ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT

NGUYỄN PHƢƠNG THẢO

QUYÒN §¦A RA TUY£N Bè TRONG C¥ CHÕ GI¶I QUYÕT TRANH CHÊP CñA C¤NG ¦íC LUËT BIÓN 1982

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2019

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT

NGUYỄN PHƢƠNG THẢO

QUYÒN §¦A RA TUY£N Bè TRONG C¥ CHÕ GI¶I QUYÕT TRANH CHÊP CñA C¤NG ¦íC LUËT BIÓN 1982

Chuyên ngành: Luật Biển và Quản lý biển Mã số: 8380101.08

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN THỊ XUÂN SƠN

HÀ NỘI - 2019

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của

riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong

bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong

Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã

hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ

tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.

Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để

tôi có thể bảo vệ Luận văn.

Tôi xin chân thành cảm ơn!

NGƯỜI CAM ĐOAN

Nguyễn Phƣơng Thảo

MỤC LỤC

Trang

Trang phụ bìa

Lời cam đoan

Mục lục

Danh mục các chữ viết tắt

Danh mục bảng

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1

CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN ĐƢA RA

TUYÊN BỐ TRONG LUẬT QUỐC TẾ .......................................... 6

1.1. Tuyên bố đơn phƣơng ........................................................................ 6

1.1.1. Định nghĩa, hình thức của tuyên bố đơn phương ................................. 7

1.1.2. Tính chất pháp lý của các tuyên bố đơn phương ............................... 10

1.1.3. Giá trị pháp lý của tuyên bố đơn phương ........................................... 16

1.2. Tuyên bố bảo lƣu .............................................................................. 20

1.2.1. Định nghĩa, hình thức của tuyên bố bảo lưu ...................................... 20

1.2.2. Tính chất pháp lý của tuyên bố bảo lưu ............................................. 22

1.2.3. Hệ quả pháp lý của tuyên bố bảo lưu ................................................. 26

1.2.4. Phân biệt Tuyên bố bảo lưu với một số tuyên bố đơn phương

khác của quốc gia ............................................................................... 27

Kết luận chƣơng 1 ......................................................................................... 31

CHƢƠNG 2: QUYỀN ĐƢA RA TUYÊN BỐ THEO ĐIỀU 287 VÀ

ĐIỀU 298 CÔNG ƢỚC LUẬT BIỂN 1982.................................... 32

2.1. Tuyên bố lựa chọn cơ chế giải quyết tranh chấp theo Điều

287 công ƣớc Luật biển 1982 ........................................................... 32

2.1.1. Cơ sở pháp lý ...................................................................................... 33

2.1.2. Thực tiễn đưa ra tuyên bố lựa chọn quyền tài phán của các

quốc gia .............................................................................................. 45

2.1.3. Giá trị pháp lý của tuyên bố lựa chọn cơ chế giải quyết tranh chấp ....... 50

2.2. Tuyên bố đƣa ra ngoại lệ theo Điều 298 của công ƣớc Luật

biển 1982 ............................................................................................ 53

2.2.1. Cơ sở pháp lý ...................................................................................... 54

2.2.2. Thực tiễn đưa ra tuyên bố ngoại lệ theo quy định Điều 298 UNCLOS ..... 56

2.2.3. Giá trị pháp lý của tuyên bố ............................................................... 58

Kết luận chƣơng 2 ......................................................................................... 60

CHƢƠNG 3: THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH VỀ QUYỀN

ĐƢA RA TUYÊN BỐ Ở BIỂN ĐÔNG VÀ MỘT SỐ KHUYẾN

NGHỊ ĐỐI VỚI VIỆT NAM .............................................................. 61

3.1. Thực tiễn vụ kiện giữa Philippines và Trung Quốc ...................... 62

3.1.1. Tóm tắt nội dung vụ kiện ................................................................... 62

3.1.2. Áp dụng Điều 287 và Điều 298 của Công ước Luật Biển 1982

trong phán quyết của Tòa Trọng tài ................................................... 63

3.1.3. Ý nghĩa phán quyết của Tòa về thẩm quyền ...................................... 68

3.2. Một số khuyến nghị cho Việt Nam về việc lựa chọn cơ chế

giải quyết tranh chấp trên biển theo UNCLOS 1982 .................... 69

3.2.1. Quan điểm của Việt Nam về giải quyết tranh chấp ở Biển Đông ...... 69

3.2.2. Một số khuyến nghị dành cho Việt Nam về vận dụng quyền đưa

ra tuyên bố theo cơ chế giải quyết tranh chấp UNCLOS 1982 ......... 72

Kết luận chƣơng 3 ......................................................................................... 78

KẾT LUẬN .................................................................................................... 79

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 80

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Từ viết

STT

Tên Tiếng Việt

Tên Tiếng Anh

tắt

1

COC

Bộ quy tắc ứng xử ở Biển

Code of Conduct in the South

Đông

China Sea

2

DOC

Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông

Declaration on the Conduct of Parties in the South China Sea

3

EEZ

Vùng đặc quyền kinh tế

Exclusive economic zone

4

ICJ

Tòa án Công lý quốc tế

International Court of Justice

5

ILC

Ủy ban luật pháp quốc tế

International Law Commission

6

ITLOS

Tòa án quốc tế về Luật Biển

International Tribunal for the

Law of the Sea

7

PCA

Tòa trọng tài thường trực

Permanent Court of Arbitration

8

UNCLOS Công ước của Liên Hợp

United Nations Convention on

Quốc về Luật biển

the Law of the Sea

DANH MỤC BẢNG

Trang Số hiệu Số hiệu bảng

Bảng 2.1 Các quốc gia tuyên bố lựa chọn thủ tục giải quyết

tranh chấp theo Điều 287 UNCLOS 46

Bảng 2.2 Các quốc gia đưa ra tuyên bố ngoại lệ theo Điều 298

UNCLOS 57

MỞ ĐẦU

1. Đặt vấn đề

Theo quan niệm của cộng đồng quốc tế, biển và đại dương luôn đóng

vai trò quan trọng trong đời sống chính trị, kinh tế - xã hội của các quốc gia

trên toàn thế giới. Trước nguy cơ cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên trên đất liền,

biển và đại dương được coi là nơi dự trữ cuối cùng của loài người về các

nguồn lương thực, thực phẩm, năng lượng, nguyên – nhiên liệu. Trong đó,

Biển Đông là khu vực biển giàu tài nguyên thiên nhiên, nhưng nơi đây cũng

chứa đựng nhiều mâu thuẫn lợi ích liên quan đến các tranh chấp chủ quyền

biển, đảo, phức tạp và kéo dài trong lịch sử. Vì vậy, các quốc gia luôn tìm kiếm

một cơ chế giải quyết tranh chấp phù hợp và hiệu quả. Việc ra đời Công ước

Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982 (UNCLOS) (có hiệu lực ngày 16/11/1994) là

một bước phát triển quan trọng nhất trong việc giải quyết các tranh chấp quốc

tế kể từ khi Hiến chương Liên Hợp Quốc và Quy chế Toà án Công lý Quốc tế

được thông qua. Mặc dù vậy, trên thực tế, không phải các quốc gia đều thống

nhất quan điểm để đưa ra được một hệ thống giải quyết tranh chấp hoàn

chỉnh. Việc Công ước Luật Biển đưa ra quyền đưa ra các tuyên bố đối với các

thủ tục giải quyết tranh chấp là một tiến bộ vượt bậc thể hiện sự tôn trọng ý

kiến của các quốc gia. Tuy nhiên, nó cũng đặt ra các vấn đề nan giải trong

việc giải quyết các tranh chấp. Việc nghiên cứu quyền đưa ra tuyên bố giúp

các quốc gia nắm rõ các quy định và giá trị của việc đưa ra tuyên bố, từ đó sẽ

giúp việc giải quyết các tranh chấp thuận lợi hơn. Đây là nhu cầu khách quan

và cấp bách nhằm phục vụ lợi ích của các quốc gia, đặc biệt là với một quốc

gia ven biển như Việt Nam.

2. Tổng quan tình hình nghiên cứu

Vấn đề cơ chế giải quyết tranh chấp theo Công ước Luật Biển 1982 đã

1

được nhiều đề tài, công trình nghiên cứu, luận văn, luận án phân tích chuyên

sâu tuy nhiên chưa nhiều công trình đề cập đầy đủ, hệ thống về khía cạnh

“Quyền đưa ra tuyên bố ở hai điều khoản Điều 287 và Điều 298 trong cơ chế

giải quyết tranh chấp của Công ước Luật Biển 1982”.

Trong luận văn này, tác giả cũng đã có cơ hội tham khảo nhiều nguồn

tài liệu, bài viết liên quan đến vấn đề này. Tác giả xin đưa ra một số nguồn

tiêu biểu sau:

Thứ nhất, cuốn sách “The International Law of the Sea” của tác giả

Yoshifumi Tanaka. Đây là cuốn sách cung cấp cho người đọc một cái nhìn

tổng quan về Luật biển. Cuốn sách đã khái quát được các nguyên tắc, quy

định của cơ chế giải quyết tranh chấp của Công ước 1982. Tuy nhiên, cuốn

sách chỉ dừng lại ở mức tổng quan chứ chưa đi sâu phân tích vào các quy định

của cơ chế giải quyết tranh chấp, đặc biệt ở Điều 287 và 298 Công ước.

Thứ hai, bài viết “UNCLOS Dispute Settlement System and the South

China Sea” của tác giả Robert Beckman, Giám đốc Trung tâm Luật Quốc tế,

Đại học Quốc gia Singapore tại Hội nghị MIMA về Biển Đông: Những tiến

triển mới và ý đồ hướng đến giải quyết hòa bình tranh chấp. Bài viết xem xét

liệu cơ chế giải quyết tranh chấp trong UNCLOS có thể đóng vai trò trong

việc làm rõ các vấn đề pháp lý và hướng các bên tranh chấp tại Biển Đông

đến một giải pháp hòa bình cho các tranh chấp hay không.

Thứ ba, bài viết “Unilateral acts of State” của tác giả Victor Rodríguez

Cedeño. Bài viết này đưa ra quan điểm phân loại các hành vi đơn phương của

các quốc gia, một số quy tắc áp dụng cho chúng và hệ quả pháp lý của những

hành vi này. Tuy nhiên bài viết chỉ phân tích ở phần lý luận chung mà chưa đi

sâu giải quyết vấn đề: Liệu quyền đưa ra tuyên bố đơn phương có góp phần

xây dựng cơ chế giải quyết tranh chấp giữa các quốc gia và cụ thể liên quan

2

đến lĩnh vực biển như thế nào?

Thứ tư, cuốn sách “Les actes juridiques unilatéraux en Droit International

Public (1962)” của tác giả Eric Suy. Cuốn sách đã phân tích các hành vi đơn

phương, phân loại những hành vi này, xác định vài trò, vị trí của những hành

vi này trong hệ thống luật pháp quốc tế và nguyên tắc thiện chí chi phối giá trị

pháp lý của những hành vi đơn phương của quốc gia trong quan hệ quốc tế.

Đồng thời cuốn sách cũng đưa ra những án lệ về tuyên bố của các quốc gia

liên quan đến tranh chấp về biển và những hệ quả của chúng. Tuy nhiên, tác

giả chưa đề cập cụ thể vai trò của quyền đưa ra tuyên bố theo cơ chế giải

quyết tranh chấp của UNCLOS 1982.

Thứ năm, bài viết “Cơ chế giải quyết tranh chấp trên biển theo Công

ước Luật Biển 1982” của GS. TS Nguyễn Bá Diến trong Hội thảo quốc tế về

Biển Đông. Tác giả đã đưa ra khái quát chung về cơ chế giải quyết tranh chấp

trên biển theo UNCLOS 1982 đồng thời phân tích các cơ quan giải quyết

tranh chấp theo Công ước Luật Biển 1982. Tuy nhiên bài viết chưa đi sâu vào

phân tích mối liên hệ Điều 287 và Điều 298 của Công ước từ đó khẳng định

vài trò của quyền đưa ra Tuyên bố.

Bên cạnh đó còn có các bài viết, công trình nghiên cứu mang tính thời

sự, với nhiều góc độ tiếp cận khác nhau về cơ chế giải quyết tranh chấp theo

UNCLOS 1982 và quyền đưa ra tuyên bố đơn phương được đăng tải trên các

trang thông tin uy tín trong và ngoài nước.

Từ những nghiên cứu của các tác giả trước và các văn bản pháp luật

hiện hành liên quan, tác giả sẽ có những nghiên cứu nối tiếp để làm sáng rõ

quy định liên quan đến Điều 287 và 298 Công ước, từ đó rút ra được kết

luận về sự ảnh hưởng của hai loại tuyên bố đó với tình hình giải quyết

tranh chấp hiện nay.

3. Ý nghĩa của đề tài

Tác giả thực hiện đề tài này với mong muốn làm sáng tỏ hơn về mặt

3

bản chất và các hệ quả pháp lý của tuyên bố lựa chọn phương pháp giải quyết

tranh chấp theo Điều 287 và tuyên bố đưa ra các ngoại lệ theo Điều 298 Công

ước Luật Biển. Đồng thời trong quá trình viết bài, tác giả còn muốn nhấn

mạnh đến vai trò và sức ảnh hưởng của hai loại tuyên bố trên đối với quá trình

giải quyết tranh chấp giữa các quốc gia. Hơn nữa, trong quá trình tìm hiểu đề

tài, tác giả có cơ hội tìm hiểu kỹ càng và sâu sắc hơn Luật Biển quốc tế nói

chung và cơ chế giải quyết tranh chấp theo Công ước Luật Biển 1982 nói

riêng, từ đó trang bị cho bản thân những kiến thức cần thiết cho học tập và

công việc sau này.

4. Mục đích nghiên cứu

Khi chọn đề tài này, tác giả hướng đến hai mục tiêu chính, đảm bảo cả

tính lý luận và thực tiễn:

Trên cơ sở thu thập, xử lý và phân tích tài liệu, dữ liệu về các tuyên bố

của các quốc gia liên quan đến cơ chế giải quyết tranh chấp, tác giả muốn

hướng đến mục tiêu tìm hiểu vai trò và giá trị pháp lý của tuyên bố lựa chọn

cơ chế giải quyết tranh chấp và tuyên bố đưa ra các ngoại lệ trong việc xác

định cơ chế giải quyết khi tranh chấp xảy ra.

Đặt trong tình hình Biển Đông đang hết sức căng thẳng, đề tài này còn

mang tính thực tiễn cao. Do đó, tác giả đặt mục tiêu nghiên cứu các thực tiễn

các quốc gia đưa ra tuyên bố để đề ra các khuyến nghị giúp Việt Nam đưa ra

các tuyên bố thể hiện quan điểm của mình đối với cơ chế giải quyết tranh

chấp và đồng thời có cái nhìn thấu đáo và cặn kẽ đối với tuyên bố của các

nước bạn, từ đó giành được những lợi thế trong vấn đề giải quyết tranh chấp.

5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

Luận văn tập trung nghiên cứu vai trò và giá trị pháp lý của tuyên bố

lựa chọn cơ chế giải quyết tranh chấp theo Điều 287 và tuyên bố đưa ra các

ngoại lệ theo Điều 298 Công ước Luật Biển 1982 và từ đó rút ra được mối

4

liên hệ giữa hai tuyên bố đối với thực tiễn tại Biển Đông.

Với tầm quan sát và đúc kết thực tiễn, tác giả tham khảo và phân tích

một số tài liệu chuyên sâu, từ đó đưa ra các kết luận để hoàn thiện luận văn.

6. Phƣơng pháp nghiên cứu

Bài luận này sẽ sử dụng kết hợp hai phương pháp sau:

- Phương pháp diễn dịch và quy nạp

- Phương pháp phân tích và tổng hợp

Trên cơ sở thu thập và tổng hợp thông tin từ các tài liệu chuyên môn,

các bài luận nghiên cứu, tạp chí uy tín để có được cái nhìn tổng quát về vấn

đề. Sau đó tác giả sử dụng phương pháp diễn dịch và phân tích để hiểu rõ hơn

về quy định của Công ước Luật Biển về việc đưa ra tuyên bố và giá trị pháp lý

mà tuyên bố đưa ra, trình bày lại theo quan điểm cá nhân dựa trên nguyên tắc

tôn trọng các nghiên cứu đã có.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần Mở đầu và Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội

dung của bài luận bao gồm 3 chương chính sau đây:

Chƣơng 1: Những vấn đề lý luận về quyền đưa ra tuyên bố trong

luật quốc tế.

Chƣơng 2: Quyền đưa ra tuyên bố theo Điều 287 và Điều 298 của

Công ước Luật Biển 1982.

Chƣơng 3: Thực tiễn áp dụng các quy định về quyền đưa ra tuyên bố ở

5

Biển Đông và một số khuyến nghị đối với Việt Nam.

CHƢƠNG 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN ĐƢA RA TUYÊN BỐ

TRONG LUẬT QUỐC TẾ

1.1. Tuyên bố đơn phƣơng

Căn cứ vào điều 38 khoản 1 Quy chế tòa án quốc tế quy định về nguồn

của Luật quốc tế:

Tòa án, với chức năng là giải quyết phù hợp với luật quốc tế các

vụ tranh chấp được chuyển đến Tòa án, sẽ áp dụng:

a. Các điều ước quốc tế, chung hoặc riêng, đã quy định về những

nguyên tắc được các bên đang tranh chấp thừa nhận;

b. Các tập quán quốc tế như những chứng cứ thực tiễn chung,

được thừa nhận như những quy phạm pháp luật;

c. Nguyên tắc chung của luật được các quốc gia văn minh thừa nhận

d. Với những điều kiện nêu ở điều 59, các án lệ và các học thuyết

của các chuyên gia có chuyên môn cao nhất về luật quốc tế của

các quốc gia khác nhau được coi là phương tiện để xác định các

qui phạm pháp luật.

Trong cuốn: “Các giới hạn của Luật quốc tế và cách tiếp cận bình đẳng giới”

của H.Charlesworth và Chinkin [20] đưa ra:

Danh mục truyền thống những nguồn của Luật quốc tế ở điều 38

đảm bảo sự kiểm soát của một quốc gia đối với những gì được coi

là luật, nhưng là sự phản ánh không đầy đủ hiện thực của luật pháp

quốc tế đương đại. Nhiều hình thức lập pháp quan trọng khác đã

được xác định, ví dụ thông qua nghị quyết của các tổ chức quốc tế

như Đại hội đồng luật quốc tế, thực tiễn hoạt động của các tổ chức

6

quốc tế và các văn bản quy tắc ứng xử quốc tế … .

Liệu một văn bản hoặc một lời nói được thực hiện bởi một người đứng

đầu nhà nước mà không có bất cứ một cam kết, phản hồi hoặc chấp nhận từ

bên đối phương, bên ngoài các cuộc đàm phán chính thức có được coi là

nguồn của luật quốc tế từ đó làm phát sinh nghĩa vụ pháp lý ràng buộc không?

1.1.1. Định nghĩa, hình thức của tuyên bố đơn phương

Theo cuốn Bách khoa toàn thư của Quỹ Max Planck vì Hòa bình và

Luật pháp quốc tế: “Tuyên bố là công cụ mà các chủ thể của luật quốc tế thể

hiện ý chí, ý định hoặc ý kiến của họ khi thực hiện quan hệ quốc tế. Đó là

hình thức biểu hiện của các hành vi đơn phương mà chủ thể của luật quốc tế

thực hiện, nhưng cũng có thể là một phần của thỏa thuận đa phương”. Ví dụ:

Trong trường hợp các quốc gia áp dụng một tuyên bố chung hoặc nếu một

điều ước quy định các tuyên bố đơn phương được thực hiện để xác định các

cam kết của điều ước. Theo cuốn sách Hướng dẫn về Công ước của Liên Hợp

quốc về Quyền của trẻ em (UNCRC) có đưa ra định nghĩa:

Thuật ngữ Tuyên bố được sử dụng trong nhiều bối cảnh quốc tế

khác nhau. Tuyên bố trong Nhân quyền quốc tế không ràng buộc về

mặt pháp lý mà thường được lựa chọn một cách chủ đích để chỉ ra

rằng: các bên không có ý định để tạo ra nghĩa vụ ràng buộc mà chỉ

muốn đưa ra những nguyện vọng nhất định.

Như vậy, quyền đưa ra tuyên bố là một quyền đặc thù thuộc về quyền

năng chủ thể của luật quốc tế, được biểu hiện trong tổng thể quyền và nghĩa

vụ cơ bản theo quy định của pháp luật quốc tế. Các quyền và nghĩa vụ này tồn

tại trên cơ sở chủ quyền quốc gia, thể hiện trên tất cả các lĩnh vực hoạt động

của đời sống xã hội và quá trình tồn tại của các quốc gia đó [9]. Các chủ thể

sẽ thực hiện quyền đưa ra tuyên bố bằng những hành vi đơn phương tuyên bố

ý định của mình về những vấn đề trong quan hệ quốc tế. Quyền này mang ý

7

nghĩa quan trọng thể hiện việc tôn trọng ý kiến của các quốc gia, đồng thời,

nó phù hợp với sự ra đời và phát triển theo chiều hướng ngày càng tiến bộ của

luật quốc tế và có liên hệ mật thiết với nội dung của các nguyên tắc cơ bản

của luật quốc tế hiện đại.

Trong thực tiễn quan hệ quốc tế, các quốc gia vẫn áp dụng quyền đưa

ra tuyên bố đơn phương nhằm đưa ra quan điểm của mình dù cho tồn tại

nhiều học thuyết mâu thuẫn về việc liệu có hay không hiệu lực pháp lý của

các tuyên bố đơn phương. Ủy ban luật pháp quốc tế đã xác định hành vi đơn

phương của quốc gia góp phần nền tảng cho sự phát triển luật pháp quốc tế tại

phiên họp lần thứ 48 năm 1996. Ủy ban nhận định rằng mặc dù quyền này

được phân tích rõ ràng cả trong những văn bản học thuật và chưa từng được

nghiên cứu bởi cơ quan luật pháp quốc tế chính thức nào đồng thời các quốc

gia áp dụng khá nhiều hành vi đơn phương và thực tiễn làm cơ sở cho các

nguyên tắc pháp lý liên quan; một số các phán quyết của ICJ đã xem xét đến

hành vi đơn phương nhưng chỉ mang giá trị tham khảo còn các văn bản điều

ước vẫn là nguồn chủ yếu áp dụng.

Các tuyên bố đơn phương được quy định ít hoặc không có hiệu lực ràng

buộc trong Luật pháp quốc tế trước những năm 1960 nhưng sự tồn tại và hiệu

lực ngày càng được thừa nhận để ICJ có thể tuyên bố vào năm 1974: “Các

quốc gia có thể thừa nhận các tuyên bố đơn phương và đặt niềm tin vào chúng

và yêu cầu rằng những nghĩa vụ phát sinh phải được tôn trọng” [29, tr. 253].

Mặc dù phương pháp thỏa thuận là cách thông thường nhằm phát sinh

quyền và nghĩa vụ trong luật pháp quốc tế, cho phép các quốc gia điều hòa và

cân bằng các lợi ích, các tuyên bố đơn phương của quốc gia vẫn đóng vai trò

quan trọng, là một biện pháp không thể thiếu khi đàm phán không thành trong

quá trình hợp tác trên nhiều lĩnh vực.

Tại các quốc gia, các thỏa thuận, hiệp ước và các công ước quốc tế là

8

một trong số các nguồn nổi bật được quy định trong điều 38 của quy chế tòa

án quốc tế ICJ, dù vậy, các tuyên bố đơn phương không được đề cập và thực

sự đến nay chưa tồn tại một định nghĩa chính xác, thống nhất thế nào là

tuyên bố đơn phương [41]. Tuy nhiên, các quốc gia có thể có được nghĩa vụ,

dựa trên các quan hệ Hiệp ước, thông qua các hành vi không chính thức biểu

hiện ý chí đơn phương [49]. ILC đã đưa ra định nghĩa: “Một tuyên bố đơn

phương biểu hiện rõ ràng bởi một ý chí được xây dựng bởi các quốc gia với

mục đích tạo ra nghĩa vụ pháp lý liên quan đến một hay nhiều quốc gia, các

tổ chức quốc tế, được công nhận bởi quốc gia hay tổ chức quốc tế đó” [23].

Do đó, các hành vi tuyên bố đơn phương là biểu hiện cụ thể ý chí của một

quốc gia [40, tr.270] có khả năng tạo gia hiệu lực pháp lý giống như bất kỳ

hành vi nào khác của nhà nước.

Như vậy, hành vi tuyên bố đơn phương chưa từng được định nghĩa cụ

thể trong các điều ước quốc tế, cũng chưa có tuyên bố đơn phương nào được

nhắc đến với một định nghĩa tổng quát kể cả Công ước Viên năm 1969.

Xét đến hình thức của tuyên bố đơn phương, năm 1974, Tòa án Công lý

quốc tế (ICJ) trong vụ Thử nghiệm hạt nhân (Úc, New Zealand v. Pháp) đã

đưa ra:

Về câu hỏi liên quan đến hình thức, phải được chú ý rằng đây

không phải phạm vi mà luật pháp quốc tế áp đặt bất kì yêu cầu cụ

thể hay nghiêm ngặt. Dù tuyên bố đưa ra bằng miệng hay bằng văn

bản cũng không gây ra sự khác biệt quan trọng, lời tuyên bố đưa ra

trong những trường hợp đặc biệt có thể tạo ra các cam kết quốc tế

về mặt pháp luật mà không đòi hỏi phải được diễn đạt bằng hình

thức văn bản. Do đó vấn đề hình thức không phải là vấn đề quyết

định [29, tr.267-268, đoạn 45, 47, 48].

Thực tiễn đã chứng minh tuyên bố đơn phương tồn tại dưới nhiều dạng

9

khác nhau như: Công hàm, Thông cáo, thư, các phát biểu … như Công hàm

của Phủ Tổng thống gửi đến New Zealand, Thông cáo của Đại Sứ quán Pháp

gửi New Zealand, thư của Tổng thống Pháp gửi Thủ tướng New Zealand và

các phát biểu của Ngoại trưởng Pháp trong buổi họp báo cũng như trước Đại

Hội Đồng. Ngoài ra, số lượng quốc gia tiếp nhận tuyên bố đơn phương

không giới hạn, một tuyên bố có thể gửi đến cộng đồng quốc tế hay chỉ một

vài quốc gia hoặc những đối tượng khác [19, điều 6]. Ví dụ: Trong vụ phân

định biển và các vấn đề về lãnh thổ giữa Qatar và Bahrain, các bức thư trao

đổi giữa Quốc vương Arab và Tiểu vương Qatar, giữa Quốc vương Arab và

Tiểu vương Bahrain đều là các tuyên bố đơn phương được gửi tới một địa chỉ

duy nhất [15, đoạn 31] hoặc ngược lại như Ai Cập gửi các tuyên bố liên quan

đến kênh đào Suez đến không chỉ các quốc gia thành viên của Hội nghị

Constantinople, đến các quốc gia thành viên của Hiệp hội những nước sử dụng

kênh đào Suez mà còn đến cả toàn bộ cộng đồng quốc tế.

1.1.2. Tính chất pháp lý của các tuyên bố đơn phương

1.1.2.1. Các yếu tố cấu thành tuyên bố đơn phương

Các điều kiện cơ bản để một hành vi pháp lý có hiệu lực áp dụng phải

đảm bảo: hành vi đó phải được đưa ra bởi một chủ thể của luật quốc tế, đối

tượng phải hợp pháp và các quy tắc liên quan đến ý chí và hình thức phải

được tuân thủ [47, tr.339]. Đầu tiên, phải phân định rõ ràng tính đơn phương

của hành vi được đề cập, đảm bảo rằng các hành vi duy nhất đang được xem

xét là những hành vi đơn phương về cả hình thức và bản chất [23, tr.230].

Thứ hai, cần phân loại các hành vi đơn phương và vai trò vị trí của các hành

vi này trong Luật pháp quốc tế.

Trong vụ Thử nghiệm hạt nhân, Tòa cho rằng:

Nhận thấy rõ rằng các tuyên bố được thực hiện bằng các hành vi

đơn phương liên quan đến các tình huống pháp lý hoặc thực tiễn

10

có thể tạo ra các nghĩa vụ pháp lý. Các tuyên bố thường rất cụ thể,

khi đó, ý định của Nhà nước đưa ra tuyên bố ràng buộc với điều

khoản trong tuyên bố, trở thành cơ sở pháp lý để Nhà nước thực

hiện phù hợp với Tuyên bố đó. Với loại cam kết này, được đưa ra

công khai, với ý định của quốc gia, mặc dù không được thực hiện

trong bối cảnh đàm phán quốc tế vẫn tạo ra giá trị ràng buộc với

quốc gia đó [29, tr.253, 457]

Trong hệ thống pháp luật Anh- Mỹ, bối cảnh thực hiện hành vi rất quan

trọng. Một lời hứa của một cá nhân có thể hiểu là “một lời đề nghị”, bước đầu

trên con đường dẫn tới một hợp đồng mà Tòa án sẽ thi hành, hoặc như “một

sự chấp nhận”, giống như bước cuối của hợp đồng, hoặc như một “lời mời”

không phải một đề nghị hoặc chấp nhận; hoặc thậm chí là một tội ác khi lời

hứa là một phần của âm mưu thực hiện một hành vi bất hợp pháp [17]. Xét về

góc độ luật pháp quốc tế, các hành vi đơn phương liệu có phát sinh nghĩa vụ

pháp lý quốc tế? Hành vi “công nhận” là một hành vi đơn phương với hệ quả

pháp lý được thảo luận nhiều bởi nó đặt trong bối cảnh đàm phán quốc tế

hoặc có sự tương tác giữa các quốc gia giống như giai đoạn của đàm phán.

Các hành vi đơn phương, giống như các hành vi pháp lý khác, bao gồm

hai yếu tố: tuyên bố pháp lý hoặc cam kết chính thức (công cụ) và thực chất

của nghĩa vụ phát sinh (đàm phán) [33]. Do đó, các hành vi pháp lý có thể

đơn phương về mặt hình thức xuất phát từ ý chí của chủ thể, hoặc chúng có

thể đơn phương về cả hình thức và thực tiễn, không chỉ phát sinh và còn hoạt

động độc lập với bất kỳ chủ thể khác của pháp luật. Một tuyên bố đơn phương

dưới dạng hình thức, chẳng hạn những chủ thể chấp nhận quyền tài phán của

ICJ theo điều 36 của Quy chế tòa án quốc tế, hoặc thông báo cho các bên khác

về một điều ước bảo lưu, có thể song phương và đa phương về bản chất, yêu

cầu mức độ phụ thuộc lẫn nhau trong một văn bản khác. Tuy nhiên, để một

11

hành động trở thành hành động đơn phương tự trị, nó phải độc lập cả về hình

thức và thực chất, như vậy đủ để đạt được hiệu lực pháp lý mà không cần sự

can thiệp về ý chí của bất cứ bên nào [48, tr.112].

Điều khó khăn trong việc phân biệt hành vi pháp lý đơn phương với các

hành vi pháp lý được thực hiện như một phần của thỏa thuận, được minh

chứng rõ trong vụ Tình trạng pháp lý của phía Đông Greenland [44]. Tòa án

Công lý quốc tế thường trực (PICJ) cho rằng Tuyên bố của Bộ trưởng bộ

ngoại giao Nauy (còn gọi là Tuyên bố Ihlen) cho thấy Nauy không gặp khó

khăn gì đối với những dự định của Chính phủ Đan Mạch tại vùng phía Đông

Greenland - thứ đang ràng buộc Nauy “nằm ngoài phạm vi tranh chấp”. Trong

khi đó, nhiều nhà bình luận cho thấy đây không phải là một hành động đơn

phương, hiệu lực ràng buộc của tuyên bố này chỉ đơn giản là các tình huống

đàm phán mà nó đưa ra [50, tr.462].

Mặt khác, các hiệp ước đa phương có thể hình thành như một quá trình

của các hành vi đơn phương, thể hiện sự đồng ý bị ràng buộc như chữ ký, phê

chuẩn hoặc gia nhập [26, tr.209, 210]. Do đó, cần phải duy trì các tiêu chí hợp

lý, đảm bảo rằng tất cả các hành vi của các quốc gia có hiệu lực pháp lý phải

tuân theo chế độ pháp lý và sử dụng phân tích logic để tránh mọi nỗ lực đưa

vào các hành vi chế độ thông thường không thuộc về đó. Nếu hành vi được

phân tích có thể tự tạo ra hiệu lực pháp lý, thì không cần loại trừ khỏi danh

mục các hành vi đơn phương tự trị.

Theo nhà báo, GS.Georg Schwarzenberger cho rằng yếu tố quan trọng

cấu thành hành vi đơn phương là “ sự thiện chí” (Good Faith) xuất phát từ các

“nguyên tắc cơ bản trong luật quốc tế”. Nhưng không có một khái niệm nào

quy định sự tận tâm thiện chí trong một tuyên bố chính sách hay các loại tuyên

bố khác có thể tạo ra nghĩa vụ pháp lý ràng buộc đối với bất kỳ các bên liên

quan. Đáng chú ý, trong vụ Thử nghiệm hạt nhân, ICJ coi sự tận tâm, thiện chí

12

đóng vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ các nghĩa vụ được tạo ra bởi tuyên bố

đơn phương. Tuy nhiên, Tòa có chỉ ra rằng trong một số trường hợp, một bên

có thể hủy bỏ nghĩa vụ mà không vi phạm nguyên tắc tận tâm thiện chí thực

hiện các cam kết quốc tế trừ khi nghĩa vụ phát sinh bởi một tuyên bố đơn

phương bao gồm việc không thu hồi tuyên bố [31, tr.230, đoạn 32]

Một trong những yếu tố tạo nên giá trị pháp lý hành vi đơn phương đó

là nguyên tắc Estoppel. Trong vụ Đền thờ tại Preah Vihear, Tòa đã đề cập:

“Vụ việc không liên quan đến bất kỳ tiền lệ nào của Tuyên bố đơn phương vì

vấn đề quan trọng không phải hiệu lực pháp lý của các hành vi đơn phương

nhưng sự thoái thác các nghĩa vụ pháp lý sẽ phá vỡ trật tự mà ICJ thiết lập.

Trong tình huống này, nguyên tắc “Estoppel công bằng” trong Luật Anh- Mỹ

là yếu tố cần thiết để phát triển các học thuyết và duy trì trật tự pháp lý” [16].

Như vậy, điều kiện căn bản để viện dẫn nguyên tắc Estoppel là bên viện dẫn

phải dựa trên các tuyên bố hoặc hành vi của bên kia để ràng buộc trách nhiệm

pháp lý buộc họ phải thực hiện với những gì họ đã nói hoặc hành động.

1.1.2.2. Phân loại các tuyên bố đơn phương

Trên thực tiễn, tồn tại rất nhiều hành vi đơn phương như: một lời tuyên

chiến hoặc trung lập, công nhận một nhà nước hoặc chính phủ, lời hứa để hành

động hoặc không hành động … nhưng chúng lại tạo ra hệ quả pháp lý rất khác

nhau. Nhiều nghiên cứu đã được thực hiện để hệ thống hóa các hành vi này theo

các hệ quả pháp lý mà chúng tạo ra [18, tr.548]. Một số hành vi đơn phương,

như công nhận, phản đối, thông báo và khước từ, thường được xem là biểu thị

rõ ràng ý chí tự nguyện, trong khi những hành vi khác như lời hứa, khai nhận

và bảo đảm khó khăn hơn để phân loại và vẫn là đặt ra vấn đề tranh luận [41].

Một trong những loại tuyên bố đơn phương phổ biến trong khoa học

Luật quốc tế là vấn đề công nhận quốc gia mới và công nhận chính phủ mới.

Xuất phát từ học thuyết tuyên bố ra đời vào cuối thế kỷ XIX, các quốc gia

13

mới xuất hiện đương nhiên là chủ thể của luật quốc tế do quốc gia đã hình

thành và tồn tại trên thực tế. Việc công nhận hay không công nhận các chủ thể

khác không tạo ra tư cách chủ thể cho quốc gia mới. Do đó, công nhận chỉ là

hành vi tuyên nhận sự tồn tại trên thực tế của các quốc gia mới. Việc đưa ra

tuyên bố công nhận xuất phát từ chủ quyền quốc gia, thể hiện quyền năng chủ

thể của quốc gia đó, gắn bó chặt chẽ với quyền tự quyết dân tộc.

Trên thực tiễn quan hệ quốc tế, mặc dù chưa quy định nào yêu cầu

trách nhiệm quốc gia phải đưa ra tuyên bố công nhận các chủ thể mới của

luật quốc tế, song với nhiều quốc gia, việc phủ nhận sự tồn tại của các quốc

gia mới trái với các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế, như vậy, việc công

nhận này giống như nghĩa vụ bắt buộc của các quốc gia trong hệ thống pháp

luật quốc tế.

Hệ quả pháp lý của quyền đưa ra tuyên bố công nhận sẽ xác nhận sự

tồn tại thực tế của bên được công nhận và thuận lợi cho việc phát triển mối

quan hệ giữa bên công nhận và bên được công nhận; tạo điều kiện cho hai bên

thực hiện quyền và nghĩa vụ pháp lý của mình nhằm thiết lập các quan hệ

ngoại giao, lãnh sự và các quan hệ thương mại khác, giúp quốc gia được công

nhận xác lập tư cách chủ thể của mình thực hiện các quyền hợp tác trong quan

hệ quốc tế.

Sự công nhận trong luật quốc tế hiện đại có tác động rất lớn đến sự

ổn định và việc thiết chế hóa các quyền và nghĩa vụ quốc tế giữa bên công

nhận và bên được công nhận. Sự công nhận quốc tế tạo ra điều kiện thuận

lợi để thiết lập quan hệ giữa các bên trên các lĩnh vực khác nhau của đời

sống quốc tế [9, tr.166]

Trong phân tích của mình về hệ quả pháp lý của các hành vi đơn

phương, luật sư, thẩm phán Gerald Fitzmaurice đã chia tuyên bố đơn phương

ra làm ba loại: Các tuyên bố đơn phương chính thức; Các tuyên bố đơn

14

phương cả về hình thức và thực chất; Các tuyên bố đơn phương đảm bảo về

hình thức nhưng không có thực chất. Loại đầu tiên là các Điều ước quốc tế

với tên gọi là Tuyên bố được các quốc gia áp dụng cho các mục đích khác

ngoài việc xác định hình thức pháp lý hoặc hiệu lực của Tuyên bố. Loại thứ

hai đảm bảo các yếu tố cấu thành một tuyên bố và ý chí của quốc gia đưa ra

tuyên bố. Loại thứ ba ông Gerald đã đề cập đến tình trạng pháp lý của các

tuyên bố theo Điều 36 (2) của Quy chế tòa án quốc tế và viện dẫn vụ kiện

Công ty dầu mỏ giữa Anh-Iran, Tòa đã tuyên rằng việc kiểm tra tuyên bố của

Iran, không phải là kết quả của các cuộc đàm phán hai bên, không được diễn

giải như văn bản của một hiệp ước.

Như vậy, để biểu thị công nhận về ý chí của một tuyên bố đơn phương,

theo đó, “ một chủ thể của luật pháp quốc tế thừa nhận sự tồn tại của một thực

tiễn, một tình huống hoặc một yêu sách và thể hiện ý chí của mình để coi

chúng là hợp pháp” [35]. Có thể thấy trong các trường hợp như vụ Tình trạng

pháp lý Đông Greenland [44], Tuyên bố Ihlen công nhận tình trạng pháp lý

chủ quyền của Đan Mạch đối với Đông Greenland, tồn tại một lời hứa không

can thiệp vào các hoạt động của Đan Mạch trong lãnh thổ này và thậm chí từ

bỏ bất kỳ quyền nào đối với lãnh thổ; Tuyên bố của chính phủ Colombia công

nhận chủ quyền của Venezuela đối với quần đảo Los Monjes có thể được hiểu

tương tự như sự công nhận, lời hứa thực hiện hoặc từ bỏ [28].

Tuyên bố về tính trung lập có thể được phân loại là từ bỏ quyền, nếu

không hứa hẹn hoặc thông báo. Tương tự, sự bảo đảm an ninh do các quốc gia

hạt nhân đưa ra cho các quốc gia phi hạt nhân, nêu rõ ý định không sử dụng

vũ khí hạt nhân chống lại các quốc gia khác, có thể được phân loại là từ bỏ

cũng như hứa hẹn. Qua đó, một nhà nước biểu thị sự phản đối hoặc không

công nhận, một hành động được hình thành bởi sau này, đôi khi được coi là

hệ quả của sự khước từ và không thể phản đối từ bỏ [16].

15

Vấn đề gây tranh cãi về “lời hứa” là một ví dụ khác việc đưa các hành

vi phổ quát vào các phạm trù chính thức. Các trường hợp được mô tả ở trên

đã chứng minh tần suất mà các hành vi đơn phương có thể được tìm thấy để

tạo thành các lời hứa, và còn nhiều ví dụ có thể được thêm vào danh sách

này. Hành vi đa dạng như Luật bảo lãnh của Ý năm 1871, công nhận quyền

bất khả xâm phạm của Giáo hoàng và hứa cho ông quyền cụ thể, Tuyên bố

của Chính phủ Ai Cập trên kênh đào Suez và tuyên bố của chính phủ Pháp

liên quan đến việc ngừng thử hạt nhân khí quyển (vốn là chủ đề của vụ Thử

vũ khí hạt nhân) đã được xem xét để tạo thành lời hứa.

1.1.3. Giá trị pháp lý của tuyên bố đơn phương

Giá trị pháp lý của các tuyên bố đơn phương từ lâu đã tồn tại rất nhiều

quan điểm tranh cãi, mặc dù Tòa án công lý ICJ đã đưa quan điểm rõ ràng về

vấn đề này trong vụ Thử nghiệm hạt nhân (Úc, New Zealand v. Pháp) rằng:

“Giống như chính nguyên tắc Pacta sunt servanda trong luật điều ước quốc tế

dựa trên việc tận tâm thiện chí, điều đó cũng tương tự tính ràng buộc của một

nghĩa vụ pháp lý quốc tế tại các tuyên bố đơn phương” [25, tr.105]. Theo đó,

các tuyên bố đơn phương của Pháp được Tòa nhận định là tạo ra nghĩa vụ

pháp lý ràng buộc quốc gia này mang một số đặc điểm: [29, tr.267-268, đoạn

45, và tr 473 đoạn 48].

- Các tuyên bố của Tổng thống Pháp vì với chức năng là nguyên thủ

quốc gia, các tuyên bố, thông cáo (viết hay nói) là hành động đại diện cho cả

nước Pháp.

- Tuyên bố được đưa ra công khai, với toàn thế giới. Và, liên quan đến

đối tượng của vụ tranh chấp (các vụ thử hạt nhân).

- Nội dung và hoàn cảnh đưa ra tuyên bố là trong quá trình Tòa đang

xem xét, Pháp đưa ra tuyên bố với nội dung sẽ không thử hạt nhận trên không

trung trên biển thể hiện ý định cam kết của Pháp.

16

Từ đó, ta có thể thấy rằng các tuyên bố đơn phương có thể tạo ra một

nghĩa vụ pháp lý và không cần thiết có sự chấp nhận của bất kỳ quốc gia nào

khác. Tuy nhiên không phải tất cả tuyên bố đơn phương đều ràng buộc nghĩa

vụ pháp lý. Việc xác định một tuyên bố có hay không giá trị pháp lý phụ

thuộc hoàn toàn vào ý định của quốc gia đưa ra tuyên bố. Trong vụ Tranh

chấp biên giới giữa Burkina Faso v. Mali, Tòa án đã cẩn thận chỉ ra rằng “tất

cả phụ thuộc vào ý định Quốc gia được bàn đến” [21, tr.573, đoạn 39].

Yếu tố đầu tiên xét đến sự ràng buộc của tuyên bố đối với quốc gia đó

là thẩm quyền đưa ra tuyên bố. Một tuyên bố đơn phương chỉ có hiệu lực ràng

buộc quốc gia (vào các vấn đề quốc tế) khi tuyên bố này phát xuất từ một

quan chức nhà nước có thẩm quyền trong phạm vi đó. Với chức năng người

đứng đầu nhà nước, chính phủ như: Chủ tịch nước, thủ tướng và bộ trưởng bộ

ngoại giao có quyền để ra một tuyên bố như vậy. Các cá nhân khác đại diện

cho quốc gia trong những lãnh vực nhất định có thể được phép gắn kết (quốc

gia vào các vấn đề thuộc lãnh vực quốc tế), qua tuyên bố của họ, trong các

vấn đề thuộc thẩm quyền của họ. Một tuyên bố đơn phương nếu có nội dung

mâu thuẫn với một nguyên tắc bắt buộc (tiêu chuẩn) của luật quốc tế thì nó

không có giá trị [13]. Trong phán quyết về quyền tài phán và khả năng chấp

nhận trong vụ Các hoạt động vũ trang trên lãnh thổ Congo, Toà ICJ đã lưu ý,

đề cập đến các phong tục tập quán tương tự trong luật điều ước: “theo đúng

những án lệ thích hợp (vụ Thử nghiệm hạt nhân Úc v. Pháp), (Ứng dụng Công

ước về ngăn ngừa và trừng phạt tội phạm diệt chủng Bosnia và Herzegovina

v.Yugoslavina), (Lệnh bắt giam ngày 11 tháng 4 năm 2000 Congo v. Bỉ), (Tình

trạng pháp lý của Đông Greenland Đan Mạch v. Nauy), thì người đứng đầu

Nhà nước, đứng đầu Chính phủ và Bộ trưởng Bộ Ngoại giao được coi là đại

diện cho quốc gia bởi nhờ thực hiện chức năng của họ, bao gồm việc thay mặt

quốc gia đưa ra các tuyên bố đơn phương có trong đó hiệu lực của cam kết

17

quốc tế” [14, đoạn 46].

Hơn nữa, trong phán quyết ngày 3 tháng 2 năm 2006, toà ICJ đã lưu ý rằng:

Với sự tần số phát triển của lĩnh vực quan hệ quốc tế hiện đại đã

cho phép những người khác (không phải người đứng đầu Nhà nước,

đứng đầu Chính phủ hay Bộ trưởng Bộ Ngoại giao) đại diện cho

quốc gia trong một lĩnh vực cụ thể có thể được quốc gia uỷ quyền

để tạo ra những tuyên bố có tính ràng buộc về các vấn đề thuộc lĩnh

vực của họ. Điều này có thể đúng, ví dụ các bộ trưởng bộ ban

ngành sử dụng quyền lực đối với các vấn đề thuộc thẩm quyền của

họ trong vấn đề đối ngoại [14, đoạn 47].

Ngoài yếu tố thẩm quyền của người đưa ra tuyên bố, nội dung của tuyên

bố cũng là một yếu tố quyết định đến tính ràng buộc của tuyên bố đó. Một

tuyên bố đơn phương chỉ có khả năng tạo nên ràng buộc đối với quốc gia đưa

ra tuyên bố khi tuyên bố đó đưa ra các điều khoản rõ ràng và cụ thể. Trong

trường hợp có sự nghi ngờ phạm vi của các nghĩa vụ phát sinh từ một tuyên bố,

thì các nghĩa vụ phải được giải thích một cách hạn chế. Để giải thích nội dung

của các nghĩa vụ đó, phải ưu tiên trước nhất nội dung của tuyên bố, cùng với đó

là hoàn cảnh và trường hợp tuyên bố được thể hiện [22, Điều 7].

Trong bản án vụ Thử nghiệm hạt nhân, Tòa đã nhấn mạnh một tuyên

bố đơn phương chỉ có thể tạo ra nghĩa vụ pháp lý đối với quốc gia đưa ra

tuyên bố khi nó đưa ra các điều khoản rõ ràng và cụ thể [29, tr.267, đoạn 43;

tr.269, đoạn 51, và tr.472 đoạn 46; tr.474, đoạn 53]. Bản chất và giới hạn

chính xác của nghĩa vụ mà quốc gia cam kết khi đó sẽ dựa vào từ ngữ đã được

đưa ra công khai để xác định.

Xem xét trong vụ Phân định biển và các vấn đề về lãnh thổ giữa Qatar

v. Bahrain, bằng cách phân tích nội dung các bức thư trao đổi giữa Quốc

vương Arab và Tiểu vương Qatar, giữa Quốc vương Arab và Tiểu vương

18

Bahrain, toà đã chỉ ra những tuyên bố trong các bức thư trao đổi đã tạo nên

cam kết ràng buộc Qatar và Bahrain để trình các vấn đề tranh chấp lên Toà và

với sự hỗ trợ của Arab trong vấn đề xem xét cách thức Toà được trao quyền

phù hợp với cam kết được đưa ra [15, đoạn 31].

Vậy để xem xét đến khả năng ràng buộc pháp lý của một tuyên bố đơn

phương, ta chủ yếu xem xét đến các yếu tố thẩm quyền của người đưa ra

tuyên bố và nội dung của tuyên bố. Tuy vậy cần phải lưu ý một tuyên bố đơn

phương mâu thuẫn với một nguyên tắc bắt buộc của luật quốc tế thì không có

giá trị [19, điều 8].

Như vậy, từ ngữ trong Tuyên bố đơn phương sẽ xác định nghĩa vụ mà

quốc gia cam kết. Khi quốc gia đã đưa ra một tuyên bố có trong đó cam kết

quốc tế, Quốc gia về mặt pháp lý phải thực hiện các hành động phù hợp với

nội dung tuyên bố đã công khai. Trong vụ Thử nghiệm hạt nhân, Tổng thống

Pháp đã thể hiện quan điểm sẽ chấm dứt các cuộc thử nghiệm hạt nhân trong

khí quyển ở Nam Thái Bình Dương qua các tuyên bố từ trước, Toà đã lập

luận rằng các tuyên bố của Pháp có sự ràng buộc pháp lý do đó Pháp phải

chấm dứt các hành động thử nghiệm hạt nhân trong khí quyển ở Nam Thái

bình dương, và vì Pháp đã thực sự chấm dứt các vụ thử nghiệm, Toà bác bỏ

các đơn kiện của Úc và New Zealand do đối tượng của vụ kiện (các cuộc thử

nghiệm hạt nhân) đã không còn tồn tại [29, tr.476 đoạn 59].

Không chỉ tạo nên ràng buộc pháp lý đơn thuần, trong một số trường

hợp, những tuyên bố đơn phương còn tạo nên điều ước giữa các quốc gia đưa

ra tuyên bố. Trong vụ Phân định biển và các vấn đề về lãnh thổ giữa Qatar và

Bahrain, Các bức thư trao đổi giữa Quốc vương Arab với Quốc vương Qatar

và giữa Quốc vương Arab với Quốc vương Bahrain vào năm 1987 có nội

dung tuyên bố các điều sau:

(1) Các tranh chấp sẽ được đưa ra Toà án Công lý quốc tế (ICJ)

19

(2) Thành lập một uỷ ban ba bên nhằm mục đích đưa vụ việc lên ICJ

(3) Quốc vương Arab sẽ giữ vai trò trung gian hoà giải

Các tuyên bố nêu trên hoàn toàn có đủ điều kiện: do người có thẩm

quyền đại diện quốc gia (Qatar và Bahrain là hai quốc gia theo chế độ quân

chủ chuyên chế đứng đầu Nhà nước là Quốc vương) đưa ra công khai với nội

dung rõ ràng đã tạo nên những ràng buộc pháp lý đối với Qatar và Bahrain.

Đồng thời đến tháng 12 năm 1990, tại cuộc họp thường niên Hội đồng hợp tác

các quốc gia Arab vùng Vịnh, Qatar đã tuyên bố chấp thuận Bản Công thức

Bahrain (do người kế vị của Bahrain gửi đến người kế vị của Qatar năm 1988).

Biên bản cuộc họp ghi lại các tuyên bố kể trên cùng với các bức thư trao đổi

năm 1987 được Toà kết luận là đã cấu thành thoả thuận quốc tế (Điều ước quốc

tế) ràng buộc quyền và nghĩa vụ của Qatar và Bahrain [15, đoạn 31]. Điều này

phù hợp với Điều 2 khoản 1 (a) Công ước Viên 1969:

Thuật ngữ “điều ước” dùng để chỉ một hiệp định quốc tế được kí

kết bằng văn bản giữa các quốc gia và được pháp luật quốc tế điều

chỉnh, dù được ghi nhận trong một văn kiện duy nhất hoặc trong

hai hay nhiều văn kiện có quan hệ với nhau và bất kể tên gọi riêng

của nó là gì.

Hơn nữa về cơ bản, các nghĩa vụ pháp lý của tuyên bố đơn phương

được thực hiện dựa trên nguyên tắc thiện chí, cũng như nguyên tắc pacta sunt

servanda của luật điều ước quốc tế, do đó các quốc gia liên quan có quyền

yêu cầu các nghĩa vụ được tạo ra từ các tuyên bố phải được tôn trọng. Vì vậy

có thể kết luận, các tuyên bố được đưa ra sẽ ràng buộc các quốc gia phải hành

động phù hợp với nội dung của tuyên bố.

1.2. Tuyên bố bảo lƣu

1.2.1. Định nghĩa, hình thức của tuyên bố bảo lưu

20

Trên thực tế luật pháp quốc tế có rất nhiều định nghĩa về chế định bảo

lưu phản ánh những luồng quan điểm và thực tiễn áp dụng bảo lưu khác nhau.

Tuy nhiên, khái niệm bảo lưu chính thức được đưa ra khi lần đầu tiên được

luật hóa trong Công ước Viên năm 1969 về Luật Điều ước quốc tế, theo đó tại

Điều 2 mục d đã định nghĩa về bảo lưu như sau:

Dùng để chỉ một tuyên bố đơn phương, bất kể cách viết hoặc tên

gọi như thế nào, của một quốc gia đưa ra khi ký kết, phê chuẩn,

chấp thuận, phê duyệt hoặc gia nhập một điều ước, nhằm qua đó

loại bỏ hoặc sửa đổi hiệu lực pháp lý của một số quy định của điều

ước trong việc áp dụng chúng đối với quốc gia đó.

Đây được xem là cách hiểu về bảo lưu được thực tiễn quốc tế thừa nhận

rộng rãi nhất.

Như vậy, theo định nghĩa nêu trên, về bản chất, bảo lưu điều ước quốc

tế là tuyên bố đơn phương của chủ thể luật quốc tế khi tham gia vào quan hệ

điều ước nhằm mục đích loại trừ hoặc thay đổi hiệu lực của một hoặc một số

điều khoản của điều ước quốc tế đối với chủ thể đó và về thời hạn, chủ thể

của luật quốc tế không thể đưa ra tuyên bố bảo lưu sau khi đã chấp nhận

điều ước quốc tế, bảo lưu phải được đưa ra tại thời điểm điều ước ảnh hưởng

đến chủ thể.

Cần phân biệt rõ bảo lưu với các tuyên bố đơn phương khác chỉ nhằm

giải thích hay thể hiện quan điểm của quốc gia với một vấn đề. Cơ sở để xác

định một tuyên bố đơn phương có phải là bảo lưu hay không chính là việc

tuyên bố đó có làm thay đổi hiệu lực của một hay một vài quy định của điều

ước đối với quốc gia đưa ra tuyên bố đó hay không. Thêm vào đó, về mặt

hình thức, bảo lưu bắt buộc phải được thể hiện dưới dạng văn bản theo quy

định tại Điều 23 khoản 1 Công ước Viên 1969, trong khi đó, như đã nêu ở

21

trên, một tuyên bố đơn phương có thể được đưa ra dưới dạng nói hay viết.

1.2.2. Tính chất pháp lý của tuyên bố bảo lưu

1.2.2.1. Điều kiện áp dụng của tuyên bố bảo lưu

Theo Điều 19 Công ước Viên 1969 thì quốc gia có quyền đưa ra bảo

lưu trừ các trường hợp:

- Điều ước đó cấm bảo lưu hoặc quy định bắt buộc các quốc gia phải

thực hiện đầy đủ nội dung điều khoản của điều ước nếu muốn trở thành thành

viên của điều ước quốc tế đó.

Ví dụ: Điều 209 Công ước Luật Biển 1982 quy định “Công ước không

chấp nhận bảo lưu, cũng không chấp nhận các ngoại lệ ngoài những điều đã

được các điều khác của Công ước cho phép một cách rõ ràng”.

- Bảo lưu những điều khoản khác ngoài những điều khoản mà điều ước

quốc tế đó cho phép bảo lưu. Trong trường hợp này, quốc gia không thể sử

dụng bảo lưu để thay đổi lực những điều khoản khác ngoài những điều khoản

điều ước cho phép.

Ví dụ: Điều 98 Công ước 1980 của Liên Hợp Quốc về mua bán hàng

hóa quốc tế quy định “Không một bảo lưu nào được cho phép ngoài các bảo

lưu được cho phép bởi công ước này”.

- Những bảo lưu mà không phù hợp với đối tượng và mục đích của

điều ước.

Ví dụ: Các tiểu vương quốc Arab thống nhất đã thực hiện bảo lưu với

Điều 2 (f), 9, 15, 21 (1) trong Công ước về việc xoá bỏ mọi hình thức phân

biệt đối với phụ nữ năm 2006. Chính phủ Áo đã kiểm tra và nhận thấy nếu

các bảo lưu nói trên được thực hiện sẽ gây ra sự phân biệt đối xử với phụ nữ

trong vấn đề tình dục, do đó Chính phủ Áo đã phản đối các bảo lưu kể trên.

Tuy nhiên quy định này còn gây ra những tranh cãi xung quanh quan

điểm thế nào là “không phù hợp với đối tượng và mục đích của điều ước”,

22

dẫn đến tình trạng quốc gia bảo lưu cho rằng bảo lưu của họ là phù hợp với

đối tượng và mục đích của điều ước và đúng pháp luật còn các quốc gia khác

cùng điều ước thì không chấp nhận cách biện luận đó.

Ngoài các quy định nêu trên thì căn cứ trên thực tiễn bảo lưu, các tuyên

bố bảo lưu chỉ được đưa ra đối với điều ước đa phương, còn với điều ước

song phương, không thể đưa ra tuyên bố bảo lưu đối với các điều khoản của

điều ước. Về bản chất, điều ước hình thành từ việc đàm phán, thoả thuận của

các bên. Đối với điều ước đa phương, số lượng các quốc gia thành viên lớn

dẫn đến hệ quả không thể thoả mãn quan điểm và phù hợp với lợi ích riêng

của tất cả các thành viên, do đó bảo lưu là một nhu cầu tất yếu. Ngược lại, các

điều ước song phương chỉ với hai thành viên nên chỉ có thể được ký kết và

thực hiện dựa trên sự đồng thuận của hai bên tham gia. Nếu một trong hai bên

không đồng ý hoặc không đủ điều kiện thực hiện một hay nhiều điều khoản

thì hai bên sẽ tiến hành đàm phán, thương lượng để đi đến thống nhất.

1.2.2.2. Phân loại tuyên bố bảo lưu

Liên quan đến mục đích áp dụng của các Điều ước quốc tế, tuyên bố

bảo lưu có thể chia làm hai loại. Cụ thể, loại đầu tiên, các tuyên bố đơn

phương được đưa ra bởi một quốc gia nhằm thể hiện ý chí của mình về việc

loại trừ hoặc thay đổi hiệu lực của một hay một số điều khoản của điều ước

trong vấn đề áp dụng đối với chính thành viên đó. Mục đích của bảo lưu là

“giải thoát” cho bên ký kết khỏi những nghĩa vụ thực thi của một số điều

khoản mà điều ước đã đặt ra. Bảo lưu không nhằm đưa các điều khoản bị

bảo lưu ra khỏi nội dung của điều ước mà chỉ làm thay đổi quan hệ giữa

các thành viên của điều ước trong phạm vi bảo lưu [6]. Ngoài ra, loại thứ

hai của tuyên bố bảo lưu đối với một số tuyên bố mặc dù không hướng đến

một hay một số điều khoản cụ thể của điều ước nhưng cũng sẽ được coi là

23

bảo lưu [22] nếu như:

- Nhằm mục đích giới hạn các nghĩa vụ mà điều ước quốc tế xác lập đối

với các thành viên.

Khi gia nhập Công ước về ngăn ngừa và trừng trị tội diệt chủng năm

1948, Hoa Kỳ đưa ra bảo lưu: “… Không có điều khoản nào trong Công ước

yêu cầu hoặc cho phép Hoa Kỳ tiến hành các hoạt động lập pháp hoặc bất kỳ

hoạt động nào khác bị cấm theo Hiến pháp của Hoa Kỳ…”. Theo tuyên bố

này, Hoa Kỳ sẽ không thực hiện nghĩa vụ thành viên chiểu theo Công ước nếu

như việc thực hiện nghĩa vụ đó trái với Hiến pháp Hoa Kỳ.

- Nhằm mục đích thực hiện nghĩa vụ mà điều ước quốc tế xác lập đối

với các thành viên theo các phương thức khác.

Ví dụ: Khi gia nhập Công ước về người tị nạn năm 1951, Georgia đưa

ra bảo lưu: “…trước khi hoàn toàn khôi phục sự toàn vẹn lãnh thổ của

Georgia, Công ước này chỉ áp dụng đối với lãnh thổ nơi thực thi thẩm quyền

tài phán của Georgia".

Mặc dù cả hai loại bảo lưu này rất giống nhau nhưng mục đích được

hướng tới là hoàn toàn khác biệt. Trong trường hợp đầu tiên nhằm loại bỏ một

phần nghĩa vụ phát sinh từ điều ước, trong trường hợp thứ hai mục tiêu nhằm

thay đổi hệ quả pháp lý phát sinh trong phạm vi của điều ước đó.

Tùy thuộc vào thời điểm, tuyên bố bảo lưu có thể được phân chia ra

làm các loại phụ thuộc vào từng giai đoạn, cụ thể như bảo lưu vào thời điểm

ký, bảo lưu thời điểm phê chuẩn, chấp thuận, phê duyệt hay bảo lưu trong giai

đoạn gia nhập điều ước quốc tế [30]. Trong một số trường hợp, bảo lưu điều

ước có thể được thực hiện sớm hơn, ngay khi đàm phán tại hội nghị hoặc khi

soạn thảo, thông qua điều ước quốc tế. Trong các trường hợp này, bảo lưu

thường được ghi nhận trong biên bản của kỳ họp. Những bảo lưu như vậy

chưa làm phát sinh hệ quả pháp lý. Một bảo lưu được thành viên đưa ra trước

24

thời điểm thực hiện các hành vi ràng buộc với điều ước quốc tế sẽ phải được

chính thức khẳng định lại khi thành viên biểu thị đồng ý chịu sự ràng buộc

của điều ước. Do đó, tuyên bố bảo lưu tại thời điểm ký kết dễ dàng để chấp

thuận hơn, bởi tại thời điểm này, các bên nhận thức rõ quyền và nghĩa vụ ràng

buộc trong khi tại thời điểm phê chuẩn, rất khó cho các bên có cơ hội sửa đổi

các điều khoản của điều ước. Tuy nhiên, tuyên bố bảo lưu khi phê chuẩn cũng

có thể tiến hành trong trường hợp các quốc gia ký thông báo cho tất cả các

bên tham gia điều ước về việc lập hồ sơ bảo lưu đó và không có quốc gia nào

đưa ra phản đối [38, tr.12].

Có thể phân loại giữa bảo lưu điều ước quốc tế song phương và điều

ước quốc tế đa phương. Bảo lưu điều ước quốc tế song phương có thể được

thực hiện trong quá trình phê chuẩn, vào thời điểm khi các đại biểu quốc hội

thảo luận điều ước và đưa ra các đề nghị về sự thay đổi một hoặc một vài điều

khoản trong điều ước. Trong trường hợp này, không thể được gọi là bảo lưu,

Ủy ban luật pháp quốc tế của Liên Hợp quốc cho rằng một tuyên bố của nhà

nước liên quan đến một điều ước song phương được thực hiện trước khi Điều

ước có hiệu lực, bất kể việc xây dựng đó là gì, đòi hỏi phải có sửa đổi hiệu lực

pháp lý các điều khoản, không thể coi là bảo lưu [22]. Đối với các điều ước

song phương, khi một trong các bên không chấp nhận điều ước hoặc một số

điều khoản trong điều ước sau đó không phát sinh thỏa thuận [34] trong

trường hợp này sẽ yêu cầu mở lại các cuộc đàm phán để sửa lại các điều

khoản của thỏa thuận nếu không điều ước sẽ không được ký kết. Trong khi

đó, đối với các điều ước quốc tế đa phương, nhu cầu bảo lưu bắt nguồn từ bản

chất và quá trình hình thành nên chúng. Thông thường, các điều ước quốc tế

đa phương được hình thành bởi một số lượng lớn các quốc gia, đại diện cho

các hệ thống pháp luật khác nhau, các khu vực địa lý khác nhau và các chính

sách khác nhau, vì vậy các quốc gia có thể không đồng ý với các quy định của

25

điều ước vì có thể mâu thuẫn với chính sách đối nội của họ. Bảo lưu tại thời

điểm gia nhập là phổ biến và đã được áp dụng nhiều trong các điều ước quốc

tế đa phương.

1.2.3. Hệ quả pháp lý của tuyên bố bảo lưu

Về phương diện pháp lý quốc tế, bảo lưu là quyền của chủ thể của

luật quốc tế, tuy nhiên quyền này trên thực tế là một quyền bị hạn chế.

Theo Điều 20 Công ước Viên 1969 quy định về vấn đề chấp thuận và bác

bỏ bảo lưu như sau:

- Trường hợp điều ước quốc tế đã quy định điều khoản nào được phép

bảo lưu thì quốc gia đưa ra bảo lưu đối với điều khoản đó không cần sự chấp

thuận từ các quốc gia ký kết. Lúc này, quốc gia đưa ra tuyên bố bảo lưu sẽ

không còn bị ràng buộc bởi những điều khoản mà quốc gia đó đã bảo lưu.

- Trường hợp số lượng thành viên tham gia đàm phán có hạn hoặc việc

thi hành toàn bộ điều ước là điều kiện dẫn đến sự chấp nhận ràng buộc của

các bên đối với điều ước quốc tế thì một quốc gia muốn bảo lưu điều khoản

nào cũng cần sự chấp thuận của tất cả các thành viên tham gia đàm phán.

- Trường hợp điều ước là một văn kiện về việc thành lập một tổ chức

quốc tế, thì một bảo lưu đòi hỏi phải có sự chấp thuận của cơ quan có thẩm

quyền của tổ chức này, trừ khi điều ước có quy định khác.

- Các trường hợp bảo lưu còn lại, khi một tuyên bố bảo lưu hợp pháp

được đưa ra, việc các bên tham gia chấp thuận hay phản đối bảo lưu đó sẽ dẫn

đến những hậu quả pháp lý nhất định, theo đó:

+ Quan hệ giữa quốc gia bảo lưu và quốc gia chấp nhận bảo lưu được

thực hiện bằng các điều ước quốc tế, trừ các điều khoản liên quan đến bảo lưu.

+ Quan hệ giữa quốc gia bảo lưu và quốc gia phản đối bảo lưu vẫn

được điều chỉnh bằng điều ước quốc tế đó, không loại trừ các điều khoản bảo

lưu không được chấp nhận. Tuy nhiên, cũng có thể quốc gia bảo lưu và quốc

26

gia phản đối bảo lưu không còn tồn tại quan hệ điều ước. Điều này phụ thuộc

vào quan điểm của quốc gia phản đối bảo lưu có hay không ý định ngăn cản

quốc gia bảo lưu trở thành thành viên của điều ước đó.

+ Trường hợp các quốc gia im lặng, không đưa ra phản đối bảo lưu sau

12 tháng kể từ ngày nhận được thông báo về bảo lưu đó hoặc ngày quốc gia

này biểu thị sự đồng ý chịu sự ràng buộc của điều ước, nếu hành vi này xảy ra

sau ngày bảo lưu được đề ra thì được coi như chấp nhận bảo lưu.

Như vậy, về cơ bản, bảo lưu không làm thay đổi tính chất chung của

các quyền và nghĩa vụ mà điều ước quy định, đồng thời bảo lưu cũng không

làm ảnh hưởng đến quan hệ điều ước giữa các quốc gia khác với nhau.

1.2.4. Phân biệt Tuyên bố bảo lưu với một số tuyên bố đơn phương

khác của quốc gia

Tuyên bố bảo lưu là một tuyên bố đơn phương được thực hiện bởi các

chủ thể tham gia vào quan hệ điều ước nhằm phát sinh và thay đổi hiệu lực

pháp lý. Tuy nhiên, trong quan hệ quốc tế, cần phân biệt tuyên bố bảo lưu với

một số loại tuyên bố thể hiện quan điểm và sự ràng buộc của quốc gia đối với

điều ước quốc tế. [8]

1.2.4.1. Tuyên bố bảo lưu và tuyên bố giải thích

Giải thích điều ước nhằm mục đích sáng tỏ nội dung của điều ước

giúp các bên tham gia quan hệ điều ước thực hiện đầy đủ và chính xác tránh

sự hiểu lầm và mâu thuẫn phát sinh trong quá trình thực hiện điều ước. Đối

tượng giải thích là các điều ước quốc tế mà các bên tham gia ký kết và các

văn bản phụ lục kèm theo nếu có. Các chủ thể quan hệ điều ước sẽ đưa ra

tuyên bố giải thích liên quan đến điều ước mà các bên thông qua. Ủy ban

Luật pháp quốc tế của Liên hợp quốc (ILC) đã lần đầu đưa ra khái niệm về

tuyên bố giải thích:

Tuyên bố giải thích là một tuyên bố đơn phương, bất kể tên gọi, được

27

một Quốc gia hay một tổ chức quốc tế đưa ra, thông qua tuyên bố đó Quốc

gia hay tổ chức này muốn cụ thể hóa hay làm rõ ý nghĩa và phạm vi của một

điều ước hoặc một số quy định của điều ước [22]

Như vậy, các bên tham gia ký kết sẽ có thẩm quyền giải thích điều ước

quốc tế và đưa ra tuyên bố thể hiện quan điểm của mình về điều ước đó. Do

đó, việc giải thích thể hiện ý chí đơn phương của quốc gia và hệ quả pháp lý

không ràng buộc cho các bên còn lại. Trong trường hợp các bên tham gia ký

kết quan hệ điều ước đó chấp thuận với phần giải thích của bên kia, tuyên bố

sẽ giá trị chung cho các bên.

Về cơ bản, tuyên bố bảo lưu và tuyên bố giải thích đều có những điểm

giống nhau như đều là tuyên bố đơn phương, quyền năng đưa ra tuyên bố xuất

phát từ chủ thể tham gia ký kết điều ước và điều ước thể hiện ý chí của các

thành viên đối với một hay một số điều khoản trong điều ước.

Rất dễ nhầm lẫn giữa hai loại tuyên bố này nếu không chú ý đến điểm

khác biệt là căn cứ mục đích đưa ra tuyên bố. Tuyên bố bảo lưu nhằm loại trừ

việc áp dụng một hay một số điều khoản của điều ước còn tuyên bố giải thích

làm sáng tỏ ý nghĩa nội hàm của điều ước đó [22]. Tuy nhiên trên thực tiễn

không phải quốc gia nào cũng rành mạch trong việc phân biệt hai loại tuyên

bố này khi nhiều quốc gia gọi chung là tuyên bố hoặc tuyên bố giải thích

nhưng nội dung lại hướng tới bảo lưu để thay đội hiệu lực pháp lý của một

hay một số điều khoản. [8] Như vậy để phân biết rõ ràng hai loại tuyên bố này

cần xét đến phần giải thích các thật ngữ trong điều ước thể hiện ý chí của các

chủ thể đặt trong những hoàn cảnh nhất định từ đó làm sáng tỏ mục đích và ý

nghĩa của tuyên bố đơn phương.

1.2.4.2. Tuyên bố bảo lưu và tuyên bố không công nhận

Trong thực tiễn quan hệ quốc tế, các quốc gia sẽ thể hiện quan điểm

chính trị của mình dưới hình thức công nhận hoặc không công nhận quốc gia

28

hoặc chính phủ mới thành lập khi có sự xuất hiện quốc gia mới hoặc chính

phủ mới. Về mặt pháp lý quốc tế, công nhận được hiểu là hành vi chính trị -

pháp lý, dựa trên ý chí độc lập của quốc gia nhằm thể hiện thái độ của mình

đối với đường lối, chính sách, chế độ chính trị - kinh tế - xã hội của bên được

công nhận và xác lập quan hệ quốc tế bình thường với bên được công nhận.

Như vậy, công nhận là hành vi thể hiện quan điểm chính trị - pháp lý của

một quốc gia, thể hiện chủ quyền quốc gia xuất phát từ ý chí và sự tự nguyện

của các chủ thể của luật quốc tế. Hơn nữa, công nhận là một quan hệ pháp luật

quốc tế phát sinh giữa bên công nhận và bên được thiết lập dựa trên ý chí và sự

chủ động của bên công nhận. Về bản chất, công nhận quốc tế là hành vi pháp lý

đặc biệt nhằm duy trì và thực hiện các quan hệ pháp luật quốc tế giữa các quốc

gia và các chủ thế khác của luật quốc tế. Các thể loại công nhận cơ bản bao

gồm công nhận quốc gia mới và công nhận chính phủ mới [9]. Sau hành vi

công nhận, các bện thường thiết lập quan hệ trong lĩnh vực nhất định.

Tuy nhiên, trong quan hệ điều ước, không phải lúc nào các thành viên

tham gia cũng mặc nhiên công nhận quốc gia thành viên khác bằng cách đưa

ra tuyên bố bảo lưu hoặc tuyên bố đơn phương đề cập đến việc không công

nhận này. Về cơ bản, tuyên bố bảo lưu và tuyên bố không công nhận đều là

một tuyên bố đơn phương thể hiện quan điểm của một quốc gia với một vấn

đề nhất định nhằm thay đổi hiệu lực của một hay một số điều khoản của điều

ước quốc tế. Tuy nhiên, mục đích của tuyên bố không công nhận quốc gia

muốn loại trừ toàn bộ tư cách chủ thể của thành viên tham gia vào quan hệ

điều ước, hoàn toàn tùy thuộc vào điều kiện lịch sử, hoàn cảnh cụ thể, vào

quan hệ giữa hai bên và đặc biệt dựa vào ý chí của bên đưa ra tuyên bố không

công nhận [8].

1.2.4.3. Tuyên bố bảo lưu và tuyên bố đơn phương nhằm chấm dứt, rút

khỏi hay tạm đình chỉ điều ước quốc tế

29

Các thành viên của điều ước có thế đưa ra tuyên bố đơn phương nhằm

mục đích chấm dứt, rút khỏi hay tạm đình chỉ điều ước quốc tế được quy định

tại phần V của Công ước Viên năm 1969 về Luật điều ước quốc tế. Tuyên bố

này cũng giống như tuyên bố bảo lưu đều thể thể ý chí của chủ thể tham gia

vào quan hệ điều ước nhưng chúng tạo ra những hệ quả pháp lý khác nhau.

Điểm khác biệt giữa hai loại tuyên bố này là thời điểm điều ước quốc tế

phát sinh hiệu lực. Tuyên bố đơn phương nhằm mục đích chấm dứt, rút khỏi

hay tạm đình chỉ điều ước quốc tế được đưa ra khi điều ước quốc tế đã phát

sinh hiệu lực còn tuyên bố bảo lưu có thể đưa ra vào thời điểm điều ước quốc

tế chưa phát sinh hiệu lực [8].

Về hệ quả pháp lý với tuyên bố, đối với bảo lưu điều ước quốc tế, sau

khi chấp nhận bảo lưu, quan hệ điều ước giữa các bên vẫn được duy trì và

các điều khoản nằm ngoài phạm vi bảo lưu vẫn được áp dụng trong khi đó,

Tuyên bố đơn phương nhằm mục đích chấm dứt, rút khỏi hay tạm đình chỉ

điều ước quốc tế sẽ loại trừ hoặc hủy bỏ toàn bộ hiệu lực của điều ước quốc

tế đối với các chủ thể tham gia quan hệ điều ước. Việc này khiến chấm dứt

(tạm đình chỉ) quan hệ điều ước giữa thành viên đưa ra tuyên bố với tất cả

30

các thành viên khác.

Kết luận chƣơng 1

Như vậy, Tuyên bố đơn phương được đưa ra trong điều kiện người có

thẩm quyền đại diện cho một quốc gia thực hiện việc quyên bố, đồng thời,

quốc gia đó phải hành động phù hợp với nội dung của tuyên bố. Từ đó, sẽ tạo

nên giá trị pháp lý ràng buộc đối với quốc gia đó.

Tuyên bố bảo lưu là một hình thức đặc biệt của tuyên bố đơn phương

cho phép quốc gia đưa ra bảo lưu thể hiện ý chí riêng nhằm loại trừ hoặc

thay đổi hiệu lực pháp lý của một hay một số điều khoản cụ thể của điều

ước khi áp dụng.

Dựa theo cơ chế giải quyết tranh chấp của Công ước Luật Biển 1982,

quy định tại Điều 287 và Điều 298 của công ước sẽ thuộc tuyên bố đơn

31

phương hay tuyên bố bảo lưu? Chương 2 sẽ giúp chúng ta trả lời câu hỏi trên.

CHƢƠNG 2

QUYỀN ĐƢA RA TUYÊN BỐ THEO ĐIỀU 287 VÀ ĐIỀU 298

CÔNG ƢỚC LUẬT BIỂN 1982

2.1. Tuyên bố lựa chọn cơ chế giải quyết tranh chấp theo Điều 287

công ƣớc Luật biển 1982

Hệ thống giải quyết tranh chấp theo Công ước Luật Biển năm 1982 có

thể nói là một hệ thống quy mô, chi tiết và phức tạp đòi hỏi sự nghiên cứu sâu

sắc và tỉ mỉ. Hệ thống hướng tới mục tiêu góp phần vào việc duy trì và tăng

cường hòa bình và an ninh quốc tế bằng việc tái khẳng định nghĩa vụ của các

quốc gia thành viên giải quyết các tranh chấp nảy sinh từ Công ước bằng các

hiện pháp hòa bình phù hợp với luật pháp và công lí quốc tế. Hơn thế nữa, hệ

thống còn được xây dựng với mục tiêu bảo vệ và duy trì trật tự pháp lí quốc tế

mới về biển và đại dương khỏi những giải thích và vận dụng đơn phương có

thể dẫn đến việc phá vỡ trật tự pháp lí này thông qua việc quy định nghĩa vụ

giải quyết theo thủ tục bắt buộc bằng bên thứ ba các tranh chấp phát sinh giữa

các quốc gia thành viên liên quan đến việc giải thích và áp dụng Công ước.

Vấn đề giải quyết tranh chấp về biển được quy định tại phần XV, từ

Điều 279 đến Điều 299 của Công ước và các bản phụ lục có liên quan, bao

gồm các vấn đề cơ bản như: nguyên tắc giải quyết tranh chấp; trình tự, thủ tục

giải quyết tranh chấp, cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp; trình tự,

thủ tục hoà giải (Phụ lục V); tổ chức, thẩm quyền, và thủ tục tố tụng của Toà

án Quốc tế về Luật biển (Phụ lục VI); thẩm quyền, thủ tục và giải quyết tranh

chấp bằng trọng tài, (Phụ lục VII); về việc giải quyết tranh chấp bằng toà án

trọng tài đặc biệt (Phụ lục VIII), v.v…[2].

Tuy vậy, việc lựa chọn một bên thứ ba phù hợp và được sự nhất trí của

tất cả các quốc gia để giải quyết tất cả các tranh chấp là điều bất khả thi.

32

Trong suốt quá trình đàm phán những bất đồng về vấn đề thủ tục nào là thích

hợp và phù hợp nhất dẫn đến hệ quả là không một diễn đàn nào được trao

thẩm quyền bắt buộc chung. Mỗi quốc gia đều có những suy tính, lợi ích khác

nhau do đó có những ưu tiên đối với các Toà án khác nhau. Đồng thời, các

quốc gia cũng không tin tưởng rằng các tranh chấp với tính chất và loại hình

khác xa nhau có thể được giải quyết thoả đáng bởi duy nhất một cơ quan giải

quyết tranh chấp. Do đó, để dung hoà được quyền lợi mâu thuẫn giữa các

nhóm nước, Công ước 1982 đã mở ra một cơ chế cho phép các quốc gia có

quyền lựa chọn phương thức giải quyết bắt buộc nếu tranh chấp xảy ra.

2.1.1. Cơ sở pháp lý

Theo quy định của Công ước năm 1982, nếu các bên đương sự trong

một vụ tranh chấp liên quan đến việc giải thích hay thực hiện Công ước đã sử

dụng các biện pháp thương lượng, hòa giải nhưng không mang lại kết quả, thì

theo yêu cầu của một bên đương sự, tranh chấp sẽ được đưa ra giải quyết

trước một Tòa án và sẽ có giá trị bắt buộc với các bên.

Đây là nguyên tắc giải quyết tranh chấp có tính bắt buộc mà các quốc

gia khi tham gia Công ước 1982 phải chấp nhận. Quyền được lựa chọn một

hay nhiều biện pháp để giải quyết tranh chấp của các quốc gia thành viên

được quy định tại Điều 287 khoản 1 Công ước 1982 như sau:

Khi ký hay phê chuẩn Công ước hoặc tham gia Công ước, hay ở bất

kỳ thời điểm nào sau đó, một quốc gia được quyền tự do lựa chọn,

hình thức tuyên bố bằng văn bản, một hay nhiều biện pháp sau đây

để giải quyết các tranh chấp có liên quan đến việc giải thích hay áp

dụng Công ước:

- Tòa án quốc tế về Luật biển được thành lập theo đúng Phụ lục VI;

- Toà án quốc tế;

33

- Một tòa trọng tài được thành lập theo đúng Phụ lục VII;

- Một tòa trọng tài đặc biệt được thành lập theo đúng Phụ lục VIII

để giải quyết một hay nhiều loại tranh chấp đã được qui định rõ

trong đó.

Thông thường thì “các bên đương sự nhanh chóng tiến hành trao đổi ý

kiến để giải quyết tranh chấp bằng thương lượng hoặc các biện pháp hoà bình

khác như đàm phán hoặc hoà giải. Nếu các bên tranh chấp không nhất trí được

với nhau về cách thức giải quyết hoặc cách thức đó không dẫn đến một giải

pháp cho cuộc tranh chấp thì họ có nghĩa vụ tiến hành các cuộc trao đổi về

quan điểm” [39, Điều 283]. Theo đó, Điều 287 của Công ước mở ra cho các

bên khả năng được lựa chọn trong bốn biện pháp sau để giải quyết tranh chấp.

2.1.1.1. Giải quyết tranh chấp tại Toà án quốc tế về Luật biển (ITLOS)

Tòa án quốc tế về Luật biển là một thiết chế tài phán độc lập, thường

trực, được thành lập theo phụ lục VI của Công ước Luật biển 1982 có trụ sở

tại Hăm buốc, Cộng hòa Liên bang Đức. Toà tồn tại độc lập với các cơ quan

khác cũng do Công ước lập ra như Uỷ ban ranh giới thềm lục địa, Cơ quan

quyền lực đáy đại dương. Toà án có thẩm quyền đối với tất cả các vụ tranh

chấp và tất cả các yêu cầu được đưa ra Toà theo đúng Công ước, và đối với

tất cả các trường hợp được trù định rõ trong mọi thoả thuận khác, giao thẩm

quyền cho Toà án [39, Điều 21, Phụ lục VI ]. Ngoài ra, các quốc gia không

phải thành viên của UNCLOS 1982 cũng có thể yêu cầu toà giải quyết các

tranh chấp liên quan đến Công ước.

- Thành phần của Tòa án quốc tế về Luật biển

Tòa án quốc tế về luật biển bao gồm 21 thẩm phán được tuyển chọn

trong số các nhân vật có uy tín nhất về công bằng và liêm khiết, có năng lực

và chuyên môn trong lĩnh vực Luật Biển. Thành phần của thẩm phán đảm bảo

có sự đại diện của các hệ thống pháp luật chủ yếu trên Thế giới và một sự

34

phân chia công bằng về địa lý và không thể có hai thẩm phán là công dân của

một quốc gia [39, Khoản 1, Điều 2, Mục 1, Phụ lục VI]. Mỗi nhóm theo địa lý

do Đại hội đồng Liên hợp quốc xác định phải có ít nhất 3 thành viên trong

Tòa án [39, Khoản 2, Điều 3, Mục 1, Phụ lục VI].

Cuộc bầu cử đầu tiên đã được tiến hành ngày 08/01/1996, dù không

đảm bảo thời gian 6 tháng sau khi Công ước có hiệu lực như khoản 3, Điều 4,

Mục 1, phụ lục VI của Công ước 1982 [27, tr.28]. Kết quả cuộc bầu cử thẩm

phán năm 1996 cho thấy các nước đang phát triển có vai trò ngày càng tăng

trong hệ thống pháp luật quốc tế, cũng như sự thắng thế của những nước này

sau hội nghị thành lập Tòa án Luật biển đầu tiên.

Các thành viên Tòa án có nhiệm kỳ 9 năm và có thể được tái cử. Tuy

nhiên, đối với các thành viên được bầu cử ở cuộc bầu cử đầu tiên, 7 người sẽ

mãn nhiệm sau 3 năm và 7 người khác sẽ mãn nhiệm sau sáu năm. Vào năm

2002, thời hạn 6 năm dành cho 7 vị thẩm phán đầu tiên đã kết thúc. Năm

2005, thành phần thẩm phán của Tòa án quốc tế về Luật Biển trong lần bầu cử

đầu tiên đã được thay đổi hoàn toàn [27, tr.29].

Ngoài các thẩm phán được bầu theo nhiệm kỳ cố định thì một hoặc các

bên tranh chấp còn có quyền đề cử thẩm phán ad hoc [39, Điều 17, Mục 1,

phụ lục VI]. Theo đó để đảm bảo sự bình đẳng trước tòa án, các bên có quyền

loại bỏ thẩm phán mang quốc tịch của một trong các bên tranh chấp hoặc lựa

chọn một thẩm phán ad hoc mang quốc tịch của nước mình để bổ sung vào

thành phần của Tòa án. Các thẩm phán này cũng là người có phẩm chất đạo

đức, năng lực thực sự trong lĩnh vực Luật Biển, hoặc là những luật gia có uy

tín trong lĩnh vực này. Với những quy định về việc chỉ định thẩm phán ad

hoc, Công ước đã góp phần bảo vệ quyền lợi của các bên tham gia tranh chấp.

Tuy nhiên, việc có thể dành chiến thắng hay không phụ thuộc vào năng lực

của thẩm phán mà họ đã lựa chọn. Đây là quyền của các bên tranh chấp.

35

Trong mọi trường hợp, Tòa án phải đảm bảo số lượng thành viên tham

gia là 11 thành viên được bầu [39, Khoản 1, Điều 13, Mục 1, Phụ lục VI]. Để

đảm bảo tính độc lập của thẩm phán, một thành viên của Tòa án không thể

đảm nhiệm bất kỳ chức vụ chính trị hay hành chính nào, cũng như không thể

chủ động tham gia hay có liên quan về tài chính trong một hoạt động nào của

một xí nghiệp đang tiến hành thăm dò hoặc khai thác tài nguyên ở biển hay ở

đáy biển hoặc sử dụng đáy biển vào mục đích thương mại khác. Hay một thành

viên của Tòa án không thể tham gia giải quyết một vụ kiện nào mà trước đây

ông ta đã tham dự với tư cách đại diện, cố vấn hay luật sư của một trong các

bên, với tư cách là thành viên của một Tòa án quốc gia hay quốc tế với bất cứ

một danh nghĩa nào khác [39, Khoản 1,2, Điều 7, Mục 1, Phụ lục VI]. Trường

hợp thẩm phán thấy không thể tham gia việc giải quyết một vụ tranh chấp thì

nhất định phải báo việc này cho Chánh án. Ngược lại, nếu Chánh án thấy một

thành viên của Tòa án, vì một lý do đặc biệt, không được tham gia trong một

vụ kiện nhất định, thì báo cho thành viên đó [39, Điều 8, Mục 1, Phụ lục VI].

Trong khi thi hành chức trách của mình, các thành viên của Tòa án được

hưởng đặc quyền Ngoại giao.

Ngoài ra, Tòa án còn bao gồm Viện giải quyết tranh chấp liên quan đến

đáy biển, các viện đặc biệt gồm: Viện giải quyết tranh chấp về môi trường

biển và Viện giải quyết tranh chấp về đánh cá. Sự ra đời của hai viện đặc biệt

này làm nâng cáo tính chuyên môn của Tòa án trong quá trình giải quyết tranh

chấp xảy ra trong các lĩnh vực này. Mỗi phán quyết của một trong số các viện

có giá trị hiệu lực như phán quyết của Tòa án.

- Quyền được đưa ra vấn đề tranh chấp ra Tòa án quốc tế về Luật biển

Theo quy định Điều 20, Mục 2, phụ lục VI về quyền được đưa ra vấn

đề tranh chấp ra Tòa án Luật biển, theo đó, Tòa án để ngỏ cho các quốc gia

thành viên. Về nguyên tắc, các quốc gia thành viên Công ước 1982 là thành

36

viên đương nhiên của Tòa án.

Bên cạnh đó, Tòa án cũng để ngỏ cho các thực thể không phải là các

quốc gia thành viên trong tất cả các trường hợp đã được quy định rõ trong

phần XI của Công ước.

- Thẩm quyền của Tòa án quốc tế về Luật biển

Tòa án quốc tế về Luật biển có thẩm quyền với tất cả các yêu cầu được

đưa ra bởi Tòa theo đúng Công ước, và đối với tất cả các trường hợp được trù

định rõ trong mọi thỏa thuận khác, trao quyền cho Tòa án [39, Điều 21, Mục

2, Phụ lục VI]. Điều đó có nghĩa là cũng như Tòa công lý, thẩm quyền của

Tòa Luật biển cũng chỉ được thiết lập khi được các bên đương sự thỏa thuận

trao cho Tòa án thẩm quyền giải quyết tranh chấp có liên quan.

Ngoài ra, điều 138 của Quy chế Tòa án quốc tế của Luật Biển cũng quy

định Tòa án này có thể cho ý kiến tư vấn về vấn đề pháp lý trong trường hợp

có một điều ước quốc tế có liên quan đến tôn chỉ, mục đích của Công ước.

- Thủ tục tố tụng của Tòa án quốc tế về Luật biển.

Tùy từng trường hợp, các vụ tranh chấp có thể được đưa ra Tòa hoặc

thông qua một thỏa thuận dựa vào trọn tài hoặc thông qua đơn thỉnh cầu của

thư ký Tòa án [39, Khoản 1, Điều 24, Mục 3, Phụ lục VI]. Như vậy, các bên

tranh chấp có thể lựa chọn theo ba phương thức sau đây:

Một là, các bên có thể thỏa thuận đưa vụ tranh chấp ra trước Tòa.

Hai là, thông qua thông báo về một thỏa hiệp trọng tài.

Ba là, qua đơn thỉnh cầu của các bên tranh chấp gửi cho thư ký Tòa án.

Tuy nhiên, dù theo phương thức nào, các bên tranh chấp cũng phải

trình bày rõ nội dung của tranh chấp để chuyển Tòa án.

- Giá trị phán quyết của Tòa án quốc tế về Luật biển

Phán quyết của Tòa có tính chất tối hậu và tất cả các bên trong vụ tranh

chấp phải tuân thủ.

Phán quyết của Tòa chỉ có tính bắt buộc đối với các bên tranh chấp và

37

cả đối với các trường hợp đã được quyết định.

Trong trường hợp có sự tranh cãi về ý nghĩa và phạm vi của phán

quyết, thì Tòa có trách nhiệm giải thích theo yêu cầu của bất kỳ bên nào.

Tuy nhiên, trong thực tiễn giải quyết tranh chấp của Tòa án Công lý

quốc tế, hầu hết các tranh chấp quốc tế đưa ra Tòa án đều là các tranh chấp

liên quan đến chủ quyền quốc gia đối với các vùng lãnh thổ trên biển. Bời

quyền chủ quyền và quyền tài phán của quốc gia ven biển xuất phát từ chủ

quyền quốc gia đối với vùng nội thủy và lãnh hải. Do đó, các tranh chấp về

quyền chủ quyền và quyền tài phán trên biển không thể được giải quyết nếu

các bên chưa xác định được chủ quyền với các vùng biển thuộc chủ quyền

quốc gia. Vì vậy, các tranh chấp liên quan đến chủ quyền quốc gia chủ yếu

bằng Tòa án công lý quốc tế.

2.1.1.2. Toà án công lý quốc tế (ICJ)

Đây là cơ quan tài phán của Liên Hợp Quốc được thành lập theo nghị

quyết của hội nghị San Franxico từ năm 1945. Tổ chức, hoạt động và nhiệm

vụ của toà được quy định tại Chương XIV Hiến chương Liên Hợp Quốc.Toà

án có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp giữa các quốc gia (các quốc gia

thành viên Liên Hợp Quốc và các quốc gia không phải thành viên). Tuy nhiên

Toà không giải quyết tranh chấp giữa các quốc gia với tổ chức quốc tế hay cá

nhân. Ngoài thẩm quyền xét xử, toà còn có thẩm quyền tư vấn theo yêu cầu

của các cơ quan chính của Liên hợp quốc và các tổ chức chuyên môn được

Đại hội đồng cho phép [6, Điều 96].

- Đặc điểm của Tòa án công lý quốc tế

+ Thứ nhất, Tòa án Công lý quốc tế được tổ chức và hoạt động theo

quy chế riêng (Quy chế tòa án Công lý quốc tế) và là cơ quan thường trực, vì

Tòa có trụ sở cố định, có quy chế, có điều lệ, có nội quy của Tòa án. Các thẩm

phán của Tòa làm việc có nhiệm kỳ.

38

+ Thứ hai, Tòa án Công lý quốc tế là cơ quan chuyên môn vì Tòa thực

hiện ba chức năng cơ bản liên quan đến luật pháp quốc tế là giải quyết tranh

chấp giữa các quốc gia khi các quốc gia đồng thuận yêu cầu, đưa ra các kết

luận tư vấn pháp luật cho Hội đồng bảo an, Đại hội đồng và các cơ quan, tổ

chức chuyên môn của Liên hợp quốc. Đồng thời, Tòa án Công lý quốc tế

đóng vai trò quan trọng việc pháp điển hóa luật quốc tế.

+ Thứ ba, Tòa án Công lý quốc tế là cơ quan giải quyết tranh chấp quốc tế

độc lập với các cơ quan khác của Liên hợp quốc. Trong quá trình giải quyết

tranh chấp, Tòa hoàn toàn độc lập với các cơ quan hành chính của Liên hợp quốc

như Đại hội đồng, Hội đồng bảo an, Ban thư ký, Hội đồng kinh tế - xã hội và

Hội đồng quản thác lãnh thổ. Chính vì vậy, phán quyết của Tòa không bị ràng

buộc và ảnh hưởng đến các cơ quan này trong hệ thống của Liên hợp quốc.

- Thành phần của Tòa án Công lý quốc tế.

Tòa án Công lý quốc tế có thành phần gồm 15 thẩm phán (không có hai

thẩm phán và công dân của một nước) danh sách ứng viên để bầu làm thẩm

phán của Tòa do các quốc gia giới thiệu và được Đại hội đồng và Hội đồng

bảo an bầu theo nguyên tắc đa số. không kể phiếu của ủy viên thường trực với

nhiệm kỳ 9 năm và họ có thể được bầu lại. Thành phần của thẩm phán phải

đảm bảo đại diện cho các nền văn minh chủ yếu và các hệ thống pháp luật cơ

bản. Thẩm phán Tòa án công lý quốc tế không được đảm nhiệm bất cứ chức

vụ chính trị hoặc hành chính cũng không hoạt động nghề nghiệp nào khác.

Tòa án Công lý quốc tế còn có ban thư ký Tòa án, đây là cơ quan giúp

việc cho thẩm phán thực hiện chức năng giải quyết tranh chấp và tư vấn luật.

Ban thư ký có vai trò là cơ quan hành chính thường trực của Tòa án, chuyên

thực hiện các dịch vụ tư pháp, liên lạc giữa Tòa án và các quốc gia, làm trung

gian giữa các quốc gia, giữa các tổ chức quốc tế và Tòa án…

- Thẩm quyền của Tòa án công lý quốc tế

39

Tòa án Công lý quốc tế được thành lập theo Hiến chương Liên hợp

quốc là cơ quan xét xử chính của Liên hợp quốc [10, Điều 1]. Tòa án Công lý

quốc tế có thể đưa ra các kết luận tư vấn pháp lý cho Đại hội đồng, Hội đồng

bảo an về mọi vấn đề pháp lý và các cơ quan chuyên môn của Liên hợp quốc

liên quan đến lĩnh vực hoạt động của các cơ quan này nếu được Đại hội đồng

cho phép. Các kết luận tư vấn sẽ không có giá trị ràng buộc các cơ quan, các

tổ chức yêu cầu tư vấn.

Chức năng cơ bản và chủ yếu của Tòa án công lý quốc tế là giải quyết

tất cả các tranh chấp quốc tế giữa các quốc gia với nhau nếu được yêu cầu

theo quy định của Quy chế Tòa án. Điều này có nghĩa là chỉ có các quốc gia

chấp nhận thẩm quyền giải quyết tranh chấp của Tòa án mới có quyền yêu cầu

Tòa án giải quyết các tranh chấp có liên quan. Ngoài ra, với tư cách là cơ

quan xét xử chính của Liên hợp quốc, Tòa còn có thẩm quyền trong việc pháp

điển hóa pháp luật quốc tế và các thẩm quyền chuyên môn khác như: thẩm

quyền của Tòa với một tranh chấp liên quan đến chính thẩm quyền của Tòa,

Thẩm quyền của Tòa trong việc kiểm soát trình tự xét xử…

- Giá trị pháp lý của phán quyết Tòa án

Phán quyết của Tòa án có giá trị chung thẩm và bắt buộc thực hiện đối với

các bên tham gia tranh chấp. Điều 94 của Hiến chương Liên hợp quốc quy định:

1. Mỗi thành viên Liên hợp quốc tuân theo phán quyết của Tòa án

quốc tế trong vụ tranh chấp mà thành viên ấy là đương sự; 2. Nếu

một bên đương sự trong một vụ tranh chấp không thi hành những

nghĩa vụ mà họ phải chấp hành theo phán quyết của Tòa án, thì bên

kia có thể khiếu nại với Hội đồng bảo an. Hội đồng bảo an thấy cần

thiết có thể kiến nghị hoặc quyết định những biện pháp để làm cho

phán quyết được chấp hành.

Về nguyên tắc, phán quyết của Tòa chỉ có giá trị bắt buộc với các bên

40

tham gia tranh chấp. Tuy nhiên, nếu phán quyết của Tòa có giải thích điều

ước quốc tế đa phương mà bên thứ ba là thành viên thì phán quyết đó sẽ có

hiệu lực với bên thứ ba.

Cơ chế giải quyết tranh chấp của Tòa án Công lý quốc tế là một cơ chế

khá hiệu quả, phán quyết của Tòa án đảm bảo tính chính xác, công bằng và

khách quan, việc đảm bảo thực thi tuân thủ phán quyết của Tòa án cao hơn

các biện pháp giải quyết tranh chấp khác. Tuy nhiên, cơ chế giải quyết tranh

chấp của Tòa còn tồn tại một số hạn chế như:

+ Tòa xử công khai nên không đảm bảo được bí mật của các bên tham

gia tranh chấp.

+ Thời gian thụ lý hồ sơ, giải quyết vụ án quá dài sẽ nguy cơ dẫn đến

bất ổn trong quan hệ quốc tế, chi phí các bên tham gia vụ kiện lớn.

+ Các thẩm phán của Tòa có thể bị lôi kéo, mua chuộc vì mục đích riêng.

+ Tòa án chỉ có thẩm quyền giải quyết tranh chấp giữa các quốc gia nên

các chủ thể khác của Luật quốc tế không có quyền sử dụng cơ chế giải quyết

tranh chấp bằng Tòa án Công lý quốc tế.

Bên cạnh đó, việc bảo lưu của các quốc gia sẽ loại bỏ thẩm quyền giải

quyết tranh chấp của Tòa án. Vì thế, các lĩnh vực mà các quốc gia không

muốn từ bỏ sự kiểm soát của mình thường bảo lưu. Các quốc gia có thể tuyên

bố bảo lưu thẩm quyền trong các trường hợp sau đây:

+ Những vụ việc mà các bên tham gia tranh chấp thỏa thuận lựa chọn

các biện pháp giải quyết tranh chấp khác.

+ Những vụ việc liên quan đến sự việc xảy ra trong giai đoạn chiến

tranh hay xung đột.

+ Những vụ việc thuộc thẩm quyền tòa án quốc gia.

Từ khi thành lập đến nay, đã có nhiều vụ tranh chấp quốc tế đưa ra Tòa

án bao gồm các lĩnh vực như chủ quyền quốc gia đối với lãnh thổ, biên giới;

41

liên quan đến Luật biển; các hoạt động vũ trang…

Ngoài thẩm quyền xét xử, Tòa án còn có thẩm quyền tư vấn pháp luật

theo yêu cầu của các cơ quan chính của Liên hợp quốc và các tổ chứ chuyên

môn mà Đại hội đồng cho phép.

2.1.1.3. Toà trọng tài thành lập theo phụ lục VII

Đây là cơ chế được thành lập dựa trên sự thoả thuận của các bên nhằm

giải quyết một vụ việc cụ thể. Tổ chức, nhiệm vụ và hoạt động của toà được

quy định tại phụ lục VII Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm

1982. Toà có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp liên quan đến việc giải

thích và áp dụng Công ước 1982. Mọi quốc gia thành viên Công ước đều có

quyền đưa vụ việc ra giải quyết bằng toà trọng tài này.

- Thành phần - tổ chức của Tòa trọng tài

Theo quy định tại điều 3, phụ lục VII Công ước 1982, một Tòa trọng

tài được thành lập bao gồm 5 thành viên. Trong đó, bên nguyên đơn sẽ cử một

thành viên có tên trong danh sách trọng tài viên và người đó có thể là công

dân của nước mình. Bên bị đơn trong vụ tranh chấp, trong thời hạn 30 ngày,

tính từ ngày nhận được thông báo giải quyết tranh chấp bằng trọng tài của bên

nguyên đơn cũng có quyền lựa chọn một trọng tài viên, người này có thể là

công dân nước mình. Ba thành viên còn lại được các bên thỏa thuận cử ra. Họ

được các bên tùy ý chọn trên bản danh sách trọng tài viên là công dân của

nước thứ ba, trừ khi các bên có thỏa thuận khác. Các bên cử Chánh tòa của

Tòa trọng tài trong số ba thành viên đó.

Các trọng tài viên nói trên phải có quốc tịch khác nhau, không được

làm việc cho một bên nào trong vụ tranh chấp, không phải là công dân của

một trong các bên tranh chấp, không cư trú thường xuyên trên lãnh thổ của

quốc gia tranh chấp.

- Xác lập thẩm quyền của Tòa trọng tài.

Theo điều 287 của Công ước 1982, Tòa trọng tài có thẩm quyền giải

42

quyết tranh chấp do các bên thảo thuận lựa chọn hoặc trong các trường hợp sau:

+ Khi một quốc gia thành viên tham gia một vụ tranh chấp mà không

được một tuyên bố còn hiệu lực bảo vệ thì được xem là chấp nhận thủ tục

trọng tài (khi gia nhập chưa tuyên bố về việc lựa chọn phương thức, thủ tục

giải quyết tranh chấp nào).

+ Nếu các bên không chấp nhận cùng một thủ tục để giải quyết tranh

chấp thì vụ tranh chấp đó sẽ giải quyết theo thủ tục trọng tài. Như vậy, cách

thức xác lập thẩm quyền của Tòa Trọng tài theo công ước năm 1982 có điểm

khác biệt so với Tòa án quốc tế về Luật biển. Đó là việc các bên đương nhiên

được xem lựa chọn Tòa trọng tài nếu không thuộc một trong các lựa chọn

trên. Điều này có nghĩa sẽ không có một biện pháp nào khác có thể thay thế

Tòa trọng tài được thành lập theo phụ lục VII của Công ước luật Biển 1982

được áp dụng để giải quyết tranh chấp.

- Thủ tục tố tụng trọng tài

Thủ tục tố tụng của Trọng tài bắt đầu bằng một thông báo bằng văn bản

của một bên gửi tới bên kia. Thông báo đó kèm theo bản trình bày các yêu

sách và lý do làm căn cứ cho yêu sách đó [39, Điều 1, Phụ lục VII]. Trừ khi

các bên có thỏa thuận khác, Tòa trong trình tự quy định thủ tục của mình bằng

việc cho các bên có khả năng tự bảo vệ quyền và căn cứ của mình [39, Điều

5, phụ lục VII]. Khi có đủ cơ sở pháp lý để khẳng định thẩm quyền, Tòa sẽ xử

và đưa ra phán quyết [39, Điều 9, phụ lục VII].

Khi một bên tranh chấp không ra Tòa hoặc không trình bày các lý lẽ

của mình, thì bên kia có thể yêu cầu Tòa tiếp tục trình tự tố tụng và phán

quyết. Việc một bên vắng mặt hay không trình hay các lý lẽ của mình không

cản trở quá trình tố tụng của Tòa trọng tài.

- Giá trị phán quyết của Tòa trọng tài

Phán quyết của Tòa trọng tài được thông qua bởi đa số các thành viên

43

của Tòa. Sự vắng mặt hoặc bỏ phiếu trắng của dưới nửa số thành viên không

cản trở Tòa ra phán quyết (tức là số trọng tài viên có mặt phải hơn nửa số

trọng tài viên của Tòa, tối thiểu là 3/5 trọng tài viên). Trường hợp phiếu

thuận và phiếu chống ngang nhau thì phiếu của Chánh tòa có ý nghĩa quyết

định [39, Điều 8, phụ lục VII].

Phán quyết của tòa trọng tài có giá trị chung thẩm và không được

kháng cáo, trừ khi các bên có thỏa thuận về thủ tục này.

2.1.1.4. Toà trọng tài đặc biệt theo phụ lục VIII

- Đây là cơ chế được thành lập theo vụ việc và chỉ áp dụng với quốc gia

thành viên UNCLOS 1982. Tổ chức, nhiệm vụ và hoạt động của toà được quy

định tại phụ lục VIII Công ước. Toà có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp

mang tính chuyên ngành về việc giải thích hay áp dụng các điều khoản của

Công ước liên quan đến các vấn đề sau:

+ Việc đánh bắt hải sản;

+ Việc bảo vệ và giữ gìn môi trường biển;

+ Việc nghiên cứu khoa học biển; hoặc

+ Hàng hải, kể cả nạn ô nhiễm do các tàu thuyền hay do nhấn chìm.

Các quốc gia có thể đưa ra tuyên bố nêu rõ thủ tục bắt buộc nào mà

mình ưu tiên lựa chọn tại bất kỳ thời điểm nào và tuyên bố này có thể được

huỷ bỏ hay sửa đổi sau khi thông báo trước ba tháng.

- Thành phần của Tòa trọng tài đặc biệt

Thành phần và cơ cấu của Tòa trọng tài đặc biệt về cơ bản giống như

Tòa trọng tài Luật Biển. Danh sách trọng tài viên của Tòa trọng tài đặc biệt

được chia làm bốn lĩnh vực chính. Tòa bao gồm 5 thành viên, đối với hai

bên tranh chấp mỗi bên cử hai thành viên trong bản danh sách đã được quốc

gia giới thiệu. Chánh tòa trọng tài đặc biệt sẽ do các bên tranh chấp thỏa

thuận lựa chọn và phải là công dân của nước thứ ba trừ khi các bên có lựa

44

chọn thỏa thuận khác.

- Thẩm quyền của Tòa trọng tài đặc biệt

Theo quy định của phụ lục VIII của Công ước 1982, Tòa trọng tài đặc

biệt có thẩm quyền tiến hành một cuộc điều tra và xác lập các sự kiện nguồn

gốc của cuộc tranh chấp. Trừ khi các bên có thỏa thuận khác, những sự kiện

do Tòa trọng tài đặc biệt xác nhận được coi là những chứng cứ đã được xác

minh giữa các bên hữu quan. Nếu tất cả các bên tham gia tranh chấp yêu cầu,

Tòa trọng tài đặc biệt có thể đưa ra các khuyến nghị. Các khuyến nghị của

Tòa trọng tài đặc biệt không có giá trị quyết định mà là cơ sở để các bên tiến

hành xem xét lại những vấn đề làm phát sinh tranh chấp.

Như vậy, Tòa trọng tài đặc biệt nếu được các bên tham gia tranh chấp

yêu cầu chỉ có thể ra các khuyến nghị giúp các bên làm sáng tỏ nguồn gốc của

tranh chấp chứ không giải quyết tranh chấp bằng cách ra phán quyết, có giá trị

pháp lý bắt buộc các bên tranh chấp phải tuân thủ, thi hành.

2.1.2. Thực tiễn đưa ra tuyên bố lựa chọn quyền tài phán của các

quốc gia

Cơ chế giải quyết tranh chấp của Công ước UNCLOS 1982 là hệ thống

phức tạp nhất trong các công ước toàn cầu. Khi các quốc gia trở thành thành

viên của UNCLOS thì các quốc gia này đã có sự đồng thuận trước đối với hệ

thống giải quyết tranh chấp bắt buộc và giàng buộc của công ước. Theo đó,

các quốc gia ký kết đồng ý chấp nhận công ước một cách hoàn toàn và không

có quyền được đưa ra các bảo lưu. Theo nguyên tắc chung, tất cả tranh chấp

liên quan đến việc giải thích và áp dụng bất kỳ điều khoản nào của Công ước

sẽ chịu sự điều chỉnh của cơ chế giải quyết tranh chấp bắt buộc. Tòa án hay

tòa trọng tài có thẩm quyền xét xử vụ tranh chấp sẽ phải phụ thuộc một phần

vào việc liệu các bên tranh chấp có thực hiện quyền lựa chọn thủ tục giải

quyết tranh chấp hay không.

45

Vào 14/06/2017, Văn phòng pháp lý thuộc phòng các vấn đề về đại

dương và Luật Biển trực thuộc Liên hợp quốc đã tổ chức sự kiện về: “Lựa

chọn thủ tục theo Điều 287 của Công ước Luật Biển”, bên lề của Hội nghị lần

thứ 27 các quốc gia thành viên của Công ước Liên Hợp quốc về Luật Biển.

Mục đích của hội nghị nhằm hỗ trợ thực hiện đoạn 58 của nghị quyết 71/257

về “Đại dương và Luật Biển”. Trong đó, Đại hội đồng khuyến khích các quốc

gia thành viên của Công ước chưa đưa ra tuyên bố bằng văn bản, lựa chọn các

phương thức được nêu trong Điều 287 UNCLOS 1982 về giải quyết tranh

chấp liên quan đến giải thích và áp dụng công ước. Dưới đây là bảng tổng hợp

số lượng các quốc gia thông qua tuyên bố lựa chọn thủ tục giải quyết tranh

chấp theo Điều 287 UNCLOS.

Bảng 2.1. Các quốc gia tuyên bố lựa chọn thủ tục giải quyết tranh chấp

theo Điều 287 UNCLOS [46]

STT

Quốc gia

Toà án công lý quốc tế

Toà án quốc tế về luật biển

Toà trọng tài thành lập theo phụ lục VII

Toà trọng tài đặc biệt thành lập theo phụ lục VIII

Algeria

1.

X

Angola

2.

X

Argentina

3.

X (2)

X (1)

Australia

4.

X

X

Austria

5.

X (3)

X (2)

X (1)

Bangladesh

6.

X

Belarus

7.

X

X

Belgium

8.

X (2)

X (1)

Bulgaria

9.

X

46

STT

Quốc gia

Toà án công lý quốc tế

Toà án quốc tế về luật biển

Toà trọng tài thành lập theo phụ lục VII

Toà trọng tài đặc biệt thành lập theo phụ lục VIII

10. Cabo Verde

X (1)

X (2)

11. Canada

X

X

12. Chile

X (1)

X (2)

13. Croatia

X (1)

X (2)

14. Congo

X

15. Denmark

X

16.

Ecuador

X (1)

X (2)

X (3)

17.

Egypt

X

18.

Estonia

X

X

19.

Fiji

X

20.

Finland

X

X

21. Germany

X (1)

X (3)

X (2)

22. Greece

X

23. Honduras

X

24. Hungary

X (1)

X (2)

X (3)

25.

Italy

X

X

26.

Latvia

X

X

27.

Lithuania

X

X

28. Madagascar

X

29. Mexico

X

X

X

47

STT

Quốc gia

Toà án công lý quốc tế

Toà án quốc tế về luật biển

Toà trọng tài thành lập theo phụ lục VII

Toà trọng tài đặc biệt thành lập theo phụ lục VIII

30. Montenegro

X (1)

X (2)

31. Nertherlands

X

32. Nicaragua

X

33. Norway

X

34. Oman

X

X

35.

Panama

X

36.

Portugal

X

X

X

X

37.

Liên bang Nga

X (1)

X (2)

38.

St. Vincent and the Grenadines

X

39.

Slovenia

X

40.

Tây Ban Nha

X

X

41.

Sweden

X

42.

Thuỵ Sĩ

X

43. Đông Timor

X

X

X

X

44.

Trinidad and Tobago

X (1)

X (2)

45.

Tunisia

X (1)

X (2)

46. Ukraine

X

X

47.

X

Liên hiệp Vương quốc Anh và Bắc Ireland

48.

Tanzania

X

X

49. Uruguay

48

* Ghi chú: (1), (2), (3) thể hiện tự ưu tiên áp dụng.

Theo dõi bảng số liệu, tổng cộng có 49 quốc gia thành viên đưa ra

tuyên bố lựa chọn cơ chế giải quyết tranh chấp trên tổng số 167 quốc gia

thành viên (tỉ lệ chưa tới 30%). Nguyên nhân xuất phát từ Điều 287 cho phép

các quốc gia đưa ra tuyên bố tại bất kì một thời điểm nào (khi ký, phê chuẩn,

tham gia Công ước hay bất kì thời điểm nào sau đó), do đó các quốc gia

thường để tới thời điểm thích hợp, thường là khi có tranh chấp xảy ra, để xem

xét tính chất của tranh chấp từ đó tuyên bố lựa chọn một toà phù hợp.

Toà án quốc tế về luật biển được đa số các quốc gia lựa chọn (36/49

nước chọn toà án quốc tế về luật biển là một trong các cơ chế để giải quyết

tranh chấp). Mặc dù so với các cơ quan giải quyết tranh chấp được thành lập

trên cơ sở Công ước Luật biển năm 1982, Tòa án công lý quốc tế có ưu thế

hơn xuất phát từ chỗ, Tòa án công lý quốc tế được thành lập và hoạt động

trên cơ sở Hiến chương Liên hợp quốc và Quy chế Tòa án quốc tế và là một

trong 6 cơ quan chính của Liên hợp quốc. Chính vì vậy, tính bắt buộc thực

thi và tuân thủ của Tòa án Công lý quốc tế mạnh hơn rất nhiều so với các

thiết chế tài phán khác. Có thể lý giải cho sự ưu tiên này là Toà án quốc tế

về luật biển là một toà án chuyên biệt về luật biển, được thành lập dựa trên

Công ước luật biển nhằm giải quyết các vụ việc thuộc lĩnh vực luật biển.

Các thẩm phán của Toà phải có “chuyên môn được công nhận trong lĩnh vực

luật biển” [39, Điều 2, Phụ lục VI]. Các thẩm phán do đó có thể có chuyên

môn tốt hơn so với một số thẩm phán của toà ICJ. Hơn nữa so với các cơ chế

còn lại, thẩm quyền của toà ITLOS rộng rãi hơn về mặt chủ thể tranh chấp,

ngoài chủ thể chính là các quốc gia, thẩm quyền của ITLOS còn mở rộng đến

các chủ thể khác bao gồm tổ chức quốc tế và thậm chí tổ chức phi chính phủ.

Ngược lại, Toà trọng tài đặc biệt theo phụ lục VIII lại ít được các quốc

gia lựa chọn (chỉ có 11 quốc gia lựa chọn toà trên làm cơ chế giải quyết tranh

49

chấp). Khác với Tòa án quốc tế về Luật biển và tòa trọng tài về Luật biển, Tòa

trọng tài đặc biệt nếu được các bên đưa ra tranh chấp yêu cầu chỉ có thể ra các

khuyến nghị giúp các bên làm sáng tỏ nguồn gốc của tranh chấp. Bản thân toà

là một cơ chế giải quyết tranh chấp có tính hạn chế về mặt thẩm quyền giải

quyết vụ việc (Việc đánh bắt hải sản; việc bảo vệ và giữ gìn môi trường biển;

việc nghiên cứu khoa học biển; hoặc hàng hải, kể cả nạn ô nhiễm do các tàu

thuyền hay do nhấn chìm) [39, Điều 1, Phụ lục VIII] lẫn chủ thể tranh chấp

chỉ giới hạn ở các quốc gia thành viên UNCLOS 1982. Thẩm quyền của Tòa

trọng tài đặc biệt còn hạn chế hơn so với Tòa án quốc tế và Tòa trọng tài Luật

biển. Mặt khác, các khuyến nghị của Tòa chỉ có giá trị tham khảo đối với các

bên tham gia tranh chấp. Do đó, tranh chấp sẽ không được giải quyết dứt

điểm nếu các bên lựa chọn Tòa trọng tài đặc biệt.

2.1.3. Giá trị pháp lý của tuyên bố lựa chọn cơ chế giải quyết tranh chấp

Về mặt bản chất, tuyên bố lựa chọn phương thức giải quyết tranh

chấp theo Điều 287 Công ước chính là một tuyên bố đơn phương. Vậy theo

lý thuyết, những quốc gia khi đưa ra những tuyên bố đơn phương lựa chọn

thủ tục để giải quyết tranh chấp một cách công khai sẽ bị ràng buộc bởi

những tuyên bố đó, tức là sau khi đã tuyên bố, nếu tranh chấp xảy ra thì

quốc gia đó phải sử dụng thiết chế đã chọn? Vậy còn những quốc gia

không đưa ra tuyên bố, liệu có ngầm hiểu họ ưng thuận sử dụng bất kì biện

pháp nào, hay sẽ có một phương thức giải quyết bắt buộc dành cho quốc

gia không đưa ra tuyên bố.

Thực chất, giải quyết tranh chấp là phạm trù không phải chỉ cần một

quốc gia đứng lên quyết định là có thể giải quyết được, mà cần đến sự hợp tác

giữa tất cả các bên trong tranh chấp. Do đó, khi tranh chấp xảy ra, tuyên bố

đơn phương lựa chọn biện pháp giải quyết tranh chấp của một quốc gia sẽ

50

không còn có giá trị tuyệt đối như trên lý thuyết ràng buộc quốc gia đó. Lúc

này, cần phải đặt tuyên bố của các quốc gia vào trong mối tương quan và xét

giá trị của các tuyên bố đó đồng thời tạo ra.

* Ghi chú: Trích dẫn sơ đồ từ nguồn [7]

Trường hợp thứ nhất, các bên trong tranh chấp cùng tuyên bố lựa chọn

một biện pháp để giải quyết tranh chấp thì đương nhiên, tranh chấp sẽ được đưa

ra giải quyết theo thủ tục mà các bên đã lựa chọn [39, Khoản 4, Điều 287].

Trường hợp thứ hai, một quốc gia - đương sự trong vụ tranh chấp

chưa tuyên bố chọn một trong thủ tục bắt buộc ở Mục 2 thì họ buộc phải

chấp nhận thẩm quyền giải quyết tranh chấp của Toà trọng tài theo phụ lục

VII [39, Khoản 3, Điều 287].

Ví dụ, vào năm 2009, Bangladesh đã viện dẫn đến hệ thống giải quyết

tranh chấp trong UNCLOS đối với Ấn Độ và Myanmar liên quan đến các điều

51

khoản của UNCLOS về phân định biên giới biển. Không quốc gia nào trong

cả ba quốc gia này đã đưa ra tuyên bố lựa chọn thủ tục theo Điều 287. Do đó

tranh chấp giữa ba quốc gia theo thông thường sẽ đưa ra giải quyết ở Trọng

tài theo Phụ lục VII. Tuy nhiên, Bangladesh và Myanmar sau đó đã thoả

thuận và nộp lên Toà ITLOS tuyên bố của mình chấp nhận thẩm quyền xét xử

của Toà đối với vụ việc [24, tr.24]. Kết quả là, Bangladesh sẽ giải quyết tranh

chấp với Ấn Độ bằng Trọng tài theo Phụ lục VII, và với Myanmar tại Toà

ITLOS. Liên hệ với thực tiễn ở Biển Đông, các quốc gia hiện có yêu sách chủ

quyền các điểm đảo đều chưa đưa đưa ra tuyên bố lựa chọn theo Điều 297,

điều đó đồng nghĩa nếu có tranh chấp xảy ra giữa các quốc gia này thì tranh

chấp đó sẽ tự động được xét xử bằng Trọng tài theo Phụ lục VII UNCLOS.

Trường hợp thứ ba có thể kể đến khi các quốc gia đương sự trong vụ

tranh chấp có tuyên bố lựa chọn thủ tục giải quyết khác nhau. Khi đó, giống

như trường hợp hai, vụ việc sẽ được đưa ra giải quyết tại Toà trọng tài được

thành lập theo Phụ lục VII [39, Khoản 5, Điều 287]. Trong vụ Tàu Arctic

Sunrise giữa Hà Lan và Nga, vì Nga đã đưa ra tuyên bố lựa chọn thủ tục giải

quyết bằng Trọng tài theo phụ lục VII và Trọng tài đặc biệt theo Phụ lục VIII.

Còn Hà Lan đã lựa chọn Toà ICJ làm cơ quan giải quyết khi tranh chấp xảy

ra. Do có sự bất đồng trong lựa chọn thủ tục giải quyết, vụ việc đã được đưa

ra giải quyết tại Toà trọng tài theo Phụ lục VII [36].

Hơn nữa, khi các quốc gia trong tranh chấp chọn nhiều hơn một thủ tục

giải quyết tranh chấp bắt buộc thì việc thoả thuận lựa chọn một trong các thủ

tục đó làm phương thức giải quyết là một vấn đề cần chú ý. Có thể lấy ví dụ

như Mexico đã tuyên bố lựa chọn toà ITLOS, toà ICJ và toà trọng tài đặc biệt

theo phụ lục VIII Công ước. Bồ Đào Nha thì đã tuyên bố lựa chọn cả 4 thủ

tục không xét thứ tự ưu tiên. Nếu tranh chấp xảy ra giữa hai quốc này thì việc

52

trao đổi quan điểm là rất cần thiết để chọn ra một thủ tục giải quyết bắt buộc.

Như vậy, giá trị của một tuyên bố đơn phương lựa chọn thủ tục giải

quyết tranh chấp không hoàn toàn tuyệt đối. Tuy vậy, việc đưa ra các tuyên

bố lựa chọn giúp quốc gia đưa ra tuyên bố có ưu thế hơn một chút trong quá

trình đưa vụ việc ra giải quyết theo phương thức có lợi và phù hợp với mình.

Còn nếu không đưa tuyên bố tức là Toà trọng tài theo Phụ lục VII sẽ có thẩm

quyền đương nhiên và quốc gia không đưa ra tuyên bố sẽ phải chấp nhận

thẩm quyền xét xử của Toà.

2.2. Tuyên bố đƣa ra ngoại lệ theo Điều 298 của công ƣớc Luật biển 1982

Công ước Luật Biển năm 1982 được ký kết và phê chuẩn là một bước

tiến quan trọng của ngành luật quốc tế. Trong hội nghị luật biển lần thứ III,

nhiều đoàn đại biểu đã coi đây là văn kiện quan trọng bậc nhất sau Hiến

chương Liên Hợp Quốc.

Tuy nhiên cũng cần phải thấy rằng, để đi đến một Công ước hoàn chỉnh

như vậy lại không có những quy định được bảo lưu (Điều 209 Công ước Luật

Biển 1982 quy định “Công ước không chấp nhận bảo lưu, cũng không chấp

nhận các ngoại lệ ngoài những điều đã được các điều khác của Công ước cho

phép một cách rõ ràng.”) trong một hội nghị đầy những ý kiến mâu thuẫn giữa

không chỉ hai mà nhiều nhóm nước, các quốc gia tham gia hội nghị đã phải

thoả hiệp với nhau để mỗi nhóm nước đều có những được mất nhất định. Nói

cách khác, không một nước nào được thoả mãn hoàn toàn, cũng như không có

một nước nào mà quyền lợi của họ được xem xét thoả đáng, và cũng không

thể có một nhóm nước nào đủ thế lực để áp đặt các quốc gia khác phải tuân

theo lập trường của họ.

Trong hệ thống giải quyết tranh chấp cũng vậy, để có được một cơ chế

mà tất cả các quốc gia đều có thể chấp nhận được, bên cạnh những phương

thức giải quyết bắt buộc, Công ước 1982 cũng đưa ra các giới hạn và ngoại lệ

53

cho việc áp dụng các phương thức này. Đây chính là kết quả của sự thoả hiệp

giữa hai xu hướng “chủ quyền quốc gia” và “tự do biển cả” giữa các nước

tham gia hội nghị [4].

2.2.1. Cơ sở pháp lý

Trong vấn đề đưa ra hay không đưa ra giải quyết theo phương thức bắt

buộc các quốc gia tiếp tục thoả hiệp với nhau xem trường hợp nào có thể coi

là ngoại lệ, không nhất thiết phải đưa ra giải quyết bắt buộc.

Qua những cuộc tranh luận những tranh chấp về chủ quyền lãnh thổ

như phân định các vùng biển, những tranh chấp liên quan đến an ninh quốc

gia như hoạt động quân sự của nước ngoài ở các vùng biển của các quốc gia

ven biển… là những vấn đề được đưa ra tranh luận nhiều nhất.

Về các vấn đề này, có hai xu hướng chính được đề xuất. Trước hết, các

quốc gia đang phát triển có lực lượng quân sự yếu kém muốn mọi tranh chấp

đều được giải quyết bắt buộc không có ngoại lệ để bảo vệ quyền lợi của họ.

Trái lại, các nước phát triển, đặc biệt là các cường quốc phương tây lại cho

rằng cần phải có những ngoại lệ để đảm bảo chủ quyền quốc gia trong việc

giải quyết các tranh chấp quốc tế.

Ở đây ta thấy có một sự “cân bằng” trong đòi hỏi của các nhóm nước

khác nhau. Các cường quốc phương tây muốn đưa ra giải quyết theo phương

thức bắt buộc đối với các tranh chấp liên quan đến hoạt động quân sự. Còn

các quốc gia ven biển đang phát triển lại muốn áp dụng thủ tục này vào các

tranh chấp trong vùng đặc quyền kinh tế. Cho nên, một giải phát thoả hiệp

“có đi có lại” là biện pháp duy nhất khiến cho tất cả các nước đều có thể

chấp nhận được.

Điều 298 Công ước quy định các ngoại lệ áp dụng thủ tục bắt buộc để

giải quyết tranh chấp. Khi ký kết, phê chuẩn, gia nhập Công ước hay bất kì

thời điểm nào sau đó, một quốc gia có thể tuyên bố bằng văn bản không chấp

54

nhận một hay nhiều thủ tục bắt buộc trong mục 2 (Toà án luật biển, Toà án

quốc tế, Toà trọng tài theo phụ lục VII và Toà trọng tài đặc biệt theo phụ lục

VIII) để giải quyết các loại tranh chấp sau đây:

- Các tranh chấp về việc giải thích hay áp dụng các Điều 15, 74 và 83

liên quan đến việc phân định các vùng biển hay các vụ tranh chấp về vịnh,

vùng nước lịch sử.

Đó là những tranh chấp liên quan đến vấn đề lãnh hải, vùng đặc quyền

kinh tế và thềm lục địa, các vịnh, các vùng nước lịch sử. Trong trường hợp các

bên thương lượng trong một thời gian hợp lý mà không đi đến được thoả thuận

thì theo yêu cầu của một bên đương sự vụ tranh chấp sẽ đưa ra giải quyết bằng

con đường hoà giải theo phụ lục V [39, Khoản 1 điểm a Điều 298]. Trong

trường hợp hoà giải không đi đến được kết quả thì họ phải đưa tranh chấp ra

giải quyết bằng con đường toà án. Nhưng Công ước lại không có quy định về

trường hợp các bên không đạt được thoả thuận, như vậy các bên có nhất thiết

phải đưa tranh chấp ra giải quyết theo phương thức bắt buộc hay không.

- Các tranh chấp liên quan đến hoạt động quân sự

Những tranh chấp liên quan đến hoạt động quân sự, bao gồm cả những

hoạt động quân sự của tàu và máy bay nhà nước được sử dụng vào mục đích

phi thương mại, những tranh chấp liên quan đến quyền chủ quyền về tài

nguyên sinh vật hay quyền tài phán của các quốc gia ven biển trong vấn đề

nghiên cứu khoa học trong vùng đặc quyền kinh tế được nhắc đến trong Điều

297, khoản 2 và 3 Công ước.

- Các tranh chấp thuộc thẩm quyền giải quyết của Hội đồng Bảo an

Liên Hợp Quốc

Mỗi quốc gia có thể không đưa loại tranh chấp mà Hội đồng Bảo an có

quyền xem xét ra xét xử theo thủ tục bắt buộc mà Công ước luật biển quy

55

định. Thực chất, đây là những loại tranh chấp liên quan đến giải thích và áp

dụng luật biển có khả năng đe dọa đến hòa bình và an ninh quốc tế. Nhưng

trong trường hợp Hội đồng Bảo an xoá vấn đề tranh chấp đó, không ghi vào

chương trình nghị sự và Hội đồng Bảo an yêu cầu các bên giải quyết theo thủ

tục mà Công ước quy định thì cơ chế giải quyết bắt buộc theo Công ước sẽ

được áp dụng [39, Khoản 1 điểm c, Điều 298]. Mục đích của ngoại lệ này là

để tránh sự xung đột giữa thủ tục giải quyết tranh chấp được tiến hành theo

Phần XV của Công ước và hành động mà Hội đồng Bảo an có thể thực hiện

khi thực thi nghĩa vụ của mình để đảm bảo hoà bình và an ninh quốc tế theo

Chương VII của Hiến chương Liên Hợp Quốc [32]. Mặc dù Công ước 1982

đã xây dựng cơ chế giải quyết tranh chấp khá linh hoạt và đa dạng nhưng các

tranh chấp về biển được đưa ra giải quyết theo phương thức, thủ tục của Công

ước 1982 rất ít, chủ yếu liên quan đến việc thực hiện chủ quyền của quốc gia

ven biển đối với các hoạt động kinh tế biển trong vùng đặc quyền kinh tế. Ví

dụ, nếu xung đột vũ trang nổ ra giữa các quốc gia yêu sách liên quan đến các

đảo tranh chấp trên biển Đông, thì vấn đề có thể được dẫn chiếu lên Hội đồng

Bảo an. Trong trường hợp đó, một bên tranh chấp sẽ không được viện dẫn đến

các thủ tục giải quyết tranh chấp đã được quy định trong Công ước đối với

các vấn đề này cho dù việc sử dụng vũ lực quân sự của một bên yêu sách có

có vi phạm Công ước đi chăng nữa.

2.2.2. Thực tiễn đưa ra tuyên bố ngoại lệ theo quy định Điều 298 UNCLOS

Thẩm quyền của các cơ quan tài phán được trù định ở Điều 287 bị hạn

chế bởi các ngoại lệ mặc định ở Điều 297 và các giới hạn tùy chọn ở Điều

298. Trên thực tiễn, các quốc gia căn cứ trên Điều 298 để đưa ra tuyên bố loại

trừ một hay nhiều tranh chấp khỏi phạm vi thẩm quyền của các cơ quan tài

phán. Bảng dưới đây thống kê số lượng các quốc gia đưa ra tuyên bố ngoại lệ

56

theo Điều 298 UNCLOS 1982.

Bảng 2.2. Các quốc gia đưa ra tuyên bố ngoại lệ

theo Điều 298 UNCLOS [43]

Quốc gia

Tuyên bố không chấp nhận các thủ tục theo mục 2 phần XV với những tranh chấp sau

Điều 298 khoản 1(a):

Tranh chấp liên quan đến việc phân định vùng biển

Angola; Australia; Congo; Equatorial Guinea; Gabon; Ghana; Montenegro; Italy; Palau; Saudi Arabia; Trinidad and Tobago; Tây Ban Nha.

Điều 298 khoản 1(b):

Cabo Verbe; Uruguay.

Tranh chấp liên quan đến hoạt động quân sự

Điều 298 khoản 1 (a) và (b)

Mexico; Ukraine

Điều 298 khoản 1 (b) và (c)

Belarus, Liên hiệp Vương quốc Anh và Bắc Ireland.

Điều 298 khoản 1 (a), (b) và (c)

Argentina; Bồ Đào Nha; Canada; Chile; Ecuador; Hàn Quốc; Pháp; Liên Bang Nga; Thái Lan; Trung Quốc; Tunisia.

Cuba; Guine-Bissau.

Không chấp nhận thẩm quyền của toà án công lý quốc tế với những tranh chấp trong Điều 298

Đan Mạch; Norway; Slovenia.

Không chấp nhận thẩm quyền của toà trọng tài theo phụ lục VII với những tranh chấp trong điều 298

Thực tế, đã có 36 quốc gia đưa ra tuyên bố không áp dụng các

phương thức bắt buộc để giải quyết tranh chấp quy định tại Điều 298 và sự

lựa chọn của các quốc gia là rất đa dạng. Có những nước tuyên bố không

chấp nhận thẩm quyền của một toà cụ thể để giải quyết mọi tranh chấp

được quy định tại Điều 298, có những quốc gia tuyên bố không chấp nhận

57

sử dụng tất cả các phương thức bắt buộc để giải quyết những tranh chấp

quy định tại Điều 298 nhưng cũng có những quốc gia chỉ loại trừ một loại

tranh chấp trong Điều 298.

2.2.3. Giá trị pháp lý của tuyên bố

Theo quy định tại Điều 298 Công ước thì một quốc gia, tại bất kì thời

điểm nào (khi ký kết, phê chuẩn, gia nhập Công ước hay bất kì thời điểm nào

sau đó) đều có quyền ra tuyên bố các ngoại lệ không áp dụng các thủ tục giải

quyết tranh chấp bắt buộc tại Mục 2 Công ước. Bản chất của những quy định

này là hạn chế quốc gia thành viên sử dụng và áp dụng thủ tục giải quyết

tranh chấp bắt buộc trong Công ước 1982 trong những điều kiện và hoàn cảnh

nhất định. Nếu như các quy định tại Mục 2 của phần XV Công ước 1982 cho

phép quốc gia thành viên đơn phương đưa tranh chấp ra giải quyết tại một

trong bốn thiết chế giải quyết tranh chấp được nêu trên thì Mục 3 được xây

dựng trên cơ sở là một số loại tranh chấp nhất định sẽ không phải là đối tượng

điều chỉnh của cơ chế giải quyết tranh chấp bắt buộc. Nói cách khác, trong

một số điều kiện và hoàn cảnh cụ thể, thẩm quyền giải quyết tranh chấp phát

sinh từ việc giải thích hoặc áp dụng Công ước của các thiết chế xét xử được

nêu tại Điều 287 của Công ước 1982 bị “triệt tiêu”. Tức là tuyên bố này cho

phép các quốc gia loại trừ hiệu lực của các cơ chế giải quyết bắt buộc đối với

các tranh chấp được liệt kê ở Điều 298 khoản 1. Như vậy xét về mặt bản chất,

khi đối chiếu với định nghĩa của bảo lưu “là một tuyên bố đơn phương, bất kể

cách viết hoặc tên gọi như thế nào, của một quốc gia đưa ra khi ký kết, phê

chuẩn, chấp thuận, phê duyệt hoặc gia nhập một điều ước, nhằm qua đó loại

bỏ hoặc sửa đổi hiệu lực pháp lý của một số quy định của điều ước trong việc

áp dụng chúng đối với quốc gia đó” có thể thấy tuyên bố theo Điều 298 là một

tuyên bố bảo lưu.

Tuy nhiên, gọi tuyên bố theo Điều 298 là tuyên bố bảo lưu cũng không

58

chính xác hoàn toàn. Tuyên bố bảo lưu chỉ có thể đưa ra khi ký kết, phê

chuẩn, chấp thuận, phê duyệt hoặc gia nhập một điều ước. Quốc gia không thể

đưa ra tuyên bố bảo lưu sau khi đã chấp nhận các điều ước quốc tế, bảo lưu

phải được đưa ra tại thời điểm điều ước ảnh hưởng đến chủ thể. Thế nhưng,

thời hạn đưa ra tuyên bố theo Điều 298 Công ước lại rất linh hoạt. Theo đó,

Công ước cho phép các quốc gia khi ký kết, phê chuẩn, tham gia và bất kì

thời điểm nào sau đó, quốc gia đều có quyền đưa ra tuyên bố theo Điều 298.

Hơn nữa, giá trị của tuyên bố theo Điều 298 ở một mức độ nào đó cao

hơn so với một tuyên bố bảo lưu thông thường. Như đã nói đến ở trên, bảo

lưu là một quyền của quốc gia nhưng quyền đó lại bị hạn chế. Một quốc gia

khi muốn bảo lưu một điều khoản nhất định của một điều ước cần có sự đồng

thuận của các quốc gia thành viên khác. Ở đây, theo quy định tại Điều 298

khoản 6, các tuyên bố khi đưa ra chỉ cần gửi lên Tổng thư ký Liên Hợp Quốc

để lưu chuyển, Tổng thư ký chuyển các bản sao văn kiện đó cho các quốc gia

thành viên. Sự bảo lưu lúc này đối với các thủ tục giải quyết tranh chấp bắt

buộc ở Mục 2 đối với một số tranh chấp là một “bảo lưu đương nhiên”. Tức là

một tuyên bố theo Điều 298 không cần hỏi đến ý kiến của các quốc gia khác,

không cần xét đến sự chấp thuận hay phản đối của bất kì ai, các quốc gia khác

59

lúc này đương nhiên phải đồng ý với các tuyên bố ngoại lệ được đưa ra.

Kết luận chƣơng 2

Điều 287 của Công ước cho phép các bên đưa ra lựa chọn Tòa thích

hợp để giải quyết tranh chấp thông qua một Tuyên bố bằng văn bản. Tuyên bố

này giúp các quốc gia có được ưu thế trong việc lựa chọn phương thức bắt

buộc phù hợp với lợi ích quốc gia đó, giá trị ràng buộc của tuyên bố phải

được xem xét đồng thời với các quốc gia còn lại trong vụ tranh chấp.

Tuyên bố đưa ra các ngoại lệ theo Điều 298 của Công ước cho phép các

quốc gia không áp dụng cơ chế giải quyết Mục 2 đối với một số tranh chấp

nhất định. Đây là kết quả của quá trình đàm phán lâu dài với mục đích tôn

trọng chủ quyền quốc gia. Mặt khác, việc loại bỏ một số loại tranh chấp nhất

định ra khỏi thủ tục giải quyết tranh chấp bắt buộc là điều kiện tiên quyết để

các quốc gia là thành viên của hội nghị Luật Biển lần 3 chấp nhận các quy

định về giải quyết tranh chấp của Công ước Luật Biển năm 1982.

Tuy nhiên, câu hỏi đặt ra là giá trị pháp lý của tuyên bố ngoại lệ theo

Điều 298 của Công ước gây ảnh hưởng thế nào đến cơ chế giải quyết tranh

chấp, trong khi đó, những tranh chấp liệt kê ở Điều 298 lại là những tranh

chấp xảy ra ở mức độ thường xuyên. Liệu những quy định tại Điều 298 có đi

ngược lại và loại bỏ hiệu lực của cơ chế giải quyết tranh chấp theo Điều 287

của công ước không? Phần thứ ba liên quan đến thực tiễn áp dụng hai điều

60

khoản này sẽ làm sáng tỏ câu hỏi trên.

CHƢƠNG 3

THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH VỀ QUYỀN ĐƢA RA

TUYÊN BỐ Ở BIỂN ĐÔNG VÀ MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ ĐỐI VỚI

VIỆT NAM

Trong thực tiễn quan hệ quốc tế giữa các quốc gia và các chủ thể khác

của luật quốc tế, có rất nhiều lĩnh vực, nhiều mối quan hệ mà quyền và lợi

ích của các chủ thể đan xen lẫn nhau trên các lĩnh vực: chính trị - kinh tế,

văn hóa - xã hội, an ninh - quốc phòng, môi trường… Tất cả đều phản ánh

lợi ích đa dạng và phong phú của các chủ thể của luật quốc tế khi tham gia

vào quan hệ quốc tế. Xuất phát từ những lợi ích to lớn về kinh tế, chính trị,

an ninh quốc phòng mà biển và đại dương đã, đang và sẽ mang lại cho các

quốc gia trên thế giới, đặc biệt là quốc gia có biển, từ trước đến nay có rất

nhiều các tranh chấp giữa các quốc gia đối với các vùng biển thuộc chủ

quyền và quyền chủ quyền của quốc gia.

Để dung hoà giữa hai xu hướng “chủ quyền quốc gia” và “tự do biển

cả”, Công ước Luật biển 1982 đã đề ra quyền đưa ra tuyên bố ngoại lệ theo

Điều 298 Công ước nhằm loại trừ hiệu lực của các cơ chế giải quyết bắt buộc

ở Điều 287 đối với các tranh chấp được liệt kê ở Điều 298 khoản 1. Sự hạn

chế cơ chế giải quyết tranh chấp được xem là sự thoả hiệp của các quốc gia

trong quá trình đàm phán về cơ chế giải quyết tranh chấp.

Tuy nhiên mặc cho Điều 298 loại bỏ hiệu lực của Điều 287 đối với một

số tranh chấp, phạm vi áp dụng cơ chế giải quyết tranh chấp vẫn còn tồn tại

(dù bị hạn chế) đối với những tranh chấp không bị loại trừ.

Để làm sáng tỏ hơn sự hạn chế lẫn nhau của hai tuyên bố, ta sẽ đi sâu

61

phân tích vụ kiện Trung Quốc của Philippines.

3.1. Thực tiễn vụ kiện giữa Philippines và Trung Quốc

3.1.1. Tóm tắt nội dung vụ kiện

Ngày 22/1/2013, Philippines nộp bản Thông báo và Tuyên bố khởi kiện

để khởi kiện Trung Quốc trước Toà Trọng tài về “Thẩm quyền trên các vùng

biển của Philippines đối với Biển Tây Philippines” theo các quy định của Phụ

lục VII Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển. Theo cơ sở quy định tại Điều

287 khoản 3, cả Trung Quốc và Philippines đều chưa đưa ra tuyên bố lựa

chọn về cơ chế giải quyết bắt buộc, do đó Trọng tài theo phụ lục VII là cơ chế

duy nhất có thẩm quyền đương nhiên trong vụ việc này. Trong Bản tranh tụng

của mình, Philippines đã đưa ra 15 vấn đề yêu cầu Toà Trọng tài xem xét, đưa

ra phán quyết với 4 nội dung chính:

(i) Yêu sách “đường lưỡi bò” là phi lý;

(ii) Quy chế pháp lý cho một số thực thể ở Biển Đông;

(iii) Một số hoạt động gần đây của Trung Quốc trên Biển Đông là vi

phạm UNCLOS, luật quốc tế về an toàn hàng hải và xâm phạm quyền lợi

chính đáng của Philippines trên biển;

(iv) Trung Quốc không được có thêm các yêu sách và hoạt động bất

hợp pháp trong tương lai.

Tuy vậy, yêu cầu khởi kiện của Philippines đã vấp phải sự bất hợp tác

của Trung Quốc, cụ thể là đưa ra quan điểm không tham gia vào vụ kiện và vì

thế, đã không đệ trình bất cứ tài liệu gì theo yêu cầu của Toà. Mặc dù vậy,

vào ngày 07/12/2014, Trung Quốc đã đưa ra “Tuyên bố về Lập trường của

Trung Quốc đối với vụ kiện mà Philippines khởi xướng trước Toà Trọng tài”.

Trong Bản Tuyên bố Lập trường này, Trung Quốc chỉ tập trung phản biện về

vấn đề thẩm quyền của Toà Trọng tài, chứ không đưa ra quan điểm cụ thể của

mình về các nội dung kiện mà Philippines đệ trình trước Toà. Theo đó, Trung

62

Quốc phản đối thẩm quyền của Toà Trọng tài dựa trên ba lý do:

(i) Bản chất của vấn đề tranh chấp trong vụ kiện là chủ quyền đối với

một số cấu trúc địa lý trên Biển Đông, không thuộc phạm vi điều chỉnh của

UNCLOS và vì thế Toà Trọng tài không có thẩm quyền;

(ii) Trung Quốc và Philippines đã đồng ý, thông qua các thoả thuận

song phương và Tuyên bố về Ứng xử của các bên trên Biển Đông, sẽ giải

quyết các tranh chấp thông qua con đường đàm phán. Việc Philippines đơn

phương khởi kiện Trung Quốc đã vi phạm nghĩa vụ của quốc gia này theo

luật quốc tế;

(iii) Kể cả trong trường hợp vấn đề tranh chấp trong vụ việc này thuộc

phạm vi điều chỉnh của UNCLOS, vấn đề tranh chấp này cấu thành một phần

không thể tách rời trong vấn đề phân định biển giữa hai quốc gia; mà các

tranh chấp liên quan đến phân định biển rơi vào phạm vi của Tuyên bố năm

2006 của Trung Quốc loại trừ tất cả các tranh chấp về phân định biển ra khỏi

thẩm quyền bắt buộc của Toà Trọng tài.

Cụ thể tuyên bố theo Điều 298 mà Trung Quốc đưa ra năm 2006 có nội

dung như sau: “Chính phủ nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa không chấp

nhận bất kỳ thủ tục nào được quy định ở Mục 2 phần XV của Công ước này

liên quan đến tất cả các loại tranh chấp được dẫn chiếu tại khoản 1(a), (b) và

(c)của Điều 298 của Công ước”.

Rõ ràng Trung Quốc đã thực hiện quyền của mình theo Điều 298 và

loại bỏ hiệu lực của cơ chế giải quyết tranh chấp bắt buộc và ràng buộc theo

Mục 2 Phần XV đối với các tranh chấp được dẫn chiếu tại Điều 298 khoản

1(a), (b) và (c) của Công ước. Vậy Toà trọng tài rõ ràng có thẩm quyền để

giải quyết vụ việc này nhưng liệu có bị loại trừ bởi tuyên bố của Trung Quốc?

3.1.2. Áp dụng Điều 287 và Điều 298 của Công ước Luật Biển 1982

trong phán quyết của Tòa Trọng tài

63

Trước tiên Toà Trọng tài phải xác định các điều kiện để Toà có thẩm

quyền có được thoả mãn hay không. Sở dĩ Toà phải có bước xác định thẩm

quyền là bởi vì một trong những nguyên tắc cơ bản của giải quyết tranh chấp

quốc tế thông qua toà án hoặc toà trọng tài quốc tế là: toà chỉ có thể xét xử

một vụ tranh chấp giữa hai quốc gia nếu như được sự đồng ý của cả hai quốc

gia đó. Vì thế, trong một số tranh chấp, toà thường chia quá trình tranh tụng

thành hai giai đoạn: giai đoạn xét xử thẩm quyền, sau đó mới đến giai đoạn

xét xử nội dung.

Cụ thể, Tòa trọng tài sẽ chỉ có thẩm quyền khi Tòa có thể xác định một

cách chắc chắn rằng:

(i) Tranh chấp này liên quan đến việc giải thích và áp dụng UNCLOS;

(ii) Philippines đã thỏa mãn các yêu cầu thủ tục về trao đổi quan

điểm trước khi tiến hành khởi kiện và giữa hai bên không có một

thoả thuận về việc sử dụng một cơ chế giải quyết tranh chấp khác

mang tính ràng buộc;

(iii) Các tranh chấp được Philippines nêu ra không bị loại trừ khỏi

thẩm quyền của tòa trọng tài theo tuyên bố của Trung Quốc theo

Điều 298.

Về vấn đề đầu tiên, trong phán quyết về thẩm quyền của mình, Tòa

Trọng tài ghi nhận giữa Trung Quốc và Philippines (cũng như các bên yêu sách

khác như Việt Nam, Malaysia, Đài Loan) có tranh chấp về chủ quyền các thực

thể ở Trường Sa. Nhưng các tranh chấp mà Philippines đưa ra Tòa không phải là

tranh chấp về chủ quyền. Giữa hai quốc gia có thể tồn tại tranh chấp trên rất

nhiều phương diện, và sự tồn tại của tranh chấp về chủ quyền không thể loại trừ

tranh chấp trên các khía cạnh khác của vụ việc [37, đoạn 152]. Tòa nhận định:

(i) Philippines không yêu cầu Tòa tuyên bố chủ quyền của các thực thể;

(ii) Các đệ trình của Philippines cũng không đòi hỏi Tòa phải giải

64

quyết vấn đề chủ quyền như là điều kiện tiên quyết. Và ngay cả khi

Tòa phán quyết có lợi cho Philippines thì cũng không tạo ra sự công

nhận gián tiếp về chủ quyền và không tạo lợi thế cho Philippines

trong tranh chấp chủ quyền [37, đoạn 153].

Tòa Trọng tài cũng bác bỏ lập luận của Trung Quốc rằng việc Philippines

yêu cầu xác định quy chế pháp lý cho các thực thể mà Trung Quốc đang

chiếm đóng là “nhằm bác bỏ chủ quyền của Trung Quốc đối với Trường Sa”.

Trái lại, tất cả các tranh chấp mà Philippines nêu ra đều là tranh chấp liên

quan đến việc giải thích và áp dụng UNCLOS [37, đoạn 178]. Và Toà Trọng

tài có thẩm quyền giải quyết tất cả các vụ việc liên quan đến việc giải thích và

áp dụng UNCLOS.

Sang đến vấn đề thứ hai về việc tồn tại một phương thức giải quyết

tranh chấp bắt buộc khác không phải Toà Trọng tài dựa trên các các văn bản,

tuyên bố giữa Philippines và Trung Quốc (như DOC, TAC, các tuyên bố song

phương…). Tòa Trọng tài đã bác bỏ lập luận này vì:

(1) các văn bản, tuyên bố được đề cập, ngay cả DOC chỉ là các tuyên

bố chính trị, không có giá trị ràng buộc về pháp lý mà; và cho dù có giá trị

ràng buộc hay không thì

(2) không có văn kiện nào nói các bên chỉ được dùng cơ chế đàm phán

(3) và không có văn kiện nào tuyên bố loại trừ cơ chế tài phán của

UNCLOS. Ngược lại, DOC, TAC, các tuyên bố song phương giữa Philippines

và Trung Quốc còn thường xuyên dẫn chiếu đến các nguyên tắc và quy định

của UNCLOS.

Vì thế, Tòa kết luận giữa các bên không có thỏa thuận loại trừ thẩm quyền

tài phán của Tòa. Và ngay cả khi các bên đã tuyên bố kiên trì theo đuổi đàm

phán thì khi thất bại hoặc bế tắc, bên còn lại vẫn có quyền sử dụng cơ chế tài

phán của UNCLOS [37, đoạn 213, 216, 217, 223, 237]. Cẩn thận hơn, Tòa còn

dành một đoạn khá dài để chứng minh Philippines cũng không vi phạm nguyên

65

tắc Estoppel (tiền hậu bất nhất) khi tiến hành khởi kiện [37, đoạn 249-251].

Như vậy, Toà Trọng tài theo đúng quy định Đều 287 khoản 3 có thẩm

quyền giải quyết đương nhiên với vụ việc.

Đối với vấn đề thứ ba liên quan đến Tuyên bố năm 2006 của Trung

Quốc theo Điều 298 cho phép các quốc gia được tuyên bố loại trừ thẩm quyền

của cơ chế giải quyết bắt buộc đối với một số loại tranh chấp nhất định. Trung

Quốc đã tuyên bố loại trừ thẩm quyền của Toà trọng tài bao gồm: các tranh

chấp về phân định biển, tranh chấp về danh nghĩa lịch sử và vịnh lịch sử,

tranh chấp về việc thực thi luật pháp liên quan đến nghề cá và nghiên cứu

khoa học biển trong vùng đặc quyền kinh tế, tranh chấp liên quan đến các

hoạt động quân sự và các tranh chấp đang được Hội đồng Bảo an Liên Hợp

Quốc xem xét.

Trong số các đệ trình của Philippines, Tòa Trọng tài đã xác định có

7/15 đệ trình không thuộc trường hợp ngoại lệ bị loại trừ khỏi thẩm quyền của

Tòa theo Điều 298, bao gồm [45]:

(i) Bãi cạn Scarborough không được hưởng quyền có vùng đặc quyền

kinh tế hay thềm lục địa.

(ii) Đá Vành Khăn (Mischief Reef), bãi Cỏ Mây (Second Thomas)

và đá Xu Bi (Subi Reef) không được hưởng quyền có vùng biển chủ quyền

(tức là lãnh hải), vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) hay thềm lục địa. Đồng thời

chúng là những thực thể địa lý không đủ điều kiện để các quốc gia chiếm

dụng bằng cách cư ngụ hoặc các hình thức chiếm dụng khác.

(iii) Đá Ga Ven (Gaven Reef) và cụm đá Kenm Nan - đá Tư Nghĩa

(McKennan Reef) không được hưởng quyền có vùng biển chủ quyền (tức là lãnh

hải), vùng đặc quyền kinh tế hay thềm lục địa. Nhưng mực triều thấp của các kết

cấu này có thể được sử dụng để xác định đường cơ sở, mà căn cứ vào đó để

xác định chiều rộng của vùng biển chủ quyền (lãnh hải) của đảo Nam

Yết (Namyit) và đảo Sinh Tồn (Sin Cowe) (Ga Ven cho Nam Yết, và Ken

66

Nan – Tư Nghĩa cho Sinh Tồn).

(iv) Đá Gạc Ma (Johnson Reef), đá Châu Viên (Cuarteron Reef) và đá

Chữ Thập (Fiery Cross Reef) không được hưởng quyền có vùng đặc quyền

kinh tế hay thềm lục địa.

(v) Trung Quốc đã cản trở trái phép ngư dân Philippines mưu sinh bằng

cách cản trở hoạt động đánh bắt cá truyền thống tại bãi cạn Scarborough.

(vi) Trung Quốc đã vi phạm các nghĩa vụ của mình theo Công ước Liên

Hiệp Quốc về Luật biển đối với việc bảo vệ và bảo tồn môi trường biển tại bãi

cạn Scarborough và bãi Cỏ Mây.

(vii) Trung Quốc đã vi phạm các nghĩa vụ của mình theo Công ước khi

triển khai các tàu của lực lượng thực thi pháp luật (như Ngư chính, Hải giám

Trung Quốc) gây nguy hiểm, rủi ro, va chạm với các tàu của Philippines hành

hải gần khu vực bãi cạn Scarborough (vi phạm quyền hành hải của Philippines).

Có thể thấy các đệ trình (i), (ii), (iii) và (iv) thuộc vấn đề xác định quy

chế pháp lý của một số thực thể trên biển Đông. Còn các đệ trình còn lại (v),

(vi) và (vii) thì thuộc vấn đề vi phạm quy định của UNCLOS về an ninh hàng

hải, nghĩa vụ bảo vệ tài nguyên môi trường biển, đồng thời các hành vi xâm

phạm quyền lợi chính đáng của Philippines trên biển của Trung Quốc. Rõ

ràng các đệ trình này không thuộc vào một trong 3 nội dung bị loại trừ theo

Điều 298 Công ước đã nêu trên. 8/15 đệ trình còn lại, Tòa chưa có kết luận về

thẩm quyền mà tạm thời gác lại, xem xét tiếp cùng với phần tranh tụng về nội

dung [37, đoạn 413]. Ít nhất, Tòa chắc chắn có thầm quyền giải quyết đối với

7 nội dung trong đơn kiện của Philippines.

Như vậy, bất chấp tuyên bố của Trung Quốc năm 2006 theo Điều 298

về việc không tham gia vào hệ thống giải quyết tranh chấp bắt buộc của

UNCLOS, một số tranh chấp giữa Trung Quốc và Philippines vẫn được dẫn

chiếu tới hệ thống giải quyết tranh chấp bắt buộc theo Mục 2 Phần XV của

67

UNCLOS, cụ thể là Toà Trọng tài theo phụ lục VII.

3.1.3. Ý nghĩa phán quyết của Tòa về thẩm quyền

Phán quyết này của Toà Trọng tài đóng vai trò làm sáng tỏ một số vấn

đề quan trọng gây nhiều tranh cãi về việc sử dụng cơ chế thứ ba để giải quyết

tranh chấp Biển Đông cho đến nay. Phán quyết chắc chắn cũng sẽ có tác động

to lớn đến nỗ lực cũng như quá trình giải quyết tranh chấp của các quốc gia

khác trong khu vực.

Rào cản lớn nhất đối với Philippines trong quá trình khởi kiện Trung

quốc đó chính là vấn đề thẩm quyền xét xử. Liệu Tòa có thẩm quyền hay

không căn cứ vào những quy định về cơ chế giải quyết tranh chấp tại Công

ước Luật biển 1982. Việc Toà Trọng tài xác nhận thẩm quyền đối với 7 trong

15 đệ trình của Philippines và không loại trừ khả năng xác lập thẩm quyền đối

với các vấn đề còn lại cho thấy việc sử dụng cơ chế giải quyết tranh chấp theo

UNCLOS có thể là một bước đi đúng đắn của Philippines trong nỗ lực tìm ra

một biện pháp hoà bình để giải quyết tranh chấp với Trung Quốc.

Đồng thời, mặc dù Philippines và Trung Quốc đã tiến hành đàm phán

trong một thời gian dài nhưng không đi đến kết quả nào. Vì thế, Philippines

có quyền đưa vụ kiện này ra trước Toà trọng tài trên cơ sở rằng hai bên vẫn

tiếp tục phải đàm phán. Hơn thế, Toà xác định rằng việc một bên đơn phương

khởi kiện ra trước toà trọng tài theo Phần XV không thể cấu thành một sự lạm

dụng quyền vì quốc gia thành viên của UNCLOS quyền đơn phương khởi

kiện mà không cần phải đàm phán hay được sự đồng ý của bên còn lại, miễn

sao phù hợp với quy định về thủ tục của Công ước [39, Điều 286].

Từ vụ kiện giữa Philippines và Trung Quốc nhận thấy dù Điều 298

Công ước cho phép các quốc gia đưa ra tuyên bố loại trừ hệ thống giải quyết

tranh chấp bắt buộc tại Điều 287 đối với các tranh chấp chủ quyền, phân định

biên giới biển nên các lựa chọn để giải quyết tranh chấp thông qua cơ chế giải

68

quyết mang tính ràng buộc là khá hạn chế. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa

là con đường đi đến việc giải quyết tranh chấp theo cơ chế bắt buộc theo Điều

287 đã hoàn toàn khép lại. Phạm vi áp dụng của Điều 287 vẫn còn tồn tại đối

với những tranh chấp không bị loại trừ theo Điều 298 Công ước.

3.2. Một số khuyến nghị cho Việt Nam về việc lựa chọn cơ chế giải

quyết tranh chấp trên biển theo UNCLOS 1982

3.2.1. Quan điểm của Việt Nam về giải quyết tranh chấp ở Biển Đông

Việt Nam tham gia vào Hội nghị Liên hợp quốc về Luật biển lần thứ ba

năm 1977 và ký UNCLOS vào năm 1982. Với chủ trương nhất quán thông

qua các biện pháp hòa bình giải quyết tranh chấp, bất đồng trên biển, Việt

Nam đã có nhiều nỗ lực trong việc áp dụng có hiệu quả Công ước Luật Biển

1982 để giải quyết các tranh chấp về phân định biển với các nước láng giềng.

Theo đó, đối với các vấn đề chỉ liên quan đến Việt Nam và một quốc gia khác

thì giải quyết song phương. Với các vấn đề liên quan đến nhiều nước, nhiều

bên, liên quan đến tự do, an toàn hàng hải thì cần sự bàn bạc của các bên liên

quan. Trong trường hợp các bên không giải quyết được bằng cơ chế đàm phán

thì cần phải thực hiện bằng các phương thức khác, như: trung gian, hòa giải

hoặc các cơ chế tài phán quốc tế. Trong khi chờ một giải pháp cơ bản, lâu dài

cho vấn đề Biển Đông, các bên liên quan cần nghiêm chỉnh thực hiện Tuyên

bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC); nỗ lực duy trì hòa bình,

ổn định trên cơ sở giữ nguyên trạng, không làm phức tạp hóa tình hình, không

có hành động vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực.

Việt Nam luôn đề cao nguyên tắc công bằng để tìm ra giải pháp hợp lý,

cụ thể là: Việt Nam đã ký với Thái Lan Hiệp định về phân định biển ngày

9/8/1997; ký với Trung Quốc Hiệp định về phân định vịnh Bắc Bộ và Hiệp

định hợp tác nghề cá trong vịnh Bắc Bộ ngày 25/12/2000; ký với Indonesia

69

Hiệp định về phân định thềm lục địa ngày 26/6/2003.

Năm 2002, ASEAN và Trung Quốc đã ký kết Tuyên bố về Ứng xử của

các Bên ở Biển Đông (DOC). Các bên tái khẳng định cam kết tuân thủ các

nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế và “cam kết giải quyết các tranh chấp

bằng các biện pháp hòa bình, không sử dụng vũ lực, thông qua tham vấn, đàm

phán hữu nghị giữa các quốc gia trực tiếp liên quan”. Các bên cũng cam kết

“sẵn sàng tiếp tục các cuộc đối thoại và tham vấn về những vấn đề liên quan,

thông qua các thể thức được các bên đồng ý, kể cả các cuộc tham vấn thường

xuyên theo quy định của Tuyên bố này, vì mục tiêu khuyến khích sự minh

bạch và láng giềng tốt, thiết lập sự hợp tác và hiểu biết lẫn nhau một cách hài

hòa, và tạo điều kiện thuận lợi cho việc giải quyết hòa bình các tranh chấp

giữa các bên. “Đến năm 2011, Việt Nam và Trung Quốc đã ký kết Thỏa thuận

về các nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển giữa hai nước.

Thỏa thuận này yêu cầu hai nước trong quá trình đàm phán phải “thực hiện

nghiêm túc nguyên tắc và tinh thần” của Tuyên bố DOC. Nếu Thỏa thuận này

được xem là một thỏa thuận có tính chất ràng buộc (một điều ước quốc tế)

giữa hai nước thì bằng cách dẫn chiếu đến Tuyên bố DOC, hai nước đã trao

giá trị ràng buộc cho Tuyên bố DOC [1].

Việt Nam đã đưa ra các tuyên bố chính thức thể hiện quan điểm của

mình như Tuyên bố Chính phủ năm 1977 và 1982, Nghị quyết của quốc hội

về việc phê chuẩn UNCLOS 1994, trong đó quy định:

Quốc hội một lần nữa khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với

hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và chủ trương giải quyết các

tranh chấp về chủ quyền lãnh thổ cũng như các bất đồng khác liên

quan đến Biển Đông thông qua thương lượng hoà bình trên tinh

thần bình đẳng, hiểu biết và tôn trọng lẫn nhau, tôn trọng pháp luật

quốc tế, đặc biệt là Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển năm

1982, tôn trọng quyền chủ quyền và quyền tài phán của các nước

70

ven biển đối với vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa; trong khi

nỗ lực thúc đẩy đàm phán để tìm giải pháp cơ bản và lâu dài, các

bên liên quan cần duy trì ổn định trên cơ sở giữ nguyên trạng,

không có hành động làm phức tạp thêm tình hình, không sử dụng

vũ lực hoặc đe doạ sử dụng vũ lực [12].

Đặc biệt, Việt Nam chú trọng việc đàm phán trực tiếp trên tinh thần

thiện chí đối với các tranh chấp trên biển, dựa trên sự tôn trọng quyền và lợi

ích chính đáng của các bên liên quan nhằm đạt được thỏa thuận về giải pháp

Công bằng và hợp lý phù hợp với điều 33 của Hiến chương Liên Hợp quốc,

Điều 74 và 83 của UNCLOS 1982.

Tại các diễn đàn liên quan, Việt Nam luôn khẳng định trong hoạt động

sử dụng biển, các quốc gia phải tuân thủ đúng các quy định của Công ước

Luật Biển 1982, thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo Công ước. Hằng

năm, Việt Nam tích cực tham gia thảo luận và ủng hộ thông qua Nghị quyết

của Đại hội đồng LHQ về “Đại dương và Luật Biển”. Trong những năm qua,

Việt Nam tham gia tiến trình đàm phán xây dựng văn kiện pháp lý về về bảo

tồn và sử dụng bền vững đa dạng sinh học tại các vùng biển ngoài phạm vi

quyền tài phán quốc gia (BBNJ) trong khuôn khổ Công ước Luật Biển.

Ngày 22/10/2018, Ban Chấp hành Trung ước Đảng (khóa XII) đã ban

hành Nghị quyết số 36-NQ/TW về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế

biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, thể hiện quyết tâm rất

lớn của Đảng và Nhà nước trong việc phát triển bền vững kinh tế biển, đưa

Việt Nam trở thành quốc gia biển mạnh [3].

Liên quan đến một số tranh chấp ở Biển Đông, Việt Nam đã có một số

sáng kiến trong việc tìm kiếm các biện pháp giải quyết tranh chấp thông qua

các kênh song phương và đa phương như thành lập các diễn đàn dành cho các

cuộc đàm phán các vấn đề về biển với Trung quốc năm 1993, Chương trình

khảo sát nghiên cứu khoa học Biển Đông 1994 giữa Việt Nam và Philippines.

71

Tuyên bố ứng xử giữa các bên ở Biển Đông năm 2002…

Tháng 10/2011, Việt Nam đã ký kết với Trung quốc Thảo thuận về các

nguyên tắc cơ bản định hướng giải quyết các vấn đề trên biển nhằm giúp hai

bên thúc đẩy quá trình đàm phán và tìm kiếm giải pháp lâu dài được hai bên

chấp thuận. Về cơ bản, cơ sở giúp Việt Nam giải quyết tranh chấp trên biển

Đông bao gồm: [11]

- Quy chế pháp lý và các nguyên tắc được xác định trong Luật quốc tế,

bao gồm Công ước Luật Biển 1982.

- Các Hiệp định và nhận thức chung do lãnh đạo cấp cao đạt được.

- Phù hợp với các nguyên tắc và tinh thần của DOC.

Như vậy, Việt Nam luôn giữ vững lập trường giải quyết các tranh

chấp trên biển với các quốc gia thông qua đối thoại và đàm phán hữu nghị.

Khi có bất đồng hoặc khác biệt liên quan đến giải thích và thực thi Công ước

Luật Biển 1982, các bên liên quan cần thương lượng, giải quyết bằng biện

pháp hòa bình, các nước liên quan cần tôn trọng và thực hiện đầy đủ Tuyên

bố ứng xử các bên ở Biển Đông (DOC), kiềm chế, không thực hiện các hoạt

động đơn phương có thể làm phức tạp tình hình và gia tăng tranh chấp, tham

gia đàm phán một cách xây dựng nhằm sớm đạt một Bộ Quy tắc ứng xử ở

Biển Đông (COC) hiệu lực, phù hợp với luật pháp quốc tế trong đó có Công

ước Luật Biển 1982.

3.2.2. Một số khuyến nghị dành cho Việt Nam về vận dụng quyền

đưa ra tuyên bố theo cơ chế giải quyết tranh chấp UNCLOS 1982

Biển đảo Việt Nam được coi là vùng cửa ngõ cho sự giao lưu phát triển

kinh tế - xã hội không chỉ với các nước trong khu vực mà với cả thế giới.

Ngày nay, với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học – kỹ thuật đã giúp con

người có những phát hiện to lớn về nguồn tài nguyên phong phú trong lòng

biển đảo Việt Nam. Trong những năm qua, tình hình tranh chấp chủ quyền ở

72

Biển Đông có xu hướng gia tăng, diễn biến phức tạp, tiềm ẩn những nhân tố

gây mất ổn định cho khu vực và thế giới. Đối với Việt Nam, giải quyết vấn đề

này được đặt trong tổng thể chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước

và trong chính sách đối ngoại hòa bình, độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa

dạng hóa quan hệ của Đảng và Nhà nước ta. Là quốc gia có vị trí địa lý chiến

lược nằm ven Biển Đông, có bờ biển dài so với các quốc gia trong khu vực,

hiện nay, Việt Nam đang có những tranh chấp biển cơ bản sau: [9]

- Tranh chấp chủ quyền quần đảo Hoàng Sa với Trung Quốc.

- Tranh chấp chủ quyền quần đảo Trường Sa với Trung Quốc, Đài Loan

và các nước trong khu vực Đông Nam Á gồm Malaixia, Philipines và Brunei.

- Các tranh chấp liên quan đến Campuchia trên vùng biển phía Nam

Biển Đông giữa hai nước.

- Các tranh chấp liên quan đến vùng chồng lấn đặc quyền kinh tế và

thềm lục địa với Indonexia, Malaixia, Thái Lan.

Căn cứ vào cơ sở pháp lý quốc tế và những chứng cứ lịch sử cho thấy

Việt Nam có đầy đủ cơ sở pháp lý để khẳng định chủ quyền biển đảo, vậy

Việt Nam nên hành động như thế nào để đảm bảo lợi ích quốc gia, vấn đề

chính trị, ngoại giao, kinh tế và quan hệ giữa các nước trong khu vực. Sau

vụ kiện giữa Philippines và Trung quốc, Việt Nam có thể áp dụng một số

biện pháp sau:

Thứ nhất, Việt Nam vẫn giải quyết tranh chấp thông qua con đường

ngoại giao. Việt Nam không nhất thiện phải can thiệp vào biện pháp khởi kiện

của Philippines nhưng cần lưu ý khoanh lại những giải thích phương hại đến

vấn đề chủ quyền với các đá có liên quan đến Việt Nam, chỉ giải quyết các

quyền chủ quyền và việc thực hiện các quyền đó trên các vùng biển và thềm

lục địa giữa các bên trên cơ sở công ước Luật Biển. Đối với danh nghĩa chủ

quyền lịch sử của Việt Nam, tồn tại tuyên bố bảo lưu theo khoản 1 Điều 298

73

của UNCLOS 1982, Trọng tài sẽ không đưa ra phán quyết về các vấn đề danh

nghĩa lịch sử, Việt Nam có thể yêu cầu Philippines đưa ra tuyên bố sửa đổi

những nội dung giải thích liên quan đến chủ quyền của Việt Nam nhưng

không ảnh hưởng đến mục đích bác bỏ đường 9 đoạn của Trung quốc không

phù hợp với UNCLOS 1982 [3]. Đồng thời, Việt Nam không ngừng đưa ra

tuyên bố khẳng định chủ quyền biển đảo trên cơ sở thượng tôn pháp luật đối

với những hành vi của các quốc các quốc gia khác xâm phạm đến những vùng

biển, đảo thuộc phạm vi của nước ta.

Thứ hai, trường hợp Việt Nam tiến hành đưa ra tuyên bố lựa chọn hình

thức giải quyết tranh chấp theo quy định của UNCLOS 1982. Cơ chế này cho

phép các thành viên khởi kiện liên quan đến việc giải thích và áp dụng Công

ước. Trong trường hợp Việt Nam và quốc gia còn lại tham gia tranh chấp

cùng đưa ra tuyên bố lựa chọn một cơ chế giải quyết tranh chấp thì cơ chế tài

phán quy định tại Điều 287 (1) UNCLOS sẽ được lựa chọn. Nếu Việt Nam

lựa chọn một cơ chế tài phán giải quyết tranh chấp mà bên kia chưa có lựa

chọn hoặc hai bên có lựa chọn khác nhau thì Tòa Trọng tài theo phụ lục VII

sẽ được áp dụng. Mặc dù những ngoại lệ quy định tại Điều 298 của Công ước

Luật Biển 1982 loại bỏ hiệu lực của cơ chế tài phán nhưng nó chỉ loại bỏ một

phần trong số các tranh chấp nhất định, những tranh chấp còn lại liên quan

đến giải thích và áp dụng Công ước nằm ngoại phạm vi Điều 298 thì thẩm

quyền quy định trong Điều 287 vẫn được áp dụng. Xét thấy trong trường hợp

cần thiết, Việt Nam có thể tìm hiểu, cẩn trọng và chuẩn bị kỹ lưỡng để lựa

chọn biện pháp tài phán phù hợp cho mình nhằm bảo vệ chủ quyền biển đảo

quê hương, mặt khác, vấn duy trì hòa bình, hợp tác giữa các quốc gia trong

khu vực trên tinh thần tôn trọng luật pháp quốc tế, các tuyên bố, các thỏa

thuận được ký kết giữa các nước và đặc biệt là Công ước Luật Biển 1982.

74

Việc lựa chọn phương thức này có một số ưu điểm như:

- Các bên có khả năng tham gia trực tiếp vào việc thành lập Tòa Trọng

tài thông qua việc chỉ định các Trọng tài viên.

- Thời gian và thủ tục trong các vụ kiện Trọng tài có thể linh hoạt hơn

nếu các bên thực sự có thiện chí, việc thỏa thuận và dàn xếp với Tòa Trọng tài

về lịch trình diễn ra các hoạt động tố tụng của quá trình xét xử.

- Tính bảo mật cũng là một đặc trưng riêng của cơ chế Trọng tài so với

cơ chế Tòa án vốn luôn chú trọng tính công khai.

- Khi sử dụng cơ chế Trọng tài, các bên đương sự có thể an tâm về khả

năng không bị bên thứ ba can thiệp vào quá trình tố tụng ngoài mong muốn

của mình như trong cơ chế Tòa án quốc tế.

- Điểm đặc biệt nhất của Tòa Trọng tài thành lập theo Phụ lục VII so

với 03 cơ chế giải quyết tranh chấp còn lại là theo quy định tại Khoản 5 Điều

287 của UNCLOS 1982 là, Tòa theo Phụ lục VII là cơ chế giải quyết tranh

chấp có tính chất bắt buộc đối với các thành viên Công ước.

- Theo quy định này, khi phát sinh tranh chấp liên quan đến áp dụng và

giải thích UNCLOS 1982 mà các bên không lựa chọn cùng một cơ chế giải

quyết tranh chấp được quy định tại Khoản 1 Điều 287 thì một bên tranh chấp

có thể đưa vụ việc ra Tòa Trọng tài thành lập theo Phụ lục VII. Trong trường

hợp đó, Tòa Trọng tài theo Phụ lục VII có thẩm quyền đương nhiên mà không

cần có sự đồng ý của bên kia.

Có thể thấy, việc giải quyết các tranh chấp thông qua các Tòa Trọng

tài theo Phụ lục VII hay Phụ lục VIII của UNCLOS 1982 được đánh giá là

có triển vọng để giải quyết các tranh chấp ở Biển Đông hiện nay. Bởi lẽ

hiện nay, các quốc gia có xu hướng chọn Trọng tài quốc tế về Luật Biển để

giải quyết các tranh chấp liên quan với thủ tục mềm dẻo và linh hoạt, các

bên có thể thỏa thuận về số lượng trọng tài viên và trọng tài viên đại diện

75

cho mình, tính hiệu quả của phương thức này trong việc giải quyết tranh

chấp đảm bảo tính khách quan, công bằng trong quá trình tố tụng. Khi lưa

chọn cơ chế thông qua tòa Trọng tài, các bên tham gia tranh chấp cần đảm

bảo những điều kiện sau:

- Giữa các bên hiện đang tồn tại tranh chấp

- Các bên đã tích cực sử dụng các biện pháp chính trị - ngoại giao để

giải quyết tranh chấp nhưng một bên trong tranh chấp không hợp tác dẫn đến

tranh chấp không thể giải quyết

- Các bên không bị ràng buộc bởi nghĩa vụ giải quyết tranh chấp cụ thể

nào tring các điều ước quốc tế song phương hoặc đa phương.

- Thủ tục trong tài theo phụ lục VII là thủ tục mặc nhiên.

- Về phạm vi và nội dung khởi kiện không vi phạm giới hạn và ngoại lệ

theo quy định tại Điều 297 và Điều 298 của UNCLOS 1982.

- Xét về khía cạnh pháp lý, việc thu thập bằng chứng và sử dụng bằng

chứng như thế nào phục vụ các lập luận pháp lý là vấn đề quan trọng mà một

quốc gia khi tham gia tranh tụng cần phải lưu ý để có thể đảm bảo xây dựng

bộ hồ sơ một cách tốt nhất. Trong vụ kiện giữa Philippines và Trung Quốc,

Toà cũng từ chối xem xét một số bằng chứng do Philippines đưa ra và Toà

cũng tìm kiếm các bằng chứng một cách độc lập để đưa ra kết luận [5].

- Thời gian để đi đến phán quyết cuối cùng có thể phải trải qua một giai

đoạn kéo dài. Điều này đòi hỏi quốc gia phải có sự chuẩn bị kỹ lưỡng về mọi

mặt: nhân lực, chuyên môn, tinh thần để theo đuổi vụ kiện trong hoàn cảnh

quốc gia bị kiện có thể tạo áp lực để từ chối giá trị của vụ kiện.

- Nếu so sánh với các Tòa án thường trực, giải quyết tranh chấp bằng

thủ tục Trọng tài thường sẽ làm phát sinh chi phí liên quan đến việc thanh

toán thù lao cho các Trọng tài viên cũng như việc chi trả các phí dịch vụ của

Ban thư ký.

76

- Vấn đề các biện pháp đảm bảo thực thi phán quyết trọng tài cũng đặt

ra với các bên tham gia tranh chấp. Phán quyết của Tòa án quốc tế (ICJ hoặc

ITLOS) có thể nhờ Hội Đồng Bảo An Liên Hợp Quốc can thiệp trong trường

hợp một bên tranh chấp không tuân thủ phán quyết. Tuy nhiên, trong cơ chế

Trọng tài, việc thực thi Phán quyết Trọng tài hoàn toàn dựa trên nguyên tắc

“pacta sunt servanda” - nguyên tắc tận tâm, thiện chí thực hiện cam kết quốc

tế, do đó, điều này phụ thuộc phần nhiều vào ý thức tuân thủ nguyên tắc và

77

luật pháp của quốc gia.

Kết luận chƣơng 3

Dựa trên quan điểm Trung Quốc căn cứ ngoại lệ quy định tại Điều 298

của UNCLOS cho rằng các thoả thuận song phương và DOC tạo ra nghĩa vụ

cho các bên phải đàm phán và tham vấn song phương để đi đến biện pháp giải

quyết cuối cùng. Vì vậy, việc Philippines đơn phương khởi kiện nước này ra

trước Toà Trọng tài đã vi phạm nghĩa vụ đàm phán và vi phạm nguyên tắc

thiện chí, cấu thành việc lạm dụng quy trình pháp lý theo UNCLOS.

Tuy nhiên, Toà Trọng tài xác định rằng cả DOC và các tuyên bố song

phương mà Philippines và Trung Quốc đưa ra đều không mang tính ràng buộc

về mặt pháp lý và vì thế không tạo ra nghĩa vụ bắt buộc cho các bên phải đàm

phán. Kể cả có mang tính ràng buộc đi nữa, tương tự như Hiệp ước hữu nghị

hợp tác, các văn bản này đều không chứa đựng một cơ chế giải quyết tranh

chấp bắt buộc nào, đồng thời cũng không loại trừ quyền của các bên sử dụng

cơ chế giải quyết tranh chấp theo Điều 287 của UNCLOS để giải quyết tranh

chấp của mình.

Từ thực tiễn vụ kiện giữa Philippines và Trung quốc, Việt Nam có thể

tham khảo về cơ chế giải quyết tranh chấp của Tòa trọng tài phụ lục VII

UNCLOS 1982, những ưu điểm, nhược điểm về hình thức này từ đó có những

giải pháp pháp lý phù hợp nhằm duy trì hòa bình, ổn định, hợp tác để cùng

78

phát triển ở Biển Đông và trên toàn thế giới.

KẾT LUẬN

Trong bối cảnh tranh chấp lãnh thổ ngày càng gay gắt và những va

chạm lợi ích ở Biển Đông gia tăng như hiện nay, cơ chế giải quyết tranh chấp

quy định trong Công ước 1982 đóng vai trò là cơ sở pháp lý quan trọng đối

với các bên tham gia tranh chấp. Cơ chế này rất phù hợp với xu thế chung của

Công ước và tất nhiên là cả với xu thế phát triển của Luật quốc tế. Những

nguyên tắc và phương pháp giải quyết tranh chấp được đề cập đến trong Công

ước là những nguyên tắc và phương pháp truyền thống của Luật quốc tế. Tuy

nhiên, cơ chế giải quyết tranh chấp của Công ước cũng ghi nhận những điểm

mới mẻ rất đặc biệt. Điểm thứ nhất, đó là lần đầu tiên có một cơ chế giải

quyết tranh chấp bắt buộc dẫn đến những quy định ràng buộc. Hơn thế nữa,

tuy là cơ chế bắt buộc, những nó cũng rất linh hoạt khi Điều 287 Công ước

cho phép các quốc gia quyền được lựa chọn trong 4 thủ tục bắt buộc trong

thời gian không bị ấn định, giới hạn. Điều này tạo cho quốc gia cơ hội để lựa

chọn một phương thức giải quyết thích hợp nhất, phù hợp với lợi ích của từng

quốc gia. Điểm mới mẻ và đặc biệt thứ hai, đó là mặc dù là cơ chế giải quyết

bắt buộc, những không phải bất kì tranh chấp nào cũng phải đưa giải quyết tại

cơ chế này. Điều 298 Công ước cho phép các quốc gia tuỳ thời đưa ra các

tuyên bố ngoại lệ về việc áp dụng các thủ tục bắt buộc. Quy định này đánh

dấu sự tôn trọng và thoả hiệp đối với “chủ quyền quốc gia” của Công ước. Và

mặc dù Điều 298 cho phép các quốc gia loại bỏ hiệu lực của cơ chế giải quyết

tranh chấp, nhưng nó cũng chỉ loại bỏ 1 phần hiệu lực đối với các tranh chấp

nhất định. Các tranh chấp khác, nằm ngoài nội dung ngoại lệ vẫn có khả năng

áp dụng các cơ chế giải quyết tranh chấp theo Điều 287. Do đó, triển vọng các

quốc gia đưa các tranh chấp ra giải quyết theo cơ chế giải quyết tranh chấp

79

bắt buộc vẫn vô cùng lớn.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

I. Tài liệu Tiếng Việt

1.

Kim Anh – Thu Hà (2018), Việt Nam kiên trì giải quyết các tranh chấp ở Biển Đông bằng biện pháp hòa bình, Báo Vietnamnet.vn.

2.

Nguyễn Bá Diến - Nguyễn Hùng Cường (2009), “Cơ chế giải quyết tranh chấp trên biển theo Công ước Luật Biển năm 1982”, Tạp chí khoa học ĐHQG, Luật học (25), tr. 19-26.

3.

Phạm Vũ Thắng (2013), “ Suy nghĩ về giải pháp pháp lý cho Việt Nam trước vụ kiện của Philippines ” Tạp chí khoa học ĐHQG, Tập 29, số 2, tr 50-55

4.

Đặng Thu Hồng (1998), Cơ chế giải quyết tranh chấp trên biển theo Công ước 1982 và Toà án Quốc tế về Luật Biển, Luận văn tốt nghiệp, Học viện Ngoại giao, Hà Nội.

Nguyễn Ngọc Lan (2016), Việt Nam lợi hay hại sau phán quyết PCA?. 5.

Liên Hợp Quốc (1945) Hiến chương, ngày 24 tháng 10 năm 1945. 6.

7.

Trần H. D. Minh, Cơ chế giải quyết tranh chấp của UNCLOS 1982, https://iuscogens-vie.org/2017/12/31/55/.

8.

Nguyễn Thị Kim Ngân - Đỗ Quý Hoàng (2017), Quyền bảo lưu và một số tuyên bố đơn phương của quốc gia khi tham gia điều ước quốc tế.

9.

Ngô Hữu Phước (2003), Giáo trình Luật quốc tế, Nxb Chính trị quốc gia – Sự thật Hà Nội.

10. Quy chế Tòa án Công lý quốc tế.

11. Nguyễn Hồng Thao (2011), Biển Đông – Ba giai đoạn, bốn thách thức,

hai cách tiếp cận và một niềm tin.

12. Nguyễn Hồng Thao (2015), Quan điểm của Việt Nam về chủ quyền trên hai quần đảo Trường Sa – Hoàng Sa và các vùng biển ở Biển Đông, Nxb Thế giới.

80

13. Trương Nhân Tuấn, Bàn về nghĩa vụ pháp lý của các tuyên bố đơn phương.

II. Tài liệu tiếng Anh

14. Case concerning Armed Activities on the Territory of the Congo (New Application: 2002) (Democratic Republic of the Congo v. Rwanda), Judgment of 3 February 2006, Jurisdiction of the Court and Admissibility of the Application.

15. Case concerning Maritime Delimitation and Territorial Questions between Qatar and Bahrain (Qatar v. Bahrain), Judgment of 1 July 1994, Jurisdiction of the Court and Admissibility of the application.

16. Case concerning the Temple at Preah Vihear.

17. Cf. the Uniform Commercial Code (UCC).

18. G Schwarzenberger (1957), International Law as Applied by International

Courts and Tribunals (vol IV).

19. Guiding Principles applicable to unilateral declarations of States capable of creating legal obligations, with commentaries thereto of International Law Commission (2006).

20. H.Charlesworth and Chinkin (2000), The Boundairies of International

Law: a Feminist Analysis, Juris Publishing, Inc.

21.

I.C.J. Reports (1986), Case concerning the Frontier Dispute (Burkina Faso v. Republic of Mali), Judgment of 22 December 1986.

22. ILC (2011), Guide to practice on reservations to treaties, UN.

23.

International Law Commission (2000), Third Report on Unilateral Acts of States, 52nd Session UN Doc A/CN.4/505, art 1.

24.

ITLOS Reports (2008-2010), Dispute concerning delimitation of the maritime boundary between Bangladesh and Myanmar in the Bay of Bengal (No 16) (Bangladesh v. Myanmar) Order of 28 January 2010.

25. J H W Verzjil (1973), International Law in Historical Perspective.

81

26. K Zemanek (1998), Unilateral Legal Acts Revisited’ in K Wellens (ed), International Law: Theory and Practice-Essays in Honour of Eric Suy.

27. Nguyễn Hồng Thao, International Tribunal for the Law of the Sea

28. Note of 22 November 1952 of Colombia about Sovereignty of the United States of Venezuela over the Archipelago of Los Monjes.

29. Nuclear Tests (Australia v. France; New Zealand v. France) I.C.J

(Reports 1974).

30. Puto. A, Public International Law.

31. Ritamurk (1958), The Law and Procedure of the International Court of

Justice 1951, Treaty Interpretation and Other Treaty Points.

32. Robert, C.B & Leonardo, B. (2011), “Disputed Areas in the South China Sea: Prospects for Arbitration or Advisory Opinion”, Biển Đông: Hợp tác vì An ninh và Phát triển trong Khu vực, 4-5 tháng 11 năm 2011, Khách sạn Melia, Hà Nội.

33. Second Report on Unilateral Acts of States.

34. Shaw. M, International law, CU Press 6ed.

35.

Sixth Report on Unilateral Acts of States, 55th Session, UN Doc A/CN.4/534 (2003).

36. The Arctic Sunrise Arbitration (Netherlands v. Russia) 2013. See PCA, “Notification and Statement of claim dated 4 Octiber 2013”, online: PCA http://www.pcacases.com/web/sendAttach/1314.

37. The Republic of Philippines v. The People's Republic of China (2015),

Award on Jurisdiction and Admissibility.

38. UN, Treaty handbook.

39. UNCLOS 1982.

40. V D Degan (1997), Sources of International Law.

41. W Fiedler (2000), Unilateral Acts in International Law, IV Encyclopaedia

of Public International Law 1018.

42. W Fiedler (2005), Unilateral Acts in International Law, IV Encyclopaedia

82

of Public International Law 1018.

Tài liệu trang Website tiếng Anh

43. Declarations made by States Parties under article 298, online: ITLOS,

https://www.itlos.org/jurisdiction/declarations-of-states- parties/declarations-made-by-states-parties-under-article-298/

44. Eastern Greenland Case, https://www.lawteacher.net/free-law-

essays/english-legal-system/legal-status-of-eastern-greenland.php.

45.

“Seventh Press Release 29/10/2015”, online: PCA, http://www.pcacases.com/web/sendAttach/1503.

46.

http://www.un.org/Depts/los/settlement_of_disputes/choice_procedure.htm .

III. Tài liệu tiếng Pháp

47. D Anzilotti (1929), Cours de Droit International (French transl, Gilbert

Gidel from the original Italian ed).

48. G Venturini (1964 II), La portée et les effets juridiques des attitudes et

des actes unilatéraux des États.

49.

Inter alia Eric Suy (1962), Les Actes Juridiques Unilatéraux en Droit International Public, A P Rubin, The International Legal Effects of Unilateral Declarations.

83

50. Rubin, 4; P de Visscher (1984), Remarques sur l’évolution de la jurisprudence de la cour internationale de justice relative au fondement obligatoire de certains actes unilatéraux in J Makaraczyk (ed), Essays in International Law in Honour of Judge Manfred Lachs.