BỘ NỘI VỤ ....../......
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO .............../...............
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
HUỲNH THỊ HỒNG HẠNH
QUYỀN CỦA PHỤ NỮ TRONG LĨNH VỰC
CHÍNH TRỊ Ở TỈNH PHÚ YÊN
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH Chuyên ngành: Luật Hiến pháp – Luật Hành chính Mã số: 60 38 01 02
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS NGUYỄN THỊ VIỆT HƢƠNG
THỪA THIÊN HUẾ - 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trính nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu trong Luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng. Những kết luận khoa
học của Luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trính nào
khác.
Học viên
Huỳnh Thị Hồng Hạnh
LỜI CẢM ƠN
Với lòng kình trọng và tri ân sâu sắc, trước hết, tôi xin trân trọng bày tỏ
lòng biết ơn chân thành đến lãnh đạo Học viện Hành chình Quốc gia, cùng tập
thể các giáo sư, phó giáo sư, tiến sỹ và cán bộ quản lý của Học viện đã tận
tính truyền đạt những kiến thức khoa học quý báu và tạo các điều kiện thuận
lợi giúp tôi hoàn thành chương trính cao học chuyên ngành Luật Hiến pháp và
Luật Hành chình.
Đặc biệt, Tôi xin chân thành cảm ơn cô giáo PGS. TS. Nguyễn Thị Việt
Hương đã hết lòng giúp đỡ, hướng dẫn tận tính trong quá trính hoàn thiện
nghiên cứu, cô luôn động viên và tạo mọi điều kiện thuận lợi để giúp tôi hoàn
thành tốt luận văn này. Xin chân thành cảm ơn lãnh đạo Huyện ủy, Ủy ban
nhân dân huyện Đồng Xuân, lãnh đạo cơ quan Huyện Đoàn Đồng Xuân, tỉnh
Phú Yên đã tạo điều kiện cho tôi được tham gia chương trính đào tạo cao học
và hỗ trợ thông tin, tài liệu giúp tôi hoàn thành luận văn.
Trong quá trính thực hiện, luận văn sẽ không tránh khỏi những hạn chế,
thiếu sót nhất định, rất mong nhận được sự thông cảm và chia sẻ của quý thầy
giáo, cô giáo và bạn đọc.
Xin chân thành cảm ơn!
Thừa Thiên Huế, ngày tháng năm 2018
Học viên
Huỳnh Thị Hồng Hạnh
MỤC LỤC
Trang phụ bía
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Tình cấp thiết của đề tài luận văn ...........................................................1
2. Tính hính nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn.................................4
3. Mục đìch và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn......................................6
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn ......................................7
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn..........................7
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn.................................................8
7. Kết cấu của luận văn................................................................................9
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ
QUYỀN CỦA PHỤ NỮ TRONG LĨNH VỰC CHÍNH TRỊ .................... 10
1.1. Khái niệm, đặc điểm, nội dung quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chình trị ... 10
1.1.1. Khái niệm quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chính trị .................. 10
1.1.2. Đặc điểm quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chính trị ................... 16
1.1.3. Nội dung quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chính trị .................... 19
1.2. Điều chỉnh pháp luật về quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chình trị .... 25
1.2.1. Pháp luật quốc tế về quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chính trị .. 25
1.2.2. Pháp luật Việt Nam về quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chính
trị ............................................................................................................. 29
1.3. Các điều kiện đảm bảo quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chình trị ..... 35
1.3.1. Điều kiện chính trị ......................................................................... 35
1.3.2. Điều kiện nhận thức ...................................................................... 36
1.3.3. Điều kiện pháp lý .......................................................................... 37
1.3.4. Điều kiện xã hội ............................................................................ 37
1.3.5. Điều kiện kinh tế ............................................................................ 38
Tiểu kết chương 1 ........................................................................................ 40
Chương 2: THỰC TRẠNG QUYỀN CỦA PHỤ NỮ TRONG LĨNH
VỰC CHÍNH TRỊ Ở TỈNH PHÚ YÊN HIỆN NAY .................................. 41
2.1. Một số yếu tố đặc thù của tỉnh Phú Yên có ảnh hưởng tới quyền của
phụ nữ trong lĩnh vực chình trị ................................................................... 41
2.1.1. Khái quát các đặc thù về địa lý – dân cư, tình hình kinh tế - xã
hội của tỉnh Phú Yên ............................................................................... 41
2.1.2. Tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị tại tỉnh Phú Yên .... 43
2.1.3. Quá trình phát huy vai trò và khả năng tham gia của phụ nữ
trong lĩnh vực chính trị ở tỉnh Phú Yên................................................... 43
2.2. Thực tiễn thực hiện quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chình trị ở tỉnh
Phú Yên hiện nay ........................................................................................ 45
2.2.1. Thực hiện quyền bầu cử và ứng cử của phụ nữ ............................ 45
2.2.2. Thực hiện quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội của phụ
nữ ............................................................................................................. 53
2.2.3. Thực hiện quyền bỏ phiếu trưng cầu dân ý của phụ nữ................ 62
2.2.4. Thực hiện quyền tự do hội họp, lập hội, biểu tình của phụ nữ ..... 63
2.3. Đánh giá chung về thực hiện quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chình
trị ở tỉnh Phú Yên hiện nay ....................................................................... 644
2.3.1. Kết quả và nguyên nhân .............................................................. 644
2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân ............................................................. 665
Tiểu kết chương 2 ...................................................................................... 700
Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP THỰC HIỆN QUYỀN CỦA
PHỤ NỮ TRONG LĨNH VỰC CHÍNH TRỊ Ở TỈNH PHÚ YÊN
HIỆN NAY ................................................................................................... 722
3.1. Quan điểm thực hiện quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chình trị ở
tỉnh Phú Yên hiện nay ............................................................................... 722
3.1.1. Thực hiện quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chính trị phải xuất
phát từ nhận thức đúng đắn, đầy đủ về vai trò, vị trí của phụ nữ trong
toàn bộ quá trình xây dựng, phát triển đất nước và địa phương .......... 722
3.1.2. Thực hiện quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chính trị phải đi đôi
với ghi nhận và bảo đảm quyền của phụ nữ trong các lĩnh vực khác .. 744
3.1.3. Thực hiện quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chính trị phải hướng
tới tương thích với các chuẩn mực pháp lý quốc tế về quyền của phụ
nữ ........................................................................................................... 755
3.1.4. Thực hiện quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chính trị phải tính
đến sự phù hợp nhất định với các điều kiện đặc thù của địa phương .. 766
3.2. Giải pháp thực hiện quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chình trị ở tỉnh
Phú Yên hiện nay ...................................................................................... 777
3.2.1. Đổi mới nhận thức của tổ chức Đảng, chính quyền nhà nước và
toàn xã hội về vị trí, vai trò, khả năng và quyền của phụ nữ trong lĩnh
vực chính trị .......................................................................................... 777
3.2.2. Hoàn thiện pháp luật liên quan đến quyền chính trị của phụ nữ 79
3.2.3. Nâng cao trách nhiệm của các thiết chế thuộc hệ thống chính trị
trong việc tổ chức thực hiện và đảm bảo các quyền chính trị của phụ
nữ tại tỉnh Phú Yên .................................................................................. 84
3.2.4. Nâng cao năng lực của phụ nữ trong việc thực hiện các quyền
chính trị tại tỉnh Phú Yên ........................................................................ 85
3.2.5. Đảm bảo các điều kiện về nguồn lực cho việc thực hiện các
quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chính trị tại tỉnh Phú Yên ................. 877
3.2.6. Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật và bình
đẳng giới, nâng cao ý thức pháp luật và trình độ dân trí tại tỉnh Phú
Yên ......................................................................................................... 900
Tiểu kết chương 3 ...................................................................................... 944
KẾT LUẬN .................................................................................................. 955
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 97
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
QH11 Quốc hội 11
NQ/TW Nghị quyết Trung ương
CT/TW Chỉ thị Trung ương
CNH-HĐH Công nghiệp hóa-Hiện đại hóa
QĐ/TTg Quyết định Thủ tướng
NQ-CP Nghị quyết Chình phủ
KL/TW Kết luận Trung ương
HĐND Hội đồng nhân dân
UBND Ủy ban nhân dân
HD/TU Hướng dẫn Tỉnh ủy
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1: Tỷ lệ đại biểu hội đồng nhân dân các cấp là nữ giới ...................... 56
Bảng 2.2: Tỷ lệ tham gia cấp uỷ Đảng là nữ giới ........................................... 57
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài luận văn
Phong trào giải phóng phụ nữ cùng với sự tham gia vào đời sống
chình trị của phụ nữ phát triển mạnh mẽ từ thế kỷ XIX nhằm đấu tranh đòi
quyền bính đẳng giới, bao gồm bính đẳng về chình trị, kinh tế, xã hội, văn
hóa. Phụ nữ và nam giới cùng được hưởng các quyền, đồng thời chia sẻ lợi
ìch, trách nhiệm và hưởng thụ các giá trị chân, thiện, mỹ. Ngày nay, vấn đề
giải phóng phụ nữ, tăng cường sự tham gia chình trị của phụ nữ đã và đang
gắn liền với vấn đề bính đẳng giới và được thực hiện bằng hành động, thực
tiễn chứ không chỉ dừng lại ở những khái niệm, ý tưởng trừu tượng hay
những tuyên bố pháp lý.
Trong các quyền của con người thí quyền của phụ nữ bính đẳng với
nam giới là nhu cầu, là khát vọng của phụ nữ trên toàn thế giới. Trên thế giới,
phụ nữ vẫn phải chịu những thiệt thòi về mặt vị trì xã hội so với nam giới.
Điều đó đặc biệt thể hiện ở sự bất bính đẳng với phụ nữ trong việc hưởng thụ
các quyền chình trị. Cuộc đấu tranh cho vị thế bính đẳng của phụ nữ so với
nam giới xuất phát từ nghịch lý kể trên, bắt đầu từ buổi bính minh của chế độ
phụ quyền khi mà chế độ mẫu quyền chấm dứt. Phát triển từ thấp đến cao, từ
tự phát đến tự giác, cho đến ngày nay, đấu tranh cho vị thế bính đẳng của phụ
nữ với nam giới, trong đó đặc biệt là quyền chình trị của phụ nữ, đã không
còn là vấn đề riêng biệt của mỗi quốc gia, mà đã trở thành mối quan tâm
chung của toàn nhân loại và được thể chế hóa trong nhiều công ước quốc tế
về quyền con người [26] như: Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ năm 1776
khẳng định: “Tất cả mọi người sinh ra có quyền bình đẳng”. Tuyên ngôn của
cách mạng tư sản Pháp năm 1789 tuyên bố: “Người ta sinh ra tự do và bình
đẳng về quyền lợi và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi”.
1
Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền năm 1948 đã khẳng định quyền bính đẳng
với tư cách là nền tảng để con người hưởng thụ mọi nhân quyền: “Tất cả mọi
người sinh ra đều được tự do và bình đẳng về nhân phẩm và quyền” (Điều 1).
Quyền bính đẳng ấy được Tuyên ngôn triển khai toàn diện trên các khìa cạnh:
“Chủng tộc, màu da, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo, quan điểm chính trị hay
các quan điểm khác, nguồn gốc quốc gia hay xã hội, tài sản, thành phần xuất
thân hay địa vị xã hội” (Điều 2). Việc giải phóng phụ nữ khỏi bất bính đẳng
giới tạo điều kiện cho họ bính quyền với nam giới là yêu cầu tất yếu.
Ở Việt Nam hiện nay, phụ nữ chiếm 51,5% dân số và 48% lực lượng
lao động xã hội. Phụ nữ nước ta trước đây đã có những đóng góp hết sức to
lớn vào công cuộc đấu tranh chống ngoại xâm giành và giữ gín độc lập, xây
dựng Tổ quốc. Trong sự nghiệp đổi mới hiện nay, phụ nữ Việt Nam vẫn luôn
sát cánh cùng nam giới phấn đấu ví mục tiêu "Dân giàu, nước mạnh, xã hội
dân chủ, công bằng, văn minh" và có những đóng góp đáng kể trong các lĩnh
vực xóa đói giảm nghèo, phát triển kinh tế, ổn định xã hội cũng như những
cống hiến xuất sắc trong việc chăm lo xây dựng gia đính, nuôi dưỡng các thế
hệ công dân tương lai của đất nước. Không những vậy, nhiều phụ nữ còn
mang lại những vinh quang lớn cho đất nước trong các lĩnh vực văn hóa, giáo
dục, khoa học, nghệ thuật, thể thao...
Nhận thức rõ vị trì và vai trò quan trọng của người phụ nữ trong xã hội
nên ngay từ khi nhà nước mới giành được độc lập, các quyền của công dân
nói chung và quyền của phụ nữ nói riêng đã được pháp luật Việt Nam ghi
nhận và khẳng định, trong đó có các quyền bính đẳng về chình trị của phụ
nữ... Điều đó đã tạo điều kiện căn bản cho phụ nữ tham gia tìch cực và hiệu
quả vào các hoạt động kinh tế, xã hội và đóng góp vào sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc. Từ khi đổi mới đến nay, Đảng và Nhà nước tiếp tục quan tâm
tạo mọi điều kiện thuận lợi cho phụ nữ ngày càng có nhiều cơ hội và nhiều
2
đại diện tham gia vào hệ thống chình trị, cũng như vào việc đề xuất, hoạch
định, thực hiện và giám sát việc thực hiện chình sách, pháp luật của Nhà
nước. Xét chung trên toàn thế giới và khu vực, Việt Nam là quốc gia được
đánh giá cao về mức độ bảo đảm quyền bính đẳng về chình trị của phụ nữ, thể
hiện ở tỷ lệ đại biểu nữ trong Quốc hội ở mức tương đối cao.
Mặc dù vậy, trên thực tế ở Việt Nam nói chung và ở tỉnh Phú Yên nói
riêng, quyền bính đẳng về chình trị của phụ nữ vẫn chưa được bảo đảm một
cách tương xứng so với vai trò và khả năng của phụ nữ trong xã hội. Điều đó
thể hiện ở chỗ vẫn còn khoảng cách lớn giữa tỷ lệ đại biểu nữ và nam trong
các cơ quan dân cử (Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp) và số lượng hạn
chế phụ nữ nắm giữ các vị trì then chốt có quyền ra quyết định trong các cơ
quan của hệ thống chình trị. Đơn cử, mặc dù ở mức cao trên thế giới, song tỷ
lệ đại biểu Quốc hội nữa khóa XIV mới chỉ đạt 24,4%; tỷ lệ nữ đại biểu
HĐND cấp tỉnh là 25,7%, cấp huyện là 24,6% và cấp cơ sở là 27,7%. Rõ
ràng, tỷ lệ đại biểu nữ hiện nay chưa thể đáp ứng đầy đủ yêu cầu là đại diện
giới mính trong việc xây dựng và hoạch định chình sách pháp luật liên quan
đến việc giải quyết các quyền lợi chình đáng cho phụ nữ. Công tác đề bạt, bổ
nhiệm cán bộ nữ chưa được mạnh dạn, bố trì chưa đều và phù hợp với ngành
nghề; Đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý ở các cấp, các ngành, đoàn thể chưa
đáp ứng yêu cầu và chưa tương xứng với tiềm năng của đội ngũ cán bộ nữ
hiện nay của tỉnh. Nguyên nhân của những tồn tại trên chủ yếu vẫn là vấn đề
nhận thức của cấp ủy, chình quyền, các ngành đối với công tác cán bộ nữ; chế
độ chình sách chưa phù hợp, chưa thường xuyên có những biện pháp thìch
hợp trong việc chỉ đạo thực hiện những chủ trương đã đề ra về công tác cán
bộ nữ; Một bộ phận cán bộ nữ an phận, thiếu ý chì khắc phục khó khăn về gia
đính để phấn đấu vươn lên...
Thực tế kể trên đặt ra nhu cầu cấp thiết phải nghiên cứu tím ra các giải
3
pháp tiếp tục thúc đẩy việc thực hiện quyền bính đẳng của phụ nữ trên lĩnh
vực chình trị, qua đó giúp phụ nữ tham gia và đóng góp ngày càng hiệu quả
hơn vào sự nghiệp xây dựng và phát triển của đất nước, cũng như bảo đảm
thực hiện các cam kết quốc tế có liên quan của Nhà nước ta. Ví vậy, tác giả
chọn đề tài: "Quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chính trị ở Tỉnh Phú Yên"
làm đề tài luận văn thạc sĩ chuyên nghành Luật Hiến pháp và luật Hành chình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn
Trong những năm gần đây, đã có nhiều bài viết, công trính nghiên cứu
xoay quanh vấn đề quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chình trị ở Việt Nam nói
chung, vấn đề này có ý nghĩa quan trọng khi nước ta đang trong tiến trính đổi
mới và hội nhập quốc tế trên nhiều lĩnh vực. Ví vậy, việc nghiên cứu về
quyền chình trị của phụ nữ là đề tài được nhiều nhà khoa học quan tâm, đi sâu
nghiên cứu nhằm khẳng định địa vị, cơ hội và trách nhiệm của người phụ nữ
tham giao vào quản lý nhà nước - xã hội hiện nay, góp phần vào công cuộc
đổi mới đất nước. Nhiều công trính, đề tài được công bố là cơ sở cho việc xây
dựng và hoàn thiện pháp luật, chình sách liên quan đến phụ nữ, ví sự phát
triển của phụ nữ.
Một số công trính, đề tài nghiên cứu tiêu biểu như:
Viện Nghiên cứu Quyền con người năm 2008 “Bình luận và khuyến
nghị chung của các ủy ban công ước thuộc Liên hợp quốc về quyền con
người” Nxb Công an nhân dân;
Viện Khoa học xã hội Việt Nam (2011), Những vấn đề lý luận và thực
tiễn của nhóm quyền dân sự và chình trị, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội;
Văn phòng thường trực về nhân quyền và Học viện Chình trị quốc gia
Hồ Chì Minh, Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân
trong Hiến pháp Việt Nam (Sách chuyên khảo), Hà Nội, 2015.
Đại học Quốc gia (2012), Giới thiệu Công ước quốc tế về các quyền
4
dân sự và chính trị (IICCPR, 1966), Nxb Hồng Đức, Hà Nội
Hội thảo khoa học của Trung ương Hội LHPN Việt Nam về “Giải
pháp nâng cao công tác cán bộ nữ” tháng 3/2015;
Hội thảo của Bộ Lao động TBXH về “Tăng cường phụ nữ tham chính”
tháng 7/2014;
PGS.TS. Nguyễn Thị Việt Hương, các điều kiện bảo đảm thực thi
quyền con người, Hội thảo khoa học quốc tế: Tình phổ biến và tình đặc thù
của quyền con người, Hà Nội ngày 16-17/03/2010
Võ Khánh Vinh (chủ biên) - Viện Khoa học xã hội Việt Nam “Những
vấn đề lý luận và thực tiễn của nhóm quyền dân sự và chính trị”, Nxb Khoa
học xã hội, năm 2012;
Đặng Chì Dũng “Đảm bảo quyền con người ở Việt Nam và những vấn
đề đạt ra hiện nay” Tạp chì Cộng sản năm 2014 (số 860);
Văn Hồng Nhung “Phá bỏ rào cản để nâng cao phụ nữ tham chính”
Tạp chì Nhân quyền tháng 3/2015;
Phạm Thị Ngọc Hà “Bình đẳng giới trong lĩnh vực chính trị ở tỉnh Phú
Yên – thực trạng và một số giải pháp” Học viện chình trị khu vực III;
Đề tài “Quyền bình đẳng giới ở Việt Nam hiện nay” của thạc sỹ
Nguyễn Thị Thanh Hiền năm 2014...
Các bài viết, công trính nghiên cứu trên đã đề cập một số nội dung liên
quan đến đề tài luận văn. Tuy nhiên, có rất ìt công trính nghiên cứu trực tiếp
đề cập vấn đề quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chình trị tại một địa bàn cụ
thể. Càng chưa có công trính nghiên cứu nào lấy chủ đề về quyền của phụ nữ
trong lĩnh vực chình trị tại tỉnh Phú Yên. Đó chình là một trong những lý do
thôi thúc tác giả lựa chọn chủ đề luận văn nhằm tiến hành nghiên cứu có hệ
5
thống các vấn đề lý luận, đánh giá thực trạng pháp luật và thực hiện pháp luật
về quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chình trị tỉnh Phú Yên và đề xuất các giải
pháp tăng cường bảo đảm quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chình trị ở Phú
Yên nói riêng và ở Việt Nam nói chung.
Đề tài: Quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chính trị ở tỉnh Phú Yên là
công trính khoa học độc lập, không trùng lắp với các công trính nêu trên,
nghiên cứu có hệ thống về cơ sở lý luận, đánh giá thực trạng và đề xuất cụ
thể các giải pháp về quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chình trị ở tỉnh Phú Yên
hiện nay. Trong quá trính nghiên cứu những nội dung của đề tài, tác giả có kế
thừa, tham khảo kết quả nghiên cứu ở các công trính khoa học nêu trên.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích của luận văn
Luận văn có mục đìch tổng quát là xây dựng luận cứ khoa học cho các
giải pháp đảm bảo quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chình trị ở tỉnh Phú Yên
nói riêng, trên địa bàn cả nước nói chung.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
- Phân tìch làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về quyền của phụ nữ trong
lĩnh vực chình trị, xác lập tiền đề nhận thức cho việc đánh giá thực trạng và
đề xuất các giải pháp về quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chình trị.
- Tập hợp, phân tìch hệ thống các quy phạm pháp luật hiện hành và
thực tiễn bảo đảm quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chình trị ở tỉnh Phú Yên.
- Chỉ ra những thành tựu, hạn chế trong bảo đảm quyền của phụ nữ
trong lĩnh vực chình trị ở tỉnh Phú Yên. Đề xuất quan điểm và giải pháp bảo
đảm quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chình trị ở tỉnh Phú Yên trong giai đoạn
6
hiện nay.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
- Các quan điểm khoa học và chuẩn mực pháp lý quốc tế về quyền của
phụ nữ trong lĩnh vực chình trị;
- Hệ thống quy định pháp luật Việt Nam về quyền của phụ nữ trong
lĩnh vực chình trị;
- Việc thực hiện quyền của phụ nữ trong lĩnh vục chình trị ở tỉnh Phú
Yên;
- Một số kinh nghiệm bảo đảm quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chình
trị ở một số địa bàn khác ở các tỉnh bạn.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chình trị ở tỉnh Phú Yên là một vấn
đề có phạm vi rộng, liên quan đến pháp luật, và gắn liền với nhiều lĩnh vực
khác như kinh tế, xã hội và vă hóa. Tuy nhiên, với khuôn khổ của một luận
văn thạc sĩ, bản thân chỉ đi sâu nghiên cứu về hệ thống các quy phạm pháp
luật liên quan đến việc thực hiện quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chình trị ở
tỉnh Phú Yên, trong đó tập trung vào các quyền bầu cử và ứng cử vào Quốc
hội và Hội đồng nhân dân các cấp; quyền tham gia quản lý nhà nước, xã hội
và quyền tham gia các tổ chức chình trị-xã hội; tập trung phân tìch, làm sáng
tỏ các vấn đề lý luận cơ bản về quyền bính đẳng giới trong chình trị, quyền
chình trị của phụ nữ; phân tìch thực trạng quyền của phụ nữ trong lĩnh vực
chình trị, cơ chế đảm bảo quyền chình trị của phụ nữ, các giải pháp về tiếp
tục đẩy mạnh thực hiện quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chình trị trên địa bàn
tỉnh Phú Yên giai đoạn 2010 – 2017.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn
7
5.1. Cơ sở lý luận
Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác –
Lênin, tư tưởng Hồ Chì Minh, chủ trương đường lối của Đảng, chình sách,
pháp luật của nhà nước về quyền bính đẳng giới, quyền chình trị của phụ nữ;
Các công ước quốc tế về quyền con người, trong đó có các công ước Việt
Nam tham gia ký kết về quyền con người, bính đẳng giới, quyền dân sự,
chình trị...
5.2. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Trong quá trính nghiên cứu, luận văn đã áp dụng một số phương pháp cụ
thể như: Phương pháp phân tìch để làm sáng tỏ những nội dung thuộc phạm vi
nghiên cứu; phương pháp so sánh được sử dụng để làm rõ mức độ tương quan
giữa những quy định của pháp luật quốc tế với pháp luật Việt nam và đặc biệt là
thông qua phương pháp này để có được những đánh giá khách quan giữa quy
định của pháp luật với thực tiễn thực hiện các quy định ấy; phương pháp tổng
hợp và thống kê được sử dụng để khái quát hoá nội dung nghiên cứu một cách
hệ thống, làm cho vấn đề nghiên cứu trở nên ngắn gọn, súc tìch, dễ hiểu. Đồng
thời phương pháp này được dùng để thu thập và cung cấp một số số liệu liên
quan đến việc thực thi quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chình trị; phương pháp
xã hội học được dùng để đánh giá, phân tìch những điều kiện kinh tế, chình trị xã
hội với việc thực hiện quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chình trị.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Với kết quả đạt được, luận văn góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý
luận và thực tiễn về quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chình trị ë tỉnh Phú Yên
trong thời gian tới.
Kết quả luận văn có thể được tham khảo và ứng dụng trong công tác
cán bộ, công tác quản lý nhà nước và trong hoạt động của các tổ chức chình
tri – xã hội ở Việt Nam.
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu và giảng
8
dạy các vấn đề liên quan đến ghi nhận và bảo đảm quyền của phụ nữ trong
lĩnh vực chình trị trong các cơ sở đào tạo lĩnh vực chình trị, pháp lý, quản lý ở
Việt Nam.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và nội dung
của luận văn gồm 3 chương.
Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về quyền của phụ nữ
trong lĩnh vực chính trị
Chương 2: Thực trạng quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chính trị ở tỉnh
Phú Yên
Chương 3: Quan điểm và giải pháp thực hiện quyền của phụ nữ trong
9
lĩnh vực chính trị ở tỉnh Phú Yên hiện nay
Chương 1:
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT
VỀ QUYỀN CỦA PHỤ NỮ TRONG LĨNH VỰC CHÍNH TRỊ
1.1. Khái niệm, đặc điểm, nội dung quyền của phụ nữ trong lĩnh vực
chính trị
1.1.1. Khái niệm quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chính trị
1.1.1.1. Quyền của phụ nữ
Khái niệm quyền con người từ lâu đã được sử dụng rộng rãi trong
nghiên cứu cũng như trong đời sống xã hội. Tuy nhiên, có nhiều trường phái
khác nhau khi tiếp cận khái niệm quyền con người. Chẳng hạn, trường phái
pháp luật tự nhiên thí cho rằng quyền con người là đặc quyền tự nhiên, khẳng
định quyền con người là tự nhiên, vốn có, nhằm đối lập, phủ nhận quyền con
người do vương quyền và thần quyền ban phát, tặng cho. Trường phái pháp
luật thực định cho rằng, quyền con người là sự cho phép và khả năng hành
động của con người do các quốc gia ghi nhận trong pháp luật quốc gia hoặc
thừa nhận với tư cách thành viên của các Điều ước pháp lý quốc tế về quyền
con người. Cũng có quan niệm cho rằng, con người cũng như quyền con
người là tổng hoà các mối quan hệ xã hội, quyền con người không phải là một
khái niệm trừu tượng, cũng không chỉ là quyền cá nhân con người mang tình
tự nhiên, bẩm sinh mà luôn gắn liền với cuộc đấu tranh chống áp bức bóc lột,
chống bất công trong xã hội, chịu sự giới hạn của chế độ kinh tế, đặc biệt là
chế độ chình trị – nhà nước...
Khái niệm quyền con người vẫn còn tiếp tục được nghiên cứu và tranh
luận nhưng qua nghiên cứu ý kiến của các nhà khoa học, về cơ bản có thể
thống nhất với cách hiểu sau: Quyền con người là những quyền tự nhiên,
vốn có của con người, được pháp luật ghi nhận và điều chỉnh, thể hiện mối
10
quan hệ giữa mỗi cá nhân với nhà nước và với những cá nhân khác.
Từ định nghĩa trên, có thể thấy, thuộc tình cơ bản của quyền con người
là những giá trị gắn với mỗi con người, vừa với tư cách là cá nhân, vừa với tư
cách là thành viên xã hội. Giá trị đó phải được xã hội hoá bằng cách thể chế
hoá thành các quyền năng cụ thể, có tình phổ cập, cần thiết cho mọi người.
Nói cách khác, quyền con người là một trong những giá trị xã hội tổng hợp,
có tình hiện thực, tình phổ biến và tình đặc thù, được ghi nhận bởi pháp luật
quốc gia và pháp luật quốc tế.
Lịch sử chứng minh vai trò to lớn của nhận thức về quyền con người
đối với sự phát triển của nền văn minh nhân loại. Quyền con người là mục
tiêu của cả loài người, được các quốc gia đề cập nhiều trong mối quan hệ
chình trị, kinh tế, và đối ngoại. Sự phát triển của mọi mặt của đời sống xã hội,
tạo dựng các giá trị vật chất và tinh thần đều nhằm phục vụ con người, hiện
thực hóa các quyền con người nhằm mục đìch tôn vinh chình phẩm giá con
người. Khi con người được tôn trọng, bảo vệ, quyền con người góp phần quan
trọng vào sự phát triển kinh tế - xã hội, tiếp tục bồi đắp những giá trị hiện có,
vừa tạo lập nên những giá trị mới cho nhân loại.
Ngày nay, quyền con người được ghi nhận trong hệ thống các văn kiện
chình trị - pháp lý quốc tế, khu vực và quốc gia với những cam kết mạnh mẽ
của các quốc gia về việc tôn trọng, thúc đẩy và bảo vệ các quyền con người.
Nếu căn cứ vào tình chất của các quyền con người được ghi nhận trong các
văn bản hợp thành Bộ luật nhân quyền quốc tế thí quyền con người được chia
thành những nhóm chình sau:
- Các quyền chình trị bao gồm: Quyền tham gia quản lý nhà nước và xã
hội; quyền bầu cử, ứng cử, quyền bính đẳng nam nữ, quyền tự do tìn ngưỡng,
quyền tự do ngôn luận, quyền tự do báo chì…
- Các quyền dân sự bao gồm: Quyền tự do đi lại cư trú trong nước,
quyền ra nước ngoài và từ nước ngoài về nước; quyền bất khả xâm phạm về
11
thân thể, quyền được an toàn về thư tìn, điện thoại, quyền khiếu nại, tố cáo…
- Các quyền trong lĩnh vực kinh tế – xã hội bao gồm: Quyền lao động,
quyền tự do kinh doanh, quyền được bảo hộ hôn nhân và gia đính, quyền sở
hữu hợp pháp và quyền thừa kế, được bảo vệ sức khoẻ, quyền được giáo dục
đào tạo, quyền nghiên cứu, phát minh… và một số quyền mang tình chất ưu
tiên như quyền trẻ em, quyền người già, người cô đơn không nơi nương tựa.
Phụ nữ là nhóm con người chiếm hơn nửa gia đính nhân loại, giữ một
vị trì đặc biệt quan trọng trong sự tồn tại và phát triển của gia đính nhân loại.
Phụ nữ có những phẩm chất riêng về tâm sinh lý và cần được bảo vệ. Theo
đó, phụ nữ được hưởng tất cả những quyền con người cơ bản kèm theo những
đảm bảo đặc biệt trong quá trính thực hiện các quyền con người gắn với tình
đặc thù của nhóm người này. Như vậy, khi tiếp cận khái niệm quyền của phụ
nữ, quyền con người được hiểu theo nghĩa xác định hơn, nó phản ánh những
quyền cụ thể của một đối tượng cụ thể. Quyền của phụ nữ được quy định
trong pháp luật luôn có sự xem xét những yếu tố về tâm sinh lý của giới nữ,
quan điểm về thuần phong mỹ tục, về văn hoá của một dân tộc… để xây dựng
nên một khung quy tắc về hành vi ứng xử quan hệ giao tiếp giữa người nam
và người nữ, sao cho vừa thể hiện lối sống bính đẳng văn minh đồng thời vẫn
giữ được nét đẹp truyền thống, tránh xảy ra sự xung đột và biến đổi xã hội
gay gắt. Do đó quyền của phụ nữ không chỉ được hiểu đơn thuần như quyền
con người nhưng cũng không thể tách rời quyền con người. Trong hệ thống
quyền con người, quyền của phụ nữ là một bộ phận hợp thành quan trọng, tuy
nhiên không mang ý nghĩa là những quyền riêng có của phụ nữ. Với tư cách
là con người, phụ nữ được hưởng mọi quyền tự nhiên thuộc về con người.
Mặc dù vậy, vốn được xem là nhóm yếu thế do vẫn tồn tại nhiều phân biệt
mang tình giới nên quá trính hiện thực hóa các quyền của phụ nữ cần phải đi
kèm những biện pháp đảm bảo đặc biệt để chắc chắn rằng các quyền của phụ
12
nữ không bị xâm hại.
Từ đó, có thể đưa ra cách hiểu về quyền của phụ nữ như sau: Quyền
của phụ nữ là quyền con người gắn với những đặc quyền được pháp luật ghi
nhận, điều chỉnh để phụ nữ có thể quyết định được những gì thuộc về họ và
được tôn trọng, bảo vệ những quyền đó.
1.1.1.2. Quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chính trị
Chình trị là một khái niệm có nội dung rất phong phú. Ví vậy, đã có
khá nhiều quan niệm về chình trị được nêu ra, phản ánh các góc độ tiếp cận
khác nhau.
Tiếp cận từ góc độ quyền lực, chình trị được hiểu là ”Sự tham gia vào
các công việc nhà nước, sự quy định các hình thức, nội dung và nhiệm vụ
hoạt động của nhà nước. Lĩnh vực thể hiện của chính trị rất rộng, bao gồm
vấn đề về chế độ nhà nước, về quản lý đất nước, về đấu tranh giai cấp, đấu
tranh đảng phái, lãnh đạo giai cấp... các quan hệ giai cấp, các lợi ích căn
bản của giai cấp được bộc lộ ra từ chính trị. Đồng thời chính trị còn biểu
hiện quan hệ giữa các dân tộc và các quốc gia” [35, tr. 161]. Chình trị có thể
được hiểu là một chế độ nhà nước, theo đó có chế độ chình trị dân chủ hoặc
chế độ chình trị phi dân chủ. Chình trị cũng có thể được hiểu là mối quan hệ
giữa các lực lượng, đảng phái trong xã hội hướng tới mục tiêu tranh giành
quyền lực nhà nước. Trong các xã hội hiện đại, chình trị biểu hiện cụ thể ở sự
tham gia và mối quan hệ giữa các thành viên trong xã hội vào công việc của
nhà nước, của xã hội nhằm đảm bảo quyền lực nhân dân. Ví vậy, xét đến cùng
thí chình trị là thái độ đối với con người và quyền lực. Mối quan hệ chình trị
và quyền con người là mối quan hệ giữa những hiện tượng thuộc thượng tầng
kiến trúc vốn bị quyết định bởi tồn tại xã hội nhất định. Chình trị phải gắn với
quyền con người và quyền con người phải được ưu tiên trong hoạch định và
đường lối chình trị. Sự kết hợp giữa nội dung của chình trị với bản chất của
13
quyền con người chình là cơ sở dẫn đến sự thừa nhận về quyền chình trị.
Cũng đã có nhiều cách hiểu khác nhau về quyền chình trị.
Trong giáo trính đại cương phục vụ công tác nghiên cứu và giảng dạy của
trường Waynesboro ở bang Pennsylvania (Mỹ), quyền chình trị được định nghĩa
một cách đơn giản là ”những yêu cầu pháp lý của công dân được tham gia trong
chính quyền và được đối xử công bằng” [53]. Cách hiểu này cho thấy quyền
chình trị trước hết là một quyền pháp lý, được thừa nhận và bảo vệ bằng pháp
luật. Cách hiểu này cũng bao hàm quan niệm cho rằng quyền chình trị chỉ gắn
với những cá nhân có tư cách công dân.
Theo Từ điển Luật học Mỹ (Black Law Dictionary) quyền chình trị “Là
những quyền có thể được thực hiện trong quá trình thành lập hay quản lý chính
quyền. Các quyền của công dân được xác lập hoặc công nhận bởi Hiến pháp
dành cho họ quyền tham gia trực tiếp hay gián tiếp trong việc thành lập hoặc
trong quản lý chính quyền” ” [51, tr. 1159]. Định nghĩa này tiếp cận về mặt
pháp lý đối với quyền chình trị, ví trước tiên nó là ”quyền của công dân”, và
”được xác lập hoặc công nhận bởi Hiến pháp”. Tuy nhiên, theo cách hiểu này
thí phạm vi quyền chình trị tương đối hẹp ví nó chỉ bao gồm: quyền tham gia
trực tiếp hay gián tiếp trong việc thành lập hoặc trong quản lý chình quyền.
Từ điển Luật học do nhà xuất bản Từ điển bách khoa Việt Nam ấn hành
năm 1999 cho rằng “Quyền chính trị là quyền tham gia quản lý nhà nước của
công dân. Đó là quyền quan trọng nhất của công dân, đảm bảo cho công dân
thực hiện quyền làm chủ nhà nước, làm chủ xã hội được thực hiện bằng nhiều
hình thức khác nhau như công dân có quyền bầu cử, quyền ứng cử vào các cơ
quan quyền lực nhà nước. Nhân dân có quyền đóng góp ý kiến vào việc xác
định các chính sách để xây dựng và phát triển mọi mặt kinh tế, văn hóa, xã
hội, an ninh quốc phòng, đối nội, đối ngoại của đất nước. Nhân dân có quyền
tham gia xây dựng pháp luật, tham gia giám sát các hoạt động của cơ quan
14
nhà nước, biểu quyết khi nhà nước trưng cầu dân ý” [53.tr.415]. Cách quan
niệm này khá sâu sắc và toàn diện, thể hiện nội dung cụ thể của quyền chình
trị trong số các quyền con người. Tuy nhiên, định nghĩa này chưa đề cập đến
việc quyền chình trị được đảm bảo như thế nào trong thực tiễn.
Tổng hợp các cách quan niệm và căn cứ vào bản chất của quyền con
người, có thể đưa ra khái niệm về quyền chình trị như sau: Quyền chính trị là
một trong những bộ phận quyền quan trọng nhất của công dân, được Hiến
pháp và pháp luật bảo vệ, xác lập năng lực pháp lý của công dân trong việc
tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào quản lý nhà nước, quản lý xã hội.
Trong nội hàm của khái niệm nêu trên có hai yếu tố rất quan trọng. Đó
là (i) quyền chình trị thuộc về công dân và được Hiến pháp, pháp luật ghi
nhận, và (ii) quyền chình trị thể hiện ở việc tham gia trực tiếp hay gián tiếp
vào quản lý nhà nước, quản lý xã hội. Tăng cường sự tham gia trực tiếp và
gián tiếp của công dân vào quản lý nhà nước và quản lý xã hội chình là tăng
cường chế độ dân chủ trong xã hội, bảo đảm sự tham gia rộng rãi của mọi
giới, không có bất cứ sự phân biệt đối xử nào. Trực tiếp tham gia quản lý nhà
nước và quản lý xã hội là việc công dân đảm nhiệm các cương vị trong bộ
máy nhà nước, các tổ chức xã hội, đồng thời trực tiếp quyết định hay trực tiếp
thực hiện các chình sách và pháp luật. Gián tiếp tham gia quản lý nhà nước và
xã hội là việc công dân thông qua các cơ quan đại diện của nhà nước, tổ chức
xã hội để bày tỏ ý kiến, quan điểm vào việc xây dựng và hoạch định chình
sách, pháp luật, giám sát tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước.
Cách hiểu về quyền chình trị cho phép đưa ra định nghĩa về quyền của
phụ nữ trong lĩnh vực chình trị. Theo đó, [Quyền của phụ nữ trong lĩnh vực
chính trị là một trong những bộ phận quyền công dân quan trọng nhất được
Hiến pháp và pháp luật bảo vệ, xác lập năng lực pháp lý của phụ nữ với nam
giới trong việc bình đẳng tham gia trực tiếp và gián tiếp vào quản lý nhà
15
nước, quản lý xã hội].
1.1.2. Đặc điểm quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chính trị
1.1.2.1. Quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chính trị là một nhóm quyền cơ bản
của con người
Quyền chình trị là một bộ phận cấu thành quyền con người, đó là nhóm
quyền chung, mang ý nghĩa rộng nhưng là quyền cơ bản trong quyền con
người. Trong nhóm quyền chình trị của con người luôn bao gồm quyền chình
trị của phụ nữ. Việc xác lập quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chình trị không
chỉ thể hiện ở hiến pháp của mỗi nước mà còn thể hiện là quy định trong
nhiều văn bản pháp luật khác nhằm mục đìch bảo đảm, bảo vệ quyền tham gia
chình trị của phụ nữ một cách trực tiếp hoặc gián tiếp. Như vậy, quyền của
phụ nữ trong lĩnh vực chình trị là quyền tổng hợp, thuộc nhóm quyền chình trị
của con người là sự tổng hợp của nhiều quy phạm pháp luật thuộc các lĩnh
vực khác nhau nhằm bảo vệ và bảo đảm quyền chình trị của phụ nữ được thực
hiện trên thực tế và hiệu quả.
1.1.2.2. Quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chính trị là quyền chịu nhiều tác
động của các yếu tố về giới, yếu tố dân tộc, kinh tế, pháp luật..
Dù đã được thể hiện trong nhiều văn kiện chình trị - pháp lý quốc tế và
quốc gia và trải qua một qúa trính lịch sử, nhưng quyền của phụ nữ trong lĩnh
vực chình trị khác với nhóm quyền khác ở chỗ chịu nhiều tác động bởi các
yếu tố về giới, yếu tố dân tộc, kinh tế, pháp luật...nên việc thực hiện quyền
tham gia chình trị của phụ nữ ở các quốc gia có sự khác nhau về số lượng và
chất lượng.
1.1.2.3. Quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chính trị là sự kết hợp hài hòa giữa
các quy định pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia, là biểu hiện của sự tiếp
thu tư tưởng tiến bộ của pháp luật quốc tế về quyền tham gia chính trị của
phụ nữ kết hợp với điều kiện văn hóa, kinh tế...của mỗi quốc gia, được pháp
16
luật quốc gia ghi nhận cho nhóm phụ nữ - công dân của quốc gia đó.
Bảo đảm quyền tham gia chình trị của phụ nữ không chỉ là mối quan
tâm và trách nhiệm của riêng một quốc gia nào riêng biệt, nó đã trở thành
nghĩa vụ và trách nhiệm chung của cả cộng đồng quốc tế. Cộng đồng quốc tế
đã thông qua nhiều văn kiện chình trị - pháp lý thể hiện tư tưởng tiến bộ của
nhân loại về giải phóng phụ nữ, bảo đảm sự bính đẳng và nâng cao địa vị của
phụ nữ. Từ đó đặt ra các yêu cầu mang tình bắt buộc hoặc khuyến nghị đối
với mỗi quốc gia khi ghi nhận và thực hiện quyền chình trị của phụ nữ - công
dân của quốc gia đó.
1.1.2.4. Quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chính trị ở Việt Nam sớm được thừa
nhận và bảo đảm thực hiện.
Ngày 3 tháng 9 năm 1945, ngay sau khi Nhà nước ta giành được độc
lập, tại phiên họp Chình phủ lâm thời, Chủ tịch Hồ Chì Minh đã nói: “Tôi đề
nghị chính phủ tổ chức càng sớm càng hay cuộc Tổng tuyển cử với chế độ
phổ thông đều phiếu. Tất cả công dân trai gái 18 tuổi đều có quyền bầu cử và
ứng cử, không phân biệt giàu nghèo, tôn giáo, dòng giống”…[16, tr.8]. Như
vậy, phụ nữ Việt Nam đã sớm được công nhận quyền tham gia chình trị ngay
trong cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên của dân tộc. Đồng thời, nhiều phụ nữ đã
tham gia vào Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp ngay từ khóa đầu tiên
sau khi thành lập nước, tạo nền tảng cho sự thực hiện quyền bính đẳng về
chình trị cho phụ nữ Việt Nam. Hiến pháp năm 1946 của nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa quy định tại Điều 9: “Đàn bà ngang quyền với đàn ông về mọi
phương diện”. “Mọi công dân đều bình đẳng về quyền trên mọi phương diện
chính trị, kinh tế, văn hóa”. Những quy định trên đánh dấu bước một, là nền
tảng quan trọng xác lập về địa vị của người phụ nữ Việt Nam. Trên cơ sở
những nguyên tắc hiến định của Hiến Pháp năm 1946, các quy định về quyền
tham gia bính đẳng của phụ nữ trên lĩnh vực chình trị không ngừng được mở
17
rộng và bổ sung qua các bản Hiến pháp năm1959, 1980, 1992 và 2013.
1.1.2.5. Quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chính trị ở Việt Nam có phạm vi rộng.
Trong số những văn kiện pháp lý quốc tế quy định trực tiếp hoặc
gián tiếp về quyền chình trị của phụ nữ, Việt Nam đã gia nhập và phê
chuẩn hai công ước quan trọng nhất có liên quan là: Công ước ICCPR
(Công ước Quốc tế về các Quyền Dân sự và Chình trị, tiếng
Anh: International Covenant on Civil and Political Rights, viết tắt: ICCPR,
là một công ước quốc tế do Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc thông qua
ngày 16 tháng 12 năm 1966 và có hiệu lực từ ngày 23 tháng 03 năm 1976,
nêu tổng quan các quyền dân sự và chình trị cơ bản của con người) và
Công ước CEDAW (Công ước loại bỏ mọi hính thức phân biệt đối xử với
phụ nữ, tiếng Anh: Convention on the Elimination of all Forms of
Discrimination against Women, viết tắt là CEDAW, là một công ước quốc
tế được Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc chấp thuận năm 1979). Trong quá
trính xây dựng pháp luật, Nhà nước Việt Nam luôn xem xét khả năng thể
chế hóa những quy định tiến bộ của pháp luật quốc tế vào hệ thống pháp
luật quốc gia. Bên cạnh đó, khi xây dựng pháp luật, chúng ta cũng dựa vào
đặc thù truyền thống văn hóa của Việt Nam để điều chỉnh và thông qua
những quy định pháp luật phù hợp. Chình ví thế, ghi nhận của pháp luật
Việt Nam về quyền chình trị của phụ nữ thể hiện tư tưởng tiến bộ, phù hợp
với hoàn cảnh thực tế và mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Các quy phạm
pháp luật về quyền tham gia chình trị của phụ nữ trong hệ thống pháp luật
Việt Nam thể hiện rõ phạm vi rộng, hàm chứa các quyền chình trị cơ bản
của con người đã được gia đính nhân loại thừa nhận chung. Trong những
năm gần đây, những chủ trương, chình sách, pháp luật của Đảng và Nhà
nước ta đã tạo ra một bước chuyển biến mới cả về lượng và chất trong việc
18
bảo đảm sự bính đẳng trong quyền chình trị của phụ nữ ở nước ta.
1.1.3. Nội dung quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chính trị
Đề cập nội dung quyền chình trị của phụ nữ thực chất là đề cập sự ghi
nhận của pháp luật về năng lực và tư cách pháp lý bính đẳng của phụ nữ trong
lĩnh vực chình trị. Theo đó, nội dung quyền chình trị của phụ nữ bao gồm:
1.1.3.1. Quyền bầu cử, ứng cử của phụ nữ
Quyền bầu cử, ứng cử là một quyền nằm trong nhóm quyền chình trị,
bao gồm quyền đề cử, bỏ phiếu và quyền được bầu vào cơ quan đại diện.
Quyền bầu cử, ứng cử của công dân được xem là một quyền không thể thiếu
trong đời sống chình trị. Đây là một trong những quyền chình trị quan trọng
của phụ nữ.
Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã ghi nhận
địa vị pháp lý bính đẳng giữa nam và nữ bằng việc khẳng định: “Tất cả công
dân Việt Nam đều bình đẳng trước pháp luật, đều được tham gia chính quyền
và công cuộc kiến quốc tùy theo tài năng và đức hạnh của mình” và “Đàn bà
ngang quyền với đàn ông về mọi phương diện” [18, tr.8].
Hiến pháp năm 2013 đã hiến định sâu sắc hơn quyền của phụ nữ trên
cơ sở kế thừa và phát triển các quy định của Hiến pháp năm 1992 và các Hiến
pháp trước đó. Tại Chương II Hiến pháp năm 2013 đã hiến định các quyền
con người nói chung và quyền của phụ nữ nói riêng. Quyền của phụ nữ được
quy định từ điều 14 đến điều 49. Điều 27 - Hiến pháp năm 2013 xác định rõ:
“Công dân đủ 18 tuổi trở lên có quyền bầu cử và đủ 21 tuổi trở lên có quyền
ứng cử vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân. Việc thực hiện các quyền này do
luật định”. Vấn đề này được quy định rõ tại Điều 2 Luật Bầu cử Đại biểu
Quốc hội và đại biểu Hội Đồng nhân dân năm 2015.
Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội Đồng nhân dân năm
2015 cũng đã có các điều khoản riêng (Khoản 3 Điều 8 và Khoản 1, 2 Điều 9)
19
quy định các vấn đề liên quan đến việc cơ cấu số lượng nữ Đại biểu Quốc hội
và đại biểu Hội Đồng nhân dân các cấp phải bảo đảm có ìt nhất 35% tổng số
người trong danh sách chình thức những người ứng cử đại biểu Quốc Hội và
đại biểu Hội Đồng nhân dân các cấp là phụ nữ. Đây là việc làm rất cần thiết ví
đối với Việt Nam do ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo để lại vẫn còn có sự
định kiến “Trọng nam khinh nữ”. Việc đặt ra tỷ lệ nữ Đại biểu Quốc hội và
đại biểu Hội Đồng nhân dân các cấp đã tạo cho phụ nữ bính đẳng với nam
giới, bính đẳng trong bầu cử, ứng cử.
Bên cạnh việc khẳng định sự bính đẳng giữa phụ nữ và nam giới về bầu
cử và ứng cử, pháp luật hiện hành còn một số quy định khác nhằm đảm bảo
quyền bầu cử và ứng cử của công dân nói chung và phụ nữ nói riêng trên thực
tế. Bộ luật hính sự hiện hành của Việt Nam năm 2015 quy định "Người nào
lừa gạt, mua chuộc, cưỡng ép hoặc dùng thủ đoạn khác cản trở công dân
thực hiện quyền bầu cử, quyền ứng cử ...thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo
không giam giữ đến 01 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm" (Điều
160); "Người nào vì lý do giới mà thực hiện hành vi dưới bất kỳ hình thức nào
cản trở người khác tham gia hoạt động trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế,
lao động, ....đã bị xử lý kỷ luật hoặc xử phạt vi phạm hành chính về hành vi
này mà còn vi phạm, thì bị phạt cảnh cáo, phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến
50.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm" (Điều 165).
Những quy định này hết sức cần thiết và đã góp phần tìch cực vào việc đảm
bảo thực hiện quyền bầu cử và ứng cử của công dân, đặc biệt là phụ nữ.
Như vậy, theo pháp luật Việt Nam, trong việc tham gia vào đời sống
chình trị của đất nước, phụ nữ luôn được nhín nhận ở vị trì công dân ngang
với nam giới. Điều này có nghĩa là phụ nữ được hưởng tất cả các quyền mà
công dân có, và không có sự phân biệt đối xử khác với nam giới trong việc
bầu cử, ứng cử vào các cơ quan nhà nước, phụ nữ được đảm bảo thực hiện
20
quyền bầu cử, ứng cử theo quy định pháp luật.
1.1.3.2. Quyền bỏ phiếu trưng cầu dân ý của phụ nữ
Điều 29, Hiến pháp 2013 quy định "Công dân đủ 18 tuổi trở lên có
quyền biểu quyết khi Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân". Cơ bản đây là một
cuộc bỏ phiếu trực tiếp mà trong đó những người đủ 18 tuổi trở lên bỏ phiếu
thể hiện sự đồng ý hay không đồng ý khi được hỏi ý kiến về một vấn đề cụ
thể. Đó có thể là việc thông qua một bản Hiến pháp mới hoặc sửa đổi, bổ sung
Hiến pháp hiện hành hoặc một chình sách cụ thể của Nhà nước. Trưng cầu
dân ý nhằm mục đìch hỏi ý kiến nhân dân về một vấn đề quan trọng của đất
nước và nhân dân thể hiện chình kiến của mính thông qua việc bỏ phiếu đồng
ý hoặc không đồng ý. Đây được xem là một hính thức thực hiện dân chủ trực
tiếp, người dân nói chung và phụ nữ nói riêng có quyền tham gia thảo luận,
đóng góp ý kiến, thể hiện ý chì của mính thông qua lá phiếu một cách trực
tiếp về các chủ trương chình sách, pháp luật của Nhà Nước, hay một vấn đề
quan trọng của đất nước, góp phần làm cho những quyết sách của Đảng và
Nhà nước phù hợp với thực tế và lòng dân.
1.1.3.3. Quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội của phụ nữ
Quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội của phụ nữ là một trong
những quyền con người quan trọng nhất của phụ nữ, được Hiến pháp và pháp
luật bảo vệ; nó xác lập năng lực pháp lý bính đẳng của phụ nữ với nam giới
trong việc tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào quá trính quản lý nhà nước,
quản lý xã hội.
Điều 28, Hiến pháp 2013 quy định: [Công dân có quyền tham gia
quản lý Nhà nước và xã hội về các vấn đề của cơ sở, địa phương và cả
nước". "Nhà nước tạo điều kiện để công dân tham gia quản lý nhà nước và
xã hội; công khai, minh bạch trong việc tiếp nhận, phản hồi ý kiến, kiến nghị
của công dân". “Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực
21
tiếp, bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc Hội, Hội đồng nhân dân và
thông qua các cơ quan khác của nhà nước”] [30, Điều 6]. Đây chình là cách
thức nhân dân sử dụng để thực hiện quyền tham gia quản lý nhà nước và xã
hội. Với tư cách công dân, phụ nữ thực hiện quyền tham gia quản lý nhà
nước và xã hội bằng cách:
- Với hính thức trực tiếp, phụ nữ tham gia ứng cử vào đại biểu Quốc
Hội và Hội đồng nhân dân các cấp khi có đủ tiêu chuẩn, điều kiện theo luật
định. Bằng việc trở thành Đại biểu Quốc Hội và Hội đồng nhân dân các cấp,
phụ nữ có thể tham gia trực tiếp quản lý nhà nước thông qua việc thực hiện
nhiệm vụ và quyền hạn của mính. Hoặc bằng hính thức gián tiếp, thông qua
các đại diện do chình Nhân dân lựa chọn. Công dân Việt Nam có đủ điều kiện
theo quy định của pháp luật sẽ bầu ra đại biểu của mính là các Đại biểu Quốc
hội và Đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp. Các đại biểu này sẽ thay mặt
nhân dân trực tiếp tham gia vào các hoạt động xây dựng, quản lý và bảo vệ
đất nước. Hay nói cách khác bằng việc bầu cử, mỗi phụ nữ đã ủy nhiệm
quyền quản lý nhà nước của mính cho người đại diện là các đại biểu Quốc
hội, đại biểu Hội đồng nhân dân.
- Phụ nữ tham gia hoạt động trong các cơ quan nhà nước. Tùy theo
năng lực, trính độ chuyên môn, nghiệp vụ, phụ nữ được tuyển dụng vào các
cơ quan nhà nước hoặc được bổ nhiệm vào những chức vụ trong bộ máy nhà
nước. Khi đó, phụ nữ có những điều kiện và khả năng thuận lợi để trực tiếp
tham gia quản lý nhà nước.
- Phụ nữ tham gia góp ý kiến xây dựng văn bản quy phạm pháp luật.
Trong qua trính xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, cơ quan, tổ chức chủ
trí soạn thảo và cơ quan tổ chức hữu quan có trách nhiệm tạo điều kiện để các
cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân tham gia góp ý kiến về dự thảo văn bản, tổ
chức lấy ý kiến của đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của văn bản. Đồng
22
thời giống như quyền và trách nhiệm công dân, phụ nữ cũng có quyền và
trách nhiệm đóng góp ý kiến, phản ánh với nhà nước về những vướng mắc,
bất cập, không phù hợp các văn bản pháp luật trong quá trính thể hiện để Nhà
nước sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện và bảo đảm tốt hơn về quyền và lợi ìch
công dân.
- Phụ nữ tham gia góp ý kiến đối với hoạt động của cơ quan nhà nước,
phát biểu ý kiến về các vấn đề quản lý nhà nước, về nội dung các quyết định
quản lý. Quyền hạn này của phụ nữ được thực hiện thông qua các phương tiện
thông tin đại chúng, gửi ý kiến góp ý đối với cơ quan có thẩm quyền.
- Phụ nữ tham gia kiểm tra, giám sát hoạt động của bộ máy nhà nước,
đấu tranh với tệ quan liêu, hách dịch, cửa quyền, tham nhũng, lãng phì và
những hiện tượng tiêu cực trong bộ máy nhà nước. Tham gia bàn bạc và quyết
định trực tiếp những vấn đề liên quan đến đời sống ở cơ sở. Thực hiện khiếu
nại, tố cáo những việc làm sai trái của các cơ quan nhà nước và các cơ quan
và công chức nhà nước.
Những cách thức, hoạt động trên của phụ nữ góp phần bảo đảm và phát
huy một cách tốt nhất quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội của phụ nữ.
1.1.3.4. Quyền tham gia các tổ chức chính trị - xã hội của phụ nữ
Quyền tham gia các tổ chức chình trị - xã hội là sự thể hiện vai trò, vị
trì của phụ nữ trong các tổ chức chình trị - xã hội không có phân biệt đối xử.
Theo Luật của Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Điều lệ của các đoàn
thể như Công đoàn, Đoàn Thanh niên, Hội Liên hiệp Phụ nữ, Hội Nông dân,
Hội Cựu chiến binh và Điều lệ của các tổ chức chình trị xã hội khác đều
không có bất cứ một điều khoản nào phân biệt hoặc hạn chế hội viên là giới
nữ hoặc trở thành lãnh đạo của các tổ chức đó. Vì dụ như Điều 1 của Điều lệ
Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam quy định về điều kiện trở thành đoàn
viên công đoàn như sau: Tất cả công nhân, lao động Việt Nam không phân
23
biệt nghề nghiệp, nam nữ, tìn ngưỡng, đủ tuổi làm công trong các doanh
nghiệp, các đơn vị sự nghiệp và các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã
hội...nếu tán thành Điều lệ Công đoàn Việt Nam...thí được gia nhập Công
đoàn... Hay, Điều 5 tại Điều lệ của Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam quy
định về điều kiện kết nạp hội viên như sau: Công dân Việt Nam, là thanh niên
Việt Nam từ 15 đến 35 tuổi, không phân biệt nam, nữ, dân tộc, tôn giáo, thành
phần xã hội...nếu tự nguyện gia nhập Hội thí được xét công nhận là hội viên.
Thông qua các quy định trên, có thể thấy điều kiện gia nhập các Hội rất bính
đẳng, không có bất cứ điều kiện riêng hay các thủ tục phức tạp nào gây khó
khăn cho công dân nói chung hay phụ nữ nói riêng. Phụ nữ có quyền tham gia
bất cứ Hội nào nếu họ có nguyện vọng và đủ điều kiện. Đồng thời, họ có thể
tự ứng cử hoặc được đề cử vào chức danh lãnh đạo của các Hội nếu đáp ứng
yêu cầu của các Hội.
Như vậy, nhín vào các quy định của các tổ chức chình trị xã hội và các
tổ chức xã hội- nghề nghiệp, có thể thấy Việt Nam là một nước có cơ sở pháp
lý thuận lợi, tạo điều kiện cho phụ nữ tham gia các tổ chức này trên cơ sở
bính đẳng với nam giới.
1.1.3.5. Quyền tự do hội họp, lập hội, biểu tình của phụ nữ
Điều 25 Hiến pháp năm 2013 quy định [Công dân có quyền tự do ngôn
luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình...]. Việc
thực hiện các quyền này còn được Việt Nam quy định ở nhiều văn bản pháp
luật trước đó, như: Sắc lệnh số 102/SL/L004 ngày 20-5-1957, Bộ luật Dân sự
Việt Nam năm 2005, Luật Tổ chức chình phủ, Nghị định số 45/2010/NĐ-CP,
Nghị định số 33/2012/NĐ-CP của Chình phủ về tổ chức, hoạt động và quản lý
hội…Đây là một trong những quyền tự do dân chủ của công dân được Nhà
nước ghi nhận và bảo đảm thực hiện. Phụ nữ với tư cách là công dân, phụ nữ
có quyền thực hiện các quyền này, quyền hội họp để thảo luận, bàn bạc góp ý
24
kiến về các vấn đề chung của Nhà nước, của xã hội; có quyền lập hội các tổ
chức tự nguyện, tổ chức có cùng ngành nghề, cùng sở thìch, cùng giới, có
chung mục đìch tập hợp, đoàn kết hội viên, hoạt động thường xuyên, không
vụ lợi nhằm bảo vệ quyền, lợi ìch hợp pháp của hội, hội viên, của cộng đồng,
hỗ trợ nhau hoạt động có hiệu quả, góp phần vào việc phát triển kinh tế - xã
hội của đất nước, được tổ chức và hoạt động theo quy định của pháp luật; có
quyền tụ họp đông đảo hoặc diễu hành trên đường phố để biểu tính bày tỏ ý
chì, nguyện vọng, bày tỏ quan điểm ủng hộ hoặc phản đối về một vấn đề công
cộng nào đó hoặc biểu dương lực lượng chung...hoạt động theo quy định pháp
luật, ví mục đìch lợi ìch của Nhà nước, xã hội, quyền, lợi ìch hợp pháp của tổ
chức, công dân.
1.2. Điều chỉnh pháp luật về quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chính trị
Phụ nữ với tư cách là công dân cũng có đầy đủ những quyền như một
công dân, trong đó có quyền chình trị. Tuy nhiên, do đặc thù của nhóm và
những định kiến của xã hội nên phụ nữ còn gặp nhiều trở ngại, khó khăn khi
tham gia vào đời sống chình trị, tham gia quản lý nhà nước và hoạt động xã
hội. Chình ví vậy, ngoài những quy định chung về quyền con người, quyền
công dân, pháp luật cần có những quy định riêng bảo đảm cho phụ nữ có thể
thực hiện được các quyền chình trị của mính.
Pháp luật về quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chình trị là tổng thể các
quy định trong hệ thống pháp luật nhằm ghi nhận, bảo đảm, bảo vệ quyền
chình trị của phụ nữ trên cơ sở bính đẳng và không phân biệt đối xử.
1.2.1. Pháp luật quốc tế về quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chính trị
Dưới góc độ pháp luật quốc tế, những quy định liên quan trực tiếp và
gián tiếp đến quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chình trị có thể tím thấy trong
nhiều công ước quốc tế về quyền con người như: Hiến chương Liên hợp quốc,
Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền năm 1948 (UDHR), Công ước về các quyền
25
chình trị của phụ nữ năm 1952, Công ước quốc tế về các quyền dân sự và
chình trị năm 1966 (ICCPR), Công ước về xóa bỏ các hính thức phân biệt đối
xử với phụ nữ năm 1979 (CEDAW)…
Hiến chương Liên Hợp quốc là văn bản pháp luật quốc tế đầu tiên, xác
định rõ mục tiêu hành động là bảo đảm quyền con người, khuyến khìch sự
tiến bộ xã hội và nâng cao điều kiện sống trong nền tự do rộng rãi, khuyến
khìch phát triển sự tôn trọng các quyền con người và các quyền tự do cơ bản
cho mọi người, không phân biệt chủng tộc, nam, nữ, ngôn ngữ hoặc tôn giáo.
Quyền con người là phạm trù tổng hợp gồm các quyền và tự do của con
người, trong đó có quyền chình trị. Các quyền vốn quan trọng như nhau, gắn
bó chặt chẽ với nhau, tồn tại trong cùng một tổng thể, vừa là tiền đề vừa là kết
quả của nhau. Như vậy, khi thực hiện quyền con người, trước hết phải xem
xét đến việc thực hiện quyền bính đẳng giới và nội dung về bính đẳng giới
được thể hiện trong quyền con người.
Tuyên ngôn Quốc tế nhân quyền năm 1948 là bản tuyên ngôn về các
quyền cơ bản của con người, trong đó đầu tiên là đảm bảo quyền bính đẳng
giới được xác lập tại Điều 2 “Mọi người đều được hưởng các quyền tự do nêu
trong bản tuyên ngôn này, không có bất kì sự phân biệt đối xử nào về chủng
tộc, màu da, giới tính, tôn giáo, chính kiến hay quan điểm khác, nguồn gốc
dân tộc hay xã hội, giống nòi hay các tình trạng khác”. Ví bính đẳng giới là
cơ sở để thực hiện các quyền khác, trong đó có quyền chình trị. Điều 21 của
Tuyên ngôn, quyền chình trị được hiểu là “Mọi người đều có quyền tham gia
vào việc điều hành xứ sở của mình, một cách trực tiếp hay qua các đại biểu
được tuyển chọn một cách tự do. Ý muốn của người dân phải là nền tảng của
quyền lực chính quyền. Ý muốn này phải được thể hiện qua các cuộc bầu cử
định kỳ và thực sự, bằng phiếu kín, qua phương thức phổ thông và bình đẳng
đầu phiếu, hay các phương thức tương đương của bầu cử tự do”, mọi người
26
có quyền tự do hội họp, lập hội, đề đạt ý kiến.... Như vậy, phụ nữ cũng như
nam giới được bính đẳng cùng tham gia vào mọi hoạt động của đời sống
chình trị - xã hội, đồng thời cùng được thừa hưởng mọi thành quả của tiến bộ
xã hội, đó chình là biểu hiện sinh động năng lực làm chủ xã hội của nam giới
và nữ giới, tham gia đóng góp vào các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Công ước về các quyền chình trị của phụ nữ năm 1952 là công ước quy
định riêng biệt quyền chình trị của phụ nữ trên cơ sở thực hiện các nguyên tắc
bính đẳng giữa nam và nữ được nêu trong Hiến chương Liên hợp quốc và
Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền. Công ước Thừa nhận rằng: Mọi người có
quyền tham gia vào chính phủ của nước mình một cách gián tiếp hoặc thông
qua các đại diện do họ tự do lựa chọn, và có quyền tiếp cận bình đẳng với
dịch vụ công cộng của nước mình. Công ước xác lập quyền chình trị của phụ
nữ như: "Phụ nữ có quyền bỏ phiếu trong mọi cuộc bầu cử trên cơ sở bình
đẳng với nam giới, không có bất kỳ sự phân biệt đối xử nào” (Điều 1); "Phụ
nữ có quyền được bầu vào mọi cơ quan nhà nước do dân cử được thành lập
theo quy định của pháp luật quốc gia, trên cơ sở bình đẳng với nam giới,
không có bất kỳ sự phân biệt đối xử nào”(Điều 2); "Phụ nữ có quyền làm việc
tại các cơ quan nhà nước và thực hiện mọi chức năng công quyền theo quy
định của pháp luật, trên cơ sở bình đẳng với nam giới, không có bất kỳ sự
phân biệt đối xử nào”(Điều 3). Như vậy, Công ước xác lập quyền của phụ nữ
được bính đẳng với nam giới trong việc tham gia vào các công việc của Chình
phủ mà không bị bất kỳ một trở ngại nào.
Công ước quốc tế về quyền chình trị và dân sự năm 1966, quyền chình
trị là những nhu cầu, những lợi ìch chình trị tự nhiên vốn có và khách quan
của con người, quyền tự do ý kiến và biểu đạt, quyền tự do lập hội, hội họp
một cách hòa bính, quyền tham gia vào đời sống chình trị. Hiểu theo nghĩa
này, quyền chình trị là một bộ phận cấu thành trong nội dung quyền con
27
người. Như vậy, khi đề cập đến các quyền con người về chình trị trước hết
người ta đề cập đến quyền tự do và bính đẳng. Để một cá nhân có thể tự do,
bính đẳng, cá nhân đó phải có đầy đủ năng lực chủ thể pháp luật, có quyền tự
do ý chì và các quyền khác.
Công ước CEDAW là văn kiện pháp lý chuyên biệt quy định về các
quyền con người của phụ nữ. Công ước có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với
phụ nữ ví nó thực hiện hóa các quyền con người của phụ nữ trong đó có
quyền chình trị, Công ước xác định cách thức, biện pháp loại trừ những sự
phân biệt đối xử với phụ nữ trong việc thụ hưởng các quyền con người đã
được thừa nhận nhưng trên thực tế họ chưa được hưởng. Quyền chình trị của
phụ nữ được xác lập tại Điều 7 của CEDAW gồm: Tham gia bỏ phiếu trong
mọi cuộc bầu cử và trưng cầu dân ý, được quyền ứng cử vào tất cả các cơ
quan dân cử; Được tham gia xây dựng và thực hiện các chính sách của chính
phủ, tham gia vào bộ máy và các chức vụ nhà nước ở mọi cấp chính quyền;
Tham gia vào các tổ chức xã hội và hiệp hội phi chính phủ liên quan đến đời
sống công cộng và chính trị của đất nước. Điều này đòi hỏi các quốc gia
thành viên tham gia Công ước phải áp dụng mọi biện pháp thìch hợp nhằm
xóa bỏ sự phân biệt đối xử với phụ nữ trong đời sống chình trị và cộng đồng
của đất nước và đặc biệt là phải đảm bảo cho phụ nữ, trên cơ sở bính đẳng với
nam giới, được thụ hưởng các quyền đó.
Theo tinh thần của Công ước CEDAW có 3 nguyên tắc cần tuân thủ để
bảo đảm thực thi các quyền con người, trong đó có quyền chình trị, đó là:
Nguyên tắc bính đẳng giới, nguyên tắc không phân biệt đối xử, nguyên tắc
trách nhiệm quốc gia. Ba nguyên tắc trên được xem là chuẩn mực khi xem xét
việc đảm bảo thực thi bất cứ quyền nào của phụ nữ, trong đó có quyền chình
trị. Ngoài ra, việc thực hiện các quyền của phụ nữ phải đảm bảo thực hiện
quyền dân chủ cả về trực tiếp và gián tiếp trong xã hội trên thực tế. Đó là việc
28
phụ nữ bính đẳng với nam giới được trực tiếp tham gia vào toàn bộ quá trính
quản lý nhà nước, từ khâu xây dựng, hoạch định chình sách đến việc triển
khai cụ thể, hoặc trực tiếp tham gia giám sát, kiểm tra hoạt động của các cơ
quan công quyền thực hiện quyền lực được giao. Thực hiện quyền dân chủ ở
cơ sở thể hiện ở chỗ phụ nữ được tham gia góp ý kiến bằng nhiều hính thức
vào các vấn đề liên quan đến đời sống cộng đồng và những vấn đề liên quan
đến quyền và lợi ìch của phụ nữ. Hính thức dân chủ gián tiếp là phụ nữ tham
gia bầu cử người đại diện và ứng cử vào các cơ quan dân cử, cơ quan đại diện
quyền lực nhà nước.
1.2.2. Pháp luật Việt Nam về quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chính trị
Ở Việt Nam, đối với phụ nữ, Đảng và Nhà nước ta luôn dành sự quan
tâm đặc biệt cho phụ nữ, bảo vệ lợi ìch chình đáng của phụ nữ trên mọi mặt
của đời sống chình trị-xã hội. Trong Luận cương Chình trị năm 1930 của
Đảng, tư tưởng giải phóng phụ nữ và tôn trọng quyền lợi của phụ nữ đã được
ghi nhận, trở thành tuyên ngôn đầu tiên về quyền bính đẳng nam nữ, phụ nữ
được công nhận ngang hàng với nam giới về mặt chình trị. Trong toàn bộ quá
trính lãnh đạo cách mạng Việt Nam, tư tưởng chỉ đạo nhất quán và xuyên suốt
của Đảng ta là bảo đảm quyền bính đẳng và không phân biệt đối xử với phụ
nữ. Tư tưởng này cũng được thể chế hóa trong Hiến pháp và pháp luật của
Nhà nước, biến nó trở thành chuẩn mực, quy tắc xử xự bắt buộc chung đối với
toàn xã hội.
1.2.2.1. Hiến định quyền chính trị của phụ nữ
Tháng 10/1946 bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ
cộng hòa chình thức được ban hành, quyền bính đẳng giữa nam và nữ được
công nhận tại Điều thứ 9 “Đàn bà ngang quyền đàn ông về mọi phương diện”.
Quyền chình trị của phụ nữ với tư cách là công dân được xác lập tại Điều thứ
6 “Tất cả công dân Việt Nam đều ngang quyền về mọi phương diện: chính trị,
29
kinh tế, văn hoá”; Điều thứ 7“Tất cả công dân Việt Nam đều bình đẳng trước
pháp luật, đều được tham gia chính quyền và công cuộc kiến quốc tuỳ theo tài
năng và đức hạnh của mình”; Điều thứ 21“Nhân dân có quyền phúc quyết về
Hiến pháp và những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia”... Có thể nói, quy
định của Hiến pháp năm 1946 có ý nghĩa rất lớn trong bối cảnh nước Việt
Nam dân chủ cộng hòa vừa mới được thành lập, góp phần phá tan xiềng xìch
tư tưởng “trọng nam khinh nữ” của chế độ phong kiến và chế độ thuộc địa
nửa phong kiến đã ngự trị hàng ngàn năm qua.
Điều 24 Hiến pháp năm 1959 quy định: “Phụ nữ nước Việt Nam dân
chủ cộng hòa có quyền bình đẳng với nam giới về các mặt sinh hoạt chính trị,
kinh tế, văn hóa, xã hội và gia đình’’. Như vậy so với Hiến pháp năm 1946,
Hiến pháp năm 1959 đã cụ thể hóa hơn các lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực
chình trị mà người phụ nữ được quyền bính đẳng với nam giới. Quyền chình
trị được ghi nhận với tư cách là công dân: Từ mười tám tuổi trở lên đều có
quyền bầu cử, từ hai mốt tuổi trở lên đều có quyền ứng cử, có các quyền tự do
ngôn luận, báo chí, hội họp, lập hội và biểu tình. Nhà nước bảo đảm những
điều kiện vật chất cần thiết để công dân được hưởng các quyền đó. Đó là sự
ghi nhận, trân trọng và đảm bảo của toàn xã hội đối với công dân, là động lực
khuyến khìch phụ nữ vươn lên, có trách nhiệm, nghĩa vụ làm chủ nước nhà.
Kế thừa bản Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980 khẳng
định:“Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật” (Điều 55); “Công dân
nữ và nam có quyền ngang nhau về mọi mặt chính trị, kinh tế, xã hội và gia
đình”. Hiến pháp năm 1980 tiếp tục khẳng định quyền bính đẳng giới của
công dân nam, nữ trong xã hội. Trên cơ sở đó, quyền chình trị của phụ nữ với
tư cách là công dân được xác định. Điều 56 “Công dân có quyền tham gia
quản lý công việc của Nhà nước và của xã hội”; Điều 57 “Công dân không
phân biệt dân tộc, nam nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng tôn giáo, trình độ
30
văn hoá, nghề nghiệp, thời hạn cư trú, từ 18 tuổi trở lên đều có quyền bầu cử
và từ 21 tuổi trở lên đều có thể được bầu vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân
các cấp". Ngoài ra Hiến pháp còn có các quy định nghiêm cấm mọi hành vi
phân biệt đối xử với phụ nữ, xúc phạm nhân phẩm phụ nữ, quan tâm đến lao
động nữ trên các lĩnh vực. Đặc biệt quy định nhà nước và xã hội tạo điều kiện
để phụ nữ nâng cao trính độ mọi mặt, không ngừng phát huy vai trò của mính
trong xã hội... Có thể khẳng định, Hiến pháp năm 1980 quyền của công dân
Việt Nam nói chung, quyền bính đẳng giới và quyền chình trị của phụ nữ nói
riêng đã được khẳng định ở tầm cao hơn, cụ thể hơn.
Hiến pháp năm 1992 là bản Hiến pháp trong thời kỳ đổi mới, phát huy
vai trò của con người, vai trò của công dân bước vào thời kỳ mới. Hiến pháp
quy định "các quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hoá và xã hội
được tôn trọng" (Điều 50). Kế thừa Hiến pháp 1980, Hiến pháp 1992 nhấn
mạnh quy định bảo vệ quyền bính đẳng của người phụ nữ:“Nghiêm cấm mọi
hành vi phân biệt đối xử với phụ nữ, xúc phạm nhân phẩm phụ nữ”(Điều 63).
Theo Hiến pháp, với tư cách là công dân bính đẳng trước pháp luật, quyền
chình trị của phụ nữ được ghi nhận là các quyền ứng cử, bầu cử, tự do ngôn
luận, tự do thông tin, hội họp, lập hội... Đặc biệt tại điều 53 “Công dân có
quyền tham gia quản lý Nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận các vấn đề
chung của cả nước và địa phương, kiến nghị với cơ quan Nhà nước, biểu
quyết khi Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân”. Nhà nước và xã hội tạo điều
kiện để phụ nữ nâng cao trính độ mọi mặt, không ngừng phát huy vai trò của
mính trong xã hội. Có thể nói, bản Hiến pháp năm 1992 thể chế hóa đầy đủ
hơn, sâu sắc hơn quan điểm của Đảng và nhà nước ta về quyền con người, đề
cao chủ quyền nhân dân, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa và đảm bảo tất cả
quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân... nhằm phát huy sức mạnh, nguồn lực
31
của các tầng lớp nhân dân bước vào thời kỳ mới
Hiến pháp năm 2013 có sự phát triển thể hiện tầm quan trọng về quyền
con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, trong đó có quyền bính
đẳng giới, quyền chình trị của phụ nữ với tư cách là một công dân. Hiến pháp
năm 2013 khẳng định: “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các
quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội
được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật…”
(Điều 14); “Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật. Không ai bị phân biệt
đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội” (Điều 16);
“Công dân nam, nữ bình đẳng về mọi mặt. Nhà nước có chính sách bảo đảm
quyền và cơ hội bình đẳng giới. Nhà nước, xã hội và gia đình tạo điều kiện để
phụ nữ phát triển toàn diện, phát huy vai trò của mình trong xã hội. Nghiêm
cấm phân biệt đối xử về giới”(Điều 26). “Công dân đủ 18 tuổi trở lên có
quyền bầu cử và đủ 21 tuổi trở lên có quyền ứng cử vào Quốc hội, Hội đồng
nhân dân. Việc thực hiện các quyền này do luật định” (Điều 27); "Công dân
đủ 18 tuổi trở lên có quyền biểu quyết khi Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân"
(Điều 29); "Công dân có quyền tham gia quản lý Nhà nước và xã hội về các
vấn đề của cơ sở, địa phương và cả nước". "Nhà nước tạo điều kiện để công
dân tham gia quản lý nhà nước và xã hội; công khai, minh bạch trong việc
tiếp nhận, phản hồi ý kiến, kiến nghị của công dân" (Điều 28); “Nhân dân
thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, bằng dân chủ đại diện
thông qua Quốc Hội, Hội đồng nhân dân và thông qua các cơ quan khác của
nhà nước” [30, Điều 6]; "Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí,
tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do
pháp luật quy định" (Điều 25). Các điều khoản trên được quy định trong Hiến
pháp đã tạo cơ sở pháp lý cho việc xác lập quyền bính đẳng của nam giới và
32
nữ giới trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có lĩnh vực chình trị.
1.2.2.2. Quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật về quyền chính trị và
cơ chế đảm bảo quyền chính trị của phụ nữ
Trên quan điểm về bính đẳng giới nói chung, quyền chình trị nói riêng
được khẳng định trong Hiến pháp nước ta đã được thể chế hóa trong các văn
bản pháp luật Việt Nam trong quá trính xây dựng nhà nước pháp quyền dân
chủ nhân dân nhằm phù hợp với xu thế phát triển của đất nước và thời đại.
Năm 2006, Quốc hội Việt Nam đã thông qua Luật Bính đẳng giới,
trong đó, Điều 11 ghi nhận bính đẳng trong lĩnh vực chình trị, bao gồm: Bình
đẳng trong tham gia quản lý nhà nước, tham gia hoạt động xã hội; Bình đẳng
trong tham gia xây dựng và thực hiện hương ước, quy ước của cộng đồng
hoặc quy định, quy chế của cơ quan, tổ chức; Bình đẳng trong việc tự ứng cử
và được giới thiệu ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân; tự
ứng cử và được giới thiệu ứng cử vào cơ quan lãnh đạo của tổ chức chính trị,
tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã
hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp; Bình đẳng về tiêu chuẩn chuyên môn, độ
tuổi khi được đề bạt, bổ nhiệm vào cùng vị trí quản lý, lãnh đạo của cơ quan,
tổ chức. Ngoài ra còn quy định các biện pháp thúc đẩy bính đẳng giới trong
lĩnh vực chình trị bao gồm: Bảo đảm tỷ lệ thích đáng nữ đại biểu Quốc hội,
đại biểu Hội đồng nhân dân phù hợp với mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới;
Bảo đảm tỷ lệ nữ thích đáng trong bổ nhiệm các chức danh trong cơ quan
nhà nước phù hợp với mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới.
Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội Đồng nhân dân năm
2015 quy định quyền bính đẳng của công dân nam và nữ về quyền bầu cử và
ứng cử đại biểu Quốc Hội và đại biểu Hội Đồng nhân dân các cấp: “Công dân
đủ 18 tuổi trở lên có quyền bầu cử và đủ 21 tuổi trở lên có quyền ứng cử vào
Quốc hội, Hội đồng nhân dân. Việc thực hiện các quyền này do luật định”.
33
Đồng thời, để đảm bảo tỷ lệ nữ tham gia đại biểu Quốc Hội và đại biểu Hội
Đồng nhân dân các cấp, Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội Đồng
nhân dân năm 2015 cũng đã quy định các vấn đề liên quan đến việc cơ cấu số
lượng nữ Đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội Đồng nhân dân các cấp phải bảo
đảm có ìt nhất 35% tổng số người trong danh sách chình thức những người
ứng cử đại biểu Quốc Hội và đại biểu Hội Đồng nhân dân các cấp là phụ nữ
(Khoản 3 Điều 8 và Khoản 1, 2 Điều 9). Đây cũng chình là biện pháp để đảm
bảo quyền chình trị của phụ nữ mà Việt Nam đã cam kết quốc tế về thực hiện
Công ước CEDAW cũng như các Công ước quốc tế khác.
Bên cạnh còn có các văn bản pháp luật quy định những biện pháp
nghiêm minh nhằm bảo vệ quyền chình trị của phụ nữ như: Bộ Luật Dân sự,
Bộ Luật Tố tụng hính sự, Luật xử lý vi phạm hành chình,...Đặc biệt, Bộ luật
hính sự hiện hành của Việt Nam năm 2015 quy định "Người nào lừa gạt, mua
chuộc, cưỡng ép hoặc dùng thủ đoạn khác cản trở công dân thực hiện quyền
bầu cử, quyền ứng cử hoặc trưng cầu ý dân thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo
không giam giữ đến 01 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm" (Điều
160); "Người nào vì lý do giới mà thực hiện hành vi dưới bất kỳ hình thức nào
cản trở người khác tham gia hoạt động trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế,
lao động, ....đã bị xử lý kỷ luật hoặc xử phạt vi phạm hành chính về hành vi
này mà còn vi phạm, thì bị phạt cảnh cáo, phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến
50.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm" (Điều 165).
Những quy định của các văn bản pháp luật trên là cơ sở bảo vệ về mặt pháp lý
ngăn ngừa sự phân biệt, đối xử với phụ nữ trong đời sống chình trị nói riêng,
trong các lĩnh vực của đời sống xã hội nói chung.
Ngoài ra, còn có các văn bản dưới luật cụ thể hóa về bảo đảm quyền
chình trị của phụ nữ, như: Nghị định 56/2012/NĐ-CP ngày 16/7/2012 của
Chình phủ về trách nhiệm của các bộ, ngành, ủy ban nhân dân các cấp trong
34
việc đảm bảo các cấp Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam tham gia quản lý nhà
nước; Quyết định số 2351/QĐ-TTg ngày 24/12/2010 của Thủ tướng chình
phủ về Chiến lược quốc gia về Bính đẳng giới giai đoạn 2011- 2020; Quyết
định số 1696/QĐ-TTg ngày 02/10/2015 của Thủ tướng chình phủ về phê
duyệt Chương trính hành động quốc gia về Bính đẳng giới giai đoạn 2016-
2020; Nghị quyết số 11/NQ/TW ngày 27/4/2007 của Bộ Chình trị về công tác
phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước...
Như vậy, quyền chình trị của phụ nữ đã có một cơ sở pháp lý đầy đủ
và toàn diện từ việc xác lập đến việc bảo vệ bằng pháp luật về quyền chình
trị của phụ nữ, đồng thời cũng đảm bảo cam kết quốc tế trong việc bảo đảm
quyền của phụ nữ trên 3 nguyên tắc của công ước CEDAW, đó là nguyên
tắc bính đẳng giới, nguyên tắc không phân biệt đối xử và nguyên tắc trách
nhiệm quốc gia.
1.3. Các điều kiện đảm bảo quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chính trị
1.3.1. Điều kiện chính trị
Điều kiện chình trị là toàn bộ các yếu tố tạo nên đời sống chình trị của
xã hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất định, bao gồm môi trường chình trị, hệ
thống các chuẩn mực chình trị, chủ trương, đường lối, chình sách của Đảng và
quá trính tổ chức thực hiện chúng; các quan hệ chình trị và ý thức chình trị;
hoạt động của hệ thống chình trị; cùng với đó là nền dân chủ xã hội và bầu
không khì chình trị - xã hội. Điều kiện chình trị chình là môi trường chình trị,
đó là điều kiện thuận lợi hoặc khó khăn đối với hoạt động thực hiện pháp luật.
Ở Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng duy nhất lãnh đạo
nhà nước Việt Nam là Nhà nước thực sự của nhân dân, do nhân dân và ví
nhân dân. Đảng lãnh đạo bằng việc đề ra chủ trương, đường lối chình trị là
nhằm xây dựng và bảo vệ lãnh thổ, bảo vệ độc lập dân tộc, xây dựng nền kinh
tế phát triển, nền dân chủ thực sự. Ví vậy, đường lối chình trị đó phải được
35
thể chế hóa trong Hiến pháp và pháp luật. Hiến pháp quy định chế độ chình
trị, tổ chức hoạt động của các cơ quan nhà nước và tổ chức xã hội, quyền và
nghĩa vụ cơ bản của công dân. Đó chình là cơ sở pháp lý để xây dựng một xã
hội có cơ cấu tổ chức và chế độ chình trị hướng tới tôn trọng, bảo vệ quyền
con người, quyền bính đẳng giới và quyền chình trị. Để thực hiện mục tiêu
“dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, các chủ trương, chình
sách của Đảng về phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, bảo đảm quyền con
người, quyền bính đẳng, quyền chình trị… trở thành hiện thực trong cuộc
sống xã hội thí sự lãnh đạo của Đảng phải được thể chế hóa thành pháp luật.
Ở nước ta, Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà
nước và xã hội. Do vậy, sự lãnh đạo của Đảng có vai trò quan trọng trong việc
định hướng, chỉ đạo sự tham gia chình trị của phụ nữ. Từ rất sớm, trong
cương lĩnh chình trị đầu tiên của Đảng đã quan tâm đến quyền lợi chình trị
của các tầng lớp nhân dân trong đó có phụ nữ. Các Nghị quyết Đại hội Đảng
toàn quốc cũng đều từng bước khẳng định vị thế, vai trò của phụ nữ trong đời
sống xã hội. Đồng thời cả hệ thống chình trị đã quan tâm đến sự tiến bộ của
phụ nữ và đã thành lập Ban Ví sự tiến bộ của phụ nữ. Đây là môi trường
chình trị thuận lợi tác động đến việc bảo đảm quyền chình trị của phụ nữ.
1.3.2. Điều kiện nhận thức
Để đảm bảo sự bính đẳng và những quyền lợi chình đáng của phụ nữ,
một trong những thách thức lớn đối với phụ nữ Việt Nam cần phải nhận thức
được rằng bản thân người phụ nữ phải vượt qua định kiến giới từ ngàn xưa
vẫn còn tồn tại trong xã hội. Phụ nữ cần phải phát huy vai trò năng lực của
mính, vượt qua các rào cản từ phìa cộng đồng, gia đính và bản thân để cùng
với nam giới tham gia ý kiến về các vấn đề của quốc gia. Người phụ nữ phải
vào cuộc, phải tự mính nâng cao năng lực chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp,
tự mính đề xuất những tâm tư, nguyện vọng, tự mính khẳng định năng lực và
36
vị trì của mính ở các góc độ khác nhau từ cộng đồng đến quốc gia và quốc tế.
Để làm được điều này, người phụ nữ phải nỗ lực rất nhiều, phải vượt qua
chình mính, vượt qua những định kiến giới.
Bên cạnh đó, người phụ nữ cũng rất cần sự quan tâm của Đảng và Nhà
nước, gia đính và toàn xã hội nhín nhận về vai trò vị trì của phụ nữ một cách
đầy đủ và đúng đắn, có những chình sách thiết thực khuyến khìch, tăng
cường, phát huy vai trò và vị trì của phụ nữ, trao quyền thật sự cho phụ nữ để
phụ nữ được tham gia vào đời sống chình trị, xã hội.
1.3.3. Điều kiện pháp lý
Bảo đảm quyền chình trị của phụ nữ là một quá trính, phụ thuộc vào
tổng thể nhiều điều kiện khác nhau như kinh tế, chình trị, văn hóa, pháp
luật…trong đó, pháp luật có vai trò quan trọng hàng đầu. Pháp luật là phương
tiện chình thức hóa các giá trị của quyền con người, quyền bính đẳng giới,
quyền chình trị. Các quyền đó được thể chế hóa và mang tình bắt buộc, được
thừa nhận và bảo vệ. Pháp luật không chỉ ghi nhận các quyền chình trị của
phụ nữ mà còn xác định trách nhiệm của Nhà nước và các thiết chế chình trị -
xã hội khác, đồng thời tạo ra các bảo đảm trong quá trính hiện thực hóa các
quyền chình trị của phụ nữ. Pháp luật là cơ sở, là căn cứ để công dân đánh
giá, kiểm tra, đối chiếu các hành vi từ phìa Nhà nước và các thành viên trong
xã hội, đấu tranh bảo vệ các quyền và lợi ìch hợp pháp của mính. Như vậy,
với chức năng là công cụ để nhà nước quản lý, bảo vệ các giá trị xã hội và bảo
đảm công bằng xã hội, pháp luật có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc xác
lập quyền chình trị của phụ nữ trong xã hội. Pháp luật còn có vai trò quan
trọng tạo tiền đề cho phụ nữ thực hiện các quyền chình trị được pháp luật đã
ghi nhận.
1.3.4. Điều kiện xã hội
Tình chất, mức độ của nền dân chủ xã hội có ảnh hưởng quan trọng tới
37
hoạt động thực hiện pháp luật. Nền dân chủ rộng rãi, thông tin đa dạng, phong
phú, nhiều chiều sẽ giúp các tầng lớp xã hội thẳng thắn công khai, cởi mở bày
tỏ chình kiến, quan điểm của mính đối với pháp luật và các cơ quan thực thi
pháp luật trong quá trính thực hiện quyền chình trị nói chung, quyền chình trị
của phụ nữ nói riêng.
Việc thực hiện các chình sách xã hội, đảm bảo các nguyên tắc của công
bằng xã hội có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với việc thực hiện pháp luật. Nó
là điều kiện cần thiết cho sự ổn định chình trị, tăng cường pháp chế và đoàn
kết mọi tầng lớp nhân dân trong xã hội; củng cố ý thức của con người về cái
chung trong các lợi ìch, lý tưởng của họ, khơi dậy thái độ tìch cực của quần
chúng đối với việc tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội bằng pháp luật;
nhờ đó, ý thức tôn trọng, chấp hành pháp luật cũng được nâng lên một bước
và việc thực hiện pháp luật của các chủ thể trở nên tự giác và chủ động hơn.
Trong xã hội hiện đại, phụ nữ Việt Nam có vị thế và vai trò quan trọng,
là nhân vật không thể thiếu trong các hoạt động xã hội. Do nhận thức đầy đủ
về vị trì quan trọng của mính, phần lớn phụ nữ Việt Nam ngày nay đã chủ
động khắc phục khó khăn, vượt qua nhiều mặc cảm, tự ti, nỗ lực phấn đấu để
vươn lên nâng cao trính độ năng lực, tìch cực học tập để hoàn thiện mính đáp
ứng với yêu cầu nhiệm vụ ngày càng cao của xã hội.
1.3.5. Điều kiện kinh tế
Điều kiện kinh tế hiểu theo nghĩa rộng bao gồm tổng thể các yếu tố,
hoàn cảnh về kinh tế xã hội, hệ thống chình sách kinh tế... Yếu tố kinh tế là
nền tảng của sự nhận thức hiểu biết về quyền con người, quyền công dân,
đồng thời là cơ sở để hiện thực hóa các quy định pháp luật về quyền con
người, quyền công dân.
Điều kiện kinh tế có ảnh hưởng rất quan trọng đến lợi ìch và do đó, tác
động đến tư tưởng, quan điểm, thái độ, niềm tin của các tầng lớp nhân dân đối
38
với pháp luật. Khi nền kinh tế phát triển, đời sống vật chất của các tầng lớp
dân cư được cải thiện, lợi ìch kinh tế được đảm bảo thí nhân dân sẽ phấn khởi
tin tưởng vào đường lối kinh tế, chình sách pháp luật, sự lãnh đạo của Đảng
và hoạt động điều hành, quản lý của Nhà Nước. Khi đó, niềm tin của các chủ
thể đối với pháp luật được củng cố. Quá trính thực hiện quyền con người sẽ
mang tình tìch cực, thuận chiều, phù hợp với các giá trị, chuẩn mực pháp luật
hiện hành. Khi kinh tế phát triển, đời sống vật chất, tinh thần được cải thiện,
các cán bộ, công chức nhà nước, các tầng lớp nhân dân có điều kiện mua sắm
các phương tiện nghe, nhín, có điều kiện thỏa mãn các nhu cầu thông tin đa
dạng và cập nhật. Các chương trính phổ biến, giáo dục pháp luật và quyền con
người sẽ dễ dàng đến được với đông đảo cán bộ và nhân dân. Điều đó giúp
cho hoạt động thực hiện pháp luật của các chủ thể mang tình tìch cực, tự giác.
Khi kinh tế chậm phát triển, thu nhập thấp, tính trạng thất nghiệp gia tăng, lợi
ìch kinh tế không được đảm bảo, đời sống của cán bộ nhân dân gặp khó khăn
thí tư tưởng sẽ diễn biến phức tạp, cái xấu có cơ hội nảy sinh, tác động tiêu
39
cực tới nhận thức và thực hiện quyền chình trị của công dân.
Tiểu kết chương 1
Quyền chình trị thuộc hệ thống các quyền con người và là một trong
những quyền quan trọng nhất của con người.
Phụ nữ vốn là nhóm người dễ bị tổn thương, có tâm sinh lý đặc biệt và
chịu nhiều định kiến của xã hội. Ví vậy, bảo đảm quyền của phụ nữ, trong đó
có quyền chình trị của phụ nữ là một trong những dấu hiệu nhận biết của một
xã hội văn minh, hiện đại, dân chủ, nhân quyền.
Quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chình trị được pháp luật quốc tế ghi
nhận ở các tầng nấc khác nhau.
Ở Việt Nam, quyền chình trị của công dân nói chung và của phụ nữ nói
riêng được Hiến pháp và pháp luật ghi nhận, bảo đảm và bảo vệ. Phụ nữ có
quyền bính đẳng trong đời sống chình trị. Như các công dân khác, phụ nữ có
quyền ứng cử, bầu cử, tham gia quản lý Nhà nước và xã hội, tham gia thảo
luận và kiến nghị với cơ quan nhà nước về các vấn đề của cơ sở, địa phương
và cả nước, tham gia biểu quyết khi Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân.
Để quyền chình trị của phụ nữ được hiện thực hóa, cần có những điều
kiện đảm bảo. Các điều kiện đó bao gồm các phương diện: chình trị, nhận
thức, kinh tế, xã hội....Theo đó, việc tạo lập các điều kiện để thực hiện các
quyền chình trị của phụ nữ là trách nhiệm của Nhà nước và xã hội, cần phải
40
được triển khai theo những lộ trính phù hợp.
Chương 2:
THỰC TRẠNG QUYỀN CỦA PHỤ NỮ
TRONG LĨNH VỰC CHÍNH TRỊ Ở TỈNH PHÚ YÊN HIỆN NAY
2.1. Một số yếu tố đặc thù của tỉnh Phú Yên có ảnh hƣởng tới việc thực
hiện quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chính trị
2.1.1. Khái quát các đặc thù về địa lý – dân cư, tình hình kinh tế - xã hội
của tỉnh Phú Yên
Phú Yên là một tỉnh thuộc vùng duyên hải Nam Trung bộ với diện tìch tự nhiên là 5.060 km2, phìa Bắc giáp tỉnh Bính Định, phìa Nam giáp tỉnh
Khánh Hòa, phìa Tây giáp tỉnh Gia Lai và Đắk Lắk, phìa Đông giáp biển
Đông. Phú Yên có vị trì địa lý và giao thông tương đối thuận lợi để phát triển
kinh tế - xã hội.
Tỉnh Phú Yên có 09 đơn vị hành chình gồm các huyện: Đồng Xuân,
Đông Hòa, Sông Hinh, Sơn Hòa, Phú Hòa, Tây Hòa, Tuy An, thị xã Sông
Cầu và thành phố Tuy Hòa (là trung tâm tỉnh lỵ). Dân số trong toàn tỉnh (tình
đến tháng 9 năm 2017) là 904.484 người, mật độ dân số năm 2016 là 172 người/km2. Tổng số lao động làm việc trong nền kinh tế quốc dân toàn tỉnh
Phú Yên là 498.710 người. Trong đó, tỷ lệ lao động trong khu vực nông, lâm,
ngư nghiệp là 295.236 người chiếm 59,2%; khu vực công nghiệp - xây dựng
là 81.789 người chiếm 16,4%; khu vực dịch vụ là 121.685 người chiếm
24,4% tổng số lao động làm việc trong các ngành kinh tế quốc dân.
Phú Yên có nền văn hóa truyền thống đầy bản sắc được kế thừa
và không ngừng phát triển làm phong phú và đa dạng đời sống tinh thần của
31 dân tộc anh em trong tỉnh. Phú Yên còn là một vùng đất có bề dày lịch sử
và chiều sâu văn hóa, nét đặc sắc của văn hóa Phú Yên là sự đan xen, giao
41
thoa và hòa hợp của nền văn hóa Việt- Chăm.
Xuất phát từ vị trì địa lý, về đặc điểm dân cư và truyền thống lịch sử,
văn hóa của tỉnh Phú Yên, trong quá trính thực hiện sự nghiệp đổi mới do
Đảng lãnh đạo, Phú Yên đã và đang có những bước phát triển khá, đạt được
các thành tựu quan trọng về kinh tế - văn hóa - xã hội, an ninh quốc phòng,
đời sống nhân dân từng bước được cải thiện.
Tuy nhiên, so với các tỉnh Nam Trung bộ, Phú Yên vẫn còn là một tỉnh
nghèo, trong đó có hai huyện miền núi Sông Hinh và Đồng Xuân được xếp
trong 62 huyện nghèo của cả nước. Toàn tỉnh có thu nhập bính quân đầu
người thấp so với mức bính quân chung của cả nước, đời sống của nhân dân
nói chung và của phụ nữ nói riêng, đặc biệt ở khu vực nông thôn, miền núi
còn gặp nhiều khó khăn. Kinh tế nông nghiệp với tỷ trọng chiếm 77,8 % kinh
tế của tỉnh Phú Yên. Sản xuất nông nghiệp mặc dù đã được áp dụng các tiến
bộ khoa học kỹ thuật nhưng do ảnh hưởng thời tiết nắng hạn kéo dài, thiên tai
lớn do bão lũ, dịch bệnh ở người và một số cây trồng, thủy sản nuôi tái diễn...
đã ảnh hưởng đến tính hính sản xuất, kinh doanh và đời sống nhân dân, làm
cho một bộ phận nông dân phải sản xuất trong điều kiện khó khăn, gian khổ.
Theo tập quán trong sinh hoạt cuộc sống gia đính, phần lớn công việc
nội trợ vẫn tập trung vào người phụ nữ, phụ nữ có vai trò thấp hơn nam giới,
coi trọng con trai hơn con gái. Về định kiến giới, gánh nặng trách nhiệm với
gia đính, cơ chế thị trường và sự phát triển xã hội đang làm đầy thêm gánh
nặng trách nhiệm của người phụ nữ trong thiên chức người vợ, người mẹ,
người thầy đầu tiên của con cái. Quỹ thời gian của phụ nữ bị phân tán vào
công việc nội trợ, chăm sóc gia đính cộng với đời sống khó khăn về kinh tế
khiến nhiều chị em ìt có điều kiện để tiếp cận với những cơ hội để phát triển
bản thân. Gánh nặng gia đính bao giờ cũng dồn lên trách nhiệm của người
42
phụ nữ, bởi vậy, nó tỷ lệ nghịch đối với sự phát triển vươn lên vị trì lãnh đạo,
quản lý của người phụ nữ. Đây là một thách thức đặt ra đối với hầu hết phụ
nữ và tác động không nhỏ đến cơ hội thăng tiến của phụ nữ trong tỉnh.
2.1.2. Tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị tại tỉnh Phú Yên
Tỉnh Phú Yên có 09 đơn vị hành chình huyện, thị xã, thành phố, với
112 xã, phường, thị trấn (88 xã, 16 phường và 8 thị trấn). Tổng số cán bộ,
công chức, viên chức toàn tỉnh là 23.867 người, trong đó cán bộ, công chức,
viên chức nữ là 11.798 người, chiếm tỷ lệ 49,4%.
Hệ thống chình trị trong toàn tỉnh cơ bản hoạt động hiệu quả, vững
mạnh, thường xuyên được củng cố, kiện toàn; năng lực lãnh đạo của tổ chức
đảng, hiệu lực quản lý, điều hành của chình quyền, sự phối hợp hoạt động của
Mặt trận và các đoàn thể chình trị - xã hội ngày càng hiệu quả, đáp ứng yêu
cầu và nguyện vọng chình đáng của nhân dân, đảm bảo thực hiện tốt nhiệm
vụ chình trị, đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh trật tự, an
toàn xã hội ở địa phương. Chất lượng đội ngũ cán bộ cơ sở được nâng cao;
đội ngũ cán bộ được trẻ hóa, có trính độ, năng lực, ý thức tổ chức kỷ luật cao,
nhiệt tính trong công tác, cơ bản đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ trong giai
đoạn hiện nay. Luôn thể hiện tinh thần phát huy dân chủ, tạo sự đồng thuận
trong việc thực hiện các chủ trương, nghị quyết của Đảng và chình sách, pháp
luật của Nhà nước.
2.1.3. Quá trình phát huy vai trò và khả năng tham gia của phụ nữ trong
lĩnh vực chính trị ở tỉnh Phú Yên
Trong lịch sử, phụ nữ tỉnh Phú Yên luôn giữ vai trò quan trọng và có
những đóng góp đáng kể cho sự nghiệp dựng nước, giữ nước, xây dựng và
phát triển đất nước. Kế tục truyền thống đấu tranh bất khuất, kiên cường của
Bà Trưng, Bà Triệu, lịch sử lại tiếp tục ghi nhận hàng vạn tấm gương phụ nữ
đã cống hiến, hy sinh ví độc lập tự do của Tổ quốc trong cuộc kháng chiến
43
chống mỹ cứu nước.
Bước vào công cuộc xây dựng và đổi mới đất nước, phụ nữ Phú Yên
vượt qua khó khăn, cần cù lao động, vươn lên thoát nghèo; các tầng lớp phụ
nữ Phú Yên ngày càng thể hiện vai trò quan trọng của mính tham gia đóng
góp công sức trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, góp phần vào công cuộc
phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, của đất nước.
Trong lĩnh vực phát triển kinh tế, phong trào thi đua lao động sáng tạo,
phong trào phụ nữ giúp nhau phát triển kinh tế gia đính đã thu hút đông đảo
các tầng lớp phụ nữ tham gia. Đến nay các cấp Hội toàn tỉnh đã tìn chấp và
nhận ủy thác 1.135,2 tỷ đồng cho gần 43.864 hộ phụ nữ nghèo vay vốn phát
triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo. Phụ nữ thi đua làm kinh tế giỏi, làm giàu
chình đáng ngày càng phát huy, đã có nhiều phụ nữ sản xuất kinh doanh giỏi,
làm chủ trang trại, chủ hộ kinh doanh, chủ doanh nghiệp với qui mô lớn, hiệu
quả kinh tế cao. Phụ nữ không chỉ là người trực tiếp quản lý, sản xuất kinh
doanh giỏi, làm giàu cho bản thân và góp phần tạo ra của cải vật chất cho xã
hội mà còn đóng góp tìch cực trong phong trào giúp phụ nữ nghèo bằng vốn,
dạy nghề, hướng dẫn cách làm ăn, giải quyết việc làm và tham gia các hoạt
động nhân đạo từ thiện.
Trong lĩnh vực công tác, nghiên cứu khoa học, nữ cán bộ, công chức,
viên chức, lao động đã tìch cực thi đua lao động sáng tạo, nỗ lực sản xuất, tìch
cực học tập nâng cao trính độ văn hóa, tay nghề; chị em đã phát huy sáng kiến
cải tiến kỹ thuật...; Có nhiều công trính nghiên cứu ứng dụng thành tựu khoa
học – công nghệ hiện đại vào quá trính sản xuất và phục vụ đời sống đạt hiệu
quả kinh tế cao. Lực lượng phụ nữ ngành y tế, giáo dục - đào tạo, văn hóa
nghệ thuật, báo chì... đã tận tâm với nghề, đem tài năng trì tuệ phục vụ nhân
dân, được tặng nhiều danh hiệu tiêu biểu... Nhiều đề tài của phụ nữ được công
nhận ở cấp quốc gia, cấp tỉnh, cấp ngành, nhiều phụ nữ tiêu biểu đạt danh
44
hiệu chiến sĩ thi đua cấp cơ sở, cấp tỉnh...
Trên lĩnh vực quốc phòng, an ninh, phụ nữ lực lượng vũ trang với bản
lĩnh và ý chì cách mạng đã vượt qua khó khăn, thử thách, ở bất kỳ cương vị
nào cũng phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, góp phần thực hiện
thắng lợi nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, giữ vững an ninh
chình trị, trật tự an toàn xã hội, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm,
luôn phát huy phẩm chất anh bộ đội cụ Hồ, tiên phong, gương mẫu trong các
hoạt động của đơn vị.
Đội ngũ cán bộ nữ lãnh đạo, quản lý tham gia quản lý nhà nước – xã
hội ngày càng được nâng lên cả về số lượng và chất lượng, đạt nhiều tiến bộ
trong lãnh đạo, điều hành và tổ chức thực hiện nhiệm vụ; tận tâm, tận lực với
công việc, có ý thức khắc phục khó khăn, vươn lên hoàn thành tốt nhiệm vụ
được giao. Đội ngũ cán bộ nữ ngày càng được nâng cao trính độ về chuyên
môn nghiệp vụ, lý luận chình trị, ngoại ngữ, tin học. Đến nay, cán bộ nữ có
trính độ sau đại học: Thạc sĩ: 228/1050 chiếm tỷ lệ 24,5%; Đảng viên nữ
chiếm 31,25%.
Với những thành quả đạt được, vai trò của phụ nữ ngày càng được
khẳng định trong gia đính và ngoài xã hội, phụ nữ Phú Yên ngày càng có
những đóng góp quan trọng vào sự phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Phú Yên.
2.2. Thực tiễn thực hiện quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chính trị ở tỉnh
Phú Yên hiện nay
2.2.1. Thực hiện quyền bầu cử và ứng cử của phụ nữ
Ở tỉnh Phú Yên, các quyền cơ bản của công dân luôn được coi trọng,
đặc biệt là quyền bầu cử và ứng cử. Cùng với nam giới, việc tham gia bầu cử
Quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp là cơ hội để nữ giới lựa chọn, bầu ra
những người tiêu biểu về đức, tài, những người đủ tiêu chuẩn, không phân
biệt nữ, nam xứng đáng đại diện cho ý chì, nguyện vọng và quyền làm chủ
45
của nhân dân. Phụ nữ thực hiện quyền bầu cử của mính là trực tiếp phát huy
quyền dân chủ trong xây dựng Đảng, Nhà nước và các tổ chức chình trị xã
hội, trong đó có Hội Liên hiệp Phụ nữ các cấp. Phụ nữ tham gia bầu cử đó
vừa là quyền, vừa là nghĩa vụ của chình bản thân phụ nữ.
Đối với tỉnh Phú Yên, trên cơ sở của pháp luật, để đảm bảo quyền bầu
cử, ứng cử, cũng như thu hút đại đa số dân cư đạt độ tuổi công dân tham gia.
Công tác bầu cử, ứng cử được thực hiện theo luật định, được đảm bảo trong
toàn hệ thống chình trị, là đợt sinh hoạt chình trị có ý nghĩa quan trọng đối
với Đảng, Chình quyền và nhân dân. Công tác bầu cử, ứng cử được thực hiện
với sự tập trung vào cuộc của cả hệ thống chình trị, đặc biệt là Mặt trận và các
tổ chức chình trị - xã hội, là cầu nối để công dân tiếp cận sát với công tác bầu
cử, với ứng cử viên. Có thể nói rằng, công tác hướng dẫn bầu cử đã góp phần
tìch cực vào thành công của các cuộc bầu cử, tỷ lệ cử tri đi bầu trong tỉnh đạt
trên 99%, cụ thể:
- Thực hiện việc bầu cử Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp, phụ nữ
có quyền ghi tên vào danh sách cử tri, được phát thẻ cử tri. Mỗi cử tri nữ được
ghi tên vào một danh sách cử tri ở nơi mính thường trú hoặc tạm trú. Với
những cử tri nữ là người tạm trú và có thời gian đăng ký tạm trú tại địa
phương chưa đủ 12 tháng; là quân nhân ở các đơn vị vũ trang nhân dân được
ghi tên vào danh sách cử tri ở nơi tạm trú hoặc đóng quân.
- Cử tri nữ được quyền khiếu nại về danh sách cử tri: Khi kiểm tra danh
sách cử tri, nếu phát hiện có sai sót thí trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày niêm
yết, cử tri nữ có quyền khiếu nại với cơ quan lập danh sách cử tri. Trong thời
hạn 05 ngày kể từ ngày nhận được khiếu nại, cơ quan lập danh sách cử tri
phải giải quyết và thông báo cho cử tri nữ biết kết quả. Trường hợp cử tri nữ
không đồng ý về kết quả này hoặc hết thời hạn mà khiếu nại không được giải
quyết thí có quyền khởi kiện tại tòa án nhân dân theo quy định của pháp luật
46
về tố tụng hành chình.
- Trong quá trính bỏ phiếu bầu đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng
nhân dân, mỗi cử tri nữ có quyền bỏ một phiếu bầu đại biểu Quốc hội và bỏ
một phiếu bầu đại biểu Hội đồng nhân dân tương ứng với mỗi cấp Hội đồng
nhân dân. Trường hợp cử tri nữ ốm đau, già yếu, khuyết tật không thể đến
phòng bỏ phiếu được thí tổ bầu cử mang hòm phiếu phụ và phiếu bầu đến chỗ
ở, chỗ điều trị để cử tri nữ nhận phiếu bầu và thực hiện việc bầu cử. Đối với
phụ nữ là người đang bị tạm giam, người đang chấp hành biện pháp đưa vào
cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc, người đang bị tạm giữ tại
nhà tạm giữ mà tại những nơi đó không tổ chức khu vực bỏ phiếu riêng thí tổ
bầu cử mang hòm phiếu phụ và phiếu bầu đến để phụ nữ nhận phiếu bầu và
thực hiện việc bầu cử. Khi cử tri nữ viết phiếu bầu, không ai được xem, kể cả
thành viên tổ bầu cử. Nếu viết hỏng thí cử tri nữ có quyền đổi phiếu bầu khác.
- Quyền bỏ phiếu ở nơi khác từ khi niêm yết danh sách cử tri cho đến
ngày bầu cử, nếu cử tri nữ nào ví đi nơi khác, không thể bỏ phiếu ở nơi đã
được ghi tên vào danh sách cử tri thí có quyền xin giấy chứng nhận của Ủy
ban nhân dân cấp xã nơi mính có tên trong danh sách cử tri để được bổ sung
tên vào danh sách cử tri và tham gia bỏ phiếu bầu cử ở nơi mính có thể tham
gia bỏ phiếu. Bên cạnh đó, cử tri nữ còn có quyền được thông báo về thời
gian bầu cử và nơi bỏ phiếu trong thời hạn 10 ngày trước ngày bầu cử, tổ bầu
cử phải thường xuyên thông báo cho cử tri nữ biết ngày bầu cử, nơi bỏ phiếu,
thời gian bỏ phiếu bằng hính thức niêm yết, phát thanh và các phương tiện
thông tin đại chúng khác của địa phương.
- Để thực sự khẳng định được vai trò của giới nữ, ngoài quyền bầu cử,
phụ nữ còn có quyền ứng cử theo quy định của Luật. Việc xây dựng và đào
tạo cán bộ nữ, nâng cao tỷ lệ lãnh đạo là nữ hiện nay đang là một chủ trương
lớn của Đảng, Nhà nước nói chung và của tỉnh Phú Yên nói riêng. Theo quy
47
định, những phụ nữ đáp ứng được các tiêu chuẩn của đại biểu Quốc hội và
Hội đồng nhân dân quy định tại Luật Tổ chức Quốc hội và Luật Tổ chức
chình quyền địa phương có quyền được ứng cử làm đại biểu Quốc hội và đại
biểu Hội đồng nhân dân, đồng thời phải nộp hồ sơ ứng cử chậm nhất là 70
ngày trước ngày bầu cử. Theo đó, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Phú Yên
phối hợp với các tổ chức chình trị - xã hội, các tổ chức xã hội – nghề nghiệp,
các tổ chức xã hội... có nhiệm vụ tổ chức, chủ trí các hội nghị hiệp thương
nhân sự. Đối với ứng cử viên nữ, Hội Liên hiệp phụ nữ tỉnh đề xuất ứng cử
viên nữ theo quy định của Luật bầu cử nhằm đảm bảo tỷ lệ nữ ứng cử viên
tham gia.
- Phụ nữ có quyền khiếu nại, tố cáo về người ứng cử, lập danh sách
người ứng cử hội viên, phụ nữ có quyền tố cáo về người ứng cử, khiếu nại, tố
cáo, kiến nghị về những sai sót trong việc lập danh sách những người ứng cử;
quyền tuyên truyền, vận động bầu cử người ứng cử đại biểu Quốc hội, ứng cử
đại biểu Hội đồng nhân dân ở đơn vị bầu cử nào thí thực hiện vận động bầu
cử tại đơn vị bầu cử đó. Việc vận động bầu cử của người ứng cử được tiến
hành bằng các hính thức sau đây: Gặp gỡ, tiếp xúc với cử tri tại hội nghị tiếp
xúc cử tri ở địa phương nơi mính ứng cử, thông qua phương tiện thông tin đại
chúng, người ứng cử đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân trính bày với cử
tri về chương trính hành động của mính nếu được bầu làm đại biểu Quốc hội,
Hội đồng nhân dân khi trả lời phỏng vấn trên các phương tiện thông tin đại
chúng ở địa phương và trên trang thông tin điện tử về bầu cử đại biểu Quốc
hội, Hội đồng nhân dân.
Hiện nay, phấn đấu đạt tỷ lệ 35% tổng số người trong danh sách chình
thức những người ứng cử đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân là phụ nữ
là nhiệm vụ trọng tâm, là một trong những yêu cầu cần thiết để thực hiện chủ
trương, đường lối lãnh đạo của Đảng. Điều 8 và Điều 9 Luật Bầu cử đại biểu
48
Quốc hội và đại biểu hội đồng nhân dân quy định số lượng nữ được giới thiệu
ứng cử đại biểu Quốc hội do Ủy ban Thường vụ Quốc hội dự kiến trên cơ sở
đề nghị của Đoàn Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương hội Liên hiệp Phụ nữ
Việt Nam, bảo đảm có ìt nhất 35% tổng số người trong danh sách chình thức
những người ứng cử đại biểu Quốc hội là phụ nữ.
Để thực hiện tốt nhiệm vụ và những nội dung trên cần thiết phải có sự
kết hợp đồng bộ, thống nhất giữa các cơ quan, tổ chức có liên quan từ trên
xuống dưới, từ chủ trương chình sách đến triển khai thực hiện. Qua đó, tỉnh
Phú Yên đã tập trung chú trọng thực hiện việc bảo đảm một tỷ lệ nữ nhất định
tham gia Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp, cụ thể:
- Thường trực Hội đồng nhân dân các cấp ở tỉnh Phú Yên đã định
hướng một tỷ lệ nhất định đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân là
phụ nữ tham gia vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp. Việc định hướng
của Hội đồng nhân dân các cấp là yếu tố rất quan trọng đối với việc bảo đảm
quyền của phụ nữ trong tham gia cơ quan dân cử. Điều đó đánh dấu sự thay
đổi vượt bậc tư duy và hành động của các cấp chình quyền địa phương đối với
vị trì, vai trò của người phụ nữ trong lãnh đạo, quản lý. Công tác định hướng
thể hiện sự lãnh đạo tập trung cao độ của Đảng, tránh dàn trải, không tập
trung và mất dân chủ. Do vậy, thường trực Hội đồng nhân dân các cấp luôn
phải giáo dục, tuyên truyền, định hướng, thuyết phục các lực lượng tham gia
ứng cử, bầu cử. Trách nhiệm này theo luật bầu cử thuộc về Ủy ban Thường
vụ Quốc hội đối với bầu cử đại biểu Quốc hội; Thường trực Hội đồng nhân
dân các cấp đối với bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp mính.
- Các cấp ủy Đảng đề cao vai trò, trách nhiệm trong việc quan tâm lựa
chọn, giới thiệu nhân sự là phụ nữ. Công tác quy hoạch, lựa chọn và đào tạo
cán bộ nữ là những khâu rất quan trọng trong công tác cán bộ của Đảng. Những
mặt hoạt động công tác này phải được diễn ra theo đúng lộ trính, bảo đảm
49
nguyên tắc và dân chủ. Các cấp ủy Đảng có vai trò rất quan trọng trong việc
lựa chọn và giới thiệu nhân sự. Thực tế cho thấy, nếu hoạt động quy hoạch, đào
tạo, lựa chọn và giới thiệu nhân sự là phụ nữ ở cơ quan, đơn vị hay địa phương
nào được tiến hành thường xuyên, bảo đảm dân chủ và có hiệu quả thí tỷ lệ phụ
nữ tham gia lãnh đạo quản lý, tham gia ứng cử, bầu cử luôn đạt được ở mức
cao, theo đúng hướng dẫn và sự lãnh đạo của tổ chức Đảng nơi đó. Cụ thể, cứ
trong 10 người được giới thiệu ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng
nhân dân các cấp thí có 4 người là nữ để qua ba vòng hiệp thương theo luật
định thí tỷ lệ người ứng cử là phụ nữ vẫn còn ìt nhất là 35 % trong tổng số
người được lập danh sách chình thức những người ứng cử. Do vậy, việc phát
huy vai trò, trách nhiệm của các cấp ủy Đảng quyết định đến chất lượng công
tác cán bộ nói chung và công tác cán bộ nữ của Đảng nói riêng.
- Bản thân những phụ nữ được giới thiệu ra ứng cử (hoặc tự ứng cử) có
sự chuẩn bị chu đáo trong vận động bầu cử (tranh cử) theo quy định của Luật.
Một trong những hạn chế của đa phần phụ nữ là tình tự ti, chưa dám khẳng
định vai trò của giới mính và chình bản thân mính trong xã hội, nhất là những
vị trì lãnh đạo, quản lý. Mặc dù có ưu thế “chiếm một nửa xã hội”, có động
lực phấn đấu rất lớn, tinh thần cống hiến cho xã hội rất cao, nhưng nhiều chị
em phụ nữ chưa vượt qua được chình bản thân mính. Rất nhiều phụ nữ đã bỏ
qua và đánh mất cơ hội phấn đấu vươn lên chình đáng cho chình bản thân
mính và giới mính.
Do vậy, để cử tri hiểu rõ về mính, ủng hộ mính khi bỏ phiếu bầu cử chị
em phụ nữ cần năng nổ, hăng hái hơn nữa, vượt qua mặc cảm, tự khẳng định
vị thế của mính trong xã hội. Bằng những hành động và việc làm cụ thể để
chứng minh năng lực, tinh thần trách nhiệm, khả năng cống hiến của mính
không kém gí nam giới, hoàn toàn đảm nhiệm được trọng trách mà cấp ủy
Đảng, chình quyền và các tổ chức chình trị giao phó. Chị em phụ nữ cần tìch
50
cực học tập nâng cao trính độ kiến thức, năng lực công tác chuyên môn, rèn
luyện phẩm chất đạo đức của người phụ nữ hiện đại, rèn luyện và nâng cao
sức khỏe, tìch cực thị sát cơ sở, đi sâu đi sát với quần chúng. Bên cạnh đó, với
thiên chức làm vợ, làm mẹ, người phụ nữ cần cố gắng xây dựng gia đính no
ấm, tiến bộ, hạnh phúc.
Để chuẩn bị thật sự bài bản, chu đáo cho các kỳ bầu cử sau (về lâu dài),
các cấp ủy, tổ chức đảng và cả hệ thống chình trị phải thực sự quan tâm đến
công tác cán bộ nữ, có chiến lược về công tác này. Theo đó, trọng tâm là quy
hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng cán bộ nữ; tạo môi trường thuận lợi để
phụ nữ nói chung và đội ngũ cán bộ nữ nói riêng có nhiều cơ hội để cống hiến
cho xã hội và đó cũng là nguồn để có thể tham gia ngày càng đông đảo vào cơ
quan dân cử.
Nhằm nâng cao quyền tham gia bầu cử, ứng cử, Ban ví sự tiến bộ của
phụ nữ tỉnh Phú Yên đã tổ chức Hội nghị tọa đàm “Nâng cao chất lượng và
phát triển đội ngũ cán bộ nữ lãnh đạo quản lý cấp tỉnh” nhằm đánh giá thực
trạng đội ngũ nữ lãnh đạo, quản lý cấp tỉnh trong giai đoạn hiện nay, thấy rõ
những thuận lợi, khó khăn trong công tác cán bộ nữ, từ đó kịp thời đề xuất nội
dung, giải pháp nâng cao chất lượng và phát triển đội ngũ cán bộ nữ lãnh đạo
quản lý cấp tỉnh.
Ban ví sự tiến bộ của phụ nữ các địa phương đã tham mưu phối hợp tổ
chức nhiều hội nghị tọa đàm “Giải pháp tăng cường cán bộ nữ tham gia lãnh
đạo quản lý tại địa phương”, nhằm đánh giá tính hính và những kết quả đạt
được trong việc tăng tỷ lệ cán bộ nữ quản lý, lãnh đạo; đồng thời đề ra giải
pháp thực hiện mục tiêu nhằm tăng cường sự tham gia của phụ nữ vào các vị
trì quản lý, lãnh đạo, từng bước giảm dần khoảng cách giới trong lĩnh vực
chình trị.
Cấp ủy, chình quyền các cấp ngoài việc thực hiện công tác rà soát, quy
51
hoạch hàng năm, đã thực hiện việc rà soát, thống kê số lượng, chất lượng nữ
cán bộ, công chức trên địa bàn tỉnh để có kế hoạch tham mưu với lãnh đạo
tỉnh trong công tác đào tạo, quy hoạch, bổ nhiệm; tổ chức các khóa tập huấn
nâng cao kỹ năng vận động, kỹ năng thuyết trính cho các ứng cử viên là nữ;
phối hợp với Ủy ban Mặt trận tổ quốc tỉnh, các ban, ngành, đoàn thể làm tốt
công tác tuyên truyền, vận động, lựa chọn và tham mưu với Ban bầu cử các
cấp sắp xếp cơ cấu hợp lý để các ứng cử viên là nữ có cơ hội trúng cử. Phối
hợp đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến các chình sách của Đảng, pháp
luật của Nhà nước về bính đẳng giới, ví sự tiến bộ của phụ nữ bằng nhiều
hính thức nhằm nâng cao nhận thức cho người dân, giảm dần các định kiến,
quan niệm thiên lệch về vai trò của nam và nữ trong gia đính và xã hội nhằm
tạo điều kiện cho phụ nữ có cơ hội tham gia vào các lĩnh vực của xã hội.
Có thể nói, quá trính tổ chức bầu cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội
đồng nhân dân được thực hiện theo quy định của pháp luật. Phụ nữ tham gia
các cơ quan dân cử, góp phần bảo đảm bính đẳng giới và tăng cường sự tham
gia của phụ nữ trong lĩnh vực chình trị thí không chỉ các cấp ủy Đảng, chình
quyền, Mặt trận, các ngành, mà còn có vai trò quan trọng của Hội liên hiệp
phụ nữ trong việc đề cao trách nhiệm về giới thiệu nhân sự nữ ứng cử viên,
cũng như giám sát quyền của của phụ nữ tham gia vào các cơ quan dân cử.
Tuy nhiên, hiện tại tỷ lệ nữ giới tham gia vào hệ thống chình trị với vai
trò là lãnh đạo vẫn còn thấp. Các ban tổ chức các cuộc bầu cử, bỏ phiếu tìn
nhiệm… từ tỉnh đến địa phương hầu như chưa quan tâm đúng mức đến việc
bảo đảm cho sự tham gia của phụ nữ một cách công bằng trong các danh sách
bầu cử, ứng cử. Số lượng phụ nữ tham gia trong các danh sách bầu cử, ứng cử
so với nam giới vẫn còn rất ìt. Rõ ràng là chúng ta còn thiếu chế tài và các
điều kiện thực tế để hiện thực hóa các chỉ tiêu về giới như đã được khẳng định
52
trong các văn bản pháp lý. Điều đặc biệt quan tâm là một số chị em phụ nữ
mặc dù có trính độ chuyên môn, năng lực thực sự nhưng chưa năng nổ, hăng
hái, vượt qua mặc cảm, tự khẳng định vị thế của mính trong xã hội.
Nguyên nhân của những hạn chế trên bắt nguồn từ sự định kiến về giới.
Điều này do trính độ nhận thức của một bộ phận đông đảo do lịch sử để lại.
Mặc dù các cấp uỷ Đảng, chình quyền, Hội Liên hiệp Phụ nữ đã có nhiều nỗ
lực nhằm hạn chế sự định kiến về giới nhưng kết quả còn hạn chế.
2.2.2. Bảo đảm quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội của phụ nữ
Quán triệt các chủ trương của Đảng và Nhà nước, Tỉnh Phú Yên đã cụ
thể hóa ban hành nhiều nghị quyết, kế hoạch, chương trính hành động và trực
tiếp chỉ đạo công tác phụ nữ, công tác cán bộ nữ gắn với công tác cán bộ của
tỉnh, như: Chương trính hành động số 07/CTHĐ-TU ngày 20/6/2007của Ban
Thường vụ Tỉnh uỷ thực hiện Nghị quyết 11 của Bộ Chình trị, trong đó xây
dựng các mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp nhằm tăng cường công tác phụ nữ
đến năm 2020; Nghị quyết số 06-NQ/TU ngày 27/6/2011 của Tỉnh ủy về
“Công tác cán bộ giai đoạn 2011-2015 và định hướng đến 2020”, Hướng dẫn
số 10 /HD-BTCTU ngày 12/8/2011 của BTC Tỉnh ủy về “Công tác quy hoạch
cán bộ lãnh đạo, quản lý giai đoạn 2010- 2020”, trong đó nhấn mạnh đến tỷ
lệ cán bộ nữ các cấp. UBND tỉnh đã ban hành kế hoạch số: 1721/KH-UBND
ngày 13/5/2012 kế hoạch hành động về bình đẳng giới tỉnh Phú Yên đến năm
2015. Quyết định số 42/2013/QĐ-UBND ngày 22/12/2013, trong đó quan tâm
đến hỗ trợ đào tạo cho cán bộ nữ...
Trên cơ sở đó, chình quyền các cấp, các ngành, các huyện, thành phố,
và các sở, ban, ngành, đoàn thể trong toàn tỉnh xây dựng chương trính kế
hoạch thực hiện kế hoạch hành động về bính đẳng giới thực hiện mục tiêu của
Nghị quyết 11-NQ/TW và Chiến lược quốc gia về bính đẳng giới đến năm
2020, nhằm mục đìch tiếp tục nâng cao nhận thức về công tác phụ nữ, cán bộ
53
nữ và bính đẳng giới, nâng cao trách nhiệm của cấp ủy Đảng và chình quyền
các cấp trong việc thực hiện mục tiêu Nghị quyết đề ra, đồng thời cụ thể hóa
thành những chương trính, kế hoạch cụ thể trong việc xây dựng và phát triển
đội ngũ cán bộ nữ và ví sự tiến bộ của phụ nữ.
Ban ví sự tiến bộ của phụ nữ tỉnh Phú Yên là cơ quan tham mưu cho
Đảng bộ tỉnh và UBND tỉnh về công tác cán bộ nữ của tỉnh, tham mưu cho
Ủy ban nhân dân tỉnh xây dựng kế hoạch thực hiện Chiến lược quốc gia về
bính đẳng giới giai đoạn 2015-2020, trong đó xây dựng các chỉ tiêu về tăng tỷ
lệ đại biểu nữ trong các cơ quan dân cử, tăng tỷ lệ cán bộ lãnh đạo, quản lý
trong các cơ quan đảng, chình quyền các cấp... Hội LHPN tỉnh Phú Yên là tổ
chức chình trị - xã hội, ngoài chức năng nhiệm vụ quy định, Hội là cơ quan
tham mưu cho Đảng về công tác cán bộ nữ, trong đó có công tác nhân sự,
công tác quy hoạch, đào tạo, đề bạt, cất nhắc cán bộ nữ, đề xuất các chình
sách đối với cán bộ nữ và tổ chức giám sát việc thực hiện pháp luật, chình
sách liên quan đến phụ nữ...
Như vậy, qua hàng loạt các văn bản của Đảng, Nhà nước, được tổ chức
thực hiện bởi các tổ chức Đảng, chình quyền, các ngành, đoàn thể các cấp trên
địa bàn tỉnh, có thể khẳng định rằng quyền tham gia chình trị của phụ nữ trên
địa bàn tỉnh Phú Yên có cơ sở pháp lý vững chắc để đảm bảo cho phụ nữ
bính đẳng với nam giới tham gia vào đời sống chình trị, tham gia quản lý nhà
nước, quản lý kinh tế - xã hội của tỉnh.
Việc đảm bảo cho phụ nữ thực hiện quyền chình trị trên địa bàn tỉnh Phú
Yên là rất quan trọng để phụ nữ tự khẳng định vai trò, vị trì của mính trong quá
trính tham gia vào đời sống chình trị - xã hội của tỉnh. Khi phụ nữ được tham gia
vào quản lý, lãnh đạo ở các cấp, tức là họ đã thật sự tham gia vào các cơ quan
quyền lực nhà nước, đại diện cho giới nữ trực tiếp tham gia vào công tác hoạch
định chình sách và chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Bằng tiếng nói
54
và sự đóng góp của mính, các đại biểu Quốc Hội, Hội đồng nhân dân, cán bộ nữ
lãnh đạo, quản lý có thể bảo vệ cho quyền lợi của phụ nữ ở cấp quốc gia và trên
địa bàn tỉnh. Hơn ai hết, phụ nữ là người hiểu rõ nhất về những thuận lợi, khó
khăn của phụ nữ, từ đó, họ có thể trính bày ý kiến phù hợp với quyền và lợi ìch,
nguyện vọng của người dân nói chung và của chình giới nữ nói riêng. Tương tự
như vậy, việc tham gia Đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân, cấp ủy Đảng,
lãnh đạo chình quyền các cấp, cán bộ nữ sẽ có cơ hội trực tiếp tham gia vào việc
quyết định những chủ trương và biện pháp quan trọng của địa phương, xây dựng
và phát triển kinh tế - xã hội, củng cố an ninh, quốc phòng, đồng thời có những
điều kiện, cơ hội thuận lợi để phản ánh tâm tư, nguyện vọng, bảo vệ quyền lợi
ìch chình đáng của phụ nữ ở địa phương.
2.2.2.1. Tình hình phụ nữ tham gia Đại biểu Quốc Hội và đại biểu Hội đồng
nhân dân
Thực hiện đường lối chủ trương của Đảng, chình sách pháp luật của Nhà
nước, tỉnh Phú Yên luôn đặc biệt chú trọng việc bảo đảm cho mọi người dân đều
có quyền tham gia quản lý Nhà nước và xã hội một cách trực tiếp hoặc thông
qua người đại diện do họ lựa chọn. Tỷ lệ cử tri đi bầu cao (hơn 99%) tại kỳ bầu
cử Quốc hội và Hội đồng nhân dân (tháng 5/2016), cho thấy người dân ngày
càng ý thức rõ hơn về quyền của mính và vai trò quan trọng của Quốc hội, Hội
đồng nhân dân trong việc thực hiện quyền tham gia quản lý Nhà nước và xã hội.
Trong mỗi kỳ họp Quốc hội, Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, phần đại biểu Quốc
hội chất vấn các thành viên Chình phủ được truyền hính trực tiếp và chất vấn
Đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh trở thành diễn đàn để người dân quan tâm,
thông qua đại biểu do họ bầu ra, chất vấn về chình sách, điều hành, tổ chức thực
hiện, đề xuất các giải pháp khắc phục khó khăn, thách thức... đã phần nào làm
cho người dân yên tâm với đại biểu do mính bầu ra.
Nhận thức được vị trì, vai trò của mính trong xã hội, phụ nữ trong tỉnh
đã không ngừng phấn đấu vươn lên để tự khẳng định năng lực và khả năng
của mính, tham gia ứng cử vào đại biểu Quốc Hội, Hội đồng nhân dân các
55
cấp, thể hiện qua các số liệu:
- Đại biểu Quốc Hội ( theo Báo cáo chình trị của Hội Liên hiệp phụ nữ
tỉnh Phú Yên tại Đại hội đại biểu phụ nữ tỉnh Phú Yên nhiệm kỳ 2011-2016
và nhiệm kỳ 2016-2021):
+ Nhiệm kỳ 2004-2011 là 1/6, tỷ lệ 16,6%;
+ Nhiệm kỳ 2011- 2016 là 1/6 đại biểu, tỷ lệ 16,6%;
+ Nhiệm kỳ 2016- 2021 là 1/6 đại biểu, tỷ lệ 16,6%;
Đại biểu Quốc Hội của tỉnh Phú Yên hầu như được thực hiện theo số
lượng cơ cấu của Quốc hội, đảm bảo tỷ lệ nữ theo cơ cấu. Đối với cấp quốc
gia, nữ đại biểu quốc Hội của Việt Nam mặc dù tỷ lệ đại biểu Quốc Hội có
chiều hướng giảm, song nữ đại biểu Quốc hội của Việt Nam vẫn cao so với
các nước, đứng thứ hai trong khối ASEAN và thứ 43/143 trên thế giới [50].
- Đại biểu Hội đồng nhân dân (theo Báo cáo chình trị của Hội Liên
hiệp phụ nữ tỉnh Phú Yên tại Đại hội đại biểu phụ nữ tỉnh Phú Yên nhiệm kỳ
2011-2016 và nhiệm kỳ 2016-2021):
Bảng 2.1: Tỷ lệ đại biểu hội đồng nhân dân các cấp là nữ giới
Cấp tỉnh Cấp huyện, Cấp cơ sở
Nhiệm kỳ thành phố, thị xã
Số người Tỷ lệ Số người Tỷ lệ Số người Tỷ lệ
2004-2011 13 26,52% 48 17,97% 423 15,19%
2011-2016 15 30% 16 23,88% 509 19,27%
2016-2021 14 28% 60 20,3% 726 24,6%
(Nguồn: Báo cáo chính trị của Hội Liên hiệp phụ nữ tỉnh Phú Yên tại Đại hội
đại biểu phụ nữ tỉnh Phú Yên nhiệm kỳ 2011-2016 và nhiệm kỳ 2016-2021)
Mặc dù có sự cố gắng của đảng bộ, chình quyền và các cơ quan tham
mưu, song nữ đại biểu Hội đồng nhân dân của tỉnh Phú Yên có chiều hướng
giảm ở cấp trên, chỉ tăng nhẹ ở cấp xã/phường.
Những con số về đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân nói
trên đã phản ánh sự cố gắng lớn của Đảng và nhà nước trong việc quan tâm đến
56
phụ nữ tham gia vào đại biểu nhân dân. Tuy nhiên, so với nam giới tỷ lệ phụ nữ
là Đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân còn hạn chế và thiên lệch. Tỷ lệ đại
biểu nữ qua mỗi nhiệm kỳ không ổn định, và có chiều hướng giảm. Như vậy,
qua kết quả bầu cử 3 cấp, đại biểu nam và đại biểu nữ còn khoảng cách lớn, tỷ
lệ còn thấp so với chỉ tiêu đề ra trong Nghị quyết 11-NQ/TW của Đảng và
Chiến lược quốc gia về bính đẳng giới giai đoạn 2011-2010 (30% trở lên).
2.2.2.2. Tình hình phụ nữ tham gia cấp ủy Đảng
Cấp uỷ Đảng các cấp có vai trò rất quan trọng đối với hoạt động của tổ
chức đảng ở mỗi cấp, là cơ quan lãnh đạo thực hiện nghị quyết của cấp mính,
nghị quyết, chỉ thị của cấp trên, là đại biểu tiêu biểu cho việc thực hiện
nguyên tắc tổ chức cơ bản của Đảng. Cấp uỷ còn giữ vai trò trung tâm trong
chỉ đạo công tác xây dựng nội bộ đảng trên tất cả các mặt chình trị, tư tưởng
và tổ chức. Trong các cấp ủy đảng từ Tỉnh đến cơ sở đều có cán bộ nữ tham
gia, thể hiện số liệu tình đến tháng 12/2016 (theo Báo cáo chình trị của Hội
Liên hiệp phụ nữ tỉnh Phú Yên tại Đại hội đại biểu phụ nữ tỉnh Phú Yên
nhiệm kỳ 2011-2016 và nhiệm kỳ 2016-2021), như sau:
Bảng 2.2: Tỷ lệ tham gia cấp uỷ Đảng là nữ giới
Cấp tỉnh Cấp huyện, Cấp cơ sở
Nhiệm kỳ thành phố, thị xã
Số người Tỷ lệ Số người Tỷ lệ Số người Tỷ lệ
2005-2010 4/48 8,33% 43/338 12,7% 179/1.218 14,69%
2010-2015 4/55 7,27% 51/385 13,25% 254/1.523 16,67%
2015-2020 9/52 17,31% 53/360 14,72% 333/1.516 21,96%
(Nguồn: Báo cáo chính trị của Hội Liên hiệp phụ nữ tỉnh Phú Yên tại Đại hội
đại biểu phụ nữ tỉnh Phú Yên nhiệm kỳ 2011-2016 và nhiệm kỳ 2016-2021)
Qua số liệu trên, ở địa bàn tỉnh Phú Yên, cán bộ nữ tham gia hầu hết
vào Ban chấp hành Đảng bộ đảng các cấp. Tỷ lệ nhỏ cán bộ nữ tham gia vào
Ban Thường vụ Đảng bộ các cấp; Một số ìt cán bộ nữ có chức danh nhưng
57
chủ yếu ở cấp xã/phường, chủ yếu là cấp phó. Như vậy, khoảng cách giữa
nam và nữ là rất lớn, tỷ lệ nữ còn thấp so với chỉ tiêu của Nghị quyết 11-
NQ/TW và Chiến lược quốc gia về bính đẳng giới giai đoạn 2011- 2010 đề ra.
2.2.2.3. Tình hình phụ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý trong chính quyền
Trong những năm qua, các cấp ủy Đảng, chình quyền tỉnh Phú Yên đã
tạo điều kiện quan tâm đến công tác cán bộ nữ, tạo cơ chế chình sách về đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, trong đó có cán bộ nữ. Ví vậy, đội ngũ cán
bộ, công chức nữ ngày càng được nâng cao về lý luận chình trị, chuyên môn
nghiệp vụ và các kỹ năng mềm giúp cán bộ nữ tự tin, chủ động phấn đấu
vươn lên, góp phần vào sự phát triển kinh tế - văn hóa – xã hội của tỉnh.
Đến tháng 12/2016, cơ quan cấp tỉnh có lãnh đạo nữ là 13/47 - tỷ lệ
27,6% (tăng 2,2% so với tháng 12/2010). Cán bộ nữ diện Ban Thường vụ
Tỉnh uỷ quản lý đến nay là: 25/342 - tỷ lệ 7,3%, trong đó nữ lãnh đạo đầu
ngành có 2/47 – tỷ lệ 4,2% (giảm 1 đ/c - 2,6% so với tháng 12/2010); Nữ
giám đốc, phó giám đốc và tương đương ở tỉnh 11/103 người – tỷ lệ 10,6%
(tăng 0,5% so với tháng 12/2010); trưởng phòng và tương đương thuộc sở,
ban, ngành tỉnh 48/311 người - tỷ lệ 15,4% (tăng 2% so với tháng 12/2010);
Phó phòng và tương đương 78/380 – tỷ lệ 20,5% (tăng 1,7% so với tháng
12/2010) (theo báo cáo công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị
tỉnh Phú Yên gắn với phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh 6 tháng
đầu năm và nhiệm vụ cần tập trung 6 tháng cuối năm 2016 của Đảng bộ Tỉnh
Phú Yên).
Đối với ngành đông nữ như: Ngành Giáo dục – đào tạo có tổng số cán
bộ lãnh đạo, quản lý 25/217 người - tỉ lệ 11,5%, (trong đó ở cấp Sở 2%, ở các
đơn vị 17 người 7,8%). So với xuất phát điểm trước khi có Nghị quyết số 11-
NQTW có sự tăng nhẹ (cán bộ lãnh đạo, quản lý chiếm tỉ lệ 7%, trong đó ở
Sở 2%, ở các đơn vị tỉ lệ 6%). Đối với ngành Y tế, cán bộ lãnh đạo Sở 1/14 -
58
tỷ lệ 0,07% (tăng 0,83%), Cấp trưởng phòng và tương đương 6/62 - tỷ lệ
9,67% (tăng 1,3%), Cấp phó phòng và tương đương 14/70 - tỷ lệ 20% (tăng
1,8%). Đến nay, cán bộ nữ có trính độ sau đại học: Thạc sĩ: 228/1050 chiếm
tỷ lệ 24,5% (theo Báo cáo tổng kết thực hiện biện pháp bảo đảm bình đẳng
giới đối với nữ cán bộ, công chức, viên chức tỉnh Phú Yên giai đoạn 2011 -
2016 của UBND Tỉnh Phú Yên).
Đối với ngành Tư pháp, cấp tỉnh không có lãnh đạo nữ. Nữ trưởng
phòng và tương đương của Sở, phòng Tư pháp chiếm 26% , Phó phòng và
tương đương chiếm 30%. Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân cấp
tỉnh và huyện không có nữ lãnh đạo chủ chốt. Nữ thẩm phán cấp tỉnh 2/7 – tỷ
lệ 28,5%, cấp huyện/thành 18/54 – tỷ lệ 33,3%; Nữ kiểm sát viên cấp tỉnh 2/9
– tỷ lệ 22,2%, cấp huyện/thị 20/55 – tỷ lệ 36,3% (theo Báo cáo tổng kết thực
hiện biện pháp bảo đảm bình đẳng giới đối với nữ cán bộ, công chức, viên
chức tỉnh Phú Yên giai đoạn 2011 - 2016 của UBND Tỉnh Phú Yên).
Đối với cấp huyện/thị/thành phố (tính đến tháng 12/2016), Nữ giữ các
chức danh Phó bì thư, Phó Chủ tịch HĐND, UBND cấp huyện/thành có 4/125
- tỷ lệ 3,2% (tăng 1 đồng chí tỷ lệ 15,4% so với tháng 12/2010). Nữ lãnh đạo
đầu ngành và tương đương có 37/390 – tỷ lệ 19,48% (tăng 0,4%) ; nữ phó
lãnh đạo đầu ngành và tương đương có 108/725 - tỷ lệ 14,8% (tăng 0,5%)
(theo Báo cáo tổng kết thực hiện biện pháp bảo đảm bình đẳng giới đối với
nữ cán bộ, công chức, viên chức tỉnh Phú Yên giai đoạn 2011 - 2016 của
UBND Tỉnh Phú Yên).
Tổng số lãnh đạo nữ cấp xã (đến tháng 12/2016): 1.003 nữ/3.920 người
- tỷ lệ 25,58% (tăng 127 đồng chí so với thời điểm tháng12/2010). Trong đó,
đạt 3 chuẩn về học vấn, chuyên môn, lý luận chình trị 603 người, tỷ lệ
60,11% (tăng 220 đồng chí so với thời điểm tháng 12/2010); trính độ chuyên
môn đại học 345 người - tỷ lệ 34,39% (tăng 130 đồng chí so với thời điểm
59
tháng 12/2010) (theo Báo cáo tổng kết thực hiện biện pháp bảo đảm bình
đẳng giới đối với nữ cán bộ, công chức, viên chức tỉnh Phú Yên giai đoạn
2011 - 2016 của UBND Tỉnh Phú Yên).
Qua số liệu cán bộ nữ lãnh đạo, quản lý ở cấp tỉnh, về số lượng có tăng
nhẹ so với thời điểm trước đó, về chất lượng được quan tâm đào tạo về trính
độ chuyên môn, lý luận chình trị, phụ nữ có trính độ sau đại học được nâng
lên. Song trên thực tế tỷ lệ tăng không đáng kể, cơ quan có lãnh đạo là nữ còn
hạn chế (33%), trong đó cơ quan chủ chốt như HĐND tỉnh, UBND tỉnh và
một số các Sở, ban, ngành không có lãnh đạo nữ. Đặc biệt là các cơ quan
thuộc ngành Tư pháp, không có cán bộ nữ lãnh đạo, cán bộ quản lý ở cấp
trưởng, phó phòng còn thấp so với nam giới.
Đối với cấp huyện/thị/thành và xã/phường/thị trấn, so với nhiệm kỳ
trước có tăng nhẹ, có một số xã có nữ là Chủ tịch, phó chủ tịch. Song tỷ lệ nữ
tham gia lãnh đạo, quản lý dưới 15%, trong đó nữ lãnh đạo chủ chốt rất thấp,
có chủ yếu là cấp phó.
Như vậy, qua các con số trên, về số lượng cán bộ nữ lãnh đạo, quản lý
các cấp nhín chung có tăng nhẹ so với thời điểm tháng 12/2010 trở về trước,
còn khoảng cách rất lớn giữa nam và nữ. Đối với các ngành đông nữ chưa có
lãnh đạo nữ. So với mục tiêu của Nghị quyết 11-NQ/TW và Chiến lược quốc
gia về bính đẳng giới giai đoạn 2011-2020 vẫn còn khoảng cách khá lớn giữa
nam và nữ, nhiều ngành có đông cán bộ công chức nữ nhưng chưa có lãnh
60
đạo nữ; cán bộ lãnh đạo, quản lý quá thấp so với nam giới.
2.2.2.4 . Tình hình phụ nữ tham gia các tổ chức chính trị - xã hội
Để đảm bảo thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Mặt trận TQVN và
các tổ chức đoàn thể tỉnh Phú Yên trong việc đảm bảo quyền của phụ nữ tham
gia vào các tổ chức chình trị-xã hội, Ban Thường vụ Tỉnh ủy luôn quan tâm
chỉ đạo sâu sát công tác cán bộ nữ, bằng việc đã cụ thể hóa và ban hành nhiều
nghị quyết, kế hoạch, chương trính hành động và trực tiếp chỉ đạo công tác
cán bộ nữ gắn với công tác cán bộ của tỉnh. Đến nay, tính hính cán bộ nữ
tham gia vào các chức danh trong Mặt trận TQVN và các tổ chức đoàn thể,
như sau: (tính đến tháng 12/2016) (theo Báo cáo tổng kết thực hiện biện pháp
bảo đảm bình đẳng giới đối với nữ cán bộ, công chức, viên chức tỉnh Phú Yên
giai đoạn 2011 - 2016 của UBND Tỉnh Phú Yên).
- Cấp Tỉnh: Nữ trưởng đầu ngành 01/6 cán bộ - tỷ lệ 16%; Nữ Phó đầu
ngành 5/17 cán bộ - tỷ lệ 29,4% (tăng 3,2% so với tháng 12/2010); Nữ trưởng
phòng, ban 12/37 cán bộ - tỷ lệ 32,4% (tăng 15% so với tháng 12/2010); Phó
phòng, ban 19/37 cán bộ - tỷ lệ 51,3% (tăng 5,2% so với tháng 12/2010)
- Cấp huyện/thị/thành: Nữ trưởng đầu ngành 24/113 cán bộ - tỷ lệ
21,2% (tăng 2% so với tháng 12/2010); Nữ Phó đoàn thể 47/208 cán bộ - tỷ lệ
22,5% (tăng 5,2% so với tháng 12/2010)
- Cấp xã/phường/thị trấn: Nữ trưởng đầu ngành 398/1358 cán bộ - tỷ lệ
29,30% (tăng 1,1% so với tháng 12/2010); Nữ Phó đoàn thể 699/1358 cán bộ
- tỷ lệ 51,4% (tăng 5,1% so với tháng 12/2010). Nữ tham gia chủ chốt trong
các tổ chức Mặt trận đoàn thể thôn/ khối phố từ 20 – 25%.
Có thể nói rằng, Mặt trận và các đoàn thể - thuộc hệ thống chình trị của
tỉnh Phú Yên, công tác cán bộ nữ được các cấp ủy Đảng quan tâm, lãnh chỉ
đạo thực hiện, phụ nữ ngày càng được quan tâm quy hoạch, đề bạt, cất nhắc
tham gia vào các vị trì chủ chốt. Cán bộ nữ được quan tâm đào tạo về lý luận
61
chình trị, chuyên môn nghiệp vụ, hầu hết đạt chuẩn. Song qua số liệu trên,
vẫn còn khoảng cách lớn giữa nam và nữ trong các vị trì lãnh đạo, điều đó
cũng đồng nghĩa với biểu hiện của định kiến giới, phân biệt đối xử, khắt khe
trong đánh giá, đề bạt cán bộ nữ. Phụ nữ tham gia các tổ chức chình trị xã hội
còn có sự giới hạn, nữ giới chỉ tập trung tham gia một số tổ chức với tỷ lệ
nhiều như Hội Liên hiệp Phụ nữ, Hội Chữ thập đỏ..
2.2.3. Thực hiện quyền bỏ phiếu trưng cầu dân ý của phụ nữ
Cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp 2013 về quyền bỏ phiếu trưng
cầu dân ý, toàn hệ thống chình trị tỉnh Phú Yên đã thực hiện tốt tư tưởng
trọng dân, tin dân, dựa vào dân, lấy dân làm gốc, đây là một trong những tư
tưởng được thể hiện rõ trong truyền thống quý báu của dân tộc; tư tưởng Hồ
Chì Minh, đường lối, chủ trương, chình sách của Đảng và Nhà nước. Với
phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” đã được phổ biến và
thực hiện ngày càng rộng rãi trong cuộc sống ở tỉnh Phú Yên.
Trưng cầu ý dân là một phương thức để người dân trực tiếp thể hiện ý
chì và quyền lực của mính đối với các vấn đề quan trọng của địa phương, của
đất nước trong từng thời điểm cụ thể. Trong bối cảnh đất nước Việt Nam hội
nhập ngày càng sâu rộng với các nước trong khu vực và trên thế giới, Tỉnh
Phú Yên luôn quan tâm chú trọng việc vận động tuyên truyền triển khai chủ
trương trưng cầu ý dân, đây là vấn đề hết sức cần thiết, tạo điều kiện để nhân
dân nói chung và phụ nữ nói riêng có thể tham gia sâu hơn, thể hiện chình
kiến của mính, có tình quyết định với tư cách chủ thể đối với những vấn đề
quan trọng của đất nước thông qua việc thực hiện nguyên tắc phổ thông, bính
đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kìn khi trưng cầu ý dân nhằm tăng cường khối đại
đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường sự đồng thuận xã hội, góp phần đảm bảo sự
phát triển bền vững của Việt Nam trong quá trính hội nhập quốc tế.
Nhận thức trưng cầu ý dân là một chủ trương đúng đắn, hợp lòng dân,
62
đáp ứng nhu cầu bức thiết và lợi ìch to lớn trực tiếp của đông đảo nhân dân
lao động, được nhân dân phấn khởi đón nhận và tìch cực thực hiện, thể hiện
tình ưu việt của chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa. Tạo điều kiện thuận lợi cho
nhân dân nói chung và phụ nữ nói riêng thực sự phát huy quyền làm chủ của
mính, tham gia quản lý các công việc địa phương, kiểm soát và đấu tranh
chống tệ quan liêu, tham nhũng, mất dân chủ ở các cơ quan công quyền hay
các biểu hiện lợi dụng dân chủ để vi phạm pháp luật. Từ đó người dân nói
chung và người phụ nữ nói riêng hiểu rõ hơn về quyền, trách nhiệm và nghĩa
vụ của mính đối với xã hội, đối với đất nước.
2.2.4. Thực hiện quyền tự do hội họp, lập hội, biểu tình của phụ nữ
Tự do hội họp, lập hội, biểu tính là một trong những quyền cơ bản của
công dân nói chung và phụ nữ nói riêng được Nhà nước Việt Nam công nhận,
tôn trọng trong Hiến pháp và pháp luật. Quyền này đã, đang được thực hiện
và phát huy trong thực tiễn Phú Yên.
Phú Yên có rất nhiều hội, nhóm dân sự hoạt động, bao gồm các hội là
tổ chức chình trị xã hội, tổ chức chình trị- xã hội – nghề nghiệp, tổ chức xã
hội- nghề nghiệp, tổ chức xã hội –nhân đạo..., hoạt động theo nguyên tắc tự
nguyện, không ví mục đìch lợi nhuận, các Hội đã có nhiều đóng góp vào quá
trính xây dựng và phát triển đất nước, thể hiện vai trò là cầu nối giữa các hội
viên với đảng, chình quyền; thực hiện tốt chức năng là tổ chức đại diện bảo vệ
quyền và lợi ìch hợp pháp của hội viên do tổ chức Hội mính quản lý, hỗ trợ
hội viên trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, phát triển kinh tế, nâng cao
năng lực cạnh tranh, cung cấp thông tin tư vấn về sản xuất và thị trường... Các
hội cũng có vai trò ngày càng tìch cực trong việc tư vấn, phản biện, đối với
các chủ trương, đường lối của Đảng, chình sách, pháp luật của Nhà nước, các
chương trính và dự án phát triển kinh tế, xã hội của Chình phủ và của địa
63
phương.
Từ thực tiễn cho thấy, đảm bảo quyền tự do hội họp, lập hội, biểu tính
của công dân là vấn đề hết sức cần thiết. Người dân nói chung và phụ nữ nói
riêng luôn được Đảng, chình quyền Phú Yên quan tâm, tạo điều kiện, đảm
bảo thực hiện quyền tự do hội họp, lập hội, biểu tính nhằm phát huy quyền và
nghĩa vụ của công dân trong việc bàn bạc, thảo luận, góp ý kiến vào những
vấn đề quan trọng của địa phương, của đất nước, bảo vệ quyền lợi chình đáng
của mính, cùng tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội... góp phần xây
dựng quê hương, đất nước ngày càng phát triển vững mạnh.
Tuy nhiên, để đảm bảo thực hiện quyền này theo quy định của pháp
luật, đòi hỏi cần nâng cao năng lực lãnh đạo của các cấp ủy Đảng và sự quản
lý của chình quyền tỉnh Phú Yên phải hết sức nghiêm túc, chặt chẽ, tránh để
người dân lợi dụng sự dân chủ quá trớn để thực hiện hành vi trục lợi cá nhân,
hoặc chống phá cách mạng, làm ảnh hưởng đến an ninh địa phương, đất nước.
2.3. Đánh giá chung về thực hiện quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chính
trị ở tỉnh Phú Yên hiện nay
2.3.1. Kết quả và nguyên nhân
Kết quả
Cùng với phụ nữ cả nước, Phụ nữ tỉnh Phú Yên luôn giữ vai trò quan
trọng trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất tổ quốc và và có
những đóng góp đáng kể cho sự phát triển của đất nước. Bước vào thời kỳ
mới, phụ nữ Phú Yên đã và đang cần cù lao động, vượt khó, vươn lên thoát
nghèo. Hiện nay, tham gia trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có
lĩnh vực chình trị, ví sự tiến bộ của phụ nữ và ví sự nghiệp bính đẳng giới;
Phụ nữ được phát huy khả năng của mính trong hoạt động quản lý nhà nước,
quản lý xã hội, các tầng lớp phụ nữ trong tỉnh ngày càng thể hiện vai trò đóng
64
góp vào công cuộc phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng đất nước.
Mặc dù tỷ lệ phụ nữ trong hệ thống chình trị hiện nay còn hạn chế,
song sự có mặt của cán bộ nữ tham gia quản lý nhà nước- xã hội hiện nay
chứng tỏ năng lực của cán bộ nữ ngày càng được khẳng định. Phụ nữ đã có
mặt hầu hết ở các cơ quan dân cử, tham gia vào các cấp ủy Đảng, tham gia
vào các vị trì lãnh đạo, quản lý trong nhà nước ở các cấp. Đặc biệt là ở cơ
sở, đã có nhiều lãnh đạo nữ trẻ giữ các chức danh chủ chốt trong Hội đồng
nhân dân, UBND, Đảng bộ xã và lãnh đạo chủ chốt các tổ chức đoàn thể.
Đội ngũ cán bộ nữ ngày càng tìch cực học tập nâng cao trính độ mọi mặt, có
học hàm, học vị, có nhiều thành tìch xuất sắc, khẳng định trì tuệ, tài năng
đóng góp cho sự phát triển kinh tế - xã hội tỉnh nhà... Những đóng góp tìch
cực và cụ thể vào thành quả của tỉnh trong công cuộc đổi mới đã dần làm
thay đổi những định kiến giới còn tồn tại, thừa nhận phụ nữ có khả năng
tham gia vào lĩnh vực chình trị không thua kém nam giới và nhín nhận, đánh
giá đúng hơn về vai trò, vị trì của phụ nữ trong lĩnh vực kinh tế - chình trị -
xã hội trong tỉnh.
Nguyên nhân
Đạt được kết quả trên, trước hết là sự vào cuộc của cả hệ thống chình
trị, trong đó vai trò lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát của Đảng bộ các cấp, sự tạo
điều kiện của chình quyền, sự phối hợp giữa các cơ quan tham mưu, giữa
các tổ chức chình trị - xã hội về công tác cán bộ nữ... Bên cạnh đó, có sự
chuyển biến về mặt quan điểm, nhận thức về công tác cán bộ nữ, sự nỗ lực
trong tổ chức thực hiện của lãnh đạo cấp ủy đảng, chình quyền, các cấp, các
ngành, nghiêm túc thực hiện chủ trương, chình sách của Đảng, nhà nước, tổ
chức triển khai chặt chẽ các chương trính, kế hoạch đã đề ra, thực hiện chế
độ sơ tổng kết về công tác cán bộ nữ, đặc biệt là thực hiện lồng ghép giới
65
trong các mục tiêu kinh tế - xã hội của tỉnh.
Ngoài ra, bản thân cán bộ nữ cũng đã có những chuyển biến rõ về nhận
thức, về vai trò, vị trì, trách nhiệm trước tính hính mới, đã chủ động từng bước
khắc phục khó khăn, tìch cực tham gia học tập để nâng cao trính độ, năng lực,
kỹ năng nhằm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tính hính mới. Ví vậy, hầu hết
cán bộ nữ lãnh đạo, quản lý các ngành, các cấp của tỉnh khi được giao nhiệm
vụ đã có nhiều cố gắng vươn lên đảm nhận và hoàn thành tốt nhiệm.
2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân
Hạn chế
Mặc dù pháp luật nước ta có nhiều quy định về quyền của phụ nữ trong
lĩnh vực chình trị, thể hiện được quan điểm, chủ trương của Đảng về bính
đẳng nam nữ, về quyền chình trị của phụ nữ nhưng trong việc thực hiện các
quy định này trên thực tế vẫn còn nhiều điểm hạn chế như:
- Công tác triển khai, phổ biến pháp luật nói chung về quyền của phụ
nữ trong lĩnh vực chình trị chưa thực sự đạt hiệu quả, chưa phù hợp với từng
đối tượng tham gia, đặc biệt ở cấp cơ sở. Chẳng hạn, đối với phụ nữ ở cấp xã
với trính độ hiểu biết hạn chế, những người làm công tác tuyên truyền phổ
biến pháp luật lại đưa ra những phương pháp truyền đạt dài dòng, khó hiểu,
khó áp dụng.
- Vẫn còn sự mất cân bằng giới, tỷ lệ nữ tham gia trong các cấp ủy
Đảng, Quốc hội, Hội đồng nhân dân còn thấp và có chiều hướng giảm, trong
đó tỷ lệ cán bộ nữ trong các cấp ủy đảng từ tỉnh đến cơ sở chỉ chiếm dưới
15%, đại biểu nữ trong cơ quan dân cử dưới 20%. Rất ìt nữ lãnh đạo chủ chốt,
nếu có chỉ liên quan các lĩnh vực xã hội, rất hiếm trong lĩnh vực quản lý kinh
tế, nghiên cứu khoa học, nếu có chỉ là cấp phó. Một số sở, ngành đông nữ và
các cơ quan thuộc ngành tư pháp không có lãnh đạo nữ. Trong các cấp ủy
đảng, cán bộ nữ giữ chức danh rất ìt, chủ yếu có ở cơ sở, càng lên cao càng
66
giảm. Sự thiếu hụt cán bộ nữ trên một số lĩnh vực quan trọng làm cho việc
hoạch định kế hoạch, chình sách không có tiếng nói đại diện của phụ nữ, dẫn
đến thực hiện bính đẳng giới về mọi mặt chưa đạt kết quả mong muốn. Như
vậy, so với yêu cầu của nghị quyết 11-NQ/TW và Chiến lược quốc gia về
bính đẳng giới, các chỉ tiêu đều chưa đạt. Sự khác biệt này đã hạn chế quyền
của phụ nữ trong nhiều lĩnh vực, chưa tương xứng với tiềm năng của phụ nữ
hiện có trong tỉnh. Ở một số địa phương, hầu hết các cán bộ lãnh đạo tham gia
thực hiện pháp luật về quyền chình trị của phụ nữ, cụ thể là quyền tham gia
quản lý nhà nước, bao gồm cả Đảng ủy, chình quyền địa phương và các
trưởng thôn, làng phần lớn là nam giới. Do đó, trong các cuộc họp của thôn,
xã, họ thường không đặt ra vấn đề cần phải có phụ nữ tham gia đầy đủ vào
các cuộc họp này, và cũng không đặt ra vấn đề nhất thiết phải có sự tham gia
ý kiến của phụ nữ về những vấn đề chung của địa phương, của thôn, xã. Ví
vậy phụ nữ ìt có ảnh hưởng đến chình sách và những quyết định được thông
qua trong quá trính thực hiện các quy định của pháp luật.
- Chưa có sự phối hợp chặt chẽ và đồng bộ giữa Hội Liên hiệp phụ nữ
Việt Nam tỉnh và Ban ví sự tiến bộ của phụ nữ với các ban ngành liên quan
trong việc thực hiện quyền của phụ nữ nói chung và quyền chình trị của phụ
nữ nói riêng. Chưa tạo được sự liên kết phụ nữ trong giới chình trị đối với các
tỉnh khác ở trong nước để chia sẻ kinh nghiệm và tạo sự phối hợp hoạt động
chung, cùng giúp nhau tiến tới sự bính đẳng, tiến bộ hơn nữa trong xã hội.
- Trính độ và sự vươn lên của chình bản thân phụ nữ vẫn còn hạn chế.
Thực tế cho thấy nhiều chị em có tư tưởng an phận, không muốn học hỏi và
có suy nghĩ rằng việc học hành, việc tiến thân là của đàn ông, còn phụ nữ chỉ
cần học ìt và dành nhiều thời gian cho chồng con và gia đính. Điều này dẫn
đến việc thiếu nguồn lực nữ có trính độ chuyên môn trong quá trính bầu cử và
tuyển chọn.
67
Nguyên nhân
Những tồn tại, hạn chế trên nêu trên do nhiều nguyên nhân tác động
làm ảnh hưởng đến quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chình trị, cụ thể:
Thứ nhất, về mặt nhận thức, định kiến giới vẫn còn tồn tại ở nhiều cấp,
nhiều ngành, lĩnh vực, trong gia đính và ngoài xã hội. Nhận thức về giới và
bính đẳng giới của một bộ phận cán bộ lãnh đạo, đặc biệt là người đứng đầu
các cơ quan chưa sâu sắc. Nhiều cấp uỷ và chình quyền các cấp, các ngành
nhận thức chưa đầy đủ quan điểm công tác cán bộ nữ là một bộ phận quan
trọng trong công tác cán bộ của Đảng, là yêu cầu khách quan của sự nghiệp đổi
mới. Còn biểu hiện hẹp hòi, thiếu tin tưởng vào khả năng của cán bộ nữ, đánh
giá cán bộ nữ thiếu khách quan, chưa công bằng, nhất là cấp cơ sở.
Thứ hai, cơ chế, chình sách tạo nguồn, đánh giá, quy hoạch, đào tạo, bồi
dưỡng, sử dụng cán bộ nữ chưa có tình chiến lược lâu dài và thiếu tình đột phá,
chưa thể hiện đúng quan điểm giới như Công ước CEDAW và Luật bính đẳng
giới (bình đẳng thực chất). Một số lãnh đạo cấp uỷ chưa mạnh dạn trong bố trì, sử
dụng cán bộ nữ để tạo điều kiện cho phụ nữ phát huy tiềm năng, trì tuệ của mính.
Thứ ba, vẫn còn một số cấp ủy và chình quyền các cấp, các ngành, đơn
vị chưa chú trọng đúng mức công tác quy hoạch, đào tạo, bố trì, sử dụng cán
bộ nữ; quy hoạch chưa gắn với đào tạo, bố trì và sử dụng cán bộ; tạo nguồn
cán bộ nữ còn hẫng hụt thiếu tình bền vững. Năng lực tham mưu, quản lý,
điều hành và tổ chức thực hiện nhiệm vụ của một số cán bộ nữ còn hạn chế,
chưa gây được lòng tin, uy tìn đối với cấp ủy.
Thứ tư, chình sách đối với công tác cán bộ chưa kịp thời, nên chưa động
viên, khuyến khìch được phụ nữ tham gia các hoạt động chình trị - xã hội và
nắm giữ các vị trì cao trong xã hội. Các chình sách cụ thể về quy hoạch, đào
tạo, bồi dưỡng, luân chuyển đối với cán bộ nữ nói chung, nữ là trì thức, người
68
dân tộc thiểu số, cán bộ nữ công tác ở vùng cao, vùng sâu, có con nhỏ... chưa
đảm bảo và phù hợp với nhu cầu tối thiểu và tính hính thực tế, ảnh hưởng đến
việc khuyến khìch, thu hút phụ nữ tham gia các hoạt động chình trị.
Thứ năm, Do sự khác biệt về tuổi nghỉ hưu, dẫn đến sự khác biệt độ
tuổi trong quy hoạch, đào tạo, bổ nhiệm giữa nam giới và phụ nữ, trong khi
phụ nữ mất thời gian ìt nhất 5 năm sinh con và nuôi con nhỏ. Từ đó phụ nữ ìt
có cơ hội được đề bạt, bổ nhiệm ở những vị trì cao hơn nam giới.
Thứ sáu, một bộ phận phụ nữ vẫn còn biểu hiện tự ti, an phận, chưa có
ý chì phấn đấu vươn lên. Có tính trạng một bộ phận phụ nữ có tâm lý e ngại
khi luân chuyển công tác xa gia đính, cá biệt còn hiện tượng phụ nữ không
ủng hộ nhau. Mặt khác, cơ chế thị trường cạnh tranh như hiện nay đòi hỏi
người phụ nữ phải cố gắng phấn đấu trong chuyên môn như nam giới song
bản thân người phụ nữ còn bị hạn chế do phải gánh thêm vai trò làm mẹ, làm
vợ, một bộ phận không nhỏ ìt nhận được sự chia sẻ của nam giới cũng như sự
ủng hộ của gia đính, nên nhiều phụ nữ còn an phận, chấp nhận hoàn cảnh và
không sẵn sàng nhận vị trì công tác khi được phân công.
Thứ bảy, chưa có sự phối hợp đồng bộ giữa Ban ví sự tiến bộ phụ nữ
tỉnh và Hội LHPN tỉnh, là các cơ quan tham mưu về công tác cán bộ nữ. Các
quy định về chức năng nhiệm vụ của mỗi bên chưa rõ ràng, còn chồng chéo,
khó thực thi trong thực tiễn. Công tác quản lý nhà nước về bính đẳng giới còn
hính thức, thiếu đội ngũ cán bộ chuyên trách tại cơ sở.
Thứ tám, Phú Yên là tỉnh miền núi nghèo, thu nhập bính quân đầu
người thấp so với mức bính quân chung cả nước; đời sống của một bộ phận
nhân dân ở khu vực nông thôn, miền núi, dân tộc còn nhiều khó khăn... đã ảnh
hưởng đến việc thực hiện các chỉ tiêu, mục tiêu về bính đẳng giới và hoạt
69
động ví sự tiến bộ của phụ nữ ở địa phương.
Tiểu kết chương 2
Chương 2 luận văn tập trung phân tìch thực trạng quyền chình trị của
phụ nữ tham gia đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân, cấp ủy Đảng, nhà
nước, các tổ chức chình trị – xã hội trên địa bàn tỉnh Phú Yên. Qua đó, cho
thấy quyền chình trị của phụ nữ được thể hiện trên nhiều lĩnh vực trong đời
sống chình trị - xã hội của tỉnh, vai trò của phụ nữ ngày càng được ghi nhận
như nam giới đóng góp ví lợi ìch cộng đồng.
Nhờ có chủ trương, chình sách đúng đắn, sự quan tâm của cấp ủy
Đảng, chình quyền, sự phối hợp của các tổ chức chình trị xã hội do đó việc
triển khai thực hiện quyền chình trị của phụ nữ ngày càng được nâng cao, và
ngày càng có nhiều phụ nữ trong tỉnh phát huy được vai trò trong việc tham
gia chình trị với nhiều vị trì trong các cơ quan quản lý nhà nước và xã hội.
Phụ nữ được đảm bảo quyền bính đẳng trong đời sống chình trị, đảm bảo
quyền ứng cử, bầu cử, tham gia quản lý Nhà nước và xã hội, tham gia thảo
luận và kiến nghị với cơ quan nhà nước về các vấn đề của cơ sở, địa phương
và cả nước, tham gia biểu quyết khi Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân.
Trong quá trính triển khai, bên cạnh những thuận lợi còn có những khó
khăn, hạn chế do điều kiện kinh tế, xã hội và văn hóa tỉnh Phú Yên có những
đặc thù ảnh hưởng, tác động đến việc thực hiện quyền chình trị của phụ nữ.
Đời sống nhân dân trong đó có phụ nữ ở 3 huyện miền núi, vùng sâu, vùng xa
của tỉnh kinh tế còn khó khăn, công tác tuyên truyền về sự bính đẳng của phụ
nữ trong đó có quyền tham gia chình trị của phụ nữ chưa sâu rộng, một bộ
phận lớn phụ nữ nhất là ở cơ sở do hoàn cảnh khó khăn dẫn đến trính độ học
vấn hạn chế. Nhận thức của nam giới và chình trong nữ giới do lịch sử để lại
dẫn đến định kiến, hiểu chưa toàn diện về phụ nữ tham gia chình trị dẫn đến
công tác quy hoạch, bổ nhiệm, bầu cử, ứng cử phụ nữ tham gia vào các cơ
70
quan quản lý Nhà nước và xã hội, các tổ chức chình trị xã hội gặp nhiều khó
khăn. Trong khi đó, một số quy định hiện hành liên quan đến quyền tham gia
chình trị của phụ nữ chưa đồng bộ và thống nhất. Việc thể chế hóa các văn
bản của Đảng và Nhà nước tới cấp cơ sở và cấp huyện về sự tham gia chình
trị của phụ nữ nhiều khi chưa kịp thời. Dù Luật bính đẳng giới đã được ban
hành nhưng việc đảm bảo thực hiện và hiệu quả thực hiện trong nội dung
quyền tham gia chình trị của phụ nữ chưa cao.
Từ thực trạng trên, cho thấy vẫn còn nhiều tồn tại, bất cập trong việc
thực hiện quyền chình trị của phụ nữ trên địa bàn tỉnh, đòi hỏi cần phải đảm
bảo về mặt cơ chế chình sách và trên thực tế, có như vậy quyền chình trị của
71
phụ nữ được đáp ứng yêu cầu của phụ nữ và trong tính hính mới.
Chương 3:
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP THỰC HIỆN
QUYỀN CỦA PHỤ NỮ TRONG LĨNH VỰC CHÍNH TRỊ
Ở TỈNH PHÚ YÊN HIỆN NAY
3.1. Quan điểm thực hiện quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chính trị ở
tỉnh Phú Yên hiện nay
3.1.1. Thực hiện quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chính trị phải xuất phát
từ nhận thức đúng đắn, đầy đủ về vai trò, vị trí của phụ nữ trong toàn bộ
quá trình xây dựng, phát triển đất nước và địa phương
Khi đất nước bước vào kỷ nguyên hội nhập với thế giới, trong công
cuộc xây dựng đất nước trên con đường công nghiệp hóa - hiện đại hóa hiện
nay, phụ nữ Việt Nam nói chung và phụ nữ tỉnh Phú Yên nói riêng có vai trò
rất quan trọng, là động lực thúc đẩy sự phát triển chung của xã hội. Vai trò
này đang được khẳng định một cách rõ nét, cụ thể:
- Trước hết chúng ta phải thừa nhận vị trì hết sức quan trọng của người
phụ nữ trong gia đính. Họ có ảnh hưởng to lớn tới hạnh phúc và sự ổn định
của gia đính. Với trách nhiệm là người vợ, họ luôn cùng sát cánh chia sẻ
những ngọt bùi, đắng cay cùng chồng, khiến người chồng luôn cảm thấy yên
tâm trong cuộc sống, hỗ trợ, giúp đỡ, động viên, đóng góp vào thành công
trong sự nghiệp của chồng. Và với trách nhiệm là người mẹ, họ luôn hết lòng
ví con cái, là những tấm gương cho con cái noi theo.
- Trong thời đại mới, bên cạnh vai trò quan trọng trong gia đính, người
phụ nữ còn tìch cực tham gia vào các hoạt động xã hội. Ngày càng có nhiều
người trở thành chình trị gia, nhà khoa học nổi tiếng, nhà quản lý năng động
… Trong nhiều lĩnh vực, sự có mặt của người phụ nữ là không thể thiếu như
72
ngành dệt, may mặc, du lịch, công nghệ dịch vụ, y tế, giáo dục …
- Phụ nữ góp một phần rất lớn vào quá trính phát triển của đất nước,
thể hiện ở số nữ chiếm tỉ lệ cao trong lực lượng lao động. Với hơn 50% dân
số và gần 50% lực lượng lao động xã hội, ngày càng có nhiều phụ nữ tham
gia vào hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội và giữ những chức vụ quan
trọng trong bộ máy nhà nước. Phụ nữ chiếm ưu thế trong một số ngành như
giáo dục, y tế, và dịch vụ. Trong công tác chuyên môn, phụ nữ chiếm số đông
trong các bộ môn văn học, ngôn ngữ, y dược, khoa học xã hội, khoa học tự
nhiên và kinh tế. Nếu tình tổng số giờ làm việc của nữ giới (kể cả ở nhà và
bên ngoài) cao hơn rất nhiều so với nam giới.
- Quyền của phụ nữ về kinh tế đã được nâng lên thông qua việc pháp
luật quy định phụ nữ cùng đứng tên với nam giới trong giấy chứng nhận
quyền sở hữu đất đai, nhà ở, và tài sản.
Như vậy có thể nói, trong xu thế hội nhập và phát triển của đất nước
nói chung, của địa bàn tỉnh Phú Yên nói riêng, phụ nữ đã phát huy và khẳng
định vai trò, vị trì của mính đối với sự phát triển của xã hội. Khi nền kinh tế
của chúng ta càng phát triển, phụ nữ càng có nhiều cơ hội hơn. Nó phá vỡ sự
phân công lao động cứng nhắc theo giới, cho phép phụ nữ tham gia vào nền
kinh tế thị trường và khiến nam giới phải chia sẻ trách nhiệm chăm sóc gia
đính. Nó có thể giảm nhẹ gánh nặng việc nhà cho phụ nữ, tạo cho họ nhiều
thời gian nhàn rỗi hơn để tham gia vào các hoạt động khác. Đặc biệt tạo ra
nhiều cơ hội hơn cho phụ nữ tham gia vào hoạt động chình trị...Chình nhờ
Đảng có sự lựa chọn đường lối đúng đắn cho sự phát triển của đất nước mà
vai trò của người phụ nữ trong xã hội Việt Nam không ngừng được nâng cao.
Để đảm bảo quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chình trị nhằm giải phóng
phụ nữ, nâng cao vị trì, vai trò và khả năng của phụ nữ trong hệ thống chình
trị cần đòi hỏi không ngừng nâng cao năng lực tham gia và cơ quan quản lý
73
và các tổ chức xã hội của phụ nữ. Tuy nhiên, tỷ lệ phụ nữ tham gia đầy đủ
như nam giới như thế nào còn tuỳ thuộc vào điều kiện kinh tế, thể chế, chình
sách của Đảng và Nhà nước. Đồng thời phải tạo điều kiện cho phụ nữ có trính
độ, năng lực chuyên môn.
Trong điều kiện hội nhập quốc tế và toàn cầu hóa đòi hỏi người phụ nữ
phải có những tiêu chuẩn nhất định ngang với nam giới, nhất là cán bộ quản
lý phải có trính độ học vấn như nam giới, tăng cường phát huy hết năng lực
vốn có của những phụ nữ có tiềm năng gắn liền với việc đề bạt, bổ nhiệm họ.
Hơn nữa cần phải xóa bỏ định kiến của cả hai giới, xóa bỏ những mặc cảm, tự
ti tồn tại trong chình giới nữ giúp cho họ tự tin vươn lên, đồng thời xóa bỏ sự
nhín nhận thiên kiến, sai lệch của cả xã hội về vị trì, vai trò của phụ nữ trong
lĩnh vực chình trị. Có như thế mới đảm bảo quyền của phụ nữ trong lĩnh vực
chình trị.
3.1.2. Thực hiện quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chính trị phải đi đôi với
ghi nhận và bảo đảm quyền của phụ nữ trong các lĩnh vực khác
Quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chình trị cần đặt trong tổng thể đảm
bảo, tôn trọng, bảo vệ các quyền con người, quyền công dân ở Việt Nam,
nghĩa là quyền chình trị của phụ nữ ở Việt Nam được thể hiện và pháp luật
bảo vệ với tư cách là các quyền công dân. Phụ nữ cũng là công dân và phụ nữ
có các quyền chình trị của một công dân, được tham gia vào mọi hoạt động
trong đời sống chình trị và đời sống cộng đồng của đất nước.
Thực tiễn thực hiện quyền của phụ nữ ở Việt Nam nói chung và ở tỉnh
Phú Yên nói riêng cho thấy, từ những năm sau đổi mới (1986), khi Công ước
CEDAW Liên Hợp quốc (Công ước về xóa bỏ tất cả các hính thức phân biệt
đối xử chống lại phụ nữ) chình thức được thực hiện ở Việt Nam, thí vấn đề
quyền của phụ nữ đã thu được nhiều kết quả tìch cực: nhận thức của các cấp,
các ngành, các địa phương nhất là những vùng sâu, vùng xa, vùng kinh tế kém
74
phát triển, văn hóa thấp về quyền của phụ nữ đã được cải thiện; phụ nữ ngày
càng có nhiều cơ hội thể hiện và khẳng định vị trì vai trò của mính trong gia
đính cũng như các hoạt động chình trị - xã hội; tỷ lệ phụ nữ tham gia lãnh
đạo, quản lý nhà nước tăng lên, hoạt động của các nữ doanh nhân, chủ doanh
nghiệp là nữ, hoạt động giao lưu đối ngoại khu vực, quốc tế, số lượng ngày
càng nhiều, chất lượng ngày càng tăng.
Theo đó, phụ nữ được thực hiện mọi quyền của mính, được làm chủ xã
hội và phát huy vai trò, sự sáng tạo của mính trong xây dựng đất nước. Quyền
của phụ nữ trong tất cả các lĩnh vực, trong đó có quyền chình trị được pháp
luật, xã hội thừa nhận và tôn trọng bảo đảm thực hiện.
3.1.3. Thực hiện quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chính trị phải hướng tới
tương thích với các chuẩn mực pháp lý quốc tế về quyền của phụ nữ
Việt Nam được đánh giá là quốc gia có khung pháp lý tiến bộ về bính
đẳng giới. Trong xu thế toàn cầu, việc bảo đảm quyền của phụ nữ trong lĩnh
vực chình trị phải hướng tới tương thìch với các chuẩn mực pháp lý quốc tế
về quyền của phụ nữ, điều này đồng nghĩa với việc xây dựng và hoàn thiện
pháp luật phải đảm bảo sự tương đồng với pháp luật quốc tế, song phải phù
hợp với điều kiện phát triển kinh tế, chình trị, văn hóa, xã hội của quốc gia.
Mặt khác, quyền chình trị là một quyền hết sức nhạy cảm, ví vậy hoàn thiện
pháp luật về quyền chình trị của phụ nữ đòi hỏi phải có sự nghiên cứu, sáng
tạo, tránh rập khuôn máy móc, tránh không phù hợp với điều kiện kinh tế - xã
hội, trính độ dân trì, phong tục tập quán, cho dù sự tương đồng chỉ ở mức độ
nhất định, song pháp luật không thể xa rời lợi ìch dân tộc và nền tảng kinh tế,
chình trị và những điều kiện sản sinh ra nó.
Đảm bảo quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chình trị phải có pháp luật
về quyền chình trị của phụ nữ phù hợp với các công ước quốc tế liên quan đến
phụ nữ mà Nhà nước Việt Nam đã tham gia, ký kết và phê chuẩn nhằm đảm
75
bảo hài hoà lợi ìch, chủ quyền quốc gia và nghĩa vụ quốc tế.
3.1.4. Thực hiện quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chính trị phải tính đến
sự phù hợp nhất định với các điều kiện đặc thù của địa phương
Đảm bảo quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chình trị cần chú ý đến việc
phát triển kinh tế gắn với tiến bộ xã hội, xóa đói, giảm nghèo cho phụ nữ. Lấy
mục tiêu nâng cao chất lượng cuộc sống cho xã hội nói chung và phụ nữ nói
riêng làm mục tiêu xuyên suốt. Xây dựng cơ chế, chình sách, các văn bản quy
phạm pháp luật, các chương trính, đề án, dự án liên quan đến quyền, lợi ìch
của phụ nữ. Đồng thời, tuyên truyền, phổ biến chình sách, pháp luật, tham gia
kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật liên quan đến quyền của phụ nữ.
Hoạt động hệ thống chình trị phải hiệu quả và triển khai lồng ghép vấn đề về
quyền cho phụ nữ vào các chương trính, sáng kiến ở các cấp chình quyền địa
phương, các ban ngành trong toàn hệ thống chình trị.
Đảm bảo quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chình trị phải sát hợp với
từng đối tượng, vùng, miền, phát huy được tinh thần làm chủ, tiềm năng, sức
sáng tạo và khả năng đóng góp cao nhất của các tần lớp phụ nữ, góp phần tạo
nên sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc để phát triển đất nước; đồng thời phải
chăm lo cho phụ nữ tiến bộ về mọi mặt, quan tâm đầy đủ quyền và lợi ìch hợp
pháp, chình đáng để phụ nữ có điều kiện thực hiện tốt vai trò người công dân,
người lao động, người mẹ, người thầy đầu tiên của con người.
Tùy vào đối tượng, tùy vào điều kiện thực tế ở địa phương, mà các cấp
ủy Đảng, chình quyền cần phải có sự quan tâm đúng mức, tham mưu xây
dựng, tạo những cơ chế, chình sách phù hợp để bảo vệ những lợi ìch chình
đáng cho phụ nữ, hỗ trợ, tạo điều kiện cho phụ nữ có cơ hội phát huy vai trò,
76
vị trì của mính trong mọi lĩnh vực, đặc biệt là hoạt động chình trị.
3.2. Giải pháp thực hiện quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chính trị ở tỉnh
Phú Yên hiện nay
3.2.1. Đổi mới nhận thức của tổ chức Đảng, chính quyền nhà nước và toàn xã
hội về vị trí, vai trò, khả năng và quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chính trị
Nam nữ bính đẳng là một trong những quyền cơ bản của con người.
Quyền bính đẳng giới đã được quy định trong Hiến pháp và pháp luật Việt Nam.
Vị trì, vai trò của phụ nữ được xã hội tôn trọng và pháp luật bảo vệ, phụ nữ được
tạo điều kiện phát triển tài năng và tham gia vào đời sống chình trị - xã hội.
Quán triệt sâu sắc các quan điểm, mục tiêu về bính đẳng giới trong lĩnh
vực chình trị nói riêng, cần tăng cường nâng cao nhận thức, trách nhiệm của
các cấp ủy đảng, chình quyền, các tổ chức chình trị - xã hội, và nhân dân, tạo
bước chuyển biến rõ rệt về hiệu quả công tác phụ nữ ở từng ngành, địa
phương, đơn vị. Coi trọng việc phổ biến, giáo dục pháp luật về quyền bính
đẳng nói chung, pháp luật quyền chình trị của phụ nữ nói riêng, không chỉ cho
phụ nữ mà còn cho mọi công dân, công chức nhà nước, và các cơ quan có
thẩm quyền trong tổ chức thực hiện và bảo vệ pháp luật.
Tăng cường vai trò lãnh đạo của các cấp ủy Đảng trong việc cụ thể các
chủ trương và định hướng về quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chình trị. Đảng
phải luôn ý thức và đánh giá cao vai trò của phụ nữ - một lực lượng quan
trọng trong suốt chặng đường phát triển của đất nước. Thể hiện cam kết chình
trị của Đảng trong việc thúc đẩy vai trò, vị thế của phụ nữ trong bối cảnh đổi
mới toàn diện đất nước và hội nhập quốc tế sâu rộng bằng việc đẩy mạnh đổi
mới và tăng cường công tác vận động phụ nữ trong tính hính mới theo Nghị
quyết số 11-NQ/TW (năm 2007) của Bộ Chình trị về Công tác phụ nữ thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Các cơ quan Ðảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể, tổ chức
77
xã hội, và các cơ quan thông tin đại chúng... tăng cường tuyên truyền, giáo
dục nâng cao nhận thức về giới, quyền chình trị và ý thức trách nhiệm thực
hiện bính đẳng giới trong lĩnh vực chình trị cho cán bộ, đảng viên và các tầng
lớp nhân dân; lên án, đấu tranh chống tư tưởng định kiến giới, phân biệt đối
xử về giới, các hành vi xâm hại, xúc phạm nhân phẩm, danh dự của phụ nữ.
Hội Liên hiệp Phụ nữ và Ban ví sự tiến bộ của phụ nữ các cấp cần làm
tốt vai trò nòng cốt tham mưu và thực hiện các giải pháp cần thiết để nâng cao
nhận thức cho các cấp, các ngành, phụ nữ và nhân dân về bính đẳng giới,
khắc phục tư tưởng định kiến giới trong cộng đồng; khắc phục tư tưởng tự ti,
an phận, nìu kéo nhau của một bộ phận phụ nữ, nêu cao tinh thần tự chủ, đoàn
kết, vượt khó vươn lên đóng góp ngày càng nhiều cho gia đính và xã hội.
Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chình trị - xã hội các cấp phối hợp
trong tổ chức các hoạt động bính đẳng giới; tăng cường giám sát cộng đồng,
vai trò phản biện xã hội những nội dung liên quan đến bính đẳng giới, nhất là
tham gia, đề xuất xây dựng các chế độ, chình sách đối có liên quan đến phụ
nữ và lao động nữ.
Tăng cường các biện pháp nâng cao ý thức pháp luật và văn hoá pháp
lý trong mỗi cá nhân, mỗi gia đính và cộng đồng. Mặt khác, pháp luật phải
nghiêm khắc và khả thi để bảo đảm pháp luật được tuân thủ ở mọi lúc, mọi nơi,
với mọi người và bảo đảm mọi sự xâm phạm đến quyền của phụ nữ, cản trở sự
phát triển và tiến bộ của phụ nữ đều bị xử lý nghiêm minh theo pháp luật. Tăng
cường công tác truyền thông thay đổi nhận thức về vai trò, vị thế của phụ nữ
trong tham gia chình trị. Quyền của phụ nữ cần được xem như là một giá trị cơ
bản của con người. Đồng thời cần xóa bỏ định kiến giới về sự phân công lao
động trong gia đính, ngoài xã hội và nơi công sở.
Đảng, nhà nước chỉ đạo các cơ quan chức năng và Sở Lao động –
Thương binh xã hội chủ trí phối hợp biên soạn tài liệu tuyên truyền, tăng
78
cường truyền thông để nâng cao nhận thức, ý thức, trách nhiệm của cán bộ,
đảng viên, đoàn viên, hội viên và các tầng lớn nhân dân về bính đẳng giới.
Thường xuyên củng cố, kiện toàn Ban Ví sự tiến bộ của phụ nữ các cấp, các
ngành theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động, bố trì cán bộ
chuyên trách làm công tác bính đẳng giới.
3.2.2. Hoàn thiện pháp luật liên quan đến quyền chính trị của phụ nữ
3.2.2.1. Rà soát và hệ thống hóa các văn bản pháp luật hiện hành liên quan
đến quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chính trị
Quá trính rà soát và hệ thống hóa các văn bản pháp luật hiện hành nói
chung về quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chình trị nói riêng là hết sức cần
thiết và không thể thiếu trong qúa trính hoàn thiện pháp luật về quyền của phụ
nữ trong lĩnh vực chình trị.
Do các luật và các điều khoản pháp luật luôn cần bổ sung điều chỉnh phù
hợp với hoàn cảnh thực tiễn phát sinh ví thế để sửa đổi và bổ sung các văn bản
pháp luật về quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chình trị cần tiến hành một cách
thường xuyên và có chất lượng việc rà soát và hệ thống hoá các văn bản pháp
luật liên quan đến quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chình trị theo từng lĩnh vực
cụ thể của quyền tham gia chình trị. Rà soát lại nội dung và hiệu lực của từng
văn bản, từng quy phạm pháp luật thông qua các quy tắc, quy định. Trong quá
trính rà soát và hệ thống hóa văn bản đã phân loại và xác định những văn bản,
những quy phạm nào không cần, không còn hiệu lực hoặc chồng chéo, trùng
lắp hoặc cần sửa đổi, bổ sung chẳng hạn như quy định về giới hạn đề bạt lần
đầu của nam và nữ trong chủ trương, chình sách của Đảng đã gây khó khăn cho
việc áp dụng chình sách, pháp luật và gây nên sự bất bính đẳng nam nữ. Đồng
thời, thông qua quá trính rà soát và hệ thống hóa văn bản pháp luật, những văn
bản, quy phạm nào cần hợp nhất hoặc cần nâng cấp ban hành. Những cơ sở nào
cần được khắc phục, điều chỉnh lại, những văn bản đã ban hành nhưng không
79
phù hợp thí phải có biện pháp khắc phục ngay.
3.2.2.2. Sửa đổi, bổ sung những điểm chưa phù hợp trong chính sách, pháp
luật bảo đảm quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chính trị
Trong quá trính hội nhập quốc tế, trước những đòi hỏi khách quan, một
số quy phạm pháp luật về quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chình trị chưa phù
hợp và rất khó áp dụng trên thực tế, đặc biệt là một số quy định trong Bộ Luật
lao động (năm 2012), Chỉ thị 37- CT/TW (năm 1994) về một số vấn đề công
tác cán bộ nữ trong tính hính mới. Chình ví vậy, cần phải sửa đổi, bổ sung
những điểm chưa phù hợp trong chình sách, pháp luật bảo đảm quyền của phụ
nữ trong lĩnh vực chình trị.
Đối với khoản 1, Điều 187 Bộ Luật lao động (năm 2012) cần sửa đổi
những bất cập trong một số chình sách “ưu tiên” đối với lao động nữ nói
chung và cán bộ nữ nói riêng về độ tuổi nghỉ hưu. Bước vào thời đại hội nhập
quốc tế, xã hội phát triển, trính độ dân trì được nâng cao, phụ nữ, nam giới
làm việc bính đẳng, trừ một số ngành đặc thù nên tuổi nghỉ hưu nam, nữ cần
bính đẳng, có thể tăng độ tuổi nghỉ hưu đối với lao động nữ nói chung và cán
bộ nữ nói riêng bằng với nam giới là khi đủ 60 tuổi (thay ví khi đủ 55 tuổi)
nhằm tạo điều kiện cho phụ nữ được tiếp tục làm việc, được cống hiến và thể
hiện năng lực của mính, còn đối với trường hợp lao động nặng nhọc, đặc thù
thí được nghỉ hưu trước.
Cụ thể hóa Chỉ thị 37- CT/TW (năm 1994) về một số vấn đề công tác
cán bộ nữ trong tính hính mới, tăng cường chú trọng xây dựng và đào tạo đội
ngũ nữ cán bộ quản lý gắn với chiến lược phát triển tổng thể kinh tế- xã hội
của đất nước và việc sử dụng hợp lý và hiệu quả đội ngũ đó. Các cấp ủy cần
thống kê, phân tìch tính hính cán bộ nữ một cách toàn diện. Trên cơ sở đánh
giá đúng đắn cán bộ nữ, các cấp ủy coi trọng quy hoạch cán bộ nữ để đáp ứng
yêu cầu phát triển đội ngũ cán bộ nữ thời kỳ CNH-HĐH. Công tác quy hoạch
80
cần triển khai đồng bộ, dân chủ, chặt chẽ, đúng nguyên tắc; ưu tiên những
chuyên ngành, lĩnh vực, vùng, miền mà ở đó cán bộ nữ còn quá thiếu. Quy
hoạch phải gắn với đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng cán bộ, gắn với luân
chuyển cán bộ; đồng thời, quy hoạch cán bộ nữ phải được rà soát, bổ sung và
điều chỉnh hằng năm.
Trong việc đánh giá, quy hoạch và sử dụng cán bộ nữ, cần căn cứ vào
tiêu chuẩn, hiệu quả công việc, xem xét về khả năng và triển vọng của chị em.
Các cấp lãnh đạo cần quan tâm đến thiên chức làm mẹ, sinh con, nuôi dạy con
cái và chăm sóc gia đính của chị em, từ đó đánh giá công bằng hơn đối với
cán bộ nữ, nhất là trong công tác đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng cán bộ nữ.
Công tác tạo nguồn cán bộ nữ cần đặt trong chiến lược phát triển nguồn
nhân lực chung của các cấp ủy, chình quyền: ưu tiên và quan tâm tuyển dụng
cán bộ nữ, lao động nữ có trính độ đại học, trên đại học, nhất là những chuyên
ngành, lĩnh vực phụ nữ chiếm số đông, nâng cao tỷ lệ đảng viên là nữ, có kế
hoạch bố trì, phân công công tác để họ được phấn đấu, rèn luyện và trưởng
thành. Chú ý lựa chọn, bồi dưỡng những nhân tố tìch cực, có triển vọng để tạo
nguồn cho những vị trì lãnh đạo cao hơn trong đội ngũ cán bộ nữ đương chức
ở các cấp.
Để nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ nữ: cần quy định các lớp học,
khóa đào tạo phấn đấu để cán bộ nữ tham gia đạt tỷ lệ từ 30% trở lên. Chú
trọng tăng tỷ lệ chiêu sinh cán bộ nữ trong các khóa đào tạo, bồi dưỡng. Kế
hoạch đào tạo, bồi dưỡng phải gắn với quy hoạch và việc bố trì sử dụng cán
bộ nữ. Đa dạng hóa hính thức đào tạo phù hợp với đặc điểm giới nữ; đào tạo,
bồi dưỡng có trọng tâm trọng điểm, chú ý thời điểm thuận tiện nhất cho việc
đào tạo cán bộ nữ.
Chình sách xã hội phải tập trung giảm nhẹ công việc gia đính cho phụ
nữ để chị em có điều kiện và yên tâm tham gia các công tác xã hội. Cần có
81
biện pháp góp phần tăng cường các dịch vụ xã hội để giảm nhẹ gánh nặng
công việc gia đính cho phụ nữ: các trường học thân thiện giúp chăm sóc, nuôi
dạy con; khu bệnh viện, mua sắm tiện nghi… giúp chị em giảm bớt sự tiêu
tốn thời gian và sức lực không cần thiết. Trước mắt, cần bổ sung chình sách
ưu đãi, hỗ trợ đối với cán bộ nữ trong việc đi học, đào tạo, bồi dưỡng, nâng
cao trính độ, xây dựng chình sách hỗ trợ và khuyến khìch nữ tài năng trẻ.
Công đoàn, nữ công nên mở các lớp đào tạo kỹ năng tổ chức gia đính
cho phụ nữ, hướng tới xây dựng gia đính cân bằng trách nhiệm của cả nam
giới và nữ giới trong việc cùng chăm sóc con cái và các thành viên cùng gánh
vác công việc gia đính góp phần giải phóng phụ nữ.
Đảm bảo các quyền của phụ nữ nói chung và quyền của phụ nữ trong
lĩnh vực chình trị nói riêng phải thực chất là nhiệm vụ giải phóng phụ nữ; là
nhiệm vụ của tất cả các thành viên của hệ thống chình trị, dưới sự lãnh đạo
của Đảng; coi trọng công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện các chủ trương,
chình sách về cán bộ nữ và nên đưa chỉ tiêu về cán bộ nữ là một nội dung
trong nhiệm vụ của các cấp ủy Đảng và đoàn thể được tổ chức kiểm tra, giám
sát và đánh giá thi đua hàng năm. Sự tiến bộ của phụ nữ chỉ có được khi cả
hai giới nam và nữ cùng đồng hành, chia sẻ và nâng đỡ cho nhau.
3.2.2.3. Sửa đổi, bổ sung pháp luật về tổ chức hoạt động của các đoàn thể, tổ
chức của phụ nữ
Mặc dù quyền tham gia chình trị của phụ nữ chỉ có thể thực hiện tốt khi
nó có cơ chế thực thi và giám sát đồng bộ việc thực hiện từ Trung ương đến
địa phương. Ở Việt Nam, các tổ chức liên quan trực tiếp và gián tiếp đến phụ
nữ được coi là cơ quan giám sát và thực hiện quyền của phụ nữ nói chung và
quyền tham gia chình trị nói riêng. Trong đó, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam
và Uỷ ban Quốc gia ví sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam đóng một vai trò quan
trọng và hai cơ quan này được hiểu là các cơ quan đầu mối trong việc thực
82
hiện quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chình trị. Tuy nhiên, hoạt động của hai
cơ quan này, bên cạnh những kết quả đã đạt được còn những bất cập. Ví vậy,
Đảng và Nhà nước cần có những quy định cụ thể hơn, rõ hơn về chức năng,
nhiệm vụ của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam và Uỷ ban Quốc gia ví sự tiến
bộ của phụ nữ Việt Nam. Để hoàn thiện pháp luật về quyền chình trị của phụ
nữ Việt Nam, cần phải tiến hành các biện pháp:
Thứ nhất, tăng cường vai trò và quyền hạn cụ thể của Hội Liên hiệp
Phụ nữ Việt Nam và Uỷ ban quốc gia ví sự tiến bộ của Phụ nữ Việt Nam
trong việc bảo đảm quyền tham gia chình trị của phụ nữ. Các biện pháp cụ thể
được đặt ra như thúc đẩy vai trò của Hội Phụ nữ trong việc giới thiệu nhân sự
nữ, hỗ trợ cho các nữ ứng cử viên và có nhiệm vụ giám sát chặt chẽ qúa trính
bầu cử. Các cấp Hội Phụ nữ và Uỷ ban ví sự tiến bộ của phụ nữ cần tăng
cường sự phối hợp với các cấp uỷ Đảng chình quyền, các ban, ngành chức
năng, đoàn thể tổ chức tốt việc tuyên truyền phổ biến các chủ trương, chình
sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước, chủ trương của các công tác Hội và
Uỷ ban, Công ước CEDAW cho phụ nữ vùng núi, vùng sâu, vùng xa. Đảng
và Nhà nước cần khuyến khìch bằng cách hỗ trợ các nguồn lực cho các cơ
quan này nhăm giúp họ thiết lập mạng lưới liên kết phụ nữ trong giới chình trị
để chia sẻ kinh nghiệm và tạo sự phối hợp hoạt động chung không chỉ trong
phạm vi quốc gia mà còn trên phạm vi quốc tế.
Thứ hai, xây dựng cơ quan thực thi và giám sát việc thực hiện pháp luật
về quyền tham gia chình trị của phụ nữ. Thực thi và thi hành pháp luật cần sự
kiểm tra, giám sát đầy đủ và hữu hiệu cần quy định lại cho rõ chức năng,
nhiệm vụ của hai cơ quan Hội Liên hiệp Phụ nữ và Uỷ ban Quốc gia ví sự tiến
bộ của Phụ nữ Việt Nam. Dù đã có Luật bính đẳng giới nhưng để Luật này đi
vào cuộc sống cần sự hoạt động có hiệu quả của cơ quan giám sát luật. Đây là
cơ quan thực thi và giám sát phải thực sự là cơ quan đầu mối, chỉ đạo trong
83
việc phối hợp thực hiện với các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp ở tất
cả các cấp nhằm đảm bảo sao cho phụ nữ có mặt ở tất cả các giai đoạn như rà
soát, xây dựng, giám sát, đánh giá việc thực hiện các quyền của mính, kể cả
quyền chình trị mà đã được quy định trong Luật bính đẳng giới. Cơ quan
giám sát- Uỷ ban Quốc gia ví sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam phải thực sự trở
thành cơ quan dân nguyện, thường xuyên được đào tạo, bồi dưỡng, cập nhật
kiến thức về luật, để từ đó làm tốt công tác phổ biến, tuyên truyền giáo dục
pháp luật cho người dân về quyền tham gia chình trị của phụ nữ.
3.2.3. Nâng cao trách nhiệm của các thiết chế thuộc hệ thống chính trị
trong việc tổ chức thực hiện và đảm bảo các quyền chính trị của phụ nữ tại
tỉnh Phú Yên
Cần thực hiện tốt chức năng đại diện, chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ìch
hợp pháp, chình đáng cho phụ nữ của Ban Ví sự tiến bộ phụ nữ tỉnh và các
cấp Hội LHPN trong tỉnh, cần nắm vững và quán triệt thật sâu sắc những
quan điểm, tư tưởng chỉ đạo trong Nghị quyết Đại hội XII của Đảng và nghị
quyết đại hội đảng bộ các cấp nhiệm kỳ 2015-2020, các chương trính hành
động của Tỉnh ủy; Nghị quyết của Ban Thường vụ Tỉnh ủy cụ thể hóa việc
thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVI để có những hoạt
động cụ thể, phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ chình trị và đặc điểm của phong
trào phụ nữ tỉnh.
Đổi mới mạnh mẽ nội dung, phương thức hoạt động của Hội LHPN các
cấp trong tỉnh và theo hướng sát cơ sở, bảo đảm trọng tâm, trọng điểm, phù
hợp tính hính, đặc điểm của địa phương, đơn vị. Thực hiện tốt công tác chăm
lo, bảo vệ quyền, lợi ìch hợp pháp, chình đáng của phụ nữ. Chủ động tham
mưu cấp ủy đảng, chình quyền và phối hợp với các cơ quan, đơn vị liên quan
trong xây dựng, thực hiện chình sách, chương trính, đề án, tạo điều kiện cho
phụ nữ khẳng định vai trò, vị thế trong gia đính và ngoài xã hội; tìch cực tham
84
gia giám sát và phản biện xã hội, góp ý xây dựng Đảng, nhất là các vấn đề
liên quan đến phụ nữ. Chú trọng củng cố nâng cao chất lượng các mô hính
đang hoạt động hiệu quả, xây dựng các mô hính mới phù hợp các đối tượng
phụ nữ, nhất là phụ nữ nghèo, phụ nữ đồng bào dân tộc thiểu số, vùng khó
khăn. Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện các phong trào thi đua, các cuộc vận động
của Hội. Tập trung xây dựng, củng cố tổ chức Hội ngày càng vững mạnh.
Thực hiện đồng bộ các giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ Hội các
cấp; thường xuyên đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ cán bộ Hội có bản
lĩnh chình trị vững vàng, phẩm chất đạo đức tốt, có trính độ chuyên môn,
nghiệp vụ, nhiệt tính, tâm huyết với công tác Hội, nhằm đáp ứng cho việc
thực hiện tốt vai trò đại diện chăm lo, bảo vệ, bảo đảm các quyền của phụ nữ,
trong đó có quyền chình trị của phụ nữ.
3.2.4. Nâng cao năng lực của phụ nữ trong việc thực hiện các quyền chính
trị tại tỉnh Phú Yên
Đảng và chình quyền tỉnh Phú Yên cần tăng cường công tác đào tạo,
bồi dưỡng nâng cao trính độ về chình trị, chuyên môn và kỹ năng cho đội ngũ
cán bộ nữ phù hợp với yêu cầu của nhiệm vụ và quá trính hội nhập, ví hiện
nay phụ nữ vẫn chưa đáp ứng yêu cầu tuyển chọn vào các vị trì lãnh đạo,
quản lý do nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân chưa đạt chuẩn cán
bộ. Nguyên nhân này xuất phát từ việc chưa thực sự quan tâm nhiều đến công
tác đào tạo, bồi dưỡng tạo nguồn cán bộ lãnh đạo, quản lý mà chỉ quan tâm ở
việc đề bạt, cất nhắc khi đã có sẵn và khai thác sự đóng góp của phụ nữ, hoặc
chỉ quan tâm đào tạo ở một số ngành mang tình xã hội là chủ yếu. Do đó dẫn
đến tính trạng đội ngũ cán bộ nữ mất cân đối, thiếu tình đồng bộ, đồng đều ở
các ngành, khu vực, nhất là trong các cơ quan quản lý nhà nước và các ngành
đông nữ… Để khắc phục tính trạng này, cần tiến hành các biện pháp sau :
- Trước hết, cần xây dựng quy hoạch tổng thể, trên cơ sở đó xây dựng
85
kế hoạch đào tạo cán bộ quản lý gắn với phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
Quy hoạch đào tạo phải đồng bộ từ tỉnh đến cơ sở, đảm bảo tăng dần số lượng
cũng như chất lượng, đào tạo hợp lý, mở rộng, tương xứng với lực lượng lao
động nữ, nhất là ngành đông nữ và ngành có liên quan đến quyền, lợi ìch của
phụ nữ. Đào tạo được thực hiện ở địa bàn tỉnh và cả cấp quốc gia.
- Việc chọn cử người cán bộ đi đào tạo phải đúng đối tượng, đúng tiêu
chuẩn, tiêu chì chọn cử rõ ràng và được công khai, minh bạch, tránh phân bổ
chỉ tiêu bính quân, hính thức. Cán bộ được cử đi đào tạo, bồi dưỡng phải xác
định rõ mục tiêu, động cơ học tập, có ý thức trách nhiệm, tinh thần tự giác học
tập. Khắc phục tính trạng chạy theo bằng cấp, tuyệt đối hóa bằng cấp của cả
người dạy, người học, của cơ quan làm công tác cán bộ và cơ quan sử dụng
cán bộ. Hoàn thiện cơ chế, chình sách về đào tạo, bồi dưỡng đảm bảo yếu tố
giới và bính đẳng giới. Theo dõi, đánh giá về hiệu quả, trưởng thành của đội
ngũ cán bộ sau đào tạo, bồi dưỡng.
- Xây dựng và thực hiện chương trính đào tạo cán bộ nữ theo từng lĩnh
vực, gắn với quy hoạch. Cần bảo đảm tỷ lệ nữ tham gia gia các khóa đào tạo
tại các trường lý luận chình trị, quản lý hành chình nhà nước từ 30% trở lên.
Thực hiện cử tuyển đào tạo cán bộ nữ vùng dân tộc thiểu số, tôn giáo và trong
các lĩnh vực có tỷ lệ cán bộ nữ quá thấp. Thường xuyên đánh giá, rà soát lại
khả năng sử dụng đội ngũ ngũ cán bộ nữ hiện có làm việc hiệu quả như thế
nào, từ đó có những điều chỉnh thìch hợp, đề xuất đào tạo, đào tạo lại nhằm
tăng dần chất lượng lãnh đạo, quản lý của đội ngũ cán bộ nữ.
Ngoài đào tạo chình trị, chuyên môn, quan tâm đến bồi dưỡng kỹ năng
mềm bao gồm: kỹ năng lãnh đạo, kỹ năng thuyết trính, kỹ năng quản lý, kỹ
năng giao tiếp, kỹ năng sử dụng quyền lực… là các kỹ năng mềm giúp người
phụ nữ hoàn thiện phương pháp lãnh đạo, quản lý, điều hành, sử dụng quyền
lực cứng, quyền lực mềm một cách thông minh; giúp cho người lãnh đạo xây
86
dựng mối quan hệ làm việc thân thiện, tạo môi trường thoải mái, trách nhiệm,
thúc đẩy cán bộ làm việc hiệu quả; từ đó người lãnh đạo nữ sẽ tự tin ở vị trì
lãnh đạo, quản lý…
3.2.5. Đảm bảo các điều kiện về nguồn lực cho việc thực hiện các quyền
của phụ nữ trong lĩnh vực chính trị tại tỉnh Phú Yên
- Tăng cường vai trò của tổ chức Hội Liên hiệp phụ nữ trong việc tạo
điều kiện hỗ trợ giúp đỡ cho hội viên phụ nữ phát triển kinh tế, giúp phụ nữ
phát triển toàn diện góp phần bảo đảm thực hiện quyền của phụ nữ trong lĩnh
vực chính trị
Thường xuyên khảo sát, nắm bắt tính hính đời sống, việc làm của phụ
nữ và nhu cầu của phụ nữ nghèo, phụ nữ có hoàn cảnh khó khăn, tiến hành
phân loại hộ nghèo theo từng nguyên nhân để có giải pháp tác động, hỗ trợ
phù hợp, thiết thực với từng nhóm đối tượng. Chủ động xây dựng kế hoạch,
lựa chọn các loại hính phát triển kinh tế gia đính phù hợp với thế mạnh của
từng địa phương. Chú trọng việc tuyên truyền, vận động phụ nữ phát huy nội
lực, đoàn kết, tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau về vốn, ngày công, kinh nghiệm,
khoa học kỹ thuật, bao tiêu sản phẩm để phát triển kinh tế gia đính.
Tăng cường công tác vận động, tạo điều kiện cho phụ nữ, nhất là phụ
nữ nghèo được tiếp cận, hưởng thụ các chình sách ưu đãi của Đảng và Nhà
nước để phát triển kinh tế, giảm nghèo. Bằng cách giúp phụ nữ được tiếp cận
các nguồn vốn vay từ Ngân hàng chình sách xã hội, các nguồn Quỹ Hỗ trợ
phụ nữ phát triển do Hội Liên hiệp phụ nữ các cấp vận động thành lập để tạo
điều kiện cho phụ nữ vay vốn làm ăn phát triển kinh tế gia đính.
Tiếp tục tham mưu xây dựng các Đề án “Hỗ trợ học nghề, tạo việc làm
cho lao động nữ”, tăng cường việc đào tạo chuyên môn kỹ thuật, nâng cao
chất lượng tay nghề cho phụ nữ trong các ngành nghề. Đặc biệt, chú trọng
việc chuyển giao khoa học-kỹ thuật, triển khai, nhân rộng các mô hính sản
87
xuất nông nghiệp hiệu quả để phụ nữ được học tập và ứng dụng. Phát động
nhiều phong trào thi đua, như “Phụ nữ làm kinh tế giỏi”, “Giúp phụ nữ nghèo
có địa chỉ”… nhằm thực hiện tốt cuộc vận động “Phụ nữ giúp nhau phát
triển kinh tế gia đình, xoá đói giảm nghèo”... Mở ra nhiều cơ hội, hướng làm
ăn mới, giúp phụ nữ có cơ hội làm ăn phát triển kinh tế, nâng cao thu nhập,
cải thiện đời sống, làm chủ bản thân và vươn lên thoát nghèo.
"Hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế gia đình, giảm nghèo bền vững" là
nhiệm vụ quan trọng, góp phần giúp phụ nữ có điều kiện tham gia vào các
hoạt động xã hội, đảm bảo thực hiện quyền chình trị của mính.
- Ban hành một số chính sách xã hội nhằm ưu tiên phụ nữ nông thôn và
dân tộc thiểu số
Hiện nay, tỷ lệ phụ nữ tham gia vào lãnh đạo quản lý tương đối thấp,
đặc biệt là phụ nữ nông thôn và dân tộc thiểu số. Nguyên nhân chủ yếu là do
điều kiện vật chất còn nghèo, họ phải lao động như nam giới, đồng thời còn
phải đảm nhận công việc gia đính ví thế tác động đến tư tưởng, nguyện vọng
của họ là ìt nghĩ đến vị trì quyền lực của mính. Do vậy, ngoài việc ban hành
văn bản pháp luật quy định cụ thể các quyền của phụ nữ nói chung, theo tôi
cần có những chình sách riêng đối với phụ nữ nói chung và phụ nữ nông thôn,
dân tộc thiểu số nói riêng. Mục đìch của chình sách xã hội đối với phụ nữ nói
chung và phụ nữ nông thôn, dân tộc thiểu số nói riêng là khuyến khìch phụ nữ
tham gia lao động sản xuất, tạo điều kiện cho phụ nữ nâng cao trính độ và
năng lực, tạo việc làm nâng cao thu nhập cho phụ nữ nghèo ở vùng nông thôn,
miền núi, giảm thiểu gánh nặng trên vai họ, tăng cường công tác quản lý, lãnh
đạo của phụ nữ.
- Mở rộng các hình thức dịch vụ xã hội nhằm hỗ trợ phụ nữ tham gia
vào hoạt động quản lý
Để tạo điều kiện cho phụ nữ tham gia nhiều hơn vào các hoạt động xã
88
hội cũng như hoạt động quản lý, nhà nước cần mở rộng các hính thức dịch vụ
xã hội như giảm nhẹ tối đa việc nhà cho phụ nữ làm công tác lãnh đạo ví hiệu
quả quản lý của phụ nữ ảnh hưởng rất nhiều bởi công việc gia đính. Để giải
phóng phụ nữ khỏi những bận rộn vào công việc gia đính, cần quan tâm
những vẫn đề như: cải thiện và đầu tư phát triển hệ thống nhà trẻ, mẫu giáo,
trường tiểu học, tạo điều kiện cho phụ nữ tập trung vào việc học tập, cần linh
hoạt mở rộng thêm nhiều hính thức trông trẻ ngoài giờ, trông trẻ trọn tuần,
hay trọn tháng nhằm đáp ứng như cầu của phụ nữ khi cần thiết (hội nghị, họp,
công tác xa, làm ca…) và giúp chị em có thêm thời gian, yên tâm công tác.
Đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục, mở rộng quy mô và nâng cao chất
lượng giáo dục và đào tạo. Huy động nguồn lực đầu tư phát triển cơ sở vật
chất, trang thiết bị, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của phụ nữ.
- Chú trọng đào tạo, quy hoạch, bổ nhiệm cán bộ nữ góp phần đảm bảo
quyền chính trị của phụ nữ
Các cấp hội phụ nữ tiếp tục đổi mới nội dung phương thức hoạt động
đảm bảo thiết thực hiệu quả, phù hợp với các đối tượng phụ nữ, hướng hoạt
động về cơ sở, mở rộng các hoạt động liên kết, phối hợp, đa dạng hoá các loại
hính tập hợp thu hút phụ nữ, xây dựng và phát triển phong trào thi đua yêu
nước trong các cấp, các ngành, quan tâm chăm lo giải quyết việc làm, nâng cao
đời sống bảo vệ sức khoẻ và quyền lợi của phụ nữ. Các cấp, các ngành làm tốt
công tác luân chuyển, tăng cường cán bộ lãnh đạo, bồi dưỡng gắn với xem xét
đánh giá mạnh dạn đề bạt, bố trì cán bộ nữ. Thực hiện tốt các chình sách đối
với đảng viên nữ, cán bộ nữ trong lãnh đạo, quản lý, tri thức, khoa học.
Cụ thể hoá quy hoạch, đào tạo bồi dưỡng, bổ nhiệm, luân chuyển đối
với cán bộ nữ lãnh đạo, quản lý đặc biệt quan tâm đến cán bộ nữ là tri thức,
công nhân, người công giáo. Vận dụng chình sách hỗ trợ cán bộ đi đào tạo,
bồi dưỡng tại các trường đảng, đoàn thể ở Trung ương, ở tỉnh, cán bộ nữ
89
đang nuôi con nhỏ dưới 36 tháng tuổi. Chăm lo bồi dưỡng phát triển tài năng
nữ; bố trì phân công, công tác hợp lý để đảng viên nữ có điều kiện phấn đấu,
rèn luyện, trưởng thành trong công tác, đồng thời có điều kiện chăm lo tốt
cho gia đính.
Tạo điều kiện cho cán bộ nữ vươn lên, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong
giai đoạn mới, bính đẳng với nam giới trong lãnh đạo quản lý. Đây là trách
nhiệm của các cấp uỷ đảng, người đứng đầu trong hệ thống chình trị, mặt
khác chị em phụ nữ cũng thấy rõ những hạn chế của mính để tự học hỏi, tự
vươn lên, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ được giao, khẳng định vị thế của mính
trong xã hội và trong gia đính.
3.2.6. Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật và bình đẳng
giới, nâng cao ý thức pháp luật và trình độ dân trí tại tỉnh Phú Yên
Đẩy mạnh công tác tuyên truyền các chủ trương, đường lối của Đảng,
chình sách, pháp luật của Nhà nước và các văn bản chỉ đạo của Trung ương,
của tỉnh liên quan đến phụ nữ, nhất là Luật Bính đẳng giới, Nghị quyết 11-
NQ/TW của Bộ Chình trị khóa X về “Công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh
CNH-HĐH đất nước”. Tập trung vào các văn bản pháp luật có liên quan trực
tiếp đến nhiều đối tượng, đặc biệt là phụ nữ nghèo đối tượng chình sách, đồng
bào dân tộc thiểu số. Tránh tính trạng chỉ tập trung tuyên truyền, phổ biến ở
các vùng đô thị mà không quan tâm nhiều đến các vùng nông thôn, nhất là
vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số trính độ nhận thức, hiểu
biết về pháp luật còn rất hạn chế.
Để nâng cao hiệu quả của công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục
pháp luật và bính đẳng giới, nâng cao ý thức pháp luật và trính độ dân trì thí
nhân tố con người là quan trọng nhất, nó quyết định đến chất lượng, hiệu quả
của công tác này. Điều đó đòi hỏi chúng ta phải tăng cường xây dựng đội ngũ
báo cáo viên, tuyên truyền viên pháp luật vững mạnh cả về số lượng và chất
90
lượng, có phẩm chất chình trị tốt, trính độ chuyên môn vững vàng, có kỹ năng
truyền đạt, am hiểu pháp luật và kiến thức xã hội, có như vậy mới đáp ứng
được yêu cầu nhiệm vụ trong tính hính mới.
Tăng cường mối quan hệ phối hợp giữa các cơ quan, đơn vị. Đây là
việc làm cần thiết nhằm bổ sung, tương trợ lẫn nhau trong công tác tuyên
truyền, phổ biến giáo dục pháp luật và bính đẳng giới, nâng cao ý thức pháp
luật và trính độ dân trì. Tuy công tác này là nhiệm vụ thường xuyên của mỗi
cơ quan, đơn vị nhưng để đạt được hiệu quả cao thí việc phối hợp giữa các cơ
quan, đơn vị là rất cần thiết.
Tăng cường đẩy mạnh các hính thức tuyên truyền, phổ biến giáo dục
pháp luật và bính đẳng giới, nâng cao ý thức pháp luật và trính độ dân trì trên
các phương tiện thông tin đại chúng. Bởi ví, đây là cách nhanh nhất, ìt tốn
kém nhưng hiệu quả lại rất cao. Ngoài việc tăng cường đưa tin về các văn bản
pháp luật mới ban hành thí các ngành với chức năng, nhiệm vụ của mính cần
phối hợp với các cơ quan thông tin đại chúng mở chuyên mục riêng để đề cập
đến các văn bản pháp luật có liên quan đến phụ nữ, quyền của phụ nữ trong
các lĩnh vực kinh tế, chình trị, văn hóa, xã hội..., góp phần làm tăng thêm hiệu
quả trong công tác đảm bảo quyền chình trị của phụ nữ.
Chú trọng tổ chức các cuộc thi tím hiểu pháp luật; mời báo cáo viên tổ
chức tập huấn cho cán bộ, công chức trong cơ quan đơn vị mính các văn bản
pháp luật mới, có liên quan trực tiếp đến quyền của phụ nữ nói chung và
quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chình trị nói riêng.
Phát huy vai trò là tổ chức đại diện bảo vệ quyền, lợi ìch hợp pháp
chình đáng cho phụ nữ của Hội LHPN tỉnh, Hội LHPN các cấp trong tỉnh và
Ban Ví sự tiến bộ phụ nữ tỉnh trong việc ban hành các văn bản chỉ đạo các cơ
quan quản lý Nhà nước lồng ghép vấn đề giới trong việc triển khai thi hành
chình sách, pháp luật trên địa bàn tỉnh, đồng thời ban hành các văn bản quy
91
phạm pháp luật bảo đảm quyền lợi chình đáng cho phụ nữ, đặc biệt trong các
lĩnh vực: Lao động, việc làm, giáo dục, đào tạo, dạy nghề, hôn nhân gia đính,
chăm sóc sức khỏe, bảo vệ bà mẹ, trẻ em, tham gia chình trị-xã hội...
Đẩy mạnh truyền thông qua các phương tiện thông tin đại chúng về
bính đẳng giới trong mọi lĩnh vực, xây dựng mô hính thực hiện thúc đẩy bính
đẳng giới như: Mô hính hỗ trợ phụ nữ tạo việc làm, địa chỉ tin cậy ở cộng
đồng, giảm thiểu tác hại của bạo lực giới, thì điểm dịch vụ tư vấn, hỗ trợ về
bính đẳng giới... Triển khai thực hiện tốt các đề án “Tuyên truyền, giáo dục
phẩm chất đạo đức phụ nữ Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh CNH-HĐH đất
nước”; “Hỗ trợ phụ nữ học nghề, tạo việc làm”... Qua đó đã tạo điều kiện cho
phụ nữ phát huy tiềm năng, thế mạnh, sức sáng tạo trên tất cả các lĩnh vực,
trong đó có lĩnh vực chình trị, giúp chị em tự tin vươn lên khẳng định vai trò,
vị thế trong gia đính và ngoài xã hội.
Tập trung đổi mới nhận thức về phát triển, sử dụng nguồn nhân lực, tạo
sự chuyển biến mạnh ở tất cả các cấp lãnh đạo từ tỉnh đến cơ sở về phát triển
và sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực. Đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục, nâng cao
chất lượng giáo dục theo hướng hiện đại, phù hợp với thực tiễn đào tạo nguồn
nhân lực và đón đầu sự phát triển xã hội, xu hướng hội nhập khu vực và thế
giới. Đẩy mạnh phong trào khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập,
từng bước xây dựng và nâng cấp các trung tâm học tập cộng đồng cấp xã,
nhằm nâng cao trính độ dân trì của tỉnh. Thực hiện công tác quy hoạch, đào
tạo nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức trong hệ thống
chình trị. Thực hiện tốt công tác quy hoạch cán bộ giai đoạn 2015- 2020 để
đào tạo cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, các ngành, chú trọng cán bộ nữ, trẻ,
dân tộc thiểu số... tạo điều kiện thuận lợi để phụ nữ phát triển toàn diện.
Để tiếp tục góp phần vào những nỗ lực chung của đất nước nói chung
và của tỉnh nói riêng, phụ nữ tỉnh Phú Yên cần phát huy những thành tựu đã
92
đạt được, khắc phục những khó khăn, tím ra các giải pháp phù hợp để rèn
luyện sự tự tin, tự chủ, tự lập, tự cường; tìch cực học tập, nâng cao trính độ
văn hóa, chuyên môn và nhận thức, hiểu biết về kỹ năng sống; tăng cường thể
lực, sức khỏe sinh sản, sức khỏe tinh thần; xóa bỏ tâm lý tự ti, an phận, cam
chịu, định kiến; thiếu mạnh dạn, quyết đoán. Tổ chức hợp lý các công việc gia
đính, tạo cơ hội để các thành viên cùng chia sẻ trên cơ sở điều kiện thực tế và
phù hợp với lứa tuổi của mỗi người; giải quyết kịp thời, khéo léo và hiệu quả
các mâu thuẫn nảy sinh trong gia đính; giữ gín phẩm chất, đạo đức của phụ
nữ, của người mẹ để làm gương cho con, cháu. Tham gia trực tiếp và gián tiếp
vào các hoạt động xây dựng Đảng và quản lý nhà nước; tìch cực thực hiện các
cuộc vận động, các phong trào thi đua yêu nước của địa phương, đất nước;
thực hiện có trách nhiệm và hiệu quả các quy định pháp luật và chình sách
của Đảng, Nhà nước và địa phương; kịp thời phê phán, ngăn chặn các hành vi
phân biệt đối xử về giới; thiết lập mối quan hệ hợp tác, chia sẻ trên tinh thần
thiện chì, yêu thương, hài hòa, cảm thông với phụ nữ và đồng nghiệp; mạnh
dạn thể hiện quan điểm, chình kiến trong các hoạt động cộng đồng, cơ quan,
tổ chức… Đây là những giải pháp quan trọng, nhưng phụ nữ chỉ có thể thực
hiện được bính đẳng về cơ hội khi được Đảng, Nhà nước, xã hội và gia đính
93
quan tâm hợp lý.
Tiểu kết chương 3
Đảm bảo quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chình trị cần phải thực hiện
đồng bộ từ chủ trương đến chình sách pháp luật và đảm bảo cơ chế, chế tài
thực hiện. Đồng thời phải chăm lo chình sách đào tạo, tạo nguồn đối với phụ
nữ, quan tâm động viên từ vật chất đến tinh thần để phụ nữ yên tâm công tác
quản lý và tham gia hoạt động xã hội. Đó là những vấn đề phát sinh từ thực
tiễn sự tham gia chình trị của phụ nữ tỉnh Phú Yên trong giai đoạn qua. Đảm
bảo quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chình trị tỉnh Phú Yên bên cạnh những
khó khăn tác động từ đảm bảo hệ thống pháp luật và tình khả thi thực hiện,
còn chịu tác động của điều kiện kinh tế, văn hoá, xã hội. Do vậy cần phải có
những giải pháp thực hiện đồng bộ, phù hợp nhằm tăng cường và nâng cao
94
việc bảo đảm quyền tham gia chình trị của phụ nữ, ví sự tiến bộ của phụ nữ.
KẾT LUẬN
Quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chình trị không phải là sự ưu tiên đơn
thuần ví họ là phụ nữ, mà là tạo cơ hội cần thiết cho phụ nữ nắm bắt được quá
trính vận động của đời sống chình trị - xã hội, tự có trách nhiệm phấn đấu
vươn lên, phát huy khả năng đóng góp của mính cho xã hội, cho đất nước.
Vị thế và vai trò của phụ nữ trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói
riêng tiếp tục được khẳng định. Phụ nữ đã có nhiều thành tựu trên các lĩnh
vực mà họ đã đóng góp từ khoa học, kinh tế, chình trị, văn hóa, xã hội…Phụ
nữ tham gia vào quá trính quản lý đất nước, quản lý xã hội là cần thiết và
không thể thiếu được, là yêu cầu khách quan của xã hội văn minh và phát
triển. Việc đề cử và trao quyền lãnh đạo cho phụ nữ đang là mối quan tâm của
Đảng và Nhà nước ta, đồng thời cũng là nhu cầu tự thân của phụ nữ nhằm
phát huy vai trò của giới trong phát triển kinh tế và còn mang lại lợi ìch cho
bản thân phụ nữ. Nói cách khác, sự tham gia của phụ nữ trong các lĩnh vực
của chình trị vừa mang lại lợi ìch cho xã hội vừa nhằm giải phóng phụ nữ.
Tham gia chình trị của phụ nữ là quá trính nữ giới thực hiện vai trò của mính
trước hết với tư cách là một công dân vào quá trính giành, giữ và thực thi
quyền lực chình trị, tham gia vào công việc của hệ thống chình trị, sau nữa là
tham gia vào lãnh đạo và ra các quyết sách chình trị.
Cùng với nhiều tỉnh trong cả nước, dù là một tỉnh nghèo ở khu vực
miền Trung của đất nước, tỉnh Phú Yên đã xác định việc đảm bảo quyền của
phụ nữ trong lĩnh vực chình trị là một trong những quyền cơ bản, tất yếu đảm
bảo sự tiến bộ của phụ nữ. Trong quá trính thực hiện chình sách, pháp luật về
quyền chình trị của phụ nữ thể hiện một số ưu điểm nhất định. Song vẫn còn
những hạn chế, đó là nhiều quy định của pháp luật vẫn còn nằm trên văn bản,
chưa đảm bảo tổ chức thực hiện trong thực tế của đời sống chình trị - xã hội.
95
Trên thực tế, phụ nữ còn gặp nhiều rào cản từ định kiến giới, cơ chế chình
sách…, làm hạn chế cơ hội tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội, cũng
như con đường thăng tiến của phụ nữ. Do đó, chưa phát huy hết tiềm năng
của lực lượng phụ nữ đóng góp vào sự phát triển của đất nước.
Từ sự phân tìch thực trạng quyền chình trị của phụ nữ tỉnh Phú Yên, đề
tài chỉ ra một số tồn tại, hạn chế, đồng thời bước đầu đưa ra một số đề xuất,
giải pháp cụ thể về quyền chình trị của phụ nữ nhằm góp phần đảm bảo quyền
của phụ nữ trong lĩnh vực chình trị qua đó góp phần đảm bảo quyền tham gia
chình trị của phụ nữ trong toàn quốc ví sự tiến bộ của phụ nữ trong giai đoạn
mới, giai đoạn toàn cầu hóa, xu thế hội nhập quốc tế.
Tăng cường đảm bảo quyền chình trị của phụ nữ không nằm ngoài
hoàn thiện chình sách pháp luật về quyền chình trị của phụ nữ. Tăng cường
đảm bảo quyền chình trị của phụ nữ không chỉ là nhu cầu xuất phát từ
đường lối, chủ trương của Đảng, Nhà nước, từ yêu cầu khách quan của thời
kỳ mới, mà còn nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển của đất nước, nhu cầu của
phụ nữ, của xã hội và thực hiện những cam kết quốc tế mà Việt Nam đã ký
kết, tham gia.
Đảm bảo quyền chình trị của phụ nữ cũng chình là biện pháp quan
trọng góp phần thúc đẩy và nâng cao vị thế của Việt Nam trong con mắt bạn
bè quốc tế, về hính ảnh nước Việt Nam dân chủ, bính đẳng, phát triển và bảo
96
đảm nhân quyền.
1. Ban Ví sự tiến bộ phụ nữ tỉnh Phú Yên (2010), Báo cáo đánh giá kết
TÀI LIỆU THAM KHẢO
2. Ban Ví sự tiến bộ phụ nữ tỉnh Phú Yên (2010), Báo cáo tổng kết tính
quả tỷ lệ phụ nữ tham gia cấp uỷ các cấp nhiệm kỳ 2010-2015.
hính thực hiện chiến lược Quốc gia ví sự tiến bộ của phụ nữ đến năm
3. Ban Ví sự tiến bộ phụ nữ tỉnh Phú Yên (2015), Báo cáo tình hình hoạt
2010, phương hướng nhiệm trong giai đoạn tới.
4. Bộ Ngoại giao và Uỷ ban Quốc gia ví sự tiến bộ của phụ nữ (2005), Báo
động vì sự tiến bộ của phụ nữ tỉnh Phú Yên.
cáo quốc gia lần thứ 5 và 6 về tính hính thực hiện Công ước Liên Hợp
5. Báo cáo của Ủy ban quốc gia VSTB của phụ nữ tại khóa họp lần thứ 59
quốc về xoá bỏ mọi hính thức phân biệt đối xử với phụ nữ (CEDAW).
6. Bộ luật Hính sự năm 2015.
7. Chình phủ (2012), Nghị định 56/2012/NĐ-CP quy định trách nhiệm của
của Ủy ban Địa vị Phụ nữ Liên hợp quốc (CSW 59) ngày 9/3/2015.
Bộ, Ngành, Ủy ban nhân dân các cấp trong việc đảm bảo cho các cấp
8. Chình phủ (2010), Quyết định 2351/QĐ-TTg ngày 24/12/2010 phê
Hội LHPN Việt Nam tham gia quản lý nhà nước.
9. Đại học Quốc gia (2012), Giới thiệu Công ước quốc tế về các quyền dân
duyệt Chiến lược quốc gia về bính đẳng giới giai đoạn 2010 – 2020.
10. Đặng Chì Dũng “Đảm baỏ quyền con người ở Việt Nam và những vấn
sự và chính trị (IICCPR, 1966), Nxb Hồng Đức, Hà Nội.
11. Đề tài “Quyền bình đẳng giới ở Việt Nam hiện nay” của thạc sỹ Nguyễn
đề đặt ra hiện nay” Tạp chì Cộng sản 2014 (số 860).
12. Giáo trính Cao cấp lý luận chình trị “Triết học Mác - Lênin” của Học
Thị Thanh Hiền năm 2014.
97
viện chình trị quốc gia Hồ Chì Minh năm 2014.
13. Giáo trính Cao cấp lý luận chình trị “Đường lối của Đảng Cộng sản Việt
Nam về một số lĩnh vực chủ yếu của đời sống xã hội” của Học viện chình
14. Giáo trính Cao cấp lý luận chình trị “Chính trị học” của Học viện chình
trị quốc gia Hồ Chì Minh năm 2014.
15. Giáo trính Cao cấp lý luận chình trị “Nâng cao năng lực lãnh đạo và
trị quốc gia Hồ Chì Minh năm 2014.
sức chiến đấu của đảng trong điều kiện đảng cầm quyền” của Học viện
16. Giáo trính Cao cấp lý luận chình trị “Xây dựng Đảng” của Học viện
chình trị quốc gia Hồ Chì Minh năm 2014.
17. Hiến pháp Việt Nam năm 1946, 1959, 1980, 1992 và 2013. Nhà Xuất
chình trị quốc gia Hồ Chì Minh năm 2014.
18. Học viện chình trị quốc gia Hồ Chì Minh, Trung tâm nghiên cứu quyền
bản Chình trị Quốc gia Hà Nội, 2014.
con người (2002), “Một số văn kiện quốc tế cơ bản về quyền con
19. Hồ Chì Minh toàn tập (1995), t4, Nhà xuất bản Chình trị quốc gia, Hà
người”, Nxb Học viện chình trị quốc gia Hồ Chì Minh, Hà Nội.
20. Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh Phú Yên, Dự thảo Báo cáo: Đánh giá phong
Nội, tr.8.
trào phụ nữ và hoạt động Hội nhiệm kỳ 2011-2016; mục tiêu, nhiệm vụ,
giải pháp nhiệm kỳ 2016-2021 (Trính tại Đại hội đại biểu Phụ nữ tỉnh
21. Hội thảo của Bộ Lao động TBXH về “Tăng cường phụ nữ tham chính”
Phú Yên lần thứ XV).
22. Hội thảo khoa học của Trung ương Hội LHPN Việt Nam về “Giải pháp
tháng 7/2014.
23. Luật Bầu cử đại biểu Quốc Hội và đại biểu Hội đồng nhân dân năm
nâng cao công tác cán bộ nữ” tháng 3/2015.
98
2016.
24. Nhà Xuất bản phụ nữ (1999), Công ước về xoá bỏ mọi hính thức phân
25. Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XI, Nxb Chình trị quốc gia, Hà Nội.
26. Nghị quyết đại hội Đảng bộ tỉnh Phú Yên lần thứ XX (2010 – 2015).
27. Nghị quyết Đại hội phụ nữ toàn quốc lần thứ X (2006 – 2011).
28. Nghị quyết Đại hội phụ nữ toàn quốc lần thứ XI (2011- 2016).
29. Nghị quyết Đại hội phụ nữ tỉnh Phú Yên lần thứ XI (2006-2011).
30. Nghị quyết Đại hội phụ nữ tỉnh Phú Yên lần thứ XII (2011-2016).
31. PGS.TS. Nguyễn Thị Việt Hương, Các điều kiện bảo đảm thực thi
biệt đối xử với phụ nữ (CEDAW), Hà Nội.
quyền con người, Hội thảo khoa học quốc tế: Tình phổ biến và tình đặc
32. Phạm Thị Ngọc Hà “Bính đẳng giới trong lĩnh vực chình trị ở tỉnh Phú
thù của quyền con người, Hà Nội ngày 16-17/03/2010.
33. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2005), Bộ Luật
Yên – thực trạng và một số giải pháp” Học viện chình trị khu vực III.
34. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2007), Luật bính
dân sự 2005.
35. Sổ tay thống kê giới ở Việt Nam tháng 3/2013 của Cục thống kê Việt
đẳng giới năm 2007.
36. Sở Lao động- Thương binh và xã hội (2015), Báo cáo sơ kết 5 năm tính
Nam.
hính thực hiện Chiến lược Quốc gia về bính đẳng giới giai đoạn 2011-
37. Tài liệu “Giới và phát triển” Trường Đại học lao động – xã hội năm
2020 trên địa bàn tỉnh Phú Yên.
38. Tài liệu “Lồng ghép giới trong trong quản trị nhân lực” Trường Đại học
2015.
99
lao động – xã hội năm 2015.
39. Tạp chì „Miền trung và Tây nguyên trên đường CNH, HĐH” của Học
40. Văn phòng thường trực về nhân quyền và Học viện Chình trị quốc gia
viện chình trị khu vực III năm 2014.
Hồ Chì Minh, Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân
41. Văn Hồng Nhung “phá bỏ rào cản để nâng cao phụ nữ tham chính” Tạp
trong Hiến pháp Việt Nam (Sách chuyên khảo), Hà Nội, 2015.
42. Viện Khoa học xã hội Việt Nam (2011), Những vấn đề lý luận và thực
chì Nhân quyền Việt Nam số 3/2015.
43. Viện Nghiên cứu Quyền con người năm 2008 “Bính luận và khuyến
tiễn của nhóm quyền dân sự và chình trị, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
nghị chung của các ủy ban công ước thuộc Liên hợp quốc về quyền con
44. Võ Khánh Vinh (chủ biên) - Viện Khoa học xã hội Việt Nam “Những
người” Nxb Công an nhân dân.
vấn đề lý luận và thực tiễn của nhóm quyền dân sự và chính trị”, Nxb
45. V.l. Lênin (1975), toàn tập, tập 40, Nxb Tiến bộ Mát- xcơ-va, tr.22.
46. V.l. Lênin (1975), toàn tập, tập 6, Nxb Tiến bộ Mát- xcơ-va, tr.263.
100
Khoa học xã hội, năm 2012.
101