BỘ GIÁO DỤC

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC

VÀ ĐÀO TẠO

VÀ CÔNG NGHỆ VIỆT NAM

VIỆN SINH THÁI VÀ TÀI NGUYÊN SINH VẬT

PHẠM THỊ THU PHƢƠNG

ĐÁNH GIÁ TÁC DỤNG KHÁNG KHUẨN CỦA MÀNG AXIT POLYLACTIC

– NISIN VÀ KHẢ NĂNG ỨNG DỤNG TRONG BẢO QUẢN THỰC PHẨM

LUẬN VĂN THẠC SĨ SINH HỌC

1

Số hóa bởi trung tâm Học liệu– ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

Hà Nội – 2014

BỘ GIÁO DỤC

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC

VÀ ĐÀO TẠO

VÀ CÔNG NGHỆ VIỆT NAM

VIỆN SINH THÁI VÀ TÀI NGUYÊN SINH VẬT

PHẠM THỊ THU PHƢƠNG

ĐÁNH GIÁ TÁC DỤNG KHÁNG KHUẨN CỦA MÀNG AXIT POLYLACTIC

– NISIN VÀ KHẢ NĂNG ỨNG DỤNG TRONG BẢO QUẢN THỰC PHẨM

Chuyên ngành

: Vi Sinh Vật Học

Mã số

: 60 42 01 14

LUẬN VĂN THẠC SĨ SINH HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. LÊ THANH BÌNH

2

Số hóa bởi trung tâm Học liệu– ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

Hà Nội – 2014

3

Số hóa bởi trung tâm Học liệu– ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

MỞ ĐẦU

Những vấn đề nan giải đối với thực phẩm hiện nay không những phải đối mặt

với thực trạng mất an toàn vệ sinh nghiêm trọng mà còn phải đáp ứng các nhu cầu tiêu

dùng ngày càng cao về đảm bảo chất lượng, tươi, ngon và cung cấp toàn cầu. Trước

thực trạng đó, nghiên cứu nhằm tạo ra các loại bao bì có khả năng kháng khuẩn là một

ưu tiên trong xu hướng “đóng gói tích cực, active packaging”. Đóng gói tích cực là

giải pháp trong đó có sự tương tác giữa vật liệu bao gói, thực phẩm và môi trường để

gia tăng thời gian bảo quản, độ an toàn, trong khi vẫn bảo đảm chất lượng, các tính

chất cảm quan, độ tươi ngon của thực phẩm.

Trong hơn thập kỷ vừa qua, đã có nhiều công trình nghiên cứu, tìm kiếm, các

loại chất bảo quản có nguồn gốc sinh học và vật liệu thay thế các polymer dầu mỏ,

giảm thiểu ô nhiễm môi trường. Sử dụng các chất kháng khuẩn có nguồn gốc sinh học

như bacteriocin, trong đó, đặc biệt là nisin trong bảo quản, chế biến thực phẩm đang

được quan tâm nhiều. Nisin có khả năng kìm hãm sự sinh trưởng của một số nhóm vi

sinh vật gây bệnh, gây hỏng thối hỏng thực phẩm được xem là an toàn (GRAS). Hiện

nay, nisin nằm trong danh mục các chất phụ gia an toàn có ký hiệu quốc tế E234, đã và

đang được dùng để bảo quản thực phẩm ở hơn 50 quốc gia. Sử dụng nisin để bảo quản

thực phẩm đã khắc phục các nhược điểm của các phương pháp bảo quản bằng hoá

chất, chất kháng sinh, chiếu xạ. Ngoài ra, nisin có nhiều tính chất ưu việt như có bản

chất protein, không độc, hoạt tính cao, phổ kháng khuẩn tương đối rộng, khả năng chịu

được nhiệt độ và chịu áp suất cao. Vì vậy, nisin là ứng cử viên hàng đầu cho hướng

nghiên cứu này.

Trong số các polymer phân hủy sinh học, axit polylactic (PLA) được tổng hợp

từ axit L-lactic, một loại axit được sản xuất từ quá trình lên men vi sinh vật. Vì thế,

PLA được xem là lựa chọn hàng đầu trong số các polymer sinh học có khả năng thay

4

thế các polymer từ dầu mỏ. Hiện nay, một số loại sản phẩm nhựa sinh học PLA đã ra đời như BiotaTM-Chai đựng nước bằng nhựa PLA, NobleTM- Bình đựng nước hoa quả bằng nhựa PLA, DannonTM-hộp đựng sữa chua bằng nhựa PLA.

Số hóa bởi trung tâm Học liệu– ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

Hướng nghiên cứu tạo vật liệu từ các polymer sinh học và chất kháng khuẩn

nguồn sinh học, để tạo ra sản phẩm bao bì thực phẩm có khả năng kháng khuẩn và

phân hủy sinh học- rõ ràng là một giải pháp “thân thiện môi trường” và là lựa chọn căn

cơ cho sự phát triển bền vững.

Xuất phát từ những thực tiễn trên chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “ Đánh

giá tác dụng kháng khuẩn của màng axit polylactic – nisin và khả năng ứng dụng

trong bảo quản thực phẩm”. với mục tiêu :

- Đánh giá khả năng kháng khuẩn của màng axit polylactic – nisin

- Đánh giá khả năng phân hủy sinh học của màng axit polylactic – nisin

- Nghiên cứu điều kiện, thời gian bảo quản màng axit polylactic – nisin

- Ứng dụng màng axit polylactic – nisin để bảo quản thực phẩm lên men (nem chua)

5

và bánh cốm

Số hóa bởi trung tâm Học liệu– ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

PHẦN I. TỔNG QUAN

1.1. HIỆN TRẠNG VÀ XU HƢỚNG NGHIÊN CỨU BAO BÌ THỰC PHẨM

KHÁNG KHUẨN VÀ PHÂN HỦY SINH HỌC

Tình trạng thực phẩm hiện nay đang đứng trước các nguy cơ mất an toàn vệ

sinh cao trong khi lại phải đáp ứng các nhu cầu tiêu dùng các loại thực phẩm đảm bảo

chất lượng, tươi, ngon và cung cấp toàn cầu. Xu hướng đó đã dẫn tới những thay đổi

mạnh mẽ của ngành công nghiệp bao bì và đóng gói thực phẩm [18; 71]. Các loại bao

bì an toàn và thân thiện môi trường được phát triển. Các loại chất bảo quản có nguồn

gốc sinh học đang dần thay thế các chất bảo quản hóa học và chất kháng sinh. Hướng

nghiên cứu tạo ra các loại bao bì có khả năng kháng khuẩn, có khả năng ức chế, tiêu

diệt vi khuẩn gây bệnh, gây ngộ độc thực phẩm, bảo đảm chất lương, độ tươi ngon của

thực phẩm, an toàn cho người sử dụng và thân thiện với môi trường đang thu hút nhiều

nghiên cứu [12; 46; 47; 48; 51; 56; 58; 82]. Trong thập kỷ vừa qua, đã có nhiều công

trình nghiên cứu, tìm kiếm, sử dụng các vật liệu có nguồn gốc sinh học để dần thay thế

các polyme dầu mỏ và giảm thiểu ô nhiễm môi trường. Hiện nay, các loại vật liệu phân

hủy sinh học như axit polylactic (PLA), polyhydroxybutyrate (PHB) được xem là các

ứng cử viên cho hướng phát triển này. Bởi vì, PLA, PHB có khả năng phân hủy trong

tự nhiên, không gây ô nhiễm môi trường, không phụ thuộc vào tăng giá do quá trình

khan hiếm của dầu mỏ... Trong số các polymer phân hủy sinh học, PLA là loại được

tổng hợp từ axit L-lactic, loại axit được sản xuất từ quá trình lên men vi sinh vật từ các

nguồn nguyên liệu rẻ, có sẵn như ngô, khoai, sắn hoặc từ sinh khối thực vật. Vì thế,

PLA được xem là lựa chọn hàng đầu trong số các polyme sinh học có khả năng thay

thế các polyme từ dầu mỏ.

Sử dụng các chất kháng khuẩn có nguồn gốc sinh học như bacterocin, trong đó,

đặc biệt là nisin trong quá trình bảo quản, chế biến thực phẩm đang được quan tâm

nhiều. Nisin có khả năng kìm hãm sự sinh trưởng của một số nhóm vi sinh vật gây

bệnh, gây thối hỏng thực phẩm và được xem là an toàn (GRAS). Nisin là một

bacteriocin, cấu tạo gồm 34 axit amin, có khối lượng phân tử 3,5 kDa, được tổng hợp

bởi một số chủng thuộc loài Lactococcus lactis. Nisin được Tổ chức Nông Lương và Y

tế thế giới (FAO/WHO), cơ quan quản lý thuốc và thực phẩm (FDA) của Mỹ cho phép 6

Số hóa bởi trung tâm Học liệu– ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

sử dụng trong bảo quản và làm phụ gia thực phẩm. Hiện nay, nisin nằm trong danh

mục các chất phụ gia có ký hiệu quốc tế E234, đã và đang được dùng để bảo quản thực

phẩm ở hơn 50 quốc gia. Phạm vi ứng dụng của nisin khá rộng, từ các sản phẩm tươi

sống đến các loại thực phẩm lên men, đóng hộp, dạng rắn cũng như dạng nước. Sử

dụng nisin không làm thay đổi cảm quan, không làm biến đổi chất lượng, không để lại

dư lượng trong thực phẩm. Sử dụng nisin để bảo quản thực phẩm đóng hộp, sẽ làm

giảm nhiệt độ và thời gian thanh trùng. Nisin đã trở thành chất chuyên biệt dùng để

bảo quản thực phẩm, là chất bảo quản nguồn gốc sinh học có giá trị, khắc phục được

nhược điểm của các phương pháp sử dụng hoá chất, chất kháng sinh, chiếu xạ. Nisin

có nhiều tính chất ưu việt như có bản chất protein, không độc, hoạt tính cao, phổ

kháng khuẩn tương đối rộng, khả năng chịu được nhiệt độ và chịu áp suất cao [18].

Hướng nghiên cứu tạo vật liệu từ các polyme sinh học và chất kháng khuẩn, để

tạo ra sản phẩm bao bì bảo quản thực phẩm có khả năng kháng khuẩn và phân hủy sinh

học đang là mục tiêu của nhiều nhóm nghiên cứu. Trong công trình của Kritos và cộng

sự [51], đã sử dụng màng natri – casein kết hợp với nisin để tạo ra màng kháng khuẩn.

Trong khi đó, Xu và cộng sự [81] lại tạo màng từ glucomana – gellan - nisin, Millette và

cộng sự [58] tạo ra màng kháng khuẩn sinh học bản chất alginate - nisin... Gần đây,

trong công bố của Liu và cộng sự [56], các tác giả đã sử dụng 80 % PLA, 20 % pectin

và kết hợp với 200 IU nisin/g để tạo ra loại polyme sinh học có tính kháng khuẩn.

An toàn vệ sinh thực phẩm ở Việt nam là một vấn đề vô cùng cấp bách, đang

gây nhiều bức xúc, vấn nạn cho xã hội. Các loại thực phẩm được chế biến, bảo quản

và vận chuyển hầu hết trong điều kiện không an toàn. Thực phẩm chủ yếu chỉ được

đựng và bao gói bằng bao giấy và các màng polyme có nguồn gốc dầu mỏ. Những loại

màng này được tạo ra từ các loại polyme như polyethylene (PE), polypropylene (PP),

polyvinylclorua (PVC). Nhược điểm của các loại màng này và bao giấy là, ngoài việc

gây tổn thất chất dinh dưỡng trong quá trình bảo quản, lại không có tác dụng đối với vi

sinh vật gây bệnh thực phẩm nội tại hay xâm nhập từ bên ngoài. Mặt khác, các màng

này không có khả năng tự phân hủy, nên lại là nguyên nhân gây ô nhiễm môi trường.

Ngoài ra, việc bảo quản thực phẩm thường lạm dụng quá mức các chất hóa học và đặc

biệt là việc sử dụng các chất kháng sinh trong y học vào bảo quản, chế biến thực 7

Số hóa bởi trung tâm Học liệu– ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

phẩm, đây là một nguyên nhân dẫn đến tình trạng phát tán nhanh tính kháng thuốc, là

nguy cơ lớn đối với sức khỏe con người.

Việt Nam chưa có nghiên cứu về bao bì có tính kháng khuẩn và tự phân huỷ.

Tuy đã có một số nghiên cứu về polyme sinh học như là chitosan, tinh bột biến tính và

một số polymer được tách từ tự nhiên nhưng những nghiên cứu về chất kháng khuẩn

có nguồn gốc sinh học đầu tiên phải kể đến nhóm nghiên cứu của Lê Thanh Bình và

cộng sự [3; 9]. Tuy nhiên, hầu hết các công trình trên chủ yếu tập trung vào vấn đề tạo

chủng giống, năng suất, công nghệ sản xuất, sản phẩm, hướng nghiên cứu tạo vật liệu

bao bì thực phẩm chưa được đề cập.

1.2. NISIN

1.2.1. Lịch sử nghiên cứu về nisin

Năm 1877, Pasteur và Joubert đã lần đầu tiên ghi nhận hiện tượng ức chế lẫn

nhau giữa các chủng Bacillus anthracis, một loại vi khuẩn thường được tìm thấy có

mặt trong nước tiểu [73]. Những nghiên cứu tiếp theo của Florey và cộng sự cũng

khám phá ra bệnh than (anthrax) và bệnh bạch hầu (diphtheria) bằng các vi sinh vật

không gây bệnh, có tính đối kháng. Năm 1925, Gratia đã phát hiện đã ra sự ảnh hưởng

lẫn nhau của hai chủng E. coli. Đến năm 1928, Roges là người đầu tiên phát hiện ra

nisin, một polypeptide do chủng Lactococcus tổng hợp có khả năng ức chế chủng L.

lactis. Năm 1946, Gratia và Frederic đã phân lập thành công một chất sinh ra từ chủng

E. coli V có khả năng ức chế E. coi và gọi tên là “colicine”. Vào năm 1953, Jacob và

cộng sự đã sử dụng “bacteriocin” làm thuật ngữ chung cho các chất kháng khuẩn có

bản chất protein được sinh ra từ vi sinh vật. Năm 1982 theo Konisky thì thuật ngữ

colicine ngày nay được dùng để chỉ các bacteriocin được sản xuất bởi một số chủng

thuộc loài E. coli và có quan hệ gần họ với họ Enterobacteriaceae. Chính vì thế mà ý

nghĩa ban đầu của thuật ngữ bacteriocin có đặc trưng phổ biến của colicine như: có

phổ kháng khuẩn hẹp và có khả năng bám lên các thụ thể trên bề mặt tế bào [18]. Sau

đó, phát hiện bổ sung về mối liên quan giữa sự tổng hợp bacteriocin và plasmid. Tại

đây cho thấy có sự khác nhau giữa colicine và bacteriocin được sinh ra bởi các chủng

vi khuẩn Gram dương [18; 73]. Bateriocin được tổng hợp từ các vi khuẩn Gram dương

không có thụ thể đặc biệt để bám trên bề mặt tế bào, thường có khối lượng thấp hơn 8

Số hóa bởi trung tâm Học liệu– ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

colicine, có thể có cơ chế tiêu diệt khác so với colicine, có phổ tác dụng rộng hơn và khác

nhau về cách vận chuyển và giải phóng trong tế bào và nó có thể có trình tự đầu được

phân chia trong giai đoạn thành thục [18; 45].

Trong suốt 2 thập kỷ gần đây, bacteriocin – một sản phẩm do vi sinh vật sinh ra

có khả năng giết hoặc ức chế sự phát triển của các vi sinh vật khác đã được nghiên cứu

rất nhiều về các đặc tính sinh hóa cũng như các đặc điểm về di truyền ở cấp độ phân tử

bởi vai trò của nó trong vấn đề bảo quản. Bacteriocin có đặc tính giống như một kháng

sinh vì nó có khả năng kháng khuẩn nhưng bacteriocin không phải là kháng sinh.

Bacteriocin khác với các kháng sinh bởi quá trình tổng hợp, cơ chế tác dụng, phổ tác

dụng, tính miễn dịch của chủng sản, đích tấn công… [19]. Bacteriocin có bản chất

protein, được tổng hợp ở ribosome và có phổ kháng khuẩn hẹp, có khả năng ức chế

các vi khuẩn có quan hệ họ hàng với nó [21; 25; 73]. Theo Joger và cộng sự năm 2000,

bacteriocin là một polypeptide được tổng hợp ở ribosome và bị phân hủy rất nhanh bởi

enzym phân hủy protein trong hệ tiêu hóa của người. Vì vậy, để nghiên cứu bản chất

protein của những bacteriocin mới người ta thường thử khả năng nhạy cảm của chúng

với các enzym phân hủy protein.

1.2.2. Cấu trúc của nisin

Nisin có công thức C143H230N42O37S7, là một bacteriocin thuộc nhóm I- còn

gọi là nhóm lantibiotic trong hệ thống phân loại 4 nhóm. Nisin cấu tạo gồm 34 axit

amin, có khối lượng phân tử 3,5 kDa, được tổng hợp bởi một số chủng thuộc dưới loài

L. lactis subsp. lactis, thường được viết là L. lactis [18; 44; 77]. Nisin được phát hiện từ

năm 1928. Tuy nhiên, phải mãi tới năm 1957 mới xuất hiện nisin đầu tiên trong các

phân xưởng sản xuất pho mát quy mô nông trại, để bảo quản các sản phẩm làm ra. Cũng

trong năm này, hãng Aplin và Barrett đã đưa ra chế phẩm nisin thương mại sử dụng

trong thực phẩm. Mặc dù vậy, giá trị của nisin trong bảo quản thực phẩm cũng chỉ được

xác lập trong khoảng ba thập kỷ lại đây. Trong khi những nghiên cứu cơ bản và công

nghệ ngày càng được quan tâm nhiều hơn [18; 67; 77; 85]. Dạng chế phẩm của nisin sẵn

có nhất hiện nay trên thị trường là Nisaplin, với thành phần 2,5 % nisin.

Cấu trúc của nisin được Gross và Morell làm sáng tỏ năm 1971. Nisin là một

chuỗi polypeptide gồm 34 axit amin tạo thành 5 vòng cấu trúc A, B, C, D, E, được nối 9

Số hóa bởi trung tâm Học liệu– ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

với nhau bằng cầu nối disulfide (hình 1.1). Có ít nhất 6 dạng nisin đã được phát hiện,

ký hiệu từ A đến E và Z. Đến nay, 4 loại nisin đã được nghiên cứu đặc tính là nisin A,

Z, Q và nisin U. Trừ trường hợp nisin U được tổng hợp bởi loài Streptococcus uberis,

tất cả các nisin còn lại đều do loài L. lactis sinh ra.

Phân tử nisin không chứa các axit amin thơm, nên không hấp thụ ở bước sóng

280 nm. Các axit amin dị thường đóng vai trò như một nhóm ái nhân (nucleophile),

được xác định thông qua khả năng phản ứng với các mercaptan. Có thể vì các nhóm

này rất quan trọng để đảm bảo nisin có khả năng xâm nhập vào màng tế bào đích. Cấu

trúc gồm 5 vòng của nisin giúp cho nó có độ vững chắc, đồng thời góp phần đề kháng

lại các tác dụng của enzym proteinase và sự biến tính do nhiệt.

Phân tử nisin có thể tồn tại ở dạng monome với khối lượng phân tử 3500 Dal.

Tuy nhiên, do các phân tử nisin có thể tương tác, liên kết với nhau thông qua các nhóm

axit dehydroamin và các nhóm amin. Vì vậy, nisin có thể tồn tại ở dạng dime hay

tetrame, với khối lượng phân tử tương ứng là 7000 Dal và 14000 Dal.

Hình 1.1. Cấu trúc phân tử nisin

Những thành tựu nghiên cứu sinh học phân tử gần đây, chứng minh nisin bao

gồm một số peptide có tính kháng khuẩn, một sản phẩm dị gen, bao gồm 11 gen như

sau: Nis A, Nis B, Nis T, Nis C, Nis I, Nis P, Nis R, Nis K, Nis F, Nis E và Nis Z.

Trong tự nhiên, tồn tại chủ yếu 2 dạng nisin là A và Z, chúng khá bền vững.

Cấu tạo của nisin A và Z chỉ khác nhau bởi một axit amin ở vị trí thứ 27, histidine

trong cấu trúc của nisin A, trong khi axit aspartic ở nisin Z.

Do có bản chất là một protein, nên hầu hết các đặc điểm hóa lý của nisin phụ

10

thuộc nhiều vào pH của môi trường xung quanh. Mức độ hoà tan của nisin phụ thuộc

Số hóa bởi trung tâm Học liệu– ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

rất nhiều vào pH. Nisin kém bền vững và dễ dàng mất hoạt tính ở pH cao.

Nisin là một bacteriocin bền nhiệt. Sau 60 phút xử lý ở 100 oC, nisin vẫn còn 50 % hoạt tính. Ở 121 oC, sau 10 phút, hoạt tính còn 46 %, sau 60 phút còn 22 %. Độ

bền nhiệt của nisin phụ thuộc vào pH, pH càng thấp thì độ bền nhiệt càng cao. So với

các bacteriocin khác, nisin có độ bền nhiệt hơn hẳn.

Nisin không có khả năng tác động đối với vi khuẩn Gram âm, nấm men và nấm

mốc. Trong điều kiện thông thường, nisin chỉ tác động được đối với vi khuẩn Gram

dương, trong đó có vi khuẩn lactic, một số vi khuẩn gây bệnh như Listeria,

Staphylococcus, Mycobacterium và các vi khuẩn sinh bào tử Bacillus, Clostridium.

Nisin tác động có hiệu quả cao hơn ở trong các sản phẩm thực phẩm có độ pH thấp, có

trải qua giai đoạn gia nhiệt, như các sản phẩm rau quả, thực phẩm đóng hộp. Một trong

những cơ chế giải thích tác động của nisin đối với tế bào nhạy cảm là do sự tạo thành

các lỗ thủng, các kênh trên màng nguyên sinh chất, nguyên nhân gây thất thoát các

phân tử, các ion có kích thước nhỏ trong nội bào, làm giảm lực vận chuyển proton

PMF (Proton Motive Force), ảnh hưởng tới quá trình tổng hợp ATP, dẫn tới sự chết tế

bào [43; 59; 68].

Cơ chế tác động của nisin đối với tế bào nhạy cảm được nghiên cứu nhiều hơn.

Phần lớn các quan điểm cho rằng, để tác động đối với vi khuẩn, nisin phải trải qua hai

bước chính:

- Ban đầu bám trên thành tế bào vi khuẩn nhạy cảm thông qua các thụ thể

- Sau đó xâm nhập qua thành tế bào và tạo các lỗ trên màng nguyên sinh chất và

thông qua các cơ chế theo mô hình “kiểu chèn”, theo kiểu nêm và cơ chế tạo mao quản

có sự tham gia của lipide II [18; 35; 43].

1.2.3. Cơ chế tác dụng của nisin

Nisin có tác dụng ức chế vi khuẩn Gram (+), đặc biệt là các vi khuẩn gây bệnh,

gây hỏng thực phẩm như Clostridium butiricum và Cl. Tyrobutiricum, Staphylococcus

aureus, Bacillus cereus... [17; 26; 30; 44]. Đối với bào tử, nisin có khả năng ức chế sự

nảy mầm của chúng. Mặc dù không có khả năng ức chế và tiêu diệt vi khuẩn Gram (-)

nhưng khi kết hợp với EDTA hoặc một vài nhân tố khác như nhiệt độ, axit ...thì nisin

11

có khả năng ức chế sự phát triển của vài loại vi khuẩn này [15]

Số hóa bởi trung tâm Học liệu– ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

Nisin được xem là một chất kháng khuẩn có khả năng ức chế hoặc tiêu diệt vi

khuẩn Gram (+). Tác dụng của nisin lên tế bào tại pha sinh trưởng thường mạnh hơn

rất nhiều so với tế bào tại pha cân bằng [26]. Nguyên nhân do sự phá vỡ các tổ chức

cục bộ trên màng tế bào nhạy cảm với nisin, sau đó phá vỡ màng tế bào, xâm nhập

vào tế bào chất và làm chết tế bào vi sinh vật đó [34; 73].

Nisin cũng như phần lớn các bacteriocin khác không có khả năng ức chế và tiêu

diệt vi khuẩn Gram (-), trừ Salmonella typhimurium, E. coli bị ức chế khi có mặt của

EDTA. Ngoài ra bất kỳ sự ức chế nào của vi khuẩn lactic đối với vi khuẩn Gram (-)

đều do các nguyên nhân khác chẳng hạn như pH thấp, H2O2, cạnh tranh về

dinh dưỡng, hay do tính kỵ nước của chúng. Điều này được giải thích là do sự khác

nhau của thành tế bào của vi khuẩn Gram (+) và Gram (-). Bacteriocin chỉ tạo được lỗ

thủng trên thành tế bào Gram (+) mà không tạo được lỗ thủng trên thành tế bào Gram

(-) [26].

Tác dụng của nisin lên vi sinh vật nhạy cảm bao gồm 2 kiểu hình . Kiểu

tác dụng không đặc trưng: nisin bám dính lên bề mặt của tế bào nhạy cảm mà không

cần phải có bất kỳ một thụ thể đặc biệt nào của vi khuẩn Gram (+) và phá thủng màng

tế bào làm thoát các thành phần nội bào dẫn đến tiêu diệt vi khuẩn [30]. Kiểu hình thứ

2: nisin tương tác đặc hiệu với lipid II tiền tố peptidoglucan để phá thủng màng tế bào

đích và sự tương tác đặc hiệu có sự tham gia của 2 peptide và lipid II tiền tố thành tế

bào [79].

Mức độ tác động của nisin lên các loại vi khuẩn rất khác nhau, phụ thuộc vào

thành phần của màng phospholipid của tế bào vi khuẩn. Ở vi khuẩn Gram (+),

peptidoglycan chiếm 90% khối lượng thành tế bào, số lớp peptidoglycan có thể

lên tới 25 lớp. Trong khi đó ở vi khuẩn Gram (-) lượng peptidoglycan chỉ

chiếm 10% tổng khối lượng thành tế bào, ngoài ra chúng còn có một lớp màng ngoài

quan trọng (outer membrane – OM). Lớp màng ngoài này có cấu tạo lipid kép tương

tự màng nguyên sinh chất nhưng không chỉ có phospholipids hình thành nên cấu trúc

mà còn có polysaccharide và protein. Lipid và polysaccharide liên kết chặt chẽ

12

với nhau tạo thành một cấu trúc lipopolysaccharide đặc biệt bên ngoài thành tế bào. Vi

Số hóa bởi trung tâm Học liệu– ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

khuẩn Gram (-) có thể chống chịu lại nhiều tác nhân gây hại đối với tế bào là nhờ vào

lớp màng ngoài OM có khả năng ngăn chặn các tác nhân đó một cách có hiệu quả.

Lớp màng OM không cho phép các phân tử lượng lớn thẩm thấu qua mà chỉ cho phép

các hợp chất kỵ nước khuếch tán một cách hạn chế qua màng. Lớp ngoài cùng

của màng OM không có glycerophospholipid do vậy tăng cường được sự khuếch tán

kị nước.

Chính nhờ lớp màng ngoài OM mà vi khuẩn Gram (-) không bị tác động của các

bacteriocin. Tuy nhiên dưới ảnh hưởng của một số tác nhân thì có thể làm suy giảm

chức năng rào cản của lớp màng ngoài OM, ví dụ như các tác nhân tạo phức “càng”

(chelator) như ethylenediaminetetraacetic acid (EDTA), sốc nhiệt, làm lạnh, axit, sốc

thẩm thấu. Chính nhờ điều này mà người ta đã ứng dụng để xử lý kết hợp

với bacteriocin nhằm tiêu diệt vi khuẩn Gram (-). EDTA là hợp chất được

nghiên cứu nhiều nhất về tác động kết hợp nisin đối với vi khuẩn Gram (- ). Stevens

và các cộng sự (1991) đã nghiên cứu sử dụng nisin kết hợp EDTA để tiêu diệt

một số chủng Salmonella. Kết quả cho thấy với nồng độ nisin 50 mg/ml và EDTA 20 nM thì sau 1 giờ xử lý ở 37oC, số lượng tế bào các chủng vi khuẩn nghiên cứu đều giảm từ 10 3,2 đến 10 6,9 CFU/ml. Trong khi đó khi sử dụng chỉ một trong hai tác nhân

EDTA hoặc nisin thì số lượng tế bào giảm không đáng kể.

1.2.4. Khả năng diệt khuẩn của nisin

Khả năng diệt vi khuẩn Gram (+)

Nisin thuộc bacteriocin nhóm I, có tác dụng diệt những vi khuẩn Gram (+) gồm

những loài vi khuẩn có quan hệ họ hàng, các vi sinh vật gây bệnh như B. cereus,

Enterococus, Lactobaccillus, Lactococcus, Leuconostoc, Pediococus, L.

monocytogens, L. innocua, L. grayi, L. ivanovii, L. murrayi, L. seeligeri, L.

welchimeri, Staphylococus spp, Mycobacterium. Giá trị quan trọng của nisin đối với

việc bảo quản thực phẩm được thể hiện ở tác động của nó lên các vi khuẩn sinh bào tử

như là Clostridium và Bacillus là tác nhân chính gây thối thực phẩm.

Khả năng diệt vi khuẩn Gram (-)

Trong một số điều kiện nhất định như khi kết hợp với các tác nhân chelate (ví dụ

EDTA), nisin có thể tiêu diệt Salmonella. Trong điều kiện đông lạnh, xử lý nhiệt, pH 13

Số hóa bởi trung tâm Học liệu– ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

thấp, nisin có thể ức chế một số vi khuẩn Gram âm như Salmonella, Shigella,

Klebsiella, E. coli.

Khả năng diệt nấm mốc

Sử dụng nisin để bảo quản phomat người ta thấy rằng nisin làm giảm đáng kể vi

sinh vật sinh bào tử bao gồm nấm mốc và Bacillus.

Tác dụng của nisin lên nấm men

Nghiên cứu mới đây cho thấy sử dụng nisin với nồng độ50 IU/g đã kéo dài thời

gian bảo quản phomat Galotyri của Hy lạp đến 42 ngày. Các vi sinh vật chiếm ưu thế

trong phomat như lactobacilli, lactoccoci và các nấm men đã giảm một cách đáng kể.

1.2.5. Ứng dụng của nisin trong bảo quản thực phẩm

Việc ứng dụng bacteriocin vào bảo quản thực phẩm, không chỉ do có tác dụng

kháng khuẩn rõ rệt, mang tính thời sự cao mà còn do con người nhận thức rõ hơn về

hậu quả của ô nhiễm môi trường, do việc sử dụng hóa chất và chất kháng sinh trong

bảo quản [18; 43; 59; 68]. Phạm vi ứng dụng của nisin khá rộng, từ các sản phẩm tươi

sống đến các loại thực phẩm lên men, đóng hộp, dạng rắn cũng như dạng nước [18;

77]. Sử dụng nisin không làm thay đổi cảm quan, không làm biến đổi chất lượng,

không để lại dư lượng trong thực phẩm. Dùng nisin để bảo quản thực phẩm đóng hộp,

sẽ làm giảm nhiệt độ và thời gian thanh trùng. Nisin đã trở thành chất chuyên biệt

dùng để bảo quản thực phẩm, là chất bảo quản nguồn gốc sinh học có giá trị, khắc

phục được nhược điểm của các phương pháp sử dụng hoá chất, chất kháng sinh, chiếu

xạ [18; 43]. Sử dụng nisin trong các loại đồ uống có cồn có thể ngăn cản sự lên men

axit lactic. Bổ sung nisin vào quá trình thanh trùng bia có thể kéo dài quá trình cất giữ

bia. Nisin còn được sử dụng để bảo quản các thực phẩm chế biến từ đậu tương và chế

biến từ ngũ cốc, các loại thức ăn đóng gói. Để bảo quản thực phẩm, nisin có thể bổ

sung với hàm lượng 100 mg/kg- 200 mg/kg và tối đa là 500 mg/kg.

Do đặc tính bền nhiệt, bền vững trong điều kiện pH axit hoặc trung tính,

bacteriocin là một giải pháp hay trong bảo quản thực phẩm lên men cũng như không

lên men.

Đối với thực phẩm lên men, người ta bổ sung vào đó các chủng vi khuẩn lactic

phân lập từ thịt có khả năng sinh bacteriocin như là giống khởi động [34]. Các vi 14

Số hóa bởi trung tâm Học liệu– ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

khuẩn lactic này sinh trưởng tạo ra pH thấp và sinh tổng hợp bacteriocin ức chế các vi

sinh vật gây thối cũng như các vi sinh vật gây bệnh vốn có trong các sản phẩm tự

nhiên. Do đó, sản phẩm lên men vừa có hương vị thơm ngon lại vừa an toàn cho người

sử dụng.

Đối với các sản phẩm thực phẩm không lên men (thịt, cá, rau xanh…),

bacteriocin đóng vai trò là chất bảo quản, giữ cho thực phẩm được tươi sống lâu hơn

do nó ức chế sự sinh trưởng và phát triển của vi sinh vật gây thối, vi sinh vật gây bệnh

trong sản phẩm tự nhiên.

Bacteriocin của vi khuẩn lactic không những bảo quản thực phẩm được lâu hơn,

tươi hơn mà còn không tạo màu sắc, mùi khó chịu cho sản phẩm bảo quản. Hơn nữa,

chúng được coi là an toàn đối với người sử dụng và làm hạn chế hiện tượng kháng

thuốc [55].

Theo tác giả B. Ten Brink thì bacteriocin của vi khuẩn lactic còn được sử dụng

trong các nghiên cứu phân loại.

Một loại bacteriocin của vi khuẩn lactic được sử dụng như một sản phẩm

thương mại trong bảo quản thực phẩm là nisin. Nisin đầu tiên được sản xuất dưới dạng

thương phẩm là nisin A với tên thương mại là Nisaplin. Nisin được quan tâm nghiên

cứu nhiều cả ở trong phòng thí nghiệm cũng như trong công nghiệp. Nisin được chứng

minh là an toàn cho con người khi sử dụng từ năm 1962 bởi hai tác giả Frazer và Hara.

FAO/WHO cho phép sử dụng nisin trong bảo quản thực phẩm từ năm 1969. Năm

1988, tổ chức FDA của Mỹ công nhận nisin là an toàn cho sử dụng và nó được sử

dụng làm chất bảo quản thực phẩm.

Theo Linda J. Harris và cộng sự (1992), H. Chen và D.G. Hoover năm 2003

[18, 40], nisin rất nhạy cảm với enzym α – Chymotrypsin và không bị phân hủy bởi

enzym trypsin, elastase, carboxypeptidase A, pepsin và erepcin. Nisin có chứa axit

amin lanthionine (Ala-S-Ala) và β – methyllanthionine (Abu-S-Ala), axit amino

butyric (Abu), dehydroalanin (Dha), dehydrobutyrin (Dhb).

Nisin là một bacteriocin duy nhất được cho phép sử dụng trong bảo quản thực

phẩm. Nó được sử dụng trong rất nhiều loại thực phẩm, đặc biệt lĩnh vực áp dụng

chính của nisin vẫn là các sản phẩm thực phẩm thông dụng hàng ngày (nhất là phomat 15

Số hóa bởi trung tâm Học liệu– ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

và các sản phẩm thực phẩm đóng hộp). Năm 1969, theo JECFA (the Join FAO/WHO

Expert Committee on Food Additive) ngưỡng cho phép sử dụng nisin đầu vào (ADI –

Acceptable Daily Intake) là 0,13 mg/kg thể trọng/ngày nhưng ngưỡng này là quá cao

và đến năm 1988, FDA (Food and Drug Administration) dựa trên liều lượng tính toán

đã đưa ra ADI là 0,049 mg/kg thể trọng/ngày tương ứng với một lượng là 2,9 mg/kg/1

người/ 1 ngày. Đến năm 1992, SCF (the Scientific Committee on Food) cho phép được

sử dụng 0,13 mg nisin tinh khiết/kg thể trọng (với hoạt tính là 40.000 IU/mg). Năm

2001 FDA công nhận tính an toàn của nisin trong việc sử dụng nisin để bảo quản sản

phẩm thịt lợn và thịt gia cầm đã chế biến với hàm lượng nisin có mặt tối đa là 0,0025

% ở trong sản phẩm hoàn thiện. Theo FSANZ [32] thì nisin ngày nay đã được phê

chuẩn cho phép sử dụng như một chất kháng khuẩn an toàn ở hơn 50 quốc gia trên thế

giới bao gồm: Mỹ, Anh, EU, Trung Quốc, MERCOSUR (bao gồm Argentina, Brasil,

Urugoay, Paragoay, Venezuela)…

Ở Việt Nam, vi khuẩn lactic đã được nghiên cứu, ứng dụng trong công nghiệp

thực phẩm để chế biến cũng như bảo quản thực phẩm. Nhiều nông trường quốc doanh

đã sử dụng biện pháp ủ chua thức ăn xanh cho gia súc nhờ quá trình lên men lactic [2].

Nhiều cơ sở chế biến thực phẩm đã sử dụng vi khuẩn lactic để chế biến thực phẩm

dạng: thịt, cá hun khói, tôm chua, cá muối chua, xúc xích, sữa chua… Nhiều chế phẩm

có nguồn gốc từ các vi khuẩn lactic sống được sản xuất ứng dụng trong việc chữa các

bệnh rối loạn đường ruột cho người, các loại sữa có bổ sung khoáng và vi lượng như

Fe, Ca, Mn, Cr… để làm thức ăn bổ sung cho trẻ nhỏ và những bệnh nhân suy nhược

cơ thể. Cùng với sự phát triển của công nghệ chế biến các sản phẩm trong nước thì nhu

cầu sử dụng bacteriocin mà cụ thể là nisin trong bảo quản thực phẩm là rất lớn. Tuy

nhiên, các sản phẩm bảo quản nhập ngoại có giá thành tương đối cao. Thị trường các

chất bảo quản sinh học có nguồn gốc trong nước như bacteriocin còn đang là vấn đề

mở cho các nhà sản xuất.

1.2.6. Công nghệ sản xuất và các hƣớng nghiên cứu về nisin

Nisin là chất diệt khuẩn sinh học được thương mại hóa với mức độ lớn nhất

trong số các bacteriocin. Cho đến nay, nisin đã và đang được sản xuất công nghiệp

bằng việc lên men chủng L. lactis tự nhiên, thông qua việc tối ưu hoá môi trường, điều 16

Số hóa bởi trung tâm Học liệu– ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

kiện lên men, hoàn thiện công nghệ lên men, thu hồi và tinh sạch sản phẩm [18; 37;

49; 85]. Nhiều công trình nghiên cứu về việc nâng cao hoạt tính sinh tổng hợp nisin từ

vi khuẩn L. lactis đã được công bố. Jozala và đồng tác giả đã chứng minh, môi trường

MRS và M17 là môi trường gia tăng sự sinh trưởng và tổng hợp nisin từ các chủng L.

lactis. Một số tác giả khuyến cáo rằng, các môi trường tổng hợp thường không làm

tăng tổng hợp nisin [37]. Tuy nhiên, việc phối hợp các chất bổ sung khác để giảm 50

% lượng môi trường MRS và M17 lại giúp giảm giá thành sản xuất. Li và đồng tác giả

(2001) đã nghiên cứu tối ưu hóa, ảnh hưởng của đường saccarose, pepton đậu tương,

chiết nấm men, K2HPO4 , NaCl, MgSO4 đến sự sinh tổng hợp nisin [49]. Khi lên men

trong môi trường được tối ưu, năng suất tổng hợp nisin đã nâng lên từ 1074 IU/ml đến

2150 IU/ml. Taniguchi Mashayuki và cộng sự đã nghiên cứu nâng cao năng suất nisin

của L. lactis trong điều kiện nuôi cấy yếm khí với môi trường có thành phần gồm

đường, các muối khoáng, các nguồn nitơ và sử dụng màng siêu lọc polycrylonitride để

thu nhận nisin trên quy mô công nghiệp [74]. Hiroshi Shmizu và cộng sự lại sử dụng

hệ thống nuôi cấy hỗn hợp loài L. lactis với Kluyveromyces marxianus. Các tác giả

nhận thấy, K. marxianus đã sử dụng lactat sinh ra trong quá trình nuôi cấy L. lactis và

vì vậy đã có tác dụng kiểm soát được pH trong môi trường lên men. Kết quả là, sản

lượng nisin trong nuôi cấy hỗn hợp đạt 9,8 mg/l, cao hơn trong môi trường nuôi cấy

đơn chủng L. lactis (5,8 mg/l) [69]. Tại Trung quốc, sau khoảng gần 6 † 7 năm nghiên

cứu ở Viện Hàn lâm, việc sản xuất nisin ở quy mô công nghiệp trên nồi lên men 100 m3, đã bắt đầu từ khoảng năm 1995.

Ngày nay, bên cạnh những nghiên cứu lý thuyết về cơ chế phân tử sự liên quan

giữa cấu trúc và chức năng, cơ chế tác dụng của nisin, cơ chế miễn dịch của chủng sản

cũng như vai trò của những enzym cải biên, thì hướng áp dụng kỹ thuật di truyền, kỹ

thuật protein nhằm cải tiến hoạt tính, độ hoà tan, tính bền vững, tăng cường tác động

của nisin đối với vi sinh vật thuộc nhóm Gram âm dành được sự quan tâm đặc biệt.

Ngoài ra, xu hướng nghiên cứu sử dụng nisin để chế tạo các màng bao gói thực phẩm,

thay thế phương pháp bổ sung trực tiếp nisin vào thực phẩm, đang hình thành bên cạnh

các nghiên cứu về năng suất và công nghệ tinh sạch cũng như công nghệ lên men.

17

1.3. AXIT POLYLACTIC

Số hóa bởi trung tâm Học liệu– ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

Axit polylactic (PLA)/polylactide là một loại polyme nhiệt dẻo bán tinh thể, giòn và rắn, có nhiệt độ thủy tinh hóa tương đối thấp (~ 60 oC) và có nhiệt độ chảy mềm 175 ÷ 180 oC. Vì thế PLA dễ dàng được gia công trong các thiết bị gia công chất

dẻo thông thường và PLA bị phân hủy theo con đường sinh học [10]. Hiện nay, trong

số các loại nhựa phân hủy sinh học, PLA là đối tượng được quan tâm nghiên cứu và

phát triển nhiều nhất trên thế giới do PLA rất thích hợp để chế tạo ra các bao bì, màng

bao gói thực phẩm, các sản phẩm sử dụng một lần nhằm thay thế các sản phẩm có

nguồn gốc polyme dầu mỏ gây ô nhiễm môi trường [31].

Mặc dù thời gian phát triển mới chỉ khoảng một thập kỷ, nhưng chỉ riêng tại

châu Âu tốc độ phát triển của nhựa phân hủy sinh học đã tăng gấp 10 lần. Điều này

cho thấy tiềm năng chiếm lĩnh thị trường rất lớn của loại sản phẩm này. Một số sản

phẩm đã được thương mại như túi sách, dụng cụ ăn uống sử dụng một lần của Công ty

Mater - Bỉ, các loại móc phát bóng golf, đĩa DVD, đinh tự tiêu trong phẫu thuật... của

Công ty Vegemat. Từ năm 2005, công ty đóng gói bao bì Coopbox của Ý đã sử dụng

PLA làm khay đựng và màng film bao gói bảo quản các loại thịt tươi, rau quả cho

phân phối và sử dụng khắp trong các nước thành viên của liên minh châu Âu [24].

Năm 2002 tập đoàn hóa chất DowChemical và tập đoàn thực phẩm Cargill của

Mỹ đã liên kết đầu tư 300 triệu USD xây dựng nhà máy sản xuất PLA với công suất

140.000 tấn/năm. Cargill Dow đã sử dụng PLA như là nguyên liệu đáng tin cậy thay

L-lactic

L-lactide

Đường, tinh bột và sinh khối thực vật

Phản ứng trùng ngưng (nhiệt độ, áp suất)

Phản ứng cộng mở vòng (nhiệt độ, chất xúc tác)

L-Polylactic Phân tử lương thấp

L-Polylactic Phân tử lượng cao

cho các chất dẻo truyền thống [16].

Hình 1.2. Sơ đồ quy trình sản xuất PLA của hãng Cargill Dow, Mỹ

Tại Nhật Bản, PLA được ứng dụng trong nhiều lĩnh vực. Một số hãng điện tử

như NEC, Panasonic, Fujisu sử dụng PLA làm thẻ điện thoại, bàn phím máy tính, vỏ

điện thoại và một số thành phần linh kiện máy tính. Ngoài ra, một số hãng ô tô như 18

Số hóa bởi trung tâm Học liệu– ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

Toyota, Honda sử dụng PLA làm một số thành phần và nội thất của xe. PLA còn được

sử dụng chế tạo các dụng cụ văn phòng, đồ chơi trẻ em, giầy dép trẻ em, vỏ chai, khay

đựng và màng film bao gói thực phẩm [62].

1.3.1. Sản xuất axit L-lactic

Axit lactic có lịch sử lâu đời và được áp dụng phổ biến trong lên men và bảo quản

thực phẩm. Axit lactic được khám phá lần đầu tiên bởi Scheele vào năm 1780, như là một

thành phần của sữa. Năm 1789, Lavoisier đặt tên nó là axit sữa. Đến năm 1857, Pasteur là

người phát hiện, axit lactic còn được tạo ra từ quá trình trao đổi chất của các vi sinh vật

khác [13]. Hiện nay, axit lactic được sản xuất theo hai con đường: tổng hợp hóa học từ

nguyên liệu dầu mỏ, khí đốt và lên men vi sinh vật từ các nguyên liệu có thể tái tạo

(đường, tinh bột và sinh khối thực vật) (Hình 1.2) [78].

Tổng hợp axit lactic theo con đường hóa học đòi hỏi các thiết bị công nghiệp chịu

nhiệt, chịu áp và axit, đồng thời sản phẩm tạo ra theo con đường này thường là hỗn hợp

hai dạng đồng phân D và L-lactic, dẫn đến chi phí cao do việc phân tách hai loại đồng

phân này [22]. Theo cơ quan quản lý Thuốc và Thực phẩm của Mỹ (FDA), axit D(–)-

lactic, không được ứng dụng trong thực phẩm, bởi vì nó không được cơ thể con người

đồng hóa dẫn đến tích lũy axit D(–)-lactic, gây rối loạn axit và làm thất thoát canxi trong

cơ thể [42]. Đồng thời, tổng hợp theo con đường hóa học lại bị giới hạn bởi hai vấn đề

chính đó là sự khan hiếm nguyên liệu dầu mỏ và vấn đề môi trường tạo ra. Để khắc phục

các vấn đề trên, sản xuất axit lactic theo con đường lên men vi sinh vật được cho là một

lựa chọn tối ưu [42].

19

Số hóa bởi trung tâm Học liệu– ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

Hình 1.3. Sơ đồ sản xuất axit lactic

(a): bằng con đường hóa học; (b): con đường lên men vi sinh vật

Những vi sinh vật có thể sản sinh ra axit lactic được chia thành hai nhóm: nhóm

vi khuẩn và nhóm vi nấm.

Hiện nay, sản xuất axit lactic bằng lên men vi khuẩn thường sử dụng các loài

Lactobacillus rhamnosus, L. helveticus, L. bulgaricus, L. casei, L. plantarum, L.

pentosus, L. amylophilus, L. delbrueckii.

Vi khuẩn lactic có khả năng lên men đường glucose và lactose thành axit lactic

với hiệu suất cao. Axit lactic tạo ra theo con đường lên men vi khuẩn thường không phải

chỉ có axit L-lactic mà còn có thêm sản phẩm phụ là D - lactic. Tỷ lệ giữa hai đồng phân

này phụ thuộc vào bản chất sinh học của từng loài và từng chủng [54; 83]. Hiện nay,

nhiều nghiên cứu đã sử dụng kỹ thuật di truyền để bất hoạt gen D-lactate dehydrogenase

tổng hợp ra D-lactic, để điều khiển tổng hợp ra 100 % axit L-lactic [17; 27; 28].

Sản xuất axit L-lactic từ vi nấm khác với ở vi khuẩn lactic. Một số loài vi nấm

như Rhizopus oryzae và Rhizopus arrhizus, có thể thủy phân, đồng hóa tinh bột và tạo

ra 100 % đồng phân axit L-lactic. Quá trình này diễn ra trong điều kiện hiếu khí

nghiêm ngặt [50; 75]. Nếu như quá trình lên men vi khuẩn lactic đòi hỏi môi trường

giàu dinh dưỡng thì quá trình lên men của Rhizopus chỉ cần môi trường muối khoáng

thông thường. Vi nấm trong quá trình sinh trưởng trong môi trường dịch thể, sợi dinh

dưỡng bó lại thành dạng pellet, vì thế dễ dàng loại bỏ sinh khối trong quá trình thu hồi

sản phẩm sau lên men [82]. Mặc dù, quá trình sản xuất axit L-lactic từ vi nấm có

nhược điểm là tạo ra lượng nhỏ axit fumaric và ethanol. Tuy nhiên, hai dạng sản phẩm

phụ này có thể bị hạn chế sinh ra bằng cách điều khiển quá trình lên men và loại bỏ

hoàn toàn thông qua quá trình trưng cất thu hồi axit L-lactic [61].

Như vậy, việc sử dụng lên men R. oryzae và R. arrhizus có thể thu nhận được

axit L-lactic có phần dễ dàng hơn so với sử dụng các vi khuẩn lactic.

20

1.3.2. Tách và thu hồi axit L-lactic từ dịch lên men

Số hóa bởi trung tâm Học liệu– ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

Hiện nay, axit L-lactic sau lên men được tách và thu hồi theo những cách sau:

Sử dụng phương pháp hóa học: Trong quá trình lên men và sau lên men L-lactic

được kết tủa bằng CaCO3 hoặc Ca(OH)2 để tạo ra L-lactate-Ca. Hợp chất này được

tách ra khỏi dung dịch và hoàn nguyên trở thành L-lactic bằng cách cho L-lactate-Ca

phản ứng với H2SO4. Nhược điểm của phương pháp này là đòi hỏi thiết bị chịu axit

cao và không thu hồi L-lactic một cách triệt để [60].

Sử dụng phương pháp điện thẩm tách-electrodialysis: Hiện nay trong sản xuất

quy mô công nghiệp phương pháp này được sử dụng để tách L-lactic ra khỏi dịch lên

men. Nguyên tắc của phương pháp điện thẩm tách được mô tả trong sơ đồ hình 1.3.

Thiết bị gồm điện trường một chiều và hai màng cation và anion. Dịch lên men đi vào 2+ hoặc Na +) được đi qua màng cation và về phía cực điện trường các ion dương (Ca

âm. Các điện tích âm L-lactic đi qua màng anion và về cực dương. Dựa trên nguyên lý

này dịch L-lactic được tách và thu ở phía đầu cực dương của thiết bị. Ưu điểm của

phương pháp là hiệu suất thu hồi, độ tinh sạch cao và tốn ít năng lượng [38].

1.3.3. Tổng hợp polylactic

Polylactic được tổng hợp từ L-lactic theo hai con đường:

+ Con đường thứ 1 (dựa trên phản ứng trùng ngưng của axit L-lactic): từ monome ban

đầu là L-lactic được trùng ngưng loại nước để tạo ra PLA. Quá trình này được tiến

hành đơn giản trong thiết bị gia nhiệt và bay hơi. Tuy nhiên, sản phẩm PLA tạo ra

thường có phân tử lượng không cao với Mn và Mw từ 1000 ÷ 10.000 [36; 41].

+ Con đường thứ 2 (dựa trên phản ứng trùng hợp cộng mở vòng của L-lactide): từ

monomer là L-lactide dưới tác động của chất xúc tác và nhiệt độ L-lactide được trùng

hợp để tạo ra PLA. Phương pháp cộng mở vòng thường thu được PLA có phân tử

lượng cao với Mn và Mw > 100.000. Hiện nay, chủ yếu các PLA được sử dụng làm

vật liệu phân hủy sinh học được tổng hợp theo con đường này [57].

Để tổng hợp PLA bằng phản ứng cộng mở vòng từ monome axit L-lactic phải

tiến hành qua hai giai đoạn sau:

Giai đoạn I: Tổng hợp dime vòng (lactide) từ axit L- lactic bằng phương pháp trùng

21

ngưng chọn lọc có xúc tác:

Số hóa bởi trung tâm Học liệu– ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

Chi tiết các phản ứng của giai đoạn I:

Bước 1: phản ứng ngưng tụ không xúc tác

Bước 2: phản ứng vòng hóa Unzipping

Giai đoạn II: Trùng hợp mở vòng L-lactide thành PLA:

Ở Việt Nam đã có một số nghiên cứu về khả năng sản xuất bao bì dễ phân hủy

từ các vật liệu như tinh bột biến tính, vật liệu blend của polyetylen với các loại polyme

dễ phân hủy có nguồn gốc tự nhiên như PHB [5]. Tuy nhiên, đến nay chưa có loại bao

bì nào thuộc dạng này được đưa ra thị trường. Một số công ty TNHH tại Tp. Hồ Chí

Minh, Vĩnh phúc đã nhập nguyên liệu để sản xuất bao bì dễ phân hủy, nhưng không

phải là polylactic và không có các chất kháng khuẩn nên chỉ đóng vai trò làm bao gói.

22

1.3.4. Khả năng phân hủy sinh học của polylactic

Số hóa bởi trung tâm Học liệu– ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

Rất nhiều nghiên cứu đã chứng minh khả năng phân hủy sinh học của PLA. Do

PLA là polyeste, cho nên nó dễ dàng bị thủy phân bởi các loại enzym của vi sinh vật.

Nghiên cứu của Sawada và cộng sự (2007) đã tiến hành thủy phân PLA bằng

proteinase và lipase tách từ Bacillus subtilis và Bacillus lichenformis [65]. Tại Nhật

Bản công ty SAIDA đã phát triển hệ thống đánh giá khả năng phân hủy sinh học của

các loại nhựa sinh học (Bioplastic) theo tiêu chuẩn ISO 14855-2 có tên là MODA

(MODA-4, MODA-6 và MODA-B). Trong nghiên cứu của Kunioka và cộng sự 2009,

đã sử dụng hệ thống MODA-B để nghiên cứu khả năng phân hủy PLA ở điều kiện kỵ

khí thông qua việc xác định hàm lương CH4 tạo ra. Kết quả là sau 60 ngày 90 % PLA

đã bị phân hủy [53]. Cũng trong nghiên cứu của Kunioka và cộng sự 2006, khi sử

dụng hệ thống MODA-4 để nghiên cứu khả năng phân hủy bột PLA ở điều kiện hiếu

khí và đánh giá khả năng phân hủy thông qua lượng CO2 tạo ra, sau 56 ngày 80 % bột

PLA bị phân hủy [52]. Ở Việt Nam, trong nghiên cứu của Trần Đình Mấn và cộng sự

(2008), đã sử dụng phương pháp chôn lấp màng PLA để đánh giá khả năng phân hủy

của PLA, kết quả thu được là sau 3 tháng chôn lấp 90 % màng PLA đã bị phân hủy [76].

1.4. NGHIÊN CỨU TẠO BAO BÌ BẢO QUẢN THỰC PHẨM

1.4.1. Nghiên cứu tạo và ứng dụng khay đựng thực phẩm sử dụng một lần

Năm 2007, công ty Sealed Air lần đầu tiên giới thiệu nhãn hiệu

Cryovac® NatureTRAY™- sản phẩm khay đựng thực phẩm, được sản xuất từ nhựa

PL [80]. Loại khay này được sử dụng để đựng các loại thịt, cá và rau quả tươi. Theo

khuyến cáo nhà sản xuất loại khay từ nhựa PLA không làm mất hương vị và chất

lượng của thực phẩm. Loại khay này được bổ sung chất kháng khuẩn sinh học nhằm

kéo dài thêm thời gian sử dụng an toàn của thực phẩm. Tại Thái Lan Kasetsart, đã tạo

thành công các khay đựng thực phẩm bằng nhựa PLA, để thay thế cho các loại khay

đựng thực phẩm sản xuất từ dầu mỏ [72]. Ở Việt nam, phần lớn các hay đựng thực

phẩm được sản xuất hoặc được tái chế từ các polyme dầu mỏ.

1.4.2. Tạo màng, bao bì giấy PLA- Nisin và ứng dụng trong bảo quản thực phẩm

Sự kết hợp PLA - nisin có thể tạo ra nhiều dạng sản phẩm có thể ứng dụng

23

trong bảo quản thực phẩm như là màng film PLA - nisin, bao bì giấy tráng phủ PLA -

Số hóa bởi trung tâm Học liệu– ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

nisin... Các sản phẩm này có tính chất tương tự như các sản phẩm sử dụng polyme dầu

mỏ.

Tạo màng PLA - nisin

Màng polylactic được tạo ra theo phương pháp cán gia nhiệt hoặc tạo màng sử

dụng dung môi. Trong nghiên cứu của Liu và cộng sự, đã đề xuất phương pháp sử

dụng nisin bao lên màng film polylactic và sử dụng màng đã gắn nisin để đánh giá khả

năng kháng khuẩn của màng cũng như các tính chất cơ lý của màng [56]. Jin và cộng

sự, đã tạo ra màng film cố định nisin bằng cách hòa nisin vào dung dịch PLA đã được

hòa tan trong dung môi, tạo ra màng film có độ dày 0,15 mm với lượng nisin được bổ sung vào là 0,04 mg/cm2. Đánh giá khả năng kháng L. monocytogenes Scott A 724, E.

colii 0157:H7, Salmonella của màng PLA - nisin cho thấy, sử dụng màng có khả năng

tiêu diệt các vi khuẩn gây bệnh trên có trong thực phẩm, và có thể dùng để bảo quản các thực phẩm tươi ở 4 oC trong 21 ngày [46]. Trong nghiên cứu của Tipayanate và

cộng sự, các tác giả đã sử dụng hỗn hợp 2 % PLA, 2 % axit L-lactic và nisin có nồng

độ 200 IU/ml để tạo màng bao bọc thịt bò tươi. Thịt bò sau khi được bao gói bằng hỗn hợp trên có thể bảo quan ở 4 oC trong 5 ÷ 6 ngày [12].

Tại Nhật Bản, nhiều loại thực phẩm ăn nhanh được bảo quản bằng màng

polyme sinh học có chứa chất kháng khuẩn sinh học mà không làm thay đổi cảm quan,

hương vị và màu sắc của thực phẩm. Những loại màng bao gói dạng như vậy, đang

từng bước thay thế dần cho các phương pháp truyền thống sử dụng các loại lá bao gói

có trong tự nhiên.

Các nhà khoa học Nhật Bản đã chứng minh rằng, các polyme sinh học có khả

năng kháng khuẩn có thể kìm hãm rất tốt vi khuẩn E. coli trên bề mặt polyme. Tuy

nhiên, việc sử dụng loại chất kháng khuẩn nào vẫn là bí mật của các hãng sản xuất.

Ở Việt nam, hướng tạo ra màng film PLA - nisin kháng khuẩn là nghiên cứu

đầu tiên, tạo sản phẩm sử dụng trong bao gói thực phẩm, nhằm khắc phục các vấn đề

về bảo quản, vệ sinh an toàn thực phẩm và về môi trường.

Tạo bao bì PLA - nisin

Trên thực tế, để tăng khả năng chịu nước, các bao bì giấy được tráng phủ các

loại polyme như polyethylen, polypropylene... sau khi sử dụng chỉ có phần giấy bị 24

Số hóa bởi trung tâm Học liệu– ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

phân hủy còn phần polyme vẫn tồn tại trong đất. Để khắc phục vấn đề này, hãng Nano

Filber Tech đã đưa ra các sản phẩm như hộp đựng, cốc, bao bì giấy có tráng phủ PLA

[80]. Vì thế, các sản phẩm của hãng sau khi sử dụng có thể phân hủy hoàn toàn trong

tự nhiên. Joerger và cộng sự đã thành công trong việc kết hợp PLA và nisin để tráng

phủ bề mặt giấy gói thực phẩm giúp tăng cường an toàn vệ sinh và kéo dài thời gian

bảo quản thực phẩm [48].

Vì vậy, ý tưởng phát triển hệ thống đóng gói kháng khuẩn dựa trên vật liệu

phân hủy sinh học PLA và nisin giải quyết hai vấn đề: an toàn thực phẩm và bảo vệ

môi trường. Vật liệu bao gói là rào cản đối với sự xâm nhập của vi sinh vật. Chất

kháng khuẩn (CKK) có mặt trong thành phần vật liệu đóng gói sẽ không chỉ ngăn cản

sự xâm nhập từ bên ngoài mà còn kìm hãm sự sinh trưởng của vi sinh vật nội tại ở

thực phẩm trong quá trình bảo quản.

Tuy nhiên, do CKK nisin tráng phủ trực tiếp trên bề mặt màng film PLA có thể

bị giảm hoạt tính kháng khuẩn do bề mặt kỵ nước hoặc do bề mặt nhẵn đặc trưng của

màng PLA, sẽ ngăn cản khả năng bám kết của nisin. Bởi vậy, việc nghiên cứu các

phương pháp để gắn kết, phối trộn nisin vào PLA để tăng cường khả năng bám kết của

nisin vào PLA là vô cùng cần thiết và có tính quyết định [11; 20; 39; 63; 70; 84]..

CKK được pha trộn vào bao bì có thể di chuyển, xâm nhập vào thực phẩm qua cơ

chế khuyến tán và phân cắt. Ngoài ra, có thể thông qua cơ chế hấp phụ cân bằng [11;

63]. Bao bì kháng khuẩn có thể được tạo thành bằng cách phối trộn và cố định CKK,

hoặc bằng cách cải biến bề mặt và tráng phủ (coating) được đề cập [11; 63; 70].

Tạo màng film thực phẩm với bacteriocin (nisin, lactacin) bằng cách pha trộn

trực tiếp (direct incorporation) bacteriocin vào polyme. Trong khi có hai phương pháp

tạo màng film là ép nhiệt (heat press) và cán (casting).

Màng film sử dụng để đóng gói thực phẩm tạo ra từ các vật liệu có nguồn gốc

sinh học như axit polylactic và nisin thể hiện tính kháng khuẩn và khả năng phân giải

sinh học, là một lựa chọn đạt hai mục tiêu và là giải pháp thân thiện môi trường.

Phương pháp này không những bảo quản thực phẩm an toàn mà còn kéo dài thời gian

sử dụng, giữ được chất lượng, các đặc điểm cảm quan và tính tự nhiên của thực phẩm.

25

Theo Sunil [70] có ba cách tạo ra bao bì đóng gói kháng khuẩn gồm:

Số hóa bởi trung tâm Học liệu– ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

Phối trộn (incorporation) chất kháng khuẩn vào túi để từ đó các chất kháng khuẩn -

là những chất có thể bay hơi được giải phóng ra trong quá trình bảo quản thực phẩm.

Trộn trực tiếp (direct incorporation) các chất kháng khuẩn vào màng đóng gói. -

Tráng phủ (coating) trên vật liệu bao gói. -

Những chất kháng khuẩn không có khả năng bốc hơi phải tiếp xúc với bề mặt

thực phẩm để chất kháng khuẩn có thể khuyếch tán vào bề mặt và bên trong thực

phẩm. Bởi vậy, việc khuyếch tán của CKK tham gia trong thành phần của vật liệu

đóng gói vào bề mặt thực phẩm là cực kỳ quan trọng, đảm bảo hoạt tính kháng khuẩn

[20]. Tốc độ khuếch tán của CKK còn đóng một vai trò duy trì bền vững hoạt tính

kháng khuẩn đối với thực phẩm. Vì vậy, việc nghiên cứu các tác động ảnh hưởng tới

việc giải phóng CKK rất được quan tâm.

PHẦN II. VẬT LIỆU VÀ PHƢƠNG PHÁP

2.1. VẬT LIỆU

2.1.1 Chủng giống vi sinh vật

Chủng sử dụng để lên men sản xuất nisin là L. lactis subsp. lactis PD15, nisin

sử dụng để tạo màng PLA – nisin là sản phẩm dạng bột có hoạt lực 1000 IU/mg.

Chủng sử dụng để sản xuất axit lactic là R. oryzae VLSH01, từ axit L-lactic nhờ

phản ứng cộng mở vòng tổng hợp nên PLA, sản phẩm PLA thu được có phân tử

26

lượng trung bình Mn và phân tử lượng Mw đạt > 100.000.

Số hóa bởi trung tâm Học liệu– ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

Những sản phẩm này thu được từ nghiên cứu của Phòng Công nghệ vật liệu

sinh học, VCNSH, VHLKH&CNVN. Ngoài ra, các chủng sử dụng làm kiểm định là

Lactobacillus plantarum JCM1149 (Nhật Bản), B. cereus, S. aureus, L.

monocytogenes.Tất cả đang được lưu giữ tại bộ phận giống của Phòng.

2.1.2 Môi trƣờng nuôi cấy, hóa chất

Sữa gầy (Skim milk) có xuất xứ Australia. Môi trường nghiên cứu được sử dụng là

môi trường MRS và CM có các thành phần hóa chất như sau:

Môi trường MRS (g/l): Cao thịt (10), cao men (5), peptone (10), glucose (20),

CH3COONa (5), K2HPO4 (2), Amonicitrat (2), MgSO4.7H2O (0,2), MnSO4 (0,04),

Tween 80 (1ml), agar (20). pH 6,8. Bổ sung nước cất cho đủ 1 lít

Môi trường CM (g/l): Saccarose (40), cao nấm men (10), peptone (10), KH2PO4 (0,2),

NaCl (2), MgSO4.7H2O (0,2). pH 6.8 ± 0,2. Bổ sung nước cất đến 1 lít.

2.1.3 Các thiết bị thông dụng dùng cho nghiên cứu

- Lò vi sóng (Sumsung, LG-Intellowave, 220V-50Hz, Max: 1150W);

- Bình phản ứng 500 ml, bình cầu nhám 500 ml, bộ chưng cất áp suất thường; thiết bị

chưng cất chân không quay, máy khuấy từ, thiết bị tạo áp suất; tủ sấy chân không.

- Nhớt kế Ubellohde

- Kính hiển vi quang học Olympius, Model CHD, Nhật Bản

- Kính hiển vi quang học Olympius CH2, Model CHS, Nhật Bản

- Máy đo pH (320 pH Metter) Mettler Toledo, Thuỵ Sĩ

- Máy so màu (Spectophotometer pharmacia, Biotech, Model 80-2088 -64), Anh

- Cân điện tử AB 204, Mettler Toledo, Thuỵ Sỹ

- Máy li tâm Micro Centaur MSE, Anh

- Phân cực kế Model WXG-4, Trung Quốc

- Digital Micropipette Model 5000 DG, Nichipet, Nhật Bản

- Lên men và thu hồi nisin: Sử dụng hệ thống bình lên men 5, 10 l, 100 l và các thiết bị

27

sấy phun, ly tâm, lọc tiếp tuyến của Viện Công nghệ sinh học, VHLKH&CNVN

Số hóa bởi trung tâm Học liệu– ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

2.2. PHƢƠNG PHÁP

2.2.1. Phƣơng pháp xác định hoạt tính nisin

Để lựa chọn chủng có hoạt tính tổng hợp nisin cao trong bộ sưu tập của Phòng,

dựa trên đánh giá tác dụng ức chế chủng kiểm định L. plantarum JCM1149 [8]. Hoạt

tính kháng khuẩn của nisin được xác định bằng phương pháp khuếch tán trong môi

trường thạch có cải tiến theo Phan K.H và cs [8], gồm một số bước:

Bước 1: Chủng kiểm định L. plantarum JCM 1149 được nuôi tĩnh qua đêm (12 giờ)

trong môi trường MRS lỏng ở 30 °C (OD600 = 1,28).

Bước 2: Môi trường MRS bán lỏng (có chứa 0,6 % thạch) được khử trùng ở 121 °C,

15 phút. Sau khi làm lạnh đến nhiệt độ khoảng 37 ÷ 40 °C, bổ sung 0,5 % (v/v) dịch

huyền phù vi khuẩn chủng kiểm định, lắc đều và đổ ra đĩa petri có đường kính 15 cm

(20 ml/đĩa). Đợi thạch nguội, đục giếng. Mỗi giếng có đường kính 7 mm.

Bước 3: Hút 25 µl dịch nisin đã được pha loãng nhỏ vào các giếng thạch và giữ ở nhiệt độ 4 oC trong khoảng 4 giờ, sau đó ủ ở 37 oC qua đêm. Quan sát và đo đường kính

vòng vô khuẩn được hình thành. Trong đó, đường kính vòng vô khuẩn của mẫu nghiên

cứu bằng hiệu của đường kính vòng vô khuẩn đo được và đường kính giếng thạch (D-

d). Căn cứ vào việc xuất hiện vòng vô khuẩn và kích thước đường kính vòng vô khuẩn

để xác định hoạt tính nisin của chủng nghiên cứu.

Hoạt tính của nisin thường được xác định bằng đơn vị quốc tế IU (International Unit).

Việc xác định cơ bản dựa theo phương pháp của Fowler và cộng sự đề xuất 1975..

Chủng kiểm định là L. plantarum JCM1149 một chủng kháng axit và nhạy cảm với

nisin. Nisin chuẩn của hãng Sigma với hoạt tính 1000000 IU/g được pha thành các

nồng độ khác nhau. Xác định hoạt tính của những mẫu này bằng cách đo đường kính

vùng ức chế đối với L. plantarum. Từ đó lập phương trình đường chuẩn tương quan

giữa nồng độ nisin (tính bằng IU/ml hoặc IU/mg) và đường kính vòng ức chế bằng phần mềm Excel của Microsoft, phương trình có dạng hàm số mũ: Y = 102.5 x e 0.281x , hệ số hồi quy R2 = 0.994. Trong công thức này: x = D-d (mm), D: là đường kính vòng

vô khuẩn (mm) , d: là đường kính lỗ khoan (mm);, Y: Hoạt tính chế phẩm (IU/ml hoặc

28

IU/mg) .

Số hóa bởi trung tâm Học liệu– ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

Với đường cong chuẩn đã dựng được, việc xác định hoạt tính các mẫu chứa nisin rất

thuận lợi và nhanh chóng (hình 2.1).

Hình 2.1. Đường cong chuẩn xác định nồng độ nisin (IU)

2.2.2. Phƣơng pháp tạo màng PLA - nisin

Màng PLA - nisin được chuẩn bị theo phương pháp của T. Jin và cộng sự [46].

Cân 0,75 g PLA bổ sung vào bình tam giác nút nhám chứa 25ml DMCL. Dung dịch

được khuấy cho đến khi tan hoàn toàn. Khi dung dịch trong suốt bổ sung 0,25 g nisin

và tăng khuấy. Sau đó, hỗn hợp trên được đổ ra đĩa petri có đường kính 15 cm. Dung

dịch methylene chloride được bay hơi ở nhiệt độ phòng trong tủ hút. 2.2.3. Xác định nồng độ nisin trên 1 cm2 màng PLA – nisin

Đĩa petri để tạo màng có đường kính 15 cm, vậy diện tích đĩa là 176,625 cm2.

Theo công thức tạo màng mục 2.2.2 nisin nồng độ 1000 IU/mg bổ sung vào là 0,25 g tương đương 250000 IU. Vậy 1 cm2 màng sẽ có nồng độ nisin là 1415 IU.

2.2.4. Xác định hoạt tính kháng khuẩn của màng

Hoạt tính kháng khuẩn của màng được xác định theo 2 cách:

 Phương pháp khuếch tán trên thạch bán lỏng: Chủng kiểm định L. plantarum JCM

1149 được nuôi tĩnh qua đêm (12 giờ) trong môi trường MRS lỏng ở 30 °C (OD600 =

1,28). Môi trường MRS bán lỏng (có chứa 0,6 % thạch) được khử trùng ở 121 °C, 15

29

phút. Sau khi làm lạnh đến nhiệt độ khoảng 37 † 40 °C, bổ sung 0,5 % (v/v) dịch

Số hóa bởi trung tâm Học liệu– ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

huyền phù vi khuẩn chủng kiểm định, lắc đều và đổ ra đĩa petri. Đợi thạch nguội, đặt các miếng màng PLA – nisin lên bề mặt thạch, tiếp theo giữ ở nhiệt độ 4 oC trong khoảng 4 giờ, sau đó ủ ở 37 oC qua đêm. Quan sát và đo đường kính vòng vô khuẩn được

hình thành.

 Phương pháp xác định số lượng chủng kiểm định bị tiêu diệt trong môi trường dịch

thể: Cắt màng PLA - nisin ra làm các miếng khác nhau, mỗi miếng màng có diện tích bằng 2 cm2. Các miếng màng được cho vào các ống nghiệm có chứa 2 ml môi trường

MRS dịch thể. Bổ sung 0.5 % dịch huyền phù chủng vi khuẩn kiểm định vào các ống,

mẫu đối chứng cũng bổ sung 0,5 % chủng kiểm định nhưng không cho màng PLA – nisin. Các mẫu nuôi ở 37 oC, lấy mẫu trải đĩa kiểm tra số lượng tế bào vi khuẩn theo

các mốc thời gian: 0; 4; 8; 12; 16; 20; 24; 36; 48 giờ.

Ảnh hưởng của tỷ lệ methylene chloride lên hoạt tính nisin của màng PLA - nisin:

Tỷ lệ methylene chloride được sử dụng trong nghiên cứu này là 10, 15, 20, 25 và 30

ml. Sau khi màng PLA - nisin được tạo ra theo các tỉ lệ dung môi methylene chloride ở

trên, xác định hoạt tính kháng khuẩn của màng.

Ảnh hưởng của tỷ lệ PLA: Màng PLA - nisin được tạo ra như mô tả ở mục 2.2.2.

Nhưng PLA được bổ sung với các lượng khác nhau: 0,5 g; 0,75 g; 0,9 g và 1 g. Sau

khi màng PLA - nisin được tạo ra với các tỉ lệ PLA ở trên, xác định hoạt tính kháng

khuẩn của màng.

Ảnh hưởng của nhiệt độ trong quá trình tạo màng: Màng PLA - nisin được tạo ra

như mô tả ở mục 2.2.2, nhưng được đặt tại các nhiệt độ khác nhau: 37, 60, 70 và 80

°C. Sau 15 phút, lấy hỗn hợp dung dịch trên đổ ra đĩa petri để tạo màng. Xác định

hoạt tính kháng khuẩn của màng.

2.2.5. Xác định khả năng phân hủy của màng PLA - nisin

Màng được chôn lấp một cách tự nhiên trong đất vườn, sau 1 tháng tiến hành

lấy mẫu cân trọng lượng và quan sát dưới hiển vi điện tử quét. Thí nghiệm được tiến

hành kéo dài đến 6 tháng.

2.2.6. Phƣơng pháp thí nghiệm bảo quản thực phẩm

30

2.2.6.1. Phƣơng pháp bảo quản nem chua

Số hóa bởi trung tâm Học liệu– ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

Mẫu nem chua thí nghiệm là nem đã chín được mua tại làng Vẽ, Đông Ngạc,

Từ Liêm, Hà Nội. Các mẫu thí nghiệm được thay lớp nilon bằng màng PLA – nisin

sau đó lại bọc lá như ban đầu, mẫu đối chứng để nguyên, các mẫu được để ở nhiệt độ thường (30 oC). Đánh giá cảm quan mẫu thí nghiệm và mẫu đối chứng theo ngày.

2.2.6.2. Phƣơng pháp bảo quản bánh cốm

 Kiểm tra thành phần và số lượng vi sinh vật có trong bánh cốm bằng phương

pháp pha loãng tới hạn [4]:

Lấy 10 gam mẫu bánh cốm cho vào 90 ml nước muối sinh lý 0,85 % nghiền mịn (thìa dung để nghiền được khử vô trùng). Dịch thu được đã có độ pha loãng là 10 -1. Hút 1ml

dịch này chuyển vào 1 ống nghiệm sạch đã chứa 9 ml nước muối sinh lý khử trùng, được độ pha loãng 10 -2. Tiếp tục pha loãng cho tới khi đạt độ pha loãng 10 -8 hoặc cao hơn.

Dịch đã pha loãng ở mỗi nồng độ được cấy vô trùng và trải đều trên đĩa Petri đã có sẵn môi trường phân lập thích hợp. Các đĩa đã cấy được nuôi trong tủ ấm 37 oC và

theo dõi trong khoảng 1- 2 tuần. Đếm số lượng khuẩn lạc và nhận dạng các vi sinh vật.

 Phương pháp bảo quản bánh cốm

Mẫu bánh cốm thí nghiệm sử dụng màng PLA – nisin để bọc thay cho nilon, mẫu đối chứng để nguyên, các mẫu được bảo quản ở nhiệt độ phòng (30 oC). Đánh giá

cảm quan mẫu theo ngày.

31

Số hóa bởi trung tâm Học liệu– ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

PHẦN III. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN

3.1. LỰA CHỌN CÁC CHẤT THÀNH PHẦN TẠO MÀNG

Axit polylactic là một trong số các polymer phân hủy sinh học, một loại axit

được sản xuất từ quá trình lên men vi sinh vật, axit này tan trong một số dung môi như

chloroform, methylene chloride (hay còn gọi là dichloromethane). Với mục đích tạo

màng để ứng dụng trong bảo quản thực phẩm thì màng tạo ra cần phải dai, mịn, cảm

quan phải đẹp mắt, chính vì thế cần lựa chọn được thành phần như thế nào để tạo

màng theo yêu cầu. Kết quả trình bày dưới bảng 3.1 và hình 3.1.

Bảng 3.1. So sánh màng PLA tạo từ chloroform và methylene chloride

Yêu cầu Chloroform Methylene chloride

Cảm quan màng Màng cứng, đục, giòn Màng dẻo, trong, dai

Vòng vô khuẩn (mm) 5 9

a b

Hình 3.1. Ảnh màng PLA tạo từ chloroform và methylene chloride

a/ màng tạo từ methylene chloride; b/ màng tạo từ chloroform

Kết quả bảng 3.1 và hình 3.1 cho thấy sử dụng dung môi methylene chloride đạt

kết quả tốt hơn, màng dẻo và trong, nisin trải đều khắp bề mặt màng, hoạt tính kháng

khuẩn của màng tốt, vòng ức chế đạt 9 mm. Khi sử dụng chloroform thì nisin bị vón

cục khó giải phóng ra thực phẩm khi bao gói bảo quản, màng đục, cứng và giòn, hoạt

tính kháng khuẩn thấp, vòng ức chế là 5 mm. Quan trọng hơn, methylene chloride

được cơ quan quản lý thuốc và thực phẩm (FDA) của Mỹ cho phép sử dụng làm chất 32

Số hóa bởi trung tâm Học liệu– ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

kết dính trong tạo bao bì bảo quản thực phẩm còn chloroform thì không. Chính vì thế

methylene chloride được lựa chọn để làm chất kết dính tạo màng PLA – nisin.

3.2. NGHIÊN CỨU CÁC YẾU TỐ ẢNH HƢỞNG ĐẾN QUÁ TRÌNH TẠO

MÀNG PLA – NISIN VÀ HOẠT TÍNH KHÀNG KHUẨN CỦA MÀNG

3.2.1. Ảnh hưởng của tỷ lệ methylene chloride đến màng PLA - nisin

Tỷ lệ methylene chloride được sử dụng trong quá trình tạo màng có ảnh hưởng

không nhỏ đến khả năng hòa tan PLA, đến độ dày, mỏng của màng cũng như hoạt tính

kháng khuẩn tính cho 1 đơn vị diện tích màng. Thí nghiệm được tiến hành với lượng

methylene chloride là: 10; 15; 20; 25; 30 ml, nisin 0,25 g, PLA 1 g và được phủ lên đĩa

petri cùng diện tích. Kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của tỷ lệ methylene chloride lên

hoạt tính kháng khuẩn của màng được trình bày trong bảng 3.2.

Bảng 3.2. Ảnh hưởng của tỷ lệ methylene chloride đến màng PLA - nisin

Tỷ lệ nisin/methylene chloride (ml) Màng PLA -

nisin 10 15 20 25 30

Vòng kháng 9 8 8 8 8 khuẩn (mm)

Màng Màng Màng dẻo, Cảm quan màng Màng cứng Màng cứng dẻo dẻo, dai dai

Kết quả bảng 3.2 cho thấy tỷ lệ methylene chloride có ảnh hưởng đến quá trình

tạo màng. Trong nghiên cứu này, methylene chloride với lượng 25 ml thích hợp nhất

cho việc tạo màng PLA – nisin, màng tạo thành dẻo, dai, mỏng đều, hoạt tính kháng

khuẩn tốt, vòng ức chế là 8 mm. Ở tỷ lệ thấp hơn thì lượng dung dịch tạo màng không

phủ kín được đĩa có diện tích xác định, đồng thời màng tạo ra rất cứng, không dẻo,

không dai, ở tỷ lệ 10 ml methylene chloride tuy vòng kháng khuẩn đạt 9 mm do nisin

phân bố dày hơn (không phủ kín đĩa) nhưng màng lại rất cứng. Còn nếu ở tỷ lệ cao

hơn thì lượng dung môi thừa sẽ lãng phí. Do đó trong các nghiên cứu tiếp theo chọn tỷ

lệ dung môi methylene chloride là 25 ml cho quá trình tạo màng.

3.2.2. Ảnh hƣởng của tỷ lệ PLA

Nghiên cứu ảnh hưởng của tỷ lệ PLA được tiến hành như sau: sử dụng 0,25 g

nisin, 25 ml methylene chloride, PLA có phân tử lượng là 100000 với các lượng khác 33

Số hóa bởi trung tâm Học liệu– ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

nhau: 0,5 g; 0,75 g; 0,9 g và 1 g, dung dịch được phủ lên đĩa petri có cùng diện tích.

Sau khi màng PLA - nisin được tạo ra tiến hành xác định hoạt tính kháng khuẩn và

cảm quan của màng. Kết quả được trình bày bảng 3.3.

Bảng 3.3. Ảnh hưởng của tỷ lệ PLA lên hoạt tính kháng khuẩn của màng PLA - nisin

Tỷ lệ PLA (g) Màng PLA - nisin 0,5 0,75 0,9 1

Hoạt tính kháng

8 8 khuẩn (vòng ức chế 9 9

mm)

Màng dai, Màng dai, Màng dai, Màng không Cảm quan màng không mủn, không mủn, không mủn, dai, mủn không giòn cứng cứng

Kết quả nghiên cứu được trình bày trong bảng 3.3 cho thấy tỷ lệ PLA 0,75 g

thích hợp nhất cho việc tạo màng PLA - nisin. Ở tỷ lệ PLA này, màng tạo ra không bị

dày, màng dai, không mủn, không bị cứng, hoạt tính kháng khuẩn tốt vòng ức chế là 9

mm, dễ dàng cho việc bao gói thực phẩm. Ở tỷ lệ cao hơn màng bị cứng và hoạt tính

kháng khuẩn kém hơn (8 mm). Ở tỷ lệ 0,5 g tuy vòng kháng khuẩn đạt 9 mm nhưng

màng lại không dai, mủn nên cũng không đáp ứng yêu cầu.

3.2.3. Ảnh hƣởng của nhiệt độ trong quá trình tạo màng

Nhiệt độ trong quá trình tạo màng có thể cũng ảnh hưởng đến tính chất và hoạt

tính kháng khuẩn của màng. Trong nghiên cứu này, quá trình tạo màng được tiến

hành: Cân 0,75 g PLA và 0,25 g nisin cho vào bình tam giác có nút nhám. Sau đó bổ

sung 25 ml dung môi methylene chloride vào và đưa lên máy khuấy từ khuấy ở các

nhiệt độ khác nhau: 37; 60 và 80 °C. Sau 15 phút, lấy hỗn hợp dung dịch trên đổ ra đĩa

petri để tạo màng. Màng sau khi tạo ra được xác định hoạt tính kháng khuẩn. Kết quả

nghiên cứu được trình bày trong bảng 3.4.

Bảng 3.4. Ảnh hưởng của nhiệt độ trong quá trình tạo màng đến hoạt tính kháng

khuẩn của màng.

34

Màng PLA - nisin Nhiệt độ tạo màng (°C)

Số hóa bởi trung tâm Học liệu– ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

37 60 80

pH của hỗn hợp dung 5 – 5,5 5 – 5,5 5 – 5,5 dịch tạo màng

Màng dai, dẻo, Màng dai, dẻo, Màng dai, dẻo,

không cứng, không cứng, không cứng,

Cảm quan màng không giòn. Nisin không giòn. Nisin không giòn. Nisin

phân bố đều phân bố đều trong phân bố đều trong

trong màng màng màng

*Được tính thông qua đường kính vòng vô khuẩn (mm).

9 8 8 Hoạt tính KK của màng ngay sau khi tạo ra*

Từ kết quả bảng 3.4 cho thấy gia nhiệt trong quá trình tạo màng đã ảnh hưởng

đến hoạt tính kháng khuẩn của màng nhưng không mấy ảnh hưởng đến tính chất màng.

Màng có hoạt tính kháng khuẩn cao nhất (9 mm) khi trong quá trình tạo màng được

gia nhiệt ở 37 °C, màng dẻo, dai, không cứng không giòn. Ở nhiệt độ cao hơn màng

cũng dẻo, dai nhưng hoạt tính kháng khuẩn bị giảm (8 mm) và nhiệt độ cao làm tốn năng lượng hơn. Do đó nhiệt độ 37 oC là nhiệt độ thích hợp nhất được lựa chọn để tạo

màng PLA - nisin.

3.2.4. Ảnh hƣởng của thời gian và điều kiện bảo quản lên hoạt tính nisin của

màng PLA - nisin

Trong nghiên cứu này, các loại màng được bảo quản ở 2 điều kiện khác nhau (ở 4

°C và ở nhiệt độ phòng). Sau đó theo thời gian các mẫu được lấy ra để xác định hoạt tính.

Bảng 3.5. Ảnh hưởng của thời gian và điều kiện bảo quản lên hoạt tính nisin của màng

PLA - nisin

Hoạt tính của màng (đường kính vòng vô khuẩn, mm) Thời gian bảo quản Bảo quản ở 4 °C Bảo quản ở nhiệt độ phòng (ngày) M1 M2 M3 M1 M2 M3

Ngay sau khi tạo ra 9 8 8 9 8 8

35

5 9 8 8 9 8 8

Số hóa bởi trung tâm Học liệu– ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

15 8 7 7 7 7 7

(Chú thích: M1: màng được tạo ra trong điều kiện ra nhiệt ở 37 °C, M2: màng được

tạo ra trong điều kiện gia nhiệt ở 60 °C, M3: màng được tạo ra trong điều kiện gia

nhiệt ở 80 °C)

Kết quả bảng 3.5 cho thấy nhiệt độ bảo quản ở đây không ảnh hưởng đến hoạt tính

kháng khuẩn của màng nhưng thời gian bảo quản lại có ảnh hưởng đáng kể. Ngay sau

khi tạo ra mẫu M1 có vòng kháng khuẩn là 9 mm, M2 (8 mm), M3 (8 mm), 5 ngày sau

các mẫu vẫn giữ nguyên hoạt tính, nhưng đến 15 ngày hoạt tính kháng khuẩn của các mẫu

bị giảm đi M1 (8 mm), M2 (7 mm), M3 (7 mm). Như vậy, hoạt tính kháng khuẩn của

màng ổn định trong vòng 5 ngày sau khi tạo ra và hoạt tính này bị giảm đi sau 15 ngày.

3.3. QUY TRÌNH TẠO MÀNG PLA - NISIN

3.3.1. Mô tả chi tiết quy trình

Bước 1: Đồng nhất PLA: PLA được cho vào trong dung dịch methylene chloride theo

tỉ lệ 3:100 (w/v). Sau đó khuấy từ liên tục 20 phút để đồng nhất PLA.

Bước 2: Tạo hỗn hợp PLA - nisin: Nisin được bổ sung vào dung dịch PLA theo tỉ lệ

PLA : Nisin bằng 3:1 (w/w). Khuấy liên tục trong vòng 10 phút để nisin phân bố đều

trong dung dịch.

Bước 3: Tráng phủ PLA - nisin lên đĩa thủy tinh

Bước 4: Màng để khô tự nhiên trong hệ thống tủ hút

3.3.2. Kiểm tra khả năng ức chế một số loại vi khuẩn gây bệnh thực phẩm của

màng PLA - nisin

Khả năng ức chế một số loại vi khuẩn gây bệnh ở thực phẩm của màng PLA -

nisin được trình bày trong bảng 3.6.

Bảng 3.6. Khả năng ức chế một số loại vi khuẩn gây bệnh ở thực phẩm của màng

PLA - nisin.

Vi khuẩn Đƣờng kính vòng vô khuẩn (mm)

L. plantarum JCM1149 9

B. cereus 8

36

L. monocytogenes 7

Số hóa bởi trung tâm Học liệu– ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

S. aureus 6

E. coli 0

E. coli O157:H7 0

Kết quả bảng 3.6 cho thấy màng PLA - nisin có khả năng ức chế mạnh vi khuẩn

kiểm định L. plantarum JCM1149 (vòng vô khuẩn 9 mm), và đặc biệt ức chế các loài

vi khuẩn Gram (+) như B. Cereus (vòng vô khuẩn 8 mm), L. Monocytogenes (vòng vô

khuẩn 7), S. aureus (vòng vô khuẩn 7 mm), các loài này rất dễ nhiễm trong thực

phẩm. Màng không có khả năng kháng lại vi khuẩn Gram (-): E. coli, E. coli

O157:H7. Điều này xảy ra là do nisin tương tác đặc hiệu với lipid II tiền tố

peptidoglucan để phá thủng màng tế bào đích, mà ở vi khuẩn Gram (+),

peptidoglycan chiếm 90% khối lượng thành tế bào, số lớp peptidoglycan có thể

lên tới 25 lớp. Trong khi đó ở vi khuẩn Gram (-) lượng peptidoglycan chỉ chiếm

10% tổng khối lượng thành tế bào, ngoài ra chúng còn có một lớp màng ngoài quan

trọng (outer membrane – OM). Lớp màng ngoài này có cấu tạo lipid kép tương tự

màng nguyên sinh chất nhưng không chỉ có phospholipids hình thành nên cấu trúc

mà còn có polysaccharide và protein. Lipid và polysaccharide liên kết chặt chẽ

với nhau tạo thành một cấu trúc lipopolysaccharide đặc biệt bên ngoài thành tế bào. Vi

khuẩn Gram (-) có thể chống chịu lại nhiều tác nhân gây hại đối với tế bào là nhờ vào

lớp màng ngoài OM có khả năng ngăn chặn các tác nhân đó một cách có hiệu quả.

3.4. ĐÁNH GİÁ KHẢ NĂNG KHÁNG KHUẨN CỦA MÀNG

3.4.1. Tác dụng kháng khuẩn của màng trên môi trƣờng rắn

Nisin thương phẩm khi kết hợp với một số màng như PLA, cellulose có khả năng

kháng lại một số vi khuẩn L. monocytogenes, S. aureus, L. innocua. Tuy nhiên, trong

nghiên cứu này vật liệu tạo màng sử dụng nisin dạng bột thu nhận được từ lên men

chủng PD15 (sản phẩm của phòng CNVLSH sản xuất). Do đó khả năng kháng khuẩn

của màng PLA - nisin cần phải được xác định, từ đó góp phần định hướng ứng dụng

màng vào bảo quản thực phẩm một cách hiệu quả. Màng PLA - nisin được kiểm tra khả

năng kháng khuẩn với 4 loại vi khuẩn Gram (+) và 3 loại vi khuẩn Gram (-), các loại vi

khuẩn này dễ có trong thực phẩm. Mỗi chủng vi khuẩn được nuôi cấy trên môi trường

dịch thể thích hợp sau đó bổ sung 0,5 % dịch nuôi cấy vào môi trường thạch bán lỏng 37

Số hóa bởi trung tâm Học liệu– ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

tương ứng, tiếp đó cắt miếng màng PLA – nisin có đường kính 6 mm đặt lên trên bề mặt thạch, ủ đĩa ở 4 oC ít nhất 4 giờ, sau đó đem nuôi ở nhiệt độ thích hợp. Kết quả nghiên

cứu được trình bày trong bảng 3.7.

Bảng 3.7. Khả năng kháng khuẩn của màng PLA - nisin

Đường kính vòng vô khuẩn của các loại màng (D-d) (mm)

Vi khuẩn kiểm định Đối chứng Thí nghiệm Đối chứng (+) Nisin (-) Màng PLA Màng PLA – nisin

L. plantarum JCM1149 9 0 8

S. aureus 7 0 6

L. monocytogenes 8 0 7

B. cereus 7 0 7

Salmonella. typhymurium 0 0 0

E. coli O157:H7 0 0 0

a b

38

c d

Số hóa bởi trung tâm Học liệu– ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

e f

Hình 3.2. Khả năng kháng khuẩn của màng PLA – nisin

a/ E. coli O157:H7; b/ S. typhymurium; c/ L. monocytogenes; d/ S. aureus; e/ L.

plantarum JCM1149; f/ B. cereus

Kết quả nghiên cứu trong bảng 3.7 và hình 3.2 cho thấy màng PLA - nisin có

khả năng ức chế các vi khuẩn Gram (+): L. plantarum JCM1149 (vòng vô khuẩn 8

mm); S. aureus (vòng vô khuẩn 6 mm); L. monocytogenes (vòng vô khuẩn 7 mm); B.

cereus (vòng vô khuẩn 7 mm), không có khả năng kháng lại vi khuẩn Gram (-):

Salmonella. typhymurium; E. coli O157:H7. Đồng thời kết quả nghiên cứu cũng cho

thấy, bản thân màng PLA nếu không chứa nisin thì không có khả năng kháng khuẩn

(với tất cả các chủng thí nghiệm đều cho vòng vô khuẩn bằng 0). Rõ ràng, khả năng ức

chế vi khuẩn Gram (+) của màng PLA - nisin là nhờ nisin. Kiểm tra khả năng kháng

khuẩn của nisin với cùng một nồng độ tương ứng với nồng độ nisin trong màng PLA –

nisin, cho kết quả gần như nhau [kết quả đối chứng dương và thí nghiệm: L.

plantarum JCM1149 (9 – 8 mm); S. aureus (7- 6 mm); L. monocytogenes (8 -7 mm);

B. cereus (7 - 7mm)]. Điều này chứng tỏ quá trình tạo màng không ảnh hưởng đến

hoạt tính kháng khuẩn của nisin và nisin trong màng cũng dễ dàng giải phóng và

khuyếch tán vào môi trường. Kết quả nghiên cứu này chứng tỏ màng PLA - nisin được

tạo ra ở đây hoàn toàn có thể ứng dụng được vào bao gói để bảo quản những loại thực

phẩm có nguyên nhân gây thối hỏng là do vi khuẩn Gram (+).

39

3.4.2. Tác dụng kháng khuẩn của màng trong môi trƣờng dịch thể

Số hóa bởi trung tâm Học liệu– ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

Trong nghiên cứu ở phần 3.4.1 cho thấy nisin trong màng PLA - nisin dễ dàng

giải phóng ra môi trường thạch bán lỏng khi nó tiếp xúc trực tiếp với môi trường và

đồng thời nó kháng lại một số chủng vi khuẩn Gram (+). Trong môi trường dịch thể

khả năng giải phóng của nisin ra khỏi màng như thế nào? Với hoạt tính nisin đó có khả

năng tiêu diệt được bao nhiêu vi khuẩn? Để trả lời được câu hỏi này cần tiến hành

nghiên cứu ảnh hưởng của màng PLA – nisin lên sinh trưởng của vi khuẩn B. cereus

trong môi trường LB dịch thể theo như phương pháp mô tả phần phương pháp. Kết

quả nghiên cứu thu được trình bày trong bảng 3.8 và hình 3.3

Bảng 3.8. Ảnh hưởng của màng PLA - nisin lên sinh trưởng của B. cereus

Thời gian nuôi Số lƣợng vi khuẩn Số lƣợng vi khuẩn

(h)

0

4

8

12 (thí nghiệm, CFU/ml) 2 x 106 4,4 x 103 3,8 x 102 2 x 101

16 0

20 0

24 0

36 0

40

48 (đối chứng, CFU/ml) 2 x 106 3,5 x 106 2,2 x 107 8,2 x 108 1,5 x 1010 1,3 x 1011 2,4 x 1011 8 x 1010 1,9 x 1010 0

Số hóa bởi trung tâm Học liệu– ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

Hình 3.3. Ảnh hưởng của màng PLA - nisin lên sinh trưởng của B. cereus

Kết quả nghiên cứu trong bảng 3.8 và hình 3.3 cho thấy với số lượng vi khuẩn B. cereus ban đầu lây nhiễm vào môi trường là 2 x 106, ngay sau 16 giờ nuôi ở 37

C, nisin trong màng PLA - nisin giải phóng ra môi trường đã tiêu diệt hoàn toàn số

lượng vi khuẩn B. cereus ở trên. Trong khi ở mẫu đối chứng (không có màng PLA - nisin) số lượng vi khuẩn B. cereus vẫn tiếp tục tăng đạt 1,5 x 1010 CFU/ml. Đồng

thời, kết quả nghiên cứu ở trên cũng cho thấy, vi khuẩn B. cereus rất nhạy cảm với

nisin trong màng PLA - nisin.

3.4.3. Động thái giải phóng nisin từ màng PLA

Đối với một hệ thống đóng gói kháng khuẩn có hiệu quả, hai yếu tố quan

trọng phải xem xét là [63] (i) chất kháng khuẩn khuếch tán từ bao bì vào bề mặt

thực phẩm như thế nào, và (ii) Mức độ ức chế sự sinh trưởng của vi sinh vật. Nếu

chất kháng khuẩn khuếch tán vào thực phẩm chậm hơn so với tốc độ tăng trưởng

của vi sinh vật gây thối hỏng thực phẩm, khi đó vi sinh vật sẽ sinh trưởng thuận lợi.

Mặt khác, nếu chất kháng khuẩn được giải phóng và khuếch tán nhanh hơn tốc độ

tăng trưởng của vi sinh vật, toàn bộ hợp chất kháng khuẩn từ vật liệu đóng gói sẽ

được khuếch tán quá nhanh và phân tán vào thực phẩm, làm giảm nồng độ chất

kháng khuẩn tại bề mặt thực phẩm. Trong trường hợp này hệ thống đóng gói sẽ

41

không có hoặc kém hiệu quả.

Số hóa bởi trung tâm Học liệu– ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

Một hệ thống đóng gói kháng khuẩn lý tưởng là ở đó sự giải phóng các hợp

chất kháng khuẩn có tốc độ phù hợp với tốc độ tăng trưởng của vi khuẩn. Ngoài

ra, tại bất kỳ thời điểm nào, nồng độ hợp chất kháng khuẩn duy trì ở bề mặt thực

phẩm ít nhất phải tương đương với nồng độ ức chế tối thiểu (MIC) cần thiết để ức

chế vi sinh vật mục tiêu [20].

Thí nghiệm với màng PLA - nisin được tạo ra có hoạt tính kháng khuẩn ban đầu là 1415 IU/cm2 màng, và tiến hành theo phương pháp được mô tả ở phần phương pháp. Theo đó, cắt 1 cm2 màng có 1415 IU/cm2 màng sau đó cho màng vào 1 ml môi trường MRS giữ ở nhiệt độ 100 oC trong 5 phút. Chuyển ống

nghiệm chứa màng và môi trường ở nhiệt độ phòng 24 giờ và lắc ở 100 rpm/p.

Kiểm tra hoạt tính nisin được giải phóng ra môi trường. Kết quả thể hiện ở bảng

3.9. Nisin giải phóng ra khỏi màng 1200 IU/ml, ở nồng độ này nisin ức chế được

vi sinh vật đích.

Bảng 3.9. Nồng độ nisin giải phóng ra ngoài màng

Thí nghiệm Nồng độ Nisin

Màng PLA - Nisin ban dầu 1415 IU/cm2

Giải phóng ra khỏi màng 1200 IU/ml ±100 IU/ml

Mặt khác, theo dõi động học quá trình giải phóng và khuếch tán nisin vào

thực phẩm sẽ một lần nữa cho thấy màng PLA - nisin phù hợp trong bao gói thực

phẩm. Màng kháng khuẩn PLA - nisin được tạo ra có hoạt tính màng 1415 IU/cm2. Đặt một miếng màng hình tròn đường kính 14 mm lên trên mặt môi trường MRS để 4 oC sau 24 giờ (vị trí 1) chuyển miếng màng đó sang vị trí thứ 2 tiếp tục để 4 oC sau 24 giờ. Tiếp tục như vậy cho đến ngày thứ 7. Đổ 1 lớp môi

trường MRS bán lỏng chứa 0,5 % vi sinh vật kiểm định L. plantarum JCM1149, tiếp tục giữ ở 4 oC trong 4 giờ, sau đó chuyển sang nuôi 37 oC trong 24 giờ, quan

sát vùng ức chế. Kết quả được trình bày trong hình 3.4.

Thời gian

Hoạt tính (D-d)

(ngày)

mm

1

42

5

Số hóa bởi trung tâm Học liệu– ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 2

6

7

4

3

1

18,5

2

12

3

11,5

4

11

5

9

6

8

7 (màng)

12,5

Hình 3.4. Khả năng ức chế L. plantarum của màng PLA – nisin từ ngày 1 – ngày 7

Chú thích: D: đường kính vòng hoạt tính -

- d: đường kính miếng màng

Từ kết quả hình 3.4 và bảng 3.9 cho thấy lượng nisin giải phóng ra khỏi màng

trong toàn bộ thời gian thí nghiệm là 7 ngày. Ngày đầu một lượng lớn nisin được giải

phóng ra (vòng ức chế 18,5 mm) và giảm dần theo thời gian và vẫn ức chế được vi

khuẩn cụ thể ngày thứ 2 vòng ức chế đạt 12 mm, ngày thứ 3 vòng ức chế là 11,5 mm,

ngày thứ 4 vòng ức chế là 11 mm, ngày thứ 5: 9 mm, ngày thứ 6: 8 mm, ngày thứ 7

vòng ức chế đạt 12,5 mm. Như vậy nisin đã khuếch tán ra môi trường từ từ theo thời

gian, điều này rất quan trọng bởi nếu nisin khuếch tán hết ngay vào môi trường nó chỉ

tiêu diệt được những vi khuẩn có mặt lúc đó, còn nếu những vi khuẩn có bào tử hoặc

thời gian sinh trưởng lâu hơn sẽ không bị tiêu diệt và những vi khuẩn bên ngoài cũng

có thể xâm nhập do nồng độ chất kháng khuẩn đã không đủ để ức chế. Điều này chứng

tỏ rằng lượng nisin bổ sung vào trong màng cũng như lượng nisin giải phóng ra khỏi

màng phù hợp với hệ thống đóng gói kháng khuẩn và khá lý tưởng.

3.5. HOẠT TÍNH KHÁNG KHUẨN CỦA MÀNG PLA – NISIN SAU THỜI

GIAN VÀ ĐIỀU KIỆN BẢO QUẢN

3.5.1. Ảnh hƣởng của điều kiện, thời gian bảo quản màng PLA - nisin đến hoạt

tính kháng khuẩn.

Hoạt tính kháng khuẩn của màng PLA - nisin ổn định nhất ở pH 2 † 3, nisin ổn

định hoạt tính trong vòng 2 tháng, đến 3 tháng hoạt tính kháng khuẩn của nisin có

43

giảm nhưng sự giảm này không đáng kể (dao động trong khoảng 1 † 2 %) và sau 4

Số hóa bởi trung tâm Học liệu– ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

tháng hoạt tính kháng khuẩn của nisin đã có sự giảm rõ rệt: ở trong điều kiện bảo quản

ở 4 °C, hoạt tính kháng khuẩn của nisin duy trì xấp xỉ 90 %; ở nhiệt độ phòng và chân

không tương ứng là 80 và 72 % so với ban đầu. Đồng thời kết quả theo dõi ảnh hưởng

của điều kiện bảo quản lên nồng độ tồn dư hoạt tính kháng khuẩn của nisin ở trong

màng không có sự khác biệt nhiều khi thí nghiệm được theo dõi trong vòng 15 ngày.

Để có thể ứng dụng nisin vào trong thực tế, sự thay đổi hoạt tính kháng khuẩn của

màng cần phải được nghiên cứu trong khoảng thời gian bảo quản dài hơn. Chính vì

vậy, trong nghiên cứu này, chúng tôi đã tiếp tục nghiên cứu ảnh hưởng của thời gian

bảo quản và điều kiện bảo quản lên nồng độ tồn dư hoạt tính kháng khuẩn của nisin ở

sản phẩm màng PLA. Kết quả nghiên cứu được trình bày trong bảng 3.10. Từ kết quả

này cho thấy: điều kiện và thời gian bảo quản có ảnh hưởng đến hoạt tính kháng khuẩn

của màng. Bảo quản màng PLA – nisin ở 4 † 10 C cho hoạt tính kháng khuẩn ổn định

hơn bảo quản nisin ở 32 C. Trong điều kiện bảo quản màng ở 4 † 10 C, nisin ổn định hoạt tính trong vòng 3 tháng (1415 IU/cm2); từ 4 tháng trở ra, hoạt tính kháng khuẩn

của nisin bắt đầu giảm và sau 6 tháng hoạt tính nisin giảm 8,5 % so với lúc ban đầu.

Còn bảo quản màng ở 32 C, nisin ổn định hoạt tính trong vòng 2 tháng (1414 IU/cm2); sang tháng thứ 3 nisin bắt đầu giảm hoạt tính, tuy nhiên sự giảm này không

đáng kể (khoảng 2 %) và sau 4 tháng, hoạt tính nisin đã có sự giảm rõ rệt, kết quả sau

6 tháng hoạt tính nisin giảm 40 % so với lúc ban đầu. Vì vậy, nếu muốn đưa màng

PLA - nisin vào bảo quản một sản phẩm nào đó ở nhiệt độ cao thì cần phải bổ sung

lượng nisin vào nhiều hơn so với khi bảo quản ở nhiệt độ thấp.

Bảng 3.10. Ảnh hưởng của điều kiện, thời gian bảo quản màng PLA - nisin đến hoạt

tính kháng khuẩn của nó

Nồng độ tồn dư nisin ở màng PLA - nisin (IU/cm2) theo thời gian bảo quản Bảo

(tháng)

quản (oC) 0 0.5 1 2 3 4 5 6

32 14141,5 14141,7 14141,5 14142,4 13862,1 11311,2 968±1,3 825±2,1

44

4-10 14151 14151 14151,7 14152,3 14021,6 13501,5 1317±1 1294±1

Số hóa bởi trung tâm Học liệu– ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

Trong quá trình bảo quản thực phẩm, hoạt tính kháng khuẩn của nisin phụ thuộc

vào ba yếu tố: nhiệt độ bảo quản, thời gian bảo quản và độ pH bảo quản. Nisin ổn định

hoạt tính nhất khi được bảo quản ở nhiệt độ thấp.

3.5.2. Khả năng ức chế các vi sinh vật gây bệnh của màng PLA - nisin ở các điều

kiện và thời gian bảo quản khác nhau.

Hệ vi sinh vật trong thực phẩm khá đa dạng về chủng loại, trong đó có

những loài gây bệnh nguy hiểm tới sức khỏe con người. Các loại màng nilon bọc

thực phẩm thông thường chỉ có tác dụng ngăn tiếp xúc của thực phẩm với môi

trường nhưng lại không có khả năng tiêu diệt được các vi sinh vật tồn tại trong

thực phẩm. Do đó, thực phẩm nhanh bị thối hỏng gây ảnh hưởng tới sức khỏe

người tiêu dùng. Màng phân hủy sinh học PLA - nisin có khả năng khắc phục

được một số nhược điểm trên, có hoạt tính sinh học tiêu diệt vi khuẩn Gram (+),

quan trọng hơn nữa là nó rất dễ bị phân hủy khi chôn lấp chúng ngoài môi trường,

nó không gây ảnh hưởng tới sức khỏe con người cũng như không gây ô nhiễm

môi trường. Trong kết quả nghiên cứu trên, màng PLA - nisin bảo quản ở điều

kiện 4 † 10 C tốt hơn bảo quản ở 32 C. Tuy nhiên ở các điều kiện bảo quản trên,

màng vẫn duy trì hoạt tính trong vòng 2 † 3 tháng, sau 4 tháng hoạt tính kháng

khuẩn trong màng mới bị giảm. Để có thể biết được sự giảm hoạt tính của màng

này ảnh hưởng như thế nào đến khả năng ức chế một số loại vi sinh vật gây bệnh

trong thực phẩm tiến hành nghiên cứu khả năng ức chế các vi sinh vật gây bệnh

của màng PLA - nisin ở các điều kiện và thời gian bảo quản khác nhau. Kết quả

trình bày ở bảng 3.11 và hình 3.5.

Bảng 3.11. Khả năng kháng khuẩn của màng PLA – nisin ở các điều kiện và thời

gian bảo quản khác nhau

Vòng kháng khuẩn (mm) STT Màng PLA - nisin B. cereus S. aureus L. monocytogenes

1 17 26

15

2 16,5 26

15

3 Sau 1 ngày, 4 oC Sau 1 ngày, 32 oC Sau 15 ngày, 4 oC 11 13

12,5

45

Số hóa bởi trung tâm Học liệu– ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

4 Sau 15 ngày, 32 oC 3 10

9

2 1

4 3 1 2

4 3

b a

4 3

1 2

c

Hình 3.5. Khả năng ức chế các chủng vi sinh vật gây bệnh của màng PLA – nisin

a/ B. cereus; b/ S. aureus; c/ L. Monocytogenes 1/ màng sau 1 ngày, 4 oC; 2/ màng sau 1 ngày, 32 oC; 3/ Màng sau 15 ngày, 4 oC; 4/ màng sau 15 ngày, 32 oC

Kết quả bảng 3.11 cho thấy khả năng kháng khuẩn của màng PLA – nisin tốt

nhất khi mới tạo ra, dù bảo quản ở hai nhiệt độ khác nhau nhưng chưa có ảnh hưởng rõ

rệt, màng PLA – nisin kháng lại vi khuẩn B. cereus tốt nhất, vòng vô khuẩn đạt 26

46

mm, với S. aureus vòng vô khuẩn là 17 mm, L. Monocytogenes vòng vô khuẩn là 15

Số hóa bởi trung tâm Học liệu– ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

mm. Màng sau 15 ngày đã thấy được sự khác biệt rõ ràng giữa 2 điều kiện nhiệt độ bảo quản, ở 4 oC hoạt tính kháng khuẩn của màng bị giảm ít hơn so với 32 oC. Ở 4 oC,

mẫu màng sau 15 ngày bảo quản ức chế vi khuẩn B. cereus với vòng vô khuẩn là 13 mm, S. aureus là 11 mm, L. Monocytogenes là 12,5 mm. Ở 32 oC và mẫu màng sau 15

ngày bảo quản: B. cereus: 3 mm, S. aureus: 10 mm, L. Monocytogenes: 9 mm.

3.6. ĐÁNH GİA KHẢ NĂNG PHÂN HỦY SİNH HỌC CỦA MÀNG

Màng được chôn lấp một cách tự nhiên trong đất vườn, trong thời gian 6 tháng.

Mẫu lấy hàng tháng, được cân trọng lượng và quan sát dưới kính hiển vi điện tử quét.

Kết quả cho thấy rằng, ban đầu bề mặt màng phẳng đều, sau 1 tháng xuất hiện bề mặt

lỗ chỗ, đặc biệt 3 tháng ta thấy có sự khác nhau rõ ràng, các liên kết bắt đầu bị phá vỡ,

màng ròn dễ gãy, đến 3 tháng hầu như vỡ vụn. Kết quả bề mặt màng ở các giai đoạn

được trình bày ở bảng 3.12 và chụp ảnh kính hiển vi điện tử quét (x 2.000) được trình

bày ở hình 3.6.

Từ kết quả ở bảng 3.12 và hình 3.6 cho thấy sau 1 tháng màng bị phân hủy 14,4 %,

sau 2 tháng phân hủy đạt 36,35 % và sau 3 tháng phân hủy đạt trên 50 %. Sau 6 tháng

hầu như vỡ vụn hết.

a. Bề mặt mẫu đối chứng (x 2.000) b. Bề mặt mẫu chôn lấp sau 30 ngày (x

47

2.000)

Số hóa bởi trung tâm Học liệu– ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

c. Bề mặt mẫu chôn lấp sau 90 ngày (x 2.000)

Hình 3.6. Hình ảnh bề mặt màng polylactic trước và sau khi chôn lấp: mẫu đối chứng

(a); chôn lấp sau 30 ngày (b); chôn lấp sau 90 ngày (c).

Bảng 3.12. Khả năng phân hủy sinh học của màng PLA - nisin theo thời gian (tháng)

Trọng lượng Khả năng Thời

Đánh giá cảm quan màng thí phân hủy, gian

nghiệm (g) (%) (tháng)

Bề mặt chắc chắn, phẳng, nhẵn 100 0 0

Bề mặt xuất hiện phân hủy, tạo các vảy và 85,6 14,4 1 có hiện tượng lồi lõm

Bề mặt phân hủy, bề mặt lồi lõm 63,7 36,3 2

Hiện tượng vỡ nhiều, bề mặt bị lồi lõm 40,5 59,5 3 sâu

Bề mặt lồi lõm sâu, mảnh vỡ vụn nhiều 29,6 70,4 4

Vỡ vụn nhiều 15,3 84,7 5

Vỡ vụn hết 13,2 86,8 6

3.7. ỨNG DỤNG MÀNG PLA – NISIN TRONG BẢO QUẢN THỰC PHẨM

Màng PLA – nisin chỉ có tác dụng kháng lại những vi khuẩn Gram (+), chính vì

thế để sử dụng hiệu quả loại màng này thì những thực phẩm có hệ vi sinh vật kiểm

soát được sẽ là lựa chọn hàng đầu. Nem chua là sản phẩm lên men do vi khuẩn lactic

làm tác nhân chính, do môi trường axit nên sẽ rất hạn chế các loài vi sinh vật khác, vì

vậy nem chua được lựa chọn để ứng dụng màng PLA – nisin. Để thấy rõ được khả

48

năng ứng dụng của màng PLA – nisin như thế nào, song song với nem chua chọn sản

Số hóa bởi trung tâm Học liệu– ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

phẩm có hệ vi sinh vật không xác định như bánh cốm để thấy được sự khác nhau ra

sao giữa hai loại sản phẩm.

3.7.1. Ứng dụng màng PLA - nisin để bảo quản thực phẩm lên men (nem chua)

Nem chua là sản phẩm chế biến từ thịt heo sống, qua những giai đoạn lên men,

tạo vị chua đồng thời làm từ thịt 'chín' để có thể ăn được. Sự biến đổi thịt sống trong

nem chua là do tác động của các loài vi khuẩn bản địa tạo axit lactic để làm chín thịt.

Vi khuẩn lactic được xác định là tác nhân chính trong quá trình lên men lactic do

chiếm ưu thế gần như tuyệt đối có mặt ở nem chua. Trong đó chủ yếu gồm các loài

thuộc chi Lactobacillus với số lượng lớn. Công bố của Doan và cs xác định chi L.

pentosus chiếm 21 %, L. plantarum 29,7 %, L. brevis 5 % và chi L. farciminis chiếm

23 % [29]. Ở Việt Nam có nhiều vùng miền sản xuất nem chua rất nổi tiếng như nem

chua làng Vẽ, Phùng Hà Nội, nem chua Thanh Hóa… Thí nghiệm được tiến hành với

nem chua được làm tại làng Vẽ, xã Đông Ngạc, Từ Liêm, là những nem chua đã chín.

Mẫu thí nghiệm được thay lá bọc bằng màng PLA - nisin, đối chứng là mẫu nem để

nguyên. Thí nghiệm được tiến hành ở nhiệt độ phòng. Kết quả được trình bày ở bảng

3.13 và hình 3.7.

Bảng 3.13. Cảm quan của nem chua được bảo quản bằng màng PLA - nisin

Nhiệt độ phòng (30oC) ngày Đối chứng Mẫu

Thơm, mùi không thay đổi, màu Thơm, mùi không thay đổi, màu hồng 1 nhạt hồng nhạt

Thơm, mùi không thay đổi, màu Thơm, mùi không thay đổi, màu hồng 2 nhạt hồng nhạt

Thơm, ngon, mùi không thay đổi, màu 3 Mùi chua, màu hồng nhạt hồng nhạt

Mùi chua, hai đầu nem bị vụn thịt, Thơm ngon, màu hồng nhạt 4 màu nhợt nhạt

49

Mùi chua, hai đầu nem bị vụn, màu Thơm ngon, màu hồng nhạt 5 nhợt nhạt

Số hóa bởi trung tâm Học liệu– ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

Mùi chua, hơi khẳm, màu nhạt → 6 Thơm ngon, màu hồng nhạt, đẹp không ăn được

7 Thơm ngon, màu hồng nhạt, đẹp

8 Thơm ngon, màu hồng nhạt, đẹp

9 Thơm ngon, màu hồng nhạt, đẹp

10 Thơm ngon, màu hồng nhạt, đẹp

11 Thơm ngon, màu hồng nhạt, đẹp

12 Thơm ngon, màu hồng nhạt, đẹp

13 Thơm ngon, màu hồng nhạt, đẹp

14 Thơm ngon, màu hồng nhạt, đẹp

15 Thơm ngon, màu hồng nhạt, đẹp

16 Thơm ngon, màu hồng nhạt, đẹp

17 Thơm ngon, màu hồng nhạt, đẹp

Chua hơn, màu vẫn đẹp, hơi khô hơn 18 ban đầu,

19

Mùi chua ngắt, màu không hồng, góc ngoài thành của nem bị vụn. Hỏng

Vụn, nhớt

a

50

b

Số hóa bởi trung tâm Học liệu– ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

Hình 3.7. Bảo quản nem chua

a/ nem chua có bọc màng; b/ nem chua không bọc màng

Từ kết quả bảng 3.13 cho thấy ở mẫu đối chứng không sử dụng màng PLA -

nisin thời gian tính từ lúc nem chín đến khi nem hỏng khoảng 5 ngày, trong khi

mẫu thí nghiệm kéo dài được 18 ngày. Nem chua là sản phẩm của quá trình lên men

lactic do hoạt động của vi khuẩn lactic sẽ tạo môi trường axit, trong điều kiện pH

này, hoạt tính nisin lại được tăng cường, gia tăng, vì nisin hoạt động tốt nhất ở điều

kiện pH axit. Vì vậy, nem chua không chỉ giữ được các đặc tính cơ bản mà còn

được kéo dài thời gian bảo quản khá rõ ràng. Đây là kết quả hết sức có ý nghĩa, một

lần nữa chứng tỏ tác dụng của nisin được phát huy, tăng cường mạnh hơn trong

điều kiện pH axit, giúp cho sảm phẩm nem chua ở trạng thái ổn định, đặc biệt hệ vi

khuẩn lactic, làm cho nem chua không chỉ bảo quản được lâu dài mà chất lượng

vẫn được đảm bảo.

3.7.2. Ứng dụng màng PLA - nisin để bảo quản sản phẩm từ tinh bột (bánh cốm)

3.7.2.1. Thành phần và số lƣợng vi sinh vật có trong mẫu bánh cốm

Để việc sử dụng màng PLA - nisin có hiệu quả đối với bánh cốm, thông tin dù

ở mức sơ bộ về sự hiện diện của vi sinh vật ở sản phẩm này là hữu ích. Các mẫu bánh

cốm từ những hiệu bánh nổi tiếng (bánh Cốm - phố Hàng Than thuộc Hà Nội) được

thu thập về và xác định số lượng VSV có trong mỗi loại bánh tại thời điểm ngày đầu

tiên ngay sau khi bánh được sản xuất và sau khi bánh bị hỏng. Kết quả được thể hiện ở

bảng 3.14. Từ kết quả trên bảng 3.14 cho thấy, ngay ngày đầu tiên sau khi bánh cốm

được sản xuất ra, VK có trong tất cả các loại bánh, nấm men và nấm mốc xuất hiện ít hơn. Bánh cốm Yên Ninh bị nhiễm VK ít nhất (8.101 CFU/g), nhưng lại có cả nấm

mốc và nấm men với số lượng nhỏ. Trong thí nghiệm chỉ chọn loại bánh là Nguyên

Ninh, do loại chỉ nhiễm vi khuẩn mà có thể là đích tấn công của nisin.

Quá trình bảo quản được tiến hành như sau: Mẫu thí nghiệm sử dụng màng

PLA - nisin để bọc bánh cốm, trong khi mẫu đối chứng được bọc bằng màng nilon

không có chất kháng khuẩn. Nhiệt độ bảo quản được thực hiện ở nhiệt độ phòng. Tiến

51

hành theo dõi, quan sát sự biến đổi màu sắc, cảm quan bánh theo thời gian. Từ đó

Số hóa bởi trung tâm Học liệu– ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

đánh giá, so sánh khả năng bảo quản bánh cốm bằng màng PLA - nisin so với việc bảo

quản bằng màng nilon thông thường.

Bảng 3.14. Thành phần, số lượng vi sinh vật (sơ bộ) có trong mẫu bánh cốm ngày đầu

tiên sau khi bánh được sản xuất

Số lượng vi sinh vật (CFU/g) Thương hiệu bánh

Nấm men 4.101 Yên Ninh

Nấm mốc 2.102 2.102 Nguyên Hinh

0 7.103 0 An Ninh

0 Bảo Minh

0 4,2.103 0 Anh Ninh

0 0 Nguyên Linh

0 An Ninh 2

0 Nguyên Sinh

0 0 6.101 2.102 Nguyên Hảo

Vi khuẩn 8.101 8.103 2,4.104 3.104 2.103 4.103 2,4.103 1,8.103 2.104 1,6.102 0 0 Nguyên Ninh

3.7.2.2. Đánh giá chất lƣợng cảm quan và vi sinh vật của bánh cốm trong quá

trình bảo quản

Để đánh giá khả năng bảo quản bánh cốm bằng màng PLA - nisin thì một trong

những tiêu chí cần phải đánh giá đó là đánh giá chất lượng cảm quan của bánh cốm trong

quá trình bảo quản. Kết quả nghiên cứu được trình bày trong bảng 3.15 và hình 3.8.

Bảng 3.15. Kết quả đánh giá chất lượng cảm quan của bánh cốm trong quá trình bảo quản

Thời gian

bảo quản Đánh giá chất lượng cảm quan của bánh cốm trong quá trình bảo quản

(ngày)

Đối chứng Thí nghiệm

Bánh có màu xanh ngọc, dẻo, thơm. Bánh có màu xanh ngọc, dẻo, thơm. 0

Bánh có màu xanh ngọc, dẻo, thơm. Bánh có màu xanh ngọc, dẻo, thơm. 3

52

Bánh có màu xanh ngọc, hơi khô, thơm. Bánh có màu xanh ngọc, dẻo, thơm. 4

Số hóa bởi trung tâm Học liệu– ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

Bánh có màu xanh ngọc, hơi khô, hơi

5 cứng, thỉnh thoảng có những đốm trắng Bánh có màu xanh ngọc, dẻo, thơm.

của mốc.

Bánh có màu xanh ngọc, hơi dính, hơi

cứng, lấm tấm những đốm trắng, xanh, Bánh có màu xanh ngọc, dẻo, 6 vàng của nấm mốc. Bánh có mùi ngái thơm.

ngái của mốc.

Bánh có màu xanh ngọc, hơi dính, hơi

cứng, nấm mốc trắng tạo thành từng đám Bánh có màu xanh ngọc, hơi dính,

trên bề mặt bánh, xen kẽ lấm tấm những hơi cứng, thỉnh thoảng có những 7 đốm trắng, xanh, vàng của nấm mốc và đốm trắng của mốc. Bánh không

có chỗ hơi nhớt. Bánh có mùi ngái ngái còn thơm như trước.

của mốc.

Mốc, nhớt

a b

d c

Hình 3.8. Bảo quản bánh cốm

a/ Không bọc màng ban đầu; b/ bọc màng ban đầu; c/ không bọc màng sau 6

53

ngày; d/ bọc màng sau 6 ngày

Số hóa bởi trung tâm Học liệu– ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

Kết quả nghiên cứu đánh giá cảm quan cho thấy, sử dụng màng PLA - nisin có

thể kéo dài thời gian bảo quản bánh cốm được thêm 3 ngày, bánh vẫn thơm, màu xanh

ngọc đặc trưng, dẻo.

Những kết quả thử nghiệm màng PLA - nisin để bảo quản nem chua, bánh cốm

cho thấy có sự khác nhau. Điều này hoàn toàn có thể giải thích được. Bởi lẽ, tác dụng của

màng PLA – nisin là phòng trừ các loại vi khuẩn Gram (+), trong dó có vi khuẩn gây bệnh

thực phẩm B. cereus, S. aureus, L. monocytogenes. Nem chua như đã phân tích ở trên: có

hệ vi sinh vật xác định chủ yếu là vi khuẩn lactic (Gram (+)) còn bánh cốm không xác

định được hệ vi sinh vật chính xác, chỉ là ngẫu nhiên từng mẻ bánh hay từng nơi sản xuất

vì vậy kết quả bảo quản cũng chưa thật chính xác. Như vậy, tác dụng bảo quản của màng

PLA - nisin chỉ hướng tới các vi khuẩn Gram (+) nói trên, sẽ không có tác dụng nếu thực

phẩm bị nhiễm các loại vi khuẩn Gram (-) , nấm mốc, nấm men.

Những kết quả thử nghiệm bảo quản nói trên, không chỉ gợi ý về việc sử dụng

màng PLA - nisin cho loại thực phẩm nào, mà còn là cơ sở để tạo ra các loại bao bì

cho các loại thực phẩm khác nhau, quan trọng hơn là tạo ra loại bao bì có tác dụng

tổng hợp.

IV. KẾT LUẬN

Màng axit polylactic – nisin được tạo ra với công thức: 25 ml methylene chloride,

0,25 g nisin, 0,75 g PLA. Sản phẩm màng tạo ra thể hiện rất rõ ràng hoạt tính kháng

khuẩn đối với vi khuẩn Gram (+) gây bệnh thực phẩm B. cereus, L. monocytogenes, S.

aureus cũng như bị phân hủy hoàn toàn sau 6 tháng trong điều kiện chôn lấp tự nhiên.

Sử dụng màng PLA - nisin thử nghiệm để bảo quản nem chua, bánh cốm. Kết quả

với nem chua là đã kéo dài thời gian bảo quản thêm 10 - 15 ngày, nem chua vẫn có

mùi vị thơm ngon đặc trưng, màu hồng nhạt của thịt rất đẹp mắt. Với bánh cốm cũng

đã kéo dài thêm được 3 ngày (bánh hiệu Nguyên Ninh), bánh cốm có màu xanh ngọc

54

đẹp mắt, mùi thơm đặc trưng.

Số hóa bởi trung tâm Học liệu– ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

V. KIẾN NGHỊ

Màng PLA - nisin là những sản phẩm mới, sản xuất theo công nghệ phối trộn

trên cơ sở sử dụng chất kết dính methylene chloride với các thao tác và công cụ thủ

công. Mặc dù vậy, sản phẩm màng PLA - nisin được tạo ra có các đặc tính cần thiết là

khả năng kháng khuẩn và phân hủy sinh học, đáp ứng các tiêu chí để bảo quản thực

phẩm và bảo vệ môi trường, có tác dụng kéo dài thời gian bảo quản rõ ràng với nem

chua. Tuy nhiên, để có được các tính toán ở phạm vi sản xuất, giá thành vật liệu nisin,

PLA, lựa chọn được công nghệ phù hợp, đánh giá triển vọng sản xuất và ứng dụng...

Hướng nghiên cứu cần được đầu tư thêm thời gian.

55

Số hóa bởi trung tâm Học liệu– ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tài liệu tiếng Việt

1. Nguyễn La Anh và cộng sự. (2010). Nghiên cứu công nghệ sản xuất chất bảo quản

sinh học bacterocin bằng phương pháp vi sinh có ứng dụng trong công nghiệp

thực phẩm. Báo cáo Đề tài nghị định thư Việt Nam-Nhật Bản.

2. Lý Kim Bảng, Lê Thanh Bình, Tạ Kim Chỉnh. (1988), „Ứng dụng vi khuẩn lactic

trong việc bảo quản thức ăn xanh cho trâu bò‟, Tạp chí Khoa học Kỹ thuật Nông

nghiệp, 10: 455-457.

3. Lê Thanh Bình, Phạm ThịNgọc Lan, Trần ThịThuý, Phan Khánh Hoa. (2000). Sự đa

dạng của vi khuẩn lactic có khả năng sinh tổng hợp bacteriocin. Hội nghị Sinh học

56

quốc gia, Nhà xuất bản Đại học quốc gia, năm 2000, Hà nội, 8

Số hóa bởi trung tâm Học liệu– ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

4. Nguyễn Lân Dũng, Nguyễn Đăng Đức, Đặng Hồng Miên, Nguyễn Vĩnh Phước,

Nguyễn Đình Quyến, Nguyễn Phùng Tiến, Phạm Văn Ty (1976), Một số

phương pháp nghiên cứu vi sinh vật, tập 2, Nxb Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội.

5. Nguyễn Thị Đà, Hoa Thị Minh Tú, Lê Thanh Bình. 2009. Nâng cao hoạt tính sinh

tổng hợp bacteriocin của một số chủng Lactococcus bằng cách chọn tế bào

kháng nisin. Báo cáo khoa học hội nghị Công nghệ sinh học toàn quốc 2009.

Thái nguyên 26-27, 2009, trang: 532-537

6. Phạm Thanh Hà, Trần Đình Mấn, Yutaka Tokiwa (2008). Đột biến nâng cao hoạt

tính sinh tổng hợp Polyhydroxyburate của vi khuẩn Alcaligenes Latus VN1.

Tạp chí công nghệ sinh học 6(4): 489-496.

7. Phan Thị Khánh Hoa, Nguyễn Việt Cường, Phạm Thị Ngọc Lan và Lê Thanh Bình.

2002. Tối ưu hoá sinh tổng hợp nisin của Lactococcus lactis subsp. lactis. Tạp

chí Khoa học và Công nghệ, tập 40, số 6: 24-31

8. Đỗ Thị Huyền. (2009). Nghiên cứu công nghệ sản xuất và sử dụng chất diệt khuẩn

sinh học (Nisin và Enterocin) dùng trong bảo quản nông sản thực phẩm. Báo

cáo tổng hợp, Hà Nội, 299 .

9. Phạm Thị Ngọc Lan, Trần Thị Thuý và Lê Thanh Bình. 1999. Đặc tính hoá các

chủng vi khuẩn lactic tổng hợp bacteriocin có phổ tác dụng rộng. Báo cáo tại

Hội nghị Công nghệ sinh học toàn quốc 2009, Hà nội 9-10/12, trang: 314-318.

Tài liệu nƣớc ngoài

10. Anders S and Mikael S. (2002). Properties of lactic acid based polymers and their

correlation with composition. Progress in Polymer Science, 27: 1123-1163.

11. Appendini P, Hotchkiss JH. 2002. Review of antimicrobial food packaging.

Innovative Food Sci. and Emerging technology 3: 113-126

12. Ariyapitipun T, Mustapha A, Clarke AD. (1999). Microbial shelf life

determination of vacuum-packaged fresh beef treated with polylactic acid, lactic

acid, and nisin solutions. J Food Prot. 62(8): 913-20.

13. Benninga H. (1990). A History of Lactic Acid Making, Kluwer Academic

57

Publishers, Dordrecht, Netherlands: 1–61.

Số hóa bởi trung tâm Học liệu– ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

14. Bruno M.E.C., Monteville T.J. (1993), “Common mechanistic action of bacteriocin

from lactic acid bacteria”, Appl.Environ.Microbiol, 59: 3003-3010.

15. Blackburn P., Polak, J., Guisik S., Rubino S. D. (1989). Nisin composition for use

as enhenced, broad range Bacterioxin,International patent application number

PCT/US89/02625: International publication number W89/12399. Appl.

Microbiol, New York.

16. Cargill Dow LLC, www.natureworkspla.com.

17. Chang D.E., Jung H.C., Rhee J.S., Pan J.G. (1999). Homofermentative production

of D-or L-lactate in metabolically engineered Escherichia coli RR1, Appl.

Environ. Microbiol. 65: 1384–1389.

18. Chinachoti N. (1997). Studies on the efficient production of nisin Z by

Lactococcus lactis IO-1 (JCM 7638). Ph. D. Thesis, The faculty of Agricultrure

Kyushu University.

19. Cleveland J., Montville T.M., Nes I.F. and Chikindas M.L. (2001), “Bacteriocins:

safe, natural antimicrobials for food preservation”, Int. J.Food Microbiol, 71: 1-20.

20. Cooksey K. 2005, Effectiveness of antimicrobial food packaging materials. Food

addit. Contam. 22: 980-987

21. Cotter P.D., Hill C and Ross P. (2005), “Bacteriocins: developing innate immunity for

food”, Nat Rev.Microbiol, 3: 777-788.

22. Datta R, Tsai S.P., Bonsignore P., Moon S.H., Frank J.R. (1995). Technological

and economic potential of poly(lactic acid) and lactic acid derivatives, FEMS

Microbiol. 16: 221–231.

23. Davidson P.M., Sofos J.N., Branen A.L. (2005), Antimicrobials in food, Third

Edition, CRC Press Taylor & Francis Group.

24. Davit K. Platt. (2006). Biodegradable polymers market report. Smithers Rapra

Limited. UK

25. De Vuyst L., Leroy F. (2007), “Bacteriocin from lactic acid bacteria: Production,

purification and food applications”, J.Mol.Microbial.Biotechnol, 13: 194-199.

26. Desmazeaud M. (1996). Growth inhibitors of lactic acid bacteria in Dairy starter

58

cultures, eds. TM. Cogan and J.P.Accolas, 131-155.

Số hóa bởi trung tâm Học liệu– ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

27. Dien B.S., Nichols N.N., Bothast R.J. (2001). Recombinant Escherichia coli

engineered for production of L-lactic acid from hexose and pentose sugars,

Microbiol. Biotechnol. 27: 259–264.

28. Dien B.S., Nichols N.N., Bothast R.J. (2002). Fermentation of sugar mixtures

using Escherichia coli catabolite repression mutants engineered for production

of L-lactic acid, J. Ind. Microbiol. Biotechnol. 29: 221–227.

29. Doan Thi Lam Nguyen, K. Van Hoorde, M. Cnockaert, E.D. Brandt, M. Aerts, K.

De Bruyene, Binh Thanh Le and P. Vandamme. 2013. A culture-dependent and

-independent approach for identification of lactic acid bacteria associated with

the production of nem chua, a Vietnamese fermented meat product. Food

Research International, 50: 232-240

30. Dodd H.M., Horn N., Gasson M.J (1994). “Bacteriocins of Lactic acid bacteria”,

in Genetics and biotechnology of lactic acid bacteria, Blankie Academic and

Professiona, 211-251.

31. Flieger M., Kantorova M., Prella A., Rezanka T., Vontruba J. (2003)

Biodegradable Plastics from Renewable Sources. Folia Microbiol, 48 (1): 27–

44.

32. Food standars Australia New Zealand. Initial assessment report application A565

Nisin-extension of use as food addtivie. 9 August 2006.

33. Fowler G.G., Javis B and Tramer. J. 1975. The assay of nisin in foods. Society of

Applied Bacteriology Technology Ser. 8: 91-105

34. Garriga M., Hugas M., Aymerich T and Monfort J.M. (1993), “Bacteriocinogenic

activity of lactobacilli from fermentated sausages”, J.of App.Bacteriol, 75: 142-148.

35. Geis A., Singh J. and Teuber M. (1983). Potential of Lactic Streptococci to

Produce Bacteriocin. Applied and Environmental Microbiology. 45(1): 205-211.

36. Gruber, P.R., Hall, E.S., Kolstad, J.J., Iwen, M.L., Benson, R.D., and Borchordt, R.L.

(1993). Continuous process for manufacture of a purified lactide. US Patent

59

5,274,073.

Số hóa bởi trung tâm Học liệu– ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

37. Gujarathi, Swapnali S., Bankar, Sandip B., Ananthanarayan and Laxmi A. (2008).

Fermentative. Production, Purification and Characterization of

Nisin," International Journal of Food Engineering. 4(5): 136-142.

38. Hábová R., Melzoch K, Rychtera M., Sekavová B. (2004). Electrodialysis as a

useful technique for lactic acid separation from a model solution and a

fermentation broth. Desalination162: 361-372

39. Hanusova K., J. Dobias and K. Klaudisova.( 2009). Effect of packaging films

releasing antimicrobial agents on stability of food products. Czech. J. food Sci.

Vol. 27 (Special Issue): 347-349

40. Harris L.J., Fleming H.P and Klaenhammer T.R. (1992), “Characterization of wo

nisin-producing Lactococcus lactis subsp lactis strains isolated from a

Commercial Sauerkraut fermentation”, Appl.and Environ.Mrobiol, 58 (5):

1477-1483.

41. Hiltunen K. and Seppa J.V. (1998). The use of different diols in the synthesis of

low-molecular weight lactic-acid-based telechelic prepolymers. J. Appl. Polym.

Sci., 67: 1017–1023.

42. Hofvendahl K., Hägerdal B. H .(2000). Factors affecting the fermentative lactic acid

production from renewable resources, Enzym Microb. Technol. 26: 87–107.

43. Hsust, Breukinke, Tischenko E.Lutters, MA, de Kruijj B, Kaptein R. Bonvin A M,

vanNuland NA.(2004). The nisin-lipid II complex reveals a pyrophosphate cage

that provides a blueprint for novel antibiotics. Nat. Struct. Mol. Biol. 11(10):

963-967.

44. Hurst, A. 1981. Nisin. Adv. Appl. Microbiol. 27: 85-123.

45. Jack R.W., Tagg J.R and Ray B. (1995), “Bacteriocins of Gram positive bacteria”.

Microbiol.Rev, 59 (2): 171-200.

46. Jin T., Zhang H. (2008). Biodegradable polylactic acid polymer with nisin for use

in antimicrobial - food packaging. Journal of Food Science. 73(3): 127-134

47. Jin, Z.T., Liu, L.S., Zhang, H.Q., Hicks, K.B. (2009). Antimicrobial activity of nisin

60

incorporated in pectin and polylactic acid composite films against Listeria

Số hóa bởi trung tâm Học liệu– ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

monocytogenes. International Journal of Food Science and Technology. 44: 322-

329.

48. Joerger, R. D. (2007). Antimictobial polylactic coasted paper for food applications: an

analysis of quantitative results. Packaging Science and Technology: 774-779

49. Jozala A.F., Cholewa O., Moraes D., Penna T.C.V. (2005). Increase of nisin

production by Lactococcus lactis in different media. African Journal of

Biotechnology. 4 (3): 262-265.

50. Kosakai Y., Park Y.S., Okabe M., (1999). Enhancement of L(+)-lactic acid production

using mycelial flocs of Rhizopus oryzae, Biotechnol. Bioeng. 55: 461–470.

51. Kristo E, Koutsoumanis KP, Biliaderis CG. (2008). Thermal, mechanical and water

vapor barrier properties of sodium caseinate films containing antimicrobials and

their inhibitory action on Listeria monocytogenes. Food Hydrocolloids 22: 373–

86.

52. Kunioka M., Ninomiya F., Funabashi M. and Yagi H. (2009). Anaerobic

Biodegradation Tests of Poly(lactic acid) under Mesophilic and Thermophilic

Conditions Using a New Evaluation System for Methane Fermentation in

Anaerobic Sludge. Int. J. Mol. Sci. 10: 3824-3835.

53. Kunioka, M.; Ninomiya, F.; Funabashi. M (2006). Biodegradation of poly(lactic acid)

powder proposed as the reference test materials for the international standard of

biodegradation evaluation methods. Polym. Degrad. Stab. 91: 1919-1928.

54. Kylä-Nikkilä K.,Hujanen M., Leisola M., Palva A. (2000). Metabolic engineering

of Lactobacillus helveticus CNRZ32 for production of pure L(+)-lactic acid,

Appl. Environ. Microbiol: 3835–3841

55. Le Thanh Binh, Pham Thi Ngoc Lan. (1997), “Lactic acid bacteria fermentation of

by-products of fishing and fisheries processing for the source of animal feed”,

Processing of NCST of Vietnam, 9: 101-108.

56. Liu L. S., Finkenstadt V. L., Liu C.-K., Jin T., Fishman M. L. and Hicks K. B. (2007).

Preparation of poly(lactic acid) and pectin composite films intended for applications

61

in antimicrobial packaging. Journal of Applied Polymer Science, 106:801–810.

Số hóa bởi trung tâm Học liệu– ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

57. Mehta R., Kumar v., Bhunia H., Upadhyay S.N. (2005). Synthesis of Poly(Lactic

Acid): A Review. Polymer Reviews, 45:325–349.

58. Millette M, Le Tien C, Smoragiewicz W, Lacroix M. (2007). Inhibition of

Staphylococcus aureus on beef by nisin-containingmodified alginate films and

beads. Food Control 18: 878–84.

59. Najjar MB., Kashtanov D. and Chikindas ML. (2007). ε-Poly-L-lysine and nisin A

act synergistically against Gram-positive food-borne pathogens Bacillus cereus

and Listeria monocytogenes. Letters in Applied Microbiology 45: 13–18.

60. Narayanan, N and Roychoudhury, P. and Srivastava, A. (2004). L (+) lactic acid

fermentation and its product polymerization”, Microbial Biotechnology 7(2): 26-

29.

61. Oda Y., Saito K., Yamauchi H., Mori M. (2002). Lactic acid fermentation of

potato pulp by the fungus Rhizopus oryzae, Curr. Microbiol. 45: 1–4.

62. Ohshima K. (2003). Biodegradable Plastics Society, Industrial Biodegradable

Plastics as Bio-based Materials in Japan, International Conference on Bio-

based Polymer at RIKEN, Tokyo, Japan.

63. Perez-perez C, Regalaro-Gonzalez C, Rodriguez- Rodrigue C. A, Barbosa-

Rodriguez J.R. and Villasenor-Ortega F. 2006. Incorporation of antimicrobial

agents in food packaging film and coating. Advances in Argicutural and Food

Biotechnology, 193-216, ISBN 81-7736-269-0, Ed. By Ramon Gerardo

Guevara-Gonzalez and Irineo Torres-Pacheco.

64. Rongguang Yang, Monty C. Johnson, and Bibek Ray, 1992. Novel method to

extraction large amounts of bacteriocins from lactic acid bacteria. Appl. and

Environ. Microbiol. 58: 3355-3359

65. Sawada K, Urakawa H and Ueda M. (2007). Modification of Polylactic Acid Fiber

with Enzymatic Treatment. Textile Research Journal 77 (11): 901-905

66. Schagger H, von Jagow G. 1987. Tricine -sodium dodesulphate polyacrylamide

gel electrophoresis for the separation of proteins in range from 1 to 100 kDa.

62

Analytical Biochmistry 166: 368-379

Số hóa bởi trung tâm Học liệu– ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

67. Sen AK, Narbad A, Horn N, Dodd HM, Parr AJ, Colquhoun I, Gasson MJ. (1999).

Post translation modification of nisin the involvement of nisin B in the

dehydration process, Eur. J. Biochem., 5(62): 524-532.

68. Severina E., Severin A. and Tomasz A. (1998). Antibacterial efficacy of nisin

against multidrug-resistant Grampositive pathogens. Journal of Antimicrobial

Chemotherapy 41: 341–347.

69. Shimizu H., Mizuguchi T, Tanaka E., and Shioya S. (1999). Nisin Production by a

Mixed Culture System Consisting of Lactococcus lactis and Kluyveromyces

marxianus. Applied and Environmental Microbiology 65(7): 3134-314.

70. Sunil Manglassary. 2012, Antimicrobial Food Packaging to enhance food safety:

Current Development and Future Challenges. Food Processing and Technology,

Vol. 3, Issue 5100e103

71. Suppkakul P, J. Miltz, K. Sonneveld and S.W. Bigger, 2003. Ative Packaging

Technologies with an Amphasis on Antimicrobial Packaging and its

application. J. Food Science, Vol. 68 (2): 408-420

72. Suwanmanee1 U, Leejarkpai T., Rudeekit Y., Thumrongrut M. (2010). Life Cycle

Energy Consumption and Greenhouse Gas Emissions of Polylactic acid (PLA)

and Polystyrene (PS) Trays Kasetsart J. Nat. Sci. 44 : 703 – 71.

73. Tagg J.R., Dajani A.S., Wannamarker L.W. (1976), “Bacteriocin of Gram positive

bacteria”, Bacteriol.Rev, 40: 722-756.

74. Taniguchi M, Hoshino K., Urasaki K. and Fujii M. (1994). Continuous production of

an antibiotic polypeptide (nisin) by Lactococcus lactis using a bioreactor coupled to

a microfiltration module. Journal of Fermentation and Bioengineering. 77(6): 704-

708.

75. Tay A., Yang S.T. (2002). Production of L(+)-lactic acid from glucose and starch

by immobilized cells of Rhizopus oryzae ina rotating fibrous bed bioreactor,

Biotechnol. Bioeng.80:1–12.

76. Tran Dinh Man and Nguyen The Trang (2008). Using Lactic Acid Bacteria

63

isolated in Vietnam for aquatic products waste treatment and Lactic Acid

Số hóa bởi trung tâm Học liệu– ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

Production for Polylactic synthesis. Processing Environmental Science &

Technology for the earth, Osaka, Japan: 278-285

77. Twomey, D., R. P. Ross, M. Ryan, B. Meaney, and C. Hill (2002),"Lantibiotics

produced by lactic acid bacteria: structure, function and applications", Antonie

Van Leeuwenhoek, 82, 165-85.

78. VickRoy T.B. (1985) Lactic Acid. In: Comprehensive Biotechnology, Pergamon

Press, New York: 761–776.

79. Wei-Liang Guo, Yi-bo Zhang, Jia-hui Lu, Li-yan Jiang and Yan-chun Liang.

2010. Optimazation of fermentation medium for nisin production from L. lactis

subsp. lactis using respond surface methodology (RSM) combined with

artificial neural network-genetic algorithm(NN-GA)

80. www.nanoecoproduct.com/

81. Xu X, Li B, Kennedy JF, Xie BJ, Huang M. (2007). Characterization of konjac

glucomannan–gellan gum blend films and their suitability for release of nisin

incorporated therein. Carbohydr Polym70:192–7.

82. Yin P., Nishiya N., Kosakai Y., Yahira K., Park Y.S., Okabe M. (1997). Enhanced

production of L(+)-lactic acid from corn starch in a culture of Rhizopus oryzae

using an air-lift bioreactor, J. Ferment. Bioeng. 84: 249–253.

83. Young J.W., Jin N.K., Hwa W. R. (2006). Biotechnological Production of Lactic

Acid, Food Technol. Biotechnol. 44 (2): 163–172.

84. Zang YC, Yam KL, Chikindas ML. 2004. Effective control of Listeria

monocytogenes by combination of nisin formulated and slowly released into a

broth system. Int. J. Food Microbiology 90: 15-22)

85. Zhou X.X., Pan YJ., Wang YB. and Li WF. (2008). Optimization of Medium

Composition for Nisin Fermentation with Response Surface Methodology.

64

Journal of Food Science, 73: 245–249.

Số hóa bởi trung tâm Học liệu– ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn