả.
Quy trình hiện nay các trường đang sử dụng có sẵn các “chốt” kiểm soát,
tuy nhiên các chốt kiểm soát này đôi khi chưa thực sự phát huy hiệu lực. Bộ
phận tham gia thực hiện mua hàng là Phòng Quản trị Thiết bị và cũng chính
phòng này theo dõi lập báo cáo, nghiệm thu bàn giao do đó có khả năng tạo ra
sự thông đồng với bên trong và bên ngoài gây thiệt hại cho lợi ích tập thể. Nếu
xét trên nguyên lý của tam giác gian lận thì chu trình này làm nảy sinh cơ hội
cho một trong ba đỉnh của tam giác gian lận. Hơn nữa, cách làm như vậy cũng
vi phạm nguyên tắc bất kiêm nhiệm.
Bên cạnh đó, trong quá trình thực hiện xây dựng, mua sắm tài sản vi
phạm về quản lý thực hiện thường xuyên xuất hiện ở các công đoạn sau:
- Lập và trình duyệt kế hoạch đấu thầu: Kế hoạch đấu thầu của một gói
thầu hoặc dự án do người có thẩm quyền phê duyệt dựa trên báo cáo của chủ
70
đầu tư. Nội dung của kế hoạch đấu thầu đóng vai trò quan trọng trong định
hướng, trong quá trình lựa chọn nhà thầu. Một kế hoạch đấu thầu có nội dung
tốt, phù hợp với pháp luật và tạo ra các cuộc cạnh tranh lành mạnh khi người
có thẩm quyền có được bộ máy giúp việc có năng lực và bản thân người có
thẩm quyền có kiến thức về nội dung mình phê duyệt. Nếu không chủ đầu tư là
đơn vị lập kế hoạch đấu thầu, họ sẽ tính toán để đưa vào nội dung những phần
có lợi nhất. Vi phạm trong bước lập kế hoạch đấu thầu thường được biểu hiện
trong việc lựa chọn áp dụng các hình thức lựa chọn nhà thầu, điều kiện này tạo
cơ hội để chủ đầu tư thực hiện các ý đồ riêng trong việc lựa chọn nhà thầu.
- Hồ sơ mời thầu: giống như kế hoạch đấu thầu, hồ sơ mời thầu do bên
mời thầu lập để chủ đầu tư trình người có thẩm quyền phê duyệt. Hồ sơ mời
thầu là toàn bộ yêu cầu cho một gói thầu làm căn cứ pháp lý để các nhà thầu
chuẩn bị hồ sơ dự thầu và để bên mời thầu đánh giá hồ sơ dự thầu. Nếu coi đấu
thầu là một cuộc thi thì hồ sơ mời thầu chính là đề thi. Vi phạm bước lập hồ sơ
mời thầu thường biểu hiện ở chỗ: đưa ra các yêu cầu cao hoặc không bình
thường nhằm định hướng cho đối tác đã xác định trước, hạn chế cạnh tranh gây
thiệt hại cả về kinh tế và xã hội, đưa vào hồ sơ mời thầu những nội dung trái
luật như: tên, mác, nhãn hiệu, xuất xứ hàng hóa, đưa ra chỉ tiêu đánh giá hồ sơ
dự thầu không rõ ràng, mập mờ dễ bề thao túng trong bước đánh giá.
- Đánh giá hồ sơ dự thầu: Vi phạm trong bước này chính là việc đánh giá
hồ sơ dự thầu không tuân thủ các quy định về mua sắm của pháp luật, nhiều tổ
chuyên gia đánh giá hồ sơ dự thầu chỉ làm được một việc duy nhất là hợp thức
hóa việc trúng thầu cho nhà thầu.
- Công đoạn thẩm định: Thẩm định là công việc rà soát lại về tính pháp
lý, sự hợp lý và quy định lựa chọn nhà thầu, quy định xây dựng kế hoạch đấu
thầu, quy trình xây dựng hồ sơ mời thầu trong hoạt động mua sắm trước khi
người có thẩm quyền phê duyệt kết quả đấu thầu, kế hoạch đấu thầu, hồ sơ mời
71
thầu. Vi phạm thường thấy trong khâu này là không phát hiện được điều bất
thường, bất hợp lý và không còn phù hợp với pháp luật của các văn bản trình.
Nhiều cơ quan thẩm định còn cố tìm cách hợp lý những sai trái để vừa lòng chủ
đầu tư.
Hầu hết các sai phạm trong hoạt động mua sắm tài sản đều gắn liền với
lợi ích cá nhân tham gia, song chế tài chưa đủ mạnh nên vi phạm vẫn thường
xuyên xảy ra và không bị xử lý.
2.2.4.2. Thực trạng quản lý quá trình sử dụng tài sản
Tại các trường ĐHCL, việc quản lý tài sản mới chỉ dừng lại ở việc khai
thác và bảo quản những tài sản hữu hình. Các trường sử dụng một số biện pháp
như: kiểm kê định kỳ, bảo dưỡng… Song việc quản lý và khai thác sử dụng hệ
thống tài sản này cũng chưa được hiệu quả. Cách thức khai thác không hiệu
quả, thực trạng kiểm tra, giám sát của Nhà nước còn lỏng lẻo, chưa có quy trình
cụ thể. Một số trường với chỉ tiêu tuyển sinh cao, kinh nghiệm đào tạo lớn thì
hệ thống phòng học, giảng đường và nơi làm việc không đủ.
Đối với các trường ĐH, hệ thống bài giảng, giáo trình, công trình NCKH
là loại tài sản có giá trị, song việc khai thác hay quản lý bản quyền tác giả chưa
chú trọng. Đối với hệ thống trang thiết bị máy móc về cơ bản đã được sử dụng
hiệu quả phục vụ cho hoạt động đào tạo của các trường, song đối với một số
trường tự đảm bảo một phần chi thường xuyên thì việc quản lý tài sản dường
như chưa thực sự hiệu quả.
- Về lập hồ sơ, quản lý tài sản:
Nhìn chung, hoạt động bàn giao tài sản được thực hiện nghiêm chỉnh
đúng quy định của Nhà nước như thành lập Hội đồng giao nhận tài sản với đầy
đủ thành phần quy định, các bước tiếp nhận và kiểm tra tài sản được thực hiện
nghiêm túc.
Đối với cán bộ chuyển công tác, việc bàn giao tài sản hầu như chưa được
72
thực hiện nghiêm chỉnh. Người tiếp nhận tài sản thường không thực hiện kiểm
tra thiết bị chi tiết dẫn tới nhiều vướng mắc trong quá trình sử dụng sau đó ví
dụ như hư hỏng, cấu hình bị thay đổi.. Nguyên nhân một phần do ý thức của
người sử dụng và một phần do chưa có hướng dẫn cụ thể của đơn vị đối với
hoạt động bàn giao này.
Các tài sản trước khi bàn giao cho đơn vị, bộ phận, cá nhân sử dụng
thường được dán nhãn. Nếu đơn vị sử dụng tiếp nhận bàn giao từ nhà cung cấp
thì trường sẽ thông báo mã hiệu tài sản cho đơn vị để đơn vị tự in và dán nhãn.
Đối với hoạt động điều chuyển nội bộ, hiện nay các bộ phận trong trường
thường không báo cáo cụ thể về hiện trạng dư thừa và nhu cầu sử dụng tài sản
của mình nên trường đã không có phương án điều chuyển kịp thời. Vì vậy, đã
có hiện tượng lãng phí trong mua sắm, sử dụng vì có những tài sản không được
sử dụng thường xuyên thường xuống cấp và hư hỏng rất nhanh.
Việc tổ chức, sắp xếp thời gian biểu học tập, thi cử chưa hợp lý, vẫn còn
để trống thời gian rất nhiều dẫn tới tình trạng công suất hoạt động của tài sản
trong trường chưa được tận dụng triệt để. Phòng Hành chính - Quản trị chưa
được thực hiện hoàn toàn chức năng quản lý tài sản của mình.
- Về xây dựng và ban hành nội quy, quy chế quản lý tài sản:
Phần lớn các trường đều xây dựng và thực hiện Quy chế quản lý tài sản.
Trong 3 trường tác giả khảo sát chỉ có 1 trường xây dựng quy chế quản lý tài
sản là Trường ĐH Ngoại thương, còn Trường ĐH Mở Hà Nội và trường ĐH
Tài chính - QTKD chưa xây dựng. Trong Quy chế đã đưa vào khá đầy đủ những
nội dung quan trọng như: Quy định cụ thể quyền và nghĩa vụ của từng bộ phận,
cá nhân có liên quan đến đầu tư xây dựng, mua sắm, tiếp nhận, thuê, sử dụng,
thu hồi, điều chuyển, bán, thanh lý, tiêu huỷ tài sản; lập, quản lý, lưu trữ hồ sơ
tài sản; bảo vệ tài sản; bảo dưỡng, sửa chữa tài sản; kiểm kê, kiểm tra tài sản
phù hợp với pháp luật hiện hành; Trách nhiệm bàn giao tài sản khi thay đổi tổ
73
chức bộ máy, thay đổi người đứng đầu; Xử lý đối với các tổ chức, cá nhân vi
phạm Quy chế… Tuy nhiên, việc áp dụng quy chế chưa mang lại hiệu quả như
mong muốn. Nhiều cán bộ giảng viên không biết đến Quy chế hoặc biết nhưng
không thực hiện theo quy định dẫn đến nhiều sai sót trong quản lý tài sản tại
đơn vị.
Bên cạnh đó, nội dung xử phạt vi phạm đối với các tổ chức, cá nhân vi
phạm quy chế, các trường đưa ra còn chung chung, chưa rõ ràng cụ thể mức xử
phạt cũng như hành vi bị xử phạt. Ví dụ: Trong Điều 12 - “Quy định về quản
lý, sử dụng cơ sở vật chất, tài sản của Trường ĐH Ngoại thương” quy định:
“Đơn vị và cá nhân vi phạm nội quy, quy định quản lý và sử dụng cơ sở vật
chất, tài sản của Nhà trường, tùy theo mức độ nặng nhẹ sẽ bị xử lý kỷ luật theo
quy định hiện hành” [30].
- Về tính hao mòn và trích khấu hao TSCĐ:
Công tác xác định hao mòn của TSCĐ các trường đã tuân thủ theo đúng
quy định hiện hành. Tuy nhiên, một số trường ĐHCL có sử dụng tài sản vào
mục đích kinh doanh, cung cấp dịch vụ nhưng hầu như chưa có trường nào thực
hiện việc tính và phân bổ khấu hao giữa hoạt động sự nghiệp và hoạt động dịch
vụ để thu hồi vốn.
- Về công tác bảo dưỡng, sửa chữa tài sản:
Hàng năm, các đơn vị, bộ phận trong trường lập kế hoạch duy tu, bảo
dưỡng và sửa chữa tài sản, trình Hiệu trưởng phê duyệt và triển khai thực hiện
theo kế hoạch và quy định hiện hành. Bên cạnh đó, trong quá trình sử dụng các
trang thiết bị, phương tiện làm việc nếu có hư hỏng cần sửa chữa, Trưởng đơn
vị cũng đề nghị sửa chữa. Đối với các tài sản dùng chung, người sử dụng trực
tiếp báo cáo tình hình hư hỏng cần sửa chữa, hoặc phản ánh tình trạng hư hỏng
thông qua Sổ nhật ký theo dõi sử dụng tài sản, trang thiết bị. Đơn vị quản lý tài
74
sản làm các thủ tục sửa chữa theo quy định.
Thông thường, từng lần bảo dưỡng, sửa chữa không được cập nhật vào
hồ sơ tài sản nên các trường rất khó kiểm soát chi phí bảo dưỡng sửa chữa đối
với từng tài sản từ năm này qua năm khác mà chỉ kiểm soát được chi phí của
từng lần thực hiện. Do đó, các trường ĐHCL không có điều kiện để đánh giá
hiệu quả hoạt động của từng tài sản, gây lãng phí khi tổng chi phí sửa chữa, bảo
dưỡng quá lớn mà đôi khi việc đầu tư mua mới tài sản thay thế có thể lại hiệu
quả hơn.
- Về công tác kiểm kê tài sản:
Theo quy định định kỳ mỗi năm các trường ĐHCL phải tổ chức kiểm kê
thực tế tài sản một lần vào thời điểm 0 giờ ngày 01 tháng 01. Tuy nhiên trong
thực tế do khối lượng tài sản lớn, việc kiểm kê thực hiện theo phương pháp thủ
công nên cũng còn có những trường không thực hiện đúng theo quy định này.
Trong quá trình kiểm kê, các bộ phận thực hiện tiến hành ghi chép vào các sổ
theo dõi tài sản, xác định rõ nguyên nhân hư hỏng mất mát, đề xuất biện pháp
xử lý tài sản, báo cáo với Ban kiểm kê Trường theo đúng quy định. Phòng Hành
chính - Quản trị có trách nhiệm tổ chức đối chiếu sổ sách tài sản của đơn vị với
sổ sách tài sản do trường quản lý, đề xuất các hình thức xử lý tài sản đối với
những tài sản không cần dùng hoặc hư hỏng.
2.2.4.3. Thực trạng quản lý quá trình kết thúc sử dụng tài sản
Khi tài sản hết hạn sử dụng hoặc bị hư hỏng không thể sử dụng được
hoặc việc sửa chữa không có hiệu quả, các trường ĐHCL tiến hành thủ tục
thanh lý tài sản. Tài sản được thanh lý theo các phương thức: Bán tài sản; Phá
dỡ, hủy bỏ tài sản. Việc thanh lý theo hình thức bán tài sản nhà nước được thực
hiện công khai, theo cơ chế thị trường.
2.3. Đánh giá chung thực trạng công tác quản lý tài chính tại các
trường đại học công lập khối ngành kinh tế
75
2.3.1. Kết quả đạt được
- Nhìn chung, các trường ĐHCL khối ngành kinh tế trong thời gian qua
đã có những bước thay đổi tích cực trong công tác quản lý tài chính tại của đơn
vị, đặc biệt trong nỗ lực tìm kiếm khai thác các khoản thu, mở các ngành đào
tạo có chất lượng cao, trình độ cao, nhất là các trường tự đảm bảo chi thường
xuyên. Đối với nguồn kinh phí NSNN cấp, phần lớn các trường đã thực hiện
quản lý theo đúng chu trình quản lý NSNN, đúng quy định của Nhà nước. Các
trường đã có chính sách khuyến khích các đơn vị, bộ phận, cá nhân trong trường
tăng cường tìm kiếm và thu hút các nguồn thu bằng việc quy định cụ thể trong
Quy chế chi tiêu nội bộ.
- Các trường ĐHCL khối ngành kinh tế đã thực hiện phân loại và hạch
toán chi phí chủ yếu phục vụ cho việc trình bày và báo cáo tài chính theo yêu
cầu của kế toán tài chính theo nội dung kinh tế của khoản chi theo quy định của
mục lục NSNN. Hiện nay các trường đã xây dựng định mức chi tiêu và được
cụ thể hóa trong Quy chế chi tiêu nội bộ. Về cơ bản kế hoạch chi của các trường
được xây dựng khá đầy đủ nhưng chủ yếu vẫn sử dụng phương pháp lập kế
hoạch dựa vào quá khứ. Hầu hết các trường ĐHCL mới sử dụng một số phương
pháp như phương pháp so sánh để đánh giá mức độ hoàn thành của TT chi phí,
phương pháp loại trừ để đánh giá các nhân tố ảnh hưởng đến các chỉ tiêu trong
quá trình phân tích chi phí.
- Trong quản lý tài sản của các trường ĐHCL về cơ bản là đã tuân thủ và
thực hiện đúng theo các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý, sử dụng tài
sản, thực hiện việc đầu tư, mua sắm bằng nguồn vốn NSNN theo đúng quy định,
chấp hành các chế độ quản lý đầu tư XDCB, quy chế mua sắm hiện hành góp
phần thực hiện tốt quản lý, sử dụng cơ sở vật chất của các trường. Việc đầu tư
xây dựng và mua sắm tài sản được thực hiện theo quy hoạch, kế hoạch, định
mức, tiêu chuẩn và được xác định trong dự toán NSNN hàng năm. Các trường
76
đã thực hiện việc báo cáo thống kê hàng năm, quản lý, theo dõi, ghi chép đầy
đủ trên sổ sách, tính giá trị hao mòn tài sản theo quy định, quy trình quản lý,
theo dõi và xử lý tài sản theo đúng quy định hiện hành của nhà nước.
2.3.2. Hạn chế
- Việc xác định mức thu học phí cụ thể của các trường vẫn còn chủ yếu
mang tính chất cảm tính. Việc xác định giá dịch vụ đào tạo ĐHCL ở các trường
chưa được thực hiện đầy đủ. Cách lập kế hoạch thu hiện nay các trường đang
áp dụng là chưa hoàn toàn phù hợp, việc lập kế hoạch thu chưa sát với thực tế
của đơn vị. Việc tổ chức thực hiện khai thác, huy động nguồn thu ngoài NSNN
chưa được thực hiện đồng bộ, chưa có các giải pháp phù hợp để huy động các
nguồn thu khác như từ việc hợp tác với các DN, viện trợ, tài trợ, quà biếu tặng,
huy động vay vốn và huy động vốn… Hoạt động giám sát các khoản thu còn
rất lỏng lẻo, chỉ mang tính hình thức, chưa đi vào thực chất. Trong Quy chế chi
tiêu nội bộ của các trường hầu như ít quy định về khoản thu, mức thu các hoạt
động dịch vụ, cho thuê, liên kết đào tạo… dễ gây nảy sinh tiêu cực, tham nhũng.
Văn bản quy định của Nhà nước về “Kiểm soát nội bộ” và “Kiểm toán nội bộ”
vẫn còn mờ nhạt.
- Phần lớn các trường chưa tính được đầy đủ chi phí, đặc biệt là chi phí
về cơ sở vật chất. Nhìn chung các trường ĐHCL xác định chi phí hình thành
giá dịch vụ đào tạo ĐHCL chưa chính xác, chủ yếu vẫn theo cơ sở kế toán tiền
mặt và chưa đưa chi phí khấu hao TSCĐ vào. Mặc dù các trường đều có nhu
cầu cao trong việc kiểm soát chi phí, và kiểm soát chi phí tương đối tốt, tuy
nhiên vẫn chưa vận dụng TT trách nhiệm để phát huy tối đa hiệu quả kiểm soát
chi phí. Hệ thống KSNB của các trường ĐHCL hiện nay hoạt động chưa thực
sự hiệu quả, chưa thành lập bộ phận kiểm toán nội bộ trong trường ĐHCL. Các
trường ĐH đang thực hiện đầy đủ hệ thống báo cáo tài chính theo quy định của
77
Nhà nước chứ chưa thực hiện hệ thống báo cáo kế toán quản trị chi phí.
- Trong quá trình thực hiện xây dựng, mua sắm tài sản vẫn còn có nhiều
hành vi vi phạm. Có sự nhập nhằng trong việc sử dụng tài sản được Nhà nước
trang bị phục vụ mục đích sự nghiệp với tài sản được sử dụng cho hoạt động
sản xuất kinh doanh dịch vụ hoặc có những tài sản được sử dụng đồng thời cho
cả hai mục đích nhưng không được tính và phân bổ khấu hao thu hồi vốn. Công
tác kiểm kê tài sản còn mang tính hình thức, mất nhiều thời gian. -Quy chế quản
lý tài sản chưa được phổ biến rộng rãi và phát huy vai trò hướng dẫn như yêu
cầu khi nhiều cán bộ trong đơn vị đã lúng túng vì phải xử lý những tình huống
liên quan đến quản lý tài sản do chưa đọc hướng dẫn trong quy chế như các vấn
đề bàn giao tài sản, báo hỏng, sửa chữa, bảo dưỡng, đăng ký sử dụng, mang tài
sản ra khỏi đơn vị đi triển khai thử nghiệm..
2.3.3. Nguyên nhân
- Mặc dù, kết quả đạt được rất đáng khích lệ, việc thực hiện quản lý thu
vẫn chưa thể hiện rõ tính trách nhiệm của lãnh đạo và tập thể cán bộ giảng viên
các trường ĐHCL. Cơ chế bao cấp tồn tại quá lâu cũng là nguyên nhân ăn sâu
vào người dân rằng, hoạt động giáo dục là trách nhiệm của Nhà nước. Đặc biệt,
cơ chế phân bổ NSNN chưa thể hiện được tính hiệu quả và công bằng rõ nét
khi phân bổ dàn trải cho mọi đối tượng, chưa khuyến khích sự cạnh tranh trong
các trường.
- Các thủ tục kiểm soát thu hầu hết được thiết lập từ lâu, chỉ đưa ra được
các biện pháp kiểm soát cơ bản nhất, do đó, trong nhiều trường hợp, sự kiểm
soát không tồn tại và cần phải có biện pháp bổ sung. Các quy trình kiểm soát
thu chưa thực sự quan tâm đến mặt kiểm soát hiệu quả tài chính, kiểm soát việc
thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, còn nhiều chỗ chưa chặt chẽ. Việc ban
hành các quy chế, quy trình phục vụ cho công tác kiểm soát thu còn chậm, chưa
78
đầy đủ. Các quy chế, quy trình đã được ban hành thường không chứa đựng đầy
đủ cơ chế kiểm soát, không xác định rõ trách nhiệm của từng cá nhân, bộ phận
trong thực thi nhiệm vụ.
- Do nhận thức chưa đầy đủ, tại các đơn vị vẫn chưa hiểu hết về vai trò
vị trí cũng như nội dung của loại kiểm toán nội bộ, chưa hình dung được hết
những lợi ích và rào cản mà kiểm toán nội bộ đem lại. Do lịch sử phát triển của
ngành kiểm toán nói chung và kiểm toán nội bộ nói riêng, có thể nói khái niệm
kiểm toán nội bộ còn tương đối “mới mẻ” trong nền kinh tế của nước ta.
- Do trình độ cán bộ làm kế toán còn nhiều hạn chế, nhận thức về quản
lý chi phí chưa cao nên việc triển khai ứng dụng quản lý chi phí chưa được
đồng bộ. Nhận thức của nhà quản lý trong các trường ĐHCL đối với các thông
tin tài chính trong việc ra quyết định chưa được chú trọng.
- Các trường ĐHCL là đơn vị sự nghiệp nên tuân thủ theo hệ thống kế
toán công, được xây dựng trên cơ sở tiền mặt có điều chỉnh, vì vậy nên khoản
chi hoạt động ghi nhận trong kỳ kế toán không phản ánh đầy đủ nội dung chi,
các khoản chi thực tế có thể cao hơn hoặc thấp hơn các hoạt động cung cấp dịch
vụ trong kỳ, do đó việc áp dụng lý thuyết kế toán quản trị vào các đơn vị sự
nghiệp trở nên khó khăn.
- Do đặc thù của đơn vị sự nghiệp là các khoản chi hoạt động đều phải
xây dựng dự toán và thực hiện theo dự toán, nên các trường trong mẫu nghiên
cứu đã thực hiện tương đối tốt từ các dự toán dài hạn, trung hạn, hàng năm cho
đến các vụ việc trên cơ sở công việc để xác định kinh phí. Tuy nhiên, các dự
toán được xây dựng về kinh phí tính theo thời kỳ thì phần cơ sở vật chất được
dự toán chi trên cơ sở tổng chi phí đầu tư về cơ sở vật chất cho một thời kỳ trên
cơ sở tiền mặt. Còn các dự toán cho từng dự án, hợp đồng hoặc vụ việc cụ thể
thì chi phí cơ sở vật chất vả chi phí quản lý chung được tính chủ yếu dựa vào
kinh nghiệm mà ít có nghiên cứu cụ thể để đưa ra cơ sở tính toán có căn cứ
79
khoa học.
- Chưa có các tiêu chí đánh giá kết quả quản lý tài sản công trong các
trường ĐHCL. Nội dung và phương pháp xây dựng Quy chế quản lý tài sản
chưa cụ thể, rõ ràng. Vai trò công tác kiểm tra nội bộ đối với việc quản lý tài
sản chưa phát huy tác dụng nhằm phát hiện và ngăn ngừa các sai phạm.
Tiểu kết chương 2
Khi Nhà nước thay đổi phương thức phân bổ NSNN cho các trường
ĐHCL theo các thông số đầu vào sang kết quả đầu ra, gắn với tiêu chí chất
lượng và hiệu quả thì các trường ĐH phải tự thu hút sinh viên thông qua việc
nâng cao chất lượng đào tạo và thu đủ học phí để trang trải chi phí đào tạo.
Cách làm trên sẽ dẫn đến thay đổi một cách cơ bản về quản lý tài chính đối với
các trường ĐHCL khối ngành kinh tế , các trường sẽ phải tiếp cận với phương
thức quản lý của DN, theo hướng gắn kết giữa chất lượng đào tạo với việc thu
hút học sinh và nguồn thu của trường. Việc quản lý tài chính hợp lý, khoa học
và có hiệu quả sẽ giúp các trường xác định đúng đắn nhu cầu kinh phí cần thiết
cho hoạt động của nhà trường trong từng thời kỳ, từ đó lựa chọn các phương
pháp và hình thức thích hợp để mở rộng được nguồn thu, khai thác những tiềm
năng sẵn có tạo ra ngày càng nhiều nguồn thu hợp pháp đáp ứng kịp thời nhu
cầu nguồn tài chính cho hoạt động đào tạo, NCKH nhằm thực hiện tốt mục tiêu
đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho xã hội.
Nghiên cứu đặc điểm hoạt động và tổ chức quản lý của các trường ĐHCL,
thực trạng quản lý thu, chi, tài sản trong các trường ĐHCL khối ngành kinh tế
hiện nay sẽ là cơ sở đề để ra các giải pháp nhằm hoàn thiện quản lý tài chính
80
trong các trường ĐHCL khối ngành kinh tế.
Chương 3
ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN
CÔNG TÁC QUẢN LÝ TÀI CHÍNH TẠI CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC
CÔNG LẬP KHỐI NGÀNH KINH TẾ
3.1. Định hướng phát triển công tác quản lý tài chính tại các trường
đại học công lập khối ngành kinh tế trong những năm tới
Hoàn thiện công tác quản lý tài chính tại các trường ĐHCL khối ngành
kinh tế là yêu cầu cần thiết trong việc đổi mới căn bản, toàn diện GDĐH ở nước
ta. Các định hướng phát triển công tác quản lý tài chính tại các trường ĐHCL
khối ngành kinh tế cần được thực hiện trên cơ sở quán triệt các quan điểm cơ
bản sau:
- Một là, đổi mới công tác quản lý tài chính tại các trường ĐHCL khối
ngành kinh tế theo hướng quản trị.
GDĐH ngày nay là lĩnh vực có tính cạnh tranh cao trên toàn cầu, sản
phẩm đào tạo ngày càng có tính thương mại hóa cao và nó bị ảnh hưởng với
năng lực canh tranh tương tự như các ngành nghề kinh doanh khác trong nền
kinh tế. Trong khi đó, các trường ĐHCL khối ngành kinh tế hiện đang phải đối
mặt với thách thức: tài trợ của Chính phủ giảm, cạnh tranh toàn cầu tăng, chi
phí giáo dục tăng, lợi nhuận tạo ra bị san sẻ, loại hình giáo dục truyền thống
không còn bền vững… Do đó các trường ĐHCL khối ngành kinh tế cần phải
có chiến lược và kế hoạch phát triển trong tương lai, sớm tiếp cận với phương
thức quản trị DN, thực hiện hạch toán chí phí đầy đủ để có thể tồn tại và phát
triển trong môi trường cạnh tranh trên phạm vi toàn cầu. Ngày 7/1/2021, tại Đà
Nẵng, Bộ GD&ĐT tổ chức hội nghị “Giải pháp nâng cao chất lượng GDĐH”.
Để nâng cao chất lượng đào tạo, theo Bộ trưởng Phùng Xuân Nhạ, cần đổi mới
81
quản trị ĐH, các trường ĐH phải thay đổi quan hệ với DN, chứ không thể cho
rằng ĐH có uy tín là người ta tự tìm đến, mà phải đổi từ quản lý sang quản trị,
phân định rạch ròi giữa những người làm khoa học chuyên môn và những người
làm công tác quản lý. Hiệu trưởng các trường ĐH không nhất thiết phải là giáo
sư hay tiến sĩ, mà phải là những người quản lý giỏi.
- Hai là, các trường ĐHCL khối ngành kinh tế chủ động thực hiện đa
dạng hóa nguồn tài chính đầu tư cho giáo dục đại học, khai thác triệt để các
nguồn lực từ nghiên cứu và triển khai, nguồn lực từ các dịch vụ và tư vấn,
nguồn lực ngoài nhà nước và các đầu tư của nước ngoài.
Việt Nam hiện nay đang trong điều kiện nguồn ngân sách dành cho
GDĐH còn hạn hẹp, thì việc đa dạng hóa nguồn tài chính đầu tư cho GDĐH,
khai thác triệt để các nguồn lực từ nghiên cứu và triển khai, nguồn lực từ các
dịch vụ và tư vấn, nguồn lực ngoài nhà nước và các đầu tư của nước ngoài là
một tất yếu. Các trường ĐHCL khối ngành kinh tế khai thác mọi tiềm năng, lợi
thế của trường nhằm tăng nguồn lực tài chính đầu tư như thành lập DN trong
các trường ĐH, thực hiện việc liên kết đào tạo giữa các trường nhằm tận dụng
lợi thế về cơ sở vật chất, trang thiết bị, phòng thí nghiệm, giáo trình, NCKH… ;
thực hiện việc liên kết giữa trường với DN nhằm cung ứng nguồn nhân lực chất
lượng cao cho DN; tăng cường thực hiện việc liên kết đào tạo với các trường
quốc tế; khuyến khích việc nghiên cứu đề tài khoa học cấp Nhà nước; mở rộng
và nâng cao dịch vụ tư vấn đào tạo… Bên cạnh đó, các trường ĐHCL khối
ngành kinh tế cũng cần mở rộng thu hút vốn đầu tư của các tổ chức, cá nhân
nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài trong việc đầu tư xây dựng
các trường ĐH.
- Ba là, thực hiện nguyên tắc nhà trường được tự chủ về hạch toán thu -
chi theo nguyên tắc từ nhiều nguồn thu tài chính đủ bù các khoản chi hợp lý,
82
có tích lũy cần thiết để phát triển cơ sở vật chất phục vụ đào tạo và nghiên cứu.
Trong điều kiện kinh tế xã hội hiện nay, đòi hỏi giáo dục nước ta phải
thay đổi để đáp ứng nhu cầu xã hội, thực ra là nhu cầu thị trường. John (2008)
khi hệ thống và khái quát xu hướng toàn cầu trong quản trị ĐH về thể chế hóa
và địa vị pháp lý của các trường ĐH công trên thế giới đã chỉ ra rằng, tự chủ
ĐH trên cơ sở giảm bớt sự kiểm soát của Nhà nước, trao quyền tự chủ tài chính
cho các trường, nhà trường được tự chủ về hạch toán thu - chi theo nguyên tắc
từ nhiều nguồn thu tài chính đủ bù các khoản chi hợp lý, có tích lũy cần thiết
để phát triển cơ sở vật chất phục vụ đào tạo và nghiên cứu... là điều hiển nhiên.
Do vậy, cùng với việc gia nhập các tổ chức quốc tế trong bối cảnh hội nhập
buộc chúng ta phải thay đổi quan điểm, cơ chế quản lý dịch vụ đào tạo, nhất là
đối với đào tạo ĐH ở các trường ĐHCL.
3.2. Giải pháp hoàn thiện công tác quản lý tài chính tại các trường
đại học công lập khối ngành kinh tế
3.2.1. Hoàn thiện phương pháp xác định giá dịch vụ đào tạo đại học
công lập
Trong điều kiện của nền kinh tế thị trường, dịch vụ giáo dục là một ngành
kinh tế quan trọng. Nền kinh tế đang được vận hành theo các nguyên tắc của
kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước. Các nguyên tắc căn bản của
kinh tế thị trường đòi hỏi dịch vụ giáo dục phải được trao đổi ngang giá, giá cả
dịch vụ giáo dục phải được xác định trong quan hệ trao đổi giữa người tiêu
dùng và người cung ứng trên thị trường dịch vụ giáo dục. Trên thực tế, mức
học phí GDĐH mặc dù được điều chỉnh tăng trong một vài năm gần đây, về cơ
bản vẫn là mức phí bị áp đặt từ phía Nhà nước và được xác định thấp rất nhiều
so với chi phí thực tế mà các trường ĐHCL và cả phía người học phải bỏ ra.
Nhiều khoản chi phí “không chính thức” mà người học phải bỏ ra nằm ngoài
học phí. Mức học phí thực sự mà người học phải bỏ ra đôi khi vượt gấp nhiều
83
lần học phí danh nghĩa mà họ nộp cho cơ sở giáo dục.
Giá giá dịch vụ đào tạo ĐHCL phải trở thành thước đo hiệu quả đào tạo
của các trường ĐHCL. Về lâu dài, Nhà nước không thể định giá dịch vụ đào
tạo ĐHCL mà phải để cho thị trường quyết định. Người mua và người cung
ứng dịch vụ tham gia thị trường dịch vụ giáo dục là người quyết định về mức
giá và số lượng dịch vụ được trao đổi tại mức giá đó. Các trường ĐHCL với
chất lượng đào tạo, uy tín hình ảnh thương hiệu đạt được ở mức cao sẽ có quyền
đặt giá dịch vụ cao và ngược lại. Giá dịch vụ đào tạo ĐHCL phải là một trong
những tín hiệu để người học nhận ra những trường cung cấp dịch vụ tốt hơn.
Về phía người mua, họ có quyền trả giá cao hơn và theo đó kỳ vọng nhận được
dịch vụ chất lượng cao hơn. Sự cào bằng, “bình quân chủ nghĩa” trong xác định
mức học phí trong các trường ĐHCL đã triệt tiêu động lực phát triển của các
trường ĐH.
3.2.2. Khai thác nguồn thu qua việc tăng cường gắn kết giữa nhà
trường và doanh nghiệp
Hợp tác giữa trường ĐHCL và DN trong liên kết đào tạo, NCKH và
chuyển giao công nghệ… để tăng nguồn thu cho trường vẫn là xu thế phổ biến
trên thế giới. Các hình thức liên kết giữa nhà trường và DN bao gồm:
- Hợp tác thực hiện các chương trình đào tạo dài hạn và ngắn hạn:
Trường chủ trì xây dựng các chương trình đào tạo, biên soạn giáo trình, tài liệu
và phối hợp với DN thực hiện các khóa đào tạo ở các trình độ khác nhau, các
chuyên ngành khác nhau theo yêu cầu của DN hoặc đáp ứng nhu cầu của các
cá nhân về trang bị những kiến thức và kỹ năng vượt quá yêu cầu của công việc
hiện tại. Một số khóa học được thiết kế theo yêu cầu của DN, phục vụ trực tiếp
cho nhu cầu nguồn nhân lực của DN. Trong trường hợp này DN thường tham
gia thiết kế chương trình và chi trả học phí cho nhân viên của mình theo học.
Một số khóa học khác các học viên tham gia với những lý do cá nhân như tự
84
nâng cao kiến thức hoặc phát triển nghề nghiệp.
- Liên kết trong nghiên cứu: Kinh nghiệm cho thấy, ở các nước có nền
giáo dục tiên tiến, liên kết Nhà trường - DN phát triển rất mạnh không phải
trong đào tạo mà chủ yếu là trong NCKH và chuyển giao công nghệ. Hai bên
cùng nhau xây dựng đề án hợp tác NCKH cụ thể cho từng giai đoạn để phối
hợp triển khai thực hiện các đề tài nghiên cứu thuộc các lĩnh vực mà cả hai bên
cùng quan tâm. DN sẽ cử đại diện làm điều phối chương trình hợp tác với nhà
trường; cung cấp nguồn nhân lực thực hiện các chương trình hợp tác, dự án
nghiên cứu. DN sẽ tạo điều kiện cho cán bộ, giảng viên, sinh viên của nhà
trường tham gia các diễn đàn kinh tế, hội nghị, hội thảo do DN chủ trì tổ chức.
Lợi ích mà quan hệ hợp tác nghiên cứu mang lại cho nhà trường là tăng cường
tính thực tiễn, khả năng triển khai ứng dụng của các công trình NCKH bằng
việc hướng cán bộ nghiên cứu tiếp cận và trực tiếp xử lý các vấn đề của thực
tiễn DN. Đồng thời qua hợp tác NCKH, nhà trường có cơ hội tăng nguồn thu,
nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ của nhà trường qua đó góp phần nâng cao
chất lượng đào tạo. Các hình thức hợp tác nghiên cứu giữa nhà trường và DN
bao gồm: DN tài trợ cho hoạt động nghiên cứu của nhà trường (thường là để
nghiên cứu các đề tài, chương trình, dự án theo đơn đặt hàng của DN); thành
lập nhóm nghiên cứu giữa nhà trường và DN để thực hiện các dự án, đề tài khoa
học mang tính liên ngành; hai bên cùng nhau phối hợp tổ chức các hội nghị, hội
thảo khoa học; thành lập các TT hợp tác nghiên cứu Nhà trường - DN.
3.2.3. Xây dựng mô hình quản lý chi phí dựa trên hoạt động (phương
pháp ABC)
Một mô hình quản lý chi phí lý tưởng là mô hình mà trong đó chi phí sẽ
được bóc tách không chỉ ở cấp độ khoa, viện, TT (đơn vị trực tiếp thực hiện
hoạt động) mà còn được phân bổ cho từng đối tượng tính phí. Các đối tượng
tính phí có thể được coi như các hoạt động và cần có cách đo lường chi phí một
85
cách riêng biệt. Các đối tượng chi phí có thể được coi là đầu ra của tổ chức giáo
dục. Điều này không những giúp cho Ban giám hiệu có cái nhìn sâu sắc hơn
mà còn giúp chia nhỏ các hoạt động của các khoa, viện, TT. Bởi vì thông
thường các đơn vị này có thể thực hiện chung các học phần giảng dạy hoặc các
dự án nghiên cứu. Ngoài ra phương án này không chỉ xem xét chi phí của đầu
ra mà còn xem xét dòng thu nhập đi kèm với các đầu ra này. Sự liên kết thu
nhập với đầu ra tương tự với phương án quản lý dựa trên giá trị.
Các khóa học, chương trình đào tạo cấp bằng là thành phẩm chính của
các trường ĐH. Các hoạt động trong các trường ĐH là giảng dạy, nghiên cứu,
dịch vụ… Các hoạt động này được hỗ trợ bởi các yếu tố như quản lý, bảo trì cơ
sở vật chất, thư viện, phòng thí nghiệm các tài nguyên phục vụ học tập khác.
Ngân sách của các khoa trong trường ĐH thường dựa trên các yếu tố như số tín
chỉ thực hiện được, số lượng sinh viên, số lượng giảng viên. Cách tính chi phí
truyền thống ở các trường ĐH thường coi các khóa học đều như nhau, kế toán
chi phí chỉ theo dõi mức độ tuân thủ ngân sách. Mô hình tính giá truyền thống
có một số nhược điểm như chi phí được phân bổ dựa trên một cơ sở duy nhất,
không phân biệt giữa chi phí cố định và chi phí biến đổi, đồng thời mô hình giả
định rằng tất cả các khóa học cần các hoạt động đều như nhau và với mức độ
như nhau nhưng trong thực tế thì các chương trình, khóa học được hỗ trợ bởi
các hoạt động không giống nhau.
Nhằm xác định chi phí đào tạo của các khóa học được chính xác, tránh
được những nhược điểm của phương pháp tính chi phí truyền thống, tác giả đề
xuất phương pháp xác định chi phí dựa trên hoạt động (ABC) (Mô hình 3.1).
Để vận dụng được phương pháp ABC đạt được hiệu quả, các trường
ĐHCL cần phải tiến hành qua các bước sau:
- Xác định đối tượng chi phí: Đối tượng chi phí đó là khóa đào tạo theo
từng ngành cụ thể như kế toán, tài chính, quản lý kinh doanh… ở các bậc cử
86
nhân hay thạc sỹ.
- Xác định các hoạt động: Các hoạt động đó chính là nơi tạo ra chi phí
cho đào tạo như hoạt động xây dựng chương trình cho một ngành cụ thể, hoạt
động hỗ trợ giảng đường, hoạt động giảng dạy…
- Phân bổ chi phí từ các hoạt động cho các đối tượng chịu phí: Cần chọn
tiêu thức đại diện cho chi phí hoạt động để phân bổ. Các tiêu thức có thể áp
dụng là mức sử dụng phòng máy, mức sử dụng cơ sở vật chất, mức sử dụng
dịch vụ giảng dạy…
Mô hình 3.1: Mô hình chi phí theo hoạt động cho các trường đại học
Nguồn lực
Dịch vụ sinh viên
Lương của giảng viên
Lương của ban điều hành
Phòng máy, phòng thí nghiệm
Cơ sở vật chất
Dịch vụ liên quan đến giảng dạy
Giai đoạn phân bổ thứ nhất:
Yếu tố dẫn dắt Chi phí Số lượng Số giờ Diện tích Số lượng Số lượng nguồn lực thực khoa sử dụng sử dụng giảng viên sinh viên
Khoa A
Khoa B
Tổ hợp chi phí hoạt động
Giai đoạn phân bổ thứ hai
Yếu tố dẫn
Số khóa học
Số khóa học
dắt chi phí hoạt động
Đối tượng chi phí
Khóa học cấp bằng
Nguồn: Tác giả đề xuất
3.2.4. Xây dựng trung tâm trách nhiệm nhằm kiểm soát chi phí trong
87
trường đại học công lập khối ngành kinh tế
Dựa vào chức năng, quyền hạn của các bộ phận và sự phân cấp quản lý
trong các trường, căn cứ “đầu vào” và “đầu ra” thì có thể nhận diện các TT
trong mô hình kế toán trách nhiệm bao gồm:
- TT đầu tư: gắn với cấp quản lý cao nhất đó là Ban giám hiệu, Ban giám
đốc, Hội đồng trường với chức năng là phụ trách chung, chịu trách nhiệm toàn
bộ các hoạt động của nhà trường từ kế hoạch, quá trình đào tạo, NCKH, thu chi
tài chính, XDCB, khen thưởng và kỷ luật… Đầu vào là đo lường chi phí, đầu
ra là đo lường kết quả tài chính, hiệu quả sử dụng các nguồn lực để tăng tỷ lệ
trích lập quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp, tăng thu nhập và trích lập các quỹ
khen thưởng, quỹ phúc lợi, quỹ ổn định thu nhập.
- TT chi phí: TT chi phí của các trường được phân thành 2 nhóm:
Nhóm TT chi phí định mức: gắn với Trưởng các Khoa/Tổ bộ môn với
chức năng đào tạo các chuyên ngành cụ thể và NCKH, nơi phát sinh các chi phí
trực tiếp. Đào tạo sinh viên đối với nhóm ngành xã hội, đầu vào chỉ có giờ công
(thù lao trả cho giảng viên), tuy nhiên đối với nhóm ngành kỹ thuật còn có
nguyên vật liệu (vật tư thực hành), ngoài ra còn có các chi phí như văn phòng
phẩm, nước uống phục vụ giảng viên trực tiếp giảng dạy, chi phí sửa chữa trang
thiết bị… Về công tác NCKH, đầu vào đo lường chi phí trả thù lao cho giảng
viên.
Nhóm TT chi phí dự toán: gắn với Trưởng các phòng chức năng như
phòng đào tạo, phòng tổ chức hành chính, phòng kế hoạch tài chính, phòng
công tác học sinh sinh viên, phòng thanh tra, phòng khảo thí… , các TT chức
năng như y tế, thông tin thư viện… là nơi phát sinh các chi phí gián tiếp. Đầu
vào đo lường chi phí: chi phí lương nhân viên, văn phòng phẩm, trang thiết bị,
công tác phí, tiếp khách… Đầu ra cung cấp dịch vụ phục vụ cho sinh viên,
88
giảng viên, ban giám hiệu.
- TT lợi nhuận: gắn với các TT cung cấp dịch vụ ngoài nhiệm vụ được
giao như các TT đào tạo ngắn hạn (ngoại ngữ, tư vấn tài chính kế toán, tin
học…) nơi phát sinh cả doanh thu và chi phí. Giám đốc TT là người chịu trách
nhiệm quyết định các vấn đề như mức học phí, tuyển sinh, cấp chứng chỉ ngắn
hạn, tiền lương trả cho giảng viên, cộng tác viên và các chi phí khác liên quan
đến hoạt động của TT. Lợi nhuận chịu ảnh hưởng trực tiếp từ doanh thu (nguồn
thu học phí) và chi phí nên Giám đốc các TT thuộc TT lợi nhuận.
Bảng 3.2: Bảng xác định các trung tâm trách nhiệm
Cấp quản lý
Người quản lý
TT trách nhiệm
TT đầu tư
Ban giám hiệu, Ban giám đốc, Hội đồng trường
Hiệu trưởng, Giám đốc, Chủ tịch Hội đồng trường
Khoa/Tổ bộ môn
Trưởng Khoa/Tổ trưởng
TT chi phí (định
mức)
Phòng/Ban/TT chức
Trưởng phòng/Trưởng
TT chi phí
năng
ban/Giám đốc TT
(không định mức
được)
TT ngắn hạn
Giám đốc TT
TT lợi nhuận
Nguồn: Tác giả đề xuất
3.2.5. Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện quy chế quản lý tài sản
Để những quy chế quản lý tài sản được áp dụng vào thực tế hoạt động
của đơn vị một cách tự nhiên và trở thành một công cụ quản lý hiệu quả, các
trường ĐHCL cần thực hiện một số công việc sau:
- Đổi mới phương pháp xây dựng quy chế quản lý tài sản
+ Quy chế quản lý tài sản cần được thảo luận rộng rãi và công khai: Sau
khi hoàn thành dự thảo, người soạn thảo cần đưa ra thảo luận rộng rãi và công
khai trong đơn vị để lấy ý kiến đóng góp. Các ý kiến được ghi nhận và nghiên
cứu sử dụng để hoàn thiện quy chế quản lý tài sản.
+ Trong quá trình triển khai áp dụng quy chế, đơn vị cần tiếp tục thu thập
89
ý kiến đóng góp để tiếp tục sửa đổi, hoàn thiện các quy trình quản lý.
+ Khi có những biến động khiến những quy định cũ không còn phù hợp
nữa như thay đổi mô hình tổ chức quản lý (đổi tên, sáp nhập hoặc tách các bộ
phận, phòng ban… ); quy chế quản lý tài sản cả Nhà nước có những quy định
mới… thì trường cần cập nhật sửa đổi nội dung quy chế cho phù hợp với tình
hình mới.
- Cải tiến nội dung và phương pháp trình bày:
+ Đối với nội dung “Xử lý vi phạm trong việc quản lý, sử dụng tài sản
nhà nước” cần đưa ra các quy định về xử phạt cụ thể hơn, rõ ràng hơn, có mức
phạt cụ thể cho từng lỗi cụ thể.
+ Các quy trình cần được trình bày bằng ngôn ngữ giản dị, dễ hiểu, ngắn
gọn, xúc tích và nên trình bày dưới dạng bảng biểu hoặc lưu đồ kèm theo phần
diễn giải ở từng bước công việc.
+ Bổ sung các biểu mẫu quy định thống nhất trong toàn đơn vị như biên
bản bàn giao, biên bản nghiệm thu, giấy báo hỏng, giấy đăng ký sử dụng xe ô
tô… Tất cả những biểu mẫu văn bản này đều cần được thiết kế đơn giản và có
phần hướng dẫn lập bảng biểu.
+ Nội dung từng quy trình cần quy định chi tiết, chặt chẽ đặc biệt là các
quy trình mua sắm. mang tài sản ra khỏi trường, quy trình thanh lý tài sản đồng
thời quy chế phải bao quát toàn bộ các nội dung quản lý tài sản trong đơn vị.
+ Ở mỗi bước công việc cần có những tham chiếu về những văn bản liên
quan như văn bản pháp quy của Nhà nước, văn bản nội bộ… những văn bản
này là điều kiện cần để thực hiện bước công việc và những biểu mẫu sẵn có
kèm quy trình.
- Công khai quy chế:
Sau khi được lãnh đạo đơn vị phê duyệt, quy chế quản lý cần được ban
90
hành và phổ biến đến từng bộ phận, cá nhân trong đơn vị. Mọi hoạt động quản
lý tài sản cần được tham chiếu đến các quy trình quản lý đã ban hành và thực
hiện đúng như quy định.
3.2.6. Tăng cường công tác kiểm tra nội bộ đối với việc quản lý tài sản
Hệ thống kiểm soát bao gồm bộ phận hành chính quản lý và kế toán phải
thường xuyên theo dõi kiểm tra và hướng dẫn các bộ phận, cá nhân trong đơn
vị thực hiện quy trình, thực hiện chặt chẽ công tác thanh quyết toán có liên quan
đến hoạt động quản lý tài sản. Hoạt động kiểm tra thường xuyên việc thực hiện
các quy trình giúp cho đơn vị ngăn ngừa những sai sót vô ý và cố ý đồng thời
phát hiện, điều chỉnh kịp thời những bất hợp lý để hoàn thiện quy trình.
Đơn vị cần có những chế tài nghiêm khắc đủ sức răn đe mọi hành vi
không giữ gìn tài sản, cố ý làm trái với những quy định đã nêu trong quy trình
quản lý của đơn vị đồng thời giải quyết triệt để những vấn đề tồn đọng về quản
lý tài sản sau khi được phát hiện và lập biên bản.
Các nội dung cần kiểm tra cụ thể như sau:
+ Kiểm tra việc xây dựng, mua sắm tài sản, bao gồm: mục đích sử dụng,
nguồn kinh phí, chất lượng tài sản, định mức, tiêu chuẩn được mua…
+ Kiểm tra việc ghi chép trong hồ sơ gốc của tài sản, bao gồm: Việc ghi
chép thẻ TSCĐ, xác định nguyên giá, nguồn hình thành tài sản, nguyên nhân
tăng giảm, tình trạng tài sản, thủ tục giao nhận, kiểm nhận, thanh toán… Đối
chiếu giữa số ghi trên sổ kế toán với thực tế hiện có của tài sản và phải có sự
điều chỉnh phù hợp khi có những chênh lệch.
+ Kiểm tra việc luân chuyển thông tin về tài sản, về số liệu ghi chép giữa
các thẻ theo dõi tài sản.
+ Kiểm tra tình hình huy động và hiệu quả sử dụng tài sản, tình hình tài
sản không sử dụng, tài sản thuê ngoài…
+ Kiểm tra việc tính hao mòn, phần tính khấu hao, phân bổ khấu hao cho
91
hoạt động sản xuất và cung ứng dịch vụ.
+ Kiểm tra việc sửa chữa lớn tài sản, tính hợp pháp của những chi phí
làm tăng nguyên giá của tài sản…
+ Kiểm tra tình hình tài sản đã thanh lý, chờ thanh lý, xem xét nguyên
nhân thanh lý, việc tổ chức thanh lý tài sản, chi phí, thu nhập từ việc thanh lý.
+ Kiểm tra việc quản lý sử dụng tài sản thuê ngoài đúng theo những cam
kết trong hợp đồng thuê.
+ Kiểm tra việc ghi chép kế toán và lưu trữ tài liệu kế toán kịp thời, đầy
đủ đối với các tài sản do đơn vị mình quản lý.
3.2.7. Thiết lập bộ máy kiểm toán nội bộ, tăng cường công tác kiểm
toán nội bộ
Trong cơ chế quản lý tài chính theo hướng tự chủ, công tác quản lý tài
chính trong các trường ĐHCL không chỉ có nhiệm vụ nuôi dưỡng, phát triển,
khai thác các nguồn lực; thúc đẩy, duy trì tăng thu, tiết kiệm chi, tăng thu nhập
mà còn phải quản lý, sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực của đơn vị. Để nâng
cao tính hiệu quả trong quản lý tài chính thì hệ thống tài chính phải công khai,
minh bạch, các chủ thể quản lý thực sự được đảm bảo thẩm quyền và chịu trách
nhiệm về những quyết định của mình. Như vậy công khai, minh bạch, kiểm tra,
kiểm soát và trách nhiệm là những điều kiện cần thiết cho việc thực hiện
phương thức quản lý tốt thu chi của đơn vị.
Bên cạnh kiểm toán nhà nước, kiểm toán độc lập, với chức năng kiểm
tra, đánh giá, xác nhận tính đúng đắn hợp pháp độ tin cậy của các thông tin, số
liệu về thu chi, về hoạt động tài chính sẽ góp phần nâng cao chất lượng độ tin
cậy của các thông tin tài chính kế toán của nhà trường thì vai trò của kiểm toán
nội bộ cũng không kém phần quan trọng trong việc giúp các trường nâng cao
được hiệu quả quản lý tài chính. Kiểm toán nội bộ được xem như một bộ phận
không thể thiếu trong hoạt động quản lý tài chính, là một công cụ hiệu quả
92
nhằm cải thiện hoạt động của các đơn vị nói chung và các trường ĐHCL nói
riêng đáp ứng yêu cầu nâng cao trách nhiệm giải trình và tính minh bạch trong
hoạt động của đơn vị, góp phần nâng cao hiệu quả quản lý tài chính cho đơn vị.
Vì thế các trường ĐHCL khối ngành kinh tế, đặc biệt là các trường
ĐHCL có quy mô lớn như các trường ĐH vùng cần thiết phải tổ chức bộ phận
kiểm toán nội bộ. Thiết lập bộ phận kiểm toán nội bộ sẽ giúp cho hoạt động
giám sát của nhà trường đạt hiệu quả. Bởi kiểm toán nội bộ có thể kiểm toán
ngay trong quá trình hoạt động của nhà trường nhằm kịp thời phát hiện những
yếu kém, vi phạm để đưa ngay ý kiến đề xuất giúp nhà trường khắc phục tình
hình lập tức. Kiểm toán nội bộ theo suốt quá trình hoạt động của nhà trường,
đánh giá các yếu tố bên trong của nhà trường. Là một bộ phận độc lập, với vai
trò, chức năng, nhiệm vụ của mình, kiểm toán nội bộ kiểm tra, đánh giá, xác
nhận tính hiệu quả của công tác quản lý rủi ro và tính hữu hiệu của hệ thống
KSNB, từ đó xác lập được các thông tin về tài chính, tình hình hoạt động giúp
nhà trường nắm bắt được một cách kịp thời các nguy cơ, tiềm ẩn rủi ro, mức độ
hoàn thành mục tiêu, kế hoạch, xác định và phân bổ nguồn lực, hoạch định
chính sách và định hướng chiến lược cho mọi hoạt động của nhà trường. Tuy
nhiên, khi thiết lập hệ thống kiểm toán nội bộ, người quản lý phải cân nhắc giữa
chi phí và lợi ích mà kiểm toán nội bộ đem lại. Với phạm vi kiểm toán bao trùm
tất cả các hoạt động trong đơn vị, lợi ích của kiểm toán nội bộ có thể được khai
thác ở nhiều góc độ, nhưng nổi bật nhất là các nội dung liên quan đến quản lý
tài chính, hiệu quả trong hoạt động và sự tuân thủ các quy định, quy chế liên
quan đến quá trình vận hành của chính đơn vị đó.
3.2.8. Hoàn thiện về tổ chức lập hệ thống báo cáo kế toán quản trị
trong các trường đại học công lập khối ngành kinh tế
Hệ thống báo cáo kế toán quản trị tại các trường ĐHCL khối ngành kinh
tế hiện nay hầu như chưa có trong khi việc phân cấp quản lý tài chính trong các
93
trường đã khá rõ rệt. Để góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động nghiên cứu và
đào tạo, các trường ĐHCL khối ngành kinh tế cần tiến hành xây dựng hệ thống
báo cáo kế toán quản trị.
Trên cơ sở nhu cầu thông tin của nhà quản lý, báo cáo kế toán quản trị
phải được thiết kế phù hợp với đối tượng chi phí, mục đích sử dụng của nhà
quản lý. Tuy nhiên, khi xây dựng báo cáo kế toán quản trị cần đảm bảo yêu cầu
là ghi nhận chi tiết các chi phí phát sinh theo từng đối tượng. Ngoài ra, để đảm
bảo báo cáo có ý nghĩa và không gây lãng phí thời gian, chi phí cho việc lập
báo cáo thì các chỉ tiêu trên báo cáo phải có ý nghĩa. Định kỳ, hàng tháng, quý,
năm cần lập các báo cáo đánh giá hoạt động của các bộ phận trong trường, các
bộ phận đó chính là các TT trách nhiệm như: TT chi phí, TT lợi nhuận, TT đầu
tư…
3.2.9. Nghiên cứu xây dựng mô hình công tác quản lý tài chính tại
trường đại học công lập khối ngành kinh tế theo mô hình quản trị doanh
nghiệp
Xây dựng mô hình công tác quản lý tài chính tại trường ĐHCL khối
ngành kinh tế phù hợp với yêu cầu phát triển GDĐH, phù hợp với yêu cầu phát
triển kinh tế xã hội và xu hướng phát triển của nền kinh tế thị trường là yêu cầu
cần thiết. Nhằm tăng cường hiệu quả hoạt động của trường ĐHCL khối ngành
kinh tế, tăng cường hiệu quả sử dụng các nguồn lực tài chính và đảm bảo chất
lượng đào tạo, NCKH và chuyển giao công nghệ, theo xu hướng hoạt động của
trường ĐH cũng giống như DN là đầu vào và đầu ra đều do thị trường quyết
định, tác giả đề nghị nghiên cứu và xây dựng mô hình công tác quản lý tài
chính tại trường ĐH theo mô hình quản trị DN. Theo mô hình này, trường
ĐHCL khối ngành kinh tế sẽ được Nhà nước chốt vốn đã có và giao vốn, có
đại diện của Nhà nước tham gia quản lý vốn của Nhà nước. Song song đó, cần
phải có Hội đồng trường - cơ quan quản lý cao nhất của nhà trường, nơi “quyết
94
nghị các chủ trương lớn để thực hiện quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm”. Mô
hình quản lý ĐH của Việt Nam hiện nay đang tồn tại song song một Hội đồng
trường cùng một Ban chấp hành Đảng bộ để định hướng và giám sát toàn bộ
hoạt động của nhà trường. Quyền quyết định cho các hoạt động quản lý của
nhà trường chủ yếu do Ban giám hiệu (Hiệu trưởng và các Hiệu phó) thống
nhất. Phần lớn Ban Giám hiệu của các trường chỉ giới hạn công việc quản lý,
lãnh đạo của mình thông qua việc chấp hành và thực hiện những nghị quyết
của Ban chấp hành Đảng bộ. Như vậy, có thể thấy, Hội đồng trường của các
trường ĐHCL Việt Nam chỉ thực sự phát huy vai trò của mình khi định vị được
mình đang ở đâu trong mối quan hệ giữa Đảng ủy và Ban giám hiệu. Điều đó
cũng có nghĩa là tổ chức Đảng phải chắc chắn rằng không làm thay công việc
của Hội đồng trường. Vai trò của Đảng ủy trong quan hệ với việc quản lý nhà
trường khá phức tạp bởi quy định về vai trò lãnh đạo của Đảng trong hệ thống
quốc gia. Vì vậy, giải pháp đơn giản nhất là Đảng ủy có thành viên tham gia
trong Hội đồng trường. Hội đồng trường là cầu nối liên kết giữa nhà trường và
xã hội, có nhiệm vụ trọng tâm là xây dựng chính sách, quyết định chiến lược
của nhà trường, quyết định kế hoạch hoạt động hàng năm và kế hoạch tài chính
để lãnh đạo nhà trường hoạt động đúng mục tiêu đã định; theo dõi, kiểm tra và
đánh giá việc quản lý nhà trường của hiệu trưởng. Hội đồng trường có quyền
tuyển chọn và sa thải hiệu trưởng/giám đốc điều hành nếu hiệu trưởng/giám
đốc điều hành hoạt động không hiệu quả. Bên dưới Hội đồng trường sẽ bao
gồm ban giám hiệu, hội đồng khoa học trường, các khoa, bộ môn, phòng ban,
các đơn vị trực thuộc và liên kết (như các công ty/ tổ chức đào tạo, cơ sở dịch
vụ).
3.3. Một số kiến nghị
3.3.1. Đối với Chính phủ
Hiện nay văn bản quy định của Nhà nước về “Kiểm soát nội bộ” và
95
“Kiểm toán nội bộ” vẫn còn mờ nhạt, chung chung trong Luật Kế toán số
88/2015/QH13 và Nghị định số 60/2021/NĐ-CP. Đến thời điểm này Chính phủ
vẫn chưa có văn bản quy định chi tiết về KSNB và kiểm toán nội bộ trong đơn
vị sự nghiệp nên các trường ĐHCL vẫn chưa có đủ căn cứ pháp lý để tổ chức
bộ máy kiểm toán nội bộ trong nhà trường. Trong thời gian vừa qua chưa có
trường ĐHCL nào có bộ phận kiểm toán nội bộ thực hiện chức năng tư vấn và
hỗ trợ cho nhà quản lý một cách chính thức và chuyên nghiệp. Chính vì vậy
nên Chính phủ cần có văn bản quy định chi tiết về KSNB và kiểm toán nội bộ
trong đơn vị sự nghiệp công lập.
3.3.2. Đối với Bộ Tài chính
Kế toán quản trị là một công cụ quan trọng để cung cấp thông tin cho nhà
công tác quản lý tài chính tại nhằm lập kế hoạch và ra quyết định, trợ giúp nhà
quản lý trong việc điều hành và kiểm soát hoạt động của tổ chức, thúc đẩy các
nhà quản lý đạt được mục tiêu của tổ chức và đo lường hiệu quả hoạt động của
các nhà quản lý và các bộ phận trực thuộc trong tổ chức. Việc áp dụng công cụ
kế toán quản trị trong các đơn vị sự nghiệp công lập là rất cần thiết, phục vụ
cho công tác quản lý tài chính tại trong đơn vị. Hiện nay Bộ Tài chính mới chỉ
hướng dẫn áp dụng kế toán quản trị trong doanh nghiệp ở Thông tư số
53/2006/TT-BTC. Theo Luật Kế toán số 88/2015/QH13 quy định Bộ Tài chính
hướng dẫn áp dụng kế toán quản trị phù hợp với từng lĩnh vực hoạt động. Chính
vì vậy, Bộ Tài chính cần sớm có văn bản hướng dẫn áp dụng kế toán quản trị
trong đơn vị sự nghiệp công lập.
Tiểu kết chương 3
Trên cơ sở phân tích lý thuyết và thực tiễn về tầm quan trọng của quản
lý tài chính trong các trường ĐHCL khối ngành kinh tế , nghiên cứu những hạn
chế và những nguyên nhân dẫn đến hạn chế, tác giả đã đưa ra một số giải pháp
96
hoàn thiện quản lý tài chính trong các trường ĐHCL khối ngành kinh tế. Các
giải pháp sẽ góp phần triển khai các chương trình, đề án đổi mới cơ bản và toàn
diện GDĐH Việt Nam một cách có hiệu quả, đạt được các mục tiêu đề ra. Các
giải pháp cụ thể như:
- Hoàn thiện phương pháp xác định giá dịch vụ đào tạo ĐHCL, khai thác
tăng thu qua việc tăng cường gắn kết giữa nhà trường và DN, xây dựng quy
trình theo dõi quản lý nguồn thu của trường;
- Hoàn thiện tổ chức xác định chi phí, xây dựng TT trách nhiệm trong
trường ĐHCL nhằm kiểm soát chi phí;
- Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện quy chế quản lý tài sản, tăng cường công
tác kiểm tra nội bộ đối với việc quản lý tài sản;
- Hoàn thiện hệ thống KSNB trong các trường ĐHCL, thiết lập bộ máy
kiểm toán nội bộ, tăng cường công tác kiểm toán nội bộ, hoàn thiện kế toán
quản trị trong các trường ĐHCL;
- Nghiên cứu xây dựng mô hình quản lý trường ĐHCL theo mô hình
quản trị DN, nâng cao kỹ năng quản trị trong trường ĐHCL;
Bên cạnh đó tác giả cũng nêu ra những kiến nghị đối với Chính phủ, với
Bộ Giáo dục và Đào tạo và với Bộ Tài chính để hoàn thiện công tác quản lý tài
chính tại các trường ĐHCL khối ngành kinh tế .
Nếu được triển khai và thực hiện nghiêm túc các giải pháp nêu trên, công
tác quản lý tài chính tại trong các trường ĐHCL khối ngành kinh tế sẽ được
hoàn thiện và đạt được mục tiêu cuối cùng của quản lý tài chính từ đó là điều
97
kiện để nâng cao chất lượng GDĐH.
KẾT LUẬN
Đổi mới cơ chế tự chủ đồng nghĩa với tái cơ cấu hệ thống giáo dục đào
tạo và nhà trường. Cùng với việc tái cơ cấu này, nhà trường sẽ phải thay đổi cơ
chế quản lý trường theo mô hình truyền thống, và chuyển sang trạng thái năng
động như DN để đa dạng hóa nguồn thu, cải thiện thu nhập cho người lao động,
thu hút và khuyến khích nhân tài. Việc quản lý tài chính hợp lý, khoa học và có
hiệu quả sẽ giúp các trường xác định đúng đắn nhu cầu kinh phí cần thiết cho
hoạt động của nhà trường trong từng thời kỳ, từ đó lựa chọn các phương pháp
và hình thức thích hợp để mở rộng được nguồn thu, khai thác những tiềm năng
sẵn có tạo ra ngày càng nhiều nguồn thu hợp pháp đáp ứng kịp thời nhu cầu
nguồn tài chính cho hoạt động đào tạo, NCKH nhằm thực hiện tốt mục tiêu đào
tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho xã hội. Bằng việc vận dụng các phương
pháp nghiên cứu, tác giả đã tập trung giải quyết các vấn đề sau:
- Làm rõ các vấn đề lý luận cơ bản về công tác quản lý tài chính tại các
ĐVSNCL;
- Phân tích từng nội dung quản lý thu, quản lý chi, quản lý tài sản tại các
ĐVSNCL;
- Phân tích thực trạng công tác quản lý tài chính tại các trường ĐHCL
khối ngành kinh tế, qua đó đánh giá kết quả đạt được, những hạn chế và nguyên
nhân của hoạt động công tác quản lý tài chính tại hiện hành trong các trường
ĐHCL khối ngành kinh tế ;
- Trên cơ sở những phân tích về hạn chế và nguyên nhân hạn chế cũng
như chủ trương định hướng phát triển quản lý tài chính các trường ĐHCL khối
ngành kinh tế của Đảng và Nhà nước, luận văn đề xuất các giải pháp hoàn thiện
công tác quản lý tài chính tại các trường ĐHCL khối ngành kinh tế và một số
kiến nghị đối với Chính phủ, với Bộ Tài chính để hoàn thiện công tác quản lý
98
tài chính tại các trường ĐHCL khối ngành kinh tế.
[1]. Bob Tricker (2012), Kiểm soát quản trị, Nhà xuất bản Thời đại, Thành phố
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
[2]. Bộ Tài chính (2004), Quyết định số 67/2004/QĐ-BTC ngày 13/8/2004 về
Hồ Chí Minh.
việc ban hành “Quy chế về tự kiểm tra tài chính, kế toán tại các cơ quan,
[3]. Chính phủ (2006), Nghị định số 43/2006/NĐ-CP ngày 25/4/2006 của Chính
đơn vị có sử dụng kinh phí NSNN”.
phủ quy định quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ
[4]. Chính phủ (2013), Nghị định số 141/2013/NĐ-CP ngày 24/10/2013 của
chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập.
Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật
[5]. Chính phủ (2015), Nghị định số 16/2015/NĐ-CP ngày 14/2/2015 quy định
GDĐH.
[6]. Chính phủ (2021), Nghị định số 81/2021/NĐ-CP ngày 27/8/2021 quy định
cơ chế tự chủ của ĐVSNCL.
về cơ chế thu, quản lý học phí đối với cơ sở giáo dục thuộc hệ thống giáo
dục quốc dân và chính sách miễn, giảm học phí, hỗ trợ chi phí học tập; giá
[7]. Chính phủ (2021), Nghị định số 60/2021/NĐ-CP ngày 21/6/2021 quy định
dịch vụ trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo
[8]. Phạm Văn Đăng (2013), Hoàn thiện kế toán quản trị chi phí trong các
cơ chế tự chủ của ĐVSNCL.
trường đại học khối kinh tế, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở, Học viện
[9]. Nguyễn Hữu Đồng (2011), Hoàn thiện hệ thống thông tin kế toán trong các
Tài chính, Hà Nội.
trường ĐHCL Việt Nam, Luận văn tiến sĩ kinh tế, Trường Đại học Kinh tế
[10]. Bùi Văn Ga (2008), “Cải tổ và đẩy mạnh nguồn nhân lực”, Báo Sài Gòn
99
Quốc dân, Hà Nội.
[11]. Nguyễn Phú Giang, Nguyễn Trúc Lê (2015), Kiểm toán nội bộ, Nhà xuất
Giải Phóng, số ngày 24/3/2008.
[12]. Ngô Thanh Hoàng, Phạm Văn Trường (2015), Xác định chi phí hình thành
bản tài chính, Hà Nội.
giá dịch vụ và công cụ quản lý chi phí dịch vụ đào tạo ĐHCL khối kinh tế
trong điều kiện hiện nay ở Việt Nam, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ,
[13]. Lương Thị Huyền (2016), Quản lý tài chính các trường ĐHCL trực thuộc
Bộ Tài chính.
Bộ GD & ĐT ở Việt Nam, Luận văn tiến sĩ kinh tế, Học viện Tài chính, Hà
[14]. Trương Thị Hiền (2015), Quản lý tài chính các trường đại học công lập
Nội.
trực thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh
trong điều kiện tự chủ, Luận văn tiến sĩ kinh tế, Học viện Tài chính, Hà
[15]. Nguyễn Thu Hương (2014), Hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính đối với các
Nội.
chương trình đào tạo chất lượng cao trong các trường ĐHCL Việt Nam,
[16]. Martin Grimwood (2008), Sổ tay kiểm toán nội bộ, Nhà xuất bản Giao thông
Luận văn tiến sĩ kinh tế, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội.
[17]. Mai Trọng Nhuận (2005), Tuổi trẻ Online, “Đổi mới giáo dục đại học ở
vận tải.
Singapore”, http://tuoitre.vn/tin/giao-duc/20051120/doi-moi-giao-duc-dai-
[18]. Hương Thảo Nguyên (2008), Đông Dương, Đại học hiện đại đầu tiên của
hoc-o-singapore/ 109078.html
[19]. Nguyễn Ngọc Quang (2014), Giáo trình Kế toán quản trị, Nhà xuất bản ĐH
Việt Nam, http://www.baodatviet.vn/Utilities/PrintView.aspx?ID=34434.
[20]. Quốc hội (2012), Luật Giáo dục đại học số 08/2012/QH13.
100
Kinh tế quốc dân, Hà Nội.
[21]. Quốc hội (2015), Luật Ngân sách nhà nước số 83/2015/QH13.
[22]. Quốc hội (2015), Luật Kế toán số 88/2015/QH13.
[23]. Linh San
(2009), "Chuyện kiểm toán nội bộ ngân hàng",
http://vneconomy.vn/tai-chinh/chuyen-kiem-toan-noi-bo-ngan-hang-
[24]. Phạm Vũ Thắng (2012), Kết quả nghiên cứu xác định chi phí đào tạo một
2009020509302176.htm.
sinh viên ĐH ở Việt Nam và khuyến nghị về chính sách tài chính GDĐH
[25]. Trần Thị Hoa Thơm (2011), Sử dụng công cụ kế toán và kiểm toán để nâng
Việt Nam, Kỷ yếu hội thảo “Đổi mới cơ chế tài chính đối với GDĐH”.
cao hiệu quả quản lý tài chính ở các trường ĐHCL Việt Nam, Luận văn tiến
[26]. Thủ tướng Chính phủ (2014), Quyết định số 70/2014/QĐ-TTg ngày
sĩ kinh tế, Học viện Tài chính, Hà Nội.
[27]. Vũ Thị Thanh Thủy (2012), Quản lý tài chính các trường ĐHCL khối ngành
10/12/2014 ban hành Điều lệ trường đại học.
[28]. Nguyễn Thị Hồng Thúy (2014), Nghiên cứu hệ thống kiểm soát nội bộ của
kinh tế , Luận văn tiến sĩ kinh tế, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội.
trường ĐH Kinh tế quốc dân, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở, Trường
[29]. Trường ĐH Tài chính - QTKD (2023), Quyết định số 141/QĐ-ĐHTCQTKD
Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội.
[30]. Trường ĐH Ngoại thương (2021), Quyết định số 73/QĐ-QTTB ngày
ngày 31/3/2023 ban hành Quy chế chi tiêu nội bộ năm 2023.
1/3/2021 Quy định về quản lý, sử dụng cơ sở vật chất, mua sắm tài sản của
[31]. Trường ĐH Ngoại thương (2021), Quyết định số 67/QĐ-ĐHNT ngày
Trường ĐH Ngoại thương.
[32]. Trường ĐH Ngoại thương (2021), “Trường ĐH Ngoại thương 50 năm xây
12/1/2021 ban hành Quy chế chi tiêu nội bộ năm 2021.
101
dựng và phát triển - Phần 3: Trường ĐH Ngoại thương trong thời kỳ mở
cửa và hội nhập kinh tế quốc tế”, http://www.ftu.edu.vn/gioi-thieu/19-ve-
ftu/607-tru-ng-dh-ngo-i-thuong-50-nam-xay-d-ng-va-phat-tri-n-ph-n-3-tru-
ng-d-i-h-c-ngo-i-thuong-trong-th-i-ky-m-c-a-va-h-i-nh-p-kinh-t-qu-c-
[33]. Trường ĐH Mở Hà Nội (2022), Quyết định số 08/QĐ-ĐHM ngày 8/1/2022
t.html.
[34]. Nguyễn Minh Tuấn (2015), Tác động của công tác quản lý tài chính đến
ban hành Quy chế chi tiêu nội bộ năm 2022.
chất lượng GDĐH - nghiên cứu điển hình tại các trường đại học thuộc Bộ
Công thương, Luận văn tiến sĩ kinh tế, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân,
[35]. Phạm Thị Thanh Vân (2022),“Hoàn thiện quản lý tài chính đối với đơn
Hà Nội.
[36]. Đinh Thị Hải Yến (2019), Quản lý tài chính các đơn vị sự nghiệp đào tạo,
vị sự nghiệp công lập”, Tạp chí Quản lý nhà nước, Số 316 (5/2022).
bồi dưỡng trực thuộc Bộ Giao thông vận tải, Luận văn tiến sĩ kinh tế, Học
[37]. Victor Z.Brink and Herbert Witt (2000), Kiểm toán nội bộ hiện đại, Nhà
viện Tài chính, Hà Nội.
102
xuất bản Tài chính.