BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

PHẠM THỊ THƠM

QUYỀN CỦA PHỤ NỮ KHI LY HÔN THEO

PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SỸ

LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

Hà Nội, năm 2018

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

PHẠM THỊ THƠM

QUYỀN CỦA PHỤ NỮ KHI LY HÔN THEO

PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

Mã số: 8380102

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC

PGS.TS. LÊ THỊ HƢƠNG

Hà Nội, năm 2018

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn thạc sĩ “Quyền của phụ nữ khi ly hôn theo theo

pháp luật Việt Nam hiện nay” là công trình nghiên cứu do tôi viết dưới sự

hướng dẫn của PGS.TS. Lê Thị Hương. Các trích dẫn và kết quả nghiên cứu nêu

trong luận văn là trung thực và rõ ràng.

Hà Nội, ngày 26 tháng 10 năm 2018

Tác giả

Phạm Thị Thơm

LỜI CẢM ƠN

Học viên cảm ơn Ban giám hiệu Học viện Hành chính Quốc gia, khoa cơ

bản và toàn thể các thầy giáo cô giáo của Học viện đã tận tình giảng dạy hướng

dẫn nghiên cứu khoa học và tạo điều kiện giúp đỡ học viên hoàn thành chương

trình học tập tại trường.

Đặc biệt, học viên xin trân trọng cảm ơn Phó giáo sư, Tiến sĩ Lê Thị

Hương, người đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ học viên trong quá trình nghiên

cứu, xây dựng và hoàn thành Luận văn này.

Học viên xin trân trọng cảm ơn các đồng chí lãnh đạo Tòa Án Nhân Dân

thành phố Hà Nội, Tòa Án Nhân Dân Tối Cao đã tạo điều kiện và giúp đỡ cho

học viên trong quá trình thu thập thông tin và số liệu để thực hiện Luận văn này.

Dù đã có nhiều cố gắng trong quá trình thực hiện, song chắc chắn rằng

luận văn sẽ không thể chánh khỏi một vài thiếu sót. Học viên mong được sự

tham gia, bổ sung đóng góp ý kiến của các cô giáo, thầy giáo và các đồng chí

đồng nghiệp để luận văn này được hoàn thiện hơn.

Xin trân trọng cảm ơn!

Hà Nội, ngày 26 tháng 10 năm 2018

Tác giả

Phạm Thị Thơm

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

1. BLDS: Bộ luật dân sự

2. BLLĐ: Bộ luật lao động

3. HN & GĐ: Hôn nhân và gia đình

4. QSDĐ: Quyền sử dụng đất

5. LĐN: Lao động nữ

6. TANDTC: Tòa án Nhân Dân tối cao

7. TTDS: Tố tụng dân sự

8. XHCN: Xã hội chủ nghĩa

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 1

Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ QUYỀN CỦA

PHỤ NỮ KHI LY HÔN ........................................................................................ 8

1.1. Ly hôn ..................................................................................................................... 8

1.2. Quyền của phụ nữ khi ly hôn ............................................................................. 15

1.3. Các yếu tố ảnh hưởng và các điều kiện bảo đảm quyền của phụ nữ khi ly

hôn ................................................................................................................................. 26

Chương 2. THỰC TRẠNG QUYỀN CỦA PHỤ NỮ KHI LY HÔN ................ 35

THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY .................................................. 35

2.1. Các quy định pháp luật hiện hành về quyền của phụ nữ khi ly hôn .................... 35

2.2. Thực trạng thực hiện quy định pháp luật hiện hành về quyền của phụ nữ khi

ly hôn ............................................................................................................................ 45

2.3. Nhận xét chung về quyền của phụ nữ khi ly hôn theo pháp luật Việt Nam hiện

nay ................................................................................................................................. 54

Chương 3. QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUYỀN CỦA PHỤ

NỮ KHI LY HÔN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY .................................................. 70

3.1. Quan điểm hoàn thiện quyền của phụ nữ khi ly hôn ....................................... 70

3.2. Giải pháp hoàn thiện quyền của phụ nữ khi ly hôn ......................................... 73

KẾT LUẬN ....................................................................................................... 100

TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................. 101

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Hôn nhân và gia đình (HN&GĐ) là hiện tượng xã hội luôn được các

nhà triết học, xã hội học, luật học nghiên cứu, là một hình thái đặc biệt của

quan hệ con người, nó không những phản ánh chế độ xã hội mà còn thể hiện

sự tiến bộ, văn minh của xã hội đó. Hôn nhân là cơ sở của gia đình, còn gia

đình là tế bào nhỏ nhất của xã hội trong đó kết hợp chặt chẽ, hài hòa lợi ích

của mỗi công dân, Nhà nước và xã hội.

Đời sống hôn nhân của vợ chồng vô cùng phong phú và đa dạng, ở đó

không những chỉ phát sinh quan hệ nhân thân mà còn tồn tại quan hệ tài sản

giữa vợ và chồng. Ly hôn là việc chấm dứt quan hệ vợ chồng theo bản án,

quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án. Ly hôn là mặt trái của kết hôn,

việc giải quyết ly hôn và hậu quả của nó luôn mang đến những hệ lụy nhất

định. Vấn đề được các bên quan tâm và thường xảy ra tranh chấp khi ly hôn

chính là giải quyết quyền lợi của vợ chồng.

Dưới sự tác động mạnh mẽ của kinh tế thị trường, tính chất mối quan hệ

giữa các thành viên trong gia đình cũng có nhiều thay đổi. Vì vậy, các quy định

điều chỉnh quyền lợi của vợ chồng luôn được các nhà làm luật quan tâm và xây

dựng để trở thành một trong những chế định quan trọng nhất của pháp luật hôn

nhân và gia đình. Trong xã hội hiện đại, để bảo đảm đời sống chung của gia

đình và lợi ích thiết thực của bản thân mỗi thành viên trong gia đình, vợ chồng

có nhu cầu tham gia vào các quan hệ xã hội được pháp luật điều chỉnh. Khi tình

cảm vợ chồng rạn nứt, đổ vỡ, vợ chồng có quyền tự thỏa thuận việc chia tài sản

chung, quyền nhân thân và một số quyền khác của họ, nhưng khi họ không

thỏa thuận được thì việc vận dụng những quy định của pháp luật hôn nhân và

gia đình để giải quyết quyền của vợ chồng, đặc biệt là quyền của người phụ nữ

khi ly hôn là điều cần thiết để bảo đảm quyền và lợi ích cho các bên.

1

Xuất phát từ vị trí, vai trò quan trọng của gia đình mà Đảng và Nhà

nước ta luôn luôn dành sự quan tâm to lớn đối với vấn đề HN&GĐ. Ly hôn là

một hiện tượng xã hội phức tạp, vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi và

hạnh phúc của vợ chồng, đến lợi ích của gia đình và xã hội. Với tư cách là

một mặt của quan hệ hôn nhân, pháp luật hôn nhân và gia đình xây dựng một

phần gọi là chế định ly hôn, nhằm điều chỉnh quan hệ nhân thân, tài sản giữa

các đối tượng muốn ly hôn và con cái họ. Phụ nữ là các đối tượng đặc biệt cần

sự quan tâm và chăm sóc đặc biệt nên pháp luật hôn nhân và gia đình Việt

Nam đã ghi nhận quyền của phụ nữ như một nguyên tắc cơ bản mang tính

chất dẫn đường xuyên suốt toàn bộ luật. Chế định ly hôn cũng không nằm

ngoài nguyên tắc cơ bản này. Do những đặc thù của việc ly hôn nên việc đảm

bảo nguyên tắc bảo vệ quyền của người phụ nữ khi ly hôn là hoàn toàn cần

thiết và phù hợp với xu hướng thời đại.

Trong những năm gần đây, cùng với những thay đổi về kinh tế - xã hội,

quan hệ giữa con người với con người trong đó có quan hệ HN&GĐ cũng bị

tác động mạnh mẽ. Theo số liệu thống kê của Tòa án các cấp, trong cả nước

hàng năm số lượng các vụ án về HN&GĐ mà Tòa án đã thụ lý giải quyết trên

165.000 vụ việc (số liệu thống kê của TANDTC báo cáo cho thấy năm 2014

Tòa án cả nước thụ lý 165.032 vụ án, năm 2015 thụ lý 181.939 vụ), chủ yếu là

ly hôn và tranh chấp tài sản mà phần thiệt chủ yếu là phụ nữ và trẻ em. Tới

nay Việt Nam đã có những chính sách khá đầy đủ và một hệ thống pháp luật

tương đối hoàn thiện để bảo vệ quyền lợi của phụ nữ và trẻ em trong các vụ

án ly hôn. Điều này được thể hiện ở các quy định pháp luật HN&GĐ, các

công ước quốc tế về bảo vệ quyền của phụ nữ và trẻ em mà Việt Nam đã ký

kết hoặc gia nhập. Tuy nhiên, trên thực tế cho thấy, việc bảo vệ quyền lợi của

người vợ và con trong các vụ án ly hôn liên quan đến vấn đề tài sản còn nhiều

vướng mắc và bất cập. Vì vậy, việc nghiên cứu một số vấn đề lý luận và thực

tiễn áp dụng các quy định của pháp luật nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng

2

của phụ nữ, trong đó bao gồm bảo vệ quyền lợi chính đáng của phụ nữ khi ly

hôn là hết sức quan trọng, có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn.

Xuất phát từ lý do nêu trên, tôi lựa chọn nghiên cứu đề tài: "Quyền của

phụ nữ khi ly hôn theo Pháp luật Việt Nam hiện nay " làm công trình

nghiên cứu cho luận văn thạc sĩ của mình.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn

Đã có một số công trình khoa học nghiên cứu ở nhiều cấp độ khác

nhau đề cập trực tiếp hoặc có liên quan tới vấn đề quyền của phụ nữ khi ly

hôn như sau:

Nhóm luận văn, luận án: Ở nhóm này có thể liệt kê đến một số công

trình nghiên cứu khoa học tiêu biểu như:

- Chế độ tài sản của vợ, chồng theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt

Nam năm 2000, Luận án Tiến sĩ luật học, của Nguyễn Văn Cừ, Trường Đại

học Luật Hà Nội, 2004 [6]. Luận văn đề cập chủ yêu đến chế độ tài sản của

vợ, chồng trong khối tài sản chung hợp nhất cả trong quá trình hôn nhân và

trường hợp chia tài sản vợ chồng khi ly hôn, từ đó đánh giá những thành tựu

và hạn chế trong quá trình áp dụng pháp luật về chế định tài sản chung của vợ

chồng theo luật hôn nhân gia đình năm 2000.

- "Bảo vệ quyền lợi phụ nữ theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam

năm 2000”, Luận văn Thạc sĩ luật học, của Bùi Thị Mừng, Trường Đại học

Luật Hà Nội [23]. Trong luận văn đề cập đến vấn đề bảo vệ những quyền lợi

hợp pháp của phụ nữ theo luật hôn nhân gia đình năm 2000, trong đó có nêu

lên những vấn đề lý luận và thực tiễn về những quyền nhân thân, quyền tài

sản, quyền làm mẹ.. của phụ nữ.

- Giải quyết tranh chấp tài sản của vợ chồng khi ly hôn theo Luật Hôn

nhân và gia đình Việt Nam năm 2000, Luận văn Thạc sĩ luật học của Phạm

Thị Ngọc Lan, Khoa Luật - Đại học Quốc gia, 2008 [11]. Luận văn đã đề cập

3

đến những vấn đề lý luận và thực tiễn về giải quyết tranh chấp tài sản giữa vợ

và chồng khi ly hôn theo pháp luật Việt Nam về hôn nhân gia đình năm 2000.

- Nguyên tắc bảo vệ quyền lợi của cha, mẹ và con trong Luật Hôn nhân

và gia đình Việt Nam năm 2000, Khóa luận tốt nghiệp của Lê Thu Lý, Trường

Đại học Luật Hà Nội, 2008 [19]. Khóa luận tốt nghiệp mới chỉ dừng lại ở mức

khái quát những vấn đề lý luận về các nguyên tắc bảo vệ quyền lợi của cha,

mẹ và con trong Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000.

- Nguyên tắc bảo vệ quyền lợi của phụ nữ và trẻ em khi ly hôn theo

Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000, Khóa luận tốt nghiệp, của

Nguyễn Thị Phương Thảo, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, 2007 [38].

Đã luận bàn về các nguyên tắc bảo vệ quyền lợi của phụ nữ và trẻ em khi ly

hôn.

- Bảo vệ quyền lợi của con khi cha mẹ ly hôn, Khóa luận tốt nghiệp, của

Hồ Thị Nga, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2007 [25]. Khóa luận đề cập đến

quyền lợi của con – người bị động, yếu thế trong quan hệ ly hôn.

- Nguyên tắc bảo vệ quyền lợi chính đáng của vợ và các con khi vợ

chồng ly hôn theo luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000, Luận văn

Thạc sĩ, Khoa Luật, Đại học Quốc Gia Hà Nội của Lê Thu Trang, 2012 [40].

- Giải quyết tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn

(2014), Luận văn thạc sĩ, Khoa Luật, Đại học quốc gia Hà Nội của Đinh Thị

Minh Mẫn [21], cũng đã đề cập được một phần nội dung quyền tài sản của

người vợ khi ly hôn.

- Pháp luật về chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn từ thực tiễn

xét xử của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định Luận văn thạc sĩ, Khoa Luật, Học

viện khoa học xã hội; Nguyễn Thị Hạnh (2012) [9]. Tác giả Đinh Thị Hạnh đã

nêu ra được những vấn đề lý luận về pháp luật về chia tài sản chung của vợ

chồng khi ly hôn cũng như thực tiễn áp dụng pháp luật về chia tài sản chung

của vợ chồng tại tỉnh Bình Định.

4

- Chia tài sản chung của vợ chồng theo pháp luật Việt Nam, thực tiễn

áp dụng và hướng hoàn thiện, Luận văn thạc sĩ, Khoa Luật, Học viện khoa

học xã hội của Nguyễn Thanh Mai (2012) [20], đã nghiên cứu vấn đề chia tài

sản chung của vợ chồng.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật về quyền

của phụ nữ khi ly hôn ở Việt Nam trên cơ sở hệ thống hóa cơ sở lý luận cũng

như phân tích thực trạng pháp luật hiện hành.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Hệ thống hóa sơ sở lý luận về quyền của phụ nữ khi ly hôn thông qua

việc làm sáng tỏ khái niệm, đặc điểm, nội dung cũng như các yếu tố ảnh

hưởng và điều kiện bảo đảm.

- Đánh giá có hệ thống và khái quát về thực trạng pháp luật về quyền

của phụ nữ khi ly hôn ở Việt Nam. Nêu rõ ưu điểm, hạn chế và đưa ra được

nguyên nhân có nhữngưu điểm và hạn chế đó.

- Đề xuất các giải pháp cơ bản nhằm hoàn thiện quy định pháp luật về

quyền của phụ nữ khi ly hôn ở Việt Nam hiện nay.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn

4.1. Đối tượng nghiên cứu:

- Các quan điểm khoa học liên quan đến quyền của phụ nữ khi ly hôn.

- Các chủ trương, nghị quyết của Đảng; chính sách, pháp luật của Nhà

nước về quyền của phụ nữ khi ly hôn.

- Thực tiễn tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật về quyền của phụ

nữ khi ly hôn ở Việt Nam hiện nay.

4.2. Phạm vi nghiên cứu:

- Về nội dung: Các quy định về bảo đảm quyền của phụ nữ trong quan

hệ nhân thân, trong quan hệ tài sản, trong việc thực hiện quyền của cha mẹ

đối với con khi ly hôn ở Việt Nam hiện nay.

5

- Về không gian: Trên lãnh thổ Việt Nam

- Về thời gian: Từ khi có Hiến pháp 2013 đến nay.

5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn

5.1. Phương pháp luận

Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy

vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lenin; Các

nguyên tắc nền tảng của luật nhân quyền quốc tế; Các quan điểm về quyền

bình đẳng giới, về quyền bình đẳng vợ chồng và quyền của phụ nữ khi ly hôn.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

- Phương pháp quy nạp: Dùng để phân tích luận giải các các khái niệm

đặc điểm và quá trình thực hiện quyền của phụ nữ khi ly hôn.

- Phương pháp lịch sử: được sử dụng khi nghiên cứu, tìm hiểu quyền

của người phụ nữ khi ly hôn theo pháp luật Việt Nam qua các thời kỳ.

- Phương pháp phân tích, tổng hợp: được sử dụng khi phân tích các

vấn đề liên quan đến quyền của người phụ nữ khi ly hôn và khái quát những

nội dung cơ bản của từng vấn đề được nghiên cứu trong luận văn.

- Phương pháp so sánh: được thực hiện nhằm tìm hiểu quy định của

pháp luật hiện hành với hệ thống pháp luật trước đây ở Việt Nam cũng như

pháp luật một số nước khác quy định về quyền của người phụ nữ khi ly hôn.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

- Luận văn là công trình nghiên cứu đầu tiên về quyền của phụ nữ khi

ly hôn theo pháp luật Việt Nam hiện nay.

- Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần cung cấp những tri thức

khoa học cơ bản mang tính lý luận được nhìn nhận dưới góc độ quyền con

người về quyền của phụ nữ khi ly hôn; giúp người đọc nhận thức đầy đủ và

toàn diện hơn quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về

quyền và đảm bảo quyền của phụ nữ khi ly hôn.

6

- Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho công tác nghiên

cứu giảng dạy, học tập trong các trường Đại học chuyên ngành luật và không

chuyên ngành luật, hệ thống các trường chính trị của Đảng, cho những người

đang trực tiếp làm công tác giải quyết án HN&GĐ tại TAND nói chung.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung

của luận văn gồm ba chương:

Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp lý về quyền của phụ nữ khi ly

hôn

Chương 2: Thực trạng quyền của phụ nữ khi ly hôn theo pháp luật Việt

Nam hiện nay

Chương 3: Quan điểm và giải pháp hoàn thiện quyền của phụ nữ khi ly

hôn theo ở Việt Nam hiện nay

7

Chƣơng 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ QUYỀN

CỦA PHỤ NỮ KHI LY HÔN

1.1. Ly hôn

1.1.1. Khái niệm

Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, hôn nhân nói chung, ly

hôn nói riêng là hiện tượng xã hội mang tính giai cấp. Pháp luật xã hội chủ

nghĩa (XHCN) thừa nhận quan hệ hôn nhân xây dựng trên cơ sở tình yêu chân

chính, tự do và tự nguyện của đôi nam nữ, điều này được thể hiện trong việc

kết hôn cũng như ly hôn. Có thể nói, quyền tự do ly hôn xuất phát từ bản chất

của chế độ xã hội. Ở chế độ XHCN là chế độ duy nhất xây dựng một nền dân

chủ thực sự mà trong đó quyền lợi của tất cả mọi người thuộc các tầng lớp

khác nhau đều được đảm bảo. Ly hôn chính là sự giải phóng cho vợ chồng khi

bản chất cuộc hôn nhân không tồn tại trên thực tế và Nhà nước cho phép họ ly

hôn. Điều này không những đem lại lợi ích cho cả vợ chồng mà còn bảo vệ

được lợi ích của Nhà nước và xã hội.

Chấm dứt hôn nhân bằng cách ly hôn là một biện pháp được thừa nhận

từ rất sớm trong luật Việt Nam. Tại Bộ Quốc triều hình luật Ðiều 308 có ghi:

Phàm chồng đã bỏ lửng vợ 5 tháng mà không đi lại (vợ được trình với quan

sở tại và xã quan làm chứng), thì mất vợ. Nếu vợ đã có con, thì cho hạn 1

năm. Vì việc quan phải đi xa, thì không theo luật này. Nếu đã bỏ vợ, mà lại

ngăn cản người khác lấy vợ mình, thì phải tội biếm. Thực ra, điều luật được

viết không tốt lắm, nhưng thực tiễn ly hôn vẫn được ghi nhận. Việc ly hôn

cũng được thừa nhận tại Bộ luật Giai Long Ðiều 108 (thuận tình ly hôn).

Trong thời kỳ thuộc địa, chế định ly hôn được xây dựng dựa theo

khuôn mẫu Pháp (Dân Luật giản yếu thiên thứ VI, BLDS (Bộ luật Dân sự)

Bắc Ðiều 116 đến 150; BLDS Trung Ðiều 115 đến 147). Sau Cách mạng

8

Tháng Tám 1945, ly hôn được thừa nhận như là một trong những biện pháp

giải phóng phụ nữ khỏi sự kìm hãm của chế độ hôn nhân và gia đình phong

kiến. Có một thời kỳ ngắn, người làm luật miền Nam cấm ly hôn vì lý do tôn

giáo (Luật gia đình năm 1959 Ðiều 55); nhưng quy định cấm này có tuổi thọ

không dài lắm. Nói chung, chế định ly hôn được liên tục hoàn thiện trong luật

Việt Nam hiện đại. Lúc đầu, chế định ly hôn được phát triển dựa trên tư tưởng

giải phóng phụ nữ nhưng dần dần, việc quan tâm hoàn thiện chế định này

được thôi thúc nhiều hơn bởi yêu cầu bảo đảm sự phát triển lành mạnh của

con trong môi trường gia đình không hạnh phúc và đổ vỡ do những mâu

thuẫn không thể điều hòa giữa cha và mẹ.

Cần lưu ý rằng trong luật cổ, việc chấm dứt quan hệ hôn nhân trong lúc

cả vợ và chồng đều còn sống có thể đạt được không chỉ bằng con đường ly

hôn mà còn bằng cách rẫy vợ. Biện pháp rẫy vợ cho phép người chồng, trong

những trường hợp được luật dự kiến, đuổi người vợ ra khỏi nhà và chấm dứt

quan hệ hôn nhân mà không cần tiến hành các thủ tục tư pháp. Trong thời kỳ

thuộc địa, việc rẫy vợ bị cấm ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ sau khi có các Bộ luật

dân sự Bắc (Ðiều 116) và Trung (Ðiều 115) [5] ; trong khi đó, do Bộ dân luật

giản yếu không có quy định rõ ràng, các Tòa án Nam Kỳ không có thái độ

nhất quán ở điểm này.

Sau Cách mạng Tháng Tám 1945, ly hôn được xem như một trong

những biện pháp giải phóng phụ nữ khỏi sự kềm hãm của chế độ hôn nhân và

gia đình phong kiến. Văn bản đầu tiên có những quy tắc pháp lý mới về ly

hôn là Sắc lệnh số 159-SL ngày 17/11/1950, một văn bản rất ngắn gọn và

không có đầy đủ các quy tắc cần thiết, nhưng thể hiện được chủ trương của

người làm luật xoá bỏ hệ thống pháp lý về ly hôn dựa trên quan niệm bất bình

đẳng giữa nam và nữ (Sắc lệnh thừa nhận khả năng ly hôn do lỗi, do một bên

mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh hiểm nghèo, thậm chí do không hợp tính tình

(Điều 2), cũng như do có sự thuận tình giữa vợ và chồng về việc chấm dứt

9

cuộc sống chung (Điều 3). Nói chung, các trường hợp ly hôn trong Sắc lệnh

được dự kiến trên cơ sở tham khảo ). Đến năm 1959, người làm luật bắt đầu

xây dựng chế độ ly hôn mới dựa trên tư tưởng chủ đạo theo đó, việc ly hôn

được cho phép một khi “tình trạng trầm trọng, cuộc sống chung không thể kéo

dài, mục đích của hôn nhân không đạt được” (Luật hôn nhân và gia đình năm

1959 Điều 26). Trong chế độ ly hôn mới đó, các trường hợp ly hôn được phân

loại tùy theo yêu cầu ly hôn xuất phát từ ý chí của cả vợ và chồng hay của

một trong hai người, chứ không căn cứ vào tính chất, đặc điểm của các sự

kiện được coi là nguyên nhân của sự tan vỡ quan hệ vợ chồng, như trước.

Trong thời kỳ đất nước chia đôi, người làm luật miền Nam có lúc cấm

ly hôn vì lý do tôn giáo (Điều 55 Luật Gia đình năm 1959) nhưng quy định

cấm này có tuổi thọ không dài lắm. Từ năm 1964 cho đến khi hệ thống luật

của chế độ Sài Gòn bị huỷ bỏ, việc ly hôn ở miền Nam được chi phối bởi các

quy tắc được xây dựng từ sự pha trộn giữa luật thời kỳ thuộc địa và luật của

Pháp, nghĩa là vẫn đặc biệt chú trọng việc bảo vệ các quyền lợi của người

chồng.

Sau khi đất nước thống nhất, pháp luật về ly hôn được tiếp tục hoàn

thiện trên cơ sở quan niệm ly hôn được xây dựng trong Luật Hôn nhân và gia

đình năm 1959. Lúc đầu, chế định ly hôn được phát triển dựa trên tư tưởng

giải phóng phụ nữ; dần dần, việc quan tâm hoàn thiện chế định này được thôi

thúc nhiều hơn bởi yêu cầu bảo đảm sự phát triển lành mạnh của con trong

môi trường gia đình không hạnh phúc và đổ vỡ do những mâu thuẫn không

thể điều hoà giữa cha và mẹ. Yêu cầu đó được khẳng định rõ nét trong Luật

hôn nhân và gia đình năm 1986 và được củng cố trong Luật Hôn nhân và gia

đình năm 2000 và hiện tại là Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Nhìn nhận

một cách tổng quát, ly hôn trong luật Việt Nam hiện đại được ghi nhận như

một biện pháp bảo đảm tự do cá nhân (của vợ và của chồng) trong quan hệ gia

đình, đồng thời bảo đảm sự dung hoà giữa các lợi ích trở nên trái ngược do sự

10

quay lưng của vợ chồng đối với nhau, trong đó có cả (và nhất là) lợi ích của

con cái sinh ra từ cuộc hôn nhân giữa các đương sự.

Ly hôn là việc chấm dứt quan hệ hôn nhân ngay trong lúc cả vợ và

chồng đều còn sống. Ðây là biện pháp cuối cùng mà luật cho phép thực hiện

trong trường hợp cuộc sống vợ chồng lâm vào tình trạng khủng hoảng mà

không thể được khắc phục bằng bất kỳ biện pháp nào khác. Nguyên nhân của

sự khủng hoảng khá đa dạng: bất đồng ý kiến kéo dài, đối nghịch về quan

niệm sống, thần tượng sụp đổ, ngoại tình... Nhưng tất cả các trường hợp ly

hôn đều có chung một đặc điểm: vợ hoặc chồng hoặc cả hai không muốn tiếp

tục duy trì quan hệ hôn nhân và muốn được tự do.

Theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, nếu xét thấy tình trạng trầm

trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt

được, thì Tòa án quyết định cho ly hôn. Ly hôn là việc chấm dứt hôn nhân, là

kết quả của hành vi có ý chí của vợ chồng hoặc một bên vợ hoặc một bên

chồng và có giá trị pháp lý khi được Tòa án có thẩm quyền công nhận. Đây

có thể coi là biện pháp cuối cùng để chấm dứt tình trạng hôn nhân không thể

cứu vãn được "Ly hôn là chấm dứt quan hệ hôn nhân do Tòa án công nhận

hoặc quyết định theo yêu cầu của vợ hoặc chồng hoặc cả hai vợ chồng" [35].

1.1.2. Các trường hợp ly hôn và căn cứ ly hôn

1.1.2.1. Các trường hợp ly hôn

Theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự Việt Nam thì có hai thủ tục

giải quyết ly hôn là: Thủ tục giải quyết việc dân sự (yêu cầu công nhận thuận

tình ly hôn) và thủ tục giải quyết vụ án dân sự (ly hôn đơn phương theo yêu

cầu của một bên vợ/chồng). Từ đó, có thể thấy có hai trường hợp ly hôn là ly

hôn thuận tình và ly hôn đơn phương:

- Ly hôn thuận tình: Là trường hợp giải quyết ly hôn theo yêu cầu của

cả hai vợ chồng; trong đó vợ, chồng thỏa thuận được với nhau về việc giải

quyết cả ba vấn đề: Quan hệ hôn nhân, quan hệ tài sản và quan hệ nuôi con.

11

- Ly hôn đơn phương: Là trường hợp giải quyết ly hôn theo yêu cầu của

một bên vợ hoặc chồng.

Vấn đề thời hiệu không áp dụng đối với quan hệ pháp luật HN&GĐ. Vì

vậy, trong mọi khoảng thời gian của thời kỳ hôn nhân (tính từ khi kết hôn cho

đến khi hôn nhân chấm dứt trước pháp luật), vợ, chồng hoặc cả hai vợ chồng

đều có quyền yêu cầu ly hôn (trừ trường hợp chồng không có quyền yêu cầu

ly hôn trong trường hợp vợ đang có thai, sinh con hoặc đang nuôi con dưới 12

tháng tuổi).

1.1.2.2. Căn cứ ly hôn

Căn cứ ly hôn là những tình tiết được quy định trong pháp luật, chỉ khi

có những tình tiết (điều kiện) đó thì Tòa án mới được xử cho ly hôn. Căn cứ

ly hôn là cơ sở pháp lý để Tòa án dựa vào đó giải quyết ly hôn.

hôn.

Theo Điều 55 và Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 có hai

căn cứ để ly hôn:

- Căn cứ ly hôn khi thuận tình ly hôn

12

Thuận tình ly hôn là trường hợp cả vợ hoặc chồng cùng yêu cầu chấm

dứt hôn nhân được thể hiện bằng đơn thuận tình ly hôn của vợ chồng.

Theo Điều 55: “Trong trường hợp vợ chồng cùng yêu cầu ly hôn, nếu

xét thấy hai bên thật sự tự nguyện ly hôn và đã thỏa thuận về việc chia tài

sản, việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con trên cơ sở bảo đảm

quyền lợi chính đáng của vợ và con thì Tòa án công nhận thuận tình ly hôn;

nếu không thỏa thuận được hoặc có thỏa thuận nhưng không bảo đảm quyền

lợi chính đáng của vợ và con thì Tòa án giải quyết việc ly hôn”[35].

Như vậy, sự tự nguyện của hai vợ chồng khi yêu cầu chấm dứt hôn

nhân là một căn cứ quyết định việc chấm dứt hôn nhân. Bảo đảm “thật sự tự

nguyện ly hôn” là cả hai vợ chồng đều được tự do bày tỏ ý chí của mình,

không bị cưỡng ép, không bị lừa dối trong việc thuận tình ly hôn. Việc thể

hiện ý chí thật sự tự nguyện ly hôn của hai vợ chồng đều phải xuất phát từ

trách nhiệm đối với gia đình họ, phù hợp với yêu cầu của pháp luật và chuẩn

mực, đạo đức xã hội. Đồng thời, đòi hỏi hai vợ chồng còn phải có sự thoả

thuận về việc chia tài sản, việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục

con trên cơ sở đảm bảo quyền lợi chính đáng của vợ và con, nếu vợ chồng

không thoả thuận được hoặc tuy có thoả thuận nhưng không bảo đảm quyền

và lợi ích chính đáng của vợ và con thì Toà án quyết định giải quyết việc ly

hôn.

- Căn cứ ly hôn khi ly hôn theo yêu cầu của một bên

Ly hôn theo yêu cầu của một bên là trường hợp chỉ có một trong hai vợ

chồng, hoặc cha, mẹ, người thân thích của một trong hai bên yêu cầu được

chấm dứt quan hệ hôn nhân. Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014

quy định về ly hôn theo yêu cầu của một bên như sau:

“1. Khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không

thành thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có

hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ,

13

chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung

không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được.

2. Trong trường hợp vợ hoặc chồng của người bị Tòa án tuyên bố mất

tích yêu cầu ly hôn thì Tòa án giải quyết cho ly hôn.

3. Trong trường hợp có yêu cầu ly hôn theo quy định tại khoản 2 Điều

51 của Luật này thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc chồng,

vợ có hành vi bạo lực gia đình làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng,

sức khỏe, tinh thần của người kia”[35].

Theo đó, khi ly hôn theo yêu cầu của một bên thì Tòa án cần dựa vào

một trong ba căn cứ sau đây:

Thứ nhất, đối với trường hợp khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa

giải tại Tòa án không thành thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về

việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền,

nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời

sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được.

Thứ hai, đối với trường hợp vợ hoặc chồng của người bị Tòa án tuyên

bố mất tích yêu cầu ly hôn thì Tòa án giải quyết cho ly hôn. Tuyên bố một

người mất tích là một sự kiện pháp lý nhằm xác định một người cụ thể “hoàn

toàn không rõ tung tích, cũng không rõ còn sống hay đã chết” (theo từ điển

tiếng Việt). Theo quy định tại Điều 78 Bộ luật Dân sự năm 2005: “Khi một

người biệt tích 2 năm liền trở lên, mặc dù đã áp dụng đầy đủ các biện pháp

thông báo, tìm kiếm theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự nhưng vẫn

không có tin tức xác thực về việc người đó còn sống hay đã chết thì theo yêu

cầu của người có quyền, lợi ích liên quan, Tòa án có thể tuyên bố người đó

mất tích….”[33]. Khoản 2 Điều 55 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014

cũng quy định về căn cứ cho ly hôn có đề cập tới trường hợp yêu cầu ly hôn

khi một trong hai người mất tích như sau: “Trong trường hợp vợ hoặc chồng

14

của người bị Tòa án tuyên bố mất tích yêu cầu ly hôn thì Tòa án giải quyết

cho ly hôn”[35].

Thứ ba, đối với trường hợp có yêu cầu ly hôn theo quy định tại khoản 2

Điều 51 của Luật HN&GĐ “Cha, mẹ, người thân thích khác có quyền yêu cầu

tòa án giải quyết ly hôn khi một bên vợ, chồng do bị bệnh tâm thần hoặc mắc

bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình, đồng

thời là nạn nhân của bạo lực gia đình do chồng, vợ của họ gây ra làm ảnh

hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của họ”[35] thì Tòa

án giải quyết cho ly hôn. Như vậy, thay vì chỉ vợ, chồng hoặc cả hai người

mới có quyền yêu cầu tòa án giải quyết ly hôn như trước đây thì theo Luật

HN&GĐ năm 2014, cha, mẹ, người thân thích khác cũng có quyền yêu cầu

tòa án giải quyết ly hôn khi một bên vợ, chồng do bị bệnh tâm thần hoặc mắc

bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình, đồng

thời là nạn nhân của bạo lực gia đình do chồng, vợ của họ gây ra làm ảnh

hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của họ.

1.2. Quyền của phụ nữ khi ly hôn

1.2.1. Khái niệm

Quyền con người là những giá trị cao cả cần được tôn trọng và bảo vệ

trong mọi xã hội và mọi giai đoạn lịch sử. Trong xu thế hội nhập quốc tế hiện

nay, việc bảo vệ quyền con người nói chung và quyền của phụ nữ nói riêng

không chỉ là nghĩa vụ của nhà nước đối với người dân mà còn là nghĩa vụ của

một quốc gia trước cộng đồng quốc tế. Luật Hôn nhân và Gia đình Việt Nam

năm 2014 vừa có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2015 có rất nhiều điểm

mới phù hợp với Hiến pháp năm 2013 nhằm bảo đảm thực hiện tốt hơn quyền

con người, bình đẳng giới, bảo vệ phụ nữ. Vì vậy, bài viết đề cập đến một số

vấn đề về bảo vệ quyền của phụ nữ khi ly hôn nhằm nâng cao nhận thức và

hiệu quả thực thi pháp luật bảo vệ quyền của phụ nữ, đặc biệt là khi họ rơi

vào hoàn cảnh hôn nhân tan vỡ.

15

Nếu kết hôn là hiện tượng bình thường nhằm xác lập quan hệ vợ chồng,

thì ly hôn là mặt trái của quan hệ hôn nhân, phản ánh tình trạng hôn nhân đã

thực sự tan vỡ. Vấn đề đặt ra là, cần nhận thức thế nào về sự cần thiết bảo vệ

quyền lợi chính đáng của phụ nữ khi ly hôn và việc bảo đảm thực thi quyền

đó trong thực tế. V.I Lênin đã từng khẳng định rằng nếu không đòi quyền

hoàn toàn tự do ly hôn cho phụ nữ và nếu thiếu quyền tự do ấy là một sự ức

hiếp lớn đối với phụ nữ. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ đánh giá

cao vị trí, vai trò của phụ nữ mà còn rất coi trọng sự nghiệp giải phóng phụ nữ

trong toàn bộ sự nghiệp cách mạng. Theo Người: “trình độ giải phóng phụ nữ

được coi là thước đo của trình độ phát triển xã hội”. Bởi, “Nói phụ nữ là nói

phân nửa xã hội. Nếu không giải phóng phụ nữ thì không giải phóng một nửa

loài người. Nếu không giải phóng phụ nữ là xây dựng chủ nghĩa xã hội một

nửa” [22].

Khi xem xét việc bảo vệ quyền của phụ nữ khi ly hôn thì không thể

tách rời việc nghiên cứu về quyền và bảo vệ quyền con người của phụ

nữ. Theo Mác: "Quyền con người là những đặc quyền chỉ có ở con người mới

có, với tư cách là con người, là thành viên xã hội loài người" [13]. Ở cấp độ

quốc tế, có một định nghĩa của Văn phòng cao ủy Liên hợp quốc thường

xuyên được trích dẫn bởi các nhà nghiên cứu: “Quyền con người là những

bảo đảm pháp lý toàn cầu có tác dụng bảo vệ các cá nhân và các nhóm chống

lại những hành động hoặc sự bỏ mặc mà làm tổn hại đến nhân phẩm, những

sự được phép và tự do cơ bản của con người” [13]. Ở Việt Nam cũng đã có

những định nghĩa về quyền con người do một số cơ quan nghiên cứu và

chuyên gia từng nêu ra. Những định nghĩa này không hoàn toàn giống nhau,

nhưng tựu chung quyền con người thường được hiểu “là những năng lực và

nhu cầu vốn có và chỉ có ở con người, với tư cách là thành viên cộng đồng

nhân loại, được thể chế hóa bằng pháp luật quốc gia và các thỏa thuận pháp

lý quốc tế" [13]. Và tại Hội nghị thế giới về Quyền con người lần thứ hai tổ

16

chức tại Viên (1993) đã khẳng định: “quyền con người của phụ nữ và trẻ em

gái là một bộ phận cấu thành, gắn liền và không thể tách rời của các quyền

con người phổ biến” [13]. Như vậy, cho dù quyền con người có là bẩm sinh,

vốn có hay phải do nhà nước quy định thì để thực hiện các quyền con người

phải cần có pháp luật. Pháp luật là phương thức không thể thiếu và là công cụ

hiệu quả nhất của nhà nước nhằm bảo vệ quyền con người. Theo đó, “bảo vệ

quyền con người nói chung, bảo vệ quyền phụ nữ bằng pháp luật nói riêng

trước hết phải được hiểu là sự ghi nhận các quyền con người bằng pháp luật

và phải bảo đảm cho quyền đó được thực hiện. Mặt khác, do phụ nữ là một

nhóm xã hội đặc biệt, bởi vậy, quyền phụ nữ phải được xem xét và ghi nhận

dựa trên cơ sở của những yếu tố đặc thù về giới, nghĩa là pháp luật phải ghi

nhận quyền phụ nữ dựa trên cơ sở của vấn đề bình đẳng giới” [16].

Bảo vệ quyền của phụ nữ được ràng buộc chặt chẽ bởi các công ước

quốc tế về quyền con người mà Việt Nam là thành viên, như: Hiến chương

Liên Hợp Quốc (1945), Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người (1948,

UDHR), Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ

(1979, CEDAW),... Theo đó, việc bảo vệ quyền của phụ nữ trong lĩnh vực

hôn nhân và gia đình, kể cả khi ly hôn được nhấn mạnh và quy định rất cụ thể

tại Điều 16 Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ:

“1. Các quốc gia thành viên phải áp dụng tất cả các biện pháp thích

hợp để xoá bỏ sự phân biệt đối xử chống lại phụ nữ trong tất cả các vấn đề

liên quan đến hôn nhân và quan hệ gia đình, cụ thể phải bảo đảm những

quyền dưới đây, trên cơ sở bình đẳng nam nữ:

a) Quyền kết hôn như nhau;

b) Quyền như nhau trong việc tự do lựa chọn người để kết hôn và chỉ

kết hôn khi mình được tự do quyết định và hoàn toàn tự nguyện;

c) Quyền và trách nhiệm như nhau giữa vợ chồng trong thời gian hôn

nhân cũng như khi hôn nhân bị hủy bỏ;

17

d) Quyền và trách nhiệm như nhau trong vai trò làm cha mẹ, bất kể

tình trạng hôn nhân như thế nào, về các vấn đề liên quan đến con cái họ.

Trong tất cả các trường hợp, lợi ích của con cái phải được coi là điều quan

trọng nhất;..“[16]

Dưới góc độ quyền phụ nữ cũng chính là quyền con người, Nhà nước

cần phải thừa nhận, tôn trọng và cam kết bảo đảm, bảo vệ quyền đó đúng như

những điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Vì thế, hoạt động bảo vệ

quyền con người của phụ nữ phụ thuộc vào năng lực của các hệ thống cơ

quan nhà nước mà trước hết là hệ thống Tòa án. Điều 102 Hiến pháp năm

2013 quy định: “Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa

XHCN Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp…có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo

vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ lợi ích của

Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân” [34].

Ở Việt Nam, quyền của phụ nữ thực sự được đề cập đến từ khi nhân

dân ta giành được độc lập từ tay thực dân phong kiến. Sau khi giành được

chính quyền và "Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa được thành lập đã đánh

dấu một bước chuyển biến cơ bản trong đời sống của người phụ nữ. Từ nay

chị em thực sự trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ vận mệnh mình

cùng nam giới chung lo bảo vệ và xây dựng Tổ quốc" [26]. Theo đó, những

văn bản pháp luật đầu tiên về quyền công dân, trong đó có quyền của phụ nữ

được ban hành. Tuy nhiên, trong từng điều kiện, hoàn cảnh của đất nước, nên

ở mỗi thời kỳ, các quyền công dân nói chung và quyền của phụ nữ nói riêng

được thể hiện và phát triển vừa có tính kế thừa vừa có sự đổi mới. Hiện nay,

những quyền cơ bản của phụ nữ được ghi nhận trong Hiến pháp và cụ thể hóa

trong các văn bản pháp luật.

Quyền của phụ nữ khi ly hôn là tập hợp các quyền của con người mà

người phụ nữ được hưởng, được tôn trọng, được bảo vệ và bảo đảm thực hiện

bằng hệ thống các quy định của pháp luật khi ly hôn. Bao gồm:quyền yêu cầu

18

ly hôn, quyền nhân thân,quyền giải quyết tài sản khi ly hôn, quyền lưu cư khi

ly hôn, quyền được cấp dưỡng, quyền đảm bảo thiên chức làm mẹ.

1.2.2. Đặc điểm quyền của phụ nữ khi ly hôn

Quyền phụ nữ khi ly hôn có những đặc trưng rõ ràng để nhận biết và

phân biệt với các quyền khác. Các nhà làm luật, các nhà hoạch định chính

sách đều thống nhất với nhau về một số đặc điểm cơ bản, cụ thể là:

Tính phổ biến: Quyền phụ nữ khi ly hôn bảo đảm cho phụ nữ khi ly

hôn các quyền bình đẳng và giá trị mà họ được thụ hưởng ở bất cứ đâu và bất

kỳ lúc nào từ khi ly hôn.

Tính không thể chuyển nhượng: Quyền phụ nữ khi ly hôn là những

quyền không thể mang ra mua bán, chuyển nhượng, trao đổi, tức là không thể

được ban phát, rút lại hay bị tước đoạt. Quyền phụ nữ khi ly hôn là sở hữu

vốn có của mỗi phụ nữ bất kể địa vị của họ, đóng góp cua họ như thế nào

trong thời kỳ hôn nhân.

Tính không thể chia cắt: Tính tương tác và phụ thuộc lẫn nhau. Các

quyền của phụ nữ khi ly hôn có quan hệ tương tác, phụ thuộc lẫn nhau tạo

thành một chỉnh thể không thể tách rời. Với đặc trưng này, quyền của phụ nữ

khi ly hôn mới có thể bảo đảm cho mỗi người phụ nữ tự do, bình đẳng và có

một điều kiện sống tốt đẹp với chân giá trị của mình, nhưng điều cần nhấn

mạnh là quyền phụ nữ khi ly hôn có tính phổ biến đối với phụ nữ.

1.2.3. Vai trò của quyền của phụ nữ khi ly hôn

Quyền của phụ nữ khi ly hôn có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc

bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự cũng như trong việc nâng cao

trách nhiệm bảo đảm sự bình đẳng của các cơ quan tiến hành tố tụng. Vai trò

của quyền của phụ nữ khi ly hôn được thể hiện trên những phương diện cơ bản

sau đây:

Thứ nhất, việc ghi nhận và bảo đảm thực hiện quyền của phụ nữ khi ly

hôn là cơ sở pháp lý bảo đảm cho các chủ thể tham gia tố tụng có những cơ

19

hội, điều kiện ngang nhau khi tham gia tố tụng. Bảo đảm thực hiện quyền của

phụ nữ khi ly hôn giúp đương sự có thể bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp

của mình tốt hơn trước Toà án khi quyền lợi bị xâm phạm hoặc có tranh chấp.

Việc ghi nhận quyền này nhằm đảm bảo để vợ chồng khi tham gia các vụ việc

HN&GĐ đều được pháp luật xác định có các quyền và nghĩa vụ tố tụng giống

nhau; những quyền và nghĩa vụ này được thực hiện giống nhau trong những

điều kiện giống nhau, không có sự phân biệt đối xử về dân tộc, thành phần xã

hội hoặc giới tính...

Thứ hai, việc ghi nhận và bảo đảm quyền của phụ nữ khi ly hôn là căn

cứ để Toà án có thể giải quyết các vụ việc HN&GĐ một cách công bằng,

nhanh chóng, hiệu quả và đúng đắn. Sự ghi nhận và bảo đảm đó sẽ giúp hạn

chế và phòng ngừa những hành vi vi phạm của cơ quan, tổ chức và cá nhân

trong quá trình tố tụng, bảo đảm sự công bằng cho các chủ thể tham gia.

Chính vì vậy, quyền của phụ nữ khi ly hôn là một trong những yêu cầu để

bảo đảm rằng việc giải quyết các vụ việc HN&GĐ được minh bạch và hiệu

quả.

Thứ ba, quyền của phụ nữ khi ly hôn góp phần ngăn chặn và xử lý kịp

thời những hành vi vi phạm của các chủ thể tham gia tố tụng trong khi họ

thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình. Áp dụng hiệu quả quyền của phụ nữ

khi ly hôn là cơ sở pháp lý quan trọng để xử lý những hành vi vi phạm, hành

vi cản trở hoặc can thiệp trái pháp luật vào quá trình tố tụng của các chủ thể

tham gia tố tụng. Thực hiện tốt vấn đề này sẽ góp phần bảo đảm cho mỗi chủ

thể, khi tham gia tố tụng, có thể thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ

nhằm bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của họ trước Toà án.

Ngoài ra, việc quy định và thực hiện quyền của phụ nữ khi ly hôn còn

có ý nghĩa hết sức to lớn trong việc nâng cao hiệu quả giải quyết các tranh

chấp về HN&GĐ, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân; góp phần

20

vào công cuộc cải cách tư pháp và xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt

Nam XHCN.

1.2.4. Ý nghĩa của quyền của phụ nữ khi ly hôn

- Ý nghĩa về mặt pháp lý:

Quyền của phụ nữ khi ly hôn là cơ sở để cơ quan nhà nước có thẩm

quyền giải quyết các vấn đề liên quan đến quan hệ vợ chồng như: giải quyết

tranh chấp tài sản, giải quyết tranh chấp về nhân thân, con cái… Một trong

những nguyên tắc hoạt động của Tòa án nhân dân là độc lập xét xử và chỉ

tuân theo pháp luật, nên khi giải quyết các án kiện về HN&GĐ thì Tòa án

phải xét xử trên quy định của Luật HNN&GĐ năm 2014 dựa trên những

nguyên tắc vợ chồng bình đẳng đã quy định ra nguyên tắc bình đẳng vợ trong

trong giải quyết vụ việc HN&GĐ. Hơn nữa đây còn là cơ sở để các cơ quan

Nhà nước có thẩm quyền ban hành các văn bản hướng dẫn cụ thể giúp cho

việc giải quyết tranh chấp về HN&GĐ được khách quan, thống nhất, đúng

pháp luật, đảm bảo quyền lợi cho các bên, đặc biệt là phụ nữ.

Quyền của phụ nữ khi ly hôn là cơ sở pháp lý thực hiện quyền và nghĩa

vụ của vợ chồng trong quá trình giải quyết các vụ việc HN&GĐ cũng như hậu

ly hôn. Họ được hưởng những quyền ngang nhau, thực hiện nghĩa vụ như

nhau. Đó là các quyền mà họ được Nhà nước trao cho và đảm bảo thực hiện.

Quyền của phụ nữ khi ly hôn là cơ sở để ban hành các văn bản pháp

luật liên quan đến quyền lợi người phụ nữa nhằm đảm bao tính khả thi các

quyền của phụ nữa được thực hiện trên thực tế đời sống, làm ổn định quan hệ

xã hội, tiến tới mục tiêu bình đẳng giới trên toàn thế giới.

- Ý nghĩa về xã hội:

Từ thực tế cuộc sống cho thấy, do bị ảnh hưởng bởi tư tưởng lạc hậu,

phong kiến nên vẫn tồn tại trong xã hội sự bất bình đẳng giữa nam và nữ, giữa

vợ và chồng. Sự bất bình đẳng ấy đã đẩy người phụ nữa vào tình trạng lệ

thuộc, không có sự đảm bảo về quyền lợi chính đáng của mình. Quyền của

21

phụ nữ khi ly hôn được khẳng định và thế hiện là một nhu cầu cấp thiết, góp

phần bảo vệ quyền lợi của phụ nữ, đẩy lùi tư tưởng lạc hậu phong kiến, xây

dựng chế độ xã hội chủ nghĩa thực sự dân chủ và bình đẳng ở nước ta.

Đặc biệt trong điều kiện kinh tế, xã hội đang phát triển theo hướng thị

trường hóa hiện nay, sự đa dạng hóa các mối quan hệ đã ảnh hưởng không

nhỏ tới vấn đề HN&GĐ của vợ chồng. Quyền của phụ nữ khi ly hôn là một

trong những cơ sở góp phần triển khai chương trình bình đẳng về giới, tránh

bạo lực trong gia đình như: Hội Liên Hiệp Phụ Nữ Viên Nam đã phát động

phong trào “Vì sự nghiệp giải phóng phụ nữ”; “Vì sự tiến bộ của phụ nữ”.

Tất cả những ỹ nghĩa xã hội trên đều hướng tới sự bình đẳng vợ chồng, sự

bình đẳng trong xã hội - cái mà xã hội ta đang vươn tới.

1.2.5. Điều chỉnh pháp luật về quyền của phụ nữ khi ly hôn

1.2.5.1. Quyền nhân thân

Quyền nhân thân (personality rights) là thuật ngữ pháp lý để chỉ những

quyền gắn liền với bản thân mỗi con người, gắn liền với đời sống riêng tư của

mỗi cá nhân. Từ xưa đến nay, nói đến quyền nhân thân người ta thường liên

tưởng đến ngay những quyền có liên quan mật thiết đến danh dự, nhân phẩm,

uy tín của cá nhân. Một xã hội càng tiến bộ bao nhiêu, nền tự do dân chủ càng

được mở rộng bao nhiêu thì con người càng được tôn trọng bấy nhiêu. Do đó,

các quyền nhân thân cũng được pháp luật quy định đầy đủ, rõ ràng hơn.

Quyền nhân thân là quyền dân sự gắn liền với mỗi cá nhân, không thể

chuyển giao cho người khác, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

Quyền nhân thân là một quyền dân sự và là quyền dân sự đặc biệt. Mọi cá

nhân đều có sự bình đẳng về quyền nhân thân, có tính chất phi tài sản, luôn

gắn liền với cá nhân, không thể chuyển giao cho chủ thể khác, quyền nhân

thân là một quyền dân sự do luật định.

22

1.2.5.2. Quyền tài sản

Tài sản của vợ chồng gồm tài sản chung của vợ chồng và tài sản riêng

của vợ chồng. Trong giới hạn phạm vi nghiên cứu của đề tài, tác giả chỉ đề

cập vấn đề tài sản chung của vợ chồng.

Theo Điều 33 Luật HN&GĐ năm 2014: “1. Tài sản chung của vợ

chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản

xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp

pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại khoản 1

Điều 40 của Luật này; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được

tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung”

[35].

Thông thường chúng ta không thể xác định được phần tài sản nào là

của vợ, phần tài sản nào là của chồng trong khối tài sản chung hợp nhất, chỉ

khi nào có sự phân chia tài sản chung của vợ chồng thì mới xác định được

phần tài sản của từng người trong khối tài sản chung đó. Mặc dù sự đóng góp

vào khối tài sản chung của vợ chồng có thể không có bằng chứng, nhưng đối

với sở hữu chung hợp nhất vợ chồng có quyền ngang nhau trong việc chiếm

hữu, sử dụng, định đoạt khối tài sản chung này, khi thực hiện những giao dịch

liên quan đến tài sản chung có giá trị lớn hoặc là nguồn sống duy nhất của gia

đình, việc dùng tài sản chung để đầu tư kinh doanh phải có sự thỏa thuận của

hai vợ chồng.

Khi đời sống hôn nhân chấm dứt, vấn đề tài sản luôn được các cặp vợ

chồng quan tâm hàng đầu. Cụ thể như việc xác định nguồn gốc hình thành tài

sản, việc phân định đâu là tài sản chung, đâu là tài sản riêng để thỏa thuận

hoặc yêu cầu Tòa án phân chia.

Như vậy, chia tài sản vợ chồng thì tùy từng trường hợp cụ thể Tòa án

giải quyết khác nhau cho phù hợp với hoàn cảnh thực tế đảm bảo quyền lợi

của các bên, đặc biệt là quyền về tài sản của người vợ khi ly hôn. Mỗi một

23

trường hợp chia tài sản đều mang một ý nghĩa, chia tài sản khi vợ chồng ly

hôn nhằm tạo điều kiện cho các bên tạo lập cuộc sống mới sau khi ly hôn,

đảm bảo công bằng giữa vợ và chồng trong việc tạo lập, duy trì và phát triển

tài sản.

1.2.5.3. Quyền đảm bảo thiên chức làm mẹ

Hiện nay,

cho phụ nữ “Quyền được bảo

vệ chức năng sinh đẻ” (Điểm f khoản 1 Điều 11). Những quy định mang tính

quốc tế đó đã đề ra cho pháp luật các quốc gia một đòi hỏi về sự bảo hộ đặc

biệt đối với thiên chức làm mẹ của phụ nữ. Trong các văn bản pháp luật của

Việt Nam hay ngay trong BLLĐ thì khái niệm này cũng không được nhắc tới.

Mặc dù xét về hình thức diễn đạt có thể không giống nhau nhưng nội hàm của

khái niệm được nhìn nhận khá thống nhất. Cụ thể: Quyền làm mẹ của phụ nữ

được hiểu là quyền sinh con, chăm sóc con cái và quyền được nhận nuôi con

nuôi không phụ thuộc vào tình trạng hôn nhân của họ [5, tr.48]. Như vậy,

quyền làm mẹ là thuật ngữ dùng để chỉ quyền của người phụ nữ có khả năng

được thực hiện, thừa nhận việc có con. Quyền làm mẹ bao gồm hai nhóm nội

dung đó là quyền sinh con, chăm sóc con và quyền của phụ nữ trong việc cho

và nhận con nuôi.

Quyền theo nghĩa rộng bao gồm tổng thể chính sách, pháp luật cùng

các điều kiện khác như kinh tế, chính trị, văn hóa và cơ chế bảo đảm thực thi

quyền trên thực tế. Còn theo nghĩa hẹp, quyền làm mẹ chỉ bao gồm thể chế

(chính sách, pháp luật) và thiết chế tương ứng để bảo đảm thực thi quyền trên

thực tế. Như vậy, với sự phân tích khái niệm quyền làm mẹ ở trên, có thể hiểu

một cách đầy đủ và khái quát nhất khái niệm bảo đảm quyền làm mẹ của

LĐN, đó là tổng thể các chính sách, pháp luật cùng các điều kiện kinh tế,

24

chính trị, văn hóa liên quan đến khả năng của người phụ nữ trong việc thực

hiện hoặc thừa nhận việc có con đẻ hoặc con nuôi mà không phụ thuộc vào

tình trạng hôn nhân cùng các cơ chế bảo đảm thực thi trên thực tế. Với đối

tượng phụ nữ là LĐN thì nội dung bảo đảm quyền làm mẹ bao gồm quyền

được làm việc, bảo đảm sức khỏe sinh sản, bảo đảm quyền được mang thai và

sinh con, bảo đảm khả năng chăm sóc và nuôi dạy con của LĐN trong quá

trình làm việc… Nội dung này được điều chỉnh và bảo vệ chủ yếu bởi các quy

định của pháp luật lao động và pháp luật bảo hiểm xã hội. Theo đó, pháp luật

bảo hiểm xã hội bảo đảm quyền làm mẹ củ ế an sinh xã hội,

1.2.5.4.Quyền cấp dưỡng

Căn cứ quy định tại Điều 115 Luật hôn nhân và gia đình 2014: “Khi ly

hôn nếu bên khó khăn, túng thiếu có yêu cầu cấp dưỡng mà có lý do chính

đáng thì bên kia có nghĩa vụ cấp dưỡng theo khả năng của mình” [35].

Khi ly hôn nếu bên khó khăn, túng thiếu có yêu cầu cấp dưỡng mà có lý

do chính đáng thì bên kia có nghĩa vụ cấp dưỡng theo khả năng của mình. Có

sự túng thiếu của một bên và sự tồn tại khả năng hỗ trợ của bên kia. Nếu cả

hai người đều túng thiếu, thì mỗi người phải tự xoay sở, không ai có trách

nhiệm cấp dưỡng cho ai.

Ðể nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ chồng sau khi ly hôn được xác lập, cần

có một bên sống trong cảnh túng thiếu và bên kia có đủ điều kiện để hỗ trợ.

Sự túng thiếu của một bên, trong suy nghĩ của người làm luật, có nguồn gốc

từ tình trạng không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.

Thế nào là không có khả năng lao động tùy thuộc vào sự đánh giá của thẩm

phán. Người thất nghiệp chưa chắc là không có khả năng lao động; người

khuyết tạt cũng có thể có khả năng lao động. Bên vợ- chồng rơi vào hoàn

cảnh khó khăn, túng thiếu phải chứng minh sự khó khăn, túng thiếu của mình.

Nói chung, được coi là có lý do chính đáng khi lâm vào tình trạng khó khăn

25

túng thiếu là do những điều kiện ngoại cảnh mang lại, ví dụ như ốm đau, bệnh

tật hay gặp tai ương bất ngờ

1.2.5.5. Quyền lưu cư

Căn cứ Điều 63 Luật hôn nhân và gia đình 2014: “Nhà ở thuộc sở hữu

riêng của vợ, chồng đã đưa vào sử dụng chung thì khi ly hôn vẫn thuộc sở

hữu riêng của người đó; trường hợp vợ hoặc chồng có khó khăn về chỗ ở thì

được quyền lưu cư trong thời hạn 06 tháng kể từ ngày quan hệ hôn nhân chấm

dứt, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác”.

1.3. Các yếu tố ảnh hƣởng và các điều kiện bảo đảm quyền của phụ

nữ khi ly hôn

1.3.1. Các yếu tố ảnh hưởng đến quyền của phụ nữ khi ly hôn

1.3.1.1. Phong tuc, tập quán

Dưới chế độ phong kiến người phụ nữ phải nhất nhất theo thuyết “tam

tòng tứ đức” và đề cao tột đỉnh giá trị của người con trai, hạ thấp đến mức phủ

nhận hoàn toàn giá trị của người con gái “nhất nam viết hữu, thập nữ nhất vô”

(Một con trai cũng được coi là có, còn mười con gái cũng bị coi là không).

Chủ yếu lấy quan điểm Nho giáo làm nền tảng tư tưởng, Nhà nước phong

kiến Việt Nam với những lễ giáo phong kiến như xiềng xích trói buộc người

phụ nữ, Nhà nước phong kiến đã phân ra hai hạng người là quân tử và tiểu

nhân, trong đó phụ nữ bị coi khinh như tiểu nhân. Nguồn gốc của quan điểm

“nam tôn nữ ti” này xuất phát từ quan điểm của Khổng Tử. Khổng Tử cho

rằng “Duy nữ tử dữ tiểu nhân nam dưỡng dã. Cận chi tắc bất tôn, viễn chi tắc

oán” (nghĩa là chỉ có đàn bà và tiểu nhân là khó nuôi dạy. Gần thì sinh nhờn

mà xa thì oán). Những phong tục, tập quán của con người trong xã hội tự đặt

ra được hình thành trong quá trình lịch sử và ổn định thành nền nếp, phục vụ

cộng đồng và được cộng đồng thừa nhận và tự giác thực hiện, được lưu truyền

từ thế hệ này sang thế hệ khác, tạo nên tính tương đối thống nhất của cộng

đồng.

26

Thông thường phong tục tập quán về HN&GĐ được áp dụng ở những

vùng sâu, vùng xa, vùng có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn, vùng

đồng bào dân tộc thiểu số, ở đó, Luật HN&GĐ năm 2014 chưa thể thực hiện

được một cách đầy đủ, nên cần phải sử dụng phong tục tập quán chính vì vậy

chế định áp dụng phong tục tập quán vẫn được ghi nhận ở các Luật HN&GĐ.

1.3.1.2. Hoàn cảnh của gia đình và của vợ, chồng

Hoàn cảnh của gia đình và của vợ, chồng là yếu tố quan trọng ảnh

hưởng đến việc giải quyết tranh chấp tài sản chung của vợ, chồng khi ly hôn.

Người vợ hoặc chồng có những khó khăn nhất định trong cuộc sống như: chi

trả nhiều cho bệnh tật, nuôi mẹ già… sẽ được xem xét như một tình tiết ưu

tiên khi phân chia tài sản chung của vợ, chồng khi ly hôn. Đây là điểm thể

hiện tính nhân đạo của luật pháp cũng như tình nghĩa giữa những người từng

là vợ chồng của nhau. Cụ thể, bên gặp khó khăn hơn sau khi ly hôn được chia

phần tài sản nhiều hơn so với bên kia hoặc được ưu tiên nhận lại tài sản để

đảm bảo duy trì, ổn định cuộc sống của họ nhưng phải phù hợp với hoàn cảnh

thực tế của gia đình và của vợ, chồng. Bên cạnh đó, hoàn cảnh gia đình của

vợ chồng trước khi ly hôn cũng quyết định đến khối lượng tài sản chung khi

tranh chấp. Thông thường, các trường hợp hoàn cảnh gia đình trước ly hôn

khó khăn, tài sản chung không lớn sẽ khiến cho việc giải quyết tranh chấp

được diễn ra đơn giản. Ngược lại, những gia đình có khối lượng tài sản chung

lớn, tính chất phức tạp trong việc phân định cao và thái độ của vợ và chồng

khi tranh chấp cũng mang tính quyết liệt hơn dẫn đến việc giải quyết tranh

chấp rất khó khăn.

1.3.1.3. Lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng

Vợ và chồng là quan hệ vừa mang tính pháp lý vừa mang tính xã hội.

Mỗi bên tham gia quan hệ này đều có những quyền và nghĩa vụ nhất định.

Trường hợp các bên không tuân thủ các nghĩa vụ của mình nghĩa là vi phạm

nguyên tắc làm vợ hoặc chồng đã được pháp luật và xã hội thừa nhận. Đặc

27

biệt, hậu quả ly hôn bắt nguồn từ lỗi của chồng hoặc vợ sẽ là yếu tố ảnh

hưởng đến việc giải quyết tranh chấp tài sản khi ly hôn theo hướng bất lợi cho

người có lỗi.

Luật HN & GĐ năm 2014 cũng đã ghi nhận một nguyên tắc rất quan

trọng trong việc phân chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn là tính đến việc xét

lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ vợ chồng. Điều 51 Luật HN

&GĐ năm 2014 cho phép cả vợ, chồng đều có quyền yêu cầu giải quyết ly

hôn.

Theo đó mỗi bên đều có quyền đơn phương nộp đơn ra tòa án để yêu

câu giải quyết ly hôn. Đối với trường hợp ly hôn theo yêu cầu của một bên,

Điều 56 Luật HN & GĐ năm 2014 quy định để được tòa án thụ lý đơn ly hôn

đơn phương thì cần phải có căn cứ ly hôn, bao gồm: Vợ, chồng có hành vi

bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng

làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể

kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được.

Tình trạng hôn nhân trầm trọng ở đây được hiểu là: Vợ chồng không

chung thủy với nhau như có quan hệ ngoại tình, đã được người vợ hoặc người

chồng hoặc bà con thân thích của họ hoặc cơ quan, tổ chức, nhắc nhở, khuyên

bảo nhưng vẫn tiếp tục có quan hệ ngoại tình. Trường hợp nếu chồng hoặc vợ

có hành vi ngoại tình, đã bị phát hiện hay bà con thân thích hoặc cơ quan, tổ

chức nhắc nhở, khuyên bảo, khuyên giải nhưng vẫn tiếp tục có quan hệ ngoại

tình thì được xem là tình trạng hôn nhân trầm trọng, theo Điều 56 Luật HN &

GĐ năm 2014, tòa án có căn cứ để xét đơn đơn phương ly hôn, trừ trường hợp

tại khoản 3 Điều 51 Luật HN & GĐ năm 2014 “Chồng không có quyền yêu

cầu ly hôn trong trường hợp vợ đang có thai, sinh con hoặc đang nuôi con

dưới 12 tháng tuổi”[35].

Theo quy định của Thông tư liên tịch 01/2016/TTLT –TANDTCVKS

28

NDTC- BTP ngày 06/01/2016 thì “Lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền,

nghĩa vụ vợ chồng” ở đây được hiểu là lỗi của vợ hoặc chồng vi phạm quyền,

nghĩa vụ về nhân thân, tài sản của vợ chồng dẫn đến ly hôn. Ví dụ, trường

hợp người chồng ngoại tình hoặc phá tán tài sản thì khi giải quyết ly hôn Tòa

án phải xem xét yếu tố lỗi của người chồng khi chia tài sản chung của vợ

chồng để đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của vợ và con chưa thành niên.

Như vậy, việc ly hôn do lỗi ngoại tình của vợ hoặc chồng thì vợ hoặc chồng

sẽ có những bất lợi trong tranh chấp tài sản khi ly hôn.

1.3.2. Các điều kiện đảm bảo quyền của phụ nữ khi ly hôn

1.3.2.1. Sự phát triển kinh tế - xã hội

Các Mác cho rằng, quyền con người phụ thuộc vào trình độ phát triển

kinh tế và phát triển văn hóa, do chế độ kinh tế quy định. Là một phạm trù

pháp lý thuộc kiến trúc thượng tầng xã hội, việc bảo đảm quyền của phụ nữ

khi ly hôn có mối liên hệ chặt chẽ với kinh tế. Trong mối liên hệ giữa kinh tế

và pháp luật thì kinh tế giữ vai trò quyết định đối với pháp luật. Vì vậy, điều

kiện kinh tế - xã hội chi phối đến việc bảo đảm quyền của phụ nữ khi ly hôn.

Kinh tế - xã hội phát triển sẽ tạo thuận lợi cho việc thực hiện đầy đủ các

quyền của phụ nữ khi ly hôn trong giải quyết các vụ việc HN&GĐ. Trên cơ

sở sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, hệ thống pháp luật sẽ được

hoàn thiện, ý thức pháp luật của mọi người được nâng cao, các hoạt động trợ

giúp pháp lý được đẩy mạnh, Tòa án sẽ có đủ phương tiện cần thiết để giải

quyết các vụ việc HN&GĐ. Bên cạnh đó, phụ nữ cũng sẽ có thêm các điều

kiện thuận lợi về vật chất để tham gia tố tụng hoặc nhờ người khác tham gia

TTDS bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

Bảo đảm quyền của phụ nữ khi ly hôn là vấn đề pháp lý mang tính

dân chủ sâu sắc nên điều đó chỉ thực sự tồn tại và phát triển trong một xã hội

dân chủ - xã hội công dân. Một trong nhiều mục tiêu quan trọng của nhà

nước dân chủ, đó là việc bảo đảm quyền con người, trong đó có quyền bình

29

đẳng. Ở xã hội dân chủ - xã hội công dân, sự bình đẳng được thừa nhận rộng

rãi, các quan hệ dân sự được phát triển rộng rãi trên cơ sở tự nguyện, bình

đẳng và cùng có lợi. Trong bối cảnh đó, Nhà nước luôn quan tâm và tạo mọi

điều kiện để bảo đảm quyền và các lợi ích chính đáng của phụ nữ khi ly hôn.

1.3.2.2. Quy định của pháp luật về quyền của phụ nữ khi ly hôn

Pháp luật là công cụ điều chỉnh các quan hệ xã hội; mọi hoạt động của

các chủ thể trong xã hội đều phải thực hiện theo quy định của pháp luật. Để

đảm bảo cho các quan hệ xã hội hình thành và phát triển theo một trật tự

nhất định, pháp luật phải quy định cụ thể về quyền, nghĩa vụ của các chủ thể,

đặc biệt là về sự bình đẳng của các chủ thể trước pháp luật.

Việc bảo đảm quyền của phụ nữ khi ly hôn phụ thuộc phần lớn vào

các quy định của pháp luật Tố tụng Dân sự, nhất là các quy định về quyền,

nghĩa vụ của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, người

tham gia Tố tụng Dân sự; trình tự khởi kiện, yêu cầu Tòa án giải quyết vụ

việc HN&GĐ và trình tự, thủ tục Tòa án giải quyết vụ việc HN&GĐ. Pháp

luật về Tố tụng Dân sự cũng chính là cơ sở pháp lý cho Tòa án tiến hành các

hoạt động thụ lý, giải quyết vụ việc HN&GĐ để bảo vệ tốt nhất quyền và lợi

ích hợp pháp của phụ nữ khi ly hôn.

Bên cạnh đó, để bảo đảm quyền của phụ nữ khi ly hôn thì pháp luật

cần thiết phải quy định cụ thể về trình tự, thủ tục giải quyết các vụ việc

HN&GĐ, từ việc khởi kiện, yêu cầu Tòa án giải quyết vụ việc đến việc thụ

lý, lập hồ sơ, hòa giải và giải quyết theo thẩm quyền đối với vụ việc

HN&GĐ. Trong quá trình đó, ngoài việc quy định cụ thể những vấn đề liên

quan đến quyền hạn, nhiệm vụ và trách nhiệm của những người tiến hành

Tố tụng Dân sự, thì quyền và nghĩa vụ Tố tụng Dân sự của chính các

đương sự, của người đại diện hợp pháp của đương sự, của người bảo vệ

quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự cũng cần được quy định hết sức đầy

30

đủ, cụ thể và khoa học để tạo cơ sở pháp lý vững chắc và thuận lợi trong

quá trình giải

1.3.2.3. Nhận thức của xã hội và phụ nữ

Trước tiên, bản thân những người phụ nữ cần nâng cao ý thức, hiểu biết

về quyền của mình khi ly hôn. Đồng thời chủ động và quyết liệt hơn trong

bảo vệ quyền của mình.

Có thể thấy, ý thức tự bảo vệ là điều rất cần thiết, đòi hỏi những người

phụ nữ cần nắm rõ quy định của pháp luật hôn về HN&GĐ, về quyền nhân

thân, quyền tài sản, quyền thực hiện thiên chức làm mẹ, quyền lưu trú (nếu

cần)…; cần lưu chứng những bằng chứng, chứng cứ ngay sau khi có tranh

chấp, mâu thuẫn để bảo đảm không phát sinh tranh chấp không đáng có trong

tương lai.

Phụ nữ cũng phải tự nâng cao ý thức trong việc bảo vệ quyền lợi cho

chính bản thân mình. Bởi lẽ từ trước tới nay, phần lớn phụ nữ vẫn chưa có

thói quen lưu lại những chứng từ, chứng cứ ứng minh nguồn

gốc tài sản, mâu thuẫn vợ chồng để làm căn cứ yêu cầu xử lý trong từng vụ

việc. Đây chính là một thói quen bất lợi cho phụ nữ mỗi khi xảy ra tranh chấp

về ly hôn. Vô tình nhiều người phụ nữ đã tự "bỏ qua" quyền lợi mà mình

được hưởng.

1.3.2.4. Hoạt động giải quyết vụ việc hôn nhân và gia đình của Tòa án

có thẩm quyền

Xixeron, nhà hùng biện nổi tiếng thời La Mã cổ đại đã từng đưa ra

một nhận xét: “Quan tòa là một đạo luật biết nói, còn đạo luật là một vị

quan tòa câm”. Nhận xét đó nói lên vai trò vô cùng quan trọng của Tòa án

bởi vì các hoạt động tố tụng dân sự nói chung, giải quyết vụ việc HN &GĐ

nói riêng đều dựa trên cơ sở bình đẳng giữa các chủ thể tham gia nhằm bảo

vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chính họ, đều phải thông qua Tòa án.

Chính vì vậy, mỗi hoạt động tố tụng giải quyết vụ việc HN &GĐ của những

31

người tiến hành tố tụng thuộc Tòa án đều ảnh hưởng trực tiếp đến việc thực

hiện quyền của phụ nữ khi ly hôn.

Thực tế đã chứng minh rằng ở nơi nào, vào giai đoạn nào, nếu vai trò

của Tòa án được nhìn nhận, đánh giá và sử dụng đúng thì ở đó, kỷ cương,

phép nước được củng cố và giữ vững; bảo đảm được trật tự và ổn định xã hội;

tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình xây dựng và phát triển đất nước; tôn

trọng và bảo đảm quyền bình đẳng của các cá nhân, cơ quan và tổ chức.

Để bảo đảm quyền của phụ nữ khi ly hôn thì việc nâng cao hiệu quả

hoạt động của Tòa án - chủ thể trung tâm của các hoạt động TTDS là điều

quan trọng. Trong công cuộc cải cách tư pháp hiện nay, ngoài việc phải hoàn

thiện hệ thống pháp luật về TTDS, thì còn cần phải hoàn thiện hệ thống tổ

chức tòa án, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ và phẩm chất đạo đức

của đội ngũ cán bộ Tòa án.

1.3.2.5. Hoạt động hỗ trợ phụ nữ tham gia tố tụng của cá nhân, cơ

quan, tổ chức

Trong giải quyết các vụ việc HN&GĐ, thì các cơ quan, tổ chức như

Hội Liên hiệp phụ nữ; cơ quan quản lý nhà nước về Dân số, Gia đình và Trẻ

em; tổ chức Công đoàn… là những cơ quan, tổ chức có quyền, nghĩa vụ

tham gia TTDS chủ yếu. Vì vậy, việc các cơ quan, tổ chức này tham gia tích

cực sẽ có tác động lớn đối với việc bảo đảm quyền của phụ nữ khi ly hôn.

Ngoài ra, để quyền của phụ nữ khi ly hôn được thực hiện hiệu quả,

góp phần nâng cao chất lượng hoạt động xét xử thì việc thu thập tài liệu,

chứng cứ là cần thiết. Chính vì vậy, trong trường hợp các tài liệu, chứng cứ

liên quan đến việc giải quyết vụ việc HN&GĐ đang do các tổ chức, cá nhân

quản lý thì phụ nữ cần đến sự giúp đỡ của chính các tổ chức, cá nhân này

trong việc thu thập. Để tạo điều kiện cho phụ nữ bảo vệ quyền và lợi ích hợp

pháp trước Tòa án thì các tổ chức, cá nhân đang quản lý tài liệu, chứng cứ

phải có nghĩa vụ cung cấp cho Tòa án các tài liệu, chứng cứ liên quan đó.

32

Trong trường hợp việc cung cấp các chứng tài liệu, chứng cứ liên quan

không được thực hiện đầy đủ thì việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của

phụ nữ khi ly hôn sẽ bị hạn chế rất nhiều.

1.3.2.6. Cơ chế giám sát và kiểm sát các hoạt động tố tụng hôn nhân và

gia đình

Điều 102 của Hiến pháp năm 2013 xác định “Tòa án nhân dân là cơ

quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền

tư pháp” [34]. Theo đó, hoạt động giải quyết vụ việc HN&GĐ của Tòa án

phải tuân thủ nghiêm chỉnh pháp luật, áp dụng đúng pháp luật để bảo đảm

việc giải quyết các vụ việc HN&GĐ đúng pháp luật và đúng thực tế khách

quan. Tuy nhiên, thực tiễn cuộc sống cho thấy rằng quyền lực luôn có khuynh

hướng bị lạm quyền nếu thiếu đi sự giám sát, sự kiềm chế và sự cân bằng. Đối

với hoạt động giải quyết các vụ việc của Tòa án nói chung và các vụ việc

HN&GĐ nói riêng, sự giám sát, kiểm tra càng phải được thực hiện chặt chẽ vì

hoạt động của Tòa án dễ bị thiên lệch, xâm phạm đến sự bảo đảm bình đẳng

của đương sự cũng như hiệu quả giải quyết vụ việc HN&GĐ. Vấn đề giải

quyết vụ việc HN&GĐ không chỉ liên quan đến đời sống vật chất của phụ nữ

khi ly hôn mà còn liên quan đến đời sống tinh thần của họ. Nếu việc giải

quyết vụ việc HN&GĐ diễn ra theo hướng tùy tiện, điều đó dẫn đến hậu quả

nguy hiểm. Khi đó sẽ xảy ra tình trạng những quyền, lợi ích hợp pháp của phụ

nữ khi ly hôn không những không được bảo vệ; sự bình đẳng trước pháp luật

không được bảo đảm, mà những quyền, lợi ích hợp pháp ấy còn có nguy cơ bị

xâm phạm. Vì vậy, xuất phát từ hậu quả xấu đã được dự liệu trước, chúng ta

có thể thấy sự cần thiết và tính quan trọng của công tác giám sát, kiểm sát

hoạt động của Tòa án trong việc giải quyết các vụ việc HN&GĐ, đây chính là

một yêu cầu bảo đảm quyền của phụ nữ khi ly hôn hiện nay.

Việc giám sát, kiểm sát các hoạt động tố tụng được thực hiện thông

qua nhiều phương thức khác nhau như: Cơ quan dân cử nghe Tòa án cùng

33

cấp báo cáo công tác xét xử; Hội thẩm nhân dân tham gia xét xử vụ án

HN&GĐ; Tòa án xét xử công khai; Viện kiểm sát giám sát các hoạt động

TTDS về HN&GĐ.

Trong thực tế, mỗi phương thức giám sát, kiểm sát hoạt động tố tụng

đều có những yêu cầu và các đặc điểm riêng. Tuy nhiên, mọi phương thức

giám sát, kiểm sát đều có tác dụng làm cho hoạt động TTDS đặt dưới sự

giám sát, kiểm sát của nhân dân hoặc của Nhà nước, bảo đảm cho hoạt động

này được thực hiện đúng đắn và hiệu quả. Vì vậy, hoạt động giám sát, kiểm

sát hoạt động giải quyết vụ việc HN&GĐ có ý nghĩa to lớn trong việc bảo

đảm quyền của phụ nữ khi ly hôn.

Tiểu kết chƣơng 1

Bản chất của việc ly hôn là việc chấm dứt quan hệ hôn nhân của vợ

chồng đồng thời xác định quyền sở hữu riêng của vợ, chồng đối với khối,

phần tài sản riêng được phân chia, quyền nuôi con, quyền thực hiện thiên

chức làm mẹ của người phụ nữ cũng như xác định quyền lưu trú (nếu cần

thiết). Những cơ sở lý luận được phân tích, nghiên cứu ở chương 1 cũng là cơ

sở lý luận để tác giả phân tích thực trạng pháp luật cũng như từ đó đưa ra các

giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về quyền của phụ nữ khi ly hôn ở các

chương sau.

34

Chƣơng 2

THỰC TRẠNG QUYỀN CỦA PHỤ NỮ KHI LY HÔN

THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY

2.1. Các quy định pháp luật hiện hành về quyền của phụ nữ khi ly hôn

2.1.1. Các quy định về quyền nhân thân

Thứ nhất, quyền được yêu cầu ly hôn

Điều 51 Luật HN&GĐ năm 2014 quy định về quyền yêu cầu Tòa án

giải quyết việc ly hôn. Theo đó, quyền của người vợ trong việc yêu cầu ly hôn

được thể hiện ở những nội dung sau:

- Người vợ có quyền được yêu cầu ly hôn trong cả hai trường hợp:

Thuận tình ly hôn theo quy định tại Điều 55 Luật HN&GĐ năm 2014 và ly

hôn do một bên vợ yêu cầu tại Điều 56 Luật HN&GĐ năm 2014.

- Quy định về trường hợp cha, mẹ, người thân thích khác trong gia đình

có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn. Đây là quy định mới của Luật

HN&GĐ năm 2014 và có ý nghĩa thiết thực trong bảo vệ quyền của người

phụ nữ, trong trường hợp khi người vợ là nạn nhân của bạo lực gia đình do

người chồng gây ra làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe và

tinh thần cho người vợ thì cha mẹ, người thân thích của người vợ có quyền

yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn.

- Quy định về hạn chế quyền yêu cầu ly hôn của người chồng. Trong

trường hợp người vợ đang có thai, sinh con hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng

tuổi thì người chồng không được yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn. Mục đích

của quy định này là gắn trách nhiệm của người chồng trong việc bảo vệ bà

mẹ, trẻ em, bảo vệ quyền lợi chính đáng của người vợ và con chưa thành niên,

phụ nữ có thai, thai nhi, cũng là bảo vệ lợi ích của xã hội.

Thứ hai, quyền xác lập quan hệ hôn nhân mới với người khác

Khi ly hôn, hôn nhân chấm dứt kể từ thời điểm bản án quyết định của

35

Tòa án có hiệu lực. Các bên không còn bị ràng buộc vào quan hệ hôn nhân,

họ là những người độc thân và có quyền kết hôn với người khác.

* Quyền lựa chọn họ, tên cho con

Thứ ba, các quy định liên quan đến con cái.

Nếu khi ly hôn, người vợ đang mang thai và sinh con trong hoặc sau

khi ly hôn thì người phụ nữ có quyền trong việc lựa chọn họ, tên cho con.

Quyền của phụ nữ trong việc lựa chọn họ, tên cho con thực hiện thông

qua thỏa thuận với chồng kể cả trong thời kỳ hôn nhân hay đang trong quá

trình làm thủ tục ly hôn hoặc sau khi ly hôn. Theo đó, họ, tên của con có thể

theo họ mẹ. Đây là quy định mở tạo điều kiện cho người vợ có vị trí ngang

* Quyền bình đẳng trong việc chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con

bằng với người chồng, hạn chế ảnh hưởng của phong tục, tập quán.

Quyền của người mẹ trong việc chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con.

sự bình đẳng của người vợ đối với người chồng thể hiện ở quyền được yêu

thương, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con, đảm bảo cho con không phải

* Quyền bình đẳng trong việc đại diện cho con

sống trong sự ngược đãi, hành hạ hoặc bị xúc phạm.

Quyền của người phụ nữ trong việc đại diện cho con được thể hiện

trong các quy định tại khoản 3 Điều 69 và khoản 1, khoản 2 Điều 73 của Luật

HN&GĐ năm 2014. Theo đó, vợ cùng chồng là người đại diện của con, vợ và

chồng có thể thỏa thuận một trong hai người là người đại diện cho con trong

các giao dịch dânsự.

Các quy định trên tạo cho người phụ nữ được đảm bảo quyền bình đẳng

đối với người chồng trong mối quan hệ với các con, thúc đẩy sự nghiệp bình

đẳng giới kể cả khi đã ly hôn.

2.1.2.Quyền tài sản

Luật HN&GĐ năm 2014 quy định nguyên tắc phân chia tài sản của vợ

chồng khi ly hôn tại Điều 59 và phân chia tài sản trong một số trường hợp cụ

thể từ Điều 60 đến Điều 64.

36

Một điểm mới của Luật HN&GĐ năm 2014 là thừa nhận chế độ tài sản

của vợ chồng theo thỏa thuận. Vì vậy, nếu vợ chồng có thỏa thuận tài sản

trong đó có thỏa thuận về việc phân chia tài sản chung của vợ chồng khi ly

hôn thì khi ly hôn tài sản chung của vợ chồng phân chia theo thỏa thuận tài

sản đó; trường hợp thỏa thuận không đầy đủ, rõ ràng thì áp dụng quy định

tương ứng tại Điều 59 đến Điều 64 luật này để giải quyết.

 Phương thức chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn

Để chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn, pháp luật HN&GĐ đã quy

định về phương thức phân chia cũng như các nguyên tắc của việc phân chia

này nhằm đảm bảo quyền lợi cho người phụ nữ khi ly hôn.

Thứ nhất, phương thức tự thỏa thuận:

Tại khoản 1 Điều 28 Luật HN&GĐ năm 2014 đã quy định: “Vợ chồng

có quyền lựa chọn áp dụng chế độ tài sản theo luật định hoặc chế độ tài sản

theo thỏa thuận”.

Luật HN&GĐ năm 2014 đã bổ sung chế độ tài sản theo thỏa thuận.

Theo quy định tại Điều 47 Luật HN&GĐ năm 2014 thì trường hợp vợ chồng

lựa chọn chế độ tài sản theo thỏa thuận thì thỏa thuận này phải được lập trước

khi kết hôn, bằng văn bản có công chứng hoặc chứng thực. Chế độ tài sản của

vợ chồng theo thỏa thuận có hiệu lực kể từ ngày đăng ký kết hôn. Tại Điều 48

Luật HN&GĐ năm 2014, nội dung cơ bản của thỏa thuận về chế độ tài sản

của vợ chồng bao gồm: “Tài sản được xác định là tài sản chung, tài sản riêng

của vợ chồng: quyền, nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản chung, tài sản

riêng và giao dịch có liên quan, tài sản để đảm bảo nhu cầu thiết yếu của gia

đình; điều kiện, thủ tục và nguyên tắc phân chia tài sản khi chấm dứt chế độ

tài sản…”[35, Khoản 1, Điều 48]. Thỏa thuận này vẫn có thể được sửa đổi,

bổ sung sau khi kết hôn hoặc bị Tòa án tuyên bố vô hiệu theo quy định tại

Điều 49 và 50 của Luật này. Quy định này góp phần giảm thiểu sự tranh chấp

tài sản sau ly hôn của các cặp vợ chồng trong tình trạng hiện nay.

37

“Trong trường hợp chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định thì việc

giải quyết tài sản do các bên thỏa thuận…

Trong trường hợp chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận thì việc

giải quyết tài sản khi ly hôn được áp dụng theo thỏa thuận đó;…”[35, Khoản

1 Điều 59].

Như vậy, Luật HN&GĐ năm 2014 cũng đề cao ý chí của các bên,

quyền tự định đoạt của vợ chồng. Tuy nhiên, về nguyên tắc việc tự thỏa thuận

này không được trái với những nguyên tắc mà pháp luật đã quy định để bảo

vệ quyền lợi hợp pháp của các bên, nhất là của phụ nữ và con cũng như tránh

sự lợi dụng những quy định này nhằm mục đích tư lợi, không lành mạnh của

vợ chồng.

Trường hợp các bên thỏa thuận được về chia tài sản cùng với việc tự

nguyện ly hôn và việc nuôi dưỡng, chăm sóc con cái trên cơ sở đảm bảo quyền

lợi của vợ và con thì Tòa án sẽ ra quyết định công nhận thuận tình ly hôn theo

quy định tại Điều 55 Luật HN&GĐ năm 2014. Trường hợp các bên không thỏa

thuận được hoặc có thỏa thuận nhưng không đảm bảo quyền lợi chính đáng của

vợ và con thì Tòa án sẽ giải quyết theo quy định của pháp luật.

Thứ hai, phương thức yêu cầu Tòa án giải quyết việc chia tài sản chung

của vợ chồng khi ly hôn:

Theo quy định tại khoản 1 Điều 59 Luật HN&GĐ năm 2014: “…Nếu

không thỏa thuận được thì theo yêu cầu của vợ, chồng hoặc cả hai vợ chồng,

Tòa án giải quyết theo quy định tại khoản 2,3,4,và 5 Điều này và tại các Điều

60,61,62,63, và 64 của Luật này.

…nếu thỏa thuận không đầy đủ, rõ ràng thì áp dụng quy định tương

ứng tại các khoản 2,3,4 và 5 Điều này và tại các Điều 60,61,62,63 và 64 của

Luật này để giải quyết”[35].

Phương thức này nhờ Tòa giải quyết khi các bên lựa chọn chế độ tài

sản theo thỏa thuận nhưng thỏa thuận không đầy đủ, rõ ràng hoặc vợ chồng

38

lựa chọn chế độ tài sản theo luật quy định nhưng không thỏa thuận được. Khi

giải quyết, Tòa án cũng phải tuân thủ những nguyên tắc và các trường hợp cụ

thể quy định trong Luật HN&GĐ.

 Nguyên tắc chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn

Nếu vợ chồng lựa chọn chế độ tài sản chung của vợ chồng theo thỏa

thuận (có thỏa thuận tài sản) thì khi ly hôn việc phân chia tài sản theo thỏa

thuận đó; nếu thỏa thuận không đầy đủ, không rõ ràng thì áp dụng các quy

định tương ứng của luật định để phân chia [17, Điều 59]. Ngoài ra, do tính

chất đặc trưng của quan hệ hôn nhân và gia đình nên nó có một số đặc điểm

riêng nhằm bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của vợ, con chưa thành niên,

con đã thành niên nhưng mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả

năng lao động không có tài sản riêng để nuôi sống mình.

Nếu không thỏa thuận được thì khi có yêu cầu của vợ, chồng hoặc của

cả vợ chồng Tòa án giải quyết phân chia theo nguyên tắc sau: Về cơ bản tài

sản chung của vợ chồng được chia đôi nhưng có tính đến các yếu tố:

Một là, hoàn cảnh của gia đình và của vợ, chồng;

Hai là, công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và

phát triển khối tài sản chung. Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi

như lao động có thu nhập.

Ba là, bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh

và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập.

Bốn là, lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng;

Năm là, tài sản chung của vợ chồng được chia bằng hiện vật, nếu

không chia được bằng hiện vật thì chia theo giá trị. Bên nào nhận được phần

tài sản bằng hiện vật có giá trị lớn hơn phần mình được hưởng thì phải thanh

toán cho bên kia phần chênh lệch.

Sáu là, tài sản riêng của vợ chồng thuộc quyền sở hữu riêng của người

đó trừ trường hợp tài sản riêng đã nhập vào tài sản chung theo quy định của

Luật HN&GĐ.

39

Bảy là, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của vợ, con chưa thành niên,

con đã thành niên nhưng mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả

năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình [35, Điều 59].

Bên cạnh đó, một trong những nguyên tắc khác đặt ra buộc các bên

phải tuân thủ khi chia tài sản chung của vợ chồng nói chung và chia tài sản

chung của vợ chồng khi ly hôn nói riêng đó là “bảo vệ quyền, lợi ích hợp

pháp của vợ, con chưa thành niên, con đã thành niên nhưng mất năng lực

hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động hoặc không có tài sản riêng

để tự nuôi mình”[35, khoản 5, Điều 59]. Bảo vệ bà mẹ, trẻ em trước hết là

trách nhiệm của gia đình sau đó mà trách nhiệm của Nhà nước, của xã hội.

Việc ghi nhận và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, con chưa thành niên

hoặc con đã thành niên nhưng mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả

năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình thể hiện tính nhân đạo và

bản chất tốt đẹp của Nhà nước. Hiện nay, phụ nữ ngày càng bình đẳng và

tham gia vào công tác xã hội nhiều hơn nhưng cũng còn nhiều phụ nữ không

có công việc ổn định hoặc không đi làm mà chỉ làm việc nhà. Vì vậy, khi ly

hôn, họ là đối tượng dễ bị tổn thương và thường gặp nhiều khó khăn trong

cuộc sống. Do đó, cần căn cứ vào điều này để khi phân chia tài sản đảm bảo

quyền lợi của người vợ, đặc biệt hơn nữa những đứa trẻ chưa thành niên hoặc

đã thành niên nhưng bị tàn tật, mất khả năng lao động, mất năng lực hành vi

dân sự và không có tài sản để tự nuôi mình.

2.1.3.Quyền đảm bảo thiên chức làm mẹ

Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền (UDHR) năm 1948, lần đầu

tiên quyền lợi của phụ nữ trong vai trò làm mẹ được Nhà nước và xã hội đặc

biệt chú trọng và bảo vệ, do vậy tại khoản 2 điểu 25 quy định“Các bà mẹ và

trẻ em có quyền được hưởng sự chăm sóc và giúp đỡ đặc biệt”.

Công ước về các quyền kinh tế, văn hóa, xã hội (ICESCR) năm 1966

ngoài việc yêu cầu các quốc gia thành viên đảm bảo không có sự phân biệt

40

đối xử nào giữa phụ nữ và đàn ông khi tham gia các công việc như nhau, còn

cam kết “Cần dành sự bảo hộ đặc biệt cho các bà mẹ trong một khoảng thời

gian thích đáng trước và sau khi sinh con. Trong khoảng thời gian đó, các bà

mẹ cần được nghỉ có lương hoặc nghỉ với đầy đủ các phúc lợi an sinh xã hội”

[14,Khoản 2, Điều 10]. Công ước này có sự ưu tiên đặc biệt đối với các bà mẹ

trong thời gian trước và sau khi sinh con bởi đây là khoảng thời gian mà các

bà mẹ cần phải được nghỉ ngơi có hưởng lương và các chế độ phúc lợi khác.

Những quy định mang tính quốc tế đó đã đề ra cho pháp luật các quốc

gia một đòi hỏi về sự bảo hộ đặc biệt đối với thiên chức làm mẹ của phụ nữ.

Trong các văn bản pháp luật của Việt Nam hay ngay trong BLLĐ thì khái niệm

này cũng không được nhắc tới. Mặc dù xét về hình thức diễn đạt có thể không

giống nhau nhưng nội hàm của khái niệm được nhìn nhận khá thống nhất.

Cụ thể: Quyền làm mẹ của phụ nữ được hiểu là quyền sinh con, chăm

sóc con cái và quyền được nhận nuôi con nuôi không phụ thuộc vào tình

trạng hôn nhân của họ [5, tr.48]. Như vậy, quyền làm mẹ là thuật ngữ dùng

để chỉ quyền của người phụ nữ có khả năng được thực hiện, thừa nhận việc có

con. Quyền làm mẹ bao gồm hai nhóm nội dung đó là quyền sinh con, chăm

sóc con và quyền của phụ nữ trong việc cho và nhận con nuôi.

Bảo đảm quyền, theo nghĩa rộng bao gồm tổng thể chính sách, pháp

luật cùng các điều kiện khác như kinh tế, chính trị, văn hóa và cơ chế bảo đảm

thực thi quyền trên thực tế. Còn theo nghĩa hẹp, quyền làm mẹ chỉ bao gồm

thể chế (chính sách, pháp luật) và thiết chế tương ứng để bảo đảm thực thi

quyền trên thực tế. Như vậy, với sự phân tích khái niệm quyền làm mẹ ở trên,

có thể hiểu một cách đầy đủ và khái quát nhất khái niệm bảo đảm quyền làm

mẹ, đó là tổng thể các chính sách, pháp luật cùng các điều kiện kinh tế, chính

trị, văn hóa liên quan đến khả năng của người phụ nữ trong việc thực hiện

hoặc thừa nhận việc có con đẻ hoặc con nuôi mà không phụ thuộc vào tình

trạng hôn nhân cùng các cơ chế bảo đảm thực thi trên thực tế. Với đối tượng

41

phụ nữ thì nội dung bảo đảm quyền làm mẹ bao gồm quyền được làm việc,

bảo đảm sức khỏe sinh sản, bảo đảm quyền được mang thai và sinh con, bảo

đảm khả năng chăm sóc và nuôi dạy con trong quá trình làm việc…

Phụ nữ khi ly hôn có quyền thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con,

nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không

thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn

cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải

xem xét nguyện vọng của con.

 Trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng

Sau khi ly hôn, cha mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi

dưỡng, giáo dục con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi

dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình

theo quy định của Luật này, Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan.

Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của

mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; Trường hợp không thỏa thuận được thì

Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi

về mọi mặt của con;Nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện

vọng của con.

Khi xem xét ai sẽ là người có quyền nuôi con, tòa án sẽ căn cứ vào

nhiều yếu tố khác nhau. Nhìn chung tòa sẽ dựa trên 3 yếu tố sau:

+ Điều kiện về vật chất bao gồm: Ăn, ở, sinh hoạt, điều kiện học

tập…các yếu tố đó dựa trên thu nhập, tài sản, chỗ ở của cha mẹ;

+ Các yếu tố về tinh thần bao gồm: Thời gian chăm sóc, dạy dỗ, giáo

dục con, tình cảm đã dành cho con từ trước đến nay, điều kiện cho con vui

chơi giải trí, nhân cách đạo đức, trình độ học vấn … của cha mẹ.

+ Nguyện vọng của con: Con mong muốn được ở với ai (chỉ áp dụng

với con từ đủ 7 tuổi trở lên).

42

Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp

người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng,

giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con.

Được cấp dưỡng để nuôi con, Pháp luật không quy định cụ thể mức cấp

dưỡng là bao nhiêu mà phải căn cứ vào thu nhập, khả năng thực tế của người

có nghĩa vụ cấp dưỡng, nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng và

đương nhiên những chi phí này là chi phí hợp lý.

 Quyền của phụ nữ khi không trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ

thăm nom con mà không ai được cản trở.

Về quyền thăm nom tới đâu thì pháp luật không có quy định cụ thể,

nhưng miễn là việc thăm nom đó không trái đạo đức xã hội và không gây ảnh

hưởng tới việc sinh hoạt và làm việc của gia đình vợ anh.

2.1.4. Quyền cấp dưỡng

 Quyền yêu cầu cấp dưỡng

Theo quy định tại khoản 24 Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình 2014

quy định 24 thì cấp dưỡng là việc một người có nghĩa vụ đóng góp tiền hoặc

tài sản khác để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của người không sống chung với

mình mà có quan hệ hôn nhân, huyết thống hoặc nuôi dưỡng trong trường hợp

người đó là người chưa thành niên, người đã thành niên mà không có khả

năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình hoặc người gặp khó khăn,

túng thiếu theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình 2014.

Theo quy định của pháp luật hiện hành, cũng như theo phong tục, tập

quán của Việt Nam có quy định: Nghĩa vụ cấp dưỡng được thực hiện giữa cha,

mẹ và con; giữa anh, chị, em với nhau; giữa ông bà nội, ông bà ngoại và cháu;

giữa cô, dì, chú, cậu, bác ruột và cháu ruột; giữa vợ và chồng theo quy định của

Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Nghĩa vụ cấp dưỡng không thể thay thế

bằng nghĩa vụ khác và không thể chuyển giao cho người khác. Theo đó:

43

Căn cứ Điều 115, 116 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, quy định

về nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ và chồng khi ly hôn nếu bên khó khăn, túng

thiếu có yêu cầu cấp dưỡng mà có lý do chính đáng thì bên kia có nghĩa vụ

cấp dưỡng theo khả năng của mình.

Ðể nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ chồng sau khi ly hôn được xác lập, cần

có một bên sống trong cảnh túng thiếu và bên kia có đủ điều kiện để hỗ trợ.

Sự túng thiếu của một bên, trong suy nghĩ của người làm luật, có nguồn gốc

từ tình trạng không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.

Thế nào là không có khả năng lao động tùy thuộc vào sự đánh giá của thẩm

phán. Người thất nghiệp chưa chắc là không có khả năng lao động; người

khuyết tạt cũng có thể có khả năng lao động. Bên vợ- chồng rơi vào hoàn

cảnh khó khăn, túng thiếu phải chứng minh sự khó khăn, túng thiếu của mình.

Nói chung, được coi là có lý do chính đáng khi lâm vào tình trạng khó khăn

túng thiếu là do những điều kiện ngoại cảnh mang lại, ví dụ như ốm đau, bệnh

tật hay gặp tai ương bất ngờ.

Như vậy, căn cứ vào quy định nêu trên thì khi ly hôn phụ nữ có thể

thỏa thuận với người chồng về việc cấp dưỡng và mức cấp dưỡng cho mình

trong khi chờ có được việc làm hay trong giai đoạn khó khăn. Nếu không thỏa

thuận được thì có quyền yêu cầu tòa án xem xét, giải quyết.

 Mức cấp dưỡng

Mức cấp dưỡng do người có nghĩa vụ cấp dưỡng và người được cấp

dưỡng hoặc người giám hộ của người đó thỏa thuận căn cứ vào thu nhập, khả

năng thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng và nhu cầu thiết yếu của người

được cấp dưỡng; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu tòa án giải quyết.

Khi có lý do chính đáng, mức cấp dưỡng có thể thay đổi. Việc thay đổi

mức cấp dưỡng do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu

tòa án giải quyết.

44

Nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ chồng sau khi ly hôn chấm dứt khi bên

được cấp dưỡng kết hôn với người khác.

Đây là một quy định của pháp luật thể hiện tính nhân văn sâu sắc, có ý

nghĩa giáo dục và nâng cao giá trị đạo đức xã hội, thể hiện tinh thần tương

thân tương ái, thể hiện tình nghĩa vợ chồng ngay cả khi quan hệ vợ chồng đã

không còn được pháp luật bảo hộ.

2.1.5. Quyền lưu cư

Luật HN&GĐ năm 2014 còn bổ sung quy định quyền lưu cư của vợ

hoặc chồng khi ly hôn: “Nhà ở thuộc sở hữu riêng của vợ, chồng đã đưa vào

sử dụng chung thì khi ly hôn vẫn thuộc sở hữu riêng của người đó; trường

hợp vợ hoặc chồng có khó khăn về chỗ ở thì được quyền lưu cư trong thời hạn

06 tháng kể từ ngày quan hệ hôn nhân chấm dứt, trừ trường hợp các bên có

thỏa thuận khác [35, Điều 63].

Đây là điểm mới của Luật HN&GĐ năm 2014 thể hiện tính nhân văn

của pháp luật đã được luật hóa từ quy định tại Điều 30 Nghị định số

70/2001/NĐ – CP. Quy định này góp phần tạo điều kiện cho bên vợ hoặc

chồng có khó khăn về chỗ ở có điều kiện và thời gian để tìm, tạo lập chỗ ở

mới. Còn việc thanh toán cho bên không phải là chủ sở hữu nhà một phần giá

trị căn cứ vào công sức bảo dưỡng, nâng cấp, cải tạo, sửa chữa nhà thì Luật

HN&GĐ năm 2014 đưa vào nguyên tắc giải quyết tài sản của vợ chồng khi ly

hôn [35, khoản 4, Điều 59].

2.2. Thực trạng thực hiện quy định pháp luật hiện hành về quyền

của phụ nữ khi ly hôn

2.2.1. Về thực hiện quyền nhân thân

Pháp luật Việt Nam nói chung, hôn nhân gia đình nói riêng ngày càng

được hoàn thiện đã tạo cơ sở pháp lý cần thiết để đảm bảo tốt lợi ích của phụ

nữ nói chung và quyền của phụ nữ khi ly hôn nói riêng. Đặc biệt quyền lợi

quan trọng gắn với mỗi cá nhân là quyền nhân thân.

45

Trong quá trình thực hiện, nhìn chung nhiều quyền lợi về nhân thân của

phụ nữ khi ly hôn đều được các cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện

tương đối kịp thời và nghiêm túc; công tác tuyên truyền ngày càng có hiệu

quả đảm bảo cho người phụ nữ tiếp cận dễ dàng hơn với các thông tin liên

quan đến quyền lợi của mình.

Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện vẫn còn những bất cập. Việc đảm

bảo quyền và lợi ích của người phụ nữ trên thực tế vẫn còn gặp khó khăn và

hạn chế khi ly hôn. Vấn đề này có nguyên nhân từ chính là từ người chồng.

Thực tế có những trường hợp người mẹ bị mất năng lực hành vi dân sự.

Lưu ý, cần đảm bảo quyền bình đẳng của người mẹ bị hạn chế hoặc mất năng

lực hành vi dân sự trong việc chăm sóc con.

Luật HN&GĐ năm 2014 chưa có những quy định mở rộng trong việc

đảm bảo quyền của người phụ nữ khi họ bị hạn chế hoặc bị mất năng lực hành

vi dân sự thì quyền của họ vẫn được đảm bảo trong việc chăm sóc, bảo vệ con

cái bằng cách quy định người thân trong gia đình như ông bà, anh chị, em…

có quyền được thay người mẹ chăm sóc, giáo dục cháu, cũng như quy định

trách nhiệm của những người thân thích có quyền được xem xét, giám sát khi

người chồng có những hành vi bạo lực đối với người con để phát hiện kịp

thời, đảm bảo cho quyền lợi của người mẹ cũng như sự phát triển sau này

củatrẻ.

2.2.2. Về thực hiện quyền tài sản

Phân chia tài sản sau ly hôn (gồm nhà, đất, tài sản có giá trị, tiền mặt...)

theo pháp luật nhìn chung là chia đôi, trong đó có quan tâm đến quyền và lợi

ích của phụ nữ. Từ 2012 – 2017, trong số các cặp vợ chồng ly hôn, có trên

một nửa là chưa có nhà đất (55,8%) –với tỷ lệ khá như nhau ở cả nông thôn

và thành thị. Với những cặp có nhà đất và phải phân chia sau khi ly hôn, có

19,1% là chia đều cho cả vợ và chồng, và tỷ lệ vợ hoặc chồng được phân chia

nhà đất sau khi ly hôn là khá ngang bằng nhau, 12,5% và 12,7%. Những

46

trường hợp không phân chia nhà đất đa số bao gồm những trường hợp ở

chung với cha mẹ, thuê nhà ở, ở nhờ, v.v. trước khi ly hôn.

Việc phân chia nhà ở khá khác biệt giữa nông thôn và đô thị. Tại các

khu vực đô thị, phân chia sở hữu nhà ở bằng nhau giữa vợ và chồng là cao

nhất (25,2%), tiếp theo là quyền sở hữu của người vợ, và chỉ có 6,9% chồng

có quyền sở hữu độc lập. Tại các khu vực nông thôn, sở hữu bằng nhau chiếm

tỷ lệ thấp nhất (10,5%), và chồng sở hữu là cao nhất (20,6%). Có thể nói rằng

bình đẳng giới trong sắp xếp nhà ở tại các khu vực đô thị tốt hơn so với khu

vực nông thôn. Các ông chồng ở các khu vực nông thôn chủ động và chiếm

ưu thế hơn trong xác định quyền sở hữu nhà ở sau hôn nhân

Có khác biệt thành thị / nông thôn trong phân chia bình đẳng về quyền

sở hữu nhà. Kết quả cho thấy, các cặp vợ chồng đô thị có nhiều khả năng để

phân chia quyền sở hữu bằng nhau so với các cặp vợ chồng nông thôn. Điểm

thú vị là mức sống có tác động lớn đến việc phân chia tài sản nhà ở sau ly

hôn, giả định các biến số khác không đổi. Trong mô hình đầu tiên, các cặp vợ

chồng khá giả hơn trao quyền sở hữu nhà cho vợ cao hơn hai lần so với các

cặp vợ chồng nghèo hơn. Các cơ hội nắm quyền sở hữu nhà của người vợ

cũng cao hơn đối với các cặp có mức sống trung bình. Ảnh hưởng của mức

sống rất mạnh trong mô hình cuối cùng trong kiểm tra khả năng của cả hai vợ

chồng cùng sở hữu nhà sau khi ly hôn. Mô hình này cho thấy, khả năng các

cặp vợ chồng khá giả phân chia quyền sở hữu nhà bằng nhau cao hơn khoảng

bốn lần so với các cặp vợ chồng nghèo.

Con cái cũng là một biến số có tác động đáng kể đến các quyết định phân

chia nhà ở. Các cặp vợ chồng không có con phân chia nhà ở cho người chồng

cao hơn gấp hai lần so với các cặp vợ chồng có con cái (không kể giới tính của

con). Ảnh hưởng này là dương với cả phân tích tương quan hai chiều, cho thấy

nếu người vợ không có con thì gần như không có khả năng được sở hữu nhà ở

sau ly hôn. Những cặp vợ chồng có cả con trai và con gái thường phân chia

47

quyền sở hữu nhà ở như nhau, vì hầu hết số họ cũng chia sẻ trách nhiệm nuôi

con.

Nhìn chung việc thực hiện quyền tài sản của phụ nữ khi ly hôn được

bảo đảm nhưng có một số trường hợp trong việc phân chia tài sản khi ly hôn

để đảm bảo quyền của phụ nữ còn một số khó khăn như các trường hợp sau:

 Chia tài sản chung trong trường hợp vợ chồng sống chung với gia đình

mà ly hôn

Ở Việt Nam có rất nhiều cặp vợ chồng sống chung với gia đình bên vợ

hoặc gia đình bên chồng và kéo dài cho đến ngày chấm dứt hôn nhân. Trong

quá trình chung sống, vợ chồng và các thành viên khác cùng lao động sản

xuất tạo lập khối tài sản chung của đại gia đình. Trong trường hợp này, nếu

như hai vợ chồng ly hôn, một bên sẽ ra đi, bên còn lại sẽ tiếp tục cuộc sống

chung với đại gia đình. Do đó, Tòa cần cân nhắc vấn đề công sức đóng góp

vào khối tài sản chung của họ một cách thận trọng, để từ đó có cách giải quyết

hợp lý nhất. Tòa án phải dựa vào nhiều yếu tố, căn cứ khác nhau để phân chia

một phần tài sản cho bên ra đi trong khối tài sản chung của đại gia đình sao

cho quyền lợi các bên đều được đảm bảo.

Khi xem xét giải quyết trường hợp vợ chồng sống chung với gia đình

mà ly hôn, cần chú ý trường hợp sau đây:

Nếu vợ chồng sống chung với đại gia đình nhưng hoàn toàn không có

quan hệ kinh tế chung; vợ chồng có công ăn việc làm độc lập; tích lũy tài sản

chung của vợ chồng một cách riêng biệt với các thành viên khác của đại gia

đình, họ chỉ đóng góp các chi phí thiết yếu nhằm duy trì cuộc sống chung thì

khi vợ chồng ly hôn, Tòa án không áp dụng Điều 61 Luật HN&GĐ năm 2014

để giải quyết tài sản cho các bên vợ chồng trong trường hợp này.

Xuất phát từ tính chất phức tạp của việc xác định nguồn gốc tài sản,

phân định tài sản chung, tài sản riêng, việc phân chia một tài sản cho mỗi bên

sao cho thỏa đáng trong trường hợp vợ chồng sống chung với gia đình mà ly

48

hôn. Điều 61 Luật HN&GĐ năm 2014 trên cơ sở kế thừa Điều 96 Luật

HN&GĐ năm 2000, nhưng đã bổ sung thêm điều khoản dẫn chiếu ở khoản 2.

Theo quy định của pháp luật HN&GĐ hiện hành, việc phân chia tài sản của vợ

chồng trong trường hợp này tùy thuộc vào tài sản của vợ chồng trong khối tài

sản chung của gia đình có xác định được hay không mà sẽ có cách chia khác

nhau cụ thể, như sau:

 Trường hợp, tài sản chung của vợ chồng trong khối tài sản chung của

gia đình không xác định được

Theo khoản 1 Điều 61 Luật HN & GĐ năm 2014 quy định, trường hợp

vợ chồng sống chung với gia đình mà ly hôn, nếu tài sản của vợ chồng trong

khối tài sản chung của gia đình không xác định được thì vợ hoặc chồng được

chia một phần trong khối tài sản chung của gia đình căn cứ vào công sức đóng

góp của vợ chồng vào việc tạo lập, duy trì, phát triển khối tài sản chung của

gia đình. Việc chia một phần trong khối tài sản chung do vợ chồng thỏa thuận

với gia đình; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết.

Công sức đóng góp của người vợ hoặc chồng là căn cứ chủ yếu để xác

định phần tài sản được chia, trong trường hợp này được xác định dựa trên thời

gian đóng góp và hình thức đóng của vợ, chồng vào khối tài sản của gia đình.

Về cơ bản, hình thức đóng góp được xác định như trong việc tạo lập, duy trì

và phát triển khối tài sản chung của vợ chồng dựa trên các hoạt động lao động

sản xuất như lao động tạo ra của cải, nội trợ, chuyển tài sản riêng thành tài sản

chung; tuy nhiên, thời gian chung sống với đại gia đình của người ra đi và các

thành viên khác là không bằng nhau, không giống nhau như khoảng thờ gian

bằng nhau mà hai vợ chồng cùng tạo lập cuộc sống riêng nên không thể nói

công sức đóng góp của người này và những người khác là ngang nhau, và

phần được hưởng cũng không bằng phần của những nguời khác.

Tỉ lệ phần tài sản của người ra đi nhận được so với giá trị chung rất khó

xác định cụ thể, đó chỉ là kết quả xác định một cách tương đối, có thể chấp

nhận được.

49

 Trường hợp tài sản của vợ chồng trong khối tài sản chung của gia đình

có thể xác định được theo thành phần

Theo khoản 2 Điều 61 Luật HN&GĐ năm 2014 quy định, trường hợp

vợ chồng sống chung với gia đình mà tài sản của vợ chồng trong khối tài sản

chung của gia đình có thể xác định được theo thành phần thì khi ly hôn, phần

tài sản của vợ chồng được trích ra từ khối tài sản chung đó để chia theo quy

định tại Điều 59 của Luật này.

Về cơ bản nội dung của quy định này giống quy định tại khoản 2 Điều

96 Luật HN&GĐ năm 2000, nhưng có bổ sung hướng dẫn cụ thể hơn về việc

chia tài sản trong trường hợp này. Cụ thể, phần tài sản chung của vợ chồng sẽ

được xác định và trích ra từ khối tài sản chung của gia đình, sau đó phân chia

theo quy định tại Điều 59 Luật HN&GĐ năm 2014.

 Chia quyền sử dụng đất của vợ chồng khi ly hôn

Thực tiễn xét xử cho thấy việc chia QSDĐ là vấn đề gây khó khăn và

phức tạp hơn cả trong việc chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn. QSDĐ

là loại tài sản đặc biệt, có giá trị cao trong khối tài sản chung và đặc biệt gắn

với những quy chế quản lý của nhà nước về đất đai và tài sản. Do đó, việc

chia QSDĐ khi vợ chồng ly hôn không chỉ tuân theo quy định tại Điều 62

Luật HN&GĐ năm 2014 mà còn tùy thuộc vào từng loại đất và điều kiện của

vợ chồng.

- Đối với đất nông nghiệp trồng cây hàng năm, đất nuôi trồng thủy sản.

Căn cứ vào nhu cầu sử dụng và điều kiện trực tiếp sử dụng đất để quy

định việc giải quyết cho các cặp vợ chồng khi ly hôn, cụ thể quy định tại điểm

a khoản 2 Điều 62 Luật HN&GĐ năm 2014, gồm các trường hợp sau:

Thứ nhất, trong trường hợp cả hai vợ chồng đều có nhu cầu sử dụng đất

và có điều kiện trực tiếp sử dụng thì QSDĐ được chia theo thỏa thuận của các

bên, nếu không thỏa thuận được thì Tòa án giải quyết theo quy định tại Điều

59 Luật HN&GĐ năm 2014.

50

Thứ hai, trong trường hợp chỉ có một bên có nhu cầu và điều kiện trực

tiếp sử dụng đất thì bên đó được tiếp tục sử dụng nhưng phải thanh toán cho

bên kia phần giá trị QSDĐ mà họ được hưởng.

Sở dĩ pháp luật căn cứ vào nhu cầu sử dụng và điều kiện trực tiếp sử

dụng đất để quy định cách phân chia như vậy là nhằm đảm bảo giá trị sử dụng

của các loại đất trên, cũng như giải quyết quyền lợi thiết thực của bên thật sự

cần tiếp tục sử dụng diện tích đó. Thực tế cho thấy, những loại đất này đòi hỏi

người sử dụng đất phải chăm sóc thường xuyên, thu hoạch trong thời gian

ngắn nên cần thiết phải giao cho người có nhu cầu và điều kiện trực tiếp sử

dụng để tránh lãng phí đất.

Trên thực tế trong một số trường hợp vì hoàn cảnh đặc biệt của vợ

chồng mà việc xác định và phân chia tài sản chung cần phải có hướng dẫn cụ

thể mà Luật HN&GĐ năm 2014 đã đề ra một số trường hợp. Đối với tài sản là

bất động sản (nhà ở, quyền sử dụng đất) thường gặp nhiều khó khăn, vướng

mắc, cho nên Luật HN&GĐ 2014 đã quy định về các trường hợp chia tài sản

chung của vợ chồng là nhà ở, quyền sử dụng đất; các trường hợp mà vợ chồng

còn sống với gia đình bên cha mẹ vợ hoặc cha mẹ chồng [17, Điều 61, Điều

62]. Trong trường hợp vợ chồng cùng chung sống với gia đình bên vợ hoặc

gia đình bên chồng thì việc xác định tài sản của vợ chồng trong khối tài sản

chung với gia đình là rất khó khăn.

2.2.3. Về thực hiện quyền đảm bảo thiên chức làm mẹ

Phân tích các hồ sơ ly hôn của tòa án nhân dân một quận ở Hà Nội và

một huyện ở Hà Nam giai đoạn 2012-2017 cho thấy, trong số tất cả các cặp

vợ chồng ly hôn, trẻ em được quyết định sống với mẹ sau khi ly hôn là xu

hướng phổ biến, chiếm 62,3% các trường hợp. Chia sẻ quyền nuôi con chiếm

18,7%, khi các cặp vợ chồng có ít nhất hai con. Người cha nhận được quyền

nuôi con chiếm 16,5% các vụ ly hôn. Các trường hợp trẻ em sống với người

khác rất ít ở Việt Nam; chỉ chiếm 2,4% tất cả các cuộc ly dị . Những phát hiện

51

này phù hợp với các kết quả trước đó của Viện Gia đình và Giới (2006), cho

thấy sau khi ly hôn, trẻ em thường sống với mẹ (64,3%). Tỷ lệ trẻ em sống

với mẹ sau khi ly hôn ở các hộ nghèo cao (68,6%) so với trẻ em sống với bà

mẹ trong các gia đình khá (57,8%).

Trong khoảng thời gian từ năm 2012-2017, con sống với mẹ là xu

hướng chủ đạo trong các cặp vợ chồng ly dị. Từ 2012-2017, tỷ lệ trẻ em sống

với bà mẹ sau khi ly hôn giảm nhẹ từ 68,4% năm 2012 xuống 45,7% trong

năm 2017. Trong cùng thời gian, tỷ lệ trẻ em sống chung với cha của họ là

khoảng 20%, và tỷ lệ sống với cả cha và mẹ tăng nhẹ. Từ 2012-2017, tỷ lệ

chia sẻ quyền nuôi con tăng từ 6% năm 2012 lên 17,6% trong năm 2017.

Theo thống kê, người chồng, gia đình thường đã tạo ra tâm lý thoải mái

gián tiếp giúp người phụ nữ sau ly hôn yên tâm thực hiện tốt thiên chức làm

mẹ của mình. Đồng thời, người phụ nữ cũng có một chỗ dựa ổn định để đảm

bảo cho cuộc sống, có điều kiện để chăm lo tốt hơn về đời sống vật chất cho

con cái của mình, theo đó chức năng làm mẹ cũng được hoàn thành tốt hơn.

Tuy nhiên, trong một số trường hợp, quyền được đảm bảo thiên chức

làm mẹ của phụ nữ sau khi ly hôn chưa được thực hiện tốt, như:

Thứ nhất, Người chồng trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng cho con, biến

cấp dưỡng nuôi con thực sự trở thành món nợ khó đòi.

Thứ hai, thực tế có trường hợp người cha không có tài sản để nuôi sống

chính bản thân, vì vậy không thể đủ điều kiện để cấp dưỡng nuôi con sau ly

hôn. Căn cứ vào quy định, Người có khả năng thực tế để thực hiện nghĩa vụ

cấp dưỡng được quy định tại các điều 81, 82 và 83 của Luật HN & GĐ năm

2014 là người có thu nhập thường xuyên hoặc tuy không có thu nhập thường

xuyên nhưng còn tài sản sau khi đã trừ đi chi phí thông thường cần thiết cho

cuộc sống của người đó. Căn cứ vào quy định đó có thể thấy rằng người cha

trong trường hợp này là người không có thu nhập thường xuyên cũng như

không có tài sản. Do đó, trường hợp này người cha sẽ được chấm dứt nghĩa

52

vụ cấp dưỡng theo quy định: “Các trường hợp khác theo quy định của pháp

luật”. Vì vậy, trường hợp này, dù bất khả kháng nhưng đã gây ảnh hưởng trực

tiếp tới đời sống của con sau ly hôn cũng như gián tiếp gây trở ngại cho quyền

đảm bảo thiên chức làm mẹ của người phụ nữ.

Thứ ba, một số trường hợp mức cấp dưỡng quá thấp. Tại sao lại có

những mức cấp dưỡng thấp một cách kỳ cục và bất hợp lý so với mặt bằng

cuộc sống đến vậy? Nghiên cứu quy định của luật cho thấy mức cấp dưỡng cho

con do cha mẹ thỏa thuận và nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu tòa giải

quyết. Cũng về vấn đề này, Khoản 2 Điều 16 của Nghị định 70/2001/NĐ-CP

ngày 3/10/2001 quy định chi tiết thi hành Luật Hôn nhân – Gia đình quy định,

nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng được xác định căn cứ vào vào

mức sinh hoạt trung bình tại địa phương nơi người được cấp dưỡng cư trú, bao

gồm các chi phí thông thường cần thiết về ăn, ở, mặc, học, khám chữa

bệnh...Có thể thấy, quy định của tòa án về mức cấp dưỡng là căn cứ vào mức

thu nhập, giá cả thị trường tại thời điểm xét xử vụ án. Mà hầu hết các vụ án ly

hôn, con cái còn ở lứa tuổi rất nhỏ, phải 14-16 năm sau mới đủ 18 tuổi. Trong

quãng thời gian dài đó, cuộc sống có nhiều biến động mà mức cấp dưỡng lại

bất di bất dịch nên đã trở thành gánh nặng cho những người trực tiếp nuôi con.

Thứ tư, một quy định nữa của pháp luật là khi người có nghĩa vụ cấp

dưỡng không tự nguyện thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng thì cơ quan thi hành án

phối hợp với cơ quan, tổ chức trực tiếp trả tiền lương, tiền công lao động cho

người có nghĩa vụ cấp dưỡng phải thực hiện việc khấu trừ khoản cấp dưỡng

để chuyển trả cho người được cấp dưỡng .Thế những trên thực tế, có những

trường hợp theo đơn yêu cầu của người trực tiếp nuôi con, chấp hành viên đã

phải đi năm lần bảy lượt đến cơ quan, tổ chức nơi người có nghĩa vụ cấp

dưỡng đang công tác nhưng hầu như lần nào cũng nhận được sự từ chối vì

cho rằng đó không phải là nghĩa vụ của họ. Nhưng, trên thực tế chủ yếu là do

họ ngại va chạm, nhất là khi người có nghĩa vụ cấp dưỡng lại là những người

có máu mặt trong cơ quan.

53

Từ những bất cập trên có thể thấy, các quy định về cấp dưỡng vẫn còn

rất chung chung, thiếu cụ thể. Điều này khiến cho tòa án khi phán xử chỉ còn

biết căn cứ và điều kiện thực tế cụ thể của từng trường hợp. Nhưng cũng

chính vì lý do đó mà mức cấp dưỡng mỗi nơi, mỗi vẻ. Mặt khác, việc thiếu

các chế tài cứng rắn hơn để ràng buộc những người có nghĩa vụ cấp dưỡng

phải thực hiện nghĩa vụ của mình cũng như cơ quan, tổ chức nơi người đó

công tác phải có nghĩa vụ hỗ trợ cơ quan tư pháp thực hiện cũng là một cản

trở không nhỏ.

2.2.4. Về thực hiện quyền cấp dưỡng

Hiện nay, Luật HN &GĐ 2014 mới ban hành vẫn chưa có văn bản

hướng dẫn thi hành. Theo quy định tại điều 115 LHN&GĐ 2014 quy định thì

“sự khó khăn túng thiếu” của 1 bên mà có lý do chính đáng là cơ sở để tòa án

quyết định nghĩa vụ cấp dưỡng của vợ và chồng khi ly hôn. Vấn đề khó cả về

lý luận và thực tế là “sự khó khăn, túng thiếu” của một người là dựa vào tiêu

chí nào để đánh giá và khi nào thì được coi là có lý do cính đáng. Qua quá

trình thu thập thông tin và tài liệu tham khảo, cá nhân tôi tin rằng, tòa án cần

phải căn cứ vào những yếu tố sau:

* Khả năng lao động của người có yêu cầu cấp dưỡng:

Cần xem xét tới độ tuổi và tình trạng sức khỏe của họ:Nếu người được

cấp dưỡng là người già yếu hoặc ốm đau bệnh tật nên hạn chế hoặc mất khả

năng lao động làm cho họ không có thu nhập hoặc do không có tài sản nên rơi

vào tình trạng khó khăn thì nên được cấp dưỡng. Xét người có yêu cầu cấp

dưỡng có đang làm nghĩa vụ của cha hoặc mẹ đối với con sau ly hôn hay

không: Khi vợ chồng đã ly hôn, nếu bên nhận nghĩa vụ nuôi dưỡng, chăm sóc,

giáo dục con (chưa thành niên hoặc không có khả năng lao động) có yêu cầu

được cấp dưỡng thì cũng có thể xem đây là căn cứ hợp lý để quyết định cho

họ được cấp dưỡng. Thực tế cho thấy những người này luôn gặp phải khó

khăn trong cuộc sống. Và khi xem xét vấn đề này thì không cần quan tâm

54

rằng con mà người đó đang nuôi dưỡng là con chung của 2 vợ chồng hay con

riêng của bên được cấp dưỡng.

*Thu nhập thực tế, khả năng về tài sản và nhu cầu thiết yếu của người

có nhu cầu cấp dưỡng:

Khi xét vè thu nhập thực tế cần xét đến các khoản thu nhập thường

xuyên và không thường xuyên. Khi xét khả năng về tài sản cần xem khối tài

sản thuộc sở hữu của người đó. Khi xét nhu cầu thiết yếu cần xét chi phí cho

mức sinh hoạt trung bình của người đó tại địa phương. Bên cạnh đó, cần kết

hợp xét khả năng lao động như đã nói trên.

* Khả năng người có nhu cầu cấp dưỡng có thể tìm việc làm tạo thu

nhập: Trong thực tế nhiều người có sức khỏe, khả năng lao động tốt nhưng

không có trình độ nên ít đươc tuyển dụng.Cũng có trường hợp trong thời kỳ

hôn nhân, một bên thu nhập cao và một bên thu nhập thấp. Bên thu nhập cao

yêu cầu bên kia nghỉ việc để lo toan mọi việc trong nhà. Đến khi ly hôn,

người này không có cơ hội tìm lại việc làm và cuộc sống của họ không được

bảo đảm. Vậy thì yêu cầu được cấp dưỡng của họ cũng đáng được xem xét.2.

Về phía người cấp dưỡng:

* Nghĩa vụ cấp dưỡng chỉ đặt ra khi một bên gặp hoàn cảnh khó khăn

và một bên có đủ điều kiện cấp dưỡng. Vì vậy vấn đề quan trọng nữa là đánh

giá khả năng cấp dưỡng của bên kia.

Cấp dưỡng giữa vợ và chồng khi ly hôn được quy định là người được

cấp dưỡng phải là người có khó khăn, túng thiếu và bản thân họ phải có yêu

cầu và yêu cầu đó phải có lý do chính đáng...Thế nhưng, trên thực tế điều luật

này cũng không được thực hiện vì lý do đương sự không biết có quy định như

vậy hoặc biết, có yêu cầu nhưng bên kia chỉ đồng ý cấp dưỡng nuôi con. Đây

cũng là một điều luật khó thực hiện vì thiếu chế tài ràng buộc.

Nhiều trường hợp do tâm lý bất cần sauly hôn, dù túng quẫn hay rơi

vào hoàn cảnh khó khăn về kinh tế những người phụ nữ vẫn không yêu cầu

55

ngừơi chồng cấp dưỡng sau ly hôn. Vì vậy, vô tình bỏ qua quyền được cấp

dưỡng của chính bản thân mình.

Có một số trường hợp, có cấp dưỡng từ chồng nhưng rất thấp. Hoặc có

trường hợp người chồng sau khi ly hôn một thời gian cũng không có tài sản

để nuôi sống chính bản thân,do đó, trường hợp này người chồng sẽ được

chấm dứt nghĩa vụ cấp dưỡng. Vì vậy, làm ảnh hưởng đến đời sống của ngừoi

phụ nữ khi ly hôn.

2.2.5. Về thực hiện quyền lưu cư

Nhà ở đối với nhiều gia đình là tài sản có giá trị lớn, là nơi ở của cả gia

đình trước khi ly hôn do đó việc phân chia nhà ở ảnh hưởng rất lớn đến quyền

lợi của vợ, chồng và các thành viên khác sống chung với gia đình.

Theo quy định tại Điều 63 Luật HN&GĐ năm 2014 thì khi nhà ở thuộc

sở hữu riêng của một bên vợ hoặc chồng đã được đem vào sử dụng chung khi

ly hôn nhà ở đó cũng thuộc sở hữu riêng của chủ sở hữu nhà trừ trường hợp

hai bên có thỏa thuận khác. Đây là quy định cụ thể hóa từ nguyên tắc chia tài

sản tại khoản 4 Điều 59 Luật HN&GĐ năm 2014. “Thông thường khi kết hôn,

nếu một trong hai bên đã có nhà thuộc sở hữu riêng của người đó thì bên kia

về sống chung”[35]. Quy định này khuyến khích vợ chồng có nơi cư trú

chung, phù hợp với phong tục tập quán Việt Nam. Khi ly hôn tài sản riêng của

bên nào thì thuộc quyền sở hữu của bên đó. Trong trường hợp, vợ hoặc chồng

không sở hữu nhà có khó khăn và không tìm chỗ ở mới được mặc dù đã cố

gắng hết sức thì được quyền lưu cư lại nhà của bên kia trong thời gian sáu

tháng kể từ ngày quan hệ hôn nhân chấm dứt. Đây là quy định mới thể hiện

tính nhân đạo của Nhà nước ta khi bảo vệ quyền lợi cho người ra đi.

Trên thực tế nhiều trường hợp sau ly hôn, thậm chí trong quá trình ly

hôn người phụ nữ đã phải ra khỏi nhà vì không thể chịu được cảnh bạo lực do

mâu thuẫn hoặc nguyên nhân từ phía gia đình nhà chồng. Một số trường hợp

56

khác, người phụ nữ muốn ra khỏi nhà để tự giải thoát mình khỏi bạo lực

nhưng lại không được chấp nhận bị cản trở khi thựchiện.

2.3. Nhận xét chung về quyền của phụ nữ khi ly hôn theo pháp luật

Việt Nam hiện nay

2.3.1. Ưu điểm

2.3.1.1. Quyền nhân thân

Để đảm bảo thực hiện đúng đắn, đầy đủ chế độ HN&GĐ tiến bộ, tuân

thủ Hiến pháp, Luật HN&GĐ năm 2014 đã ban hành nhiều quy định đảm bảo

vấn đề này trong đó có các quy định về quyền nhân thân của phụ nữ khi ly

hôn. Những quy định này góp phần ngăn chặn, hạn chế và từng bước xóa bỏ

những tàn tích của chế độ HN&GĐ phong kiến lạc hậu, củng cố chế độ

HN&GĐ mới, tiến bộ hơn. Trong xã hội phong kiến, người phụ nữ không

được coi trọng, bảo vệ; pháp luật chịu ảnh hưởng của tư tưởng nho giáo với

các tư tưởng: phụ quyền, gia trưởng, trọng nam, khinh nữ… đã làm cho quyền

lợi của người phụ nữ trong gia đình không được bảo hộ. Người phụ nữ phụ

thuộc vào chồng, con trai trong gia đình, không có quyền quyết định những

vấn đề liên quan đến tài sản, quyền thừa kế tài sản của chồng bị hạn chế…

Hiện nay, quyền phụ nữ được ghi nhận và bình đẳng. Luật HN&GĐ

năm 2014 thừa nhận quyền bình đẳng của người phụ nữ trong trong quan

hệ nhân thân với người chồng trong quan hệ pháp luật ly hôn. Các quyền cơ

bản về nhân thân của người phụ nữ khi ly hôn - quyền tài sản gắn với nhân

thân ngày càng được đảm bảo.

2.3.1.2.Quyền tài sản

Thứ nhất, các quy định về việc chia tài sản chung của vợ chồng khi ly

hôn đã góp phần củng cố chế độ HN&GĐ. Ở nước ta, chế độ HN&GĐ luôn

được bảo hộ. Hôn nhân dựa trên nguyên tắc tự nguyện, tiến bộ, một vợ, một

chồng, vợ chồng bình đẳng. Vợ, chồng bình đẳng với nhau về quyền, nghĩa

vụ trong việc tạo lập, chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung; không

57

phân biệt giữa lao động trong gia đình và lao động có thu nhập [35, khoản

1 điều 29]. Khi ly hôn, về nguyên tắc tài sản chung của vợ chồng được chia

đôi nhưng có tính đến các yếu tố: hoàn cảnh gia đình của vợ, chồng; công

sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài

sản chung…[35, khoản 2 Điều 59]. Như vậy, các quy định này đã thể

hiện quyền bình đẳng của người vợ trong quan hệ tài sản với chồng trong

vấn đề chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn.

Thứ hai, phân chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn, …[35, điểm

c khoản 2 Điều 59]. Vợ, chồng đang thực hiện hoạt động sản xuất, kinh

doanh liên quan đến tài sản chung có quyền được nhận lại tài sản đó và phải

thanh toán cho bên kia phần giá trị tài sản chênh lệch mà họ được hưởng,

trường thợp pháp luật về kinh doanh có quy định khác…[35, điều 64].

Thứ ba, việc thừa nhận chế độ tài sản theo thỏa thuận góp phần hạn

chế các tranh chấp kéo dài khi chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn,

thể hiện sự đối mới trong tư duy lập pháp của các nhà làm luật. Luật

HN&GĐ nói riêng và pháp luật Việt Nam nói chung đã có những thay đổi

trong tư duy xây dựng pháp luật ngày càng phù hợp với nhu cầu pháp lý

thực tiễn và truyền thống pháp lý trên thế giới.

Bốn là, bên cạnh tài sản chung tài sản riêng thì việc xác định nợ riêng

nợ chung của vợ, chồng cũng được quy định rất cụ thể.

ài sản chung của vợ chồng.

58

Theo Điều 37 , vợ, chồ

“1. Nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do vợ chồng cùng thỏa thuận xác

lập, nghĩa vụ bồi thường thiệt hại mà theo quy định của pháp luật vợ chồng

cùng phải chịu trách nhiệm;

2. Nghĩa vụ do vợ hoặc chồng thực hiện nhằm đáp ứng nhu cầu thiết

yếu của gia đình;

3. Nghĩa vụ phát sinh từ việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản

chung;

4. Nghĩa vụ phát sinh từ việc sử dụng tài sản riêng để duy trì, phát triển

khối tài sản chung hoặc để tạo ra nguồn thu nhập chủ yếu của gia đình;

5. Nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do con gây ra mà theo quy định

của Bộ luật dân sự thì cha mẹ phải bồi thường;

6. Nghĩa vụ khác theo quy định của các luật có liên quan”[35].

ợ, chồng chịu trách nhiệm liên

đới về các nghĩa vụ với giao dịch do một bên thực hiện ứng nhu cầu

thiết yếu của gia đình hoặc giao dịch khác phù hợp với quy định về đại diện

ại diện giữa vợ, chồng tại các Điều 24, 25 và 26 củ

trong quan hệ kinh doanh….

Tuy nhiên, vợ, chồ

ủa Luậ

2. Không phát sinh từ việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung

3. Không để ển khối tài sản chung hoặc để tạo

ra nguồn thu nhập chủ yếu của gia đình;

59

ụ bồi thường thiệt hại do con gây ra theo

5. Không phải thuộc trường hợp đại diện giữa vợ và chồng theo quy

định tại Điều 24, 25 và 26 của " [35].

ợc dùng tài sản chung của vợ chồng để thanh toán cho

những khoản nợ

2015 ự có quyền, nghĩa vụ chủ động thu thập, giao nộp

chứng cứ cho Tòa án, chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ

ứng

minh được việc vay tiền để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình như: Ăn ở,

học hành, chữa bệnh… thì Tòa án có thể quyết đị ợ chồ

ng có trách nhiệm trong việc trả nợ.

Năm là, Một trong những ưu điểm của Luật HN & GĐ năm 2014 thể

hiện tính nhân văn của phụ nữ đó là công việc nội trợ được coi là có thu nhập.

Trước nay việc người vợ hoặc chồng ở nhà nội trợ, chăm lo con cái thường bị

xem nhẹ và không được coi như là một công việc thực sự. Do vậy khi cuộc

sống hôn nhân không còn “cơm lành, canh ngọt” hay thậm chí là ly hôn thì

quyền lợi của những người phụ nữ thường bị thiệt thòi.

Tại Khoản 2, Điều 16, Luật HN & GĐ năm 2014 quy định như

sau: “Việc giải quyết quan hệ tài sản phải đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp

của phụ nữ và con; công việc nội trợ và công việc khác có liên quan để duy

trì đời sống chung được coi như lao động có thu nhập”[35].

Công việc nội trợ là công việc chung các thành viên trong gia đình,

mang tính cộng đồng cao, tích hợp các yếu tố gia đình, nhà trường và xã hội,

công việc có thu nhập. Người thực hiện nhiều công việc nội trợ, công việc gia

đình là người gần gũi, thường xuyên nuôi dạy con từ chuyện tập ăn, tập nói,

60

tập đi… Đến khi đứa trẻ đủ tuổi để đi thì những người thân trong gia đình có

thể đưa đến trường, đón về nhà. Tuy nhiên do thời gian công việc, vai trò

chính trong việc đưa đón, giáo dục con vẫn là người thường xuyên thực hiện

công việc nội trợ (thường là người vợ trong gia đình). Người nội trợ chịu

trách nhiệm về sức khỏe và dinh dưỡng của các thành viên trong gia đình, họ

có nhiều việc như: quản lý, cân nhắc về thu chi, nấu ăn, lập thực đơn ngày,

tuần, tiếp khách, giặt quần áo, dọn vệ sinh nhà cửa,…

Từ phân tích trên có thể thấy công việc nội trợ biểu hiện rất rộng như:

duy trì, phát triển kinh tế gia đình, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con,

phụng dưỡng ông bà, cha mẹ ầ

ều 29 Luật Hôn nhân

và gia đình 2014 có quy định: “Vợ, chồng bình đẳng với nhau về quyền,

nghĩa vụ trong việc tạo lập, chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung;

không phân biệt giữa lao động trong gia đình và lao động có thu nhập”[35].

Công việc nội trợ tạo ra nhiều sản phẩm vật chất, tinh thần cho các thành viên

trong gia đình bảo đảm duy trì cuộc sống và hạnh phúc gia đình.

Có thể khẳng định, từ thực tiễn xã hội với những quy định về công việc

nội trợ, lao động trong gia đình của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 đã

đáp ứng kịp thời các yêu cầu khách quan của đời sống hôn nhân và gia đình

trong tình hình mới, bảo đảm thực hiện tốt hơn quyền con người, quyền công

dân được quy định trong Hiến pháp năm 2013.

Quy định mới này bảo đảm quyền bình đẳng giữa vợ và chồng khi ly

hôn, bảo vệ quyền lợi của những người phải từ bỏ công việc xã hội của mình

thực hiện công việc nội trợ, dù họ không tạo ra thu nhập trực tiếp nhưng công

việc này đóng góp một phần không nhỏ trọng việc làm ra kinh tế gia

đình Điểm mới đáng lưu ý trong luật sửa đổi lần này là những quy định về

giải quyết quan hệ tài sản phải đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của phụ nữ

và con. Luật mới chú trọng bảo vệ quyền và lợi ích của người làm công việc

nội trợ (đa phần là nữ giới) nên quyền lợi các bên được bảo đảm.

61

2.3.1.3. Quyền đảm bảo thiên chức làm mẹ

Pháp luật Việt Nam về quyền của phụ nữ khi ly hôn, đặc biệt quyền

được bảo đảm thiên chức làm mẹ - quyền quan trọng nhất đối với phụ nữ khi

ly hôn ngày càng được hoàn thiện đã tạo cơ sở pháp lý cần thiết để đảm bảo

tốt lợi ích của người phụ nữ nói chung và người phụ nữ khi ly hôn nói riêng.

Quyền lợi của người phụ nữ được đảm bảo về mặt pháp lý ngày càng hoàn

thiện, tạo cơ chế cẩn thiết để bảo đảm tốt quyền làm mẹ của người phụ nữ

khi ly hôn. So với thời kỳ trước, Người phụ nữ khi ly hôn được tạo điều kiện

tốt hơn về mặt thời gian và thu nhập. Theo quy định của pháp luật, người lao

động được tiếp cận với nhiều quyền lợi hơn, với quy định tương đối linh

hoạt đã bảo đảm cho người phụ nữ có điều kiện để chuyên tâm cho việc sinh

con và nuôi con. Trong quá trình thực hiện, nhìn chung nhiều quyền lợi của

người phụ nữ khi ly hôn đều được các gia đình, cơ quan, tổ chức, ban ngành

thực hiện tương đối kịp thời và nghiêm túc; công tác tuyên truyền ngày càng

có hiệu quả đảm bảo cho LĐN tiếp cận dễ dàng hơn với các thông tin liên

quan đến quyền lợi của mình.

Bên cạnh những tiến bộ nhất định trong việc chăm lo đời sống cho

người phụ nữ khi ly hôn, đảm bảo tốt quyền làm mẹ thiêng liêng, thực tiễn

thi hành đã có những kết quả bước đầu khiến cho quyền làm mẹ của người

phụ nữ khi ly hôn được đảm bảo

2.3.1.4. Quyền lưu cư

Luật HN&GĐ năm 2014 không chỉ đảm bảo quyền, lợi ích chính đáng

của vợ; bảo vệ quyền lợi của con chưa thành niên, con đã thành niên nhưng

mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có

tài sản để tự nuôi mình mà còn bảo đảm các quan hệ xã hội khác được ổn

định, các hoạt động kinh tế, kinh doanh của vợ chồng được duy trì, bảo

đảm sau khi chia tài sản chung của vợ chồng các quan hệ này không bị xáo

trộn, vợ, chồng sau khi chia tài sản chung cuộc sống của họ vẫn được đảm

62

bảo. Điều này thể hiện luật quy định rõ nguyên tắc khi chia tài sản chung của

vợ chồng, đặc biệt là quy định lưu cư đã giúp bảo vệ lợi ích chính đáng của

người phụ nữ khi ly hôn để có điều kiện tối thiểu để tiếp tục sinh sống

trong thời gian nhấ định sau ly hôn.

2.3.2. Hạn chế

2.3.2.1. Quyền nhân thân

Bên cạnh những thành tựu đạt được trong việc bảo vệ quyền của

người phụ nữ trong quan hệ nhân thân giữa vợ và chồng thì vẫn còn nhiều

bất cập hạn chế cũng như khó khăn, vướng mắc trong thi hành pháp luật dẫn

đến ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của người phụ nữ. Thực tế, chúng ta có

* Tình trạng bạo lực gia đình còn tồn tại, thậm chí có trường hợp

thể nhìn nhận thông qua các vấn đề như sau:

nghiêm trọng

Hiện nay quyền được thương yêu, chăm sóc và quý trọng của người

vợ vẫn còn bị xâm phạm. Tình trạng bạo lực được thể hiện qua tỷ lệ người

vợ có chồng bị chồng gây các hành vi bạo lực thể xác khác nhau và tỷ lệ các

hành vi bạo lực tình dục cụ thể do chồng gây ra theo sự trả lời của phụ nữ

* Tình trạng đứng tên trên giấy tờ chứng nhận quyền sử dụng đất,

vẫn còn tồn tại, thậm chí có trường hợp nghiêm trọng.

quyền sở hữu tài sản

Trong thực tiễn cuộc sống hiện nay, mặc dù nguyên tắc bình đẳng nam

nữ trong gia đình và các quyền cơ bản của người phụ nữ trong gia đình được

đảm bảo bởi hệ thống pháp luật, nhưng trên thực tế trong lĩnh vực đứng tên

giấy sở hữu, quyền sử dụng một số tài sản chưa thực sự được bảo vệ hợp lý,

người phụ nữ chưa được tôn trọng cao, chưa được đảm bảo quyền tự quyết,

bình đẳng của mình trong việc đại diện chồng tham gia các giao dịch dân sự,

xét dưới góc độ bình đẳng giới.

63

Việc đảm bảo quyền và lợi ích của người vợ trên thực tế vẫn còn gặp

nhiều khó khăn và hạn chế khi ly hôn. Vấn đề này có nguyên nhân từ chính

hành vi bạo lực gia đình, mà chủ yếu là từ người chồng.

Nhiều trường hợp chưa ly hôn người phụ nữ đã phải ra khỏi nhà vì

không thể chịu được cảnh bạo lực do mâu thuẫn hoặc nguyên nhân từ phía

gia đình nhà chồng. Một số trường hợp khác, người phụ nữ muốn ra khỏi

nhà để tự giải thoát mình khỏi bạo lực nhưng lại không được chấp nhận bị

cản trở khi thực hiện.

2.3.2.2. Quyền tài sản

Việc xác định công sức đóng góp của vợ chồng đối với khối tài sản

chung trong vụ án hôn nhân và gia đình là vấn đề khó khăn, phức tạp. Cho

đến nay, chưa có văn bản hướng dẫn nào của cơ quan nhà nước có thẩm

quyền hướng dẫn trường hợp nào tính công sức, trường hợp nào không được

tính công sức và việc định lượng công sức như thế nào cho hợp lý.

Luật hôn nhân và gia đình không quy định cụ thể và các văn bản hướng

dẫn thi hành cũng không có bất kỳ quy định nào hướng dẫn về thời điểm xác

định khối tài sản riêng của vợ chồng. Do đó, có nhiều cách hiểu khác nhau về

thời điểm “có” tài sản.

Luật HN&GĐ năm 2014 đã có định nghĩa tài sản chung của vợ chồng

theo phương pháp liệt kê. Đây là vấn đề cơ bản cần phải xác định khi có yêu

cầu phân chia tài sản chung của vợ chồng. Việc xác định chính xác tài sản

chung của vợ chồng là cơ sở, điều kiện tiên quyết để phân chia tài sản

chung của vợ chồng được đúng đắn.

2.3.2.3. Quyền cấp dưỡng

Ngoài quy định cấp dưỡng cho con, Luật Hôn nhân và Gia đình còn có

quy định về nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ và chồng sau khi ly hôn (Điều 115).

Tuy nhiên, khác với việc cấp dưỡng nuôi con, cấp dưỡng giữa vợ, chồng khi

ly hôn được quy định chặt chẽ là người được cấp dưỡng phải là người có khó

64

khăn, túng thiếu và bản thân họ phải có yêu cầu và yêu cầu đó phải có lý do

chính đáng… Thế nhưng trên thực tế, quy định này cũng không được thực

hiện vì lý do đương sự không biết có quy định như vậy hoặc biết có yêu cầu

nhưng bên kia chỉ đồng ý cấp dưỡng nuôi con chứ không cấp dưỡng cho vợ

hoặc chồng. Đây cũng là quy định khó thực hiện thì thiếu chế tài ràng buộc.

Từ những bất cập trên có thể thấy, các quy định về cấp dưỡng vẫn còn

rất chung chung, thiếu cụ thể. Điều này khiến cho tòa án khi phán xét chỉ còn

biết căn cứ và điều kiện thực tế cụ thể của từng trường hợp. Nhưng cũng chính

vì lý do đó mà mức cấp dưỡng mỗi nơi mỗi khác nhau. Mặc khác, việc thiếu

các chế tài cứng rắn hơn để ràng buộc những người có nghĩa vụ cấp dưỡng

phải thực hiện nghĩa vụ của mình cũng như cơ quan, tổ chức nơi người đó

công tác phải có nghĩa vụ hỗ trợ cơ quan tư pháp thực hiện cũng là một cản

trở không nhỏ, biến cấp dưỡng nuôi con thực sự trở thành “món nợ khó đòi”.

2.3.3. Nguyên nhân của hạn chế

mặt, tuy nhiên trong quá trình thực hiện lại xuất hiện nhiều vấn đề nổi cộm.

Điều này xuất phát từ những nguyên nhân cơ bản sau:

Thứ nhất, về chính sách, quy định của pháp luật chưa tạo được cơ chế

khuyến khích để thực hiện quyền của phụ nữ khi ly hôn.

Pháp luật bảo đảm quyền của phụ nữ khi ly hôn tương đối tốt đồng

nghĩa với việc những nghĩa vụ xã hội, của người chồng khi ly hôn cũng nhân

lên. Do đó, những quy định ưu tiên, ưu đãi mà pháp luật trao cho người phụ

nữ dưới góc nhìn của xã hội, của người chồng khi ly hôn lại có vẻ trở thành

gánh nặng nhấ định.

Trong khi gánh nặng về nghĩa vụ lớn thì những quy định mang tính

chất ưu đãi, khuyến khích không mấy “mặn mà”.

65

Mặt khác, các quy định về thủ tục trên thực tế đối với những người ở

khu vực nông thôn còn là rắc rối, phiền hà nên nhiều khi người phụ nữ khi ly

hôn cũng e ngại khiến cho chính sách không thực sự đi vào cuộc sống.

Thứ hai, các biện pháp bảo đảm thực hiện quy định pháp luật về quyền

của phụ nữ khi ly hôn còn yếu.

Mặc dù pháp luật ban hành những nội dung về quyền của phụ nữ khi

ly hôn đã bảo đảm dường như tối đa mọi mặt của phụ nữ khi ly hôn, tuy

nhiên trên thực tế nhiều quy định không được áp dụng hoặc thường xuyên bị

vi phạm. Nguyên nhân chính của tình trạng này là cơ chế bảo đảm thi hành

chưa cao, còn bộc lộ nhiều vướng mắc. Cụ thể:

Về hoạt động thanh tra, kiểm tra: Không thể phủ nhận vai trò của hoạt

động thanh tra, kiểm tra trong việc đảm bảo thi hành luật, song hoạt động

này trên thực tế chưa thực sự phát huy được hiệu quả để tạo được cơ chế đủ

mạnh. Nhiều hành vi vi phạm tồn tại thường xuyên và rõ ràng nhưng phải

đến khi báo chí vào cuộc thanh tra mới bắt đầu triển khai. Kết quả hàng năm

còn ít, chưa phát hiện và xử lý hết các trường hợp vi phạm pháp luật, chưa

đủ sức răn đe đối với các chủ thể vi phạm quyền của phụ nữ khi ly hôn. Vì

vậy, vi phạm quyền của phụ nữ khi ly hôn vẫn tiếp tục diễn ra.

Bên cạnh hoạt động thanh tra kiểm tra chưa thực sự phát huy vai trò

của mình thì hoạt động giải quyết khiếu nại tố cáo cũng còn nhiều bất cập,

chưa đáp ứng được dưới góc độ là biện pháp bảo đảm thi hành luật. Số lượng

giải quyết khiếu nại tố cáo về các vụ việc xâm phạm quyền của phụ nữ khi ly

hôn còn quá ít so với vi phạm chưa thực sự tạo được lòng tin khi quyền lợi

của mình không được đáp ứng.

Xử phạt khi có vi phạm là biện pháp bảo đảm thi hành luật có tính

chất răn đe, đánh thẳng vào quyền lợi của chủ thể không tuân thủ quy định

của pháp luật. Chính vì vậy, nếu hậu quả pháp lý phải chịu cao hơn so với lợi

ích được hưởng các chủ thể sẽ hạn chế tối đa việc xâm phạm quyền của phụ

66

nữ khi ly hôn. Tuy nhiên hiện nay chế tài xử lý trong trường hợp này còn

tương đối nhẹ, chưa tạo được áp lực đủ lớn để các chủ thể khác cân nhắc khi

thực hiện hành vi vi phạm. Trong pháp luật của một số quốc gia, vi phạm

quyền làm mẹ của LĐN bị coi là tội phạm. Đối với pháp luật Việt Nam, vi

phạm các quy định về quyền của phụ nữ nói chung, quyền của phụ nữ khi ly

hôn nói riêng chỉ được xác định ở mức độ vi phạm hành chính, trong khi đó

nhiều chế tài chưa đủ sức răn đe. Với mức phạt như hiện nay, xét trong lợi

ích mà NSDLĐ được hưởng khi thực hiện hành vi thì chưa đủ sức ngăn cản

việc vi phạm pháp luật về quyền của phụ nữ khi ly hôn. Bên cạnh mức phạt

tương đối nhẹ, cơ chế thanh tra, kiểm tra, giám sát, khiếu nại, tố cáo còn

nhiều yếu kém do đó nguy cơ bị phạt khi thực hiện hành vi cũng chưa cao

kéo đến hệ quả thường có tâm lý không thực sự lo sợ khi không đảm bảo chế

độ cho phụ nữ khi ly hôn.

Ngoài ra, hiện nay vẫn còn tồn tại những cán bộ có thẩm quyền trong

việc xử lý vi phạm hành chính làm việc thiếu trách nhiệm, công tư thiếu

phân minh do đó nhiều hành vi vi phạm của phụ nữ khi ly hôn dễ dàng bị bỏ

qua. Bất cứ một vấn đề gì cũng vậy, khi chế tài đủ mạnh, đủ sức răn đe thì

những hành vi vi phạm sẽ được giảm một cách đáng kể. Trong quan hệ xã

hội ở Việt N

hung mà quyền của phụ nữ khi

ly hôn nói riêng.

Thứ ba, nhận thức về pháp luật của các chủ thể còn hạn chế.

Việc bảo đảm quyền của phụ nữ khi ly hôn sẽ rất khó khăn nếu bản

thân người phụ nữ không biết nội dung quyền của mình được hưởng như thế

nào. Do đó, ngay cả khi bị vi phạm, phụ nữ khi ly hôn cũng không lên tiếng

vì không nhận thức được quyền lợi của mình

Bản thân người phụ nữ, còn nhiều người thiếu tri thức về pháp luật và

67

chưa có ý thức sử dụng pháp luật để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của

mình. Bên cạnh hiểu biết pháp luật còn hạn chế của người phụ nữ thì ý thức

tuân thủ pháp luật của người chồng, các chủ thể khác khi tha gia vào quan hệ

pháp luật ly hôn cũng là một vấn đề đáng ngại. So với nhiều quốc gia, ý thức

tuân thủ pháp luật của người dân Việt Nam thuộc diện kém.

Thứ tư, nhiều quy định của pháp luật còn làm khó người phụ nữ khi ly

hôn.

Mặc dù về mặt lý thuyết, nhiều quy định của pháp luật thực sự bảo

đảm quyền phụ nữ khi ly hôn, tuy nhiên trên thực tế khi áp dụng còn được

coi là “rất khó”

trên văn bản. Nguyên nhân bởi chính người phụ nữ muốn đòi hỏi quyền lợi

cho mình cũng rấ khó vì quy định còn mới, thiếu văn bản hướng dẫn do đó

người phụ nữ khi ly hôn không biết làm cách nào.

Song song với việc đưa ra những chế tài, Nhà Nước nên đưa ra những

chính sách khuyến khích, đảm bảo quyền lợi cho người lao động đồng thời

đơn giản hóa các thủ tục để người phụ nữ khi ly hôn dễ dàng tự đòi hỏi

quyền lợi cho chính bản thân mình.

68

Tiểu kết chƣơng 2

Qua chương 2, luận văn đã làm rõ thực trạng quy địnhpháp luật về

quyền của người phụ nữ khi ly hôn theo pháp luật Việt Nam, đồng thời có sự

so sánh những điểm mới, tiến bộ so với pháp luật hôn nhân gia đình cũ. Nhìn

chung thì pháp luật hôn nhân & gia đình quy định tương đối hoàn thiện và

điều này đã tạo cơ sở pháp lý cần thiết để đảm bảo tốt lợi ích của người phụ

nữ nói chung và quyền của phụ nữ khi ly hôn nói riêng.

So với thời kỳ trước, quyền của phụ nữ khi ly hôn được tạo điều kiện

tốt hơn để đảm bảo quyền lợi của mình nhưng trên thực tế vấn đề thực hiện

cũng còn nhiều hạn chế. Qua việc phân tích thực trạng việc thực hiện pháp

luật trên thực tế với những thành công, kết quả đạt được, luận văn cũng chỉ ra

còn nhiều hạn chế trong vấn đề đảm bảo quyền phụ nữ khi ly hôn trong một

số phương diện.

Từ những phân tích về quy định pháp luật về quyền của phụ nữ khi ly

hôn cũng thực trạng thực hiện quyền của phụ nẽ khi ly hôn, tác giả lấy đó làm

tiền đề để đưa ra những giải pháp nhằm đảm bảo thực hiện quyền của phụ nữ

khi ly hôn tại chương 3.

69

Chƣơng 3

QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUYỀN CỦA PHỤ NỮ

KHI LY HÔN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

3.1. Quan điểm hoàn thiện quyền của phụ nữ khi ly hôn

3.1.1. Hoàn thiện quyền của phụ nữ khi ly hôn phải xuất phát từ yêu

cầu xây dựng nhà nước pháp quyền và quá trình dân chủ hoá đời sống nhà

nước, đời sống xã hội ở nước ta hiện nay

Điều 2 Hiến pháp năm 2013 quy định: ”Nhà nước Cộng hòa xã hội

chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân

dân, do Nhân dân, vì Nhân dân” [34].

Như vậy, bằng việc bảo đảm về mặt hiến định, chúng ta đang tạo ra

những nền tảng cần thiết để xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN. Tuy

nhiên, việc xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam là một tiến trình lâu

dài và có tính đặc thù. Nhà nước pháp quyền phải là sự kế thừa, phát triển

của Nhà nước dân chủ nhân dân ở tầm cao mới trên cơ sở bảo tồn, phát huy

các giá trị văn hoá truyền thống.

Hạt nhân của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền là các quan hệ xã

hội chủ yếu được điều chỉnh bằng pháp luật, trong đó quan hệ HN&GĐ giữ

vị trí quan trọng, bởi gia đình là tế bào của xã hội; pháp luật giữ vị trí điều

chỉnh chủ đạo trong toàn xã hội, trong hoạt động xử sự của những chủ thể

trong xã hội. Các cơ quan nhà nước, một mặt sử dụng pháp luật để quản lý

từng ngành, từng lĩnh vực, nhưng ở mặt khác, khi tham gia các quan hệ pháp

luật thì cũng phải chịu sự điều chỉnh của pháp luật. Nói một cách khác, Nhà

nước pháp quyền là Nhà nước mà ở đó, pháp luật là ý chí của toàn thể nhân

dân, pháp luật giữ vị trí thống trị. Quản lý nhà nước bằng pháp luật là yêu

cầu khách quan của xã hội văn minh, công bằng, dân chủ; là phương pháp cơ

bản bảo đảm hiệu lực và hiệu quả quản lý của Nhà nước. Xây dựng Nhà

70

nước pháp quyền hoạt động trên cơ sở pháp luật, thực hiện quản lý tất cả các

lĩnh vực của đời sống xã hội bằng pháp luật, bảo đảm cho toàn xã hội

nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật. Trên cơ sở đó, các quyền và lợi ích hợp

pháp của công dân được bảo đảm, khắc phục sự tùy tiện, lạm quyền của các

cơ quan nhà nước, của cán bộ, công chức trong bộ máy nhà nước.

3.1.2. Hoàn thiện quyền của phụ nữ khi ly hôn phải trên cơ sở đảm

bảo quyền bình đẳng của vợ chồng trong giải quyết các vụ việc về hôn

nhân và gia đình

Trong số các quyền con người, quyền công dân thì quyền bình đẳng

của vợ chồng trong giải quyết các vụ việc về hôn nhân và gia đình là một

trong những nội dung quan trọng, cần phải được quan tâm.

Để có thể đáp ứng được yêu cầu xây dựng và hoàn thiện nhà nước

pháp quyền, đòi hỏi phải xây dựng, hoàn thiện và bảo đảm quyền bình đẳng

của vợ chồng trong giải quyết các vụ việc về hôn nhân và gia đình. Bởi, về

nguyên tắc, pháp luật là ý chí, nguyện vọng, quyền lợi và nghĩa vụ của công

dân được luật hóa, là tiếng nói của công lý và ý trí. Do đó, nếu xét về mặt

hình thức pháp lý, thì các quy định pháp luật về quyền bình đẳng của vợ

chồng trong giải quyết các vụ việc về hôn nhân và gia đình phải điều chỉnh

một cách bao quát, toàn diện các quan hệ giữa Nhà nước và đương sự; nếu

xét về mặt nội dung pháp lý, quyền bình đẳng của vợ chồng trong giải quyết

các vụ việc về hôn nhân và gia đình phải thể hiện và đáp ứng được nhu cầu

khách quan của xã hội, thúc đẩy sự phát triển kinh tế - văn hóa - chính trị -

xã hội… Về cấu trúc, pháp luật về quyền bình đẳng của vợ chồng trong giải

quyết các vụ việc về hôn nhân và gia đình phải là một thể thống nhất, chặt

chẽ về thứ bậc, trong đó Hiến pháp giữ vai trò là “Đạo luật gốc”. Về mặt luật

thực định, với việc đề cao hơn nữa trách nhiệm của Nhà nước trong công

cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam hiện nay, vai trò của

71

quyền bình đẳng của vợ chồng trong giải quyết các vụ việc về hôn nhân và

gia đình đòi hỏi phải được nâng cao và tăng cường hơn nữa.

Vì vậy, bảo đảm quyền bình đẳng của vợ chồng trong giải quyết các

vụ việc về hôn nhân và gia đình phải đảm bảo quyền tham gia tố tụng, các

đương sự phải bình đẳng với nhau trong việc thực hiện quyền và nghĩa vụ

của mình theo quy định của pháp luật.

3.1.3. Hoàn thiện quyền của phụ nữ khi ly hôn phải thể hiện được

chủ trương của Đảng, Nhà nước về cải cách tư pháp

Cùng với tiến trình đổi mới đất nước, Đảng và Nhà nước ta đang chủ

trương cải cách bộ máy nhà nước trên tất cả các lĩnh vực: Lập pháp, hành

pháp và tư pháp. Trong nhà nước pháp quyền, quyền con người, quyền công

dân được xác lập về mặt pháp lý, tạo cơ sở cho việc xây dựng một xã hội

bình đẳng và công bằng. Nhà nước pháp quyền là một nhà nước chống lại sự

lạm quyền, vi phạm quyền công dân; chống lại sự tùy tiện của công quyền

để bảo vệ quyền con người; đó cũng là nơi mà mọi mặt hoạt động của Nhà

nước đều đặt trên cơ sở pháp luật.

Tuy nhiên, cũng cần lưu ý rằng, để bảo đảm quyền bình đẳng của vợ

chồng trong giải quyết các vụ việc về hôn nhân và gia đình thì phải giải

quyết tốt mâu thuẫn giữa việc mở rộng quyền của đương sự với việc hoàn

thiện và mở rộng thẩm quyền của Tòa án. Vấn đề cần phải nhận thức hai

chiều ở đây là: Các quy định của pháp luật nhằm tôn trọng và bảo vệ bảo

đảm quyền bình đẳng của vợ chồng trong giải quyết các vụ việc về hôn nhân

và gia đình, nhưng các quy định đó cũng đồng thời phải bảo đảm rằng khi

thực hiện quyền ấy, đương sự không gây khó khăn, cản trở hoạt động xét xử

bình thường của Tòa án.

Trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước, Đảng và Nhà nước ta

luôn chủ trương thực hành chính sách đổi mới nhằm kiện toàn và nâng cao

hiệu quả hoạt động của các cơ quan nhà nước, trong đó có cơ quan tư pháp.

72

3.2. Giải pháp hoàn thiện quyền của phụ nữ khi ly hôn

3.2.1. Nhóm giải pháp về nhận thức

3.2.1.1. Nâng cao nhận thức về nội dung và vai trò quyền của phụ nữ

khi ly hôn

Có thể khẳng định rằng, không phải mọi cá nhân, cơ quan, tổ chức ở

Việt Nam hiện nay đều đã nhận thức đúng đắn về nội dung cũng như vai trò

của quyền phụ nữ khi ly hôn. Quy định về quyền của phụ nữ khi ly hôn trên

phương diện pháp luật đã khó, nhưng thực hiện trên thực tế còn khó hơn

nhiều. Vì vậy, về mặt nhận thức, cần giải quyết những vấn đề sau:

- Trước hết, cần nhận thức đầy đủ và chính xác về quyền bình đẳng vợ

chồng trong giải quyết các vụ việc về HN&GĐ. Nội dung quyền bình đẳng vợ

chồng trong giải quyết các vụ việc về HN&GĐ đã dựa vào tính khoa học, triết

lý mạch lạc về quyền con người với những luận điểm được kiểm chứng tại

mọi quốc gia và trong thực tiễn tổ chức tại Việt Nam.

- Cần xây dựng được quyết tâm chính trị cao từ phía các nhà lãnh đạo,

nhà quản lý chính trị và lãnh đạo nhà nước; trước hết là từ các cơ quan TAND

trong việc ghi nhận, tôn trọng và bảo đảm quyền phụ nữ khi ly hôn. Trên cơ

sở đó mới có thể xây dựng và hoàn thiện thể chế nhằm bảo đảm quyền phụ nữ

khi ly hôn.

- Cần tiếp tục nghiên cứu sâu hơn, xây dựng nhận thức đúng đắn hơn

và đầy đủ hơn về quyền con người nói chung, quyền bình đẳng trước pháp

luật của công dân nói riêng, trong đó có quyền phụ nữ khi ly hôn. Nếu phụ nữ

không có sự hiểu biết nhất định về pháp luật TTDS thì rất khó khăn trong việc

thực hiện quyền phụ nữ khi ly hôn để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của

chính mình trước Tòa án. Hơn nữa, BLTTDS năm 2015 đã có rất nhiều điểm

mới liên quan đến quyền bình đẳng vợ chồng trong giải quyết các vụ việc về

HN&GĐ mà đương sự có thể chưa biết hết những quy định này cũng như

chưa biết thực hiện những quy định đó như thế nào. Bên cạnh đó, thực tế vẫn

73

còn có một bộ phận người dân cố tình không chấp hành pháp luật, không hợp

tác với Tòa án, nhằm gây khó khăn cho quá trình giải quyết vụ việc HN&GĐ.

3.2.1.2. Nghiên cứu đầy đủ các yếu tố tác động đến xây dựng và hoàn

thiện quy định pháp luật về quyền của phụ nữ khi ly hôn

Quyền của phụ nữ khi ly hôn chịu sự tác động chủ yếu của các yếu tố:

Thể chế chính trị; điều kiện kinh tế - xã hội; các yếu tố về lịch sử, dân tộc,

văn hóa, đạo đức, tôn giáo, phong tục, tập quán, trình độ dân trí.... Điều này

có ý nghĩa quan trọng trong việc nghiên cứu, đánh giá và đề xuất hoàn thiện

quyền của phụ nữ khi ly hôn.

Thể chế chính trị là kim chỉ nam của pháp luật; Điều kiện kinh tế - xã

hội có vai trò bảo đảm để xây dựng, hoàn thiện và vận hành pháp luật có hiệu

quả; Các yếu tố về lịch sử, dân tộc, văn hóa, đạo đức, tôn giáo, phong tục, tập

quán.....là những yếu tố tồn tại lâu dài trong đời sống xã hội; có nhiều yếu tố

đã “ăn sâu, bén rễ”, hình thành thói quen ứng xử của người dân đối với nhau.

Một dân tộc có lịch sử văn minh, có truyền thống đạo đức, có văn hoá chính

trị, có những phong tục, tập quán tốt đẹp sẽ là môi trường thuận lợi để xây

dựng thể chế pháp lý nói chung, trong đó có quyền phụ nữ khi ly hôn. Bên

cạnh đó, trình độ mặt bằng dân trí được nâng cao cũng là yếu tố thúc đẩy

hoàn thiện và thực thi nghiêm túc quyền phụ nữ khi ly hôn.

3.2.1.3. Quán triệt đúng, đầy đủ, kịp thời nội dung và tinh thần của

Hiến pháp năm 2013 về quyền con người, quyền công dân trong việc hoàn

thiện quy định pháp luật về quyền của phụ nữ khi ly hôn

Hiến pháp năm 2013 khẳng định quyền con người, quyền công dân là

một trong những định chế quan trọng nhất. Trong thời gian tới, việc hoàn

thiện quyền bình đẳng vợ chồng trong giải quyết các vụ việc về HN&GĐ cần

phải quán triệt đầy đủ, kịp thời những nội dung, tinh thần của Hiến pháp năm

2013, đúng như Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng

(tháng 01/2016) đã nêu ra nhiệm vụ: “Lãnh đạo việc đẩy mạnh xây dựng,

74

hoàn thiện và tổ chức thực hiện hệ thống pháp luật theo các nguyên tắc được

quy định trong Hiến pháp năm 2013. Bảo đảm pháp luật vừa là công cụ để

Nhà nước quản lý xã hội, vừa là công cụ để nhân dân kiểm tra, giám sát

quyền lực nhà nước”.

3.2.2. Nhóm giải pháp hoàn thiện các quy định pháp luật về quyền

của phụ nữ khi ly hôn

3.2.2.1. Tiếp tục hoàn thiện các quy định pháp luật về quyền bình đẳng

vợ chồng trong giải quyết các vụ việc hôn nhân và gia đình

Để bảo đảm quyền bình đẳng vợ chồng trong giải quyết các vụ việc

HN& GĐ thì Nhà nước cần rà soát lại các chính sách và hệ thống pháp luật,

đặc biệt là các văn bản pháp luật về hôn nhân và gia đình để xóa bỏ những nội

dung, điều luật cản trở sự bình đẳng cũng như bảo vệ được quyền và lợi ích

của người phụ nữ nhất là trong quan hệ nhân thân, tài sản, con cái giữa vợ và

chồng. Trên cơ sở nghiên cứu, luật văn đưa ra một số đề xuất để bảo vệ tốt

hơn nữa quyền của người phụ nữ nói riêng và quyền bình đẳng vợ chồng nói

chung trong quá trình giải quyết vụ việc HN&GĐ như sau:

- Theo quy định tại Điều 104 BLTTDS năm 2015 thì một hoặc các bên

đương sự có quyền yêu cầu thực hiện việc định giá tài sản tranh chấp bằng

Hội đồng định giá (do Tòa án ra quyết định thành lập) hoặc bằng tổ chức

thẩm định giá. Tuy nhiên, trong trường hợp bên đương sự này yêu cầu định

giá tài sản bằng Hội đồng định giá, còn bên kia lại yêu cầu định giá bằng tài

sản bằng tổ chức thẩm định giá, Tòa án sẽ giải quyết mâu thuẫn này như thế

nào? Trong trường hợp giữa kết quả định giá của Hội đồng định giá và kết

quả định giá của tổ chức thẩm định giá có sự khác nhau và chênh lệch rất

lớn, Tòa án sẽ căn cứ vào kết quả định giá nào để giải quyết vụ-việc dân sự

(BLTTDS 2004; BLTTDS 2011 và BLTTDS 2015 đều quy định rằng kết

quả của 2 hình thức định giá này có giá trị pháp lý như nhau). Vì vậy, trong

trường hợp xảy ra như thế, Tòa án sử dụng kết quả định giá nào cũng sẽ ảnh

75

hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của một bên đương sự, không đảm bảo

quyền bình đẳng giữa các đương sự.

- Các đương sự có quyền yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức đang quản

lý, lưu giữ tài liệu, chứng cứ cung cấp chứng cứ nhưng BLTTDS 2015 lại

không quy định chế tài khi các chủ thể đang quản lý, lưu giữ tài liệu, chứng

cố tình không cung cấp tài liệu, chứng cứ cho đương sự (Điều 106 BLTTDS

2015). Trong khi đó, BLTTDS 2015 lại quy định rằng đối với cá nhân, cơ

quan, tổ chức không thi hành quyết định của Tòa án về việc cung cấp tài

liệu, chứng cứ, mà họ đang quản lý, lưu giữ thì có thể bị xử lý kỷ luật, xử

phạt hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự (Điều 106; 489 BLTTDS

2015). Trong thực tế, có rất nhiều trường hợp cá nhân, cơ quan, tổ chức đang

quản lý, lưu giữ tài liệu, chứng cứ đã gây khó khăn cho đương sự trong việc

thu thập chứng cứ nhưng không bị xử lý nghiêm theo các quy định vừa viện

dẫn.

- BLTTDS không quy định trách nhiệm của Thẩm phán phải giải thích

cho đương sự quyền và nghĩa vụ TTDS trước khi xét xử sơ thẩm. Đây là vấn

đề rất quan trọng bởi vì đương sự có hiểu biết đầy đủ về quyền và nghĩa vụ

của mình thì họ mới có thể thực hiện được các quyền và nghĩa vụ đó khi

tham gia TTDS, cũng như có thể bảo vệ được những quyền và lợi ích hợp

pháp của mình. Vì vậy, trong thực tiễn, đã xảy ra nhiều trường hợp đương sự

không biết hoặc không biết đầy đủ về quyền và nghĩa vụ TTDS của mình

nên họ đã không được thực hiện đầy đủ quyền của mình, thí dụ như quyền

sao chụp tài liệu, chứng cứ; quyền được biết chứng cứ do bên kia cung cấp

hoặc do Tòa án thu thập; quyền yêu cầu Tòa án xác minh, thu thập chứng cứ

khi tự mình không thể thu thập tài liệu, chứng cứ....

- Điều 269 Luật sửa đổi bổ sung Bộ luật TTDS 2011 và Điều 299 Bộ

luật TTDS 2015 quy định rằng khi nguyên đơn rút đơn khởi kiện ở giai đoạn

phúc thẩm thì Tòa án chỉ cần hỏi ý kiến của bị đơn. Tuy nhiên, nếu xảy ra

76

trường hợp trong vụ án còn có người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu

cầu độc lập mà họ vẫn giữ yêu cầu độc lập đó, không đồng ý với việc rút

đơn khởi kiện của nguyên đơn, thì luật Sửa đổi bổ sung Bộ luật TTDS 2011

và Bộ luật TTDS 2015 chưa dự liệu. Bên cạnh đó, “Bộ luật TTDS mới chỉ đề

cập đến việc rút đơn khởi kiện của nguyên đơn mà chưa có quy định về việc

bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan rút lại yêu cầu phản tố, rút lại

yêu cầu độc lập của mình hoặc nguyên đơn rút một phần yêu cầu của mình ở

giai đoạn phúc thẩm” [32, tr.134]. Việc Bộ luật TTDS không dự liệu về

những trường hợp vừa nêu, đã tạo ra sự bất bình đẳng giữa các đương sự

tham gia TTDS. Do đó, Bộ luật TTDS cần bổ sung phần quy định thành

phần đương sự trong việc dân sự (bao gồm người có yêu cầu giải quyết việc

dân sự; người bị yêu cầu giải quyết việc dân sự và người có quyền lợi, nghĩa

vụ ). Đồng thời, Bộ luật TTDS cũng cần quy định rõ hơn về quyền và nghĩa

vụ của đương sự trong việc dân sự để phù hợp với địa vị pháp lý của từng

đương sự. Các quy định này sẽ là cơ sở pháp lý để các đương sự trong việc

dân sự xác định được quyền và nghĩa vụ của mình trước pháp luật, tạo cho

họ những căn cứ pháp lý để thực hiện các quyền và nghĩa vụ TTDS trên

nguyên tắc bình đẳng.

3.2.2.2. Hoàn thiện quy định về chia tài sản chung của vợ chồng khi ly

hôn căn cứ vào công sức đóng góp

Việc xác định công sức đóng góp của vợ chồng đối với khối tài sản

chung trong vụ án hôn nhân và gia đình là vấn đề khó khăn, phức tạp. Cho

đến nay, chưa có văn bản hướng dẫn nào của cơ quan nhà nước có thẩm

quyền hướng dẫn trường hợp nào tính công sức, trường hợp nào không được

tính công sức và việc định lượng công sức như thế nào cho hợp lý. Trên cơ sở

nghiên cứu thực tiễn giải quyết các vụ án HN&GĐ, tác giả xin có một số kiến

nghị khi xem xét công sức trong vụ án HN&GĐ như sau: Cần xác định có

công sức hay không? là công sức tạo lập, phát triển tài sản; công sức giữ gìn,

77

bảo quản tài sản; hay công sức chăm sóc, nuôi dưỡng… và việc tính công sức

phải dựa vào các tiêu chí: nguồn gốc tài sản, sức lực, thời gian bảo quản, giữ

gìn; kết quả chi phí sức lực, thời gian cho việc bảo quản, giữ gìn; giá trị tài

sản. Đặc biệt, người tiến hành tố tụng áp dụng pháp luật về chia tài sản chung

của vợ chồng khi ly hôn cần ưu tiên xem xét tới yếu tố công sức đóng góp để

chia tài sản chung vợ chồng khi ly hôn đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp

của các bên. Cụ thể:

Thứ nhất, hoàn thiện quy định về thời điểm xác lập tài sản riêng của vợ

chồng

Luật hôn nhân và gia đình không quy định cụ thể và các văn bản hướng

dẫn thi hành cũng không có bất kỳ quy định nào hướng dẫn về thời điểm xác

định khối tài sản riêng của vợ chồng. Do đó, có nhiều cách hiểu khác nhau về

thời điểm “có” tài sản. Nếu áp dụng quy định của Bộ luật Dân sự để xác định

tài sản thì không đảm bảo được quyền lợi cho chủ sở hữu và không phù hợp

với căn cứ xác lập tài sản chung. Do đó, tác giả kiến nghị pháp luật cần bổ

sung quy định hướng dẫn theo hướng công nhận thời điểm xác lập tài sản

riêng là thời điểm “có” tài sản trên thực tế. Theo đó, tại khoản 1 Điều 43 Luật

HN&GĐ năm 2014 cần sửa đổi như sau: “Tài sản riêng của vợ, chồng gồm

tài sản mà mỗi người có được trên thực tế trước khi hôn nhân; tài sản được

thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân,…”[35]. Quy định

này tạo sự thống nhất trong áp dụng pháp luật và đảm bảo được quyền lợi của

vợ, chồng – chủ sở hữu tài sản khi ly hôn.

Thứ hai, hoàn thiện quy định về xác định tài sản chung của vợ chồng.

Luật HN&GĐ năm 2014 đã có định nghĩa tài sản chung của vợ chồng

theo phương pháp liệt kê. Theo đó tài sản chung của vợ chồng bao gồm: tài

sản do vợ chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh

doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác

trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp tài sản chung của vợ chồng đã được

78

phân chia trong thời kỳ hôn nhân theo quy định của Luật HN&GĐ; tài sản

mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác

mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung. Quyền sử dụng đất mà vợ chồng

có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng trừ trường hợp vợ

hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông

qua giao dịch bằng tài sản riêng [35,Khoản 1, Điều 33]. Đây là vấn đề cơ bản

cần phải xác định khi có yêu cầu phân chia tài sản chung của vợ chồng. Việc

xác định chính xác tài sản chung của vợ chồng là cơ sở, điều kiện tiên

quyết để phân chia tài sản chung của vợ chồng được đúng đắn. Vì vậy,

cần hoàn thiện các quy định của pháp luật liên quan đến việc xác định tài

sản chung của vợ chồng.

Các quy định về việc nhập tài sản riêng của vợ chồng vào tài sản chung

của vợ chồng cần phải có sự quy định rõ ràng thể thức của thỏa thuận sáp

nhập tài sản đó. Đối với những quan hệ sáp nhập tài sản riêng vào tài sản

chung trước khi Luật HN&GĐ năm 2014 có hiệu lực cũng như các quy định

khác về đăng ký tài sản, các nhà làm luật cần xây dựng các án lệ để tạo ra

những quy tắc chung giúp có căn cứ xác định tài sản chung, tài sản riêng

trong những tình huống như vậy trên căn cứ nguyên tắc suy đoán. Ví dụ như

Án lệ số 03/2016/AL được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao

thông qua ngày 06 tháng 4 năm 2016 và được công bố theo Quyết định

220/QĐ-CA ngày 06 tháng 4 năm 2016 của Chánh án Tòa án nhân dân tối

cao [2].

Đối với các tài sản có giá trị lớn bất động sản, xe ô tô… pháp luật về

đăng ký tài sản cần quy định rõ việc ghi nhận quyền sở hữu chung của các

đồng chủ sở hữu (cả vợ và chồng) nếu đó là tài sản chung. Pháp luật cần quy

định thủ tục hành chính đơn giản, thuận tiện để việc đăng ký sở hữu tài sản

được thuận lợi, nhanh chóng, tránh tâm lý do ngại thủ tục hành chính phức

nên không muốn thực hiện quyền lợi của mình trên thựctế.

79

Thứ ba, hoàn thiện quy định về giải quyết tài sản chung của vợ chồng

là quyền sử dụng đất do được bố mẹ tặng cho

Tình trạng tặng cho tài sản mà không lập thành văn bản xảy ra khá phổ

biến, để đảm bảo quyền lợi của các bên tác giả xin có một số kiến nghị như

sau:

- Cần xác định rõ nguồn gốc và quá trình sử dụng đất, xem xét QSDĐ

đó thật sự là tài sản của bố mẹ hay chỉ là thuộc sở hữu riêng của bố hoặc mẹ;

trong quá trình sử dụng mảnh đất đó, vợ chồng có công sức đóng góp gì để

tôn tạo và phát triển giá trị sử dụng mảnh đất đó hay không?

- Cần xác định ý chí của bố mẹ trong việc tặng cho này thông qua việc

xem xét hình thức tặng cho một cách linh động theo hướng:

+ Nếu QSDĐ đó là do bố mẹ nhận chuyển nhượng hoặc có nguồn gốc

là của bố mẹ nhưng vợ chồng người con đã sử dụng trong một thời gian dài,

được bố mẹ đồng ý cho vợ chồng đứng tên trong sổ địa chính hoặc bố mẹ biết

việc vợ chồng người con đứng tên nhưng không phản đối (không phụ thuộc

vào việc được cấp giấy chứng nhận QSDĐ hay chưa), chỉ đến khi ly hôn, bố

mẹ mới phủ nhận việc tặng cho ấy, thì bố mẹ phải đưa ra được chứng cứ

chứng minh, nếu không QSDĐ sẽ thuộc sở hữu của vợ chồng người con.

Ngược lại, nếu như bố mẹ đăng ký kê khai và đứng tên trong giấy chứng

nhận QSDĐ thì không thể chỉ dựa vào căn cứ thời gian sử dụng lâu dài của vợ

chồng người con, kể cả trường hợp người con đã xây nhà kiên cố trên đất để

xác định đây là QSDĐ của người con mà cần tham khảo ý chí của bố mẹ về

việc tặng cho này hoặc ý kiến của những nhân chứng hoặc dùng những chứng

cứ chứng minh khác để xácđịnh.

+ Nếu QSDĐ do bố mẹ và vợ chồng người con cùng bỏ tiền ra mua,

hợp đồng chỉ có tên vợ chồng người con và vợ chồng này cũng đã được cấp

giấy chứng nhận QSDĐ, xây nhà kiên cố, sử dụng liên tục. Sau đó bố mẹ mất,

một bên chồng hoặc vợ không có ý kiến gì, chỉ đến lúc ly hôn mới cho rằng

80

đó là tiền bố mẹ cho vay nay đòi lại hoặc bố mẹ mua nhưng nhờ vợ chồng

đứng tên dùm thì Tòa án không chấp nhận những lập luận đó mà phải công

nhận QSDĐ trong trường hợp này thuộc sở hữu chung của vợ chồng. Tuy

nhiên, nếu đến thời điểm vợ chồng ly hôn, bố mẹ khẳng định rằng trước đây

vợ chồng có vay tiền bố mẹ để nhận chuyển nhượng QSDĐ thì vợ chồng lúc

bấy giờ phải có nghĩa vụ liên đới thanh toán số tiền đó cho bố mẹ.

- QSDĐ có nguồn gốc là của bố mẹ nhận chuyển nhượng rồi cùng vợ

chồng người con xây nhà ở chung thì Tòa nên công nhận QSDĐ thuộc sở hữu

của bố mẹ, chỉ có phần nhà trên đất mới thuộc sở hữu chung của bố mẹ và vợ

chồng người con, từ đó ngôi nhà sẽ được phân chia theo công sức đóng góp

của mỗi thànhviên.

- Bố mẹ giúp vợ chồng người con vay tiền để nhận chuyển nhượng

quyền sử dụng đất, vợ chồng người con đã đứng tên trên giấy chứng nhận

QSDĐ. Nếu như đến khi vợ chồng ly hôn, bố mẹ vẫn chưa thanh toán hết

khoản nợ đã vay trong trường hợp này thì vợ chồng người con phải thanh toán

cho chủ nợ và thanh toán cho chủ nợ và thanh toán cho bố mẹ khoản tiền bố

mẹ đã bỏ ra trả nợ cho họ. Trường hợp này, bố mẹ được xem như là người

đứng ra vay nợ dùm cho vợ chồng ngườicon.

- Nếu như quyền sử dụng đất được bố mẹ tặng cho có điều kiện nhưng

vợ chồng người con đã không thực hiện những điều kiện đó thì bố mẹ có

quyền đòilại.

Ngoài ra, trong quy định về các trường hợp thỏa thuận phân chia tài sản

chung của vợ chồng bị vô hiệu, Luật HN&GĐ năm 2014 đã trao quyền cho

bên có quyền có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố thỏa thuận phân chia tài sản

chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân bị vô hiệu nếu nhằm mục đích

trốn tránh thực hiện nghĩa vụ. Tuy nhiên, lại không quy định cho họ quyền

được yêu cầu phân chia tài sản chung của vợ chồng để bên có nghĩa vụ riêng

với người thứ ba có tài sản thực hiện nghĩa vụ với mình. Điều này đã được

81

quy định tại Điều 219 BLDS năm 2015. Như vậy, có thể thấy quy định của

Luật HN&GĐ chưa phù hợp với quy định của luật chung. Về vấn đề này,

Tác giả Nguyễn Thị Hạnh cũng có quan điểm tương tự: “pháp luật cần quy

định rõ: Trong trường hợp người có quyền có đủ chứng cứ cho rằng, vợ

chồng không có thỏa thuận hoặc không yêu cầu Tòa án chia tài sản chung

trong thời kỳ hôn nhân nhằm mục đích trốn tránh thực hiện nghĩa vụ về tài

sản, thì người có quyền có thể yêu cầu Tòa án chia tài sản chung của vợ

chồng trong thời kỳ hôn nhân để lấy phần tài sản của người vợ hoặc người

chồng có nghĩa vụ thực hiện việc thanh toán các khoản nợ. Yêu cầu của người

có quyền sẽ không được Tòa án công nhận nếu làm ảnh hưởng nghiêm trọng

đến lợi ích gia đình của người có nghĩa vụ hoặc bản thân vợ, chồng có nghĩa

vụ có đủ tài sản riêng để thanh toán các khoản nợ” [9].

3.2.3. Nhóm giải pháp bảo đảm thực hiện quyền của phụ nữ khi ly

hôn

3.2.3.1. Tăng cường tuyên truyền, phổ biến pháp luật về hôn nhân và

gia đình

Đây là biện pháp đóng vai trò quan trọng trong công tác nâng cao hiệu

quả áp dụng pháp luật hôn nhân và gia đình nói chung và thực hiện bảo vệ

quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, con chưa thành niên, con đã thành niên mất

năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản

để tự nuôi mình trong quá trình giải quyết tài sản khi ly hôn nói riêng. Bởi lẽ,

pháp luật chỉ có thể thực thi sứ mệnh bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp

của mọi người khi người mà nó hướng tới bảo vệ thực sự hiểu nó. Hơn nữa, ở

một quốc gia có truyền thống tâm lý “trọng nam khinh nữ”, “xuất giá tòng

phu” như Việt Nam thì việc bảo vệ quyền phụ nữ và trẻ em khi ly hôn không

phải dễ dàng thực hiện một cách triệt để. Hoạt động tăng cường này có thể

được triển khai dưới nhiều hình thức như tổ chức các buổi nói chuyện, hội

thảo chuyên đề, các cuộc thi tìm hiểu pháp luật hôn nhân và gia đình... Việc

82

phổ biến, tuyên truyền pháp luật cùng với những thay đổi trong cách nhìn

nhận về vai trò và quyền lợi của phụ nữ và trẻ em đã xóa bỏ những định kiến

vốn là yếu tố cản trở việc đảm bảo nguyên tắc bảo vệ phụ nữ và trẻ em trong

quá trình áp dụng pháp luật nói chung và trong giải quyết tài sản khi ly hôn

nói riêng.

Gia đình là tế bào của xã hội, là cái nôi nuôi dưỡng con người, là môi

trường quan trọng hình thành và giáo dục nhân cách, góp phần vào sự nghiệp

xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Gia đình tốt thì xã hội mới tốt, xã hội tốt thì gia

đình càng tốt hơn. Trong quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế bao cấp sang nền

kinh tế thị trường, cùng lúc kéo theo những biến đổi trong văn hóa, đạo đức

xã hội, làm giá trị đạo đức truyền thống trong mỗi gia đình cũng đang dần bị

phá vỡ, tình trạng ly thân, ly hôn gần đây có xu hướng năm sau cao hơn năm

trước, đặc biệt trong các gia đình trẻ. Viện Nghiên cứu gia đình và Giới vừa

cho biết, cả nước trung bình có trên 60.000 vụ ly hôn/năm, tỉ lệ 30% tức là cứ

10 cặp vợ chồng kết hôn thì có 3 cặp ly hôn. Xu hướng này tiếp tục tăng ở cả

thành phố và nông thôn. Điều đáng nói, 70% số vụ ly hôn thuộc về các gia

đình trẻ, vợ hoặc chồng trong độ tuổi từ 18-30; trong đó có 60% ly hôn sau

khi kết hôn từ 1-5 năm, nhiều trường hợp chỉ mới cưới nhau được vài

tháng... Nghiên cứu của Viện Nghiên cứu gia đình và Giới cho thấy mâu

thuẫn về lối sống là nguyên nhân hàng đầu (27,7%) dẫn đến ly hôn. Các yếu

tố tiếp theo là ngoại tình (25,9%), kinh tế (13%), bạo lực gia đình (6,7%), sức

khỏe (2,2%), xa nhau lâu ngày là 1,3%.

Phân tích về nguyên nhân ly hôn, nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Cừ cho

rằng, có những lý do bắt đầu từ chính những biến động mang tính tích cực của

xã hội hiện đại. Theo ông, chính sự bình đẳng giới đã đem lại sự chủ động,

độc lập về kinh tế, cũng như sự đòi hỏi đáp ứng nhu cầu cá nhân ngày càng

cao khiến con người không dễ chấp nhận hoặc cam chịu dẫn đến tỷ lệ ly hôn

ở các gia đình ngày càng tăng.

83

Nhìn vào thực tế, tỷ lệ ly hôn ở những gia đình mà vợ chồng là viên

chức, trí thức, các nhân viên hoạt động trong các lĩnh vực dịch vụ, thương mại

cao hơn những gia đình công nhân, nông dân. Điều kiện kinh tế phát triển,

dân trí càng cao, điều kiện tiếp xúc xã hội càng nhiều, thì sự đòi hỏi thỏa mãn

nhu cầu cá nhân càng lớn, và điều đó đang là một trong những nguyên nhân

khiến gia đình ngày càng kém bền vững.

Tiến sĩ xã hội học Trịnh Hòa Bình cho rằng, nếu gia đình có nền giáo

dục căn bản, truyền thống đạo đức thì nguy cơ đổ vỡ phần nào sẽ được ngăn

chặn [46]. Và điều quan trọng nhất là bản thân mỗi cặp vợ chồng phải biết

nghĩ về nhau, tôn trọng nhau, tôn trọng những giá trị của truyền thống gia

đình. Sự yêu thương, chia sẻ, tôn trọng và nhường nhịn lẫn nhau cùng hướng

đến một mái nhà hòa thuận. Thực tế đã chứng minh, gia đình nào có sự giáo

dục cơ bản, có truyền thống đạo đức thì tình trạng ly hôn, đổ vỡ rất khó xảy

ra.

Theo ông Nguyễn Văn Thanh, Phó Chánh án TAND Thành phố Thủ

Dầu Một, nhiều đôi vợ chồng có tuổi đời dưới 30 quyết định chia tay chỉ vì

đơn giản họ lấy nhau do… sự khích bác từ bạn bè [48]. Từ nhận định này của

ông Thanh có thể thấy, dư luận xã hội có vai trò lớn trong việc hạn chế sự gia

tăng ly hôn. Nói về vấn đề này, ThS. Hoàng Thị Ái Hoa - Phân viện Văn hóa

Nghệ thuật Quốc gia Việt Nam tại Huế cho rằng, phát huy vai trò của dư luận

là vấn đề cần thiết để lên án những tệ nạn xã hội dễ trở thành những nguyên

nhân gây ra ly hôn như ngoại tình, cờ bạc, bạo lực gia đình. Theo bà Ái Hoa,

thường xuyên khơi dậy truyền thống gia đình, nền nếp gia phong, mối quan

hệ gắn kết giữa các thành viên, tính tôn ti trật tự, chữ hiếu… đang là ưu thế

riêng có của Huế hiện nay trong vấn đề kiềm chế sự đổ vỡ của gia đình.

“Những giải pháp này thì không chỉ Huế mà các tỉnh, khác cũng vẫn có thể

vận dụng để làm sao giảm được tỷ lệ ly hôn trong các gia đình ngay từ nội tại

của chính các gia đình và các mối quan hệ giữa gia đình và xã hội” [48]

84

Một khía cạnh khác, sau ly hôn cha hoặc mẹ tái hôn, cảnh sống chung

với cha dượng hoặc mẹ kế, tình trạng “con anh, con em”, dẫn đến các bậc cha

mẹ có thể thiếu trách nhiệm trong việc giáo dục con cái (bỏ mặc, ngược đãi)

tác động sâu sắc không những lên sự nhận thức còn rất non nớt của các em

mà con gây ra những bất hòa và tổn thương tâm lý khó hàn gắn được.

Hôn nhân tan vỡ không chỉ làm ảnh hưởng đến gia đình, người thân mà

còn ảnh hưởng đến xã hội. Bởi gia đình là tế bào của xã hội, khi tế bào không

“khỏe” thì xã hội bị ảnh hưởng nhiều mặt. Sau những cuộc hôn nhân không

thành là những đứa con vô tội phải sống trong cảnh thiếu tình thương và sự

chăm sóc, nuôi dưỡng của cha hoặc mẹ. Đó cũng là một trong những nguyên

nhân dẫn đến tội phạm và các tệ nạn xã hội ngày một gia tăng.

Chính vì vậy, việc tuyên truyền nâng cao nhận thức của nhân dân (nhất

là nông dân, người dân tộc thiểu số), lãnh đạo, cán bộ công chức, viên chức

về Hiến pháp, pháp luật về quyền bình đẳng và Luật bình đẳng giới…, lên án

những hành vi vi phạm và kìm hãm việc thực hiện quyền bình đẳng giới như:

tình trạng bạo lực gia đình, buôn bán phụ nữ và trẻ em, phân biệt đối xử giới,

những hủ tục và quan điểm trọng nam khinh nữ, những vấn đề về công tác

chăm sóc sức khoẻ cho bà mẹ và trẻ so sinh, về vai trò và vị trí của phụ nữ, trẻ

em trong cuộc sống, trong học tập, công việc, gia đình và tham gia đoàn thể

xã hội cần được chú trọng. Bên cạnh đó, tăng cường tuyên truyền về vấn đề

phát triển giáo dục và đào tạo nghề cho phụ nữ và trẻ em ở nông thôn, vùng

dân tộc thiểu số; việc xây dựng quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ

nữ, chỉ tiêu bổ nhiệm cán bộ nữ trong cơ cấu cán bộ lãnh đạo của các cơ quan,

đơn vị, địa phương…nhằm nâng cao nhận thức của các tầng lớp nhân dân về

vị thế của phụ nữ trong xã hội.

3.2.3.2. Nâng cao công tác xét xử bảo vệ quyền của phụ nữ khi ly hôn

Nâng cao chất lượng xét xử của Tòa án các cấp. Muốn nâng cao hiệu

quả bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, con chưa thành niên, con đã thành

85

niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không

có tài sản để tự nuôi mình trong quá trình giải quyết tài sản khi ly hôn, bên

cạnh hoạt động tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, công tác nâng cao

chất lượng xét xử là một yêu cầu quan trọng. Muốn vậy, cần nâng cao trình

độ, kĩ năng nghiệp vụ pháp lý của đội ngũ cán bộ tư pháp. Hôn nhân và gia

đình có một đặc trưng là bên cạnh góc độ pháp lý còn mang yếu tố tình cảm.

Vì vậy, trong quá trình xét xử các vụ án hôn nhân và gia đình đòi hỏi Thẩm

phán phải huy động mọi kiến thức pháp lý, kinh nghiệm sống và khả năng

phán đoán tâm lý để đưa ra phán quyết đúng đắn, hợp tình hợp lý nhất. Do đó,

nên chăng thành lập một hệ thống cơ quan riêng chuyên xét xử các vụ án hôn

nhân và gia đình để nâng cao chất lượng xét xử của Tòa án.

Việc ghi nhận nguyên tắc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, con

chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không

có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình trong quá trình giải

quyết tài sản khi ly hôn có ý nghĩa to lớn và quan trọng về cả lý luận và thực

tiễn. Tuy chưa được thể hiện một cách triệt để, toàn diện, nhưng việc ghi nhận

nguyên tắc này trong chế định ly hôn cho thấy sự tiến bộ của pháp luật hôn

nhân gia đình nói riêng, hệ thống pháp luật Việt Nam nói chung trong việc

bảo đảm quyền và lợi ích của phụ nữ và trẻ em. Nó tạo nên sự thống nhất về

những nguyên lý, tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt của Nhà nước trong toàn bộ hệ

thống các quy phạm pháp luật hôn nhân và gia đình, đồng thời, tạo nên khuôn

khổ pháp lý cho việc áp dụng những quy tắc này vào thực tiễn, nhằm bảo vệ

quyền lợi của phụ nữ và trẻ em ngày càng tốt hơn trong xã hội hiện đại.

Điều 14 : Luật Hôn nhân và Gia đình Việt Nam năm 2014 quy định ly

hôn là “việc chấm dứt quan hệ vợ chồng theo bản án, quyết định có hiệu lực

pháp luật của Tòa án”[35].Trong quan hệ hôn nhân và gia đình, trong trường

hợp ly hôn xảy ra, khi Toà án xét xử cho ly hôn sẽ dẫn đến những hậu quả

pháp lý về quan hệ nhân thân của vợ chồng, chế độ tài sản của vợ chồng, việc

86

cấp dưỡng giữa vợ chồng sau khi ly hôn, giao con chung cho ai là người trực

tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, đóng góp phí tổn nuôi dưỡng giáo dục con...Khi

giải quyết các vụ việc ly hôn, Tòa án phải thực thi hoạt động của mình và ra

phán quyết cho thật hợp tình, hợp lý, bảo đảm quyền của phụ nữ theo nguyên

tắc “bình đẳng và ưu tiên” đã được khẳng định trong Hiến pháp và hệ thống

pháp luật của Việt Nam.

Như đã nêu ở trên,các vụ, việc liên quan đến hôn nhân và gia đình

chiếm tỷ lệ trên 60% trong tổng số các vụ án và có xu hướng ngày càng gia

tăng. Đa số vụ ly hôn thường là các cặp vợ chồng trẻ, cá biệt có nhiều vụ chỉ

kết hôn được mấy tháng đã ra tòa ly hôn.

Mặt khác, việc xét xử và giải quyết án hôn nhân và gia đình gặp nhiều

khó khăn do nhận thức về Luật Hôn nhân và gia đình của các cặp vợ chồng

còn hạn chế; các tranh chấp về việc phân chia tài sản chung, quyền nuôi con,

nợ chung sau khi ly hôn diễn ra phức tạp.

Để giải quyết án hôn nhân và gia đình đạt hiệu quả cao, tránh được

những sai sót và bảo đảm quyền lợi cho phụ nữ, các thẩm phán, thư ký tòa án

nêu cao tinh thần, trách nhiệm ngay từ bước thu thập chứng cứ, tài liệu làm cơ

sở giải quyết ly hôn. Khi giải quyết các tranh chấp liên quan đến tài sản

chung, thẩm phán, thư ký tập trung xác định, thẩm định chính xác tài sản

chung, riêng của vợ chồng; xác định vai trò, đóng góp của mỗi bên trong việc

duy trì, phát triển tài sản chung.

Khi đưa ra quyết định về quyền nuôi con cho cha hay mẹ, Hội đồng xét

xử căn cứ quy định của Luật Hôn nhân và gia đình, điều kiện vật chất, tinh

thần để xem xét, phán quyết giao con chung cho bên nào nuôi. Các nội dung

này được thể hiện rõ trong bản án, nhằm bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của

phụ nữ, trẻ em; phòng ngừa các hành vi bạo lực gia đình.

Cùng với đó, tòa án nhân dân hai cấp quan tâm đến công tác kiện toàn

tổ chức cán bộ, đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ;

87

quán triệt, giáo dục cán bộ, thẩm phán thực hiện nghiêm quy chế văn hóa

công sở và quy tắc ứng xử của cán bộ, công chức Tòa án nhân dân; làm tốt

công tác hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật, trao đổi nghiệp vụ và rút

kinh nghiệm công tác xét xử.

Ngành Toà án tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra nghiệp vụ tập

trung vào việc khắc phục những hạn chế, thiếu sót trong công tác của tòa án

nhân dân cấp huyện; bổ sung cán bộ, thẩm phán cho các đơn vị còn thiếu so

với yêu cầu công tác; phát động các phong trào thi đua gắn với việc hoàn

thành tốt nhiệm vụ chuyên môn...

Căn cứ vào chỉ tiêu được giao, Tòa án Nhân dân hai cấp tổ chức ký

giao ước thi đua giữa các đơn vị, tạo khí thế thi đua sôi nổi, trở thành động

lực, cổ vũ mỗi cán bộ, thẩm phán, thư ký phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ. Vì

vậy, kết quả công tác giải quyết, xét xử các tranh chấp trong án hôn nhân và

gia đình trong thời gian qua đạt kết quả đáng ghi nhận.

Đồng chí Phạm Thị Thúy Mai, Phó Chánh án Tòa án Dân sự, Tòa án

Nhân Dân tỉnh Vĩnh Phúc cho biết: Một trong những nguyên nhân dẫn đến tỷ

lệ ly hôn ngày càng cao, đặc biệt ở các cặp vợ chồng trẻ, do họ có cái “tôi”

quá lớn, chưa coi trọng giá trị của đối phương, thường xuyên có tư tưởng sẵn

sàng ly hôn mỗi lần xảy ra mâu thuẫn…[46]. Nhưng khi ra tòa, được thẩm

phán, thư ký động viên, chia sẻ, họ tự động rút đơn về ở với nhau. Có thể nói,

công tác hòa giải có ý nghĩa quan trọng giúp những tranh chấp, mâu thuẫn

được giải quyết không vượt quá giới hạn. Tuy nhiên, quá trình giải quyết các

vụ, việc liên quan đến hôn nhân và gia đình không hề đơn giản, bởi vì nó tác

động sâu sắc đến tình cảm, tâm lý của các thành viên trong gia đình.

Để hòa giải thành công, người thẩm phán phải biết lắng nghe, chia sẻ,

cảm thông với hoàn cảnh, tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến mâu thuẫn; quy trình

hòa giải đúng quy định của pháp luật, bảo đảm quyền lợi, lợi ích của các bên

đương sự. Những vụ, việc không thể hòa giải được phải đưa ra xét xử, Hội

88

đồng xét xử tạo mọi điều kiện để các bên đương sự tranh tụng, đưa ra tài liệu,

chứng cứ bảo vệ quan điểm của mình, từ đó tòa đưa ra quyết định đúng đắn”.

Kết quả xét xử các vụ án hôn nhân và gia đình đảm bảo đúng pháp luật, rõ

ràng, có sức thuyết phục. Qua đó, kịp thời bảo vệ các quyền, lợi ích chính

đáng của nhân dân nói chung và của phụ nữ, xây dựng gia đình bình đẳng,

tiến bộ.

Qua bốn năm thực thi Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, trong tổng

số các vụ việc hôn nhân và gia đình Tòa án các cấp giải quyết thì số lượng vụ

việc ly hôn chiếm tỉ lệ lớn nhất. Mặc dù số lượng vụ án tranh chấp ly hôn đưa

ra xét xử không nhiều nhưng các vụ án đưa ra xét xử đều mang tính phức tạp

cao, liên quan đến nhiều quyền lợi quan trọng của các đương sự trong vụ án.

Nhìn chung, kết quả xét xử các vụ án ly hôn của tòa án thời gian vừa qua đạt

yêu cầu, bảo đảm quyền lợi chính đáng của đương sự. Tuy nhiên, trong công

tác giải quyết các vụ việc hôn nhân và gia đình, đội ngũ cán bộ, công chức

của Tòa án nhân dân các cấp nhìn chung chưa đủ về số lượng, một bộ phần

còn bất cập về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và năng lực công tác. Thẩm

phán còn gặp nhiều khó khăn trong giải quyết các vụ việc hôn nhân và gia

đình, dẫn tới chất lượng giải quyết nhiều vụ việc về hôn nhân và gia đình còn

chưa cao. Việc phát huy vai trò của các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền trong

phối hợp giải quyết các vụ việc về hôn nhân và gia đình hoặc trong công

nhận, thực hiện và bảo vệ quyền về hôn nhân và gia đình của người dân còn

nhiều bất cập .

Mặt khác, hoạt động giải quyết án ly hôn của Tòa án còn chịu sức ép về

số lượng và thời hạn giải quyết vụ án, nhiều vụ án ly hôn đưa ra xét xử nhiều

lần nhưng vẫn không giải quyết dứt điểm là những trở ngại đối với việc bảo

đảm thực thi quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của phụ nữ khi ly

hôn. Các sai sót, tồn tại xuất phát từ các nguyên nhân khách quan và nguyên

nhân chủ quan, trong đó nguyên nhân chủ quan là chủ yếu, tập trung vào cả

89

ba vấn đề khi giải quyết án ly hôn gồm: hôn nhân, con chung và tài sản

chung. Thực tế áp dụng Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 trong những

năm qua cho thấy, mặc dù đã điều chỉnh có hiệu quả nhiều quan hệ về hôn

nhân và gia đình phát sinh trong thực tiễn, nhưng vẫn còn những hạn chế, bất

cập như: một số quy định liên quan đến thực hiện quyền con người, đặc biệt

là về bình đẳng giới còn mang tính hình thức, không thực chất và không khả

thi; một số vấn đề hôn nhân và gia đình chưa được luật quy định cụ thể hoặc

không quy định.Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 vừa được ban hành có

nhiều điểm mới, tiến bộ nhằm đảm bảo quyền con người nói chung và bảo

đảm thực hiện quyền phụ nữ trong quan hệ hôn nhân và gia đình nói riêng đặt

ra yêu cầu cần được nghiên cứu, đề xuất áp dụng trong thực tiễn. Trên cơ sở

xem xét phù hợp với các quy định của Hiến pháp mới 2013 và các điều ước

quốc tế Việt Nam tham gia, cần cải tiến hoạt động giải quyết các vụ việc ly

hôn của Tòa án trên cơ sở tôn trọng, bảo vệ quyền của phụ nữ nhằm góp phần

thực thi có hiệu quả pháp luật về quyền con người, quyền công dân.

Tham khảo cơ cấu tổ chức và thực tiễn xét xử án hôn nhân và gia đình

của các nước cho thấy: hiện nay, nhiều nước thuộc các hệ thống luật khác

nhau trên thế giới đã thành lập Tòa án Gia đình là mô hình tòa án có vai trò

tăng cường tính chuyên môn đối với vụ án hôn nhân và gia đình. Theo đó, cơ

cấu nhân sự của Tòa án Gia đình có Điều tra viên đóng vai trò quan trọng

trong việc điều tra sự thật trong xét xử hôn nhân gia đình, cũng như liên kết

với cơ quan phúc lợi xã hội, đánh giá tâm lý, các công việc mang tính hỗ trợ.

Thẩm phán Tòa án gia đình hoạt động chuyên trách, được lựa chọn là những

người có độ tuổi, kinh nghiệm nhất định và có kiến thức về tâm lý học, xã hội

học…Với mô hình Tòa án gia đình, hoạt động giải quyết các vụ việc ly

hôn có tính chuyên môn cao, phán quyết của Tòa án được đưa ra trên cơ sở

các bên đương sự đã được tư vấn, hòa giải bằng nhiều hình thức, quyền lợi

của các bên đương sự đều được xem xét, cân nhắc kỹ càng. Việt Nam đang

90

trong tiến trình nghiên cứu, chuẩn bị triển khai áp dụng mô hình Tòa án Gia

đình nên hoạt động giải quyết án ly hôn của Tòa án cần tiếp tục được cải thiện

nhằm tạo ra một cơ chế bảo đảm và thực thi quyền phụ nữ khi ly hôn.

Trong hoạt động giải quyết tranh chấp ly hôn, tòa án các nước có

những quy định, thủ tục và cách thức giải quyết khác với Việt Nam, trong đó

có những nội dung tiến bộ cần tham khảo, nghiên cứu áp dụng. Ví dụ,

tại Australia, điều kiện xét yêu cầu ly hôn là cuộc hôn nhân đã hoàn toàn đổ

vỡ, không thể cứu vãn được và phải ly thân ít nhất là 12 tháng trước khi nộp

đơn ly dị. Nếu kết hôn dưới 2 năm thì phải đi tư vấn về gia đình hoặc xin

phép Tòa trước khi nộp đơn ly dị. Còn ở Mỹ, đã có sự thay đổi lớn trong

những đạo luật về ly hôn theo chiều hướng chuyển từ những đạo luật mang

tính hạn chế (thế kỷ XIX) sang ly hôn không có lỗi (thế kỷ XX). Các bên chỉ

đơn giản giải thích rằng có những khác biệt không thể hòa giải giữa họ và

rằng cuộc hôn nhân không còn giá trị nữa. Tuy nhiên, thực tiễn ly hôn ở Mỹ

cho thấy giải quyết những vấn đề như tranh chấp về tài sản, tranh chấp về

chăm sóc con, hỗ trợ tiền cho con, quyền thăm nom con là những nội dung

thường xuyên có bất đồng và Tòa án phải rất cẩn trọng khi đưa ra phán quyết

nhằm bảo vệ quyền lợi cho các bên đương sự nói chung và quyền lợi của

người phụ nữ nói riêng. Ở Hàn Quốc, yếu tố lỗi được xét đến khi có yêu cầu

ly hôn, người muốn thuận tình ly hôn phải được Tòa án gia đình hướng dẫn

về ly hôn. Trong trường hợp cần thiết, Tòa án gia đình có thể khuyến khích

đương sự nhận hỗ trợ tư vấn chuyên môn từ chuyên gia có kinh nghiệm và

kiến thức chuyên môn. Bên yêu cầu xác nhận ly hôn lên Tòa án gia đình có

thể được xác nhận ly hôn sau một thời gian cân nhắc. Trong thời gian cân

nhắc, Tòa án tổ chức hoạt động nhằm hàn gắn, hòa giải cho vợ chồng như tổ

chức dã ngoại có con cùng tham gia, tư vấn tâm lý. Trong trường hợp có lý do

cấp bách như một bên đương sự phải chịu hành vi bạo lực, có thể rút ngắn

hoặc miễn thời gian cân nhắc. Trường hợp có sự tranh chấp nuôi con khi ly

91

hôn, Tòa án có những biện pháp giám sát, theo dõi thái độ, nhu cầu của trẻ,

đồng thời cử Điều tra viên điều tra về các điều kiện nuôi dậy con để Tòa án có

cơ sở quyết định giao con cho bố hay mẹ là người trực tiếp nuôi dưỡng…Đây

là những quy định, thủ tục có tính ưu việt nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của

cả vợ và chồng khi ly hôn, đảm bảo sự bình đẳng và cũng đồng thời là bảo vệ

quyền của người phụ nữ khi ly hôn. Trên cơ sở Tòa án đưa ra những quyết

định, bản án thấu tình đạt lý, bảo vệ quyền lợi chính đáng cho người phụ nữ

sẽ giúp họ tự tin trước cuộc sống, tin tưởng rằng pháp luật luôn bên cạnh họ,

bảo vệ quyền lợi cho họ.

Như vậy, với những phân tích trên đây, việc bảo vệ quyền của phụ nữ

khi giải quyết các vụ việc ly hôn của Tòa án là một việc vô cùng quan trọng,

cần thiết và có ý nghĩa. Từ việc nghiên cứu vấn đề, trao đổi thông tin nhằm

nâng cao nhận thức về bảo vệ quyền của phụ nữ khi ly hôn, giúp nâng cao

hiệu quả hoạt động của Tòa án trong việc bảo đảm thực thi quyền của phụ nữ

trong thực tế là cơ sở của sự phát triển và tiến bộ của xã hội.

3.2.3.3. Cần thành lập linh hoạt Tòa gia đình và người chưa thành niên

Theo số liệu của các cơ quan tư pháp, những năm gần đây, các vụ việc

về HN&GĐ ngày càng tăng và diễn biến phức tạp. Điển hình thực tiễn xét xử

của Tòa án nhân dân tại Hà Nội số vụ việc về HN&GĐ chiếm khoảng 42%

tổng số vụ việc đã thụ lý [1].

Luật tổ chức tòa án nhân dân số 62/2014/QH13 ngày 24 tháng 11 năm

2014 và Thông tư số 01/2016/TT-CA ngày 21 tháng 01 năm 2016 quy định về

việc tổ chức các tòa chuyên trách tại tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực

thuộc trung ương, tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh

và tương đương, tòa gia đình và người chưa thành niên giải quyết các vụ việc

như sau:

“a) Các vụ án hình sự mà bị cáo là người dưới 18 tuổi hoặc các vụ án

hình sự mà bị cáo là người đã đủ 18 tuổi trở lên nhưng người bị hại là người

92

dưới 18 tuổi bị tổn thương nghiêm trọng về tâm lý hoặc cần sự hỗ trợ về điều

kiện sống, học tập do không có môi trường gia đình lành mạnh như những

người dưới 18 tuổi khác;

b) Xem xét, quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại Tòa án

nhân dân đối với người chưa thànhniên;

c) Các vụ việc hôn nhân gia đình theo quy định của Bộ luật tố tụng dân

sự.”[4]

Tuy đã có quy định về việc thành lập tòa án chuyên trách giải quyết vụ

việc HN&GĐ nhưng trên thực tế từ khi ban hành, tại Hà Nội chưa thành lập

Tòa gia đình và người chưa thành niên. Công tác giải quyết các vụ việc về

HN&GĐvẫngiao chung vào thẩm quyền của tòa dân sự. Quy trình giải quyết

các vụ việc hôn nhân và gia đình cũng giống như giải quyết các vụ án dân sự

khác, chưa quan tâm đến những đặc thù trong quan hệ gia đình. Các thẩm

phán và cán bộ tòa án cũng không được phân công chuyên trách thụ lý, giải

quyết các vụ việc về HN&GĐ, mà phải kiêm nhiệm, thụ lý nhiều vụ việc dân

sự khác nên chất lượng giải quyết các vụ việc về HN&GĐ tại tòa án còn

nhiều hạn chế.

Thực tế các Tòa án nhân dân tại Hà Nội cho thấy, những vụ tranh chấp

về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân, đặc biệt tranh

chấp về tài sản khi ly hôn luôn là những vụ án phức tạp và chiếm số lượng lớn

(khoảng hơn 30%) so với tổng số các vụ án HN&GĐ mà TAND các cấp thụ

lý giải quyết.

Do đó, việc thành lập một cách linh hoạt Tòa gia đình và người chưa

thành niên cần phải được nghiên cứu, xem xét thực hiện.

3.2.3.4. Kiện toàn, nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ Tòa, đặc biệt

là thẩm phán

Quan hệ hôn nhân và gia đình là một quan hệ chịu sự chi phối bởi yếu

tố tình cảm. Cho nên dù pháp luật đã có những quy định cụ thể nhằm bảo vệ

93

quyền lợi của các bên vợ, chồng nhưng những quy định ấy vẫn chưa được áp

dụng một cách triệt để. Nếu Toà án áp dụng pháp luật một cách cứng nhắc thì

sẽ ảnh hưởng đến quyền lợi của các bên. Xuất phát từ thực tế trên, Tòa án cần

phải vận dụng pháp luật cho linh hoạt, mềm dẻo trong quá trình chia tài sản

của vợ chồng khi ly hôn. Nói cách khác, đội ngũ thẩm phán phải giỏi về

chuyên môn và tốt về phẩm chất.

Trong những năm qua, cán bộ Tòa án ngày càng được nâng cao về trình

độ chuyên môn, đặc biệt là đội ngũ Thẩm phán. Tuy vậy, so với tình hình

thực tế và thực tiễn xét xử cho thấy, đội ngũ Thẩm phán, thư ký, cán bộ

nghiệp vụ còn thiếu năng lực và kinh nghiệm thực tiễn còn hạn chế, chưa

đồng đều. Là cơ quan xét xử, hoạt động của Tòa án sẽ ảnh hưởng đến lợi ích

của người dân. Những sai sót trong quá trình Tòa án xét xử có thể dẫn đến

hậu quả nghiêm trọng khó lường. Do đó, cần tích cực đẩy mạnh công tác đào

tạo, nâng cao trình độ của Thẩm phán và tính thực thi của pháp luật; thường

xuyên tổ chức các lớp tập huấn nghiệp vụ xét xử các vụviệc về hôn nhân gia

đình đặc biệt là vụ việc về chia tài sản chung của vợ chồng để các thẩm phán

trao đổi kinh nghiệm, học tập nâng cao kỹ năng xét xử; TANDTC định kỳ ban

hành các án lệ, các tập hợp án điển hình về các vụ án liên quan đến chia tài

sản chung của vợ chồng khi ly hôn.

Ngoài ra, hàng năm còn phải chú trọng về công tác đào tạo, đào tạo lại,

tập huấn chuyên môn, nghiệp vụ như tập huấn các văn bản hướng dẫn mới, kỹ

năng xét xử các vụ án; tập huấn các kiến thức liên quan đến công tác xét xử các

vụ án HN&GĐ, nâng cao trình độ chính trị cho cán bộ, công chức trong ngành.

Bên cạnh đó, vai trò của các đoàn thể như Mặt trận Tổ quốc, Hội phụ

nữ, Đoàn thanh niên…trong công tác giải quyết các vụ án HN&GĐ cũng cần

được quan tâm. Cần có biện pháp tác động đến đoàn thể như: tổ chức các

chương trình, ban hành các chính sách, các quy định để đoàn thể tham gia tích

cực trong việc bảo vệ quan hệ gia đình tại địa phương.

94

3.2.3.5. Tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng,

các cơ quan có thẩm quyền trong giải quyết các vụ án hôn nhân và gia đình

Nhằm đảm bảo việc xét xử đúng pháp luật, kịp thời đảm bảo về mặt

quyền lợi của các đương sự thì trong công tác xét xử các vụ án tranh chấp tài

sản giữa vợ chồng, Tòa án cần có sự phối hợp chặt chẽ với Viện kiểm sát,

Công an, chính quyền địa phương và các cơ quan chức năng khác có liên

quan trong việc cung cấp thông tin, chứng cứ, tài liệu liên quan đến công tác

giải quyết vụán.

Cần kiện toàn lại quy chế, từng bước khắc phục những hạn chế, vướng

mắc giữa các bên nhằm bảo đảm công tác phối hợp xử lý trong từng vụ việc

chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn đạt được kết quả tốt nhất, phòng

tránh những sai sót liên quan trong công tác tố tụng nhằm bảo đảm quyền và

lợi ích hợp pháp của các bên.

3.2.3.6. Tăng cường công tác tổng kết, rút kinh nghiệm nhằm nâng cao

chất lượng xét xử và thống nhất áp dụng phápluật

Tổng kết, rút kinh nghiệm đưa ra hướng giải quyết đúng đắn và thống

nhất là vấn đề cần thiết cho việc xét xử. Thường xuyên tổng kết, cập nhật số

liệu về tình hình thực hiện đăng ký tài sản chung của vợ chồng để rút kinh

nghiệm và đề ra phương hướng triển khai thực hiện quy định pháp luật hiệu

quả hơn. Cùng với đó, việc áp dụng các quy định pháp luật đúng đắn và thống

nhất cũng rất quan trọng. Để đảm bảo pháp luật được áp dụng thống nhất, Tòa

phải tổng kết lại, xem xét lại quá trình xét xử trong cơ quan, trong nhiều cấp

xét xử và trong toàn ngành để đưa ra hướng giải quyết thống nhất và đúng đắn

trong quá trình giải quyết.

Điều này cũng được áp dụng trong trường hợp các quan hệ xã hội mà

pháp luật không thể đưa ra một tiêu chí nhất định điều chỉnh như vấn đề công

sức đóng góp,… cho nên muốn áp dụng khi có tình tiết xảy ra cần điều chỉnh

thì phải có một hướng chung giải quyết đó là tổng kết, rút kinh nghiệm và đưa

95

ra hướng giải quyết đúng đắn nhất và thống nhất ở mọi cấp xét xử. Thực tiễn

cho thấy, các giải pháp về rút kinh nghiệm công tác xét xử có tác dụng tích

cực, hạn chế các sai sót trong quá trình giải quyết các vụ án nói chung và án

HN&GĐ nói riêng và trình độ về chuyên môn nghiệp vụ của Thẩm phán, Hội

thẩm Tòa án nhân dân cũng được nâng cao.

3.2.3.7. Thực hiện xã hội hóa bảo vệ quyền của người phụ nữ khi ly hôn

Quyền con người là những giá trị cao cả cần được tôn trọng và bảo vệ

trong mọi xã hội và mọi giai đoạn lịch sử. Trong xu thế hội nhập quốc tế hiện

nay, việc bảo vệ quyền con người nói chung và quyền của phụ nữ nói riêng

không chỉ là nghĩa vụ của nhà nước đối với người dân mà còn là nghĩa vụ của

một quốc gia trước cộng đồng quốc tế. Luật Hôn nhân và Gia đình Việt Nam

năm 2014 vừa có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2015 có rất nhiều điểm

mới phù hợp với Hiến pháp năm 2013 nhằm bảo đảm thực hiện tốt hơn quyền

con người, bình đẳng giới, bảo vệ phụ nữ. Vì vậy, bài viết đề cập đến một số

vấn đề về bảo vệ quyền của phụ nữ khi ly hôn nhằm nâng cao nhận thức và

hiệu quả thực thi pháp luật bảo vệ quyền của phụ nữ, đặc biệt là khi họ rơi

vào hoàn cảnh hôn nhân tan vỡ.

Khi xem xét việc bảo vệ quyền của phụ nữ khi ly hôn thì không thể

tách rời việc nghiên cứu về quyền và bảo vệ quyền con người của phụ

nữ. Theo Mác: "Quyền con người là những đặc quyền chỉ có ở con người mới

có, với tư cách là con người, là thành viên xã hội loài người"[5]. Ở cấp độ

quốc tế, có một định nghĩa của Văn phòng cao ủy Liên hợp quốc thường

xuyên được trích dẫn bởi các nhà nghiên cứu: “Quyền con người là những

bảo đảm pháp lý toàn cầu có tác dụng bảo vệ các cá nhân và các nhóm chống

lại những hành động hoặc sự bỏ mặc mà làm tổn hại đến nhân phẩm, những

sự được phép và tự do cơ bản của con người” [13]. Ở Việt Nam cũng đã có

những định nghĩa về quyền con người do một số cơ quan nghiên cứu và

chuyên gia từng nêu ra. Những định nghĩa này không hoàn toàn giống nhau,

96

nhưng tựu chung quyền con người thường được hiểu “là những năng lực và

nhu cầu vốn có và chỉ có ở con người, với tư cách là thành viên cộng đồng

nhân loại, được thể chế hóa bằng pháp luật quốc gia và các thỏa thuận pháp

lý quốc tế" [5]. Và tại Hội nghị thế giới về Quyền con người lần thứ hai tổ

chức tại Viên (1993) đã khẳng định: “quyền con người của phụ nữ và trẻ em

gái là một bộ phận cấu thành, gắn liền và không thể tách rời của các quyền

con người phổ biến”. Như vậy, cho dù quyền con người có là bẩm sinh, vốn

có hay phải do nhà nước quy định thì để thực hiện các quyền con người phải

cần có pháp luật. Pháp luật là phương thức không thể thiếu và là công cụ hiệu

quả nhất của nhà nước nhằm bảo vệ quyền con người. Theo đó, “bảo vệ quyền

con người nói chung, bảo vệ quyền phụ nữ bằng pháp luật nói riêng trước hết

phải được hiểu là sự ghi nhận các quyền con người bằng pháp luật và phải

bảo đảm cho quyền đó được thực hiện. Mặt khác, do phụ nữ là một nhóm xã

hội đặc biệt, bởi vậy, quyền phụ nữ phải được xem xét và ghi nhận dựa trên

cơ sở của những yếu tố đặc thù về giới, nghĩa là pháp luật phải ghi nhận

quyền phụ nữ dựa trên cơ sở của vấn đề bình đẳng giới” [5].

Bảo vệ quyền của phụ nữ được ràng buộc chặt chẽ bởi các công ước

quốc tế về quyền con người mà Việt Nam là thành viên, như: Hiến chương

Liên Hợp Quốc (1945), Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người (1948,

UDHR), Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ

(1979, CEDAW),... Theo đó, việc bảo vệ quyền của phụ nữ trong lĩnh vực

hôn nhân và gia đình, kể cả khi ly hôn được nhấn mạnh và quy định rất cụ thể

tại Điều 16 Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ:

“1. Các quốc gia thành viên phải áp dụng tất cả các biện pháp thích

hợp để xoá bỏ sự phân biệt đối xử chống lại phụ nữ trong tất cả các vấn đề

liên quan đến hôn nhân và quan hệ gia đình, cụ thể phải bảo đảm những

quyền dưới đây, trên cơ sở bình đẳng nam nữ:

a) Quyền kết hôn như nhau;

97

b) Quyền như nhau trong việc tự do lựa chọn người để kết hôn và chỉ

kết hôn khi mình được tự do quyết định và hoàn toàn tự nguyện;

c) Quyền và trách nhiệm như nhau giữa vợ chồng trong thời gian hôn

nhân cũng như khi hôn nhân bị hủy bỏ;

d) Quyền và trách nhiệm như nhau trong vai trò làm cha mẹ, bất kể

tình trạng hôn nhân như thế nào, về các vấn đề liên quan đến con cái họ.

Trong tất cả các trường hợp, lợi ích của con cái phải được coi là điều quan

trọng nhất:“[16]

Dưới góc độ quyền phụ nữ cũng chính là quyền con người, Nhà nước

cần phải thừa nhận, tôn trọng và cam kết bảo đảm, bảo vệ quyền đó đúng như

những điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Vì thế, hoạt động bảo vệ

quyền con người của phụ nữ phụ thuộc vào năng lực của các hệ thống cơ

quan nhà nước mà trước hết là hệ thống Tòa án. Điều 102 Hiến pháp năm

2013 quy định: “Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa

XHCN Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp…có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo

vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ lợi ích của

Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân” [34, Điều 102].

Từ những vấn đề nêu trên, việc bảo vệ quyền của phụ nữ khi họ rơi vào

hoàn cảnh ly hôn là cực kỳ cần thiết, bởi vì phụ nữ được xác định là nhóm đối

tượng dễ bị tổn thương trong xã hội, cần được quan tâm đặc biệt. Khi họ rơi

vào hoàn cảnh ly hôn, hơn lúc nào hết, việc bảo đảm thực thi quyền con người

của phụ nữ trong thực tế là việc làm ý nghĩa cho họ niềm tin vào công lý và

giúp họ ổn định tinh thần, cuộc sống sau khi ly hôn.

98

Tiểu kết chƣơng 3

Ly hôn đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến cuộc sống của người phụ nữ và

trẻ em, sự cần thiết hoàn thiện các quy định pháp luật tạo ra khung pháp lý để

nguyên tắc bảo vệ quyền lợi chính đáng của vợ và các con khi vợ chồng ly

hôn là một đòi hỏi cấp thiết về lý luận cũng như thực tiễn thi hành Luật

HN&GĐ Việt Nam năm 2014.

Trên cơ sở lý luận và thực trạng các quy định pháp luật về bảo vệ

quyền lợi chính đáng của vợ và các con khi vợ chồng ly hôn tại chương 1 và

chương 2 tác giả đưa ra những giải pháp để hoàn thiện các quy định pháp luật

về bảo vệ quyền của phụ nữ khi ly hôn.

Pháp luật hiện hành về bảo vệ quyền lợi chính đáng của phụ nữ khi ly

hôn cần phải được xây dựng và hoàn thiện theo kịp với quá trình hoàn thiện

pháp luật về hôn nhân gia đình và các văn bản pháp luật có liên quan. Đồng

thời bổ sung các quy định về bảo vệ quyền lợi chính đáng của vợ và các con

nhiều hơn nữa, bởi phụ nữ và trẻ em là đối tượng hay bị thua thiệt khi vợ

chồng ly hôn.

Bên cạnh đó, các cơ quan chức năng cần nâng cao năng lực hoạt động

trong việc bảo vệ quyền lợi chính đáng của phụ nữ khi ly hôn theo pháp luật

Việt Nam.

99

KẾT LUẬN

1. Quyền con người là một khái niệm mang tính chính trị - pháp lý và

có một lịch sử phát triển lâu dài. Quyền con người là quyền vốn có, không thể

tách rời đối với con người; không phân biệt họ là ai, sinh ra ở đâu; không

phân biệt giới tính, tôn giáo hay địa vị xã hội. Quyền con người là bình đẳng.

Mọi cá nhân trong xã hội đều được thừa nhận giá trị con người và xứng đáng

được tôn trọng.

2. Quyền của phụ nữ khi ly hôn là một quyền con người. Đó là

quyền được xác lập tư cách con người trước pháp luật, không bị pháp luật

phân biệt đối xử, quyền có vị thế ngang nhau trước pháp luật và được pháp

luật bảo vệ như nhau.

3. Bảo đảm quyền của phụ nữ khi ly hôn là một trong những yêu cầu

cấp thiết hiện nay. Trong những yếu tố tác động đến việc bảo đảm quyền

của phụ nữ khi ly hôn thì điều kiện kinh tế - xã hội; các quy định của pháp

luật về HN&GĐ, về TTDS, về trình tự, thủ tục giải quyết các vụ việc dân

sự; hoạt động giải quyết vụ việc dân sự của Tòa án; hoạt động hỗ trợ đương

sự tham gia tố tụng của các tổ chức, cá nhân; cơ chế giám sát, kiểm soát

các hoạt động tố tụng…là những yếu tố có tính quyết định bảo đảm quyền

của phụ nữ khi ly hôn.

4. Trong quá trình giải quyết vụ việc HN&GĐ, quyền của phụ nữ khi

ly hôn được các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, trong đó có Tòa án ghi

nhận và bảo đảm thực hiện, tuy nhiên vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập đòi

hỏi phải khắc phục nhằm mục đích bảo đảm quyền con người nói chung,

quyền của của phụ nữ khi ly hôn nói riêng.

5. Để hoàn thiện quyền của phụ nữ khi ly hôn, cần áp dụng đồng thời

cả 3 nhóm giải pháp: Từ nâng cao nhận thức đến hoàn thiện pháp luật và tổ

chức thực hiện các quy định pháp luật về quyền của phụ nữ khi ly hôn.

100

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Báo cáo số 497/BC-VP ngày 31/03/2016 về công tác nhiệm kỳ 2011-

2016 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội.

2. Báo cáo tổng kết ngành Tòa án nhân dân 05 năm ( 2012-2016) của Tòa

án Nhân dân Tối cao

3. Bộ lao động thương binh và xã hội, vụ pháp chế (2012), Pháp luật lao

động các nước Asean, NXB lao động xã hội, Hà Nội.

4. Chính phủ (2014), Nghị định số 126/2014/NĐ-CP ngày 31/12/2014 của

Chính phủ về việc hướng dẫn thi hành một số điều của Luật hôn nhân

và gia đình năm 2014

5. Nguyễn Văn Cừ - Ngô Thị Hường (2002), Một số vấn đề lý luận và thực

tiễn về Luật hôn nhân và gia đình năm 2000, Nxb Chính trị quốc gia, Hà

Nội.

6. Nguyễn Văn Cừ (2005), “Chế độ tài sản của vợ chồng theo Luật hôn

nhân và gia đình Việt Nam năm 2000”, Luận án Tiến sĩ, Đại học luật Hà

Nội.

7. Nguyễn Văn Cừ (2006), Thời kỳ hôn nhân – Căn cứ xác lập tài sản

chung của vợ chồng, Tạp chí Tòa án nhân dân số 12/2006

8. Nguyễn Ngọc Điện (2004), Bình luận khoa học Luật Hôn nhân và gia

đình, tập II: Các quan hệ tài sản giữa vợ và chồng, Nxb Trẻ, Thành phố

Hồ Chí Minh.

9. Nguyễn Thị Hạnh (2012), Pháp luật về chia tài sản chung của vợ chồng

khi ly hôn từ thực tiễn xét sử của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định, Luận

văn Thạc sĩ, Khoa luật, Học viện Khoa học Xã hội.

10. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (2002), Các văn kiện quốc tế

về quyền con người, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

11. Phạm Thị Ngọc Lan (2008), Giải quyết tranh chấp tài sản của vợ chồng

khi ly hôn theo Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000, Luận

101

văn Thạc sĩ Luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội.

12. Trần Thị Thúy Lâm (2009), Vấn đề phòng chống bạo lực đối với phụ nữ

và trẻ em trong các lĩnh vực pháp luật, Tạp chí Luật học,(số 2)

13. Liên hợp quốc (1948), Công ước của Liên hợp quốc về quyền con người.

14. Liên hợp quốc (1966), Công ước của Liên hợp quốc về các quyền kinh tế,

xã hội, văn hóa.

15. Liên hợp quốc (1945), Hiến chương Liên hợp quốc.

16. Liên hợp quốc (1968), Tuyên bố cuối cùng của hội nghị quốc tế về quyền

con người - Teheran.

17. Liên hợp quốc (1989), Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em.

18. Tưởng Duy Lượng (2005), Bình luận một số vụ án hôn nhân và gia đình,

Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

19. Lê Thị Lý (2008), Nguyên tắc bảo vệ quyền lợi của cha, mẹ và các con

trong luật hôn nhân và gia đình năm 2000, Khóa luận tốt nghiệp, Trường

Đại học Luật Hà Nội.

20. Nguyễn Thanh Mai (2012), Chia tài sản chung của vợ chồng theo pháp

luật Việt Nam thực tiễn áp dụng và hướng hoàn thiện, Luận văn thạc sĩ,

Khoa Luật học, Học viện Khoa học Xã hội.

21. Đinh Thị Minh Mẫn (2014), Giải quyết tranh chấp về chia tài sản chung

của vợ chồng khi ly hôn, Luận văn thạc sĩ, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà

Nội.

22. Hồ Chí Minh: Toàn tập, NXB. Chính trị quốc gia, H,2000, t3,tr. 523

23. Bùi Thị Mừng (2008), Bảo vệ quyền của phụ nữ theo luật Hôn nhân và

Gia đình Việt Nam năm 2000, Luận văn thạc sĩ Luật học, Trường đại học

Luật Hà Nội.

24. Nguyễn Hồng Nam, Chia nhà đất khi vợ chồng ly hôn, Tạp chí TAND số

06 – tháng 3/2006

25. Hồ Thị Nga (2007), Bảo vệ quyền lợi của con khi cha mẹ ly hôn, Khóa

luận tốt nghiệp, Khoa Luật, Trường đại học Luật Hà Nội.

102

26. Quốc hội (1959), Luật hôn nhân và gia đình, Hà Nội.

27. Quốc hội (1986), Luật Hôn nhân và gia đình, Hà Nội.

28. Quốc hội (1992), Hiến pháp 1992, Hà Nội.

29. Quốc hội (2001), Hiến pháp (sửa đổi, bổ sung), Hà Nội.

30. Quốc hội (2000), Luật Hôn nhân và gia đình, Hà Nội.

31. Quốc hội (2000), Nghị quyết số 35/2000/QH10 ngày 09/6/2000 về việc

thi hành Luật Hôn nhân và gia đình.

32. Quốc hội (2004), Bộ luật tố tụng dân sự, Hà Nội.

33. Quốc hội (2005), Bộ luật dân sự năm 2005, Hà Nội.

34. Quốc hội (2013), Hiến pháp 2013, Hà Nội.

35. Quốc hội (2014), Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, Hà Nội.

36. Quốc hội (2015), Bộ luật dân sự 2015, Hà Nội.

37. Quốc hội (2015), Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Hà Nội.

38. Nguyễn Thị Phương Thảo (2007), Nguyên tắc bảo vệ quyền lợi của phụ

nữ và trẻ em khi ly hôn theo luật Hôn nhân và Gia đình Việt Nam năm

2000, Khóa luận tốt nghiệp, Khoa luật, Đại học Quốc gia Hà Nội.

39. Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp,

Thông tư liên tịch số 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày

06/01/2016 về việc hướng dẫn thi hành một số quy định của Luật Hôn

nhân và gia đình năm 2014.

40. Lê Thu Trang (2012), Nguyên tắc bảo vệ quyền lợi chính đáng của vợ và

các con khi vợ chồng ly hôn theo luật Hôn nhân và Gia đình Việt Nam

năm 2000, Luận văn Thạc sĩ, Khoa luật, Đại học Quốc gia Hà Nội.

41. Trường Đại học Luật Hà Nội (1999), Từ điển giải thích thuật ngữ Luật

học Luật Dân sự, Luật Hôn nhân và gia đình, Luật Tố tụng dân sự, Nxb

Công an nhân dân, Hà Nội.

42. Trường Đại học Luật Hà Nội (2015), Giáo trình Luật Hôn nhân và gia

đình, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

43. Trường Đại học Quốc Gia Hà Nội (2010), Giáo trình Hỏi đáp về Quyền

103

Con Người, NXB Công an nhân dân, Hà Nội.

44. Viện Khoa học pháp lý (2002), Từ điển Luật học, Nxb Tư pháp.

45. Nguyễn Thị Hồng Yến, Mạc Thị Hoài Thương (2014), Quyền làm mẹ

trong pháp luật quốc tế và thực tiễn nội luật hóa các cam kết trong pháp

luật Việt Nam, Tạp chí luật học, (số 3), tr.48-53

Web:

46. Http://antgct.cand.com.vn/Nhan-dam/Van-de-binh-dang-nam-nu-trong-

Hien- phap-va-Bo-luat-Lao-dong-346546/, ngày cập nhật04/4/2015

47. Http://www.baomoi.com/Vi-pham-phap-luat-voi-lao-dong-nu-rat-

nghiem-trong/47/3024853.epi, ngày cập nhật05/8/2009

48. Http://www.baomoi.com/di-khap-nam-chau-tim-hieu-che-do-thai-

san/c/9186855.epi, ngày cập nhật25/8/2012

49. Http://baoquocte.vn/thu-nhap-cua-nu-lao-dong-con-nhieu-bat-cap-

48317.html, ngày cập nhật01/5/2017

50. Http://laodongthudo.vn/vi-pham-phap-luat-trong-giao-ket-hop-dong-

lao-dong-van-kha-pho-bien-42688.html, ngày cập nhật23/9/2016

51. Http://doanhnghiepvn.vn/doanh-nghiep-viet-thua-tu-y-thuc-ton-trong-

phap-luat-d33097.html, ngày cập nhật19/01/2015

52. Http://www.haugiang.gov.vn/portal/data/sites/10/chuyende/phunu/phan

2/vitri vaitrocuaphunutrongxuthehoinhapi.html, ngày cập nhật16/7/2017

53. Http://nld.com.vn/suc-khoe/bao-dong-benh-nghe-nghiep-tang-cao-

20160223221341918.htm, ngày cập nhật24/02/2016

54. Http://tapchicongsan.org.vn/Home/Thoi_su/2012/16233/Bao-dam-

quyen-loi-ich-chinh-dang-cho-nguoi-lao-dong-ve.aspx, ngày cập nhật

23/5/2012

55. Http://nld.com.vn/cong-doan/nguoc-dai-ba-bau2014091020305503.htm,

ngày cập nhật10/9/2014

56. Http://www.tapchigiaothong.vn/ty-le-that-nghiep-cua-phu-nu-tiep-tuc-

cao-hon-nam-gioi-d44883.html, ngày cập nhật 16/6/2017

104

57. Http://tphcm.chinhphu.vn/ty-le-sinh-cua-tphcm-thap-nhat-ca-nuoc,ngày

cập nhật 08/7/2017

58. Http://thanhtra.com.vn/xa-hoi/phu-nu-mang-thai-nen-lam-viec-it-hon-25-

tieng-moi-tuan_t114c34n41699, ngày cập nhật30/6/2012

59. Http://vnsuckhoe.com/lam-me/mang-thai/Lam-viec-nhieu-anh-huong-

den-suc-khoe-thai-nhi.html, ngày cập nhật 10/6/2017

105