ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
NGUYỄN QUANG THÀNH
NGHIÊN CỨU CƠ SỞ KHOA HỌC PHỤC VỤ ĐỀ XUẤT MÔ HÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI BỀN VỮNG
HUYỆN ĐẢO LÝ SƠN, TỈNH QUẢNG NGÃI LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƯỜNG
THÁI NGUYÊN - 2020
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC NGUYỄN QUANG THÀNH
NGHIÊN CỨU CƠ SỞ KHOA HỌC PHỤC VỤ ĐỀ XUẤT MÔ HÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI BỀN VỮNG
HUYỆN ĐẢO LÝ SƠN, TỈNH QUẢNG NGÃI LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƯỜNG Ngành: Quản lý Tài nguyên và Môi trường Mã số: 8850101 Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Phan Thị Thanh Hằng THÁI NGUYÊN - 2020
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
LỜI CAM ĐOAN
Tôi là Nguyễn Quang Thành, xin cam đoan Luận văn này là công trình nghiên
cứu do cá nhân tôi thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của PGS.TS. Phan Thị Thanh
Hằng không sao chép các công trình nghiên cứu của người khác. Số liệu và kết quả của
luận văn chưa từng được công bố ở bất kì một công trình khoa học nào khác.
Các thông tin thứ cấp sử dụng trong luận văn là có nguồn gốc rõ ràng, được trích
dẫn đầy đủ, trung thực và đúng qui cách.
Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm về tính xác thực và nguyên bản của luận văn./.
Tác giả Nguyễn Quang Thành
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn này, tôi xin tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến PGS.TS. Phan
Thị Thanh Hằng đã tận tình hướng dẫn trong suốt quá trình viết luận văn tốt nghiệp.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Tôi chân thành cảm ơn quý thầy, cô trong khoa Tài nguyên và Môi trường,
trường Đại học Khoa học – Đại học Thái Nguyên đã tận tình truyền đạt kiến thức trong
2 năm học tập. Với vốn kiến thức được tiếp thu trong quá trình học tập không chỉ là
phục vụ cho quá trình nghiên cứu, viết luận văn mà còn là hành trang quí báu để tôi
tiếp tục vững bước trên con đường sự nghiệp. Xin chân thành cảm ơn các thầy cô trong
hội đồng chấm luận văn đã cho tôi những đóng góp quý báu để hoàn chỉnh luận văn
này.
Tôi cũng xin chân thành cảm ơn tập thể Lãnh đạo, nhân viên Ủy ban nhân dân
huyện đảo Lý Sơn, tỉnh Quảng Ngãi và Viện Địa lý – Viện Hàn lâm Khoa học và Công
nghệ Việt Nam đã tạo điều kiện thuận lợi, cung cấp nguồn số liệu phong phú để tôi có
thể hoàn thành tốt luận văn này. Cảm ơn gia đình đã luôn ở bên, giúp đỡ, động viên,
tạo điều kiện tốt nhất để tôi hoàn thành Luận văn.
Cuối cùng tôi kính chúc quý thầy, cô dồi dào sức khỏe và thành công hơn trong
sự nghiệp cao quý!
Thái Nguyên, ngày 15 tháng 6 năm 2020
Người thực hiện
Nguyễn Quang Thành
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ............................................................................................................ 2
LỜI CẢM ƠN .................................................................................................................. 2
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT ....................................................................................... 5
DANH MỤC HÌNH ........................................................................................................ 6
DANH MỤC BẢNG ....................................................................................................... 8
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................... 10
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU ............................................... 11
1.1. Cơ sở lý luận ....................................................................................................... 11
1.2. Cơ sở thực tiễn .................................................................................................... 13
1.3. Tổng quan các công trình nghiên cứu có liên quan ............................................ 15
1.4. Khái quát khu vực nghiên cứu ............................................................................ 17
1.4.1 Khái quát đặc điểm tài nguyên thiên nhiên huyện đảo Lý Sơn ..................... 17
1.4.2. Hiện trạng môi trường huyện đảo Lý Sơn .................................................... 28
1.4.3. Hiện trạng phát triển kinh tế - xã hội huyện đảo Lý Sơn ............................ 37
1.4.4. Văn hóa – Giáo dục – Y tế............................................................................ 43
CHƯƠNG 2: ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ............ 48
2.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ....................................................................... 48
2.2. Nội dung nghiên cứu ........................................................................................... 49
2.3. Phương pháp nghiên cứu ..................................................................................... 49
CHƯƠNG 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN ...................................... 51
3.1. Đánh giá tiềm năng kinh tế - xã hội huyện đảo Lý Sơn ...................................... 51
3.1.1. Ngư nghiệp ................................................................................................... 52
3.1.2. Thương mại - dịch vụ ................................................................................... 54
3.1.3. Du lịch .......................................................................................................... 58
3.1.4. Nông nghiệp .................................................................................................. 59
3.1.5. Lâm nghiệp ................................................................................................... 64
3.1.6. Công nghiệp .................................................................................................. 65
3.2. Đánh giá hiện trạng tài nguyên thiên nhiên và môi trường huyện đảo Lý Sơn .. 66
3.3. Đề xuất mô hình phát triển kinh tế - xã hội bền vững huyện đảo Lý Sơn .......... 77
3.3.1 Cơ sở chính sách chiến lược định hướng phát triển KT-XH bền vững huyện
Lý Sơn. .................................................................................................................... 77
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
3.3.2. Cơ sở nguồn lực tự nhiên và xã hội để định hướng mô hình phát triển KT –
XH bền vững huyện đảo Lý Sơn ............................................................................ 80
3.3.3. Định hướng mô hình phát triển kinh tế - xã hội bền vững cho huyện đảo Lý
Sơn .......................................................................................................................... 81
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ....................................................................................... 96
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................................. 97
PHỤ LỤC…………………………………………………………………..…101
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
BCH: Ban chấp hành
BTNMT: Bộ Tài nguyên và Môi trường
BVMT: Bảo vệ môi trường
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
ĐCTV – ĐCCT: Địa chất thủy văn – Địa chất công trình
GTSX: Giá trị sản xuất
KTQD: Kinh tế quốc doanh
KTTĐ: Kinh tế trọng điểm
KKT: Khu kinh tế
KT-XH: Kinh tế - xã hội
QCCP: Quy chuẩn cho phép
TTCN: Tiểu thủ công nghiệp
UBND: Ủy ban nhân dân
VH-TT: Văn hóa – thông tin
DANH MỤC HÌNH
Hình 1. 1. Mối quan hệ giữa phát triển kinh tế - xã hội và môi trường ........................ 13
Hình 1. 2. Nhiệt độ bình quân tháng, nhiệt độ lớn nhất, nhiệt độ nhỏ nhất và bình quân
năm tại trạm Lý Sơn (oC)............................................................................................... 18
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Hình 1. 3. Tốc độ gió trung bình tháng (m/s) ................................................................ 19
Hình 1. 4. Số ngày mưa, lượng mưa bình quân tháng và lượng mưa ngày lớn nhất tại
trạm Lý Sơn ................................................................................................................... 21
Hình 1. 5. Số ngày mưa dông bình quân tháng tại trạm Lý Sơn ................................... 21
Hình 1. 6. Số ngày sương mù bình quân tháng tại trạm Lý Sơn ................................... 22
Hình 1. 7. Bản đồ thổ nhưỡng huyện đảo Lý Sơn năm 2019 [7] .................................. 23
Hình 1. 8 : Bản đồ phân bố hệ sinh thái huyện đảo Lý Sơn [6] .................................... 26
Hình 1. 9. Mạng lưới các điểm lấy mẫu nước mặt và nước biển huyện đảo Lý Sơn .... 29
Hình 1. 10. Ven bờ phía Tây đảo Lý Sơn ...................................................................... 30
Hình 1. 11. Bãi rác gần khu vực chùa Hang .................................................................. 31
Hình 1. 12. Sơ đồ vị trí lấy mẫu nước ngầm huyện đảo Lý Sơn .................................. 34
Hình 2.1. Phạm vi vùng nghiên cứu .............................................................................. 49
Hình 3. 1. Sản lượng khai thác và phương tiện khai thác thủy sản huyện đảo Lý Sơn
trong thời gian gần đây .................................................................................................. 54
Hình 3. 2. Doanh thu vận tải đường biển huyện Lý Sơn ............................................... 58
Hình 3. 3. Biến động diện tích trồng tỏi huyện đảo Lý Sơn và các xã .......................... 61
Hình 3. 4: Núi lửa Giếng Tiền ....................................................................................... 82
Hình 3. 5: Toàn cảnh các núi lửa trên đảo Lý Sơn ........................................................ 82
Hình 3. 6: Núi Thới Lới và vách Hang Câu .................................................................. 82
Hình 3. 7: Hòn Đụn Đảo Bé .......................................................................................... 82
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
DANH MỤC BẢNG
Bảng 1. 1. Nhiệt độ bình quân tháng trung bình nhiều năm tại trạm Lý Sơn (oC) ........ 18
Bảng 1. 2. Nhiệt độ cao nhất tại trạm Lý Sơn (oC) ...................................................... 18
Bảng 1. 3. Nhiệt độ thấp nhất tại trạm Lý Sơn (oC) ..................................................... 18
Bảng 1. 4. Tốc độ gió trung bình tháng và năm (m/s) ................................................... 20
Bảng 1. 5. Số ngày mưa (ngày) .................................................................................... 21
Bảng 1. 6. Lượng mưa trung bình tháng tại trạm Lý Sơn (mm) .................................. 21
Bảng 1. 7. Lượng mưa ngày lớn nhất tại trạm Lý Sơn (mm) ....................................... 21
Bảng 1. 8. Số ngày mưa dông bình quân tháng và năm (ngày) ..................................... 21
Bảng 1. 9. Số ngày sương mù bình quân tháng (ngày) ................................................. 22
Bảng 1. 10. Phân loại đất huyện đảo Lý Sơn ................................................................ 24
Bảng 1. 11. Trữ lượng tĩnh tự nhiên .............................................................................. 25
Bảng 1. 12. Trữ lượng động tự nhiên ............................................................................ 25
Bảng 1. 13. Trữ lượng khai thác tiềm năng ................................................................... 25
Bảng 1. 14. Vị trí lấy mẫu nước mặt (X/2019).............................................................. 29
Bảng 1. 19. Vị trí lấy mẫu phân tích nước dưới đất ...................................................... 33
Bảng 1. 20. Tổng hợp các chỉ tiêu về chất lượng nước huyện đảo Lý Sơn .................. 34
Bảng 3. 1. Sản lượng và cơ sở vật chất ngành thủy sản ................................................ 53
Bảng 3. 2. Cơ sở kinh doanh thương mại, dịch vụ theo ngành nghề ............................ 54
Bảng 3. 3. Cơ sở vật chất kỹ thuật ngành bưu điện ....................................................... 55
Bảng 3. 4. Khối lượng hàng hóa vận chuyển, luân chuyển .......................................... 56
Bảng 3. 5. Lượng hành khách vận chuyển, luân chuyển ............................................... 57
Bảng 3. 6. Doanh thu vận tải đường biển ...................................................................... 57
Bảng 3. 7. Giá trị sản xuất nông nghiệp (tính theo giá trị năm 2010) ........................... 60
Bảng 3. 8. Diện tích, năng suất, sản lượng tỏi ............................................................... 60
Bảng 3. 9. Diện tích, năng suất, sản lượng hành ........................................................... 61
Bảng 3. 10. Diện tích, năng suất, sản lượng ngô ........................................................... 62
Bảng 3. 11. Diện tích, năng suất, sản lượng dưa hấu .................................................... 62
Bảng 3. 12. Diện tích, năng suất, sản lượng đậu ........................................................... 63
Bảng 3. 13. Số lượng gia súc gia cầm ........................................................................... 63
Bảng 3. 14. Cơ cấu sử dụng đất huyện Lý Sơn (ha) ...................................................... 64
Bảng 3. 15. Giá trị sản xuất công nghiệp trên địa bàn (theo giá 2018) ......................... 65
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Bảng 3. 16: Sự phát triển chuỗi giá trị du lịch qua các năm ......................................... 86
Bảng 3. 17: Chuỗi giá trị nghề cá xa bờ huyện đảo Lý Sơn .......................................... 91
Bảng 3. 18: Tính toán hiệu quả kinh tế của hoạt động nghề cá huyện đảo Lý Sơn ...... 92
Bảng 3. 19: Diễn biến tỷ lệ đất nông nghiệp qua các năm ........................................... 93
Bảng 3. 20: Tính toán giá trị cây trồng hàng năm qua các năm ................................... 94
Bảng 3. 21: Hiệu quả thu nhập của lao động nông nghiệp Lý Sơn quan các năm ........ 94
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Lý Sơn là huyện đảo nằm phía Đông của tỉnh Quảng Ngãi, cách đất liền 18 hải
lý, có tọa độ địa lý từ 15032’04’’ đến 15038’14’’ vĩ độ Bắc và 109005’04’’ đến
109014’12’’ kinh độ Đông. Huyện Lý Sơn có 3 xã, với tổng diện tích tự nhiên là 1.032,49
ha chiếm 0,20% diện tích tự nhiên toàn tỉnh. Huyện Lý Sơn nằm án ngữ trên con đường
ra biển Đông của khu vực kinh tế trọng điểm miền Trung qua cửa ngõ Dung Quất, có
mối liên hệ chặt chẽ với các khu vực trọng điểm phát triển kinh tế của tỉnh như: Khu
kinh tế Dung Quất; thành phố Quảng Ngãi; khu du lịch Mỹ Khê và khu du lịch Sa
Huỳnh. Lý Sơn cùng với khu du lịch Mỹ Khê, khu du lịch Sa Huỳnh tạo thành 03 đỉnh
của tam giác có khả năng hình thành nên các khu du lịch biển của tỉnh có quy mô lớn
trong tương lai. Với ưu thế về vị trí địa lý như trên, huyện có rất nhiều điều kiện thuận
lợi để đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế - xã hội trong những năm tới. Tuy nhiên,
Lý Sơn có tới 21 nghìn dân là huyện đảo có sô dân đông nhất trong các đảo ven bờ của
Việt Nam, dân số tập trung đông đúc trên diện tích đất nhỏ ngày càng bị thu hẹp tạo ra
sức ép rất lớn với môi trường, đa số dân cư có thu nhập thấp, ý thức bảo vệ môi trường
kém, canh tác nông nghiệp trên đảo còn lạc hậu. Tình hình khai thác, đánh bắt thuỷ hải
sản bằng phương pháp hủy diệt vẫn diễn ra mà chưa thấy có chiều hướng giảm dẫn đến
sự mất cân bằng và tính đa dạng của hệ sinh thái biển rất nghiêm trọng. Tất cả điều này
đi ngược lại với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội theo hướng bền vững đã được
Chính phủ xác định trong chiến lược phát triển kinh tế đất nước đến năm 2050. Mặc dù
có nhiều lợi thế, tiềm năng về tài nguyên thiên nhiên phong phú nhưng muốn duy trì sự
phát triển hướng tới bền vững của toàn bộ huyện đảo cần có những điều chỉnh cụ thể.
Cần phải xem xét mối quan hệ mật thiết giữa sự phát triển kinh tế - xã hội với môi trường
có như vậy mới đáp ứng được mục tiêu phát triển KT-XH bền vững huyện đảo Lý Sơn.
Đề tài “Nghiên cứu cơ sở khoa học phục vụ đề xuất mô hình phát triển kinh tế
- xã hội bền vững huyện đảo Lý Sơn, tỉnh Quảng Ngãi” được thực hiện nhằm đưa ra
được cơ sở khoa học và định hướng phát triển kinh tế - xã hội bền vững dựa trên những
điều kiện tự nhiên, xã hội sẵn có của huyện đảo nhằm nâng cao hiệu quả của công tác
quản lý tài nguyên và môi trường, góp phần vào sự phát triển chung bền vững của tỉnh
Quảng Ngãi.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Mục tiêu: Đánh giá tài nguyên thiên nhiên, hiện trạng kinh tế - xã hội huyện đảo Lý Sơn.
Đề xuất mô hình phát triển kinh tế - xã hội theo hướng bền vững cho huyện đảo
Lý Sơn.
Để thực hiện được các mục tiêu trên luận văn tập trung giải quyết những nhiệm
vụ sau:
- Thu thập tài liệu, số liệu về điều kiện tự nhiên, hiện trạng kinh tế - xã hội của
huyện đảo Lý Sơn;
- Đánh giá tài nguyên thiên nhiên, hiện trạng kinh tế - xã hội của huyện đảo Lý
Sơn.
- Đề xuất mô hình phát triển kinh tế - xã hội bền vững huyện đảo Lý Sơn.
3. Ý nghĩa khoa học của đề tài nghiên cứu
Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần hoàn thiện phương pháp luận
nghiên cứu tài nguyên thiên nhiên, kinh tế - xã hội phục vụ phát triển bền vững huyện
đảo.
4. Những đóng góp mới của đề tài
- Đánh giá được thực trạng tài nguyên thiên nhiên và phát triển của một huyện
đảo tiền tiêu không chỉ có ý nghĩa quan trọng về phát triển kinh tế - xã hội mà còn có ý
nghĩa chiến lược về an ninh quốc phòng.
- Đề xuất mô hình phát triển kinh tế - xã hội bền vững cho huyện đảo Lý Sơn.
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Cơ sở lý luận
- Khái niệm về phát triển bền vững
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Khái niệm “phát triển bền vững” xuất hiện trong phong trào BVMT từ những
năm đầu của thập niên 70 của thế kỷ XX, từ đó đến nay đã có nhiều định nghĩa về
phát triển bền vững được đưa ra, như:
- Phát triển bền vững là sự phát triển kinh tế - xã hội lành mạnh, dựa trên việc
sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên và BVMT, nhằm đáp ứng nhu cầu hiện tại nhưng
không làm ảnh hưởng bất lợi cho các thế hệ mai sau.
- Phát triển bền vững là sự phát triển kinh tế - xã hội với tốc độ tăng trưởng
cao, liên tục trong thời gian dài dựa trên việc sử dụng có hiệu quả nguồn tài nguyên
thiên nhiên mà vẫn bảo vệ được môi trường sinh thái. Phát triển kinh tế nhằm đáp ứng
nhu cầu ngày càng cao của xã hội hiện tại, song không làm cạn kiệt tài nguyên, để lại
hậu quả về môi trường cho thế hệ tương lai.
- Phát triển bền vững là phát triển đáp ứng các nhu cầu hiện tại mà không làm
thương tổn đến khả năng của các thế hệ tương lai đáp ứng nhu cầu của họ.
- Phát triển bền vững là một phương thức phát triển kinh tế - xã hội nhằm giải
quyết tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế, giải quyết các vấn đề xã hội và BVMT
với mục tiêu đáp ứng tốt hơn các nhu cầu của thế hệ hiện tại đồng thời không gây trở
ngại cho việc đáp ứng nhu cầu của các thế hệ mai sau. Hay nói cách khác: đó là sự
phát triển hài hoà cả về kinh tế, văn hoá, xã hội, môi trường ở các thế hệ nhằm không
ngừng nâng cao chất lượng sống của con người. Định nghĩa này có thể mở rộng với
ba cấu thành cơ bản về sự phát triển bền vững:
- Về mặt kinh tế: Một hệ thống bền vững về kinh tế phải có thể tạo ra hàng hoá
và dịch vụ một cách liên tục, với mức độ có thể kiểm soát của chính phủ và nợ nước
ngoài, tránh sự mất cân đối giữa các khu vực làm tổn hại đến sản xuất nông nghiệp,
công nghiệp và dịch vụ.
- Về mặt xã hội: Một hệ thống bền vững về mặt xã hội phải đạt được sự công
bằng trong phân phối, cung cấp đầy đủ các dịch vụ xã hội bao gồm y tế, giáo dục,
bình đẳng giới, sự tham gia và trách nhiệm chính trị của mọi công dân.
- Về môi trường: Một hệ thống bền vững về môi trường phải duy trì nền tảng
nguồn lực ổn định, tránh khai thác quá mức các hệ thống nguồn lực tái sinh hay những
vận động tiềm ẩn của môi trường và việc khai thác các nguồn lực không tái tạo không
vượt quá mức độ đầu tư cho sự thay thế một cách đầy đủ. Điều này bao gồm việc duy
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
trì sự đa dạng sinh học, sự ổn định khí quyển và các hoạt động sinh thái khác mà
thường không được coi như các nguồn lực kinh tế.
Phát triển bền vững có thể được minh hoạ theo các mô hình sau đây:
Hình 1. 1. Mối quan hệ giữa phát triển kinh tế - xã hội và môi trường
1.2. Cơ sở thực tiễn
Phát triển bền vững là một chủ trương nhất quán của Đảng và Nhà nước ta và là
vấn đề thu hút sự quan tâm của xã hội. Đặc biệt phát triển bền vững gắn với phát triển
kinh tế, môi trường trong thời gian qua đã có nhiều cơ chế, chính sách được ban hành
và triển khai, bước đầu mang lại những chuyển biến tích cực.
Chính phủ đã ban hành Chương trình nghị sự 21 của Việt Nam (2004), Chiến
lược phát triển bền vững Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020 (2012) và gần đây nhất là Kế
hoạch hành động quốc gia thực hiện Chương trình nghị sự 2030 vì sự phát triển bền
vững với 17 mục tiêu phát triển bền vững và 115 mục tiêu cụ thể đặt ra cho Việt Nam
trong giai đoạn từ nay đến năm 2030 trên tất cả các lĩnh vực kinh tế - xã hội - môi trường.
Quan điểm phát triển bền vững đã được Chính phủ lồng ghép xuyên suốt trong
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011 - 2020, kế hoạch phát triển kinh tế
- xã hội giai đoạn 2011 - 2015 và giai đoạn 2016 - 2020. Việt Nam đã đạt được nhiều
thành tựu về phát triển bền vững trên các lĩnh vực kinh tế - xã hội và môi trường như:
Tốc độ tăng trưởng GDP, giảm nghèo bền vững, phổ cập giáo dục, tiếp cận các dịch vụ
y tế, chăm sóc sức khỏe…
Tuy nhiên, nhận thức về phát triển bền vững của không ít cơ quan, đơn vị, doanh
nghiệp và nhiều người dân còn chưa đầy đủ, thiếu thống nhất; các chính sách kinh tế -
xã hội còn thiên về tăng trưởng nhanh về kinh tế và ổn định xã hội mà chưa quan tâm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
đầy đủ, đúng mức đến tính bền vững khi khai thác, sử dụng tài nguyên thiên nhiên, gắn
với bảo vệ môi trường…
Để khắc phục những tồn tại, hạn chế trên, tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực
hiện thành công các mục tiêu phát triển bền vững của Việt Nam đến năm 2030, Thủ
tướng Chính phủ chỉ đạo Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành,
địa phương và các bên liên quan tổ chức triển khai có hiệu quả các nhiệm vụ được giao
trong Kế hoạch hành động quốc gia thực hiện Chương trình nghị sự 2030. Trong năm
2019, Bộ Kế hoạch và Đầu tư xây dựng và ban hành Hướng dẫn lồng ghép các mục tiêu
phát triển bền vững vào Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và Hướng dẫn thực hiện
giám sát, đánh giá các mục tiêu phát triển bền vững; Theo dõi, đánh giá, tổng hợp báo
cáo kết quả thực hiện Kế hoạch hành động quốc gia thực hiện Chương trình nghị sự
2030 và các mục tiêu phát triển bền vững trình Chính phủ, Quốc hội hằng năm.
Cụ thể hóa chủ trương chính sách của Nhà nước, tỉnh Quảng Ngãi đã ra quyết
định số: 316/QĐ ngày 24 tháng 9 năm 2015 Phê duyệt Đề án Xây dựng huyện đảo Lý
Sơn mạnh về kinh tế, vững chắc về quốc phòng, an ninh đến năm 2020 trên quan điểm
và mục tiêu:
- Huy động nguồn lực để đầu tư phát triển các ngành, lĩnh vực mà huyện có tiềm
năng, thế mạnh là thủy sản và du lịch; ứng dụng mô hình canh tác tiên tiến, nâng cao
chất lượng, năng suất cho trồng trọt và chăn nuôi, nhất là đối với cây hành, tỏi.
- Tiếp tục đầu tư nâng cấp hoàn thiện và từng bước hiện đại hóa hệ thống kết cấu
hạ tầng thiết yếu; ưu tiên đầu tư cho cấp điện, nước sạch, cầu cảng, hạ tầng giao thông
(đường thủy, đường bộ, đường hàng không), hệ thống thông tin liên lạc và hạ tầng xã
hội; gắn phát triển kinh tế - xã hội của huyện Lý Sơn với Khu kinh tế Dung Quất, vùng
ven biển của tỉnh và các tỉnh ven biển duyên hải miền Trung.
- Phát triển kinh tế nhanh và bền vững; tạo việc làm, đẩy nhanh giảm nghèo, cải
thiện điều kiện vật chất và tinh thần cho nhân dân; gắn phát triển kinh tế với giải quyết
các vấn đề xã hội. Đào tạo, thu hút đội ngũ nhân lực, đội ngũ lao động có trình độ, chất
lượng cao; chăm lo phát triển sự nghiệp văn hóa, giáo dục, đào tạo, khoa học công nghệ;
nâng cao năng lực quản lý nhà nước.
- Gắn phát triển kinh tế với đảm bảo quốc phòng, an ninh; xây dựng hệ thống
chính trị vững mạnh toàn diện; xây dựng huyện đảo trở thành tuyến phòng thủ vững
chắc, tích cực tham gia bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền quốc gia vùng biển, đảo của
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Tổ quốc. Đảm bảo thế trận an ninh nhân dân và quốc phòng toàn dân; giữ gìn trật tự an
toàn xã hội; có biện pháp quản lý, bảo vệ ngư dân hành nghề trên biển.
- Định hướng phát triển Lý Sơn thành một đảo xanh. Phát triển kinh tế kết hợp
chặt chẽ với khai thác tài nguyên thiên nhiên hợp lý, khôi phục và bảo vệ môi trường
sinh thái, đảm bảo phát triển bền vững.
Phát triển huyện đảo Lý Sơn theo hướng trở thành đô thị biển xanh, sạch, đẹp,
văn minh, môi trường bền vững, phù hợp với khả năng của tỉnh, trên cơ sở tận dụng
nguồn lực từ ngân sách, thu hút các nhà đầu tư trong, ngoài nước và lấy nội lực làm
động lực trọng tâm của sự phát triển; kết hợp phát triển kinh tế biển, du lịch sinh thái
biển với đầu tư xây dựng khu vực phòng thủ, đảm bảo vững chắc về quốc phòng, an
ninh.
1.3. Tổng quan các công trình nghiên cứu có liên quan
1.3.1. Các công trình tiêu biểu trong nước nghiên cứu liên quan đến phát triển KT
- XH tại khu vực đã thực hiện trước đây:
- Đánh giá điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên, kinh tế xã hội hệ thống đảo
ven bờ Việt Nam trong chiến lược phát triển KT - XH biển (Lê Đức An và nnk
(1995)).
- Đánh giá tổng hợp tiềm năng tự nhiên, kinh tế, xã hội, thiết lập các giải pháp
PTBV KT - XH bền vững cho một số huyện đảo (Phạm Hoàng Hải và cộng sự
(2005)).
- Nghiên cứu đề xuất các mô hình phát triển KT-XH bền vững cho một số khu
vực biển và đảo ven bờ Việt Nam (Phạm Hoàng Hải và cộng sự (2005)).
- Điều tra đánh giá hiện trạng các hệ sinh thái, xây dựng luận cứ khoa học đề xuất
dự án Khu bảo tồn thiên nhiên biển phục vụ du lịch ở vùng biển ven bờ huyện Lý
Sơn (Viện Nghiên cứu quản lý biển và hải đảo, Tổng cục biển và hải đảo
Việt Nam (2011)).
- Một số định hướng về quản lý theo hướng bền vững tài nguyên thiên nhiên vùng
ven biển Nam Trung Bộ thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH (Nguyễn Ngọc Khánh và
cộng sự (2014)).
Kết quả của các nghiên cứu trên chủ yếu đánh giá tiềm năng và hiện trạng tài
nguyên thiên, cảnh quan sinh thái, môi trường và kinh tế - xã hội khu vực nghiên cứu.
Bên cạnh đó cũng đưa ra các giải pháp khai thác hợp lý tài nguyên thiên nhiên và bảo
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
vệ môi trường, tuy nhiên đối với việc đưa ra các mô hình phát triển kinh tế - xã hội bền
vững tại khu vực đều chưa được đề cập cụ thể.
1.3.2. Các nghiên cứu ngoài nước về mô hình phát triển KT - XH bền vững
Các nghiên cứu trong và ngoài nước từ trước tới nay về mô hình phát triển kinh
tế, xã hội trên lãnh thổ, vùng, thích ứng với các điều kiện đặc thù của từng lãnh thổ,
vùng, đều đề cập đến hai loại mô hình phát triển kinh tế: mô hình ngoại sinh và mô hình
nội sinh.
Mô hình ngoại sinh là mô hình hiện đại hóa nhằm phát triển khu vực ngoài đô thị
ở các nước EU được bắt đầu từ giữa thế kỷ XX trên tất cả các mặt của cuộc sống ở các
vùng được xem là nông thôn, trong đó có các hải đảo nhỏ, từ sản xuất nông nghiệp đến
cơ sở hạ tầng văn hóa và tự nhiên (Nemes, 2005; Arnalte và Ortiz, 2003). Việc sản xuất
thâm canh, chuyên môn hóa và tăng trưởng kinh tế có một vai trò hết sức quan trọng đối
với các khu vực này và để đạt được điều đó nền kinh tế của các lãnh thổ này chủ yếu
thông qua cơ chế can thiệp từ bên ngoài (ngoại sinh).
Mô hình này tồn tại suốt nhiều thập kỷ là do các khu vực nông thôn, miền núi,
hải đảo luôn trong tình trạng kém phát triển hơn các trung tâm thành thị do yếu kém về
cơ sở hạ tầng, khả năng tiếp cận các nguồn lực thấp và duy trì hệ thống văn hóa và kinh
tế xã hội theo chủ nghĩa truyền thống. Do đó, để cải thiện tình hình, khu vực “nông thôn”
này cần phải được hiện đại hóa và kết nối chặt chẽ với các trung tâm năng động và mở
rộng các ngành, lĩnh vực sản xuất, cùng với việc khuyến khích chuyển giao khoa học kỹ
thuật, đưa khoa học kỹ thuật vào phục vụ sản xuất thông qua các can thiệp từ bên ngoài
(từ các trungtâm phát triển).
Việc hỗ trợ, bao cấp cho thay đổi công nghệ phục vụ sản xuất nông nghiệp đã có
tác động đáng kể tới việc thay đổi cơ cấu kinh tế và việc phát triển nông nghiệp dẫn tới
kết quả là các hộ gia đình nông thôn, hải đảo sản xuất nhiều hơn và sản xuất trên phần
diện tích lớn hơn, chính vì vậy, số lượng các nông trang và quy mô lao động nông nghiệp
đã giảm xuống mạnh mẽ (Arnalte và Ortiz, 2003:5). Song cách tiếp cận hiện đại hóa
(hiện đại hóa trong sản xuất nông nghiệp và chế biến thực phẩm) đã bộc lộ các tác động
tiêu cực đối với vấn đề lao động. Rất nhiều lao động nông thôn bị đẩy ra khỏi thị trường
lao động nông thôn đi ra thành thị hay xu thế lao động từ ngoài đảo quay về đất liền
(Szelényi và Konrád, 1971 – trích trongNemes, 2005).
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Mô hình nội sinh là cách tiếp cận nội sinh hướng vào phát triển ở một số nước
dựa vào một số nguyên tắc cơ bản, được hình thành từ các nguồn lực địa phương, cơ
chế tham gia, phối hợp, “xây dựng các mục tiêu dưới dạng quy trình”, các giá trị truyền
thống, … Cách tiếp cận này cũng đã khắc phục được một số vấn đề phát triển ở giai
đọan đầu của mô hình hiện đại hóa và can thiệp từ bên ngoài và đã thể hiện những kết
quả trong chính sách phát triển nông thôn là: (i) Nâng cao khả năng cạnh tranh của các
khu vực nông thôn; (ii) Phân công nhiều hơn nhiệm vụ và trách nhiệm trong khâu lập
chính sách và thực thi cho cấp chính quyền địa phương, cũng như gắn kết với các tổ
chức NGOs địa phương và người dân trong việc thiết kế và thực hiện chiến lược và các
công cụ hỗ trợ đều phải nhằm vào các nhu cầu thiết thực của họ (các tiếp cận từ dưới
lên); (iii) Phối hợp các họat động trong tạo lập chính sách nhằm đảm bảo tính liên kết
chặt chẽ trong hành động; (iv) Thành lập các doanh nghiệp mới thông qua cổ vũ, thúc
đẩy tinh thần kinh doanh của các doanh nhân và đầu tư vào cơ sở hạ tầng công cộng,
nguồn nhân lực và vốn xã hội, bằng cách đó sẽ hướng vào đa dạng hóa ngành/lĩnh vực
thay vì chỉ tập trung vào nông nghiệp, vùng nông thôn được xem như là gắn kết với các
hoạt động kinh tế hơn là thuần túy nông nghiệp (Mandl et al, 2007). Bên cạnh đó phát
triển kinh tế lãnh thổ cấp huyện được khuyến cáo dựa trên hai nhóm yếu tố: (1) Nhóm
yếu tố bên trong vùng lãnh thổ: Yếu tố địa lý và tài nguyên thiên nhiên; Dân số cùng các
giá trị văn hoá và nguồn nhân lực; Tri thức bản địa; Khoa học công nghệ; Kết cấu hạ
tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật đã có; Trình độ phát triển của nền kinh tế & Môi trường
chính sách;
(2) Nhóm yếu tố bên ngoài lãnh thổ: Nhóm các yếu tố về chủ trương, đường lối
phát triển kinh tế của nhà nước; Yếu tố thị trường và các mối liên hệ kinh tế liên vùng;
Yếu tố về nguồn đầu tư từ bên ngoài & Xu hướng toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế.
1.4. Khái quát khu vực nghiên cứu
1.4.1 Khái quát đặc điểm tài nguyên thiên nhiên huyện đảo Lý Sơn
1.4.1.1. Tài nguyên khí hậu
Để phục vụ mục tiêu nghiên cứu, luận văn đã thu thập tham khảo các nghiên
cứu đã thực hiện được về huyện đảo Lý Sơn và số liệu quan trắc từ trạm khí tượng hải
Lý Sơn để phân tích đặc điểm khí hậu của huyện đảo Lý Sơn. Chuỗi số liệu quan trắc
tại trạm khí tượng Lý Sơn được thu thập được từ năm 1985 đến 2018.
a. Chế độ nhiệt
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Vùng biển – đảo Lý Sơn có tổng nhiệt độ năm trên 9.300oC; tổng lượng bức xạ
trên 140kcal/cm2/năm và trên 2.100 giờ nắng/năm. Nhiệt độ không khí khu vực huyện
đảo Lý Sơn ít biến động. Nhiệt độ bình quân năm đạt 26,6oC và chênh lệch giữa các
tháng không nhiều. Nhiệt độ trung bình tháng lớn nhất là 29,5oC (tháng VI, VII, VIII)
và trung bình tháng thấp nhất là 23,0oC (tháng I). Nhiệt độ lớn nhất đã quan trắc được
tại trạm Lý Sơn là 36,8oC và thấp nhất là 15,4oC. Như vậy, so với các đảo phía Nam như
Thổ Chu, Hòn Khoai, Côn Đảo và Phú Quí biên độ nhiệt trên huyện đảo Lý Sơn đã tăng
đáng kể. Các đặc trưng nhiệt độ Lý Sơn được trình bày trong các bảng 1. 1, 1.
40.00
35.00
30.00
25.00
2, 1. 3 và hình 1. 2.
)
20.00
C o (
15.00
10.00
TB tháng (oC) Lớn nhất (oC) Nhỏ nhất (oC)
5.00
.00
Tháng
Hình 1. 2. Nhiệt độ bình quân tháng, nhiệt độ lớn nhất, nhiệt độ nhỏ nhất và bình quân năm tại trạm Lý Sơn (oC) Bảng 1. 1. Nhiệt độ bình quân tháng trung bình nhiều năm tại trạm Lý Sơn (oC)
I II III IV V VI VII VIII IX X XI XII năm
23,0 23,4 24,3 26,3 28,3 29,5 29,5 29,5 28,4 27,0 25,8 24,0 26,6 (Trung tâm Khí tượng Thủy văn Quốc gia)
Bảng 1. 2. Nhiệt độ cao nhất tại trạm Lý Sơn (oC)
I II III IV V VI VII VIII IX X XI XII năm
30,4 29,9 31,7 33,7 35,9 36,4 36,2 36,8 35,5 33 31,5 31 36,8
(Trung tâm Khí tượng Thủy văn Quốc gia)
Bảng 1. 3. Nhiệt độ thấp nhất tại trạm Lý Sơn (oC)
I II III IV V VI VII VIII IX X XI XII năm
16,9 17,1 15,4 19,8 21,8 23,1 23 22,9 21,8 21,2 20
17,1 15,4 (Trung tâm Khí tượng Thủy văn Quốc gia) b. Chế độ mây - nắng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Ở huyện đảo Lý Sơn có nhiều nắng. Mỗi năm có khoảng 2.429 giờ nắng. Tất cả
các tháng trong năm đều có trên 100 giờ nắng. Biến trình năm của giờ nắng có cực đại
rơi vào tháng V, đạt khoảng 281,8 giờ nắng/tháng, tức là mỗi ngày có khoảng 9,1 giờ
nắng. Liên tiếp các tháng IV, V, VI, VII và VIII có số giờ nắng cao. Tháng nào cũng có
trên 240 giờ nắng. Cực tiểu quan trắc được vào tháng XII, chỉ có 102,3 giờ nắng, tức là
chỉ 3,3 giờ nắng/ngày.
Lượng mây tổng quan trung bình năm không nhiều, đạt 7,7/10 bầu trời thấp hơn
so với một số đảo phía Nam như Côn Đảo là 8,7/10. Vào mùa mưa trời tương đối nhiều
mây, lượng mây tổng quan trung bình đạt trị số trên 8/10 bầu trời. Trong khi đó vào mùa
ít mưa trời quang, ít mây hơn, lượng mây tổng quan trung bình tháng chỉ dao động trong
khoảng dưới 8/10 bầu trời. Tháng II có ít mây nhất, chỉ đạt 7,2/10 bầu trời.
c. Chế độ gió
Tốc độ gió
40.00
30.00
20.00
) s /
TB
m
(
Max
10.00
.00
1
2
3
4
5
8
9
10 11 12
6 7 Tháng
Hình 1. 3. Tốc độ gió trung bình tháng (m/s)
Tốc độ gió trung bình khu vực huyện đảo Lý Sơn thuộc loại khá cao. Tốc độ gió
trung bình năm đạt 4,4m/s. Tháng có tốc độ gió trung bình lớn nhất là tháng XII đạt
6,6m/s và tháng nhỏ nhất là tháng VII và VIII đạt 2,8m/s. Tốc độ gió mạnh nhất đạt
34m/s vào các tháng của mùa mưa, mùa hoạt động của gió mùa Tây Nam; đạt khoảng
17 – 25m/s vào các tháng mùa khô. Tốc độ gió trung bình tháng và năm tại trạm Lý Sơn
được trình bày trong bảng 1.4. Ngoài ra, vào thời gian ảnh hưởng của gió mùa Đông
Bắc, biển cũng động mạnh, cản trở việc giao lưu, tiếp cận với huyện đảo. Ví dụ, đợt
không khí lạnh tăng cường vào cuối tháng 11 năm 2017, biển động mạnh, gió giật cấp
6-7 gây cô lập hoàn toàn huyện đảo Lý Sơn hơn 4 ngày, cơ quan chức năng buộc phải
tạm ngừng hoạt động 12 tàu cao tốc và các tàu vận chuyển hàng hóa trên tuyến vận tải
Sa Kỳ - Lý Sơn và ngược lại. Hay do ảnh hưởng của áp thấp nhiệt đới gây biển động và
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
gió giật mạnh vào đầu tháng 6/2018 với sức gió trên đảo cấp 6-7, hàng ngàn du khách
đã bị mắc kẹt ở huyện đảo Lý Sơn.
Bảng 1. 4. Tốc độ gió trung bình tháng và năm (m/s)
I II III IV V VI VII VIII IX X XI XII năm
5,3 4,8 4,9 4,3 3,4 2,9 2,8 2,8 3,6 5,2 6,5 6,6 4,4
(Trung tâm Khí tượng Thủy văn Quốc gia)
d. Chế độ mưa
Huyện đảo Lý Sơn có tổng lượng mưa năm khá lớn, từ 2.100mm - 2.600mm và
khí hậu hải dương khá đặc sắc. Mùa bão vào tháng 9, 10 và 11 âm lịch hàng năm, là thời
điểm thường xuyên có mưa lớn, biển động dữ dội. Mùa mưa trên vùng biển – đảo Lý
Sơn bắt đầu từ tháng 9 đến tháng 2 dương lịch năm sau, vào thời gian này, hầu như ngày
nào cũng mưa, có hôm mưa tầm tã cả ngày nên ảnh hưởng rất nhiều tới các hoạt động
đi lại và vui chơi.
Do điều kiện địa hình của huyện đảo Lý Sơn nên trên đại bộ phận lãnh thổ của
đảo có chế độ mưa ẩm khá đồng đều. Tổng lượng mưa năm đạt 2.279mm/năm. Mùa
mưa trên huyện đảo Lý Sơn nói chung kéo dài 6 tháng (VIII – I) với lượng mưa chiếm
82% tổng lượng mưa năm. Tháng có lượng mưa lớn nhất là tháng IX đạt 364,8mm.
Lượng mưa ngày lớn nhất đã quan trắc được vào tháng V đạt 418,4mm/ngày. Mùa ít
mưa kéo dài 6 tháng từ tháng II đến tháng VII. Tháng có lượng mưa nhỏ nhất là tháng
II, lượng mưa chỉ đạt 45,7mm, chiếm 2% tổng lượng mưa năm. Ở khu vực đảo này có
số ngày mưa thuộc loại trung bình, khoảng 117 ngày/năm. Trong mùa mưa (VIII-II),
mỗi tháng có từ 7 - 18 ngày mưa, trong đó 5 tháng IX – I có nhiều ngày mưa hơn. Trong
600.00
(ngày) 20
500.00
15
400.00
)
300.00
10
m m
(
200.00
5
100.00
.00
0
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
Mưa TB (mm)
Mưa ngày max (mm)
mùa ít mưa mỗi tháng chỉ có từ 4 - 7 ngày mưa.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Hình 1. 4. Số ngày mưa, lượng mưa bình quân tháng và lượng mưa ngày lớn nhất tại trạm Lý Sơn Bảng 1. 5. Số ngày mưa (ngày)
I II III IV V VI VII VIII IX X XI XII năm
13 7 6 4 6 4 5 7 13 18 17 17 117
(Trung tâm Khí tượng Thủy văn Quốc gia)
Bảng 1. 6. Lượng mưa trung bình tháng tại trạm Lý Sơn (mm)
I II III IV V VI VII VIII IX X XI XII năm
121,2 45,7 89,4 59,3 121,8 58,0 51,9 129,3 424,9 519,1 413,2 255,5 2279
(Trung tâm Khí tượng Thủy văn Quốc gia)
Bảng 1. 7. Lượng mưa ngày lớn nhất tại trạm Lý Sơn (mm)
I II III IV V VI VII VIII IX X XI XII năm
169,4 62,5 163,9 211,7 418,4 203,5 257,6 340,3 390 317,5 336,1 325 418,4
(Trung tâm Khí tượng Thủy văn Quốc gia)
đ. Các hiện tượng thời tiết đặc biệt
Tổng số ngày có dông trung bình năm tại trạm Lý Sơn đạt 36 ngày, nhỏ hơn so
với các đảo phía Nam. Dông thường xuất hiện với tần suất lớn vào các tháng mưa nhiều.
Thời kỳ ít mưa dông cũng ít hơn, thậm chí có nhưng tháng không có dông như tháng
XII, I và II. Số ngày mưa dông trung bình tháng nhiều năm được trình bày trong bảng
1.8 và hình 1.5. Số cơn bão ít hơn so với vùng biển phía Bắc, tổng số chỉ có 24 cơn trong
51 năm (chiếm khoảng 7,6% tổng số cơn trên toàn dải), tức là vào khoảng 0,5 cơn/năm.
12
10
8
6
Thời kỳ hay gặp bão, áp thấp nhiệt đới nhất trong năm là vào các tháng IX - XI.
y a g N
4
2
0
1
2
3
4
5
8
9
10
11
12
6
7
Thg
Hình 1. 5. Số ngày mưa dông bình quân tháng tại trạm Lý Sơn
Bảng 1. 8. Số ngày mưa dông bình quân tháng và năm (ngày)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
I II III IV V VI VII VIII IX X XI XII năm
0,0 0,0 0,3 1,6 3,6 4,7 3,1 6,9 9,8 4,5 1,5 0,0 36,0
(Trung tâm Khí tượng Thủy văn Quốc gia)
Một hiện tượng thời tiết đặc biệt xảy ra ở vùng biển này là hiện tượng sương mù.
Trung bình hàng năm có 6 ngày có sương mù. Các tháng có sương mù nhiều thường rơi
vào tháng III và tháng IV.
4 4 3 3 y à 2 g N 2 1 1 0
1
2
3
4
5
8
9
10
11
12
6 7 Tháng
Hình 1. 6. Số ngày sương mù bình quân tháng tại trạm Lý Sơn
Bảng 1. 9. Số ngày sương mù bình quân tháng (ngày)
I II III IV V VI VII VIII IX X XI XII năm
0,6 1,2 3,6 2,6 1,4 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 6,2
(Trung tâm Khí tượng Thủy văn Quốc gia)
1.4.1.2. Tài nguyên đất
Theo kết quả điều tra thổ nhưỡng huyện đảo Lý Sơn có các loại đất sau:
- Đất nâu đỏ trên đá Ba Zan (Fk): Có diện tích 845,0 ha, chiếm 84,76% diện tích
tự nhiên, đây là nguồn tài nguyên quan trọng của huyện đảo. Trong diện tích này có
558,00 ha (chiếm 64,51%) có tầng dày trên 100cm, độ dốc dưới 80, độ màu mỡ khá, hàm
lượng các chất dinh dưỡng từ trung bình trở lên, thích hợp cho phát triển nhiều loại cây
trồng khác nhau.
- Đất cát bằng ven biển (Cb): Có diện tích 42,0 ha, chiếm 2,1% diện tích tự nhiên,
phân bố viền quanh đảo tiếp giáp với mép biển. Loại đất này chủ yếu thích hợp với việc
phát triển lâm nghiệp (trồng rừng phòng hộ).
- Đất cát biển (C): Có diện tích 110,0 ha, chiếm 11,03% diện tích tự nhiên, tập
trung phần lớn ở xã An Vĩnh. Diện tích đất này được cải tạo sử dụng để sản xuất nông
nghiệp.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Có thể nhận thấy, trên huyện đảo Lý Sơn, đất đỏ bazan chiếm 84,76% diện tích
tự nhiên, trong đó có đến 558,0/845,0 ha có tầng dày trên 100cm, độ dốc dưới 80, là
nguồn đất rất thuận lợi cho bố trí sử dụng vào hoạt động dân sinh, kinh tế. Còn lại 287ha
là đất có độ dốc lớn, nhưng vẫn có thể sử dụng cho hoạt động sản xuất và thực tế đã
được sử dụng vào những mục đích khai thác nguồn lợi chủ yếu là bị cào lớp đất màu để
trồng hành, tỏi từ nửa sau thế kỷ XX cho đến nay.
Hình 1. 7. Bản đồ thổ nhưỡng huyện đảo Lý Sơn năm 2019 [7]
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Theo kết quả điều tra khảo sát, xây dựng bản đồ đất ở tỷ lệ 10.000 trên cơ sở hệ
thống phân loại đất phát sinh của Việt Nam đã xác định được 3 nhóm đất và 8 loại đất.
Bảng 1. 10. Phân loại đất huyện đảo Lý Sơn
Diện tích Ký TT Loại đất hiệu Ha %DTTN
I Nhóm đất đỏ 499,5 48,38%
1 Đất đỏ vàng trên đá bazan Fk 80,3 7,78%
2 Đất nâu vàng trên đá bazan Fu 419,2 40,61%
II Nhóm đất tầng mỏng 135,4 13,11%
3 Đất tầng mỏng đỏ vàng trên đá bazan Ed 10,4 1,01%
4 Đất tầng mỏng nâu đen trên đá bazan En 15,8 1,53%
5 Đất tầng mỏng nâu xám trên đá bazan Ex 61,3 5,94%
6 Đất xói mòn trơ sỏi đá E 47,8 4,63%
III Nhóm đất cát 256,7 24,86%
7 Đất cát biển C 111,1 10,76%
8 Đất cồn cát CC 145,5 14,10%
9 Ao hồ 7 0,66%
898 87,01% Tổng
1.4.1.3. Tài nguyên nước
Do đặc điểm địa hình của đảo, đồng nhất, ít phân cắt, cộng với việc diện tích đảo
nhỏ nên mạng lưới suối trên đảo kém phát triển, độ che phủ rừng thấp, chỉ có một số
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
con suối nhỏ chảy tạm thời vào mùa mưa ở phía Nam đảo với lưu lượng rất thấp. Nước
mặt tại đảo có trữ lượng không đáng kể. Nguồn nước phục vụ sinh hoạt và sản xuất trên
đảo được lấy từ các giếng khoan và từ hồ Thới Lới nhưng mực nước hồ cũng xuống rất
thấp. Do đó tài nguyên nước trên đảo phục vụ sinh hoạt và sản xuất chủ yếu là nước
ngầm.
Trữ lượng khai thác tiềm năng được đánh giá dựa trên cơ sở diện tích phân bố,
chiều dày trung bình của các tầng chứa nước, hệ số ngấm của nước mưa (lượng mưa
trung bình nhiều năm của vùng nghiên cứu), hệ số nhả nước theo tài liệu bơm hút nước
thí nghiệm và thời gian khai thác là 27 năm (10.000 ngày).
Bảng 1. 11. Trữ lượng tĩnh tự nhiên
Chiều dày Thời gian Trữ lượng tĩnh Diện tích Tầng chứa m trung bình khai thác (m3/ngày) (m2) nước (m) (ngày)
qh + qp 0,15 5,0 1.275.963,18 10.000 97
0,1 30,0 6.327.548,36 10.000 1.898 q
Trữ lượng tĩnh tự nhiên 1.995
Bảng 1. 12. Trữ lượng động tự nhiên
Hệ số Lượng mưa Tầng chứa Trữ lượng động tự ngấm Diện lộ (m2) trung bình nước nhiên (m3/ngày) (mm) *
Qh + qp 0,2 1.275.963,18 2.279 1.602
0,2 6.327.548,36 2.279 7.942 q
Trữ lượng động tự nhiên 9.544
Bảng 1. 13. Trữ lượng khai thác tiềm năng
Hệ số xâm phạm Trữ lượng khai thác tiềm Qt Qđ
(m3/ngày) (m3/ngày) năng (m3/ngày) trữ lượng tĩnh ()
1995 0,1 9544 9743,5
1.4.1.4. Tài nguyên sinh vật
- Về thành phần hệ thực vật không mang tính riêng biệt, hệ thực vật có quan hệ
mật thiết với đất liền miền Trung Việt Nam.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
- Về mặt số lượng, có thể so sánh với một đảo đã được điều tra về hệ thực vật là Hoàng Sa - Theo nghiên cứu của H. Fontaine và Lê Văn Hợi (trường đại học Sài
Gòn 1958) nhóm đảo này có 16 họ thực vật với 29 loài. Như vậy số loài ở đây phong
phú hơn so với Hoàng Sa, mặc dù mức độ khai thác đã đến mức rất lớn điều này có
thể giải thích về sự phong phú của điều kiện ẩm và sự thuận lợi của đất của đảo so với
Hoàng Sa.
- Về sinh thái: đa số các loài thực vật tự nhiên đều biểu hiện một thành phần mang
đặc tính sinh thái của nhóm cây trung sinh (mezophyte). Loài hạn sinh ở đây điển hình
chỉ thấy một loài là cenhrusinflexus. Lãnh thổ các loài cây trung sinh còn tồn tại cho
phép khẳng định điều kiện sinh thái có khả năng sử dụng cho phục hồi lại các thảm rừng thường xanh để bảo vệ môi trường đảo và cung cấp nhu cầu gỗ, củi cho nhân dân địa
phương.
Hình 1. 8 : Bản đồ phân bố hệ sinh thái huyện đảo Lý Sơn [6]
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Căn cứ thực trạng và điều kiện sinh thái phát sinh, thảm thực vật được chia thành
2 nhóm lớn: Thảm thực vật tự nhiên và Thảm thực vật nuôi trồng.
Thảm thực vật tự nhiên chỉ còn một diện tích không lớn, phân bố trên các miệng
núi lửa Giếng Tiên, Hòn Sỏi, Thới Lới và trên các bãi cát ven biển. Dựa trên phân tích
đất thực vật lại chia nhóm này thành 3 nhóm phụ theo tính chất của nền đất. Hệ sinh thái
trên đất địa đới chỉ còn một diện tích nhỏ trảng cây bụi, trảng cỏ thứ sinh phân bố ở
Giếng Tiên, Hòn Sỏi và Thới Lới.
- Hệ sinh thái ven biển bao gồm: Hệ sinh thái trên cát biển; Hệ sinh thái bãi triều;
Hệ sinh thái bãi đá ven biển; Hệ sinh thái thảm cỏ biển; Hệ sinh thái rạn san hô
- Đa dạng các loài sinh vật biển: Khu hệ rong biển; Khu hệ cỏ biển; Nhóm cá rạn
san hô: Từ các số liệu thu thập của Võ Điều và cs (2012) được đã xác định được 162
loài các rạn thuộc 92 giống, 48 họ, 12 bộ; Sinh vật phù du: 87 loài TVPD thuộc 3
lớp.
1.4.1.5. Tài nguyên vị thế huyện đảo Lý Sơn
Lý Sơn phân bố không xa đất liền, diện tích đủ lớn, đời sống kinh tế trù phú, lại
có đảo Bé bên cạnh, rất thuận lợi cho xây dựng các căn cứ quân sự liên hợp, hỗ trợ lẫn
nhau trong tác chiến, bảo đảm khả năng bảo vệ vùng biển - đảo và đất liền. Với vị trí
tiền tiêu vùng biển Trung Trung Bộ, Lý Sơn như một tiền đồn bảo đảm chủ quyền quốc
gia vùng biển, và bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ đất liền bên trong. Địa hình Lý Sơn cũng rất
thuận lợi cho sử dụng vào quốc phòng, với khoảng 1/4 diện tích đảo là đồi, phân bố ở 2
phía Đông Bắc và Tây Bắc đảo, là những cao điểm khống chế vùng biển rộng lớn quanh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
đảo, và bảo vệ trực tiếp các khu dân cư, khu kinh tế và các công trình lịch sử - văn hóa,
cơ quan,… ở trung tâm và ở dải phía nam đảo. Với thực lực hiện có về điều kiện tự
nhiên và kinh tế - xã hội, cùng với vị trí thuận lợi hơn nhiều đảo tiền tiêu khác, Lý Sơn
rất thuận lợi cho việc phát triển kinh tế - xã hội từ giá trị vị thế.
Trong phạm vi địa hình đồi, có nhiều địa điểm thuận lợi cho xây dựng các công
trình quân sự, kể cả các công trình ngầm, địa đạo. Vị trí của Lý Sơn từ xưa đã được tầu
thuyền xuôi ngược Bắc - Nam và thương thuyền quốc tế sử dụng để định vị trên biển
nhờ hình dạng cao nguyên và đồi đỉnh bằng của nó, và được hỗ trợ sau này bởi cây đèn
biển cao 52 m ở mỏm phía Đông đảo.
1.4.2. Hiện trạng môi trường huyện đảo Lý Sơn
14.2.1. Hiện trạng môi trường nước
a. Chất lượng nước hồ Thới Lới và nước biển ven đảo Lý Sơn
Qua thực tế điều tra khảo sát cho thấy do dòng chảy mặt trên huyện đảo Lý Sơn
chỉ là dòng chảy tạm thời nên nguồn nước chính để phục vụ sinh hoạt là nước giếng và
nước mưa. Luận văn đã tham khảo kết quả nghiên cứu từ đề tài “Cơ sở khoa học, định
hướng và giải pháp phát triển kinh tế - xã hội bền vững các huyện đảo Lý Sơn và Phú
Quý” mã số KC.09.37/16-20. Phân bố mạng lưới các điểm lấy mẫu nước mặt được mô
tả như trong hình và bảng dưới.
* Nước biển ven đảo: Qua kết quả đo đạc và phân tích các chỉ tiêu có thể thấy:
- Tổng dầu mỡ dao động từ 0,08 - 0,17 mg/l.
- Tổng chất rắn lơ lửng dao động từ 20,2 đến 30,8mg/l.
Nhóm các chất dinh dưỡng:
+ dao động từ 0,315 đến 0,519 ngN/l
- Hàm lượng NO2- dao động từ 0,019 đến 0,039mgN/l
- Hàm lượng NH4
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
-<0,055mgN/l.
Hình 1. 9. Mạng lưới các điểm lấy mẫu nước mặt và nước biển huyện đảo Lý Sơn
- Hàm lượng NO3
-3 và phốt pho tổng số dao động nhỏ hơn 0,02 mg/l.
- Nitơ tổng số dao động trong khoảng từ 0,319 đến 0,845 mgN/l.
- Hàm lượng PO4
- Tổng sắt (Fe+2, + Fe+3) trong nước dao động từ 0,081 đến 0,092 mg/l.
Bảng 1. 14. Vị trí lấy mẫu nước mặt (X/2019)
No KHM Kinh độ Vĩ độ Ghi chú
1 LSNM1 109,135 15,3803 Nước mặt Hồ Thới Lới, gần chân đập.
2 LSNB1 109,144 15,3797 Mẫu nước biển gần NM Âu tàu.
3 LSNB2 109,124 15,3677 Nước biển trước nhà hàng Hải Âu
4 LSNB3 109,096 15,3759 Mẫu nước biển gần cầu cảng Lý Sơn.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Hình 1. 10. Ven bờ phía Tây đảo Lý Sơn
+ Các nguyên tố vi lượng đã phân tích CN, As, Hg đều có hàm lượng rất nhỏ,
nói chung đều nằm trong giới hạn cho phép.
+ Các ion chính:
- Hàm lượng Cl- dao động từ 12.221 đến 14.778mg/l.
+ Chất hữu cơ: Ngoài các ion vô cơ hòa tan trong nước còn hàng loạt các chất
hữu cơ mà nguồn gốc của nó rất đa dạng: từ lớp mùn vỏ thổ nhưỡng, trong nước thải
của các ngành kinh tế, dân sinh và ngay cả quá trình sống, phân hủy của các sinh vật
sống trong nước. Chất hữu cơ có ảnh hưởng lớn đến môi trường nước và trên quan điểm
vệ sinh dịch tễ, chất hữu cơ là yếu tố có hại. Chất hữu cơ nhiều làm giảm lượng oxy hòa
tan trong nước, ảnh hưởng trực tiếp đến các sinh vật hóa khí trong nước ngoài ra chất
hữu cơ nhiều là môi trường tốt cho các loại vi khuẩn trong đó có cả những vi khuẩn có
hại phát triển.
- Hàm lượng BOD5 dao động từ 6,8 đến 12,1mg/l.
- Hàm lượng COD dao động từ 7,9 đến 14,7mg/l.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Hình 1. 11. Bãi rác gần khu vực chùa Hang
Trong số các yếu tố phân tích chỉ duy nhất hàm lượng COD lớn hơn giới hạn theo
QCVN 10-MT:2015/BTNMT đối với nước vùng nuôi trồng thủy sản, bảo tồn thủy sinh
và vùng bãi tắm, thể thao dưới nước. Theo điều tra thực tế, xung quanh đảo có nhiều nơi
bị xả rác bừa bãi là một trong những nguyên nhân gây ô nhiễm nước biển.
Nhà máy xử lý rác thải sinh hoạt Lý Sơn được Tổng cục Môi trường đầu tư và
bàn giao cho huyện Lý Sơn vào tháng VI/2015. Tuy nhiên, nhà máy không phát huy
hiệu quả. Thực hiện chủ trương xã hội hóa của tỉnh Quảng Ngãi, Công ty Thương mại
xây dựng Đa Lộc đã đầu tư thêm 14,7 tỷ đồng trang bị thêm thiết bị, hạng mục cần thiết
như lò đốt, băng chuyền, quy trình tách mùn sản xuất phân bón hữu cơ, nhằm tối ưu hóa
công năng nhà máy. Sau hơn 4 tháng tiếp nhận, nhà máy được vận hành trở lại, theo đó
sẽ xử lý toàn bộ 100% lượng rác thải trên đảo Lý Sơn, với công suất 20-25 tấn/ngày.
Trước đây, do không có nhà máy xử lý nên rác thải trên đảo đều xả thẳng xuống biển
gây ô nhiễm trầm trọng, khiến cho nguồn san hô, tảo biển và nguồn thủy hải sản ven
đảo gần như cạn kiệt.
Đề tài “Cơ sở khoa học, định hướng và giải pháp phát triển kinh tế - xã hội bền
vững các huyện đảo Lý Sơn và Phú Quý” mã số KC.09.37/16-20 đã tiến hành lấy mẫu
(LSNM1) nước hồ Thới Lới, các chỉ tiêu được phân tích đều nằm trong ngưỡng B1
(QCVN 08-MT:2015/BTNMT).
Kết quả phân tích nước mặt và nước biển huyện đảo Lý Sơn được trình bày trong
bảng 1, bảng 2, bảng 3, bảng 4 trong phần Phụ lục.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
b. Chất lượng nước dưới đất huyện đảo Lý Sơn
Để đánh giá chất lượng nước dưới đất huyện đảo Lý Sơn trong đợt khảo sát thực
địa năm 2019, đề tài “Cơ sở khoa học, định hướng và giải pháp phát triển kinh tế - xã
hội bền vững các huyện đảo Lý Sơn và Phú Quý” mã số KC.09.37/16-20 đã tiến hành
khảo sát và lấy 8 mẫu có ký hiệu và vị trí như sau.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Bảng 1. 15. Vị trí lấy mẫu phân tích nước dưới đất
Ghi chú STT Ký hiệu Kinh độ Vĩ độ
Giếng sâu 6m nhà bà Thuấn đối diện
1 LSNN1 109,098 15,376 trường tiểu học An Vĩnh, Thôn Tây, Xã
An Vĩnh
Giếng khoan sâu 9m nhà ông Nguyễn 2 LSNN2 109,111 15,375 Trọng Trinh - Thôn Đông - xã An Vĩnh.
Cầu ông Được, giếng khoan sâu 6m nhà 3 LSNN3 109,124 15,379 bà Phan Thị Lựa, thôn Đông xã An Hải.
Giếng khoan sâu 65m TĐ chỉ huy bộ đội 4 LSNN4 109,133 15,381 Lý Sơn.
Mạch Lộ, Núi Thới Lới, bãi biển Hang 5 LSNN5 109,133 15,388 Câu.
6 LSNN6 109,117 15,388 Giếng đào sâu 7m gần Chùa Hang.
Giếng khoan sâu 8m nhà anh Toản, thôn 7 LSNN7 109,098 15,381 Tây xã An Vĩnh.
Giếng khoan nhà ông Lan, Thôn Bắc – 8 LSNN8 109,079 15,428 Xã An Bình
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Hình 1. 12. Sơ đồ vị trí lấy mẫu nước ngầm huyện đảo Lý Sơn
Để đánh giá chất lượng nước dưới đất dựa vào kết quả phân tích mẫu mới lấy
năm 2019 và các mẫu thu thập được từ các tài liệu nghiên cứu trước đây. Năm 1998,
trong Đề tài: Điều tra ĐCTV - ĐCCT và tìm kiếm nguồn nước đảo Lý Sơn - Quảng
Ngãi, do Liên đoàn ĐCTV - ĐCCT miền Trung chủ trì, đã tiến hành lấy mẫu và phân
tích tổng số 120 mẫu nước các loại ở tất cả các tầng chứa nước. Dự án thành phần 05
cũng đã lấy 16 mẫu nước ngầm trên đảo Lý Sơn. Kết quả đánh giá chung cho các tầng
chứa nước như sau:
Bảng 1. 16. Tổng hợp các chỉ tiêu về chất lượng nước huyện đảo Lý Sơn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Tiêu Hàm lượng Các chỉ Đơn Số chuẩn Đánh STT tiêu vị mẫu giá giới Max Min TB hạn
1 7,9 7 7,4 6,0-8,5 Đạt pH 120
2 3.657 243 1.500 1.000 Kh.Đạt M g/l 120
3 1500 10,9 1200 300 Cl- mg/l 16 Kh.Đạt
4 COD mg/l 16 24 4 14 4 Kh.Đạt
2-
5 mg/l 120 115 0,1 45 250 Đạt SO4
-
6 mg/l 20 0,076 0,021 0,03 3 Đạt NO2
-
7 mg/l 44 34,2 21,23 30,3 50 Đạt NO3
8 20 0,5 Sắt tổng mg/l 0,08 0,042 0,04 Đạt
+
9 mg/l 120 0,025 0,046 0,01 3 Đạt NH4
10 Độ cứng mg/l 120 390 175,2 340 300 Kh.Đạt
16 As5+ mg/l 25 0,009 0,001 0,003 0,01 Đạt
17 F- mg/l 25 0,8 0,04 0,34 0,7-1,5 Đạt
(Tiêu chuẩn dùng để đánh giá là QCVN 02:2009/BYT do Cục Y tế dự phòng và Môi
trường biên soạn và được Bộ trưởng Bộ Y tế ban hành theo Thông tư số: 05/2009/TT -
BYT ngày 17 tháng 6 năm 2009)
Theo tiêu chuẩn của bộ Y tế, nước dưới đất đảo Lý Sơn phần lớn đạt QCCP, tuy
nhiên nước dưới đất ở một số nơi có một số chỉ tiêu cần phải quan tâm nghiên cứu thêm,
đó là chỉ tiêu về độ cứng của nước và hàm lượng COD.
- Độ cứng
Nước trong các giếng độ cứng tương đối cao (175,2 - 390 mg/l), nhiều mẫu cho
thấy độ cứng đã vượt quá chỉ tiêu cho phép, nước có cặn kết tủa nhiều sau khi đun sôi.
-
Nước trong các giếng dưới sâu và được chất lượng tốt hơn.
- Hàm lượng NO3
Một số giếng trong vùng tập trung dân cư có hàm lượng Nitrat nhỏ hơn 0,055
mgN/l, nước dưới đất hầu như chưa có dấu hiệu vượt quá chỉ tiêu cho phép.
- Hàm lượng Cl-
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Đa phần các mẫu phân tích cho kết quả Cl- < 300 mg/l (7/8 mẫu). Mẫu LSNN7
có hàm lượng Cl- đạt tới 10.508mg/l chứng tỏ nước dưới đất đã có dấu hiệu Cl- vượt quá
chỉ tiêu cho phép.
Các chỉ tiêu khác thì hầu như chưa có dấu hiệu vượt quá chỉ tiêu cho phép.
- Hàm lượng M: Các kết quả nghiên cứu về nhiễm mặn nước dưới đất từ trước
đến nay chủ yếu tập trung vào tất cả các tầng chứa nước thăm dò đánh giá trữ lượng
nước dưới đất, với số lượng mẫu đủ để khoanh định ranh giới mặn nhạt của nước dưới
đất.
+ Tầng chứa nước Holocen và Pleistocen: đây là hai tầng chứa nước nằm gần
biển, bao quanh tầng chứa nước khe nứt các thành tạo bazan. Do ảnh hưởng của biển và
thủy triều nên hai tầng chứa nước này có diện tích bị mặn khá lớn, đặc biệt là về mùa
khô. Độ tổng khoáng hoá (M): Nước dùng làm nguồn cung cấp cho ăn uống sinh hoạt
phải có độ tổng khoáng hoá (M) không quá 1000mg/l (nước nhạt). Theo kết quả nghiên
cứu, nước dưới đất trong các trầm tích bở rời ở đảo Lý Sơn có độ tổng khoáng hoá biến
đổi từ 243 mg/l (mẫu LSNN1) đến 3657 mg/l (mẫu LSNN6), nước thay đổi từ nhạt đến
mặn. Trong số 16 mẫu nước phân tích có tới 03 mẫu nước lợ và mặn (LSNN6, LSNN2,
LSNN7), đó là các mẫu nước được lấy từ giếng đào trong tầng chứa nước Holocen. Điều
này cũng rất phù hợp với kết quả nghiên cứu trước đây, tầng Holocen hầu như bị lợ và
mặn ở các nơi gần biển. Đây là một khó khăn cho việc cấp nước cho nhân dân trong
vùng. Diện tích nước dưới đất của hai tầng này bị nhiễm mặn là 1.352.007,78m2 .
+ Tầng chứa nước khe nứt các thành tạo bazan:
Trên cơ sở khảo sát và đo địa vật lý cho thấy: Nước dưới đất trong các phun trào
bazan ở phía Tây, trung tâm và phía Đông của đảo đã bị nhiễm mặn ở những nơi tiếp
giáp với các tầng chứa nước Holocen và Pleistocen. Ranh gới nhiễm mặn chạy sâu vào
đến chân núi Hòn Sỏi. Diện tích nhiễm mặn của tầng chứa nước là 390.555,04 m2. Kết
quả phân tích chất lượng nước ngầm được trình bày trong bảng 5, bảng 6 trong phần
Phụ lục.
Có thể thấy rằng: Về môi trường, Lý Sơn đang chịu sức ép từ sự tăng dân số với
mật độ dân cư đông đúc (xã An Vĩnh 2.744 người/km2, xã An Hải 1.711 người/km2 và
hoạt động của các ngành kinh tế trên đảo đã nảy sinh những vấn đề nổi cộm về môi
trường:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
+ Tình trạng khai thác cát trắng ven bờ để trồng hành tỏi, trung bình mỗi năm,
toàn huyện khai thác trên 150000 m3 cát, làm tăng khả năng xâm thực mặn, xói lở bờ
biển;
+ Đánh bắt thủy sản bằng phương pháp hủy diệt làm cho nguồn lợi thủy sản suy
giảm, các hệ sinh thái biển xung quanh đảo bị suy thoái dẫn đến suy giảm giá trị và gia
tăng khả năng bị tổn thương;
+ Tập quán canh tác của người dân sử dụng phân bón, thuốc trừ sâu quá mức
trong sản xuất nông nghiệp làm ô nhiễm nguồn nước ngầm và môi trường không khí;
+ Chất thải sinh hoạt và các hoạt động kinh tế trên đảo chưa được thu gom, xử lý
triệt để; Tình trạng phá rừng để làm chất đốt đã hủy hoại toàn bộ rừng nguyên sinh trên
đảo;
Từ năm 2007 đến nay, đã xảy ra 03 sự cố tràn dầu ảnh hưởng trực tiếp tới khu
vực biển Lý Sơn.
1.4.3. Hiện trạng phát triển kinh tế - xã hội huyện đảo Lý Sơn
1.4.3.1. Dân cư – lao động
Theo thống kê, dân số toàn huyện Lý Sơn năm 2018 có 21.748 người thuộc 6 thôn
của 3 xã, toàn bộ dân số của huyện sống trong khu vực nông thôn. Mật độ dân số trung
bình của huyện là 2.107 người/km2. Mật độ dân số các xã trong huyện có sự chênh lệch
khá lớn: cao nhất là xã An Vĩnh 2.762 người/km2; An Hải 1.727 người/km2 và An Bình
732 người/km2. Dân cư của huyện phân bố tại các xã như sau:
- Xã An Vĩnh có: 12.260 người chiếm 56,37%.
- Xã An Hải có: 8.994 người chiếm 41,36%.
- Xã An Bình: 494 người chiếm 2,27%.
So với các huyện đất liền, tốc độ tăng dân số huyện đảo Lý Sơn không lớn. Tốc độ
tăng dân số trung bình năm đều nhỏ hơn 1%. Đặc biệt xã An Bình dân số lại có hướng
giảm.
Toàn huyện hiện có 5.575 hộ gia đình (quy mô trung bình hộ là 3,9 người/hộ),
trong đó có 4.036 hộ nông lâm thủy sản, chiếm 72,4%; 1.539 hộ phi nông lâm thủy sản,
chiếm 27,6%. Số người trong độ tuổi lao động của huyện là 14.421 người, chiếm 66,
3% tổng dân số toàn huyện. Trong đó số người đang làm việc trong các ngành kinh tế
quốc dân là 10.035 người bằng 76,52% số người trong độ tuổi lao động có khả năng lao
động.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Nhìn chung, cơ cấu lao động trên đảo trong những năm gần đây bắt đầu có sự
chuyển dịch:
+ Lao động ngành nông - lâm -ngư nghiệp chiếm chủ yếu và giảm từ 85,6% năm
2000 xuống 80,06% năm 2005, đến năm 2010 còn 76,46% và đến năm 2018 là 71%;
+ Lao động trong ngành công nghiệp - xây dựng chiếm một phần rất nhỏ và biến
động không đều: năm 2000 chiếm 9,2%, năm 2005 giảm xuống còn 6,75% vào năm
2005; năm 2010 tăng lên 8,82% và năm 2018 là 8,55% tổng số lao động trong các ngành
kinh tế quốc dân của huyện;
+ Lao động thương mại - dịch vụ tăng tương đối nhanh từ 5,18% năm 2000 lên
13,19% năm 2005, năm 2010 chiếm khoảng 14,71% nhưng năm 2018 lại giảm xuống
còn 11,6% tổng số lao động trong các ngành kinh tế quốc dân của huyện.
Chuyển dịch lao động là một yếu tố thuận lợi cho quá trình phát triển kinh tế - xã
hội của huyện bởi vấn đề lao động tại chỗ cơ bản được giải quyết. Bình quân hàng năm
huyện giải quyết 200 việc làm mới cho lao động và giải quyết việc làm ổn định cho
1.729 lao động. Tuy nhiên, chất lượng nguồn lao động cũng là vấn đề lớn đặt ra với
huyện khi hiện tại có tới hơn 80% số lao động là lao động phổ thông chưa qua đào tạo
và chủ yếu lao động hoạt động trong khu vực nông, lâm, thủy sản.
1.4.3.2. Các hoạt động kinh tế - xã hội
+ Ngư nghiệp
Ngành thủy sản huyện Lý Sơn tăng trưởng rất nhanh, năm 2005, sản lượng khai
thác đạt 16.750 tấn, năm 2010 là 27.114 tấn và năm 2018 là 39.520 tấn. Số lượng phương
tiện đánh bắt hải sản tăng từ 226 phương tiện năm 2000 lên 379 phương tiện năm 2008
và 408 phương tiện năm 2010. Năm 2013 số lượng phương tiện đánh bắt là 427 nhưng
năm 2018 chỉ là 403. Tuy nhiên, hầu hết các phương tiện đánh bắt của huyện mới chỉ
có công suất dưới 100CV và thiếu trang bị hiện đại. Các dịch vụ hậu cần nghề cá, sơ chế
hải sản được duy trì và có bước phát triển nhất định. Trong giai đoạn vừa qua huyện đã
thực hiện các dự án sản xuất chế biến nước mắm có hiệu quả, tác động tích cực đến đầu
tư sản xuất nước mắm trong nhân dân, chấm dứt tình trạng là huyện đảo nhưng phải
cung cấp nước mắm từ đất liền.
Mặc dù được xác định là ngành kinh tế mũi nhọn của huyện, song trong giai đoạn
vừa qua ngành thủy sản của huyện còn nhiều hạn chế. Các lĩnh vực phát triển chưa đồng
bộ, chủ yếu mới tập trung đẩy mạnh khai thác, đánh bắt hải sản. Các dịch vụ hậu cần
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
nghề cá và chế biến hải sản phát triển chậm, riêng lĩnh vực nuôi trồng chưa thực hiện
được trong khi huyện được đánh giá là có tiềm năng để phát triển. Cơ sở hạ tầng vẫn
còn thiếu và yếu, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển và chưa tạo được tiền đề tốt cho
việc phát huy các tiềm năng thế mạnh kinh tế biển của huyện để đưa thủy sản thực sự là
ngành kinh tế mũi nhọn của huyện và tiến tới đưa huyện trở thành trung tâm nghề cá
của cả tỉnh và cả vùng kinh tế trọng điểm miền Trung trong tương lai.
+ Thương mại - dịch vụ
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ đạt 401.548 triệu đồng, tăng
25,63% so với năm 2017 và bằng 100,75% kế hoạch năm. Toàn huyện có 851 hộ sản
xuất kinh doanh, thu hút 1.198 lao động tham gia, tăng 40 hộ và tăng 68 lao động so với
năm 2013.
Trên địa bàn huyện hiện có 4 chợ với tổng diện tích đất xây dựng là 69.200 m2.
Dịch vụ bưu chính viễn thông được quan tâm đầu tư của nhà nước nên phát triển mạnh,
đáp ứng nhu cầu cung cấp thông tin cho nhân dân trên đảo. Hiện có 1 bưu cục trung tâm
và 3 bưu điện văn hóa xã với 3 tổng đài điện thoại.
Dịch vụ vận tải biển có nhiều tiến bộ với việc hình thành tuyến tàu cao tốc Sa Kỳ
- Lý Sơn cùng với các tàu vận tải truyền thống đã đáp ứng được nhu cầu đi lại của nhân
dân. Tuy nhiên, do lượng hành khách và hàng hóa không quá nhiều, lại chịu ảnh hưởng
mạnh của giá cả thị trường trong những năm gần đây nên việc vận tải cũng gặp không
ít khó khăn. Doanh thu vận tải biển năm 2018 đạt 23.522 triệu đồng tăng 12,08% so với
năm 2013 bằng 106,14% kế hoạch năm. Nhằm đáp ứng nhu cầu đi lại an toàn của hành
khách, UBND huyện đã xây dựng nhà chờ, cổng kiểm soát vé tại cảng Lý Sơn, tổng
kinh phí là 490 triệu đồng. Đồng thời chủ động phối hợp với cảng vụ hàng hải Quảng
Ngãi tăng thêm các chuyến tàu cao tốc chạy vào các buổi chiều thứ hai, thứ sáu, thứ
bẩy và chủ nhật hàng tuần (chạy thí điểm trong tháng 9 và tháng 10/2014), qua đó đã
góp phần giải quyết nhu cầu đi lại của nhân dân và du khách (sau 2 tháng chạy thí điểm
đã bù lỗ cho các phương tiện tăng chuyến buổi chiều là 80 triệu đồng).
Riêng tuyến đảo lớn - đảo bé: Được khai trương mở tuyến từ ngày 07/VII/2014,
hiện tại tuyến này có 3 phương tiện tham gia vận chuyển hành khách tăng.
Dịch vụ ngân hàng - tín dụng bước đầu đáp ứng được các mục tiêu phục vụ nhu
cầu của nhân dân trong việc cho vay các khoản tín dụng an sinh - xã hội.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
+ Du lịch
Lý Sơn là huyện có nhiều tiềm năng phát triển dịch vụ du lịch như: du lịch
nghỉ dưỡng, tắm biển; du lịch sinh thái; ngoài ra, trên địa bàn huyện còn có một số
di tích lịch sử và các lễ hội dân gian độc đáo có khả năng thu hút khách du lịch đến
tham quan, tìm hiểu. Thời gian qua, được sự quan tâm hỗ trợ của Trung ương và của
tỉnh Quảng Ngãi, huyện đã cải tạo, nâng cấp cơ sở hạ tầng phục vụ du lịch, song việc
phát triển du lịch của Lý Sơn vẫn còn gặp nhiều hạn chế, chưa thu hút được du khách.
Hoạt động du lịch phát triển hơn trước, các cơ sở dịch vụ, lưu trú, phương tiện ô
tô từng bước được đầu tư, cơ bản đáp ứng nhu cầu phục vụ du khách và nhân dân. Hoạt
động du lịch có bước khởi sắc, lượng khách đến Lý Sơn tham quan thắng cảnh, tìm hiểu
và thưởng thức các lễ hội truyền thống nhân dịp lễ, tết và các ngày nghỉ tăng cao. Trong
năm 2018 có 230.000 lượt khách đến Lý Sơn tăng 7.766 lượt khách, tổng doanh thu 276
tỷ đồng.
+ Nông nghiệp
Lý Sơn là huyện duy nhất của tỉnh Quảng Ngãi không thể trồng lúa và các cây
lương thực và công nghiệp khác (trừ cây ngô với diện tích không lớn) cũng như sản xuất
lâm nghiệp. Thuỷ sản và sản xuất các cây đặc sản là những thế mạnh trong nông nghiệp
của huyện. Do vậy sự chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp theo hướng phát triển
nhanh kinh tế thủy sản đã phát huy được lợi thế, đem lại nhiều kết quả tích cực trong
việc nâng cao giá trị sản xuất của ngành, góp phần chủ yếu vào cải thiện đời sống nhân
dân, tăng nguồn thu ngân sách và giải quyết các vấn đề xã hội. Tuy nhiên, quy mô phát
triển chưa tương xứng với tiềm năng hiện có, sản xuất phụ thuộc chủ yếu vào điều kiện
tự nhiên.
Giá trị sản xuất ngành nông nghiệp năm 2010 đạt 22,84 tỷ đồng (giá 1994), đến
năm 2010 đạt 71,78 tỷ đồng và năm 2018 là 100,12 tỷ đồng trong đó trồng trọt là 91,045
tỷ đồng và chăn nuôi là 9,075 tỷ đồng.
a. Ngành trồng trọt
Cây hành, tỏi là cây trồng đặc trưng và là cây trồng chủ lực của huyện đảo Lý
Sơn, chiếm tỷ trọng lớn nhất trong GTSX ngành trồng trọt. Những năm vừa qua mặc dù
gặp nhiều khó khăn trong sản xuất do điều kiện tự nhiên, thiếu đất, cát sản xuất, giá cả
biến động nhưng việc trồng hành, tỏi vẫn được đảm bảo và có chiều hướng phát triển
tích cực.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
- Cây tỏi: Những năm qua, nhìn chung biến động và diện tích của cây tỏi thay
đổi không nhiều, song do năng suất liên tục tăng nên sản lượng của cây tỏi tăng nhanh.
Năm 2000 sản lượng tỏi mới chỉ đạt 456 tấn, đến năm 2005 tăng lên 1.556,2 tấn và đến
năm 2010 đạt sản lượng 1.958 tấn/diện tích 288ha và năm 2018 là 3.763 tấn/diện tích
343 ha.
- Cây hành: Diện tích cây hành trong giai đoạn 2001-2005 có xu hướng giảm
(338ha năm 2000 xuống còn 282ha năm 2005) song do năng suất cây hành tăng nhanh
nên sản lượng hành trong giai đoạn này giảm không đáng kể. Trong giai đoạn 2006-
2010 có xu hướng tăng lên, năm 2010 diện tích trồng hành toàn huyện là 294 ha và sản
lượng đạt 2.638 tấn. Giai đoạn 2010 - 2018 diện tích cũng như sản lượng hành có xu
hướng tăng mạnh. Năm 2018, diện tích trồng hành của toàn huyện là 467ha và sản lượng
đạt 5.118 tấn.
Mặc dù đây là hai loại cây trồng chủ lực, đem lại thu nhập chính cho người dân
huyện đảo và 2/3 nông dân trên đảo trồng hành, tỏi, song kỹ thuật canh tác hiện nay đều
chỉ dựa hoàn toàn trên kinh nghiệm truyền thống do đó phụ thuộc rất lớn vào yếu tố tự
nhiên. Vì vậy, năng suất, sản lượng và chất lượng hành tỏi vẫn chưa ổn định, chưa tương
xứng với tiềm năng. Bên cạnh đó, việc sản xuất theo kỹ thuật truyền thống sử dụng nhiều
cát trắng và đất thịt bazan đang làm ảnh hưởng mạnh đến môi trường, cảnh quan của
huyện đảo.
- Cây ngô: là cây lương thực duy nhất của huyện nhưng do hạn chế về điều kiện
tự nhiên, diện tích gieo trồng cũng chỉ khoảng từ 200 - 280ha hàng năm và tập trung ở
hai xã. Cây ngô được trồng chủ yếu để phục vụ cho sản xuất thức ăn gia súc và nhu cầu
tiêu dùng của người dân trong huyện. Năm 2010 diện tích ngô là 252 ha, sản lượng đạt
1.616 tấn. Năm 2018 diện tích ngô là 192ha và sản lượng là 1.324 tấn.
- Cây dưa hấu: Là cây ăn quả phổ biến nhất ở huyện đảo Lý Sơn. Hàng năm,
diện tích ổn định ở khoảng 50-60ha với sản lượng trung bình 500-550 tấn /năm, đảm
bảo phục vụ cho nhu cầu của nhân trên đảo và bán ra thị trường các huyện đất liền ven
biển. Những năm gần đây sản lượng cũng như diện tích trồng dưa hấu gia tăng.
- Cây đậu xanh: được trồng xen với cây ngô. Diện tích trồng hàng năm khoảng
30-40 ha với năng suất trung bình đạt khoảng 14 tạ/ha.
b. Ngành chăn nuôi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Do những điều kiện đặc thù, ngành chăn nuôi của huyện chủ yếu là phục vụ nhu
cầu tại chỗ của nhân dân, khó có khả năng mở rộng, phát triển thành sản xuất hàng hóa,
tập trung.
- Chăn nuôi gia súc: Số lượng đàn bò 625 con năm 2000 lên 803 con năm 2005
và 566 con vào năm 2010; 480 con năm 2018. Đàn lợn tăng từ 6.998 con năm 2000 lên
12.530 con năm 2005 đến năm 2010 là 2.076 con; năm 2018 là 1.568 con.
- Chăn nuôi gia cầm: Số lượng đàn gia cầm đến năm 2010 đạt khoảng 782 con;
năm 2018 là 11.600 con.
c. Lâm nghiệp
Diện tích đất lâm nghiệp của huyện Lý Sơn là 116ha. Diện tích rừng phòng hộ
là 130 ha, trong đó 118 ha rừng và 2.027 ha cây cảnh quan. Đến nay đã trồng được
84,30/118 ha, đạt 71,4% so với kế hoạch của dự án, tỷ lệ cây sống bình quân đạt trên
63,7% đã trồng được 1.512 cây/2.027 cây cảnh quan, đạt 74,6% so với kế hoạch của dự
án. Tỷ lệ độ che phủ rừng hiện nay đạt 19,14%, trong năm đã chỉ đạo các cơ quan chức
năng và UBND xã tuyên truyền cho nhân dân trong công tác phòng chống cháy rừng,
chỉ đạo cơ quan chức năng tuần tra, kiểm soát, ngăn chặn tình trạng đốt cháy rừng và
thả rông bò, dê lên núi dẫm đạp làm chết cây trồng. Vì vậy, trong năm trên địa bàn huyện
không xảy ra vụ cháy rừng. Theo cơ cấu sử dụng đất huyện Lý Sơn, diện tích đất lâm
nghiệp của huyện là 166 ha.
d. Công nghiệp
Cho đến nay, Lý Sơn là huyện duy nhất của tỉnh Quảng Ngãi vẫn chưa có điều
kiện phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, do hạn chế về tiềm năng và không có
cơ sở hạ tầng kỹ thuật đặc biệt là điện và nước. Do vậy ngành công nghiệp, tiểu thủ công
nghiệp của huyện chỉ chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong cơ cấu giá trị sản xuất của huyện và
chủ yếu là do xây dựng và nhà máy điện điezen mang lại.
Giá trị sản xuất đạt công nghiệp - TTCN 67.884 triệu đồng, tăng 24,53% so với
năm 2013 bằng 100,35% kế hoạch năm. Toàn huyện có 314 cơ sở sản xuất kinh doanh
với 564 lao động, chủ yếu hoạt động nhỏ lẻ thủ công là chính trong các nghề như: Sản
xuất đá chẻ, mộc dân dụng, sản xuất bánh mỳ, sửa chữa nhỏ tàu thuyền… qua đó đã đáp
ứng được một phần nhu cầu tiêu dùng của người dân.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
1.4.4. Văn hóa – Giáo dục – Y tế
1.4.4.1 Văn hóa, thông tin, thể dục thể thao
Về văn hóa, thể dục thể thao: Hiện trên địa bàn huyện có 01 trung tâm văn hóa
thể dục thể thao, 02 khu văn hóa của 02 xã (An Vĩnh và An Hải), 04 nhà văn hóa thôn,
các di tích lịch sử văn hóa tâm linh, tín ngưỡng, tôn giáo: Đình, chùa, miếu, nhà thờ, vạn
lăng.
Các hoạt động văn hoá thông tin kịp thời đáp ứng công tác tuyên truyền các chủ
trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước góp phần thực hiện các
nhiệm vụ chính trị và phát triển kinh tế xã hội của địa phương. Đài truyền thanh huyện
đã được nâng cấp phòng bá âm, trang bị thêm một máy phát sóng, nâng cấp Ăngten phát
sóng. Hệ thống các thiết chế văn hóa được xây dựng bao gồm nhà văn hoá trung tâm,
thư viện huyện và 2 hệ thống đài truyền thanh. Trong các năm qua, tỉnh đã đầu tư tôn
tạo các di tích lịch sử, các công trình văn hóa tại huyện như: Nhà trưng bày di tích Đội
Hoàng Sa kiêm quản Trường Sa, Miếu Hoàng Sa và Nhà thờ Phạm Quang Ảnh, phục
dựng đình làng Lý Vĩnh nằm trong quần thể di tích Đội Hoàng Sa kiêm quản Trường Sa
tại đảo Lý Sơn. Ngoài ra, việc đầu tư xây dựng Nhà văn hóa huyện và sân vận động từ
những năm trước đây đã đóng góp vào việc phát triển các hoạt động của ngành VH –
TT, đảm bảo phần nào nhu cầu về văn hóa và TD – TT của nhân dân trong huyện.
1.4.4.2. Giáo dục
Trên toàn huyện có 10 trường:
- Cấp mầm non: Có 03 trường với 35 phòng học. Tổng diện tích là: 10.690 m2.
Tổng số giáo viên là 48 người và tổng số học sinh là 1.100.
- Cấp tiểu học: Có 04 trường với 51 phòng học và 67 lớp học. Tổng diện tích là:
15.213 m2. Tổng số giáo viên là 100 người và số học sinh là 1.934.
- Cấp trung học cơ sở: Có 02 trường với 42 phòng học và 02 nhà công vụ giáo
viên. Tổng diện tích là: 18.548m2. Tổng số giáo viên là 100 người, số học sinh là 1.345.
- Cấp trung học phổ thông: Có 01 trường với 20 phòng học, 05 phòng chức năng,
01 nhà tập đa năng và 02 nhà công vụ cho giáo viên. Tổng diện tích là 11.900m2. Số
giáo viên là 47, số học sinh là 749. Năm 2018 có 290 học sinh dự thi tốt nghiệp trưng
học phổ thổng và tỷ lệ đỗ là 100%.
Về cơ bản đảm bảo điều kiện cho học sinh học 01 buổi trong ngày theo quy định
của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Hiện nay giáo dục đào tạo của huyện vẫn còn một số tồn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
tại: diện tích đất nhiều trường không đạt chuẩn; còn nhiều phòng học tạm, thiếu phòng
học cho học sinh học 2 buổi/ngày; chất lượng dạy và học một số nơi chưa cao. Cơ sở
vật chất, trang thiết bị, dụng cụ dạy học vẫn còn thiếu. Các trường mầm non chưa được
quan tâm đúng mức.
1.4.4.3. Y tế
Trong những năm qua, huyện đã thực hiện tốt công tác phòng chống dịch bệnh,
tuyên truyền công tác vệ sinh môi trường, giáo dục sức khỏe, phòng chống dịch bệnh
vào mùa hè, mùa mưa bão, tăng cường kiểm tra vệ sinh an toàn thực phẩm.
Hiện có 01 Bệnh viện quân dân y kết hợp có diện tích 10.605 m2, 01 trạm y tế tại
xã An Bình và 01 trạm y tế xã An Hải; hiện tại bệnh viện quân dân y kết hợp đã trang
bị một số máy phục vụ cho việc khám chữa bệnh như: 03 máy siêu âm, 02 máy điện tim;
01 máy điện não; 02 máy chụp X quang, 01 máy huyết học; ngoài ra còn có một số trang
thiết bị khác dùng để khám chữa bệnh thông thường.Tuy nhiên với khả năng đáp ứng
của ngành y tế còn hạn chế nên khoảng cách và mức độ hưởng thụ các dịch vụ y tế còn
chênh lệch. Hoạt động xã hội hoá công tác y tế chưa được quan tâm đúng mức. Công
tác khám chữa bệnh luôn được quan tâm điều trị kịp thời, tinh thần trách nhiệm và thái
độ phục vụ bệnh nhân của đội ngũ y, bác sỹ ngày càng được nâng lên. Đã phối hợp với
các bệnh viện tuyến trên về khám bệnh, cấp thuốc miễn phí cho nhân dân, cụ thể như bố
trí phòng khám cử y, bác sỹ cùng hỗ trợ khám và cấp phát thuốc, qua đó góp phần nâng
cao sức khỏe cho người dân. Công tác tiêm phòng bảo vệ chăm sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ
em được quan tâm thường xuyên, đến nay tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng dưới 5 tuổi còn
20,9%.
1.4.4.4. Hạ tầng cơ sở
+ Giao thông
Đường bộ: Tổng số km các tuyến đường trên địa bàn huyện là 30,451 km. trong
đó:
- Đường kết hợp với kè phía Đông Nam đảo dài 5,951 km, mặt đường bê tông xi
măng, nền đường rộng 6,5m, hiện đang tiếp tục thi công giai đoạn 2 với chiều dài
1.884m.
- Đường liên xã dài 16,5 km, nền đường rộng 6m, mặt đường thấm nhập nhựa
rộng 3,5m, hiện đang triển khai nâng cấp tuyến đường liên xã từ Cồn An Vĩnh – Rađa
tầm xa giai đoạn 1 dài 1.608m.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
- Đường thôn, xóm dài 8,0km hầu hết đã được bê tông xi măng hoặc lát đá chẻ,
mặt đường rộng từ 1,5m đến 2,5m.
Nhìn chung, hệ thống giao thông của huyện đầu tư năm 1997 đảm bảo phục vụ
giao thông, sản xuất, sinh hoạt của nhân dân. Tuy nhiên, hiện nay mặt đường đã xuống
cấp, nhỏ hẹp, hệ thống thoát nước chưa được hoàn thiện nên thường xuyên bị ứ đọng
nước, gây khó khăn cho hoạt động giao thông, chưa đáp ứng nhu cầu với sự phát triển
hiện nay.
Đường thủy đóng vai trò hết sức quan trọng đối với quá trình phát triển của
huyện đảo Lý Sơn, gắn liền với sự phát triển của đảo và đất liền tạo đòn bẩy cho sự phát
triển các ngành nghề khác như: Thương mại, dịch vụ, du lịch, nông nghiệp. Trên địa bàn
huyện hiện tại có 2 tuyến đường thủy (tuyến Lý Sơn - Sa Kỳ và tuyến Đảo lớn - Đảo
Bé) do Sở giao thông vận tải tỉnh Quảng Ngãi quản lý; 01 cảng Lý Sơn kết hợp giao
thông do Ban quản lý cảng Lý Sơn quản lý, 01 vũng neo trú tàu thuyền do Ban quản lý
vũng neo trú tàu thuyền trực thuộc Sở NN&PTNT tỉnh quản lý; 01 cầu cập quân sự xã
An Bình, 01 cầu cập quân sự xã An Hải; số lượng tàu thuyền hoạt động trên tuyến Lý
Sơn - Sa Kỳ, gồm 04 chiếc tàu chở khách (tàu cao tốc) và 09 tàu vận tải hàng hóa, 03
tàu chở nhiên liệu; số lượng tàu thuyền hoạt động tuyến Đảo lớn - Đảo Bé là 03 chiếc.
Nhìn chung, các tuyến giao thông biển đều hoạt động ổn định trong mùa không
mưa bão. Tuy nhiên, vào mùa mưa bão việc đi lại gặp nhiều khó khăn và nguy hiểm do
các tàu đều ở dạng nhỏ và trung bình. Tuyến tàu cao tốc thời gian qua do giá xăng dầu
biến động nên việc đầu tư mở rộng, nâng cấp tuyến còn hạn chế.
Đường hàng không: Có 02 sân bay trực thăng; (01 tại thôn Đông, An Hải; 01
tại xã An Bình) chủ yếu để phục vụ cho mục đích quốc phòng.
+ Điện
Từ ngày 15/IX/2014 đến nay người dân trên đảo đã được sử dụng điện lưới quốc
gia kéo từ đất liền ra đảo bằng hệ thống cáp ngầm với chiều dài 26.475m, hệ thống
đường dây trung áp dài 17.216m, đường dây hạ áp dài 27.120m và có 23 trạm biến áp;
riêng xã An Bình (Đảo Bé) sử dụng điện năng lượng mặt trời, do Tỉnh Đoàn Quảng Ngãi
và các đơn vị tài trợ, nhưng cũng chỉ đáp ứng cho thắp sáng sinh hoạt chưa đáp ứng cho
phát triển kinh tế - xã hội.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
+ Thủy lợi
Vì là huyện đảo nên hệ thống cấp nước phục vụ cho nông nghiệp chủ yếu dựa
vào nước giếng khoan và giếng khơi khai thác từ nguồn nước ngầm. Hiện nay trên địa
bàn huyện có 04 mương dẫn nước chống úng với chiều dài 5.000m tại xã An Vĩnh
2.000m và 3.000m tuyến mương tại xã An Hải (khu vực hồ Thới Lới).
Về cấp thoát nước
- Cấp nước: Đến nay, trên địa bàn huyện vẫn chưa có Nhà máy cung cấp nước
sạch nên việc cung cấp nước sinh hoạt, nước phục vụ cho sản xuất công nghiệp chủ yếu
dựa vào vào các giếng nước ngầm, riêng nước sinh hoạt 2/3 dân trên đảo phải vận chuyển
xa từ 2-3km.
Hiện tại trên địa bàn huyện có 01 hồ chứa nước Thới Lới có dung tích thiết kế
270.000m3, phục vụ tưới cho khoảng 60 ha đất sản xuất nông nghiệp, cung cấp nước
sinh hoạt cho 1.000 hộ dân của xã An Hải và cung cấp nước cho khoảng 300 tàu thuyền
bằng hệ thống ống dẫn tuy nhiên, hiện nay mới chỉ phục vụ cho tưới tiêu 60ha sản xuất
nông nghiệp; ngoài ra đã đầu tư kiên cố hóa hơn 02 km tuyến kênh mương thoát nước
nội đồng (tuyến mương đồng sũng, khu dân cư 773 xã An Hải, Mai Ngọc Viên ra biển,
bàu Cả Dương ra biển…)
- Thoát nước: Hệ thống thoát nước chỉ có trên các tuyến chính và chưa được đầu
tư đồng bộ vì vậy thường bị úng ngập khi có mưa lũ lớn.
+ Hạ tầng đô thị
Hiện khu vực trung tâm huyện có một số công trình của cơ quan nhà nước như:
Trung tâm văn hóa thể dục thể thao; Tòa án nhân dân huyện; Trụ sở làm việc UBND
huyện; Trụ sở làm việc Huyện ủy; Công an huyện; Kho bạc nhà nước huyện… khu dân
cư hiện trạng, khu dân cư rừng Nhợ giai đoạn I quy mô 0,75ha; Nâng cấp, mở rộng
tuyến đường trung tâm huyện dài 1,5km, rộng 18m; đang thi công tuyến đường từ Trung
tâm huyện đến UBND xã An Hải với chiều dài 2.037m gồm 04 tuyến. hệ thống điện
đường chiếu sáng trên tuyến đường Trung tâm huyện từ Bệnh viện Lý Sơn đến Trung
tâm VH-TT huyện; Đang triển khai thi công gần xong hệ thống cấp nước sinh hoạt tại
khu vực Trung tâm huyện với công suất 1.000m3/ngày đêm. Ngoài ra, Công ty Mường
Thanh đang triển khai thi công khách sạn 4 sao, cao 5 đến 7 tầng với tổng kinh phí
khoảng 250 tỷ đồng, diện tích sử dụng đất khoảng 4.500m2 tại khu vực Trung tâm huyện.
Chu vi xung quanh đảo khoảng 25km, thường xuyên bị sạt lở do triều cường, nước biển
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
dâng; để hạn chế tình trạng sạt lở Trung ương đã đầu tư xây dựng kè chắn sóng phía
Đông Nam đảo dài 4.269m, hiện đang tiếp tục triển khai thi công kè chắn sóng phía
Đông Nam đảo giai đoạn 2 với chiều dài 1.884m.
+ Hạ tầng thương mại, dịch vụ
- Về thương mại: Hiện có 04 chợ; 01 kho lương thực, thực phẩm của công ty
lương thực Quảng Ngãi; 05 đại lý và nhiều cửa hàng buôn bán lớn, nhỏ nằm rải rác trên
toàn huyện.
- Về dịch vụ: Trên địa bàn huyện có trên 16 cơ sở dịch vụ lưu trú là khách sạn,
nhà nghỉ và các dịch vụ homestay của người dân; các điểm dịch vụ ăn, uống, hơn 16 xe
ô tô, 09 xe taxi phục vụ vận chuyển đưa đón khách.
Tuy nhiên, thương mại - dịch vụ phát triển còn nhỏ lẻ, nhất là khu vực Trung tâm
huyện chưa được đầu tư siêu thị, nhà hàng, khách sạn, ảnh hưởng đến các tiêu chí đô thị
như tiêu chí lao động phi nông nghiệp; Vì vậy, xây dựng kết cấu hạ tầng thương mại
như chợ, siêu thị, kho lương thực, xăng dầu… để đáp ứng nhu cầu trao đổi, mua sắm
hàng hóa của người dân.
+ Hạ tầng khoa học công nghệ và thông tin
Về thông tin liên lạc: Hiện có 03 mạng điện thoại chính như: Vinaphone,
Mobiphone, Viettel, phủ sóng trên toàn huyện và cả khu vực ven biển cách đảo khoảng
10 đến 15 hải lý. Hầu hết các cơ quan, đơn vị trên địa bàn huyện đã nối mạng Internet
và các điểm Iternet công cộng tại các thôn phục vụ cho đời sống sinh hoạt của nhân dân.
Về thông tin tuyên truyền: Có 01 Đài truyền thanh phát lại truyền hình huyện
phát 3 lần/ngày đến tận khu dân cư bằng hệ thống dây truyền thanh dài khoảng 15 km
và loa phóng thanh.
+ Quốc phòng – An ninh
Đảo Lý Sơn cách quần đảo Trường Sa 445 hải lý về phía Đông Nam, quần đảo
Hoàng Sa 130 hải lý về phía Đông Bắc; cách đường hàng hải quốc tế 35 hải lý về phía
Đông và được xem như một hạm đội nổi trên biển Đông vì vậy huyện đảo Lý Sơn giữ
một vị trí chiến lược quan trọng về quân sự trên vùng biển Đông Việt Nam. Xét tổng
thể trên địa bàn tỉnh thì huyện đảo Lý Sơn nằm án ngữ trên tuyến đường biển từ Bắc vào
Nam, đồng thời là con đường ra biển Đông của khu vực kinh tế trọng điểm miền Trung
qua cửa khẩu Dung Quất. Với vị trí như trên, Lý Sơn trở thành một đơn vị hành chính
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
có vai trò quan trọng trong chiến lược phát triển biển đảo của cả nước, có nhiều điều
kiện thuận lợi cho việc phát triển KT - XH trong tương lai.
Đảo Lý Sơn nằm trong Quy hoạch tổng thể phát triển KT - XH dải ven biển
miền Trung Việt Nam đến năm 2020 đã được Thủ tướng chính phủ phê duyệt tại Quyết
định số 61/2008/QĐ-TTg ngày 09/5/2008. Trong đó Chính phủ chủ trương đẩy mạnh
phát triển kinh tế đảo, kết hợp chặt chẽ giữa phát triển KT - XH với bảo vệ quốc phòng
an ninh và môi trường sinh thái, tăng cường hợp tác quốc tế để bảo vệ chủ quyền và toàn
vẹn lãnh thổ, thềm lục địa và lãnh hải; hình thành các trung tâm tiến ra biển của cả nước
ở miền Trung và ở địa bàn mỗi tỉnh, mỗi tiểu vùng trên cơ sở phát triển các đô thị ven
biển và hướng biển, các khu kinh tế, khu công nghiệp và khu du lịch ven biển. Để phát
triển kinh tế biển đảo, cần phải đầu tư xây dựng công trình kết cấu hạ tầng phục vụ nhu
cầu quốc phòng, an ninh kết hợp kinh tế dân sinh trên các huyện đảo, hỗ trợ phát triển
nghề cá xa bờ và một số tuyến đường ven biển, cầu cảng, khu dịch vụ hậu cần nghề cá,
các khu neo đậu tàu thuyền tránh trú bão, hồ chứa nước, trạm phát điện sức gió, xử lý
chất thải rắn… Về phát triển du lịch biển đảo và ven biển nhanh chóng trở thành một
ngành kinh tế chủ lực của kinh tế biển, có thứ hạng cao của cả nước.
Do đó, việc đầu tư xây dựng Lý Sơn mạnh về kinh tế, vững chắc về quốc phòng,
an ninh, một đảo du lịch có tầm cỡ quốc gia sẽ thu hút được các nhà đầu tư trong nước
và nước ngoài, gắn lợi ích của các nhà đầu tư tại vùng lãnh thổ đặc thù này sẽ trở thành
một chiến lược phòng thủ quốc phòng toàn dân hữu hiệu nhất..
CHƯƠNG 2: ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Tài nguyên thiên nhiên, kinh tế - xã hội, môi trường huyện đảo Lý Sơn
- Phạm vi vùng nghiên cứu: Huyện đảo Lý Sơn là huyện đảo nằm phía Đông của
tỉnh Quảng Ngãi, cách đất liền 18 hải lý, có tọa độ địa lý từ 15032’04’’ đến 15038’14’’
vĩ độ Bắc và 109005’04’’ đến 109014’12’’ kinh độ Đông
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Hình 2.1. Phạm vi vùng nghiên cứu
2.2. Nội dung nghiên cứu
- Thu thập tài liệu, số liệu về điều kiện tự nhiên, hiện trạng kinh tế - xã hội của
huyện đảo Lý Sơn;
- Đánh giá tài nguyên thiên nhiên, hiện trạng kinh tế - xã hội của huyện đảo Lý
Sơn.
- Đề xuất mô hình phát triển kinh tế - xã hội bền vững huyện đảo Lý Sơn.
2.3. Phương pháp nghiên cứu
2.3.1. Phương pháp kế thừa
Tham khảo và kế thừa một số tài liệu, kết quả có liên quan đã được nghiên cứu
trước đây của các tác giả, cơ quan, tổ chức khác. Những tài liệu và kết quả này là đặc
biệt quan trọng trong việc định hướng, phân tích và đánh giá trong quá trình nghiên
cứu.
2.3.2. Phương pháp khảo sát thực địa
Tiến hành khảo sát thực địa, tại huyện đảo Lý Sơn thu thập tất cả các số liệu, tư
liệu hiện trạng được ghi chép có hệ thống. Phiếu câu hỏi điều tra được lập sẵn với các
câu hỏi đã sử dụng tối ưu ý kiến của các chuyên gia, lựa chọn khu vực và đối tượng điều
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
tra. Thực địa, điều tra, khảo sát tổng hợp ngoài hiện trường nhằm bổ sung tài liệu, số
liệu và kiểm tra, đánh giá lại tài liệu kế thừa. Đây là một phương pháp trực quan và luôn
được coi là phương pháp tốt nhất trong nghiên địa lý và môi trường. Tuy nhiên, việc
thực hiện phương pháp này phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện như: phạm vi khảo sát lớn,
khả năng kính phí, phương tiện, thiết bị khảo sát...
Trong quá trình khảo sát thực địa cần phối hợp với địa phương về tổ chức, an
ninh, thuê phương tiện, nhân công phụ giúp và bảo đảm an toàn cho con người và thiết
bị sử dụng. Công tác đo đạc khảo sát được tiến hành đồng bộ trên toàn khu vực nghiên
cứu, tuân theo qui trình, qui phạm đo đạc địa hình, địa chất, thủy văn, hải văn, lấy mẫu...
của Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, các bộ
ngành khác... đã ban hành.
2.3.3. Phương pháp thu thập, xử lý, phân tích và tổng hợp số liệu
Thu thập và tổng hợp các số liệu, tài liệu hiện có liên quan đến phát triển kinh tế,
xã hội như điều kiện tự nhiên, thủy văn, môi trường, kinh tế, xã hội của huyện đảo Lý
Sơn … từ đó phân tích xử lý số liệu để rút ra những đánh giá, kết luận cần thiết làm cơ
sở cho việc đưa ra mô hình phát triển KT - XH bền vững huyện đảo Lý Sơn. Việc thu
thập được tiến hành qua điều tra thực địa, qua các cơ quan và nhiều phương diện khác
nhau thông qua hội thảo, phỏng vấn, mạng internet v.v... Việc xử lý tài liệu được tiến
hành theo quy trình, quy phạm (nếu có) và được lưu giữ một cách khoa học.
Sử dụng phương pháp tổng hợp, thống kê, phân tích, xử lý các số liệu cơ bản đã
có, các số liệu thực đo cho nghiên cứu, tính toán và đặc điểm điều kiện tự nhiên và kinh
tế - xã hội khu vực nghiên cứu.
2.3.4. Phương pháp bản đồ và hệ thống thông tin địa lý
Hệ thông tin địa lý – GIS (Geography Information System) là một trong những
phương pháp khá quen thuộc trong nghiên cứu địa lý. GIS được xem như một trợ thủ
đắc lực trong việc biên tập, xây dựng một số bản đồ chuyên đề liên quan đến nội dung
nghiên cứu của luận văn. Dựa trên những phần mềm để lưu trữ, phân tích những thông
tin về điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên, kinh tế - xã hội khu vực nghiên cứu.
Các tài liệu Viễn thám chứa đựng thông tin địa lý của khu vực được phản ánh kịp thời
và khách quan, được phân tích, xử lý trong GIS cho ta những số liệu không gian địa lý
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
khu vực chính xác. Nhưng ở nước ta, các tư liệu này ở khu vực nghiên cứu có rất ít,
không đồng bộ; hệ thống quan trắc, thu thập số liệu thiếu tính hệ thống nên nhiều khi
hiệu quả sử dụng rất thấp. Chính vì vậy, việc sử dụng phương pháp bản đồ, viễn thám
và hệ thông tin địa lý (GIS): tức là sử dụng các ảnh viễn thám có độ phân giải cao kết
hợp với hệ thông tin địa lý (GIS), điều tra khảo sát ở hiện trường để phân tích, đánh giá
và định lượng cụ thể các yếu tố địa lý qua các thời kỳ sẽ được ứng dụng trong đề tài luận
văn này.
Thực chất của phương pháp này là chồng ghép các chuỗi dữ liệu bay chụp của
vệ tinh, máy bay hoặc tư liệu bản đồ của các thời điểm khác nhau nhằm xác định vị trí
các yếu tố đại lý theo thời gian. Phương pháp này cho phép nghiên cứu các vùng lãnh
thổ, có tính đồng bộ, một cách khách quan tại các thời điểm vẽ bản đồ cũng như thời
điểm chụp ảnh. Hệ thông tin địa lý (GIS) giúp cho việc lưu trữ, cập nhật và sử dụng có
hiệu quả các dữ liệu đã có về diễn biến vùng cửa sông.
CHƯƠNG 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
3.1. Đánh giá tiềm năng kinh tế - xã hội huyện đảo Lý Sơn
Theo báo cáo của UBND huyện Lý Sơn, tổng giá trị sản xuất các ngành kinh tế
năm 2018 (giá so sánh năm 1994), đạt 765.091 triệu đồng, tăng 17,4% so với năm 2017
và bằng 101,04% kế hoạch năm. Trong đó nông, lâm, ngư nghiệp đạt 304,616 triệu
đồng, tăng 6,97% so với năm 2017 và bằng 101,56% kế hoạch năm; thương mại-dịch
vụ đạt 401.548 triệu đồng, tăng 25,63% so với năm 2017 và bằng 100,75% kế hoạch
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
năm; công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp đạt 58.927 triệu đồng, tăng 24,53% so với năm
2017 và bằng 100,35% kế hoạch năm [6]. Tổng giá trị sản xuất các ngành kinh tế năm
2018 tăng trưởng khá là do thời tiết diễn biến thuận lợi, tạo điều kiện cho nhân dân canh
tác, sản xuất nông nghiệp, đánh bắt thủy sản, đồng thời giao thông đường thủy thông
suốt, thuận lợi cho việc trao đổi hàng hóa và thu hút khách du lịch.
Tổng thu ngân sách nhà nước năm 2018 đạt 230,9 tỷ đồng, tăng 25,3%, vượt
24,5% dự toán; trong đó, thu ngân sách trên địa bàn ước đạt 21,8 tỷ đồng, tăng 36% và
vượt 45,2% dự toán. Tổng giá trị sản xuất các ngành kinh tế năm 2018 đạt 1.649,2 tỷ
đồng, tăng 11% so với cùng kỳ năm 2017, đạt 99,6% kế hoạch năm [33].
3.1.1. Ngư nghiệp
Ngành thủy sản huyện Lý Sơn tăng trưởng rất nhanh, năm 2005, sản lượng khai
thác đạt 16.750 tấn, năm 2010 là 27.114 tấn và năm 2018 là 39.520 tấn. Số lượng phương
tiện đánh bắt hải sản tăng từ 226 phương tiện năm 2000 lên 379 phương tiện năm 2008
và 408 phương tiện năm 2010. Năm 2013 số lượng phương tiện đánh bắt là 427 nhưng
năm 2018 chỉ là 403. Tuy nhiên hầu hết các phương tiện đánh bắt của huyện mới chỉ có
công suất dưới 100CV và thiếu trang bị hiện đại. Các dịch vụ hậu cần nghề cá, sơ chế
hải sản được duy trì và có bước phát triển nhất định. Trong giai đoạn vừa qua huyện đã
thực hiện các dự án sản xuất chế biến nước mắm có hiệu quả, tác động tích cực đến đầu
tư sản xuất nước mắm trong nhân dân, chấm dứt tình trạng là huyện đảo nhưng phải
cung cấp nước mắm từ đất liền.
Sản lượng khai thác thủy sản năm 2018 đạt 33.735 tấn, giảm 6,6%, đạt 93,4% kế
hoạch; tổng số tàu thuyền 545 chiếc, với tổng công suất 67.300 CV, tăng 16 chiếc, giảm
1.406 CV; sản lượng nuôi trồng đạt 75 tấn, hiện có 36 bè nuôi thủy sản, có khoảng
67.000 con, chủ yếu nuôi các loại cá.
Mặc dù được xác định là ngành kinh tế mũi nhọn của huyện, song trong giai đoạn
vừa qua ngành thủy sản của huyện còn nhiều hạn chế. Các lĩnh vực phát triển chưa đồng
bộ, chủ yếu mới tập trung đẩy mạnh khai thác, đánh bắt hải sản. Các dịch vụ hậu cần
nghề cá và chế biến hải sản phát triển chậm, riêng lĩnh vực nuôi trồng chưa thực hiện
được trong khi huyện được đánh giá là có tiềm năng để phát triển. Cơ sở hạ tầng vẫn
còn thiếu và yếu, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển và chưa tạo được tiền đề tốt cho
việc phát huy các tiềm năng thế mạnh kinh tế biển của huyện để đưa thủy sản thực sự là
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
ngành kinh tế mũi nhọn của huyện và tiến tới đưa huyện trở thành trung tâm nghề cá
của cả tỉnh và cả vùng kinh tế trọng điểm miền Trung trong tương lai.
Bảng 3. 1. Sản lượng và cơ sở vật chất ngành thủy sản
Sản lượng, cơ sở vật chất 2010
2011
2012
2013
2014
2015
2018
Sản lượng thủy sản (tấn)
27.114 31.072 34.460 37.300 39.520 38.854 33.735
Xã An Vĩnh
14.980 16.630 18.357 20.020 21.040 21.285 18.846
Xã An Hải
11.930 14.230 15.880 17.060 18.258 17.360 14.785
Xã An Bình
204
212
223
220
222
209
104
Sản lượng cụ thể các loại (tấn)
27.114 31.072 34.460 37.300 39.520 38.853 33.735
Cá xuất khẩu
8.134
9.322
10.338 11.227 11.856 11.656 10.121
Cá nội địa
15.184 17.400 19.298 20.515 21.736 21.758 18.891
Mực
1.085
1.243
1.378
1.679
1.976
1.554
1.349
Thủy sản khác
2.711
3.107
3.446
3.879
3.952
3.885
3.374
Cơ sở vật chất
Tổng số tàu thuyền có động cơ (chiếc)
408
418
426
427
403
415
545
Tổng số công suất (CV)
31.828 37.969 43.374 47.245 51.192 59.771 67.300
Tổng số lao động (người)
2.847
2.951
3.003
3.123
3.059
3.112
3.311
B/Q CV trên 1 tàu thuyền (CV/chiếc)
78
91
102
111
127
144
123
(Nguồn: Niên giám thống kê huyện Lý Sơn năm 2019)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
600
45.000
40.000
500
35.000
400
30.000
25.000
i
ì
300
c ế h C
20.000
n ấ t n h g N
200
15.000
10.000
100
5.000
0
0.000
2010
2011
2012
2013
2014
2015
2016
2017
2018
Sản lượng khai thác
Tổng số tàu thuyền có động cơ
Hình 3. 1. Sản lượng khai thác và phương tiện khai thác thủy sản huyện đảo Lý Sơn trong thời gian gần đây
3.1.2. Thương mại - dịch vụ
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ đạt 401.548 triệu đồng, tăng
25,63% so với năm 2017 và bằng 100,75% kế hoạch năm. Toàn huyện có 851 hộ sản
xuất kinh doanh, thu hút 1.198 lao động tham gia, tăng 40 hộ và tăng 68 lao động so với
năm 2017.
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ năm 2018 đạt 717,3 tỷ đồng,
tăng 31,2%, vượt kế hoạch 2,8%. Hiện nay, toàn huyện có 1.481 hộ, 2.198 lao động,
tăng 61 hộ, tăng 204 lao động so với năm 2017.
Bảng 3. 2. Cơ sở kinh doanh thương mại, dịch vụ theo ngành nghề
Cơ sở 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2018
TỔNG SỐ 765 785 806 811 851 990 1481
I. Phân theo thành phần kinh tế
Kinh tế ngoài nhà nước 765 785 806 811 851 990 1481
II. Phân theo ngành hoạt động
1. Thương nghiệp, sửa chữa 392 400 409 408 418 498 570
- Bán, sửa chữa xe có động cơ,
bán lẻ nhiên liệu 28 32 35 36 38 43 570
- Bán buôn và bán đại lý 19 21 23 22 25 60 69
- Bán lẻ 345 347 351 350 355 395 79
185 422 2. Dịch vụ 227 235 241 241 252
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Cơ sở 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2018
- Sửa chữa đồ dùng cá nhân và gia 247
đình 107 110 114 113 123 93
- Dịch vụ phục vụ cá nhân và 124
cộng đồng 120 125 127 128 129 92
253 123 3. Khách sạn, nhà hàng 143 147 150 155 170
- Kinh doanh khách sạn, nhà trọ 4 4 5 7 17 53 490
- Tiệm ăn, quán ăn 77 79 81 83 121 63 75
- Tiệm cà phê, nước giải khát 66 66 67 70 79 218 64
50 209 4. Kinh doanh du lịch 3 6 7 11 3
(Nguồn: Niên giám thống kê huyện Lý Sơn năm 2019)
Trên địa bàn huyện hiện có 4 chợ với tổng diện tích đất xây dựng là 69.200 m2.
Dịch vụ bưu chính viễn thông được quan tâm đầu tư của nhà nước nên phát triển mạnh,
đáp ứng nhu cầu cung cấp thông tin cho nhân dân trên đảo. Hiện có 1 bưu cực trung tâm
và 3 bưu điện văn hóa xã với 3 tổng đài điện thoại.
Bảng 3. 3. Cơ sở vật chất kỹ thuật ngành bưu điện
Cơ sở vật chất ĐVT 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2018
1. Bưu cục trung tâm Cái 1 1 1 1 1 1 1
2. Bưu điện văn hóa xã Cái 3 3 3 3 3 3
3. Tổng đài điện thoại Cái 3 3 3 3 3 3 3
4. Dung lượng tổng đài Số 3.180 4.230 2.024 2.024 2.024 2.024 780
(Nguồn: Niên giám thống kê huyện Lý Sơn năm 2019)
Dịch vụ vận tải biển có nhiều tiến bộ với việc hình thành tuyến tàu cao tốc Sa Kỳ
- Lý Sơn cùng với các tàu vận tải truyền thống đã đáp ứng được nhu cầu đi lại của nhân
dân. Tuy nhiên do lượng hành khách và hàng hóa không quá nhiều, lại chịu ảnh hưởng
mạnh của giá cả thị trường trong những năm gần đây nên việc vận tải cũng gặp không
ít khó khăn. Doanh thu vận tải biển năm 2018 đạt 23.522 triệu đồng tăng 12,08% so với
năm 2017 bằng 106,14% kế hoạch năm. Nhằm đáp ứng nhu cầu đi lại an toàn của hành
khách, UBND huyện đã xây dựng nhà chờ, cổng kiểm soát vé tại cảng Lý Sơn, tổng
kinh phí là 490 triệu đồng. Đồng thời chủ động phối hợp với cảng vụ hàng hải Quảng
Ngãi tăng thêm các chuyến tàu cao tốc chạy vào các buổi chiều thứ hai, thứ sáu, thứ Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
bẩy và chủ nhật hằng tuần (chạy thí điểm trong tháng 9 và tháng 10/2014), qua đó đã
góp phần giải quyết nhu cầu đi lại của nhân dân và du khách (sau 2 tháng chạy thí điểm
đã bù lỗ cho các phương tiện tăng chuyến buổi chiều là 80 triệu đồng).
Giao thông vận tải đường biển được bảo đảm an toàn, thuận lợi; năm 2018, tổng
doanh thu vận chuyển hành khách và hàng hóa đạt 83,9 tỷ đồng, tăng 50,6%, vượt
28,6%.
Bảng 3. 4. Khối lượng hàng hóa vận chuyển, luân chuyển
ĐVT: VC: tấn, LC: 1000 tấn-km
Hàng hóa 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2018
I. VẬN
CHUYỂN 34.284 36.842 4.8780 52.385 55.735 88.095 205.513
A. Phân theo
thành phần kinh
tế
- Tập thể 3.901 3.209 46.235 55.735 78.875 126.050
- Tư nhân 30.195 32.205 43.920 6.150 7.690 9.220 79.463
- Cá thể 188 1.428 4.860
B. Phân theo
ngành vận tải
- Đường biển 34.284 36.842 48.780 52.385 55.735 88.095 205.513
II. LUÂN
CHUYỂN 1.372 1.473 1.951 2.095 6.532 2.643 6.165
A. Phân theo
thành phần kinh
tế
- Tập thể 128 1.757 1.849 1.672 2.366 3.781 157
- Tư nhân 1.208 1.288 1.757 1.849 1.672 277 2.384
- Cá thể 7 57
B. Phân theo
ngành vận tải
- Đường biển 1.372 1.473 1.951 2.095 6.532 6.165
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
(Nguồn: Niên giám thống kê huyện Lý Sơn năm 2019)
Bảng 3. 5. Lượng hành khách vận chuyển, luân chuyển
ĐVT: VC: Người, LC: 1000 người-km
Hàng hóa 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2018
I. VẬN
CHUYỂN 111.955 127.211 132.170 135.340 142.203 262.737 650.488
A. Phân theo
thành phần
kinh tế
- Nhà nước 27.812 25.081
- Tập thể 63.943 69.352 70.012 52.670 59.605 110.127 165.802
- Tư nhân 20.200 32.778 62.158 82.670 142.203 152.610 484.686
B. Phân theo
ngành vận tải
- Đường biển 111.955 127.211 132.170 135.340 142.203 262.737 650.488
II. LUÂN
CHUYỂN 4.478 5.088 3.965 4.060 4.266 7.882 19.515
A. Phân theo
thành phần
kinh tế
- Nhà nước 1.112 1.033
- Tập thể 2.558 2.774 2.100 1.580 3.304 4.974
- Tư nhân 808 1.311 1.865 2.480 4.266 4.578 14.541
B. Phân theo
ngành vận tải
- Đường biển 4.478 5.088 3.965 4.060 4.266 7.882 19.515
(Nguồn: Niên giám thống kê huyện Lý Sơn năm 2019)
Bảng 3. 6. Doanh thu vận tải đường biển
ĐVT: Triệu đồng
2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
9,9 12,304 17,497 20,988 23,522 37,912 55,810 70,990 83,898
(Nguồn: Niên giám thống kê huyện Lý Sơn năm 2019)
Doanh thu vận tải đường biển huyện Lý Sơn
90
80
70
60
50
40
g n ồ đ ỷ T
30
20
10
0
2010
2011
2012
2013
2014
2015
2016
2017
2018
Hình 3. 2. Doanh thu vận tải đường biển huyện Lý Sơn
Dịch vụ ngân hàng - tín dụng bước đầu đáp ứng được các mục tiêu phục vụ nhu
cầu của nhân dân trong việc cho vay các khoản tín dụng an sinh - xã hội.
3.1.3. Du lịch
Lý Sơn là huyện có nhiều tiềm năng phát triển dịch vụ du lịch như: du lịch nghỉ
dưỡng, tắm biển; du lịch sinh thái; ngoài ra, trên địa bàn huyện còn có một số di tích
lịch sử và các lễ hội dân gian độc đáo có khả năng thu hút khách du lịch đến tham
quan. Thời gian qua, được sự quan tâm hỗ trợ của Trung ương và của tỉnh Quảng Ngãi,
huyện đã cải tạo, nâng cấp cơ sở hạ tầng phục vụ du lịch, song việc phát triển du lịch
của Lý Sơn vẫn còn gặp nhiều hạn chế, chưa thu hút được du khách.
Tổng doanh thu du lịch năm 2019 là trên 110 tỷ đồng, tăng 121% so với năm
2018. Tốc độ tăng trưởng bình quân giai đoạn 2015 - 2019 là: 14,5%, trong đó khách
quốc tế là 55.000 lượt.
Năm 2019, toàn huyện có 712 lao động du lịch kết hợp với cư dân trên đảo
tham gia kinh doanh dịch vụ phục vụ du lịch. Tuy nhiên, trình độ lao động còn thấp,
chủ yếu là lao động phổ thông chưa qua đào tạo nghề. Điều này đỏi hỏi huyện cần có
chiến lược phù hợp để đào tạo nguồn nhân lực du lịch trong tương lai.
Huyện Lý Sơn hiện có 109 cơ sở kinh doanh lưu trú với gần 650 phòng (UBND
huyện Lý Sơn, 2019)… Cơ sở hạ tầng phục vụ du lịch tiếp tục được đầu tư xây dựng,
chất lượng dịch vụ từng bước được nâng lên; tính đến thời điểm hiện tại đã có 129 cơ
sở lưu trú, 04 doanh nghiệp được cấp phép hoạt động kinh doanh lữ hành và 13 cá nhân
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
có thẻ hướng dẫn viên. Tính đến tháng 10 năm 2019 có 234.630 lượt khách đến Lý Sơn
(trong đó có 24.100 lượt khách quốc tế), tăng 10% so với năm 2018 (UBND huyện Lý
Sơn, 2019).
Dễ nhận thấy, huyện đảo Lý Sơn ẩn chứa những vẻ đẹp tiềm ẩn kích thích du
khách tìm tòi và khám phá. Vẻ đẹp của những bãi cát trắng mịn màng, làn nước biển
trong veo xanh mát, những rạn đá ngầm bí ẩn cùng với những di tích lịch sử, văn hóa
khiến Lý Sơn thực sự là điểm đến tham quan du lịch và nghỉ dưỡng lý tưởng của nhiều
khách du lịch.
Xác định sản phẩm du lịch đặc thù của Lý Sơn là cần thiết để tạo điểm nhấn và
thương hiệu cho du lịch huyện đảo. Ngoài ra, huyện cần tập trung phát triển đồng bộ các
sản phẩm du lịch để thu hút khách du lịch đến tham quan, trải nghiệm quanh năm. Huyện
đảo cần xây dựng thương hiệu trên cơ sở khai thác các ấn tượng hình ảnh đặc trưng như:
Lý Sơn với bố cục và hình thái kỳ lạ của 5 ngọn núi lửa, với những địa hình địa chất địa
mạo khá phong phú và đa dạng, là minh chứng cho lịch sử phát triển của vỏ Trái Đất
với nhiều dấu ấn sinh hoạt của người tiền sử, người Việt cổ; Lý Sơn - vùng đất đảo
thiêng nơi địa đầu của tổ quốc về biển đảo, nơi giao hòa giữa miền Trung và miền Nam;
biển đảo Lý Sơn với các hệ sinh thái độc đáo: san hô, thảm cỏ biển, rong biển…. Hình
ảnh bổ trợ như: các di tích lịch sử, lễ hội, nét sinh hoạt văn hóa truyền thống của làng
chài; các loại hình vui chơi giải trí và thể thao mạo hiểm đa dạng như: tắm biển, leo núi,
mô tô nước, kayak…
Với tài nguyên biển giá trị, nếp sống và giá trị văn hóa đặc sắc, Lý Sơn cần thiết
tập trung nguồn lực đầu tư phát triển các sản phẩm du lịch đặc thù: Du lịch địa chất; du
lịch trải nghiệm làm "Công dân Vương quốc Tỏi", Du lịch văn hóa biển đảo gắn liền
với chủ quyền quốc gia., du lịch biển và lặn biển ngắm san hô. Đồng thời, Lý Sơn cần
phát triển kết hợp những sản phẩm du lịch bổ trợ để gia tăng sự phong phú cho hệ thống
sản phẩm.
3.1.4. Nông nghiệp
Lý Sơn là huyện duy nhất của tỉnh Quảng Ngãi không thể trồng lúa và các cây
lương thực và công nghiệp khác (trừ cây ngô với diện tích không lớn) cũng như sản xuất
lâm nghiệp. Thuỷ sản và sản xuất các cây đặc sản là những thế mạnh trong nông nghiệp
của huyện. Do vậy sự chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp theo hướng phát triển
nhanh kinh tế thủy sản đã phát huy được lợi thế, đem lại nhiều kết quả tích cực trong
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
việc nâng cao giá trị sản xuất của ngành, góp phần chủ yếu vào cải thiện đời sống nhân
dân, tăng nguồn thu ngân sách và giải quyết các vấn đề xã hội. Tuy nhiên, quy mô phát
triển chưa tương xứng với tiềm năng hiện có, sản xuất phụ thuộc chủ yếu vào điều kiện
tự nhiên.
Giá trị sản xuất ngành nông nghiệp trong những năm gần đây có xu hướng biến
động mạnh: năm 2010 đạt 85,14 tỷ đồng, đến năm 2012 đạt 77,38 tỷ đồng, năm 2018 là
132,78 tỷ đồng và năm 2018 đạt 113,7 tỷ đồng theo giá năm 2010 (UBND huyện Lý
Sơn, 2019). Do những điều kiện đặc thù, ngành chăn nuôi của huyện chủ yếu phục vụ
nhu cầu tại chỗ của nhân dân, khó có khả năng mở rộng, phát triển thành sản xuất hàng
hóa tập trung. Trong những năm gần đây, diện tích cũng như sản lượng tỏi của Lý Sơn
tăng mạnh. Năm 2010 diện tích trồng tỏi là 288 ha với sản lượng là 2.798 tấn nhưng
năm 2018 diện tích trồng tỏi đạt 326,5 ha với sản lượng 2.747 tấn (UBND huyện Lý
Sơn, 2019).
Bảng 3. 7. Giá trị sản xuất nông nghiệp (tính theo giá trị năm 2010)
Nông nghiệp 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2018
Khu vực kinh
tế trong nước 85.140 73.896 77.377 105.331 132.784 130.921 113.700
(Tư nhân)
(Nguồn: Niên giám thống kê huyện Lý Sơn năm 2019)
a. Ngành trồng trọt
Những năm vừa qua mặc dù gặp nhiều khó khăn trong sản xuất do điều kiện tự
nhiên, thiếu đất, cát sản xuất, giá cả biến động nhưng việc trồng hành, tỏi vẫn được đảm
bảo và có chiều hướng phát triển tích cực.
* Cây tỏi: Nhìn chung biến động về diện tích của cây tỏi thay đổi không nhiều,
song do năng suất liên tục tăng nên sản lượng của cây tỏi tăng nhanh. Năm 2000 sản
lượng tỏi mới chỉ đạt 456 tấn, đến năm 2005 tăng lên 1.556,2 tấn và đến năm 2010 đạt
sản lượng 1.958 tấn/diện tích 288ha và năm 2014 là 3.763 tấn/diện tích 343 ha. Sản
lượng tỏi năm 2018 đạt 2.746,6 tấn.
Bảng 3. 8. Diện tích, năng suất, sản lượng tỏi ĐVT: SL: Tấn, DT: ha, NS: Tạ/ha
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
2010 2018 Đơn vị D.tích N.suất S.lượng D.tích N.suất S.lượng
TỔNG SỐ 288 97,2 2.798 336 34,8 1.169
1. Xã An Vĩnh 145 99,4 1.442 145 38,7 561
2. Xã An Hải 143 94,9 1.356 175 33,4 585
3. Xã An Bình 0 0 0 16 14,4 23
(Nguồn: Niên giám thống kê huyện Lý Sơn năm 2019)
Diện tích trồng tỏi
400
300
200
) a h (
Huyện Lý Sơn Xã An Vĩnh Xã An Hải Xã An Bình
100
0
2010
2011
2012
2013
2014
2016
2017
2018
2015
Hình 3. 3. Biến động diện tích trồng tỏi huyện đảo Lý Sơn và các xã
*Cây hành: Diện tích cây hành trong giai đoạn 2001 - 2005 có xu hướng giảm
(338ha năm 2000 xuống còn 282ha năm 2005) song do năng suất cây hành tăng nhanh
nên sản lượng hành trong giai đoạn này giảm không đáng kể. Trong giai đoạn 2006 -
2010 có xu hướng tăng lên, năm 2010 diện tích trồng hành toàn huyện là 294 ha và sản
lượng đạt 2.638 tấn. Giai đoạn 2010 - 2018 diện tích cũng như sản lượng hành có xu
hướng tăng mạnh. Năm 2010, diện tích trồng hành của toàn huyện là 294ha và sản lượng
đạt 2.638 tấn. Năm 2018, diện tích trồng hành của toàn huyện là 697 ha, sản lượng đạt
10.371 tấn.
Bảng 3. 9. Diện tích, năng suất, sản lượng hành ĐVT: SL: Tấn, DT: ha, NS: Tạ/ha
Đơn vị
2010 N.suất 89,7 97,3 D.tích 294 146 S.lượng D.tích 2.638 1.421 697 322 2018 N.suất 148,8 151,6 S.lượng 10.371 4.882 TỔNG SỐ 1. Xã An Vĩnh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
2. Xã An Hải 122 87,5 1.068 342 150,3 5.140
3. Xã An Bình 26 57,7 150 33 106,1 349
(Nguồn: Niên giám thống kê huyện Lý Sơn năm 2019)
Mặc dù đây là hai loại cây trồng chủ lực, đem lại thu nhập chính cho người dân
huyện đảo và 2/3 nông dân trên đảo trồng hành, tỏi, song kỹ thuật canh tác hiện nay đều
chỉ dựa hoàn toàn trên kinh nghiệm truyền thống do đó phụ thuộc rất lớn vào yếu tố tự
nhiên, vì vậy, năng suất, sản lượng và chất lượng hành tỏi vẫn chưa ổn định, chưa tương
xứng với tiềm năng. Bên cạnh đó, việc sản xuất theo kỹ thuật truyền thống sử dụng nhiều
cát trắng và đất thịt bazan đang làm ảnh hưởng mạnh đến môi trường, cảnh quan của
huyện đảo.
ĐVT: SL: Tấn, DT: ha, NS: Tạ/ha Bảng 3. 10. Diện tích, năng suất, sản lượng ngô
2010 2018 Đơn vị D.tích N.suất S.lượng D.tích N.suất S.lượng
TỔNG SỐ 252 64,1 1615 192 69,0 1324
1. Xã An Vĩnh 130 67,3 875 97 66,0 640
2. Xã An Hải 122 60,7 741 95 72,0 684
3. Xã An Bình 0 0 0 0
0 (Nguồn: Niên giám thống kê huyện Lý Sơn năm 2019)
- Cây ngô: là cây lương thực duy nhất của huyện nhưng do hạn chế về điều kiện
tự nhiên, diện tích gieo trồng cũng chỉ khoảng từ 200 - 280ha hàng năm và tập trung ở
hai xã. Cây ngô được trồng chủ yếu để phục vụ cho sản xuất thức ăn gia súc và nhu cầu
tiêu dùng của người dân trong huyện. Năm 2010 diện tích ngô là 252 ha, sản lượng đạt
1.616 tấn. Năm 2018 diện tích ngô là 192ha và sản lượng là 1.324 tấn.
- Cây dưa hấu: Là cây ăn quả phổ biến nhất ở huyện đảo Lý Sơn. Hàng năm,
diện tích ổn định ở khoảng 50-60ha với sản lượng trung bình 500-550 tấn /năm, đảm
bảo phục vụ cho nhu cầu của nhân trên đảo và bán ra thị trường các huyện đất liền ven
biển. Những năm gần đây sản lượng cũng như diện tích trồng dưa hấu giảm. Năm 2018,
diện tích trồng dưa hấu là 18ha sản lượng dưa hấu là 193 tấn.
Bảng 3. 11. Diện tích, năng suất, sản lượng dưa hấu
ĐVT: SL: Tấn, DT: ha, NS: Tạ/ha
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
2010 2018 Đơn vị D.tích N.suất S.lượng D.tích N.suất S.lượng
TỔNG SỐ 47 101,1 475 107,1 193 18
1. Xã An Vĩnh 25 102,8 257 106,7 160 15
2. Xã An Hải 22 99,1 218 109,0 33 3
3. Xã An Bình 0 0 0
(Nguồn: Niên giám thống kê huyện Lý Sơn năm 2019)
- Cây đậu xanh: được trồng xen với cây ngô. Diện tích trồng hàng năm khoảng
30-40 ha với năng suất trung bình đạt khoảng 14 tạ/ha. Năm 2018, sản lượng đậu là 10,4
tấn.
Bảng 3. 12. Diện tích, năng suất, sản lượng đậu
ĐVT: SL: Tấn, DT: ha, NS: Tạ/ha
2010 2018
Đơn vị D.tích N.suất S.lượng D.tích N.suất S.lượng
TỔNG SỐ 28 17,9 50 5 20,8 10,4
1. Xã An Vĩnh 10 23,0 23 3 22,0 6,6
2. Xã An Hải 5 22,0 11 2 19,0 3,8
3. Xã An Bình 13 12,3 16
(Nguồn: Niên giám thống kê huyện Lý Sơn năm 2019)
b. Ngành chăn nuôi
Do những điều kiện đặc thù, ngành chăn nuôi của huyện chủ yếu là phục vụ nhu
cầu tại chỗ của nhân dân, khó có khả năng mở rộng, phát triển thành sản xuất hàng hóa,
tập trung.
- Chăn nuôi gia súc: Số lượng đàn bò 625 con năm 2000 lên 803 con năm 2005
và 566 con vào năm 2010; 250 con năm 2018. Đàn lợn tăng từ 6.998 con năm 2000 lên
12.530 con năm 2005 đến năm 2010 là 2.076 con; năm 2015 là 1.515 con; năm 2018 là
525 con.
- Chăn nuôi gia cầm: Số lượng đàn gia cầm đến năm 2010 đạt khoảng 782 con;
năm 2015 là 11.200 con và năm 2018 là 4.900 con.
Bảng 3. 13. Số lượng gia súc gia cầm
ĐVT 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2018
-Bò con 590 563 469 423 480 455 250
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
ĐVT 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2018
- Lợn con 2.076 2.668 2.384 1.377 1.568 1.515 525
- Dê con 151 160 150 155 110 115 50
- Gà con 394 2.655 1.670 9.482 5.600 5.800 2.600
- Vịt con 388 1.637 1.155 5.411 6.000 6.400 2.300
(Nguồn: Niên giám thống kê huyện Lý Sơn năm 2019)
3.1.5. Lâm nghiệp
Theo cơ cấu sử dụng đất huyện Lý Sơn, diện tích đất lâm nghiệp của huyện là
166 ha, với tổng diện tích rừng trồng là 130 ha, trong đó 118 ha rừng và 2.027 ha cây
cảnh quan. Đến nay đã trồng được 84,30 ha/118 ha, đạt 71,4% so với kế hoạch của dự
án, tỷ lệ cây sống bình quân đạt trên 63,7% đã trồng được 1.512 cây/2.027 cây cảnh
quan, đạt 74,6% so với kế hoạch của dự án. Tỷ lệ độ che phủ rừng hiện nay đạt 19,14%,
công tác trồng, chăm sóc rừng và cây xanh được quan tâm thực hiện.
Bảng 3. 14. Cơ cấu sử dụng đất huyện Lý Sơn (ha)
2010 2011 2012 2013 2014 2015 2018
TỔNG DIỆN TÍCH 1.032 1.032 1.033 1.032 1.032 1.032 1.040
I. Đất nông nghiệp 589 588 586 585 585 585 609
422 420 419 419 420 449 II. Đất sản xuất nông nghiệp 423
166 166 166 166 166 160 II. Đất lâm nghiệp 166
131 145 145 145 145 156 III. Đất chuyên dùng 129
67 67 67 67 67 72 IV. Đât khu dân cư 67
224 213 213 213 213 176 VI. Đất chưa sử dụng 224
118 118 118 118 118 124 - Đất bằng 118
27 27 27 27 27 6 - Đất đồi núi chưa sử dụng 27
79 68 68 68 68 45 - Núi đá không có rừng cây 79
VII. Đất tôn giáo, tín
ngưỡng 4 4 4 4 4 4 5
VIII. Đất nghĩa trang, nghĩa
địa 18 18 18 18 18 18 22
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
2010 2011 2012 2013 2014 2015 2018
IX. Đất sông suối và mặt
nước chuyên dùng 1 0 0 0 0 0 46
(Nguồn: Niên giám thống kê huyện Lý Sơn năm 2019)
3.1.6. Công nghiệp
Cho đến nay, Lý Sơn là huyện duy nhất của tỉnh Quảng Ngãi vẫn chưa có điều
kiện phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, do hạn chế về tiềm năng và không có
cơ sở hạ tầng kỹ thuật đặc biệt là điện và nước. Do vậy ngành công nghiệp, tiểu thủ công
nghiệp của huyện chỉ chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong cơ cấu GTSX của huyện và chủ yếu
là do xây dựng và nhà máy điện điezen mang lại.
Bảng 3. 15. Giá trị sản xuất công nghiệp trên địa bàn (theo giá 2018)
ĐVT: Triệu đồng
Phân loại 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2018
TỔNG SỐ 26.526 30.926 44.165 54.465 6.884 8.355 144.480
I. Phân theo
thành phần
kinh tế
1. Kinh tế nhà
nước TW, tỉnh 983 946 976 1.167 1.628 9.628 13.677
2. Kinh tế ngoài
nhà nước
- Kinh tế cá thể 25.543 29.980 43.189 53.298 66.256 72.727 130.803
II. Phân theo
ngành
1. Công nghiệp
khai thác 12.853 10.322 10.011 9.615 8.304 499 133
- Khai thác đá
xây dựng 12.853 10.322 10.011 9.615 8.304 499 133
2. Công nghiệp
chế biến 12.622 19.573 33.092 43.590 57.857 72.011 187.040
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
- Chế biến thực
phẩm 10.789 16.670 29.111 38.814 52.575 54.373 129.955
- May mặc 368 471 509 544 553 2.488 2.262
- Sản xuất dép da 46 50 54 53 55 231 266
- Chế biến sản
phẩm từ gỗ 1.048 1.790 2.709 3.337 3.650 10.186 36.477
- SX sản phẩm từ
kim loại 267 396 596 750 930 4.636 17.679
- SX ống sứ 104 196 113 92 94 97 401
3. Sản xuất và
phân phối điện,
nước 1.051 1.031 1.062 1.260 1.723 9.725 14.392
- Điện 983 946 976.000 1.167 1.628 9.628 13.677
- Nước 68 85 86 93 95 97 115
(Nguồn: Niên giám thống kê huyện Lý Sơn năm 2019)
Giá trị sản xuất đạt công nghiệp - TTCN 67.884 triệu đồng, tăng 24,53% so với
năm 2017 bằng 100,35% kế hoạch năm. Toàn huyện có 314 cơ sở sản xuất kinh doanh
với 564 lao động, chủ yếu hoạt động nhỏ lẻ thủ công là chính trong các nghề như: Sản
xuất đá chẻ, mộc dân dụng, sản xuất bánh mỳ, sửa chữa nhỏ tàu thuyền… qua đó đã đáp
ứng được một phần nhu cầu tiêu dùng của người dân.
Tiểu thủ công nghiệp năm 2018 đạt 144,5 tỷ đồng, tăng 11,5%, đạt 98,5% kế
hoạch. Hiện nay, toàn huyện có 313 cơ sở, 522 lao động, giảm 15 cơ sở, 38 lao động so
với năm 2017.
3.2. Đánh giá hiện trạng tài nguyên thiên nhiên và môi trường huyện đảo Lý Sơn
Tài nguyên đất, tổng diện tích tự nhiên của huyện là 1.032,49 ha; trong đó, đất
nông nghiệp là 589,59 ha, đất phi nông nghiệp là 219,02 ha, đất chưa sử dụng là 223,88
ha [5].
Trên huyện đảo Lý Sơn, đất đỏ bazan làm thành chiếm 84,76% diện tích tự nhiên,
trong đó có đến 558,0/845,0 ha có tầng dày trên 100cm, độ dốc dưới 80, là nguồn đất rất
thuận lợi cho bố trí sử dụng vào hoạt động dân sinh, kinh tế. Còn lại 287ha là đất có độ Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
dốc, nhưng vẫn có thể sử dụng cho hoạt động sản xuất và thực tế đã được sử dụng vào
những mục đích khai thác nguồn lợi chủ yếu là bị cào lớp đất màu để trồng hành, tỏi từ
giai đoạn những năm 1990 đến nay, nhiều diện tích đã trở nên thoái hóa, bị bỏ hoang,
chưa được tận dụng để đưa vào quỹ đất phát triển cơ sở hạ tầng hay chuyển thành quỹ
đất ở. Nguyên nhân là do ở chân núi, khá xa với mép biển, khó khăn về cơ sở hạ tầng xã
hội, điểm hạn chế này đang được khắc phục trong việc dịch chuyển các khu dân cư sang
phía Tây đảo Lớn và phía Bắc đảo Bé, giảm sức ép lên quỹ đất bằng và màu mỡ cho sản
xuất nông nghiệp.
Điểm thuận lợi khác là diện tích đất cát biển – các bãi cát san hô quanh đảo với
diện tích là 110,0 ha, chiếm đến 11,03% tổng diện tích tự nhiên huyện đảo, đây là một
nguồn tài nguyên quý giá cho phát triển kinh tế đảo, nhất là cho phát triển du lịch liên
quan đến biển, cũng như đang được sử dụng tạo nên thương hiệu tỏi Lý Sơn, nhưng
đáng tiếc là hầu như không còn tồn tại ven bờ đảo, mà chỉ còn nằm dưới mực nước biển
và vẫn đang bị khai thác mạnh mẽ để trồng tỏi, hành.
Về nguồn tài nguyên đất, theo kế hoạch sử dụng đất huyện đảo Lý Sơn năm 2019 [26]
Chỉ tiêu sử dụng
∑ diện tích Diện tích (ha) Đảo Lớn Đảo Bé
593,12 424,55 7,93 160,64 284,37 38,53 82,31 122,46 162,36 547,76 397,69 5,37 144,70 277,27 37,79 3,07 118,84 145,78 45,36 26,86 2,56 15,94 7,10 0,74 0,22 3,62 16,58
1. Đất nông nghiệp Trong đó: 1.1 Đất trồng cây hàng năm khác 1.2 Đất trồng cây lâu năm 1.3 Đất rừng 2. Đất phi nông nghiệp Trong đó có: 2.1 Đất quốc phòng, an ninh 2.2 Đất ở tại nông thôn 2.3 Đất phát triển hạ tầng 3. Đất chưa sử dụng Đất đô thị hay đất khu kinh tế và đất khu công nghệ cao không được tổng hợp khi tính tổng diện tích tự nhiên
Trong tổng số 558,0 ha đất có tầng dày >100cm, độ dốc <80, màu mỡ, đã được
sử dụng 424,55 ha để trồng cây hàng năm khác (chiếm 76,08%), chủ yếu là dành cho
diện tích trồng tỏi, hành,
Có thể nhận thấy, trong cơ cấu sử dụng đất nông nghiệp đất trồng cây hàng năm
khác chiếm 71,58% và diện tích đất này chiếm đến 76,08% tổng diện tích đất màu mỡ,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
có tầng dày >100cm, độ dốc <80 trên cả hai đảo Lớn và Bé và được chủ yếu là trông
tỏi và hành.
Như vậy, bên cạnh hạn chế và thế mạnh về quy mô diện tích “nhỏ”, trên các đảo
thuộc huyện đảo Lý Sơn hiện đang chịu hậu quả về “tính nhỏ” về mức độ khai thác tài
nguyên quá mức trong “câu chuyện” phát triển nông nghiệp và xây dựng thương hiệu
“vàng trắng” từ sản phẩm tỏi Lý Sơn. Lẽ ra, tiềm năng đất đai là yếu thuận địa nhưng
lại tiêu phí trong qúa trình đánh đổi mà phần thắng hiện nay đang thuộc về thiên nhiên.
Bài toán đánh đổi tài nguyên ở Lý Sơn được phân tích từ lượng tài nguyên đã
khai thác vào mô hình trồng hành tỏi ở Lý Sơn, sự đánh đổi về tài nguyên và môi
trường là rất lớn. Tính sơ bộ về tài nguyên đất và cát (tài nguyên nguyên liệu không
tái tạo):
(+) Đất: 350 ha trồng hành, tỏi x 10 cm đất x 2 lần thay đất và thêm đất trong
năm (sử dụng lại 50%), lượng đất màu mất khoảng 70.000 m3 đất bazan/năm;
(+) Cát: 350 ha x 5 cm cát x 2 lần thay cát trong năm: mất khoảng 350.000
m3/năm;
(+) Ước tính tổng cộng từ năm 1990 tới nay mất đi khoảng 2,1 triệu m3 đất và
10,5 triệu m3 cát san hô biển.
Dựa theo bản đồ địa hình UTM của Mỹ trước năm 1975 và những báo cáo khảo
sát thống kê đất đai trước năm 1990, thì diện tích đất của huyện đảo Lý Sơn là trên
12 km2, nhưng mới từ năm 1990 tới nay (không tính thời điểm bắt đầu di thực cây tỏi từ
đất liền ra đảo là những năm 1960) diện tích đảo thu hẹp chỉ còn 10,4 km2 (số liệu thống
kê ở đảo Lớn), tức là giảm đi 1,6 km2 các bãi cát ven biển, mà nguyên nhân do khai thác
cát san hô để trồng hành tỏi, hệ lụy tiếp theo của việc thu hẹp lãnh thổ bởi do sụt lở bãi
cát ngầm và xói lở ven đảo, nước ngầm đang dần bị mặn hóa (ngấm mặn).
Ngoài ra, trong sản xuất nông nghiệp truyền thống như trồng hành, tỏi, một lượng
đất thải rất lớn hàng năm được đưa ra khỏi khu vực (chủ yếu đổ ra bờ biển để sóng biển
cuốn trôi) là rất lãng phí tài nguyên, ô nhiễm môi trường biển ven đảo, trong khi các
diện tích đất dốc trong quỹ đất lâm nghiệp đang cần bổ sung.
Tài nguyên nước, nguồn cung cấp nước chính cho huyện đảo là nước mưa và
nước dưới đất, theo cách tính nguồn thu nước bề mặt từ lượng mưa khí quyển hữu dụng
sau khi đã trừ đi thất thoát, để có thể tạo nên nguồn nước mặt (trong điều kiện có khả
năng lưu trữ lại được trong các vực nước) là khoảng 876 triệu m3.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Lượng mưa tập trung vào mùa mưa là 97,35%, tương ứng với khoảng 21,32 tỷ
m3/mùa mưa, điểm thuận lợi là mùa mưa kéo dài từ tháng 7 đến tháng 4 năm sau (10
tháng) nên trung bình mỗi tháng có thể nhận được là khoảng 2,13 tỷ m3 cho các hoạt
động dân sinh, kinh tế, thời kỳ thiếu nước chỉ kéo dài 02 tháng với khoảng 6 triệu m3 (3
triệu m3/tháng, tương đương 100 nghìn m3/ngày.đêm), nên nguy cơ thiếu nước không
phải “do trời” mà do con người không tận dụng được nước trời và sử dụng thiếu hợp lý,
khôn khéo, thiếu tiết kiệm, kém hiệu quả, hao phí quá cao và không tạo được “nước tuần
hoàn: để tái chế, tái sử dụng, nhất là lượng nước tưới cho hành tỏi bị thẩm thấu xuống
đất rồi bốc hơi, không chỉ mất đi lượng nước lớn mà còn làm muối hóa (đất nhiễm mặn
do canh tác), hỏng đất, khiến cho phải thay đất thường xuyên theo chu kỳ canh tác.
Nguồn nước dưới đất được năm ngọn núi lửa trên đảo Lớn lưu giữ trong các
mạch nước ngầm là khá lớn, được đánh giá theo kết quả điều tra chi tiết tài nguyên nước
phục vụ xây dựng công trình cấp nước có tiềm năng khá lớn trong các tầng khe nứt phân
bố rộng rãi ở trung tâm đảo với diện tích khoảng 7,5 km2, chiếm khoảng 85% diện tích
của đảo. Trữ lượng khai thác tiềm năng là trữ lượng tĩnh trọng lực và trữ lượng động tự
nhiên có kết quả là đảm bảo cung cấp được 13.007 m3/ngày.đêm. Nhưng thực tế, trữ
lượng khai thác tiềm năng đối với vùng đảo Lý Sơn được lấy bằng 40%, do đó, trữ lượng
có thể khai thác là 13.007 x 40% = 5.203 m3/ngày.đêm.
Riêng tổng lưu lượng thực bơm ổn định của 12 lỗ khoan cấp nước hiện có trên
đảo Lớn Lý Sơn đạt được là 3.530 m3/ngày.đêm, được xếp trữ lượng khai thác cấp C1.
Đảo Bé tình hình nguồn nước là cấp bách, phải sử dụng nước ngọt từ việc chưng nước
biển qua quá trình thải muối.
Tuy vậy, việc sử dụng nước quá mức đang là vấn đề nổi cộm trên huyện đảo, đặc
biệt liên quan đến việc gia tăng diện tích trồng tỏi, hành. Theo thống kê, năm 2014, đảo
Lý Sơn chỉ có 550 giếng nước thì đến cuối 2019 đã tăng lên 1.300 giếng, trong đó có
913 giếng khoan và 414 giếng đào. Kết quả điều tra của Liên đoàn Quy hoạch và điều
tra tài nguyên nước miền Trung năm 2019 cho thấy, xâm nhập mặn tầng chứa nước khe
nứt đã lan đến trung tâm của đảo Lớn, không chỉ xảy ra theo phương ngang mà còn xuất
hiện theo chiều từ dưới lên (nhiễm mặn túi nước dưới đất). Bên cạnh nhiễm mặn, nguồn
nước còn bị nhiễm hàm lượng các chất có trong phân bón (nitrat và vi sinh) ở nhiều nơi.
Phân tích mẫu nước trên đảo có hàm lượng nitrat và vi sinh đều vượt chuẩn cho phép,
nhất là hàm lượng nitrat vượt giá trị giới hạn cho phép từ 1,4 đến 12,6 lần. Có hai giải
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
pháp đang được xem xét là đầu tư máy lọc nước biển thành nước ngọt hoặc đưa nước
ngọt theo đường ống cấp nước từ đất liền ra đảo. Nhưng cả hai đề xuất này đều khó khả
thi. Bởi lẽ, đầu tư máy lọc nước biển thành nước ngọt thực tế không phát huy hiệu quả
lâu dài vì môi trường nước mặn, máy móc nhanh hư hỏng. Còn đưa nước ngọt theo
đường ống cấp nước từ đất liền ra đảo thì vốn đầu tư quá lớn. Cho nên, cách tối ưu là bổ
cập, bảo quản, bảo vệ túi nước ngầm trên đảo theo phương án giữ lượng nước mưa trên
đảo không thoát ra biển mà nằm lại, ngấm vào lòng đất, giảm lượng nước nhiễm mặn,
giúp túi nước ngầm tăng lên, trong đó, cách “ép” nước xuống đất từ các lỗ khoan với
chi phí thực hiện không lớn, nếu thành công thì sẽ tiết kiệm kinh phí vô cùng lớn so với
các phương án khác.
Nguồn nước trên huyện đảo là rất quan trọng trong bối cảnh phát triển hiện nay,
vì thế, cân bằng sử dụng nước là bài toán cần được đặt ra cấp bách giữa cấp nước để
phát triển “thương hiệu tỏi – vàng trắng của Lý Sơn” với cân đối và bổ trợ nguồn nước
cho phát triển du lịch. Vì vậy cần có giải pháp về việc sử dụng hợp lý nguồn nước cho
phát triển giữa các ngành, lĩnh vực kinh tế trên huyện đảo để cân bằng và khắc phục sự
hạn hẹp về nguồn tài nguyên nước trên huyện đảo Lý Sơn.
Tài nguyên sinh vật biển và tiềm năng nuôi trồng thủy sản, sinh vật biển có độ
đa dạng sinh học cao với 33 loài san hô, 140 loài rong biển, 06 loài cỏ biển, trên 102
loài cá biển [5]; trong đó, nhiều loài quý hiếm như Bào ngư, Trai ngọc nữ, Hải sâm
trắng…. Sản lượng khai thác thủy sản rất lớn bình quân hàng năm khoảng 28.000 tấn,
chiếm gần 30% so với toàn tỉnh; tiềm năng nuôi trồng thủy sản nước mặn có thể lên đến
250 ha. Nguồn lực tài nguyên đa dạng sinh học trên các đảo và vùng biển quanh đảo là
yếu tố thuận địa quan trọng để phát triển nghề cá xa bờ và khai thác thủy, hải sản vùng
biển nông quanh đảo.
Vùng biển Lý Sơn có nhiều điều kiện thiên nhiên thuận lợi, tạo nên một ngư
trường có tính ĐDSH, giàu nguồn lợi hải sản. Vùng biển này không có mùa đông lạnh,
nhiệt độ trung bình năm 26,6oC, độ muối ít biến đổi. Đây là khu vực giao nhau của 2
dòng biển ven bờ: dòng chảy ấm từ vùng biển Đông Nam bộ trong mùa gió Tây Nam
mang lên nhiều chất dinh dưỡng gặp dòng chảy lạnh ven bờ từ phía Bắc xuống có nhiệt
độ thấp tạo ra môi trường phù hợp cho các loài sinh vật biển quần tụ sinh sống. Khu hệ
cá biển đã được nghiên cứu với khoảng 202 loài, trong đó, có nhiều loài có giá trị kinh
tế cao trữ lượng khoảng 68.000 tấn và khai thác hằng năm đạt 27.000 tấn. Vào mùa cá
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
đáy tháng 4, khu vực phía Đông Nam đảo Lý Sơn có khả năng cho khai thác ước đạt
300-500 kg/km2. Cùng với việc nghề cá xa bờ của Lý Sơn chú trọng vào các đối tượng
có giá trị kinh tế cao như cá hố, cá ngừ, cá thu, … đã tạo nên giá trị kinh tế khá cao của
nghề cá xa bờ trên huyện đảo Lý Sơn.
Nguồn lực thủy hải sản ven bờ huyện đảo Lý Sơn là khá lớn, tại đây có các hệ
sinh thái điển hình như rạn san hô, thảm cỏ biển với trên 700 loài động thực vật biển,
trong đó có 157 loài san hô, 202 loài cá biển, 137 loài rong biển, 96 loài giáp xác, 40
loài da gai, 6 loài cỏ biển, ...
Nguồn lợi HST san hô khá đa dạng. Ngành Da gai có 40 loài, trong đó lớp Huệ
biển (Crinoidea) có 4 họ và 5 loài, lớp Hải sâm (Holothuroidea) có 3 họ và 9 loài, lớp
Sao biển (Asteroidea) 5 họ và 10 loài, lớp Cầu gai (Echinoidea) có 5 họ và 10 loài và
lớp đuôi rắn (Ophiuroidea) có 5 họ và 6 loài. Lớp giáp xác trong hệ sinh thái biển tại Lý
Sơn có sự đa dạng cao với 96 loài thuộc 22 họ. Trong đó, Họ cua (Xanthidae) chiến ưu
thế với 18 loài (Viện Kỹ thuật biển 2012). Giáp xác, đặc biệt là các loài cua, ghẹ, tôm là
những loài thường bị khai thác bởi người dân nhằm phát triển kinh tế.
Kết quả điều tra, khảo sát hiện trạng nguồn lợi rong biển ven đảo huyện Lý Sơn
trong hai năm 2017-2018 đã xác định được 143 loài rong biển thuộc 36 họ, 18 bộ của 4
ngành rong. Trong đó, ngành rong Đỏ (Rhodophyta) có số loài được xác định nhiều nhất
với 67 loài; tiếp đến là ngành rong Nâu (Ochrophyta) 39 loài; ngành rong Lục
(Chlorophyta) 36 loài; thấp nhất là ngành rong Lam (Cyanobacteria) 1 loài. Kết quả
nghiên cứu cũng ghi nhận được 60 loài rong biển kinh tế. Trong số các loài rong biển
ven các đảo Lý Sơn có rau câu chân vịt (rong kỳ lân, rong đá, rong chân vịt) sống trong
bám vào bề mặt rạn đá hay san hô cách mặt nước từ 1 - 5 m, có thể khai thác quanh năm,
nhưng nhiều nhất vào thời gian từ tháng 3 đến tháng 6, tạo nên một nghề truyền thống
của ngư dân huyện đảo với các đối tượng khai thác là chủ yếu là các loài rong biển có
giá trị như rong Đỏ có agar, rong Câu rễ tre, rong Câu chân vịt, rong Nâu họ
Sargassaceae, … đang được khai thác làm thức ăn hay cho nhu cầu công nghiệp như
phân bón, hoặc sản phẩm phụ gia cho thức ăn của vật nuôi. Đặc biệt nhóm rong lục rất
phong phú hiện nay đang là nguồn nguyên liệu cho sản xuất nhiên liệu sinh học. Việc
khai thác rong biển làm thức ăn đã phổ biến từ cách đây hơn bốn ngàn năm, làm thành
nguồn lương thực cứu cánh chủ yếu cho người dân ở đảo vào thời kỳ sơ khai lập đảo
bám biển giữ làng, ngày nay đã trở thành nguồn lợi có giá trị kinh tế.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Không chỉ có rong biển, sự phong phú về các loài trong hệ sinh thái rạn san hô
như cua dẹt (cua đá), cua huỳnh đế, cua mặt trăng, ốc tượng, ốc cừ (ốc xà cừ), hàu son,
sứa, nhum biển, tôm hùm, hải sâm, ngọc nữ, bào ngư, … là đối tượng của hoạt động
kinh tế ven bờ huyện đảo.
Nghề cá xa bờ đang có điều kiện thuận lợi về nguồn lực tự nhiên với sự hỗ trợ có
hiệu quả định hướng chiến lược của nhà nước. Từ năm 1997, nhà nước đã triển khai
chương trình đánh bắt hải sản xa bờ với quy mô vừa hoặc lớn từ 3 - 10 hải lý trở ra tính
từ vùng đất liền. Đối tượng đánh bắt chủ yếu: cá, giáp xác, động vật thân mềm, tảo biển,
v.v … Tiếp đến, ngày 7/7/2014 Chính phủ ra nghị định số 67/2014/NĐ-CP về một số
chính sách phát triển thủy sản, quy định chính sách về đầu tư, tín dụng, bảo hiểm; chính
sách ưu đãi thuế và một số chính sách khác nhằm phát triển thủy sản.
Cùng với định hướng chiến lược, sự gắn kết với các cơ sở thu mua, chế biến và
thị trường tiêu thụ lớn ở ven biển tỉnh Quảng Ngãi, được đầu tư dài hạn vào các đối
tượng sản phẩm chế biến và thị trường ngoài nước là các loài cá hố, cá ngừ, cá thu, …
đã thúc đẩy khả năng phát triển nghề cá xa bờ và khai thác nguồn lợi ven bờ huyện
đảo.
Hai đảo Lớn và Bé trước đây đã từng tồn tại các HST đa dạng sinh học cao, trong
văn liệu cổ, Lý Sơn gọi là cù lao Ré – một loại cây họ gừng mọc khắp nơi trên hai hòn
đảo thuộc huyện đảo, vì thế, trước đây, tên gọi là Ré Sợ, nhưng sau bị đọc trệch đi là Lý
Sơn. Bên cạnh loài cây Ré, Lý Sơn còn có nhiều loài cây bản địa khác mọc như rừng
trong tập đoàn cây thuốc ở huyện đảo, đó là dứa dại mọc bạt ngàn trên các ngọn núi lửa
trên cả đảo Lớn và đảo Bé, ngoài ra còn có các loài cây thuốc phổ biến khác như sâm
biển xanh, sâm biển đỏ, cỏ xước, cà dây leo, sâm đất, nhàu, thù lù, lạc tiên, nhãn rừng,
cách, cỏ tranh, cỏ ba chỉ, cỏ hạch; hay các loài cây trồng nông nghiệp như hành, tỏi, các
loại đậu, … giáp biển trong các HST cát có các loài cây bàng vuông, cam đường dại
(đảo Bé), dừa, các loài cây ăn quả khác. Cam đường dại đảo Bé Lý Sơn gây ấn tượng
bởi những bụi cam đường dại mọc ven đường, đồi hoang, lối đi. Cam đường có vị ngọt
chua nhưng so với các trái cây dại mọc thì vẫn ngọt hơn nhiều nên được gọi là cam
đường. Bình thường vào tháng 6 - 7 cam đường dại sẽ ra hoa và đến tháng 10 - 11 thì
cam rừng dại mới bắt đầu có trái chín.
Trong báo cáo Quy hoạch đa dạng sinh học tỉnh Quảng Ngãi đã xác định, huyện
đảo Lý Sơn có 898,91 ha HST rừng khô đất thấp, một trong hai vùng sinh thái quan
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
trọng của Quảng Ngãi được thế giới công nhận. Trong HST này, một đặc điểm quan
trọng nổi trội là sự có mặt của rùa Trung Bộ và được xem là một đối tượng đặc trưng
của HST, điều đáng tiếc là do hoạt động canh tác nông nghiệp với nhu cầu sử dụng cát
từ các bãi cát san hô ven biển đã ảnh hưởng đến sinh cảnh của huyện đảo.
Đảo Lý Sơn nghèo về sinh cảnh sống, tuy nhiên có các loài chim với hàng loạt
những tập thích nghi của mình chúng là nhóm động vật đa dạng về thành phần loài có
trên đảo. Trên huyện đảo Lý Sơn còn bảo tồn loài Cua dẹp – Cua đá Lý Sơn
(Gecarcoidea lalandii), là động vật biển nhưng sống trên rừng với tuổi thọ khoảng 16
năm, chủ yếu hoạt động vào ban đêm khi độ ẩm cao và nhiệt độ thấp. Cua dẹp đến mùa
sinh sản di chuyển xuống những vùng biển nông quanh đảo để đẻ trứng. Thịt cua dẹp
ngon không thua kém cua huỳnh đế - loài cua được đánh giá là số một của Việt Nam
hiện nay.
Tài nguyên du lịch nhân văn, vùng đất này có nhiều cảnh đẹp thiên nhiên còn
hoang sơ; các di chỉ của nền văn hóa Sa Huỳnh, nền văn hóa Chămpa cũng được tìm
thấy cùng với quần thể 50 di tích văn hóa - lịch sử trong đó 4 di tích được công nhận
cấp quốc gia (thắng cảnh chùa Hang, đình làng An Vĩnh, đình làng An Hải, Âm linh
tự) và 6 di tích được công nhận cấp tỉnh (Dinh Tam Tòa, đền thờ cá Ông Lân Chánh,
nhà thờ Phạm Quang Ảnh, đền thờ Thiên Y-A-Na, lăng cá Ông Đông Hải, mộ và đền
thờ Võ Văn Khiết) cùng 23 di tích tín ngưỡng, mang giá trị nhân văn và tâm linh sâu
sắc như giếng Chăm, di tích Bà Trời thờ thánh mẫu thiên Y A Na, miếu Bà Lồi, chùa
Hang... các lễ hội đặc trưng của vùng biển như lễ hội cầu ngư, lễ Khao lề thế lính Hoàng
Sa. Tiềm năng du lịch văn hóa là sự chồng xếp của ba lớp văn hóa với gần 100 di tích
đền, chùa, miếu, mộ trên các đảo, làm nên di sản văn hóa vật thể và phi vật thể của huyện
đảo Lý Sơn. Bên cạnh đó là di sản văn hóa biển của ngư dân với tục thờ Cá ông trong
các miếu thờ nằm rải rác quanh đảo, nơi lưu giữ hài cốt của các ông cá (cá voi, cá heo,
…) bị chết, trôi giạt vào đảo và bí mật của những hình nhân mộ gió đắp bằng cát mà chỉ
Lý Sơn mới có, tạo nên những nét văn hóa đặc sắc của riêng Lý Sơn trong khu mộ gió.
- Cơ sở dịch vụ du lịch hiện tại
Trên huyện đảo Lý Sơn đã có một số cơ sở lưu trú du lịch đạt tiêu chuẩn sao để
có thể đón khách du lịch có khả năng chi trả cao hoặc khách du lịch quốc tế. Đến tháng
5/2020, huyện đảo Lý Sơn có hơn 130 cơ sở lưu trú đang hoạt động với khoảng 1.000
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
phòng, có thể tiếp nhận cùng lúc khoảng 3.000 khách. Trong đó có 11 khách sạn từ 1
sao đến 4 sao, 53 nhà nghỉ và 62 cơ sở homestay, 04 nhà trọ.
Hệ thống dịch vụ du lịch có 01 tàu đáy kính phục vụ du khách ngắm san hô; 80
xe du lịch từ 4 đến 16 ghế ngồi; 90 nhà hàng, quán ăn đáp ứng tốt nhu cầu sinh hoạt, ăn
nghỉ, đi lại của du khách; ngoài ra các dịch vụ kinh doanh internet, karaoke, dịch vụ vui
chơi, giải trí khác cũng phát triển đảm bảo chất lượng cung cấp việc làm cho khoảng
6.000 lao động.
- Chuỗi tăng trưởng giá trị du lịch 2008-2018
Theo báo cáo số 421-BC/HU về tình hình thực hiện nhiệm vụ năm 2019, hoạt
động du lịch năm 2019 phát triển mạnh với cơ sở hạ tầng phục vụ du lịch tiếp tục được
đầu tư xây dựng, chất lượng dịch vụ từng bước được nâng lên; tính đến thời điểm hiện
tại đã có 129 cơ sở lưu trú, 04 doanh nghiệp được cấp phép hoạt động kinh doanh lữ
hành và 13 cá nhân có thẻ hướng dẫn viên tại điểm. Kết quả đạt được năm 2019 đã vượt
mục tiêu đề ra cho năm 2025 trong quyết định 163/QĐ-UBND về số lượng khách, đặc
biệt là khách quốc tế, về tỷ lệ đóng góp trong tổng GDP huyện, vượt chỉ tiêu về tổng
doanh thu năm 2020, hướng tới mục tiêu về tổng doanh thu đề ra cho năm 2025 là 435,65
tỷ đồng. Kết quả đạt được về phát triển du lịch là rất ấn tượng, điều đó cho thấy hướng
phát triển du lịch là định hướng đúng và sẽ là ưu tiên số một trong cơ cấu kinh tế huyện
đảo Lý Sơn trong giai đoạn 2021-2030.
- Phát triển chuỗi giá trị sản phẩm du lịch sinh thái
Từ định hướng ưu tiên phát triển lĩnh vực du lịch, để phát triển chuỗi giá trị du
lịch, trong quyết định 163/QĐ-UBND đã định hướng các sản phẩm đặc thù trong chiến
lược du lịch Lý Sơn là:
* Du lịch gắn với chủ quyền quốc gia là khai thác lễ Khao lề thế lính Hoàng Sa
để phát triển các sản phẩm du lịch tìm hiểu về chủ quyền biển đảo; tham quan, khám
phá các di tích lịch sử - văn hóa gắn với Hải đội Hoàng Sa.
* Du lịch sinh thái trong khu bảo tồn (KBT) biển với quan sát, thám hiểm, nghiên
cứu các HST biển trong KBT; công viên sinh thái biển; …
* Du lịch địa chất là: Khám phá, nghiên cứu các di sản địa chất, các dấu tích phun
trào núi lửa và các sản phẩm lưu niệm liên quan.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
* “Du lịch tỏi” tham quan nông trại, tìm hiểu quy trình trồng, thu hoạch, chế biến
tỏi Lý Sơn; tìm hiểu các sản phẩm khai thác từ tỏi như khu nghỉ dưỡng gắn với trang
trại trồng tỏi; Spa làm đẹp với tỏi; các sản phẩm từ tỏi,…
Các loại hình du lịch chính gồm: du lịch nghỉ dưỡng biển; du lịch văn hóa; du
lịch homestay với các hộ gia đình trồng tỏi, làm ngư nghiệp, hộ cư dân gốc có di tích
văn hóa, …; du lịch sinh thái. Các loại hình du lịch bổ trợ có du lịch mua sắm, vui chơi
giải trí; du lịch ẩm thực, … Đặc biệt là du lịch ẩm thực với 27 món ăn được gọi là không
thể bỏ qua trong loại hình du lịch ẩm thực Lý Sơn gồm: bùm bụp rim nước mắm; gỏi
rong biển; canh chua cá Tà ma; cua đá rang muối ớt; cua lá hẹ luộc chấm muối tiêu
chanh; cá bò da nướng; tôm hùm nướng; mắm cá kình; tỏi non xào; cua huỳnh đế; cua
mặt trăng; canh mực; ốc cừ hấp sả; nhum nướng mỡ hành; mực rim nước mắm; bánh
xèo Lý Sơn; xu xoa rong biển; ram chả cá Lý Sơn; gỏi mực hang; mực luộc; mực trộn
gỏi; cá bù nú nướng; cháo vẹm; ruột hàu xào; bánh bèo Lý Sơn; bánh ít lá gai; cộng với
bia Dung Quất;
Tài nguyên vị thế, Lý Sơn có vị thế địa chính trị đặc biệt, vị thế địa kinh tế thuận
lợi trong việc phát triển giao thông đường biển, cảng biển, du lịch biển và dịch vụ hậu
cần nghề cá gắn với nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền trên biển. Vị thế trên không gian biển
của huyện đảo Lý Sơn đáp ứng tốt cả ba tiêu chí cơ bản: giá trị vị thế địa tự nhiên, giá
trị vị thế địa kinh tế và giá trị vị thế địa chính trị. Với vị trí trên tọa độ trung tâm là
15022’51” độ vĩ Bắc; 109007’03” độ kinh Đông và vị thế nằm giữa biển khơi. Lý Sơn
làm thành điểm A10 trên đường cơ sở có tọa độ 15023’1 độ vĩ Bắc; 109009’0 độ kinh
Đông, từ điểm này, vùng lãnh hải và tiếp giáp lãnh hải mở rộng ra 24 hải lý trên biển
Đông theo luật Biển Việt Nam. Với vị trí tiền tiêu trên biển, huyện đảo Lý Sơn nằm rất
gần với các tuyến đường hàng hải quốc tế đã tạo nên vai trò cực kỳ quan trọng về mặt
chính trị, kinh tế và an ninh quốc phòng. Từ các đảo Lý Sơn có thể đặt các trạm radar
kiểm soát hoạt động trên biển, xây dựng các trạm dừng chân, trung chuyển (Đề tài
KT.03-12, 1995; Lê Kim Thoa và cs, 2014).
Giá trị địa kinh tế nằm trong nguồn lợi vùng biển xa bờ và ven huyện đảo đã được
phân tích với ngư trường Nam Trung Bộ này có độ sâu lớn nhất trong bốn ngư trường,
mực nuớc 30-50m, 100m chỉ cách bờ biển có 3 - 10 hải lý, độ sâu từ 200-500m chỉ cách
bờ 20-40 hải lý, trong khi vùng sâu nhất đạt tới 4.000 - 5.000m. Đây là ngư trường cho
khả năng khai thác hải sản xa bờ lớn nhất, chiếm 49,7% khả năng khai thác cả nước.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Trong đó, nguồn lợi hải sản tạo nên giá trị địa kinh tế là các loại cá có khả năng di
chuyển nhanh, lưu trú ở vùng biển Việt Nam trong khoảng thời gian ngắn. Chế độ gió
mùa tạo nên sự thay đổi căn bản điều kiện hải dương học, làm cho sự phân bố của cá
cũng thay đổi rõ ràng, sống phân tán với quy mô đàn nhỏ. Đặc biệt là nguồn lợi cá ngừ
đại dương (có đến 8 loài có mặt tại vùng biển Nam Trung Bộ), ở Việt Nam, cá ngừ đại
dương là mặt hàng quan trọng chiếm vị trí thứ 3 trong cơ cấu hàng xuất khẩu thuỷ hải
sản (sau tôm và cá tra) tới hơn 60 nước trên thế giới. Ngư trường câu cá ngừ (cá ngừ
vây vàng và cá ngừ mắt to) nằm ở vùng biển xa bờ Nam Trung Bộ từ 6 – 180 độ vĩ Bắc;
107 – 1170 độ kinh Đông tạo thuận lợi cho nghề câu cá ngừ vây vàng và cá ngừ mắt to
với sản lượng có thể đạt được 15 - 16 nghìn tấn năm (năm 2015). Bên cạnh đó, nghề
lưới rê đánh bắt các loại cá ngừ vằn có thể đánh bắt được khoảng 30 nghìn tấn.
Về môi trường, Lý Sơn đang chịu sức ép từ sự tăng dân số với mật độ dân cư
đông đúc (xã An Vĩnh 2.744 người/km2, xã An Hải 1.711 người/km2 [6]) và hoạt động
của các ngành kinh tế trên đảo đã nảy sinh những vần đề nổi cộm về môi trường: (1)
tình trạng khai thác cát trắng ven bờ để trồng hành tỏi, trung bình mỗi năm, toàn huyện
khai thác trên 150.000 m3 cát [4], làm tăng khả năng xâm thực mặn, xói lở bờ biển; (2)
đánh bắt thủy sản bằng phương pháp hủy diệt làm cho nguồn lợi thủy sản suy giảm, các
hệ sinh thái biển xung quanh đảo bị suy thoái dẫn đến suy giảm giá trị và gia tăng khả
năng bị tổn thương; (3) tập quán canh tác của người dân sử dụng phân bón, thuốc trừ
sâu quá mức trong sản xuất nông nghiệp làm ô nhiễm nguồn nước ngầm và môi trường
không khí; (4) chất thải sinh hoạt và các hoạt động kinh tế trên đảo chưa được thu gom,
xử lý triệt để; (5) tình trạng phá rừng để làm chất đốt đã hủy hoại toàn bộ rừng nguyên
sinh trên đảo; (6) từ năm 2007 đến nay, đã xảy ra 03 sự cố tràn dầu ảnh hưởng trực tiếp
tới khu vực biển Lý Sơn. Hiện trên địa bàn huyện đã đưa vào hoạt động khu xử lý rác
thải rắn (thí điểm) do Tổng cục môi trường làm chủ đầu tư, tổng dự toán 27 tỷ đồng, với
công suất thiết kế 15 tấn/ngày đêm; tuy nhiên, dự án chỉ có một lò đốt rác công suất nhỏ
và chủ yếu làm bằng thủ công nên không xử lý hết lượng rác thu gom trong ngày trên
toàn huyện vì vậy, cần bổ sung mới và nâng cấp công suất nhà máy xử lý rác lên từ 30
đến 40 tấn/ngày đêm để đáp ứng nhu cầu xử lý rác thải trên toàn huyện. Huyện chưa có
hệ thống thu gom xử lý nước thải sinh hoạt của các hộ dân, nên người dân thường thải
nước thải ra đường gây ô nhiễm môi trường. Trên địa bàn huyện có 04 nghĩa trang trong
đó, có 01 nghĩa trang liệt sỹ, 03 nghĩa trang nhân dân và một số mồ mả chôn cất rãi rác
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
trên toàn huyện. Hiện nay Hội đồng nhân dân huyện đã thông qua đề án bảo vệ môi
trường huyện giai đoạn 2015-2020 trong đó, có quy hoạch lại nghĩa trang và di dời mồ
mả tập trung về một điểm.
Huyện đảo Lý Sơn có nguồn tài nguyên thiên nhiên và nhân văn vô cùng phong
phú - là điều kiện thuận lợi để phát triển các ngành kinh tế biển. Tuy nhiên, việc khai
thác tài nguyên để phát triển kinh tế - xã hội đã hủy hoại môi trường nghiêm trọng, chất
lượng môi trường biển bị chi phối rất mạnh bởi các hoạt động khai thác, sử dụng tài
nguyên ở khu vực ven bờ, mâu thuẫn lợi ích trong quá trình khai thác, sử dụng tài nguyên
và môi trường giữa các ngành, giữa chính quyền và nhân dân ngày càng phức
tạp…. Nguyên nhân chủ yếu là do công tác quản lý nhà nước về Tài nguyên và Môi
trường trên địa bàn huyện Lý Sơn còn nhiều bất cập, chỉ quản lý theo ngành.
Vì vậy, để sử dụng hiệu quả tài nguyên và bảo vệ môi trường ở huyện đảo Lý
Sơn, cần phải áp dụng phương thức quản lý tổng hợp, mang tính toàn diện, đa mục tiêu
và đảm bảo đa lợi ích cả trước mắt và lâu dài.
3.3. Đề xuất mô hình phát triển kinh tế - xã hội bền vững huyện đảo Lý Sơn
3.3.1 Cơ sở chính sách chiến lược định hướng phát triển KT-XH bền vững
huyện Lý Sơn.
Bất kỳ ai trong chúng ta cũng có thể cảm nhận được, Lý Sơn là huyện đảo đẹp,
rất ấn tượng, Lý Sơn có tài nguyên biển phong phú; có hương vị tỏi thơm ngọn đặc biệt;
có nét văn hoá truyền thống đặc sắc; người dân Lý Sơn sống thật thà, chất phác nhưng
cũng rất kiên cường bảo vệ biển, đảo…
Trên cơ sở đánh giá tiềm năng thiên nhiên, hiện trạng kinh tế - xã hội huyện đảo
Lý Sơn và chiến lược định hướng phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Quảng Ngãi có thể
nhận thấy rằng: Các chính sách phát triển kinh tế - xã hội đối với Lý Sơn rất cần phải
cân nhắc thận trọng, nếu để sai lầm là rất khó sửa. Đặc biệt, cần phải có 1 sự thống nhất
quan điểm, chủ trương về phát triển Lý Sơn từ trung ương đến địa phương, nếu không
rất khó khăn cho chính quyền địa phương, cho cộng đồng doanh nghiệp và nhất là nhân
dân trên đảo. Điều hết sức quan tâm lúc này là đảm bảo cho người dân an tâm bám biển,
giữ đảo và kiên trì vươn khơi để giữ vững chủ quyền.
Định hướng chiến lược hướng tới việc xác định các hướng trọng điểm, ưu tiên
phát triển nhằm thu hút đầu tư, đồng thời tạo nên các chương trình, dự án cấp nhà nước
và cấp địa phương (cấp tỉnh) đi cùng với nguồn lực tài chính cho sự phát triển kinh tế -
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
xã hội, thể hiện vai trò của nhà nước (thông qua chính quyền địa phương) hình thành
hành lang pháp lý và các cơ chế cụ thể đối với quá trình vận hành và các hoạt động phát
triển cho các địa phương cấp dưới.
Đây là nhân tố đặc biệt quan trọng thể hiện quan điểm “vì dân” – vì sự phát triển
của cộng đồng xã hội trên huyện đảo; “do dân” – người dân, cộng đồng dân cư tự nhận
thức và tự nguyên tham gia quá trình phát triển, từ khâu định hướng, chuẩn bị cơ chế,
chính sách cho các hoạt động phát triển đến các cộng đồng tự tổ chức hay tham gia vào
thực hiện các quá trình phát triển; và “của dân” vì tất cả nguồn tài nguyên trên trời, dưới
biển được xem là tài sản của cộng đồng được huy động vào quá trình phát triển, làm
thành các nguồn lực quan trọng là vốn tự nhiên, vốn xã hội, vốn con người, hướng tới
việc tăng trưởng kinh tế, nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống cho các tầng lớp dân cư.
Ở tầm vĩ mô, định hướng chiến lược phát triển kinh tế - xã hội thể hiện qua các
chủ trương, chiến lược phát triển kinh tế, xã hội, tài nguyên, môi trường và an ninh quốc
phòng lãnh thổ trên biển của Việt Nam với định hướng các ngành kinh tế biển theo thứ
tự ưu tiên trong Nghị quyết 36 của BCH Trung ương: (1) Du lịch và dịch vụ biển; (2)
Kinh tế hàng hải; (3) Khai thác dầu khí và các tài nguyên khoáng sản biển khác; (4)
Nuôi trồng và khai thác hải sản; (5) Công nghiệp ven biển; (6) Năng lượng tái tạo và
các ngành kinh tế biển mới. Theo đó, nghị quyết 26/NQ-CP đã xác định các ngành kinh
tế biển theo thứ tự ưu tiên phát triển: (a) Du lịch và dịch vụ biển; (b) Kinh tế hàng hải;
(c) Khai thác dầu khí và các tài nguyên khoáng sản biển khác; (d) Nuôi trồng và khai
thác hải sản; (đ) Công nghiệp ven biển; (e) Năng lượng tái tạo và các ngành kinh tế biển
mới.
Định hướng phát triển du lịch biển, hải đảo trong chiến lược phát triển du lịch
Việt Nam đến năm 2030 là: “Ưu tiên phát triển sản phẩm nghỉ dưỡng biển, đảo và du
lịch thể thao, giải trí biển phù hợp với định hướng Chiến lược PTBV kinh tế biển Việt
Nam. Tập trung nguồn lực đầu tư phát triển một số cụm du lịch, trung tâm nghỉ dưỡng
biển cao cấp, có thương hiệu mạnh trên thị trường du lịch quốc tế.
Phát triển du lịch cộng đồng với chính sách hỗ trợ nguồn lực cho người dân tham
gia phát triển du lịch, gắn phát triển du lịch văn hóa với trải nghiệm đời sống cộng đồng
để nâng cao đời sống kinh tế, văn hóa, góp phần xóa đói, giảm nghèo cho người dân,
đặc biệt ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo”.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Đối với ngành thủy, hải sản được định hướng đến năm 2025 là “Chuyển dịch
ngư trường từ vùng biển ven bờ, nơi có hệ sinh thái đặc thù, nhạy cảm, nguồn lợi thủy
sản có chiều hướng suy giảm và dễ chồng lấn với các hoạt động kinh tế khác ra vùng
lộng và vùng khơi”; “Chuyển đổi từ các mô hình nuôi trồng thủy sản quy mô nhỏ, công
nghệ lạc hậu sang nuôi công nghiệp, quy mô lớn với công nghệ hiện đại, bền vững, bảo
vệ môi trường”; đồng thời xây dựng chuỗi giá trị bảo tồn – khai thác nguồn lợi thủy sản
để nâng cao hiệu quả kinh tế và tăng thu nhập cho cộng đồng ngư dân trên các hải đảo,
góp phần bảo vệ quốc phòng và an ninh trên các vùng biển, đảo.
Về lĩnh vực phát triển năng lượng tái tạo, nghị quyết 55/NQ-TW đã đề xuất nhiệm
vụ “Xây dựng các cơ chế, chính sách đột phá để khuyến khích và thúc đẩy phát triển
mạnh mẽ các nguồn năng lượng tái tạo nhằm thay thế tối đa các nguồn năng lượng hoá
thạch. Ưu tiên sử dụng năng lượng gió và mặt trời cho phát điện; khuyến khích đầu tư
xây dựng các nhà máy điện sử dụng rác thải đô thị, sinh khối và chất thải rắn đi đôi với
công tác bảo vệ môi trường và phát triển kinh tế tuần hoàn. … Sớm nghiên cứu, đánh
giá tổng thể về tiềm năng và xây dựng định hướng phát triển năng lượng địa nhiệt, sóng
biển, thuỷ triều, hải lưu; triển khai một số mô hình ứng dụng, tiến hành khai thác thử
nghiệm để đánh giá hiệu quả”. Nghị quyết 26 nêu rõ, kế hoạch 5 năm đến năm 2025, ưu
tiên đầu tư phát triển năng lượng tái tạo trên các đảo phục vụ sản xuất, sinh hoạt, bảo
đảm quốc phòng, an ninh.
Ở tầm vi mô, các định hướng chiến lược từ tầm vĩ mô được cụ thể hóa, bổ sung
theo những điều kiện sẵn có, đặc thù của địa phương trong các quyết định số
533/2017/QĐ-UBND tỉnh Quảng Ngãi, Nghị quyết 01-NQ-TU của tỉnh ủy tỉnh Quảng
Ngãi năm 2016 với định hướng các ngành kinh tế biển của tỉnh là: (1) Phát triển KT
thủy sản toàn diện, bền vững và đồng bộ trên các lĩnh vực khai thác, nuôi trồng, chế
biến; (2) Phát triển du lịch biển, đảo thành ngành KT quan trọng, đóng góp lớn vào tăng
trường KT biển; (3) Xây dựng Lý Sơn thành đảo du lịch, mạnh về KT, vững chắc về
quốc phòng an ninh, là tiền tiêu bảo vệ biển, đảo; (4) Đẩy mạnh phát triển hệ thống cảng
biển, vận tải biển, dịch vụ biển
Về “Đầu tư lâu dài” được sự hỗ trợ đầu tư từ Trung ương theo Nghị quyết số
36/2018/NQ-TW; Nghị quyết số 26/2020/NQ-CP; Quyết định 568/2010/QĐ-TTg; cùng
với các chương trình phát triển đánh bắt hải sản xa bờ; Chương trình mục tiêu phát triển
kinh tế thủy sản bền vững giai đoạn 2016-2020 trong quyết định số 1434/2017/QĐ-TTg;
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Chương trình tín dụng để đầu tư phát triển nuôi biển công nghiệp Việt Nam. Chiến lược
phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2030 theo quyết định 147/2020/QĐ-TTg; Đề án
“Phát triển du lịch biển, đảo và vùng ven biển Việt Nam đến năm 2025, định hướng đến
năm 2030” theo quyết định số 2714/2016/QĐ-BVHTTDL; Định định hướng đẩy mạnh
đầu tư phát triển chuỗi sản phẩm vận tải và du lịch đường biển, nâng cao năng lực tiếp
nhận tàu chở khách du lịch đồng thời tăng cường khả năng kết nối thuận tiện đến các
điểm du lịch trên đất liền theo quyết định 318/2014/QĐ-TTg; Quyết định
2068/2015/QĐ-TTg cho đầu tư phát triển NLTT.
Bên cạnh đó là đầu tư trực tiếp của tỉnh Quảng Ngãi theo Quyết định số 533/QĐ-
UBND tỉnh Quảng Ngãi, của huyện Lý Sơn theo Quyết định 316/2015/QĐ-UBND
huyện Lý Sơn. Đồng thời với sự góp sức đầu tư theo các dự án phát triển của cộng đồng
doanh nghiệp là yếu tố rất cơ bản cho phát triển hài hòa về lợi ích trước mẫu thuẫn về
lợi nhuận đầu tư đối với doanh nghiệp với yêu cầu phát triển biển, đảo.
3.3.2. Cơ sở nguồn lực tự nhiên và xã hội để định hướng mô hình phát triển KT –
XH bền vững huyện đảo Lý Sơn
Trên cơ sở đánh giá tiềm năng thiên nhiên, hiện trạng kinh tế - xã hội huyện
đảo Lý Sơn, có thể tóm lược các nguồn lực để phát triển KT - XH huyện đảo Lý Sơn
như sau:
a. Nguồn lực tự nhiên.
Các đảo thuộc huyện đảo Lý Sơn có quy mô diện tích nhỏ bé, nhưng mức liên
kết khá cao.
Huyện đảo Lý Sơn nguồn tài nguyên đất khá cao, nhưng cần được sử dụng hợp
lý.
Nguồn tài nguyên nước (nước mặt, nước ngầm) phong phú phục vụ cho phát
triển kinh tế - xã hội.
Tài nguyên sinh học phong phú làm cơ sở cho các ngành nghề phát triển.
Tiềm năng vị thế không gian biển có giá trí đặc biệt chưa được khai thác
đầy đủ.
b. Nguồn lực xã hội.
Sự đồng nhất về nguồn gốc dân cư huyện đảo là nhân tố phát triển xã hội bền
vững.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Kỹ năng đi biển và tri thức về biển của ngư dân là nguồn lực xã hội quan trọng
cho phát triển kinh tế biển.
Sự đâm đặc của di tích văn hóa vật thể và phi vật thể làm thành sức hút du lịch
Lý Sơn.
3.3.3. Định hướng mô hình phát triển kinh tế - xã hội bền vững cho huyện đảo Lý
Sơn
3.3.3.1. Định hướng mô hình
Dựa trên triết lý về phát triển bền vững, cơ sở chính sách định hướng phát triển
KT - XH và cơ sở nguồn lực tự nhiên, xã hội của huyện đảo Lý Sơn, có thể định hướng
mô hình phát triển kinh tế - xã hội bền vững cho huyện đảo Lý Sơn là: Mô hình tổng
hợp:
DU LỊCH SINH THÁI + KHAI THÁC, NUÔI TRỒNG THỦY HẢI SẢN +
NÔNG, LÂM KẾT HỢP + SINH KẾ HỖN HỢP
3.3.3.2 Các mô hình hợp phần trong mô hình định hướng
* Mô hình Du lịch sinh thái
- Du lịch sinh thái dựa vào thiên nhiên
Cơ sở để phát triển du lịch sinh thái dựa vào thiên nhiên là yếu tố thiên tạo với
hệ thống núi lửa được hình thành từ các đợt phun nổ, phun trào dung nham bazan cách
đây khoảng từ một triệu năm đến 4.500 năm đã tạo nên các kỳ quan thiên nhiên đặc sắc
làm cơ sở để xây dựng đề xuất Công viên địa chất toàn cầu Lý Sơn – Sa Huỳnh, trong
đó, trọng điểm là hệ thống núi lửa gồm 10 miệng núi lửa cổ trên quần đảo Lý Sơn, trong
đó, 06 miệng nằm ở đảo Lớn, 01 miệng nằm trên đảo Bé và 03 miệng nằm ngầm dưới
mặt biển có giá trị khoa học, giáo dục cũng như thưởng ngoạn như “nghĩa địa” san hô
hình cối xay nằm phía Đông Bắc đảo Lý Sơn, với những khối san hô hóa thạch hình cầu
có nhiều vòng xoay quanh một tâm không chỉ đẹp và lạ về hình thái mà còn là minh
chứng khoa học cho giai đoạn biển tiến, biển lùi cách ngày nay từ 6.000 - 4.000 năm;
vùng cát đụn (cát - gió) ở đảo Bé (Lý Sơn) là di vết của đường bờ biển cổ dự đoán từ kỷ
Pleistocen muộn; đá trầm tích bãi biển (beach rock) nơi có thể tìm thấy đa dạng sinh vật
biển với các mảnh san hô, vỏ sò ốc được gắn kết bởi vật chất vôi; các bậc thềm biển tích
tụ, mài mòn, các ngấn nước biển khắc trên vết đá trầm tích, đá magma ở độ cao khác
nhau nói về các lần biển tiến, biển lùi, …
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Địa hình đảo – biển bao quanh quần đảo Lý Sơn với hơn 70% diện tích được tạo
ra từ hoạt động núi lửa, như là một cánh đồng hỏa sơn, làm thành cơ sở tự nhiên quan
trọng để phát triển du lịch sinh thái biển - đảo và được xem là một loại tài nguyên thiên
nhiên gồm các giá trị khoa học, giá trị văn hóa - xã hội, giá trị kinh tế và giá trị về trụ
cột của hệ sinh thái hay giá trị về phong cảnh.
Tiềm năng sinh thái địa hình trên đảo Lớn Lý Sơn có 06 ngọn núi lửa: (1) Thới
Lới cao 149m, phun nổ cách ngày nay 1 triệu năm, đây là hai miệng núi lửa kép, làm
thành cụm núi lửa từ Thới Lới đến Chùa Hang với cấu tạo đặc biệt gồm hai núi lửa
chồng lên nhau; (2) Giếng Sỏi cao 106m; (3) Giếng Tiền cao 86m; (4 - 5) Hai miệng núi
lửa Hang Câu và Chùa Hang phun nổ cách đây khoảng 9 - 11 triệu năm; (6) Hòn Vung.
+ Trên đảo Bé có núi lửa Hòn Đụn phun trào cách đây khoảng 1 triệu năm
+ Trên thềm biển quanh đảo có 25 đến 30 niệng núi lửa có kích thước nhỏ hơn,
trong đó, ba núi lửa ngầm dưới biển đã xác định gồm: (1) nằm ở độ sâu 40 – 50 m phía
Nam đảo Lớn; (2) ở phía Tây đảo Lớn; (3) nằm dưới biển kề hòn Đụn đảo Bé.
Hình 3. 4: Núi lửa Giếng Tiền Hình 3. 5: Toàn cảnh các núi lửa trên đảo Lý Sơn
Hình 3. 7: Hòn Đụn Đảo Bé
Hình 3. 6: Núi Thới Lới và vách Hang Câu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Qua 200.000 năm hoạt động, mỗi đợt phun trào núi lửa tạo thành nhiều lớp dung
nham có bề dày khác nhau, do đó, đây có thể xem là một bảo tàng tự nhiên về hoạt động
núi lửa hiếm có trên thế giới, có tầm một công viên địa chất toàn cầu.
Cùng với tài nguyên địa hình núi lửa, vùng biển - đảo Lý Sơn có nguồn tài nguyên
đa dạng sinh học phong phú với các hệ sinh thái (HST) điển hình là các HST ở vùng bãi
bờ đá bazan phân bố trên nền cát đáy, đến các bãi biển, các HST bãi triều, thảm cỏ biển,
rong biển và các HST rạn san hô, hình thành nên 3 hệ sinh thái đặc trưng như: hệ sinh
thái vùng triều, hệ sinh thái thảm cỏ biển và hệ sinh thái rạn san hô với trên 700 loài
động thực vật biển được xác định. Trong đó có 157 loài san hô, 202 loài cá biển, 137
loài rong biển, 96 loài giáp xác, 40 loài da gai, 6 loài cỏ biển, ... Ngoài ra còn có 25 loài
nằm trong danh mục các loài thuỷ sinh quý hiếm có nguy cơ tuyệt chủng ở Việt Nam
cần được bảo vệ, phục hồi và phát triển
Về HST rạn san hô trên vùng biển xung quanh huyện đảo Lý Sơn theo điều tra
của Viện kỹ thuật biển (2012) có ít nhất 157 loài san hô cứng tạo rạn thuộc 18 họ san
hô. Sự phổ biến của san hô ven đảo Lý Sơn khá cao với độ che phủ đạt trên 50%, phân
bố từ độ sâu 1 m đến 30 m so với mặt nước biển, làm thành tiềm năng cho du lịch lặn
biển thăm, khám phá thủy cung san hô biển Lý Sơn, ngắm nhìn sự đa dạng các loài san
hô mà ưu thế trong hệ sinh thái rạn san hô của Lý Sơn là các loài san hô sừng hươu (họ
Acroporidae, Poritidae), san hô hình bẹ lá, san hô khối (họ Poritidae, Faviidae). Các loài
san hô thân mềm, trên vùng biển Lý Sơn có 85 loài san hô mềm được tìm thấy 10 giống
và 5 họ. Giống Sinularia đa dạng nhất với 24 loài, Lobophytum có 15 loài và
Sarcophyton có 13 loài; Đảo Lớn có 49 loài trong khi đảo Bé có 20 loài.
Mức độ ĐDSH trong các HST cỏ biển vùng biển quần đảo Lý Sơn là khá cao với
7 loài, chỉ kém Phú Quý (8 loài), Phú Quốc (9 loài), Côn Đảo (10 loài). Diện tích thảm
cỏ biển Lý Sơn khoảng 44,7 ha; Cỏ biển phân bố rải rác quanh đảo nhưng tập trung tại
phía Tây Nam và Đông Nam. Nghiên cứu mặt rộng cho thấy, cỏ biển thường phân bố ở
độ sâu 0,5 đến 2 m có nơi đến 3 m; phân bố chỉ cách bờ khoảng 150 m. Đây là cơ sở để
làm thành bãi đẻ cho nhiều loài sinh vật biển.
HST vùng triểu ở ven biển huyện đảo Lý Sơn phần lớn là các HST vùng triều cát
được tạo thành bởi cát nhỏ, các mảnh vụn san hô, thân mềm, trên bề mặt nền đá gốc
hoặc thềm san hô nhô lên khi nước triều xuống thấp. HST vùng triều ven biển Lý Sơn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
có giá trị rất lớn đối với công đồng người dân trên đảo với nhiều loài nhuyễn thể đặc sản
và tiềm năng cho loại hình du lịch tắm biển.
HST rong biển tạo nên nguồn lợi rong biển lớn cho quần đảo Lý Sơn và là một
nguồn lực cho du lịch sinh thái, trong đó có các sản phẩm ẩm thực rong biển. Kết quả
điều tra, khảo sát hiện trạng nguồn lợi rong biển ven đảo huyện Lý Sơn trong hai năm
2017 - 2018 đã xác định được 143 loài rong biển thuộc 36 họ, 18 bộ của 4 ngành rong.
Ghi nhận được 60 loài rong biển kinh tế; 3 loài rong biển nguy cấp, quý, hiếm cần ưu
tiên bảo vệ. Một số nhóm loài rong biển kinh tế có sinh lượng lớn như rong mơ
(Sargassum), rong câu (Gracilaria, Hydropuntia), rong guột (Caulerpa), rong đá cong
(Gelidiella) có ý nghĩa quan trọng đối với đời sống của người dân trên đảo. Làm thành
sản phẩm ẩm thực có rau câu chân vịt (rong kỳ lân, rong đá, rong chân vịt) sống trong
bám vào bề mặt rạn đá hay san hô cách mặt nước từ 1 - 5 m, có thể khai thác quanh năm,
nhưng nhiều nhất vào thời gian từ tháng 3 đến tháng 6, tạo nên một nghề truyền thống
của ngư dân huyện đảo. Sản phẩm này thường được chế biến tươi thành các món ăn
hoặc nấu thành chè rong câu.
Tiềm năng cho du lịch sinh thái còn được bổ sung bởi tài nguyên đa dạng sinh
học ven bờ đảo làm thành nguyên liệu cho du lịch ẩm thực, đó là: cua dẹp Lý Sơn; cua
huỳnh đế, cua mặt trăng, ốc tượng, ốc cừ (ốc xà cừ), hàu son, sứa, nhum biển, tôm hùm,
hải sâm, ngọc nữ, bào ngư, … xa hơn, trong các rạn san hô quanh đảo có huệ biển, hải
sâm, cua, ghẹ, tôm, …
Hệ sinh thái trên đảo còn lưu giữ lại các loài cây thuốc phổ biến khác như sâm
biển xanh, sâm biển đỏ, cỏ xước, cà dây leo, sâm đất, nhàu, thù lù, lạc tiên, nhãn rừng,
cách, cỏ tranh, cỏ ba chỉ, cỏ hạch, đặc biệt là loài cam đường dại có vị ngọt chua nhưng
so với các trái cây dại mọc thì vẫn ngọt hơn nhiều nên được gọi là cam đường, nếu được
phát triển có thể làm thành các sản phẩm phục vụ du lịch chữa bệnh liên kết với hoạt
động du lịch nghỉ dưỡng biển – đảo hay chế biến thành nước giải khát, rượu khai vị,
hoặc các sản phẩm đặc thù như rượu sim, si rô sim, … ở Phú Quốc hay rượu sâm đất,
cao sâm đất của Côn Đảo.
- Du lịch sinh thái dựa vào văn hóa
Tiềm năng du lịch văn hóa là sự chồng xếp của ba lớp văn hóa với gần 100 di
tích đền, chùa, miếu, mộ trên các đảo, làm nên di sản văn hóa vật thể và phi vật thể của
huyện đảo Lý Sơn.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Di chỉ khảo cổ học cho thấy, cách đây khoảng 2.500 năm đến 3.000 năm cư dân
thời tiền sử thuộc văn hóa Sa Huỳnh đã cư trú trên đảo Lý Sơn. Họ sống quần cư dọc
theo hai dòng suối nước ngọt đó là suối Ốc và suối Chình (nay đã bị bồi lấp). Văn hóa
Sa Huỳnh được phát hiện thông qua các hiện vật là các công cụ canh tác nông nghiệp
và chế biến nông sản, cũng như di cốt song táng người cổ Sa Huỳnh vào các năm 1996
và 1997. Kế tiếp là văn hóa Chăm Pa trong các dấu tích chứa trong tầng văn hoá lớp trên
của di chỉ Xóm Ốc và Suối Chình, hiện nay còn một số di tích thuộc nền văn hoá Chăm
Pa tại đảo Lý Sơn như giếng Chăm, di tích Bà Trời thờ thánh mẫu thiên Y A Na, miếu
Bà Lồi, chùa Hang.
Về các di tích văn hóa vật thể có các chùa am, nổi tiếng nhất là Đình An Hải, rồi
đến các danh thắng quan trọng như Chùa Đục nằm trong một hang đá trên núi Giếng
Tiền cách mặt biển chừng 80m. Phía Đông chùa có bàn cờ tiên - nơi chư tiên thường
xuống đánh cờ. Chùa Hang còn gọi là Thiên Khổng Thạch Tự nằm dưới chân núi Thới
Lới. Hang có nhiều ngóc ngách kỳ thú nên gắn với truyền thuyết “Đường lên Trời -
Đường xuống Âm phủ”. Trong hang có những kỷ đá rất đẹp, trước cửa hang là dãy bàng
cổ thụ và tượng Quan Thế Âm hướng ra biển. Trong số đó có 3 di tích lịch sử quan trọng
là di chỉ Sa Huỳnh, chùa Hang và đình làng An Hải; … cùng với nhiều phong cảnh đẹp
của nét yên tĩnh hoang sơ, bãi biển, ghềnh đá và các hang động tự nhiên như hang Câu,
hang Cò, hang Kẻ Cướp, miệng núi lửa thu hút nhiều du khách ra đảo tham quan, thưởng
ngoạn và nghỉ dưỡng.
Di sản văn hóa phi vật thể hình thành nên lễ “Khao lề thế lính” tổ chức hàng năm
để tri ân các hùng binh hi sinh vì đất mẹ, đó là việc hàng năm theo lệnh triều đình giao
phó lấy 70 đinh khỏe mạnh ở An Hải và An Vĩnh của Cù lao Ré sung vào các đội Hoàng
Sa và Bắc Hải, mang theo 6 tháng lương trên 5 thuyền buồm thực hiện nhiệm vụ đặc
biệt ngoài các đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Bên cạnh đó là di sản văn hóa biển của ngư dân với tục thờ Cá ông trong các
miếu thờ nằm rải rác quanh đảo, nơi lưu giữ hài cốt của các ông cá (cá voi, cá heo, …)
bị chết, trôi giạt vào đảo và bí mật của những hình nhân mộ gió đắp bằng cát mà chỉ Lý
Sơn mới có, tạo nên những nét văn hóa đặc sắc của riêng Lý Sơn trong khu mộ gió.
- Cơ sở dịch vụ du lịch
Trên huyện đảo Lý Sơn đã có một số cơ sở lưu trú du lịch đạt tiêu chuẩn sao để
có thể đón khách du lịch có khả năng chi trả cao hoặc khách du lịch quốc tế. Đến tháng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
5/2020, huyện đảo Lý Sơn có hơn 130 cơ sở lưu trú đang hoạt động với khoảng 1.000
phòng, có thể tiếp nhận cùng lúc khoảng 3.000 khách, vượt chỉ tiêu đặt ra trong quyết
định 163/QĐ-UBND về số lượng cơ sở lưu trú trên huyện đảo Lý Sơn đến 2025 (860
phòng). Trong đó có 11 khách sạn từ 1 sao đến 4 sao, 53 nhà nghỉ và 62 cơ sở homestay,
04 nhà trọ.
Hệ thống dịch vụ du lịch có 01 tàu đáy kính phục vụ du khách ngắm san hô; 80
xe du lịch từ 4 đến 16 ghế ngồi; 90 nhà hàng, quán ăn đáp ứng tốt nhu cầu sinh hoạt, ăn
nghỉ, đi lại của du khách; ngoài ra các dịch vụ kinh doanh internet, karaoke, dịch vụ vui
chơi, giải trí khác cũng phát triển đảm bảo chất lượng cung cấp việc làm cho khoảng
6.000 lao động.
- Chuỗi tăng trưởng giá trị du lịch 2008 - 2018
Trong những năm gần đây, giá trị ngành du lịch có tăng trưởng liên tục và cao
Bảng 3. 16: Sự phát triển chuỗi giá trị du lịch qua các năm
Lượt khách (người) Tỷ trọng góp Doanh thu(i) Năm trong GDP (%) (tỷ đồng) Tổng số Quốc tế Nội địa
2008* 6.590 98 6.492 3,3 0,3
2014* 36.620 381 36.239 43,9 2,5
2019** 234.630 24.100 210.530 317,0 17,2
Nguồn: * Đề án phát triển kinh tế biển, đảo Quảng Ngãi đến năm 2020 [32]
** Báo cáo số 421-BC/HU về tình hình thực hiện nhiệm vụ năm 2019
Theo báo cáo số 421-BC/HU về tình hình thực hiện nhiệm vụ năm 2019, hoạt
động du lịch năm 2019 phát triển mạnh với cơ sở hạ tầng phục vụ du lịch tiếp tục được
đầu tư xây dựng, chất lượng dịch vụ từng bước được nâng lên; tính đến thời điểm hiện
tại đã có 129 cơ sở lưu trú, 04 doanh nghiệp được cấp phép hoạt động kinh doanh lữ
hành và 13 cá nhân có thẻ hướng dẫn viên tại điểm. Kết quả đạt được năm 2019 đã vượt
mục tiêu đề ra cho năm 2025 trong quyết định 163/QĐ-UBND về số lượng khách, đặc
biệt là khách quốc tế, về tỷ lệ đóng góp trong tổng GDP huyện, vượt chỉ tiêu về tổng
doanh thu năm 2020, hướng tới mục tiêu về tổng doanh thu đề ra cho năm 2025 là 435,65
tỷ đồng. Kết quả đạt được về phát triển du lịch là rất ấn tượng, điều đó cho thấy hướng
phát triển du lịch là định hướng đúng và sẽ là ưu tiên số một trong cơ cấu kinh tế huyện
đảo Lý Sơn trong giai đoạn 2021-2030
- Phát triển chuỗi giá trị sản phẩm du lịch sinh thái
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Từ định hướng ưu tiên phát triển lĩnh vực du lịch, để phát triển chuỗi giá trị du
lịch, trong quyết định 163/QĐ-UBND đã định hướng các sản phẩm đặc thù trong chiến
lược du lịch Lý Sơn là:
* Du lịch gắn với chủ quyền quốc gia là khai thác lễ Khao lề thế lính Hoàng Sa
để phát triển các sản phẩm du lịch tìm hiểu về chủ quyền biển đảo; tham quan, khám
phá các di tích lịch sử - văn hóa gắn với Hải đội Hoàng Sa.
* Du lịch sinh thái trong khu bảo tồn (KBT) biển với quan sát, thám hiểm, nghiên
cứu các HST biển trong KBT; công viên sinh thái biển; …
* Du lịch địa chất (nương theo giá trị của Công viên địa chất toàn cầu Lý Sơn –
Sa Huỳnh) là: Khám phá, nghiên cứu các di sản địa chất, các dấu tích phun trào núi lửa
và các sản phẩm lưu niệm liên quan.
* “Du lịch tỏi” tham quan nông trại, tìm hiểu quy trình trồng, thu hoạch, chế biến
tỏi Lý Sơn; tìm hiểu các sản phẩm khai thác từ tỏi như khu nghỉ dưỡng gắn với trang
trại trồng tỏi; Spa làm đẹp với tỏi; các sản phẩm từ tỏi,…
Các loại hình du lịch chính gồm: du lịch nghỉ dưỡng biển; du lịch văn hóa; du
lịch homestay với các hộ gia đình trồng tỏi, làm ngư nghiệp, hộ cư dân gốc có di tích
văn hóa, …; du lịch sinh thái. Các loại hình du lịch bổ trợ có du lịch mua sắm, vui chơi
giải trí; du lịch ẩm thực.
* Mô hình Khai thác, nuôi trồng thủy – hải sản
- Đặc điểm chung nghề cá xa bờ miền Trung và Lý Sơn
Vùng biển miền Trung có độ sâu lớn nhất trong số các vùng biển Việt Nam, mực
nuớc 30-50m cho đến 100m chỉ cách bờ biển có 3 - 10 hải lý, độ sâu từ 200 -500m chỉ
cách bờ 20 - 40 hải lý, vùng sâu nhất đạt tới 4.000 - 5.000m. Tỷ lệ đàn cá nhỏ có kích
thước dưới 5 x 20m chiếm tới 82% số đàn cá, các đàn vừa (10 x 20m) chiếm 15%, các
đàn lớn (20 x 50m trở lên) chỉ chiếm 0,7% và các đàn rất lớn (20 x 500m) chỉ chiếm
0,1% tổng số đàn cá. Số đàn cá mang đặc điểm sinh thái vùng gần bờ chiếm 68%, các
đàn mang tính đại dương chỉ chiếm 32%. Phân bố trữ lượng và khả năng khai thác cá
đáy tập trung chủ yếu ở vùng biển có độ sâu dưới 50m (56,2%), tiếp đó là vùng sâu từ
51 - 100m (23,4%).
Theo vùng và theo độ sâu, nguồn lợi cá cũng khác nhau. Vùng biển Đông Nam
Bộ cho khả năng khai thác hải sản xa bờ lớn nhất, chiếm 49,7% khả năng khai thác cả
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
nước, tiếp đó là Vịnh Bắc Bộ (16,0%), đứng thứ ba là biển miền Trung (14,3%), Tây
Nam Bộ (11,9%), các gò nổi (0,15%), cá nổi đại dương (7,1%).
Theo đánh giá chung, các nguồn lợi hải sản ở các vùng biển ven bờ với mức nước
sâu dưới 50m được xem là cạn kiệt. Từ năm 2000, sản lượng đánh bắt xa bờ đã chiếm
từ 35% trở lên tổng sản lượng đánh bắt, trong đó, 82% sản lượng hải sản đánh bắt được
là các loại cá, số còn lại là cua, mực, tôm các loại và một số loại hải sản khác.
Thêm vào đó, đánh giá của các chuyên gia về nghề khai thác cá biển ở nước ta
được gọi là nghề cá nhân dân với sự phát triển của nghề cá mang tính chất tự phát trong
suốt một thời gian dài đến nay, đây cũng là tình trạng chưa được tổ chức hiệu quả của
nghề cá Lý Sơn. Điều này làm cho cường lực khai thác hay áp lực khai thác lên nguồn
lợi ngày một tăng, mặc dù tổng sản lượng có thể duy trì ở mức tăng trường, nhưng năng
suất bình quân (tấn/cv/năm) lại thể hiện khuynh hướng giảm.
Cùng với xu thế chung là rất nhiều loài cá, tôm là đối tượng khai thác truyền
thống trước đây nay đã trở lên hiếm hoặc rất hiếm như cá đé, cá mòi, cá sủ, cá đường,
tôm sú, tôm he, tôm hùm, ... Sự suy giảm còn thể hiện ở sự thay đổi chất lượng của sản
lượng khai thác như tỷ lệ cá tạp/cá phân tăng lên và tỷ lệ cá có giá trị kinh tế giảm đi.
Đó là những yếu tố chung được cảnh báo trong các nghiên cứu chuyên ngành cần
được chú ý khi tổ chức nghề cá xa bờ huyện đảo Lý Sơn theo hướng “làm ăn lớn, có
quy củ”.
- Truyền thống đánh bắt xa bờ của cộng đồng ngư dân Lý Sơn
Từ nguồn sinh kế chính của lớp cư dân đầu tiên ra đảo lập nghiệp là nghề đi biển
mà ngư dân Lý Sơn có khả năng rất cao về nghề đi khơi đánh bắt hải sản và tổ chức
thành cộng đồng khai thác biển với mối quan hệ xã hội chặt chẽ. Chính quan hệ xã hội
bền chặt của các thành viên thuộc 13 dòng họ cùng quê định cư trên huyện đảo Lý Sơn
là một sức mạnh để tổ chức thành các đôi Hoàng Sa và Bắc Hải trước đây và 43 tổ đoàn
kết sản xuất trên biển với hơn 100 tàu cá trong tổng số gần 550 chiếc tàu đánh bắt xa
bờ, trong đó có gần 200 tàu cá công suất lớn chuyên đánh bắt ở ngư trường Hoàng Sa,
Trường Sa, cùng hàng nghìn ngư dân tham gia. Thông qua tổ đoàn kết sản xuất trên biển
đã giúp ngư dân Lý Sơn, đặc biệt là những ngư dân trẻ ngày càng nâng cao ý thức trong
việc cùng nhau nối vòng tay giữ biển, làm giàu cho gia đình và xã hội. Do vậy, sức mạnh
được nhân lên bội phần khi các tàu cá của ngư dân ở Lý Sơn liên kết hợp lực trở thành
một khối thống nhất, vững chắc, cùng nhau bám biển, canh giữ biển đảo của Tổ quốc.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Ở khía cạnh nối tiếp truyền thống cha ông, đối với ngư dân huyện đảo Lý Sơn,
ngư trường Hoàng Sa, Trường Sa là những địa bàn quên thuộc và thân thiết cả tâm lý và
tâm linh ngư dân Lý Sơn.
Ngư dân Lý Sơn đi biển từ khi còn nhỏ, có người từ 12-13 tuổi đã theo người
thân ra Hoàng Sa đánh bắt, lâu ngày họ thuộc từng ngóc ngách vùng biển nơi đây. Nhiều
ngư dân rất giỏi, chỉ cần nhìn con nước đã biết nơi nào có cá, nơi nào không, hoặc đối
mặt với bão lớn, với kinh nghiệm, sự kiên trì, bình tĩnh, họ đã nhiều lần vượt qua. Hơn
nữa, đây là vùng biển truyền thống nhiều tôm, cá đã gắn bó với cộng đồng ngư dân Lý
Sơn mấy trăm năm qua.
Thêm vào đó, đối tượng đánh bắt của các ngư dân Lý Sơn là những loài cá có giá
trị kinh tế cao như cá ngừ đại dương, cá hố, cá thu, … luôn được thị trường đón nhận,
ngay trong giai đoạn dịch Covid 19, các cơ sở chế biến các loài cá này ở ven biển Quảng
Ngãi và sản xuất không ngừng nghỉ, các cơ sở này có mối liên kết làm ăn lâu dài với các
ngư dân Lý Sơn nên khi kết thúc đợt đi biển, các tàu chạy thẳng về các cơ sở thu mua,
chế biến để tiêu thụ sản phẩm.
Ngoài số ngư dân đánh bắt cá, còn có hơn 1.800 ngư dân đi biển xa bờ, nhưng
đối tượng khai thác không phải là cá mà là hải sản khác có giá trị kinh tế rất cao như
hải sâm, bắt ốc, nhum biển, cá mú, tôm hùm, đồi mồi, ... họ là những người làm nghề
lặn biển, ở độ sâu 10 - 70 m tại các ngư trường Hoàng Sa và Trường Sa. Trong đó,
việc lặn biển đánh bắt hải sâm mang về những khoản thu rất lớn cho ngư dân. Hải sâm
có giá bán từ 500 - 700 ngàn đồng, lúc đỉnh điểm lên đến gần 1,5 triệu đồng/kg. Nhưng
đầu tư ban đầu lại không lớn, chỉ phụ thuộc nhiều vào kỹ năng lặn biển của lao động.
Nếu trúng đậm hải sâm, chỉ một phiên biển, mỗi thợ lặn cho thu nhập vài chục triệu
đồng, nhiều ngư dân một mùa biển thu nhập vài trăm triệu đồng. Mặt khác, hải sâm
không chỉ lúc nào cũng có giá cao, mà vừa đưa về đến cảng là có thương lái mua ngay.
Ngoài đánh bắt, lặn biển, ngư dân Lý Sơn còn đưa hoạt động khai thác rong biển,
rau chân vịt ra các đảo của quần đảo Hoàng Sa sau khi phát hiện sản vật này trong quá
trình đánh bắt hải sản. Với mỗi chuyến đi kéo dài từ 15 - 20 ngày, số lượng thuyền viên
đi cùng từ 5 - 7 người/tàu, số lượng rau câu chân vịt khai thác được từ 4 - 8
tấn/tàu/chuyến, sau khi trừ chi phí số tiền từ rau câu chân vịt mang về cho ngư dân đất
đảo khoảng 150 - 200 triệu đồng/tàu/chuyến. Theo ngư dân, hiếm có chuyến đi nào mà
bị lỗ, chỉ có lãi nhiều hay ít mà thôi.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Cứ đến mùa, ngư dân Lý Sơn đưa phương tiện ra đây thu hái rong biển. Không
cần đầu tư tiền tỷ để mua sắm ngư lưới cụ và thiết bị như đánh bắt các loại hải sản, tàu
thuyền khai thác rau chân vịt chỉ cần một số thiết bị cơ bản để định phương hướng, liềm
để cắt và vợt, rổ để đựng là có thể ra khơi hành nghề. Huyện đảo Lý Sơn hiện có trên 10
tàu thuyền chuyên đi khai thác sản vật này ở vùng biển Hoàng Sa.
Thời gian gần đây, theo nhiều ngư dân ở Lý Sơn thì thay vì chở rau tươi về, các
tàu khai thác rau chân vịt đóng thêm giàn tre để phơi cho khô, kéo dài thời gian khai
thác lên cả chục ngày/chuyến, sản lượng khai thác nhờ đó tăng cao, thu nhập cũng nhiều
hơn. Ngoài mang lại thu nhập cho kinh tế hộ, nghề khai thác rau chân vịt ở vùng biển
Hoàng Sa của ngư dân Lý Sơn đã góp phần khẳng định chủ quyền biển đảo của đất
nước.
- Định hướng chiến lược và đầu tư lâu dài của nhà nước cho nghề cá xa bờ
Trên cơ sở định hướng chiến lược từ chương trình đánh bắt xa bờ của nhà nước
từ năm 1997 với nội dung chủ yếu là: hoạt động đánh bắt cá với quy mô vừa hoặc lớn
từ 3 - 10 hải lý trở ra tính từ vùng đất liền, đối tượng đánh bắt chủ yếu: cá, giáp xác,
động vật thân mềm, tảo biển, …; Các tàu ra khơi đánh bắt xa bờ phải có công suất mạnh,
động cơ trung bình từ 90 mã lực trở lên, có kho bảo quản cá,… và khai thác cá trong
vùng đặc quyền kinh tế biển Việt Nam.
Từ chiến lược, Chính phủ ban hành chính sách cho ngư dân vay vốn đóng tàu
đánh bắt xa bờ và trên phạm vi cả nước đã tạo thấy ảnh hưởng tích cực đến cuộc sống
ngư dân, trong đó, các cổ đông chỉ trông chờ vào hiệu quả của cặp tàu công suất lớn,
đánh bắt hải sản ở ngư trường xa nên hiệu quả cao và đạt được lợi nhuận lớn. Bên cạnh
đó chương trình còn mang ý nghĩa chiến lược về các mặt kinh tế - xã hội và an ninh
quốc phòng, vừa bảo vệ được nguồn hải sản ven bờ và khai thác tốt hơn tiềm năng tài
nguyên vùng biển khơi của Tổ quốc.
Năm 2014, Nghị định số 67/2014/NĐ-CP ngày 7-7-2014 về chính sách hỗ trợ
ngư dân được ban hành cùng các văn bản hướng dẫn đi kèm đã được các địa phương
triển khai, tạo nhiều thuận lợi cho ngư dân trong việc nâng cấp phương tiện khai thác và
trang thiết bị kỹ thuật, đóng mới các tàu vỏ thép công suất lớn khai thác xa bờ. Nghị
định 89/2015/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 67 nhằm tháo gỡ
những khó khăn, bất cập trong việc mở rộng khả năng vay vốn của ngư dân để đóng mới
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
và nâng cấp tàu cá. Điều đó cho thấy quyết tâm rất cao của Chính phủ trong việc hỗ trợ
ngư dân vươn khơi bám biển, nâng cao đời sống.
Bên cạnh chiến lược và đầu tư của Trung ương, trong nghị quyết số 01-NQ/TU
tỉnh Quảng Ngãi về đẩy mạnh phát triển kinh tế biển, đảo giai đoạn 2016-2020 đã đề ra
nhiệm vụ cho nghề cá Lý Sơn là: “Khuyến khích và hỗ trợ ngư dân cải hoán, đóng mới
tàu vỏ thép, vỏ vật liệu mới, tàu dịch vụ hậu cần nghề cá có công suất lớn để khai thác
hải sản xa bờ; tổ chức lại sản xuất trên biển phù hợp với tình hình thực tế. Quyết định
số 555/QĐ-UBND đã xác định, huyện Lý Sơn tập trung phát triển nghề lưới vây, câu,
rê; giảm dần nghề lặn.
- Chuỗi giá trị ngành khai thác hải sản xa bờ
Khai thác hải sản xa bờ là thế mạnh truyền thống của huyện đảo Lý Sơn dựa trên
thế mạnh của nguồn lợi sinh vật biển, thế mạnh truyền thống về nguồn lực xã hội cộng
đồng ngư dân huyện đảo Lý Sơn, do đó chuỗi giá trị nghề cá xa bờ của huyện đảo vẫn
duy trì nhịp độ tăng trưởng, tuy có những bước thăng trầm nhất định nhưng vẫn đóng
góp tỷ trọng cao trong GDP huyện đảo.
Bảng 3. 17: Chuỗi giá trị nghề cá xa bờ huyện đảo Lý Sơn
Năm Số lượng tàu, Tổng công Sản lượng Giá trị thực Số LĐ
thuyền (chiếc) suất (CV) đánh bắt (tấn) tế (tỷ đồng) tham gia
2010 408 31.828 27.114 551,0 2.847
2016 417 64.848 37.710 1.475,0 3.137
2018 545 67.300 33.735 1.526,6 3.311
2019 560 67.468 34.741 1.572,1* 3.287
Ghi chú: *Giá cố định năm 2010 là 683,8 tỷ đồng
Năm 2019, sản lượng khai thác hải sản huyện đảo Lý Sơn đạt 34.741 tấn, giá trị
sản xuất đạt 683,8 tỷ đồng, tăng 3,0% và vượt 4,1% kế hoạch năm; tổng số tàu thuyền
hiện có 560 chiếc, tổng công suất 67.468 CV, trong đó: dưới 20 CV là 300 chiếc, chủ
yếu là nghề câu và lặn gần bờ; từ 20 CV trở lên có 260 chiếc, với công suất 62.639 CV
(trong đó: nghề vây rút chì 100 chiếc, nghề khác (lặn) 113 chiếc, lưới rê 14 chiếc, nghề
câu 33 chiếc). Số tàu thuyền đi đánh bắt xa bờ trên địa bàn huyện là 213 chiếc, công
suất 51.312 CV. Số lao động tham gia trực tiếp trên biển 3.287 người.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Chuỗi số liệu cho thấy, về lượng có gia tăng liên tục về các chỉ số đối với hoạt
động nghề cá trên huyện đảo Lý Sơn. Sự phát triển tương ứng về chất cần tính toán về
một số chỉ tiêu trong bảng dưới đây
Bảng 3. 18: Tính toán hiệu quả kinh tế của hoạt động nghề cá huyện đảo Lý Sơn
Năm Hệ số sản Hệ số giá trị Hệ số sử Hệ số giá trị Số LĐ cho
lượng/một thực tế/một dụng LĐ/CV thực tế/LĐ mỗi phương
CV (tấn/CV) CV (tr. (ng/CV) (tr.đ/LĐ) tiện
đ/CV)
2010 17,31 0,85 0,089 193,54 6,98
2016 27,75 0,58 0,048 470,19 7,52
2018 22,68 0,50 0,049 461,07 6,08
2019 23,30 0,51 0,049 478,28 5,87
Kết quả trên cho thấy:
+ Hệ số sản lượng/mỗi CV giảm dần theo thời gian chứng tỏ “nguồn cung” từ
ngư trường giảm sút, ảnh hưởng đến sản lượng đánh bắt, điều này cũng phù hợp với giá
trị thu được đối với mỗi CV tàu thuyền đánh bắt của huyện đảo Lý Sơn, mặc dù thị
trường đầu ra ổn định. Đây là điều cần được điều chỉnh về việc mở rộng vùng đánh bắt
hay bổ sung thêm đối tượng đánh bắt vào danh mục các đối tương “ngoài truyền thống”.
+ Hệ số sử dụng lao động cho mỗi CV tàu cá là tương đối ổn định, song hệ số sử
dụng lao động cho mỗi phương tiện giảm liên tục, đây là hiệu quả đầu tư của nhà nước
và cộng đồng ngư dân về trang bị nghề cho hoạt động đánh bắt cá, vì thế, số lao động
trên mỗi phương tiện ngày càng giảm.
+ Thu nhập của lao động nghề cá là tương đối ổn định thông qua hệ số giá trị của
ngành/mỗi lao động, đây là tương quan thuận với sự giảm sút của sản lượng và giảm sút
về giá trị trên mỗi CV tàu thuyền. Kết quả này đưa đến lưu ý là làm thế nào cho hệ số
giá trị nghề cá cho mỗi lao động tăng lên tức là sự tăng tiến về thu nhập theo thời gian
cho mỗi lao động mới có ý nghĩa về phát triển bền vững.
- Chuỗi giá trị nuôi trồng thủy – hải sản
Nuôi trồng thủy hải sản hay nghề nuôi biển mới phát triển ở Lý Sơn trong những
năm gần đây (từ 2010), nhưng chịu ảnh hưởng của biến động thời tiết trên biển, đặc biệt
là bão biển (năm 2012). Mặc dù vậy, nghề nuôi biển ở Lý Sơn đang phát triển mạnh,
đến thời điểm tháng 6/2020, trên huyện đảo đã có 42 hộ tham gia nuôi biển với các đối
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
tượng nuôi là tôm hùm, cá bớp, cá mú, cá mè. Năm 2019, các hộ nuôi đã xuất bán được
189 tấn thủy sản các loại với giá trị thu được 23,4 tỷ đồng (Báo cáo số 421-BC/HU của
huyện ủy Lý Sơn)
Bên cạnh việc nuôi thủy, hải sản biển, Viện Nghiên cứu Hải sản, Bộ Nông nghiệp
và Phát triển nông thôn vừa nuôi thành công và chuyển giao công nghệ rong nho biển
Nhật Bản tại huyện đảo Lý Sơn. Mô hình nuôi rong nho biển được Viện Nghiên cứu Hải
sản (Bộ NN&PTNT) triển khai thực hiện trong 2 năm (2018 – 2019), được nuôi bằng
nước biển trong 5 bể xi măng với diện tích 50m2. Trang thiết bị nuôi gồm vỉ lưới, máy
sục khí và hệ thống xả thải.
Mô hình nuôi rong nho biển trong bể xi măng thành công mở ra hướng làm kinh
tế mới cho người dân Lý Sơn, giúp người dân chuyển đổi ngành nghề, thay thế các
phương thức canh tác không hiệu quả. Rong nho dễ nuôi, tốc độ phát triển nhanh, chi
phí đầu tư thấp, vốn đầu tư ban đầu trên 120 triệu đồng để xây bể và mua trang thiết bị
hỗ trợ, .... Rong nho giống có giá từ 60.000 - 80.000 đồng/kg. Thời gian thu hoạch ngắn,
chỉ từ 30 - 40 ngày, những lần thu hoạch tiếp theo cách nhau 10 - 15 ngày. Một hộ gia
đình tham gia thực hiện mô hình với diện tích khoảng 50m2/hộ, sau khi trừ chi phí, mỗi
năm thu lãi trên 100 triệu đồng.
* Mô hình Nông, lâm kết hợp
Nông nghiệp (ngành thủy sản được tính riêng ở hợp phần trên) là hoạt động kinh
tế truyền thống của người dân Lý Sơn trong khi hoạt động lâm nghiệp từ lâu đã “hoàn
thành việc phá rừng” trên huyện đảo.
Bảng 3. 19: Diễn biến tỷ lệ đất nông nghiệp qua các năm
Năm Tổng diện Diện tích đất Diện tích D. tích đất Tổng giá trị
tích tự SX NN (ha) cây hàng lâm nghiệp ngành trồng
nhiên (ha) năm (ha) (ha) trọt (giá
2010-triệu
đồng)
Năm 2010 1.032,0 423 348 162 62.498
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Năm 2016 1.041,0 457 448 162 115.055
Năm 2017 1.040,0 445 444 162 115.270
Năm 2018 1.139,8 449 440 160 161.895
Nhìn vào chuỗi số liệu thống kê có thể nhận thấy diện tích đất nông nghiệp tăng
lên ở những năm sau so với năm 2010, cao nhất là năm 2016, nhưng mức tăng - giảm
không nhiều, diện tích đất sản xuất nông nghiệp tập trung vào nhóm cây hàng năm.
Bảng 3. 20: Tính toán giá trị cây trồng hàng năm qua các năm
Năm Tổng giá trị ngành Diện tích cây hàng Hiệu quả sản xuất
trồng trọt (giá năm (ha) (tr.đ/ha) cây hàng
2010-triệu đồng) năm
62.498 348 179,59 Năm 2010
115.055 448 256,82 Năm 2016
115.270 444 259,62 Năm 2017
161.895 440 367,94 Năm 2018
Xét về giá trị, hiệu quả cây trồng hàng năm có diễn biến tăng liên tục qua các
năm, chứng minh cho sự đầu tư về kỹ thuật, khoa học và công nghệ trong sản xuất, mặc
dù, cây trồng hàng năm chủ yếu là hai loại cây có thương hiệu là tỏi trắng và hành tím.
Sự đầu tư lâu dài thể hiện trong việc cung cấp nước tưới (từ hồ thủy lợi Thới Lới và sắp
tới thêm hồ thủy lợi Giếng Tiền) thay dần nguồn nước tưới lấy từ dưới đất đã bắt đầu bị
nhiễm mặn và công nghệ tưới phun thay cho tưới tràn. Hiện nay quy trình tỏi, hành hữu
cơ đang dần được đưa vào thay thế cho quy trình cũ dùng nhiều chế phẩm hóa học sẽ
góp phần cải thiện môi trường nông nghiệp trên huyện đảo.
Bảng 3. 21: Hiệu quả thu nhập của lao động nông nghiệp Lý Sơn quan các năm
Năm Số lao động Tổng giá trị ngành Hiệu quả sản xuất nông
nông nghiệp trồng trọt nghiệp
(người) (giá 2010 - triệu (triệu đồng/người)
đồng)
Năm 2010 4.322 71.776 16.607
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Năm 2016 3.869 123.244 31.854
Năm 2017 3.884 133.293 34.318
Năm 2018 3.583 161.615 45.116
Hiệu quả về sản xuất nông nghiệp theo hướng đảm bảo thu nhập cho người lao
động theo số liệu thống kê là khả quan với mức tăng trưởng liên tục, điều này giải thích
được lý do tại sao khối lao động nông nghiệp (không tính đến lao động thủy sản) chiếm
tỷ lệ khá lớn trong tổng lao động toàn huyện (39,98% năm 2010 và 29,91% năm 2018),
tuy có giảm đi theo xu thế chuyển dịch cơ cấu lao động. Thu nhập ổn định và gia tăng
từ việc làm ổn định trong sản xuất nông nghiệp, cộng với thương hiệu “vàng trắng” đã
níu lao động ở lại trong hoạt động trồng trọt (chủ yếu là trồng tỏi, hành). Đây là truyền
thống nhiều đời gắn với kinh tế hộ gia đình theo khuôn mẫu (mô hình) đánh bắt hải sản
+ sản xuất nông nghiệp, làm thành thế hai chân trong kinh tế hộ nói riêng và kinh tế
huyện đảo nói chung. Năm 2018, giá trị sản xuất nông nghiệp (không tính thủy sản),
chiếm 6,85% tổng giá trị các ngành kinh tế huyện đảo, tỷ lệ này năm 2019 là 5,26%.
Ngày nay có thêm dịch vụ du lịch góp thêm vào cơ cấu kinh tế hộ gia đình và cơ cấu
kinh tế huyện kinh tế huyện.
* Mô hình Sinh kế hỗn hợp
Sinh kế hỗn hợp là đặc trưng của kinh tế hộ gia đình trên huyện đảo Lý Sơn mang
tính truyền thống đã có từ nhiều đời nay, trước đây, trong hộ gia đình, lao động nam
khỏe mạnh thì đi biển đánh bắt, phụ nữ, người già và lao động phụ ở nhà tham gia hoạt
động nông nghiệp, đồng thời khi cá, tôm, hải sản khác từ tàu thuyền trở về, họ lại là
những lao động thương nghiệp, mang đi bán ở chợ. Ngược lại, dầu lạc (dầu phụng), dầu
mè (dầu vừng) và các sản phẩm nông nghiệp khác lại được đem trao đổi với các tàu
thuyền nước ngoài ghé vào đảo; đồng thời, dầu phụng lại được các tàu thuyền đi đánh
cá biển xa mang đi trao đổi với các vùng đất khác, thậm chí ra ngoài biên giới.
Ngày nay, lao động nông nghiệp vào mùa thu hoạch rau câu sẵn sàng để lại công
việc đồng áng, lên thuyền ra ngoài vùng biển Hoàng Sa khai thác rong biển. Cũng chính
các lao động này tham gia dịch vụ du lịch như hoạt động homestay, buôn bán sản vật
biển hoặc mở thêm những dịch vụ chè rong biển, sơ chế nguyên liệu phục vụ du lịch ẩm
thực, v.v. điều này làm nên sinh kế hỗn hợp trên huyện đảo.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Sinh kế hỗn hợp có tác dụng lớn trong việc sử dụng lao động không chuyên
nghiệp tham gia nhiều hoạt động kinh tế khác nhau vào những thời gian rảnh rỗi, tăng
thêm thu nhập cho người lao động.
Trong quá trình phát triển, nhiều ngành nghề mới nảy sinh, cuốn hút các lao động
nông nghiệp trên đảo tham gia như các hoạt động xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển tiểu
thủ công nghiệp sản xuất hàng lưu niệm, … Do vậy, việc tổ chức sinh kế hỗn hợp không
thuộc về chính quyền hành chính mà phụ thuộc vào các hội nghề, nhóm lao động hay
theo dòng họ, theo cộng đồng dân cư gần gũi nhau. Chính vì thiếu tổ chức và hình thành
tự phát nên có lúc cũng thừa gây nên tình trạng phát triển tràn lan, lộn xộn, không đảm
bảo trật tư xã hội.
Một trong những hướng phát triển sinh kế hỗn hợp có tổ chức là sinh kế nông –
lâm, hiện nay, hoạt động lâm nghiệp hầu như chững lại, với quỹ đất lâm nghiệp luôn
được thống kê trong khoảng 160 - 162 ha, nhưng rừng thì hàng chục năm nay không
xuất hiện, do đó, có thể đề xuất mô hình kết hợp như sau: lao động nông nghiệp + đất
thải hành, tỏi + phân rác được xử lý từ nhà máy chế biến rác phủ xanh đất lâm nghiệp
bằng cây rừng dựa trên chi phí trồng và phát triển rừng của ngành lâm nghiệp hiệu
quả làm xanh môi trường đảo, cải thiện nguồn nước ngầm và chất lượng cuộc sống trên
huyện đảo. Mô hình này có thể xây dựng thành dự án phát triển lâm – nông kết hợp cho
huyện đảo giai đoạn tiếp tới.
Đối với Lý Sơn, để mô hình trên có cơ sở thực hiện thì tất cả sẽ được xây dựng
một cách đồng bộ có lộ trình cụ thể, phù hợp với thực tế, cộng với đầu tư lâu dài từ phía
Nhà nước với sự tham gia tích cực, có hiệu quả của cộng đồng doanh nghiệp và cộng
đồng dân cư trên huyện đảo Lý Sơn. Từ đó, khi triển khai áp dụng mới có tính khả thi,
có hiệu quả cao nhất và liên tục, thì chắc chắn kinh tế - xã hội của huyện đảo Lý Sơn sẽ
phát triển bền vững.
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
KIẾN NGHỊ
Trong khoa học quản lý tài nguyên và môi trường bao giờ cũng phân biệt giữa
cái chung và cái riêng. Xuất phát từ vị trí, đặc điểm đặc thù của Lý Sơn, cần xem xét ở
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
cách tiếp cận khác, với mô hình quản lý riêng, với cơ chế, chính sách đặc thù chứ không
thể tiếp cận giống như ở đất liền trên cơ sở đó tác giả xin có một số kiến nghị như sau:
- Thứ nhất, phải xác định chiến lược phát triển Lý Sơn là dựa vào tài nguyên
thiên, biển đảo và văn hoá truyền thống. Với việc xác định như vậy thì tài nguyên ở đây
(kể cả tự nhiên lẫn văn hoá) phải được bảo vệ và khai thác hợp lý. Nếu suy thoái và cạn
kiệt tài nguyên thì kinh tế sẽ suy thoái theo và tất nhiên là sẽ thiếu bền vững.
-Thứ hai, đối tượng quản lý và hưởng lợi phải được xác định chính là cộng đồng
địa phương tại huyện đảo. Cần phải có chính sách hợp lý và đồng thuận đó là: Quá trình
quản lý từ lập kế hoạch, thực hiện, giám sát phải có sự đồng tham gia từ Trung ương
đến cộng đồng địa phương.
KẾT LUẬN
Có thể thấy mô hình tổng hợp định hướng phát triển KT - XH bền vững huyện
đảo Lý Sơn “Du lịch sinh thái + Khai thác, nuôi trồng thủy hải sản + Nông, lâm kết
hợp + sinh kế hỗn hợp ” là sự kết hợp của các yếu tố thiên – địa – nhân, dựa trên cơ sở
khoa học và thực tiễn, phù hợp với định hướng chiến lược phát triển kinh tế, xã hội của
Nhà nước nói chung và tỉnh Quảng Ngãi nói riêng giai đoạn 2021-2030 và tầm nhìn
chiến lược dài hạn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lê Đức An và cộng sự (1995). Đề tài “Đánh giá ĐKTN, TNTN, KT-XH hệ
thống đảo ven bờ Việt Nam trong chiến lược phát triển KT-XH biển” Mã số KT.03-12
thuộc Chương trình Điều tra, nghiên cứu biển cấp Nhà nước (1977-2000).
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
2. Nguyễn Hồng Anh (2014). Văn hóa gia đình cư dân đảo Lý Sơn (Quảng Ngãi)
trong bối cảnh hội nhập. Báo cáo khoa học đề tài cấp Viện KHXH vùng Trung Bộ.
3. Đoàn Bộ và cộng sự (2011). Mô hình dự báo ngư trường khai thác cho nghề
câu vàng ở vùng biển xa bờ miền Trung. Tạp chí Khoa học ĐHKHTN. KH&CN 27, số
15 (2011) 9-18
4. Vũ Thanh Ca (2010). Điều tra đánh giá hiện trạng các HST, xây dựng luận cứ
khoa học đề xuất dự án khu BTTN biển phục vụ du lịch ở vùng biển ven bờ huyện Lý
Sơn. Đề tài nghiên cứu Viện NCQLBHĐ.
5. Nguyễn Duy Đoài (2019). Văn hóa tín ngưỡng của cư dân ở huyện đảo Lý Sơn
- Quảng Ngãi. Luận án tiến sĩ Văn hóa học, mã số 62.31.06.40. Trường ĐHKHXHNV
thp. HCM
6. Phan Thị Thanh Hằng (2020). “Cơ sở khoa học, định hướng và giải pháp phát
triển kinh tế - xã hội bền vững các huyện đảo Lý Sơn và Phú Quý”, mã số KC.09.37/16-
20. Đề tài nghiên cứu ứng dụng và phát triển công nghệ cấp quốc gia.
7. Nguyễn Ngọc Khánh và cộng sự (2014). Một số định hướng về quản lý theo
hướng bền vững tài nguyên thiên nhiên vùng ven biển Nam Trung Bộ thời kỳ đẩy mạnh
CNH, HĐH. Đề tài cấp Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam.
8. Nguyễn Ngọc Khánh và cộng sự (2019). Tiếp cận nghiên cứu phát triển cho
các tiểu vùng Tây Bắc. Tạp chí TN&MT. ĐH TNMT Hà Nội. ISN 0866-7608. Số 24.
Tháng 3/2019. Tr. 18-25
9. Luật Biển Việt Nam số 18/2012/QH13
10. Nghị quyết 36/NQ-TW của BCH Trung ương ngày 22/10/2018 về Chiến lược
PTBV biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045
11. Nghị quyết 55/NQ-TW ngày 11/2/2020 của BCT về Định hướng chiến lược
phát triển năng lượng QG của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
12. Nghị quyết 26/NQ-CP của Chính phủ ngày 05/3/2020 ban hành Kế hoạch
tổng thể và kế hoạch 5 năm của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 22
tháng 10 năm 2018 của Hội nghị lần thứ 8 BCH TW Đảng khóa XII về Chiến lược phát
triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
13. Vũ Văn Phái và cộng sự (2013). Địa hình bở biển và đảo trong phát triển
kinh tế biển ở Việt Nam. Kỷ yếu Hội nghị KH Địa lý lần thứ 7. Thái Nguyên 24/3/2014.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
14. Phạm Quốc Quân. 2016. Di sản với du lịch huyện đảo Lý Sơn – Tiềm năng,
thách thức và giải pháp. Tạp chí Di sản văn hóa số 3 (56)
15. Lê Thị Quý. 2018. Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng gia đình Việt Nam
hiện nay. https://tcnn.vn/news/detail/41771/Co-so-ly-luan-va-thuc-tien-xay-dung-gia-
dinh-Viet-Nam-hien-nay.html
16. Quyết định số 38/2012/QĐ-TTg sửa đổi, bổ sung khoản 2, điều 2 Quy chế
hoạt động KKT Dung Quất
17. Quyết định 192/QĐ-UBND tỉnh Quảng Ngãi ngày 10/6/2014 phê duyệt QH
sử dụng đất huyện đảo Lý Sơn đến năm 2020
18. Quyết định 1874/2014/QĐ-TTg ngày 13/10/2014 của chính phủ phê duyệt
QHTT phát triển KT-XH vùng KTTĐ miền Trung đến năm 2020, định hướng đến năm
2030.
19. Quyết định 318/QĐ-TTg ngày 04/3/2014 của chính phủ phê duyệt Chiến lược
phát triển dịch vụ vận tải đến năm 2020, định hướng đến năm 2030
20. Quyết định 163/QĐ-UBND tỉnh Quảng Ngãi ngày 03/6/2015 phê suyệt QH
phát triển du lịch huyện đảo Lý Sơn
21. Quyết định 316/QĐ-UBND tỉnh Quảng Ngãi ngày 24/9/2015 phê duyệt Đề
án xây dựng huyện đảo Lý Sơn mạnh về kinh tế, vững chắc về quốc phòng, an ninh đến
năm 2020.
22. Quyết định số 555/QĐ-UBND tỉnh Quảng Ngãi ngày 11/8/2017 phê duyệt
quy hoạch điều chỉnh, bổ sung quy hoạch phát triển thủy sản tỉnh Quảng Ngãi giai đoạn
2011 - 2020 và định hướng đến năm 2030.
23. Quyết định 579/2017/QĐ-UBND tỉnh Quảng Ngãi ngày 21/8/2017 phê duyệt
Đồ án xây dựng huyện Lý Sơn tỷ lệ 1/2.000.
24. Quyết định 568/2010/QĐ-TTg ngày 28/4/2010 của chính phủ phê duyệt QH
phát triển kinh tế đảo Việt Nam đến năm 2020.
25. Quyết định số 124/2011/QĐ-TTg ngày 20/1/2011 phê duyệt Điều chỉnh Quy
hoạch chung xây dựng KKT Dung Quất, tỉnh Quảng Ngãi đến năm 2025.
26. Quyết định số 56/2019/QĐ-UBND tỉnh Quảng ngãi ngày 22/1/2019 phê
duyệt kế hoạch sử dụng đất năm 2019 của huyện Lý Sơn.
27. Quyết định 147/2020/QĐ-TTg ngày 22/1/2020 của Chính phủ phê duyệt
Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2030.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
28. Sở TNMT Quảng Ngãi (2016). QH bảo tồn ĐDSH tỉnh Quảng Ngãi đến năm
2020 và định hướng đến năm 2030.
29. Trần Đức Thạnh, Trần Đình Lân, Nguyễn Hữu Cử. 2008. Tài nguyên vị thế
biển Việt Nam: Định dạng, tiềm năng và định hướng phát huy giá trị. Kỷ yếu Hội thảo
quốc tế Việt Nam học lần thứ ba.
30. Dư Văn Toán. 2017. Môi trường sinh thái biển đảo Lý Sơn và giải pháp phát
triển bền vững. Tạp chí môi trường chuyên đề II/2017
31. Lê Kim Thoa và cs (2014). Đảo và quần đảo Việt Nam trên Biển Đông trong
phát triển kinh tế và đảm bảo an ninh quốc phòng. Tạp chí Sience & Technology
Development, Vol 17, No. XI-2014
32. Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ngãi (2017). Đề án phát triển kinh tế biển, đảo
Quảng Ngãi đến năm 2020.
33. UBND huyện Lý Sơn. Niên giám thống kê huyện Lý Sơn năm 2019.
34. Lê Huy Y (2014), Về một khả năng cấp nước sinh hoạt và sản xuất cho huyện
đảo Lý Sơn và nhiều đảo khác một cách bền vững bằng thăm dò và xây dựng các giếng
khoan khai thác nước ngầm. Group Địa Chất Việt Nam Public Group Facebook.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
PHỤ LỤC Bảng 1. Kết quả đo đạc phân tích chất lượng nước hồ Thới Lới - huyện Lý Sơn (phần 1)
P
N
TSS NH4+ NO2
-
NO3-
PO4
3-
Pb
Cd Asen
Hg
Fe
Cu
Zn Mn
Cr
Ni
Cl-
F-
Cr6+
tổng
tổng
Stt KHM
mg/l mgN/l mgN/l mgN/l mg/l mg/l mgN/l mg/l mg/l mg/l
mg/l
mg/l mg/l mg/l mg/l mg/l
mg/l mg/l mg/l mg/l
<
<
<
1
LSNM1 28,05
0,763
0,054 <0,055 <0,02 <0,02
0,805
0,007 <0,0005 0,091
0,048 0,031 <0,005 <0,003 27,1 <4,5 <0,002
0,003
0,002
0,02
Bảng 2. Kết quả đo đạc phân tích chất lượng nước hồ Thới Lới - huyện Lý Sơn (phần 2)
HCBVTV clo hữu cơ
HCBVTV lân hữu cơ
Stt
KHM
Kinh độ
Vĩ độ
Lindan DDTS Heptachlor
Endrin Aldrin
Fenitrothion Malathion
Parathion
Cholorpyrifos
Profenofos
1
LSNM1
109o7’52’’
15o22’54’
nd
nd
nd
nd
nd
nd
nd
nd
nd
nd
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Bảng 3. Kết quả đo đạc phân tích chất lượng nước biển ven bờ đảo Lý Sơn (phần 1)
Phenol
BOD5
COD
SO4
2-
S2-
CN-
TSS
NH4
+
NO2
-
NO3-
PO4
3-
P tổng
Tổng dầu mỡ
Stt
KHM
Kinh độ
Vĩ độ
mg/l
mg/l
mg/l
mg/l
mg/l
mg/l
mg/l
mg/l
mgN/l mgN/l mgN/l
mg/l
mg/l
nd
10
LSNB1
109o8'33''
15o22'40''
0,11
6,8
10,2
9,8
2,9
20,2
0,519
0,037
<0,055
<0,02
<0,02
nd
nd
11
LSNB2
109o7'10''
15o22'11''
0,17
9,5
14,7
6,7
2,3
30,1
0,315
0,019
<0,055
<0,02
<0,02
nd
nd
12
LSNB3
109o6'11''
15o22'26''
0,08
12,1
7,9
11,8
4,1
30,8
0,458
0,039
<0,055
<0,02
<0,02
nd
Bảng 4. Kết quả đo đạc phân tích chất lượng nước biển ven bờ đảo Lý Sơn (phần 2)
2- N tổng
Pb
Cd
Asen
Hg
Fe
Cu
Zn
Mn
Cr
Ni
Cl-
F-
Cr6+
SiO3
Stt KHM
mg/l mgN/l
mg/l
mg/l
mg/l
mg/l
mg/l mg/l mg/l
mg/l
mg/l
mg/l
mg/l
mg/l
mg/l
10
LSNB1
3,9
0,319
< 0,003
< 0,002
0,006
<0,0005
0,081
0,041
0,042
< 0,005
< 0,003
12220,9 < 4,5
< 0,002
< 0,02
11
LSNB2
4,9
0,478
< 0,003
< 0,002
0,002
<0,0005
0,092
0,039
0,048
< 0,005
< 0,003
13560,5 <4,5
< 0,002
< 0,02
12
LSNB3
2,8
0,845
< 0,003
< 0,002
0,001
<0,0005
0,084
0,059
0,047
< 0,005
< 0,003
14777,8 < 4,5
< 0,002
< 0,02
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Bảng 5. Kết quả đo đạc phân tích chất lượng nước ngầm huyện Lý Sơn (phần 1)
P N
3-
2-
Pb SO4
2- TSS NH4+ NO2
- NO3- PO4
CaCO3 SiO3 tổng tổng Stt KHM Kinh độ Vĩ độ
mg/l mg/l mgN/l mgN/l mgN/l mg/l mg/l mg/l mg/l mgN/l mg/l
1 LSNN1 109o06’01’’ 15o22’35’’ 12,5 < 2,5 0,362 0,031 <0,055 <0,02 <0,02 110,5 3,2 0,472 < 0,003
2 LSNN2 109o6'48'' 15o22'33'' 15,9 < 2,5 0,261 0,029 <0,055 <0,02 <0,02 101,1 4,6 0,381 < 0,003
3 LSNN3 109o7'42'' 15o22'38'' 20,8 < 2,5 0,345 0,041 <0,055 <0,02 <0,02 109,6 3,2 0,516 < 0,003
4 LSNN4 109o8'17'' 15o22'43'' 30,3 < 2,5 0,115 0,022 <0,055 <0,02 <0,02 101,9 4,5 0,358 < 0,003
5 LSNN5 109o8'20' 15o23'08'' 18,9 < 2,5 0,118 0,032 <0,055 <0,02 <0,02 112,9 4,4 0,215 < 0,003
6 LSNN6 109o7'19'' 15o23'13'' 38,1 < 2,5 0,261 0,018 <0,055 <0,02 <0,02 108,3 4,1 0,349 < 0,003
7 LSNN7 109o6'04' 15o23'02'' 29,5 < 2,5 0,345 0,021 <0,055 <0,02 <0,02 102,6 2,8 0,961 < 0,003
8 LSNN8 109o4'43'' 15o22'22'' 40,8 < 2,5 0,115 0,042 <0,055 <0,02 <0,02 108,7 2,4 0,947 < 0,003
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Bảng 6. Kết quả đo đạc phân tích chất lượng nước ngầm huyện Lý Sơn (phần 2)
Cd Asen Hg Fe Cu Zn Mn Cr Ni Cl- F- Cr6+ Stt KHM mg/l mg/l mg/l mg/l mg/l mg/l mg/l mg/l mg/l mg/l mg/l mg/l
1 LSNN1 < 0,002 0,004 <0,0005 0,076 < 0,02 0,062 0,028 <0,005 <0,003 20,5 < 4,5 <0,002
2 LSNN2 < 0,002 0,003 <0,0005 0,056 < 0,02 0,051 0,030 <0,005 <0,003 42,6 <4,5 <0,002
3 LSNN3 < 0,002 0,005 <0,0005 0,065 < 0,02 0,048 0,025 <0,005 <0,003 15,2 < 4,5 <0,002
4 LSNN4 < 0,002 0,005 <0,0005 0,052 < 0,02 0,053 0,020 <0,005 <0,003 147,3 <4,5 <0,002
5 LSNN5 < 0,002 0,003 <0,0005 0,041 < 0,02 0,068 0,036 <0,005 <0,003 104,5 < 4,5 <0,002
6 LSNN6 < 0,002 0,006 <0,0005 0,068 < 0,02 0,065 0,029 <0,005 <0,003 161,6 <4,5 <0,002
7 LSNN7 < 0,002 0,003 <0,0005 0,060 < 0,02 0,056 0,027 <0,005 <0,003 10508,1 < 4,5 <0,002
8 LSNN8 < 0,002 0,009 <0,0005 0,032 < 0,02 0,056 0,028 <0,005 <0,003 21,2 <4,5 <0,002