BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
PHẠM THỊ THƠM
QUYỀN CỦA PHỤ NỮ KHI LY HÔN THEO
PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SỸ
LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH
Hà Nội, năm 2018
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
PHẠM THỊ THƠM
QUYỀN CỦA PHỤ NỮ KHI LY HÔN THEO
PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH
Mã số: 8380102
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. LÊ THỊ HƢƠNG
Hà Nội, năm 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn thạc sĩ “Quyền của phụ nữ khi ly hôn theo theo
pháp luật Việt Nam hiện nay” là công trình nghiên cứu do tôi viết dưới sự
hướng dẫn của PGS.TS. Lê Thị Hương. Các trích dẫn và kết quả nghiên cứu nêu
trong luận văn là trung thực và rõ ràng.
Hà Nội, ngày 26 tháng 10 năm 2018
Tác giả
Phạm Thị Thơm
LỜI CẢM ƠN
Học viên cảm ơn Ban giám hiệu Học viện Hành chính Quốc gia, khoa cơ
bản và toàn thể các thầy giáo cô giáo của Học viện đã tận tình giảng dạy hướng
dẫn nghiên cứu khoa học và tạo điều kiện giúp đỡ học viên hoàn thành chương
trình học tập tại trường.
Đặc biệt, học viên xin trân trọng cảm ơn Phó giáo sư, Tiến sĩ Lê Thị
Hương, người đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ học viên trong quá trình nghiên
cứu, xây dựng và hoàn thành Luận văn này.
Học viên xin trân trọng cảm ơn các đồng chí lãnh đạo Tòa Án Nhân Dân
thành phố Hà Nội, Tòa Án Nhân Dân Tối Cao đã tạo điều kiện và giúp đỡ cho
học viên trong quá trình thu thập thông tin và số liệu để thực hiện Luận văn này.
Dù đã có nhiều cố gắng trong quá trình thực hiện, song chắc chắn rằng
luận văn sẽ không thể chánh khỏi một vài thiếu sót. Học viên mong được sự
tham gia, bổ sung đóng góp ý kiến của các cô giáo, thầy giáo và các đồng chí
đồng nghiệp để luận văn này được hoàn thiện hơn.
Xin trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, ngày 26 tháng 10 năm 2018
Tác giả
Phạm Thị Thơm
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
1. BLDS: Bộ luật dân sự
2. BLLĐ: Bộ luật lao động
3. HN & GĐ: Hôn nhân và gia đình
4. QSDĐ: Quyền sử dụng đất
5. LĐN: Lao động nữ
6. TANDTC: Tòa án Nhân Dân tối cao
7. TTDS: Tố tụng dân sự
8. XHCN: Xã hội chủ nghĩa
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 1
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ QUYỀN CỦA
PHỤ NỮ KHI LY HÔN ........................................................................................ 8
1.1. Ly hôn ..................................................................................................................... 8
1.2. Quyền của phụ nữ khi ly hôn ............................................................................. 15
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng và các điều kiện bảo đảm quyền của phụ nữ khi ly
hôn ................................................................................................................................. 26
Chương 2. THỰC TRẠNG QUYỀN CỦA PHỤ NỮ KHI LY HÔN ................ 35
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY .................................................. 35
2.1. Các quy định pháp luật hiện hành về quyền của phụ nữ khi ly hôn .................... 35
2.2. Thực trạng thực hiện quy định pháp luật hiện hành về quyền của phụ nữ khi
ly hôn ............................................................................................................................ 45
2.3. Nhận xét chung về quyền của phụ nữ khi ly hôn theo pháp luật Việt Nam hiện
nay ................................................................................................................................. 54
Chương 3. QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUYỀN CỦA PHỤ
NỮ KHI LY HÔN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY .................................................. 70
3.1. Quan điểm hoàn thiện quyền của phụ nữ khi ly hôn ....................................... 70
3.2. Giải pháp hoàn thiện quyền của phụ nữ khi ly hôn ......................................... 73
KẾT LUẬN ....................................................................................................... 100
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................. 101
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hôn nhân và gia đình (HN&GĐ) là hiện tượng xã hội luôn được các
nhà triết học, xã hội học, luật học nghiên cứu, là một hình thái đặc biệt của
quan hệ con người, nó không những phản ánh chế độ xã hội mà còn thể hiện
sự tiến bộ, văn minh của xã hội đó. Hôn nhân là cơ sở của gia đình, còn gia
đình là tế bào nhỏ nhất của xã hội trong đó kết hợp chặt chẽ, hài hòa lợi ích
của mỗi công dân, Nhà nước và xã hội.
Đời sống hôn nhân của vợ chồng vô cùng phong phú và đa dạng, ở đó
không những chỉ phát sinh quan hệ nhân thân mà còn tồn tại quan hệ tài sản
giữa vợ và chồng. Ly hôn là việc chấm dứt quan hệ vợ chồng theo bản án,
quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án. Ly hôn là mặt trái của kết hôn,
việc giải quyết ly hôn và hậu quả của nó luôn mang đến những hệ lụy nhất
định. Vấn đề được các bên quan tâm và thường xảy ra tranh chấp khi ly hôn
chính là giải quyết quyền lợi của vợ chồng.
Dưới sự tác động mạnh mẽ của kinh tế thị trường, tính chất mối quan hệ
giữa các thành viên trong gia đình cũng có nhiều thay đổi. Vì vậy, các quy định
điều chỉnh quyền lợi của vợ chồng luôn được các nhà làm luật quan tâm và xây
dựng để trở thành một trong những chế định quan trọng nhất của pháp luật hôn
nhân và gia đình. Trong xã hội hiện đại, để bảo đảm đời sống chung của gia
đình và lợi ích thiết thực của bản thân mỗi thành viên trong gia đình, vợ chồng
có nhu cầu tham gia vào các quan hệ xã hội được pháp luật điều chỉnh. Khi tình
cảm vợ chồng rạn nứt, đổ vỡ, vợ chồng có quyền tự thỏa thuận việc chia tài sản
chung, quyền nhân thân và một số quyền khác của họ, nhưng khi họ không
thỏa thuận được thì việc vận dụng những quy định của pháp luật hôn nhân và
gia đình để giải quyết quyền của vợ chồng, đặc biệt là quyền của người phụ nữ
khi ly hôn là điều cần thiết để bảo đảm quyền và lợi ích cho các bên.
1
Xuất phát từ vị trí, vai trò quan trọng của gia đình mà Đảng và Nhà
nước ta luôn luôn dành sự quan tâm to lớn đối với vấn đề HN&GĐ. Ly hôn là
một hiện tượng xã hội phức tạp, vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi và
hạnh phúc của vợ chồng, đến lợi ích của gia đình và xã hội. Với tư cách là
một mặt của quan hệ hôn nhân, pháp luật hôn nhân và gia đình xây dựng một
phần gọi là chế định ly hôn, nhằm điều chỉnh quan hệ nhân thân, tài sản giữa
các đối tượng muốn ly hôn và con cái họ. Phụ nữ là các đối tượng đặc biệt cần
sự quan tâm và chăm sóc đặc biệt nên pháp luật hôn nhân và gia đình Việt
Nam đã ghi nhận quyền của phụ nữ như một nguyên tắc cơ bản mang tính
chất dẫn đường xuyên suốt toàn bộ luật. Chế định ly hôn cũng không nằm
ngoài nguyên tắc cơ bản này. Do những đặc thù của việc ly hôn nên việc đảm
bảo nguyên tắc bảo vệ quyền của người phụ nữ khi ly hôn là hoàn toàn cần
thiết và phù hợp với xu hướng thời đại.
Trong những năm gần đây, cùng với những thay đổi về kinh tế - xã hội,
quan hệ giữa con người với con người trong đó có quan hệ HN&GĐ cũng bị
tác động mạnh mẽ. Theo số liệu thống kê của Tòa án các cấp, trong cả nước
hàng năm số lượng các vụ án về HN&GĐ mà Tòa án đã thụ lý giải quyết trên
165.000 vụ việc (số liệu thống kê của TANDTC báo cáo cho thấy năm 2014
Tòa án cả nước thụ lý 165.032 vụ án, năm 2015 thụ lý 181.939 vụ), chủ yếu là
ly hôn và tranh chấp tài sản mà phần thiệt chủ yếu là phụ nữ và trẻ em. Tới
nay Việt Nam đã có những chính sách khá đầy đủ và một hệ thống pháp luật
tương đối hoàn thiện để bảo vệ quyền lợi của phụ nữ và trẻ em trong các vụ
án ly hôn. Điều này được thể hiện ở các quy định pháp luật HN&GĐ, các
công ước quốc tế về bảo vệ quyền của phụ nữ và trẻ em mà Việt Nam đã ký
kết hoặc gia nhập. Tuy nhiên, trên thực tế cho thấy, việc bảo vệ quyền lợi của
người vợ và con trong các vụ án ly hôn liên quan đến vấn đề tài sản còn nhiều
vướng mắc và bất cập. Vì vậy, việc nghiên cứu một số vấn đề lý luận và thực
tiễn áp dụng các quy định của pháp luật nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng
2
của phụ nữ, trong đó bao gồm bảo vệ quyền lợi chính đáng của phụ nữ khi ly
hôn là hết sức quan trọng, có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn.
Xuất phát từ lý do nêu trên, tôi lựa chọn nghiên cứu đề tài: "Quyền của
phụ nữ khi ly hôn theo Pháp luật Việt Nam hiện nay " làm công trình
nghiên cứu cho luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn
Đã có một số công trình khoa học nghiên cứu ở nhiều cấp độ khác
nhau đề cập trực tiếp hoặc có liên quan tới vấn đề quyền của phụ nữ khi ly
hôn như sau:
Nhóm luận văn, luận án: Ở nhóm này có thể liệt kê đến một số công
trình nghiên cứu khoa học tiêu biểu như:
- Chế độ tài sản của vợ, chồng theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt
Nam năm 2000, Luận án Tiến sĩ luật học, của Nguyễn Văn Cừ, Trường Đại
học Luật Hà Nội, 2004 [6]. Luận văn đề cập chủ yêu đến chế độ tài sản của
vợ, chồng trong khối tài sản chung hợp nhất cả trong quá trình hôn nhân và
trường hợp chia tài sản vợ chồng khi ly hôn, từ đó đánh giá những thành tựu
và hạn chế trong quá trình áp dụng pháp luật về chế định tài sản chung của vợ
chồng theo luật hôn nhân gia đình năm 2000.
- "Bảo vệ quyền lợi phụ nữ theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam
năm 2000”, Luận văn Thạc sĩ luật học, của Bùi Thị Mừng, Trường Đại học
Luật Hà Nội [23]. Trong luận văn đề cập đến vấn đề bảo vệ những quyền lợi
hợp pháp của phụ nữ theo luật hôn nhân gia đình năm 2000, trong đó có nêu
lên những vấn đề lý luận và thực tiễn về những quyền nhân thân, quyền tài
sản, quyền làm mẹ.. của phụ nữ.
- Giải quyết tranh chấp tài sản của vợ chồng khi ly hôn theo Luật Hôn
nhân và gia đình Việt Nam năm 2000, Luận văn Thạc sĩ luật học của Phạm
Thị Ngọc Lan, Khoa Luật - Đại học Quốc gia, 2008 [11]. Luận văn đã đề cập
3
đến những vấn đề lý luận và thực tiễn về giải quyết tranh chấp tài sản giữa vợ
và chồng khi ly hôn theo pháp luật Việt Nam về hôn nhân gia đình năm 2000.
- Nguyên tắc bảo vệ quyền lợi của cha, mẹ và con trong Luật Hôn nhân
và gia đình Việt Nam năm 2000, Khóa luận tốt nghiệp của Lê Thu Lý, Trường
Đại học Luật Hà Nội, 2008 [19]. Khóa luận tốt nghiệp mới chỉ dừng lại ở mức
khái quát những vấn đề lý luận về các nguyên tắc bảo vệ quyền lợi của cha,
mẹ và con trong Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000.
- Nguyên tắc bảo vệ quyền lợi của phụ nữ và trẻ em khi ly hôn theo
Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000, Khóa luận tốt nghiệp, của
Nguyễn Thị Phương Thảo, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, 2007 [38].
Đã luận bàn về các nguyên tắc bảo vệ quyền lợi của phụ nữ và trẻ em khi ly
hôn.
- Bảo vệ quyền lợi của con khi cha mẹ ly hôn, Khóa luận tốt nghiệp, của
Hồ Thị Nga, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2007 [25]. Khóa luận đề cập đến
quyền lợi của con – người bị động, yếu thế trong quan hệ ly hôn.
- Nguyên tắc bảo vệ quyền lợi chính đáng của vợ và các con khi vợ
chồng ly hôn theo luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000, Luận văn
Thạc sĩ, Khoa Luật, Đại học Quốc Gia Hà Nội của Lê Thu Trang, 2012 [40].
- Giải quyết tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn
(2014), Luận văn thạc sĩ, Khoa Luật, Đại học quốc gia Hà Nội của Đinh Thị
Minh Mẫn [21], cũng đã đề cập được một phần nội dung quyền tài sản của
người vợ khi ly hôn.
- Pháp luật về chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn từ thực tiễn
xét xử của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định Luận văn thạc sĩ, Khoa Luật, Học
viện khoa học xã hội; Nguyễn Thị Hạnh (2012) [9]. Tác giả Đinh Thị Hạnh đã
nêu ra được những vấn đề lý luận về pháp luật về chia tài sản chung của vợ
chồng khi ly hôn cũng như thực tiễn áp dụng pháp luật về chia tài sản chung
của vợ chồng tại tỉnh Bình Định.
4
- Chia tài sản chung của vợ chồng theo pháp luật Việt Nam, thực tiễn
áp dụng và hướng hoàn thiện, Luận văn thạc sĩ, Khoa Luật, Học viện khoa
học xã hội của Nguyễn Thanh Mai (2012) [20], đã nghiên cứu vấn đề chia tài
sản chung của vợ chồng.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật về quyền
của phụ nữ khi ly hôn ở Việt Nam trên cơ sở hệ thống hóa cơ sở lý luận cũng
như phân tích thực trạng pháp luật hiện hành.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hóa sơ sở lý luận về quyền của phụ nữ khi ly hôn thông qua
việc làm sáng tỏ khái niệm, đặc điểm, nội dung cũng như các yếu tố ảnh
hưởng và điều kiện bảo đảm.
- Đánh giá có hệ thống và khái quát về thực trạng pháp luật về quyền
của phụ nữ khi ly hôn ở Việt Nam. Nêu rõ ưu điểm, hạn chế và đưa ra được
nguyên nhân có nhữngưu điểm và hạn chế đó.
- Đề xuất các giải pháp cơ bản nhằm hoàn thiện quy định pháp luật về
quyền của phụ nữ khi ly hôn ở Việt Nam hiện nay.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu:
- Các quan điểm khoa học liên quan đến quyền của phụ nữ khi ly hôn.
- Các chủ trương, nghị quyết của Đảng; chính sách, pháp luật của Nhà
nước về quyền của phụ nữ khi ly hôn.
- Thực tiễn tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật về quyền của phụ
nữ khi ly hôn ở Việt Nam hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu:
- Về nội dung: Các quy định về bảo đảm quyền của phụ nữ trong quan
hệ nhân thân, trong quan hệ tài sản, trong việc thực hiện quyền của cha mẹ
đối với con khi ly hôn ở Việt Nam hiện nay.
5
- Về không gian: Trên lãnh thổ Việt Nam
- Về thời gian: Từ khi có Hiến pháp 2013 đến nay.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Phương pháp luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy
vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lenin; Các
nguyên tắc nền tảng của luật nhân quyền quốc tế; Các quan điểm về quyền
bình đẳng giới, về quyền bình đẳng vợ chồng và quyền của phụ nữ khi ly hôn.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp quy nạp: Dùng để phân tích luận giải các các khái niệm
đặc điểm và quá trình thực hiện quyền của phụ nữ khi ly hôn.
- Phương pháp lịch sử: được sử dụng khi nghiên cứu, tìm hiểu quyền
của người phụ nữ khi ly hôn theo pháp luật Việt Nam qua các thời kỳ.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: được sử dụng khi phân tích các
vấn đề liên quan đến quyền của người phụ nữ khi ly hôn và khái quát những
nội dung cơ bản của từng vấn đề được nghiên cứu trong luận văn.
- Phương pháp so sánh: được thực hiện nhằm tìm hiểu quy định của
pháp luật hiện hành với hệ thống pháp luật trước đây ở Việt Nam cũng như
pháp luật một số nước khác quy định về quyền của người phụ nữ khi ly hôn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Luận văn là công trình nghiên cứu đầu tiên về quyền của phụ nữ khi
ly hôn theo pháp luật Việt Nam hiện nay.
- Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần cung cấp những tri thức
khoa học cơ bản mang tính lý luận được nhìn nhận dưới góc độ quyền con
người về quyền của phụ nữ khi ly hôn; giúp người đọc nhận thức đầy đủ và
toàn diện hơn quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về
quyền và đảm bảo quyền của phụ nữ khi ly hôn.
6
- Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho công tác nghiên
cứu giảng dạy, học tập trong các trường Đại học chuyên ngành luật và không
chuyên ngành luật, hệ thống các trường chính trị của Đảng, cho những người
đang trực tiếp làm công tác giải quyết án HN&GĐ tại TAND nói chung.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm ba chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp lý về quyền của phụ nữ khi ly
hôn
Chương 2: Thực trạng quyền của phụ nữ khi ly hôn theo pháp luật Việt
Nam hiện nay
Chương 3: Quan điểm và giải pháp hoàn thiện quyền của phụ nữ khi ly
hôn theo ở Việt Nam hiện nay
7
Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ QUYỀN
CỦA PHỤ NỮ KHI LY HÔN
1.1. Ly hôn
1.1.1. Khái niệm
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, hôn nhân nói chung, ly
hôn nói riêng là hiện tượng xã hội mang tính giai cấp. Pháp luật xã hội chủ
nghĩa (XHCN) thừa nhận quan hệ hôn nhân xây dựng trên cơ sở tình yêu chân
chính, tự do và tự nguyện của đôi nam nữ, điều này được thể hiện trong việc
kết hôn cũng như ly hôn. Có thể nói, quyền tự do ly hôn xuất phát từ bản chất
của chế độ xã hội. Ở chế độ XHCN là chế độ duy nhất xây dựng một nền dân
chủ thực sự mà trong đó quyền lợi của tất cả mọi người thuộc các tầng lớp
khác nhau đều được đảm bảo. Ly hôn chính là sự giải phóng cho vợ chồng khi
bản chất cuộc hôn nhân không tồn tại trên thực tế và Nhà nước cho phép họ ly
hôn. Điều này không những đem lại lợi ích cho cả vợ chồng mà còn bảo vệ
được lợi ích của Nhà nước và xã hội.
Chấm dứt hôn nhân bằng cách ly hôn là một biện pháp được thừa nhận
từ rất sớm trong luật Việt Nam. Tại Bộ Quốc triều hình luật Ðiều 308 có ghi:
Phàm chồng đã bỏ lửng vợ 5 tháng mà không đi lại (vợ được trình với quan
sở tại và xã quan làm chứng), thì mất vợ. Nếu vợ đã có con, thì cho hạn 1
năm. Vì việc quan phải đi xa, thì không theo luật này. Nếu đã bỏ vợ, mà lại
ngăn cản người khác lấy vợ mình, thì phải tội biếm. Thực ra, điều luật được
viết không tốt lắm, nhưng thực tiễn ly hôn vẫn được ghi nhận. Việc ly hôn
cũng được thừa nhận tại Bộ luật Giai Long Ðiều 108 (thuận tình ly hôn).
Trong thời kỳ thuộc địa, chế định ly hôn được xây dựng dựa theo
khuôn mẫu Pháp (Dân Luật giản yếu thiên thứ VI, BLDS (Bộ luật Dân sự)
Bắc Ðiều 116 đến 150; BLDS Trung Ðiều 115 đến 147). Sau Cách mạng
8
Tháng Tám 1945, ly hôn được thừa nhận như là một trong những biện pháp
giải phóng phụ nữ khỏi sự kìm hãm của chế độ hôn nhân và gia đình phong
kiến. Có một thời kỳ ngắn, người làm luật miền Nam cấm ly hôn vì lý do tôn
giáo (Luật gia đình năm 1959 Ðiều 55); nhưng quy định cấm này có tuổi thọ
không dài lắm. Nói chung, chế định ly hôn được liên tục hoàn thiện trong luật
Việt Nam hiện đại. Lúc đầu, chế định ly hôn được phát triển dựa trên tư tưởng
giải phóng phụ nữ nhưng dần dần, việc quan tâm hoàn thiện chế định này
được thôi thúc nhiều hơn bởi yêu cầu bảo đảm sự phát triển lành mạnh của
con trong môi trường gia đình không hạnh phúc và đổ vỡ do những mâu
thuẫn không thể điều hòa giữa cha và mẹ.
Cần lưu ý rằng trong luật cổ, việc chấm dứt quan hệ hôn nhân trong lúc
cả vợ và chồng đều còn sống có thể đạt được không chỉ bằng con đường ly
hôn mà còn bằng cách rẫy vợ. Biện pháp rẫy vợ cho phép người chồng, trong
những trường hợp được luật dự kiến, đuổi người vợ ra khỏi nhà và chấm dứt
quan hệ hôn nhân mà không cần tiến hành các thủ tục tư pháp. Trong thời kỳ
thuộc địa, việc rẫy vợ bị cấm ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ sau khi có các Bộ luật
dân sự Bắc (Ðiều 116) và Trung (Ðiều 115) [5] ; trong khi đó, do Bộ dân luật
giản yếu không có quy định rõ ràng, các Tòa án Nam Kỳ không có thái độ
nhất quán ở điểm này.
Sau Cách mạng Tháng Tám 1945, ly hôn được xem như một trong
những biện pháp giải phóng phụ nữ khỏi sự kềm hãm của chế độ hôn nhân và
gia đình phong kiến. Văn bản đầu tiên có những quy tắc pháp lý mới về ly
hôn là Sắc lệnh số 159-SL ngày 17/11/1950, một văn bản rất ngắn gọn và
không có đầy đủ các quy tắc cần thiết, nhưng thể hiện được chủ trương của
người làm luật xoá bỏ hệ thống pháp lý về ly hôn dựa trên quan niệm bất bình
đẳng giữa nam và nữ (Sắc lệnh thừa nhận khả năng ly hôn do lỗi, do một bên
mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh hiểm nghèo, thậm chí do không hợp tính tình
(Điều 2), cũng như do có sự thuận tình giữa vợ và chồng về việc chấm dứt
9
cuộc sống chung (Điều 3). Nói chung, các trường hợp ly hôn trong Sắc lệnh
được dự kiến trên cơ sở tham khảo ). Đến năm 1959, người làm luật bắt đầu
xây dựng chế độ ly hôn mới dựa trên tư tưởng chủ đạo theo đó, việc ly hôn
được cho phép một khi “tình trạng trầm trọng, cuộc sống chung không thể kéo
dài, mục đích của hôn nhân không đạt được” (Luật hôn nhân và gia đình năm
1959 Điều 26). Trong chế độ ly hôn mới đó, các trường hợp ly hôn được phân
loại tùy theo yêu cầu ly hôn xuất phát từ ý chí của cả vợ và chồng hay của
một trong hai người, chứ không căn cứ vào tính chất, đặc điểm của các sự
kiện được coi là nguyên nhân của sự tan vỡ quan hệ vợ chồng, như trước.
Trong thời kỳ đất nước chia đôi, người làm luật miền Nam có lúc cấm
ly hôn vì lý do tôn giáo (Điều 55 Luật Gia đình năm 1959) nhưng quy định
cấm này có tuổi thọ không dài lắm. Từ năm 1964 cho đến khi hệ thống luật
của chế độ Sài Gòn bị huỷ bỏ, việc ly hôn ở miền Nam được chi phối bởi các
quy tắc được xây dựng từ sự pha trộn giữa luật thời kỳ thuộc địa và luật của
Pháp, nghĩa là vẫn đặc biệt chú trọng việc bảo vệ các quyền lợi của người
chồng.
Sau khi đất nước thống nhất, pháp luật về ly hôn được tiếp tục hoàn
thiện trên cơ sở quan niệm ly hôn được xây dựng trong Luật Hôn nhân và gia
đình năm 1959. Lúc đầu, chế định ly hôn được phát triển dựa trên tư tưởng
giải phóng phụ nữ; dần dần, việc quan tâm hoàn thiện chế định này được thôi
thúc nhiều hơn bởi yêu cầu bảo đảm sự phát triển lành mạnh của con trong
môi trường gia đình không hạnh phúc và đổ vỡ do những mâu thuẫn không
thể điều hoà giữa cha và mẹ. Yêu cầu đó được khẳng định rõ nét trong Luật
hôn nhân và gia đình năm 1986 và được củng cố trong Luật Hôn nhân và gia
đình năm 2000 và hiện tại là Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Nhìn nhận
một cách tổng quát, ly hôn trong luật Việt Nam hiện đại được ghi nhận như
một biện pháp bảo đảm tự do cá nhân (của vợ và của chồng) trong quan hệ gia
đình, đồng thời bảo đảm sự dung hoà giữa các lợi ích trở nên trái ngược do sự
10
quay lưng của vợ chồng đối với nhau, trong đó có cả (và nhất là) lợi ích của
con cái sinh ra từ cuộc hôn nhân giữa các đương sự.
Ly hôn là việc chấm dứt quan hệ hôn nhân ngay trong lúc cả vợ và
chồng đều còn sống. Ðây là biện pháp cuối cùng mà luật cho phép thực hiện
trong trường hợp cuộc sống vợ chồng lâm vào tình trạng khủng hoảng mà
không thể được khắc phục bằng bất kỳ biện pháp nào khác. Nguyên nhân của
sự khủng hoảng khá đa dạng: bất đồng ý kiến kéo dài, đối nghịch về quan
niệm sống, thần tượng sụp đổ, ngoại tình... Nhưng tất cả các trường hợp ly
hôn đều có chung một đặc điểm: vợ hoặc chồng hoặc cả hai không muốn tiếp
tục duy trì quan hệ hôn nhân và muốn được tự do.
Theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, nếu xét thấy tình trạng trầm
trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt
được, thì Tòa án quyết định cho ly hôn. Ly hôn là việc chấm dứt hôn nhân, là
kết quả của hành vi có ý chí của vợ chồng hoặc một bên vợ hoặc một bên
chồng và có giá trị pháp lý khi được Tòa án có thẩm quyền công nhận. Đây
có thể coi là biện pháp cuối cùng để chấm dứt tình trạng hôn nhân không thể
cứu vãn được "Ly hôn là chấm dứt quan hệ hôn nhân do Tòa án công nhận
hoặc quyết định theo yêu cầu của vợ hoặc chồng hoặc cả hai vợ chồng" [35].
1.1.2. Các trường hợp ly hôn và căn cứ ly hôn
1.1.2.1. Các trường hợp ly hôn
Theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự Việt Nam thì có hai thủ tục
giải quyết ly hôn là: Thủ tục giải quyết việc dân sự (yêu cầu công nhận thuận
tình ly hôn) và thủ tục giải quyết vụ án dân sự (ly hôn đơn phương theo yêu
cầu của một bên vợ/chồng). Từ đó, có thể thấy có hai trường hợp ly hôn là ly
hôn thuận tình và ly hôn đơn phương:
- Ly hôn thuận tình: Là trường hợp giải quyết ly hôn theo yêu cầu của
cả hai vợ chồng; trong đó vợ, chồng thỏa thuận được với nhau về việc giải
quyết cả ba vấn đề: Quan hệ hôn nhân, quan hệ tài sản và quan hệ nuôi con.
11
- Ly hôn đơn phương: Là trường hợp giải quyết ly hôn theo yêu cầu của
một bên vợ hoặc chồng.
Vấn đề thời hiệu không áp dụng đối với quan hệ pháp luật HN&GĐ. Vì
vậy, trong mọi khoảng thời gian của thời kỳ hôn nhân (tính từ khi kết hôn cho
đến khi hôn nhân chấm dứt trước pháp luật), vợ, chồng hoặc cả hai vợ chồng
đều có quyền yêu cầu ly hôn (trừ trường hợp chồng không có quyền yêu cầu
ly hôn trong trường hợp vợ đang có thai, sinh con hoặc đang nuôi con dưới 12
tháng tuổi).
1.1.2.2. Căn cứ ly hôn
Căn cứ ly hôn là những tình tiết được quy định trong pháp luật, chỉ khi
có những tình tiết (điều kiện) đó thì Tòa án mới được xử cho ly hôn. Căn cứ
ly hôn là cơ sở pháp lý để Tòa án dựa vào đó giải quyết ly hôn.
hôn.
Theo Điều 55 và Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 có hai
căn cứ để ly hôn:
- Căn cứ ly hôn khi thuận tình ly hôn
12
Thuận tình ly hôn là trường hợp cả vợ hoặc chồng cùng yêu cầu chấm
dứt hôn nhân được thể hiện bằng đơn thuận tình ly hôn của vợ chồng.
Theo Điều 55: “Trong trường hợp vợ chồng cùng yêu cầu ly hôn, nếu
xét thấy hai bên thật sự tự nguyện ly hôn và đã thỏa thuận về việc chia tài
sản, việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con trên cơ sở bảo đảm
quyền lợi chính đáng của vợ và con thì Tòa án công nhận thuận tình ly hôn;
nếu không thỏa thuận được hoặc có thỏa thuận nhưng không bảo đảm quyền
lợi chính đáng của vợ và con thì Tòa án giải quyết việc ly hôn”[35].
Như vậy, sự tự nguyện của hai vợ chồng khi yêu cầu chấm dứt hôn
nhân là một căn cứ quyết định việc chấm dứt hôn nhân. Bảo đảm “thật sự tự
nguyện ly hôn” là cả hai vợ chồng đều được tự do bày tỏ ý chí của mình,
không bị cưỡng ép, không bị lừa dối trong việc thuận tình ly hôn. Việc thể
hiện ý chí thật sự tự nguyện ly hôn của hai vợ chồng đều phải xuất phát từ
trách nhiệm đối với gia đình họ, phù hợp với yêu cầu của pháp luật và chuẩn
mực, đạo đức xã hội. Đồng thời, đòi hỏi hai vợ chồng còn phải có sự thoả
thuận về việc chia tài sản, việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục
con trên cơ sở đảm bảo quyền lợi chính đáng của vợ và con, nếu vợ chồng
không thoả thuận được hoặc tuy có thoả thuận nhưng không bảo đảm quyền
và lợi ích chính đáng của vợ và con thì Toà án quyết định giải quyết việc ly
hôn.
- Căn cứ ly hôn khi ly hôn theo yêu cầu của một bên
Ly hôn theo yêu cầu của một bên là trường hợp chỉ có một trong hai vợ
chồng, hoặc cha, mẹ, người thân thích của một trong hai bên yêu cầu được
chấm dứt quan hệ hôn nhân. Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014
quy định về ly hôn theo yêu cầu của một bên như sau:
“1. Khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không
thành thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có
hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ,
13
chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung
không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được.
2. Trong trường hợp vợ hoặc chồng của người bị Tòa án tuyên bố mất
tích yêu cầu ly hôn thì Tòa án giải quyết cho ly hôn.
3. Trong trường hợp có yêu cầu ly hôn theo quy định tại khoản 2 Điều
51 của Luật này thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc chồng,
vợ có hành vi bạo lực gia đình làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng,
sức khỏe, tinh thần của người kia”[35].
Theo đó, khi ly hôn theo yêu cầu của một bên thì Tòa án cần dựa vào
một trong ba căn cứ sau đây:
Thứ nhất, đối với trường hợp khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa
giải tại Tòa án không thành thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về
việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền,
nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời
sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được.
Thứ hai, đối với trường hợp vợ hoặc chồng của người bị Tòa án tuyên
bố mất tích yêu cầu ly hôn thì Tòa án giải quyết cho ly hôn. Tuyên bố một
người mất tích là một sự kiện pháp lý nhằm xác định một người cụ thể “hoàn
toàn không rõ tung tích, cũng không rõ còn sống hay đã chết” (theo từ điển
tiếng Việt). Theo quy định tại Điều 78 Bộ luật Dân sự năm 2005: “Khi một
người biệt tích 2 năm liền trở lên, mặc dù đã áp dụng đầy đủ các biện pháp
thông báo, tìm kiếm theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự nhưng vẫn
không có tin tức xác thực về việc người đó còn sống hay đã chết thì theo yêu
cầu của người có quyền, lợi ích liên quan, Tòa án có thể tuyên bố người đó
mất tích….”[33]. Khoản 2 Điều 55 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014
cũng quy định về căn cứ cho ly hôn có đề cập tới trường hợp yêu cầu ly hôn
khi một trong hai người mất tích như sau: “Trong trường hợp vợ hoặc chồng
14
của người bị Tòa án tuyên bố mất tích yêu cầu ly hôn thì Tòa án giải quyết
cho ly hôn”[35].
Thứ ba, đối với trường hợp có yêu cầu ly hôn theo quy định tại khoản 2
Điều 51 của Luật HN&GĐ “Cha, mẹ, người thân thích khác có quyền yêu cầu
tòa án giải quyết ly hôn khi một bên vợ, chồng do bị bệnh tâm thần hoặc mắc
bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình, đồng
thời là nạn nhân của bạo lực gia đình do chồng, vợ của họ gây ra làm ảnh
hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của họ”[35] thì Tòa
án giải quyết cho ly hôn. Như vậy, thay vì chỉ vợ, chồng hoặc cả hai người
mới có quyền yêu cầu tòa án giải quyết ly hôn như trước đây thì theo Luật
HN&GĐ năm 2014, cha, mẹ, người thân thích khác cũng có quyền yêu cầu
tòa án giải quyết ly hôn khi một bên vợ, chồng do bị bệnh tâm thần hoặc mắc
bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình, đồng
thời là nạn nhân của bạo lực gia đình do chồng, vợ của họ gây ra làm ảnh
hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của họ.
1.2. Quyền của phụ nữ khi ly hôn
1.2.1. Khái niệm
Quyền con người là những giá trị cao cả cần được tôn trọng và bảo vệ
trong mọi xã hội và mọi giai đoạn lịch sử. Trong xu thế hội nhập quốc tế hiện
nay, việc bảo vệ quyền con người nói chung và quyền của phụ nữ nói riêng
không chỉ là nghĩa vụ của nhà nước đối với người dân mà còn là nghĩa vụ của
một quốc gia trước cộng đồng quốc tế. Luật Hôn nhân và Gia đình Việt Nam
năm 2014 vừa có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2015 có rất nhiều điểm
mới phù hợp với Hiến pháp năm 2013 nhằm bảo đảm thực hiện tốt hơn quyền
con người, bình đẳng giới, bảo vệ phụ nữ. Vì vậy, bài viết đề cập đến một số
vấn đề về bảo vệ quyền của phụ nữ khi ly hôn nhằm nâng cao nhận thức và
hiệu quả thực thi pháp luật bảo vệ quyền của phụ nữ, đặc biệt là khi họ rơi
vào hoàn cảnh hôn nhân tan vỡ.
15
Nếu kết hôn là hiện tượng bình thường nhằm xác lập quan hệ vợ chồng,
thì ly hôn là mặt trái của quan hệ hôn nhân, phản ánh tình trạng hôn nhân đã
thực sự tan vỡ. Vấn đề đặt ra là, cần nhận thức thế nào về sự cần thiết bảo vệ
quyền lợi chính đáng của phụ nữ khi ly hôn và việc bảo đảm thực thi quyền
đó trong thực tế. V.I Lênin đã từng khẳng định rằng nếu không đòi quyền
hoàn toàn tự do ly hôn cho phụ nữ và nếu thiếu quyền tự do ấy là một sự ức
hiếp lớn đối với phụ nữ. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ đánh giá
cao vị trí, vai trò của phụ nữ mà còn rất coi trọng sự nghiệp giải phóng phụ nữ
trong toàn bộ sự nghiệp cách mạng. Theo Người: “trình độ giải phóng phụ nữ
được coi là thước đo của trình độ phát triển xã hội”. Bởi, “Nói phụ nữ là nói
phân nửa xã hội. Nếu không giải phóng phụ nữ thì không giải phóng một nửa
loài người. Nếu không giải phóng phụ nữ là xây dựng chủ nghĩa xã hội một
nửa” [22].
Khi xem xét việc bảo vệ quyền của phụ nữ khi ly hôn thì không thể
tách rời việc nghiên cứu về quyền và bảo vệ quyền con người của phụ
nữ. Theo Mác: "Quyền con người là những đặc quyền chỉ có ở con người mới
có, với tư cách là con người, là thành viên xã hội loài người" [13]. Ở cấp độ
quốc tế, có một định nghĩa của Văn phòng cao ủy Liên hợp quốc thường
xuyên được trích dẫn bởi các nhà nghiên cứu: “Quyền con người là những
bảo đảm pháp lý toàn cầu có tác dụng bảo vệ các cá nhân và các nhóm chống
lại những hành động hoặc sự bỏ mặc mà làm tổn hại đến nhân phẩm, những
sự được phép và tự do cơ bản của con người” [13]. Ở Việt Nam cũng đã có
những định nghĩa về quyền con người do một số cơ quan nghiên cứu và
chuyên gia từng nêu ra. Những định nghĩa này không hoàn toàn giống nhau,
nhưng tựu chung quyền con người thường được hiểu “là những năng lực và
nhu cầu vốn có và chỉ có ở con người, với tư cách là thành viên cộng đồng
nhân loại, được thể chế hóa bằng pháp luật quốc gia và các thỏa thuận pháp
lý quốc tế" [13]. Và tại Hội nghị thế giới về Quyền con người lần thứ hai tổ
16
chức tại Viên (1993) đã khẳng định: “quyền con người của phụ nữ và trẻ em
gái là một bộ phận cấu thành, gắn liền và không thể tách rời của các quyền
con người phổ biến” [13]. Như vậy, cho dù quyền con người có là bẩm sinh,
vốn có hay phải do nhà nước quy định thì để thực hiện các quyền con người
phải cần có pháp luật. Pháp luật là phương thức không thể thiếu và là công cụ
hiệu quả nhất của nhà nước nhằm bảo vệ quyền con người. Theo đó, “bảo vệ
quyền con người nói chung, bảo vệ quyền phụ nữ bằng pháp luật nói riêng
trước hết phải được hiểu là sự ghi nhận các quyền con người bằng pháp luật
và phải bảo đảm cho quyền đó được thực hiện. Mặt khác, do phụ nữ là một
nhóm xã hội đặc biệt, bởi vậy, quyền phụ nữ phải được xem xét và ghi nhận
dựa trên cơ sở của những yếu tố đặc thù về giới, nghĩa là pháp luật phải ghi
nhận quyền phụ nữ dựa trên cơ sở của vấn đề bình đẳng giới” [16].
Bảo vệ quyền của phụ nữ được ràng buộc chặt chẽ bởi các công ước
quốc tế về quyền con người mà Việt Nam là thành viên, như: Hiến chương
Liên Hợp Quốc (1945), Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người (1948,
UDHR), Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ
(1979, CEDAW),... Theo đó, việc bảo vệ quyền của phụ nữ trong lĩnh vực
hôn nhân và gia đình, kể cả khi ly hôn được nhấn mạnh và quy định rất cụ thể
tại Điều 16 Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ:
“1. Các quốc gia thành viên phải áp dụng tất cả các biện pháp thích
hợp để xoá bỏ sự phân biệt đối xử chống lại phụ nữ trong tất cả các vấn đề
liên quan đến hôn nhân và quan hệ gia đình, cụ thể phải bảo đảm những
quyền dưới đây, trên cơ sở bình đẳng nam nữ:
a) Quyền kết hôn như nhau;
b) Quyền như nhau trong việc tự do lựa chọn người để kết hôn và chỉ
kết hôn khi mình được tự do quyết định và hoàn toàn tự nguyện;
c) Quyền và trách nhiệm như nhau giữa vợ chồng trong thời gian hôn
nhân cũng như khi hôn nhân bị hủy bỏ;
17
d) Quyền và trách nhiệm như nhau trong vai trò làm cha mẹ, bất kể
tình trạng hôn nhân như thế nào, về các vấn đề liên quan đến con cái họ.
Trong tất cả các trường hợp, lợi ích của con cái phải được coi là điều quan
trọng nhất;..“[16]
Dưới góc độ quyền phụ nữ cũng chính là quyền con người, Nhà nước
cần phải thừa nhận, tôn trọng và cam kết bảo đảm, bảo vệ quyền đó đúng như
những điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Vì thế, hoạt động bảo vệ
quyền con người của phụ nữ phụ thuộc vào năng lực của các hệ thống cơ
quan nhà nước mà trước hết là hệ thống Tòa án. Điều 102 Hiến pháp năm
2013 quy định: “Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa
XHCN Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp…có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo
vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ lợi ích của
Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân” [34].
Ở Việt Nam, quyền của phụ nữ thực sự được đề cập đến từ khi nhân
dân ta giành được độc lập từ tay thực dân phong kiến. Sau khi giành được
chính quyền và "Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa được thành lập đã đánh
dấu một bước chuyển biến cơ bản trong đời sống của người phụ nữ. Từ nay
chị em thực sự trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ vận mệnh mình
cùng nam giới chung lo bảo vệ và xây dựng Tổ quốc" [26]. Theo đó, những
văn bản pháp luật đầu tiên về quyền công dân, trong đó có quyền của phụ nữ
được ban hành. Tuy nhiên, trong từng điều kiện, hoàn cảnh của đất nước, nên
ở mỗi thời kỳ, các quyền công dân nói chung và quyền của phụ nữ nói riêng
được thể hiện và phát triển vừa có tính kế thừa vừa có sự đổi mới. Hiện nay,
những quyền cơ bản của phụ nữ được ghi nhận trong Hiến pháp và cụ thể hóa
trong các văn bản pháp luật.
Quyền của phụ nữ khi ly hôn là tập hợp các quyền của con người mà
người phụ nữ được hưởng, được tôn trọng, được bảo vệ và bảo đảm thực hiện
bằng hệ thống các quy định của pháp luật khi ly hôn. Bao gồm:quyền yêu cầu
18
ly hôn, quyền nhân thân,quyền giải quyết tài sản khi ly hôn, quyền lưu cư khi
ly hôn, quyền được cấp dưỡng, quyền đảm bảo thiên chức làm mẹ.
1.2.2. Đặc điểm quyền của phụ nữ khi ly hôn
Quyền phụ nữ khi ly hôn có những đặc trưng rõ ràng để nhận biết và
phân biệt với các quyền khác. Các nhà làm luật, các nhà hoạch định chính
sách đều thống nhất với nhau về một số đặc điểm cơ bản, cụ thể là:
Tính phổ biến: Quyền phụ nữ khi ly hôn bảo đảm cho phụ nữ khi ly
hôn các quyền bình đẳng và giá trị mà họ được thụ hưởng ở bất cứ đâu và bất
kỳ lúc nào từ khi ly hôn.
Tính không thể chuyển nhượng: Quyền phụ nữ khi ly hôn là những
quyền không thể mang ra mua bán, chuyển nhượng, trao đổi, tức là không thể
được ban phát, rút lại hay bị tước đoạt. Quyền phụ nữ khi ly hôn là sở hữu
vốn có của mỗi phụ nữ bất kể địa vị của họ, đóng góp cua họ như thế nào
trong thời kỳ hôn nhân.
Tính không thể chia cắt: Tính tương tác và phụ thuộc lẫn nhau. Các
quyền của phụ nữ khi ly hôn có quan hệ tương tác, phụ thuộc lẫn nhau tạo
thành một chỉnh thể không thể tách rời. Với đặc trưng này, quyền của phụ nữ
khi ly hôn mới có thể bảo đảm cho mỗi người phụ nữ tự do, bình đẳng và có
một điều kiện sống tốt đẹp với chân giá trị của mình, nhưng điều cần nhấn
mạnh là quyền phụ nữ khi ly hôn có tính phổ biến đối với phụ nữ.
1.2.3. Vai trò của quyền của phụ nữ khi ly hôn
Quyền của phụ nữ khi ly hôn có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc
bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự cũng như trong việc nâng cao
trách nhiệm bảo đảm sự bình đẳng của các cơ quan tiến hành tố tụng. Vai trò
của quyền của phụ nữ khi ly hôn được thể hiện trên những phương diện cơ bản
sau đây:
Thứ nhất, việc ghi nhận và bảo đảm thực hiện quyền của phụ nữ khi ly
hôn là cơ sở pháp lý bảo đảm cho các chủ thể tham gia tố tụng có những cơ
19
hội, điều kiện ngang nhau khi tham gia tố tụng. Bảo đảm thực hiện quyền của
phụ nữ khi ly hôn giúp đương sự có thể bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp
của mình tốt hơn trước Toà án khi quyền lợi bị xâm phạm hoặc có tranh chấp.
Việc ghi nhận quyền này nhằm đảm bảo để vợ chồng khi tham gia các vụ việc
HN&GĐ đều được pháp luật xác định có các quyền và nghĩa vụ tố tụng giống
nhau; những quyền và nghĩa vụ này được thực hiện giống nhau trong những
điều kiện giống nhau, không có sự phân biệt đối xử về dân tộc, thành phần xã
hội hoặc giới tính...
Thứ hai, việc ghi nhận và bảo đảm quyền của phụ nữ khi ly hôn là căn
cứ để Toà án có thể giải quyết các vụ việc HN&GĐ một cách công bằng,
nhanh chóng, hiệu quả và đúng đắn. Sự ghi nhận và bảo đảm đó sẽ giúp hạn
chế và phòng ngừa những hành vi vi phạm của cơ quan, tổ chức và cá nhân
trong quá trình tố tụng, bảo đảm sự công bằng cho các chủ thể tham gia.
Chính vì vậy, quyền của phụ nữ khi ly hôn là một trong những yêu cầu để
bảo đảm rằng việc giải quyết các vụ việc HN&GĐ được minh bạch và hiệu
quả.
Thứ ba, quyền của phụ nữ khi ly hôn góp phần ngăn chặn và xử lý kịp
thời những hành vi vi phạm của các chủ thể tham gia tố tụng trong khi họ
thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình. Áp dụng hiệu quả quyền của phụ nữ
khi ly hôn là cơ sở pháp lý quan trọng để xử lý những hành vi vi phạm, hành
vi cản trở hoặc can thiệp trái pháp luật vào quá trình tố tụng của các chủ thể
tham gia tố tụng. Thực hiện tốt vấn đề này sẽ góp phần bảo đảm cho mỗi chủ
thể, khi tham gia tố tụng, có thể thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ
nhằm bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của họ trước Toà án.
Ngoài ra, việc quy định và thực hiện quyền của phụ nữ khi ly hôn còn
có ý nghĩa hết sức to lớn trong việc nâng cao hiệu quả giải quyết các tranh
chấp về HN&GĐ, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân; góp phần
20
vào công cuộc cải cách tư pháp và xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt
Nam XHCN.
1.2.4. Ý nghĩa của quyền của phụ nữ khi ly hôn
- Ý nghĩa về mặt pháp lý:
Quyền của phụ nữ khi ly hôn là cơ sở để cơ quan nhà nước có thẩm
quyền giải quyết các vấn đề liên quan đến quan hệ vợ chồng như: giải quyết
tranh chấp tài sản, giải quyết tranh chấp về nhân thân, con cái… Một trong
những nguyên tắc hoạt động của Tòa án nhân dân là độc lập xét xử và chỉ
tuân theo pháp luật, nên khi giải quyết các án kiện về HN&GĐ thì Tòa án
phải xét xử trên quy định của Luật HNN&GĐ năm 2014 dựa trên những
nguyên tắc vợ chồng bình đẳng đã quy định ra nguyên tắc bình đẳng vợ trong
trong giải quyết vụ việc HN&GĐ. Hơn nữa đây còn là cơ sở để các cơ quan
Nhà nước có thẩm quyền ban hành các văn bản hướng dẫn cụ thể giúp cho
việc giải quyết tranh chấp về HN&GĐ được khách quan, thống nhất, đúng
pháp luật, đảm bảo quyền lợi cho các bên, đặc biệt là phụ nữ.
Quyền của phụ nữ khi ly hôn là cơ sở pháp lý thực hiện quyền và nghĩa
vụ của vợ chồng trong quá trình giải quyết các vụ việc HN&GĐ cũng như hậu
ly hôn. Họ được hưởng những quyền ngang nhau, thực hiện nghĩa vụ như
nhau. Đó là các quyền mà họ được Nhà nước trao cho và đảm bảo thực hiện.
Quyền của phụ nữ khi ly hôn là cơ sở để ban hành các văn bản pháp
luật liên quan đến quyền lợi người phụ nữa nhằm đảm bao tính khả thi các
quyền của phụ nữa được thực hiện trên thực tế đời sống, làm ổn định quan hệ
xã hội, tiến tới mục tiêu bình đẳng giới trên toàn thế giới.
- Ý nghĩa về xã hội:
Từ thực tế cuộc sống cho thấy, do bị ảnh hưởng bởi tư tưởng lạc hậu,
phong kiến nên vẫn tồn tại trong xã hội sự bất bình đẳng giữa nam và nữ, giữa
vợ và chồng. Sự bất bình đẳng ấy đã đẩy người phụ nữa vào tình trạng lệ
thuộc, không có sự đảm bảo về quyền lợi chính đáng của mình. Quyền của
21
phụ nữ khi ly hôn được khẳng định và thế hiện là một nhu cầu cấp thiết, góp
phần bảo vệ quyền lợi của phụ nữ, đẩy lùi tư tưởng lạc hậu phong kiến, xây
dựng chế độ xã hội chủ nghĩa thực sự dân chủ và bình đẳng ở nước ta.
Đặc biệt trong điều kiện kinh tế, xã hội đang phát triển theo hướng thị
trường hóa hiện nay, sự đa dạng hóa các mối quan hệ đã ảnh hưởng không
nhỏ tới vấn đề HN&GĐ của vợ chồng. Quyền của phụ nữ khi ly hôn là một
trong những cơ sở góp phần triển khai chương trình bình đẳng về giới, tránh
bạo lực trong gia đình như: Hội Liên Hiệp Phụ Nữ Viên Nam đã phát động
phong trào “Vì sự nghiệp giải phóng phụ nữ”; “Vì sự tiến bộ của phụ nữ”.
Tất cả những ỹ nghĩa xã hội trên đều hướng tới sự bình đẳng vợ chồng, sự
bình đẳng trong xã hội - cái mà xã hội ta đang vươn tới.
1.2.5. Điều chỉnh pháp luật về quyền của phụ nữ khi ly hôn
1.2.5.1. Quyền nhân thân
Quyền nhân thân (personality rights) là thuật ngữ pháp lý để chỉ những
quyền gắn liền với bản thân mỗi con người, gắn liền với đời sống riêng tư của
mỗi cá nhân. Từ xưa đến nay, nói đến quyền nhân thân người ta thường liên
tưởng đến ngay những quyền có liên quan mật thiết đến danh dự, nhân phẩm,
uy tín của cá nhân. Một xã hội càng tiến bộ bao nhiêu, nền tự do dân chủ càng
được mở rộng bao nhiêu thì con người càng được tôn trọng bấy nhiêu. Do đó,
các quyền nhân thân cũng được pháp luật quy định đầy đủ, rõ ràng hơn.
Quyền nhân thân là quyền dân sự gắn liền với mỗi cá nhân, không thể
chuyển giao cho người khác, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
Quyền nhân thân là một quyền dân sự và là quyền dân sự đặc biệt. Mọi cá
nhân đều có sự bình đẳng về quyền nhân thân, có tính chất phi tài sản, luôn
gắn liền với cá nhân, không thể chuyển giao cho chủ thể khác, quyền nhân
thân là một quyền dân sự do luật định.
22
1.2.5.2. Quyền tài sản
Tài sản của vợ chồng gồm tài sản chung của vợ chồng và tài sản riêng
của vợ chồng. Trong giới hạn phạm vi nghiên cứu của đề tài, tác giả chỉ đề
cập vấn đề tài sản chung của vợ chồng.
Theo Điều 33 Luật HN&GĐ năm 2014: “1. Tài sản chung của vợ
chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản
xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp
pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại khoản 1
Điều 40 của Luật này; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được
tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung”
[35].
Thông thường chúng ta không thể xác định được phần tài sản nào là
của vợ, phần tài sản nào là của chồng trong khối tài sản chung hợp nhất, chỉ
khi nào có sự phân chia tài sản chung của vợ chồng thì mới xác định được
phần tài sản của từng người trong khối tài sản chung đó. Mặc dù sự đóng góp
vào khối tài sản chung của vợ chồng có thể không có bằng chứng, nhưng đối
với sở hữu chung hợp nhất vợ chồng có quyền ngang nhau trong việc chiếm
hữu, sử dụng, định đoạt khối tài sản chung này, khi thực hiện những giao dịch
liên quan đến tài sản chung có giá trị lớn hoặc là nguồn sống duy nhất của gia
đình, việc dùng tài sản chung để đầu tư kinh doanh phải có sự thỏa thuận của
hai vợ chồng.
Khi đời sống hôn nhân chấm dứt, vấn đề tài sản luôn được các cặp vợ
chồng quan tâm hàng đầu. Cụ thể như việc xác định nguồn gốc hình thành tài
sản, việc phân định đâu là tài sản chung, đâu là tài sản riêng để thỏa thuận
hoặc yêu cầu Tòa án phân chia.
Như vậy, chia tài sản vợ chồng thì tùy từng trường hợp cụ thể Tòa án
giải quyết khác nhau cho phù hợp với hoàn cảnh thực tế đảm bảo quyền lợi
của các bên, đặc biệt là quyền về tài sản của người vợ khi ly hôn. Mỗi một
23
trường hợp chia tài sản đều mang một ý nghĩa, chia tài sản khi vợ chồng ly
hôn nhằm tạo điều kiện cho các bên tạo lập cuộc sống mới sau khi ly hôn,
đảm bảo công bằng giữa vợ và chồng trong việc tạo lập, duy trì và phát triển
tài sản.
1.2.5.3. Quyền đảm bảo thiên chức làm mẹ
Hiện nay,
cho phụ nữ “Quyền được bảo
vệ chức năng sinh đẻ” (Điểm f khoản 1 Điều 11). Những quy định mang tính
quốc tế đó đã đề ra cho pháp luật các quốc gia một đòi hỏi về sự bảo hộ đặc
biệt đối với thiên chức làm mẹ của phụ nữ. Trong các văn bản pháp luật của
Việt Nam hay ngay trong BLLĐ thì khái niệm này cũng không được nhắc tới.
Mặc dù xét về hình thức diễn đạt có thể không giống nhau nhưng nội hàm của
khái niệm được nhìn nhận khá thống nhất. Cụ thể: Quyền làm mẹ của phụ nữ
được hiểu là quyền sinh con, chăm sóc con cái và quyền được nhận nuôi con
nuôi không phụ thuộc vào tình trạng hôn nhân của họ [5, tr.48]. Như vậy,
quyền làm mẹ là thuật ngữ dùng để chỉ quyền của người phụ nữ có khả năng
được thực hiện, thừa nhận việc có con. Quyền làm mẹ bao gồm hai nhóm nội
dung đó là quyền sinh con, chăm sóc con và quyền của phụ nữ trong việc cho
và nhận con nuôi.
Quyền theo nghĩa rộng bao gồm tổng thể chính sách, pháp luật cùng
các điều kiện khác như kinh tế, chính trị, văn hóa và cơ chế bảo đảm thực thi
quyền trên thực tế. Còn theo nghĩa hẹp, quyền làm mẹ chỉ bao gồm thể chế
(chính sách, pháp luật) và thiết chế tương ứng để bảo đảm thực thi quyền trên
thực tế. Như vậy, với sự phân tích khái niệm quyền làm mẹ ở trên, có thể hiểu
một cách đầy đủ và khái quát nhất khái niệm bảo đảm quyền làm mẹ của
LĐN, đó là tổng thể các chính sách, pháp luật cùng các điều kiện kinh tế,
24
chính trị, văn hóa liên quan đến khả năng của người phụ nữ trong việc thực
hiện hoặc thừa nhận việc có con đẻ hoặc con nuôi mà không phụ thuộc vào
tình trạng hôn nhân cùng các cơ chế bảo đảm thực thi trên thực tế. Với đối
tượng phụ nữ là LĐN thì nội dung bảo đảm quyền làm mẹ bao gồm quyền
được làm việc, bảo đảm sức khỏe sinh sản, bảo đảm quyền được mang thai và
sinh con, bảo đảm khả năng chăm sóc và nuôi dạy con của LĐN trong quá
trình làm việc… Nội dung này được điều chỉnh và bảo vệ chủ yếu bởi các quy
định của pháp luật lao động và pháp luật bảo hiểm xã hội. Theo đó, pháp luật
bảo hiểm xã hội bảo đảm quyền làm mẹ củ ế an sinh xã hội,
1.2.5.4.Quyền cấp dưỡng
Căn cứ quy định tại Điều 115 Luật hôn nhân và gia đình 2014: “Khi ly
hôn nếu bên khó khăn, túng thiếu có yêu cầu cấp dưỡng mà có lý do chính
đáng thì bên kia có nghĩa vụ cấp dưỡng theo khả năng của mình” [35].
Khi ly hôn nếu bên khó khăn, túng thiếu có yêu cầu cấp dưỡng mà có lý
do chính đáng thì bên kia có nghĩa vụ cấp dưỡng theo khả năng của mình. Có
sự túng thiếu của một bên và sự tồn tại khả năng hỗ trợ của bên kia. Nếu cả
hai người đều túng thiếu, thì mỗi người phải tự xoay sở, không ai có trách
nhiệm cấp dưỡng cho ai.
Ðể nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ chồng sau khi ly hôn được xác lập, cần
có một bên sống trong cảnh túng thiếu và bên kia có đủ điều kiện để hỗ trợ.
Sự túng thiếu của một bên, trong suy nghĩ của người làm luật, có nguồn gốc
từ tình trạng không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.
Thế nào là không có khả năng lao động tùy thuộc vào sự đánh giá của thẩm
phán. Người thất nghiệp chưa chắc là không có khả năng lao động; người
khuyết tạt cũng có thể có khả năng lao động. Bên vợ- chồng rơi vào hoàn
cảnh khó khăn, túng thiếu phải chứng minh sự khó khăn, túng thiếu của mình.
Nói chung, được coi là có lý do chính đáng khi lâm vào tình trạng khó khăn
25
túng thiếu là do những điều kiện ngoại cảnh mang lại, ví dụ như ốm đau, bệnh
tật hay gặp tai ương bất ngờ
1.2.5.5. Quyền lưu cư
Căn cứ Điều 63 Luật hôn nhân và gia đình 2014: “Nhà ở thuộc sở hữu
riêng của vợ, chồng đã đưa vào sử dụng chung thì khi ly hôn vẫn thuộc sở
hữu riêng của người đó; trường hợp vợ hoặc chồng có khó khăn về chỗ ở thì
được quyền lưu cư trong thời hạn 06 tháng kể từ ngày quan hệ hôn nhân chấm
dứt, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác”.
1.3. Các yếu tố ảnh hƣởng và các điều kiện bảo đảm quyền của phụ
nữ khi ly hôn
1.3.1. Các yếu tố ảnh hưởng đến quyền của phụ nữ khi ly hôn
1.3.1.1. Phong tuc, tập quán
Dưới chế độ phong kiến người phụ nữ phải nhất nhất theo thuyết “tam
tòng tứ đức” và đề cao tột đỉnh giá trị của người con trai, hạ thấp đến mức phủ
nhận hoàn toàn giá trị của người con gái “nhất nam viết hữu, thập nữ nhất vô”
(Một con trai cũng được coi là có, còn mười con gái cũng bị coi là không).
Chủ yếu lấy quan điểm Nho giáo làm nền tảng tư tưởng, Nhà nước phong
kiến Việt Nam với những lễ giáo phong kiến như xiềng xích trói buộc người
phụ nữ, Nhà nước phong kiến đã phân ra hai hạng người là quân tử và tiểu
nhân, trong đó phụ nữ bị coi khinh như tiểu nhân. Nguồn gốc của quan điểm
“nam tôn nữ ti” này xuất phát từ quan điểm của Khổng Tử. Khổng Tử cho
rằng “Duy nữ tử dữ tiểu nhân nam dưỡng dã. Cận chi tắc bất tôn, viễn chi tắc
oán” (nghĩa là chỉ có đàn bà và tiểu nhân là khó nuôi dạy. Gần thì sinh nhờn
mà xa thì oán). Những phong tục, tập quán của con người trong xã hội tự đặt
ra được hình thành trong quá trình lịch sử và ổn định thành nền nếp, phục vụ
cộng đồng và được cộng đồng thừa nhận và tự giác thực hiện, được lưu truyền
từ thế hệ này sang thế hệ khác, tạo nên tính tương đối thống nhất của cộng
đồng.
26
Thông thường phong tục tập quán về HN&GĐ được áp dụng ở những
vùng sâu, vùng xa, vùng có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn, vùng
đồng bào dân tộc thiểu số, ở đó, Luật HN&GĐ năm 2014 chưa thể thực hiện
được một cách đầy đủ, nên cần phải sử dụng phong tục tập quán chính vì vậy
chế định áp dụng phong tục tập quán vẫn được ghi nhận ở các Luật HN&GĐ.
1.3.1.2. Hoàn cảnh của gia đình và của vợ, chồng
Hoàn cảnh của gia đình và của vợ, chồng là yếu tố quan trọng ảnh
hưởng đến việc giải quyết tranh chấp tài sản chung của vợ, chồng khi ly hôn.
Người vợ hoặc chồng có những khó khăn nhất định trong cuộc sống như: chi
trả nhiều cho bệnh tật, nuôi mẹ già… sẽ được xem xét như một tình tiết ưu
tiên khi phân chia tài sản chung của vợ, chồng khi ly hôn. Đây là điểm thể
hiện tính nhân đạo của luật pháp cũng như tình nghĩa giữa những người từng
là vợ chồng của nhau. Cụ thể, bên gặp khó khăn hơn sau khi ly hôn được chia
phần tài sản nhiều hơn so với bên kia hoặc được ưu tiên nhận lại tài sản để
đảm bảo duy trì, ổn định cuộc sống của họ nhưng phải phù hợp với hoàn cảnh
thực tế của gia đình và của vợ, chồng. Bên cạnh đó, hoàn cảnh gia đình của
vợ chồng trước khi ly hôn cũng quyết định đến khối lượng tài sản chung khi
tranh chấp. Thông thường, các trường hợp hoàn cảnh gia đình trước ly hôn
khó khăn, tài sản chung không lớn sẽ khiến cho việc giải quyết tranh chấp
được diễn ra đơn giản. Ngược lại, những gia đình có khối lượng tài sản chung
lớn, tính chất phức tạp trong việc phân định cao và thái độ của vợ và chồng
khi tranh chấp cũng mang tính quyết liệt hơn dẫn đến việc giải quyết tranh
chấp rất khó khăn.
1.3.1.3. Lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng
Vợ và chồng là quan hệ vừa mang tính pháp lý vừa mang tính xã hội.
Mỗi bên tham gia quan hệ này đều có những quyền và nghĩa vụ nhất định.
Trường hợp các bên không tuân thủ các nghĩa vụ của mình nghĩa là vi phạm
nguyên tắc làm vợ hoặc chồng đã được pháp luật và xã hội thừa nhận. Đặc
27
biệt, hậu quả ly hôn bắt nguồn từ lỗi của chồng hoặc vợ sẽ là yếu tố ảnh
hưởng đến việc giải quyết tranh chấp tài sản khi ly hôn theo hướng bất lợi cho
người có lỗi.
Luật HN & GĐ năm 2014 cũng đã ghi nhận một nguyên tắc rất quan
trọng trong việc phân chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn là tính đến việc xét
lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ vợ chồng. Điều 51 Luật HN
&GĐ năm 2014 cho phép cả vợ, chồng đều có quyền yêu cầu giải quyết ly
hôn.
Theo đó mỗi bên đều có quyền đơn phương nộp đơn ra tòa án để yêu
câu giải quyết ly hôn. Đối với trường hợp ly hôn theo yêu cầu của một bên,
Điều 56 Luật HN & GĐ năm 2014 quy định để được tòa án thụ lý đơn ly hôn
đơn phương thì cần phải có căn cứ ly hôn, bao gồm: Vợ, chồng có hành vi
bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng
làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể
kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được.
Tình trạng hôn nhân trầm trọng ở đây được hiểu là: Vợ chồng không
chung thủy với nhau như có quan hệ ngoại tình, đã được người vợ hoặc người
chồng hoặc bà con thân thích của họ hoặc cơ quan, tổ chức, nhắc nhở, khuyên
bảo nhưng vẫn tiếp tục có quan hệ ngoại tình. Trường hợp nếu chồng hoặc vợ
có hành vi ngoại tình, đã bị phát hiện hay bà con thân thích hoặc cơ quan, tổ
chức nhắc nhở, khuyên bảo, khuyên giải nhưng vẫn tiếp tục có quan hệ ngoại
tình thì được xem là tình trạng hôn nhân trầm trọng, theo Điều 56 Luật HN &
GĐ năm 2014, tòa án có căn cứ để xét đơn đơn phương ly hôn, trừ trường hợp
tại khoản 3 Điều 51 Luật HN & GĐ năm 2014 “Chồng không có quyền yêu
cầu ly hôn trong trường hợp vợ đang có thai, sinh con hoặc đang nuôi con
dưới 12 tháng tuổi”[35].
Theo quy định của Thông tư liên tịch 01/2016/TTLT –TANDTCVKS
28
NDTC- BTP ngày 06/01/2016 thì “Lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền,
nghĩa vụ vợ chồng” ở đây được hiểu là lỗi của vợ hoặc chồng vi phạm quyền,
nghĩa vụ về nhân thân, tài sản của vợ chồng dẫn đến ly hôn. Ví dụ, trường
hợp người chồng ngoại tình hoặc phá tán tài sản thì khi giải quyết ly hôn Tòa
án phải xem xét yếu tố lỗi của người chồng khi chia tài sản chung của vợ
chồng để đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của vợ và con chưa thành niên.
Như vậy, việc ly hôn do lỗi ngoại tình của vợ hoặc chồng thì vợ hoặc chồng
sẽ có những bất lợi trong tranh chấp tài sản khi ly hôn.
1.3.2. Các điều kiện đảm bảo quyền của phụ nữ khi ly hôn
1.3.2.1. Sự phát triển kinh tế - xã hội
Các Mác cho rằng, quyền con người phụ thuộc vào trình độ phát triển
kinh tế và phát triển văn hóa, do chế độ kinh tế quy định. Là một phạm trù
pháp lý thuộc kiến trúc thượng tầng xã hội, việc bảo đảm quyền của phụ nữ
khi ly hôn có mối liên hệ chặt chẽ với kinh tế. Trong mối liên hệ giữa kinh tế
và pháp luật thì kinh tế giữ vai trò quyết định đối với pháp luật. Vì vậy, điều
kiện kinh tế - xã hội chi phối đến việc bảo đảm quyền của phụ nữ khi ly hôn.
Kinh tế - xã hội phát triển sẽ tạo thuận lợi cho việc thực hiện đầy đủ các
quyền của phụ nữ khi ly hôn trong giải quyết các vụ việc HN&GĐ. Trên cơ
sở sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, hệ thống pháp luật sẽ được
hoàn thiện, ý thức pháp luật của mọi người được nâng cao, các hoạt động trợ
giúp pháp lý được đẩy mạnh, Tòa án sẽ có đủ phương tiện cần thiết để giải
quyết các vụ việc HN&GĐ. Bên cạnh đó, phụ nữ cũng sẽ có thêm các điều
kiện thuận lợi về vật chất để tham gia tố tụng hoặc nhờ người khác tham gia
TTDS bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Bảo đảm quyền của phụ nữ khi ly hôn là vấn đề pháp lý mang tính
dân chủ sâu sắc nên điều đó chỉ thực sự tồn tại và phát triển trong một xã hội
dân chủ - xã hội công dân. Một trong nhiều mục tiêu quan trọng của nhà
nước dân chủ, đó là việc bảo đảm quyền con người, trong đó có quyền bình
29
đẳng. Ở xã hội dân chủ - xã hội công dân, sự bình đẳng được thừa nhận rộng
rãi, các quan hệ dân sự được phát triển rộng rãi trên cơ sở tự nguyện, bình
đẳng và cùng có lợi. Trong bối cảnh đó, Nhà nước luôn quan tâm và tạo mọi
điều kiện để bảo đảm quyền và các lợi ích chính đáng của phụ nữ khi ly hôn.
1.3.2.2. Quy định của pháp luật về quyền của phụ nữ khi ly hôn
Pháp luật là công cụ điều chỉnh các quan hệ xã hội; mọi hoạt động của
các chủ thể trong xã hội đều phải thực hiện theo quy định của pháp luật. Để
đảm bảo cho các quan hệ xã hội hình thành và phát triển theo một trật tự
nhất định, pháp luật phải quy định cụ thể về quyền, nghĩa vụ của các chủ thể,
đặc biệt là về sự bình đẳng của các chủ thể trước pháp luật.
Việc bảo đảm quyền của phụ nữ khi ly hôn phụ thuộc phần lớn vào
các quy định của pháp luật Tố tụng Dân sự, nhất là các quy định về quyền,
nghĩa vụ của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, người
tham gia Tố tụng Dân sự; trình tự khởi kiện, yêu cầu Tòa án giải quyết vụ
việc HN&GĐ và trình tự, thủ tục Tòa án giải quyết vụ việc HN&GĐ. Pháp
luật về Tố tụng Dân sự cũng chính là cơ sở pháp lý cho Tòa án tiến hành các
hoạt động thụ lý, giải quyết vụ việc HN&GĐ để bảo vệ tốt nhất quyền và lợi
ích hợp pháp của phụ nữ khi ly hôn.
Bên cạnh đó, để bảo đảm quyền của phụ nữ khi ly hôn thì pháp luật
cần thiết phải quy định cụ thể về trình tự, thủ tục giải quyết các vụ việc
HN&GĐ, từ việc khởi kiện, yêu cầu Tòa án giải quyết vụ việc đến việc thụ
lý, lập hồ sơ, hòa giải và giải quyết theo thẩm quyền đối với vụ việc
HN&GĐ. Trong quá trình đó, ngoài việc quy định cụ thể những vấn đề liên
quan đến quyền hạn, nhiệm vụ và trách nhiệm của những người tiến hành
Tố tụng Dân sự, thì quyền và nghĩa vụ Tố tụng Dân sự của chính các
đương sự, của người đại diện hợp pháp của đương sự, của người bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự cũng cần được quy định hết sức đầy
30
đủ, cụ thể và khoa học để tạo cơ sở pháp lý vững chắc và thuận lợi trong
quá trình giải
1.3.2.3. Nhận thức của xã hội và phụ nữ
Trước tiên, bản thân những người phụ nữ cần nâng cao ý thức, hiểu biết
về quyền của mình khi ly hôn. Đồng thời chủ động và quyết liệt hơn trong
bảo vệ quyền của mình.
Có thể thấy, ý thức tự bảo vệ là điều rất cần thiết, đòi hỏi những người
phụ nữ cần nắm rõ quy định của pháp luật hôn về HN&GĐ, về quyền nhân
thân, quyền tài sản, quyền thực hiện thiên chức làm mẹ, quyền lưu trú (nếu
cần)…; cần lưu chứng những bằng chứng, chứng cứ ngay sau khi có tranh
chấp, mâu thuẫn để bảo đảm không phát sinh tranh chấp không đáng có trong
tương lai.
Phụ nữ cũng phải tự nâng cao ý thức trong việc bảo vệ quyền lợi cho
chính bản thân mình. Bởi lẽ từ trước tới nay, phần lớn phụ nữ vẫn chưa có
thói quen lưu lại những chứng từ, chứng cứ ứng minh nguồn
gốc tài sản, mâu thuẫn vợ chồng để làm căn cứ yêu cầu xử lý trong từng vụ
việc. Đây chính là một thói quen bất lợi cho phụ nữ mỗi khi xảy ra tranh chấp
về ly hôn. Vô tình nhiều người phụ nữ đã tự "bỏ qua" quyền lợi mà mình
được hưởng.
1.3.2.4. Hoạt động giải quyết vụ việc hôn nhân và gia đình của Tòa án
có thẩm quyền
Xixeron, nhà hùng biện nổi tiếng thời La Mã cổ đại đã từng đưa ra
một nhận xét: “Quan tòa là một đạo luật biết nói, còn đạo luật là một vị
quan tòa câm”. Nhận xét đó nói lên vai trò vô cùng quan trọng của Tòa án
bởi vì các hoạt động tố tụng dân sự nói chung, giải quyết vụ việc HN &GĐ
nói riêng đều dựa trên cơ sở bình đẳng giữa các chủ thể tham gia nhằm bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chính họ, đều phải thông qua Tòa án.
Chính vì vậy, mỗi hoạt động tố tụng giải quyết vụ việc HN &GĐ của những
31
người tiến hành tố tụng thuộc Tòa án đều ảnh hưởng trực tiếp đến việc thực
hiện quyền của phụ nữ khi ly hôn.
Thực tế đã chứng minh rằng ở nơi nào, vào giai đoạn nào, nếu vai trò
của Tòa án được nhìn nhận, đánh giá và sử dụng đúng thì ở đó, kỷ cương,
phép nước được củng cố và giữ vững; bảo đảm được trật tự và ổn định xã hội;
tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình xây dựng và phát triển đất nước; tôn
trọng và bảo đảm quyền bình đẳng của các cá nhân, cơ quan và tổ chức.
Để bảo đảm quyền của phụ nữ khi ly hôn thì việc nâng cao hiệu quả
hoạt động của Tòa án - chủ thể trung tâm của các hoạt động TTDS là điều
quan trọng. Trong công cuộc cải cách tư pháp hiện nay, ngoài việc phải hoàn
thiện hệ thống pháp luật về TTDS, thì còn cần phải hoàn thiện hệ thống tổ
chức tòa án, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ và phẩm chất đạo đức
của đội ngũ cán bộ Tòa án.
1.3.2.5. Hoạt động hỗ trợ phụ nữ tham gia tố tụng của cá nhân, cơ
quan, tổ chức
Trong giải quyết các vụ việc HN&GĐ, thì các cơ quan, tổ chức như
Hội Liên hiệp phụ nữ; cơ quan quản lý nhà nước về Dân số, Gia đình và Trẻ
em; tổ chức Công đoàn… là những cơ quan, tổ chức có quyền, nghĩa vụ
tham gia TTDS chủ yếu. Vì vậy, việc các cơ quan, tổ chức này tham gia tích
cực sẽ có tác động lớn đối với việc bảo đảm quyền của phụ nữ khi ly hôn.
Ngoài ra, để quyền của phụ nữ khi ly hôn được thực hiện hiệu quả,
góp phần nâng cao chất lượng hoạt động xét xử thì việc thu thập tài liệu,
chứng cứ là cần thiết. Chính vì vậy, trong trường hợp các tài liệu, chứng cứ
liên quan đến việc giải quyết vụ việc HN&GĐ đang do các tổ chức, cá nhân
quản lý thì phụ nữ cần đến sự giúp đỡ của chính các tổ chức, cá nhân này
trong việc thu thập. Để tạo điều kiện cho phụ nữ bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp trước Tòa án thì các tổ chức, cá nhân đang quản lý tài liệu, chứng cứ
phải có nghĩa vụ cung cấp cho Tòa án các tài liệu, chứng cứ liên quan đó.
32
Trong trường hợp việc cung cấp các chứng tài liệu, chứng cứ liên quan
không được thực hiện đầy đủ thì việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
phụ nữ khi ly hôn sẽ bị hạn chế rất nhiều.
1.3.2.6. Cơ chế giám sát và kiểm sát các hoạt động tố tụng hôn nhân và
gia đình
Điều 102 của Hiến pháp năm 2013 xác định “Tòa án nhân dân là cơ
quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền
tư pháp” [34]. Theo đó, hoạt động giải quyết vụ việc HN&GĐ của Tòa án
phải tuân thủ nghiêm chỉnh pháp luật, áp dụng đúng pháp luật để bảo đảm
việc giải quyết các vụ việc HN&GĐ đúng pháp luật và đúng thực tế khách
quan. Tuy nhiên, thực tiễn cuộc sống cho thấy rằng quyền lực luôn có khuynh
hướng bị lạm quyền nếu thiếu đi sự giám sát, sự kiềm chế và sự cân bằng. Đối
với hoạt động giải quyết các vụ việc của Tòa án nói chung và các vụ việc
HN&GĐ nói riêng, sự giám sát, kiểm tra càng phải được thực hiện chặt chẽ vì
hoạt động của Tòa án dễ bị thiên lệch, xâm phạm đến sự bảo đảm bình đẳng
của đương sự cũng như hiệu quả giải quyết vụ việc HN&GĐ. Vấn đề giải
quyết vụ việc HN&GĐ không chỉ liên quan đến đời sống vật chất của phụ nữ
khi ly hôn mà còn liên quan đến đời sống tinh thần của họ. Nếu việc giải
quyết vụ việc HN&GĐ diễn ra theo hướng tùy tiện, điều đó dẫn đến hậu quả
nguy hiểm. Khi đó sẽ xảy ra tình trạng những quyền, lợi ích hợp pháp của phụ
nữ khi ly hôn không những không được bảo vệ; sự bình đẳng trước pháp luật
không được bảo đảm, mà những quyền, lợi ích hợp pháp ấy còn có nguy cơ bị
xâm phạm. Vì vậy, xuất phát từ hậu quả xấu đã được dự liệu trước, chúng ta
có thể thấy sự cần thiết và tính quan trọng của công tác giám sát, kiểm sát
hoạt động của Tòa án trong việc giải quyết các vụ việc HN&GĐ, đây chính là
một yêu cầu bảo đảm quyền của phụ nữ khi ly hôn hiện nay.
Việc giám sát, kiểm sát các hoạt động tố tụng được thực hiện thông
qua nhiều phương thức khác nhau như: Cơ quan dân cử nghe Tòa án cùng
33
cấp báo cáo công tác xét xử; Hội thẩm nhân dân tham gia xét xử vụ án
HN&GĐ; Tòa án xét xử công khai; Viện kiểm sát giám sát các hoạt động
TTDS về HN&GĐ.
Trong thực tế, mỗi phương thức giám sát, kiểm sát hoạt động tố tụng
đều có những yêu cầu và các đặc điểm riêng. Tuy nhiên, mọi phương thức
giám sát, kiểm sát đều có tác dụng làm cho hoạt động TTDS đặt dưới sự
giám sát, kiểm sát của nhân dân hoặc của Nhà nước, bảo đảm cho hoạt động
này được thực hiện đúng đắn và hiệu quả. Vì vậy, hoạt động giám sát, kiểm
sát hoạt động giải quyết vụ việc HN&GĐ có ý nghĩa to lớn trong việc bảo
đảm quyền của phụ nữ khi ly hôn.
Tiểu kết chƣơng 1
Bản chất của việc ly hôn là việc chấm dứt quan hệ hôn nhân của vợ
chồng đồng thời xác định quyền sở hữu riêng của vợ, chồng đối với khối,
phần tài sản riêng được phân chia, quyền nuôi con, quyền thực hiện thiên
chức làm mẹ của người phụ nữ cũng như xác định quyền lưu trú (nếu cần
thiết). Những cơ sở lý luận được phân tích, nghiên cứu ở chương 1 cũng là cơ
sở lý luận để tác giả phân tích thực trạng pháp luật cũng như từ đó đưa ra các
giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về quyền của phụ nữ khi ly hôn ở các
chương sau.
34
Chƣơng 2
THỰC TRẠNG QUYỀN CỦA PHỤ NỮ KHI LY HÔN
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Các quy định pháp luật hiện hành về quyền của phụ nữ khi ly hôn
2.1.1. Các quy định về quyền nhân thân
Thứ nhất, quyền được yêu cầu ly hôn
Điều 51 Luật HN&GĐ năm 2014 quy định về quyền yêu cầu Tòa án
giải quyết việc ly hôn. Theo đó, quyền của người vợ trong việc yêu cầu ly hôn
được thể hiện ở những nội dung sau:
- Người vợ có quyền được yêu cầu ly hôn trong cả hai trường hợp:
Thuận tình ly hôn theo quy định tại Điều 55 Luật HN&GĐ năm 2014 và ly
hôn do một bên vợ yêu cầu tại Điều 56 Luật HN&GĐ năm 2014.
- Quy định về trường hợp cha, mẹ, người thân thích khác trong gia đình
có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn. Đây là quy định mới của Luật
HN&GĐ năm 2014 và có ý nghĩa thiết thực trong bảo vệ quyền của người
phụ nữ, trong trường hợp khi người vợ là nạn nhân của bạo lực gia đình do
người chồng gây ra làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe và
tinh thần cho người vợ thì cha mẹ, người thân thích của người vợ có quyền
yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn.
- Quy định về hạn chế quyền yêu cầu ly hôn của người chồng. Trong
trường hợp người vợ đang có thai, sinh con hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng
tuổi thì người chồng không được yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn. Mục đích
của quy định này là gắn trách nhiệm của người chồng trong việc bảo vệ bà
mẹ, trẻ em, bảo vệ quyền lợi chính đáng của người vợ và con chưa thành niên,
phụ nữ có thai, thai nhi, cũng là bảo vệ lợi ích của xã hội.
Thứ hai, quyền xác lập quan hệ hôn nhân mới với người khác
Khi ly hôn, hôn nhân chấm dứt kể từ thời điểm bản án quyết định của
35
Tòa án có hiệu lực. Các bên không còn bị ràng buộc vào quan hệ hôn nhân,
họ là những người độc thân và có quyền kết hôn với người khác.
* Quyền lựa chọn họ, tên cho con
Thứ ba, các quy định liên quan đến con cái.
Nếu khi ly hôn, người vợ đang mang thai và sinh con trong hoặc sau
khi ly hôn thì người phụ nữ có quyền trong việc lựa chọn họ, tên cho con.
Quyền của phụ nữ trong việc lựa chọn họ, tên cho con thực hiện thông
qua thỏa thuận với chồng kể cả trong thời kỳ hôn nhân hay đang trong quá
trình làm thủ tục ly hôn hoặc sau khi ly hôn. Theo đó, họ, tên của con có thể
theo họ mẹ. Đây là quy định mở tạo điều kiện cho người vợ có vị trí ngang
* Quyền bình đẳng trong việc chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con
bằng với người chồng, hạn chế ảnh hưởng của phong tục, tập quán.
Quyền của người mẹ trong việc chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con.
sự bình đẳng của người vợ đối với người chồng thể hiện ở quyền được yêu
thương, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con, đảm bảo cho con không phải
* Quyền bình đẳng trong việc đại diện cho con
sống trong sự ngược đãi, hành hạ hoặc bị xúc phạm.
Quyền của người phụ nữ trong việc đại diện cho con được thể hiện
trong các quy định tại khoản 3 Điều 69 và khoản 1, khoản 2 Điều 73 của Luật
HN&GĐ năm 2014. Theo đó, vợ cùng chồng là người đại diện của con, vợ và
chồng có thể thỏa thuận một trong hai người là người đại diện cho con trong
các giao dịch dânsự.
Các quy định trên tạo cho người phụ nữ được đảm bảo quyền bình đẳng
đối với người chồng trong mối quan hệ với các con, thúc đẩy sự nghiệp bình
đẳng giới kể cả khi đã ly hôn.
2.1.2.Quyền tài sản
Luật HN&GĐ năm 2014 quy định nguyên tắc phân chia tài sản của vợ
chồng khi ly hôn tại Điều 59 và phân chia tài sản trong một số trường hợp cụ
thể từ Điều 60 đến Điều 64.
36
Một điểm mới của Luật HN&GĐ năm 2014 là thừa nhận chế độ tài sản
của vợ chồng theo thỏa thuận. Vì vậy, nếu vợ chồng có thỏa thuận tài sản
trong đó có thỏa thuận về việc phân chia tài sản chung của vợ chồng khi ly
hôn thì khi ly hôn tài sản chung của vợ chồng phân chia theo thỏa thuận tài
sản đó; trường hợp thỏa thuận không đầy đủ, rõ ràng thì áp dụng quy định
tương ứng tại Điều 59 đến Điều 64 luật này để giải quyết.
Phương thức chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn
Để chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn, pháp luật HN&GĐ đã quy
định về phương thức phân chia cũng như các nguyên tắc của việc phân chia
này nhằm đảm bảo quyền lợi cho người phụ nữ khi ly hôn.
Thứ nhất, phương thức tự thỏa thuận:
Tại khoản 1 Điều 28 Luật HN&GĐ năm 2014 đã quy định: “Vợ chồng
có quyền lựa chọn áp dụng chế độ tài sản theo luật định hoặc chế độ tài sản
theo thỏa thuận”.
Luật HN&GĐ năm 2014 đã bổ sung chế độ tài sản theo thỏa thuận.
Theo quy định tại Điều 47 Luật HN&GĐ năm 2014 thì trường hợp vợ chồng
lựa chọn chế độ tài sản theo thỏa thuận thì thỏa thuận này phải được lập trước
khi kết hôn, bằng văn bản có công chứng hoặc chứng thực. Chế độ tài sản của
vợ chồng theo thỏa thuận có hiệu lực kể từ ngày đăng ký kết hôn. Tại Điều 48
Luật HN&GĐ năm 2014, nội dung cơ bản của thỏa thuận về chế độ tài sản
của vợ chồng bao gồm: “Tài sản được xác định là tài sản chung, tài sản riêng
của vợ chồng: quyền, nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản chung, tài sản
riêng và giao dịch có liên quan, tài sản để đảm bảo nhu cầu thiết yếu của gia
đình; điều kiện, thủ tục và nguyên tắc phân chia tài sản khi chấm dứt chế độ
tài sản…”[35, Khoản 1, Điều 48]. Thỏa thuận này vẫn có thể được sửa đổi,
bổ sung sau khi kết hôn hoặc bị Tòa án tuyên bố vô hiệu theo quy định tại
Điều 49 và 50 của Luật này. Quy định này góp phần giảm thiểu sự tranh chấp
tài sản sau ly hôn của các cặp vợ chồng trong tình trạng hiện nay.
37
“Trong trường hợp chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định thì việc
giải quyết tài sản do các bên thỏa thuận…
Trong trường hợp chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận thì việc
giải quyết tài sản khi ly hôn được áp dụng theo thỏa thuận đó;…”[35, Khoản
1 Điều 59].
Như vậy, Luật HN&GĐ năm 2014 cũng đề cao ý chí của các bên,
quyền tự định đoạt của vợ chồng. Tuy nhiên, về nguyên tắc việc tự thỏa thuận
này không được trái với những nguyên tắc mà pháp luật đã quy định để bảo
vệ quyền lợi hợp pháp của các bên, nhất là của phụ nữ và con cũng như tránh
sự lợi dụng những quy định này nhằm mục đích tư lợi, không lành mạnh của
vợ chồng.
Trường hợp các bên thỏa thuận được về chia tài sản cùng với việc tự
nguyện ly hôn và việc nuôi dưỡng, chăm sóc con cái trên cơ sở đảm bảo quyền
lợi của vợ và con thì Tòa án sẽ ra quyết định công nhận thuận tình ly hôn theo
quy định tại Điều 55 Luật HN&GĐ năm 2014. Trường hợp các bên không thỏa
thuận được hoặc có thỏa thuận nhưng không đảm bảo quyền lợi chính đáng của
vợ và con thì Tòa án sẽ giải quyết theo quy định của pháp luật.
Thứ hai, phương thức yêu cầu Tòa án giải quyết việc chia tài sản chung
của vợ chồng khi ly hôn:
Theo quy định tại khoản 1 Điều 59 Luật HN&GĐ năm 2014: “…Nếu
không thỏa thuận được thì theo yêu cầu của vợ, chồng hoặc cả hai vợ chồng,
Tòa án giải quyết theo quy định tại khoản 2,3,4,và 5 Điều này và tại các Điều
60,61,62,63, và 64 của Luật này.
…nếu thỏa thuận không đầy đủ, rõ ràng thì áp dụng quy định tương
ứng tại các khoản 2,3,4 và 5 Điều này và tại các Điều 60,61,62,63 và 64 của
Luật này để giải quyết”[35].
Phương thức này nhờ Tòa giải quyết khi các bên lựa chọn chế độ tài
sản theo thỏa thuận nhưng thỏa thuận không đầy đủ, rõ ràng hoặc vợ chồng
38
lựa chọn chế độ tài sản theo luật quy định nhưng không thỏa thuận được. Khi
giải quyết, Tòa án cũng phải tuân thủ những nguyên tắc và các trường hợp cụ
thể quy định trong Luật HN&GĐ.
Nguyên tắc chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn
Nếu vợ chồng lựa chọn chế độ tài sản chung của vợ chồng theo thỏa
thuận (có thỏa thuận tài sản) thì khi ly hôn việc phân chia tài sản theo thỏa
thuận đó; nếu thỏa thuận không đầy đủ, không rõ ràng thì áp dụng các quy
định tương ứng của luật định để phân chia [17, Điều 59]. Ngoài ra, do tính
chất đặc trưng của quan hệ hôn nhân và gia đình nên nó có một số đặc điểm
riêng nhằm bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của vợ, con chưa thành niên,
con đã thành niên nhưng mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả
năng lao động không có tài sản riêng để nuôi sống mình.
Nếu không thỏa thuận được thì khi có yêu cầu của vợ, chồng hoặc của
cả vợ chồng Tòa án giải quyết phân chia theo nguyên tắc sau: Về cơ bản tài
sản chung của vợ chồng được chia đôi nhưng có tính đến các yếu tố:
Một là, hoàn cảnh của gia đình và của vợ, chồng;
Hai là, công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và
phát triển khối tài sản chung. Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi
như lao động có thu nhập.
Ba là, bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh
và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập.
Bốn là, lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng;
Năm là, tài sản chung của vợ chồng được chia bằng hiện vật, nếu
không chia được bằng hiện vật thì chia theo giá trị. Bên nào nhận được phần
tài sản bằng hiện vật có giá trị lớn hơn phần mình được hưởng thì phải thanh
toán cho bên kia phần chênh lệch.
Sáu là, tài sản riêng của vợ chồng thuộc quyền sở hữu riêng của người
đó trừ trường hợp tài sản riêng đã nhập vào tài sản chung theo quy định của
Luật HN&GĐ.
39
Bảy là, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của vợ, con chưa thành niên,
con đã thành niên nhưng mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả
năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình [35, Điều 59].
Bên cạnh đó, một trong những nguyên tắc khác đặt ra buộc các bên
phải tuân thủ khi chia tài sản chung của vợ chồng nói chung và chia tài sản
chung của vợ chồng khi ly hôn nói riêng đó là “bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của vợ, con chưa thành niên, con đã thành niên nhưng mất năng lực
hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động hoặc không có tài sản riêng
để tự nuôi mình”[35, khoản 5, Điều 59]. Bảo vệ bà mẹ, trẻ em trước hết là
trách nhiệm của gia đình sau đó mà trách nhiệm của Nhà nước, của xã hội.
Việc ghi nhận và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, con chưa thành niên
hoặc con đã thành niên nhưng mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả
năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình thể hiện tính nhân đạo và
bản chất tốt đẹp của Nhà nước. Hiện nay, phụ nữ ngày càng bình đẳng và
tham gia vào công tác xã hội nhiều hơn nhưng cũng còn nhiều phụ nữ không
có công việc ổn định hoặc không đi làm mà chỉ làm việc nhà. Vì vậy, khi ly
hôn, họ là đối tượng dễ bị tổn thương và thường gặp nhiều khó khăn trong
cuộc sống. Do đó, cần căn cứ vào điều này để khi phân chia tài sản đảm bảo
quyền lợi của người vợ, đặc biệt hơn nữa những đứa trẻ chưa thành niên hoặc
đã thành niên nhưng bị tàn tật, mất khả năng lao động, mất năng lực hành vi
dân sự và không có tài sản để tự nuôi mình.
2.1.3.Quyền đảm bảo thiên chức làm mẹ
Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền (UDHR) năm 1948, lần đầu
tiên quyền lợi của phụ nữ trong vai trò làm mẹ được Nhà nước và xã hội đặc
biệt chú trọng và bảo vệ, do vậy tại khoản 2 điểu 25 quy định“Các bà mẹ và
trẻ em có quyền được hưởng sự chăm sóc và giúp đỡ đặc biệt”.
Công ước về các quyền kinh tế, văn hóa, xã hội (ICESCR) năm 1966
ngoài việc yêu cầu các quốc gia thành viên đảm bảo không có sự phân biệt
40
đối xử nào giữa phụ nữ và đàn ông khi tham gia các công việc như nhau, còn
cam kết “Cần dành sự bảo hộ đặc biệt cho các bà mẹ trong một khoảng thời
gian thích đáng trước và sau khi sinh con. Trong khoảng thời gian đó, các bà
mẹ cần được nghỉ có lương hoặc nghỉ với đầy đủ các phúc lợi an sinh xã hội”
[14,Khoản 2, Điều 10]. Công ước này có sự ưu tiên đặc biệt đối với các bà mẹ
trong thời gian trước và sau khi sinh con bởi đây là khoảng thời gian mà các
bà mẹ cần phải được nghỉ ngơi có hưởng lương và các chế độ phúc lợi khác.
Những quy định mang tính quốc tế đó đã đề ra cho pháp luật các quốc
gia một đòi hỏi về sự bảo hộ đặc biệt đối với thiên chức làm mẹ của phụ nữ.
Trong các văn bản pháp luật của Việt Nam hay ngay trong BLLĐ thì khái niệm
này cũng không được nhắc tới. Mặc dù xét về hình thức diễn đạt có thể không
giống nhau nhưng nội hàm của khái niệm được nhìn nhận khá thống nhất.
Cụ thể: Quyền làm mẹ của phụ nữ được hiểu là quyền sinh con, chăm
sóc con cái và quyền được nhận nuôi con nuôi không phụ thuộc vào tình
trạng hôn nhân của họ [5, tr.48]. Như vậy, quyền làm mẹ là thuật ngữ dùng
để chỉ quyền của người phụ nữ có khả năng được thực hiện, thừa nhận việc có
con. Quyền làm mẹ bao gồm hai nhóm nội dung đó là quyền sinh con, chăm
sóc con và quyền của phụ nữ trong việc cho và nhận con nuôi.
Bảo đảm quyền, theo nghĩa rộng bao gồm tổng thể chính sách, pháp
luật cùng các điều kiện khác như kinh tế, chính trị, văn hóa và cơ chế bảo đảm
thực thi quyền trên thực tế. Còn theo nghĩa hẹp, quyền làm mẹ chỉ bao gồm
thể chế (chính sách, pháp luật) và thiết chế tương ứng để bảo đảm thực thi
quyền trên thực tế. Như vậy, với sự phân tích khái niệm quyền làm mẹ ở trên,
có thể hiểu một cách đầy đủ và khái quát nhất khái niệm bảo đảm quyền làm
mẹ, đó là tổng thể các chính sách, pháp luật cùng các điều kiện kinh tế, chính
trị, văn hóa liên quan đến khả năng của người phụ nữ trong việc thực hiện
hoặc thừa nhận việc có con đẻ hoặc con nuôi mà không phụ thuộc vào tình
trạng hôn nhân cùng các cơ chế bảo đảm thực thi trên thực tế. Với đối tượng
41
phụ nữ thì nội dung bảo đảm quyền làm mẹ bao gồm quyền được làm việc,
bảo đảm sức khỏe sinh sản, bảo đảm quyền được mang thai và sinh con, bảo
đảm khả năng chăm sóc và nuôi dạy con trong quá trình làm việc…
Phụ nữ khi ly hôn có quyền thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con,
nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không
thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn
cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải
xem xét nguyện vọng của con.
Trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng
Sau khi ly hôn, cha mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi
dưỡng, giáo dục con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi
dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình
theo quy định của Luật này, Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan.
Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của
mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; Trường hợp không thỏa thuận được thì
Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi
về mọi mặt của con;Nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện
vọng của con.
Khi xem xét ai sẽ là người có quyền nuôi con, tòa án sẽ căn cứ vào
nhiều yếu tố khác nhau. Nhìn chung tòa sẽ dựa trên 3 yếu tố sau:
+ Điều kiện về vật chất bao gồm: Ăn, ở, sinh hoạt, điều kiện học
tập…các yếu tố đó dựa trên thu nhập, tài sản, chỗ ở của cha mẹ;
+ Các yếu tố về tinh thần bao gồm: Thời gian chăm sóc, dạy dỗ, giáo
dục con, tình cảm đã dành cho con từ trước đến nay, điều kiện cho con vui
chơi giải trí, nhân cách đạo đức, trình độ học vấn … của cha mẹ.
+ Nguyện vọng của con: Con mong muốn được ở với ai (chỉ áp dụng
với con từ đủ 7 tuổi trở lên).
42
Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp
người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng,
giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con.
Được cấp dưỡng để nuôi con, Pháp luật không quy định cụ thể mức cấp
dưỡng là bao nhiêu mà phải căn cứ vào thu nhập, khả năng thực tế của người
có nghĩa vụ cấp dưỡng, nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng và
đương nhiên những chi phí này là chi phí hợp lý.
Quyền của phụ nữ khi không trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng
Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ
thăm nom con mà không ai được cản trở.
Về quyền thăm nom tới đâu thì pháp luật không có quy định cụ thể,
nhưng miễn là việc thăm nom đó không trái đạo đức xã hội và không gây ảnh
hưởng tới việc sinh hoạt và làm việc của gia đình vợ anh.
2.1.4. Quyền cấp dưỡng
Quyền yêu cầu cấp dưỡng
Theo quy định tại khoản 24 Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình 2014
quy định 24 thì cấp dưỡng là việc một người có nghĩa vụ đóng góp tiền hoặc
tài sản khác để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của người không sống chung với
mình mà có quan hệ hôn nhân, huyết thống hoặc nuôi dưỡng trong trường hợp
người đó là người chưa thành niên, người đã thành niên mà không có khả
năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình hoặc người gặp khó khăn,
túng thiếu theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình 2014.
Theo quy định của pháp luật hiện hành, cũng như theo phong tục, tập
quán của Việt Nam có quy định: Nghĩa vụ cấp dưỡng được thực hiện giữa cha,
mẹ và con; giữa anh, chị, em với nhau; giữa ông bà nội, ông bà ngoại và cháu;
giữa cô, dì, chú, cậu, bác ruột và cháu ruột; giữa vợ và chồng theo quy định của
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Nghĩa vụ cấp dưỡng không thể thay thế
bằng nghĩa vụ khác và không thể chuyển giao cho người khác. Theo đó:
43
Căn cứ Điều 115, 116 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, quy định
về nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ và chồng khi ly hôn nếu bên khó khăn, túng
thiếu có yêu cầu cấp dưỡng mà có lý do chính đáng thì bên kia có nghĩa vụ
cấp dưỡng theo khả năng của mình.
Ðể nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ chồng sau khi ly hôn được xác lập, cần
có một bên sống trong cảnh túng thiếu và bên kia có đủ điều kiện để hỗ trợ.
Sự túng thiếu của một bên, trong suy nghĩ của người làm luật, có nguồn gốc
từ tình trạng không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.
Thế nào là không có khả năng lao động tùy thuộc vào sự đánh giá của thẩm
phán. Người thất nghiệp chưa chắc là không có khả năng lao động; người
khuyết tạt cũng có thể có khả năng lao động. Bên vợ- chồng rơi vào hoàn
cảnh khó khăn, túng thiếu phải chứng minh sự khó khăn, túng thiếu của mình.
Nói chung, được coi là có lý do chính đáng khi lâm vào tình trạng khó khăn
túng thiếu là do những điều kiện ngoại cảnh mang lại, ví dụ như ốm đau, bệnh
tật hay gặp tai ương bất ngờ.
Như vậy, căn cứ vào quy định nêu trên thì khi ly hôn phụ nữ có thể
thỏa thuận với người chồng về việc cấp dưỡng và mức cấp dưỡng cho mình
trong khi chờ có được việc làm hay trong giai đoạn khó khăn. Nếu không thỏa
thuận được thì có quyền yêu cầu tòa án xem xét, giải quyết.
Mức cấp dưỡng
Mức cấp dưỡng do người có nghĩa vụ cấp dưỡng và người được cấp
dưỡng hoặc người giám hộ của người đó thỏa thuận căn cứ vào thu nhập, khả
năng thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng và nhu cầu thiết yếu của người
được cấp dưỡng; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu tòa án giải quyết.
Khi có lý do chính đáng, mức cấp dưỡng có thể thay đổi. Việc thay đổi
mức cấp dưỡng do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu
tòa án giải quyết.
44
Nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ chồng sau khi ly hôn chấm dứt khi bên
được cấp dưỡng kết hôn với người khác.
Đây là một quy định của pháp luật thể hiện tính nhân văn sâu sắc, có ý
nghĩa giáo dục và nâng cao giá trị đạo đức xã hội, thể hiện tinh thần tương
thân tương ái, thể hiện tình nghĩa vợ chồng ngay cả khi quan hệ vợ chồng đã
không còn được pháp luật bảo hộ.
2.1.5. Quyền lưu cư
Luật HN&GĐ năm 2014 còn bổ sung quy định quyền lưu cư của vợ
hoặc chồng khi ly hôn: “Nhà ở thuộc sở hữu riêng của vợ, chồng đã đưa vào
sử dụng chung thì khi ly hôn vẫn thuộc sở hữu riêng của người đó; trường
hợp vợ hoặc chồng có khó khăn về chỗ ở thì được quyền lưu cư trong thời hạn
06 tháng kể từ ngày quan hệ hôn nhân chấm dứt, trừ trường hợp các bên có
thỏa thuận khác [35, Điều 63].
Đây là điểm mới của Luật HN&GĐ năm 2014 thể hiện tính nhân văn
của pháp luật đã được luật hóa từ quy định tại Điều 30 Nghị định số
70/2001/NĐ – CP. Quy định này góp phần tạo điều kiện cho bên vợ hoặc
chồng có khó khăn về chỗ ở có điều kiện và thời gian để tìm, tạo lập chỗ ở
mới. Còn việc thanh toán cho bên không phải là chủ sở hữu nhà một phần giá
trị căn cứ vào công sức bảo dưỡng, nâng cấp, cải tạo, sửa chữa nhà thì Luật
HN&GĐ năm 2014 đưa vào nguyên tắc giải quyết tài sản của vợ chồng khi ly
hôn [35, khoản 4, Điều 59].
2.2. Thực trạng thực hiện quy định pháp luật hiện hành về quyền
của phụ nữ khi ly hôn
2.2.1. Về thực hiện quyền nhân thân
Pháp luật Việt Nam nói chung, hôn nhân gia đình nói riêng ngày càng
được hoàn thiện đã tạo cơ sở pháp lý cần thiết để đảm bảo tốt lợi ích của phụ
nữ nói chung và quyền của phụ nữ khi ly hôn nói riêng. Đặc biệt quyền lợi
quan trọng gắn với mỗi cá nhân là quyền nhân thân.
45
Trong quá trình thực hiện, nhìn chung nhiều quyền lợi về nhân thân của
phụ nữ khi ly hôn đều được các cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện
tương đối kịp thời và nghiêm túc; công tác tuyên truyền ngày càng có hiệu
quả đảm bảo cho người phụ nữ tiếp cận dễ dàng hơn với các thông tin liên
quan đến quyền lợi của mình.
Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện vẫn còn những bất cập. Việc đảm
bảo quyền và lợi ích của người phụ nữ trên thực tế vẫn còn gặp khó khăn và
hạn chế khi ly hôn. Vấn đề này có nguyên nhân từ chính là từ người chồng.
Thực tế có những trường hợp người mẹ bị mất năng lực hành vi dân sự.
Lưu ý, cần đảm bảo quyền bình đẳng của người mẹ bị hạn chế hoặc mất năng
lực hành vi dân sự trong việc chăm sóc con.
Luật HN&GĐ năm 2014 chưa có những quy định mở rộng trong việc
đảm bảo quyền của người phụ nữ khi họ bị hạn chế hoặc bị mất năng lực hành
vi dân sự thì quyền của họ vẫn được đảm bảo trong việc chăm sóc, bảo vệ con
cái bằng cách quy định người thân trong gia đình như ông bà, anh chị, em…
có quyền được thay người mẹ chăm sóc, giáo dục cháu, cũng như quy định
trách nhiệm của những người thân thích có quyền được xem xét, giám sát khi
người chồng có những hành vi bạo lực đối với người con để phát hiện kịp
thời, đảm bảo cho quyền lợi của người mẹ cũng như sự phát triển sau này
củatrẻ.
2.2.2. Về thực hiện quyền tài sản
Phân chia tài sản sau ly hôn (gồm nhà, đất, tài sản có giá trị, tiền mặt...)
theo pháp luật nhìn chung là chia đôi, trong đó có quan tâm đến quyền và lợi
ích của phụ nữ. Từ 2012 – 2017, trong số các cặp vợ chồng ly hôn, có trên
một nửa là chưa có nhà đất (55,8%) –với tỷ lệ khá như nhau ở cả nông thôn
và thành thị. Với những cặp có nhà đất và phải phân chia sau khi ly hôn, có
19,1% là chia đều cho cả vợ và chồng, và tỷ lệ vợ hoặc chồng được phân chia
nhà đất sau khi ly hôn là khá ngang bằng nhau, 12,5% và 12,7%. Những
46
trường hợp không phân chia nhà đất đa số bao gồm những trường hợp ở
chung với cha mẹ, thuê nhà ở, ở nhờ, v.v. trước khi ly hôn.
Việc phân chia nhà ở khá khác biệt giữa nông thôn và đô thị. Tại các
khu vực đô thị, phân chia sở hữu nhà ở bằng nhau giữa vợ và chồng là cao
nhất (25,2%), tiếp theo là quyền sở hữu của người vợ, và chỉ có 6,9% chồng
có quyền sở hữu độc lập. Tại các khu vực nông thôn, sở hữu bằng nhau chiếm
tỷ lệ thấp nhất (10,5%), và chồng sở hữu là cao nhất (20,6%). Có thể nói rằng
bình đẳng giới trong sắp xếp nhà ở tại các khu vực đô thị tốt hơn so với khu
vực nông thôn. Các ông chồng ở các khu vực nông thôn chủ động và chiếm
ưu thế hơn trong xác định quyền sở hữu nhà ở sau hôn nhân
Có khác biệt thành thị / nông thôn trong phân chia bình đẳng về quyền
sở hữu nhà. Kết quả cho thấy, các cặp vợ chồng đô thị có nhiều khả năng để
phân chia quyền sở hữu bằng nhau so với các cặp vợ chồng nông thôn. Điểm
thú vị là mức sống có tác động lớn đến việc phân chia tài sản nhà ở sau ly
hôn, giả định các biến số khác không đổi. Trong mô hình đầu tiên, các cặp vợ
chồng khá giả hơn trao quyền sở hữu nhà cho vợ cao hơn hai lần so với các
cặp vợ chồng nghèo hơn. Các cơ hội nắm quyền sở hữu nhà của người vợ
cũng cao hơn đối với các cặp có mức sống trung bình. Ảnh hưởng của mức
sống rất mạnh trong mô hình cuối cùng trong kiểm tra khả năng của cả hai vợ
chồng cùng sở hữu nhà sau khi ly hôn. Mô hình này cho thấy, khả năng các
cặp vợ chồng khá giả phân chia quyền sở hữu nhà bằng nhau cao hơn khoảng
bốn lần so với các cặp vợ chồng nghèo.
Con cái cũng là một biến số có tác động đáng kể đến các quyết định phân
chia nhà ở. Các cặp vợ chồng không có con phân chia nhà ở cho người chồng
cao hơn gấp hai lần so với các cặp vợ chồng có con cái (không kể giới tính của
con). Ảnh hưởng này là dương với cả phân tích tương quan hai chiều, cho thấy
nếu người vợ không có con thì gần như không có khả năng được sở hữu nhà ở
sau ly hôn. Những cặp vợ chồng có cả con trai và con gái thường phân chia
47
quyền sở hữu nhà ở như nhau, vì hầu hết số họ cũng chia sẻ trách nhiệm nuôi
con.
Nhìn chung việc thực hiện quyền tài sản của phụ nữ khi ly hôn được
bảo đảm nhưng có một số trường hợp trong việc phân chia tài sản khi ly hôn
để đảm bảo quyền của phụ nữ còn một số khó khăn như các trường hợp sau:
Chia tài sản chung trong trường hợp vợ chồng sống chung với gia đình
mà ly hôn
Ở Việt Nam có rất nhiều cặp vợ chồng sống chung với gia đình bên vợ
hoặc gia đình bên chồng và kéo dài cho đến ngày chấm dứt hôn nhân. Trong
quá trình chung sống, vợ chồng và các thành viên khác cùng lao động sản
xuất tạo lập khối tài sản chung của đại gia đình. Trong trường hợp này, nếu
như hai vợ chồng ly hôn, một bên sẽ ra đi, bên còn lại sẽ tiếp tục cuộc sống
chung với đại gia đình. Do đó, Tòa cần cân nhắc vấn đề công sức đóng góp
vào khối tài sản chung của họ một cách thận trọng, để từ đó có cách giải quyết
hợp lý nhất. Tòa án phải dựa vào nhiều yếu tố, căn cứ khác nhau để phân chia
một phần tài sản cho bên ra đi trong khối tài sản chung của đại gia đình sao
cho quyền lợi các bên đều được đảm bảo.
Khi xem xét giải quyết trường hợp vợ chồng sống chung với gia đình
mà ly hôn, cần chú ý trường hợp sau đây:
Nếu vợ chồng sống chung với đại gia đình nhưng hoàn toàn không có
quan hệ kinh tế chung; vợ chồng có công ăn việc làm độc lập; tích lũy tài sản
chung của vợ chồng một cách riêng biệt với các thành viên khác của đại gia
đình, họ chỉ đóng góp các chi phí thiết yếu nhằm duy trì cuộc sống chung thì
khi vợ chồng ly hôn, Tòa án không áp dụng Điều 61 Luật HN&GĐ năm 2014
để giải quyết tài sản cho các bên vợ chồng trong trường hợp này.
Xuất phát từ tính chất phức tạp của việc xác định nguồn gốc tài sản,
phân định tài sản chung, tài sản riêng, việc phân chia một tài sản cho mỗi bên
sao cho thỏa đáng trong trường hợp vợ chồng sống chung với gia đình mà ly
48
hôn. Điều 61 Luật HN&GĐ năm 2014 trên cơ sở kế thừa Điều 96 Luật
HN&GĐ năm 2000, nhưng đã bổ sung thêm điều khoản dẫn chiếu ở khoản 2.
Theo quy định của pháp luật HN&GĐ hiện hành, việc phân chia tài sản của vợ
chồng trong trường hợp này tùy thuộc vào tài sản của vợ chồng trong khối tài
sản chung của gia đình có xác định được hay không mà sẽ có cách chia khác
nhau cụ thể, như sau:
Trường hợp, tài sản chung của vợ chồng trong khối tài sản chung của
gia đình không xác định được
Theo khoản 1 Điều 61 Luật HN & GĐ năm 2014 quy định, trường hợp
vợ chồng sống chung với gia đình mà ly hôn, nếu tài sản của vợ chồng trong
khối tài sản chung của gia đình không xác định được thì vợ hoặc chồng được
chia một phần trong khối tài sản chung của gia đình căn cứ vào công sức đóng
góp của vợ chồng vào việc tạo lập, duy trì, phát triển khối tài sản chung của
gia đình. Việc chia một phần trong khối tài sản chung do vợ chồng thỏa thuận
với gia đình; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết.
Công sức đóng góp của người vợ hoặc chồng là căn cứ chủ yếu để xác
định phần tài sản được chia, trong trường hợp này được xác định dựa trên thời
gian đóng góp và hình thức đóng của vợ, chồng vào khối tài sản của gia đình.
Về cơ bản, hình thức đóng góp được xác định như trong việc tạo lập, duy trì
và phát triển khối tài sản chung của vợ chồng dựa trên các hoạt động lao động
sản xuất như lao động tạo ra của cải, nội trợ, chuyển tài sản riêng thành tài sản
chung; tuy nhiên, thời gian chung sống với đại gia đình của người ra đi và các
thành viên khác là không bằng nhau, không giống nhau như khoảng thờ gian
bằng nhau mà hai vợ chồng cùng tạo lập cuộc sống riêng nên không thể nói
công sức đóng góp của người này và những người khác là ngang nhau, và
phần được hưởng cũng không bằng phần của những nguời khác.
Tỉ lệ phần tài sản của người ra đi nhận được so với giá trị chung rất khó
xác định cụ thể, đó chỉ là kết quả xác định một cách tương đối, có thể chấp
nhận được.
49
Trường hợp tài sản của vợ chồng trong khối tài sản chung của gia đình
có thể xác định được theo thành phần
Theo khoản 2 Điều 61 Luật HN&GĐ năm 2014 quy định, trường hợp
vợ chồng sống chung với gia đình mà tài sản của vợ chồng trong khối tài sản
chung của gia đình có thể xác định được theo thành phần thì khi ly hôn, phần
tài sản của vợ chồng được trích ra từ khối tài sản chung đó để chia theo quy
định tại Điều 59 của Luật này.
Về cơ bản nội dung của quy định này giống quy định tại khoản 2 Điều
96 Luật HN&GĐ năm 2000, nhưng có bổ sung hướng dẫn cụ thể hơn về việc
chia tài sản trong trường hợp này. Cụ thể, phần tài sản chung của vợ chồng sẽ
được xác định và trích ra từ khối tài sản chung của gia đình, sau đó phân chia
theo quy định tại Điều 59 Luật HN&GĐ năm 2014.
Chia quyền sử dụng đất của vợ chồng khi ly hôn
Thực tiễn xét xử cho thấy việc chia QSDĐ là vấn đề gây khó khăn và
phức tạp hơn cả trong việc chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn. QSDĐ
là loại tài sản đặc biệt, có giá trị cao trong khối tài sản chung và đặc biệt gắn
với những quy chế quản lý của nhà nước về đất đai và tài sản. Do đó, việc
chia QSDĐ khi vợ chồng ly hôn không chỉ tuân theo quy định tại Điều 62
Luật HN&GĐ năm 2014 mà còn tùy thuộc vào từng loại đất và điều kiện của
vợ chồng.
- Đối với đất nông nghiệp trồng cây hàng năm, đất nuôi trồng thủy sản.
Căn cứ vào nhu cầu sử dụng và điều kiện trực tiếp sử dụng đất để quy
định việc giải quyết cho các cặp vợ chồng khi ly hôn, cụ thể quy định tại điểm
a khoản 2 Điều 62 Luật HN&GĐ năm 2014, gồm các trường hợp sau:
Thứ nhất, trong trường hợp cả hai vợ chồng đều có nhu cầu sử dụng đất
và có điều kiện trực tiếp sử dụng thì QSDĐ được chia theo thỏa thuận của các
bên, nếu không thỏa thuận được thì Tòa án giải quyết theo quy định tại Điều
59 Luật HN&GĐ năm 2014.
50
Thứ hai, trong trường hợp chỉ có một bên có nhu cầu và điều kiện trực
tiếp sử dụng đất thì bên đó được tiếp tục sử dụng nhưng phải thanh toán cho
bên kia phần giá trị QSDĐ mà họ được hưởng.
Sở dĩ pháp luật căn cứ vào nhu cầu sử dụng và điều kiện trực tiếp sử
dụng đất để quy định cách phân chia như vậy là nhằm đảm bảo giá trị sử dụng
của các loại đất trên, cũng như giải quyết quyền lợi thiết thực của bên thật sự
cần tiếp tục sử dụng diện tích đó. Thực tế cho thấy, những loại đất này đòi hỏi
người sử dụng đất phải chăm sóc thường xuyên, thu hoạch trong thời gian
ngắn nên cần thiết phải giao cho người có nhu cầu và điều kiện trực tiếp sử
dụng để tránh lãng phí đất.
Trên thực tế trong một số trường hợp vì hoàn cảnh đặc biệt của vợ
chồng mà việc xác định và phân chia tài sản chung cần phải có hướng dẫn cụ
thể mà Luật HN&GĐ năm 2014 đã đề ra một số trường hợp. Đối với tài sản là
bất động sản (nhà ở, quyền sử dụng đất) thường gặp nhiều khó khăn, vướng
mắc, cho nên Luật HN&GĐ 2014 đã quy định về các trường hợp chia tài sản
chung của vợ chồng là nhà ở, quyền sử dụng đất; các trường hợp mà vợ chồng
còn sống với gia đình bên cha mẹ vợ hoặc cha mẹ chồng [17, Điều 61, Điều
62]. Trong trường hợp vợ chồng cùng chung sống với gia đình bên vợ hoặc
gia đình bên chồng thì việc xác định tài sản của vợ chồng trong khối tài sản
chung với gia đình là rất khó khăn.
2.2.3. Về thực hiện quyền đảm bảo thiên chức làm mẹ
Phân tích các hồ sơ ly hôn của tòa án nhân dân một quận ở Hà Nội và
một huyện ở Hà Nam giai đoạn 2012-2017 cho thấy, trong số tất cả các cặp
vợ chồng ly hôn, trẻ em được quyết định sống với mẹ sau khi ly hôn là xu
hướng phổ biến, chiếm 62,3% các trường hợp. Chia sẻ quyền nuôi con chiếm
18,7%, khi các cặp vợ chồng có ít nhất hai con. Người cha nhận được quyền
nuôi con chiếm 16,5% các vụ ly hôn. Các trường hợp trẻ em sống với người
khác rất ít ở Việt Nam; chỉ chiếm 2,4% tất cả các cuộc ly dị . Những phát hiện
51
này phù hợp với các kết quả trước đó của Viện Gia đình và Giới (2006), cho
thấy sau khi ly hôn, trẻ em thường sống với mẹ (64,3%). Tỷ lệ trẻ em sống
với mẹ sau khi ly hôn ở các hộ nghèo cao (68,6%) so với trẻ em sống với bà
mẹ trong các gia đình khá (57,8%).
Trong khoảng thời gian từ năm 2012-2017, con sống với mẹ là xu
hướng chủ đạo trong các cặp vợ chồng ly dị. Từ 2012-2017, tỷ lệ trẻ em sống
với bà mẹ sau khi ly hôn giảm nhẹ từ 68,4% năm 2012 xuống 45,7% trong
năm 2017. Trong cùng thời gian, tỷ lệ trẻ em sống chung với cha của họ là
khoảng 20%, và tỷ lệ sống với cả cha và mẹ tăng nhẹ. Từ 2012-2017, tỷ lệ
chia sẻ quyền nuôi con tăng từ 6% năm 2012 lên 17,6% trong năm 2017.
Theo thống kê, người chồng, gia đình thường đã tạo ra tâm lý thoải mái
gián tiếp giúp người phụ nữ sau ly hôn yên tâm thực hiện tốt thiên chức làm
mẹ của mình. Đồng thời, người phụ nữ cũng có một chỗ dựa ổn định để đảm
bảo cho cuộc sống, có điều kiện để chăm lo tốt hơn về đời sống vật chất cho
con cái của mình, theo đó chức năng làm mẹ cũng được hoàn thành tốt hơn.
Tuy nhiên, trong một số trường hợp, quyền được đảm bảo thiên chức
làm mẹ của phụ nữ sau khi ly hôn chưa được thực hiện tốt, như:
Thứ nhất, Người chồng trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng cho con, biến
cấp dưỡng nuôi con thực sự trở thành món nợ khó đòi.
Thứ hai, thực tế có trường hợp người cha không có tài sản để nuôi sống
chính bản thân, vì vậy không thể đủ điều kiện để cấp dưỡng nuôi con sau ly
hôn. Căn cứ vào quy định, Người có khả năng thực tế để thực hiện nghĩa vụ
cấp dưỡng được quy định tại các điều 81, 82 và 83 của Luật HN & GĐ năm
2014 là người có thu nhập thường xuyên hoặc tuy không có thu nhập thường
xuyên nhưng còn tài sản sau khi đã trừ đi chi phí thông thường cần thiết cho
cuộc sống của người đó. Căn cứ vào quy định đó có thể thấy rằng người cha
trong trường hợp này là người không có thu nhập thường xuyên cũng như
không có tài sản. Do đó, trường hợp này người cha sẽ được chấm dứt nghĩa
52
vụ cấp dưỡng theo quy định: “Các trường hợp khác theo quy định của pháp
luật”. Vì vậy, trường hợp này, dù bất khả kháng nhưng đã gây ảnh hưởng trực
tiếp tới đời sống của con sau ly hôn cũng như gián tiếp gây trở ngại cho quyền
đảm bảo thiên chức làm mẹ của người phụ nữ.
Thứ ba, một số trường hợp mức cấp dưỡng quá thấp. Tại sao lại có
những mức cấp dưỡng thấp một cách kỳ cục và bất hợp lý so với mặt bằng
cuộc sống đến vậy? Nghiên cứu quy định của luật cho thấy mức cấp dưỡng cho
con do cha mẹ thỏa thuận và nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu tòa giải
quyết. Cũng về vấn đề này, Khoản 2 Điều 16 của Nghị định 70/2001/NĐ-CP
ngày 3/10/2001 quy định chi tiết thi hành Luật Hôn nhân – Gia đình quy định,
nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng được xác định căn cứ vào vào
mức sinh hoạt trung bình tại địa phương nơi người được cấp dưỡng cư trú, bao
gồm các chi phí thông thường cần thiết về ăn, ở, mặc, học, khám chữa
bệnh...Có thể thấy, quy định của tòa án về mức cấp dưỡng là căn cứ vào mức
thu nhập, giá cả thị trường tại thời điểm xét xử vụ án. Mà hầu hết các vụ án ly
hôn, con cái còn ở lứa tuổi rất nhỏ, phải 14-16 năm sau mới đủ 18 tuổi. Trong
quãng thời gian dài đó, cuộc sống có nhiều biến động mà mức cấp dưỡng lại
bất di bất dịch nên đã trở thành gánh nặng cho những người trực tiếp nuôi con.
Thứ tư, một quy định nữa của pháp luật là khi người có nghĩa vụ cấp
dưỡng không tự nguyện thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng thì cơ quan thi hành án
phối hợp với cơ quan, tổ chức trực tiếp trả tiền lương, tiền công lao động cho
người có nghĩa vụ cấp dưỡng phải thực hiện việc khấu trừ khoản cấp dưỡng
để chuyển trả cho người được cấp dưỡng .Thế những trên thực tế, có những
trường hợp theo đơn yêu cầu của người trực tiếp nuôi con, chấp hành viên đã
phải đi năm lần bảy lượt đến cơ quan, tổ chức nơi người có nghĩa vụ cấp
dưỡng đang công tác nhưng hầu như lần nào cũng nhận được sự từ chối vì
cho rằng đó không phải là nghĩa vụ của họ. Nhưng, trên thực tế chủ yếu là do
họ ngại va chạm, nhất là khi người có nghĩa vụ cấp dưỡng lại là những người
có máu mặt trong cơ quan.
53
Từ những bất cập trên có thể thấy, các quy định về cấp dưỡng vẫn còn
rất chung chung, thiếu cụ thể. Điều này khiến cho tòa án khi phán xử chỉ còn
biết căn cứ và điều kiện thực tế cụ thể của từng trường hợp. Nhưng cũng
chính vì lý do đó mà mức cấp dưỡng mỗi nơi, mỗi vẻ. Mặt khác, việc thiếu
các chế tài cứng rắn hơn để ràng buộc những người có nghĩa vụ cấp dưỡng
phải thực hiện nghĩa vụ của mình cũng như cơ quan, tổ chức nơi người đó
công tác phải có nghĩa vụ hỗ trợ cơ quan tư pháp thực hiện cũng là một cản
trở không nhỏ.
2.2.4. Về thực hiện quyền cấp dưỡng
Hiện nay, Luật HN &GĐ 2014 mới ban hành vẫn chưa có văn bản
hướng dẫn thi hành. Theo quy định tại điều 115 LHN&GĐ 2014 quy định thì
“sự khó khăn túng thiếu” của 1 bên mà có lý do chính đáng là cơ sở để tòa án
quyết định nghĩa vụ cấp dưỡng của vợ và chồng khi ly hôn. Vấn đề khó cả về
lý luận và thực tế là “sự khó khăn, túng thiếu” của một người là dựa vào tiêu
chí nào để đánh giá và khi nào thì được coi là có lý do cính đáng. Qua quá
trình thu thập thông tin và tài liệu tham khảo, cá nhân tôi tin rằng, tòa án cần
phải căn cứ vào những yếu tố sau:
* Khả năng lao động của người có yêu cầu cấp dưỡng:
Cần xem xét tới độ tuổi và tình trạng sức khỏe của họ:Nếu người được
cấp dưỡng là người già yếu hoặc ốm đau bệnh tật nên hạn chế hoặc mất khả
năng lao động làm cho họ không có thu nhập hoặc do không có tài sản nên rơi
vào tình trạng khó khăn thì nên được cấp dưỡng. Xét người có yêu cầu cấp
dưỡng có đang làm nghĩa vụ của cha hoặc mẹ đối với con sau ly hôn hay
không: Khi vợ chồng đã ly hôn, nếu bên nhận nghĩa vụ nuôi dưỡng, chăm sóc,
giáo dục con (chưa thành niên hoặc không có khả năng lao động) có yêu cầu
được cấp dưỡng thì cũng có thể xem đây là căn cứ hợp lý để quyết định cho
họ được cấp dưỡng. Thực tế cho thấy những người này luôn gặp phải khó
khăn trong cuộc sống. Và khi xem xét vấn đề này thì không cần quan tâm
54
rằng con mà người đó đang nuôi dưỡng là con chung của 2 vợ chồng hay con
riêng của bên được cấp dưỡng.
*Thu nhập thực tế, khả năng về tài sản và nhu cầu thiết yếu của người
có nhu cầu cấp dưỡng:
Khi xét vè thu nhập thực tế cần xét đến các khoản thu nhập thường
xuyên và không thường xuyên. Khi xét khả năng về tài sản cần xem khối tài
sản thuộc sở hữu của người đó. Khi xét nhu cầu thiết yếu cần xét chi phí cho
mức sinh hoạt trung bình của người đó tại địa phương. Bên cạnh đó, cần kết
hợp xét khả năng lao động như đã nói trên.
* Khả năng người có nhu cầu cấp dưỡng có thể tìm việc làm tạo thu
nhập: Trong thực tế nhiều người có sức khỏe, khả năng lao động tốt nhưng
không có trình độ nên ít đươc tuyển dụng.Cũng có trường hợp trong thời kỳ
hôn nhân, một bên thu nhập cao và một bên thu nhập thấp. Bên thu nhập cao
yêu cầu bên kia nghỉ việc để lo toan mọi việc trong nhà. Đến khi ly hôn,
người này không có cơ hội tìm lại việc làm và cuộc sống của họ không được
bảo đảm. Vậy thì yêu cầu được cấp dưỡng của họ cũng đáng được xem xét.2.
Về phía người cấp dưỡng:
* Nghĩa vụ cấp dưỡng chỉ đặt ra khi một bên gặp hoàn cảnh khó khăn
và một bên có đủ điều kiện cấp dưỡng. Vì vậy vấn đề quan trọng nữa là đánh
giá khả năng cấp dưỡng của bên kia.
Cấp dưỡng giữa vợ và chồng khi ly hôn được quy định là người được
cấp dưỡng phải là người có khó khăn, túng thiếu và bản thân họ phải có yêu
cầu và yêu cầu đó phải có lý do chính đáng...Thế nhưng, trên thực tế điều luật
này cũng không được thực hiện vì lý do đương sự không biết có quy định như
vậy hoặc biết, có yêu cầu nhưng bên kia chỉ đồng ý cấp dưỡng nuôi con. Đây
cũng là một điều luật khó thực hiện vì thiếu chế tài ràng buộc.
Nhiều trường hợp do tâm lý bất cần sauly hôn, dù túng quẫn hay rơi
vào hoàn cảnh khó khăn về kinh tế những người phụ nữ vẫn không yêu cầu
55
ngừơi chồng cấp dưỡng sau ly hôn. Vì vậy, vô tình bỏ qua quyền được cấp
dưỡng của chính bản thân mình.
Có một số trường hợp, có cấp dưỡng từ chồng nhưng rất thấp. Hoặc có
trường hợp người chồng sau khi ly hôn một thời gian cũng không có tài sản
để nuôi sống chính bản thân,do đó, trường hợp này người chồng sẽ được
chấm dứt nghĩa vụ cấp dưỡng. Vì vậy, làm ảnh hưởng đến đời sống của ngừoi
phụ nữ khi ly hôn.
2.2.5. Về thực hiện quyền lưu cư
Nhà ở đối với nhiều gia đình là tài sản có giá trị lớn, là nơi ở của cả gia
đình trước khi ly hôn do đó việc phân chia nhà ở ảnh hưởng rất lớn đến quyền
lợi của vợ, chồng và các thành viên khác sống chung với gia đình.
Theo quy định tại Điều 63 Luật HN&GĐ năm 2014 thì khi nhà ở thuộc
sở hữu riêng của một bên vợ hoặc chồng đã được đem vào sử dụng chung khi
ly hôn nhà ở đó cũng thuộc sở hữu riêng của chủ sở hữu nhà trừ trường hợp
hai bên có thỏa thuận khác. Đây là quy định cụ thể hóa từ nguyên tắc chia tài
sản tại khoản 4 Điều 59 Luật HN&GĐ năm 2014. “Thông thường khi kết hôn,
nếu một trong hai bên đã có nhà thuộc sở hữu riêng của người đó thì bên kia
về sống chung”[35]. Quy định này khuyến khích vợ chồng có nơi cư trú
chung, phù hợp với phong tục tập quán Việt Nam. Khi ly hôn tài sản riêng của
bên nào thì thuộc quyền sở hữu của bên đó. Trong trường hợp, vợ hoặc chồng
không sở hữu nhà có khó khăn và không tìm chỗ ở mới được mặc dù đã cố
gắng hết sức thì được quyền lưu cư lại nhà của bên kia trong thời gian sáu
tháng kể từ ngày quan hệ hôn nhân chấm dứt. Đây là quy định mới thể hiện
tính nhân đạo của Nhà nước ta khi bảo vệ quyền lợi cho người ra đi.
Trên thực tế nhiều trường hợp sau ly hôn, thậm chí trong quá trình ly
hôn người phụ nữ đã phải ra khỏi nhà vì không thể chịu được cảnh bạo lực do
mâu thuẫn hoặc nguyên nhân từ phía gia đình nhà chồng. Một số trường hợp
56
khác, người phụ nữ muốn ra khỏi nhà để tự giải thoát mình khỏi bạo lực
nhưng lại không được chấp nhận bị cản trở khi thựchiện.
2.3. Nhận xét chung về quyền của phụ nữ khi ly hôn theo pháp luật
Việt Nam hiện nay
2.3.1. Ưu điểm
2.3.1.1. Quyền nhân thân
Để đảm bảo thực hiện đúng đắn, đầy đủ chế độ HN&GĐ tiến bộ, tuân
thủ Hiến pháp, Luật HN&GĐ năm 2014 đã ban hành nhiều quy định đảm bảo
vấn đề này trong đó có các quy định về quyền nhân thân của phụ nữ khi ly
hôn. Những quy định này góp phần ngăn chặn, hạn chế và từng bước xóa bỏ
những tàn tích của chế độ HN&GĐ phong kiến lạc hậu, củng cố chế độ
HN&GĐ mới, tiến bộ hơn. Trong xã hội phong kiến, người phụ nữ không
được coi trọng, bảo vệ; pháp luật chịu ảnh hưởng của tư tưởng nho giáo với
các tư tưởng: phụ quyền, gia trưởng, trọng nam, khinh nữ… đã làm cho quyền
lợi của người phụ nữ trong gia đình không được bảo hộ. Người phụ nữ phụ
thuộc vào chồng, con trai trong gia đình, không có quyền quyết định những
vấn đề liên quan đến tài sản, quyền thừa kế tài sản của chồng bị hạn chế…
Hiện nay, quyền phụ nữ được ghi nhận và bình đẳng. Luật HN&GĐ
năm 2014 thừa nhận quyền bình đẳng của người phụ nữ trong trong quan
hệ nhân thân với người chồng trong quan hệ pháp luật ly hôn. Các quyền cơ
bản về nhân thân của người phụ nữ khi ly hôn - quyền tài sản gắn với nhân
thân ngày càng được đảm bảo.
2.3.1.2.Quyền tài sản
Thứ nhất, các quy định về việc chia tài sản chung của vợ chồng khi ly
hôn đã góp phần củng cố chế độ HN&GĐ. Ở nước ta, chế độ HN&GĐ luôn
được bảo hộ. Hôn nhân dựa trên nguyên tắc tự nguyện, tiến bộ, một vợ, một
chồng, vợ chồng bình đẳng. Vợ, chồng bình đẳng với nhau về quyền, nghĩa
vụ trong việc tạo lập, chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung; không
57
phân biệt giữa lao động trong gia đình và lao động có thu nhập [35, khoản
1 điều 29]. Khi ly hôn, về nguyên tắc tài sản chung của vợ chồng được chia
đôi nhưng có tính đến các yếu tố: hoàn cảnh gia đình của vợ, chồng; công
sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài
sản chung…[35, khoản 2 Điều 59]. Như vậy, các quy định này đã thể
hiện quyền bình đẳng của người vợ trong quan hệ tài sản với chồng trong
vấn đề chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn.
Thứ hai, phân chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn, …[35, điểm
c khoản 2 Điều 59]. Vợ, chồng đang thực hiện hoạt động sản xuất, kinh
doanh liên quan đến tài sản chung có quyền được nhận lại tài sản đó và phải
thanh toán cho bên kia phần giá trị tài sản chênh lệch mà họ được hưởng,
trường thợp pháp luật về kinh doanh có quy định khác…[35, điều 64].
Thứ ba, việc thừa nhận chế độ tài sản theo thỏa thuận góp phần hạn
chế các tranh chấp kéo dài khi chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn,
thể hiện sự đối mới trong tư duy lập pháp của các nhà làm luật. Luật
HN&GĐ nói riêng và pháp luật Việt Nam nói chung đã có những thay đổi
trong tư duy xây dựng pháp luật ngày càng phù hợp với nhu cầu pháp lý
thực tiễn và truyền thống pháp lý trên thế giới.
Bốn là, bên cạnh tài sản chung tài sản riêng thì việc xác định nợ riêng
nợ chung của vợ, chồng cũng được quy định rất cụ thể.
ài sản chung của vợ chồng.
58
Theo Điều 37 , vợ, chồ
“1. Nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do vợ chồng cùng thỏa thuận xác
lập, nghĩa vụ bồi thường thiệt hại mà theo quy định của pháp luật vợ chồng
cùng phải chịu trách nhiệm;
2. Nghĩa vụ do vợ hoặc chồng thực hiện nhằm đáp ứng nhu cầu thiết
yếu của gia đình;
3. Nghĩa vụ phát sinh từ việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản
chung;
4. Nghĩa vụ phát sinh từ việc sử dụng tài sản riêng để duy trì, phát triển
khối tài sản chung hoặc để tạo ra nguồn thu nhập chủ yếu của gia đình;
5. Nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do con gây ra mà theo quy định
của Bộ luật dân sự thì cha mẹ phải bồi thường;
6. Nghĩa vụ khác theo quy định của các luật có liên quan”[35].
ợ, chồng chịu trách nhiệm liên
đới về các nghĩa vụ với giao dịch do một bên thực hiện ứng nhu cầu
thiết yếu của gia đình hoặc giao dịch khác phù hợp với quy định về đại diện
ại diện giữa vợ, chồng tại các Điều 24, 25 và 26 củ
trong quan hệ kinh doanh….
Tuy nhiên, vợ, chồ
ủa Luậ
“
2. Không phát sinh từ việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung
3. Không để ển khối tài sản chung hoặc để tạo
ra nguồn thu nhập chủ yếu của gia đình;
59
ụ bồi thường thiệt hại do con gây ra theo
5. Không phải thuộc trường hợp đại diện giữa vợ và chồng theo quy
định tại Điều 24, 25 và 26 của " [35].
ợc dùng tài sản chung của vợ chồng để thanh toán cho
những khoản nợ
2015 ự có quyền, nghĩa vụ chủ động thu thập, giao nộp
chứng cứ cho Tòa án, chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ
ứng
minh được việc vay tiền để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình như: Ăn ở,
học hành, chữa bệnh… thì Tòa án có thể quyết đị ợ chồ
ng có trách nhiệm trong việc trả nợ.
Năm là, Một trong những ưu điểm của Luật HN & GĐ năm 2014 thể
hiện tính nhân văn của phụ nữ đó là công việc nội trợ được coi là có thu nhập.
Trước nay việc người vợ hoặc chồng ở nhà nội trợ, chăm lo con cái thường bị
xem nhẹ và không được coi như là một công việc thực sự. Do vậy khi cuộc
sống hôn nhân không còn “cơm lành, canh ngọt” hay thậm chí là ly hôn thì
quyền lợi của những người phụ nữ thường bị thiệt thòi.
Tại Khoản 2, Điều 16, Luật HN & GĐ năm 2014 quy định như
sau: “Việc giải quyết quan hệ tài sản phải đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp
của phụ nữ và con; công việc nội trợ và công việc khác có liên quan để duy
trì đời sống chung được coi như lao động có thu nhập”[35].
Công việc nội trợ là công việc chung các thành viên trong gia đình,
mang tính cộng đồng cao, tích hợp các yếu tố gia đình, nhà trường và xã hội,
công việc có thu nhập. Người thực hiện nhiều công việc nội trợ, công việc gia
đình là người gần gũi, thường xuyên nuôi dạy con từ chuyện tập ăn, tập nói,
60
tập đi… Đến khi đứa trẻ đủ tuổi để đi thì những người thân trong gia đình có
thể đưa đến trường, đón về nhà. Tuy nhiên do thời gian công việc, vai trò
chính trong việc đưa đón, giáo dục con vẫn là người thường xuyên thực hiện
công việc nội trợ (thường là người vợ trong gia đình). Người nội trợ chịu
trách nhiệm về sức khỏe và dinh dưỡng của các thành viên trong gia đình, họ
có nhiều việc như: quản lý, cân nhắc về thu chi, nấu ăn, lập thực đơn ngày,
tuần, tiếp khách, giặt quần áo, dọn vệ sinh nhà cửa,…
Từ phân tích trên có thể thấy công việc nội trợ biểu hiện rất rộng như:
duy trì, phát triển kinh tế gia đình, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con,
phụng dưỡng ông bà, cha mẹ ầ
ều 29 Luật Hôn nhân
và gia đình 2014 có quy định: “Vợ, chồng bình đẳng với nhau về quyền,
nghĩa vụ trong việc tạo lập, chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung;
không phân biệt giữa lao động trong gia đình và lao động có thu nhập”[35].
Công việc nội trợ tạo ra nhiều sản phẩm vật chất, tinh thần cho các thành viên
trong gia đình bảo đảm duy trì cuộc sống và hạnh phúc gia đình.
Có thể khẳng định, từ thực tiễn xã hội với những quy định về công việc
nội trợ, lao động trong gia đình của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 đã
đáp ứng kịp thời các yêu cầu khách quan của đời sống hôn nhân và gia đình
trong tình hình mới, bảo đảm thực hiện tốt hơn quyền con người, quyền công
dân được quy định trong Hiến pháp năm 2013.
Quy định mới này bảo đảm quyền bình đẳng giữa vợ và chồng khi ly
hôn, bảo vệ quyền lợi của những người phải từ bỏ công việc xã hội của mình
thực hiện công việc nội trợ, dù họ không tạo ra thu nhập trực tiếp nhưng công
việc này đóng góp một phần không nhỏ trọng việc làm ra kinh tế gia
đình Điểm mới đáng lưu ý trong luật sửa đổi lần này là những quy định về
giải quyết quan hệ tài sản phải đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của phụ nữ
và con. Luật mới chú trọng bảo vệ quyền và lợi ích của người làm công việc
nội trợ (đa phần là nữ giới) nên quyền lợi các bên được bảo đảm.
61
2.3.1.3. Quyền đảm bảo thiên chức làm mẹ
Pháp luật Việt Nam về quyền của phụ nữ khi ly hôn, đặc biệt quyền
được bảo đảm thiên chức làm mẹ - quyền quan trọng nhất đối với phụ nữ khi
ly hôn ngày càng được hoàn thiện đã tạo cơ sở pháp lý cần thiết để đảm bảo
tốt lợi ích của người phụ nữ nói chung và người phụ nữ khi ly hôn nói riêng.
Quyền lợi của người phụ nữ được đảm bảo về mặt pháp lý ngày càng hoàn
thiện, tạo cơ chế cẩn thiết để bảo đảm tốt quyền làm mẹ của người phụ nữ
khi ly hôn. So với thời kỳ trước, Người phụ nữ khi ly hôn được tạo điều kiện
tốt hơn về mặt thời gian và thu nhập. Theo quy định của pháp luật, người lao
động được tiếp cận với nhiều quyền lợi hơn, với quy định tương đối linh
hoạt đã bảo đảm cho người phụ nữ có điều kiện để chuyên tâm cho việc sinh
con và nuôi con. Trong quá trình thực hiện, nhìn chung nhiều quyền lợi của
người phụ nữ khi ly hôn đều được các gia đình, cơ quan, tổ chức, ban ngành
thực hiện tương đối kịp thời và nghiêm túc; công tác tuyên truyền ngày càng
có hiệu quả đảm bảo cho LĐN tiếp cận dễ dàng hơn với các thông tin liên
quan đến quyền lợi của mình.
Bên cạnh những tiến bộ nhất định trong việc chăm lo đời sống cho
người phụ nữ khi ly hôn, đảm bảo tốt quyền làm mẹ thiêng liêng, thực tiễn
thi hành đã có những kết quả bước đầu khiến cho quyền làm mẹ của người
phụ nữ khi ly hôn được đảm bảo
2.3.1.4. Quyền lưu cư
Luật HN&GĐ năm 2014 không chỉ đảm bảo quyền, lợi ích chính đáng
của vợ; bảo vệ quyền lợi của con chưa thành niên, con đã thành niên nhưng
mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có
tài sản để tự nuôi mình mà còn bảo đảm các quan hệ xã hội khác được ổn
định, các hoạt động kinh tế, kinh doanh của vợ chồng được duy trì, bảo
đảm sau khi chia tài sản chung của vợ chồng các quan hệ này không bị xáo
trộn, vợ, chồng sau khi chia tài sản chung cuộc sống của họ vẫn được đảm
62
bảo. Điều này thể hiện luật quy định rõ nguyên tắc khi chia tài sản chung của
vợ chồng, đặc biệt là quy định lưu cư đã giúp bảo vệ lợi ích chính đáng của
người phụ nữ khi ly hôn để có điều kiện tối thiểu để tiếp tục sinh sống
trong thời gian nhấ định sau ly hôn.
2.3.2. Hạn chế
2.3.2.1. Quyền nhân thân
Bên cạnh những thành tựu đạt được trong việc bảo vệ quyền của
người phụ nữ trong quan hệ nhân thân giữa vợ và chồng thì vẫn còn nhiều
bất cập hạn chế cũng như khó khăn, vướng mắc trong thi hành pháp luật dẫn
đến ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của người phụ nữ. Thực tế, chúng ta có
* Tình trạng bạo lực gia đình còn tồn tại, thậm chí có trường hợp
thể nhìn nhận thông qua các vấn đề như sau:
nghiêm trọng
Hiện nay quyền được thương yêu, chăm sóc và quý trọng của người
vợ vẫn còn bị xâm phạm. Tình trạng bạo lực được thể hiện qua tỷ lệ người
vợ có chồng bị chồng gây các hành vi bạo lực thể xác khác nhau và tỷ lệ các
hành vi bạo lực tình dục cụ thể do chồng gây ra theo sự trả lời của phụ nữ
* Tình trạng đứng tên trên giấy tờ chứng nhận quyền sử dụng đất,
vẫn còn tồn tại, thậm chí có trường hợp nghiêm trọng.
quyền sở hữu tài sản
Trong thực tiễn cuộc sống hiện nay, mặc dù nguyên tắc bình đẳng nam
nữ trong gia đình và các quyền cơ bản của người phụ nữ trong gia đình được
đảm bảo bởi hệ thống pháp luật, nhưng trên thực tế trong lĩnh vực đứng tên
giấy sở hữu, quyền sử dụng một số tài sản chưa thực sự được bảo vệ hợp lý,
người phụ nữ chưa được tôn trọng cao, chưa được đảm bảo quyền tự quyết,
bình đẳng của mình trong việc đại diện chồng tham gia các giao dịch dân sự,
xét dưới góc độ bình đẳng giới.
63
Việc đảm bảo quyền và lợi ích của người vợ trên thực tế vẫn còn gặp
nhiều khó khăn và hạn chế khi ly hôn. Vấn đề này có nguyên nhân từ chính
hành vi bạo lực gia đình, mà chủ yếu là từ người chồng.
Nhiều trường hợp chưa ly hôn người phụ nữ đã phải ra khỏi nhà vì
không thể chịu được cảnh bạo lực do mâu thuẫn hoặc nguyên nhân từ phía
gia đình nhà chồng. Một số trường hợp khác, người phụ nữ muốn ra khỏi
nhà để tự giải thoát mình khỏi bạo lực nhưng lại không được chấp nhận bị
cản trở khi thực hiện.
2.3.2.2. Quyền tài sản
Việc xác định công sức đóng góp của vợ chồng đối với khối tài sản
chung trong vụ án hôn nhân và gia đình là vấn đề khó khăn, phức tạp. Cho
đến nay, chưa có văn bản hướng dẫn nào của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền hướng dẫn trường hợp nào tính công sức, trường hợp nào không được
tính công sức và việc định lượng công sức như thế nào cho hợp lý.
Luật hôn nhân và gia đình không quy định cụ thể và các văn bản hướng
dẫn thi hành cũng không có bất kỳ quy định nào hướng dẫn về thời điểm xác
định khối tài sản riêng của vợ chồng. Do đó, có nhiều cách hiểu khác nhau về
thời điểm “có” tài sản.
Luật HN&GĐ năm 2014 đã có định nghĩa tài sản chung của vợ chồng
theo phương pháp liệt kê. Đây là vấn đề cơ bản cần phải xác định khi có yêu
cầu phân chia tài sản chung của vợ chồng. Việc xác định chính xác tài sản
chung của vợ chồng là cơ sở, điều kiện tiên quyết để phân chia tài sản
chung của vợ chồng được đúng đắn.
2.3.2.3. Quyền cấp dưỡng
Ngoài quy định cấp dưỡng cho con, Luật Hôn nhân và Gia đình còn có
quy định về nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ và chồng sau khi ly hôn (Điều 115).
Tuy nhiên, khác với việc cấp dưỡng nuôi con, cấp dưỡng giữa vợ, chồng khi
ly hôn được quy định chặt chẽ là người được cấp dưỡng phải là người có khó
64
khăn, túng thiếu và bản thân họ phải có yêu cầu và yêu cầu đó phải có lý do
chính đáng… Thế nhưng trên thực tế, quy định này cũng không được thực
hiện vì lý do đương sự không biết có quy định như vậy hoặc biết có yêu cầu
nhưng bên kia chỉ đồng ý cấp dưỡng nuôi con chứ không cấp dưỡng cho vợ
hoặc chồng. Đây cũng là quy định khó thực hiện thì thiếu chế tài ràng buộc.
Từ những bất cập trên có thể thấy, các quy định về cấp dưỡng vẫn còn
rất chung chung, thiếu cụ thể. Điều này khiến cho tòa án khi phán xét chỉ còn
biết căn cứ và điều kiện thực tế cụ thể của từng trường hợp. Nhưng cũng chính
vì lý do đó mà mức cấp dưỡng mỗi nơi mỗi khác nhau. Mặc khác, việc thiếu
các chế tài cứng rắn hơn để ràng buộc những người có nghĩa vụ cấp dưỡng
phải thực hiện nghĩa vụ của mình cũng như cơ quan, tổ chức nơi người đó
công tác phải có nghĩa vụ hỗ trợ cơ quan tư pháp thực hiện cũng là một cản
trở không nhỏ, biến cấp dưỡng nuôi con thực sự trở thành “món nợ khó đòi”.
2.3.3. Nguyên nhân của hạn chế
mặt, tuy nhiên trong quá trình thực hiện lại xuất hiện nhiều vấn đề nổi cộm.
Điều này xuất phát từ những nguyên nhân cơ bản sau:
Thứ nhất, về chính sách, quy định của pháp luật chưa tạo được cơ chế
khuyến khích để thực hiện quyền của phụ nữ khi ly hôn.
Pháp luật bảo đảm quyền của phụ nữ khi ly hôn tương đối tốt đồng
nghĩa với việc những nghĩa vụ xã hội, của người chồng khi ly hôn cũng nhân
lên. Do đó, những quy định ưu tiên, ưu đãi mà pháp luật trao cho người phụ
nữ dưới góc nhìn của xã hội, của người chồng khi ly hôn lại có vẻ trở thành
gánh nặng nhấ định.
Trong khi gánh nặng về nghĩa vụ lớn thì những quy định mang tính
chất ưu đãi, khuyến khích không mấy “mặn mà”.
65
Mặt khác, các quy định về thủ tục trên thực tế đối với những người ở
khu vực nông thôn còn là rắc rối, phiền hà nên nhiều khi người phụ nữ khi ly
hôn cũng e ngại khiến cho chính sách không thực sự đi vào cuộc sống.
Thứ hai, các biện pháp bảo đảm thực hiện quy định pháp luật về quyền
của phụ nữ khi ly hôn còn yếu.
Mặc dù pháp luật ban hành những nội dung về quyền của phụ nữ khi
ly hôn đã bảo đảm dường như tối đa mọi mặt của phụ nữ khi ly hôn, tuy
nhiên trên thực tế nhiều quy định không được áp dụng hoặc thường xuyên bị
vi phạm. Nguyên nhân chính của tình trạng này là cơ chế bảo đảm thi hành
chưa cao, còn bộc lộ nhiều vướng mắc. Cụ thể:
Về hoạt động thanh tra, kiểm tra: Không thể phủ nhận vai trò của hoạt
động thanh tra, kiểm tra trong việc đảm bảo thi hành luật, song hoạt động
này trên thực tế chưa thực sự phát huy được hiệu quả để tạo được cơ chế đủ
mạnh. Nhiều hành vi vi phạm tồn tại thường xuyên và rõ ràng nhưng phải
đến khi báo chí vào cuộc thanh tra mới bắt đầu triển khai. Kết quả hàng năm
còn ít, chưa phát hiện và xử lý hết các trường hợp vi phạm pháp luật, chưa
đủ sức răn đe đối với các chủ thể vi phạm quyền của phụ nữ khi ly hôn. Vì
vậy, vi phạm quyền của phụ nữ khi ly hôn vẫn tiếp tục diễn ra.
Bên cạnh hoạt động thanh tra kiểm tra chưa thực sự phát huy vai trò
của mình thì hoạt động giải quyết khiếu nại tố cáo cũng còn nhiều bất cập,
chưa đáp ứng được dưới góc độ là biện pháp bảo đảm thi hành luật. Số lượng
giải quyết khiếu nại tố cáo về các vụ việc xâm phạm quyền của phụ nữ khi ly
hôn còn quá ít so với vi phạm chưa thực sự tạo được lòng tin khi quyền lợi
của mình không được đáp ứng.
Xử phạt khi có vi phạm là biện pháp bảo đảm thi hành luật có tính
chất răn đe, đánh thẳng vào quyền lợi của chủ thể không tuân thủ quy định
của pháp luật. Chính vì vậy, nếu hậu quả pháp lý phải chịu cao hơn so với lợi
ích được hưởng các chủ thể sẽ hạn chế tối đa việc xâm phạm quyền của phụ
66
nữ khi ly hôn. Tuy nhiên hiện nay chế tài xử lý trong trường hợp này còn
tương đối nhẹ, chưa tạo được áp lực đủ lớn để các chủ thể khác cân nhắc khi
thực hiện hành vi vi phạm. Trong pháp luật của một số quốc gia, vi phạm
quyền làm mẹ của LĐN bị coi là tội phạm. Đối với pháp luật Việt Nam, vi
phạm các quy định về quyền của phụ nữ nói chung, quyền của phụ nữ khi ly
hôn nói riêng chỉ được xác định ở mức độ vi phạm hành chính, trong khi đó
nhiều chế tài chưa đủ sức răn đe. Với mức phạt như hiện nay, xét trong lợi
ích mà NSDLĐ được hưởng khi thực hiện hành vi thì chưa đủ sức ngăn cản
việc vi phạm pháp luật về quyền của phụ nữ khi ly hôn. Bên cạnh mức phạt
tương đối nhẹ, cơ chế thanh tra, kiểm tra, giám sát, khiếu nại, tố cáo còn
nhiều yếu kém do đó nguy cơ bị phạt khi thực hiện hành vi cũng chưa cao
kéo đến hệ quả thường có tâm lý không thực sự lo sợ khi không đảm bảo chế
độ cho phụ nữ khi ly hôn.
Ngoài ra, hiện nay vẫn còn tồn tại những cán bộ có thẩm quyền trong
việc xử lý vi phạm hành chính làm việc thiếu trách nhiệm, công tư thiếu
phân minh do đó nhiều hành vi vi phạm của phụ nữ khi ly hôn dễ dàng bị bỏ
qua. Bất cứ một vấn đề gì cũng vậy, khi chế tài đủ mạnh, đủ sức răn đe thì
những hành vi vi phạm sẽ được giảm một cách đáng kể. Trong quan hệ xã
hội ở Việt N
hung mà quyền của phụ nữ khi
ly hôn nói riêng.
Thứ ba, nhận thức về pháp luật của các chủ thể còn hạn chế.
Việc bảo đảm quyền của phụ nữ khi ly hôn sẽ rất khó khăn nếu bản
thân người phụ nữ không biết nội dung quyền của mình được hưởng như thế
nào. Do đó, ngay cả khi bị vi phạm, phụ nữ khi ly hôn cũng không lên tiếng
vì không nhận thức được quyền lợi của mình
Bản thân người phụ nữ, còn nhiều người thiếu tri thức về pháp luật và
67
chưa có ý thức sử dụng pháp luật để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
mình. Bên cạnh hiểu biết pháp luật còn hạn chế của người phụ nữ thì ý thức
tuân thủ pháp luật của người chồng, các chủ thể khác khi tha gia vào quan hệ
pháp luật ly hôn cũng là một vấn đề đáng ngại. So với nhiều quốc gia, ý thức
tuân thủ pháp luật của người dân Việt Nam thuộc diện kém.
Thứ tư, nhiều quy định của pháp luật còn làm khó người phụ nữ khi ly
hôn.
Mặc dù về mặt lý thuyết, nhiều quy định của pháp luật thực sự bảo
đảm quyền phụ nữ khi ly hôn, tuy nhiên trên thực tế khi áp dụng còn được
coi là “rất khó”
trên văn bản. Nguyên nhân bởi chính người phụ nữ muốn đòi hỏi quyền lợi
cho mình cũng rấ khó vì quy định còn mới, thiếu văn bản hướng dẫn do đó
người phụ nữ khi ly hôn không biết làm cách nào.
Song song với việc đưa ra những chế tài, Nhà Nước nên đưa ra những
chính sách khuyến khích, đảm bảo quyền lợi cho người lao động đồng thời
đơn giản hóa các thủ tục để người phụ nữ khi ly hôn dễ dàng tự đòi hỏi
quyền lợi cho chính bản thân mình.
68
Tiểu kết chƣơng 2
Qua chương 2, luận văn đã làm rõ thực trạng quy địnhpháp luật về
quyền của người phụ nữ khi ly hôn theo pháp luật Việt Nam, đồng thời có sự
so sánh những điểm mới, tiến bộ so với pháp luật hôn nhân gia đình cũ. Nhìn
chung thì pháp luật hôn nhân & gia đình quy định tương đối hoàn thiện và
điều này đã tạo cơ sở pháp lý cần thiết để đảm bảo tốt lợi ích của người phụ
nữ nói chung và quyền của phụ nữ khi ly hôn nói riêng.
So với thời kỳ trước, quyền của phụ nữ khi ly hôn được tạo điều kiện
tốt hơn để đảm bảo quyền lợi của mình nhưng trên thực tế vấn đề thực hiện
cũng còn nhiều hạn chế. Qua việc phân tích thực trạng việc thực hiện pháp
luật trên thực tế với những thành công, kết quả đạt được, luận văn cũng chỉ ra
còn nhiều hạn chế trong vấn đề đảm bảo quyền phụ nữ khi ly hôn trong một
số phương diện.
Từ những phân tích về quy định pháp luật về quyền của phụ nữ khi ly
hôn cũng thực trạng thực hiện quyền của phụ nẽ khi ly hôn, tác giả lấy đó làm
tiền đề để đưa ra những giải pháp nhằm đảm bảo thực hiện quyền của phụ nữ
khi ly hôn tại chương 3.
69
Chƣơng 3
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUYỀN CỦA PHỤ NỮ
KHI LY HÔN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1. Quan điểm hoàn thiện quyền của phụ nữ khi ly hôn
3.1.1. Hoàn thiện quyền của phụ nữ khi ly hôn phải xuất phát từ yêu
cầu xây dựng nhà nước pháp quyền và quá trình dân chủ hoá đời sống nhà
nước, đời sống xã hội ở nước ta hiện nay
Điều 2 Hiến pháp năm 2013 quy định: ”Nhà nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân
dân, do Nhân dân, vì Nhân dân” [34].
Như vậy, bằng việc bảo đảm về mặt hiến định, chúng ta đang tạo ra
những nền tảng cần thiết để xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN. Tuy
nhiên, việc xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam là một tiến trình lâu
dài và có tính đặc thù. Nhà nước pháp quyền phải là sự kế thừa, phát triển
của Nhà nước dân chủ nhân dân ở tầm cao mới trên cơ sở bảo tồn, phát huy
các giá trị văn hoá truyền thống.
Hạt nhân của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền là các quan hệ xã
hội chủ yếu được điều chỉnh bằng pháp luật, trong đó quan hệ HN&GĐ giữ
vị trí quan trọng, bởi gia đình là tế bào của xã hội; pháp luật giữ vị trí điều
chỉnh chủ đạo trong toàn xã hội, trong hoạt động xử sự của những chủ thể
trong xã hội. Các cơ quan nhà nước, một mặt sử dụng pháp luật để quản lý
từng ngành, từng lĩnh vực, nhưng ở mặt khác, khi tham gia các quan hệ pháp
luật thì cũng phải chịu sự điều chỉnh của pháp luật. Nói một cách khác, Nhà
nước pháp quyền là Nhà nước mà ở đó, pháp luật là ý chí của toàn thể nhân
dân, pháp luật giữ vị trí thống trị. Quản lý nhà nước bằng pháp luật là yêu
cầu khách quan của xã hội văn minh, công bằng, dân chủ; là phương pháp cơ
bản bảo đảm hiệu lực và hiệu quả quản lý của Nhà nước. Xây dựng Nhà
70
nước pháp quyền hoạt động trên cơ sở pháp luật, thực hiện quản lý tất cả các
lĩnh vực của đời sống xã hội bằng pháp luật, bảo đảm cho toàn xã hội
nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật. Trên cơ sở đó, các quyền và lợi ích hợp
pháp của công dân được bảo đảm, khắc phục sự tùy tiện, lạm quyền của các
cơ quan nhà nước, của cán bộ, công chức trong bộ máy nhà nước.
3.1.2. Hoàn thiện quyền của phụ nữ khi ly hôn phải trên cơ sở đảm
bảo quyền bình đẳng của vợ chồng trong giải quyết các vụ việc về hôn
nhân và gia đình
Trong số các quyền con người, quyền công dân thì quyền bình đẳng
của vợ chồng trong giải quyết các vụ việc về hôn nhân và gia đình là một
trong những nội dung quan trọng, cần phải được quan tâm.
Để có thể đáp ứng được yêu cầu xây dựng và hoàn thiện nhà nước
pháp quyền, đòi hỏi phải xây dựng, hoàn thiện và bảo đảm quyền bình đẳng
của vợ chồng trong giải quyết các vụ việc về hôn nhân và gia đình. Bởi, về
nguyên tắc, pháp luật là ý chí, nguyện vọng, quyền lợi và nghĩa vụ của công
dân được luật hóa, là tiếng nói của công lý và ý trí. Do đó, nếu xét về mặt
hình thức pháp lý, thì các quy định pháp luật về quyền bình đẳng của vợ
chồng trong giải quyết các vụ việc về hôn nhân và gia đình phải điều chỉnh
một cách bao quát, toàn diện các quan hệ giữa Nhà nước và đương sự; nếu
xét về mặt nội dung pháp lý, quyền bình đẳng của vợ chồng trong giải quyết
các vụ việc về hôn nhân và gia đình phải thể hiện và đáp ứng được nhu cầu
khách quan của xã hội, thúc đẩy sự phát triển kinh tế - văn hóa - chính trị -
xã hội… Về cấu trúc, pháp luật về quyền bình đẳng của vợ chồng trong giải
quyết các vụ việc về hôn nhân và gia đình phải là một thể thống nhất, chặt
chẽ về thứ bậc, trong đó Hiến pháp giữ vai trò là “Đạo luật gốc”. Về mặt luật
thực định, với việc đề cao hơn nữa trách nhiệm của Nhà nước trong công
cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam hiện nay, vai trò của
71
quyền bình đẳng của vợ chồng trong giải quyết các vụ việc về hôn nhân và
gia đình đòi hỏi phải được nâng cao và tăng cường hơn nữa.
Vì vậy, bảo đảm quyền bình đẳng của vợ chồng trong giải quyết các
vụ việc về hôn nhân và gia đình phải đảm bảo quyền tham gia tố tụng, các
đương sự phải bình đẳng với nhau trong việc thực hiện quyền và nghĩa vụ
của mình theo quy định của pháp luật.
3.1.3. Hoàn thiện quyền của phụ nữ khi ly hôn phải thể hiện được
chủ trương của Đảng, Nhà nước về cải cách tư pháp
Cùng với tiến trình đổi mới đất nước, Đảng và Nhà nước ta đang chủ
trương cải cách bộ máy nhà nước trên tất cả các lĩnh vực: Lập pháp, hành
pháp và tư pháp. Trong nhà nước pháp quyền, quyền con người, quyền công
dân được xác lập về mặt pháp lý, tạo cơ sở cho việc xây dựng một xã hội
bình đẳng và công bằng. Nhà nước pháp quyền là một nhà nước chống lại sự
lạm quyền, vi phạm quyền công dân; chống lại sự tùy tiện của công quyền
để bảo vệ quyền con người; đó cũng là nơi mà mọi mặt hoạt động của Nhà
nước đều đặt trên cơ sở pháp luật.
Tuy nhiên, cũng cần lưu ý rằng, để bảo đảm quyền bình đẳng của vợ
chồng trong giải quyết các vụ việc về hôn nhân và gia đình thì phải giải
quyết tốt mâu thuẫn giữa việc mở rộng quyền của đương sự với việc hoàn
thiện và mở rộng thẩm quyền của Tòa án. Vấn đề cần phải nhận thức hai
chiều ở đây là: Các quy định của pháp luật nhằm tôn trọng và bảo vệ bảo
đảm quyền bình đẳng của vợ chồng trong giải quyết các vụ việc về hôn nhân
và gia đình, nhưng các quy định đó cũng đồng thời phải bảo đảm rằng khi
thực hiện quyền ấy, đương sự không gây khó khăn, cản trở hoạt động xét xử
bình thường của Tòa án.
Trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước, Đảng và Nhà nước ta
luôn chủ trương thực hành chính sách đổi mới nhằm kiện toàn và nâng cao
hiệu quả hoạt động của các cơ quan nhà nước, trong đó có cơ quan tư pháp.
72
3.2. Giải pháp hoàn thiện quyền của phụ nữ khi ly hôn
3.2.1. Nhóm giải pháp về nhận thức
3.2.1.1. Nâng cao nhận thức về nội dung và vai trò quyền của phụ nữ
khi ly hôn
Có thể khẳng định rằng, không phải mọi cá nhân, cơ quan, tổ chức ở
Việt Nam hiện nay đều đã nhận thức đúng đắn về nội dung cũng như vai trò
của quyền phụ nữ khi ly hôn. Quy định về quyền của phụ nữ khi ly hôn trên
phương diện pháp luật đã khó, nhưng thực hiện trên thực tế còn khó hơn
nhiều. Vì vậy, về mặt nhận thức, cần giải quyết những vấn đề sau:
- Trước hết, cần nhận thức đầy đủ và chính xác về quyền bình đẳng vợ
chồng trong giải quyết các vụ việc về HN&GĐ. Nội dung quyền bình đẳng vợ
chồng trong giải quyết các vụ việc về HN&GĐ đã dựa vào tính khoa học, triết
lý mạch lạc về quyền con người với những luận điểm được kiểm chứng tại
mọi quốc gia và trong thực tiễn tổ chức tại Việt Nam.
- Cần xây dựng được quyết tâm chính trị cao từ phía các nhà lãnh đạo,
nhà quản lý chính trị và lãnh đạo nhà nước; trước hết là từ các cơ quan TAND
trong việc ghi nhận, tôn trọng và bảo đảm quyền phụ nữ khi ly hôn. Trên cơ
sở đó mới có thể xây dựng và hoàn thiện thể chế nhằm bảo đảm quyền phụ nữ
khi ly hôn.
- Cần tiếp tục nghiên cứu sâu hơn, xây dựng nhận thức đúng đắn hơn
và đầy đủ hơn về quyền con người nói chung, quyền bình đẳng trước pháp
luật của công dân nói riêng, trong đó có quyền phụ nữ khi ly hôn. Nếu phụ nữ
không có sự hiểu biết nhất định về pháp luật TTDS thì rất khó khăn trong việc
thực hiện quyền phụ nữ khi ly hôn để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
chính mình trước Tòa án. Hơn nữa, BLTTDS năm 2015 đã có rất nhiều điểm
mới liên quan đến quyền bình đẳng vợ chồng trong giải quyết các vụ việc về
HN&GĐ mà đương sự có thể chưa biết hết những quy định này cũng như
chưa biết thực hiện những quy định đó như thế nào. Bên cạnh đó, thực tế vẫn
73
còn có một bộ phận người dân cố tình không chấp hành pháp luật, không hợp
tác với Tòa án, nhằm gây khó khăn cho quá trình giải quyết vụ việc HN&GĐ.
3.2.1.2. Nghiên cứu đầy đủ các yếu tố tác động đến xây dựng và hoàn
thiện quy định pháp luật về quyền của phụ nữ khi ly hôn
Quyền của phụ nữ khi ly hôn chịu sự tác động chủ yếu của các yếu tố:
Thể chế chính trị; điều kiện kinh tế - xã hội; các yếu tố về lịch sử, dân tộc,
văn hóa, đạo đức, tôn giáo, phong tục, tập quán, trình độ dân trí.... Điều này
có ý nghĩa quan trọng trong việc nghiên cứu, đánh giá và đề xuất hoàn thiện
quyền của phụ nữ khi ly hôn.
Thể chế chính trị là kim chỉ nam của pháp luật; Điều kiện kinh tế - xã
hội có vai trò bảo đảm để xây dựng, hoàn thiện và vận hành pháp luật có hiệu
quả; Các yếu tố về lịch sử, dân tộc, văn hóa, đạo đức, tôn giáo, phong tục, tập
quán.....là những yếu tố tồn tại lâu dài trong đời sống xã hội; có nhiều yếu tố
đã “ăn sâu, bén rễ”, hình thành thói quen ứng xử của người dân đối với nhau.
Một dân tộc có lịch sử văn minh, có truyền thống đạo đức, có văn hoá chính
trị, có những phong tục, tập quán tốt đẹp sẽ là môi trường thuận lợi để xây
dựng thể chế pháp lý nói chung, trong đó có quyền phụ nữ khi ly hôn. Bên
cạnh đó, trình độ mặt bằng dân trí được nâng cao cũng là yếu tố thúc đẩy
hoàn thiện và thực thi nghiêm túc quyền phụ nữ khi ly hôn.
3.2.1.3. Quán triệt đúng, đầy đủ, kịp thời nội dung và tinh thần của
Hiến pháp năm 2013 về quyền con người, quyền công dân trong việc hoàn
thiện quy định pháp luật về quyền của phụ nữ khi ly hôn
Hiến pháp năm 2013 khẳng định quyền con người, quyền công dân là
một trong những định chế quan trọng nhất. Trong thời gian tới, việc hoàn
thiện quyền bình đẳng vợ chồng trong giải quyết các vụ việc về HN&GĐ cần
phải quán triệt đầy đủ, kịp thời những nội dung, tinh thần của Hiến pháp năm
2013, đúng như Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng
(tháng 01/2016) đã nêu ra nhiệm vụ: “Lãnh đạo việc đẩy mạnh xây dựng,
74
hoàn thiện và tổ chức thực hiện hệ thống pháp luật theo các nguyên tắc được
quy định trong Hiến pháp năm 2013. Bảo đảm pháp luật vừa là công cụ để
Nhà nước quản lý xã hội, vừa là công cụ để nhân dân kiểm tra, giám sát
quyền lực nhà nước”.
3.2.2. Nhóm giải pháp hoàn thiện các quy định pháp luật về quyền
của phụ nữ khi ly hôn
3.2.2.1. Tiếp tục hoàn thiện các quy định pháp luật về quyền bình đẳng
vợ chồng trong giải quyết các vụ việc hôn nhân và gia đình
Để bảo đảm quyền bình đẳng vợ chồng trong giải quyết các vụ việc
HN& GĐ thì Nhà nước cần rà soát lại các chính sách và hệ thống pháp luật,
đặc biệt là các văn bản pháp luật về hôn nhân và gia đình để xóa bỏ những nội
dung, điều luật cản trở sự bình đẳng cũng như bảo vệ được quyền và lợi ích
của người phụ nữ nhất là trong quan hệ nhân thân, tài sản, con cái giữa vợ và
chồng. Trên cơ sở nghiên cứu, luật văn đưa ra một số đề xuất để bảo vệ tốt
hơn nữa quyền của người phụ nữ nói riêng và quyền bình đẳng vợ chồng nói
chung trong quá trình giải quyết vụ việc HN&GĐ như sau:
- Theo quy định tại Điều 104 BLTTDS năm 2015 thì một hoặc các bên
đương sự có quyền yêu cầu thực hiện việc định giá tài sản tranh chấp bằng
Hội đồng định giá (do Tòa án ra quyết định thành lập) hoặc bằng tổ chức
thẩm định giá. Tuy nhiên, trong trường hợp bên đương sự này yêu cầu định
giá tài sản bằng Hội đồng định giá, còn bên kia lại yêu cầu định giá bằng tài
sản bằng tổ chức thẩm định giá, Tòa án sẽ giải quyết mâu thuẫn này như thế
nào? Trong trường hợp giữa kết quả định giá của Hội đồng định giá và kết
quả định giá của tổ chức thẩm định giá có sự khác nhau và chênh lệch rất
lớn, Tòa án sẽ căn cứ vào kết quả định giá nào để giải quyết vụ-việc dân sự
(BLTTDS 2004; BLTTDS 2011 và BLTTDS 2015 đều quy định rằng kết
quả của 2 hình thức định giá này có giá trị pháp lý như nhau). Vì vậy, trong
trường hợp xảy ra như thế, Tòa án sử dụng kết quả định giá nào cũng sẽ ảnh
75
hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của một bên đương sự, không đảm bảo
quyền bình đẳng giữa các đương sự.
- Các đương sự có quyền yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức đang quản
lý, lưu giữ tài liệu, chứng cứ cung cấp chứng cứ nhưng BLTTDS 2015 lại
không quy định chế tài khi các chủ thể đang quản lý, lưu giữ tài liệu, chứng
cố tình không cung cấp tài liệu, chứng cứ cho đương sự (Điều 106 BLTTDS
2015). Trong khi đó, BLTTDS 2015 lại quy định rằng đối với cá nhân, cơ
quan, tổ chức không thi hành quyết định của Tòa án về việc cung cấp tài
liệu, chứng cứ, mà họ đang quản lý, lưu giữ thì có thể bị xử lý kỷ luật, xử
phạt hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự (Điều 106; 489 BLTTDS
2015). Trong thực tế, có rất nhiều trường hợp cá nhân, cơ quan, tổ chức đang
quản lý, lưu giữ tài liệu, chứng cứ đã gây khó khăn cho đương sự trong việc
thu thập chứng cứ nhưng không bị xử lý nghiêm theo các quy định vừa viện
dẫn.
- BLTTDS không quy định trách nhiệm của Thẩm phán phải giải thích
cho đương sự quyền và nghĩa vụ TTDS trước khi xét xử sơ thẩm. Đây là vấn
đề rất quan trọng bởi vì đương sự có hiểu biết đầy đủ về quyền và nghĩa vụ
của mình thì họ mới có thể thực hiện được các quyền và nghĩa vụ đó khi
tham gia TTDS, cũng như có thể bảo vệ được những quyền và lợi ích hợp
pháp của mình. Vì vậy, trong thực tiễn, đã xảy ra nhiều trường hợp đương sự
không biết hoặc không biết đầy đủ về quyền và nghĩa vụ TTDS của mình
nên họ đã không được thực hiện đầy đủ quyền của mình, thí dụ như quyền
sao chụp tài liệu, chứng cứ; quyền được biết chứng cứ do bên kia cung cấp
hoặc do Tòa án thu thập; quyền yêu cầu Tòa án xác minh, thu thập chứng cứ
khi tự mình không thể thu thập tài liệu, chứng cứ....
- Điều 269 Luật sửa đổi bổ sung Bộ luật TTDS 2011 và Điều 299 Bộ
luật TTDS 2015 quy định rằng khi nguyên đơn rút đơn khởi kiện ở giai đoạn
phúc thẩm thì Tòa án chỉ cần hỏi ý kiến của bị đơn. Tuy nhiên, nếu xảy ra
76
trường hợp trong vụ án còn có người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu
cầu độc lập mà họ vẫn giữ yêu cầu độc lập đó, không đồng ý với việc rút
đơn khởi kiện của nguyên đơn, thì luật Sửa đổi bổ sung Bộ luật TTDS 2011
và Bộ luật TTDS 2015 chưa dự liệu. Bên cạnh đó, “Bộ luật TTDS mới chỉ đề
cập đến việc rút đơn khởi kiện của nguyên đơn mà chưa có quy định về việc
bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan rút lại yêu cầu phản tố, rút lại
yêu cầu độc lập của mình hoặc nguyên đơn rút một phần yêu cầu của mình ở
giai đoạn phúc thẩm” [32, tr.134]. Việc Bộ luật TTDS không dự liệu về
những trường hợp vừa nêu, đã tạo ra sự bất bình đẳng giữa các đương sự
tham gia TTDS. Do đó, Bộ luật TTDS cần bổ sung phần quy định thành
phần đương sự trong việc dân sự (bao gồm người có yêu cầu giải quyết việc
dân sự; người bị yêu cầu giải quyết việc dân sự và người có quyền lợi, nghĩa
vụ ). Đồng thời, Bộ luật TTDS cũng cần quy định rõ hơn về quyền và nghĩa
vụ của đương sự trong việc dân sự để phù hợp với địa vị pháp lý của từng
đương sự. Các quy định này sẽ là cơ sở pháp lý để các đương sự trong việc
dân sự xác định được quyền và nghĩa vụ của mình trước pháp luật, tạo cho
họ những căn cứ pháp lý để thực hiện các quyền và nghĩa vụ TTDS trên
nguyên tắc bình đẳng.
3.2.2.2. Hoàn thiện quy định về chia tài sản chung của vợ chồng khi ly
hôn căn cứ vào công sức đóng góp
Việc xác định công sức đóng góp của vợ chồng đối với khối tài sản
chung trong vụ án hôn nhân và gia đình là vấn đề khó khăn, phức tạp. Cho
đến nay, chưa có văn bản hướng dẫn nào của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền hướng dẫn trường hợp nào tính công sức, trường hợp nào không được
tính công sức và việc định lượng công sức như thế nào cho hợp lý. Trên cơ sở
nghiên cứu thực tiễn giải quyết các vụ án HN&GĐ, tác giả xin có một số kiến
nghị khi xem xét công sức trong vụ án HN&GĐ như sau: Cần xác định có
công sức hay không? là công sức tạo lập, phát triển tài sản; công sức giữ gìn,
77
bảo quản tài sản; hay công sức chăm sóc, nuôi dưỡng… và việc tính công sức
phải dựa vào các tiêu chí: nguồn gốc tài sản, sức lực, thời gian bảo quản, giữ
gìn; kết quả chi phí sức lực, thời gian cho việc bảo quản, giữ gìn; giá trị tài
sản. Đặc biệt, người tiến hành tố tụng áp dụng pháp luật về chia tài sản chung
của vợ chồng khi ly hôn cần ưu tiên xem xét tới yếu tố công sức đóng góp để
chia tài sản chung vợ chồng khi ly hôn đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp
của các bên. Cụ thể:
Thứ nhất, hoàn thiện quy định về thời điểm xác lập tài sản riêng của vợ
chồng
Luật hôn nhân và gia đình không quy định cụ thể và các văn bản hướng
dẫn thi hành cũng không có bất kỳ quy định nào hướng dẫn về thời điểm xác
định khối tài sản riêng của vợ chồng. Do đó, có nhiều cách hiểu khác nhau về
thời điểm “có” tài sản. Nếu áp dụng quy định của Bộ luật Dân sự để xác định
tài sản thì không đảm bảo được quyền lợi cho chủ sở hữu và không phù hợp
với căn cứ xác lập tài sản chung. Do đó, tác giả kiến nghị pháp luật cần bổ
sung quy định hướng dẫn theo hướng công nhận thời điểm xác lập tài sản
riêng là thời điểm “có” tài sản trên thực tế. Theo đó, tại khoản 1 Điều 43 Luật
HN&GĐ năm 2014 cần sửa đổi như sau: “Tài sản riêng của vợ, chồng gồm
tài sản mà mỗi người có được trên thực tế trước khi hôn nhân; tài sản được
thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân,…”[35]. Quy định
này tạo sự thống nhất trong áp dụng pháp luật và đảm bảo được quyền lợi của
vợ, chồng – chủ sở hữu tài sản khi ly hôn.
Thứ hai, hoàn thiện quy định về xác định tài sản chung của vợ chồng.
Luật HN&GĐ năm 2014 đã có định nghĩa tài sản chung của vợ chồng
theo phương pháp liệt kê. Theo đó tài sản chung của vợ chồng bao gồm: tài
sản do vợ chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh
doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác
trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp tài sản chung của vợ chồng đã được
78
phân chia trong thời kỳ hôn nhân theo quy định của Luật HN&GĐ; tài sản
mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác
mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung. Quyền sử dụng đất mà vợ chồng
có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng trừ trường hợp vợ
hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông
qua giao dịch bằng tài sản riêng [35,Khoản 1, Điều 33]. Đây là vấn đề cơ bản
cần phải xác định khi có yêu cầu phân chia tài sản chung của vợ chồng. Việc
xác định chính xác tài sản chung của vợ chồng là cơ sở, điều kiện tiên
quyết để phân chia tài sản chung của vợ chồng được đúng đắn. Vì vậy,
cần hoàn thiện các quy định của pháp luật liên quan đến việc xác định tài
sản chung của vợ chồng.
Các quy định về việc nhập tài sản riêng của vợ chồng vào tài sản chung
của vợ chồng cần phải có sự quy định rõ ràng thể thức của thỏa thuận sáp
nhập tài sản đó. Đối với những quan hệ sáp nhập tài sản riêng vào tài sản
chung trước khi Luật HN&GĐ năm 2014 có hiệu lực cũng như các quy định
khác về đăng ký tài sản, các nhà làm luật cần xây dựng các án lệ để tạo ra
những quy tắc chung giúp có căn cứ xác định tài sản chung, tài sản riêng
trong những tình huống như vậy trên căn cứ nguyên tắc suy đoán. Ví dụ như
Án lệ số 03/2016/AL được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
thông qua ngày 06 tháng 4 năm 2016 và được công bố theo Quyết định
220/QĐ-CA ngày 06 tháng 4 năm 2016 của Chánh án Tòa án nhân dân tối
cao [2].
Đối với các tài sản có giá trị lớn bất động sản, xe ô tô… pháp luật về
đăng ký tài sản cần quy định rõ việc ghi nhận quyền sở hữu chung của các
đồng chủ sở hữu (cả vợ và chồng) nếu đó là tài sản chung. Pháp luật cần quy
định thủ tục hành chính đơn giản, thuận tiện để việc đăng ký sở hữu tài sản
được thuận lợi, nhanh chóng, tránh tâm lý do ngại thủ tục hành chính phức
nên không muốn thực hiện quyền lợi của mình trên thựctế.
79
Thứ ba, hoàn thiện quy định về giải quyết tài sản chung của vợ chồng
là quyền sử dụng đất do được bố mẹ tặng cho
Tình trạng tặng cho tài sản mà không lập thành văn bản xảy ra khá phổ
biến, để đảm bảo quyền lợi của các bên tác giả xin có một số kiến nghị như
sau:
- Cần xác định rõ nguồn gốc và quá trình sử dụng đất, xem xét QSDĐ
đó thật sự là tài sản của bố mẹ hay chỉ là thuộc sở hữu riêng của bố hoặc mẹ;
trong quá trình sử dụng mảnh đất đó, vợ chồng có công sức đóng góp gì để
tôn tạo và phát triển giá trị sử dụng mảnh đất đó hay không?
- Cần xác định ý chí của bố mẹ trong việc tặng cho này thông qua việc
xem xét hình thức tặng cho một cách linh động theo hướng:
+ Nếu QSDĐ đó là do bố mẹ nhận chuyển nhượng hoặc có nguồn gốc
là của bố mẹ nhưng vợ chồng người con đã sử dụng trong một thời gian dài,
được bố mẹ đồng ý cho vợ chồng đứng tên trong sổ địa chính hoặc bố mẹ biết
việc vợ chồng người con đứng tên nhưng không phản đối (không phụ thuộc
vào việc được cấp giấy chứng nhận QSDĐ hay chưa), chỉ đến khi ly hôn, bố
mẹ mới phủ nhận việc tặng cho ấy, thì bố mẹ phải đưa ra được chứng cứ
chứng minh, nếu không QSDĐ sẽ thuộc sở hữu của vợ chồng người con.
Ngược lại, nếu như bố mẹ đăng ký kê khai và đứng tên trong giấy chứng
nhận QSDĐ thì không thể chỉ dựa vào căn cứ thời gian sử dụng lâu dài của vợ
chồng người con, kể cả trường hợp người con đã xây nhà kiên cố trên đất để
xác định đây là QSDĐ của người con mà cần tham khảo ý chí của bố mẹ về
việc tặng cho này hoặc ý kiến của những nhân chứng hoặc dùng những chứng
cứ chứng minh khác để xácđịnh.
+ Nếu QSDĐ do bố mẹ và vợ chồng người con cùng bỏ tiền ra mua,
hợp đồng chỉ có tên vợ chồng người con và vợ chồng này cũng đã được cấp
giấy chứng nhận QSDĐ, xây nhà kiên cố, sử dụng liên tục. Sau đó bố mẹ mất,
một bên chồng hoặc vợ không có ý kiến gì, chỉ đến lúc ly hôn mới cho rằng
80
đó là tiền bố mẹ cho vay nay đòi lại hoặc bố mẹ mua nhưng nhờ vợ chồng
đứng tên dùm thì Tòa án không chấp nhận những lập luận đó mà phải công
nhận QSDĐ trong trường hợp này thuộc sở hữu chung của vợ chồng. Tuy
nhiên, nếu đến thời điểm vợ chồng ly hôn, bố mẹ khẳng định rằng trước đây
vợ chồng có vay tiền bố mẹ để nhận chuyển nhượng QSDĐ thì vợ chồng lúc
bấy giờ phải có nghĩa vụ liên đới thanh toán số tiền đó cho bố mẹ.
- QSDĐ có nguồn gốc là của bố mẹ nhận chuyển nhượng rồi cùng vợ
chồng người con xây nhà ở chung thì Tòa nên công nhận QSDĐ thuộc sở hữu
của bố mẹ, chỉ có phần nhà trên đất mới thuộc sở hữu chung của bố mẹ và vợ
chồng người con, từ đó ngôi nhà sẽ được phân chia theo công sức đóng góp
của mỗi thànhviên.
- Bố mẹ giúp vợ chồng người con vay tiền để nhận chuyển nhượng
quyền sử dụng đất, vợ chồng người con đã đứng tên trên giấy chứng nhận
QSDĐ. Nếu như đến khi vợ chồng ly hôn, bố mẹ vẫn chưa thanh toán hết
khoản nợ đã vay trong trường hợp này thì vợ chồng người con phải thanh toán
cho chủ nợ và thanh toán cho chủ nợ và thanh toán cho bố mẹ khoản tiền bố
mẹ đã bỏ ra trả nợ cho họ. Trường hợp này, bố mẹ được xem như là người
đứng ra vay nợ dùm cho vợ chồng ngườicon.
- Nếu như quyền sử dụng đất được bố mẹ tặng cho có điều kiện nhưng
vợ chồng người con đã không thực hiện những điều kiện đó thì bố mẹ có
quyền đòilại.
Ngoài ra, trong quy định về các trường hợp thỏa thuận phân chia tài sản
chung của vợ chồng bị vô hiệu, Luật HN&GĐ năm 2014 đã trao quyền cho
bên có quyền có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố thỏa thuận phân chia tài sản
chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân bị vô hiệu nếu nhằm mục đích
trốn tránh thực hiện nghĩa vụ. Tuy nhiên, lại không quy định cho họ quyền
được yêu cầu phân chia tài sản chung của vợ chồng để bên có nghĩa vụ riêng
với người thứ ba có tài sản thực hiện nghĩa vụ với mình. Điều này đã được
81
quy định tại Điều 219 BLDS năm 2015. Như vậy, có thể thấy quy định của
Luật HN&GĐ chưa phù hợp với quy định của luật chung. Về vấn đề này,
Tác giả Nguyễn Thị Hạnh cũng có quan điểm tương tự: “pháp luật cần quy
định rõ: Trong trường hợp người có quyền có đủ chứng cứ cho rằng, vợ
chồng không có thỏa thuận hoặc không yêu cầu Tòa án chia tài sản chung
trong thời kỳ hôn nhân nhằm mục đích trốn tránh thực hiện nghĩa vụ về tài
sản, thì người có quyền có thể yêu cầu Tòa án chia tài sản chung của vợ
chồng trong thời kỳ hôn nhân để lấy phần tài sản của người vợ hoặc người
chồng có nghĩa vụ thực hiện việc thanh toán các khoản nợ. Yêu cầu của người
có quyền sẽ không được Tòa án công nhận nếu làm ảnh hưởng nghiêm trọng
đến lợi ích gia đình của người có nghĩa vụ hoặc bản thân vợ, chồng có nghĩa
vụ có đủ tài sản riêng để thanh toán các khoản nợ” [9].
3.2.3. Nhóm giải pháp bảo đảm thực hiện quyền của phụ nữ khi ly
hôn
3.2.3.1. Tăng cường tuyên truyền, phổ biến pháp luật về hôn nhân và
gia đình
Đây là biện pháp đóng vai trò quan trọng trong công tác nâng cao hiệu
quả áp dụng pháp luật hôn nhân và gia đình nói chung và thực hiện bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, con chưa thành niên, con đã thành niên mất
năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản
để tự nuôi mình trong quá trình giải quyết tài sản khi ly hôn nói riêng. Bởi lẽ,
pháp luật chỉ có thể thực thi sứ mệnh bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp
của mọi người khi người mà nó hướng tới bảo vệ thực sự hiểu nó. Hơn nữa, ở
một quốc gia có truyền thống tâm lý “trọng nam khinh nữ”, “xuất giá tòng
phu” như Việt Nam thì việc bảo vệ quyền phụ nữ và trẻ em khi ly hôn không
phải dễ dàng thực hiện một cách triệt để. Hoạt động tăng cường này có thể
được triển khai dưới nhiều hình thức như tổ chức các buổi nói chuyện, hội
thảo chuyên đề, các cuộc thi tìm hiểu pháp luật hôn nhân và gia đình... Việc
82
phổ biến, tuyên truyền pháp luật cùng với những thay đổi trong cách nhìn
nhận về vai trò và quyền lợi của phụ nữ và trẻ em đã xóa bỏ những định kiến
vốn là yếu tố cản trở việc đảm bảo nguyên tắc bảo vệ phụ nữ và trẻ em trong
quá trình áp dụng pháp luật nói chung và trong giải quyết tài sản khi ly hôn
nói riêng.
Gia đình là tế bào của xã hội, là cái nôi nuôi dưỡng con người, là môi
trường quan trọng hình thành và giáo dục nhân cách, góp phần vào sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Gia đình tốt thì xã hội mới tốt, xã hội tốt thì gia
đình càng tốt hơn. Trong quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế bao cấp sang nền
kinh tế thị trường, cùng lúc kéo theo những biến đổi trong văn hóa, đạo đức
xã hội, làm giá trị đạo đức truyền thống trong mỗi gia đình cũng đang dần bị
phá vỡ, tình trạng ly thân, ly hôn gần đây có xu hướng năm sau cao hơn năm
trước, đặc biệt trong các gia đình trẻ. Viện Nghiên cứu gia đình và Giới vừa
cho biết, cả nước trung bình có trên 60.000 vụ ly hôn/năm, tỉ lệ 30% tức là cứ
10 cặp vợ chồng kết hôn thì có 3 cặp ly hôn. Xu hướng này tiếp tục tăng ở cả
thành phố và nông thôn. Điều đáng nói, 70% số vụ ly hôn thuộc về các gia
đình trẻ, vợ hoặc chồng trong độ tuổi từ 18-30; trong đó có 60% ly hôn sau
khi kết hôn từ 1-5 năm, nhiều trường hợp chỉ mới cưới nhau được vài
tháng... Nghiên cứu của Viện Nghiên cứu gia đình và Giới cho thấy mâu
thuẫn về lối sống là nguyên nhân hàng đầu (27,7%) dẫn đến ly hôn. Các yếu
tố tiếp theo là ngoại tình (25,9%), kinh tế (13%), bạo lực gia đình (6,7%), sức
khỏe (2,2%), xa nhau lâu ngày là 1,3%.
Phân tích về nguyên nhân ly hôn, nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Cừ cho
rằng, có những lý do bắt đầu từ chính những biến động mang tính tích cực của
xã hội hiện đại. Theo ông, chính sự bình đẳng giới đã đem lại sự chủ động,
độc lập về kinh tế, cũng như sự đòi hỏi đáp ứng nhu cầu cá nhân ngày càng
cao khiến con người không dễ chấp nhận hoặc cam chịu dẫn đến tỷ lệ ly hôn
ở các gia đình ngày càng tăng.
83
Nhìn vào thực tế, tỷ lệ ly hôn ở những gia đình mà vợ chồng là viên
chức, trí thức, các nhân viên hoạt động trong các lĩnh vực dịch vụ, thương mại
cao hơn những gia đình công nhân, nông dân. Điều kiện kinh tế phát triển,
dân trí càng cao, điều kiện tiếp xúc xã hội càng nhiều, thì sự đòi hỏi thỏa mãn
nhu cầu cá nhân càng lớn, và điều đó đang là một trong những nguyên nhân
khiến gia đình ngày càng kém bền vững.
Tiến sĩ xã hội học Trịnh Hòa Bình cho rằng, nếu gia đình có nền giáo
dục căn bản, truyền thống đạo đức thì nguy cơ đổ vỡ phần nào sẽ được ngăn
chặn [46]. Và điều quan trọng nhất là bản thân mỗi cặp vợ chồng phải biết
nghĩ về nhau, tôn trọng nhau, tôn trọng những giá trị của truyền thống gia
đình. Sự yêu thương, chia sẻ, tôn trọng và nhường nhịn lẫn nhau cùng hướng
đến một mái nhà hòa thuận. Thực tế đã chứng minh, gia đình nào có sự giáo
dục cơ bản, có truyền thống đạo đức thì tình trạng ly hôn, đổ vỡ rất khó xảy
ra.
Theo ông Nguyễn Văn Thanh, Phó Chánh án TAND Thành phố Thủ
Dầu Một, nhiều đôi vợ chồng có tuổi đời dưới 30 quyết định chia tay chỉ vì
đơn giản họ lấy nhau do… sự khích bác từ bạn bè [48]. Từ nhận định này của
ông Thanh có thể thấy, dư luận xã hội có vai trò lớn trong việc hạn chế sự gia
tăng ly hôn. Nói về vấn đề này, ThS. Hoàng Thị Ái Hoa - Phân viện Văn hóa
Nghệ thuật Quốc gia Việt Nam tại Huế cho rằng, phát huy vai trò của dư luận
là vấn đề cần thiết để lên án những tệ nạn xã hội dễ trở thành những nguyên
nhân gây ra ly hôn như ngoại tình, cờ bạc, bạo lực gia đình. Theo bà Ái Hoa,
thường xuyên khơi dậy truyền thống gia đình, nền nếp gia phong, mối quan
hệ gắn kết giữa các thành viên, tính tôn ti trật tự, chữ hiếu… đang là ưu thế
riêng có của Huế hiện nay trong vấn đề kiềm chế sự đổ vỡ của gia đình.
“Những giải pháp này thì không chỉ Huế mà các tỉnh, khác cũng vẫn có thể
vận dụng để làm sao giảm được tỷ lệ ly hôn trong các gia đình ngay từ nội tại
của chính các gia đình và các mối quan hệ giữa gia đình và xã hội” [48]
84
Một khía cạnh khác, sau ly hôn cha hoặc mẹ tái hôn, cảnh sống chung
với cha dượng hoặc mẹ kế, tình trạng “con anh, con em”, dẫn đến các bậc cha
mẹ có thể thiếu trách nhiệm trong việc giáo dục con cái (bỏ mặc, ngược đãi)
tác động sâu sắc không những lên sự nhận thức còn rất non nớt của các em
mà con gây ra những bất hòa và tổn thương tâm lý khó hàn gắn được.
Hôn nhân tan vỡ không chỉ làm ảnh hưởng đến gia đình, người thân mà
còn ảnh hưởng đến xã hội. Bởi gia đình là tế bào của xã hội, khi tế bào không
“khỏe” thì xã hội bị ảnh hưởng nhiều mặt. Sau những cuộc hôn nhân không
thành là những đứa con vô tội phải sống trong cảnh thiếu tình thương và sự
chăm sóc, nuôi dưỡng của cha hoặc mẹ. Đó cũng là một trong những nguyên
nhân dẫn đến tội phạm và các tệ nạn xã hội ngày một gia tăng.
Chính vì vậy, việc tuyên truyền nâng cao nhận thức của nhân dân (nhất
là nông dân, người dân tộc thiểu số), lãnh đạo, cán bộ công chức, viên chức
về Hiến pháp, pháp luật về quyền bình đẳng và Luật bình đẳng giới…, lên án
những hành vi vi phạm và kìm hãm việc thực hiện quyền bình đẳng giới như:
tình trạng bạo lực gia đình, buôn bán phụ nữ và trẻ em, phân biệt đối xử giới,
những hủ tục và quan điểm trọng nam khinh nữ, những vấn đề về công tác
chăm sóc sức khoẻ cho bà mẹ và trẻ so sinh, về vai trò và vị trí của phụ nữ, trẻ
em trong cuộc sống, trong học tập, công việc, gia đình và tham gia đoàn thể
xã hội cần được chú trọng. Bên cạnh đó, tăng cường tuyên truyền về vấn đề
phát triển giáo dục và đào tạo nghề cho phụ nữ và trẻ em ở nông thôn, vùng
dân tộc thiểu số; việc xây dựng quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ
nữ, chỉ tiêu bổ nhiệm cán bộ nữ trong cơ cấu cán bộ lãnh đạo của các cơ quan,
đơn vị, địa phương…nhằm nâng cao nhận thức của các tầng lớp nhân dân về
vị thế của phụ nữ trong xã hội.
3.2.3.2. Nâng cao công tác xét xử bảo vệ quyền của phụ nữ khi ly hôn
Nâng cao chất lượng xét xử của Tòa án các cấp. Muốn nâng cao hiệu
quả bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, con chưa thành niên, con đã thành
85
niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không
có tài sản để tự nuôi mình trong quá trình giải quyết tài sản khi ly hôn, bên
cạnh hoạt động tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, công tác nâng cao
chất lượng xét xử là một yêu cầu quan trọng. Muốn vậy, cần nâng cao trình
độ, kĩ năng nghiệp vụ pháp lý của đội ngũ cán bộ tư pháp. Hôn nhân và gia
đình có một đặc trưng là bên cạnh góc độ pháp lý còn mang yếu tố tình cảm.
Vì vậy, trong quá trình xét xử các vụ án hôn nhân và gia đình đòi hỏi Thẩm
phán phải huy động mọi kiến thức pháp lý, kinh nghiệm sống và khả năng
phán đoán tâm lý để đưa ra phán quyết đúng đắn, hợp tình hợp lý nhất. Do đó,
nên chăng thành lập một hệ thống cơ quan riêng chuyên xét xử các vụ án hôn
nhân và gia đình để nâng cao chất lượng xét xử của Tòa án.
Việc ghi nhận nguyên tắc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, con
chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không
có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình trong quá trình giải
quyết tài sản khi ly hôn có ý nghĩa to lớn và quan trọng về cả lý luận và thực
tiễn. Tuy chưa được thể hiện một cách triệt để, toàn diện, nhưng việc ghi nhận
nguyên tắc này trong chế định ly hôn cho thấy sự tiến bộ của pháp luật hôn
nhân gia đình nói riêng, hệ thống pháp luật Việt Nam nói chung trong việc
bảo đảm quyền và lợi ích của phụ nữ và trẻ em. Nó tạo nên sự thống nhất về
những nguyên lý, tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt của Nhà nước trong toàn bộ hệ
thống các quy phạm pháp luật hôn nhân và gia đình, đồng thời, tạo nên khuôn
khổ pháp lý cho việc áp dụng những quy tắc này vào thực tiễn, nhằm bảo vệ
quyền lợi của phụ nữ và trẻ em ngày càng tốt hơn trong xã hội hiện đại.
Điều 14 : Luật Hôn nhân và Gia đình Việt Nam năm 2014 quy định ly
hôn là “việc chấm dứt quan hệ vợ chồng theo bản án, quyết định có hiệu lực
pháp luật của Tòa án”[35].Trong quan hệ hôn nhân và gia đình, trong trường
hợp ly hôn xảy ra, khi Toà án xét xử cho ly hôn sẽ dẫn đến những hậu quả
pháp lý về quan hệ nhân thân của vợ chồng, chế độ tài sản của vợ chồng, việc
86
cấp dưỡng giữa vợ chồng sau khi ly hôn, giao con chung cho ai là người trực
tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, đóng góp phí tổn nuôi dưỡng giáo dục con...Khi
giải quyết các vụ việc ly hôn, Tòa án phải thực thi hoạt động của mình và ra
phán quyết cho thật hợp tình, hợp lý, bảo đảm quyền của phụ nữ theo nguyên
tắc “bình đẳng và ưu tiên” đã được khẳng định trong Hiến pháp và hệ thống
pháp luật của Việt Nam.
Như đã nêu ở trên,các vụ, việc liên quan đến hôn nhân và gia đình
chiếm tỷ lệ trên 60% trong tổng số các vụ án và có xu hướng ngày càng gia
tăng. Đa số vụ ly hôn thường là các cặp vợ chồng trẻ, cá biệt có nhiều vụ chỉ
kết hôn được mấy tháng đã ra tòa ly hôn.
Mặt khác, việc xét xử và giải quyết án hôn nhân và gia đình gặp nhiều
khó khăn do nhận thức về Luật Hôn nhân và gia đình của các cặp vợ chồng
còn hạn chế; các tranh chấp về việc phân chia tài sản chung, quyền nuôi con,
nợ chung sau khi ly hôn diễn ra phức tạp.
Để giải quyết án hôn nhân và gia đình đạt hiệu quả cao, tránh được
những sai sót và bảo đảm quyền lợi cho phụ nữ, các thẩm phán, thư ký tòa án
nêu cao tinh thần, trách nhiệm ngay từ bước thu thập chứng cứ, tài liệu làm cơ
sở giải quyết ly hôn. Khi giải quyết các tranh chấp liên quan đến tài sản
chung, thẩm phán, thư ký tập trung xác định, thẩm định chính xác tài sản
chung, riêng của vợ chồng; xác định vai trò, đóng góp của mỗi bên trong việc
duy trì, phát triển tài sản chung.
Khi đưa ra quyết định về quyền nuôi con cho cha hay mẹ, Hội đồng xét
xử căn cứ quy định của Luật Hôn nhân và gia đình, điều kiện vật chất, tinh
thần để xem xét, phán quyết giao con chung cho bên nào nuôi. Các nội dung
này được thể hiện rõ trong bản án, nhằm bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của
phụ nữ, trẻ em; phòng ngừa các hành vi bạo lực gia đình.
Cùng với đó, tòa án nhân dân hai cấp quan tâm đến công tác kiện toàn
tổ chức cán bộ, đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ;
87
quán triệt, giáo dục cán bộ, thẩm phán thực hiện nghiêm quy chế văn hóa
công sở và quy tắc ứng xử của cán bộ, công chức Tòa án nhân dân; làm tốt
công tác hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật, trao đổi nghiệp vụ và rút
kinh nghiệm công tác xét xử.
Ngành Toà án tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra nghiệp vụ tập
trung vào việc khắc phục những hạn chế, thiếu sót trong công tác của tòa án
nhân dân cấp huyện; bổ sung cán bộ, thẩm phán cho các đơn vị còn thiếu so
với yêu cầu công tác; phát động các phong trào thi đua gắn với việc hoàn
thành tốt nhiệm vụ chuyên môn...
Căn cứ vào chỉ tiêu được giao, Tòa án Nhân dân hai cấp tổ chức ký
giao ước thi đua giữa các đơn vị, tạo khí thế thi đua sôi nổi, trở thành động
lực, cổ vũ mỗi cán bộ, thẩm phán, thư ký phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ. Vì
vậy, kết quả công tác giải quyết, xét xử các tranh chấp trong án hôn nhân và
gia đình trong thời gian qua đạt kết quả đáng ghi nhận.
Đồng chí Phạm Thị Thúy Mai, Phó Chánh án Tòa án Dân sự, Tòa án
Nhân Dân tỉnh Vĩnh Phúc cho biết: Một trong những nguyên nhân dẫn đến tỷ
lệ ly hôn ngày càng cao, đặc biệt ở các cặp vợ chồng trẻ, do họ có cái “tôi”
quá lớn, chưa coi trọng giá trị của đối phương, thường xuyên có tư tưởng sẵn
sàng ly hôn mỗi lần xảy ra mâu thuẫn…[46]. Nhưng khi ra tòa, được thẩm
phán, thư ký động viên, chia sẻ, họ tự động rút đơn về ở với nhau. Có thể nói,
công tác hòa giải có ý nghĩa quan trọng giúp những tranh chấp, mâu thuẫn
được giải quyết không vượt quá giới hạn. Tuy nhiên, quá trình giải quyết các
vụ, việc liên quan đến hôn nhân và gia đình không hề đơn giản, bởi vì nó tác
động sâu sắc đến tình cảm, tâm lý của các thành viên trong gia đình.
Để hòa giải thành công, người thẩm phán phải biết lắng nghe, chia sẻ,
cảm thông với hoàn cảnh, tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến mâu thuẫn; quy trình
hòa giải đúng quy định của pháp luật, bảo đảm quyền lợi, lợi ích của các bên
đương sự. Những vụ, việc không thể hòa giải được phải đưa ra xét xử, Hội
88
đồng xét xử tạo mọi điều kiện để các bên đương sự tranh tụng, đưa ra tài liệu,
chứng cứ bảo vệ quan điểm của mình, từ đó tòa đưa ra quyết định đúng đắn”.
Kết quả xét xử các vụ án hôn nhân và gia đình đảm bảo đúng pháp luật, rõ
ràng, có sức thuyết phục. Qua đó, kịp thời bảo vệ các quyền, lợi ích chính
đáng của nhân dân nói chung và của phụ nữ, xây dựng gia đình bình đẳng,
tiến bộ.
Qua bốn năm thực thi Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, trong tổng
số các vụ việc hôn nhân và gia đình Tòa án các cấp giải quyết thì số lượng vụ
việc ly hôn chiếm tỉ lệ lớn nhất. Mặc dù số lượng vụ án tranh chấp ly hôn đưa
ra xét xử không nhiều nhưng các vụ án đưa ra xét xử đều mang tính phức tạp
cao, liên quan đến nhiều quyền lợi quan trọng của các đương sự trong vụ án.
Nhìn chung, kết quả xét xử các vụ án ly hôn của tòa án thời gian vừa qua đạt
yêu cầu, bảo đảm quyền lợi chính đáng của đương sự. Tuy nhiên, trong công
tác giải quyết các vụ việc hôn nhân và gia đình, đội ngũ cán bộ, công chức
của Tòa án nhân dân các cấp nhìn chung chưa đủ về số lượng, một bộ phần
còn bất cập về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và năng lực công tác. Thẩm
phán còn gặp nhiều khó khăn trong giải quyết các vụ việc hôn nhân và gia
đình, dẫn tới chất lượng giải quyết nhiều vụ việc về hôn nhân và gia đình còn
chưa cao. Việc phát huy vai trò của các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền trong
phối hợp giải quyết các vụ việc về hôn nhân và gia đình hoặc trong công
nhận, thực hiện và bảo vệ quyền về hôn nhân và gia đình của người dân còn
nhiều bất cập .
Mặt khác, hoạt động giải quyết án ly hôn của Tòa án còn chịu sức ép về
số lượng và thời hạn giải quyết vụ án, nhiều vụ án ly hôn đưa ra xét xử nhiều
lần nhưng vẫn không giải quyết dứt điểm là những trở ngại đối với việc bảo
đảm thực thi quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của phụ nữ khi ly
hôn. Các sai sót, tồn tại xuất phát từ các nguyên nhân khách quan và nguyên
nhân chủ quan, trong đó nguyên nhân chủ quan là chủ yếu, tập trung vào cả
89
ba vấn đề khi giải quyết án ly hôn gồm: hôn nhân, con chung và tài sản
chung. Thực tế áp dụng Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 trong những
năm qua cho thấy, mặc dù đã điều chỉnh có hiệu quả nhiều quan hệ về hôn
nhân và gia đình phát sinh trong thực tiễn, nhưng vẫn còn những hạn chế, bất
cập như: một số quy định liên quan đến thực hiện quyền con người, đặc biệt
là về bình đẳng giới còn mang tính hình thức, không thực chất và không khả
thi; một số vấn đề hôn nhân và gia đình chưa được luật quy định cụ thể hoặc
không quy định.Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 vừa được ban hành có
nhiều điểm mới, tiến bộ nhằm đảm bảo quyền con người nói chung và bảo
đảm thực hiện quyền phụ nữ trong quan hệ hôn nhân và gia đình nói riêng đặt
ra yêu cầu cần được nghiên cứu, đề xuất áp dụng trong thực tiễn. Trên cơ sở
xem xét phù hợp với các quy định của Hiến pháp mới 2013 và các điều ước
quốc tế Việt Nam tham gia, cần cải tiến hoạt động giải quyết các vụ việc ly
hôn của Tòa án trên cơ sở tôn trọng, bảo vệ quyền của phụ nữ nhằm góp phần
thực thi có hiệu quả pháp luật về quyền con người, quyền công dân.
Tham khảo cơ cấu tổ chức và thực tiễn xét xử án hôn nhân và gia đình
của các nước cho thấy: hiện nay, nhiều nước thuộc các hệ thống luật khác
nhau trên thế giới đã thành lập Tòa án Gia đình là mô hình tòa án có vai trò
tăng cường tính chuyên môn đối với vụ án hôn nhân và gia đình. Theo đó, cơ
cấu nhân sự của Tòa án Gia đình có Điều tra viên đóng vai trò quan trọng
trong việc điều tra sự thật trong xét xử hôn nhân gia đình, cũng như liên kết
với cơ quan phúc lợi xã hội, đánh giá tâm lý, các công việc mang tính hỗ trợ.
Thẩm phán Tòa án gia đình hoạt động chuyên trách, được lựa chọn là những
người có độ tuổi, kinh nghiệm nhất định và có kiến thức về tâm lý học, xã hội
học…Với mô hình Tòa án gia đình, hoạt động giải quyết các vụ việc ly
hôn có tính chuyên môn cao, phán quyết của Tòa án được đưa ra trên cơ sở
các bên đương sự đã được tư vấn, hòa giải bằng nhiều hình thức, quyền lợi
của các bên đương sự đều được xem xét, cân nhắc kỹ càng. Việt Nam đang
90
trong tiến trình nghiên cứu, chuẩn bị triển khai áp dụng mô hình Tòa án Gia
đình nên hoạt động giải quyết án ly hôn của Tòa án cần tiếp tục được cải thiện
nhằm tạo ra một cơ chế bảo đảm và thực thi quyền phụ nữ khi ly hôn.
Trong hoạt động giải quyết tranh chấp ly hôn, tòa án các nước có
những quy định, thủ tục và cách thức giải quyết khác với Việt Nam, trong đó
có những nội dung tiến bộ cần tham khảo, nghiên cứu áp dụng. Ví dụ,
tại Australia, điều kiện xét yêu cầu ly hôn là cuộc hôn nhân đã hoàn toàn đổ
vỡ, không thể cứu vãn được và phải ly thân ít nhất là 12 tháng trước khi nộp
đơn ly dị. Nếu kết hôn dưới 2 năm thì phải đi tư vấn về gia đình hoặc xin
phép Tòa trước khi nộp đơn ly dị. Còn ở Mỹ, đã có sự thay đổi lớn trong
những đạo luật về ly hôn theo chiều hướng chuyển từ những đạo luật mang
tính hạn chế (thế kỷ XIX) sang ly hôn không có lỗi (thế kỷ XX). Các bên chỉ
đơn giản giải thích rằng có những khác biệt không thể hòa giải giữa họ và
rằng cuộc hôn nhân không còn giá trị nữa. Tuy nhiên, thực tiễn ly hôn ở Mỹ
cho thấy giải quyết những vấn đề như tranh chấp về tài sản, tranh chấp về
chăm sóc con, hỗ trợ tiền cho con, quyền thăm nom con là những nội dung
thường xuyên có bất đồng và Tòa án phải rất cẩn trọng khi đưa ra phán quyết
nhằm bảo vệ quyền lợi cho các bên đương sự nói chung và quyền lợi của
người phụ nữ nói riêng. Ở Hàn Quốc, yếu tố lỗi được xét đến khi có yêu cầu
ly hôn, người muốn thuận tình ly hôn phải được Tòa án gia đình hướng dẫn
về ly hôn. Trong trường hợp cần thiết, Tòa án gia đình có thể khuyến khích
đương sự nhận hỗ trợ tư vấn chuyên môn từ chuyên gia có kinh nghiệm và
kiến thức chuyên môn. Bên yêu cầu xác nhận ly hôn lên Tòa án gia đình có
thể được xác nhận ly hôn sau một thời gian cân nhắc. Trong thời gian cân
nhắc, Tòa án tổ chức hoạt động nhằm hàn gắn, hòa giải cho vợ chồng như tổ
chức dã ngoại có con cùng tham gia, tư vấn tâm lý. Trong trường hợp có lý do
cấp bách như một bên đương sự phải chịu hành vi bạo lực, có thể rút ngắn
hoặc miễn thời gian cân nhắc. Trường hợp có sự tranh chấp nuôi con khi ly
91
hôn, Tòa án có những biện pháp giám sát, theo dõi thái độ, nhu cầu của trẻ,
đồng thời cử Điều tra viên điều tra về các điều kiện nuôi dậy con để Tòa án có
cơ sở quyết định giao con cho bố hay mẹ là người trực tiếp nuôi dưỡng…Đây
là những quy định, thủ tục có tính ưu việt nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của
cả vợ và chồng khi ly hôn, đảm bảo sự bình đẳng và cũng đồng thời là bảo vệ
quyền của người phụ nữ khi ly hôn. Trên cơ sở Tòa án đưa ra những quyết
định, bản án thấu tình đạt lý, bảo vệ quyền lợi chính đáng cho người phụ nữ
sẽ giúp họ tự tin trước cuộc sống, tin tưởng rằng pháp luật luôn bên cạnh họ,
bảo vệ quyền lợi cho họ.
Như vậy, với những phân tích trên đây, việc bảo vệ quyền của phụ nữ
khi giải quyết các vụ việc ly hôn của Tòa án là một việc vô cùng quan trọng,
cần thiết và có ý nghĩa. Từ việc nghiên cứu vấn đề, trao đổi thông tin nhằm
nâng cao nhận thức về bảo vệ quyền của phụ nữ khi ly hôn, giúp nâng cao
hiệu quả hoạt động của Tòa án trong việc bảo đảm thực thi quyền của phụ nữ
trong thực tế là cơ sở của sự phát triển và tiến bộ của xã hội.
3.2.3.3. Cần thành lập linh hoạt Tòa gia đình và người chưa thành niên
Theo số liệu của các cơ quan tư pháp, những năm gần đây, các vụ việc
về HN&GĐ ngày càng tăng và diễn biến phức tạp. Điển hình thực tiễn xét xử
của Tòa án nhân dân tại Hà Nội số vụ việc về HN&GĐ chiếm khoảng 42%
tổng số vụ việc đã thụ lý [1].
Luật tổ chức tòa án nhân dân số 62/2014/QH13 ngày 24 tháng 11 năm
2014 và Thông tư số 01/2016/TT-CA ngày 21 tháng 01 năm 2016 quy định về
việc tổ chức các tòa chuyên trách tại tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương, tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh
và tương đương, tòa gia đình và người chưa thành niên giải quyết các vụ việc
như sau:
“a) Các vụ án hình sự mà bị cáo là người dưới 18 tuổi hoặc các vụ án
hình sự mà bị cáo là người đã đủ 18 tuổi trở lên nhưng người bị hại là người
92
dưới 18 tuổi bị tổn thương nghiêm trọng về tâm lý hoặc cần sự hỗ trợ về điều
kiện sống, học tập do không có môi trường gia đình lành mạnh như những
người dưới 18 tuổi khác;
b) Xem xét, quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại Tòa án
nhân dân đối với người chưa thànhniên;
c) Các vụ việc hôn nhân gia đình theo quy định của Bộ luật tố tụng dân
sự.”[4]
Tuy đã có quy định về việc thành lập tòa án chuyên trách giải quyết vụ
việc HN&GĐ nhưng trên thực tế từ khi ban hành, tại Hà Nội chưa thành lập
Tòa gia đình và người chưa thành niên. Công tác giải quyết các vụ việc về
HN&GĐvẫngiao chung vào thẩm quyền của tòa dân sự. Quy trình giải quyết
các vụ việc hôn nhân và gia đình cũng giống như giải quyết các vụ án dân sự
khác, chưa quan tâm đến những đặc thù trong quan hệ gia đình. Các thẩm
phán và cán bộ tòa án cũng không được phân công chuyên trách thụ lý, giải
quyết các vụ việc về HN&GĐ, mà phải kiêm nhiệm, thụ lý nhiều vụ việc dân
sự khác nên chất lượng giải quyết các vụ việc về HN&GĐ tại tòa án còn
nhiều hạn chế.
Thực tế các Tòa án nhân dân tại Hà Nội cho thấy, những vụ tranh chấp
về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân, đặc biệt tranh
chấp về tài sản khi ly hôn luôn là những vụ án phức tạp và chiếm số lượng lớn
(khoảng hơn 30%) so với tổng số các vụ án HN&GĐ mà TAND các cấp thụ
lý giải quyết.
Do đó, việc thành lập một cách linh hoạt Tòa gia đình và người chưa
thành niên cần phải được nghiên cứu, xem xét thực hiện.
3.2.3.4. Kiện toàn, nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ Tòa, đặc biệt
là thẩm phán
Quan hệ hôn nhân và gia đình là một quan hệ chịu sự chi phối bởi yếu
tố tình cảm. Cho nên dù pháp luật đã có những quy định cụ thể nhằm bảo vệ
93
quyền lợi của các bên vợ, chồng nhưng những quy định ấy vẫn chưa được áp
dụng một cách triệt để. Nếu Toà án áp dụng pháp luật một cách cứng nhắc thì
sẽ ảnh hưởng đến quyền lợi của các bên. Xuất phát từ thực tế trên, Tòa án cần
phải vận dụng pháp luật cho linh hoạt, mềm dẻo trong quá trình chia tài sản
của vợ chồng khi ly hôn. Nói cách khác, đội ngũ thẩm phán phải giỏi về
chuyên môn và tốt về phẩm chất.
Trong những năm qua, cán bộ Tòa án ngày càng được nâng cao về trình
độ chuyên môn, đặc biệt là đội ngũ Thẩm phán. Tuy vậy, so với tình hình
thực tế và thực tiễn xét xử cho thấy, đội ngũ Thẩm phán, thư ký, cán bộ
nghiệp vụ còn thiếu năng lực và kinh nghiệm thực tiễn còn hạn chế, chưa
đồng đều. Là cơ quan xét xử, hoạt động của Tòa án sẽ ảnh hưởng đến lợi ích
của người dân. Những sai sót trong quá trình Tòa án xét xử có thể dẫn đến
hậu quả nghiêm trọng khó lường. Do đó, cần tích cực đẩy mạnh công tác đào
tạo, nâng cao trình độ của Thẩm phán và tính thực thi của pháp luật; thường
xuyên tổ chức các lớp tập huấn nghiệp vụ xét xử các vụviệc về hôn nhân gia
đình đặc biệt là vụ việc về chia tài sản chung của vợ chồng để các thẩm phán
trao đổi kinh nghiệm, học tập nâng cao kỹ năng xét xử; TANDTC định kỳ ban
hành các án lệ, các tập hợp án điển hình về các vụ án liên quan đến chia tài
sản chung của vợ chồng khi ly hôn.
Ngoài ra, hàng năm còn phải chú trọng về công tác đào tạo, đào tạo lại,
tập huấn chuyên môn, nghiệp vụ như tập huấn các văn bản hướng dẫn mới, kỹ
năng xét xử các vụ án; tập huấn các kiến thức liên quan đến công tác xét xử các
vụ án HN&GĐ, nâng cao trình độ chính trị cho cán bộ, công chức trong ngành.
Bên cạnh đó, vai trò của các đoàn thể như Mặt trận Tổ quốc, Hội phụ
nữ, Đoàn thanh niên…trong công tác giải quyết các vụ án HN&GĐ cũng cần
được quan tâm. Cần có biện pháp tác động đến đoàn thể như: tổ chức các
chương trình, ban hành các chính sách, các quy định để đoàn thể tham gia tích
cực trong việc bảo vệ quan hệ gia đình tại địa phương.
94
3.2.3.5. Tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng,
các cơ quan có thẩm quyền trong giải quyết các vụ án hôn nhân và gia đình
Nhằm đảm bảo việc xét xử đúng pháp luật, kịp thời đảm bảo về mặt
quyền lợi của các đương sự thì trong công tác xét xử các vụ án tranh chấp tài
sản giữa vợ chồng, Tòa án cần có sự phối hợp chặt chẽ với Viện kiểm sát,
Công an, chính quyền địa phương và các cơ quan chức năng khác có liên
quan trong việc cung cấp thông tin, chứng cứ, tài liệu liên quan đến công tác
giải quyết vụán.
Cần kiện toàn lại quy chế, từng bước khắc phục những hạn chế, vướng
mắc giữa các bên nhằm bảo đảm công tác phối hợp xử lý trong từng vụ việc
chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn đạt được kết quả tốt nhất, phòng
tránh những sai sót liên quan trong công tác tố tụng nhằm bảo đảm quyền và
lợi ích hợp pháp của các bên.
3.2.3.6. Tăng cường công tác tổng kết, rút kinh nghiệm nhằm nâng cao
chất lượng xét xử và thống nhất áp dụng phápluật
Tổng kết, rút kinh nghiệm đưa ra hướng giải quyết đúng đắn và thống
nhất là vấn đề cần thiết cho việc xét xử. Thường xuyên tổng kết, cập nhật số
liệu về tình hình thực hiện đăng ký tài sản chung của vợ chồng để rút kinh
nghiệm và đề ra phương hướng triển khai thực hiện quy định pháp luật hiệu
quả hơn. Cùng với đó, việc áp dụng các quy định pháp luật đúng đắn và thống
nhất cũng rất quan trọng. Để đảm bảo pháp luật được áp dụng thống nhất, Tòa
phải tổng kết lại, xem xét lại quá trình xét xử trong cơ quan, trong nhiều cấp
xét xử và trong toàn ngành để đưa ra hướng giải quyết thống nhất và đúng đắn
trong quá trình giải quyết.
Điều này cũng được áp dụng trong trường hợp các quan hệ xã hội mà
pháp luật không thể đưa ra một tiêu chí nhất định điều chỉnh như vấn đề công
sức đóng góp,… cho nên muốn áp dụng khi có tình tiết xảy ra cần điều chỉnh
thì phải có một hướng chung giải quyết đó là tổng kết, rút kinh nghiệm và đưa
95
ra hướng giải quyết đúng đắn nhất và thống nhất ở mọi cấp xét xử. Thực tiễn
cho thấy, các giải pháp về rút kinh nghiệm công tác xét xử có tác dụng tích
cực, hạn chế các sai sót trong quá trình giải quyết các vụ án nói chung và án
HN&GĐ nói riêng và trình độ về chuyên môn nghiệp vụ của Thẩm phán, Hội
thẩm Tòa án nhân dân cũng được nâng cao.
3.2.3.7. Thực hiện xã hội hóa bảo vệ quyền của người phụ nữ khi ly hôn
Quyền con người là những giá trị cao cả cần được tôn trọng và bảo vệ
trong mọi xã hội và mọi giai đoạn lịch sử. Trong xu thế hội nhập quốc tế hiện
nay, việc bảo vệ quyền con người nói chung và quyền của phụ nữ nói riêng
không chỉ là nghĩa vụ của nhà nước đối với người dân mà còn là nghĩa vụ của
một quốc gia trước cộng đồng quốc tế. Luật Hôn nhân và Gia đình Việt Nam
năm 2014 vừa có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2015 có rất nhiều điểm
mới phù hợp với Hiến pháp năm 2013 nhằm bảo đảm thực hiện tốt hơn quyền
con người, bình đẳng giới, bảo vệ phụ nữ. Vì vậy, bài viết đề cập đến một số
vấn đề về bảo vệ quyền của phụ nữ khi ly hôn nhằm nâng cao nhận thức và
hiệu quả thực thi pháp luật bảo vệ quyền của phụ nữ, đặc biệt là khi họ rơi
vào hoàn cảnh hôn nhân tan vỡ.
Khi xem xét việc bảo vệ quyền của phụ nữ khi ly hôn thì không thể
tách rời việc nghiên cứu về quyền và bảo vệ quyền con người của phụ
nữ. Theo Mác: "Quyền con người là những đặc quyền chỉ có ở con người mới
có, với tư cách là con người, là thành viên xã hội loài người"[5]. Ở cấp độ
quốc tế, có một định nghĩa của Văn phòng cao ủy Liên hợp quốc thường
xuyên được trích dẫn bởi các nhà nghiên cứu: “Quyền con người là những
bảo đảm pháp lý toàn cầu có tác dụng bảo vệ các cá nhân và các nhóm chống
lại những hành động hoặc sự bỏ mặc mà làm tổn hại đến nhân phẩm, những
sự được phép và tự do cơ bản của con người” [13]. Ở Việt Nam cũng đã có
những định nghĩa về quyền con người do một số cơ quan nghiên cứu và
chuyên gia từng nêu ra. Những định nghĩa này không hoàn toàn giống nhau,
96
nhưng tựu chung quyền con người thường được hiểu “là những năng lực và
nhu cầu vốn có và chỉ có ở con người, với tư cách là thành viên cộng đồng
nhân loại, được thể chế hóa bằng pháp luật quốc gia và các thỏa thuận pháp
lý quốc tế" [5]. Và tại Hội nghị thế giới về Quyền con người lần thứ hai tổ
chức tại Viên (1993) đã khẳng định: “quyền con người của phụ nữ và trẻ em
gái là một bộ phận cấu thành, gắn liền và không thể tách rời của các quyền
con người phổ biến”. Như vậy, cho dù quyền con người có là bẩm sinh, vốn
có hay phải do nhà nước quy định thì để thực hiện các quyền con người phải
cần có pháp luật. Pháp luật là phương thức không thể thiếu và là công cụ hiệu
quả nhất của nhà nước nhằm bảo vệ quyền con người. Theo đó, “bảo vệ quyền
con người nói chung, bảo vệ quyền phụ nữ bằng pháp luật nói riêng trước hết
phải được hiểu là sự ghi nhận các quyền con người bằng pháp luật và phải
bảo đảm cho quyền đó được thực hiện. Mặt khác, do phụ nữ là một nhóm xã
hội đặc biệt, bởi vậy, quyền phụ nữ phải được xem xét và ghi nhận dựa trên
cơ sở của những yếu tố đặc thù về giới, nghĩa là pháp luật phải ghi nhận
quyền phụ nữ dựa trên cơ sở của vấn đề bình đẳng giới” [5].
Bảo vệ quyền của phụ nữ được ràng buộc chặt chẽ bởi các công ước
quốc tế về quyền con người mà Việt Nam là thành viên, như: Hiến chương
Liên Hợp Quốc (1945), Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người (1948,
UDHR), Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ
(1979, CEDAW),... Theo đó, việc bảo vệ quyền của phụ nữ trong lĩnh vực
hôn nhân và gia đình, kể cả khi ly hôn được nhấn mạnh và quy định rất cụ thể
tại Điều 16 Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ:
“1. Các quốc gia thành viên phải áp dụng tất cả các biện pháp thích
hợp để xoá bỏ sự phân biệt đối xử chống lại phụ nữ trong tất cả các vấn đề
liên quan đến hôn nhân và quan hệ gia đình, cụ thể phải bảo đảm những
quyền dưới đây, trên cơ sở bình đẳng nam nữ:
a) Quyền kết hôn như nhau;
97
b) Quyền như nhau trong việc tự do lựa chọn người để kết hôn và chỉ
kết hôn khi mình được tự do quyết định và hoàn toàn tự nguyện;
c) Quyền và trách nhiệm như nhau giữa vợ chồng trong thời gian hôn
nhân cũng như khi hôn nhân bị hủy bỏ;
d) Quyền và trách nhiệm như nhau trong vai trò làm cha mẹ, bất kể
tình trạng hôn nhân như thế nào, về các vấn đề liên quan đến con cái họ.
Trong tất cả các trường hợp, lợi ích của con cái phải được coi là điều quan
trọng nhất:“[16]
Dưới góc độ quyền phụ nữ cũng chính là quyền con người, Nhà nước
cần phải thừa nhận, tôn trọng và cam kết bảo đảm, bảo vệ quyền đó đúng như
những điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Vì thế, hoạt động bảo vệ
quyền con người của phụ nữ phụ thuộc vào năng lực của các hệ thống cơ
quan nhà nước mà trước hết là hệ thống Tòa án. Điều 102 Hiến pháp năm
2013 quy định: “Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa
XHCN Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp…có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo
vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ lợi ích của
Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân” [34, Điều 102].
Từ những vấn đề nêu trên, việc bảo vệ quyền của phụ nữ khi họ rơi vào
hoàn cảnh ly hôn là cực kỳ cần thiết, bởi vì phụ nữ được xác định là nhóm đối
tượng dễ bị tổn thương trong xã hội, cần được quan tâm đặc biệt. Khi họ rơi
vào hoàn cảnh ly hôn, hơn lúc nào hết, việc bảo đảm thực thi quyền con người
của phụ nữ trong thực tế là việc làm ý nghĩa cho họ niềm tin vào công lý và
giúp họ ổn định tinh thần, cuộc sống sau khi ly hôn.
98
Tiểu kết chƣơng 3
Ly hôn đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến cuộc sống của người phụ nữ và
trẻ em, sự cần thiết hoàn thiện các quy định pháp luật tạo ra khung pháp lý để
nguyên tắc bảo vệ quyền lợi chính đáng của vợ và các con khi vợ chồng ly
hôn là một đòi hỏi cấp thiết về lý luận cũng như thực tiễn thi hành Luật
HN&GĐ Việt Nam năm 2014.
Trên cơ sở lý luận và thực trạng các quy định pháp luật về bảo vệ
quyền lợi chính đáng của vợ và các con khi vợ chồng ly hôn tại chương 1 và
chương 2 tác giả đưa ra những giải pháp để hoàn thiện các quy định pháp luật
về bảo vệ quyền của phụ nữ khi ly hôn.
Pháp luật hiện hành về bảo vệ quyền lợi chính đáng của phụ nữ khi ly
hôn cần phải được xây dựng và hoàn thiện theo kịp với quá trình hoàn thiện
pháp luật về hôn nhân gia đình và các văn bản pháp luật có liên quan. Đồng
thời bổ sung các quy định về bảo vệ quyền lợi chính đáng của vợ và các con
nhiều hơn nữa, bởi phụ nữ và trẻ em là đối tượng hay bị thua thiệt khi vợ
chồng ly hôn.
Bên cạnh đó, các cơ quan chức năng cần nâng cao năng lực hoạt động
trong việc bảo vệ quyền lợi chính đáng của phụ nữ khi ly hôn theo pháp luật
Việt Nam.
99
KẾT LUẬN
1. Quyền con người là một khái niệm mang tính chính trị - pháp lý và
có một lịch sử phát triển lâu dài. Quyền con người là quyền vốn có, không thể
tách rời đối với con người; không phân biệt họ là ai, sinh ra ở đâu; không
phân biệt giới tính, tôn giáo hay địa vị xã hội. Quyền con người là bình đẳng.
Mọi cá nhân trong xã hội đều được thừa nhận giá trị con người và xứng đáng
được tôn trọng.
2. Quyền của phụ nữ khi ly hôn là một quyền con người. Đó là
quyền được xác lập tư cách con người trước pháp luật, không bị pháp luật
phân biệt đối xử, quyền có vị thế ngang nhau trước pháp luật và được pháp
luật bảo vệ như nhau.
3. Bảo đảm quyền của phụ nữ khi ly hôn là một trong những yêu cầu
cấp thiết hiện nay. Trong những yếu tố tác động đến việc bảo đảm quyền
của phụ nữ khi ly hôn thì điều kiện kinh tế - xã hội; các quy định của pháp
luật về HN&GĐ, về TTDS, về trình tự, thủ tục giải quyết các vụ việc dân
sự; hoạt động giải quyết vụ việc dân sự của Tòa án; hoạt động hỗ trợ đương
sự tham gia tố tụng của các tổ chức, cá nhân; cơ chế giám sát, kiểm soát
các hoạt động tố tụng…là những yếu tố có tính quyết định bảo đảm quyền
của phụ nữ khi ly hôn.
4. Trong quá trình giải quyết vụ việc HN&GĐ, quyền của phụ nữ khi
ly hôn được các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, trong đó có Tòa án ghi
nhận và bảo đảm thực hiện, tuy nhiên vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập đòi
hỏi phải khắc phục nhằm mục đích bảo đảm quyền con người nói chung,
quyền của của phụ nữ khi ly hôn nói riêng.
5. Để hoàn thiện quyền của phụ nữ khi ly hôn, cần áp dụng đồng thời
cả 3 nhóm giải pháp: Từ nâng cao nhận thức đến hoàn thiện pháp luật và tổ
chức thực hiện các quy định pháp luật về quyền của phụ nữ khi ly hôn.
100
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Báo cáo số 497/BC-VP ngày 31/03/2016 về công tác nhiệm kỳ 2011-
2016 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội.
2. Báo cáo tổng kết ngành Tòa án nhân dân 05 năm ( 2012-2016) của Tòa
án Nhân dân Tối cao
3. Bộ lao động thương binh và xã hội, vụ pháp chế (2012), Pháp luật lao
động các nước Asean, NXB lao động xã hội, Hà Nội.
4. Chính phủ (2014), Nghị định số 126/2014/NĐ-CP ngày 31/12/2014 của
Chính phủ về việc hướng dẫn thi hành một số điều của Luật hôn nhân
và gia đình năm 2014
5. Nguyễn Văn Cừ - Ngô Thị Hường (2002), Một số vấn đề lý luận và thực
tiễn về Luật hôn nhân và gia đình năm 2000, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội.
6. Nguyễn Văn Cừ (2005), “Chế độ tài sản của vợ chồng theo Luật hôn
nhân và gia đình Việt Nam năm 2000”, Luận án Tiến sĩ, Đại học luật Hà
Nội.
7. Nguyễn Văn Cừ (2006), Thời kỳ hôn nhân – Căn cứ xác lập tài sản
chung của vợ chồng, Tạp chí Tòa án nhân dân số 12/2006
8. Nguyễn Ngọc Điện (2004), Bình luận khoa học Luật Hôn nhân và gia
đình, tập II: Các quan hệ tài sản giữa vợ và chồng, Nxb Trẻ, Thành phố
Hồ Chí Minh.
9. Nguyễn Thị Hạnh (2012), Pháp luật về chia tài sản chung của vợ chồng
khi ly hôn từ thực tiễn xét sử của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định, Luận
văn Thạc sĩ, Khoa luật, Học viện Khoa học Xã hội.
10. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (2002), Các văn kiện quốc tế
về quyền con người, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
11. Phạm Thị Ngọc Lan (2008), Giải quyết tranh chấp tài sản của vợ chồng
khi ly hôn theo Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000, Luận
101
văn Thạc sĩ Luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội.
12. Trần Thị Thúy Lâm (2009), Vấn đề phòng chống bạo lực đối với phụ nữ
và trẻ em trong các lĩnh vực pháp luật, Tạp chí Luật học,(số 2)
13. Liên hợp quốc (1948), Công ước của Liên hợp quốc về quyền con người.
14. Liên hợp quốc (1966), Công ước của Liên hợp quốc về các quyền kinh tế,
xã hội, văn hóa.
15. Liên hợp quốc (1945), Hiến chương Liên hợp quốc.
16. Liên hợp quốc (1968), Tuyên bố cuối cùng của hội nghị quốc tế về quyền
con người - Teheran.
17. Liên hợp quốc (1989), Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em.
18. Tưởng Duy Lượng (2005), Bình luận một số vụ án hôn nhân và gia đình,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
19. Lê Thị Lý (2008), Nguyên tắc bảo vệ quyền lợi của cha, mẹ và các con
trong luật hôn nhân và gia đình năm 2000, Khóa luận tốt nghiệp, Trường
Đại học Luật Hà Nội.
20. Nguyễn Thanh Mai (2012), Chia tài sản chung của vợ chồng theo pháp
luật Việt Nam thực tiễn áp dụng và hướng hoàn thiện, Luận văn thạc sĩ,
Khoa Luật học, Học viện Khoa học Xã hội.
21. Đinh Thị Minh Mẫn (2014), Giải quyết tranh chấp về chia tài sản chung
của vợ chồng khi ly hôn, Luận văn thạc sĩ, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà
Nội.
22. Hồ Chí Minh: Toàn tập, NXB. Chính trị quốc gia, H,2000, t3,tr. 523
23. Bùi Thị Mừng (2008), Bảo vệ quyền của phụ nữ theo luật Hôn nhân và
Gia đình Việt Nam năm 2000, Luận văn thạc sĩ Luật học, Trường đại học
Luật Hà Nội.
24. Nguyễn Hồng Nam, Chia nhà đất khi vợ chồng ly hôn, Tạp chí TAND số
06 – tháng 3/2006
25. Hồ Thị Nga (2007), Bảo vệ quyền lợi của con khi cha mẹ ly hôn, Khóa
luận tốt nghiệp, Khoa Luật, Trường đại học Luật Hà Nội.
102
26. Quốc hội (1959), Luật hôn nhân và gia đình, Hà Nội.
27. Quốc hội (1986), Luật Hôn nhân và gia đình, Hà Nội.
28. Quốc hội (1992), Hiến pháp 1992, Hà Nội.
29. Quốc hội (2001), Hiến pháp (sửa đổi, bổ sung), Hà Nội.
30. Quốc hội (2000), Luật Hôn nhân và gia đình, Hà Nội.
31. Quốc hội (2000), Nghị quyết số 35/2000/QH10 ngày 09/6/2000 về việc
thi hành Luật Hôn nhân và gia đình.
32. Quốc hội (2004), Bộ luật tố tụng dân sự, Hà Nội.
33. Quốc hội (2005), Bộ luật dân sự năm 2005, Hà Nội.
34. Quốc hội (2013), Hiến pháp 2013, Hà Nội.
35. Quốc hội (2014), Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, Hà Nội.
36. Quốc hội (2015), Bộ luật dân sự 2015, Hà Nội.
37. Quốc hội (2015), Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Hà Nội.
38. Nguyễn Thị Phương Thảo (2007), Nguyên tắc bảo vệ quyền lợi của phụ
nữ và trẻ em khi ly hôn theo luật Hôn nhân và Gia đình Việt Nam năm
2000, Khóa luận tốt nghiệp, Khoa luật, Đại học Quốc gia Hà Nội.
39. Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp,
Thông tư liên tịch số 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày
06/01/2016 về việc hướng dẫn thi hành một số quy định của Luật Hôn
nhân và gia đình năm 2014.
40. Lê Thu Trang (2012), Nguyên tắc bảo vệ quyền lợi chính đáng của vợ và
các con khi vợ chồng ly hôn theo luật Hôn nhân và Gia đình Việt Nam
năm 2000, Luận văn Thạc sĩ, Khoa luật, Đại học Quốc gia Hà Nội.
41. Trường Đại học Luật Hà Nội (1999), Từ điển giải thích thuật ngữ Luật
học Luật Dân sự, Luật Hôn nhân và gia đình, Luật Tố tụng dân sự, Nxb
Công an nhân dân, Hà Nội.
42. Trường Đại học Luật Hà Nội (2015), Giáo trình Luật Hôn nhân và gia
đình, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
43. Trường Đại học Quốc Gia Hà Nội (2010), Giáo trình Hỏi đáp về Quyền
103
Con Người, NXB Công an nhân dân, Hà Nội.
44. Viện Khoa học pháp lý (2002), Từ điển Luật học, Nxb Tư pháp.
45. Nguyễn Thị Hồng Yến, Mạc Thị Hoài Thương (2014), Quyền làm mẹ
trong pháp luật quốc tế và thực tiễn nội luật hóa các cam kết trong pháp
luật Việt Nam, Tạp chí luật học, (số 3), tr.48-53
Web:
46. Http://antgct.cand.com.vn/Nhan-dam/Van-de-binh-dang-nam-nu-trong-
Hien- phap-va-Bo-luat-Lao-dong-346546/, ngày cập nhật04/4/2015
47. Http://www.baomoi.com/Vi-pham-phap-luat-voi-lao-dong-nu-rat-
nghiem-trong/47/3024853.epi, ngày cập nhật05/8/2009
48. Http://www.baomoi.com/di-khap-nam-chau-tim-hieu-che-do-thai-
san/c/9186855.epi, ngày cập nhật25/8/2012
49. Http://baoquocte.vn/thu-nhap-cua-nu-lao-dong-con-nhieu-bat-cap-
48317.html, ngày cập nhật01/5/2017
50. Http://laodongthudo.vn/vi-pham-phap-luat-trong-giao-ket-hop-dong-
lao-dong-van-kha-pho-bien-42688.html, ngày cập nhật23/9/2016
51. Http://doanhnghiepvn.vn/doanh-nghiep-viet-thua-tu-y-thuc-ton-trong-
phap-luat-d33097.html, ngày cập nhật19/01/2015
52. Http://www.haugiang.gov.vn/portal/data/sites/10/chuyende/phunu/phan
2/vitri vaitrocuaphunutrongxuthehoinhapi.html, ngày cập nhật16/7/2017
53. Http://nld.com.vn/suc-khoe/bao-dong-benh-nghe-nghiep-tang-cao-
20160223221341918.htm, ngày cập nhật24/02/2016
54. Http://tapchicongsan.org.vn/Home/Thoi_su/2012/16233/Bao-dam-
quyen-loi-ich-chinh-dang-cho-nguoi-lao-dong-ve.aspx, ngày cập nhật
23/5/2012
55. Http://nld.com.vn/cong-doan/nguoc-dai-ba-bau2014091020305503.htm,
ngày cập nhật10/9/2014
56. Http://www.tapchigiaothong.vn/ty-le-that-nghiep-cua-phu-nu-tiep-tuc-
cao-hon-nam-gioi-d44883.html, ngày cập nhật 16/6/2017
104
57. Http://tphcm.chinhphu.vn/ty-le-sinh-cua-tphcm-thap-nhat-ca-nuoc,ngày
cập nhật 08/7/2017
58. Http://thanhtra.com.vn/xa-hoi/phu-nu-mang-thai-nen-lam-viec-it-hon-25-
tieng-moi-tuan_t114c34n41699, ngày cập nhật30/6/2012
59. Http://vnsuckhoe.com/lam-me/mang-thai/Lam-viec-nhieu-anh-huong-
den-suc-khoe-thai-nhi.html, ngày cập nhật 10/6/2017
105