ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

VIỆN VIỆT NAM HỌC VÀ KHOA HỌC PHÁT TRIỂN

----------***___▼▲▼___***---------

TRẦN THỊ MINH AN

QUẦN THỂ DI TÍCH LỊCH SỬ - VĂN HÓA

PHỐ HIẾN - THỊ XÃ HƢNG YÊN

Chuyên ngành: Việt Nam học

Mã số: 60 31 60

LUẬN VĂN THẠC SỸ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

GS. TS. NGUYỄN QUANG NGỌC

HÀ NỘI - 2009

1

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên

cứu của riêng tôi. Các kết quả trong luận văn

là trung thực và chưa từng được công bố trong

bất cứ công trình nào. Luận văn kế thừa

những công trình nghiên cứu cùng đề tài

trước đây.

2

MỤC LỤC

Lời cam đoan Mục lục Danh mục các bản đồ, bảng biểu, sơ đồ, bản ảnh

MỞ ĐẦU 1

1

1. Lý do chọn đề tài 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 3

8

3. Mục đích, đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn 9

9

5. Phƣơng pháp nghiên cứu 6. Đóng góp của luận văn 10

7. Các nguồn tƣ liệu 10

8. Cấu trúc luận văn 11

CHƢƠNG 1: ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN, XÃ HỘI VÙNG PHỐ HIẾN – HƢNG YÊN 13

13

1.1. Diên cách, vị trí địa lý vùng Phố Hiến – Hƣng Yên 1.1.1. Diên cách 13

15

18

1.1.2. Vị trí địa lý 1.2. Đặc điểm tự nhiên vùng Phố Hiến – Hƣng Yên 1.2.1. Đặc điểm phát triển địa hình 18

1.2.1.1. Vùng đất được hình thành do sự bồi đắp của sông Hồng và tác động của hệ 18

thống đê sông.

1.2.1.2. Vùng đất chịu tác động mạnh mẽ do sự vận động đổi dòng của sông Hồng 21

1.2.2. Đặc điểm khí hậu 28

30

1.2.3. Đặc điểm thuỷ văn 1.3. Lịch sử phát triển vùng Phố Hiến – Hƣng Yên 34

37

1.4. Đặc điểm cƣ dân – văn hoá 1.4.1. Cộng đồng người Việt 37

1.4.2. Hoa Kiều và Nhật kiều 41

46

1.4.3. Khách thương phương Tây 1.5. Đặc điểm phát triển kinh tế 48

51

1.6. Tiểu kết CHƢƠNG 2: QUẦN THỂ DI TÍCH LỊCH SỬ - VĂN HÓA 53

PHỐ HIẾN – HƢNG YÊN: LỊCH SỬ VÀ HIỆN TRẠNG

3

53

2.1. Quá trình hình thành quần thể di tích 2.2. Phân loại di tích 64

64

2.2.1. Đền 2.2.2. Chùa 68

2.2.3. Đình 70

72

2.2.4. Hội quán 2.2.5. Nhà thờ Thiên chúa giáo 74

75

2.2.6. Văn miếu 2.2.7. Nhà thờ tộc/ Từ đường 76

2.2.8. Nhà cổ 77

78

2.3. Tính hệ thống và đặc điểm của quần thể di tích 2.3.1. Về mật độ và quy mô 78

81

2.3.2. Đặc điểm quần thể di tích 2.4. Tiểu kết 89

CHƢƠNG 3: LỊCH SỬ PHỐ HIẾN – HƢNG YÊN QUA HỆ THỐNG 91

CÁC DI TÍCH LỊCH SỬ - VĂN HÓA

3.1. Giai đoạn tiền Phố Hiến - Vùng đất có vị trí chiến lƣợc về quân sự 91

3.1.1. Thời kỳ Hai Bà Trưng 91

3.1.2. Thế kỷ X 96

3.1.3. Thời Lý - Trần 106

3.2. Giai đoạn Phố Hiến - Vùng đất có vị trí trọng yếu trong hệ thống giao thƣơng và 112

truyền giáo

3.2.1. Vùng đất có vị trí trọng yếu trong hệ thống giao thương trong nước và quốc tế 112

122

3.2.2. Vùng đất quan trọng trong hành trình truyền giáo 3.3. Giai đoạn hậu Phố Hiến – Đô thị trung tâm hành chính thời Nguyễn 127

127

3.3.1. Sự suy tàn của thương cảng kinh tế 3.3.2. Sự hình thành đô thị trung tâm hành chính thời Nguyễn 133

3.4. Tiểu kết 136

KẾT LUẬN 139

TÀI LIỆU THAM KHẢO 142

PHỤ LỤC

4

MỞ ĐẦU

9. Lý do chọn đề tài

Như dòng chảy quanh co bên bồi bên lở của sông Hồng, thương cảng Phố Hiến

xưa - thị xã Hưng Yên ngày nay đã trải qua nhiều giai đoạn thăng trầm thịnh suy. Một

thương cảng sầm uất bậc nhất của Đàng Ngoài thế kỷ XVI đến nửa đầu thế kỷ XVIII

với cảnh đông vui trên bến dưới thuyền, với những khu phố tấp nập kẻ bán người mua

đã bị vùi sâu dưới lớp lớp phù sa. Một Hưng Thành được xây dựng kiên cố với tư cách

lị sở hành chính thế kỷ XIX cũng đã biến mất chỉ còn để lại những phế tích và địa

danh cổ. Năm tháng đã phủ bụi mờ lên nhiều trang sử của miền đất này. Nhưng vẫn

còn đó một quần thể di tích (QTDT) đa dạng về loại hình, đặc sắc về kiến trúc với vẻ

đẹp độc đáo của tập quán tín ngưỡng và lễ hội dân gian tồn tại trên các phố phường.

Theo số liệu thống kê chưa đầy đủ, thị xã Hưng Yên hiện còn trên 130 di tích phân

bố trên địa bàn 12 phường, xã bao gồm các loại hình đình, đền, chùa, miếu, phủ, hội

quán, nhà cổ, nghĩa trang người nước ngoài, văn miếu, võ miếu, nhà thờ Thiên Chúa

giáo, nhà thờ họ, bia đá…Số liệu này cho thấy mật độ đậm đặc và tính đa dạng của di

tích lịch sử văn hóa trong khu vực.

Mỗi di tích đều tồn tại trong mối quan hệ mật thiết với điều kiện địa – văn hoá,

địa – lịch sử của vùng đất nơi nó sinh ra. Nói cách khác, di tích không chỉ đơn thuần là

dấu vết của quá khứ mà nó còn là hệ quả, là chứng tích phản ánh những biến thiên

thăng trầm ở mỗi khu vực, mỗi địa phương. Quần thể di tích lịch sử văn hóa Phố Hiến

– Hưng Yên cũng không nằm ngoài quy luật chung đó.

Sự vận động của các yếu tố tự nhiên, sự biến thiên của lịch sử văn hoá vùng Phố

Hiến – Hưng Yên đã tạo tiền đề cho sự hình thành, tồn tại và phát triển của hệ thống di

tích tại đây. Ngược lại, chính hệ thống di tích lịch sử văn hóa lại là nguồn sử liệu trực

tiếp cung cấp cho ta những thông tin quan trọng để tìm về quá khứ, làm sáng rõ và

gắng kết các mảng vỡ lịch sử văn hóa, giúp ta hình dung rõ nét hơn diện mạo và tiến

trình phát triển của vùng đất này không chỉ trong giai đoạn thịnh đạt của thương cảng

Phố Hiến thế kỷ XVI-XVII.

Số lượng, sự phân bố, nét độc đáo trong kiến trúc, mối quan hệ giữa các di tích và

đặc biệt là sự phù hợp, thống nhất giữa truyền thuyết dân gian với điển tích các nhân

vật được thờ tự, địa danh cổ và tập quán, lễ hội dân gian xoay quanh hệ thống di tích

đã hé lộ nhiều điều về lịch sử phát triển của Phố Hiến – Hưng Yên. Không chỉ nổi

danh với tư cách là đô thị “thứ nhất Kinh Kỳ, thứ nhì Phố Hiến”, Hưng Yên còn là

5

miền đất cổ có vị trí chiến lược với những đóng góp lớn trong tiến trình phát triển

chung của lịch sử đất nước qua nhiều thời kỳ. Tuy nhiên, cho đến hiện nay, trọng tâm

nghiên cứu về vùng đất này vẫn tập trung vào giai đoạn thế kỷ XVI - nửa đầu XVIII

với sự hình thành, hưng thịnh và suy tàn của thương cảng Phố Hiến. Ngược lại, sự

phát triển của vùng đất này giai đoạn tiền Phố Hiến và hậu Phố Hiến mới chỉ được

hình dung trên đại thể, nhiều vấn đề lịch sử còn bỏ ngỏ.

Trong khi đó, trải qua bao mưa nắng thời gian, dưới tác động của khí hậu, chiến

tranh và đặc biệt là bàn tay con người, QTDT Phố Hiến – Hưng Yên - nguồn sử liệu

trực tiếp để nghiên cứu về tiến trình lịch sử văn hóa của vùng đất này đang đứng trước

nhiều nguy cơ. Nhiều di tích đã bị phá huỷ hoàn toàn không còn dấu vết, nền móng

cũng bị vùi lấp trong cát. Những di tích còn lại chủ yếu là các công trình công cộng,

trong đó nhiều di tích đang trong tình trạng xuống cấp nghiêm trọng. Cổ vật bị hư hại,

thất lạc và trộm cắp. Một số công trình đang bị sụp đổ từng bộ phận. Một số đã được

trùng tu nhưng không đúng cách dẫn đến kiến trúc cổ bị biến dạng, không gian di tích

bị trần tục hoá. Tính thiêng cũng như những giá trị tâm linh khác của di tích cũng theo

đó mà bị biến đổi, mất đi bản sắc ban đầu. Điều đó cũng có nghĩa là nguồn tư liệu vô

giá đối với việc nghiên cứu tiến trình lịch sử của vùng đất này đang bị mai một, thậm

chí có nguy cơ biến mất hoàn toàn. Thực tế đó đặt ra yêu cầu cần khẩn trương nghiên

cứu chuyên sâu về lịch sử, văn hóa Phố Hiến – Hưng Yên một cách toàn diện và khoa

học ngay từ hôm nay.

Mặt khác, nghiên cứu về lịch sử vùng đất Phố Hiến – Hưng Yên còn cung cấp

những hiểu biết căn bản và tổng thể giúp ích cho chính sự nghiệp bảo tồn, tôn tạo và

phát huy giá trị của QTDT lịch sử - văn hóa tại đây. Trong tình hình thị xã Hưng Yên

đang đô thị hóa mạnh mẽ để chuyển mình thành thành phố, vấn đề này càng có ý

nghĩa quan trọng. UBND thị xã Hưng Yên đã và đang tiến hành xây dựng một đề án

tổng thể nhằm nâng cấp thị xã thành thành phố tương lai với những quy hoạch đồng

bộ về cơ sở hạ tầng. Diện mạo đô thị đang có những thay đổi nhanh chóng. Một đô thị

Hưng Yên hiện đại đang dần hình thành và phát triển mạnh mẽ bên cạnh một Phố

Hiến cổ kính với QTDT lịch sử văn hóa đặc sắc. Vấn đề mâu thuẫn giữa bảo tồn và

phát triển đang đặt ra bức thiết. Quy hoạch mặt bằng tổng thể phát triển thị xã trong

tương lai phải giải quyết được bài toán đô thị hoá, phải tạo ra được sự đối thoại uyển

chuyển, hài hoà giữa di sản kiến trúc truyền thống và các công trình hiện đại, cao tầng.

Thực tế đó càng đặt ra nhiệm vụ cấp bách cho công cuộc nghiên cứu QTDT. Cần phải

6

nhanh chóng tiến hành nghiên cứu một cách tổng thể dựa trên những khảo cứu nghiêm

túc, toàn diện và tỉ mỉ, đảm bảo cung cấp những căn cứ khoa học để xây dựng quy

hoạch đô thị mới vừa hiện đại, vừa bảo tồn được QTDT lịch sử văn hóa truyền thống.

Nghiên cứu về QTDT còn phục vụ đắc lực cho sự phát triển kinh tế địa phương.

Hệ thống di tích lịch sử - văn hóa với nhiều giá trị độc đáo là tiềm năng lớn để thị xã

Hưng Yên phát triển thương mại du lịch, tạo ra sự chuyển đổi trong cơ cấu kinh tế. Di

tích được bảo tồn, du lịch phát triển sẽ đem lại nguồn lợi lớn cho ngân sách, người dân

cũng được hưởng lợi nhiều hơn qua việc tham gia vào các hoạt động dịch vụ du lịch,

các làng nghề truyền thống quanh khu vực thị xã sẽ có cơ hội phục hồi. Điều này có ý

nghĩa cực kỳ quan trọng đối với sự nghiệp phát triển kinh tế bền vững của thị xã –

thành phố tương lai.

Tuy nhiên, để khơi dậy được tiềm năng đó, để thực sự biến di tích thành nguồn lợi

vật chất, phải bảo tồn được nét cổ, vốn cổ của mỗi di tích, phải hiểu và trả lại cho di

tích những giá trị đích thực của nó. Điều đó đòi hỏi những nỗ lực nghiên cứu QTDT

lịch sử - văn hoá thật sự nghiêm túc, công phu từ phía các nhà nghiên cứu và quản lý

văn hoá.

Xuất phát từ yêu cầu thực tế trên và với tấm lòng tri ân của một người con quê

hương, chúng tôi đã chọn “Quần thể di tích lịch sử văn hóa Phố Hiến – Hƣng Yên”

làm đề tài luận văn thạc sỹ Việt Nam học.

Với địa bàn mang đậm yếu tố sông nước và những giá trị văn hóa lịch sử truyền

thống lâu đời, Phố Hiến - Hưng Yên có thể coi như một khu vực có tính đặc thù.

Nghiên cứu Phố Hiến - Hưng Yên với tư cách một khu vực đặc thù và tiếp cận nghiên

cứu QTDT lịch sử - văn hóa theo hướng liên ngành sẽ đem đến hiểu biết tổng thể và

sâu sắc cho người nghiên cứu. Hơn nữa, chỉ có đặt QTDT lịch sử - văn hóa trong mối

quan hệ tổng thể của các điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của khu vực mới có thể đề

ra được phương án bảo tồn, tôn tạo hợp lý nhất và tạo tiền đề để phát huy giá trị di tích

một cách hiệu quả nhất.

10. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

Phố Hiến đã từ lâu đi vào lịch sử Việt Nam cũng như tâm thức dân gian với câu ca

quen thuộc “Thứ nhất kinh kỳ, thứ nhì Phố Hiến”. Những công trình đầu tiên có ghi

chép về Phố Hiến là các bộ sử liệu biên niên được các triều đình phong kiến biên soạn

như Đại Việt sử ký toàn thư, Việt sử Thông giám cương mục…Tuy nhiên, những ghi

chép này rất sơ lược, chủ yếu chỉ phản ánh chính sách của chính quyền chúa Trịnh đối

7

với thương thuyền nước ngoài, ghi chú về việc chúa Trịnh cho phép các thương nhân

Hoa kiều, Nhật Bản và phương Tây lưu trú và lập hội quán, thương điếm tại Phố Hiến.

Dưới triều Nguyễn, Phố Hiến được ghi chép chi tiết hơn trong nhiều bộ địa chí lớn.

Phan Huy Chú trong phần Dư địa chí của bộ bách khoa thư Lịch triều hiến chương

loại chí có mô tả về địa thế của Phố Hiến trong phần ghi chú về phủ Khoái Châu, trấn

Sơn Nam. Mặc dù còn rất sơ lược song Phan Huy Chú đã cho biết một chi tiết quan

trọng là vùng Phố Hiến – bãi Xích Đằng là địa bàn then khóa, kho lưu trữ của các đời

và ghi chú về các sở đánh thuế tuần ty trên sông Xích Đằng (đoạn sông Hồng chảy

qua Phố Hiến).

Đại Nam nhất thống chí phần viết về tỉnh Hưng Yên cũng có ghi chép Phố Hiến là

nơi đặt trị sở cũ của trấn Sơn Nam. Các bến đò ngang, đò dọc trên đoạn sông Hồng

chảy qua Phố Hiến cũng được liệt kê tỉ mỉ cùng với hệ thống chợ tại Phố Hiến và các

khu vực xung quanh. Những chi tiết trên sẽ góp phần giúp người nghiên cứu hình

dung về một Phố Hiến xưa với hoạt động của các sở thu thuế, hệ thống chợ buôn bán

và phương thức vận chuyển hàng hóa. Đồng thời, thông tin ghi chép trong bộ địa chí

này cũng là sử liệu trực tiếp để nghiên cứu và lịch sử vùng đất Hưng Yên thế kỷ XIX

– giai đoạn hậu Phố Hiến.

Thành tỉnh Hưng Yên – Hưng Thành xây dựng đời Minh Mạng cũng được mô tả

trong Đại Nam nhất thống chí cùng với bản liệt kê chợ, phố, cầu, bến, đường đê, một

số di tích tiêu biểu và địa điểm đặt lỵ sở các huyện Kim Động, Tiên Lữ. Đây là sử liệu

quan trọng để hình dung về diện mạo của đô thị hậu Phố Hiến, từ đó nhận định về sự

suy tàn của thương cảng Phố Hiến, so sánh để thấy sự chuyển biến của Phố Hiến từ

một đô thị thương cảng sang một đô thị hành chính vào thế kỷ XIX.

Cuối XIX, đầu XX, nhiều bộ địa chí chuyên khảo về Hưng Yên đã ra đời. Đáng kể

tới là các bộ địa chí Đồng Khánh ngự lãm địa dư chí lược, phần Hưng Yên tỉnh (Quốc

sử quán triều Nguyễn); Hưng Yên tỉnh nhất thống chí, Tỉnh Hưng Yên – La Pronvince

de Hungyen (Tiếng Pháp, khuyết danh); Hưng Yên địa chí (Trịnh Như Tấu). Các bộ

địa chí này ngoài thông tin về một số di tích tiêu biểu của Phố Hiến còn ghi chép một

số cổ tích dân gian có liên quan đến lịch sử vùng đất này giai đoạn Phố Hiến và giai

đoạn hậu Phố Hiến. Thành tỉnh Hưng Yên và các phố, phường hành chính của đô thị

Hưng Yên nửa cuối XIX, đầu XX cũng được liệt kê cùng với hệ thống chợ và bến đò

ngang, đò dọc sông Hồng.

8

Tất cả những công trình trên mới chỉ dừng lại ở việc ghi chép về Phố Hiến trên

một số mặt với tư cách là những sử liệu quan trọng chứ chưa phải là những công trình

nghiên cứu về Phố Hiến.

Công trình mang tính chất nghiên cứu đầu tiên về Phố Hiến phải kể đến Les

comptoirs hollandais de Pho Hien ou Pho Khach, pres Hung Yen au XVII siecle,

BHDG 1895 (Thương điếm Hà Lan ở Phố Hiến hoặc Phố Khách vào thế kỷ XVII) của

học giả người Pháp G. Dumoutier. Ông đã đưa ra quan điểm về thời điểm hình thành

Phố Hiến gắn với sự thành lập thương điếm Hà Lan tại đây và đã xác định được chính

xác vị trí của Phố Hiến trên thực địa. Năm 1906, A. Shreiner - một học giả phương

Tây cũng đề cập đến Phố Hiến trong tác phẩm Abrégé de l’s histoire d’ Annam (Lược

sử An Nam). Năm 1939, học giả Kim Vĩnh Kiện (Triều Tiên) cũng đã hoàn thành một

chuyên khảo về Phố Hiến với tên gọi Về Phố Khách ở Hưng Yên xứ Bắc Kỳ thuộc

Đông Pháp (Tokyo 1939). Khác với G. Dumoutier, Kim Vĩnh Kiện lại cho rằng niên

đại hình thành Phố Hiến liên quan đến chính sách dồn dân Hoa kiều của chúa Trịnh.

Nhìn chung, các tác giả trên đều không nhìn Phố Hiến như một đô thị của người

bản địa. Họ đều cho rằng Phố Hiến là một đô thị kinh tế của thương nhân ngoại quốc,

được hình thành và phát triển gắn liền với cộng đồng người Hoa và sự xuất hiện của

thương điếm Hà Lan năm 1637. Ngoài ra, Phố Hiến cũng được đề cập đến rải rác

trong bài viết về quan hệ buôn bán giữa phương Tây và Đàng Ngoài của các tác giả

P.Villai, Ch.Maybon, W.J.Buch. Trong các công trình này, Phố Hiến được gọi bằng

các tên gọi khác nhau như Hean, Heen, Hiên Nội, Hiến Nam hay Vạn Lai Triều. Vị trí,

diện mạo của đô thị này cũng được phác dựng.

Những thập kỷ cuối thế kỷ XX, Phố Hiến được các học giả quan tâm nghiên cứu

nhiều hơn. Phố Hiến đã được nhắc đến và đánh giá trong những công trình nghiên cứu

về ngoại thương Việt Nam như Ngoại thương Việt Nam thế kỷ XVII, XVIII, đầu XIX

(Thành Thế Vỹ, Hà Nội, 1961), Tình hình công thương nghiệp Việt Nam trong thời Lê

Mạt (Vương Hoàng Tuyên, Hà Nội, 1959) cũng như các công trình nghiên cứu về đô

thị Việt Nam như Đô thị cổ Việt Nam (Viện sử học, Hà Nội, 1989).

Bên cạnh những nghiên cứu về Phố Hiến thông qua khảo cứu nguồn thư tịch và

văn bia, nhằm tiến tới hiểu biết toàn diện và sâu sắc hơn nữa về Phố Hiến, công tác

điều tra và khai quật khảo cổ học cũng đã bước đầu được tiến hành. Năm 1968, trường

Đại học Sư phạm I đã hai lần đào thám sát khu thương điếm ngoại quốc ở Hiến Hạ.

Tiếp theo, năm 1989, khai quật khảo cổ học tại khu Văn Miếu Xích Đằng đã phát hiện

9

phế tích lò gốm và chồng bát kết dính có niên đại thế kỷ XVII, cho thấy khu vực này

là nơi sản xuất gốm thủ công của thương cảng Phố Hiến khi xưa.

Năm 1992, trước thềm Hội thảo khoa học về Phố Hiến, Sở Văn hóa Thông tin Hải

Hưng đã đào thám sát và tiến hành khai quật một số hố. Kết quả đã phát hiện được

một số dấu tích lò gốm, nền kiến trúc cổ, gạch ngói, gốm sứ Việt Nam và nước ngoài

có khung niên đại thế kỷ XVII-XVIII. Đặc biệt, kết quả khai quật còn thu được những

di vật có niên đại sớm hơn như mảnh gốm Trần (thế kỷ XIII-XIV), chân đèn Mạc (thế

kỷ XVI)…Những di vật này cho phép hình dung phần nào về lịch sử của vùng đất này

giai đoạn tiền Phố Hiến. Ngoài ra, cũng trong năm này, Bảo tàng tỉnh Hải Hưng kết

hợp với một số nhà khoa học đã tiến hành đợt điều tra tổng thể di sản văn hoá vật thể

khu vực Thị xã Hưng Yên lần đầu tiên. Kết quả là đã thống kê được 60 di tích trên địa

bàn thị xã, trong đó có 24 đền miếu, 1 hội quán, 17 chùa, 1 nhà thờ thiên chúa giáo, 10

đình, 1 nhà dòng, 2 nhà thờ họ, 1 nghĩa địa người nước ngoài, 1 văn miếu, 1 võ miếu,

1 chợ [69, 89].

Năm 1990, hội thảo khoa học về đô thị cổ Hội An được tổ chức với sự tham gia

của đông đảo học giả, các nhà nghiên cứu trong nước và quốc tế. Bên cạnh những

nghiên cứu chuyên sâu về Hội An, Phố Hiến cũng được đề cập đến trong các tham

luận nghiên cứu về quan hệ thông thương giữa Hội An với các địa phương trong nước

cũng như vị trí của các cảng thị ven biển Đông Nam Á trong lịch sử.

Năm 1992, một hội thảo khoa học quy mô về Phố Hiến lần đầu tiên được tổ chức

tại thị xã Hưng Yên. Hội thảo đã quy tụ đông đảo các giáo sư, tiến sĩ, nhà khoa học

thuộc nhiều lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn của các trung tâm nghiên cứu và

giảng dạy trong nước và quốc tế. Sự ra đời của Phố Hiến, cơ sở kinh tế - xã hội, kết

cấu dân cư, đời sống văn hóa cũng như quan hệ thông thương của Phố Hiến với trong

và ngoài nước, vấn đề sự hưng thịnh, suy tàn của Phố Hiến và việc bảo tồn, tôn tạo

QTDT Phố Hiến…đều được thảo luận. Cho đến nay, đây vẫn là công trình nghiên cứu

chi tiết nhất, quy mô nhất, toàn diện nhất về lịch sử đô thị Phố Hiến.

Sau hội thảo, năm 1998, nhằm phục vụ công tác giới thiệu, quảng bá hình ảnh Phố

Hiến, giáo dục truyền thống văn hóa cho thế hệ trẻ Hưng Yên, Sở Văn hóa Thông tin

Hưng Yên kết hợp với Hội văn học Nghệ thuật Hưng Yên đã xuất bản công trình Phố

Hiến – lịch sử văn hóa. Với bản in màu đẹp, đây là công trình đầu tiên đem đến cho

độc giả trực quan sinh động về các di tích tiêu biểu của Phố Hiến. Di tích và danh

thắng tiêu biểu của Phố Hiến một lần nữa được tập hợp và giới thiệu trong cuốn sách

10

Những danh thắng tiêu biểu của Phố Hiến của tác giả Lâm Hải Ngọc (HY, 2005). Tuy

nhiên, các tuyển tập này mới chỉ dừng lại ở việc giới thiệu những di tích tiêu biểu nhất

của Phố Hiến chứ chưa đem đến cho độc giả cái nhìn tổng quan về toàn bộ QTDT Phố

Hiến với những đặc trưng riêng độc đáo của nó.

Ngoài những công trình nghiên cứu, sưu tầm, khảo sát được đề cập đến ở trên, Phố

Hiến còn là chủ đề được quan tâm với nhiều bài viết, chuyên khảo đăng tải trên các

tạp chí chuyên ngành lịch sử văn hoá. Năm 1968, đề tài Phố Hiến lần đầu tiên được đề

cập đến trên tạp chí đầu ngành của sử học Việt Nam – Nghiên cứu lịch sử - với bài

viết “Bước đầu tìm hiểu về Phố Hiến” của hai tác giả Trương Hữu Quýnh và Đặng

Huyền Chi. Còn trên tạp chí Xưa và Nay, đáng chú ý là ba bài viết của các tác giả Tôn

Nữ Quỳnh Trân (1996) – “Người Pháp tại PH”, Hoàng Kim Đáng (1999) – “Phố

Hiến qua một tấm bản đồ cổ”, Nguyễn Văn Chiến (2005) – “Thương điếm Hà Lan ở

Phố Hiến”. Các bài viết trên đã phần nào làm rõ nét hơn về cơ cấu dân cư, vị trí các

phường xã, thương điếm trong cơ cấu đô thị của thương cảng Phố Hiến.

Tạp chí Văn hoá Nghệ thuật cũng đăng tải một số chuyên khảo về Phố Hiến. Đáng

chú ý là hai bài viết của tác giả Trần Quốc Vượng (2001) với “Sông Nhị Hồng với

Hưng Yên - một tiếp cận địa văn hoá” và tác giả Nguyễn Quang Ngọc (2001) với

“Sông Đàng Ngoài với vị thế Phố Hiến xưa”. Trong khi giáo sư Trần Quốc Vượng

làm sáng tỏ phần nào vị thế của vùng đất Phố Hiến – Hưng Yên dựa trên những

nghiên cứu tiếp cận từ khía cạnh địa văn hoá thì giáo sư Nguyễn Quang Ngọc lại đặt

Phố Hiến trong mối tương quan với tuyến sông Đàng Ngoài. Đây cũng là chuyên khảo

đầu tiên chỉ ra mối quan hệ hữu cơ giữa Phố Hiến với hai cảng thị cũng nằm trên

tuyến sông này là Thăng Long và Domea (thuộc Hải Phòng ngày nay).

Với việc tiếp cận được một số bản đồ cổ được vẽ bởi các nhà du hành phương Tây

đã từng đến Đàng Ngoài trong thế kỷ XVI, XVII và nguồn tư liệu lưu trữ của công ty

Đông Ấn VOC tại Hà Lan, nghiên cứu về thương mại Đàng Ngoài thế kỷ XVII đã đạt

được những thành tựu mới. Liên tục trong ba năm 2005 – 2008, hàng loạt bài viết của

nhóm tác giả Nguyễn Quang Ngọc, Nguyễn Văn Kim, Đỗ Thuỳ Lan, Hoàng Anh

Tuấn liên tục xuất hiện trên tạp chí Nghiên cứu lịch sử. Với những chuyên khảo

“Vùng cửa sông Đàng Ngoài thế kỷ XVI-XVII” (Đỗ Thùy Lan, 2005); “Công ty Đông

Ấn Hà Lan ở Đàng Ngoài” (2005), “Kế hoạch Đông Á và sự thất bại của Công ty

Đông Ấn Anh ở Đàng Ngoài thế kỷ XVII qua tư liệu phương Tây” (2005), “Mậu dịch

tơ lụa của công ty Đông Ấn Hà Lan với Đàng Ngoài 1637 -1670” (2006), “Hải cảng

11

miền Đông Bắc và hệ thống thương mại Đàng Ngoài thế kỷ XVII qua các nguồn tư

liệu phương Tây” (2007) của tác giả Hoàng Anh Tuấn và các bài viết “Vị trí của Phố

Hiến và Domea trong hệ thống thương mại Đàng Ngoài thế kỷ XVI-XVIII” (Nguyễn

Văn Kim, 2007), “Domea trong hệ thống thương mại Đàng Ngoài thế kỷ XVII, XVIII”

(Nguyễn Quang Ngọc, 2007), bức tranh toàn cảnh về thương mại Đàng Ngoài được

phục dựng khá rõ nét. Hệ thống tuyến giao thương và vị trí của từng thương cảng cũng

như mối quan hệ buôn bán giữa Đàng Ngoài với Anh, đặc biệt là với Hà Lan được các

tác giả khảo cứu tỉ mỉ. Trong đó, vị thế của Phố Hiến được làm sáng tỏ hơn trên từng

chức năng tuần ty thu thuế, kiểm soát cũng như chức năng thương mại của nó. Tuy

nhiên, từ những nguồn tư liệu phương Tây, các tác giả nhận định về vai trò của Phố

Hiến với nhiều quan điểm chưa thống nhất với nhau. Mặc dù vậy, những chuyên khảo

này đã góp phần đem đến những hiểu biết xác đáng, toàn diện và khách quan hơn về

vị thế của Phố Hiến trong toàn cảnh thương mại Đàng Ngoài.

Năm 2004, Phòng Văn hóa Thông tin Thị xã Hưng Yên đã tiến hành kiểm kê và

biên soạn tập tài liệu QTDT Phố Hiến – Thị xã Hưng Yên. Tuy nhiên đây vẫn chỉ là

một bản thống kê di tích còn chưa đầy đủ, chưa đem đến nhận thức chung về vẻ đẹp,

tính hệ thống và giá trị của QTDT lịch sử văn hóa trên địa bàn 12 phường của thị xã.

Điểm qua lịch sử nghiên cứu vấn đề, có thể thấy rõ Phố Hiến - Hưng Yên là một

vùng đất trọng tâm được các học giả nghiên cứu từ rất sớm. Tuy nhiên, do hạn chế về

tư liệu, nhiều vấn đề còn chưa có điều kiện làm sáng tỏ, đặc biệt là lịch sử vùng đất

này giai đoạn tiền và hậu Phố Hiến. Về mặt di tích đã có tổng kiểm kê di tích song vẫn

chưa đầy đủ và chưa làm sáng tỏ tính hệ thống cũng như giá trị của di tích.

11. Mục đích, đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

Đề tài tiến hành nghiên cứu trên địa bàn thị xã Hưng Yên bao gồm 12 phường xã,

đồng thời mở rộng phạm vi khảo sát thực địa sang bờ hữu ngạn sông Hồng đối diện

với Phố Hiến thuộc đất Duy Tiên (Hà Nam) và vùng ngã ba cửa Luộc thuộc Lý Nhân

(Hà Nam) và Hưng Nhân (Thái Bình). Nhằm tìm mối liên hệ và làm sáng tỏ vị trí của

các bến đò và hệ thống di tích dọc sông Hồng, sông Luộc, địa bàn khảo sát thực địa

cũng được mở rộng sang các huyện Kim Động và Tiên Lữ của tỉnh Hưng Yên.

Luận văn được tiến hành dựa trên kết quả tổng kiểm kê di tích và hệ thống hồ sơ

di tích của Bảo tàng tỉnh Hưng Yên, Phòng Văn hoá Thông tin thị xã Hưng Yên kết

hợp với việc kế thừa thành quả nghiên cứu trực tiếp của Hội thảo khoa học năm 1992.

Đặc biệt, nguồn tư liệu đóng vai trò chủ yếu để hình thành nên các luận điểm khoa học

12

trong luận văn là tư liệu dân gian dựa trên kết quả tập hợp, thống kê, điều tra điền dã

của tác giả qua các đợt khảo sát thực địa trong năm 2008.

Luận văn mong muốn đem đến cái nhìn toàn diện về QTDT lịch sử văn hóa Phố

Hiến với các loại hình di tích đa dạng, phong cách kiến trúc độc đáo. Trên cơ sở thống

kê, phân loại, luận văn tập trung tìm hiểu và phân tích đặc điểm, mối quan hệ giữa các

di tích. Qua đó, phác dựng diện mạo đô thị Phố Hiến theo từng thời kỳ lịch sử, làm rõ

nét hơn tiến trình lịch sử của vùng đất này không chỉ trong giai đoạn hưng thịnh của

thương cảng Phố Hiến thế kỷ XVII – XVIII mà còn phác dựng lịch sử giai đoạn tiền

Phố Hiến và hậu Phố Hiến.

Đồng thời, chúng tôi cũng mong muốn dựa trên những kết quả nghiên cứu về bức

tranh toàn cảnh của QTDT trong tương quan các điều kiện tự nhiên, xã hội sẽ cung

cấp thêm hiểu biết để các nhà quy hoạch, quản lý văn hoá đề ra các biện pháp bảo tồn,

giữ gìn hệ thống di tích này một cách hiệu quả trong quy hoạch thành phố tương lai.

12. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn

Qua nghiên cứu QTDT lịch sử - văn hóa, góp phần phác dựng lại diện mạo đô thị

Phố Hiến cũng như tiến trình phát triển của Phố Hiến - Hưng Yên trong lịch sử.

Luận văn tiến hành theo phương pháp liên ngành, nghiên cứu QTDT lịch sử - văn

hóa trong mối quan hệ tổng thể với các điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội, nghiên cứu

di tích không tách rời khỏi các đặc trưng văn hóa dân gian của vùng. Từ đó, chúng tôi

Hưng Yên vọng đưa ra những giả thiết tổng hợp dựa trên những luận cứ khoa học về

các giai đoạn phát triển của Hưng Yên – Phố Hiến, đồng thời góp phần đề ra, kiến

nghị về phương pháp bảo tồn, phát huy giá trị di tích trong bối cảnh thị xã Hưng Yên

chuyển mình thành thành phố tương lai.

13. Phƣơng pháp nghiên cứu

Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu đặc thù của các ngành khoa học lịch

sử, văn hoá, bảo tồn, bảo tàng: Phương pháp lịch sử, phương pháp logic, phương pháp

phỏng vấn, khảo sát thực địa, phương pháp so sánh, phân tích, đối chiếu, thống kê,

tổng hợp…

Ngoài những phương pháp truyền thống và cơ bản trên, cần thiết phải sử dụng

phương pháp liên ngành, khu vực học trong nghiên cứu đề tài này bởi:

Di tích lịch sử văn hoá không tồn tại một cách tự thân, tự phát mà nó ra đời, phát

triển và được bảo tồn trên cơ sở tổng hoà các điều kiện tự nhiên, lịch sử, tín ngưỡng,

văn hoá trong một thời kỳ nhất định hoặc trong cả một chuỗi các giai đoạn phát triển

13

của lịch sử đất nước nói chung và địa phương nói riêng. Vì vậy, để hiểu về bản thân

từng di tích, chúng ta phải nghiên cứu theo hướng tiếp cận tổng thể, tránh tách biệt di

tích với tổng thể những điều kiện mà trên đó di tích đã được hình thành và phát triển.

Nghiên cứu về cả một QTDT lịch sử, càng cần thiết phải tiếp cận theo hướng tổng

thể bởi đây là phương thức tốt nhất và hiệu quả nhất giúp nhà nghiên cứu có được cái

nhìn toàn cảnh, hệ thống để trên cơ sở đó, phân loại và đánh giá được chính xác giá trị

của từng di tích và cụm di tích.

Phương án bảo tồn và phát huy đầy đủ giá trị của di tích lịch sử văn hoá chỉ khả thi

khi nó được đề ra trên cơ sở nghiên cứu tổng thể các điều kiện, định hướng kinh tế xã

hội hiện nay của địa bàn – nơi di tích tồn tại, đảm bảo sự tương quan hài hoà giữa cái

cũ và cái mới, giữa vấn đề bảo tồn vốn cổ và định hướng phát triển. Để bảo tồn di tích,

cần thiết phải có sự phối kết hợp chặt chẽ giữa các nhà nghiên cứu văn hoá, lịch sử,

bảo tàng với các nhà kinh tế học, xã hội học, địa lý học…và các cấp chính quyền quản

lý và hoạch định chiến lược phát triển của từng địa phương. Do vậy, trong quá trình

làm luận văn, chúng tôi đã hệ thống hóa tư liệu theo phương thức tổng hợp liên ngành

để phân tích các vấn đề được đặt ra trong luận văn.

14. Đóng góp của luận văn

- Tập hợp, hệ thống, loại hình hóa di tích khu vực Phố Hiến – Hưng Yên.

- Bổ sung, làm đầy đặn hơn hệ thống tư liệu về di tích lịch sử văn hóa Phố Hiến -

Hưng Yên.

- Làm rõ sự tương tác giữa điều kiện tự nhiên và lịch sử - xã hội tác động tới QTDT.

- Tiếp cận nghiên cứu QTDT nhằm khôi phục lại phần nào quá trình hình thành,

thay đổi, phát triển của vùng đất Phố Hiến - Hưng Yên qua các thời kỳ lịch sử.

- Luận văn góp phần tăng thêm cứ liệu cho công tác bảo tồn, tôn tạo di tích trong

giai đoạn thị xã Hưng Yên chuẩn bị trở thành thành phố trực thuộc tỉnh trong

tương lai.

15. Các nguồn tƣ liệu

Nguồn tư liệu ghi chép, khảo sát về Phố Hiến - Hưng Yên không nhiều. Do vậy, để

giải quyết những yêu cầu đặt ra trong luận văn, chúng tôi cố gắng khai thác tối đa các

nguồn sử liệu gốc như thư tịch cổ, ghi chép của các tác giả trong và ngoài nước, đồng

thời sử dụng những tư liệu thống kê, khảo sát, đo vẽ, bản ảnh di tích đã được các cơ

quan văn hóa trên địa bàn thị xã tiến hành tập hợp trong nhiều năm. Một nguồn tư liệu

khác được khai thác và có vai trò quan trọng để tiến hành nghiên cứu luận văn chính là

14

tư liệu dân gian , tư liệu hồi cố, bản ảnh di tích…do tác giả luận văn trực tiếp thực

hiện qua các đợt khảo sát thực địa tiến hành trong năm 2008.

16. Cấu trúc luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, phụ lục, luận văn được chia thành 3 chương

chính như sau:

Chƣơng 1: Đặc điểm tự nhiên, xã hội vùng Phố Hiến - Hƣng Yên. (40 trang)

Luận văn tập trung phân tích những đặc điểm về diên cách, vị trí địa lý, điều kiện

tự nhiên và những điều kiện lịch sử - cư dân - văn hóa tác động tới sự hình thành, phát

triển của QTDT Phố Hiến – Hưng Yên. Đặc biệt, luận văn tập trung phân tích, tổng

hợp những nguồn tư liệu khai thác trên thực địa để phác dựng lại sự đổi dòng của sông

Hồng, qua đó phân tích vai trò của dòng sông này đối với sự tồn tại, phát triển của hệ

thống di tích tại Phố Hiến - Hưng Yên.

Qua phân tích những đặc điểm về điều kiện tự nhiên và xã hội, có thể nhận định rõ

nét một vùng Phố Hiến - Hưng Yên với nhiều nét riêng biệt – một khu vực mang tính

“đặc thù”. Trên tổng quan của những yếu tố đó, di tích tại khu vực này cũng mang

nhiều nét riêng biệt.

Chƣơng 2: QTDT lịch sử văn hóa Phố Hiến - Hƣng Yên: Lịch sử và thực

trạng (40 trang)

Trong chương 2, luận văn tập trung tái hiện về quá trình hình thành QTDT qua các

thời kỳ lịch sử. Trên cơ sở đó, làm sáng tỏ đặc điểm phát triển di tích từng thời kỳ,

phân tích mối quan hệ giữa diễn tiến lịch sử vùng đất và quá trình hình thành di tích.

Một nội dung quan trọng trong chương này là tác giả đã cố gắng loại hình hóa hệ

thống di tích Phố Hiến - Hưng Yên. Khu vực này hiện còn tới 134 di tích bao gồm

nhiều loại hình đa dạng. Do đó, việc phân loại di tích là vô cùng cần thiết. Công việc

này không chỉ giúp nhận định chính xác hơn về giá trị của từng di tích, cụm di tích mà

còn làm sáng tỏ diện mạo đời sống văn hóa – tín ngưỡng của cộng đồng cư dân khu

vực này. Hơn nữa, việc loại hình hóa di tích sẽ là cơ sở quan trọng để tác giả luận văn

đánh giá tính hệ thống, mối quan hệ giữa các di tích cũng như rút ra những nhận xét

quan trọng về đặc điểm của QTDT tại đây. Từ những phân tích trên, một kết luận quan

trọng được rút ra đó là 134 di tích tồn tại trên khu vực Phố Hiến - Hưng Yên không

phải là những di tích rời rạc, riêng lẻ mà chúng thực sự tạo thành một hệ thống, một

quần thể với mối quan hệ, gắn bó mật thiết. Do đó, giá trị chung của toàn bộ QTDT

15

được nâng cao hơn, là một nhân tố quan trọng để các nhà quy hoạch du lịch căn cứ

vào đó vạch ra những chiến lược phát huy giá trị di tích một cách hợp lý, hiệu quả.

Chƣơng 3: Lịch sử Phố Hiến - Hƣng Yên qua hệ thống di tích lịch sử văn hoá

(47 trang)

Luận văn phác dựng lại phần nào về diễn tiến lịch sử miền đất Phố Hiến - Hưng

Yên trên cơ sở tổng hợp các nguồn tư liệu khai thác tại di tích và xung quanh di tích.

Lấy thời kỳ Phố Hiến – giai đoạn phát triển vàng son nhất của vùng đất này làm mốc

phân chia, lịch sử Phố Hiến - Hưng Yên được tác giả chia làm 3 thời kỳ: tiền Phố

Hiến, Phố Hiến, hậu Phố Hiến.

Trong giai đoạn tiền Phố Hiến, vị trí trọng yếu của vùng đất này về quân sự được

thể hiện rõ qua những sự kiện lịch sử quan trọng đã diễn ra tại đây trong các thời kỳ:

khởi nghĩa Hai Bà Trưng, loạn 12 sứ quân và kháng chiến chống quân Tống xâm lược

năm 981, kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên Mông lần thứ 2.

Giai đoạn phát triển của thương cảng Phố Hiến, vùng đất này nổi bật với vị thế

quan trọng trong hệ thống giao thương của Đàng Ngoài. Những điều kiện thuận lợi

trong và ngoài nước đã đưa Phố Hiến trở thành một thương cảng sầm uất nhất của

Đàng Ngoài trong các thế kỷ XVI – XVII. Trong thời kỳ này, Phố Hiến còn là địa bàn

quan trọng trên hành trình truyền bá đạo Thiên Chúa vào Đàng Ngoài. Tại đây đã diễn

ra “Công đồng” đầu tiên của Công giáo Việt Nam – Công đồng Dinh Hiến - cũng như

lễ phong linh mục người Việt đầu tiên.

Sau thời kỳ Phố Hiến, vùng đất này dần bị nông thôn hóa trở lại. Thế kỷ XIX, việc

triều Nguyễn đặt tỉnh lỵ của toàn tỉnh Hưng Yên tại đây cũng không thể khôi phục lại

được diện mạo đô thị huy hoàng của thương cảng khi trước. Sự suy tàn của nhân tố

kinh tế đã biến Phố Hiến từ một đô thị kinh tế thế kỷ XVI – nửa đầu XVIII trở thành

một đô thị hành chính – chính trị vào thế kỷ XIX.

16

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Đào Duy Anh (1997), Đất nước Việt Nam qua các đời, NXB Thuận Hóa, Huế.

2. Phương Anh (1998), “Nhà ở dân gian trong lịch sử”, T/c Kiến trúc, số 3-4.

3. Nguyễn Văn Âu (1997), Sông ngòi Việt Nam, NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội.

4. Đặng Văn Bài, “Suy nghĩ về việc bảo vệ và khai thác các di tích lịch sử và văn hoá ở Phố Hiến”, Phố Hiến - Kỷ yếu hội thảo khoa học, tr.239-247, Sở Văn hoá Thông tin -

Thể thao Hải Hưng.

5. Đặng Văn Bài (2008), “Nhận diện để phát huy giá trị di sản văn hóa Phật giáo Việt

Nam”, T/c Di sản Văn hóa, số 2, tr.7-12.

6. Ban nghiên cứu chính trị tỉnh Hưng Yên (1965), Lịch sử đất đai và thổ nhưỡng HY, Bản

viết tay lưu tại Thư viện tỉnh Hưng Yên.

7. Ban chỉ đạo quốc gia kỷ niệm 1000 năm Thăng Long - Hà Nội (2002), Tìm trong di sản

văn hoá Việt Nam: Thăng Long - Hà Nội, NXB Văn hoá - Thông tin, Hà Nội.

8. Phòng Quản lý Đô thị Thị xã Hưng Yên (2004), Bản đồ hành chính Thị xã Hưng Yên.

9. Bảo tàng tỉnh Hưng Yên (2003), Hồ sơ di tích đình – đền – chùa Đào Đặng.

10. Bảo tàng tỉnh Hưng Yên (2003), Hồ sơ di tích chùa Chuông.

11. Bảo tàng tỉnh Hưng Yên (2003), Hồ sơ di tích đền Mẫu.

12. Bảo tàng tỉnh Hưng Yên (2003), Hồ sơ di tích đền Trần.

13. Bảo tàng tỉnh Hưng Yên (2003), Hồ sơ di tích đình An Vũ.

14. Bảo tàng tỉnh Hưng Yên (2003), Hồ sơ di tích đền Trạ.

15. Bảo tàng tỉnh Hưng Yên (2003), Hồ sơ di tích đền Đằng Châu.

16. Bảo tàng tỉnh Hưng Yên (2003), Hồ sơ di tích đền Kim Đằng.

17. Bảo tàng tỉnh Hưng Yên (2003), Hồ sơ di tích đền Bà Đào Nương.

18. Bảo tàng tỉnh Hưng Yên (2003), Hồ sơ di tích đình – chùa Hiến.

19. Bảo tàng tỉnh Hưng Yên (2003), Hồ sơ di tích chùa Nễ Châu.

20. Bảo tàng tỉnh Hưng Yên (2003), Hồ sơ di tích đền Bảo Châu.

21. Bảo tàng tỉnh Hưng Yên (2003), Hồ sơ di tích Văn miếu Xích Đằng.

22. Bảo tàng tỉnh Hưng Yên (2003), Hồ sơ di tích Đông Đô Quảng Hội.

23. Bảo tàng tỉnh Hưng Yên (2003), Hồ sơ di tích Chùa Phố.

24. Bảo tàng tỉnh Hưng Yên (2003), Hồ sơ di tích Võ Miếu.

17

25. Bảo tàng tỉnh Hưng Yên (2003), Hồ sơ di tích đền Thiên Hậu.

26. Đỗ Bang (1991), “Dấu tích cảng thị Nước Mặn (Bình Định)”, Những phát hiện mới về

khảo cổ học, tr.193.

27. Đỗ Bang (1992), “Phố cảng Thanh Hà và dấu tích phố cổ”, Những phát hiện mới về

khảo cổ học, tr.172 – 173.

28. Đỗ Bang (1996), Phố cảng vùng Thuận - Quảng (Hội An - Thanh Hà - Nước Mặn) thế

kỷ XVII - XVIII, NXB Thuận Hóa, Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, Hà Nội.

29. Đỗ Bang (1991), “Quan hệ và phương thức buôn bán giữa Hội An với trong nước”, Kỷ

yếu Đô thị cổ Hội An, tr.231-245, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.

30. Đỗ Bang (1994), “Mối quan hệ giữa các Phố Cảng Đàng Trong với Phố Hiến thế kỷ XVII-XVIII”, Kỷ yếu hội thảo khoa học Phố Hiến, tr.188-195, Sở Văn hóa Thông tin-

Thể thao Hải Hưng.

31. Nguyễn Chí Bền (2006), “Bảo tồn di sản văn hoá vật thể Thăng Long - Hà Nội: Những vấn đề phương pháp luận”, Kỷ yếu hội thảo khoa học phương pháp luận và phương

pháp nghiên cứu chương trình KX.09, tr.147-155, NXB Hà Nội, Văn phòng Ban chỉ đạo

kỷ niệm 1000 năm Thăng Long - Hà Nội.

32. Nguyễn Chí Bền (2008), “Văn hóa ven sông Hồng ở Việt Nam, vấn đề và sự tiếp cận”,

T/c Di sản văn hóa, số 2, tr.20-27.

33. Nguyễn Bích (1994), “Cái đình và điêu khắc đình làng”, Kỷ yếu Bảo tàng Mỹ thuật

tháng 8-1993, NXB Văn hóa Thông tin, Hà Nội.

34. Nguyễn Lương Bích, Phạm Ngọc Phụng (1971), Tìm hiểu thiên tài quân sự của Nguyễn

Huệ, NXB Quân đội Nhân dân, Hà Nội.

35. Trần Lâm Biền (1996), Chùa Việt, NXB Văn hoá Thông tin, Hà Nội.

36. Trần Lâm Biền (2001), Trang trí trong mỹ thuật truyền thống của người Việt, NXB Văn

hoá Dân tộc, Tạp chí Văn hoá Nghệ thuật, Hà Nội.

37. Bộ Văn hoá Thông tin (2003), Luật di sản văn hoá và văn bản hướng dẫn thi hành,

NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

38. Laurent Burel (1996), “Hoạt động truyền giáo của Pháp ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ (1856-

1883)”, T/c Nghiên cứu lịch sử, số 1, tr.21-31.

39. Trần Bá Chí (1994), “Quá trình thông thương giữa Xích Đằng-Phố Hiến với Càn Hải- Phù Thạch”, Kỷ yếu hội thảo khoa học Phố Hiến, tr.210-214, Sở Văn hóa Thông tin-Thể

thao Hải Hưng.

18

40. Trần Bá Chí (2003), Cuộc kháng chiến chống Tống lần thứ nhất, NXB Quân đội Nhân

dân, Hà Nội.

41. Nguyễn Văn Chiến (2005), “Thương điếm Hà Lan ở Phố Hiến”, T/c Xưa và Nay, số

249.

42. Phan Huy Chú (1992), Lịch triều hiến chương loại chí, Tập 2, NXB Khoa học Xã hội,

Hà Nội.

43. Phan Huy Chú (2005), Lịch triều hiến chương loại chí, Tập 1, NXB Giáo dục, Hà Nội.

44. Cục Di sản Văn hóa (2005), Một con đường tiếp cận di sản văn hóa, Hà Nội.

45. William Dampier (2007), Một chuyến du hành đến Đàng Ngoài năm 1688, NXB Thế

giới, Hà Nội.

46. Phan Đại Doãn, Nguyễn Quang Ngọc (1985), “Hoạt động thương nghiệp nông thôn

đồng bằng Bắc Bộ thế kỷ XVIII-XIX”, T/c Nghiên cứu lịch sử, số 5, tr.26-34.

47. Phan Đại Doãn, Trương Hữu Quýnh (1994), “Về sự suy tàn của PH”, Kỷ yếu hội thảo

khoa học Phố Hiến, tr.215-219, Sở Văn hóa Thông tin-Thể thao Hải Hưng.

48. Nguyễn Đăng Duy (1993) , Bảo tồn di tích lịch sử - văn hóa, Trường Đại học Văn hóa

Hà Nội.

49. Nguyễn Đăng Duy, Trịnh Minh Đức (1993), Bảo tồn di tích lịch sử - văn hoá, Bộ Văn

hoá - Thông tin, Trường Đại học Văn hoá Hà Nội.

50. Phạm Đức Dương (1998), Bước đầu tìm hiểu sự tiếp xúc và giao lưu văn hóa Việt Hoa

trong lịch sử, NXB Thế giới, Hà Nội.

51. Hoàng Kim Đáng (1999), “Phố Hiến qua một tấm bản đồ cổ”, T/c Xưa và Nay, số 63,

tr.21-22.

52. Nguyễn Đình Đầu (1991), “Quá trình hình thành và phát triển phố cổ Hội An”, Kỷ yếu

Đô thị cổ Hội An, tr.161-166, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.

53. Nguyễn Khoa Điềm (1998), “Văn hoá và bảo tồn di sản văn hoá”, T/c Xưa&Nay, số 53,

tr.4

54. Trịnh Thị Minh Đức (2007), Bảo tồn di tích lịch sử văn hóa, NXB Đại học Quốc gia, Hà

Nội.

55. Lê Quý Đôn (1964), Phủ biên tạp lục, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.

56. Anthoyny Farrington (1994), “Những tài liệu của công ty Đông Ấn Anh liên quan đến Phố Hiến và Đàng Ngoài”, Kỷ yếu hội thảo khoa học Phố Hiến, tr.143-159, Sở Văn hóa

Thông tin-Thể thao Hải Hưng.

19

57. Riichiro Fujawara, (1994) “Quy chế người Hoa dưới chế độ họ Trịnh và Phố Hiến”, Kỷ yếu hội thảo khoa học Phố Hiến, tr.96-100, Sở Văn hóa Thông tin -Thể thao Hải Hưng.

58. Vũ Minh Giang (1991), “Người Nhật, phố Nhật và di tích Nhật Bản ở Hội An”, Kỷ yếu

Đô thị cổ Hội An, tr.205-215, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.

59. Vũ Minh Giang (1994), “Góp phần nhận diện Phố Hiến qua hai tấm bia”, Kỷ yếu hội

thảo khoa học Phố Hiến, tr.115-122,Sở Văn hóa Thông tin-Thể thao Hải Hưng.

60. Pierre Gourou (2003), Người nông dân châu thổ Bắc Kỳ, Hội Khoa học lịch sử Việt

Nam, Viện Viễn Đông Bác Cổ Pháp, NXB Trẻ, Tp Hồ Chí Minh.

61. Châu Hải (1994), “Người Hoa ở Phố Hiến trong mối quan hệ với người Hoa ở các đô thị Việt Nam cùng thời kỳ”, Kỷ yếu hội thảo khoa học Phố Hiến, tr.202-209, Sở Văn hóa

Thông tin-Thể thao Hải Hưng.

62. Nguyễn Duy Hinh (1994), “Thần điện Phố Hiến”, Kỷ yếu hội thảo khoa học Phố Hiến,

tr.232-238, Sở Văn hóa Thông tin-Thể thao Hải Hưng.

63. Diệp Đình Hoa (2000), Người Việt ở đồng bằng Bắc Bộ, NXB Khoa học Xã hội, Hà

Nội.

64. Nguyễn Kim Hoa (1996), “Di tích lịch sử - văn hóa và danh lam thắng cảnh ngàn năm

văn hiến”, T/c Kiến trúc, số 1, tr.64-65.

65. Nguyễn Văn Hoàn (1991), “Hội An một trung tâm giao lưu văn hóa với thế giới của Việt Nam ở thế kỷ XVII”, Kỷ yếu Đô thị cổ Hội An, tr.278-293, NXB Khoa học Xã hội,

Hà Nội.

66. Tăng Bá Hoành (1994), “Di tích lịch sử văn hoá ở Phố Hiến”, Phố Hiến - Kỷ yếu hội

thảo khoa học, tr.221-227, Sở Văn hoá Thông tin - Thể thao Hải Hưng.

67. Tăng Bá Hoành (1994), “Phố Hiến qua nghiên cứu khảo cổ học”, Kỷ yếu hội thảo khoa

học Phố Hiến, tr.89-95, Sở Văn hóa Thông tin-Thể thao Hải Hưng.

68. Hội đồng Bộ trưởng, Nghị định quy định về việc thi hành “Pháp lệnh bảo vệ và sử dụng

di tích lịch sử, văn hoá và danh lam thắng cảnh”, Hà Nội.

69. Hội đồng Nhà nước nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1984), Pháp lệnh và bảo vệ, sử dụng di tích lịch sử, văn hoá và danh lam thắng cảnh thông qua ngày

31/03/1984.

70. Hội Văn học Nghệ thuật Hưng Yên (2005), Văn hóa văn nghệ dân gian HƯNG YÊN –

đôi nét phác thảo, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội.

71. Đỗ Đức Hùng (1997), Vấn đề trị thủy ở đồng bằng Bắc Bộ dưới thời Nguyễn (thế kỷ

XIX), NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.

20

72. Nguyễn Quốc Hùng (2008), “Vai trò của di sản văn hóa trong sự nghiệp phát triển ở

nước ta hiện nay”, T/c Di sản văn hóa, số 2, tr.13-19.

73. Hưng Yên tỉnh nhất thống chí, Ngô Đức Thọ dịch, tài liệu lưu tại Thư viện tỉnh Hưng

Yên.

74. Nguyễn Thừa Hỷ, Phan Hải Linh (1999), “Quan hệ thương mại giữa Nhật Bản và Việt Nam thế kỷ XVI-XVII”, Hội thảo Quốc tế Quan hệ Việt Nam-Nhật Bản thế kỷ XV-XVII

qua giao lưu gốm sứ, Hà Nội.

75. Nguyễn Thừa Hỷ (1994), “Phố Hiến qua các nguồn tư liệu nước ngoài”, Kỷ yếu hội thảo

khoa học Phố Hiến, tr.83-88, Sở Văn hóa Thông tin-Thể thao Hải Hưng.

76. Nguyễn Thừa Hỷ (1994), “Sông Đàng Ngoài và Domea – Một đô thị cổ đã biến mất”,

T/c Xưa và Nay, số 4.

77. Shigeru Ikuta (1991), “Vai trò của các cảng thị ở vùng ven biển Đông Nam Á từ đầu thế kỷ III đến thế kỷ XIX”, Kỷ yếu Đô thị cổ Hội An, tr.247-260, NXB Khoa học Xã hội, Hà

Nội, 1991, .

78. Katooiichi (1991), “Mậu dịch với Đông Dương với các thương điếm thuộc công ty Đông Ấn Hà Lan tại Nhật Bản”, Kỷ yếu Đô thị cổ Hội An, tr.217-229, NXB Khoa học

Xã hội, Hà Nội.

79. La province de Hung Yen (Tỉnh HY), khuyết danh, nguyên văn tiếng Pháp, Ngô Đức

Thọ dịch, tài liệu hiện lưu tại Phòng Địa chí, Thư viện tỉnh Hưng Yên.

80. Trần Khánh (2004), “Tiếp xúc, hội nhập kinh tế Đông Á - Đông Nam Á ven biển trong tiến trình lịch sử”, Đông Á - Đông Nam Á những vấn đề lịch sử và hiện tại, tr.91-102,

NXB Thế giới, Hà Nội.

81. Vũ Ngọc Khánh (1994), “Phố Hiến giữa vùng Folklore Sơn Nam”, Kỷ yếu hội thảo

khoa học Phố Hiến, tr.123-128, Sở Văn hóa Thông tin-Thể thao Hải Hưng.

82. Nguyễn Khởi (2002), Bảo tồn và trùng tu các di tích kiến trúc, NXB Xây dựng, Hà Nội.

83. Nguyễn Văn Kiệm (2001), Sự du nhập của Thiên chúa giáo vào Việt Nam từ thế kỷ XVII

đến thế kỷ XIX, Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, Hà Nội.

84. Nguyễn Văn Kiệm (1995), “Họ Trịnh đối với các giáo sĩ phương Tây”, Kỷ yếu hội thảo khoa học Chúa Trịnh vị trí và vai trò lịch sử, tr.229-240, Ban Nghiên cứu và biên soạn

lịch sử Thanh Hóa.

85. Nguyễn Hồng Kiên (1991), “Bộ vì nóc của kết cấu nhà khung gỗ cổ truyền Việt Nam”,

T/c Văn hóa Nghệ thuật, số 97.

86. Nguyễn Hồng Kiên (1996), “Kiến trúc gỗ cổ truyền Việt Nam”, T/c Kiến trúc, số 3.

21

87. Nguyễn Hồng Kiên (1999), “Những thành phần bao che trong kiến trúc gỗ cổ truyền của

người Việt”, T/c Kiến trúc, số 3.

88. Nguyễn Hồng Kiên (1999), “Mặt bằng những kiến trúc tôn giáo cổ truyền của người

Việt”, T/c Văn hóa Nghệ thuật, số 11.

89. Nguyễn Hồng Kiên (2003), Đình làng Việt Nam thế kỷ XVI, Luận án tiến sĩ, Viện Khảo

cổ học, Hà Nội.

90. Nguyễn Văn Kim (1999), “Vị trí của một số thương cảng Việt Nam trong hệ thống buôn bán ở biển Đông thế kỷ XV-XVII”, Hội thảo Quốc tế Quan hệ Việt Nam-Nhật Bản thế

kỷ XV-XVII qua giao lưu gốm sứ, Hà Nội.

91. Nguyễn Văn Kim (2003), Quan hệ của Nhật Bản với Đông Nam Á thế kỷ XV-XVII, Giáo

trình chuyên đề, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.

92. Nguyễn Văn Kim (2002), “Hệ thống buôn bán ở biển Đông thế kỷ XVI-XVII và vị trí của một số thương cảng Việt Nam (Một cái nhìn từ điều kiện địa-nhân văn)”, T/c

Nghiên cứu Lịch sử, số…, tr.45-52.

93. Nguyễn Văn Kim (2007), “Vị trí Phố Hiến và Domea trong hệ thống thương mại Đàng

Ngoài thế kỷ XVI-XVIII”, T/c Nghiên cứu lịch sử, số 4, tr. …

94. Hoàng Đạo Kính, Vũ Hữu Minh (1991), “Phân tích và đánh giá hiện trạng di tích kiến

trúc cổ Hội An”, Kỷ yếu Đô thị cổ Hội An, tr.341-360, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.

95. Hoàng Đạo Kính, Hoàng Minh Ngọc, Vũ Hữu Minh, Nguyễn Hồng Kiên (1991), “Một số khuyến nghị về bảo tồn và sử dụng các di tích ở Hội An”, Kỷ yếu Đô thị cổ Hội An,

tr.361-374, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.

96. Hoàng Đạo Kính (2002), Di sản văn hoá bảo tồn và trùng tu, NXB Văn hoá - Thông tin,

Hà Nội.

97. Sakurai Kiyohiko (1999), “Giao lưu văn hoá Đông Tây qua con đường tơ lụa trên biển”, Hội thảo Quốc tế Quan hệ Việt - Nhật thế kỷ XV-XVII qua giao lưu gốm sứ, Hà Nội.

98. Đỗ Thùy Lan, “Vùng cửa sông Đàng Ngoài thế kỷ XVII-XVIII”, T/c Nghiên cứu lịch

sử.

99. Lê Văn Lan (1989), “Phố Hiến”, Đô thị cổ Việt Nam, tr.195-209, Viện Sử học, Hà Nội.

100. Lê Văn Lan (1991), “Hội An giữa các đô thị trung cổ Việt Nam”, Kỷ yếu Đô thị cổ Hội

An, tr.261-264, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.

101. Lê Văn Lan (1994), “Vị trí của Phố Hiến trong lịch sử các đô thị cổ Việt Nam”, Kỷ yếu hội thảo khoa học Phố Hiến, tr.185-187, Sở Văn hóa Thông tin-Thể thao Hải Hưng.

102. Vũ Tam Lang (1999), Kiến trúc cổ Việt Nam, NXB Xây dựng, Hà Nội.

22

103. Trần Lâm, Hồng Kiên (1987), “Diễn biến của các loại hình kiến trúc cổ Việt Nam”, T/c

Kiến trúc, số 2&3.

104. Vũ Tự Lập (1991), Văn hoá và cư dân đồng bằng sông Hồng, NXB Khoa học Xã hội,

Hà Nội.

105. Phan Huy Lê (1962), Lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam, tập 2, NXB Giáo dục, Hà

Nội.

106. Phan Huy Lê, Vũ Hoàng Tuyên, Chu Thiên, Đinh Xuân Lâm, Lịch sử chế độ phong kiến

Việt Nam, tập 3, NXB Giáo dục, Hà Nội.

107. Phan Huy Lê (1994), “Phố Hiến những vấn đề khoa học đang đặt ra”, Kỷ yếu hội thảo

khoa học Phố Hiến, tr.18-28, Sở Văn hóa Thông tin-Thể thao Hải Hưng.

108. Ngô Sĩ Liên (1998), Đại Việt sử ký toàn thư, Tập I, NXB Giáo dục, Hà Nội.

109. Ngô Sĩ Liên (1998), Đại Việt sử ký toàn thư, Tập II, NXB Giáo dục, Hà Nội.

110. Ngô Sĩ Liên (1998), Đại Việt sử ký toàn thư, Tập III, NXB Giáo dục, Hà Nội.

111. Ngô Vi Liễn (1999), Tên làng xã và địa dư các tỉnh Bắc Kỳ, NXB Văn hóa Thông tin,

Hà Nội.

112. Tạ Ngọc Liễn (1995), Quan hệ Việt Nam - Trung Quốc thế kỷ XV đầu thế kỷ XVI, NXB

Khoa học Xã hội, Hà Nội.

113. Charles Maybon (2006), Những người châu Âu ở nước An Nam, Nguyễn Thừa Hỷ dịch,

NXB Thế giới, Hà Nội.

114. Phạm Quang Nghị, Lê Doãn Hợp, Đặng Văn Bài (2006), Một con đường tiếp cận di sản

văn hóa, NXB Thế giới, Hà Nội.

115. Nguyễn Đình Nhã (1994), “Cư dân và phong tục tập quán PH”, Kỷ yếu hội thảo khoa

học Phố Hiến, tr.108-114, Sở Văn hóa Thông tin-Thể thao Hải Hưng.

116. Nguyễn Đức Nghinh (1994), “Phố Hiến thế kỷ XVII-XVIII: Một số vấn đề kinh tế xã hội”, Kỷ yếu hội thảo khoa học Phố Hiến, tr.101-107, Sở Văn hóa Thông tin-Thể thao

Hải Hưng.

117. Nguyễn Quang Ngọc (1994), “Đôi nét về công ty Đông Ấn Hà Lan và thương điếm PH”, Kỷ yếu hội thảo khoa học Phố Hiến, tr.129-137, Sở Văn hóa Thông tin-Thể thao

Hải Hưng.

118. Nguyễn Quang Ngọc (2005), “Lê Hoàn và chiến thắng Bạch Đằng năm 981”, T/c

Nghiên cứu lịch sử, Số 6, tr.3-11.

119. Nguyễn Quang Ngọc (2007), “Domea trong hệ thống thương mại Đàng Ngoài thế kỷ

XVII – XVIII”, T/c Nghiên cứu lịch sử, số 10.

23

120. Lê Nguyễn (2004), Xã hội Đại Việt qua bút ký của người nước ngoài, NXB Văn Nghệ

Tp Hồ Chí Minh.

121. Nguyễn Danh Phiệt (1995), “Suy nghĩ về sự xuất hiện và vai trò của chúa Trịnh trong lịch sử từ thế kỷ XVI đến giữa thế kỷ XVIII”, Kỷ yếu hội thảo khoa học Chúa Trịnh vị

trí và vai trò lịch sử, tr 79-88, Ban Nghiên cứu và biên soạn lịch sử Thanh Hóa.

122. Nguyễn Danh Phiệt (1990), Nhà Đinh dẹp loạn và dựng nước, NXB Khoa học Xã hội,

Hà Nội.

123. Phòng nông nghiệp và thủy văn huyện Tiên Lữ, Bản đồ HƯNG YÊN năm 1947.

124. Phòng Văn hoá - Thông tin Thị xã Hưng Yên (2004), Bản kiểm kê QTDT Phố Hiến - Thị

xã Hưng Yên, Hưng Yên.

125. Phòng Văn hóa - Thông tin huyện Duy Tiên (2005), Bản thống kê các cơ sở tôn giáo tín

ngưỡng huyện Duy Tiên, Hà Nam.

126. Phòng Văn hóa - Thông tin huyện Duy Tiên (1993), Hồ sơ di tích xã Trác Văn, Duy

Tiên, Hà Nam.

127. Nguyễn Vinh Phúc (1994), “Phố Hiến nhìn từ Thăng Long”, Kỷ yếu hội thảo khoa học

Phố Hiến, tr.176-184, Sở Văn hóa Thông tin-Thể thao Hải Hưng.

128. Vũ Huy Phúc (1995), “Quan hệ ngoại thương giữa Việt Nam và các nước phương Tây thế kỷ XVII-XVIII”, Kỷ yếu hội thảo khoa học Chúa Trịnh vị trí và vai trò lịch sử,

tr.241-251, Ban Nghiên cứu và biên soạn lịch sử Thanh Hóa.

129. Vũ Thị Phụng (1995), “Một vài nhìn nhận về những di sản pháp luật dưới thời Lê - Trịnh thế kỷ XVII-XVIII”, Kỷ yếu hội thảo khoa học Chúa Trịnh vị trí và vai trò lịch

sử, tr.125-135, Ban Nghiên cứu và biên soạn lịch sử Thanh Hóa.

130. Nguyễn Quân, Phan Cẩm Thượng (1991), Mỹ thuật ở làng, NXB Mỹ thuật, Hà Nội.

131. Quốc sử quán triều Nguyễn (1994), Đại Nam nhất thống chí, Tập 3, NXB Thuận Hóa.

132. Quốc sử quán triều Nguyễn (2003), Đồng Khánh địa dư chí, NXB Thế giới, Hà Nội.

133. Quốc sử quán triều Nguyễn (1998), Khâm định Việt sử thông giám cương mục, NXB

Giáo dục, Hà Nội.

134. Ngô Huy Quỳnh (2000), Tìm hiểu lịch sử kiến trúc Việt Nam, NXB Xây dựng, Hà Nội.

135. Trương Hữu Quýnh (1994), “Sự ra đời và phát triển của PH”, Kỷ yếu hội thảo khoa học

Phố Hiến, tr.36-44, Sở Văn hóa Thông tin-Thể thao Hải Hưng.

136. Trương Hữu Quýnh, Phan Đại Doãn, Nguyễn Cảnh Minh (1998), Đại cương lịch sử

Việt Nam, tập 1, NXB Giáo dục, Hà Nội.

24

137. Momoki Shiro (2004), “Đại Việt và thương mại ở Biển Đông từ thế kỷ X đến thế kỷ XV”, Đông Á - Đông Nam Á những vấn đề lịch sử và hiện tại, tr.309-330, NXB Thế

giới, Hà Nội.

138. Momoki Shiro (1994), “Nhật Bản và Việt Nam trong hệ thống buôn bán châu Á vào thế kỷ XVII-XVIII”, Kỷ yếu hội thảo khoa học Phố Hiến, tr.45-54, Sở Văn hóa Thông tin-

Thể thao Hải Hưng.

139. Kikuchi Seiichi (2004), “Tìm hiểu quá trình hình thành và phát triển của Hội An qua sự

phân bố các di tích”, Tham luận Hội thảo Việt Nam học lần 2, Tp Hồ Chí Minh.

140. Kikuchi Seiichi (2001), “Sự hình thành và phát triển khu phố cổ Hội An (Qua tư liệu

văn bia, thư tịch và KCH)”, T/c Nghiên cứu lịch sử, số 6, tr.50-56.

141. Kikuchi Seiichi (2004), “Gốm sứ Hizen ở Bắc Bộ và Trung Bộ Việt Nam”, Đông Á - Đông Nam Á, những vấn đề lịch sử và hiện tại, tr.331-348, NXB Thế giới, Hà Nội.

142. Bùi Hoài Sơn (2008), “Các quan điểm lý thuyết về quản lý di sản”, Kỷ yếu hội thảo khoa học phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu chương trình KX.09, tr.156-

163, NXB Hà Nội, Văn phòng Ban chỉ đạo kỷ niệm 1000 năm Thăng Long - Hà Nội.

143. Vũ Thanh Sơn (2001), Các vị thánh thần sông Hồng, NXB Văn hoá thông tin, Hà Nội.

144. Vũ Thanh Sơn (1994), Thiên sinh Thánh mẫu họ Đào, T/c Văn hóa Thể thao Hải Hưng,

Sở Văn hóa Thông tin Hải Hưng.

145. Sở Văn hoá Thông tin, Hội Văn học Nghệ thuật HƯNG YÊN (1998), Phố Hiến lịch sử -

văn hoá, HY.

146. Nguyễn Đức Tâm (1981), “Lịch sử hình thành các vùng đồng bằng ven biển Việt Nam”,

T/c Khảo cổ học, số 4, tr.1-9.

147. Hà Văn Tấn, Nguyễn Văn Kự (1993), Chùa Việt Nam, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.

148. Hà Văn Tấn, Nguyễn Văn Kự (1998), Đình Việt Nam, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.

149. Hà Văn Tấn (1998), “Bảo tồn di tích lịch sử - văn hoá trong bối cảnh công nghiệp hoá -

hiện đại hoá đất nước”, T/c Xưa&Nay, số 53, tr.5-7.

150. Hà Văn Tấn, Phạm Thị Tâm (2003), Cuộc kháng chiến chống xâm lược Nguyên Mông

thế kỷ XIII, NXB Quân đội Nhân dân, Hà Nội.

151. Trịnh Như Tấu (1937), HƯNG YÊN địa chí, In tại nhà in Ngô Tử Hà, Hà Nội.

152. Lê Bá Thảo (2002), Thiên nhiên Việt Nam, NXB Giáo dục, Hà Nội.

153. Lê Bá Thảo (1994), “Những khía cạnh địa lý của vấn đề PH”, Kỷ yếu hội thảo khoa học

Phố Hiến, tr.30-35, Sở Văn hóa Thông tin - Thể thao Hải Hưng.

25

154. Nguyễn Đức Thiềm (1983), “Tìm hiểu về cấu trúc gian vì kèo trong nhà ở truyền thống

của người Việt”, T/c Dân tộc học, số 2.

155. Nguyễn Thịnh (1994), “Văn bia chùa Chuông và bóng dáng Phố Hiến xưa”, Kỷ yếu hội

thảo khoa học Phố Hiến, tr.138-140, Sở Văn hóa Thông tin-Thể thao Hải Hưng.

156. Ngô Đức Thọ (1994), “Đi tìm tư liệu bi ký về PH”, Kỷ yếu hội thảo khoa học Phố Hiến,,

tr.55-59Sở Văn hóa Thông tin-Thể thao Hải Hưng.

157. Đặng Thu (1994), Di dân của người Việt từ thế kỷ X đến thế kỷ XIX, Trung tâm Nghiên

cứu dân số và phát triển, Hà Nội.

158. Cao Huy Thuần (2003), Giáo sĩ thừa sai và chính sách thuộc địa của Pháp tại Việt Nam

(1857-1914), NXB Tôn giáo, Hà Nội.

159. Chu Thuấn Thủy (1999), Ký sự đến Việt Nam năm 1657 (An Nam cung dịch kỷ sự), Hội

Khoa học Lịch sử Việt Nam, Hà Nội.

160. Thư viện tỉnh HƯNG YÊN (1998), Trăm năm nhà thờ Hưng Yên (1898-1998), HY.

161. Phan Cẩm Thượng (1997), Điêu khắc cổ Việt Nam, NXB Mỹ thuật, Hà Nội.

162. Tống Trung Tín (1997), Nghệ thuật điêu khắc Việt Nam thời Lý và thời Trần (Thế kỷ XI-

XIV), NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.

163. Hoàng Anh Tuấn (2005), “Công ty Đông Ấn Hà Lan ở Đàng Ngoài”, T/c Nghiên cứu

lịch sử, số 3.

164. Hoàng Anh Tuấn (2005), “Kế hoạch Đông Á và sự thất bại của công ty Đông Ấn Anh ở

Đàng Ngoài thế kỷ XVII qua tư liệu phương Tây”, T/c Nghiên cứu lịch sử, số 9.

165. Hoàng Anh Tuấn (2006), “Mậu dịch tơ luụa của công ty Đông Ấn Hà Lan với Đàng

Ngoài 1637-1670”, T/c Nghiên cứu lịch sử, số 3+4.

166. Hoàng Anh Tuấn (2007), “Hải cảng miền đông bắc và hệ thống thương mại Đàng Ngoài thế kỷ XVII qua các nguồn tư liệu Phương Tây”, T/c Nghiên cứu lịch sử, số 1+2.

167. Nguyễn Khắc Tụng (1998), “Nhận biết yếu tố Hoa trong kiến trúc nhà ở cổ truyền của người Việt và ngược lại”, Bước đầu tìm hiểu sự tiếp xúc và giao lưu văn hoá Việt - Hoa

trong lịch sử, tr.113-127, NXB Thế giới, Hà Nội.

168. Nguyễn Phước Tương (1997), Đô thị cổ Hội An và những di tích tiêu biểu, NXB Giáo

dục, Hà Nội.

169. Tạ Chí Đại Trường (2006), Thần, người và đất Việt, NXB Văn hóa Thông tin, Hà Nội.

170. Chu Quang Trứ (1994), “Phố Hiến qua một số di tích mỹ thuật”, Kỷ yếu hội thảo khoa

học Phố Hiến, tr.238-241, Sở Văn hóa Thông tin-Thể thao Hải Hưng.

26

171. Chu Quang Trứ (1999), Kiến trúc dân gian truyền thống Việt Nam, NXB Mỹ thuật, Hà

Nội.

172. Chu Quang Trứ (2002), Văn hoá Việt Nam nhìn từ mỹ thuật, Tập I, Viện Mỹ thuật -

NXB Mỹ thuật, Hà Nội.

173. Chu Quang Trứ (2002), Văn hoá Việt Nam nhìn từ mỹ thuật, Tập II, Viện Mỹ thuật -

NXB Mỹ thuật, Hà Nội.

174. Hoàng Anh Tuấn (2004), “Mậu dịch gốm sứ của Công ty Đông Ấn Hà Lan với Đàng Ngoài thế kỷ XVII”, Đông Á - Đông Nam Á những vấn đề lịch sử và hiện tại, tr.349-

372, NXB Thế giới, Hà Nội.

175. Trịnh Cao Tưởng (1981), “Kiến trúc đình làng”, T/c Khảo cổ học, số 2, tr 56-64.

176. Trịnh Cao Tưởng (1999), “Mở đầu việc nghiên cứu thương cảng cổ Việt Nam trong lịch

sử trên phương diện khảo cổ học”, T/c Khảo cổ học, số 4, tr.66-69.

177. Trịnh Cao Tưởng (1996), “Buớc đầu tìm hiểu về đồ gốm nước ngoài phát hiện ở các

thương cảng cổ Việt Nam”, T/c Nghiên cứu lịch sử, số 5, tr.56-61.

178. Trịnh Cao Tưởng (1991), “Tiếp xúc văn hoá ở Hội An nhìn từ góc độ kiến trúc”, Kỷ yếu

Đô thị cổ Hội An, tr.19-323, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.

179. Trịnh Cao Tưởng (2007), Một chặng đường tìm về quá khứ, NXB Khoa học Xã hội, Hà

Nội.

180. A. de Rhodes (1994), Lịch sử Vương quốc Đàng Ngoài, Bản dịch Hồng Nhuệ, Uỷ Ban

đoàn kết Công Giáo Thành phố Hồ Chí Minh.

181. UBND Thị xã Hưng Yên (2007), Báo cáo tình hình thực hiện kế hoạch phát triển kinh

tế - xã hội năm 2006, Phương hướng nhiệm vụ năm 2007, HY.

182. UBND Thị xã Hưng Yên (2008), Báo cáo tình hình thực hiện kế hoạch phát triển kinh

tế - xã hội năm 2007, Phương hướng nhiệm vụ năm 2008.

183. UBND Tỉnh Hưng Yên (2005), Hưng Yên 175 năm, Hưng Yên.

184. UBND Tỉnh Hưng Yên (2008), Đề án thành lập thành phố Hưng Yên thuộc tỉnh Hưng

Yên, Hưng Yên.

185. Tạ Thị Hoàng Vân (2006), Di tích kiến trúc Hội An trong tiến trình lịch sử, Luận án tiến

sỹ lịch sử Việt Nam, Đại học Quốc gia Hà Nội.

186. Tạ Thị Hoàng Vân (2005), “Vật liệu trong kiến trúc cổ Việt Nam”, T/c Văn hoá Nghệ

thuật, số 5, tr.91-96.

187. Thành Thế Vỹ (1961), Ngoại thương Việt Nam hồi thế kỷ XVII-XVIII đầu thế kỷ XIX,

NXB Sử học, Hà Nội.

27

188. Viện Nghiên cứu Hán Nôm (1990), Di tích lịch sử văn hóa Việt Nam, NXB Khoa học

Xã hội, Hà Nội.

189. Viện Nghiên cứu Kiến trúc (1997), Kiến trúc và khí hậu nhiệt đới Việt Nam, NXB Xây

dựng, Hà Nội.

190. Viện Việt Nam học và Khoa học Phát triển, Đại học Quốc gia Tokyo (2006), Kỷ yếu hội thảo khoa học Khu vực học - Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu, Hà

Nội.

191. Trần Thị Vinh (1994), “Thăng Long-Phố Hiến mối quan hệ giao thương ở thế kỷ XVI- XVII”, Kỷ yếu hội thảo khoa học Phố Hiến, tr.196-201, Sở Văn hóa Thông tin-Thể thao

Hải Hưng.

192. Trần Quốc Vượng (1994), “Di tích và thể cảnh môi sinh”, T/c Xưa&Nay, số 1, tr.11-12.

193. Trần Quốc Vượng (2001), “Sông Nhị Hồng với HƯNG YÊN (một cách tiếp cận địa văn

hoá)”, T/c Văn hoá nghệ thuật, số 10.

194. Trần Quốc Vượng, Hà Văn Tấn (1963), Lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam, tập 1,

NXB Giáo dục, Hà Nội.

195. Abe Yuriko (1999), “Lịch sử khu vực Hội An nhìn từ góc độ phân bố di tích”, Hội thảo Quốc tế Quan hệ Việt Nam-Nhật Bản thế kỷ XV-XVII qua giao lưu gốm sứ, Hà Nội.

196. Tư liệu khai thác trên một số website.

28