VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
TRẦN THANH HẬU
QUYỀN SỞ HỮU TÀI SẢN CỦA NGƯỜI ĐỒNG TÍNH,
SONG TÍNH VÀ CHUYỂN GIỚI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ
HÀ NỘI, năm 2020
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
TRẦN THANH HẬU
QUYỀN SỞ HỮU TÀI SẢN CỦA NGƯỜI ĐỒNG TÍNH,
SONG TÍNH VÀ CHUYỂN GIỚI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Ngành: Luật Kinh Tế
Mã ngành: 8.38.01.07
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. TRẦN VĂN BIÊN
HÀ NỘI, năm 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu nêu
trong luận văn là trung thực và đáng tin cậy. Các trích dẫn được chú thích đầy đủ và
có thể truy xuất nguồn của tài liệu tham khảo.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
THUẬT NGỮ TỪ/CỤM TỪ VIẾT TỪ/CỤM TỪ ĐẦY ĐỦ TIẾNG ANH TẮT (nếu có)
BLDS Bộ luật Dân sự
Hiến pháp 2013 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam ban hành năm 2013
LGBT Lesbian, Gay, Đồng tính nữ, đồng tính nam, song
Bisexual and tính và chuyển giới
stransgender
LHN&GD Luật Hôn nhân và Gia đình
Viện iSSE Viện nghiên cứu kinh tế, xã hội và môi
trường
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN SỞ HỮU TÀI SẢN CỦA
NGƯỜI ĐỒNG TÍNH, SONG TÍNH VÀ CHUYỂN GIỚI................................... 8
1.1. Khái quát về người đồng tính, song tính và chuyển giới .................................. 8
1.1.1. Lịch sử nhận thức người đồng tính, song tính và chuyển giới qua các thời
kỳ ........................................................................................................................... 9
1.1.2. Hệ thống các khái niệm liên quan đến đồng tính, song tính và chuyển
giới ...................................................................................................................... 14
1.2. Quyền sở hữu tài sản của người đồng tính, song tính và chuyển giới ............ 16
1.2.1. Khái niệm .................................................................................................. 16
1.2.2. Nội dung quyền sở hữu tài sản của người đồng tính, song tính và chuyển
giới ...................................................................................................................... 21
Chương 2: PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ QUYỀN SỞ HỮU TÀI
SẢN CỦA NGƯỜI ĐỒNG TÍNH, SONG TÍNH, CHUYỂN GIỚI VÀ THỰC
TIỄN THỰC HIỆN ................................................................................................. 31
2.1. Pháp luật Việt Nam hiện hành về quyền sở hữu tài sản của người đồng tính,
song tính và chuyển giới ........................................................................................ 31
2.1.1. Thực trạng quy định pháp luật về quyền sở hữu tài sản của người đồng
tính, song tính và chuyển giới ............................................................................. 31
2.1.2. Một số nhận xét, đánh giá thực trạng quy định pháp luật về quyền sở hữu
tài sản của người đồng tính, song tính và chuyển giới ....................................... 34
2.2. Thực tiễn thực hiện quyền sở hữu tài sản của người đồng tính, song tính và
chuyển giới ............................................................................................................. 49
Chương 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN SỞ HỮU TÀI SẢN CỦA
NGƯỜI ĐỒNG TÍNH, SONG TÍNH VÀ CHUYỂN GIỚI Ở VIỆT NAM HIỆN
NAY .......................................................................................................................... 62
3.1. Nhu cầu hoàn thiện pháp về quyền sở hữu tài sản của người đồng tính, song
tính và chuyển giới ................................................................................................. 62
3.2. Giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật về quyền sở hữu tài sản của
người đồng tính, song tính và chuyển giới ............................................................. 64
3.3. Giải pháp bảo đảm thực hiện quyền sở hữu tài sản của người đồng tính, song
tính và chuyển giới ................................................................................................. 70
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 75
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1. Phân tích tương quan với trải nghiệm khó khăn trong quan hệ cùng
giới............................................................................................................................. 58
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đồng tính, song tính và chuyển giới (LGBT) không phải là một hiện tượng
xã hội mà là bản chất của xã hội (hiện tượng là những vấn đề nổi lên và đạt đến cao
trao rồi sẽ tự động thoái trào, không tồn tại vĩnh viễn theo sự vận động và phát triển
của xã hội). LGBT là bản chất của một số người sống trong cộng đồng xã hội loài
người, ở mọi thời đại đều có, nó đã tồn từ cổ đến kim bằng chứng qua quá trình phát
triển lịch sử văn hóa, tôn giáo của xã hội loài người.
Giai đoạn đầu các phong trào chủ yếu đòi các quyền liên quan đến được
công nhận quyền rất cơ bản của một con người: quyền được sống, quyền được bình
đẳng trước pháp luật… Khi các phong trào đấu tranh bảo vệ quyền nổ ra thì thuật
ngữ “Đồng Tính” mới bắt đầu xuất hiện trong các công trình nghiên cứu của các
nhà xã hội học. Đến ngày 17/5/1990, WHO đã chính thức gở bỏ “đồng tính luyến
ái” là một dạng của bệnh tâm thần. Ngày nay, nhận thức của những người quan tâm
đến người LGBT đã không xem đồng tính là một căn bệnh, khiếm khuyến về cơ thể.
Mà nếu để phân biệt và “xếp loại” người LGBT thì dựa vào khuynh hướng tính dục
khác so với dị tính.
Cộng đồng người LGBT tại Việt Nam chịu ảnh hưởng rất nhiều từ những
phong trào đòi bình đẳng quyền trên toàn thế giới, nhu cầu bình đẳng quyền là một
nhu cầu rất cơ bản đối với mọi người không chỉ người LGBT mà người “dị tính”
cũng có nhu cầu hết sức cơ bản như vậy, cho nên năm gần đây cộng đồng LGBT tại
Việt Nam dám đứng ra ánh sáng dũng cảm lên tiếng bảo vệ cho quyền của họ là
việc hết sức bình thường và sơ đẳng trước những nghi kỵ, kỳ thị của đa số người
Việt Nam.
Tuy nhiên những hoạt động nhằm đòi hỏi quyền của cộng đồng LGBT chỉ
tập trung trong vấn đề liên quan đến các quyền nhân thân như: quyền được công
nhận, quyền không bị phân biệt đối xử, quyền được kết hôn mà không có hoặc ít đề
cập đến các quyền mà bản chất nó đã tồn tại rất lâu khi các cặp thuộc người LGBT
sống chung với nhau như: Quyền sở hữu tài sản chung, quyền được nhận thừa kế tài
1
sản, quyền định đoạt tài sản khi về sống chung với nhau… Trên thực tế các bài viết
nghiên cứu về bảo vệ quyền của người LGBT, người ta chỉ tập trung đến các quyền
nhân thân của người LGBT và ngay bản thân họ, cũng chỉ muốn các quyền cơ bản
về nhân thân mà bỏ quên đi quyền sở hữu tài sản vô cùng quan trọng. Sau khi về
sống chung với nhau như một gia đình, có rất nhiều mối quan hệ đặc biệt là các mối
quan hệ tài sản, thì liệu các quan hệ tài sản đó được đảm bảo như thế nào khi có
những vấn đề phát sinh như: không còn chung sống, một người trong hai người chết
đi…
Những quy định của pháp luật Việt Nam hiện tại không xem người LGBT
chung sống với nhau là hành vi bất hợp pháp nhưng việc quy định các vấn đề liên
quan đến lĩnh vực hôn nhân và gia đình cũng như các vấn đề quyền sở hữu tài sản
trong quá trình chung sống với nhau như vợ chồng thì vẫn chưa có quy định cụ thể
đặc biệt quyền sở hữu tài sản của họ sẽ không được đảm bảo khi có chung sống với
nhau.Ngoài ra các vụ tranh chấp trong thực tế liên quan đến tài sản của các cặp
LGBT là rất nhiều, các vấn đề liên quan đến tranh chấp chưa được giải quyết đúng
với bản chất tài sản của người LGBT làm cho quyền tài sản sản của họ bị tổn hại
nghiêm trọng. Xuất phát điểm từ thực tế quy định pháp luật sẽ ảnh hưởng rất nhiều
đến các quan hệ tài sản, đặc biệt là mối quan hệ sở hữu tài sản chung khi các cặp
LGBT sống chung như vợ chồng tại Việt Nam làm cho họ không hưởng được
quyền sở hữu tài sản tuyệt đối của công dân do các rào cản về mặt pháp lý nên
người viết quyết định chọn đề tài “Quyền sở hữu tài sản của người đồng tính,
song tính và chuyển giới ở Việt Nam hiện nay” để nghiên cứu trong luận văn,
nhằm đề xuất các giải pháp bảo đảm quyền tài sản cơ bản của cộng đồng LGBT tại
Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Hiện nay, vấn đề nghiên cứu liên quan đến các quyền của người “đồng tính,
song tính và chuyển giới” đang thu hút được nhiều sự quan tâm bao, có thể do nhu
cầu được công nhận cũng như để đảm bảo quyền lợi của mình mà các người thuộc
nhóm đồng tính, song tính và chuyển giới đã dám bước ra ánh sáng, cất lên tiếng
2
nói của mình thông qua các hoạt động cộng đồng, các games show truyền thực tế
hay các phương tiện truyền thông đại chúng như báo đài, internet… để giúp mọi
người hiểu rõ hơn về mình và khẳng định mình là người hoàn toàn bình thường vẫn
sống và cống hiến cho xã hội. Cũng chính từ đây các bài viết, các công trình nghiên
cứu bắt đầu hướng về họ rất nhiều, tuy nhiên nhiên đó chỉ là các bài viết, các bài
nghiên cứu khoa học tập trung vào các vấn đề : “có nên hay không công nhận các
quyền của người đồng tính”, “công nhận hôn nhân đồng tính”, “Thừa nhận vấn đề
sống chung của các cặp đồng tính, song tính và chuyển giới”, “bảo vệ quyền cơ bản
của người Đồng Tính, Song Tính và Chuyển Giới”... nhưng vẫn chưa có bất kỳ bài
viết nào đề cặp hay nói một cách chuyên sâu về mối quan hệ tài sản của nhóm
người LGBT khi họ về sống chung với nhau.
Tính cho đến thời điểm hiện tại, theo những nghiên cứu để tìm nguồn tài liệu
tham khảo của người viết, thì đề tài liên quan đến quyền sở hữu tài sản của người
LGBT không có hoặc có cũng chỉ đề là đề cập sơ lược nhằm tạo tiền đề để nghiên
cứu các quyền khác của người LGBT. Có thể nói đây là đề tài tương đối mới trong
giới học thuật nghiên cứu liên quan đến quyền con người nói chung và quyền của
người LGBT nói riêng, tuy nhiên trong thực tế vấn đề quyền sở hữu tài sản này
không mới, vì nó tồn tại song hành cùng với các quyền cơ bản khác của người
LGBT nhưng ít được xem trọng cũng như đặt đúng vị thế của mình. Trong thời đại
kinh tế thị trường hiện nay, thì vấn đề liên quan tài sản được xem như “cánh tay
trái” quan trọng không kém gì so với “cánh tay phải” là các quyền nhân thân trong
các hệ thống quyền, không chỉ quan trọng đối với dị tính mà còn đối với người đồng
tính, song tính và chuyển giới là hết sức quan trọng trong bối cảnh Việt Nam chưa
công nhận mối quan hệ chung sống và quan hệ sở hữu tài sản chung với bất kỳ hình
thức nào.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích: Đưa ra các khái niệm chính xác với người đồng tính, song tính và
chuyển giới, và các khái niệm về quyền tài sản của ngươi LGBT. Đưa ra các lập
luận của cá nhân nhưng xác đáng toàn diện và phù hợp cho một hệ thống giải pháp
3
hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam để đảm bảo các quyền cơ bản, cụ thể trong
luận văn của người viết đó là quyền sở hữu tài sản trong quá trình chung sống của
các cặp đôi người đồng tính, song tính và chuyển giới.
Nhiệm vụ:
Căn cứ vào mục đích trên người viết xin trình bày các nhiệm vụ của luận văn
như sau:
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận về người đồng tính, song tính và chuyển
giới; lý luận về quyền sở hữu tài sản và pháp luật về quyền sở hữu tài sản của người
đồng tính, song tính và chuyển giới; các yếu tố ảnh hưởng đến việc xây dựng, thi
hành pháp luật về quyền sở hữu tài sản của các đối tượng này; xu hướng phát triển
của pháp luật quốc tế, pháp luật các quốc gia trên thế giới về quyền sở hữu tài sản
của các đối tượng này.
- Nghiên cứu thực tiễn pháp luật về quyền của người đồng tính, song tính, và
chuyển giới tại Việt Nam từ đó làm nổi bật lên quyền sở hữu tài sản của nhóm đối
tượng này cần thiết như thế trong quá trình chung sống, tham gia các hoạt động giao
dịch dân sự và các hoạt động thương mại khác trong bối cảnh pháp luật Việt Nam
vẫn chưa công nhận quyền sở hữu tài sản chung của các cặp đồng tính, song tính và
chuyển giới trong hệ thống pháp luật hiện nay.
- Dựa vào các kết quả nghiên cứu trong thực tiễn, lý luận cũng như chính
người viết từng trải và chứng kiến. Người viết sẽ trình bày trong luận văn các giải
pháp nhằm hoàn thiện pháp luật Việt Nam về quyền sở hữu tài sản của người đồng
tính, song tính và chuyển giới dựa vào những nhóm quyền cơ bản của con người mà
đối tượng này được hưởng cũng như đang trong quá trình đấu tranh để được công
nhận và góp phần thúc đẩy thi hành pháp luật về quyền của các đối tượng này cũng
như nhóm quyền sở hữu tài sản chung của cộng đồng người LGBT trong thời gian
xắp đến.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiện cứu: luận văn tập trung nghiên cứu đến đối tượng cụ thể
chủ thể mà người viết nghiên cứu chính là người đồng tính, song tính và chuyển
4
giới và thái độ của những người trong xã hội khi gặp các vấn đề phát sinh liên quan
đến tài sản của những cặp đối tượng LGBT khi sống chung với nhau. Tuy nhiên đối
tượng chủ thể song tính và đồng tính có cơ sở tương quan nhau về mặt lý luận cũng
như bản chất nên người viết coi là một nhóm đối tượng chủ thể. Còn người chuyển
giới, thì đã được công nhận giới tính thông qua Bộ luật dân sự 2015 tại Điều 37. Vì
thế các quyền sỡ hữu tài sản của người chuyển giới có thể xem như là cơ bản hoàn
thiện so với đồng tính, song tính (người chuyển giới được xem như đúng giới tính
họ chuyển, tuy nhiên từ Nam chuyển thành nữ thì vẫn còn một số quyền bị hạn chế
do chưa có pháp luật quy định). Mặc dù là nghiên cứu cho cả ba đối tượng chủ thể
nhưng luận văn vẫn tập trung vào đối tượng đồng tính, song tính nhiều hơn so với
chuyển giới. Bên cạnh đó đối tượng người viết nghiên cứu để đưa ra các nhận định
và lập luận nhằm đảm bảo quyền sở hữu tài sản của người LGBT là những thực
trạng quy định của pháp luật làm ảnh hưởng đến quyền sở hữu tài sản của nhóm đối
tượng này từ đó tổng hợp các nguyện vọng và mong muốn của nhóm đối tượng để
trình bày trong chương 3 các giải pháp hoàn thiện pháp luật.
Phạm vi nghiên cứu: luận văn nghiên cứu quyền sở hữu tài sản dựa trên
quyền tài sản được quy định trong Hiến Pháp 2013, Bộ luật dân sự 2015 và các luật
khác có liên quan, trong đó Luật Hôn nhân gia đình năm 2014 là trọng tâm mà
người viết muốn hướng tới nhiều nhất trong các luật có liên quan đến quyền sở hữu
tài sản của người LGBT. Bên cạnh nghiên cứu các quy định của pháp luật ở Việt
Nam hiện nay luận văn cũng nghiên cứu phân tích, so sánh và đối chiếu với các
quốc gia trên thế giới có pháp luật, văn hóa phong tục tập quán tương đồng với Việt
Nam và các điều ước, công ước mà Việt Nam tham gia nhằm bảo đảm quyền con
người để tìm ra điểm chung từ đó để bảo vệ quyền sở hữu tài sản của các cặp đôi
LGBT thông qua việc đưa ra các giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận của luận văn là quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lenin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, đường lối chính sách của đảng về nhà nước, pháp luật, về quyền con
người.
5
Dựa trên phương pháp nghiên cứu của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử, luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như
phương pháp hệ thống, lịch sử, logic, phân tích, so sánh, tổng hợp. Ngoài ra, người
viết có tham khảo ý kiến chuyên môn của các chuyên gia, tổ chức có liên quan đến
đề tài.
6. Ý nghĩa của luận văn
- Về mặt lý luận:
Kết quả nghiên cứu sẽ cung cấp một cách có hệ thống thế nào là người đồng
tính, song tính và chuyên giới, giúp cho việc phân biệt rạch ròi trong công tác
nghiên cứu về giới và “ xu hướng tính dục”, đặc biệt tạo cơ sở tiền đề nghiên cứu
quyền sở hữu tài sản của người đồng tính, song tính và chuyển giới.
Luận văn cung cấp các kiến thức cơ bản về LGBT cho người đọc cũng như
các nghiên cứu về giới, giúp người đọc hiểu được các mối quan hệ tài sản thông
thường của các cặp đồng tính, song tính và chuyển giới khi họ sống chung với nhau.
Qua đó giúp cho người đọc hiểu hơn về bản chất quyền sở hữu tài sản chung quan
trọng đến thế nào đối với người thuộc cộng động người LGBT. Từ đó, đưa ra những
nhận định và kiến nghị các biện pháp để giúp pháp luật Việt Nam có những quy
định cụ thể để bảo vệ và bảo đảm quyền sở hữu tài sản của người LGBT trong thời
đại kinh tế thị trường hiện nay.
- Về mặt thực tiễn: Giúp cho các cơ quan giải quyết tranh chấp các vụ việc
có liên quan đến các quan hệ tài sản chung của các cặp đồng tính, song tính và
chuyển giới được diễn ra thuận tiện, nhanh chóng, “hợp tình và hợp lý”. Bên cạnh
đó cũng góp phần giúp cho pháp luật Việt Nam bắt kịp các quốc gia tiên tiến về xây
dựng vào bảo đảm quyền con người, quyền công dân cho các nhóm người yếu thế
trong xã hội như người LGBT
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn bao gồm ba chương:
6
Chương 1: Những vấn đề lý luận về quyền sở hữu tài sản của người đồng
tính, song tính và chuyển giới
Chương 2: Pháp luật Việt Nam hiện hành về quyền sở hữu tài sản của người
đồng tính, song tính, chuyển giới và thực tiễn thực hiện
Chương 3: Hoàn thiện pháp luật về quyền sở hữu tài sản của người đồng tính,
song tính và chuyển giới ở Việt Nam hiện nay
7
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN SỞ HỮU TÀI SẢN CỦA NGƯỜI
ĐỒNG TÍNH, SONG TÍNH VÀ CHUYỂN GIỚI
1.1. Khái quát về người đồng tính, song tính và chuyển giới
Đồng tính, song tính hay gọi chung là “đồng tính luyến ái” (yêu cùng giới
tính sinh học, bản dạng giới mà mình đang mang) và chuyển giới (yêu người có
bảng dạng giới khác so với mình đang mang) đã có từ rất lâu. Đây không phải là
hiện tượng xã hội mà nó là bản chất của những nhóm người không hề nhỏ trong xã
hội và nó đã tồn tại hàng ngàn năm nay (chiếm từ 3% đến 7% dân số mỗi quốc gia).
Khi nhìn vào quá trình phát triển của loài người, chúng ta sẽ nhìn thấy được bằng
chứng của những người đồng tính, song tính và chuyển giới trong lịch sử, trong văn
hóa của tất cả dân tộc trên toàn thế giới, có thể nói ở đâu có con người thì ở đó tồn
tại đồng tính, song tính và chuyển giới.
Đồng tính và song tính trong lịch sử được xem như là một, gọi chung là
“đồng tính luyến ái”, tuy xét ở gốc độ nghiên cứu về xu hướng tính dục hiện đại thì
hai quan hệ này được xem là khác nhau. Nhưng do cổ xưa, người ta vẫn chưa có các
cuộc nghiên cứu về xu hướng tính dục vì thế đồng tính và song tính được đánh đồng
là một… Tuy nhiên nhìn vào lịch sử cổ đại sẽ không thấy được người chuyển giới,
vì đơn giản do các thời kỳ đó chuyện phân biệt rạch rồi của đồng tính, song tính và
đặc biệt là người chuyển giới là không thể. Người chuyển giới xuất hiện khi nền y
học phát triển mạnh mẽ ở cuối thế kỷ XVIII và đầu thế kỷ XIX, dấu mốc đầu tiên
cho khái niệm về người Chuyển giới, khi ca phẩu thuật chuyển giới đầu tiên từ Nam
thành Nữ của Einar Mogens Wegener (1882-1931) được thực hiện vào năm 1930,
ca phẫu thuật chuyển đổi giới tính của Einar Wegener khi đó đã trở thành đề nóng
hổi, gây sốt trên các trang báo ở Đan Mạch và Đức, sau ca phẩu thuật chuyển giới
cô đổi tên thành Lili Elbe, nhưng năm 1931 cô mất vì biến chứng của cấy ghép tử
cung.
Tất cả điều đó nói lên rằng người “đồng tính, song tính” xuất hiện sớm hơn
so với người chuyển giới, cũng chứng minh được khi họ gần kề bên nhau thì không
8
đơn thuần là có quan hệ với nhau về mặt tình cảm hoặc thể xác mà còn có quan hệ
với nhau về mặt sở hữu chung tài sản. Khi con người có mối quan hệ với nhau về
mặt tình cảm, chắc sẽ có quan hệ với nhau liên quan đến tài sản. Khi các cặp đồng
tính, song tính yêu nhau trong lý trí chắc chắn họ muốn dành tất cả tình yêu và tất
cả những vật chất tốt nhất cho đối phương. Tuy nhiên vấn đề quan hệ sở hữu tài sản
không được chú ý đến quá nhiều ở thời cổ đại vì đơn thuần hành vi tính dục đồng
tính, song tính còn qua mới mẻ cho những con người sống trong thời đại đó, hay
cho chính những người đồng tính, song tính.
1.1.1. Lịch sử nhận thức người đồng tính, song tính và chuyển giới qua các
thời kỳ
Hơn 2000 năm sống trong sự kỳ thị, phân biệt đối xử kéo dài xuyên suốt từ
thời kỳ cổ đại đến thời kỳ hiện đại, người LGBT quyết định không sống trong im lặng
bóng tối, họ quyết định bước ra ánh sáng đứng lên đòi lại quyền bình đẳng cho mình,
bằng các phong trào đấu tranh nổ ra trong những năm đầu cuối thế kỷ XVIII. Giai
đoạn này các nhà hoạt động nhân quyền, các nhà nghiên cứu khoa học về giới tính và
tình dục đã bắt đầu nghiên cứu những người có quan hệ đồng tính luyến ái. Từ đây,
các khái niệm liên quan đến người đồng tính, song tính, chuyển giới và bản dạng giới
ra đời, đặt nền tảng vững chắc cho các lập luận liên quan đến người có quan hệ đồng
giới và chuyển đổi giới tính, giúp cho việc có thúc đẩy và bảo vệ các quyền cơ bản
của người đồng tính, song tính và chuyển giới được đảm bảo. Thời kỳ thiện đại,
chúng ta sẽ nhìn thấy được các phong trào đấu tranh, kêu gọi quyền bình đẳng của
người đồng tính, song tính và chuyển giới trên khắp mọi nơi. Đây cũng xem như là
thời kỳ có nhiều bước ngoặc mang tính cách mạng của người trong cộng đồng tính,
song tính và chuyển giới.
Vào ngày 17/5/1990, Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) chính thức loại “đồng
tính luyến ái” ra khỏi danh sách các căn bệnh. Và nhân sự kiện này, cộng đồng
LGBT (đồng tính, song tính và chuyển giới) đã chọn ngày 17/5 làm Ngày Quốc tế
chống kì thị người đồng tính và chuyển giới - IDAHOT (International Day Against
Homophobia & Transphobia). Kể từ năm 2004, ngày 17/5 hằng năm được chọn là
9
ngày Quốc tế chống kì thị người đồng tính, song tính và chuyển giới
(IDAHOT), nhằm nâng cao nhận thức của người dân, thu hút sự quan tâm tới các
quyền cơ bản của cộng đồng LGBT. Cũng chính giai đoạn này mà mối quan hệ gia
đình của người LGBT được đặt ra trong những mối quan hệ gia đình thì vấn đề sở
hữu tài sản chung của người LGBT là vấn đề được quan tâm hàng đầu khi các cặp
LGBT về chung sống với nhau như vợ chồng trong vấn đề điều chỉnh của hệ thống
pháp luật từng quốc gia nhằm đảm bảo các quyền cơ bản của một con người trong
đó có quyền sở hữu tài sản của người LGBT.
Lịch sử nhận thức về người đồng tính, song tính tại châu Âu-Mỹ
Những năm cuối 1860, nghiên cứu về người đồng tính được bắt đầu lần đầu
tiên ở Đức, nơi đã gắn liền với cuộc đấu tranh nhằm xóa bỏ sự ngăn cấm đối với hành
vi đồng tính. Thuật ngữ “đồng tính luyến ái” và “người đồng tính” không tồn tại cho
đến cuối những năm 1860 khi chúng lần đầu xuất hiện ở Trung Âu. Vào năm 1864,
Karl Heinrich Ulrichs là người đầu tiên viết về khái niệm của quan hệ đồng tính, ông
được coi là “ông tổ của phong trào giải phóng quyền đồng tình nam” và Karoly Maria
Kertbeny đã đặt nền móng thực sự cho những thuật ngữ này. Những thuật ngữ mà ông
đã sử dụng trong cuộc đấu tranh vì “quyền của người đồng tính” ở Đức nhằm xóa bỏ
tình trạng ngăn cấm quan hệ đồng tính. Và cũng trong giai đoạn này một lĩnh vực
nghiên cứu mới được bắt đầu, đó là “tình dục học” nghiên cứu về quan hệ tình dục và
cụ thể là quan hệ đồng tính. Và cũng bắ tđầu từ đầu những năm 1860 này, người đồng
tính vận động đấu tranh vì quyền lợi hợp pháp của người đồng tính và các chuyên gia
về tình dục cũng tán thành rằng quan hệ đồng tính không phải là một tội lỗi hay tội ác.
Năm 1886, Richard von Kraftt-Ebing (1840-1902) là một chuyên gia tình dục
học lỗi lạc. Ông đã phá vỡ học thuyết của Ulrichs về quan hệ đồng tính. Mặc dù ông
cũng đã cho rằng đồng tính là bẩm sinh nhưng ông xem là một dạng khuyết điểm bẩm
sinh thể hiện là giới tính bị đảo ngược và bị thoái hóa. Sau này cũng có nhiều chuyên
gia cũng có cùng quan điểm với Ulrichs như Magnus Hirschfeld (1868-1935), một
trong những người lãnh đạo cuộc đấu tranh vì quyền của người đồng tính. Vượt ra
10
khỏi nước Đức, Havelock Ellis (1859-1939) là một trong những người ủng hộ quyền
của người đồng tính sớm nhất ở Anh
Năm 1948, Alfred Kinsey đã xuất bản cuốn “Sexual Behavior in the Human
Male”. Về mặt lịch sử, tác phẩm của ông đã góp phần đáng kể vào sự phát triển khái
niệm “người đồng tính” hiện nay. “Không thể phân tách đàn ông thành hai loại riêng
biệt là dị tính và đồng tính luyến ái cũng như không thể chia thế giới thành cừu và dê.
Thế giới tự nhiên hiếm khi được phân chia thành những loại riêng biệt… Trong mọi
khía cạnh, thế giới sống này là liên tục. Dựa trên nguyên lý đó, cần thiết đề xuất một
cách phân loại mới bằng cách thêm vào hai loại hoàn toàn dị tính và hoàn toàn đồng
tính những loại khác mà chúng khác nhau một cách tương đối. Một người có thể nằm
đâu đó trên thang đánh giá này trong một thời điểm nào đó của cuộc đời… Một thang
đo 7 điểm một chiều thể hiện những thiên hướng tính dục” là kết quả nghiên cứu của
ông được viết trong tác phẩm trên. Đóng góp của ông cho sự phát triển khái niệm
ngày nay, tình dục hướng đến giới tính khác cũng là vấn đề xu hướng tính dục giống
như đồng tính luyến ái và xu hướng tính dục đó không thay đổi [49].
Trong những giai đoạn đầu, các chuyên gia trong lĩnh vực giới tính và tình dục
học đã xếp người chuyển giới chung với những người có quan hệ tình dục đồng giới
(đồng tính, song tính). Tuy nhiên khi ca phẩu thuật chuyển đổi giới tính đầu tiên được
thực hiện 1930; cùng với các khái niệm liên quan đến giới tính và tình dục học được
phát triển mạnh mẻ trong giai đoạn hiện đại, trong đó hai khái niệm quan trọng nhất là:
bản dạng giới và xu hướng tính dục, giúp cho các nhà nghiên cứu không chỉ riêng các
nhà tình dục học và giới tính mà còn có các nhà nhân quyền, xã hội hoc và các chuyên
gia liên quan đến pháp luật và y học cũng tham gia nghiên cứu đối tượng người
chuyển giới. Cũng chính trong giai đoạn này, cùng với người đồng tính và song tính,
người chuyển giới cũng cất lên tiếng nói và có các hành động thiết thực để bảo vệ
quyền liên quan đến nhân thân và quyền sở hữu tài sản khi có quan hệ tài sản trong
quá trình chung sống với một người LGBT khác và những quyền liên đến sở hữu tài
sản của mình thông qua các phong trào đấu tranh của người thuộc cộng đồng LGBT.
11
Các phong trào đấu tranh của người đồng tính, song tính và chuyển tại khu vực
lục địa Âu và Mỹ kéo dài hơn 100 năm đã đạt được những thành quả nhất định sau khi
Ủy ban Nhân quyền Liên Hiệp Quốc đã thông qua tuyên bố về quyền của người
đồng tính, song tính và chuyển giới trên toàn cầu vào tháng 6/2011. Tuyên bố khẳng
định "mọi người đều sinh ra tự do và bình đẳng về nhân cách và quyền lợi, và mọi
người đều xứng đáng có được tự do và quyền lợi mà không bị phân biệt đối xử dưới
bất kỳ hình thức nào". 96 nước thành viên của Liên Hợp Quốc đã ký tên ủng hộ
nghị quyết công nhân quyền của người đồng tính, 44 nước không ủng hộ cũng
không phản đối quyền của người đồng tính, 57 nước ký tên phản đối quyền của
người đồng tính (hiện còn 54 nước vì có 3 nước đã chuyển sang ủng hộ quyền của
người đồng tính [46].
Việc công nhận hôn nhân LGBT đồng nghĩa với việc cho hai người cùng giới
tính được phép kết hôn và có các quyền nghĩa vụ như các cặp vợ chồng thông thường.
Trong đó các nghĩa vụ cũng như các quyền liên quan đến sở hữu tài sản đều được bảo
hộ bởi pháp luật như các quyền sở hữu tài sản chung, quyền liên quan đến bất động
sản, quyền thừa kế, quyền được hưởng hoa lợi và lợi tức phát sinh từ tài sản chung,
quyền tài sản liên quan đến bất động sản trong thời kỳ hôn nhân, quyền được hưởng
bảo hiểm... và các nghĩa vụ liên quan đến khối tài sản chung: như nghĩa vụ trả nợ trên
phần tài sản chung, nghĩa vụ cấp dưỡng cho con chung…. Bên cạnh đó việc chấp
thuận hôn nhân đồng giới, cũng là chấp thuận xác định lại giới tính trên mặt hành
chính, tư pháp cho người chuyển giới mà họ đã chuyển thành, vì trên thực tế quyền và
nghĩa vụ liên quan đến cặp vợ chồng của người chuyển giới không giống như người
đồng tính và song tính mà bản chất nó giống như các cặp dị tính nếu xét theo giới tính
sinh học và chức năng xã hội.
Nhìn chung đến giai đoạn hiện đại thì các cuộc đấu tranh của người đồng tính,
song tính và chuyển giới ở châu Âu và châu Mỹ đã có những thành công nhất định
thông qua các đạo luật dành riêng cho người đồng tính, song tính và chuyển giới,
nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng của người LGBT. Bên cạnh pháp luật, thì ở các
nước như Mỹ, Pháp, Bắc ireland… đã đưa vấn đề liên quan đến người đồng tính, song
12
tính và chuyển giới vào trong hệ thống giáo dục ở các cắp từ bậc tiểu học đến đại học
giúp cho người dân hiểu rõ hơn về cộng đồng người đồng tính song tính và chuyển
giới, nhằm mục đích hướng tới có cái nhìn tích cực hơn trong xã hội để từ đó không
còn phân biệt đối xử với cộng đồng người LGBT.
Lịch sử nhận thức về người đồng tính, song tính tại châu Á
Nếu ở khu vực phương tây bao gồm châu Âu-Mỹ luôn phát triển về các vấn đề
liên quan đến quyền con người từ rất sớm trong đó có quyền của người đồng tính,
song tính và chuyển giới, thì châu Á tuy được ghi nhận rất sớm về các mối quan hệ
đồng tính, song tính trong lịch sử nhưng do bị ảnh hưởng bởi các hệ tư tôn giáo, xem
tình yêu là sự hòa hợp “Âm và Dương” để sản sinh ra mọi vật; trong đó Âm đại diện
cho giống cái có nhiệm vụ sinh sản còn Dương đại diện cho giống đực có nhiệm vụ
giúp giống cái sinh sản, tuy nhiên các hệ tư tưởng này không bài xích hay triệt tiêu
đồng tính mà đến thời kỳ khi các quốc gia phương Tây (thời kỳ Phục Hưng) đánh
chiếm thuộc địa ở khu vực châu Á đã truyền tư tưởng bài xích và triệt tiêu người
LGBT thì lúc đó xã hội ở hai châu lục bắt đầu nhận thức tiêu cực đến người thuộc
cộng đồng LGBT. Kết hợp cả hai yếu tố trên cùng với văn hóa cộng đồng đề cao lối
sống tập thể hơn chủ nghĩa cá nhân dẫn đến việc công nhận hay chấp nhận người
đồng tính, song tính và chuyển giới là cả một quá trình khó khăn không chỉ khó ở giai
đoạn trung đại, cận đại mà ngay cả giai đoạn hiện đại khi mà các học thuyết, các khái
niệm niệm liên quan đến LGBT được truyền bá vào châu Á bởi các quốc gia Âu-Mỹ
“ cái nôi” của LGBT.
Trung Quốc được xem là quốc gia có người đồng tính nhiều nhất thế giới và
nằm trong khu vực châu Á (97 triệu người tương đương dân số Việt Nam 2018), tuy
nhiên xã hội Trung Quốc không có cái nhìn thiện cảm với người thuộc cộng đồng
LGBT. Trong những năm cách mạng văn hóa (1966-1976), những người “đồng tính
luyến ái” đã phải đối mặt với tình trạng ngược đãi tồi tệ nhất trong lịch sử Trung Quốc.
Những cuộc thăm dò vào năm 2000 cho thấy người Trung Quốc ngày càng cởi mở
hơn với những người đồng tính. Những điều đó càng chứng tỏ đồng tính tồn tại không
phải do yếu tố môi trường xã hội tạo nên và nó cũng không vì sự kỳ thị của mọi người,
13
thậm chí từ áp lực của xã hội mà mất đi. Năm 2004 lần đầu tiên các cơ quan chức
năng Trung Quốc công bố số liệu cho biết, nước này có khoảng từ 5%-7% người
đồng tính nam, trong đó đại đa số là những thanh niên có học vấn.
Việc các quốc gia Châu Á “ không thừa nhận” người thuộc cộng đồng LGBT
là việc tiến bộ so với giai đoạn trước trong quan điểm tư duy lập pháp nhằm giảm đến
mức thấp nhất việc kỳ thị và tạo tiền đề cho việc xây dựng các quyền liên quan đến
nhân thân cũng như mối quan hệ sở hữu tài sản chung của người LGBT được thực
hiện như các cặp dị tính. Để các cặp đồng tính, song tính hay chuyển giới có quan hệ
với nhau như vợ chồng dị tính, đây là vấn đề rất nhạy cảm trong xã hội của các quốc
gia châu Á, muốn được thừa nhận thì phải có lộ trình vì trên thực tế thế giới có hơn
200 quốc gia nhưng chỉ mới có 99 quốc gia công nhận người thuộc cộng đồng LGBT,
trong đó chiếm phần lớn là các quốc gia thuộc Âu-Mỹ với toàn bộ châu Âu với 44
quốc gia trừ Nga, 28 quốc gia đến từ châu Mỹ chiếm gần 95% tổng số quốc gia công
nhận người LGBT. Có 25 quốc gia hợp thức quá hôn nhân đồng tính và có xây dựng
các luật liên quan đến hôn nhân gia đình nhằm đảm bảo được các quyền sở hữu tài sản
cơ bản của người LGBT như: thừa kế, bồi thường hợp đồng bảo hiểm… đều tập trung
ở khu vực Âu-Mỹ chiếm tỷ lệ 90%.
1.1.2. Hệ thống các khái niệm liên quan đến đồng tính, song tính và chuyển
giới
(1) Khái niệm về giới tính: Là khái niệm dùng để chỉ những đặc trưng sinh
học của nam và nữ. Những đặc trưng sinh học dường như là bất biến và đó là cơ sở
cho những chuẩn mực về vai trò giới sau này. Sự chuyển đổi giới tính có thể do sinh
học, văn hoá, kinh tế…
(2) Khái niệm về giới: Giới là khái niệm dùng để chỉ những mối quan hệ xã
hội của nam và nữ. Khái niệm giới liên quan đến sự học hỏi hành vi xã hội và những
trông đợi được tạo nên với hai giới tính. Giới là một sản phẩm của xã hội và liên quan
đến
(3) Khái niệm bản dạng giới: Là tự nhận thức giới tính vai trò của giới, bản
sắc giới và thể hiện giới không phụ thuộc vào giới tính sinh học.
14
(4) Khái niệm xu hướng tính dục: “Tính dục là tổng thể con người, bao gồm
mọi khía cạnh đặc trưng của con trai hoặc con gái, đàn ông hoặc đàn bà và biến động
suốt đời. Tính dục phản ánh tính cách con người, không phải chỉ là bản chất sinh dục.
Vì là một biểu đạt tổng thể của nhân cách, tính dục liên quan tới yếu tố sinh học, tâm
lý, xã hội, tinh thần và văn hóa của đời sống. Những yếu tố này ảnh hưởng đến sự
phát triển nhân cách và mối quan hệ giữa người với người và do đó tác động trở lại
xã hội
(5) Khái niệm người đồng tính:Bao gồm cả đồng tính luyến ái nữ và đồng
tính luyến ái nam, là những người có sự hấp dẫn tình yêu và tình dục với những
người cùng giới tính một cách lâu dài và cố định. Khác với người dị tính luyến ái là
sự hấp dẫn tình yêu và tình dục với những người không cùng giới tính.
(6) Khái niệm về song tính:Những người có sự hấp dẫn tình yêu, tình dục
với cả những người cùng giới và khác giới tính một cách lâu dài.
(7) Khái niệm chuyển giới: Là những người có bản dạng giới khác với biểu
hiện giới tính sinh học, bao gồm người chuyển giới đã phẫu thuật và người chuyển
giới chưa phẫu thuật chuyển đổi giới tính.
(8) Khái niệm về dị tính: Là việc yêu đương hay mối quan hệ tình dục với
những người khác giới tính với mình hay nói cách khác là việc yêu đương hay quan
hệ tình dục giữa nam và nữ thông thường.
(9) Kết hợp dân sự: Là chung sống có đăng ký cho các cặp đôi cùng giới,
một hình thức tương tự như hôn nhân nhưng không đầy đủ các quyền và nghĩa vụ
như hôn nhân.
Đồng tính luyến ái cùng với dị tính luyến ái và song tính luyến ái, là ba dạng
chủ yếu của thiên hướng tình dục con người, thuộc thang liên tục dị tính - đồng tính
(Thang Kinsey). Đồng tính luyến ái bản chất là một biến thể bình thường và tích
cực của tính dục con người, không phải là một bệnh hay sự lệch lạc tâm lý, và
không phải là nguyên nhân gây ra các hiệu ứng tâm lý tiêu cực. Người đồng tính,
song tính và chuyển giới phải dựa vào khái niệm bản dạng giới đi cùng với giới tính
sinh học và thiên hướng tính dục để xác định rõ họ thuộc giới tính nào, để từ đó
15
khẳng định họ là người hoàn toàn bình thường, cũng như “dị tính” họ có quyền
được ngang bằng trước pháp luật cũng như vị trí xã hội, chính trị. Người liên giới
tính tuy nằm trong nhóm người dễ bị tổn thương, so với người đồng tính, song tính
và chuyển giới thì họ được bảo đảm hơn về các quyền cơ bản không khác gì so với
người “dị tính” vì đã được công nhận là một giới tính sinh học bẩm sinh và có
quyền được xác định theo giới tính mong muốn của mình mà không bị hạn chế bất
cứ quyền nhân thân nào trong đó có quyền được kết hôn; một trong những quyền
nhân thân cơ bản để được cộng nhận các quyền sở hữu tài sản trong giai đoạn hôn
nhân mà không bị hạn chế hay gặp khó khăn gì nếu so sánh với người LGBT.
1.2. Quyền sở hữu tài sản của người đồng tính, song tính và chuyển giới
1.2.1. Khái niệm
1.2.1.1. Quyền sở hữu tài sản trong mối quan hệ với quyền nhân thân của
người đồng tính, song tính và chuyển giới
Khái niệm quyền nhân thân: Quyền nhân thân với tư cách là một thuật ngữ
pháp lý, lần đầu tiên được nhắc đến trong Bộ luật dân sự (BLDS) năm 1995, nó ra
đời và có ý nghĩa là cơ sở pháp lý để bảo vệ cho cá nhân tồn tại với tư cách là một
thực thể, một chủ thể độc lập trong cộng đồng. Thông qua việc cụ thể hoá các quy
định của Hiến pháp năm 2013 về quyền con người về dân sự, BLDS năm 2015 xác
định quyền nhân thân là quyền dân sự gắn liền với mỗi cá nhân, không thể chuyển
giao cho người khác, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Đây được xem là
một bước đổi mới quan trọng trong tư duy, nhận thức của các nhà làm luật Việt
Nam, cũng là bước tiến đáng ghi nhận, có ý nghĩa đặt nền móng cho sự phát triển
quy định về quyền nhân thân trong hệ thống pháp luật dân sự Việt Nam. [20]
Dựa vào khái niệm, đặc điểm và các quyền nhân thân được quy định trong
BLDS 2015 thì quyền nhân thân không áp dụng đầy đủ cho người thuộc cộng đồng
LGBT ở quyền nhân thân trong hôn nhân và gia đình (Điều 39). Người dị tính được
phép kết hôn khi đầy đủ các điều kiện pháp luật cho phép như độ tuổi, hành vi dân
sự... và có các quyền và nghĩa vụ với nhau được pháp luật ghi nhân và bảo đảm thực
hiện bằng quyền lực nhà nước. Tuy nhiên người thuộc cộng đồng LGBT thì không
16
được quyền kết hôn nói một cách trực diện thì pháp luật Việt Nam đang phân biệt đối
xử với người LGBT thông qua LHN&GD 2014 “không công nhận hôn nhân đồng
giới” [33], vậy liệu đặc điểm thứ 2 của định nghĩa về quyền nhân thân có được tuân
thủ vì quyền nhân thân không bị chi phối bởi các điều kiện khách quan bên ngoài như
độ tuổi, giới tính, dân tộc... giới tính ở đây không nên suy nghĩ đơn thuần theo định
nghĩa giới tính sinh học chỉ có nam, nữ và người liên giới tính; giới tính ở đây được
hiểu theo nghĩa rộng hàm chứa bản dạng giới, thể hiện giới, bản sắc giới và xu hướng
tính dục. Hiện tại không chỉ xã hội mà cả các nhà làm luật vẫn còn đang tiếp cận vấn
đề giới tính dựa vào giới tính sinh học; điều đó là tiếp cận mang tính chủ quan không
đáp ứng các yếu tố khách quan đang tồn tại vô tình sẽ làm ảnh hưởng đến các quyền
nhân thân vốn thuộc về người LGBT và nguyên tắc nhà nước pháp quyền-công dân
đều bình đẳng trước pháp luật liệu có được đảm bảo. Theo LHN&GD 2014 ngăn cấm
cưỡng ép hôn nhân, cấm kết hôn giả tạo, lừa dối để kết hôn (Khoản 2, Điều 4) [33].
Theo đó, nếu người đồng tính, song tính và chuyển giới thuận theo áp lực gia đình kết
hôn với người dị tính thì sẽ mâu thuẫn với quy định cấm kết hôn giả tạo, lừa dối để kết
hôn. Như vậy, "pháp luật hiện hành đã tước đi một trong số những quyền cơ bản của
con người, đó là quyền được mưu cầu hạnh phúc” cho những người trong cộng đồng
LGBT.
Xét ở gốc độ quyền nhân thân, cụ thể hơn là quyền được kết hôn của người
đồng tính, song và chuyển giới; người đồng tính chịu thiệt thòi hơn so với người
song tính và người chuyển giới. Người song tính họ có quan hệ với người đồng giới
sinh học hoặc là người có khác giới tính sinh học; nếu họ có mối quan hệ với người
khác giới tính sinh học (trừ trường hợp người liên giới tính chưa được xác định giới
tính cụ thể) thì các quyền hôn nhân và gia đình vẫn được bảo đảm như các cặp dị
tính thông thường. Người chuyển giới theo Điều 37 BLDS 2015 quy định “Việc
chuyển đổi giới tính được thực hiện theo quy định của luật. Cá nhân đã chuyển đổi
giới tính có quyền, nghĩa vụ đăng ký thay đổi hộ tịch theo quy định của pháp luật về
hộ tịch; có quyền nhân thân phù hợp với giới tính đã được chuyển đổi theo quy định
của Bộ luật này và luật khác có liên quan” [30]; người chuyển giới nếu nhìn theo
17
góc độ luật đề cập ở Điều 37, thì theo quan điểm của người viết có thể xem là người
chuyển giới đã thay đổi về mặt sinh học (chuyển đổi cơ quan sinh dục và bề ngoài
phù hợp với giới tính đã chuyển đổi), việc xác định lại giới tính và được pháp luật
công nhận thì quyền nhân thân trong đó có quyền nhân thân đến hôn nhân và gia
đình mặt nhiên được chấp nhận giống với người liên giới tính và dị tính. Tuy nhiên
hiện tại quy định của Điều 37 chỉ mang tính định hướng, chứ chưa định nghĩa rõ
ràng thế nào là người chuyển giới, vấn đề đến người chuyển giới vẫn còn nằm trong
các cuộc thảo luận của các chuyên gia về luật cũng như các chuyên gia liên quan
khác nhằm đảm bảo cân bằng quyền lợi giữa người chuyển giới được xác định theo
bản dạng giới và người chuyển giới can thiệp trên mặt sinh học. Người chuyển giới
và người song tính vẫn được đảm bảo quyền nhân thân hôn nhân và gia đình trong
một số trường hợp cụ thể. Nhưng người đồng tính thì không, cho nên cần thúc đẩy
công nhận quyền nhân thân hôn nhân và gia đình của người trong cộng đồng người
LGBT đặc biệt là của người đồng tính, để quyền sở hữu tài sản gắn liền với quyền
nhân thân hôn nhân và gia đình được thực hiện và bảo vệ như quyền sở hữu tài sản
của người đồng tính nói riêng và toàn bộ quyền cơ bản của người LGBT nói chung.
1.2.1.2. Khái niệm quyền sở hữu tài sản của người đồng tính, song tính và
chuyển giới
Mọi quốc gia sẽ có định nghĩa về quyền sở hữu tài sản khác nhau hay những
chế định liên quan đến quyền sở hữu tài sản cho từng công dân của họ, nhưng đều
có đặc điểm chung quyền sở hữu tài sản là thể hiện quyền chiếm hữu, định đoạt, sử
dụng tài sản cũng như các quyền có liên quan đến tài sản như: quyền sở hữu trí tuệ,
quyền đối với bất động sản, quyền thừa kế... của chủ thể. Mặc dù mang đặc điểm
tương đồng của các quy định về quyền sở hữu tài sản của tất cả các quốc gia trên
thới giới như quyền chiếm hữu, định đoạt và sử dụng tài sản chỉ có một số quốc gia
cộng nhận hôn nhân “đồng tính” hoặc thừa nhận mối quan hệ “gia đình” của các
cặp LGBT thì trong hệ thống pháp luật của các quốc gia đó mới mặc định và thừa
nhận quyền sở hữu tài sản của các cặp LGBT và được bảo hộ các quyền sở hữu tài
sản của nhóm đối tượng này như công dân phổ thông mà không bị hạn chế ở bất kỳ
18
phương diện nào. Trong pháp luật Việt Nam cũng đáp ứng được các tiêu trí trên, cụ
thể ở Điều 115 BLDS 2015 ghi nhận quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền,
bao gồm quyền sở hữu tài sản đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử
dụng đất và các quyền tài sản khác”. Từ quy định này có thể thấy, theo quan điểm
của người viết, quyền sở hữu tài sản chỉ mang một đặc điểm duy nhất “có thể trị giá
được bằng tiền”- tức là bất kỳ quyền nào đem lại giá trị kinh tế cho con người như:
quyền thừa kế, quyền nhận trợ cấp thất nghiệp, quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài
sản chung trong giai đoạn hôn nhân, quyền được hưởng các chế độ bảo hiểm... sẽ
được coi là quyền sở hữu tài sản. Tuy nhiên do không công nhận quyền nhân thân
trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình (quyền kết hôn) thì quyền sở hữu tài sản như
quyền chiếm hữu, quyền định đoạt và quyền sử dụng khối tài sản chung, quyền
được thừa kế, hoa lợi, lợi tức từ khối tài sản chung, quyền liên quan đến bất động
sản thuộc khối tài sản chung của các cặp LGBT khi chung sống sẽ bị hạn chế rất
nhiều và cũng như không được bảo vệ tốt như các cặp đôi “dị tính”. Xét cho cùng
người “dị tính” hay người LGBT đều là công dân của Việt Nam nhưng vì sao quyền
sở hữu tài sản cụ thể hơn chính là quyền định đoạt, chiếm hữu và sử dụng trên khối
tài sản chung của chính họ chung tay tạo ra lại không được pháp luật bảo hộ một
cách trực tiếp như các cặp vợ chồng “dị tính” mà chỉ bảo hộ gián tiếp thông qua các
quy định khác của BLDS 2015. Điều đó càng làm cho công tác xét xử, giải quyết
tranh chấp tài sản chung của LGBT gặp nhiều khó khăn và đôi khi không giải quyết
được bằng pháp luật họ sẽ dùng các biện pháp khác có thể vi phạm pháp luật để giải
quyết quyền lợi chính đáng của mình; Vậy có phải các nhà làm luật, chính phủ và
nhà nước đang đẩy họ vào sự bế tắc khi có tranh chấp xảy ra ?
Từ những vấn đề và luận điểm trên người viết xin trình bày quyền sở hữu tài
sản mà ở đây người viết xin trình bày trong luận văn đó là quyền sở hữu tài sản
chung khi người LGBT có mối quan hệ chung sống với nhau như vợ chồng và hình
thành khối tài sản chung khi chung sống với nhau bằng khái niệm như sau: “Quyền
sở hữu tài sản chung bao gồm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt
tài sản chung của chủ sở hữu là người LGBT theo quy định của BLDS 2015”.
19
* Đặc điểm quyền sở hữu tài sản của người LGBT trong pháp luật Việt
Nam
(1) Quan hệ tài sản chung của người LGBT khi chung sống như vợ chồng:
Cần khẳng định quan hệ tài sản chung của các cặp LGBT không khác gì so với quan
hệ tài sản chung của các cặp vợ chồng “dị tính” và việc có quan hệ tài sản chung chỉ
cần họ chung sống như vợ chồng có các quan hệ tạo lập tài sản chung thì khối tài
sản đó được coi là tài sản chung của người LGBT chung sống như vợ chồng. Chia
tài sản chung trong thời kỳ chung sống như vợ chồng không làm thay đổi chế độ tài
sản giữa hai người LGBT. Dù cả hai tiến hành chia toàn bộ tài sản chung thì chế độ
tài sản của người LGBT vẫn là chế độ tài sản theo luật định. Việc chia tài sản chung
khi hai người còn chung sống đang tồn tại chỉ thay đổi hình thức sở hữu từ chung
sang riêng đối với những tài sản nhất định. Những tài sản còn lại không nằm trong
thỏa thuận vẫn thuộc sở hữu chung hợp nhất của cả hai người. Khối tài sản chung
của cả hai người mang tính chất mở, chừng nào mối chung sống còn tồn tại thì khối
tài sản đó còn tiếp tục phát sinh và thay đổi. Do đó, ngay cả trong trường hợp cả hai
người phân chia toàn bộ tài sản chung thì cũng không làm thay đổi chế độ tài sản
trong tương lai. Tuy nhiên chúng ta cần lưu ý, việc xác định quan hệ tài sản chung
trong giai đoạn chung sống (hôn nhân) như vợ chồng của người LGBT chưa được
pháp luật thừa nhận với bất kỳ hình thức pháp lý nào vì thế việc phân chia tài sản
chung sẽ không được xác định theo LHN&GD 2014 và Nghị định 126/2014/NĐ-CP:
“Việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân không làm chấm dứt
chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định”. Việc phân chia tài sản của người LGBT
dựa vào BLDS 2015 phân chia tài sản chung theo phần tại Điều 219 ( việc xác định
tài sản chung theo phần không phản ánh đúng mối quan hệ chung sống như vợ
chồng và tính chất tài sản chung của người LGBT ).
(2) Quyền sở hữu tài sản riêng của người LGBT chung sống như vợ chồng:
căn cứ vào Điều 14 LHN&GD 2014 việc nam, nữ chung sống với nhau như vợ
chồng mà không đăng ký kết hôn sẽ không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa vợ
và chồng. Việc người LGBT chung sống như vợ chồng thì cũng sẽ được áp dụng
20
các nguyên tắc của các cặp vợ chồng dị tính không đăng ký kết hôn. Vậy ở đây, vấn
đề liên quan đến các tài sản riêng trước, trong và sau khi người LGBT có tham gia
quan hệ chung sống như vợ chồng thì vẫn thuộc quyền sở hữu riêng của một bên,
việc chịu trách nhiệm liên quan đến quyền và nghĩa vụ của vợ chồng sẽ không chịu
trên khối tài sản riêng này trên mặt pháp luật như.
(3) Quyền sở hữu tài sản mang tính đặc thù cho người chuyển giới:Khi một
cá nhân “chuyển giới” theo quy định của pháp luật, thì họ có quyền thay đổi các
quyền nhân thân phù hợp với giới tính mà họ chuyển đổi. Vậy từ đó có thể khẳng
định rằng các quyền sở hữu tài sản của người chuyển giới vẫn được đảm như một
công dân thông thường. Tuy nhiên đó là lập luận theo quan điểm của pháp luât,
nhưng trên thực tế việc xác lập quyền sở hữu tài sản đối với người chuyển giới gặp
không ít khó khăn khi họ mang trong mình một giới tính khác so với giới tính mà
họ đã xác lập trên tài sản như: bất động sản, động sản...Và vấn đề thế nào là tiêu
chuẩn để gọi là người “chuyển giới” và “người chuyển đổi giới tinh” vẫn chưa được
pháp luật định nghĩa cụ thể giúp cho việc xác định lại giới tính trong hộ tịch cũng
như chuyển đổi tên tron các giấy tờ đứng tên chủ sở hữu.
1.2.2. Nội dung quyền sở hữu tài sản của người đồng tính, song tính và
chuyển giới
Trong phạm vi luận văn, người viết đi sâu phân tích về quyền sở hữu tài sản
chung của các cặp LGBT có quan hệ chung sống như vợ chồng được quy định trong
Bộ luật Dân 2015 Theo quy định tại Điều 158 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì: “Quyền
sở hữu bao gồm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản của
chủ sở hữu theo quy định của luật”, trong đó trọng tâm nhấn mạnh quyền sở hữu tài
sản hay quyền sở hữu tài sản chung của đối tượng LGBT bao gồm quyền chiếm hữu,
định đoạt và sử dụng tài sản bị hạn chế và không được bảo hộ công bằng như các
cặp vợ chồng “dị tính”.
1.2.2.1. Quyền chiếm hữu tài sản
Quyền chiếm hữu thì Điều 179 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “1.
Chiếm hữu là việc chủ thể nắm giữ, chi phối tài sản một cách trực tiếp hoặc gián
21
tiếp như chủ thể có quyền đối với tài sản; (2). Chiếm hữu bao gồm chiếm hữu của
chủ sở hữu và chiếm hữu không phải là chủ sở hữu: ví dụ A và B là cặp đôi đồng
tính nam, trong quá trình chung sống, theo ý trí của cả hai thì A là người giữ số tiền
do cả hai tích góp từ tiền lương. A đã dùng chính số tiền từ khối tài sản chung mua
1 chiếc xe máy phục vụ nhu cầu đi làm cho bản thân A và đã được sự đồng ý của B
(không có thỏa thuận bằng văn bản). Nhưng theo quy định của LHN&GD 2014 với
BLDS 2015 mối quan hệ tài sản của A và B không được xem là tài sản chung của
vợ chồng theo Điều 213 BLDS 2015 và Điều 33 LHN&GD 2014 thì việc chiếm
hữu của B trên chiếc xe của A mua là không được pháp luật bảo vệ vì pháp luật
không công nhận đây là tài sản chung của A và B theo diện tài sản chung của vợ
chồng. Nếu muốn xác định đây là tài sản chung của A và B thì sẽ xác định theo
Điều 208 BLDS 2015 “Quyền sở hữu chung được xác lập theo thỏa thuận, theo quy
định của pháp luật hoặc theo tập quán”. Được xác lập theo thỏa thuận nhưng đây chỉ
là sự thỏa thuận bằng miệng không người chứng kiến thì có thể được xem là thỏa
thuận hợp pháp không? Vì đa số tất cả các thỏa thuận liên quan đến tài sản có giá trị
thì được xem là hợp pháp khi có văn bản thỏa thuận chứng minh. Trong thực tế khi
đã có quan hệ tình cảm với nhau thì việc phân chia tài sản thông qua việc lập thành
văn bản thỏa thuận là điều rất khó thực hiện đối với các cặp vợ chồng “dị tính” các
cặp LGBT thì cũng không là ngoại lệ vì thế việc dùng khối tài sản chung khi mua
những vật có giá trị yêu cầu các cặp LGBT phải lập văn bản thỏa thuận để chứng
minh quyền sở hữu và thể hiện quyền chiếm hữu thì điều đó rất khó thực hiện cũng
như một câu hỏi lớn được nêu ra: “vì sao khi vợ chồng “dị tính” có quyền công dân
như các cặp đôi LGBT nhưng họ được phép xác lập quyền chiếm hữu trên khối tài
sản chung; còn người LGBT thì không, trong mối quan hệ không khác gì vợ
chồng?” Nếu xác định theo tập quán thì càng không thể, mối quan hệ của các cặp
LGBT khi sống chung theo dòng chảy thời gian tuy đã có rất lâu nhưng vẫn chưa
được xã hội công nhận thì làm sao có các tập quán trong việc xác định quyền sở hữu
tài sản của người LGBT khi chung sống với nhau nhằm có hướng giải quyết hợp
tình hợp lý như các cặp đôi vợ chồng “dị tính”.
22
Vấn đề đặt ra ở ví dụ thực tế trên thì B không thể chứng minh quyền sở hữu
trên chiếc xe, kéo theo hệ lụy là không thể nào có quyền chiếm hữu chiếc xe trên
mặt pháp luật dù thực tế B là chủ thể đồng sở hữu và chiếm hữu cùng với A. Tuy
không phải là chủ sở hữu trực tiếp nhưng B có quyền chiếm hữu gián tiếp trên chiếc
xe. Theo pháp luật hiện hành thì không xác định trường hợp của A và B là vợ chồng
nên không thể nào có quyền tài sản chung theo chế độ vợ chồng (dù bản chất là tài
sản chung của vợ chồng) nên quyền chiếm hữu chiếc xe của B bị ảnh hưởng tuy bản
thân là chủ sở hữu theo Khoản 2 Điều 179 BLDS 2015 (nhưng không có căn cứ
pháp luật chứng minh nên quyền chiếm hữu của B).
Bên cạnh đó, đối với chiếm hữu liên tục được quy định tại Điều 185 Bộ luật
Dân sự năm 2015 được hiểu là việc chiếm hữu về mặt thực tế và mặt pháp lý của
một chủ sở hữu đối với tài sản. Chiếm hữu về mặt thực tế là việc chủ sở hữu, hoặc
người có quyền chiếm hữu tự mình giữ tài sản. Khi chủ sở hữu trao quyền chiếm
hữu tài sản cho một chủ thể khác thì chủ sở hữu chỉ có quyền chiếm hữu về mặt
pháp lý đối với tài sản, còn chủ thể được chủ sở hữu trao quyền chiếm hữu chỉ có
quyền chiếm hữu thực tế đối với tài sản. Đây là trường hợp sở hữu trao quyền
chiếm hữu thực tế một cách tự nguyện và đây cũng là cách mà các cặp LGBT
thường dùng nhằm chứng mình quyền sở hữu và thể hiện quyền chiếm hữu trên
khối tài sản khi có tranh chấp, ví dụ: A và B có quan hệ tình cảm sống chung với
nhau 9 năm và đã mua được một ngôi nhà bằng tài sản chung của A và B, tuy nhiên
vì thương A nên B cho A đứng tên ngôi nhà. A có chuyến đi công tác 10 năm tại
nước ngoài và đã trao quyền sở hữu cũng như chiếm hữu ngôi nhà cho B (không lập
thành văn bản). Thì trường hợp này, A là người chiếm hữu về mặt pháp lý đối với
tài sản là ngôi nhà, còn B là người chiếm hữu về mặt thực tế đối với tài sản là ngôi
nhà. Sau khi A quay về nước thì đã yêu cầu B rời khỏi căn nhà vì đã hết tình cảm. B
không đồng ý và đã kiện ra tòa nhằm thể hiện quyền sở hữu thông qua việc chiếm
hữu thực tế hơn 10 năm của mình. Nhưng thật ra do vấn đề không thừa nhận tài sản
chung như vợ chồng của A và B nên buộc lòng nhằm đảm bảo quyền lợi của mình,
B mới chứng minh quyền chiếm hữu ngôi nhà trên mặt thực tế.
23
Tóm lại, đa số các trường hợp xác lập quyền chiếm hữu trên khối tài sản
chung của các cặp LGBT là dạng chiếm hữu “không có quy định của pháp luật”
nhưng “ngay tình”. Vì xét cho cùng tài sản đó được hình thành trên công lao, sức
đóng góp của cả hai, việc họ có quyền chiếm hữu trên mặt thực tế là đương nhiên và
hợp tình. Tuy nhiên xét ở gốc độ hợp lý thì quyền chiếm hữu tài sản trên khối tài
sản chung của người LGBT khi chung sống như vợ chồng là vẫn chưa được pháp
luật công nhận vì hiện tại pháp luật Việt Nam vẫn còn gặp khuôn trong vấn đề nhận
thức liên quan việc giới tính trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình mà quên đi bản
chất thật sự của hôn nhân là cách thức thể hiện quyền mưu cầu hạnh phúc của con
người. Việc không công nhận hôn nhân, không công nhận bất kỳ mối quan hệ tình
cảm thông qua việc sở hữu chung “vật chất” cho người LGBT là chúng ta đang xâm
hại đến quyền mưu cầu hạnh phúc một trong những quyền cơ bản của một con
người.
1.2.2.2. Quyền sử dụng
Sử dụng là việc dùng vật (tài sản) đó nhằm thỏa mãn nhu cầu nhất định của
chủ sở hữu hoặc của người đang trực tiếp chiếm hữu, chi phối tài sản. Sử dụng tài
sản là quyền có ý nghĩa thực tế cao nhất của chủ sở hữu. Điều 192 BLDS 2015 quy
định: “Quyền sử dụng là quyền khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài
sản”. Nguyên tắc chung là “việc khai thác những giá trị sử dụng của tài sản nhằm để
thỏa mãn những nhu cầu về sinh hoạt vật chất hoặc tinh thần cho bản thân mình”.
Tùy thuộc vào tính chất, công dụng và giá trị của tài sản mà “giới hạn” của pháp luật
về việc sử dụng đối với mỗi loại tài sản có thể khác nhau; cụ thể nếu một cá nhân có
đủ hành vi dân sự, đủ các điều kiện về sức khỏe và các yếu tố phả hệ… thì được phép
kết hôn, được tham gia vào quan hệ sở hữu tài sản chung theo chế định tài sản chung
của vợ chồng. Tại Điều 8 “Điều kiện kết hôn” LHN&GD 2014 một cá nhân đáp ứng
đủ các điều kiện tại Khoản 1 thì có quyền được tham gia sử dụng tài sản chung theo
quy định về quyền sở hữu tài sản chung của vợ chồng trong BLDS 2015 và
LHN&GD 2014 nhưng không phải tất cả các trường hợp đủ điều kiện đều được tham
gia quan hệ tài sản chung của vợ chồng mà chỉ áp dụng cho các cặp đôi được xã hội
24
xem là “thông thường” và “phổ thông” mới có quyền được kết hôn cũng như có
quyền được hưởng các quyền tài sản chung của vợ chồng đó chính là người“ dị tính”.
Người LGBT đáp ứng tất cả về các vấn đề như hành vi dân sự, điều kiện về tuổi, phả
hệ… thì quyền được sử dụng các khối tài sản chung trên phương diện pháp luật là
không thể do Khoản 2 Điều 8 có quy định “nhà nước không thừa nhận hôn nhân của
những người cùng giới tính”. Quyền sử dụng là quyền cơ bản và quan trọng nhất
trong quyền sở hữu tài sản nói chung và quyền sở hữu tài sản chung của các cặp
LGBT nói riêng. Việc không thừa nhận quyền hôn nhân của các cặp cùng giới và
cộng đồng người LGBT kéo theo các quyền sử dụng tài sản chung của họ gặp rất
nhiều khó khăn hoặc đôi khi bị cản trở trong quá trình sử dụng tài sản chung để thực
hiện các hoạt động đầu tư kinh doanh; hưởng hoa lợi, lợi tức phát sinh trên khối tài
sản chung; hay các vấn đề liên quan đến quyền sở hữu và quyền sử dụng từ khối tài
sản chung của các cặp LGBT sống chung có mối quan hệ tình cảm không khác gì vợ
chồng “dị tính.”
Ví dụ: A và B sống tại Quận Ninh Kiều, Tp. Cần Thơ có chung 2 tỷ đồng trong
tài khoản tiết kiệm từ tiền lương của cả hai. Sau khi chung sống được 5 năm thì gia
đình A tặng riêng cho A một mãnh đất và cả hai quyết định sử dụng số tiền từ tài
khoản tiết kiệm xây một ngôi nhà mà chỉ đứng tên duy nhất một mình A. Nhà xây
xong nhưng sau 4 năm sống chung, A xảy ra tai nạn bị trấn thương sọ não dẫn tới mất
hành vi năng lực dân sự. Thu nhập của B hiện tại thì không thể nào đủ vừa lo các
khoản phí sinh hoạt cũng như các khoản viện phí của A, nên B quyết định cho thuê
căn nhà nhằm tăng thu nhập để lo chi phí hằng ngày cũng như chăm sóc cho B được
chu đáo hơn. Tuy nhiên trong quy định của pháp luật hiện tại thì B không phải chủ sở
hữu và đồng thời cũng không có bất kỳ quyền sử dụng nào trong chính ngôi nhà từ
tiền tích góp của bản thân với A.
Trong trường hợp trên nếu đổi ngược lại là các cặp vợ chồng “dị tính”, thì
người vợ hoặc người chồng vẫn có quyền sử dụng ngôi nhà theo Điều 33 LHN&GD
2014, và người vợ hoặc chồng còn lại có quyền cho thuê căn nhà từ chính tài sản
chung của hai vợ chồng. Nhưng vì sao bản chất tài sản là giống nhau như đối với các
25
cặp LGBT thì lại không có quyền sử dụng khối tài sản đó? Quyền sử dụng là quyền
tác động trực tiếp đến chủ thể sở hữu trong cuộc sống không phân biệt chủ thể là
người “dị tính” hay là người LGBT. Việc không thừa nhận quan hệ hôn nhân hoặc
không thừa nhận bất kỳ quyền liên quan đến mối quan hệ chung sống của các cặp
LGBT tác động mạnh mẽ đến quyền sở hữu chung tài sản của người LGBT làm ảnh
hưởng rất nhiều đến nguồn sống cũng như là mất nguồn thu nhập của các cặp LGBT
và qua ví dụ thực tế trên cũng đã minh chứng cho quyền sử dụng tài sản do chính bản
thân mình tạo ra của người LGBT bị xâm hại rất nghiêm trọng qua các quy định của
pháp luật Việt Nam hiện hành
1.2.2.3. Quyền định đoạt
Điều 192 BLDS 2015 quy định: “Quyền định đoạt là quyền chuyển giao
quyền sở hữu tài sản, từ bỏ quyền sở hữu, tiêu dùng hoặc tiêu huỷ tài sản”. Pháp
luật quy định cho cá nhân là chủ sở hữu hoặc không phải là chủ sở hữu có quyền
định đoạt về tài sản, tuy nhiên để có quyền định đoạt thì phải đáp ứng những điều
kiện nhất định về năng lực hành vi và các trình tự, thủ tục do pháp luật quy định: (i)
về năng lực hành vi, việc định đoạt tài sản phải do người có năng lực hành vi dân sự
thực hiện theo quy định của pháp luật; (ii) về trình tự, thủ tục theo quy định của
pháp luật về định đoạt tài sản: trong trường hợp pháp luật có quy định về trình tự,
thủ tục định đoạt thì cần phải tuân thủ theo trình tự, thủ tục đó.
Căn cứ vào các quy định từ điều 193, 194, 195 BLDS 2015 quyền định đoạt
dành cho chủ sở hữu hoặc là người được chủ sở hữu ủy quyền định đoạt thì đối với
các trường hợp sở hữu chung của các cặp vợ chồng “dị tính” có quyền sở hữu tài
sản chung thì quyền định đoạt khối tài sản chung sẽ dựa vào ý trí của cả hai vợ
chồng nếu một trong hai muốn định đoạt tài sản chung của hai vợ chồng mà không
được sự đồng ý của người còn lại thì hành vi đó xem như vi phạm pháp luật và các
hoạt động giao dịch liên quan đến tài sản chung sẽ không được thực hiện trên mặt
pháp luật. Cũng như quyền chiếm hữu và quyền sử dụng, quyền định đoạt là một
trong những yếu tố cấu thành nên quyền sở hữu tài sản. Khi các cặp LGBT sống
chung có quan hệ tài sản chung như các vợ chồng “dị tính” thì quyền sở hữu tài sản
26
chung và quyền định đoạt tài sản sẽ không cần sự đồng ý của cả hai dù cho trên mặt
thực tế tài sản chung được hình hành trên công lao đóng góp của hai người LGBT
chung sống với nhau, quyền định đoạt tài sản ở đây chỉ dành cho người đứng tên sở
hữu tài sản. Khi có các trường hợp tự ý định đoạt của người đứng tên tài sản xảy ra
thì người còn lại sẽ chịu nhiều rủi ro không được pháp luật bảo hộ cũng như các
thiệt thòi về mặt thực tế khi tài sản bị xâm hại ảnh hưởng đến kinh tế cũng như các
giá trị vật chất và tinh thần khác.
Việc định đoạt tài sản chung phải có sự thỏa thuận bằng văn bản của vợ
chồng trong những trường hợp sau đây: Bất động sản; Động sản mà theo quy định
của pháp luật phải đăng ký quyền sở hữu; Tài sản đang là nguồn tạo ra thu nhập chủ
yếu của gia đình.” Nhưng đối với các cặp đôi chung sống là người LGBT thì việc
tranh chấp đến quyền định đoạt hay quyền sở hữu tài sản sẽ không được giải quyết
một cách trực tiếp như các cặp vợ chồng “dị tính”. Để hiểu rõ hơn về rủi ro quyền
định đoạt tài sản trên khối tài sản chung của các cặp LGBT thì hãy nhìn vào ví dụ
thực tế sau: A và B ngụ tại Phường 7, Tp. Vĩnh Long, Tỉnh Vĩnh Long chung sống
với nhau được 7 năm và họ đã dành tiết kiệm được một khoản tiền là 1 tỷ 500 triệu
đồng. Cả hai quyết định mua 1 chiếc xe ô tô Toyota 7 chổ để cho thuê và chiếc xe
cho thuê mỗi tháng đem về them thu nhập cho A và B từ khoản 5 triệu đến 7 triệu.
Khi mua xe cũng như các cặp vợ chồng “dị tính” A và B không lập văn bản thỏa
thuận đây là tài sản chung mà A và B đã thống nhất để cho B đứng tên chiếc xe.
Một khoản thời gian sau, B làm ăn thua lỗ và đã thực hiện quyền định đoạt chiếc xe
ô tô bằng việc bán với giá là 750 triệu mà không hỏi qua ý kiến của A người đồng
sở hữu trên mặt thực tế. Trong trường hợp này đối với vợ chồng “dị tính” dù không
có lập văn bản thỏa thuận về sở hữu tài sản chung thì chiếc xe này vẫn được các cơ
quan thực thi pháp luật xem xét là tài sản chung của vợ chồng và cả hai vợ chồng có
quyền định đoạt cũng như quyền sở hữu ngang nhau, nếu một trong cả hai muốn thể
hiện quyền định đoạt trên chiếc xe thì cần phải có sự đồng ý của bên còn lại. Các
cặp LGBT trong trường hợp này, cụ thể ở đây là A không được thể hiện quyền định
đoạt trên chiếc xe do chính công lao mình tạo ra vì pháp luật không thừa nhận
27
quyền định đoạt chiếc xe ô tô của A và cũng không công nhận A có quyền sở hữu
tài sản chung như vợ chồng trong trường hợp này.
Tóm lại, trường hợp hai người cùng giới tính chung sống với nhau mà có tranh
chấp về tài sản thể hiện các quyền sở hữu tài sản như: chiếm hữu, sử dụng và định
đoạt thì họ sẽ không được chế định “Giải quyết quan hệ tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng
của nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn (Điều 1
Luật HNGĐ 2014)” hay chế định quan hệ tài sản chung vì họ không thỏa mãn yếu tố
“khác giới” – nam, nữ sống chung; và hơn nữa cũng không thỏa mãn yếu tố “sống
như vợ chồng” vì pháp luật hiện hành không công nhận mối quan hệ vợ, chồng giữa
những người cùng giới. Chính vì vậy, khi hai người cùng giới tính chung sống với
nhau mà có tranh chấp về tài sản thì:
Thứ nhất, việc giải quyết căn cứ vào sự thỏa thuận của các bên.
Thứ hai, trường hợp không có thỏa thuận được thì có thể yêu cầu tổ chức có
thẩm quyền thực hiện việc hòa giải ngoài tòa án hoặc yêu cầu Tòa án giải quyết.
Về nguyên tắc chung, nếu các bên không có thỏa thuận khác thì tài sản riêng
của người nào thì được giao lại cho người đó; tài sản chung được phân chia theo công
sức đóng góp mỗi bên, nếu tài sản chung là tài sản góp vốn vào doanh nghiệp, tài sản
chứng khoán, tài khoản ngân hàng, tài sản sở hữu trí tuệ thì việc xác định tài sản được
áp dụng theo pháp luật có liên quan. Pháp luật hiện tại chỉ có hướng giải quyết tranh
chấp tài sản chung của các cặp LGBT theo hướng sở hữu chung được quy định tại
Điều 207 và giải quyết theo Điều 219 BLDS 2015 cho các cặp LGBT chung sống và
có quan hệ tài sản chung. Nhưng việc giải quyết như vậy là không đúng với bản chất
tài sản chung của các cặp LGBT vì tài sản chung đó giống như tài sản chung của vợ
chồng nên việc khi yêu cầu các cặp LGBT đưa ra các bằng chứng như: biên bản thỏa
thuận, hóa đơn, hay các khoản tiền đóng góp trong khối tài sản chung đó là điều rất
khó. Bên cạnh đó xử lý các trường hợp tranh chấp áp dụng theo quan hệ tài sản chung
trong BLDS 2015 cho các cặp LGBT sẽ gây nên việc phân định không công bằng,
không đảm bảo được quyền lợi chính đáng của các chủ sở hữu trên mặt thực tế và kéo
theo nhiều hệ lụy đáng tiếc, đặc biệt là vấn đề “chiếm hữu”, “sử dụng” và “định đoạt”
28
tài sản chung được hình thành trên công lao đóng góp của cả hai người LGBT khi
chung sống với nhau. Hệ lụy và hậu quả sẽ được người viết trình bày trong phần thực
trạng.
Tiểu kết chương 1
Qua các giai đoạn phát triển lịch sử của người LGBT chứng minh được người
LGBT luôn tồn tại gắn liền với xã hội loài người, họ có cuộc sống tình cảm và sinh
hoạt hằng ngày không khác gì so với một gia đình người “dị tính”. Người LGBT
không phải là một hiện tượng mà đó là một thành phần cấu tạo nên xã hội loài người.
Và từ đây người viết phân định rõ ràng những nhóm người thuộc cộng đồng LGBT
thông qua các khái niệm; hiểu được khái niệm cho thấy vấn đề nghiên cứu về: nhận
thức của xã hội tác động như thế nào đến quyền sở hữu tài sản chung của người đồng
tính, song tính, chuyển giới; quyền cơ bản cần được đảm bảo khi có cuộc sống như vợ
chồng của người đồng tính, song tính, chuyển giới đó là quyền sở hữu tài sản.
Một số công trình, tài liệu đã nghiên cứu khá sâu về một số nội dung liên quan
đến chủ đề của luận văn. Một số tác giả đã phân tích thực trạng hệ thống pháp luật
hiện hành quy định về quyền cơ bản trong đó chỉ tập trung các quyền nhân thân
(quyền được kết hôn, quyền được chuyển giới...) của người đồng tính, song tính và
chuyển giới mà bỏ quên đi quyền sở hữu tài sản chung khi các cặp LGBT sống chung
không khác gì vợ chồng “dị tính”. Quyền sở hữu chung tài sản của các cặp LGBT có
ý nghĩa quan trọng trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa như Việt
Nam hiện nay. Tiếp cận vấn đề pháp luật về quyền sở hữu tài sản của người đồng tính,
song tính, chuyển giới ở góc nhìn dựa trên ba quyền cơ bản của quyền sở hữu tài sản
đó là: quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt người viết nhận ra rằng
các quyền này trong từng trường hợp cụ thể bị hạn chế đôi khi là bị ngăn cản việc thực
hiện quyền của chủ thể là người LGBT khi tham gia vào quan hệ tài sản chung trong
quá trình chung sống nhằm thể hiện khát khao hạnh phúc như các cặp vợ chồng người
“dị tính”. Từ đó góp phần định ra mô hình tổng quan và đề xuất hoàn thiện pháp luật,
giải pháp bảo đảm quyền sở hữu tài sản của các cặp LGBT khi về chung sống với
nhau cũng như góp phần xây dựng cơ sở pháp luật để giải quyết tranh chấp tài sản
29
thông qua các quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản trong
quyền sở hữu tài sản chung của các cặp LGBT một cách hợp pháp cũng như hợp tình.
30
Chương 2
PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ QUYỀN SỞ HỮU TÀI SẢN CỦA
NGƯỜI ĐỒNG TÍNH, SONG TÍNH, CHUYỂN GIỚI VÀ THỰC TIỄN
THỰC HIỆN
2.1. Pháp luật Việt Nam hiện hành về quyền sở hữu tài sản của người
đồng tính, song tính và chuyển giới
2.1.1. Thực trạng quy định pháp luật về quyền sở hữu tài sản của người đồng
tính, song tính và chuyển giới
Quyền sở hữu tài sản của người LGBT bao gồm các quyền chiếm hữu, sử
dụng và định đoạt các giá trị tài sản mà mình đang sở hữu. Theo pháp luật hiện
hành tại Việt Nam không khác gì so với công dân thông thường. Người LGBT có
quyền sở hữu tài sản theo những quy định của pháp luật hiện tại như sau:
BLDS 2015 Điều 105 quy định khá cụ thể tài sản là gì: “Tài sản là vật, tiền,
giấy tờ có giá và quyền tài sản; Tài sản bao gồm bất động sản và động sản, bất động
sản và động sản có thể là tài sản hiện có và tài sản hình thành trong tương lai”. Dựa
vào định nghĩa Điều 105 BLDS 2015 thì tài sản của người LGBT có quyền sở hữu
như người “dị tính” bào gồm:
Thứ nhất, tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản
- Vật, là bộ phận của thế giới vật chất; con người chiếm hữu được, mang
lại lợi ích cho chủ thể, có thể đang tồn tại hoặc sẽ hình thành trong tương lai. Dựa
vào đặc tính, giá trị của các tài sản sau khi sử dụng thì chia thành vật tiêu hao và vật
không tiêu hao. Dựa vào các dấu hiệu phân biệt của vật mà người ta phân loại vật
thành vật cùng loại và vật đặc định. Ngoài ra, người ta còn chia ra làm vật đồng bộ
và vật không đồng bộ.
- Tiền, Chỉ có loại tiền có giá trị đang được lưu hành trên thực tế, tức là
được pháp luật thừa nhận, mới được coi là tài sản. Tiền là công cụ thanh toán đa
năng, là công cụ tích luỹ tài sản và là thước đo giá trị.
- Giấy tờ có giá, Giấy tờ có giá, được hiểu là giấy tờ trị giá được bằng tiền
và chuyển giao được trong giao lưu dân sự. Giấy tờ có giá hiện nay tồn tại dưới
31
nhiều dạng khác nhau như séc, cổ phiếu, tín phiếu, hối phiếu, kỳ phiếu, công
trái…Các loại giấy tờ xác nhận quyền sở hữu, quyền sử dụng đối với tài sản như
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà, giấy đăng
ký xe máy, xe ô tô… không phải là giấy tờ có giá.
- Quyền tài sản, theo quy định tại Điều 115 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì
quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền, bao gồm quyền tài sản đối với đối
tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và các quyền tài sản khác.
Thứ hai, tài sản bao gồm động sản và bất động sản. Bất động sản và động sản
có thể là tài sản hiện có và tài sản hình thành trong tương lai
- BLDS 2015 quy định tại Điều 107 về bất động sản và động sản như sau:
“Bất động sản bao gồm: Đất đai; Nhà, công trình xây dựng gắn liền với đất đai; Tài
sản khác gắn liền với đất đai, nhà, công trình xây dựng; Tài sản khác theo quy định
của pháp luật và Động sản là những tài sản không phải là bất động sản”.
- Căn cứ vào thời điểm hình thành tài sản và thời điểm xác lập quyền sở
hữu cho chủ sở hữu, bất động sản và động sản có thể là tài sản hiện có và tài sản
hình thành trong tương lai. Tài sản hiện có là tài sản đã tồn tại vào thời điểm hiện
tại và đã được xác lập quyền sở hữu cho chủ sở hữu của tài sản đó (nhà đã được xây
dựng…). Tài sản hình thành trong tương lai được hiểu là tài sản chưa tồn tại hoặc
chưa hình thành đồng bộ vào thời điểm xem xét nhưng chắc chắn sẽ có hoặc được
hình thành trong tương lai (nhà đang được xây dựng theo dự án, tiền lương sẽ được
hưởng…). Ngoài ra, tài sản hình thành trong tương lai có thể bao gồm tài sản đã
được hình thành tại thời điểm giao kết giao dịch tài sản đó mới thuộc sở hữu của
các bên (tài sản mua bán, thừa kế nhưng chưa hoàn thành thủ tục chuyển giao cho
chủ sở hữu).
Tất cả về các loại tài sản mà người LGBT có thể xác lập quyền sở hữu tài
điều được quy định trong BLDS 2015 và các quyền như chiếm hữu, sử dụng và
định đoạt các loại tài sản đó vẫn có trong quy định của BLDS 2015:
- Quyền chiếm hữu, Điều 179 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “1. Chiếm
hữu là việc chủ thể nắm giữ, chi phối tài sản một cách trực tiếp hoặc gián tiếp như
32
chủ thể có quyền đối với tài sản; (2). Chiếm hữu bao gồm chiếm hữu của chủ sở
hữu và chiếm hữu không phải là chủ sở hữu. Việc chiếm hữu của người không phải
là chủ sở hữu không thể là căn cứ xác lập quyền sở hữu, trừ trường hợp quy định tại
các điều 228, 229, 230, 231, 232, 233 và 236 của Bộ luật này”. Người chiếm hữu có
thể tự mình thực hiện quyền yêu cầu người có hành vi xâm phạm phải chấm dứt
hành vi, khôi phục tình trạng ban đầu, trả lại tài sản và bồi thường thiệt hại bằng
những biện pháp không trái quy định của pháp luật. Hoặc người chiếm hữu có thể
yêu cầu Tòa án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác buộc người có hành vi xâm
phạm việc chiếm hữu thực hiện các trách nhiệm này khi họ.
- Quyền sử dụng, Điều 189 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “Quyền sử
dụng là quyền khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản. Quyền sử dụng
có thể được chuyển giao cho người khác theo thoả thuận hoặc theo quy định của
pháp luật”. Đối với quyền sử dụng của chủ sở hữu, chủ sở hữu được sử dụng tài sản
theo ý chí của mình nhưng không được gây thiệt hại hoặc làm ảnh hưởng đến lợi ích
quốc gia, dân tộc, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác;
Đồng thời, người không phải là chủ sở hữu được sử dụng tài sản theo thoả thuận với
chủ sở hữu hoặc theo quy định của pháp luật.
- Quyền định đoạt, Điều 192 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “Quyền
định đoạt là quyền chuyển giao quyền sở hữu tài sản, từ bỏ quyền sở hữu, tiêu dùng
hoặc tiêu huỷ tài sản”. Pháp luật quy định cho cá nhân là chủ sở hữu hoặc không
phải là chủ sở hữu có quyền định đoạt về tài sản, tuy nhiên để có quyền định đoạt
thì phải đáp ứng những điều kiện nhất định về năng lực hành vi và các trình tự, thủ
tục do pháp luật quy định: (i) về năng lực hành vi, việc định đoạt tài sản phải do
người có năng lực hành vi dân sự thực hiện theo quy định của pháp luật; (ii) về trình
tự, thủ tục theo quy định của pháp luật về định đoạt tài sản: trong trường hợp pháp
luật có quy định về trình tự, thủ tục định đoạt thì cần phải tuân thủ theo trình tự, thủ
tục đó. Về chủ thể có quyền định đoạt, Bộ luật Dân sự năm 2015 có quy định chủ
thể có quyền định đoạt là chủ sở hữu và người không phải chủ sở hữu.
33
Tóm lại, chế định tài sản và quyền sở hữu được quy định trong BLDS 2015
là những quy định chung áp dụng cho tất cả công dân không phân biệt người LGBT
hay người “dị tính”. BLDS 2015 đồng thời cũng đã sửa đổi, bổ sung nhiều vấn đề
quan trọng thể hiện sự phát triển của chế định này trong lịch sử xây dựng pháp luật
về dân sự trong đó chế định tài sản và quyền sở hữu là một trong những chế định
trọng tâm, quan trọng của BLDS 2015 nhằm đảm bảo thực hiện và bảo vệ quyền
con người, nên việc bổ sung, hoàn thiện chế định này là rất quan trọng, làm cơ sở
tiền đề để xây dựng cũng như áp dụng thống nhất các chế định khác có liên quan
đến những quyền sở hữu của công dân mà còn thực hiện được các quyền mà Hiến
pháp 2013 vừa thay đổi bổ sung phù hợp với các công ước quốc tế về quyền con
người, bắt kịp xu hướng phát triển làm luật của thế giới trong công tác đảm bảo các
quyền cơ bản của con người, trong đó điều lưu ý quan trọng “vẫn đảm bảo quyền
cho các nhóm người yếu thế trong xã hội như người LGBT”. Tuy nhiên, các quy
định hiện tại của pháp luật Việt Nam vẫn còn hạn chế so với các quốc gia trong việc
đảm bảo quyền cho một số nhóm người yếu thế trọng xã hội, ở đây cụ thể đó chính
là “quyền sở hữu chung tài sản” của các cặp LGBT chung sống với nhau như “vợ
chồng”. Phần tiếp theo sẽ làm rõ hơn vấn đề này.
2.1.2. Một số nhận xét, đánh giá thực trạng quy định pháp luật về quyền sở
hữu tài sản của người đồng tính, song tính và chuyển giới
Việt Nam là một quốc gia có hệ thống pháp luật hoàn thiện, hầu hết các lĩnh
vực trong đời sống xã hội đều được pháp luật điều chỉnh bằng các văn bản quy phạm
pháp luật hoặc là các văn bản dưới luật nhằm đàm bảo nguyên tắc “thượng tôn pháp
luật vì một nhà nước pháp quyền”. Trong thực tế vẫn có một số lĩnh vực mà thực chất
có tồn tại, các nhà làm luật biết đến sự tồn tại ấy nhưng lại không ban hành các văn
bản quy phạm pháp luật hoặc các văn bản có giá trị pháp lý để điều chỉnh mối quan hệ
đó. Đó chính là “quan hệ tài sản chung” của các cặp LGBT chung sống như “vợ
chồng” theo quy mô hẹp, còn rộng hơn đó chính là các quyền con người của nhóm đối
tượng này bị hạn chế khi không được công nhận quan hệ “nhân thân Hôn nhân” và
các “quan hệ liên quan đến sở hữu tài sản trong quá trình chung sống”. Tại Việt Nam
34
vẫn chưa có các văn bản quy phạm pháp luật hay văn bản hướng dẫn luật để điều
chình các quan hệ sở hữu tài sản chung của người LGBT. Tuy nhiên thì Việt Nam đã
công nhận Tuyên ngôn Thế giới về Quyền con người năm 1948 đây là cơ sở pháp lý
nền và cơ sở lập luận để cho người viết xây dựng nên các luận điểm để minh chứng
“quyền sở hữu tài sản chung của người LGBT” là thực sự xác đáng và cần thiết trong
bối cảnh Kinh tế-thị trường ở Việt Nam hiện nay. Bên cạnh “tuyên ngôn nhân quyền
1948” thì Hiến chương Liên hợp quốc, Công ước quốc tế về các quyền dân sự và
chính trị năm 1966, Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hoá năm
1966 đều đề cập các quyền tự do cơ bản của con người, ví dụ: “Việc thừa nhận phẩm
giá bẩm sinh và những quyền bình đẳng và bất khả chuyển nhượng của tất cả các
phần tử trong đại gia đình nhân loại là nền móng của tự do, công lí và hoà bình thế
giới” (lời mở đầu của Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa năm
1966). Việt Nam cũng là thành viên của hai công ước trên và gia nhập vào ngày
24/9/1982 nhằm đảm bảo quyền con người thông qua các quy định của pháp luật hiện
hành. Như vậy, người LGBT trên thế giới hay ở Việt Nam với tư cách là một phần tử
trong đại gia đình đó cần phải được thừa nhận và bảo vệ ở các quyền: tự do, bình đẳng
như người “dị tính”, đặc biệt là quyền nhân thân Hôn nhân và các quyền tài sản trong
đó quyền sở hữu tài sản chung trong giai đoạn chung sống như “vợ chồng” của các
cặp LGBT tại Việt Nam đang gặp nhiều vấn đề vướng mắc trong quy định của pháp
luật Việt Nam hiện hành trong bối cảnh Việt Nam hiện nay đã đồng ý và tham gia
công ước quốc tế. Vậy quy định của pháp luật Việt Nam có những quy định gì? Làm
ảnh hưởng đến quyền sở hữu tài sản của các cặp LGBT cũng như chưa đảm bào được
các quyền cơ bản liên quan đến quyền con người, quyền sở hữu tài sản và cụ thể hơn
là quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản chung của người LGBT? Để giúp
cho người đọc hiểu rõ về các quy định hiện tại tác động như thế nào đến quyền sở hữu
tài sản hay nói một cách cụ thể đó chính là pháp luật Việt Nam đang “vô tình” hạn chế
quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản chung của các cặp LGBT. Người viết
xin trình bày nội dung có liên quan đến quyền sở hữu tài sản của người LGBT trong
35
hệ thống các quy định của pháp luật Việt Nam hiện tác động gián tiếp cũng như trực
tiếp đến quyền sở hữu tài sản của người LGBT khi chung sống với nhau như sau:
Thứ nhất, Hiến pháp 2013 có sức ảnh hưởng trực tiếp đến quyền sở hữu tài sản
của người LGBT, trong đó có quy định tại Điều 16: “Mọi công dân đều bình đẳng
trước pháp luật”, “không ai bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, văn hóa, kinh
tế xã hội”, Các văn bản quy phạm pháp luật khác cũng quy định tượng tự như trên.
Các quy định của Hiến pháp làm nền tảng cho mọi văn bản quy phạm pháp luật không
được phân biệt đối xử với bất kỳ đối tượng nào trừ khi vì các lý do theo luật định mà
họ không được hưởng các quyền pháp luật quy định cho công dân. Pháp luật Việt
Nam hiện tại chưa có những quy định về quyền bình đẳng, không bị phân biệt đối xử
về xu hướng tính dục và bản dạng giới đi theo quy định của Hiến pháp 2013. Tuy
Hiến pháp 2013 không quy định cụ thể chủ thể được tham gia quan hệ hôn nhân,
nhưng các quy định “nền” liên quan đến việc chống phân biệt đối xử của tất cả chủ
thể là công dân Việt Nam của Hiến pháp 2013 tạo cơ sở lý luận cho việc thúc đẩy bảo
vệ quyền con người của người LGBT cũng như có thể thực hiện được các quyền cơ
bản của quyền sở hữu tài sản khi các cặp LGBT chung sống với nhau như “vợ
chồng”.
Thứ hai, các nội dung của LHN&GD 2014 không những tác động trực tiếp
mà còn sâu sắc và mạnh mẽ đến các quyền nhân thân, quyền tài sản…trong đó có
quyền sở hữu tài sản chung như quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt của người
LGBT chung sống và có quan hệ tài sản chung với nhau như các cặp “vợ chồng”.
Quy định "cấm kết hôn giữa những người cùng giới tính" từ ngày 1 tháng 1 năm
2015 đã được bãi bỏ. Tuy nhiên, LHN&GD 2014 vẫn quy định "không thừa nhận
hôn nhân giữa những người cùng giới tính". Pháp luật Việt Nam không quy định cụ
thể về hôn nhân hay mối quan hệ giữa những người cùng giới tính. Tại Khoản 2
Điều 8 LHN&GD 2014 có quy định: “nhà nước không thừa nhận hôn nhân giữa
những người cùng giới tính”. Ngoài ra chưa có quy định nào hướng dẫn thêm về
quan hệ của những người cùng giới tính. Pháp luật Việt Nam không thừa nhận hôn
nhân đồng giới nhưng cũng không có quy định cấm kết hôn đồng giới. Luật Hôn
36
nhân và gia đình của Việt Nam từ trước đến nay chưa thừa nhận hôn nhân, cũng như
quyền tài sản của các cặp LGBT sống chung. Hiện nay, quan hệ hôn nhân về cơ bản là
sự kết hợp giữa hai người khác giới tính. Vì vậy, quan niệm về hôn nhân thường chỉ là
của người “dị tính”. Giờ đây, vấn đề ghi nhận quan hệ sống chung của cặp đôi cùng
giới đã được đặt ra. Như đã nêu, năm 1990, Tổ chức Y tế thế giới đã loại bỏ đồng tính
ra khỏi danh sách các bệnh tâm thần. Nhu cầu được công nhận quan hệ sống chung
của cặp đôi cùng giới là hết sức chính đáng. Có hai hình thức công nhận cơ bản trên
thế giới là quan hệ hôn nhân (như cặp đôi dị tính); sống chung có đăng ký (bị hạn chế
một số quyền so với quan hệ hôn nhân đầy đủ) và Việt Nam hiện tại vẫn chưa công
nhận bất kỳ hình thức nào. Thông thường, việc ghi nhận quan hệ hôn nhân bình đẳng
của cặp đôi cùng giới không phải bao giờ thuận lợi bởi những rào cản từ truyền thống,
văn hóa, tôn giáo, chính trị, các đảng phái, chính sách... như Việt Nam hiện nay là
điều dễ hiểu. Xem xét quyền kết hôn cùng giới được xem là vấn đề quan trọng nhất
của người LGBT trong thời gian qua. Có thể nhận thấy, việc chưa công nhận một hình
thức pháp lý cho mối quan hệ sống chung giữa hai người cùng giới cũng có thể dẫn
đến một số hệ quả pháp lý nhất định về quan hệ tài sản, quan hệ phát sinh khi sống
chung… Nội dung của các quy định trong LHN&GD 2014 dành cho đối tượng LGBT
chỉ xoay quanh tại Khoản 2 Điều 8 “việc không thừa nhận hôn nhân đồng tinh” chứ
các quy định liên quan đến quyền sở hữu tài sản trong Luật này chỉ dành cho các cặp
vợ chồng “dị tính”.
Thứ ba, BLDS 2015 là văn bản quy phạm pháp luật duy nhất có quy định các
nội dung chung dành cho tất cả các đối tượng của xã hội khi tham gia các quan hệ dân
sự và có thể áp dụng một cách “gượng ép” cho giải quyết các vấn đề liên quan đến
tranh chấp tài sản chung của người LGBT còn vấn để đảm bảo quyền chiếm hữu, sử
dụng và định đoạt khối tài sản chung của người LGBT thì rất khó bảo vệ trong các
quy định hiện tại trong BLDS 2015. BLDS 2015 tác động gián tiếp và đôi khi là trực
tiếp đối với trường hợp tài sản được hình thành do sự đóng góp từ hai phía trong quá
trình chung sống hoặc do một bên cho phép bên còn lại trở thành đồng sở hữu thì các
tài sản đó được xem là tài sản chung của LGBT. Do đó, các tài sản chung này là đối
37
tượng sẽ được xem xét áp dụng các quy định của BLDS 2015 để phân chia khi các
cặp “vợ chồng” LGBT chia tay. Về vấn đề phân chia tài sản chung, pháp luật Việt
Nam hay BLDS 2015 rất tôn trọng sự thoả thuận của các bên. Do đó, nếu trong quá
trình chia tay, cặp “vợ chồng” LGBT đã có thoả thuận về việc phân chia tài sản chung
của LGBT thì pháp luật sẽ tôn trọng sự thoả thuận này. Trường hợp, cặp “vợ chồng”
LGBT không thoả thuận được về việc phân chia tài sản chung trong quá trình chia
tay, thì khi đó, một trong hai bên có quyền khởi kiện tại Toà án nhân dân có thẩm
quyền để yêu cầu Toà án giải quyết. Trong trường hợp này, Toà án sẽ căn cứ vào quy
định tại BLDS 2015 để tiến hành phân chia tài sản chung của LGBT. Cụ thể, BLDS
2015 quy định tại điều 207 Sở hữu chung và các loại sở hữu có quy định cụ thể: “Sở
hữu chung và các loại sở hữu chung;1. Sở hữu chung là sở hữu của nhiều chủ thể đối
với tài sản; 2. Sở hữu chung bao gồm sở hữu chung theo phần và sở hữu chung hợp
nhất”.
Nếu không thể chia phần quyền sở hữu bằng hiện vật hoặc việc chia này bị các
chủ sở hữu chung còn lại phản đối thì người có quyền có quyền yêu cầu người có
nghĩa vụ bán phần quyền sở hữu của mình để thực hiện nghĩa vụ thanh toán. Tài sản
chung sẽ được phân chia theo quy định của pháp luật dân sự.
Các quy định của pháp luật Việt Nam quy định cơ bản về các quyền sở hữu tài
sản chung của LGBT đều được trình bày bên trên. Nhìn vào các quy định của pháp
Luật Việt Nam hiện hành thì theo đánh giá cá nhân của người viết thì quá ít để có thể
giải quyết được các vấn đề phát sinh khi có mâu thuẩn giữa người LGBT với nhau
hoặc là không thể nào đủ đảm bảo được các quyền cở bản của quyền sở hữu tài sản
như quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt trên khối tài sản chung của người LGBT
có quan hệ chung sống như “vợ chồng” và có quan hệ tài sản chung với nhau
Quyền sở hữu tài sản chung là một trong những vấn đề được quan tâm nhất
trong quá trình sống chung với nhau của các cặp người LGBT, những quy định pháp
luật về quyền sở hữu tài sản của người LGBT (chủ yếu liên quan đến cặp đôi cùng
giới) vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu giải quyết tranh chấp tài sản chung của các cặp
LGBT khi chung sống có phát sinh mâu thuẫn liên quan đến tài sản chung. Ngoài ra
38
thực trạng quy định của BLDS 2015, LHN&GD 2014 và các văn bản quy phạm pháp
luật khác có liên quan đến các vấn đề xác định nhân thân, thực thi quyền con người
theo các công ước quốc tế mà Việt Nam ký kết trong thời gian qua đã đặt ra một số
vấn đề về quyền sở hữu tài sản của cặp đôi LGBT như sau:
Một là, nhu cầu ghi nhận hình thức chung sống và quan hệ sở hữu tài sản
chung của cặp đôi cùng giới và người thuộc cộng đồng LGBT
Như đã nêu, hiện nay pháp luật Việt Nam chỉ ghi nhận hình thức kết hôn giữa
cặp đôi “dị tính”, không thừa nhận hôn nhân hay bất kỳ quan hệ dân sự nào giữa
những người cùng giới và cộng đồng người LGBT, người LGBT khi có quan hệ sống
chung và các vấn đề liên quan đến quyền sở hữu như quyền chiếm hữu, sử dụng và
định đoạt trong khối tài sản chung do cả hai cùng tạo dựng đều không được pháp luật
hiện tại ghi nhận ở bất kỳ văn quy phạm pháp luật nào. Tuy vậy, nhu cầu ghi nhận
hình thức chung sống và các vấn đề thừa nhận mối quan hệ tài sản như các cặp vợ
chồng “dị tính” của người LGBT tại Việt Nam ngày càng rõ nét (đặc biệt từ giai đoạn
soạn thảo LHN&GD năm 2014 cho đến nay). Điều này được thể hiện qua một số
điểm dưới đây:
Việc các cặp đôi cùng giới (chủ yếu là người đồng tính) sống công khai, có
quan hệ tình cảm với nhau được thể hiện khá rõ
Theo kết quả một nghiên cứu đồng tính nữ công bố năm 2012 thì có 62% đang
có người yêu là nữ và 87% đang hoặc đã từng có người yêu [4]. Trong tổng mẫu
nghiên cứu định lượng của nghiên cứu do Viện iSEE công bố năm 2013, có đến gần
62% người tham gia (trong tổng số 2.483 người LGBT) cho biết họ đang trong một
mối quan hệ gắn kết với một người cùng giới [7]. Trong số này, có đến 28,90% cặp
đôi đồng tính đang sống chung có sở hữu chung tài sản có giá trị như ô tô, sổ tiết kiệm;
18,40% có góp vốn đầu tư, kinh doanh chung, 7,90% có nhà đất chung (đứng tên cả
hai người).
Cũng theo kết quả nghiên cứu nêu trên thì những người đồng tính ở lứa tuổi
kết hôn trung bình hiện nay, phần lớn số người được hỏi xác định lý do, mục tiêu của
cuộc sống chung rất cụ thể. Có 87% người được khảo sát cho rằng sống chung để hỗ
39
trợ lẫn nhau về tình cảm, tạo cảm giác cuộc sống an toàn, thể hiện tình yêu và sự cam
kết chung thủy với nhau trong cuộc sống [7]. Những người quyết định sống chung
đều có quan niệm rất rõ ràng về sự gắn bó lâu dài và thể hiện mong muốn gìn giữ mối
quan hệ này thông qua việc tào lập khối tài sản chung như các cặp vờ chồng “dị tính”.
Việc đi đến cuộc sống chung đối với mỗi cặp đôi đều không phải là một quyết định
chóng vánh mà dựa trên sự cân nhắc kỹ lưỡng. Giống như các cặp đôi “dị tính”, người
đồng tính (và cả người song tính, chuyển giới) bắt đầu cuộc sống chung với cam kết
chung thủy, hỗ trợ lẫn nhau và ước vọng hạnh phúc lâu dài. Họ duy trì cuộc sống
chung bằng cách chia sẻ gánh nặng kinh tế, trách nhiệm với gia đình hai bên và điều
chỉnh bản thân để đạt được sự hòa hợp. Cuộc sống chung của những người cùng giới
hiện nay đang tồn tại và phổ biến trong tất cả các nhóm đồng tính. Một khảo sát thực
tế cũng cho thấy khá nhiều sự lựa chọn của người đồng tính nếu được pháp luật thừa
nhận quan hệ sống chung [7]. Trong đó, tỷ lệ sẽ đăng ký kết hôn ở mức cao nhất (xét
trên cả phương diện mong muốn của người đồng tính cũng như dự đoán thái độ của
cha mẹ họ khi họ thực hiện việc đăng ký kết hôn và có quyền và nghĩa vụ tài sản liên
quan đến tài nếu pháp luật cho phép).
Quan hệ sở hữu tài sản chung và các quyền: chiếm hữu, sử dụng và định đoạt
trên khối tài sản chung của các cặp đôi đồng tính gặp rất nhiều khó khăn
Khác với những cặp đôi “dị tính”, các cặp đôi cùng giới hầu hết không dám
bộc lộ bản chất mối quan hệ với gia đình. Theo một khảo sát công bố năm 2013 [7],
thái độ của cha mẹ, họ hàng đối với quan hệ đồng giới từ những người đã cho gia đình
biết, hoặc úp mở về quan hệ đồng giới thì 46,3% cho biết tình cảm đó không được sự
chấp nhận của họ hàng. Và thậm chí, 16,8% người đồng giới đã từng bị gia đình và họ
hàng đe dọa nhằm chấm dứt mối quan hệ đó. Người đồng tính cũng thường bế tắc khi
nghĩ đến chuyện tạo dựng chung tài sản, có con chung… như người “dị tính” vì pháp
luật hiện tại không công nhận đó là quan hệ gia đình dù đó là mong muốn trong sâu
thẳm, bởi môi trường xã hội, định kiến không đồng tình các cặp đồng tính sinh/nhận
con và nuôi dưỡng con cũng như cho rằng việc gắn kết về tài sản chỉ dành cho các cặp
Nam Nữ thông thường để họ “yên bề gia thất” tạo dựng cơ sở kinh tế làm ăn để phát
40
triển xã hội (do các định kiến mang tính lối mòn thời đại đã làm mất đi những quyền
vốn có ở một con người của người LGBT). Và những người chung sống đồng giới
gặp nhiều khó khăn gấp bội trong việc duy trì mối quan hệ lâu dài, do không được
pháp luật thừa nhận (đồng nghĩa với việc không có sự ràng buộc về mặt luật pháp), do
không được hỗ trợ về tâm lý khi nảy sinh mâu thuẫn (do phải giấu diếm mọi người
xung quanh) và do sự phản đối của gia đình [24]. Để có cái nhìn tổng quan có thể theo
dõi
Bảng 2.1 về phân tích tương quan với trải nghiệm khó khăn trong quan hệ
cùng giới tại Việt Nam:
41
Bảng 2.1. Phân tích tương quan với trải nghiệm khó khăn trong quan hệ
cùng giới
Nam Nữ Chung
% % % % Có gặp % Có gặp % Có gặp
Không ít nhất Không ít nhất Không ít nhất
gặp khó một gặp khó một gặp khó một
khăn gì loại khó khăn gì loại khó khăn gì loại khó
khăn khăn khăn
Bộc lộ về xu
31.20 68.80 hướng tính dục 46.20 53.80 21.10 78.90
với toàn bộ
Úp mở, bộc
lộ một phần, 11.60 88.40 10.20 89.80 11.00 89.00 theo từ ng
tình huống
Hoàn toàn không 14.10 85.90 10.00 90.00 13.30 86.70 bộc lộ
Cha Và mẹ ủng
24.00 76.00 10.00 90.00 17.80 82.20
hộ hoặc phần nào ủng hộ
Cha Và mẹ đều 16.00 84.00 20.00 80.00 17.90 82.10 không có ý kiến
Phản đối hoặc
phần nào phản 5.60 94.40 2.00 98.00 4.10 95.90
đối
17.60 82.40 16.70 83.30 17.20 82.80 Chưa từ ng trải nghiệm kỳ thị
5.10 94.90 5.80 94.20 5.40 94.60
Đã từng trải nghiệm ít nhất một dạng kỳ thị
42
Trên thực tế, có khá nhiều các vấn đề pháp lý liên quan trong cuộc sống chung
nằm ngoài khả năng giải quyết của các cặp đôi cùng giới. Ví dụ, về vấn đề các phúc
lợi, có cặp đôi cho biết một trong hai người được hưởng chế độ bảo hiểm y tế của cơ
quan làm việc và chế độ bảo hiểm này cũng bao phủ cho vợ/chồng và con cái nếu
người đó là người dị tính [7]. Mặc dù cặp đôi này đã sống với nhau ba năm, có các
đóng góp chi tiêu và sở hữu tài sản chung, bộc lộ mối quan hệ sống chung của mình
với gia đình hai bên và bạn bè, nhưng mối quan hệ có bản chất hôn nhân này vẫn chưa
được thừa nhận về mặt pháp lý. Do vậy, người cùng chung sống không được hưởng
chế độ phúc lợi dành cho vợ chồng. Bên cạnh đó, một số chế độ phúc lợi liên quan
đến các tổ chức công đoàn của các cơ quan nhà nước dành cho vợ chồng của các cán
bộ cũng không thể áp dụng đối với cặp đôi đồng tính (đau ốm, hiếu…). Điều này cho
thấy, thực tế sống chung của người đồng tính, song tính là có thật nhưng chưa được
pháp luật công nhận nên vô hình khiến cho họ không được hưởng những phúc lợi
đáng ra phải được hưởng và các quyền định chiếm hữu, sử dụng và định đoạt các
khoản tiền phúc lợi, tiền bảo hiểm…không được phép trên mặt pháp luật trong khi
thực tế họ có mối quan hệ chung sống như vợ chồng nhằm đáp ứng mong muốn mưu
cầu hạnh phúc cũng như góp phần vào xây dựng xã hôi văn minh tiến bộ bị chính hệ
thống pháp luật hiện tại hạn chế.
Ví dụ: Một tình huống thực tế đã xảy ra cho vấn đề liên quan đến phúc lợi xã
hội, đãi ngộ nhân viên của công ty nước ngoài diễn ra tại Việt Nam. Trần Minh K
(1991) cư ngụ và làm việc tại P. Xuân Khánh, Q. Ninh Kiều, TP. Cần Thơ và Nguyễn
Minh N (1991) cư ngụ tại P. An Khánh, Q.Ninh Kiều, TP.Cần Thơ đã có mối quan
chung sống với nhau được 4 năm và được gia đình hai bên đồng ý, họ có chung với
nhau rất nhiều tài sản như xe, nhà, một tiệm Spa... Nguyễn Minh N là nhân viên của
công ty Pháp đặt văn phòng đại diện tại P. Cái Kế, Q. Ninh Kiều TP.Cần Thơ. Pháp là
quốc gia công nhận hôn nhân đồng tính, nên vấn đề xác định vợ chồng để được hưởng
các ưu đãi của công ty “không dựa vào bạn thuộc giới tính nào, miễn bạn là vợ chồng
hợp pháp tại quốc gia sở tại mọi chính sách đãi ngộ dành cho nhân viên bạn đều được
hưởng”. Tuy nhiên Việt Nam không công nhận hôn nhân đồng tính, nên việc Trần
43
Minh K không được hưởng chế độ đãi ngộ của nhân viên là chuyện không thể tránh
khỏi. Việc được các lợi ít kinh tế, vật chất và tinh thần từ công ty của Nguyễn Minh N
mà đáng lẻ nếu pháp luật Việt Nam công nhận mối quan hệ thì Trần Minh K đã được
sở hữu những lợi ít mà công ty Pháp mang lại. Qua đó ta thấy được vấn đề quyền sở
hữu tài sản trong lĩnh vực an sinh xã hội nói chung và các chính sách đãi ngộ của từng
công ty sẽ không được áp dụng với mối quan hệ của người LGBT và đặc biệt cộng
đồng người đồng tính, song tính, quyền sở hữu tài sản bị ảnh hưởng một cách trực tiếp
mà không được bảo vệ cũng như quan tâm đúng mức.
Về mặt quan hệ tài sản, mặc dù các cặp đôi cùng giới hoàn toàn có thể đứng
tên chung khi mua một mảnh đất, một căn nhà nhưng trong thực tế có nhiều cặp đôi
tin tưởng nhau hoặc thiếu hiểu biết pháp luật nên chỉ có một người đứng tên. Điều
này đã làm cho quyền lợi của một bên không được bảo đảm, mất tài sản do chính
mình tạo ra (xem ví dụ bên dưới). Quyền sở hữu tài sản liên quan đến bất động sản
của người LGBT là hoàn toàn phù hợp với nội dung của Bộ luật dân sự về quyền sở
hữu. Theo quy định tại Điều 229. 232, sở hữu chung là sở hữu của nhiều chủ sở
hữu đối với tài sản, bao gồm sở hữu chung theo phần và sở hữu chung hợp nhất. Sở
hữu chung hợp nhất là sở hữu chung mà trong đó phần quyền sở hữu của mỗi chủ
sở hữu không được xác định đối với tài sản chung. Các chủ sở hữu chung hợp nhất
có quyền nghĩa vụ ngang nhau đối với tài sản thuộc sở hữu chung [29]. Theo quy
định của pháp luật Việt Nam hiện tại vẫn chưa cấp thẩm quyền trong việc cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở đã tiến
hành ghi tên của hai người đồng sỡ hữu là người LGBT khi họ chung sống và quan
hệ như một gia đình, những người đã được cấp giấy chứng nhận có thể yêu cầu cấp
lại giấy tờ ghi tên người vợ hoặc người chồng nhưng đối với các cặp LGBT không
có quyền được ghi tên thêm vào khối tài sản đó. Hai người trong cặp đôi cùng giới
đã có sự sắp xếp tài sản trong quá trình chung sống, nhưng người này sẽ không
được quyền thừa kế tài sản của người kia nếu một trong hai người qua đời đột ngột
(trừ khi di chúc có quy định khác). Trong hoàn cảnh này, sẽ có những tài sản chung
phải bán đi để trả phần giá trị đó cho người nhà của người đã mất. Trong cuộc sống
44
chung, nhiều tài sản không chỉ mang ý nghĩa giá trị vật chất mà còn có thể mang giá
trị tinh thần, đặc biệt khi một người đã ra đi. Điều này có thể gây ra những trải
nghiệm tâm lý rất nặng nề cho người ở lại và một trường hợp thực tế đã xảy ra:
Bên cạnh đó, không phải lúc nào mua một món đồ chung, hai người đều thực hiện
thủ tục đăng ký dân sự về sở hữu chung tài sản.
Tình huống thực tế về khó khăn trong quan hệ tài sản của cặp đôi cùng giới:
N.T.H (Thành phố Đà Nẵng) đang trải qua nỗi đau đớn khi mất cả người yêu và tài
sản tích lũy suốt 10 năm. Chị sống chung với bạn gái đã hơn 8 năm, hai người hùn
vốn làm ăn và góp cả tiền mua nhà. Do tin tưởng người yêu nên bạn gái H đứng tên
trong giấy tờ sở hữu khi mua nhà. Tuy nhiên, bạn gái của H bất ngờ mất vì tai nạn
giao thông. Gia đình bạn gái H đã căn cứ “giấy trắng mực đen” lấy lại toàn bộ tài sản,
H không giữ bất cứ bằng chứng gì về việc đồng sở hữu ngôi nhà và công việc kinh
doanh. H đau khổ: “Tôi mất cả tình yêu, mất cả tài sản. Nếu như chúng tôi được pháp
luật công nhận quyền kết hôn, quyền chung sống thực tế thì quyền lợi của tôi đã được
đảm bảo”. [27]
Khi cặp đôi cùng giới khởi kiện ra Tòa án yêu cầu chia tài sản chung thì Tòa án
căn cứ vào LHN&GD 2014 không công nhận quan hệ vợ chồng giữa hai người mà
chỉ giải quyết việc chia tài sản như hai người bình thường có tài sản chung theo
phần.Về mặt thừa kế vợ và chồng được BLDS 2015 quy định nằm trong dàn thừa
kế thứ nhất (chỉ áp dụng cho vợ chồng dị tính), các chung sống với nhau như “vợ
chồng” thì không được hưởng quyền thừa kế trong luật quy định và nhìn chung thì
BLDS 2015 không quy định thứ tự thừa kế của các cặp người chung sống như “vợ
chồng” thuộc nhóm người LGBT. Vì thế dẫn đến tình trạng hai người LGBT chung
sống với nhau như vợ chồng dù đã có sự sắp xếp tài sản trong quá trình chung sống,
nhưng người này sẽ không được quyền thừa kế tài sản của người kia nếu một trong
hai người qua đời đột ngột thì người còn lại cũng bị tước đi quyền thừa kế di sản của
người đã khuất. Bên cạnh đó, do không được thừa nhận quan hệ hôn nhân hợp pháp,
cặp đôi cùng giới và người LGBT không có sự ràng buộc của pháp luật một cách chặt
chẽ trong việc chiếm hữu, sử dụng và định đoạt khối tài sản chung này. Từ đó có thể
45
dẫn đến những rủi ro pháp lý khi một trong hai người tự ý định đoạt tài sản chung mà
chưa có sự chấp thuận của bên kia, có thể làm ảnh hưởng đến nguồn sống của gia đình,
thậm chí xâm hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người kia.
Hai là, quyền đại diện chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản chung cho
nhau không được pháp luật ghi nhận và bảo vệ ở người LGBT.
Trong mối quan hệ hôn nhân dị tính, đại diện cho nhau giữa vợ và chồng là
quy định mới trong LHN&GD 2000 và tiếp tục được quy định tại Điều 24 đến Điều
27 của LHN&GD 2014. Theo đó, vợ, chồng có thể ủy quyền cho nhau xác lập, thực
hiện và chấm dứt giao dịch mà theo quy định của LHN&GD, BLDS và các luật khác
có liên quan phải có sự đồng ý của cả hai vợ chồng và vợ, chồng đại diện cho nhau khi
một bên mất năng lực hành vi dân sự mà bên kia có đủ điều kiện làm người giám hộ
hoặc khi một bên bị hạn chế năng lực hành vi dân sự mà bên kia được Tòa án chỉ định
làm người đại diện theo pháp luật cho người đó, trừ trường hợp theo quy định của
pháp luật thì người đó phải tự mình thực hiện quyền, nghĩa vụ có liên quan (khoản 2,
3 Điều 24 LHN&GD 2014). Các quy định này thể hiện mối quan hệ bình đẳng giữa
vợ và chồng trong các vấn đề chiếm hữu, sử dụng và định các tài sản thuộc sở hữu
chung của vợ chồng cũng như việc thực hiện giao dich, đầu tư… từ khối tài sản chung
mà pháp luật quy định phải có sự đồng ý của cả vợ chồng, nếu như trước kia trong gia
đình chỉ có người chồng mới có quyền xác lập, thực hiện và chấm dứt các giao dịch
dân sự, thì ngày nay người vợ hoàn toàn có quyền đại diện cho chồng thực hiện các
giao dịch dân sự đó. Địa vị pháp lý của vợ và chồng là hoàn toàn bình đẳng.
Trên thực tế, cặp đôi cùng giới và người LGBT vẫn tự xây dựng cho mình
quan hệ tình cảm và chung sống với nhau cũng như có quan hệ tài sản với nhau như
vợ chồng mặc dù không được pháp luật thừa nhận. Trong nhiều trường hợp, người
bạn đời của họ mới là người gần gũi nhất đối với họ chứ không phải là cha mẹ, anh chị
em, họ hàng ruột thịt. Mặc dù pháp luật không thừa nhận nhưng họ vẫn xem nhau như
một gia đình, giữa các thành viên có sự yêu thương chăm sóc, là chỗ dựa tinh thần của
nhau, gắn bó với nhau không phải bằng nghĩa vụ pháp lý dưới hình thức của tờ giấy
đăng ký kết hôn hoặc là một hình thức công nhận bằng pháp luật mà là bằng sợi dây
46
tình cảm. Điều đó đặt ra vấn đề mặc dù pháp luật chưa thừa nhận mối quan hệ chung
sống- mối quan hệ sở hữu chung tài sản của họ nhưng cũng nên xem xét thừa nhận
quyền đại diện cho nhau trong những trường hợp cần thiết để cho các quyền của sở
hữu tài sản như quyền chiếm hữu, định đoạt và sử dụng được đảm bảo và có sự công
bằng giữa những người LGBT và người “dị tính” trong các hoạt động giao dịch dân
sự và các hoạt động kinh tế khác, ví dụ như một người đau ốm phải điều trị ở bệnh
viện, bị mất hoặc bị hạn chế năng lực hành vi cần có người giám hộ. Một cặp đôi đồng
tính đã quan ngại về vấn đề này (khi một người là dân di cư từ tỉnh lên thành phố sinh
sống): “Nếu có vấn đề gì xảy ra với H (tên của người yêu của người được phỏng vấn),
ví dụ như phải đi bệnh viện thì em không thể đứng ra kí các giấy tờ đại diện, đảm
bảo… chẳng nhẽ mình cứ phải gọi người nhà từ quê lên mới giải quyết được, bọn em
cũng không biết thế nào” (T, nữ, xx tuổi). [7]
Ba là, quyền sở hữu tài sản riêng trong giai đoạn chung sống như vợ chồng
không được bảo vệ
Như đã khẳng định ở chương 1, BLDS 2015 có quy định liên quan xác định lại
giới tính cho người đã phẩu thuật chuyển giới ( người chuyển giới). Tuy nhiên quy
định này mang tính định hướng cho vấn đề đảm bảo quyền cho cộng đồng người
LGBT nói chung và người chuyển giới nói riêng, văn bản quy định cụ thể để xác định
lại hộ tịch tư pháp cho người chuyển giới đến nay vẫn chưa có một văn bản quy phạm
pháp luật nào đề cập đến. Do vậy công tác xử lý các vụ việc yêu cầu tòa án xác định
quyền sở hữu tài sản riêng “khó càng thêm khó”
Ví dụ: Nguyễn Minh T (1993) cư trú tại Quận Ô Môn, TP. Cần Thơ có làm “lễ
hành hồn với Trần Vũ K (1995) cư trú tại Quận Ninh Kiều, TP. Cần Thơ là người
chuyển giới Nam thành Nữ và lấy tên là Trần Khánh L. Trong hôn lễ cũng như các
cặp vợ chồng dị tính khác, gia đình bên Nguyễn Minh T (đàn trai) đã trao tặng cho
riêng Trần Khánh L một số nữ trang với trị giá gần 100 triệu đồng và bên gia đình
Trần Khánh L cũng cho cả hai đối tượng với số tiền là 300 triệu đồng nhằm có vốn để
kinh doanh. Nhưng sau 5 năm chung sống với nhau Trần Khánh L và Nguyễn Minh T
có mâu thuẩn ( chủ yếu là thái độ dè biểu, kỳ thị của họ hàng và lối sớm) dẫn đến việc
47
phân chia tài sản. Trần Khánh L và Nguyễn Minh T thỏa thuận được chia khối tài sản
chung hiện tại hai người đang cùng sở hữu còn vấn đề vàng cưới mà gia đình Nguyễn
Minh T tặng cho Trần Khánh L thì thỏa thuận không được nên quyết định ra tòa để
phân chia tài sản. Họ đã đưa đơn ra tòa án Quận Ninh Kiều, Tp. Cần Thơ để giải quyết.
Tuy nhiên hiện tại vụ việc vấn chưa đem ra xét xử do hệ thống pháp luật Việt Nam
không thừa nhận mối quan hệ chung sống của người LGBT ở mức độ quan hệ hôn
nhân.
Như vậy trường hợp này khi thụ lý thì tòa án sẽ xác định phân chia tài sản theo
quy định của Điều 15 và 16 của LHN&GD 2014 hay áp dụng những quy định về sở
hữu tài sản riêng của BLDS 2015. Nếu áp dụng theo Điều 15 và 16 của LHN&GD
2014 để xác định đâu là tài sản riêng thì dẫn đến mâu thuẩn luật vì theo quan điểm của
nhà làm luật (quan điểm mang tính chủ quan) hôn nhân hợp pháp phải là người có
giới tính khác nhau, tuy nhiên người chuyển giới xét theo gốc độ bản dạng giới, xu
hướng tình dục và giới tính sinh học đã chuyển đổi thì đã thỏa mãn đủ điều kiện quy
định về giới tính của pháp luật hiện hành về đủ điều kiện kết hôn. Nhưng họ không có
quyền kết hôn và cũng như các quyền xác lập sở hữu tài sản riêng trong trường hợp
nêu trên càng khó khăn. Vì nhà làm luật Việt Nam vẫn còn giữ vững quan điểm giới
xác định chủ thể trong quan hệ pháp luật hôn nhân là thuần về giới tính sinh học và
cũng không chấp nhận các biện pháp tác động ngoại lực để thay đổi giới tính mình
đang sở hữu.
Cứ xác định giới tính theo giới tính sinh học thì vấn đề liên quan đến quyền
xác lập quyền sở hữu tài sản riêng hay chung của người LGBT đều gặp khó khăn. Nếu
việc xác định phân chia tài sản và xác định đâu là tài sản riêng trong quá trình chung
sống của người LGBT theo quy định của BLDS 2015, điều đó là không phù hợp, vì
xét theo gốc độ xã hội thì đây là một mối quan hệ gia đình, có sự đùm bộc che chở bảo
vệ cho nhau, còn xét theo gốc độ pháp lý họ tuy không được công nhận là vợ chồng
hợp pháp nhưng mối quan hệ của họ bản chất là vợ chồng. Nếu áp dụng BLDS 2015
để giải quyết các vấn đề xác định sở hữu riêng của người LGBT chung sống với nhau
là điều không hợp lý. Nếu phân chia và xác định quyền sở hữu riêng theo quy định
48
của LHN&GD 2014 thì không đủ cơ sở pháp lý vì theo quy định hiện hành của
LHN&GD không công nhận hôn nhân đồng giới.
Nhìn chung, qua thực trạng cho thấy nhu cầu được ghi nhận hình thức pháp lý
về mối quan hệ chung sống mối quan hệ tài sản của cặp đôi cùng giới hay người
LGBT, trong đó việc xác lập quyền sở hữu chung và quyền tài sản của người LGBT
vô hình chung cũng quy về các quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt các tài sản vốn
thuộc về họ, vì thực trạng quy định của pháp luật đã làm cho các quyền cơ bản của
một công dân như người LGBT không thể được thực hiện hay xác lập trên chính khối
tài sản được tạo ra bằng chính “mồ hôi và nước mắt” của mình. Quyền được công
nhận các quan hệ tài sản chung và bảo vệ các quyền sở hữu tài sản như chiếm hữu, sử
dụng và định đoạt vô cùng chính đáng. Ở gốc độ con người thì người LGBT không
khác gì với người “dị tính”. Tuy vậy, như đã nêu vì nhiều lý do khác nhau, những
quyền này vẫn chưa được ghi nhận hoặc việc giải quyết tranh chấp trong thực gặp
nhiều khó khăn vì áp dụng các quy định của BLDS 2015 là không phù hợp cho mối
quan hệ tài sản và quyền sở hữu tài sản của người LGBT. Do vậy, pháp luật chưa thực
sự đáp ứng được nhu cầu của đời sống xã hội đang ngày càng phát triển liên quan đến
quyền của người LGBT và đang bỏ rơi người LGBT trong chính hệ thống pháp luật
hiện hành.
2.2. Thực tiễn thực hiện quyền sở hữu tài sản của người đồng tính, song
tính và chuyển giới
Cần phải khẳng định những người LGBT đã được hưởng đầy đủ các quyền sở
hữu tài sản do pháp luật dân sự quy định chung cho mọi cá nhân, người LGBT vẫn
tham gia các quan hệ dân sự và hoạt động thương mại như người “dị tính”. Vì vậy,
các cá nhân người LGBT vẫn là chủ thể trong quan hệ tài sản như sở hữu tài sản, thừa
kế tài sản, là chủ thể trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng và các
quyền, nghĩa vụ về tài sản trong các quan hệ hợp đồng. Tuy nhiên, có quy định chưa
đảm bảo cho người LGBT thực hiện được các quyền sở hữu tài sản, lợi ích chính đáng
liên quan đến tài sản mà pháp luật dân sự đã quy định cho họ khi họ có mối quan hệ
chung sống với nhau
49
Cụ thể hóa quy định tại Điều 16, Hiến pháp 2013, quy định: “Mọi công dân
đều bình đẳng trước pháp luật”, “không ai bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị,
văn hóa, kinh tế xã hội”, Điều 3 BLDS 2015 quy định: “Mọi cá nhân, pháp nhân đều
bình đẳng, không được lấy bất kỳ lý do nào để phân biệt đối xử; được pháp luật bảo
hộ như nhau về các quyền nhân thân và tài sản; Cá nhân, pháp nhân xác lập, thực
hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của mình trên cơ sở tự do, tự nguyện cam
kết, thỏa thuận. Mọi cam kết, thỏa thuận không vi phạm điều cấm của luật, không
trái đạo đức xã hội có hiệu lực thực hiện đối với các bên và phải được chủ thể khác
tôn trọng”. Các văn bản quy phạm pháp luật khác cũng quy định tượng tự như trên.
Các quy định của hiến pháp làm nền tảng cho mọi văn bản quy phạm pháp luật
không được phân biệt đối xử với bất kỳ đối tượng nào trừ khi vì các lý do theo luật
định mà họ không được hưởng các quyền mà pháp luật quy định cho công dân. Tiếp
nối Hiến pháp 2013, BLDS 2015 tiếp tục tái khẳng định mỗi cá nhân hay pháp nhân
điều bình đẳng trước pháp luật về mọi mặt trong đó có quyền sở hữu tài sản với cá
nhân và pháp nhân. Tuy nhiên BLDS 2015 thì không quy định cụ thể cá nhân ở đây là
ai nhưng theo Điều 5 của BLDS 2005 thì cá nhân có thể hiểu là “Các bên trong quan
hệ dân sự đều bình đẳng, không được lấy lí do khác biệt về dân tộc, giới tính, thành
phần dân tộc, hoàn cảnh kinh tế, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hóa, nghề nghiệp
để đối xử không bình đẳng với nhau”. Do BLDS 2015 là sự tiếp nối và kế thừa từ
BLDS 2005 nên việc xác định cá nhân trong quy định của BLDS 2005 bao gồm tất cả
các công dân hợp pháp theo quy định của pháp luật Việt Nam không phân biệt cá
nhân đó thuộc thành phần dân tộc, giới tính, hoàn cảnh kinh tế, tín ngưỡng tôn giáo,
trình độ văn hóa, nghề nghiêp... Dựa vào quy định trên không có căn cứ về mặt pháp
lý nào khẳng định người LGBT không thuộc đối tượng cá nhân mà BLDS 2015 điều
chỉnh. Vấn đề đặt ra ở đây chính là “giới tính” của cá nhân, theo quan điểm của nhà
làm luật cũng như những người áp dụng pháp luật hiểu giới tính dựa trên giới tính
sinh học đa số, có nghĩa là chỉ có nam và nữ. Nên việc xây dựng các hệ thống quan hệ
pháp luật dân sự đặc biệt là quan hệ dân sự quyền sở hữu tài sản gắn liền với nhân
thân cụ thể hơn đó là quan hệ tài sản trong quá trình hôn nhân (chung sống với nhau)
50
vẫn áp dụng quan điểm dành cho các cặp “dị tính” (chiếm phần đông trong xã hội) mà
đã vô hình chung loại người LGBT ra khỏi sự điều chỉnh của pháp luật. Quyền bình
đẳng về tài sản gắn liền với nhân thân được quy định tại Điều 17 BLDS 2015 của tất
cả mọi người dù người LGBT hay người “dị tính” đều chỉ là nam hoặc nữ chỉ có sự
khác nhau ở bản dạng giới và xu hướng tính dục.
Chính cách hiểu đơn thuần về giới tính chỉ có “nam” và “nữ” mà trên thực tế
đã xuất hiện tranh chấp về quyền sở hữu tài sản của cá nhân là người LGBT như: Vấn
đề đòi phân chia tài sản khi chung sống với nhau như vợ chồng của một thanh niên
đồng tính tên X 24 tuổi quê ở Đồng tháp (năm 2016, quận Thủ Đức, thành phố Hồ Chí
Minh). Tuy nhiên vấn đề này không được giải quyết thỏa đáng vì sự lúng túng của cơ
quan tư pháp do hiện tại theo quy định của luật Việt Nam hiện hành không công nhận
quan hệ tài sản chung như các cặp vợ chồng dành cho người LGBT còn việc xác định
theo nguyên tắc tài sản chung của BLDS 2015 thì mơ hồ và không đúng với bản chất
mà khối tài sản chung của cặp đồng tính nam kia sở hữu.
Hay tại Điều 17 BLDS 2015 quy định năng lực dân sự của cá nhân “Quyền
nhân thân không gắn với tài sản và quyền nhân thân gắn với tài sản; quyền sở hữu,
quyền thừa kế và quyền khác đối với tài sản; quyền tham gia quan hệ dân sự và có
nghĩa vụ phát sinh từ quan hệ đó. Xét ở gốc độ nếu người LGBT không tham gia
vào mối quan hệ dân sự hôn nhân và gia đình thì người LGBT không bị hạn chế bất
cứ quyền sở hữu tài sản bao gồm quyền sở hữu tài sản chung như các cặp vợ chồng
“dị tính” và họ thực hiện các quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt
đối với tài sản theo ý chí và nguyện vọng của mình. Tuy nhiên khi tham gia vào mối
quan hệ chung sống và xây dựng gia đình của riêng họ thì quyền sở hữu tài sản
chung và các quyền chiếm hữu, quyền định đoạt và quyền sử dụng trên khối tài sản
chung từ công sức của chính mình sẽ không còn đảm bảo bởi pháp luật vì pháp luật
hiện tại không thừa nhận hôn nhân đồng tính hay các quan hệ dân sự cho người
LGBT chung sống với nhau như vợ chồng và nói cách khác là không thừa nhận sự
tồn tại của người LGBT là một chủ thể tham gia quan hệ dân sự hôn nhân và gia
đình trong pháp luật dân sự hiện hành. Điều này mâu thuẫn với những nguyên tắc
51
ứng xử cơ bản của Hiến pháp 2013 và BLDS 2015, vì theo nguyên tắc nếu là công
dân của Việt Nam thì sẽ được hưởng toàn bộ quyền tài sản và các vấn đề xác lập
quyền sở hữu tài sản và tự do thực hiện các quyền như chiếm hữu, định đoạt và sử
dụng tài sản của chính mình tạo ra hay cùng một người “yêu” của mình xây dựng
trong khuôn khổ pháp luật, cũng như các quyền khác không bị giới hạn dù trong bất
kỳ hoàn cảnh nào thì mọi công dân được đối xử công bằng và bình đẳng trước pháp
luật. Vậy tại sao người “dị tính” khi có quan hệ tình cảm thì có quyền sở hữu tài sản
chung còn người LGBT thì không?
Khi tham gia vào các quan hệ kinh tế liên quan đến khối tài sản chung như đầu
tư bất động sản, chứng khoán hay kinh doanh một lĩnh vực phát sinh lợi nhuận việc
phân chia tài sản khi mâu thuẫn xảy ra trên khối tài sản chung sẽ dựa Điều 128 BLDS
2015 để giải quyết cho các tranh chấp của người LGBT. Thật chất nếu căn cứ vào
Điều 128 thì việc phân chia tài sản của người LGBT chịu rất nhiều thiệt thòi vì khi
chung sống việc phân chia rạch ròi các phần tài sản góp vào tài sản chung là điều khó
khăn, mà có thể nói là không thể. Không chỉ riêng đối với người LGBT mà các cặp vợ
chồng người dị tính cũng không hề dễ dàng trong việc phân chia rạch ròi tài sản, đặc
biệt Việt Nam với văn hóa Á Đông “của chồng công vợ” đã ăn sâu vào lối sống cũng
như cách tư duy của người Việt trong nếp sống vợ chồng. Việc xác định “mỗi chủ sở
hữu chung theo phần có quyền định đoạt phần quyền sở hữu của mình”[1] là vấn đề
không thể nào xác định được trong thực tế để giải quyết các tranh chấp của người
LGBT.
Việc không công nhận người LGBT là chủ thể của quan hệ tài sản chung như
“vợ chồng” trong BLDS 2015 tác động đến các quan hệ tài sản của công dân Việt
Nam với các công dân của các quốc gia chấp nhận quan hệ tài sản chung như vợ
chồng của người LGBT. Pháp luật Việt Nam hiện tại quy định nếu công dân Việt
Nam kết hôn với công dân nước ngoài thì mỗi bên phải tuân thủ pháp luật nước
mình về điều kiện kết hôn, là người LGBT Việt Nam có quan hệ tài sản chung như
vợ chồng với người LGBT ở quốc gia chấp thuận chế độ tài đó được xem xét như
vợ chồng thì không được pháp luật Việt Nam thừa nhận, khi có tranh chấp hoặc
52
phát sinh các vấn đề liên quan đến tài sản giữa công dân Việt Nam với công dân
nước ngoài (thừa nhận mối quan hệ sở hữu tài sản chung của người LGBT) dẫn đến
các vấn đề xung đột pháp luật mà ở đó có thể thấy người LGBT Việt Nam yếu thế
so với quốc gia đã công nhận chế độ sở hữu tài sản chung của các cặp LGBT trong
quá trình tranh chấp tài sản chung.
Điều 2 LHN&GD 2014 khẳng định các nguyên tắc cơ bản của hôn nhân “hôn
nhân tự nguyện là hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng”
Các quyền con người quan trọng như quyền có hôn nhân đồng thuận, quyền
được bảo vệ bởi nhà nước… cũng được quy định tại nhiều điều của LHN&GD 2014
như Điều 2, Điều 3, Điều 4...
Quy định tại Khoản 2, Điều 8 LHN&GD 2014 “nhà nước không thừa nhận
hôn nhân giữa những người cùng giới tính”. Tuy đã tiến bộ hơn so với Khoản 5, Điều
10 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 “cấm hôn nhân đồng tính”, từ bị “cấm”
chuyển sang “không thừa nhận” đây là một bước phát triển trong tư duy lập pháp của
Việt Nam trong vấn đề nhận thức quyền con người, cũng như đặt nền móng bảo đảm
các quyền nhân thân và quyền tài sản gắn liền với nhân thân của người LGBT tại Việt
Nam. Theo nguyên tắc lý luận nhà nước và pháp luật “công dân có quyền làm những
gì mà pháp luật không cấm”. Vì thế việc tổ chức lễ cưới hoặc chung sống như vợ
chồng của các cặp LGBT sẽ không bị nhà nước dùng quyền lực can thiệp và cản trở.
Nhưng việc tiến bộ đó không đảm bảo được những quyền cơ bản liên quan đến tài sản
của người LGBT khi có mối quan hệ chung sống và có quan hệ tài sản chung với nhau.
Không “thừa nhận” quan hệ hôn nhân và gia đình của người LGBT đưa người LGBT
vào trạng thái “vô thừa định”- có tồn tại nhưng không được xem là chủ thể trong pháp
luật. Đây là vấn đề chưa hề có trong tiền lệ của pháp luật Việt Nam
Việc không công nhận quan hệ chung sống và các vấn đề liên quan đến tài sản
chung giữa những người LGBT tại Khoản 2, Điều 8 của LHN&GD 2014 đã vi phạm
quy định tại Điều 16 trong Tuyên ngôn về quyền con người của Liên hợp quốc năm
1948 và kèm theo đó còn thể hiện sự phân biệt đối với các cặp người LGBT chung
sống với nhau như vợ chồng. Trong khi người “dị tính” xác lập quan hệ sống chung
53
như một gia đình thì được xem như vợ chồng tại Khoản 7, Điều 3 LHN&GD 2014:
“Chung sống như vợ chồng là việc nam, nữ tổ chức cuộc sống chung và coi nhau là
vợ chồng.” Điều 3 giải thích các từ ngữ trong LHN&GD 2014 nhằm tạo cơ sở pháp
lý vững chắc cho các trường hợp có thể phát sinh trong thực tế của các cặp đôi “dị
tính” chung sống với nhau và khi có liên quan đến tranh chấp dân sự đặc biệt là vấn
đề tranh chấp tài sản sẽ có các sơ sở pháp lý để giải quyết, cụ thể ở Khoản 1, Điều
14 LHN&GD 2014 quy định “Nam, nữ có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của
Luật này chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn thì không
làm phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa vợ và chồng. Quyền, nghĩa vụ đối với con, tài
sản, nghĩa vụ và hợp đồng giữa các bên được giải quyết theo quy định tại Điều 15
và Điều 16 của Luật này.” [33] Trong khi các cặp người LGBT khi có mối quan hệ
sống chung như một gia đình và có vấn để sở hữu quan hệ tài sản thì được pháp luật
Việt Nam giải quyết quyết dựa trên BLDS 2015. Người “dị tính” có quan hệ tài sản
khi chung sống như vợ chồng được giải quyết theo quy định tại Điều 15 và 16 của
LHN&GD 2014. Pháp luật có quá ưu tiên cho người “dị tính” khi người dị tính thì
có luật riêng điều chỉnh còn người LGBT thì không?
Như đã đề cặp bên trên các quy định của LHN&GD 2014 là vi phạm các
quyền trong tuyên ngôn về quyền con người năm 1948 cụ thể như sau: Theo quy
định này, tuyên bố về quyền con người của Liên hợp quốc năm 1948 nói rõ ràng đối
tượng kết hôn là nam và nữ và không nói rằng quan hệ hôn nhân như chung sống với
nhau như một gia đình và các vấn đề liên quan đến tài sản chung chỉ được thiết lập
giữa nam và nữ. Việc quy định của LHN&GD 2014 không những vi phạm quyền
nhân thân của người LGBT mà kéo theo hàng loạt các vấn đề liên quan phát sinh làm
ảnh hưởng đến việc thực hiện các quyền sở hữu tài sản và các quyền chiếm hữu, sử
dụng và định đoạt tài sản chung của những người LGBT. Trên thực tế, những người
LGBT vẫn chung sống với nhau, do không được pháp luật công nhận nên khi mối
quan hệ chung sống chấm dứt (do một trong hai người chết) thì khối tài sản mà do hai
người tạo dựng sẽ không được hưởng thừa kế của nhau hoặc có thể trong quá trình
54
chung sống đó xảy ra bạo lực thì sẽ không được bảo vệ theo các quy định tại Luật
phòng chống bạo lực gia đình.
Không thừa nhận các quan hệ tài sản giữa những người cùng giới tính và người
LGBT bởi xã hội Việt Nam chịu ảnh hưởng sâu sắc của Nho giáo nên cha và mẹ có
vai trò rất quan trọng đối với con cái trong gia đình và xã hội chỉ chấp nhận mối quan
hệ gia đình, quan hệ vợ chồng và các vấn đề liên quan đến tài sản giữa những người
khác giới tính thì hậu quả dưới sức ép của gia đình và xã hội một người mặc dù không
yêu và không muốn kết hôn với người khác giới nhưng những cá nhân muốn kết hôn
cùng giới mà không được luật pháp cho phép có thể sẽ vẫn kết hôn với người khác
giới. “Không thừa nhận” còn ảnh hưởng hơn rất nhiều hàng triệu gia đình sẽ có vợ
hoặc chồng là người đồng tính, thử hỏi có bao nhiêu người dị tính muốn lập gia
đình với người đồng tính. Bởi khi không được thừa nhận, họ sẽ phải tìm bình phong
bằng cách lập gia đình với người khác giới. Lập gia đình khi không hề có tình yêu
họ sẽ vẫn duy trì những mối quan hệ đồng tính của mình, hôn nhân của họ sẽ không
hạnh phúc hoặc rất dễ đổ vỡ. Hơn nữa, một trong những nguyên tắc bảo vệ chế độ
hôn nhân và gia đình được tại Khoản 2, Điều 5 của LHN&GD 2014 “cấm cưỡng ép
kết hôn, cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ; cấm kết hôn giả tạo, lừa dối để kết hôn,
ly hôn; cấm cưỡng ép ly hôn, ly hôn giả tạo”. Người muốn kết hôn cùng giới hay
muốn có quan hệ gia đình và tài sản với người cùng giới mà kết hôn với người khác
giới làm “bình phong” thì có vi phạm nguyên tắc hôn nhân tự nguyện và gia đình tiến
bộ trong LHN&GD 2014 hay không? Có lẽ cũng được coi là một trong những vấn đề
mà LHN&GD 2014 đã không thực hiện được nhiệm vụ đã đặt ra “xây dựng gia đình
no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, bền vững và bảo vệ được quyền lợi nhân thân
và tài sản của các thành viên trong gia đình”.
Một mặt pháp luật không thừa nhận mối quan hệ hôn nhân và các quan hệ liên
quan đến tài sản của người LGBT giữa những người cùng giới tính, bao gồm cả
những người chuyển giới và song tính. Mặt khác, việc quan hệ tài sản giữa người
LGBT phù hợp với quy định của pháp luật về giới tính sinh học lại không thỏa mãn
những điều kiện liên quan đến hôn nhân-gia đình cũng như quan hệ tài sản chung theo
55
quy định của LHN&GD 2014 như yếu tố tự nguyện, không ép buộc....đã dẫn đến các
trường hợp vi phạm pháp luật trong thực tế như: cha mẹ của người LGBT ép buộc con
mình kết hôn với người “di tính”; các mâu thuẫn dẫn đến giết người khi phát hiện
người “chồng” của mình là người LGBT; hay việc bày mưu chiếm đoạt tài sản của
những cặp LGBT để thỏa cơn giận giữ khi bị cưỡng ép kết hôn. Chính pháp luật Việt
Nam đã đẩy công dân của mình vào con đường vi phạm pháp luật bằng việc đóng lại
cánh cửa pháp lý hoàn toàn đối với người LGBT mong muốn xây dựng một gia đình
thực sự và hợp pháp. Vô hình chung, pháp luật hiện hành đã tước đi một trong những
quyền cơ bản của con người, đó là quyền được mưu cầu hạnh phúc của những người
trong cộng đồng LGBT và tước đi quyền sở hữu tài sản vốn có của một công dân
thông thường nào cũng có chỉ riêng người LGBT là không có, khi họ đến xây dựng
gia đình đúng nghĩa với con người thật của mình.
Ngoài những tác động tiêu cực từ quy định không thừa nhận hôn nhân- không
thừa nhận tài sản chung giữa những người LGBT như đã phân tích ở trên, thì quy định
“không thừa nhận” còn tạo ra sự kỳ thị trong xã hội đối với những người LGBT, cũng
như hạn chế tham gia các hoạt động kinh tế liên quan đến khối tài sản chung hoặc các
vấn đề liên quan đến việc đại diện giao dịch hoặc thừa kế tài sản của những cặp LGBT.
Về mặt kỹ thuật lập pháp và hiệu quả pháp lý của việc sử dụng quy phạm “không thừa
nhận” dễ tạo ra hiệu ứng định kiến xã hội mạnh mẽ, kéo dài và trực tiếp đối với những
người LGBT.
Luật Hôn nhân và gia đình của Việt Nam từ trước đến nay chưa thừa nhận hôn
nhân, cũng như quyền sở hữu tài sản của các cặp LGBT sống chung. Theo Ủy ban
Nhân quyền, trong khi việc không thừa nhận mối quan hệ vợ chồng- quan hệ tài sản
chung của LGBT không bị coi là vi phạm, thì việc không bảo đảm các quyền dân sự,
kinh tế cho các cặp LGBT sống chung với nhau không có hôn thú chính thức một
cách bình đẳng như các cặp “dị tính” trong cùng bối cảnh sẽ bị coi là phân biệt đối xử
theo Luật Nhân quyền quốc tế. Việt Nam ta hiện nay đang diễn ra sự phân biệt đối xử
với các cặp người LGBT sống chung không được thừa nhận chính thức, bởi người
LGBT không được hưởng các quyền dân sự, quyền nhân thân, quyền sở hữu tài sản
56
chung trong khi theo pháp luật hiện hành, những trường hợp chưa đăng ký kết hôn
nhưng không vi phạm các điều kiện đăng ký kết hôn khác (hôn nhân thực tế) mà có
tranh chấp phát sinh thì các vấn đề về quan hệ tài sản chung của vợ chồng, con cái vẫn
được tòa án giải quyết như với trường hợp có đăng ký kết hôn của các cặp “dị tính”.
Có thể nói là xuất phát từ việc không thừa nhận quan hệ tài sản chung của LGBT đã
dẫn đến hàng loạt các vấn đề kèm theo đặc biệt liên quan đến nguồn kinh tế-nguồn
sống của người LGBT. Nhưng qua đây chúng ta cũng có thể thấy mức độ phân biệt
đối xử của xã hội, mặc dù cùng bị pháp luật không cho phép nhưng khi giải quyết hậu
quả nếu có tranh chấp phát sinh thì pháp luật không có quy định nào đối với các cặp
LGBT sống chung mà chỉ có quy định đối với các cặp “dị tính” sống chung như vợ
chồng.
Việc không thừa nhận quan hệ hôn nhân của người LGBT không những tác
động trực tiếp đến tài sản chung của các cặp đôi LGBT khi chung sống như vợ chồng
mà việc tác động gián tiếp đến nguyên tắc “pháp luật là thượng tôn” trong sự phát
triển của xã hội Việt Nam hiện nay
Thực tiễn áp dụng pháp luật để giải quyết tranh chấp tài sản của người đồng
tính, song tính và chuyển giới
Để giải quyết các tranh chấp trong thực tế liên quan đến người LGBT người
viết dùng những quy định liên quan đến người “dị tính” để nói lên thực tiễn áp dụng
pháp luật và những vướng mắc khi giải quyết tranh chấp tài sản của người LGBT
như sau:
Theo khoản 1 Điều 27 “Tài sản chung của vợ chồng do vợ, chồng tạo ra, thu
nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh và những thu nhập hợp pháp
khác của vợ chồng trong thời kì hôn nhân…” [33]. Ở đây có thể hiểu rộng ra thời
kỳ hôn nhân chính là thời kỳ chung sống với nhau như vợ chồng của người LGBT.
Thời kì hôn nhân bắt đầu là ngày hai người LGBT chính thức sống chung với nhau
và có mối quan hệ tài sản chung với nhau. Như vậy mọi tài sản trong gia đình có
được trong thời kì sống chung như vợ chồng đều được coi là tài sản chung của họ,
57
họ có quyền bình đẳng trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt mà không phụ
thuộc vào khả năng trực tiếp tạo ra tài sản hay công sức đóng góp của mỗi bên.
Tài sản chung là tài sản do một trong hai người LGBT tạo ra trong thời kì
chung sống: “tài sản chung của họ có thể do công sức của cả hai tạo ra hoặc chỉ do
một trong hai tạo ra trong thời kì chung sống, bằng cách trực tiếp (lao động sản xuất,
tiền lương…) hoặc gián tiếp thông qua các giao dịch dân sự (buôn bán, đầu tư tìm
kiếm lợi nhuận…). Hoa lợi, lợi tức có tài sản chung, là thu nhập có được trong thời kì
chung sống. Trong cuộc sống gia đình, vì sức khỏe, vì hoàn cảnh và khả năng lao
động mà tài sản chỉ do một người tạo ra thì vẫn coi như cả hai cùng đóng góp công
sức vào việc tạo lập khối tài sản chung”. Trong lao động của một trong hai người
LGBT đã bao hàm cả lao động của người còn lại và ngược lại, bởi vì nếu như không
có một trong hai người chăm lo cho gia đình, bảo quản tài sản, chăm sóc con cái tạo
điều kiện cho người kia lao động tạo thu nhập thì khó có thể tạo ra được khối tài sản
chung một cách trọn vẹn. Đó chính là đặc trưng mang tính chất cộng đồng của cuộc
sống gia đình không chỉ của người “dị tính” mà cộng đồng LGBT cũng vậy.
Tài sản chung là “thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất kinh doanh và
những thu nhập hợp pháp khác của hai người chung sống với nhau như vợ chồng; là
tài sản mà một trong hai người được tặng cho chung”. Đây là thu nhập thường
xuyên, cơ bản, chính đáng và chủ yếu của mỗi người, để đảm bảo cuộc sống vật chất
ổn định, lâu dài của họ. Mọi thu nhập từ lao động, từ hoạt động sản xuất kinh doanh
của họ đều là tài sản chung của họ.
Tài sản chung được hình thành trong quá trình thỏa thuận của hai người LGBT
chung sống với nhau. Có những tài sản thuộc sở hữu riêng của một trong hai người có
được trước khi về chung sống với nhau, được thừa kế, được tặng cho riêng về nguyên
tắc là tài sản riêng, tuy nhiên những tài sản đó sẽ là tài sản chung nếu như trong thời kì
sống chung với nhau có thỏa thuận, thì tài sản riêng đó được coi là tài sản chung của
hai người. Thỏa thuận này hoàn toàn hợp lý và có cơ sở bởi vì trong cuộc sống hai
người, nhiều tài sản riêng của một trong hai người được đưa vào sử dụng chung, phục
vụ nhu cầu sinh hoạt chung thì đó là tài sản chung của hai người nếu cả hai bên đều có
58
thỏa thuận và đồng ý nhập vào khối tài sản chung thì đó là tài sản chung của hai
người. Nhưng hiện tài người LGBT không được công nhận bất kỳ mối quan hệ chung
về tài sản nên việc xác lập sở hữu chung như vợ chồng người dị tính là không có cơ sở
pháp lý, tuy nhiên nếu xác định theo nguyên tắc sở hữu chung của Bộ luật Dân sự
2015 thì rất mơ hồ vì không xác định quyền sở hữu chung của hai người LGBT thuộc
trường hợp nào từ điều 211, 212, 213, 214 và 215. Không có điều nào phù hợp với
bản chất tài sản chung của người LGBT chỉ riêng Điều 213 “sở hữu chung của vợ
chồng” là phù hợp nhưng LHN&GD 2014 thì không công nhận quan hệ của hai người
trong cộng đồng LGBT sống chung với nhau là quan hệ vợ chồng, nên họ không có
quyền sở hữu tài sản chung khi chung sống với nhau.
Có thể nhận thấy, nội dung quyền sở hữu tài sản của người LGBT cũng như
các vấn đề xác định tài sản chung của người LGBT vẫn chưa có một cơ chế pháp luật
bảo đảm. Chính vì vậy, chưa có một cơ quan chịu trách nhiệm chung, làm đầu mối về
việc bảo vệ quyền sở hữu tài sản của người LGBT khi phát sinh các vấn đề tranh chấp
liên quan đến quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt khối tài sản chung của hai
người LGBT khi có quan hệ chung về mặt tài sản.
Về lý thuyết, Tòa án là thiết chế quan trọng để bảo vệ quyền con người. Tuy
vậy, tại Việt Nam, thiết chế Tòa án chưa có đủ cơ sở, năng lực để phát huy vai trò bảo
vệ quyền con người nói chung và quyền sở hữu tài sản của người LGBT nói riêng.
Ví dụ: Các thẩm phán trong các cấp đặc biệt là từ cấp Tỉnh đến cấp huyện vẫn
chưa được chủ động giải thích Hiến pháp, Pháp luật trong khi nhiều quy định pháp
luật còn chưa rõ ràng, cụ thể nên ảnh hưởng đến hoạt động xét xử của Tòa án (ví dụ
quy định về “thực hiện tranh chấp tài sản” của Bộ luật dân sự liên quan đến các
trường hợp khi các cặp LGBT không muốn chung sống với nhau nhưng lại có quan hệ
tài sản chung với nhau) từ đó yếu tố độc lập xét xử vẫn chưa được bảo đảm… Hiện
nay, trong một số trường hợp khi phát hiện văn bản quy phạm pháp luật có dấu hiệu
trái với Hiến pháp thì Tòa án chỉ có quyền kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xem xét,
sửa đổi, bổ sung hoặc bãi bỏ văn bản đó ( Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 và Luật tố
tụng hành chính năm 2015). Tuy vậy, bản thân các quy định về thẩm quyền này cũng
59
còn có những hạn chế nhất định. Nhìn chung, Tòa án chưa có thẩm quyền thực sự và
triệt để để xử lý trực tiếp đối với văn bản quy phạm pháp luật khiếm khuyết (đặc biệt
là các luật). Việc xử lý chỉ dừng lại ở đề nghị, kiến nghị hoặc kiến nghị sửa đổi, bãi bỏ,
thay thế.
Việc quy định xử lý văn bản quy phạm pháp luật khiếm khuyết không triệt để
có thể ảnh hưởng tiêu cực đến quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức, trong
đó có người LGBT khi có vụ án liên quan đến tranh chấp tài sản. Khi có những văn
bản pháp luật liên quan đến quyền con người được nhận định là trái Hiến pháp,
luật...trong quá trình giải quyết vụ án của Tòa án sẽ khó được giải quyết một cách
thỏa đáng, nhanh chóng nhằm bảo đảm quyền lợi của các bên.
Tiểu kết chương 2
Các nghiên cứu lý luận và thực tiễn đã chỉ ra rằng đồng tính, song tính và
chuyển giới là những điều tự nhiên trong quá trình phát triển của xã hội. Nhận thức về
vấn đề này dựa trên các khái niệm cơ bản về xu hướng tính dục, bản dạng giới, bản
sắc giới và thể hiện giới. Trong khi người “dị tính” chiếm đa số thì người đồng tính,
song tính và chuyển giới là nhóm thiểu số trong xã hội. Nghiên cứu chương 2 của luận
văn cho thấy quyền sở hữu tài sản của người đồng tính, song tính và chuyển giới có
bản chất là quyền tự nhiên của con người. Quyền sở hữu tài sản của người đồng tính,
song tính và chuyển giới về cơ bản có các quyền tương tự như các quyền của các đối
tượng khác trong xã hội (quyền bình đẳng, không bị phân biệt đối xử; quyền kết
hôn;…) quyền sở hữu tài sản của người LGBT không khác gì so với người “dị tính”
tuy nhiên không được thừa nhận quyền sở hữu tài sản khi có quan hệ sống chung với
nhau . Quyền của các đối tượng này là quyền của nhóm nhưng cũng được đề cập gần
như đồng thời với quyền cá nhân.
Pháp luật là công cụ quan trọng để bảo vệ, bảo đảm quyền sở hữu tài sản của
người đồng tính, song tính và chuyển giới. Nếu quyền sở hữu tài sản của các đối
tượng này không được pháp luật ghi nhận sẽ không thể giải quyết được các mâu thuẫn
phát sinh liên quan đến tranh chấp dân sự hoặc các quan hệ tài sản chung của người
LGBT trong xã hội làm ảnh hưởng đến quá trình họ mưu cầu, tìm kiếm hạnh phúc, tự
60
do, bình đẳng. Dựa trên các đặc điểm của nhóm đối tượng này, pháp luật cần xem xét,
ghi nhận khác nhiều vấn đề về quyền sở hữu tài sản của người LGBT (quyền bình
đẳng với người dị tính, không phân biệt đối xử, mối quan hệ chung sống của cặp đôi
cùng giới, quyền có tài sản chung…). Các giải pháp thi hành pháp luật về quyền sở
hữu tài sản của người đồng tính, song tính và chuyển giới đóng vai trò rất quan trọng
(đôi khi còn quan trọng hơn việc ghi nhận quyền nhân thân trong pháp luật).
Trên thế giới, pháp luật quốc tế và pháp luật của các quốc gia về quyền nói
chung và quyền sở hữu tài sản nói riêng của các đối tượng này đã có nhiều thay đổi
đáng kể, theo đó, vấn đề người đồng tính, song tính và chuyển giới, quyền sở hữu tài
sản của họ đã trở thành một vấn đề nóng về nhân quyền. Các tổ chức quốc tế (đặc biệt
là Liên hợp quốc) đã ghi nhận, thúc đẩy các nhận thức đầy đủ, đúng đắn về vấn đề
đồng tính, song tính, chuyển giới. Xu hướng phát triển pháp luật của các quốc gia trên
thế giới cho thấy quá trình ghi nhận quyền sở hữu tài sản của người LGBT này
thường trải qua một thời gian dài với nhiều khó khăn cùng với quyền nhân thân hôn
nhân và ginh đình. Tuy vậy, quá trình này cũng cho thấy ngày càng có nhiều quốc gia
ghi nhận, bảo vệ, bảo đảm và thúc đẩy quyền sở hữu tài sản của người đồng tính, song
tính và chuyển giới. Ở chương 2 của luận văn cũng cho thấy được thực tiễn quy định
của pháp luật các vấn đề quan hệ tài sản của người LGBT từ đó thấy được thực trạng
có khá nhiều yếu tố ảnh hưởng đến việc xây dựng, thi hành pháp luật về quyền sở hữu
tài sản của người đồng tính, song tính và chuyển giới (từ các yếu tố tinh thần đến yếu
tố vật chất). Mỗi yếu tố này sẽ có ảnh hưởng với mức độ khác nhau đến hoạt động xây
dựng pháp luật và thi hành pháp luật về quyền tài sản của các đối tượng này. Biểu
hiện của các yếu tố này cũng khác nhau ở các quốc gia khác nhau.
Việc nghiên cứu các vấn đề lý luận về quyền sở hữu tài sản và pháp luật về
quyền sở hữu tài sản của người đồng tính, song tính và chuyển giới trong chương 2 sẽ
là cơ sở để nghiên cứu, cũng như đề xuất các giải pháp về xây dựng, thi hành pháp
luật về quyền sở hữu tài sản của các đối tượng này trong các chương tiếp theo.
61
Chương 3
HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN SỞ HỮU TÀI SẢN CỦA NGƯỜI
ĐỒNG TÍNH, SONG TÍNH VÀ CHUYỂN GIỚI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1. Nhu cầu hoàn thiện pháp về quyền sở hữu tài sản của người đồng
tính, song tính và chuyển giới
So với người “dị tính”, việc quy định các vấn đề quan hệ sở hữu tài sản chung
của người LGBT tại Việt Nam tạo ra sự bất bình đẳng quyền sở hữu tài sản ở một số
khía cạnh nhất định. Điều này xuất phát từ nhiều lý do khác nhau. Bản thân người
LGBT là nhóm thiểu số trong xã hội và đôi khi các vấn đề phát sinh liên quan đến
quan hệ tài sản chung cũng như các quyền sở hữu tài sản khác của họ là không nhiều
so với cộng đồng người “dị tính”. Bên cạnh đó, chưa có một điều tra thống kê mang
tính chất toàn quốc nào về số lượng người LGBT chung sống và có quan hệ tài sản
chung tại Việt Nam. Xuất phát từ đặc điểm thực tế, phần dưới đây sẽ tìm hiểu, đánh
giá nhu cầu hoàn thiện pháp luật về quyền sở hữu tài sản của người LGBT.
Trước hết, có thể nhận thấy đôi khi không thể tách bạch được người đồng tính
và song tính vì người song tính thể hiện cả hai xu hướng “dị tính” và đồng tính (thông
thường xu hướng đồng tính phổ biến hơn). Chính vì vậy khó để có thể đánh giá riêng
về nhu cầu quan hệ tài sản chung của người song tính khi họ có xu hướng tính dục
đồng giới. Vì vậy quyền sở hữu tài sản của người đồng tính có thể hiểu bao gồm cả
người song tính. Thực tế, xã hội thường nhắc đến người đồng tính nhiều hơn so với
người song tính.
Đồng tính (và cả song tính) là một chủ đề nhạy cảm, mới nổi lên và thu hút sự
chú ý của dư luận Việt Nam trong gần chục năm trở lại đây. Trong quá khứ, vì nhiều
nguyên nhân xã hội khác nhau, như đất nước có chiến tranh, khó khăn về kinh tế,
quan niệm khắt khe về chuẩn mực khiến rất nhiều người đồng tính không dám công
khai thân phận của mình cũng như các mối quan hệ chung sống và đương nhiên vấn
đề tài sản gắn kết càng không có. Trên thực tế, đó cũng là thời điểm mà các vấn đề
thuộc về cá nhân bị che khuất hoặc lu mờ đi trước những đòi hỏi khắc nghiệt của cuộc
sống. Tuy vậy, cùng với sự phát triển nhanh của nền kinh tế, sự giao lưu với văn hoá
62
phương Tây và sự trưởng thành của thế hệ trẻ - lớp người được sinh ra trong thời kỳ
hậu chiến đã dẫn tới sự biến đổi mạnh mẽ trong thái độ và hành vi của người dân đối
với nhiều vấn đề xã hội, trong đó có quyền được sống thật với xu hướng tính dục của
mình, các quyền liên quan đến yếu tố nhân thân và kéo theo nhu cầu gắn kết về mặt tài
sản của các cặp đôi LGBT. Chưa bao giờ hoạt động của người đồng tính và số lượng
các xuất bản phẩm về họ lại gia tăng mạnh như thời gian vừa qua, cũng như các vấn
tài sản liên quan đến người LGBT như: thừa kế, phân chia tài sản chung, đại diện giao
dich dân sự… ngày càng tăng trong bối cảnh kinh tế thị trường như hiện nay. Đó là
bằng chứng về sự quan tâm của xã hội đối với vấn đề này.
Tại Việt Nam, Báo cáo công bố tại Hội nghị khoa học kỹ thuật do Bệnh viện
Da liễu Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức vào ngày 26 /9/2006 cho biết chưa có những
số liệu chắc chắn về con số đồng tính nam chính xác ở Việt Nam. Nếu lấy tỉ lệ trung
bình, “an toàn” mà nhiều nhà khoa học thừa nhận là 3% thì số người đồng tính tạm
tính ở Việt Nam vào khoảng 2,82 triệu người (tính theo dân số Việt Nam tại thời điểm
tháng 11/7/2019 có 96,2 triệu người). [23]
Theo một khảo sát công bố năm 2013 [26], cộng đồng người đồng tính tồn tại
trên thực tế và khá gắn bó với cộng đồng xã hội, theo đó có 30,4% người được hỏi có
quen biết người đồng tính. Cũng theo khảo sát này, có 27,4% người được hỏi biết về
hiện tượng “hai người cùng giới sống chung như vợ chồng” có quan hệ tài sản trực
tiếp từ chính người đồng tính, chứng tỏ đây là một vấn đề xã hội cần được quan tâm
và giải quyết về mặt pháp lý liên quan đến tài sản nhằm đảm bảo quyền tài sản cho
người LGBT đặc biệt là người đồng tính (và người song tính). Có thể nhận thấy, ngày
càng có nhiều người dân biết về đồng tính, hiện tượng hai người cùng giới sống
chung như vợ chồng có mối quan hệ tài sản chung và đặc biệt là có một lượng khá lớn
người dân đã biết ai đó là người đồng tính (họ hàng, bạn bè, đồng nghiệp, hàng
xóm…).
Xuất phát từ thực tế, người LGBT đặc biệt là người đồng tính (và song tính) là
không hề nhỏ trong cơ cấu dân số tại Việt Nam nên các vấn đề dân sự liên quan đến
quyền sở hữu tài sản của người LGBT sẽ xuất hiện ngày càng nhiều trong quá trình
63
phát triển kinh tế như ngày nay. Nếu không hoàn thiện cơ chế pháp luật liên quan đến
quyền sở hữu tài sản chung của người LGBT thì sẽ làm ảnh hưởng đến các quyền sở
hữu tài sản của người LGBT khi chung sống với nhau vì khi tranh chấp không có cơ
sở pháp luật để giải quyết mang tính chất triệt để vì thế cần phải hoàn thiện cơ chế
pháp luật nhằm bảo vệ quyền sở hữu tài sản, một trong các quyền sơ đẳng và cần thiết
không chỉ đối với người “dị tính” mà rất cần thiết với người LGBT trong bối cảnh
kinh tế của Việt Nam hiện nay.
3.2. Giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật về quyền sở hữu tài
sản của người đồng tính, song tính và chuyển giới
Thứ nhất, hoàn thiện quy định pháp luật về quyền sở hữu tài sản bình đẳng,
không bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội
Bình đẳng luôn được coi là nền tảng của sự ổn định và tiến bộ của mọi xã hội
[27]. Người viết cho rằng, trước hết nên nghiên cứu, bổ sung quan niệm về bình đẳng
giới. Như đã nêu trong chương 2 của luận văn, quan niệm về bình đẳng quyền cụ thể
hơn ở đây là quyền sở hữu tài sản chung khi họ có quan hệ chung sống như vợ chồng
cho tất cả các giới không những xác định theo giới tính sinh học mà còn xác định theo
“bản dạng giới” và “xu hướng tính dục” có tác động rất lớn đến việc chống phân biệt
đối xử, kỳ thị đối với người LGBT. Hiện nay, ở các nước trên thế giới thường có sự
ghi nhận về bình đẳng ở tất cả mọi mặt giữa các xu “hướng tính dục”, “bản dạng giới”
(ví dụ được thừa kế tài sản của cặp vợ chồng đồng tính…), nghĩa là hướng đến sự
bình đẳng ngay trong cùng một giới. Như vậy, quan niệm về bình đẳng quyền sở hữu
tài sản giữa các giới phải rộng hơn, không chỉ bó hẹp trong mối quan hệ bình đẳng
giữa nam và nữ. Các nước cũng thể hiện thái độ khác nhau đối với bình đẳng về “xu
hướng tính dục”, ví dụ như: có nước cấm mối quan người LGBT chung sống với nhau,
không thừa nhận mối quan hệ tài sản chung của người LGBT… Việc ghi nhận
nguyên tắc bình đẳng về quyền sở hữu tài sản về “xu hướng tính dục”, “bản dạng
giới” là điều hoàn toàn phù hợp với xu hướng nhân quyền hiện nay. Điều đó sẽ làm
cho quan niệm về bình đẳng quyền trong giới được toàn diện hơn nữa, đặc biệt là bình
64
đẳng trong quyền sở hữu tài sản chung của người LGBT như các cặp đôi “dị tính”
khác.
Bên cạnh đó, thực tiễn cũng cho thấy nhu cầu, mong muốn ban hành luật riêng
về chống phân biệt đối xử dựa trên “xu hướng tính dục” và “bản dạng giới”. Theo một
khảo sát công bố năm 2016, 85,4% người được hỏi mong muốn Nhà nước ban hành
luật chống phân biệt đối xử, nghiêm cấm phân biệt đối xử dựa trên “xu hướng tính
dục” và “bản dạng giới” [26]. Cũng theo khảo sát này, khi được hỏi thêm rằng họ có
nghĩa rằng luật này sẽ hiệu quả trên thực tế không, nhiều ý kiến tỏ ra không chắc chắn.
Có người tin rằng quan điểm xã hội chỉ cải thiện khi diễn ra sự thay đổi thế hệ, tức là
ở tương lai xa: “Em nghĩ là thật ra nó hơi thiển cận tí, nhưng mà nó (luật chống phân
biệt đối xử) cũng không (hiệu quả) đâu. Cho nên là mình vận động thì cứ vận động
còn nếu không mà đời mình không được thì biết đâu cái thế hệ sau này lớn lên thì sẽ
không có bị phân biệt đối xử nữa. Nhiều khi em nghĩ là cái tầng lớp già đi rồi lên
đường rồi, cái tầng lớp trẻ lớn lên, nhiều khi may ra thì tư tưởng của mấy bạn hiện
đại hơn thì cũng có thể thay đổi được nhưng mà lúc đó thì cũng qua cái đời mình,
chắc tới đời con, đời cháu gì rồi” (chuyển giới nam, 18-24 tuổi, thành phố Hồ Chí
Minh) [27].
Theo người viết cho rằng, việc ban hành một luật riêng như trên trong bối cảnh
kinh tế thị trường hiện nay không thực sự cần thiết. Sự bất bình đẳng, phân biệt đối xử
hay kỳ thị những mối quan hệ chung sống, mối quan hệ tài sản chung của người
LGBT trong xã hội xuất phát từ rất nhiều lý do khác nhau. Nếu ban hành một luật
riêng về chống phân biệt đối xử dựa trên “xu hướng tính dục”, “bản dạng giới” thì
cũng sẽ phải ban hành hàng loạt các luật tương tự dưới các góc độ dân tộc, tôn giáo,
tín ngưỡng, tiếng nói… Cho dù có quy định bằng một luật riêng hay lồng ghép vào
các luật chuyên ngành khác nhau, điều quan trọng vẫn là ý thức thi hành pháp luật
trong thực tế. Trong nhiều trường hợp mặc dù luật đã nghiêm cấm hành vi phân biệt
đối xử nhưng tình trạng phân biệt đối xử vẫn xảy ra phổ biến. Chính vì vậy, hiện nay
việc nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật bảo đảm quyền sở hữu tài sản chung trong
quá trình sống chung quan trọng hơn việc xem xét ban hành một luật riêng. Trong
65
tương lai xa hơn, có thể nghiên cứu xây dựng một Luật chung về phòng, chống phân
biệt đối xử trong lĩnh vực xét xử liên quan đến các quan hệ tài sản chung của các cặp
LGBT để xác định các nguyên tắc chung, cơ bản cho tất cả mọi lĩnh vực, trong đó có
phân biệt đối xử về giới tính, “xu hướng tính dục” và “bản dạng giới”. Trên cơ sở đó,
các luật chuyên ngành liên quan đến các vấn đề dân sự đến sở hữu chung của LGBT
sẽ cụ thể hóa trong từng lĩnh vực.
Thứ hai, hoàn thiện quy định pháp luật về quyền sở hữu tài sản trong lĩnh vực
hôn nhân và gia đình
Sau rất nhiều tranh luận trong quá trình soạn thảo, LHN&GD 2014 vẫn chưa
hợp pháp hóa hôn nhân cùng giới và chỉ quy định “không thừa nhận hôn nhân giữa
những người cùng giới tính”. người viết cho rằng, việc xem xét ghi nhận mối quan hệ
chung sống của cặp đôi cùng giới bằng một hình thức pháp lý là rất cần thiết trong
giai đoạn kinh tế hiện nay. Điều này xuất phát từ một số lý do sau đây:
(1) Đáp ứng nhu cầu chính đáng của người LGBT trong thực tiễn
Trước đây, các vấn đề liên quan đến mối quan hệ cùng giới đều được quan tâm,
cân nhắc trong quá trình sửa đổi Hiến pháp năm 1992 và LHN&GD 2000. Nhiều ý
kiến khi góp ý dự thảo đã đề xuất nên công nhận quyền kết hôn cùng giới trong dự
thảo sửa đổi Hiến pháp (các Hội thảo, kỳ họp Quốc hội). Ban soạn thảo Luật hôn nhân
và gia đình sửa đổi cũng đưa vấn đề quyền kết hôn cùng giới vào danh sách các vấn đề
tham vấn khi bắt đầu xây dựng dự thảo [2] và cân nhắc xây dựng các quy định có liên
quan cho đến thời điểm trình Quốc hội. Sự quan tâm của các ban soạn thảo, các cơ
quan có liên quan đến quan hệ chung sống cùng giới của cặp đôi LGBT càng cho thấy
đây là nhu cầu thực tế và chính đáng.
Một số ý kiến cho rằng trên thế giới hiện nay xuất hiện nhiều dạng gia đình
“biến thái” khiến cho mọi định nghĩa về gia đình đều trở nên bất cập. Chẳng hạn, một
học giả phương Tây cho biết: "Một cuộc thăm dò mới đây đã cho thấy 45% người Mỹ
ngày nay cho rằng một đôi không cần kết hôn mà cùng chung sống với nhau thì được
coi là một gia đình đích thực, 33% coi các đôi cùng giới tính có nuôi nấng con cái là
gia đình, còn 20% thì coi các cặp đồng giới tính chung sống với nhau là một gia đình"
66
[27]. Những ý kiến này đều cho rằng đây có thể là sự mở rộng thái quá trong quan
niệm về gia đình mà người Việt Nam ta khó lòng chấp nhận. Đối với người Á Đông
nói chung và người Việt Nam nói riêng, gia đình là một giá trị xã hội quan trọng vào
bậc nhất. Nếu ở châu Âu gia đình nhiều khi đơn giản chỉ được coi là một nhóm xã hội
thì ở Việt Nam, gia đình được coi là một tế bào xã hội có tính sản sinh với đầy đủ các
yếu tố cấu thành của nó như vợ - chồng - con cái. Dường như, những quan điểm gay
gắt này vẫn còn tồn tại rất nhiều ở nhiều nơi trên thế giới. Tuy nhiên tất cả những điều
này cũng cho thấy, khái niệm gia đình vẫn hoàn toàn có thể được thay đổi để có sự
điều chỉnh phù hợp hơn với những trạng thái khác nhau trong xã hội. Nhìn chung, khá
nhiều quốc gia đồng thuận một cách hiểu chung nhất: "Gia đình là đơn vị cơ bản của
tổ chức xã hội và là môi trường tự nhiên cho sự phát triển và hạnh phúc của mỗi
thành viên, nhất là trẻ em" [18].
Thời gian qua, tổ chức Liên hợp quốc cũng đã ghi nhận quan niệm về một
phạm vi rộng rãi trong việc xác thực những tiến triển - thay vì cố định - của định nghĩa
về gia đình. Liên hợp quốc đã lưu ý rằng "khái niệm gia đình có thể khác biệt trong
vài khía cạnh, giữa các quốc gia, và ngay cả giữa các tôn giáo, và vì thế không thể đưa
ra một định nghĩa chuẩn mực chung" [43]. Uỷ ban về Quyền trẻ em Liên hợp quốc đã
tuyên bố điều này trong "Nhận định về môi trường gia đình", rằng cần phản ánh
"những cấu trúc gia đình khác nhau, phát sinh từ các mẫu hình văn hóa và các quan hệ
tình cảm gia đình đa dạng đang nổi lên" [44]. Một trong các quan hệ tình cảm gia đình
đa dạng ở đây có thể được hiểu là sự đa dạng về xu hướng tính dục, là một cơ sở quan
trọng cho một gia đình của các cặp đôi đồng tính. Việc thừa nhận hôn nhân của người
LGBT nói chung và cụ thể hơn là hôn nhân đồng giới cũng không thể làm suy thoái
nòi giống như ý kiến của nhiều người bởi thực ra như đã nêu, người LGBT chỉ chiếm
số ít trong tổng dân số của xã hội. Hơn nữa, người LGBT hoàn toàn có thể nhờ mang
thai hộ hoặc xin con nuôi (nếu pháp luật cho phép). Đây cũng là điều mà các nhà làm
luật Việt Nam cần xem xét để bổ sung cho khái niệm về gia đình nhằm tạo ra sự công
bằng cũng như thay đổi nhận thức về gia đình tại Việt Nam thời gian tới để bảo vệ các
67
quan hệ chung sống của người LGBT trong đó có quan hệ tài sản chung và các quyền
chiếm hữu, sử dụng và định đoạt liên quan đến tài sản trong quá trình chung sống.
(2) Nếu không công nhận một hình thức quan hệ tài sản chung cũng như thừa
nhận cuộc sống chung của cặp người LGBT sẽ dẫn đến khá nhiều tác động tiêu cực
Hiện nay, Việt Nam chưa công nhận hình thức liên quan đến tài sản và hình
thức sống chung nào của cặp đôi LGBT nên chưa có nghiên cứu đánh giá cụ thể tác
động của những hình thức này đến gia đình và xã hội. Tuy nhiên, một khảo sát công
bố năm 2013 đã chỉ ra một loạt các tác động tiêu cực có thể kéo đến cho bản thân
người LGBT, cho gia đình của họ và cho cả xã hội nói chung khi không có sự công
nhận pháp luật với kết hôn hay kết đôi cùng giới [26]:
- Tác động đến người LGBT: sự kỳ thị xã hội sẽ còn tiếp tục tiếp diễn (87%),
người LGBT có thể bị trở thành nạn nhân của bạo lực gia đình hoặc bạo lực học
đường (87,8%), không dám bộc lộ xu hướng tình dục (95,5%), kéo theo nhiều người
kết hôn dị tính giả (89%), không được đảm bảo quyền yêu thương và kết đôi (94%),
không được đảm bảo sức khoẻ tinh thần (93,9%), và không có được đời sống và sức
khoẻ tình dục viên mãn (92,5%).
- Tác động đến gia đình của người LGBT: nếu không có sự công nhận của
pháp luật, các gia đình của người LGBT còn phải chịu sự kỳ thị xã hội nặng nề
(74,9%), vấn đề bạo hành gia đình sẽ còn tiếp diễn (62,4%).
- Với xã hội nói chung: sự kỳ thị của xã hội đối với người LGBT sẽ còn tiếp
diễn nặng nề (71,2%), từ đó khiến cho người LGBT không tự tin tham gia đóng góp
tích cực vào các hoạt động kinh tế - xã hội (78,1%), làm gia tăng nguy cơ lây lan HIV
và các bệnh lây truyền qua đường tình dục (82,1%).
Bên cạnh đó, như đã nêu trong chương 2 của luận văn, việc không công nhận
quan hệ sống chung của cặp đôi cùng giới bằng một hình thức pháp lý có thể dẫn đến
sự cẩu thả trong việc thi hành pháp luật. Hơn nữa, nhiều người LGBT sẽ tiếp tục rơi
vào tình trạng khi có tranh chấp dân sự liên quan đến quan hệ tài sản sẽ không được
giải quyết triệt để theo tính chất của quan hệ tài sản cũng như nguồn gốc của tài sản.
Do vậy, mục đích và nguyên tắc của quyền tài sản sẽ không thực sự được bảo đảm.
68
Theo người viết, việc nghiên cứu ghi nhận hình thức pháp lý cho mối quan hệ
chung sống và mối quan hệ tài sản chung cho người LGBT là cần thiết, chính đáng
nhưng cũng cần được xem xét trong bối cảnh quan niệm về mối quan hệ tài sản của
người LGBT ở Việt Nam chưa nhất quán, còn khá dè dặt và chịu sự ảnh hưởng của
các quan niệm cũ nên chưa thể thay đổi ngay trong một thời gian ngắn.
Xuất phát từ các vấn đề nêu trên, người viết kiến nghị trong thời điểm hiện nay
nên công nhận hình thức sống chung có đăng ký (kết hợp dân sự) đối với cặp đôi cùng
giới tại Việt Nam. Hình thức này đã được một số quốc gia trên thế giới áp dụng, là
một bước đệm để tạo điều kiện xem xét, đánh giá thêm mối quan hệ cùng giới trước
khi công nhận hôn nhân bình đẳng đối với cặp đôi cùng giới sau đó. Quan hệ sống
chung có đăng ký không làm ảnh hưởng đến chế định hôn nhân truyền thống, chưa
gây xáo trộn lớn trong đời sống xã hội Việt Nam. Việc quy định sống chung có đăng
ký phải được hiểu là áp dụng cho cặp đôi gồm hai người cùng giới tính (hai người
đồng tính, song tính hoặc cũng có thể là người chuyển giới đã phẫu thuật và đăng ký
sống chung với người cùng có cùng giới tính sau khi phẫu thuật…). Các cặp đôi khi
thực hiện quyền sống chung có đăng ký này sẽ bị hạn chế một số quyền so với cặp đôi
có quyền kết hôn đầy đủ (ví dụ quyền nhận con nuôi chung...) nhưng họ có đầy đủ
quyền sở hữu tài sản đối với nhau như một cặp vợ chồng “dị tính” thông thường.
Thứ ba về quan hệ tài sản, quyền đại diện, quyền thừa kế, quyền giám hộ của
cặp đôi cùng giới đăng ký kết hợp dân sự
Người viết kiến nghị: (a) trừ những khoản nợ chung phục vụ cho đời sống của
hai bên, mỗi người sẽ tự định đoạt, sử dụng tài sản riêng của mình và chịu trách nhiệm
trên những tài sản riêng đó; tài sản mua chung hoặc mua từ nguồn riêng nhưng không
có tuyên bố đó là tài sản riêng thì sẽ được nhập vào khối tài sản chung; (b) nhà ở
chung cũng theo quy định của chế độ nhà ở chung trong hôn nhân; (c) mỗi người
trong cặp đôi có quyền thừa kế tài sản theo pháp luật của nhau hoặc có tiền tuất khi
một trong hai người chết; (d) cặp đôi cùng giới đã đăng ký kết hợp dân sự có quyền
giám hộ, đại diện cho nhau như cặp đôi dị tính trong một số trường hợp cần thiết (ví
dụ đau ốm…). Riêng đối với vấn đề thừa kế nên xếp cặp đôi LGBT có đăng ký kết
69
hợp dân sự vào dàn thừa kế thứ nhất được quy định trong BLDS 2015 nhằm đảm bảo
sự bình đẳng trong quyền hưởng thụ của người LGBT không khác biệt so với người
“dị tính” trong quá trình tham gia quan hệ hôn nhân và gia đình.
Khi đề xuất thừa nhận quyền chiếm hữu, sử dụng và quyền định đoạt trên khối
tài sản chung cho nhau của cặp đôi cùng giới (kết hợp dân sự) cũng cần quan tâm đến
vấn đề nếu một người trong cặp đôi lợi dụng quyền giám hộ đương nhiên của mình để
làm thiệt hại về tài sản của người còn lại hoặc có những hành vi ngược đãi người còn
lại thì giải quyết thế nào? Mặc dù Khoản 1 Điều 60 BLDS 2015 đã quy định các
trường hợp thay đổi người giám hộ, trong đó có trường hợp người giám hộ vi phạm
nghiêm trọng nghĩa vụ giám hộ. Tuy nhiên, để thu thập được các chứng cứ chứng
minh được điều này không phải là điều đơn giản, vì các hành vi do người giám hộ
thực hiện thường được tiến hành một cách lén lút, giấu giếm, hoặc khi được phát hiện
thì đã quá muộn. Do đó, trong thời gian tới cần có hướng dẫn cụ thể về quy định thay
đổi người giám hộ trong trường hợp này để có thể bảo vệ quyền tài sản chính đáng
của mỗi người trong quan hệ kết hợp dân sự (và cả quan hệ hôn nhân dị tính). Điều
này càng có ý nghĩa khi thực tế, mối quan hệ sống chung (cho dù là có đăng ký) của
hai người cùng giới thường không nhận được sự ủng hộ của gia đình hai bên. Khi quy
định rõ về vấn đề giám hộ sẽ góp phần bảo vệ được các bên trong quan hệ kết hợp dân
sự này
3.3. Giải pháp bảo đảm thực hiện quyền sở hữu tài sản của người đồng
tính, song tính và chuyển giới
Thứ nhất, trong quá trình xây dựng, thi hành pháp luật, các cơ quan, cán bộ
nhà nước cần tiếp cận đầy đủ hơn phương pháp tiếp cận dựa trên quyền
Nếu việc xây dựng, thi hành pháp luật về quyền mà chỉ đơn thuần dựa trên nhu
cầu quản lý thì mục đích của pháp luật chưa đạt được. Theo phương pháp tiếp cận dựa
trên quyền, việc xây dựng, thi hành pháp luật cần phải dựa trên những nguyên tắc cơ
bản sau: (1) nhu cầu hoàn thiện pháp luật quyền sở hữu tài sản của người LGBT; (2)
Lấy các nguyên tắc và tiêu chuẩn quốc tế về quyền con người làm định hướng trong
việc xây dựng, thi hành pháp luật; (3) Làm rõ những chủ thể của quyền, chủ thể có
70
nghĩa vụ và các quyền, nghĩa vụ của các chủ thể có quyền, có trách nhiệm trong quá
trình xây dựng, thi hành pháp luật. Nếu như đội ngũ cán bộ xây dựng, thẩm định,
kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật… tiếp cận toàn diện với phương pháp tiếp cận
dựa trên quyền sẽ bảo đảm tốt hơn yêu cầu về bảo vệ quyền con người nói chung và
quyền tài sản của người LGBT nói riêng.
Thứ hai, cần có giải pháp tăng cường hơn nữa sự tham gia của người dân
trong quá trình xây dựng pháp luật và nâng cao trách nhiệm của cơ quan chủ trì soạn
thảo trong việc tiếp thu, giải trình ý kiến góp ý của cá nhân, tổ chức
Qua nghiên cứu chương 2 cho thấy, thời gian qua người LGBT, người dân
trong xã hội cũng như các tổ chức xã hội đã có nhiều cố gắng trong việc tham gia xây
dựng pháp luật về quyền sở hữu tài sản của người LGBT. Tuy vậy, hiệu quả của hoạt
động này chưa cao, xuất phát chủ yếu từ quy định của pháp luật. Để tăng cường hơn
nữa sự tham gia của người dân trong quá trình xây dựng pháp luật, người viết kiến
nghị một số giải pháp sau:
(1) Quy định các nội dung xin ý kiến phải được thuyết minh và giải trình rõ
ràng về mục đích, quan điểm, các khía cạnh nội dung, tác động của chính sách, dự
thảo luật. Nếu có nhiều nội dung thì phải xác định các nội dung trọng tâm, trọng điểm,
các nội dung có vướng mắc, các nội dung liên quan đến lợi ích của nhiều nhóm đối
tượng trong xã hội…
(2) Quy định trách nhiệm giải trình của cơ quan chủ trì soạn thảo đối với các ý
kiến của người dân, tạo cơ chế nghe, tiếp thu và phản hồi ý kiến một cách thường
xuyên và có trách nhiệm. Việc tiếp thu, giải trình phải được thực hiện một các nghiêm
túc, cẩn trọng và phải có phương thức để phản hồi kịp thời tới người tham gia ý kiến.
(3) Phải có cơ chế giám sát hoạt động tổ chức lấy ý kiến và giải trình ý kiến
của cơ quan chủ trì soạn thảo. Việc giám sát có thể được thực hiện bởi chính các cơ
quan thẩm định, thẩm tra dự án luật, pháp lệnh. Các cơ quan này sẽ phải xem xét,
đánh giá việc tổng hợp hoặc giải trình ý kiến của cơ quan soạn thảo, nếu thấy chưa
đầy đủ hoặc ý kiến giải trình chưa xác đáng có thể trả lại hồ sơ cho cơ quan soạn thảo.
Việc giám sát cũng có thể được thực hiện bởi chính đối tượng tham gia ý kiến trong
71
trường hợp đối tượng này nhận thấy cơ quan chủ trì soạn thảo chưa giải trình ý kiến
của người góp ý. Để thực hiện được cơ chế giám sát này cần quy định các địa chỉ để
tiếp nhận ý kiến phản ánh của người dân và công khai việc giải quyết các kiến nghị
đó.
Thứ ba, hoàn thiện cơ sở pháp lý cho hoạt động của các tổ chức xã hội và
nghiên cứu hoàn thiện các thiết chế về bảo vệ quyền sở hữu tài sản của người đồng
tính, song tính và chuyển giới
Với thiết chế Tòa án, cần tiếp tục triển khai một số giải pháp để phát huy vai
trò bảo vệ quyền con người nói chung, quyền của người LGBT nói riêng:
- Nghiên cứu trao thẩm quyền giải thích Hiến pháp, pháp luật cho Tòa án;
nâng cao các yếu tố bảo đảm tính độc lập trong xét xử của Tòa án
- Nên trao cho Tòa án thẩm quyền tạm dừng việc thi hành văn bản quy phạm
pháp luật có quy định trái với Hiến pháp, luật… trong quá trình thực hiện chức năng
xét xử. Nếu chỉ được giao thẩm quyền đề xuất, kiến nghị như hiện nay sẽ rất khó để
Tòa án có nhiều cơ hội để bảo vệ quyền tài sản của người LGBT một cách thông suốt
và đáp ứng nhu cầu thực tế.
- Mặc dù trong một số trường hợp có thể chưa có các quy định pháp luật điều
chỉnh nhưng Tòa án có thể thông qua hoạt động xét xử đưa ra các án lệ “thấu tình đạt
lý” để bảo vệ tốt hơn các quyền tài sản, lợi ích kinh tế chính đáng của người LGBT và
phù hợp với bản chất tự nhiên của họ.
Bên cạnh đó, xuất phát từ thực tiễn thực thi quyền con người nói chung và
quyền sở hữu tài sản của người LGBT nói riêng tại Việt Nam thời gian qua, người
viết cho rằng cần tiếp tục nghiên cứu xây dựng thiết chế nhân quyền quốc gia. Trên
thực tế, không có một mô hình chung về thiết chế này cho các quốc gia. Mỗi nước có
những mô hình khác nhau (về tên gọi, cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ…). Tuy
nhiên, thiết chế này thông thường được thiết lập theo ba hình thức chủ yếu đó là: (1)
Cơ quan thanh tra Quốc Hội (Ombudsman); Ủy ban nhân quyền quốc gia (National
Human Rights Commission/Committee); (2) Cơ quan chuyên trách về một vấn đề
nhân quyền cụ thể (Specialized Institutions). Trong đó, ở một số nước đã thành lập
72
các cơ quan chuyên trách về một vấn đề nhân quyền cụ thể hoặc quyền của một số
nhóm xã hội nhất định, cụ thể như các ủy ban quốc gia về người thiểu số, người bản
địa, phụ nữ, trẻ em, người khuyết tật, người lao động di trú… Từ đó, việc nghiên cứu
xây dựng một thiết chế để bảo vệ quyền sở hữu tài sản của người LGBT là cần thiết
trong bối cảnh nhiệm vụ quản lý nhà nước về các lĩnh vực liên quan đến quyền tài sản
LGBT tại nước ta còn rải rác, chưa có cơ quan chịu trách nhiệm chung, làm đầu mối.
Tiểu kết chương 3
Để hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về quyền sở hữu
tài sản của người đồng tính, song tính và chuyển giới tại Việt Nam cần có sự phối hợp,
gắn kết chặt chẽ của nhiều yếu tố khác nhau. Một số quan điểm quan trọng về các yếu
tố này được người viết trình bày ở chương 3 là: (1) Tiếp cận nhiều hơn với các giá trị
văn hóa mới; (2) Tiếp cận đầy đủ và toàn diện về bản chất quyền của người đồng tính,
song tính và chuyển giới; (3) Việc hoàn thiện pháp luật về quyền của người đồng tính,
song tính, chuyển giới phải chú trọng đến tính đồng bộ, thống nhất của pháp luật và
phải theo lộ trình; (4) Cần chú trọng các giải pháp nhằm nâng cao nhận thức và thúc
đẩy thi hành pháp luật về quyền của người đồng tính, song tính và chuyển giới.
Xuất phát từ các quan điểm nêu trên, chương 3 của luận văn đã đề xuất các giải
pháp cụ thể. Với giải pháp nâng cao nhận thức, người đồng tính, song tính và chuyển
giới cần tích cực, chủ động hơn để góp phần thay đổi quan điểm tiêu cực của xã hội về
bản thân mình; các cơ quan nhà nước (Bộ Y tế, Bộ Giáo dục và Đào tạo…), tổ chức
xã hội, truyền thông, báo chí cần có những giải pháp cụ thể, hiệu quả để góp phần
định hướng nhận thức đúng đắn về vấn đề này. Với giải pháp hoàn thiện quy định
pháp luật, cần tập trung vào các giải pháp pháp lý nhằm đáp ứng một số nhu cầu bức
thiết về quyền sở hữu tài sản của người đồng tính, song tính và chuyển giới tại Việt
Nam (bình đẳng, không bị phân biệt đối xử, quan hệ sống chung, thủ tục hành chính,
chuyển đổi giới tính…). Với giải pháp thúc đẩy thi hành pháp luật về quyền sở hữu tài
sản của các đối tượng này, cần tiếp cận đầy đủ hơn phương pháp tiếp cận dựa trên
quyền trong quá trình xây dựng, thi hành pháp luật của các cơ quan, cán bộ nhà nước;
tăng cường hơn nữa sự tham gia của người dân trong quá trình xây dựng pháp luật và
73
nâng cao trách nhiệm của cơ quan chủ trì soạn thảo trong việc tiếp thu, giải trình ý
kiến góp ý của cá nhân, tổ chức; hoàn thiện cơ sở pháp lý cho hoạt động của các tổ
chức xã hội và nghiên cứu hoàn thiện các thiết chế về bảo vệ quyền sở hữu tài sản của
người đồng tính, song tính và chuyển giới; tiếp tục nghiên cứu nhân rộng các mô hình
hỗ trợ cộng đồng góp phần bảo vệ quyền sở hữu tài sản của người đồng tính, song tính
và chuyển giới.
74
KẾT LUẬN
Là một trong những nghiên cứu đầu tiên, trực tiếp và đầy đủ, coi nhận thức,
thực tiễn và pháp luật về quyền sở hữu tài sản của người đồng tính, song tính và
chuyển giới là đối tượng nghiên cứu, luận văn đã góp phần làm sâu sắc thêm hệ thống
tri thức về chủ đề này cũng như rút ra một số kết luận như sau:
Đồng tính, song tính và chuyển giới là những xu hướng tính dục, bản dạng giới
và đặc điểm cơ thể tự nhiên của loài người (chiếm số ít) bên cạnh xu hướng dị tính
(phổ biến). Đồng tính, song tính và chuyển giới không phải là bệnh lý, không có khả
năng lây nhiễm từ người này sang người khác. Người đồng tính, song tính và chuyển
giới là đối tượng yếu thế trong xã hội nên thường đối mặt với khá nhiều thách thức
hơn những người dị tính.
Thế giới hiện đại đã ghi nhận những quan niệm mới về giới, bình đẳng giới,
hôn nhân, gia đình và các mối quan hệ sở hữu tài sản chung của họ như các cặp vợ
chồng dị tính. Theo đó, khái niệm giới, bình đẳng giới không chỉ giới hạn mối quan hệ
giữa nam và nữ mà đã được mở rộng ra thành mối quan hệ bình đẳng giữa các xu
hướng tính dục, bản dạng giới (ví dụ giữa nam đồng tính và nam dị tính). Quan hệ tài
sản trong quá trình chung sống giờ đây không đơn thuần của cặp đôi dị tính mà có thể
là của những người cùng giới tính. Chức năng sinh sản là chức năng chính của mối
quan hệ vợ chồng nhưng không thể là chức năng quyết định sự hình thành một quan
hệ sở hữu tài sản một quan hệ hôn nhân và gia đình. Những dạng quan hệ chung sống
quan hệ sở hữu tài sản chung của những người LGBT khi chung sống với nhau đã
được Liên hợp quốc ghi nhận và khuyến khích các quốc gia bảo vệ.
Vấn đề đồng tính, song tính và chuyển giới thể hiện sự đa dạng tính dục, bản
dạng giới trong đời sống xã hội hiện đại. Khi xã hội phát triển đến một tầm cao mới về
nhận thức thì sự phân biệt, phân định giữa người đồng tính, song tính, chuyển giới
hay dị tính không còn quan trọng nữa. Ví dụ lúc đó, mọi người đều có quyền kết hôn
bình đẳng, phân chia tài sản... như nhau; cũng không cần thiết phải phân biệt giữa
đồng tính và song tính vì mọi người được quyền sống theo xu hướng tính dục của bản
thân… Hơn nữa, sự đa dạng bao giờ cũng là nền tảng của sáng tạo vì những con người
75
có niềm tin khác nhau, có nền tảng giáo dục khác nhau, kinh nghiệm sống khác nhau,
thế mạnh khác nhau, sẽ bổ trợ cho nhau trong quá trình phát triển.
Nhu cầu được bảo vệ quyền sở hữu tài sản bình đẳng của người đồng tính,
song tính và chuyển giới là một thực tế có thật tại Việt Nam thời gian qua. Tuy nhiên,
việc thừa nhận những xu hướng quyền sở hữu tài sản khi chung sống của các đối
tượng này còn vướng nhiều rào cản. Mặc dù có xuất hiện yêu cầu bảo đảm quyền của
người đồng tính, song tính và chuyển giới nhưng không vì vậy mà ngay lập tức phải
ghi nhận ngay tất cả các quyền nhân thân liên quan đến hôn nhân đồng tính, dễ dẫn
đến những “cú sốc” cho xã hội nhất là bối cảnh một xã hội truyền thống như Việt
Nam. Nhìn chung, cần có lộ trình dài hơi hơn cho quá trình xem xét ghi nhận quyền
sở hữu tài sản của người đồng tính, song tính, và chuyển giới tại Việt Nam.
Có thể nhận thấy, cùng với sự phát triển của xã hội và kinh tế, Việt Nam đã có
sự đổi mới trong tư duy lập pháp về quyền, đặc biệt là quyền sở hữu tài sản của người
đồng tính, song tính và chuyển giới (rộng hơn là vấn đề xu hướng tính dục, bản dạng
giới). Đây thực sự là nỗ lực của Việt Nam trong việc bảo vệ quyền con người. Qua
nghiên cứu cho thấy về cơ bản pháp luật Việt Nam đã ghi nhận hầu hết các quyền của
người đồng tính, song tính, và chuyển giới.
Tuy nhiên, giữa ý thức, tư tưởng về quyền con người và quyền con người đã
được thể chế hóa có một khoảng cách nhất định. Đó cũng là một hiện tượng tương đối
phổ biến trên thế giới. Do vậy, một số quyền trong đó có quyền tài sản và cụ thể thể là
quyền sở hữu tài sản chung của các đối tượng này chưa được ghi nhận hoặc chưa
hoàn thiện do Việt Nam đang trong quá trình xây dựng, hoàn thiện chính sách, pháp
luật có liên quan (quyền kết hôn của cặp đôi cùng giới; quyền nhận con nuôi chung
của cặp đôi cùng giới; quyền liên quan đến mang thai hộ cho cặp đôi đồng tính, song
tính, chuyển giới; các vấn đề liên quan đến cơ sở xác định nguồn gốc tài sản chung...).
Đặc điểm này của Việt Nam cũng khá tương đồng với các quốc gia khác trên thế giới.
Luận văn cũng khẳng định trước hết cần quan tâm đảm bảo những vấn đề cấp bách
cho người đồng tính, song tính và chuyển giới: chống kỳ thị, phân biệt đối xử, bạo lực
gia đình, giải quyết các tranh chấp trong quá trình không còn chung sống, hay các vấn
đề quy định tài sản chung của người LGBT như các cặp vợ chồng dị tính...
76
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nhật Anh (2011) “Bi kịch khó nói của những người bóng kính”, Báo điện tử
Vietnamnet, 32455.html>, (18/6/2019); 2. Tâm Anh (2018) “Ít ai nghĩ Châu Âu xưa suy nghĩ về chuyện đồng tính”, trang TTĐTTH của công ty Vietnewscorp, -luyen-ai-82019.htm>, ( 22/4/2019) 3. Phan Văn Anh (2015) “London: Bất chấp IS, 30.000 người xuống đường ủng hộ hôn nhân đồng giới”, Báo thể thao văn hóa điện tử, duong-ung-ho-hon-nhan-dong-gioi-n20150628104316994.htm>, (24/4/2019); 4. Lê Bảo (2012) “Công nhận hôn nhân đồng tính?”, Báo Đại đoàn kết điện tử, (27/4/2019); 5. Nguyễn Thị Thu Cam, Vũ Thành Long, Phạm Thanh Trà (2013) Sống chung cùng giới: Trải nghiệm thực tế và Mưu cầu hạnh phúc lứa đôi, Nxb Thế giới, Hà Nội; 6. Nguyễn Văn Cừ –Trần Thị Huệ (2017) Bình luận khoa học Bộ luật Dân sự 2015, Nxb. Công An Nhân Dân, Hà Nội; 7. Lê Thái Dũng (2013) “Lê Thánh Tông xử lý án quan hệ đồng tính nữ sinh con”, Tạp chí điện tử Người đưa tin, 77573.html> , (24/4/2019); 8. Tiểu Đào (2018) “Trùm phát xít hitle là người đồng tính”, Báo điện tử 24h, nh-c415a995821.html>, (7/4/2019); 9. Nguyễn Ngọc Điện (2016) Cần xây dựng lại khái niệm Quyền tài sản trong Luật Dân sự, Nxb Công An Nhân Dân, Hà Nội; 10. Trọng Giáp (2013) “Hàng triệu người diễu hành vì người đồng tính”, 1183.html>, (24/4/2019); 11. Bùi Bích Hà (2002) Một vài nét nghiên cứu về nhận thức của sinh viên đối với hiện tượng đồng tính luyến ái, Luận văn tốt nghiệp Thạc sỹ chuyên ngành Xã Hội học, Đại học Kinh Tế Quốc Dân HàNội; 12. Nhật Hà (2012) “Đông lạnh noãn: Cơ hội có con cho các cặp vô sinh”, -sinh-165363.html>, (30/5/2019); 13. Vũ Hà (2017) “Di Chúc Của Lenardo Da Vinci ngày 23 tháng 4 năm 1519”, nci.html>, ( 9/4/2019); 14. Bùi Thị Thanh Hòa, Nguyễn Vân Anh, Lê Hồng Giang, Trần Hương Thanh, Cẩm nang dành cho cán bộ tư vấn về Đồng tính nữ, Nxb Thời Đại, Hà Nội; 15. Hội đồng Liên Hợp Quốc (1969) Tuyên bố về phát triển và tiến bộ xã hội, thông qua theo Nghị quyết 2542 (XXIV), n-va-tien-bo-xa-hoi-1969-270275.aspx>, (20/5/2019); 16. Hội tâm lý học Hoa Kỳ (2008) Answers to your question: For a better Understanding of Sexual Orientation and Homosexuality, do Viện nghiên cứu Xã Hội, Kinh Tế và Môi Trường (iSEE) dịch, tr.34; 17. Cảnh Kiên (2019) “Không thừa nhận hôn nhân đồng tính càng kỳthị”, tail.aspx?ItemID=1507>, (30/6/2019); 18. Liên hợp quốc (1969) “Tuyên bố về phát triển và tiến bộ xã hội”, -bo-xa-hoi-1969-270275.aspx>, (18/6/2019) 19. Diệu Linh (2013) “94,7% người đồng tính mong muốn được kết hôn hợp pháp, muon-duoc-ket-hon-hop-phap/137869p1c31.htm>, (15/5/2019); 20. Đặng Văn Lưu (2019) “Quyền nhân thân trong Bộ luật Dân sự”, Tạp chí tòa án nhân dân online, -luat-dan-su-2, ( 30/4/2019); 21. Huỳnh Nhân (2018) “Ngày hội tự hào LGBTI+ Sài Gòn: Những khoảnh khắc đáng nhớ khi phố đi bộ Nguyễn Huệ rợp cờ cầu vồng”, nho-khi-pho-di-bo-nguyen-hue-rop-co-cau-vong-20180825205745994.chn>, (24/4/2019); 22. Hà Phương (2013) “Thực tế quan hệ đồng giới ở Việt Nam”, (29/6/2019); 23. Nam Phương (2019) “Thứ hạng dân số 63 tình thành mới nhất”, hat-c46a1067053.html> , (15/6/2019); 24. Phạm Quỳnh Phương (2012) “Kết hôn đồng tính có đe dọa văn hóa truyền thống”, hoa-truyen-thong-.html> , (20/5/2019); 25. Trương Hồng Quang (2018) “Khái luận chung về đồng tính, song tính, chuyể n giới, liên giới tính và yêu cầu đặt ra đối với hệ thống pháp luật”, Tạp chí Pháp luật và Phát triển (Hội luật gia Việt Nam), Hà Nội; 26. Trương Hồng Quang (2016) “Người liên giới tính trong đời sống xã hội và pháp luật Việt Nam”, Tạp chí Nhân lực Khoa học xã hội (Học viện Khoa học xã hội), Hà Nội; 27. Trương Hồng Quang (2017) “Một số vấn đề đặt ra trong thực tiễn thi hành pháp luật về quyền của người đồng tính, song tính, chuyển giới và liên giới tính tại Việt Nam”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật (Viện Nhà nước và Pháp luật), Số 11(355), tr.65-76,84, Hà Nội; 28. Nguyễn Hưng Quang (trưởng nhóm nghiên cứu) (2015) Quyền nuôi con của người đồng tính, song tính và chuyển giới ở Việt Nam-thực trạng và kiến nghị, Bài viết của nhóm Luật Sư báo cáo cho UNDP Việt Nam, Nxb Kim Đồng, Hà Nội. 29. Quốc hội (2005) Bộ luật dân sự 2005, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội; 30. Quốc hội (2015) Bộ Luật dân sự 2015, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội; 31. Quốc hội (1992) Hiến Pháp 1992, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội; 32. Quốc hội (2013) Hiến Pháp 2013, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội; 33. Quốc hội (2014) Luật Hôn nhân và Gia đình 2014, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội; 34. Trần Bồng Sơn (2002) Giới tính học trong bối cảnh Việt Nam, Nxb Trẻ, Hà Nội; 35. Nguyễn Thị Minh Tâm (2018) Quyền Của Người Đồng Tính Lý Luận và Thực Tiễn, Luận văn Thạc Sĩ, Đại Học Luật Hà Nội; 36. Mai Thảo (2018) “72 quốc gia vẫn còn hình sự hóa đồng tính luyến ái”, 2138.htm>, ( 25/4/2019); 37. Đỗ Gia Thắng (2016) Một số quy định của pháp luật liên quan đến quyền của LGBT trong pháp luật dân sự, thực trạng và một số kiến nghị, Nxb Trẻ, Hà Nội; 38. Anh Thư (2013) “Éo le bố mẹ đồng tính”, 39. Telegraph (2016) “Cuộc đòi thực của Lili Elbe-người chuyển giới đầu tiên trên thế giới”, a+chuy%E1%BB%83n+gi%E1%BB%9Bi+%C4%91%,E1%BA%A7u+ti%C3%A An&oq=ca+chuy%E1%BB%83n+&gs_l=psy-ab.1.0.0j0i22i30l9.1580.4293..7053... 3.0..0.314.2666.0j9j4j1......0....1..gws-wiz.....0..35i39j0i131j0i67j0i131i67.Cr7DF4 HY_6U>, ( 7/4/2018); 40. Thu Trang (2017) “Đồng tính luyến ái trong thời Ai Cập Cổ Đại”, Đời Sống Và Pháp Luật, > , (10/4/2019); 41. Trung tâm Thông tin, Thư viện và Nghiên cứu khoa học - Văn phòng Quốc hội (2013), Pháp luật về mang thai hộ ở một số quốc gia trên thế giới, Chuyên đề phục vụ Đại biểu Quốc hội tại Kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa XIII, Hà Nội, tháng 11; 42. Nguyễn Trọng Tuấn (2015) “Học viện Kỹ thuật quân sự, Vấn đề tôn giáo, tín ngưỡng trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội theo tinh thần của Đại hội XI”, Báo điện tử Đảng Cộng Sản Việt Nam, dang/van-de-ton-giao-tin-nguong-trong-thoi-ky-qua-do-len-chu-nghia-xa-hoi-theo-t inh-than-cua-dai-hoi-xipgs-ts-nguyen-830>, (30/9/2015); 43. Ủy ban Nhân quyền (1990) Nhận định chung thứ 19: Bảo vệ gia đình, quyền hôn nhân và bình đẳng của các phối ngẫu, Văn kiện Liên hợp quốc, HRI/GEN/1/Rev.2, New York; 44. Ủy ban về Quyền trẻ em, “Báo cáo về Kỳ họp thứ năm”, Văn kiện Liên hợp quốc, CREC/C/24, New York; 45. Viện iSEE (2013) Báo cáo nghiên cứu Mối quan hệ cùng giới do Viện iSEE công bố năm 2013; 46. Wekipeadia (2018) “Phong trào LGBT trên thế giới”, 47. Wekipedia (2004) “Lịch sử Châu Âu”, Wekipedia, %C3%82u>, (10/4/2019); 48. Bob Hay (2007), “A natural history of Homosexuality”, 49. Larry Houston (2012), “Inventing the Homosexual”, (2/5/2019); 50. LGBT history timeline (2018), “Massion and history”, 51. Wekipeadia (2018), “LGBT rights by country or territory”, tại 52. Le Monde (2013), “Les marques de mode qui soutiennent des assos LGBT, < https://www.madmoizelle.com/marques-mode-soutien-lgbt-1006420>, (24/6/2019); 53. New Staff (2019), “ Toroton to host word pride”, Citinews, ( 25/4/2019); 54. Jennifer Robison (2002), “What Percentage of the Population IsGay?”, (21/7/2019).