ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƢỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ 

LƢƠNG THỊ KIM DUNG

QUÁN TRIỆT NGUYÊN TẮC THỐNG NHẤT

GIỮA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN TRONG VIỆC NÂNG CAO CHẤT

LƯỢNG ĐÀO TẠO Ở TRƯỜNG CAO ĐẲNG SƯ PHẠM VĨNH PHÚC

TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

HÀ NỘI - 2009

1

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƢỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ -

LƢƠNG THỊ KIM DUNG

QUÁN TRIỆT NGUYÊN TẮC THỐNG NHẤT

GIỮA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN TRONG VIỆC NÂNG CAO

CHẤT LƢỢNG ĐÀO TẠO Ở TRƢỜNG CAO ĐẲNG SƢ PHẠM

VĨNH PHÚC TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

Chuyên ngành: Triết học

Mã số: 60 22 80

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. TRẦN NGỌC UẨN

2

HÀ NỘI - 2009

3

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự hướng

dẫn khoa học của TS. Trần Ngọc Uẩn.

Các số liệu, tài liệu tham khảo trong luận văn đều trung

thực và có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng.

Hà Nội, ngày tháng năm 2009.

Tác giả luận văn

Lương Thị Kim Dung

4

MỤC LỤC

Mở đầu ....................................................................................................................................... 1

Chƣơng 1. Nguyên tắc thống giữa lý luận và thực tiễn và vai trò của việc quán triệt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn với hoạt động đào tạo .................. 5

1.1. Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn của chủ nghĩa Mác-Lênin ...................... 5

1.1.1. Phạm trù thực tiễn và lý luận ........................................................................................... 5

1.1.2. Thực chất của nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong đào tạo .............. 20

1.2. Vai trò của nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn với hoạt động đào tạo ......... 24

1.2.1. Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn với việc quán triệt xác định mục tiêu và

xây dựng nội dung, chương trình đào tạo .................................................................... 24

1.2.2. Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn với việc xác định hình thức, phương pháp dạy và học............................................................................................................ 30

1.2.3. Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn với việc tổ chức quản lý và xây dựng cơ sở vật chất phục vụ quá trình đào tạo ........................................................................... 33

Chƣơng 2. Vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong hoạt động đào tạo ở Trƣờng Cao đẳng Sƣ phạm Vĩnh Phúc - kết quả và một số vấn đề đặt ra ........................... 35

2.1. Đặc điểm về kinh tế - xã hội của tỉnh Vĩnh Phúc tác động đến hoạt động đào tạo của Trường Cao đẳng Sư phạm Vĩnh Phúc ................................................................................... 35

2.2. Kết quả việc vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong đào tạo ở

Trường Cao đẳng Sư phạm Vĩnh Phúc ........................................................................ 38

2.2.1. Những nhiệm vụ chủ yếu trong hoạt động đào tạo ở Trường Cao đẳng Sư phạm Vĩnh

Phúc .............................................................................................................................. 38

2.2.2. Kết quả của việc quán triệt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong hoạt động đào tạo ở Trường Cao đẳng Sư phạm Vĩnh Phúc ................................................. 39

2.3. Một số vấn đề đặt ra .......................................................................................................... 58

2.3.1. Một số hạn chế ............................................................................................................... 58

2.3.2. Nguyên nhân chủ yếu của những hạn chế ..................................................................... 61

Chƣơng 3. Phƣơng hƣớng, giải pháp nhằm quán triệt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn để nâng cao chất lƣợng đào tạo ở Trƣờng Cao đẳng Sƣ phạm Vĩnh Phúc .............................................................................................................................. 65

5

3.1. Phương hướng chủ yếu nhằm quán triệt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong việc nâng cao chất lượng đào tạo ở Trường Cao đẳng Sư phạm Vĩnh Phúc ...... 65

3.2. Một số giải pháp chủ yếu nhằm quán triệt hơn nữa nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và

thực tiễn để nâng cao chất lượng đào tạo ở Trường Cao đẳng Sư phạm Vĩnh Phúc ... 66

3.2.1. Tiếp tục bám sát nhiệm vụ, đối tượng và thực tiễn đào tạo để đổi mới chương trình, giáo trình đào tạo, bồi dưỡng ............................................................................................... 66

3.2.2. Tiếp tục thực hiện đa dạng hóa hình thức và mở rộng quy mô đào tạo ......................... 69

3.2.3. Đẩy mạnh đổi mới phương pháp giảng dạy và học tập .................................................. 70

3.2.4. Tăng cường công tác, tổ chức, quản lí quá trình học tập của sinh viên ......................... 74

3.2.5. Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giảng viên, quản lý hoạt động giảng dạy của giảng viên ...................................................................................................................... 79

3.2.6. Cần có cơ chế chính sách phù hợp, tăng cường cơ sở vật chất phục vụ quá trình đào tạo

82

Kết luận ................................................................................................................................... 86

Danh mục tài liệu tham khảo ................................................................................................ 89

6

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến sự nghiệp giáo dục và đào tạo

nguồn nhân lực, đến sự nghiệp chăm sóc, bồi dưỡng và phát huy nhân tố con

người. Điều đó xuất phát từ nhận thức sâu sắc về những giá trị lớn lao và ý nghĩa

quyết định về nhân tố con người - chủ thể của mọi sáng tạo, mọi nguồn của cải

vật chất và văn hoá, mọi nền văn minh của các quốc gia.

Chủ tịch Hồ Chí Minh, lãnh tụ vĩ đại của Đảng và nhân dân Việt Nam, sau

nhiều năm bôn ba tìm đường cứu nước và suốt đời đấu tranh cho sự nghiệp giải

phóng dân tộc, đã khẳng định: Vì lợi ích 10 năm phải trồng cây, vì sự nghiệp trăm

năm phải trồng người. Người nói: Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu và dốt là một

trong ba thứ giặc “Giặc ngoại xâm, giặc đói, giặc dốt”. Quán triệt quan điểm của

chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng cộng sản Việt Nam đã từng bước nhận thức rõ tầm

quan trọng của nền giáo dục trong sự phát triển của đất nước.

Văn kiện Hội nghị lần thứ hai Ban chấp hành Trung ương (khoá VIII) của

Đảng đã nêu rõ “Hiện nay, sự nghiệp giáo dục và đào tạo đang đứng trước những

mâu thuẫn lớn giữa vừa phát triển nhanh quy mô giáo dục và đào tạo, vừa phải

gấp rút nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo trong khi khả năng và đáp ứng

yêu cầu còn nhiều hạn chế. Đó là mâu thuẫn trong quá trình phát triển” [7,

tr.175].

Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ IX tiếp tục khẳng định giáo dục

7

và đào tạo là quốc sách hàng đầu, phát triển giáo dục và đào tạo là một động lực

quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá là điều kiện để phát

huy nguồn lực con người là yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh

tế nhanh và bền vững.

Công cuộc đổi mới đất nước do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo đang phát

triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu trên tất cả các lĩnh vực, kinh tế, văn hóa, giáo

dục… Vì vậy, đòi hỏi phải phát huy hơn nữa nguồn lực con người là nhân tố

quyết định sự thành công của quá trình đổi mới. Để đáp ứng được những đòi hỏi

đó cần phải đổi mới giáo dục một cách toàn diện, nhằm nâng cao chất lượng giáo

dục và đào tạo.

Nhận thức và quán triệt sâu sắc quan điểm của Đảng về công tác giáo dục

và đào tạo cũng như xác định được tầm quan trọng của giáo dục và đào tạo trong

thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, trong những năm vừa qua tỉnh Vĩnh Phúc

đã chú trọng tới công tác giáo dục và đào tạo, đặc biệt là việc nâng cao chất

lượng giáo dục và đào tạo. Để nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo, tỉnh

Vĩnh Phúc đã giải quyết đồng bộ nhiều nội dung có liên quan, trong đó việc tăng

cường đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giáo viên nhằm đảo bảo đủ số lượng, chất

lượng phục vụ cho sự nghiệp giáo dục và đào tạo của tỉnh. Bởi vì, đào tạo đội

ngũ giáo viên có một ý nghĩa vô cùng quan trọng trong chiến lược phát triển giáo

dục, đó chính là công tác đào tạo nguồn nhân lực cho sự nghiệp giáo dục và đào

tạo.

Nằm trong hệ thống giáo dục của Tỉnh, Trường Cao đẳng Sư phạm Vĩnh

Phúc là trung tâm chính đào tạo đội ngũ giáo viên trung học cơ sở cho toàn tỉnh.

Để nâng cao chất lượng đào tạo giáo viên trung học cơ sở, trong những năm qua

Trường Cao đẳng Sư phạm Vĩnh Phúc không ngừng đổi mới về nội dung,

chương trình, phương pháp giảng dạy học tập, phương pháp đánh giá, cơ chế

8

quản lý, xây dựng cơ sở vật chất... góp phần nâng cao chất lượng đào tạo. Nhà

trường đã cung cấp số lượng lớn đội ngũ giáo viên nói chung, đội ngũ giáo viên

trung học cơ sở nói riêng có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ tốt phục vụ cho sự

nghiệp giáo dục của tỉnh. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, trong

hoạt động đào tạo của trường vẫn còn những bất cập, hạn chế. Để tiếp tục đổi

mới và nâng cao chất lượng đào tạo đội ngũ giáo viên trung học cơ sở nhằm đáp

ứng tốt hơn yêu cầu giáo dục và đào tạo của tỉnh Vĩnh Phúc, phục vụ sự nghiệp

công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn, trong thời gian tới, nhà

trường phải giải quyết tốt đồng bộ những vấn đề có liên quan, trong đó việc tiếp

tục quán triệt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong toàn bộ các

khâu của quá trình đào tạo có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.

Với ý nghĩa đó việc nghiên cứu đề tài: “Quán triệt nguyên tắc thống nhất

giữa lý luận và thực tiễn trong việc nâng cao chất lượng đào tạo ở trường Cao

đẳng sư phạm Vĩnh Phúc trong giai đoạn hiện nay” là có ý nghĩa lý luận và

thực tiễn cấp bách.

2. Tình hình nghiên cứu của đề tài

Vấn đề vận dụng mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn đã có những công

trình, bài viết của nhiều tác giả nghiên cứu từ các góc độ khác nhau.

- “Vai trò của lý luận đối với quá trình đổi mới xã hội nước ta hiện nay”,

Luận văn thạc sĩ triết học của Phan Đình Đạt, Học viện Chính trị quốc gia Hồ

Chí Minh, Hà Nội,1993.

- “Vận dụng quan điểm Duy vật biện chứng về mối quan hệ giữa lí luận

và thực tiễn trong nhận thức và hình thành các giải pháp của quá trình đổi mới

kinh tế của nước ta hiện nay”, luận văn Thạc sĩ khoa học Triết học của Đặng

Thành Nam, Đại học Quốc gia Hà Nội, Trường Đại học Khoa học Xã hội và

9

Nhân Văn, 1999.

- “Mấy vấn đề về nhận thức thực tiễn”, Nguyễn Đức Bình - Nxb Sự thật

Hà Nội, 1983.

- “Nâng cao năng lực tổ chức thực tiễn”, Đình Nghiêm, Hữu Xanh, tạp

chí Cộng sản, số 8/1986.

- “Vấn đề con người trong công cuộc đổi mới”, Phạm Minh Hạc, chương

trình Khoa học công nghệ cấp Nhà nước KX 07, Hà Nội, 1994.

- “Giáo dục và đào tạo trong thời kỳ đổi mới”, Ban Khoa giáo Trung

ương, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002.

Nghiên cứu vấn đề quán triệt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực

tiễn trong việc nâng cao chất lượng đào tạo ở Trường Cao đẳng Sư phạm Vĩnh

Phúc thì chưa có công trình nào nghiên cứu.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

* Mục đích

Trên cơ sở phân tích làm rõ một số kết quả và hạn chế của việc quán triệt

nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong hoạt động đào tạo ở

Trường Cao đẳng Sư phạm Vĩnh Phúc từ đó đề xuất một số giải pháp chủ yếu

nhằm tiếp tục nâng cao hơn nữa chất lượng đào tạo ở Trường Cao đẳng Sư Phạm

Vĩnh Phúc trong giai đoạn hiện nay.

* Nhiệm vụ

- Phân tích vai trò của việc quán triệt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận

và thực tiễn đối với quá trình đào tạo.

- Phân tích thực trạng quán triệt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và

10

thực tiễn trong hoạt động đào tạo ở Trường Cao đẳng Sư phạm Vĩnh Phúc.

- Đề xuất một số giải pháp thực tiễn để tiếp tục nhằm quán triệt sâu sắc hơn

nữa nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn để nâng cao hơn nữa chất lượng

đào tạo ở Trường Cao đẳng Sư phạm Vĩnh Phúc trong giai đoạn hiện nay.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

Luận văn đi sâu nghiên cứu đề xuất các giải pháp chủ yếu nhằm quán triệt

nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn để tiếp tục nâng cao hơn nữa chất

lượng đào tạo giáo sinh sư phạm thuộc khối đào tạo giáo viên trung học cơ sở.

5. Phƣơng pháp nghiên cứu

Phương pháp cơ bản và chủ yếu của luận văn là phương pháp duy vật biện

chứng và phương pháp duy vật lịch sử, phân tích, tổng hợp, đối chiếu, điều tra,

khảo sát, thống kê…

6. Đóng góp của luận văn

Luận văn góp phần làm rõ vai trò của việc quán triệt nguyên tắc thống nhất

giữa lý luận và thực tiễn trong hoạt động đào tạo, phân tích kết quả chủ yếu và hạn

chế chủ yếu của việc quán triệt nguyên tắc này, đồng thời đề xuất một số giải pháp

chủ yếu để nâng cao hơn nữa chất lượng đào tạo ở Trường Cao đẳng Sư phạm

Vĩnh Phúc, nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu đào tạo đội ngũ giáo viên trung học cơ

sở có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ tốt phục vụ cho sự nghiệp giáo dục đào tạo

trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Luận văn có thể được dùng làm tài liệu tham khảo cho tổ chức hoạt động

đào tạo ở các trường cao đẳng sư phạm, nghiên cứu những vấn đề có liên quan

đến giáo dục và đào tạo; tham khảo trong việc xây dựng các chính sách cho giáo

dục và đào tạo.

11

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm

3 chương, 6 tiết.

Chƣơng 1. Nguyên tắc thống giữa lý luận và thực tiễn và vai trò của việc

quán triệt nguyên tắc thống nhất giữa lí luận và thực tiễn với hoạt động đào tạo.

Chƣơng 2. Vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong hoạt

động đào tạo ở Trường Cao đẳng Sư phạm Vĩnh Phúc - kết quả và một số vấn đề đặt ra.

Chƣơng 3. Phương hướng, giải pháp nhằm quán triệt nguyên tắc thống

nhất giữa lý luận và thực tiễn để nâng cao chất lượng đào tạo ở Trường Cao đẳng

12

Sư phạm Vĩnh Phúc.

Chƣơng 1

NGUYÊN TẮC THỐNG GIỮA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

VÀ VAI TRÒ CỦA VIỆC QUÁN TRIỆT NGUYÊN TẮC THỐNG NHẤT GIỮA

LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỚI HOẠT ĐỘNG ĐÀO TẠO

1.1. Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn của chủ nghĩa

Mác-Lênin

1.1.1. Phạm trù thực tiễn và lý luận

1.1.1.1. Các quan niệm trước Mác về lý luận và thực tiễn

Các nhà triết học cổ đại phương Đông khoảng thế kỷ thứ V-IV trước công

nguyên (TCN) như Khổng Tử, Lão Tử, Mặc Tử đã đề cập đến vấn đề khả năng

nhận thức của con người về thế giới.

Khổng Tử cho rằng, con người có khả năng nhận thức thế giới thông qua

nhận thức cảm tính. Theo ông, nhờ cái sẵn có tự nhiên trong con người gồm có

minh đức và lương tri. Cái đó thể hiện qua trực giác, nhờ trực giác mà con người

có thể nhận thức được chân lý,nhận thức đúng bản chất của sự vật và cái sai

khiến trực giác đó lại nằm trong tâm mỗi con người nhờ tâm này mà con người

có thể làm chủ được hành vi của mình nhưng trong lý luận nhận thức. Như vậy,

ở đây Khổng Tử chỉ thiên về nhận thức cảm tính mà không bàn đến nhận thức lý

tính tư duy trừu tượng, cho nên nhận thức thế giới của ông chỉ dừng ở bên ngoài

hình tượng mà không đi đến bản chất của sự vật. Vì vậy, khi bàn về con người

Khổng Tử không xây dựng một con người nhận thức và hành động, không làm

chủ thế giới để đạt đến mục đích là mưu đến lợi ích vật chất mà chính là xây

dựng con người luân lý đạo đức, con người nhân nghĩa theo một nguyên mẫu có

13

sẵn, từ đó xây dựng một xã hội có tôn ti trật tự, trên dưới phân minh.

Còn Mặc Tử lại cho rằng, tri thức của loài người có được là do nhận thức

thế giới quan ở phần lí luận nhận thức, Mặc Tử thấy được vai trò của thực tiễn,

tuy nó còn rất mơ hồ. Ông viết, nhận thức là do vật thể và ông giải thích: “Nhận

thức là gì? là cái mà cho ta biết được, mà đã biết được thì phải nhìn thấy rõ và

hình dung ra nó như người ta trông thấy bằng thị giác” [6, tr.41].

Các nhà triết học Hy Lạp cổ đại thế kỷ VI-V (TCN) cũng bàn nhiều về vấn

đề lý luận và thực tiễn, về khả năng nhận thức của con người đối với thực tiễn,

tiêu biểu là Platôn và Arixtốt.

Platôn cho rằng, thế giới những sự vật cảm tính và thế giới ý niệm là hai

thế giới song song cùng tồn tại và độc lập với nhau, vật chất được Platôn hiểu

theo nghĩa là cái không tồn tại, không nhìn thấy được, không nhận thức được

nhưng lại là nguồn gốc của cái nhiều, cái đơn nhất, cái sinh ra và cái tử. Như

vậy, ở đây Platôn cho rằng con người không có khả năng nhận thức thế giới và

thế giới là từ ý niệm mà ra.

Arixtốt là một trong những người có quan niệm cổ điển về chân lý, ông đã

cho rằng, chân lý là sự phù hợp giữa quan niệm con người về sự vật với sự vật

tồn tại trên thực tế. Theo Ông, tự nhiên là tính thứ nhất, tri thức là tính thứ hai,

nhiệm vụ của nhận thức là nhận thức cái tất yếu của tự nhiên và phản ánh vào

trong khái niệm. Con đường hình thành khái niệm diễn ra như sau: Cảm giác -

kinh nghiệm - nghệ thuật - khoa học. Đây là sự phát triển đi lên từ thấp đến cao

và các giai đoạn phát triển này có liên quan chặt chẽ đến nhau, giai đoạn trước

làm tiền đề cho giai đoạn sau. Trong khoa học các phạm trù và các khái niệm

được hình thành, trong đó triết học là khoa học có tính khái quát cao nhất. Đây là

quan niệm rất tiến bộ về mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn trong thời kỳ cổ

14

đại.

Triết học tiền tư bản chủ nghĩa tiêu biểu là triết học Anh, chủ nghĩa duy

vật Pháp và triết học cổ điển Đức.

Triết học Anh cuối thế kỷ XVII, đầu thế kỷ XVIII, đại diện là triết học duy

tâm chủ quan của Béccơli và bất khả tri luận của Hium. Họ cho rằng, ý thức là

cái tồn tại có thực, còn sự vật chỉ có trong cảm giác, trong khái niệm, trong “cái

tôi” do ý thức sản sinh. Do vậy, họ cho rằng nhận thức lý luận không phải là

phản ánh hiện thực khách quan mà chỉ là phản ánh những trạng thái nội tâm của

chủ quan con người.

Các nhà duy vật Pháp thế kỷ XVIII đại diện là HônBách và Điđrô đã có sự

phát triển thêm học thuyết về cảm giác luận duy vật. Họ cho rằng, cảm giác là

nguồn gốc của tri thức, nguồn gốc của cảm giác là sự vật. Ngoài ra họ đã thừa

nhận nhận thức lý tính chế biến những tư tưởng đơn giản thành tư tưởng phức

tạp. Các nhà duy vật Pháp thấy được mối liên hệ giữa nhận thức lý tính và nhận

thức cảm tính thấy được sự phát triển của sản xuất ảnh hưởng sự phát triển của

tư duy. Chủ nghĩa duy vật pháp cũng đã thấy được thực tiễn là cơ sở của nhận

thức. Đây là những tư tưởng rất tiến bộ lúc bấy giờ mà sau này được đánh giá

cao.

Triết học cổ điển Đức thế kỷ XVIII, đại diện là chủ nghĩa duy tâm khách

quan của Hêghen cho rằng, “Tinh thần thế giới” hay “ý niệm” đó là cơ sở đầu

tiên của mọi tồn tại, nó có trước thế giới vật chất. Còn nhận thức lý luận là sự “tự

nhận thức”. Ông cho rằng, “Trong ý niệm lý luận, khái niệm chủ quan với tư

cách là cái chung và tự nó không có tính qui định, đứng đối lập với thế giới

khách quan mà từ đó nó lấy một nội dung và một bổ sung đầy đủ nhất định” [24,

tr.299].

Như vậy, Hêghen thừa nhận sự tồn tại của thế giới khách quan “ý niệm”

15

đối lập với thế giới khách quan, nhưng “ý niệm lý luận” theo Hêghen là cái có

trước sinh ra thế giới khách quan. Tư tưởng này không tránh khỏi sai lầm của

chủ nghĩa duy tâm khách quan.

Các học thuyết khác, như Thuyết hoài nghi: Không tin là con người có thể

nhận thức được thế giới khách quan, đại biểu là Pirô 360 - 270 (TCN).

Thuyết không thể biết cho rằng nhận thức của con người chỉ phản ánh bề

ngoài của sự vật chứ không nhận thực được bản chất của sự vật.

Như vậy, chủ nghĩa duy tâm và những học thuyết biến tướng của nó bằng

cách này hay cách khác không thừa nhận nhận thức của con người là sự phản ánh

thế giới khách quan, không thấy được sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn.

Các nhà duy vật trước Mác tuy có nhiều tiến bộ và kiên quyết chống lại chủ

nghĩa duy tâm nhưng quan niệm về nhận thức còn hạn chế mang tính trực quan

máy móc, coi nhận thức của con người như là sự phản ánh của cái gương. Còn

các nhà duy vật thô thiển quan niệm rằng, óc tiết ra tư tưởng cũng như gan tiết ra

mật từ đó dẫn đến họ không phân biệt được đặc tính riêng của tinh thần hay nhận

thức và đi đến đồng nhất vật chất với tinh thần.

Quan niệm tiến bộ nhất về mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn của chủ

nghĩa duy vật trước Mác là triết học của Cantơ. Ông đã nhận thấy vai trò đặc biệt

của tri thức lý luận đối với khoa học, ông coi đây là nền tảng của quá trình nhận

thức chân lý của con người. Vì thế, giải quyết nhiệm vụ trên cũng có nghĩa là

luận chứng sự tồn tại của các khoa học lý luận thời đó.

V.I.Lênin nhận xét: “Lần đầu tiên trong lịch sử Cantơ hiểu được vai trò

quyết định của hành động thực tiễn con người, đặt nó cao hơn lý luận” [21,

tr.172].

Nhận xét về các quan điểm triết học duy vật trước Mác, Mác viết “Khuyết

điểm chủ yếu của mọi chủ nghĩa duy vật (kể cả chủ nghĩa duy vật của PhơBách)

16

là sự vật hiện tượng - cái có thể cảm giác được chỉ được nhận thức là hoạt động

cảm giác của con người, là thực tiễn không được nhận thức về mặt chủ quan”

[25, tr.9].

1.1.1.2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về lý luận và thực tiễn

Dựa vào những thành tựu của khoa học nói chung và khoa học tự nhiên

nói riêng, cùng với hoạt động của các ông trong phong trào đấu tranh của quần

chúng lao động, C.Mác và Ph.Ăngghen đã có công lớn trong việc đưa thực tiễn

vào nhận thức luận. Không những thế cả lý luận và thực tiễn đều được các ông

nâng lên trình độ mới: thực tiễn cách mạng và lý luận cách mạng. Nhờ đó, lý

luận gắn bó chặt chẽ với thực tiễn, trở thành vũ khí nhận thức và cải tạo thế giới.

Với việc đưa phạm trù thực tiễn vào lý luận của mình, C.Mác, Ph.Ăngghen đã

thực hiện một bước chuyển biến cách mạng trong lý luận nói chung và trong

nhận thức luận nói riêng.

Phạm trù thực tiễn

Theo triết học Mác-Lênin, thực tiễn là toàn bộ hoạt động vật chất có mục

đích, mang tính lịch sử - xã hội của con người nhằm cải tạo tự nhiên, xã hội và

bản thân con người.

Hoạt động của con người bao gồm hoạt động vật chất và hoạt động tinh

thần. Thực tiễn là hoạt động vật chất. Hoạt động vật chất là những hoạt động mà

chủ thể sử dụng phương tiện vật chất tác động vào đối tượng vật chất nhất định,

nhằm cải tạo chúng theo nhu cầu của con người. Con người sử dụng các phương

tiện để tác động vào đối tượng theo những hình thức và mức độ khác nhau tuỳ

thuộc vào mục đích của con người. Kết quả của quá trình hoạt động thực tiễn là

những sản phẩm thoả mãn nhu cầu vật chất và nhu cầu tinh thần của cá nhân và

cộng đồng.

Mỗi một hoạt động của con người đều mang tính lịch sử cụ thể. Nó chỉ

17

diễn ra trong một giai đoạn nhất định nào đó. Nó có quá trình hình thành, phát

triển và kết thúc hoặc chuyển hoá sang giai đoạn khác, không có hoạt động thực

tiễn nào tồn tại vĩnh viễn. Mặt khác, hoạt động thực tiễn chịu sự chi phối của mỗi

giai đoạn lịch sử cả về đối tượng, phương tiện cũng như mục đích hoạt động.

Hoạt động thực tiễn mặc dù phải thông qua từng cá nhân, từng nhóm

người, nhưng không thể tách rời các quan hệ xã hội. Xã hội quy định mục đích,

đối tượng, phương tiện và lực lượng trong hoạt động thực tiễn. Do đó, hoạt động

thực tiễn của con người mang tính xã hội sâu sắc, được thực hiện trong cộng

đồng, do cộng đồng.

Hoạt động thực tiễn mang tính tất yếu, nhưng tất yếu có nhận thức, có ý

thức. Đó là ý thức về kết quả, ý thức về phương pháp, ý thức về đối tượng,… đặc

biệt là ý thức về mục đích của quá trình hoạt động. Mục đích của hoạt động thực

tiễn là nhằm thoả mãn những nhu cầu vật chất và tinh thần của cá nhân và xã hội.

Mỗi một hoạt động đều có mục đích khác nhau để giải quyết nhu cầu cụ thể,

không có hoạt động nào không có mục đích, mặc dù kết quả của hoạt động thực

tiễn không phải là lúc nào cũng diễn ra phù hợp với mục đích của con người.

Hoạt động thực tiễn rất phong phú, đa dạng, song có thể chia ra ba hình

thức cơ bản là: hoạt động sản xuất vật chất, hoạt động chính trị - xã hội, hoạt

động thực nghiệm khoa học. Hoạt động sản xuất vật chất là hoạt động trực tiếp

tác động vào tự nhiên, cải tạo tự nhiên nhằm tạo ra của cải vật chất cho sự tồn tại

và phát triển của xã hội. Hoạt động chính trị - xã hội là hoạt động của con người

trực tiếp tác động vào xã hội, cải biến các quan hệ xã hội theo hướng tiến bộ. Hoạt

động thực nghiệm khoa học là hoạt động của các nhà khoa học tác động làm cải

biến những đối tượng nhất định, trong một điều kiện nhất định, theo một mục đích

nghiên cứu nhất định.Trong đó hoạt động sản xuất vật chất đóng vai trò quyết định

vì đó là cơ sở cho các hoạt động khác.

18

Hoạt động sản xuất vật chất là hình thức cơ bản của thực tiễn vì:

Thứ nhất, về mặt quan hệ là nó là tính thứ nhất và là cái quyết định đối với

ý thức và với tất cả các hình thức hoạt động xã hội - tinh thần khác của con

người.

Thứ hai, nó là cái quyết định, xét về mặt tiềm năng dù ở bất cứ trình độ

nào của nó đối với tất cả các hoạt động cơ bản của con người như các hoạt động

khoa học, chính trị, tôn giáo, nghệ thuật…

Thứ ba, hoạt động sản xuất vật chất là hoạt động thực tiễn cảm tính, nó

được thực hiên ở bên ngoài ý thức theo các quy luật khách quan không phụ thuộc

vào ý thức.

Hoạt động chính trị - xã hội bao gồm các quan hệ các giai cấp, dân tộc,

nhà nước, hoạt động của các đảng phái chính trị… các quan hệ chính trị bắt

nguồn từ các quan hệ kinh tế, các nhu cầu, lợi ích kinh tế. Các quan điểm tư

tưởng chính trị phản ánh các nhu cầu, lợi ích kinh tế. Tuy nhiên, không thể từ đó

suy ra rằng: Hoạt động chính trị là hoạt động thực tiễn tư tưởng. Hoạt động chính

tri - xã hội là hình thức hoạt động đặc trưng của con người trong điều kiện xã hội

phân chia thành giai cấp, xã hội phân chia con người thành các nhóm lợi ích

khác nhau. Hoạt động chính trị - xã hội phản ánh cuộc đấu tranh giữa các giai

cấp với lực lượng chính trị nhằm giành, giữ và bảo vệ quyền lực chính trị - công

cụ quan trọng để bảo vệ lợi ích kinh tế của các giai cấp.

Hoạt động chính trị - xã hội là hình thức bên ngoài của các quá trình vận

động kinh tế. Nó có quan hệ biện chứng, phản ánh mối quan hệ của cơ cở hạ

tầng đối với kiến trúc thượng tầng. Hoạt động chính trị có vai trò mở đường

nhằm thúc đẩy các quá trình kinh tế - xã hội. Với ý nghĩa đó, hoạt động chính trị

- xã hội gắn liền, chịu sự chi phối của sản xuất xã hội, đồng thời góp phần tích

19

cực vào quá trình sản xuất - xã hội.

Hoạt động chính trị - xã hội có ý nghĩa cách mạng thúc đẩy xã hội phát

triển. Vì vậy, triết học Mác coi hoạt động chính trị - xã hội thuộc cấu trúc của

phạm trù thực tiễn. Thực chất, hoạt động chính trị là ở sự làm thay đổi trực tiếp

các quan hệ xã hội hiện thực mà muốn thay đổi các quan hệ xã hội ấy thì phải có

những con người sử dụng những lực lượng thực tiễn.

Dạng thứ ba cơ bản của thực tiễn đó là các hoạt động quan sát thực

nghiệm khoa học, nó là dạng thực tiễn đặc biệt, vì nó không nhằm tạo ra các sản

phẩm vật chất nhất định mà nhằm đạt đến các tri thức khoa học để phục vụ cho

hoạt động thực tiễn.

Đối với khoa học tự nhiên, nếu coi thực tiễn chỉ là thực nghiệm trong

phòng thí nghiệm thì chưa đủ, bởi thực nghiệm trong phòng thí nghiệm chỉ tạo ra

những điều kiện lý tưởng, giả định của thực tiễn thuận tiện nhất cho việc nhận

thức từng quy luật khách quan, nó chưa thể bao quát đầy đủ toàn bộ mối liên hệ

phổ biến của những điều kiện lịch sử cụ thể và của sự tác động qua lại với các

quy luật khác. Chỉ trong hoạt động thực tiễn thì các hoạt động của các quy luật

khách quan mới được biểu hiện thực sự phong phú, sinh động cụ thể.

Song, thực nghiệm là một bộ phận cấu thành không thể thiếu của thực tiễn

và rất cần thiết để nhận thức quy luật khách quan, phát hiện ra bản chất của hiện

tượng, không có thực nghiệm khoa học thì không thể tiến lên được. Có ba loại

thực nghiệm: Thực nghiệm trong sản xuất; trong khoa học tự nhiên và trong xã

hội.

Các hình thức hoạt động thực tiễn tuy có sự khác nhau tương đối nhưng

chúng thống nhất, có chung chủ thể hoạt động, có cùng mục đích, chúng hỗ trợ,

ảnh hưởng lẫn nhau. Do đó, sự phân biệt giữa các hình thức hoạt động thực tiễn

20

mang tính tương đối.

Hoạt động sản xuất vật chất không thể không hoạt động trong cộng đồng

xã hội. Mặc dù hoạt động chính trị - xã hội trực tiếp tác động đến những vấn đề

của đời sống chính trị, tinh thần, nhưng kết quả hoạt động của lĩnh vực này lại

tác động tích cực đến phát triển sản xuất, phát triển kinh tế - xã hội, cũng như

những vấn đề có tính quy luật mà hoạt động thực nghiệm khoa học đang quan

tâm. Cũng như vậy, hoạt động thực nghiệm khoa học không thể không lấy mục

đích phục vụ kinh tế - xã hội.

Trong các hình thức hoạt động thực tiễn thì hoạt động sản xuất vật chất là

cơ bản nhất. Mặc dù các hoạt động chính trị - xã hội, hoạt động thực nghiệm

khoa học vẫn diễn ra thường xuyên, quan trọng nhưng hoạt động sản xuất vật

chất tác động sâu sắc, toàn diện đến các hoạt động khác, nó là hoạt động trung

tâm, chủ yếu của con người.

Trên cơ sở những hình thức thực tiễn cơ bản trên còn có một số lĩnh vực

của thực tiễn như hoạt động giáo dục, hoạt động nghệ thuật... cũng được hình

thành. Nó cũng tác động vào quá trình tồn tại và phát triển của xã hội. Đó là

những hình thức thực tiễn phát sinh, hình thức đặc thù của thực tiễn.

Phạm trù lý luận

“Lý luận là kinh nghiệm đã được khái quát trong ý thức của con người, là

toàn bộ tri thức về thế giới khách quan, là hệ thống tương đối độc lập của các tri

thức có tác dụng tái hiện trong lôgic của các khái niệm cái lôgic khách quan của

các sự vật” [46, tr.342-343].

Nói cách khác, lý luận là hệ thống những tri thức được khái quát từ thực

tiễn, phản ánh những mối liên hệ bản chất, những quy luật của các sự vật, hiện

tượng. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Lý luận là sự tổng kết những kinh nghiệm của loài

người, là tổng hợp những tri thức về tự nhiên và xã hội tích trực lại trong quá

21

trình lịch sử” [29, tr.497].

Để hình thành lý luận, con người phải thông qua quá trình nhận thức kinh

nghiệm. Nhận thức kinh nghiệm là quá trình quan sát sự lặp đi lặp lại diễn biến

của các sự vật, hiện tượng. Kết quả của nhận thức kinh nghiệm là tri thức kinh

nghiệm. Tri thức kinh nghiệm bao gồm tri thức kinh nghiệm thông thường và tri

thức kinh nghiệm khoa học. Tri thức kinh nghiệm thông thường (tiền khoa học)

thu được thông qua quá trình sinh hoạt và hoạt động hàng ngày của con người.

Nó giúp con người giải quyết nhanh một số vấn đề cụ thể, đơn giản trong quá

trình tác động trực tiếp đối tượng. Tri thức kinh nghiệm khoa học là kết quả của

quá trình thực nghiệm khoa học. Nó đòi hỏi chủ thể phải tích lũy một lượng tri

thức nhất định trong hoạt động sản xuất cũng như hoạt động khoa học mới có thể

hình thành tri thức kinh nghiệm khoa học. Tri thức kinh nghiệm khoa học giúp

các nhà khoa học hình thành lý luận. Tri thức kinh nghiệm tuy là thành tố của tri

thức nhưng ở trình độ thấp. Thế nhưng, nó là cơ sở để hình thành lý luận.

Lý luận có những cấp độ khác nhau tùy phạm vi phản ánh và vai trò

phương pháp luận của nó. Có thể phân chia lý luận thành lý luận ngành và lý

luận triết học.

Lý luận ngành là lý luận khái quát những quy luật hình thành và phát triển

của một ngành. Nó là cơ sở để sáng tạo tri thức cũng như phương pháp luận cho

hoạt động của ngành đó, như lý luận văn học, lý luận nghệ thuật...

Lý luận triết học là hệ thống những quan niệm chung nhất về thế giới và

con người, là thế giới quan và phương pháp luận nhận thức và hoạt động của con

người.

Do quá trình hình thành và bản chất của nó, lý luận có hai chức năng cơ

bản là chức năng phản ánh hiện thực khách quan và chức năng phương pháp luận

cho hoạt động thực tiễn. Lý luận phản ánh hiện thực khách quan bằng những quy

22

luật chung hay chung nhất. Tri thức kinh nghiệm cũng như tri thức lý luận đều

phản ánh hiện thực khách quan nhưng ở những phạm vi, lĩnh vực và trình độ

khác nhau. Lý luận phản ánh hiện thực khách quan để làm phương pháp luận

nhận thức và cải tạo hiện thực khách quan bằng hoạt động thực tiễn.

1.1.1.3. Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn của chủ nghĩa

Mác-Lênin

Sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn bắt nguồn từ mối quan hệ giữa con

người với thế giới khách quan. Con người luôn luôn tác động tích cực vào thế

giới khách quan - tự nhiên và xã hội, cải biến thế giới khách quan bằng thực tiễn.

Trong quá trình đó, sự phát triển nhận thức của con người và sự biến đổi thế giới

khách quan là hai mặt thống nhất. Điều đó quy định sự thống nhất biện chứng

giữa lý luận với thực tiễn trong hoạt động sinh tồn của cá nhân và cộng đồng.

Thực tiễn là cơ sở, là động lực, là mục đích và tiêu chuẩn của lý luận; lý

luận hình thành, phát triển phải xuất phát từ thực tiễn, đáp ứng yêu cầu thực tiễn

Thực tiễn là cơ sở của lý luận. Xét một cách trực tiếp, những tri thức được

khái quát thành lý luận là kết quả của quá trình hoạt động thực tiễn của con

người. Thông qua kết quả hoạt động thực tiễn, kể cả thành công cũng như thất

bại, con người phân tích cấu trúc, tính chất và các mối quan hệ của các yếu tố,

các điều kiện trong các hình thức thực tiễn để hình thành lý luận. Quá trình hoạt

động thực tiễn còn là cơ sở để bổ xung và điều chỉnh những lý luận đã được khái

quát. Mặt khác, hoạt động thực tiễn của con người làm nảy sinh những vấn đề

mới đỏi hỏi quá trình nhận thức phải tiếp tục giải quyết. Thông qua đó, lý luận

được bổ xung, mở rộng. Chính vì vậy, theo V.I.Lênin, “Nhận thức lý luận phải

trình bày khách thể trong tính tất yếu của nó, trong những quan hệ toàn diện của

nó, trong sự vận động mâu thuẫn của nó, tự nó và vì nó” [24, tr.227].

Thực tiễn là động lực của lý luận. Hoạt động của con người không chỉ là

23

nguồn gốc để hoàn thiện các cá nhân mà còn góp phần hoàn thiện các mối quan

hệ của con người với tự nhiên, với xã hội. Lý luận được vận dụng làm phương

pháp cho hoạt động thực tiễn, mang lại lợi ích cho con người càng kích thích con

người tích cực bám sát thực tiễn để khái quát lý luận. Quá trình đó diễn ra không

ngừng trong sự tồn tại của con người, làm cho lý luận ngày càng đầy đủ, phong

phú và sâu sắc hơn.

Thực tiễn là mục đích của lý luận. Mặc dù lý luận cung cấp những tri thức

khái quát về thế giới để làm thỏa mãn nhu cầu hiểu biết của con người nhưng

mục đích chủ yếu của lý luận là nâng cao năng lực hoạt động của con người

trước hiện thực khách quan để đưa lại lợi ích cao hơn, thỏa mãn nhu cầu ngày

càng tăng của cá nhân và xã hội. Tự thân lý luận không thể tạo nên những sản

phẩm đáp ứng nhu cầu của con người. Nhu cầu đó chỉ được thực hiện trong hoạt

động thực tiễn. Hoạt động thực tiễn sẽ biển đổi tự nhiên và xã hội theo mục đích

của con người. Đó thực chất là mục đích của lý luận. Tức lý luận phải đáp ứng

nhu cầu hoạt động thực tiễn của con người.

Thực tiễn là tiêu chuẩn chân lý của lý luận. Tính chân lý của lý luận chính

là sự phù hợp của lý luận với hiện thực khách quan và được thực tiễn kiểm

nghiệm, là giá trị phương pháp của lý luận đối với hoạt động thực tiễn của con

người. Do đó, mọi lý luận phải thông qua thực tiễn để kiểm nghiệm. Chính vì thế

mà C.Mác cho rằng: “Vấn đề tìm hiểu xem tư duy của con người có thể đạt đến

chân lý khách quan không, hoàn toàn không phải là vấn đề lý luận mà là một vấn

đề thực tiễn. Chính trong thực tiễn mà con người phải chứng minh chân lý” [18,

tr.10]. Thông qua thực tiễn, những lý luận đạt đến chân lý sẽ được bổ sung vào

kho tàng tri thức nhân loại; những kết luận chưa phù hợp thực tiễn thì tiếp tục

điều chỉnh, bổ sung hoặc nhận thức lại. Giá trị của lý luận nhất thiết phải được

24

chứng minh trong hoạt động thực tiễn.

Thực tiễn là tiêu chuẩn chân lý của lý luận, nhưng không phải mọi thực

tiễn đều là tiêu chuẩn của chân lý. Thực tiễn là tiêu chuẩn chân lý của lý luận khi

thực tiễn đạt đến tính toàn vẹn của nó. Tính toàn vẹn của thực tiễn là thực tiễn đã

trải qua quá trình tồn tại, vận động, phát triển và chuyển hóa. Đó là chu kỳ tất

yếu của thực tiễn. Thực tiễn có nhiều giai đoạn phát triển khác nhau. Nếu lý luận

chỉ khái quát một giai đoạn nào đó, một bộ phận nào đó của thực tiễn thì lý luận

có thể xa rời thực tiễn. Do đó, chỉ những lý luận nào phản ánh được tính toàn vẹn

của thực tiễn thì mới đạt đến chân lý. Chính vì vậy mà V.I.Lênin cho rằng:

“Thực tiễn của con người lặp đi lặp lại hàng nghìn triệu lần được in vào ý thức

của con người bằng những hình tượng logic. Những hình tượng này có tính vững

chắc của một thiên kiến, có một tính chất công lý, chính vì (và chỉ vì) sự lặp đi

lặp lại hàng nghìn triệu lần ấy” [24, tr.234].

Quá trình thăng trầm của chủ nghĩa xã hội thế giới cho chúng ta thấy rõ

điều đó. Sau khi giành được chính quyền, những người vô sản tiến hành xây

dựng chủ nghĩa xã hội với cơ chế kế hoạch hóa, tập trung, bao cấp thông qua hai

hình thức sở hữu là toàn dân và tập thể. Tương ứng với hai hình thức sở hữu đó

là hai thành phần kinh tế: quốc doanh và tập thể. Thời kỳ đầu, chủ nghĩa xã hội

đã đạt được nhiều thành tựu rực rỡ. Từ đây, chúng ta cho rằng, cơ chế đó, hai

thành phần kinh tế đó và những lý luận ra đời trên nền tảng ấy vừa khẳng định

tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội, vừa khẳng định lý luận xây dựng chủ nghĩa xã

hội là hoàn toàn khoa khọc. Khủng hoảng của chủ nghĩa xã hội từ những năm 70

của thế kỷ XX dẫn đến sụp đổ một loạt nước xã hội chủ nghĩa vào cuối những

năm 80 đầu những năm 90 của thế kỷ đó chứng tỏ thực tiễn của chủ nghĩa xã hội

chưa bộc lộ hết, chưa phát triển toàn vẹn, nên lý luận chưa phản ánh đúng hiện

25

thực khách quan.

Tuy xét đến cùng, thực tiễn là tiêu chuẩn chân lý duy nhất của lý luận,

nhưng vì thực tiễn luôn vận động và phát triển, đồng thời, thực tiễn cũng rất

phong phú và đa dạng, do đó ngoài tiêu chuẩn thực tiễn còn có thể có những tiêu

chuẩn khác như tiêu chuẩn logic, tiêu chuẩn giá trị... Song các tiêu chuẩn đó vẫn

phải trên nền tảng của thực tiễn. Chính vì vậy, thực tiễn là tiêu chuẩn chân lý của

lý luận.

Quá trình phát triển nhận thức của con người nhất thiết dẫn đến sự hình

thành lý luận. Đó không chỉ là sự tổng kết, khái quát từ lịch sử nhận thức mà còn

từ nhu cầu của thực tiễn. Thực tiễn phong phú, đa dạng, luôn vận động và biến

đổi, nhưng để hình thành lý luận, trước hết lý luận phải đáp ứng thực tiễn. Con

người nhận thức hiện thực khách quan để giải quyết những vấn đề con người

quan tâm. Năng lực của con người ngày càng được nâng cao nhờ khả năng thông

qua hoạt động phản ánh, khái quát thành tri thức lý luận. Trong sự vô cùng, vô

tận của hiện thực khách quan, con người không hề choáng ngợp mà bằng mọi

biện pháp để nhận thức theo định hướng mục đích. Thông qua tính mục đích đó

mà lý luận được hình thành. Loài người có khả năng trở thành chủ thể nhận thức

để phản ánh sự vô tận của hiện thực khách quan, nhưng để đáp ứng hoạt động

thực tiễn, con người tích lũy lý luận, mà trước hết là những lý luận phù hợp với

nhu cầu hoạt động thực tiễn của con người. Đó là những lý luận mang tính

phương pháp cho hoạt động cải tạo hiện thực khách quan. Mọi hoạt động của

con người đều nhằm đạt hiệu quả cao. Lý luận, trước hết phải đáp ứng mục đích

đó. Quan hệ giữa người với người, giữa người với tự nhiên đỏi hỏi con người

phải có lý luận sâu sắc về chúng. Con người hình thành lý luận chủ yếu để làm

phương pháp cho hoạt động trong đó có hoạt động sáng tạo trí thức; phát minh,

sáng chế những tư liệu sản xuất, tư liệu sinh hoạt nhằm nâng cao năng lực sáng

26

tạo của con người, do đó, hệ thống lý luận nào góp phần giải quyết đúng đắn,

phù hợp với mục đích của con người thì được con người quan tâm khái quát. Vì

lẽ đó, lý luận phải đáp ứng nhu cầu phát triển của thực tiễn.

Thực tiễn phải được chỉ đạo bởi lý luận, ngược lại lý luận phải được vận

dụng vào thực tiễn, tiếp tục bổ sung và phát triển trong thực tiễn.

Theo C.Mác, người thợ xây không bao giờ tinh xảo như con ong xây tổ,

nhưng người thợ xây hơn hẳn con ong ở chỗ, trước khi xây dựng một công trình,

họ đã hình thành được hình tượng của công trình ấy trong đầu họ. Tức là, hoạt

động của con người là hoạt động có ý thức. Ban đầu, hoạt động của con người

chưa có lý luận chỉ đạo, song con người phải hoạt động để đáp ứng nhu cầu tồn

tại của mình. Thông qua đó, con người khái quát thành lý luận. Từ đó, những

hoạt động thực tiễn của con người mới trở thành tự giác, có hiệu quả và đạt được

mục đích mong muốn.

Lý luận đóng vai trò soi đường cho thực tiễn, vì lý luận có khả năng định

hướng mục tiêu, xác định lực lượng, phương pháp, biện pháp thực hiện. Lý luận

còn dự báo được khả năng phát triển cũng như các mối quan hệ của thực tiễn, dự

báo được những rủi ro có thể xảy ra, những hạn chế, những thất bại có thể có

trong quá trình hoạt động. Như vậy, lý luận không chỉ giúp con người hoạt động

hiệu quả mà còn là cơ sở để khắc phục những hạn chế và tăng năng lực hoạt

động của con người. Mặt khác, lý luận còn có vai trò giác ngộ mục tiêu, lý

tưởng, liên kết các cá nhân thành cộng đồng, tạo thành sức mạnh vô cùng to lớn

của quần chúng trong cải tạo tự nhiên và cải tạo xã hội. Chính vì vậy, C.Mác đã

cho rằng: “Vũ khí của sự phê phán cố nhiên không thể thay thế được sự phê phán

của vũ khí, lực lượng vật chất chỉ có thể bị đánh đổ bằng lực lượng vật chất;

nhưng lý luận cũng sẽ trở thành lực lượng vật chất, một khi nó thâm nhập vào

27

quần chúng” [25, tr.580].

Mặc dù lý luận mang tính khái quát cao, song, nó còn có tính lịch sử, cụ

thể. Do đó, khi vận dụng lý luận, chúng ta cần phân tích một cách cụ thể mỗi

tình hình cụ thể. Nếu vận dụng lý luận máy móc, giáo điều, kinh viện thì chẳng

những hiểu sai giá trị của lý luận mà còn làm phương hại đến thực tiễn, làm sai

lệch sự thống nhất tất yếu giữa lý luận và thực tiễn.

Lý luận hình thành là kết quả của quá trình nhận thức lâu dài và khó khăn

của con người trên cơ sở hoạt động thực tiễn. Hoạt động thực tiễn tuy phong phú,

đa dạng nhưng không phải không có tính quy luật. Tính quy luật của thực tiễn được

khái quát dưới hình thức lý luận. Mục đích của lý luận không chỉ có phương pháp

mà còn định hướng cho hoạt động thực tiễn. Đó là định hướng mục tiêu, biện pháp

sử dụng lực lượng, định hướng giải quyết các mối quan hệ trong hoạt động thực

tiễn. Không những thế, lý luận còn định hướng mô hình của hoạt động thực tiễn.

Vận dụng lý luận vào hoạt động thực tiễn, trước hết, từ lý luận để xây dựng mô hình

thực tiễn theo những mục đích khác nhau của quá trình hoạt động, dự báo các diễn

biến, các mối quan hệ, lực lượng tiến hành và những phát sinh của nó trong quá

trình phát triển để phát huy các nhân tố tích cực, hạn chế những yếu tố tiêu cực

nhằm đạt kết quả cao hơn.

Lý luận tuy là lôgic của thực tiễn, song lý luận có thể lạc hậu so với thực

tiễn. Vận dụng lý luận vào thực tiễn đòi hỏi chúng ta phải bám sát diễn biến

của thực tiễn để kịp thời điều chỉnh, bổ sung những khiếm khuyết của lý luận,

hoặc có thể thay đổi lý luận cho phù hợp với thực tiễn. Khi vận dụng lý luận

vào thực tiễn, chúng có thể mang lại hiệu quả hoặc có thể không, hoặc kết quả

chưa rõ ràng. Trong trường hợp đó, giá trị của lý luận phải do thực tiễn quy

định. Tính năng động của lý luận chính là điều chỉnh cho phù hợp với thực

tiễn. V.I.Lênin nhận xét rằng: Thực tiễn cao hơn nhận thức (lý luận), vì nó có

28

ưu điểm không những của tính phổ biến, mà cả của tính hiện thực trực tiếp.

1.1.2. Thực chất của nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn

trong đào tạo

Theo từ điển bách khoa Việt Nam thì, đào tạo là một quá trình tác động

lên con người làm cho người đó lĩnh hội và nắm vững những tri thức, kỹ năng,

kỹ xảo... một cách có hệ thống nhằm chuẩn bị cho người đó thích nghi với cuộc

sống và khả năng nhận một sự phân công lao động nhất định, góp phần của

mình vào việc phát triển xã hội, duy trì và phát triển nền văn minh của loài

người.

Từ đó có thể hiểu đào tạo là quá trình hoạt động có mục đích có tổ chức,

nhằm hình thành và phát triển hệ thống các tri thức, kỹ năng, kỹ xảo, thái độ... để

hoàn thiện nhân cách cho mỗi cá nhân, tạo tiền đề cho họ có thể vào đời hành

nghề một cách có năng xuất có hiệu quả

Về cơ bản đào tạo là quá trình giảng dạy và học tập trong nhà trường, gắn

với giáo dục đạo đức, nhân cách. Kết quả và trình độ được đào tạo của một

người còn do việc tự đào tạo của người đó thể hiện ở việc tự học và tham gia các

hoạt động xã hội, lao động sản xuất, tích luỹ kinh nghiệm thực tiễn của người đó

quyết định.

Chỉ khi nào quá trình đào tạo được biến thành quá trình tự đào tạo một

cách tích cực, tự giác thì việc đào tạo mới có hiệu quả cao. Tuỳ theo tính chất

chuẩn bị cho cuộc sống và cho lao động, người ta phân biệt đào tạo cơ bản phổ

thông và đào tạo chuyên môn nghề nghiệp, hai loại này gắn bó và hỗ trợ cho

nhau với những nội dung do đòi hỏi của sản xuất, của các quan hệ xã hội, của

trình độ phát triển khoa học kỹ thuật và văn hoá của đất nước. Khái niệm “đào

tạo” có quan hệ chặt chẽ với khái niệm “giáo dục”. Trong giáo dục có đào tạo và

trong đào tạo có giáo dục. Nếu phân tích riêng rẽ thì giáo dục chính là sự định

29

hướng của thế hệ trước cho sự phát triển của thế hệ sau bằng sự truyền đạt và

lĩnh hội kinh nghiệm lịch sử xã hội loài người một cách có mục đích và kế

hoạch. Đào tạo là quá trình giáo dục, dạy dỗ và rèn luyện để đối tượng đó trở

thành người có năng lực, phẩm chất và khả năng theo những tiêu chuẩn nhất

định, để họ có thể đóng góp vai trò hay làm những công việc, những nghề nghiệp

nhất định.

Như vậy giáo dục và đào tạo chúng có mối quan hệ biện chứng với nhau.

Mối quan hệ đó thể hiện ở chỗ. Thứ nhất giáo dục và đào tạo đều có chung một

bản chất là định hướng của thế hệ trước đối với sự phát triển của thế hệ sau, đều

là con đường ngắn nhất, nhanh nhất dẫn dắt thế hệ trẻ phát triển bỏ qua những

mò mẫm không cần thiết trong cuộc đời, chúng đều nhằm mục tiêu là nâng cao

dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài. Thứ hai giáo dục là một trong

những biện pháp cơ bản của đào tạo, tức là muốn đào tạo một con người thì phải

nhất thiết phải thông qua con đường giáo dục. Ngược lại giáo dục cũng nhằm

mục tiêu con người là mục tiêu cơ bản nhất.

Vì vậy, ngay trong quá trình giáo dục đã bao hàm yếu tố của đào tạo, và

trong bất cứ một hoạt động đào tạo nào cũng phải chứa đựng hiện tượng giáo

dục. Muốn hiểu rõ khái niệm đào tạo phải đặt trong mối quan hệ với giáo dục.

Hiểu một cách chung nhất: Thực tiễn trong giáo dục và đào tạo là toàn bộ hoạt

động vật chất có mục đích giáo dục - đào tạo mang tính lịch sử - xã hội nhằm cải

tạo xã hội hiện thực của con người.

Thực tiễn trong giáo dục và đào tạo có thể khái quát lên thành hai hoạt

động cơ bản là hoạt động giáo dục và hoạt động đào tạo. Hai hoạt động này có

mối quan hệ khăng khít với nhau, tác động qua lại với nhau, cùng thực hiện mục

tiêu là đào tạo nâng cao chất lượng nguồn lực con người đáp ứng yêu cầu khách

quan của sự phát triển xã hội. Lý luận thể hiện trong công tác giáo dục và đào tạo

30

thế hệ trẻ là lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin vì nó là: Khoa học về các qui luật

phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy khoa học về cách mạng của quần chúng

bị áp bức và bóc lột, khoa học về sự thắng lợi của chủ nghĩa xã hội ở tất cả các

nước, khoa học về xây dựng Chủ nghĩa Xã hội, trong đó có khoa học về xây

dựng nền giáo dục xã hội chủ nghĩa cùng với lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin,

tư tưởng Hồ Chí Minh được Đảng Cộng sản Việt Nam lấy làm nền tảng, kim chỉ

nam cho mọi hoạt động. Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục và đào tạo vừa là

thành quả của sự chắt lọc tinh tế tinh hoa văn hoá dân tộc và nhân loại, vừa mang

đậm hơi thở của cuộc sống. Do vậy, ở Hồ Chí Minh, lý luận giáo dục và thực

tiễn có sự thống nhất hữu cơ không tách rời. Nghị quyết UNESCO đánh giá: Sự

đóng góp quan trọng về nhiều mặt của Hồ Chí Minh trong các lĩnh vực văn

hoá, văn hoá và nghệ thuật là kết tinh của truyền thống hàng ngàn năm của

nhân dân Việt Nam và những tư tưởng của người là hiện thân của những khát

vọng của các dân tộc trong việc khẳng định bản sắc dân tộc của mình và tiêu

biểu cho việc thúc đẩy sự hiểu biết lẫn nhau.

Thực tiễn trong đào tạo chính là con đường thực hiện mục tiêu đào tạo

thông qua một loạt các phương pháp, cách thức tổ chức và quản lý quá trình đào

tạo nhằm tạo ra nguồn nhân lực có chất lượng. Hơn nữa, thực tiễn trong đào tạo

còn được đánh giá bằng khả năng, trình độ, kinh nghiệm của chủ thể được đào

tạo trong quá trình nhận sự phân công lao động nhất định, góp phần của mình

vào việc phát triển xã hội. Tức là được đánh giá bằng kết quả của việc sử dụng

nguồn nhân lực đã được đào tạo trong thực tế.

Còn lý luận trong đào tạo chính là toàn bộ nội dung những tri thức khoa

học được sử dụng thông qua hoạt động dạy và học trong suốt quá trình đào

tạo.

Như vậy, cả thực tiễn và lý luận trong đào tạo đều nhằm mục đích là nâng

31

cao chất lượng đào tạo, thể hiện chính qua năng lực của con người được đào tạo

sau khi hoàn thành quá trình đào tạo. Chúng có mối quan hệ biện chứng không

thể tách rời.

Trong Tư bản C.Mác viết “Việc kết hợp giữa lao động sản xuất với trí dục,

thể dục và huấn luyện kỹ thuật bách khoa sẽ nâng giai cấp vô sản lên trình độ

cao hơn nhiều so với trình độ của giai cấp quý tộc và giai cấp tư sản” [18, tr.39].

Ph.Ănghen còn nhấn mạnh: “Kết hợp lao động sản xuất với trí dục không chỉ là

phương pháp làm tăng thêm sự sản xuất xã hội mà còn là một phương pháp duy

nhất và độc đáo để tạo ra những con người toàn diện” [18, tr.71] còn V.I.Lênin

chỉ rõ rằng: “Nếu học chủ nghĩa cộng sản chỉ là thấm nhuần những cái đã trình

bày trong các tác phẩm, sách vở nói về chủ nghĩa Cộng sản thì chúng ta rất dễ

tạo ra những tên mọt sách Cộng sản” [18, tr.166]. “Chỉ khi nào lao động với

công nhân, nông dân người ta mới trở nên một người Cộng sản chân chính được”

[18, tr.189].

Xuất phát từ quan điểm về sự thống nhất biện chứng giữa phạm trù lý luận

và phạm trù thực tiễn trong công tác giáo dục - đào tạo nguồn nhân lực con

người cho nước nhà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ “Một người học song đại

học được xem là trí thức song Y không biết cày ruộng, không biết làm công,

không biết đánh giặc, không biết làm nhiều việc khác. Nói tóm lại công việc thực

tế Y không biết gì cả. Thế là Y chỉ có tri thức một nửa. Tri thức của y chỉ có tri

thức học sách, chưa phải là tri thức hoàn toàn. Y muốn trở thành tri thức hoàn

toàn thì phải đem các tri thức đó vận dụng vào thực tế” [27, tr.24].

Người còn chỉ rõ, đào tạo con người xã hội chủ nghĩa không có con đường

nào khác ngoài giáo dục tri thức khoa học và lý tưởng đạo đức Xã hội chủ nghĩa.

Đó là nền giáo dục nhằm phát triển con người toàn diện, vừa “hồng” vừa

32

“chuyên” trong thời đại mới và như vậy “con người xã hội chủ nghĩa”, con người

toàn diện, nhất định phải có học thức. Cần phải học văn hoá, chính trị, kỹ thuật

cần phải học lý luận Mác-Lênin kết hợp với đấu tranh công tác hàng ngày.

Theo người, học “lý luận cốt là để áp dụng và công việc thực tế, lý luận

mà không áp dụng vào thực tế là lý luận suông. Dù xem hàng ngàn hàng vạn

cách lý luận nếu không biết đem ra thực hành thì chẳng khác nào cái hòm đựng

sách” [44, tr.12]. Người tiếp tục chỉ ra “Lý luận phải đem ra thực hành. Thực

hành phải nhằm theo lý luận. Lý luận cũng như cái tên (viên đạn), thực hành như

cái đích để bắn. Có tên mà không bắn hoặc bắn lung tung cũng như không có

tên. Lý luận phải áp dụng vào thực tế. Chỉ học thuộc lòng để đem ra lừa thiên hạ

thì lý luận đó cũng vô ích. Vì vậy chúng ta phải gắn với học, đồng thời học thì

phải hành” [44, tr.12].

Như vậy, sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong giáo dục và đào tạo

ở đây không chỉ là sự tổng hợp những tri thức đã được giáo dục, truyền thụ trong

quá trình học tập kết hợp với việc vận dụng những tri thức đó vào thực tiễn,

nhằm củng cố nâng cao trình độ học vấn mà còn tạo ra nguồn tri thức trở thành

phương tiện học thành người là chủ yếu. Còn thống nhất giữa lý luận và thực

tiễn riêng trong quá trình đào tạo chính là sự thống nhất giữa con đường thực

hiện mục tiêu đào tạo với toàn bộ nội dung, chương trình đào tạo.

1.2. Vai trò của nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn với

hoạt động đào tạo

1.2.1. Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn với việc quán triệt

xác định mục tiêu và xây dựng nội dung, chương trình đào tạo

Để giáo dục và đào tạo thực sự là phương tiện đắc lực, phát triển trí tuệ,

nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, trang bị chuyên môn nghề

nghiệp, tạo ra nguồn lao động có chất lượng cao thì phải nhận thức đúng quan

33

niệm về vị trí vai trò của giáo dục và đào tạo.

Trong một thời gian dài chúng ta không nhìn nhận ra vấn đề này. Đây là

một trong những nguyên nhân gây cản trở không nhỏ cho sự phát triển của sự

nghiệp cách mạng. Toàn Đảng, toàn dân và trước hết là ngành giáo dục đón nhận

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII như một sự kiện trọng đại. Đó là nhận

thức đúng đắn về vị trí của giáo dục và đào tạo, vai trò quan trọng của người

giáo viên. Nếu giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu phải đi trước một bước

thì công tác đào tạo giáo viên là bước đột phá của nhiệm vụ chiến lược đó. Cần

phải thấy được một chân lý hiển nhiên rằng chất lượng sản phẩm của giáo dục

đào tạo dân trí, nhân lực, nhân tài chỉ có thể phụ thuộc chủ yếu vào chất lượng

của những “máy cái” trong công nghiệp nặng của giáo dục và đào tạo ở các

trường sư phạm.

Để tạo ra được đội ngũ giáo viên đủ về số lượng đảm bảo về chất lượng,

có trách nhiệm và lương tâm nghề nghiệp, tập trung tâm lực vào sự nghiệp trồng

người thì trước hết Đảng và Nhà nước phải đề ra những chính sách tích cực, thoả

đáng đối với việc đào tạo và sử dụng giáo viên. Những chính sách đó phải là sự

thấm nhuần sâu sắc vai trò “quốc sách + hàng đầu” của giáo dục và đào tạo.

Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, các cấp lãnh đạo Đảng, chính

quyền, các ban, ngành, các tổ chức xã hội, các doanh nghiệp, các cán bộ giáo

viên, học sinh và toàn xã hội phải nhận thức rõ rằng đào tạo giáo viên cũng chính

là sự nghiệp như kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội có ý nghĩa sống còn đối với

đất nước.

Ngành giáo dục và đào tạo phải nhìn nhận rõ trọng trách của mình đối với

sự nghiệp cách mạng của đất nước trong giai đoạn hiện nay. Trong qúa trình

phối hợp triển khai với các cấp của Đảng, chính quyền, các ban, ngành, các tổ

34

chức hoạt động giáo dục và đào tạo thì ngành giáo dục và đào tạo phải phát huy

vai trò chủ động, sáng tạo và thể hiện quan tâm hơn nữa trong vị trí nòng cốt của

mình.

Theo tinh thần cơ bản của Luật Giáo dục (có hiệu lực 11/6/1999) thì các

ủy ban nhân dân tỉnh được Nhà nước phân cấp quản lý giáo dục ở tất cả các

trường đóng trên địa bàn tỉnh mình (trừ các trường Đại học, Cao đẳng Trung

ương) và cùng Bộ Giáo dục và Đào tạo vạch ra chiến lược phát triển giáo dục,

trong đó có việc xây dựng các trường sư phạm. Do đó, trách nhiệm xây dựng

trường cao đẳng sư phạm để đào tạo giáo viên trung học cơ sở phù hợp với yêu

cầu khách quan của thực tiễn công tác đào tạo nhân lực đề ra là yêu cầu hết sức

bức thiết.

Chính vì vậy, việc xác định rõ mục tiêu đào tạo đáp ứng yêu cầu của sự

nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa xây dựng chủ nghĩa xã hội của nước ta, từ

đó lựa chọn nội dung đào tạo phù hợp là thể hiện tính đúng đắn của việc quán

triệt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn.

Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn cần phải quán triệt trong

việc xác định mục tiêu đào tạo.

Mục tiêu chung của sự nghiệp giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu cách

mạng được Hội nghị lần thứ hai Ban chấp hành Trung ương (khoá VIII) đề ra:

Nhằm xây dựng những con người và thế hệ trẻ thiết tha gắn bó với lý tưởng độc

lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có đạo đức trong sáng, có ý chí kiên cường xây

dựng và bảo vệ tổ quốc, công nghiệp hoá, giữ gìn và phát huy những giá trị văn

hoá của dân tộc, có năng lực tiếp thu tinh hoa văn hoá của nhân loại, phát huy

tiềm năng của dân tộc và con người Việt Nam, có ý thức cộng đồng và phát huy

tính tích cực của cá nhân làm chủ tri thức khoa học và công nghệ hiện đại, có tư

35

duy sáng tạo, có kỹ năng thực hành giỏi, có tác phong công nghiệp, có tính tổ

chức và kỷ luật, có sức khoẻ, là những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội

vừa “hồng” vừa “chuyên”.

Mục tiêu của công tác đào tạo giáo viên trung học cơ sở chính là sự cụ thể

hoá mục tiêu chung của giáo dục và đào tạo mà Hội nghị lần thứ hai Ban chấp

hành Trung ương (khoá VIII) đề ra, đó chính là mô hình nhân cách của người

giáo viên đáp ứng yêu cầu về nhân lực của giáo dục trung học cơ sở trong giai

đoạn hiện nay. Trường cao đẳng sư phạm có mục tiêu chính là đào tạo giáo viên

dạy ở bậc phổ thông trung học cơ sở. Mô hình nhân cách của người giáo viên

trung học cơ sở thể hiện ở 3 mặt chủ yếu sau:

Tính tích cực công dân cao, ý thức trách nhiệm cao trước xã hội. Thời đại

của chúng ta sống là thời đại của cách mạng chủ nghĩa xã hội của khoa học kỹ

thuật - công nghệ. Nó đòi hỏi phải tạo ra những con người làm chủ chứ không

phải con người nô lệ hoặc thừa hành. Đó là những con người dân chủ có ý thức

công dân, ý thức bản ngã, có cơ sở nhân bản toàn diện, có cá tính, có tinh thần tự

trọng, có ý thức tôn trọng người khác và pháp luật. Đó là những con người yêu

chủ nghĩa xã hội, yêu lý tưởng giải phóng nhân loại, lý tưởng của giai cấp công

nhân, của Đảng và phải biết sống suốt đời phấn đấu cho lý tưởng cao đẹp ấy.

Vấn đề này có ý nghĩa cấp bách trong giai đoạn cách mạng hiện nay, giai đoạn

mà lịch sử cách mạng thế giới đang trải qua những bước thăng trầm quanh co

phức tạp, chủ nghĩa xã hội đang gặp nhiều khó khăn, thử thách đang lâm vào

tình trạng khủng hoảng trầm trọng. Người giáo viên, người chiến sỹ cách mạng

trên mặt trận tư tưởng và văn hoá cần phải được hình thành, phát triển và được

củng cố niềm tin khoa học vào sự thắng lợi của chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa

cộng sản, một xã hội hoàn toàn tốt đẹp, hạnh phúc mà nhân loại trên trái đất đã

36

hằng mơ ước từ xa xưa để họ có thể truyền nhiệt huyết đó cho thế hệ trẻ.

Lòng yêu nghề, yêu trẻ. Tình yêu đối với nghề nghiệp của người giáo viên

không chỉ là lương tâm nghề nghiệp với ý thức rằng đó chỉ là nghĩa vụ thực hiện

một cách không thú vị một hợp đồng làm việc mà đó phải là một niềm tin, tin

vào điều mình làm dù cho kết quả của nó chỉ được thể hiện trong tương lai

không gần. Người giáo viên phải tự xác định và ý thức được rằng mình là chiến

sỹ trên lĩnh vực tư tưởng và văn hoá. Mặt khác, tình yêu đối với nghề nghiệp này

được nâng cao lên gấp bội vì tình yêu trẻ, yêu tuổi thơ sự âu yếm và tình cảm đối

với lứa tuổi này. Đó là hai yếu tố tạo nên sự tận tâm, tính kiên nhẫn lòng độ

lượng mà không hề làm giảm đi tính cương quyết cần thiết của nghề giáo viên.

Trí tuệ phát triển, trình độ văn hóa, tinh thần cao, trình độ nghề nghiệp

tương xứng. Người giáo viên Trung học cơ sở khi ra trường phải hình thành đầy

đủ hai hệ thống kỹ năng:

Một là, hệ thống kiến thức về những môn cần dạy. Người giáo viên mới ra

trường phải có những kiến thức về đối tượng lao động của mình tức là những

kiến thức về người học sinh và về các hoạt động dạy học và giáo dục. Cụ thể

kiến thức về tâm lý con người, đặc điểm tâm lý học sinh Trung học cơ sở, các

kiến thức về giáo dục học, kiến thức về phương pháp giáo dục…

Hai là, về kỹ năng, người giáo viên trung học cơ sở khi tốt nghiệp cao

đẳng sư phạm phải có được những kỹ năng sư phạm sau đây: kỹ năng thiết kế đó

là thiết kế nội dung, cách thức dạy học và giáo dục; kỹ năng thiết lập được mối

quan hệ thuận lợi với học sinh, kỹ năng triển khai hoạt động dạy học và giáo dục

(đây là hoạt động chủ yếu của giáo viên, có tác động quyết định đến chất lượng

và hiệu quả của giáo dục); kỹ năng nhận thức và nghiên cứu khoa học; kỹ năng

tự học, tự lĩnh hội; kỹ năng hoạt động xã hội.

Người giáo viên trong thời đại ngày nay phải có phong cách suy nghĩ và

37

làm việc khoa học, phải ưa tìm tòi, cải tiến, năng động, sáng tạo, phải có nhu

cầu, hứng thú, khả năng tự học, tự lĩnh hội tri thức và tự bồi dưỡng chuyên môn,

tự rèn luyện mình để không ngừng hoàn thiện.

Theo Điều 36 của Luật Giáo dục: Nội dung đào tạo phải đảm bảo cho sinh

viên có những kiến thức khoa học cơ bản và chuyên ngành cần thiết; chú trọng

rèn luyện kỹ năng cơ bản và năng lực thực hiện công tác chuyên môn.

Quán triệt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn được thể hiện

trong nội dung đào tạo.

Nội dung đào tạo giáo viên trung học cơ sở phải đáp ứng nhu cầu thực tiễn của

việc phát triển kinh tế - xã hội hiện nay là các phần kiến thức cơ bản sau:

Thứ nhất, kiến thức chuyên ngành: Các môn học liên quan trực tiếp đến

phần giảng dạy của giáo sinh sau này.

Thứ hai, kiến thức cơ sở về: Triết học, Chủ nghĩa xã hội khoa học, Kinh tế

Chính trị, Lịch sử Đảng, Đạo đức, Pháp luật… (các môn chính trị và lý luận Mác

- Lênin).

Thứ ba, những kiến thức về kỹ năng, phương pháp dạy học tâm lý giáo

dục và đặc biệt là thực hành sư phạm.

Thứ tư, những môn học để giáo sinh nắm được những khái niệm cơ bản và

thiết yếu về tổ chức và quản lý trường học, về trách nhiệm và quyền hạn của

người giáo viên. Đồng thời cả những môn học tạo điều kiện để giáo sinh biết

cách tổ chức và quản lý các hoạt động ngoài lớp, ngoài trường.

Như vậy, nội dung đào tạo cần phải xác định rõ, trên cơ sở đó các trường

Sư phạm lựa chọn hệ thống kiến thức, kỹ năng phù hợp với đối tượng đào tạo và

mục tiêu đào tạo để đảm bảo đạt được chất lượng nội dung chương trình đào tạo.

Có thể nói, nội dung đào tạo là toàn bộ hệ thống tri thức lý luận được lựa

38

chọn trong quá trình giảng dạy nhằm cải biến đối tượng được giảng dạy .Những tri

thức, lý luận tham gia vào quá trình rèn luyện đó phải được sử dụng một cách có

chất lượng nhằm, củng cố và mở rộng kiến thức đại cương và làm phong phú thêm

trình độ văn hoá của bản thân đồng thời hình thành và phát triển năng lực tư duy

độc lập, sáng tạo, thói quen tự học và học có phương pháp của sinh viên. Hơn nữa,

còn nhằm mục đích phát triển năng lực hiểu và giao tiếp với người khác, đảm bảo

những mối quan hệ tốt đẹp đối với người khác; nhận thức đầy đủ trách nhiệm của

bản thân đối với học sinh, cộng đồng và xã hội.

Đạt được mục tiêu và chất lượng nội dung đào tạo nói trên, chính là đảm

bảo được sự kết hợp hài hoà, hợp lý giữa tri thức lý luận và thực tiễn trong quá

39

trình đào tạo.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Ban Khoa giáo Trung ương (2002), Giáo dục và Đào tạo trong thời kì đổi

mới, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

2. Bộ Giáo dục và Đào tạo (1992), Tìm hiểu một số thuật ngữ khái niệm trong

các môn khoa học xã hội, Nxb. Văn hóa Thông tin, Hà Nội.

3. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2001), Chiến lược phát triển giáo dục 2001-2010,

Nxb. Giáo dục, Hà Nội.

4. Bộ giáo dục và Đào tạo (2004), Tài liệu bổ sung về tình hình giáo dục,

Nxb. Giáo dục, Hà Nội.

5. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2006), Giáo trình Triết học Mác-Lênin, Nxb.

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

6. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2007), Giáo trình Triết học Mác-Lênin, Nxb.

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

7. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

8. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Hội nghị lần thứ 2, Ban Chấp

hành Trung ương khóa VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

9. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

10. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp

hành Trung ương khóa IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

40

11. Nguyễn Minh Đường (1996), Tổ chức và Quản lí đào tạo, Tài liệu dùng cho các khóa học đào tạo bồi dưỡng sau Đại học về khoa học giáo dục, Viện Nghiên cứu phát triển giáo dục, Hà Nội.

12. Phạm Minh Hạc (1996), Vấn đề con người trong sự nghiệp công nghiệp

hóa, hiện đại hóa, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

13. Phạm Minh Hạc (2002), Giáo dục Việt Nam trước ngưỡng cửa của thế kỉ

XXI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

14. Hội đồng Trung ương biên soạn giáo trình (1999), Giáo trình Triết học

Mác-Lênin, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

15. Hội đồng Trung ương biên soạn giáo trình (2003), Giáo trình Tư tưởng Hồ

Chí Minh, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

16. Ngọc Hồ (2006), “Đẩy mạnh nghiên cứu khoa học trong sinh viên để nâng

cao chất lượng đào tạo”, Tạp chí Cộng sản, (22), tr.50-54.

17. Phạm Quang Huân (2007), “Cần đổi mới quan niệm về vai trò người giáo viên trong quản lí chất lượng giáo dục và đào tạo”, Tạp chí Dạy và học ngày nay, (1), tr.22-25.

18. Nguyễn Khuê (1976), C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin, I.V.Xtalin bàn về

giáo dục, Nxb. Sự thật, Hà Nội.

19. Trần Kiều (1998), “Một vài ý kiến về cơ sở lý luận và thực tiễn của việc xây dựng chiến lược giáo dục”, Tạp chí Phát triển Giáo dục, (1), tr.15.

20. Lịch sử Triết học (1992), Tập 1, Nxb. Tư tưởng văn hóa, Hà Nội.

21. Lịch sử triết học (1992), Tập 2, Nxb. Tư tưởng văn hóa, Hà Nội.

22. V.I.Lênin (1970), Bàn về giáo dục, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.

23. V.I.Lênin (1981), Toàn tập, tập 18, Nxb. Tiến bộ, Matcơva.

24. V.I.Lênin (1981), Toàn tập, tập 29, Nxb. Tiến bộ, Matcơva.

25. Các Mác và Ăngghen (1980), Tuyển tập, tập I, Nxb. Sự thật, Hà Nội.

26. Các Mác và Ăngghen (1995), Toàn tập, tập III, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà

Nội.

27. Hồ Chí Minh (1972), Bàn về công tác giáo dục, NXB. Sự thật, Hà Nội.

41

28. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 4, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

29. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, tập 8, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

30. Nguyễn Thiện Nhân (2008), “Đào tạo theo nhu cầu xã hội - Một giải pháp chiến lược để nâng cao chất lượng và hiệu quả đào tạo hiện nay”, Tạp chí Dạy và học ngày nay, (3), tr.5-8.

31. Ngành Giáo dục - Đào tạo thực hiện nghị quyết Trung ương 2 (khóa VIII) và nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX (2002), Nxb. Giáo dục, Hà Nội.

32. Hạnh Phương (2007), “Việt Nam cần thiết kế “hệ thống lọc dầu giáo dục””,

Tạp chí Dạy và học ngày nay, (11), tr.9-11.

33. Trần Hồng Quân (1996), Kế hoạch phát triển giáo dục và đào tạo giai đoạn 1996 - 2000 và định hướng đến năm 2020, phục vụ sự nghiệp công nghiệp - hóa hiện đại hóa đất nước, Báo cáo tại lớp Nghiên cứu Nghị quyết Đại hội VIII.

34. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1998), Luật Giáo

dục, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

35. Hồ Ngọc Quý (2007), Luận cứ khoa học cho việc xây dựng kế hoạch chiến lược phát triển đào tạo của Trường Cao đẳng Sư phạm Vĩnh Phúc đến năm 2010, luận văn thạc sĩ Quản lý giáo dục, Học viện Khoa học và giáo dục.

36. Sở Giáo dục - Đào tạo Vĩnh Phúc (2008), Báo cáo tổng kết năm học 2006 -

2007 và 2008.

37. Nguyễn Bá Sơn (2000), Một số vấn đề cơ bản về khoa học quản lý, Nxb.

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

38. Nguyễn Thái Sơn (2002), Tri thức giáo dục đại học Việt Nam thời kì đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

39. Nguyễn Quang Thái (1998), Một số vấn đề dự báo phát triển giáo dục Việt

Nam đến năm 2020, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.

40. Nguyễn Trung Tín - Phạm Phương Hoa (1996), Quản lý có hiệu quả theo

42

phương pháp Deming, Nxb. Thống kê, Hà Nội.

41. Nguyễn Cảnh Toàn (2005), “Mười điều cấp bách để giải quyết mâu thuẫn chủ yếu của giáo dục và đào tạo hiện nay”, Tạp chí Dạy và học ngày nay, (6), tr.9-10.

42. Nguyễn Cảnh Toàn (2006), “Cần lỏng đầu vào, chặt đầu ra và quá trình đào

tạo”, Tạp chí Dạy và học ngày nay, (9), tr.9-10.

43. Nguyễn Cảnh Toàn (2006), “Học đi đôi với hành”, Tạp chí Dạy và học

ngày nay, (11), tr. 42-43.

44. Trần Văn Toản (2007), “Tư tưởng Hồ Chí Minh về việc học đi đôi với hành, lý luận gắn liền với thực tiễn”, Tạp chí Dạy và học ngày nay, (8), tr.12.

45. Lưu Minh Túy (2007), “Khi Giáo dục trở thành quốc sách”, Tạp chí Dạy và

học ngày nay, (11), tr.10.

46. Từ điển Triết học (1986), Nxb. Hà Nội.

47. Triết học (2006), Dùng cho nghiên cứu sinh và học viên cao học không

thuộc chuyên ngành triết học, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

48. Trường Cao đẳng Sư phạm Vĩnh Phúc (2004), Đề án phát triển Trường

Cao đẳng Sư phạm Vĩnh Phúc đến năm 2010.

49. Trường Cao đẳng Sư phạm Vĩnh Phúc (2004), Kế hoạch năm học từ 2004

đến 2009.

50. Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc (2004), Đề án phát triển nguồn nhân lực

đến năm 2010.

51. Viện Nghiên cứu phát triển giáo dục (1998), Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng chiến lực giáo dục và đào tạo, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

43

52. Phạm Viết Vượng (2004), Giáo dục học, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.