BỘ NỘI VỤ ....../......

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO .............../...............

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

HUỲNH THỊ HỒNG HẠNH

QUYỀN CỦA PHỤ NỮ TRONG LĨNH VỰC

CHÍNH TRỊ Ở TỈNH PHÚ YÊN

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH Chuyên ngành: Luật Hiến pháp – Luật Hành chính Mã số: 60 38 01 02

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS NGUYỄN THỊ VIỆT HƢƠNG

THỪA THIÊN HUẾ - 2018

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trính nghiên cứu của riêng tôi. Các số

liệu trong Luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng. Những kết luận khoa

học của Luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trính nào

khác.

Học viên

Huỳnh Thị Hồng Hạnh

LỜI CẢM ƠN

Với lòng kình trọng và tri ân sâu sắc, trước hết, tôi xin trân trọng bày tỏ

lòng biết ơn chân thành đến lãnh đạo Học viện Hành chình Quốc gia, cùng tập

thể các giáo sư, phó giáo sư, tiến sỹ và cán bộ quản lý của Học viện đã tận

tính truyền đạt những kiến thức khoa học quý báu và tạo các điều kiện thuận

lợi giúp tôi hoàn thành chương trính cao học chuyên ngành Luật Hiến pháp và

Luật Hành chình.

Đặc biệt, Tôi xin chân thành cảm ơn cô giáo PGS. TS. Nguyễn Thị Việt

Hương đã hết lòng giúp đỡ, hướng dẫn tận tính trong quá trính hoàn thiện

nghiên cứu, cô luôn động viên và tạo mọi điều kiện thuận lợi để giúp tôi hoàn

thành tốt luận văn này. Xin chân thành cảm ơn lãnh đạo Huyện ủy, Ủy ban

nhân dân huyện Đồng Xuân, lãnh đạo cơ quan Huyện Đoàn Đồng Xuân, tỉnh

Phú Yên đã tạo điều kiện cho tôi được tham gia chương trính đào tạo cao học

và hỗ trợ thông tin, tài liệu giúp tôi hoàn thành luận văn.

Trong quá trính thực hiện, luận văn sẽ không tránh khỏi những hạn chế,

thiếu sót nhất định, rất mong nhận được sự thông cảm và chia sẻ của quý thầy

giáo, cô giáo và bạn đọc.

Xin chân thành cảm ơn!

Thừa Thiên Huế, ngày tháng năm 2018

Học viên

Huỳnh Thị Hồng Hạnh

MỤC LỤC

Trang phụ bía

Lời cam đoan

Lời cảm ơn

Mục lục

Danh mục các chữ viết tắt

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1

1. Tình cấp thiết của đề tài luận văn ...........................................................1

2. Tính hính nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn.................................4

3. Mục đìch và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn......................................6

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn ......................................7

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn..........................7

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn.................................................8

7. Kết cấu của luận văn................................................................................9

Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ

QUYỀN CỦA PHỤ NỮ TRONG LĨNH VỰC CHÍNH TRỊ .................... 10

1.1. Khái niệm, đặc điểm, nội dung quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chình trị ... 10

1.1.1. Khái niệm quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chính trị .................. 10

1.1.2. Đặc điểm quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chính trị ................... 16

1.1.3. Nội dung quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chính trị .................... 19

1.2. Điều chỉnh pháp luật về quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chình trị .... 25

1.2.1. Pháp luật quốc tế về quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chính trị .. 25

1.2.2. Pháp luật Việt Nam về quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chính

trị ............................................................................................................. 29

1.3. Các điều kiện đảm bảo quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chình trị ..... 35

1.3.1. Điều kiện chính trị ......................................................................... 35

1.3.2. Điều kiện nhận thức ...................................................................... 36

1.3.3. Điều kiện pháp lý .......................................................................... 37

1.3.4. Điều kiện xã hội ............................................................................ 37

1.3.5. Điều kiện kinh tế ............................................................................ 38

Tiểu kết chương 1 ........................................................................................ 40

Chương 2: THỰC TRẠNG QUYỀN CỦA PHỤ NỮ TRONG LĨNH

VỰC CHÍNH TRỊ Ở TỈNH PHÚ YÊN HIỆN NAY .................................. 41

2.1. Một số yếu tố đặc thù của tỉnh Phú Yên có ảnh hưởng tới quyền của

phụ nữ trong lĩnh vực chình trị ................................................................... 41

2.1.1. Khái quát các đặc thù về địa lý – dân cư, tình hình kinh tế - xã

hội của tỉnh Phú Yên ............................................................................... 41

2.1.2. Tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị tại tỉnh Phú Yên .... 43

2.1.3. Quá trình phát huy vai trò và khả năng tham gia của phụ nữ

trong lĩnh vực chính trị ở tỉnh Phú Yên................................................... 43

2.2. Thực tiễn thực hiện quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chình trị ở tỉnh

Phú Yên hiện nay ........................................................................................ 45

2.2.1. Thực hiện quyền bầu cử và ứng cử của phụ nữ ............................ 45

2.2.2. Thực hiện quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội của phụ

nữ ............................................................................................................. 53

2.2.3. Thực hiện quyền bỏ phiếu trưng cầu dân ý của phụ nữ................ 62

2.2.4. Thực hiện quyền tự do hội họp, lập hội, biểu tình của phụ nữ ..... 63

2.3. Đánh giá chung về thực hiện quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chình

trị ở tỉnh Phú Yên hiện nay ....................................................................... 644

2.3.1. Kết quả và nguyên nhân .............................................................. 644

2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân ............................................................. 665

Tiểu kết chương 2 ...................................................................................... 700

Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP THỰC HIỆN QUYỀN CỦA

PHỤ NỮ TRONG LĨNH VỰC CHÍNH TRỊ Ở TỈNH PHÚ YÊN

HIỆN NAY ................................................................................................... 722

3.1. Quan điểm thực hiện quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chình trị ở

tỉnh Phú Yên hiện nay ............................................................................... 722

3.1.1. Thực hiện quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chính trị phải xuất

phát từ nhận thức đúng đắn, đầy đủ về vai trò, vị trí của phụ nữ trong

toàn bộ quá trình xây dựng, phát triển đất nước và địa phương .......... 722

3.1.2. Thực hiện quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chính trị phải đi đôi

với ghi nhận và bảo đảm quyền của phụ nữ trong các lĩnh vực khác .. 744

3.1.3. Thực hiện quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chính trị phải hướng

tới tương thích với các chuẩn mực pháp lý quốc tế về quyền của phụ

nữ ........................................................................................................... 755

3.1.4. Thực hiện quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chính trị phải tính

đến sự phù hợp nhất định với các điều kiện đặc thù của địa phương .. 766

3.2. Giải pháp thực hiện quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chình trị ở tỉnh

Phú Yên hiện nay ...................................................................................... 777

3.2.1. Đổi mới nhận thức của tổ chức Đảng, chính quyền nhà nước và

toàn xã hội về vị trí, vai trò, khả năng và quyền của phụ nữ trong lĩnh

vực chính trị .......................................................................................... 777

3.2.2. Hoàn thiện pháp luật liên quan đến quyền chính trị của phụ nữ 79

3.2.3. Nâng cao trách nhiệm của các thiết chế thuộc hệ thống chính trị

trong việc tổ chức thực hiện và đảm bảo các quyền chính trị của phụ

nữ tại tỉnh Phú Yên .................................................................................. 84

3.2.4. Nâng cao năng lực của phụ nữ trong việc thực hiện các quyền

chính trị tại tỉnh Phú Yên ........................................................................ 85

3.2.5. Đảm bảo các điều kiện về nguồn lực cho việc thực hiện các

quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chính trị tại tỉnh Phú Yên ................. 877

3.2.6. Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật và bình

đẳng giới, nâng cao ý thức pháp luật và trình độ dân trí tại tỉnh Phú

Yên ......................................................................................................... 900

Tiểu kết chương 3 ...................................................................................... 944

KẾT LUẬN .................................................................................................. 955

TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 97

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

QH11 Quốc hội 11

NQ/TW Nghị quyết Trung ương

CT/TW Chỉ thị Trung ương

CNH-HĐH Công nghiệp hóa-Hiện đại hóa

QĐ/TTg Quyết định Thủ tướng

NQ-CP Nghị quyết Chình phủ

KL/TW Kết luận Trung ương

HĐND Hội đồng nhân dân

UBND Ủy ban nhân dân

HD/TU Hướng dẫn Tỉnh ủy

DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 2.1: Tỷ lệ đại biểu hội đồng nhân dân các cấp là nữ giới ...................... 56

Bảng 2.2: Tỷ lệ tham gia cấp uỷ Đảng là nữ giới ........................................... 57

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài luận văn

Phong trào giải phóng phụ nữ cùng với sự tham gia vào đời sống

chình trị của phụ nữ phát triển mạnh mẽ từ thế kỷ XIX nhằm đấu tranh đòi

quyền bính đẳng giới, bao gồm bính đẳng về chình trị, kinh tế, xã hội, văn

hóa. Phụ nữ và nam giới cùng được hưởng các quyền, đồng thời chia sẻ lợi

ìch, trách nhiệm và hưởng thụ các giá trị chân, thiện, mỹ. Ngày nay, vấn đề

giải phóng phụ nữ, tăng cường sự tham gia chình trị của phụ nữ đã và đang

gắn liền với vấn đề bính đẳng giới và được thực hiện bằng hành động, thực

tiễn chứ không chỉ dừng lại ở những khái niệm, ý tưởng trừu tượng hay

những tuyên bố pháp lý.

Trong các quyền của con người thí quyền của phụ nữ bính đẳng với

nam giới là nhu cầu, là khát vọng của phụ nữ trên toàn thế giới. Trên thế giới,

phụ nữ vẫn phải chịu những thiệt thòi về mặt vị trì xã hội so với nam giới.

Điều đó đặc biệt thể hiện ở sự bất bính đẳng với phụ nữ trong việc hưởng thụ

các quyền chình trị. Cuộc đấu tranh cho vị thế bính đẳng của phụ nữ so với

nam giới xuất phát từ nghịch lý kể trên, bắt đầu từ buổi bính minh của chế độ

phụ quyền khi mà chế độ mẫu quyền chấm dứt. Phát triển từ thấp đến cao, từ

tự phát đến tự giác, cho đến ngày nay, đấu tranh cho vị thế bính đẳng của phụ

nữ với nam giới, trong đó đặc biệt là quyền chình trị của phụ nữ, đã không

còn là vấn đề riêng biệt của mỗi quốc gia, mà đã trở thành mối quan tâm

chung của toàn nhân loại và được thể chế hóa trong nhiều công ước quốc tế

về quyền con người [26] như: Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ năm 1776

khẳng định: “Tất cả mọi người sinh ra có quyền bình đẳng”. Tuyên ngôn của

cách mạng tư sản Pháp năm 1789 tuyên bố: “Người ta sinh ra tự do và bình

đẳng về quyền lợi và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi”.

1

Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền năm 1948 đã khẳng định quyền bính đẳng

với tư cách là nền tảng để con người hưởng thụ mọi nhân quyền: “Tất cả mọi

người sinh ra đều được tự do và bình đẳng về nhân phẩm và quyền” (Điều 1).

Quyền bính đẳng ấy được Tuyên ngôn triển khai toàn diện trên các khìa cạnh:

“Chủng tộc, màu da, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo, quan điểm chính trị hay

các quan điểm khác, nguồn gốc quốc gia hay xã hội, tài sản, thành phần xuất

thân hay địa vị xã hội” (Điều 2). Việc giải phóng phụ nữ khỏi bất bính đẳng

giới tạo điều kiện cho họ bính quyền với nam giới là yêu cầu tất yếu.

Ở Việt Nam hiện nay, phụ nữ chiếm 51,5% dân số và 48% lực lượng

lao động xã hội. Phụ nữ nước ta trước đây đã có những đóng góp hết sức to

lớn vào công cuộc đấu tranh chống ngoại xâm giành và giữ gín độc lập, xây

dựng Tổ quốc. Trong sự nghiệp đổi mới hiện nay, phụ nữ Việt Nam vẫn luôn

sát cánh cùng nam giới phấn đấu ví mục tiêu "Dân giàu, nước mạnh, xã hội

dân chủ, công bằng, văn minh" và có những đóng góp đáng kể trong các lĩnh

vực xóa đói giảm nghèo, phát triển kinh tế, ổn định xã hội cũng như những

cống hiến xuất sắc trong việc chăm lo xây dựng gia đính, nuôi dưỡng các thế

hệ công dân tương lai của đất nước. Không những vậy, nhiều phụ nữ còn

mang lại những vinh quang lớn cho đất nước trong các lĩnh vực văn hóa, giáo

dục, khoa học, nghệ thuật, thể thao...

Nhận thức rõ vị trì và vai trò quan trọng của người phụ nữ trong xã hội

nên ngay từ khi nhà nước mới giành được độc lập, các quyền của công dân

nói chung và quyền của phụ nữ nói riêng đã được pháp luật Việt Nam ghi

nhận và khẳng định, trong đó có các quyền bính đẳng về chình trị của phụ

nữ... Điều đó đã tạo điều kiện căn bản cho phụ nữ tham gia tìch cực và hiệu

quả vào các hoạt động kinh tế, xã hội và đóng góp vào sự nghiệp xây dựng và

bảo vệ Tổ quốc. Từ khi đổi mới đến nay, Đảng và Nhà nước tiếp tục quan tâm

tạo mọi điều kiện thuận lợi cho phụ nữ ngày càng có nhiều cơ hội và nhiều

2

đại diện tham gia vào hệ thống chình trị, cũng như vào việc đề xuất, hoạch

định, thực hiện và giám sát việc thực hiện chình sách, pháp luật của Nhà

nước. Xét chung trên toàn thế giới và khu vực, Việt Nam là quốc gia được

đánh giá cao về mức độ bảo đảm quyền bính đẳng về chình trị của phụ nữ, thể

hiện ở tỷ lệ đại biểu nữ trong Quốc hội ở mức tương đối cao.

Mặc dù vậy, trên thực tế ở Việt Nam nói chung và ở tỉnh Phú Yên nói

riêng, quyền bính đẳng về chình trị của phụ nữ vẫn chưa được bảo đảm một

cách tương xứng so với vai trò và khả năng của phụ nữ trong xã hội. Điều đó

thể hiện ở chỗ vẫn còn khoảng cách lớn giữa tỷ lệ đại biểu nữ và nam trong

các cơ quan dân cử (Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp) và số lượng hạn

chế phụ nữ nắm giữ các vị trì then chốt có quyền ra quyết định trong các cơ

quan của hệ thống chình trị. Đơn cử, mặc dù ở mức cao trên thế giới, song tỷ

lệ đại biểu Quốc hội nữa khóa XIV mới chỉ đạt 24,4%; tỷ lệ nữ đại biểu

HĐND cấp tỉnh là 25,7%, cấp huyện là 24,6% và cấp cơ sở là 27,7%. Rõ

ràng, tỷ lệ đại biểu nữ hiện nay chưa thể đáp ứng đầy đủ yêu cầu là đại diện

giới mính trong việc xây dựng và hoạch định chình sách pháp luật liên quan

đến việc giải quyết các quyền lợi chình đáng cho phụ nữ. Công tác đề bạt, bổ

nhiệm cán bộ nữ chưa được mạnh dạn, bố trì chưa đều và phù hợp với ngành

nghề; Đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý ở các cấp, các ngành, đoàn thể chưa

đáp ứng yêu cầu và chưa tương xứng với tiềm năng của đội ngũ cán bộ nữ

hiện nay của tỉnh. Nguyên nhân của những tồn tại trên chủ yếu vẫn là vấn đề

nhận thức của cấp ủy, chình quyền, các ngành đối với công tác cán bộ nữ; chế

độ chình sách chưa phù hợp, chưa thường xuyên có những biện pháp thìch

hợp trong việc chỉ đạo thực hiện những chủ trương đã đề ra về công tác cán

bộ nữ; Một bộ phận cán bộ nữ an phận, thiếu ý chì khắc phục khó khăn về gia

đính để phấn đấu vươn lên...

Thực tế kể trên đặt ra nhu cầu cấp thiết phải nghiên cứu tím ra các giải

3

pháp tiếp tục thúc đẩy việc thực hiện quyền bính đẳng của phụ nữ trên lĩnh

vực chình trị, qua đó giúp phụ nữ tham gia và đóng góp ngày càng hiệu quả

hơn vào sự nghiệp xây dựng và phát triển của đất nước, cũng như bảo đảm

thực hiện các cam kết quốc tế có liên quan của Nhà nước ta. Ví vậy, tác giả

chọn đề tài: "Quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chính trị ở Tỉnh Phú Yên"

làm đề tài luận văn thạc sĩ chuyên nghành Luật Hiến pháp và luật Hành chình.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn

Trong những năm gần đây, đã có nhiều bài viết, công trính nghiên cứu

xoay quanh vấn đề quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chình trị ở Việt Nam nói

chung, vấn đề này có ý nghĩa quan trọng khi nước ta đang trong tiến trính đổi

mới và hội nhập quốc tế trên nhiều lĩnh vực. Ví vậy, việc nghiên cứu về

quyền chình trị của phụ nữ là đề tài được nhiều nhà khoa học quan tâm, đi sâu

nghiên cứu nhằm khẳng định địa vị, cơ hội và trách nhiệm của người phụ nữ

tham giao vào quản lý nhà nước - xã hội hiện nay, góp phần vào công cuộc

đổi mới đất nước. Nhiều công trính, đề tài được công bố là cơ sở cho việc xây

dựng và hoàn thiện pháp luật, chình sách liên quan đến phụ nữ, ví sự phát

triển của phụ nữ.

Một số công trính, đề tài nghiên cứu tiêu biểu như:

Viện Nghiên cứu Quyền con người năm 2008 “Bình luận và khuyến

nghị chung của các ủy ban công ước thuộc Liên hợp quốc về quyền con

người” Nxb Công an nhân dân;

Viện Khoa học xã hội Việt Nam (2011), Những vấn đề lý luận và thực

tiễn của nhóm quyền dân sự và chình trị, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội;

Văn phòng thường trực về nhân quyền và Học viện Chình trị quốc gia

Hồ Chì Minh, Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân

trong Hiến pháp Việt Nam (Sách chuyên khảo), Hà Nội, 2015.

Đại học Quốc gia (2012), Giới thiệu Công ước quốc tế về các quyền

4

dân sự và chính trị (IICCPR, 1966), Nxb Hồng Đức, Hà Nội

Hội thảo khoa học của Trung ương Hội LHPN Việt Nam về “Giải

pháp nâng cao công tác cán bộ nữ” tháng 3/2015;

Hội thảo của Bộ Lao động TBXH về “Tăng cường phụ nữ tham chính”

tháng 7/2014;

PGS.TS. Nguyễn Thị Việt Hương, các điều kiện bảo đảm thực thi

quyền con người, Hội thảo khoa học quốc tế: Tình phổ biến và tình đặc thù

của quyền con người, Hà Nội ngày 16-17/03/2010

Võ Khánh Vinh (chủ biên) - Viện Khoa học xã hội Việt Nam “Những

vấn đề lý luận và thực tiễn của nhóm quyền dân sự và chính trị”, Nxb Khoa

học xã hội, năm 2012;

Đặng Chì Dũng “Đảm bảo quyền con người ở Việt Nam và những vấn

đề đạt ra hiện nay” Tạp chì Cộng sản năm 2014 (số 860);

Văn Hồng Nhung “Phá bỏ rào cản để nâng cao phụ nữ tham chính”

Tạp chì Nhân quyền tháng 3/2015;

Phạm Thị Ngọc Hà “Bình đẳng giới trong lĩnh vực chính trị ở tỉnh Phú

Yên – thực trạng và một số giải pháp” Học viện chình trị khu vực III;

Đề tài “Quyền bình đẳng giới ở Việt Nam hiện nay” của thạc sỹ

Nguyễn Thị Thanh Hiền năm 2014...

Các bài viết, công trính nghiên cứu trên đã đề cập một số nội dung liên

quan đến đề tài luận văn. Tuy nhiên, có rất ìt công trính nghiên cứu trực tiếp

đề cập vấn đề quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chình trị tại một địa bàn cụ

thể. Càng chưa có công trính nghiên cứu nào lấy chủ đề về quyền của phụ nữ

trong lĩnh vực chình trị tại tỉnh Phú Yên. Đó chình là một trong những lý do

thôi thúc tác giả lựa chọn chủ đề luận văn nhằm tiến hành nghiên cứu có hệ

5

thống các vấn đề lý luận, đánh giá thực trạng pháp luật và thực hiện pháp luật

về quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chình trị tỉnh Phú Yên và đề xuất các giải

pháp tăng cường bảo đảm quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chình trị ở Phú

Yên nói riêng và ở Việt Nam nói chung.

Đề tài: Quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chính trị ở tỉnh Phú Yên là

công trính khoa học độc lập, không trùng lắp với các công trính nêu trên,

nghiên cứu có hệ thống về cơ sở lý luận, đánh giá thực trạng và đề xuất cụ

thể các giải pháp về quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chình trị ở tỉnh Phú Yên

hiện nay. Trong quá trính nghiên cứu những nội dung của đề tài, tác giả có kế

thừa, tham khảo kết quả nghiên cứu ở các công trính khoa học nêu trên.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn

3.1. Mục đích của luận văn

Luận văn có mục đìch tổng quát là xây dựng luận cứ khoa học cho các

giải pháp đảm bảo quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chình trị ở tỉnh Phú Yên

nói riêng, trên địa bàn cả nước nói chung.

3.2. Nhiệm vụ của luận văn

- Phân tìch làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về quyền của phụ nữ trong

lĩnh vực chình trị, xác lập tiền đề nhận thức cho việc đánh giá thực trạng và

đề xuất các giải pháp về quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chình trị.

- Tập hợp, phân tìch hệ thống các quy phạm pháp luật hiện hành và

thực tiễn bảo đảm quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chình trị ở tỉnh Phú Yên.

- Chỉ ra những thành tựu, hạn chế trong bảo đảm quyền của phụ nữ

trong lĩnh vực chình trị ở tỉnh Phú Yên. Đề xuất quan điểm và giải pháp bảo

đảm quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chình trị ở tỉnh Phú Yên trong giai đoạn

6

hiện nay.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn

4.1. Đối tượng nghiên cứu

- Các quan điểm khoa học và chuẩn mực pháp lý quốc tế về quyền của

phụ nữ trong lĩnh vực chình trị;

- Hệ thống quy định pháp luật Việt Nam về quyền của phụ nữ trong

lĩnh vực chình trị;

- Việc thực hiện quyền của phụ nữ trong lĩnh vục chình trị ở tỉnh Phú

Yên;

- Một số kinh nghiệm bảo đảm quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chình

trị ở một số địa bàn khác ở các tỉnh bạn.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chình trị ở tỉnh Phú Yên là một vấn

đề có phạm vi rộng, liên quan đến pháp luật, và gắn liền với nhiều lĩnh vực

khác như kinh tế, xã hội và vă hóa. Tuy nhiên, với khuôn khổ của một luận

văn thạc sĩ, bản thân chỉ đi sâu nghiên cứu về hệ thống các quy phạm pháp

luật liên quan đến việc thực hiện quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chình trị ở

tỉnh Phú Yên, trong đó tập trung vào các quyền bầu cử và ứng cử vào Quốc

hội và Hội đồng nhân dân các cấp; quyền tham gia quản lý nhà nước, xã hội

và quyền tham gia các tổ chức chình trị-xã hội; tập trung phân tìch, làm sáng

tỏ các vấn đề lý luận cơ bản về quyền bính đẳng giới trong chình trị, quyền

chình trị của phụ nữ; phân tìch thực trạng quyền của phụ nữ trong lĩnh vực

chình trị, cơ chế đảm bảo quyền chình trị của phụ nữ, các giải pháp về tiếp

tục đẩy mạnh thực hiện quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chình trị trên địa bàn

tỉnh Phú Yên giai đoạn 2010 – 2017.

5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn

7

5.1. Cơ sở lý luận

Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác –

Lênin, tư tưởng Hồ Chì Minh, chủ trương đường lối của Đảng, chình sách,

pháp luật của nhà nước về quyền bính đẳng giới, quyền chình trị của phụ nữ;

Các công ước quốc tế về quyền con người, trong đó có các công ước Việt

Nam tham gia ký kết về quyền con người, bính đẳng giới, quyền dân sự,

chình trị...

5.2. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

Trong quá trính nghiên cứu, luận văn đã áp dụng một số phương pháp cụ

thể như: Phương pháp phân tìch để làm sáng tỏ những nội dung thuộc phạm vi

nghiên cứu; phương pháp so sánh được sử dụng để làm rõ mức độ tương quan

giữa những quy định của pháp luật quốc tế với pháp luật Việt nam và đặc biệt là

thông qua phương pháp này để có được những đánh giá khách quan giữa quy

định của pháp luật với thực tiễn thực hiện các quy định ấy; phương pháp tổng

hợp và thống kê được sử dụng để khái quát hoá nội dung nghiên cứu một cách

hệ thống, làm cho vấn đề nghiên cứu trở nên ngắn gọn, súc tìch, dễ hiểu. Đồng

thời phương pháp này được dùng để thu thập và cung cấp một số số liệu liên

quan đến việc thực thi quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chình trị; phương pháp

xã hội học được dùng để đánh giá, phân tìch những điều kiện kinh tế, chình trị xã

hội với việc thực hiện quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chình trị.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

Với kết quả đạt được, luận văn góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý

luận và thực tiễn về quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chình trị ë tỉnh Phú Yên

trong thời gian tới.

Kết quả luận văn có thể được tham khảo và ứng dụng trong công tác

cán bộ, công tác quản lý nhà nước và trong hoạt động của các tổ chức chình

tri – xã hội ở Việt Nam.

Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu và giảng

8

dạy các vấn đề liên quan đến ghi nhận và bảo đảm quyền của phụ nữ trong

lĩnh vực chình trị trong các cơ sở đào tạo lĩnh vực chình trị, pháp lý, quản lý ở

Việt Nam.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và nội dung

của luận văn gồm 3 chương.

Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về quyền của phụ nữ

trong lĩnh vực chính trị

Chương 2: Thực trạng quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chính trị ở tỉnh

Phú Yên

Chương 3: Quan điểm và giải pháp thực hiện quyền của phụ nữ trong

9

lĩnh vực chính trị ở tỉnh Phú Yên hiện nay

Chương 1:

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT

VỀ QUYỀN CỦA PHỤ NỮ TRONG LĨNH VỰC CHÍNH TRỊ

1.1. Khái niệm, đặc điểm, nội dung quyền của phụ nữ trong lĩnh vực

chính trị

1.1.1. Khái niệm quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chính trị

1.1.1.1. Quyền của phụ nữ

Khái niệm quyền con người từ lâu đã được sử dụng rộng rãi trong

nghiên cứu cũng như trong đời sống xã hội. Tuy nhiên, có nhiều trường phái

khác nhau khi tiếp cận khái niệm quyền con người. Chẳng hạn, trường phái

pháp luật tự nhiên thí cho rằng quyền con người là đặc quyền tự nhiên, khẳng

định quyền con người là tự nhiên, vốn có, nhằm đối lập, phủ nhận quyền con

người do vương quyền và thần quyền ban phát, tặng cho. Trường phái pháp

luật thực định cho rằng, quyền con người là sự cho phép và khả năng hành

động của con người do các quốc gia ghi nhận trong pháp luật quốc gia hoặc

thừa nhận với tư cách thành viên của các Điều ước pháp lý quốc tế về quyền

con người. Cũng có quan niệm cho rằng, con người cũng như quyền con

người là tổng hoà các mối quan hệ xã hội, quyền con người không phải là một

khái niệm trừu tượng, cũng không chỉ là quyền cá nhân con người mang tình

tự nhiên, bẩm sinh mà luôn gắn liền với cuộc đấu tranh chống áp bức bóc lột,

chống bất công trong xã hội, chịu sự giới hạn của chế độ kinh tế, đặc biệt là

chế độ chình trị – nhà nước...

Khái niệm quyền con người vẫn còn tiếp tục được nghiên cứu và tranh

luận nhưng qua nghiên cứu ý kiến của các nhà khoa học, về cơ bản có thể

thống nhất với cách hiểu sau: Quyền con người là những quyền tự nhiên,

vốn có của con người, được pháp luật ghi nhận và điều chỉnh, thể hiện mối

10

quan hệ giữa mỗi cá nhân với nhà nước và với những cá nhân khác.

Từ định nghĩa trên, có thể thấy, thuộc tình cơ bản của quyền con người

là những giá trị gắn với mỗi con người, vừa với tư cách là cá nhân, vừa với tư

cách là thành viên xã hội. Giá trị đó phải được xã hội hoá bằng cách thể chế

hoá thành các quyền năng cụ thể, có tình phổ cập, cần thiết cho mọi người.

Nói cách khác, quyền con người là một trong những giá trị xã hội tổng hợp,

có tình hiện thực, tình phổ biến và tình đặc thù, được ghi nhận bởi pháp luật

quốc gia và pháp luật quốc tế.

Lịch sử chứng minh vai trò to lớn của nhận thức về quyền con người

đối với sự phát triển của nền văn minh nhân loại. Quyền con người là mục

tiêu của cả loài người, được các quốc gia đề cập nhiều trong mối quan hệ

chình trị, kinh tế, và đối ngoại. Sự phát triển của mọi mặt của đời sống xã hội,

tạo dựng các giá trị vật chất và tinh thần đều nhằm phục vụ con người, hiện

thực hóa các quyền con người nhằm mục đìch tôn vinh chình phẩm giá con

người. Khi con người được tôn trọng, bảo vệ, quyền con người góp phần quan

trọng vào sự phát triển kinh tế - xã hội, tiếp tục bồi đắp những giá trị hiện có,

vừa tạo lập nên những giá trị mới cho nhân loại.

Ngày nay, quyền con người được ghi nhận trong hệ thống các văn kiện

chình trị - pháp lý quốc tế, khu vực và quốc gia với những cam kết mạnh mẽ

của các quốc gia về việc tôn trọng, thúc đẩy và bảo vệ các quyền con người.

Nếu căn cứ vào tình chất của các quyền con người được ghi nhận trong các

văn bản hợp thành Bộ luật nhân quyền quốc tế thí quyền con người được chia

thành những nhóm chình sau:

- Các quyền chình trị bao gồm: Quyền tham gia quản lý nhà nước và xã

hội; quyền bầu cử, ứng cử, quyền bính đẳng nam nữ, quyền tự do tìn ngưỡng,

quyền tự do ngôn luận, quyền tự do báo chì…

- Các quyền dân sự bao gồm: Quyền tự do đi lại cư trú trong nước,

quyền ra nước ngoài và từ nước ngoài về nước; quyền bất khả xâm phạm về

11

thân thể, quyền được an toàn về thư tìn, điện thoại, quyền khiếu nại, tố cáo…

- Các quyền trong lĩnh vực kinh tế – xã hội bao gồm: Quyền lao động,

quyền tự do kinh doanh, quyền được bảo hộ hôn nhân và gia đính, quyền sở

hữu hợp pháp và quyền thừa kế, được bảo vệ sức khoẻ, quyền được giáo dục

đào tạo, quyền nghiên cứu, phát minh… và một số quyền mang tình chất ưu

tiên như quyền trẻ em, quyền người già, người cô đơn không nơi nương tựa.

Phụ nữ là nhóm con người chiếm hơn nửa gia đính nhân loại, giữ một

vị trì đặc biệt quan trọng trong sự tồn tại và phát triển của gia đính nhân loại.

Phụ nữ có những phẩm chất riêng về tâm sinh lý và cần được bảo vệ. Theo

đó, phụ nữ được hưởng tất cả những quyền con người cơ bản kèm theo những

đảm bảo đặc biệt trong quá trính thực hiện các quyền con người gắn với tình

đặc thù của nhóm người này. Như vậy, khi tiếp cận khái niệm quyền của phụ

nữ, quyền con người được hiểu theo nghĩa xác định hơn, nó phản ánh những

quyền cụ thể của một đối tượng cụ thể. Quyền của phụ nữ được quy định

trong pháp luật luôn có sự xem xét những yếu tố về tâm sinh lý của giới nữ,

quan điểm về thuần phong mỹ tục, về văn hoá của một dân tộc… để xây dựng

nên một khung quy tắc về hành vi ứng xử quan hệ giao tiếp giữa người nam

và người nữ, sao cho vừa thể hiện lối sống bính đẳng văn minh đồng thời vẫn

giữ được nét đẹp truyền thống, tránh xảy ra sự xung đột và biến đổi xã hội

gay gắt. Do đó quyền của phụ nữ không chỉ được hiểu đơn thuần như quyền

con người nhưng cũng không thể tách rời quyền con người. Trong hệ thống

quyền con người, quyền của phụ nữ là một bộ phận hợp thành quan trọng, tuy

nhiên không mang ý nghĩa là những quyền riêng có của phụ nữ. Với tư cách

là con người, phụ nữ được hưởng mọi quyền tự nhiên thuộc về con người.

Mặc dù vậy, vốn được xem là nhóm yếu thế do vẫn tồn tại nhiều phân biệt

mang tình giới nên quá trính hiện thực hóa các quyền của phụ nữ cần phải đi

kèm những biện pháp đảm bảo đặc biệt để chắc chắn rằng các quyền của phụ

12

nữ không bị xâm hại.

Từ đó, có thể đưa ra cách hiểu về quyền của phụ nữ như sau: Quyền

của phụ nữ là quyền con người gắn với những đặc quyền được pháp luật ghi

nhận, điều chỉnh để phụ nữ có thể quyết định được những gì thuộc về họ và

được tôn trọng, bảo vệ những quyền đó.

1.1.1.2. Quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chính trị

Chình trị là một khái niệm có nội dung rất phong phú. Ví vậy, đã có

khá nhiều quan niệm về chình trị được nêu ra, phản ánh các góc độ tiếp cận

khác nhau.

Tiếp cận từ góc độ quyền lực, chình trị được hiểu là ”Sự tham gia vào

các công việc nhà nước, sự quy định các hình thức, nội dung và nhiệm vụ

hoạt động của nhà nước. Lĩnh vực thể hiện của chính trị rất rộng, bao gồm

vấn đề về chế độ nhà nước, về quản lý đất nước, về đấu tranh giai cấp, đấu

tranh đảng phái, lãnh đạo giai cấp... các quan hệ giai cấp, các lợi ích căn

bản của giai cấp được bộc lộ ra từ chính trị. Đồng thời chính trị còn biểu

hiện quan hệ giữa các dân tộc và các quốc gia” [35, tr. 161]. Chình trị có thể

được hiểu là một chế độ nhà nước, theo đó có chế độ chình trị dân chủ hoặc

chế độ chình trị phi dân chủ. Chình trị cũng có thể được hiểu là mối quan hệ

giữa các lực lượng, đảng phái trong xã hội hướng tới mục tiêu tranh giành

quyền lực nhà nước. Trong các xã hội hiện đại, chình trị biểu hiện cụ thể ở sự

tham gia và mối quan hệ giữa các thành viên trong xã hội vào công việc của

nhà nước, của xã hội nhằm đảm bảo quyền lực nhân dân. Ví vậy, xét đến cùng

thí chình trị là thái độ đối với con người và quyền lực. Mối quan hệ chình trị

và quyền con người là mối quan hệ giữa những hiện tượng thuộc thượng tầng

kiến trúc vốn bị quyết định bởi tồn tại xã hội nhất định. Chình trị phải gắn với

quyền con người và quyền con người phải được ưu tiên trong hoạch định và

đường lối chình trị. Sự kết hợp giữa nội dung của chình trị với bản chất của

13

quyền con người chình là cơ sở dẫn đến sự thừa nhận về quyền chình trị.

Cũng đã có nhiều cách hiểu khác nhau về quyền chình trị.

Trong giáo trính đại cương phục vụ công tác nghiên cứu và giảng dạy của

trường Waynesboro ở bang Pennsylvania (Mỹ), quyền chình trị được định nghĩa

một cách đơn giản là ”những yêu cầu pháp lý của công dân được tham gia trong

chính quyền và được đối xử công bằng” [53]. Cách hiểu này cho thấy quyền

chình trị trước hết là một quyền pháp lý, được thừa nhận và bảo vệ bằng pháp

luật. Cách hiểu này cũng bao hàm quan niệm cho rằng quyền chình trị chỉ gắn

với những cá nhân có tư cách công dân.

Theo Từ điển Luật học Mỹ (Black Law Dictionary) quyền chình trị “Là

những quyền có thể được thực hiện trong quá trình thành lập hay quản lý chính

quyền. Các quyền của công dân được xác lập hoặc công nhận bởi Hiến pháp

dành cho họ quyền tham gia trực tiếp hay gián tiếp trong việc thành lập hoặc

trong quản lý chính quyền” ” [51, tr. 1159]. Định nghĩa này tiếp cận về mặt

pháp lý đối với quyền chình trị, ví trước tiên nó là ”quyền của công dân”, và

”được xác lập hoặc công nhận bởi Hiến pháp”. Tuy nhiên, theo cách hiểu này

thí phạm vi quyền chình trị tương đối hẹp ví nó chỉ bao gồm: quyền tham gia

trực tiếp hay gián tiếp trong việc thành lập hoặc trong quản lý chình quyền.

Từ điển Luật học do nhà xuất bản Từ điển bách khoa Việt Nam ấn hành

năm 1999 cho rằng “Quyền chính trị là quyền tham gia quản lý nhà nước của

công dân. Đó là quyền quan trọng nhất của công dân, đảm bảo cho công dân

thực hiện quyền làm chủ nhà nước, làm chủ xã hội được thực hiện bằng nhiều

hình thức khác nhau như công dân có quyền bầu cử, quyền ứng cử vào các cơ

quan quyền lực nhà nước. Nhân dân có quyền đóng góp ý kiến vào việc xác

định các chính sách để xây dựng và phát triển mọi mặt kinh tế, văn hóa, xã

hội, an ninh quốc phòng, đối nội, đối ngoại của đất nước. Nhân dân có quyền

tham gia xây dựng pháp luật, tham gia giám sát các hoạt động của cơ quan

14

nhà nước, biểu quyết khi nhà nước trưng cầu dân ý” [53.tr.415]. Cách quan

niệm này khá sâu sắc và toàn diện, thể hiện nội dung cụ thể của quyền chình

trị trong số các quyền con người. Tuy nhiên, định nghĩa này chưa đề cập đến

việc quyền chình trị được đảm bảo như thế nào trong thực tiễn.

Tổng hợp các cách quan niệm và căn cứ vào bản chất của quyền con

người, có thể đưa ra khái niệm về quyền chình trị như sau: Quyền chính trị là

một trong những bộ phận quyền quan trọng nhất của công dân, được Hiến

pháp và pháp luật bảo vệ, xác lập năng lực pháp lý của công dân trong việc

tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào quản lý nhà nước, quản lý xã hội.

Trong nội hàm của khái niệm nêu trên có hai yếu tố rất quan trọng. Đó

là (i) quyền chình trị thuộc về công dân và được Hiến pháp, pháp luật ghi

nhận, và (ii) quyền chình trị thể hiện ở việc tham gia trực tiếp hay gián tiếp

vào quản lý nhà nước, quản lý xã hội. Tăng cường sự tham gia trực tiếp và

gián tiếp của công dân vào quản lý nhà nước và quản lý xã hội chình là tăng

cường chế độ dân chủ trong xã hội, bảo đảm sự tham gia rộng rãi của mọi

giới, không có bất cứ sự phân biệt đối xử nào. Trực tiếp tham gia quản lý nhà

nước và quản lý xã hội là việc công dân đảm nhiệm các cương vị trong bộ

máy nhà nước, các tổ chức xã hội, đồng thời trực tiếp quyết định hay trực tiếp

thực hiện các chình sách và pháp luật. Gián tiếp tham gia quản lý nhà nước và

xã hội là việc công dân thông qua các cơ quan đại diện của nhà nước, tổ chức

xã hội để bày tỏ ý kiến, quan điểm vào việc xây dựng và hoạch định chình

sách, pháp luật, giám sát tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước.

Cách hiểu về quyền chình trị cho phép đưa ra định nghĩa về quyền của

phụ nữ trong lĩnh vực chình trị. Theo đó, [Quyền của phụ nữ trong lĩnh vực

chính trị là một trong những bộ phận quyền công dân quan trọng nhất được

Hiến pháp và pháp luật bảo vệ, xác lập năng lực pháp lý của phụ nữ với nam

giới trong việc bình đẳng tham gia trực tiếp và gián tiếp vào quản lý nhà

15

nước, quản lý xã hội].

1.1.2. Đặc điểm quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chính trị

1.1.2.1. Quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chính trị là một nhóm quyền cơ bản

của con người

Quyền chình trị là một bộ phận cấu thành quyền con người, đó là nhóm

quyền chung, mang ý nghĩa rộng nhưng là quyền cơ bản trong quyền con

người. Trong nhóm quyền chình trị của con người luôn bao gồm quyền chình

trị của phụ nữ. Việc xác lập quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chình trị không

chỉ thể hiện ở hiến pháp của mỗi nước mà còn thể hiện là quy định trong

nhiều văn bản pháp luật khác nhằm mục đìch bảo đảm, bảo vệ quyền tham gia

chình trị của phụ nữ một cách trực tiếp hoặc gián tiếp. Như vậy, quyền của

phụ nữ trong lĩnh vực chình trị là quyền tổng hợp, thuộc nhóm quyền chình trị

của con người là sự tổng hợp của nhiều quy phạm pháp luật thuộc các lĩnh

vực khác nhau nhằm bảo vệ và bảo đảm quyền chình trị của phụ nữ được thực

hiện trên thực tế và hiệu quả.

1.1.2.2. Quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chính trị là quyền chịu nhiều tác

động của các yếu tố về giới, yếu tố dân tộc, kinh tế, pháp luật..

Dù đã được thể hiện trong nhiều văn kiện chình trị - pháp lý quốc tế và

quốc gia và trải qua một qúa trính lịch sử, nhưng quyền của phụ nữ trong lĩnh

vực chình trị khác với nhóm quyền khác ở chỗ chịu nhiều tác động bởi các

yếu tố về giới, yếu tố dân tộc, kinh tế, pháp luật...nên việc thực hiện quyền

tham gia chình trị của phụ nữ ở các quốc gia có sự khác nhau về số lượng và

chất lượng.

1.1.2.3. Quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chính trị là sự kết hợp hài hòa giữa

các quy định pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia, là biểu hiện của sự tiếp

thu tư tưởng tiến bộ của pháp luật quốc tế về quyền tham gia chính trị của

phụ nữ kết hợp với điều kiện văn hóa, kinh tế...của mỗi quốc gia, được pháp

16

luật quốc gia ghi nhận cho nhóm phụ nữ - công dân của quốc gia đó.

Bảo đảm quyền tham gia chình trị của phụ nữ không chỉ là mối quan

tâm và trách nhiệm của riêng một quốc gia nào riêng biệt, nó đã trở thành

nghĩa vụ và trách nhiệm chung của cả cộng đồng quốc tế. Cộng đồng quốc tế

đã thông qua nhiều văn kiện chình trị - pháp lý thể hiện tư tưởng tiến bộ của

nhân loại về giải phóng phụ nữ, bảo đảm sự bính đẳng và nâng cao địa vị của

phụ nữ. Từ đó đặt ra các yêu cầu mang tình bắt buộc hoặc khuyến nghị đối

với mỗi quốc gia khi ghi nhận và thực hiện quyền chình trị của phụ nữ - công

dân của quốc gia đó.

1.1.2.4. Quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chính trị ở Việt Nam sớm được thừa

nhận và bảo đảm thực hiện.

Ngày 3 tháng 9 năm 1945, ngay sau khi Nhà nước ta giành được độc

lập, tại phiên họp Chình phủ lâm thời, Chủ tịch Hồ Chì Minh đã nói: “Tôi đề

nghị chính phủ tổ chức càng sớm càng hay cuộc Tổng tuyển cử với chế độ

phổ thông đều phiếu. Tất cả công dân trai gái 18 tuổi đều có quyền bầu cử và

ứng cử, không phân biệt giàu nghèo, tôn giáo, dòng giống”…[16, tr.8]. Như

vậy, phụ nữ Việt Nam đã sớm được công nhận quyền tham gia chình trị ngay

trong cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên của dân tộc. Đồng thời, nhiều phụ nữ đã

tham gia vào Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp ngay từ khóa đầu tiên

sau khi thành lập nước, tạo nền tảng cho sự thực hiện quyền bính đẳng về

chình trị cho phụ nữ Việt Nam. Hiến pháp năm 1946 của nước Việt Nam Dân

chủ Cộng hòa quy định tại Điều 9: “Đàn bà ngang quyền với đàn ông về mọi

phương diện”. “Mọi công dân đều bình đẳng về quyền trên mọi phương diện

chính trị, kinh tế, văn hóa”. Những quy định trên đánh dấu bước một, là nền

tảng quan trọng xác lập về địa vị của người phụ nữ Việt Nam. Trên cơ sở

những nguyên tắc hiến định của Hiến Pháp năm 1946, các quy định về quyền

tham gia bính đẳng của phụ nữ trên lĩnh vực chình trị không ngừng được mở

17

rộng và bổ sung qua các bản Hiến pháp năm1959, 1980, 1992 và 2013.

1.1.2.5. Quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chính trị ở Việt Nam có phạm vi rộng.

Trong số những văn kiện pháp lý quốc tế quy định trực tiếp hoặc

gián tiếp về quyền chình trị của phụ nữ, Việt Nam đã gia nhập và phê

chuẩn hai công ước quan trọng nhất có liên quan là: Công ước ICCPR

(Công ước Quốc tế về các Quyền Dân sự và Chình trị, tiếng

Anh: International Covenant on Civil and Political Rights, viết tắt: ICCPR,

là một công ước quốc tế do Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc thông qua

ngày 16 tháng 12 năm 1966 và có hiệu lực từ ngày 23 tháng 03 năm 1976,

nêu tổng quan các quyền dân sự và chình trị cơ bản của con người) và

Công ước CEDAW (Công ước loại bỏ mọi hính thức phân biệt đối xử với

phụ nữ, tiếng Anh: Convention on the Elimination of all Forms of

Discrimination against Women, viết tắt là CEDAW, là một công ước quốc

tế được Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc chấp thuận năm 1979). Trong quá

trính xây dựng pháp luật, Nhà nước Việt Nam luôn xem xét khả năng thể

chế hóa những quy định tiến bộ của pháp luật quốc tế vào hệ thống pháp

luật quốc gia. Bên cạnh đó, khi xây dựng pháp luật, chúng ta cũng dựa vào

đặc thù truyền thống văn hóa của Việt Nam để điều chỉnh và thông qua

những quy định pháp luật phù hợp. Chình ví thế, ghi nhận của pháp luật

Việt Nam về quyền chình trị của phụ nữ thể hiện tư tưởng tiến bộ, phù hợp

với hoàn cảnh thực tế và mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Các quy phạm

pháp luật về quyền tham gia chình trị của phụ nữ trong hệ thống pháp luật

Việt Nam thể hiện rõ phạm vi rộng, hàm chứa các quyền chình trị cơ bản

của con người đã được gia đính nhân loại thừa nhận chung. Trong những

năm gần đây, những chủ trương, chình sách, pháp luật của Đảng và Nhà

nước ta đã tạo ra một bước chuyển biến mới cả về lượng và chất trong việc

18

bảo đảm sự bính đẳng trong quyền chình trị của phụ nữ ở nước ta.

1.1.3. Nội dung quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chính trị

Đề cập nội dung quyền chình trị của phụ nữ thực chất là đề cập sự ghi

nhận của pháp luật về năng lực và tư cách pháp lý bính đẳng của phụ nữ trong

lĩnh vực chình trị. Theo đó, nội dung quyền chình trị của phụ nữ bao gồm:

1.1.3.1. Quyền bầu cử, ứng cử của phụ nữ

Quyền bầu cử, ứng cử là một quyền nằm trong nhóm quyền chình trị,

bao gồm quyền đề cử, bỏ phiếu và quyền được bầu vào cơ quan đại diện.

Quyền bầu cử, ứng cử của công dân được xem là một quyền không thể thiếu

trong đời sống chình trị. Đây là một trong những quyền chình trị quan trọng

của phụ nữ.

Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã ghi nhận

địa vị pháp lý bính đẳng giữa nam và nữ bằng việc khẳng định: “Tất cả công

dân Việt Nam đều bình đẳng trước pháp luật, đều được tham gia chính quyền

và công cuộc kiến quốc tùy theo tài năng và đức hạnh của mình” và “Đàn bà

ngang quyền với đàn ông về mọi phương diện” [18, tr.8].

Hiến pháp năm 2013 đã hiến định sâu sắc hơn quyền của phụ nữ trên

cơ sở kế thừa và phát triển các quy định của Hiến pháp năm 1992 và các Hiến

pháp trước đó. Tại Chương II Hiến pháp năm 2013 đã hiến định các quyền

con người nói chung và quyền của phụ nữ nói riêng. Quyền của phụ nữ được

quy định từ điều 14 đến điều 49. Điều 27 - Hiến pháp năm 2013 xác định rõ:

“Công dân đủ 18 tuổi trở lên có quyền bầu cử và đủ 21 tuổi trở lên có quyền

ứng cử vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân. Việc thực hiện các quyền này do

luật định”. Vấn đề này được quy định rõ tại Điều 2 Luật Bầu cử Đại biểu

Quốc hội và đại biểu Hội Đồng nhân dân năm 2015.

Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội Đồng nhân dân năm

2015 cũng đã có các điều khoản riêng (Khoản 3 Điều 8 và Khoản 1, 2 Điều 9)

19

quy định các vấn đề liên quan đến việc cơ cấu số lượng nữ Đại biểu Quốc hội

và đại biểu Hội Đồng nhân dân các cấp phải bảo đảm có ìt nhất 35% tổng số

người trong danh sách chình thức những người ứng cử đại biểu Quốc Hội và

đại biểu Hội Đồng nhân dân các cấp là phụ nữ. Đây là việc làm rất cần thiết ví

đối với Việt Nam do ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo để lại vẫn còn có sự

định kiến “Trọng nam khinh nữ”. Việc đặt ra tỷ lệ nữ Đại biểu Quốc hội và

đại biểu Hội Đồng nhân dân các cấp đã tạo cho phụ nữ bính đẳng với nam

giới, bính đẳng trong bầu cử, ứng cử.

Bên cạnh việc khẳng định sự bính đẳng giữa phụ nữ và nam giới về bầu

cử và ứng cử, pháp luật hiện hành còn một số quy định khác nhằm đảm bảo

quyền bầu cử và ứng cử của công dân nói chung và phụ nữ nói riêng trên thực

tế. Bộ luật hính sự hiện hành của Việt Nam năm 2015 quy định "Người nào

lừa gạt, mua chuộc, cưỡng ép hoặc dùng thủ đoạn khác cản trở công dân

thực hiện quyền bầu cử, quyền ứng cử ...thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo

không giam giữ đến 01 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm" (Điều

160); "Người nào vì lý do giới mà thực hiện hành vi dưới bất kỳ hình thức nào

cản trở người khác tham gia hoạt động trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế,

lao động, ....đã bị xử lý kỷ luật hoặc xử phạt vi phạm hành chính về hành vi

này mà còn vi phạm, thì bị phạt cảnh cáo, phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến

50.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm" (Điều 165).

Những quy định này hết sức cần thiết và đã góp phần tìch cực vào việc đảm

bảo thực hiện quyền bầu cử và ứng cử của công dân, đặc biệt là phụ nữ.

Như vậy, theo pháp luật Việt Nam, trong việc tham gia vào đời sống

chình trị của đất nước, phụ nữ luôn được nhín nhận ở vị trì công dân ngang

với nam giới. Điều này có nghĩa là phụ nữ được hưởng tất cả các quyền mà

công dân có, và không có sự phân biệt đối xử khác với nam giới trong việc

bầu cử, ứng cử vào các cơ quan nhà nước, phụ nữ được đảm bảo thực hiện

20

quyền bầu cử, ứng cử theo quy định pháp luật.

1.1.3.2. Quyền bỏ phiếu trưng cầu dân ý của phụ nữ

Điều 29, Hiến pháp 2013 quy định "Công dân đủ 18 tuổi trở lên có

quyền biểu quyết khi Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân". Cơ bản đây là một

cuộc bỏ phiếu trực tiếp mà trong đó những người đủ 18 tuổi trở lên bỏ phiếu

thể hiện sự đồng ý hay không đồng ý khi được hỏi ý kiến về một vấn đề cụ

thể. Đó có thể là việc thông qua một bản Hiến pháp mới hoặc sửa đổi, bổ sung

Hiến pháp hiện hành hoặc một chình sách cụ thể của Nhà nước. Trưng cầu

dân ý nhằm mục đìch hỏi ý kiến nhân dân về một vấn đề quan trọng của đất

nước và nhân dân thể hiện chình kiến của mính thông qua việc bỏ phiếu đồng

ý hoặc không đồng ý. Đây được xem là một hính thức thực hiện dân chủ trực

tiếp, người dân nói chung và phụ nữ nói riêng có quyền tham gia thảo luận,

đóng góp ý kiến, thể hiện ý chì của mính thông qua lá phiếu một cách trực

tiếp về các chủ trương chình sách, pháp luật của Nhà Nước, hay một vấn đề

quan trọng của đất nước, góp phần làm cho những quyết sách của Đảng và

Nhà nước phù hợp với thực tế và lòng dân.

1.1.3.3. Quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội của phụ nữ

Quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội của phụ nữ là một trong

những quyền con người quan trọng nhất của phụ nữ, được Hiến pháp và pháp

luật bảo vệ; nó xác lập năng lực pháp lý bính đẳng của phụ nữ với nam giới

trong việc tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào quá trính quản lý nhà nước,

quản lý xã hội.

Điều 28, Hiến pháp 2013 quy định: [Công dân có quyền tham gia

quản lý Nhà nước và xã hội về các vấn đề của cơ sở, địa phương và cả

nước". "Nhà nước tạo điều kiện để công dân tham gia quản lý nhà nước và

xã hội; công khai, minh bạch trong việc tiếp nhận, phản hồi ý kiến, kiến nghị

của công dân". “Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực

21

tiếp, bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc Hội, Hội đồng nhân dân và

thông qua các cơ quan khác của nhà nước”] [30, Điều 6]. Đây chình là cách

thức nhân dân sử dụng để thực hiện quyền tham gia quản lý nhà nước và xã

hội. Với tư cách công dân, phụ nữ thực hiện quyền tham gia quản lý nhà

nước và xã hội bằng cách:

- Với hính thức trực tiếp, phụ nữ tham gia ứng cử vào đại biểu Quốc

Hội và Hội đồng nhân dân các cấp khi có đủ tiêu chuẩn, điều kiện theo luật

định. Bằng việc trở thành Đại biểu Quốc Hội và Hội đồng nhân dân các cấp,

phụ nữ có thể tham gia trực tiếp quản lý nhà nước thông qua việc thực hiện

nhiệm vụ và quyền hạn của mính. Hoặc bằng hính thức gián tiếp, thông qua

các đại diện do chình Nhân dân lựa chọn. Công dân Việt Nam có đủ điều kiện

theo quy định của pháp luật sẽ bầu ra đại biểu của mính là các Đại biểu Quốc

hội và Đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp. Các đại biểu này sẽ thay mặt

nhân dân trực tiếp tham gia vào các hoạt động xây dựng, quản lý và bảo vệ

đất nước. Hay nói cách khác bằng việc bầu cử, mỗi phụ nữ đã ủy nhiệm

quyền quản lý nhà nước của mính cho người đại diện là các đại biểu Quốc

hội, đại biểu Hội đồng nhân dân.

- Phụ nữ tham gia hoạt động trong các cơ quan nhà nước. Tùy theo

năng lực, trính độ chuyên môn, nghiệp vụ, phụ nữ được tuyển dụng vào các

cơ quan nhà nước hoặc được bổ nhiệm vào những chức vụ trong bộ máy nhà

nước. Khi đó, phụ nữ có những điều kiện và khả năng thuận lợi để trực tiếp

tham gia quản lý nhà nước.

- Phụ nữ tham gia góp ý kiến xây dựng văn bản quy phạm pháp luật.

Trong qua trính xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, cơ quan, tổ chức chủ

trí soạn thảo và cơ quan tổ chức hữu quan có trách nhiệm tạo điều kiện để các

cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân tham gia góp ý kiến về dự thảo văn bản, tổ

chức lấy ý kiến của đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của văn bản. Đồng

22

thời giống như quyền và trách nhiệm công dân, phụ nữ cũng có quyền và

trách nhiệm đóng góp ý kiến, phản ánh với nhà nước về những vướng mắc,

bất cập, không phù hợp các văn bản pháp luật trong quá trính thể hiện để Nhà

nước sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện và bảo đảm tốt hơn về quyền và lợi ìch

công dân.

- Phụ nữ tham gia góp ý kiến đối với hoạt động của cơ quan nhà nước,

phát biểu ý kiến về các vấn đề quản lý nhà nước, về nội dung các quyết định

quản lý. Quyền hạn này của phụ nữ được thực hiện thông qua các phương tiện

thông tin đại chúng, gửi ý kiến góp ý đối với cơ quan có thẩm quyền.

- Phụ nữ tham gia kiểm tra, giám sát hoạt động của bộ máy nhà nước,

đấu tranh với tệ quan liêu, hách dịch, cửa quyền, tham nhũng, lãng phì và

những hiện tượng tiêu cực trong bộ máy nhà nước. Tham gia bàn bạc và quyết

định trực tiếp những vấn đề liên quan đến đời sống ở cơ sở. Thực hiện khiếu

nại, tố cáo những việc làm sai trái của các cơ quan nhà nước và các cơ quan

và công chức nhà nước.

Những cách thức, hoạt động trên của phụ nữ góp phần bảo đảm và phát

huy một cách tốt nhất quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội của phụ nữ.

1.1.3.4. Quyền tham gia các tổ chức chính trị - xã hội của phụ nữ

Quyền tham gia các tổ chức chình trị - xã hội là sự thể hiện vai trò, vị

trì của phụ nữ trong các tổ chức chình trị - xã hội không có phân biệt đối xử.

Theo Luật của Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Điều lệ của các đoàn

thể như Công đoàn, Đoàn Thanh niên, Hội Liên hiệp Phụ nữ, Hội Nông dân,

Hội Cựu chiến binh và Điều lệ của các tổ chức chình trị xã hội khác đều

không có bất cứ một điều khoản nào phân biệt hoặc hạn chế hội viên là giới

nữ hoặc trở thành lãnh đạo của các tổ chức đó. Vì dụ như Điều 1 của Điều lệ

Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam quy định về điều kiện trở thành đoàn

viên công đoàn như sau: Tất cả công nhân, lao động Việt Nam không phân

23

biệt nghề nghiệp, nam nữ, tìn ngưỡng, đủ tuổi làm công trong các doanh

nghiệp, các đơn vị sự nghiệp và các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã

hội...nếu tán thành Điều lệ Công đoàn Việt Nam...thí được gia nhập Công

đoàn... Hay, Điều 5 tại Điều lệ của Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam quy

định về điều kiện kết nạp hội viên như sau: Công dân Việt Nam, là thanh niên

Việt Nam từ 15 đến 35 tuổi, không phân biệt nam, nữ, dân tộc, tôn giáo, thành

phần xã hội...nếu tự nguyện gia nhập Hội thí được xét công nhận là hội viên.

Thông qua các quy định trên, có thể thấy điều kiện gia nhập các Hội rất bính

đẳng, không có bất cứ điều kiện riêng hay các thủ tục phức tạp nào gây khó

khăn cho công dân nói chung hay phụ nữ nói riêng. Phụ nữ có quyền tham gia

bất cứ Hội nào nếu họ có nguyện vọng và đủ điều kiện. Đồng thời, họ có thể

tự ứng cử hoặc được đề cử vào chức danh lãnh đạo của các Hội nếu đáp ứng

yêu cầu của các Hội.

Như vậy, nhín vào các quy định của các tổ chức chình trị xã hội và các

tổ chức xã hội- nghề nghiệp, có thể thấy Việt Nam là một nước có cơ sở pháp

lý thuận lợi, tạo điều kiện cho phụ nữ tham gia các tổ chức này trên cơ sở

bính đẳng với nam giới.

1.1.3.5. Quyền tự do hội họp, lập hội, biểu tình của phụ nữ

Điều 25 Hiến pháp năm 2013 quy định [Công dân có quyền tự do ngôn

luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình...]. Việc

thực hiện các quyền này còn được Việt Nam quy định ở nhiều văn bản pháp

luật trước đó, như: Sắc lệnh số 102/SL/L004 ngày 20-5-1957, Bộ luật Dân sự

Việt Nam năm 2005, Luật Tổ chức chình phủ, Nghị định số 45/2010/NĐ-CP,

Nghị định số 33/2012/NĐ-CP của Chình phủ về tổ chức, hoạt động và quản lý

hội…Đây là một trong những quyền tự do dân chủ của công dân được Nhà

nước ghi nhận và bảo đảm thực hiện. Phụ nữ với tư cách là công dân, phụ nữ

có quyền thực hiện các quyền này, quyền hội họp để thảo luận, bàn bạc góp ý

24

kiến về các vấn đề chung của Nhà nước, của xã hội; có quyền lập hội các tổ

chức tự nguyện, tổ chức có cùng ngành nghề, cùng sở thìch, cùng giới, có

chung mục đìch tập hợp, đoàn kết hội viên, hoạt động thường xuyên, không

vụ lợi nhằm bảo vệ quyền, lợi ìch hợp pháp của hội, hội viên, của cộng đồng,

hỗ trợ nhau hoạt động có hiệu quả, góp phần vào việc phát triển kinh tế - xã

hội của đất nước, được tổ chức và hoạt động theo quy định của pháp luật; có

quyền tụ họp đông đảo hoặc diễu hành trên đường phố để biểu tính bày tỏ ý

chì, nguyện vọng, bày tỏ quan điểm ủng hộ hoặc phản đối về một vấn đề công

cộng nào đó hoặc biểu dương lực lượng chung...hoạt động theo quy định pháp

luật, ví mục đìch lợi ìch của Nhà nước, xã hội, quyền, lợi ìch hợp pháp của tổ

chức, công dân.

1.2. Điều chỉnh pháp luật về quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chính trị

Phụ nữ với tư cách là công dân cũng có đầy đủ những quyền như một

công dân, trong đó có quyền chình trị. Tuy nhiên, do đặc thù của nhóm và

những định kiến của xã hội nên phụ nữ còn gặp nhiều trở ngại, khó khăn khi

tham gia vào đời sống chình trị, tham gia quản lý nhà nước và hoạt động xã

hội. Chình ví vậy, ngoài những quy định chung về quyền con người, quyền

công dân, pháp luật cần có những quy định riêng bảo đảm cho phụ nữ có thể

thực hiện được các quyền chình trị của mính.

Pháp luật về quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chình trị là tổng thể các

quy định trong hệ thống pháp luật nhằm ghi nhận, bảo đảm, bảo vệ quyền

chình trị của phụ nữ trên cơ sở bính đẳng và không phân biệt đối xử.

1.2.1. Pháp luật quốc tế về quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chính trị

Dưới góc độ pháp luật quốc tế, những quy định liên quan trực tiếp và

gián tiếp đến quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chình trị có thể tím thấy trong

nhiều công ước quốc tế về quyền con người như: Hiến chương Liên hợp quốc,

Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền năm 1948 (UDHR), Công ước về các quyền

25

chình trị của phụ nữ năm 1952, Công ước quốc tế về các quyền dân sự và

chình trị năm 1966 (ICCPR), Công ước về xóa bỏ các hính thức phân biệt đối

xử với phụ nữ năm 1979 (CEDAW)…

Hiến chương Liên Hợp quốc là văn bản pháp luật quốc tế đầu tiên, xác

định rõ mục tiêu hành động là bảo đảm quyền con người, khuyến khìch sự

tiến bộ xã hội và nâng cao điều kiện sống trong nền tự do rộng rãi, khuyến

khìch phát triển sự tôn trọng các quyền con người và các quyền tự do cơ bản

cho mọi người, không phân biệt chủng tộc, nam, nữ, ngôn ngữ hoặc tôn giáo.

Quyền con người là phạm trù tổng hợp gồm các quyền và tự do của con

người, trong đó có quyền chình trị. Các quyền vốn quan trọng như nhau, gắn

bó chặt chẽ với nhau, tồn tại trong cùng một tổng thể, vừa là tiền đề vừa là kết

quả của nhau. Như vậy, khi thực hiện quyền con người, trước hết phải xem

xét đến việc thực hiện quyền bính đẳng giới và nội dung về bính đẳng giới

được thể hiện trong quyền con người.

Tuyên ngôn Quốc tế nhân quyền năm 1948 là bản tuyên ngôn về các

quyền cơ bản của con người, trong đó đầu tiên là đảm bảo quyền bính đẳng

giới được xác lập tại Điều 2 “Mọi người đều được hưởng các quyền tự do nêu

trong bản tuyên ngôn này, không có bất kì sự phân biệt đối xử nào về chủng

tộc, màu da, giới tính, tôn giáo, chính kiến hay quan điểm khác, nguồn gốc

dân tộc hay xã hội, giống nòi hay các tình trạng khác”. Ví bính đẳng giới là

cơ sở để thực hiện các quyền khác, trong đó có quyền chình trị. Điều 21 của

Tuyên ngôn, quyền chình trị được hiểu là “Mọi người đều có quyền tham gia

vào việc điều hành xứ sở của mình, một cách trực tiếp hay qua các đại biểu

được tuyển chọn một cách tự do. Ý muốn của người dân phải là nền tảng của

quyền lực chính quyền. Ý muốn này phải được thể hiện qua các cuộc bầu cử

định kỳ và thực sự, bằng phiếu kín, qua phương thức phổ thông và bình đẳng

đầu phiếu, hay các phương thức tương đương của bầu cử tự do”, mọi người

26

có quyền tự do hội họp, lập hội, đề đạt ý kiến.... Như vậy, phụ nữ cũng như

nam giới được bính đẳng cùng tham gia vào mọi hoạt động của đời sống

chình trị - xã hội, đồng thời cùng được thừa hưởng mọi thành quả của tiến bộ

xã hội, đó chình là biểu hiện sinh động năng lực làm chủ xã hội của nam giới

và nữ giới, tham gia đóng góp vào các lĩnh vực của đời sống xã hội.

Công ước về các quyền chình trị của phụ nữ năm 1952 là công ước quy

định riêng biệt quyền chình trị của phụ nữ trên cơ sở thực hiện các nguyên tắc

bính đẳng giữa nam và nữ được nêu trong Hiến chương Liên hợp quốc và

Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền. Công ước Thừa nhận rằng: Mọi người có

quyền tham gia vào chính phủ của nước mình một cách gián tiếp hoặc thông

qua các đại diện do họ tự do lựa chọn, và có quyền tiếp cận bình đẳng với

dịch vụ công cộng của nước mình. Công ước xác lập quyền chình trị của phụ

nữ như: "Phụ nữ có quyền bỏ phiếu trong mọi cuộc bầu cử trên cơ sở bình

đẳng với nam giới, không có bất kỳ sự phân biệt đối xử nào” (Điều 1); "Phụ

nữ có quyền được bầu vào mọi cơ quan nhà nước do dân cử được thành lập

theo quy định của pháp luật quốc gia, trên cơ sở bình đẳng với nam giới,

không có bất kỳ sự phân biệt đối xử nào”(Điều 2); "Phụ nữ có quyền làm việc

tại các cơ quan nhà nước và thực hiện mọi chức năng công quyền theo quy

định của pháp luật, trên cơ sở bình đẳng với nam giới, không có bất kỳ sự

phân biệt đối xử nào”(Điều 3). Như vậy, Công ước xác lập quyền của phụ nữ

được bính đẳng với nam giới trong việc tham gia vào các công việc của Chình

phủ mà không bị bất kỳ một trở ngại nào.

Công ước quốc tế về quyền chình trị và dân sự năm 1966, quyền chình

trị là những nhu cầu, những lợi ìch chình trị tự nhiên vốn có và khách quan

của con người, quyền tự do ý kiến và biểu đạt, quyền tự do lập hội, hội họp

một cách hòa bính, quyền tham gia vào đời sống chình trị. Hiểu theo nghĩa

này, quyền chình trị là một bộ phận cấu thành trong nội dung quyền con

27

người. Như vậy, khi đề cập đến các quyền con người về chình trị trước hết

người ta đề cập đến quyền tự do và bính đẳng. Để một cá nhân có thể tự do,

bính đẳng, cá nhân đó phải có đầy đủ năng lực chủ thể pháp luật, có quyền tự

do ý chì và các quyền khác.

Công ước CEDAW là văn kiện pháp lý chuyên biệt quy định về các

quyền con người của phụ nữ. Công ước có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với

phụ nữ ví nó thực hiện hóa các quyền con người của phụ nữ trong đó có

quyền chình trị, Công ước xác định cách thức, biện pháp loại trừ những sự

phân biệt đối xử với phụ nữ trong việc thụ hưởng các quyền con người đã

được thừa nhận nhưng trên thực tế họ chưa được hưởng. Quyền chình trị của

phụ nữ được xác lập tại Điều 7 của CEDAW gồm: Tham gia bỏ phiếu trong

mọi cuộc bầu cử và trưng cầu dân ý, được quyền ứng cử vào tất cả các cơ

quan dân cử; Được tham gia xây dựng và thực hiện các chính sách của chính

phủ, tham gia vào bộ máy và các chức vụ nhà nước ở mọi cấp chính quyền;

Tham gia vào các tổ chức xã hội và hiệp hội phi chính phủ liên quan đến đời

sống công cộng và chính trị của đất nước. Điều này đòi hỏi các quốc gia

thành viên tham gia Công ước phải áp dụng mọi biện pháp thìch hợp nhằm

xóa bỏ sự phân biệt đối xử với phụ nữ trong đời sống chình trị và cộng đồng

của đất nước và đặc biệt là phải đảm bảo cho phụ nữ, trên cơ sở bính đẳng với

nam giới, được thụ hưởng các quyền đó.

Theo tinh thần của Công ước CEDAW có 3 nguyên tắc cần tuân thủ để

bảo đảm thực thi các quyền con người, trong đó có quyền chình trị, đó là:

Nguyên tắc bính đẳng giới, nguyên tắc không phân biệt đối xử, nguyên tắc

trách nhiệm quốc gia. Ba nguyên tắc trên được xem là chuẩn mực khi xem xét

việc đảm bảo thực thi bất cứ quyền nào của phụ nữ, trong đó có quyền chình

trị. Ngoài ra, việc thực hiện các quyền của phụ nữ phải đảm bảo thực hiện

quyền dân chủ cả về trực tiếp và gián tiếp trong xã hội trên thực tế. Đó là việc

28

phụ nữ bính đẳng với nam giới được trực tiếp tham gia vào toàn bộ quá trính

quản lý nhà nước, từ khâu xây dựng, hoạch định chình sách đến việc triển

khai cụ thể, hoặc trực tiếp tham gia giám sát, kiểm tra hoạt động của các cơ

quan công quyền thực hiện quyền lực được giao. Thực hiện quyền dân chủ ở

cơ sở thể hiện ở chỗ phụ nữ được tham gia góp ý kiến bằng nhiều hính thức

vào các vấn đề liên quan đến đời sống cộng đồng và những vấn đề liên quan

đến quyền và lợi ìch của phụ nữ. Hính thức dân chủ gián tiếp là phụ nữ tham

gia bầu cử người đại diện và ứng cử vào các cơ quan dân cử, cơ quan đại diện

quyền lực nhà nước.

1.2.2. Pháp luật Việt Nam về quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chính trị

Ở Việt Nam, đối với phụ nữ, Đảng và Nhà nước ta luôn dành sự quan

tâm đặc biệt cho phụ nữ, bảo vệ lợi ìch chình đáng của phụ nữ trên mọi mặt

của đời sống chình trị-xã hội. Trong Luận cương Chình trị năm 1930 của

Đảng, tư tưởng giải phóng phụ nữ và tôn trọng quyền lợi của phụ nữ đã được

ghi nhận, trở thành tuyên ngôn đầu tiên về quyền bính đẳng nam nữ, phụ nữ

được công nhận ngang hàng với nam giới về mặt chình trị. Trong toàn bộ quá

trính lãnh đạo cách mạng Việt Nam, tư tưởng chỉ đạo nhất quán và xuyên suốt

của Đảng ta là bảo đảm quyền bính đẳng và không phân biệt đối xử với phụ

nữ. Tư tưởng này cũng được thể chế hóa trong Hiến pháp và pháp luật của

Nhà nước, biến nó trở thành chuẩn mực, quy tắc xử xự bắt buộc chung đối với

toàn xã hội.

1.2.2.1. Hiến định quyền chính trị của phụ nữ

Tháng 10/1946 bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ

cộng hòa chình thức được ban hành, quyền bính đẳng giữa nam và nữ được

công nhận tại Điều thứ 9 “Đàn bà ngang quyền đàn ông về mọi phương diện”.

Quyền chình trị của phụ nữ với tư cách là công dân được xác lập tại Điều thứ

6 “Tất cả công dân Việt Nam đều ngang quyền về mọi phương diện: chính trị,

29

kinh tế, văn hoá”; Điều thứ 7“Tất cả công dân Việt Nam đều bình đẳng trước

pháp luật, đều được tham gia chính quyền và công cuộc kiến quốc tuỳ theo tài

năng và đức hạnh của mình”; Điều thứ 21“Nhân dân có quyền phúc quyết về

Hiến pháp và những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia”... Có thể nói, quy

định của Hiến pháp năm 1946 có ý nghĩa rất lớn trong bối cảnh nước Việt

Nam dân chủ cộng hòa vừa mới được thành lập, góp phần phá tan xiềng xìch

tư tưởng “trọng nam khinh nữ” của chế độ phong kiến và chế độ thuộc địa

nửa phong kiến đã ngự trị hàng ngàn năm qua.

Điều 24 Hiến pháp năm 1959 quy định: “Phụ nữ nước Việt Nam dân

chủ cộng hòa có quyền bình đẳng với nam giới về các mặt sinh hoạt chính trị,

kinh tế, văn hóa, xã hội và gia đình’’. Như vậy so với Hiến pháp năm 1946,

Hiến pháp năm 1959 đã cụ thể hóa hơn các lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực

chình trị mà người phụ nữ được quyền bính đẳng với nam giới. Quyền chình

trị được ghi nhận với tư cách là công dân: Từ mười tám tuổi trở lên đều có

quyền bầu cử, từ hai mốt tuổi trở lên đều có quyền ứng cử, có các quyền tự do

ngôn luận, báo chí, hội họp, lập hội và biểu tình. Nhà nước bảo đảm những

điều kiện vật chất cần thiết để công dân được hưởng các quyền đó. Đó là sự

ghi nhận, trân trọng và đảm bảo của toàn xã hội đối với công dân, là động lực

khuyến khìch phụ nữ vươn lên, có trách nhiệm, nghĩa vụ làm chủ nước nhà.

Kế thừa bản Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980 khẳng

định:“Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật” (Điều 55); “Công dân

nữ và nam có quyền ngang nhau về mọi mặt chính trị, kinh tế, xã hội và gia

đình”. Hiến pháp năm 1980 tiếp tục khẳng định quyền bính đẳng giới của

công dân nam, nữ trong xã hội. Trên cơ sở đó, quyền chình trị của phụ nữ với

tư cách là công dân được xác định. Điều 56 “Công dân có quyền tham gia

quản lý công việc của Nhà nước và của xã hội”; Điều 57 “Công dân không

phân biệt dân tộc, nam nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng tôn giáo, trình độ

30

văn hoá, nghề nghiệp, thời hạn cư trú, từ 18 tuổi trở lên đều có quyền bầu cử

và từ 21 tuổi trở lên đều có thể được bầu vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân

các cấp". Ngoài ra Hiến pháp còn có các quy định nghiêm cấm mọi hành vi

phân biệt đối xử với phụ nữ, xúc phạm nhân phẩm phụ nữ, quan tâm đến lao

động nữ trên các lĩnh vực. Đặc biệt quy định nhà nước và xã hội tạo điều kiện

để phụ nữ nâng cao trính độ mọi mặt, không ngừng phát huy vai trò của mính

trong xã hội... Có thể khẳng định, Hiến pháp năm 1980 quyền của công dân

Việt Nam nói chung, quyền bính đẳng giới và quyền chình trị của phụ nữ nói

riêng đã được khẳng định ở tầm cao hơn, cụ thể hơn.

Hiến pháp năm 1992 là bản Hiến pháp trong thời kỳ đổi mới, phát huy

vai trò của con người, vai trò của công dân bước vào thời kỳ mới. Hiến pháp

quy định "các quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hoá và xã hội

được tôn trọng" (Điều 50). Kế thừa Hiến pháp 1980, Hiến pháp 1992 nhấn

mạnh quy định bảo vệ quyền bính đẳng của người phụ nữ:“Nghiêm cấm mọi

hành vi phân biệt đối xử với phụ nữ, xúc phạm nhân phẩm phụ nữ”(Điều 63).

Theo Hiến pháp, với tư cách là công dân bính đẳng trước pháp luật, quyền

chình trị của phụ nữ được ghi nhận là các quyền ứng cử, bầu cử, tự do ngôn

luận, tự do thông tin, hội họp, lập hội... Đặc biệt tại điều 53 “Công dân có

quyền tham gia quản lý Nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận các vấn đề

chung của cả nước và địa phương, kiến nghị với cơ quan Nhà nước, biểu

quyết khi Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân”. Nhà nước và xã hội tạo điều

kiện để phụ nữ nâng cao trính độ mọi mặt, không ngừng phát huy vai trò của

mính trong xã hội. Có thể nói, bản Hiến pháp năm 1992 thể chế hóa đầy đủ

hơn, sâu sắc hơn quan điểm của Đảng và nhà nước ta về quyền con người, đề

cao chủ quyền nhân dân, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa và đảm bảo tất cả

quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân... nhằm phát huy sức mạnh, nguồn lực

31

của các tầng lớp nhân dân bước vào thời kỳ mới

Hiến pháp năm 2013 có sự phát triển thể hiện tầm quan trọng về quyền

con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, trong đó có quyền bính

đẳng giới, quyền chình trị của phụ nữ với tư cách là một công dân. Hiến pháp

năm 2013 khẳng định: “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các

quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội

được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật…”

(Điều 14); “Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật. Không ai bị phân biệt

đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội” (Điều 16);

“Công dân nam, nữ bình đẳng về mọi mặt. Nhà nước có chính sách bảo đảm

quyền và cơ hội bình đẳng giới. Nhà nước, xã hội và gia đình tạo điều kiện để

phụ nữ phát triển toàn diện, phát huy vai trò của mình trong xã hội. Nghiêm

cấm phân biệt đối xử về giới”(Điều 26). “Công dân đủ 18 tuổi trở lên có

quyền bầu cử và đủ 21 tuổi trở lên có quyền ứng cử vào Quốc hội, Hội đồng

nhân dân. Việc thực hiện các quyền này do luật định” (Điều 27); "Công dân

đủ 18 tuổi trở lên có quyền biểu quyết khi Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân"

(Điều 29); "Công dân có quyền tham gia quản lý Nhà nước và xã hội về các

vấn đề của cơ sở, địa phương và cả nước". "Nhà nước tạo điều kiện để công

dân tham gia quản lý nhà nước và xã hội; công khai, minh bạch trong việc

tiếp nhận, phản hồi ý kiến, kiến nghị của công dân" (Điều 28); “Nhân dân

thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, bằng dân chủ đại diện

thông qua Quốc Hội, Hội đồng nhân dân và thông qua các cơ quan khác của

nhà nước” [30, Điều 6]; "Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí,

tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do

pháp luật quy định" (Điều 25). Các điều khoản trên được quy định trong Hiến

pháp đã tạo cơ sở pháp lý cho việc xác lập quyền bính đẳng của nam giới và

32

nữ giới trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có lĩnh vực chình trị.

1.2.2.2. Quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật về quyền chính trị và

cơ chế đảm bảo quyền chính trị của phụ nữ

Trên quan điểm về bính đẳng giới nói chung, quyền chình trị nói riêng

được khẳng định trong Hiến pháp nước ta đã được thể chế hóa trong các văn

bản pháp luật Việt Nam trong quá trính xây dựng nhà nước pháp quyền dân

chủ nhân dân nhằm phù hợp với xu thế phát triển của đất nước và thời đại.

Năm 2006, Quốc hội Việt Nam đã thông qua Luật Bính đẳng giới,

trong đó, Điều 11 ghi nhận bính đẳng trong lĩnh vực chình trị, bao gồm: Bình

đẳng trong tham gia quản lý nhà nước, tham gia hoạt động xã hội; Bình đẳng

trong tham gia xây dựng và thực hiện hương ước, quy ước của cộng đồng

hoặc quy định, quy chế của cơ quan, tổ chức; Bình đẳng trong việc tự ứng cử

và được giới thiệu ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân; tự

ứng cử và được giới thiệu ứng cử vào cơ quan lãnh đạo của tổ chức chính trị,

tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã

hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp; Bình đẳng về tiêu chuẩn chuyên môn, độ

tuổi khi được đề bạt, bổ nhiệm vào cùng vị trí quản lý, lãnh đạo của cơ quan,

tổ chức. Ngoài ra còn quy định các biện pháp thúc đẩy bính đẳng giới trong

lĩnh vực chình trị bao gồm: Bảo đảm tỷ lệ thích đáng nữ đại biểu Quốc hội,

đại biểu Hội đồng nhân dân phù hợp với mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới;

Bảo đảm tỷ lệ nữ thích đáng trong bổ nhiệm các chức danh trong cơ quan

nhà nước phù hợp với mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới.

Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội Đồng nhân dân năm

2015 quy định quyền bính đẳng của công dân nam và nữ về quyền bầu cử và

ứng cử đại biểu Quốc Hội và đại biểu Hội Đồng nhân dân các cấp: “Công dân

đủ 18 tuổi trở lên có quyền bầu cử và đủ 21 tuổi trở lên có quyền ứng cử vào

Quốc hội, Hội đồng nhân dân. Việc thực hiện các quyền này do luật định”.

33

Đồng thời, để đảm bảo tỷ lệ nữ tham gia đại biểu Quốc Hội và đại biểu Hội

Đồng nhân dân các cấp, Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội Đồng

nhân dân năm 2015 cũng đã quy định các vấn đề liên quan đến việc cơ cấu số

lượng nữ Đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội Đồng nhân dân các cấp phải bảo

đảm có ìt nhất 35% tổng số người trong danh sách chình thức những người

ứng cử đại biểu Quốc Hội và đại biểu Hội Đồng nhân dân các cấp là phụ nữ

(Khoản 3 Điều 8 và Khoản 1, 2 Điều 9). Đây cũng chình là biện pháp để đảm

bảo quyền chình trị của phụ nữ mà Việt Nam đã cam kết quốc tế về thực hiện

Công ước CEDAW cũng như các Công ước quốc tế khác.

Bên cạnh còn có các văn bản pháp luật quy định những biện pháp

nghiêm minh nhằm bảo vệ quyền chình trị của phụ nữ như: Bộ Luật Dân sự,

Bộ Luật Tố tụng hính sự, Luật xử lý vi phạm hành chình,...Đặc biệt, Bộ luật

hính sự hiện hành của Việt Nam năm 2015 quy định "Người nào lừa gạt, mua

chuộc, cưỡng ép hoặc dùng thủ đoạn khác cản trở công dân thực hiện quyền

bầu cử, quyền ứng cử hoặc trưng cầu ý dân thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo

không giam giữ đến 01 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm" (Điều

160); "Người nào vì lý do giới mà thực hiện hành vi dưới bất kỳ hình thức nào

cản trở người khác tham gia hoạt động trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế,

lao động, ....đã bị xử lý kỷ luật hoặc xử phạt vi phạm hành chính về hành vi

này mà còn vi phạm, thì bị phạt cảnh cáo, phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến

50.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm" (Điều 165).

Những quy định của các văn bản pháp luật trên là cơ sở bảo vệ về mặt pháp lý

ngăn ngừa sự phân biệt, đối xử với phụ nữ trong đời sống chình trị nói riêng,

trong các lĩnh vực của đời sống xã hội nói chung.

Ngoài ra, còn có các văn bản dưới luật cụ thể hóa về bảo đảm quyền

chình trị của phụ nữ, như: Nghị định 56/2012/NĐ-CP ngày 16/7/2012 của

Chình phủ về trách nhiệm của các bộ, ngành, ủy ban nhân dân các cấp trong

34

việc đảm bảo các cấp Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam tham gia quản lý nhà

nước; Quyết định số 2351/QĐ-TTg ngày 24/12/2010 của Thủ tướng chình

phủ về Chiến lược quốc gia về Bính đẳng giới giai đoạn 2011- 2020; Quyết

định số 1696/QĐ-TTg ngày 02/10/2015 của Thủ tướng chình phủ về phê

duyệt Chương trính hành động quốc gia về Bính đẳng giới giai đoạn 2016-

2020; Nghị quyết số 11/NQ/TW ngày 27/4/2007 của Bộ Chình trị về công tác

phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước...

Như vậy, quyền chình trị của phụ nữ đã có một cơ sở pháp lý đầy đủ

và toàn diện từ việc xác lập đến việc bảo vệ bằng pháp luật về quyền chình

trị của phụ nữ, đồng thời cũng đảm bảo cam kết quốc tế trong việc bảo đảm

quyền của phụ nữ trên 3 nguyên tắc của công ước CEDAW, đó là nguyên

tắc bính đẳng giới, nguyên tắc không phân biệt đối xử và nguyên tắc trách

nhiệm quốc gia.

1.3. Các điều kiện đảm bảo quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chính trị

1.3.1. Điều kiện chính trị

Điều kiện chình trị là toàn bộ các yếu tố tạo nên đời sống chình trị của

xã hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất định, bao gồm môi trường chình trị, hệ

thống các chuẩn mực chình trị, chủ trương, đường lối, chình sách của Đảng và

quá trính tổ chức thực hiện chúng; các quan hệ chình trị và ý thức chình trị;

hoạt động của hệ thống chình trị; cùng với đó là nền dân chủ xã hội và bầu

không khì chình trị - xã hội. Điều kiện chình trị chình là môi trường chình trị,

đó là điều kiện thuận lợi hoặc khó khăn đối với hoạt động thực hiện pháp luật.

Ở Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng duy nhất lãnh đạo

nhà nước Việt Nam là Nhà nước thực sự của nhân dân, do nhân dân và ví

nhân dân. Đảng lãnh đạo bằng việc đề ra chủ trương, đường lối chình trị là

nhằm xây dựng và bảo vệ lãnh thổ, bảo vệ độc lập dân tộc, xây dựng nền kinh

tế phát triển, nền dân chủ thực sự. Ví vậy, đường lối chình trị đó phải được

35

thể chế hóa trong Hiến pháp và pháp luật. Hiến pháp quy định chế độ chình

trị, tổ chức hoạt động của các cơ quan nhà nước và tổ chức xã hội, quyền và

nghĩa vụ cơ bản của công dân. Đó chình là cơ sở pháp lý để xây dựng một xã

hội có cơ cấu tổ chức và chế độ chình trị hướng tới tôn trọng, bảo vệ quyền

con người, quyền bính đẳng giới và quyền chình trị. Để thực hiện mục tiêu

“dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, các chủ trương, chình

sách của Đảng về phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, bảo đảm quyền con

người, quyền bính đẳng, quyền chình trị… trở thành hiện thực trong cuộc

sống xã hội thí sự lãnh đạo của Đảng phải được thể chế hóa thành pháp luật.

Ở nước ta, Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà

nước và xã hội. Do vậy, sự lãnh đạo của Đảng có vai trò quan trọng trong việc

định hướng, chỉ đạo sự tham gia chình trị của phụ nữ. Từ rất sớm, trong

cương lĩnh chình trị đầu tiên của Đảng đã quan tâm đến quyền lợi chình trị

của các tầng lớp nhân dân trong đó có phụ nữ. Các Nghị quyết Đại hội Đảng

toàn quốc cũng đều từng bước khẳng định vị thế, vai trò của phụ nữ trong đời

sống xã hội. Đồng thời cả hệ thống chình trị đã quan tâm đến sự tiến bộ của

phụ nữ và đã thành lập Ban Ví sự tiến bộ của phụ nữ. Đây là môi trường

chình trị thuận lợi tác động đến việc bảo đảm quyền chình trị của phụ nữ.

1.3.2. Điều kiện nhận thức

Để đảm bảo sự bính đẳng và những quyền lợi chình đáng của phụ nữ,

một trong những thách thức lớn đối với phụ nữ Việt Nam cần phải nhận thức

được rằng bản thân người phụ nữ phải vượt qua định kiến giới từ ngàn xưa

vẫn còn tồn tại trong xã hội. Phụ nữ cần phải phát huy vai trò năng lực của

mính, vượt qua các rào cản từ phìa cộng đồng, gia đính và bản thân để cùng

với nam giới tham gia ý kiến về các vấn đề của quốc gia. Người phụ nữ phải

vào cuộc, phải tự mính nâng cao năng lực chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp,

tự mính đề xuất những tâm tư, nguyện vọng, tự mính khẳng định năng lực và

36

vị trì của mính ở các góc độ khác nhau từ cộng đồng đến quốc gia và quốc tế.

Để làm được điều này, người phụ nữ phải nỗ lực rất nhiều, phải vượt qua

chình mính, vượt qua những định kiến giới.

Bên cạnh đó, người phụ nữ cũng rất cần sự quan tâm của Đảng và Nhà

nước, gia đính và toàn xã hội nhín nhận về vai trò vị trì của phụ nữ một cách

đầy đủ và đúng đắn, có những chình sách thiết thực khuyến khìch, tăng

cường, phát huy vai trò và vị trì của phụ nữ, trao quyền thật sự cho phụ nữ để

phụ nữ được tham gia vào đời sống chình trị, xã hội.

1.3.3. Điều kiện pháp lý

Bảo đảm quyền chình trị của phụ nữ là một quá trính, phụ thuộc vào

tổng thể nhiều điều kiện khác nhau như kinh tế, chình trị, văn hóa, pháp

luật…trong đó, pháp luật có vai trò quan trọng hàng đầu. Pháp luật là phương

tiện chình thức hóa các giá trị của quyền con người, quyền bính đẳng giới,

quyền chình trị. Các quyền đó được thể chế hóa và mang tình bắt buộc, được

thừa nhận và bảo vệ. Pháp luật không chỉ ghi nhận các quyền chình trị của

phụ nữ mà còn xác định trách nhiệm của Nhà nước và các thiết chế chình trị -

xã hội khác, đồng thời tạo ra các bảo đảm trong quá trính hiện thực hóa các

quyền chình trị của phụ nữ. Pháp luật là cơ sở, là căn cứ để công dân đánh

giá, kiểm tra, đối chiếu các hành vi từ phìa Nhà nước và các thành viên trong

xã hội, đấu tranh bảo vệ các quyền và lợi ìch hợp pháp của mính. Như vậy,

với chức năng là công cụ để nhà nước quản lý, bảo vệ các giá trị xã hội và bảo

đảm công bằng xã hội, pháp luật có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc xác

lập quyền chình trị của phụ nữ trong xã hội. Pháp luật còn có vai trò quan

trọng tạo tiền đề cho phụ nữ thực hiện các quyền chình trị được pháp luật đã

ghi nhận.

1.3.4. Điều kiện xã hội

Tình chất, mức độ của nền dân chủ xã hội có ảnh hưởng quan trọng tới

37

hoạt động thực hiện pháp luật. Nền dân chủ rộng rãi, thông tin đa dạng, phong

phú, nhiều chiều sẽ giúp các tầng lớp xã hội thẳng thắn công khai, cởi mở bày

tỏ chình kiến, quan điểm của mính đối với pháp luật và các cơ quan thực thi

pháp luật trong quá trính thực hiện quyền chình trị nói chung, quyền chình trị

của phụ nữ nói riêng.

Việc thực hiện các chình sách xã hội, đảm bảo các nguyên tắc của công

bằng xã hội có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với việc thực hiện pháp luật. Nó

là điều kiện cần thiết cho sự ổn định chình trị, tăng cường pháp chế và đoàn

kết mọi tầng lớp nhân dân trong xã hội; củng cố ý thức của con người về cái

chung trong các lợi ìch, lý tưởng của họ, khơi dậy thái độ tìch cực của quần

chúng đối với việc tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội bằng pháp luật;

nhờ đó, ý thức tôn trọng, chấp hành pháp luật cũng được nâng lên một bước

và việc thực hiện pháp luật của các chủ thể trở nên tự giác và chủ động hơn.

Trong xã hội hiện đại, phụ nữ Việt Nam có vị thế và vai trò quan trọng,

là nhân vật không thể thiếu trong các hoạt động xã hội. Do nhận thức đầy đủ

về vị trì quan trọng của mính, phần lớn phụ nữ Việt Nam ngày nay đã chủ

động khắc phục khó khăn, vượt qua nhiều mặc cảm, tự ti, nỗ lực phấn đấu để

vươn lên nâng cao trính độ năng lực, tìch cực học tập để hoàn thiện mính đáp

ứng với yêu cầu nhiệm vụ ngày càng cao của xã hội.

1.3.5. Điều kiện kinh tế

Điều kiện kinh tế hiểu theo nghĩa rộng bao gồm tổng thể các yếu tố,

hoàn cảnh về kinh tế xã hội, hệ thống chình sách kinh tế... Yếu tố kinh tế là

nền tảng của sự nhận thức hiểu biết về quyền con người, quyền công dân,

đồng thời là cơ sở để hiện thực hóa các quy định pháp luật về quyền con

người, quyền công dân.

Điều kiện kinh tế có ảnh hưởng rất quan trọng đến lợi ìch và do đó, tác

động đến tư tưởng, quan điểm, thái độ, niềm tin của các tầng lớp nhân dân đối

38

với pháp luật. Khi nền kinh tế phát triển, đời sống vật chất của các tầng lớp

dân cư được cải thiện, lợi ìch kinh tế được đảm bảo thí nhân dân sẽ phấn khởi

tin tưởng vào đường lối kinh tế, chình sách pháp luật, sự lãnh đạo của Đảng

và hoạt động điều hành, quản lý của Nhà Nước. Khi đó, niềm tin của các chủ

thể đối với pháp luật được củng cố. Quá trính thực hiện quyền con người sẽ

mang tình tìch cực, thuận chiều, phù hợp với các giá trị, chuẩn mực pháp luật

hiện hành. Khi kinh tế phát triển, đời sống vật chất, tinh thần được cải thiện,

các cán bộ, công chức nhà nước, các tầng lớp nhân dân có điều kiện mua sắm

các phương tiện nghe, nhín, có điều kiện thỏa mãn các nhu cầu thông tin đa

dạng và cập nhật. Các chương trính phổ biến, giáo dục pháp luật và quyền con

người sẽ dễ dàng đến được với đông đảo cán bộ và nhân dân. Điều đó giúp

cho hoạt động thực hiện pháp luật của các chủ thể mang tình tìch cực, tự giác.

Khi kinh tế chậm phát triển, thu nhập thấp, tính trạng thất nghiệp gia tăng, lợi

ìch kinh tế không được đảm bảo, đời sống của cán bộ nhân dân gặp khó khăn

thí tư tưởng sẽ diễn biến phức tạp, cái xấu có cơ hội nảy sinh, tác động tiêu

39

cực tới nhận thức và thực hiện quyền chình trị của công dân.

Tiểu kết chương 1

Quyền chình trị thuộc hệ thống các quyền con người và là một trong

những quyền quan trọng nhất của con người.

Phụ nữ vốn là nhóm người dễ bị tổn thương, có tâm sinh lý đặc biệt và

chịu nhiều định kiến của xã hội. Ví vậy, bảo đảm quyền của phụ nữ, trong đó

có quyền chình trị của phụ nữ là một trong những dấu hiệu nhận biết của một

xã hội văn minh, hiện đại, dân chủ, nhân quyền.

Quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chình trị được pháp luật quốc tế ghi

nhận ở các tầng nấc khác nhau.

Ở Việt Nam, quyền chình trị của công dân nói chung và của phụ nữ nói

riêng được Hiến pháp và pháp luật ghi nhận, bảo đảm và bảo vệ. Phụ nữ có

quyền bính đẳng trong đời sống chình trị. Như các công dân khác, phụ nữ có

quyền ứng cử, bầu cử, tham gia quản lý Nhà nước và xã hội, tham gia thảo

luận và kiến nghị với cơ quan nhà nước về các vấn đề của cơ sở, địa phương

và cả nước, tham gia biểu quyết khi Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân.

Để quyền chình trị của phụ nữ được hiện thực hóa, cần có những điều

kiện đảm bảo. Các điều kiện đó bao gồm các phương diện: chình trị, nhận

thức, kinh tế, xã hội....Theo đó, việc tạo lập các điều kiện để thực hiện các

quyền chình trị của phụ nữ là trách nhiệm của Nhà nước và xã hội, cần phải

40

được triển khai theo những lộ trính phù hợp.

Chương 2:

THỰC TRẠNG QUYỀN CỦA PHỤ NỮ

TRONG LĨNH VỰC CHÍNH TRỊ Ở TỈNH PHÚ YÊN HIỆN NAY

2.1. Một số yếu tố đặc thù của tỉnh Phú Yên có ảnh hƣởng tới việc thực

hiện quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chính trị

2.1.1. Khái quát các đặc thù về địa lý – dân cư, tình hình kinh tế - xã hội

của tỉnh Phú Yên

Phú Yên là một tỉnh thuộc vùng duyên hải Nam Trung bộ với diện tìch tự nhiên là 5.060 km2, phìa Bắc giáp tỉnh Bính Định, phìa Nam giáp tỉnh

Khánh Hòa, phìa Tây giáp tỉnh Gia Lai và Đắk Lắk, phìa Đông giáp biển

Đông. Phú Yên có vị trì địa lý và giao thông tương đối thuận lợi để phát triển

kinh tế - xã hội.

Tỉnh Phú Yên có 09 đơn vị hành chình gồm các huyện: Đồng Xuân,

Đông Hòa, Sông Hinh, Sơn Hòa, Phú Hòa, Tây Hòa, Tuy An, thị xã Sông

Cầu và thành phố Tuy Hòa (là trung tâm tỉnh lỵ). Dân số trong toàn tỉnh (tình

đến tháng 9 năm 2017) là 904.484 người, mật độ dân số năm 2016 là 172 người/km2. Tổng số lao động làm việc trong nền kinh tế quốc dân toàn tỉnh

Phú Yên là 498.710 người. Trong đó, tỷ lệ lao động trong khu vực nông, lâm,

ngư nghiệp là 295.236 người chiếm 59,2%; khu vực công nghiệp - xây dựng

là 81.789 người chiếm 16,4%; khu vực dịch vụ là 121.685 người chiếm

24,4% tổng số lao động làm việc trong các ngành kinh tế quốc dân.

Phú Yên có nền văn hóa truyền thống đầy bản sắc được kế thừa

và không ngừng phát triển làm phong phú và đa dạng đời sống tinh thần của

31 dân tộc anh em trong tỉnh. Phú Yên còn là một vùng đất có bề dày lịch sử

và chiều sâu văn hóa, nét đặc sắc của văn hóa Phú Yên là sự đan xen, giao

41

thoa và hòa hợp của nền văn hóa Việt- Chăm.

Xuất phát từ vị trì địa lý, về đặc điểm dân cư và truyền thống lịch sử,

văn hóa của tỉnh Phú Yên, trong quá trính thực hiện sự nghiệp đổi mới do

Đảng lãnh đạo, Phú Yên đã và đang có những bước phát triển khá, đạt được

các thành tựu quan trọng về kinh tế - văn hóa - xã hội, an ninh quốc phòng,

đời sống nhân dân từng bước được cải thiện.

Tuy nhiên, so với các tỉnh Nam Trung bộ, Phú Yên vẫn còn là một tỉnh

nghèo, trong đó có hai huyện miền núi Sông Hinh và Đồng Xuân được xếp

trong 62 huyện nghèo của cả nước. Toàn tỉnh có thu nhập bính quân đầu

người thấp so với mức bính quân chung của cả nước, đời sống của nhân dân

nói chung và của phụ nữ nói riêng, đặc biệt ở khu vực nông thôn, miền núi

còn gặp nhiều khó khăn. Kinh tế nông nghiệp với tỷ trọng chiếm 77,8 % kinh

tế của tỉnh Phú Yên. Sản xuất nông nghiệp mặc dù đã được áp dụng các tiến

bộ khoa học kỹ thuật nhưng do ảnh hưởng thời tiết nắng hạn kéo dài, thiên tai

lớn do bão lũ, dịch bệnh ở người và một số cây trồng, thủy sản nuôi tái diễn...

đã ảnh hưởng đến tính hính sản xuất, kinh doanh và đời sống nhân dân, làm

cho một bộ phận nông dân phải sản xuất trong điều kiện khó khăn, gian khổ.

Theo tập quán trong sinh hoạt cuộc sống gia đính, phần lớn công việc

nội trợ vẫn tập trung vào người phụ nữ, phụ nữ có vai trò thấp hơn nam giới,

coi trọng con trai hơn con gái. Về định kiến giới, gánh nặng trách nhiệm với

gia đính, cơ chế thị trường và sự phát triển xã hội đang làm đầy thêm gánh

nặng trách nhiệm của người phụ nữ trong thiên chức người vợ, người mẹ,

người thầy đầu tiên của con cái. Quỹ thời gian của phụ nữ bị phân tán vào

công việc nội trợ, chăm sóc gia đính cộng với đời sống khó khăn về kinh tế

khiến nhiều chị em ìt có điều kiện để tiếp cận với những cơ hội để phát triển

bản thân. Gánh nặng gia đính bao giờ cũng dồn lên trách nhiệm của người

42

phụ nữ, bởi vậy, nó tỷ lệ nghịch đối với sự phát triển vươn lên vị trì lãnh đạo,

quản lý của người phụ nữ. Đây là một thách thức đặt ra đối với hầu hết phụ

nữ và tác động không nhỏ đến cơ hội thăng tiến của phụ nữ trong tỉnh.

2.1.2. Tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị tại tỉnh Phú Yên

Tỉnh Phú Yên có 09 đơn vị hành chình huyện, thị xã, thành phố, với

112 xã, phường, thị trấn (88 xã, 16 phường và 8 thị trấn). Tổng số cán bộ,

công chức, viên chức toàn tỉnh là 23.867 người, trong đó cán bộ, công chức,

viên chức nữ là 11.798 người, chiếm tỷ lệ 49,4%.

Hệ thống chình trị trong toàn tỉnh cơ bản hoạt động hiệu quả, vững

mạnh, thường xuyên được củng cố, kiện toàn; năng lực lãnh đạo của tổ chức

đảng, hiệu lực quản lý, điều hành của chình quyền, sự phối hợp hoạt động của

Mặt trận và các đoàn thể chình trị - xã hội ngày càng hiệu quả, đáp ứng yêu

cầu và nguyện vọng chình đáng của nhân dân, đảm bảo thực hiện tốt nhiệm

vụ chình trị, đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh trật tự, an

toàn xã hội ở địa phương. Chất lượng đội ngũ cán bộ cơ sở được nâng cao;

đội ngũ cán bộ được trẻ hóa, có trính độ, năng lực, ý thức tổ chức kỷ luật cao,

nhiệt tính trong công tác, cơ bản đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ trong giai

đoạn hiện nay. Luôn thể hiện tinh thần phát huy dân chủ, tạo sự đồng thuận

trong việc thực hiện các chủ trương, nghị quyết của Đảng và chình sách, pháp

luật của Nhà nước.

2.1.3. Quá trình phát huy vai trò và khả năng tham gia của phụ nữ trong

lĩnh vực chính trị ở tỉnh Phú Yên

Trong lịch sử, phụ nữ tỉnh Phú Yên luôn giữ vai trò quan trọng và có

những đóng góp đáng kể cho sự nghiệp dựng nước, giữ nước, xây dựng và

phát triển đất nước. Kế tục truyền thống đấu tranh bất khuất, kiên cường của

Bà Trưng, Bà Triệu, lịch sử lại tiếp tục ghi nhận hàng vạn tấm gương phụ nữ

đã cống hiến, hy sinh ví độc lập tự do của Tổ quốc trong cuộc kháng chiến

43

chống mỹ cứu nước.

Bước vào công cuộc xây dựng và đổi mới đất nước, phụ nữ Phú Yên

vượt qua khó khăn, cần cù lao động, vươn lên thoát nghèo; các tầng lớp phụ

nữ Phú Yên ngày càng thể hiện vai trò quan trọng của mính tham gia đóng

góp công sức trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, góp phần vào công cuộc

phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, của đất nước.

Trong lĩnh vực phát triển kinh tế, phong trào thi đua lao động sáng tạo,

phong trào phụ nữ giúp nhau phát triển kinh tế gia đính đã thu hút đông đảo

các tầng lớp phụ nữ tham gia. Đến nay các cấp Hội toàn tỉnh đã tìn chấp và

nhận ủy thác 1.135,2 tỷ đồng cho gần 43.864 hộ phụ nữ nghèo vay vốn phát

triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo. Phụ nữ thi đua làm kinh tế giỏi, làm giàu

chình đáng ngày càng phát huy, đã có nhiều phụ nữ sản xuất kinh doanh giỏi,

làm chủ trang trại, chủ hộ kinh doanh, chủ doanh nghiệp với qui mô lớn, hiệu

quả kinh tế cao. Phụ nữ không chỉ là người trực tiếp quản lý, sản xuất kinh

doanh giỏi, làm giàu cho bản thân và góp phần tạo ra của cải vật chất cho xã

hội mà còn đóng góp tìch cực trong phong trào giúp phụ nữ nghèo bằng vốn,

dạy nghề, hướng dẫn cách làm ăn, giải quyết việc làm và tham gia các hoạt

động nhân đạo từ thiện.

Trong lĩnh vực công tác, nghiên cứu khoa học, nữ cán bộ, công chức,

viên chức, lao động đã tìch cực thi đua lao động sáng tạo, nỗ lực sản xuất, tìch

cực học tập nâng cao trính độ văn hóa, tay nghề; chị em đã phát huy sáng kiến

cải tiến kỹ thuật...; Có nhiều công trính nghiên cứu ứng dụng thành tựu khoa

học – công nghệ hiện đại vào quá trính sản xuất và phục vụ đời sống đạt hiệu

quả kinh tế cao. Lực lượng phụ nữ ngành y tế, giáo dục - đào tạo, văn hóa

nghệ thuật, báo chì... đã tận tâm với nghề, đem tài năng trì tuệ phục vụ nhân

dân, được tặng nhiều danh hiệu tiêu biểu... Nhiều đề tài của phụ nữ được công

nhận ở cấp quốc gia, cấp tỉnh, cấp ngành, nhiều phụ nữ tiêu biểu đạt danh

44

hiệu chiến sĩ thi đua cấp cơ sở, cấp tỉnh...

Trên lĩnh vực quốc phòng, an ninh, phụ nữ lực lượng vũ trang với bản

lĩnh và ý chì cách mạng đã vượt qua khó khăn, thử thách, ở bất kỳ cương vị

nào cũng phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, góp phần thực hiện

thắng lợi nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, giữ vững an ninh

chình trị, trật tự an toàn xã hội, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm,

luôn phát huy phẩm chất anh bộ đội cụ Hồ, tiên phong, gương mẫu trong các

hoạt động của đơn vị.

Đội ngũ cán bộ nữ lãnh đạo, quản lý tham gia quản lý nhà nước – xã

hội ngày càng được nâng lên cả về số lượng và chất lượng, đạt nhiều tiến bộ

trong lãnh đạo, điều hành và tổ chức thực hiện nhiệm vụ; tận tâm, tận lực với

công việc, có ý thức khắc phục khó khăn, vươn lên hoàn thành tốt nhiệm vụ

được giao. Đội ngũ cán bộ nữ ngày càng được nâng cao trính độ về chuyên

môn nghiệp vụ, lý luận chình trị, ngoại ngữ, tin học. Đến nay, cán bộ nữ có

trính độ sau đại học: Thạc sĩ: 228/1050 chiếm tỷ lệ 24,5%; Đảng viên nữ

chiếm 31,25%.

Với những thành quả đạt được, vai trò của phụ nữ ngày càng được

khẳng định trong gia đính và ngoài xã hội, phụ nữ Phú Yên ngày càng có

những đóng góp quan trọng vào sự phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Phú Yên.

2.2. Thực tiễn thực hiện quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chính trị ở tỉnh

Phú Yên hiện nay

2.2.1. Thực hiện quyền bầu cử và ứng cử của phụ nữ

Ở tỉnh Phú Yên, các quyền cơ bản của công dân luôn được coi trọng,

đặc biệt là quyền bầu cử và ứng cử. Cùng với nam giới, việc tham gia bầu cử

Quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp là cơ hội để nữ giới lựa chọn, bầu ra

những người tiêu biểu về đức, tài, những người đủ tiêu chuẩn, không phân

biệt nữ, nam xứng đáng đại diện cho ý chì, nguyện vọng và quyền làm chủ

45

của nhân dân. Phụ nữ thực hiện quyền bầu cử của mính là trực tiếp phát huy

quyền dân chủ trong xây dựng Đảng, Nhà nước và các tổ chức chình trị xã

hội, trong đó có Hội Liên hiệp Phụ nữ các cấp. Phụ nữ tham gia bầu cử đó

vừa là quyền, vừa là nghĩa vụ của chình bản thân phụ nữ.

Đối với tỉnh Phú Yên, trên cơ sở của pháp luật, để đảm bảo quyền bầu

cử, ứng cử, cũng như thu hút đại đa số dân cư đạt độ tuổi công dân tham gia.

Công tác bầu cử, ứng cử được thực hiện theo luật định, được đảm bảo trong

toàn hệ thống chình trị, là đợt sinh hoạt chình trị có ý nghĩa quan trọng đối

với Đảng, Chình quyền và nhân dân. Công tác bầu cử, ứng cử được thực hiện

với sự tập trung vào cuộc của cả hệ thống chình trị, đặc biệt là Mặt trận và các

tổ chức chình trị - xã hội, là cầu nối để công dân tiếp cận sát với công tác bầu

cử, với ứng cử viên. Có thể nói rằng, công tác hướng dẫn bầu cử đã góp phần

tìch cực vào thành công của các cuộc bầu cử, tỷ lệ cử tri đi bầu trong tỉnh đạt

trên 99%, cụ thể:

- Thực hiện việc bầu cử Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp, phụ nữ

có quyền ghi tên vào danh sách cử tri, được phát thẻ cử tri. Mỗi cử tri nữ được

ghi tên vào một danh sách cử tri ở nơi mính thường trú hoặc tạm trú. Với

những cử tri nữ là người tạm trú và có thời gian đăng ký tạm trú tại địa

phương chưa đủ 12 tháng; là quân nhân ở các đơn vị vũ trang nhân dân được

ghi tên vào danh sách cử tri ở nơi tạm trú hoặc đóng quân.

- Cử tri nữ được quyền khiếu nại về danh sách cử tri: Khi kiểm tra danh

sách cử tri, nếu phát hiện có sai sót thí trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày niêm

yết, cử tri nữ có quyền khiếu nại với cơ quan lập danh sách cử tri. Trong thời

hạn 05 ngày kể từ ngày nhận được khiếu nại, cơ quan lập danh sách cử tri

phải giải quyết và thông báo cho cử tri nữ biết kết quả. Trường hợp cử tri nữ

không đồng ý về kết quả này hoặc hết thời hạn mà khiếu nại không được giải

quyết thí có quyền khởi kiện tại tòa án nhân dân theo quy định của pháp luật

46

về tố tụng hành chình.

- Trong quá trính bỏ phiếu bầu đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng

nhân dân, mỗi cử tri nữ có quyền bỏ một phiếu bầu đại biểu Quốc hội và bỏ

một phiếu bầu đại biểu Hội đồng nhân dân tương ứng với mỗi cấp Hội đồng

nhân dân. Trường hợp cử tri nữ ốm đau, già yếu, khuyết tật không thể đến

phòng bỏ phiếu được thí tổ bầu cử mang hòm phiếu phụ và phiếu bầu đến chỗ

ở, chỗ điều trị để cử tri nữ nhận phiếu bầu và thực hiện việc bầu cử. Đối với

phụ nữ là người đang bị tạm giam, người đang chấp hành biện pháp đưa vào

cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc, người đang bị tạm giữ tại

nhà tạm giữ mà tại những nơi đó không tổ chức khu vực bỏ phiếu riêng thí tổ

bầu cử mang hòm phiếu phụ và phiếu bầu đến để phụ nữ nhận phiếu bầu và

thực hiện việc bầu cử. Khi cử tri nữ viết phiếu bầu, không ai được xem, kể cả

thành viên tổ bầu cử. Nếu viết hỏng thí cử tri nữ có quyền đổi phiếu bầu khác.

- Quyền bỏ phiếu ở nơi khác từ khi niêm yết danh sách cử tri cho đến

ngày bầu cử, nếu cử tri nữ nào ví đi nơi khác, không thể bỏ phiếu ở nơi đã

được ghi tên vào danh sách cử tri thí có quyền xin giấy chứng nhận của Ủy

ban nhân dân cấp xã nơi mính có tên trong danh sách cử tri để được bổ sung

tên vào danh sách cử tri và tham gia bỏ phiếu bầu cử ở nơi mính có thể tham

gia bỏ phiếu. Bên cạnh đó, cử tri nữ còn có quyền được thông báo về thời

gian bầu cử và nơi bỏ phiếu trong thời hạn 10 ngày trước ngày bầu cử, tổ bầu

cử phải thường xuyên thông báo cho cử tri nữ biết ngày bầu cử, nơi bỏ phiếu,

thời gian bỏ phiếu bằng hính thức niêm yết, phát thanh và các phương tiện

thông tin đại chúng khác của địa phương.

- Để thực sự khẳng định được vai trò của giới nữ, ngoài quyền bầu cử,

phụ nữ còn có quyền ứng cử theo quy định của Luật. Việc xây dựng và đào

tạo cán bộ nữ, nâng cao tỷ lệ lãnh đạo là nữ hiện nay đang là một chủ trương

lớn của Đảng, Nhà nước nói chung và của tỉnh Phú Yên nói riêng. Theo quy

47

định, những phụ nữ đáp ứng được các tiêu chuẩn của đại biểu Quốc hội và

Hội đồng nhân dân quy định tại Luật Tổ chức Quốc hội và Luật Tổ chức

chình quyền địa phương có quyền được ứng cử làm đại biểu Quốc hội và đại

biểu Hội đồng nhân dân, đồng thời phải nộp hồ sơ ứng cử chậm nhất là 70

ngày trước ngày bầu cử. Theo đó, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Phú Yên

phối hợp với các tổ chức chình trị - xã hội, các tổ chức xã hội – nghề nghiệp,

các tổ chức xã hội... có nhiệm vụ tổ chức, chủ trí các hội nghị hiệp thương

nhân sự. Đối với ứng cử viên nữ, Hội Liên hiệp phụ nữ tỉnh đề xuất ứng cử

viên nữ theo quy định của Luật bầu cử nhằm đảm bảo tỷ lệ nữ ứng cử viên

tham gia.

- Phụ nữ có quyền khiếu nại, tố cáo về người ứng cử, lập danh sách

người ứng cử hội viên, phụ nữ có quyền tố cáo về người ứng cử, khiếu nại, tố

cáo, kiến nghị về những sai sót trong việc lập danh sách những người ứng cử;

quyền tuyên truyền, vận động bầu cử người ứng cử đại biểu Quốc hội, ứng cử

đại biểu Hội đồng nhân dân ở đơn vị bầu cử nào thí thực hiện vận động bầu

cử tại đơn vị bầu cử đó. Việc vận động bầu cử của người ứng cử được tiến

hành bằng các hính thức sau đây: Gặp gỡ, tiếp xúc với cử tri tại hội nghị tiếp

xúc cử tri ở địa phương nơi mính ứng cử, thông qua phương tiện thông tin đại

chúng, người ứng cử đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân trính bày với cử

tri về chương trính hành động của mính nếu được bầu làm đại biểu Quốc hội,

Hội đồng nhân dân khi trả lời phỏng vấn trên các phương tiện thông tin đại

chúng ở địa phương và trên trang thông tin điện tử về bầu cử đại biểu Quốc

hội, Hội đồng nhân dân.

Hiện nay, phấn đấu đạt tỷ lệ 35% tổng số người trong danh sách chình

thức những người ứng cử đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân là phụ nữ

là nhiệm vụ trọng tâm, là một trong những yêu cầu cần thiết để thực hiện chủ

trương, đường lối lãnh đạo của Đảng. Điều 8 và Điều 9 Luật Bầu cử đại biểu

48

Quốc hội và đại biểu hội đồng nhân dân quy định số lượng nữ được giới thiệu

ứng cử đại biểu Quốc hội do Ủy ban Thường vụ Quốc hội dự kiến trên cơ sở

đề nghị của Đoàn Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương hội Liên hiệp Phụ nữ

Việt Nam, bảo đảm có ìt nhất 35% tổng số người trong danh sách chình thức

những người ứng cử đại biểu Quốc hội là phụ nữ.

Để thực hiện tốt nhiệm vụ và những nội dung trên cần thiết phải có sự

kết hợp đồng bộ, thống nhất giữa các cơ quan, tổ chức có liên quan từ trên

xuống dưới, từ chủ trương chình sách đến triển khai thực hiện. Qua đó, tỉnh

Phú Yên đã tập trung chú trọng thực hiện việc bảo đảm một tỷ lệ nữ nhất định

tham gia Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp, cụ thể:

- Thường trực Hội đồng nhân dân các cấp ở tỉnh Phú Yên đã định

hướng một tỷ lệ nhất định đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân là

phụ nữ tham gia vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp. Việc định hướng

của Hội đồng nhân dân các cấp là yếu tố rất quan trọng đối với việc bảo đảm

quyền của phụ nữ trong tham gia cơ quan dân cử. Điều đó đánh dấu sự thay

đổi vượt bậc tư duy và hành động của các cấp chình quyền địa phương đối với

vị trì, vai trò của người phụ nữ trong lãnh đạo, quản lý. Công tác định hướng

thể hiện sự lãnh đạo tập trung cao độ của Đảng, tránh dàn trải, không tập

trung và mất dân chủ. Do vậy, thường trực Hội đồng nhân dân các cấp luôn

phải giáo dục, tuyên truyền, định hướng, thuyết phục các lực lượng tham gia

ứng cử, bầu cử. Trách nhiệm này theo luật bầu cử thuộc về Ủy ban Thường

vụ Quốc hội đối với bầu cử đại biểu Quốc hội; Thường trực Hội đồng nhân

dân các cấp đối với bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp mính.

- Các cấp ủy Đảng đề cao vai trò, trách nhiệm trong việc quan tâm lựa

chọn, giới thiệu nhân sự là phụ nữ. Công tác quy hoạch, lựa chọn và đào tạo

cán bộ nữ là những khâu rất quan trọng trong công tác cán bộ của Đảng. Những

mặt hoạt động công tác này phải được diễn ra theo đúng lộ trính, bảo đảm

49

nguyên tắc và dân chủ. Các cấp ủy Đảng có vai trò rất quan trọng trong việc

lựa chọn và giới thiệu nhân sự. Thực tế cho thấy, nếu hoạt động quy hoạch, đào

tạo, lựa chọn và giới thiệu nhân sự là phụ nữ ở cơ quan, đơn vị hay địa phương

nào được tiến hành thường xuyên, bảo đảm dân chủ và có hiệu quả thí tỷ lệ phụ

nữ tham gia lãnh đạo quản lý, tham gia ứng cử, bầu cử luôn đạt được ở mức

cao, theo đúng hướng dẫn và sự lãnh đạo của tổ chức Đảng nơi đó. Cụ thể, cứ

trong 10 người được giới thiệu ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng

nhân dân các cấp thí có 4 người là nữ để qua ba vòng hiệp thương theo luật

định thí tỷ lệ người ứng cử là phụ nữ vẫn còn ìt nhất là 35 % trong tổng số

người được lập danh sách chình thức những người ứng cử. Do vậy, việc phát

huy vai trò, trách nhiệm của các cấp ủy Đảng quyết định đến chất lượng công

tác cán bộ nói chung và công tác cán bộ nữ của Đảng nói riêng.

- Bản thân những phụ nữ được giới thiệu ra ứng cử (hoặc tự ứng cử) có

sự chuẩn bị chu đáo trong vận động bầu cử (tranh cử) theo quy định của Luật.

Một trong những hạn chế của đa phần phụ nữ là tình tự ti, chưa dám khẳng

định vai trò của giới mính và chình bản thân mính trong xã hội, nhất là những

vị trì lãnh đạo, quản lý. Mặc dù có ưu thế “chiếm một nửa xã hội”, có động

lực phấn đấu rất lớn, tinh thần cống hiến cho xã hội rất cao, nhưng nhiều chị

em phụ nữ chưa vượt qua được chình bản thân mính. Rất nhiều phụ nữ đã bỏ

qua và đánh mất cơ hội phấn đấu vươn lên chình đáng cho chình bản thân

mính và giới mính.

Do vậy, để cử tri hiểu rõ về mính, ủng hộ mính khi bỏ phiếu bầu cử chị

em phụ nữ cần năng nổ, hăng hái hơn nữa, vượt qua mặc cảm, tự khẳng định

vị thế của mính trong xã hội. Bằng những hành động và việc làm cụ thể để

chứng minh năng lực, tinh thần trách nhiệm, khả năng cống hiến của mính

không kém gí nam giới, hoàn toàn đảm nhiệm được trọng trách mà cấp ủy

Đảng, chình quyền và các tổ chức chình trị giao phó. Chị em phụ nữ cần tìch

50

cực học tập nâng cao trính độ kiến thức, năng lực công tác chuyên môn, rèn

luyện phẩm chất đạo đức của người phụ nữ hiện đại, rèn luyện và nâng cao

sức khỏe, tìch cực thị sát cơ sở, đi sâu đi sát với quần chúng. Bên cạnh đó, với

thiên chức làm vợ, làm mẹ, người phụ nữ cần cố gắng xây dựng gia đính no

ấm, tiến bộ, hạnh phúc.

Để chuẩn bị thật sự bài bản, chu đáo cho các kỳ bầu cử sau (về lâu dài),

các cấp ủy, tổ chức đảng và cả hệ thống chình trị phải thực sự quan tâm đến

công tác cán bộ nữ, có chiến lược về công tác này. Theo đó, trọng tâm là quy

hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng cán bộ nữ; tạo môi trường thuận lợi để

phụ nữ nói chung và đội ngũ cán bộ nữ nói riêng có nhiều cơ hội để cống hiến

cho xã hội và đó cũng là nguồn để có thể tham gia ngày càng đông đảo vào cơ

quan dân cử.

Nhằm nâng cao quyền tham gia bầu cử, ứng cử, Ban ví sự tiến bộ của

phụ nữ tỉnh Phú Yên đã tổ chức Hội nghị tọa đàm “Nâng cao chất lượng và

phát triển đội ngũ cán bộ nữ lãnh đạo quản lý cấp tỉnh” nhằm đánh giá thực

trạng đội ngũ nữ lãnh đạo, quản lý cấp tỉnh trong giai đoạn hiện nay, thấy rõ

những thuận lợi, khó khăn trong công tác cán bộ nữ, từ đó kịp thời đề xuất nội

dung, giải pháp nâng cao chất lượng và phát triển đội ngũ cán bộ nữ lãnh đạo

quản lý cấp tỉnh.

Ban ví sự tiến bộ của phụ nữ các địa phương đã tham mưu phối hợp tổ

chức nhiều hội nghị tọa đàm “Giải pháp tăng cường cán bộ nữ tham gia lãnh

đạo quản lý tại địa phương”, nhằm đánh giá tính hính và những kết quả đạt

được trong việc tăng tỷ lệ cán bộ nữ quản lý, lãnh đạo; đồng thời đề ra giải

pháp thực hiện mục tiêu nhằm tăng cường sự tham gia của phụ nữ vào các vị

trì quản lý, lãnh đạo, từng bước giảm dần khoảng cách giới trong lĩnh vực

chình trị.

Cấp ủy, chình quyền các cấp ngoài việc thực hiện công tác rà soát, quy

51

hoạch hàng năm, đã thực hiện việc rà soát, thống kê số lượng, chất lượng nữ

cán bộ, công chức trên địa bàn tỉnh để có kế hoạch tham mưu với lãnh đạo

tỉnh trong công tác đào tạo, quy hoạch, bổ nhiệm; tổ chức các khóa tập huấn

nâng cao kỹ năng vận động, kỹ năng thuyết trính cho các ứng cử viên là nữ;

phối hợp với Ủy ban Mặt trận tổ quốc tỉnh, các ban, ngành, đoàn thể làm tốt

công tác tuyên truyền, vận động, lựa chọn và tham mưu với Ban bầu cử các

cấp sắp xếp cơ cấu hợp lý để các ứng cử viên là nữ có cơ hội trúng cử. Phối

hợp đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến các chình sách của Đảng, pháp

luật của Nhà nước về bính đẳng giới, ví sự tiến bộ của phụ nữ bằng nhiều

hính thức nhằm nâng cao nhận thức cho người dân, giảm dần các định kiến,

quan niệm thiên lệch về vai trò của nam và nữ trong gia đính và xã hội nhằm

tạo điều kiện cho phụ nữ có cơ hội tham gia vào các lĩnh vực của xã hội.

Có thể nói, quá trính tổ chức bầu cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội

đồng nhân dân được thực hiện theo quy định của pháp luật. Phụ nữ tham gia

các cơ quan dân cử, góp phần bảo đảm bính đẳng giới và tăng cường sự tham

gia của phụ nữ trong lĩnh vực chình trị thí không chỉ các cấp ủy Đảng, chình

quyền, Mặt trận, các ngành, mà còn có vai trò quan trọng của Hội liên hiệp

phụ nữ trong việc đề cao trách nhiệm về giới thiệu nhân sự nữ ứng cử viên,

cũng như giám sát quyền của của phụ nữ tham gia vào các cơ quan dân cử.

Tuy nhiên, hiện tại tỷ lệ nữ giới tham gia vào hệ thống chình trị với vai

trò là lãnh đạo vẫn còn thấp. Các ban tổ chức các cuộc bầu cử, bỏ phiếu tìn

nhiệm… từ tỉnh đến địa phương hầu như chưa quan tâm đúng mức đến việc

bảo đảm cho sự tham gia của phụ nữ một cách công bằng trong các danh sách

bầu cử, ứng cử. Số lượng phụ nữ tham gia trong các danh sách bầu cử, ứng cử

so với nam giới vẫn còn rất ìt. Rõ ràng là chúng ta còn thiếu chế tài và các

điều kiện thực tế để hiện thực hóa các chỉ tiêu về giới như đã được khẳng định

52

trong các văn bản pháp lý. Điều đặc biệt quan tâm là một số chị em phụ nữ

mặc dù có trính độ chuyên môn, năng lực thực sự nhưng chưa năng nổ, hăng

hái, vượt qua mặc cảm, tự khẳng định vị thế của mính trong xã hội.

Nguyên nhân của những hạn chế trên bắt nguồn từ sự định kiến về giới.

Điều này do trính độ nhận thức của một bộ phận đông đảo do lịch sử để lại.

Mặc dù các cấp uỷ Đảng, chình quyền, Hội Liên hiệp Phụ nữ đã có nhiều nỗ

lực nhằm hạn chế sự định kiến về giới nhưng kết quả còn hạn chế.

2.2.2. Bảo đảm quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội của phụ nữ

Quán triệt các chủ trương của Đảng và Nhà nước, Tỉnh Phú Yên đã cụ

thể hóa ban hành nhiều nghị quyết, kế hoạch, chương trính hành động và trực

tiếp chỉ đạo công tác phụ nữ, công tác cán bộ nữ gắn với công tác cán bộ của

tỉnh, như: Chương trính hành động số 07/CTHĐ-TU ngày 20/6/2007của Ban

Thường vụ Tỉnh uỷ thực hiện Nghị quyết 11 của Bộ Chình trị, trong đó xây

dựng các mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp nhằm tăng cường công tác phụ nữ

đến năm 2020; Nghị quyết số 06-NQ/TU ngày 27/6/2011 của Tỉnh ủy về

“Công tác cán bộ giai đoạn 2011-2015 và định hướng đến 2020”, Hướng dẫn

số 10 /HD-BTCTU ngày 12/8/2011 của BTC Tỉnh ủy về “Công tác quy hoạch

cán bộ lãnh đạo, quản lý giai đoạn 2010- 2020”, trong đó nhấn mạnh đến tỷ

lệ cán bộ nữ các cấp. UBND tỉnh đã ban hành kế hoạch số: 1721/KH-UBND

ngày 13/5/2012 kế hoạch hành động về bình đẳng giới tỉnh Phú Yên đến năm

2015. Quyết định số 42/2013/QĐ-UBND ngày 22/12/2013, trong đó quan tâm

đến hỗ trợ đào tạo cho cán bộ nữ...

Trên cơ sở đó, chình quyền các cấp, các ngành, các huyện, thành phố,

và các sở, ban, ngành, đoàn thể trong toàn tỉnh xây dựng chương trính kế

hoạch thực hiện kế hoạch hành động về bính đẳng giới thực hiện mục tiêu của

Nghị quyết 11-NQ/TW và Chiến lược quốc gia về bính đẳng giới đến năm

2020, nhằm mục đìch tiếp tục nâng cao nhận thức về công tác phụ nữ, cán bộ

53

nữ và bính đẳng giới, nâng cao trách nhiệm của cấp ủy Đảng và chình quyền

các cấp trong việc thực hiện mục tiêu Nghị quyết đề ra, đồng thời cụ thể hóa

thành những chương trính, kế hoạch cụ thể trong việc xây dựng và phát triển

đội ngũ cán bộ nữ và ví sự tiến bộ của phụ nữ.

Ban ví sự tiến bộ của phụ nữ tỉnh Phú Yên là cơ quan tham mưu cho

Đảng bộ tỉnh và UBND tỉnh về công tác cán bộ nữ của tỉnh, tham mưu cho

Ủy ban nhân dân tỉnh xây dựng kế hoạch thực hiện Chiến lược quốc gia về

bính đẳng giới giai đoạn 2015-2020, trong đó xây dựng các chỉ tiêu về tăng tỷ

lệ đại biểu nữ trong các cơ quan dân cử, tăng tỷ lệ cán bộ lãnh đạo, quản lý

trong các cơ quan đảng, chình quyền các cấp... Hội LHPN tỉnh Phú Yên là tổ

chức chình trị - xã hội, ngoài chức năng nhiệm vụ quy định, Hội là cơ quan

tham mưu cho Đảng về công tác cán bộ nữ, trong đó có công tác nhân sự,

công tác quy hoạch, đào tạo, đề bạt, cất nhắc cán bộ nữ, đề xuất các chình

sách đối với cán bộ nữ và tổ chức giám sát việc thực hiện pháp luật, chình

sách liên quan đến phụ nữ...

Như vậy, qua hàng loạt các văn bản của Đảng, Nhà nước, được tổ chức

thực hiện bởi các tổ chức Đảng, chình quyền, các ngành, đoàn thể các cấp trên

địa bàn tỉnh, có thể khẳng định rằng quyền tham gia chình trị của phụ nữ trên

địa bàn tỉnh Phú Yên có cơ sở pháp lý vững chắc để đảm bảo cho phụ nữ

bính đẳng với nam giới tham gia vào đời sống chình trị, tham gia quản lý nhà

nước, quản lý kinh tế - xã hội của tỉnh.

Việc đảm bảo cho phụ nữ thực hiện quyền chình trị trên địa bàn tỉnh Phú

Yên là rất quan trọng để phụ nữ tự khẳng định vai trò, vị trì của mính trong quá

trính tham gia vào đời sống chình trị - xã hội của tỉnh. Khi phụ nữ được tham gia

vào quản lý, lãnh đạo ở các cấp, tức là họ đã thật sự tham gia vào các cơ quan

quyền lực nhà nước, đại diện cho giới nữ trực tiếp tham gia vào công tác hoạch

định chình sách và chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Bằng tiếng nói

54

và sự đóng góp của mính, các đại biểu Quốc Hội, Hội đồng nhân dân, cán bộ nữ

lãnh đạo, quản lý có thể bảo vệ cho quyền lợi của phụ nữ ở cấp quốc gia và trên

địa bàn tỉnh. Hơn ai hết, phụ nữ là người hiểu rõ nhất về những thuận lợi, khó

khăn của phụ nữ, từ đó, họ có thể trính bày ý kiến phù hợp với quyền và lợi ìch,

nguyện vọng của người dân nói chung và của chình giới nữ nói riêng. Tương tự

như vậy, việc tham gia Đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân, cấp ủy Đảng,

lãnh đạo chình quyền các cấp, cán bộ nữ sẽ có cơ hội trực tiếp tham gia vào việc

quyết định những chủ trương và biện pháp quan trọng của địa phương, xây dựng

và phát triển kinh tế - xã hội, củng cố an ninh, quốc phòng, đồng thời có những

điều kiện, cơ hội thuận lợi để phản ánh tâm tư, nguyện vọng, bảo vệ quyền lợi

ìch chình đáng của phụ nữ ở địa phương.

2.2.2.1. Tình hình phụ nữ tham gia Đại biểu Quốc Hội và đại biểu Hội đồng

nhân dân

Thực hiện đường lối chủ trương của Đảng, chình sách pháp luật của Nhà

nước, tỉnh Phú Yên luôn đặc biệt chú trọng việc bảo đảm cho mọi người dân đều

có quyền tham gia quản lý Nhà nước và xã hội một cách trực tiếp hoặc thông

qua người đại diện do họ lựa chọn. Tỷ lệ cử tri đi bầu cao (hơn 99%) tại kỳ bầu

cử Quốc hội và Hội đồng nhân dân (tháng 5/2016), cho thấy người dân ngày

càng ý thức rõ hơn về quyền của mính và vai trò quan trọng của Quốc hội, Hội

đồng nhân dân trong việc thực hiện quyền tham gia quản lý Nhà nước và xã hội.

Trong mỗi kỳ họp Quốc hội, Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, phần đại biểu Quốc

hội chất vấn các thành viên Chình phủ được truyền hính trực tiếp và chất vấn

Đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh trở thành diễn đàn để người dân quan tâm,

thông qua đại biểu do họ bầu ra, chất vấn về chình sách, điều hành, tổ chức thực

hiện, đề xuất các giải pháp khắc phục khó khăn, thách thức... đã phần nào làm

cho người dân yên tâm với đại biểu do mính bầu ra.

Nhận thức được vị trì, vai trò của mính trong xã hội, phụ nữ trong tỉnh

đã không ngừng phấn đấu vươn lên để tự khẳng định năng lực và khả năng

của mính, tham gia ứng cử vào đại biểu Quốc Hội, Hội đồng nhân dân các

55

cấp, thể hiện qua các số liệu:

- Đại biểu Quốc Hội ( theo Báo cáo chình trị của Hội Liên hiệp phụ nữ

tỉnh Phú Yên tại Đại hội đại biểu phụ nữ tỉnh Phú Yên nhiệm kỳ 2011-2016

và nhiệm kỳ 2016-2021):

+ Nhiệm kỳ 2004-2011 là 1/6, tỷ lệ 16,6%;

+ Nhiệm kỳ 2011- 2016 là 1/6 đại biểu, tỷ lệ 16,6%;

+ Nhiệm kỳ 2016- 2021 là 1/6 đại biểu, tỷ lệ 16,6%;

Đại biểu Quốc Hội của tỉnh Phú Yên hầu như được thực hiện theo số

lượng cơ cấu của Quốc hội, đảm bảo tỷ lệ nữ theo cơ cấu. Đối với cấp quốc

gia, nữ đại biểu quốc Hội của Việt Nam mặc dù tỷ lệ đại biểu Quốc Hội có

chiều hướng giảm, song nữ đại biểu Quốc hội của Việt Nam vẫn cao so với

các nước, đứng thứ hai trong khối ASEAN và thứ 43/143 trên thế giới [50].

- Đại biểu Hội đồng nhân dân (theo Báo cáo chình trị của Hội Liên

hiệp phụ nữ tỉnh Phú Yên tại Đại hội đại biểu phụ nữ tỉnh Phú Yên nhiệm kỳ

2011-2016 và nhiệm kỳ 2016-2021):

Bảng 2.1: Tỷ lệ đại biểu hội đồng nhân dân các cấp là nữ giới

Cấp tỉnh Cấp huyện, Cấp cơ sở

Nhiệm kỳ thành phố, thị xã

Số người Tỷ lệ Số người Tỷ lệ Số người Tỷ lệ

2004-2011 13 26,52% 48 17,97% 423 15,19%

2011-2016 15 30% 16 23,88% 509 19,27%

2016-2021 14 28% 60 20,3% 726 24,6%

(Nguồn: Báo cáo chính trị của Hội Liên hiệp phụ nữ tỉnh Phú Yên tại Đại hội

đại biểu phụ nữ tỉnh Phú Yên nhiệm kỳ 2011-2016 và nhiệm kỳ 2016-2021)

Mặc dù có sự cố gắng của đảng bộ, chình quyền và các cơ quan tham

mưu, song nữ đại biểu Hội đồng nhân dân của tỉnh Phú Yên có chiều hướng

giảm ở cấp trên, chỉ tăng nhẹ ở cấp xã/phường.

Những con số về đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân nói

trên đã phản ánh sự cố gắng lớn của Đảng và nhà nước trong việc quan tâm đến

56

phụ nữ tham gia vào đại biểu nhân dân. Tuy nhiên, so với nam giới tỷ lệ phụ nữ

là Đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân còn hạn chế và thiên lệch. Tỷ lệ đại

biểu nữ qua mỗi nhiệm kỳ không ổn định, và có chiều hướng giảm. Như vậy,

qua kết quả bầu cử 3 cấp, đại biểu nam và đại biểu nữ còn khoảng cách lớn, tỷ

lệ còn thấp so với chỉ tiêu đề ra trong Nghị quyết 11-NQ/TW của Đảng và

Chiến lược quốc gia về bính đẳng giới giai đoạn 2011-2010 (30% trở lên).

2.2.2.2. Tình hình phụ nữ tham gia cấp ủy Đảng

Cấp uỷ Đảng các cấp có vai trò rất quan trọng đối với hoạt động của tổ

chức đảng ở mỗi cấp, là cơ quan lãnh đạo thực hiện nghị quyết của cấp mính,

nghị quyết, chỉ thị của cấp trên, là đại biểu tiêu biểu cho việc thực hiện

nguyên tắc tổ chức cơ bản của Đảng. Cấp uỷ còn giữ vai trò trung tâm trong

chỉ đạo công tác xây dựng nội bộ đảng trên tất cả các mặt chình trị, tư tưởng

và tổ chức. Trong các cấp ủy đảng từ Tỉnh đến cơ sở đều có cán bộ nữ tham

gia, thể hiện số liệu tình đến tháng 12/2016 (theo Báo cáo chình trị của Hội

Liên hiệp phụ nữ tỉnh Phú Yên tại Đại hội đại biểu phụ nữ tỉnh Phú Yên

nhiệm kỳ 2011-2016 và nhiệm kỳ 2016-2021), như sau:

Bảng 2.2: Tỷ lệ tham gia cấp uỷ Đảng là nữ giới

Cấp tỉnh Cấp huyện, Cấp cơ sở

Nhiệm kỳ thành phố, thị xã

Số người Tỷ lệ Số người Tỷ lệ Số người Tỷ lệ

2005-2010 4/48 8,33% 43/338 12,7% 179/1.218 14,69%

2010-2015 4/55 7,27% 51/385 13,25% 254/1.523 16,67%

2015-2020 9/52 17,31% 53/360 14,72% 333/1.516 21,96%

(Nguồn: Báo cáo chính trị của Hội Liên hiệp phụ nữ tỉnh Phú Yên tại Đại hội

đại biểu phụ nữ tỉnh Phú Yên nhiệm kỳ 2011-2016 và nhiệm kỳ 2016-2021)

Qua số liệu trên, ở địa bàn tỉnh Phú Yên, cán bộ nữ tham gia hầu hết

vào Ban chấp hành Đảng bộ đảng các cấp. Tỷ lệ nhỏ cán bộ nữ tham gia vào

Ban Thường vụ Đảng bộ các cấp; Một số ìt cán bộ nữ có chức danh nhưng

57

chủ yếu ở cấp xã/phường, chủ yếu là cấp phó. Như vậy, khoảng cách giữa

nam và nữ là rất lớn, tỷ lệ nữ còn thấp so với chỉ tiêu của Nghị quyết 11-

NQ/TW và Chiến lược quốc gia về bính đẳng giới giai đoạn 2011- 2010 đề ra.

2.2.2.3. Tình hình phụ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý trong chính quyền

Trong những năm qua, các cấp ủy Đảng, chình quyền tỉnh Phú Yên đã

tạo điều kiện quan tâm đến công tác cán bộ nữ, tạo cơ chế chình sách về đào

tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, trong đó có cán bộ nữ. Ví vậy, đội ngũ cán

bộ, công chức nữ ngày càng được nâng cao về lý luận chình trị, chuyên môn

nghiệp vụ và các kỹ năng mềm giúp cán bộ nữ tự tin, chủ động phấn đấu

vươn lên, góp phần vào sự phát triển kinh tế - văn hóa – xã hội của tỉnh.

Đến tháng 12/2016, cơ quan cấp tỉnh có lãnh đạo nữ là 13/47 - tỷ lệ

27,6% (tăng 2,2% so với tháng 12/2010). Cán bộ nữ diện Ban Thường vụ

Tỉnh uỷ quản lý đến nay là: 25/342 - tỷ lệ 7,3%, trong đó nữ lãnh đạo đầu

ngành có 2/47 – tỷ lệ 4,2% (giảm 1 đ/c - 2,6% so với tháng 12/2010); Nữ

giám đốc, phó giám đốc và tương đương ở tỉnh 11/103 người – tỷ lệ 10,6%

(tăng 0,5% so với tháng 12/2010); trưởng phòng và tương đương thuộc sở,

ban, ngành tỉnh 48/311 người - tỷ lệ 15,4% (tăng 2% so với tháng 12/2010);

Phó phòng và tương đương 78/380 – tỷ lệ 20,5% (tăng 1,7% so với tháng

12/2010) (theo báo cáo công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị

tỉnh Phú Yên gắn với phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh 6 tháng

đầu năm và nhiệm vụ cần tập trung 6 tháng cuối năm 2016 của Đảng bộ Tỉnh

Phú Yên).

Đối với ngành đông nữ như: Ngành Giáo dục – đào tạo có tổng số cán

bộ lãnh đạo, quản lý 25/217 người - tỉ lệ 11,5%, (trong đó ở cấp Sở 2%, ở các

đơn vị 17 người 7,8%). So với xuất phát điểm trước khi có Nghị quyết số 11-

NQTW có sự tăng nhẹ (cán bộ lãnh đạo, quản lý chiếm tỉ lệ 7%, trong đó ở

Sở 2%, ở các đơn vị tỉ lệ 6%). Đối với ngành Y tế, cán bộ lãnh đạo Sở 1/14 -

58

tỷ lệ 0,07% (tăng 0,83%), Cấp trưởng phòng và tương đương 6/62 - tỷ lệ

9,67% (tăng 1,3%), Cấp phó phòng và tương đương 14/70 - tỷ lệ 20% (tăng

1,8%). Đến nay, cán bộ nữ có trính độ sau đại học: Thạc sĩ: 228/1050 chiếm

tỷ lệ 24,5% (theo Báo cáo tổng kết thực hiện biện pháp bảo đảm bình đẳng

giới đối với nữ cán bộ, công chức, viên chức tỉnh Phú Yên giai đoạn 2011 -

2016 của UBND Tỉnh Phú Yên).

Đối với ngành Tư pháp, cấp tỉnh không có lãnh đạo nữ. Nữ trưởng

phòng và tương đương của Sở, phòng Tư pháp chiếm 26% , Phó phòng và

tương đương chiếm 30%. Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân cấp

tỉnh và huyện không có nữ lãnh đạo chủ chốt. Nữ thẩm phán cấp tỉnh 2/7 – tỷ

lệ 28,5%, cấp huyện/thành 18/54 – tỷ lệ 33,3%; Nữ kiểm sát viên cấp tỉnh 2/9

– tỷ lệ 22,2%, cấp huyện/thị 20/55 – tỷ lệ 36,3% (theo Báo cáo tổng kết thực

hiện biện pháp bảo đảm bình đẳng giới đối với nữ cán bộ, công chức, viên

chức tỉnh Phú Yên giai đoạn 2011 - 2016 của UBND Tỉnh Phú Yên).

Đối với cấp huyện/thị/thành phố (tính đến tháng 12/2016), Nữ giữ các

chức danh Phó bì thư, Phó Chủ tịch HĐND, UBND cấp huyện/thành có 4/125

- tỷ lệ 3,2% (tăng 1 đồng chí tỷ lệ 15,4% so với tháng 12/2010). Nữ lãnh đạo

đầu ngành và tương đương có 37/390 – tỷ lệ 19,48% (tăng 0,4%) ; nữ phó

lãnh đạo đầu ngành và tương đương có 108/725 - tỷ lệ 14,8% (tăng 0,5%)

(theo Báo cáo tổng kết thực hiện biện pháp bảo đảm bình đẳng giới đối với

nữ cán bộ, công chức, viên chức tỉnh Phú Yên giai đoạn 2011 - 2016 của

UBND Tỉnh Phú Yên).

Tổng số lãnh đạo nữ cấp xã (đến tháng 12/2016): 1.003 nữ/3.920 người

- tỷ lệ 25,58% (tăng 127 đồng chí so với thời điểm tháng12/2010). Trong đó,

đạt 3 chuẩn về học vấn, chuyên môn, lý luận chình trị 603 người, tỷ lệ

60,11% (tăng 220 đồng chí so với thời điểm tháng 12/2010); trính độ chuyên

môn đại học 345 người - tỷ lệ 34,39% (tăng 130 đồng chí so với thời điểm

59

tháng 12/2010) (theo Báo cáo tổng kết thực hiện biện pháp bảo đảm bình

đẳng giới đối với nữ cán bộ, công chức, viên chức tỉnh Phú Yên giai đoạn

2011 - 2016 của UBND Tỉnh Phú Yên).

Qua số liệu cán bộ nữ lãnh đạo, quản lý ở cấp tỉnh, về số lượng có tăng

nhẹ so với thời điểm trước đó, về chất lượng được quan tâm đào tạo về trính

độ chuyên môn, lý luận chình trị, phụ nữ có trính độ sau đại học được nâng

lên. Song trên thực tế tỷ lệ tăng không đáng kể, cơ quan có lãnh đạo là nữ còn

hạn chế (33%), trong đó cơ quan chủ chốt như HĐND tỉnh, UBND tỉnh và

một số các Sở, ban, ngành không có lãnh đạo nữ. Đặc biệt là các cơ quan

thuộc ngành Tư pháp, không có cán bộ nữ lãnh đạo, cán bộ quản lý ở cấp

trưởng, phó phòng còn thấp so với nam giới.

Đối với cấp huyện/thị/thành và xã/phường/thị trấn, so với nhiệm kỳ

trước có tăng nhẹ, có một số xã có nữ là Chủ tịch, phó chủ tịch. Song tỷ lệ nữ

tham gia lãnh đạo, quản lý dưới 15%, trong đó nữ lãnh đạo chủ chốt rất thấp,

có chủ yếu là cấp phó.

Như vậy, qua các con số trên, về số lượng cán bộ nữ lãnh đạo, quản lý

các cấp nhín chung có tăng nhẹ so với thời điểm tháng 12/2010 trở về trước,

còn khoảng cách rất lớn giữa nam và nữ. Đối với các ngành đông nữ chưa có

lãnh đạo nữ. So với mục tiêu của Nghị quyết 11-NQ/TW và Chiến lược quốc

gia về bính đẳng giới giai đoạn 2011-2020 vẫn còn khoảng cách khá lớn giữa

nam và nữ, nhiều ngành có đông cán bộ công chức nữ nhưng chưa có lãnh

60

đạo nữ; cán bộ lãnh đạo, quản lý quá thấp so với nam giới.

2.2.2.4 . Tình hình phụ nữ tham gia các tổ chức chính trị - xã hội

Để đảm bảo thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Mặt trận TQVN và

các tổ chức đoàn thể tỉnh Phú Yên trong việc đảm bảo quyền của phụ nữ tham

gia vào các tổ chức chình trị-xã hội, Ban Thường vụ Tỉnh ủy luôn quan tâm

chỉ đạo sâu sát công tác cán bộ nữ, bằng việc đã cụ thể hóa và ban hành nhiều

nghị quyết, kế hoạch, chương trính hành động và trực tiếp chỉ đạo công tác

cán bộ nữ gắn với công tác cán bộ của tỉnh. Đến nay, tính hính cán bộ nữ

tham gia vào các chức danh trong Mặt trận TQVN và các tổ chức đoàn thể,

như sau: (tính đến tháng 12/2016) (theo Báo cáo tổng kết thực hiện biện pháp

bảo đảm bình đẳng giới đối với nữ cán bộ, công chức, viên chức tỉnh Phú Yên

giai đoạn 2011 - 2016 của UBND Tỉnh Phú Yên).

- Cấp Tỉnh: Nữ trưởng đầu ngành 01/6 cán bộ - tỷ lệ 16%; Nữ Phó đầu

ngành 5/17 cán bộ - tỷ lệ 29,4% (tăng 3,2% so với tháng 12/2010); Nữ trưởng

phòng, ban 12/37 cán bộ - tỷ lệ 32,4% (tăng 15% so với tháng 12/2010); Phó

phòng, ban 19/37 cán bộ - tỷ lệ 51,3% (tăng 5,2% so với tháng 12/2010)

- Cấp huyện/thị/thành: Nữ trưởng đầu ngành 24/113 cán bộ - tỷ lệ

21,2% (tăng 2% so với tháng 12/2010); Nữ Phó đoàn thể 47/208 cán bộ - tỷ lệ

22,5% (tăng 5,2% so với tháng 12/2010)

- Cấp xã/phường/thị trấn: Nữ trưởng đầu ngành 398/1358 cán bộ - tỷ lệ

29,30% (tăng 1,1% so với tháng 12/2010); Nữ Phó đoàn thể 699/1358 cán bộ

- tỷ lệ 51,4% (tăng 5,1% so với tháng 12/2010). Nữ tham gia chủ chốt trong

các tổ chức Mặt trận đoàn thể thôn/ khối phố từ 20 – 25%.

Có thể nói rằng, Mặt trận và các đoàn thể - thuộc hệ thống chình trị của

tỉnh Phú Yên, công tác cán bộ nữ được các cấp ủy Đảng quan tâm, lãnh chỉ

đạo thực hiện, phụ nữ ngày càng được quan tâm quy hoạch, đề bạt, cất nhắc

tham gia vào các vị trì chủ chốt. Cán bộ nữ được quan tâm đào tạo về lý luận

61

chình trị, chuyên môn nghiệp vụ, hầu hết đạt chuẩn. Song qua số liệu trên,

vẫn còn khoảng cách lớn giữa nam và nữ trong các vị trì lãnh đạo, điều đó

cũng đồng nghĩa với biểu hiện của định kiến giới, phân biệt đối xử, khắt khe

trong đánh giá, đề bạt cán bộ nữ. Phụ nữ tham gia các tổ chức chình trị xã hội

còn có sự giới hạn, nữ giới chỉ tập trung tham gia một số tổ chức với tỷ lệ

nhiều như Hội Liên hiệp Phụ nữ, Hội Chữ thập đỏ..

2.2.3. Thực hiện quyền bỏ phiếu trưng cầu dân ý của phụ nữ

Cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp 2013 về quyền bỏ phiếu trưng

cầu dân ý, toàn hệ thống chình trị tỉnh Phú Yên đã thực hiện tốt tư tưởng

trọng dân, tin dân, dựa vào dân, lấy dân làm gốc, đây là một trong những tư

tưởng được thể hiện rõ trong truyền thống quý báu của dân tộc; tư tưởng Hồ

Chì Minh, đường lối, chủ trương, chình sách của Đảng và Nhà nước. Với

phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” đã được phổ biến và

thực hiện ngày càng rộng rãi trong cuộc sống ở tỉnh Phú Yên.

Trưng cầu ý dân là một phương thức để người dân trực tiếp thể hiện ý

chì và quyền lực của mính đối với các vấn đề quan trọng của địa phương, của

đất nước trong từng thời điểm cụ thể. Trong bối cảnh đất nước Việt Nam hội

nhập ngày càng sâu rộng với các nước trong khu vực và trên thế giới, Tỉnh

Phú Yên luôn quan tâm chú trọng việc vận động tuyên truyền triển khai chủ

trương trưng cầu ý dân, đây là vấn đề hết sức cần thiết, tạo điều kiện để nhân

dân nói chung và phụ nữ nói riêng có thể tham gia sâu hơn, thể hiện chình

kiến của mính, có tình quyết định với tư cách chủ thể đối với những vấn đề

quan trọng của đất nước thông qua việc thực hiện nguyên tắc phổ thông, bính

đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kìn khi trưng cầu ý dân nhằm tăng cường khối đại

đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường sự đồng thuận xã hội, góp phần đảm bảo sự

phát triển bền vững của Việt Nam trong quá trính hội nhập quốc tế.

Nhận thức trưng cầu ý dân là một chủ trương đúng đắn, hợp lòng dân,

62

đáp ứng nhu cầu bức thiết và lợi ìch to lớn trực tiếp của đông đảo nhân dân

lao động, được nhân dân phấn khởi đón nhận và tìch cực thực hiện, thể hiện

tình ưu việt của chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa. Tạo điều kiện thuận lợi cho

nhân dân nói chung và phụ nữ nói riêng thực sự phát huy quyền làm chủ của

mính, tham gia quản lý các công việc địa phương, kiểm soát và đấu tranh

chống tệ quan liêu, tham nhũng, mất dân chủ ở các cơ quan công quyền hay

các biểu hiện lợi dụng dân chủ để vi phạm pháp luật. Từ đó người dân nói

chung và người phụ nữ nói riêng hiểu rõ hơn về quyền, trách nhiệm và nghĩa

vụ của mính đối với xã hội, đối với đất nước.

2.2.4. Thực hiện quyền tự do hội họp, lập hội, biểu tình của phụ nữ

Tự do hội họp, lập hội, biểu tính là một trong những quyền cơ bản của

công dân nói chung và phụ nữ nói riêng được Nhà nước Việt Nam công nhận,

tôn trọng trong Hiến pháp và pháp luật. Quyền này đã, đang được thực hiện

và phát huy trong thực tiễn Phú Yên.

Phú Yên có rất nhiều hội, nhóm dân sự hoạt động, bao gồm các hội là

tổ chức chình trị xã hội, tổ chức chình trị- xã hội – nghề nghiệp, tổ chức xã

hội- nghề nghiệp, tổ chức xã hội –nhân đạo..., hoạt động theo nguyên tắc tự

nguyện, không ví mục đìch lợi nhuận, các Hội đã có nhiều đóng góp vào quá

trính xây dựng và phát triển đất nước, thể hiện vai trò là cầu nối giữa các hội

viên với đảng, chình quyền; thực hiện tốt chức năng là tổ chức đại diện bảo vệ

quyền và lợi ìch hợp pháp của hội viên do tổ chức Hội mính quản lý, hỗ trợ

hội viên trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, phát triển kinh tế, nâng cao

năng lực cạnh tranh, cung cấp thông tin tư vấn về sản xuất và thị trường... Các

hội cũng có vai trò ngày càng tìch cực trong việc tư vấn, phản biện, đối với

các chủ trương, đường lối của Đảng, chình sách, pháp luật của Nhà nước, các

chương trính và dự án phát triển kinh tế, xã hội của Chình phủ và của địa

63

phương.

Từ thực tiễn cho thấy, đảm bảo quyền tự do hội họp, lập hội, biểu tính

của công dân là vấn đề hết sức cần thiết. Người dân nói chung và phụ nữ nói

riêng luôn được Đảng, chình quyền Phú Yên quan tâm, tạo điều kiện, đảm

bảo thực hiện quyền tự do hội họp, lập hội, biểu tính nhằm phát huy quyền và

nghĩa vụ của công dân trong việc bàn bạc, thảo luận, góp ý kiến vào những

vấn đề quan trọng của địa phương, của đất nước, bảo vệ quyền lợi chình đáng

của mính, cùng tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội... góp phần xây

dựng quê hương, đất nước ngày càng phát triển vững mạnh.

Tuy nhiên, để đảm bảo thực hiện quyền này theo quy định của pháp

luật, đòi hỏi cần nâng cao năng lực lãnh đạo của các cấp ủy Đảng và sự quản

lý của chình quyền tỉnh Phú Yên phải hết sức nghiêm túc, chặt chẽ, tránh để

người dân lợi dụng sự dân chủ quá trớn để thực hiện hành vi trục lợi cá nhân,

hoặc chống phá cách mạng, làm ảnh hưởng đến an ninh địa phương, đất nước.

2.3. Đánh giá chung về thực hiện quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chính

trị ở tỉnh Phú Yên hiện nay

2.3.1. Kết quả và nguyên nhân

Kết quả

Cùng với phụ nữ cả nước, Phụ nữ tỉnh Phú Yên luôn giữ vai trò quan

trọng trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất tổ quốc và và có

những đóng góp đáng kể cho sự phát triển của đất nước. Bước vào thời kỳ

mới, phụ nữ Phú Yên đã và đang cần cù lao động, vượt khó, vươn lên thoát

nghèo. Hiện nay, tham gia trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có

lĩnh vực chình trị, ví sự tiến bộ của phụ nữ và ví sự nghiệp bính đẳng giới;

Phụ nữ được phát huy khả năng của mính trong hoạt động quản lý nhà nước,

quản lý xã hội, các tầng lớp phụ nữ trong tỉnh ngày càng thể hiện vai trò đóng

64

góp vào công cuộc phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng đất nước.

Mặc dù tỷ lệ phụ nữ trong hệ thống chình trị hiện nay còn hạn chế,

song sự có mặt của cán bộ nữ tham gia quản lý nhà nước- xã hội hiện nay

chứng tỏ năng lực của cán bộ nữ ngày càng được khẳng định. Phụ nữ đã có

mặt hầu hết ở các cơ quan dân cử, tham gia vào các cấp ủy Đảng, tham gia

vào các vị trì lãnh đạo, quản lý trong nhà nước ở các cấp. Đặc biệt là ở cơ

sở, đã có nhiều lãnh đạo nữ trẻ giữ các chức danh chủ chốt trong Hội đồng

nhân dân, UBND, Đảng bộ xã và lãnh đạo chủ chốt các tổ chức đoàn thể.

Đội ngũ cán bộ nữ ngày càng tìch cực học tập nâng cao trính độ mọi mặt, có

học hàm, học vị, có nhiều thành tìch xuất sắc, khẳng định trì tuệ, tài năng

đóng góp cho sự phát triển kinh tế - xã hội tỉnh nhà... Những đóng góp tìch

cực và cụ thể vào thành quả của tỉnh trong công cuộc đổi mới đã dần làm

thay đổi những định kiến giới còn tồn tại, thừa nhận phụ nữ có khả năng

tham gia vào lĩnh vực chình trị không thua kém nam giới và nhín nhận, đánh

giá đúng hơn về vai trò, vị trì của phụ nữ trong lĩnh vực kinh tế - chình trị -

xã hội trong tỉnh.

Nguyên nhân

Đạt được kết quả trên, trước hết là sự vào cuộc của cả hệ thống chình

trị, trong đó vai trò lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát của Đảng bộ các cấp, sự tạo

điều kiện của chình quyền, sự phối hợp giữa các cơ quan tham mưu, giữa

các tổ chức chình trị - xã hội về công tác cán bộ nữ... Bên cạnh đó, có sự

chuyển biến về mặt quan điểm, nhận thức về công tác cán bộ nữ, sự nỗ lực

trong tổ chức thực hiện của lãnh đạo cấp ủy đảng, chình quyền, các cấp, các

ngành, nghiêm túc thực hiện chủ trương, chình sách của Đảng, nhà nước, tổ

chức triển khai chặt chẽ các chương trính, kế hoạch đã đề ra, thực hiện chế

độ sơ tổng kết về công tác cán bộ nữ, đặc biệt là thực hiện lồng ghép giới

65

trong các mục tiêu kinh tế - xã hội của tỉnh.

Ngoài ra, bản thân cán bộ nữ cũng đã có những chuyển biến rõ về nhận

thức, về vai trò, vị trì, trách nhiệm trước tính hính mới, đã chủ động từng bước

khắc phục khó khăn, tìch cực tham gia học tập để nâng cao trính độ, năng lực,

kỹ năng nhằm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tính hính mới. Ví vậy, hầu hết

cán bộ nữ lãnh đạo, quản lý các ngành, các cấp của tỉnh khi được giao nhiệm

vụ đã có nhiều cố gắng vươn lên đảm nhận và hoàn thành tốt nhiệm.

2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân

Hạn chế

Mặc dù pháp luật nước ta có nhiều quy định về quyền của phụ nữ trong

lĩnh vực chình trị, thể hiện được quan điểm, chủ trương của Đảng về bính

đẳng nam nữ, về quyền chình trị của phụ nữ nhưng trong việc thực hiện các

quy định này trên thực tế vẫn còn nhiều điểm hạn chế như:

- Công tác triển khai, phổ biến pháp luật nói chung về quyền của phụ

nữ trong lĩnh vực chình trị chưa thực sự đạt hiệu quả, chưa phù hợp với từng

đối tượng tham gia, đặc biệt ở cấp cơ sở. Chẳng hạn, đối với phụ nữ ở cấp xã

với trính độ hiểu biết hạn chế, những người làm công tác tuyên truyền phổ

biến pháp luật lại đưa ra những phương pháp truyền đạt dài dòng, khó hiểu,

khó áp dụng.

- Vẫn còn sự mất cân bằng giới, tỷ lệ nữ tham gia trong các cấp ủy

Đảng, Quốc hội, Hội đồng nhân dân còn thấp và có chiều hướng giảm, trong

đó tỷ lệ cán bộ nữ trong các cấp ủy đảng từ tỉnh đến cơ sở chỉ chiếm dưới

15%, đại biểu nữ trong cơ quan dân cử dưới 20%. Rất ìt nữ lãnh đạo chủ chốt,

nếu có chỉ liên quan các lĩnh vực xã hội, rất hiếm trong lĩnh vực quản lý kinh

tế, nghiên cứu khoa học, nếu có chỉ là cấp phó. Một số sở, ngành đông nữ và

các cơ quan thuộc ngành tư pháp không có lãnh đạo nữ. Trong các cấp ủy

đảng, cán bộ nữ giữ chức danh rất ìt, chủ yếu có ở cơ sở, càng lên cao càng

66

giảm. Sự thiếu hụt cán bộ nữ trên một số lĩnh vực quan trọng làm cho việc

hoạch định kế hoạch, chình sách không có tiếng nói đại diện của phụ nữ, dẫn

đến thực hiện bính đẳng giới về mọi mặt chưa đạt kết quả mong muốn. Như

vậy, so với yêu cầu của nghị quyết 11-NQ/TW và Chiến lược quốc gia về

bính đẳng giới, các chỉ tiêu đều chưa đạt. Sự khác biệt này đã hạn chế quyền

của phụ nữ trong nhiều lĩnh vực, chưa tương xứng với tiềm năng của phụ nữ

hiện có trong tỉnh. Ở một số địa phương, hầu hết các cán bộ lãnh đạo tham gia

thực hiện pháp luật về quyền chình trị của phụ nữ, cụ thể là quyền tham gia

quản lý nhà nước, bao gồm cả Đảng ủy, chình quyền địa phương và các

trưởng thôn, làng phần lớn là nam giới. Do đó, trong các cuộc họp của thôn,

xã, họ thường không đặt ra vấn đề cần phải có phụ nữ tham gia đầy đủ vào

các cuộc họp này, và cũng không đặt ra vấn đề nhất thiết phải có sự tham gia

ý kiến của phụ nữ về những vấn đề chung của địa phương, của thôn, xã. Ví

vậy phụ nữ ìt có ảnh hưởng đến chình sách và những quyết định được thông

qua trong quá trính thực hiện các quy định của pháp luật.

- Chưa có sự phối hợp chặt chẽ và đồng bộ giữa Hội Liên hiệp phụ nữ

Việt Nam tỉnh và Ban ví sự tiến bộ của phụ nữ với các ban ngành liên quan

trong việc thực hiện quyền của phụ nữ nói chung và quyền chình trị của phụ

nữ nói riêng. Chưa tạo được sự liên kết phụ nữ trong giới chình trị đối với các

tỉnh khác ở trong nước để chia sẻ kinh nghiệm và tạo sự phối hợp hoạt động

chung, cùng giúp nhau tiến tới sự bính đẳng, tiến bộ hơn nữa trong xã hội.

- Trính độ và sự vươn lên của chình bản thân phụ nữ vẫn còn hạn chế.

Thực tế cho thấy nhiều chị em có tư tưởng an phận, không muốn học hỏi và

có suy nghĩ rằng việc học hành, việc tiến thân là của đàn ông, còn phụ nữ chỉ

cần học ìt và dành nhiều thời gian cho chồng con và gia đính. Điều này dẫn

đến việc thiếu nguồn lực nữ có trính độ chuyên môn trong quá trính bầu cử và

tuyển chọn.

67

Nguyên nhân

Những tồn tại, hạn chế trên nêu trên do nhiều nguyên nhân tác động

làm ảnh hưởng đến quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chình trị, cụ thể:

Thứ nhất, về mặt nhận thức, định kiến giới vẫn còn tồn tại ở nhiều cấp,

nhiều ngành, lĩnh vực, trong gia đính và ngoài xã hội. Nhận thức về giới và

bính đẳng giới của một bộ phận cán bộ lãnh đạo, đặc biệt là người đứng đầu

các cơ quan chưa sâu sắc. Nhiều cấp uỷ và chình quyền các cấp, các ngành

nhận thức chưa đầy đủ quan điểm công tác cán bộ nữ là một bộ phận quan

trọng trong công tác cán bộ của Đảng, là yêu cầu khách quan của sự nghiệp đổi

mới. Còn biểu hiện hẹp hòi, thiếu tin tưởng vào khả năng của cán bộ nữ, đánh

giá cán bộ nữ thiếu khách quan, chưa công bằng, nhất là cấp cơ sở.

Thứ hai, cơ chế, chình sách tạo nguồn, đánh giá, quy hoạch, đào tạo, bồi

dưỡng, sử dụng cán bộ nữ chưa có tình chiến lược lâu dài và thiếu tình đột phá,

chưa thể hiện đúng quan điểm giới như Công ước CEDAW và Luật bính đẳng

giới (bình đẳng thực chất). Một số lãnh đạo cấp uỷ chưa mạnh dạn trong bố trì, sử

dụng cán bộ nữ để tạo điều kiện cho phụ nữ phát huy tiềm năng, trì tuệ của mính.

Thứ ba, vẫn còn một số cấp ủy và chình quyền các cấp, các ngành, đơn

vị chưa chú trọng đúng mức công tác quy hoạch, đào tạo, bố trì, sử dụng cán

bộ nữ; quy hoạch chưa gắn với đào tạo, bố trì và sử dụng cán bộ; tạo nguồn

cán bộ nữ còn hẫng hụt thiếu tình bền vững. Năng lực tham mưu, quản lý,

điều hành và tổ chức thực hiện nhiệm vụ của một số cán bộ nữ còn hạn chế,

chưa gây được lòng tin, uy tìn đối với cấp ủy.

Thứ tư, chình sách đối với công tác cán bộ chưa kịp thời, nên chưa động

viên, khuyến khìch được phụ nữ tham gia các hoạt động chình trị - xã hội và

nắm giữ các vị trì cao trong xã hội. Các chình sách cụ thể về quy hoạch, đào

tạo, bồi dưỡng, luân chuyển đối với cán bộ nữ nói chung, nữ là trì thức, người

68

dân tộc thiểu số, cán bộ nữ công tác ở vùng cao, vùng sâu, có con nhỏ... chưa

đảm bảo và phù hợp với nhu cầu tối thiểu và tính hính thực tế, ảnh hưởng đến

việc khuyến khìch, thu hút phụ nữ tham gia các hoạt động chình trị.

Thứ năm, Do sự khác biệt về tuổi nghỉ hưu, dẫn đến sự khác biệt độ

tuổi trong quy hoạch, đào tạo, bổ nhiệm giữa nam giới và phụ nữ, trong khi

phụ nữ mất thời gian ìt nhất 5 năm sinh con và nuôi con nhỏ. Từ đó phụ nữ ìt

có cơ hội được đề bạt, bổ nhiệm ở những vị trì cao hơn nam giới.

Thứ sáu, một bộ phận phụ nữ vẫn còn biểu hiện tự ti, an phận, chưa có

ý chì phấn đấu vươn lên. Có tính trạng một bộ phận phụ nữ có tâm lý e ngại

khi luân chuyển công tác xa gia đính, cá biệt còn hiện tượng phụ nữ không

ủng hộ nhau. Mặt khác, cơ chế thị trường cạnh tranh như hiện nay đòi hỏi

người phụ nữ phải cố gắng phấn đấu trong chuyên môn như nam giới song

bản thân người phụ nữ còn bị hạn chế do phải gánh thêm vai trò làm mẹ, làm

vợ, một bộ phận không nhỏ ìt nhận được sự chia sẻ của nam giới cũng như sự

ủng hộ của gia đính, nên nhiều phụ nữ còn an phận, chấp nhận hoàn cảnh và

không sẵn sàng nhận vị trì công tác khi được phân công.

Thứ bảy, chưa có sự phối hợp đồng bộ giữa Ban ví sự tiến bộ phụ nữ

tỉnh và Hội LHPN tỉnh, là các cơ quan tham mưu về công tác cán bộ nữ. Các

quy định về chức năng nhiệm vụ của mỗi bên chưa rõ ràng, còn chồng chéo,

khó thực thi trong thực tiễn. Công tác quản lý nhà nước về bính đẳng giới còn

hính thức, thiếu đội ngũ cán bộ chuyên trách tại cơ sở.

Thứ tám, Phú Yên là tỉnh miền núi nghèo, thu nhập bính quân đầu

người thấp so với mức bính quân chung cả nước; đời sống của một bộ phận

nhân dân ở khu vực nông thôn, miền núi, dân tộc còn nhiều khó khăn... đã ảnh

hưởng đến việc thực hiện các chỉ tiêu, mục tiêu về bính đẳng giới và hoạt

69

động ví sự tiến bộ của phụ nữ ở địa phương.

Tiểu kết chương 2

Chương 2 luận văn tập trung phân tìch thực trạng quyền chình trị của

phụ nữ tham gia đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân, cấp ủy Đảng, nhà

nước, các tổ chức chình trị – xã hội trên địa bàn tỉnh Phú Yên. Qua đó, cho

thấy quyền chình trị của phụ nữ được thể hiện trên nhiều lĩnh vực trong đời

sống chình trị - xã hội của tỉnh, vai trò của phụ nữ ngày càng được ghi nhận

như nam giới đóng góp ví lợi ìch cộng đồng.

Nhờ có chủ trương, chình sách đúng đắn, sự quan tâm của cấp ủy

Đảng, chình quyền, sự phối hợp của các tổ chức chình trị xã hội do đó việc

triển khai thực hiện quyền chình trị của phụ nữ ngày càng được nâng cao, và

ngày càng có nhiều phụ nữ trong tỉnh phát huy được vai trò trong việc tham

gia chình trị với nhiều vị trì trong các cơ quan quản lý nhà nước và xã hội.

Phụ nữ được đảm bảo quyền bính đẳng trong đời sống chình trị, đảm bảo

quyền ứng cử, bầu cử, tham gia quản lý Nhà nước và xã hội, tham gia thảo

luận và kiến nghị với cơ quan nhà nước về các vấn đề của cơ sở, địa phương

và cả nước, tham gia biểu quyết khi Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân.

Trong quá trính triển khai, bên cạnh những thuận lợi còn có những khó

khăn, hạn chế do điều kiện kinh tế, xã hội và văn hóa tỉnh Phú Yên có những

đặc thù ảnh hưởng, tác động đến việc thực hiện quyền chình trị của phụ nữ.

Đời sống nhân dân trong đó có phụ nữ ở 3 huyện miền núi, vùng sâu, vùng xa

của tỉnh kinh tế còn khó khăn, công tác tuyên truyền về sự bính đẳng của phụ

nữ trong đó có quyền tham gia chình trị của phụ nữ chưa sâu rộng, một bộ

phận lớn phụ nữ nhất là ở cơ sở do hoàn cảnh khó khăn dẫn đến trính độ học

vấn hạn chế. Nhận thức của nam giới và chình trong nữ giới do lịch sử để lại

dẫn đến định kiến, hiểu chưa toàn diện về phụ nữ tham gia chình trị dẫn đến

công tác quy hoạch, bổ nhiệm, bầu cử, ứng cử phụ nữ tham gia vào các cơ

70

quan quản lý Nhà nước và xã hội, các tổ chức chình trị xã hội gặp nhiều khó

khăn. Trong khi đó, một số quy định hiện hành liên quan đến quyền tham gia

chình trị của phụ nữ chưa đồng bộ và thống nhất. Việc thể chế hóa các văn

bản của Đảng và Nhà nước tới cấp cơ sở và cấp huyện về sự tham gia chình

trị của phụ nữ nhiều khi chưa kịp thời. Dù Luật bính đẳng giới đã được ban

hành nhưng việc đảm bảo thực hiện và hiệu quả thực hiện trong nội dung

quyền tham gia chình trị của phụ nữ chưa cao.

Từ thực trạng trên, cho thấy vẫn còn nhiều tồn tại, bất cập trong việc

thực hiện quyền chình trị của phụ nữ trên địa bàn tỉnh, đòi hỏi cần phải đảm

bảo về mặt cơ chế chình sách và trên thực tế, có như vậy quyền chình trị của

71

phụ nữ được đáp ứng yêu cầu của phụ nữ và trong tính hính mới.

Chương 3:

QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP THỰC HIỆN

QUYỀN CỦA PHỤ NỮ TRONG LĨNH VỰC CHÍNH TRỊ

Ở TỈNH PHÚ YÊN HIỆN NAY

3.1. Quan điểm thực hiện quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chính trị ở

tỉnh Phú Yên hiện nay

3.1.1. Thực hiện quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chính trị phải xuất phát

từ nhận thức đúng đắn, đầy đủ về vai trò, vị trí của phụ nữ trong toàn bộ

quá trình xây dựng, phát triển đất nước và địa phương

Khi đất nước bước vào kỷ nguyên hội nhập với thế giới, trong công

cuộc xây dựng đất nước trên con đường công nghiệp hóa - hiện đại hóa hiện

nay, phụ nữ Việt Nam nói chung và phụ nữ tỉnh Phú Yên nói riêng có vai trò

rất quan trọng, là động lực thúc đẩy sự phát triển chung của xã hội. Vai trò

này đang được khẳng định một cách rõ nét, cụ thể:

- Trước hết chúng ta phải thừa nhận vị trì hết sức quan trọng của người

phụ nữ trong gia đính. Họ có ảnh hưởng to lớn tới hạnh phúc và sự ổn định

của gia đính. Với trách nhiệm là người vợ, họ luôn cùng sát cánh chia sẻ

những ngọt bùi, đắng cay cùng chồng, khiến người chồng luôn cảm thấy yên

tâm trong cuộc sống, hỗ trợ, giúp đỡ, động viên, đóng góp vào thành công

trong sự nghiệp của chồng. Và với trách nhiệm là người mẹ, họ luôn hết lòng

ví con cái, là những tấm gương cho con cái noi theo.

- Trong thời đại mới, bên cạnh vai trò quan trọng trong gia đính, người

phụ nữ còn tìch cực tham gia vào các hoạt động xã hội. Ngày càng có nhiều

người trở thành chình trị gia, nhà khoa học nổi tiếng, nhà quản lý năng động

… Trong nhiều lĩnh vực, sự có mặt của người phụ nữ là không thể thiếu như

72

ngành dệt, may mặc, du lịch, công nghệ dịch vụ, y tế, giáo dục …

- Phụ nữ góp một phần rất lớn vào quá trính phát triển của đất nước,

thể hiện ở số nữ chiếm tỉ lệ cao trong lực lượng lao động. Với hơn 50% dân

số và gần 50% lực lượng lao động xã hội, ngày càng có nhiều phụ nữ tham

gia vào hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội và giữ những chức vụ quan

trọng trong bộ máy nhà nước. Phụ nữ chiếm ưu thế trong một số ngành như

giáo dục, y tế, và dịch vụ. Trong công tác chuyên môn, phụ nữ chiếm số đông

trong các bộ môn văn học, ngôn ngữ, y dược, khoa học xã hội, khoa học tự

nhiên và kinh tế. Nếu tình tổng số giờ làm việc của nữ giới (kể cả ở nhà và

bên ngoài) cao hơn rất nhiều so với nam giới.

- Quyền của phụ nữ về kinh tế đã được nâng lên thông qua việc pháp

luật quy định phụ nữ cùng đứng tên với nam giới trong giấy chứng nhận

quyền sở hữu đất đai, nhà ở, và tài sản.

Như vậy có thể nói, trong xu thế hội nhập và phát triển của đất nước

nói chung, của địa bàn tỉnh Phú Yên nói riêng, phụ nữ đã phát huy và khẳng

định vai trò, vị trì của mính đối với sự phát triển của xã hội. Khi nền kinh tế

của chúng ta càng phát triển, phụ nữ càng có nhiều cơ hội hơn. Nó phá vỡ sự

phân công lao động cứng nhắc theo giới, cho phép phụ nữ tham gia vào nền

kinh tế thị trường và khiến nam giới phải chia sẻ trách nhiệm chăm sóc gia

đính. Nó có thể giảm nhẹ gánh nặng việc nhà cho phụ nữ, tạo cho họ nhiều

thời gian nhàn rỗi hơn để tham gia vào các hoạt động khác. Đặc biệt tạo ra

nhiều cơ hội hơn cho phụ nữ tham gia vào hoạt động chình trị...Chình nhờ

Đảng có sự lựa chọn đường lối đúng đắn cho sự phát triển của đất nước mà

vai trò của người phụ nữ trong xã hội Việt Nam không ngừng được nâng cao.

Để đảm bảo quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chình trị nhằm giải phóng

phụ nữ, nâng cao vị trì, vai trò và khả năng của phụ nữ trong hệ thống chình

trị cần đòi hỏi không ngừng nâng cao năng lực tham gia và cơ quan quản lý

73

và các tổ chức xã hội của phụ nữ. Tuy nhiên, tỷ lệ phụ nữ tham gia đầy đủ

như nam giới như thế nào còn tuỳ thuộc vào điều kiện kinh tế, thể chế, chình

sách của Đảng và Nhà nước. Đồng thời phải tạo điều kiện cho phụ nữ có trính

độ, năng lực chuyên môn.

Trong điều kiện hội nhập quốc tế và toàn cầu hóa đòi hỏi người phụ nữ

phải có những tiêu chuẩn nhất định ngang với nam giới, nhất là cán bộ quản

lý phải có trính độ học vấn như nam giới, tăng cường phát huy hết năng lực

vốn có của những phụ nữ có tiềm năng gắn liền với việc đề bạt, bổ nhiệm họ.

Hơn nữa cần phải xóa bỏ định kiến của cả hai giới, xóa bỏ những mặc cảm, tự

ti tồn tại trong chình giới nữ giúp cho họ tự tin vươn lên, đồng thời xóa bỏ sự

nhín nhận thiên kiến, sai lệch của cả xã hội về vị trì, vai trò của phụ nữ trong

lĩnh vực chình trị. Có như thế mới đảm bảo quyền của phụ nữ trong lĩnh vực

chình trị.

3.1.2. Thực hiện quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chính trị phải đi đôi với

ghi nhận và bảo đảm quyền của phụ nữ trong các lĩnh vực khác

Quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chình trị cần đặt trong tổng thể đảm

bảo, tôn trọng, bảo vệ các quyền con người, quyền công dân ở Việt Nam,

nghĩa là quyền chình trị của phụ nữ ở Việt Nam được thể hiện và pháp luật

bảo vệ với tư cách là các quyền công dân. Phụ nữ cũng là công dân và phụ nữ

có các quyền chình trị của một công dân, được tham gia vào mọi hoạt động

trong đời sống chình trị và đời sống cộng đồng của đất nước.

Thực tiễn thực hiện quyền của phụ nữ ở Việt Nam nói chung và ở tỉnh

Phú Yên nói riêng cho thấy, từ những năm sau đổi mới (1986), khi Công ước

CEDAW Liên Hợp quốc (Công ước về xóa bỏ tất cả các hính thức phân biệt

đối xử chống lại phụ nữ) chình thức được thực hiện ở Việt Nam, thí vấn đề

quyền của phụ nữ đã thu được nhiều kết quả tìch cực: nhận thức của các cấp,

các ngành, các địa phương nhất là những vùng sâu, vùng xa, vùng kinh tế kém

74

phát triển, văn hóa thấp về quyền của phụ nữ đã được cải thiện; phụ nữ ngày

càng có nhiều cơ hội thể hiện và khẳng định vị trì vai trò của mính trong gia

đính cũng như các hoạt động chình trị - xã hội; tỷ lệ phụ nữ tham gia lãnh

đạo, quản lý nhà nước tăng lên, hoạt động của các nữ doanh nhân, chủ doanh

nghiệp là nữ, hoạt động giao lưu đối ngoại khu vực, quốc tế, số lượng ngày

càng nhiều, chất lượng ngày càng tăng.

Theo đó, phụ nữ được thực hiện mọi quyền của mính, được làm chủ xã

hội và phát huy vai trò, sự sáng tạo của mính trong xây dựng đất nước. Quyền

của phụ nữ trong tất cả các lĩnh vực, trong đó có quyền chình trị được pháp

luật, xã hội thừa nhận và tôn trọng bảo đảm thực hiện.

3.1.3. Thực hiện quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chính trị phải hướng tới

tương thích với các chuẩn mực pháp lý quốc tế về quyền của phụ nữ

Việt Nam được đánh giá là quốc gia có khung pháp lý tiến bộ về bính

đẳng giới. Trong xu thế toàn cầu, việc bảo đảm quyền của phụ nữ trong lĩnh

vực chình trị phải hướng tới tương thìch với các chuẩn mực pháp lý quốc tế

về quyền của phụ nữ, điều này đồng nghĩa với việc xây dựng và hoàn thiện

pháp luật phải đảm bảo sự tương đồng với pháp luật quốc tế, song phải phù

hợp với điều kiện phát triển kinh tế, chình trị, văn hóa, xã hội của quốc gia.

Mặt khác, quyền chình trị là một quyền hết sức nhạy cảm, ví vậy hoàn thiện

pháp luật về quyền chình trị của phụ nữ đòi hỏi phải có sự nghiên cứu, sáng

tạo, tránh rập khuôn máy móc, tránh không phù hợp với điều kiện kinh tế - xã

hội, trính độ dân trì, phong tục tập quán, cho dù sự tương đồng chỉ ở mức độ

nhất định, song pháp luật không thể xa rời lợi ìch dân tộc và nền tảng kinh tế,

chình trị và những điều kiện sản sinh ra nó.

Đảm bảo quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chình trị phải có pháp luật

về quyền chình trị của phụ nữ phù hợp với các công ước quốc tế liên quan đến

phụ nữ mà Nhà nước Việt Nam đã tham gia, ký kết và phê chuẩn nhằm đảm

75

bảo hài hoà lợi ìch, chủ quyền quốc gia và nghĩa vụ quốc tế.

3.1.4. Thực hiện quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chính trị phải tính đến

sự phù hợp nhất định với các điều kiện đặc thù của địa phương

Đảm bảo quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chình trị cần chú ý đến việc

phát triển kinh tế gắn với tiến bộ xã hội, xóa đói, giảm nghèo cho phụ nữ. Lấy

mục tiêu nâng cao chất lượng cuộc sống cho xã hội nói chung và phụ nữ nói

riêng làm mục tiêu xuyên suốt. Xây dựng cơ chế, chình sách, các văn bản quy

phạm pháp luật, các chương trính, đề án, dự án liên quan đến quyền, lợi ìch

của phụ nữ. Đồng thời, tuyên truyền, phổ biến chình sách, pháp luật, tham gia

kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật liên quan đến quyền của phụ nữ.

Hoạt động hệ thống chình trị phải hiệu quả và triển khai lồng ghép vấn đề về

quyền cho phụ nữ vào các chương trính, sáng kiến ở các cấp chình quyền địa

phương, các ban ngành trong toàn hệ thống chình trị.

Đảm bảo quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chình trị phải sát hợp với

từng đối tượng, vùng, miền, phát huy được tinh thần làm chủ, tiềm năng, sức

sáng tạo và khả năng đóng góp cao nhất của các tần lớp phụ nữ, góp phần tạo

nên sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc để phát triển đất nước; đồng thời phải

chăm lo cho phụ nữ tiến bộ về mọi mặt, quan tâm đầy đủ quyền và lợi ìch hợp

pháp, chình đáng để phụ nữ có điều kiện thực hiện tốt vai trò người công dân,

người lao động, người mẹ, người thầy đầu tiên của con người.

Tùy vào đối tượng, tùy vào điều kiện thực tế ở địa phương, mà các cấp

ủy Đảng, chình quyền cần phải có sự quan tâm đúng mức, tham mưu xây

dựng, tạo những cơ chế, chình sách phù hợp để bảo vệ những lợi ìch chình

đáng cho phụ nữ, hỗ trợ, tạo điều kiện cho phụ nữ có cơ hội phát huy vai trò,

76

vị trì của mính trong mọi lĩnh vực, đặc biệt là hoạt động chình trị.

3.2. Giải pháp thực hiện quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chính trị ở tỉnh

Phú Yên hiện nay

3.2.1. Đổi mới nhận thức của tổ chức Đảng, chính quyền nhà nước và toàn xã

hội về vị trí, vai trò, khả năng và quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chính trị

Nam nữ bính đẳng là một trong những quyền cơ bản của con người.

Quyền bính đẳng giới đã được quy định trong Hiến pháp và pháp luật Việt Nam.

Vị trì, vai trò của phụ nữ được xã hội tôn trọng và pháp luật bảo vệ, phụ nữ được

tạo điều kiện phát triển tài năng và tham gia vào đời sống chình trị - xã hội.

Quán triệt sâu sắc các quan điểm, mục tiêu về bính đẳng giới trong lĩnh

vực chình trị nói riêng, cần tăng cường nâng cao nhận thức, trách nhiệm của

các cấp ủy đảng, chình quyền, các tổ chức chình trị - xã hội, và nhân dân, tạo

bước chuyển biến rõ rệt về hiệu quả công tác phụ nữ ở từng ngành, địa

phương, đơn vị. Coi trọng việc phổ biến, giáo dục pháp luật về quyền bính

đẳng nói chung, pháp luật quyền chình trị của phụ nữ nói riêng, không chỉ cho

phụ nữ mà còn cho mọi công dân, công chức nhà nước, và các cơ quan có

thẩm quyền trong tổ chức thực hiện và bảo vệ pháp luật.

Tăng cường vai trò lãnh đạo của các cấp ủy Đảng trong việc cụ thể các

chủ trương và định hướng về quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chình trị. Đảng

phải luôn ý thức và đánh giá cao vai trò của phụ nữ - một lực lượng quan

trọng trong suốt chặng đường phát triển của đất nước. Thể hiện cam kết chình

trị của Đảng trong việc thúc đẩy vai trò, vị thế của phụ nữ trong bối cảnh đổi

mới toàn diện đất nước và hội nhập quốc tế sâu rộng bằng việc đẩy mạnh đổi

mới và tăng cường công tác vận động phụ nữ trong tính hính mới theo Nghị

quyết số 11-NQ/TW (năm 2007) của Bộ Chình trị về Công tác phụ nữ thời kỳ

đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Các cơ quan Ðảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể, tổ chức

77

xã hội, và các cơ quan thông tin đại chúng... tăng cường tuyên truyền, giáo

dục nâng cao nhận thức về giới, quyền chình trị và ý thức trách nhiệm thực

hiện bính đẳng giới trong lĩnh vực chình trị cho cán bộ, đảng viên và các tầng

lớp nhân dân; lên án, đấu tranh chống tư tưởng định kiến giới, phân biệt đối

xử về giới, các hành vi xâm hại, xúc phạm nhân phẩm, danh dự của phụ nữ.

Hội Liên hiệp Phụ nữ và Ban ví sự tiến bộ của phụ nữ các cấp cần làm

tốt vai trò nòng cốt tham mưu và thực hiện các giải pháp cần thiết để nâng cao

nhận thức cho các cấp, các ngành, phụ nữ và nhân dân về bính đẳng giới,

khắc phục tư tưởng định kiến giới trong cộng đồng; khắc phục tư tưởng tự ti,

an phận, nìu kéo nhau của một bộ phận phụ nữ, nêu cao tinh thần tự chủ, đoàn

kết, vượt khó vươn lên đóng góp ngày càng nhiều cho gia đính và xã hội.

Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chình trị - xã hội các cấp phối hợp

trong tổ chức các hoạt động bính đẳng giới; tăng cường giám sát cộng đồng,

vai trò phản biện xã hội những nội dung liên quan đến bính đẳng giới, nhất là

tham gia, đề xuất xây dựng các chế độ, chình sách đối có liên quan đến phụ

nữ và lao động nữ.

Tăng cường các biện pháp nâng cao ý thức pháp luật và văn hoá pháp

lý trong mỗi cá nhân, mỗi gia đính và cộng đồng. Mặt khác, pháp luật phải

nghiêm khắc và khả thi để bảo đảm pháp luật được tuân thủ ở mọi lúc, mọi nơi,

với mọi người và bảo đảm mọi sự xâm phạm đến quyền của phụ nữ, cản trở sự

phát triển và tiến bộ của phụ nữ đều bị xử lý nghiêm minh theo pháp luật. Tăng

cường công tác truyền thông thay đổi nhận thức về vai trò, vị thế của phụ nữ

trong tham gia chình trị. Quyền của phụ nữ cần được xem như là một giá trị cơ

bản của con người. Đồng thời cần xóa bỏ định kiến giới về sự phân công lao

động trong gia đính, ngoài xã hội và nơi công sở.

Đảng, nhà nước chỉ đạo các cơ quan chức năng và Sở Lao động –

Thương binh xã hội chủ trí phối hợp biên soạn tài liệu tuyên truyền, tăng

78

cường truyền thông để nâng cao nhận thức, ý thức, trách nhiệm của cán bộ,

đảng viên, đoàn viên, hội viên và các tầng lớn nhân dân về bính đẳng giới.

Thường xuyên củng cố, kiện toàn Ban Ví sự tiến bộ của phụ nữ các cấp, các

ngành theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động, bố trì cán bộ

chuyên trách làm công tác bính đẳng giới.

3.2.2. Hoàn thiện pháp luật liên quan đến quyền chính trị của phụ nữ

3.2.2.1. Rà soát và hệ thống hóa các văn bản pháp luật hiện hành liên quan

đến quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chính trị

Quá trính rà soát và hệ thống hóa các văn bản pháp luật hiện hành nói

chung về quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chình trị nói riêng là hết sức cần

thiết và không thể thiếu trong qúa trính hoàn thiện pháp luật về quyền của phụ

nữ trong lĩnh vực chình trị.

Do các luật và các điều khoản pháp luật luôn cần bổ sung điều chỉnh phù

hợp với hoàn cảnh thực tiễn phát sinh ví thế để sửa đổi và bổ sung các văn bản

pháp luật về quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chình trị cần tiến hành một cách

thường xuyên và có chất lượng việc rà soát và hệ thống hoá các văn bản pháp

luật liên quan đến quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chình trị theo từng lĩnh vực

cụ thể của quyền tham gia chình trị. Rà soát lại nội dung và hiệu lực của từng

văn bản, từng quy phạm pháp luật thông qua các quy tắc, quy định. Trong quá

trính rà soát và hệ thống hóa văn bản đã phân loại và xác định những văn bản,

những quy phạm nào không cần, không còn hiệu lực hoặc chồng chéo, trùng

lắp hoặc cần sửa đổi, bổ sung chẳng hạn như quy định về giới hạn đề bạt lần

đầu của nam và nữ trong chủ trương, chình sách của Đảng đã gây khó khăn cho

việc áp dụng chình sách, pháp luật và gây nên sự bất bính đẳng nam nữ. Đồng

thời, thông qua quá trính rà soát và hệ thống hóa văn bản pháp luật, những văn

bản, quy phạm nào cần hợp nhất hoặc cần nâng cấp ban hành. Những cơ sở nào

cần được khắc phục, điều chỉnh lại, những văn bản đã ban hành nhưng không

79

phù hợp thí phải có biện pháp khắc phục ngay.

3.2.2.2. Sửa đổi, bổ sung những điểm chưa phù hợp trong chính sách, pháp

luật bảo đảm quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chính trị

Trong quá trính hội nhập quốc tế, trước những đòi hỏi khách quan, một

số quy phạm pháp luật về quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chình trị chưa phù

hợp và rất khó áp dụng trên thực tế, đặc biệt là một số quy định trong Bộ Luật

lao động (năm 2012), Chỉ thị 37- CT/TW (năm 1994) về một số vấn đề công

tác cán bộ nữ trong tính hính mới. Chình ví vậy, cần phải sửa đổi, bổ sung

những điểm chưa phù hợp trong chình sách, pháp luật bảo đảm quyền của phụ

nữ trong lĩnh vực chình trị.

Đối với khoản 1, Điều 187 Bộ Luật lao động (năm 2012) cần sửa đổi

những bất cập trong một số chình sách “ưu tiên” đối với lao động nữ nói

chung và cán bộ nữ nói riêng về độ tuổi nghỉ hưu. Bước vào thời đại hội nhập

quốc tế, xã hội phát triển, trính độ dân trì được nâng cao, phụ nữ, nam giới

làm việc bính đẳng, trừ một số ngành đặc thù nên tuổi nghỉ hưu nam, nữ cần

bính đẳng, có thể tăng độ tuổi nghỉ hưu đối với lao động nữ nói chung và cán

bộ nữ nói riêng bằng với nam giới là khi đủ 60 tuổi (thay ví khi đủ 55 tuổi)

nhằm tạo điều kiện cho phụ nữ được tiếp tục làm việc, được cống hiến và thể

hiện năng lực của mính, còn đối với trường hợp lao động nặng nhọc, đặc thù

thí được nghỉ hưu trước.

Cụ thể hóa Chỉ thị 37- CT/TW (năm 1994) về một số vấn đề công tác

cán bộ nữ trong tính hính mới, tăng cường chú trọng xây dựng và đào tạo đội

ngũ nữ cán bộ quản lý gắn với chiến lược phát triển tổng thể kinh tế- xã hội

của đất nước và việc sử dụng hợp lý và hiệu quả đội ngũ đó. Các cấp ủy cần

thống kê, phân tìch tính hính cán bộ nữ một cách toàn diện. Trên cơ sở đánh

giá đúng đắn cán bộ nữ, các cấp ủy coi trọng quy hoạch cán bộ nữ để đáp ứng

yêu cầu phát triển đội ngũ cán bộ nữ thời kỳ CNH-HĐH. Công tác quy hoạch

80

cần triển khai đồng bộ, dân chủ, chặt chẽ, đúng nguyên tắc; ưu tiên những

chuyên ngành, lĩnh vực, vùng, miền mà ở đó cán bộ nữ còn quá thiếu. Quy

hoạch phải gắn với đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng cán bộ, gắn với luân

chuyển cán bộ; đồng thời, quy hoạch cán bộ nữ phải được rà soát, bổ sung và

điều chỉnh hằng năm.

Trong việc đánh giá, quy hoạch và sử dụng cán bộ nữ, cần căn cứ vào

tiêu chuẩn, hiệu quả công việc, xem xét về khả năng và triển vọng của chị em.

Các cấp lãnh đạo cần quan tâm đến thiên chức làm mẹ, sinh con, nuôi dạy con

cái và chăm sóc gia đính của chị em, từ đó đánh giá công bằng hơn đối với

cán bộ nữ, nhất là trong công tác đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng cán bộ nữ.

Công tác tạo nguồn cán bộ nữ cần đặt trong chiến lược phát triển nguồn

nhân lực chung của các cấp ủy, chình quyền: ưu tiên và quan tâm tuyển dụng

cán bộ nữ, lao động nữ có trính độ đại học, trên đại học, nhất là những chuyên

ngành, lĩnh vực phụ nữ chiếm số đông, nâng cao tỷ lệ đảng viên là nữ, có kế

hoạch bố trì, phân công công tác để họ được phấn đấu, rèn luyện và trưởng

thành. Chú ý lựa chọn, bồi dưỡng những nhân tố tìch cực, có triển vọng để tạo

nguồn cho những vị trì lãnh đạo cao hơn trong đội ngũ cán bộ nữ đương chức

ở các cấp.

Để nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ nữ: cần quy định các lớp học,

khóa đào tạo phấn đấu để cán bộ nữ tham gia đạt tỷ lệ từ 30% trở lên. Chú

trọng tăng tỷ lệ chiêu sinh cán bộ nữ trong các khóa đào tạo, bồi dưỡng. Kế

hoạch đào tạo, bồi dưỡng phải gắn với quy hoạch và việc bố trì sử dụng cán

bộ nữ. Đa dạng hóa hính thức đào tạo phù hợp với đặc điểm giới nữ; đào tạo,

bồi dưỡng có trọng tâm trọng điểm, chú ý thời điểm thuận tiện nhất cho việc

đào tạo cán bộ nữ.

Chình sách xã hội phải tập trung giảm nhẹ công việc gia đính cho phụ

nữ để chị em có điều kiện và yên tâm tham gia các công tác xã hội. Cần có

81

biện pháp góp phần tăng cường các dịch vụ xã hội để giảm nhẹ gánh nặng

công việc gia đính cho phụ nữ: các trường học thân thiện giúp chăm sóc, nuôi

dạy con; khu bệnh viện, mua sắm tiện nghi… giúp chị em giảm bớt sự tiêu

tốn thời gian và sức lực không cần thiết. Trước mắt, cần bổ sung chình sách

ưu đãi, hỗ trợ đối với cán bộ nữ trong việc đi học, đào tạo, bồi dưỡng, nâng

cao trính độ, xây dựng chình sách hỗ trợ và khuyến khìch nữ tài năng trẻ.

Công đoàn, nữ công nên mở các lớp đào tạo kỹ năng tổ chức gia đính

cho phụ nữ, hướng tới xây dựng gia đính cân bằng trách nhiệm của cả nam

giới và nữ giới trong việc cùng chăm sóc con cái và các thành viên cùng gánh

vác công việc gia đính góp phần giải phóng phụ nữ.

Đảm bảo các quyền của phụ nữ nói chung và quyền của phụ nữ trong

lĩnh vực chình trị nói riêng phải thực chất là nhiệm vụ giải phóng phụ nữ; là

nhiệm vụ của tất cả các thành viên của hệ thống chình trị, dưới sự lãnh đạo

của Đảng; coi trọng công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện các chủ trương,

chình sách về cán bộ nữ và nên đưa chỉ tiêu về cán bộ nữ là một nội dung

trong nhiệm vụ của các cấp ủy Đảng và đoàn thể được tổ chức kiểm tra, giám

sát và đánh giá thi đua hàng năm. Sự tiến bộ của phụ nữ chỉ có được khi cả

hai giới nam và nữ cùng đồng hành, chia sẻ và nâng đỡ cho nhau.

3.2.2.3. Sửa đổi, bổ sung pháp luật về tổ chức hoạt động của các đoàn thể, tổ

chức của phụ nữ

Mặc dù quyền tham gia chình trị của phụ nữ chỉ có thể thực hiện tốt khi

nó có cơ chế thực thi và giám sát đồng bộ việc thực hiện từ Trung ương đến

địa phương. Ở Việt Nam, các tổ chức liên quan trực tiếp và gián tiếp đến phụ

nữ được coi là cơ quan giám sát và thực hiện quyền của phụ nữ nói chung và

quyền tham gia chình trị nói riêng. Trong đó, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam

và Uỷ ban Quốc gia ví sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam đóng một vai trò quan

trọng và hai cơ quan này được hiểu là các cơ quan đầu mối trong việc thực

82

hiện quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chình trị. Tuy nhiên, hoạt động của hai

cơ quan này, bên cạnh những kết quả đã đạt được còn những bất cập. Ví vậy,

Đảng và Nhà nước cần có những quy định cụ thể hơn, rõ hơn về chức năng,

nhiệm vụ của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam và Uỷ ban Quốc gia ví sự tiến

bộ của phụ nữ Việt Nam. Để hoàn thiện pháp luật về quyền chình trị của phụ

nữ Việt Nam, cần phải tiến hành các biện pháp:

Thứ nhất, tăng cường vai trò và quyền hạn cụ thể của Hội Liên hiệp

Phụ nữ Việt Nam và Uỷ ban quốc gia ví sự tiến bộ của Phụ nữ Việt Nam

trong việc bảo đảm quyền tham gia chình trị của phụ nữ. Các biện pháp cụ thể

được đặt ra như thúc đẩy vai trò của Hội Phụ nữ trong việc giới thiệu nhân sự

nữ, hỗ trợ cho các nữ ứng cử viên và có nhiệm vụ giám sát chặt chẽ qúa trính

bầu cử. Các cấp Hội Phụ nữ và Uỷ ban ví sự tiến bộ của phụ nữ cần tăng

cường sự phối hợp với các cấp uỷ Đảng chình quyền, các ban, ngành chức

năng, đoàn thể tổ chức tốt việc tuyên truyền phổ biến các chủ trương, chình

sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước, chủ trương của các công tác Hội và

Uỷ ban, Công ước CEDAW cho phụ nữ vùng núi, vùng sâu, vùng xa. Đảng

và Nhà nước cần khuyến khìch bằng cách hỗ trợ các nguồn lực cho các cơ

quan này nhăm giúp họ thiết lập mạng lưới liên kết phụ nữ trong giới chình trị

để chia sẻ kinh nghiệm và tạo sự phối hợp hoạt động chung không chỉ trong

phạm vi quốc gia mà còn trên phạm vi quốc tế.

Thứ hai, xây dựng cơ quan thực thi và giám sát việc thực hiện pháp luật

về quyền tham gia chình trị của phụ nữ. Thực thi và thi hành pháp luật cần sự

kiểm tra, giám sát đầy đủ và hữu hiệu cần quy định lại cho rõ chức năng,

nhiệm vụ của hai cơ quan Hội Liên hiệp Phụ nữ và Uỷ ban Quốc gia ví sự tiến

bộ của Phụ nữ Việt Nam. Dù đã có Luật bính đẳng giới nhưng để Luật này đi

vào cuộc sống cần sự hoạt động có hiệu quả của cơ quan giám sát luật. Đây là

cơ quan thực thi và giám sát phải thực sự là cơ quan đầu mối, chỉ đạo trong

83

việc phối hợp thực hiện với các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp ở tất

cả các cấp nhằm đảm bảo sao cho phụ nữ có mặt ở tất cả các giai đoạn như rà

soát, xây dựng, giám sát, đánh giá việc thực hiện các quyền của mính, kể cả

quyền chình trị mà đã được quy định trong Luật bính đẳng giới. Cơ quan

giám sát- Uỷ ban Quốc gia ví sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam phải thực sự trở

thành cơ quan dân nguyện, thường xuyên được đào tạo, bồi dưỡng, cập nhật

kiến thức về luật, để từ đó làm tốt công tác phổ biến, tuyên truyền giáo dục

pháp luật cho người dân về quyền tham gia chình trị của phụ nữ.

3.2.3. Nâng cao trách nhiệm của các thiết chế thuộc hệ thống chính trị

trong việc tổ chức thực hiện và đảm bảo các quyền chính trị của phụ nữ tại

tỉnh Phú Yên

Cần thực hiện tốt chức năng đại diện, chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ìch

hợp pháp, chình đáng cho phụ nữ của Ban Ví sự tiến bộ phụ nữ tỉnh và các

cấp Hội LHPN trong tỉnh, cần nắm vững và quán triệt thật sâu sắc những

quan điểm, tư tưởng chỉ đạo trong Nghị quyết Đại hội XII của Đảng và nghị

quyết đại hội đảng bộ các cấp nhiệm kỳ 2015-2020, các chương trính hành

động của Tỉnh ủy; Nghị quyết của Ban Thường vụ Tỉnh ủy cụ thể hóa việc

thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVI để có những hoạt

động cụ thể, phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ chình trị và đặc điểm của phong

trào phụ nữ tỉnh.

Đổi mới mạnh mẽ nội dung, phương thức hoạt động của Hội LHPN các

cấp trong tỉnh và theo hướng sát cơ sở, bảo đảm trọng tâm, trọng điểm, phù

hợp tính hính, đặc điểm của địa phương, đơn vị. Thực hiện tốt công tác chăm

lo, bảo vệ quyền, lợi ìch hợp pháp, chình đáng của phụ nữ. Chủ động tham

mưu cấp ủy đảng, chình quyền và phối hợp với các cơ quan, đơn vị liên quan

trong xây dựng, thực hiện chình sách, chương trính, đề án, tạo điều kiện cho

phụ nữ khẳng định vai trò, vị thế trong gia đính và ngoài xã hội; tìch cực tham

84

gia giám sát và phản biện xã hội, góp ý xây dựng Đảng, nhất là các vấn đề

liên quan đến phụ nữ. Chú trọng củng cố nâng cao chất lượng các mô hính

đang hoạt động hiệu quả, xây dựng các mô hính mới phù hợp các đối tượng

phụ nữ, nhất là phụ nữ nghèo, phụ nữ đồng bào dân tộc thiểu số, vùng khó

khăn. Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện các phong trào thi đua, các cuộc vận động

của Hội. Tập trung xây dựng, củng cố tổ chức Hội ngày càng vững mạnh.

Thực hiện đồng bộ các giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ Hội các

cấp; thường xuyên đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ cán bộ Hội có bản

lĩnh chình trị vững vàng, phẩm chất đạo đức tốt, có trính độ chuyên môn,

nghiệp vụ, nhiệt tính, tâm huyết với công tác Hội, nhằm đáp ứng cho việc

thực hiện tốt vai trò đại diện chăm lo, bảo vệ, bảo đảm các quyền của phụ nữ,

trong đó có quyền chình trị của phụ nữ.

3.2.4. Nâng cao năng lực của phụ nữ trong việc thực hiện các quyền chính

trị tại tỉnh Phú Yên

Đảng và chình quyền tỉnh Phú Yên cần tăng cường công tác đào tạo,

bồi dưỡng nâng cao trính độ về chình trị, chuyên môn và kỹ năng cho đội ngũ

cán bộ nữ phù hợp với yêu cầu của nhiệm vụ và quá trính hội nhập, ví hiện

nay phụ nữ vẫn chưa đáp ứng yêu cầu tuyển chọn vào các vị trì lãnh đạo,

quản lý do nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân chưa đạt chuẩn cán

bộ. Nguyên nhân này xuất phát từ việc chưa thực sự quan tâm nhiều đến công

tác đào tạo, bồi dưỡng tạo nguồn cán bộ lãnh đạo, quản lý mà chỉ quan tâm ở

việc đề bạt, cất nhắc khi đã có sẵn và khai thác sự đóng góp của phụ nữ, hoặc

chỉ quan tâm đào tạo ở một số ngành mang tình xã hội là chủ yếu. Do đó dẫn

đến tính trạng đội ngũ cán bộ nữ mất cân đối, thiếu tình đồng bộ, đồng đều ở

các ngành, khu vực, nhất là trong các cơ quan quản lý nhà nước và các ngành

đông nữ… Để khắc phục tính trạng này, cần tiến hành các biện pháp sau :

- Trước hết, cần xây dựng quy hoạch tổng thể, trên cơ sở đó xây dựng

85

kế hoạch đào tạo cán bộ quản lý gắn với phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.

Quy hoạch đào tạo phải đồng bộ từ tỉnh đến cơ sở, đảm bảo tăng dần số lượng

cũng như chất lượng, đào tạo hợp lý, mở rộng, tương xứng với lực lượng lao

động nữ, nhất là ngành đông nữ và ngành có liên quan đến quyền, lợi ìch của

phụ nữ. Đào tạo được thực hiện ở địa bàn tỉnh và cả cấp quốc gia.

- Việc chọn cử người cán bộ đi đào tạo phải đúng đối tượng, đúng tiêu

chuẩn, tiêu chì chọn cử rõ ràng và được công khai, minh bạch, tránh phân bổ

chỉ tiêu bính quân, hính thức. Cán bộ được cử đi đào tạo, bồi dưỡng phải xác

định rõ mục tiêu, động cơ học tập, có ý thức trách nhiệm, tinh thần tự giác học

tập. Khắc phục tính trạng chạy theo bằng cấp, tuyệt đối hóa bằng cấp của cả

người dạy, người học, của cơ quan làm công tác cán bộ và cơ quan sử dụng

cán bộ. Hoàn thiện cơ chế, chình sách về đào tạo, bồi dưỡng đảm bảo yếu tố

giới và bính đẳng giới. Theo dõi, đánh giá về hiệu quả, trưởng thành của đội

ngũ cán bộ sau đào tạo, bồi dưỡng.

- Xây dựng và thực hiện chương trính đào tạo cán bộ nữ theo từng lĩnh

vực, gắn với quy hoạch. Cần bảo đảm tỷ lệ nữ tham gia gia các khóa đào tạo

tại các trường lý luận chình trị, quản lý hành chình nhà nước từ 30% trở lên.

Thực hiện cử tuyển đào tạo cán bộ nữ vùng dân tộc thiểu số, tôn giáo và trong

các lĩnh vực có tỷ lệ cán bộ nữ quá thấp. Thường xuyên đánh giá, rà soát lại

khả năng sử dụng đội ngũ ngũ cán bộ nữ hiện có làm việc hiệu quả như thế

nào, từ đó có những điều chỉnh thìch hợp, đề xuất đào tạo, đào tạo lại nhằm

tăng dần chất lượng lãnh đạo, quản lý của đội ngũ cán bộ nữ.

Ngoài đào tạo chình trị, chuyên môn, quan tâm đến bồi dưỡng kỹ năng

mềm bao gồm: kỹ năng lãnh đạo, kỹ năng thuyết trính, kỹ năng quản lý, kỹ

năng giao tiếp, kỹ năng sử dụng quyền lực… là các kỹ năng mềm giúp người

phụ nữ hoàn thiện phương pháp lãnh đạo, quản lý, điều hành, sử dụng quyền

lực cứng, quyền lực mềm một cách thông minh; giúp cho người lãnh đạo xây

86

dựng mối quan hệ làm việc thân thiện, tạo môi trường thoải mái, trách nhiệm,

thúc đẩy cán bộ làm việc hiệu quả; từ đó người lãnh đạo nữ sẽ tự tin ở vị trì

lãnh đạo, quản lý…

3.2.5. Đảm bảo các điều kiện về nguồn lực cho việc thực hiện các quyền

của phụ nữ trong lĩnh vực chính trị tại tỉnh Phú Yên

- Tăng cường vai trò của tổ chức Hội Liên hiệp phụ nữ trong việc tạo

điều kiện hỗ trợ giúp đỡ cho hội viên phụ nữ phát triển kinh tế, giúp phụ nữ

phát triển toàn diện góp phần bảo đảm thực hiện quyền của phụ nữ trong lĩnh

vực chính trị

Thường xuyên khảo sát, nắm bắt tính hính đời sống, việc làm của phụ

nữ và nhu cầu của phụ nữ nghèo, phụ nữ có hoàn cảnh khó khăn, tiến hành

phân loại hộ nghèo theo từng nguyên nhân để có giải pháp tác động, hỗ trợ

phù hợp, thiết thực với từng nhóm đối tượng. Chủ động xây dựng kế hoạch,

lựa chọn các loại hính phát triển kinh tế gia đính phù hợp với thế mạnh của

từng địa phương. Chú trọng việc tuyên truyền, vận động phụ nữ phát huy nội

lực, đoàn kết, tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau về vốn, ngày công, kinh nghiệm,

khoa học kỹ thuật, bao tiêu sản phẩm để phát triển kinh tế gia đính.

Tăng cường công tác vận động, tạo điều kiện cho phụ nữ, nhất là phụ

nữ nghèo được tiếp cận, hưởng thụ các chình sách ưu đãi của Đảng và Nhà

nước để phát triển kinh tế, giảm nghèo. Bằng cách giúp phụ nữ được tiếp cận

các nguồn vốn vay từ Ngân hàng chình sách xã hội, các nguồn Quỹ Hỗ trợ

phụ nữ phát triển do Hội Liên hiệp phụ nữ các cấp vận động thành lập để tạo

điều kiện cho phụ nữ vay vốn làm ăn phát triển kinh tế gia đính.

Tiếp tục tham mưu xây dựng các Đề án “Hỗ trợ học nghề, tạo việc làm

cho lao động nữ”, tăng cường việc đào tạo chuyên môn kỹ thuật, nâng cao

chất lượng tay nghề cho phụ nữ trong các ngành nghề. Đặc biệt, chú trọng

việc chuyển giao khoa học-kỹ thuật, triển khai, nhân rộng các mô hính sản

87

xuất nông nghiệp hiệu quả để phụ nữ được học tập và ứng dụng. Phát động

nhiều phong trào thi đua, như “Phụ nữ làm kinh tế giỏi”, “Giúp phụ nữ nghèo

có địa chỉ”… nhằm thực hiện tốt cuộc vận động “Phụ nữ giúp nhau phát

triển kinh tế gia đình, xoá đói giảm nghèo”... Mở ra nhiều cơ hội, hướng làm

ăn mới, giúp phụ nữ có cơ hội làm ăn phát triển kinh tế, nâng cao thu nhập,

cải thiện đời sống, làm chủ bản thân và vươn lên thoát nghèo.

"Hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế gia đình, giảm nghèo bền vững" là

nhiệm vụ quan trọng, góp phần giúp phụ nữ có điều kiện tham gia vào các

hoạt động xã hội, đảm bảo thực hiện quyền chình trị của mính.

- Ban hành một số chính sách xã hội nhằm ưu tiên phụ nữ nông thôn và

dân tộc thiểu số

Hiện nay, tỷ lệ phụ nữ tham gia vào lãnh đạo quản lý tương đối thấp,

đặc biệt là phụ nữ nông thôn và dân tộc thiểu số. Nguyên nhân chủ yếu là do

điều kiện vật chất còn nghèo, họ phải lao động như nam giới, đồng thời còn

phải đảm nhận công việc gia đính ví thế tác động đến tư tưởng, nguyện vọng

của họ là ìt nghĩ đến vị trì quyền lực của mính. Do vậy, ngoài việc ban hành

văn bản pháp luật quy định cụ thể các quyền của phụ nữ nói chung, theo tôi

cần có những chình sách riêng đối với phụ nữ nói chung và phụ nữ nông thôn,

dân tộc thiểu số nói riêng. Mục đìch của chình sách xã hội đối với phụ nữ nói

chung và phụ nữ nông thôn, dân tộc thiểu số nói riêng là khuyến khìch phụ nữ

tham gia lao động sản xuất, tạo điều kiện cho phụ nữ nâng cao trính độ và

năng lực, tạo việc làm nâng cao thu nhập cho phụ nữ nghèo ở vùng nông thôn,

miền núi, giảm thiểu gánh nặng trên vai họ, tăng cường công tác quản lý, lãnh

đạo của phụ nữ.

- Mở rộng các hình thức dịch vụ xã hội nhằm hỗ trợ phụ nữ tham gia

vào hoạt động quản lý

Để tạo điều kiện cho phụ nữ tham gia nhiều hơn vào các hoạt động xã

88

hội cũng như hoạt động quản lý, nhà nước cần mở rộng các hính thức dịch vụ

xã hội như giảm nhẹ tối đa việc nhà cho phụ nữ làm công tác lãnh đạo ví hiệu

quả quản lý của phụ nữ ảnh hưởng rất nhiều bởi công việc gia đính. Để giải

phóng phụ nữ khỏi những bận rộn vào công việc gia đính, cần quan tâm

những vẫn đề như: cải thiện và đầu tư phát triển hệ thống nhà trẻ, mẫu giáo,

trường tiểu học, tạo điều kiện cho phụ nữ tập trung vào việc học tập, cần linh

hoạt mở rộng thêm nhiều hính thức trông trẻ ngoài giờ, trông trẻ trọn tuần,

hay trọn tháng nhằm đáp ứng như cầu của phụ nữ khi cần thiết (hội nghị, họp,

công tác xa, làm ca…) và giúp chị em có thêm thời gian, yên tâm công tác.

Đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục, mở rộng quy mô và nâng cao chất

lượng giáo dục và đào tạo. Huy động nguồn lực đầu tư phát triển cơ sở vật

chất, trang thiết bị, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của phụ nữ.

- Chú trọng đào tạo, quy hoạch, bổ nhiệm cán bộ nữ góp phần đảm bảo

quyền chính trị của phụ nữ

Các cấp hội phụ nữ tiếp tục đổi mới nội dung phương thức hoạt động

đảm bảo thiết thực hiệu quả, phù hợp với các đối tượng phụ nữ, hướng hoạt

động về cơ sở, mở rộng các hoạt động liên kết, phối hợp, đa dạng hoá các loại

hính tập hợp thu hút phụ nữ, xây dựng và phát triển phong trào thi đua yêu

nước trong các cấp, các ngành, quan tâm chăm lo giải quyết việc làm, nâng cao

đời sống bảo vệ sức khoẻ và quyền lợi của phụ nữ. Các cấp, các ngành làm tốt

công tác luân chuyển, tăng cường cán bộ lãnh đạo, bồi dưỡng gắn với xem xét

đánh giá mạnh dạn đề bạt, bố trì cán bộ nữ. Thực hiện tốt các chình sách đối

với đảng viên nữ, cán bộ nữ trong lãnh đạo, quản lý, tri thức, khoa học.

Cụ thể hoá quy hoạch, đào tạo bồi dưỡng, bổ nhiệm, luân chuyển đối

với cán bộ nữ lãnh đạo, quản lý đặc biệt quan tâm đến cán bộ nữ là tri thức,

công nhân, người công giáo. Vận dụng chình sách hỗ trợ cán bộ đi đào tạo,

bồi dưỡng tại các trường đảng, đoàn thể ở Trung ương, ở tỉnh, cán bộ nữ

89

đang nuôi con nhỏ dưới 36 tháng tuổi. Chăm lo bồi dưỡng phát triển tài năng

nữ; bố trì phân công, công tác hợp lý để đảng viên nữ có điều kiện phấn đấu,

rèn luyện, trưởng thành trong công tác, đồng thời có điều kiện chăm lo tốt

cho gia đính.

Tạo điều kiện cho cán bộ nữ vươn lên, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong

giai đoạn mới, bính đẳng với nam giới trong lãnh đạo quản lý. Đây là trách

nhiệm của các cấp uỷ đảng, người đứng đầu trong hệ thống chình trị, mặt

khác chị em phụ nữ cũng thấy rõ những hạn chế của mính để tự học hỏi, tự

vươn lên, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ được giao, khẳng định vị thế của mính

trong xã hội và trong gia đính.

3.2.6. Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật và bình đẳng

giới, nâng cao ý thức pháp luật và trình độ dân trí tại tỉnh Phú Yên

Đẩy mạnh công tác tuyên truyền các chủ trương, đường lối của Đảng,

chình sách, pháp luật của Nhà nước và các văn bản chỉ đạo của Trung ương,

của tỉnh liên quan đến phụ nữ, nhất là Luật Bính đẳng giới, Nghị quyết 11-

NQ/TW của Bộ Chình trị khóa X về “Công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh

CNH-HĐH đất nước”. Tập trung vào các văn bản pháp luật có liên quan trực

tiếp đến nhiều đối tượng, đặc biệt là phụ nữ nghèo đối tượng chình sách, đồng

bào dân tộc thiểu số. Tránh tính trạng chỉ tập trung tuyên truyền, phổ biến ở

các vùng đô thị mà không quan tâm nhiều đến các vùng nông thôn, nhất là

vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số trính độ nhận thức, hiểu

biết về pháp luật còn rất hạn chế.

Để nâng cao hiệu quả của công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục

pháp luật và bính đẳng giới, nâng cao ý thức pháp luật và trính độ dân trì thí

nhân tố con người là quan trọng nhất, nó quyết định đến chất lượng, hiệu quả

của công tác này. Điều đó đòi hỏi chúng ta phải tăng cường xây dựng đội ngũ

báo cáo viên, tuyên truyền viên pháp luật vững mạnh cả về số lượng và chất

90

lượng, có phẩm chất chình trị tốt, trính độ chuyên môn vững vàng, có kỹ năng

truyền đạt, am hiểu pháp luật và kiến thức xã hội, có như vậy mới đáp ứng

được yêu cầu nhiệm vụ trong tính hính mới.

Tăng cường mối quan hệ phối hợp giữa các cơ quan, đơn vị. Đây là

việc làm cần thiết nhằm bổ sung, tương trợ lẫn nhau trong công tác tuyên

truyền, phổ biến giáo dục pháp luật và bính đẳng giới, nâng cao ý thức pháp

luật và trính độ dân trì. Tuy công tác này là nhiệm vụ thường xuyên của mỗi

cơ quan, đơn vị nhưng để đạt được hiệu quả cao thí việc phối hợp giữa các cơ

quan, đơn vị là rất cần thiết.

Tăng cường đẩy mạnh các hính thức tuyên truyền, phổ biến giáo dục

pháp luật và bính đẳng giới, nâng cao ý thức pháp luật và trính độ dân trì trên

các phương tiện thông tin đại chúng. Bởi ví, đây là cách nhanh nhất, ìt tốn

kém nhưng hiệu quả lại rất cao. Ngoài việc tăng cường đưa tin về các văn bản

pháp luật mới ban hành thí các ngành với chức năng, nhiệm vụ của mính cần

phối hợp với các cơ quan thông tin đại chúng mở chuyên mục riêng để đề cập

đến các văn bản pháp luật có liên quan đến phụ nữ, quyền của phụ nữ trong

các lĩnh vực kinh tế, chình trị, văn hóa, xã hội..., góp phần làm tăng thêm hiệu

quả trong công tác đảm bảo quyền chình trị của phụ nữ.

Chú trọng tổ chức các cuộc thi tím hiểu pháp luật; mời báo cáo viên tổ

chức tập huấn cho cán bộ, công chức trong cơ quan đơn vị mính các văn bản

pháp luật mới, có liên quan trực tiếp đến quyền của phụ nữ nói chung và

quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chình trị nói riêng.

Phát huy vai trò là tổ chức đại diện bảo vệ quyền, lợi ìch hợp pháp

chình đáng cho phụ nữ của Hội LHPN tỉnh, Hội LHPN các cấp trong tỉnh và

Ban Ví sự tiến bộ phụ nữ tỉnh trong việc ban hành các văn bản chỉ đạo các cơ

quan quản lý Nhà nước lồng ghép vấn đề giới trong việc triển khai thi hành

chình sách, pháp luật trên địa bàn tỉnh, đồng thời ban hành các văn bản quy

91

phạm pháp luật bảo đảm quyền lợi chình đáng cho phụ nữ, đặc biệt trong các

lĩnh vực: Lao động, việc làm, giáo dục, đào tạo, dạy nghề, hôn nhân gia đính,

chăm sóc sức khỏe, bảo vệ bà mẹ, trẻ em, tham gia chình trị-xã hội...

Đẩy mạnh truyền thông qua các phương tiện thông tin đại chúng về

bính đẳng giới trong mọi lĩnh vực, xây dựng mô hính thực hiện thúc đẩy bính

đẳng giới như: Mô hính hỗ trợ phụ nữ tạo việc làm, địa chỉ tin cậy ở cộng

đồng, giảm thiểu tác hại của bạo lực giới, thì điểm dịch vụ tư vấn, hỗ trợ về

bính đẳng giới... Triển khai thực hiện tốt các đề án “Tuyên truyền, giáo dục

phẩm chất đạo đức phụ nữ Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh CNH-HĐH đất

nước”; “Hỗ trợ phụ nữ học nghề, tạo việc làm”... Qua đó đã tạo điều kiện cho

phụ nữ phát huy tiềm năng, thế mạnh, sức sáng tạo trên tất cả các lĩnh vực,

trong đó có lĩnh vực chình trị, giúp chị em tự tin vươn lên khẳng định vai trò,

vị thế trong gia đính và ngoài xã hội.

Tập trung đổi mới nhận thức về phát triển, sử dụng nguồn nhân lực, tạo

sự chuyển biến mạnh ở tất cả các cấp lãnh đạo từ tỉnh đến cơ sở về phát triển

và sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực. Đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục, nâng cao

chất lượng giáo dục theo hướng hiện đại, phù hợp với thực tiễn đào tạo nguồn

nhân lực và đón đầu sự phát triển xã hội, xu hướng hội nhập khu vực và thế

giới. Đẩy mạnh phong trào khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập,

từng bước xây dựng và nâng cấp các trung tâm học tập cộng đồng cấp xã,

nhằm nâng cao trính độ dân trì của tỉnh. Thực hiện công tác quy hoạch, đào

tạo nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức trong hệ thống

chình trị. Thực hiện tốt công tác quy hoạch cán bộ giai đoạn 2015- 2020 để

đào tạo cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, các ngành, chú trọng cán bộ nữ, trẻ,

dân tộc thiểu số... tạo điều kiện thuận lợi để phụ nữ phát triển toàn diện.

Để tiếp tục góp phần vào những nỗ lực chung của đất nước nói chung

và của tỉnh nói riêng, phụ nữ tỉnh Phú Yên cần phát huy những thành tựu đã

92

đạt được, khắc phục những khó khăn, tím ra các giải pháp phù hợp để rèn

luyện sự tự tin, tự chủ, tự lập, tự cường; tìch cực học tập, nâng cao trính độ

văn hóa, chuyên môn và nhận thức, hiểu biết về kỹ năng sống; tăng cường thể

lực, sức khỏe sinh sản, sức khỏe tinh thần; xóa bỏ tâm lý tự ti, an phận, cam

chịu, định kiến; thiếu mạnh dạn, quyết đoán. Tổ chức hợp lý các công việc gia

đính, tạo cơ hội để các thành viên cùng chia sẻ trên cơ sở điều kiện thực tế và

phù hợp với lứa tuổi của mỗi người; giải quyết kịp thời, khéo léo và hiệu quả

các mâu thuẫn nảy sinh trong gia đính; giữ gín phẩm chất, đạo đức của phụ

nữ, của người mẹ để làm gương cho con, cháu. Tham gia trực tiếp và gián tiếp

vào các hoạt động xây dựng Đảng và quản lý nhà nước; tìch cực thực hiện các

cuộc vận động, các phong trào thi đua yêu nước của địa phương, đất nước;

thực hiện có trách nhiệm và hiệu quả các quy định pháp luật và chình sách

của Đảng, Nhà nước và địa phương; kịp thời phê phán, ngăn chặn các hành vi

phân biệt đối xử về giới; thiết lập mối quan hệ hợp tác, chia sẻ trên tinh thần

thiện chì, yêu thương, hài hòa, cảm thông với phụ nữ và đồng nghiệp; mạnh

dạn thể hiện quan điểm, chình kiến trong các hoạt động cộng đồng, cơ quan,

tổ chức… Đây là những giải pháp quan trọng, nhưng phụ nữ chỉ có thể thực

hiện được bính đẳng về cơ hội khi được Đảng, Nhà nước, xã hội và gia đính

93

quan tâm hợp lý.

Tiểu kết chương 3

Đảm bảo quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chình trị cần phải thực hiện

đồng bộ từ chủ trương đến chình sách pháp luật và đảm bảo cơ chế, chế tài

thực hiện. Đồng thời phải chăm lo chình sách đào tạo, tạo nguồn đối với phụ

nữ, quan tâm động viên từ vật chất đến tinh thần để phụ nữ yên tâm công tác

quản lý và tham gia hoạt động xã hội. Đó là những vấn đề phát sinh từ thực

tiễn sự tham gia chình trị của phụ nữ tỉnh Phú Yên trong giai đoạn qua. Đảm

bảo quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chình trị tỉnh Phú Yên bên cạnh những

khó khăn tác động từ đảm bảo hệ thống pháp luật và tình khả thi thực hiện,

còn chịu tác động của điều kiện kinh tế, văn hoá, xã hội. Do vậy cần phải có

những giải pháp thực hiện đồng bộ, phù hợp nhằm tăng cường và nâng cao

94

việc bảo đảm quyền tham gia chình trị của phụ nữ, ví sự tiến bộ của phụ nữ.

KẾT LUẬN

Quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chình trị không phải là sự ưu tiên đơn

thuần ví họ là phụ nữ, mà là tạo cơ hội cần thiết cho phụ nữ nắm bắt được quá

trính vận động của đời sống chình trị - xã hội, tự có trách nhiệm phấn đấu

vươn lên, phát huy khả năng đóng góp của mính cho xã hội, cho đất nước.

Vị thế và vai trò của phụ nữ trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói

riêng tiếp tục được khẳng định. Phụ nữ đã có nhiều thành tựu trên các lĩnh

vực mà họ đã đóng góp từ khoa học, kinh tế, chình trị, văn hóa, xã hội…Phụ

nữ tham gia vào quá trính quản lý đất nước, quản lý xã hội là cần thiết và

không thể thiếu được, là yêu cầu khách quan của xã hội văn minh và phát

triển. Việc đề cử và trao quyền lãnh đạo cho phụ nữ đang là mối quan tâm của

Đảng và Nhà nước ta, đồng thời cũng là nhu cầu tự thân của phụ nữ nhằm

phát huy vai trò của giới trong phát triển kinh tế và còn mang lại lợi ìch cho

bản thân phụ nữ. Nói cách khác, sự tham gia của phụ nữ trong các lĩnh vực

của chình trị vừa mang lại lợi ìch cho xã hội vừa nhằm giải phóng phụ nữ.

Tham gia chình trị của phụ nữ là quá trính nữ giới thực hiện vai trò của mính

trước hết với tư cách là một công dân vào quá trính giành, giữ và thực thi

quyền lực chình trị, tham gia vào công việc của hệ thống chình trị, sau nữa là

tham gia vào lãnh đạo và ra các quyết sách chình trị.

Cùng với nhiều tỉnh trong cả nước, dù là một tỉnh nghèo ở khu vực

miền Trung của đất nước, tỉnh Phú Yên đã xác định việc đảm bảo quyền của

phụ nữ trong lĩnh vực chình trị là một trong những quyền cơ bản, tất yếu đảm

bảo sự tiến bộ của phụ nữ. Trong quá trính thực hiện chình sách, pháp luật về

quyền chình trị của phụ nữ thể hiện một số ưu điểm nhất định. Song vẫn còn

những hạn chế, đó là nhiều quy định của pháp luật vẫn còn nằm trên văn bản,

chưa đảm bảo tổ chức thực hiện trong thực tế của đời sống chình trị - xã hội.

95

Trên thực tế, phụ nữ còn gặp nhiều rào cản từ định kiến giới, cơ chế chình

sách…, làm hạn chế cơ hội tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội, cũng

như con đường thăng tiến của phụ nữ. Do đó, chưa phát huy hết tiềm năng

của lực lượng phụ nữ đóng góp vào sự phát triển của đất nước.

Từ sự phân tìch thực trạng quyền chình trị của phụ nữ tỉnh Phú Yên, đề

tài chỉ ra một số tồn tại, hạn chế, đồng thời bước đầu đưa ra một số đề xuất,

giải pháp cụ thể về quyền chình trị của phụ nữ nhằm góp phần đảm bảo quyền

của phụ nữ trong lĩnh vực chình trị qua đó góp phần đảm bảo quyền tham gia

chình trị của phụ nữ trong toàn quốc ví sự tiến bộ của phụ nữ trong giai đoạn

mới, giai đoạn toàn cầu hóa, xu thế hội nhập quốc tế.

Tăng cường đảm bảo quyền chình trị của phụ nữ không nằm ngoài

hoàn thiện chình sách pháp luật về quyền chình trị của phụ nữ. Tăng cường

đảm bảo quyền chình trị của phụ nữ không chỉ là nhu cầu xuất phát từ

đường lối, chủ trương của Đảng, Nhà nước, từ yêu cầu khách quan của thời

kỳ mới, mà còn nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển của đất nước, nhu cầu của

phụ nữ, của xã hội và thực hiện những cam kết quốc tế mà Việt Nam đã ký

kết, tham gia.

Đảm bảo quyền chình trị của phụ nữ cũng chình là biện pháp quan

trọng góp phần thúc đẩy và nâng cao vị thế của Việt Nam trong con mắt bạn

bè quốc tế, về hính ảnh nước Việt Nam dân chủ, bính đẳng, phát triển và bảo

96

đảm nhân quyền.

1. Ban Ví sự tiến bộ phụ nữ tỉnh Phú Yên (2010), Báo cáo đánh giá kết

TÀI LIỆU THAM KHẢO

2. Ban Ví sự tiến bộ phụ nữ tỉnh Phú Yên (2010), Báo cáo tổng kết tính

quả tỷ lệ phụ nữ tham gia cấp uỷ các cấp nhiệm kỳ 2010-2015.

hính thực hiện chiến lược Quốc gia ví sự tiến bộ của phụ nữ đến năm

3. Ban Ví sự tiến bộ phụ nữ tỉnh Phú Yên (2015), Báo cáo tình hình hoạt

2010, phương hướng nhiệm trong giai đoạn tới.

4. Bộ Ngoại giao và Uỷ ban Quốc gia ví sự tiến bộ của phụ nữ (2005), Báo

động vì sự tiến bộ của phụ nữ tỉnh Phú Yên.

cáo quốc gia lần thứ 5 và 6 về tính hính thực hiện Công ước Liên Hợp

5. Báo cáo của Ủy ban quốc gia VSTB của phụ nữ tại khóa họp lần thứ 59

quốc về xoá bỏ mọi hính thức phân biệt đối xử với phụ nữ (CEDAW).

6. Bộ luật Hính sự năm 2015.

7. Chình phủ (2012), Nghị định 56/2012/NĐ-CP quy định trách nhiệm của

của Ủy ban Địa vị Phụ nữ Liên hợp quốc (CSW 59) ngày 9/3/2015.

Bộ, Ngành, Ủy ban nhân dân các cấp trong việc đảm bảo cho các cấp

8. Chình phủ (2010), Quyết định 2351/QĐ-TTg ngày 24/12/2010 phê

Hội LHPN Việt Nam tham gia quản lý nhà nước.

9. Đại học Quốc gia (2012), Giới thiệu Công ước quốc tế về các quyền dân

duyệt Chiến lược quốc gia về bính đẳng giới giai đoạn 2010 – 2020.

10. Đặng Chì Dũng “Đảm baỏ quyền con người ở Việt Nam và những vấn

sự và chính trị (IICCPR, 1966), Nxb Hồng Đức, Hà Nội.

11. Đề tài “Quyền bình đẳng giới ở Việt Nam hiện nay” của thạc sỹ Nguyễn

đề đặt ra hiện nay” Tạp chì Cộng sản 2014 (số 860).

12. Giáo trính Cao cấp lý luận chình trị “Triết học Mác - Lênin” của Học

Thị Thanh Hiền năm 2014.

97

viện chình trị quốc gia Hồ Chì Minh năm 2014.

13. Giáo trính Cao cấp lý luận chình trị “Đường lối của Đảng Cộng sản Việt

Nam về một số lĩnh vực chủ yếu của đời sống xã hội” của Học viện chình

14. Giáo trính Cao cấp lý luận chình trị “Chính trị học” của Học viện chình

trị quốc gia Hồ Chì Minh năm 2014.

15. Giáo trính Cao cấp lý luận chình trị “Nâng cao năng lực lãnh đạo và

trị quốc gia Hồ Chì Minh năm 2014.

sức chiến đấu của đảng trong điều kiện đảng cầm quyền” của Học viện

16. Giáo trính Cao cấp lý luận chình trị “Xây dựng Đảng” của Học viện

chình trị quốc gia Hồ Chì Minh năm 2014.

17. Hiến pháp Việt Nam năm 1946, 1959, 1980, 1992 và 2013. Nhà Xuất

chình trị quốc gia Hồ Chì Minh năm 2014.

18. Học viện chình trị quốc gia Hồ Chì Minh, Trung tâm nghiên cứu quyền

bản Chình trị Quốc gia Hà Nội, 2014.

con người (2002), “Một số văn kiện quốc tế cơ bản về quyền con

19. Hồ Chì Minh toàn tập (1995), t4, Nhà xuất bản Chình trị quốc gia, Hà

người”, Nxb Học viện chình trị quốc gia Hồ Chì Minh, Hà Nội.

20. Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh Phú Yên, Dự thảo Báo cáo: Đánh giá phong

Nội, tr.8.

trào phụ nữ và hoạt động Hội nhiệm kỳ 2011-2016; mục tiêu, nhiệm vụ,

giải pháp nhiệm kỳ 2016-2021 (Trính tại Đại hội đại biểu Phụ nữ tỉnh

21. Hội thảo của Bộ Lao động TBXH về “Tăng cường phụ nữ tham chính”

Phú Yên lần thứ XV).

22. Hội thảo khoa học của Trung ương Hội LHPN Việt Nam về “Giải pháp

tháng 7/2014.

23. Luật Bầu cử đại biểu Quốc Hội và đại biểu Hội đồng nhân dân năm

nâng cao công tác cán bộ nữ” tháng 3/2015.

98

2016.

24. Nhà Xuất bản phụ nữ (1999), Công ước về xoá bỏ mọi hính thức phân

25. Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XI, Nxb Chình trị quốc gia, Hà Nội.

26. Nghị quyết đại hội Đảng bộ tỉnh Phú Yên lần thứ XX (2010 – 2015).

27. Nghị quyết Đại hội phụ nữ toàn quốc lần thứ X (2006 – 2011).

28. Nghị quyết Đại hội phụ nữ toàn quốc lần thứ XI (2011- 2016).

29. Nghị quyết Đại hội phụ nữ tỉnh Phú Yên lần thứ XI (2006-2011).

30. Nghị quyết Đại hội phụ nữ tỉnh Phú Yên lần thứ XII (2011-2016).

31. PGS.TS. Nguyễn Thị Việt Hương, Các điều kiện bảo đảm thực thi

biệt đối xử với phụ nữ (CEDAW), Hà Nội.

quyền con người, Hội thảo khoa học quốc tế: Tình phổ biến và tình đặc

32. Phạm Thị Ngọc Hà “Bính đẳng giới trong lĩnh vực chình trị ở tỉnh Phú

thù của quyền con người, Hà Nội ngày 16-17/03/2010.

33. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2005), Bộ Luật

Yên – thực trạng và một số giải pháp” Học viện chình trị khu vực III.

34. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2007), Luật bính

dân sự 2005.

35. Sổ tay thống kê giới ở Việt Nam tháng 3/2013 của Cục thống kê Việt

đẳng giới năm 2007.

36. Sở Lao động- Thương binh và xã hội (2015), Báo cáo sơ kết 5 năm tính

Nam.

hính thực hiện Chiến lược Quốc gia về bính đẳng giới giai đoạn 2011-

37. Tài liệu “Giới và phát triển” Trường Đại học lao động – xã hội năm

2020 trên địa bàn tỉnh Phú Yên.

38. Tài liệu “Lồng ghép giới trong trong quản trị nhân lực” Trường Đại học

2015.

99

lao động – xã hội năm 2015.

39. Tạp chì „Miền trung và Tây nguyên trên đường CNH, HĐH” của Học

40. Văn phòng thường trực về nhân quyền và Học viện Chình trị quốc gia

viện chình trị khu vực III năm 2014.

Hồ Chì Minh, Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân

41. Văn Hồng Nhung “phá bỏ rào cản để nâng cao phụ nữ tham chính” Tạp

trong Hiến pháp Việt Nam (Sách chuyên khảo), Hà Nội, 2015.

42. Viện Khoa học xã hội Việt Nam (2011), Những vấn đề lý luận và thực

chì Nhân quyền Việt Nam số 3/2015.

43. Viện Nghiên cứu Quyền con người năm 2008 “Bính luận và khuyến

tiễn của nhóm quyền dân sự và chình trị, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

nghị chung của các ủy ban công ước thuộc Liên hợp quốc về quyền con

44. Võ Khánh Vinh (chủ biên) - Viện Khoa học xã hội Việt Nam “Những

người” Nxb Công an nhân dân.

vấn đề lý luận và thực tiễn của nhóm quyền dân sự và chính trị”, Nxb

45. V.l. Lênin (1975), toàn tập, tập 40, Nxb Tiến bộ Mát- xcơ-va, tr.22.

46. V.l. Lênin (1975), toàn tập, tập 6, Nxb Tiến bộ Mát- xcơ-va, tr.263.

100

Khoa học xã hội, năm 2012.

101