VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
HÀ TRUNG CANG
ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG NGUỒN NHÂN LỰC
TẠI CỤC QUẢN LÝ THỊ TRƯỜNG THÀNH PHỐ
HỒ CHÍ MINH
LUẬN VĂN THẠC SỸ QUẢN TRỊ KINH DOANH
HÀ NỘI - 2020
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
HÀ TRUNG CANG
ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG NGUỒN NHÂN LỰC
TẠI CỤC QUẢN LÝ THỊ TRƯỜNG THÀNH PHỐ
HỒ CHÍ MINH
Ngành: Quản trị kinh doanh Mã số: 8.34.01.01
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. CẢNH CHÍ HOÀNG
HÀ NỘI - 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả
nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công
trình nào khác.
Hà Nội, tháng 3 năm 2020
Tác giả luận văn
Hà Trung Cang
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ NHÂN LỰC VÀ ĐÁNH GIÁ CHẤT
LƯỢNG NHÂN LỰC TRONG TỔ CHỨC ............................................................ 7
1.1. Khái niệm, các tiêu chí và sự cần thiết phải đánh giá chất lượng nhân lực .. 7
1.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng nhân lực .......................................... 17
1.3. Nội dung đánh giá chất lượng nhân lực....................................................... 19
1.4. Kinh nghiệm đánh giá chất lượng nhân lực ở một số tổ chức và bài học
kinh nghiệm cho Cục Quản lý thị trường Tp. Hồ Chí Minh .............................. 26
Chương 2: THỰC TRẠNG ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG NHÂN LỰC TẠI
CỤC QUẢN LÝ THỊ TRƯỜNG THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ...................... 30
2.1. Khái quát về Cục quản lý thị trường Thành phố Hồ Chí Minh ................... 30
2.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng nhân lực ở Cục Quản lý thị trường
Tp. Hồ Chí Minh ................................................................................................ 32
2.3. Thực trạng chất lượng nhân lực và hoạt động đánh giá chất lượng nhân
lực tại Cục quản lý thị trường Thành phố Hồ Chí Minh .................................... 41
2.4. Đánh giá chung về hoạt động đánh giá chất lượng nhân lực tại Cục quản
lý thị trường Thành phố Hồ Chí Minh ............................................................... 62
Chương 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG NHÂN
LỰC TẠI CỤC QUẢN LÝ THỊ TRƯỜNG THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH .... 67
3.1. Phương hướng và mục tiêu đánh giá chất lượng nhân lực tại Cục quản lý
thị trường Thành phố Hồ Chí Minh .................................................................... 67
3.3. Một số kiến nghị đối với cơ quan quản lý nhà nước ................................... 77
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 80
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 81
DANH MỤC BẢNG, HÌNH VẼ
Hình 2.1.Sơ đồ bộ máy của Cục quản lý thị trường Hồ Chí Minh ........................... 30
Bảng 2.1. Nội dung tóm tắt bản mô tả Công việc tại Cục quản lý thi ̣trường
Hồ Chí Minh .................................................................................................. 34
Bảng 2.2. Đánh giá của cán bộ, công chức về công tác phân tích công việc............ 35
Bảng 2.3. Nội dung công tác tuyển dụng tại Cục quản lý thi ̣trường Hồ Chí Minh ....... 36
Bảng 2.4. Đánh giá của cán bô, công chức về công tác tuyển dụng tại Cục ............ 37
Bảng 2.5.Công tác đào tạo cán bộ công chức tại Cục ............................................... 39
Bảng 2.6. Đánh giá của cán bô, công chức về công tác đào tạo tại Cục ................... 40
Bảng 2.7. Cơ cấu NNL theo trình độ chuyên môn trong Cục Quản lý thi ̣trường
Hồ Chí Minh ................................................................................................... 41
Bảng 2.8. Cơ cấu NNL theo trình độ lý luận chính trị trong hệ thống Cục Quản
lý thi ̣trường Hồ Chí Minh ............................................................................. 42
Bảng 2.9. Cơ cấu NNL theo trình độ quản lý nhà nước trong hệ thống Cục Quản
lý thi ̣trường Hồ Chí Minh ............................................................................. 43
Bảng 2.10. Cơ cấu NNL theo trình độ tin học của Cục Quản lý thi ̣trường
Hồ Chí Minh .................................................................................................. 44
Bảng 2.11. Cơ cấu NNL theo trình độ ngoại ngữ của Cục Quản lý thi ̣trường
Hồ Chí Minh .................................................................................................. 44
Bảng 2.12. Cơ cấu NNL theo tình trạng sức khỏe trong hệ thống Cục Quản lý
thi ̣trường Hồ Chí Minh .................................................................................. 45
Bảng 2.13. Công chức tự đánh giá năng lực của bản thân của Cục Quản lý
thi ̣trường Hồ Chí Minh .................................................................................. 47
Bảng 2.14. Lãnh đạo đánh giá năng lực nhân viên trong Cục Quản lý thi ̣trường
Hồ Chí Minh ................................................................................................... 48
Bảng 2.15. Đánh giá kỹ năng của công chức trong hệ thống Cục Quản lý
thi ̣trường Hồ Chí Minh .................................................................................. 49
Bảng 2.16. Đánh giá mức độ phù hợp của công việc với chuyên ngành đào tạo
của công chức trong Cục Quản lý thi ̣trường Hồ Chí Minh ........................... 52
Bảng 2.17. Đánh giá mức độ đáp ứng công việc của công chức trong Cục Quản
lý thi ̣trường Hồ Chí Minh ............................................................................. 54
Bảng 2.18. Đánh giá trách nhiệm của công chức đối với đồng nghiệp Cục Quản
lý thi ̣trường Hồ Chí Minh ............................................................................. 55
Bảng 2.19. Đánh giá mức độ thực hiện trách nhiệm công việc của công chức
Cục Quản lý thi ̣trường Hồ Chí Minh ............................................................ 57
Bảng 2.20. Đánh giá các hoạt động quản lý chất lượng nguồn nhân lực trong
Cục Quản lý thi ̣trường Hồ Chí Minh ............................................................ 59
Bảng 2.21. Đánh giá công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực trong Cục
Quản lý thi ̣trường Hồ Chí Minh .................................................................... 60
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Kể từ Đại hội VI của Đảng năm 1986 đến nay, đất nước ta đã tiến hành mở
cửa nền kinh tế sâu rộng và toàn diện. Đặc biệt là trong điều kiện hội nhập toàn cầu
hiện nay phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị
trường có sự quản lý, điều tiết vĩ mô của nhà nước theo định hướng XHCN là một
tất yếu khách quan đối với Việt Nam. Sau gần ba mươi năm đổi mới, bằng những
cải cách mạnh mẽ về hành chính, kinh tế, đất nước ta đã vượt qua khủng hoảng khó
khăn, từng bước đi lên vững chắc trên con đường Xã hội chủ nghĩa, có tiếng nói và
vị thế với các nước trên toàn thế giới.
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, trong quá trình phát triển công tác Quản
lý nhà nước đã bộc lộ nhiều yếu kém trước sự vận động, biến đổi không ngừng của nền
kinh tế thị trường, một phần nguyên nhân quan trọng là do chất lượng đội ngũ cán bộ
công chức, viên chức những người trực tiếp thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước, bởi
đội ngũ cán bộ công chức, viên chức có vai trò vô cùng quan trọng, quyết định chất
lượng, hiệu quả hoạt động của công việc. Hiệu lực quản lý nhà nước được thực hiện tốt
hay không là phụ thuộc vào chất lượng của đội ngũ cán bộ công chức, viên chức như
Bác Hồ đã từng nói “Cán bộ nào thì phong trào đấy” hay “Cán bộ là cái gốc của công
việc”... Đứng trước tình hình đó, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra chủ trương cải
cách nền hành chính Nhà nước và coi đó là trọng tâm của việc xây dựng và hoàn thiện
Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Bên cạnh đó Chính phủ đã ban hành Nghị quyết về Chương trình tổng thể cải
cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011-2020, trong đó có những nội dung có liên
quan đến tổ chức bộ máy, đến đội ngũ cán bộ công chức, viên chức. Năm 2012, Thủ
tướng ban hành Quyết định số 1557/QĐ-CP phê duyệt Đề án cải cách công vụ công
chức từ nay đến năm 2015, từ đó có thể nhận thấy chủ trương, chính sách của Đảng
và Nhà nước và tầm quan trọng của việc phải nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ
công chức, viên chức trong công tác Quản lý nhà nước trong thời kỳ mới, để bắt kịp
với sự phát triển không ngừng của xã hội.
Là cơ quan quản lý nhà nước về lĩnh vực thương mại trên địa bàn Thành phố
Hồ Chí Minh. Trong những năm qua, Cục quản lý thị trường Thành phố Hồ Chí
Minh luôn nỗ lực cố gắng phấn đấu trong công tác chống hàng cấm, hàng giả, hàng
nhập lậu, gian lận thương mại và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Đã có những
1
đóng góp quan trọng trong việc thực hiện các mục tiêu kinh tế, xã hội của Thành
phố trong các lĩnh vực mình quản lý. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tích đã đạt
được, hoạt động quản lý nhà nước của Cục quản lý thị trường Thành phố Hồ Chí
Minh còn có một số khâu chưa đáp ứng được với yêu cầu công tác ngày càng cao
trong lĩnh vực mình quản lý như: Độ tuổi trung bình cao, trình độ chuyên môn chưa
đáp ứng được với sự thay đổi của cơ chế chính sách mớ,i... mà trong đó yếu tố con
người là nguyên nhân chủ chốt.
Nhận thức được tầm quan trọng của nguồn nhân lực trong bối cảnh Đảng và
Nhà nước đẩy mạnh thực hiện mục tiêu cải cách hành chính, đó là một trong các
nguồn lực cơ bản, có ý nghĩa quyết định tới chất lượng và hiệu quả hoạt động của
ngành, trong thời gian qua, Cục quản lý thị trường Thành phố Hồ Chí Minh đã
không ngừng đầu tư xây dựng, phát triển nguồn nhân lực theo hướng nâng cao năng
lực chuyên môn, tính chuyên nghiệp trong công tác, trình độ quản lý tiên tiến và
phẩm chất đạo đức, chính trị trong sáng nhằm đáp ứng được nhiệm vụ giao.
Trong giai đoạn hiện nay, Cục quản lý thị trường Thành phố Hồ Chí Minh
với toàn ngành tiếp tục kiện toàn tổ chức bộ máy, đảm bảo phù hợp với định hướng, lộ
trình cải cách hành chính và hiện đại hóa hoạt động của ngành Công thương, đặc biệt là
sắp xếp tinh gọn đầu mối về thanh tra, kiểm tra. Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực
đảm bảo số lượng, chất lượng, cơ cấu hợp lý có đầy đủ năng lực, phẩm chất đáp ứng
tốt yêu cầu phát triển Cục quản lý thị trường Thành phố Hồ Chí Minh hiện đại; trong
đó, ưu tiên đào tạo chuyên sâu về nghiệp vụ kiểm tra và giám sát để thực hiện các
nghiệp vụ mới theo Chiến lược phát triển các hoạt động của ngành Công Thương.
Để đạt được điều đó, trong giai đoạn tới Cục quản lý thị trường Thành phố
Hồ Chí Minh phải xác định đúng vai trò của lực lượng cán bộ, nhân lực đánh giá
đúng chất lượng nhân lực trong từng giai đoạn, trên cơ sở đó phát huy những thành
tựu đã đạt được đồng thời khắc phục các tồn tại trong công tác quản lý, từng bước
hoàn thiện và phát triển đội ngũ công chức toàn diện về mọi mặt, đó là việc làm hết
sức cần thiết và có ý nghĩa.
Vì vậy, vấn đề “Đánh giá chất lượng nguồn nhân lực tại Cục quản lý thị
trường Thành phố Hồ Chí Minh” được tác giả lựa chọn làm đề tài nghiên cứu của
luận văn thạc sĩ với mong muốn đóng góp thiết thực cho công việc hiện nay cũng
như nhằm hoàn thiện, nâng cao chất lượng nhân lực của Cục quản lý thị trường
Thành phố Hồ Chí Minh.
2
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong quá trình nghiên cứu, tìm hiểu tài liệu thực tiễn liên quan đến đề tài
đánh giá chất lượng nguồn nhân lực, cho tới nay có rất nhiều đề tài đi sâu vào lĩnh
vực này, cụ thể như:
Tác giả Lê Thị Ngân (2005), cho rằng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
tiếp cận kinh tế tri thức là nâng cao năng lực thể chất và năng lực tinh thần sáng tạo,
tìm kiếm, phát hiện thông tin và vật chất hoá thông tin thành sản phẩm và công
nghệ mới. Do đó, khả năng sáng tạo đổi mới là đặc điểm nổi bậc của chất lượng
nguồn nhân lực tiếp cận kinh tế tri thức. Qua đó tác giả cũng xác định điểm yếu của
Việt Nam trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá rút ngắn, tiếp cận kinh tế tri
thức là cơ sở hạ tầng cho kinh tế tri thức còn nhiều yếu kém, nguồn nhân lực chưa
đáp ứng yêu cầu của sự phát triển, còn thiếu về số lượng và chất lượng. Tác giả cho
rằng để tiếp cận được kinh tế tri thức phải đồng thời tiến hành việc tạo dựng cơ sở
hạ tầng ban đầu cho kinh tế tri thức và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
Tác giả Nguyễn Chí Vương (2013) đã nghiên cứu về chất lượng nguồn nhân
lực Cục quản lý thị trường Thành phố Hà Nội. Tác giả đã nghiên cứu, phân tích
thực trạng nguồn nhân lực của Cục quản lý thị trường Thành phố Hà Nội, chỉ ra
phương hướng phát triển, đưa ra các định hướng và giải pháp phát triển nguồn nhân
lực Cục quản lý thị trường Thành phố Hà Nội nhằm góp phần xây dựng một đội ngũ
nhân lực chất lượng cao đáp ứng các yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế.
Tác giả Nguyễn Ngọc Quang (2014), đã phân tích về chất lượng nguồn nhân
lực tại Cục quản lý thị trường tỉnh Thái Nguyên dựa trên các chỉ tiêu đánh giá về chất
lượng nguồn nhân lực, bao gồm: chỉ tiêu biểu hiện trình độ văn hóa, chỉ tiêu biểu hiện
trình độ chuyên môn, chỉ tiêu phản ánh tình trạng sức khỏe và năng lực phẩm chất để
đánh giá chất lượng nguồn nhân lực tại Cục quản lý thị trường tỉnh Thái Nguyên.
Tác giả Lê Văn Khoa (2015) đã đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện tổ
chức bộ máy, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực thực hiện thành công chiến lược
phát triển nhân lực ngành Công Thương đến năm 2020. Nghiên cứu đã đề đề xuất
các giải pháp nhằm phát triển nguồn nhân lực kho bạc đảm bảo số lượng, chất
lượng, cơ cấu hợp lý, có đầy đủ năng lực chuyên môn, phẩm chất chính trị, đáp ứng
tốt yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn mới.
Tác giả Trần Thị Hồng Vân (2016) về phát triển nguồn nhân lực tại Cục
quản lý thị trường tỉnh Trà Vinh. Nghiên cứu đã hệ thống hóa những vấn đề lý luận
3
và thực tiễn phát triển nguồn nhân lực tại Cục quản lý thị trường tỉnh Trà Vinh,
đồng thời đánh giá thực trạng công tác phát triển nguồn nhân lực Cục quản lý thị
trường tỉnh Trà Vinh. Bên cạnh đó, nghiên cứu còn phân tích thái độ và quan điểm
của nhân viên, những khó khăn, trở ngại của nguồn nhân lực tại Cục quản lý thị
trường tỉnh Trà Vinh đang gặp phải. Trên cơ sở đó, nghiên cứu đã đề xuất phương
hướng, giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện và phát triển nguồn nhân lực Cục quản
lý thị trường tỉnh Trà Vinh đến năm 2020.
Tác giả Nguyễn Hồng Hà (2016) đã phân tích về phát triển nguồn nhân lực,
thực hiện thành công chiến lược phát triển nhân lực ngành Công Thương. Kết quả
phân tích của tác giả cho thấy đội ngũ công chức ngành Công Thương đang ngày
càng được củng cố, tăng cường và lớn mạnh cả về số lượng và chất lượng. Với hơn
1,4 vạn công chức, viên chức trong toàn Ngành, hầu hết đội ngũ công chức đều có
phẩm chất đạo đức, có lập trường tư tưởng chính trị vững vàng, có trình độ chuyên
môn được đào tạo cơ bản, có bản lĩnh chính trị - tư tưởng vững vàng, có trình độ
chuyên môn, nghiệp vụ, tin học và ngoại ngữ, trong đó, có tới hơn 71% công chức,
viên chức có trình độ đại học và trên đại học.
Các công trình nghiên cứu trên đều đề cập đến các vấn đề về chất lượng
nguồn nhân lực của Việt Nam trong từng giai đoạn và của ngành Công Thương ở
các khía cạnh khác nhau, là cơ sở giúp cho tác giả kế thừa và bổ sung những vấn đề
trong trong đề tài nghiên cứu đánh giá chất lượng nguồn nhân lực của mình. Đây có
thể nói là nguồn cung cấp tư liệu quý báu về cơ sở lý luận, về kiến thức, về kinh
nghiệm để xây dựng khung phân tích và các nội dung đánh giá về chất lượng nguồn
nhân lực tại Cục quản lý thị trường Thành phố Hồ Chí Minh. Từ đó đưa ra các giải
pháp phát triển chất lượng nguồn nhân lực trong giai đoạn mới, đảm bảo về số
lượng, chất lượng, cơ cấu hợp lý nguồn nhân lực có đầy đủ năng lực, phẩm chất đáp
ứng tốt yêu cầu chung của toàn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Từ làm rõ những vấn đề lý luận về đánh giá chất lượng nhân lực trong tổ
chức, từ đó tập trung phân tích, đánh giá thực trạng chất lượng nhân lực và đánh giá
chất lượng nhân lực tại Cục quản lý thị trường Thành phố Hồ Chí Minh để rút ra
những khó khăn, tồn tại và đề xuất những biện pháp, giải pháp và kiến nghị nhằm
hoàn thiện công tác đánh giá thực trạng chất lượng nhân lực và đánh giá chất lượng
nhân lực tại Cục quản lý thị trường Thành phố Hồ Chí Minh.
4
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hóa, làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về đánh giá chất
lượng nhân lực trong tổ chức;
- Phân tích, đánh giá thực trạng chất lượng nhân lực và đánh giá chất lượng
nhân lực tại Cục quản lý thị trường Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2017-2019.
- Đề xuất những giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện hoạt động đánh giá
chất lượng nhân lực tại Cục quản lý thị trường Thành phố Hồ Chí Minh đến năm
2025, tầm nhìn đến năm 2030
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Hoạt động đánh giá chất lượng nhân lực tại Cục quản lý thị trường Thành
phố Hồ Chí Minh.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung nghiên cứu: Phân tích thực trạng chất lượng nhân lực tại Cục
quản lý thị trường Thành phố Hồ Chí Minh, hoạt động đánh giá chất lượng nhân lực
tại Cục quản lý thị trường Thành phố Hồ Chí Minh; các yếu tố ảnh hưởng đến đánh
giá chất lượng nhân lực tại Cục quản lý thị trường Thành phố Hồ Chí Minh..
Về không gian: Đề tài được nghiên cứu tại Cục quản lý thị trường Thành phố
Hồ Chí Minh.
Về thời gian: Số liệu nghiên cứu về thực trạng cho giai đoạn 2017-2019, kiến
nghị giải pháp cho giai đoạn đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2030.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện được mục tiêu nghiên cứu, đề tài sử dụng các phương pháp
nghiên cứu chung của khoa học kinh tế như: phương pháp phân tích tài liệu;
phương pháp tổng hợp, so sánh; phương pháp điều tra xã hội học.
- Phương pháp phân tích tài liệu: Được sử dụng để phân tích lý thuyết cùng
các công trình nghiên cứu có liên quan đến phát triển nguồn nhân lực, hệ thống hoá
để làm rõ cơ sở lý luận về nhân lực và phát triển nguồn nhân lực.
- Phương pháp tổng hợp, so sánh: Ngoài những tài liệu thu thập được từ Cục
quản lý thị trường Thành phố Hồ Chí Minh, số liệu thứ cấp được thu thập từ nhiều
nguồn như: sách, báo, mạng internet, tạp chí Quản lý ngân quỹ quốc gia, tạp chí Tài
chính, các báo cáo về chuyên ngành quản lý nguồn nhân lực được công bố chính
thức. Các tài liệu này được tổng hợp, phân tích và so sánh nhằm tìm ra những đặc
điểm cơ bản của phát triển nguồn nhân lực trong ngành Công Thương và của đơn
5
vị. Thông tin, số liệu sơ cấp được thu thập bằng cách điều tra khảo sát trực tiếp từ
công chức, nhà quản lý tại Cục quản lý thị trường Thành phố Hồ Chí Minh.
Các phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh để tổng kết, đánh giá thực trạng,
trên cơ sở đó thấy được nguyên nhân, kết quả và rút ra những bài học kinh nghiệm liên
quan đến nguồn nhân lực và chất lượng nhân lực, từ đó đưa ra các giải pháp nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực tại Cục quản lý thị trường Thành phố Hồ Chí Minh.
- Phương pháp điều tra xã hội học: Nghiên cứu tiến hành việc xây dựng bảng
hỏi và tiến hành điều tra tổng thể. Việc phân tích, đánh giá chất lượng nguồn nhân
lực tại Cục quản lý thị trường Thành phố Hồ Chí Minh được thực hiện dựa trên kết
quả 60 phiếu điều tra khảo sát ý kiến của công chức trong Cục quản lý thị trường
Thành phố Hồ Chí Minh.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Hệ thống hóa cơ sở khoa học và thực tiễn về nhân lực, chất lượng nguồn
nhân lực và đánh giá chất lượng nhân lực.Trình bày một cách hệ thống các tiêu chí
tiêu chí trong đánh giá chất lượng nhân lực, hoạt động nâng cao chất lượng nhân lực
trong tổ chức.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn đã đưa ra bức tranh khá hoàn chỉnh về nhân tại Cục quản lý thị
trường Thành phố Hồ Chí Minh. Luận văn đã đánh giá chất lượng nguồn nhân lực
Cục quản lý thị trường Thành phố Hồ Chí Minh dựa trên các tiêu chí đã được xây
dựng.Tác giả luận văn đã vận dụng các kiến thức đã học trong khóa học để nghiên
cứu vấn đề phục vụ trực tiếp cho công việc của bản thân trong công tác quản lý
nhân lực.Luận văn là tài liệu tham khảo cho sinh viên, học viên sau đại học khi
nghiên cứu về nguồn nhân lực và chất lượng nguồn nhân lực nói chung và nhân lực
ngành Công Thương nói riêng.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo luận văn bao gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về đánh giá chất lượng nhân lực trong tổ chức
Chương 2: Thực trạng đánh giá chất lượng nhân lực tại Cục quản lý thị
trường Thành phố Hồ Chí Minh
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện hoạt động đánh giá chất lượng nhân lực tại
Cục quản lý thị trường Thành phố Hồ Chí Minh
6
Chương 1
CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ NHÂN LỰC VÀ ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG
NHÂN LỰC TRONG TỔ CHỨC
1.1. Khái niệm, các tiêu chí và sự cần thiết phải đánh giá chất lượng nhân lực
1.1.1. Một số khái niệm
1.1.1.1. Nhân lực
Hiện nay, đã hình thành nên nhiều khái niệm nguồn nhân lực với nhiều các
cách hiểu hay quan điểm khác nhau từ các nhà khoa học, các nhà quản lý và các tổ
chức kinh tế quốc tế. Quan niệm đúng về nguồn nhân lực sẽ là cơ sở quan trọng để định
hướng cho việc nuôi dưỡng, khơi dậy, phát huy tốt tiềm năng con người, nhờ đó khai
thác có hiệu quả các nguồn lực khác để phục vụ cho mục tiêu phát triển của mỗi tổ chức,
mỗi quốc gia. Có thể khái quát một số quan điểm về nguồn nhân lực như sau:
Theo Hoàng Văn Hải và Vũ Thùy Dương thì “Nhân lực là một nguồn lực
quan trọng của mọi tổ chức. Trong doanh nghiệp, mỗi một người lao động đều được
giao đảm nhận những công việc nhất định và có chức danh nhất định”.
Xét trên tầm vĩ mô của nền kinh tế, theo Nguyễn Ngọc Quân và Nguyễn Vân
Điềm, Giáo trình Quản trị nhân lực (2015), Nxb Đại học Kinh tế quốc dân: “Nhân lực
là nguồn lực của mỗi con người mà nguồn lực này gồm thể lực và trí lực”.
Theo Trần Xuân Cầu và Mai Quốc Chánh, Giáo trình Kinh tế nguồn nhân
lực (2012), Đại học Kinh tế quốc dân Hà Nội: “Nhân lực là sức lực của con người, nằm
trong mỗi con người và làm cho con người hoạt động. Sức lực đó ngày càng phát triển
cùng với sự phát triển của cơ thể con người và đến một mức độ nào đó, con người có đủ
điều kiện tham gia vào quá trình lao động - con người có sức lao động”.
Theo tác giả Vũ Thị Hồng Cẩm (2013), nguồn nhân lực xã hội là toàn bộ con
người trong xã hội có thể cung cấp thể lực và trí lực cho xã hội. Với cách hiểu này,
nguồn nhân lực không có giới hạn về độ tuổi mà ở bất kỳ lứa tuổi nào, ở bất kỳ
phạm vi nào có thể sử dụng trí lực hay thể lực cho các hoạt động có ích trong xã
hội, đặc biệt là các hoạt động tạo ra các giá trị trong cuộc sống, tạo ra của cải vật
chất cho xã hội thì đều là nguồn nhân lực của xã hội. Nguồn nhân lực của tổ chức
bao gồm tất cả những người làm việc trong một tổ chức đó bằng trí lực và thể lực
của họ. Những người cùng làm việc trong một tổ chức là những người trong độ tuổi
lao động theo quy định của luật lao động. Thể lực và trí lực là khả năng tiềm ẩn
trong mỗi con người. Một tổ chức muốn hoạt động có hiệu quả thì cần phải biết
khai thác, biết sử dụng và gìn giữ, biết phát triển các tiềm năng đó.
7
Nguồn nhân lực, theo cách tiếp cận mới, có nội hàm rộng rãi bao gồm các
yếu tố cấu thành về số lượng, tri thức, khả năng nhận thức và tiếp thu kiến thức, tính
năng động xã hội, sức sáng tạo, truyền thống lịch sử và văn hoá. Các khái niệm trên
cho thấy nguồn lực con người không chỉ đơn thuần là lực lượng lao động đã có và
sẽ có, mà còn bao gồm sức mạnh của thể chất, trí tuệ, tinh thần của các cá nhân
trong một cộng đồng, một quốc gia được đem ra hoặc có khả năng đem ra sử dụng
vào quá trình phát triển xã hội.
1.1.1.2. Chất lượng nhân lực
Theo tác giả Vũ Thị Hồng Cẩm (2013), chất lượng nguồn nhân lực thể hiện
một tập hợp các đánh giá về năng lực làm việc, kỹ năng xử lý công việc và thái độ
trong công việc của nguồn nhân lực đang làm việc tại doanh nghiệp. Nhận định trên
đã bao hàm trí lực, thể lực, tâm lực của nguồn nhân lực. Để hiểu một cách cụ thể
hơn, các tiêu chí thể hiện được năng lực làm việc, kỹ năng xử lý công việc yêu cầu
phải có trình độ học vấn, kiến thức chuyên môn, kỹ năng xử lý được đào tạo, trau
dồi trước khi thực hiện công việc và trong suốt quá trình thực hiện công việc. Đó
chính là trí lực của nguồn nhân lực.Tuy nhiên, có trí lực nhưng không có đủ sức
khỏe, thể chất yếu ớt thì trí lực đó gần như nằm nguyên trong thể xác con người đó,
trí lực đó không có giá trị sử dụng.Vì thế nguồn nhân lực cần có sức khỏe kết hợp
với trí lực thì mới thành năng lực làm việc của nguồn nhân lực. Thái độ trong công
việc chính là tâm lực của người lao động. Đó là tinh thần làm việc, khả năng tập
trung trong công việc, khả năng chịu áp lực, trạng thái cảm xúc của người lao động
trong khi làm việc được biểu hiện thông qua hành vi. Thái độ trong công việc còn
thể hiện tình trạng sức khỏe cả thể chất và tinh thần của nguồn nhân lực.
Đối với chất lượng nguồn nhân lực cá nhân, theo tác giả Vũ Thị Phương Mai
(2012) thì “chất lượng nguồn nhân lực là mức độ đáp ứng về khả năng làm việc của
người lao động với yêu cầu công việc của tổ chức và đảm bảo cho tổ chức thực hiện
thắng lợi mục tiêu cũng như thỏa mãn cao nhất nhu cầu của người lao động”. Tác
giả Vũ Hồng Liên (2013) cho rằng: “Chất lượng nguồn nhân lực là toàn bộ năng lực
của lực lượng lao động được biểu hiện thông qua ba mặt: thể lực, trí lực, tâm lực.
Ba mặt này có quan hệ chặt chẽ với nhau cấu thành chất lượng nguồn nhân
lực.Trong đó thể lực là nền tảng, là phương tiện truyền tải tri thức; trí tuệ là yếu tố
quyết định chất lượng nguồn nhân lực; ý thức, tác phong làm việc là yếu tố chi phối
hoạt động chuyển hóa của thể lực, trí tuệ thành thực tiễn”.
8
Theo tác giả Đỗ Văn Phức, chất lượng nhân lực của doanh nghiệp là mức độ
đáp ứng nhu cầu nhân lực về mặt toàn bộ và về mặt đồng bộ (cơ cấu) các loại. Nhu
cầu nhân lực cho hoạt động của doanh nghiệp là toàn bộ và cơ cấu các loại khả năng
lao động cần thiết cho việc thực hiện, hoàn thành tốt nhất những nhiệm vụ của doanh
nghiệp trong thời gian trước mắt và trong tương lai xác định. Chất lượng nhân lực của
doanh nghiệp thể hiện ở sức mạnh hợp thành của các khả năng lao động.
Như vậy, khi bàn đến chất lượng nguồn nhân lực tổng thể, với tư cách là một
hệ thống, người ta không chỉ bàn đến trình độ nhân lực về thể lực, trí lực và tâm lực
của người lao động mà còn bàn đến cấu trúc (cơ cấu) của nó. Cơ cấu nguồn nhân
lực hợp lý là một nội dung để đánh giá chất lượng nguồn nhân lực cao hay thấp,
mạnh hay yếu. Một tổ chức có nguồn nhân lực nhiều về số lượng và cao về trình độ
đào tạo, nếu không được kết cấu hợp lý về chức năng và nhiệm vụ, về tuổi và giới
tính, về chuyên môn và trình độ… vẫn có thể dẫn tới tình trạng năng suất lao động
thấp. Số lượng và chất lượng nguồn nhân lực không phải là phép cộng số học số
lượng sức lao động và chất lượng lao động của từng cá nhân mỗi con người mà phải
được hiểu là sức mạnh tổng hợp của sự tương thích và hiệu quả tương tác giữa các
cá nhân trong từng bộ phận lao động trong hệ thống nguồn nhân lực của tổ chức và
giữa các bộ phận trong hệ thống đó. Nói một cách khác, chất lượng nguồn nhân lực,
hiểu theo nghĩa rộng còn bao hàm cả sự hợp lý hay không hợp lý về cơ cấu nguồn
nhân lực.
Theo tác giả Lê Thị Thu Thảo (2015), nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là
tổng hợp các hoạt động nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn kỹ thuật, thái độ,
trách nhiệm trong công việc thông qua các chính sách phát triển nguồn nhân lực.
Theo đó, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là việc thực hiện một số những hoạt
động nào đó dẫn đến sự thay đổi theo chiều hướng tăng lên về chất lượng nguồn
nhân lực so với chất lượng nguồn nhân lực hiện có. Các hoạt động có thể là do
chính bản thân người lao động thực hiện để hoàn thiện nhu cầu của bản thân và yêu
cầu của tổ chức và đó còn là những hoạt động trong công tác cán bộ của tổ chức.
Theo tác giả Nguyễn Thị Hồng Cẩm (2013), nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực chính là nâng cao năng lực làm việc, kỹ năng xử lý công việc và thái độ
trong công việc của nhân lực đang làm việc tại doanh nghiệp. Đó là: Nâng cao trí
lực (gồm nâng cao trình độ học vấn, trình độ chuyên môn, kỹ năng làm việc, kinh
9
nghiệm làm việc…). Đây là yếu tố có tính quyết định căn bản đến nâng cao năng
lực làm việc chính là nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong doanh nghiệp.
Nâng cao thể lực (bao gồm việc nâng cao sức khỏe, thể chất của người lao
động). Không có sức khỏe thì bất cứ ai cũng khó có thể hoàn thành được công
việc.Sức khỏe không chỉ biểu hiện chất lượng nguồn nhân lực mà còn ảnh hưởng rất
lớn đến chất lượng công việc.Sức khỏe này hàm chứa khỏe cả về thể chất và tinh
thần của nguồn nhân lực.
Nâng cao tâm lực đánh giá được thái độ trong công việc để biết nguồn nhân
lực có nâng cao được tâm lực hay không thực sự rất khó. Nguồn nhân lực có tích
cực làm việc hơn không?Có khả năng kiềm chế cảm xúc tốt hơn không? Hành vi có
chuẩn mực hơn không?... Điều này còn chịu tác động và ảnh hưởng của nhiều yếu
tố, ảnh hưởng trước hết chính từ trí lực của nguồn nhân lực đến môi trường sống và
làm việc của nguồn nhân lực.
Như vậy, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực một mặt giúp người lao động
có năng lực đáp ứng được nhu cầu sử dụng nguồn nhân lực chất lượng cao trong
thời kỳ phát triển của khoa học xã hội, một mặt giúp người lao động tự tin trong quá
trình làm việc, phát huy hết năng lực, sở trường của cá nhân, góp phần duy trì ổn
định và phát triển vững chắc nguồn nhân lực của đơn vị.
1.1.1.3. Đánh giá chất lượng nguồn nhân lực
Theo tác giả Vũ Thị Ngọc Mai (2015), nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
được xét ở hai góc độ. Đối với cá nhân người lao động thì, nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực là gia tăng giá trị con người, cả giá trị vật chất và tinh thần, cả trí
tuệ lẫn tâm hồn cũng như kỹ năng nghề nghiệp, làm cho con người trở thành người
lao động có những năng lực và phẩm chất mới cao hơn đáp ứng yêu cầu ngày càng
tăng của sự phát triển kinh tế xã hội. Đối với tổ chức, doanh nghiệp thì nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực chỉ việc thực hiện một số hoạt động nào đó dẫn đến sự
thay đổi về chất lượng nguồn nhân lực tăng lên so với chất lượng nguồn nhân lực
hiện có. Đó là sự tăng cường sức mạnh, kỹ năng hoạt động sáng tạo của năng lực
thể chất, năng lực tinh thần của lực lượng lao động lên trình độ nhất định để lực
lượng này có thể hoàn thành được nhiệm vụ đặt ra trong những giai đoạn phát triển
của một quốc gia, một tổ chức, doanh nghiệp.
Như vậy, để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực thì phải đánh giá được chất
lượng nguồn nhân lực. Trên cơ sở lý luận của tác giả Vũ Thị Ngọc Mai, tác giả
10
nhận thấy đánh giá chất lượng nguồn nhân lực một mặt là đánh giá mức độ đáp ứng
về khả năng làm việc của người lao động trên các phương diện: thể lực, trí lực, tâm
lực so với yêu cầu công việc cụ thể nhằm đạt được mục tiêu chung của đơn vị; mặt
khác là đánh giá các hoạt động của tổ chức trong công tác cơ cấu nguồn nhân lực
nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Hoạt động này cần được thực hiện một
cách thường xuyên nhằm đánh giá thực trạng chất lượng nguồn nhân lực hiện tại như
thế nào, xác định được các điểm mạnh, điểm yếu, những khó khăn, thuận lợi của
nguồn nhân lực và cách thức quản lý, phát triển nguồn nhân lực hiện có của tổ chức
để trên cơ sở đó đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
Khi phân tích, đánh giá thực trạng nguồn nhân lực và quản lý, phát triển
nguồn nhân lực của tổ chức có thể chú ý một số vấn đề sau: số lượng, cơ cấu, trình
độ, kỹ năng nghề nghiệp, kinh nghiệm, khả năng hoàn thành nhiệm vụ và các phẩm
chất cá nhân khác như mức độ nhiệt tình, tận tâm, sáng kiến trong công việc. Cơ cấu tổ
chức gồm loại hình tổ chức, phân công chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn giữa các bộ
phận trong tổ chức, các chính sách như tuyển dụng, đào tạo, huấn luyện, khen thưởng...
Thế mạnh của nguồn nhân lực trong tổ chức, mức độ động viên, khuyến khích của tổ
chức đối với người lao động, sự hài lòng của người lao động đối với công việc, môi
trường văn hóa tổ chức, cách thức quản lý con người trong tổ chức, sự cam kết thực
hiện đối với công việc của cơ quan, tính rõ ràng của các mục tiêu trong tổ chức. Những
vần đề khó khăn và tồn tại trong tổ chức, cách thức giải quyết các khó khăn, tồn tại và
từng bước hoàn thiện cách thức quản lý nguồn nhân lực trong tổ chức.
1.1.2. Các tiêu chí đánh giá chất lượng nhân lực
1.1.2.1. Tiêu chí về thể lực
Thể lực là trạng thái sức khỏe của con người không chỉ biểu hiện ở sự phát
triển sinh học, không có bệnh tật, có cơ thể cường tráng, có sức làm việc trong một
hình thái lao động nghề nghiệp nào đó mà thể lực còn là sự dẻo dai của hoạt động
thần kinh, khả năng vận động của trí tuệ, biến tư duy thành hành động.
Theo tổ chức y tế thế giới WHO (1946): “Sức khỏe là một trạng thái hoàn toàn
thoải mái về thể chất, tinh thần và xã hội chứ không phải chỉ là không có bệnh hay
thương tật” và được khẳng định tại Điểm 1, Bản Tuyên ngôn Alma-Ata năm 1978.
Theo tác giả Trương Thị Thanh Quý (2017), sức khỏe gồm ba thành tố: sức
khỏe thể chất, sức khỏe tinh thần, sức khỏe xã hội. Chỉ có thể hiểu khái niệm sức
khỏe, khi và chỉ khi lĩnh hội được đầy đủ các thành tố trên.
11
Sức khoẻ thể chất được thể hiện một cách tổng quát, đó là sự sảng khoái và
thoải mái về thể chất.Càng sảng khoái, thoải mái, càng chứng tỏ là người khỏe
mạnh. Cơ sở của sự sảng khoái, thoải mái thể chất thể hiện ở: Sức lực (khả năng
hoạt động cơ bắp mạnh); sự nhanh nhẹn (khả năng phản ứng nhanh); sự dẻo dai
(làm việc hoặc hoạt động chân tay tương đối lâu và liên tục mà không cảm thấy mệt
mỏi); khả năng chống đỡ được các yếu tố gây bệnh; khả năng chịu đựng được
những điều kiện khắc nghiệt của môi trường như chịu nóng, lạnh, hay sự thay đổi
đột ngột của thời tiết.
Sức khoẻ tinh thần là sự thỏa mãn về mặt giao tiếp xã hội, tình cảm và tinh
thần. Nó được thể hiện ở sự sảng khoái, ở cảm giác dễ chịu, cảm xúc vui tươi, thanh
thản; ở những ý nghĩ lạc quan, yêu đời; ở những quan niệm sống tích cực, dũng
cảm, chủ động; ở khả năng chống lại những quan niệm bi quan và lối sống không
lành mạnh. Có thể nói, sức khoẻ tinh thần là nguồn lực để sống khoẻ mạnh, là nền
tảng cho chất lượng cuộc sống, giúp cá nhân có thể ứng phó một cách tự tin và hiệu
quả với mọi thử thách, nguy cơ trong cuộc sống. Sức khoẻ tinh thần chính là sự biểu
hiện nếp sống lành mạnh, văn minh và có đạo đức.Cơ sở của sức khoẻ tinh thần là
sự thăng bằng và hài hòa trong hoạt động tinh thần giữa lý trí và tình cảm.
Sức khoẻ xã hội: Sự hòa nhập của cá nhân với cộng đồng được gọi là sức
khoẻ xã hội. Sức khoẻ xã hội thể hiện ở sự thoải mái trong các mối quan hệ chằng
chịt, phức tạp giữa thành viên: gia đình, nhà trường, bạn bè, xóm làng, nơi công
cộng, cơ quan...
Cơ sở của sức khoẻ xã hội là sự thăng bằng, là việc giải quyết hài hòa giữa
hoạt động và quyền lợi cá nhân với hoạt động và quyền lợi của xã hội, của những
người khác; là sự hòa nhập giữa cá nhân, gia đình và xã hội.
Như vậy, chăm sóc sức khỏe tinh thần cho người lao động là một việc làm
hết sức quan trọng nhằm động viên tinh thần, gia tăng động lực làm việc, tránh tình
trạng để người lao động rơi vào trạng thái căng thẳng, khủng hoảng, thiếu niềm tin
vào tổ chức. Điều này tùy thuộc vào các hoạt động thường xuyên của đơn vị trong
việc mang lại những giá trị tinh thần cho người lao động.
1.1.2.2. Tiêu chí về trí lực
Trí lực là năng lực của trí tuệ, quyết định phần lớn khả năng lao động sáng tạo
của con người. Trí tuệ được xem là yếu tố quan trọng hàng đầu của nguồn lực con
người bởi tất cả những gì thúc đẩy con người hành động đều phải thông qua đầu óc
12
của họ. Trí lực được xác định bởi hàm lượng tri thức chung về những dữ kiện, thông
tin được sắp xếp logic, khoa học hay những kiến thức về kỹ thuật, trình độ chuyên
môn, kinh nghiệm làm việc và khả năng tư duy phán đoán, được con người tiếp thu,
lưu lại trong bộ nhớ thông qua giáo dục và sự trải nghiệm thực tế của con người. Việc
nắm vững được những tri thức cơ bản, giúp người lao động gặp được nhiều thuận lợi
trong công việc, có khả năng cao trong phân tích, giải quyết các vấn đề. Khai thác và
phát huy tiềm năng trí tuệ trở thành yêu cầu quan trọng nhất của việc phát huy nguồn lực
con người. Gồm trình độ tổng hợp từ văn hoá, chuyên môn, kỹ thuật, kỹ năng lao động.
Như vậy, trí lực là sự kết tinh, chọn lọc, sự tiếp nhận có lựa chọn của tri thức
và biến tri thức thành cái riêng của mình ở mỗi người lao động. Trí lực của người
lao động thường được đánh giá theo các nội dung:
Trình độ văn hóa: Theo tác giả Nguyễn Thị Hồng Cẩm (2013), trình độ văn
hóa của nguồn nhân lực là chỉ tiêu được hiểu bằng trạng thái hiểu biết của nguồn
nhân lực của tổ chức đối với kiến thức phổ thông về xã hội và tự nhiên (như số
lượng nhân lực biết chữ, tỷ lệ nhân lực qua các lớp học…). Trình độ văn hóa tạo ra
khả năng tiếp thu và vận dụng một cách nhanh chóng những tiến bộ khoa học công
nghệ vào các hoạt động trong tổ chức.Như vậy, đây là một chỉ tiêu vô cùng quan
trọng, phản ánh chất lượng nguồn lao động cũng như trình độ phát triển kinh tế - xã
hội. Trình độ văn hóa của công chức được thể hiện qua quan hệ tỷ lệ về số lượng và tỷ lệ
người lao động học qua các bậc học: tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ
thông.Trình độ học vấn cao tạo khả năng tiếp thu và vận dụng một cách nhanh chóng
những tiến bộ khoa học kỹ thuật vào thực tiễn, ngoài ra còn xây dựng một văn hóa tổ
chức vững mạnh, từ đó tạo ra môi trường làm việc tốt cho nguồn nhân lực.
Trình độ chuyên môn nghiệp vụ: Theo tác giả Nguyễn Thị Hồng Cẩm
(2013), trình độ chuyên môn kỹ thuật của nguồn nhân lực là trạng thái hiểu biết, khả
năng thực hành về một chuyên môn, nghề nghiệp nào đó trong tổ chức, được thể
hiện bằng cơ cấu lao động được đào tạo và chưa đào tạo; cơ cấu cấp bậc đào tạo (sơ
cấp, trung cấp, cao cấp); cơ cấu lao động kỹ thuật và các nhà chuyên môn; cơ cấu
trình độ đào tạo. Đây là chỉ tiêu quan trọng nhất, phản ánh chất lượng nguồn nhân
lực của tổ chức, khả năng áp dụng tiến bộ khoa học hiện đại vào các hoạt động của
tổ chức.Theo đó, trình độ chuyên môn nghiệp vụ là điều kiện tiên quyết trong việc
thực hiện các nhiệm vụ và tạo ra sản phẩm công việc. Nó thể hiện sự hiểu biết của
người lao động về những kiến thức cần thiết để phục vụ chuyên môn, khả năng thực
13
hành một nghiệp vụ sở trường nào đó, sáng tạo ra những sản phẩm trong quá trình
làm việc, góp phần làm nên sự thành công của đơn vị.
Với mỗi trình độ đào tạo nhất định, người lao động có thể biết được họ sẽ
phải đảm nhận những công việc gì, yêu cầu kỹ năng nghề nghiệp như thế nào.
Ngoài trình độ chuyên môn tốt là cách thức để tăng tích lũy vốn tri thức cho con
người, còn giúp người lao động sáng tạo và tiếp thu tốt công nghệ mới, tạo ra một
lực lượng lao động có trình độ, có kỹ năng làm việc với năng suất cao và là cơ sở
thúc đẩy tăng trưởng nhanh và bền vững.
1.1.2.3. Tiêu chí về tâm lực
Theo tác giả Nguyễn Thị Hồng Cẩm (2013), tâm lực của nguồn nhân lực bao
gồm thái độ làm việc, tâm lý làm việc và khả năng chịu đựng áp lực công việc hay
còn gọi chung là năng lực ý chí của nguồn nhân lực.
Thái độ làm việc chính là ý thức của nguồn nhân lực trong quá trình làm
việc. Điều này hoàn toàn phụ thuộc vào khí chất và tính cách mỗi cá nhân.Khi đứng
trong một tổ chức, họ buộc phải tuân thủ các quy tắc, nội quy làm việc nhất định.
Tuy nhiên, không phải bất cứ một người lao động nào cũng đều có ý thức, trách
nhiệm và sự tự giác tuân thủ các quy tắc và nội quy làm việc triệt để… Tâm lý làm
việc là vấn đề nội tâm chủ quan của cá nhân mỗi người trong doanh nghiệp.Tâm lý
làm việc có thể chịu ảnh hưởng của các yếu tố khách quan và chủ quan. Ảnh hưởng
của các yếu tố khách quan dẫn đến nội tâm chủ quan có thể là: chế độ thù lao của
doanh nghiệp, đánh giá việc thực hiện công việc, bầu không khí làm việc tại nơi làm
việc, thời gian làm việc, bản thân công việc, khả năng mắc bệnh nghề nghiệp… Các
yếu tố chủ quan chủ yếu phụ thuộc vào khí chất, tính cách của mỗi người…
Khả năng chịu áp lực công việc là tiềm ẩn chứa trong mỗi cá nhân con
người. Đó là sự bền bỉ của con người trong công việc cả về trí lực và thể lực. Trí lực
là cơ sở để nguồn nhân lực có khả năng chịu áp lực, nhưng thể lực là điều kiện cần
thiết không thể thiếu để con người giải quyết công việc hàng ngày và kéo dài thời
gian làm việc nếu có yêu cầu…
Như vậy, khi nói đến đạo đức nghề nghiệp là phải nói tới lương tâm nghề
nghiệp và nghĩa vụ đạo đức nghề nghiệp. Lương tâm nghề nghiệp là sự tự phán xử
về các hoạt động, các hành vi nghề nghiệp của mình trước lợi ích của người khác.
Các hành vi đó có thể là thái độ và cách ứng xử của người làm nghề. Lương tâm
nghề nghiệp không phải là cảm xúc nhất thời, hời hợt mà là kết quả của một quá
14
trình nhận thức sâu sắc thông qua hoạt động nghề nghiệp của một người hoặc nhóm
người đối với nhu cầu, đòi hỏi của xã hội và sự tồn tại, phát triển của nghề nghiệp.
Muốn giữ được đạo đức nghề nghiệp, trước hết phải giữ được lương tâm nghề
nghiệp, bởi vì, làm điều ác lần thứ nhất thì lương tâm còn dằn vặt, cắn dứt nhưng
điều ác được lặp lại thì lương tâm biến mất. Lúc đó cũng là thời điểm báo trước sự
đổ vỡ của lòng tự tin, lòng tự trọng nghề nghiệp.
Nghĩa vụ đạo đức nghề nghiệp là trách nhiệm của người làm nghề trước xã
hội.Vì thế, có thể nói rằng, ý thức về nghĩa vụ đạo đức nghề nghiệp là nền tảng, là
cơ sở để hình thành lương tâm nghề nghiệp của mỗi người.Nghĩa vụ đạo đức không
chỉ là sự đòi hỏi, yêu cầu của xã hội đối với cá nhân mà còn là nhu cầu tiến bộ và
hoàn thiện của chính bản thân mỗi người.Vì thế, nghĩa vụ đạo đức không phải là sự
ép buộc từ bên ngoài mà nó là sự gắn bó chặt chẽ với ý thức về lẽ sống, hạnh phúc
và triết lý sống của mỗi con người.Trong lĩnh vực hoạt động nghề nghiệp cũng vậy,
nghĩa vụ đạo đức nghề nghiệp đòi hỏi mỗi cá nhân phải giải quyết một cách hài hoà
giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội.
1.1.3. Sự cần thiết phải đánh giá chất lượng nhân lực
Một là, đánh giá để phát triển chất lượng nguồn nhân lực, đó là một nội dung
nằm trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội chung của đất nước. Văn kiện đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã chỉ rõ phương hướng, nhiệm vụ và
giải pháp phát triển kinh tế xã hội 5 năm giai đoạn 2016 - 2020, theo đó nhiệm vụ
của việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực có nêu rõ: “Thực hiện đồng bộ các cơ
chế, chính sách, giải pháp phát triển nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng
cao. Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục, đào tạo theo hướng mở, hội nhập, xây
dựng xã hội học tập, phát triển toàn diện năng lực, thể chất, nhân cách, đạo đức, lối
sống, ý thức tôn trọng pháp luật và trách nhiệm công dân”.
Nguồn nhân lực chất lượng cao là một trong những nguồn lực đóng vai trò
vô cùng quan trọng, là nhân tố quyết định đến trình độ phát triển của một quốc gia.
Đặc biệt trong thời đại ngày nay, cuộc cách mạng khoa học - công nghệ đang phát
triển rất mạnh đã tác động sâu sắc đến sự vận động và phát triển của lực lượng sản
xuất cả về tốc độ, quy mô, tính chất và hình thức thể hiện. Khoa học kỹ thuật trở
thành "lực lượng sản xuất trực tiếp" buộc yếu tố con người, yếu tố cơ bản quyết
định năng suất lao động của hệ thống sản xuất phải không ngừng được đào tạo để
trở thành đội ngũ lao động có hàm lượng tri thức và trình độ chuyên môn nghiệp vụ
15
cao, được tổ chức và sắp xếp bố trí nhân lực một cách khoa học hợp lý, được quan
tâm đúng mức và tạo điều kiện phát huy năng lực sáng tạo của người lao động. Mặt
khác, trước tình hình hội nhập quốc tế ngày một sâu rộng, mở ra nhiều cơ hội thuận
lợi cho phát triển nhưng cũng đặt ra không ít khó khăn, thách thức; nhiệm vụ đảm
bảo an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ chủ quyền quốc gia, toàn vẹn
lãnh thổ còn rất nặng nề thì công tác xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn
diện trở thành mục tiêu chiến lược phát triển của Đảng và nước ta hiện nay. Một
trong những nhiệm vụ trọng tâm trong nhiệm kỳ Đại hội XII là “phát huy nhân tố
con người trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, tập trung xây dựng con người về
đạo đức, nhân cách, lối sống, trí tuệ và năng lực làm việc” nhằm tạo cơ sở để thực
hiện hiệu quả các bước đột phá chiến lược nâng cao năng suất lao động và sức cạnh
tranh của nền kinh tế.
Hai là, đánh giá để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực quản lý thị trường,
nhằm đáp ứng yêu cầu cầu cải cách hành chính bộ máy Nhà nước.
Trên cơ sở Chương trình tổng thể cải cách hành chính Nhà nước và kế hoạch
cải cách hành chính của ngành Công thương. Theo đó, mục tiêu tổng quát của công
tác cải cách hành chính quản lý thị trường là hoàn thiện hệ thống cơ chế chính sách
và quy trình nghiệp vụ, đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất, hiệu lực, hiệu quả nhằm
hoàn thành các mục tiêu đề ra. Tiếp tục đẩy mạnh công tác cải cách hành chính
trong lĩnh vực quản lý thị trường. Kiện toàn tổ chức bộ máy theo hướng tinh gọn,
hoạt động có hiệu lực, hiệu quả phù hợp với định hướng, lộ trình cải cách hành
chính và hiện đại hóa hoạt động lĩnh vực quản lý thị trường. Xây dựng đội ngũ cán
bộ công chức viên chức đáp ứng tốt yêu cầu, nhiệm vụ mới của lĩnh vực quản lý thị
trường. Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực đảm bảo số lượng, chất lượng, cơ cấu
hợp lý có đầy đủ năng lực, phẩm chất đáp ứng tốt yêu cầu phát triển lĩnh vực quản
lý thị trường hiện đại. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, nâng cao chất
lượng hành chính, cung cấp đầy đủ các dịch vụ công trực tuyến của lĩnh vực quản lý
thị trường để hình thành hệ thống công trực tuyến, triển khai đầy đủ các ứng dụng
công nghệ thông tin phục vụ đầy đủ các các chức năng của lĩnh vực quản lý thị
trường. Trước yêu cầu đó, chất lượng của đội ngũ cán bộ công chức lĩnh vực quản
lý thị trường phải được nâng cao nhằm thực hiện thành công mục tiêu cải cách hành
chính trong hoạt động của hệ thống lĩnh vực quản lý thị trường.
16
Ba là, đánh giá để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong lĩnh vực quản
lý thị trường, nhằm đáp ứng yêu cầu hiện đại hóa.
Chức năng, nhiệm vụ và tổ chức bộ máy của lĩnh vực quản lý thị trường
ngày càng được hoàn thiện, phát triển. Tăng tỷ trọng cán bộ ngạch cao, ngạch làm
chuyên môn nghiệp vụ, giảm dần tỷ trọng cán bộ kiểm ngân, cán bộ có trình độ sơ
cấp hoặc chưa qua đào tạo. Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực đảm bảo số lượng,
chất lượng, cơ cấu hợp lý có đầy đủ năng lực, phẩm chất đáp ứng tốt yêu cầu phát
triển lĩnh vực quản lý thị trường hiện đại; trong đó, ưu tiên đào tạo chuyên sâu về
nghiệp vụ kế toán và quản lý ngân quỹ nhà nước để thực hiện các nghiệp vụ mới
theo Chiến lược phát triển ngành Công thương; tổ chức đào tạo chuyên môn nghiệp
vụ cho đội ngũ công chức làm công tác kiểm ngân, thủ kho, thủ quỹ, đảm bảo điều
kiện, tiêu chuẩn khi chuyển đổi vị trí việc làm. Thực hiện quản lý, sử dụng biên chế
theo vị trí việc làm gắn với cơ cấu ngạch công chức và việc đánh giá, phân loại
công chức, người lao động tinh giản biên chế. Đảm bảo chất lượng nguồn nhân lực
phải đáp ứng ngày một tốt hơn các yêu cầu, nhiệm vụ mới của lĩnh vực quản lý thị
trường, phù hợp với định hướng, lộ trình cải cách hành chính và hiện đại hóa hoạt
động lĩnh vực quản lý thị trường.
1.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng nhân lực
1.2.1. Các yếu tố bên trong tổ chức
Môi trường bên trong của tổ chức ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả hoạt động
của tổ chức đó. Nó bao gồm chính sách thu hút nguồn nhân lực, chế độ bố trí, sử
dụng nguồn nhân lực, chế độ đào tạo và đào tạo lại, chế độ đãi ngộ, môi trường làm
việc và công nghệ.
- Chính sách thu hút nguồn nhân lực: Chính sách thu hút nguồn nhân lực thể
hiện quan điểm về mục đích, yêu cầu, đối tượng và cách thức tuyển chọn lao động
nhằm đảm bảo có đủ số lượng và chất lượng nguồn nhân lực với cơ cấu phù hợp để
thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ trong giai đoạn hiện tại hay tương lai. Cần có kế
hoạch ngắn hạn, trung hạn và dài hạn để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực gắn
liền với chiến lược phát triển của tổ chức.Các hoạt động đào tạo cần phản ánh tầm
nhìn, chiến lược của tổ chức.
- Chế độ bố trí, sử dụng nguồn nhân lực: Là một trong những yếu tố quan
trọng tác động đến chất lượng nguồn nhân lực. Phân công đúng người, đúng việc,
đánh giá đúng tính chất và mức độ tham gia, đóng góp của từng người lao động để
17
khích lệ, đãi ngộ họ kịp thời sẽ mang lại mức độ sinh lợi cao của hoạt động chung
và tạo ra sự động viên to lớn đối với người lao động.
- Chế độ đào tạo và đào tạo lại: Là vấn đề cốt lõi có tác động trực tiếp và
mạnh mẽ đến chất lượng nguồn nhân lực dưới góc độ nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực một cách toàn điện. Đào tạo lại phải được tổ chức khoa học, đào tạo nâng
cao cho người lao động là nhu cầu, đòi hỏi thường xuyên. Khi chính sách đào tạo
nâng cao trình độ hướng theo tất cả các loại người lao động, mỗi loại có số lượng
hợp lý, suất chi toàn bộ đủ lớn cho bất kỳ hình thức đào tạo nào trong hoặc ngoài
nước…là chính sách có mức độ hấp dẫn cao. Khi đó người lao động sẽ thực sự
hứng khởi, có động cơ học tập đúng đắn và đủ mạnh, tìm cách học khoa học nhất để
thực sự nâng cao trình độ. Như vậy, chất lượng nhân lực được nâng cao sau hàng
tháng, hàng quý, hàng năm.
- Chế độ đãi ngộ: Các chế độ đãi ngộ về vật chất và tinh thần đối với người
lao động là một trong những yếu tố cốt lõi để duy trì và nâng cao nguồn nhân lực;
nó nhằm giải quyết mối liên hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức. Hơn nữa, nhu
cầu đời sống vật chất và tinh thần của con người luôn diễn ra theo chiều hướng
ngày càng được nâng cao là một thực tiễn khách quan; chính vì vậy, việc luôn luôn
hoàn thiện chế độ khuyến khích vật chất tinh thần đối với người lao động là vấn đề
nóng bỏng và cấp thiết. Do đó, người lãnh đạo, quản lý cần phải biết xây dựng và
thực hiện đồng bộ các chính sách hướng đến động viên, khích lệ cán bộ nhân viên
làm việc hiệu quả, duy trì phát triển các mối quan hệ lao động tốt đẹp.
- Môi trường làm việc: Là yếu tố quan trọng để đơn vị, tổ chức có điều kiện
thuận lợi hơn trong việc thu hút nguồn nhân lực cho mình, đặc biệt là nguồn nhân
lực có chất lượng cao. Hơn nữa, một môi trường làm việc chuyên nghiệp và thân
thiện là cơ hội rất tốt để nhân viên khẳng định và phát triển tối đa năng lực làm việc,
học tập nâng cao trình độ của mình phục vụ thiết thực cho các yêu cầu của doanh
nghiệp.Chính vì vậy, nó là nhu cầu không thể thiếu trong việc phát triển nguồn nhân
lực hiện tại và nhiều lúc còn có ý nghĩa động viên mạnh hơn cả các chế độ đãi ngộ
về vật chất.
- Trình độ công nghệ: Trình độ công nghệ hiện tại và trong tương lai là yếu
tố ảnh hưởng trực tiếp đến phát triển nguồn nhân lực. Nó đặt ra những yêu cầu cần
phải được đảm bảo về số lượng và chất lượng của nguồn nhân lực. Nghĩa là, công
nghệ như thế nào thì người lao động phải có trình độ chuyên môn, kỹ năng và tác
18
phong lao động tương ứng với nó. Như vậy, phát triển nguồn nhân lực phải phù hợp
với công nghệ sản xuất đang được áp dụng và những dự kiến thay đổi công nghệ
trong tương lai.
1.2.2. Các yếu tố bên ngoài tổ chức
Môi trường bên ngoài tạo ra các cơ hội và nguy cơ đối với tổ chức. Đối với
nguồn nhân lực bên ngoài các yếu tố chủ yếu là môi trường kinh tế, pháp luật về lao
động và thị trường lao động, khoa học công nghệ và các yếu tố văn hoá, xã hội của
quốc gia.
- Môi trường kinh tế bao gồm các yếu tố như tốc độ tăng trưởng kinh tế, lạm
phát, dân số... có ảnh hưởng trực tiếp đến nhu cầu nhân lực cả về chất lượng và số
lượng, tác động đến thu nhập, đời sống của người lao động. Điều này sẽ tạo cơ hội
hoặc áp lực cho công tác nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
- Pháp luật về lao động và thị trường lao động tác động đến cơ chế và chính
sách trả lương của tổ chức dẫn đến sự thay đổi về mức độ thu hút nguồn nhân lực
của tổ chức. Chính vì vậy, nguồn nhân lực phải được thực hiện phù hợp với pháp
luật về lao động và thị trường lao động.
- Khoa học công nghệ phát triển làm xuất hiện những ngành nghề mới, đòi
hỏi người lao động phải được trang bị những kiến thức và kỹ năng mới. Do đó,
nguồn nhân lực chất lượng cao càng trở nên bức bách hơn.
- Các yếu tố văn hoá, xã hội của quốc gia có tác động lớn đến tâm lý, hành
vi, phong cách, lối sống và sự thay đổi trong cách nhìn nhận về các giá trị của người
lao động. Như vậy, nó ảnh hưởng đến cách tư duy và các chính sách phát triển
nguồn nhân lực nhằm phát huy cao độ những yếu tố tích cực, đồng thời khắc phục
những mặt tiêu cực trong tác phong lao động của nguồn nhân lực.
- Khả năng cung ứng của các cơ sở đào tạo là một trong những nguồn cung
cấp lao động rất quan trọng, khả năng này cao hay thấp trực tiếp ảnh hưởng đến
mức độ dư thừa hay khan hiếm nguồn nhân lực trong các thời kỳ khác nhau. Ngoài
ra, chất lượng của các cơ sở đào tạo cũng phải được xem xét kỹ lưỡng vì nó sẽ
quyết định chất lượng nguồn nhân lực trong tương lai.
1.3. Nội dung đánh giá chất lượng nhân lực
1.3.1. Về số lượng nhân lực
Tuyển dụng là quá tình tìm kiếm và lựa chọn nguồn nhân lực có chất lượng,
phù hợp với nhu cầu sử dụng của tổ chức.Tuyển dụng gồm hai khâu tuyển mộ và
19
tuyển chọn. Tuyển mộ giúp thu hút và tìm kiếm các ứng viên tốt, có năng lực, trình
độ chuyên môn, phẩm chất đạo đức tốt cho tổ chức. Hai khâu này có mối quan hệ
chặt chẽ với nhau để hướng đến mục tiêu chung lựa chọn được ứng viên có chất
lượng, đồng thời tăng uy tín cho tổ chức. Công tác tuyển dụng có ảnh hưởng lớn
đến chất lượng nguồn nhân lực trong tổ chức.Nếu công tác tuyển dụng được thực
hiện tốt thì sẽ lựa chọn được người thực sự có năng lực, phù hợp với tổ chức, nâng
cao chất lượng nguồn nhân lực trong tổ chức.Ngược lại, nếu công tác tuyển dụng
không được quan tâm thì sẽ không lựa chọn được nguồn nhân lực chất lượng có
đức, có tài làm việc trong tổ chức.
Công tác tuyển dụng còn ảnh hưởng đến các công tác khác như: đánh giá
thực hiện công việc, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực, công tác thù lao đãi ngộ
cho người lao động. Đây là các chính sách nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực cho tổ chức.
1.3.2. Về chất lượng nhân lực
1.3.2.1. Đánh giá về thể chất và tinh thần của người lao động
Đánh giá về sức khỏe của người lao động tức là đánh giá xem người lao
động có đủ thể lực và tinh thần để đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ được giao hay
không. Các yếu tố tác động lên sức khỏe của người lao động mà chúng ta cần đánh
giá đó là chế độ tập luyện, dinh dưỡng và các hoạt động tinh thần.
Tập luyện về cơ bắp nhằm chăm sóc chức năng vận động của cơ, các khớp
và tăng sức chịu đựng của hệ tuần hoàn. Tập luyện về khí huyết, tinh thần nhằm
chăm sóc chức năng vận động lưu thông khí huyết, thư giãn và tập trung tinh thần,
rèn luyện trí nhớ. Vấn đề tập luyện này phụ thuộc vào ý thức của từng cá nhân trong
việc chăm sóc và bảo vệ sức khỏe của bản thân. Đó có thể là việc tham gia các môn
thể thao ngoài giờ hành chính của người lao động, có thể thường xuyên tham gia
các phong trào thể dục thể thao do cơ quan tổ chức…
Một chế độ dinh dưỡng khoa học bắt nguồn từ nhận thức coi trọng sức khỏe
của người lao động. Mặt khác, do tác động từ các nguồn thu nhập mà người lao
động mới có đủ hay không đủ điều kiện để lựa chọn cho bản thân và gia đình những
thực phẩm sạch, có lợi cho sức khỏe. Vì vậy, sự quan tâm, bảo vệ quyền lợi từ phía
cơ quan, các đoàn thể đến đời sống vật chất của người lao động là hết sức cần thiết.
Là sự tác động trực tiếp để tạo động lực cho người lao động hoàn thành công việc
được giao.
20
Có một cách để nhận xét sức khỏe tinh thần là xem xem một người thể hiện
chức năng của mình thành công tới mức nào. Cảm thấy có đủ khả năng tự tin, có thể
đối mặt với những tình trạng căng thẳng ở mức bình thường, luôn giữ được các mối
quan hệ một cách thoải mái, có một cuộc sống độc lập và dễ hồi phục sau những
tình huống khó khăn... đều được coi là các dấu hiệu của một sức khỏe tinh thần. Đó
một phần là dựa vào tố chất của cá nhân, một phần do đào tạo, giáo dục mà có.
Sức khỏe của một con người chịu tác động bởi nhiều yếu tố: tự nhiên, kinh
tế, xã hội, được phản ánh bởi một hệ thống các chỉ tiêu về sức khỏe, chỉ tiêu về
bệnh tật, cơ sở vật chất, các điều kiện để bảo vệ và chăm sóc sức khỏe. Sức khỏe
người lao động là điều kiện của sự phát triển nên yêu cầu được bảo vệ và nâng cao
sức khỏe con người về cả thể chất và cả tinh thần là đòi hỏi hết sức chính đáng mà
xã hội cần phải bảo đảm. Đây là tiền đề quan trọng để phát triển trí lực.
Đối với ngành công thương nói chung và lĩnh vực quản lý thị trường nói
riêng, việc quản lý nguồn ngân sách của nhà nước ở từng địa phương có rất nhiều
rủi ro và áp lực thì việc đánh giá để nâng cao, cải thiện thể lực của người lao động
là việc cần thiết. Thể lực của người lao động tốt hơn chính là điều kiện để người lao
động có thể giải quyết vấn đề với một tinh thần minh mẫn, theo chiều hướng tích
cực và đạt hiệu quả cao.
1.3.2.2. Đánh giá về trình độ chuyên môn của người lao động
Trình độ chuyên môn là kiến thức và kỹ năng cần thiết để đảm nhận được
nhiệm vụ trong việc lãnh đạo quản lý, sản xuất kinh doanh và các hoạt động nghề
nghiệp khác. Kiến thức của người lao động được tích lũy qua hệ thống giáo dục
chính quy hoặc không chính quy từ cơ bản, nâng cao cho tới những người có trình
độ đại học và trên đại học. Người lao động ứng dụng những kiến thức đó vào công
việc được giao, phát huy được năng lực, sở trường của mình mang lại hiệu quả cao
trong công việc.
Đánh giá được trình độ chuyên môn của người lao động góp phần xây dựng
được một nguồn lực có chất lượng. Đặc biệt đối với ngành Công thương, để có
được một lực lượng lao động chất lượng cao, đảm nhận được nghiệp vụ đặc thù của
ngành thì trình độ chuyên môn luôn là tiêu chí đầu tiên quan trọng nhất để phát triển
nguồn nhân lực, góp phần hoàn thành nhiệm vụ chung của đơn vị.
Nếu người lao động có trình độ chuyên môn cao, có một khối lượng kiến
thức và cơ sở lý luận chắc chắn thì khả năng nắm bắt và xử lý công việc sẽ rất khoa
21
học, nhanh nhạy, sắc bén. Chất lượng công việc đạt hiệu quả rất cao. Ngược lại, nếu
người lao động không được đào tạo bài bản thì mức độ hoàn thành nhiệm vụ được giao
chủ yếu dựa vào kinh nghiệm thực tiễn, ít có tính sáng tạo, thường theo lối mòn.
Vì vậy, cần phải đánh giá được trình độ chuyên môn của người lao động để
có những kế hoạch trong từng giai đoạn, tận dụng mọi phương pháp để tuyển chọn
được những người lao động giỏi, có đủ năng lực, phẩm chất để đáp ứng những yêu
cầu ngày càng cao về nghiệp vụ của lĩnh vực quản lý thị trường. Bên cạnh sự phát
triển ngày càng mạnh của nền kinh tế, đòi hỏi các công chức ngành Công thương
ngoài kiến thức trình độ chuyên môn còn phải yêu cầu trình độ ngoại ngữ, trình độ
tin học và các kỹ năng cần thiết để làm việc đạt hiệu quả.
1.3.2.3. Đánh giá kỹ năng nghề nghiệp và tính chuyên nghiệp trong công việc của
người lao động
Kỹ năng nghề nghiệp: Kỹ năng là khả năng vận dụng những kiến thức thu
nhận được trong một lĩnh vực nào đó vào thực tế. Kỹ năng nghề nghiệp gắn với một
hoạt động cụ thể ở một lĩnh vực cụ thể như kỹ năng ra quyết định, kỹ năng phối
hợp, kỹ năng viết báo cáo, kỹ năng soạn thảo văn bản... Đây là sản phẩm của quá
trình tư duy kết hợp với việc tích lũy kinh nghiệm thông qua đào tạo, bồi dưỡng, rèn
luyện, công tác.
Kỹ năng nghề nghiệp là tiêu chí quan trọng để đánh giá chất lượng nhân
lực.Tuy nhiên, có những kỹ năng cần thiết cho mọi công chức và có những kỹ năng
không thể thiếu đối với một nhóm công chức nhất định phụ thuộc vào tính chất
công việc mà họ đảm nhận. Căn cứ vào kết quả mà các kỹ năng hướng đến thì kỹ
năng nghề nghiệp có thể chia thành các nhóm sau:
- Nhóm kỹ năng liên quan đến đề xuất, ban hành, thực hiện và kiểm tra các
chính sách, các quyết định quản lý như kỹ năng thu thập, tổng hợp, phân tích và
đánh giá thông tin; kỹ năng triển khai quyết định quản lý; kỹ năng phối hợp; kỹ
năng đánh giá dư luận.
- Nhóm kỹ năng quan hệ, giao tiếp như kỹ năng làm việc nhóm, kỹ năng lắng
nghe, kỹ năng thuyết phục.
- Nhóm kỹ năng tác nghiệp cá nhân như kỹ năng viết báo cáo, kỹ năng bố trí
lịch công tác, kỹ năng lắng nghe, kỹ năng thuyết trình.
Tất cả các kỹ năng nêu trên đều chịu ảnh hưởng quan trọng của trình độ
chuyên môn, khả năng cá nhân và kinh nghiệm công tác của người lao động.
22
Tính chuyên nghiệp trong công việc: Tính chuyên nghiệp của người lao động
thể hiện ở kết quả thực hiện công việc được giao, khả năng thích ứng và khắc phục
khó khăn khi thực thi công việc với tính kỷ luật cao, vô tư không vụ lợi trong việc
chấp hành và thừa hành pháp luật được đặt trong mối quan hệ và sự hợp tác với
đồng nghiệp, tổ chức. Tính chuyên nghiệp của một người làm một nghề nhất định
luôn gắn với đặc thù của nghề đó. Việc đánh giá tính chuyên nghiệp của người lao
động có thể căn cứ vào các tiêu chí sau:
- Đầu ra của công việc: là toàn bộ sản phẩm có thể đánh giá được về chất
lượng, số lượng mà người lao động đã thực hiện. Đây là tiêu chí quan trọng nhất vì
nó liên quan trực tiếp tới việc hoàn thành chức năng, nhiệm vụ của tổ chức. Đầu ra
của công việc được đánh giá theo 5 hướng: số lượng công việc hoàn thành; chất
lượng của các công việc đã hoàn thành; tính hiệu quả của chi phí; tính kịp thời của
từng công việc đã hoàn thành; chấp hành quy định và chỉ thị hành chính.
- Nếp sống văn hoá công sở và hành vi ứng xử trong công việc.Để đánh giá
tính chuyên nghiệp cần phân tích sản phẩm đầu ra mà người lao động đã thực hiện,
đối chiếu với kết quả của người lao động khác cùng thực hiện hoạt động đó trong
bối cảnh tương tự để xác định hiệu quả làm việc của họ.
1.3.2.4. Đánh giá đạo đức nghề nghiệp của người lao động
Phẩm chất đạo đức là một đặc điểm quan trọng trong yếu tố xã hội của
nguồn nhân lực, bao gồm nhân cách con người, tình cảm, phong tục tập quán, thói
quen, phong cách, quan niệm, các hình thái tư tưởng, truyền thống, nghệ thuật, đạo
đức…và gắn liền với truyền thống văn hóa. Để phát triển toàn diện các phẩm chất
đạo đức, cần chú trọng đạo đức nghề nghiệp.Đạo đức nghề nghiệp là một nhánh trong
hệ thống đạo đức xã hội, trong đó lương tâm nghề nghiệp là sự tự phán xét, tự ý thức
về trách nhiệm đạo đức nghề nghiệp.Nghĩa vụ đạo đức nghề nghiệp và lương tâm
nghề nghiệp có quan hệ mật thiết với nhau. Đánh mất ý thức về nghĩa vụ đạo đức là
đánh mất ý thức về bản thân mình, làm mất ý nghĩa làm người cũng như giá trị động
lực của lao động.
Đánh giá đạo đức nghề nghiệp là đánh giá lương tâm nghề nghiệp của công
chức ngành Công thương. Dù nhận thức đúng về đạo đức nhưng tình cảm đạo đức
không trong sáng, không lành mạnh thì dẫn đến hành vi phản đạo đức. Vì thế thái
độ và cách xử sự của người công chức đối với người khác là thước đo để đánh giá
lương tâm nghề nghiệp của họ.
23
Mặt khác đánh giá đạo đức nghề nghiệp còn là đánh giá mức độ thực thi
trách nhiệm của người công chức đối với người khác trong quá trình công tác.Nó
được thể hiện ở trách nhiệm của người công chức ngành Công thương đối với
Đảng, Nhà nước; đối với cơ quan, ngành; đối với công việc được giao.
1.3.2.5. Đánh giá về công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực
Đào tạo là chính sách quan trọng giúp phát triển nguồn nhân lực trong một tổ
chức. Đào tạo giúp người lao động nâng cao trình độ chuyên môn, nâng cao kỹ
năng, tay nghề và theo kịp sự phát triển của khoa học, kỹ thuật tiên tiến trên thế
giới. Đào tạo sẽ giúp cho họ nhanh chóng hòa nhập với công việc, với con người
trong tổ chức.Đào tạo nguồn nhân lực không chỉ đem lại lợi ích cho tổ chức mà cũng
tạo ra những sự tác động tích cực lên chính bản thân người lao động. Trong mỗi con
người hầu hết mọi người đều có tính thăng tiến, đều muốn thực hiện nhu cầu “Tự
khẳng định mình”, tự hoàn thiện mình. Những người có thâm niên nghề nghiệp trước
đây chưa được đào tạo bài bản thì đây là cơ hội cho họ bù đắp lại những thiệt thòi
không được đào tạo. Quá trình đào tạo sẽ đáp ứng nhu cầu học tập của người lao
động, còn những người lao động trẻ vừa bước chân vào công việc thì cần đào tạo để
dễ dàng thích nghi với công việc tốt hơn. Đây là điều kiện đảm bảo nguồn nhân lực
chất lượng cao cho tổ chức.
Đào tạo nguồn nhân lực trong tổ chức có nhiều hình thức và phương pháp
khác nhau, tùy thuộc vào việc vận dụng và thực hiện chính sách đào tạo của từng tổ
chức để lựa chọn hình thức và phương pháp đào tạo nào đem lại hiệu quả nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực cũng như nâng cao hiệu quả công việc của tổ chức. Đánh giá
đúng công tác đào tạo nguồn nhân lực sẽ là cơ sở để cơ quan, đơn vị có những giải
pháp hoàn thiện hơn nhằm nâng cao trình độ, năng lực của người lao động.
1.3.3. Về cơ cấu
Để đánh giá đúng chất lượng nhân lực nói chung cũng như chất lượng nhân
lực của một tổ chức nói riêng, việc đầu tiên phải làm là đánh giá công tác xây dựng
cơ cấu nguồn nhân lực phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước
cũng như của lĩnh vực quản lý thị trường. Cơ cấu nguồn nhân lực phản ánh mối
quan hệ giữa các bộ phận trong tổng thể nguồn nhân lực của một tổ chức.Những
mối quan hệ này bao hàm cả mặt chất lượng và số lượng phản ánh tình trạng nguồn
nhân lực của tổ chức ở một thời điểm nhất định. Cơ cấu quan trọng nhất phản ánh
chất lượng tổng thể của nguồn nhân lực ở một tổ chức là cơ cấu theo lĩnh vực công
24
tác, theo trình độ đào tạo, theo ngạch công chức với vị trí việc làm của người lao
động. Các yêu cầu để xây dựng nguồn nhân lực trong lĩnh vực quản lý thị trường
một cách khoa học và hợp lý:
- Phải đáp ứng được các yêu cầu đặt ra của nhiệm vụ trong hiện tại và cả
tương lai một cách hiệu quả nhất.
- Phải khơi dậy và phát huy được mọi trí sáng tạo của công chức ngành Công
thương, tạo môi trường tốt để công chức yên tâm làm việc, phấn khởi và sáng tạo
trong công việc.
- Phải đổi mới theo yêu cầu từng thời kỳ nhất định, phải có sự cải thiện
không ngừng để phù hợp với đòi hỏi biến động trong thực tế, phải tạo được điều
kiện tốt nhất cho các thời kỳ tiếp theo.
Cơ cấu nguồn nhân lực trong lĩnh vực quản lý thị trường được xây dựng toàn
diện bao gồm:
- Cơ cấu theo năng lực công tác với vị trí việc làm: Sử dụng nhân lực là nội
dung quan trọng nhất của công tác phát triển nguồn nhân lực vì từ đó sẽ mang lại
kết quả trong việc thực hiện thành công hay không các mục tiêu đề của đơn vị, tổ
chức. Bố trí và sử dụng nhân lực phải đảm bảo nguyên tắc đúng người, đúng việc.
Bố trí nhân lực vào các vị trí, chức danh công tác phù hợp với năng lực của từng
người để phát huy sở trường, nâng cao khả năng sáng tạo trong tổ chức, từ đó mới
tạo ra hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực. Đây là mặt phản ánh chất lượng nguồn
nhân lực. Phân bổ nguồn nhân lực vào các đơn vị thuộc và trực thuộc trong lĩnh vực
quản lý thị trường phải được xây dựng hợp lý để toàn dụng lực lượng lao động đang
và sẽ tham gia vào từng lĩnh vực. Sự hợp lý trong việc phân bổ lao động thể hiện qua
việc phát huy một cách tối đa năng lực cá nhân của từng người trong từng lĩnh vực
chuyên môn ở hiện tại và tương lai, đem lại lợi ích lớn nhất cho xã hội và bản thân
người lao động. Với vai trò quan trọng đó, mỗi đơn vị cần phải thực hiện đánh giá công
tác sử dụng công chức để nhìn nhận một cách khách quan rằng, hiệu quả của công tác
quản lý cán bộ có đáp ứng đúng với mục đích yêu cầu mà đơn vị đã đặt ra.
- Cơ cấu về ngạch công chức với vị trí việc làm:
Ngày 22/4/2013 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 36/2013/NĐ-CP quy
định về vị trí việc làm và cơ cấu ngạch công chức. Theo đó, cơ cấu ngạch công chức
của mỗi cơ quan, đơn vị là tỷ lệ phần trăm (%) công chức giữ ngạch phù hợp với
danh mục vị trí việc làm và biên chế công chức tương ứng. Các đơn vị phải tự xác
25
định các vị trí việc làm gắn với bản mô tả công việc. Bản mô tả công việc phải xác
định một cách có hệ thống những yêu cầu về số lượng, yêu cầu về năng lực, kiến thức,
kỹ năng của người lao động tại mỗi vị trí việc. Khi đối chiếu thực tế với bản mô tả vị trí
việc làm sẽ thấy mỗi vị trí cần bổ sung thêm bao nhiêu nhân lực hoặc bổ sung thêm
những kỹ năng, kiến thức gì để đảm bảo hoàn thành nhiệm vụ được giao. Đồng thời thực
hiện quản lý, sử dụng biên chế theo vị trí việc làm gắn với cơ cấu ngạch công chức và
đánh giá, phân loại công chức để từng bước thực hiện tốt việc tinh giản biên chế.
- Cơ cấu về trình độ với nhiệm vụ, chức năng:
Trình độ người lao động là lượng kiến thức mà người lao động có được trong
quá trình học tập của bản thân. Là cơ sở lý thuyết, là tư duy khoa học để người lao
động có thể ứng dụng vào thực tiễn công việc. Vì vậy, ngành Công thương nói
chung và ngành quản lý thị trường nói riêng phải tạo mọi điều kiện để hỗ trợ, nâng
cao trình độ tay nghề của công chức. Tỷ lệ lao động qua đào tạo phải được phân
công đảm nhận đúng chuyên môn, đúng nghề nghiệp và đúng công việc.
- Cơ cấu theo độ tuổi: Việc lựa chọn nhân lực trong lĩnh vực quản lý thị
trường phải chú ý lứa tuổi phù hợp, để bảo đảm số lượng nhân lực, thời gian công
tác và những đóng góp cho đơn vị, nhằm tạo nguồn nhân lực bổ sung, thay thế kịp
thời, không để xảy ra tình trạng thừa thiếu hoặc già hóa nhân sự.
- Cơ cấu theo giới tính: Việc kết hợp phù hợp cơ cấu giới tính hợp lý sẽ giúp
nhiệm vụ được hoàn thành tốt hơn. Tuy nhiên, tùy đặc thù của từng ngành thì cơ
cấu giới tính cũng khác nhau.
1.4. Kinh nghiệm đánh giá chất lượng nhân lực ở một số tổ chức và bài học
kinh nghiệm cho Cục Quản lý thị trường Tp. Hồ Chí Minh
1.4.1. Kinh nghiệm đánh giá nhân lực tại một số tổ chức
1.4.1.1. Công tác nâng cao chất lượng cán bộ, công chức của Chi cục Quản lý thị
trường tỉnh Bình Thuận
Với tinh thần thực hiện nghiêm túc, triệt để nội dung của Chỉ thị số 14/CT-
BCT ngày 04/9/2012 của Bộ Công thương về thực hiện một số biện pháp nâng cao
chất lượng, hoạt động công vụ của công chức Quản lý thị trường, nhằm quán triệt
và nâng cao hơn nữa ý thức trách nhiệm, chấn chỉnh tác phong, thái độ ứng xử,
phương pháp làm việc, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ công
chức Quản lý thị trường, Chi cục Quản lý thị trường Bình Thuận đã tổ chức triển
khai Chỉ thị trong toàn Chi cục để từng cán bộ công chức nắm và hiểu rõ mục đích,
yêu cầu nêu trong Chỉ thị để cùng thực hiện.
26
Chi cục thường xuyên quan tâm đến công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho
cán bộ công chức, lấy chủ đề “Rèn tác phong chính quy, luyện ứng xử văn hóa” để
tổ chức học tập, quán triệt trong toàn lực lượng, nhằm nâng cao hơn nữa ý thức
trách nhiệm đối với công việc được giao; chấn chỉnh tác phong, phương pháp làm
việc, thái độ ứng xử trong kiểm tra, kiểm soát và xử lý; nâng cao trình độ lý luận
chính trị, chuyên môn nghiệp vụ và đạo đức nghề nghiệp để từ đó tạo ra bước
chuyển biến mạnh mẽ về chất, đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới
hiện nay, tạo dựng được hình ảnh thân thiện và sự tin yêu của xã hội đối với lực
lượng quản lý thị trường.
Trong công tác quản lý, điều hành hoạt động, lãnh đạo Chi cục đã tập trung
vào việc rà soát, hoàn thiện và thực hiện nghiêm túc các nội quy cơ quan, quy chế
làm việc, quy chế chi tiêu, quy tắc ứng xử khi thực thi công vụ của cán bộ, công
chức Quản lý thị trường. Chi cục cũng đã ban hành Kế hoạch kiểm tra nội bộ và tiến
hành kiểm tra theo định kỳ hoặc đột xuất đối với hoạt động công vụ của công chức
và các Đội Quản lý thị trường để chấn chỉnh, ngăn ngừa, phát hiện và xử lý kịp thời
các hành vi vi phạm pháp luật.
Bên cạnh đó, công tác đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ cũng được
chú trọng; trong năm, Chi cục đã tổ chức 03 đợt tập huấn, bồi dưỡng chuyên môn
nghiệp vụ về công tác quản lý thị trường; cử 10 kiểm soát viên học lớp kỹ năng lấy
mẫu và cấp chứng chỉ người lấy mẫu an toàn thực phẩm, 02 kiểm soát viên học lớp
hướng dẫn nghiệp vụ chống hàng giả và thực thi quyền sở hữu trí tuệ, 01 công chức
học lớp quản lý nhà nước chương trình chuyên viên chính và 06 công chức học lớp
nhận thức về Đảng. Cùng với việc triển khai quán triệt thực hiện Chỉ thị 14/CT-
BCT, Chi cục Quản lý thị trường Bình Thuận đã bám sát nội dung các văn bản chỉ
đạo của các cấp, triển khai và thực hiện các văn bản có liên quan như: quán triệt đến
cán bộ, công chức trong đơn vị nghiêm túc chấp hành Chỉ thị 27-CT/TU ngày
01/10/2012 của Ban Thường vụ tỉnh ủy Bình Thuận về việc nâng cao trách nhiệm
và chấn chỉnh tác phong, giờ giấc làm việc, ý thức chấp hành của cán bộ, công
chức, viên chức trên địa bàn tỉnh và Chỉ thị số 30/CT-TU ngày 08/01/2013 của Ban
Thường vụ tỉnh ủy Bình Thuận về đẩy mạnh việc thực hành tiết kiệm chống lãng
phí trong sinh hoạt, công tác. Qua một năm thực hiện một số biện pháp nâng cao
chất lượng, hoạt động công vụ của công chức Quản lý thị trường, toàn thể cán bộ,
công chức trong đơn vị đã xác định được đây là nhiệm vụ thường xuyên, nhận thức
27
của cán bộ công chức ngày càng chuyển biến, ý thức trách nhiệm, tinh thần tự giác
được nâng cao; nội bộ đoàn kết, luôn nêu cao tinh thần tiết kiệm, chống lãng phí, sử
dụng tài sản công đúng mục đích và có hiệu quả, xác định trách nhiệm được phân
công để cùng nhau phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ chính trị được giao, thường
xuyên tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, tác phong làm việc, tạo dựng hình ảnh thân
thiện và sự tin tưởng của các tổ chức, cá nhân kinh doanh đối với hoạt động của lực
lượng quản lý thị trường. Thời gian tới, tiếp tục phát huy những kết quả đạt được
trong năm qua và để nâng cao hơn nữa chất lượng hoạt động của công chức Quản lý
thị trường Bình Thuận.
1.4.1.2. Kinh nghiệm của Chi cục quản lý thị trường Đăk Lăk
Sau khi tham khảo công trình nghiên cứu của tác giả Nguyễn Duy Viên
(2016) về phát triển nguồn nhân lực tại lĩnh vực quản lý thị trường ĐắkLắc, tác giả
có một số nhận xét như sau:
Trong những năm qua, cùng v ới sự phát triển của toàn hệ thống, lĩnh vực
quản lý thị trường ĐắkLắc đã khắc phục khó khăn, thử thách và có bước phát triển
vượt bậc, toàn diện và bền vững, khẳng định vai trò, vị trí đối với địa phương. lĩnh
vực quản lý thị trường ĐắkLắc tham mưu hiệu quả công tác quản lý, điều hành trên
địa bàn, góp phần không nhỏ vào kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã
hội của tỉnh hoàn thành nhiệm vụ chính trị của cả ngành lĩnh vực quản lý thị trường.
Lĩnh vực quản lý thị trường ĐắkLắc luôn quan tâm đúng mức đến công tác
nâng cao chất lượng nhân lực.Từ khi mới thành lập, công chức lĩnh vực quản lý thị
trường ĐắkLắc đa phần là công chức có trình độ trung cấp, sơ cấp và có cả công
chức chưa qua đào tạo. Ban lãnh đạo và cấp ủy lĩnh vực quản lý thị trường ĐắkLắc
đó có nhiều hình thức khuyến khích công chức tham gia các khóa đào tạo, tự học…
để nâng cao trình độ mọi mặt, có chính sách hỗ trợ công chức tham gia các khóa
đào tạo, bồi dưỡng về các mặt chuyên môn, nghiệp vụ, lý luận phẩm chất chính
trị… đáp ứng tốt yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn hiện nay và trong thời gian tới.
Lĩnh vực quản lý thị trường ĐắkLắc còn thường xuyên quan tâm đến công
tác quản lý, sử dụng công chức.Xây dựng kế hoạch điều động, luân chuyển hàng
năm có gắn với xu hướng vận động, phát triển của công chức, tạo điều kiện để công
chức học hỏi, tiếp xúc với nhiều công việc.Công tác bồi dưỡng công chức lãnh đạo
được quan tâm đúng mức, nhiều công chức còn rất trẻ được tin tưởng giao nhiệm vụ
lãnh đạo các Phòng, các lĩnh vực quản lý thị trường trực thuộc.
28
1.4.2. Bài học rút ra cho Cục quản lý thị trường Thành phố Hồ Chí Minh
Trên cơ sở tìm hiểu các giải pháp nâng cao chất lượng cán bộ công chức của
một số tổ chức, có thể rút ra bài học trong việc nâng cao chất lượng cán bộ công
chức tại Cục Quản lý thị trường Hồ Chí Minh là:
Một là, kiện toàn và nâng cao chất lượng hoạt động của bộ phận tham mưu
công tác cán bộ
Hai là, coi trọng công tác tuyển dụng cán bộ: Cục Quản lý thị trường Hồ Chí
Minh cần chú ý đến công tác tuyển dụng cán bộ. Việc tuyển dụng cán bộ, công chức cần
được thực hiện kết hợp cả xét tuyển và thi tuyển. Để có nguồn cán bộ tốt cho thi và xét
tuyển, chi cục cần đưa ra các tiêu chí cụ thể để thu hút được những người giỏi, người có
trình độ cao. Đó là cơ sở rất quan trọng cho công tác đào, bồi dưỡng tiếp theo.
Ba là, nâng cao chất lượng quy hoạch cán bộ, đánh giá, bố trí, sử dụng, đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, đặc biệt chú trọng công tác đánh giá cán bộ, công
chức làm cơ sở cho việc thực hiện tốt công tác xây dựng và rà soát, điều chỉnh, quy
hoạch cán bộ.
Bốn là, đẩy mạnh đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức theo hướng chuẩn
hoá gắn với quy hoạch. Đào tạo, bồi dưỡng theo vị trí việc làm, thực hiện tốt công
tác tạo nguồn, bồi dưỡng cán bộ tại chỗ, đào tạo theo chức danh. Tiếp tục đào tạo và
đào tạo lại cán bộ đảm bảo chuẩn hoá chức danh, trình độ chuyên môn, trình độ lý
luận chính trị, quản lý nhà nước.
Năm là, thực hiện tốt chính sách cán bộ: Cục Quản lý thị trường Hồ Chí
Minh cần ban hành cơ chế hỗ trợ đặc thù để đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển cán bộ
và thu hút người tài, người có trình độ cao. Bên cạnh đó, cần chú trọng đáp ứng cơ
bản nhu cầu về vật chất và tinh thần cho cán bộ, công chức để cán bộ, công chức
yên tâm công tác, phục vụ nhân dân
Kết luận chương 1
Trong chương 1, tác giả đã hệ thống hóa đầy đủ và phát triển những lý luận
về nguồn nhân lực, chất lượng nguồn nhân lực, đánh giá chất lượng nguồn nhân lực.
Trong đó, trọng tâm là xác định 3 tiêu chí về thể lực, trí lực, tâm lực để làm căn cứ
triển khai các nội dung đánh giá chất lượng nguồn nhân lực tại Cục Quản lý thị
trường Hồ Chí Minh. Trên cơ sở phân tích xu hướng phát triển, đặc điểm và các yếu
tố ảnh hưởng đến chất lượng nguồn nhân lực, tác giả đã chia nội dung đánh giá chất
lượng nguồn nhân lực thành hai khía cạnh là đánh giá nội lực của người lao động và
đánh giá các hoạt động của tổ chức.
29
Chương 2
THỰC TRẠNG ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG NHÂN LỰC
TẠI CỤC QUẢN LÝ THỊ TRƯỜNG THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
2.1. Khái quát về Cục quản lý thị trường Thành phố Hồ Chí Minh
2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển
Cục quản lý thị trường Thành phố Hồ Chí Minh được thành lập theo Quyết định
số 3353/QĐ-UBND ngày 05/8/2008 của Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh về
thành lập Chi cục Quản lý thị trường thành phố trực thuộc Sở Công Thương và các Đội
Quản lý thị trường trực thuộc Chi cục Quản lý thị trường thành phố.
2.1.2. Mô hình tổ chức, chức năng và nhiệm vụ
Cục Quản lý thị trường Hồ Chí Minh
Phòng Tổ chức hành chính
Phòng Thanh tra - Pháp chế
Các Đội quản lý thị trường
Phòng Nghiệp vụ - Tổng hợp
Phòng Kiểm tra phối hợp liên ngành
Hình 2.1.Sơ đồ bộ máy của Cục quản lý thị trường Hồ Chí Minh
* Chức năng
Chi cục Quản lý thị trường giúp Giám đốc Sở Công Thương thực hiện chức
năng quản lý nhà nước và tổ chức thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, kiểm soát thị
trường, đấu tranh chống các vi phạm pháp luật trong hoạt động thương mại trên địa
bàn thành phố do Ủy ban nhân dân thành phố giao.
* Nhiệm vụ
- Kiểm tra việc tuân theo pháp luật các hoạt động thương mại, công nghiệp
của tổ chức, cá nhân trên địa bàn thành phố, thực hiện nhiệm vụ thanh tra chuyên
ngành thương mại. Đề xuất với Sở Công Thương và Ủy ban nhân dân thành phố kế
hoạch, biện pháp về tổ chức thị trường, bảo đảm lưu thông hàng hóa theo pháp luật,
ngăn ngừa và xử lý kịp thời các vi phạm pháp luật trong hoạt động thương mại,
công nghiệp trên địa bàn thành phố. Tổ chức tuyên truyền, phổ biến pháp luật về
30
thương mại cho các tổ chức và cá nhân hoạt động liên quan đến thương mại trên địa
bàn thành phố.
- Xây dựng và trực tiếp chỉ đạo các Đội Quản lý thị trường thực hiện các kế
hoạch kiểm tra, kiểm soát thị trường và xử lý theo thẩm quyền các vi phạm pháp
luật trong hoạt động thương mại.
- Quản lý công chức, biên chế, kinh phí, trang bị, bồi dưỡng chuyên môn
nghiệp vụ và xây dựng cơ sở vật chất cho lực lượng quản lý thị trường thành phố.
- Thường trực giúp việc cho Ban chỉ đạo 389 thành phố chủ trì tổ chức phối
hợp hoạt động giữa các sở, ngành, quận-huyện trong công tác chống buôn lậu, đầu
cơ, gian lận thương mại và các hành vi sản xuất, kinh doanh trái phép khác.
- Tiếp nhận và giải quyết theo thẩm quyền các đơn thư khiếu nại, tố cáo về hoạt
động kiểm tra và xử lý vi phạm hành chính của các Phòng chuyên môn, Đội Quản lý thị
trường và các hành vi vi phạm pháp luật của công chức quản lý thị trường.
- Tổng hợp tình hình thực thi pháp luật trên thị trường và hoạt động kiểm tra,
kiểm soát thị trường trên địa bàn thành phố; thực hiện chế độ báo cáo theo quy định.
Kiến nghị với cấp trên và các cơ quan có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành
mới các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến công tác quản lý thị trường.
- Thực hiện một số nhiệm vụ theo ủy quyền của Giám đốc Sở Công Thương,
Ủy ban nhân dân thành phố và theo quy định của pháp luật./.
2.1.3. Tình hình thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Cục quản lý thị trường
Thành phố Hồ Chí Minh thời gian qua
Năm 2018, lực lượng Quản lý thị trường Thành phố đã thực hiện kiểm tra
chuyên ngành và tham gia liên ngành với tổng số 13.442 vụ (giảm 16,21% số vụ kiểm
tra so với năm 2017), trong đó phát hiện có hơn 8.340 vụ vi phạm. Riêng kết quả xử
phạt vi phạm hành chính trong kiểm tra chuyên ngành, Quản lý thị trường Thành phố
đã nộp vào ngân sách Nhà nước gần 134 tỷ đồng tiền phạt, tăng hơn 40% so với cùng
kỳ năm 2017.Đối với các mặt hàng rượu, bia, nước giải khát, Quản lý thị trường Thành
phố đã tạm giữ hơn 39.000 sản phẩm rượu ngoại, nước tăng lực; tạm giữ 6.656 đơn vị
sản phẩm nước trái cây, trà xanh các loại đã hết hạn sử dụng… Ngoài ra, lực lượng
Quản lý thị trường Thành phố phát hiện gần 50 tấn bột ngọt Aone, Monosodium do
Trung Quốc và Thái Lan sản xuất nhưng ghi nhãn sản xuất tại Việt Nam.7 tháng đầu
năm 2019, Cục Quản lý thị trường TP. Hồ Chí Minh đã phát hiện và xử lý 29.963 vụ vi
31
phạm, nộp ngân sách nhà nước khoảng 54 tỷ đồng, chuyển cơ quan chức năng khởi tố
11 vụ án với giá trị hàng hoá vi phạm 10 tỷ đồng.
Bên cạnh đó, công tác phối hợp trao đổi thông tin, kiểm tra, kiểm soát và xử
lý vi phạm giữa các lực lượng chức năng với lực lượng Quản lý thị trường thành
phố được thực hiện tốt, kiểm tra có hiệu quả tại địa bàn trọng điểm, các nhóm hàng
hóa trọng tâm.Công tác tuyên truyền, phổ biến, hướng dẫn pháp luật đã được các
cấp, các ngành, cơ quan truyền thông thực hiện tốt trong thời gian qua đã góp phần
nâng cao nhận thức của người dân và doanh nghiệp trong việc phối hợp với các lực
lượng chức năng trong đấu tranh chống buôn lậu, vi phạm về sở hữu công nghiệp,
hàng giả, hàng kém chất lượng, gian lận thương mại,... góp phần tích cực vào hạn
chế tình trạng xảy ra vi phạm trên địa bàn; đồng thời đã cảnh báo cho người dân các
nguy cơ ảnh hưởng tới an toàn sức khỏe khi tiêu dùng các sản phẩm hàng hóa
không rõ nguồn gốc, xuất xứ; không đảm bảo chất lượng lưu thông trên thị trường
và để răn đe các đối tượng vi phạm pháp luật.Cùng với công tác chuyên môn, cho
đến nay Cục Quản lý thị trường thành phố đã thực hiện ký cam kết 32.551 văn bản
không kinh doanh hàng gian, hàng giả với người kinh doanh trên địa bàn.
Tuy nhiên, tình trạng buôn lậu, kinh doanh hàng nhập lậu, sản xuất buôn bán
hàng giả, hàng kém chất lượng vẫn chưa được đẩy lùi, diễn biến còn rất phức tạp.
Nguyên nhân là do thành phố là trung tâm kinh tế lớn với nhiều thành phần tham
gia, sự gian lận trong sản xuất kinh doanh cũng vì thế mà ngày càng gia tăng với
nhiều thủ đoạn tinh vi, nhất là hoạt động thương mại điện tử. Một nguyên nhân khác
là sự phối kết hợp kiểm tra, xử lý hàng lậu, hàng giả, hàng kém chất lượng giữa các
lực lượng chưa nhuần nhuyễn, chưa quyết liệt và thiếu đồng bộ.
2.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng nhân lực ở Cục Quản lý thị trường
Tp. Hồ Chí Minh
2.2.1. Các yếu tố bên ngoài
Mức độ phát triển của thị trường lao động:Mặc dù môi trường lao đông,̣ làm
việc của đội ngũ cán bô ̣công chức tại Chi cục quản lý thi ̣trường tỉnh Thái Nguyên
đã hoàn thiện, chặt chẽ hơn trước nhưng vẫn còn nhiều thiếu sót. Hiện nay môi
trường làm việc của cán bộ, công chức Cục quản lý thị trường Hồ Chí Minh vẫn
chưa đạt được sự thống nhất và nhất quán. Giữa các bộ phận quản lý, lãnh đạo chưa
có sự phân định rõ ràng trong quản lý đã gây nên sự chồng chéo, ách tắc trong việc
quản lý, kiểm tra, kiểm soát đánh giá thực hiện công việc của cán bộ công chức tại
32
Cục Quản lý thị trường. Môi trường làm việc tại Cục còn thiếu những cơ sở pháp lý
trong điều chỉnh, hướng dẫn, đánh giá cán bộ thực hiện công việc nên nhiều khi cán
bộ quản lý còn làm việc theo cảm tính.
Các chính sách của nhà nước về nâng cao chất lượng cán bộ công chức: Các
cơ chế, chính sách và hệ thống pháp luật của nhà nước quy định về công tác nâng
cao chất lượng đội ngũ cán bộ công chức tuy đã được bổ sung hoàn thiên rất nhiều
nhưng vẫn còn nhiều thiếu sót và chưa chặt chẽ.
Hệ thống chính sách đối với đội ngũ cán bộ công chức còn chưa hợp lý và thoả
đáng, chưa khuyến khích được cán bộ công chức cả nước nói chung và Cục quản lý
thi ̣trường Hồ Chí Minh nói riêng toàn tâm toàn ý vào công việc. Đội ngũ cán bộ công
chức được đào tạo và bồi dưỡng cần được cung cấp rất nhiều thông tin, vậy mà Nhà
nước vẫn chưa có một chính sách nào nhằm cung cấp thông tin một cách cập nhật nhất
cho các đội ngũ cán bộ này. Đối với những cán bộ công chức cả nước nói chung và
thành phố Hồ Chí Minh nói riêng có nhiều đóng góp cho sự nghiệp đào tạo và bồi
dưỡng, Nhà nước vẫn chưa có các chính sách ưu tiên về lương và chế độ đãi ngộ.
Đối với những cán bộ công chức tại Cục quản lý thi ̣trường Hồ Chí Minh
được cử đi học, Nhà nước vẫn chưa có một chính sách sử dụng hợp lý sau khi họ
được đào tạo và bồi dưỡng để khuyến khích họ tích cực hơn nữa trong việc tham gia
vào các khoá đào tạo và bồi dưỡng, khuyến khích họ không ngừng tự học tập nâng
cao tri thức của mình. Những người có trình độ cao, có đủ tiêu chuẩn cũng được đối
xử như những người có trình độ thấp và có năng lực kém, không làm việc được.
Mức độ phát triển của giáo dục và đào tạo: Hiện nay công tác đào tạo phát
triển đội ngũ cán bộ công chức cả nước nói chung vàtại Cục quản lý thi ̣trường Hồ
Chí Minh đều dựa vào nguồn ngân sách nhà nước (trong đó chiếm tỷ trọng nhiều
nhất là nguồn ngân sách trung ương và ngân sách thành phố). Trong những năm gần
đây, mặc dù mức đầu tư cho giáo dục và đào tạo thành phố qua ngân sách nhà nước
đã được nâng cao hơn trước nhưng vẫn còn ở mức thấp. Với mức đầu tư thấp như
vậy thì các phòng ban tại Cục quản lý thi ̣trường Hồ Chí Minh chỉ đủ chi cho việc
trả lương cho đội ngũ cán bộ, đồng thời mức đầu tư còn lại không đủ cho công tác
đào tạo và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ này. Vì vậy, mức đầu tư của nhà
nước cho công tác phát triển giáo dục, đào taọ chưa có điều kiện để sửa chữa
thường xuyên một số trang thiết bị phục vụ việc hoàn thành nhiệm vụ của đội ngũ
cán bộ, đồng thời không có điều kiện để hiện đại hoá và mở rộng quy mô nhằm
33
nâng cao chất lượng đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ công chức tại Cục quản lý
thi ̣trường Hồ Chí Minh.
2.2.2. Các yếu tố bên trong
2.2.2.1. Phân tích công việc
Công tác phân tích công việc được dựa trên bản mô tả công việc. Là bước
quan trọng để phân chia nhiệm vụ phù hợp với từng cương vị công tác và thực trạng
hoạt động phân tích công việc tại Cục quản lý thi ̣trường Hồ Chí Minh như sau:
Bảng 2.1. Nội dung tóm tắt bản mô tả Công việc tại Cục quản lý thi ̣trường
Hồ Chí Minh
Vị trí Cục trưởng
Phó Cụctrưởng 1
Phó Cụctrưởng 2
Phòng TCHC
Phòng NVTH
Phòng TTPC
quản lý
Đội thịtrường
Nhiệm vụ - Là Phó giám đốc Sở công thương. - Chịu trách nhiệm trước Giám đốc Sở Công Thương và Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh về quản lý, điều hành hoạt động của Cục. - Chịu sự chỉ đạo của Tổng Cục trưởng Tổng Cục Quản lý thị trường về chuyênmôn nghiệp vụ - Chịu trách nhiệm về điều hành hoạt động của phòng TCHC và phòngnghiệp vụ tổng hợp về chuyên môn nghiệp vụ - Chịu trách nhiệm trước Cục trưởng về hoạt động quản lý và điềuhành của mình - Chịu trách nhiệm điều hành hoạt động của các Đội quản lý thị trườngvề chuyên môn nghiệp - Chịu trách nhiệm trước Cục trưởng về hoạt động quản lý và điềuhành của mình - Quản lý công chức, biên chế, kinh phí, trang bị, bồi dưỡng chuyênmôn nghiệp vụ và xây dựng cơ sở vật chất cho lực lượng quản lý thịtrường ở địa phương. - Nghiên cứu, hướng dẫn, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ về côngtác Quản lý thị trường. - Tham mưu đề xuất, xây dựng và tổ chức triển khai chương trình, kếhoạch kiểm tra chuyên đề và liên ngành hàng năm, quý, tháng - Thụ lý hồ sơ và đề xuất phương án xử lý các vụ việc vi phạm pháp luật do các đội chuyển lên. - Phát hiện, kiểm tra hàng nhập lậu, hàng cấm, sản xuất, buôn bán hàng giả - Tổng hợp tình hình trên địa bàn và thực hiện chế độ báo cáo theoquy định. - Kiểm tra hoạt động của kiểm soát viên về thực hiện quy chế công tácvà chấp hành các quy định của pháp luật về hoạt động kiểm tra, kiểm soát thị trường.
(Nguồn: Tác giả tổng hợp)
34
Dựa vào những thông tin thu thập được tại Cục quản lý thi ̣trường Hồ Chí
Minh nhận thấy công tác phân tích công việc đã được thực hiện đến từng phòng ban
tại Cục. Việc phân tích công việc tại Cục được triển khai dựa trên nhiệm vụ của các
phòng ban từng thời kỳ, đồng thời cũng dựa trên hướng dẫn của Pháp lệnh quản lý
thị trường số 11/2016/UBTVQH13 do ủy ban thường vụ Quốc Hội ban hành. Tóm
lại, phân tích công việc tại Cục chỉ mang tính hình thức, tổng quá, chung chung.
Các nhân viên trong các phòng ban chịu sự điều hành và giám sát công việc của các
trưởng phòng.
Để đánh giá được thực trạng chất lượng nguồn nhân lực, tác giả đã sử dụng
số liệu thứ cấp do Cục quản lý thi ̣trường Hồ Chí Minh cung cấp và số liệu sơ cấp từ
132 phiếu điều tra dành cho công chức không giữ chức vụ lãnh đạo (gọi tắt là nhân
viên) và 32 phiếu điều tra dành cho các chuyên gia là công chức giữ chức vụ lãnh
đạo các cấp trong Cục quản lý thi ̣trường Hồ Chí Minh.
Bảng 2.2. Đánh giá của cán bộ, công chức về công tác phân tích công việc
Điểm trung bình Tỷ lệ (%)
3,77 75,40
3,82 76,40
3,19 63,80
4,03 80,6 Tiêu chí Anh/Chị được cung cấp thông tin một cách chi tiết và chính xác về công việc mình đang làm Cục có sự quan tâm đầy đủ tới việc xây dựng bản mô tả công việc cho từng vị trí công tác Bảng mô tả công việc chi tiết làđầy đủ với từng vị trí công tác của Cục Bảng mô tả công việc tại Cục được cập nhật liên tục
(Nguồn: Số liệu tác giả tự điều tra khảo sát)
Theo kết quả phỏng vấn, đánh giá ý kiến cán bộ nhận thấy, nội dung đạt số
điểm cao nhất là Anh/Chị được cung cấp thông tin một cách chi tiết và chính xác về
công việc mình đang làm với 3,77 điểm, số điểm ở mức khá cao. Khi phân công
nhiệm vụ, trưởng phòng sẽ căn cứ vào chuyên môn của từng người để bố trí công
việc phù hợp nhất, những thông tin liên quan đến công việc của từng người được
cung cấp đầy đủ đến từng cá nhân qua địa chỉ mail, hay các cuộc họp giữa từng
phòng ban. Tiếp đến là nội dung Cục có sự quan tâm đầy đủ tới việc xây dựng bản
mô tả công việc cho từng vị trí công tác chỉ đạt 3,82 điểm, ở mức trung bình. Lý
giải nguyên nhân khiến nội dung nhận được số điểm đánh giá thấp là do việc xây
dựng bản mô tả công việc tại Cục quản lý thi ̣trường Hồ Chí Minh mới chỉ dừng lại
ở cấp phòng ban mà chưa chi tiết cụ thể xuống từng vị trí. Tồn tại thực trạng này do
số biến chế tại chi cục còn thiếu về số lượng, đội ngũ cán bộ không đáp ứng được
35
các yêu cầu công việc đề ra nên việc xây dựng các bản mô tả công việc mới chỉ
mang tính hình thức mà chưa bám sát vào số lượng biên chế cũng như nhiệm vụ
hiện tại của từng cán bộ. Đây cũng là lý do chính khiến cho các bản mô tả công việc
tại Chi cục quản lý thị trường được đánh giá là không chi tiết cho từng vị trí. Và nội
dung phỏng vấn bảng mô tả công việc chi tiết là đầy đủ với từng vị trí công tác của
Chi cục chỉ đạt 3,19 điểm. Kết thúc bộ câu hỏi phỏng vấn về công tác phân tích
công việc, tác giả đưa ra nội dung phỏng vấn bảng mô tả công việc tại Chi cục được
cập nhật liên tục và nhận được số điểm đánh giá là 4,03 điểm. Số điểm thể hiện
không có sự cập nhật về nội dung của các bản mô tả công việc, điều này sẽ gây khó
khăn cho cán bộ khi có các nhiệm vụ đột xuất.
2.2.2.2. Công tác tuyển dụng
Công tác tuyển dụng công chức tại Cục quản lý thi ̣trường Hồ Chí Minh
được thực hiện qua 7 bước như bảng số liệu 2.4.
Bảng 2.3. Nội dung công tác tuyển dụng tại Cục quản lý thi ̣trường Hồ Chí Minh
Nội dung tuyển dụng Bước 1: Chuẩn bị tuyển dụng Bước 2: Thông báo tuyển dụng
Bước 3: Nhận hồ sơ
Bước 4: Phỏng vấn sơ bộ
Bước 5: Hình thức thi
Bước 6: Ra quyết định tuyển dụng
Bước 7: Bố trí nhân viên Nội thực hiện Công tác này được thực hiện bởi phòng tổ chức hành chính của Cục. 1.Trên trang Web Cục và Web của Sở công thương 3. Tại bảng thông báo của Sở Công thương 4. Trên một số trang báo của thành phố Hồ Chí Minh 1.Nhân hồ sơ trực tiếp tại Cục Quản lý thị trường 2. Loại ra những hồ sơ không đủ điều kiện Phỏng vấn sơ khảo để loại ra những người không phù hợp (trưởng phòng của bộ phận có nhu cầu tuyển dụng trực tiếp phỏng vấn) - Môn kiến thức chung: Thi viết - Môn nghiệp vụ chuyên ngành: Thi viết 01 bài và thi trắc nghiệm 01 bài về nghiệp vụ chuyên ngành theo yêu cầu của vị trí việc làm - Môn ngoại ngữ: Thi trắc nghiệm trên máy vi tính Môn tin học văn phòng: Thi trắc nghiệm trên máy vi tính Căn cứ vào kết quả tuyển dụng ở bước 4 và bước 5. Ban lãnh đạo Cục sẽ ra quyết định tuyển dụng đối với các ứng viên đủ điều kiên tuyển dụng. Nhân viên sau khi được tuyển dụng sẽ được bố trí vào thử việc tại các phòng ban và sẽ được tuyển chính thức nếu thực hiện tốt nhiệm vụ được giao trong quá trình tuyển dụng
(Nguồn: Phòng Tổ chức hành chính- Cục quản lý thi ̣trường Hồ Chí Minh)
Trước mỗi đợt tuyển dung Phòng tổ chức hành chính tại Cục sẽ thực hiện các
kế hoạch chuẩn bị tuyển dụng như: lên kế hoạch nguồn kinh phí, kế hoạch bố trí,
36
sắp xếp thi tuyển, bố trí coi thi, chấm thi... Các thông tin tuyển dụng được Cục công
bố rộng rãi trên các trang báo, trên bảng thông báo tại Cục và trên các trang mạng,
Website Cục. Sau khi thông tin tuyển dụng được công bố, phòng Tổ chức hành
chính sẽ bố trí nhân sự nhận hồ sơ và chỉ nhận hồ sơ trực tiếp tại Cục Quản lý thị
trường. Điều này gây nhiều khó khăn đối với ứng viên ở xa, từ đó không thu hút
được tất cả cá nhân có trình độ và khả năng về công tác tại Cục. Nhận thấy, công
tác tuyển dụng cán bộ tại Cục Quản lý thị trường TP. Hồ Chí Minh đầy đủ các nội
dung theo quy trình thi tuyển công chức do nhà nước ban hành tại Nghị định số
24/2010/NĐ-CP về “Quy định tuyển dụng, sử dụng và quản lý cán bộ công chức”.
Tuy nhiên, công tác tuyển dụng tại Cục quản lý thi ̣trường Hồ Chí Minh chưa cung
cấp đầy đủ những thông tin liên quan đến quyền lợi mà cán bộ được hưởng sau khi
được bổ nhiệm vào vị trí công tác như: mức lương, khen thưởng, phúc lợi, đãi
ngộ...nên công tác tuyển dụng tại Cục chưa thu hút, tận dụng được nhân tài. Đồng
thời, công tác tuyển dụng tại Cục còn nhiều gian lận khi còn ưu tiên các mối quan
hệ, người nhà.
Bảng 2.4. Đánh giá của cán bô, công chức về công tác tuyển dụng tại Cục
Tiêu chí Điểm trung bình Tỷ lệ (%)
Thông tin tuyển dụng của Chi cục được 3,57 71,40 công bố rộng rãi bằng nhiều kênh thông tin
Các cán bộ, công chức được tuyển dụng có 3,62 72,40 khả năng phù hợp cao với vị trí yêu cầu
Các cán bộ, công chức được tuyển dụng thể 3,82 76,40 hiện khả năng tốt trong môi trường của Chi cục
(Nguồn: Số liệu tác giả tự điều tra khảo sát)
Hàng năm, theo quy định được nhà nước ban hành, Cục quản lý thi ̣trường
Hồ Chí Minh cũng tiến hành công tác tuyển dụng để thu hút nhân tài cũng như bổ
sung biến chế còn thiếu vào các vị trí công tác. Do nguyên nhân này nên nội dung
phỏng vấn thông tin tuyển dụng của Cục được công bố rộng rãi bằng nhiều kênh
thông tin tác giả đưa ra đạt số điểm cao nhất với 3,93 điểm. Tuy nhiên, khi thực
hiện khảo sát, phỏng vấn ý kiến cán bộ chi cục về năng lực, chất lượng của ứng viên
được tuyển dung, tác giả nhận được những phản hồi tiêu cực như ứng viên trúng
tuyển không phù hợp với vị trí công tác, đồng thời những ứng viên này cũng không
thích ứng nhanh với môi trường công tác. Những điều này được chứng minh ở hai
37
nội dung phỏng vấn đều đạt số điểm thấp ở ngưỡng trung bình là nội dung các cán
bộ, công chức được tuyển dụng có khả năng phù hợp cao với vị trí yêu cầu với 2,96
điểm và nội dung các cán bộ, công chức được tuyển dụng thể hiện khả năng tốt
trong môi trường của Chi cục đạt 3,33 điểm. Nguyên nhân của thực trạng này xuất
phát từ sự thiếu trung thực công bằng trong tuyển dụng cán bộ tại Chi cục quản lý
thị trường tỉnh. Nhiều trường hợp cán bộ trúng tuyển dựa vào “quan hệ người nhà”,
dựa vào mối quan hệ quen biết, thậm chí là dựa vào “chạy chọt” để vào làm việc tại
Chi cục nên chất lượng cán bộ trúng tuyển không cao và không đáp ứng được yêu
cầu công việc. Đây là hạn chế gây ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng đội ngũ cán
bộ công chức tại Cục Quản lý thị trường TP. HCM trong thời gian qua.
2.2.2.3. Công tác đào tạo cán bộ công chức
Công tác đào tạo cán bộ công chức có ý nghĩa quan trọng để nâng cao chất
lượng đội ngũ cán bộ tại Cục, từ đó tạo điều kiện thuận lợi để đội ngũ này hoàn
thành các nhiệm vụ được giao với hiệu quả cao nhất. Thực trạng công tác đào tạo
cán bộ tại Cục Quản lý thi ̣trường Hồ Chí Minh như sau:
38
Bảng 2.5.Công tác đào tạo cán bộ công chức tại Cục
Năm Số lượng Tỷ lệ Đơn vị
5 4,2% Cục Quản lý thị trường Tên lớp (khóa) học Lớp bồi dưỡngnghiệp vụ quản lý nhà nước ngạch Kiểm soát viên thị trường
2017
Lớp học Nghị Quyết 115 97,5% Cục quản lý thị trường TP. Hồ Chí Minh
Nội dung đào tạo 35 chuyên đề chính theo chương trình đào tạo ngạch Kiểm soát viên thị trường, những kiến thức, kỹ năng cơ bản trong hoạt động công vụ của công chức Quản lý thị trường Quán triệt cho toàn thể cán bộ, công chức các Nghị quyết của Ban chấp hành TW Đảng, các Chỉ thị của Bộ trưởng Bộ Công thương, Tỉnh Ủy; các quy định của pháp luật về phòng, chống tham nhũng
119 100% Cục quản lý thị trường TP. Hồ Chí Minh Học viên được học 15 chuyên đề về chuyên môn nghiệp vụ
2018
6 5,0%
109 100% Cục quản lý thị trường TP. Hồ Chí Minh Lớp tập huấnchuyên môn nghiệp vụ cho công chức Quản lý thị trường Lớp bồi dưỡngkiến lý Nhà thức quản nước Chương trình Chuyên viên chính Tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ đánh giá nội bộ
2019
90 82,6 Lớp bồi dưỡng kiểm soát viên tại Cục Cục quản lý thị trường TP. Hồ Chí Minh Trang bị những kiến thức về các kỹ năng trong quản lý Nhà nước; học viên được giao lưu, thảo luận những kỹ năng làm việc mới và vấn đề thực tiễn phát sinh Bồi dưỡng nghiệp vụ đánh giá nội bộ theo hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn quốc gia TCVN ISO 9001: 2015 Trang bị cho các cán bộ, công chức về thực tiễn sản xuất, kinh doanh, đời sống xung quanh trên địa bàn phụ trách và xu hướng phát triển công tác quản lý thị trường trong nước
(Nguồn: Phòng Tổ chức hành chính)
39
Nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ công chức Cục Quản lý thi ̣trường
Hồ Chí Minh, trong thời gian qua Cục đã phối hợp với các cơ sở đào tạo để tổ chức
các khóa đào tạo cơ bản theo đúng nội dung, chương trình đào tạo thiết kế phù hợp
với đối tượng tham gia đào tạo.Như vậy, nhận thấy các khóa đào tạo mà Chi cục tổ
chức cho cán bộ còn ít. Đối với những khóa đào tạo do các đơn vị bên ngoài tổ chức
thì số lượng cán bộ được tham gia có tỷ lệ rất thấp so với số lượng cán bộ toàn Cục
Quản lý thi ̣trường Hồ Chí Minh. Do đó, số lượng cán bộ không đáp ứng được yêu
cầu công việc còn nhiều và hiệu quả thực hiện công việc không cao. Đây là những
nguyên nhân chính gây ảnh hưởng đến công tác nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ
công chức tại Cục trong thời gian vừa qua.
Bảng 2.6. Đánh giá của cán bô, công chức về công tác đào tạo tại Cục
Tiêu chí Điểm trung bình Tỷ lệ (%)
Chi cục thường xuyên tổ chức các lớp đào tạo
và phát triển kỹ năng nghiệp vụ cho cán bộ, 3,44 68,80
công chức
Công tác đào tạo mang lại kiến thức phù
hợp với công việc và định hướng phát triển 3,37 67,40
nghề nghiệp của cán bộ, công chức
Công tác đào tạo giúp cán bộ, công chức làm
việc hiệu quả hơn với những kiến thức thu 3,89 77,80
nhận được
Các cán bộ, công chức tích lũy được nhiều 3,78 75,60 kiến thức thông qua các khóa đào tạo
(Nguồn: Số liệu tác giả tự điều tra khảo sát)
Để đánh giá công tác đào tạo tại Cục quản lý thi ̣trường Hồ Chí Minh, tác giả
thực hiện phỏng vấn nội dung Cục thường xuyên tổ chức các lớp đào tạo và phát
triển kỹ năng nghiệp vụ cho cán bộ, công chức và nhận được số điểm đánh giá là
3,44 điểm, số điểm ở mức trung bình. Lý giải điều này xuất phát từ các nguyên
nhân khách quan và chủ quan. Về khách quan là do tiến độ công việc nhiều, thường
xuyên nên việc tổ chức các lớp đào tạo gặp khó khăn. Hơn nữa, do kinh phí cấp cho
việc đi học của cán bộ, công chức chưa nhiều nên cũng ảnh hưởng đến việc tổ chức
giảng dạy. Nguyên nhân chủ quan xuất phát từ việc cán bộ, công chức văn phòng
chi cục ít có nhu cầu đi học, bởi việc đi học có tác động ảnh hưởng đến tiến độ công
40
việc nên chưa công chức thực sự quan tâm đến điều này, khiến cho điểm đánh giá
chưa thực sự cao. Tiếp đến, khi được hỏi về những kiến thức thu nhận được sau các
khóa đào tạo, phần đông đối tượng được phỏng vấn đều cho rằng các kiến thức
được cung cấp không phù hợp với công việc cũng như không có định hướng phát
triển nghề nghiệp của họ. Dẫn đến nội dung phỏng vấn công tác đào tạo mang lại
kiến thức phù hợp với công việc và định hướng phát triển nghề nghiệp của cán bộ,
công chức chỉ đạt 3,37 điểm. Khi thực hiện phỏng vấn về công tác đào tạo giúp cán bộ,
công chức làm việc hiệu quả hơn với những kiến thức thu nhận được, tác giả nhận về
số điểm đánh giá là 2,89 điểm, ở ngưỡng trung bình. Kết thúc chuỗi câu hỏi phỏng vấn,
tác giả hỏi về nội dung các cán bộ, công chức tích lũy được nhiều kiến thức thông qua
các khóa đào tạo và nhận được số điểm đánh giá 2,78 điểm. Điều này là do ban lãnh
đạo chi cục Quản lý thị trường chưa quan tâm sâu sát đến chương trình, nội dung các
khóa đào tạo, đồng thời do khối lượng công việc nhiều cũng khiến cho việc đi học
thêm để nâng cao trình độ tích lũy kiến thức gặp hạn chế.
2.3. Thực trạng chất lượng nhân lực và hoạt động đánh giá chất lượng nhân
lực tại Cục quản lý thị trường Thành phố Hồ Chí Minh
2.3.1. Thực trạng chất lượng nhân lực tại Cục quản lý thị trường Thành phố Hồ
Chí Minh
- Về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ
Bảng 2.7. Cơ cấu NNL theo trình độ chuyên môn trong Cục Quản lý thi ̣trường
Hồ Chí Minh
Năm 2017 Năm 2018 Năm 2019 TT
Trình độ chuyên môn Sau đại học Đại học Cao đẳng Trung cấp Khác Tổng SL 20 460 19 19 35 553 Tỷ lệ % 3,62 83,18 3,43 3,43 6,33 100 Tỷ lệ % 4,55 86,36 2,57 3,75 2,77 100 Tỷ lệ % 5,62 86,82 1,94 2,81 2,81 100 SL 26 402 9 13 13 463 SL 23 437 13 19 14 506 (Nguồn: Phòng Tổ chức - Hành chính)
Với phong trào học tập phát triển mạnh mẽ, công chức Cục Quản lý
thi ̣trường Hồ Chí Minh đã tự phấn đấu học tập nâng cao trình độ chuyên môn
nghiệp vụ giúp cho năng lực công chức ngày càng được cải thiện, đáp ứng tốt hơn
yêu cầu công việc trong giai đoạn hiện nay. Tính từ năm 2017 đến hết năm 2019, cơ
cấu nguồn nhân lực Cục Quản lý thi ̣trường Hồ Chí Minh theo trình độ đào tạo có
41
sự khác biệt đáng kể. Số lượng công chức có trình độ sau đại học tăng lần lượt là
3,61%, 4,55%, 5,62%. Công chức có trình độ đại học có xu hướng tăng nhẹ vào
năm 2018, 2019 (86,36 và 86,82%) là do công chức nghỉ hưu. Còn công chức có
trình độ trung cấp, sơ cấp thì giảm mạnh vào năm 2018 (chỉ còn 2,77%). Có thể do
công chức nghỉ hưu hoặc đã hoàn thành xong bằng đại học. Trong quá trình công
tác, Cục Quản lý thi ̣trường Hồ Chí Minh luôn khuyến khích và tạo điều kiện về
thời gian để công chức tham gia học đại học và các bậc cao hơn nhằm nâng cao
trình độ, đáp ứng yêu cầu ngày một cao của ngành. Theo số liệu thống kê, số công
chức có trình độ đại học và sau đại học ngày một tăng, luôn chiếm tỷ lệ rất cao, trên
85% so với trình độ của toàn đơn vị. Đã đáp ứng được điều kiện, tiêu chuẩn về bằng
cấp phù hợp với vị trí việc làm của từng công chức. Cùng với lực lượng lao động
trẻ, có trình độ chuyên môn cao, Cục Quản lý thi ̣trường Hồ Chí Minh đã tạo được
một nền tảng vững chắc, làm tiền đề cho các bước phát triển tiếp theo về nguồn
nhân lực.
- Về trình độ lý luận chính trị và trình độ quản lý nhà nước
Để xây dựng nên một công chức có tố chất, nắm vững về chuyên môn, khỏe
về thể chất và tinh thần, cần phải có năng lực về chính trị, hiểu biết về các kiến thức
của nhà nước, có đủ phẩm chất đạo đức tác phong của người công chức. Trước thực
tế đó, Cục Quản lý thi ̣trường Hồ Chí Minh luôn chú ý rèn luyện phẩm chất đạo đức
của công chức thông qua việc đào tạo công chức có trình độ lý luận và kiến thức
quản lý nhà nước vững vàng, đồng thời tổ chức và triển khai học tập các nghị quyết
của các cấp Đảng ủy, học tập và làm theo tư tưởng, phong cách, đạo đức Hồ Chí
Minh. Đến nay, trình độ lý luận chính trị và kiến thức quản lý nhà nước đã đạt được
như sau:
Bảng 2.8. Cơ cấu NNL theo trình độ lý luận chính trị trong hệ thống Cục Quản lý
thi ̣trường Hồ Chí Minh
Năm 2017 Năm 2018 Năm 2019 TT Trình độ
1 2 3 4 Cao cấp Trung cấp Sơ cấp Khác
Tổng SL 51 160 320 22 553 Tỷ lệ % 9,22 28,93 57,87 3,98 100 Tỷ lệ % 9,63 35,57 51,38 3,36 100 Tỷ lệ % 9,50 38,01 49,46 3,02 100 SL 44 176 229 14 463
SL 49 180 260 17 506 (Nguồn: Phòng Tổ chức - Hành chính)
42
Theo yêu cầu về tiêu chuẩn chức danh của từng chức vụ lãnh đạo cũng như
loại, ngạch công chức, Cục Quản lý thi ̣trường Hồ Chí Minh đã thường xuyên tổ
chức cho công chức được đào tạo về lý luận chính trị và kiến thức quản lý nhà nước
để đáp ứng yêu cầu. Trước đây, theo Quyết định số 12/QĐ/TC-TTVH ngày 09/
01/2004 của Ban Tổ chức Trung ương và Ban Tư tưởng - Văn hoá Trung ương ban
hành quy định về việc xác định trình độ lý luận chính trị thì đối tượng được công
nhận có trình độ trung cấp lý luận chính trị gồm những người đã tốt nghiệp ở các
học viện, trường đại học, cao đẳng của các trường thuộc chuyên ngành kinh tế -
quản trị, kinh doanh, theo đó công chức Cục Quản lý thi ̣trường Hồ Chí Minh có
trình độ đại học chuyên ngành kinh tế, tài chính, quản trị đều được phiên ngang
sang trình độ lý luận chính trị là trung cấp. Tuy nhiên, đến năm 2009 thì Quyết định
số 12/QĐ/TC-TTVH bị bãi bỏ nên công chức Cục Quản lý thi ̣trường Hồ Chí Minh
phải tham gia các lớp trung cấp lý luận chính trị theo quy định, đặc biệt là các công
chức giữ chức vụ lãnh đạo và công chức thuộc nguồn quy hoạch lãnh đạo.
Bảng 2.9. Cơ cấu NNL theo trình độ quản lý nhà nước trong hệ thống
Cục Quản lý thi ̣trường Hồ Chí Minh
TT Trình độ SL SL SL Năm 2017 Tỷ lệ % Năm 2018 Tỷ lệ % Năm 2019 Tỷ lệ %
1 22 3,98 24 4,74 18 3,89
2 442 79,93 421 83,20 399 86,18 Chuyên viên chính và tương đương Chuyên viên và tương đương
3 Cán sự và tương đương 4 Khác
Tổng 55 34 553 9,94 6,15 100 31 0 463 45 16 506 6,69 8,09 0 3,16 100 100 (Nguồn: Phòng Tổ chức - Hành chính)
Đối với, chứng chỉ quản lý nhà nước ngạch chuyên viên và chuyên viên
chính, Cục Quản lý thi ̣trường Hồ Chí Minh thường xuyên cử công chức đi bồi
dưỡng kịp thời, một mặt nhằm nâng cao trình độ quản lý nhà nước cho công chức,
một mặt đảm bảo tiêu chuẩn chức danh cho công chức đã, đang và sẽ giữ chức vụ
lãnh đạo. Vì thế tỷ lệ công chức có trình độ quản lý nhà nước tăng lên theo các năm,
phù hợp với xu thế phát triển của đơn vị.
- Về trình độ tin học, ngoại ngữ
Khi thực hiện các nghiệp vụ quản lý thị trường, đòi hỏi người lao động phải
có một lượng kiến thức vững chắc và sự hiểu biết sâu rộng trong nhiều lĩnh vực để
43
phục vụ cho các nghiệp vụ đang đảm nhận. Bên cạnh đó, các công chức Cục Quản
lý thi ̣trường Hồ Chí Minh còn phải đáp ứng yêu cầu về trình độ ngoại ngữ, trình độ
tin học cũng như các kỹ năng cần thiết để tiếp cận với nền tri thức tiên tiến và hỗ trợ
đắc lực cho công việc. Đặc biệt là đội ngũ nguồn nhân lực làm trong lĩnh vực quản
lý thị trường rất cần thiết phải được nâng cao trình độ tin học để có thể thao tác
thành thạo trên các ứng dụng phần mềm trong công tác quản lý thu, chi ngân sách,
vừa bảo đảm tính hiệu quả, vừa bảo đảm được hiệu suất công việc và độ chính xác
cao. Chính vì thế, trình độ ngoại ngữ và tin học của đội ngũ công chức Cục Quản lý
thi ̣trường Hồ Chí Minh đã tăng lên đáng kể trong giai đoạn 2017-2019.
Bảng 2.10. Cơ cấu NNL theo trình độ tin học của Cục Quản lý thi ̣trường
Hồ Chí Minh
Năm 2017 Năm 2018 Năm 2019
TT Trình độ SL SL SL
1 Tin A và tương đương 2 Tin B và tương đương 3 Tin C và tương đương 4 Tin học theo Thông tư 03 5 Đại học, cao đẳng, trung cấp 6 Khác
218 217 0 0 30 88 553 Tỷ lệ % 39,42 39,24 0 0 5,42 15,91 100 200 206 0 12 36 52 506 Tỷ lệ % 39,53 40,71 0 2,37 7,11 10,27 100 159 190 0 39 45 30 463 Tỷ lệ % 34,34 41,04 0 8,42 9,72 6,48 100
Tổng (Nguồn: Phòng Tổ chức - Hành chính)
Bảng 2.11. Cơ cấu NNL theo trình độ ngoại ngữ của Cục Quản lý thi ̣trường
Hồ Chí Minh
Năm 2017 Năm 2018 Năm 2019
Tỷ lệ Tỷ lệ Tỷ lệ TT Trình độ SL SL SL % % %
1 A và tương đương 34 6,15 28 5,53 16 3,46
B và tương đương (A2 theo 2 372 67,27 343 67,78 312 67,38 Khung 6 bậc)
C và tương đương (B1 theo 3 31 5,60 50 9,88 59 12,74 Khung 6 bậc)
4 Đại học, cao đẳng, trung cấp 16 2,89 17 3,36 18 3,89
5 Khác 100 18,08 68 13,44 58 12,53
Tổng 553 100 506 100 463 100
(Nguồn: Phòng Tổ chức - Hành chính)
44
Đội ngũ công chức đã được củng cố về mặt tin học khá lớn cho thấy được
tầm quan trọng của công nghệ thông tin trong công tác quản lý tài chính. Trong giai
đoạn này, toàn Cục Quản lý thi ̣trường Hồ Chí Minh có trên 80% công chức được
đào tạo, bồi dưỡng tin học từ cơ bản đến nâng cao. Tuy nhiên, do khối lượng công
việc quá nhiều, công chức chủ yếu thao tác nhập liệu, tra soát hàng ngày trên các
phần mềm ứng dụng, còn xử lý kỹ thuật và khai thác triệt để ứng dụng thì chưa có,
chỉ tập trung vào một số công chức có trình độ am hiểu sâu hoặc do đội ngũ chuyên
về công nghệ thông tin hỗ trợ.
2.3.2. Đánh giá chất lượng nhân lực Cục quản lý thị trường Thành phố Hồ Chí
Minh thông qua các tiêu chí
2.3.2.1. Sức khỏe nguồn nhân lực
Sức khỏe là vốn quý nhất của con người. Bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức
khỏe là nhiệm vụ, trách nhiệm của mỗi người dân, của hệ thống chính trị và của
toàn xã hội.Tình trạng sức khỏe năm 2017 của công chức Cục Quản lý thi ̣trường
Hồ Chí Minh thông qua kết quả của 132 phiếu khảo sát như sau:
Bảng 2.12. Cơ cấu NNL theo tình trạng sức khỏe trong hệ thống Cục Quản lý
thi ̣trường Hồ Chí Minh
Tình trạng sức khỏe Số lượng (người) Tỷ lệ (%)
Tốt 54,55 72
Bình thường 45,55 60
Có vấn đề về sức khỏe 0 0
(Nguồn: Tính toán từ số liệu điều tra)
Thông qua kết quả khảo sát, cho thấy sức khỏe của công chức Cục Quản lý
thi ̣trường Hồ Chí Minh đủ điều kiện để thực hiện nhiệm vụ được giao.
* Ý thức, trách nhiệm của cá nhân đối với sức khỏe của bản thân
Sức khỏe cơ thể có thật sự khỏe hay không phải dựa vào các kết quả khám
chữa bệnh định kỳ hàng năm của người lao động. Đó có thể là các bệnh thường gặp
do ít vận động, do thói quen ăn uống thiếu dinh dưỡng thiếu khoa học hay các căn
bệnh hiểm nghèo do gen di truyền, do chủ quan trong việc chăm sóc sức khỏe gây
ra.Mỗi công chức trong Cục Quản lý thi ̣trường Hồ Chí Minh luôn ý thức được vấn
đề bảo vệ sức khỏe của cá nhân. Trong những năm qua, dù khối lượng và chất
lượng công việc ngày càng tăng nhưng công chức trong đơn vị luôn đoàn kết giúp
đỡ nhau, tạo điều kiện cho đồng nghiệp thay phiên nhau được nghỉ phép, nghỉ bù để
45
đi du lịch nghỉ mát cũng như đi khám chữa bệnh định kỳ. Nhận thức được sự ảnh
hưởng của sức khỏe đối với công việc và ý thức trách nhiệm cao trong việc bảo vệ
sức khỏe của cá nhân, mỗi công chức trong Cục Quản lý thi ̣trường Hồ Chí Minh đã
chăm sóc tốt cho sức khỏe của mình, không làm ảnh hưởng đến công việc chung, để
trung bình mỗi ngày một người có thể kiểm tra và nhập được 200 chứng từ. Có thể
nói trong những điều kiện khắc nghiệt nhất, áp lực nhất, công chức Cục Quản lý
thi ̣trường Hồ Chí Minh vẫn có đủ sức khỏe để đáp ứng các yêu cầu đặt ra trong
công việc chuyên môn.
* Sự quan tâm của Cục Quản lý thi ̣trường Hồ Chí Minh đối với sức khỏe
của người lao động
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề sức khỏe đối với chất lượng và
hiệu quả công việc, Cục Quản lý thi ̣trường Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến vấn đề
nâng cao thể lực, thể chất cho công chức trong toàn hệ thống. Điều đó được biểu
hiện thông qua các hoạt động thiết thực: phối hợp với Công đoàn, Đoàn thanh niên
và các đơn vị bạn tổ chức các hoạt động, chương trình thể dục thể thao khác nhau
như giải bóng đá, cầu lông, bóng bàn hay các trò chơi dân gian kép co, nhảy bao
bố… qua đó tăng cường tính đoàn kết, khả năng phối hợp đồng đội, góp phần nâng
cao ý thức rèn luyện thân thể, nâng cao thể lực của công chức, tạo giá trị tinh thần,
mang niềm vui tới cho người lao động. Trong những năm qua, Cục Quản lý
thi ̣trường Hồ Chí Minh luôn là đơn vị dẫn đầu trong các phong trào thi đua của
khối các cơ quan tài chính và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Đó là nhờ
vào sự đoàn kết, đồng sức đồng lòng của tập thể toàn đơn vị.
Cục Quản lý thi ̣trường Hồ Chí Minh luôn trang bị các dụng cụ cần thiết để bảo
vệ sức khỏe cho công chức đơn vị. Đối với bộ phận kho quỹ, tiếp xúc trực tiếp với tiền,
được trang bị các vật dụng thiết thực như máy đếm tiền, khẩu trang, xà phòng… Công
việc vệ sinh trụ sở cơ quan được thực hiện thường xuyên, ngoài việc tạo cảnh quan thì
còn tạo môi trường trong lành, sạch sẽ, an toàn cho người lao động.
Hàng năm, Cục Quản lý thi ̣trường Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến các chế
độ bảo hiểm cho người lao động, tham gia đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và
bảo hiểm thất nghiệp đầy đủ định kỳ; phối hợp với công đoàn tổ chức khám chữa
bệnh cho công chức tại các cơ sở y tế uy tín, giúp công chức an tâm công tác hoặc
phát hiện và chữa trị bệnh kịp thời. Trợ cấp khó khăn đột xuất và thăm hỏi kịp thời
đối với các công chức hoặc thân nhân công chức bị ốm đau, bệnh tật, không để họ
46
bị thiệt thòi, mặc cảm.Các chính sách, chế độ liên quan đến chăm sóc sức khỏe cho
công chức không ngừng được nâng cao. Đó là nguồn động viên tinh thần để các
công chức trong hệ thống luôn hăng say trong công việc, tham gia sôi nổi các phong
trào thể dục thể thao, rèn luyện sức khỏe, không ngừng phấn đấu vươn lên, vượt qua
mọi khó khăn, cống hiến trí lực cho sự nghiệp phát triển chung của ngành.
2.3.2.2. Trí lực
* Về năng lực của người lao động
Năng lực của mỗi công chức là khả năng vận dụng tổng hòa lượng kiến thức
chuyên ngành từ cơ bản đến nâng cao cùng với các kỹ năng liên quan vào quá trình
thực hiện công việc. Kiến thức lý thuyết tích lũy được có thể từ đào tạo bồi dưỡng,
có thể học tập từ đồng nghiệp, có thể từ thực tế công việc rút ra được kinh
nghiệm...Để người lao động tự đánh giá năng lực cá nhân của mình, cho kết quả cụ
thể như sau:
Bảng 2.13. Công chức tự đánh giá năng lực của bản thân của Cục Quản lý
thi ̣trường Hồ Chí Minh
Tiêu chí Điểm trung bình Tỷ lệ (%)
4,20/5 83,94 Nắm vững các qui định của pháp luật, chính (Tổng điểm/ 132 (Trung sách của ngành về nhiệm vụ được giao phiếu) bình/5*100)
Hiểu rõ các mục tiêu, đối tượng quản lý, các 4,17 83,48 nguyên tắc về nhiệm vụ được giao
Có kiến thức am hiểu về ngành, lĩnh vực được 4,20 83,94 giao
Có năng lực triển khai công việc, đảm bảo 4,19 83,79 tiến độ, hiệu quả
Am hiểu thực tiễn, kinh tế xã hội đối với lĩnh 4,00 80,00 vực quản lý và xu hướng phát triển ngành
(Nguồn: Tính toán từ số liệu điều tra)
Mỗi công chức, muốn hoàn thành tốt công việc, giảm thiểu sai sót đến mức
tối đa thì trước hết phải nắm vững các quy định của pháp luật, của ngành liên quan
đến những công việc mà mình phải thực hiện; phải nắm rõ đối tượng do mình quản
lý là ai, để từ đó sử dụng quyền hạn cho đúng, cho hợp lý nhằm đạt được mục tiêu
của công việc. Kiến thức là phương hướng giúp cho công chức giải quyết công việc
47
trong thực tế. Không có kiến thức hoặc kiến thức bị hạn hẹp thì lúng túng, mơ hồ
dẫn đến tình trạng làm theo cảm tính, làm cho xong, lạm quyền, quan liêu, ảnh
hưởng đến tập thể. Vì thế, yêu cầu đặt ra là công chức ngành Công thương nói
chung, lĩnh vực quản lý thị trường nói riêng phải có khả năng vận dụng lý thuyết
vào thực hành đồng thời lấy kinh nghiệm tích lũy được từ thực tiến làm cơ sở lý
luận cho bản thân.Qua khảo sát, có thể thấy năng lực của công chức Cục Quản lý
thi ̣trường Hồ Chí Minh đã đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ được giao. Các tiêu chí
về nhận thức, sự hiểu biết đối với kiến thức chuyên môn đến khả năng vận dụng lý
thuyết vào công việc đều đạt trên 80%, chứng tỏ năng lực của công chức đạt ở mức
độ tốt, chứ chưa thật sự xuất sắc, đủ để hoàn thành công việc được giao. Với tính
chất công việc của ngành công thương rất cần đội ngũ công chức có khối lượng kiến
thức rộng, liên quan đến nhiều lĩnh vực, có khả năng hiểu sâu và cập nhật kịp thời
các văn bản. Vì vậy, công chức Cục Quản lý thi ̣trường Hồ Chí Minh cần nỗ lực
hơn nữa, mở rộng thêm lượng kiến thức, không để bị động trong công việc.Cục
Quản lý thi ̣trường Hồ Chí Minh cần có những biện pháp khắt khe hơn, thường
xuyên tổ chức thi nghiệp vụ để trau dồi kiến thức cho công chức trong toàn hệ
thống.Thông qua kết quả đánh giá năng lực nhân viên của các chuyên gia là lãnh
đạo các cấp trong đơn vị, chúng ta thấy về cơ bản, các công chức trong hệ thống
Cục Quản lý thi ̣trường Hồ Chí Minh đã tạo được niềm tin cho lãnh đạo cấp trên.
Bảng 2.14. Lãnh đạo đánh giá năng lực nhân viên trong Cục Quản lý thi ̣trường
Hồ Chí Minh
Tiêu chí Điểm trung bình Tỷ lệ (%)
Kiến thức cơ sở và chuyên ngành 4,41 88,13
Kiến thức chắc về lý thuyết 4,31 86,25
Kiến thức vững trong thực hành 4,03 80,63
Kỹ năng giải quyết công việc tốt 4,16 83,13
Kiến thức sâu và rộng 3,34 66,88
Khả năng vận dụng kiến thức trong công việc 3,97 79,38
Năng lực nghiên cứu (sáng kiến, cải tiến) 3,53 70,63
(Nguồn: Tính toán từ số liệu điều tra)
Với thang điểm 5, điểm trung bình chung đối với năng lực của công chức
Cục Quản lý thi ̣trường Hồ Chí Minh được đánh giá là khá cao. Trong đó, kiến thức
cơ bản về chuyên ngành nắm tốt (88,13% và 86,25%), có kỹ năng giải quyết tốt
48
công việc (83,13%), khả năng vận dụng kiến thức tương đối tốt (80,63% và
79,38%), khả năng tự nghiên cứu các cải tiến để áp dụng vào công việc chưa cao
(70,63%), còn kiến thức sâu rộng thấp hơn (66,88%). Điều đó cho thấy, công chức
đã đáp ứng tốt yêu cầu nhiệm vụ được giao. Còn những kiến thức mang tầm nhìn
chiến lược chung, lâu dài và năng lực sáng tạo trong công tác thì chưa được đầu tư.
Phần nào ảnh hưởng đến năng lực hoạch định chính sách, lập kế hoạch trong công
việc của công chức. Trong thời gian tới, rất cần đến sự nỗ lực của từng cá nhân
trong việc tìm hiểu, nắm bắt thông tin kịp thời cũng như cách thức truyền tin của
đơn vị đến với cá nhân người lao động, để thông tin được gần gũi, dễ nhớ, dễ hiểu
và thiết thực với công việc hàng ngày.
* Về kỹ năng của người lao động
Trong quá trình làm việc, ngoài kiến thức chuyên môn và khả năng thực hiện
tốt công việc thì đòi hỏi người lao động cần phải có những kỹ năng mềm để bổ trợ
thêm cho công việc mang lại hiệu quả cao hơn.Kỹ năng của công chức thuộc Cục Quản
lý thi ̣trường Hồ Chí Minh được đánh giá thông qua hai hình thức, tự cá nhân đánh giá
và được đánh giá gián tiếp thông qua lãnh đạo quản lý các cấp. Cụ thể như sau:
Bảng 2.15. Đánh giá kỹ năng của công chức trong hệ thống Cục Quản lý thi ̣trường
Hồ Chí Minh
Tiêu chí Tỷ lệ (%) Tỷ lệ (%) Nhân viên tự đánh giá Đánh giá của lãnh đạo Điểm trung bình Điểm trung bình
Nắm rõ qui trình xây dựng các 3,99 79,85 3,53 70,63 phương án, kế hoạch, quyết định
Có phương pháp nghiên cứu,
tổng kết và đề xuất, cải tiến 3,75 75,00 3,82 76,40
nghiệp vụ quản lý
Có kỹ năng soạn thảo văn bản 4,40 88,03 3,68 73,60 và thuyết trình
Có năng lực làm việc độc lập, 4,17 83,33 3,49 69,69 phối hợp nhóm
Nhạy bén với thay đổi của môi 3,98 79,60 3,81 76,25 trường làm việc
Kỹ năng giao tiếp 4,14 82,80 3,75 75,00
(Nguồn: Tính toán từ số liệu điều tra)
49
Phần đông các công chức nghiệp vụ làm việc theo một quy trình có sẵn, ít
chủ động và sáng tạo. Nếu có thì chỉ là số ít. Theo kết quả điều tra thì kỹ năng xây
dựng các phương án, kế hoạch chiếm 79,85%, chỉ đạt ở mức khá, tương đối phù
hợp với kết quả đánh giá của lãnh đạo đối với nhân viên (70,63%). Một mặt do tính
chất công việc nhiều, thường xuyên, liên quan đến các phòng, bộ phận và bắt buộc
phải giải quyết dứt điểm, có thời hạn nên công chức không còn có nhiều thời gian
để nghiên cứu, lên kế hoạch hay đề xuất những giải pháp mang tính tối ưu cho công
việc, mặt khác là do sức ì của đại đa số công chức hiện nay, đặc biệt là công chức
không thuộc diện quy hoạch. Bên cạnh đó, vì chưa có kỹ năng thuyết phục cao và
còn ngại va chạm nên công tác tham mưu về công tác quản lý của cấp trên còn bị
hạn chế.
Hàng năm, Cục Quản lý thi ̣trường Hồ Chí Minh luôn có kế hoạch để các
công chức đăng ký các sáng kiến, cải tiến trong công việc. Công chức trong đơn vị
luôn hưởng ứng và tích cực đề xuất các giải pháp thiết thực do yêu cầu công việc
đặt ra. Theo kết quả điều tra từ nhân viên thì tiêu chí có phương pháp nghiên cứu,
tổng kết và đề xuất, cải tiến nghiệp vụ quản lý đạt 75%. Với tỷ lệ công chức trẻ
đông, chiếm trên 60% so với toàn bộ công chức của hệ thống, kỹ năng liên quan
đến soạn thảo văn bản, thuyết trình, giao tiếp được các nhân viên tự đánh giá là cao,
chiếm 88,03%. Trên thực tế tại các đơn vị, việc phân công công chức kiêm nhiệm
liên quan đến kỹ năng mềm chủ yếu tập trung vào các công chức trẻ, năng động,
tiếp thu và nắm bắt nhanh nghiệp vụ cũng như các ứng dụng công nghệ.
Do đặc thù công việc, làm việc theo một quy trình liên kết chặt chẽ giữa các
phòng hay bộ phận nghiệp vụ, đòi hỏi độ chính xác cao, đảm bảo an toàn toàn cho
tiền và tài sản của nhà nước nên buộc công chức trong đơn vị phải có sự phối hợp
nhịp nhàng trong công tác. Ý thức được trách nhiệm nặng nề đó, mỗi công chức
phải tự trang bị cho mình những kỹ năng căn bản để độc lập giải quyết tốt phần
hành công việc được giao, không để ảnh hưởng đến tập thể. Vì vậy, tiêu chí đánh
giá về năng lực làm việc độc lập, phối hợp nhóm do công chức tự đánh giá đạt
83,33%. Tuy nhiên, so với tỷ lệ đánh giá của lãnh đạo về tiêu chí này thì nhân viên
chỉ đạt 69,69%. Sự chênh lệnh này, có thể cách nhìn nhận khác nhau của hai nhóm
khảo sát. Đối với lãnh đạo chưa nhìn nhận được thực chất năng lực làm việc của
nhân viên, chưa tạo cơ hội để họ phát huy được sở trường của mình, sự đánh giá của
lãnh đạo đối với nhân viên còn mang tính chủ quan, phiến diện. Mặt khác, cũng có
50
thể nhân viên tự cảm thấy khả năng của mình thế là đạt yêu cầu, trong khi đó yêu
cầu của lãnh đạo cao hơn. Dù với lý do gì thì cũng cần có sự tương tác nhiều hơn nữa,
sâu sát hơn nữa, giảm dần khoảng cách giữa lãnh đạo và nhân viên trong đơn vị.
Đối với tiêu chí nhạy bén với sự thay đổi của môi trường chiếm tỷ lệ và kỹ
năng giao tiếp của nhân viên được lãnh đạo đánh giá lần lượt là 76,25% và 75%
(trong phiếu điều tra dành cho nhân viên, không có hai tiêu chí này nên tác giả để
giá trị 0) cho thấy công chức Cục Quản lý thi ̣trường Hồ Chí Minh có thể thích nghi
được với các lĩnh vực công tác khác nhau, có khả năng giao tiếp tốt. Đây sẽ là cơ sở
để Cục Quản lý thi ̣trường Hồ Chí Minh thực hiện kế hoạch luân chuyển, luân phiên
công tác, tạo tiền đề cho lực lượng lãnh đạo kế cận tương lai.
* Mức độ phù hợp của công việc với chuyên ngành đào tạo
Công tác bố trí việc làm phù hợp với năng lực của công chức hiện nay đang
dựa vào trình độ chuyên ngành đào tạo là chính. Theo kết quả điều tra trực tiếp các
nhân viên, cho kết quả như sau:
51
Bảng 2.16. Đánh giá mức độ phù hợp của công việc với chuyên ngành đào tạo của công chức trong Cục Quản lý thi ̣trường
Hồ Chí Minh
Tương đối phù Rất phù hợp Phù hợp Không ý kiến Không phù hợp hợp Mức độ đáp ứng công
SL Tỷ lệ SL Tỷ lệ SL Tỷ lệ SL Tỷ lệ SL Tỷ lệ việc
(người) (%) (người) (%) (người) (%) (người) (%) (người) (%)
Dưới 30 0 0 16 2 1,52 7 5,30 1 0,76 12,12
[30-45] 12 9,09 38 0 0 13 9,85 2 1,52 28,79 Nhóm tuổi
(tuổi) [46-50] 1 0,76 14 0 0 1 0,76 1 0,76 10,61
Trên 50 2 1,52 10 0 0 12 9,09 0 0 7,58
Dưới 5 0 0 14 0 0 7 5,30 0 0 10,61 Thời gian
công tác [5-15] 13 9,85 31 2 1,52 13 9,85 4 3,03 23,48
(năm) Trên 15 2 1,52 33 0 0 13 9,85 0 0 25,00
Tổng cộng 15 11,36 78 2 1,52 33 25,0 4 3,03 59,09
(Nguồn: Tính toán từ số liệu điều tra)
52
Công chức Cục Quản lý thi ̣trường Hồ Chí Minh được tuyển dụng đều phải
có trình độ chuyên ngành đào tạo kinh tế, thương mại, luật… và được phân công
công tác tại các bộ phận nghiệp vụ. Sau thời gian công tác, công chức phát huy
được năng lực, sở trường sẽ được theo dõi để đưa vào nguồn luân chuyển, điều
động khi cần nhân sự thay thế, bổ sung cho các bộ phận khác như văn phòng, tổ
chức, tài vụ, thanh tra..Theo kết quả điều tra, mức độ rất phù hợp giữa chuyên
ngành được đào tạo với vị trí công việc đảm nhận chiếm tỷ lệ 11,36%, tập trung chủ
yếu ở nhóm tuổi từ 30-45 (9,09%), có thời gian công tác từ 5-15 năm. Số công chức
này không những được bố trí công việc phù hợp để phát được năng lực chuyên môn
mà còn là những đối tượng đang được theo dõi, rèn luyện để trở thành lực lượng
lãnh đạo kế cận trong tương lai. Còn nhóm tuổi từ 46-50 và trên 50 chiếm tỷ lệ rất
ít, lần lượt là 0,76%, 1,52%. Đây có thể là những công chức có thâm niên công tác,
có năng lực chuyên môn sâu, là nhân tố quan trọng trong việc xử lý nghiệp vụ
nhưng không đủ điều kiện để bổ nhiệm chức vụ lãnh đạo.Đối với mức độ được
đánh giá là công việc phù hợp với chuyên ngành đào tạo đạt tỷ lệ cao nhất 59,09%.
Phân theo nhóm tuổi thì dưới 30 tuổi chiếm 12,12%, từ 30-45 chiếm 28,79%, từ 46-
50 chiếm 10,61%, trên 50 chiếm 7,58%. Phân theo thời gian công tác thì nhóm dưới
5 năm chiếm 10,61%, từ 5-15 năm chiếm 23,48%, trên 15 năm chiếm 25%. Điều
này cho thấy, mức độ phù hợp có mặt trong tất cả các độ tuổi cũng như các nhóm
thời gian công tác.Còn các mức độ còn lại gồm tương đối phù hợp, rất không phù
hợp và không có ý kiến chiếm tỷ lệ lần lượt là 25%, 3,03%, 1,52%. Trong đó, nhóm
tương đối phù hợp có thể do chuyên ngành đào tạo là kế toán nhưng lại điều động
làm những công việc thuộc lĩnh vực hành chính, thanh tra. Do chức năng, nhiệm vụ
của ngành là quản lý thị trường nên yêu cầu công chức phải có trình độ liên quan
đến lĩnh vực kinh tế. Tuy nhiên để bộ máy được vận hành thông suốt thì cần có các
bộ phận giúp việc nội ngành. Để tránh lãng phí nguồn lực, ngành Công thương
không tuyển dụng những công chức có chuyên ngành như nhân sự, lý luận hành
chính… mà thay vào đó là có kế hoạch theo dõi, rà soát công chức có những sở
trường phù hợp để chuyển đổi vị trí công tác, đảm nhận những lĩnh vực công việc
không phù hợp với chuyên ngành đào tạo. Trong quá trình làm việc, đơn vị sẽ tạo
điều kiện để công chức được đi học hoàn thiện thêm kiến thức thuộc lĩnh vực mình
đang đảm nhận. Công chức có thể học tiếp văn bằng hai hoặc bậc cao hơn hoặc chỉ
tham gia các lớp bồi dưỡng do ngành tổ chức.
53
* Mức độ hoàn thành công việc
Mức độ hoàn thành nhiệm vụ là một trong những tiêu chí quan trọng để đánh
giá năng lực chuyên môn của người lao động. Thông qua đó, giúp tổ chức rà soát lại
tình hình phân công công việc cho người lao động có phù hợp với trình độ, sở
trường của họ chưa, có phát huy được niềm đam mê trong công việc của người lao
động không và hiệu quả mang lại có thật sự cao. Theo số liệu điều tra cho thấy, mức
độ đáp ứng công việc của công chức Cục Quản lý thi ̣trường Hồ Chí Minh là rất tốt.
Bảng 2.17. Đánh giá mức độ đáp ứng công việc của công chức trong Cục Quản lý
thi ̣trường Hồ Chí Minh
Mức độ đáp ứng công việc
Nhóm tuổi (tuổi)
Thời gian công tác (năm) Dưới 30 [30-45] [46-50] Trên 50 Dưới 5 [5-15] Trên 15
Tổng cộng Đáp ứng tốt SL (người) 8 30 11 10 8 30 21 59 Tỷ lệ (%) 6,06 22,73 8,33 7,58 6,06 22,73 15,91 22,70 Đã đáp ứng SL (người) 16 35 6 14 13 31 27 71 Tỷ lệ (%) 12,12 26,52 4,55 10,61 9,85 23,48 20,45 53,79 Chưa đáp ứng Tỷ lệ (%) 1,51 0 0 0 0 1,51 0 1,51 SL (người) 2 0 0 0 0 2 0 2
(Nguồn: Tính toán từ số liệu điều tra)
Mức độ đáp ứng tốt yêu cầu công việc chiếm tỷ lệ 44,70%, tập trung chủ yếu
vào nhóm tuổi từ 30 đến 45 tuổi (22,73%), có thời gian công tác từ 5 đến 15 năm.
Đây là nhóm tuổi năng động nhất, làm việc hiệu quả nhất và là nguồn quy hoạch
cứng của đơn vị.Thời gian công tác đủ để lực lượng này có nền tảng kinh nghiệm
trong công tác chuyên môn, hiểu sâu về các nghiệp vụ quản lý thị trường, xử lý
công việc linh động, thích ứng nhanh với các môi trường công tác. Tuy nhiên, vẫn
còn rất nhiều công chức thuộc nhóm tuổi từ 30 đến 45 tuổi chỉ mới đáp ứng được
công việc, tức là ở mức độ hoàn thành công việc, chiếm tỷ lệ khá cao 26,52%. Có
thể do nhiều yếu tố tác động mà họ không có động lực để cống hiến hết mình cho
công việc chuyên môn. Cũng có thể do sự bố trí phân công công việc chưa phù hợp,
chưa phát huy được sở trường của công chức. Các nhóm tuổi từ 46 trở lên, mức độ
đáp ứng tốt và đã đáp ứng được công việc chiếm tỷ lệ lần lượt là 15,91% và
15,16%, thấp hơn nhóm tuổi từ 30 đến 45 tuổi. Có thể thấy đó là sự phù hợp khách
quan.Vì khi công nghệ thông tin được đưa vào ngành quản lý thị trường ngày càng
nhiều, đòi hỏi tốc độ làm việc ngày càng nhanh và chính xác thì các công chức lớn
54
tuổi không thể đáp ứng tốt các yêu cầu chuyên môn như các công chức trẻ được.
Xuất hiện 1,51% công chức chưa đáp ứng được nhiệm vụ có thể rơi vào các trường
hợp sau: trong năm, có một công chức nghỉ không ăn lương do trong quá trình
mang thai, sức khỏe không đảm bảo nên cần được nghỉ dưỡng theo yêu cầu của bác
sĩ; còn một công chức nghỉ ốm dài hạn do bệnh hiểm nghèo.
Có thể thấy, chất lượng, hiệu quả công việc rất tương xứng với từng độ tuổi
và thời gian công tác.Nội lực của công chức cùng với công tác quản lý nguồn nhân
lực của Cục Quản lý thi ̣trường Hồ Chí Minh đã tạo được môi trường để công chức
trong hệ thống phát huy được năng lực.Tuy nhiên, trong thời gian tới, cần nâng cao
công tác quản lý tốt hơn nữa nhằm khuyến khích, tạo cơ hội cho các công chức khác
thuộc độ tuổi tiềm năng, cống hiến nhiều hơn nữa cho đơn vị.Bên cạnh kết quả có
được về mức độ hoàn thành công việc do công chức trong đơn vị tự đánh giá thì
thông qua chỉ số hài lòng về kết quả, tiến độ giải quyết công việc của công chức tại
Cục Quản lý thi ̣trường Hồ Chí Minh do khách hàng đánh giá cũng cho thấy năng
lực của công chức được đánh giá rất khách quan và tăng dần qua các năm.
* Đạo đức nghề nghiệp
Xuất phát từ công việc đặc thù của ngành công thương trong lĩnh vực quản lý
thị trường, vấn đề phẩm chất đạo đức nghề nghiệp của công chức ngành công
thương nói chung và Cục Quản lý thi ̣trường Hồ Chí Minh nói riêng là vấn đề nhảy
cảm luôn được lãnh đạo các cấp quan tâm.
- Thái độ và văn hóa ứng xử trong quá trình thực thi công vụ
Bảng 2.18. Đánh giá trách nhiệm của công chức đối với đồng nghiệp
Cục Quản lý thi ̣trường Hồ Chí Minh
Điểm trung bình Tỷ lệ (%)
4,19 83,75 Nội dung Trách nhiệm đối với đồng nghiệp
(Nguồn: Tính toán từ số liệu điều tra)
Theo kết quả điều tra về trách nhiệm của công chức đối với đồng nghiệp, ta
thấy trách nhiệm của công chức đối với đồng nghiệp là rất tốt, đạt 83,75%. Cục
Quản lý thi ̣trường Hồ Chí Minh có một truyền thống đoàn kết, quan tâm, chia sẻ,
giúp đỡ, chân thành, hỗ trợ, phối hợp với nhau trong công việc và trong cuộc sống.
Với truyền thống đó, công chức Cục Quản lý thi ̣trường Hồ Chí Minh đã xuất sắc
hoàn thành được tất cả mọi công việc được giao, xây dựng một tập thể vững mạnh
suốt những năm qua.Thông qua chương trình đại hội cán bộ công chức hàng năm,
55
Cục Quản lý thi ̣trường Hồ Chí Minh đã phát huy được tính dân chủ trong quần
chúng. Qua đó công chức được quyền bày tỏ những nguyện vọng, thắc mắc của cá
nhân và được ban lãnh đạo trả lời thấu đáo, tạo niềm tin cho công chức. Trong các
chương trình công tác giao ban của tập thể lãnh đạo cũng như các cuộc họp đánh giá
của quần chúng đối với đảng viên, các cuộc họp lấy ý kiến tín nhiệm đối với công
chức giữ chức vụ lãnh đạo, công chức tham dự đã thẳng thắn góp ý với thái độ tích
cực, cầu tiến để cùng nhau rút kinh nghiệm, sửa chữa, thực hiện công việc với chất
lượng tốt hơn. Công chức Cục Quản lý thi ̣trường Hồ Chí Minh tuyệt đối tin tưởng
vào sự công tâm, sáng suốt của tập thể lãnh đạo. Công chức lãnh đạo, quản lý luôn
nắm bắt kịp thời tâm lý, phát huy khả năng, kinh nghiệm, tính sáng tạo, chủ động
của công chức; tạo điều kiện học tập và bảo vệ danh dự của công chức khi bị phản
ánh, khiếu nại, tố cáo không đúng sự thật. Điều đó được thể hiện qua việc phục
tùng, chấp hành quyết định của cấp trên và của tổ chức. Công chức sẵn sàng nhận
nhiệm vụ khi tổ chức giao, không sợ khó sợ khổ mà lùi bước và sự hi sinh của họ
luôn được đền đáp xứng đáng. Theo kết quả điều tra về trách nhiệm của công chức
đối với đồng nghiệp, ta thấy như sau:
+ Thái độ và cách xử sử của công chức đối với khách hàng và người dân.
Với những người làm nghề quản lý thị trường, ý thức về nghề nghiệp luôn được họ
trân trọng, tự hào. Có thể thấy, hầu hết các công chức Cục Quản lý thi ̣trường Hồ
Chí Minh hiện nay đều có trình độ chuyên môn cao, am hiểu nghiệp vụ. Đặc biệt,
đại đa số công chức đều có lối sống giản dị, có thái độ lịch sự, gần gũi, nghiêm túc,
khiêm tốn, tôn trọng, lắng nghe, ngôn ngữ giao tiếp chuẩn mực, rõ ràng; công tâm,
khách quan, tận tình hướng dẫn khách hàng thực hiện quy trình, thủ tục theo quy
định khi giải quyết công việc.Tuy nhiên cũng phải thẳng thắn thừa nhận, trong cuộc
sống hôm nay, đâu đó vẫn còn có công chức không giữ được nét đẹp truyền thống
này, đã làm ảnh hưởng đến đạo đức nghề nghiệp. Và cũng không tránh khỏi tình
trạng quá tải vì công việc nên đôi khi có công chức đã ứng xử không phù hợp với
khách hàng đến giao dịch, với đồng nghiệp trong đơn vị… Điều đó được thể hiện
qua công tác đánh giá mức độ hài lòng của khách hàng đối với công chức Cục Quản
lý thi ̣trường Hồ Chí Minh.Bên cạnh đó còn tồn tại một số ít công chức có thái độ
thờ ở, rề rà, không quan tâm đến khách hàng. Là những người hàng ngày tiếp xúc
với tiền bạc, với những người nộp tiền cho Nhà nước, người thụ hưởng quỹ công,
buộc các công chức phải hạn chế đến mức tối đa thái độ cục cằn thô lỗ, phát huy
56
văn hóa giao tiếp của ngành quản lý thị trường, sự tận tình, lịch sự, đậm sâu chất
nhân văn. Cục Quản lý thi ̣trường Hồ Chí Minh cần có các biện pháp xử lý nghiêm
những trường hợp này, để làm gương cho mọi người, gìn giữ hình ảnh công chức
ngành Công thương tận tụy, gương mẫu trong dân.
- Mức độ thực hiện trách nhiệm trong công việc
Trách nhiệm trong công việc của người công chức Cục Quản lý thi ̣trường
Hồ Chí Minh đối với xã hội, được điều tra và cho kết quả như sau:
Bảng 2.19. Đánh giá mức độ thực hiện trách nhiệm công việc của công chức
Cục Quản lý thi ̣trường Hồ Chí Minh
Điểm trung bình Tỷ lệ (%)
5,00 100,00
Tiêu chí Tuân thủ chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước Tuân thủ quy định của ngành, cơ quan và đơn vị Trách nhiệm trong công việc được phân công Tinh thần cầu tiến trong công việc Tác phong làm việc 4,91 4,25 4,47 4,03 98,13 85,00 89,38 80,63
(Nguồn: Tính toán từ số liệu điều tra)
Theo báo cáo của Ban thanh tra nhân dân, trong những năm qua công chức
Cục Quản lý thi ̣trường Hồ Chí Minh đã thực hiện tốt các quy định chung của cơ
quan. Với phương châm một cá nhân không làm nên tập thể, một tập thể không vì
một cá nhân nên mỗi công chức đều ý thức được trách nhiệm của cá nhân đối với
tập thể. Thông qua chương trình công tác hàng tháng, quý, năm, Cục Quản lý
thi ̣trường Hồ Chí Minh luôn quán triệt đến công chức trong hệ thống về ý thức
trách nhiệm trong công tác, phải trung thực, thẳng thắn trong công tác và quan hệ
đồng chí, đồng nghiệp; không gây phiền hà, sách nhiễu, kiên quyết đấu tranh với
những hành vi chạy chức, chạy quyền, quan liêu, hách dịch, tham ô, tham nhũng,
lãng phí; bảo vệ danh dự, uy tín của ngành. Để có được các tác phong đó, Cục Quản
lý thi ̣trường Hồ Chí Minh đã tổ chức học tập các quy chế làm việc; chế độ thưởng
phạt, kỷ luật của đơn vị.Đồng thời, có cơ chế kiểm tra giám sát hợp lý, chặt chẽ việc
thực hiện các nội quy, quy chế của các công chức.Xây dựng và làm việc dân chủ,
văn hóa nơi công sở trong Cục Quản lý thi ̣trường Hồ Chí Minh. Nhờ đó tâm lý làm
việc của công chức luôn cởi mở, thoải mái, phát huy được tính chủ động sáng tạo
của các cá nhân trong công việc làm hiệu quả công việc được nâng cao. Để thực
hiện việc giữ vững đạo đức nghề nghiệp, tác phong làm việc chuyên nghiệp hiện
đại, Cục Quản lý thi ̣trường Hồ Chí Minh thường xuyên phát động các phong trào
57
thi đua trong cơ quan trong các dịp lễ lớn của đất nước. Các phong trào được toàn
thể công chức hưởng ứng nhiệt tình. Gắn liền với đó là việc kiểm tra giám sát, có
tổng kết và khen thưởng và nhắc nhở, phê bình kịp thời trong các phong trào. Do
đó, phẩm chất đạo đức, tác phong nghề nghiệp của các cán bộ công chức Cục Quản
lý thi ̣trường Hồ Chí Minh không ngừng được nâng cao và giữ vững.
- Trách nhiệm đối với công việc được giao
Với lòng yêu ngành, yêu nghề và bằng tất cả sự nhiệt huyết, dám làm, dám
chịu, toàn bộ công chức Cục Quản lý thi ̣trường Hồ Chí Minh luôn quyết tâm, một
lòng thực hiện tốt các nhiệm vụ được giao. Có tận mắt chứng kiến những ngày cuối
tháng, cuối năm, những ngày cao điểm, họ rời khỏi nhà từ sáng sớm đến đêm khuya
mới được trở về, không có ngày thứ Bảy, Chủ nhật, ngày lễ… mới thấy hết được sự
tận tâm với công việc của họ. Công chức Cục Quản lý thi ̣trường Hồ Chí Minh luôn
vì nghề, vì nghiệp; có những tấm gương trong sạch đã trả lại tiền thừa cho khách
hàng, quyết tâm giữ vững lập trường không thanh toán những khoản trái quy định.
Bên cạnh đó vẫn còn một số ít công chức chưa thực sự tận tâm tận lực với nghề,
không chịu khó nghiên cứu học tập nên hiệu quả công việc chưa cao. Bên cạnh sự
cố gắng, nỗ lực trong công việc, đòi hỏi công chức phải tạo lập cho bản thân một
phương pháp làm việc khoa học hơn, chủ động hơn, đáp ứng nhanh những yêu cầu
của lãnh đạo thì mới nâng cao được tinh thần trách nhiệm trong công việc. Nếu
công chức có tinh thần cầu tiến, nhưng phong cách làm việc thụ động, quan liêu sẽ
ảnh hưởng đến đạo đức nghề nghiệp. Tình cảm đạo đức không trong sáng là nguyên
nhân đánh mất lòng tự trọng của người công chức. Vì vậy thông qua trách nhiệm
của công chức đối với nghề nghiệp mà công chức mới hoàn thiện được bản thân, tạo
hình ảnh đẹp và nhân cách tốt của người công chức ngành quản lý thị trường. Theo
kết quả điều tra, công chức trong đơn vị luôn có tinh thần cầu tiến và tác phong làm
việc nhanh nhẹn, đạt lần lượt là 89,38%, 80,63%. Để đạt được những kết quả như
hôm nay, Cục Quản lý thi ̣trường Hồ Chí Minh thường xuyên sửa đổi, bổ sung kịp
thời quy chế làm việc của đơn vị, tăng cường kỷ cương kỷ luật trong từng lĩnh vực
công tác; đồng thời giao trách nhiệm cụ thể cho các cá nhân, đơn vị liên quan triển
khai thực hiện nghiêm túc, có sự kiểm tra, giám sát của bộ phận liên quan. Song
song với đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn, Cục Quản lý thi ̣trường Hồ Chí
Minh luôn đẩy mạnh công tác giáo dục trau dồi phẩm chất đạo đức của cán bộ công
chức nhằm nâng cao phẩm chất đạo đức tốt, lối sống lành mạnh, vượt qua cám dỗ
58
của cơ chế thị trường, đoàn kết, thống nhất ý chí và hành động, nỗ lực vượt qua khó
khăn và luôn luôn hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ chính trị được giao. Kết quả hàng
năm cho thấy, công chức Cục Quản lý thi ̣trường Hồ Chí Minh luôn yêu ngành, yêu
nghề, tâm huyết, tận tụy với công việc, luôn hoàn thành nhiệm vụ được giao, đảm
bảo chất lượng cao nhất, không để xảy ra tình trạng tồn đọng hồ sơ thanh toán mà
không có nguyên nhân, không để thất thoát, lãng phí tiền của nhà nước thông qua
việc nắm vững quy định của nhà nước để chi đúng, chi đủ, ngăn chặn kịp thời các
khoản chi sai mục đích của các đơn vị sử dụng ngân sách trên địa bàn.
* Các hoạt động quản lý và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực tại Cục
Quản lý thi ̣trường Hồ Chí Minh
Theo kết quả điều tra về công tác quản lý chất lượng nguồn nhân lực tại Cục
Quản lý thi ̣trường Hồ Chí Minh dưới cách nhìn nhận của tập thể công chức trong
toàn đơn vị, kết quả thu được như sau:
Bảng 2.20. Đánh giá các hoạt động quản lý chất lượng nguồn nhân lực trong Cục
Quản lý thi ̣trường Hồ Chí Minh
Điểm trung bình Tỷ lệ (%)
4,20 84,09
4,11 82,27
4,08 81,67
4,15 83,03 Tiêu chí Xây dựng tốt công tác quy hoạch lãnh đạo các cấp và được công bố công khai Xây dựng và thực hiện có hiệu quả công tác luân chuyển, điều động, chuyển đổi vị trí công việc đối với công chức Xây dựng và thực hiện có hiệu quả công tác bố trí, sắp xếp công chức phù hợp với năng lực và vị trí việc làm Bồi dưỡng, phát triển đội ngũ lãnh đạo và quản lý kế cận
(Nguồn: Tính toán từ số liệu điều tra)
Ngoài công tác chuyên môn, công chức Cục Quản lý thi ̣trường Hồ Chí Minh
đã thể hiện được trách nhiệm của cá nhân đối với tổ chức thông qua thang điểm
đánh giá hết sức khách quan, điểm trung bình là 4,2, đạt 84,09%. Công tác quy
hoạch luôn được Cục Quản lý thi ̣trường Hồ Chí Minh quan tâm bởi đó là nguồn lực
kế cận chính chèo lái con thuyền để đưa tập thể phát triển. Đồng thời, tạo môi
trường để nguồn nhân lực cao này phát huy được năng lực, xây dựng nền tảng vững
chắc để đảm nhận trọng trách trong tương lai.Công tác xây dựng và thực hiện có
hiệu quả công tác luân chuyển, điều động, chuyển đổi vị trí công việc đối với công
chức được đánh giá là 4,11 điểm, đạt 82,27%. Cục Quản lý thi ̣trường Hồ Chí Minh
59
luôn xây dựng kế hoạch luân chuyển, điều động, chuyển đổi vị trí công tác của năm
tiếp theo vào thời điểm tháng 12 của năm hiện tại và của giai đoạn tiếp theo vào
tháng 12 của năm kết thúc một giai đoạn. Công tác luân chuyển, điều động, chuyển
đổi vị trí công tác được thực hiện đúng theo yêu cầu của ngành, được đảm bảo công
khai, hợp lý, chủ động lâu dài và có sự chuyển tiếp, kế thừa. Công tác xây dựng và
thực hiện có hiệu quả công tác bố trí, sắp xếp công chức phù hợp với năng lực và vị
trí việc làm được thực hiện thường xuyên qua các năm thông qua kết quả đánh giá
công chức hàng năm và nhu cầu của từng đơn vị. Chỉ tiêu này được đánh giá đạt
81,67%. Bên cạnh những công chức trẻ có đủ năng lực để bố trí công việc phù hợp
thì còn một số công chức do lớn tuổi nên khó thích ứng với yêu cầu công việc ngày
càng cao.Đối với tiêu chí bồi dưỡng, phát triển đội ngũ lãnh đạo và quản lý kế cận,
được đánh giá đạt 83,03%. Hiện nay, đội ngũ lãnh đạo kế cận trong đơn vị cơ bản
đã và đang được theo dõi, đào tạo, nâng cao trình độ cao về chuyên môn, quản lý để
sẵn sàng cho công tác bổ nhiệm khi có nhu cầu.
* Công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực
Muốn có công chức giỏi phải đào tạo, bồi dưỡng, phải có kế hoạch lâu dài,
phải đầu tư cho đúng. Đào tạo, bồi dưỡng những người ưu tú, đã được rèn luyện thử
thách để có thể bổ nhiệm vào những vị trí lãnh đạo, quản lý phù hợp và đào tạo
những người thừa hành công việc để nâng cao tay nghề, đạo đức nghề nghiệp.Theo
thống kê điều tra đối với nhân viên về công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân
lực, kết quả như sau:
Bảng 2.21. Đánh giá công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực trong
Cục Quản lý thi ̣trường Hồ Chí Minh
Tiêu chí Điểm trung bình Tỷ lệ (%)
Công chức Cục được đào tạo và phát 4,18 83,64 triểnkỹ năng nghề nghiệp đạt chuẩn
Công chức Cục được nâng cao kỹ năng 4,07 81,36 ứng xử, giao tiếp công vụ
(Nguồn: Tính toán từ số liệu điều tra)
Qua kết quả điều tra cho thấy, thái độ đồng tình, nhất trí của công chức đối
với công tác đào tạo, phát triển nguồn nguồn nhân lực của cơ quan. Tiêu chí công
chức được đào tạo và phát triển kỹ năng nghề nghiệp đạt chuẩn là 83,64% và tiêu
chí nâng cao kỹ năng ứng xử, giao tiếp công vụ của công chức đạt 81,36%. Bên
60
cạnh sự nỗ lực trau dồi kiến thức nghề nghiệp của công chức, còn có sự hỗ trợ đắc
lực của Cục Quản lý thi ̣trường Hồ Chí Minh thông qua các kế hoạch và chương
trình đào tạo nhằm nâng cao chuyên môn, trình độ lý luận chính trị và kiến thức phụ
trợ khác, xây dựng nên phong cách người công chức Công thương tài đức vẹn toàn.
Tuy nhiên, kỹ năng giao tiếp, ứng xử, chủ yếu do công chức tự học hỏi, điều chỉnh
là chính. Thông qua chương trình công tác tháng, quý, năm hay hội nghị cán bộ
công chức, trên cơ sở quy định cung của ngành, đơn vị về văn minh văn hóa nghề
quản lý thị trường, Cục Quản lý thi ̣trường Hồ Chí Minh mới đánh giá, rút kinh
nghiệm và khắc phục hạn chế, chứ chưa tổ chức được những lớp đào tạo riêng về kỹ
năng ứng xử, giao tiếp với đồng nghiệp, khách hàng.
Cục Quản lý thi ̣trường Hồ Chí Minh thường chú trọng các khóa đào tạo chủ
yếu là bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, quản lý nhà nước và lý luận chính trị.
Riêng đào tạo đại học và sau đại học chủ yếu là do công chức tự túc thời gian và
kinh phí học tập.
* Công tác điều động, luân phiên, chuyển đổi vị trí công tác
Thực tế cho thấy công tác luân chuyển công chức lãnh đạo đã phát huy hiệu quả
trong việc nâng cao chất lượng đội ngũ công chức lãnh đạo, tạo môi trường, điều kiện để
công chức lãnh đạo được đào tạo, bồi dưỡng, tích lũy kinh nghiệm thực tế. Bên cạnh đó,
góp phần phát hiện và phát huy năng lực, sở trường của công chức.Tạo nguồn công
chức, khắc phục tình trạng hụt hẫng, bị động và trì trệ trong công tác cán bộ.
Đối với điều động, chuyển đổi vị trí công tác của công chức thừa hành, ở
những đơn vị thực hiện tốt công tác này, trình độ chuyên môn nghiệp vụ của công
chức từng bước được nâng cao.Đa số công chức chuyển đổi vị trí công tác đều phát
huy được vai trò, trách nhiệm và hoàn thành nhiệm vụ được giao.
Việc điều động, chuyển đổi vị trí công tác đã tạo sự công bằng tương đối
giữa các vị trí công tác.Đây cũng là biện pháp hữu hiệu để ngăn ngừa sai
phạm.Tránh xảy ra hiện tượng tiêu cực trong công tác.Mặt khác, công tác này
không những tạo môi trường, điều kiện để công chức được đào tạo, bồi dưỡng nâng
cao trình độ mà còn giúp công chức tích lũy kinh nghiệm thực tế. Ngoài ra, việc
điều động, chuyển đổi vị trí công tác cũng góp phần điều chỉnh, tăng cường công
chức có chuyên môn nghiệp vụ cho các lĩnh vực quản lý khi có yêu cầu, khắc phục
tình trạng cục bộ trong từng đơn vị.
Từ những kết quả trên cho thấy, luân chuyển, điều động công chức trong hệ
thống Cục Quản lý thi ̣trường Hồ Chí Minh là thực hiện một chủ trương đúng, là một
61
trong những nội dung quan trọng trong công tác cán bộ, góp phần tích cực vào thực
hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của ngành. Tuy nhiên, từ thực tế đã đặt ra yêu cầu
phải có sự đánh giá, nhìn nhận lại, để qua đó nâng cao hiệu quả của công tác này.
2.4. Đánh giá chung về hoạt động đánh giá chất lượng nhân lực tại Cục quản lý
thị trường Thành phố Hồ Chí Minh
2.4.1. Kết quả đạt được
- Tập thể Cục Quản lý thi ̣trường Hồ Chí Minh là một tập thể đoàn kết, thống
nhất từ ý kiến đến hành động. Hăng hái thi đua, không phân biệt cấp độ quản lý; tận
tụy, kiên trì, gương mẫu, phấn đấu hết mình để hoàn thành tốt công việc; rèn luyện
đạo đức, tác phong của người công chức làm việc vì dân.
- Nguồn nhân lực luôn được đảm bảo về số lượng, có sự kế thừa, thay thế kịp
thời, lực lương công chức luôn ở mức duy trì ổn định, không để xảy ra tình trạng bị
động trong công tác cán bộ.
- Sức khỏe của người lao động được đảm bảo. Các chế độ, chính sách liên
quan đến quyền lợi của người lao động luôn được quan tâm, giải quyết thỏa đáng,
tạo niềm tin, động lực để người lao động tiếp tục cống hiến trí lực góp phần hoàn
thành nhiệm vụ chung của đơn vị.
- Người lao động được bố trí công việc phù hợp với trình độ chuyên môn và
kỹ năng làm việc. Phát huy được sở trường của từng cá nhân. Tạo nên sự sáng tạo,
tính năng động, yêu nghề trong đại bộ phận các công chức toàn đơn vị.
- Thông qua công tác đào tạo, phát triển nguồn nhân lực, tiêu chuẩn chức
danh của người lao động được đảm bảo; trình độ chuyên môn, lý luận chính trị ngày
một nâng cao; kỹ năng làm việc chuyên nghiệp hơn, các ứng dụng công nghệ được
sử dụng và phát huy tối đa trong công việc.
- Thông qua công tác tuyển dụng, Cục Quản lý thi ̣trường Hồ Chí Minh đã
tuyển dụng được những công chức trẻ thật sự có chất lượng, tốc độ làm việc và sử
dụng công nghệ thông tin nhanh, chính xác, đạt hiệu quả cao trong công việc.
- Công tác quy hoạch, bổ nhiệm, điều động, chuyển đổi vị trí công tác được
thực hiện đúng quy định, quy trình, dân chủ và khách quan. Hàng năm, luôn được
bổ sung, thay thế kịp thời. Không để bỏ sót công chức giỏi, có năng lực toàn diện,
đồng thời không để những công chức lợi dụng quyền lợi để lạm quyền.
Công chức Cục Quản lý thi ̣trường Hồ Chí Minh luôn thực thi đúng chính sách
hoàn thành công việc được giao, có tinh thần trách nhiệm, có khả năng nắm bắt các vấn
đề mới, có ý thức học tập và rèn luyện, chấp hành tốt các chủ trương chính sách của
62
Đảng, pháp luật của Nhà nước. Phần lớn đội ngũ công chức lãnh đạo có năng lực lãnh
đạo điều hành, có phẩm chất đạo đức, có lập trường tư tưởng chính trị vững vàng, có
trình độ chuyên môn được đào tạo cơ bản. Đội ngũ công chức đã hoàn thành tốt các
nhiệm vụ được giao, góp phần vào thành tựu chung của công cuộc đổi mới.
2.4.2. Hạn chế và nguyên nhân
- Một bộ phận công chức chưa xây dựng kế hoạch công tác dẫn đến tình
trạng bị động trong công việc. Làm việc theo lối mòn, không khoa học, làm để hoàn
thành công việc chứ không có tính sáng tạo, chuyên sâu. Vì vậy, khi gặp sự cố,
thiếu tự tin và không có khả năng tự xử lý.
- Các kỹ năng mềm và làm việc nhóm của công chức chưa được trau dồi,
phát huy, còn nặng về kết quả công việc thuần túy. Chỉ mới tập trung vào bộ phận
công chức trẻ.
- Một số công chức được sử dụng, bố trí công việc chưa phù hợp với chuyên
ngành đào tạo hoặc kỹ năng, năng lực của cá nhân nên chưa phát huy tốt sở trường
công tác.
- Nhu cầu học tập nâng cao trình độ còn mang tính đối phó, chưa thường
xuyên, chưa trọng tâm, chưa có chất lượng. Học để đảm bảo đủ bằng cấp chứ học
chưa đi đôi với hành, lý luận và thực tiễn còn xa rời nhau, chưa ứng dụng được vào
công tác chuyên môn dẫn đến tình trạng học tràn lan, không hiệu quả.
- Xây dựng nhu cầu và tổ chức thực hiện đào tạo, cũng như kiểm tra, đánh
giá và sử dụng công chức sau đào tạo chưa đạt được kết quả như mong muốn, chưa
phù hợp với tình hình thực tế của đơn vị, chưa có tính chiến lược lâu dài.
- Công tác đánh giá năng lực thực hiện công việc của công chức cũng như công
tác khen thưởng còn chung chung, chưa thật sự đi vào chiều sâu, còn mang tính nể
nang, đại khái. Chưa có sự động viên thiết thực về mặt vật chất và tinh thần để tạo
được động lực thật sự cho công chức trực tiếp thực hiện công việc chuyên môn.
- Công tác điều động, luân phiên, chuyển đổi vị trí công tác đối với những
công chức thuộc diện quy hoạch lãnh đạo triển khai chưa quyết liệt nên nhiều công
chức hầu như chỉ nắm rõ nghiệp vụ được đảm nhận thông qua kinh nghiệm được
tích lũy. Trong khi đó, tiêu chuẩn chức danh lãnh đạo các cấp là ngoài nghiệp vụ do
mình phụ trách thì công chức phải nắm được tất cả các nghiệp vụ của ngành, phải
thích ứng được với mọi môi trường làm việc khi được tổ chức giao phó.
63
- Đối với đội ngũ nhân lực trẻ là sinh viên mới tốt nghiệp đại học được tuyển
dụng nhìn chung đã phát huy được những thế mạnh của mình, tuy nhiên chưa thể
nhanh chóng đáp ứng tốt được công việc do mới được đào tạo cơ bản về mặt lý
thuyết cũng như kiến thức về kinh tế, tài chính, quản lý nhà nước… Mà trong thực
tế công tác quản lý tài chính đòi hỏi phải có sự vận dụng kiến thức đã học một cách
đúng đắn, chính xác và hiệu quả trong công việc. Vì vậy, đội ngũ công chức trẻ cần
phải được đào tạo, đào tạo tại chỗ thường xuyên, liên tục và phải luôn có sự giám
sát, đánh giá đúng năng lực, một mặt tạo điều kiện cho họ phát huy sở trường. Mặt
khác giúp họ có ý thức tự giác trong việc học tập nâng cao trình độ, học tập kinh
nghiệm từ đồng nghiệp cũng như nêu cao tinh thần trách nhiệm của cá nhân để đáp
ứng tốt các yêu cầu công việc.
Nguyên nhân của hạn chế
* Nguyên nhân chủ quan
- Một số công chức bị chi phối bởi sức khỏe, tuổi tác, gia đình, các vấn đề xã
hội… nên khả năng tiếp thu còn hạn chế, thiếu động lực trong việc học hỏi, nghiên cứu
để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Chế độ kiểm tra giám sát, tổng kết đánh
giá công chức của các đơn vị còn mang tính hình thức, nể nang, có phần sơ sài, buông
lỏng, tạo tiền lệ cho công chức ỷ lại, thiếu tinh thần trách nhiệm trong công tác.
- Do đặc thù công việc của ngành, tiếp xúc chủ yếu với khách hàng là các doanh
nghiệp, chủ thể kinh doanh và tội phạm buôn lậu, hàng giả, hàng nhái…; khối lượng,
chất lượng công việc ngày một nhiều; làm việc theo quy định, đúng quy trình, tuyệt đối
phải chính xác, đảm bảo an toàn tiền và tài sản của nhà nước nên công chức chỉ đủ thời
gian để hoàn thành tốt nhiệm vụ chuyên môn và ít cần đến các kỹ năng mềm như thuyết
trình… đa phần chỉ tập trung chủ yếu ở một số công chức lãnh đạo.
- Việc đánh giá công chức thường diễn ra vào thời điểm cuối năm, trùng với
thời điểm vất vả nhất của công chức ngành quản lý thị trường, vì vậy các phòng
nghiệp vụ không có nhiều thời gian để họp đánh giá thực chất cho từng công chức
trong đơn vị. Nếu trong thời điểm nhảy cảm nhất, công chức cần tập trung mọi
nguồn lực để giải quyết công việc với độ chính xác cao mà bị đánh giá không tốt thì
sẽ ảnh hưởng rất lớn đến tâm trạng và mức độ hoàn thành công việc. Vì những lý do
đó mà công tác đánh giá công chức còn mang tính qua loa, đại khái. Mặt khác, theo
quy định chung, tỷ lệ khen thưởng trong từng đơn vị rất ít, chỉ được 10% và thành
tích của đơn vị không được cao hơn thành tích của người đứng đầu đơn vị đó nên
64
phần lớn khen thưởng tập trung chủ yếu vào lãnh đạo. Công chức thực thi nhiệm vụ
ít được thành tích cao. Không tạo được động lực cho người lao động.
- Do cơ cấu tổ chức bộ máy, định mức biên chế và chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn được giao của từng đơn vị nên một số công chức còn làm việc theo chế
độ kiêm nhiệm. Mặt khác, căn cứ vào vị trí việc làm thì Cục Quản lý thi ̣trường Hồ
Chí Minh chỉ tuyển dụng công chức có bằng đại học chuyên ngành kế toán, kinh tế,
tài chính, ngân hàng để ưu tiên cho các phòng nghiệp vụ. Vì vậy, khi thiếu nhân sự
Cục Quản lý thi ̣trường Hồ Chí Minh phải điều động công chức nghiệp vụ đảm
nhận công việc thuộc lĩnh vực khác dựa vào năng lực, sở trường của họ.
- Cục Quản lý thi ̣trường Hồ Chí Minh xây dựng kế hoạch đào tạo dựa vào
các nội dung đào tạo do Tổng Cục Quản lý thi ̣trường yêu cầu. Thực hiện đào tạo do
Tổng Cục Quản lý thi ̣trường triển khai. Thời gian đào tạo trong năm, đôi khi trùng
với thời gian triển khai các đề án lớn hay những chương trình công tác đột xuất của
đơn vị, của ngành nên việc bố trí công chức đi đào tạo không thực hiện được.
- Công chức tham gia công tác từ những ngày đầu thành lập ngành còn
nhiều, đến nay phần đông đã lớn tuổi nên khả năng thích nghi với nhiệm vụ mới,
môi trường mới không cao. Trong khi đó đội ngũ công chức trẻ cần có nhiều thời
gian để học tập, tích lũy kinh nghiệm để xử lý tốt chuyên môn. Nếu thực hiện triệt
để công tác luân phiên, chuyển đổi vị trí công tác cho tất cả các đối tượng sẽ tạo ra
sự ỳ ạch, chậm trễ trong công việc.Vì vậy, trong thời gian ngắn chưa thể thực hiện
tốt được yêu cầu trên, phải từng bước và có kế hoạch lâu dài.
* Nguyên nhân khách quan
- Các chế độ, chính sách cũng như các đề án được triển khai quá nhiều, công
việc quá tải, nhất là vào những tháng cuối năm, áp lực công việc đã làm cho công chức.
- Cơ chế quản lý, sử dụng và chế độ chính sách đối với cán bộ, công chức
nhà nước còn có những bất hợp lý, chưa tạo được động lực khuyến khích đội ngũ
công chức đề cao trách nhiệm, phấn đấu rèn luyện nâng cao phẩm chất đạo đức,
năng lực công tác, đó là:
Trong các năm qua, mặc dù đã có nhiều chủ trương, chính sách được ban
hành với mục tiêu cải cách môi trường làm việc và chế độ, chính sách đối với đội
ngũ cán bộ công chức nhưng thực tế còn nhiều bất cập. Chính sách đãi ngộ đối với
cán bộ, công chức như tiền lương, phụ cấp và các chế độ bảo hiểm chưa tương xứng
với công việc họ đảm nhiệm, chưa được chi trả theo vị trí việc làm mà còn mang
65
tính chất cào bằng nên một bộ phận cán bộ, công chức xao nhãng công việc, không
có trí hướng phấn đấu, rèn luyện dẫn đến hiệu quả công việc thấp, một số công chức
có năng lực, trình độ chuyên môn tốt đã chuyển ra ngoài cơ quan hành chính để tìm
các môi trường làm việc tốt hơn và có thu nhập cao hơn. Chế độ chính sách chưa
phù hợp là rào cản đối với công tác tuyển dụng, khó có khả năng thu hút được
những người có trình độ vào làm việc trong cơ quan hành chính nhà nước.
Mặt khác, bệnh thành tích còn nặng, tổ chức bộ máy quản lý cồng kềnh.
Chính sách xử lý để tinh gọn đội ngũ cán bộ công chức còn khó khăn trong thực
hiện dẫn đến thực trạng một số cán bộ công chức có vi phạm kỷ luật lao động
nhưng không đưa được ra ngoài cơ quan nhà nước hoặc có các cán bộ, công chức
năng lực công tác rất hạn chế nhưng không thể giải quyết để tinh giản,...
Chương trình đào tạo của các trường, các cơ sở đào tạo về các chuyên ngành
liên quan đến lĩnh vực quản lý thị trường chưa theo kịp với yêu cầu của nền kinh tế
xã hội ảnh hưởng đáng kể đến chất lượng đầu vào của đội ngũ cán bộ, từ đó đặt ra
yêu cầu đào tạo lại và cập nhật kiến thức thường xuyên cho đội ngũ công chức.
2.4.3. Những vấn đề đặt ra cần giải quyết
Bên cạnh những thuận lợi, chất lượng cán bộ công chức của Cục Quản lý
thi ̣trường Hồ Chí Minh cũng tồn tại một số khó khăn như: Kinh phí đào tạo hạn hẹp nên
chưa thể cử cán bộ công chức đi học nhiều; địa bàn rộng, hoạt động giao thương ngày
càng phức tạp, tốn nhiều thời gian nên khó bố trí cho cán bộ tham gia các khóa đào tạo,
bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ;Không những thế, để nâng cao trình
độ nghiệp vụ của mình, các cán bộ công chức lại phải về các cơ quan như Tổng Cục
Quản lý thi ̣trường, Bộ Công thương học vì ở đơn vị không có điều kiện mở lớp.
Kết luận chương 2
Trong chương 2, căn cứ vào mục tiêu chiến lược phát triển ngành; quy mô,
đặc điểm nguồn nhân lực của Cục Quản lý thi ̣trường Hồ Chí Minh cùng nguồn số
liệu được cung cấp bởi phòng Tổ chức hành chính và số liệu điều tra được từ hai
mẫu phiếu khảo sát, tác giả đã phân tích, so sánh các yêu cầu về kỹ năng nghiệp vụ,
tiêu chuẩn chức danh và kết quả công việc của người lao động với thực trạng hiện
có tại đơn vị. Đồng thời, đánh giá công tác cơ cấu nguồn nhân lực của đơn vị nhằm
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.Trên cơ sở đó, đánh giá những kết quả đạt
được, những hạn chế và nguyên nhân của hạn chế về chất lượng nguồn nhân lực
trong Cục Quản lý thi ̣trường Hồ Chí Minh.
66
Chương 3
GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG NHÂN LỰC TẠI
CỤC QUẢN LÝ THỊ TRƯỜNG THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
3.1. Phương hướng và mục tiêu đánh giá chất lượng nhân lực tại Cục quản lý
thị trường Thành phố Hồ Chí Minh
3.1.1. Phương hướng đánh giá chất lượng nguồn nhân lực tại Cục quản lý thị
trường Thành phố Hồ Chí Minh
Theo chiến lược phát triển nguồn nhân lực ngành Công thương đến năm
2025 đã qui định về phương hướng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực chung của
ngành đó là:
Thứ nhất, phát triển nhân lực là yếu tố quan trọng góp phần thực hiện thắng
lợi các mục tiêu của chiến lược phát triển lĩnh vực quản lý thị trường nói chung và
Cục Quản lý thị trường thành phố Hồ Chí Minh nói riêng phù hợp với mục tiêu phát
triển nhân lực chung của ngành Công thương, của quốc gia và xu thế phát triển kinh
tế xã hội của đất nước.
Thứ hai, coi trọng việc bồi dưỡng, thu hút và sử dụng nhân tài về lĩnh vực
lĩnh vực quản lý thị trường. Việc phát hiện, tuyển chọn, sử dụng và đãi ngộ đối với
người có tài phải thường xuyên, nhất quán. Tạo điều kiện, cơ hội thuận lợi, khuyến
khích năng lực sáng tạo trong đội ngũ công chức làm việc trong các lĩnh vực hoạt
động lĩnh vực quản lý thị trường.
Thứ ba, xây dựng và phát triển cơ cấu trình độ nhân lực hợp lý, năng động,
nhanh chóng thích ứng với nhu cầu phát triển trong nước và thế giới; nâng cao trình
độ nhân lực của ngành.
Thứ tư, phát triển nhân lực hợp lý hài hòa giữa các cấp đơn vị lĩnh vực quản lý
thị trường đáp ứng yêu cầu phát triển và đặc điểm của từng ngành. Phát triển cơ cấu vị
trí công việc cân đối bảo đảm thực hiện hiệu quả các mục tiêu phát triển được đề ra.
3.1.2. Mục tiêu nâng cao chất lượng nguồn nhân lực Cục Quản lý thị trường
thành phố Hồ Chí Minh
Mục tiêu phát triển nguồn nhân lực Cục Quản lý thị trường thành phố Hồ Chí
Minh đến năm 2025, xây dựng và phát triển đội ngũ công chức lĩnh vực quản lý thị
trường chuyên nghiệp, ổn định, có số lượng, chất lượng, cơ cấu hợp lý, đủ năng lực,
phẩm chất để thực thi công vụ một cách có hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát
triển và hiện đại hóa hệ thống lĩnh vực quản lý thị trường.
67
Đến năm 2025, đưa công tác đánh giá chất lượng nhân lực của Cục Quản lý
thị trường thành phố Hồ Chí Minh chính quy, hiện đại, bảo đảm tuân thủ nguyên tắc
quản lý cán bộ công chức và cơ sở pháp lý của công việc.
- Gắn kết các chính sách phát triển nguồn nhân lực lĩnh vực quản lý thị
trường với chiến lược phát triển lĩnh vực quản lý thị trường và Chiến lược phát triển
kinh tế xã hội giai đoạn 2021-2025. Để từ đó hình thành được một đội ngũ nhân lực
có đủ về số lượng, hợp lý về cơ cấu và bảo đảm chất lượng góp phần thực hiện
thành công các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội nói chung và mục tiêu phát triển
ngành nói riêng.
- Xây dựng và phát triển nhân lực Cục Quản lý thị trường thành phố Hồ Chí
Minh theo hướng bền vững, bền vững về quy mô, cơ cấu và bền vững về chất
lượng. Theo đó, chất lượng nhân lực phải được cải thiện một cách rõ rệt để có thể
bắt kịp với trình độ phát triển kinh tế xã hội trong nước và trên thế giới.Bền vững về
chất lượng nhân lực thể hiện ở việc duy trì và nâng cao trình độ kiến thức, kỹ năng
chuyên sâu trong lĩnh vực Công thương.Bên cạnh đó, bền vững về quy mô nhân lực
là phải bảo đảm đáp ứng về nguồn cung nhân lực cho phát triển không chỉ trong giai
đoạn hiện nay mà còn phải bảo đảm đáp ứng được nhu cầu gia tăng về phát triển
kinh tế xã hội trong nước và toàn cầu.
- Phát triển nhân lực Cục Quản lý thị trường thành phố Hồ Chí Minh phải
bảo đảm sự hài hòa về cơ cấu và cân đối giữa các lĩnh vực, các đơn vị trong ngành.
Đồng thời phải bảo đảm tính hợp lý và hiệu quả trong sử dụng nhân lực, bố trí sử
dụng nhân lực phù hợp với quy mô cơ cấu và chất lượng trong từng lĩnh vực, từng
đơn vị và từng vị trí nhất định.
- Coi đầu tư cho chất lượng nhân lực Cục Quản lý thị trường thành phố Hồ
Chí Minh nói riêng và nhân lực lĩnh vực quản lý thị trường nói chung là đầu tư để
nâng cao sức mạnh nội lực của hệ thống lĩnh vực quản lý thị trường và đưa đến các
lợi thế quan trọng trong quá trình cạnh tranh quốc tế nên phải được tăng cường đầu
tư nhiều hơn nữa trong giai đoạn tới.
- Chất lượng nhân lực của Cục Quản lý thị trường thành phố Hồ Chí Minh
phải dựa trên các đặc thù của hệ thống lĩnh vực quản lý thị trường, Đặc thù nhân lực
Cục Quản lý thị trường thành phố Hồ Chí Minh phải bảo đảm được có trình độ kiến
thức vĩ mô, có khả năng phân tích và đánh giá các vấn đề tài chính, nắm bắt được
các lĩnh vực khác để có thể điều hành công việc đúng với chức năng, khả năng
68
nhiệm vụ được giao và linh hoạt trong xử lý các vướng mắc khó khăn có thể ảnh
hưởng đến nhiệm vụ được giao. Vì công tác quản lý tài chính là vấn đề xuyên suốt
toàn bộ lĩnh vực hoạt động lĩnh vực quản lý thị trường, đòi hỏi đội ngũ công chức
phải có tầm nhìn bao quát, kiến thức của nhiều lĩnh vực mới có thể kiểm soát toàn
bộ các hoạt động. Xuất phát từ đó cần có sự coi trọng việc bồi dưỡng và sử dụng
nhân tài, luôn tạo điều kiện và môi trường làm việc tốt để kích thích và khuyến
khích sự sáng tạo của toàn bộ đội ngũ công chức.
3.2. Một số giải pháp hoàn thiện hoạt động đánh giá chất lượng nhân lực tại
Cục quản lý thị trường Thành phố Hồ Chí Minh
3.2.1. Tăng quy mô đội ngũ công chức Cục Quản lý thị trường thành phố Hồ Chí
Minh trên cơ sở xây dựng một cơ cấu nhân lực hợp lý
Để thực hiện các mục tiêu phát triển của Cục Quản lý thị trường thành phố
Hồ Chí Minh nói riêng và các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội nói chung, trong
giai đoạn 2021-2025, phải tăng cường hơn nữa quy mô đội ngũ công chức trong
Cục Quản lý thị trường thành phố Hồ Chí Minh. Thực tế, hiện nay chúng ta chưa có
chiến lược tổng thể về xây dựng, phát triển và sử dụng nguồn nhân lực quốc gia,
đặc biệt là chi tiết tổng thể chiến lược xây dựng và phát triển nguồn nhân lực cho
một số ngành, lĩnh vực có tính chất quan trọng của nền kinh tế. Để từ đó có cơ chế
quản lý sử dụng nhân lực một cách chuyên nghiệp, khác thác và sử dụng nhân lực
theo đúng đặc thù ngành nghề một cách hiệu quả. Theo đó, trên cơ sở quy hoạch
xây dựng và phát triển nguồn nhân lực Cục Quản lý thị trường thành phố Hồ Chí
Minh cần xây dựng một chiến lược quản lý và sử dụng nhân lực cho cả một giai
đoạn, vì phát triển nguồn nhân lực đòi hỏi phải là cả một quá trình dài, từ đào tạo cơ
bản cho đến hướng dẫn thực hiện các nhiệm vụ chuyên môn nhằm bảo đảm được
yêu cầu công tác.
Để tăng quy mô đội ngũ nguồn nhân lực phải mở rộng đối tượng, quy mô,
phạm vi đào tạo, đào tạo lại công chức, đặc biệt đào tạo đội ngũ thực hiện nhiệm vụ
kiểm soát chi và lực lượng công chức làm nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành; Đồng
thời giảm mạnh số lượng công chức làm công tác kho quỹ theo mô hình thanh toán
không dùng tiền mặt.
Để đạt được cơ cấu nguồn nhân lực hợp lý, hệ thống lĩnh vực quản lý thị
trường cần:
69
Bố trí, sử dụng, đào tạo một lực lượng công chức có đủ năng lực, trình độ
hoạch định các chính sách, chiến lược trong công tác cán bộ và có tầm nhìn về nhân
sự trong từng giai đoạn cụ thể cũng như trong tương lai.
Tổ chức đào tạo, bồi dưỡng, phát triển nguồn nhân lực một cách thường
xuyên và sử dụng nguồn nhân lực sau đào tạo đúng mục đích, có hiệu quả.
Mỗi đơn vị cần phải thực hiện đánh giá công tác sử dụng công chức để nhìn
nhận một cách khách quan và hiệu quả công tác quản lý cán bộ có đáp ứng đúng với
mục đích yêu cầu đã đặt ra.
Ngành Công thương phải tạo mọi điều kiện để hỗ trợ, nâng cao trình độ tay
nghề của công chức đang công tác trong ngành. Đồng thời tuyển dụng có chất lượng
nguồn nhân lực mới, trẻ và năng động về mọi mặt.
Trong thời gian tới, với yêu cầu chung của ngành, Cục Quản lý thị trường
thành phố Hồ Chí Minh cần tích cực chủ động phối hợp với lĩnh vực quản lý thị
trường lập kế hoạch cho thi chuyển ngạch đối với các công chức đã có đủ điều kiện
bằng cấp và vị trí công việc phù hợp, đảm bảo quyền lợi cho công chức và đáp ứng
được mục tiêu đã đặt ra.
3.2.2. Đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ kiến thức và kỹ năng về lĩnh vực lĩnh
vực quản lý thị trường
Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực hiện có bằng phương pháp nâng cao
chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng sẽ tiết kiệm được NSNN, tạo điều kiện tăng
thu nhập cho công chức trong toàn đơn vị và không tăng biên chế được giao.
Để đáp ứng yêu cầu phát triển lĩnh vực quản lý thị trường đến năm 2025,
công tác đào tạo, bồi dưỡng nhằm mục tiêu xây dựng, phát triển đội ngũ công chức
có phẩm chất chính trị tốt, có đạo đức nghề nghiệp cao, có kiến thức, kỹ năng
chuyên sâu về quản lý tài chính trở nên hết sức cấp bách. Cục Quản lý thị trường
thành phố Hồ Chí Minh cần tập trung vào các nội dung sau:
Một là, cần xây dựng mô hình đào tạo, bồi dưỡng trên cơ sở phân loại các
đối tượng cần đào tạo, bồi dưỡng.Việc phân loại các đối tượng cần đào tạo, bồi
dưỡng là rất quan trọng vì sau phân loại việc thực hiện các chương trình đào tạo sẽ
đúng được trọng tâm trọng điểm, tránh được trùng lắp, tiết kiệm được thời gian và
kinh phí. Chương trình đào tạo bồi dưỡng có thể chia ra như sau:
- Đào tạo, bồi dưỡng công chức giữ vị trí lãnh đạo: Cần được đào tạo chương
trình quản lý nhà nước tương ứng, kỹ năng mềm trong quản lý, chuyên môn nghiệp
vụ phù hợp với lĩnh vực quản lý…
70
- Đào tạo, bồi dưỡng công chức giữ vị trí thực hiện nghiệp vụ chuyên môn cụ
thể như: Kiểm soát chi, kế toán, thanh tra kiểm tra, công nghệ thông tin, tổ chức cán
bộ… Với vị trí ngạch, bậc công chức, đào tạo chương trình quản lý nhà nước tương
ứng, đào tạo đúng nghiệp vụ được đảm nhiệm theo từng vị trí việc làm.
Hai là, các chương trình, giáo trình đào tạo cần được xây dựng phù hợp với
từng loại hình đào tạo, từng ngạch công chức và phải được điều chỉnh, cập nhật
hàng năm hoặc định kỳ phù hợp với yêu cầu quản lý. Đào tạo phải đi đôi với thực
hành. Phải có phương tiện (máy vi tính tính) để học viên thao tác tại chỗ. Nội dung
chương trình đào tạo bao gồm những nội dung xử lý những vướng mắc trong quá
trình thực thi công vụ và định hướng xử lý.
Ba là, đổi mới phương thức đào tạo, gắn đào tạo bồi dưỡng với sử dụng công
chức sau đào tạo bồi dưỡng.
Từng công chức phát huy tính chủ động trong học tập, chú trọng đến việc rèn
luyện và bồi dưỡng các kỹ năng mềm như kỹ năng làm việc nhóm, các kỹ năng
hành chính đặc biệt là các kỹ năng về tin học đáp ứng yêu cầu quản lý của ngành
ngày càng cao. Sau khi hoàn thành khóa đào tạo bồi dưỡng theo vị trí việc làm,
công chức được đào tạo phải tác nghiệp thuần thục nghiệp vụ mà mình được đào
tạo. Những công chức đã được đào tạo nghiệp vụ nào thì đơn vị sử dụng phải bố trí
vào đúng vị trí đã được quy hoạch và đào tạo, có như vậy mới phát huy được kết
quả thực sự trong đào tạo, bồi dưỡng.
Bốn là, chú trọng đào tạo bồi dưỡng đối với công chức nghiệp vụ chuyên sâu,
chuyên ngành nhằm thực hiện thành công chiến lược phát triển và hiện đại hóa lĩnh vực
quản lý thị trường, nhất là đối với số công chức và lãnh đạo làm nghiệp vụ kiểm soát.
Ngoài ra, cũng chú trọng đến việc đào tạo bồi dưỡng nghiệp vụ đối với công chức làm
công tác thanh tra chuyên ngành, trang bị kiến thức và kỹ năng liên quan đến nghiệp vụ
xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực lĩnh vực quản lý thị trường…
Năm là, khuyến khích công chức tự học tập nâng cao trình độ về ngoại ngữ,
tin học. Phối hợp với các trung tâm đào tạo mở các lớp đào tạo, bồi dưỡng ngoại
ngữ, tin học cho công chức tham gia học tập, cuối kỳ có kiểm tra, đánh giá kết quả
học tập. Có cơ chế khuyến khích, động viên, khen thưởng đối với những công chức
đạt kết quả cao trong học tập, phát huy được những kiến thức, kỹ năng được đào
tạo, bồi dưỡng trong thực tế công tác như: thực hiện chế độ thưởng, nâng lương
trước hạn, bổ nhiệm các chức vụ lãnh đạo…
71
Sáu là, tổ chức thi nghiệp vụ thường xuyên để đánh giá năng lực của công
chức. Qua đó có biện pháp phù hợp, kịp thời đối với những công chức không đạt kết
quả như chuyển đổi vị trí việc làm, tổ chức đào tạo kịp thời… đồng thời khen
thưởng để khuyến khích những công chức đạt kết quả cao, tạo ra phong trào thi đua
giữa các công chức với nhau trong cơ quan.
3.2.3. Nâng cao nhận thức, kỹ năng quản lý của lãnh đạo
Nâng cao năng lực quản lý cho đội ngũ công chức lãnh đạo là yếu tố quan
trọng đến hiệu quả của chất lượng nhân lực, bởi họ chính là người định hướng và tổ
chức thực thi nhiệm vụ tại đơn vị. Đổi mới và nâng cao nhận thức cho công chức
lãnh đạo thông qua nhiều kênh khác nhau: nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ năng
lãnh đạo, quản lý, phương pháp tổ chức điều hành công việc, kỹ năng phối hợp và
làm việc nhóm. Cần xây dựng được một đội ngũ công chức lãnh đạo, quản lý có
nhận thức, kiến thức và kỹ năng về công tác nâng cao chất lượng nhân lực với
những nội dung chủ yếu sau:
Một là, mỗi công chức lãnh đạo, quản lý phải luôn nhận thức sâu sắc được ý
nghĩa, vai trò và tầm quan trọng của nâng cao chất lượng nhân lực với sự thành
công, sự phát triển của hệ thống lĩnh vực quản lý thị trường. Từ đó, coi trọng việc
quản lý công chức, chú trọng đến công tác đào tạo bồi dưỡng nâng cao năng lực
nghề nghiệp của công chức.Thường xuyên thông tin với công chức về chiến lược
phát triển của ngành, của đơn vị, về tình hình thực tế và những thách thức, khó khăn
mà đơn vị phải vượt qua.Đồng thời, biết lắng nghe những thông tin phản hồi từ
công chức, từ những tổ chức quần chúng để đánh giá đúng những kết quả đạt được
trong hoạt động của ngành, của đơn vị.
Hai là, công chức lãnh đạo cần phải am hiểu sâu đầy đủ các quy định về
đánh giá công chức, đánh giá toàn diện, có biện pháp khắc phục các tồn tại của công
chức đồng thời kịp thời động viên công chức đảm bảo đúng người đúng việc; biết
khai thác và phát huy năng lực, khả năng của những công chức trẻ. Đây là những
yếu tố quan trọng giúp cho sự thành công trong công tác quản lý, điều hành của
lãnh đạo đơn vị, đồng thời là cơ hội để mọi công chức, nhất là những người trẻ tuổi,
có điều kiện để phát huy khả năng của bản thân, đóng góp nhiều hơn cho đơn vị.
3.2.4. Hoàn thiện cơ chế, chính sách, quy trình về công tác cán bộ
3.2.4.1. Nâng cao chất lượng công tác quy hoạch công chức
Nâng cao chất lượng công tác quy hoạch lãnh đạo, quy hoạch ngắn hạn, dài
hạn mang tính kế thừa và nối tiếp bảo đảm có đủ nguồn nhân lực để thay thế, đồng
72
thời nâng cao chất lượng đội ngũ công chức lãnh đạo các cấp. Hoàn thiện về cơ chế,
chính sách và các văn bản hướng dẫn công tác quy hoạch bảo đảm sự đồng bộ,
thống nhất trong hệ thống.
Nâng cao chất lượng quy hoạch nhân lực hợp lý và hiệu quả, bám sát các chủ
trương, định hướng về phát triển hệ thống lĩnh vực quản lý thị trường và thực tế
hiện có của đơn vị để có những phân tích, định hướng trong xây dựng quy hoạch
nhân lực, đảm bảo mục tiêu đáp ứng tốt yêu cầu nhiệm vụ của ngành trong dài hạn,
đủ về số lượng, nâng cao chất lượng nhân lực, đồng thời có hướng giải quyết thỏa
đáng đối với những công chức có nhiều đóng góp cho ngành nhưng sẽ không đáp
ứng được yêu cầu công việc do tuổi cao, trình độ đào tạo còn hạn chế… để đảm bảo
sự đoàn kết trong nội bộ đơn vị.
3.2.4.2. Đánh giá công chức
Tiếp tục hoàn thiện và đổi mới công tác đánh giá công chức gắn với việc đẩy
mạnh cải cách chế độ công vụ, công chức.Cần hoàn thiện mô hình đánh giá công
chức qua kết hợp hai phương pháp truyền thống và hiện đại, phù hợp với điều kiện
đặc thù của lĩnh vực quản lý thị trường.Phương pháp đánh giá truyền thống dựa trên
các thông số đầu vào có sẵn như bằng cấp chuyên môn, kinh nghiệm công tác, trình
độ hiểu biết, trình độ quản lý.Phương pháp hiện đại là đánh giá mức độ vận dụng
các năng lực bản thân của từng cá nhân dựa vào tổng thể các tiêu chí về kiến thức
chuyên môn, các kỹ năng và thái độ thể hiện trong quá trình thực hiện nhiệm vụ
chuyên môn.Đánh giá là một hoạt động ít nhiều mang tính chủ quan nên cần sử
dụng cách thức khoa học nhất để đạt được kết quả khách quan.
3.2.4.3. Bố trí sử dụng nhân lực phù hợp nhằm phát huy được năng lực, sở trường
của từng công chức
Xây dựng nguyên tắc bố trí, sắp xếp công việc phù hợp với khả năng, trình
độ của công chức là khâu rất quan trọng, công chức có được bố trí đúng khả năng,
trình độ mới có điều kiện phát huy khả năng để hoàn thành nhiệm vụ được giao, từ
đó, tạo nên sự thoải mái trong lao động, tạo động lực cho công chức hăng say làm
việc, là tiền đề sáng tạo trong công việc.
Việc bố trí sắp xếp vị trí việc làm cho công chức phải bảo đảm đúng tiêu
chuẩn, phù hợp với năng lực; Phải căn cứ vào nhu cầu công tác của từng đơn vị và
trình độ, chuyên môn, sở trường của từng công chức. Thực hiện quản lý công chức
theo khối lượng và chất lượng công việc được giao.
73
3.2.4.4. Công tác bổ nhiệm, bổ nhiệm lại công chức lãnh đạo
Hoàn thiện văn bản hướng dẫn về quy chế bổ nhiệm, bổ nhiệm lại trên cơ sở
quy chế của Bộ Tài chính ban hành theo hướng đồng bộ, thống nhất, dễ tổ chức
thực hiện, nâng cao chất lượng công chức lãnh đạo. Cần thực hiện đúng nguyên tắc
trong bổ nhiệm lại công chức lãnh đạo, lãnh đạo giữ chức vụ tối đa không quá 2
nhiệm kỳ tại một vị trí công tác, nếu đánh giá vẫn đáp ứng đủ điều kiện, tiêu chuẩn
phải được chuyển sang lãnh đạo tại một đơn vị khác. Khắc phục tình trạng công
chức đảm nhiệm một lĩnh vực, đơn vị, địa bàn phụ trách quá lâu.Hạn chế tư tưởng
cục bộ, khép kín; tâm lý thỏa mãn, trì trệ của một bộ phận công chức lãnh đạo. Đồng
thời tạo nguồn công chức dự bị đáp ứng nhu cầu thay thế khi có nhu cầu bằng cách
cho công chức thích ứng với nhiều loại công việc, nhiều đối tượng quản lý, nhằm đào
tạo công chức từng bước nắm bắt toàn diện các mảng công việc thuộc chức năng
nhiệm vụ của đơn vị.
3.2.4.5. Cải thiện môi trường làm việc
Tạo động lực để công chức hăng say với công việc như: Quan tâm đến các hoạt
động phong trào văn nghệ, thể dục thể thao, nâng cao kỹ năng sống, rèn luyện sức khỏe
của với công chức. Nâng cấp, cải tạo hệ thống sân cầu lông, bóng bàn phục vụ nhu cầu
chơi thể thao của công chức, thường xuyên tổ chức các giải thể thao nhân các ngày lễ
lớn, các ngày truyền thống, ngày kỷ niệm của đất nước, của ngành, của đơn vị để công
chức có sân chơi, có điều kiện giao lưu, học hỏi kinh nghiệm. Có chủ trương, định
hướng để các tổ chức đoàn thể Công đoàn, Đoàn Thanh niên, Ban nữ công tổ chức các
chương trình bồi dưỡng kỹ năng sống, kỹ năng làm vợ, làm mẹ, các khóa học khiêu
vũ… làm phong phú thêm đời sống tinh thần của công chức trong đơn vị. Xây dựng
văn minh, văn hóa nghề quản lý thị trường, xây dựng bầu không khí thân mật, dân chủ,
tương trợ giúp đỡ lẫn nhau; động viên, khen thưởng kịp thời và tạo điều kiện để người
giỏi có cơ hội thăng tiến...
Hoàn thiện chính sách chăm sóc sức khỏe đối với công chức, thông qua việc
khám chữa bệnh định kỳ 6 tháng hoặc 01 năm, phát hiện kịp thời những bệnh hiểm
nghèo, bệnh mãn tính, bệnh nghề nghiệp… của công chức để điều trị, chăm sóc.
3.2.4.6. Nâng cao giá trị đạo đức của công chức Cục Quản lý thị trường thành phố
Hồ Chí Minh
Giai đoạn tới cần tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện việc xác định vị trí việc làm
để phân công, bố trí công chức phù hợp, phân rõ trách nhiệm, thẩm quyền của từng
74
cá nhân trong thực thi công vụ. Đồng thời xây dựng tiêu chuẩn công chức theo từng
lĩnh vực công tác, từng vị trí công việc, bảo đảm tính chuyên nghiệp để có căn cứ
đánh giá, phân loại và bồi dưỡng công chức. Tạo tiền đề quy hoạch, luân chuyển, sử
dụng, đánh giá, đào tạo, nâng cao chất lượng đội ngũ công chức trong Cục Quản lý
thị trường thành phố Hồ Chí Minh. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn
chức danh công chức làm cơ sở cho việc tuyển dụng, sử dụng, đánh giá độ ngũ công
chức. Đẩy mạnh công tác xây dựng ngũ công chức có năng lực, trình độ, có phẩm
chất đạo đức, nhiệt tình trong công việc và có tình thần trách nhiệm, thái độ tận tụy
phục vụ nhân dân.
Tăng cường kỷ luật, kỷ cương khi thi hành công vụ, giải pháp tăng cường
các biện pháp giáo dục chính trị, tư tưởng, nâng cao tinh thần trách nhiệm trong
việc thực hiện quy chế làm việc, đạo đức, nghề nghiệp, quy tắc ứng xử; nâng cao
vai trò và trách nhiệm của thủ trưởng đơn vị trong việc thực hiện các nhiệm vụ
chuyên môn được giao. Tiếp tục rà soát, bổ sung sửa đổi các quy định về quy trình,
thủ tục hành chính không còn phù hợp; tăng cường cơ chế phối hợp thực hiện chức
năng, nhiệm vụ được giao giữa các đơn vị trong nội bộ ngành; nâng cao chất lượng
công việc, xây dựng đồng bộ các văn bản hướng dẫn chuyên môn, nghiệp vụ; đẩy
mạnh công tác kiểm tra, thanh tra, kiếm soát hoạt động công vụ.
3.2.4.7. Hoàn thiện các quy trình, tăng cường quản lý đối với nhân lực lĩnh vực
quản lý thị trường
Thường xuyên phổ biến, quán triệt các văn bản của Đảng, Nhà nước về công
tác tổ chức cán bộ, phát triển nhân lực tới tất cả công chức trong đơn vị bằng nhiều
hình thức, phương pháp khác nhau như: thông qua các buổi tập huấn, tuyên truyền
pháp luật, thông qua cổng thông tin điện tử của Cục Quản lý thị trường…
Cần tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện các quy chế làm việc, quy chế phối hợp
trong nội bộ Cục Quản lý thị trường thành phố Hồ Chí Minh đảm bảo tất cả các
công việc phát sinh đều có người chủ trì chịu trách nhiệm xử lý, không bỏ sót cũng
như không trùng lắp phân công công việc. Việc triển khai các văn bản pháp quy
trong lĩnh vực phát triển nhân lực cũng như các lĩnh vực khác phải đảm bảo tính
thống nhất cao, không để xảy ra tình trạng mỗi nơi, mỗi lúc cùng một văn bản lại có
cách hiểu, cách làm khác nhau.
Tăng cường công tác quản lý đối với nhân lực như quản lý hồ sơ; triển khai,
phát triển các chương trình, phần mềm ứng dụng quản lý công chức; nâng cao nhận
75
thức về phát triển nhân lực, chất lượng, kỹ năng quản lý của đội ngũ công chức làm
công tác tổ chức cán bộ. Thực hiện việc quản lý hồ sơ công chức theo đúng quy
định của Nhà nước, thường xuyên cập nhật hồ sơ thay đổi về chức danh, về quá
trình đào tạo, bổ sung lý lịch… của công chức.
Triển khai ứng dụng phần mềm quản lý công chức đảm bảo cập nhật thường
xuyên, đầy đủ các thông tin, khai thác hiệu quả chương trình nhằm nâng cao chất
lượng công tác quản lý tổ chức cán bộ, thống kê, cung cấp số liệu nhanh,chính xác,
kịp thời về công tác tổ chức cán bộ và thi đua khen thưởng cho lãnh đạo.
3.2.5. Các giải pháp khác
Trong thời gian tới công chức Cục Quản lý thị trường thành phố Hồ Chí
Minh cần tiếp tục tăng cường ứng dụng khoa học công nghệ để giảm thiểu các thủ
tục hành chính trong thực thi công vụ trong lĩnh vực quản lý ngân sách như: Triển
khai thực hiện có hiệu quả cổng dịch vụ công ứng dụng công nghệ thông tin trong
quy trình kiểm soát chi ngân sách nhà nước; triển khai hệ thống an toàn bảo mật cho
hệ thống thông tin Cục quản lý thị trường, thiết lập hệ thống dự phòng khắc phục
thảm hoạ; ứng dụng công nghệ thông tin hiện đại, đồng bộ và chuyên nghiệp vào
mọi hoạt động của ngành Công thương, hình thành lĩnh vực điện tử.
Tổ chức các đợt thi nghiệp vụ cho công chức trong đơn vị, nhằm nâng cao
tinh thần học tập, nghiên cứu sâu tài liệu, am hiểu rộng các kiến thức liên quan đến
chuyên môn, hạn chế sai sót trong quá trình làm việc.
Tiếp tục triển khai tổ chức thực hiện có kết quả Luật phòng, chống tham
nhũng và Luật thực hành tiết kiệm, chống lãng phí gắn với việc “Học tập và làm
theo tấm gương đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” trong thời gian tới.
Nâng cao ý thức tự giác trong thực hiện nhiệm vụ của công chức cơ quan, đề
cao kỷ cương, kỷ luật lao động, quy chế làm việc của cơ quan, văn minh công sở,
văn hóa nghề quản lý thị trường. Đẩy mạnh công tác tinh giản biên chế, cho nghỉ
việc đối với các công chức có từ 2 năm trở lên xếp loại công chức mức 3 (hoàn
thành nhiệm vụ nhưng hạn chế về năng lực) và công chức xếp loại mức 4 (có trình
độ yếu kém; thiếu tinh thần trách nhiệm, ý thức tổ chức kỷ luật kém cũng như sức
khỏe không bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ được giao) để có cơ hội tuyển dụng công
chức mới có năng lực và trình độ thực chất thay thế dần.
Cải thiện môi trường làm việc tạo động lực để công chức hăng say với công
việc như: quan tâm đến các hoạt động phong trào thể dục thể thao, nghệ thuật; tạo
76
cảnh quan, môi trường làm việc tại cơ quan, đơn vị; xây dựng bầu không khí thân
mật, dân chủ, tương trợ giúp đỡ lẫn nhau; động viên, khen thưởng kịp thời và tạo
điều kiện để người giỏi có cơ hội thăng tiến...
Quan tâm công tác thi đua khen thưởng bảo đảm thực chất, tạo động lực thực
hiện nhiệm vụ chính trị; tiếp tục cải tiến phương thức tuyên truyền chủ động về mọi
mặt hoạt động của đơn vị, chủ động đưa tin, phát ngôn chính thống để định hướng
dư luận và tạo sự đồng thuận trong xã hội đối với hoạt động của lĩnh vực quản lý thị
trường nói chung và Cục Quản lý thị trường thành phố Hồ Chí Minh nói riêng.
Tóm lại, xây dựng, phát triển nhân lực một cách bền vững phải được xác định là
nhiệm vụ vừa có tính cấp bách vừa có tính chiến lược nhằm bảo đảm tính ổn định của
quá trình phát triển kinh tế ở nước ta hiện nay.Trong bối cảnh hiện nay thì tiềm năng về
nhân lực có tính cạnh tranh là một lợi thế lớn của đất nước khi tham gia hội nhập kinh tế
quốc tế.Lợi thế đó không phải quốc gia nào cũng sẵn có. Tuy nhiên, muốn biến tiềm
năng lớn trở thành hiện thực, ngoài việc cần có nhận thức đúng đắn về nâng cao ý nghĩa
và tầm quan trọng của nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội
nhập quốc tế, thì hệ thống các giải pháp mà chúng tôi đề xuất trên đây cần được coi là
các định hướng quan trọng trong việc xây dựng và phát triển nguồn nhân lực theo hướng
bền vững trong bối cảnh hội nhập quốc tế ở nước ta hiện nay.
3.3. Một số kiến nghị đối với cơ quan quản lý nhà nước
Chi cục Quản lý thị trường là cơ quan nhà nước trực thuộc Sở Công thương
và UBND thành phố Hồ Chí Minh. Do vậy, để nâng cao được chất lượng cán bộ
công chức thì tác giả xin đưa ra một số kiến nghị đối với cơ quan cấp trên như sau:
Thứ nhất, cần đổi mới và hoàn thiện chính sách đối với cán bộ công chức:
Để làm được điều này, cần xây dựng chính sách đối với cán bộ, công chức
phải thể hiện quan điểm, chủ trương, chính sách thống nhất của đảng, Nhà nước về
cán bộ, về nguồn lực con người, phù hợp với hoàn cảnh, điều kiện thực tế của đất
nước, của địa phương.
Bên cạnh đó, cần xây dựng các chính sách nhằm thu hút người tài, có chế độ
khen thưởng hợp lý. Khi đó, sẽ hạn chế được tình trạng “chảy máu chất xám” diễn
ra ngày càng lớn ngay chính trong bộ máy công quyền. Do đó, phải có chế độ đãi
ngộ, khen thưởng thỏa đáng với những công chức có trình độ và chuyên môn cao;
thu hút người có tài, sinh viên xuất sắc vào làm việc trong bộ máy quản lý nhà
nước. Quá trình thực hiện phải đảm bảo các nguyên tắc cơ bản: khách quan, công
77
bằng, xóa bỏ hẳn quan niệm đẳng cấp, thứ bậc, chức vụ trong chính sách khuyến
khích, khen thưởng; tiến hành dân chủ, công khai; thường xuyên và kịp thời với
hình thức, mức độ khuyến khích, đãi ngộ phù hợp với mức độ cống hiến, sự đóng
góp của công chức đối với lợi ích chung của đất nước.
Không những thế, cần thực hiện sắp xếp, hoàn thiện bộ máy và biên chế
công chức hành chính nhà nước, đảm bảo các yêu cầu tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả.
Trên cơ sở đó, từng bước giảm bớt tổng biên chế hưởng lương từ ngân sách nhà
nước, nâng dần mức lương tối thiểu của cán bộ, công chức nói chung; công chức
hành chính nhà nước nói riêng. Thực hiện triệt để việc khoán quỹ lương đối với các
cơ quan quản lý nhà nước là một biện pháp nhằm tinh giản biên chế có hiệu quả đối
với nhiều cơ quan hành chính nhà nước trong thời gian qua. Tuy nhiên, biện pháp
này cần thực hiện đồng bộ với nhiều giải pháp cơ bản khác cùng nhằm một mục
đích là xây dựng đội ngũ công chức vững mạnh, góp phần thực hiện nhiệm vụ quản
lý nhà nước có hiệu quả.
Thứ hai, cần tăng cường hơn nữa nhiệm vụ cải cách thủ tục hành chính tại
các đơn vị của nhà nước
Một là, cần thực hiện nghiên cứu áp dụng công nghệ quản lý theo kiểu doanh
nghiệp vào sự vận hành của bộ máy nhà nước để cải thiện “tính ỳ” của bộ máy hành
chính Nhà nước.
Hai là, cần tiếp tục việc tinh giản bộ máy nhà nước nhưng vẫn bảo đảm được
vai trò quản lý của nhà nước.Điều này giúp giảm chi phí, tránh cồng kềnh mà hiệu
quả công việc khá cao.
Thứ ba, cần xây dựng nhiều luật cụ thể nhằm cải cách công vụ, công chức
trong các cơ quan hành chính Nhà nước
Để làm được điều này, cơ quan Nhà nước cần sớm hoàn thiện và ban hành
Luật công vụ và công chức.Công vụ và công chức có mối quan hệ biện chứng với
nhau.Công vụ là công việc, còn công chức là những người thực hiện công việc
đó.Công việc có được tổ chức khoa học, hợp lý thì hoạt động của con người mới đạt
hiệu quả cao. Cụ thể là cần xây dựng chế độ công vụ với nội dung sau:
+ Hình thành thể chế công vụ bằng cách ban hành các văn bản pháp luật để
điều chỉnh hoạt động công vụ, nhằm xây dựng nền công vụ hiện đại, đáp ứng yêu
cầu phát triển đất nước và hội nhập.
78
+ Xây dựng đội ngũ công chức hành chính nhà nước chính quy, bảo đảm thi
hành nhiệm vụ của nhà nước một cách có hiệu quả.
+ Cải cách chế độ công vụ mang tính dân chủ, công bằng, khuyến khích phát
triển tài năng bằng hệ thống ngạch bậc và lương bổng hợp lý.
+ Xây dựng một đạo luật về công chức hành chính nhà nước, xác định rõ
phạm vi điều chỉnh của pháp luật về công chức nhà nước. Dưới hình thức đạo luật,
các chế định về công chức mới có tính thống nhất cao, tạo tiền đề cho sự ổn định và
phát triển trong hoạt động công vụ.
Kết luận chương 3
Trong chương 3, tác giả đã nêu những phương hướng, mục tiêu và các giải
pháp cụ thể liên quan đến công tác cơ cấu, quản lý công chức trong đơn vị nhằm
nâng cao chất lượng nhân lực trong hệ thống Cục Quản lý thị trường thành phố Hồ
Chí Minh góp phần đảm bảo mục tiêu chiến lược xây dựng lĩnh vực quản lý thị
trường hiện đại, hoạt động an toàn, hiệu quả và phát triển ổn định, vững chắc trên
cơ sở cải cách thể chế chính sách, hoàn thiện tổ chức bộ máy, gắn với hiện đại hóa
công nghệ và phát triển nguồn nhân lực để thực hiện tốt các chức năng.
79
KẾT LUẬN
Trên cơ sở lý luận và thực tiễn, tác giả đã đánh giá đúng thực trạng chất lượng
nguồn nhân lực trong hệ thống Cục Quản lý thị trường thành phố Hồ Chí Minh thông
qua phương pháp phân tích các tiêu chí về thể lực, trí lực và tâm lực của người lao động
để so sánh với mức độ đáp ứng công việc được giao. Căn cứ vào các tiêu chí đó, tác giả
bóc tách cụ thể các nội dung đánh giá chất lượng nguồn nhân lực dựa trên hai khía cạnh
gồm: từ chính nội lực của người lao động và từ các hoạt động của tổ chức trong công tác
cán bộ. Kết quả phân tích cho chúng ta thấy, Cục Quản lý thị trường thành phố Hồ Chí
Minh có quyền tự hào rằng, sau hơn 30 năm xây dựng và phát triển đơn vị đã tuyển
dụng, sử dụng và đào tạo được một đội ngũ nguồn nhân lực có đủ đức, đủ tài để thực
hiện thắng lợi các nhiệm vụ mà Đảng và Nhà nước giao.
Bên cạnh sự trưởng thành, phát triển về nhiều mặt của đội ngũ công chức,
chất lượng nguồn nhân lực ngày càng được nâng lên; cơ cấu độ tuổi, giới tính,
ngạch bậc có sự cân đối hợp lý; trình độ đại học và sau đại học tăng rõ rệt; năng lực
quản lý và các kỹ năng được đào tạo sâu, chuyên nghiệp hơn; số lượng công chức
được quy hoạch dồi dào, đảm bảo sự chuyển tiếp giữa các thế hệ. Tuy nhiên, trong
tổng thể chung của đơn vị, vẫn có một số ít công chức còn hạn chế về năng lực,
trình độ chuyên môn, kỹ năng tin học, kỹ năng giao tiếp, ứng xử...
Tuy nhiên, đánh giá chất lượng nguồn nhân lực là một vấn đề rộng lớn nên
trong khuôn khổ luận văn với những hiểu biết và kinh nghiệm có hạn, tác giả không
thể đi sâu vào phân tích chất lượng công chức của từng bộ phận, từng vị trí công
việc mà chỉ có thể đưa ra cái nhìn chung bao quát về chất lượng nguồn nhân lực của
Cục Quản lý thị trường thành phố Hồ Chí Minh.
Trên cơ sở những đánh giá những tồn tại hạn chế và phân tích những nguyên
nhân cùng với mục tiêu nâng cao chất lượng nhân lực tại Cục Quản lý thị trường thành
phố Hồ Chí Minh trong giai đoạn tới là xây dựng, phát triển đội ngũ công chức có trình
độ chuyên môn cao, am hiểu sâu sắc kiến thức chuyên ngành, có kỹ năng thực hành tốt
các yêu cầu nghiệp vụ; sử dụng thành thạo và làm chủ được các công nghệ cao trong quá
trình thực thi nhiệm vụ; vững vàng về phẩm chất chính trị, đạo đức, có bản lĩnh nghề
nghiệp và thực hiện tốt văn minh văn hoá nghề quản lý thị trường. Do đó, nghiên cứu đã
đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong hệ thống Cục
Quản lý thị trường thành phố Hồ Chí Minh đến năm 2025./.
80
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trần Xuân Cầu, Mai Quốc Chánh (2007), Giáo trình Kinh tế Nguồn nhân lực,
Trường đại học Kinh tế quốc dân, NXB Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội.
2. Lê Anh Cường, Nguyễn Thị Lệ Huyền, Nguyễn Thị Mai (2004), Phương
pháp và kỹ năng quản lý nhân sự, Nxb Lao động và xã hội.
3. Mai Quốc Chánh (1999), Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
4. Trần Kim Dung (2000), Quản trị Nguồn nhân lực, NXB Đại học Quốc gia
TP. Hồ Chí Minh.
5. Trịnh Phạm Trọng Dũng (2011), Hoàn thiện công tác phát triển nguồn nhân
lực tại Tổng công ty Sông Đà, Luận văn thạc sỹ kinh tế trường Đại học Kinh
doanh và Công nghệ.
6. Nguyễn Vân Điềm & Nguyễn Ngọc Quân (chủ biên) (2010), Giáo trình quản
trị nhân lực, NXB Đại học Kinh tế quốc dân.
7. Phạm Minh Hạc (2004), Nghiên cứu con người và nguồn nhân lực - Niên
giám nghiên cứu số 3, Nxb Khoa học xã hội.
8. Tạ Ngọc Hải (2014), “Một số nội dung về nguồn nhân lực và phương pháp
đánh giá nguồn nhân lực”, Viện Khoa học Tổ chức Nhà nước.
9. Lê Thị Ngân (2005), “Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực tiếp cận kinh tế
tri thức”, Luận án Tiến sĩ Kinh tế, Học viện Chính trị Quốc gia, thành phố
Hồ Chí Minh.
10. Bùi Văn Nhơn (2006), Quản lý và phát triển nguồn nhân lực xã hội, NXB
Đà Nẵng.
11. Phạm Thế Ri (2007), Quản trị học, NXB Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh.
12. Nguyễn Thị Hồng Dung (2015), Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công
chức đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa tại huyện Diễn Châu,
tỉnh Nghệ An.
13. Hà Thị Thanh Hoa (2012), Công tác đấu tranh phòng chống hàng giả tại chi cục
quản lý thị trường Thành phố Hồ Chí Minh, Tạp chí khoa học và công nghệ.
14. Bùi Thị Thanh Huyền, (2012), Một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao
chất lượng của đội ngũ cán bộ công chức ở Việt Nam hiện nay.
15. Đinh Thị Hương (2010), Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức
huyện ủy Mỹ Đức Hà Nội.
16. Nguyễn Thị Lan Hương (2012), Đổi mới, nâng cao chất lượng đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ công chức đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính.
17. Quốc hội (2008), Luật cán bộ, công chức năm 2008.
18. Quốc hội (2010), Luật viên chức năm 2010
19. Quốc hội (2012), Bộ luật Lao động năm 2012
20. Hoàng Ngọc Tú (2016), Giải pháp tăng cường công tác quản trị nhân lực tại
chi cục quản lý thị trường tỉnh Hà Giang.
21. Đỗ Quốc Trọng (2012), Giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ công
chức chính quyền cấp xã huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ.