ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
LÂM THỊ LIÊN
QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT TRONG TRƢỜNG
HỢP CHUẨN BỊ PHẠM TỘI, PHẠM TỘI CHƢA ĐẠT
THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
Chuyên ngành : Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số : 8380101.03
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. HOÀNG VĂN HÙNG
HÀ NỘI – 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác,
tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán
tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia
Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƢỜI CAM ĐOAN
Lâm Thị Liên
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ
PHẦN MỞ ĐẦU .............................................................................................. 1
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu ............................................................. 1
2. Mục tiêu nghiên cứu ...................................................................................... 3
3. Tính mới và những đóng góp của đề tài ........................................................ 3
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................. 4
5. Nội dung, địa điểm và phương pháp nghiên cứu .......................................... 5
Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT
TRONG TRƢỜNG HỢP CHUẨN BỊ PHẠM TỘI, PHẠM TỘI CHƢA
ĐẠT THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM .................................................. 7
1.1. Khái niệm, căn cứ và ý nghĩa của việc quyết định hình phạt .................... 7
1.1.1. Khái niệm quyết định hình phạt .............................................................. 7
1.1.2. Các căn cứ quyết định hình phạt ........................................................... 10
1.1.3. Ý nghĩa của việc quyết định hình phạt .................................................. 16
1.2. Khái niệm và đặc điểm của quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn
bị phạm tội, phạm tội chưa đạt ........................................................................ 19
1.2.1. Khái niệm quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội,
phạm tội chưa đạt ............................................................................................ 19
1.2.2. Đặc điểm của quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội,
phạm tội chưa đạt ............................................................................................ 24
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 .............................................................................. 29
Chƣơng 2: QUY PHẠM VỀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT TRONG
TRƢỜNG HỢP CHUẨN BỊ PHẠM TỘI, PHẠM TỘI CHƢA ĐẠT
THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VÀ PHÁP LUẬT HÌNH SỰ MỘT
SỐ NƢỚC ...................................................................................................... 30
2.1. Quy phạm về quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm
tội chưa đạt từ sau cách mạng tháng Tám năm 1945 đến nay ............................. 30
2.1.1. Các quy phạm về quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm
tội, phạm tội chưa đạt từ sau Cách mạng tháng tám năm 1945 đến trước pháp
điển hóa lần thứ nhất - Bộ luật hình sự Việt Nam 1985 ................................. 30
2.1.2. Các quy phạm về quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm
tội, phạm tội chưa đạt trong Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1985 ................. 33
2.1.3. Các quy phạm về QĐHP trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội
chưa đạt trong BLHS Việt Nam năm 1999 ..................................................... 37
2.2. Quy phạm về quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội,
phạm tội chưa đạt theo Bộ luật hình sự năm 2015 .......................................... 40
2.2.1. Quy phạm về quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội
theo Bộ luật hình sự năm 2015 ....................................................................... 40
2.2.2. Quy phạm về quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội chưa đạt
theo Bộ luật hình sự năm 2015 ....................................................................... 44
2.2.3. Nhận xét quy phạm về quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị
phạm tội, phạm tội chưa đạt theo Bộ luật hình sự Việt Nam năm 2015 .............. 49
2.3. Quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa
đạt trong pháp luật hình sự một số nước ......................................................... 51
2.3.1. Pháp luật hình sự Liên bang Nga .......................................................... 51
2.3.2. Pháp luật hình sự Cộng hòa nhân dân Trung Hoa ................................ 53
2.3.3. Pháp luật hình sự Thụy Điển ................................................................. 54
2.3.4. Pháp luật hình sự Nhật Bản ................................................................... 56
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 .............................................................................. 58
Chƣơng 3: THỰC TIỄN XÉT XỬ VÀ BIỆN PHÁP ĐẢM BẢO HIỆU
QUẢ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT ĐỐI
VỚI CHUẨN BỊ PHẠM TỘI VÀ PHẠM TỘI CHƢA ĐẠT .................... 59
3.1. Thực tiễn xét xử về chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt trong giai đoạn
05 năm (2014 - 2018) ...................................................................................... 59
3.2. Biện pháp đảm bảo hiệu quả áp dụng pháp luật về quyết định hình phạt
đối với chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt ............................................. 85
3.2.1. Biện pháp giải thích, tuyên truyên, phổ biến pháp luật hình sự ........... 86
3.2.2. Biện pháp đảm bảo năng lực chuyên môn của cán bộ bảo vệ pháp luật
......................................................................................................................... 89
3.2.3. Đảm bảo nguyên tắc tranh tụng trong hoạt động xét xử các vụ án hình
sự ..................................................................................................................... 94
3.2.4. Đảm bảo thủ tục tại phiên tòa được thực hiện đầy đủ, đúng quy định ....... 96
3.2.5. Đảm bảo công tác giám sát, kiểm tra, kiểm sát các vụ án chuẩn bị phạm
tội, phạm tội chưa đạt ...................................................................................... 97
PHẦN KẾT LUẬN ........................................................................................ 99
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
1. BLHS : Bộ Luật hình sự
2. QĐHP : Quyết định hình phạt
3. TNHS : Trách nhiệm hình sự
4. LHS : Luật hình sự
5. PLHS : Pháp luật hình sự
DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ
Bảng 3.1. Tình hình công tác thụ lý, giải quyết án hình sự sơ thẩm của 63
tỉnh/Thành phố trong năm 2014 ...................................................................... 60
Bảng 3.2. Tình hình công tác thụ lý, giải quyết án hình sự sơ thẩm của 63
tỉnh/Thành phố trong năm 2015 ...................................................................... 63
Bảng 3.3. Tình hình công tác thụ lý, giải quyết án hình sự sơ thẩm của 63
tỉnh/Thành phố trong năm 2016 ...................................................................... 66
Bảng 3.4. Tình hình công tác thụ lý, giải quyết án hình sự sơ thẩm của 63
tỉnh/Thành phố trong năm 2017 ...................................................................... 69
Bảng 3.5. Tình hình công tác thụ lý, giải quyết án hình sự sơ thẩm của 63
tỉnh/Thành phố trong năm 2018 ...................................................................... 72
Bảng 3.6. Kết quả khảo sát 300 vụ án hình sự của một số tỉnh trong giai đoạn
05 năm (2014 - 2018) ...................................................................................... 75
Biểu đồ 3.1. Tổng số vụ án hình sự và bị cáo bị đưa ra xét xử sơ thẩm của 63
tỉnh/Thành phố trong giai đoạn 05 năm (2014 - 2018) ................................... 74
Biểu đồ 3.2. Kết quả khảo sát 300 vụ án hình sự của một số tỉnh trong giai
đoạn 05 năm (2014 - 2018) ............................................................................. 76
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Tội phạm được các nhà khoa học nghiên cứu dưới các góc độ khác nhau,
trong khoa học LHS, tội phạm được hiểu theo nghĩa khái quát nhất là hành vi
nguy hiểm cho xã hội, có lỗi, trái PLHS và phải chịu hình phạt. Sự xuất hiện
của tội phạm diễn ra cùng với sự chuyển đổi xã hội từ trạng thái tự nhiên sang
trạng thái xã hội có Nhà nước và Pháp luật, để bảo đảm cho xã hội không bị
xâm hại bởi các xung đột, mâu thuẫn nội tại nhà nước đã quy định những
hành vi nguy hiểm cho xã hội nào là tội phạm và áp dụng trách TNHS nhiệm
hình sự đối với người nào thực hiện các hành vi đó. Quy định tội phạm và
hình phạt luôn luôn là một phương thức đấu tranh chống tội phạm và nó đã
chứng tỏ là một trong những phương thức bảo vệ quyền con người, giữ cho xã
hội ổn định và phát triển, nó phải được duy trì và phát huy hiệu quả, bằng
cách nhận thức ngày càng tốt hơn, đầy đủ hơn về tội phạm và hình phạt.
Chính sự vận động và biến đổi không ngừng của bản thân tội phạm trên thực
tế và tính phức tạp, đa dạng của bản thân tội phạm, làm phát sinh nhu cầu
nghiên cứu những quy định về tội phạm và hình phạt một cách thường xuyên
và dưới nhiều góc độ, trong đó có cả phương thức thực hiện một tội phạm cụ
thể, vấn đề mà đề tài luận văn này muốn đề cập đến.
Kết quả pháp điển hóa lần thứ ba tại Việt Nam là Bộ luật hình sự năm
2015, bộ luật đã quy định rất cụ thể và rõ ràng về vấn đề QĐHP của Tòa án
đối với các trường hợp phạm tội nói chung, trường hợp chuẩn bị phạm tội và
phạm tội chưa đạt nói riêng, trong thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử ở nước ta
nhiều năm qua cho thấy các vụ án về chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt
còn có những hạn chế nhất định.
TNHS đối với người thực hiện hành vi chuẩn bị phạm tội và phạm tội
chưa đạt là cần thiết, hành vi chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt là những
2
hành vi nguy hiểm cho xã hội, chúng đe dọa trực tiếp gây thiệt hại cho những
quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ. Người chuẩn bị phạm tội và phạm
tội chưa đạt đã có ý thức lựa chọn thái độ phủ định với các yêu cầu và chuẩn
mực xã hội, người chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt chưa thực hiện tội
phạm đến cùng hoàn toàn do những nguyên nhân khách quan ngoài ý muốn
của họ.
Xác định chính xác từng giai đoạn phạm tội để phân hóa tội phạm và cá
thể hóa TNHS đối với người phạm tội không phải lúc nào cũng dễ dàng và
chính xác, đặc biệt là phân định ranh giới giữa các hình thức phạm tội khác
nhau trong quá trình thực hiện tội phạm. QĐHP đối với trường hợp chuẩn bị
phạm tội và phạm tội chưa đạt có nơi còn thiếu chính xác, đôi khi còn nặng
quá hay nhẹ quá, thậm chí áp dụng sai quy định pháp luật làm mất đi tính
công bằng và giảm đi hiệu quả của áp dụng hình phạt, ảnh hưởng đến kết quả
đấu tranh phòng chống tội phạm.
Làm sáng tỏ bản chất giai đoạn chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt
có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cấp thiết, qua đó nâng cao hiệu quả công tác
đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo đảm yêu cầu xử lý đúng người, đúng
tội và đúng pháp luật, không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, tránh làm oan
người vô tội.
Trước khi LHS Việt Nam được pháp điển hóa lần thứ ba thì đã có một số
công trình nghiên cứu về QĐHP trong trường hợp chuẩn bị phạm tội và phạm
tội chưa đạt.
Tiếp cận và nghiên cứu đề tài QĐHP trong trường hợp chuẩn bị phạm tội
và phạm tội chưa đạt, những vấn đề lý luận và việc áp dụng nó trong thực tiễn
có ý nghĩa quan trọng trong quá trình đấu tranh xử lý và phòng chống tội
phạm. Đây cũng chính là lý do học viên quyết định lựa chọn nghiên cứu đề
tài: “Quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội và phạm tội
chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam”.
3
2. Mục tiêu nghiên cứu
2.1. Mục tiêu tổng quát
Luận văn nghiên cứu một cách đồng bộ có hệ thống và riêng biệt toàn
diện nhất về những vấn đề lý luận và thực tiễn về QĐHP trong trường hợp
chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam. Luận văn
góp phần hoàn thiện hơn các quy định của BLHS hiện hành về chế định này,
nhằm góp phần nâng cao hiệu quả trong thực tiễn xét xử của Tòa án về QĐHP
trong các trường hợp chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt.
Luận văn tiếp cận nghiên cứu các bản án của Toà án đã xét xử, qua đó
xác định đúng và chính xác việc QĐHP trong các trường hợp chuẩn bị phạm
tội, phạm tội chưa đạt. Luận văn còn có ý nghĩa làm tài liệu tham khảo cần
thiết phục vụ công tác giảng dạy và nghiên cứu khoa học.
2.2. Mục tiêu cụ thể
Từ mục đích nghiên cứu nêu trên, tác giả đặt ra cho mình các nhiệm vụ
nghiên cứu cụ thể như sau:
- Xây dựng khái niệm QĐHP trong trường hợp chuẩn bị phạm tội và
phạm tội chưa đạt, chỉ ra các đặc điểm và ý nghĩa của việc QĐHP trong hai
trường hợp này;
- Phân tích các căn cứ QĐHP trong trường hợp chuẩn bị phạm tội và
phạm tội chưa đạt;
- Hệ thống hóa các quy định về QĐHP trong trường hợp chuẩn bị phạm
tội và phạm tội chưa đạt theo BLHS năm 1985 đến nay;
- Luận văn nghiên cứu kết quả hoạt động xét xử của Tòa án đối với việc
QĐHP cho người phạm tội trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội
chưa đạt.
3. Tính mới và những đóng góp của đề tài
Mục đích của luận văn góp phần làm sáng tỏ thêm một số điểm mới về
mặt lý luận khoa học và thực tiễn của việc QĐHP trong trường hợp chuẩn bị
4
phạm tội, phạm tội chưa đạt theo LHS Việt Nam năm 2015, xác định những
điểm bất cập chưa hợp lý trong thực tiễn xét xử và đề xuất một số biện pháp
đảm bảo nâng cao hiệu quả áp dụng các quy phạm về QĐHP trong trường
hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về
QĐHP trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt theo LHS Việt
Nam.
4.1. Tổng quan tài liệu
Trước khi có BLHS Việt Nam năm 2015, các nhà khoa học LHS đã có
một số công trình khoa học nghiên cứu chuyên sâu về QĐHP nói chung,
nhưng QĐHP trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt theo
LHS Việt Nam, có rất ít công trình nghiên cứu về vấn đề này.
* Sách chuyên khảo bao gồm: 1) Chế định các giai đoạn thực hiện tội
phạm trong sách Các nghiên cứu chuyên khảo về Phần chung luật hình sự,
tập IV, NXB Công an nhân dân, Hà Nội, năm 2000 của tác giả TSKH. GS. Lê
Văn Cảm; 2) Những vấn đề cơ bản trong khoa học luật hình sự (Phần chung),
sách chuyên khảo, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2005 của GS. TSKH.
Lê Văn Cảm; 3) Sách giáo trình: Các giai đoạn phạm tội (chương XII, Giáo
trình Luật hình sự Việt Nam Phần chung), NXB Đại học Quốc gia Hà Nội của
PGS. TS. Nguyễn Ngọc Chí, 2001 (tái bản 2003, 2007).
* Các bài viết bao gồm: 1) Trần Văn Độ, Hoàn thiện các quy định của
Bộ luật hình sự về giai đoạn thực hiện tội phạm, Tạp chí Toà án nhân dân, số
02/1999; 2) GS. TS. Võ Khánh Vinh: Quyết định hình phạt trong trường hợp
chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt và đồng phạm, Tạp chí Tòa án nhân
dân, số 1/1992; 3) Lâm Minh Hạnh, Chương III - Các giai đoạn phạm tội,
trong sách: Những vấn đề lý luận cơ bản về tội phạm trong Luật hình sự Việt
5
Nam, NXB Khoa học Xã hội Hà Nội, năm 1986; 4) TS. Phạm Mạnh Hùng:
Hoàn thiện các quy định về cơ sở của trách nhiệm hình sự với trường hợp
chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt và đồng phạm, Tạp chí Kiểm sát, số
10/1999; 5) PGS. TS. Trịnh Quốc Toản: Một số vấn đề về giai đoạn phạm tội
chưa đạt, Tạp chí Khoa học (chuyên san Kinh tế - Luật), số 4/2002; 6) TS.
Trịnh Tiến Việt: Về phạm tội chưa đạt và một số hình thức phạm tội khác
trong quá trình thực hiện tội phạm, Tạp chí Khoa học (chuyên san Luật học),
số 02/2009; 7) TS. Dương Tuyết Miên: Quyết định hình phạt trong trường
hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt, Tạp chí Luật học, số 4/2001 và
"Quyết định hình phạt trong luật hình sự Việt Nam", Luận án Tiến sỹ luật
học, Trường Đại học Luật Hà Nội, năm 2002; 8) TS. Trần Văn Sơn trong:
Quyết định hình phạt theo quy định của Bộ luật hình sự năm 1999, Tạp chí
Tòa án nhân dân, số 11/2000; 9) Nguyễn Thị Mai, Chuẩn bị phạm tội hay
phạm tội chưa đạt, Tạp chí Toà án nhân dân, số 6/1993,…
Nhận diện một cách tổng quát, các sách báo khoa học pháp lý trên đây
đều đề cập đến một số khía cạnh nhất định về QĐHP trong trường hợp chuẩn
bị phạm tội, phạm tội chưa đạt, nhưng chủ yếu nghiên cứu dưới góc độ khác
nhau, chưa đưa đến một nhận thức thống nhất, toàn diện. Với nội dung đề tài
đã chọn, học viên lựa chọn nghiên cứu làm luận văn của mình, sẽ góp phần
làm rõ bản chất về quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội,
phạm tội chưa đạt.
5. Nội dung, địa điểm và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Nội dung nghiên cứu
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được bố cục thành 03 chương:
Chương 1: Những vấn đề chung về quyết định hình phạt trong trường
hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam;
6
Chương 2: Quy phạm về quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị
phạm tội, phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam và pháp luật hình sự
một số nước;
Chương 3: Thực tiễn xét xử và biện pháp đảm bảo hiệu quả áp dụng pháp
luật về quyết định hình phạt đối với chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt.
5.2. Phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận Chủ nghĩa Mác - Lê
Nin, phép duy vật biện chứng, duy vật lịch sử.
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả có sử dụng một số phương pháp
nghiên cứu cụ thể như: Trao đổi chuyên gia, tổng hợp, phân tích, so sánh, đối
chiếu…
5.3. Địa điểm nghiên cứu
Tác giả chọn địa điểm nghiên cứu tại cơ sở đào tạo Sau đại học thuộc
Đại học Quốc gia Hà Nội, trụ sở thuộc Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà
Nội và một số địa điểm khác thuận lợi cho việc nghiên cứu đề tài.
7
Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT TRONG
TRƢỜNG HỢP CHUẨN BỊ PHẠM TỘI, PHẠM TỘI CHƢA ĐẠT
THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. Khái niệm, căn cứ và ý nghĩa của việc quyết định hình phạt
1.1.1. Khái niệm quyết định hình phạt
Để thực hiện nhiệm vụ đấu tranh phòng và chống tội phạm, Nhà nước
thường sử dụng đồng thời nhiều biện pháp khác nhau về chính trị, kinh tế, xã
hội, giáo dục và pháp lý, các biện pháp này đan xen, hỗ trợ nhau và tùy thuộc
vào yêu cầu cụ thể của công tác đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm
trong từng thời kỳ lịch sử mà biện pháp này hay biện pháp kia được đặt lên
hàng đầu, trong tất cả các biện pháp đấu tranh phòng và chống tội phạm thì
hình phạt là biện pháp nghiêm khắc nhất, được áp dụng phổ biến nhất và có
lịch sử lâu đời nhất. QĐHP được coi là một công việc quan trọng trong hoạt
động xét xử vụ án hình sự của Tòa án [42, tr.11].
QĐHP chính xác, khách quan và công minh là cơ sở để đạt được các
mục đích của hình phạt: Trừng trị và giáo dục, cải tạo người phạm tội; ngăn
ngừa họ phạm tội mới; răn đe, ngăn ngừa những người khác trong xã hội, chỉ
khi hình phạt được quyết định một cách chính xác thì mục đích của hình phạt
mới đạt được. Trong khoa học LHS đã có rất nhiều tác giả đưa ra khái niệm
QĐHP, chẳng hạn như:
PGS. TS. Nguyễn Ngọc Chí đưa ra định nghĩa: QĐHP là việc nhận thức
và áp dụng PLHS do Tòa án có thẩm quyền, nhân danh Nhà nước thực hiện
sau khi đã định tội danh và tùy thuộc vào từng trường hợp cụ thể để quyết
định khung hình phạt, loại hình phạt (hình phạt chính, hình phạt bổ sung) mức
hình phạt cụ thể áp dụng cho cá nhân người phạm tội trong phạm vi giới hạn
8
của khung hình phạt do luật định, phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm
cho xã hội của hành vi phạm tội; hoặc miễn hình phạt cho người phạm tội
theo quy định của BLHS [8].
TS. Chu Thị Trang Vân thì cho rằng: QĐHP là một giai đoạn rất quan
trọng trong hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân, là việc Tòa án lựa chọn
loại hình phạt và mức hình phạt cụ thể được quy định trong LHS tương ứng
với cấu thành tội phạm cụ thể để áp dụng với người phạm tội, thể hiện trong
bản án buộc tội [50, tr.73].
ThS. Đinh Văn Quế đưa ra định nghĩa còn mang tính khái quát như:
“QĐHP là việc Tòa án lựa chọn hình phạt buộc người bị kết án phải chấp
hành. Tòa án lựa chọn loại hình phạt nào, mức hình phạt bao nhiêu phải tuân
thủ theo những quy định của BLHS” [25, tr.88].
GS. TS. Nguyễn Ngọc Hòa cho rằng: QĐHP là sự lựa chọn loại hình
phạt và xác định mức hình phạt (đối với loại hình phạt có các mức khác nhau)
trong phạm vi luật định để áp dụng đối với chủ thể chịu TNHS (bao gồm
người phạm tội và pháp nhân thương mại phạm tội) [12, tr.246].
Các tác giả đều cho rằng: “QĐHP là việc Tòa án lựa chọn loại hình phạt
cụ thể (bao gồm hình phạt chính và có thể cả hình phạt bổ sung) với mức độ
cụ thể trong phạm vi luật định để áp dụng cho chủ thể phạm tội”. QĐHP có
thể được hiểu theo hai nghĩa:
Thứ nhất, QĐHP bao gồm việc QĐHP chính và QĐHP bổ sung [12,
tr.247]. Thậm chí, có quan điểm còn cho rằng QĐHP là quyết định biện pháp
xử lý đối với người phạm tội, nghĩa là bao gồm cả việc quyết định lựa chọn
hình phạt, mức hình phạt, quyết định biện pháp tư pháp hoặc quyết định các
biện pháp tha miễn trong luật hình sự [13, tr.65], [55, tr.71].
Thứ hai, QĐHP là quyết định biện pháp xử lý đối với chủ thể chịu
TNHS. Theo nghĩa này, QĐHP là hoạt động tiếp theo việc định tội của Tòa
án, bao gồm quyết định miễn hình phạt, QĐHP chính, hình phạt bổ sung,
9
quyết định các biện pháp tư pháp và quyết định biện pháp chấp hành hình
phạt (như quyết định cho hưởng án treo) [12, tr.247].
Giáo trình LHS Việt Nam (Phần chung) của Khoa Luật, Đại học Quốc
gia Hà Nội, 2001 định nghĩa: “QĐHP là việc Tòa án lựa chọn loại hình phạt
cụ thể (bao gồm hình phạt chính và có thể cả hình phạt bổ sung) với mức độ
cụ thể trong phạm vi luật định để áp dụng đối với người phạm tội” [6, tr.317].
Hoặc Giáo trình Luật hình sự Việt Nam của Trường Đại học Luật Hà Nội,
2001 cũng tương đồng với quan điểm này khi nêu: “QĐHP là sự lựa chọn
loại hình phạt và xác định mức hình phạt cụ thể trong phạm vi luật định để áp
dụng đối với người phạm tội cụ thể” [14, tr.201]. Ngoài ra, đây cũng là quan
điểm về QĐHP được sử dụng trong một số sách tham khảo, chuyên khảo khác
như: Sách chuyên khảo “Định tội danh và QĐHP theo luật hình sự Việt
Nam”, Hà Nội, 2003 của PGS. TS. Lê Văn Đệ và sách chuyên khảo “Tìm hiểu
về hình phạt và quyết định hình phạt theo luật hình sự Việt Nam”, Hà Nội,
2000 của ThS. Đinh Văn Quế; ... [25, tr.89].
Trên cơ sở những phân tích nêu trên thì dưới góc độ khoa học LHS theo
quan điểm của học viên thì khái niệm QĐHP có thể được hiểu như sau:
QĐHP là hoạt động của Tòa án lựa chọn loại hình phạt và mức hình phạt cụ
thể bao gồm hình phạt chính và hình phạt bổ sung, trong phạm vi luật định để
áp dụng đối với người phạm tội.
Có thể hiểu QĐHP là hoạt động thực tiễn áp dụng PLHS thực định, là
một quá trình nhận thức lý luận mang tính logic để Tòa án lựa chọn loại và
mức hình phạt áp dụng với người có hành vi phạm tội theo quy định của
BLHS Việt Nam. QĐHP chỉ diễn ra sau khi Tòa án đã tiến hành hoạt động
định tội danh và người phạm tội hoặc pháp nhân thương mại phạm tội được
khẳng định là có tội. Người phạm tội hoặc pháp nhân thương mại phạm tội bị
kết án bằng bản án của Tòa án và phải chịu TNHS về hành vi phạm tội của
mình bằng hình phạt cụ thể.
10
Hình phạt và QĐHP có mối quan hệ khăng khít với nhau, Điều 30 BLHS
Việt Nam năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định về hình phạt như
sau: “Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước được
quy định trong Bộ luật này, do Tòa án quyết định áp dụng đối với người hoặc
pháp nhân thương mại phạm tội nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của
người, pháp nhân thượng mại đó” [32].
QĐHP được hiểu là hoạt động ở giai đoạn xét xử, cho ra kết quả là biện
pháp xử lý đối với chủ thể phạm tội, QĐHP sẽ bao gồm cả việc quyết định
loại hình phạt, mức hình phạt hay quyết định áp dụng biện pháp tư pháp, biện
pháp chấp hành hình phạt lẫn miễn hình phạt, miễn TNHS. Nội dung của hoạt
động QĐHP theo đó sẽ bao gồm: 1) Lựa chọn áp dụng hình phạt đối với
người phạm tội hay không áp dụng hình phạt mà quyết định miễn TNHS,
miễn hình phạt hoặc áp dụng biện pháp tư pháp; 2) Lựa chọn loại hình phạt
bao gồm hình phạt chính và có thể cả hình phạt bổ sung với mức độ cụ thể
trong phạm vi luật định để áp dụng đối với người phạm tội nếu quyết định áp
dụng hình phạt.
1.1.2. Các căn cứ quyết định hình phạt
Quan điểm của các nhà khoa học hiện nay về các căn cứ QĐHP tương
đối giống nhau và chỉ khác nhau về chi tiết.
Theo tác giả Trần Văn Sơn thì “Các căn cứ QĐHP là những yêu cầu đòi
hỏi có tính bắt buộc do Luật hình sự quy định mà Tòa án phải tuân thủ khi
quyết định hình phạt đối với người phạm tội” [62, tr.26].
PGS. TS. Võ Khánh Vinh thì cho rằng, “Các căn cứ QĐHP là những
đòi hỏi cơ bản có tính nguyên tắc do Luật hình sự quy định hoặc do giải thích
luật mà có buộc Tòa án phải tuân theo khi QĐHP đối với người thực hiện tội
phạm” [61, tr.127].
Theo cuốn từ điển Tiếng Việt thì “căn cứ” được hiểu là “cái làm chỗ
dựa, làm cơ sở để lập luận hoặc hành động”. Như vậy, có thể hiểu các căn cứ
11
QĐHP chính là chỗ dựa, là cơ sở pháp lý để Tòa án QĐHP đối với người
phạm tội.
Trong LHS Việt Nam, các căn cứ QĐHP được quy định cụ thể trong
BLHS để cho Tòa án dựa vào đó QĐHP trong từng trường hợp cụ thể cho
chính xác. Trên cơ sở quy định của BLHS, việc tuân thủ các quy định các căn
cứ QĐHP của Tòa án có tính chất bắt buộc. Tòa án không thể tùy tiện thêm,
bớt trong việc cân nhắc các căn cứ QĐHP. Việc tuân thủ chặt chẽ các căn cứ
QĐHP sẽ tạo khả năng cho Tòa án có thể QĐHP được đúng đối với người
phạm tội, đảm bảo hình phạt đã tuyên đạt được mục đích của hình phạt. Các
căn cứ QĐHP là những cơ sở pháp lý được quy định trong BLHS mà Tòa án
buộc phải tuân thủ khi QĐHP cho chủ thể phạm tội nhằm đảm bảo hình phạt
đã tuyên đạt được mục đích của hình phạt [21, tr.153].
Các căn cứ QĐHP được quy định tại Điều 50 BLHS năm 2015, bao gồm
bốn căn cứ: 1) Quy định của Bộ luật hình sự; 2) Tính chất và mức độ nguy
hiểm của hành vi phạm tội; 3) Nhân thân người phạm tội; 4) Các tình tiết
giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự [32].
a) Căn cứ vào các quy định của Bộ luật hình sự
Các quy định của BLHS là căn cứ cơ bản nhất của việc QĐHP, đó cũng
là đòi hỏi quan trọng của nguyên tắc pháp chế xã hội khi QĐHP [6, tr.317].
Khi QĐHP Tòa án phải căn cứ vào các quy định của BLHS để lựa chọn loại
và xác định mức hình phạt cụ thể áp dụng đối với chủ thể phạm tội. Những
quy định này bao gồm các quy định trong phần thứ nhất của BLHS - Những
quy định chung và các quy định trong phần thứ hai của BLHS - Các tội phạm.
Các quy định Phần chung BLHS cung cấp những nguyên tắc chung cho việc
QĐHP; nội dung, điều kiện và phạm vi áp dụng của các hình phạt chính, hình
phạt bổ sung, các biện pháp tư pháp; điều kiện áp dụng các biện pháp tha
miễn, giảm hình phạt. Các quy định Phần các tội phạm BLHS cung cấp quy
định về khung hình phạt, loại hình phạt tương ứng với hành vi phạm tội.
12
Việc xác định các quy định của BLHS là căn cứ đầu tiên của QĐHP
được xem như sự đảm bảo để thực hiện nguyên tắc pháp chế trong QĐHP đối
với người phạm tội đồng thời cũng để thực hiện các nguyên tắc khác của
LHS, vì trong các quy định của BLHS đều hiện các nguyên tắc đó [12,
tr.249].
b) Căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội
Các khung chế tài của các tội phạm được xây dựng chủ yếu dựa trên tính
chất nguy hiểm cho xã hội của từng tội phạm nhưng khi QĐHP cụ thể trong
phạm vi khung chế tài xác định, đòi hỏi Tòa án vẫn phải cân nhắc tính chất
nguy hiểm cho xã hội của từng tội phạm. Điều này đặc biệt có ý nghĩa khi
QĐHP cho người phạm nhiều tội hoặc cho nhiều người phạm nhiều tội. Hình
phạt cụ thể được quyết định mặc dù chỉ trong phạm vi khung chế tài cho phép
nhưng phải tương xứng với tính chất nguy hiểm của từng tội phạm trong sự so
sánh với những tội phạm khác. Có như vậy mới đảm bảo được tính thống nhất
trong QĐHP đối với tất cả các hành vi phạm tội.
Cân nhắc mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội khi QĐHP
sẽ đảm bảo được tính thống nhất và sự công bằng trong QĐHP đối với các
trường hợp phạm tội khác nhau trong cùng tội phạm. Vì QĐHP là quyết định
trong phạm vi khung hình phạt cho phép nên có quan điểm cho rằng QĐHP
chủ yếu căn cứ vào mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội.
Tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội được xác định bởi
tổng thể các dấu hiệu thuộc cấu thành tội phạm mà khi cân nhắc để QĐHP
cần tập trung vào những yếu tố sau: a) Tính chất của hành vi phạm tội như thủ
đoạn, công cụ, phương tiện, hình thức thực hiện...; b) Tính chất và mức độ
của hậu quả đã gây ra hoặc đe dọa gây ra; c) Mức độ lỗi như tính chất của
động cơ, quyết tâm phạm tội...; d) Hoàn cảnh phạm tội; đ) Những tình tiết về
nhân thân có ảnh hưởng đến mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội ... [32,
tr.250].
13
Từ những sự phân tích nêu trên, tính chất mức độ của hành vi phạm tội
là một trong các căn cứ quan trọng khi QĐHP đối với bị can, bị cáo.
c) Căn cứ vào nhân thân người phạm tội
Nhân thân người phạm tội là một phạm trù xã hội phức tạp, nó là đối
tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học khác nhau. Trong PLHS hiện
nay, có nhiều cách hiểu khác nhau về vấn đề này. Trong tập I Tuyển tập Mác
- Anghen từng viết: "Bản thân con người không phải là những cái trừu tượng,
cố hữu của cá nhân riêng biệt trong tính hiện thực của nhóm bản chất con
người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội" [22, tr.257].
Có ý kiến cho rằng, nhân thân người phạm tội được hiểu là toàn bộ các
yếu tố về tự nhiên và xã hội có liên quan tới người phạm tội. Còn theo quan
điểm chung thì: Nhân thân người phạm tội là tổng hợp các đặc điểm mang
tính chất xã hội của cá nhân người phạm tội đó, mà những đặc điểm này có
ảnh hưởng đối với việc cá thể hóa TNHS và hình phạt khi Tòa án áp dụng.
Nguyên tắc cá thể hóa hình phạt đòi hỏi loại và mức hình phạt cụ thể
không chỉ tương xứng với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành
vi phạm tội mà còn phải phù hợp với nhân thân người phạm tội để bảo đảm
hình phạt đã tuyên đạt được mục đích trừng trị và giáo dục người phạm tội.
Những đặc điểm nhân thân người phạm tội cần cân nhắc trong tổng thể khi
QĐHP là những đặc điểm nhân thân sau: a) Những đặc điểm nhân thân người
phạm tội có ảnh hưởng đến mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm
tội như phạm tội lần đầu hay đã có tiền án, tiền sự, tái phạm thường hay tái
phạm nguy hiểm, phạm tội có tính chất chuyên nghiệp hay không, là người
chưa thành niên phạm tội hay đã thành niên...; b) Những đặc điểm nhân thân
của người phạm tội phán ánh khả năng giáo dục họ như có thái độ tự thú hoặc
hối cải, lập công chuộc tội hay có thái độ ngoan cố...; c) Những đặc điểm
nhân thân của người phạm tội phản ánh hoàn cảnh đặc biệt của họ như là
14
người bị bệnh hiểm nghèo, già yếu, phụ nữ có thai hoặc nuôi con nhỏ hoặc là
người có hoàn cảnh bản thân hay gia đình đặc biệt khó khăn ...[12, tr.251].
Trên cở sở về nhân thân người phạm tội, Tòa án thực hiện được nguyên
tắc cá thể hóa hình phạt và bảo đảm nguyên tắc công bằng khi QĐHP đối với
bị cáo.
d) Căn cứ vào các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự
LHS Việt Nam coi các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng TNHS là căn cứ
QĐHP độc lập mà Tòa án phải cân nhắc (nếu có) trong mối liên hệ với toàn
bộ vụ án để quyết định giảm nhẹ hoặc tăng nặng TNHS trong phạm vi khung
hình phạt cho phép [12, tr.252].
Theo GS. TSKH. Lê Cảm và TS. Trịnh Tiến Việt thì:
“Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là tình tiết được quy đinh trong
Phần chung Bộ luật hình sự với tính chất là tình tiết giảm nhẹ chung hoặc là tình
tiết do Tòa án tự xem xét, cân nhắc và ghi rõ trong bản án (nếu trong vụ án hình
sự không có tình tiết này), đồng thời là một trong những căn cứ để cơ quan tư
pháp hình sự có thẩm quyền và Tòa án tùy thuộc vào giai đoạn tố tụng hình sự
tương ứng cá thể hóa trách nhiệm hình sự và hình phạt của người phạm tội theo
hướng giảm nhẹ hơn trong phạm vi một khung hình phạt”
“Tình tiết tăng nặng Trách nhiệm hình sự là tình tiết được quy đinh
trong Phần chung Bộ luật hình sự với tính chất là tình tiết tăng nặng chung
và là một trong những căn cứ để cơ quan tư pháp hình sự có thẩm quyền chủ
yếu là Tòa án tùy thuộc vào giai đoạn tố tụng hình sự tương ứng (chủ yếu là
giai đoạn xét xử) cá thể hóa trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với người
phạm tội theo hương nghiêm khắc hơn trong phạm vi một khung hình phạt
nếu trong vụ án hình sự có tình tiết này” [53, tr.16].
Các tình tiết giảm nhẹ, tăng năng TNHS được nêu trong căn cứ này là
những tình tiết đã được quy định cụ thể tại Điều 51 và Điều 52 BLHS và có
thể được phân thành ba nhóm khác nhau:
15
- Các tình tiết làm giảm xuống đáng kể mức độ nguy hiểm cho xã hội của
hành vi phạm tội (Phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phong vệ chính
đáng; Phạm tội trong trường hợp vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết; Phạm
tội trong trường hợp vượt quá mức cần thiết khi bắt giữa người phạm tội; Phạm
tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của nạn
nhân gây ra...;) hoặc các tình tiết làm tăng lên đáng kể mức độ nguy hiểm cho
xã hội của hành vi phạm tội (Phạm tội có tổ chức; Phạm tội có tính chất chuyên
nghiêp; Phạm tội có tính chất côn đồ; Cố tình thực hiện tội phạm đến cùng;
Dùng thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt hoặc tàn ác để phạm tội; Phạm tội đối với
người dưới 16 tuổi, phụ nữ có thai hoặc người đủ 70 tuổi trở lên...)
- Các tình tiết phán ánh khả năng giáo dục người phạm tội: Các tình tiết
giảm nhẹ TNHS (Người phạm tội đã ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại
của tội phạm; Người phạm tội tự nguyện sữa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc
khắc phục hậu quả; Người phạm tội tự thú; Người phạm tội thành khẩn khai
báo, ăn năn hối cải; Người phạm tội tích cực hợp tác với cơ quan có trách
nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án;
Người phạm tội đã lập công chuộc tội; người phạm tội có thành tích xuất sắc
trong sản xuất, chiến đấu, học tập hoặc công tác...) và các tình tiết tăng nặng
TNHS (Tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm; phạm tội 02 lần trở lên; Có hành
động xảo quyệt hoặc hung hãn nhằm trốn tránh hoặc che giấu tội phạm...).
- Các tình tiết phán ánh hoàn cảnh đặc biệt của người phạm tội: Các tình
tiết làm giảm nhẹ TNHS (Phạm tội vì bị người khác đe dọa hoặc cưỡng bức;
Phạm tội trong trường hợp bị hạn chế khả năng nhận thức mà không phải do
lỗi của mình gây ra; Phạm tội do lạc hậu; Người phạm tội là người khuyết tật
nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng; Người phạm tội là phụ nữ có thai; Người
phạm tội là người đủ 70 tuổi trở lên... Các tình tiết làm tăng TNHS (Lợi dụng
hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp, thiên tai, dịch bệnh hoặc những
khó khăn đặc biệt khác của xã hội để phạm tội... [21, tr.190].
16
Việc nghiên cứu các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng TNHS có ý nghĩa quan
trọng trong việc QĐHP. Nó không chỉ hướng dẫn cho các Tòa án đánh giá
đúng mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người
phạm tội để từ đó tuyên một hình phạt phù hợp mà còn bảo đảm việc áp dụng
thống nhất các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng TNHS trong phạm vi cả nước,
góp phần hạn chế tình trạng tùy tiện trong áp dụng pháp luật. Đồng thời việc
quy định các tình tiết này trong BLHS góp phần củng cố pháp chế Xã hội chủ
nghĩa cũng như làm cho công dân thấy rõ chính sách hình sự của Nhà nước ta
là nghiêm trị kết hợp với khoan hồng để từ đó tích cực tham gia vào công tác
đấu tranh phòng chống tội phạm [21, tr.192].
Theo GS. TSKH. Lê Văn Cảm cho rằng: Ngoài bốn căn cứ nêu trên còn
có căn cứ thứ năm là "ý thức pháp luật xã hội chủ nghĩa". Tuân thủ nguyên
tắc khi QĐHP phải có sự thống nhất pháp luật xã hội chủ nghĩa chứ không do
ý muốn chủ quan cá nhân hay suy xét của Thẩm phán. Ý thức pháp luật xã hội
chủ nghĩa soi đường, biến những quan điểm chính trị thành những yêu cầu có
tính chất bắt buộc với tất cả mọi người giúp Tòa án áp dụng đúng đắn và
thống nhất các quy định pháp luật với mục đích xã hội chủ nghĩa. Trên đây là
các căn cứ để Tòa án xem xét khi QĐHP có căn cứ đúng pháp luật, không làm
oan, sai cho người vô tội.
1.1.3. Ý nghĩa của việc quyết định hình phạt
Quyết định hình phạt đúng có ý nghĩa quan trọng trong công tác đấu
tranh phòng, chống tội phạm, thể hiện:
Thứ nhất, Quyết định hình phạt là cơ sở đầu tiên đạt được mục đích hình phạt
Điều 31 BLHS quy định: Hình phạt không chỉ nhằm trừng trị người,
pháp nhân thương mại phạm tội mà còn giáo dục họ ý thức tuân theo pháp
luật và các qui tắc của cuộc sống, ngăn ngừa họ phạm tội mới; giáo dục
người, pháp nhân thương mại khác tôn trọng pháp luật, phòng ngừa và chống
tội phạm [32].
17
Mục đích của hình phạt bao gồm hai mặt là trừng trị và giáo dục. Việc
QĐHP phải đạt được hai mục đích, hai yếu tố trên có mối quan hệ mật thiết
với nhau, không đề cao việc trừng trị đối với người, pháp nhân thương mại
phạm tội bằng việc tuyên hình phạt quá nặng sẽ dẫn tới tâm lý cho người,
pháp nhân thương mại phạm tội cho rằng hình phạt đã tuyên không thỏa đáng
với họ, từ đó sẽ không cố gắng tích cực lao động cải tạo để trở thành công dân
có ích cho xã hội. Ngược lại, nếu coi nhẹ việc trừng trị thì QĐHP không
tương xứng với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm
tội. Do đó, bản thân người, pháp nhân thương mại phạm tội coi thường pháp
luật và dư luận xã hội sẽ không tin tưởng vào pháp luật. Từ những nội dung ý
nghĩa nêu trên nên cần phải có QĐHP sao cho không quá xem nhẹ tính chất
trừng trị và tính chất giáo dục phòng ngừa tội phạm [12, tr.163].
Thứ hai, Quyết định hình phạt đúng là cơ sở nâng cao hiệu quả của hình phạt
QĐHP là một trong những hoạt động thực tiễn của Tòa án, ở giai đoạn
này Tòa án nhân danh Nhà nước chính thức xác nhận về mặt pháp lý một chủ
thể bị coi là có tội và tuyên hình phạt đối với chủ thể có tội. Điều này thể hiện
sự lên án của Nhà nước đối với hành vi thực hiện tội phạm của chủ thể phạm
tội. Nên QĐHP có ý nghĩa quan trọng. QĐHP là tiền đề, là điều kiện cho việc
đạt được mục đích của hình phạt. Hiệu quả của hình phạt chính là mức độ đạt
được mục đích của hình phạt khi áp dụng hình phạt đối với người, pháp nhân
thương mại bị kết án. Hiệu quả hình phạt phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác
nhau như: Chính sách hình sự, QĐHP, chấp hành hình phạt, việc tuyên truyền
giáo dục ý thức pháp luật trong xã hội… Trong tất cả các yếu tố nêu trên
chúng tôi nhận thấy rằng việc QĐHP có ý nghĩa quan trọng nhất. Việc chấp
hành hình phạt có kết quả tốt, nếu Tòa án QĐHP đúng (đúng người, đúng tội,
đúng với các quy định của PLHS và áp dụng chính xác các căn cứ QDHP).
Nếu QĐHP không đúng thì việc chấp hành hình phạt của người, pháp nhân
thương mại bị kết án sẽ không đạt được mục đích của hình phạt.
18
Việc tuyên truyền, giáo dục pháp lý trong nhân dân để nhân dân tự giác
chấp hành pháp luật không đạt hiệu quả nếu QĐHP không đúng. Như vậy,
chúng có tác dụng qua lại tương hỗ với nhau để đạt được mục đích của hình
phạt. Nếu QĐHP quá nặng hoặc quá nhẹ, không tương xứng với hành vi
phạm tội sẽ làm cho tội phạm không thấy được tính chất nghiêm minh của
pháp luật và những yêu cầu chấp hành trong bản án, dẫn tới việc không tích
cực lao động cải tạo trở thành công dân tốt mà vẫn tái phạm tội. Mặt khác,
gây ra những dư luận không tốt trong xã hội, làm cho nhân dân không tin
tưởng vào pháp luật của Nhà nước và không động viên nhân nhân tham gia
vào quá trình đấu tranh phòng, chống tội phạm. Tất cả những điểm không tốt
này làm cho QĐHP không đạt được mục đích [12, tr.166], [21, tr.75], [42,
tr.32].
Thứ ba, Quyết định hình phạt góp phần củng cố pháp chế xã hội chủ nghĩa
Để QĐHP có căn cứ và đúng pháp luật Tòa án phải nhận thức sâu sắc và
toàn diện các đường lối chủ chương chính sách của Đảng và Nhà nước. Tòa
án là người tuân thủ nghiêm chỉnh các QĐHP và các quy định khác có liên
quan. QĐHP do Tòa án tuyên phải tương xứng với tính chất mức độ nguy
hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội. Hình phạt và các phán quyết khác do
Tòa án tuyên cần phải phù hợp, không quá nặng hoặc quá nhẹ đối với người
phạm tội, để người đó thấy rằng việc phải chịu TNHS theo bản án đã tuyên là
cần thiết. Trên cơ sở này giúp họ tuân thủ được pháp luật và có tác dụng răn
đe, giáo dục người khác tuân thủ pháp luật hoặc từ bỏ ý định phạm tội hoặc
không chấp hành nghiêm chỉnh các quy định của Nhà nước. Để làm tốt như
những yêu cầu nêu trên, đòi hỏi QĐHP của Tòa án phải đúng pháp luật, có
căn cứ, đúng người, đúng tội, không để xảy ra oan, sai cho người vô tội, tạo
được lòng tin sâu rộng trong nhân dân về pháp luật, thúc đẩy sự tích cực tham
gia đấu tranh, phòng chống tội phạm.
19
Vì vậy mà khi QĐHP không được xem nhẹ mặt này hay mặt kia, có
nghĩa “Nếu xem nhẹ mặt cải tạo, giáo dục có thể dẫn đến việc quyết định hình
phạt quá nặng, không tạo ra những điều kiện thuận lợi cho người bị kết án
cải tạo, giáo dục. Ngược lại, nếu xem nhẹ mặt trừng trị, có thể dẫn đến việc
quyết định hình phạt quá nhẹ, không tương xứng với tính chất và mức độ nguy
hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và như vậy, không tạo ra được sự tác
động cần thiết để răn đe, kìm chế, giáo dục ngăn ngừa những công dân
“không vững vàng” phạm tội, cũng như không tạo ra sự tin tưởng, đồng tình
cần thiết để giáo dục đông đảo quần chúng nhân dân tham gia tích cực vào
cuộc đấu tranh và phòng ngừa tội phạm” [55, tr.316].
1.2. Khái niệm và đặc điểm của quyết định hình phạt trong trƣờng
hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chƣa đạt
1.2.1. Khái niệm quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị
phạm tội, phạm tội chưa đạt
a) Khái niệm quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội
Trong khoa học pháp lý hình sự hiện nay, khái niệm về chuẩn bị phạm
tội tồn tại một số quan điểm:
PGS. TS. Kiều Đình Thụ: “Chuẩn bị phạm tội là giai đoạn đầu tiên của
quá trình thực hiện tội phạm cố ý trong đó người phạm tội tìm kiếm công cụ,
phương tiện phạm tội vạch kế hoạch thực hiện tội phạm, rủ rê người khác
cùng phạm tội hoặc có những hành vi khác nhằm tạo ra những điều kiện cần
thiết cho việc thực hiện tội phạm nhưng chưa bắt đầu thực hiện được hành vi
khách quan được quy định cấu thành tội phạm” [43, tr.161].
GS. TS. Võ Khánh Vinh: “Chuẩn bị phạm tội với tư cách là giai đoạn
đầu tiên của quá trình thực hiện tội phạm cố ý, thể hiện ở việc người phạm tội
thực hiện hành vi tạo ra những điều kiện cần thiết cho việc thực hiện tiếp theo
của một tội phạm cụ thể được quy định trong phần các tội phạm cụ thể của
Bộ luật hình sự” [61, tr.272].
20
Hay có quan điểm chỉ ra lý do của việc dừng lại, theo đó: Chuẩn bị phạm
tội là (hành vi) tạo ra điều kiện cần thiết cho việc thực hiện tội phạm cụ thể
được quy định trong BLHS nhưng bắt đầu thực hiện tội phạm đó thì phải
dừng lại vì nguyên nhân ngoài ý muốn [53, tr.159].
Đặc biệt có quan điểm mở rộng không chỉ nêu hành vi, mà còn cả việc
tìm kiếm những người đồng phạm, cấu kết với nhau, cũng như nguyên nhân
của việc dừng lại. Theo đó, chuẩn bị phạm tội là hành vi tìm kiếm hoặc sửa
soạn công cụ, phương tiện thực hiện tội phạm, cũng như tìm kiếm những
người đồng phạm, cấu kết với nhau hoặc cố ý tạo ra những điều kiện cần thiết
khác để thực hiện tội phạm, nhưng tội phạm đã không thực hiện được đến
cùng vì những nguyên nhân ngoài ý muốn của người phạm tội [4, tr.443].
Như vậy, chuẩn bị phạm tội là một giai đoạn của quá trình thực hiện tội
phạm cố ý, khi một người từ chỗ có ý định và vạch kế hoạch, đã tiến thêm
một bước là bắt tay vào chuẩn bị cho việc thực hiện ý định và kế hoạch đó.
Đây là giai đoạn đầu tiên của hành vi phạm tội, là bước tiếp theo của hoạt
động chuyển hóa từ ý định phạm tội thành hành vi phạm tội. Điều 14 BLHS
quy định: Chuẩn phạm tội là tìm kiếm, sửa soạn công cụ, phương tiện hoặc
tạo ra những điều kiện khác để thực hiện tội phạm hoặc thành lập, tham gia
nhóm tội phạm, trừ trường hợp thành lập hoặc tham gia nhóm tội phạm quy
định tại Điều 109, điểm a, khoản 2 Điều 113 hoặc điểm a, khoản 2 Điều 299
của Bộ luật này [32].
Theo quy định của PLHS Việt Nam việc QĐHP trong trường hợp chuẩn
bị phạm tội được thực hiện theo quy định của BLHS: a) Theo tính chất, mức
độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội; b) Theo mức độ thực hiện ý
định phạm tội và c) Tình tiết khác khiến cho tội phạm không thực hiện được
đến cùng.
Dựa vào nội hàm của khái niệm này, PLHS quy định hình phạt trong
trường hợp chuẩn bị phạm tội là: Tòa án lựa chọn mức hình phạt phù hợp với
21
hành vi, tính chất mức độ của hành vi và việc thực hiện ý định phạm tội dựa
vào các điều luật tương ứng để QĐHP. Mức hình phạt quy định tại điều luật
cao nhất khung hình phạt tù chung thân, tử hình thì không quá 20 năm tù đối
với hình phạt tù có thời hạn và không quá 1/2 mức hình phạt tù.
Như vậy, QĐHP cho trường hợp chuẩn bị phạm tội Tòa án phải xác định
rõ bản chất hành vi chuẩn bị phạm tội ở mức độ nào và đối chiếu, so sánh với
các trường hợp phạm tội khác như là: Phạm tội hoàn thành, phạm tội chưa đạt
để có quyết định chính xác, công bằng đối với người thực hiện hành vi chuẩn
bị phạm tội.
Từ sự phân tích trên chúng tôi đưa ra định nghĩa khoa học của khái niệm
QĐHP trong trường hợp chuẩn bị phạm tội như sau: QĐHP trong trường hợp
chuẩn bị phạm tội là việc Tòa án xem xét QĐHP cho hành vi chuẩn bị phạm
tội theo các điều của BLHS hiện hành về các tội phạm tương ứng, dựa trên
các căn cứ, tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi, ý định
phạm tội và những tình tiết khác khiến cho hành vi chuẩn bị phạm tội không
thực hiện được tới cùng.
b. Khái niệm của việc quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội
chưa đạt
Điều 15 BLHS Việt Nam đưa ra khái niệm của trường hợp phạm tội
chưa đạt: "Phạm tội chưa đạt là cố ý thực hiện tội phạm nhưng không thực
hiện được tới cùng vì những nguyên nhân ngoài ý muốn của người phạm tội.
Người phạm tội chưa đạt phải chịu TNHS về tội phạm chưa đạt" [32].
Theo quy định nêu trên thì phạm tội chưa đạt có ba dấu hiệu đặc trưng:
- Thứ nhất, người phạm tội „đã thực hiện tội phạm‟
Đây là dấu hiệu phân biệt phạm tội chưa đạt với chuẩn bị phạm tội. „Đã
thực hiện tội phạm‟ có nghĩa: Người phạm tội đã thực hiện hành vi khách
quan được mô tả trong CTTP. Ví dụ: Chủ thể tội cố ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác đã thực hiện hành vi gây thương tích
22
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác (như đã đâm, đã chém, đã đấm
...) là hành vi được mô tả trong CTTP (Điều 134 BLHS). Cũng được coi là
„đã thực hiện tội phạm‟ nếu người phạm tội đã thực hiện hành vi „đi liền
trước‟ hành vi khách quan được mô tả trong CTTP. Đó là hành vi thể hiện là
sự bắt đầu của hành vi khách quan và kế tiếp ngay sau nó hành vi khách quan
sẽ xảy ra. Ví dụ: Hành vi giơ dao để đâm được coi là hành vi đi liền trước của
hành vi đâm ở Tội cố ý gây thương tích. Hành vi „đi liền trước‟ như vậy tuy
thể hiện là sự chuẩn bị nhưng vì rất „gần‟ với hành vi khách quan, không tách
ra được nên cũng được coi là hành vi thực hiện tội phạm.
- Thứ hai: Người phạm tội không thực hiện tội phạm được đến cùng
Đây là dấu hiệu phân biệt phạm tội chưa đạt với tội phạm hoàn thành.
Dấu hiệu „đến cùng‟ được quy định tại Điều 15 BLHS cần được hiểu là „đến
cùng‟ về mặt pháp lý mà không phải „đến cùng‟ theo ý muốn của người phạm
tội. Theo đó có các trường hợp không thực hiện tội phạm được đến cùng sau:
+ Chủ thể chưa thực hiện được hành vi khách quan được mô tả trong
CTTP mà mới chỉ thực hiện hành vi „đi liền trước‟ hành vi đó. Ví dụ: Chủ thể
của tội giết người mới giơ dao lên để đâm thì đã bị bắt giữ;
+ Chủ thể đã thực hiện hành vi khách quan được mô tả trong CTTP
nhưng chưa thực hiện hết. Chủ thể của tội hiếp dâm mới thực hiện được hành
vi dùng vũ lực (vật ngã nạn nhân) nhưng chưa thực hiện được hành vi giao
cấu thì đã bị bắt giữ;
+ Chủ thể đã thực hiện được hành vi khách quan được mô tả trong CTTP
nhưng chưa gây ra hậu quả thiệt hại được mô tả trong CTTP. Ví dụ: Chủ thể
của tội hủy hoại tài sản đã đặt mìn hẹn giờ dưới gầm ô tô nhưng ngay sau đó
chủ ô tô đã phát hiện và quả mìn đã bị vô hiệu hóa.
- Thứ ba, Người phạm tội không thực hiện tội phạm được „đến cùng‟ là
do nguyên nhân ngoài ý muốn của họ. Bản thân người phạm tội vẫn muốn tội
phạm hoàn thành nhưng tội phạm không hoàn thành là do:
23
+ Nạn nhân hoặc người bị hại đã chống lại được hoặc đã tránh lại được;
+ Người khác đã ngăn chặn lại được;
+ Có những trở ngại khác như: Bắn nhưng đạn không nổ, thuốc đầu độc
dùng không đủ liều lượng ...
Các trường hợp phạm tội chưa đạt có thể thuộc hai trường hai trường
hợp mà trong khoa học có tên gọi là phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành và
phạm tội chưa đạt đã hoàn thành. Theo đó, phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành
là trường hợp phạm tội chưa đạt, trong đó người phạm tội vì những nguyên
nhân khách quan chưa thực hiện hết các hành vi cho là cần thiết để gây ra hậu
quả thiệt hại được mô tả trong CTTP. Ví dụ: A định giết B và đã đâm B.
Nhưng mới đâm được một nhát qua bả vai thì bị bắt giữ nên không thể đâm
được như ý muốn. Kết quả B chỉ bị thương. Trường hợp này người phạm tội
biết hành vi của mình chưa thể gây ra hậu quả chết người mà mình mong
muốn. Phạm tội chưa đạt đã hoàn thành là trường hợp phạm tội chưa đạt,
trong đó người phạm tội đã thực hiện được hết các hành vi cho là cần thiết để
gây ra hậu quả thiệt hại được mô tả trong CTTP nhưng do nguyên nhân ngoài
ý muốn, hậu quả đó vẫn không xảy ra. Ví dụ: A định giết B và đã chém B
nhiều nhát, A tin chắc B chết nên không chém nữa. Nhưng B đã không chết
do được phát hiện và đưa đi cấp cứu kịp thời. Trong trường hợp này người
phạm tội tin là hành vi của mình đã gây ra hậu quả chết người mà mình mong
muốn [12, tr.93].
Như vậy, Điều 15 BLHS Việt Nam có ý nghĩa to lớn giúp Tòa án trong
việc xét xử, QĐHP nói riêng và công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm nói
chung. Để có QĐHP trong trường hợp phạm tội chưa đạt được chính xác,
công bằng đòi hỏi Tòa án là cơ quan duy nhất tiến hành hoạt động phải nhận
thức sâu sắc, toàn diện về các căn cứ QĐHP này như sau: a) Các quy định của
BLHS; b) Tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội; c)
24
Ý định phạm tội và d) Những tình tiết khách quan khác khiến cho tội phạm
không thực hiện được tới cùng.
Từ kết quả phân tích trên đây chúng ta chúng ta đưa ra khái niệm khoa
học của việc QĐHP trong trường hợp phạm tội chưa đạt như sau: Quyết định
hình phạt trong trường hợp phạm tội chưa đạt là việc Tòa án dựa trên các
quy định hình sự hiện hành, tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm
tội ý chí chủ quan thể hiện mức độ của ý định phạm tội, và những tình tiết
khách quan khác khiến cho tội phạm không thực hiện được tới cùng. Qua đó
đưa ra mức hình phạt phù hợp với người phạm tội trong trường hợp phạm tội
chưa đạt.
Với sự nỗ lực nghiên cứu và lĩnh hội của bản thân học viên, học viên đưa
ra khái niệm riêng của mình như sau: Quyết định hình phạt trong trường hợp
chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt chính là việc Tòa án thay mặt Nhà nước
đưa ra Quyết định biện pháp xử lý đối với người phạm tội ở mức độ nhẹ hơn
so với tội phạm hoàn thành, với mục đích trừng trị và giáo dục người phạm
tội.
1.2.2. Đặc điểm của quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị
phạm tội, phạm tội chưa đạt
QĐHP trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt là việc
Tòa án dựa trên cơ sở quy định PLHS áp dụng biện pháp TNHS cụ thể đối với
người bị kết án về hành vi chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt theo hướng
giảm nhẹ hơn trường hợp tội phạm hoàn thành tùy vào mức độ thực hiện ý
định phạm tội, cũng như những yếu tố khác thể hiện tính chất, mức độ nguy
hiểm của hành vi phạm tội.
QĐHP trong trường chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt là một dạng
đặc biệt của QĐHP nên đương nhiên chứa đựng các đặc điểm của QĐHP nói
chung: 1) Đây là hoạt động được tiến hành bởi cơ quan xét xử vụ án hình sự,
25
đó chính là Thẩm phán và Hội thẩm được trao quyền tiến hành tố tụng. 2)
Được tiến hành trong giai đoạn xét xử và sau khi đã xác định được tội phạm,
định tội danh như tất cả các trường hợp quyết định hình phạt thông thường.
3) Phải tuân thủ những nguyên tắc, căn cứ do luật định đối với hoạt động
quyết định hình phạt nói chung và cũng cho ra bản án, mức án cụ thể đối với
người phạm tội trong vụ án cụ thể trên những cơ sở chung.
Bên cạnh những đặc điểm chung của hoạt động QĐHP, QĐHP trong trường
hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt có các đặc điểm riêng như sau:
Đặc điểm thứ nhất, QĐHP trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm
tội chưa đạt chỉ đặt ra trong vụ án có hành vi phạm tội chưa hoàn thành vì lý
do khách quan ngoài ý muốn của người phạm tội.
Nếu tội phạm không hoàn thành vì ý muốn chủ quan của người phạm tội
thì hành vi đã chuyển sang dạng tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội, được
miễn TNHS nên không cần đặt ra vấn đề QĐHP. Còn khi tội phạm đã hoàn
thành thì sẽ QĐHP theo các nguyên tắc, căn cứ QĐHP thông thường mà
không cần phải đặt ra yêu cầu QĐHP đặc biệt này nữa.
Đặc điểm thứ hai, QĐHP trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội
chưa đạt thường khó khăn, phức tạp hơn trường hợp tội phạm hoàn thành
Các hành vi ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt chưa gây
ra hậu quả của tội phạm nên rất khó để đánh giá chính xác tính chất, mức độ
nguy hiểm của chúng. Các hành vi chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt ở các
vụ án cụ thể khác nhau dừng lại ở những mức độ thực hiện ý định phạm tội
rất khác nhau. Có trường hợp bước đầu chuẩn bị đã bị phát giác, có trường
hợp chuẩn bị kỹ càng chu đáo, có trường hợp mới bắt đầu phạm tội bị ngăn
cản đã dừng lại, có trường hợp khi bị ngăn cản nhưng người phạm tội vẫn cố
gắng thực hiện tội phạm dù không hoàn thành được... Sự đa dạng, diễn biến
phức tạp đó khiến cho việc đưa ra được bản án chính xác, công bằng khó
khăn hơn nhiều so với trường hợp tội phạm hoàn thành.
26
Đặc điểm thứ ba, QĐHP trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội
chưa đạt phải dựa trên các căn cứ quyết định hình phạt chung và các căn cứ
quyết định hình phạt đặc thù của trường hợp này
Việc QĐHP trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt chắc
chắn vẫn phải dựa trên căn cứ, nguyên tắc QĐHP nói chung để bảo đảm tính
pháp chế, công bằng và thống nhất của PLHS. Ngoài ra, do tính đặc thù của
hành vi phạm tội chưa hoàn thành nên khi QĐHP trong những trường hợp này
cần dựa trên cả những căn cứ riêng mới có thể đưa ra hình phạt tương xứng.
Những căn cứ riêng cần xem xét đến khi QĐHP trong trường hợp chuẩn bị
phạm tội, phạm tội chưa đạt chủ yếu là mức độ thực hiện ý định phạm tội,
nguyên nhân ngăn cản việc thực hiện tội phạm đến cùng và thái độ, phản ứng
của người phạm tội trước sự xuất hiện nguyên nhân đó.
Đặc điểm thứ tư, QĐHP trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội
chưa đạt phải được tiến hành theo hướng giảm nhẹ so với trường hợp tội
phạm hoàn thành
Dù thể hiện sự cố ý, tích cực thực hiện tội phạm nhưng dù sao các
trường hợp tội phạm chưa hoàn thành cũng ít nguy hiểm hơn so với tội phạm
hoàn thành nên biện pháp TNHS được áp dụng phải ít nghiêm khắc hơn. Do
vậy, khi tiến hành QĐHP trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa
đạt cần xác định được mức hình phạt sẽ áp dụng nếu tội phạm đó hoàn thành
để làm căn cứ tính
* Ý nghĩa của việc quyết định hình phạt trong trƣờng hợp chuẩn bị
phạm tội, phạm tội chƣa đạt
Hình phạt và QĐHP là hai hoạt động riêng biệt nhau. Hình phạt là biện
pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước được quy định trong BLHS,
được áp dụng đối với từng hành vi xâm phạm tới khách thể được LHS bảo vệ.
Trong khi đó, QĐHP là hoạt động tư duy của Tòa án cụ thể là Hội đồng xét
27
xử để đưa ra phán quyết cuối cùng có giá trị pháp lý cao, tác động trực tiếp
tới người thực hiện hành vi phạm tội [25, tr.89].
Là một dạng đặc biệt của QĐHP nên QĐHP trong trường hợp chuẩn bị
phạm tội, phạm tội chưa đạt ngoài ý nghĩa chung của việc QĐHP thì còn có
những ý nghĩa riêng của mình. Đó là:
Ý nghĩa thứ nhất, QĐHP trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa
đạt thể hiện đường lối xử lý nghiêm minh và tiến bộ của pháp luật hình sự
Hành vi chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt tuy chưa hoàn thành
nhưng đều đã thể hiện ra ngoài thế giới khách quan và chứng tỏ cho mong
muốn phạm tội, gây hại cho xã hội, cần phải trừng phạt để răn đe, ngăn ngừa.
Vì vây, việc đặt ra vấn đề QĐHP trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm
tội chưa đạt bên cạnh QĐHP đối với các tội phạm hoàn thành thể hiện đồng
thời quan điểm “mọi hành vi nguy hiểm cho xã hội đều bị xử lý” cho dù còn ở
trạng thái chưa hoàn thành và quan điểm “chỉ trừng trị hành vi, không trừng
trị tư tưởng”.
Ý nghĩa thứ hai, QĐHP trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội
chưa đạt thể hiện chính sách phân hóa trách nhiệm hình sự sâu sắc
Các trường hợp chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt rõ ràng là có
tính nguy hiểm cho xã hội. Tính nguy hiểm đó không cao bằng tội phạm hoàn
thành nhưng cao hơn so với trường hợp tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm
tội. Bản thân giữa hai trường hợp này thì chuẩn bị phạm tội cũng có tính nguy
hiểm thấp hơn phạm tội chưa đạt. Vì vậy, việc đặt ra vấn đề QĐHP riêng
trong từng trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt so với trường
hợp tội phạm hoàn thành thể hiện chính sách phân hóa TNHS sự rõ ràng. Bởi
những yếu tố đặc thù nên sẽ là không công bằng, chính xác QĐHP đối với hai
trường hợp này như trường hợp tội phạm hoàn thành
28
Ý nghĩa thứ ba, QĐHP trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội
chưa đạt là một chế định nhân đạo của pháp luật
Có sự hợp lý hơn khi người phạm tội chỉ chịu hình phạt ở một giai đoạn
nhất định nào đó chứ không phải toàn bộ những quy định về tội đã xâm phạm
được quy định tại điều luật được quy định trong phần các tội phạm của
BLHS. Bởi vì, chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt là những hành vi ít nguy
hiểm hơn tội phạm hoàn thành nên nếu áp dụng biện pháp xử lý đối với hai
trường hợp này như tội phạm hoàn thành là quá nghiêm khắc và đi ngược lại
mục đích của hình phạt, cũng như không bảo đảm nguyên tắc công bằng trong
pháp luật hình sự. Chính bởi vậy, quy định về QĐHP trong trường hợp chuẩn
bị phạm tội, phạm tội chưa đạt được đặt ra chính là để thể hiện sự khoan hồng
của PLHS, cũng như bảo đảm sự phân hóa trong luật một cách tương ứng trên
cơ sở diễn biến khách quan của hành vi phạm tội.
29
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1
Từ những phân tích trên đây học viên có thể đưa ra kết luận sau:
1. QĐHP là việc Tòa án lựa chọn loại hình phạt cụ thể (bao gồm hình
phạt chính và có thể cả hình phạt bổ sung) với mức độ cụ thể trong phạm vi
luật định để áp dụng cho người phạm tội. QĐHP có vai trò vô cùng to lớn,
bởi suy cho cùng, các hoạt động tố tụng hình sự trước đó (từ khi khởi tố, điều
tra, truy tố và kể cả việc tranh tụng tại phiên toà) sẽ không có nhiều ý nghĩa
nếu Toà án không làm tốt việc QĐHP. QĐHP đúng pháp luật, công bằng và
hợp lý là tiền đề, điều kiện để đạt mục đích hình phạt: Cải tạo, giáo dục,
phòng ngừa chung và phòng ngừa riêng.
2. Nếu hình phạt quá nhẹ đối với người phạm tội sẽ làm giảm ý nghĩa
phòng ngừa của hình phạt, bởi nó có thể làm phát sinh ý định phạm tội, thái
độ vô trách nhiệm và coi thường pháp luật, nhưng hình phạt quá nặng sẽ tạo
tâm lý không công bằng, không hợp lý ở người bị kết án dẫn đến thái độ oán
hận, không tin tưởng pháp luật.
3. QĐHP trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt chứa
đựng nhiều yếu tố đặc thù, phức tạp hơn so với QĐHP trong trường hợp tội
phạm hoàn thành, biện pháp xử lý đối với trường hợp chuẩn bị phạm tội,
phạm tội chưa đạt chắc chắn phải ít nghiêm khắc hơn tội phạm hoàn thành.
Trong khi đó, các biện pháp, chế tài cụ thể của pháp luật thực định được quy
định sẵn để áp dụng cho tội phạm hoàn thành.
4. Quyết định biện pháp xứ lý trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm
tội chưa đạt có thể gọi là sự “cân nhắc hai lần” trong áp dụng pháp luật, trước
tiên Tòa án phải dựa vào các căn cứ chung sau đó lại phải dựa vào căn cứ
riêng để QĐHP.
30
Chƣơng 2
QUY PHẠM VỀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT TRONG TRƢỜNG
HỢP CHUẨN BỊ PHẠM TỘI, PHẠM TỘI CHƢA ĐẠT THEO LUẬT
HÌNH SỰ VIỆT NAM VÀ PHÁP LUẬT HÌNH SỰ MỘT SỐ NƢỚC
2.1. Quy phạm về quyết định hình phạt trong trƣờng hợp chuẩn bị
phạm tội, phạm tội chƣa đạt từ sau cách mạng tháng Tám năm 1945 đến nay
Nghiên cứu lịch sử các quy phạm về QĐHP nói chung và QĐHP trong
trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt nói riêng trong LHS Việt
Nam từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến nay nhằm nhận dạng nó
trong từng giai đoạn lịch sử, từ đó thấy được những dấu ấn, những đặc điểm
chủ yếu của từng giai đoạn lịch sử được thể hiện trong các quy định đó và
đồng thời cũng thấy được sự hình thành và phát triển của các quy định về
hình phạt là do các điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội, truyền thống, đặc điểm
của dân tộc ta trong từng giai đoạn lịch sử quy định và là nhu cầu khách quan
của xã hội. Quan trọng hơn nữa, việc nghiên cứu lịch sử của các QPPL về
hình phạt qua các giai đoạn phát triển của đất nước là nhằm xác định khả
năng kế thừa và phát huy có hiệu quả những thành tựu và bài học kinh
nghiệm về QĐHP trong PLHS Việt Nam nói chung và QĐHP trong trường
hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt nói riêng
2.1.1. Các quy phạm về quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn
bị phạm tội, phạm tội chưa đạt từ sau Cách mạng tháng tám năm 1945 đến
trước pháp điển hóa lần thứ nhất - Bộ luật hình sự Việt Nam 1985
Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công đánh dấu một bước ngoặc
vĩ đại trong lịch sử của nước Việt Nam. Nhưng đây cũng là thời kỳ đất nước
ta trải qua muôn vàn khó khăn. Các tội gián điệp, mật vụ, chỉ điểm, tội trốn đi
nước ngoài để chống phá Nhà nước Việt Nam còn non trẻ trong trứng nước
31
xảy ra nhiều. Bên cạnh đó nhóm tội phạm về xâm phạm sở hữu, tội phạm về
kinh tế, xâm phạm về các trật tự công cộng, các tội trộm cắp, cướp của giết
người hiếp dâm cũng diễn ra ngày càng nhiều và phức tạp hơn [44, tr.56 - 59].
Đối với hành vi chuẩn bị phạm tội: Sắc luật số 02/SLT ngày 18/6/1957
cho phép cơ quan Công an có thể bắt giữ người có hành động chuẩn bị làm
việc phạm pháp trước khi có lệnh viết của cơ quan Tư pháp từ cấp tỉnh, thành
phố trở lên hoặc của Tòa án binh [35, tr.113].
Báo cáo tổng kết của ngành Tòa án năm 1962 với nội dung: “Cần phải
thấy rằng tội cố ý giết người chưa đạt, tuy chưa làm chết người, vẫn là một
loại tội cực kỳ nghiêm trọng ...; theo nguyên tắc hình pháp thì Tòa án rất có
thể xử phạt như tội cố ý giết người đã thành ...” [35, tr.28].
Báo cáo tổng kết của ngành Tòa án năm 1965 cũng nêu: Trong các
trường hợp “giết người chưa đạt” khi lượng hình, không nên chỉ nặng nhìn
vào hậu quả chết người không xảy ra mà xử quá nhẹ, mà phải nhìn toàn diện
vào thủ đoạn, vào động cơ phạm pháp, vào thái độ quyết tâm nhiều hay ít; ...
kết hợp với các tình tiết khác như: Tình hình thương tật đã gây ra, nhân thân
của bị cáo, tình hình cụ thể của địa phương ... mà cân nhắc mức án cho thích
đáng [5, tr.57]. Các căn cứ để QĐHP đối với tội giết người chưa đạt bao gồm:
Tính chất chưa hoàn thành của tội phạm (hậu quả chưa xảy ra); thủ đoạn,
động cơ phạm tội; thái độ quyết tâm phạm tội; không nên quá coi trọng tính
chưa hoàn thành của tội phạm (hậu quả chết người chưa xảy ra) mà xử phạt
quá nhẹ [37, tr.63 - 65].
Báo cáo tổng kết số 452-HS2 ngày 10/8/1970 của Tòa án nhân dân tối
cao có nội dung: “Muốn được gọi là có dự mưu, việc chuẩn bị hoặc kế hoạch
giết người của can phạm phải được suy nghĩ kỹ càng trước khi bước vào hành
động” [7, tr.113]. Công văn số 38-NCPL ngày 16/01/1976 của Tòa án nhân
dân Tối cao đã xác định: “Hoạt động tội phạm ở giai đoạn nào, mức độ thực
32
hiện tội phạm: Chuẩn bị phạm tội, tội đã hoàn thành hay chưa, các nguyên
nhân khiến cho tội phạm không thực hiện được đến cùng…” [5, tr.101]. Và
Bản tổng kết số 452 - HS2 ngày 10/8/1970 của Tòa án nhân dân tối cao cũng
hướng dẫn rất kỹ về việc xác định hành vi giết người chưa đạt và QĐHP đối
với hành vi này như sau:
1) Tội giết người hoàn thành khi người bị nạn chết. Đối với trường hợp
giết người nhưng không chết, nên thống nhất gọi là giết người chưa đạt; trong
trường hợp tuy giết người chưa đạt, nạn nhân không chết, nhưng can phạm
cho là đã làm hết mọi việc cần thiết để giết người và tưởng nạn nhân đã chết,
nên gọi là giết người chưa đạt nhưng hành vi đã hoàn thành ...
2) Giữa giết người chưa đạt, khi phương pháp giết người là gây thương
tích như bắn, chém, đánh, bóp cổ; ... với cố ý gây thương tích, mặt khách
quan rất giống nhau: Cũng đều có những hành vi gây thương tích cho người
khác mà không có hậu quả chết người. Nhưng khác nhau về mặt chủ quan và
do đó, mức độ nguy hiểm cho xã hội rất khác nhau: Một bên can phạm mong
muốn cho hành vi của mình gây hậu quả làm chết người nhưng hậu quả đó
không xảy ra ngoài mong muốn của y. Một bên, can phạm chỉ muốn gây
thương tích, không nghĩ đến và cũng không hề muốn có hậu quả chết người...
[22, tr.189].
3) Về hậu quả, giết người đã thành thường bị xử phạt nặng hơn giết
người chưa đạt vì hậu quả nghiêm trọng hơn. Cũng vì lẽ đó, trong những
trường hợp giết người chưa đạt, những trường hợp đã gây thương tích nặng
thường bị xử phạt nặng hơn những trường hợp chỉ gây thương tích nhẹ.
Những trường hợp đã gây thương tích nhẹ thường bị xử phạt nặng hơn những
trường hợp chưa gây thương tích [6, tr.117].
Bản tổng kết đã xác định chuẩn bị phạm tội là một giai đoạn thực hiện
tội phạm, thể hiện một mức độ thực hiện tội phạm nhất định nhưng không giải
33
thích thế nào là chuẩn bị phạm tội và không khái quát được căn cứ QĐHP
trong trường hợp phạm tội chưa đạt nhưng Bản tổng kết số 452 - HS2 lại có
sự phân hóa sâu sắc trong chính sách trừng phạt đối với hành vi giết người
chưa đạt ở những mức độ nguy hiểm khác nhau. Cụ thể: “Về hậu quả giết
người đã thành thường bị xử nặng hơn giết người chưa đạt vì hậu quả nghiêm
trọng hơn. Cũng vì lẽ đó, trong những trường hợp giết người chưa đạt, những
trường hợp đã gây thương tích nặng thường bị xử phạt nặng hơn những
trường hợp chỉ gây thương tích nhẹ. Những trường hợp chỉ gây thương tích
nhẹ thường bị xử phạt nặng hơn những trường hợp chưa gây thương tích” [5,
tr.143].
Tóm lại, PLHS Việt Nam trong giai đoạn từ sau 1945 đến năm 1985
chưa mang tính hệ thống, tất cả các văn bản đều mang tính đơn hành (sắc luật,
sắc lệnh, pháp lệnh...) mỗi văn bản chỉ quy định một vấn đề riêng biệt. Vấn đề
hình phạt và QĐHP nói chung, QĐHP trong trường hợp chuẩn bị phạm tội,
phạm tội chưa đạt nói riêng không được quy định ở dạng khái quát, mà chỉ
được quy định ở dạng cụ thể, đơn lẻ. Nó không chỉ được quy định trong các
văn bản PLHS mà còn được quy định trong các văn bản pháp luật có tính chất
hình sự. Tuy nhiên, những quy định ban đầu này trong chừng mực nhất định,
đã thể hiện nhận thức rằng: Chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt cần phải bị
trừng phạt và bước đầu đề cập đến những căn cứ, chính sách phân hóa trong
QĐHP đối với chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt mặc dù mới chỉ dưới
dạng hướng dẫn, tổng kết kinh nghiệm xét xử một số tội phạm cụ thể. Đây
chính là những tiền đề cho việc xây dựng, hoàn thiện quy định PLHS của Việt
Nam về QĐHP trong hai trường hợp này.
2.1.2. Các quy phạm về quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn
bị phạm tội, phạm tội chưa đạt trong Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1985
BLHS năm 1985 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam thông qua ngày 27/6/1985. Đây cũng là lần đầu tiên quy định một cách
34
chính thức và khái quát về các trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa
đạt. Định nghĩa và căn cứ QĐHP trong hai trường hợp này đồng thời được
quy định tại Điều 15 của Bộ luật: “1. Chuẩn bị phạm tội là tìm kiếm, sửa soạn
công cụ, phương tiện hoặc tạo ra những điều kiện cần thiết khác để thực hiện
tội phạm. Người chuẩn bị phạm một tội nghiêm trọng phải chịu TNHS. 2.
Phạm tội chưa đạt là cố ý thực hiện tội phạm nhưng không thực hiện được
đến cùng vì những nguyên nhân khách quan ngoài ý muốn của người phạm
tội. 3. Đối với những hành vi chuẩn bị phạm tội và hành vi phạm tội chưa đạt,
hình phạt được quyết định theo các Điều của Bộ luật này về các tội phạm
tương ứng, tuỳ theo tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi, mức
độ thực hiện ý định phạm tội và những tình tiết khác khiến cho tội phạm
không thực hiện được đến cùng”.
Theo khoản 1 Điều 15 đã nêu trên thì chỉ trường hợp chuẩn bị phạm tội
nghiêm trọng mới phải chịu TNHS. Khoản 2 không có giới hạn việc phạm tội
chưa đạt trong trường hợp nào thì phải chịu TNHS nên có thể hiểu là phạm tội
chưa đạt trong mọi trường hợp đều phải chịu TNHS. Cho nên, việc truy cứu
TNHS và QĐHP đối với người chuẩn bị phạm tội chỉ phát sinh trong trường
hợp tội mà người đó định phạm là tội nghiêm trọng: Khoản 2 Điều 8 Bộ luật
hình sự năm 1985: “Tội phạm nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại lớn cho
xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là trên năm năm
tù, tù chung thân hoặc tử hình” [5]. Còn việc truy cứu TNHS và QĐHP đối
với chủ thể phạm tội chưa đạt được đặt ra trong mọi trường hợp bất kể tội
phạm chưa được hoàn thành đó thuộc loại tội nào [5, tr.87].
Bên cạnh việc chưa khẳng định rõ tính phải chịu TNHS của trường hợp
phạm tội chưa đạt, BLHS năm 1985 còn không xác định một cách chính thức
cơ sở TNHS của cả hai trường hợp này. Bộ luật không chỉ rõ người chuẩn bị
phạm tội, phạm tội chưa đạt phải chịu trách nhiệm trên cơ sở tội định phạm,
35
tội đã phạm chưa đạt hay có chế độ trách nhiệm riêng. Mặc dù trong thực tiễn,
các cơ quan thi hành đều thống nhất áp dụng TNHS đối với những người này
về tội họ chuẩn bị phạm hoặc đã phạm chưa đạt nhưng việc Bộ luật không
chính thức xác định cơ sở pháp lý cho việc áp dụng như vậy là không bảo
đảm tính pháp chế [7,tr.32].
Mặc dù nhìn nhận trường hợp phạm tội chưa đạt có tính nguy hiểm cao
hơn chuẩn bị phạm tội nhưng trong căn cứ QĐHP đối với hai trường hợp này
tại khoản 3 Điều 15 BLHS năm 1985 lại không thể hiện được quan điểm phân
hóa đó một cách rõ ràng: Đối với những hành vi chuẩn bị phạm tội và hành vi
phạm tội chưa đạt, hình phạt được quyết định theo các Điều của Bộ luật này
về các tội phạm tương ứng, tuỳ theo tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội
của hành vi, mức độ thực hiện ý định phạm tội và những tình tiết khác khiến
cho tội phạm không thực hiện được đến cùng [5], [6].
Quy định này đã xác định các yếu tố được dùng làm căn cứ QĐHP trong
trường hợp chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt, bao gồm: 1) Các điều luật
quy định về các tội phạm tương ứng; 2) Tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã
hội của hành vi; 3) Mức độ thực hiện ý định phạm tội và 4) Những tình tiết
khác khiến cho tội phạm không thực hiện được đến cùng [5, tr.112].
Theo đó, hình phạt áp dụng đối với người chuẩn bị phạm tội hoặc phạm
tội chưa đạt được quyết định trên cơ sở khung hình phạt của Điều luật quy
định về tội người ấy chuẩn bị phạm hoặc đã phạm nhưng chưa đạt. Việc lựa
chọn mức hình phạt cụ thể nào trong đó phụ thuộc vào tính chất, mức độ nguy
hiểm cho xã hội của hành vi, mức độ thực hiện ý định phạm tội và những tình
tiết khác khiến cho việc phạm tội không thực hiện được đến cùng. Do các căn
cứ trên được áp dụng chung cho cả chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt
nên hầu như không có sự phân hóa nào về mức hình phạt được áp dụng giữa
hai trường hợp này. Tuy rằng căn cứ thứ ba “mức độ thực hiện ý định phạm
36
tội” cho phép hiểu rằng hình phạt áp dụng đối với người chuẩn bị phạm tội
phải nhẹ hơn người phạm tội chưa đạt bởi vì mức độ thực hiện ý định phạm
tội trong giai đoạn chuẩn bị phạm tội ít hơn, thấp hơn trong giai đoạn phạm
tội chưa đạt. Tuy nhiên, nhẹ hơn như thế nào thì Bộ luật hình sự năm 1985
không có quy định cụ thể để xác định [6, tr.143], [8, tr.129].
Ngoài việc không phân hóa rõ ràng về mức hình phạt giữa chuẩn bị
phạm tội với phạm tội chưa đạt, BLHS năm 1985 cũng không có quy định
nào để phân hóa mức hình phạt áp dụng cho hai trường hợp này so với trường
hợp tội phạm hoàn thành. Do đó, nếu áp dụng một các máy móc căn cứ thứ
nhất “theo các điều của Bộ luật này về các tội phạm tương ứng” thì hoàn toàn
có thể QĐHP đối với chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt y như tội phạm đã
hoàn thành.
Ngày 05/01/1986 Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã ban
hành Nghị quyết số 02/HĐTP: “Hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ
luật hình sự” [9] có khẳng định về tính chất nghiêm trọng hơn của phạm tội
chưa đạt so với chuẩn bị phạm tội nhưng không làm rõ yêu cầu phải xử phạt
người phạm tội chưa đạt nặng hơn so với người chuẩn bị phạm tội. Tuy nhiên,
Nghị quyết đã phân biệt được hai trường hợp phạm tội chưa đạt trong thực
tiễn là: Phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành và phạm tội chưa đạt đã hoàn
thành, đồng thời đã đề ra được yêu cầu xử nặng hơn đối với phạm tội chưa đạt
đã hoàn thành nhưng Nghị quyết lại không hướng dẫn cụ thể mức xử nặng
hơn như thế nào giữa tội phạm hoàn thành, phạm tội chưa đạt đã hoàn thành,
phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành và chuẩn bị phạm tội [6, tr.143].
Tóm lại, BLHS năm 1985 là thành quả của quá trình kế thừa, có chọn lọc
những thành tựu PLHS của ông cha ta, nhất là từ 1945 đến 1985. Theo Điều
15 BLHS năm 1985 thì người chuẩn bị phạm tội và người phạm tội chưa đạt
chịu TNHS về cùng một tội danh, theo cùng một điều luật và trong cùng một
37
phạm vi chế tài như trường hợp tội phạm hoàn thành. Điều đó cũng có nghĩa
mức tối đa và mức tối thiểu của khung hình phạt và loại hình phạt có thể áp
dụng cho các hành vi đó (các hành vi thực hiện tội phạm ở các mức độ khác
nhau và có mức độ nguy hiểm cho xã hội khác nhau) là giống nhau.
Quy định nêu trên về TNHS cho người có hành vi chuẩn bị phạm tội,
phạm tội chưa đạt của BLHS năm 1985 là chưa hợp lí, chưa tạo cơ sở pháp lí
đầy đủ để phân hoá TNHS đối với các hành vi thực hiện tội phạm ở các mức
độ khác nhau cho tương xứng với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội
của các hành vi đó. Sự phân hoá TNHS đối với chuẩn bị phạm tội, phạm tội
chưa đạt của một loại tội cố ý chỉ có thể thực hiện được một cách triệt để nếu
đảm bảo được nguyên tắc về sự tương xứng giữa mức độ TNHS cần xác định
với mức độ nguy hiểm của các hành vi đó. Như vậy, để tương xứng với mức
độ nguy hiểm của các hành vi thực hiện một tội phạm cố ý ở các mức độ khác
nhau thì rõ ràng thông qua các quy định của mình LHS phải thể hiện được
nguyên tắc xử lí là chuẩn bị phạm tội bị xử nhẹ hơn phạm tội chưa đạt và
phạm tội chưa đạt phải bị xử nhẹ hơn tội phạm hoàn thành (nếu có các tình
tiết khác tương đương).
Từ những phân tích trên có thể khẳng định rằng đối với chuẩn bị phạm
tội và phạm tội chưa đạt của các tội phạm cố ý, BLHS năm 1985, tuy đã thể
hiện được sự phân hoá hợp lí trong quy định về xác lập TNHS nhưng vẫn
chưa thể hiện được sự phân hoá hợp lí trong quy định về xác định TNHS. Do
vậy, trong thực tiễn áp dụng sẽ không tránh khỏi tình trạng hình phạt mà Tòa
án tuyên cho bị cáo không tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm cho
xã hội của hành vi phạm tội.
2.1.3. Các quy phạm về QĐHP trong trường hợp chuẩn bị phạm tội,
phạm tội chưa đạt trong BLHS Việt Nam năm 1999
BLHS năm 1999 đã tách biệt định nghĩa pháp lý và cơ sở của TNHS
trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt với các quy định về
38
căn cứ QĐHP, giới hạn hình phạt trong hai trường hợp này ra quy định ở các
chế định khác nhau để bảo đảm tính chặt chẽ và logic. Cụ thể, định nghĩa
pháp lý về chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt được Bộ luật hình sự năm
1999 quy định trong hai điều luật riêng biệt - Điều 17 và Điều 18 tại Chương
III về “Tội phạm” và quy định về QĐHP trong trường hợp chuẩn bị phạm tội,
phạm tội chưa đạt tại Điều 52 Chương VII [34]. Cụ thể: Điều 17 quy định về
chuẩn bị phạm tội: “Chuẩn bị phạm tội là tìm kiếm, sửa soạn công cụ, phương
tiện hoặc tạo ra những điều kiện khác để thực hiện tội phạm. Người chuẩn bị
phạm một tội rất nghiêm trọng hoặc một tội đặc biệt nghiêm trọng, thì phải
chịu TNHS về tội định thực hiện”.
Điều 18 quy định về phạm tội chưa đạt: “Phạm tội chưa đạt là cố ý thực
hiện tội phạm nhưng không thực hiện được đến cùng vì những nguyên nhân
ngoài ý muốn của người phạm tội. Người phạm tội chưa đạt phải chịu trách
nhiệm hình sự về tội phạm chưa đạt”.
Điều 52 quy định về QĐHP trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm
tội chưa đạt: “1. Đối với hành vi chuẩn bị phạm tội và hành vi phạm tội chưa
đạt, hình phạt được quyết định theo các điều của Bộ luật này về các tội phạm
tương ứng tùy theo tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi, mức
độ thực hiện ý định phạm tội và những tình tiết khác khiến cho tội phạm
không thực hiện được đến cùng. 2. Đối với trường hợp chuẩn bị phạm tội, nếu
điều luật được áp dụng có quy định hình phạt cao nhất là tù chung thân hoặc
tử hình, thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng là không quá hai mươi năm
tù; nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt không quá một phần hai mức phạt
tù mà điều luật quy định. 3. Đối với trường hợp phạm tội chưa đạt, nếu điều
luật được áp dụng có quy định hình phạt cao nhất là tù chung thân hoặc tử
hình, thì chỉ có thể áp dụng các hình phạt này trong trường hợp đặc biệt
nghiêm trọng; nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt không quá ba phần tư
mức phạt tù mà điều luật quy định”.
39
Chế định về QĐHP trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa
đạt trong BLHS năm 1999 đã có những chỉnh sửa cơ bản phù hợp về khoa
học lập pháp và thực tiễn xét xử. Hình phạt áp dụng cho người chuẩn bị
phạm tội, phạm tội chưa đạt phải thấp hơn so với người thực hiện tội phạm
hoàn thành. Qui định này đã giúp cho việc cá thể hóa hình phạt được tốt hơn,
là cơ sở pháp lý quan trọng cho Tòa án QĐHP đúng với mức độ nguy hiểm
của hành vi phạm tội trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt
[4, tr.144], [13, tr.242].
Tuy nhiên, BLHS năm 1999 qua thực tiễn xét xử cũng đã bộc lộ nhiều
mặt hạn chế, bất hợp lý từ các khung hình phạt được hình thành cho chuẩn bị
phạm tội, phạm tội chưa đạt do áp dụng quy định của Điều 52. Ví dụ: Khoản
1 Điều 93 BLHS quy định chế tài áp dụng cho hành vi giết người theo khoản
1 là hình phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình; và theo
quy định của khoản 2 Điều 52 BLHS thì khung hình phạt được hình thành để
áp dụng cho chuẩn bị giết người theo khoản 1 Điều 93 BLHS là hình phạt tù
từ 12 năm đến 20 năm. Đây cũng là khung hình phạt thường được áp dụng để
QĐHP cho các trường hợp giết người hoàn thành được quy định tại khoản 1
Điều 93 BLHS. Đối với chuẩn bị phạm tội tội phạm này áp dụng cùng khung
hình phạt trên với mức thấp nhất 12 năm tù là quá nghiêm khắc vì so với hành
vi phạm tội hoàn thành tội phạm này thì chuẩn bị phạm tội này có mức độ
nguy hiểm cho xã hội thấp hơn rất nhiều (nếu có các tình tiết khác tương
đương) [9, tr.154].
Một bất hợp lí khác liên quan đến quy định về TNHS đối với chuẩn bị
phạm tội rất nghiêm trọng trong mối liên hệ với quy định về các khung hình
phạt kế tiếp nhau được thể hiện phổ biến trong BLHS năm 1999. Tội phạm rất
nghiêm trọng theo quy định của BLHS năm 1999 là tội phạm có mức cao nhất
của khung hình phạt tù là từ trên 7 năm đến 15 năm. Do BLHS năm 1999 quy
40
định trong phần chế tài của các điều luật về tội phạm cụ thể thường là các
khung hình phạt kế nhau về mức hình phạt nên mức khởi điểm của các khung
hình phạt tù đối với tội rất nghiêm trọng (có mức cao nhất của khung hình
phạt từ trên 7 năm đến 15 năm) thường là 7 năm tù hoặc 5 năm tù hoặc trong
một số ít trường hợp là 3 năm tù. Như vậy, theo quy định của BLHS năm
1999 thì các hành vi chuẩn bị phạm những tội phạm cố ý sẽ rơi vào các tình
trạng bị xử lí quá khác nhau, như hoặc không có TNHS hoặc có TNHS và bị
xử lí quá nghiêm khắc (thường là với mức thấp nhất của khung hình phạt tù là
5 năm tù hoặc 7 năm tù). Hơn nữa, các khung hình phạt tù được quy định có
mức thấp nhất là 7 năm thì thường có mức cao nhất là 15 năm tù mà theo quy
định của khoản 3 Điều 52 BLHS thì khung hình phạt được hình thành áp dụng
cho chuẩn bị phạm tội là từ 7 năm đến 7 năm 6 tháng tù [55, tr.87 - 99].
2.2. Quy phạm về quyết định hình phạt trong trƣờng hợp chuẩn bị
phạm tội, phạm tội chƣa đạt theo Bộ luật hình sự năm 2015
2.2.1. Quy phạm về quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị
phạm tội theo Bộ luật hình sự năm 2015
Ngày 27/11/2015 Quốc hội khóa XIII đã thông qua BLHS năm 2015,
BLHS năm 2015 đã có những thay đổi căn bản so với BLHS năm 1999, các
quy phạm của BLHS cũng có những thay đổi đáng kể để phù hợp với tình
hình mới [2, tr.8].
Trong phạm vi đề tài luận văn chỉ đề cập đến những điểm mới về QĐHP
trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt:
- Thứ nhất, Điều 14 BLHS 2015 đã bổ sung thêm hành vi “thành lập,
tham gia nhóm tội phạm” nhưng lại “trừ trường hợp quy định tại Điều 109,
điểm a khoản 2 Điều 113 hoặc điểm a khoản 2 Điều 299 của Bộ luật Hình
sự” [3, tr.37]
Chuẩn bị phạm tội là giai đoạn người phạm tội có hành vi tạo ra những
điều kiện cần thiết cho việc thực hiện tội phạm nhưng chưa bắt đầu thực hiện
41
tội phạm đó. Về nguyên tắc không phải hành vi chuẩn bị phạm tội nào cũng bị
truy cứu TNHS. Theo quy định trên thì chuẩn bị phạm tội là: Tìm kiếm, sửa
soạn công cụ, phương tiện hoặc tạo ra những điều kiện khác để thực hiện tội
phạm hoặc thành lập, tham gia nhóm tội phạm trừ trường hợp quy định tại
Điều 109, điểm a khoản 2 Điều 113 hoặc điểm a khoản 2 Điều 299 của
BLHS.
BLHS 2015 liệt kê các tội phạm mà người phạm tội phải chịu TNHS
trong giai đoạn chuẩn bị phạm tội, gồm 25 tội, trong đó có 12 tội thuộc nhóm
tội xâm phạm an ninh quốc gia đó là: Điều 108 (Tội phản bội Tổ quốc); Điều
110 (Tội gián điệp); Điều 111 (Tội xâm phạm an ninh lãnh thổ); Điều 112
(Tội bạo loạn); Điều 113 (Tội khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân);
Điều 114 (Tội phá hoại cơ sở vật chất - kỹ thuật của nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam); Điều 117 (Tội làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền
thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam); Điều 118 (Tội phá rối an ninh); Điều 119 (Tội chống phá trại
giam); Điều 120 (Tội tổ chức, cưỡng ép, xúi giục người khác trốn đi nước
ngoài hoặc trốn ở lại nước ngoài nhằm chống chính quyền nhân dân); Điều
121 (Tội trốn đi nước ngoài hoặc trốn ở lại nước ngoài nhằm chống chính
quyền nhân dân) [34];
05 tội danh thuộc nhóm tội xâm phạm tính mạng sức khỏe con người,
xâm phạm sở hữu, xâm phạm trong lĩnh vực tài chính gồm: Điều 123 (Tội
giết người); Điều 134, (Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác); Điều 168 (Tội cướp tài sản); Điều 169, các khoản 2, 3
và 4 (Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản); Điều 207 (Tội làm, tàng trữ, vận
chuyển, lưu hành tiền giả) [3, tr.14];
06 tội danh thuộc nhóm tội phạm khác xâm phạm an toàn công công
gồm: Điều 299 (Tội khủng bố); Điều 300 (Tội tài trợ khủng bố); Điều 301
42
(Tội bắt cóc con tin); Điều 302 (Tội cướp biển); Điều 303 (Tội phá hủy công
trình, cơ sở, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia); Điều 324 (Tội rửa
tiền). Như vậy, ngoài 25 trường hợp đã được liệt kê thì đối với các tội phạm
khác mà người phạm tội mới chuẩn bị phạm tội thì không bị truy cứu trách
nhiệm hình sự [3,14].
- Thứ hai, Khoản 3 Điều 14 quy định: “Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16
tuổi chuẩn bị phạm tội quy định tại Điều 123, Điều 168 của Bộ luật này thì
phải chịu TNHS”. Đây là quy định mới mang tính nhân đạo đối với người
chưa thành niên phạm tội từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi.
- Thứ ba, Chế tài xử phạt cụ thể về hành vi chuẩn bị phạm tội đối với 25
điều luật đã được liệt kê tại khoản 2 Điều 14, còn được nhà làm luật ghi nhận
bổ sung thành 01 khung hình phạt riêng biệt trực tiếp ngay tại khoản cuối
cùng của 25 Điều luật cụ thể trong Phần các tội phạm.
Ví dụ: Điều 123 về tội giết người, khoản 3 quy định: “Người chuẩn bị
phạm tội này thì bị phạt tù 1-5 năm”; Điều 168 về tội cướp tài sản, khoản 5
quy định: “Người chuẩn bị phạm tội này bị phạt tù 1-5 năm”.
Ngoài ra, người chuẩn bị phạm một số tội khác như: Chống phá cơ sở
giam giữ (Điều 119), Tổ chức, cưỡng ép, xúi giục người khác trốn đi nước
ngoài hoặc trốn ở lại nước ngoài nhằm chống chính quyền nhân dân (Điều
120), Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
(Điều 134), Làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả (Điều 207), Khủng
bố (Điều 299), Rửa tiền (Điều 324)… cũng sẽ bị truy cứu TNHS [62].
Chuẩn bị phạm tội là một giai đoạn trong quá trình thực hiện tội phạm,
nhưng ở giai đoạn này người phạm tội chưa thực hiện hành vi thuộc mặt
khách quan của cấu thành tội phạm, tức là chưa có hành vi xâm phạm đến đối
tượng tác động. Ví dụ: A chuẩn bị dao để tìm B giết nhưng bị em của A phát
hiện nên A không thực hiện được hành vi giết B.
43
Hành vi chuẩn bị phạm tội thường được thể hiện dưới các dạng sau:
- Chuẩn bị kế hoạch phạm tội như: Bàn bạc, phân công trách nhiệm cho
từng người, kế hoạch tiêu thụ tài sản hay kế hoạch che giấu tội phạm … Dạng
chuẩn bị phạm tội này thường xảy ra đối với những tội phạm được thực hiện
có đồng phạm hoặc có tổ chức. Tuy nhiên, cũng có trường hợp tội phạm chỉ
do một người thực hiện vẫn có sự chuẩn bị kế hoạch phạm tội.
Ví dụ: A có ý định đầu độc B, tự A đã vạch ra một kế hoạch như mua
thuốc độc ở đâu, bỏ thuốc độc vào nước cho B uống như thế nào, sau khi B bị
trúng độc thì làm thế nào để che giấu được tội phạm ...
- Thăm dò hoặc tìm địa điểm phạm tội, dạng chuẩn bị này chủ yếu đối
với các tội xâm phạm sở hữu hoặc xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự,
nhân phẩm của công dân. Ví dụ A muốn cướp tài sản tại nhà B, nên A đã
nhiều lần đến nhà B thăm dò xem quy luật sinh hoạt của gia đình ra sao để
tiến hành cướp tài sản.
- Chuẩn bị công cụ, phương tiện phạm tội như: Chuẩn bị xe máy để đi
cướp tài sản, chuẩn bị dao để giết người, chuẩn bị thuốc nổ để hủy hoại tài
sản, chuẩn bị xăng để đốt nhà, chuẩn bị thuốc mê để làm cho người có tài sản
uống nhằm chiếm đoạt tài sản của họ …
- Loại trừ trước những trở ngại khách quan để thực hiện tội phạm được thuận
lợi dễ dàng như: Cho các con đi nghỉ mát để ở nhà giết vợ được dễ dàng ...
Chuẩn bị phạm tội là hành vi tạo ra tiền đề (điều kiện) cần thiết cho việc
thực hiện tội phạm. Hành vi chuẩn bị phạm tội có một ý nghĩa rất quan trọng
đến kết quả của việc thực hiện tội phạm, chuẩn bị càng chu đáo công phu bao
nhiêu thì kết quả của việc thực hiện tội phạm càng đạt kết quả bấy nhiêu. Tuy
nhiên, việc truy cứu TNHS đối với hành vi chuẩn bị phạm tội được đánh giá
và phân biệt thành hai loại: Loại hành vi chuẩn bị phạm tội phải bị truy cứu
TNHS và loại không bị truy cứu TNHS, mặc dù cả hai loại đều chưa gây ra
44
hậu quả, nhưng tính chất nguy hiểm của hành vi chuẩn bị phạm tội có khác
nhau và sự khác nhau đó lại không phụ thuộc vào tính chất và mức độ của
hành vi chuẩn bị mà nó hoàn toàn phụ thuộc vào tính chất nghiêm trọng của
tội phạm mà người đó định thực hiện.
Về lý luận thì chỉ có tội phạm được thực hiện do cố ý (cố ý trực tiếp) thì
mới có giai đoạn chuẩn bị phạm tội. Do đó, sẽ không có hành vi chuẩn bị
phạm tội mà tội phạm đó sẽ được thực hiện do lỗi cố ý gián tiếp hoặc do lỗi
vô ý.
Việc áp dụng hình phạt đối với người phạm tội thuộc trường hợp chuẩn
bị phạm tội, BLHS năm 2015 cũng có nhiều sửa đổi, bổ sung, Điều 57 BLHS
năm 2015 quy định: “Đối với trường hợp chuẩn bị phạm tội, hình phạt được
quyết định trong phạm vi khung hình phạt được quy định trong các điều luật
cụ thể”.
2.2.2. Quy phạm về quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội
chưa đạt theo Bộ luật hình sự năm 2015
Cơ sở pháp lý cho Tòa án ra QĐHP cho chủ thể phạm tội trong trường
hợp phạm tội chưa đạt được nhà làm luật quy định tại Điều 15 và Điều 57
BLHS năm 2015. Cụ thể: Điều 15 quy định: “1. Phạm tội chưa đạt là cố ý
thực hiện hiện tội phạm nhưng không thực hiện được đến cùng vì những
nguyên nhân ngoài ý muốn của người phạm tội. 2. Người phạm tội chưa đạt
phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm chưa đạt”; Điều 57 quy định: “1.
Đối với hành vi phạm tội chưa đạt, hình phạt được quyết định theo các điều
của Bộ luật này về các tội phạm tương ứng tùy theo tính chất, mức độ nguy
hiểm cho xã hội của hành vi, mức độ thực hiện ý định phạm tội và những tình
tiết khác khiến cho tội phạm không thực hiện được đến cùng. 3. Đối với
trường hợp phạm tội chưa đạt, nếu điều luật được áp dụng có quy định hình
phạt cao nhất là tù chung thân hoặc tử hình thì áp dụng hình phạt tù không
45
quá 20 năm; nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt không quá ba phần tư
mức phạt tù mà điều luật quy định”.
Thực tiễn cho thấy rằng không phải hành vi cố ý thực hiện tội phạm,
mong muốn thực hiện tội phạm là đạt được hiệu quả như ý muốn của người
đó, nhiều trường hợp do yếu tố khách quan bên ngoài khiến cho tội phạm
không thực hiện được tới cùng nên hành vi đã thực hiện chỉ dừng lại ở các
giai đoạn khác nhau.
Theo quy định tại Điều 15 BLHS năm 2015 thì Phạm tội chưa đạt có ba
dấu hiệu sau [12, tr.93]:
* Dấu hiệu thứ nhất: Người phạm tội „đã thực hiện tội phạm‟
Đây là dấu hiệu phân biệt phạm tội chưa đạt với chuẩn bị phạm tội. „Đã
thực hiện tội phạm‟ có nghĩa: Người phạm tội đã thực hiện hành vi khách
quan được mô tả trong cấu thành tội phạm. Ví dụ: Chủ thể tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác (như đã đâm, đã
chém, đã đấm…) là hành vi được mô tả trong cấu thành tội phạm (Điều 134
BLHS). Cũng được coi là „đã thực hiện tội phạm‟ nếu người phạm tội đã thực
hiện hành vi „đi liền trước‟ hành vi khách quan được mô tả trong Cấu thành
tội phạm. Đó là hành vi (xét về khách quan và chủ quan) thể hiện là sự bắt
đầu của hành vi khách quan và kế tiếp sau nó là khách quan sẽ xảy ra [54,
tr.166].
Ví dụ: Hành vi giơ dao để đâm được coi là những hành vi „đi liền trước‟
của hành vi đâm ở tội cố ý gây thương tích. Hành vi này chưa phải là hành vi
gây thương tích (hành vi đâm) nhưng là sự bắt đầu của hành vi gây thương
tích (hành vi đâm) sẽ xảy ra. Hành vi „đi liền trước‟ này tuy là sự thể hiện sự
chuẩn bị nhưng vì rất gần với hành vi khách quan, không tách ra được nên
cũng được coi là hành vi thực hiện tội phạm.
Phạm tội chưa đạt khác với chuẩn bị phạm tội đó là chủ thể của phạm tội
chưa đạt đã thực sự bắt tay vào việc thực hiện tội phạm, các quan hệ xã hội
46
được LHS xác lập và bảo vệ đã bắt đầu bị xâm hại, hậu quả đã gây ra cho xã
hội, nên mức độ nguy hiểm cho xã hội của trường hợp này là cao hơn so với
chuẩn bị phạm tội, đồng thời sẽ đặc biệt nguy hiểm hơn nếu không có căn cứ
do nguyên nhân khách quan ngoài ý muốn ngăn chặn lại việc tiếp tục để hành
vi phạm tội đó tiếp diễn. Do đó, về hậu quả pháp lý thì người chuẩn bị phạm
tội chỉ phải chịu TNHS trong những trường hợp được quy định tại Điều 14 và
Điều 57 BLHS năm 2015 còn đối với phạm tội chưa đạt thì tất cả các trường
hợp, người thực hiện hành vi đó đều phải chịu TNHS trên những cơ sở chung
tương ứng và điều này cũng được cụ thể hóa trong BLHS năm 2015 (Điều 57)
[44, tr.416].
* Dấu hiệu thứ hai: Người phạm tội không thực hiện tội phạm được „đến cùng‟
Đây là dấu hiệu phân biệt phạm tội chưa đạt với tội phạm hoàn thành.
Dấu hiệu „đến cùng‟ được quy định tại Điều 15 BLHS cần được hiểu là đến
cùng về mặt pháp lý mà không phải đến cùng theo ý muốn của người phạm
tội. Theo đó, „đến cùng‟ chỉ có nghĩa, hành vi đã thực hiện đã thỏa mãn hết
các dấu hiệu của cấu thành tội phạm hay nói cách khác hành vi đã thực hiện
phù hợp hoàn toàn với mô tả của Điều luật. Khi đó tội phạm được coi là hoàn
thành. Đối với tội phạm có cấu thành tội phạm vật chất, tội phạm hoàn thành
khi hậu quả thiệt hại đã xảy ra vì trong cấu thành tội phạm có dấu hiệu hậu
quả thiệt hại. Đối với tội phạm có cấu thành tội phạm hình thức, tội phạm
hoàn thành khi đã thực hiện hành vi mà không cần hậu quả thiệt hại xảy ra vì
trong cấu thành tội phạm không có dấu hiệu hậu quả thiệt hại. Khác với
trường hợp tội phạm hoàn thành, phạm tội chưa đạt là trường hợp người phạm
tội không thực hiện tội phạm được „đến cùng‟ - hành vi phạm tội chưa thỏa
mãn hết các dấu hiệu của cấu thành tội phạm [45, tr.154].
Theo đó, có các trường hợp không thực hiện tội phạm được đến cùng sau:
+ Chủ thể chưa thực hiện được hành vi khách quan được mô tả trong cấu
thành tội phạm mà mới chỉ thực hiện được hành vi „đi liền trước‟ hành vi đó.
47
Ví dụ: Chủ thể tội giết người mới giơ dao để đâm thì đã bị bắt giữ hay mới
đặt mìn trong phòng và đã hẹn giờ kíp nổ nhưng đã được vô hiệu hóa.
+ Chủ thể đã thực hiện hành vi khách quan được mô tả trong cấu thành
tội phạm nhưng chưa thực hiện hết. Ví dụ: Chủ thể tội hiếp dâm mới thực
hiện được hành vi dùng vũ lực (vật ngã nạn nhân) nhưng chưa thực hiện được
hành vi giao cấu thì đã bị bắt giữ.
+ Chủ thể đã thực hiện được hành vi khách quan được mô tả trong cấu
thành tội phạm nhưng chưa gây hậu quả thiệt hại được mô tả trong cấu thành
tội phạm. Ví dụ: Chủ thể tội hủy hoại tài sản đã đặt mìn hẹn giờ dưới gầm ô tô
của người khác nhưng ngay sau đó chủ ô tô đã phát hiện và quả mìn đã bị vô
hiệu hóa.
Trong ba dạng có thể xảy ra nêu trên, dạng thứ ba chỉ có thể xảy ra ở các
tội phạm có cấu thành tội phạm vật chất [12, tr.94].
* Dấu hiệu thứ ba: Người phạm tội không thực hiện tội phạm được „đến
cùng‟ là do nguyên nhân ngoài ý muốn của họ
Trường hợp này thì bản thân người phạm tội vẫn muốn tội phạm hoàn
thành nhưng tội phạm không hoàn thành là do:
- Nạn nhân hoặc người bị hại đã chống lại được hoặc đã tránh được;
- Người khác đã ngăn chặn được;
- Có những trở ngại khác như bắn nhưng đạn không nổ, thuốc độc dùng
để đầu độc không đủ liều lượng …
Các trường hợp phạm tội chưa đạt có thể thuộc hai trường hợp mà trong
khoa học có tên gọi là phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành và phạm tội chưa
đạt đã hoàn thành. Theo đó, phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành là trường hợp
phạm tội chưa đạt, trong đó người phạm tội vì những nguyên nhân khách
quan chưa thực hiện hết các hành vi cho là cần thiết để gây ra hậu quả thiệt
hại được mô tả trong cấu thành tội phạm [24, tr.89 - 99].
48
Ví dụ: A định giết B và đã đâm B. Nhưng mới đâm được một nhát sượt
qua bả vai thì bị bắt giữ nên không thể đâm tiếp được như ý muốn. Kết quả B
chỉ bị thương. Trong trường hợp này, người phạm tội biết hành vi của mình
chưa thể gây ra hậu quả quả chết người mà mình mong muốn. Phạm tội chưa
đạt đã hoàn thành là trường hợp phạm tội chưa đạt, trong đó người phạm tội
đã thực hiện được hết các hành vi cho là cần thiết để gây ra hậu quả thiệt hại
được mô tả trong cấu thành tội phạm nhưng do nguyên nhân ngoài ý muốn,
hậu quả đó vẫn không xảy ra. Ví dụ: A định giết B và đã chém B nhiều nhát,
A tin chắc B chết nên không chém nữa nhưng B đã không chết do được phát
hiện và được cấp cứu kịp thời. Trong trường hợp này người phạm tội tin là
hành vi của mình đã gây ra hậu quả chết người mà mình mong muốn [13,
tr.185], [16, tr.188].
Ngoài ra, còn có thể phân loại tội phạm chưa đạt thành tội phạm chưa đạt
vô hiệu và tội phạm chưa đạt khác. Trong đó tội phạm chưa đạt vô hiệu và tội
phạm chưa đạt khác. Trong đó tội phạm chưa đạt vô hiệu là trường hợp chưa
đạt mà nguyên nhân của chưa đạt liên quan đến phương tiện phạm tội hoặc
đối tượng tác động của tội phạm, còn tội phạm chưa đạt khác là trường hợp
chưa đạt vì các nguyên nhân không liên quan đến phương tiện phạm tội hoặc
đối tượng tác động của tội phạm, còn tội phạm chưa đạt khác là trường hợp
chưa đạt vì các nguyên nhân không liên quan đến phương tiện phạm tội, đối
tượng tác động của tội phạm. Ví dụ: Bắn người khác để giết họ nhưng đạn
không nổ do bị hỏng là ví dụ về trường hợp phạm tội giết người chưa đạt (vô
hiệu vì nhầm phương tiện phạm tội) Điều 13 BLHS năm 2015. Trường hợp
mua chất ma túy để kiếm lời nhưng mua phải ma túy giả là ví dụ về trường
hợp phạm tội mua bán trái phép chất ma túy chưa đạt (vô hiệu vì nhầm đối
tượng tác động của tội phạm) - Điều 251 BLHS. Trong cả hai trường hợp này
tội phạm đều không thực hiện được đến cùng hay nói cách khác là đều chưa
49
hoàn thành, đều chưa gây thiệt hại cho xã hội mà nguyên nhân là do nhầm
phương tiện, nhầm đối tượng tác động. Trong khi người phạm tội tin và mong
muốn đạn sẽ nổ và gây chết người; tin và mong muốn thứ mình mua để bán
lại kiếm lời là chất ma túy nhưng thực tế đạn không nổ; thứ đã mua không
phải là chất ma túy [13, tr.186], [16, tr.117].
2.2.3. Nhận xét quy phạm về quyết định hình phạt trong trường hợp
chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt theo Bộ luật hình sự Việt Nam năm 2015
- Thứ nhất, QĐHP là hoạt động của hội đồng xét xử nhằm xác định hình
phạt cho trường hợp phạm tội cụ thể sau khi đã xác định rõ tội danh, với kết
quả cuối cùng là định ra hình phạt cụ thể mà người phạm tội phải chấp hành.
QĐHP là một hoạt động có ý nghĩa quan trọng hàng đầu đảm bảo cho hình
phạt có thể đạt được mục đích đề ra. QĐHP đúng vừa làm cho các quy phạm
về hình phạt đã được xây dựng hợp lý có ý nghĩa thực tiễn vừa là cơ sở cho
việc chấp hành hình phạt đúng. Để cho việc QĐHP đúng đòi hỏi hội đồng xét
xử phải nắm vững các căn cứ QĐHP được quy định tại Điều 50 BLHS trên cơ
sở nhận thức đúng về mục đích của hình phạt cũng như các nguyên tắc của
LHS trong QĐHP. Các căn cứ QĐHP là sự cụ thể hóa các nguyên tắc của
LHS trong QĐHP nhằm đảm bảo cho hình phạt đã tuyên trên cơ sở các căn cứ
đó có thể đạt được mục đích đề ra.
- Thứ hai, Từ trước đến nay luật hình sự Việt Nam luôn thừa nhận TNHS
của chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt bao giờ cũng nhẹ hơn so với trường
hợp tội phạm hoàn thành có các tình tiết khác tương đương. Nếu đã cùng
khung chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt bao giờ cũng phải được giảm nhẹ
hơn so với tội phạm hoàn thành. Từ BLHS năm 1985, BLHS năm 1999 các
nhà làm luật đều đã có điều luật cụ thể để cụ thể hóa nguyên tắc này. Và đến
BLHS năm 2015 thì việc QĐHP trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm
tội chưa đạt lại một lần nữa được các nhà làm luật khẳng định lại và hoàn
50
chỉnh hơn với thực tiễn [55, tr.158, tr.525]. Cụ thể: Các QPPL về QĐHP
trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt trong BLHS năm 2015
đã bảo đảm được những đòi hỏi trong thực tiễn xét xử, tuân thủ các nguyên
tắc trong QĐHP nói chung, vừa mang tính lôgic về mặt pháp lý, chặt chẽ về
kỹ thuật lập pháp của PLHS. Việc đưa ra khái niệm về tội phạm chưa đạt
chưa hoàn thành và chưa đạt đã hoàn thành rõ ràng đã có sự cụ thể hóa TNHS
đối với hai hành vi nêu trên. Do đó, việc QĐHP sẽ có sự phân hóa cụ thể rõ
ràng với từng hành vi phạm tội. Đối với những tội xét thấy buộc người chuẩn
bị phạm tội phải chịu TNHS thì đã quy định thêm khung hình phạt (giảm nhẹ)
cho chuẩn bị phạm tội ngay tại điều luật quy định về tội phạm đó.
- Thứ ba, Các quy phạm về QĐHP trong trường hợp chuẩn bị phạm tội,
phạm tội chưa đạt trong BLHS năm 2015 đã tạo cơ sở pháp lí đầy đủ và triệt
để cho sự phân hoá TNHS về mức độ nguy hiểm của các hành vi đó. Cụ thể,
như đối với một loại tội cố ý thì khung hình phạt áp dụng cho phạm tội chưa
đạt phải nhẹ hơn khung hình phạt áp dụng cho tội phạm hoàn thành, khung
hình phạt áp dụng cho chuẩn bị phạm tội phải nhẹ hơn khung hình phạt áp
dụng cho phạm tội chưa đạt. Các khung hình phạt giảm nhẹ theo đúng nghĩa
phải được quy định áp dụng cho các trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội
chưa đạt. Khung hình phạt giảm nhẹ được quy định là giảm cả ở mức thấp
nhất và ở mức cao nhất của khung hình phạt chứ không phải chỉ giảm ở mức
cao nhất như quy định tại Điều 52 BLHS năm 1999. Điều 57 BLHS năm 2015
đã bổ sung thêm giảm mức thấp nhất của khung hình phạt tù tương ứng với tỉ
lệ giảm mức cao nhất của khung hình phạt tù đã được quy định. Hơn nữa,
Điều 57 đã quy định giảm nhẹ tất cả các khung hình phạt của các loại hình
phạt được quy định trong điều luật về tội phạm cụ thể (cho trường hợp hoàn
thành) để hình thành chế tài giảm nhẹ đối với các trường hợp chuẩn bị phạm
tội, phạm tội chưa đạt.
51
- Thứ tư, Việc sửa đổi, bổ sung cho các quy định QĐHP trong trường
hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt sẽ là căn cứ pháp lý cho cơ quan
tiến hành tố tụng QĐHP có căn cứ pháp lý bảo đảm sự thống nhất, đồng bộ;
Đồng thời tránh gây nên nhiều cách hiểu khác nhau trong cùng một điều luật;
Có sự cá thể hóa rõ ràng từng hành vi đối với các trường hợp về chuẩn bị
phạm tội, phạm tội chưa đạt, phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành, phạm tội
chưa đạt đã hoàn thành và phạm tội hoàn thành. Đồng thời, trong giai đoạn
xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trên cơ sở về các khái niệm
về PLHS theo cách hiểu phổ biến hiện nay, bảo đảm tính thống nhất về mặt
khoa học, chặt chẽ về kỹ thuật lập pháp.
2.3. Quyết định hình phạt trong trƣờng hợp chuẩn bị phạm tội và
phạm tội chƣa đạt trong pháp luật hình sự một số nƣớc
Các quốc gia trên thế giới đều thừa nhận tính nguy hiểm cho xã hội của
hành chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt và trừng phạt các hành này trong
những điều kiện nhất định. Tuy nhiên, quy định về QĐHP trong trường hợp
chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt trong pháp luật các quốc gia có nhiều
điểm khác nhau bởi quan điểm đánh giá khác nhau về các trường hợp này của
các nhà làm luật mỗi nước.
2.3.1. Pháp luật hình sự Liên bang Nga
PLHS Liên bang Nga hiện hành chính là BLHS Liên bang Nga, được
Đuma quốc gia thông qua ngày 24/5/1996, sửa đổi gần đây nhất năm 2010.
Trong đó, các nhà làm luật Liên bang Nga đã dành sự quan tâm đáng kể cho
các trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt. Các hành vi này được
quy định trong Bộ luật bởi một Chương riêng là Chương 6 về “Tội phạm chưa
hoàn thành”. Còn vấn đề QĐHP trong các trường hợp này được đặt ở Chương
10 về áp dụng hình phạt, tương tự như bố cục của BLHS Việt Nam trong quy
định về QĐHP [48, tr.40 - 90].
52
Chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt được BLHS Liên bang Nga quy
định là các dạng tội phạm chưa hoàn thành và định nghĩa như sau: Chuẩn bị
phạm tội là tìm kiếm, sửa soạn phương tiện, công cụ phạm tội, tìm kiếm
những người đồng phạm, bàn bạc thực hiện việc tội phạm hoặc cố ý tạo ra
những điều kiện khác để thực hiện tội phạm nhưng tội phạm không thực hiện
được đến cùng vì những nguyên nhân ngoài ý muốn của người phạm tội [48,
Điều 30, khoản 1];
Phạm tội chưa đạt là những hành động (hoặc không hành động) cố ý của
một người trực tiếp nhằm thực hiện tội phạm nhưng không thực hiện được
đến cùng vì những nguyên nhân ngoài ý muốn của người phạm tội [48, Điều
30, khoản 3].
Như vậy, khái niệm về chuẩn bị phạm tội mà BLHS Liên bang Nga mô
tả tương đồng với khái niệm ở Điều 14 BLHS Việt Nam về các dấu hiệu như:
Tìm kiếm, sửa soạn hoặc chuẩn bị phương tiện hoặc công cụ phạm tội; hay
tạo ra những điều kiện khác để thực hiện tội phạm. Ngoài ra, BLHS Liên bang
Nga còn mô tả thêm một số dấu hiệu khác như: Tìm kiếm những người đồng
phạm, bàn bạc việc thực hiện tội phạm (khác với chúng ta) [48, tr.40]. BLHS
Liên bang Nga còn có điểm tiến bộ đáng lưu ý là khẳng định rõ tội phạm
trong trường hợp chuẩn bị phạm tội không thực hiện được đến cùng vì nguyên
nhân khách quan ngoài ý muốn của người phạm tội.
Về TNHS trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt, BLHS
Liên bang Nga cũng quy định những hành vi này phải chịu trách nhiệm theo
Điều luật về tội phạm hoàn thành (khoản 3 Điều 29). Mức độ chịu trách
nhiệm của hai trường hợp cũng được phân hóa giống BLHS Việt Nam. Căn
cứ QĐHP trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt, BLHS Liên
bang Nga không quy định căn cứ riêng mà chỉ lưu ý “Khi QĐHP đối với
phạm tội chưa đạt phải cân nhắc các tình tiết làm cho tội phạm không được
thực hiện đến cùng” (khoản 1 Điều 66) [48, tr.88].
53
Hình phạt tử hình và tù chung thân được loại bỏ hoàn toàn trong trường
hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt [48, tr.90]. Về mức hình phạt áp
dụng đối với chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt Điều 66 BLHS Liên bang
Nga quy định tương tự như BLHS Việt Nam.
2.3.2. Pháp luật hình sự Cộng hòa nhân dân Trung Hoa
PLHS Cộng hòa nhân dân Trung Hoa hiện hành là BLHS năm 1979, sửa
đổi, bổ sung năm 2005 và 2009. Theo LHS Trung Quốc, QĐHP được hiểu là
hoạt động xác định biện pháp xử lý của Tòa án đối với người đã thực hiện tội
phạm. Điều 61 BLHS quy định nguyên tắc: Khi QĐHP đối với người phạm
tội cần phải căn cứ vào thực tế, tính chất, tình tiết và mức độ nguy hiểm cho
xã hội của hành vi phạm tội, phải dựa vào quy định có liên quan trong Bộ luật
này [10, Điều 61].
Theo quan điểm của các nhà khoa học LHS Trung Quốc thì QĐHP suy
cho cùng là sự cụ thể hóa ý chí của Nhà nước đã được thể chế trong BLHS
đối với hành vi phạm tội và người thực hiện hành vi phạm tội. QĐHP không
dựa vào các quy định của BLHS thì không những không đảm bảo được sự
công bằng đối với người phạm tội, dẫn đến sự tùy tiện của người xét xử mà
nguy hiểm hơn là làm cho PLHS không nghiêm minh.
Khi QĐHP Tòa án buộc phải tuân thủ các quy định của BLHS có liên
quan đến QĐHP: 1) Các quy định về nguyên tắc áp dụng hình phạt tại Điều 5
BLHS: “Hình phạt phải tưng xứng với hành vi phạm tội và trách nhiệm hình
sự của người phạm tội” và các quy định về hệ thống hình phạt, về các loại
hình phạt cũng như về nội dung, phạm vi, điều kiện áp dụng của từng loại
hình phạt tại chương III của BLHS. 2) Các quy định về miễn, giảm nhẹ và
tăng nặng hình phạt, các quy định về QĐHP nói chung cũng như về QĐHP
trong trường hợp phạm nhiều tội, các quy định về tội phạm cụ thể, về các tình
tiết tăng nặng, giảm nhẹ định khung hình phạt cũng như về các khung hình
54
phạt được áp dụng đối với tội phạm cụ thể. 3) Các quy định về phương thức
chấp hành hình phạt mà đòi hỏi Thẩm phán phải tuyên cùng với hình phạt
[10, Điều 5].
BLHS Cộng hòa nhân dân Trung Hoa không quy định rõ về cơ sở TNHS
trong trường hợp chuẩn bị phạm tội và cũng không giới hạn phạm vi chịu
trách nhiệm của trường hợp này mà chỉ quy định việc trừng phạt giảm nhẹ.
BLHS Cộng hòa nhân dân Trung Hoa quy định TNHS đối với phạm tội chưa
đạt trong Điều 23: Phạm tội chưa đạt là đã thực hiện hành vi phạm tội nhưng
chưa thực hiện đến cùng vì những nguyên nhân ngoài ý muốn của người
phạm tội. Đối với hành vi phạm tội chưa đạt có thể QĐHP nhẹ hoặc giảm nhẹ
khung hình phạt [10, tr.47].
Đối với cả hai trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt BLHS
nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa có quy định tùy nghi về việc xét miễn
hoặc giảm nhẹ hình phạt, đồng thời cũng không quy định căn cứ, điều kiện để
quyết định việc miễn, giảm đó.
2.3.3. Pháp luật hình sự Thụy Điển
PLHS Thụy Điển hiện hành là BLHS của Thụy Điển năm 1966, sửa đổi
năm 1999 và gần đây nhất là năm 2009 quy định về chuẩn bị phạm tội, phạm
tội chưa đạt và QĐHP trong các trường hợp này ở Chương 23 về “Phạm tội
chưa đạt, chuẩn bị phạm tội, âm mưu phạm tội và đồng phạm” [47, tr.220].
Chuẩn bị phạm tội không được Bộ luật này định nghĩa khái quát mà chỉ
mô tả cụ thể bằng các hành vi trong một số trường hợp phạm tội cụ thể ở Điều
2 Chương 23 như sau: Người nào với mục đích thực hiện tội phạm hoặc thúc
đẩy việc phạm tội mà tặng hoặc nhận tiền và các tài sản khác với tính chất là
khoản trả trước hoặc thanh toán cho việc thực hiện tội phạm hoặc người nào
cung cấp, xây dựng, trao, nhận, giữ, vận chuyển hoặc tham gia bất cứ một
hoạt động tương tự nào khác liên quan đến chất độc, chất nổ, vũ khí, dụng cụ
55
nạy khóa, dụng cụ làm đồ giả mạo hoặc phương tiện tương tự, trong các
trường hợp có quy định riêng cho hành vi này thì bị xử phạt về hành vi chuẩn
bị phạm tội trừ trường hợp người đó bị xử phạt về tội đã hoàn thành hoặc
phạm tội chưa đạt [47, tr.222].
Về hình phạt đối với trường hợp chuẩn bị phạm tội, Điều 2 Chương 23
quy định: Hình phạt được áp dụng đối với người chuẩn bị phạm tội phải nhẹ
hơn hình phạt nặng nhất và có thể thấp hơn hình phạt nhẹ nhất áp dụng đối
với tội phạm hoàn thành.
Như vậy, quy định này cho thấy BLHS Thụy Điển cũng giống như
BLHS Việt Nam và Liên bang Nga, lấy hình phạt áp dụng đối với tội phạm
hoàn thành làm căn cứ QĐHP cho chuẩn bị phạm tội theo hướng giảm nhẹ.
BLHS Thụy Điển có định nghĩa khái quát cho trường hợp phạm tội chưa
đạt: “Người nào đã bắt đầu thực hiện tội phạm nhưng chưa thực hiện được
đến cùng thì bị xử phạt về hành vi phạm tội chưa đạt nếu hành vi đó có khả
năng gây nguy hiểm khi được thực hiện đến cùng hoặc nguy cơ đó chỉ bị ngăn
chặn do hoàn cảnh khách quan” [47, tr.220].
Hình phạt đối với trường hợp phạm tội chưa đạt được BLHS Thụy Điển
quy định nặng hơn trường hợp chuẩn bị phạm tội: “Hình phạt đối với phạm
tội chưa đạt nặng nhất là bằng mức hình phạt đối với tội phạm đã hoàn thành
và nhẹ nhất là hình phạt tù nếu hình phạt đối với tội phạm hoàn thành là hình
phạt tù từ hai năm trở lên” [47, Điều 1, Chương 23].
Tóm lại, nhìn chung quan điểm QĐHP trong các trường hợp chuẩn bị
phạm tội, phạm tội chưa đạt ở BLHS Thụy Điển cũng tương đồng với BLHS
Việt Nam về tính giảm nhẹ cho các trường hợp này. Tuy nhiên, do truyền
thống pháp lý nên phạm vi loại hình phạt, mức hình phạt áp dụng đối với
chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt trong BLHS Thụy Điển được quy định
rất rộng, việc lựa chọn loại, mức cụ thể phụ thuộc nhiều vào quyết định chủ
quan của Thẩm phán.
56
2.3.4. Pháp luật hình sự Nhật Bản
PLHS Nhật Bản hiện hành chính là BLHS Nhật Bản năm 1908, sửa đổi
gần đây nhất năm 2011. Trong BLHS Nhật Bản gián tiếp có quy định về tội
phạm chưa hoàn thành (chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt) và việc
QĐHP trong mỗi Điều luật cụ thể, tuy nhiên, nó chỉ được quy định ngay trong
điều khoản cụ thể về hình phạt mà không nêu rõ nội dung tương ứng, cũng
như không có QĐHP trong các trường hợp này.
Trước hết, về chuẩn bị phạm tội, BLHS Nhật Bản quy định TNHS đối
với hành vi chuẩn bị phạm tội, mức giảm nhẹ hoặc miễn hình phạt được quy
định ngay tại điều khoản nói về hành vi chuẩn bị phạm tội cụ thể trong Phần
các tội phạm cụ thể (và cả phạm tội chưa đạt cùng TNHS nhưng chỉ trong
những trường hợp điều khoản về tội phạm cụ thể quy định hình phạt đối với
chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt.
Ví dụ: Trong Điều 113 BLHS Nhật Bản quy định: “Người nào chuẩn bị
nhằm phạm các tội được quy định tại Điều 107 hoặc khoản 1 Điều 109 thì
phạt tù có lao động bắt buộc đến 2 năm. Tuy nhiên, trong trường hợp giảm
nhẹ thì có thể được miễn hình phạt” [11, tr.103] và cũng quy định luôn cả
việc phạm tội chưa đạt và vấn đề TNHS trong đó đối với từng loại tội phạm.
Điều 112 quy định: “Phạm tội chưa đạt cũng bị xử phạt” [11, tr.103].
Phần chung BLHS Nhật Bản (tương tự như Phần chung BLHS Việt
Nam) chỉ quy định về phạm tội chưa đạt và quy định chỉ dẫn. Điều 43
Chương 8 về “Phạm tội chưa đạt” quy định: “Đối với người thực hiện hành vi
phạm tội, nhưng chưa đạt, thì có thể được giảm nhẹ hình phạt đối với tội định
phạm. Tuy nhiên, trong trường hợp tự ý nửa chừng chấm dứt hành vi phạm
tội thì có thể được giảm án hoặc được miễn án”. Ngoài ra, Điều 44 Chương 8
quy định: “Trường hợp xét xử phạm tội chưa đạt thì có quy định riêng từng
điều khoản” [11, tr.69 - 70].
57
Còn trong Phần các tội phạm BLHS Nhật Bản (tương tự như Phần các
tội phạm BLHS Việt Nam) lại quy định các tội liên quan đến chuẩn bị phạm
tội gồm: Chương 2 về “Các tội liên quan đến nổi loạn nhằm lật đổ chính
quyền” (Điều 78 về “Chuẩn bị và bày mưu tính kế nổi loạn”); Chương 3 về
“Các tội liên quan đến ngoại xâm” (Điều 88 về “Chuẩn bị và bày mưu tính
kế”); Chương 4 về “Các tội liên quan đến quan hệ đối ngoại” (Điều 93 về
“Chuẩn bị bày mưu tính kế gây chiến tranh”); …
Một số tội phạm lại quy định cả việc phạm tội chưa đạt: Điều 102 về
“Phạm tội chưa đạt” trong Chương 6 về “Tội bỏ trốn”; Điều 112 về “Phạm
tội chưa đạt” trong Chương 9 về “Tội phóng hỏa và tội làm cháy lan”; Điều
128 về “Phạm tội chưa đạt” trong Chương 11 về “Tội cản trở đi lại”… tuy
nhiên, đều chỉ dẫn là phạm tội chưa đạt đều bị xử lý, nhưng không nói rõ mức
độ TNHS phải chịu như thế nào.
Như vậy, so với BLHS Việt Nam thì BLHS Nhật Bản không nêu cụ thể
nội dung việc QĐHP trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt,
mà chỉ ghi nhận gián tiếp thông qua các quy định về TNHS đối với hành vi
chuẩn bị phạm tội và có chỉ dẫn ở quy định chung ở Điều 43 là: Đối với người
thực hiện hành vi phạm tội, nhưng chưa đạt, thì có thể được giảm nhẹ hình
phạt đối với tội định phạm. Tuy nhiên, trong trường hợp tự ý nửa chừng chấm
dứt hành vi phạm tội thì có thể được giảm án hoặc được miễn án.
58
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2
Trên cơ sở các kết quả nghiên cứu, luận văn tại chương 2 có các kết luận sau:
1. Với những điểm mới trong phần QĐHP trong trường hợp chuẩn bị
phạm tội, phạm tội chưa đạt trong BLHS năm 2015 là kết quả dựa vào kinh
nghiệm áp dụng pháp luật trong thực tiễn, tham khảo LHS nước ngoài và yêu
cầu của đấu tranh phòng chống tội phạm, các nhà làm luật đã xác định rõ
phạm vi những tội nào phải chịu TNHS và có khung hình phạt riêng cho
trường hợp chuẩn bị phạm tội.
2. QĐHP trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt là một
dạng QĐHP đặc biệt, nhà làm luật quy định một cách cụ thể các căn cứ
QĐHP, giúp cho Tòa án QĐHP phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm
cho xã hội của hành vi phạm tội. QĐHP trong trường hợp chuẩn bị phạm tội,
phạm tội chưa đạt trong thực tiễn còn một số hạn chế nhất định, đòi hỏi các
biện pháp khắc phục trong các hoạt động của các cơ quan bảo vệ pháp luật.
3. QĐHP trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt được
các quốc gia trên thế giới thừa nhận trong BLHS của mình, tùy thuộc vào điều
kiện kinh tế, chính trị, xã hội và văn hóa, mỗi quốc gia có một quy định khác
nhau nhưng tất cả đều có một điểm chung đó là QĐHP trong trường hợp
chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt là một dạng QĐHP nhẹ hơn so với việc
QĐHP ở tội phạm đã hoàn thành.
4. Việc nhà làm luật sửa đổi, bổ sung một số điểm mới về QĐHP trong
trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt cho BLHS năm 2015 đã góp
phần hoàn thiện hệ thống pháp luật hình sự nói chung trong tiến trình đổi mới
nền kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của đất nước và xu hướng hội nhập
quốc tế, là cơ sở pháp luật trong đấu tranh phòng chống tội phạm.
59
Chƣơng 3
THỰC TIỄN XÉT XỬ VÀ BIỆN PHÁP ĐẢM BẢO HIỆU QUẢ ÁP
DỤNG PHÁP LUẬT VỀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI
CHUẨN BỊ PHẠM TỘI, PHẠM TỘI CHƢA ĐẠT
Theo báo cáo công tác phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật năm
2018 cho thấy, đối với tội phạm và vi phạm pháp luật về trật tự xã hội vẫn
ngày càng gia tăng, tính chất vẫn nghiêm trọng, mức độ bạo lực gia tăng; hoạt
động của các băng, nhóm tội phạm có sự đan xen, gắn kết giữa các lĩnh vực,
triệt để lợi dụng danh nghĩa các doanh nghiệp để hoạt động, nhất là liên quan
tới tín dụng đen, kéo theo tình trạng siết nợ, đòi nợ thuê, cưỡng đoạt tài sản,
bắt giữ người trái pháp luật tại nhiều địa phương.
3.1. Thực tiễn xét xử về chuẩn bị phạm tội, phạm tội chƣa đạt trong
giai đoạn 05 năm (2014 - 2018)
Căn cứ vào số liệu của Cục 2 Viện kiểm sát nhân dân tối cao, luận văn
đã tiến hành tổng hợp số vụ án hình sự được đưa ra xét xử giai đoạn sơ thẩm
trong năm 2014, 2015, 2016, 2017, 2018 của cả nước và cho kết quả như sau:
60
Bảng 3.1. Tình hình công tác thụ lý, giải quyết án hình sự sơ thẩm
của 63 tỉnh/Thành phố trong năm 2014
Kiểm sát xét xử sơ thẩm năm 2014
STT Tỉnh/Thành phố Tổng thụ lý Xét xử Đình chỉ Tạm đình chỉ
VA BC VA BC VA BC VA BC
7.807 14.298 6.518 11.882 33 48 11 17 1 Hà Nội
2 Hà Giang 408 842 343 728 0 0 0 0
3 Cao Bằng 534 833 450 671 3 6 0 0
4 Bắc Kạn 440 717 360 566 6 8 1 2
Tuyên Quang 5 585 1.139 488 962 10 11 1 1
Lào Cai 6 672 1.041 533 821 3 3 0 0
7 Điện Biên 824 1.211 751 1.088 1 2 0 0
8 Lai Châu 631 910 562 825 1 2 1 1
9 Sơn La 1.228 2.032 1.125 1.888 1 2 2 2
10 Yên Bái 491 759 430 664 3 4 0 0
11 Hòa Bình 571 1.039 470 848 3 4 0 0
2.326 3 8 2 2 12 Thái Nguyên 1.477 2.709 1.295
1.324 6 9 0 0 13 Lạng Sơn 727 1.448 657
1.380 2.454 7 9 1 1 14 Quảng Ninh 1.551 2.807
15 Bắc Giang 1.219 1.341 3.107 2.780 4 7 4 13
16 Phú Thọ 1.068 1.144 2.360 2.224 5 6 0 0
17 Vĩnh Phúc 968 1.756 890 1.620 8 11 0 0
18 Bắc Ninh 1.222 2.855 1.024 2.444 3 11 1 1
1.800 14 1 1 19 Hải Dương 1.072 2.108 904 11
20 Hải Phòng 1.416 2.516 1.250 2.263 3 7 0 0
21 Hưng Yên 831 1.844 749 1.684 2 4 1 1
22 Thái Bình 952 1.692 846 1.536 3 6 0 0
23 Hà Nam 658 1.229 611 1.142 2 3 0 0
1.679 0 1 0 0 24 Nam Định 1.187 1.900 1.036
61
599 1.394 572 25 Ninh Bình 1.323 2 5 1 1
2.073 4.059 1.784 26 Thanh Hóa 3.488 6 6 4 5
2.295 4.525 2.143 15 23 27 Nghệ An 4.175 2 2
28 Hà Tĩnh 653 1.445 1.232 554 1 4 3 3
29 Quảng Bình 498 896 716 417 1 1 2 3
30 Quảng Trị 481 885 727 398 0 0 0 0
31 Thừa Thiên Huế 796 1.295 1.050 661 3 7 0 0
32 Đà Nẵng 778 1.366 1.157 673 0 1 0 0
33 Quảng Nam 953 1.621 1.340 809 3 3 0 0
34 Quảng Ngãi 538 960 775 426 6 9 1 1
35 Bình Định 837 1.484 1.203 678 1 1 0 0
36 Phú Yên 602 1.186 888 467 13 2 9 7
37 Khánh Hòa 942 1.716 1.375 774 14 8 0 0
38 Ninh Thuận 433 844 718 365 3 3 0 0
5 7 0 0 39 Bình Thuận 1.271 2.003 1.088 1.710
40 Kon Tum 454 918 737 374 5 8 0 0
41 Gia Lai 1.128 2.365 1.983 932 4 5 1 2
42 Đắc Lắc 2.892 6 7 1.633 3.269 1.447 11 22
43 Đắc Nông 691 1.451 1.215 589 2 2 0 0
44 Lâm Đồng 1.111 1.972 1.643 952 3 3 0 1
2.103 1.060 7 8 1 1 45 Bình Phước 1.306 2.626
2.013 1.057 4 12 0 0 46 Tây Ninh 1.227 2.412
4.222 2.152 9 22 1 1 47 Bình Dương 2.598 5.242
4.406 2.425 9 13 6 16 2.782 5.184 48 Đồng Nai
5 6 1 1 1.153 1.947 967 1.574 49 Bà Rịa – Vũng Tàu
50 Thành phố Hồ Chí 7 13 7.647 12.453 6.252 9.913 14 22 Minh
5 6 3 5 51 Long An 1.001 1.736 868 1.437
4 4 1 2 52 Tiền Giang 1.012 1.598 905 1.427
62
53 Bến Tre 662 1.029 580 884 1 1 1 3
54 Trà Vinh 551 798 477 665 3 3 1 2
55 Vĩnh Long 613 1.099 525 941 3 4 0 0
56 Đồng Tháp 1.031 1.676 837 1.350 7 9 1 2
57 An Giang 865 1.347 716 1.117 5 8 0 1
58 Kiên Giang 1.295 2.456 1.090 2.073 5 13 1 1
59 Cần Thơ 1.084 1.852 896 1.445 1 3 1 1
60 Hậu Giang 470 817 399 712 1 2 0 1
61 Sóc Trăng 592 1.014 515 882 1 3 1 1
62 Bạc Liêu 568 1.001 475 799 1 2 1 1
63 Cà Mau 1.068 1.744 894 1.387 7 7 0 2
Tổng 75.028 136.837 64.152 115.916 294 467 80 134
(Nguồn: Cục 2 – Viện Kiểm sát nhân dân tối cao)
63
Bảng 3.2. Tình hình công tác thụ lý, giải quyết án hình sự sơ thẩm
của 63 tỉnh/Thành phố trong năm 2015
Kiểm sát xét xử sơ thẩm năm 2015
Tỉnh/Thành phố Tổng thụ lý Xét xử Đình chỉ ST T Tạm đình chỉ
VA BC VA BC VA BC VA BC
1 Hà Nội 7.554 12.862 5.835 9.986 39 66 6 9
2 Hà Giang 359 643 293 522 1 1 0 0
3 Cao Bằng 534 833 450 671 3 6 0 0
4 Bắc Kạn 502 778 422 651 1 3 0 0
5 Tuyên Quang 451 732 386 634 1 1 0 0
6 Lào Cai 574 1.186 493 1.039 6 9 0 0
7 Điện Biên 602 917 508 778 6 10 2 2
8 Lai Châu 9 Sơn La 760 656 1.019 986 661 526 881 800 0 5 0 6 22 0 26 0
10 Yên Bái 1.287 2.022 1.137 1.785 6 8 6 8
11 Hòa Bình 534 814 473 734 3 4 0 0
12 Thái Nguyên 589 953 465 786 0 0 2 3
6 3 3 13 Lạng Sơn 1.395 2.299 1.176 1.941 10
7 7 1 1 14 Quảng Ninh 772 1.617 659 1.356
15 Bắc Giang 4 8 2 2 1.341 2.243 1.154 1.886
16 Phú Thọ 1.088 2.554 988 2.302 8 12 16 5
17 Vĩnh Phúc 1.051 2.125 964 1.961 2 3 0 0
18 Bắc Ninh 908 1.733 823 1.494 2 4 0 0
19 Hải Dương 1.164 2.316 963 1.885 8 14 13 5
20 Hải Phòng 1.137 2.219 963 1.869 3 5 1 1
21 Hưng Yên 6 1.319 2.299 1.154 1.991 9 0 0
22 Thái Bình 763 1.744 661 1.490 5 7 1 1
23 Hà Nam 939 1.696 819 1.470 3 3 0 0
64
0 0 24 Nam Định 637 1.223 556 1.059 5 5
66 73 25 Ninh Bình 1.112 1.926 840 1.463 3 5
26 Thanh Hóa 571 1.336 542 1.262 3 3 1 1
1.915 3.711 1.627 3.125 14 24 27 Nghệ An 2 2
2.377 4.477 2.173 4.099 11 18 33 28 Hà Tĩnh 3
29 Quảng Bình 693 1.377 598 1.160 5 9 1 1
30 Quảng Trị 546 1.022 482 892 1 1 0 0
31 Thừa Thiên Huế 485 869 426 774 4 5 0 1
32 Đà Nẵng 753 1.328 636 1.092 4 7 0 1
33 Quảng Nam 762 1.324 654 1.117 3 6 0 0
34 Quảng Ngãi 876 1.476 756 1.259 2 4 1 1
35 Bình Định 543 1.038 437 850 4 6 2 2
36 Phú Yên 751 1.480 645 1.265 4 6 0 0
37 Khánh Hòa 585 1.010 450 752 3 8 2 8
38 Ninh Thuận 943 1.598 739 1.251 6 10 0 0
39 Bình Thuận 444 774 365 645 0 0 1 1
40 Kon Tum 1.224 1.931 1.020 1.576 2 2 2 2
41 Gia Lai 398 790 323 634 4 7 0 2
42 Đắc Lắc 1.115 2.350 904 1.895 8 13 0 0
43 Đắc Nông 1.594 2.943 1.435 2.577 12 12 3 3
44 Lâm Đồng 732 1.641 643 1.361 3 5 0 0
45 Bình Phước 1.091 2.068 943 1.756 2 3 0 0
46 Tây Ninh 1.167 2.180 948 1.738 2 2 4 5
47 Bình Dương 1.109 2.077 953 1.795 2 4 0 0
48 Đồng Nai 2.591 5.546 2.177 4.584 16 21 3 3
49 Bà Rịa – Vũng Tàu 2.634 4.811 2.298 4.198 9 16 3 4
50 Thành phố Hồ Chí 1.026 1.759 843 1.440 2 3 0 0 Minh
51 Long An 7.149 11.556 5.192 8.022 19 27 6 8
52 Tiền Giang 1.069 1.883 953 1.707 3 3 1 1
65
1.139 698 1.017 3 3 0 0 53 Bến Tre 795
861 463 760 2 2 0 0 54 Trà Vinh 523
722 419 608 4 4 0 0 55 Vĩnh Long 488
876 487 744 1 1 0 0 56 Đồng Tháp 565
1.579 814 1.269 4 7 3 4 57 An Giang 987
1.337 731 1.040 7 8 0 0 58 Kiên Giang 905
8 0 1.340 2.425 1.124 2.022 13 0 59 Cần Thơ
873 1.514 4 5 0 1.091 1.918 0 60 Hậu Giang
798 407 617 2 2 0 0 61 Sóc Trăng 499
751 377 641 1 1 0 0 62 Bạc Liêu 455
1.072 486 914 3 9 0 0 63 Cà Mau 584
Tổng 71.811 128.351 59.725 106.035 321 485 162 243
(Nguồn: Cục 2 – Viện Kiểm sát nhân dân tối cao)
66
Bảng 3.3. Tình hình công tác thụ lý, giải quyết án hình sự sơ thẩm
của 63 tỉnh/Thành phố trong năm 2016
Kiểm sát xét xử sơ thẩm năm 2016
Tỉnh/Thành phố Tổng thụ lý Xét xử Đình chỉ Tạm đình chỉ ST T VA BC VA BC VA BC VA BC
1 Thành phố Hà Nội 7.595 12.504 6.510 10.520 23 37 11 15
2 Hà Giang 364 697 311 592 1 1 3 6
3 Cao Bằng 544 817 467 694 2 2 0 0
4 Bắc Kạn 392 565 328 438 1 1 2 2
5 Tuyên Quang 546 950 471 823 1 1 1 1
6 Lào Cai 512 818 430 654 2 2 2 2
7 Điện Biên 994 1.246 918 1.143 1 1 0 0
8 Lai Châu 676 976 610 878 2 4 3 4
9 Sơn La 1.462 2.096 1.328 1.905 6 6 2 2
10 Yên Bái 529 853 470 738 3 5 0 0
11 Hòa Bình 577 901 472 704 9 9 0 0
10 5 6 12 Thái Nguyên 1.360 2.209 1.130 1.809 10
2 4 0 0 13 Lạng Sơn 923 1.729 737 1.417
8 16 0 0 14 Quảng Ninh 1.401 2.588 1.189 2.161
15 Bắc Giang 7 36 1.029 2.069 899 1.722 14 22
16 Phú Thọ 1 10 3 4 1.161 2.140 1.090 1.997
17 Vĩnh Phúc 851 1.688 769 1.453 2 2 3 4
18 Bắc Ninh 1.258 2.345 997 1.911 3 4 8 14
19 Hải Dương 1.058 1.964 882 1.662 5 6 6 8
20 Hải Phòng 6 3 6 1.313 2.142 1.145 1.872 10
21 Hưng Yên 790 1.623 696 1.402 5 6 1 2
22 Thái Bình 1.047 1.799 923 1.596 5 5 1 1
23 Hà Nam 647 1.208 579 1.066 2 2 7 8
3 4 5 8 24 Nam Định 1.309 2.188 1.156 1.892
67
555 1.144 539 1.108 2 3 25 Ninh Bình 0 0
2.143 4.091 1.845 3.496 20 34 26 Thanh Hóa 7 9
17 53 2.507 4.333 2.308 3.928 25 37 27 Nghệ An
28 Hà Tĩnh 626 1.198 563 1.057 1 1 0 0
29 Quảng Bình 484 804 435 726 1 2 3 8
30 Quảng Trị 395 662 339 569 7 13 0 0
31 Thừa Thiên Huế 673 1.200 572 995 1 3 3 3
32 Đà Nẵng 772 1.393 643 1.163 2 2 8 11
33 Quảng Nam 885 1.469 760 1.226 0 0 3 4
34 Quảng Ngãi 482 854 393 705 0 0 2 2
35 Bình Định 709 1.426 602 1.199 0 0 5 7
36 Phú Yên 600 1.063 458 752 4 5 9 26
37 Khánh Hòa 1.035 1.559 848 1.236 0 1 7 10
38 Ninh Thuận 428 703 372 635 1 1 0 1
39 Bình Thuận 1.064 1.548 897 1.297 2 5 5 6
40 Kon Tum 397 645 326 518 0 0 2 5
41 Gia Lai 1.103 2.238 856 1.730 1 2 6 10
42 Đắc Lắc 1.427 2.627 1.296 2.357 14 4 4 21
43 Đắc Nông 656 1.386 590 1.215 1 1 4 13
44 Lâm Đồng 1.072 1.943 868 1.582 0 0 0 4
45 Bình Phước 1.219 2.122 979 1.659 3 3 2 3
46 Tây Ninh 1.079 1.832 889 1.477 9 12 3 4
47 Bình Dương 2.271 4.277 1.887 3.573 4 4 16 51
48 Đồng Nai 2.443 4.098 2.132 3.447 8 10 14 36
49 Bà Rịa – Vũng Tàu 1.119 1.745 934 1.439 0 0 3 3
50 Thành phố HCM 6.998 11.550 5.414 8.767 23 33 24 38
51 Long An 979 1.538 869 1.346 18 44 5 5
52 Tiền Giang 780 989 659 829 3 3 5 5
53 Bến Tre 521 741 459 654 1 1 1 2
54 Trà Vinh 485 697 428 598 0 0 3 3
68
55 Vĩnh Long 838 502 710 1 1 2 2 587
56 Đồng Tháp 1.297 666 1.072 5 6 1 2 821
57 An Giang 1.407 693 1.122 5 5 3 8 858
58 Kiên Giang 1.340 2.222 1.195 1.989 16 24 6 8
59 Cần Thơ 1.051 1.777 1.363 22 843 6 1 3
60 Hậu Giang 675 359 573 3 6 3 4 430
61 Sóc Trăng 583 363 475 1 1 0 0 444
62 Bạc Liêu 742 387 609 6 9 2 3 459
63 Cà Mau 1.199 656 962 2 2 2 2 798
Tổng 71.033 120.730 60.331 101.207 331 615 236 359
(Nguồn: Cục 2 – Viện Kiểm sát nhân dân tối cao)
69
Bảng 3.4. Tình hình công tác thụ lý, giải quyết án hình sự sơ thẩm
của 63 tỉnh/Thành phố trong năm 2017
Kiểm sát xét xử sơ thẩm năm 2017
STT Tỉnh/Thành phố Tổng thụ lý Xét xử Đình chỉ Tạm đình chỉ
VA BC VA BC VA BC VA BC
7.218 12.440 6.047 10.083 41 46 14 26 1 Thành phố Hà Nội
2 Hà Giang 351 631 270 513 3 7 1 1
3 Cao Bằng 589 937 475 711 4 4 0 0
4 Bắc Kạn 380 616 314 528 2 2 1 0
5 Tuyên Quang 629 1.290 554 1.100 1 3 0 0
6 Lào Cai 535 809 466 689 1 2 0 0
7 Điện Biên 945 1.260 858 1.136 1 1 0 0
8 Lai Châu 540 776 500 683 1 2 0 0
9 Sơn La 1.530 2.189 1.415 2.005 5 7 2 2
10 Yên Bái 538 963 490 882 0 1 0 0
11 Hòa Bình 567 873 485 755 3 11 0 0
12 Thái Nguyên 1.443 2.498 1.227 2.074 9 18 2 3
13 Lạng Sơn 1.077 1.916 962 1.616 7 14 0 0
14 Quảng Ninh 1.436 2.476 1.203 2.071 5 7 0 0
15 Bắc Giang 1.030 1.959 926 1.743 5 5 1 1
16 Phú Thọ 1.052 2.008 939 1.804 1 1 1 1
17 Vĩnh Phúc 949 1.724 828 1.460 2 3 0 0
18 Bắc Ninh 1.775 2.950 1.528 2.458 6 9 4 6
19 Hải Dương 1.362 2.401 1.179 2.022 10 11 0 0
20 Hải Phòng 1.299 2.287 1.128 1.932 3 3 2 2
21 Hưng Yên 768 1.451 674 1.243 7 12 0 0
22 Thái Bình 1.089 1.869 982 1.643 4 4 0 0
70
23 Hà Nam 687 1.265 630 1.172 2 2 0 0
24 Nam Định 1.229 2.001 1.091 1.752 4 4 0 0
25 Ninh Bình 583 1.275 554 1.198 3 3 1 1
26 Thanh Hóa 1.927 3.563 1.643 3.002 25 28 2 2
2.346 4.126 2.210 3.825 27 Nghệ An 19 25 2 3
28 Hà Tĩnh 588 1.071 516 910 3 8 0 0
29 Quảng Bình 447 712 386 594 2 6 0 0
30 Quảng Trị 321 551 279 488 7 13 0 0
31 Thừa Thiên Huế 701 1.142 563 897 7 10 5 5
32 Đà Nẵng 870 1.388 706 1.095 5 6 1 1
33 Quảng Nam 811 1.319 681 1.114 5 7 0 0
34 Quảng Ngãi 398 627 310 485 4 6 0 0
35 Bình Định 665 1.271 540 966 4 4 0 0
36 Phú Yên 532 931 425 728 6 16 1 1
37 Khánh Hòa 853 1.326 667 969 4 7 0 0
38 Ninh Thuận 398 617 321 494 1 1 0 0
842 1.203 39 Bình Thuận 1.044 1.486 6 6 0 0
40 Kon Tum 389 662 319 531 4 12 0 0
41 Gia Lai 1.070 1.970 861 1.577 4 6 3 3
42 Đắc Lắc 1.320 2.391 1.189 2.064 11 11 0 0
43 Đắc Nông 606 1.347 563 1.208 2 3 0 0
44 Lâm Đồng 1.099 1.897 950 1.536 1 4 0 0
45 Bình Phước 1.100 1.874 884 1.476 12 15 0 1
46 Tây Ninh 979 1.636 803 1.298 9 10 2 2
11 23 47 Bình Dương 1.901 3.460 1.556 2.844 2 4
26 35 48 Đồng Nai 2.143 3.587 1.789 2.954 3 6
49 1.114 1.775 919 1.470 4 4 1 1 Bà Rịa – Vũng Tàu
50 5.902 9.541 4.690 7.165 28 43 6 6 Thành phố Hồ Chí Minh
71
51 Long An 862 1.355 734 1.116 28 51 3 3
52 Tiền Giang 838 1.065 699 882 7 8 1 2
53 Bến Tre 498 646 423 529 1 1 0 0
54 Trà Vinh 440 609 389 529 1 1 0 0
55 Vĩnh Long 509 729 426 602 5 5 0 0
56 Đồng Tháp 780 1.067 618 817 10 12 1 1
57 An Giang 806 1.237 599 914 8 14 0 0
27 33 0 0 58 Kiên Giang 1.204 2.055 1.000 1.612
59 Cần Thơ 848 5 6 2 6 1.056 1.703 1.347
60 Hậu Giang 373 584 299 469 7 8 0 0
61 Sóc Trăng 461 669 369 502 6 11 1 1
62 Bạc Liêu 461 659 368 527 6 7 0 0
63 Cà Mau 787 1.084 638 865 4 5 1 1
Tổng 68.200 114.596 57.747 94.877 455 653 66 92
(Nguồn: Cục 2 – Viện Kiểm sát nhân dân tối cao)
72
Bảng 3.5. Tình hình công tác thụ lý, giải quyết án hình sự sơ thẩm
của 63 tỉnh/Thành phố trong năm 2018
Kiểm sát xét xử sơ thẩm năm 2018
STT Tỉnh/Thành phố
Tổng thụ lý Xét xử Đình chỉ Tạm đình chỉ
VA BC VA BC VA BC VA BC
1 Thành phố Hà Nội 7.281 12.863 6.604 11.448 50 78 10 19
2 Hà Giang 397 678 341 587 1 3 1 4
3 Cao Bằng 647 1.024 579 905 4 4 0 0
4 Bắc Kạn 332 476 321 455 1 3 1 1
5 Tuyên Quang 617 1.210 603 1.186 1 2 1 1
6 Lào Cai 511 785 492 754 2 3 0 0
7 Điện Biên 883 1.074 869 1.054 1 1 0 0
8 Lai Châu 410 576 393 547 1 1 3 3
9 Sơn La 1.584 2.250 1.538 2.158 8 8 2 2
10 Yên Bái 454 786 441 764 2 2 0 0
11 Hòa Bình 524 779 462 678 4 7 2 3
12 Thái Nguyên 1.517 2.717 1.419 2.502 12 17 3 10
13 Lạng Sơn 1.012 2.143 994 2.118 10 13 0 0
14 Quảng Ninh 1.511 2.468 1.365 2.199 5 7 0 1
15 Bắc Giang 1.005 1.733 922 1.578 5 7 0 0
16 Phú Thọ 1.003 2.209 984 2.146 2 5 0 0
17 Vĩnh Phúc 1.013 1.756 950 1.597 6 6 2 2
18 Bắc Ninh 1.668 2.739 1.543 2.465 4 4 1 15
19 Hải Dương 1.330 2.353 1.284 2.200 6 8 0 0
20 Hải Phòng 1.195 2.159 1.136 2.034 8 12 1 1
21 Hưng Yên 753 1.435 718 1.367 5 9 1 1
22 Thái Bình 1.002 1.757 954 1.662 5 6 0 0
23 Hà Nam 598 1.052 577 985 2 3 0 0
73
24 Nam Định 1.165 1.917 1.096 1.806 5 5 0 0
25 Ninh Bình 623 1.235 601 1.196 2 3 0 0
26 Thanh Hóa 1.935 3.557 1.724 3.114 22 29 6 7
27 Nghệ An 2.561 4.649 2.444 4.393 16 20 2 2
28 Hà Tĩnh 560 1.116 513 1.015 3 9 0 0
29 Quảng Bình 431 693 403 624 0 0 0 1
30 Quảng Trị 324 521 317 513 1 1 0 0
31 Thừa Thiên Huế 686 1.143 626 1.015 3 4 0 0
32 Đà Nẵng 868 1.499 830 1.429 5 6 0 0
33 Quảng Nam 871 1.416 764 1.220 7 8 2 2
34 Quảng Ngãi 386 589 319 476 1 1 0 0
35 Bình Định 684 1.427 609 1.236 3 4 2 3
36 Phú Yên 413 666 341 529 5 6 0 2
37 Khánh Hòa 828 1.326 730 1.143 9 11 1 1
38 Ninh Thuận 413 655 374 588 3 4 0 0
39 Bình Thuận 1.021 1.463 948 1.352 7 9 1 1
40 Kon Tum 320 562 284 456 5 7 1 1
41 Gia Lai 1.003 1.799 873 1.515 4 8 1 1
42 Đắc Lắc 1.293 2.677 1.205 2.504 11 14 0 0
43 Đắc Nông 559 1.284 519 1.108 7 11 1 8
44 Lâm Đồng 1.001 1.733 892 1.541 3 5 0 1
45 Bình Phước 1.072 1.927 1.012 1.807 11 17 2 3
46 Tây Ninh 1.086 2.056 1.049 1.905 4 5 3 13
47 Bình Dương 2.042 3.653 1.838 3.183 9 9 2 3
48 Đồng Nai 2.159 3.640 1.935 3.185 8 8 5 14
1.700 971 1.543 3 11 1 1 49 Bà Rịa - Vũng Tàu 1.061
0 0 50 5.146 8.561 4.438 7.018 10 13 Thành phố Hồ Chí Minh
5 11 5 16 51 Long An 861 1.422 787 1.253
1 1 2 2 52 Tiền Giang 818 1.109 804 1.086
74
516 686 477 627 4 5 1 1 53 Bến Tre
443 651 417 619 4 5 0 0 54 Trà Vinh
497 716 470 667 0 0 0 1 55 Vĩnh Long
777 1.084 729 1.012 4 5 0 0 56 Đồng Tháp
853 1.260 770 1.070 7 10 0 0 57 An Giang
1.091 1.996 1.000 1.767 6 9 2 3 58 Kiên Giang
1.076 1.712 929 1.461 7 11 2 3 59 Cần Thơ
408 681 377 610 4 7 1 5 60 Hậu Giang
466 693 439 645 3 4 0 0 61 Sóc Trăng
451 631 423 570 2 4 1 1 62 Bạc Liêu
816 1.133 762 1.053 3 7 1 1 63 Cà Mau
66.831 114.260 61.528 103.243 362 516 73 160 Tổng
(Nguồn: Cục 2 – Viện Kiểm sát nhân dân tối cao)
Biểu đồ 3.1. Tổng số vụ án hình sự và bị cáo bị đƣa ra xét xử sơ thẩm
150,000
100,000
50,000
0
Năm 2014 Năm 2015 Năm 2016 Năm 2017 Năm 2018
Số vụ án
Số bị cáo
của 63 tỉnh/Thành phố trong giai đoạn 05 năm (2014 - 2018)
(Nguồn: Cục 2 - Viện Kiểm sát nhân dân tối cao)
75
Trong giai đoạn từ năm 2014 đến năm 2018 theo số liệu của Cục 2, Viện
kiểm sát nhân dân tối cao, cả nước có 303.483 vụ án được đưa ra xét xử sơ
thẩm với 521.278 bị cáo. Trong đó: Hà Nội, Nghệ An và Thành phố Hồ chí
Minh là các tỉnh, thành phố có số vụ xét xử sơ thẩm và số bị cáo cao nhất
trong cả nước, Bắc Cạn cùng với Hà Giang, Lai Châu, Quảng Trị, Kon Tum
và Hậu Giang luôn là tỉnh có số vụ xét xử sơ thẩm và số bị cáo thấp nhất
trong cả nước (có tỷ lệ dưới 2% trong tổng số vụ của cả nước).
Bảng 3.6. Kết quả khảo sát 300 vụ án hình sự của một số tỉnh trong
giai đoạn 05 năm (2014 - 2018)
Số vụ án chuẩn bị phạm tội
Số lƣợng 1 Tỷ lệ 0,3% Số vụ án phạm tội chƣa đạt Số lƣợng 12 Tỷ lệ 4% Số vụ án tiến hành khảo sát 300
Trong đó:
Giai đoạn phạm tội
STT Loại tội Số vụ Chuẩn bị phạm tội Phạm tội chƣa đạt
Tội giết người Tội hiếp dâm Tội hiếp dâm trẻ em Tội cố ý gây thương tích Tội cướp tài sản Tội cưỡng đoạt tài sản Tội trộm cắp tài sản Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản Tội tàng trữ trái phép chất ma túy
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 Tội mua bán người 11 Tội gây rối trật tự công cộng 12 Tội đánh bạc Tổng cộng: 9 12 6 42 22 13 66 30 40 18 23 19 300 1 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 1 Tội phạm hoàn thành 5 11 5 42 21 13 60 30 40 18 23 19 287 3 1 1 0 1 0 6 0 6 0 0 0 12
(Nguồn: Viện Kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội)
76
Biểu đồ 3.2. Kết quả khảo sát 300 vụ án hình sự của một số tỉnh
trong giai đoạn 05 năm (2014 - 2018)
Số vụ án
300
250
200
150
100
50
0
Chuẩn bị phạm tội
Phạm tội chƣa đạt
Tội phạm hoàn thành
(Nguồn: Viện Kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội)
Nhìn vào kết quả khảo sát cho thấy các vụ án được đưa ra xét xử chủ yếu
là tội phạm hoàn thành. Mặc dù chúng ta thấy thực tế các tội phạm do cố ý
đều trải qua giai đoạn chuẩn bị phạm tội và việc chuẩn bị đó không đi đến
hành động thực sự chắc chắn không phải là hiếm và hành động thực hiện tội
phạm dừng ở giai đoạn phạm tội chưa đạt cũng rất nhiều. Tuy nhiên, thực tế
đã cho thấy việc phát giác và xử lý tội phạm ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội,
phạm tội chưa đạt còn hạn chế. Số vụ án Tòa án QĐHP trong trường hợp
chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt còn rất ít (phần đa các vụ án được đưa
ra xét xử trong giai đoạn chuẩn bị phạm tội thường nằm trong các vụ án đồng
phạm hoặc người chuẩn bị phạm tội tham gia đồng phạm với người thực hiện
tội phạm nên bị phát hiện trong quá trình điều tra và bị đưa ra xét xử) hay nếu
có đưa ra xét xử và QĐHP trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa
đạt thì cũng còn một số hạn chế:
77
Thứ nhất, Quyết định hình phạt trong trƣờng hợp chuẩn bị phạm
tội, phạm tội chƣa đạt còn chƣa chính xác do sai lầm trong việc lựa chọn
điều luật áp dụng
Ví dụ: Ngày 30/01/2018, Nguyễn Tiến L vào nhà anh Nguyễn Quang H
để chơi. L đi vào trong nhà ngồi ở ghế tại phòng khách uống nước. Trong nhà
chỉ có một mình cháu Nguyễn Huyền Tr đang ngồi ở ghế đối diện với anh L.
L rủ cháu T đi chơi. Mục đích L rủ cháu Tr đi chơi để quan hệ tình dục với
cháu Tr. L chở cháu Tr đến nhà nghỉ 999. Tại phòng 201 nhà nghỉ 999,
Nguyễn Tiến L đã có hành vi: Hôn vào môi, vào má, sau đó dùng tay sờ vào
lưng, ngực và bộ phận sinh dục cháu Nguyễn Huyền Tr. Lúc này anh Nguyễn
Quang H về nhà không thấy con gái đâu nên đến nhà nghỉ 999. Vừa kịp đến
nhà nghỉ nên Nguyễn Tiến L đã không thực hiện được hành vi phạm tội của
mình. Sau đó anh Nguyễn Quang H đã trình báo lên sự việc trên cho công an
và Nguyễn Tiến L đã bị bắt về hành vi trên. Bản án hình sự sơ thẩm số
98/2018, ngày 19/12/2018 Tòa án nhân dân Thành phố Bắc Ninh xét xử bị
cáo Nguyễn Tiến L phạm tội: “Dâm ô với người dưới 16 tuổi” được quy định
tại khoản 1 Điều 146 BLHS, xử phạt bị cáo 9 tháng tù giam.
Căn cứ vào các tình trên ta thấy, bị cáo Nguyễn Tiến L đã có những hành
vi: Hôn vào môi, vào má, sau đó dùng tay sờ vào lưng, ngực và bộ phận sinh
dục cháu Nguyễn Huyền Tr với mục đích để quan hệ tình dục với cháu Tr.
Nếu bố cháu Tr là anh Nguyễn Quang H không về kịp thì chắc chắn bị cáo
Nguyễn Tiến L sẽ thực hiện hành vi quan hệ tình dục với cháu Trang. Như
vậy, hành vi của bị cáo Nguyễn Tiến L đã có đầy đủ các yếu tố cấu thành
“Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi” quy định tại điểm b, khoản 1 Điều 142
BLHS năm 2015 trong giai đoạn phạm tội chưa đạt. Căn cứ vào Điều 57
BLHS năm 2015 bị cáo L phải chịu mức phạt bằng ¾ mức phạt mà điều luật
quy định. Như vậy ít nhất L phải chịu mức phạt là ¾ của 7 năm tù (tương
78
đương là 63 tháng tù). Vì vậy, việc Tòa án QĐHP cho bị cáo là 9 tháng tù thì
quá nhẹ so với tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội.
Thứ hai, Quyết định hình phạt trong trƣờng hợp chuẩn bị phạm tội,
phạm tội chƣa đạt còn nhẹ quá mức so với tính chất của hành vi phạm tội
dẫn đến mức và loại hình phạt không tƣơng xứng, chƣa bảo đảm tính răn
đe, phòng ngừa chung.
Ví dụ: Bản án hình sự sơ thẩm số 10/2018/HSST của Tòa án nhân dân
tỉnh Lào Cai xét xử bị cáo La Văn Nam về tội “Cố ý gây thương tích” theo
điểm đ khoản 2 Điều 134 của BLHS: Bà La Thị Nết cùng con trai là Hoàng
Đại Việt có tổ chức ăn rằm tháng tháng 7 tại nhà, mời một số người gồm: Hà
Văn Chài, Dương Văn Ân, Vũ Văn Thịnh, Dương Thị Kim Ngân, Hoàng Thị
Liên, La Văn Nam, Hoàng Văn Tư. Trong lúc uống rượu giữa Nam và Thịnh
phát sinh mâu thuẫn, Nam dùng chén rượu ném trúng vào ngực Thịnh. Bà Nết
nói: “Thôi, cháu cũng say rồi đi về nhà ngủ đi, thằng Nam nó say rượu rồi
không chấp”. Nam đi ra khu vực bếp nhìn thấy một con dao cán gỗ, mũi nhọn
dài 40 cm lưỡi dao bằng kim loại dài 25,5 cm liền cầm dao đi vào, đúng đối
diện với Thịnh cách 1,05m vung dao lên chém hai nhát theo hướng từ trên
xuống dưới, từ trái qua phải trúng vào thái dương Thịnh, Thịnh gục xuống và
được mọi người đưa đi cấp cứu, đến ngày 31/8/2018 thì ra viện.
Kết luận giám định pháp y về thương tích số 36 ngày 22/5/2017 của
Trung tâm pháp y tỉnh Lào Cai, xác định: Hai vết thương vùng trán, thái
dương trái và phải kích thước lớn: Tỷ lệ tổn thương cơ thể là 11%; Nứt vỡ
xương vòm sọ: tỷ lệ tổn thương cơ thể là 10%. Tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể là
26%. Tòa án nhân tỉnh Lào Cai xử phạt La Văn Nam 04 năm 6 tháng tù.
Căn cứ vào tình tiết của vụ án nêu trên chúng ta thấy: Việc Tòa án nhân
dân tỉnh Lào Cai tuyên phạt bị cáo La Van Nam như vậy là không chính xác
về tội danh, việc đánh giá các tình tiết của vụ án không được khách quan, toàn
79
diện và không đánh giá đúng tính chất, hậu quả của hành vi phạm tội mà các
bị cáo đã thực hiện; Cụ thể như sau:
Trong khi đang uống rượu chỉ vì một mẫu thuẫn nhỏ giữa bị cáo La Văn
Nam và bị hại Vũ Văn Thịnh, nên đã xảy ra xô sát. Được mọi người căn ngăn
bị cáo La Văn Nam đã đi ra ngoài lấy điện thoại ra gọi cho bạn mục đích đến
để đánh anh Vũ Văn Thịnh nhưng không gọi được. Xong bị cáo La Văn Nam
quay lại bàn uống nước thấy trên mặt bàn có một con dao nhọn cán gỗ dài 40
cm, lưỡi bằng kim loại dài 25,5cm, bị cáo đi đến dùng tay phải cầm dao lên đi
về phía anh Vũ Văn Thịnh (lúc này Thịnh đang được bà La Thị Nếp kéo đi
vào giáp phía đầu giường ngủ). Nhưng bị cáo La Văn Nam vẫn cố tình cầm
con dao đi vòng ra phía sau lưng bà La Thị Nết và đứng đối diện với anh Vũ
Văn Thịnh cách 1,05m rồi vung dao lên hướng từ trên xuống dưới, từ trái qua
phải chém liên tiếp hai phát trúng vào thái dương phải và thái dương trái anh
Vũ Văn Thịnh và trong khi chém đã được Hà Văn Chài chạy đến căn ngăn
kéo bị cáo La Văn Nam ra kịp thời, nên hậu quả gây tổn thương cơ thể anh
Vũ Văn Thịnh là 26% sức khỏe.
Hành vi của bị cáo La Văn Nam dùng dao nhọn là hung khí nguy hiểm,
chém liên tiếp hai nhát vào vùng thái dương phải và trái của bị hại Vũ Văn
Thịnh. Hành vi nêu trên của bị cáo là rất nguy hiểm thể hiện tính liên tục,
quyết liệt và cường độ tấn công rất mạnh, bất chấp sự can ngăn của người
khác. Trong khi chém bà La Thị Nết đang đứng kéo Vũ Văn Thịnh để căn
ngăn, nhưng bị cáo La Văn Nam vẫn vung dao chém qua vai bà Nếp thì khủy
tay Nam va vào vai bà Nết ngã xuống nền nhà. Hậu quả làm anh Vũ Văn
Thịnh bị Nứt vỡ xương vòm sọ (xương trán trái) và vỡ xương trần ổ mắt trái,
nếu không được can ngăn kịp thời thì hậu quả dẫn đến nghiệm trọng hơn.
Hành vi nêu trên của bị cáo La Văn Nam thể hiện tính hung hãn coi thường
pháp luật, coi thường tính mạng của người khác và thuộc trường hợp lỗi cố ý
80
và có tính côn đồ, việc anh Vũ Văn Thịnh không chết là do ngoài ý muốn của
bị cáo.
Bị cáo La Văn Nam đã dùng dao nhọn dài 40 cm lưỡi bằng kim loại dài
25,5cm, nhằm chém liên tiếp hai nhát vào vùng thái dương phải và trái của bị
hại Vũ Văn Thịnh là những vị trí rất nguy hiểm trên cơ thể con người. Hậu
quả có thể dẫn đến chết người chỉ vì một tý mâu thuẫn nhỏ trong khi uống
rượu, do bực tức không kìm chế được nên bị cáo vẫn cố tình thực hiện hành vi
phạm tội.
Tại phiên tòa Hội đồng xét xử nhận định cho rằng, hành vi của bị cáo La
Văn Nam dùng dao nhọn chém liên tiếp hai nhát vào thái dương phải và trái
của bị hại Vũ Văn Thịnh với mục đích chỉ làm gây thương tích và không có ý
thức mong muốn làm cho nạn nhân chết, mặt khác mức độ tấn công không
quyết liệt, cường độ tấn công không mạnh và không quyết tâm thực hiện tội
phạm đến cùng, hậu quả chỉ làm anh Vũ Văn Thịnh bị tổn hại 26% sức khỏe,
nên hậu quả đến đâu xử lý đến đó. Căn cứ vào các tình tiết của sự việc, Hội
đồng xét xử cho rằng, hành vi của bị cáo La Văn Nam đã cấu thành tội “Cố ý
gây thương tích” theo điểm đ khoản 2 Điều 134 BLHS.
Như vậy, việc Hội đồng xét xử nhận định và đánh giá các tình tiết của vụ
án không được khách quan, toàn diện và không đánh giá đúng tính chất, hậu
quả nguy hiểm của hành vi phạm tội mà bị cáo La Văn Nam đã thực hiện. Với
những tình tiết của vụ án và sự phân tích của học viên như trên ta thấy: Hành
vi của bị cáo La Văn Nam đã đủ các yếu tố cấu thành của “Tội giết người”
quy định tại điểm n khoản 1 Điều 123 của BLHS năm 2015. Căn cứ vào điểm
n khoản 1 Điều 123 và Điều 57 BLHS năm 2015 thì ít nhất bị cáo Nam cũng
phải chịu mức phạt là 9 năm tù. Tòa án nhân dân tỉnh Lào Cai tuyên bị cáo La
Văn Nam phạm tội “Cố ý gây thương tích” là áp dụng sai Điều luật và QĐHP
81
cho bị cáo La Văn Nam với mức phạt 4 năm 6 tháng tù là quá nhẹ so với tính
chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội mà bị cáo Nam đã thực hiện.
Thứ ba, Quyết định hình phạt trong trƣờng hợp chuẩn bị phạm tội,
phạm tội chƣa đạt có khi quá nghiêm khắc, không thể hiện đƣợc tính
giảm nhẹ so với trƣờng hợp tội phạm hoàn thành
Ví dụ vụ án: Trần Thế Ngọc đang ngồi chơi tại quán cà phê thì có Dương
Ngọc Hà, Hà Văn Nguyên, Vũ Văn Phong đến tìm gái mại dâm. Do Hà say
rượu nên giữa Ngọc và Hà đã xảy ra to tiếng, Hà xông lên bóp cổ, đấm một
phát trúng vào vai Ngọc. Ngọc chạy vào bên trong quán lấy một con dao dạng
mã tấu dài 69 cm chạy ra đến cửa thì bị mọi người căn ngăn. Lúc này, Trần
Thế Cương nhìn thấy liền chạy sang dùng tay đấm liên tiếp về phía Nguyên
thì bị Nguyên nhặt viên gạch lát vỉa hè đập một nhát trúng vào vùng đầu bên
trái. Cương dùng tay chân đánh khiến Hà ngã xuống mép đường. Thấy Hà
đang đứng dậy Ngọc liền quay lại dùng bản dao đập một nhát vào lưng và
một nhát vào cánh tay phải Hà. Ngay khi đó, Cương chạy lại giật con dao từ
tay Ngọc đuổi theo chém một nhát trúng vào vùng đầu bên trái Phong khiến
Phong ngã xuống vỉa hè. Cương ném con dao về phía Nguyên nhưng không
trúng. Nguyên liền nhặt dao chạy lên chém một nhát trúng cánh tay phải của
Ngọc rồi bỏ chạy về phía cây xăng Hải Yến, Ngọc liền chạy đuổi theo. Cương
chạy vào số nhà 242 tìm lấy được một đoạn gỗ dài khoảng 1,2 m rồi quay lại
để đuổi đánh Nguyên. Lúc này, Ngọc đang chạy đuổi theo Nguyên thì thấy 02
chiếc điếu để ở gốc cây số nhà 270, liền cầm theo để đuổi đánh Nguyên. Do
không đuổi kịp, Ngọc ném một chiếc điếu về phía Nguyên nhưng không trúng
và tiếp tục đuổi theo. Khi Cương chạy đuổi theo đến ngã tư gần cây xăng Hải
Yến thì thấy Nguyễn Cao Cường điều khiển xe ô tô chạy ngược chiều, Cường
liền vẫy xe lại và nhờ Cường chở Cương đuổi theo Nguyên. Cường điều
khiển xe đi được một đoạn thì gặp Ngọc cùng lên xe. Cả 3 đi đến ngã ba
82
đường Sơn Đạo - Phan Chu Trinh, Ngọc liền xuống xe cầm ống điếu chạy bộ
đuổi theo Nguyên còn Cường điều khiển xe chở Cương quay lại đường Phan
Chu Trinh để tiếp tục đuổi theo. Khi xe còn cách Nguyên khoảng 15 - 20m,
Cương nói “anh đâm thằng này cho em”, Cường liền đánh lái sang phải đâm
phần đầu xe trúng vào người Nguyên làm Nguyên ngã gục xuống đường
không còn cử động được nữa. Tiếp đó, Ngọc nhặt lấy con dao ở gần đó cầm
bằng tay trái, tay phải Ngọc cầm ống điếu vụt mạnh thêm 06 nhát vào vùng
đầu, gáy, vai Nguyên. Lúc này Cường điều khiển xe chở Cương vòng xe lại vị
trí đã đâm Nguyên ngã, Cương xuống xe dùng hai tay cầm gậy vụt mạnh 02
nhát vào đầu Nguyên làm gậy bị gãy đôi. Đúng lúc này Cảnh sát trật tự đi
tuần đã phát hiện sự việc trên. Nguyên thì được đưa đi bệnh viên cấp cứu với
tổng tỷ lệ thương tật là 61%.
Bản án hình sự sơ thẩm số 09/2018/HSST, ngày 27/3/2018 của Tòa án
nhân dân tỉnh Lào Cai: Tuyên bố các bị cáo: Trần Thế Cương, Trần Thế
Ngọc, Nguyễn Cao Cường phạm tội “Giết người”. Áp dụng điểm n khoản 1
Điều 123; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm e khoản 1 Điều 52; Điều
17, Điều 58 của BLHS: Xử phạt bị cáo Trần Thế Cương tù chung thân; Áp
dụng điểm n khoản 1 Điều 123; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm e
khoản 1 Điều 52; Điều 17, Điều 58 của BLHS: Xử phạt bị cáo Trần Thế Ngọc
19 năm tù. Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123; điểm b, s khoản 1, khoản 2
Điều 51; điểm e khoản 1 Điều 52; Điều 17, Điều 58 của BLHS: Xử phạt bị
cáo Nguyễn Cao Cường 16 năm tù.
Căn cứ vào các tình tiết trên ta thấy việc Tòa án QĐHP là chưa phù hợp.
Cụ thể: Bản án hình sự sơ thẩm số 09/2018/HSST, ngày 27/3/2018 đã đánh
giá bị cáo Trần Thế Cương giữ vai trò chính trong vụ án là chưa chính xác bởi
lẽ: Bị cáo Trần Thế Ngọc là người trực tiếp chuẩn bị công cụ để gây án (con
dao và chiếc ống điếu) bị cáo Ngọc là người khởi xướng việc truy đuổi bị hại
83
Hà Văn Nguyên trên một quãng đường dài (700m). Khi bị hại tiếp tục bỏ
chạy vòng từ đường Sơn Đạo sang đường Phan Chu Trinh, bị cáo Trần Thế
Ngọc liền xuống xe cầm theo hung khí (chiếc ống điếu) tiếp tục chạy bộ đuổi
theo bị hại thể hiện sự truy đuổi đến cùng. Khi bị hại bị xe ô tô do bị cáo
Nguyễn Cao Cường điều khiển đâm ngã, bị cáo Trần Thế Ngọc là người đầu
tiên xông đến sử dụng ống điếu vụt mạnh liên tiếp vào vùng đầu, vai, gáy là
những vị trí trọng yếu dẫn đến bị hại gục xuống. Như vậy, bị cáo Trần Thế
Ngọc mới là người khởi xướng và giữ vai trò chính trong vụ án. Bên cạnh đó
trong vụ án còn có một phần lỗi của bị hại dẫn đến hậu quả xảy ra tranh chấp;
bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ nên mức án chung thân đối với bị cáo Trần
Thế Cương là quá nghiêm khắc.
QĐHP trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt của nước
ta trong thời gian vừa qua cho thấy các vụ án được QĐHP trong trường hợp
chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt chủ yếu rơi vào các tội như giết người,
hiếp dâm, trộm cắp tài sản, cố ý gây thương tích ... Tuy số vụ án ít nhưng việc
QĐHP trong các vụ án này lại tồn tại nhiều hạn chế: Khó khăn trong việc lựa
chọn khung hình phạt, mức hình phạt được quyết định có khi nặng quá, có khi
lại nhẹ quá hoặc là đánh giá không đúng tính chất và mức độ nguy hiểm của
hành vi phạm tội dẫn đến việc áp dụng điều luật nhầm lẫn.
Việc đảm bảo hiệu quả của việc QĐHP trong trường hợp chuẩn bị phạm
tội, phạm tội chưa đạt là hết sức cần thiết để đảm bảo công bằng, chính xác
hiệu quả giáo dục, cải tạo của các bản án được tuyên trong trường hợp chuẩn
bị phạm tội, phạm tội chưa đạt. Các nguyên nhân chủ yếu bao gồm:
* Quy định của BLHS Việt Nam năm 1999 về quyết định hình phạt
trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt còn hạn chế
Việc BLHS năm 1999 quy định việc QĐHP trong trường hợp chuẩn bị
phạm tội, phạm tội chưa đạt một cách chung kéo dài 10 năm dẫn đến việc các
84
Điều tra viên, Kiểm sát viên và Thẩm phán gặp một khó khăn trong việc áp
dụng pháp luật. Đồng nghĩa với việc QĐHP dành cho các tội phạm thực hiện
ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt chưa đạt hiệu quả cao. Đến
BLHS năm 2015 nhà làm luật đã có những quy định cụ thể cho từng trường
hợp phải chịu TNHS trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt.
Đó là sau mỗi điều luật được quy định tại Điều 12 BLHS thì nhà làm luật đã
cụ thể hóa: “Người chuẩn bị phạm tội này, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05
năm” trong những điều luật quy định hành vi chuẩn bị phạm tội phải chịu
TNHS.
* Đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội ở một số trường
hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt chưa chính xác
Do đặc thù của hoạt động QĐHP trong trường hợp chuẩn bị phạm tội,
phạm tội chưa đạt vì đây là hai trường hợp đặc biệt của QĐHP, khi tiến hành
đòi hỏi Tòa án phải áp dụng đồng thời các quy định chung về QĐHP trong
BLHS lẫn các quy định áp dụng riêng đối với trường hợp chuẩn bị phạm tội,
phạm tội chưa đạt. Chỉ riêng điều này đã khiến cho QĐHP trong trường hợp
chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt khó khăn hơn các trường hợp tội phạm
hoàn thành. Ngoài ra, như đã nêu trên, việc chứng minh tội phạm, xác định tội
danh, xác định tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi chuẩn bị phạm tội,
phạm tội chưa đạt rất phức tạp, dễ gây sai lầm cho hoạt động định tội danh,
QĐHP. Hơn nữa các vụ án chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt không phải
là phổ biến nên kinh nghiệm, kỹ năng xét xử của các cán bộ Tòa án không
dày dạn, thành thục như xét xử vụ án mà tội phạm đã hoàn thành.
* Đội ngũ Điều tra viên, Kiểm sát viên và Thẩm phán còn thiếu thốn;
trình độ, chuyên môn nghiệp vụ còn hạn chế
Tội phạm ngày càng gia tăng với nhiều loại tội phạm sử dụng nhiều
phương thức thủ đoạn tinh vi, công nghệ cao nhưng đội ngũ Điều tra viên,
85
Kiểm sát viên, Thẩm phán chưa ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ, còn bất
cập, hạn chế về một số lĩnh vực như: Kiến thức xã hội, kỹ năng về công tác
dân vận, trình độ ngoại ngữ, kiến thức pháp luật quốc tế. Đồng thời, một số
cán bộ còn thiếu tinh thần trách nhiệm, ý thức tổ chức kỷ luật còn non yếu,
phong cách làm việc chậm đổi mới, tinh thần phục vụ nhân dân chưa cao. Một
số cán bộ, công chức trong đó có cả cán bộ làm công tác pháp luật vi phạm
phẩm chất đạo đức, vi phạm kỷ luật công vụ bị xử lý kỷ luật hoặc cá biệt có
trường hợp vi phạm pháp luật đã bị truy cứu trách nhiệm. Mặt khác, Luật sư
tham gia bào chữa còn nặng về khai thác các tình tiết gỡ tội, giảm nhẹ nên các
bài bào chữa của họ cũng ít quan tâm đến việc làm rõ các tình tiết của vụ án
một cách đầy đủ, toàn diện, thậm chí có những Luật sư có những việc làm
không trong sáng, làm lộ bí mật điều tra hòng chạy tội cho bị can, bị cáo.
Chính những biểu hiện, việc làm này đã cản trở đến việc QĐHP của Thẩm
phán tại phiên tòa có phần thiếu chính xác, khách quan.
Các Điều tra viên, Kiểm sát viên có phần e ngại trong việc khởi tố, điều
tra, truy tố các loại tội phạm mới được thực hiện ở giai đoạn chuẩn bị phạm
tội hay một số tội phạm thực hiện ở giai đoạn chưa đạt. Vì quan điểm nếu
khởi tố, điều tra, truy tố hay xét xử oan thì sẽ phải chịu trách nhiệm trước
pháp luật và ảnh hưởng rất lớn đến sự nghiệp của bản thân
3.2. Biện pháp đảm bảo hiệu quả áp dụng pháp luật về quyết định
hình phạt đối với chuẩn bị phạm tội và phạm tội chƣa đạt
Trước yêu cầu đổi mới của đất nước về kinh tế, văn hóa, giáo dục, cải
cách hành chính và trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì nhân dân, hòa nhập với xu thế hội
nhập quốc tế và toàn cầu hóa thì cải cách tư pháp là một đòi hỏi khách quan,
cấp thiết và mang tính quy luật để có thể thích ứng với những đổi mới về văn
hóa, kinh tế, xã hội, hệ thống chính trị ... Một trong các biện pháp hữu hiệu để
86
bắt nhịp xu thế tòa cầu hóa đó là sự hoàn thiện hệ thống PLHS. BLHS năm
2015 được Quốc hội khóa XII thông là một thành tố quan trọng của PLHS, là
công cụ sắc bén, hữu hiệu để đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm. Để
cho những quy định mới này được thực thi đầy đủ và nghiêm túc trong thực
tiễn thì đòi hỏi các cơ quan chức năng có liên quan phải đảm bảo được những
yếu tố cơ bản sau:
3.2.1. Biện pháp giải thích, tuyên truyên, phổ biến pháp luật hình sự
Giải thích pháp luật được hiểu là việc làm sáng tỏ về mặt tư tưởng và nội
dung các QPPL, bảo đảm cho sự nhận thức và thực hiện nghiêm chỉnh, thống
nhất pháp luật. Tuy nhiên, pháp luật với vị trí và vai trò vốn có của nó là một
công cụ chủ yếu của nhà nước để quản lý nhà nước và xã hội; các quy định
của pháp luật được đặt ra là để điều chỉnh các quan hệ xã hội theo một định
hướng nhất định; thông qua việc đặt ra, thực hiện và áp dụng các quy định của
pháp luật sẽ tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến hành vi, quyền và nghĩa vụ
của từng chủ thể PLHS; Do đó, việc hiểu đúng, đầy đủ và chính xác các quy
định của pháp luật theo nội dung và ý nghĩa vốn có của nó để thực thi và áp
dụng pháp luật một cách nghiêm minh và có hiệu quả là một yêu cầu khách
quan và cần thiết của bất cứ một hệ thống pháp luật. Chính vì vậy, việc giải
thích pháp luật phải được quan tâm và thực hiện nghiêm túc, có nghĩa là
không thể mặc nhiên thừa nhận hay công nhận kết quả của mọi hoạt động giải
thích pháp luật đều là pháp luật, được thực thi và bảo đảm bằng quyền lực
Nhà Nước. Bởi vì, nếu bất cứ kết quả giải thích pháp luật nào cũng đều được
công nhận thì chắc chắn mỗi chủ thể sẽ giải thích một kiểu, theo nhận thức,
theo trình độ chuyên môn, vị trí, địa vị xã hội và lợi ích của mình.
Các văn bản giải thích, hướng dẫn thi hành BLHS có ý nghĩa đặc biệt
quan trọng, không có các văn bản giải thích, hướng dẫn quy định của BLHS
thì nhiều quy định của BLHS không thể áp dụng được hoặc nếu có áp dụng
87
thì cũng trong tình trạng không thống nhất, không bảo đảm nguyên tắc pháp
chế trong LHS Việt Nam. Để các quy định của BLHS được thực thi nghiêm
túc và nhất quán, trước tiên cần giải thích thống nhất, tuyên truyền, phổ biến
các quy định mới của BLHS nói chung và những quy định mới trong trường
hợp chuẩn bị pham tội, phạm tội chưa đạt nói riêng. Để cho công tác giải
thích, áp dụng pháp luật được đảm bảo thì các cơ quan chức năng cần:
- Các cơ sở giáo dục, đào tạo, nghiên cứu thường xuyên tổ chức các cuộc
hội thảo, hội nghị về những vấn đề còn vướng mắc trong thực tiễn thi hành
BLHS;
- Xuất bản thành tuyển tập các bản án sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc
thẩm của Tòa án nhân dân cấp tỉnh và Tòa án nhân dân tối cao theo từng năm;
- Các cơ quan tư pháp ở Trung ương bố trí cán bộ chuyên trách về công
tác hướng dẫn, giải thích PLHS, có nhiệm vụ tham mưu cho cơ quan mình
ban hành văn bản hướng dẫn thi hành LHS nói chung và việc QĐHP trong
trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt nói riêng;
- Các cơ quan tư pháp ở Trung ương bố trí cán bộ chuyên trách về công
tác hướng dẫn, giải thích PLHS chuyên trách, có nhiệm vụ tham mưu cho cơ
quan mình ban hành văn bản hướng dẫn thi hành việc QĐHP trong trường
hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt nói riêng;
- Đưa vấn đề hướng dẫn thi hành việc QĐHP trong trường hợp chuẩn bị
phạm tội, phạm tội chưa đạt vào chỉ tiêu công tác của các cơ quan tư pháp
Trung ương và có chế tài xử lý trách nhiệm của người đứng đầu nếu chậm trễ
trong việc chỉ đạo công tác hướng dẫn, giải thích PLHS liên quan đến việc
QĐHP trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt trong LHS
Việt Nam;
- Tăng cường sử dụng công nghệ thông tin, mạng Internet vào việc đăng
tải các hướng dẫn, giải thích pháp luật trong việc QĐHP trong trường hợp
chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt trong LHS Việt Nam.
88
Cùng với việc tuyên truyền, phổ biến, giáo dục PLHS trong Nhân dân để
nâng cao nhận thức, thì cũng cần quán triệt nâng cao nhận thức về pháp luật
nói chung, hệ thống quy định các văn bản pháp luật mới được ban hành có
liên quan đến quy định PLHS nói chung, vấn đề QĐHP trong trường hợp
chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt nói riêng.
Mặt khác, để các quy định của việc QĐHP nói chung và QĐHP trong
trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt nói riêng đi vào đời sống,
cần tiến hành tuyên truyền, phổ biến rộng rãi trong quần chúng nhân dân, nhất
là quần chúng nhân dân ở vùng sâu, vùng xa, nông thôn, miền núi [56, tr.313].
Các quy phạm PLHS trong việc QĐHP và QĐHP trong trường hợp
chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt chỉ pháp huy được sức mạnh, điều chỉnh
được hành vi của con người thông qua việc tác động vào ý thức của họ. Cá
nhân trong quá trình tham gia các quan hệ xã hội, nhận thức được yêu cầu của
PLHS, đặt các yêu cầu đó trong mối liên hệ với lợi ích của bản thân mà xác
lập động cơ, hình thành mục đích hành động và lựa chọn xử sự cụ thể. Nếu cá
nhân nhận thức được một cách đúng đắn các quy định của PLHS, thấy các
quy định đó phù hợp với niềm tin, đạo đức của bản thân, họ sẽ tự nguyện tuân
thủ mà không cần đến sự đe dọa của các chế tài mà điều luật đặt ra. Trường
hợp khác, tuy rằng có thể yêu cầu của PLHS mâu thuẫn với nhu cầu, lợi ích
của họ song vì lo sợ bị áp dụng hình phạt và các biện pháp cưỡng chế khác,
họ cũng sẽ chủ động lựa chọn xử sự không trái với các quy định không trái
pháp luật. Do đó, nâng cao ý thức tuân theo pháp luật, ý thức phòng ngừa và
đấu tranh chống tội phạm cho nhân dân là một trong những đảm bảo cơ bản
để tăng cường tính hiệu quả của PLHS trong việc bảo đảm thực thi pháp luật.
Công tác phổ biến, giáo dục pháp luật có ý nghĩa quan trọng, bất kỳ
người dân nào có sự hiểu biết pháp luật sẽ làm tăng niềm tin của họ đối với
Đảng, với Nhà nước và pháp luật. Qua đó làm cơ sở cho các hành vi và hình
89
thành nhân cách công dân, ý thức tuân thủ và tôn trọng pháp luật, không để họ
thực hiện các hành vi sai trái, vi phạm pháp luật, tham gia bảo vệ các lợi ích
của bản thân, gia đình và xã hội. Nguyên Tổng bí thư Đỗ Mười đã viết: “Một
xã hội có kỷ cương, kỷ luật phải được xây dựng trên ý thức tuân thủ pháp luật
ngày càng cao của mọi người, giáo dục mọi thành viên và các cộng đồng
trong xã hội thói quen và nếp sống tuân thủ Hiến pháp, pháp luật. Đó là một
nội dung không thể thiếu của Nhà nước Pháp quyền” [ 36, tr.89]. Để cho công
tác tuyên truyền pháp luật đạt được hiệu quả thì cần:
- Tuyền truyền, phổ biến các văn bản liên quan đến quy chế dân chủ ở cơ
sở, quy định dân chủ trong các văn bản pháp luật, phổ biến các quyền công
dân, quyền con người, quyền tự do, dân chủ của công dân trong Hiến Pháp và
pháp luật, nội dung cụ thể của các quyền này;
- Bồi dưỡng tình cảm, tâm lý pháp luật về việc tôn trọng pháp luật, tôn
trọng các quy tắc của cuộc sống, giữ gìn và bảo vệ an ninh trật tự, an toàn xã
hội, bảo vệ tài sản của Nhà nước, tổ chức và công dân; tổ chức thường xuyên
các Câu lạc bộ pháp luật, các cuộc thi tìm hiểu pháp luật. Đặc biệt chú trọng
đến các quy phạm quy định đến việc QĐHP trong trường hợp chuẩn bị phạm
tội, phạm tội chưa đạt theo LHS Việt Nam;
- Thực hiện nghiêm chỉnh các chế độ khen thưởng, biểu dương kịp thời
để khuyến khích, động viên tất cả quần chúng nhân dân tham gia phong trào
toàn dân đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm. Nhất là những công dân
tích cực phối hợp với các cơ quan chức năng làm công tác pháp luật ngăn
chặn tội phạm và truy bắt người phạm tội [57, tr.258].
3.2.2. Biện pháp đảm bảo năng lực chuyên môn của cán bộ bảo vệ
pháp luật
Nếu một Nhà nước có hệ thống PLHS tốt, nhưng lại có đội ngũ cán bộ
thực thi PLHS đó yếu thì hiệu quả pháp luật vẫn không đạt được. Như Hồ chủ
90
tịch đã từng dạy: “Muốn việc thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hay
kém. Đó là một chân lý” [21, tr.240]. Do đó, cần xây dựng một đội ngũ cán
bộ tư pháp nói chung, đội ngũ điều tra viên, Kiểm sát viên, đặc biệt là Thẩm
phán và Hội thẩm nhân dân càng đòi hỏi phải có trình độ trình độ chuyên
môn, nghiệp vụ vững vàng, có kinh nghiệm và có bản lĩnh, đạo đức chính trị
vững vàng để đáp ứng được yêu cầu đặt ra nó [56, tr.3].
Trong hoạt động tố tụng hình sự, những người tiến hành tố tụng như:
Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán giữ vai trò quan trọng trong toàn bộ
vụ án. Những người này có ảnh hưởng xuyên suốt quá trình giải quyết vụ án
và quyết định đến sinh mạng chính trị của một hoặc nhiều người có trình độ,
có tâm, có tầm … để tránh việc làm oan, sai, không những gây thiệt hại trực
tiếp đến người bị kết án mà còn làm ảnh hưởng đến uy tín của Đảng và Nhà
nước đối với nhân dân. Vì vậy, cần phải có chiến lược lâu dài, có định hướng
cụ thể trong công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, nhằm xây dựng một đội ngũ
cán bộ tư pháp chính quy, tinh nhuệ, đáp ứng được yêu cầu đặt ra, cụ thể như
sau [57, tr.260 ]:
a) Đảm bảo trình độ chuyên môn nghiệp vụ, phẩm chất đạo đức của
thẩm phán.
Muốn QĐHP được chính xác đòi hỏi cán bộ xét xử không chỉ có nhận
thức sâu sắc các quy định PLHS, năng lực phân tích, đánh giá toàn diện,
chính xác các tình tiết của vụ án mà còn phải có sự tận tụy, mẫn cán, tinh thần
trung thực, kiên quyết bảo vệ pháp luật. QĐHP trong trường hợp chuẩn bị
phạm tội, phạm tội chưa đạt phức tạp hơn so với trường hợp tội phạm hoàn
thành nên càng đòi hỏi cao về trình độ, kinh nghiệm và sự nhạy cảm nghề
nghiệp của cán bộ làm công tác tư pháp nói chung và cán bộ xét xử nói riêng.
Để đáp ứng được yêu cầu đó, cần kiện toàn đội ngũ cán bộ xét xử thông qua
việc đề ra các tiêu chuẩn cao đối với chức danh Thẩm phán và Hội thẩm.
91
Đồng thời thường xuyên tổ chức bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn
nghiệp vụ, phẩm chất đạo đức cho cán bộ xét xử, ban hành quy chế đạo đức
nghề nghiệp đối với cán bộ xét xử. Bên cạnh nâng cao chất lượng, cần đào
tạo, tuyển dụng, bổ nhiệm để tăng cường số lượng cán bộ xét xử nhằm giảm
áp lực công việc, tạo điều kiện cho họ hoàn thành tốt nhiệm vụ. Đồng thời với
đó là việc tiếp tục cải thiện chế độ, chính sách đãi ngộ, vinh danh nghề nghiệp
đối với cán bộ xét xử để động viên, khuyến khích nâng cao tinh thần trách
nhiệm, lòng yêu nghề, đức tận tụy của đội ngũ này.
Thẩm phán không chỉ là người có trình độ chuyên môn chuyên sâu mà
còn là cán bộ có phẩm chất đạo đức, Người Thẩm phán với lẽ sống cao đẹp,
luôn phấn đấu để cố gắng làm giảm bớt và tiến tới loại bỏ nỗi đau khổ hoặc
bất hạnh ra khỏi đời sống con người, sẽ có khả năng vượt qua khó khăn, sẵn
lòng hy sinh lợi ích cá nhân, khắc phục những đặc thù trong nghề nghiệp, thì
sẽ tất yếu vươn lên trong cuộc sống, vươn lên trong sự nghiệp và góp phần tạo
nên vẻ đẹp cao quý của người Thẩm phán. Nói đến đạo đức người Thẩm phán
thì đầu tiên phải nói đến phẩm chất trung thực, phẩm chất tôn trọng lẽ phải,
tôn trọng sự thật khách quan, tôn trọng chân lý trong cuộc sống. Người Thẩm
phán có trung thực thì mới có dũng khí để bảo vệ lẽ phải, có trung thực thì
mới không bảo thủ cứng nhắc trong giải quyết công việc được giao. Tránh có
những quyết định làm oan cho người vô tội.
b) Đảm bảo các điều kiện cần thiết cho hoạt động của thẩm phán và cán
bộ Tòa án
Hiện nay nhiều địa phương ở vùng sâu, vùng xa điều kiện về cơ sở vật
chất còn thiếu thốn nghèo nàn, cùng đó thì những cán bộ trong đó có Thẩm
phán làm việc trong điều kiện khó khăn, cơ sở vật chất thiếu thốn. Điều này
nó đã ảnh hưởng đến chất lượng công việc của những cán bộ Tòa án làm việc
ở những vùng kinh tế khó khăn này. Để đảm bảo được hoạt động của Thẩm
92
phán, trong thời gian tới cần tăng cường hơn nữa cơ sở vật chất cho Tòa án.
Cụ thể như xây dựng mới, sửa chữa các trụ sở làm việc đã quá cũ, xuống cấp;
đảm bảo phòng làm việc cho Thẩm phán và các phương tiện phục vụ cho hoạt
động của Thẩm phán. Ngoài ra, cần bố trí hội trường xét xử rộng rãi, được
trang trí thể hiện tính trang nghiêm của phiên tòa. Cần trang bị các thiết bị
hiện đại phục vụ cho việc xét xử các vụ án hình sự tại phiên Tòa để đông đảo
nhân dân theo dõi. Qua đó, góp phần cho công tác tuyên truyền pháp luật đối
với người dân được rộng rãi hơn, tốt hơn.
Cùng với sự khó khăn về điều kiện làm việc thì chế độ đãi ngộ đối với
cán bộ, công chức ngành Tòa án nói chung và Thẩm phán nói riêng còn chưa
thực sự tương xứng với tính chất công việc đặc thù của Tòa án, chưa có tác
dụng khuyến khích, động viên cán bộ, công chức Tòa án yên tâm công tác,
tận tụy với nghề, nâng cao tinh thần trách nhiệm và thái độ phục vụ nhân dân,
phấn đấu rèn luyện tu dưỡng đạo đức. Chính vì vậy, việc đổi mới chế độ tiền
lương, chính sách đãi ngộ đối với đội ngũ Thẩm phán, công chức Tòa án nhân
dân cần được cải tiến nhằm khuyến khích Thẩm phán, công chức Tòa án nhân
dân tận tâm, tận lực, yên tâm, gắn bó với công việc và hoàn thành tốt nhiệm
vụ được giao, nâng cao hiệu quả của việc đấu tranh phòng chống tội phạm.
c) Đảm bảo trình độ chuyên môn nghiệp vụ, đạo đức nghề nghiệp và
tăng cường số lượng kiểm sát viên, luật sư
Kiểm sát viên và luật sư là những người góp phần quan trọng vào quá
trình giải quyết vụ án, bảo đảm việc QĐHP trong quá trình giải quyết các vụ
án hình sự nói chung và việc QĐHP trong các vụ án chuẩn bị phạm tội, phạm
tội chưa đạt nên trình độ năng lực, trách nhiệm nghề nghiệp và số lượng Kiểm
sát viên, Luật sư cũng phải được nâng cao, chuyên nghiệp.
- Đối với Kiểm sát viên
Trong những năm qua, Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã chỉ đạo toàn
ngành tổng kết về lý luận và thực tiễn 50 năm xây dựng và hoạt động của
93
ngành, rút ra những bài học thiết thực về hoàn thiện tổ chức bộ máy, đào tạo
cán bộ để nâng cao chất lượng thực hiện chức năng nhiệm vụ của ngành.
Trên cơ sở thực trạng về đội ngũ cán bộ, Kiểm sát viên được đã được
Nghị quyết 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 chỉ ra “Đội ngũ cán bộ tư pháp, bổ
trợ tư pháp còn thiếu; trình độ nghiệp vụ và bản lĩnh chính trị của một số bộ
phận cán bộ còn yếu, thậm chí có một số cán bộ sa sút về phẩm chát, đạo đức
và trách nhiệm nghề nghiệp”. Đề nâng cao chất lượng cán bộ, đòi hỏi: Cán bộ
kiểm sát phải tự học tập nâng cao trình độ năng lực, rèn luyện ý thức chính trị.
Kiểm sát viên phải tinh thông về nghiệp vụ, nắm vững pháp luật, chủ trương,
nghị quyết của Đảng trong lĩnh vực đấu tranh phòng, chống tội phạm, cũng
như những chủ trương, nghị quyết của Đảng liên quan đến công tác của ngành
kiểm sát.
Không ngừng bổ sung cán bộ có năng lực, trình độ chuyên môn để làm
công tác thực hành quyền công tổ và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Cần có
kế hoạch tổng thể về việc sắp xếp, bố trí, luân chuyền, điều động cán bộ,
Kiểm sát viên phù hợp với đặc thù, tính chất, số lượng các vụ án của từng địa
phương.
Chú trọng việc giáo dục nâng cao ý thức trách nhiệm, phẩm chất đạo
đức, nâng cao trình độ về chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ cán
bộ, Kiểm sát viên. Thường xuyên tổ chức học tập bằng cách nghiên cứu các
chuyên đề nghiệp vụ: Nâng cao chất lượng trả hồ sơ điều tra bổ sung, nâng
cao chất lượng cáo trạng, kỹ năng xét hỏi, kỹ năng luận tội, kỹ năng tranh
tụng, kỹ năng kháng nghị phúc thẩm ... Tiến hành thảo luận, rút kinh nghiệm
từ công tác nghiên cứu và công tác thực tiễn nhằm nâng cao chất lượng công
tác. Thường xuyên tổ chức cuộc thi Kiểm sát viên giỏi tại các Viện kiểm sát
địa phương và chọn những Kiểm sát viên đạt kết quả cao trong cuộc thi tại địa
phương dự thi Kiểm sát viên giỏi trong toàn ngành, tuyển chọn những Kiểm
94
sát viên tiêu biểu trong số những Kiểm sát viên giỏi, từ đó tạo động lực cho
cán bộ học tập nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, rèn luyện bản lĩnh
trong công tác, làm gương cho cán bộ, Kiểm sát viên khác học tập, làm theo.
- Đối với Luật sư
Để cho việc QĐHP nói chung và QĐHP trong trường hợp chuẩn bị phạm
tội, pham tội chưa đạt được chính xác và cũng để nâng cao trách nhiệm và
tính chuyên sâu của Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán và đảm bảo
nguyên tắc tranh tụng trong các vụ án hình sự thì cần tăng về số lượng Luật
sư nhất là những địa bàn vùng sâu, vùng xa. Không những tăng về số lượng
mà còn cần quan tâm đến chất lượng, chế độ đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ, thi
tuyển phải bảo đảm các tiêu chuẩn về năng lực và đạo đức nghề nghiệp của
Luật sư; Cùng đó, cũng cần phải đảm bảo việc bảo vệ cho Luật sư khi hành
nghề, đồng thời xử lý nghiêm minh đối với luật sư vi phạm phạm pháp luật và
đạo đức nghề nghiệp. Cần có quy định bảo vệ Luật sư khi hành nghề, đồng
thời xử lý nghiêm minh đối với Luật xử lý vi phạm pháp luật và đạo đức nghề
nghiệp.
3.2.3. Đảm bảo nguyên tắc tranh tụng trong hoạt động xét xử các vụ
án hình sự
Để việc QĐHP trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt
của Thẩm phán được chính xác thì hoạt động xét xử các vụ án hình sự cần
đảm bảo được nguyên tắc tranh tụng. Quyền được xét xử bình đẳng giữa các
bên trong quá trình tố tụng là một yếu tố quan trọng, giúp cho bên buộc tội và
bên gỡ tội có quyền như nhau trong việc đưa ra chứng cứ, quan điểm, yêu cầu
và mỗi bên có thể thực hiện quyền tranh tụng của mình tại phiên Tòa. Đây
cũng là những đòi hỏi đầu tiên của công bằng trong xét xử. Tại Điều 7, Tuyên
ngôn nhân quyền có quy định mọi người đều bình đẳng trước pháp luật và có
quyền được pháp luật bảo vệ một cách bình đẳng.
95
Nghị quyết 08 của Bộ Chính trị đã có chủ trương tiến hành tranh tụng tại
phiên toà và chủ trương này đã được thể hiện tại Bộ luật TTHS năm 2003 và
BLTTHS năm 2015, cũng như tiếp tục được khẳng định tại Nghị quyết 49 về
chiến lược cải cách tư pháp và triển khai thi hành Hiến pháp 2013 thì nguyên
tắc “bảo đảm việc tranh tụng trong xét xử” cần được các cơ quan tư pháp đảm
bảo thực hiện, nhất là trong xét xử các vụ án hình sự. Tố tụng hình sự tranh
tụng có ưu việt là ít làm oan người vô tội, làm tăng trách nhiệm của các cán
bộ làm công tác pháp luật, nhất là các Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm
phán. Để cho việc QĐHP nói chung và QĐHP trong trường hợp chuẩn bị
phạm tội, phạm tội chưa đạt được khách quan, chính xác.
Đảm bảo các thủ tục tố tụng tư pháp theo hướng dân chủ, bình đẳng,
công khai, minh bạch, chặt chẽ, nhưng thuận tiện, đảm bảo sự tham gia và
giám sát của nhân dân đối với hoạt động tư pháp; đảm bảo chất lượng tranh
tụng tại các phiên toà xét xử, lấy kết quả tranh tụng tại phiên toà làm căn cứ
quan trọng để phán quyết bản án và Nghị quyết 49 đã chỉ rõ: “Hoàn thiện các
thủ tục tư pháp, đảm bảo tính đồng bộ, dân chủ, công khai, minh bạch, tôn
trọng và bảo vệ quyền con người”.
Lựa chọn mô hình TTHS nào trong quá trình thực hiện cải cách tư pháp
là một vấn đề quan trọng, cơ bản và được nhiều người quan tâm. Có ý kiến
cho rằng đề thực hiện yêu cầu về cải cách tư pháp mà Nghị quyết 08-NQ/TW
và Nghị quyết 49 của Bộ Chính trị đặt ra thì cần phải chuyển hoạt động tố
tụng hiện hành sang kiểu tố tụng tranh tụng một cách triệt để. Ý kiến này dựa
trên những ưu điểm của tố tụng tranh tụng và xu thế chuyển đổi sang mô hình
tố tụng hình sự tranh tụng của một số quốc gia trên thế giới. Chúng ta không
thể tiếp thu một cách máy móc cả những ưu điểm và hạn chế của mô hình tố
tụng này mà không có sự chọn lọc. Chúng ta cũng không thể giữ nguyên mô
hình tố tụng hình hiện tại. Trong số các nghiên cứu những năm gần đây ở Việt
96
Nam về vấn đề này không một ai nêu ra quan điểm giữ nguyên mô hình tố
tụng hình sự hiện hành, dù trực tiếp hay gián tiếp các ý kiến đều cho rằng cần
có sự đổi mới. Từ những phân tích nêu trên, chúng tôi cho rằng lựa chọn mô
hình tố tụng hình sự thẩm vấn tiếp thu những điểm tiến bộ, phù hợp với điều
kiện kinh tế, chính trị, xã hội, pháp lý nước ta của mô hình tố tụng tranh tụng
vào thời điểm hiện nay là hợp lý.
Lựa chọn mô hình tố tụng hình sự theo hướng này kế thừa, phát huy
những ưu điểm của tố tụng hình sự truyền thống của Việt Nam, tiếp thu
những điểm tiến bộ, phù hợp của mô hình tố tụng tranh tụng trong điều kiện
Việt Nam, khắc phục được những hạn chế vốn có của cả hai mô hình tố tụng
hình sự. Trên nền tảng của tố tụng thẩm vấn, tiếp thu tối đa những điểm phù
hợp của mô hình tố tụng tranh tụng hướng tới mục đích phát hiện chính xác,
nhanh chóng mọi tội phạm xử lý khách quan, công minh theo qui định của
pháp luật, không bỏ lọt tội phạm và không làm oan người vô tội thì cần phải
bổ sung nguyên tắc: “Bảo đảm việc tranh tụng trong xét xử các vụ án hình sự
và một số hoạt động tố tụng khác theo qui định của Bộ luật này. Kết quả tranh
tụng tại phiên tòa là căn cứ để Tòa án ra bản án và quyết định”. Việc qui định
nguyên tắc cơ bản này phù hợp với mô hình tố tụng đan xen, đồng thời phát
huy được tính dân chủ, khách quan của quá trình giải quyết vụ án, hỗ trợ cho
nguyên tắc công khai, minh bạch trong hoạt động tố tụng hình sự. Mặt khác,
nguyên tắc này còn có khả năng hạn chế sự lạm quyền của Cơ quan tiến hành
tố tụng, người tiến hành tố tụng xâm hại tới quyền và lợi ích hợp pháp của
người tham gia tố tụng khi họ tiến hành tố tụng. Khi đảm bảo được nguyên
tắc này thì cũng chính là góp vào vào việc đảm bảo việc QĐHP của Thẩm
phán được khách quan, chính xác, đúng với tính chất của hành vi phạm tội.
3.2.4. Đảm bảo thủ tục tại phiên tòa được thực hiện đầy đủ, đúng quy định
Hướng tới việc QĐHP trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội
chưa đạt được đảm bảo thì trong hoạt động xét xử và QĐHP Tòa án bảo đảm
97
quyền con người thì trong hoạt động tố tụng cần có sự phân định rạch ròi
chức năng của các cơ quan tiến hành tố tụng theo tinh thần của Nghị quyết 49
về chiến lược cải cách tư pháp. Thủ tục tố tụng cần được thực hiện một cách
đầy đủ, chặt chẽ đối với toàn bộ quá trình xét xử các vụ án hình sự theo
hướng đảm bảo nguyên tắc tranh tung, đảm bảo quyền được xét xử công
bằng, bình đẳng giữa những người tham gia tố tung. Đặc biệt ở giai đoạn
chuẩn bị xét xử các Thẩm phán cần phải nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án, dự kiến
các tình huống có thể xảy ra tại phiên tòa tạo điều kiện cho việc tranh luận tại
phiên tòa đạt hiệu quả tốt nhất. Khi xét hỏi, chủ toạ phiên toà chỉ nên hỏi có
tính chất nêu vấn đề, còn những câu hỏi có tính chất buộc tội, gỡ tội thì dành
cho kiểm sát viên và luật sư. Hội đồng xét xử và chủ toạ phiên toà không
được có những lời lẽ khẳng định hay phủ định bất kì một vấn đề nào mà kiểm
sát viên và những người tham gia tố tụng khác nêu ra cũng như không được
đánh giá, nhận xét đúng, sai về phiên toà. Trong tranh luận, Hội đồng xét xử
phải chú ý lắng nghe, tôn trọng các ý kiến của kiểm sát viên, luật sư và những
người tham gia tố tụng khác, tránh định kiến, phải quan tâm thoả đáng tới
những ý kiến khác với lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát.
3.2.5. Đảm bảo công tác giám sát, kiểm tra, kiểm sát các vụ án chuẩn
bị phạm tội, phạm tội chưa đạt
QĐHP trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt có tính
chất phức tạp, khó xác định, khó chứng minh hơn trường hợp tội phạm hoàn
thành. Vì vậy, việc đầu tư nghiên cứu khoa học, thống nhất nhận thức về
QĐHP trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt là hết sức cần
thiết để xây dựng cũng như áp dụng các quy định pháp luật liên quan đến vấn
đề này một cách chính xác.
Các vụ án xét xử trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt
không phổ biến như những vụ án hành vi phạm tội ở giai đoạn tội phạm hoàn
98
thành nên kinh nghiệm ứng xử của các cơ quan chức năng nói chung, Tòa án
nói riêng đối với loại vụ án này còn thiếu kinh nghiệm. Nhất là khi QĐHP cho
những trường hợp phạm tội này rất khó khăn. Đây cũng là một yếu tố gây ảnh
hưởng đến chất lượng QĐHP nên việc thống kê, tổng kết, tổ chức trao đổi
kinh nghiệm giải quyết vụ án chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt giữa các
cơ quan chức năng là hết sức cần thiết. Hơn nữa trong nhận thức của một bộ
phận quần chúng nhân dân vẫn cho rằng nếu tội phạm chưa bắt đầu thực hiện
thì chưa có tính nguy hiểm cho xã hội. Điều này làm cho việc đấu tranh, xử lý
các hành vi phạm tội chưa hoàn thành gặp nhiều khó khăn. Chính vì vây,
công tác giải thích, tuyên truyền, giáo dục, phổ biến các quy định PLHS nói
chung và quy định PLHS trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa
đạt như đề tài luận văn của học viên là điều rất cần thiết. Từ đây có thể lôi kéo
được đông đảo các lực lượng xã hội tham gia vào việc phát hiện, tố giác, đấu
tranh phòng, chống mọi hành vi phạm tội ngay từ giai đoạn mới hình thành.
Để đảm bảo cho việc QĐHP trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm
tội chưa đạt chính xác thì yêu cầu các cơ quan có thẩm quyền cần đảm bảo
công tác giám sát, kiểm tra, kiểm sát các vụ án chuẩn bị phạm tội, phạm tội
chưa đạt của Viện kiểm sát, của Tòa án cấp trên và của các cơ quan dân cử,
Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên, cũng như của nhân dân, bảo đảm
các vụ án chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt đều bị xử lý kịp thời, nghiêm
minh, nhanh chóng, cũng như không bỏ lọt các vụ án này, QĐHP có căn cứ,
qua đó, góp phần ổn định an ninh trật tự, an toàn xã hội, nhưng đồng thời
cũng bảo đảm phân hóa trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội được
công bằng, chính xác, góp phần đấu tranh phòng, chống tội phạm đạt hiệu quả
cao.
99
PHẦN KẾT LUẬN
BLHS năm 2015 với những điểm mới đã góp phần hoàn thiện PLHS của nước ta trong giai đoạn xậy dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Đề tài “Quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam” góp phần làm rõ những điểm mới của QĐHP trong hai trường hợp QĐHP đặc biệt trong BLHS năm 2015. Trên cơ sở các kết quả nghiên cứu của đề tài, luận văn có các kết luận sau:
1. QĐHP trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt là những quy định mang tính giảm nhẹ TNHS vì trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt nói chung chưa gây ra hậu quả hoặc gây hậu quả không đáng kể do mức độ nguy hiểm cho xã hội cũng chưa cao. Khi QĐHP đối với hành vi chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt Tòa án cần phải xuất phát từ nguyên tắc là tội phạm đã hoàn thành bao giờ cũng nguy hiểm hơn tội phạm chưa đạt và càng nguy hiểm hơn so với tội phạm trong giai đoạn chuẩn bị phạm tội.
2. Phạm tội chưa đạt đã hoàn thành nguy hiểm hơn phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành, phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành nguy hiểm hơn chuẩn bị phạm tội. Người phạm tội càng tiến gần mục đích và kết quả phạm tội mong muốn thì mức độ thực hiện ý định phạm tội càng cao, do vậy hình phạt áp dụng đối với người phạm tội càng cần thiết phải nghiêm khắc hơn.
3. Thực trạng của việc QĐHP trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt trong những năm qua còn một số hạn chế, kiếm khuyết trong việc đánh giá tính chất của hành vi phạm tội nên dẫn đến việc QĐHP không phù hợp với tính chất của hành vi phạm tội, làm ảnh hưởng đến mục đích của việc QĐHP, không đem lại hiệu quả như mong đợi.
4. Từ thực trạng của việc QĐHP trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt luận văn đưa ra một số giải pháp đảm bảo hiệu quả QĐHP đối với chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt, góp phần tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm có hiệu quả, góp phần bảo vệ chủ quyền, an ninh của đất nước, bảo vệ chế độ, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, lợi ích của Nhà nước và tổ chức.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
* Giáo trình và sách tham khảo
1. Phạm Văn Beo (2009), Luật hình sự Việt Nam - Quyển 1 (Phần
chung), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
3. Nguyễn Hòa Bình (2015), Những nội dung sửa đổi lớn và những
điểm mới trong phần chung của Bộ luật hình sự năm 2015.
3. Lê Cảm (Chủ biên) (2018), Nhận thức khoa học phần chung pháp luật
hình sự Việt Nam sau pháp điển hóa lần thứ ba, NXB Đại học Quốc gia Hà
Nội.
4. Lê Cảm (Chủ biên) (2009), Hệ thống tư pháp hình sự trong giai đoạn
xây dựng Nhà nước pháp quyền, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
5. Lê Cảm (Chủ biên) (2017), Những vấn đề cơ bản trong khoa học luật
hình sự (Phần chung), NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
6. Lê Cảm (Chủ biên) (2001), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần
chung), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
7. Lê Văn Cảm (1989), “Về bản chất pháp lý của quy phạm nguyên tắc
quyết định hình phạt quy định tại Điều 37 Bộ luật hình sự Việt Nam”, Tạp chí
Tòa án nhân dân.
8. Đảng cộng sản Việt Nam (2006), (2011), Văn kiện Đại hội Đại biểu
Toàn quốc lần thứ X, XI, NXB Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
9. Lê Văn Đệ (2010), Định tội danh và quyết định hình phạt trong Luật
hình sự Việt Nam, NXB Công an nhân dân, Hà Nội.
10. Đinh Bích Hà (Dịch) (2007), Bộ luật của nước Cộng hòa nhân dân
Trung Hoa, NXB Tư pháp, Hà Nội.
11. Trần Thị Hiển (Dịch) (2011), Bộ luật hình sự Nhật Bản, NXB Từ
điển Bách khoa, Hà Nội.
12. Nguyễn Ngọc Hòa (Chủ biên). Bình luận khoa học Bộ luận hình sự
(sửa đổi, bổ sung năm 2017), NXB Tư pháp năm 2017.
13. Nguyễn Ngọc Hòa (Chủ biên), (2001), Trách nhiệm hình sự và hình
phạt, NXB Công an nhân dân, Hà Nội.
14. Nguyễn Ngọc Hòa (Chủ biên), (2000), Giáo trình Luật hình sự Việt
Nam, NXB Công an nhân dân, Hà Nội.
15. Nguyễn Ngọc Hòa, Lê Thị Sơn (2006), Từ điển pháp luật hình sự,
NXB Tư pháp, Hà Nội.
16. Nguyễn Ngọc Hòa (2008), Tội phạm và cấu thành tội phạm, NXB
Công an nhân dân, Hà Nội.
17. Nguyễn Ngọc Hòa (Chủ biên) (1997), Luật hình sự Việt Nam -
Những vấn đề lý luận và thực tiễn, NXB Công an nhân dân, Hà Nội.
18. Phạm Mạnh Hùng (Chủ biên), Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng
hình sự năm 2015, NXB Lao động.
19. Nguyễn Văn Huyên (Chủ biên) (2006), Kỹ năng xét xử vụ án hình
sự, NXB Thống Kê, Hà Nội.
20. Dương Tuyết Miên (2010), Giáo trình Tội phạm học, NXB Chính trị
Quốc Gia, Hà Nội
21. Dương Tuyết Miên (2004), Định tội danh và Quyết định hình phạt,
NXB Công an nhân dân, Hà Nội.
22. Đoàn Tấn Minh, Nguyễn Ngọc Điệp (đồng Chủ biên), Phương pháp
định tội danh với 358 tội danh trong Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ
sung năm 2017), NXB Lao động.
23. Đinh Văn Quế (2001), Một số vấn đề về nguyên tắc xử lý quy định
trong Bộ luật hình sự năm 1999, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 11-2001.
24. Đinh Văn Quế (2000), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự Việt Nam
năm 1999, (Phần chung), NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
25. Đinh Văn Quế (2000), Tìm hiểu về hình phạt và quyết định hình phạt
trong luật hình sự Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
26. Quốc hội (2004), Bộ luật tố tụng hình sự của nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam năm 2003, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
27. Quốc hội (2017), Nghị quyết số 41/2017/QH14 về việc thi hành Bộ
luật Hình sự số 100/2015/QH13 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo
Luật số 12/2017/QH14 và về hiệu lực thi hành của Bộ luật Tố tụng hình sự số
101/2015/QH13.
28. Quốc hội (2013), Hiến pháp Nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
29. Quốc hội (2000), Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988, NXB Chính trị
Quốc Gia, Hà Nội.
30. Quốc hội (1988), Bộ luật hình sự năm 1985, NXB Chính trị Quốc
Gia, Hà Nội.
31. Quốc hội (2015), Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam năm 2015, NXB
Chính trị Quốc Gia, Hà Nội.
32. Quốc hội (2015), Bộ luật hình sự Việt Nam năm 2015 (sửa đổi, bổ
sung năm 2017), NXB Chính trị Quốc Gia, năm 2017.
33. Quốc hội (2004), Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam năm 2003, NXB
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
34. Quốc hội (2000), Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999, NXB Chính
trị Quốc gia, Hà Nội.
35. Trần Quang Tiệp (2003), Lịch sử Luật hình sự Việt Nam, NXB
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
36. Kiều Đình Thụ (1998), Tìm hiểu luật hình sự Việt Nam, NXB Thành
phố Hồ Chí Minh.
37. Tòa án nhân dân tối cao (1986), Nghị quyết số 02/1986/NQ-HĐTP
ngày 05/01/1986 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng
dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật hình sự, Hà Nội.
38. Tòa án nhân dân tối cao (1998), Nghị quyết số 01/1998/NQ-HĐTP
ngày 21/9 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp
dụng một số quy định của Bộ luật hình sự, Hà Nội.
39. Tòa án nhân dân tối cao (2006), Nghị quyết số 01/2006/NQ-HĐTP
ngày 12/5 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp
dụng một số quy định của Bộ luật hình sự, Hà Nội.
40. Tòa án nhân dân tối cao (2018), Công văn số 04/TANDTC-PC, ngày
09/01/2018 V/v áp dụng BLHS năm 2015 và Nghị quyết số 41 của Quốc hội.
41. Trịnh Quốc Toản (2011), Trách nhiệm hình sự của pháp nhân trong
pháp luật hình sự, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
42. Trịnh Quốc Toản (2015), Nghiên cứu hình phạt trong Luật hình sự
Việt Nam dưới góc độ bảo vệ Quyền con người. NXB Chính trị Quốc gia.
43. Trịnh Quốc Toản (2002), Một số vấn đề về giai đoạn phạm tội chưa
đạt, Khoa học, (Chuyên san Kinh tế - Luật).
44. Trường đại học cảnh sát (2001), Giáo trình luật hình sự Việt Nam
(Phần chung), Hà Nội.
45. Trường Đại học Cảnh sát nhân dân (1995), Giáo trình Luật hình sự
Việt Nam (Phần chung), Hà Nội.
46. Trường Đại học Luật Hà Nội (2001), Giáo trình Luật hình sự Việt
Nam, NXB Công an nhân dân, Hà Nội.
47. Trường Đại học Luật Hà Nội (2010), Bộ luật hình sự Thụy Điển,
NXB Công an nhân dân, Hà Nội.
48. Trường Đại học Luật Hà Nội (2011), Bộ luật hình sự Liên bang Nga,
NXB Công an nhân dân, Hà Nội.
49. Đào Trí Úc (2000), Luật hình sự Việt Nam, Quyển 1 - Những vấn đề
chung, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.
50. Chu Thị Trang Vân (2003), Tìm hiểu việc định tội và quyết định hình
phạt từ phương diện là hoạt động áp dụng pháp luật hình sự cơ bản của Tòa
án, Khoa học, (Chuyên san Kinh tế - Luật).
51. Viện Khoa học pháp lý (1999), “Tư pháp hình sự so sánh”, Thông
tin khoa học pháp lý.
52. Viện Khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp (2006), Từ điển Luật học, NXB
Tư pháp, Hà Nội.
53. Trịnh tiến Việt (Chủ biên), (2013), Tội phạm và trách nhiệm hình sự,
NXB Chính trị Quốc Gia - sự thật, năm 2013.
54. Trịnh Tiến Việt (2009), Về phạm tội chưa đạt và các hình thức phạm
tội khác trong quá trình thực hiện tội phạm, Tạp chí khoa học Đại học Quốc
gia, Luật học 25 (2009).
55. Trịnh Tiến Việt (2006), Nguyên tắc dân chủ trong Luật hình sự Việt
Nam, (Sách chuyên khảo), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
56. Trịnh Tiến Việt (Chủ biên), (2015), Pháp luật hình sự Việt Nam
trước thách thức an ninh phi truyền thống, NXB Chính trị Quốc gia sự thật.
57. Trịnh Tiến Việt (Chủ biên), (2017), Bảo vệ tự do và an ninh cá nhân
bằng pháp luật hình sự Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia sự thật.
58. Trịnh Tiến Việt (2016), (Chủ biên), Lý thuyết Kiểm soát xã hội đối
với tội phạm và ứng dụng ỏ Việt Nam, NXB Tư Pháp, Hà Nội, 2016.
59. Hồ Thanh Vinh (2014), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về tội
phạm chưa hoàn thành theo Luật hình sự Việt Nam, NXB Đại học Quốc gia
Hà Nội.
60. Võ Khánh Vinh (1994), Nguyên tắc công bằng trong Luật hình sự
Việt Nam, NXB Công an nhân dân, Hà Nội.
61. Võ Khánh Vinh (Chủ biên) (2007), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam
(Phần chung), NXB Công an nhân dân, Hà Nội.
* Trang Web
62. Http://vksndtc.gov.vn.
63. Http://tandndtc.gov.vn.