BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ NỘI VỤ
…………/………… ……/……
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
PHẠM THỊ KIM HIỀN
TẠO NGUỒN CÁN BỘ CHỦ CHỐT CHO CHÍNH QUYỀN HUYỆN HOÀI NHƠN, TỈNH BÌNH ĐỊNH LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG
THỪA THIÊN HUẾ - NĂM 2020
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ NỘI VỤ
…………/………… ……/……
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA PHẠM THỊ KIM HIỀN
TẠO NGUỒN CÁN BỘ CHỦ CHỐT CHO CHÍNH QUYỀN HUYỆN HOÀI NHƠN, TỈNH BÌNH ĐỊNH LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG
CHUYÊN NGÀNH QUẢN LÝ CÔNG
Mã số: 8 34 04 03
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS. LÊ VĂN ĐÍNH
THỪA THIÊN HUẾ - NĂM 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đề tài “Tạo nguồn cán bộ chủ chốt cho chính quyền
huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định.” là công trình nghiên cứu của tôi. Các
nội dung trong luận văn là trung thực. Những kết luận khoa học chưa từng
được ai công bố trong bất kì một công trình nào khác. Tôi xin chịu hoàn toàn
trách nhiệm về tính trung thực của luận văn.
Thừa Thiên Huế, ngày tháng năm 2020
Học viên
Phạm Thị Kim Hiền
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành đề tài luận văn này, đầu tiên cho tôi gửi lời cảm ơn chân
thành tới các quý thầy cô giáo Học viện Hành chính Quốc gia đã dạy dỗ nhiệt
tình trong suốt thời gian tôi học tập và nghiên cứu tại trường. Bên cạnh đó
bản thân tôi cũng nhận được nhiều sự giúp đỡ, động viên từ cơ quan tổ chức
và cá nhân.
Đặc biệt, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến PGS.TS. Lê Văn Đính là
người trực tiếp hướng dẫn tôi tận tình, chu đáo, định hướng về mặt nội dung
và tạo điều kiện thuận lợi trong quá trình thực hiện. Bên cạng đó, thầy luôn
chia sẻ và động viên để tôi cố gắng hoàn thành luận văn của mình.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến người thân, bạn bè và đồng
nghiệp đã động viên, khích lệ, hỗ trợ với tôi trong suốt quá trình học tập và
nghiên cứu luận văn.
Mặc dù đã cố gắng lắng nghe, tiếp thu và nắm bắt song chắc chắn rằng
luận văn còn hạn chế và thiếu sót. Vì thế, tôi rất mong nhận được ý kiến đóng
góp của các quý thầy cô và độc giả để luận văn được hoàn thiện hơn.
Trân trọng cảm ơn!
Học viên
Phạm Thị Kim Hiền
MỤC LỤC
Trang bìa
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục
Danh mục viết tắt
Danh mục bảng biểu
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TẠO NGUỒN CÁN BỘ CHỦ
CHỐT CHÍNH QUYỀN CẤP HUYỆN TRONG HỆ THỐNG CHÍNH
TRỊ Ở NƯỚC TA ....................................................................................... 14
1.1. Khái quát về hệ thống chính trị và hệ thống chính trị cấp huyện ở nước ta
hiện nay ........................................................................................................ 14
1.1.1. Hệ thống chính trị ............................................................................... 14
1.1.2. Hệ thống chính trị cấp ủy cấp huyện ................................................... 15
1.1.3.Chính quyền cấp huyện ....................................................................... 16
1.2. Công tác tạo nguồn cán bộ chủ chốt cho chính quyền cấp huyện ........... 17
1.2.1. Cán bộ chủ chốt .................................................................................. 17
1.2.2. Khái niệm về “nguồn” và “tạo nguồn” ................................................. 18
1.2.3. Một số vấn đề về cán bộ chủ chốt cho chính quyền huyện .................. 19
1.2.4.Nội dung, phương thức và vai trò công tác tạo nguồn cán bộ chủ chốt
cho chính quyền cấp huyện .......................................................................... 27
1.3. Kinh nghiệm của một số địa phương trên cả nước về công tác tạo nguồn
cán bộ chủ chốt cấp huyện và bài học rút ra cho huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình
Định ............................................................................................................. 41
1.3.1. Kinh nghiệm của quận Thanh Khê, Thành phố Đà Nẵng .................... 42
1.3.2. Kinh nghiệm của huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam............................ 44
1.3.3.Kinh nghiệm của huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình............................ 47
1.3.4. Bài học rút ra cho huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định ......................... 49
Tiểu kết Chương 1 ........................................................................................ 52
CHƯƠNG 2.THỰC TRẠNG CÔNG TÁC TẠO NGUỒN CÁN BỘ CHỦ
CHỐT CHO CHÍNH QUYỀN HUYỆN HOÀI NHƠN, TỈNH BÌNH
ĐỊNH ........................................................................................................... 53
2.1. Khái quát về huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định và các nhân tố tác động
đến công tác tạo nguồn cán bộ chủ chốt cấp huyện ở huyện Hoài Nhơn, tỉnh
Bình Định. .................................................................................................... 53
2.1.1. Khái quát về huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định ................................. 53
2.1.2. Các nhân tố tác động đến công tác tạo nguồn cán bộ chủ chốt cấp
huyện ở huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định .................................................. 55
2.2. Thực trạng đội ngũ cán bộ chủ chốt chính quyền huyện Hoài Nhơn, tỉnh
Bình Định ..................................................................................................... 59
2.2.1. Đặc điểm chung đội ngũ cán bộ, công chức huyện ............................. 59
2.2.2. Số lượng và cơ cấu và chức danh cán bộ chủ chốt chính quyền .......... 62
2.3. Tình hình thực hiện các khâu trong công tác tạo nguồn cán bộ, công chức
chủ chốt chính quyền huyện Hoài Nhơn ....................................................... 66
2.3.1. Tổ chức thực hiện công tác quy hoạch để tạo nguồn cán bộ chủ chốt . 66
2.3.2. Thực hiện khâu luân chuyển làm cơ sở cho việc tạo nguồn cán bộ, công
chức chủ chốt của huyện .............................................................................. 68
2.4. Đánh giá chung về công tác tạo nguồn cán bộ chủ chốt cho chính quyền
huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định ................................................................ 69
2.4.1. Những kết quả đạt được và nguyên nhân ............................................ 69
2.4.2. Những hạn chế, bất cập và nguyên nhân ............................................. 72
2.4.3. Tác động tích cực của công tác tạo nguồn cán bộ chủ chốt chính quyền
tới quá trình đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính trị tại huyện Hoài Nhơn .... 76
Tiểu kết Chương 2 ........................................................................................ 81
Chương 3. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP TẠO NGUỒN
CÁN BỘ CHỦ CHỐT CHO CHÍNH QUYỀN HUYỆN HOÀI NHƠN,
TỈNH BÌNH ĐỊNH TRONG THỜI GIAN TỚI ....................................... 82
3.1. Phương hướng và yêu cầu về tiêu chuẩn tạo nguồn cán bộ chủ chốt chính
quyền huyện ................................................................................................. 82
3.1.1. Quan điểm, phương hướng ................................................................. 82
3.1.2. Yêu cầu về tiêu chuẩn ......................................................................... 84
3.2. Những giải pháp chủ yếu ....................................................................... 87
3.2.1. Tăng cường vai trò của Ban Thường vụ Huyện ủy, các cơ quan của
huyện, các xã, thị trấn trong công tác tạo nguồn cán bộ chủ chốt chính quyền
của huyện ..................................................................................................... 87
3.2.2. Xác định nguồn cán bộ chủ chốt chính quyền và đánh giá đúng đội ngũ
cán bộ chủ chốt chính quyền huyện Hoài Nhơn ........................................... 90
3.2.3. Hoàn chỉnh và cụ thể hóa quy trình quy hoạch cán bộ, công chức chủ
chốt cho chính quyền huyện Hoài Nhơn ....................................................... 93
3.2.4. Đẩy mạnh việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức chủ chốt chính
quyền dự nguồn huyện Hoài Nhơn ............................................................... 95
3.2.5. Tạo bước đột phá trong luân chuyển để bồi dưỡng, rèn luyện cán bộ và
tạo nguồn cán bộ, công chức chủ chốt của huyện Hoài Nhơn ....................... 97
Tiểu kết Chương 3 ...................................................................................... 101
KẾT LUẬN ............................................................................................... 102
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Ký hiệu Nguyên nghĩa
CBCC: Cán bộ công chức
ĐTBD: Đào tạo bồi dưỡng
HĐND: Hội đồng nhân dân
HTCT: Hệ thống chính trị
KT-XH: Kinh tế - xã hội
UBHC: Ủy ban hành chính
UBND: Ủy ban nhân dân
XHCN: Xã hội chủ nghĩa
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1: Số lượng từng loại cán bộ, công chức chủ chốtchính quyền huyện
Hoài Nhơn .................................................................................................... 64
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Bàn về vai trò, vị trí của đội ngũ cán bộ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
khẳng định: “Cán bộ là gốc của mọi công việc, công việc thành công hoặc
thất bại đều do cán bộ tốt hay kém” [19, tr269]. Đội ngũ cán bộ là nguồn nhân
lực có vai trò cực kỳ quan trọng, vừa là người tham mưu, đề xuất; vừa là
người thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Hiểu theo
cách khác họ chính là cầu nối giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân, là lực
lượng thực thi chính sách của Nhà nước và là người đại diện cho quyền lợi
của nhân dân. Niềm tin của nhân dân đối với Nhà nước không chỉ phụ thuộc
vào chính sách của Nhà nước mà còn phụ thuộc vào năng lực, trình độ, trách
nhiệm, phong cách ứng xử của đội ngũ cán bộ, công chức mà họ tiếp xúc.
Trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước, hội nhập quốc tế và cạnh
tranh toàn cầu hiện nay đòi hỏi phải xây dựng đội ngũ cán bộ có chất lượng
với tư duy đổi mới, có năng lực chuyên môn giỏi, phẩm chất chính trị, đạo
đức tốt đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ quản lý xã hội và những thay đổi của thời
kỳ đổi mới. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH) giai đoạn 2011-
2020 được thông qua tại Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ XI đã khẳng
định: “Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có phẩm chất tốt, tận
tụy phục vụ nhân dân, có tính chuyên nghiệp cao” [10, tr102]. Điều này đòi
hỏi yêu cầu về chất lượng đội ngũ cán bộ nói chung và đội ngũ cán bộ chủ
chốt (CBCC) nói riêng luôn là đòi hỏi cấp bách cần được ưu tiên hàng đầu.
Sự trưởng thành, lớn mạnh và phát triển của đội ngũ cán bộ 20 năm qua
là nhân tố then chốt, quyết định làm nên những thành tựu to lớn, có ý nghĩa
lịch sử của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Song, những
khuyết điểm, yếu kém của một bộ phận không nhỏ cán bộ và những hạn chế,
bất cập trong công tác cán bộ cũng là một nguyên nhân chủ yếu làm cho đất
1
nước phát triển chưa tương xứng với tiềm năng, thế mạnh và mong muốn của
chúng ta, làm suy giảm niềm tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước [9, tr 3].
Hoài Nhơn là huyện phía Bắc tỉnh Bình Định, diện tích tự nhiên 412,95km2, dân số: trên 208.900 người, mật độ trung bình 508,8 người/km²;
gồm 15 xã: Hoài Sơn, Hoài Châu, Hoài Châu Bắc, Hoài Phú, Hoài Hảo, Hoài
Tân, Hoài Đức, Hoài Mỹ, Hoài Xuân, Hoài Thanh, Hoài Thanh Tây, Hoài
Hương, Hoài Hải, Tam Quan Nam, Tam Quan Bắc và 2 thị trấn: Bồng Sơn,
Tam Quan.
Hoài Nhơn có tuyến đường sắt Bắc Nam và quốc lộ 1A chạy qua, là
điểm đầu các tuyến tỉnh lộ 629, 630 và 639 nối liền các huyện trong tỉnh; có 2
ga tàu lửa, 1 bến xe đường bộ và 2 cửa biển.
Qua 5 năm triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần
thứ XVIII, nhiệm kỳ 2010 – 2015, kinh tế của huyện tiếp tục tăng trưởng và
phát triển, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực, công tác quy
hoạch, quản lý và thực hiện quy hoạch chặt chẽ hơn, kết cấu hạ tầng kinh tế -
xã hội tăng cường đầu tư; diện mạo nông thôn có nhiều đổ mới, thu ngân sách
hàng năm đều đạt và vượt dự toán, các hoạt động giáo dục – đào tạo, khoa
học – công nghệ, văn hóa – thông tin, chăm sóc sức khỏe nhân dân, bảo vệ
môi trường có chuyển biến tích cực, đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân
từng bước cải thiện, quốc phòng – an ninh được tăng cường, trật tự an toàn xã
hội bảo đảm, hệ thống chính trị được củng cố, kiện toàn nâng cao chất lượng
và hiệu quả hoạt động, công tác cải cách hành chính có chuyển biến tốt, môi
trường đầu tư từng bước được cải thiện.
Tuy nhiên, kinh tế của huyện phát triển chưa tương xứng với tiềm
năng, lợi thế, tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt khá, nhưng hiệu quả chưa cao;
công nghiệp hóa – hiện đại hóa nông nghiệp còn chậm, đời sống văn hóa – xã
hội có mặt chưa tương xứng với nhịp độ phát triển kinh tế công tác giảm
2
nghèo chưa bền vững; lao động còn thiếu việc làm, ô nhiễm môi trường còn
nhiều bức xúc, trật tự xã hội có nơi, có lúc còn diễn biến phức tạp, năng lực
lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành của một số cán bộ có mặt còn hạn chế.
Những khuyết điểm, hạn chế nêu trên có nhiều nguyên nhân, nhưng
chủ yếu là do năng lực lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành của cấp ủy, chính quyền
chưa theo kịp với yêu cầu phát triển; khả năng nắm bắt, vận dụng, cụ thể hóa
và tổ chức thực hiện các chủ trương, chính sách, nghị quyết của Đảng, pháp
luật của Nhà nước ở một số ngành, địa phương thiếu nhạy bén, sáng tạo; vai
trò tham mưu, đề xuất của người đứng đầu một số cơ quan, đơn vị, địa
phương còn hạn chế.
Đại hội đảng bộ huyện Hoài Nhơn, nhiệm kỳ 2015 – 2020 đã xác định:
Tiếp tục xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, nâng
cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các tổ chức Đảng, hiệu lực, hiệu quả
quản lý, điều hành của chính quyền các cấp; phát huy dân chủ, tăng cường
khối đại đoàn kết toàn dân; huy động mọi nguồn lực; khai thác có hiệu quả
các tiềm năng, lợi thế của huyện để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế; tạo điều
kiện thuận lợi thu hút các nhà đầu tư; tập trung phát triển kinh tế biển; ứng
dụng khoa học – công nghệ trên lĩnh vực nông nghiệp; dẩy mạnh đô thị hóa,
hoàn thành cơ bản chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn
mới; xây dựng đời sống văn hóa, nâng cao chất lượng đời sống của nhân dân;
xây dựng và quản lý tốt trật tự đô thị, tài nguyên, khoáng sản, bảo vệ môi
trường; củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã
hội; xây dựng Hoài Nhơn trở thành trung tâm kinh tế - xã hội khu vực phía
Bắc tỉnh Bình Định.
Để thực hiện tốt nhiệm vụ này, trước hết huyện cần nghiên cứu triển
khai những giải pháp đột phá về công tác cán bộ, tập trung xây dựng đội ngũ
cán bộ, công chức trẻ, có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức tốt,
3
có tư duy sáng tạo và kiến thức chuyên môn vững, phong cách làm việc khoa
học, nói đi đôi với làm. Đội ngũ cán bộ đó phải đảm bảo về tiêu chuẩn và có
số lượng, cơ cấu hợp lý. Trong đó, đặc biệt quan tâm đến việc tạo nguồn cán
bộ chủ chốt để nếu đủ điều kiện tách huyện sẽ đảm bảo đủ cán bộ, công chức
đáp ứng yêu cầu công tác lãnh đạo, chỉ đạo trong điều kiện chia tách địa giới
hành chính.
Xuất phát từ yêu cầu cấp thiết đó, tôi chọn vấn đề: "Tạo nguồn cán bộ
chủ chốt cho chính quyền huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định" làm đề tài
nghiên cứu luận văn thạc sĩ chuyên ngành Quản lý công. Đề tài này tập trung
đi sâu nghiên cứu, đánh giá thực trạng, những hạn chế, tồn tại khó khăn về số
lượng, chất lượng, hiệu quả trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo điều hành thực
hiện nhiệm vụ chính trị của huyện của đội ngũ cán bộ, công chức chủ chốt; đề
xuất những giải pháp và kiến nghị nhằm góp phần tạo nguồn đội ngũ cán bộ
chủ chốt cho chính quyền huyện Hoài Nhơn càng hoàn thiện hơn về mọi mặt,
đáp ứng và phù hợp với tình hình thực tiễn nhằm phấn đấu đưa huyện Hoài
Nhơn trở thành một huyện mạnh về kinh tế, phát triển về văn hoá, xã hội;
vững về an ninh quốc phòng.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn
Đảng ta trong quá trình lãnh đạo cách mạng đã rút ra nhiều kết luận
khẳng định và đánh giá rất cao vai trò đội ngũ cán bộ. Nghị quyết Hội nghị
Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 3 (khóa VII) nêu rõ: "Cán bộ có vai
trò cực kỳ quan trọng, hoặc thúc đẩy hoặc kìm hãm tiến trình đổi mới". Chính
vì vậy, công tác chăm lo và xây dựng đội ngũ cán bộ, đặc biệt là cán bộ chủ
chốt luôn được Đảng ta quan tâm hàng đầu. Do tầm quan trọng của đội ngũ
cán bộ, công chức, nhất là đội ngũ cán bộ, công chức lãnh đạo, chủ chốt các
cấp nên trong thời gian gần đây, đã có nhiều đề tài, bài viết về công tác cán bộ
hoặc từng khâu của công tác cán bộ và đặc biệt có đề cập đến việc tạo nguồn
4
đội ngũ cán bộ, công chức chủ chốt cấp quận, huyện. Cụ thể là:
2.1. Nhóm công trình, đề tài khoa học
Đề tài khoa học cấp Nhà nước giai đoạn 1996 - 2000, mã số
KHXH.05.03 với tên gọi “Luận cứ khoa học cho việc nâng cao chất lượng đội
ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”
do tác giả Nguyễn Phú Trọng làm chủ nhiệm. Tác giả đã làm rõ những vấn đề
lý luận và phương pháp luận nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ trong thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đã đưa ra các khái niệm về
cán bộ, công chức, về đội ngũ cán bộ, chỉ ra những nội dung cơ bản về tiêu
chuẩn cán bộ, yêu cầu chung đối với đội ngũ này.
Đề tài khoa học cấp Nhà nước, mã số KX.05.011: “Xác định cơ cấu và
tiêu chuẩn cán bộ lãnh đạo chủ chốt trong hệ thống chính trị đổi mới” do tác
giả Trần Xuân Sầm làm chủ nhiệm. Đề tài đã nghiên cứu rất sâu cơ sở lý luận
và thực tiễn của việc xác định tiêu chuẩn cán bộ; thực trạng việc thực hiện
tiêu chuẩn đối với đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt trong hệ thống chính trị;
xác định tiêu chuẩn cán bộ trong những năm tới và phương hướng, giải pháp
xây dựng đội ngũ cán bộ theo tiêu chuẩn xác định.
Đề tài khoa học xã hội cấp Nhà nước giai đoạn 2001 - 2005, mã số
KX.03.02: “Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý nhằm đáp ứng yêu
cầu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” do tác giả Vũ Văn
Hiền làm chủ nhiệm. Đề tài này có ý nghĩa rất quan trọng trong công tác xây
dựng đội ngũ cán bộ công chức các cấp. Trên cơ sở các quan điểm lý luận,
tổng kết thực tiễn và kế thừa kết quả của nhiều công trình đi trước, tập thể các
tác giả đã phân tích, lý giải, hệ thống hoá các căn cứ khoa học của việc nâng
cao chất lượng đội ngũ cán bộ. Từ đó, đưa ra một hệ thống các quan điểm,
phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, trong
5
đó có đội ngũ cán bộ, công chức chủ chốt đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế.
Đề tài khoa học cấp nhà nước, mã số ĐTĐL-2002/07: “Cơ sở lý luận
và thực tiễn đánh giá, luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý trong thời kỳ
công nghiệp hoá hiện đại hoá” của tác giả Trần Đình Hoan làm chủ nhiệm đã
phân tích cơ sở phương pháp luận và những yêu cầu của sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước về công tác đánh giá, quy hoạch, luân
chuyển cán bộ. Theo tác giả đề tài này, đánh giá cán bộ là khâu tiền đề, quy
hoạch cán bộ là khâu nền tàng, luân chuyển cán bộ là khâu đột phá và đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ vừa là nhiệm vụ trước mắt, vừa là nhiệm vụ lâu dài.
Tác phẩm nghiên cứu về công tác cán bộ của Trung Quốc, cuốn sách
“Kinh nghiệm xây dựng đội ngũ cán bộ ở Trung Quốc” (2009) của các tác giả
Trịnh Cư, Nguyễn Duy Hùng và Lê Văn Yên, Nhà xuất bản Chính trị Quốc
gia - Sự thật có thể là một tác phẩm tham khảo tốt. Các tác giả trong cuốn
sách này đã đề cập tương đối toàn diện công tác cán bộ của Trung Quốc: chế
độ cán bộ công chức, cải cách thể chế chính trị, nâng cao tố chất và năng lực
đối với cán bộ lãnh đạo, tiến cử, lựa chọn, đề bạt, sử dụng, nhận xét và đánh
giá cán bộ.
Công trình “Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt của hệ thống
chính trị cấp tỉnh, thành phố (qua kinh nghiệm của Hà Nội)” của Cao Khoa
Bảng (2008), Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội đã đưa ra quan điểm
riêng về cán bộ và đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt của hệ thống chính trị
cấp tỉnh, thành phố như: cán bộ đảng và đoàn thể, cán bộ nhà nước, cán bộ
kinh tế và quản lý, cán bộ khoa học kỹ thuật, văn hóa giáo dục, y tế, thể thao,
xã hội, cán bộ các lực lượng vũ trang, trong đó, mỗi loại cán bộ có đặc điểm
yêu cầu xây dựng riêng biệt và phù hợp với từng đối tượng. Đặc biệt, công
trình này cũng đã đưa ra những giải pháp tương đối toàn diện cho việc xây
6
dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt của thành phố Hà Nội như nâng cao chất lượng
công tác quy hoạch, công tác đào tạo, bồi dưỡng; sửa đổi, bổ sung và hoàn
thiện các quy chế, quy trình về xây dựng đội ngũ cán bộ, nâng cao chất lượng
công tác kiểm tra, giám sát, quản lý và bảo vệ cán bộ, hoàn thiện hệ thống
chính sách cán bộ.
2.2. Nhóm các luận án, luận văn
Luận văn thạc sĩ Xây dựng Đảng “Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt
cấp quận của thành phố Hồ Chí Minh trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước” của Trần Văn Thuận (2005), Học viện Chính trị
Quốc gia Hồ Chí Minh đã làm rõ một số vấn đề về lý luận và thực tiễn; đánh
giá về thực trạng những ưu điểm và hạn chế trong đội ngũ cán bộ chủ chốt
cấp quận của thành phố Hồ Chí Minh và đề ra những giải pháp tương đối khả
thi cho việc xây dựng đội ngũ này trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước.
Luận văn thạc sĩ “Công tác quy hoạch, đào tạo nguồn cán bộ lãnh đạo
quản lý của thành phố Hồ Chí Minh - Thực trạng và giải pháp” (2005) của
Nguyễn Thị Lan, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Tác giả đã làm rõ
thực trạng công tác quy hoạch, tạo nguồn cán bộ ở thành phố Hồ Chí Minh,
đánh giá nguyên nhân của thực trạng, trong đó, có nguyên nhân cơ bản là do
nhận thức của nhiều cấp ủy, lãnh đạo các cơ quan, đơn vị về sự cần thiết và
cấp bách của việc tạo nguồn cán bộ trẻ để đào tạo bổ sung vào đội ngũ lãnh
đạo quản lý các cấp chưa đúng mức. Tác giả cũng nêu ra một số giải pháp
thiết thực như: nâng cao nhận thức, phân công rành mạch trách nhiệm của cấp
ủy và thủ trưởng các cấp, các ngành về công tác quy hoạch, tạo nguồn cán bộ,
cải tiến nội dung, quy trình tuyển chọn vào diện quy hoạch tạo nguồn; đổi
mới nội dung quản lý đội ngũ cán bộ quy hoạch; tăng cường công tác đào tạo,
bồi dưỡng, cải tiến chế độ chính sách đối với cán bộ thuộc diện được quy
7
hoạch và đào tạo nguồn, kiện toàn tổ chức bộ máy và cán bộ của cơ quan
tham mưu các cấp về công tác tổ chức cán bộ.
Luận văn thạc sĩ Xây dựng Đảng “Đánh giá đội ngũ cán bộ chủ chốt
thuộc diện Ban Thường vụ Tỉnh ủy Quảng Trị quản lý trong giai đoạn hiện
nay” của Hồ Xuân Đoàn (2007), Học viện chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh đã
tập trung nghiên cứu về vấn đề xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt của một địa
phương cụ thể. Luận văn đã làm rõ một số vấn đề lý luận - thực tiễn trong
công tác đánh giá cán bộ chủ chốt thuộc diện Ban Thường vụ Tỉnh ủy quản
lý, từ đó đề xuất các giải pháp mang tính khả thi trong công tác nâng cao chất
lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt này trong giai đoạn tiếp theo.
Luận văn thạc sĩ Quản lý công “Tạo nguồn cán bộ, công chức chủ chốt
quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng, giai đoạn 2015 - 2010”của Lê Minh
Trung (2014), Học viện Hành chính Quốc gia đã đi vào nghiên cứu tình hình
cụ thể về cán bộ, công chức của một quận thuộc thành phố Đà Nẵng. Luận
văn cũng làm rõ những vấn đề lý luận, thực tiễn về cán bộ, công chức chủ
chốt của địa phương và đề ra một số giải pháp nhằm tạo nguồn cán bộ, công
chức chủ chốt cho địa phương trong giai đoạn 2015 - 2020.
2.3. Các bài báo và tạp chí
Bài “Quan niệm khoa học về quy hoạch cán bộ - lịch sử vấn đề và quá
trình tiếp cận vấn đề” (1999) của Lê Văn Lý, đăng trên Tạp chí Cộng sản
(mục Thông tin lý luận). Tác giả đã khảo sát nguồn gốc quan niệm khác nhau
về quy hoạch cán bộ và đưa ra một quan niệm có tính khái quát: Quy hoạch
cán bộ là việc lập dự án xây dựng đội ngũ cán bộ; dự kiến bố trí, sắp xếp tổng
thể đội ngũ cán bộ theo một ý đồ nhất định với trình tự hợp lý, trong một thời
gian nhất định làm cơ sở cho việc xây dựng đội ngũ cán bộ.
Bài “Đánh giá đúng, quy hoạch tốt, luân chuyển đúng mục tiêu” (2004)
của Lê Quang Hoan đăng trên tạp chí Xây dựng Đảng, số 12. Tác giả cho
8
rằng trong quy hoạch cán bộ còn có sự nhầm lẫn quy hoạch cán bộ với công
tác nhân sự, chưa đồng bộ, còn khép kín; chưa quan tâm phát hiện và tạo
nguồn cán bộ từ xa. Tác giả cho rằng, quy hoạch tốt phải thỏa mãn các tiêu
chí: cơ cấu hợp lý về độ tuổi, thành phần, giới, học vấn, dân tộc, có nguồn dồi
dào, đáp ứng được nhiều phương án, kế hoạch nhân sự khác nhau, bảo đảm
được tính kế thừa và sự phát triển.
Bên cạnh đó, còn có nhiều bài báo tập trung nghiên cứu công tác cán
bộ một cách chi tiết, với nhiều giải pháp có tính khả thi như, bài: “Đổi mới
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý trong giai đoạn phát triển mới của
đất nước” (2008) của Nguyễn Tuấn Khanh, Tạp chí Xây dựng Đảng; “Một số
phương pháp đánh giá, tuyển chọn, đề bạt cán bộ” (2003) của Nguyễn Quốc
Hiệp, Tạp chí Xây dựng Đảng, số 7; bài “Một vài khía cạnh đánh giá cán bộ
trong điều kiện mới” (2002) của Thế Hưng, đăng trên Tạp chí Xây dựng
Đảng; “Để đánh giá đúng cán bộ” (2004) của tác giả Lê Đức Bình, đăng trên
Tạp chí Xây dựng Đảng, vv...
Có thể thấy các công trình nghiên cứu, bài viết nêu trên đã đề cập đến
nhiều khía cạnh khác nhau và có những đóng góp nhất định trong việc hoạch
định chủ trương, chính sách, tìm ra giải pháp nhằm tạo nguồn đội ngũ cán bộ,
công chức ở nước ta. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu lý luận thường
chủ yếu bàn luận về khái niệm cán bộ, công chức; các luận văn tiến sĩ, luận
văn thạc sĩ thường tập trung phân tích, đánh giá về cán bộ, công chức đặc biệt
là về quy hoạch cán bộ ở cấp chiến lược, tỉnh hoặc cấp khu vực. Vấn đề quy
hoạch cán bộ, nhất là tạo nguồn cán bộ chủ chốt ở cấp huyện có thể được
điểm qua ở một số công trình nghiên cứu. chưa có nghiên cứu đầy đủ về công
tác tạo nguồn cán bộ, nhất là đối với cán bộ chủ chốt cho chính quyền cấp
quận, huyện với đầy đủ các giải pháp sát đúng với tình hình cụ thể của cấp
huyện.
9
Trên cơ sở kế thừa, tiếp thu một cách có chọn lọc các công trình, đề tài
nghiên cứu khoa học và các tác giả, học giả có liên quan đến công tác tạo
nguồn cán bộ, công chức chủ chốt, đồng thời sẽ tập trung đi sâu nghiên cứu
về những vấn đề lý luận và thực tiễn trong công tác tạo nguồn cán bộ chủ chốt
cho chính quyền tại huyện Hoài Nhơn trong thời gian qua; căn cứ thực tiễn,
các đề án, kế hoạch, quy hoạch cán bộ và yêu cầu cấp bách về cán bộ nhất là
cán bộ lãnh đạo, quản lý cho việc phát triển kinh tế - xã hội của huyện một
cách sát thực hơn, cụ thể để đề ra các mục tiêu, phương hướng, giải pháp
công tác tạo nguồn cán bộ chủ chốt cho chính quyền huyện Hoài Nhơn, tỉnh
Bình Định một cách sát thực hơn, cụ thể hơn nhằm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ
trong tình hình mới.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục tiêu
Đề xuất mục tiêu, phương hướng và những giải pháp chủ yếu để tạo
nguồn cán bộ chủ chốt cho chính quyền huyện Hoài Nhơn đáp ứng tốt yêu
cầu, nhiệm vụ trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ
Để thực hiện được mục đích trên, luận văn sẽ tập trung thực hiện các
nhiệm vụ sau đây:
- Làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về tạo nguồn cán bộ chủ
chốt cấp huyện
- Nghiên cứu, khảo sát thực trạng đội ngũ cán bộ của huyện nói chung
và đội ngũ cán bộ chủ chốt huyện Hoài Nhơn nói riêng; đánh giá thực trạng
công tác tạo nguồn đội ngũ này, chỉ ra những ưu, khuyết điểm, nguyên nhân
và rút ra những kinh nghiệm
10
- Đề xuất những mục tiêu, phương hướng và những giải pháp, kiến nghị
chủ yếu, khả thi nhằm tạo nguồn cán bộ chủ chốt cho chính quyền huyện
Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Công tác tạo nguồn cán bộ chủ chốt cho chính quyền huyện Hoài
Nhơn, tỉnh Bình Định.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Thời gian khảo sát, nghiên cứu thực tiễn từ năm 2010 đến nay (2019).
- Không gian nghiên cứu: huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định.
- Các chức danh áp dụng nghiên cứu: Chủ tịch, Phó Chủ tịch
HĐND&UBND huyện; trưởng, phó trưởng các phòng, ban, ngành, và tương
đương của huyện.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Phương pháp luận
Dựa trên các quan điểm, chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng,
Nhà nước về cán bộ, công tác cán bộ nói chung và công tác tạo nguồn cán bộ
chủ chốt các cấp trong hệ thống chính trị ở nước ta nói riêng.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp thu thập dữ liệu thứ cấp: Để có được dữ liệu thứ cấp,
tác giả tổng hợp, thu thập từ các công trình nghiên cứu trước đó có liên quan
đến tạo nguồn cán bộ chủ chốt đã được công bố như: giáo trình, sách tham
khảo, đề tài nghiên cứu, luận án tiến sĩ, thạc sĩ, bài báo đăng trên các tạp chí
khoa học, các văn bản, quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước cũng như
của tỉnh Bình Định, Huyện ủy Hoài Nhơn, UBND huyện Hoài Nhơn, các báo
cáo, tài liệu của Ban Tổ chức Huyện ủy, Phòng Nội vụ huyện,...
11
- Phương pháp tổng hợp và phân tích thông tin: Toàn bộ số liệu thu
thập được xử lý bởi phần mềm excel để lập thành các bảng biểu, hình vẽ. Các
số liệu đã thu thập được sắp xếp khoa học, logic trong các bảng thống kê giúp
so sánh, đối chiếu, phân tích nhằm đánh giá đúng bản chất hiện tượng cần
nghiên cứu.
- Phương pháp thống kê mô tả: Sử dụng phương pháp thống kê mô tả
trong luận văn để đánh giá cán bộ chủ chốt chính quyền huyện tại Hoài Nhơn
về quy mô, độ tuổi, trình độ học vấn, chuyên môn, lý luận chính trị, kết quả
đánh giá, quy hoạch, ĐTBD CBCC,… Thông qua các chỉ tiêu đã được tổng
hợp để mô tả đúng thực trạng, chỉ ra những ưu điểm và những tồn tại, hạn chế
của tạo nguồn cán bộ chủ chốt trong quá trình làm việc.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1.Ý nghĩa lý luận
Luận văn đã khái quát hóa cơ sở lý luận về cán bộ, công tác cán bộ nói
chung và công tác tạo nguồn cán bộ chủ chốt các cấp trong hệ thống chính trị
ở nước ta nói riêng.
6.2.Ý nghĩa thực tiễn
- Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo
của Huyện uỷ Hoài Nhơn, tinh Bình Định trong quá trình tạo nguồn đội ngũ
cán bộ nói chung, nhất là cán bộ chủ chốt của huyện Hoài Nhơn, tinh Bình
Định. Giúp các cơ quan tham mưu, giúp việc tham mưu, đề xuất với
Ban Thường vụ Huyện uỷ Hoài Nhơn, tinh Bình Định về công tác cán bộ của
huyện.
- Góp phần hiện thực hóa các Nghị quyết: Nghị quyết Hội nghị lần thứ
3 Ban Chấp hành Trung ương Khóa VIII về chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước (Nghị quyết số 03-NQ/TW
ngày 18 tháng 6 năm 1997; Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành
12
Trung ương khoá XII về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là
cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ (Nghị
quyết số 26-NQ/TW ngày 19 tháng 5 năm 2018); Nghị quyết số 18-NQ/TW
Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về một số vấn
đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh
gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả (Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày
25/10/2017).
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo,
luận văn có kết cấu gồm 03 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về công tác tạo nguồn cán bộ chủ
chốt cấp huyện trong hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay.
Chương 2: Thực trạng công tác tạo nguồn đội ngũ cán bộ chủ chốt cho
chính quyền huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định.
Chương 3: Mục tiêu, phương hướng và những giải pháp tạo nguồn cán
bộ chủ chốt cho chính quyền huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định trong thời
gian tới.
13
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TẠO NGUỒN
CÁN BỘ CHỦ CHỐT CHÍNH QUYỀN CẤP HUYỆN
TRONG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ Ở NƯỚC TA
1.1. Khái quát về hệ thống chính trị và hệ thống chính trị cấp
huyện ở nước ta hiện nay
1.1.1. Hệ thống chính trị
Khái niệm hệ thống chính trị là một phạm trù phức tạp của khoa học
chính trị, tùy thuộc vào cách tiếp cận, khuynh hướng tiếp cận, trường phái
chính trị khác nhau mà có cách định nghĩa khác nhau về hệ thống chính trị.
Song, dù tiếp cận ở cách nào thì hệ thống chính trị vẫn là vấn đề trung tâm,
quan trọng của khoa học chính trị cần nghiên cứu.
Khi tiếp cận khái niệm hệ thống chính trị, hiện nay có rất nhiều cách
hiểu khác nhau như:
Một là: Hiểu hệ thống chính trị như một chỉnh thể hoàn chỉnh gồm
các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp phối hợp hoạt động để điều
hành xã hội.
Hai là: Hiểu hệ thống chính trị là một chỉnh thể bao gồm các đảng phái
chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, các lực lượng xã hội khác… được Hiến
pháp, pháp luật ghi nhận và phối hợp hoạt động để điều hành xã hội.
Ba là: Cách tiếp cận cho rằng hệ thống chính trị là một chỉnh thể bao
gồm các đảng phái chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội, các
lực lượng khác… (được Hiến pháp, pháp luật ghi nhận hoặc không ghi nhận)
và phối hợp hoạt động để điều hành xã hội.
Từ những cách hiểu, cách tiếp cận trên, có thể hiểu khái niệm hệ thống
chính trị như sau: Hệ thống chính trị là một chỉnh thể bao gồm các thể chế
14
chính trị (Đảng chính trị, các cơ quan quyền lực Nhà nước, các tổ chức chính
trị - xã hội… ) được xây dựng, tổ chức và hoạt động dựa trên cơ sở các chuẩn
mực xã hội, các quy tắc xã hội nhất định theo những nguyên tắc, cơ chế nhất
định nhằm thực thi quyền lực chính trị của giai cấp cầm quyền.
Phạm trù hệ thống chính trị (HTCT) ra đời trong thời kỳ hiện đại. Ở Việt
Nam từ Hội nghị Trung ương 6 khóa VI (1989) Đảng ta mới dùng khái niệm
HTCT với nội hàm là một chỉnh thể về cấu trúc theo chiều ngang bao gồm:
Đảng Cộng sản Việt Nam; Nhà nước Cộng hoà XHCN Việt Nam, Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội. Về cấu trúc theo quan hệ dọc
bao gồm các mối quan hệ trong hệ thống được thành lập giống nhau ở cả 4 cấp
hành chính: Trung ương, tỉnh (thành phố trực thuộc Trung ương), huyện (quận,
thị xã, thành phố thuộc tỉnh) và xã (phường, thị trấn) [18].
Theo quan niệm này, HTCT Việt Nam gồm: Đảng Cộng sản Việt Nam
(đóng vai trò cầm quyền), Nhà nước; Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn
thể chính trị - xã hội cùng các mối quan hệ giữa chúng trong việc phát huy
quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong
quá trình thực hiện quyền lực của nhân dân theo định hướng XHCN.
1.1.2. Hệ thống chính trị cấp ủy cấp huyện
Đối với hệ thống chính trị cấp quận, huyện, thị xã (gọi tắt là cấp
huyện), có thể gọi đây là cấp lãnh đạo, quản lý cấp xã, phường, trị trấn (gọi tắt
là cấp xã) một cách trực tiếp, toàn diện, sâu sát trên mọi lĩnh vực của đời sống
xã hội. Cấp huyện có trách nhiệm phải lãnh đạo, quản lý các lĩnh vực chính
trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng trên địa bàn huyện ngày
càng phát triển theo đúng định hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đồng
thời cấp huyện phải chịu trách nhiệm trước nhân dân huyện và cấp tỉnh về
những yếu kém, khuyết điểm, tồn tại trong việc tổ chức thực hiện đường lối,
chủ trương, chính sách, luật pháp của Đảng và Nhà nước. Cấp huyện phải cụ
15
thể hóa các phương hướng, nhiệm vụ, chủ trương, kế hoạch của tỉnh cho sâu
sát với đặc điểm, điều kiện cụ thể của huyện và phải xây dựng chương trình
hành động, kế hoạch cụ thể đối với các ban, ngành cấp huyện, xã để quản lý
tổ chức thực hiện tốt thông qua các phong trào cách mạng quần chúng. Cấp
huyện có trách nhiệm góp phần vào việc thực hiện quy hoạch tổng thể của cấp
tỉnh, phối hợp chặt chẽ với cấp tỉnh trong việc thực hiện quy hoạch của tỉnh
trên địa bàn huyện; cùng tỉnh giải quyết tốt mối quan hệ toàn cục trong phạm
vi tỉnh đối với những mâu thuẫn, những vấn đề mới phát sinh, những mối
quan hệ lợi ích giữa cấp huyện và tỉnh một cách hài hòa vì lợi ích chung.
1.1.3.Chính quyền cấp huyện
Huyện là đơn vị hành chính địa phương, chính quyền huyện là bộ phận
cấu thành chính quyền địa phương, ở vị trí trên cấp cơ sở và dưới cấp tỉnh.
Về cấp hành chính địa phương, huyện là một đơn vị hành chính ở nông
thôn, là cấp trung gian, cấp hành chính nhân tạo. Trong cấp hành chính này
trong lịch sử có lúc có HĐND, có lúc không có HĐND chỉ có UBHC hoặc
UBND; Trong lịch sử, cấp chính quyền huyện được hình thành trong điều
kiện lịch sử - kinh tế - chính trị nhất định, phụ thuộc vào các yếu tố khách
quan và ý chí chính trị của Đảng cầm quyền. Trong điều kiện kinh tế - chính
trị - xã hội chưa phát triển, còn nhiều khó khăn, cơ sở hạ tầng, điều kiện vật
chất, kỹ thuật kém phát triển; trình độ, năng lực quản lý còn hạn chế, hệ thống
pháp luật chưa đầy đủ và đồng bộ, trình độ dân trí thấp dẫn đến quyền làm
chủ của người dân chưa được phát huy đầy đủ... và nhất khi đất nước còn
chiến tranh thì việc thiết lập đơn vị hành chính cấp huyện là cần thiết, là
những pháo đài quan trọng. Nhưng cho đến nay, để đáp ứng xu thế phát triển,
đây có cần thiết xem như là một cấp hành chính, cần đổi mới để đảm bảo sự
tinh gọn, thông suốt của bộ máy hành chính ở nước ta.
16
Như vậy “chính quyền huyện, là thiết chế nhà nước địa phương, một bộ
phận cấu thành của bộ máy nhà nước thống nhất nhằm bảo đảm việc thực thi
Hiến pháp và pháp luật, tổ chức quản lý các mặt của đời sống xã hội ở huyện
theo quy định của pháp luật”.
1.2. Công tác tạo nguồn cán bộ chủ chốt cho chính quyền cấp huyện
1.2.1. Cán bộ chủ chốt
“Chủ chốt” là một tính từ chỉ tính chất “quan trọng nhất, có tác dụng
làm nòng cốt” [25, tr.174]. Nói đến chủ chốt là nói đến quan hệ trong một tập
hợp nhất định có nhiều phần tử, nhiều đối tượng với vị trí, tính chất, vai trò
của những phần tử trong tập hợp ấy có khác nhau.
Để làm rõ “cán bộ chủ chốt” cần chú ý: theo Từ điển tiếng Việt, “Chủ
chốt quan trọng nhất, có tác dụng làm nòng cốt, cán bộ chủ chốt của phong
trào” [25, tr.174]. Trong từng tổ chức, đều có người đứng đầu hoặc người
lãnh đạo, trong một số tổ chức có tập thể lãnh đạo. Vậy, cán bộ chủ chốt là
người đứng đầu quan trọng nhất, là nòng cốt của tổ chức, địa phương ấy, có
tác dụng chi phối chính tới toàn bộ hoạt động của tổ chức ấy. Ví dụ: trong tổ
chức đảng, cán bộ chủ chốt của cấp ủy là bí thư, phó bí thư, ủy viên thường
vụ cấp ủy; trong ủy ban nhân dân, cán bộ chủ chốt là chủ tịch, phó chủ tịch ủy
ban nhân dân; trong cơ quan đoàn thể chính trị - xã hội thì cán bộ chủ chốt là
chủ tịch, phó chủ tịch đoàn thể ấy.
Cần chú ý rằng, cán bộ chủ chốt chỉ được xác định trong một mối quan
hệ giữa cá nhân với một tập thể nhất định. Ví dụ: bí thư xã, thị trấn thuộc
huyện là cán bộ chủ chốt của xã, thị trấn đó, đó là xét trong mối quan hệ đó
với xã, thị trấn nơi giữ chức vụ bí thư. Còn trong mối quan hệ giữa bí thư xã,
thị trấn với ban chấp hành đảng bộ huyện thì không phải là cán bộ chủ chốt.
Để làm rõ thêm về “cán bộ chủ chốt”, có thể nói thêm về “công chức
chủ chốt”, đây có thể coi là một thuật ngữ tương đối mới vì từ trước đến nay,
17
trong các hoạt động công quyền, người ta thường dùng chung thuật ngữ “cán
bộ chủ chốt” thường bao gồm luôn đối tượng công chức chủ chốt. Tuy nhiên,
khi có sự phân biệt rõ rệt giữa cán bộ và công chức thì trong đội ngũ công
chức cùng công tác tại một đơn vị, sẽ có người lãnh đạo, quản lý và người
thừa hành theo mệnh lệnh hành chính. Vì vậy, công chức chủ chốt ở đây có
nghĩa là người quan trọng, có tác dụng làm nòng cốt, chịu trách nhiệm hoặc
được giao chịu trách nhiệm về hoạt động lãnh đạo, quản lý của cơ quan, đơn
vị đó. Ví dụ, trong văn phòng ủy ban nhân dân tỉnh, công chức chủ chốt là
chánh văn phòng và các phó chánh văn phòng; trong phòng Kinh tế - Hạ tầng
trực thuộc ủy ban nhân dân huyện thì công chức chủ chốt là trưởng và các phó
trưởng phòng.
Cũng có ý kiến cho rằng, trưởng phòng của một ủy ban nhân dân huyện
thường là ủy viên ban chấp hành đảng bộ huyện, như vậy người đó đương
nhiên đã là “cán bộ” và là “cán bộ chủ chốt” tại cơ quan đó (phòng thuộc ủy
ban nhân dân huyện), do vậy không cần xếp vào hàng “công chức chủ chốt”.
Điều này là đúng song chưa đủ, vì tại nhiều quận, huyện, cấp trưởng một
phòng chưa hẳn đã được bầu vào ban chấp hành đảng bộ quận, huyện đó. Nếu
cứ đối chiếu theo quy chuẩn thì người trưởng phòng đó sẽ không được xếp
hạng “cán bộ chủ chốt”.
1.2.2. Khái niệm về “nguồn” và “tạo nguồn”
“Nguồn”: có từ gốc là chữ “Nguyên” có nghĩa là “nguồn nước, nguồn
gốc, nguồn cội của sự việc” - “Vốn sẵn có như vậy” - “Bắt đầu, đứng đầu…”.
“Nguyên” = “Đầu - Bắt đầu - Lớn… - Nguồn nước” [1, tr.547]. “Tạo”: “Chế
làm vật phẩm - Bắt đầu - Bày đặt ra - Dựng ra lần đầu - Xây đắp [1, tr.708].
“Tạo nguồn”, hoặc “dự nguồn” là những ngữ định danh (tương đương
từ) mới xuất hiện trong thời gian gần đây. Các thuật ngữ này thường được sử
18
dụng trong phạm vi (lĩnh vực) công tác tổ chức cán bộ, quản lí hành chính
công vụ.
Như vậy, khi nói “nguồn cán bộ” thì từ “nguồn” đã được chuyển nghĩa,
mang nghĩa là nơi bắt đầu của công tác cán bộ. “Tạo nguồn” là bắt đầu xây
dựng một đội ngũ cán bộ kế cận. Tạo nguồn cán bộ, công chức chủ chốt tức là
thực hiện công tác chuẩn bị, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức kế cận cho
đội ngũ cán bộ, công chức chủ chốt hiện có. Bao gồm các khâu:
- Công tác tuyển dụng
- Công tác bố trí, sử dụng cán bộ
- Công tác đào tạo, bồi dưỡng và luân chuyển cán bộ
- Công tác quy hoạch cán bộ
- Công tác đánh giá cán bộ
Cần lưu ý sự khác biệt giữa thuật ngữ “tạo nguồn cán bộ, công chức”
và “đào tạo nguồn cán bộ, công chức”. Trong đó, “tạo nguồn cán bộ, công
chức” có ý nghĩa rộng lớn hơn. Nó bao hàm việc tìm kiếm, tuyển chọn, xây
dựng, bồi dưỡng và đào tạo, quy hoạch cán bộ còn “đào tạo nguồn” chỉ là một
khâu nằm trong hoạt động “tạo nguồn”. “Đào tạo nguồn cán bộ, công chức”
thường hàm nghĩa là một nội dung hoạt động cụ thể với một đối tượng đã
được xác định hoặc mặc định có sẵn để đối tượng đó đáp ứng đầy đủ tiêu
chuẩn để lựa chọn vào các vị trí cán bộ chủ chốt.
1.2.3. Một số vấn đề về cán bộ chủ chốt cho chính quyền huyện
1.2.3.1. Khái niệm về cán bộ chủ chốt cho chính quyền huyện
Để hiểu rõ về cán bộ của huyện, cần phải căn cứ vào hệ thống chính trị
của nước ta. Hệ thống này là một chỉnh thể thống nhất bao gồm 04 cấp là:
Trung ương, tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; quận, huyện, thị xã,
thành phố trực thuộc tỉnh; xã, phường, thị trấn. Mỗi cấp có vai trò, vị trí và
chức năng khác nhau. Trong hệ thống chính trị này, cán bộ chủ chốt là người
19
đứng đầu của một tổ chức, cơ quan, đơn vị, địa phương nhất định. Cán bộ chủ
chốt của một tổ chức, đơn vị, địa phương là những người có vai trò quan
trọng, nòng cốt của tổ chức, địa phương đó.
Đối với hệ thống chính trị cấp quận, huyện, thị xã (gọi tắt là cấp
huyện), có thể gọi đây là cấp lãnh đạo, quản lý cấp xã, phường, trị trấn (gọi
tắt là cấp xã) một cách trực tiếp, toàn diện, sâu sát trên mọi lĩnh vực của đời
sống xã hội. Cấp huyện có trách nhiệm phải lãnh đạo, quản lý các lĩnh vực
chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng trên địa bàn huyện
ngày càng phát triển theo đúng định hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
đồng thời cấp huyện phải chịu trách nhiệm trước nhân dân huyện và cấp tỉnh
về những yếu kém, khuyết điểm, tồn tại trong việc tổ chức thực hiện đường
lối, chủ trương, chính sách, luật pháp của Đảng và Nhà nước.
Mặc dù cùng nằm trong một hệ thống chính trị, là một đơn vị hành
chính cấp quận/huyện, song hệ thống cán bộ, công chức huyện có một số
khác biệt với hệ thống cán bộ. “Sự khác nhau ở chỗ quận là đơn vị hành chính
của thành phố trực thuộc Trung ương và phường là đơn vị hành chính của
quận, huyện là đơn vị hành chính của tỉnh trong đó việc quản lý hành chính
cấp quận có sự khác biệt so với cấp huyện” [20, tr 67]. Ví dụ, tại một số quận
trên cả nước hiện nay, không còn hoặc còn rất ít người làm nông nghiệp vì
vậy không thể sinh ra bộ máy quản lý hoặc đoàn thể phụ trách nông nghiệp và
phát triển nông thôn giống như cấp huyện được (như phòng nông nghiệp và
phát triển nông thôn, hội nông dân). Vì vậy, sẽ không có đội ngũ cán bộ, công
chức lãnh đạo, chỉ đạo và thực hiện công tác nông nghiệp và phát triển nông
thôn, còn cấp huyện hiện nay thì đa phần còn hoạt động nông nghiệp nên còn
có đội ngũ cán bộ, công chức lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện công tác nông
nghiêp (Phòng nông nghiệp & phát triển nông thôn, Hội nông dân).
20
Ngược lại, số lượng cơ quan giữa huyện và quận không tương ứng nhau
cũng làm cho số lượng cán bộ, công chức của huyện và quận không tương
đương nhau. Ví dụ, tháng 11 năm 2008, Quốc hội ra Nghị quyết số
26/2008/NQ-QH12 về việc phê duyệt thí điểm không tổ chức hội đồng nhân
dân huyện, quận, phường. Mục đích của việc thí điểm không tổ chức hội đồng
nhân dân là để nhân dân huyện, xã, phường, thị trấn tổ chức hợp lý lại chính
quyền địa phương nhằm đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính; không tổ chức
hội đồng nhân dân quận, huyện, xã, phường, thị trấn là thực hiện chủ trương
của Đảng và Nhà nước về tổ chức hợp lý chính quyền địa phương trên cơ sở
phân biệt rõ đặc điểm, đặc thù sự khác nhau về chức năng, nhiệm vụ quản lý
giữa địa bàn nông thôn và đô thị nhằm lựa chọn mô hình và cách thức điều
hành, quản lý cho phù hợp. Thực hiện Nghị quyết trên, tại một số quận, huyện
trên cả nước đã thực hiện thí điểm không tổ chức hội đồng nhân dân quận,
huyện, xã, phường, thị trấn từ năm 2009 đến nay. Vì vậy, tại các quận, huyện,
xã, phường, thị trấn đó sẽ không có các chức danh lãnh đạo hoặc cán bộ, công
chức của hội đồng nhân dân quận, huyện, xã, phường, thị trấn các phòng hay
ban của Hội đồng nhân dân huyện.
Trên cơ sở các yếu tố phân tích trên, có thể hiểu: Cán bộ chủ chốt
huyện là những người đứng đầu, giữ vai trò trọng yếu nhất trong hệ thống
chính trị cơ sở, quyết định trực tiếp đến việc chấp hành chủ trương, chính
sách, nghị quyết của Đảng, pháp luật của nhà nước thông qua việc lãnh đạo
và tổ chức quần chúng nhân dân thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế
chính trị, văn hóa, xã hội tại trong khu vực huyện đó. Cụ thể hơn, có thể xác
định cán bộ chủ chốt của huyện là những cán bộ lãnh đạo, quản lý của Đảng,
chính quyền, Mặt trận, đoàn thể theo phân cấp quản lý cán bộ, gồm: Bí thư,
phó bí thư, ủy viên thường vụ Huyện uỷ, ủy viên Ban chấp hành đảng bộ
huyện, trưởng, phó trưởng ban các cơ quan tham mưu, giúp việc, Bí thư, Phó
21
bí thư các đảng ủy khối cơ quan trực thuộc, chủ tịch, phó chủ tịch ủy ban
nhân dân huyện, trưởng, phó các phòng, ban, ngành, đoàn thể chính trị xã hội
của huyện và bí thư, phó bí thư cấp ủy; chủ tịch, phó chủ tịch ủy ban nhân dân
các xã, thị trấn.
1.2.3.2. Vai trò của đội ngũ cán bộ chủ chốt của huyện
Đội ngũ này vừa người lãnh đạo, vừa người quản lý mọi hoạt động của
một bộ máy, một tổ chức, một cơ quan, đảm bảo cho bộ máy ấy vận hành
đồng bộ, đúng chức năng, thực hiện tốt nhiệm vụ, góp phần quan trọng làm
cho mọi nghị quyết, chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước
được triển khai thực hiện một cách có hiệu quả trên địa bàn huyện. Họ có
trách nhiệm to lớn trong xây dựng tổ chức, bộ máy, tuyển chọn, đào tạo, bồi
dưỡng một đội ngũ cán bộ đồng bộ bảo đảm thực hiện nhiệm vụ trước mắt và
lâu dài của các tổ chức trong hệ thống chính trị của huyện và các xã, thị trấn.
Đội ngũ cán bộ chủ chốt huyện là những người vừa chỉ đạo thực hiện
đường lối, chính sách của Trung ương, vừa vận dụng năng động, sáng tạo
trong cách làm cụ thể để thực hiện đường lối đó phù hợp với đặc điểm của
từng địa phương, từng ngành, vừa tổng kết thực tiễn, rút ra những bài học
kinh nghiệm, qua đó, có thể khái quát thành lý luận góp phần cùng các địa
phương khác và Trung ương hoàn thiện đường lối, chính sách phát triển đất
nước.
Đội ngũ cán bộ chủ chốt của huyện là những người vừa chịu trách
nhiệm trước tỉnh, vừa chịu trách nhiệm trước nhân dân trong huyện, những
người trực tiếp lĩnh hội mọi nghị quyết, chủ trương chính sách của cấp Trung
ương, tỉnh để triển khai quán triệt và tổ chức chỉ đạo thực hiện ở địa phương;
có vai trò quan trọng trong xây dựng chủ trương, chương trình, kế hoạch phát
triển toàn diện hoặc trong phạm vi từng ngành, từng lĩnh vực ở địa phương;
chịu trách nhiệm kiểm tra, kiểm soát mọi lĩnh vực hoạt động diễn ra trên địa
22
bàn theo đúng đường lối, quan điểm của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Đó là
những người giữ vai trò trụ cột, quyết định các hoạt động ở đơn vị do mình
phụ trách.
Đội ngũ cán bộ chủ chốt huyện còn là một trong những nguồn quan
trọng cung cấp cán bộ của tỉnh khi cần hoặc khi được điều động bổ sung.
Thực tế cho thấy, nhiều cán bộ chủ chốt có quá trình công tác ở huyện, khi
được điều động lên tỉnh công tác đã thực hiện nhiệm vụ có hiệu quả, có
những đóng góp quan trọng được đánh giá cao.
Tóm lại, đội ngũ cán bộ chủ chốt của huyện là cán bộ lãnh đạo chủ chốt
của Huyện uỷ, thường trực ủy ban nhân dân, các phòng, ban ngành, đoàn thể,
các xã, thị trấn, các đảng uỷ trực thuộc Huyện uỷ. Đội ngũ cán bộ đó có trách
nhiệm rất nặng nề, vai trò hết sức quan trọng trong quá trình lãnh đạo xây
dựng và phát triển huyện trong công cuộc đổi mới và nhất là trong điều kiện
chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế. Huyện Hoài Nhơn có phát triển
nhanh, mạnh, bền vững trên những lợi thế so sánh để cùng các huyện, thị xã
và tỉnh hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả hay không phụ thuộc rất lớn vào
đội ngũ cán bộ này.
1.2.3.3. Những yêu cầu cơ bản đối với đội ngũ cán bộ chủ chốt chính
quyền cấp huyện
Cán bộ chủ chốt ở huyện có vai trò quan trọng trong việc tổ chức và tập
hợp quần chúng thực hiện thắng lợi đường lối đổi mới của Đảng, chính sách
pháp luật của nhà nước trên địa bàn huyện. Để đảm bảo đội ngũ cán bộ chủ
chốt của huyện đảm nhiệm đúng và đủ vai trò của mình như trên, trong báo
cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII tại Đại hội Đại
biểu Đảng toàn quốc lần thứ IX của Đảng có đoạn viết: “Xây dựng đội ngũ
cán bộ trước hết là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý ở các cấp vững vàng về
23
chính trị, gương mẫu về đạo đức, trong sạch về lối sống, có trí tuệ, có kiến
thức và năng lực hoạt động thực tiễn, gắn bó với nhân dân” [6, tr.54].
Đại hội lần thứ XI, Đảng ta tiếp tục khẳng định mục tiêu xây dựng đội
ngũ cán bộ, công chức trong sạch, có năng lực đáp ứng yêu cầu trong tình
hình mới, trong đó yêu cầu: “Rà soát, bổ sung, hoàn thiện quy chế quản lý cán
bộ, công chức; phân định rõ chức năng, nhiệm vụ, trách nhiệm và thẩm quyền
của mỗi cán bộ, công chức; tăng cường tính công khai, minh bạch, trách
nhiệm của hoạt động công vụ. Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công
chức cả về bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, năng lực lãnh đạo, chỉ đạo,
điều hành, quản lý nhà nước. Có chính sách đãi ngộ, động viên, khuyến khích
cán bộ, công chức hoàn thành nhiệm vụ và có cơ chế loại bỏ, bãi miễn những
người không hoàn thành nhiệm vụ, vi phạm kỷ luật, mất uy tín với nhân dân”
[2].
Đến Đại hội lần thứ XII của Đảng trong phương hướng, nhiệm vụ cho
nhiệm kỳ 2016 - 2020 Đảng ta lại một lần nữa tập trung chú trọng xây dựng
đội ngũ cán bộ, công chức trong đó xác định quyền hạn về công tác cán bộ
của Đảng là toàn diện và tuyệt đối, trong đó đề ra nhiệm vụ “ Đảng tập trung
lãnh đạo về đường lối, chủ trương, xây dựng tiêu chí, tiêu chuẩn, cơ chế chính
sách về cán bộ công chức. Đẩy mạnh dân chủ hoá về công tác cán bộ, quy
định rõ thẩm quyền của mỗi tổ chức, mỗi cấp trong xây dựng đội ngũ cán bộ,
công chức có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức trong sáng, có
trình độ chuyện môn, năng lực chuyên môn phù hợp, đáp ứng yêu cầu của
giai đoạn mới. Thực hiện thí điểmtrực tiếp bầu một số chức danh ở cơ sở và
cấp huyện; mở rộng đối tượng thi tuyển chức danh cán bộ quản lý”[3, tr 180].
Để thực hiện có hiệu quả các nội dung trên, yêu cầu đặt ra với riêng đội
ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện gồm:
24
Một là, thấm nhuần và trung thành với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, nắm chắc quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng về xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay. Biết vận dụng sáng tạo những
nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan
điểm, đường lối của Đảng vào lĩnh vực lãnh đạo quản lý do mình đảm nhiệm
và tổ chức thực hiện tốt. Thực hiện có hiệu quả các chỉ thị, nghị quyết của
Đảng và Nhà nước; tổng kết rút ra những bài học kinh nghiệm, những nguyên
nhân đạt được, hạn chế thiếu sót, yếu kém, bất hợp lý của đường lối, chính
sách để góp phần vào việc không ngừng hoàn thiện các chủ trương, đường lối,
chính sách cụ thể của Đảng và Nhà nước trong công cuộc xây dựng đất nước,
thực hiện sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá và phát triển nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa để tiến lên chủ nghĩa xã hội. Biết tôn
trọng dân, lấy dân làm gốc, gần dân. Bí thư, chủ tịch huyện phải là người tiêu
biểu cho sự thực hiện dân chủ, công bằng và tự do xã hội theo luật pháp; kiềm
chế được tham vọng cá nhân; không quan liêu, tham nhũng, tiêu cực, lợi ích
nhóm, mất dân chủ hoặc dân chủ hình thức; xử lý và trừng phạt nghiêm
những cán bộ, công chức dưới quyền cửa quyền, hách dịch, hống hách với
dân, quan liêu, tham nhũng và có biểu hiện tiêu cực...
Hai là, phải có trình độ chuyên môn từ cao đẳng, đại học và trình độ lý
luận chính trị từ trung cấp trở lên đối với cấp xã, thị trấn; đối với cấp huyện
trình độ chuyên môn phải từ đại học trở lên. Đây là tiền đề quan trọng để
người lãnh đạo nhận thức được các quy luật khách quan về kinh tế, xã hội và
tự nhiên, tiếp thu đúng đắn các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước đề ra cho công tác lãnh đạo và quản lý ở cấp huyện
trong từng điều kiện, hoàn cảnh, bối cảnh cụ thể. Chủ trương, đường lối,
chính sách của Đảng và Nhà nước đề ra đều dựa vào hai căn cứ: lý luận khoa
học và thực tiễn. Người lãnh đạo cao nhất của huyện không có trình độ tri
25
thức khoa học nhất định không thể tiếp thu và tìm ra phương thức tổ chức,
biện pháp hữu hiệu để tổ chức thực hiện đạt kết quả. Trình độ dân trí hiện nay
đã được nâng lên và ngày càng cao, bí thư và chủ tịch huyện không có trình
độ chuyên môn nghiệp vụ, văn hoá và khoa học nhất định thì không thể lãnh
đạo nhân dân ở địa phương mình thực hiện thắng lợi chủ trương và chính sách
của Đảng, Nhà nước trên các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Ba là, có năng lực lãnh đạo và quản lý, nhạy cảm về chính trị, hiểu biết
về kinh tế, văn hoá, xã hội. Những năng lực trên đây giúp cho người bí thư và
chủ tịch huyện cùng tập thể lãnh đạo của mình định ra chủ trương, phương
pháp công tác khoa học đúng với thực tế địa phương mình và mỗi khi làm
việc gì đều biết tính toán, lựa chọn phương án tối ưu để thực hiện; dám nghĩ,
dám làm, dám chịu trách nhiệm và luôn nắm quyền chủ động với mọi công
việc, khắc phục tâm lý, thái độ gia trưởng, hà khắc, độc đoán, chuyên quyền,
mất dân chủ trong khi chỉ đạo công tác.
Bốn là, phải được đào tạo, trang bị kỹ năng lãnh đạo, điều hành và quản
lý hành chính. Kỹ năng lãnh đạo không phải là một dạng bẩm sinh, nó được
hình thành qua quá trình tự rèn luyện, tích luỹ qua thực tiễn, tự tu dưỡng và
học hỏi những thế hệ đi trước. Đội ngũ cán bộ chủ chốt hàng ngày, hàng giờ
phải đối diện và xử lý không chỉ công việc chuyên môn mà còn cả những sự
việc khá phức tạp, liên quan trực tiếp đến lợi ích cuộc sống của đông đảo
nhân dân. Mọi hoạt động xã hội hàng ngày đều có liên quan đến lợi ích riêng
của từng cá nhân, bởi vậy người đứng đầu ở một địa phương, đơn vị phải có
nghệ thuật, kỷ năng lãnh đạo để điều hoà những lợi ích ấy một cách hợp lý
nhất. Xử lý đúng thì thắng lợi, xử lý sai thì thất bại và sự thất bại đó sẽ lan
rộng ra nhanh chóng có khi dẫn đến hậu quả khôn lường và kéo theo những
hệ luỵ của nó. Khoa học lãnh đạo và nghệ thuật quản lý, điều hành là điều
26
kiện cần và đủ để người lãnh đạo thực hiện tốt nhiệm vụ của mình trong bất
cứ tình huống nào.
1.2.4. Nội dung, phương thức và vai trò công tác tạo nguồn cán bộ
chủ chốt cho chính quyền cấp huyện
1.2.4.1. Nội dung, phương thức tạo nguồn cán bộ chủ chốt cho chính
quyền cấp huyện
Xây dựng đội ngũ cán bộ là trách nhiệm của cả HTCT, trực tiếp là của
các cấp uỷ, tổ chức đảng mà trước hết là người đứng đầu và cơ quan tham
mưu của Đảng, trong đó cơ quan tổ chức, cán bộ là nòng cốt. Phát huy mạnh
mẽ vai trò của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và
cơ quan truyền thông, báo chí trong công tác cán bộ và xây dựng đội ngũ cán
bộ. Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó máu thịt với nhân dân; phải thực sự
dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng, xây dựng đội ngũ cán bộ.
Như đã trình bày ở trên, tạo nguồn cán bộ chủ chốt là thực hiện tổng
thể các nội dung, hình thức, biện pháp về tư tưởng, tổ chức và chính sách của
các chủ thể nhằm đảm bảo số lượng, chất lượng và cơ cấu đội ngũ cán bộ chủ
chốt đáp ứng yêu cầu lãnh đạo, quản lý, điều hành và tổ chức thực hiện nhiệm
vụ của cấp huyện, xã, thị trấn. Vì vậy, trong công tác tạo nguồn cán bộ chủ
chốt, có các nội dung công việc như sau:
Một là,nâng cao nhận thức, tăng cường giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo
đức, lối sống cho cán bộ, đảng viên.
Quán triệt sâu sắc, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh; quán triệt và thực hiện nghiêm Cương lĩnh, Điều lệ, nghị quyết
của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước cho đội ngũ cán bộ, đảng viên,
nhất là về công tác cán bộ, xây dựng và quản lý đội ngũ cán bộ. Kiên quyết
đấu tranh với những quan điểm sai trái, luận điệu xuyên tạc; mở rộng các hình
27
thức tuyên truyền, nhân rộng những điển hình tiên tiến, những cách làm sáng
tạo, hiệu quả.
Tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, nâng cao đạo đức
cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên và thế hệ trẻ, trong đó chú trọng nội
dung xây dựng Đảng về đạo đức, truyền thống lịch sử, văn hoá của dân tộc;
kết hợp chặt chẽ, hiệu quả giữa đào tạo với rèn luyện trong thực tiễn và đẩy
mạnh học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Thực
hiện nghiêm túc chế độ học tập, bồi dưỡng lý luận chính trị và cập nhật kiến
thức mới cho cán bộ, nhất là cán bộ trẻ được đào tạo ở nước ngoài.
Hai là,tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác cán bộ.
Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt, triển khai đồng bộ; thường
xuyên hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện; ngăn chặn và đẩy lùi có
hiệu quả những tiêu cực, tham nhũng trong công tác cán bộ.
Thể chế hoá, cụ thể hoá các chủ trương, đường lối của Đảng về công
tác cán bộ theo hướng: Đồng bộ, liên thông, nhất quán trong hệ thống chính
trị và phù hợp với thực tế; đẩy mạnh phân cấp, phân quyền; ràng buộc trách
nhiệm và kiểm soát chặt chẽ quyền lực; siết chặt kỷ luật, kỷ cương; tạo môi
trường, điều kiện để thúc đẩy đổi mới, sáng tạo; bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám
làm, dám đột phá, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung.
Đổi mới công tác đánh giá cán bộ theo hướng: Xuyên suốt, liên tục, đa
chiều, theo tiêu chí cụ thể, bằng sản phẩm, thông qua khảo sát, công khai kết
quả và so sánh với chức danh tương đương; gắn đánh giá cá nhân với tập thể
và kết quả thực hiện nhiệm vụ của địa phương, cơ quan, đơn vị.
Tiếp tục đổi mới công tác tuyển dụng, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng
và luân chuyển cán bộ:
+ Thống nhất việc kiểm định chất lượng đầu vào công chức để các địa
phương, cơ quan, đơn vị lựa chọn, tuyển dụng theo yêu cầu, nhiệm vụ; đồng
28
thời, nghiên cứu phân cấp kiểm định theo lĩnh vực đặc thù và theo vùng, khu
vực.
+ Xây dựng Chương trình quốc gia về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ và học
tập ngoại ngữ.
+ Gắn quy hoạch với đào tạo, bồi dưỡng theo tiêu chuẩn chức danh và
đẩy mạnh thực hiện luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý trong hệ thống
chính trị để rèn luyện qua thực tiễn ở các lĩnh vực, địa bàn khác nhau.
+Thực hiện việc bố trí bí thư cấp uỷ cấp tỉnh, cấp huyện không là người
địa phương theo mục tiêu đề ra; khuyến khích thực hiện đối với các chức
danh khác, nhất là chức danh chủ tịch Uỷ ban nhân dân, nếu có điều kiện.
+ Quy định khung cơ chế, chính sách ưu đãi để phát hiện, thu hút, trọng
dụng nhân tài có trọng tâm, trọng điểm, nhất là các ngành, lĩnh vực mũi nhọn
phục vụ cho phát triển nhanh, bền vững. Xây dựng Chiến lược quốc gia về
thu hút và trọng dụng nhân tài theo hướng không phân biệt đảng viên hay
người ngoài Đảng, người Việt Nam ở trong nước hay ở nước ngoài.
Đổi mới công tác ứng cử, bầu cử, bổ nhiệm, bố trí, sử dụng cán bộ:
+ Hoàn thiện các quy định, quy chế để cấp uỷ các cấp có cơ cấu hợp lý,
tinh giản số lượng và nâng cao chất lượng, không nhất thiết địa phương, cơ
quan, đơn vị nào cũng phải có cấp uỷ viên.
+ Tiếp tục thực hiện chủ trương bầu trực tiếp bí thư tại đại hội đảng bộ
các cấp ở những nơi có điều kiện; thực hiện nghiêm việc lựa chọn, bầu cử có
số dư; ứng viên trước khi bổ nhiệm phải trình bày chương trình hành động và
cam kết trách nhiệm thực hiện.
+ Nói chung, cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp trên phải kinh qua vị trí chủ
chốt cấp dưới; trường hợp đặc biệt do cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định.
Nhân sự không trúng cử cấp uỷ cấp dưới thì không giới thiệu để bầu cấp uỷ
cấp trên.
29
+ Cấp uỷ các cấp và người đứng đầu phải có kế hoạch đào tạo, bồi
dưỡng, sắp xếp, bố trí, tạo điều kiện, cơ hội phát triển cho cán bộ trẻ, cán bộ
nữ, cán bộ là người dân tộc thiểu số. Xây dựng chỉ tiêu cơ cấu phù hợp, nếu
chưa bảo đảm chỉ tiêu cơ cấu thì phải để trống, bổ sung sau; gắn việc thực
hiện chỉ tiêu với trách nhiệm của cấp uỷ và người đứng đầu.
+ Quy định trách nhiệm của lãnh đạo và cấp uỷ viên các cấp trong việc
tiến cử người có đức, có tài; người đứng đầu có trách nhiệm đào tạo, bồi
dưỡng, tiến cử người thay thế mình.
+ Có cơ chế phát hiện, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí cán bộ có
bản lĩnh, năng lực nổi trội và triển vọng phát triển vào vị trí lãnh đạo, quản lý,
kể cả vượt cấp, nhất là cán bộ trẻ.
+ Xây dựng quy định để việc nhận trách nhiệm, từ chức, từ nhiệm trở
thành nếp văn hoá ứng xử của cán bộ; hoàn thiện các quy định về cách chức,
bãi nhiệm, miễn nhiệm để việc "có lên, có xuống", "có vào, có ra"trở thành
bình thường trong công tác cán bộ.
Thực hiện lộ trình cải cách tiền lương phù hợp với từng nhóm đối
tượng theo vị trí việc làm, chức danh, chức vụ, năng suất lao động, hiệu quả
công tác và điều kiện phát triển kinh tế - xã hội, nguồn lực của đất nước. Xây
dựng chính sách nhà ở theo hướng: Nhà nước thống nhất ban hành cơ chế,
chính sách; địa phương quy hoạch đất ở, nhà ở; cán bộ, công chức, viên chức
mua và thuê mua. Thực hiện nghiêm, đúng đắn, chính xác chế độ thi đua,
khen thưởng.
Xây dựng quy định về thẩm quyền, trách nhiệm của người đứng đầu
trong công tác cán bộ và quản lý cán bộ; xử lý nghiêm những người có sai
phạm, kể cả khi đã chuyển công tác hoặc nghỉ hưu.
Tăng cường công tác bảo vệ chính trị nội bộ: Nắm chắc lịch sử chính trị
và tập trung vào vấn đề chính trị hiện nay. Hoàn thiện quy định để xử lý, sử
30
dụng những trường hợp có vấn đề về chính trị. Không xem xét quy hoạch, bổ
nhiệm, giới thiệu ứng cử khi chưa có kết luận về tiêu chuẩn chính trị.
Tiếp tục nghiên cứu, thực hiện thí điểm một số chủ trương:
+ Mở rộng việc thi tuyển để bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp vụ,
sở, phòng.
+ Người đứng đầu lựa chọn, giới thiệu cán bộ trong quy hoạch để thực
hiện quy trình bầu cử, bổ nhiệm cấp phó của mình; bí thư cấp uỷ giới thiệu để
bầu uỷ viên ban thường vụ theo một quy trình nhất định, bảo đảm nguyên tắc
tập trung dân chủ và phải chịu trách nhiệm về việc giới thiệu của mình.
+ Giao quyền cho người đứng đầu bổ nhiệm cán bộ trong quy hoạch,
miễn nhiệm đối với cấp trưởng cấp dưới trực tiếp và chịu trách nhiệm về
quyết định của mình.
Ba là,xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp có phẩm chất, năng lực, uy tín,
đáp ứng yêu cầu trong thời kỳ mới.
Các cấp uỷ, tổ chức đảng, lãnh đạo cơ quan, đơn vị phải nâng cao trách
nhiệm, triển khai đồng bộ, hiệu quả công tác cán bộ và tạo môi trường, điều
kiện để xây dựng, phát triển đội ngũ cán bộ. Coi trọng trang bị kiến thức về
công tác cán bộ cho lãnh đạo các cấp. Tập trung nâng cao chất lượng bí thư
cấp uỷ, người đứng đầu các cấp và đội ngũ cán bộ cấp cơ sở.
Hoàn thiện cơ chế, đẩy mạnh thu hút, tạo nguồn cán bộ từ sinh viên tốt
nghiệp xuất sắc, cán bộ khoa học trẻ có triển vọng và đặc biệt quan tâm đào
tạo, bồi dưỡng, rèn luyện lớp cán bộ kế cận. Chủ động nắm, tuyển chọn, đào
tạo, bồi dưỡng, rèn luyện đối với sinh viên tốt nghiệp loại giỏi, xuất sắc ở
trong nước và nước ngoài.
Cơ cấu, sắp xếp lại đội ngũ cán bộ các cấp, các ngành theo vị trí việc
làm, khung năng lực, bảo đảm đúng người, đúng việc, giảm số lượng, nâng
cao chất lượng, hợp lý về cơ cấu.
31
Xây dựng đồng bộ, toàn diện các đối tượng cán bộ ở các cấp. Chú trọng
nâng cao bản lĩnh chính trị, tính chuyên nghiệp, tinh thần phục vụ nhân dân
của cán bộ, công chức, viên chức. Tăng cường kỷ luật, kỷ cương, nâng cao
sức chiến đấu của lực lượng vũ trang. Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ
khoa học; có chính sách ưu đãi để xây dựng, sử dụng đội ngũ các nhà khoa
học và chuyên gia đầu ngành trên các lĩnh vực. Củng cố, nâng cao ý thức
trách nhiệm và tính Đảng đối với cán bộ trong các doanh nghiệp nhà nước,
nhất là người đứng đầu; xây dựng quy định về tuyển dụng, đào tạo, bổ nhiệm
cán bộ quản trị doanh nghiệp phù hợp với cơ chế thị trường và đáp ứng yêu
cầu hội nhập quốc tế.
Nghiên cứu thực hiện cơ chế, chính sách liên thông, bình đẳng, nhất
quán trong hệ thống chính trị; liên thông giữa cán bộ, công chức cấp xã với
cán bộ, công chức nói chung, giữa nguồn nhân lực ở khu vực công và khu vực
tư; có cơ chế cạnh tranh vị trí việc làm để nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ,
công chức, viên chức và tiến tới bỏ chế độ "biên chế suốt đời".
Quản lý chặt chẽ, hiệu quả đội ngũ cán bộ các cấp theo hướng: Xây
dựng hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia về cán bộ. Địa phương, cơ quan, đơn vị
phải thực hiện nghiêm việc quản lý cán bộ theo quy định của cấp có thẩm
quyền. Cơ quan sử dụng cán bộ phải quản lý cán bộ chặt chẽ, hiệu quả. Người
đứng đầu chịu trách nhiệm chính về quản lý cán bộ theo phân cấp. Bản thân
cán bộ thực hiện nghiêm các quy định, quy chế, cam kết của mình; báo cáo,
giải trình trung thực và chịu trách nhiệm khi có yêu cầu.
Hoàn thiện các quy định, quy chế để kiểm soát chặt chẽ, sàng lọc kỹ
càng, thay thế kịp thời những người năng lực hạn chế, uy tín thấp, không đủ
sức khoẻ, có sai phạm, không chờ hết nhiệm kỳ, hết thời hạn bổ nhiệm, đến
tuổi nghỉ hưu. Không lấy việc bố trí chức vụ, phong hàm, phong, thăng quân
hàm, nâng ngạch để thực hiện chế độ, chính sách cán bộ.
32
Quân đội, Công an có đề án riêng để xây dựng lực lượng vũ trang cách
mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, tuyệt đối trung thành với
Đảng, Tổ quốc và nhân dân, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ tình hình mới.
Bốn là,tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ cấp chiến lược ngang tầm
nhiệm vụ.
Xây dựng đội ngũ cán bộ cấp chiến lược bảo đảm các tiêu chuẩn quy
định và đáp ứng yêu cầu, theo hướng:
- Phát hiện, lựa chọn từ nguồn quy hoạch những cán bộ tiêu biểu, xuất
sắc đã được đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện theo chức danh, nhất là những
người đã được thử thách qua thực tiễn, có thành tích nổi trội, có "sản phẩm"
cụ thể, có triển vọng phát triển.
- Bổ sung kiến thức, nâng cao trình độ mọi mặt; bồi dưỡng toàn diện về
kỹ năng; định kỳ cập nhật kiến thức mới theo từng nhóm đối tượng.
- Xây dựng kế hoạch cụ thể để luân chuyển, điều động giữ vị trí cấp
trưởng, phù hợp với chức danh quy hoạch ở địa bàn khó khăn, lĩnh vực trọng
yếu, nơi triển khai mô hình mới để thử thách, rèn luyện, nâng cao bản lĩnh
chính trị, nhân sinh quan cách mạng, năng lực lãnh đạo toàn diện của cán bộ.
- Tổ chức các lớp dự nguồn cán bộ cao cấp để chuẩn bị tốt nguồn nhân
sự cho các chức danh cấp chiến lược.
- Đánh giá chính xác nhân sự được quy hoạch, giới thiệu bầu cử, bổ
nhiệm vào các chức danh cấp chiến lược. Kiên quyết không để lọt những
người không xứng đáng, những người chạy chức, chạy quyền vào đội ngũ cán
bộ cấp chiến lược.
- Định kỳ rà soát, bổ sung quy hoạch nhân sự Ban Chấp hành Trung
ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và các chức danh lãnh đạo chủ chốt của Đảng,
Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội cho các nhiệm kỳ.
33
- Tập trung xây dựng Ban Chấp hành Trung ương theo hướng nâng cao
chất lượng, có số lượng và cơ cấu hợp lý, thực sự tiêu biểu về đạo đức cách
mạng, bản lĩnh chính trị, trí tuệ, trong sáng, gương mẫu về mọi mặt. Chủ động
chuẩn bị nhân sự, xây dựng "hình ảnh" các chức danh lãnh đạo chủ chốt của
Đảng, Nhà nước, các Uỷ viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư.
- Xây dựng tiêu chuẩn và có kế hoạch, biện pháp đào tạo, bồi dưỡng,
rèn luyện, thử thách đối với Uỷ viên dự khuyết Trung ương Đảng theo hướng
chỉ lựa chọn cán bộ trẻ, thật sự ưu tú và có cơ cấu hợp lý giữa Trung ương với
địa phương, giữa các ngành nghề, lĩnh vực trong hệ thống chính trị.
Năm là, kiểm soát chặt chẽ quyền lực trong công tác cán bộ; chống
chạy chức, chạy quyền.
Xây dựng, hoàn thiện thể chế để kiểm soát quyền lực trong công tác
cán bộ theo nguyên tắc mọi quyền lực đều phải được kiểm soát chặt chẽ bằng
cơ chế; quyền hạn, phải được ràng buộc bằng trách nhiệm.
Thực hiện công khai, minh bạch tiêu chuẩn, quy trình, thủ tục và hồ sơ
nhân sự; cung cấp, trao đổi thông tin và giải trình khi có yêu cầu. Xác minh,
xử lý kịp thời, hiệu quả, hợp lý thông tin phản ảnh từ các tổ chức, cá nhân và
phương tiện thông tin đại chúng.
Đẩy mạnh công tác kiểm tra, giám sát, thanh tra định kỳ, đột xuất; theo
chuyên đề, chuyên ngành; của cấp trên đối với cấp dưới; cấp dưới giám sát
cấp trên. Coi trọng cả cảnh báo, phòng ngừa và xử lý sai phạm.
Xử lý kịp thời, nghiêm minh những tổ chức, cá nhân vi phạm kỷ luật
của Đảng, pháp luật của Nhà nước; lợi dụng quyền lực để thực hiện những
hành vi sai trái trong công tác cán bộ hoặc tiếp tay cho chạy chức, chạy
quyền. Huỷ bỏ, thu hồi các quyết định không đúng về công tác cán bộ, đồng
thời xử lý nghiêm những tổ chức, cá nhân sai phạm, không có "vùng cấm".
34
Mở rộng dân chủ, phát huy vai trò giám sát của Quốc hội, Hội đồng
nhân dân; vai trò giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc, các tổ
chức chính trị - xã hội; phát huy vai trò của nhân dân trong tham gia xây dựng
đội ngũ cán bộ. Tăng cường cơ chế chất vấn, giải trình trong công tác cán bộ.
Quy định chặt chẽ và thực hiện nghiêm quy trình công tác cán bộ. Xác
định rõ trách nhiệm của tập thể, cá nhân, nhất là người đứng đầu trong công
tác cán bộ.
Nhận thức sâu sắc về tác hại nghiêm trọng của tệ chạy chức, chạy
quyền, coi đây là hành vi tham nhũng trong công tác cán bộ. Nhận diện rõ,
đấu tranh quyết liệt, hiệu quả với các đối tượng có biểu hiện, hành vi chạy
chức, chạy quyền. Coi trọng giáo dục chính trị, tư tưởng, nâng cao ý thức
trách nhiệm, lòng tự trọng và danh dự của cán bộ để hình thành văn hoá
không chạy chức, chạy quyền.
Sáu là, nâng cao chất lượng công tác tham mưu, coi trọng tổng kết thực
tiễn, nghiên cứu lý luận về công tác tổ chức, cán bộ.
Các cấp uỷ, tổ chức đảng, lãnh đạo cơ quan, đơn vị thường xuyên chăm
lo xây dựng, củng cố cơ quan tham mưu và đội ngũ làm công tác cán bộ thật
sự trong sạch, vững mạnh, chuyên nghiệp; đặc biệt coi trọng lựa chọn, bố trí
đúng người đứng đầu cơ quan làm công tác tổ chức, cán bộ các cấp.
Nâng cao nhận thức, chất lượng công tác tham mưu, phối hợp chặt chẽ,
hiệu quả giữa các cơ quan tham mưu trong công tác cán bộ và xây dựng đội
ngũ cán bộ theo chức năng, nhiệm vụ của mình.
Xây dựng mô hình tổ chức, hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ của các cơ
quan tham mưu về tổ chức, cán bộ các cấp theo hướng giảm đầu mối, tránh
chồng chéo, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động; bảo đảm nguyên tắc Đảng
thống nhất lãnh đạo và quản lý tổ chức, biên chế, công tác cán bộ, xây dựng
và quản lý đội ngũ cán bộ trong toàn bộ hệ thống chính trị. Đẩy mạnh cải cách
35
hành chính; chuẩn hoá văn bản pháp quy; tin học hoá, tự động hoá trong quản
lý và điều hành.
Tăng cường giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện để nâng cao chất
lượng đội ngũ làm công tác cán bộ "trung thành, trung thực, gương mẫu,
trong sáng, tinh thông" đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của thời kỳ mới. Nghiêm
trị các hành vi tiêu cực trong công tác cán bộ, nhất là việc tiếp tay cho chạy
chức, chạy quyền.
Coi trọng và tăng cường công tác kiểm tra, giám sát công tác cán bộ ở các
cấp, các ngành; kiểm soát chặt chẽ việc thực hiện quy trình công tác cán bộ.
Kịp thời sơ kết, tổng kết các chỉ thị, nghị quyết, quy định, quy chế và
những chủ trương thí điểm, mô hình mới, cách làm hay, sáng tạo, hiệu quả;
nâng cao chất lượng nghiên cứu khoa học, xây dựng và phát triển lý luận về
công tác tổ chức, cán bộ.
Tuy nhiên, luân chuyển cán bộ chỉ có thể trở thành khâu đột phá và
phát huy tác dụng tốt khi nó được kết hợp chặt chẽ đồng bộ với các khâu khác
của công tác cán bộ. Cán bộ lãnh đạo trong hệ thống chính trị cần được luân
chuyển để đảm bảo cơ cấu, số lượng hợp lý, phù hợp với sở trường cán bộ. Tạo
điều kiện cho cán bộ trẻ có triển vọng đi vào rèn luyện trong thực tiễn, sát cơ sở,
bộc lộ tài năng, khắc phục tình trạng khép kín trong từng ngành, từng địa
phương, từng tổ chức, tạo nên sự đồng đều về chất lượng cán bộ từng cấp.
Để thực hiện các nội dung tạo nguồn nói trên, qua việc khảo sát cách
làm của các huyện, thị xã, thành phố trên địa bàn tỉnh Bình Định có thể thấy
đi cùng với các nội dung trong công tác tạo nguồn là những hình thức và biện
pháp thực hiện tương ứng. Cụ thể như sau:
Một là, xác định đối tượng nguồn. Nội dung này cũng được thực hiện
với nhiều cách thức khác nhau. Do cấp huyện là một đơn vị hành chính trung
gian giữa cấp tỉnh và cấp xã cho nên việc xác định nguồn cán bộ chủ chốt chủ
36
yếu thông qua đội ngũ cán bộ hiện đang công tác trên địa bàn huyện. Biện
pháp tìm nguồn có thể được thực hiện thông qua việc xin ý kiến đội ngũ cán
bộ chủ chốt của cấp huyện hiện tại (thường là các ủy viên ban chấp hành đảng
bộ huyện) về việc lấy phiếu giới thiệu, đề cử cán bộ, công chức có năng lực
trình độ để tạo thành đội ngũ cán bộ nguồn, hoặc thông qua tiến cử. Hoặc xét
đến chính đối tượng là người nằm trong diện quy hoạch ở cấp cơ sở.
Hai là, triển khai chương trình quy hoạch cán bộ chủ chốt theo nhiệm
kỳ, định kỳ hàng năm. Cách làm này thường được hiểu quy hoạch là cách
thức được thực hiện nhằm tạo nguồn, cán bộ công chức. Hình thức thực hiện
là thông qua đánh giá cán bộ, công chức, căn cứ vào thực trạng cán bộ chủ
chốt hiện tại (độ tuổi, giới, trình độ chuyên môn, phẩm chất chính trị, đạo
đức), căn cứ vào các tiêu chuẩn, tiêu chí và yêu cầu cụ thể đặt ra để tổ chức
quy hoạch cán bộ đáp ứng được yêu cầu chung của địa phương trong nhiệm
kỳ tiếp theo.
Ba là, thực hiện công tác đào tạo, bồi dưỡng dự nguồn. Cần lưu ý sự
khác nhau giữa đào tạo nâng cao trình độ nghiệp vụ thông thường và đào tạo
để đưa vào quy hoạch và đào tạo nguồn. Ở cấp huyện, để đào tạo nguồn cán
bộ thông qua các hình thức cử cán bộ, công chức trong diện quy hoạch được
đi học (học theo chuyên đề, học để đảm bảo về trình độ học vấn, học về lý
luận chính trị). Việc đào tạo này có thể thông qua hình thức đảng bộ huyện
hoặc ban tổ chức huyện ủy, phòng nội vụ huyện tổ chức lớp học chuyên biệt
dành riêng cho đối tượng cán bộ dự nguồn với chương trình học tập riêng
biệt, hoặc có thể cử cán bộ dự nguồn tham gia các chương trình, lớp học do
đảng ủy, cơ quan tổ chức cán bộ cấp trên tổ chức cho cùng đối tượng cán bộ
các huyện, thị xã, thành phố trong toàn tỉnh hoặc các trường của khu vực.
Bốn là, luân chuyển cán bộ để tạo nguồn nhân sự. Luân chuyển cán bộ
là một chủ trương quan trọng của Đảng trong công tác cán bộ nhằm thực hiện
37
việc đào tạo, bồi dưỡng toàn diện và sử dụng có hiệu quả đội ngũ cán bộ.
Thực tế cho thấy công tác luân chuyển cán bộ là việc làm khó, nhạy cảm. Cấp
ủy và người đứng đầu cần phải có sự đánh giá cán bộ thực sự khách quan,
công tâm, lựa chọn cán bộ đi luân chuyển phải bảo đảm tiêu chuẩn, có năng
lực thực sự, có triển vọng phát triển tốt, phù hợp với vị trí, chức danh để cán
bộ phát huy. Đồng thời phải có lộ trình, công khai, minh bạch, bước đi đồng
bộ, thận trọng, khoa học, tạo được sự đồng thuận, thống nhất cao trong tập thể
cấp ủy và cán bộ, đảng viên, nơi đi và nơi đến.
Trên đây là những biện pháp có tính khả thi mà nhiều địa phương trong
tỉnh đã triển khai thực hiện. Thực tế cho thấy hiện trạng cấp huyện là cấp thực
hiện cho nên không thể thực hiện những nội dung tạo nguồn căn bản khác
như ban hành chính sách đãi ngộ tạo sự cạnh tranh, phấn đấu trong đội ngũ
cán bộ dự nguồn, tạo nguồn cán bộ chủ chốt lâu dài, chủ động được nguồn
cán bộ chủ chốt theo phân công quyết định của cấp trên. Mọi hoạt động trong
công tác tạo nguồn cán bộ chủ chốt ở cấp huyện phải tuân thủ đúng theo nghị
quyết, chương trình, hướng dẫn của cấp ủy cấp trên hoặc đơn vị chuyên môn
của cấp ủy cấp trên (Ban thường vụ tỉnh uỷ, Ban tổ chức tỉnh uỷ). Khi phát
hiện những bất cập và hạn chế của công tác cán bộ nói chung và tạo nguồn
nói riêng có nguyên nhân chính là từ các quy định của cấp trên, hoàn toàn
không phù hợp với thực tế tại địa phương, cấp huyện cũng không thể tự ý
điều chỉnh hoặc thay đổi. Thay vào đó, cấp huyện phải kiến nghị, đề xuất với
cấp trên điều chỉnh, bổ sung và thay đổi và áp dụng cho toàn bộ các huyện
khác. Đây cũng chính là một sự hạn chế trong công tác tổ chức cán bộ, làm
cho các đơn vị cấp huyện thiếu sự chủ động, tính linh hoạt và tính toán hợp lý
trong công tác cán bộ của mình.
38
1.2.4.2. Vai trò của công tác tạo nguồn cán bộ chủ chốt chính quyền
cấp huyện
Công tác cán bộ bao gồm nhiều khâu, giữa các khâu có mối quan hệ
biện chứng với nhau. Các khâu đó bao gồm: 1) đánh giá, 2) quy hoạch, 3) đào
tạo, 4) bồi dưỡng, 5) luân chuyển, 6) bố trí, 7) sử dụng và 8) thực hiện chính
sách cán bộ. Tương đương với đó là sự phân định tương đối rạch ròi các nội
dung trong công tác quản lý cán bộ gồm: 1) Tuyển chọn, bố trí, phân công,
điều động, luân chuyển và phân cấp quản lý cán bộ; 2) Đánh giá cán bộ; 3)
Quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; 4) Bổ nhiệm, miễn nhiệm cán bộ; 5)
Khen thưởng, kỷ luật cán bộ; 6) Thực hiện chế độ, chính sách cán bộ; 7)
Kiểm tra, giám sát công tác cán bộ và giải quyết khiếu nại, tố cáo về cán bộ.
Ở mỗi khâu trong công tác cán bộ thì có những cách thực hiện khác nhau.
Tuy nhiên, tựu chung lại có mối quan hệ biện chứng với nhau, bổ sung, làm
điều kiện, tiền đề cho nhau. Chất lượng và hiệu quả của mỗi khâu lại chịu sự
quy định chặt chẽ của các khâu khác.
Tạo nguồn cán bộ, như đã trình bày ở trên, là việc thực hiện công tác
chuẩn bị, xây dựng đội ngũ cán bộ kế cận trên cơ sở đội ngũ cán bộ hiện có.
Vì vậy, tạo nguồn cán bộ là một quy trình trong công tác cán bộ nói chung,
không nằm trong một khâu cụ thể nào trong công tác cán bộ. Tùy theo từng
yêu cầu về nguồn cán bộ, tùy theo đối tượng khác nhau, tạo nguồn có thể là
sự kết hợp của nhiều khâu nêu trên hoặc chỉ tập trung vào một hoặc hai khâu
cụ thể.
Trong công tác cán bộ, cũng cần thấy rõ sự khác biệt giữa “tạo nguồn
cán bộ” với “quy hoạch cán bộ”. Nếu công tác cán bộ được khu biệt thành
công tác bố trí cán bộ vào một vị trí cụ thể ở một thời điểm đã xác định trước
(Ví dụ: ở đảng bộ huyện, việc bố trí (bầu chọn) cán bộ chủ chốt của huyện
thường được thực hiện tại mỗi kỳ đại hội đại biểu đảng bộ huyện thông qua
39
nội dung bầu cử các ủy viên ban chấp hành đảng bộ huyện – Huyện uỷ viên;
đối với một cơ quan, đơn vị cụ thể, việc bố trí cán bộ chủ chốt là việc bổ
nhiệm, phân công công chức giữ một chức vụ cụ thể thông qua các quyết định
bổ nhiệm), thì có thể chia ra làm hai giai đoạn chính là giai đoạn trước và sau
bố trí cán bộ. Công tác tạo nguồn cán bộ là tổng thể những hoạt động được
thực hiện trước giai đoạn bố trí cán bộ nhằm tạo ra nguồn cán bộ để “cung
cấp” đầy đủ, kịp thời, có đầy đủ phẩm chất, năng lực, trình độ, độ tuổi, thành
phần cho yêu cầu của công tác nhân sự. Trong khi đó, công tác quy hoạch là
việc chủ động chuẩn bị nguồn nhân sự từ xa cho công tác cán bộ, bao gồm cả
khâu đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện để chuẩn bị bố trí, bổ nhiệm cán bộ trong
tương lai.
Như vậy, quy hoạch cán bộ chỉ là một trong những biện pháp, một
trong những khâu để góp phần tạo nguồn cán bộ. Nói đúng như Nghị quyết
42-NQ/TW năm 2004 của Bộ Chính trị, mục đích của công tác quy hoạch cán
bộ là “chuẩn bị từ xa và tạo nguồn cán bộ dồi dào làm căn cứ để đào tạo, bồi
dưỡng, xây dựng đội ngũ cán bộ đảm nhận các chức danh lãnh đạo, quản lý
các cấp trong hệ thống chính trị vững vàng về chính trị, trong sáng về đạo
đức, thành thạo về chuyên môn, nghiệp vụ, có trình độ và năng lực, nhất là
năng lực trí tuệ và thực tiễn tốt, đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, đáp ứng
yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”.
Về đối tượng nằm trong công tác tạo nguồn, tùy theo tình hình, yêu cầu
cụ thể của tập thể, cấp ủy, cơ quan, đơn vị, địa phương và đặc thù hoạt động
của mỗi đơn vị đó, sẽ có những hoạt động tạo nguồn dành cho các đối tượng
khác nhau như tạo nguồn cán bộ nữ, tạo nguồn cán bộ trẻ, tạo nguồn cán bộ
chủ chốt, tạo nguồn cán bộ dân tộc thiểu số, tạo nguồn cán bộ phong trào, tạo
nguồn cán bộ cấp xã, phường, thị trấn.
40
Về phạm vi tạo nguồn cán bộ, tùy theo mục đích là tạo nguồn cho cán
bộ trong lĩnh vực nào thì xác định “nguồn” của cán bộ ở mức độ đó. Ví dụ, ở
cấp tỉnh nếu tạo nguồn cho cán bộ trẻ thì có thể xác định nguồn từ cán bộ
phong trào đoàn thể, từ nguồn sinh viên tốt nghiệp đại học, từ nguồn công
nhân; nếu tạo nguồn cho cán bộ nữ thì phạm vi thu hẹp xuống từ nữ công
nhân, sinh viên, nữ cán bộ hoạt động đoàn thể; nếu tạo nguồn cán bộ chủ chốt
của một huyện thì xác định nguồn cán bộ từ đội ngũ cán bộ, công chức hiện
có, từ đội ngũ cán bộ, công chức đã được quy hoạch.
Về chủ thể lãnh đạo công tác tạo nguồn cán bộ, cũng giống như chủ thể
trong công tác cán bộ, chủ thể lãnh đạo công tác tạo nguồn được xác định như
sau: chủ thể lãnh đạo là cấp ủy, tổ chức đảng ở các đợn vị, cơ quan, địa
phương; chủ thể chỉ đạo, điều hành, hướng dẫn thực hiện là đội ngũ cán bộ
chủ trì, là các cơ quan chức năng cấp trên. Từ đó có thể xác định, chủ thể lãnh
đạo công tác tạo nguồn đội ngũ cán bộ, công chức chủ chốt huyện bao gồm:
tỉnh ủy, trong đó trước hết là ban thường vụ tỉnh ủy, ban chấp hành đảng bộ
huyện mà trực tiếp là ban thường vụ huyện ủy và người đứng đầu các tổ chức
trong hệ thống chính trị của huyện đó.
1.3. Kinh nghiệm của một số địa phương trên cả nước về công tác
tạo nguồn cán bộ chủ chốt cấp huyện và bài học rút ra cho huyện Hoài
Nhơn, tỉnh Bình Định
Trong bất cứ một chính quyền ở địa phương nào, việc chuẩn bị lực
lượng kế cận, đội ngũ lãnh đạo quản lý tại các cơ quan công quyền luôn đóng
vai trò vô cùng quan trọng. Lực lượng đó sẽ quyết định sự thành công hay
thất bại của một chính quyền địa phương. Ở mỗi địa phương công tác chuẩn
bị lực lượng kế cận, công tác tạo nguồn nhân lực thay thế, đặc biệt là nguồn
nhân lực lãnh đạo quản lý luôn được quan tâm thực hiện.Có nhiều địa phương
dù nguồn tài nguyên thiên nhiên không phong phú, các tiềm năng không
41
nhiều để phát triển song nhờ có chiến lược đúng trong việc phát triển nguồn
nhân lực, chuẩn bị tốt đội ngũ cán bộ lãnh đạo kế cận nên đã trở thành những
địa phương phát triển, như một số địa phương sau đây:
1.3.1. Kinh nghiệm của quận Thanh Khê, Thành phố Đà Nẵng
Thanh Khê là một quận trung tâm nằm về phía Tây - Bắc thành phố Đà
Nẵng. Phía Đông và Nam giáp quận Hải Châu, phía Tây giáp quận Cẩm Lệ và
Liên Chiểu, phía Bắc giáp Vịnh Đà Nẵng, với bờ biển dài 4,3km. Thanh Khê có diện tích tự nhiên là 9,44 km2, bằng 0,734% diện tích thành phố Đà Nẵng,
dân số trung bình năm 2012 là 184.340 người, chiếm 18,92% dân số thành
phố. Quận Thanh Khê được chia thành 10 phường: An Khê, Hoà Khê, Thanh
Khê Đông, Thanh Khê Tây, Xuân Hà, Tam Thuận, Tân Chính, Chính Gián, Thạc Gián, Vĩnh Trung. Mật độ dân số năm 2012 là 19.527 người/km2. Dân
cư tập trung chủ yếu ở các phường Tân Chính, Tam Thuận và Vĩnh Trung do
đây là các phường nằm liền kề khu vực quận Hải Châu, ở trung tâm thành
phố. Cùng với Hải Châu, Thanh Khê là quận có mật độ dân số cao nhất của
thành phố (Hải Châu, Thanh Khê chiếm diện tích 2,6% của thành phố nhưng
dân số lại chiếm 39,7% dân số của thành phố).
Sau khi có Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương
Đảng (khóa VIII) về “Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước”, Quận uỷ đã tăng cường xây dựng đội ngũ cán bộ,
không ngừng nâng cao phẩm chất chính trị, trình độ, năng lực theo tiêu chuẩn,
tiêu chí cán bộ để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn trước mắt và lâu
dài. Qua hơn 15 năm xây dựng và phát triển, đến nay, đội ngũ cán bộ, công
chức, viên chức chủ chốt quận Thanh Khê đã có nhiều chuyển biến đáng kể.
Trong quá trình thực hiện công tác tạo nguồn cán bộ, công chức chủ
chốt, quận Thanh Khê đã triển khai đảm bảo nguyên tắc, đúng quy trình, công
khai, dân chủ; chất lượng cán bộ quy hoạch ở các cấp, các ngành được nâng
42
lên, số lượng và cơ cấu hợp lý; quy hoạch cho từng chức danh được tăng lên
nhằm từng bước khắc phục tình trạng hẫng hụt cán bộ. Trong quy hoạch, có
sự quan tâm đúng mức đối với cán bộ trẻ, cán bộ nữ được đào tạo cơ bản và
có triển vọng phát triển.
Do làm tốt công tác quy hoạch cán bộ nên Quận ủy đã chủ động hơn
trong công tác cán bộ, nhất là công tác đào tạo, bồi dưỡng, bổ nhiệm, bố trí,
sử dụng và luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý. Quá trình thực hiện công
tác quy hoạch cán bộ ở quận, các phòng ban, hội đoàn thể và 10 phường đã
bám sát tiêu chuẩn về trình độ chuyên môn nghiệp vụ, lý luận chính trị và
năng lực thực tiễn của từng chức danh cán bộ để tiến hành quy hoạch; qua
nhiều lần tổ chức hội nghị thảo luận đóng góp lấy phiếu tín nhiệm, quá trình
thực hiện quy hoạch cán bộ đã phát huy được trí tuệ tập thể, trách nhiệm cá
nhân, mở rộng dân chủ, coi trọng công tác nhận xét, đánh giá cán bộ, bảo đảm
nguyên tắc tập trung dân chủ, khách quan, công khai. Cán bộ trong diện quy
hoạch đã được rà soát, xem xét về lịch sử chính trị và thái độ chính trị hiện
nay, được tín nhiệm bảo đảm yêu cầu về năng lực, phẩm chất đạo đức.
Trên cơ sở quy hoạch, hàng năm, Ban Thường vụ Quận uỷ xây dựng kế
hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ ở từng cấp, từng ngành. Mỗi năm có khoảng
trên 100 lượt cán bộ được cử tham gia các lớp đào tạo, bồi dưỡng. Trong đó
chủ yếu được cử đi học các lớp lý luận chính trị, bồi dưỡng quản lý Nhà nước,
đại học, cao học, các khóa đào tạo ngắn hạn.
Ngoài việc cử cán bộ đi đào tạo theo kế hoạch, còn động viên, khuyến
khích, tạo điều kiện cả về thời gian và kinh phí cho cán bộ, công chức đi học để
đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao. Cơ bản đến nay đã đạt được mục tiêu
đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ đề ra trong Chương trình hành động thực
hiện Nghị quyết Trung ương 3 (khoá VIII) của Đảng bộ quận Thanh Khê.
Về cơ bản đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý được quy hoạch ở các cấp
43
của quận có bản lĩnh chính trị vững vàng, nhiều cán bộ được rèn luyện thử
thách trong thực tiễn, được đào tạo bồi dưỡng nâng cao trình độ mọi mặt, thể
hiện tính năng động sáng tạo, năng lực quản lý điều hành đáp ứng yêu cầu,
nhiệm vụ được giao. Đội ngũ cán bộ ngày càng khẳng định được vai trò vị trí
trên từng lĩnh vực công tác được phân công, bảo đảm tính kế thừa, chuyển
tiếp giữa các thế hệ cán bộ; tạo được thế chủ động trong việc đề bạt, bổ
nhiệm, bố trí cán bộ.
1.3.2. Kinh nghiệm của huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam
Quế Sơn là huyện trung du của tỉnh Quảng Nam. Tổng diện tích tự
nhiên của huyện 251,17 km2, nằm cách tỉnh lỵ Tam Kỳ 30 km về phía Tây
Bắc, cách thành phố Đà Nẵng 40 km về phía Tây Nam.
Có tọa độ địa lý:
- Từ 150 38’25’’- 150 49’51’’ vĩ độ Bắc.
- Từ 1080 06’58’’- 1080 20’51’’ kinh độ Đông.
Toàn huyện có 14 đơn vị hành chính, bao gồm các xã: Quế Xuân 1,
Quế Xuân 2, Quế Phú, Hương An, Quế Cường, Phú Thọ, Quế Thuận, Quế
Hiệp, Quế Châu, Quế Minh, Quế An, Quế Long, Quế Phong và thị trấn Đông
Phú.Theo Chi Cục Thống kê huyện Quế Sơn cung cấp; dân cư trên địa bàn
phân bố như sau: thị trấn Đông Phú chiếm 9,7% dân số toàn huyện, các xã
đồng bằng, trung du 83,6%, xã miền núi Quế Phong chiếm 6,7%.
Tổng diện tích tự nhiên của huyện: 25.117,15 ha, trong đó: Đất nông
nghiệp: 18.486,38 ha; Đất phi nông nghiệp: 4.329,97 ha; Đất chưa sử dụng:
2.300,8 ha.
Hệ thống giao thông: Đường Quốc lộ 1A, chạy qua địa bàn huyện có
chiều dài là 8,5km qua địa phận các xã: Quế Xuân 1, Quế Xuân 2, Quế Phú,
Hương An. Đường ĐT chạy qua địa bàn huyện có 02 tuyến: ĐT 611A và ĐT
611B, có tổng chiều dài tuyến 37,5 km, trong đó: có 22km bê tông nhựa và
44
15,5km thâm nhập nhựa. Đường ĐH: toàn huyện có 18 tuyến ĐH, với tổng
chiều dài: 119,29 km. Đường ĐX và đường nội thị: có 65 tuyến, với tổng chiều
dài: 113,3km. Đường Dân sinh (thôn, xóm) có tổng chiều dài: 393,66 km.
Theo đánh giá chung thì đội ngũ công chức hiện nay của huyện Quế
Sơn đã có nhiều tiến bộ. Tỷ lệ cán bộ, công chức đã qua đào tạo, bồi dưỡng về
chuyên môn nghiệp vụ, lý luận chính trị... tăng lên đáng kể; tinh thần trách
nhiệm trong học tập, công tác; phẩm chất đạo đức, lối sống và phong cách, lề
lối làm việc của đội ngũ công chức cấp cơ sở có sự chuyển biến rõ rệt, phần
lớn họ đều làm việc với thái độ khách quan, vô tư và rất nhiệt tình, hiệu lực,
hiệu quả hoạt động và trình độ quản lý nhà nước ngày càng được hoàn thiện
và nâng cao hơn trước.
Từ năm 2015 đến năm 2018, trình độ chuyên môn của đội ngũ cán bô,
công chức tại huyện Quế Sơn ngày càng được nâng lên đáng kể.
Qua số liệu trên, cho ta thấy sự biến chuyển về chất lượng trình độ
chuyên môn của đội ngũ công chức cấp cơ sở trên địa bàn huyện Quế Sơn từ
năm 2015-2018 tăng theo hướng tích cực. Chất lượng đội ngũ công chức có
trình độ Đại học, Cao đẳng đạt 79,%; điều này cho thấy chất lượng đội ngũ
công chức cấp cơ sở ngày càng được nâng cao, năng lực thực thi công vụ của
đội ngũ công chức ngày càng tốt hơn; chất lượng cung cấp các dịch vụ công
ngày càng được cải thiện và nâng cao hơn trước, từng bước đáp ứng cơ bản
các nhu cầu của người dân, góp phần phát triển kinh tế - xã hội của huyện
Quế Sơn nói riêng, tỉnh Quảng Nam nói chung.
Việc củng cố và nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác tư tưởng, lý
luận, nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, năng lực của cán bộ,
công chức luôn được quan tâm, chú trọng; cụ thể như sau: “xây dựng bản lĩnh
chính trị cho cán bộ,đảng viêncó vai trò vô cùng quan trọng trong giai đoạn
hiện nay, nhất là trong tình hình một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên…,
45
trước mắt cần xây dựng bản lĩnh chính trị cho đội ngũ cán bộ, đảng viên
nhằm tăng cường năng lực lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội”
Đối với huyện Quế Sơn, sau 02 năm thực hiện Nghị quyết 04-
NQ/TU, ngày 12/8/2016 của Tỉnh ủy về nâng cao chất lượng đội ngũ cán
bộ, kiện toàn tổ chức bộ máy giai đoạn 2016-2020 và định hướng đến năm
2025 đội ngũ công chức của huyện đã có bước trưởng thành đáng kể cả về
lượng và chất lượng.
Kết quả trên cho thấy, công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ lý
luận chính trị cho đội ngũ công tại huyện Quế Sơn đã có sự quan tâm đúng
mức, tỷ lệ công chức có trình độ trung cấp lý luận chính trị đạt 95% trở lên;
nâng cao phẩm chất đạo đức, lối sống và phong cách, lề lối làm việc của đội
ngũ công chức tiến bộ rõ rệt.
Chính vì thế, năng lực thực thi công vụ, năng lực thực hiện chủ trương,
đường lối chính sách của Đảng, pháp luật, pháp luật của Nhà nước trên các
lĩnh vực ngày càng tốt hơn; chất lượng cung cấp các dịch vụ công ngày càng
được cải thiện và nâng cao, từng bước đáp ứng cơ bản các nhu cầu của người
dân, góp phần phát triển kinh tế - xã hội của huyện Quế Sơn nói riêng, tỉnh
Quảng Nam nói chung.
Chất lượng đội ngũ công chức trên địa bàn huyện Quế Sơn ngày càng
được nâng lên. Bằng nhiều giải pháp, huyện Quế Sơn đã thực hiện tốt chính
sách đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức tại chỗ, thu hút nhân lực nên có
nhiều chuyển biến khá rõ nét, độ tuổi công chức cấp cơ sở ngày càng được trẻ
hóa và đạt chuẩn theo quy định ngày càng cao. Hàng năm, huyện Quế Sơn cử
từ 25 đến 30 công chức đi học các lớp đào tạo, bồi dưỡng về kiến thức quản
lý nhà nước; lớp sơ cấp, trung cấp lý luận chính trị; lớp trung cấp lý luận hành
chính; lớp kiến thức quản lý hành chính pháp luật; tập huấn, bồi dưỡng các
kiến thức kỹ năng, nghiệp vụ, kỹ năng lãnh đạo, quản lý.
46
Công tác lãnh đạo, chỉ đạo được triển khai kịp thời, nhận thức của các
cấp ủy Đảng, chính quyền, cán bộ, công chức và người dân về vị trí, vai trò
của đội ngũ cán bộ, công chức và sự cần thiết phải thường xuyên đào tạo, bồi
dưỡng cho đội ngũ này ngày càng được nâng lên.
Đối với huyện Quế Sơn, với những thành tựu của công cuộc đổi mới
đất nước và điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội của địa phương. Trong những
năm qua, Huyện Quế Sơn luôn quan tâm, chú trọng đầu tư nhiều hơn nữa cho
công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức. Công tác xây dựng Đảng,
năng lực lãnh đạo của Đảng bộ, hiệu quả quản lý, điều hành của Chính quyền
các cấp đã tạo điều kiện thuận lợi cho cán bộ, công chức tiếp thu kinh nghiệm,
tạo niềm tin, tâm trạng phấn khởi để hứng thú học tập ngày càng tốt hơn.
Thời gian qua, cấp ủy Đảng, chính quyền các cấp đã nhận thức đúng
đắn vai trò quan trọng của công tác thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng;
từ đó đã quan tâm lãnh đạo tạo sự chuyển biến rõ nét trong việc thực hiện
chính sách đào tạo, bồi dưỡng đối với đội ngũ công chức. Tỷ lệ công chức của
huyện Quế Sơn đạt trình độ trung cấp lý luận chính trị, trình độ đại học không
ngừng tăng lên, góp phần tăng tỷ lệ công chức đạt chuẩn theo yêu cầu đặt ra.
Nhìn chung, đội ngũ công chức của huyện Quế Sơn nói chung có bản lĩnh
chính trị vững vàng, phần lớn đã được nâng cao về trình độ, năng lực, bổ sung
kiến thức, kỹ năng cần thiết, đảm nhận tốt các công việc trong thực tiễn; góp
phần lớn trong sự phát triển về mọi mặt trên địa bàn huyện Quế Sơn.
1.3.3.Kinh nghiệm của huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình
Huyện Bố Trạch là một huyện nằm trung tâm của tỉnh Quảng Bình, cửa
ngõ phía Bắc của thành phố Đồng Hới, là một huyện có diện tích và dân số lớn nhất tỉnh với hơn 2.123 km2, chiếm 26,5% diện tích toàn tỉnh; gồm 28 xã
và 02 thị trấn, trong đó có 4 xã tuyến biển, 7 xã giáp biển, 9 xã miền núi, 2 xã
rẻo cao, 3 xã, thị trấn giáp ranh với thành phố Đồng Hới, có sông Gianh giáp
47
ranh với thị xã Ba Đồn và huyện Quảng Trạch. Toàn huyện có 183.181 nhân
khẩu, chiếm gần 21% dân số toàn tỉnh, 44.570 hộ cư trú trên địa bàn 295 thôn, bản, tiểu khu; mật độ dân số 87 người/km2, có 24 km bờ biển, 40 km biên giới
với nước bạn Lào ;với chiều dài bờ biển hơn 24 km với ngư trường rộng lớn,
Bố Trạch có điều kiện lý tưởng để phát triển du lịch biển và phát triển ngành
nuôi trồng, khai thác thủy hải sản; nằm sát sân bay Đồng Hới, có ga đường
sắt, có đường quốc lộ 1A chạy qua, hệ thống đường Hồ Chí Minh 2 nhánh
Đông - Tây, có cửa khẩu quốc tế Cà Roòng – Noọng Ma, có cảng biển, có hệ
thống sông ngòi dày đặc, đặc biệt có 3/5 dòng sông lớn của tỉnh đó là sông
Gianh, sông Lý Hoà và sông Dinh càng tăng thêm vai trò quan trọng của
mạng lưới giao thông của huyện.
Sau khi có Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương
Đảng (khóa VIII) về “Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước”, Chương trình hành động của Tỉnh uỷ Quảng Bình về
việc thực hiện Nghị quyết, Ban Thường vụ Huyện uỷ đã xây dựng kế hoạch tổ
chức thực hiện, tăng cường xây dựng đội ngũ cán bộ, không ngừng nâng cao
phẩm chất chính trị, trình độ, năng lực theo tiêu chuẩn, tiêu chí cán bộ để đáp
ứng yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn trước mắt và lâu dài. Qua 21 năm
thựchiện, đội ngũ cán bộ chủ chốt huyện Bố Trạch đã có nhiều chuyển biến đáng
kể.
Trong quá trình thực hiện công tác tạo nguồn cán bộ, công chức chủ
chốt, huyện Bố Trạch đã triển khai đảm bảo nguyên tắc, đúng quy trình, công
khai, dân chủ; chất lượng cán bộ quy hoạch ở các cấp, các ngành được nâng
lên, số lượng và cơ cấu hợp lý; quy hoạch cho từng chức danh được tăng lên
nhằm từng bước khắc phục tình trạng hẫng hụt cán bộ. Trong quy hoạch, có
sự quan tâm đúng mức đối với cán bộ trẻ, cán bộ nữ được đào tạo cơ bản và
có triển vọng phát triển.
48
Do làm tốt công tác quy hoạch cán bộ nên Huyện ủy đã chủ động hơn
trong công tác cán bộ, nhất là công tác đào tạo, bồi dưỡng, bổ nhiệm, bố trí,
sử dụng và luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý. Quá trình thực hiện công
tác quy hoạch cán bộ ở huyện, các phòng ban, hội đoàn thể và 30 xã, thị trấn
đã bám sát tiêu chuẩn về trình độ chuyên môn nghiệp vụ, lý luận chính trị và
năng lực thực tiễn của từng chức danh cán bộ để tiến hành quy hoạch; qua
nhiều lần tổ chức hội nghị thảo luận đóng góp lấy phiếu tín nhiệm, quá trình
thực hiện quy hoạch cán bộ đã phát huy được trí tuệ tập thể, trách nhiệm cá
nhân, mở rộng dân chủ, coi trọng công tác nhận xét, đánh giá cán bộ, bảo đảm
nguyên tắc tập trung dân chủ, khách quan, công khai. Cán bộ trong diện quy
hoạch đã được rà soát, xem xét về lịch sử chính trị và thái độ chính trị hiện
nay, được tín nhiệm bảo đảm yêu cầu về năng lực, phẩm chất đạo đức.
Về cơ bản, đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý được quy hoạch ở các cấp
của huyện có bản lĩnh chính trị vững vàng, nhiều cán bộ được rèn luyện thử
thách trong thực tiễn, được đào tạo bồi dưỡng nâng cao trình độ mọi mặt, thể
hiện tính năng động sáng tạo, năng lực quản lý điều hành đáp ứng yêu cầu,
nhiệm vụ được giao. Đội ngũ cán bộ ngày càng khẳng định được vai trò vị trí
trên từng lĩnh vực công tác được phân công, bảo đảm tính kế thừa, chuyển
tiếp giữa các thế hệ cán bộ; tạo được thế chủ động trong việc đề bạt, bổ
nhiệm, bố trí cán bộ.
1.3.4. Bài học rút ra cho huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định
Từ thực tiễn xây dựng đội ngũ công chức của những địa phương trên,
tác giả rút ra một số bài học kinh nghiệm cho công tác chất lượng nguồn cán
bộ, công chức của huyện Hoài Nhơn như sau:
Một là, các cấp ủy, tổ chức đảng phải quán triệt đầy đủ, sâu sắc, kịp thời
các quan điểm chỉ đạo của Trung ương về chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đồng thời cần phải xác định rõ trách
49
nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, người đứng đầu cơ quan, đơn vị nhận
thức sâu sắc, đầy đủ mục đích, ý nghĩa và tầm quan trọng của công tác tạo
nguồn cán bộ, công chức chủ chốt của quận. Từ đó đề cao ý thức tự giác, tinh
thần trách nhiệm và làm cho việc tạo nguồn cán bộ mới bảo đảm có chất
lượng và hiệu quả.
Hai là, cần tiếp tục nêu cao trách nhiệm của cơ quan có liên quan. Cơ
quan trực tiếp giúp tham mưu Ban Chấp hành Đảng bộ huyện, Ban Thường
vụ Huyện ủy, Thường trực Huyện ủy về công tác tạo nguồn cán bộ, công
chức chủ chốt là Ban Tổ chức Huyện ủy. Đối với công tác tạo nguồn, Ban Tổ
chức Huyện ủy cần có sự tập trung và sâu sát hơn nữa. Cần chủ động đề ra
chương trình, kế hoạch, quy trình và mục tiêu cụ thể cho công tác tạo nguồn.
Ban Tổ chức Huyện ủy trong quá trình triển khai phải bám sát những quan
điểm, định hướng, nghiên cứu kỹ những văn bản hướng dẫn để tạo sự thống
nhất và khoa học trong hoạt động. Định kỳ, Ban Tổ chức Huyện ủy phải báo
cáo Ban Thường vụ Huyện ủy xem xét, quyết định về tiến độ, mục tiêu đạt
được trong công tác tạo nguồn cán bộ, công chức chủ chốt ở mỗi giai đoạn.
Ba là, phải quán triệt tư tưởng, công tác tạo nguồn cán bộ là công tác
lâu dài, là việc làm thường xuyên của cấp ủy và nhất là không có tính “mùa
vụ”. Cho nên cần phải xây dựng một chương trình nghiêm túc, xác định cụ
thể đối tượng dự nguồn, coi trọng xem xét, đánh giá cán bộ trước, bảo đảm
đánh giá cán bộ phải khách quan, toàn diện. Đồng thời cần mở rộng dân chủ
để phát hiện nguồn cán bộ, khắc phục tình trạng cục bộ khép kín, định kiến,
hẹp hòi đối với cán bộ, nhất là cán bộ nữ, cán bộ trẻ.
Bốn là, trong công tác tạo nguồn cán bộ, công chức chủ chốt, không
đơn thuần là xác lập danh sách và theo dõi một cách thụ động. Đảng bộ phải
có các chương trình cụ thể nhằm gắn kết đối tượng dự nguồn này với các
chương trình đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, đề bạt bổ nhiệm, luân chuyển, sử
50
dụng để cán bộ được trưởng thành tốt hơn trong thực tiễn công tác, đủ điều
kiện để “vào vị trí”.
51
Tiểu kết Chương 1
Trong Chương I, Luận văn đã hệ thống, làm rõ cơ sở lý luận về tạo
nguồn cán bộ chủ chốt chính quyền cấp huyện trong hệ thống chính trị ở nước
ta; kinh nghiệm một số địa phương, từ đó rút ra bài học kinh nghiệm trong
công tác tạo nguồn cán bộ chủ chốt cho chính quyền huyện Hoài Nhơn, tỉnh
Bình Định. Trên cơ sở khung lý thuyết nêu trên, luận văn sẽ làm căn cứ để
phân tích, đánh giá thực trạng công tác tạo nguồn cán bộ chủ chốt cho chính
quyền huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định.
52
Chương 2
THỰC TRẠNG CÔNG TÁC TẠO NGUỒN
CÁN BỘ CHỦ CHỐT CHO CHÍNH QUYỀN
HUYỆN HOÀI NHƠN, TỈNH BÌNH ĐỊNH
2.1. Khái quát về huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định và các nhân tố
tác động đến công tác tạo nguồn cán bộ chủ chốt cấp huyện ở huyện Hoài
Nhơn, tỉnh Bình Định.
2.1.1. Khái quát về huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định
2.1.1.1. Điều kiện tự nhiên
Hoài Nhơn là huyện duyên hải miền Trung, nằm ở phía Bắc tỉnh Bình
Định, giới hạn từ 14021’20” đến 14031’30” vĩ độ Bắc và từ 108056’đến
109006’50” kinh độ Đông; phía Bắc giáp huyện Đức Phổ tỉnh Quảng Ngãi,
phía Nam giáp huyện Phù Mỹ, phía Tây giáp huyện Hoài Ân và huyện An
Lão; phía Đông giáp Biển Đông.
Huyện Hoài Nhơn có 17 đơn vị hành chính gồm 2 thị trấn và 15 xã.
Năm 2019, diện tích toàn huyện hiện có 420,84 km², dân số 211.340 người,
trong đó: nữ 108.593 người, mật độ dân số 502 người/km², 14,1% dân số sống
ở thành thị và 85,9% dân số sống ở nông thôn.
Huyện Hoài Nhơn có vị trí rất thuận lợi cho việc hợp tác, trao đổi và
thương mại với các huyện: Phù Mỹ, Hoài Ân và An Lão trên địa bàn tỉnh và
tỉnh Quảng Ngãi. Huyện có hệ thống giao thông khá thuận lợi như: Quốc lộ
1A; tuyến đường sắt Bắc - Nam; có 01 bến xe khách và bờ biển dài 24 km, là
nơi trao đổi thuận tiện cho phát triển nghề đánh bắt xa bờ. Đặc biệt, với cảng
cá Tam Quan và tuyến ĐT 639 (đường ven biển Nhơn Hội – Tam Quan) tạo
nên tiềm năng phát triển du lịch và kinh tế biển của huyện.
53
2.1.1.2. Đặc điểm kinh tế
Trong chiến lược phát triển KT - XH đến năm 2025 và những năm tiếp
theo, Hoài Nhơn xác định phát triển KT - XH của huyện phải phù hợp với quy
hoạch chung của tỉnh và đặt trong mối quan hệ với các tỉnh lân cận; dựa trên
cơ sở phát huy cao độ nội lực và khai thác tối đa các nguồn lực huy động
ngoài huyện, bằng cách tăng cường liên doanh, liên kết và hợp tác với các địa
phương trong khu vực, trong nước và nước ngoài để khai thác có hiệu quả các
tiềm năng lợi thế, đặc biệt là lợi thế biển và đô thị Bồng Sơn. Theo quy hoạch
chung đô thị Bình Định đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2050 thì toàn bộ
huyện Hoài Nhơn sẽ được nâng cấp lên thành thị xã Hoài Nhơn vào năm 2025
và thành thành phố Hoài Nhơn vào năm 2035.
Hiện nay, kinh tế huyện Hoài Nhơn có bước tăng trưởng khá, năm sau
cao hơn năm trước. Khu vực nông nghiệp vẫn tăng về số tuyệt đối nhưng tỷ
trọng giảm dần, khu vực công nghiệp - xây dựng và thương mại - dịch vụ tăng
đáng kể; cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng và có chuyển biến vượt bậc,
công nghiệp - xây dựng 59,61%; dịch vụ - thương mại 16,63%; nông - lâm -
ngư nghiệp 23,76%; tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân/năm đạt 18,58%
(tăng 5,98%), thu nhập bình quân đầu người đạt 43,35 triệu đồng/người/năm
(tăng 16,55 triệu đồng/người/năm) so với năm 2015. Chương trình mục tiêu
quốc gia về xây dựng nông thôn mới và đô thị văn minh được tập trung thực
hiện từ huyện đến cơ sở, đến nay có 15/15 xã đạt chuẩn nông thôn mới, 2 thị
trấn (Bồng Sơn, Tam Quan) đạt chuẩn đô thị văn minh.
Bên cạnh những thuận lợi, kết quả đạt được trong những năm qua,
huyện Hoài Nhơn đang đối mặt với nhiều khó khăn và thách thức:
Là huyện có diện tích lớn, xuất phát từ một nền kinh tế nông nghiệp,
điểm xuất phát kinh tế thấp, mức tăng trưởng còn dưới tiềm năng, chuyển
dịch cơ cấu kinh tế ở huyện có bước phát triển nhưng còn chậm, sức cạnh
54
tranh của sản phẩm nông nghiệp còn thấp, thu nhập bình quân đầu người còn
khiêm tốn, chưa có nhiều sản phẩm mang thương hiệu và tạo nguồn thu lớn
cho ngân sách của huyện. Bên cạnh đó, hiện nay, nhiều vấn đề xã hội còn nổi
cộm, bức xúc như: tệ nạn ma tuý, trộm cắp, tín dụng đen, tai nạn giao thông,
tai nạn lao động, tàu thuyền bị nước ngoài bắt giữ khi ngư dân hành nghề trên
biển còn diễn biến phức tạp; đời sống của một bộ phận Nhân dân còn rất
nhiều khó khăn, thiếu thốn. Vì vậy, để tốc độ tăng trưởng kinh tế huyện ổn
định trong thời gian đến, cùng với sự chuyển dịch cơ cấu trong các ngành
kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng đối với ngành công nghiệp và dịch vụ, đồng
thời cơ cấu đội ngũ cán bộ, công chức ngày càng có sự phân hóa theo sự
chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế, là một trong những điều kiện cơ bản để
huyện Hoài Nhơn phát triển KT-XH và cũng đặt ra yêu cầu đối với đội ngũ
cán bộ, công chức trong huyện phải thường xuyên nâng cao phẩm chất chính
trị, đạo đức, lối sống và trình độ chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng lãnh đạo,
điều hành,...
2.1.2. Các nhân tố tác động đến công tác tạo nguồn cán bộ chủ chốt
cấp huyện ở huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định
2.1.2.1. Thuận lợi
Cũng như các địa phương khác trên cả nước, Hoài Nhơn triển khai thực
hiệnNghị quyết Trung ương 3 (khóa VIII) về “Chiến lược cán bộ thời kỳ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” từ rất sớm,Ban Thường vụ Huyện uỷ đã
ban hành nhiều quyết định về công tác cán bộ, đây là những căn cứ để thực
hiện quy trình công tác cán bộ vừa đảm bảo các nguyên tắc cơ bản về xây
dựng đội ngũ cán bộ nêu trongNghị quyết Trung ương 3đi kèm với thực hiện
kiểm điểm phê bình và tự phê bình nghiêm túc đối với đội ngũ cán bộ đảng
viên theo tinh thầnNghị quyết Trung ương 4 (khoá XI) và Nghị quyết Trung
ương 4 (khoá XII) về “Tăng cường xây dựng chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy
55
lùi suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “ tự
diễn biến, “tự chuyển hoá” trong nội bộ” nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ
cán bộ, công chức, nhất là cán bộ chủ chốt các cấp phù hợp với tình hình thực
tế đảm bảo hiệu quả công tác lãnh chỉ đạo quá trình phát triển kinh tế - xã hội
của huyện. Huyện đã có những đổi mới trong các khâu về công tác cán bộ
nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp có phẩm chất, năng
lực đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong thời kỳ phát triển mới.
Công tác quy hoạch cán bộ của huyện trong10 năm qua đã từng bước
khắc phục tình trạng bị động, hẫng hụt nguồn cán bộ, bảo đảm sự kế thừa và
phát triển. Công tác xây dựng quy hoạch tổ chức đúng quy trình, đảm bảo dân
chủ, trách nhiệm; cấp uỷ các cấp đã chú ý đưa vào quy hoạch dự nguồn cán
bộ nữ, cán bộ trẻ và có trình độ học vấn, có khả năng đào tạo phát triển lâu
dài; thực hiện đúng phương châm quy hoạch “động” và “mở”, một vị trí có
thể quy hoạch nhiều người, một người có thể quy hoạch nhiều chức danh;
luôn xem xét đưa ra khỏi quy hoạch những người không đủ tiêu chuẩn, đồng
thời bổ sung nhiều nhân tố mới đủ tiêu chuẩn, có triển vọng, cụ thể như
Chương trình hành động của Tỉnh uỷ Bình Định về thực hiện Nghị quyết Đại
hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIX, nhiệm kỳ 2016 - 2020 và Chương trình hành
động của Ban Thường vụ Huyện uỷ về việc thực hiện Chương trình hành
động của Tỉnh uỷ Bình Định về công tác cán bộ cho công tác quy hoạch cán
bộ chủ chốt của tỉnh, huyện, thành phố, thị xã,trong đó có quy định cán bộ,
công chức sinh sau năm 1975 nếu được quy hoạch cán bộ chủ chốt phải có
bằng đại học chính quy, lý luận cao cấp chính trị phải học tập trung, kể cả có
bằng thạc sĩ mà đại học không chính quy vẫn không được quy hoạch cán bộ
chủ chốt.
Trong công tác quản lý cán bộ, việc bổ nhiệm cán bộ và giới thiệu cán
bộ ứng cử đều thực hiện đúng quy định. Phân cấp quản lý cán bộ rõ ràng, chặt
56
chẽ; cán bộ được bổ nhiệm và giới thiệu ứng cử đảm bảo đúng tiêu chuẩn, đủ
năng lực đảm đương công việc, phần lớn được sự tín nhiệm của tổ chức, đồng
nghiệp và nhân dân. Nhìn chung, công tác bổ nhiệm cán bộ vừa đảm bảo
nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể ban thường vụ cấp uỷ quyết định việc
bổ nhiệm cán bộ vào chức danh được phân cấp quản lý, vừa phát huy vai trò
của lãnh đạo, cấp uỷ cơ quan nơi cán bộ đang công tác, sinh hoạt và cấp uỷ
nơi cư trú. Cán bộ mới bổ nhiệm diện Ban Thường vụ Huyện uỷ quản lý có
chất lượng cao hơn trước kể cả về năng lực lãnh đạo, quản lý, trình độ chuyên
môn và lý luận chính trị.Ví dụ, từ năm 2009 đến nay, đã có 274 lượt cán bộ
được bổ nhiệm, giới thiệu ứng cử vào các chức danh diện Ban Thường vụ
Huyện uỷ quản lý; trong đó: nữ 36 (13,1%), bổ nhiệm chức vụ cao hơn 159.
Bổ nhiệm, giới thiệu 709 lượt cán bộ vào chức danh thuộc các phòng, ban,
ngành trong đó nữ có 118 (16,6%).
Trong công tác đào tạo cán bộ, đến nay, toàn huyện đã cử 1.729 lượt
cán bộ, công chức đi đào tạo các lớp lý luận chính trị, 562 cán bộ, công chức
được cử đi học đại học, thạc sĩ, tiến sĩ; riêng 10 năm trở lại đây có hơn680
cán bộ, công chức được cử đi học đại học, thạc sĩ, tiến sĩ,đây có thể được coi
là một chương trình tạo nguồn từ xa cho cán bộ, công chức của huyện rất
thành công.
Ngoài những nội dung về công tác cán bộ như trên, huyện cũng có
nhiều chủ trương, giải pháp mang tính đột phá, thể hiện sự đổi mới về tư duy
trong tạo nguồn cán bộ. Nhiều cán bộ trẻ, cán bộ nữ có năng lực nổi trội, có
phẩm chất tốt được bổ nhiệm và giới thiệu ứng cử vào các chức danh lãnh đạo
chủ chốt của các phòng, ban, ngành và tương đương, tạo nên sinh khí mới,
niềm tin phấn đấu, cống hiến cho đội ngũ cán bộ chủ chốt các cấp.
Bằng cách đưa cán bộ về cơ sở vừa nâng cao kinh nghiệm thực tiễn cho
cán bộ vừa tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo cho các cơ sở còn yếu, còn nhiều
57
vấn đề,trong 5 năm trở lại đây huyện đã luân chuyển 15 cán bộ lãnh đạo các
ban ngành cấp huyện về giữ các chức vụ chủ chốt của các xã, trị trấn như bí
thư, phó chủ tịch. Hầu hết các học viên qua quá trình công tác đã phát huy
được năng lực, kiến thức, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.Đối với công tác
tạo nguồn cán bộ, công chức lâu dài, từ năm 2009 đến nay huyện đã cử 420
cán bộ, học viên đi học với 501 lượt (406 đại học, 95 thạc sĩ) và đã có 250
học viên hoàn thành chương trình học về nhận công tác.
Có thể nhận thấy,sau 15 năm thực hiện Nghị quyết 33-NQ/TW của Bộ
Chính trị (khóa IX) công tác xây dựng đội ngũ cán bộ của huyện Hoài Nhơn
đã đạt được nhiều kết quả quan trọng. Qua các chương trình, đề án phát triển
nguồn nhân lực dành cho cán bộ, công chức từ cấp tỉnh cho đến cấp cơ sở,
tỉnh đã hình thành lên một đội ngũ cán bộ trẻ với nhiều tuyến, nhiều lớp có
bản lĩnh chính trị, đạo đức trong sáng. Những nguồn nhân lực này được đào
tạo bài bản, khoa học, đúng chuyên môn trở thành đội ngũ kế cận xứng đáng
của lớp cán bộ, công chức hiện nay.
2.2.1.2.Khó khăn, thách thức
Một là, hệ thống thể chế công tác cán bộ nhiều nhưng thiếu chặt chẽ,
thậm chí bị bóp méo, không bảo đảm tính hiệu lực, hiệu quả. Nhiều trường
hợp bổ nhiệm cán bộ sai bị phát hiện đều được khẳng định là đúng quy trình,
đúng quy định. Vì vậy, cần xem xét lại nội dung của các quy trình, quy định,
đồng thời kiểm soát chặt chẽ, duy trì nghiêm kỷ luật từ trên xuống, từ trong
Đảng cho đến ngoài xã hội.
Hai là, đội ngũ cán bộ ngày càng tăng nhưng hiệu lực, hiệu quả xử lý
công việc còn thấp và chậm. Một trong những nguyên nhân của tình trạng
trên là tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị cồng kềnh với nhiều tầng nấc
trung gian, cơ cấu đội ngũ cán bộ có sự chồng chéo, trùng lặp, cản trở lẫn
nhau trong thực hiện nhiệm vụ. Do đó, cần xây dựng đội ngũ cán bộ tinh gọn,
58
có chất lượng gắn với đổi mới tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị hoạt
động hiệu lực, hiệu quả.
Ba là, đội ngũ cán bộ có bằng cấp ngày càng cao, nhưng năng lực,
phẩm chất và uy tín chưa ngang tầm nhiệm vụ. Vì vậy, cần xem xét lại nội
dung, chất lượng, cách tổ chức việc đào tạo, bồi dưỡng và chất lượng của các
loại bằng cấp. Xem xét lại các quy định sử dụng cán bộ, trách nhiệm của mỗi cá
nhân, mỗi cấp… để phát huy được tính chủ động, sáng tạo của đội ngũ cán bộ.
Bốn là, tình trạng thiếu đồng bộ của đội ngũ cán bộ. Trên thực tế, công
tác cán bộ những năm qua hầu như chỉ tập trung vào đội ngũ cán bộ lãnh đạo,
quản lý các cấp. Đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế, quản trị cho các thành phần
kinh tế chưa được quan tâm đào tạo và sử dụng hiệu quả. Đội ngũ cán bộ
khoa học, kỹ thuật, công nghệ, quản lý kinh tế, quản trị… còn thiếu, nhất là
các cán bộ chuyên gia giỏi, đầu ngành.
Năm là, tổ chức bộ máy làm công tác cán bộ chậm đổi mới, một số mặt
chưa phù hợp với yêu cầu của tình hình mới. Hiện tượng tiêu cực “cán bộ đi
tìm tổ chức”, bổ nhiệm, đề bạt sai trước hết là trách nhiệm thuộc về cấp ủy và
các cơ quan làm công tác cán bộ. Chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo
đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, “lợi ích nhóm” trong Đảng và
xã hội trước hết phải chống từ trong các cơ quan làm công tác cán bộ, nhất là
người đứng đầu.
2.2. Thực trạng đội ngũ cán bộ chủ chốt chính quyền huyện Hoài
Nhơn, tỉnh Bình Định
2.2.1. Đặc điểm chung đội ngũ cán bộ, công chức huyện
Sau khi có Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương
Đảng (khóa VIII) về “Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước”, Chương trình hành động của Tỉnh uỷ Bình Định về
việc thực hiện Nghị quyết,Ban Thường vụ Huyện uỷ đã xây dựng kế hoạch tổ
59
chức thực hiện, tăng cường xây dựng đội ngũ cán bộ, không ngừng nâng cao
phẩm chất chính trị, trình độ, năng lực theo tiêu chuẩn, tiêu chí cán bộ để đáp
ứng yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn trước mắt và lâu dài.Qua nhiều năm
thực hiện,đội ngũ cán bộ chủ chốt huyện Hoài Nhơn đã có nhiều chuyển biến
đáng kể.
Thứ nhất, về phẩm chất chính trị, cán bộ, công chức của huyện đại đa
số có bản lĩnh chính trị vững vàng, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, vào
công cuộc đổi mới đất nước, cần cù, sáng tạo, chịu khó, có khả năng tiếp cận
cái mới nhanh, nhiệt tình, tâm huyết vì sự phát triển của huyện. Tuy nhiên,
cũng có một số trường hợp có biểu hiện suy thoái về tư tưởng đạo đức và lối
sống, bị xem xét kỷ luật. Có những cán bộ lo vun vén lợi quyền cho cá nhân,
gia đình, đơn vị mình hơn là chăm lo việc tập thể, việc cơ quan, việc dân, chỉ
lo đời sống vật chất, coi nhẹ đời sống tinh thần, chỉ lo trước mắt không quan
tâm đến những vấn đề cơ bản lâu dài, còn quan liêu, sống xa cách dân, không
sát cơ sở, có biểu hiện “tự diễn biến, tự chuyển hoá”.
Về trình độ chuyên môn, lý luận chính trị, đội ngũ này được đào tạo cơ
bản, có trình độ kiến thức chuyên môn nghiệp vụ từ đại học trở lên.Ví dụ,hiện
nay trong tổng số 282 cán bộ, công chức cấp huyện có 32 người có trình độ
trên đại học, chiếm 11,3%; 263 người có trình độ cao đẳng, đại học chiếm
93,6%;83 người có trình độ lý luận chính trị cao cấp, chiếm 29,53%;107
người có độ tuổi dưới 40 tuổi, chiếm 34%; 175 người 50 tuổi trở lên, chiếm
16%.Bên cạnh đó, đối tượng này được quan tâm trang bị thêm nhiều kiến
thức tin học, quản lý nhà nước, quản lý kinh tế, kiến thức về quốc phòng và
an ninh. Tuy nhiên, một bộ phận còn yếu về trình độ ngoại ngữ, trình độ tin
học để tiếp cận với kiến thức chuyên môn nghiệp vụ.
Thứ hai, đội ngũ cán bộ này giữ vai trò quan trọng trong hệ thống chính
trị của huyện Hoài Nhơn.Là một huyện không có nhiều nguồn dân cư nhập cư
60
nên cán bộ, công chức ở đây thực sự có tinh thần đoàn kết, tương trợ lẫn
nhau. Tuy nhiên, vẫn còn có tình trạng cục bộ địa phương theo hướng nội xã,
thị trấn, nội tộc ảnh hưởng đến chất lượng của cán bộ, công chức được tuyển
vào, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, uy tín của người được bổ nhiệm chưa
nhận được sự đồng tình và được đánh giá cao của cán bộ, đảng viên.
Thứ ba, trong điều kiện tỉnh Bình Định và đặc biệt là huyện Hoài Nhơn
đang phát triển năng động, tốc độ phát triển đô thị và quá trình xây dựng nông
thôn mới đã và đang diễn ra nhanh, đội ngũ cán bộ huyện đã tỏ ra khá năng
động, luôn tìm tòi, sáng tạo, có ý thức phấn đấu vươn lên nhằm đáp ứng yêu
cầu ngày càng cao trong sự nghiệp xây dựng và phát triển huyện. Tuy nhiên,
cũng còn một bộ phận do có quá trình gắn bó và công tác lâu dài tại huyện có
tư tưởng “công thần”, “cuối mùa”, bảo thủ, trì trệ trong nhận thức, đôi lúc còn
tỏ thái độ bất mãn, “chống đối” về mặt tư tưởng, chưa thực sự tiếp thu với cái
mới, nên chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu của công việc mới.
Thứ tư, cơ cấu và thành phần xuất thân của đội ngũ cán bộ huyện tương
đối đa dạng, đa số là cán bộ có quá trình công tác tại huyện Hoài Nhơn, có sự
gắn bó với huyện. Tuy nhiên, có sự chênh lệch và mất cân đối lớn về độ tuổi.
Trong tổng số 282 cán bộ, công chức của toàn huyện, xét về độ tuổi,có
107 người có độ tuổi dưới 40 tuổi, chiếm 37,9%; 98 người có độ tuổi từ 41
đến 50 chiếm 34,7% và 27,4% có độ tuổi trên 50. Như vậy, cán bộ, công chức
có độ tuổi dưới 40 chiếm tỷ lệ gần 50%, song độ tuổi kế cận cho đội ngũ cán
bộ, chủ chốt hiện nay lại khá thấp, trong khi đó đối tượng trên 50 tuổi là
những người nắm các chức vụ chủ chốt và cốt cán của huyện, sau khi họ về
hưu sẽ hụt hẫng đội ngũ cán bộ kế cận, trong khi đó độ tuổi 41 đến 50 tuy
nhiều nhưng xét về yêu cầu quy hoạch bổ nhiệm lại rất ít vì trình độ đại học
đa phần là tại chức, số cán bộ công chức có trình độ chính quy và trên đại học
chính quy nằm trong số từ 35 - 40 tuổi. Chính vì vậy, trong giai đoạn 2020 -
61
2025, công tác tạo nguồn kế thừa của đội ngũ cán bộ, công chức chủ chốt của
huyện sẽ gặp nhiều khó khăn.
Những đặc điểm cơ bản trên đã đặt ra những yêu cầu cấp bách cho Ban
Chấp hành Đảng bộ huyện, Ban Thường vụ Huyện uỷ thực hiện các biện pháp
có tính khả thi để tạo nguồn cán bộ, công chức vững vàng về chính trị, trong
sạch về đạo đức lối sống, có tư duy tốt, có năng lực, có tâm, có tầm trở thành
thành lực lượng kế cận xứng đáng, và đáp ứng đúng được yêu cầu phát triển
huyện trong giai đoạn tới.
2.2.2. Số lượng và cơ cấu và chức danh cán bộ chủ chốt chính quyền
Đội ngũ cán bộ, công chức này gồm những cán bộ lãnh đạo hiện nay
đang công tác tại các cơ quan tham mưu của Huyện ủy, Ủy ban nhân dân
huyện, đảng ủy các xã, thị trấn, các đảng ủy trực thuộc Huyện ủy, các phòng
ban của huyện, Mặt trận tổ quốc Việt Nam huyện và các tổ chức chính trị - xã
hội cấp huyện và lực lượng vũ trang đóng trên địa bàn huyện.
Đội ngũ cán bộ, công chức chủ chốt có trách nhiệm thực hiện tốt chức
trách và nhiệm vụ là: lãnh đạo các cấp, các ngành, Mặt trận Tổ quốc và các
đoàn thể chính trị - xã hội của huyện thực hiện tốt các chỉ thị, nghị quyết của
Đảng, pháp luật của nhà nước và các chỉ thị, nghị quyết của Đảng bộ tỉnh
Bình Định thông qua việc lãnh đạo và tổ chức thực hiện các nhiệm vụ phát
triển kinh tế xã hội, an ninh, quốc phòng; xây dựng đảng và hệ thống chính trị
trên lĩnh vực được phân công phụ trách.
2.2.2.1. Các chức danh cán bộ chủ chốt cụ thể của huyện Hoài Nhơn
- Khối chính quyền:
+ Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện (Phó Bí thư Huyện ủy kiêm nhiệm);
+ Các phó chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện;
+ Chánh, Phó Chánh Văn phòng Ủy ban nhân dân huyện;
+ Trưởng phòng, phó trưởng phòng và tương đương;
62
- Khối xã:
+ Bí thư, phó bí thư đảng ủy các xã, thị trấn;
+ Chủ tịch, phó chủ tịch ủy ban nhân dân các xã, thị trấn .
Ngoài các nhóm cán bộ chủ chốt nêu trên, có thể xác định thêm một
nhóm cán bộ, công chức chủ chốt công tác tại cơ quan song trùng đóng
trên địa bàn huyện bao gồm:
+ Chỉ huy trưởng, Phó Chỉ huy trưởng Ban Chỉ huy Quân sự huyện;
+ Chính trị viên Đảng ủy Quân sự huyện;
+ Trưởng, Phó Công an huyện;
+ Chánh án, Phó Chánh án Toà án nhân dân huyện;
+ Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện;
+ Chi cục trưởng, Phó Chi cục trưởng Chi cục Thi hành án dân sựhuyện;
+ Trưởng, Phó Chi cục Thuế huyện;
+ Giám đốc, Phó Giám đốc Kho bạc Nhà nước huyện;
+ Giám đốc, Phó Giám đốc Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn huyện;
+ Giám đốc, Phó giám đốc Ngân hàng chính sách xã hội huyện;
+ Giám đốc, Phó Giám đốc Bảo hiểm xã hội huyện;
+ Chi cục trưởng, Chi cục phó Chi cục Thống kê;
+ Chi cục trưởng, Chi cục phó Chi cục Thi hành án Dân sự;
+ Giám đốc, Phó Giám đốc Trung tâm Y tế huyện;
+ Giám đốc, phó Giám đốc Bệnh viện đa khoa huyện.
Trên thực tế, nhiều cán bộ, công chức chủ chốt này vẫn tham gia hoạt
động trong cấp ủy của huyện. Ví dụ: các Chỉ huy trưởng Ban Chỉ huy quân sự
huyện và Trưởng Công an huyện thường được cơ cấu trong Ủy viên Thường
vụ Huyện ủy; các Chánh án Tòa án nhân dân, Viện trưởng Viện Kiểm sát
nhân dân, Chi cục trưởng Chi cục Thuế huyện, Giám đốc Kho bạc Nhà nước
63
huyện là Uỷ viên Ban Chấp hành Đảng bộ huyện. Tuy nhiên, xét ở nội dung
tạo nguồn cho cán bộ, công chức chủ chốt của huyện thì các đối tượng nêu
trên lại không nằm trong phạm vi điều chỉnh của Đảng bộ và chính quyền
huyện vì công tác tổ chức, cán bộ của các cơ quan song trùng nói trên nằm
trong cấp quản lý của các ngành đó, địa phương chỉ tham gia ý kiến hiệp y
nhưng không mang tính quyết định. Chính vì vậy, luận văn không đề cập đến
các đối tượng nêu trên.
2.2.2.2. Về số lượng
Theo số liệu của Ban Tổ chức Huyện ủy Hoài Nhơn, tổng số cán bộ,
công chức chủ chốt huyện Hoài Nhơn hiện nay (tính đến ngày 30 tháng 12
năm 2019) gồm 111, với số lượng cụ thể ở từng khối là:
- Khối chính quyền: 30 người
- Khối xã, thị trấn: 79 người
Bảng 2.1: Số lượng từng loại cán bộ, công chức chủ chốt
chính quyền huyện Hoài Nhơn
KHỐI
Phó Chủ tịch HĐND huyện
Phó Trưởng phòng và tương đương
TT I. Khối chính quyền 1. Chủ tịch HĐND huyện (Bí thư kiêm nhiệm) 2. 3. Chủ tịch UBND huyện (Phó Bí thư kiêm nhiệm) Phó Chủ tịch UBND huyện 4. 5. Trưởng phòng và tương đương 6. II. Khối xã, thị trấn 1. Bí thư Đảng uỷ xã, thị trấn 2. 3. 4. Phó Bí thư Đảng uỷ xã, thị trấn PBT, Chủ tịch UBND xã, thị trấn Phó Chủ tịch UBND xã, thị trấn
Người 32 1 1 1 3 12 14 79 17 17 15 30 111 TỔNG CỘNG
Nguồn: Ban Tổ chức huyện ủy - Phòng Nội vụ huyện Hoài Nhơn 2019
64
Như vậy, có thể nói so với vị trí là một huyện phát triển của tỉnh, nhất
số lượng cán bộ, công chức chủ chốt của huyện Hoài Nhơn ở mức trung bình.
2.2.3.3. Về cơ cấu độ tuổi
Độ tuổi trung bình của cán bộ, công chức chủ chốt huyện Hoài Nhơn là
35.Cơ cấu độ tuổi cán bộ, công chức chủ chốt có sự thay đổi tích cực. Độ tuổi
thấp dần so với độ tuổi các nhiệm kỳ trước. Trong tổng số 111 cán bộ, công
chức chủ chốt hiện nay,cơ cấu độ tuổi bình quân giữa các thế hệ có tỷ lệ như
sau:
- Dưới 35 tuổi: 12 người, chiếm tỷ lệ 8,6 %
- Từ 36 đến 40 tuổi: 28 người, chiếm tỷ lệ 24,1%
- Từ 41 tuổi đến 45 tuổi: 29 người, chiếm tỷ lệ 28,6%
- Từ 46 đến 50 tuổi: 20 người, chiếm tỷ lệ 20,5%
- Từ 50 đến 55 tuổi: 12 người, chiếm tỷ lệ 10,9%%
- Từ 56 đến 60 tuổi: 8 người, chiếm tỷ lệ 5,8 %
- Trên 60 tuổi: 2 người, chiếm tỷ lệ 1,5%
Trên cơ sở cơ cấu tuổi bình quân của đội ngũ cán bộ, công chức chủ
chốt huyện, cơ cấu độ tuổi của từng loại cán bộ và cơ cấu giữa các loại cán bộ
theo phân cấp của Huyện uỷ Hoài Nhơn được thể hiện như sau:
Khối chính quyền: Tổng số 32 người, trong đó cơ cấu cụ thể của các
nhóm độ tuổi là: dưới 35 tuổi: 02 người, chiếm 3,3%; từ 36 tuổi đến 40 tuổi:
04 người chiếm 10%; từ 41 đến 45 tuổi: 06 người, chiếm 20%; từ 46 đến 50
tuổi: 08 người, chiếm 26,7%; từ 51 đến 55 tuổi: 07 người, chiếm 23,3%; từ 56
đến 60 tuổi: 05 người, chiếm 16,7%;
Khối xã, thị trấn: Tổng số 79 người, trong đó cơ cấu cụ thể của các
nhóm độ tuổi là: dưới 35 tuổi: 3 người, chiếm 3,8%; từ 36 tuổi đến 40 tuổi: 29
người, chiếm 36,7%; từ 41 đến 45 tuổi: 25 người, chiếm 31,6%; từ 46 đến 50
65
tuổi: 10 người, chiếm 12,7% ; từ 51 đến 55 tuổi: 8 người, chiếm 10,1% ; từ 56
đến 60 tuổi: 04 người, chiếm 5,1%.
2.2.2.4. Cơ cấu về giới tính, thành phần xuất thân, thâm niên công tác
Về cơ cấu giới tính, trong 111 cán bộ, công chức chủ chốt của huyện có
15 cán bộ, công chức nữ chiếm 10,9%, cán bộ, công chức nam 95 người,
chiếm 69,4%; khối xã, thị trấn có 27 nữ, chiếm 19,7%.
Về thâm niên chức vụ hiện tại của cán bộ công chức chủ chốt huyện, từ
01- 10 năm là 60%; từ 10 đến 15 năm là 40%.
Về trình độ học vấn phổ thông, theo thống kê của Ban Tổ chức Huyện
ủy Hoài Nhơn, tính đến tháng 12 năm 2019, trong tổng số 111 cán bộ, công
chức chủ chốt của huyện, có 100% người đã tốt nghiệp trung học phổ thông
(và tương đương).
Về trình độ chuyên môn, trong tổng số 111cán bộ công, chức chủ chốt,
có 172 người (chiếm 100%) có bằng đại học và cao đẳng. Tuy nhiên, chất
lượng đào tạo trong trình độ chuyên môn lại không có sự đồng đều. Trong số
137 người này có đến 25 người là có bằng bằng đại học từ xa, 37 người có
bằng đại học tại chức, chiếm 45,2% tổng số người có bằng đại học - cao đẳng;
20 người có bằng thạc sĩ, chiếm gần 14,5%.
Về trình độ lý luận chính trị, trong số 111 cán bộ chủ chốt, có 87 người
có trình độ lý luận chính trị cao cấp, cử nhân, chiếm 63,5%; 40 người có trình
độ lý luận chính trị trung cấp hoặc tương đương, chiếm 36,5% tổng số cán bộ
chủ chốt.
2.3. Tình hình thực hiện các khâu trong công tác tạo nguồn cán bộ,
công chức chủ chốt chính quyền huyện Hoài Nhơn
2.3.1. Tổ chức thực hiện công tác quy hoạch để tạo nguồn cán bộ
chủ chốt
66
Trong quá trình thực hiện công tác tạo nguồn cán bộ, công chức chủ
chốt, huyện Hoài Nhơn đã triển khai đảm bảo nguyên tắc, đúng quy trình,
công khai, dân chủ; chất lượng cán bộ quy hoạch ở các cấp, các ngành được
nâng lên, số lượng và cơ cấu hợp lý; quy hoạch cho từng chức danh được tăng
lên nhằm từng bước khắc phục tình trạng hẫng hụt cán bộ. Trong quy hoạch,
có sự quan tâm đúng mức đối với cán bộ trẻ, cán bộ nữ được đào tạo cơ bản
và có triển vọng phát triển.
Kết quả quy hoạch các chức danh cán bộ lãnh đạo chủ chốt huyện
nhiệm kỳ 2020 - 2025: 22 lượt, trong đó có 6 lượt nữ (chiếm tỷ lệ 27,3%);tuổi
đời bình quân 40 tuổi; 22 người có trình độ chuyên môn từ đại học trở lên
(100%); 20 người có trình độ cử nhân, cao cấp lý luận chính trị (90,9%).
Kết quả quy hoạch các chức danh cán bộ lãnh đạo chủ chốt các xã, thị
trấn, nhiệm kỳ 2020 - 2025: 377 lượt, trong đó có 141 lượt nữ (chiếm tỷ lệ
37,4%); tuổi đời bình quân 34 tuổi; trình độ chuyên môn: cao đẳng, đại học
243 (64,46%), trung cấp 134 (35,54%); 246 có trình độ trung cấp lý luận
chính trị (65,25%).
Nhìn chung, công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý của huyện đã
đi vào nền nếp, chất lượng cán bộ quy hoạch ở các cấp được nâng lên, số
lượng và cơ cấu hợp lý, cán bộ quy hoạch cho từng chức danh được tăng lên,
đã khắc phục được tình trạng thiếu hụt cán bộ khi điều động luân chuyển.
Tiêu chuẩn và số lượng nguồn cán bộ đưa vào quy hoạch, tỷ lệ cán bộ nữ, cán
bộ trẻ cơ bản đảm bảo theo nghị quyết của Bộ Chính trị, hướng dẫn của Ban
Tổ chức Trung ương và của Tỉnh uỷ Bình Định.
Do làm tốt công tác quy hoạch cán bộ nên Huyện ủy đã chủ động hơn
trong công tác cán bộ, nhất là công tác đào tạo, bồi dưỡng, bổ nhiệm, bố trí,
sử dụng và luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý. Cán bộ trong diện quy
67
hoạch đã được rà soát, xem xét về lịch sử chính trị và thái độ chính trị hiện
nay, được tín nhiệm bảo đảm yêu cầu về năng lực, phẩm chất đạo đức.
2.3.2. Thực hiện khâu luân chuyển làm cơ sở cho việc tạo nguồn cán
bộ, công chức chủ chốt của huyện
Xác định luân chuyển cán bộ là yêu cầu, đòi hỏi khách quan của công
tác cán bộ, được coi là khâu đột phá đối với việc xây dựng đội ngũ cán bộ
lãnh đạo, quản lý các cấp, do đó sau khi có Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày
25/01/2002 của Bộ Chính trị (khoá IX) về công tác luân chuyển cán bộ lãnh
đạo và quản lývà Kế hoạch số 49- KH/TU của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ Bình
Định, Ban Thường vụ Huyện ủy xây dựng kế hoạch, chương trình hành động
tổ chức triển khai và thực hiện Nghị quyết. Từ khi có Nghị quyết số 11-
NQ/TW của Bộ Chính trị đến nay, Ban Thường vụ Huyện uỷ thực hiện điều
động, luân chuyển 20 cán bộ trưởng, phó các cơ quan, ban, ngành, đoàn thể
huyện về giữ các chức danh lãnh đạo chủ chốt gồm bí thư, phó bí thư, chủ
tịch Ủy ban nhân dân xã, thị trấn (trong đó 05 ủy viên ban thường vụ huyện
ủy, 13 huyện ủy viên) và luân chuyển ngang 01 từ bí thư xã này qua làm bí
thư xã khác; điều động cán bộ lãnh đạo từ xã, thị trấn lên huyện 05; tiếp nhận
từ tỉnh chuyển về để bổ nhiệm và giới thiệu ứng cử 04.
Qua 10 năm thực hiện, công tác luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý
đã góp phần củng cố và kiện toàn tổ chức bộ máy, xây dựng khối đoàn kết nội
bộ, tạo điều kiện tốt cho cán bộ rèn luyện, phấn đấu. Thông qua luân chuyển
cán bộ được giải quyết kịp thời thay thế được một số cán bộ lãnh đạo quản lý
hạn chế về trình độ năng lực. Hầu hết số cán bộ được luân chuyển đến đều là
những cán bộ có kinh nghiệm, có chuyên môn nghiệp vụ, tiếp cận nhanh với
điều kiện, môi trường công tác mới, bước đầu đã phát huy được tác dụng. Số
cán bộ trẻ trong diện quy hoạch được đào tạo cơ bản, có triển vọng phát triển,
qua rèn luyện, thử thách từ cơ sở đã trưởng thành về nhiều mặt, được cấp uỷ
68
đảng, chính quyền và nhân dân tín nhiệm, đã khắc phục dần tình trạng hẫng
hụt, bị động, chắp vá trong công tác cán bộ. Thực tiễn cho thấy sau khi có cán
bộ được luân chuyển đến phong trào của cơ sở có những bước phát triển,
củng cố được niềm tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng và Nhà
nước góp phần xây dựng địa phương vững mạnh. Trong đó, vai trò cá nhân
lãnh đạo của các cán bộ là đóng góp không nhỏ.
2.4. Đánh giá chung về công tác tạo nguồn cán bộ chủ chốt cho
chính quyền huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định
2.4.1. Những kết quả đạt được và nguyên nhân
2.4.1.1.Những kết quả đạt được
Nhằm kiện toàn đội ngũ cán bộ phục vụ cho nhu cầu phát triển của địa
phương cũng như chuẩn bị nhân sự cho Đại hội Đảng bộ nhiệm kỳ tới, thời
gian qua, Đảng bộ huyện Hoài Nhơn đã tập trung đổi mới đồng bộ công tác
cán bộ, bước đầu thu được những kết quả quan trọng.
Từ đầu nhiệm kỳ Đại hội Đảng bộ địa phương (2015-2020), Hoài Nhơn
đã xác định công tác cán bộ phải là khâu quan trọng và then chốt để đảm bảo
việc lãnh đạo, chỉ đạo phát triển kinh tế- xã hội của huyện theo yêu cầu đặt ra.
Triển khai chủ trương đó, Hoài Nhơn chủ động xây dựng và triển khai thực
hiện Đề án “Tạo sự chuyển biến mạnh mẽ, đồng bộ các khâu trong công tác
cán bộ, đáp ứng tốt hơn nhiệm vụ trong tình hình mới”.
Đề án này tập trung thực hiện đồng bộ các khâu công tác cán bộ, từ
tuyển chọn, nhận xét, đánh giá đến quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, luân
chuyển, bố trí, bổ nhiệm, sử dụng và thực hiện chính sách đối với cán bộ gắn
với thực hiện các Nghị quyết của Trung ương và Tỉnh ủy Bình Định về công
tác cán bộ, nhất là Nghị quyết số 18-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương
(khoá XII) “một số vấn đề tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ
thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả”; Nghị quyết số 26-
69
NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương (khoá XII) "về tập trung xây dựng
đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy
tín, ngang tầm nhiệm vụ”.
Trong số những cán bộ được luân chuyển, trưởng thành từ cơ sở, nhiều
cán bộ đã có bước trưởng thành quan trọng, có những đóng góp tích cực cho
sự chuyển biến của cơ sở như. Qua theo dõi, đánh giá, Ban Chấp hành Đảng
bộ Huyện đã phát hiện, đưa vào quy hoạch và tiếp tục bố trí, luân chuyển
công tác để cán bộ trẻ trưởng thành hơn. Đến nay, nhiều cán bộ đã đủ và vượt
thời gian luân chuyển và trưởng thành, có thể bố trí những nhiệm vụ, chức vụ
công tác mới cao hơn, phù hợp với sở trường và năng lực công tác. Nhiều cán
bộ khác sau khi luân chuyển về công tác ở cơ sở cũng được rèn luyện, thử
thách qua môi trường thực tiễn và ngày càng trưởng thành.
Không chỉ chú trọng công tác luân chuyển, đưa cán bộ về cơ sở để rèn
luyện, trưởng thành, thời gian qua Hoài Nhơn cũng đặc biệt quan tâm đến
công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Đặc biệt, Hoài Nhơn luôn chủ động trong
công tác phối hợp với đơn vị đào tạo, bồi dưỡng để đưa cán bộ đi học.
Hằng năm Ban Tổ chức Huyện uỷ và Phòng Nội vụ đều chủ động rà
soát cán bộ, từ đó có kế hoạch, lựa chọn đối tượng để đào tạo, bồi dưỡng phù
hợp. Cùng với đó, Trung tâm Bồi dưỡng Chính trị huyện cũng được giao
nhiệm vụ và chủ động lên kế hoạch mở các lớp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
theo phân cấp.
Đối với những chương trình đào tạo, bồi dưỡng chính trị do cấp trên tổ
chức (cao cấp chính trị), trên cơ sở chỉ tiêu tỉnh giao, huyện luôn đảm bảo đưa
đối tượng tham gia đúng, đủ; đồng thời thường xuyên liên hệ với Học viện
Chính trị khu vực 3 để nắm bắt các chỉ tiêu mà những địa phương khác trong
khu vực không tham gia, Huyện uỷ đề xuất xin chỉ tiêu này cho địa phương.
Nhờ đó, đến nay 85% cán bộ, công chức, viên chức của Hoài Nhơn đã qua
70
các lớp đào tạo nâng cao trình độ. Ngoài ra, với các khoá đào tạo, bồi dưỡng
chuyên môn, nghiệp vụ, kể cả các lớp cao học, huyện đều chủ động cử cán bộ
tham gia để tăng cường năng lực, trình độ cho cán bộ ở địa phương.
2.4.1.2.Nguyên nhân
Thứ nhất, Ban Thường vụ Huyện ủy và các cấp ủy Đảng, người đứng
đầu các cơ quan, đơn vị địa phương trong huyện đã tích cực nghiên cứu, phổ
biến, quán triệt, cụ thể hóa các nghị quyết, văn bản hướng dẫn của Trung
ương, của Tỉnh ủy về công tác cán bộ nói chung và tạo nguồn cán bộ nói
riêng của huyện. Trong quá trình thực hiện, Ban Thường vụ Huyện ủy đã
thường xuyên quan tâm tập trung lãnh đạo, chỉ đạo tăng cường công tác kiểm
tra các cơ quan đơn vị từ khâu rà soát, xác định đối tượng, đánh giá cán bộ,
công chức, đào tạo bồi dưỡng cán bộ dự nguồn, bổ sung, hoàn chỉnh quy
hoạch cán bộ, gắn công tác tạo nguồn với quy hoạch và đào tạo bồi dưỡng và
luân chuyển cán bộ, làm cho công tác tạo nguồn đi vào thực chất và có hiệu
quả thiết thực.
Thứ hai, cấp ủy các cấp, thủ trưởng các cơ quan đơn vị địa phương và
đa số cán bộ, đảng viên trong huyện đã nhận thức đúng đắn về vị trí, vai trò
của công tác tạo nguồn cán bộ. Đã có một nhận thức chung, tương đối đầy đủ
về công tác tạo nguồn trong toàn thể cán bộ, công chức trên địa bàn huyện.
Điều này đã tạo nên không phí phấn đấu rèn luyện sôi nổi trong đội ngũ cán
bộ, công chức. Và mỗi cán bộ, công chức luôn tự nâng cao tinh thần trách
nhiệm, tích cực rèn luyện đạo đức, lối sống và phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ
được giao.
Thứ ba, trong công tác quy hoạch: Ưu điểm nổi trội trong công tác tạo
nguồn cán bộ của huyện Hoài Nhơn chính là việc đưa nội dung quy hoạch cán
bộ lãnh đạo, quản lý vào hoạt động thường xuyên và có nề nếp. Trong đó,
chất lượng cán bộ quy hoạch ở các cấp được nâng lên, số lượng và cơ cấu hợp
71
lý, cán bộ quy hoạch cho từng chức danh được tăng lên, đã khắc phục được
tình trạng thiếu hụt cán bộ khi điều động, luân chuyển.Tiêu chuẩn và số lượng
nguồn cán bộ đưa vào quy hoạch, tỷ lệ cán bộ nữ, cán bộ trẻ cơ bản đảm bảo
theo nghị quyết của Bộ Chính trị, hướng dẫn của Ban Tổ chức Trung ương và
của Tỉnh ủy. Do làm tốt công tác quy hoạch cán bộ nên Huyện ủy đã chủ
động hơn trong công tác cán bộ, nhất là công tác đào tạo, bồi dưỡng, bổ
nhiệm, bố trí, sử dụng và luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý. Cán bộ trong
diện quy hoạch đã được rà soát, xem xét về lịch sử chính trị và thái độ chính
trị hiện nay, được tín nhiệm bảo đảm yêu cầu về năng lực, phẩm chất đạo đức.
Về cơ bản đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý được quy hoạch ở các cấp
của huyện có bản lĩnh chính trị vững vàng, nhiều cán bộ được rèn luyện thử
thách trong thực tiễn, được đào tạo bồi dưỡng nâng cao trình độ mọi mặt, thể
hiện tính năng động sáng tạo, năng lực quản lý điều hành đáp ứng yêu cầu,
nhiệm vụ được giao. Đội ngũ cán bộ ngày càng khẳng định được vai trò vị trí
trên từng lĩnh vực công tác được phân công, bảo đảm tính kế thừa, chuyển
tiếp giữa các thế hệ cán bộ; tạo được thế chủ động trong việc đề bạt, bổ
nhiệm, bố trí cán bộ.
2.4.2. Những hạn chế, bất cập và nguyên nhân
2.4.2.1.Những hạn chế, bất cập
Bên cạnh những ưu điểm được trình bày ở trên thì công tác tạo nguồn cán
bộ chủ chốt của huyện Hoài Nhơn còn bộc lộ một số hạn chế, bất cập như sau:
Thứ nhất, việc tổ chức, nghiên cứu quán triệt nghị quyết của Đại hội
đại biểu Đảng toàn quốc, của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị,
các kế hoạch của Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh về công tác tạo nguồn cán bộ
của một số cấp ủy, lãnh đạo cơ quan chưa thật sâu sát và nghiêm túc cho nên
nhận thức của một số cán bộ, công chức về mục đích, ý nghĩa, nội dung của
công tác tạo nguồn cán bộ còn nhiều hạn chế. Thậm chí đã có sự nhầm lẫn
72
giữa tạo nguồn cán bộ và quy hoạch cán bộ, tạo nguồn cán bộ với bổ nhiệm
nhân sự.
Thứ hai, việc xác định đối tượng để tạo nguồn còn lúng túng và bị
động. Khi triển khai thực hiện công tác tạo nguồn cán bộ có liên quan đến cơ
quan, đơn vị mình thì nhiều cơ quan đơn vị chưa tiến hành rà soát, đánh giá
toàn diện về cán bộ, công chức để giúp cho công tác tạo nguồn được thực
hiện một cách khoa học.
Thứ ba, việc thực hiện quy trình giới thiệu nguồn cán bộ, công chức,
đặc biệt là nguồn cho công tác quy hoạch cán bộ chủ chốt vẫn chưa đảm bảo
tính công khai, chưa dân chủ, đôi lúc thực hiện mang tính chiếu lệ, bổ nhiệm,
bố trí cán bộ không đúng theo chức danh, vị trí đã quy hoạch. Cá biệt có
nhiều nơi phải thực hiện nhiều lần. Một số đơn vị còn lúng túng giữa thực
hiện công tác tạo nguồn và công tác quy hoạch. Một số đơn vị lại quá coi
trọng công tác quy hoạch nhưng lại coi nhẹ công tác tạo nguồn, cho rằng quy
hoạch là công việc cụ thể với nhân sự và thực chất còn tạo nguồn chỉ mang
tính chất lâu dài, không rõ ràng. Thậm chí có nơi còn tách biệt hẳn giữa tạo
nguồn và quy hoạch làm cho công tác xây dựng đội ngũ cán bộ kế cận không
được thực hiện khoa học và đúng trình tự.
Thứ tư, công tác luân chuyển cán bộ của huyện Hoài Nhơn vẫn còn
những hạn chế như:một số cấp ủy chưa có sự thống nhất cao về nhận thức nên
việc triển khai còn chậm và thiếu đồng bộ. Việc nhận thức của một số cấp ủy,
cán bộ đảng viên chưa đúng, chưa phân biệt rõ giữa luân chuyển cán bộ theo
quy hoạch với điều động, bố trí, tăng cường cán bộ theo yêu cầu công tác;
trong công tác luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý vẫn còn có những trường
hợp chưa dựa trên cơ sở quy hoạch, chưa đặt thành quy trình trong công tác
cán bộ, mới chỉ nhằm đáp ứng yêu cầu trước mắt; một số trường hợp chưa
nghiên cứu kỹ nên việc điều động cán bộ chưa hợp lý, còn mang tính tình thế,
73
chưa tạo được chế độ đãi ngộ để động viên cán bộ yên tâm đến nhận công tác
nơi được điều động đến. Ngoài ra cũng phải kể đến một số ít được điều động
luân chuyển chậm nắm bắt tình hình thực tế của địa phương, đơn vị nơi mình
đến, từ đó ảnh hưởng đến chất lượng và hiệu quả công tác.
Thứ năm, trong công tác quy hoạch, một số cấp ủy, người đứng đầu cơ
quan, đơn vị chưa nhận thức đầy đủ về tầm quan trọng của công tác tạo nguồn
cán bộ chủ chốt nên chưa quan tâm đúng mức trong việc chỉ đạo thực hiện,
chưa thường xuyên thực hiện việc rà soát điều chỉnh, bổ sung cho phù hợp, do
đó một số xã, thị trấn, phòng, ban, đơn vị còn tình trạng hẫng hụt khi điều
chuyển cán bộ. Một số đơn vị do chưa nắm vững quy trình nên khi thực hiện
quy hoạch cán bộ vẫn còn lúng túng, chưa bảo đảm thời gian, kế hoạch đề ra.
Một vài đơn vị thực hiện quy hoạch chưa đạt yêu cầu; tỷ lệ cán bộ nữ, cán bộ
trẻ còn thấp; công tác nhận xét, đánh giá cán bộ đưa vào quy hoạch được xem
là khâu mở đầu và là khâu có tính quyết định đến chất lượng quy hoạch,
nhưng một số ít đơn vị còn nhận xét qua loa mang tính hình thức. Đặc biệt là
việc giới thiệu cán bộ vào quy hoạch có lúc, có nơi chưa thực sự khách quan.
Từ tình hình thực tế trên, có thể nhận thấy huyện Hoài Nhơn vẫn còn
chưa tích cực chủ động trong việc tạo nguồn cán bộ dẫn đến việc sự bị
động, lúng túng trong công tác quy hoạch và nhất là luân chuyển cán bộ
thiếu đồng bộ và chưa hợp lý, mới chỉ đáp ứng yêu cầu trước mắt và còn
mang tính tình thế.
2.4.2.2.Nguyên nhân
Thứ nhất, một số cấp ủy, cán bộ chủ trì và cơ quan chức năng của
huyện chưa nhận thức đầy đủ, chưa đề cao trách nhiệm trong công tác tạo
nguồn đội ngũ cán bộ chủ chốt. Chúng ta đều biết rằng, nhận thức là cơ sở
của hành động. Tuy nhiên, trong những năm qua nhận thức của cán bộ, đảng
viên về công tác tạo nguồn cán bộ, công chức, đặc biệt là cán bộ, công chức
74
chủ chốt chưa thật thấu đáo và đầy đủ. Do vậy, trong quá trình lãnh đạo, chỉ
đạo công tác tạo nguồn cán bộ, có nơi chưa triển khai thường xuyên và sâu
sát. Trong tổ chức còn thiếu kiểm tra, giám sát và tổ chức còn thiếu tính khoa
học.
Thứ hai, các công tác cán bộ cụ thể như đánh giá, quy hoạch, đào tạo,
bồi dưỡng và thực hiện chính sách cán bộ chưa được thực hiện đồng bộ và
liên hoàn. Cụ thể là việc đánh giá, phân loại cán bộ của một số cấp ủy chưa
được thực hiện nghiêm túc, đầy đủ thậm chí còn mang tính xuê xoa, hình thức
và chạy theo bệnh thành tích. Chính điều này dẫn đến kết quả đánh giá, phân
loại chưa đúng với năng lực và phẩm chất của cán bộ, công chức. Hoạt động
đào tạo cán bộ công chức còn mang tính bị động, trông chờ vào chỉ tiêu, biên
chế của tỉnh. Ngoài ra, chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cho cán bộ công chức
còn có những mặt hạn chế, nhất là thiếu đồng bộ.
Thứ ba, một số cán bộ, công chức chủ chốt dự nguồn còn thiếu sự tích
cực trong tu dưỡng, trau dồi phẩm chất chính trị và học tập, rèn luyện nâng
cao trình độ chuyên môn, năng lực công tác, phong cách làm việc để đáp ứng
nhu cầu ngày càng cao của công việc. Một số cán bộ chưa có nhận thức đúng
đắn về tính cần thiết của việc học tập nâng cao trình độ và trau dồi đạo đức, còn
có biểu hiện tự mãn về việc sớm được cất nhắc, đưa vào nguồn cán bộ, công
chức chủ chốt cấp huyện. Bộ phận này bắt đầu có biểu hiện chủ quan, sa sút
về phẩm chất đạo đức, lối sống, hách dịch, cửa quyền và xa rời quần chúng.
Thứ tư, về nguyên nhân khách quan, có thể nhận thấy tổ chức bộ máy
làm công tác cán bộ của Huyện ủy chưa được xây dựng thành một cơ quan
chuyên trách và đội ngũ cán bộ chuyên trách công tác xây dựng Đảng về tổ
chức và cán bộ có đủ phẩm chất và năng lực cũng như có tính chuyên nghiệp
cao. Nguyên nhân cơ bản là số lượng, chất lượng cán bộ, công chức của Ban
Tổ chức Huyện ủy còn hạn chế. Chính vì hạn chế này cho nên, các nội dung
75
liên quan đến tạo nguồn cán bộ chủ chốt dù có thể đã có những chủ trương
nhưng việc triển khai còn không đúng theo kế hoạch và mục tiêu ban đầu.
Như vậy, để tiếp tục công tác tạo nguồn cán bộ chủ chốt, loại bỏ những
cá nhân yếu kém, sa sút về phẩm chất đạo đức lối sống và năng lực công tác,
ban chấp hành Đảng bộ huyện, Ban Tổ chức Huyện ủy, các cấp ủy và cơ quan
chủ quản cán bộ, công chức dự nguồn cần có sự sâu sát hơn nữa trong việc
nắm thực trạng tìm hiểu rõ nguyên nhân chủ quan và khách quan, những tồn
tại yếu kém trong các khâu của công tác tạo nguồn từ đó đề ra phương hướng
và những giải pháp phù hợp để tiếp tục thực hiện công tác tạo nguồn đạt kết
quả tốt đẹp.
2.4.3. Tác động tích cực của công tác tạo nguồn cán bộ chủ chốt
chính quyền tới quá trình đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính trị tại huyện
Hoài Nhơn
Sau nhiều năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (khóa IX) về “Đổi
mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở xã, phường, thị trấn”
và Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa
VIII) về “Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước”, Ban Thường vụ Huyện uỷ Hoài Nhơn đã tăng cường công tác lãnh
đạo, chỉ đạo các ban, ngành cấp huyện bám sát nhiệm vụ, tăng cường công tác
đào tạo, bồi dưỡng, tuyển dụng, làm tốt công tác quy hoạch, luân chuyển cán
bộ từ huyện đến cơ sở.Thời gian qua, huyện Hoài Nhơn đã thực hiện khá tốt
công tác tạo nguồn cán bộ có chất lượng về mọi mặt, nâng cao vai trò, vị thế
lãnh đạo của các cấp uỷ đảng; nâng cao năng lực chỉ đạo, điều hành của các
cấp chính quyền và vai trò phản biện, hiệu quả vận động nhân dân của các tổ
chức mặt trận cụ thể như sau:
76
2.4.3.1 Về nội dung, phương thức lãnh đạo của tổ chức đảng
Với vai trò là hạt nhân lãnh đạo của hệ thống chính trị huyện, Ban
Thường vụ Huyện uỷ đã có những biện pháp lãnh đạo ngày một chặt chẽ, các
Uỷ viên Ban Thường vụ Huyện uỷ ngày càng được hoàn thiện cả về năng lực
lãnh đạo, trình độ chuyên môn, vững vàng về bản lĩnh chính trị, trong sáng về
đạo đức lối sống; hiệu quả hoạt động của cấp uỷ huyện đảm bảo nguyên tắc
“tập trung, dân chủ” hơn, khẳng định ngày càng cao vai trò lãnh đạo tuyệt đối
của Đảng trong toàn hệ thống chính trị huyện; cấp uỷ từ huyện đến cơ sở đã
đổi mới phương thức lãnh đạo, trước hết là đổi mới việc ra nghị quyết và chỉ
đạo thực hiện các nghị quyết của Đảng. Tăng cường công tác kiểm tra, giám
sát thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ và quy chế làm việc;
tăng cường công tác giáo dục rèn luyện nâng cao phẩm chất đạo đức cách
mạng cho cán bộ, đảng viên ở cơ sở, cho nên trong thời gian qua số số lượng
cán bộ, đảng viên vi phạm Điều lệ Đảng, pháp luật và những điều đảng viên
không được làm ngày càng giảm.
Việc đánh giá chất lượng tổ chức cơ sở đảng và đảng viên hàng năm đã
đi vào nền nếp. Các cấp ủy đảng đã thực hiện việc lấy ý kiến đóng góp của
các đoàn thể và đại diện nhân dân ở nơi cư trú. Việc thực hiện thí điểm nhất
thể hoá chức danh bí thư cấp ủy kiêm chủ tịch ủy ban nhân dân ở nhiều địa
phương đang phát huy hiệu quả.Trong những năm qua, đảng bộ huyện Hoài
Nhơn và trên 90% đảng bộ, chi bộ cơ sở trực thuộc Huyện uỷ được công nhận
là Đảng bộ trong sạch, vững mạnh.
2.4.3.2 Tổ chức và hoạt động của chính quyền
Nhờ công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng và tạo nguồn của huyện
trong thời gian gần đây có nhiều chuyển biến tích cực, nên sau bầu cử đại
biểu Hội đồng nhân dân các cấp, nhiệm kỳ 2016 - 2020 đội ngũ cán bộ chủ
chốt từ huyện đến cơ sở được đảm bảo, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và lý
77
luận chính trị của đội ngũ cán bộ được nâng lên một bước; các hoạt động của
HĐND và UBND các cấp đã đi vào nề nếp, hiệu quả hoạt động ngày càng
cao, trong đó:
Tổ chức và hoạt động của HĐND, từ huyện đến các xã, thị trấn đều
đảm bảo họp đúng định kỳ theo luật định; chất lượng các kỳ họp từng bước
được nâng lên. Nhiều nơi đã tổ chức được các cuộc giám sát chuyên đề có
trọng tâm, trọng điểm; công tác thẩm tra các báo cáo, tờ trình của UBND tại
các kỳ họp của HĐND đảm bảo tính khách quan, trung thực hơn.
Hoạt động của UBND đã phát huy hiệu quả công tác quản lý, điều hành
theo pháp luật. UBND huyện, các xã, thị trấn đã kịp thời ban hành quy chế
làm việc. Việc thực hiện pháp lệnh, quy chế dân chủ ở cơ sở đã đem lại kết
quả tốt, các hoạt động quản lý, điều hành, chi tiêu được công khai minh bạch,
dân chủ hơn. Hầu hết các thôn đã xây dựng được quy ước, hương ước và thực
hiện có nề nếp; 100% số xã, thị trấn đã bầu ban giám sát đầu tư cộng đồng
trong các hoạt động đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng giao thông nông thôn, đến
nay toàn huyện đã có15/15 xã đạt chuẩn “Nông thôn mới”, 2 thị trấn đạt
chuẩn đô thị văn minh. Công tác cải cách thủ tục hành chính tại bộ phận “một
cửa” hai cấp đã đi vào ổn đinh, phát huy hiệu quả, giải quyết kịp thời các nhu
cầu về thủ tục hành chính cho người dân.
2.4.3.3 Công tác mặt trận và các đoàn thể
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân đã xây dựng
được quy chế hoạt động, xác định rõ chức năng, nhiệm vụ và từng bước đổi
mới nội dung, phương thức hoạt động, đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu của
nhân dân. Ở nhiều cơ sở, Mặt trận Tổ quốc đã phối hợp tốt với các ngành,
đoàn thể thực hiện cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn
hóa ở khu dân cư”, phong trào thi đua “Xây dựng nông thôn mới, văn minh
đô thị” và các hoạt động từ thiện, đền ơn đáp nghĩa; phát huy vai trò tham gia
78
xây dựng chính quyền, thực hiện công tác giám sát, kiểm tra hoạt động của
chính quyền. Trong các kỳ bầu cử HĐND, Mặt trận Tổ quốc đã thể hiện tốt
vai trò hiệp thương, giới thiệu đại biểu có đủ điều kiện, tiêu chuẩn vào bộ máy
của chính quyền, đảm bảo cho chính quyền hoạt động có hiệu quả.
Trong những năm gần đây, Mặt trận Tổ quốc huyện và các xã, thị trấn
đã thực hiện tốt việc tổ chức lấy phiếu tín nhiệm đối với các chức danh chủ
tịch, phó chủ tịch HĐND, UBND huyện, xã, thị trấn đúng quy trình góp phần
nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt.
Hoạt động hoà giải của Mặt trận Tổ quốc ở cơ sở cũng góp phần giải
quyết những mâu thuẫn phát sinh trong nội bộ nhân dân, giảm đáng kể các
“điểm nóng” và tình trạng đơn thư khiếu nại vượt cấp.
2.4.3.4 Công tác xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cơ sở
Với nhận thức về tầm quan trọng của cán bộ, là “cái gốc của mọi công
việc”, từ nhiều năm qua cấp ủy đảng và chính quyền huyện Hoài Nhơn đã
quan tâm tới công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng nhất là đào tạo chuẩn
hoá về trình độ lý luận chính trị, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, nhằm đảm
bảo cho đội ngũ cán bộ, công chức cơ sở đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ
trong tình hình mới. Mọi hoạt động của cơ quan hành chính ở cơ sở đã hướng
vào mục tiêu phục vụ dân; giải quyết đúng đắn và nhanh chóng các công việc
có liên quan trực tiếp đến đời sống của nhân dân. Giáo dục cán bộ, công chức
cơ sở có phong cách "trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân và có trách nhiệm
với dân", "nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân tin". Công tác luân chuyển,
tăng cường cán bộ cấp trên về làm bí thư, phó bí thư, chủ tịch, phó chủ tịch
UBND cấp xã để thay thế số cán bộ hạn chế về trình độ, năng lực hoặc đưa
cán bộ chủ chốt đi luân chuyển để có thêm thực tiễn công tác, đủ điều kiện
cho công tác bổ nhiệm, đề bạt đã được huyện tích cực quan tâm. Để thực hiện
trẻ hoá và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức huyện đã có chính
79
sách thu hút trí thức trẻ, tuyển dụng những sinh viên con em trong huyện đã
tốt nghiệp các trường đại học loại giỏi, xuất sắc.
Nhìn chung, công tác quy hoạch cán bộ chủ chốt cấp huyện đã thực
hiện đúng quy trình; các bước xây dựng, rà soát, bổ sung quy hoạch cán bộ
bảo đảm chặt chẽ, khách quan, dân chủ, vận dụng phương châm “mở” và
“động”, một chức danh đã quy hoạch được nhiều người và có người được quy
hoạch vào nhiều chức danh, góp phần nâng cao vai trò và sức chiến đấu của
các tổ chức cơ sởđảng và đảng viên; hiệu quả, hiệu lực quản lý, điều hành của
các cấp chính quyền được nâng lên rõ rệt; vai trò của Mặt trận tổ quốc và các
đoàn thể ngày càng được phát huy; hệ thống chính trị từ huyện đến cơ sở ngày
càng hoàn thiện hơn.
Tuy nhiên, qua thực tế triển khai thực hiện cho thấy, trong công tác tạo
nguồn, quy hoạch cán bộ vẫn còn những hạn chế, yếu kém, tình trạng khép
kín, cục bộ, nể nang; cơ cấu cán bộ trong quy hoạch chưa cân đối, cán bộ nữ,
cán bộ trẻ trong quy hoạch ở một số đơn vị vẫn còn ít. Quy hoạch cán bộ chủ
chốt cấp huyện chưa có sự liên thông với cấp tỉnh và cấp cơ sở; chưa làm tốt
công tác quy hoạch gắn với luân chuyển, bố trí, sử dụng cán bộ. Trong thời
gian tới để làm tốt hơn nữa công tác tạo nguồn cán bộ chủ chốt cho chính
quyền huyện Hoài Nhơn, làm tiền đề để triển khai công tác nhân sự trong thời
gian tiếp theo cần tổ chức thực hiện nghiêm túc Kết luận số 24 ngày 5/6/2012
của Bộ Chính trị về đẩy mạnh công tác quy hoạch và luân chuyển cán bộ lãnh
đạo, quản lý đến năm 2020 và những năm tiếp theo. Đặc biệt là quán triệt,
thực hiện có hiệu quả và đồng bộ nhóm giải pháp về tổ chức cán bộ nêu trong
Nghị quyết Trung ương 4 (khoá XI) “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng
Đảng hiện nay”và Nghị quyết Trung ương 4 (khoá XII) để đội ngũ cán bộ chủ
chốtcủa chính quyền huyện Hoài Nhơn ngày hoàn thiện hơn, “vừa hồng vừa
chuyên”.
80
Tiểu kết Chương 2
Trong Chương 2, luận văn đã giới thiệu khái quát về đặc điểm tựnhiên,
điều kiện kinh tế xã hội của huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định, các nhân tố
tác động đến công tác tạo nguồn cán bộ chủ chốt cấp huyện.Đồng thời luận
văn tập trung đánh giá chung về công tác tạo nguồn cán bộ chủ chốt cho chính
quyền huyện Hoài Nhơn, phân tích thực trạng đội ngũ cán bộ chủ chốt huyện
Hoài Nhơn thời gian qua. Bên cạnh những kết quả đã đạt được trong công tác
tạo nguồn cán bộ chủ chốt, vẫn còn những hạn chế, bất cập cần được khắc
phục, hoàn thiện. Trong thời gian tới cần xác địnhphương hướng và những
giải pháp, nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả trong công tác tạo nguồn cán bộ
chủ chốt cho chính quyền huyện.
81
Chương 3
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP TẠO NGUỒN
CÁN BỘ CHỦ CHỐT CHO CHÍNH QUYỀN HUYỆN
HOÀI NHƠN, TỈNH BÌNH ĐỊNH TRONG THỜI GIAN TỚI
3.1. Phương hướng và yêu cầu về tiêu chuẩn tạo nguồn cán bộ chủ
chốt chính quyền huyện
3.1.1. Quan điểm, phương hướng
Trong những năm tới, tình hình thế giới và khu vực vẫn tiếp tục diễn
biến phức tạp, khó lường. Hoà bình, hợp tác, hội nhập và phát triển vẫn là xu
thế chủ đạo; các mối đe doạ truyền thống, phi truyền thống và biến đổi khí
hậu ngày càng gay gắt. Sự bùng nổ của khoa học - công nghệ, sự phát triển
mạnh mẽ của kinh tế số, kinh tế tri thức và xu hướng quốc tế hoá nguồn nhân
lực vừa là thời cơ, vừa là thách thức đối với nước ta. Ở trong nước, công cuộc
đổi mới và hội nhập quốc tế ngày càng đi vào chiều sâu, sức mạnh tổng hợp
và uy tín quốc tế của Việt Nam ngày càng được nâng cao, tạo tiền đề để đất
nước phát triển nhanh, bền vững. Tuy nhiên, sự nghiệp cách mạng của Đảng
và nhân dân ta vẫn đứng trước nhiều khó khăn, thách thức; bốn nguy cơ mà
Đảng ta đã chỉ ra vẫn còn hiện hữu, có mặt gay gắt hơn; tình hình an ninh,
chính trị, trật tự, an toàn xã hội vẫn tiềm ẩn những nhân tố dễ gây mất ổn
định. Sự chống phá của các thế lực thù địch, phản động ngày càng tinh vi,
nguy hiểm, phức tạp hơn trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường, mở cửa
hội nhập, sự bùng nổ của hệ thống thông tin truyền thông toàn cầu, chiến
tranh mạng,... Thời gian tới cũng là giai đoạn chuyển giao thế hệ từ lớp cán
bộ sinh ra, lớn lên, được rèn luyện, trưởng thành trong chiến tranh, chủ yếu
được đào tạo ở trong nước và tại các nước xã hội chủ nghĩa, sang lớp cán bộ
82
sinh ra, lớn lên, trưởng thành trong hoà bình và được đào tạo từ nhiều nguồn,
nhiều nước có thể chế chính trị khác nhau.
Tình hình đó tác động mạnh mẽ, toàn diện, sâu sắc đến công tác cán bộ
và xây dựng đội ngũ cán bộ.
Xây dựng đội ngũ cán bộ là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, trực
tiếp là của các cấp uỷ, tổ chức đảng mà trước hết là người đứng đầu và cơ
quan tham mưu của Đảng, trong đó cơ quan tổ chức, cán bộ là nòng cốt. Phát
huy mạnh mẽ vai trò của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị -
xã hội và cơ quan truyền thông, báo chí trong công tác cán bộ và xây dựng
đội ngũ cán bộ. Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó máu thịt với nhân dân;
phải thực sự dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng, xây dựng đội ngũ cán bộ.
Để xây dựng một lực lượng dự nguồn cán bộ chủ chốt chính quyền
huyện Hoài Nhơn đến năm 2025 và thời gian tiếp theo, cần phải xác định
những mục tiêu rõ ràng và cụ thể. Về trước mắt nhằm khắc phục tình trạng
hẫng hụt trong đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý, bảo đảm tính kế thừa, phát
triển và sự chuyển tiếp liên tục, vững vàng giữa các thế hệ cán bộ, giữ vững
đoàn kết thống nhất trong nội bộ và sự ổn định chính trị.
Về lâu dài, việc tạo nguồn giúp công tác cán bộ có được sự chủ động và
ổn định lâu dài, tránh sự bị động, “đốt đuốc đi tìm cán bộ”, tránh cách làm
theo lối chỉ xây dựng đội ngũ cán bộ cho nhiệm kỳ tới, tránh tình trạng “chơi
cờ tướng” hay “thợ hàn” trong quá trình bố trí, điều động và luân chuyển cán
bộ, công chức của huyện.
Công tác tạo nguồn cũng cần gắn chặt với việc đào tạo, bồi dưỡng về
chuyên môn nghiệp vụ, nâng cao trình độ và năng lực, xây dựng đội ngũ cán
bộ lãnh đạo, quản lý, cán bộ làm công tác chuyên môn các cấp vững vàng về
chính trị, tư tưởng, trong sáng về đạo đức, phong cách, lối sống, thành thạo về
chuyên môn, nghiệp vụ, có năng lực trí tuệ và kinh nghiệm thực tiễn, đủ về số
83
lượng, đồng bộ về cơ cấu, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp phát triển chung
của huyện.
Để có được dự nguồn cán bộ chủ chốt có chất lượng thì khâu đánh giá
cán bộ phải khách quan, toàn diện, lịch sử, cụ thể và phát triển. Nguyên tắc
trên đòi hỏi khi xem xét con người không được phiến diện, hời hợt, chủ quan
cảm tính, không được định kiến, nhìn sự phát triển của cán bộ theo quan điểm
“tĩnh” bất biến. Người làm công tác cán bộ nếu chỉ nắm cán bộ qua các cuộc
hội nghị, qua các báo cáo và bài phát biểu mà không sâu sát công việc thực tế
của họ thì sự đánh giá khó tránh khỏi lầm lạc. Xem xét con người cần phân
biệt hiện tượng với bản chất, phải nhìn từ nhiều phía, từ nhiều sự việc cụ thể
để phân tích tìm ra đâu là mặt bản chất của người cán bộ, không thể dừng lại
ởnhững hiện tượng cụ thể, riêng rẽ, nhất thời. Vì vậy phải đánh giá cán bộ
một cách toàn diện, phân tích cụ thể tìm ra điểm chủ yếu, thứ yếu để sử dụng
đúng cái mạnh, hạn chế cái yếu của cán bộ. Cái mạnh và cái yếu hiện tại của
cán bộ được hình thành trong quá trình hoạt động lâu dài. Cần xem xét lý lịch
cán bộ, tìm hiểu quá trình lịch sử của cán bộ nhưng không thể chỉ đánh giá
cán bộ qua đọc bản lý lịch khô cứng, định kiến với quá khứ của cán bộ mà
quan trọng hơn cả là đánh giá hoạt động hiện tại, những cố gắng, nỗ lực của
cán bộ, công chức đó.
3.1.2. Yêu cầu về tiêu chuẩn
Yêu cầu về tiêu chuẩn là một nội dung cơ bản để xem xét cán bộ đó có
đủ năng lực, phẩm chất để trở thành nguồn cho công tác nhân sự giai đoạn
tới hay không. Để xây dựng được đội ngũ cán bộ chủ chốt của huyện trong
tương lai sáng về đạo đức, vững về chính trị, giỏi về nghiệp vụ, yêu cầu đặt
ra đối với đối tượng dự nguồn có vai trò vô cùng quan trọng. Để đáp ứng
yêu cầu về nhiệm vụ ngày càng nặng nề, đối tượng dự nguồn cán bộ, công
84
chức chủ chốt chính quyền huyện Hoài Nhơn cần phải cơ bản đáp ứng các
tiêu chuẩn sau đây:
Một là, về yêu cầu chung, cán bộ công chức cần phải được trang bị kiến
thức toàn diện về chính trị, quản lý nhà nước, các vấn đề kinh tế, văn hóa, xã
hội, giáo dục, an ninh quốc phòng. Trong đó, đội ngũ này cần phải nắm vững
những quan điểm cơ bản của Chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
lịch sử đất nước, lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, những chủ trương, đường
lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, các chủ trương, chương
trình phát triển của tỉnh Bình Định nói chung; có kiến thức về xây dựng Đảng,
có trình độ cơ bản về quản lý nhà nước, kinh tế, xã hội; có kiến thức về khoa
học và kỹ năng lãnh đạo, quản lý. Đặc biệt là nắm vững và nắm kỹ kiến thức,
nghiệp vụ chuyên sâu trong vị trí, cương vị mà cán bộ, công chức đó sẽ đảm
nhiệm.
Hai là, về phẩm chất chính trị: cán bộ, công chức của huyện phải là
những người có trình độ giác ngộ chính trị cao, bản lĩnh chính trị vững vàng,
trung thành với Chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định
mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, quán triệt và tin tưởng vào
đường lối phát triển của tỉnh và của huyện. Trong quá trình công tác, phải
kiên quyết đấu tranh bảo vệ các chủ trương, đường của Đảng, chính sách
pháp, luật của nhà nước, chống lại các luận điệu tiêu cực, xuyên tạc của các
thế lực thù địch chống phá, gây mơ hồ, gây mất đoàn kết và gây diễn biến,
chuyển hóa về nhận thức và tư tưởng.
Ba là, về đạo đức, lối sống: Có ý thức tổ chức kỷ luật cao, ý thức phục
tùng tổ chức và chấp nhận sự phân công của tổ chức, có trách nhiệm cao, dám
nghĩ, dám làm, nói đi đôi với làm, làm có hiệu quả, dám chịu trách nhiệm, ý
thức cao về tự phê bình và phê bình. Trong cuộc sống, không ngừng rèn luyện
bốn đức cần, kiệm, liêm, chính; trung thực, thẳng thắn, đặt lợi ích tập thể
85
trước và trên lợi ích cá nhân, sống hòa đồng, khiêm tốn với đảng viên và quần
chúng nhân dân; trong công việc tập thể cần chí, công, vô tư.
Bốn là, về năng lực công tác: cán bộ chủ chốt của chính quyền huyện
Hoài Nhơn phải là người có năng lực cao, đáp ứng tốt yêu cầu của một người
lãnh đạo, quản lý trong hệ thống chính trị cấp huyện. Về vấn đề này, tùy theo
cương vị, chức trách, vị trí mà đặt ra các yêu cầu cụ thể song phải thực sự là
người giỏi về năng lực lãnh đạo, quản lý, có tư duy sáng tạo, có uy tín, có khả
năng tổ chức thực tiễn tốt, có năng lực trong công tác tổ chức xây dựng Đảng
và cơ quan trong sạch, vững mạnh; có năng lực chỉ đạo đơn vị, hướng dẫn cấp
dưới hoàn thành các nhiệm vụ chính trị được giao; có kỹ năng vận động,
tuyên truyền, thuyết phục quần chúng nhân nhân chấp hành các chủ trương,
chính sách của Đảng và Nhà nước cũng như các chỉ thị nghị quyết của
Đảng, Đảng bộ và chính quyền tỉnh cũng như Đảng bộ và chính quyền
huyệnHoài Nhơn.
Năm là, về các tiêu chuẩn tuổi đời, kinh nghiệm thực tiễn, trình độ học
vấn, đối tượng nguồn cho cán bộ chủ chốt được xác định:
Ở độ tuổi không quá 45 tuổi đối với nam và 40 tuổi với nữ, tính đến
năm 2020 tức là thời gian của Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XX, nhiệm kỳ
2020-2025 (nam sinh sau năm 1970 và nữ sinh sau năm 1975).
Cán bộ chủ chốt của huyện phải kinh qua các chức danh chủ chốt của
xã, thị trấn; bí thư đảng ủy xã, thị trấn phải kinh qua các chức danh lãnh đạo
chủ chốt của xã, thị trấn; cán bộ chủ chốt các phòng, ban, đoàn thể huyện phải
kinh qua các chức danh trưởng, phó các đơn vị trực thuộc, hoặc có kinh
nghiệm và hiểu biết về lĩnh vực công tác được phân công phụ trách.
Phải được đào tạo theo hệ chính quy ở các trường của Đảng, Nhà nước
và đoàn thể. Trong đó, phải có bằng tốt nghiệp:
+ Đại học chính quy, hệ tập trung, chuyên môn nghiệp vụ;
86
+ Trung cấp lý luận chính trị trở lên;
+ Đã qua bồi dưỡng công tác Đảng, đoàn thể, quản lý Nhà nước, bồi
dưỡng kiến thức quốc phòng;
Sáu là, đối với những trường hợp sau đây, cần phải kiên quyết không
xét hoặc đưa ra khỏi đối tượng dự nguồn cán bộ chủ chốt của huyện:
+ Có bản lĩnh chính trị không vững vàng, không có chính kiến không
dám đấu tranh bảo vệ cái đúng, chống các quan điểm sai trái và tiêu cực trong
xã hội;
+ Có tham vọng quyền lực, sống nặng về chủ nghĩa cá nhân, hẹp hòi;
có tính xu nịnh, cục bộ địa phương, có biểu kiện kèn cựa địa vị, chèn ép cấp
dưới;
+ Từng liên quan chính đến việc gây ra mất đoàn kết nội bộ, để xảy ra
tham nhũng, lãng phí trong cơ quan;
+ Thiếu gương mẫu về đạo đức lối sống;
+ Ý thức tổ chức kỷ luật kém, tính chấp hành mệnh lệnh hành chính
kém, đối phó cả về công việc và ý thức, thiếu tính tự giác;
+ Có vấn đề lịch sử chính trị chưa rõ ràng hoặc chưa được cơ quan có
thẩm quyền xem xét và kết luận, hoặc thiếu trung thực trong kê khai tài sản,
hồ sơ lý lịch của bản thân.
3.2. Những giải pháp chủ yếu
3.2.1. Tăng cường vai trò của Ban Thường vụ Huyện ủy, các cơ quan
của huyện, các xã, thị trấn trong công tác tạo nguồn cán bộ chủ chốt chính
quyền của huyện
Theo Quy chế làm việc của Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Hoài Nhơn
khóa XIX, nhiệm kỳ 2015-2020 ngày 20 tháng 9 năm 2010,Ban Thường vụ
Huyện ủy có vai trò quan trọng và quyết định tới công tác tạo nguồn cán bộ
chủ chốt đó là tuyển chọn, bố trí, phân công công tác, giới thiệu ứng cử, chỉ
87
định, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, điều động, luân chuyển, bổ nhiệm, miễn
nhiệm, khen thưởng, kỷ luật, nghỉ hưu và thực hiện chính sách đối với các
chức danh ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ huyện, thủ trưởng, phó thủ trưởng
các cơ quan trực thuộc Huyện ủy, trưởng phòng, phó trưởng phòng huyện
và tương đương, lãnh đạo cấp trưởng và cấp phó Mặt trận và các đoàn thể
của huyện; bí thư, phó bí thư đảng ủy, chủ tịch, phó chủ tịch ủy ban nhân
dân các xã, thị trấn. Vai trò đó thể hiện ở sự lãnh đạo toàn diện của Ban
Thường vụ Huyện ủy đối với công tác cán bộ nói chung và công tác tạo
nguồn cán bộ nói riêng.
Ban Thường vụ Huyện ủy Hoài Nhơn xây dựng và ban hành nhiều
quyết định, kế hoạch về công tác cán bộ, đề ra các chủ trương tạo nguồn cán
bộ của huyện. Tuy nhiên, trong thời gian tới, Ban Thường vụ Huyện uỷ Hoài
Nhơn cần phải chủ động trong việc kiểm tra, tổ chức tổng kết nhằm đánh giá
đúng tình hình và thực trạng công tác tạo nguồn cán bộ chủ chốt của huyện,
thấy được điểm mạnh, tồn tại hạn chế đồng thời rút ra những kinh nghiệm
thực tiễn để đề ra những giải pháp cụ thể trong công tác tạo nguồn cán
bộ.Trước mắt cần tiếp tục thực hiện triệt để Đề án cán bộ đến năm 2025 do
Ban Thường vụ Huyện uỷ Hoài Nhơn ban hành,đồng thời cần chỉ đạo các cơ
quan, bộ phận có liên quan rà soát, bổ sung hoàn thiện kế hoạch tạo nguồn
cán bộ chủ chốt giai đoạn 2020 - 2025.
Để triển khai tốt công tác tạo nguồn cán bộ chủ chốt, không thể không
nhắc đến vai trò của Ban Tổ chức Huyện ủy và các bộ phận tổ chức cán bộ tại
các cơ quan, đơn vị ở các ban, ngành trên địa bàn huyện và ở các xã, thị trấn.
Có thể thấy rõ, hoạt động tạo nguồn cán bộ, công chức chủ chốt của huyện có
thực sự hiệu quả, trở thành công tác thường xuyên hay không đều trông đợi
vào sự tham mưu của Ban Tổ chức Huyện ủy và các bộ phận làm công tác tổ
chức cán bộ. Các cơ quan này tham mưu xây dựng các văn bản để cụ thể hóa
88
các quan điểm, chủ trương của Đảng; thu thập tổng hợp thông tin về nguồn
cán bộ, công chức, rà soát, đánh giá cán bộ, công chức, chuẩn bị, tổ chức
công tác quy hoạch cán bộ tại cơ quan, đề xuất cử cán bộ, công chức dự
nguồn tham gia các chương trình đào tạo, bồi dưỡng do tỉnh và huyện tổ chức.
Chính vì vậy, cần có sự đổi mới và nâng cao chất lượng hoạt động của Ban
Tổ chức Huyện ủy cùng các cơ quan, bộ phận này là nhiệm vụ cấp thiết.
Trong điều kiện đội ngũ cán bộ làm công tác tổ chức, cán bộ của Huyện
ủy Hoài Nhơn còn nhiều hạn chế cả về số lượng và chất lượng và không thể
tăng thêm được số lượng công chức cho bộ máy này thì giải pháp tối ưu nhất
chính là tổ chức “đào tạo nghề” thường xuyên cho cán bộ, công chức của Ban
Tổ chức Huyện ủy để “tay nghề” của đội ngũ này thật thuần thục và càng
ngày càng trở nên chuyên nghiệp hơn. Ngay cả việc phải cùng lúc đảm nhiệm
một số lĩnh vực của công tác xây dựng đảng về tổ chức và cán bộ cũng nên
được hiểu là cơ hội để “học nghề” mà không cần phải chuyển đổi vị trí công
tác như đối với cán bộ, công chức của các Ban Tổ chức Tỉnh ủy, Huyện ủy.
Tuy nhiên chất lượng “học nghề” tại chỗ đơn thuần như thế sẽ không cao và
dễ rơi vào kinh nghiệm chủ nghĩa.
Đối với đội ngũ làm công tác tổ chức cán bộ tại các cơ quan nêu trên,
cần phải đảm bảo đúng các tiêu chuẩn đối với cán bộ, công chức nói chung
song cũng phải yêu cầu thêm về phẩm chất đạo đức, phải thực sự là người
khách quan, công tâm, trung thực và tận tụy với công việc. Đây cũng là những
cán bộ, công chức nắm chắc về quy định phân cấp quản lý cán bộ, biết vận
dụng các kiến thức, phương pháp trong công tác cán bộ, có khả năng thu thập
thông tin, đặc biệt là thông tin “động”, đối với cán bộ và biết xử lý, chọn lọc,
phân loại thông tin về cán bộ công chức nằm trong đối tượng dự nguồn.
89
3.2.2. Xác định nguồn cán bộ chủ chốt chính quyền và đánh giá đúng
đội ngũ cán bộ chủ chốt chính quyền huyện Hoài Nhơn
Nguồn cán bộ là nơi khởi đầu, là xuất phát điểm, nơi cung cấp cán bộ.
Mỗi khi lựa chọn cán bộ để phát triển nói chung, ta luôn tự hỏi, phải lựa chọn
cán bộ ở đâu, từ nguồn nào? Để trả lời nội dung này, trước hết ta cần làm rõ
đối tượng cán bộ để lựa chọn trở thành đối tượng dự nguồn cán bộ chủ chốt
của huyện. Căn cứ vào tình hình thực tế, dựa vào các điều kiện, tiêu chuẩn
như đã trình bày ở trên, ta có thể xác định nguồn đối tượng cán bộ chủ chốt
cho chính quyền huyện Hoài Nhơn như sau:
Thứ nhất, là nguồn đương nhiệm. Đây là các cán bộ chủ chốt hiện tại
của huyện Hoài Nhơn vẫn còn đủ độ tuổi, tiêu chuẩn, điều kiện tiếp tục tham
gia trong nhiệm kỳ tiếp theo. Đây là các cán bộ, công chức trong tương lai
vẫn đảm đương các chức vụ hiện tại, chức vụ khác tương đương hoặc giữ các
chức vụ cao hơn. Xét về tiêu chuẩn độ tuổi như trên (45 đối với nam và 40 đối
với nữ) thì đối tượng này có 75.
Thứ hai, là nguồn kế cận. Đây là những cán bộ đang giữ các chức vụ
phó phòng và tương đương ở các cơ quan, đơn vị, bộ phận thuộc Đảng bộ,
ban, ngành, chính quyền thuộc huyện và các xã, thị trấn. Đối tượng này cũng
là các chuyên viên trẻ, được đào tạo bài bản, có trình độ học vấn, đa phần có
bằng đại học chính quy và trên đại học; có thành tích tốt trong học tập và
công tác, qua thực tiễn công tác chứng tỏ là những cán bộ, công chức có phẩm
chất đạo đức tốt và nhiều triển vọng phát triển.Hiện nay toàn huyện Hoài
Nhơn có 282 cán bộ, công chức công tác tại các cơ quan Đảng, chính quyền
và đoàn thể của huyện. Trong số này, có 190 người có độ tuổi dưới 45, 5
người dưới 35 tuổi (gồm cả đối tượng nam và nữ). Về đội ngũ cán bộ, công
chức cấp xã, thị trấn, hiện nay có 248/343 người có độ tuổi dưới 45 (gồm cả
90
đối tượng nam và nữ). Đây là lực lượng kế cận tương tương đối hùng hậu và
có thể lựa chọn trở thành nguồn quan trọng cho huyện trong tương lai.
Thứ ba, là nguồn từ xa. Đối tượng này là các cán bộ, công chức, nhà
khoa học trẻ hiện đang công tác tại các cơ quan, đơn vị trên địa bàn tỉnh có
điều kiện thuận lợi làm việc tại huyện Hoài Nhơn hoặc có mối quan hệ công
tác với huyện và các sinh viên đã tốt nghiệp, trí thức trẻ đang tham gia các
chương trình đào tạo dự nguồn của tỉnh.
Về cơ chế giới thiệu nguồn: định kỳ hằng năm Huyện ủy tổ chức hội
nghị cán bộ chủ chốt của đơn vị để lấy ý kiến giới thiệu (bằng phiếu, bằng văn
bản hoặc trực tiếp giới thiệu tại hội nghị bằng văn bản). Chú ý phát huy vai
trò của các cán bộ trong Ban Chấp hành Đảng bộ huyện trong việc giới thiệu
nguồn cán bộ kế thừa.
Trong ba nguồn cán bộ, công chức nói trên, nguồn tại chỗ bao gồm
nguồn đương nhiệm và kế cận có vai trò quyết định đến đội ngũ cán bộ chủ
chốt của huyện Hoài Nhơn trong tương lai. Đây là đối tượng sẵn có, có lí lịch
rõ ràng, có quá trình cống hiến và phấn đấu trên địa bàn huyện và vì vậy
đương nhiên các đối tượng này phải có sự quan tâm đặc biệt. Để có nguồn
“ứng viên” cán bộ chủ chốt của huyện dồi dào và có chất lượng, cần chủ động
đánh giá, rà soát toàn diện đội ngũ cán bộ, công chức hiện nay của huyện.
Đánh giá cán bộ là khâu quan trọng đầu tiên của công tác cán bộ, đó là
việc làm khó, rất nhạy cảm vì có ảnh hưởng đến tất cả các khâu khác của
công tác cán bộ, có ý nghĩa quyết định trong việc phát hiện, tuyển chọn, đào
tạo, bồi dưỡng, bố trí, sử dụng, đề bạt, khen thưởng, kỷ luật và thực hiện các
chế độ, chính sách đối với cán bộ cũng như giúp cán bộ phát huy ưu điểm,
khắc phục nhược điểm, tiến bộ không ngừng trong việc nâng cao phẩm chất
chính trị, đạo đức cách mạng, năng lực và hiệu quả công tác của cán bộ. Có
đánh giá đúng cán bộ, công chức thì mới có thể nhận biết người tốt, người
91
kém, người có tiềm năng, người còn khả năng công tác, người có tài hay
người bất tài, số lượng còn thiếu đủ ra sao để có thể tính đến tới các đối tượng
khác cho công tác tạonguồn. Cũng giống như trong công tác quy hoạch cán
bộ, việc đánh giá cán bộ, công chức phục vụ công công tác tạo nguồn cần
phải được tiến hành định kỳ. Cần phải đánh giá đúng phẩm chất, năng lực có
nêu được các ưu điểm, chỉ rõ các tồn tại hạn chế hoặc khuyết điểm của cán bộ
trong đội ngũ dự nguồn. Việc đánh giá cán bộ phải dựa trên cơ sở chương
trình, kế hoạch công tác cụ thể của từng cá nhân và hiệu quả thực hiện các
chương trình, kế hoạch đó cũng như các công việc khác được giao. Kết quả
phân loại cán bộ cuối năm được xem là cơ sở để khen thưởng, kỷ luật, điều
động, luân chuyển, bổ nhiệm cán bộ trên địa bàn huyện. Cần phải trang bị hồ
sơ lưu trữ một cách khoa học và bài bản đối với đối tượng là cán bộ, công
chức sẽ được đưa vào dự nguồn. Trên cơ sở đó có sự kiểm tra, theo dõi sự
phấn đấu của họ trên cương vị công tác.
Trong quá trình đánh giá, phải mở rộng dân chủ, phát huy trí tuệ tập
thể, tăng cường công tác thông tin trong việc phát hiện và giới thiệu cán bộ để
đưa vào nguồn. Đặc biệt lưu ý cần ưu tiên phát hiện những cán bộ, công chức
trẻ tuổi, được đào tạo chính quy, có năng lực phát triển. Do đây là các cán bộ,
công chức mới công tác cho nên không lấy tiêu chuẩn là phải thành tích trong
hoạt động thực tiễn.
Bên cạnh đó, khi đánh giá đối tượng này, cần phải tuân thủ nghiêm túc
các căn cứ và tiêu chuẩn đánh giá như các quy chế đánh giá cán bộ của Bộ
Chính trị, hướng dẫn thực hiện của Ban Tổ chức Trung ương, Ban Thường vụ
Tỉnh ủy, Ban Tổ chức Tỉnh uỷ. Tuy nhiên, cơ quan thực hiện việc đánh giá
cán bộ phải nghiên cứu cụ thể phù hợp với từng điều kiện của cơ quan, đơn
vị mình và nhất là phù hợp với mục tiêu và tiêu chuẩn của cán bộ, công chức
dự nguồn.
92
3.2.3. Hoàn chỉnh và cụ thể hóa quy trình quy hoạch cán bộ, công
chức chủ chốt cho chính quyền huyện Hoài Nhơn
Tiếp tục làm tốt công tác quy hoạch cán bộ theo tinh thần Nghị quyết
42-NQ/TW ngày 30-11-2004 của Bộ Chính trị, Hướng dẫn số 15-
HD/BTCTW ngày 05-11-2012 của Ban Tổ chức Trung ương về “Công tác
quy hoạch cán bộ, lãnh đạo, quản lý theo tinh thần Nghị quyết số 42-NQ/TW
và Kết luận số 24-KL/TW”, và Kế hoạch số 11-KH/TU ngày 02/12/2016 của
Ban Thường vụ Tỉnh ủy;tập trung rà soát, điều chỉnh bổ sung quy hoạch cán
bộ theo đúng quy định, quy trình, trong đó chú trọng đảm bảo các điều kiện
về thành phần giai cấp, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, lý luận chính trị, cơ
cấu độ tuổi; tỷ lệ cán bộ trẻ, cán bộ nữ; cơ cấu ngành, nghề; trình độ tin học,
ngoại ngữ… Trên cơ sở quy hoạch và tiêu chí đánh giá cán bộ, lập phương án
dự kiến thay thế độ ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt huyện và xã, thị trấn đến
tuổi nghỉ hưu và không đủ tuổi cơ cấu cấp ủy nhiệm kỳ 2020-2025. Bên cạnh
đó, cần tiếp tục thực hiện có hiệu quả Kết luận Hội nghị lần thứ 9, Ban Chấp
hành Trung ương Đảng (khóa X) “Về đẩy mạnh thực hiện chiến lược cán bộ
từ nay đến năm 2020”. Trước mắt, phải làm tốt công tác quy hoạch cán bộ,
mỗi chức danh chủ chốt cần có 3 đến 4 người nằm trong danh sách dự nguồn
quy hoạch. Thông qua công tác quy hoạch phải thực hiện kế hoạch đào tạo
một cách phù hợp. Tùy theo từng nhân sự cụ thể để bổ sung những chuyên
môn còn thiếu.
Trong quá trình quy hoạch cán bộ, cần thực hiện theo đúng quy trình để
đảm bảo các nguyên tắc và nâng cao chất lượng hiệu quả công tác quy hoạch.
Đối với huyện Hoài Nhơn, cần lưu ý việc thực hiện các bước quy hoạch quan
trọng sau đây:
Thứ nhất, về chuẩn bị xây dựng kế hoạch. Yêu cầu chung là phải tập
trung chỉ đạo xây dựng xong quy hoạch cán bộ, công chức của các đảng bộ
93
trực thuộc, các cơ quan đơn vị trong khối Đảng, chính quyền, Mặt trận - đoàn
thể cấp huyện, đảng ủy các xã, thị trấn để làm cơ sở phát hiện nguồn cho cán
bộ chủ chốt của huyện.
Thứ hai, phải thực hiện rà soát, đánh giá toàn diện về cán bộ, công chức
huyện và các xã, thị trấn. Tổ chức đánh giá khách quan, khoa học và trên cơ
sở đó có sự phân loại chất lượng cán bộ, công chức theo hướng: vẫn tiếp tục
giữ nhiệm vụ, cần được đào tạo, bồi dưỡng thêm để hoàn thành nhiệm vụ,
không đủ điều kiện để đảm đương vị trí công tác hiện tại. Việc đánh giá cán
bộ cũng cần thực hiện đúng theo quy trình: cán bộ tự nhận xét, đánh giá, chi
bộ nơi công tác và cư trú nhận xét, tập thể cấp ủy, ban cán sự hoặc lãnh đạo
cơ quan nhận xét và cuối cùng được báo cáo trình Ban Thường vụ Huyện ủy
đánh giá. Quá trình này phải được thực hiện dân chủ và công khai trong tập
thể cấp ủy.
Trên cơ sở đó, bộ phận tổ chức của cơ quan có trách nhiệm căn cứ vào
quy hoạch cán bộ, vào kết quả đánh giá cán bộ hàng năm để lựa chọn lập
danh sách cán bộ vào dự nguồn quy hoạch. Các bước tiến hành quy hoạch này
cần thực hiện theo đúng quy định của Đảng.
Trong quá trình thực hiện việc quy hoạch cần hết sức lưu ý, tránh sự
nhầm lẫn giữa tạo nguồn và quy hoạch. Đây là hai bước quan trọng trong quy
trình đào tạo và bố trí cán bộ. Vì vậy, hai quá trình này phải tiến hành đồng
thời và thường xuyên. Tạo nguồn để quy hoạch, quy hoạch kết hợp với đào
tạo bồi dưỡng để tạo nguồn. Quá trình thực hiện phải được xem xét, cân nhắc
một cách toàn diện. Cấp uỷ, nhất là người đứng đầu phải công tâm, khách
quan, không định kiến thì mới có thể định hướng và làm tốt công tác quy
hoạch cán bộ. Có như vậy mới có đội ngũ cán bộ cơ sở chất lượng tốt.
94
3.2.4. Đẩy mạnh việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức chủ chốt
chính quyền dự nguồn huyện Hoài Nhơn
Trên cơ sở quy hoạch cán bộ, Ban Tổ chức Huyện uỷ tham mưu Ban
Thường vụ Huyện uỷ xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng theo lộ trình, ưu
tiên cán bộ trong diện quy hoạch, nhất là đối với những cán bộ được lựa chọn
thay thế độ ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt huyện, xã, thị trấn đến tuổi nghỉ hưu
và không đủ tuổi cơ cấu cấp ủy nhiệm kỳ 2020 - 2025. Ngoài ra, cần có chế
độ khuyến khích và tạo điều kiện cho cán bộ công chức, nhất là cán bộ lãnh
đạo có tuổi đời dưới 40 học tập nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, lý
luận chính trị và quản lý nhà nước.
Để triển khai hoạt động đào tạo, bồi dưỡng, các phòng, ban chuyên
môn, các phường kiểm tra, đề xuất cán bộ, công chức tham gia đào tạo, bồi
dưỡng; kiên quyết không để xảy ra trường hợp cán bộ không tham gia khi đã
có quyết định đi học; có biện pháp chế tài đối với cán bộ, công chức, viên
chức được cử tham gia đào tạo, bồi dưỡng nhưng không thực hiện đầy đủ quy
định hoặc bỏ học. Thực hiện có hiệu quả, thiết thực việc đào tạo bồi dưỡng
cán bộ cơ sở. Đào tạo theo quy hoạch để chấm dứt tình trạng được bầu, bổ
nhiệm giữ chức vụ rồi mới cử đi học. Xây dựng kế hoạch bồi dưỡng cập nhật
kiến thức cho cán bộ. Về nội dung đào tạo, bồi dưỡng, cần chú trọng các lớp
bồi dưỡng, tập huấn về chuyên môn nghiệp vụ, nhất là kỹ năng tham mưu,
phương pháp nghiên cứu và kỹ năng lãnh đạo, quản lý cho cán bộ trẻ.
Để thực hiện tốt nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức dự
nguồn, cần quan tâm thực hiện các giải pháp như sau:
Một là, các cấp ủy, tổ chức Đảng, đặc biệt là các lãnh đạo cơ quan đơn
vị cần thường xuyên và chủ động xây dựng kế hoạch đào tạo bồi dưỡng cán
bộ do mình được phân công quản lý. Ngoài ra, thủ trưởng cơ quan cũng cần
tuân thủ nghiêm túc các chỉ đạo của cấp trên về việc cử cán bộ do cơ quan
95
mình quản lý tham gia các chương trình đào tạo, bồi dưỡng hoặc các lớp dự
nguồn do Đảng bộ huyện, Ban Thường vụ Huyện ủy chỉ đạo. Tiếp đó, cần
phải có phương án bố trí, sử dụng, luân chuyển cán bộ một cách hợp lý sau
khi cán bộ, công chức đó đã hoàn thành các chương trình đào tạo, bồi dưỡng.
Trong đó có sự quan tâm đầy đủ tới các trường hợp hoàn thành các chương
trình đào tạo, bồi dưỡng với kết quả tốt nhất. Cụ thể là, trên cơ sở quy hoạch
cán bộ, Ban Tổ chức Huyện uỷ tham mưu Ban Thường vụ Huyện uỷ xây
dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng theo lộ trình, ưu tiên cán bộ trong diện quy
hoạch, nhất là đối với những cán bộ được lựa chọn thay thế độ ngũ cán bộ
lãnh đạo chủ chốt huyện, xã, thị trấn đến tuổi nghỉ hưu và không đủ tuổi cơ
cấu cấp ủy nhiệm kỳ 2020-2025.
Hai là, định kỳ hàng năm hoặc theo nhiệm kỳ, Ban Thường vụ Huyện
ủy có chủ trương chỉ đạo Ban Tổ chức Huyện ủy phối hợp với các cơ quan có
liên quan như Ban Tổ chức Tỉnh ủy, Sở Nội vụ, Trường Chính trị tỉnh, Trung
tâm Bồi dưỡng chính trị huyện, các trung tâm đào tạo cán bộ, công chức khác
mở các lớp học chuyên đề hoặc cử cán bộ, công chức tham gia các lớp học
này theo chương trình của tỉnh. Đặc biệt, huyện cần có sự phối hợp với các
huyện, thị xã, thành phố khác trong tỉnh, chủ động đề xuất Ban Tổ chức Tỉnh
ủy, tổ chức hoặc phối hợp tổ chức các lớp bồi dưỡng, tập huấn về chuyên môn
nghiệp vụ, nhất là kỹ năng tham mưu, phương pháp nghiên cứu và kỹ năng
lãnh đạo, quản lý cho cán bộ trẻ.
Ba là, có chế độ khuyến khích và tạo điều kiện cho cán bộ công chức,
nhất là cán bộ lãnh đạo có tuổi đời dưới 40 học tập nâng cao trình độ chuyên
môn, nghiệp vụ, lý luận chính trị và quản lý nhà nước. Đối với những cán bộ,
công chức trên 40 tuổi, khuyến khích tự đi học để nâng cao trình độ chuyên
môn, nghiệp vụ.
96
Bốn là, củng cố và hoàn thiện tổ chức của Trung tâm Bồi dưỡng chính
trị huyện. Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chủ chốt cấp cơ sở tại huyện Bố
Trạch được thực hiện chủ yếu thông qua Trung tâm Bồi dưỡng chính trị
huyện nên để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ bồi dưỡng, nâng cao chất lượng
đối tượng dự nguồn cán bộ, công chức chủ chốt của huyện, ngay ở huyện cần
phải tăng cường đội ngũ giảng dạy, tăng cường cơ sở vật chất cũng như
không ngừng củng cố và hoàn thiện tổ chức.
Năm là, về nội dung đào tạo và bồi dưỡng, cần phải bám sát các quy
định và hướng dẫn của các cơ quan có thẩm quyền cũng như sát với các chủ
trương, chính sách hiện tại của Đảng và nhà nước trong nội dung được đào
tạo bồi dưỡng. Nội dung học phải thiết thực và gắn liền với thực tiễn công tác
của cán bộ công chức. Cán bộ giảng dạy phải có trình độ sư phạm và phương
pháp giảng dạy thích hợp với đối tượng cán bộ, công chức; lựa chon đội ngũ
giảng viên các lớp phải đúng tầm, phù hợp với từng đối tượng cụ thể, không
thể giảng viên có trình độ chuyên môn đại học từ xa đứng giảng bài quản lý
nhà nước cho các đối tượng có trình độ từ đại học chính quy trở lên.
3.2.5. Tạo bước đột phá trong luân chuyển để bồi dưỡng, rèn luyện
cán bộ và tạo nguồn cán bộ, công chức chủ chốt của huyện Hoài Nhơn
Luân chuyển là tạo cơ hội đào tạo cán bộ, làm mới cán bộ, phải tạo ra
động lực phát triển cho nhiều phía. Vì vậy, phải có nhận thức đúng đắn và đầy
đủ về luân chuyển. Luân chuyển cán bộ không đơn thuần là dịch chuyển, thay
đổi vị trí mà cần làm thay đổi cách nghĩ của cán bộ từ “bị” sang “được” luân
chuyển để xóa đi tâm lý “chuồn chuồn đạp nước”, triệt tiêu tư tưởng “nhiệm
kỳ - niên hạn”, “cục bộ địa phương - khép kín”. Do đó, công tác luân chuyển
cán bộ cần được thực hiện một cách đồng bộ, bài bản, đầy đủ từ khâu quy
hoạch dài hơi, xây dựng đề án tới các biện pháp công tác tư tưởng, đào tạo,
theo dõi, giúp đỡ cán bộ sau luân chuyển.Đối với huyện Hoài Nhơn, luân
97
chuyển còn là tăng cường sức lãnh đạo cho cơ sở; rèn luyện, đào tạo, bồi
dưỡng gắn với kinh nghiệm thực tiễn cho cán bộ trẻ trong diện quy hoạch;
tránh được sức ỳ, cục bộ địa phương, lợi ích nhóm, nhất là ở một số lĩnh vực
nhạy cảm như quản lý đất đai, tài chính, công tác cán bộ, chế độ chính sách;
từng bước chuẩn bị nhân sự cho các nhiệm kỳ sau. Bên cạnh đó là việc xây
dựng, kiện toàn đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý đủ về số lượng, đồng bộ về
cơ cấu, bảo đảm sự chuyển tiếp liên tục và vững vàng giữa các thế hệ cán bộ,
khắc phục dần tình trạng hẫng hụt, thiếu chủ động trong công tác cán bộ.
Để làm tốt công tác luân chuyển cán bộ trước hết phải tổ chức quán
triệt sâu sắc nghị quyết của Trung ương, hướng dẫn của tỉnh, xác định rõ vai
trò trách nhiệm của các cấp ủy, lãnh đạo các cấp và mỗi cán bộ đảng viên
trong việc thực hiện luân chuyển cán bộ.
Để triển khai công tác này, Ban Thường vụ Huyện ủy cần xây dựng và
ban hành Đề án luân chuyển cán bộ. Lưu ý khi thực hiện cần phải quán triệt
sâu sắc trong các cấp ủy Đảng, cán bộ, đảng viên và nhân dân, phải làm thay
đổi nhận thức của toàn thể cán bộ, đảng viên và cả người dân. Ban Thường vụ
Huyện ủy phải thực sự chú ý lắng nghe ý kiến, dư luận của cán bộ, đảng viên
và người dân; không những tính đến những cái được, cái lợi mà còn cân nhắc
chấp nhận cả cái chưa thuận, tính tạm thời của phong trào ở nơi tiếp nhận cán
bộ luân chuyển, những thiệt thòi của cá nhân cán bộ diện luân chuyển để
khẳng định tính công khai minh bạch, đúng người, đúng việc.
Trong Đề án luân chuyển cán bộ, công chức chủ chốt của huyện, cần
xác định rõ cơ cấu tổ chức và tiêu chuẩn cán bộ cho từng chức danh trên cơ sở
nhiệm vụ chính trị của từng địa phương, đơn vị. Phải xây dựng kế hoạch luân
chuyển (đi và về) chu đáo với lộ trình và bước đi cụ thể, vừa bảo đảm tính ổn
định và phát triển, vừa đảm bảo yêu cầu đổi mới và nâng cao chất lượng đội
ngũ cán bộ. Quy trình luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý phải được thực
98
hiện một cách nghiêm túc, thận trọng, không làm ồ ạt, có sự phối hợp chặt
chẽ, đồng bộ và thống nhất cao giữa các cấp, các ngành trên cơ sở căn cứ vào
năng lực, sở trường của cán bộ. Phải luôn triển khai các bước trên cơ sở đảm
bảo sự đoàn kết, công tâm, khách quan và giữ vững các nguyên tắc công tác
cán bộ của Đảng. Cần có chủ trương ưu tiên luân chuyển, bổ nhiệm cán bộ
dưới 40 tuổi, có trình độ năng lực, có phẩm chất đạo đức tốt, có triển vọng
phát triển và cán bộ giữ chức vụ hoặc đảm nhiệm một nhiệm vụ từ 05 năm trở
lên, cán bộ lãnh đạo đã giữ chức vụ quá thời gian quy định.
Khi triển khai thực hiện, cần làm tốt công tác tư tưởng, tạo sự thống
nhất trong các cấp, các ngành, cán bộ, đảng viên và nhân dân, trước hết là
trong đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý và cơ quan trực tiếp làm công tác tổ
chức cán bộ. Có hiểu đúng và rõ, có thật sự thông suốt về ý nghĩa, mục đích,
yêu cầu, phương châm, nguyên tắc của luân chuyển cán bộ thì mới xác định
đầy đủ trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy đảng, tập thể lãnh đạo cơ
quan, đơn vị, nhất là người đứng đầu trong tổ chức thực hiện.
Yêu cầu mở rộng dân chủ, phát huy vai trò của cán bộ, đảng viên và
nhân dân và căn cứ vào thực tiễn, khắc phục tình trạng định kiến, hẹp hòi đối
với cán bộ và tình trạng cục bộ ngay trong từng cơ quan, đơn vị là một nội
dung rất quan trọng khi thực hiện công tác luân chuyển. Đối với cán bộ, công
chức được luân chuyển phải thực hiện đồng thời vừa làm tốt công tác động
viên, khuyến khích tính tự giác của cán bộ, đảng viên, vừa yêu cầu cán bộ,
đảng viên cả nơi đi và nơi đến nêu cao tinh thần trách nhiệm, nghiêm túc chấp
hành quyết định của tổ chức. Ngoài ra, huyện cũng cần phải tuyên dương,
khen thưởng kịp thời những cán bộ hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ như bổ
nhiệm, đề bạt, bố trí giữ chức vụ cao hơn, nâng lương trước thời hạn... Mặt
khác, phải tăng cường kỷ luật, xử lý nghiêm minh những cán bộ không chấp
99
hành quyết định của tổ chức mà không có lý do chính đáng, những cán bộ
không hoàn thành nhiệm vụ.
Luân chuyển cán bộ, công chức đương nhiên cũng không thể tách rời
các khâu khác trong công tác cán bộ. Trong đó, phải đánh giá đúng cán bộ
làm căn cứ chắc chắn cho quy hoạch cán bộ cũng như thực hiện các khâu
khác. Phải thường xuyên rà soát, bổ sung quy hoạch để làm cơ sở thực hiện
luân chuyển.
Trong thời gian luân chuyển, cấp ủy cấp trên phải thường xuyên theo
dõi, kiểm tra kịp thời giúp đỡ cán bộ khắc phục những khó khăn, hạn chế để
phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ được giao. Định kỳ sơ kết rút kinh nghiệm và
đưa việc luân chuyển cán bộ thành nề nếp, thường xuyên.
100
Tiểu kết Chương 3
Qua kết quả phân tích cơ sở lý luận về tạo nguồn cán bộ chủ chốt chính
quyền cấp huyện trong hệ thống chính trị ở nước ta được trình bày ở Chương
1, và thực trạng công tác tạo nguồn cán bộ chủ chốt cho chính quyền huyện
Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định được trình bày ở Chương 2, Chương 3 đã hệ
thống phương hướng,yêu cầu về tiêu chuẩn tạo nguồn cán bộ chủ chốt chính
quyền huyện. Đồng thời đưa ra những giải pháp cụ thể để góp phần thực hiện
tốt hơn công tác tạo nguồn cán bộ chủ chốt cho chính quyền huyện Hoài
Nhơn, tỉnh Bình Định thời gian tới.
101
KẾT LUẬN
Công tác tạo nguồn đội ngũ cán bộ chủ chốt cho chính quyền huyện
đóng vai trò hết sức quan trọng trong công tác chuẩn bị cán bộ, công chức,
chuẩn bị lực lượng lãnh đạo kế cận. Với yêu cầu của tình hình mới ngày càng
cao, đòi hỏi không chỉ đội ngũ cán bộ, công chức chủ chốt đương nhiệm thực
sự có phẩm chất chính trị tốt, có năng lực và chất lượng cao mà còn phải đảm
bảo sự kế thừa và kế cận sự chuyển tiểp trong tương lai. Tạo nguồn cán bộ
mặc dù không được xác định nằm trong một khâu cụ thể nào của công tác cán
bộ hoặc quản lý cán bộ song lại là một nội dung trọng yếu vì đây là bước đi
đầu tiên, cơ bản để mở ra các hoạt động cũng như các khâu khác trong công
tác cán bộ. Địa phương nào thực hiện tốt, bài bản và khoa học công tác tạo
nguồn cán bộ, công chức thì địa phương ấy xây dựng được đội ngũ cán bộ kế
cận tốt, đảm bảo thực hiện thắng lợi đường lối chủ trương, chính sách của
Đảng, pháp luật của nhà nước cũng như chương trình, kế hoạch phát triển
kinh tế xã hội, an ninh quốc phòng của mình.
Trong suốt thời gian qua, Ban Thường vụ Huyện ủy Hoài Nhơn và các
cơ quan, đơn vị, bộ phận có liên quan đã luôn xác định công tác tạo nguồn
cán bộ đóng vai trò quyết định đến sự phát triển của huyện trong tương lai.
Chính vì vậy, công tác tạo cán bộ nói chung và tạo nguồn cán bộ, công chức
chủ chốt đã có những kết quả đáng khích lệ, đó là chất lượng đội ngũ cán bộ,
công chức ngày càng được nâng cao, đó là số lượngcán bộ, công chức trẻ, cán
bộ, công chức nữ ngày càng đóng vai trò quan trọng trong các cấp ủy, đó là
các quy trình về quy hoạch, luân chuyển, đào tạo bồi dưỡng và bổ nhiệm trở
lên rõ ràng, công khai và minh bạch. Tuy nhiên, công tác tạo nguồn cũng còn
những mặt hạn chế cần phải có sự điều chỉnh và khắc phụ sớm. Việc thực
hiện một cách đồng bộ và biện chứng 05 nhóm giải pháp nêu trên trong đó
102
quan trọng nhất phải nâng cao nhận thức của các cấp ủy, người đứng đầu cơ
quan, đơn vị và của cả cơ quan làm công tác tổ chức cán bộ về tầm quan trọng
của công tác tạo nguồn cán bộ chủ chốt của huyện.
Cũng giống như công tác quy hoạch cán bộ, việc tạo nguồn cán bộ phải
xác định được rõ ràng nguồn cán bộ, công chức. Muốn vậy phải thực hiện rà
soát thường xuyên, có đánh giá khách quan, công tâm về mỗi cán bộ dự
nguồn. Việc lựa chọn cán bộ để đưa vào dự nguồn cũng cần được tổ chức một
cách dân chủ, công khai và khách quan với tinh thần “có ra, có vào.” Đặc biệt,
để công tác tạo nguồn thành công, cần có sự kết hợp một cách linh hoạt và
đồng bộ giữa các khâu trong công tác quản lý cán bộ, từ đánh giá, quy hoạch,
đào tạo bồi dưỡng cho đến luân chuyển. Để nguồn cán bộ chủ chốt luôn được
quan tâm, bồi dưỡng và “sẵn sàng vào vị trí”, các cấp ủy đảng, cơ quan, đơn
vị phải luôn thực hiện công tác kiểm tra, quản lý cán bộ, tạo điều kiện cho các
cán bộ này được tu dưỡng và rèn luyện không ngừng và vươn lên trong học
tập và công tác.
Huyện Hoài Nhơn bước vào thời kỳ phát triển mới trong bối cảnh có
nhiều thuận lợi, cơ hội lớn, nhưng cũng có nhiều khó khăn thách thức gay gắt.
Để Hoài Nhơn phát triển kinh tế - xã hội theo đúng định hướng, xứng đáng
với vị trí, lợi thế, tiềm năng vốn có, chuẩn bị đầy đủ mội khả năng cần thiết để
khi có điều kiện, cơ hội sẽ chia tách đơn vị hành chính cấp huyện, điều này
đòi hỏi đội ngũ cán bộ công chức cho huyện mới càng trở nên cấp bách. Với
những nhiệm vụ trước mắt đặt ra cho Hoài Nhơn trong những năm còn lại của
nhiệm kỳ 2015 - 2020, nhiệm kỳ 2020 - 2025 và giai đoạn tiếp theo thì đây
một trong những nhiệm vụ đặt ra hết sức quan trọng là phải tạo cho được
nguồn cán bộ các cấp nói chung, nhất là cán bộ chủ chốt của huyện có phẩm
chất và năng lực đáp ứng yêu cầu phát triển.
103
Để hoàn thành luận văn này, ngoài sự nỗ lực của bản thân, tôi đã may
mắn nhận được sự giúp đỡ của nhiều tổ chức, cá nhân. Tôi xin trân trọng bày
tỏ lòng cảm ơn sâu sắc đến quý thầy giáo, cô giáo của Học viện Hành chính
Quốc gia đã hướng dẫn, truyền đạt kiến thức cho tôi, đặc biệt cám ơn PGS.TS
Lê Văn Đính đã trực tiếp tận tình hướng dẫn tôi hoàn thành luận văn này.
Qua đây, tôi cũng xin gửi lời cám ơn đến lãnh đạo, chuyên viên Ban Tổ
chức Huyện uỷ Hoài Nhơn, Phòng Nội vụ huyện Hoài Nhơn, Văn phòng
Huyện uỷ, Văn phòng HĐND - UBND huyện Hoài Nhơn, Chi cục Thống kê
huyện Hoài Nhơn đã tạo điều kiện, cung cấp các số liệu, tài liệu giúp tôi hoàn
thiện luận văn này.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng cũng không tránh khỏi những thiếu
sót nhất định. Vì vậy, tôi mong nhận được sự thông cảm và những ý kiến
đóng góp của các nhà khoa học, các cô giáo, thầy giáo của Học viện Hành
chính Quốc gia cũng như các đồng nghiệp trong huyện.
Xin trân trọng cảm ơn!
104
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đào Duy Anh (2005), Hán việt từ điển, Nxb. Văn hóa thông tin.
2.Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá X, “Báo cáo chính trị tại Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng”, nguồn: http://chinhphu.vn/
(21.12.2013).
3.Ban Tổ chức Huyện ủy Hoài Nhơn (2019), Số liệu thực trạng đội ngũ, cán
bộ công chức huyện.
4. Nguyễn Trọng Bảo (Chủ biên) (1998), Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo
và đội ngũ cán bộ quản lý kinh doanh trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
5.Đại hội đại biểu Đảng bộ Huyện Hoài Nhơn, Nghị quyết Đại hội khóa XIX
Đảng bộ huyện.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp
hành Trung ương khoá VIII, Nxb chính trị quốc gia, Hà Nội.
7. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng toàn
quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
8. Đảng Cộng sản Việt Nam (2019), Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới
phần II (đại hội X, XI, XII) đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ XII, Nxb
Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội.
9.Đảng Cộng sản Việt Nam (2018), Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban
Chấp hành Trung ương khoá XII về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ
các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang
tầm nhiệm vụ, Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 19 tháng 5 năm 2018.
10. Đảng Cộng sản Việt Nam (2019), Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới
phần II (đại hội X, XI, XII) đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ XII, Nxb
Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội.
11. Cao Duy Hạ (2010), “Những yêu cầu cơ bản đối với cán bộ chủ chốt cấp
huyện”, Tạp chí Tổ chức Nhà nước, số 1.
12. Tô Tử Hạ (1998), Công chức và vấn đề xây dựng đội ngũ cán bộ công
chức hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
13. Nguyễn Thị Khoa (2010), “Mối quan hệ giữa đánh giá, quy hoạch, luân
chuyển và đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý”, Nội san số 22,
Trường Chính trị tỉnh Nghệ An.
14. Luật cán bộ, công chức năm 2008 và văn bản hướng dẫn thi hành (2011),
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
15. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 4, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
16. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 5, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
17. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 7, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
18. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 10, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
19. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 12, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
20. Thang Hữu Phúc, Nguyễn Minh Phương, Nguyễn Thu Huyền (2004), Hệ
thống công vụ và xu hướng cải cách của một số nước trên thế giới, Nxb.
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
21. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Điều 110 Hiến pháp
2013.
22. Phạm Ngọc Thạch (2009), “Đào tạo thế hệ lãnh đạo tiếp theo của Đảng
Cộng sản”, http://www.vietnamleader.com/ (ngày 03.5.2013).
23. Nguyễn Phú Trọng, Trần Xuân Sầm (đồng chủ biên - 2003), Luận cứ cho
việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
24. Ủy ban nhân dân huyện Hoài Nhơn, Báo cáo kế hoạch phát triển kinh tế -
xã hội huyện (các năm 2015, 2016, 2017, 2018, 2019).
25. Viện Ngôn ngữ học (2000), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng.
26. Viện Ngôn ngữ học (2006), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng - Trung
tâm Từ điển học, Đà Nẵng, Hà Nội.
Trang Web
1.https://www.cia.gov/library/publications/the-world factbook/geos/sn.html/
(ngày 05.12.2013).
2.http://www.vjol.info/index.php/kttc/article/viewFil/ (07.12.2013).
PHỤ LỤC
PHỤ LỤC 1: THÂM NIÊN Ở CHỨC VỤ HIỆN TẠI CỦA CÁN BỘ, CÔNG CHỨC
CHỦ CHỐT HUYỆN HOÀI NHƠN
(Số liệu tính đến thời điểm 01/12/2019, không tính chức vụ kiêm nhiệm)
Trong đó
Tổng
Từ 6 - 10
Dưới 6 năm
số
năm
TT
Chức danh
cán bộ
Số lượng
Tỷ lệ %
Số lượng
Tỷ lệ %
47
67,1
70
23
32,9
(I + II + III)
A
19
70,3
27
8
29,7
Khối Đảng
I
1
100
1
0
0
1. Bí thư Huyện uỷ
0
0
1
1
100
2. Phó Bí thư Thường trực Huyện uỷ
Uỷ viên Ban Thường vụ, Trưởng các cơ
13
76,4
17
4
23,6
3.
quan tham mưu, giúp việc
5
62,5
8
3
37,5
4. Phó các cơ quan tham mưu, giúp việc
16
53,3
30
14
46,7
Khối chính quyền
II
0
0
1
1
100
5. Chủ tịch UBND huyện (Bí thư kiêm nhiệm)
2
66,7
3
1
33,3
6. Phó Chủ tịch UBND huyện
6
50
12
6
50
7. Trưởng phòng và tương đương
8
57,1
14
6
42,9
8. Phó Trưởng phòng và tương đương
11
84,6
13
1
15,4
III
Khối Mặt trận, đoàn thể
1
100
1
0
0
9. Chủ tịch UBMTTQVN huyện
0
0
1
1
100
10. Phó Chủ tịch UBMTTQVN huyện
5
100
5
0
0
11. Trưởng các đoàn thể huyện
5
83,3
6
1
16,7
12. Phó các đoàn thể huyện
38
48,1
79
41
51,9
B
Khối xã, thị trấn
9
52,9
17
8
47,1
1. Bí thư Đảng uỷ xã, thị trấn
10
58,8
17
7
41,2
2. Phó Bí thư Đảng uỷ xã, thị trấn
15
8
53,3
3.
7
46,7
PBT, Chủ tịch UBND xã, thị trấn (02 Bí thư kiêm nhiệm)
60
4. Phó Chủ tịch UBND xã, thị trấn
30
12
40
18
43
149
85
57
46
TỔNG A + B
Nguồn: Ban Tổ chức Huyện ủy Hoài Nhơn2019
PHỤ LỤC 2: CƠ CẤU CÁN BỘ NỮ TRONG CÁN BỘ, CÔNG CHỨC
CHỦ CHỐT HUYỆN ỦY HOÀI NHƠN
(Số liệu tính đến thời điểm 01/12/2019, không tính chức vụ kiêm nhiệm)
Cán bộ nữ
Chức danh
Tổng số
TT
Số lượng
Tỷ lệ %
17
18,6
(I + II + III)
A
70
3
11,1
Khối Đảng
I
27
1. Bí thư Huyện uỷ
0
0
1
2. Phó Bí thư Thường trực Huyện uỷ
0
0
1
Uỷ viên Ban Thường vụ, Trưởng các cơ
3.
1
5,8
17
quan tham mưu giúp việc
4. Phó các cơ quan tham mưu, giúp việc
2
25
8
5
16,7
Khối chính quyền
II
30
5. Chủ tịch UBND huyện (Bí thư kiêm nhiệm)
0
0
1
6. Phó Chủ tịch UBND huyện
0
0
3
7. Trưởng phòng và tương đương
1
8,3
12
8. Phó Trưởng phòng và tương đương
4
28,6
14
4
30,8
III
Khối Mặt trận, đoàn thể
13
9. Chủ tịch UBMTTQVN huyện
0
0
1
10. Phó Chủ tịch UBMTTQVN huyện
0
0
1
11. Trưởng các đoàn thể huyện
1
20
5
12. Phó các đoàn thể huyện
3
50
6
7
8,9
Khối Phường
B
79
1. Bí thư Đảng uỷ xã, thị trấn
2
11,8
17
2. Phó Bí thư Đảng uỷ xã, thị trấn
0
0
17
PBT, Chủ tịch UBND xã, thị trấn (02 Bí thư
3.
1
6,7
15
kiêm nhiệm)
4
13,3
4. Phó Chủ tịch UBND xã, thị trấn
30
16,1
24
TỔNG A + B
149
Nguồn: Ban Tổ chức Huyện ủy Hoài Nhơn 2019
PHỤ LỤC 3: CƠ CẤU ĐỘ TUỔI CÁN BỘ, CÔNG CHỨC CHỦ CHỐT HUYỆN HOÀI NHƠN
(Số liệu tính đến thời điểm 01/12/2019, không tính chức vụ kiêm nhiệm)
Độ tuổi
Tổng
TT
46 - 50
Dưới 35
35 - 40
41 - 45
51 - 55
56 - 60
Trên 60
số
Chức danh
Số
Tỷ
Số
Tỷ
Số
Tỷ
Số
Tỷ
Số
Tỷ
Số
Tỷ
Số
Tỷ
cán
lượng
lệ %
lượng
lệ %
lượng
lệ %
lượng
lệ %
lượng
lệ %
lượng
lệ %
lượng
lệ %
bộ
70
0
1,4
16
22,9
20
18
13
2,9
0
1
28,6
25,7
18,6
2
A
(I + II + III)
27
0
07
25,9
0
0
0
29,6
29,6
14,8
4
0
8
8
0
I
Khối Đảng
1. Bí thư Huyện uỷ
1
0
0
0
0
0
100
0
0
0
1
0
0
0
0
2.
Phó Bí thư Thường trực Huyện uỷ
1
0
0
0
0
0
0
100
1
0
0
0
0
0
0
Uỷ viên Ban Thường vụ, Trưởng các
3.
17
0
0
0
0
29,4
35,4
17,6
3
0
6
5
0
17,6
3
cơ quan tham mưu, giúp việc
4.
Phó các cơ quan tham mưu, giúp việc
8
0
0
0
0
37,5
12,5
0
0
0
1
3
0
50
4
30
0
0
0
0
30
23,3
23,3
7
0
7
9
0
23,3
7
II
Khối chính quyền
Chủ tịch UBND huyện (Bí thư kiêm
5.
1
0
0
0
0
100
0
0
0
0
0
1
0
0
0
nhiệm)
6.
Phó Chủ tịch UBND huyện
3
0
0
0
0
0
33,3
66,7
2
0
1
0
0
0
0
7.
Trưởng phòng và tương đương
12
0
0
0
0
25
33,3
16,7
2
0
4
3
0
25
3
8.
Phó Trưởng phòng và tương đương
14
0
0
0
0
35,7
14,3
21,4
3
0
2
5
0
28,6
4
13
0
0
1
7,7
23,1
23,1
15,4
2
2
3
3
15,4
15,4
2
III
Khối Mặt trận, đoàn thể
9.
Chủ tịch UBMTTQVN huyện
1
0
0
0
0
0
0
100
1
0
0
0
0
0
0
10. Phó Chủ tịch UBMTTQVN huyện
1
0
0
0
0
0
0
100
1
0
0
0
0
0
0
11. Trưởng các đoàn thể huyện
5
0
0
0
0
40
40
0
0
1
2
2
20
0
0
12. Phó các đoàn thể huyện
6
0
0
1
16,7
16,7
0
0
1
1
1
16,7
2
16,7
33,3
79
0
0
0
2,5
14
17,7
25
2
31,6
38
48,1
0
0
0
B
Khối xã, thị trấn
1. Bí thư Đảng uỷ xã, thị trấn
17
0
0
0
0
0
0
11,8
15
88,2
2
0
0
0
0
2.
Phó Bí thư Đảng uỷ xã, thị trấn
17
0
0
0
0
0
5
41,2
5
29,4
7
0
29,4
0
0
PBT, Chủ tịch UBND xã, thị trấn (02
3.
15
0
0
0
0
0
2
20
10
66,7
3
0
13,3
0
0
Bí thư kiêm nhiệm)
4.
Phó Chủ tịch UBND xã, thị trấn
30
0
0
0
2
6,7
7
13
43,3
8
26,7
0
23,3
0
0
149
0
0
1
43
57.3
51
66.7
2
46.3
2.9
1.4
18
25.4
34
TỔNG A + B