BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH



HUỲNH HOÀNG TRÚC

MỐI QUAN HỆ GIỮA QUY MÔ, ĐÒN BẨY TÀI

CHÍNH VÀ MỨC ĐỘ CHẤP NHẬN RỦI RO CỦA CÁC

NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

Thành phố Hồ Chí Minh, Năm 2019

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH



HUỲNH HOÀNG TRÚC

MỐI QUAN HỆ GIỮA QUY MÔ, ĐÒN BẨY TÀI

CHÍNH VÀ MỨC ĐỘ CHẤP NHẬN RỦI RO CỦA CÁC

NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM

Chuyê n ngành: Tài chính – Ngân hàng Mã số : 8340201

LUẬ N VĂ N THẠC SĨ KINH TẾ

NGƯỜ I HƯỚ NG DẪ N KHOA HỌC:

PGS.TS. NGUYỄN THỊ LIÊN HOA

Thành phố Hồ Chí Minh, Năm 2019

TRANG PHỤ BÌA

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan rằng bài luận văn “MỐI QUAN HỆ GIỮA QUY MÔ VÀ ĐÒN

BẨY TÀI CHÍNH, MỨC ĐỘ CHẤP NHẬN RỦI RO CỦA CÁC NGÂN HÀNG

THƯƠNG MẠI VIỆT NAM” là công trình nghiên cứu của riêng rôi và có sự hỗ trợ

của Giảng viên hướng dẫn là PGS TS. Nguyễn Thị Liên Hoa. Các thông tin, dữ liệu sử

dụng trong luận văn là trung thực; các nội dung trích dẫn đều được ghi rõ nguồn gốc,

các kết quả nghiên cứu được trình bày trong luận văn này chưa được công bố tại bất

kỳ công trình nghiên cứu nào khác.

Hồ Chí Minh, năm 2019

Người thực hiện

Huỳnh Hoàng Trúc

MỤC LỤC

TRANG PHỤ BÌA

LỜI CAM ĐOAN

MỤC LỤC

DANH MỤC THUẬT NGỮ

DANH MỤC BẢNG BIỂU

TÓM TẮT

ABSTRACT

CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU ......................................................................................1 1.1 ĐẶT VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU ....................................................................1 1.2 MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU .........................................................................7 CÂU HỎI NGHIÊN CỨU ...........................................................................8 1.3 1.4 PHẠM VI VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU .......................................8 1.5 KẾT CẤU BÀI NGHIÊN CỨU ...................................................................8

CHƯƠNG 2: TỔNG QUAN LÝ THUYẾT ..........................................................10 2.1. CÁC BÀI NGHIÊN CỨU TRƯỚC ĐÂY .................................................10 2.2. XÂY DỰNG GIẢ THIẾT ..........................................................................16

CHƯƠNG 3: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ..................................................28 3.1. MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU.........................................................................28 3.2. MÔ TẢ VÀ ĐỊNH NGHĨA CÁC BIẾN ....................................................33 3.3. THU THẬP DỮ LIỆU ...............................................................................40 3.4. KIỂM ĐỊNH MÔ HÌNH VÀ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU .........................43

CHƯƠNG 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU..............................................................54

CHƯƠNG 5: KẾT LUẬN ......................................................................................57 5.1. ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU ..............................................57 5.2. HẠN CHẾ ĐỀ TÀI ....................................................................................58 5.3. HƯỚNG NGHIÊN CỨU TIẾP THEO ......................................................59

TÀI LIỆU THAM KHẢO

PHỤ LỤC

DANH MỤC THUẬT NGỮ

Too big to fail “Quá lớn để sụp đổ” – Một công ty hoặc một

tổ chức có quy mô lớn và có tính kết nối với

nền kinh tế, khi công ty này sụp đổ sẽ khiến

cho nền kinh tế toàn cầu bị ảnh hưởng nặng

nề.

Systemically important financial Các tổ chức tài chính đạt đến trạng thái “too

intermediary – SIFI big to fail” phải nằm trong danh sách bị kiểm

soát của chính phủ. Các công ty này phải

thường xuyên báo cáo tình hình tài chính và

duy trì tỷ lệ rủi ro ở mức quy định.

FED Cục dự trữ liên bang Mỹ, đóng vai trò của

Ngân hàng Trung ương của Mỹ

2 Stage Least of Square - 2 SLS Mô hình hồi quy hai giai đoạn

DANH MỤC BẢNG BIỂU

Bảng 2.1 : Tổng quan các bài nghiên cứu trước đây về mối quan hệ giữa quy mô và

rủi ro của các ngân hàng

Bảng 2.2 : Tổng hợp các giả thiết

Bảng 3.1 : Tổng hợp các biến

Bảng 3.2 : Danh sách các ngân hàng thực hiện nghiên cứu

Bảng 3.3 : Thống kê mô tả các biến

Bảng 3.4 : Ma trận tương quan Pearson

Bảng 3.5 : Kết quả mô hình hồi quy 2SLS nhằm kiểm định mối quan hệ giữa quy

mô và rủi ro của các ngân hàng thương mại Việt Nam.

Bảng 3.6 : Tổng hợp kết quả các biến có mối quan hệ với hệ số Z-score

Bảng 3.7 : Kết quả mô hình hồi quy 2SLS nhằm kiểm định mối quan hệ giữa quy

mô và các thành phần cấu tạo nên Z-score của các ngân hàng thương mại Việt Nam

(gồm ROA, CAR, độ lệch chuẩn của ROA).

TÓM TẮT

Các bài nghiên cứu trước đây về mối quan hệ giữa quy mô và mức độ chấp nhận rủi

ro ngân hàng, đều cho thấy mối quan hệ này là cùng chiều. Tuy nhiên, các nghiên

cứu này còn thiếu bằng chứng thực nghiệm tại các quốc gia đang phát triển, đại diện

là Việt Nam.

Vì thế tác giả quyết định thực hiện đề tài này nhằm kiểm tra xem mối quan hệ giữa

quy mô, đòn bẩy tài chính và mức độ chấp nhận rủi ro cuả các ngân hàng thương

mại Việt Nam. Bài nghiên cứu thực hiện dựa trên bộ dữ liệu gồm 23 ngân hàng

thương mại cổ phần trong giai đoạn 2009-2017. Tác giả cũng xem xét về mối quan

hệ giữa các thành phần cấu tạo nên hệ số rủi ro Z-score (gồm ROA, độ lệch chuẩn

ROA và hệ số CAR) và quy mô ngân hàng, và các biến kiểm soát khác.

Mô hình hồi quy hai giai đoạn 2 SLS với dữ liệu bảng được sử dụng trong bài

nghiên cứu này do xuất hiện nội sinh giữa các biến.

Kết quả tìm thấy:

Thứ nhất, mối quan hệ cùng chiều giữa Quy mô và mức độ chấp nhận rủi ro. •

Thứ hai, mối quan hệ cùng chiều giữa Quy mô và đòn bẩy tài chính. •

Thứ ba, mối quan hệ ngược chiều giữa Rủi ro ngân hàng chấp nhận và Tỷ lệ •

cổ phần ban quản trị nắm giữ.

Dựa trên kết quả bài nghiên cứu này, tác giả kỳ vọng sẽ giúp các nhà hoạch định

chính sách có cái nhìn chính xác hơn về ảnh hưởng của quy mô và cấu trúc vốn lên

rủi ro ngân hàng chấp nhận. Từ đó, đưa ra các quyết định giúp cải thiện quản trị rủi

ro ngân hàng thương mại.

Từ khóa : quy mô ngân hàng, rủi ro, đòn bẩy, Too big to fail, 2 SLS

ABSTRACT

Previous researches on the relationship between size and risk-taking of the bank is

positive corelation. However, these studies lacked empirical evidence in developing

countries, represented by Vietnam.

Therefore, the author decides to examines the relationship between size, leverage,

and risk-taking of 23 commercial banks in Viet Nam during the period of 2009 -

2017.

The author also examines the relationship between the combination of the Z-score

(including ROA, standard deviation of ROA and CAR) and bank size. Two-stage 2-

SLS regression model with panel data is used due to endogenous variables. This

exam has three contributions:

• First, a positive correlation between bank size and bank risk-taking.

• Second, a positive correlation between bank size and leverage.

• Third, a negative correlation between risk-taking and holding shares ratio of

management.

Based on the results of this study, the author expects to help policy makers have a

accurated view of the impact of size and structured of the bank on risks. Since then,

making decisions to help improve the risk management.

Keywords: bank size, risk, leverage, Too big to fail, 2 SLS

1

CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU

1.1 ĐẶT VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

Sự ổn định và thịnh vượng của hệ thống tài chính là bàn đạp rất quan trọng để kinh

tế tăng trưởng bền vững. Đặc biệt là các ngân hàng có vai trò rất quan trọng trong

việc dẫn dắt cả nền kinh tế. Vì thế nên các tổ chức tài chính và các ngân hàng lớn

này luôn nhận được những lợi ích và ưu ái đặc biệt từ các chính sách của chính phủ,

ngân hàng trung ương. Các tổ chức khổng lồ này hoạt động với niềm tin rằng sẽ

nhận được sự hỗ trợ từ chính phủ khi rủi ro xảy ra. Vì những đặc quyền đó nên xuất

hiện các rủi ro đạo đức kèm theo. Các tổ chức “Too big too fail” đã bóp méo các ưu

đãi hỗ trợ của chính phủ, những ưu đãi đặc quyền này đã khuyến khích các tổ chức

này luôn tìm cách tối đa hoá lợi nhuận của mình trong ngắn hạn bằng cách chấp

nhận rủi ro quá mức. Và khi có rủi ro xảy đến, họ sẽ đi cầu cứu chính phủ với các

chính sách bảo trợ độc quyền mà chỉ họ nhận được. Các gói cứu trợ của chính phủ

từ đâu, một câu trả lời rất đơn giản là từ tiền thuế của người dân.

Kể từ sau khủng hoảng tài chính thế giới, thuật ngữ “Too big to fail” trở thành tâm

điểm của sự chỉ trích. Thuật ngữ “Too big to fail” có nghĩa là các tổ chức tài chính

lớn như các doanh nghiệp, các ngân hàng có quy mô, khả năng kết nối lớn và có sức

ảnh hưởng trong nền kinh tế buộc các chính phủ phải tăng cường hỗ trợ họ khi có

các bất ổn tài chính xảy ra dẫn đến sự sụp đổ hệ thống tài chính nhằm tránh những

những hệ luỵ nghiêm trọng cho cả nền kinh tế.

Câu chuyện “Too big to fail” và cuộc khủng hoảng tài chính tại Mỹ mở đầu với

Bear Stearns. Tháng 3 năm 2008, Bear Stearns là một ngân hàng tuy nhỏ nhưng rất

nổi tiếng trong giới tài chính và là ngân hàng đầu tiên trong danh sách các tổ chức

quá lớn để sụp đổ, JP Morgan Chase đã mua lại ngân hàng này với sự hỗ trợ của

Cục dự trữ liên bang Mỹ 30 tỷ USD, vì FED lo ngại rằng sự sụp đổ của Bear

Stearns sẽ ảnh hưởng đến niềm tin của dân chúng vào hệ thống tài chính của Mỹ.

Cùng năm đó, một ngân hàng đầu tư khác Lehman Brothers cũng sụp đổ, tuy nhiên,

thời điểm đó, Bộ trưởng Tài chính Hank Paulson không mở gói cứu trợ như đã làm

2

với Bear Stearns. Vào thứ hai tiếp theo khi Lehman Brothers nộp đơn xin phá sản,

chỉ số Dow Jones giảm 350 điểm. Hai ngày tiếp theo, thị trường tài chính rơi vào

trạng thái hoảng loạn.

Câu chuyện cứu trợ hoàn toàn dựa vào số tiền chính phủ đưa ra, các chính sách lúc

này không còn hiệu quả để giải quyết cho khủng hoảng, cuối cùng sau nhiều tính

toán, khoản cứu trợ 700 tỷ USD được đưa ra để tái cấp vốn cho các ngân hàng lớn

đang điêu đứng.

Citigroup đổi 27 tỷ USD cổ phần ưu đãi với lãi suất sinh lợi 8%/năm để lấy 20 tỷ

USD tiền mặt cứu trợ. Các ngân hàng đầu tư Goldman Sachs và Morgan Stanley

buộc phải chuyển thành ngân hàng thương mại để có thể mượn tiền từ FED.

Tiếp đó là vụ rót tiền lớn nhất trong lịch sử nước Mỹ vào Fannie Mae và Freddie

Mac để Chính phủ đoạt quyền kiểm soát doanh nghiệp. Với con số 187.5 tỷ USD,

số tiền này lớn hơn rất nhiều so với đợt bỏ ra cứu trợ trong đợt khủng hoảng tín

dụng năm 1989.

Fannie Mae và Freddie Mac là hai kẻ khổng lồ đóng vai trò trung tâm trong thị

trường địa ốc Mỹ. Hai định chế tài chính này được chính phủ bảo trợ để thu mua

các khoản vay mua nhà trả góp từ ngân hàng, các tổ chức tài chính khác rồi bán ra

thị trường thứ cấp. Vì các khoản thế chấp này được ngầm đảm bảo bởi chính phủ

nên hai công ty này chấp nhận rủi ro nhiều hơn để đem lại lợi nhuận cao hơn. Cuối

năm 2007, khi các ngân hàng kiểm soát hoạt động tín dụng chặt chẽ hơn, các khoản

vay trả góp của hai công ty này nắm giữ đã khoảng 90% thị trường. Vì thế, chính

phủ không thể không ra tay cứu trợ, một phản ứng dây chuyền chắc chắn sẽ xảy ra

với hệ thống tài chính của Mỹ nếu hai kẻ khổng lồ này khủng hoảng.

Trường hợp Tập đoàn Bảo hiểm Quốc tế Mỹ (AIG) cũng là một ví dụ điển hình về

“Too big to fail”. AIG quá lớn, nằm trong một mạng lưới quá phức tạp của hệ thống

tài chính, nên không thể để rơi vào tình trạng vỡ nợ. Vì thế chính phủ phải ra tay

ứng cứu khẩn cấp với gói cứu trợ trị giá 182 tỷ USD, nhằm đưa AIG thoát khỏi

nguy cơ phá sản và tránh cho thị trường tài chính nước này một kết cục tồi tệ.

3

Để hạn chế những tác động xấu từ các tổ chức tài chính lớn, nhiều ý kiến cho rằng

phải giảm sự kết nối giữa các tập đoàn, giảm quy mô của các tập đoàn có sức ảnh

hưởng lớn đối với thị trường, khi quy mô, năng lực của các tổ chức này giảm thì sẽ

làm mức độ chấp nhận rủi ro của doanh nghiệp giảm, gánh nặng của nền kinh tế

cũng giảm xuống.

Năm 2011, Dự luật “Too big to fail” được đề xuất bởi Hạ nghị sĩ Paul Kanjorski

của Đảng Dân chủ được đưa ra Uỷ ban tài chính của Hạ viện Mỹ. Theo dự luật này,

chính phủ có quyền phân tán, giải thể các công ty tài chính quá lớn, có mức liên kết

và tầm ảnh hưởng quá rộng, đến mức có thể gây hại cho nền kinh tế thậm chí cả khi

các công ty này vẫn đang hoạt động tốt.

Những người bỏ phiếu thuận cho rằng, chính phủ không thể sử dụng tài sản, tiền

thuế của người dân để cứu trợ những “ông lớn” trong ngành tài chính – những công

ty lợi dụng sự hỗ trợ của chính phủ để kiếm lợi nhuận cao và khi đối mặt với khủng

hoảng lại đi xin cầu cứu. Bản thân các tổ chức tài chính này phải có trách nhiệm với

các khoản đặt cược đầu tư của mình và phải chịu trả giá khi gặp thất bại.

Tuy nhiên, khi dự luật này được đưa ra, những lập luật phản đối xuất hiện.

Lập luận đầu tiên là họ cho rằng điều này vi phạm quyền được tự do sở hữu •

và được phát triển của cá nhân, tổ chức.

Lập luận thứ hai, khi ràng buộc giảm quy mô, thì sẽ làm suy yếu khả năng •

cạnh tranh của các tổ chức tài chính trên thị trường quốc tế. Và điều đó cũng dẫn

đến việc đánh mất thị phần cho các đối thủ cạnh tranh khác.

• Lập luận thứ ba, rất khó xác định được ngưỡng quy mô và định nghĩa chính

xác về “ông lớn” trên thị trường. Thế nào gọi là lớn và quy mô tầm cỡ cần bị kiểm

soát kiềm nén lại.

• Lập luận thứ tư, những người phản đối dự luật đã đưa ra các ví dụ rằng

không chỉ các doanh nghiệp có quy mô lớn, mà cả những doanh nghiệp nhỏ vẫn có

tác động đáng kể đến nền kinh tế.

4

Dermine và Schoenmaker (2010) cho rằng việc giới hạn quy mô doanh nghiệp

không phải là công cụ tốt nhất, dựa trên phát hiện rằng các nước có ngân hàng

tương đối nhỏ phải đối mặt với chi phí cứu trợ lớn; ngoài ra, bài nghiên cứu này còn

cảnh báo rằng việc giới hạn quy mô có thể có các tác động không mong muốn,

chẳng hạn như thiếu đa dạng rủi ro tín dụng.

Theo họ, quy mô không phải là yếu tố tác động đến việc chấp nhận rủi ro của những

tổ chức tài chính, ngân hàng lớn. Việc kiểm soát quy mô và sự phát triển của các

doanh nghiệp là hoàn toàn phi lý.

Sau khủng hoảng 2008, câu chuyện về việc các tổ chức “Too big to fail” lại đưa ra

một cái nhìn khác về việc quy mô ảnh hưởng đến rủi ro doanh nghiệp. Cụm từ SIFI

được thay thế và các doanh nghiệp không còn muốn khuyếch đại quy mô. Các tập

đoàn với quy mô lớn không còn nhận được đặc quyền từ chính phủ, và nếu đã đạt ở

trạng thái “too big” sẽ được chính phủ thêm vào danh sách SIFI, đây là danh sách

các tổ chức tài chính có quy mô lớn mà chính phủ cần giám sát cứng rắn và chặt chẽ

hơn so với các tổ chức quy mô nhỏ. Với quy mô lớn và sức ảnh hưởng với nền kinh

tế, khi các tổ chức tài chính đạt đến ngưỡng có thể vào SIFI, họ sẽ dừng lại xem

phương án nào sẽ có lợi cho công ty.

Tuỳ vào chiến lược công ty, một số sẽ vẫn tiếp tục gia tăng đầu tư khuyếch đại tài

sản và doanh thu để được vào nhóm SIFI để nhận được sự cứu trợ của chính phủ

khi khủng hoảng. New York Community Bancorp là tập đoàn tài chính nắm giữ

lượng tiền gửi tiết kiệm lớn thứ 4 tại Mỹ, thực hiện kế hoạch nhằm thu mua công ty

tài chính Astoria – công ty mẹ của Astoria Bank, nhằm mục đích mở rộng mạng

lưới ngân hàng của hãng. Các công ty trong nhóm SIFI dù họ phải chịu nhiều quy

định kiểm soát nghiêm ngặt và yêu cầu minh bạch tài chính của chính phủ hơn các

công ty khác, thường xuyên báo cáo tình hình tài chính và kiểm soát rủi ro chặt chẽ

nhưng đổi lại họ sẽ đảm bảo nhận được sự ưu ái của chính phủ khi nền kinh tế bị

khủng hoảng

Một số công ty khác lại có lối đi riêng tránh gia nhập vào SIFI bằng cách chia tách

các bộ phận hoạt động, thu nhỏ quy mô. Họ cho rằng việc bị chính phủ kiểm soát sẽ

5

cản trở sự phát triển của công ty. Các dự án với lợi nhuận khổng lồ nhưng đi kèm

rủi ro cao sẽ khó để vượt qua các quy định của chính phủ. First Niagara Bank - với

giá trị tài sản là 39 tỷ USD, nhưng họ không muốn trở thành một SIFI, thay vào đó

họ lại đang đàm phán để tự bán mình cho Ohio Keycorp vì họ cho rằng gia nhập

SIFI sẽ làm cản trở sự phát triển.

Sau khủng hoảng 2009, không còn có thể khẳng định theo “Too big to fail” rằng các

công ty càng lớn thì mức độ chấp nhận rủi ro càng cao, mà các công ty này chấp

nhận sự kiểm soát chặt chẽ của chính phủ. Ngược lại các công ty đang trên đà tăng

trưởng mạnh lại kiểm soát chặt chẽ quy mô để không gia nhập nhóm SIFI, để có thể

được tự do phát triển, chấp nhận các dự án rủi ro để thu về được lợi nhuận khủng,

câu chuyện về quy mô lớn với mức độ chấp nhận rủi ro cao không còn đúng tại thời

điểm hiện tại.

Tại Việt Nam, những ngân hàng nhỏ lại là những ngân hàng gây ra rủi ro lan truyền

trong nền kinh tế. Nhiều sự kiện từ ba ngân hàng thương mại được Ngân hàng Nhà

nước mua giá 0 đồng đã cho thấy khủng hoảng bắt đầu từ những ngân hàng nhỏ lẻ

gồm Ngân hàng Xây dựng (VNCB), Ngân hàng Đại Dương (OceanBank), Ngân

hàng Dầu khí Toàn cầu (GPBank).

Từ thời điểm Ngân hàng xây dựng - VNCB là ngân hàng đầu tiên bị NHNN mua lại

bắt buộc toàn bộ cổ phần với giá 0 đồng cho đến nay. Những ngân hàng 0 đồng này

sau khi tái cấu trúc vẫn không cho thấy kết quả khả quan. Cuối năm 2017, kiểm

toán nhà nước cho thấy kết quả tái cơ cấu đều không mấy khả quan, tài chính của cả

ba ngân hàng vẫn không được cải thiện, hoạt động kinh doanh tiếp tục thua lỗ lớn,

việc âm vốn chủ sở hữu ngày càng tăng.

Từ ngày 15/1/2018, Luật các tổ chức tín dụng sửa đổi đã chính thức có hiệu lực thi

hành cho phép các ngân hàng yếu kém được phép phá sản. Và bảo hiểm tiền gửi tại

Việt Nam, cả gốc và lãi của một cá nhân tối đa là 75 triệu đồng, tăng từ 25 triệu

đồng lên 75 triệu đồng. Con số 75 triệu này là khá thấp và vô lý dù số tiền gửi của

người dân có thể trên vài trăm triệu hoặc vài tỷ đồng. Khi ngân hàng thực sự phá

6

sản, người dân sẽ mất lòng tin vào hệ thống ngân hàng, dẫn đến việc rút tiền ào ạt,

mua vàng và ngoại tệ cất vào két sắt, nguồn vốn khan hiếm càng khan hiếm hơn.

Tuy nhiên, các ông lớn ngân hàng và cả các ngân hàng nhỏ vẫn sẽ được ngân hàng

nhà nước và chính phủ hỗ trợ để không phá sản. Việc ngân hàng nhà nước cho phép

tổ chức tín dụng phá sản chỉ là biện pháp cuối cùng khi các tổ chức này không thực

hiện được các phương án phục hồi, sáp nhập, hợp nhất, giải thể, và chuyển giao bắt

buộc.

Bởi tại Việt Nam, tâm lý và trình độ người dân vẫn phụ thuộc vào hiệu ứng bầy

đàn, bất cân xứng thông tin nên việc cho phép một ngân hàng được phép phá sản có

thể đe doạ đổ vỡ dây chuyền, gây mất an toàn hệ thống ngân hàng và kéo theo

những tác động tiêu cực đến nền kinh tế. Bên cạnh đó, cứu trợ các ngân hàng hoạt

động yếu kém là một tín hiệu của ngân hàng nhà nước cho người dân an tâm gửi

tiền vào hệ thống ngân hàng.

Câu chuyện về khủng hoảng tại Việt Nam lại khác với câu chuyện “Too big to fail”

của Mỹ, những ngân hàng với quy mô nhỏ lại chấp nhận rủi ro nhiều hơn. Và thực

sự rủi ro của các ngân hàng chịu tác động bởi quy mô, khi muốn kiểm soát rủi ro thì

cần phải thực hiện các chính sách “khống chế” quy mô của ngân hàng ? Lúc này

câu hỏi đặt ra, quy mô của ngân hàng có tác động như thế nào đến với mức độ chấp

nhận rủi ro của các ngân hàng.

Bên cạnh đó, bài nghiên cứu cũng tìm hiểu quy mô của ngân hàng và tỷ lệ đòn bẩy

có liên hệ gì với nhau không ?

Các ngân hàng có quy mô lớn không chỉ nhận được đặc quyền của chính phủ mà

còn nhận được thêm các đặc quyền trong việc huy động vốn.

Ngân hàng quy mô càng lớn thì càng dễ huy động nguồn vốn từ tiền gửi công chúng

và đi vay từ các tổ chức tài chính khác, bởi quy mô càng lớn thì càng có mức độ tín

nhiệm, khả năng về tài chính và nguồn lực càng cao. Ngoài ra, việc quản trị rủi ro

của các ngân hàng lớn cũng tốt hơn nên điều này hàm ý rằng đòn bẩy tài chính của

các ngân hàng quy mô lớn sẽ lớn hơn các ngân hàng nhỏ.

7

Các ngân hàng nhỏ, quy mô được tính chủ yếu dựa trên tài sản của cổ đông, rủi ro

của các cổ đông sẽ rất lớn nếu các nhà quản trị chọn tỷ lệ đòn bẩy cao, họ sẽ dùng

quyền lực của mình để đảm bảo duy trì tỷ lệ đòn bẩy thấp, mức độ chấp nhận rủi ro

nhỏ hoặc vừa phải.

Tuy nhiên, cũng có ý kiến cho rằng, các ngân hàng nhỏ - khả năng quản trị rủi ro

yếu hơn nên không thể xác định được tỷ lệ đòn bẩy thích hợp, dẫn đến tỷ lệ đòn bẩy

cao. Các ngân hàng lớn với vốn chủ sở hữu cao, các cổ đông sẽ yêu cầu về việc

quản trị rủi ro chặt chẽ để đảm bảo nguồn vốn của họ, tỷ lệ đòn bẩy thấp.

Vì các cổ đông cũng ảnh hưởng đến mức độ rủi ro ngân hàng chấp nhận, nên bài

nghiên cứu cũng sẽ đi sâu tìm hiểu mối quan hệ giữa mức độ chấp nhận rủi ro của

một ngân hàng và số lượng cổ phần được nắm giữ bởi các giám đốc, hội đồng quản

trị.

Xuất phát từ thực tiễn tại Việt Nam, tác giả quyết định thực hiện đề tài tìm hiểu Mối

quan hệ giữa quy mô và đòn bẩy tài chính, mức độ chấp nhận rủi ro của ngân

hàng thương mại Việt Nam. Bài nghiên cứu sử dụng dữ liệu trong khoảng thời

gian 2009-2017 với 23 ngân hàng thương mại cổ phần tại Việt Nam.

1.2 MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU

Mục tiêu của bài nghiên cứu là tìm hiểu mối quan hệ giữa quy mô hoạt động và đòn

bẩy tài chính, khả năng chấp nhận rủi ro của các ngân hàng thương mại tại Việt

Nam giai đoạn từ năm 2009 đến năm 2017.

Bên cạnh đó, bài nghiên cứu cũng tìm hiểu về việc nắm giữ cổ phần của hội đồng

quản trị và giám đốc điều hành ngân hàng, có giúp làm giảm mức độ chấp nhận rủi

ro mà ngân hàng gánh chịu.

Bài nghiên cứu nhấn mạnh tầm quan trọng của việc lựa chọn một quy mô thích hợp

để có thể đem lại một kết quả tốt nhất khi thực hiện việc quản trị rủi ro. Thông qua

đó, các nhà quản lý sẽ nắm bắt được tình hình thực tế ở các ngân hàng thương mại

hiện nay, tiến hành cải tiến và hoàn thiện quá trình quản trị rủi ro.

8

1.3 CÂU HỎI NGHIÊN CỨU

Để đạt được mục tiêu nghiên cứu, bài nghiên cứu sẽ làm rõ những câu hỏi sau:

• Có hay không mối quan hệ giữa quy mô và mức độ chấp nhận rủi ro tại các

ngân hàng thương mại Việt Nam? Nếu có, mối tương quan giữa quy mô và

mức độ chấp nhận rủi ro là cùng chiều hay ngược chiều?

• Có hay không mối quan hệ giữa quy mô ngân hàng và tỷ lệ đòn bẩy tài chính

của các ngân hàng thương mại Việt Nam? Nếu có, mối tương quan giữa quy

mô và tỷ lệ đòn bẩy tài chính là cùng chiều hay ngược chiều?

• Việc các thành viên trong hội đồng quản trị nắm giữ lượng lớn cổ phần của

ngân hàng thì có tác động gì đến mức độ rủi ro mà ngân hàng có thể chấp

nhận hay không? Giám đốc điều hành ngân hàng nếu như có nắm giữ cổ

phần thì có bị ảnh hưởng khi ra các quyết định hay không?

1.4 PHẠM VI VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Tác giả thực hiện bài nghiên cứu với bộ dữ liệu gồm 23 ngân hàng thương mại cổ

phần trong giai đoạn 2009-2017. Bài nghiên cứu sử dụng mô hình hồi quy hai giai

đoạn 2 SLS với dữ liệu bảng do xuất hiện biến bị nội sinh trong mô hình.

1.5 KẾT CẤU BÀI NGHIÊN CỨU

Bài nghiên cứu gồm 5 phần và được trình bày theo kết cấu sau:

Phần 1 : Giới thiệu : Đầu tiên tác giả giớ i thiệ u tổ ng quan về đề tài nghiên cứ u, và trình bày lý do cho ̣n đề tài, mu ̣c tiêu bài nghiên cứ u, ý nghĩa và kết cấu củ a nghiên cứ u.

Phần 2 : Tổng quan lý thuyết : Tác giả sẽ trình bày các bài nghiên cứ u trướ c đây trên thế giớ i. Từ các bài nghiên cứ u trên, tác giả xây dựng các giả thuyết

cho bài nghiên cứ u này.

Phần 3 : Phương pháp nghiên cứu : Phần này sẽ trình bày lần lươ ̣t về mô hình nghiên cứ u, giải thích các biến trong bài và cách thu thậ p dữ liệ u nghiên cứ u.

9

Cuố i cùng là trình bày về phươ ng pháp kiểm đi ̣nh mô hình, phân tích và trình bày kết quả kiểm đi ̣nh.

Phần 4 : Kết quả nghiên cứu : Phần này sẽ trình bày các kết luậ n về mố i quan hệ giữa quy mô doanh nghiệp và chấp nhận rủ i ro củ a các ngân hàng thươ ng ma ̣i Việ t Nam, so sánh kết quả vớ i các bài nghiên cứ u trướ c đây, và đưa ra mộ t số kiến nghi ̣ cho ngân hàng. Đồ ng thờ i đưa ra mộ t số đi ̣nh hướ ng để phát triển đề tài.

Phần 5 : Kết luận : Phần này sẽ tổ ng kết la ̣i bài nghiên cứ u, các kết quả đa ̣t đươ ̣c và nêu lên những ha ̣n chế khi thực hiệ n đề tài này.

10

CHƯƠNG 2: TỔNG QUAN LÝ THUYẾT

2.1. CÁC BÀI NGHIÊN CỨU TRƯỚC ĐÂY

Cuộc khủng hoảng tài chính gần đây đã tạo ra sự quan tâm to lớn trong việc nghiên

cứu rủi ro của các tổ chức tài chính.

Saunders, Stock và Travlos (1990) đã nghiên cứu về ảnh hưởng của cấu trúc sở hữu

đến mức độ chấp nhận rủi ro. Bài nghiên cứu được thực hiện với 38 ngân hàng niêm

yết lớn ở Mỹ từ năm 1978 – 1985. Kết quả cho thấy tương quan dương giữa tổng tài

sản và rủi ro. Rủi ro được đo lường bằng độ lệch chuẩn lợi nhuận hàng ngày của cổ

phiếu. Kết quả còn cho thấy, ban quản trị của ngân hàng thể hiện hành vi chấp nhận

rủi ro cao hơn khi ban quản trị cũng là chủ sở hữu ngân hàng.

Boyd và Runkle (1993) nghiên cứu dựa trên các ngân hàng lớn được niêm yết trên

thị trường chứng khoán ở Mỹ cho thấy rằng tổng tài sản và mức độ chấp nhận rủi ro

có mối quan hệ ngược chiều. Ngoài ra còn cho thấy độ lệch chuẩn ROA và tỷ lệ vốn

chủ sở hữu tương quan ngược với tổng tài sản.

Demsetz, Saidenberg và Strahan (1997) nghiên cứu dựa trên 134 ngân hàng lớn

niêm yết tại My từ năm 1980 – 1993. Rủi ro của ngân hàng được đại diện là rủi ro

đặc thù. Quy mô được đo lường bằng logarit của tổng tài sản. Kết quả cho thấy có

mối quan hệ ngược chiều giữa quy mô và rủi ro. Quy mô của ngân hàng không ảnh

hưởng đến việc quản trị rủi ro. Cấu trúc sở hữu vốn có tác động đáng kể đến rủi ro ở

các ngân hàng có giá trị nhượng quyền thấp.

Boyd, De Nicolo và Al Jalal (2006) nghiên cứu ở các ngân hàng nhỏ hoạt động ở

khu vực phi nông thôn tìm thấy mối tương quan ngược chiều giữa tổng tài sản và

rủi ro. Rủi ro được đại diện bởi Z-score và tỷ lệ vốn trên vốn chủ sở hữu.

Houston và cộng sự (2010) nghiên cứu gồm 300 ngân hàng trên thế giới từ 2000-

2007. Kết quả nghiên cứu cho thấy tổng tài sản có mối quan hệ tương quan cùng

chiều với độ lệch chuẩn lợi nhuận hàng ngày của cổ phiếu, nghĩa là quy mô có mối

tương quan dương với mức độ chấp nhận rủi ro. Biến đại diện cho mức độ chấp

nhận rủi ro là Z-score, ROA, tỷ lệ an toàn vốn CAR, độ lệch chuẩn của ROA.

11

Laeven và Levine (2009) đã nghiên cứu dữ liệu của 270 ngân hàng lớn nhất tại 48

quốc gia. Dữ liệu được thu thập từ 10 ngân hàng công lớn nhất mỗi quốc gia từ năm

1996 đến năm 2001. Họ tìm thấy một mối tương quan dương đáng kể giữa các

quyền nắm giữ dòng tiền của các cổ đông lớn nhất trong ngân hàng và rủi ro ngân

hàng gánh chịu, mà rủi ro được đo lường bởi logarit Z-score. Tác giả xem xét sử

dụng giá trị tổng tài sản ngân hàng để đại diện cho quy mô ngân hàng. Bài nghiên

cứu cũng cho thấy mối tương quan dương giữa rủi ro và quy mô ngân hàng. Các tác

giả cho rằng kết quả này phụ thuộc nhiều vào cấu trúc sở hữu của các ngân hàng.

Các ngân hàng được điều hành trực tiếp bởi những chủ sở hữu thì có xu hướng chấp

nhận rủi ro nhiều hơn nhằm bù đắp cho các chi phí khi đứng trước các yêu cầu về

vốn cao.

Sanjai Bhagat và cộ ng sự (2017) đã nghiên cứu mẫu gồm 702 tổ chức tài chính

(599 ngân hàng thương mại, 60 ngân hàng đầu tư, 43 công ty bảo hiểm nhân thọ, từ

2002-2012. Tác giả tìm thấy mối tương quan dương giữa giữa quy mô và mức độ

chấp nhận rủi ro. Trong đó, quy mô được đo lường bằng tổng tài sản doanh nghiệp,

sau đó sử dụng doanh thu để kiểm tra tính vững của mô hình. Rủi ro được đo lường

bằng Z-score. Rủi ro của các ngân hàng tăng cao nguyên nhân là do sự gia tăng của

tỷ lệ nợ vay. Các ngân hàng thương mại có ban quản trị nắm giữ cổ phần càng lớn

thì mức độ chấp nhận rủi ro càng thấp. Các ngân hàng đầu tư có khả năng chấp

nhận rủi ro nhiều hơn các ngân hàng thương mại.

Beltratti và Stulz (2012) khai thác sự thay đổi trong hiệu suất hoạt động của 164

ngân hàng lớn (được xác định là ngân hàng có tổng tài sản lớn hơn 50 tỷ USD) trên

toàn thế giới trong giai đoạn khủng hoảng tài chính (2007-2008). Họ ghi nhận các

ngân hàng nhỏ hơn với quyền sở hữu tập trung và lợi nhuận ngoài lãi càng cao thì

rủi ro của ngân hàng càng cao.

Cheng, Hong và Scheinkman (2010) nghiên cứu dựa trên mẫu các tổ chức tài chính

tại Mỹ, họ nghiên cứu xem có phải chế độ đãi ngộ có ảnh hưởng đến việc chấp nhận

rủi ro quá mức của công ty không. Kết quả nghiên cứu cho thấy, rủi ro gánh chịu,

12

được đo lường bởi beta và biến động lợi nhuận cổ phiếu, tương quan với khoản chi

trả trong ngắn hạn như là các khoản thưởng.

Balachandran, Kogut, và Harnal (2010) cũng có bài nghiên cứu tương tự, việc chi

trả cổ phần như là các cổ phiếu hạn chế, các quyền chọn làm tăng khả năng kiệt quệ

tài chính của doanh nghiệp, trong khi việc chi trả không phải bằng cổ phần như là

tiền mặt, làm giảm khả năng kiệt quệ.

Bolton, Mehran và Shapiro (2010) đề xuất giải quyết việc chấp nhận rủi ro quá mức

bằng cách buộc các chế độ đãi ngộ phụ thuộc vào giá của chứng khoán và nợ.

Vai trò của quản trị doanh nghiệp đối với mức độ chấp nhận rủi ro của doanh

nghiệp vẫn chưa có bằng chứng cụ thể và không rõ ràng. Lý thuyết tiêu chuẩn về

việc quản trị doanh nghiệp dự đoán rằng các doanh nghiệp có quản trị tốt hơn sẽ

tăng giá trị doanh nghiệp bằng cách áp dụng các dự án có giá trị hiện tại thuần

(NPV). Tuy nhiên, nó không loại trừ được khả năng công ty đầu tư vào dòng tiền có

rủi ro cao. Do đó, có thể là do lợi ích cổ đông nên ban quản trị chấp nhận các dự án

có rủi ro miễn là dự án đó đem lại lợi nhuận cao hơn.

Ngoài ra, lý thuyết Quyền chọn (Black and Scholes, 1973) cho thấy rằng giá trị của

một quyền chọn tăng lên với sự biến động của tài sản cơ sở. Vì cổ đông của công ty

chủ yếu nắm giữ quyền chọn mua với tổng giá trị của công ty là tài sản cơ bản và

giá trị nợ là giá thực hiện (giả định công ty có nợ rủi ro), theo đó dòng tiền của công

ty càng biến động nhiều thì quyền chọn mua càng có giá trị. Do đó, giá trị của cổ

phiếu phổ thông tăng lên.

Dựa trên các tranh luận của các bài nghiên cứu trên, bài nghiên cứu này mong đợi

có mối tương quan dương giữa việc quản trị rủi ro hiệu quả và việc chấp nhận rủi ro

của doanh nghiệp. Tuy nhiên, cũng có những tranh luận đối nghịch với các lập luận

trên.

Rajan (2006) và Diamond và Rajan (2009) chỉ ra, cấu trúc đãi ngộ thì khác nhau

trong ngành tài chính, khi đó thành tích của CEO sẽ dựa trên lợi nhuận họ tạo ra

được cho công ty.

13

Với áp lực này, các nhà quản lý được khuyến khích để chấp nhận các dự án có rủi

ro cao hơn để đạt được lợi nhuận trong ngắn hạn ngay cả khi họ không thể tối đa

hoá hết giá trị của doanh nghiệp trong ngắn hạn.

Trong bài nghiên cứu của Diamond và Rajan (2009), “ngay cả khi các nhà quản lý

nhận ra rằng chiến lược này không thực sự tạo ra giá trị, tuy nhiên với mong muốn

tăng giá cổ phiếu và danh tiếng cá nhân của CEO, họ có thể khiến chiến lược này

trở thành lựa chọn hấp dẫn nhất để thực hiện cho doanh nghiệp”.

Nếu lập luận trên là chính xác, bài nghiên cứu kỳ vọng các tổ chức tài chính sẽ có

cách quản trị tốt hơn để đặt ra các ưu đãi và quyền kiểm soát để tránh các xung đột

lợi ích có hại cho các cổ đông. Theo hướng này, bài nghiên cứu thấy có mối quan

hệ ngược chiều giữa việc quản trị doanh nghiệp hiệu quả và việc chấp nhận rủi ro.

Bởi vì hai lập luận đối kháng này, tác động của việc quản trị doanh nghiệp đối với

việc chấp nhận rủi ro phải có một kết quả thực nghiệm để chứng minh.

14

Bảng 2.1 : Tổng quan các bài nghiên cứu trước đây về mối quan hệ giữa quy mô và rủi ro của các ngân hàng

Nguồn dữ liệu

Quy mô

Tương quan

Khoảng thời gian và Mẫu 1978-1985

Tổng tài sản

+

Mẫu : 38

Tác giả nghiên cứu Saunders, Strock and Travlos (1990)

Báo cáo hàng quý của các công ty nắm giữ ngân hàng

Biến phụ thuộc – Rủi ro Độ lệch chuẩn của lợi nhuận cổ phiếu hàng ngày

Các biến độc lập khác Quyền sở hữu nội bộ Tỷ lệ tài sản vốn

1971-1990

-

Boyd and Runkle (1993)

Log của tổng tài sản

Mẫu : 122

Z-score Độ lệch chuẩn của ROA Tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tài sản

1980-1993

-

Demsetz and Strahan (1997)

Log của tổng tài sản

Mẫu : 134

Rủi ro đặc thù của doanh nghiệp (σ(ε))

Tỷ lệ vốn bình phương Đặc trưng cho vay

De Nicolo (2000)

1988-1998

-

Log của tổng tài sản

Tỷ lệ tăng trưởng tài sản

Mẫu : 419

June, 2003

-

Log của tổng tài sản

Mẫu : 2500

Boyd, De Nicolo and Al Jalal (2006)

Z-scored Biến động của ROA Tỷ lệ vốn trên tổng tài sản Z-score Tỷ lệ vốn trên tổng tài sản

Quy định cạnh tranh ngân hàng của quốc gia

Dữ liệu COMPUSTAT hàng năm Công ty năm giữ ngân hàng có tài sản trên 1 tỷ đô la Công ty nắm giữ ngân hàng Trên báo cáo Y-9C & Tuần giao dịch CRSP> 30 Dữ liệu World scope các công ty nắm giữ ngân hàng có dữ liệu trên 3 năm Các ngân hàng nhỏ hoạt động ở các khu vực phi nông thôn

15

1996-2001

Z-score

-

Laeven and Levine (2009)

BankScope & Bankers Almanac

Log của tổng tài sản

Quyền về dòng tiền của quốc gia

Mẫu : 270

+

Houston et al (2010)

2000-2007 Mẫu : 2400

Log của tổng tài sản

10 ngân hàng công lớn nhất của mỗi quốc gia Dữ liệu Bank scope Các ngân hàng xuyên quốc gia

Log của tổng tài sản Quyền tín dụng Kiểm soát quốc gia

1998-2008

-

Mẫu : 302

Sanjai Bhagat; Brian Bolton; Jun Lu

Dữ liệu của các ngân hàng thương mại, ngân hàng đầu tư, tổ chức tài chính

Log của tổng tài sản Log của tổng lợi nhuận

Z-score ROA Tỷ lệ vốn trên tài sản Biến động của ROA Z-score Biến động của ROA Biến động của lợi nhuận cổ phiếu

Giá trị thị trường trên giá trị sổ sách Tỷ lệ nắm giữ của ban giám đốc Tỷ lệ nắm giữ của CEO

Nguồn : Tác giả tổng hợp từ bải nghiên cứu trước

16

2.2. XÂY DỰNG GIẢ THIẾT

2.2.1. Mối quan hệ giữa quy mô Ngân hàng và mức độ chấp nhận rủi ro

Lập luận giả thiết H1a

Trong bài nghiên cứu của Sanjai Bhagat & Bolton (2015), các nhà quản lý ngân

hàng biết rằng, việc quy mô của ngân hàng tăng lên và đạt đến trạng thái “Too big

to fail” thì ngân hàng sẽ được nhiều ưu đãi hơn từ chính phủ và ngân hàng nhà

nước. Bởi khi đã đạt đến trạng thái quy mô lớn ảnh hưởng đến nền kinh tế, một khi

các ngân hàng này sụp đổ, cả hệ thống tài chính và toàn bộ nền kinh tế cũng bị ảnh

hưởng theo. Chính vì những đặc quyền vượt trội nên các ngân hàng càng có động

lực để tăng mạnh quy mô để tiếp tục theo đuổi các dự án có rủi ro cao và lợi nhuận

cực lớn mà vẫn có biện pháp cứu trợ từ chính phủ khi khủng hoảng xảy ra. Các

ngân hàng thực hiện các chính sách để kích thích tăng mạnh quy mô của mình, chấp

nhận các dự án có rủi ro cao, dù có những dự án đem lại dòng tiền âm (NPV<0).

Các ngân hàng thường xuyên chấp nhận các dự án có lợi nhuận khổng lồ nhưng

kèm theo rủi ro cao sẽ cố gắng tăng quy mô của mình.

Khi mộ t ngân hàng chấp nhậ n mộ t dự án có quá nhiều rủ i ro, ngân hàng đó buộ c lòng phải tă ng nguồ n vố n chủ sở hữu để đảm bảo tính an toàn cho ngân hàng –“Giả thuyết điều chỉnh”. Vì khi mộ t ngân hàng có nguồ n vố n chủ sở hữu lớ n, điều đó cảm giác sẽ ta ̣o ra mộ t vòng tròn bảo trơ ̣ đảm bảo an toàn cho ngân hàng. Chính vì những lý luận trên, tác giả đưa ra giả thiết H1:

H1a : Có mối quan hệ cùng chiều giữa Quy mô ngân hàng và mức độ rủi ro

ngân hàng chấp nhận.

Lập luận giả thiết H1b

Khi quy mô ngân hàng càng lớn, trong đó nguồn vốn chủ sở hữu chiếm tỷ trọng

đáng kể, các cổ đông sẽ yêu cầu nhà quản trị thiết lập các danh mục để đa dạng hoá

rủi ro nhằm bảo toàn nguồn vốn. Nhà quản trị các ngân hàng lớn có nhiều kinh

nghiệm hơn trong việc quản trị rủi ro so với các ngân hàng quy mô nhỏ. Lúc này,

nguồn vốn chủ sở hữu được xem như là một bộ đệm hạn chế thiệt hại cho ngân

17

hàng.

Bên cạnh đó, theo nghiên cứu của Demirguc-Kunt và Kane, 2002, rủi ro đạo đức sẽ

giảm xuống nếu như quy mô ngân hàng càng lớn. Bài nghiên cứu nói rằng, rủi ro

đạo đức liên quan đến việc trục lợi từ bảo hiểm tiền gửi. Các ngân hàng sẽ chạy

theo lợi nhuận mà bỏ qua việc kiểm soát rủi ro.

Bảo hiểm tiền gửi là công cụ được triển khai để đảm bảo người gửi tiền vào ngân

hàng khi ngân hàng mất khả năng thanh toán, không thể trả lãi và hoàn trả tiền gửi

cho người gửi khi người gửi yêu cầu rút hết số tiền trong tài khoản ra. Tuy nhiên, vì

có các khoản bảo hiểm tiền gửi này, nên ngân hàng tập trung vào các dự án sinh ra

lợi nhuận nhiều hơn, đi kèm với rủi ro nhiều hơn, nếu có vấn đề gì xảy ra với nguồn

vốn ngân hàng, đã có bảo hiểm tiền gửi bù đắp.

Khi quy mô nguồn vốn lớn, ban quản trị ngân hàng có trách nhiệm nhiều hơn trong

việc tạo lợi nhuận nhưng vẫn đảm bảo bảo toàn nguồn vốn cho các cổ đông. Các cổ

đông nắm vị trí chủ chốt trong các ngân hàng đã bỏ ra một lượng tiền lớn vào ngân

hàng, họ sẽ có một số quyền lực nhất định để yêu cầu ban quản trị, giám đốc điều

hành tạo ra lợi nhuận nhất định nhưng vẫn đảm bảo nguồn vốn của họ.

Quy mô ngân hàng càng lớn, việc quản trị rủi ro càng được đảm bảo hơn. Tác giả

đưa ra giả thiết H2:

H1b : Có mối quan hệ ngược chiều giữa Quy mô ngân hàng và mức độ rủi ro

ngân hàng chấp nhận.

Mặc dù thực tế, tại Việt Nam, các ngân hàng rơi vào khủng hoảng và được nhà

nước cứu trợ là các ngân hàng có quy mô nhỏ, tuy nhiên, tác giả vẫn kỳ vọng kết

quả bài nghiên cứu này về việc quy mô tăng thì mức độ chấp nhận rủi ro chấp nhận

cũng tăng lên, phù hợp và trùng với phần lớn các nghiên cứu thực nghiệm trước

đây trên thế giới.

18

2.2.2. Mối quan hệ giữa quy mô ngân hàng và đòn bẩy tài chính

Lập luận giả thiết H2a

Đòn bẩy tài chính liên quan việc xác định tỷ lệ nợ vay và tỷ lệ vốn của ngân hàng.

Nhiệm vụ của các nhà quản trị là lựa chọn một tỷ lệ thích hợp để tối đa hoá lợi

nhuận của doanh nghiệp. Tuỳ vào quy mô của ngân hàng mà các nhà quản trị lựa

chọn các tỷ lệ đòn bẩy khác nhau.

Trong các bài nghiên cứu trước đây của Harris và Ravi (1990), Y. Wiwattanakatang

(1999), J. J. Chen, Yan Xue, (2004) cho thấy mối quan hệ cùng chiều giữa quy mô

doanh nghiệp và đòn bẩy tài chính.

Các ngân hàng có quy mô lớn thì dòng tiền càng ổn định, năng lực quản trị, đa dạng

hoá đầu tư và việc nhận biết thông tin bất cân xứng càng tốt hơn, vì thế khả năng

phá sản cũng thấp hơn so với các ngân hàng còn lại. Quy mô ngân hàng càng lớn thì

khả năng huy động được từ tiền gửi công chúng và đi vay từ các tổ chức tài chính

khác sẽ dễ dàng hơn các ngân hàng có quy mô nhỏ. Điều này cho thấy, các ngân

hàng lớn thì tỷ lệ nợ cao hơn.

Theo quan điểm của “Lý thuyết đánh đổi” - Kraus & Litzenberger (1973), các nhà

quản trị tin rằng sẽ có một cấu trúc vốn tối ưu giúp tối đa hoá giá trị doanh nghiệp.

Cấu trúc vốn của doanh nghiệp được xác định dựa trên sự đánh đổi giữa lợi ích tấm

chắn thuế và chi phí kiệt quệ tài chính. Khi doanh nghiệp tăng tỷ lệ đòn bẩy tài

chính lên, vay càng nhiều thì lợi ích của tấm chắn thuế càng lớn, đồng thời chi phí

kiệt quệ tài chính cũng tăng. Các chủ nợ của doanh nghiệp sẽ yêu cầu một tỷ suất

sinh lợi cao hơn bù đắp rủi ro tăng lên, chi phí sử dụng vốn của doanh nghiệp tăng.

Theo Castanias (1983), khi lợi nhuận biên từ tấm chắn thuế cân bằng với chi phí

của kiệt quệ tài chính thì dừng vay thêm nợ.

Do lợi ích từ tấm chắn thuế và lợi thế về khả năng huy động vốn tốt, các doanh

nghiệp lớn càng có động lực để đi vay nhiều hơn.

Theo lý thuyết đánh đổi cấu trúc, quy mô doanh nghiệp và cấu trúc vốn có sự tương

quan thuận. Doanh nghiệp có quy mô lớn và đa dạng hoá danh mục hoạt động có

rủi ro phá sản thấp hơn khi so sánh với các doanh nghiệp nhỏ hơn. Các doanh

19

nghiệp lớn sẽ có lợi thế khi hợp tác với các tổ chức tài chính, các doanh nghiệp này

sẽ nhận được ưu đãi về chi phí giao dịch, lãi suất vay.

Các doanh nghiệp nhỏ thường không nhận được khoản ưu đãi này do tần suất giao

dịch thấp, quy mô đơn hàng nhỏ và quy mô khoản vay nhỏ.

Theo bài nghiên cứu của Ozkan (2001) các doanh nghiệp có quy mô nhỏ dễ bị tổn

thương trước những biến động của nền kinh tế và rủi ro phá sản cao hơn, vì thế khả

năng huy động vốn bị hạn chế.

Ngoài ra, nguồn vốn dựa trên tài sản của cổ đông, các quyết định sai lầm về tài

chính sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của họ. Các cổ đông sẽ sử dụng quyền

lực của mình để đảm bảo các nhà quản lý duy trì tỷ lệ đòn bẩy thấp hoặc vừa phải.

H2a : Có mối quan hệ cùng chiều giữa Quy mô ngân hàng và đòn bẩy tài chính.

Tác giả kỳ vọng về mối quan hệ cùng chiều giữa quy mô ngân hàng và đòn bẩy tài

chính, trùng với kết quả của bài nghiên cứu nền tảng Sanjai Bhagat & Bolton

(2015).

Lập luận giả thiết H2b

Ngân hàng có quy mô lớn nghĩa là số tiền bỏ ra của các cổ đông cũng lớn hơn rất

nhiều so với các cổ đông các ngân hàng quy mô nhỏ hơn, vì thế, các cổ đông muốn

nhận được sự đảm bảo để nguồn vốn họ đầu tư được sử dụng hiệu quả tối đa nhất,

đồng thời phải bảo toàn nguồn vốn của họ. Khi người điều hành ngân hàng – tổng

giám đốc CEO sử dụng tỷ lệ nợ vay nhiều hơn, rủi ro của các cổ đông cũng nhiều

hơn. Vì thế các cổ đông sẽ sử dụng quyền lực của mình để đảm bảo các CEO sẽ duy

trì tỷ lệ vay thấp.

Theo lý thuyết trật tự phân hạng, lý thuyết này chỉ ra rằng có mối quan hệ ngược

chiều giữa quy mô ngân hàng và cấu trúc vốn. Lý thuyết trật tự phân hạng phát triển

dựa trên việc bất cân xứng thông tin tác động đến các quyết định đầu tư và tài trợ

của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp phát hành các chứng khoán thì các nhà đầu tư

mới sẽ yêu cầu một mức chiết khấu cao hơn do họ cho rằng các nhà quản trị và các

nhà cổ đông hiện tại sẽ nắm giữ nhiều thông tin hơn của doanh nghiệp, bên cạnh đó

20

cũng tạo ra nhiều tín hiệu cho thị trường về hiện trạng công ty. Bởi vì bất cân xứng

thông tin dẫn đến việc huy động vốn tốn nhiều chi phí, và tạo tín hiệu không tốt ra

ngoài thị trường, khi có nhu cầu vốn, các nhà quản trị sẽ sử dụng nguồn tài trợ nội

bộ từ lợi nhuận giữ lại của doanh nghiệp, huy động bằng các khoản vay, và cuối

cùng mới là phát hành cổ phần thường mới.

Trong các nghiê n cứ u về việc xác định mức vốn tốn thiểu của ngân hàng củ a Shrieves và Dahl (1992) và các bài nghiê n cứ u mở rộ ng đươ ̣c thực hiệ n bở i Jacques và Nigro (1997), và Ediz, Michael và Perraudin (1998), đưa ra kết luận về việc điều

chỉnh tỷ lệ vốn của ngân hàng tốn rất nhiều chi phí, nên các ngân hàng sẽ giữ nhiều

vốn bằng hoặc hơn mức vốn tối thiểu ngân hàng nhà nước yêu cầu. Phần vốn được

giữ dư ra so với quy định tối thiểu được gọi là “đệm vốn”. Myers and Majluf (1984)

cho rằng các thông tin về việc ngân hàng thiếu vốn sẽ gây ảnh hưởng xấu đến hình

ảnh và giá trị của ngân hàng do bất cân xứng thông tin trên thị trường, do đó, các

ngân hàng luôn đảm bảo việc duy trì tỷ lệ vốn dư thừa để phòng ngừa các trường

hợp bất ổn xảy ra dẫn đến thiếu vốn.

Các doanh nghiệp có quy mô lớn thường sẽ có vốn nhàn rỗi và lợi nhuận giữ lại

cao, vì thế các doanh nghiệp này sẽ huy động nguồn bên trong doanh nghiệp trước

khi huy động ra bên ngoài bằng hình thức đi vay hoặc phát hành cổ phiếu mới. Quy

mô càng lớn, tỷ đòn bẩy tài chính càng thấp.

H2b : Có mối quan hệ ngược chiều giữa Quy mô ngân hàng và đòn bẩy tài

chính.

2.2.3. Mối quan hệ giữa tỷ lệ cổ phần được nắm giữ bởi Hội đồng quản

trị, nhà điều hành CEO và mức độ chấp nhận rủi ro

Lập luận giả thiết H3a và H4a

Các định hướng, các quyết định cho vay và đầu tư của ngân hàng là một quyết định

vô cùng quan trọng giúp cho doanh nghiệp có thể tạo lập, duy trì và mở rộng dự án

hoạt động. Tuy nhiên, đáng lý những quyết định này phải mang tính khoa học, dựa

trên các dữ liệu phân tích, những báo cáo cụ thể, thì các quyết định này lại bị ảnh

21

hưởng bởi tâm lý, thái độ của Tổng giám đốc – CEO, Hội đồng quản trị và các cổ

đông.

Trong một ngân hàng với các cơ chế đặc thù và quy mô lớn, các cổ đông – những

người sở hữu ngân hàng không đủ năng lực chuyên môn, sẽ không thể nào có thể

kiểm soát hết các hoạt động và quản lý hết mọi việc. Vì thế, các cổ đông sẽ họp lại

thành lập Hội đồng cổ đông. Đại hội đồng cổ đông lại bầu ra Hội đồng quản trị. Hội

đồng quản trị thay mặt các cổ đông của doanh nghiệp để thuê một người để điều

hành doanh nghiệp – Tổng giám đốc CEO để giải quyết các vấn đề liên quan đến

hoạt động của ngân hàng.

Theo lý thuyết, Hội đồng quản trị sẽ luôn nhìn mọi vấn đề qua lăng kính “Mong đợi

của cổ đông” và có nhiệm vụ quan trọng trong việc hoạch định chiến lược doanh

nghiệp và giám sát Tổng giám đốc – CEO điều hành doanh nghiệp. Thành viên

trong hội đồng quản trị và Tổng giám đốc không nhất thiết phải là cổ đông của

doanh nghiệp.

Sự tách rời giữa quyền sở hữu và quyền quản lý doanh nghiệp làm nảy sinh các mối

lo ngại rằng, những người quản lý, điều hành sẽ theo đuổi những mục tiêu rất hấp

dẫn đối với họ, song chưa chắc đã có lợi cho các cổ đông, cho doanh nghiệp. Bên

cạnh đó, khẩu vị rủi ro của người quản lý và điều hành cũng ảnh hưởng trực tiếp

đến việc điều hành công ty. Một trong những phương thức để có thể kiểm soát được

hành vi của người quản lý là thông qua kiểm soát thu nhập của họ. Công ty cần phải

có một cơ chế phù hợp để đảm bảo lợi ích của chủ sở hữu và nhà điều hành luôn

song hành chung với nhau. Theo nghiên cứu của Scott (2006), một cơ chế thù lao

hợp lý cho các giám đốc phải đảm bảo được tối thiểu 3 yêu cầu sau :

• Thứ nhất, cơ chế thù lao khuyến khích nhà quản lý, điều hành làm việc với

nỗ lực cao nhất. Mức thù lao của nhà quản lý, điều hành phải tỷ lệ thuận với sự nỗ

lực của nhà quản lý, điều hành.

• Thứ hai, cơ chế thù lao phải khuyến khích nhà quản lý, điều hành tập trung

vào lợi ích ngắn hạn cũng như dài hạn của doanh nghiệp.

22

• Thứ ba, kiểm soát được mức độ rủi ro đối với doanh nghiệp thông qua kiểm

soát người điều hành.

Một số nghiên cứu nói rằng việc CEO được trả thù lao bằng cổ phiếu hoặc yêu cầu

các nhà quản lý nắm giữ tỷ lệ cổ phiếu nhất định của doanh nghiệp sẽ thực sự gắn

lợi ích của nhà quản lý, điều hành với lợi ích của công ty và của cổ đông. Khi tỷ lệ

nắm giữ cổ phần của hội đồng quản trị, của tổng giám đốc càng cao, thì họ sẽ có xu

hướng đưa ra các quyết định để đảm bảo nguồn vốn bỏ ra của mình, lựa chọn các

dự án chắc chắn hơn, mức độ rủi ro chấp nhận cũng thấp hơn.

Dựa trên tâm lý muốn bảo toàn nguồn vốn đã bỏ ra của chủ sở hữu, tác giả đưa ra

các giả thiết:

H3a: Có mối quan hệ ngược chiều giữa tỷ lệ cổ phần được nắm giữ bởi hội đồng

quản trị và mức độ rủi ro ngân hàng chấp nhận.

H4a: Có mối quan hệ ngược chiều giữa tỷ lệ cổ phần được nắm giữ bởi Tổng

giám đốc CEO và mức độ rủi ro ngân hàng chấp nhận.

Lập luận giả thiết H3b và H4b

Jensen và Meckling (1976) cho rằng chi phí đại diện xuất hiện trong môi trường bất

cân xứng thông tin, do mâu thuẫn lợi ích giữa các cổ đông – người sở hữu và người

quản lý, điều hành – hội đồng quản trị, tổng giám đốc CEO. Các nhà quản lý, điều

hành có thể có các hành động trục lợi cá nhân, lựa chọn rút lui khỏi những công

việc khó khăn, lờ đi mục tiêu tối đa hoá giá trị doanh nghiệp. Những phí tổn này sẽ

do những người sở hữu doanh nghiệp gánh chịu.

Theo nghiên cứu của Jensen (1986), một trong những biểu hiện của việc trục lợi cá

nhân của các nhà quản lý, điều hành là họ không muốn chi trả cổ tức, thay vào đó

giữ dòng tiền lợi nhuận trong doanh nghiệp. Nắm giữ dòng tiền trong doanh nghiệp

nghĩa là các nhà quản lý, điều hành sẽ tìm cách chi tiêu, họ có xu hướng đầu tư vào

các dự án không sinh lợi – những dự án không đem lại lợi ích cho công ty nhưng có

mối liên hệ cá nhân với nhà quản lý, điều hành.

Các nhà quản lý, điều hành không ưa thích rủi ro và đưa ra các quyết định để rút lui

khỏi những công việc khó khăn, lờ đi mục tiêu tối đa hoá giá trị doanh nghiệp và

23

hoàn toàn đối lập với ước muốn của người sở hữu – những người có xu hướng chấp

nhận rủi ro cao hơn với mong đợi lợi nhuận vượt trội.

Các CEO thường là các nhà quản lý, điều hành e ngại rủi ro hoặc trung lập với rủi

ro nguyên nhân là do họ thường được những khoản tiền cố định và phụ thuộc vào

kết quả kinh doanh của doanh nghiệp.

Nếu như những quyết định của nhà quản lý, điều hành dẫn đến thất bại, thì họ sẽ là

người chịu ảnh hưởng nặng nề nhất, danh tiếng của các CEO sẽ bị ảnh hưởng, sẽ

khó khăn cho họ khi rời khỏi công ty và được bổ nhiệm vào các vị trí cao hơn ở các

công ty khác hay làm giảm các lợi ích, đặc quyền đem lại thu nhập riêng cho họ khi

họ đang nắm giữ vị trí điều hành của doanh nghiệp hiện tại. Còn nếu quyết định

mạo hiểm của họ đem đến sự thành công cho dự án thì mức thu nhập tăng thêm của

họ cũng không đáng kể và không phù hợp với nỗ lực của họ. Các nhà quản lý, điều

hành sẽ có xu hướng hạn chế rủi ro của mình bằng cách từ bỏ những dự án lợi

nhuận tiềm năng cao nhưng mức rủi ro cao, và lựa chọn dự án lợi nhuận vừa phải

nhưng rủi ro ít hơn vì dựa trên cơ chế thù lao cố định và tiền thưởng dựa trên hiệu

quả kinh doanh của doanh nghiệp, không hề có một chất kích thích để họ thay đổi

lựa chọn của mình.

Bên cạnh đó hình thức chi trả lương thưởng của doanh nghiệp cũng ảnh hưởng đến

tâm lý hành vi của Hội đồng quản trị và CEO.

• Tiền lương cứng : Ngày nay, các CEO thường hay nhận được lương cứng

khá là cao. Đó có thể xem là một ghi nhận tuyệt vời khi CEO điều hành công ty tốt

và cũng là một khoản kếch xù dù quyết định của CEO gây ra sự thua lỗ cho công ty.

Việc nhận được khoản tiền mặt khá cao không phải là một động lực để CEO tập

trung vào việc điều hành và đưa ra các quyết định mang tính hiệu quả.

• Tiền thưởng : Việc thưởng theo hiệu quả công việc cũng đem lại hiệu quả

nhất định giúp CEO có động lực hơn để làm việc tốt hơn. Thông qua lợi nhuận,

dòng tiền, giá trị thị trường của doanh nghiệp, các cổ đông có thể quan sát được nỗ

lực của các nhà quản lý, điều hành. Lợi nhuận của doanh nghiệp tỷ lệ thuận với mức

độ nỗ lực của nhà quản lý, điều hành. Tuy nhiên, sử dụng lợi nhuận để đánh giá

24

hiệu quả công việc của các nhà quản lý, điều hành có hai nhược điểm: Thứ nhất,

phương pháp hạch toán khác nhau ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả lợi nhuận của

doanh nghiệp khác nhau và do nguyên tắc thận trọng của kế toán, lợi nhuận không

được ghi nhận kịp thời. Thứ hai, các quyết định của nhà quản lý, điều hành mang

tính chiến lược và đem lại lợi nhuận trong dài hạn, và có thể không mang lại lợi

nhuận trong ngắn hạn. Tình trạng thông tin không cân xứng khiến cho nhà đầu tư

không thể quan sát và đo lường mức độ hiệu quả công việc của CEO, nên rất khó để

đưa ra một con số hợp lý đem đến sự hài lòng để họ nỗ lực hơn.

• Quyền chọn cổ phiếu : Các công ty trả quyền chọn cổ phiếu như là một

cách gắn lợi ích tài chính của các CEO với lợi ích của các cổ đông. Giá cổ phiếu

phản ánh tiềm năng của doanh nghiệp trong ngắn và dài hạn, bên cạnh đó, giá cổ

phiếu không ảnh hưởng bởi phương pháp kế toán áp dụng của doanh nghiệp. Dựa

trên việc tăng giá cổ phiếu, cả chủ sở hữu lẫn các nhà quản lý, điều hành đều mong

muốn tối đa hoá giá trị doanh nghiệp. Khi giá cổ phiếu tăng, CEO có thể kiếm được

một khoản lớn từ các quyền chọn cổ phiếu, nhưng khi giá giảm, các nhà đầu tư sẽ là

người chịu thiệt, còn các CEO sẽ không bị ảnh hưởng gì. Tuy nhiên, giá trị cổ phiếu

chịu ảnh hưởng bởi các yếu tố nằm ngoài kiểm soát của các nhà quản lý, điều hành,

như các biến động của nền kinh tế, sự không hoàn hảo của thị trường chứng khoán

làm cho cổ phiếu bị định gía thấp hơn. Ngoài tác động của thị trường, các CEO

cũng có thể thực hiện các thủ thuật để các cổ phiếu có lãi, các CEO sẽ tập trung vào

ngắn hạn mà lờ đi mục tiêu và lợi ích dài hạn của các cổ đông thông qua việc điều

chỉnh số liệu. Giá trị cổ phiếu có thể bị phản ánh sai lệch trong ngắn hạn do các

thông tin bị các nhà quản lý, điều hành bóp méo do áp dụng phương pháp kế toán.

Phương pháp kế toán này làm tăng kết qủa hoạt động kinh doanh năm hiện tại,

nhưng làm giảm kết quả kinh doanh tương lai. Điều này hầu như không giúp củng

cố liên kết giữa các CEO và cổ đông công ty.

• Sở hữu cổ phần : Phương pháp này khuyến khích các nhà quản lý, điều

hành nỗ lực trong việc tăng giá trị doanh nghiệp trong dài hạn vì kết quả hoạt động

25

của doanh nghiệp và sự tăng giảm của giá cổ phiếu sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến

quyền lợi của CEO.

Với động lực làm phải làm tăng lợi nhuận của công ty, các nhà quản lý, điều hành

phải cân nhắc và lựa chọn các dự án đem lại tỷ suất sinh lợi vượt trội. Và theo lẽ

thông thường, một tỷ suất sinh lợi vượt trội sẽ đi theo là một mức rủi ro cao. Việc

nắm giữ cổ phiếu của công ty đã làm gia tăng mức độ gánh chịu rủi ro của nhà quản

lý, điều hành doanh nghiệp.

Như đã trình bày ở trên, cơ chế thù lao ảnh hưởng trực tiếp tới hành vi của nhà quản

lý, điều hành doanh nghiệp. Nếu chỉ dựa vào lương cố định và thưởng dựa trên kết

quả lợi nhuận của doanh nghiệp, các nhà quản lý, điều hành lựa chọn các dựa án

đem lại mức lợi nhuận vừa phải với mức rủi ro ít.

Nếu thay đổi cơ chế thù lao, bên cạnh mức thu nhập cố định, thì các nhà quản lý,

điều hành còn nắm giữ một số lượng cổ phiếu của doanh nghiệp. Với mục tiêu làm

tăng giá trị cổ phiếu – tăng giá trị doanh nghiệp, các nhà quản lý, điều hành sẽ đi

đến các quyết định lựa chọn các dự án đem lại lợi nhuận cao cho doanh nghiệp với

rủi ro cao hơn thông thường mà họ thường chấp nhận. Phương pháp này được kỳ

vọng tạo ra tác động tích cực lên giá trị doanh nghiệp. Hiệu ứng hội tụ lợi ích cho

rằng: “Khi nhà quản lý, điều hành đồng thời là người sở hữu – cổ đông thì lợi ích sẽ

giao thoa mạnh với nhau, tương quan dương giữa giá trị doanh nghiệp và tỷ lệ sở

hữu của người điều hành”.

Dựa trên lý thuyết về chi phí đại diện, thái độ đối với rủi ro của nhà quản lý, điều

hành khi thay đổi cơ chế thù lao, tác giả đưa ra các giả thiết sau:

H3b: Có mối quan hệ cùng chiều giữa tỷ lệ cổ phần được nắm giữ bởi hội đồng

quản trị và mức độ rủi ro ngân hàng chấp nhận.

H4b: Có mối quan hệ cùng chiều giữa tỷ lệ cổ phần được nắm giữ bởi Tổng giám

đốc CEO và mức độ rủi ro ngân hàng chấp nhận.

26

Tác giả kỳ vọng về mối quan hệ ngược chiều giữa Tỷ lệ cổ phần được nắm giữa của

hội đồng quản trị và CEO với mức độ chấp nhận rủi ro của các ngân hàng. Mong

đợi kết quả trùng với bài nghiên cứu nền tảng của Sanjai Bhagat & Bolton (2015).

27

Bảng 2.2 : Tổng hợp các giả thiết

Kỳ

Giả

Ý nghĩa

vọng

thiết

dấu

Có mối quan hệ cùng chiều giữa Quy mô ngân hàng và

Mối quan hệ

H1a :

giữa quy mô

mức độ rủi ro ngân hàng chấp nhận

Ngân hàng và

Có mối quan hệ ngược chiều giữa Quy mô ngân hàng

mức độ chấp

+

H1b :

nhận rủi ro

và mức độ rủi ro ngân hàng chấp nhận

Có mối quan hệ cùng chiều giữa Quy mô ngân hàng và

Mối quan hệ

H2a :

giữa quy mô

đòn bẩy tài chính

ngân hàng và

Có mối quan hệ ngược chiều giữa Quy mô ngân hàng

đòn bẩy tài

+

H2b :

chính

và đòn bẩy tài chính

Mối quan hệ

Có mối quan hệ ngược chiều giữa tỷ lệ cổ phần được

giữa tỷ lệ cổ

H3a :

nắm giữ bởi hội đồng quản trị và mức độ rủi ro ngân

phần được nắm

hàng chấp nhận.

giữ bởi Hội

Có mối quan hệ cùng chiều giữa tỷ lệ cổ phần được

đồng quản trị và

H3b :

nắm giữ bởi hội đồng quản trị và mức độ rủi ro ngân

mức độ chấp

hàng chấp nhận.

nhận rủi ro

Mối quan hệ

Có mối quan hệ ngược chiều giữa tỷ lệ cổ phần được

giữa tỷ lệ cổ

_

H4a :

nắm giữ bởi Tổng giám đốc CEO và mức độ rủi ro

phần được nắm

ngân hàng chấp nhận.

giữ bởi nhà điều

Có mối quan hệ cùng chiều giữa tỷ lệ cổ phần được

hành CEO và

H4b :

nắm giữ bởi Tổng giám đốc CEO và mức độ rủi ro

mức độ chấp

ngân hàng chấp nhận.

nhận rủi ro

_

Nguồn : Tác giả tự tổng hợp

28

CHƯƠNG 3: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

3.1. MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU

❖ Mô hình hồi quy dữ liệu bảng

Bài nghiên cứu sử dụng dữ liệu bảng Panal Data. Việc sử dụng hồi quy theo dữ liệu

bảng sẽ thu được những kết quả khả quan trong việc ước lượng các hệ số góc của

các biến độc lập trong mô hình có nhiều yếu tố đặc trưng, đảm bảo được tính chất

ước lượng trong hồi quy là không có độ chệch, mang tính hiệu quả. Có nhiều

phương pháp có thể áp dụng trong dữ liệu bảng, trong đó có các phương pháp

thường được sử dụng phổ biến như sau: ước lượng nguyên sơ (Pooled OLS), ước

lượng theo phương pháp Robust Check, Fixed Effect và Random Effect.

Dựa theo mô hình cơ sở của Sanjai Bhagat & Brian Bolton (2015) tác giả tiến

hành thực hiện mô hình bên dưới để tìm kiếm mối quan hệ giữa quy mô và mức độ

chấp nhận rủi ro của các ngân hàng thương mại Việt Nam.

Mô hình 1 :

Z-SCOREi = α + β1TOTAL_ASSETi + β2MARKET_TO_BOOKi

+ β3DIRECTOR_OWNERSHIPi + β4CEO_OWNERSHIPi + β5FIRM_AGEi +

β6CRISISi + εi

Trong đó :

o TOTAL_ASSETi : Biến đại diện cho quy mô hoạt động của ngân hàng,

được đo lường bằng logarit của tổng tài sản.

o MARKET_TO_BOOKi : Biến đại diện cho gía trị thực của ngân hàng, được

đo lường bằng Tỷ lệ giá trị thị trường trên giá trị sổ sách.

o DIRECTOR_OWNERSHIPi : Biến đại diện cho khả năng quản trị trong

ngân hàng, được đo lường bằng Logarit của trung vị cổ phần được nắm giữ bởi

Hội đồng quản trị.

o CEO_OWNERSHIPi : Biến đại diện cho khả năng nắm giữ của CEO, được

29

đo lường bằng Tỷ lệ cổ phần được nắm giữ bởi CEO.

o FIRM_AGEi : Biến đại diện cho thời gian hoạt động của ngân hàng, được

đo lường bằng logarit của số năm ngân hàng hoạt động.

o CRISISi : Biến giả đại diện cho thời gian các ngân hàng rơi vào khủng

hoảng kinh tế. Crisis= 1 là những năm khủng hoảng. Cirisis = 0 là những năm

không ảnh hưởng bởi khủng hoảng kinh tế.

❖ Vấn đề nội sinh :

Các nghiên cứu về tài chính của doanh nghiệp thường bị ảnh hưởng bởi vấn đề về

nội sinh, và bài nghiên cứu này cũng không phải là ngoại lệ. Bài nghiên cứu lo ngại

về vấn đề nội sinh giữa rủi ro ngân hàng gánh chịu và quy mô ngân hàng.

Theo nghiên cứu của Brewer III and Jagtiani (2009) đã chỉ ra rằng, các ngân hàng

sẵn sàng chi trả một khoản phí bảo hiểm lớn để thực hiện các vụ mua lại và sáp

nhập để khiến cho ngân hàng thu mua lại để lớn. Các công ty lớn thì có nhiều khả

năng chấp nhận rủi ro hơn.

Bên cạnh đó, các công ty mà khả năng chấp nhận rủi ro cao hay kinh doanh trong

lĩnh vực nhiều rủi ro thì càng có động cơ để gia tăng quy mô doanh nghiệp. Một

công ty khi ở trạng thái rủi ro cao và quy mô lớn sẽ kỳ vọng trở thành “Too big to

fail” sẽ nhận được các đặc quyền, ưu tiên và cả cứu trợ của chính phủ.

❖ Mô hình hồi quy hai giai đoạn – 2 SLS

Nội sinh là hiện tượng các biến độc lập tương quan với phần dư. Sự xuất hiện của

biến nội sinh dẫn đến bỏ sót biến, sai số hoặc được xác định đồng thời qua các biến

giải thích khác. Lúc này, mô hình hồi quy OLS sẽ đưa ra các thông số ước lượng

không còn đáng tin cậy. Phương pháp tổng quát của vấn đề này là sử dụng ước

lượng biến công cụ, đặc biệt là sử dụng mô hình hồi quy hai giai đoạn 2 SLS với

nguyên tắc cơ bản là một biến nội sinh sẽ cần tối thiểu một biến công cụ.

Nếu quy mô là biến ngoại sinh, tức là không tương quan với phần dư thì ước lượng

OLS phù hợp. Ngược lại, nếu biến quy mô là nội sinh, tức tương quan với mức độ

chấp nhận rủi ro trong phần dư thì hồi quy OLS bị thiên lệch.

30

Dựa trên các nghiên cứu trước đây và lý luận bên trên về hiện tượng nội sinh trong

mô hình, tác giả thực hiện kiểm định Durbin–Wu–Hausman để chứng minh về vấn

đề nội sinh.

Tiếp đó, để khắc phục vấn đề nội sinh, tác giả sử dụng mô hình hồi quy hai giai

đoạn - 2SLS với ba biến giả: tỷ lệ sở hữu nhà nước, biến giả ngân hàng được niêm

yết, biến tài sản cố định hữu hình. Cả ba biến đều liên quan trực tiếp đến quy mô

ngân hàng.

Tác giả tiến hành thực hiện mô hình sau đây:

= + + Mô hình 2.1 – Mô hình biến công cụ giai đoạn 1 : α TOTAL_ASSETi β1DIRECTOR_OWNERSHIPi

+ β2CEO_OWNERSHIPi + β3FIRM_AGEi + β4CRISISi

β5OWN_STATEDi + β6LISTEDi + β6PPEi + εi

Mô hình 2.2 – Mô hình biến công cụ giai đoạn 2 :

Z-SCOREi = α + β1TOTAL_ASSETi + β2MARKET_TO_BOOKi +

+ + β3DIRECTOR_OWNERSHIPi β4CEO_OWNERSHIPi

β5FIRM_AGEi + β6CRISISi + εi

Trong đó :

o OWN_STATEDi : Biến giả địa diện cho tỷ lệ nắm giữ của nhà nước. Own =

1 nếu nhà nước nắm giữ cổ phần. Own = 0 nếu nhà nước không nắm giữ cổ phần

o LISTEDi : Biến giả ngân hàng đã được niêm yết trên sàn. List = 1 nếu được

niêm yết. List = 0 nếu chưa được niêm yết

o PPEi : Biến đại diện cho Giá trị tài sản cố định hữu hình

Bên cạnh việc kiểm tra mối quan hệ giữa quy mô và chấp nhận rủi ro của các ngân

hàng thương mại, bài nghiên cứu cũng sẽ tìm hiểu hiểu thêm, trong các nhân tố cấu

thành Z-score gồm ROA, CAR và σ(ROA) thì nhân tố nào tác động lên quy mô.

Tác giả cũng thực hiện hồi quy 2SLS với 3 biến độc lập ROA, CAR, σ(ROA). Tác

giả thực hiện mô hình 3.1 sau đó, lần lượt kiểm tra với mô hình 3.2 ; 3.3 ; 3.4

31

Mô hình 3.1 – Mô hình biến công cụ giai đoạn 1 :

= α + + TOTAL_ASSETi β1DIRECTOR_OWNERSHIPi

+ β2CEO_OWNERSHIPi + β3FIRM_AGEi + β4CRISISi

β5OWN_STATEDi + β6LISTEDi + β6PPEi + εi

Mô hình 3.2 – Mô hình biến công cụ giai đoạn 2 với biến độc lập ROA:

ROAi = α + β1TOTAL_ASSETi + β2MARKET_TO_BOOKi +

+ + β3DIRECTOR_OWNERSHIPi β4CEO_OWNERSHIPi

β5FIRM_AGEi + β6CRISISi + εi

Mô hình 3.3 – Mô hình biến công cụ giai đoạn 2 với biến độc lập CAR:

CARi = α + β1TOTAL_ASSETi + β2MARKET_TO_BOOKi +

+ + β3DIRECTOR_OWNERSHIPi β4CEO_OWNERSHIPi

β5FIRM_AGEi + β6CRISISi + εi

Mô hình 3.4 – Mô hình biến công cụ giai đoạn 2 với biến độc lập 𝛔(𝐑𝐎𝐀) :

𝝈(𝑹𝑶𝑨)i = α + β1TOTAL_ASSETi + β2MARKET_TO_BOOKi +

+ + β3DIRECTOR_OWNERSHIPi β4CEO_OWNERSHIPi

β5FIRM_AGEi + β6CRISISi + εi

32

Bảng 3.1 : Tổng hợp các biến

Ký hiệu

Biến

Ý nghĩa

data

ZCORE

Z-SCOREi

Hệ số Z-score của ngân hàng

Logarit của Tổng tài sản trung bình của ngân

ASSET

TOTAL_ASSETi

hàng - log(TOTAL_ASSET)

MARKET_TO_BOOKi

Tỷ lệ giá trị thị trường trên giá trị sổ sách

MBP

Logarit của trung vị cổ phần được nắm giữ

DIRECTOR_OWNERSHIPi

DIRECTOR

bởi Hội đồng quản trị - log( DIR)

CEO

CEO_OWNERSHIPi

Tỷ lệ cổ phần được nắm giữ bởi CEO

Logarit của Thời gian hoạt động của ngân

AGE

FIRM_AGEi

hàng thương mại

Biến giả khủng hoảng kinh tế

Crisis= 1 là những năm khủng hoảng

CRISISi

CRISIS

Cirisis = 0 là những năm không ảnh hưởng

bởi khủng hoảng kinh tế

Biến giả tỷ lệ sở hữu nhà nước

Own = 1 nếu nhà nước nắm giữ cổ phần

OWN_STATEDi

OWN

Own = 0 nếu nhà nước không nắm giữ cổ

phần

Biến giả ngân hàng đã được niêm yết trên

sàn

LISTEDi

LISTED

List = 1 nếu được niêm yết

List = 0 nếu chưa được niêm yết

PPEi

Giá trị tài sản cố định hữu hình

PPE

Nguồn : Tác giả tự tổng hợp

33

3.2. MÔ TẢ VÀ ĐỊNH NGHĨA CÁC BIẾN

3.2.1. Biến phụ thuộc

Biến đại diện cho mức độ chấp nhận rủi ro

Việc tìm ra công cụ để phát hiện rủi ro và các dấu hiệu báo trước rủi ro của doanh

nghiệp là mối quan tâm hàng đầu của các nhà nghiên cứu tài chính doanh nghiệp.

Có nhiều công cụ được phát triển để phát hiện rủi ro nhưng chỉ số được công nhận

rộng rãi bởi giới nghiên cứu học thuật và thực tiễn là chỉ số Z-score được phát triển

1968 bởi giáo sư Altman dựa vào bài nghiên cứu trên số lượng rất lớn các công ty

khác nhau ở Mỹ. Chỉ số Z-score lần lượt được đưa vào nghiên cứu và đều được các

nhà khoa học chấp nhận rằng Z-score phản ánh tốt khả năng phá sản của doanh

nghiệp.

Tomasz (2013) sử dụng Z-score đánh giá rủi ro dẫn đến phá sản của các doanh

nghiệp châu Âu và khu vực Mỹ Latinh. Leonardo và Jaime (2003) cho thấy Z-score

đưa ra dự báo khả năng phá sản của các doanh nghiệp tại Ý rất tốt. Do đó, Z-score

là công cụ hữu ích để các ngân hàng thương mại dự báo và theo dõi rủi ro tín dụng

của ngân hàng, giúp dự báo tốt khả năng phá sản và đưa ra các phương án kịp thời

với bất ổn thị trường.

Phương pháp chính để đo lường rủi ro mà ngân hàng chấp nhận là sử dụng Z-score.

Dựa theo nghiên cứu của Sanjai Bhagat, Brian Bolton, Jun Lu (2013), Z-score được

tính theo công thức dưới đây:

𝑍 − 𝑠𝑐𝑜𝑟𝑒 = 𝑅𝑂𝐴 + 𝐶𝐴𝑅 𝜎(𝑅𝑂𝐴)

Trong đó :

ROA : lợi nhuận sau thuế trên tổng tài sản

𝜎(𝑅𝑂𝐴) : độ lệch chuẩn của ROA, được tính cuốn chiếu cho 5 năm liền trước. Ví

dụ : độ lệch chuẩn 2009 được tính bằng cách tính backward thời kỳ từ năm 2009 về

trước năm 2005.

CAR : tỷ lệ an toàn vốn

Cách tính CAR này dựa trên các nghiên cứu phổ biến của Laeven and Levine

34

(2009), Houston và cộng sự (2010), Balachandran, Kogut and Harnal (2010), and

Vyas (2011).

𝐶𝐴𝑅 = 𝑇ổ𝑛𝑔 𝑡à𝑖 𝑠ả𝑛 − 𝑇ổ𝑛𝑔 𝑛ợ 𝑇ổ𝑛𝑔 𝑡à𝑖 𝑠ả𝑛

Z-score đo lường khả năng chấp nhận rủi ro của ngân hàng. Z-score càng cao thì

ngân hàng càng nằm trong vùng an toàn với mức độ chấp nhận rủi ro thấp hơn và

hoạt động ổn định hơn. Ngược lại, khi chỉ số Z-score thấp nghĩa là mức độ chấp

nhận rủi ro của ngân hàng cao.

Chỉ số Z-score giữa các quan sát có độ lệch rất cao, vấn đề phát sinh khi có những

chỉ số Z-score bị âm do bởi các ngân hàng hoạt động thua lỗ, dẫn đến việc mất một

số quan sát. Dựa theo các bài nghiên cứu của Laeven và Levine (2009); Houston và

cộng sự (2010) sử dụng logarit của Z-score để đo lường rủi ro. Vì thế, bài nghiên

cứu vẫn sử dụng biến Z-score thô như là một thước đo rủi ro và xem xét đến độ lệch

của phân phối khi tiến hành phân tích hồi quy, sau đó sử dụng logarit của Z-score

để kiểm tra tính vững.

Bên cạnh đó, để xem thành phần nào của Z-score tác động đến biến quy mô và các

biến độc lập khác, bài nghiên cứu sử dụng 3 thành phần của Z-score dưới dạng biến

phụ thuộc riêng biệt : biến ROA, biến CAR, biến 𝜎(𝑅𝑂𝐴). Việc phân tích các thành

phần của Z-score nhằm kiểm tra việc Z-score chịu tác động chính của thành phần

nào, và thành phần này có ảnh hưởng đến quy mô ngân hàng ra sao.

3.2.2. Biến độc lập

Biến đại diện cho quy mô ngân hàng

Có nhiều cách để đo lường quy mô của ngân hàng. Thông thường có hai cách là sử

dụng phương pháp kế toán và phương pháp thị trường.

Với phương pháp kế toán, có thể sử dụng tổng tài sản trung bình hoặc tổng lợi

nhuận trung bình của ngân hàng; theo phương pháp thị trường sẽ sử dụng vốn hoá

thị trường.

35

Tác giả thiên về việc sử dụng tổng tài sản hoặc tổng lợi nhuận của ngân hàng hơn là

sử dụng vốn hoá thị trường, bởi vì các nghiên cứu trước đây đưa ra các tranh luận

rằng việc sử dụng phương pháp kế toán thì sẽ ít gây nhiễu trong việc đo lường quy

mô doanh nghiệp hơn là sử dụng phương pháp thị trường (Baker and Hall, 2004).

Dựa trên các bài nghiên cứu trước đây, tác giả tập trung chủ yếu vào tổng tài sản

của ngân hàng. Sử dụng tổng tài sản của ngân hàng làm biến đại diện cho quy mô

của ngân hàng. Do giữa các ngân hàng và thậm chí giữa các năm với nhau, con số

đại diện cho tổng tài sản có độ chênh lệch rất cao, vì thế, bài nghiên cứu sẽ lấy

logarit của tổng tài sản.

Biến đại diện cho khả năng quản trị trong ngân hàng

Các phương pháp quản trị thường được sử dụng rộng rãi là G-index (Gompers,

Ishii, and Metrick, 2003), E-index (Bebchuk, Cohen, and Ferrell, 2004), and Gov-

Score (Brown and Caylor, 2006).

Tuy nhiên, trong các nghiên cứu gần đây, Bhagat, Bolton, and Romano, 2008;

Bhagat and Bolton, 2008, 2012a) đã đặt ra câu hỏi, liệu các chỉ số quản trị có đo

lường các thuộc tính quản trị thích hợp hay không. Các phương pháp quản trị thông

thường vẫn có những hạn chế nhất định.

Từ đó, Bhagat and Bolton (2008) đã phát triển một phương pháp quản trị mới. Đó là

sử dụng trung vị cổ phần trung bình được nắm giữ bởi Hội đồng quản trị được đo

bằng tiền. Ưu điểm của phương pháp này là tính toán đơn giản, trực quan, ít bị lỗi

đo lường, và có thể nâng cao khả năng so sánh các kết quả nghiên cứu.

Vì các thành viên trong hội đồng quản trị đa phần là những cổ đông của ngân hàng,

nên sẽ chú ý vào giá trị cổ phiếu của ngân hàng, chứ không chỉ tập trung vào tỷ lệ

phần trăm nắm giữ.

Do có sự chênh lệch khá lớn của dữ liệu, bài nghiên cứu lấy logarit của trung vị giá

trị cổ phần trung bình được nắm giữ bởi Hội đồng quản trị để làm giảm độ lệch của

dữ liệu nghiên cứu.

36

Biến đại diện cho khả năng nắm giữ của CEO

Dựa trên bài nghiên cứu của Bhagat and Bolton (2008), bài nghiên cứu sử dụng

lượng cổ phần trung bình được nắm giữ bởi CEO làm thước đo đại diện cho khả

năng nắm giữ của CEO. Sự khác biệt giữa biến đại diện cho khả năng quản trị trong

ngân hàng là việc sử dụng gía trị trung vị được đo bằng tiền trong khi biến đại diện

cho CEO lại là tỷ lệ phần trăm, nguyên do là cổ phần của các CEO chủ yếu là từ

việc khen thưởng hoặc bắt buộc phải nắm giữ, mục đích là để gắn lợi ích của CEO

và các cổ đông vào nhau.

Biến đại diện cho giá trị thực của ngân hàng

Có nhiều cách để đo lường giá trị thực của doanh nghiệp, các chỉ tiêu thường được

sử dụng chia thành hai nhóm chính :

Nhóm 1 : sử dụng các công cụ kế toán, tỷ suất giữa kết quả đạt được ( như thu nhập

thuần, lãi ròng) và các yếu tố đầu vào (như tài sản, nguồn vốn, vốn chủ sở hữu, vốn

đầu tư,…). Trong đó, hai hệ số được sử dụng phổ biến nhất để đo lường hiệu quả tài

chính doanh nghiệp là tỷ suất sinh lợi trên tổng tài sản ROA và tỷ suất sinh lợi trên

vốn chủ sở hữu ROE. Tuy nhiên, giá trị của ROA và ROE lại phụ thuộc vào cách

xác định giá trị “lợi nhuận”.

Bài nghiên cứu của Hu & Izumida (2008); Le & Buck (2011); Wang & Xiao (2011)

sử dụng lợi nhuận trước thuế và lãi vay EBIT. Một số tác giả khác lại sử dụng lợi

nhuận trước thuế, lãi vay, hao mòn và khấu hao (EBITDA). Theo Shah, Butt &

Saeed (2011); Thomsen & Pedersen, (2000) sử dụng lợi nhuận thuần cộng với lãi

vay (trước hoặc sau thuế). Bài nghiên cứu của LI, Sun & Zou (2009); Tian & Estrin

(2008) lại sử dụng lợi nhuận thuần.

Hạn chế của việc sử dụng chỉ tiêu này theo bài nghiên cứu của Jenkins, Ambrosini

& Collier (2011) là không đưa ra một góc nhìn dài hạn cho các cổ đông và ban giám

đốc doanh nghiệp do đây là các thước đo quá khứ do sử dụng các số liệu kế toán đã

qua và đánh giả khả năng lợi nhuận ngắn hạn của doanh nghiệp.

Nhóm 2 : sử dụng các mô hình kinh tế dựa trên giá trị thị trường. Hai hệ số MBVR

– Hệ số giá trị thị trường chia giá trị sổ sách của vốn chủ sở hữu và Tobin’s Q rất

37

thông dụng như là công cụ đánh giá tốt về hiệu quả tài chính DN (Zeitun và cộng sự

giá trị thị trường của vốn chủ sở hữu

(2007); Jiraporn và cộng sự (2008); Nour, (2012).

giá trị sổ sách của vốn chủ sở hữu

giá trị thị trường của vốn chủ sở hữu + giá trị sổ sách các khoản nợ phải trả

Hệ số MBVR =

giá trị sổ sách của tổng tài sản

Hệ số Tobin’s Q =

Các hệ số này cho biết hiệu quả tương lai của doanh nghiệp vì thể hiện sự đánh giá

của thị trường về tiềm năng lợi nhuận trong tương lai của doanh nghiệp.

Bài nghiên cứu sử dụng Tỷ lệ giá trị thị trường trên giá trị sổ sách vốn chủ sở hữu là

thước đo cho giá trị thực của ngân hàng.

Tỷ lệ giá trị thị trường trên giá trị sổ sách = MBVR

= giá trị thị trường của vốn chủ sở hữu giá trị sổ sách của vốn chủ sở hữu

Theo mô hình năm nhân tố của Fama & French (1992) đã chỉ ra rằng các doanh

nghiệp có hệ số MBVR càng thấp thì càng có nhiều rủi ro phá sản, thị trường đang

kỳ vọng thấp về khả năng tạo ra lợi nhuận của doanh nghiệp.

Trong bài nghiên cứu của Demsetz, Saidenberg & Strahan (1997); Goyal (2005),

các doanh nghiệp có hệ số MBVR càng thấp thì rủi ro sẽ cao hơn các doanh nghiệp

có hệ số MBVR cao.

3.2.3. Các biến kiểm soát khác:

Thời gian hoạt động của các ngân hàng thương mại

Bài nghiên cứu sử dụng thời gian hoạt động của ngân hàng để kiểm soát năng lực

quản trị của ngân hàng, kỳ vọng các ngân hàng hoạt động lâu năm sẽ có khả năng

kiểm soát rủi ro tốt hơn các ngân hàng mới thành lập.

Các ngân hàng hoạt động lâu năm đã ổn định trên thị trường, các cổ đông cũng phải

góp lượng vốn lớn theo thời gian, họ sẽ yêu cầu các nhà quản trị ngân hàng duy trì

tỷ lệ rủi ro ở một mức xác định nhằm mục đích bảo toàn vốn.

Còn các ngân hàng nhỏ lẻ mới thành lập, khả năng quản lý còn non kém, việc đảm

bảo phải tạo ra lợi nhuận cho doanh nghiệp khiến các nhà quản trị càng có động lực

để gia tăng rủi ro.

38

Biến khủng hoảng kinh tế

Việt Nam cũng là quốc gia chịu ảnh hưởng bởi cuộc khủng hoảng tài chính toàn

cầu.

Trong bài nghiên cứu của Sanjai Bhagat và cộ ng sự (2015), việc xem xét tác động

của biến khủng hoảng kinh tế là từ năm 2007 đến 2009. Mặc dù là khủng hoảng

kinh tế chỉ đến quý I/2009, và sau đó, thị trường Việt Nam có xu hướng phục hồi,

tuy nhiên do độ trễ của các chính sách và tâm lý của cả thị trường trong nước, năm

2009, khủng hoảng vẫn tác động mạnh lên các chỉ số tài chính ngân hàng.

Tác giả lựa chọn để cả năm 2009 chịu tác động của khủng hoảng tài chính không

chỉ quý I/2009.

Trong giai đoạn khủng hoảng kinh tế, các nhà quản trị thắt chặt các hoạt động kinh

doanh của mình, đảm bảo duy trì tỷ lệ rủi ro nhất định do thực trạng đen tối của

khủng hoảng kinh tế toàn cầu.

Một số bài nghiên cứu khác lại cho rằng ngược lại, các nhà quản trị sẽ bị cuốn vào

guồng đầu tư trước đó, chấp nhận tham gia các dự án có tỷ lệ rủi ro cao nhưng lợi

nhuận đem về rất lớn.

Biến giả tỷ lệ sở hữu nhà nước

Các ngân hàng hiện nay chia thành hai nhóm sở hữu.

Nhóm thứ 1: Sở hữu tư nhân

Nhóm thứ 2: Sở hữu nhà nước

Trong nhóm này gồm có: ngân hàng quốc doanh, ngân hàng chính sách và ngân

hàng có vốn sở hữu nhà nước trên 50%. Ngân hàng thương mại quốc doanh và ngân

hàng chính sách là các ngân hàng được mở bằng 100% vốn từ ngân sách nhà nước.

Các ngân hàng thương mại quốc doanh (Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển

Nông thôn Việt Nam (Agribank), Ngân hàng TNHH MTV Dầu khí toàn cầu (GP

Bank), Ngân hàng TNHH MTV Đại Dương (Oceanbank), Ngân hàng TNHH MTV

Xây dựng (CB)) ngoài trừ Agribank là hoạt động lâu đời nhất với quy mô vốn tài

sản lớn thì còn lại là các ngân hàng 0 đồng được nhà nước mua lại nhằm hỗ trợ thị

trường tín dụng.

39

Hai ngân hàng chính sách (Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam (VBSP), Ngân

hàng Phát triển Việt Nam) là các ngân hàng hoạt động vì mục đích phi lợi nhuận, là

công cụ của chính phủ thực hiện các nhiệm vụ chính trị như điều tiết và chuyển dịch

nền kinh tế và hỗ trợ người nghèo.

Các ngân hàng cổ phần được niêm yết thuộc sở hữu nhà nước hoặc nhà nước nắm

tỷ lệ chi phối trên 50% thường có quy mô lớn như, Ngân hàng Ngoại thương Việt

Nam (Vietcombank), Ngân hàng Công thương Việt Nam (VietinBank), Ngân hàng

Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV).

Xét theo khối các ngân hàng thương mại cổ phần, từ trước đến nay, quy mô tài sản

của các ngân hàng thương mại Nhà nước vẫn luôn dẫn đầu và chiếm phần lớn trong

hệ thống. Các ngân hàng thương mại cổ phần tư nhân dù có sự bất phá trong tổng

tài sản trong khoảng thời gian gần đây nhưng vẫn có sự tách biệt rất lớn với 3 ông

lớn nhà nước. Dựa theo số liệu thống kê năm 2017, tổng tài sản của các ngân hàng

thương mại cổ phần tư nhân mới bằng 3 "ông lớn" VietinBank, BIDV,

Vietcombank.

Giữa các ngân hàng cổ phần thương mại nhà nước và các ngân hàng thương mại tư

nhân có sự sở hữu chéo, tuy nhiên, tỷ lệ nắm giữ của các ông lớn ngân hàng nhà

nước trong các ngân hàng tư nhân không cao, trung bình dưới 8%, và theo thông tư

36/2014, các ngân hàng thương mại chỉ được mua và nắm giữ không quá 2 tổ chức

tín dụng khác và tỷ lệ nắm giữ dưới 5% vốn có quyền biểu quyết, cũng như cũng

không được cử người tham gia vào hội đồng quản trị của tổ chức mình nắm giữ.

Do đó, tác giả sử dụng biến giả tỷ lệ sở hữu nhà nước loại bỏ yếu tố sở hữu chéo

giữa các ngân hàng thương mại, không xét đến yếu tố bị chi phối của nhà nước

thông qua các ngân hàng thương mại cổ phần nhà nước, và chỉ xem xét đến các

ngân hàng có vốn sở hữu nhà nước trên 50%.

Các ngân hàng có vốn sở hữu nhà nước có quy mô rất lớn và tầm ảnh hưởng đến

nền kinh tế hơn là các ngân hàng sở hữu tư nhân.

Biến giả ngân hàng đã được niêm yết trên sàn

Niêm yết giúp các ngân hàng có cơ hội thuận lợi trong việc tăng vốn, và đáp ứng tốt

40

hơn về yêu cầu công khai minh bạch. Ngân hàng niêm yết không chỉ được giám sát

bởi Ngân hàng nhà nước mà còn của Uỷ ban chứng khoán, Sở giao dịch chứng

khoán, vì thế, các ngân hàng niêm yết sẽ có thể phát hiện sớm các rủi ro, khiếm

khuyết và từ đó quản trị các rủi ro tốt hơn.

Các ngân hàng chưa niêm yết một phần vì khả năng của ngân hàng chưa đủ để tiến

hành niêm yết trên thị trường, không muốn minh bạch thông tin tình hình tài chính

công ty, cũng như là khả năng kiểm soát rủi ro của các ngân hàng còn yếu kém.

Các ngân hàng được niêm yết trên thị trường đa phần là các ngân hàng có quy mô

lớn hơn các ngân hàng chưa niêm yết, trừ trường hợp đặc biệt của Agribank.

Biến tài sản cố định hữu hình PPE

Các ngân hàng có tài sản cố định hữu hình càng lớn thì quy mô ngân hàng càng lớn.

Biến này cũng đã được Sanjai Bhagat, Brian Bolton, Jun Lu (2015) sử dụng trong

bài nghiên cứu của mình.

Việc sử dụng ba biến công cụ trên để đưa vào mô hình hồi quy phải thêm một bước

kiểm tra về mức độ phù hợp. Biến công cụ PPE đã từng được sử dụng nhiều trong

các bài nghiên cứu trước đây, tuy nhiên, biến giả ngân hàng có tỷ lệ sở hữu nhà

nước và biến ngân hàng được niêm yết trên thị trường được tác giả thêm vào dựa

trên số liệu thống kê tại Việt Nam, chưa có nhiều bài nghiên cứu dẫn chứng vì thế

sẽ phải kiểm tra lại mức độ phù hợp.

Theo mô hình hồi quy 2 SLS, các biến công cụ được sử dụng phải có mối tương

quan với quy mô của ngân hàng, việc kiểm định sự phù hợp sẽ xem xét trong việc

kiểm tra tự tương quan giữa các biến ở ma trận Pearson. Tác giả kỳ vọng sẽ có mối

tương quan mạnh giữa các biến công cụ để có thể thực hiện tiếp hồi quy 2 SLS.

3.3. THU THẬP DỮ LIỆU

Dữ liệu bài nghiên cứu này được thực hiện dựa trên số liệu của 23 ngân hàng

thương mại ở Việt Nam trong suốt giai đoạn 2009-2017 (bộ dữ liệu loại trừ số liệu

41

của ngân hàng Agribank, các ngân hàng nội địa nhỏ và các ngân hàng nước ngoài

do báo cáo tài chính không được công bố).

Dữ liệu nghiên cứu lấy từ Báo cáo tài chính hằng năm của các ngân hàng trên các

trang web Vietstock.vn và CafeF.vn. Bên cạnh đó, kết hợp tìm kiếm những dữ liệu

trên các Báo cáo tài chính và bảng thuyết minh Báo cáo tài chính của các ngân hàng

trong giai đoạn 2009 – 2017, tác giả thu thập thủ công các số liệu liên quan đến số

lượng cổ phiếu được nắm giữ bởi hội đồng quản trị, và của tổng giám đốc.

Hiện nay, trong danh sách 23 ngân hàng được lấy số liệu, có 11 ngân hàng đã được

niêm yết trên thị trường, 12 ngân hàng chưa thực hiện niêm yết trên sàn HOSE hay

HNX. Bộ dữ liệu có 3 ngân hàng có cổ phần được nắm giữa bởi ngân hàng nhà

nước : Vietcombank, Vietin Bank, BIDV.

Trước năm 2009, các ngân hàng thiếu thông tin, các báo cáo tài chính, bảng cáo

bạch cũng không được cung cấp đầy đủ, nên tác giả loại bỏ các năm dữ liệu bị thiếu

và sử dụng dữ liệu từ 2009 trở về sau.

Đề tài nghiên cứu được thực hiện giai đoạn cuối năm 2018 và đầu năm 2019, bộ dữ

liệu cho năm 2018 vẫn chưa được các ngân hàng cập nhật vì chưa hoàn thành báo

cáo tài chính tới thời điểm hiện tại.

42

Bảng 3.2 : Danh sách các ngân hàng thực hiện nghiên cứu

STT Tên viết tắt Ngân hàng

ABBANK Ngân hàng TMCP An Bình 1

Ngân hàng TMCP Á Châu ACB 2

Ngân hàng TMCP Bắc Á BAB 3

Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam BID 4

Ngân hàng TMCP Công Thương CTG 5

Ngân hàng TMCP Xuất Nhập Khẩu Việt Nam EIB 6

Ngân hàng TMCP Phát triển Thành phố Hồ Chí Minh HDB 7

Ngân hàng TMCP Kiên Long KLB 8

Ngân hàng TMCP Bưu điện Liên Việt LPB 9

10 MBB Ngân hàng TMCP Quân đội

11 MSB Ngân hàng TMCP Hàng hải

NAMABANK Ngân hàng TMCP Nam Á 12

Ngân hàng TMCP Quốc Dân NVB 13

Ngân hàng TMCP Phương Đông OCB 14

Ngân hàng TMCP Sài Gòn Công Thương SGB 15

Ngân hàng TMCP Sài Gòn - Hà Nội SHB 16

Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín STB 17

Ngân hàng TMCP Kỹ Thương Việt Nam TCB 18

Ngân hàng TMCP Tiên Phong TPB 19

Ngân hàng TMCP Ngoại Thương Việt Nam VCB 20

Ngân hàng TMCP Quốc Tế VIB 21

VIETABANK Ngân hàng TMCP Việt Á 22

VPB Ngân hàng TMCP Việt Nam Thịnh Vượng 23

Nguồn : Tác giả tự tổng hợp

43

3.4. KIỂM ĐỊNH MÔ HÌNH VÀ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

3.4.1. Quy trình cụ thể của bài nghiên cứu được thực hiện như sau :

▪ Thực hiện phân tích thống kê mô tả các biến

▪ Tiến hành kiểm tra ma trận tương quan giữa các biến

▪ Thực hiện kiểm định Durbin–Wu–Hausman để xác định mô hình có hiện

tượng nội sinh hay không?

▪ Nếu mô hình có hiện tượng nội sinh, tiến hành thực hiện hồi quy 2SLS để

tìm hiểu mối quan hệ giữa quy mô và mức độ chấp nhận rủi ro các ngân

hàng.

▪ Z-score được cấu thành bởi 3 thành phần, lần lượt thực hiện mô hình hồi quy

các thành phần để tìm hiểu thành phần nào tác động đến quy mô ngân hàng.

3.4.2. Phân tích thống kê mô tả các biến và Ma trận tương quan

Thống kê mô tả :

Bảng 3.3 trình bày chi tiết số liệu thống kê mô tả các biến được trình bày trong mô

hình. Thống kê cho thấy dữ liệu có sự chênh lệch lớn về rủi ro của các ngân hàng,

đồng thời quy mô tài sản của các ngân hàng cũng có sự khác biệt rất lớn.

▪ Ma trận tương quan Pearson :

Hệ số Pearson, ký hiệu r, đo lườ ng mứ c độ tươ ng quan tuyến tính giữa 2 biến. Hệ số r có giá trị từ -1 đến +1.

r>0 cho thấy hai biến có tương quan dương, khi giá trị của biến này tăng thì giá trị

của biến kia cũng sẽ tăng theo, và ngược lại .

r<0 cho thấy hai biến có tương quan âm, khi giá tri ̣ củ a biến này tă ng thì sẽ làm giá tri ̣ củ a biến kia giảm và ngươ ̣c la ̣i. Giá tri ̣ tuyệ t đố i củ a r càng cao thì mứ c độ tươ ng quan giữa hai biến càng lớ n và dữ liệ u càng phù hơ ̣p vớ i quan hệ tuyến tính giữa hai biến. |r| < 0.2: tương quan rất yếu , dường như không tươ ng quan; |r| = [0.2 ; 0.4) : tươ ng quan yếu; |r| = [0.4 ; 0.6) : tươ ng quan trung bình; |r| = [0.6 ; 0.8) : tươ ng quan ma ̣nh; |r| = [0.8 ; 1.0] : tươ ng quan rất ma ̣nh.

44

Kết quả tự tương quan giữa các biến được trình bày ở Bảng 3.4 bên dưới.

Mối tương quan trung bình giữa các biến :

• Biến AGE và biến ASSET với hệ số r = 0.5295, có mối tương quan dương.

Thời gian hoạt động của các ngân hàng càng dài, thì quy mô của các ngân hàng

càng lớn. Các ngân hàng mới thành lập thì quy mô sẽ nhỏ hơn so với các ngân hàng

đã hoạt động lâu dài trên thị trường.

• Biến AGE và biến STATE với hệ số r = 0.5587, có mối tương quan dương.

Các ngân hàng hoạt động lâu dài trên thị trường tài chính đều là các ngân hàng được

nhà nước kiểm soát. Các ngân hàng mới thành lập và hoạt động không lâu trên thị

trường đều là các ngân hàng của tư nhân.

• Biến LISTED và biến STATE với hệ số r= 0.5026, có mối tương quan

dương. Các ngân hàng được niêm yết trên thị trường thường là các ngân hàng được

nhà nước góp vốn.

Mối tương quan mạnh giữa các biến :

• Biến STDROA và biến ZSCORE với hệ số r = -0.7078, có mối tương quan

âm. Khi độ lệch chuẩn của ROA tăng lên thì chỉ số Z-score giảm. Điều này hoàn

toàn phù hợp với công thức tính Z-score được xây dựng ở phần mô tả biến.

• Biến ASSET và biến CAR với hệ số r = -0.7006, có mối tương quan âm. Khi

quy mô của ngân hàng tăng lên, thì hệ số an toàn vốn giảm. Ban giám đốc sử dụng

tỷ lệ đòn bẩy tài chính cao do lợi thế về quy mô.

• Biến PPE và biến ASSET với hệ số r = 0.7609, có mối tương quan dương

cho thấy Tổng tài sản của ngân hàng tăng thì tổng tài sản cố định của ngân hàng

tăng, số lượng chi nhánh, phòng giao dịch cũng tăng theo.

• Biến LISTED và biến ASSET với hệ số r = 0.6678 , có mối tương quan

dương. Các ngân hàng niêm yết trên thị trường thì quy mô tài sản lớn hơn so với

các ngân hàng chưa niêm yết.

• Biến STATE và biến ASSET với hệ số r = 0.6343, có mối tương quan

dương. Các ngân hàng có sở hữu nhà nước thường có quy mô tài sản cao, hay nói

45

cách khác, các ngân hàng Việt Nam có quy mô lớn thì thường đều có yếu tố nhà

nước kiểm soát.

• Biến PPE và biến STATE với hệ số r= 0.7063, có mối tương quan dương.

Các ngân hàng có yếu tố nhà nước thường có Giá trị tài sản cố định hữu hình lớn.

Xem xét sự phù hợp khi sử dụng 3 biến công cụ:

Kết quả ở bảng 3.4 cho thấy có mối tương quan mạnh giữa biến ASSET với

STATE, LISTED, PPE cho thấy việc sử dụng 3 biến công cụ trong mô hình là phù

hợp.

Nhìn chung, kết quả của ma trận hệ số tương quan cho thấy hệ số tương quan giữa

các biến đều có giá trị tuyệt đối nhỏ hơn 0.8. Điều này cho thấy giữa các biến được

sử dụng trong mô hình không có vấn đề nghiêm trọng trong hiện tượng đa cộng

tuyến.

46

Bảng 3.3 : Thống kê mô tả các biến Số lượng quan sát 200 200 200 200 200 200 200 200 200 200 200 200 200

ZSCORE ASSET ROA CAR STDROA PB CEO DIR AGE PPE LISTED CRISIS STATE

Giá trị trung bình 45,91381 169,8537 0,0083151 0,0958998 0,0037047 0,3429703 0,0122603 81363,19 22,405 0,9588639 0,465 0,1 0,18

Độ lệch chuẩn 40,08976 211,7297 0,0057298 0,0422478 0,0039919 0,694416 0,0532769 181968,1 11,26434 1,269756 0,5000251 0,3007528 0,3851515

Giá trị nhỏ nhất 2,722009 7,478452 0 0,040618 0,000182 0 0 14 4 0,0365602 0 0 0

Giá trị lớn nhất 247,7485 1202,284 0,047289 0,255389 0,027301 2,891147 0,40449 791117 61 6,422388 1 1 1

Nguồn : Tác giả tính toán dựa trên dữ liệu nghiên cứu

Chú thích : ASSET: Biến đại diện cho quy mô hoạt động của ngân hàng, được đo lường bằng logarit của tổng tài sản. ROA: Tỷ suất sinh lợi trên tổng tài

sản. 𝝈(𝑹𝑶𝑨) : độ lệch chuẩn của tỷ suất sinh lợi trên tổng tài sản. CAR : tỷ lệ an toàn vốn. PB : Biến đại diện cho gía trị thực của ngân hàng, được đo

lường bằng Tỷ lệ giá trị thị trường trên giá trị sổ sách. DIR: Biến đại diện cho khả năng quản trị trong ngân hàng, được đo lường bằng Logarit của trung

vị cổ phần được nắm giữ bởi Hội đồng quản trị. CEO : Biến đại diện cho khả năng nắm giữ của CEO, được đo lường bằng Tỷ lệ cổ phần được nắm giữ

bởi CEO. AGE : Biến đại diện cho thời gian hoạt động của ngân hàng, được đo lường bằng logarit của số năm ngân hàng hoạt động. CRISIS : Biến giả

đại diện cho thời gian các ngân hàng rơi vào khủng hoảng kinh tế. STATED : Biến giả địa diện cho tỷ lệ nắm giữ của nhà nước. LISTED : Biến giả ngân

hàng đã được niêm yết trên sàn. PPE: Biến đại diện cho Giá trị tài sản cố định hữu hình.

Bảng 3.4 : Ma trận tương quan Pearson

47

ZSCORE

ASSET

ROA

CAR

STDROA

MBP

CEO

DIRECTOR

AGE

PPE

LISTED

CRISIS

STATE

ZSCORE

1

0,0708

1

ASSET

0,0502

-0,1035

1

ROA

0,0063

-0,7006**

0,3645**

1

CAR

STDROA

-0,7078**

-0,3215**

0,1715

0,3804**

1

0,0772

0,3189**

-0,0887

-0,2433**

-0,1575

1

MBP

-0,0109

0,3134**

0,0149

-0,1653*

-0,0886

0,3158**

1

CEO

DIRECTOR

0,1532*

-0,1799*

-0,1389*

-0,0051

-0,2385**

-0,008

-0,08

1

0,2876**

0,5295**

-0,0369

-0,2065

-0,4445**

0,164*

0,0832

-0,1674*

1

AGE

-0,0109

0,7609**

-0,0039

-0,3505**

-0,2377**

0,2858**

0,3137**

-0,207**

0,5833

1

PPE

0,4737

LISTED

0,1049

0,6678**

0,1844

-0,3845**

-0,244

0,3062**

0,2431**

-0,1467*

0,6035

1

0,0176

-0,22*

0,2234*

0,06

-0,0375

0,0099

0,0504

0,0178

-0,0911

-0,144*

0,0234

1

CRISIS

0,0201

0,6343**

0,0524

-0,2797**

-0,1535**

0,255**

0,4301**

-0,2945**

0,5587**

0,7063**

0,5026**

0,0174

1

STATE

Nguồn : Tác giả tính toán dựa trên dữ liệu nghiên cứu

Chú thích : **: với mức ý nghĩa 1%*: với mức ý nghĩa 5% ASSET: Biến đại diện cho quy mô hoạt động của ngân hàng, được đo lường bằng logarit của tổng tài sản. ROA: Tỷ suất sinh lợi trên tổng tài sản. 𝝈(𝑹𝑶𝑨) : độ lệch chuẩn của tỷ suất sinh lợi trên tổng tài sản. CAR : tỷ lệ an toàn vốn. PB : Biến đại diện cho gía trị thực của ngân hàng, được đo lường bằng Tỷ lệ giá trị thị trường trên giá trị sổ sách. DIR: Biến đại diện cho khả năng quản trị trong ngân hàng, được đo lường bằng Logarit của trung vị cổ phần được nắm giữ bởi Hội đồng quản trị. CEO : Biến đại diện cho khả năng nắm giữ của CEO, được đo lường bằng Tỷ lệ cổ phần được nắm giữ bởi CEO. AGE : Biến đại diện cho thời gian hoạt động của ngân hàng, được đo lường bằng logarit của số năm ngân hàng hoạt động. CRISIS : Biến giả đại diện cho thời gian các ngân hàng rơi vào khủng hoảng kinh tế. STATED : Biến giả địa diện cho tỷ lệ nắm giữ của nhà nước. LISTED : Biến giả ngân hàng đã được niêm yết trên sàn. PPE: Biến đại diện cho Giá trị tài sản cố định hữu hình.

48

3.4.3. Kiểm tra hiện tượng nội sinh

Dựa vào các bài nghiên cứu trước đây, tác giả nghi ngờ mô hình xuất hiện hiện

tượng nội sinh. Tác giả thực hiện kiểm định Durbin–Wu–Hausm Test nhằm kiểm

tra xem thực sự có xuất hiện hiện tượng nội sinh hay không.

Biến quy mô là biến sẽ được kiểm định xem có nội sinh hay không dựa trên lý luận

phía trên.

Giả thiết kiểm định Durbin–Wu–Hausm Test:

H0: Biến được kiểm định là biến ngoại sinh

H1: Biến được kiểm định là biến nội sinh

Kết quả của việc kiểm tra nội sinh được trình bày trong phụ lục 3 cho thấy p-value

= 0,0334 < 10% => chắc chắn biến quy mô bị nội sinh.

Để giải quyết tình trạng nội sinh của mô hình 1, tác giả sử dụng mô hình Two-stage

Least Square – 2SLS với 3 biến công cụ: tỷ lệ sở hữu nhà nước, biến giả ngân hàng

được niêm yết, biến tài sản cố định hữu hình để phân tích mối quan hệ giữa quy mô

và mức độ chấp nhận rủi ro của các ngân hàng.

3.4.4. Tiến hành thực hiện Mô hình 2

▪ Mô hình hồi quy hai giai đoạn 2SLS

▪ Mô hình hồi quy hai giai đoạn 2SLS Robust nhằm loại bỏ nhiễu khẳng định

tính vững của mô hình nghiên cứu.

Bảng 3.5 trình bày kết quả của mô hình hồi quy hai giai đoạn 2SLS và mô hình hồi

quy hai giai đoạn 2 SLS với tuỳ chọn Robust, tác giả nhận thấy:

o Mối quan hệ ngược chiều giữa biến ASSET và biến ZSCORE với coefficient

= -0,1827205, hệ số mang dấu âm và p-value=0,029 mức ý nghĩa 5%. Khi quy mô

ngân hàng tăng thì chỉ số Z-score giảm, rủi ro ngân hàng chấp nhận càng tăng.

 Chấp nhận giả thiết H1a: Có mối quan hệ cùng chiều giữa Quy mô ngân

hàng và mức độ rủi ro ngân hàng chấp nhận

o Mối quan hệ cùng chiều giữa biến DIRECTOR và biến ZSCORE với

coefficient = 0,0433417, hệ số dương và p-value=0,012 mức ý nghĩa 5%. Khi tỷ lệ

49

cổ phần nắm giữ của Ban Quản trị càng lớn, chỉ số Z-score càng lớn, rủi ro ngân

hàng chấp nhận giảm.

 Chấp nhận giả thiết H3a : Có mối quan hệ ngược chiều giữa tỷ lệ cổ phần

được nắm giữ bởi hội đồng quản trị và mức độ rủi ro ngân hàng chấp nhận.

o Mối quan hệ cùng chiều giữa biến AGE và biến ZSCORE với coefficient =

0,6590873, hệ số dương và p-value=0.000 mức ý nghĩa 1%. Khi thời gian hoạt động

của ngân hàng càng dài, thì chỉ số Z-score càng lớn, rủi ro ngân hàng chấp nhận

càng ít.

Bảng 3.6 : Tổng hợp kết quả các biến có mối quan hệ với hệ số Z-score

Nguồn : Tác giả tổng hợp dựa trên dữ liệu nghiên cứu

Z-score    Rủi ro    Tăng yếu tố ASSET DIRECTOR AGE

3.4.5. Tiến hành thực hiện mô hình 3

Z-score được cấu thành từ 3 thành phần: ROA, CAR, và độ lệch chuẩn ROA.

ROA và CAR - khi một trong hai yếu tố này tăng lên, các biến còn lại không đổi thì

hệ số Z-score tăng. Khi độ lệch chuẩn ROA tăng, các yếu tố khác không đổi thì hệ

số Z-score giảm.

Việc thực hiện mô hình hồi quy nhằm mục đích kiểm tra mối quan hệ giữa các biến

số này với quy mô.

▪ Mô hình hồi quy hai giai đoạn 2SLS với biến phụ thuộc ROA

▪ Mô hình hồi quy hai giai đoạn 2SLS với biến phụ thuộc CAR

▪ Mô hình hồi quy hai giai đoạn 2SLS với biến phụ thuộc STDROA

Bảng 3.7 trình bày kết quả của mô hình hồi quy hai giai đoạn 2SLS và mô hình hồi

quy hai giai đoạn 2 SLS với tuỳ chọn Robust, mô hình kiểm định mối quan hệ giữa

quy mô và các thành phần cấu tạo nên Z-score của các ngân hàng thương mại Việt

Nam (gồm ROA, CAR, độ lệch chuẩn của ROA).

50

Kết quả bảng 3.7 cho thấy:

❖ Tại mức ý nghĩa 1%, ta có các kết quả sau :

o Mối quan hệ ngược chiều giữa biến ASSET và biến CAR với coefficient = -

0,02184, hệ số mang dấu âm và p-value=0,00000 mức ý nghĩa 1%. Khi tài sản của

ngân hàng tăng, đồng nghĩa với quy mô ngân hàng tăng thì hệ số an toàn vốn giảm,

ngân hàng càng sử dụng nhiều đòn bẩy tài chính. Các ngân hàng có quy mô lớn thì

thường áp dụng chính sách nợ vay cao hơn các ngân hàng nhỏ.

 Chấp nhận giả thiết H2a : Có mối quan hệ cùng chiều giữa Quy mô ngân

hàng và đòn bẩy tài chính

o Mối quan hệ ngược chiều giữa biến DIRECTOR và biến STDROA với

coefficient = -0,00045, hệ số mang dấu âm và p-value=0.000 mức ý nghĩa 1%.

o Mối quan hệ ngược chiều giữa biến AGE và biến STDROA với coefficient =

-0,00416, hệ số mang dấu âm và p-value=0,00100 mức ý nghĩa 1%.

o Mối quan hệ cùng chiều giữa biến CRISIS và biến ROA với coefficient =

0,00533, hệ số mang dấu dương và p-value=0,00000 mức ý nghĩa 1%. Khi ngân

hàng trải qua các năm khủng hoảng kinh tế, thì tỷ suất sinh lợi trên tổng tài sản lại

tăng.

❖ Tại mức ý nghĩa 5%, ta có thêm các kết quả sau :

o Mối quan hệ cùng chiều giữa biến ASSET và ROA với coefficient =

0,00153, hệ số mang dấu dương và p-value=0,02800 mức ý nghĩa 5%. ROA là tỷ

suất sinh lợi trên tổng tài sản công ty, khi các yếu tố khác không đổi, khi tài sản

tăng thì ROA sẽ giảm, tuy nhiên, bài nghiên cứu lại đưa ra một kết quả ngược lại.

Kết quả cho thấy, với quy mô ngân hàng tăng lên, lợi nhuận của công ty cũng sẽ

tăng theo dẫn đến tỷ suất sinh lợi theo vốn cổ phần cũng tăng cùng.

o Mối quan hệ ngược chiều giữa biến MBP và biến ROA với coefficient = -

0,00121, hệ số mang dấu âm và p-value=0,00200 mức ý nghĩa 1%. Khi giá trị thị

trường càng lớn thì tỷ suất sinh lợi trên tổng tài sản càng bé.

o Mối quan hệ cùng chiều giữa biến AGE và ROA với coefficient = -0,00193,

hệ số mang dấu âm và p-value=0,04800 mức ý nghĩa 5%.

51

o Mối quan hệ ngược chiều giữa biến MBP và biến CAR với coefficient = -

0,00512, hệ số mang dấu âm và p-value=0,03500 mức ý nghĩa 5%. Tỷ lệ giá trị thị

trường trên giá trị sổ sách tăng thì tỷ lệ đòn bẩy của ngân hàng càng cao.

o Mối quan hệ ngược chiều giữa biến CEO và biến STDROA với coefficient

=-0,00397, hệ số mang dấu âm và p-value=0,02400 mức ý nghĩa 5%.

52

Bảng 3.5 : Kết quả mô hình hồi quy 2SLS nhằm kiểm định mối quan hệ giữa quy mô và rủi ro của các ngân hàng

thương mại Việt Nam.

2 SLS 2 SLS Robust ZSCORE Coef. Coef. P>z P>z

ASSET -0,1827205 -0,1827205* 0,0290 0,0220

MBP 0,0876838 0,0876838 0,1660 0,2370

DIRECTOR 0,0433417 0,0433417* 0,0120 0,0090

CEO 0,3950254 0,3950254 0,5180 0,6900

AGE 0,6590873 0,6590873** 0,0000 0,0000

CRISIS -0,0257382 -0,0257382 0,8600 0,8750

Nguồn : Tác giả tính toán dựa trên dữ liệu nghiên cứu

Chú thích : *: với mức ý nghĩa 5% ; **: với mức ý nghĩa 1%

_cons 5,849599 5,849599 0,0020 0,0010

ASSET: Biến đại diện cho quy mô hoạt động của ngân hàng, được đo lường bằng logarit của tổng tài sản. MPB : Biến đại diện cho gía trị thực của

ngân hàng, được đo lường bằng Tỷ lệ giá trị thị trường trên giá trị sổ sách. DIR: Biến đại diện cho khả năng quản trị trong ngân hàng, được đo

lường bằng Logarit của trung vị cổ phần được nắm giữ bởi Hội đồng quản trị. CEO : Biến đại diện cho khả năng nắm giữ của CEO, được đo lường

bằng Tỷ lệ cổ phần được nắm giữ bởi CEO. AGE : Biến đại diện cho thời gian hoạt động của ngân hàng, được đo lường bằng logarit của số năm

ngân hàng hoạt động. CRISIS : Biến giả đại diện cho thời gian các ngân hàng rơi vào khủng hoảng kinh tế.

53

Bảng 3.7 : Kết quả mô hình hồi quy 2SLS nhằm kiểm định mối quan hệ giữa quy mô và các thành phần cấu tạo nên Z-

score của các ngân hàng thương mại Việt Nam (gồm ROA, CAR, độ lệch chuẩn của ROA).

ROA

CAR

STDROA

Coef.

P>z

Coef.

P>z

Coef.

P>z

ASSET

0,00153

0,02800

-0,02184**

0,00000

0,00005

0,88300

MBP

-0,00121

0,00200

-0,00512*

0,03500

-0,00038

0,05400

DIRECTOR

-0,00024

0,07000

-0,00134

0,10800

-0,00045**

0,00000

CEO

-0,00450

0,54800

0,02341

0,44900

-0,00397

0,02400

AGE

-0,00193

0,04800

0,00784

0,22300

-0,00416**

0,00100

CRISIS

0,00533**

0,00000

-0,00805

0,39200

-0,00094

0,12000

_cons

-0,02262

0,15700

0,63704

0,00000

0,01875

0,01400

Nguồn : Tác giả tính toán dựa trên dữ liệu nghiên cứu

Chú thích : *: với mức ý nghĩa 5% ; **: với mức ý nghĩa 1%

ASSET: Biến đại diện cho quy mô hoạt động của ngân hàng, được đo lường bằng logarit của tổng tài sản. ROA: Tỷ suất sinh lợi trên tổng tài sản.

𝝈(𝑹𝑶𝑨) : độ lệch chuẩn của tỷ suất sinh lợi trên tổng tài sản. CAR : tỷ lệ an toàn vốn. PB : Biến đại diện cho gía trị thực của ngân hàng, được đo

lường bằng Tỷ lệ giá trị thị trường trên giá trị sổ sách. DIR: Biến đại diện cho khả năng quản trị trong ngân hàng, được đo lường bằng Logarit của

trung vị cổ phần được nắm giữ bởi Hội đồng quản trị. CEO : Biến đại diện cho khả năng nắm giữ của CEO, được đo lường bằng Tỷ lệ cổ phần

được nắm giữ bởi CEO. AGE : Biến đại diện cho thời gian hoạt động của ngân hàng, được đo lường bằng logarit của số năm ngân hàng hoạt động.

CRISIS : Biến giả đại diện cho thời gian các ngân hàng rơi vào khủng hoảng kinh tế.

54

CHƯƠNG 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

Từ các kết quả nghiên cứu trên, bài nghiên cứu có thể tóm lược như sau :

• Tìm thấy mối quan hệ cùng chiều giữa Quy mô ngân hàng và mức độ rủi

ro mà ngân hàng chấp nhận.

Kết quả thực nghiệm cho thấy biến ASSET và biến Z-SCORE có mối quan hệ

ngược chiều với nhau. Quy mô ngân hàng được xác định bởi tổng tài sản của ngân

hàng. Z-score là chỉ số được phát triển bởi Altman (1968) nghiên cứu dựa trên một

số lượng lớn các công ty tại Mỹ, chỉ số này có tác dụng dự báo khả năng phá sản

của doanh nghiệp, giúp các doanh nghiệp phản ứng kịp thời với rủi ro doanh

nghiệp, bài nghiên cứu sử dụng chỉ số Z-score để đo lường mức độ rủi ro mà ngân

hàng chấp nhận. Chỉ số Z-score càng cao thì ngân hàng càng nằm trong vùng an

toàn, hoạt động ổn định với mức độ rủi ro thấp. Khi quy mô ngân hàng càng lớn, thì

chỉ số Z-score càng bé, mức độ chấp nhận rủi ro của ngân hàng càng cao. Và ngược

lại, khi quy mô ngân hàng nhỏ, chỉ số Z-score lớn nghĩa là mức độ chấp nhận rủi ro

của ngân hàng càng thấp, ngân hàng hoạt động trong vùng an toàn.

Kết quả này trùng với kết quả của các tác giả :

o Boyd and Runkle (1993) với bài nghiên cứu dựa trên 122 mẫu quan sát từ

năm 1971 đến năm 1990 của các công ty nắm giữ ngân hàng có tài sản trên 1 tỷ đô

la.

o De Nicolo (2000) với nghiên cứu dựa trên 419 mẫu quan sát từ năm 1988

đến năm 1998 của các công ty nắm giữ ngân hàng có dữ liệu trên 3 năm.

o Boyd, De Nicolo and Al Jalal (2006) với nghiên cứu dựa trên 2500 mẫu quan

sát năm 2003 của ngân hàng nhỏ hoạt động ở các khu vực phi nông thôn.

o Laeven and Levine (2009) với nghiên cứu dựa trên 270 mẫu quan sát từ năm

1996 đến 2001 của 10 ngân hàng công lớn nhất của mỗi quốc gia.

o Sanjai Bhagat; Brian Bolton; Jun Lu (2013) với nghiên cứu dựa trên 302

mẫu quan sát từ năm 1998 đến 2008 của các ngân hàng thương mại, ngân hàng đầu

tư, tổ chức tài chính.

• Tìm thấy mối quan hệ cùng chiều giữa Quy mô và Tỷ lệ đòn bẩy tài chính

55

ngân hàng

Kết quả thực nghiệp cho thấy mối quan hệ ngược chiều giữa biến ASSET và biến

CAR. Hệ số CAR là hệ số an toàn vốn của ngân hàng. Khi quy mô của ngân hàng

càng lớn thì hệ số an toàn vốn của doanh nghiệp càng bé, đòn bẩy tài chính ngân

hàng chấp nhận càng lớn. Do các ngân hàng lớn có lợi thế về quy mô, dòng tiền,

năng lực quản trị vì thế huy động được vốn từ các công chúng và các tổ chức tài

chính khác. Bên cạnh đó, cộng thêm lợi ích từ tấm chắn thuế, các ngân hàng có quy

mô lớn càng có động lực để gia tăng đòn bẩy tài chính doanh nghiệp.

Ngược lại, khi quy mô ngân hàng càng bé, khả năng huy động vốn kém hơn so với

các ngân hàng quy mô lớn, vì thế nguồn vốn vay của các ngân hàng này thấp, tỷ lệ

đòn bẩy tài chính càng thấp, hệ số an toàn vốn CAR càng lớn.

Kết quả này trùng với kết quả các nghiên cứu của Harris và Ravi (1990), Y.

Wiwattanakatang (1999), J. J. Chen, Yan Xue, (2004) về mối quan hệ cùng chiều

giữa quy mô và đòn bẩy tài chính.

• Tìm thấy mối quan hệ ngược chiều giữa Rủi ro ngân hàng chấp nhận và

Tỷ lệ cổ phần ban quản trị nắm giữ

Kết quả thực nghiệm cho thấy mối quan hệ cùng chiều giữa biến DIRECTOR và

biến Z-SCORE.

Khi tỷ lệ cổ phần sở hữu của ban quản trị càng lớn thì chỉ số Z-Score càng lớn, rủi

ro ngân hàng chấp nhận giảm. Chính sách đãi ngộ bằng cổ phần cho ban quản trị

nhằm đảm bảo gắn chặt quyền lợi và lợi ích tài chính của người quản lý và người sở

hữu. Các cổ đông vừa muốn tối đa hoá gía trị ngân hàng, vừa muốn đảm bảo cổ

phần của mình không bị mất giá, lúc này ban quản trị, những người sẽ được tưởng

thưởng bằng cổ phần công ty sẽ đưa ra các quyết định chọn lựa các dự án chắc chắn

với mức độ rủi ro vừa phải hoặc giảm thiểu rủi ro nhất có thể.

Kết quả này trùng với nghiên cứu của Bolton, Mehran và Shapiro (2010) về đề xuất

giải quyết việc chấp nhận rủi ro quá mức bằng cách buộc các chế độ đãi ngộ phụ

thuộc vào giá của chứng khoán và nợ.

• Tìm thấy mối quan hệ cùng chiều giữa Quy mô ngân hàng và Tỷ suất sinh

56

lợi trên vốn cổ phần

Kết quả thực nghiệm cho thấy có mối quan hệ cùng chiều giữa biến ASSET và biến

ROA. ROA đại diện cho khả năng sinh lợi của ngân hàng. Khi các ngân hàng tăng

lợi nhuận, thì càng dễ dàng sử dụng lợi nhuận giữ lại để gia tăng thêm vốn chủ sở

hữu, quy mô ngân hàng tăng lên. Với quy mô lớn về nguồn vốn, các ngân hàng có

lợi thế không chỉ thu hút thêm nguồn vốn mà còn thu hút được các dự án đầu tư lớn.

Lợi thế về vốn tạo cảm giác an toàn cho các nhà quản trị để thực hiện các dự án rủi

ro cao nhưng đem lại lợi nhuận cao hơn.

Kết quả này trùng với nghiên cứu của Goddard và các đồ ng sự (2004) chứ ng minh rằng mố i quan hệ giữa tỷ lệ vố n trên tài sản và lơ ̣i nhuậ n là cùng chiều trong sáu ngành ngân hàng lớ n củ a châu Âu trong giai đoa ̣n 1992 – 1998. Và vố n đươ ̣c tìm thấy có tươ ng quan thuậ n vớ i lơ ̣i nhuậ n theo nghiên cứ u củ a Berger (1995); Jacques và Nigro (1997); Demirgüç-Kunt và Huizinga (2000); Rime

(2001); và Iannotta và các đồ ng sự (2007) và Chien-Chiang Lee và Meng-Fen

Hsieh (2013).

• Tìm thấy mối quan hệ ngược chiều giữa Thời gian hoạt động của ngân

hàng và Rủi ro ngân hàng chấp nhận.

Kết quả thực nghiệm cho thấy có mối quan hệ cùng chiều giữa biến AGE và biến Z-

score. AGE là biến đại diện cho thời gian hoạt động của ngân hàng.

Khi thời gian hoạt động của các ngân hàng càng dài, thì Z-score càng lớn, rủi ro

ngân hàng chấp nhận càng bé. Các ngân hàng hoạt động lâu đời trên thị trường có

lợi thế về quy mô vốn, khả năng huy động nguồn vốn mới, năng lực của nhà quản lý

và khả năng quản trị rủi ro tốt hơn so với các ngân hàng mới thành lập. Các ngân

hàng mới thành lập hoặc hoạt động chưa lâu trên thị trường, các nhà quản trị chịu

áp lực về lợi nhuận, họ sẽ chấp nhận nhiều dự án có rủi ro hơn để nhận lại được lợi

nhuận tương xứng.

57

CHƯƠNG 5: KẾT LUẬN

5.1. ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU

“Too big to fail” – “Quá lớn để sụp đổ” luôn là một đề tài gây tranh cãi bởi sau cuộc

khủng hoảng năm 2008. Với mục đích trả lời cho câu hỏi quy mô ngân hàng có thực

sự tác động đến việc quản trị rủi ro của các ngân hàng, câu chuyện về “Too big to

fail” có khả năng xảy ra ở Việt Nam hay không, tác giả thực hiện đề tài này.

Bài nghiên cứu được thực hiện với bộ dữ liệu gồm 23 ngân hàng thương mại cổ

phần Việt Nam trong giai đoạn 2009-2017 với mô hình hồi quy hai giai đoạn 2SLS

nhằm khắc phục hiện tượng nội sinh. Kết quả cho thấy có mối quan hệ cùng chiều

giữa quy mô và mức độ chấp nhận rủi ro của các ngân hàng thương mại. Khi quy

mô càng lớn thì rủi ro chấp nhận càng cao. Quy mô và đòn bẩy tài chính có mối

quan hệ cùng chiều. Quy mô ngân hàng tăng lên chủ yếu là từ nguồn vốn vay. Mức

độ chấp nhận rủi ro và Tỷ lệ cổ phần được nắm giữ bởi ban quản trị có mối quan hệ

ngược chiều. Ban quản trị nắm giữ cổ phần ngân hàng càng nhiều thì việc quản trị

rủi ro của các ngân hàng được kiểm soát chặt chẽ hơn, chấp nhận các dự án an toàn

hơn, mức độ chấp nhận rủi ro của các ngân hàng giảm.

Bài nghiên cứu cũng đưa ra một số kiến nghị nhằm cải thiện việc kiểm soát rủi ro

cho các ngân hàng tại Việt Nam.

Thứ nhất, Ngân hàng nhà nước thành lập một cơ quan có chức năng nghiên cứu và

tính toán nhằm xác định ra những công ty ngân hàng có tầm quan trọng ảnh hưởng

đến cả nền kinh tế. Cơ quan này phải đưa ra các quy tắc, quy định và giám sát liên

tục nhằm đảm bảo các ngân hàng này tuân thủ. Các ngân hàng nằm trong danh sách

giám sát sẽ phải thường xuyên báo cáo về tình hình kinh doanh, tình hình tài chính,

kế hoạch tăng trưởng, … Các ngân hàng trong nhóm này khi muốn tăng trưởng và

thay đổi gia tăng quy mô của mình, khi muốn sáp nhập và liên kết với các công ty

cũng có sức ảnh hưởng cần đưa ra các kế hoạch cụ thể và phải được phê duyệt để

tiến hành. Đổi lại, các ngân hàng này sẽ nhận được sự hậu thuẫn và cứu trợ từ ngân

hàng nhà nước khi khủng hoảng xảy ra. Cơ quan kiểm soát này phải được ngân

hàng nhà nước giám sát chặt chẽ, đảm bảo sự công bằng cho các ngân hàng, không

58

có hiện tượng “cửa sau” xảy ra.

Thứ hai, các ngân hàng thương mại cần phải cân đối đòn bẩy tài chính của mình.

Các ngân hàng phải tăng nguồn vốn chủ sở hữu để tỷ lệ nợ vay ở mức độ vừa phải.

Khi ngân hàng muốn tăng quy mô của mình, ngân hàng nên cân nhắc đến việc sử

dụng phần lợi nhuận giữ lại của mình. Việc sử dụng nguồn lợi nhuận này sẽ làm

tăng nguồn vốn chủ sở hữu. Kết quả thực nghiệm cũng cho thấy, tỷ lệ lợi nhuận giữ

lại trên tài sản có mối quan hệ cùng chiều với quy mô ngân hàng. Bên cạnh lợi

nhuận giữ lại, CEO cũng có thể cân nhắc thêm về quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ,

nguồn vốn thặng dư.

Thứ ba, khẩu vị rủi ro của hội đồng quản trị, và giám đốc điều hành của ngân hàng

vô cùng khó kiểm soát. Để giải quyết vấn đề này, thì các ngân hàng cần phải tập

trung vào chính sách đãi ngộ của mình. Việc để các thành viên trong hội đồng quản

trị ngân hàng được quyền nắm giữ cổ phiếu công ty là một sự lựa chọn hoàn hảo.

Dựa trên kết quả thực nghiệm, tỷ lệ cổ phần của hội đồng quản trị có mối quan hệ

cùng chiều với mức độ rủi ro ngân hàng chấp nhận. Khi tỷ lệ nắm giữ cổ phần của

hội đồng quản trị càng cao, thì tỷ lệ rủi ro ngân hàng chấp nhận càng thấp. Bên cạnh

đó, việc hội đồng quản trị nắm giữ cổ đông cũng làm cho các quyết định có “tiếng

nói chung” hơn với các cổ đông. Chẳng hạn như việc đề xuất sử dụng lợi nhuận để

tái đầu tư và chia cổ tức ít đi sẽ khiến các cổ đông không hài lòng. CEO sẽ cần phải

giải thích cho các cổ đông hiểu rằng việc này là cần thiết. Các thành viên hội đồng

quản trị - những người đang nắm giữ cổ phần ngân hàng sẽ củng cố niềm tin hơn

cho các cổ đông còn lại về quyết định của CEO, vì đã được hội đồng thông qua

trước khi thực hiện. Khả năng kiểm soát rủi ro của ngân hàng sẽ được tốt hơn và từ

đó, các cổ đông sẽ được hưởng giá trị từ việc cổ phiếu tăng giá.

5.2. HẠN CHẾ ĐỀ TÀI

Bài nghiên cứu còn nhiều hạn chế về mặt dữ liệu. Dữ liệu của các ngân hàng trước

năm 2009 chỉ được cung cấp bởi một số ngân hàng lớn niêm yết trên thị trường, tác

giả chỉ có thể sử dụng từ sau năm 2009 dẫn đến thời gian nghiên cứu khá ngắn. Số

59

lượng của các ngân hàng tại Việt Nam lớn hơn con số 23, tuy nhiên, các ngân hàng

nhỏ và các ngân hàng có yếu tố nước ngoài không công bố thông tin tài chính, các

bảng báo cáo tài chính, bảng cân đối kế toán rộng rãi nên việc thu thập gặp rất nhiều

khó khăn.

Bên cạnh đó, đề tài của tác giả chỉ tập trung vào các ngân hàng thương mại cổ phần

tại Việt Nam, và vẫn chưa nghiên cứu được đến các tổ chức tài chính khác như

công ty bảo hiểm, công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính, … Nguyên nhân vẫn

là do các công ty này vẫn chưa công bố các thông tin tài chính của mình rộng rãi.

Tại Việt Nam, đề tài nghiên cứu về mức độ chấp nhận rủi ro của các ngân hàng

thương mại vẫn chưa nhiều nên tác giả không thể đưa ra nhiều dẫn chứng để tham

khảo và đối chiếu, so sánh với bài nghiên cứu của mình.

5.3. HƯỚNG NGHIÊN CỨU TIẾP THEO

Bài nghiên cứu gặp nhiều hạn chế về mặt dữ liệu, tác giả kỳ vọng các bài nghiên

cứu sau sẽ có thể khắc phục được điều này, khai thác và xử lý dữ liệu của các ngân

hàng và các tổ chức tài chính ở Việt Nam. Đi sâu thêm vào việc kiểm tra sự khác

biệt trong việc quản trị rủi ro ở các ngân hàng và các tổ chức tài chính khác như

công ty tài chính, công ty bảo hiểm, công ty cho thuê tài chính, … Mở rộng nghiên

cứu về cấu trúc sở hữu vốn : ngân hàng có sở hữu nhà nước, ngân hàng tư nhân,

ngân hàng có yếu tố nước ngoài, … có tác động thế nào đến việc quản trị rủi ro. Bài

nghiên cứu có thể đi theo hướng về tâm lý hành vi của các giám đốc điều hành, tỷ lệ

nam nữ trong ban quản trị, giới tính của giám đốc điều hành có ảnh hưởng thế nào

đến mức độ chấp nhận rủi ro các ngân hàng và tổ chức tài chính.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Altunbas, Y.S., Carbo, E., Gardener, P.M., Molyneux, P., 2007.Examining the

relationships between capital, risk and efficiency in European banking.

European Financial Management 13 (1), 49–70.

Baker, Dean, and Travis McArthur. 2009. The value of the "too big to fail" big bank

subsidy. Center for Economic and Policy Research Paper.

Baker, George P., and Brian J. Hall. 2004. CEO incentives and firm size. Journal of

Labor Economics 22, 767-798.

Basel Capital Accord. 1998. International convergence of capital measurement and

capital standards. Bank for International Settlements.

Bebchuk, Lucian, and Alma Cohen. 2003. Firms' decisions where to incorporate.

Journal of Law and Economics XLVI, 383-425.

Bhagat, Sanjai, and Brian Bolton. 2008. Corporate governance and firm

performance. Journal of Corporate Finance 14, 257-273.

Bhagat, Sanjai, Brian Bolton, and Roberta Romano. 2008. The promise and peril of

corporate governance indices. Columbia Law Review 108, 1803-1082.

Bharath, Sreedhar and Tyler Shumway. 2008. Forecasting default with the Merton

distance to default model. Review of Financial Studies 21, 1339-1369.

C.-C. Lee, M.-F. Hsieh, The impact of bank capital on profitability and risk in

Asian banking. Journal of International Money and Finance 32 (2013)251–

281.

Jensen, Michael, and William Meckling. 1976. Theory of the firm: Managerial

behavior, agency costs, and ownership structure. Journal of Financial

Economics 3, 305-360.

Laeven, Luc, and Ross Levine. 2009. Bank governance, regulation and risk-taking.

Journal of Financial Economics 93, 259-275.

Ngoc Bich Tao, Marion Hutchinson (2013), Corporate governance and risk

management: The role of risk management and compensation committees.

Journal of Contemporary Accounting & Economics

Rime, Bertrand. 2005. Do "too big to fail" expectations boost large banks issuer

ratings? Swiss National Bank Research Paper.

Sanjai Bhagat, Brian Bolton, Jun Lu, Size, Leverage, and Risk-taking of Financial

Institutions. Journal of Banking & Finance.

Shrieves, R.E., Dahl, D., 1992. The relationship between risk and capital in

commercial banks. Journal of Banking and Finance 16 (2),439–457.

PHỤ LỤC

Phụ lục 1: Thống kê mô tả

Phụ lục 2 : Ma trận tương quan Pearson

Phụ lục 3 : Kiểm định nội sinh

Phụ lục 4 : Kết quả mô hình hồi quy 2SLS nhằm kiểm định mối quan hệ giữa quy mô và rủi ro

Phụ lục 5 : Kết quả mô hình hồi quy 2SLS - Robust nhằm kiểm định mối quan hệ giữa quy mô và rủi ro

Phụ lục 6 : Kết quả mô hình hồi quy 2SLS - Robust nhằm kiểm định mối quan hệ giữa quy mô và ROA

Phụ lục 7: Kết quả mô hình hồi quy 2SLS - Robust nhằm kiểm định mối quan hệ giữa quy mô và STDROA

Phụ lục 8 : Kết quả mô hình hồi quy 2SLS - Robust nhằm kiểm định mối quan hệ giữa quy mô và CAR