BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Lê Thị Kim Oanh

SO SÁNH CHẾ ĐỘ THUỘC ĐỊA

CỦA ANH VÀ PHÁP Ở CHÂU Á

QUA TRƯỜNG HỢP ẤN ĐỘ VÀ VIỆT NAM

(GIỮA THẾ KỶ XIX-GIỮA THẾ KỶ XX)

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

Thành phố Hồ Chí Minh - 2014

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Lê Thị Kim Oanh

SO SÁNH CHẾ ĐỘ THUỘC ĐỊA

CỦA ANH VÀ PHÁP Ở CHÂU Á

QUA TRƯỜNG HỢP ẤN ĐỘ VÀ VIỆT NAM

(GIỮA THẾ KỶ XIX-GIỮA THẾ KỶ XX)

Chuyên ngành : Lịch sử thế giới

Mã số

: 60 22 03 11

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

PGS.TS. NGÔ MINH OANH

Thành phố Hồ Chí Minh - 2014

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là đề tài nghiên cứu do tôi thực hiện.

Các số liệu và kết quả nghiên cứu được trình bày trong luận văn là trung

thực và chưa từng công bố ở các công trình nghiên cứu khác.

Tôi xin chịu trách nhiệm về đề tài nghiên cứu của mình.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

LỜI CẢM ƠN

Tôi xin chân thành bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến:

Ban giám hiệu Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh,

Phòng sau Đại học, quý thầy cô Khoa Lịch Sử đã nhiệt tình giúp đỡ và tạo

điều kiện cho tôi trong quá trình hoàn thành luận văn.

Phó giáo sư, Tiến sĩ Ngô Minh Oanh.Thầy đã tận tình chỉ bảo, động

viên và hướng dẫn cho tôi với sự cẩn trọng, nghiêm túc và trung thực trong

quá trình nghiên cứu và thực hiện luận văn này.

Các thầy cô tại thư viện trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí

Minh và tập thể các anh chị, các bạn học viên khóa 23, chuyên ngành Lịch

sử thế giới đã ủng hộ nhiệt tình và giúp đỡ chân thành cho tôi về mặt tư liệu.

Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn đến gia đình là nguồn động viên lớn nhất

cho tôi trong thời gian học tập và hoàn thành luận văn này.

Một lần nữa tôi xin chân thành cảm ơn!

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 30 tháng 9 năm 2014

Lê Thị Kim Oanh

MỤC LỤC

Lời cam đoan

Lời cảm ơn

Mục lục

Danh mục các bảng

Trang phụ bìa

MỞ ĐẦU ......................................................................................................................... 4

Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHỦ NGHĨA THỰC DÂN

QUÁ TRÌNH XÂM LƯỢC VÀO ẤN ĐỘ, VIỆT NAM CỦA

ANH, PHÁP............................................................................................ 11

1.1. Những vấn đề lý luận về chủ nghĩa thực dân ..................................................... 11

1.1.1. Quá trình ra đời và vị trí lịch sử của chủ nghĩa thực dân ............................. 11

1.1.2. Một số khái niệm và cách nhìn nhận về chủ nghĩa thực dân ....................... 13

1.1.3. C. Mác, Ph. Ăngghen và V.I Lênin nhìn nhận về chủ nghĩa thực dân. ............. 16

1.1.4. Hình thức biểu hiện của chủ nghĩa thực dân ................................................ 19

1.2. Quá trình xâm lược Ấn Độ và Việt Nam của Anh và Pháp ............................... 23

1.2.1. Quá trình thực dân Anh xâm lược Ấn Độ .................................................... 23

1.2.1.1. Tình hình của Ấn Độ trước khi thực dân Anh xâm lược .................... 23

1.2.1.2. Quá trình xâm lược của thực dân Anh ................................................ 26

1.2.1.3. Sự cai trị của Anh ở Ấn Độ trước năm 1858 ...................................... 31

1.2.2. Quá trình thực dân Pháp xâm lược Việt Nam .............................................. 37

1.2.2.1. Tình hình Việt Nam trước khi thực dân Pháp xâm lược ..................... 37

1.2.2.2. Âm mưu xâm lược Việt Nam của thực dân Pháp ............................... 41

1.2.2.3. Tiến trình xâm lược của Pháp vào Việt Nam (1858-1897) ................. 45

Chương 2. NHỮNG NÉT TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT TRONG CHẾ

ĐỘ THUỘC ĐỊA CỦA ANH VÀ PHÁP TẠI ẤN ĐỘ VÀ VIỆT

NAM (GIỮA THẾ KỶ XIX-GIỮA THẾ KỶ XX) ............................... 49

2.1. Về chính trị ......................................................................................................... 51

2.2. Về kinh tế ............................................................................................................ 60

2.3. Về văn hóa-giáo dục ........................................................................................... 69

2.4. Về xã hội ............................................................................................................. 80

Chương 3. TÁC ĐỘNG TỪ CÁC CHÍNH SÁCH THUỘC ĐỊA CỦA ANH

VÀ PHÁP ĐỐI VỚI ẤN ĐỘ VÀ VIỆT NAM .................................... 85

3.1. Những tác động tiêu cực từ các chính sách thuộc địa của Anh, Pháp đối với

Ấn Độ và Việt Nam ............................................................................................ 85

3.1.1. Về kinh tế ..................................................................................................... 85

3.1.2. Về chính trị-xã hội ....................................................................................... 87

3.2. Những tác động tích cực từ những chính sách thuộc địa của Anh, Pháp đối

với Ấn Độ và Việt Nam. ..................................................................................... 91

3.2.1. Về kinh tế ..................................................................................................... 91

3.3.2. Về chính trị-xã hội ....................................................................................... 93

3.3.3. Về văn hóa-giáo dục .................................................................................... 99

KẾT LUẬN ................................................................................................................ 108

TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................... 110

PHỤ LỤC

DANH MỤC BẢNG

Bảng 2.1. Số liệu về tình hình sản xuất dệt vải tại Ấn Độ ............................................ 65

Bảng 2.2. Số liệu về tình hình kỹ nghệ dệt đay tại Ấn Độ ............................................ 65

1

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Có thể nói, chủ nghĩa thực dân là một vấn đề lớn trong lịch sử nhân loại. Về mặt

thời gian nó tồn tại trong một thời kỳ lịch sử lâu dài, còn về mặt không gian chủ nghĩa

thực dân đã mở rộng phạm vi ảnh hưởng ra 2/3 diện tích địa cầu và có mặt ở tất cả các

châu lục trên thế giới “ nó đã gây nên một sự phục tùng làm cho những nước, những

dân tộc bị nó chi phối, mất quyền độc lập chính trị của mình…” [dẫn theo 18, tr. 6]. Là

một người nghiên cứu sử học, người nghiên cứu đã nhận thức được tầm quan trọng

của việc nghiên cứu bản chất chủ nghĩa thực dân cũng như đặc điểm của các nước thực

dân như Anh, Pháp trong quá trình nghiên cứu lịch sử chủ nghĩa tư bản nói riêng và

lịch sử thế giới nói chung để thấy được rằng sự bành trướng của thực dân Pháp không

phải là “ một loại hành động nghĩa hiệp mới mẻ anh hùng và kỳ diệu, đại lượng và vô

tư” [18, tr.9].

Tại Việt Nam tuy có nhiều công trình nghiên cứu có liên quan đến chủ nghĩa

thực dân, đặc biệt là chủ nghĩa thực dân Pháp nhưng hướng nghiên cứu về việc so sánh

chế độ thuộc địa của các nước thực dân nói chung, Anh và Pháp nói riêng thì còn khá

mới. Bên cạnh đó, lại tồn tại rất nhiều ý kiến, quan điểm khác nhau về hệ quả của các

chính sách thuộc địa do các nhà nghiên cứu đứng ở các góc độ khác nhau, ở vị trí hay

thời đại khác nhau để đánh giá và nhìn nhận vấn đề. Vì vậy người nghiên cứu muốn

đưa ra một cách tiếp cận của mình, dựa trên việc tập hợp những tài liệu và đứng trên

quan điểm khách quan.

Cuối cùng nhưng không kém phần quan trọng, là để phục vụ cho việc giảng dạy

và nghiên cứu của bản thân. Trong chương trình sách giáo khoa THPT thì chủ nghĩa

thực dân cũng là một nội dung liên quan đến nhiều bài học, đặc biệt là chủ nghĩa thực

dân Pháp ở Việt Nam. Ắt hẳn việc thực hiện đề tài này sẽ giúp người nghiên cứu xây

dựng nền tảng kiến thức vững chắc hơn về những vấn đề xung quanh đến chủ nghĩa

thực dân, đặc biệt là về hệ quả, tác động của chính sách mà các nước đế quốc đã để lại

cho thuộc địa.

2

Với tất cả lý do đó, người nghiên cứu đã quyết định chọn tên đề tài luận văn của

mình là: “So sánh chế độ thuộc địa của Anh và Pháp ở Châu Á qua trường hợp

Ấn Độ và Việt Nam (giữa thế kỷ XIX- giữa thế kỷ XX).

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

Đã có nhiều công trình nghiên cứu về chủ nghĩa thực dân đặc biệt là về thực dân

Anh và Pháp, song lại tồn tại rất nhiều ý kiến, quan điểm khác nhau về nó. Sở dĩ có sự

khác nhau đó là do các nhà nghiên cứu đứng ở các góc độ khác nhau, ở vị trí hay thời

đại khác nhau để đánh giá và nhìn nhận vấn đề.

Đầu tiên phải kể đến quan điểm của những nhà nghiên cứu kinh điển của chủ

nghĩa Mác Lênin, tiêu biểu nhất và đầy đủ nhất được thể hiện qua luận điểm của

C.Mác, Ăngghen và sau đó là Lênin. Qua các tác phẩm: Tuyên ngôn của Đảng cộng

sản, Tư bản, Hệ tư tưởng Đức C.Mác và Ăngghen đã vạch ra những mặt tiêu cực, xấu

xa của chủ nghĩa thực dân: “..Giai cấp tư sản đã bắt nông thôn phải phục tùng thành

thị, bắt những nước dã man hay nửa dã man phụ thuộc vào những dân tộc tư sản, bắt phương Đông phải phụ thuộc vào phương Tây” [dẫn theo 3, tr.14] nhưng cũng bắt đầu

đề cập đến mặt tích cực nằm ngoài ý muốn mà chủ nghĩa thực dân mang lại cho các

nước thuộc địa, thậm chí: “Chính điều này đã quyết định xu hướng phát triển của lịch

sử Châu Á cận đại” [dẫn theo 3, tr.15]. Đến V.I Lênin, khi chủ nghĩa tư bản đã bộc lộ

ngày càng rõ nét những đặc điểm của nó thì Lênin cũng có cái nhìn hoàn chỉnh hơn về

chủ nghĩa thực dân: Điều quan trọng là chủ nghĩa tư bản không thể tồn tại và phát

triển được nếu không thường xuyên mở rộng phạm vi thống trị của nó…[dẫn theo 3,

tr.16] tức Lênin cho rằng việc xâm chiếm thuộc địa là nhu cầu tất yếu của các nước

thực dân và nó sẽ buộc các nước thuộc địa phải hội nhập vào quá trình phát triển kinh

tế tư bản cũng như là nền kinh tế thế giới, do đó các nước thuộc địa không thể tránh

khỏi sự thống trị của chính quốc và nhiệm vụ của họ là phải tìm ra con đường đúng

đắn để giải phóng dân tộc mình. Tuy rằng tại thời điểm đó, C. Mác, Ăngghen và Lênin

không có một tác phẩm nghiên cứu hay một luận điểm hoàn chỉnh nào về đặc điểm

của chủ nghĩa thực dân và sự khác biệt giữa chúng nhưng những luận điểm của họ đã

góp phần giúp chúng ta có cái nhìn đúng đắn khi nghiên cứu về chủ nghĩa thực dân.

Chính vì thế, những tác phẩm của C. Mác, Ăghghen và Lênin là một trong số những

3

tài liệu quan trọng về mặt lý luận mà người nghiên cứu sử dụng tham khảo để hoàn

thành đề tài nghiên cứu của mình. Bên cạnh những tài liệu kinh điển trên, chúng ta

cũng sẽ tìm thấy những hoạt động xâm lược cũng như chính sách cai trị của các nước

đế quốc thực dân đối với những thuộc địa tiêu biểu như Anh ở Ấn Độ và Pháp ở Đông

Dương ở một số tác phẩm khác. Vấn đề này chiếm dung lượng khá lớn trong bộ sách

Lịch sử Kinh tế các nước (ngoài Liên Xô) của F. Ia. Pôlianxki gồm 4 tập xuất bản năm

1978. Qua đó, tác giả người Liên Xô này cũng phần nào đưa ra những nhận định về

chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa thực dân khá gần với quan điểm của những người nghiên

cứu thuộc các nước thuộc địa, nạn nhân của chủ nghĩa thực dân cũ và mới. Tuy nhiên

đây chỉ là bộ sách thuần túy về nội dung kinh tế, Pôlianxki cũng là một nhà kinh tế

học, ông viết tác phẩm dựa chủ yếu trên tài liệu Liên Xô và đứng trên lập trường

chống lại chủ nghĩa tư bản, nên phần nào tác phẩm mang tính chủ quan, phiến diện,

không thực sự đi sâu vào nghiên cứu và đánh giá về đặc điểm của từng nước chủ nghĩa

thực dân.

Với các nhà nghiên cứu tại các nước đế quốc thực dân mà chủ yếu là Anh, Pháp,

Mỹ, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha họ lại có cách đánh giá và tiếp cận khác về chủ nghĩa

thực dân. Chẳng hạn như trong tác phẩm: Đặc điểm của chủ nghĩa thực dân Pháp

được viết vào năm 1960, Ray-Mông-Bác-Bê đã có một công trình nghiên cứu về quá

trình phát triển, những đặc điểm cơ bản của chủ nghĩa thực dân Pháp từ khi ra đời cho

tới khi tan rã. Thế nhưng những chính sách thuộc địa và tác động của nó, đặc biệt là

những tác động tiêu cực lại được nói đến một cách hời hợt và không rõ ràng, chỉ gói

gọn trong các cụm từ như “xâm lược”, “cưỡng bức”, “tiêu cực”. Các cuốn sách có

trình bày lý luận về chủ nghĩa thực dân đều đưa ra những luận điểm chưa toàn diện với

đúng bản chất của nó, tức cả yếu tố tích cực và yếu tố tiêu cực. Chẳng hạn như trong

cuốn: Key Concepts in American History-Colonialism của Darrell J. Kozlowski lại

đưa ra khái niệm về chủ nghĩa thực dân như sau: “Chủ nghĩa thực dân là sự mở rộng

lãnh thổ của một quốc gia đến những vùng đất bên ngoài biên giới của mình. Những

vùng đất mới được thành lập bởi các nước chính quốc được gọi là thuộc địa”

[28, tr.1]. Trong công trình nghiên cứu này những cuộc xâm chiếm của châu Âu đối

với châu Mỹ cùng những chính sách cai trị của họ lại được nhìn nhận là những nhân tố

4

định hình nên lịch sử nước Mỹ. “Nhà nghiên cứu người Mỹ David S. Landes viết cuốn

sách “Sự giàu và nghèo của các dân tộc”được Kenneth Galbraith đánh giá: “Thật là

tuyệt vời. Không nghi ngờ cuốn sách này sẽ đặt David S. Landes thành một người

hàng đầu xuất sắc trong lĩnh vực của ông và trong thời đại của ông”. Cuốn sách đã

nghiên cứu toàn diện về điều kiện tự nhiên, địa lý, chính trị, thể chế quan hệ quốc tế để

tìm lời giải cho vấn đề vì sao có những quốc gia vượt lên các quốc gia khác và trở nên

giàu có, còn nhiều nước trải qua hàng thế kỷ vẫn không thoát khỏi tình trạng nghèo

đói” [42]. Qua đó vấn đề chủ nghĩa thực dân cũng được ông đề cập trong một số

chương của cuốn sách, đặc biệt là về chủ nghĩa thực dân Anh ở Ấn Độ. Ngoài các tác

phẩm trình bày lý luận về chủ nghĩa thực dân như: Colonialism in Question-Theory,

Knowledge, History của Frederick Cooper và Key Concepts in American History-

Colonialism thì tại các nước thực dân cũng đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về

chính sách thuộc địa của một quốc gia cụ thể trên một khu vực địa lý, một quốc gia

nhất định. Tiêu biểu về thực dân Anh tại Ấn Độ có một số công trình nghiên cứu như:

Britain’s Oceanic Empire, Atlantic and Indian Ocean Worlds, c. 1550–1850 của các

tác giả H. V. Bowen, Elizabeth Mancke, and John G. Reid. Cuốn sách là một công

trình lớn, tập hợp rất nhiều bài viết của các tác giả khác nhau, trong đó ở phần III và

IV có một số bài nghiên cứu về hoạt động của công ty Đông Ấn và quá trình xâm lược

vào Ấn Độ mà cuốn sách gọi là “ngoại giao ở Ấn Độ”. Qua đó cuốn sách cũng dựng

lên một bức tranh khá rõ nét về chính sách thuộc địa và tình hình kinh tế của Ấn Độ

vào thời kỳ đầu cai trị của Anh. Tuy nhiên, cuốn sách cũng chỉ dừng ở việc đánh giá

tác động của các chính sách thuộc địa đối với đế quốc Anh, còn đối với Ấn Độ thì

chưa được đánh giá toàn diện. Bên cạnh đó, phải kể đến một số công trình khác nói về

thực dân Anh như: A short history of British colonial policy của Hugh Edward

Egerton được viết vào năm 1897 và British colonial policy của George Louis Beer

viết năm 1907. Cả hai cuốn sách đều lấy các chính sách thuộc địa của Anh làm mục

đích nghiên cứu chính và đã trình bày rất rõ về quá trình xâm lược của Anh vào các

vùng thuộc địa. Tuy nhiên, do ra đời khi chủ nghĩa thực dân Anh chưa thực sự bộc lộ

hết các đặc điểm của nó cho nên hai công trình chưa trình bày được đầy đủ và rõ nét

về các chính sách thuộc địa của Anh tại Ấn Độ và một số khu vực khác. Ngoài ra,

5

người nghiên cứu cũng tham khảo một số bài viết trên các tạp chí trong đó quan trọng

nhất là hai bài viết, bài thứ nhất với nhan đề: The Raj reconsidered: British India’s

informal Empire and spheres of influence In Asia and Africa (2009) và The Arabian

Frontier of the British Raj: Merchants, Rulers, and the British in the nineteenth-

Century Gulf (Oxford University Press, 2007), của James Onley Dr. Đây thực sự là

những bài nghiên cứu vô cùng giá trị đối với người nghiên cứu, không những cách

trình bày khoa học mà các bài viết còn đề cập đến nhiều vấn đề quan trọng như mục

đích của việc xâm lược Ấn Độ và cách cai trị của người Anh ở các vùng trong khu vực

châu Á. Bài thứ hai của tác giả Ryan Brown được viết năm 2010 với tên gọi The

British empire in India đã trình bày quá trình người Anh vào Ấn Độ từ vương triều

Mohgol cho tới năm 1947 khi Ấn Độ giành được độc lập. Người nghiên cứu chủ yếu

khai thác được ở bài viết này một số chính sách mà Anh đã thi hành qua một số giai

đoạn và qua những nhà cầm quyền thuộc địa Anh ở Ấn Độ.

Về thực dân Pháp có cuốn: The French in Tonkin and South China của Alfred

Cunningham, đây như một tài liệu quý của tác giả, ghi lại cuộc hành trình của mình

đến Trung quốc và Đông Dương. Bố cục của công trình được chia theo từng địa danh,

Việt Nam được nhắc tới bởi những địa danh như Hà Nội, Hải Phòng. Trong mỗi khu

vực này, tác giả ghi lại tất cả mọi thứ mà ông nhìn, thấy và cảm nhận được một cách

rất chân thực. Tuy không trình bày một cách rõ ràng về chính sách thuộc địa của Pháp

tại Đông Dương nhưng cuốn sách đã cung cấp những dẫn chứng rất chân thực về hệ

quả của các chính sách thuộc địa và phần nào bắt đầu so sánh các hoạt động, chính

sách thuộc địa của thực dân Anh và thực dân Pháp. Công trình mang tên: The colonial

tariff policy of France của tác giả Arthur Girault được viết vào năm 1916 bao gồm hai

phần và 14 chương đã giành ra một chương để nói về Đông Dương, trong đó chủ yếu

nói về Việt Nam. Cuốn sách đề cập một cách chi tiết về chính sách thuế quan cũng

như vai trò, lợi ích về mặt kinh tế của khu vực Đông Dương đối với chính quốc thông

qua số liệu về các loại hàng hóa ở khu vực này nhưng không đánh giá đến tác động

của các chính sách thuộc địa đối với khu vực Đông Dương. Về việc so sánh giữa thực

dân Anh và thực dân Pháp, người viết cũng tiếp cận được một số tài liệu nước ngoài

trong đó có bài viết: The legacies of history Colonization and immigrant integration

6

in Britain and France được đăng trên tạp chí Theory and Society vào năm 2005,

trong bài viết này tác giả Erik Bleich đã trình bày và so sánh một cách ngắn gọn về

chính sách thuộc địa của Anh và Pháp cũng như những di sản thuộc địa của hai quốc

gia này. Đây là một khía cạnh tiếp cận mới của một tác giả nước ngoài mà người viết

cần thiết phải tham khảo để đưa ra cái nhìn toàn diện hơn về vấn đề nghiên cứu. Riêng

về tác động của các chính sách thuộc địa ở Đông Dương phải kể đến luận án tiến sĩ

của Julia Alayne Grenier Burlette mang tên:French influence overseas: The rise and

fall of colonial Indochina, bao gồm 3 chương và tác giả đã trình bày rất chi tiết, cụ

thể về quá trình người Pháp vào Đông Dương cho đến các chính sách kinh tế, văn hóa

và cũng giải thích cho sự thất bại của người Pháp ở khu vực này. Đặc biệt, Julia

Alayne Grenier Burlette đề cập rất nhiều đến tác động của các chính sách thuộc địa, cả

tiêu cực và tích cực và đây là một tài liệu rất quan trọng cho người nghiên cứu khi tìm

hiểu về vấn đề này.

Ngoài ra tại các quốc gia phương Tây còn có các cuốn sách như: Colonial

memory and postcolonial Europe, Maltese Settlers in Algeria and France của

Andrea L. Smith hay The making of British colonial development policy 1914–1940

của Stephen Constantine, những tác phẩm ấy được viết đều với chung một mục đích là

để phân tích và đánh giá về nguyên nhân thành công hay thất bại của các chính sách

thuộc địa của họ mà thôi, các tác động tiêu cực của nó đối với các nước thuộc địa chỉ

là những minh chứng họ đưa ra để đánh giá mức độ thành công hay thất bại chứ không

hề đánh giá đến sự thiệt hại to lớn mà các nước thuộc địa phải gánh chịu.

Tại Việt Nam, các nhà nghiên cứu đứng trên lập trường của một nước thuộc địa

cũng đưa ra cái nhìn về chủ nghĩa thực dân, nhưng vấn đề này lại thường được lồng

ghép trong các vấn đề khác và chủ yếu nhấn mạnh đến những chính sách, tác động tiêu

cực của chủ nghĩa thực dân đối với nước ta, qua đó lên án gay gắt thực dân Pháp và đế

quốc Mỹ, cụ thể có một số tác phẩm tiêu biểu như sau:

Trong cuốn sách của tác giả Đỗ Thanh Bình có nhan đề: Lịch sử phong trào giải

phóng dân tộc thế kỷ XX, một cách tiếp cận thì vấn đề và cách nhìn nhận về chủ

nghĩa thực dân đã được nghiên cứu một cách khá đầy đủ và khách quan. Đặc biệt, đây

là một trong số rất ít những công trình tại Việt Nam đã trình bày một cách khái quát về

7

lý luận của chủ nghĩa thực dân. Tuy nhiên, nó lại được trình bày gắn liền với vấn đề

dân tộc và giải phóng dân tộc của các nước thuộc địa nên còn bị hạn chế ở nhiều mặt

và chưa hoàn chỉnh. Bên cạnh đó, còn có rất nhiều tác phẩm nghiên cứu về chính tình

hình Việt nam trong thời kỳ là thuộc địa của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ tiêu biểu

như cuốn sách Việt Nam dưới thời Pháp đô hộ của tác giả Nguyễn Thế Anh. Được

viết vào năm 1970 khi thực dân Pháp đã hoàn toàn rút khỏi Việt Nam và bởi một tác

giả đã có cơ hội làm việc tại Pháp do đó cách viết và trình bày của cuốn sách có sự

khác biệt với những tác giả khác vào thời kỳ đó. Cuốn sách chia làm ba phần, mỗi

phần ba chương nhưng hoàn toàn là theo mạch trình bày các biến cố chính trị hay quân

sự, “sự kiện thuộc địa” trong đó, độc giả có thể hình dung được diễn biến của một giai

đoạn lịch sử chứa đựng nhiều biến đổi cho xã hội Việt Nam. Với cùng suy nghĩ và

cách viết đó còn có cuốn sách: Người Pháp và người Annam, bạn hay thù? của

Philippe Devillers-một nhà sử học đã sống và nghiên cứu tại Việt Nam về cuộc chiến

tranh tại Đông Dương, trình bày những diễn biến của hành động với việc bám sát các

niên đại để giải thích “ hành động và phản ứng” của cả hai phía Pháp và Việt Nam.

Trong hai tài liệu này rất khó để tìm thấy một nhận xét khen chê nhưng nó lại cung cấp

cho chúng ta nhiều “chất liệu” để có nhận thức đúng đắn về hệ quả của những chính

sách thuộc địa của Pháp tại Việt Nam. Về các chính sách thuộc địa Anh ở Ấn Độ, có

nhiều tác phẩm đề cập đến vấn đề này nhưng chủ yếu coi đó là một giai đoạn trong

lịch sử của Ấn Độ hoặc có liên quan đến vấn đề nghiên cứu chứ rất ít các công trình

nghiên cứu riêng về vấn đề này. Một số công trình tiêu biểu cho cách trình bày này là:

Lịch sử Ấn Độ của Vũ Dương Ninh, Ấn Độ qua các thời đại của Nguyễn Thừa Hỷ,

Các nhân vật lịch sử cận đại (tập IV) và hiện đại (tập II) của Lê Vinh Quốc và Ngô

Minh Oanh. Đây cũng là những tài liệu rất hữu ích cho người nghiên cứu có cái nhìn

bao quát nhất về lịch sử Ấn Độ nói chung và vị trí của thời kỳ là thuộc địa của Anh

trong tiến trình phát triển của lịch sử Ấn Độ nói riêng.

Như vậy, mặc dù vấn đề chủ nghĩa thực dân đã được nghiên cứu rất nhiều tại

Việt Nam ở nhiều khía cạnh khác nhau. Thế nhưng lý luận của chủ nghĩa thực dân

cũng như những đặc điểm của từng nước thực dân và hệ quả mà nó để lại đối với sự

phát triển của nhân loại vẫn luôn làm say mê và không bao giờ là đủ đối với những

8

người nghiên cứu sử học. Thiết nghĩ, đây là một vấn đề quan trọng vẫn phải tiếp tục

tìm hiểu, đặc biệt đối với một đất nước từng là thuộc địa như Việt Nam, điều đó càng

cần thiết để giúp cho những người nghiên cứu lịch sử có một nhận thức đúng đắn và

hoàn chỉnh hơn về quá trình hình thành, phát triển của từng nước thực dân và những

tác động của chủ nghĩa thực dân đối với nước ta nói riêng và trên bình diện thế giới

nói chung.

3. Mục đích nghiên cứu

Đề tài được nghiên cứu nhằm so sánh chế độ thuộc địa của Anh và Pháp dựa trên

những chính sách thuộc địa được thi hành tại Ấn Độ và Việt Nam. Bên cạnh đó, luận

văn cũng muốn đưa ra đánh giá toàn diện hơn về hệ quả của các chính sách thuộc địa

đối với cả các nước thực dân và các nước thuộc địa.

4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu là chế độ thuộc địa của Anh và Pháp mà chủ yếu là những

chính sách thuộc địa mà họ đã thi hành ở Ấn Độ và Việt Nam và một số nét tương

đồng cũng như khác biệt trong cách cai trị thuộc địa của Anh và Pháp.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

 Về không gian:

- Tập trung ở Ấn Độ (trước năm 1947) và Việt Nam (trước 1945).

 Về thời gian:

- Khoảng từ giữa thế kỉ XIX đến giữa XX, tương đương với thời gian từ khi Ấn

Độ và Việt Nam đều là thuộc địa của Anh và Pháp cho đến khi độc lập. Tuy nhiên,

giai đoạn trước và sau đó cũng sẽ được đề cập tới trong những giới hạn nhất định để

làm rõ hơn nội dung nghiên cứu.

5. Phương pháp nghiên cứu

Phương pháp nghiên cứu chủ yếu dựa trên cơ sở phương pháp luận là chủ nghĩa

Mác Lênin, bên cạnh đó là phương pháp lịch sử và phương pháp logic. Ngoài ra tôi

còn sử dụng một số phương pháp liên ngành giữa sử học, xã hội học, dân tộc học, địa

lý học…

9

6. Nguồn tư liệu

- Các sách viết hoặc có liên quan đến vấn đề nghiên cứu.

- Các bài báo, tạp chí, khóa luận, luận văn, luận án có liên quan đến đề tài.

- Các website lớn, đáng tin ở trong và ngoài nước viết về đề tài.

7. Đóng góp của luận văn

Cho đến nay, việc nghiên cứu về chế độ thuộc địa của Anh và Pháp cũng như

những hệ quả, di sản mà nó để lại đối với sự phát triển của các nước thuộc địa và toàn

nhân loại đã được rất nhiều các học giả tại Việt Nam nghiên cứu. Tuy nhiên, hướng

nghiên cứu so sánh đặc điểm của các nước thực dân thông qua chế độ thuộc địa của nó

tại thuộc địa thì chưa nhiều. Do vậy, đề tài được tiến hành nghiên cứu nhằm có thể thu

thập và hệ thống hóa một số nguồn tài liệu tạo thành tập tin, nguồn tài liệu đáng tin cậy

về chế độ thuộc địa Anh và Pháp ở Ấn Độ, Việt Nam cùng với hệ quả được nhìn nhận

một cách toàn diện hơn. Người nghiên cứu hi vọng đây sẽ là tài liệu có ích đối với

những người quan tâm đến đề tài hoặc những lĩnh vực có liên quan mà đề tài đã đề cập

và nghiên cứu.

8. Bố cục của luận văn và các vấn đề cần giải quyết

Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, tài liệu tham khảo, phần phụ lục, luận văn

có ba chương:

Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHỦ NGHĨA THỰC DÂN

QUÁ TRÌNH XÂM LƯỢC ẤN ĐỘ, VIỆT NAM CỦA ANH, PHÁP

Nội dung của chương 1 nhằm giải quyết hai vấn đề:

Thứ nhất là một số vấn đề lý luận về chủ nghĩa thực dân sẽ đề cập đến các nội

dung chi tiết như: Quá trình ra đời, vị trí lịch sử, một số khái niệm và cách nhìn nhận

cũng như hình thức biểu hiện về chủ nghĩa thực dân, cuối cùng là trình bày quan điểm

của C. Mác, Ph. Ăngghen và V.I Lênin nhìn nhận về chủ nghĩa thực dân.

Thứ hai là trình bày về quá trình xâm lược Ấn Độ và Việt Nam của Anh và Pháp,

trong đó cũng tìm hiểu về tình hình của hai quốc gia này trước khi bị Anh, Pháp cai trị.

Chương 2. NHỮNG NÉT TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT TRONG CHẾ

ĐỘ THUỘC ĐỊA CỦA ANH, PHÁP TẠI ẤN ĐỘ, VIỆT NAM (GIỮA THẾ KỶ

XIX-GIỮA THẾ KỶ XX)

10

Chế độ thuộc địa được Anh và Pháp xây dựng tại Ấn Độ và Việt Nam có những

sự giống và khác nhau trong các lĩnh vực. Nội dung của chương 2 nhằm so sánh, tìm

ra một số nét tương đồng và khác biệt trong lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa-giáo

dục, xã hội mà hai đế quốc thực dân này đã áp đặt lên Ấn Độ và Việt Nam

Chương 3. TÁC ĐỘNG TỪ CÁC CHÍNH SÁCH THUỘC ĐỊA CỦA ANH

VÀ PHÁP ĐỐI VỚI ẤN ĐỘ VÀ VIỆT NAM

Các chính sách thuộc địa đã tác động sâu sắc đến đời sống của Ấn Độ và Việt

Nam. Nội dung của chương 3 sẽ trình bày về những tác động tích cực và tiêu cực của

những chính sách này trên một số lĩnh vực cụ thể.

11

Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHỦ NGHĨA

THỰC DÂN QUÁ TRÌNH XÂM LƯỢC VÀO ẤN ĐỘ,

VIỆT NAM CỦA ANH, PHÁP

1.1. Những vấn đề lý luận về chủ nghĩa thực dân

1.1.1. Quá trình ra đời và vị trí lịch sử của chủ nghĩa thực dân

Xét về mặt thời gian, trong quá trình phát triển của lịch sử nhân loại, chủ nghĩa

thực dân xuất hiện không phải là hiện tượng cá biệt mà là phổ biến, mang tính toàn

cầu. Nó tồn tại trong một thời kỳ lịch sử lâu dài.Darrell J. Kozlowski cho rằng “Lịch

sử của chế độ thực dân-hành động mở rộng quyền lực tới quốc gia khác-trải dài trên

khắp toàn cầu và kéo dài qua thời gian. Chủ nghĩa thực dân thường được sử dụng để

chỉ đế quốc châu Âu ở nước ngoài. Lịch sử của chế độ thực dân có thể bắt nguồn từ

người Phoenicia và Hy Lạp cổ đại” [28, tr.1]. Cũng theo tác giả:

“Người Phoenicia, người đầu tiên định cư ở rìa phía Đông của biển Địa

Trung Hải, họ nắm thế lực rất lớn về thương mại ở khu vực Địa Trung Hải

khoảng từ năm 1550 TCN cho đến 300 TCN. Họ trao đổi với các thành phố

ở Ai Cập, Hy Lạp và thành lập các thuộc địa xa về phía tây là Cadiz ngày

nay, thuộc Tây Ban Nha. Ở Hy Lạp cổ đại, các thành bang Hy Lạp thường

thiết lập thuộc địa để buôn bán với nước ngoài và làm tăng sự giàu có của

họ. 30 thành bang Hy Lạp đã thành lập được nhiều hơn một thuộc địa ở khu

vực Địa Trung Hải. Nhà thực dân tích cực nhất là thị quốc Miletus. Nó thiết

lập được 90 thuộc địa trải dài trên Địa Trung Hải, từ bờ biển ngày nay là

phía đông Thổ Nhĩ Kỳ đến bờ biển phía nam thuộc phía tây Tây Ban Nha

ngày nay. Một số các thuộc địa nằm trên bờ biển phía bắc của châu Phi.Ban

đầu người La Mã thường thiết lập các thuộc địa để bảo vệ các vùng đất mới

xâm chiếm được. Trong thời kỳ đầu, các thuộc địa của công dân La Mã

nằm dọc theo hai bên bờ biển của Ý” [28, tr.1-2].

Tuy nhiên, cũng có ý kiến cho rằng, “chủ nghĩa thực dân đã xuất hiện và tồn tại

sớm với việc các thương nhân phương Tây lập ra các thương điếm rải rác ở châu Á,

12

châu Phi. Nhưng nhìn chung, người ta thường lấy năm 1511, với sự kiện thực dân Bồ

Đào Nha xâm chiếm bán đảo Ma-lắc-ca ở Đông Nam Á làm mốc mở đầu cho thời kỳ

của chủ nghĩa thực dân, mặc dù đến năm 1511 chưa có một cuộc cách mạng tư sản nào

diễn ra. Khi Macao trở về Trung Quốc, năm 1999 được coi là mốc cáo chung của chủ

nghĩa thực dân đã từng tồn tại kéo dài ít nhất 5 thế kỷ” [3, tr.11]. Trong suốt quá trình

tồn tại của mình, chủ nghĩa thực dân có một vị trí quan trọng trong tiến trình lịch sử

nhân loại. Trong cách nhìn của các dân tộc bị áp bức, chủ nghĩa thực dân là sản phẩm

của chế độ tư bản chủ nghĩa, là vết nhơ trong lịch sử nhân loại, vì nó đã tạo ra một thời

kỳ đầy bi thương cho các dân tộc thuộc địa ở Á, Phi và Mĩ Latinh.

Xét về mặt không gian, phạm vi bành trướng, xâm lược của chủ nghĩa thực dân,

người ta thấy nó không dừng lại ở một khu vực nào, ở một châu lục nào, mà có mặt ở

khắp trên thế giới. Nó “đã mở rộng phạm vi thế lực của mình ra 2/3 diện tích địa cầu,

có mặt ở tất cả các châu lục. Từ châu Âu rồi Bắc Mĩ, khu vực Mĩ Latinh và cả châu

Đại Dương xa xôi” [3, tr.12]. Có thể nói “từ khi bắt đầu xuất hiện cho đến nửa sau thế

kỷ XX, thuộc địa vẫn được coi là thước đo sức mạnh, giá trị của chủ nghĩa thực dân,

chủ nghĩa tư bản. Việc tranh giành thuộc địa là một trong những nguyên nhân chủ yếu

làm bùng nổ hai cuộc chiến tranh thế giới và hàng loạt các cuộc chiến tranh khu vực

(như chiến tranh Anh – Bôơ (1899-1902), Mĩ – Tây Ban Nha (1898), hay sự can thiệp

của 8 nước đế quốc vào Trung Quốc nửa cuối thế kỷ XIX…). Đồng thời, thuộc địa

cũng là một vấn đề chính gây nên những rắc rối, bất ổn trong quan hệ quốc tế, quan hệ

song phương giữa các nước lớn, kéo dài nhiều thế kỉ. Chính nhờ có thuộc địa mà một

số nước tư bản đã trở thành những cường quốc tư bản hàng đầu và giữ vị trí đó trong

một thời gian không phải là ngắn, chi phối thế giới. Điển hình là Anh và sau đó là

Pháp. Đế quốc Anh có hệ thống thuộc địa rộng lớn bao la, đứng đầu thế giới, đó là đế

quốc mà “Mặt trời không bao giờ lặn”. Chính nhờ ưu thế về thuộc địa mà mặc dù Anh

mất độc quyền về công nghiệp từ cuối thế kỷ XIX nhưng Anh vẫn giữ vị trí đứng đầu

thế giới tư bản về sự giàu có, về sức mạnh nói chung. Sau Anh là Pháp. Pháp có hệ

thống thuộc địa rộng lớn và đông dân thứ hai sau Anh vì thế vai trò và vị trí của Pháp

cũng xếp thứ hai trong thế giới tư bản cho tới tận trước khi Chiến tranh thế giới thứ hai

bùng nổ. Sau chiến tranh thế giới thứ hai, hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa thực dân

13

cũ lần lượt sụp đổ. Vị trí và vai trò của Anh, Pháp dần dần bị đẩy xuống phía sau,

trong khi đó Mĩ vươn lên đứng đầu thế giới tư bản cùng với bành trướng thuộc địa

bằng chủ nghĩa thực dân trá hình. Mĩ là đế quốc đi đầu trong việc áp dụng chủ nghĩa

thực dân trá hình trong bối cảnh chủ nghĩa thực dân cũ bị nhân loại nguyền rủa và sụp

đổ. Do đó, chủ nghĩa thực dân trá hình của Mĩ đã thành công ở một số nơi.

Khi phân tích quá trình xâm chiếm thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc, phân tích

vai trò và vị trí của thuộc địa đối với các nước tư bản, V.I Lênin đã đưa ra một trong

năm đặc trưng của chủ nghĩa đế quốc ở giai đoạn cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX, đó

là vấn đề thuộc địa. Có thể nói hệ thống thuộc địa là một trong những đặc điểm không

thể thiếu của chủ nghĩa đế quốc. Nói cách khác, thuộc địa là nơi mà “tất cả sinh lực

của chủ nghĩa tư bản quốc tế đều lấy” ở đó” [3, tr.12-13].

1.1.2. Một số khái niệm và cách nhìn nhận về chủ nghĩa thực dân

Khi nghiên cứu về chủ nghĩa thực dân nói chung hay những khía cạnh có liên

quan đến phạm trù này, chúng ta cần phải tìm hiểu qua một số khái niệm như: đế chế,

chủ nghĩa đế quốc; thuộc địa, chủ nghĩa thực dân. Tùy theo cách tiếp cận tài liệu và

quan niệm của người nghiên cứu mà các khái niệm này có phần khác nhau. Trong Key

Concepts in American History-Colonialism của Darrell J. Kozlowski đưa ra khái

niệm về chủ nghĩa thực dân như sau “Chủ nghĩa thực dân là sự mở rộng lãnh thổ của

một quốc gia đến những vùng đất bên ngoài biên giới của mình. Những vùng đất mới được thành lập bởi các nước chính quốc được gọi là thuộc địa” [28, tr.1]. Tương tự như

vậy, trong tác phẩm “Sự giàu và nghèo của các dân tộc” tác giả David S. Landes

cũng cho rằng: “Chủ nghĩa đế quốc là hệ thống (nguyên lý hay tinh thần) và sự thực

hiện đế chế-sự thống trị của một nước đối với những nước khác. Các đế chế lớn lên

khi các quốc gia lớn lên, quốc gia này mạnh hơn quốc gia kia. Căn cứ vào cái phả hệ

lâu đời đó và mối liện hệ giữa đế chế với chinh phục quân sự và thủ đoạn ngoại giao,

với vị trí xã hội, quyền lực và của cải, “đế chế” và “chủ nghĩa đế quốc” đã từng là

những từ kiêu hãnh” [4, tr.413]. Vào cuối thế kỷ 19, khi mà chủ nghĩa tư bản lên đến

tột cùng và chủ nghĩa đế quốc cũng lên đến đỉnh điểm như một phát minh hay sản

phẩm phụ của chủ nghĩa tư bản hiện đại. Nhiều người đã lập luận rằng đế chế là tất

yếu và cần thiết cho sự thịnh vượng và sống sót của chủ nghĩa tư bản hiện đại, và rằng

14

chủ nghĩa đế quốc nhằm mục đích trên hết là lợi ích vật chất, ngay cả ở những nơi mà

nó phải trả giá và chịu thiệt thòi. Bên cạnh quan niệm như thế, cũng không ít ý kiến

trình bày về vấn đề này và nó phản ánh sự cần thiết phải làm mất uy tín của bọn đế

quốc và tư bản nhằm khuyến khích sự chống cự và cách mạng, hiển nhiên nó thường

xảy ra tại các nước yếu và bị thống trị. “Chủ nghĩa thực dân là chủ nghĩa đế quốc ở

dạng còn đen tối hơn nữa. Đối với nhiều người, nó bao hàm những bất công xã hội,

những sự nhục mạ con người, những đòi hỏi và đạo đức buộc người ta phải có những

hành động chống lại, những yêu sách về công lý và những cuộc đấu tranh để giải

phóng. Từ “colony” vốn có một nguồn gốc chẳng tội tình gì trong xã hội cổ đại, nó có

nghĩa là một nơi định cư ở xa-ví như khu định cư của người Phenixi ở Carthage hay

những khu định cư của người Hi Lạp ở Ý. Nhưng định cư lại bao hàm những kiểu di

dời được sự chỉ định của những người đứng đầu quốc gia tới những vùng đất không

phải vô chủ, vì vậy nó không thể nào là tốt hay phù hợp đạo lý, ít nhất là đối với

những nạn nhân của sự di dời” [4, tr.414]. Cho nên sự định cư xét như một hệ thống rõ

ràng là xấu. Do vậy mà cũng có nhà nghiên cứu cho rằng: “Chủ nghĩa thực dân là

chính sách của các nước đi xâm chiếm nước khác để thống trị, bóc lột. Chủ nghĩa thực

dân có mầm mống từ thời cổ đại song phát triển mạnh mẽ, có hệ thống dưới thời tư

bản…” [12, tr.107] “… là một hình thức mở rộng sự thống trị tạm thời của người đối

với người và như vậy nó là một phần của lịch sử nhân loại với những hình thức thống

trị, nô dịch, áp bức và bóc lột” [36, tr.291].

Thậm chí: “Thực dân là một hành động xâm lăng và duy trì sự xâm lăng bằng

bạo lực nhằm khai thác và chiếm đoạt những tài nguyên của các nước bị thuộc địa. Đó

là một hình thức người bóc lột người, người đè nén người. Cho nên chế độ thực dân là

một chế độ vô nhân đạo, phi chính nghĩa. Vì không thể phơi bày tính chất vô nhân đạo

một cách trắng trợn, nên chế độ thực dân phải núp sau những lý tưởng, những chủ

nghĩa giả dối để huyễn diệu người ta. Có thể gọi những chủ nghĩa thực dân tạo ra là

huyền thoại” [20, tr.1]. Đây chính là khái niệm về chủ nghĩa thực dân nằm ngay trong

lời tựa của cuốn sách chủ nghĩa thực dân Pháp ở Việt Nam-thực chất và huyền thoại

của tác giả Nguyễn Văn Trung.

15

“Trong cách nói gần đây hơn, “colonialism” đã mở rộng nội dung để chỉ “bất cứ

điều kiện bị lệ thuộc nào về kinh tế hay chính trị,” dù sự lệ thuộc đó có dẫn đến sự di

dời của dân bản địa hay không. Nghĩa xấu của từ này đã khiến những nhà phê bình

hiện đại chỉ trích sự thống trị của nước ngoài (của Phương Tây), thích dùng từ

colonialism (chủ nghĩa thực dân) hơn là thuật ngữ imperialism (chủ nghĩa đế quốc).

Colonialism nghe xấu hơn” [4, tr.414]. Có ý kiến cho rằng “Sự khác biệt quan trọng

giữa chủ nghĩa thực dân và chủ nghĩa đế quốc dường như là sự hiện diện hay không

của một số lượng đáng kể những người định cư vĩnh viễn ở thuộc địa từ chính quyền

thực dân” [38, tr.47]. Người ta thường cho rằng chủ nghĩa đế quốc là một cái gì đó do

phương Tây sáng tạo ra như một độc quyền của mình để đổ lên đầu các dân tộc không

phải người châu Âu. Trái ngược với những quan điểm đó, các học giả phương Tây phủ

nhận điều đó và cho rằng chủ nghĩa thực dân diễn ra vòng quanh trái đất. Ở phương

đông, “người Trung Hoa đã tràn xuống phía nam, khuất phục và nuốt chửng nhiều dân

tộc không phải người Hán. Người Nhật Bản đã chinh phục những hòn đảo từ tay người

Ainu. Người Miến Điện đã di cư từ gốc gác của họ ở Mông Cổ và lấy tên của mình đặt

cho một dải đất ở xa dưới phía nam, đồng hóa phần lớn các thổ dân. Người Ảrập đã

bung ra từ hoang mạc, tràn qua miền bắc Châu Phi, cải đạo đa số thần dân của họ

thành những tín đồ Hồi giáo. Họ tạo nên những quốc gia Hồi giáo, và ngôn ngữ của họ

trở thành tiêu chí định nghĩa chung của những nhân dân đa dạng này”

[4, tr.415].

Như vậy, chủ nghĩa thực dân là hành động xâm chiếm, mở rộng lãnh thổ của một

quốc gia dưới sự chỉ đạo của chính phủ thành những chính sách, đường lối rõ ràng, cụ

thể. Và nếu hiểu rằng chủ nghĩa thực dân là chỉ để ám chỉ các nước Phương Tây thì

chưa toàn diện. “Đương nhiên là đã có một cái gì khác đi khi người Châu Âu cưỡi

thuyền hay cưỡi ngựa đi vòng quanh thế giới và khuất phục những thị tộc, dân tộc xa

lạ bằng những vũ khí, kiến thức của họ ở trình độ cao hơn. Những địa phương và con

người bản địa này đều khác xa người Châu Âu cả về văn hóa, địa lý và cơ thể. Nếu

những cuộc chinh phục trước đó đều ở gần sát biên giới lãnh thổ và mang ý nghĩa hấp

thu hay đồng hóa nhằm sát nhập nó vào lãnh thổ vốn có, thì những miền đất xa lạ này

16

được coi là những phần thưởng, những vùng đất do cơ hội mà có. Chúng không phải

những bộ phận hợp thành mà là những bộ phận phụ thêm” [4, tr.415].

1.1.3. C. Mác, Ph. Ăngghen và V.I Lênin nhìn nhận về chủ nghĩa thực dân.

Chủ nghĩa thực dân là một vấn đề lớn trong lịch sử nhân loại. Cùng với quá trình

phát triển của chủ nghĩa thực dân thì cũng có những cái nhìn khác nhau về nó. Sở dĩ có

điều đó là do các nhà nghiên cứu đứng ở các góc độ khác nhau, ở vị trí hay thời đại

khác nhau để đánh giá, nhìn nhận. Trước Mác, việc nhìn nhận về chủ nghĩa thực dân

không phải ai khác mà chính là các học giả tư sản người Anh, người Bồ Đào Nha,

người Tây Ban Nha. Các học giả tư sản viết khá nhiều về chính sách thực dân nhưng

chủ yếu tập trung vào việc khai thác chức năng “khai hóa” của nó. Sự nhìn nhận về

thuộc địa của các học giả tư sản nhiều khi rất chi tiết, cặn kẽ, nhưng tất cả là để phục

vụ cho chính sách bóc lột, khai thác thuộc địa của chủ nghĩa thực dân.

C. Mác là người đầu tiên nghiên cứu, có những đánh giá về chủ nghĩa thực dân

và đưa ra những luận điểm chính thống của mình. Cơ sở đầu tiên để C.Mác nghiên cứu

và đưa ra những luận điểm của mình chính là việc nghiên cứu sự thống trị của Anh đối

với Airơlen, đặc biệt là nghiên cứu quá trình xâm lược và thống trị của thực dân Anh ở

Ấn Độ. Ph.Ăngghen cũng có những nghiên cứu sâu sắc về chủ nghĩa thực dân và

thuộc địa. Hai ông đã thể hiện những luận điểm về các vấn đề này trong tác phẩm:

tuyên ngôn của Đảng cộng sản, Tư bản, Hệ tư tưởng Đức…Khi nghiên cứu về chủ

nghĩa thực dân, C.Mác và Ph.Ăngghen đã vạch ra những mặt tiêu cực, chỉ ra những

mặt xấu xa của nó. Trong Tuyên ngôn của Đảng cộng sản, hai ông viết “…giai cấp tư

sản đã bắt nông thôn phải phục tùng thành thị, bắt những nước dã man hay nửa dã man

phụ thuộc vào những dân tộc tư sản, bắt phương Đông phải phụ thuộc vào phương

Tây” [dẫn theo 3, tr.14]. Sự cưỡng bức các dân tộc thuộc địa chậm phát triển phụ

thuộc vào các nước phưuơng Tây, như C.Mác và Ăngghen đã chỉ rõ, là mặt trái của

chủ nghĩa thực dân. Qua đó, C.Mác nói rõ quá trình bót lột thuộc địa tàn nhẫn của chủ

nghĩa thực dân nhằm để tạo ra sự tích lũy ban đầu của chủ nghĩa tư bản. C.Mác viết:

“việc tìm thấy những mỏ vàng và bạc ở Châu Mĩ, việc biến người bản xứ thành nô lệ,

việc chôn vùi họ vào các hầm mỏ hoặc tuyệt diệt họ đi, những bước đầu của công cuộc

chinh phục và cướp bóc ở Đông Ấn, việc biến Châu Phi thành vùng đất cấm thương

17

mại dành riêng cho việc săn bắt người da đen, đấy là những biện pháp tích lũy nguyên

thủy có tính chất tình ca, báo hiệu buổi bình minh của thời đại tư bản chủ nghĩa.” [dẫn

theo 3, tr.14]. quá trình bóc lột thuộc địa của chủ nghĩa thực dân phương tây để tạo nên

nguồn lợi nhuận cho tích lũy ban đầu của chủ nghĩa tư bản đã thấm đầy bùn máu và

nhơ như Mác đã chỉ ra. Nếu không có quá trình bóc lột ấy thì sẽ không có sự phát triển

của chủ nghĩa tư bản ở các giai đoạn tiếp theo.

Bên cạnh yếu tố kinh tế, như đã nói ở trên, mặt xấu xa của chủ nghĩa thực dân

cũng thể hiện ở yếu tố văn hóa-tư tưởng. C.Mác đã nhắc tới sự thống trị của tư tưởng

chủng tộc, tư tưởng “khai hóa văn minh” của các nước thực dân phương Tây đối với

các dân tộc “mọi rợ”. Điều này, theo C.Mác, nó đã chà đạp lên quyền lợi thiêng liêng

của các dân tộc và chính là ngòi nổ làm bùng lên các cuộc khởi nghĩa, các cuộc đấu

tranh cách mạng của các dân tộc thuộc địa mà cuộc khởi nghĩa Cipayes ở Ấn Độ

(1857-1859) là một điển hình. Đó là cuộc khởi nghĩa mà một người Anh đã phải nói

rằng “Tôi cho rằng chúng ta đã mắc sai lầm lớn khi chúng ta thực hiện thương mại vào

Ấn Độ, nó trở thành một điều xấu hổ của cộng đồng Thiên Chúa giáo chúng ta... Hai

lĩnh vực tiên phong của văn minh là Kitô giáo và thương mại không bao giờ nên tách

rời ra; và người Anh nên được cảnh báo với những hệ quả của việc bỏ qua nguyên tắc

điển hình trong việc quản lý các vấn đề của Ấn Độ....” [dẫn theo 30, tr.84]. Đây chính

là mặt trái của chủ nghĩa thực dân, là vết thương của các dân tộc thuộc địa mà phải có

thời gian mới xóa bỏ đi được. Sau này, ách áp bức dân tộc biến tướng thành chủ nghĩa

phân biệt chủng tộc. Điển hình nhất là chủ nghĩa Apacthai ở Nam Phi. Chủ nghĩa

Apacthai cũng xuất phát từ tư tưởng của chủ nghĩa thực dân. Mặc dù nó đã bị xóa bỏ

từ những năm 1993-1994, nhưng những dấu vết ở Nam Phi và trên thực tế ở một số

nơi vẫn còn tồn tại sâu sắc, nghiệt ngã.

Khi nghiên cứu về chủ nghĩa thực dân, bên cạnh chỉ ra những tiêu cực, những

mặt phá hoại của nó là chủ yếu, các nhà nghiên cứu, trên một khía cạnh nào đó, còn

nhìn thấy có những yếu tố xây dựng. các nhà xã hội học hay sử gia phương Tây

thường gọi đó là “khai hóa văn minh”. Mác là người sớm nhận thấy tính hai mặt của

chủ nghĩa thực dân. Trong khi đề cập đến mặt phá hoại thì C.Mác cũng đề cập đến

việc “thực hiện sứ mệnh xây dựng”, nhưng đó là kết quả của một quá trình nằm ngoài

18

ý muốn của chủ nghĩa thực dân. Điều này được C.Mác phân tích khi nói về sự thống

trị của Anh ở Ấn Độ. “Theo C.Mác, sự thống trị này một mặt là phá hoại xã hội truyền

thống Châu Á, mặt khác lại đặt cơ sở vật chất cho xã hội phương Tây ở châu Á. “chính

điều này đã quyết định xu hướng phát triển của lịch sử châu Á cận đại” [dẫn theo 3,

tr.15]. Từ khía cạnh này, người ta thấy đây chính là khuynh hướng để xã hội châu Á

hội nhập vào xã hội hiện đại. Năm 1858, C.Mác lại nhắc rằng: “sự thống trị của Anh

đã phá vỡ công xã lạc hậu ở Ấn Độ, điều đó đã thể hiện một cuộc cách mạng hết sức

tiến bộ” [dẫn theo 3, tr.15]. Như vậy, khía cạnh thứ hai của chủ nghĩa thực dân đã

được C.Mác chứng minh. Nó đã tạo ra một sự tiến bộ trên lĩnh vực kinh tế. sự tác động

đó được coi như một công cụ vô ý thức của lịch sử, tạo ra một bước tiến bộ cho xã hội

Ấn Độ. Dẫu sao thì mặt phá hoại vẫn là điểm chủ yếu, có ý thức trong sự thống trị

thuộc địa của chủ nghĩa thực dân.

V.I Lênin là người kế tục xuất sắc sự nghiệp của C.Mác và Ph.Ăngghen trong

cuộc đấu tranh giải phóng nhân loại. trong lĩnh vực nghiên cứu về thuộc địa và chủ

nghĩa thực dân, V.I.Lênin tiếp tục khẳng định và phát triển luận điểm của Mác, và

người cũng rất công bằng khi nói về chủ nghĩa thực dân: “điều quan trọng là chủnghĩa

tư bản không thể tồn tại và phát triển được nếu không thường xuyên mở rộng phạm vi

thống trị của nó, không khai phá những xứ sở mới và không lôi cuốn các xứ sở không

phải tư bản chủ nghĩa vào cơn lốc kinh tế thế giới” [dẫn theo 3, tr.16] .

Hồ Chí Minh-vị lãnh tụ vĩ đại của nhân dân Việt Nam cũng đã tiếp nhận và vận

dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, trong những năm 20 của thế kỷ XX đã có

những luận điểm phát triển về vấn đề thuộc địa. Người đã phân tích vị trí của hệ thống

thuộc địa với sự tồn tại của chủ nghĩa tư bản, đế quốc. Người chỉ rõ, cách mạng ở các

nước thuộc địa quan hệ chặt chẽ với cách mạng vô sản ở chính quốc và Người cũng

nhận định rằng, “cách mạng ở các nước thuộc địa có thể nổ ra và thắng lợi trước cánh

mạng vô sản chính quốc và tác động trở lại thúc đẩy cách mạng chính quốc” [dẫn theo

3, tr.16].

Rõ ràng chủ nghĩa thực dân bao giờ cũng mang tính hai mặt hay hai chức năng:

phá hoại xã hội thuộc địa, phụ thuộc và xây dựng xã hội, lôi cuốn xã hội thuộc địa và

phụ thuộc vào guồng máy kinh tế tư bản chủ nghĩa… chính sự lôi cuốn ấy đã bắt buộc

19

các nước thuộc địa phải hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Tuy nhiên, ở đây vẫn xin

nhấn mạnh: mặt phá hoại là chủ yếu, vết thương mà chủ nghĩa thực dân để lại cho các

dân tộc bị thống trị là vô cùng to lớn.

1.1.4. Hình thức biểu hiện của chủ nghĩa thực dân

Khi nhắc đến hình thức biểu hiện của chủ nghĩa thực dân người ta thường nhắc

đến: Chủ nghĩa thực dân cũ và chủ nghĩa thực dân mới. Xét về bản chất, nó không có

gì khác nhau, vẫn với mục đích chung là cai trị về mặt chính trị, bóc lột về kinh tế và

áp đặt văn hóa. Nhưng do những thay đổi của tình hình thế giới cũng như tại các thuộc

địa mà cách thức tiến hành nhằm đạt được các mục tiêu đó có phần khác nhau. Đâu

cũng là để thực dân có thể tiếp tục tồn tại và bóc lột thuộc địa.

Giai đoạn chủ nghĩa thực dân cũ thường được cho là vào khoảng thời gian trước

chiến tranh thế giới thứ hai gắn liền với các tên tuổi của các đế quốc như: Tây Ban

Nha, Bồ Đào Nha, Hà Lan, Anh, Pháp…Ở giai đoạn này, khi các nước đế quốc đang

trong giai đoạn đầu tranh giành và xác lập thuộc địa với nhau. Những của cải, hương

liệu, nguyên liệu thô cho các ngành công nghiệp tại các thuộc địa mới chiếm được làm

cho các nước đi xâm chiếm khao khát và đều muốn chiếm ngay lấy. Do đó, trong giai

đoạn này, cách thức xâm chiếm của các nước thực dân đều rất sơ khai, thủ công, mang

đậm chất riêng của từng nước đế quốc. Mục tiêu của việc xâm chiếm thuộc địa lúc bấy

giờ là làm thế nào tăng quyền lực chính trị của mình và khai thác các nguồn tài nguyên

của thuộc địa. Hầu hết các dân tộc bản địa đều bị áp bức, bóc lột trên tất cả lĩnh vực

thậm chí bị giết hoặc bị trục xuất khỏi đất đai của mình để nhường chỗ cho các khu

định cư mới của chính quốc. Đồng thời, họ bị buộc phải từ bỏ văn hóa truyền thống

của họ và đồng hóa với nền văn hóa của thực dân. Chiến lược này còn được gọi là thực

dân văn hóa, được cho là để thao túng tâm trí các dân tộc thuộc địa. Các cường quốc

thực dân tin rằng một quốc gia thuộc địa nếu được biết và ngưỡng mộ văn hóa phương

Tây thì sẽ không còn chống lại sự chiếm đóng của họ nữa. Thế nhưng người dân bản

địa dù muốn được coi là thành viên của thứ “văn hóa cao” này cũng không bao giờ có

một cơ hội vì nguồn gốc dân tộc của họ. Họ được coi là thấp kém hơn. Cường quốc

thực dân luôn luôn lập luận rằng các nước thế giới thứ ba là thấp kém và cần sự giúp

đỡ và hỗ trợ phương Tây để đạt được toàn vẹn đạo đức và sự giàu có về kinh tế. Người

20

dân bản địa bị coi là thiếu văn minh “man rợ”, phải bị chinh phục và được “thuần

hóa”. Chính vì sự áp đặt này mà ở thuộc địa nào cũng xuất hiện những cuộc khởi nghĩa

hay phong trào chống lại sự thống trị của thực dân. Đặc biệt, từ sau chiến tranh thế

giới thứ hai, phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới bùng nổ, phát triển và giành

thắng lợi to lớn. Trước những đòn đả kích mạnh mẽ của phong trào giải phóng dân tộc,

hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa thực dân cũ đã sụp đổ từng mảng lớn. Vào những

năm 60 của thế kỷ XX, chủ nghĩa thực dân cũ về cơ bản bị thanh toán. Chủ nghĩa thực

dân cũ sụp đổ, nhưng chủ nghĩa thực dân chưa chết. các nước thực dân Âu – Mĩ không

dễ gì từ bỏ những vùng đất giàu có, đông dân vốn là nơi bóc lột dễ dàng để làm giàu

cho chính quốc. Trước sự biến đổi của tình hình thế giới, trước dư luận lên án của loài

người tiến bộ (đặc biệt cuộc đấu tranh của các nước xã hội chủ nghĩa trên các diễn đàn

quốc tế cũng như việc Liên hiệp quốc thông qua hai bản Tuyên ngôn: Tuyên ngôn về

việc thủ tiêu hoàn toàn chủ nghĩa thực dân và trao trả độc lập cho các quốc gia và dân

tộc thuộc địa (1960); Tuyên ngôn về việc thủ tiêu tất cả các hình thức của chế độ phân

biệt chủng tộc (1963), trước cuộc đấu tranh kiên cường, dũng cảm của các dân tộc

thuộc địa, các nước thực dân vừa phải trao trả độc lập cho các dân tộc bị nô dịch,

nhưng đồng thời cũng tìm cách thích nghi với hoàn cảnh quốc tế mới, đưa ra những

hình thức thống trị mới để cầm giữ các nước Á, Phi và Mĩ Latinh trong vòng tay của

chúng. Thay cho chủ nghĩa thực dân cũ, các nước đế quốc đưa ra một thứ chủ nghĩa

thực dân khác: chủ nghĩa thực dân mới (hay còn gọi là chủ nghĩa thực dân trá hình,

chủ nghĩa thực dân linh hoạt).

Thực ra không phải đến những năm 60 của thế kỷ XX, chủ nghĩa thực dân trá

hình mới xuất hiện, mà nó đã ra đời cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX với sự xuất hiện

của chủ nghĩa thực dân Mĩ. Trong những năm cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX, vấn

đề phân chia thuộc địa giữa các cường quốc đế quốc đã kết thúc. Phần lớn các thuộc

địa rơi vào tay các đế quốc già như : Anh, Pháp, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha…, còn các

đế quốc trẻ như Mĩ, Đức, Nhật bị thua thiệt vì bước vào “bàn tiệc” muộn. lúc này, giữa

các nước đế quốc tiến hành đấu tranh để chia lại thuộc địa. Có một số nước (như Đức,

Nhật) dùng vũ lực mưu toan đánh bại các đối thủ cạnh tranh để chia lại thuộc địa mà

cụ thể là các cuộc chiến tranh Nga-Nhật (1904-1905), Anh-Bôơ (1899-1902)… nhưng

21

có nước như Mĩ lại nghiêng về dùng những hình thức thực dân linh hoạt hơn, dùng sức

mạnh về kinh tế và tài chính để ràng buộc những nước vừa giành được độc lập về

chính trị. Mĩ là đế quốc đi tiên phong trong việc nô dịch các nước Mĩ Latinh bằng hình

thức mới sau khi những nước này thoát khỏi ách thống trị của Tây Ban Nha và Bồ Đào

Nha với mưu đồ nhằm biến khu vực Mĩ Latinh trở thành “sân sau” của nước Mĩ thông

qua học thuyết Monroe.

Chủ nghĩa thực dân mới ra đời không phải là biểu hiện sức mạnh của chủ nghĩa

đế quốc mà là biểu hiện thế yếu thế thua của chúng trước phong trào giải phóng dân

tộc nổ ra như vũ bão đồng thời nó cũng nói lên tính linh hoạt của chủ nghĩa thực dân

trước những biến đổi của tình hình. Sự ra đời của chủ nghĩa thực dân mới không chỉ là

phản ứng của chủ nghĩa đế quốc – thực dân trước những đòn đả kích của phong trào

giải phóng dân tộc ngày càng mạnh mẽ, mà còn là sự tranh chấp với chủ nghĩa xã hội

ở khu vực trung gian (các nước mới giải phóng), nhằm ngăn chặn ảnh hưởng của chủ

nghĩa xã hội ngày càng lan rộng ra khu vực Á, Phi và Mĩ Latinh vào những năm 60, 70

của thế kỷ XX.

Xét về bản chất, chủ nghĩa thực dân mới không có gì khác so với chủ nghĩa thực

dân cũ, nghĩa là nó vẫn nhằm mục đích ách áp bức, bóc lột các dân tộc chậm phát

triển… nếu như về bản chất của chủ nghĩa thực dân mới không có gì khác trước đây

thì về mục tiêu chiến lược, về hình thức biểu hiện, chủ nghĩa thực dân mới lại có

những điểm khác. Còn về mục tiêu chiến lược, chủ nghĩa thực dân mới đưa ra hai

điểm chủ yếu: 1) Duy trì sự bóc lột nguồn lực ở các nước thuộc địa, phụ thuộc, chậm

phát triển (về tài nguyên thiên nhiên, nhân lực rẻ mạt), biến các nước này thành nơi

đầu tư và tiêu thụ hàng hóa cho các công ti tư bản và lôgic tiếp theo là các nước này

hòa nhập vào hệ thống kinh tế tư bản chủ nghĩa; 2) Ngăn chặn các nước mới giải

phóng tiến vào quỹ đạo của chủ nghĩa xã hội.

Hai mục tiêu chiến lược này thể hiện hai mặt chính trị và kinh tế của chủ nghĩa

đế quốc và có liên quan mật thiết với nhau: đạt được mục tiêu này tất yếu sẽ đạt được

mục tiêu kia. Thực hiện chủ nghĩa thực dân mới nhằm duy trì sự bóc lột kinh tế là mục

tiêu cấp bách, sống còn của chủ nghĩa đế quốc. Bởi vì thuộc địa hay các nước mới giải

phóng vừa là nơi các nước tư bản trút gánh nặng của những cuộc khủng hoảng hay suy

22

thoái kinh tế ở chính quốc, vừa là nơi cung cấp nguồn lực cho các nước tư bản phát

triển. Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Khắc Viện thì có tới “90% nguyên liệu Nhật Bản

sử dụng từ các nước đang phát triển cung cấp. Tỉ lệ ấy đối với các nước Tây Âu là

75%” [20, tr.27]. Trong cuốn “cuộc chiến tranh thật sự”, cựu tổng thống Mĩ R. Nixơn

cũng phải thừa nhận rằng: “ngay cả Hoa Kỳ là nước có tài nguyên phong phú cũng tùy

thuộc rất nhiều vào việc nhập khẩu nhiều thứ quặng không thể thiếu đối với một nền

kinh tế hiện đại” [dẫn theo 3, tr.19].

So với thời kỳ chủ nghĩa thực dân cũ còn tồn tại, sự bóc lột kinh tế các thuộc địa

và các nước đang phát triển của chủ nghĩa thực dân mới có hiệu quả hơn, tinh vi hơn,

xảo quyệt hơn. Mục tiêu chiến lược ngăn chặn các nước mới giải phóng tiến theo con

đường chủ nghĩa xã hội đối với chủ nghĩa đế quốc là mục tiêu rất quan trọng; ở nhiều

thời điểm có ý nghĩa quyết định thì mục tiêu này được đạt lên hàng đầu, mục tiêu kinh

tế tạm thời được xếp xuống hàng thứ yếu. Trước mắt chủ nghĩa đế quốc đổ nhiều tiền

của, vũ khí,…vào thuộc địa hay các nước mới giải phóng cốt giữ cho được nước đó

trong quỹ đạo của chúng, ngăn chặn nguy cơ cộng sản xâm nhập vào đây. Trường hợp

miền Nam Việt Nam sau đó là cả Đông Dương là một ví dụ.

Về hình thức biểu hiện, chủ nghĩa thực dân cũ đem quân xâm chiếm, xóa bỏ nền

độc lập của các nước thuộc địa, đặt bộ máy cai trị trực tiếp với những phó vương hay

toàn quyền và một hội đồng giúp việc trực tiếp, cùng hệ thống quan lại cấp dưới, với

đội quân viễn chinh khổng lồ được trang bị đầy đủ. Chúng dùng giai cấp phong kiến

thống trị cũ làm tay sai bù nhìn để đàn áp, bóc lột nhân dân. Chính sách của thực dân

cũ như vậy rất “thô thiển”, tàn khốc. Do đó chủ nghĩa thực dân mới lại chuyển từ sự

chiếm đóng cai trị trực tiếp sang sử dụng những biện pháp tinh vi, xảo quyệt hơn nhằm

chống lại phong trào giải phóng dân tộc thế giới như xây dựng bộ máy tay sai người

bản xứ, thông qua nó để thống trị nhân dân. Bộ máy tay sai của chúng – ngụy quân và

ngụy quyền – đều đặt dưới sự điều khiển của đội ngũ cố vấn có đầy kinh nghiệm thống

trị. Chúng còn dùng viện trợ kinh tế, quân sự để các thuộc địa kiểu mới này hoàn toàn

phụ thuộc vào chúng với danh nghĩa độc lập. Mặc dù sử dụng đội ngũ tay sai để thống

trị nhân dân, đứng đằng sau giật dây, điều khiển đội ngũ này để phục vụ cho các mục

tiêu chiến lược của mình nhưng chủ nghĩa thực dân mới không phải vì thế mà giấu

23

được bộ mặt tàn ác của nó. Ở nhiều nơi, nhiều lúc chúng sử dụng cả “chiến tranh đặc

biệt” và “chiến tranh cục bộ” để chống lại những cuộc nổi dậy của nhân dân; lúc đó,

tính tàn ác của nó còn hơn cả chủ nghĩa thực dân cũ. Trường hợp chủ nghĩa thực dân

mới của Mĩ tại miền Nam Việt Nam là một ví dụ điển hình.

Chủ nghĩa thực dân nói chung sử dụng nhiều phương tiện, công cụ để thâm nhập

vào các nước Á, Phi, Mĩ Latinh như chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa và tư tưởng.

Việc sử dụng những loại công cụ khác nhau cũng làm cho chủ nghĩa thực dân mới và

chủ nghĩa thực dân cũ cũng có nhiều điểm khác nhau. Nếu ở chủ nghĩa thực dân cũ

công cụ chính trị và quân sự giữ vai trò chủ đạo thì ở chủ nghĩa thực dân mới, vai trò

đó thuộc về các công cụ kinh tế, tài chính và kỹ thuật. chủ nghĩa thực dân cũ thường

dùng công cụ chính trị làm chỗ dựa để bóc lột kinh tế còn chủ nghĩa thực dân mới lại

dùng công cụ kinh tế để bóc lột kinh tế và giữ nước đó phụ thuộc về chính trị. Sự viện

trợ về kinh tế, tài chính hay kỹ thuật của các nước tư bản phát triển cho các nước Á,

Phi và Mĩ Latinh xuất phát trước hết từ lợi ích của các nước viện trợ, ràng buộc các

nước nhận viện trợ vào phạm vi ảnh hưởng kinh tế và chính trị của các nước cung cấp

viện trợ. Nói như vậy không có nghĩa rằng phủ nhận tất cả ý nghĩa tích cực của viện

trợ, nếu như viện trợ đó không kèm theo những điều kiện ràng buộc về chính trị và

kinh tế không bình đẳng.

1.2. Quá trình xâm lược Ấn Độ và Việt Nam của Anh và Pháp

1.2.1. Quá trình thực dân Anh xâm lược Ấn Độ

1.2.1.1. Tình hình của Ấn Độ trước khi thực dân Anh xâm lược

Xét về phương diện địa lý, Ấn Độ có một tình trạng thống nhất: trên bản đồ,

bán đảo Ấn Độ là một khối thống nhất, chắc nịch [xem hình 1.1]. Nhưng về phương

diện chính trị thì lại khác hẳn: “bán đảo Ấn Độ chỉ biết được sự thống nhất chính trị

trong một giai đoạn duy nhất, đi từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XVIII, dưới thời các hoàng

đế Mông Cổ (Great Moguls), mà thời đại vàng son là triều của hoàng đế Aurang-Zeb

(1658-1707). Nhưng ngay sau cái chết của Aurang-Zeb, các sự phân chia lại hiện ra”

[1, tr.14]. Tuy trước khi bị người Anh xâm chiếm, tiểu lục địa Ấn Độ đang nằm dưới

sự thống trị của triều Moghul nhưng về thực chất nó bao gồm rất nhiều tiểu vương độc

lập lớn, nhỏ khác nhau. Các tiểu vương này có người cai trị, nền kinh tế, ngôn ngữ và

24

văn hóa riêng, họ thường xuyên có chiến tranh với nhau. Người cai trị họ chính là các

phó vương và họ “chỉ tuân thủ mệnh lệnh của hoàng đế khi thấy xét chúng mang phù

hợp với quyền lợi riêng. Nói cách khác, họ thực sự được tự do cai trị lãnh địa của

mình, không khác gì các vương công lãnh chúa của đế chế La Mã thần thánh”

[6, tr.59].

“Dòng Moghul là những tín đồ Hồi giáo theo giáo phái Sunni, khác với người

láng giềng ở phía Tây của họ là nước Ba Tư theo giáo phái Shiite. Nói chung họ khoan

dung và thậm chí còn phụ thuộc vào đa số Ấn Độ giáo, nhưng đã tạo ra cho miền Bắc

Ấn Độ một khuôn mẫu Hồi giáo làm cho nó khác hẳn với miền Nam. Triều đại Mogul

tất nhiên chiếm giữ đất đai với tư cách là một kẻ chiếm đóng chuyên chế và không

tranh thủ được sự trung thành. Sự thống trị của họ luôn luôn bị thách thức bởi những

quốc gia địa phương của người Hin đu, và luôn luôn xảy ra những cuộc lật đổ vì bạo

loạn và âm mưu cung đình. Anh em giết lẫn nhau; con giết cha; cha giết con”

[4, tr.162]. Triều đại của Babar (1453-1530), một hậu duệ của bạo chúa Timur

(Tamerlane), một kẻ chuyên lùa những đàn người như đàn gia súc, chất sọ người thành

những đống cao. Akbar (1556-1605), cháu của Babar, và chắt của ông ta, Jahanggir

(1605-27), là những ông vua đang ở trên ngôi khi người Anh lần đầu tiên đặt chân đến

Ấn Độ. Như vậy, sự suy yếu của đế chế Moghul và chia rẽ của các quốc gia trong khu

vực chính là một đặc điểm nổi bật trong tình hình chính trị của Ấn Độ trước khi thực

dân Anh xâm chiếm Ấn Độ.

Đặc điểm thứ hai, kinh tế Ấn Độ phát triển kém so với tiềm năng của nó. Thiên

phú cho Ấn Độ có những vùng lãnh thổ phì nhiêu rộng lớn, Đặc biệt là những lưu vực

của những con sông lớn ở các đồng bằng phía bắc – các sông Indus, Ganges,

Brahmaputa. Một học giả người Ấn Độ đã mô tả nước này là một nước có dồi dào đất

đai và cho rằng trong thế kỷ 17, Ấn Độ vẫn chỉ khoanh sản xuất nông nghiệp vào

những khu vực phì nhiêu nhất; và lợi dụng việc có nhiều cỏ và chất thải để chăn nuôi

những đàn gia súc lớn thế nhưng Ấn Độ lại hưởng lợi từ đàn gia súc của mình ít hơn

nhiều so với tiềm năng thực chất của nó, thậm chí có thể nói là không được hưởng gì,

vì những cấm kỵ tôn giáo. Dưới sự cai trị của đế chế Moghul, thái ấp quân sự là hình

thức chiếm hữu phong kiến cơ bản và công xã nông thôn chính là những đơn vị sản

25

xuất và đóng thuế chính, nó bắt đầu lộ ra những mầm mống của sự tan rã. Dưới sự

thống trị của triều đại Moghul, những phái viên của nhà vua được điều động từ nơi này

sang nơi khác. “Biện pháp này hạn chế quyền lực địa phương, nhưng cũng phá hủy sự

gắn bó của người quan chức với lãnh thổ của mình. Do đó, mục đích của người đó trở

thành là: cố sức làm ra và lấy đi càng nhiều càng tốt, càng nhanh càng tốt, chỉ chi tiêu

chút ít về vốn xã hội mà thôi” [4, tr.163]. Chỉ có lấy chứ không cho. Họ cũng không

quan tâm và trễ nải về thủy lợi, kết quả tai hại là các trận đói thường xuyên diễn ra ở

Ấn Độ. “Cũng vì những lý do tương tự, nông dân không thấy có lý do gì để cải tiến

chất đất, kẻ thống trị muốn đất như thế nào thì họ cứ thây kệ như thế. Như Francois

Bernier, một thầy thuốc người Pháp đã sống đến mười hai năm ở Ấn Độ hồi thế kỷ

XVII, đã viết, tại nước này, không có khái niệm về cái của tao và cái của mày (mien et

tien), tức là không có quyền và ý thức về sở hữu tài sản. Không một ai, như lời ông ta

viết, dám phô của cải của mình ra, vì sợ bị tống tiền hay bị tịch thu. Không một ai

thèm quan tâm đến việc cải tiến phương pháp hay công cụ sản xuất. Do đó mà, như lời

của Bernier, có sự tương phản kinh khủng giữa một thiểu số kẻ giàu sang và số đông

bị bần cùng hóa; tình trạng hư nát của nhà cửa, sự tủi nhục của số đông quần chúng, sự

thiếu vắng những tác nhân kích thích người ta học hành và tự hoàn thiện mình”

[4, tr.163]. Cũng do đó mà có sự hạn chế nghiêm khắc đối với tín dụng và đối với

những khả năng về thương nghiệp mà chỉ có tín dụng mới có thể phát huy. Đến đầu

thế kỷ XVII, công thương nghiệp có chiều hướng tiến bộ với những trung tâm công

nghiệp nhưng nhìn chung vẫn èo uột, thấp xa dưới mức tiềm năng của nó.

Một vấn đề khá quan trọng trong đời sống xã hội Ấn Độ đó chính là tình trạng

phức tạp về dân tộc, tôn giáo và đẳng cấp. “Chủng tộc tràn vào bán đảo Ấn Độ xưa

nhất là giống người Dravidian, tới bán đảo khoảng thiên niên kỷ thứ hai trước công

nguyên…khối dân đông nhất thuộc chủng tộc Arya, đã từ các thảo nguyên của Trung

Á tràn xuống vào giữa thiên niên kỷ thứ hai trước công nguyên” [1, tr.15]. Họ được

phân chia thành bốn đẳng cấp trong xã hội. Ấn Độ lại tồn tại nhiều tôn giáo khác nhau,

mà trong đó mạnh nhất là Hinđu giáo và Hồi giáo. Với những vấn đề phức tạp như vậy

của xã hội Ấn, những tá điền và tiện dân, những người cùng khổ thì mọi sự đụng chạm

đều bị coi là ô uế, họ ở tận đáy của các bậc thang đẳng cấp xã hội. “Họ đành nhờ cậy

26

vào tính kiên nhẫn, sự ương ngạch và lì lợm của mình, như những phương tiện của

một nhân dân bị áp bức. Họ cũng bỏ trốn những kẻ ngược đãi, điều đã thường xảy ra

nhiều hơn là người ta tưởng trong một xã hội mà các làng đều là những công xã và

mọi hy vọng cải thiện cuộc sống đều không lấy gì làm chắc chắn. Ở châu Âu trung cổ,

sự bỏ đi hay đe dọa bỏ đi ngăn chặn được sự ngược đãi, đặc biệt ở các khu vực đô thị

hóa hay khu vực biên giới. Bỏ đi là có lợi. Ở Ấn Độ chạy trốn có khả năng chỉ là đổi

một sự bất hạnh này để mang lấy một nỗi bất hạnh khác. Tuy vậy mặc dầu, nó cũng

khuyến khích người ta nhẹ tay, bởi vì không có con dã thú nào lại muốn mất miếng

mồi ngon của nó” [4, tr.164].

1.2.1.2. Quá trình xâm lược của thực dân Anh

“Năm 1592, nước Anh đang có chiến tranh với Tây Ban Nha và Bồ Đào

Nha. Khoảng 4 năm trước đó, người Anh đã đẩy lùi và tiêu diệt một cuộc xâm lược

bằng đường biển của Tây Ban Nha. Ngay trong khi một liên Đội tàu chiến của hải

quân Anh đang trực sẵn ở ngoài khơi quân đảo Azores để chặn và bắt những tàu của

Tây Ban Nha trên đường từ thế giới mới trở về, và có lẽ là được chất đầy kho báu của

Mêhicô hay Pêru, thì một chiếc tàu buôn lớn có vũ trang của Bồ Đào Nha xuất hiện.

Đó là chiếc Madre de Deus (Mẹ của Đức chúa trời) từ Đông Ấn trở về hướng tới

Lisbon. Chiếc tàu lớn hơn bất cứ chiếc tàu nào mà người Anh đã được thấy: dài 165

fít, 47 fít ngang, trọng tải 1600 tấn, gấp 3 lần chiếc tàu lớn nhất ở Anh; 7 boong tàu, 32

khẩu đại bác, cộng thêm những vũ khí khác, phần trên của chiếc tàu lấp lánh mạ vàng,

và hầm chở hàng của tàu thì chất đầy của cải quý giá, đây là chất liệu của những giấc

mơ – những hòm trên tàu căng phồng châu báu, tiền vàng và tiền bạc, hổ phách còn

xưa hơn cả tuổi tác của nước Anh, những kiện vải vóc vào loại đẹp nhất, những tấm

thảm xứng đáng được trang hoàng một cung điện, 425 tấn hồ tiêu, 45 tấn đinh hương,

35 tấn quế, 3 tấn vỏ đậu khâu, 3 tấn bột nhục đậu khấu, 2,5 tấn nhựa cây bồ đề (1 thứ

nhựa cây rất thơm dùng để sản xuất nước hoa và dược liệu), 25 tấn phẩm yên chi (một

chất thuốc nhuộm được chế bằng thân phơi khô của một giống côn trùng tìm thấy ở

những vùng khí hậu nhiệt đới), 15 tấn gỗ mun” [4, tr.156-157]. “số hàng chở trên tàu

này có giá trị khoảng nửa triệu bảng – gần bằng 1 nửa số tiền trong ngân khố Hoàng

gia” [4, tr.157] và phải cần tới 10 tàu chở hàng để chở vòng quanh bờ biển và ngược

27

dòng sông Thames lên tới Luân Đôn. Đây có thể là vụ vớ bở lớn nhất trong lịch sử, nó

đã trở thành một cốc rượu khai vị mạnh vô cùng. “Cái mùi thoang thoảng ấy của sự

giàu có, cái vị được nếm trước của những của cái phương Đông đã dấy lên sự quan

tâm của người Anh đến những vùng đất xa xôi đó và đưa nước này vào một tiến trình

mới” [4, tr.157].

“Người Anh đặt chân đến Ấn Độ Dương, cũng như người Hà Lan, vào cuối thế

kỷ 16. Họ đến như những kẻ đột nhập và ăn cướp, giỏi đánh nhau hơn là buôn bán.

Chỉ mãi về sau, và lúc đó một cách thận trọng, họ mới chuyển sang nghề buôn”

[4, tr.158]. Khi người Anh và người Hà Lan xung đột nhau, vào những thời gian đầu

đó, người Anh đôi khi cũng có thắng nhưng họ không đủ sức để tỏ ra mình là một

thách thức thật sự đối với người Hà Lan; thế là họ tìm những cơ hội buôn bán để thay

thế, và họ quay lên hướng bắc tới Ấn Độ. Cũng như người Hà Lan, người Anh cho

rằng tốt hơn là nên cách xa người Bồ Đào Nha. Thoạt tiên họ lập nghiệp trên bờ biển

Khoromandel ở phía đông cách Malaba rất xa ở phía tây Ấn Độ, họ nhảy qua đầu

người Bồ Đào Nha ở Goa để giành được những đặc quyền thương mại ở Xurat, hải

cảng chính của đế chế Moghul, của ngõ để đi tới những kho của cải trong nội địa Ấn

Độ và để buôn bán với Ba Tư và Ả Rập. Tiếp sau đó (1661) họ được phép đứng chân

ở Bombay, lúc bấy giờ là một hòn đảo hầu như không có người ở. Như thế là tương

đối an toàn đối với sự tiến công từ phía đất liền (so sánh với Goa) và người Anh đã

phát triển Bombay thành một cơ sở của nhà máy chế tạo và là trung tâm thương mại

chủ yếu trên bờ biển phía tây.

Ở bên kia của bán đảo, sau khi đã đứng vững ở Madras, người Anh tiến lên phía

bắc vào vịnh Bengal và thung lũng sông Hugli. Tại đấy, bắt đầu từ năm 1690 họ xây

dựng thành phố của riêng mình trên lãnh thổ của một làng nhỏ gọi là Calcutta. Điều

then chốt là việc năm 1698 họ mua một thứ đặc quyền “phong kiến” (những quyền thu

thuế gọi là Zamindiri) những quyền này lúc ban đầu bị các chính quyền địa phương, vì

không thích sự xâm nhập của người Châu Âu, khinh miệt không thèm chấp hành,

nhưng sau đó càng ngày càng được tôn trọng cùng với việc các thương nhân và quan

chức Ấn Độ trở nên lệ thuộc vào sự buôn bán, giúp đỡ và thiện chí của người Anh. Bắt

đầu bằng các thương gia và những quan đại thần của đại hoàng đế Moghul. Tiếp đến là

28

những đại diện ở địa phương và những chư hầu, những kẻ tìm đến người Anh để có

tặng phẩm “hối lộ” và tiền thù lao, xuất khẩu hàng hóa của mình bằng tàu của người

Anh và có một số trường hợp thậm chí còn đầu tư với họ.

“Tuy nhiên tất cả mọi doanh nhân đều thích chế độ độc quyền hơn cạnh tranh.

Một khi sức mạnh của mình đã tăng lên, họ cũng dùng đến bạo lực: Những sự đe dọa

phong tỏa đường biển làm thiệt hại cho thương mại giữa Ấn Độ với các nước khác và

cắt đứt con đường hành hương đến Mecca; Xây dựng các pháo đài và đặt những quận

tich công ty Đông Ấn0F đường trú; bắt các tàu của Ấn Độ và đòi tiền chuộc. Năm 1677, Gerald Aungier, chủ 1 đóng tại Surat và là toàn quyền Bombay, viết cho các giám đốc

công ty ở Luân Đôn để kiến nghị một chiến sách “ Nghiêm khắc và chặt chẽ”. Lời

khuyên này được sự ủng hộ ở Luân Đôn và kết quả là năm 1687, chỉ thị được truyền

đạt cho pháo đài Fort St George (ở ngoại thành Magras): Hãy sử dụng quyền lực để

đảm bảo có thu nhập lớn và liên tục, nhằm đạt “cơ sở cho một nền thống trị của Anh

quốc rộng lớn, vững vàng, chắc chắn ở Ấn Độ cho vĩnh viễn muôn đời”” [4, tr.159].

Đây là một chứng chỉ cho phép dính líu sâu vào đời sống chính trị và chính quyền ở

Ấn Độ. Sự tan vỡ của đế chế Moghul đã bộc lộ rõ khiến cho những thế lực Ấn Độ

ngấp nghé tranh quyền lực lo tìm kiếm đồng minh trong các công ty nước ngoài. Dòng

dõi Moghul đã ấp ủ một niềm tin sai lầm rằng những lái buôn như kiểu bọn người Anh

sẽ có thể chỉ có một con đường là phục tùng họ nhưng đây không phải là những

thương nhân bình thường. Những món tiền thu một cách độc đoán làm cho những kẻ

đột nhập nghĩ đến bạo lực.

Ở Ấn Độ, người Anh đã nhận ra rằng, châu Á có những nguồn của cải nhiều hơn

1 Công ty Đông Ấn ( East India Company ), nguyên gốc là: “the Governor and Company of Merchants of London trading into the East Indies” hay “the Honourable East India Company” được thành lập để tiến hành thương mại với Đông Ấn nhưng chủ yếu với các tiểu lục địa Ấn Độ, nhà Thanh Trung Quốc và một số nơi khác. Công ty đã chiếm một nửa số thương mại của thế giới, đặc biệt là kinh doanh các mặt hàng cơ bản bao gồm bông, lụa, nhuộm chàm, muối, hỏa tiêu, chè và thuốc phiện. Công ty đã nhận được Hiến chương Hoàng gia từ Nữ hoàng Elizabeth năm 1600, đây là công ty lâu đời nhất trong số nhiều công ty Đông Ấn của các nước Châu Âu khác.Thương gia giàu có và quý tộc sở hữu cổ phiếu của Công ty. Chính phủ của quốc gia không có cổ phiếu và chỉ được kiểm soát gián tiếp. Công ty cuối cùng đã thống trị khu vực rộng lớn của Ấn Độ với một đội quân riêng, sử dụng sức mạnh quân sự và nắm được quyền hành chính. Sự cai trị của công ty ở Ấn Độ có hiệu quả bắt đầu từ năm 1757 sau trận Plassey và kéo dài cho đến năm 1858, sau cuộc nổi dậy của Ấn Độ vào năm 1857. Công ty bị giải thể vào năm 1874 như là kết quả của Đạo luật “Stock Dividend Redemption” đã thông qua một năm trước đó.

và tốt hơn để buôn bán so với các hương liệu. Đặc biệt, Ấn Độ sản xuất ra thứ sợi và

29

vải bông tốt nhất thế giới, và người Anh đã nhanh chóng chớp lấy thời cơ. Công ty

Đông Ấn (EIC) quyết định tung các thứ vải bằng sợi bông ra thị trường và thử đưa vào

tất cả các hải cảng. Họ hướng về những khách mua ở khu vực ở Inđônêsia và Đông

Nam Á, đổi hương liệu và những hàng hóa địa phương khác để lấy vải Ấn Độ nhưng

sự đổi mới rất quan trọng của EIC là đưa những hàng vải sợi này vào châu Âu. Những

hàng bông sợi của Ấn Độ làm biến đổi y phục của châu Âu và những chi nhánh của

châu Âu trên thế giới. Nhẹ hơn và giá rẻ hơn hàng len, dễ làm đẹp hơn (bằng cách

nhuộm hay in hoa), lại dễ giặt dễ thay hơn, vải bông là sản phẩm dành cho một thế

giới mới. Ngay cả ở những khu vực khí hậu lạnh, vải bông thích hợp để dùng làm đồ

mặc lót cũng làm thay đổi những tiêu chuẩn về sự sạch sẽ, tiện nghi và sức khỏe.

Trong các đồn điền ở châu Mỹ, nó hoàn toàn đáp ứng yêu cầu.

Ấn Độ còn dẫn đến Trung Quốc. Khi người châu Âu vào Ấn Độ Dương, họ thấy

cả một mạng lưới thương mại phồn vinh nối liền Châu Á từ đông sang tây, từ Trung

Quốc, Nhật Bản và Philippin đến những trạm dừng chân của các đoàn thương nhân

vượt qua sa mạc và những hải cảng của miền Địa Trung Hải và Đông Phi. Ở thế kỷ 18,

sự thèm khát của châu Âu đối với những hàng hóa của Trung Quốc tăng lên nhanh

chóng: đồ sứ, mà châu Âu mãi đến năm 1720 mới học được cách làm ra; lụa thô; và

chè, một chất gây nghiện bổ sung cho đường của Tây Ấn. Việc mua hàng này đặt ra

vấn đề thanh toán. Người châu Âu rất muốn trả bằng những hàng do mình làm ra,

nhưng người Trung Quốc hầu như không muốn một thứ sản phẩm nào của châu Âu.

Vậy là người châu Âu đã trả bằng vàng bạc nén và bằng tiền đồng đúc bằng kim loại,

nhưng làm như vậy chỉ là thay đổi chỗ xảy ra vấn đề: người châu Âu có thể bán gì để

mua bạc của người Tây Ban Nha, vàng của Nhật Bản hay Braxin. Câu trả lời đương

nhiên là phải tìm ra một thứ gì đó mà người Trung Quốc muốn. Thứ đó hóa ra là thuốc

phiện, được trồng ở Bengal, vừa tạo ra thị trường, vừa gây nên thói quen.

Chính những lợi ích về mặt kinh tế lâu dài của Anh tại một nơi mà sự xung đột

và nạn bạo lực xảy ra một cách thường xuyên đã thúc đẩy công ty phải lo đến sự tự vệ

bằng cách huy động quyền lực quân sự, và quyền lực lại khuyến khích sự can thiệp

vào những cuộc tranh chấp địa phương. Năm 1689, khi các hoạt động của công ty ở

Ấn Độ đã được tổ chức lại qua ba nhiệm kỳ chủ tịch, các giám đốc công ty ở Luân

Đôn đã thông qua một quyết nghị xác định lại nhiệm vụ của công ty:

30

“Sự tăng thu nhập là nội dung lo toan của chúng ta, cũng ngang như chúng ta lo

toan đến sự buôn bán của chúng ta; điều đó có nghĩa là chúng ta phải duy trì sức mạnh

của mình khi hai mươi sự cố có thể làm gián đoạn sự buôn bán của chúng ta; điều đó

cũng có nghĩa là chúng ta phải trở thành một quốc gia ở Ấn Độ; nếu không như thế thì

chúng ta chỉ là một số đông những kẻ xâm nhập, được tập hợp bởi hiến chương của

đức vua Anh quốc, chỉ có thể buôn bán ở nơi nào mà không có ai nắm quyền lực trong

tay nghĩ rằng lợi ích của họ là ngăn cản chúng ta”[4, tr.165].

Mục đích rộng lớn hơn này không nhằm vào độc quyền như ở Inđônêsia, công ty

Đông Ấn sẵn sàng để cho những kẻ khác xâm nhập thị trường Ấn Độ-có lẽ trừ người

Pháp, là những kẻ muốn chọn con đường thách thức người Anh về mặt chính trị. Tuy

vậy, quyền lực và đặc quyền của công ty Đông Ấn tạo cho nó một lợi thế quyết định

trên một đấu trường trông bề ngoài có vẻ là bình đẳng. Các nhân viên của công ty

nhanh chóng chớp lấy thời cơ, không những để buôn bán cho riêng phần họ, mà còn

đem danh nghĩa và quyền hành thực sự của mình cho những kẻ tôi tớ và những kẻ hợp

tác kinh doanh người bản địa mượn.Trong một thế giới của sự kiêu hãnh và tinh thần

bài ngoại Hồi giáo, sự khẳng định uy quyền của người Anh như thế đã phá hoại uy tín

và tính hợp pháp của chính quyền của các vị phó vương và dẫn đến chiến tranh giữa

ông hoàng xứ Bengal với công ty. Thế là: ông hoàng trẻ tuổi Suraj-ud-Dowlah quyết

định dạy cho người Anh một bài học vào năm 1756, ông ta chiếm Calcutta mà hầu như

không gặp một sự chống cự nào. Tiếp đó, ông ta đã phạm cái tội ác to lớn đáng ghi

nhớ vì sự tàn bạo đặc biệt của nó, và đáng ghi nhớ vì cái giá vô cùng to lớn mà sau đó

nó đã phải trả. Đó là vụ tàn sát ở cái “Lỗ đen”, tên gọi một căn phòng 18 phít chiều

dọc và 15 phít chiều ngang, với chỉ hai cửa sổ nhỏ có chấn song. Trong cái hộp đó,

người của ông hoàng đã nhồi nhét 146 tù nhân, vào một đêm tháng sáu ướt át và ngột

ngạt-kể cả thường dân và binh lính, trong đó có một số phụ nữ. Tiếng kêu van và phản

đối dâng lên, nhưng ông hoàng đã bỏ đi ngủ mà không cho phép một ai được quấy rầy.

những tiếng kêu la đuối dần. Đến sáng sớm, chỉ còn hai mươi ba người sống sót.

Tội ác này đòi hỏi sự trả đũa và những đại diện ở địa phương của công ty John

Company đã quá thích thú khi họ được phép ra tay. Một hạm đội vừa mới được vũ

trang xong đã lập tức giương buồm từ Madras với một phân đội nhỏ gồm lính người

31

Anh và lính đánh thuê người Ấn Độ đặt dưới sự chỉ huy của Robert Clive, một viên

chức dân sự trẻ của công ty, một con người bàn giấy nhưng lại có thiên tài về chiến

tranh. Vì ngược gió, các con tàu phải mất khoảng hai tháng để vượt vịnh Bengal và đi

vào trong sông Hugli River. Tại đấy, người Anh đã dễ dàng chiếm lại Calcutta, buộc

Ud-Dowlah phải nộp một khoản bồi thường cực lớn và phải khôi phục tất cả mọi đặc

quyền của công ty. Cuộc chiến tranh ở châu Âu giữa Anh và Pháp đã có tiếng vang dội

sang miền Bengal, và ông hoàng ở đây đã ve vãn người Pháp vì những lý do không thể

nào chính đáng hơn-đó là báo thù và cơ hội thoát khỏi những cam kết của mình. Được

tin về những hành động âm mưu này, người Anh dưới sự chỉ huy của Clive, tiến công

và đánh chiếm thương điếm của người Pháp ở Chandernagore, một chỗ đau đang

mưng mủ trong cuộc cạnh tranh thương mại. Tiếp đó, người Anh quyết định gạt Ud-

Dowlah cho rảnh tay. Tìm đồng minh trong số những thành viên bất mãn của triều

đình Ấn Độ họ phát hiện ra Mir Jafar, chú bên vợ của ông hoàng và là một vị chỉ huy

các lực lượng vũ trang của ông ta. Có những quan chức và những con buôn địa

phương sẵn sàng để được mua đi bán lại, qua hết tay này đến tay khác. Sử dụng một

thương nhân xảo quyệt người Hinđu có tên là Ormichund làm trung gian, người Anh

đã mua được sự phản bội của Mir Jafar với lời hứa hẹn sẽ phong cho y tước vị hoàng

tử. Mir Jafar đến lượt mình lại cam kết sẽ trả giá bằng một tài sản kếch xù nếu được

nâng lên tước vị đó.

Rốt cuộc là, ngày 23 tháng 6 năm 1757, sự tranh chấp ngã ngũ thành một trận

đánh ở Plassey (Placis, Palasi), một ngôi làng cách Calcutta 90 dặm về phía bắc-người

Anh và các bạn đồng minh một bên, ông hoàng và các thuộc hạ một bên. Người Anh

đã đánh thắng và bằng chiến thắng của mình, họ đã thay đổi lịch sử của Ấn Độ”

[4, tr.166].

2 (1764) đã khẳng định sự xâm

1.2.1.3. Sự cai trị của Anh ở Ấn Độ trước năm 1858

Với các trận chiến Plassey (1757) và Buxar1F

2Là một trận chiến xảy ra giữa quan thái thú cũ Mir Qasim với người Anh. Lý do là: Trận Plassey đã giành chiến thắng của Anh ở Bengal. Anh đã buộc Mir Jafar, quan thái thú mới của Bengal, không những phải đền đáp cho Anh một khoản tiền rất lớn mà còn cả lãnh thổ của 24 khu vực hành chánh. Nhưng Mir Jafar đã không thực hiện .Kết quả là ông ta bị thay thế bởi Mir Qasim, người tỏ ra là một nhà lãnh đạo mạnh mẽ.Tuy nhiên, Mir Qasim

chiếm thành công của Anh ở Ấn Độ. Sau đó, một thời kỳ dài người Anh đã cai trị Ấn

32

Độ nhưng sự cai trị của Anh thông qua công ty Đông Ấn không phải là một nhiệm vụ

dễ dàng. Một số thế lực và quốc gia trong khu vực đã phản đối họ và cố gắng chống lại

nỗ lực mở rộng lãnh thổ của Anh do đó họ đã phải tiến hành một số cuộc chiến tranh

để chống lại một số thế lực tại Ấn Độ.

Các cuộc chiến tranh tiêu biểu:

Người Anh và Mysore

Mysore đã nổi lên là một nhà nước mạnh dưới sự lãnh đạo tài giỏi của Haider Ali

và con trai Tipu Sultan vào nửa sau của thế kỷ thứ mười tám. Bốn cuộc chiến tranh đã

diễn ra giữa Mysore và người Anh. Cuối cùng, trận chiến thứ tư xảy ra vào năm 1799

đã kết thúc trong thất bại của Mysore và cái chết của Tipu Sultan. Với sự thất bại này

của Mysore, Anh đã chiếm được các cảng lớn như Kanara, Coimbatore và

Seringapatam.

Người Anh và Maratha

Marathas cũng là một thế lực mạnh khác ở miền tây và miền trung Ấn Độ vào

nửa sau của thế kỷ thứ mười tám. Chính cuộc đấu tranh giành quyền lực giữa những

Maratha đã tạo cho người Anh một cơ hội để can thiệp vào vấn đề nội bộ của họ.

Nhiều cuộc chiến tranh đã diễn ra giữa người Anh và người Marathas chủ yếu vì

những quy định mà người Anh đặt ra trong Subsidiary Alliance. Chiến tranh giữa

Anh-Maratha lần thứ ba (1817-1819) là cuộc chiến cuối cùng giữa họ. Anh đánh bại

Peshwa, truất ngôi y và sáp nhập tất cả lãnh thổ của anh ta. Peshwa đã bị sa thải và gửi

đến Bithur gần Kanpur, bang Uttar Pradesh.

Người Anh và người Sikh

Ở phía tây bắc Ấn Độ, người Sikh dưới sự lãnh đạo của Maharaja Ranjit Singh

(1792-1839) đã trở thành một lực lượng chính trị và quân sự nổi bật. Anh đã coi sự trỗi

dậy của người Sikh ở Ấn Độ là một mối đe dọa tiềm tàng vì thế muốn kiểm soát người

Sikh. Sau cái chết của Ranjit Singh vào năm 1839, tình trạng hỗn độn đã xảy ra ở

cũng không sẵn lòng để đáp ứng nhu cầu của họ và cuối cùng Mir Jafar lại trở thành quan thái thú một lần nữa. Mir Qasim sau đó bắt tay với các quan thái thú của Awadh, Shiraj-ud-Daula và hoàng đế Mughal Shah Allam II với âm mưu chống lại người Anh, cuộc chiến đã diễn ra tại Buxar vào ngày 22 tháng 10 năm 1764. Họ đã thất bại và người Anh đã giành chiến thắng quyết định.

Punjab. Anh đã tận dụng điều này và cuộc chiến tranh đầ tiên giữa Anh và Sikh đã nổ

33

ra vào năm 1845 và kết thúc với sự thất bại của người Sikh. Trong cuộc chiến tranh lần

thứ hai vào năm 1849, người Anh đã đánh bại người Sikh ở Gujarat, một thị trấn trên

sông Chenab (1849). Thủ lĩnh của họ đã đầu hàng và Punjab đã được sáp nhập vào

vùng đất của Anh. Maharaja Dalip Singh, con trai của Maharaja Ranjit Singh đã bị

trục xuất và gửi sang Anh.

Ấn Độ dưới sự cai trị của công ty Đông Ấn

Như vậy, “cho tới năm 1858, Ấn Độ thuộc Anh được cai trị bởi Đông Ấn công ti

(East India Company), vẫn duy trì nhiều quyền hạn chính trị dưới sự kiểm tra của

chính phủ London, đại diện bởi quan thống đốc (Governor General) ở Calcutta” [1,

tr.32], không kể đến các cơ quan hành chánh của các tiểu quốc trên bán đảo còn được

duy trì những ông hoàng trên nguyên tắc độc lập đối với sự cai trị của người Anh [xem

hình 1.1]. Có thể coi đây là một chế độ quản lí kép (thông qua hội đồng giám sát và

hội đồng công ty Đông Ấn) gián tiếp để cai trị Ấn Độ. “Trong tiền bán thế kỷ XIX Ấn

Độ thuộc Anh đã được chia ra làm ba châu quận (presidencies): Madras, Bombay và

Bengale. Châu Bengale rất rộng gồm có 5 đơn vị: tỉnh Bengale, tỉnh Tây Bắc

(Northwest Provinces) và tỉnh Punjab” [1, tr.38]. Công cụ cai trị chủ yếu trong thời

gian này là quân đội, bộ máy tư pháp và thu thuế. Đến những năm 30 của thế kỷ XIX,

quyền lực tập trung vào tay những tên trưởng khu nắm quyền hành chính, thu thuế và

tư pháp, có quyền xét xử, kết án và thi hành bản án đối với những người không nộp

thuế. Nhưng sự diễn biến lịch sử cho thấy vai trò của Đông Ấn công ti đã giảm dần ở

Ấn Độ so với thời gian được thiết lập vào năm 1600 bởi nữ hoàng Elizabeth I và được

giao phó nhiệm vụ cai trị bán đảo. Một ân chiếu của nữ hoàng ban cho công ti những

quyền lực gần như vô hạn, mà nó duy trì cho tới hậu bán thế kỷ XVIII.

- Đạo luật India Act năm 1871 thiết lập một hội đồng quản trị (Board of Control)

để kiểm soát công ty Đông Ấn. Đây là biện pháp đầu tiên được áp dụng để hạn chế

ảnh hưởng của công ti. Nhiệm vụ của hội đồng giám đốc là kiểm soát cai trị lãnh thổ

của công ti và điều khiển các sự ngoại giao của Ấn Độ với các cường quốc khác. Các

viên chức của công ti từ nay trở đi hoàn toàn phụ thuộc Anh hoàng. Ân chiếu (charter)

cho phép công ti khai thác Ấn Độ chỉ được ban cho công ti trong một thời gian hạn

34

định và cần phải được gia hạn: mỗi lần ân chiếu này được tá hạn là Đông Ấn công ti

lại mất đi một phần các đặc quyền của nó.

- “Ân chiếu Charter Act năm 1813 phế hủy độc quyền buôn bán của công ti ở Á

Đông và thương mại ở Ấn Độ cũng trở nên tự do, chứ không còn thuộc quyền công ti

nữa. Tất cả các viên chức cao cấp của công ti phải được chỉ định với sự chấp thuận của

Anh hoàng. Công ti cũng không được quyền tự do đặt người ở những chức vụ hành

chính cần được thiết lập để cai trị Ấn Độ.

- Ân chiếu Charter Act năm 1833 cho phép người Anh được tự do lập cư ở Ấn

Độ và chấm dứt các đặc quyền kinh tế của công ti, bây giờ trực tiếp đặt dưới quyền

của chính phủ Anh quốc. Quan thống đốc xứ Bengale, đóng dinh tại Calcutta được

phong chức toàn quyền Ấn Độ với một quyền thế mạnh hơn trước nhiều.

- Charter Act năm 1853 không ấn định kỳ hạn để tái triển ân chiếu ban cho công

ti và giao phó cho quốc hội Anh quyền định đoạt về vấn đề này. Ảnh hưởng của chính

phủ tăng them vì chính phủ năm 6 ghế trong hội đồng giám đốc (Council of Directors,

cơ quan điều khiển công ti) trên một tổng số ghế là 16 (thay vì 26 ghế như trước năm

1853)” [1, tr 33-34].

Cuộc nổi loạn binh Cipayes

“Vào năm 1848, Lord Dalhousie được cử làm toàn quyền Ấn Độ và sẽ giữ chức

vụ này cho đến năm 1856. Với nhân vật này, bắt đầu một giai đoạn mới cho sự đô hộ

của người Anh ở Ấn Độ: Lord Dalhousie là vị thống đốc đầu tiên có một chủ trương

bành trướng đế quốc thật thụ và đã cố gắng mở rộng sự cai trị của Anh hoàng trên các

lãnh thổ của các tiểu vương bản xứ. Năm 1848, Lord Dalhousie phái quân tấn công

quốc gia Sikh, dân Sikh bại trận cho phép Lord Dalhousie sáp nhập xứ Punjab. Trong

miền Dekhan, để bành trướng sự đô hộ của người Anh, vị toàn quyền Ấn Độ khai triển

hai chủ nghĩa:

- Lapse theory (Doctrine Lapse): Tuyên bố rằng một số các vương quốc độc lập

được sáp nhập vào Đế quốc Anh, được hưởng bảo hộ của Anh nhưng những người cai

trị của họ khi qua đời mà không có người thừa kế chính thống thì những người thay

thế bây giờ không còn được thừa hưởng tài sản hoặc tiền bạc từ người Anh, chính phủ

thuộc địa sẽ thay thế để cai trị lãnh thổ của ông hoàng ấy.

35

- Paramountcy theory: Chính phủ Anh có quyền can thiệp khi một ông hoàng Ấn

Độ tỏ ra bất lực, không cai trị nổi tiểu quốc của mình” [1, tr. 34].

Ngoài ra, thực dân Anh còn xây dựng Subsidiary Alliance (tạm dịch là liên minh

hỗ trợ): Tuyên bố rằng những nhà nước nằm dưới sự bảo vệ của Anh đã phải bỏ quân

đội của họ và duy trì quân đội Anh. Họ cũng không được quyền quyết định về đối

ngoại, không liên minh với các nhà nước khác vì mục đích kinh tế, chính trị. Đổi lại,

họ được bảo vệ bởi người Anh khỏi các đối thủ của họ. Bằng cách này, Tổng đốc

Dalhousie đã sáp nhập nhiều nhà nước của người Maratha, bao gồm: “Satara (1848),

Sambalpur (1850), Udaipur (1852), Nagpur (1853), Jhansi (1854) và Awadh (1856)”

[1, tr. 35]. Chính sách sáp nhập không chỉ ảnh hưởng đến tầng lớp thống trị ở Ấn Độ

mà còn cả những người phụ thuộc vào họ như những người lính, thợ thủ công và thậm

chí quý tộc Ấn. Ngay cả những người tu hành cũng bị mất sự bảo trợ từ các nhà lãnh

đạo, thủ lĩnh, quý tộc, địa chủ, và trở nên nghèo khó. Vì vậy, vào giữa thế kỷ XIX, có

rất nhiều các lực lượng phản đối và chống lại người Anh. Sự bất mãn này lại càng

thêm bất mãn khi thuyết lapse theory được áp dụng đối với các vị đại diện cuối cùng

của các hoàng đế Mogul, Bahâdur Shâh bị giảm xuống một vai trò tượng xưng mà

thôi. Vì vậy, chúng ta không lạ gì khi thấy trong số các lãnh tụ của cuộc nổi loạn người

con của thủ tướng (Peshva) của hoàng đế Mogul, Nânâ Sâhib.

“Cuộc nổi loạn của binh Cipayes (seapoy munity) có thể giải thích bởi các

nguyên nhân sâu xa ấy, tuy nhiên căn nguyên trực tiếp của nó là các vấn đề các bao

đạn: Vào ngày 10/5/1857, lính Cipayes đóng ở Meerut, gần Delhi, được phân phát cho

một loại bao đạn mới, có bôi trơn mỡ bò trộn với mỡ heo; trước khi sử dụng các bao

thần dân tộc và tín ngưỡng của người Ấn2F đạn này phải dùng răng để xé chúng và điều này đã vi phạm nghiêm trọng đến tinh 3. Vì thế, để xúi giục một cách dễ dãi cả dân

Hinđu lẫn dân Hồi nổi loạn. Cuộc nổi loạn này bành trướng rất mau trong các tỉnh

miền Tây Bắc, ở Delhi, Lucknow và Cawnpore. Nó được ủng hộ bởi nhiều giới: các

ông hoàng và các chính khách vừa mới bị loại bởi nền hành chính của người Anh hay

bởi đe dọa bởi chính sách thôn tính các tiểu quốc Ấn; các giới tu sĩ lo ngại trước sự 3 Theo tục lệ của người Ấn: những người theo Ấn Độ giáo kiêng không ăn thịt bò vì trong Hinđu giáo bò là con vật linh thiêng, biểu tượng cho sự phồn thịnh và sức mạnh của người Ấn; những người theo đạo Hồi không ăn thịt lợn vỉ lợn là con vật bẩn thỉu.

36

phát triển của các sự truyền đạo Thiên chúa; giới tiểu công nghệ bị thiệt hại bởi sự

cạnh tranh của các hàng hóa Anh” [1, tr. 35-36].

Thế là sau đó, quân đội lính Cipayes nổi loạn chiếm Delhi và tôn Bahâdur Shâh

lên làm hoàng đế. Quân Anh rất ít so với binh nổi loạn (45.000 người để chống chọi

với 233.000 quân Ấn) bị bao vây khắp nơi. Khi Cawnpore rơi vào tay quân nổi loạn

hôm 27/6/1857, đội quân trú phòng gồm vào khoảng 400 người Anh bị tàn sát và 211

đàn bà, trẻ con cũng bị chém chết. Nhưng cuộc nổi loạn thất bại nhanh chóng vì sự

phản ứng mạnh mẽ của quân Anh nhưng cũng vì tính cách thiếu liên kết và hạn chế

của nó. Bên cạnh những đội binh nổi loạn, một phần quan trọng của quân đội Ấn vẫn

trung thành với người Anh, như quân Sikh của miền Punjab hay quân Gurkhâ mộ ở xứ

Nepal. Các ông hoàng Ấn cũng lại không đủ khả năng để lôi cuốn các khối dân chúng

mà cũng không thể thỏa thuận với nhau nữa. Sự bất tham dự của các tiểu vương xứ

Sindh, xứ Nepal và xứ Hyderabad đã là một sự kiện quyết định, khi mà người Anh

chưa kịp được tiếp viện. Miền Bengale và miền Punjab vẫn thuần phục chính phủ Anh,

cho phép quân Anh thắng quân nổi loạn và đè bẹp sự kháng cự cuối cùng vào cuối

năm 1858. Bahâdur Shâh bị bắt và bị đày sang Rangoon, còn Nânâ Sâhib chạy trốn

vào trong miền rừng xứ Nepal và biến mất.

Đây là cuộc khởi nghĩa dân tộc chống thực dân Anh có quy mô toàn quốc đầu

tiên, gây cho Anh nhiều tổn thất. Tuy thất bại do lãnh đạo là các phần tử quý tộc

phong kiến dễ dao động, nhân dân chưa đoàn kết, phân tán, thiếu sự huấn luyện nhưng

nó đã làm cho ở Ấn Độ đang hình thành nếu không phải là cuộc đồng khởi nghĩa thì

cũng là một tình thế phức tạp nghiêm trọng đối với chính phủ Anh.Và cũng như nhận

xét của J.Nêru “mặc dù cuộc khởi nghĩa chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến một bộ phận của

đất nước, nhưng nó đã lay chuyển toàn bộ Ấn Độ, đặc biệt là sự cai trị của người Anh.

Sau khi đàn áp cuộc khởi nghĩa 1857 – 1859, thực dân Anh phải có những thay đổi

thực sự trong chế độ cai trị Ấn Độ ”[7, tr. 89] mà hành động đầu tiên đó chính là giải

tán hoàn toàn Công ty Đông Ấn và đặt Ấn Độ dưới quyền cai trị trực tiếp của chính

phủ vào năm 1858.

37

1.2.2. Quá trình thực dân Pháp xâm lược Việt Nam

1.2.2.1. Tình hình Việt Nam trước khi thực dân Pháp xâm lược

Trước ngày thực dân Pháp nổ súng xâm lược, Việt Nam là một quốc gia độc

lập, có chủ quyền, đang nằm dưới sự cai trị của triều đình nhà Nguyễn từ năm 1802.

Các vua nhà Nguyễn tuy đã có những cố gắng nhất định nhằm xây dựng Việt Nam trở

thành một quốc gia hùng mạnh nhưng những chính sách của triều Nguyễn có rất nhiều

thiếu sót và chưa hợp lý. Đối diện với cuộc xâm lược của Pháp, tình hình trong nước

của Việt Nam đang gặp phải rất nhiều khó khăn. Trước một kẻ xâm lược đến từ

phương Tây với sự vượt trội hơn cả, triều đình nhà Nguyễn lại càng lâm vào tình trạng

lúng túng vì tiềm lực dân tộc đã bị suy giảm nghiêm trọng, tình trạng Việt Nam đến

thời điểm này đã gần như kiệt quệ, khủng hoảng trầm trọng về nhiều mặt.

Về kinh tế: Ngay sau khi lên ngôi, vua Gia Long đã nghĩ đến việc phát triển kinh

tế cho đất nước sau một thời gian dài chiến tranh. Tuy khai hoang được chú trọng, đất

đai canh tác ngày càng mở rộng nhưng ruộng đất phần lớn tập trung vào tay quan lại,

địa chủ, đại đa số nông dân thiếu đất canh tác. Tình hình của ngành kinh tế chính

(nông nghiệp) của Việt Nam ngày càng sa sút. Thiên tai, hạn hán diễn ra thường xuyên

làm cho nông dân trong cả nước mất mùa liên miên. Nông dân phải rời bỏ quê hương

đi phiêu tán để kiếm việc làm nuôi thân.Trong thủ công nghiệp, nhà Nguyễn cho lập

nhiều “tượng cục”, quan trọng nhất là các xưởng đúc tiền, đúc súng, đóng tàu, tập

trung ở kinh đô và các tỉnh lớn. Tại các tượng cục, thợ giỏi từ các địa phương được

trưng tập về, tổ chức theo đội ngũ (chế độ công tượng) sản xuất dưới sự kiểm soát của

nhà nước. Một bộ phận công nghiệp quan trọng do nhà nước quản lý là việc khai mỏ.

Dưới triều Nguyễn, cả nước có ngót 140 mỏ được khai thác (39 mỏ vàng, 32 mỏ sắt,

15 mỏ bạc, 9 mỏ đồng, 22 mỏ diêm tiêu, 10 mỏ kẽm, 4 mỏ chì, 4 mỏ gang…). Nhìn

chung, công nghiệp khai mỏ ở thời Nguyễn có những bước phát triển mới cả về số

lượng và qui mô, nhưng nhịp độ phát triển chậm, cách khai thác còn mang tính thủ

công, quy chế nhà nước chặc chẽ nên mọi hoạt động của các mỏ diễn biến thất thường,

có lúc sa sút. Một lý do là thuế mỏ hơi nặng, buộc một số chủ mỏ phải ngưng khai

thác. Các làng nghề thủ công có nhiều nhưng hoạt động còn rất phân tán. Hơn nữa, do

phải chịu nhiều ràng buộc về quy cách sản xuất và thể lệ đóng thuế, cho nên các làng,

38

phường thủ công chưa phát huy hết tiềm năng để có đóng góp quan trọng hơn vào nền

kinh tế hàng hóa đương thời. Nội thương sa sút vì chính sách “trọng nông ức thương”,

ngoại thương thì què quặt vì chịu cảnh “bế quan tỏa cảng”.

Nhìn chung, tình hình kinh tế của Việt Nam từ nông nghiệp, công nghiệp, thủ

công nghiệp và cả thương mại… đều gặp khó khăn, kém phát triển do những chính

sách chưa hợp lý của triều đình nhà Nguyễn (nhất là dưới thời Thiệu Trị và Tự Đức).

Các công trường sản xuất, những thợ giỏi… đều do triều đình nắm giữ sử dụng vào

việc xây dựng cung điện, thành quách, lăng tẩm của hoàng tộc. Mỏ có nhiều nhưng

triều đình cũng độc quyền và khai thác theo kiểu thủ công nên năng suất thấp. Có thể

nói, đến giữa thế kỷ XIX nền kinh tế Việt Nam sa sút nghiêm trọng.

Về quốc phòng: Quân đội Việt Nam dưới thời Nguyễn là một quân đội đông đảo.

Ngay từ đầu, các vua nhà Nguyễn đã đặt phép giản binh, tùy từng vùng mà lấy lính

theo tỷ lệ khác nhau. Kinh đô có thân binh, cấm binh và tinh binh. Các trấn có lính cơ,

lính mộ. Lại đặt thêm biền binh (chia 3 phiên, luân lưu 2 phiên về quê, một phiên tại

ngũ). Ngoài ra có 6 vệ thủy binh đóng tại kinh thành và các cơ thủy binh đóng ở các

hải khẩu. Sang thời Minh Mạng, tổ chức binh chế được hoàn thiện gồm đủ các binh

chủng: bộ binh, thủy binh, tượng binh, kỵ binh và pháo binh. Ngoài bộ binh gồm kinh

binh đóng giữ kinh thành và cơ binh của từng tỉnh, tượng binh thực sự trở thành một

binh chủng mạnh từ thời Minh Mạng. Đầu thời Tự Đức, bộ binh có khoảng 113.000

người. Lúc thời bình có khoảng 80.000 quân thường trực, nhưng khi có chiến sự thì bộ

binh có thể lên tới 200.000 người. Thủy binh có khoảng 26.800 người với khoảng 700

chiến thuyền lớn nhỏ gắn đại bác và súng bắn đá. Ngựa trong thời Nguyễn chỉ dùng

chính trong việc chạy trạm. Ngay từ thời Gia Long, một hệ thống trạm thiết lập để kịp

thời liên lạc tin tức, điều động binh lính. Từ ải Nam Quan đến Bình Thuận, cứ 4.000

trượng (16km) lập một nhà trạm, tất cả 98 trạm, đến thời Tự Đức tăng lên 135 trạm.

Lính trạm - một chế độ “nửa binh dịch” - không được cấp lương, chỉ được miễn thuế

thân và các tạp dịch khác, tuy vẫn phiên chế theo đội ngũ như binh lính. Thời Tự Đức

còn cho đặt thêm ngạch hương dũng, dân dũng, thổ dũng ở các tỉnh, huyện, xã, nhất là

các tỉnh miền núi.

39

Nói tóm lại, quân đội thời Nguyễn của Việt Nam rất đông, hùng hậu nhưng lại

chỉ chủ yếu được huấn luyện để đi trấn áp các cuộc khởi nghĩa nông dân, dập tắt

những phong trào đấu tranh của dân chúng chứ không huấn luyện nhiều để chiến đấu

trên chiến trường chính quy. Thêm vào đó, tàu chiến ít, lực lượng lính thủy lại không

chuyên nghiệp, hầu hết là tay ngang, không chịu được sóng gió trên biển. Binh khí thì

thô sơ, chủ yếu là dao, gươm, đại bác và súng trường có ít và lại rất lạc hậu.

Về chính trị - xã hội: Các vua nhà Nguyễn từ Gia Long đến Minh Mạng, Thiệu

Trị, Tự Đức chỉ ra sức tăng cường chế độ quân chủ chuyên chế nhằm duy trì quyền

thống trị lâu dài của dòng họ. Nhà nước phong kiến thời Nguyễn mang nặng tính bảo

thủ, lo ngại đổi mới, gạt bỏ nhiều đề nghị cải cách của một số quan lại và sỹ phu. Nổi

bật nhất trong xã hội lúc này là nạn chiếm đoạt và tập trung ruộng đất của địa chủ, nạn

tham nhũng của quan lại, cường hào xảy ra vào cuối đời mỗi vua. Thêm vào đó là các

chế độ tô thuế và lao dịch nhiều khi trở thành gánh nặng khắc nghiệt đối với thần dân.

Nông dân thời vẫn nộp tô thuế ruộng đất bằng hiện vật, nhưng gặp năm mất mùa

không đủ lúa đóng thuế thì nhà nước muốn tránh thất thu đã cho nộp thay bằng tiền

(gọi là “đại nạp”), và thực tế đã đẩy nông dân vào cảnh bần cùng. Riêng về chế độ lao

dịch một số người nước ngoài chứng kiến tận mắt cảnh tượng xây thành đắp lũy, đào

kênh ở thời Nguyễn - đặc biệt việc xây thành Phú Xuân và đào kênh Vĩnh Tế - đều tỏ

ra ngạc nhiên trước cường độ lao động căng thẳng của hàng ngàn hàng vạn dân phu.

Cho mãi đến giữa thế kỷ XIX, khi thực dân Pháp đã thực sự nổ súng xâm lược, triều

đình vẫn tiếp tục xây dựng những lăng tẩm nguy nga ở ngoại vi thành Huế. Đời sống

cơ cực xô đẩy hàng vạn gia đình nông dân phải bỏ quê hương làng mạc đi lưu vong

phiêu tán. Nạn lưu vong ở Việt Nam vào thế kỷ XIX đã trở thành một hiện tượng phổ

biến, thường xuyên, nhất là ở miền Bắc và Trung. Chính sách của triều đình nhà

Nguyễn như thế nên đã đẩy xã hội đến nhiều mâu thuẫn sâu sắc, nhất là mâu thuẫn của

nông dân với quan lại và triều đình. Cuộc sống cơ cực và tình trạng lưu vong làm cho

nông dân và các tầng lớp nghèo khổ bất bình với một số chính sách của nhà nước và

căm oán quan lại hào cường. Họ đã được thu hút vào các cuộc nổi dậy và chống đối

lớn nhỏ. Từ những năm 1807, 1808 những cuộc nổi dậy ở miền xuôi bùng lên ngày

một nhiều hơn, triều đình phải tiến hành hơn 30 cuộc “tiễu phạt”. Tiêu biểu là các cuộc

40

khởi nghĩa ở Nghệ An do Lê Hữu Tạo (Hầu Tạo) (1818), Vũ Đình Lục và Đặng Trần

Siêu (1824), Phan Bá Vành, Lê Duy Lương đồng thời với khởi nghĩa Ba Nhàn, Tiền

Bột, Nông Văn Vân, Cao Bá Quát (1854). Ngoài ra còn có nhiều cuộc khởi nghĩa của

các dân tộc khác.

Về đối ngoại: Với nhà Thanh, các vua Nguyễn trước sau giữ thái độ “thần phục”.

Ngay sau khi kéo quân vào Thăng Long (1802), chúa Nguyễn Ánh sai sứ sang nhà

Thanh cầu phong, nhưng đến năm 1804 vua nhà Thanh mới sang sứ sang tuyên phong

cho vua Gia Long tại Thăng Long và định lệ 3 năm nộp cống một lần. Nhiều chính

sách, thiết chế chính trị, tư tưởng, văn hóa xã hội… của nhà Thanh được các vua

Nguyễn tiếp thu, vận dụng, coi như những mẫu mực trị nước.

Đối với Pháp, có không ít người cho rằng vua Gia Long rộng rãi với Thiên Chúa

giá, chủ trương cấm đạo này chỉ bắt đầu từ thời Minh Mạng. Ý muốn nói vua kế vị đã

đi ngược lại ý định tốt đẹp của vua Gia Long trong lĩnh vực này. Nhưng thực tế cho

chúng ta một cái nhìn khác hẳn: Ngay khi còn dựa vào các thừa sai và người Pháp để

đánh Tây Sơn, trong thâm tâm chúa Nguyễn Ánh đã bắt đầu nghi ngờ gờm sợ chính

những người đang giúp đỡ mình. Vì vậy, sau khi lên ngôi, vua Gia Long dần dần

muốn tách xa họ, sau đó muốn cự tuyệt họ. Phương hướng giải quyết của nhà vua là cố

gắng giữ gìn mối quan hệ êm thắm với người Pháp và các thừa sai, vì thấy ở địa vị và

hoàn cảnh của mình thì chưa thể trở mặt ngay với họ được. Vua Gia Long muốn kéo

dài tình trạng nhùng nhằng đó cho đến hết đời mình để rồi sẽ chuyển giao nhiệm vụ

giải quyết vấn đề cho kẻ nối ngôi. Vì vậy, tuy bề ngoài nhà vua vẫn tỏ ra ưu đãi người

Pháp và các thừa sai, nhưng thực lòng thì đang chuẩn bị, cân nhắc việc chọn người kế

tục ngôi vua, hy vọng kẻ nối ngôi mình sẽ từng bước thận trọng cự tuyệt với người

Pháp và thừa sai Thiên Chúa giáo. Đối diện với những hành động trắng trợn lấn lướt

của thực dân Pháp, nhất là trước những hoạt động ngày càng sâu rộng của giáo sỹ, các

vua Nguyễn không những không tìm ra được những kế sách hợp lý mà còn thi hành

một chính sách cấm đạo và đàn áp quyết liệt giáo sỹ và giáo dân. Nó đã gây nên không

khí căng thẳng trong dân chúng và khơi mối oán hận trong giáo dân. Công bằng mà

nói, chính sách đối với Thiên Chúa giáo của nhà Nguyễn tuy bộc lộ “sự ấu trĩ về hiểu

biết tôn giáo này” cũng như “sự khắc nghiệt trong biện pháp bạo lực”, nhưng đó là một

41

chính sách bắt nguồn từ những cơ sở nhằm bảo vệ độc lập của Tổ quốc và văn hóa

truyền thống của dân tộc. Những hành động chống đạo của triều đình phong kiến Việt

Nam đã diễn ra giữa lúc những điều kiện xâm lược của thực dân Pháp đã chín muồi.

Bởi vậy khi giám mục Pellerin đề xuất việc can thiệp bằng vũ lực vào Việt Nam thì lập

tức được hầu hết các tầng lớp trong chính giới và quân đội Pháp ủng hộ. Kết quả là

ngày 22/04/1857, Naponéon III quyết định thành lập “Hội đồng Nam Kỳ” nhằm xét lại

hiệp ước Versailles năm 1787, với âm mưu dựa vào các văn kiện bán nước đầu tiên

của Gia Long mà hợp pháp hóa việc mang quân sang đánh chiếm nước ta, tháng

7/1857, Naponéon III đã thông qua quyết định vũ trang xâm lược nước ta.

1.2.2.2. Âm mưu xâm lược Việt Nam của thực dân Pháp

Ý đồ xâm chiếm Việt Nam của thực dân Pháp đã có từ rất sớm. Ngay từ

năm 1645, sau 21 năm làm công việc truyền giáo ở Việt Nam, khi về Pháp Alexan de

Rhodes đã đưa ra lời nhận xét cho ý cổ vũ cho một cuộc xâm chiếm thuộc địa rằng

Việt Nam chính là một vị trí cần phải chiếm lấy; chiếm được vị trí này thì thương nhân

châu Âu sẽ tìm được một nguồn lợi nhuận và tài nguyên dồi dào. “Nước Pháp sẽ tìm

thấy ở xứ sở đẹp đẽ này nhiều vàng, bạc, đồng, sắt và than đá, nhiều gỗ tốt để đóng

tàu; Pháp sẽ có một hải cảng an toàn cho các hạm đội và thực phẩm cho lính thủy của

mình” [19, tr. 21].Để thăm dò tình hình, từng bước chuẩn bị cho việc xâm chiếm Việt

Nam, Pháp dựa vào 2 lực lượng cơ bản: hoạt động truyền giáo của các giáo sĩ thừa sai

và những hoạt động buôn bán của các phái đoàn trong Công ty Đông Ấn ở Việt Nam.

Đặc biệt là từ sau năm 1664, khi Hội truyền giáo nước ngoài Paris thành lập, các giáo

sĩ thừa sai càng có thêm cơ sở và điều kiện để gia tăng hoạt động truyền giáo tại Việt

Nam và cung cấp thêm cho nước Pháp nhiều thông tin hơn. Napoléon Ponaparte đã đặt

nhiều tin tưởng vào vai trò của các giáo sĩ và cho rằng: “Tôi có ý định lập lại Hội

truyền giáo nước ngoài, những giáo sĩ ấy sẽ rất có ích cho tôi ở châu Á, châu Phi và

châu Mỹ, tôi sẽ cử họ đi điều tra tình hình ở các xứ. Tấm áo của họ dễ che chở họ và

dùng để ẩn giấu những mưu đồ chính trị và thương mại”[dẫn theo 21, tr.25]. Ngay từ

buổi đầu nhòm ngó Việt Nam, các giáo sĩ và thương nhân Pháp đã hợp tác chặt chẽ với

nhau. Giáo sĩ mở đường đi trước, thương nhân theo sau, rồi cùng nhau đẩy mạnh hoạt

động. Và bắt đầu vào giữa thế kỷ XVIII với những khám phá của Pierre Poivre, người

42

đã đi đến vùng Viễn Đông trong một nỗ lực để cung cấp cho Chính phủ Pháp những

thông tin kinh tế cần thiết cho sự thành công của họ ở Đông Dương. Sau khi trở về

Pháp, Poivre đã bắt đầu những nỗ lực phối hợp với chính phủ Pháp trong cuộc thám

hiểm vào Đông Dương. Trong tháng sáu năm 1748, ông đã đề nghị một cuộc thám

hiểm của Công ty Đông Ấn Pháp, mục đích đó là thiết lập quan hệ thương mại với

Đông Dương. Thật không may, các nỗ lực thiết lập các mối quan hệ giao dịch không

thành công vì người dân bản địa không mua hàng hóa phương Tây. Người Pháp hy

vọng rằng Đông Dương sẽ cung cấp sự phong phú về tài nguyên tương tự như Ấn Độ

của Anh. Pháp cần thiết để lấy lại uy tín trên toàn thế giới giảm bớt những tổn thất của

mình trong chiến tranh bảy năm. Sau khi hiệp ước hòa bình năm 1763, Pháp nhượng

lại cho Vương quốc Anh hầu hết các thuộc địa Mỹ, bao gồm Canada và tất cả đất phía

đông của sông Mississippi. Trước nguy cơ mất hết thuộc địa tại châu Á này, thực dân

Pháp gấp rút tìm mọi cơ hội để sớm can thiệp vào Việt Nam. Đoàn thám hiểm thành

công đầu tiên đến Đông Dương bắt đầu vào ngày 16 Tháng Ba năm 1816, khi tàu

Cybele dưới sự chỉ huy của Achilles de Kergariou đến Nam Kỳ với mục đích của việc

thiết lập các mối quan hệ với vua Gia Long. Tinh thần hợp tác mới này là kết quả trực

tiếp của sự can thiệp của Pháp vào chính trị của Đông Dương. Vua Gia Long, trước

đây được gọi là Nguyễn Ánh, đã bị quân Tây Sơn đánh tan trong trận Rạch Gầm-Xoài

Mút. Trong một nỗ lực để giành lại quyền lực, ông kêu gọi người Pháp trợ giúp.Đã có

lúc Nguyễn Ánh định sang Indonesia cầu viện Hà Lan, hoặc sang Goa cầu viện Bồ

Đào Nha. Nhưng cuối cùng xu hướng cầu viện tư bản Pháp của Nguyễn Ánh ngày

càng rõ rệt. Điều này cũng xuất phát từ một nguyên nhân sâu xa, đó là từ lâu các giáo

sỹ Pháp đã hoạt động nhiều ở Việt Nam và họ đã có những ảnh hưởng nhất định trong

các tầng lớp xã hội. Hơn thế nữa, Giám mục Bá Đa Lộc (Pigneau De Béhaine) đã chủ

động đến với Nguyễn Ánh đúng lúc, và ngay lập tức ông ta được Nguyễn Ánh tin

tưởng, giao cho ấn và hoàng tử Cảnh (làm con tin) để Bá Đa Lộc đưa sang Pháp cầu

viện vua Louis XVI vào năm 1784. Ngày 28/11/1787, tại cung điện Versailles (Pháp)

một hiệp ước gọi là “Hiệp ước Liên minh tấn công và phòng thủ” được ký kết giữa đại

diện của Nguyễn Ánh là Bá Đa Lộc và đại diện của vua Pháp Louis XVI là bá tước De

Mont Morin.Nội dung chính của hiệp ước Versailles là Pháp cam đoan sẽ gửi quân đội

43

và vũ khí sang trợ giúp Nguyễn Ánh; đổi lại Pháp được quyền sở hữu hoàn toàn cảng

Hội An và đảo Côn Lôn cùng với việc mở cửa buôn bán dành riêng cho Pháp. Hiệp

ước Versailles là một cơ sở pháp lý mà sau này Pháp có thể dựa vào đó tạo cơ hội

đánh Việt Nam. Được sự vận động tích cực của giám mục Bá Đa Lộc, từ mùa thu năm

1788, một số người Pháp và người Âu lần lượt đến Gia Định giúp Nguyễn Ánh huấn

luyện binh lính, chỉ huy đội thủy quân… Thông qua Bá Đa Lộc, Nguyễn Ánh còn

được mua về hàng vạn khẩu súng tay và hàng ngàn cỗ đại bác. Cùng với vũ khí và

những người Pháp và người Âu đến giúp, quân Nguyễn Ánh được huấn luyện bài bản,

sử dụng vũ khí hiện đại, có thêm nhiều tài chiến… nên quân đội Nguyễn Ánh trở nên

mạnh hơn trước rất nhiều. Nhưng Cách mạng tư sản Pháp bùng nổ (1789), chính

quyền phong kiến ký hiệp ước với Nguyễn Ánh bị lật đổ. Tiếp đó là chiến tranh kéo

dài hơn 20 năm trên lục địa châu Âu (1792 - 1815) đã cản trở việc thi hành hiệp ước

Versailles. Kế hoạch can thiệp sâu hơn vào Việt Nam của thực dân Pháp do vậy bị

chậm lại một thời gian. Nhưng cũng trong thời gian này, vua Quang Trung đột ngột

qua đời (tháng 9-1792), triều Tây Sơn nhanh chóng rơi vào suy yếu do lục đục và

tranh chấp nội bộ. Nguyễn Ánh nhân cơ hội đó đã giành được chính quyền từ Tây Sơn,

năm 1802 lên ngôi hoàng đế (niên hiệu Gia Long).Sau khi lên cầm quyền, Gia Long đã

“trả ơn” cho những người Pháp có công giúp mình trong cuộc chiến vừa qua bằng

cách giữ lại một số người làm quan trong triều (Jean Baptiste Chaigneau, Philippe

Vannier, de Forsans…) và đãi ngộ rất hậu.

Như vậy, mặc dù có sự liên minh giữa Louis XVI với Nguyễn Ánh vào cuối thế

kỷ thứ mười tám nhưng chính phủ Pháp đã không gửi hỗ trợ quân sự để giúp Nguyễn

Ánh giành lại vương quyền. Ông lên ngôi với cái tên mới của mình, Gia Long, và có

thái độ khá tốt với Pháp.Nhưng do được hoàng đế Việt Nam quá ưu ái, các giáo sĩ và

quan lại người Pháp hoạt động ngày càng mang tính chất thái quá, thể hiện ý đồ can

thiệp vào chính trị và đe dọa đến vương quyền nhà Nguyễn nên họ bị ngăn cản dẫn

đến quan hệ giữa họ và triều đình nhà Nguyễn ngày càng mâu thuẫn và xung đột.Tiêu

biểu nhất là khi một số giáo sĩ ngấm ngầm hoặc chính thức phản đối về việc Gia Long

chọn Minh Mạng nối ngôi mà không chọn con của hoàng tử Cảnh.Sau khi cuộc chiến

ở châu Âu kết thúc, chính quyền phong kiến Pháp lại cho xúc tiến ý đồ dở dang trước

44

kia. Lợi dụng hiệp ước Versailles làm cơ sở pháp lý, từ Napoléon Bonaparte đến Louis

XVIII, Pháp liên tục thúc ép các vua Gia Long và Minh Mạng thi hành những điều

khoản trong hiệp ước Versailles, nhằm nhanh chóng giành vị trí ưu thế ở Việt Nam.Từ

thực tế đó, Gia Long càng nhận thấy rõ hơn dã tâm sâu xa của người Pháp nên bắt đầu

thể hiện thái độ ly khai. Điều này có thể thấy qua việc từ năm 1817, nhiều chiếc tàu

Pháp cập các bến cảng của Việt Nam (mang theo cả lái buôn và võ quan) đến xin được

yết kiến vua Gia Long nhằm xin “nối lại mối quan hệ bị gián đoạn từ thời cách mạng

tư sản Pháp” nhưng đều không được vua nhà Nguyễn tiếp đón.Trước những hoạt động

bằng con đường ngoại giao không đem lại những kết quả như ý muốn, Pháp quyết tâm

dùng những biện pháp mạnh hơn. Năm 1840 - 1841, nhiều chiến hạm của Pháp kéo

sang đóng tại vùng biển Trung Hoa, uy hiếp cả hai triều đình nhà Thanh và nhà

Nguyễn. “Vào ngày 04 tháng 11 năm 1847, Tự Đức đã lên nắm quyền ở Đông Dương.

Ông cũng giống như Minh Mạng, có quan điểm chống Kitô giáo và chống sự can thiệp

của phương Tây, nhưng không giống như người tiền nhiệm, ông duy trì một chính

sách thụ động đối với các nhà truyền giáo. Tự Đức tiếp tục phát huy các quyền tự do

tôn giáo do cha mình, Hoàng đế Thiêụ Trị, con trai của Minh Mạng. Mặc dù có những

chính sách ban đầu hoà giải, Tự Đức đã nhìn thấy cuộc cách mạng năm 1848 ở Pháp là

dịp để Đông Dương thoát khỏi sự truyền giáo. Ông có giả định sai rằng người Pháp sẽ

rất bận rộn với công việc nội bộrằng họ sẽ không tiếp tục với sứ mệnh của họ. Sau nền

Cộng hòa thứ hai được thiết lập vào tháng Mười Hai năm 1848, Louis Napoleon

Bonaparte đã cố gắng để giải quyết tình hình ở Đông Dương bằng cách đàm phán với

Tự Đức, nhưng không có kết quả. Việc từ chối của Đông Dương đã cung cấp cho ông

những cái cớ để can thiệp trực tiếp bằng vũ lực” [34, tr.17] với lý do: “Phải báo thù

cho các vị tử vì đạo của ta. Chúng ta là những người đầu tiên đã nghĩ tới xứ Đông

Dương. Và chính ta có ý muốn sáp nhập xứ này” [ dẫn theo 21, tr.31].

Tháng 12-1857, Pháp thành lập “Ủy ban nghiên cứu về vấn đề Nam kỳ”. Ủy ban

này tập hợp thành viên hiểu biết về Việt Nam, trong đó có sự tham gia của các giáo sĩ

thừa sai - những người luôn mong muốn Pháp can thiệp vũ trang vào Việt Nam.Những

báo cáo liên tiếp của các giáo sỹ từ Việt Nam báo về tình hình cấm đạo ở Việt Nam

cùng với tình hình suy đốn cực độ của triều đình Huế càng làm cho chính phủ Pháp

45

mạnh bạo hơn nữa trong việc thực hiện kế hoạch xâm lược. Sau khi đánh xong Quảng

Châu - Trung Quốc (ngày 5/1/1858) và ký Điều ước Thiên Tân ngày 27/6/1858, viên

chỉ huy hạm đội Pháp ở Viễn Đông là Rigault de Genouilly được lệnh của Bộ trưởng

Hải quân Pháp phải tìm cách kéo quân vào chiếm Đà Nẵng và củng cố lực lượng ở đó

trong khi chờ đợi chỉ thị mới. Genouilly bèn phối hợp với đội quân Tây Ban Nha do

đại tá Palanca chỉ huy, cùng kéo thẳng đến Đà Nẵng. Những ngày cuối tháng 8/1858,

các chiến thuyền của liên quân Pháp - Tây Ban Nha từ Quảng Châu - Trung Quốc đã

có mặt tại cửa biển Đà Nẵng để chuẩn bị cho việc xâm lược Việt Nam.

1.2.2.3. Tiến trình xâm lược của Pháp vào Việt Nam (1858-1897)

Sáng ngày 1/9/1858, quân xâm lược Pháp gửi tối hậu thư cho Tổng đốc

Nam Ngãi đòi quan quân nhà Nguyễn ở đây phải đầu hàng. Liền đó, 2.500 quân Pháp

với 13 chiến thuyền, 50 đại bác cùng với 1 chiến thuyền 450 quân Tây Ban Nha nổ

những phát súng đầu tiên tấn công bán đảo Sơn Trà (Đà Nẵng) mở đầu mở đầu cuộc

chiến tranh xâm lược Việt Nam. Đến năm 1897, thực dân Pháp về căn bản mới hoàn

thành công cuộc bình định Việt Nam về mặt quân sự và trong bối cảnh đó bắt tay vào

khai thác thuộc địa Việt Nam nói riêng cũng như Đông Dương nói chung một cách

quy mô. Khác với Anh khi vào Ấn Độ, sự xâm lược của người Pháp lại được tiến hành

thông qua những nhà truyền giáo và những mối liên hệ với triều đình nhà Nguyễn hơn

là thông qua những thương nhân. Mặt khác, trước khi Pháp xâm lược, Việt Nam là một

quốc gia độc lập, thống nhất chủ quyền trong khu vực Đông Nam Á lại từng trải qua

thời kỳ Bắc thuộc, chiến đấu với nhiều thế lực ngoại xâm mạnh để bảo vệ chủ quyền

của đất nước. Do đó dù có nhiều dân tộc, nhiều tầng lớp khác nhau nhưng trước ách

xâm lược của Pháp nhân dân Việt Nam tuy đều có chung một lòng quyết tâm chống

Pháp. Chính vì vậy, từ 1858-1897 là giai đoạn lãnh thổ Việt Nam từ từ thuộc về Pháp,

cũng là giai đoạn đấu tranh mạnh mẽ của các tầng lớp xã hội Việt Nam. Có một số sự

kiện đáng chú ý như sau:

- Ngày 5-6-1862, Pháp chiếm được ba tỉnh miền Đông gồm: Gia Định, Biên Hòa,

Định Tường do ký hòa ước với triều Nguyễn. Để giành được thắng lợi này, thiệt hại

của Pháp là không đáng kể do nhiều phần tử trong triều Nguyễn mang nặng tư tưởng

thất bại, sợ địch và muốn bắt tay với Pháp để tiêu diệt các phong trào đấu tranh của

46

nhân dân, tiêu biểu như các cuộc nổi dậy của Trương Định, Võ Duy Dương, Nguyễn

Trung Trực…

- Năm 1867, cuộc chiến tranh của Pháp ở Mêxicô đã bị thất bại do đó Pháp rất

muốn có một thắng lợi nhỏ để bù đắp. Bằng cách vu cáo cho quan lại ba tỉnh miền Tây

ủng hộ cho phong trào kháng Pháp và những lời hứa hẹn với triều Nguyễn, chỉ từ 20-

6-1867 đến 24-6-1867 thực dân Pháp đã khiến nhà Nguyễn nhượng lại ba tỉnh miền

Tây là Vĩnh Long, An Giang và Hà Tiên.

- Cuộc chiến tranh với Đức năm 1870 làm cho tình hình kinh tế và chính trị của

Pháp có nhiều bất ổn nhưng giới cầm quyền Pháp ở Việt Nam rất nóng lòng đánh

chiếm Bắc kỳ. Ngày 5-11-1873, quân Pháp do Francis Garnier chỉ huy đến Hà Nội và

nổ sung tấn công vào ngày 20-11-1873. Tưởng chừng như đã thắng lợi thì ngày 21-12-

1873 Garnier bị quân của Lưu Vĩnh Phúc phục binh tại Cầu Giấy. Tuy nhiên, Pháp

thoát được mối lo vì triều Nguyễn đã chủ động dẹp tình hình để ký hòa ước mới với

Pháp vào ngày 15-3-1874. Trong tình thế bất lợi, hòa ước này thực sự là một thắng lợi

của Pháp vì với những điều khoản trong hiệp ước nước Việt Nam đã trở thành đất bảo

hộ của Pháp.

- Từ sau 1874, chủ nghĩa tư bản Pháp bước vào giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. Do

yêu cầu về nguyên liệu, nhân công và thị trường tiêu thụ cho sự phát triển của mình,

chính quyền Pháp càng nhận thức rõ sự cần thiết để đánh chiếm Bắc kỳ, hoàn thành

công cuộc bình định, để khai thác thuộc địa Việt Nam. Ngày 25-4-1882, Pháp nổ súng

tấn công Hà Nội lần hai, lại một lần nữa quân Pháp hoang mang với trận Cầu Giấy lần

hai (19-5-1883) nhưng mau chóng giành lại được thế thắng nhờ quân tiếp viện. Kết

cục là hiệp ước Harmand được ký kết ngày 25-8-1883, Việt Nam mất quyền tự chủ

trên phạm vi toàn quốc.

- Nhằm tránh xung đột với quân Thanh ở Bắc kỳ, ngày 6-6-1884, chính phủ Pháp

cử Patenôtre ký bản điều ước mới với triều đình Huế, đặt cơ sở lâu dài và chủ yếu cho

quyền đô hộ của Pháp tại Việt Nam, cắt Việt Nam làm ba miền với ba chế độ khác

nhau.

- Từ năm 1885-1897, phong trào đấu tranh của nhân dân Việt Nam chống chiến

tranh bình định của Pháp. nhằm hưởng ứng chiếu CầnVương của vua Hàm Nghi các sĩ

47

phu, văn thân Việt Nam đã CầnVương của vua Hàm Nghi các sĩ phu, văn thân Việt

Nam đã đấu tranh chống Pháp thành một phong trào kéo dài từ 1885-1895 với nhiều

cuộc khởi nghĩa tiêu biểu như: Bãi Sậy, Ba Đình, Hùng Lĩnh, Hương Khê. Ngoài ra

còn có các phong trào của các tầng lớp xã hội khác như: Phong trào nông dân Yên Thế

(1884-1913), phong trào đấu tranh của đồng bào miền núi và phong trào yêu nước

mang màu sắc tôn giáo.

Tiểu kết chương 1: Chủ nghĩa thực dân là việc mở rộng chủ quyền của một

quốc gia trên các lãnh thổ nước ngoài thông qua sự cưỡng bức. Chủ nghĩa thực dân

châu Âu bắt đầu vào thế kỷ 15 và đạt đến điểm đỉnh cao của nó vào cuối thế kỷ 19. Ở

đỉnh cao của chủ nghĩa thực dân châu Âu, hơn ba phần tư trái đất thuộc về các quốc

gia châu Âu Anh, Pháp, Hà Lan, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Bỉ, Ý, và Đức. Cho đến

“Thế kỷ XVI, XVII đối với Châu Âu là hai thế kỷ tiếp tục tích lũy nguyên thủy của tư

bản…Trong quá trình tích lũy nguyên thủy tư bản, hoạt động thực dân có một vai trò

hết sức quan trọng” [22, tr.20]. Và ắt hẳn trong quá trình ấy, đã có những quốc gia độc

lập bị xâm chiếm và cuốn vào hệ thống thuộc địa của các nước thực dân, đó là Ấn Độ

và Việt Nam.

Ba thế kỷ trước khi đến Pháp, người Việt Nam đã được cai trị được lựa chọn dựa

trên giáo dục, trí tuệ của họ, và tình trạng gia đình. Cuộc sống của người dân trong

những ngôi làng được ít khi bị ảnh hưởng bởi sự kiện bên ngoài. Họ biết rất ít về

những gì đang xảy ra ngoài vòng tròn của những túp lều mà họ sống, và các lĩnh vực

mà họ canh tác cây trồng của họ. Cuộc sống ở các làng thường là thoải mái và hòa

bình. Phần lớn đất đai của Việt Nam rất thích hợp cho trồng lúa. Tôn giáo của họ đa số

là Phật giáo, ngoài ra còn có văn hóa, tín ngưỡng truyền thống thờ thần và các anh

hùng có công với nước. Còn ở Ấn Độ trong thế kỷ 16, các cường quốc châu Âu đã bắt

đầu chiếm một phần nhỏ dọc theo đường bờ biển. Bồ Đào Nha, Hà Lan và Pháp đã cai

trị các vùng khác nhau ở Ấn Độ trước khi Công ty Đông Ấn Anh có mặt ở đây năm

1756. Thực dân Anh quản lý, kiểm soát hầu hết các vùng quan trọng của Ấn Độ như:

Calcutta, Madras và Bombay, được sử dụng làm căn cứ chính của Anh. Tuy nhiên,

một vài khu vực độc lập được giữ lại, Kashmir và một số nơi khác. Năm 1857, cuộc

nổi loạn lớn đầu tiên diễn ra tại miền Bắc Ấn Độ của binh lính Cipayes. Đây là lần đầu

48

tiên người dân Ấn Độ nổi loạn với số lượng lớn chống lại sự hiện diện và sự cai trị của

Anh ở Nam Á. Tuy nhiên, cuộc nổi dậy thất bại và thực dân Anh tiếp tục cai trị ở Ấn

Đô, chỉ khác là giờ nó nằm dưới quyền cai trị của nữ hoàng Anh. Chính sách của Anh

và Pháp từ năm 1858 có rất nhiều biến chuyển, những nét tương đồng và khác biệt mà

chúng ta có thể thấy rõ qua chương hai.

49

Chương 2. NHỮNG NÉT TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT

TRONG CHẾ ĐỘ THUỘC ĐỊA CỦA ANH VÀ PHÁP TẠI ẤN

ĐỘ VÀ VIỆT NAM (GIỮA THẾ KỶ XIX-GIỮA THẾ KỶ XX)

Chế độ thuộc địa của Anh và Pháp ở Ấn Độ và Việt Nam đều gặp nhau ở những

điểm chung là nhằm mục đích xâm chiếm, mở rộng, khai thác và bóc lột thuộc địa.

Tuy nhiên, đi vào từng lĩnh vực, từng chính sách cụ thể thì mỗi nước đế quốc lại có

cách hành xử khác nhau. Lý giải cho sự khác nhau này có hai nguyên nhân:

Nguyên nhân thứ nhất là do những đặc điểm khác nhau trong quá trình phát triển

kinh tế, xã hội, văn hóa của từng nước đế quốc.

Trong hơn hai thế kỷ, nước Anh là bậc thầy trên biển và dẫn đầu về công nghiệp.

Những lợi thế vượt trội cho phép đảo quốc nhỏ bé này có một sức mạnh không cân

xứng với diện tích của nó. Anh đã luôn phải đấu tranh để sống sót với sự cạnh tranh từ

lục địa và những cuộc xung đột với quyền bá chủ toàn cầu. Tuy nhiên, Anh đã không

sử dụng uy quyền của mình để nô dịch thế giới mà sử dụng thực lực về kinh tế và

chính trị của mình. Một trong những di sản của châu Âu là các cuộc chinh phục và

khai thác tàn bạo có hệ thống đối với các dân tộc bản địa. Qua nhiều thập kỷ, các thuộc

địa đã trở nên tồi tệ với những chính sách cai trị về chính trị và kinh tế của các nước

thực dân. Việc thực hiện những nguyên tắc và thể chế riêng biệt đã khiến Anh có

những điểm khác nhau rõ rệt với các quốc gia khác. Không giống như các đế quốc thô

bạo khác, người Anh duy trì một đế chế quan tâm đích thật đến cai trị, truyền bá các

nguyên tắc chính trị và thể chế tự do trên toàn cầu. Không thể phủ nhận được rằng sự

cai trị của đế quốc Anh là không hoàn hảo và đôi khi họ phải vật lộn với các vấn đề

khó khăn phát sinh từ chế độ thực dân mà cuộc khởi nghĩa năm 1857 ở Ấn Độ là một

ví dụ, nhưng lịch sử đã chứng minh rằng Đế quốc Anh là một đế quốc thực dân mạnh

nhất thế giới. Điều đó dẫn đến một thực tế là nước Anh có một hệ thống thuộc địa rộng

lớn hơn hẳn nước Pháp và vì là nước thực dân đi trước nên có rất nhiều kinh nghiệm

trong xâm lược, cai trị và khai thác thuộc địa. Bên cạnh sự khác nhau về trình độ phát

triển công nghiệp, kinh nghiệm bóc lột thuộc địa, mỗi nước thực dân còn có nét đặc

50

thù riêng trong kinh tế. Tất cả các nước đế quốc, đặc biệt là các nước đế quốc già nua,

giàu có như Anh, Pháp đều rất chú trọng xuất khẩu tư bản, nhưng riêng đế quốc Pháp

phương thức xuất khẩu tư bản đặc trưng nhất là cho vay nặng lãi, chính vì vậy Pháp

được gọi là “đế quốc cho vay lãi”. Thị trường xuất khẩu tư bản được quan tâm hàng

đầu của đế quốc Pháp là các nước châu Âu mà chủ yếu là Nga. Sự quan tâm này chỉ

được giảm đi và chuyển hướng dần sang các nước thuộc địa kể từ sau chiến tranh thế

giới thứ nhất do cách mạng tháng Mười năm 1917 ở Nga đã khiến Pháp mất đi một

khoản cho vay và đầu tư lớn cũng như một thị trường giàu tiềm năng. Còn với Anh,

thương mại và hàng hải luôn là trọng tâm trong phát triển kinh tế. Chú ý tăng cường

sức mạnh hàng hải cũng là cách giữ gìn địa vị hàng đầu cho đế quốc Anh, cho dù đã bị

các nước đế quốc trẻ vượt qua về công nghiệp. Mọi mối quan hệ của Anh với các nước

khác, trong đó có các thuộc địa hầu như đều được quy đổi thành các lợi ích thương

mại cho chính quốc. Những đặc thù trên có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển kinh tế

thực dân ở hệ thống thuộc địa của từng đế quốc.

Ngoài ra còn có một nguyên nhân nữa quyết định đến việc áp đặt chế độ cai trị

như thế nào cho từng thuộc địa của Anh và Pháp đó là do những điều kiện về tự nhiên

cũng như xã hội của các quốc gia bị xâm lược. Hệ thống thuộc địa của Anh bao gồm

rất nhiều nước phân bố ở bốn châu: Á, Phi, Mĩ và châu Đại Dương, trong đó có những

thuộc địa rất rộng lớn như Canađa, Ấn Độ; mỗi khu vực, mỗi thuộc địa lại có một đặc

thù về kinh tế và văn hóa riêng. Đặc biệt, do sự phát triển sớm của công nghiệp và

chính sách khuyến khích nhập cư vào thuộc địa của chính quốc nhằm giải quyết tình

trạng “thừa dân” ở trong nước và tình trạng thiếu lao động ở thuộc địa nên đế quốc

Anh có khá nhiều thuộc địa di dân, những thuộc địa này về sau trở thành mô hình

thuộc địa rất độc đáo của Anh so với chủ nghĩa thực dân kiểu cũ nói chung, đó là các

lãnh thổ tự trị. Chính vì vậy, nếu muốn duy trì, quản lý và cai trị tốt hệ thống thuộc địa

này thì đế quốc Anh buộc phải tìm cho mình những phương pháp đối xử với các thuộc

địa thật mềm dẻo, linh hoạt và hợp lý. Với đế quốc Pháp thì không như vậy, hệ thống

thuộc địa của Pháp tuy đứng thứ hai trên thế giới về diện tích và dân số nhưng chủ yếu

phân bố ở hai châu Á, Phi và do quan điểm khá bảo thủ, cứng nhắc của giới thực dân

nên phương pháp đối xử với các thuộc địa có phần kém linh hoạt hơn. Xét về khía

51

cạnh này, Ấn Độ và Việt Nam là những thuộc địa có những điểm khá tương đồng về

mặt tự nhiên cũng như tình hình kinh tế, chính trị. Về mặt tự nhiên, cả hai nước đều

nằm trong khu vực khí hậu nhiệt đới gió mùa, địa hình có những đồng bằng được phù

sa của các con sông lớn bồi đắp. Điều này đã quyết định đến sự lựa chọn kinh tế nông

nghiệp làm nghề chủ đạo của người dân hai nước trong buổi đầu của thời đại văn minh

loài người. Khí hậu nhiệt đới gió mùa thích hợp cho rất nhiều loại cây trồng khác

nhau, do đó cả hai quốc gia đều khá đa dạng về cây trồng lương thực cũng như công

nghiệp. Một mặt, nó giúp cho Việt Nam và Ấn Độ có thể tự cung tự cấp để đảm bảo

cuộc sống của người dân, mặt khác chính sự đa dạng về cây trồng này cũng khiến hai

nước đều bị thực dân nhòm ngó từ rất sớm. Chúng ta không thể phủ nhận được rằng

trong các thế kỷ XVI, XVII các nước thực dân đã bị quyến rũ bởi những nguyên liệu

dồi dào và quý hiếm từ Ấn Độ và Việt Nam. Xét về mặt văn hóa-xã hội, cả hai nước

đều có một lực lượng lao động dồi dào và có bề dày văn hóa lâu đời, đặc biệt là Ấn

Độ-một trong những quốc gia cổ đại phương Đông đạt được rất nhiều thành tựu. Ấn

Độ đã ảnh hưởng rất lớn đến các nước trong khu vực châu Á và Việt Nam cũng nằm

trong số đó mà Phật giáo là một dẫn chứng cụ thể. Như vậy, sự tương đồng giữa hai

thuộc địa này là một điều rất cần thiết để chúng ta tiến hành đối chiếu và phân tích chế

độ thuộc địa cũng như đặc điểm của chủ nghĩa thực dân Anh và Pháp thông qua những

lĩnh vực cụ thể.

2.1. Về chính trị

Sau cuộc nổi dậy của binh lính Xipay năm 1857, Nghị viện Anh bồi thường 3

triệu bảng cho mỗi thành viên của Công ti Đông Ấn Độ để giải thể. Sự kiện này đánh

dấu giai đoạn hai của quá trình cai trị, đặt thuộc địa được ví như viên ngọc gắn trên

vương miện của nữ hoàng Anh này dưới quyền cai trị trực tiếp của chính phủ. Thực

dân Pháp tại Việt Nam không có một giai đoạn cai trị gián tiếp trước đó như Anh, sau

khi nổ súng xâm lược Việt Nam năm 1858 Pháp đã vừa tiến hành công cuộc bình định,

vừa bắt đầu xây dựng xây dựng bộ máy cai trị tại những vùng chiếm được. Và những

hành động tại một trong những thuộc địa, căn cứ quan trọng này đều được sự chỉ đạo

trực tiếp từ chính phủ Pháp thông qua các nhân vật đại diện. Do đó, có thể thấy rằng cả

Ấn Độ và Việt Nam đều nằm dưới sự cai trị trực tiếp của hai đế quốc thực dân. Tuy

52

nhiên, do nhiều nguyên nhân mà trong cách xây dựng chế độ thuộc địa trên lĩnh vực

hành chính lại có nhiều điểm khác nhau.

Sự khác nhau đầu tiên đó là cơ cấu tổ chức bộ máy hành chánh của Anh ở Ấn Độ

ít rườm rà nhưng lại khôn ngoan hơn Pháp.

thay thế cho vị toàn quyền Ấn Độ cũ và trực thuộc Bộ Ấn Độ3F Tại Ấn, “Anh hoàng giao phó quyền thế cho phó vương Ấn Độ (viceroy of India) 4. Phó vương được phụ tá

bởi một hội đồng hành pháp (Executive Council) gồm 6 ủy viên lập nên một Bộ nhỏ

với một chuyên viên tài chính, một nhân viên công chính, một chuyên viên tư pháp và

những chuyên viên khác” [1, tr.38]. Trong khi đó, ngày 17-10-1887, thực dân Pháp

thành lập Liên bang Đông Dương (bao gồm Bắc Kì, Trung Kì, Nam Kì, Campuchia

sau đó thêm Lào). Đứng đầu Liên bang có Toàn quyền. Cơ quan quyền lực tối cao là

Hội đồng tối cao Đông Dương, Chủ tịch Hội đồng là Toàn quyền và các Uỷ viên là

giám đốc các công sở, các viên quan cai trị đứng đầu 5 xứ, chủ sự các Phòng Thương

mại và Canh nông…Văn phòng phủ Toàn quyền gồm rất nhiều phòng như: Chính trị,

Hành chính, Quân sự, Nhân sự và Văn thư. Ngoài ra còn có các cơ quan như: Hội

đồng Phòng thủ Đông Dương, Uỷ ban tư vấn về mỏ…

Sự khéo léo của tổ chức hành chính của Anh ở Ấn Độ thể hiện ở chỗ: Trong khi

người Pháp cố gắng sáp nhập những lãnh thổ mới thì người Anh lại xây dựng Ấn Độ

trở thành một đế quốc mà trong đó phần thuộc địa của Anh ở Ấn cũng giống như các

xứ Ấn Độ thuộc các hoàng gia Ấn (Maharajah) đều do Phó vương cai quản. Về ý

tưởng này, ngay từ năm 1689, khi Ấn Độ nằm dưới sự cai trị của công ty ở Ấn Độ thì

các giám đốc công ty ở Luân Đôn đã nêu lên nhiệm vụ của công ty:“Sự tăng thu nhập

là nội dung lo toan của chúng ta, cũng ngang như chúng ta lo toan đến sự buôn bán

của chúng ta; điều đó có nghĩa là chúng ta phải duy trì sức mạnh của mình khi hai

mươi sự cố có thể làm gián đoạn sự buôn bán của chúng ta; điều đó cũng có nghĩa là

chúng ta phải trở thành một quốc gia ở Ấn Độ; nếu không như thế thì chúng ta chỉ là

một số đông những kẻ xâm nhập, được tập hợp bởi hiến chương của đức vua Anh 4Kể từ năm 1858, Anh đã có những sự sửa đổi nhằm tái tổ chức nền hành chính Ấn Độ. Công ti Đông Ấn bị phế bỏ và quyền hành được giao phó cho một Bộ trưởng Ấn Độ thuộc nội các của Anh hoàng và chịu trách nhiệm trước Quốc hội. Vị Bộ trưởng này được phụ tá bởi một hội đồng gồm 15 hội viên được chọn theo những kinh nghiệm họ đã có về Ấn Độ. Nhưng vai trò của hội đồng này chỉ là một vai trò cố vấn về phương diện ngân sách và các dự án cải cách. Bộ trưởng Ấn Độ và hội đồng của ông điều khiển Bộ Ấn Độ (India Office) ở London.

53

quốc, chỉ có thể buôn bán ở nơi nào mà không có ai nắm quyền lực trong tay nghĩ

rằng lợi ích của họ là ngăn cản chúng ta”[dẫn theo 4, tr.165]. Thế nhưng, nếu chỉ là

một tiểu quốc thì quyền lực của Anh ở Ấn Độ có đáng là bao. Do đó, ngay từ năm

1875-1876, Hoàng tử xứ Wales, tức vua Edward VII sau này đã đến thăm Ấn Độ. Đặc

biệt, vào ngày 27-4-1876, nữ hoàng Anh Victoria được tuyên làm Nữ hoàng Ấn Độ,

với danh hiệu Victoria Regina Imperatrix, khiến cho tất cả các ông hoàng Ấn Độ trở

thành hầu thần của bà và đương nhiên các lãnh thổ của các ông hoàng Ấn Độ nhờ thế

sẽ phụ thuộc hoàng gia Anh một cách chặt chẽ hơn. Ngày “1-1-1877, một đại lễ được

cử hành tại Delhi, và danh hiệu ấy đã được thừa nhận” [1, tr.44]. Như vậy, chính phủ

Anh cho thấy rõ sự chiếm cứ Ấn Độ bởi người Anh có một tính cách đặc biệt: “Anh

hoàng thay thế các đại hoàng đế Moghul để cai trị Ấn Độ nhưng vẫn tiếp tục truyền

thống của các hoàng đế Moghul” [1, tr.43]. Điều này đã tạo nên một nút thắt giữa sự

liên hệ giữa Anh quốc và Ấn Độ, nó tạo cho người Ấn cảm giác về một sự liên tục

giữa xứ Ấn Độ trước người Anh và xứ Ấn Độ của người Anh.

Một trong những chính sách cơ bản về mặt chính trị của thực dân nói chung đó

chính là chính sách “chia để trị”. Anh và Pháp cũng sử dụng thủ đoạn này tại Ấn Độ

và Việt Nam. Trong cách tiến hành thủ đoạn này, bộ máy hành chính của Pháp thể

hiện rất rõ sự rườm rà, cồng kềnh và sử dụng một số lượng lớn sĩ quan người Pháp.

Năm 1897 toàn quyền Đông Dương là Paul Doumer trong chương trình hoạt động gửi

cho Bộ trưởng Bộ thuộc địa đã nêu rằng: “Tổ chức một chính phủ chung cho toàn

Đông Dương và tổ chức bộ máy cai trị hành chính riêng cho từng “xứ” thuộc Liên

bang” [11, tr.97]. Việt Nam được chia thành ba xứ Nam kỳ, Bắc kỳ và Trung kỳ [xem

hình 2.2] trong đó Bắc Kì, Trung Kì là hai xứ bảo hộ còn Nam Kì là đất thuộc địa hoàn

toàn của Pháp.

Tại Nam Kì, từ năm 1859 đến 1879 được cai trị bằng chế độ võ quan (thời kỳ các

đô đốc) và áp dụng chế độ cai trị bằng luật lệ quân sự. Năm 1875, Pháp xóa bỏ tên gọi

6 tỉnh Nam kỳ để chia toàn bộ vùng này thành 4 khu vực hành chính với 20 hạt trực

thuộc. Đứng đầu mỗi hạt là quan Tham biện người Pháp, còn các cấp chính quyền

dưới tỉnh thì được giữ nguyên thiết chế và vẫn nằm trong sự kiểm soát của những phần

tử cường hào cũ để tạo nên cái chiêu bài “Tôn trọng phong tục, luật lệ, tập quán của

54

người An Nam”. Đến năm 1880, Tổng thống Pháp thành lập Hội Đồng Thuộc địa Nam

Kì (gồm 16 thành viên trong đó có 4 người Việt) là cơ quan tư vấn về thuế má, thu chi,

không được đề cập đến vấn đề chính trị. Chế độ võ quan cai trị được bãi bỏ và các

chính khách dân sự (thường xuất thân trong ngành tài chính) được cử sang làm Thống

đốc Nam kỳ, giúp việc cho Thống Đốc là Hội đồng Tư vấn; Hội đồng hình sự và các

phòng ban khác. Ở cấp tỉnh, nam Kì được chia thành 20 tỉnh, đứng đầu là công sứ

người Pháp, ngoài ra còn có phó công sứ ở các tỉnh lớn, Sở Tham biện và hội đồng

hàng tỉnh. Đứng đầu thành phố có Chánh, Phó Đốc lí với Toàn Đốc lí và Hội đồng

thành phố. Thực dân Pháp vẫn giữ hệ thống chính quyền phong kiến ở dưới làng xã, có

xã trưởng, hương trưởng và Hội đồng kì hào.

Trung Kì và Bắc Kì là xứ bảo hộ. Sau khi chiếm thành Hà Nội lần thứ nhất và ký

hiệp ước 1874, Pháp đặt chức Đại biện (đặc phái viên) ở Huế để giám sát việc thi hành

Hiệp ước. Chức Đại biện này trực thuộc sự chỉ đạo của Thống đốc Nam kì và tồn tại

đến tháng 4-1883. Tháng 5-1883, Pháp lại đặt ra một chức vụ khác là Tổng ủy viên

của Cộng hòa Pháp tại Bắc kỳ do Harmand đảm nhiệm. Thực chất viên Tổng ủy viên

này là người quyết định mọi hoạt động đối ngoại của triều đình Huế. Dưới quyền Tổng

ủy viên này là hệ thống quan đầu tỉnh Bắc kì (Công sứ). Tại Huế, Pháp lập một chức

Trú sứ - thay mặt cho chính phủ bảo hộ Pháp ở Trung kì. Sau Hiệp ước Patenôtre

(1884), hệ thống chính quyền ở Bắc và Trung kì được chia thành 3 cấp: Cấp cao nhất

là Trung ương: đứng đầu là viên Tổng sứ, phụ trách chung cả Bắc kỳ và Trung kỳ

nhưng chức vụ này vào tháng 5-1889 bị bãi bỏ để tập trung quyền hành vào tay Toàn

quyền Đông Dương. Ở Trung Kì, Pháp vẫn duy trì triều đình nhà Nguyễn nhưng vua

An Nam không có thực quyền mà do Khâm sứ Trung Kì nắm quyền, ở mỗi bộ đều có

một viên chức Pháp đại diện cho Khâm sứ gọi là Hội lí. Ở cấp Kì: ở Bắc kì có Phủ

Thống sứ đứng đầu là Thống sứ người Pháp với Hội đồng Bảo hộ giúp việc. Để tách

Bắc kỳ ra khỏi sự quản lý triều đình Huế, từ năm 1886 Pháp đặt ra chức quan Kinh

lược sứ Bắc kỳ. Viên Kinh lược sứ này có quyền thay mặt triều đình Huế để giải quyết

mọi việc ở Bắc kỳ. Trong thực tế lịch sử, các viên quan đại thần giữ chức vụ này đều

là những phần tử phản động thân Pháp: Hoàng Cao Khải, Nguyễn Hữu Độ…Ở cấp

tỉnh, Trung Kì có 14 tỉnh, Bắc Kì có 26 tỉnh. Đứng đầu tỉnh là viên Công sứ người

55

Pháp, có cơ quan Tòa công sứ giúp việc. Cũng có các bộ phận khác như ở Nam Kì

nhưng ở hai nơi này vẫn tồn tại hệ thống tổ chức quan lại cũ của Nam triều, đứng đầu

tỉnh là Tổng Đốc (tỉnh lớn) hoặc Tuần phủ (tỉnh nhỏ), Án sát coi việc tư pháp, Bố

chính coi việc thuế khóa, Lãnh binh (tỉnh lớn) hoặc Đề Đốc (tỉnh nhỏ) coi việc binh.

Dưới tỉnh là phủ, huyện, châu có các Tri phủ, Tri huyện, Tri châu với một số nha thuộc

giúp việc như đề lại, lục sự, thừa phái.

Về phía Anh, những sự cải cách sau năm 1858 đưa đến cho cả ba châu quận

Bengale, Madras và Bombay những hội đồng lập pháp: vào giữa thế kỉ XIX, quyền lập

pháp ở trong tay quan toàn quyền ở Calcutta, quyết định cho tất cả Ấn Độ thuộc Anh.

“Đạo luật India Council Act năm 1861 thiết lập một hội đồng lập pháp cho xứ Bengale

gồm có 12 hội viên mà 3 phải là tư nhân (để cho phép người Ấn có mặt trong hội

đồng); đạo luật ấy cũng trả lại quyền lập pháp cho các cơ quan tổng đốc xứ Madras và

xứ Bombay. Ngoài ra, đạo luật cũng dự trù sự tổ chức những hội đồng lập pháp trong

các tỉnh khác nhau của Ấn Độ: tỉnh Tây Bắc năm 1866, tỉnh Punjab năm 1898. Nhiều

cải cách quan trọng khác được thực hiện trong tổ chức quân sự và tư pháp. Các đội

quân của Đông Ấn công ti cũ bây giờ được đặt dưới quyền của Anh hoàng nhưng từ

nay trở đi chỉ có dân bản xứ mới được làm lính trong các đội quân ấy, dưới sự chỉ huy

của các sĩ quan Anh. Hệ thống tư pháp được thống nhất: kể từ năm 1861 mỗi châu

quận có một tối cao pháp viện, có nhiệm vụ xác định luật pháp” [1, tr.38-39].

“Bên cạnh xứ Ấn Độ thuộc địa của Anh quốc vẫn còn tồn tại xứ Ấn Độ thuộc các

hoàng gia Ấn [xem hình 2.1]. Để tránh tái lập các lỗi lầm của Lord Dalhousie vài tiểu

quốc bị sáp nhập trước kia được trả lại cho các ông hoàng của chúng, như tiểu quốc

Baghat và Udaipur. Kinh nghiệm của cuộc nỗi loạn năm 1857 đã khiến chính phủ

Luân Đôn ý thức được tính cách nguy hiểm của lòng bất mãn của các ông hoàng Ấn.

Sau năm 1858, không có một lãnh thổ của một maharajah nào bị sáp nhập vào Ấn Độ

thuộc Anh. Số các tiểu quốc này vào khoảng 600, và chiếm độ chừng 1/3 diện tích của

bán đảo, với một dân số sấp sỉ khoảng 60 triệu người. Phần lớn các tiểu quốc ấy nằm

giữa bán đảo, chỉ trừ xứ Kashmir là nằm dọc theo biên giới phía Bắc. Mỗi tiểu quốc ấy

trên nguyên tắc đều độc lập: công dân của mỗi tiểu quốc phụ thuộc ông maharajah của

nó chứ không phải là công dân của Anh quốc; mỗi ông hoàng có quyền đặt ra pháp

56

luật, có quyền đúc tiền riêng, có quyền thu thuế thần dân của mình. Mỗi tiểu quốc

được ràng buộc với Anh bởi một hiệp ước riêng, mà trong đó xác định trách nhiệm của

nó đối với Anh. Trong số các tiểu quốc ấy, quan trọng nhất là:

Tiểu quốc Hyderabad: rộng nhất, với hầu hết dân chúng theo Ấn Độ giáo nhưng

được cai trị bởi một ông hoàng theo Hồi giáo, mang danh hiệu là nizam. Vị nizam này

rất giàu có, đất của ông ta rộng hơn 100.000 dặm vuông khiến ông trở thành địa chủ

lớn nhất bán đảo Ấn Độ.

Tiểu quốc Mysore: mới được thiết lập tương đối gần đây. Trong chiến tranh giữa

Anh và Pháp ở Ấn Độ, tiểu quốc này đã liên minh với Pháp, cho nên vào năm 1763

diện tích của nó đã bị Anh quốc giảm bớt đi một phần. Vào thế kỷ XIX, tiểu quốc

Mysore được coi là một trong những tiểu quốc cấp tiến nhất.

Tiểu quốc Kashmir: là tiểu quốc rộng thứ nhì, làm thành một trái độn giữa Ấn Độ

và Tây tạng. Dân chúng gồm 4/5 theo đạo Hồi và 1/5 theo Ấn Độ giáo. Tuy có một

quá khứ lâu dài nhưng nó chỉ liên quan đến lịch sử Ấn Độ thuộc Anh vào giữa thế kỷ

XIX. Xứ Kashmir đã bị sáp nhập bởi dân Sikh nhưng vào năm 1846, quân Anh thắng

quân Sikh và chiếm lấy Kashmir. Sau đó chính phủ Anh bán tiểu quốc này cho một

ông hoàng Ấn Độ là Gulâb Singh và mỗi năm Kashmir phải cống hiến cho chính phủ

Anh một số quân và vài sản phẩm địa phương. Đây là một tiểu quốc rất kém phát triển

nhưng nó có vị trí quan trọng để kiểm soát phía nam của dãy Himalaya.

Tiểu quốc Baroda: nằm ở phía bắc Bombay, là một trong những tiểu quốc phát

triển nhất. Ông hoàng của tiểu quốc này đã mở rộng và cưỡng bách giáo dục tiểu học

từ năm 1983 và chế định các cuộc hôn nhân của những người quá trẻ.

Tiểu quốc Travancore: ở phía nam miền Dekkan. Tiểu quốc này đã bắt đầu tổ

chức giáo dục ngay từ năm 1801” [1, 41-42].

Các tiểu quốc này phần lớn có diện tích rất nhỏ, nhiều khi chỉ là một thành phố

với ngoại ô của nó, thậm chí rộng vài mẫu. sự cai trị các tiểu quốc này cũng không tốt

đẹp vì các ông hoàng nghĩ đến của cải nhiều hơn là dân chúng. Tuy nhiên, Anh vẫn để

các tiểu quốc này tiếp tục tồn tại vì mối bất đồng giữa họ rất lớn, khó dẫn đến một sự

thống nhất để đe dọa cho bộ máy cai trị của Anh ở Ấn Độ.

57

Như vậy, Anh và Pháp đã lợi dụng những điểm yếu của Việt Nam và Ấn Độ để

thực hiện chính sách “chia để trị”. Ở Việt Nam, do trước đó đã có sự chia cắt đất nước

ra Đàng Trong-Đàng Ngoài nên Pháp tiến hành chia Việt Nam ra thành các xứ với bộ

máy cai trị phù hợp với đặc điểm của từng khu vực. Ở Ấn Độ, ngoài xứ thuộc địa của

mình, Anh tiếp tục duy trì sự tồn tại của nhiều tiểu quốc khác nhau, nhiều nền văn hóa

khác nhau để cai trị có hiệu quả và ngăn ngừa sự thống nhất dân tộc Ấn. Chính sách là

giống nhau nhưng rõ ràng cách cai trị thuộc địa của thực dân Pháp mang tính trực tiếp,

cứng nhắc hơn so với thực dân Anh. Điều này có thể chứng minh bằng thực tế là thuộc

địa của Pháp luôn có một hệ thống nhân viên chỉ huy người Pháp đông đảo, tạo thành

một mạng lưới rộng khắp cả nước. “Vào những năm đầu thế kỷ XX, dân số của Ấn Độ

là 325 triệu người, còn của Đông Dương là 15 triệu người, điều đó có nghĩa là dân số

Ấn Độ gấp hơn 21 lần dân số Đông Dương. Thế nhưng thật đáng kinh ngạc, số viên

chức người Âu phục vụ trong bộ máy thực dân ở Đông Dương lại gần bằng ở Ấn Độ:

4.300 so với 4.898. Người ta đã tính rằng ở Ấn Độ thuộc Anh, cứ 66.150 người dân thì

có một viên chức người Âu còn ở Đông Dương thuộc Pháp thì chỉ cần 3.490 người dân

đã có một viên chức người Âu rồi” [dẫn theo 3, tr.311]. Phản bác lại điều này là lập

luận cho rằng càng nhiều người Tây bao nhiêu thì công cuộc “khai hóa” càng được

đẩy mạnh, tiến hành quy củ và đạt hiệu quả bấy nhiêu. Thế nhưng trên thực tế, bằng

“một phép so sánh giữa ngành Bưu chính của Ấn Độ và Đông Dương cho thấy, ở Ấn

Độ có 26.000 “nhà dây thép” với 268 viên chức người Âu còn Đông Dương chỉ có 330

“nhà dây thép” nhưng lại có những 340 viên chức người Âu hoạt động” [dẫn theo 3,

tr.312]. Như vậy, người Pháp có mặt đông hơn ở Đông Dương không mang lại hiệu

quả so với người Anh ở Ấn Độ mà nó chỉ thể hiện sự cồng kềnh của bộ máy thuộc địa.

Phần lớn ngân sách thuộc địa được chi ra hàng năm chẳng ngoài mục đích gì khác là

để trả lương cho đội ngũ viên chức người Âu đông đảo ấy. Ngoài ra cũng vì thế các

hoạt động sản xuất dịch vụ phục vụ đời sống thực dân và viên chức phương Tây được

phát triển hơn nhiều so với các hoạt động phục vụ phát triển kinh tế. Lập luận khác

cũng có thể cho rằng, với số lượng viên chức đông đảo như vậy thể hiện sự chặt chẽ

trong bộ máy cai trị nhưng nếu như xem xét kỹ có thể nhận thấy rằng: Bộ máy cai trị

của Anh tuy ít viên chức nhưng họ lại nắm tất cả những chức vụ cao nhất tại thuộc địa

58

Ấn và rất ít người bản xứ có mặt trong các bộ phận quan trọng, người bản xứ chỉ được

sử dụng nhiều vào các chức vụ từ cấp tỉnh trở xuống mà thôi. Thậm chí sự tham gia

của dân Ấn trong các hội đồng là kém cỏi : phải đợi đến năm 1872 họ mới được nhận

vào các hội đồng thành phố, và phải đợi đạo luật India Act năm 1892 họ mới có chân

trong các hội đồng châu huyện và tỉnh. Mặc dù đạo luật năm 1858 có nói rõ là “nếu có

thể, các công dân của Anh-hoàng, mặc cho thuộc một chủng tộc hay một tôn giáo nào

cũng vậy, sẽ được chấp nhận một tư cách tự do và công bằng trong những chức vụ mà

kiến thức, khả năng và công tâm của họ cho phép họ giữ” [1, tr.39]. Nhưng sự thật thì

chính quyền Anh ngần ngại giao phó các chức vụ hành chánh cho người Ấn, những

người được giao công việc phải là những người thật sự giỏi. “Muốn tham dự các chức

vụ hành chánh cao cấp của Ấn-độ (Indian Civil Service), phải qua một kì thi tuyển ở

Luân Đôn, rất khó đối với người Ấn” [1, tr.39]. Điều này khác với ở Việt Nam, trong

các hội đồng như: Hội đồng Thuộc địa, Hội đồng Tư vấn đều có người Việt tham gia

nhưng đa số họ đều là những thành phần bị Pháp mua chuộc, làm tay sai, thân Pháp vì

quyền lợi cá nhân chứ không có thực tài và quyền hành. Mặt khác, tại các thuộc địa

Anh thì người Âu chỉ chiếm hầu hết các chức vụ trong ngạch viên chức cao cấp nhất ở

trung ương, còn đại đa số các chức vụ hành chính cấp tỉnh thì nằm ngoài ngạch này và

do người bản xứ đảm nhiệm. Năm 1923, người Miến Điện và người Ấn Độ được tuyển

dụng nhiều hơn vào các vị trí cao nhất trong các ngành hành chính và cảnh sát. Trong

khi đó ở Đông Dương thuộc Pháp, đầu thế kỷ XX, ở cấp tỉnh luôn có một viên công sứ

Pháp đứng đầu cai trị, những tỉnh lớn còn thêm phó công sứ, người giúp việc cho công

sứ và hàng loạt các công sở khác của người Pháp. Các trung tâm hành chính của tỉnh

và một số các địa phương, khu vực có tầm quan trọng đặc biệt về chính trị, quân sự

cũng đều có đại diện trực tiếp của công sứ cai trị. Bên cạnh tổ chức chính quyền, ở

mỗi xứ đều có các Nha, là chi nhánh của các công sở trung ương có nhân viên hoạt

động tới tỉnh, huyện, xã… Sau chiến tranh thế giới thứ nhất, toàn quyền Đông Dương

đã ban hành các sắc lệnh, nghị định nhằm tăng cường và giải quyết các vấn đề viên

chức người Việt trong bộ máy hành chính. Song những sắc lệnh, nghị định đó cũng chỉ

tồn tại trên giấy tờ, còn trên thực tế vẫn có rất ít viên chức người Việt có mặt trong bộ

máy nhà nước và thuộc địa và hầu như chỉ giữ các chức vụ nhỏ bé. Sự cai trị trực tiếp

59

của thực dân với đặc trưng là con số người Âu là viên chức khổng lồ đã khiến cho

thuộc địa Pháp bị khai thác, bóc lột hết sức nặng nề để đáp ứng nhu cầu của chính

quốc.

“Có thể nói, mô hình thuộc địa Pháp là rất đặc trưng cho chủ nghĩa thực dân kiểu

cũ” [3, tr.313], Anh cũng có cách thức cai trị tương tự như vậy, tuy nhiên có giảm hơn

về tính chất cai trị trực tiếp hơn Pháp. Bằng kinh nghiệm và lợi thế về kinh tế cho phép

của mình, đế quốc Anh đã rất linh hoạt trong việc thay đổi hình thức cai trị trước nguy

cơ chống đối của nhân dân thuộc địa Ấn hoặc sự bùng nổ mạnh mẽ của phong trào giải

phóng dân tộc ở các thuộc địa sau chiến tranh thế giới thứ nhất. Ví dụ như thực dân

Anh đã tìm ra cách ràng buộc khéo léo các lãnh thổ của các ông hoàng Ấn mà không

làm mất đi quyền lợi cho chính quốc. Họ có toàn quyền về nội trị, được quyền tham

gia hoặc không tham gia các hiệp định ký kết giữa đế quốc với các quốc gia

khác…Tuy nhiên, tất cả các lãnh thổ tự trị đều phải thừa nhận sự đứng đầu về mặt

“tinh thần” của Nữ hoàng Anh và không được quyền quyết định về ngoại thương và

ngoại giao. Đây thực chất là sự thành lập một thứ quyền lực tự trị có kiểm soát được

đảm bảo bằng quyền tối cao của thực dân Anh. Do đó sau này người Anh ở chính quốc

đã đi tiên phong trong thực hiện kiểu đối phó “rút ra để ở lại” với phong trào giải

phóng thuộc địa. Và nhờ đó“ thực dân Anh né tránh được phong trào đấu tranh ở thuộc

địa, đồng thời tạo cho mình những đồng minh trung thành tuyệt đối mà sau này sẽ

cùng Anh lập nên một Khối liên hiệp Anh rất chắc chắn. Về điểm này, đế quốc Pháp

hoàn toàn thua kém Anh. Trong quá trình cai trị thuộc địa, thực dân Pháp luôn kiểm

soát chặt chẽ và đặt những cơ cấu xã hội cũ ở Việt Nam dưới quyền cai trị của mình,

đồng thời tìm mọi cách cắt xén quyền hành và hạ thấp bớt vai trò của triều đình Huế.

Việc làm của thực dân Pháp đã làm cho nhân dân Việt Nam cảm thấy xứ sở của mình

bị áp bức, bóc lột nhiều hơn các thuộc địa khác do đó họ đứng lên đấu tranh. Và thế là

chẳng những Pháp không né tránh được các phong trào đấu tranh ở thuộc địa mà bản

thân Liên Hiệp Pháp, tuy đã thành lập, song cũng không tồn tại trên thực tế. Ngay cả

chính sách “rút ra để ở lại” mà thực dân Pháp thực hiện sau này nhằm cứu vãn hệ

thống thuộc địa cũng không thể thành công. Nguyên nhân cơ bản là vì bản chất cai trị

quá bảo thủ của thực dân Pháp. Cho đến năm 1944, trong diễn văn của tướng Đờgôn

60

đọc tại hội nghị Bradavin về vấn đề thuộc địa còn khẳng định: “Mục đích của công

trình khai hóa do nước Pháp thực hiện ở thuộc địa gạt bỏ mọi ý định tự trị, mọi khả

năng phát triển ngoài đế quốc Pháp; việc thiết lập trong tương lai, dù xa xôi đi nữa,

một chế độ tự trị trong các thuộc địa, cũng bị gạt bỏ” [dẫn theo 3, tr.314-315].

Sự khác nhau về chính trị đã cho thấy tính linh hoạt hơn của thực dân Anh trong

cách ứng xử với thuộc địa. Điều đó xem ra rất phù hợp với đặc điểm nhạy bén và thói

quen tính toán thành thục của quốc gia thương mại này. Việc để tồn tại nhiều mô hình

thuộc địa là cách để người Anh chia cắt có hiệu quả sự đoàn kết đấu tranh giữa các

thuộc địa. Có thể coi đây là sự lý giải vì sao trên thực tế không tồn tại được một Hội

liên hiệp các dân tộc thuộc địa Anh chống lại nước Anh mà lại xuất hiện một hội nghị

đế quốc Anh hoạt động tương đối hiệu quả.

2.2. Về kinh tế

Trước khi người Pháp và Anh xâm chiếm Ấn Độ và Việt Nam thì đây đều là

những nền kinh tế với nông nghiệp đóng vai trò chủ đạo, cơ sở hạ tầng khá lạc hậu và

chậm cải tiến, mới chỉ bắt đầu có những yếu tố của tư bản chủ nghĩa trong khu vực

kinh tế nhưng đang bị bóp nghẹt bởi triều đình phong kiến. Do vậy, ở một khía cạnh

nào đó thì sự xuất hiện của Anh và Pháp đã tạo điều kiện cho những mầm mống tư bản

chủ nghĩa của thuộc địa phát triển nhưng sự phát triển ấy lại không nhằm mục đích

làm giàu cho thuộc địa mà lại cho chính quốc. Thuộc địa cung cấp từ nguyên liệu,

nhân công, thị trường tiêu thụ và lợi nhuận thuộc về chính quốc. Kết quả là bản chất

của nền kinh tế ở thuộc địa Anh hay ở thuộc địa Pháp thì cũng đều què quặt, lệ thuộc,

được ví như “cái đuôi” của nền kinh tế chính quốc.

Trước khi người Anh đặt chân lên vùng đất Ấn, nền kinh tế Ấn Độ là một nền

kinh tế nông thôn. “Sinh hoạt kinh tế ở Ấn Độ căn cứ trên một thế quân bình giữa

nông nghiệp và sản xuất thủ công dưới ba khu vực: Ở tỉnh, có những nghề tiểu công

sản xuất những mặt hàng xa xỉ để cung cấp cho triều đình của các ông hoàng địa

phương. Ở thôn quê, có những nghề cần thiết cho sinh hoạt và sản xuất như: chế tạo và

sửa chữa các nông cụ. Trong gia đình, có những hoạt động thủ công mà chủ yếu là dệt

vải cho nhu cầu của gia đình” [1, tr.56]. Ấn Độ đã sản xuất được hàng hóa với số

lượng lớn để đáp ứng nhu cầu của thị trường châu Á và châu Âu, đặc biệt là về lụa,

61

vải, len. Một số nơi đã phát triển thành trung tâm buôn bán. Các thương gia người Anh

đã mua các sản phẩm Ấn Độ với số lượng lớn. Nhưng khi người Anh vào Ấn Độ họ đã

thông qua luật cấm nhập cảnh bông và lụa dệt may từ Ấn Độ mặc dù họ có nhu cầu.

Thay vào đó, Ấn Độ buộc phải sản xuất bông, chàm và các nguyên liệu thô khác mà

Anh yêu cầu. Thị trường Ấn Độ tràn ngập với hàng dệt may với giá rất rẻ làm bằng

máy sản xuất tại Anh. Dệt may làm bằng tay của Ấn Độ trong gia đình và nơi sản xuất

không thể cạnh tranh được và chỉ vài năm sau đó, từ một nước xuất khẩu các sản phẩm

dệt may, Ấn Độ đã trở thành một nhà cung cấp nguyên liệu và thị trường cho hàng hóa

sản xuất của Anh. Hàng xa xỉ cũng không phát triển được vì tầng lớp này ưa chuộng

hàng Tây. Mặt khác, trong khi hàng hóa của Anh được miễn thuế khi vào thị trường

Ấn Độ, hàng hóa Ấn Độ, chủ yếu là hàng thủ công mỹ nghệ, khi vào nước Anh phải

chịu thuế hải quan rất nặng. Điều này đã dẫn đến một số tác động tiêu cực đến tình

hình kinh tế, xã hội của Ấn Độ: Sự sụp đổ của các ngành dệt may, sản phẩm kim loại,

thủy tinh và giấy. Tình trạng thất nghiệp ngày càng tăng của thợ dệt buộc họ phải

chuyển sang canh tác nông nghiệp. Năm 1813, thủ công mỹ nghệ của Ấn Độ bị mất cả

hai thị trường trong và ngoài nước. Từ một nước xuất khẩu Ấn Độ đã trở thành một

nước nhập khẩu các mặt hàng may mặc. Như vậy, rõ ràng là các chính sách kinh tế của

Anh là để phục vụ lợi ích của Công ty Đông và sau đó là Đế chế Anh và “sự xâm nhập

của người Anh đã bẻ gãy cái khung cửi dệt tay và phá hủy cái guồng quay sợi Ấn Độ”

[dẫn theo 3, tr.115].

Tại Việt Nam, trong công cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất (1897-1914), tư

bản Pháp chủ yếu tập trung vào khai mỏ và xây dựng giao thông vận tải nhằm phục vụ

cho công cuộc khai thác. Pháp cũng chiếm hàng loạt ruộng đất của người nông dân để

biến chúng thành những đồn điền cao su và hồ tiêu, giữ độc quyền buôn bán và đánh

thuế cao vào những hàng hóa chủ lực của Việt Nam như: gạo, rượu… Bên cạnh đó,

Pháp còn thi hành chính sách cho vay nặng lãi đối với nông dân Việt Nam thông qua

“Hội nông tín hỗ trợ bản xứ”. “Tính đến ngày 1-1-1914, bình quân mỗi người dân

Đông Dương không phân biệt già, trẻ, gái, trai nợ cả vốn lẫn lãi là 25,30 đồng Đông

Dương (tức 53,43 phơrăng)” [dẫn theo 11, tr.114]. Pháp giữ nguyên những loại thuế

phong kiến cũ và thêm vào đó nhiều thuế mới một cách rất tùy tiện như thuế muối,

62

thuế rượu và thuế thuốc phiện. Đến công cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai, tư bản

Pháp đổ xô vào kinh doanh nông nghiệp song song với việc tiếp tục đẩy mạnh các hoạt

động khai thác khoáng sản. Với tốc độ đầu tư nhanh hơn và quy mô rộng lớn hơn của

tư bản Pháp đã làm kinh tế Việt Nam có nhiều bước tiến song nhìn chung nó chỉ là sự

biến đổi về lượng nhiều hơn về chất, ngoài ra còn tồn tại tình trạng mất cân đối trong

một ngành kinh tế và trong các khu vực khác nhau.

Như vậy, đối với hai thuộc địa có nền kinh tế lạc hậu này, Anh và Pháp đã tiến

hành những chính sách cai trị khá tương đồng với nhau, họ đều khai thác thế mạnh của

thuộc địa để triển khai kế hoạch bóc lột về kinh tế nhưng vẫn có những điểm khác

nhau. Khác nhau lớn nhất đó là phương thức khai thác bóc lột kinh tế mà Pháp áp dụng

ở Việt Nam vẫn mang tính chất rất cổ sơ, lạc hậu, chủ yếu dựa trên sự thu lượm những

sản phẩm sẵn và rất ít có sự đầu tư kỹ thuật. Còn Anh luôn luôn nghĩ đến sự tồn tại lâu

dài để khai thác Ấn Độ, do đó song song với quá trình khai thác là sự đầu tư về cơ sở

hạ tầng. Bộ trưởng bộ thuộc địa Anh Chamberlain (1836-1914) đã từng tuyên bố: “Tôi

thấy nhiều thuộc địa của chúng ta là những bất động sản đang trong tình trạng không

sinh lợi và chúng sẽ không bao giờ phát triển nếu không có sự giúp đỡ của chính quốc.

Tôi dự định sẽ xem xét kỹ lưỡng tất cả mọi trường hợp để có thể đầu tư tiền bạc của

nước Anh một cách sáng suốt nhất, để những bất động sản thuộc về Vương triều Anh

phát triển và sinh lợi cho dân tộc ta cũng như cho đế quốc” [dẫn theo 3, tr.315-316].

Để thuộc địa sinh lợi nhất, đó là mục tiêu mà thực dân Anh theo đuổi trong xây dựng

kinh tế thuộc địa. Bề dày kinh nghiệm cai trị thuộc địa đã giúp cho thực dân Anh nhận

thấy rằng, nếu chỉ đơn thuần khai thác thuộc địa mà không có sự đầu tư thì chẳng

những kinh tế thuộc địa ngày càng kiệt quệ, chính quốc không thu được nhiều lợi

nhuận nữa, mà bản thân thực dân sẽ phải hứng chịu mũi nhọn của phong trào giải

phóng dân tộc. Mặc dù ngay từ năm 1897, trong dự án chương trình hoạt động tại

Đông Dương, toàn quyền Paul Doumer nêu rằng: “Chú ý xây dựng thiết bị lớn cho

Đông Dương, như xây dựng hệ thống đường sắt, đường bộ, sông đào, bến cảng…rất

cần thiết cho công cuộc khai thác” [dẫn theo 11, tr.98] nhưng việc xây dựng cơ sở hạ

tầng của Pháp ở Đông Dương và Việt Nam chủ yếu là trong đợi khai thác thuộc địa lần

63

thứ nhất. Có thể đưa ra một vài nội dung và dẫn chứng để làm sáng tỏ nhận định trên

như sau:

Trước hết, sự đầu tư cho các thuộc địa của Anh và Pháp được thể hiện qua số vốn

dùng cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng cũng như sản xuất tại Ấn Độ và Việt Nam. “Từ

1888 đến 1918 Pháp đã đầu tư vào Đông Dương (chủ yếu là Việt Nam) khoảng 1 tỉ

franc thì tính riêng trong 6 năm từ 1924 đến 1929 khối lượng đó đã lên tới 4.000 triệu

franc, trong đó đầu tư cho thương mại, vận tải chỉ chiếm có 14,8%” [dẫn theo 11,

tr.212]. “Thông qua số vốn và tài sản phân bố ở nước ngoài của Anh và Pháp, người ta

đã tính được rằng, đầu tư cho thuộc địa của Anh năm 1870 chiếm 1/3 tổng số đầu tư ra

bên ngoài và tiếp tục tăng vào những năm 30 của thế kỷ XIX, trong đó 1913, đầu tư

cho thuộc địa của Pháp mới chiếm 1/10 số vốn đầu tư ra bên ngoài và hầu như không

tăng giữa hai cuộc đại chiến thế giới. Trước chiến tranh thế giới lần thứ nhất, mối quan

tâm lớn nhất của Pháp chủ yếu là châu Âu (năm 1914, tài sản của Pháp ở các nước

châu Âu chiếm 3/5 tổng số tài sản ở nước ngoài của Pháp), trong đó quan trọng hơn cả

là Nga và Đông Âu. Chỉ sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất, với việc mất một nguồn

vốn và thị trường lớn ở Nga do cuộc Cách mạng tháng Mười thành công, thực dân

Pháp mới bắt đầu chuyển mối quan tâm sang các thuộc địa, biểu hiện ở những công

trình khai thác quy mô và sâu sắc hơn” [3, tr.316-317].

Sự khác nhau đó còn được thể hiện trong việc đầu tư và khai thác các ngành kinh

tế ở Ấn Độ và Việt Nam của Anh và Pháp. Trong nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, hai

đế quốc này có những chính sách khá giống nhau về cách thức đầu tư cũng như khai

thác. Anh và Pháp đều có những chính sách phát triển các loại canh tác đầu cơ, cụ thể

ở Ấn Độ là trà, đay, bông vải và lúa, cao su ở Việt Nam. “Cây bông vải đã được trồng

lâu ở Ấn Độ, Trước khi người Anh đến Ấn Độ, các loại sợi sản xuất không được tốt

lắm nhưng nó lại cung cấp nguyên liệu cho ngành thủ công nghiệp dệt vải bản xứ hoạt

động. Khi chiến tranh Nam Bắc (1861-1865) xảy ra ở Hoa Kỳ, bông vải Hoa Kỳ

không được xuất sang châu Âu nữa, làm cho ngành công nghiệp ở Lancashire thiếu

nguyên liệu và buộc Anh phải tới Ấn Độ để mua bông vải. Do đó mà việc canh tác

bông đã tăng gấp đôi giữa 1861 và 1869” [1, tr.68-69]. Ấn Độ trở thành quốc gia sản

xuất bông vải thứ nhì trên thế giới. Sợi đay cũng được trồng nhiều ở miền đông xứ

64

Bengal do chiến tranh trong miền Crimée đã ngăn không cho nước Nga xuất cảng sợi

đay và sợi lanh sang Anh. Tại Đông Dương, ngay sau khi chiếm được Sài Gòn, một

trong những biện pháp đầu tiên người Pháp thi hành là bỏ lệ cấm xuất cảng gạo ở Nam

Kỳ mà trước đây triều đình phong kiến Việt Nam đã ban hành, gắn thị trường của mặt

hàng quan trọng nhất này cùng với toàn bộ thị trường Nam Kỳ với thị trường thế giới.

Trong đợt khai thác lần thứ nhất, về nông nghiệp số vốn của tư bản Pháp đã chiếm gần

như tuyệt đại bộ phận trong các đồn điền cao su và hồ tiêu. Đến năm 1907, chúng lập

được 244 đồn điền, phần lớn trồng lúa. “Diện tích cao su từ năm 1897 đến 1920 là

7201 hecta. Chè năm 1900 đã xuất khẩu được 180 tấn. Theo Pierre Gourou năm 1870

ở Nam Kỳ diện tích canh tác là 522000 hecta, sản lượng gạo xuất khẩu 229000 tấn,

đến năm 1910 diện tích canh tác đã tăng lên 1528000 hecta, sản lượng gạo xuất khẩu

1109000 tấn” [11. tr.121-122].

Việc canh tác các đồn điền này đã dẫn đến sự ra đời của các xí nghiệp sản xuất

bông sợi, đay, xay xát lúa, nấu rượu…tại Ấn Độ và Việt Nam. Hai loại cây là bông vải

và đay đã tạo ra một nguồn nguyên liệu dồi dào cho hai kỹ nghệ dệt sợi quan trọng

nhất ở Ấn Độ vào hậu bán thế kỷ XIX nhưng trong việc sản xuất chúng lại có sự khác

nhau. Đầu tiên là kỹ nghệ dệt sợi bông tái xuất hiện kể từ năm 1850 trở đi và trung tâm

của nó nằm ở vùng Bombay và Ahmedâbâd. Tới năm 1875, kỹ nghệ dệt bông không

phát triển mạnh lắm. “Công ty dệt vải tân thời hoạt động vào năm 1851 với tên gọi

Bombay Spinning and Weaving Company” [1, tr.77]. Phải từ năm 1875 ngành công

nghiệp dệt vải mới phát triển mạnh hơn nhờ nguồn vốn lớn từ dân Parsi và họ dần dần

làm chủ kỹ nghệ này, họ chính là những người chấp nhận các quan niệm và lối sống

phương Tây và hiểu được lợi nhuận to lớn mà nền kinh tế tư bản mang lại. Trong các

xưởng máy này, người Parsi thường bỏ vốn nhưng lại giao cho người Âu điều khiển,

với những kỹ thuật tân tiến ngành công nghiệp dệt vải của Ấn Độ có thế cạnh tranh với

vùng Lancashire của Anh. Sự cạnh tranh đó đã dẫn đến thỏa ước thương mại (Trade

agreement) vào năm 1935, theo thỏa ước này Ấn Độ sẽ cung cấp cho Anh những hàng

hóa với giá cả đặc biệt, ngược lại sự buôn bán bông vải của Ấn Độ ở Anh phải nhận

được những điều kiện dễ dãi hơn. Một vài số liệu thống kê về sự phát triển của kỹ

nghệ dệt vải như sau:

65

Bảng 2.1. Số liệu về tình hình sản xuất dệt vải tại Ấn Độ

Năm 1880 1890 1900 1914 1933

58 114 194 264 331 Số xưởng máy kéo sợi

40.000 60.000 156.000 260.000 450.000 Số thợ dệt

13.000 16.000 40.000 96.000 180.000 Số máy dệt

1.400.000 2.000.000 4.900.000 6.600.000 9.200.000 Số kim luồn ống chỉ

Nguồn: Nguyễn Thế Anh (1968), Bán đảo Ấn Độ từ 1857 đến 1947, Quán sách

số 34, 117 Lê Lợi, Sài Gòn, Tr 78.

Về cây đay (jute), cũng đã được trồng nhiều trong miền Bengale dưới thời Đông

Ấn công ti; dân Bengali dùng sợi này để làm dây thừng, dây chão, dệt bao tải và những

loại vải thô. Nhưng kể từ năm 1860, xuất hiện một kỹ nghệ sợi đay địa phương ở

Calcutta và kỹ nghệ này bành trướng rất mau, chúng ta có thể thấy rõ điều này khi

quan sát bảng thống kê sau:

Bảng 2.2. Số liệu về tình hình kỹ nghệ dệt đay tại Ấn Độ

Số thợ dùng trong Số xưởng máy Năm kỹ nghệ sợi đay kỹ nghệ sợi đay

1882 20.000 20

1890 62.000 27

1900 114.000 36

1914 216.000 64

1930 307.000 103

1933 276.000 99

Nguồn: Nguyễn Thế Anh (1968), Bán đảo Ấn Độ từ 1857 đến 1947, Quán sách

số 34, 117 Lê Lợi, Sài Gòn, Tr 79-80.

Khác với kỹ nghệ bông vải ở Ấn Độ cũng như việc sản xuất rượu, xay xát lúa và

hàng tiêu dùng ở Việt Nam, kỹ nghệ sợi đay rất tập trung về mặt kỹ thuật: các xưởng

máy không đông lắm nhưng dùng rất nhiều thợ. Tất cả các xưởng này đều vừa kéo sợi

vừa dệt và đều có những máy móc tối tân do vào cuối thế kỷ XIX, việc sản xuất công

nghiệp trong nước Anh dường như đã bão hòa và vì thế, cùng với việc tăng cường xuất

66

khẩu hàng hóa sang thuộc địa, tư bản tài chính Anh cũng bắt đầu di chuyển vốn, kỹ

thuật sang thuộc địa giàu có nguyên liệu và nhân công rẻ để tiến hành sản xuất. Dần

dần, việc sản xuất ở thuộc địa đã mở cho tư bản Anh một hướng thu lợi nhuận lớn do

giảm được chi phí vận chuyển và tiếp cận trực tiếp với thị trường nguyên liệu, nhân

công và tiêu thụ. Bằng cách này, tư bản Anh đã chuyển giao sang thuộc địa những

công nghệ cũ và những ngành sản xuất không còn hiệu quả thu lợi nhuận cao ở chính

quốc, từ đó sản xuất ra những hàng hóa đặc biệt là hàng tiêu dùng để cung cấp lại cho

chính quốc vừa đảm bảo nhu cầu tiêu dùng trong nước vừa thu được lợi nhuận cao.

Điều này cũng dẫn đến một đặc điểm khác trong ngành dệt sợi đay là người Âu, nhất

là người Scotland giữ một vai trò cốt yếu trong kỹ nghệ này, tuy dân Ấn có hùn những

nguồn vốn lớn nhưng không khi nào điều khiển các xưởng chế tạo.

Tuy nhiên không phải nông nghiệp hay công nghiệp nhẹ mà công nghiệp nặng lại

chính là lĩnh vực thể hiện rất rõ về sự khác nhau trong cách đầu tư khai thác kinh tế

thuộc địa của Anh và Pháp. Nếu như tại Việt Nam “công nghiệp luyện kim, cơ khí với

đầy đủ tính chất của nó thật sự chưa ra đời” [11, tr.215]. Công nghiệp Việt Nam đến

những năm 30 của thế kỷ XX vẫn là một nền công nghiệp dịch vụ và phục vụ nên chịu

sự lệ thuộc nặng nề vào thực dân Pháp và thị trường nước ngoài. Sản xuất công nghiệp

ở Việt Nam chỉ được giới hạn trong việc cung cấp cho chính quốc nguyên liệu hay

những vật phẩm mà nước Pháp không có và nhất định không được ảnh hưởng đến sự

phát triển của công nghiệp chính quốc. Chính vì lối khai thác thiếu sự đầu tư đó mà

ngành công nghiệp nặng của Việt Nam chủ yếu chỉ phát triển khai mỏ do nhanh chóng

thu được nhiều lợi nhuận. Số giấy phép thăm dò toàn Đông Dương tăng theo từng

năm: “1907 có 469 giấy phép, 1908 có 664, 1909 có 859, 1910 có 125, 1911 có 2370,

1912 có 3070. Tổng sản lượng khai thác cũng tăng lên theo từng năm: 1903 đạt

285915 tấn, 1912 đạt 415000 tấn, 1913 đạt 500000 tấn” [11, tr.118]. “Năm 1913,

người Pháp đào 501.000 tấn than; con số này tăng gấp bốn lần tới 2.308.000 tấn trong

năm 1937” [34, tr.78]. Phần lớn số quặng này đem bán sang một số nước như Nhật

Bản, Trung Quốc..; một phần đưa sang Pháp; phần còn lại dùng cho công nghiệp Pháp

ở Việt Nam. Trong khi đó, Ấn Độ có một ngành kỹ nghệ luyện kim phát triển với đệ

nhất thế chiến và đây cũng là thuộc địa độc nhất của Anh đạt được trình độ này. Ấn

67

Độ lại là một vùng có rất nhiều mỏ than đá và quặng sắt do đó mà tư bản Anh rất

nhanh chóng nhận ra làm cách nào để tạo ra lợi nhuận lớn nhất. “Ấn Độ là thuộc địa

độc nhất của Anh quốc có một ngành kỹ nghệ luyện kim, phát triển với đệ nhất thế

chiến” [1, tr.81]. “Vào cuối thế kỷ XIX, đã có những cố gắng tạo lập kỹ nghệ nặng của

người Ấn trong miền Bengal: năm 1875, Bengal Iron and Steel Company Ltd được

thiết lập gần tỉnh Raniganj để chế tạo gang và thép. Hãng này đã thành công về mặt kỹ

thuật nhưng lại bị thất bại về mặt hành chánh; vào năm 1907, số gang sản xuất chỉ

được 50.000 tấn. Công ty này sau đó đã được tổ chức lại vào năm 1919 với những nhà

tư bản mới. Vào năm 1912, đã hình thành trên đất Ấn công ty luyện kim lớn nhất

mang tên Tata Iron and Steel Company Ltd. Người có ý định sáng lập công ty này là

người dân Parsi, Jamshed Tata, đã muốn tạo nên một kỹ nghệ theo kiểu Tây phương

với những chuyên viên người Âu và Hoa Kỳ. Nhưng Tata chết vào năm 1903 và kế

hoạch của ông được thực hiện bới các con: công ty được thiết lập vào 1907 với một số

vốn là 2 300 000 rupes, hoàn toàn hùn bởi người Âu. Các xưởng máy được dựng lên ở

làng Sakchi trong miền rừng cách Calcutta 250 cây số về phía tây; nơi này trở thành

tỉnh Jamshedpur. Lúc đầu công ty gặp nhiều khó khăn nhưng thế chiến thứ nhất xảy ra

đã khuyến khích nhu cầu về gang và thép, kỹ nghệ mới chớm nở đó lại không gặp phải

một sự cạnh tranh nào từ nước ngoài tới do đó mà nó có điều kiện phát triển. Năm

1919, số gang sản xuất hàng ngày là 350 tấn; mỗi tháng, số thép sản xuất lên tới

17.000 tấn. Công ti Tata có những hình thức sản xuất của một tổ hợp trust vì đã kiểm

tra những mỏ than và mỏ quặng sắt riêng. Trong các năm giữa hai thế chiến, công ti

Tata lại bị đặt vào tình trạng khó khăn vì giá cả sụt và vì các sự cạnh tranh của ngoại

quốc. Công ti đã vượt qua các trở ngại đó bằng hai cách: Thứ nhất là tìm được độc

quyền cung cấp cho vài khu vực kinh tế của Ấn Độ như cung cấp đường rày cho hỏa

xa Ấn Độ; thứ hai là đòi hỏi chính phủ thiết lập một chế độ bảo vệ quan thuế thuận

tiện cho sự sản xuất của công ti. Tuy nhiên, công ti vẫn bị khủng hoảng: từ năm 1921

tới năm 1936, các phần lời của các các cổ phần đã không được trả. Nhưng cùng một

lúc, công ti Tata đã mở rộng thêm lĩnh vực của nó trong thị trường quốc nội: phần sản

xuất thép của công ti đã từ 30% trong năm 1927 – 1928 lên tới 72% trong năm 1932 –

1933. Năm 1939, kỹ nghệ luyện kim Ấn Độ không những đã lấy lại địa vị của nó mà

68

còn củng cố thêm địa vị ấy nữa. Các sản phẩm được tiếp tục xuất cảng ra ngoại quốc:

218.000 tấn năm 1932 – 1933; 417.000 tấn năm 1934 – 1935. Anh quốc là một quốc

gia mua những sản phẩm này nhiều nhất, vì chính phủ Anh đã chấp thuận, kể từ năm

1932, mỗi năm mua một số sản phẩm kỹ nghệ luyện kim Ấn Độ. Trên thị trường các

sản phẩm dạ kim, Ấn Độ giữ một địa vị đáng kể” [1, tr.81-82-83]. Như vậy, hàng xuất

khẩu từ thuộc địa Anh có một số lượng tương đối là các sản phẩm công nghiệp hoàn

chỉnh, trong khi hàng xuất khẩu từ thuộc địa Pháp chủ yếu là nguyên liệu thô, hoặc

mới qua sơ chế. Điều đó tạo ra một tình trạng khá thú vị là các thuộc địa Anh sử dụng

nguyên liệu từ thuộc địa Pháp để sản xuất.

Sự đầu tư phát triển kinh tế muộn và kém hơn của các thuộc địa Pháp, cụ thể là

Việt Nam còn thể hiện ở tốc độ xây dựng mạng lưới đường sắt rất chậm chạp. Tính

đến giữa thế kỷ XIX, các phương tiện vận tải ở Ấn Độ rất lạc hậu. Hàng hóa được vận

chuyển trên đường bộ chủ yếu bằng xe bò, la, lạc đà và bằng thuyền nhỏ ở ven các con

sông cũng rất phổ biến. Chính vì sự nghèo nàn về các phương tiện vận tải nên khối

lượng cũng như tốc độ vận chuyển hàng hóa rất hạn chế.. Các nhà lãnh đạo Anh đã cải

đường (Grand Trunk Road4F thiện đường giao thông và giới thiệu tàu hơi nước trên các con sông. Việc tu sửa con 5) từ Calcutta tới Delhi đã được bắt đầu vào năm 1839 và

hoàn thành trong năm 1850. Các trung tâm thương mại quan trọng và các khu vực giàu

nguyên liệu được kết nối bởi một mạng lưới đường giao thông và kênh rạch. Nhưng sự

cải thiện tốt nhất trong giao thông chính là sự ra đời của đường sắt. Đường sắt thời kỳ

này được coi gần như là con đường độc nhất để xây dựng kinh tế, thế mà “cho đến

năm 1900, không kể Bắc Phi, toàn bộ thuộc địa Pháp mới chỉ có khoảng 600km đường

sắt, đến năm 1914, con số này tăng lên là 5.800km. Trong khi đó, chỉ riêng Ấn Độ

thuộc Anh vào năm 1891 đã có chiều dài đường sắt là 27.000km” [dẫn theo 3, tr.318].

Hệ thống đường sắt phát triển nhanh chóng ở Anh trong những năm 1830 và 1840 đã

thúc đẩy nó sớm giới thiệu hệ thống này ở Ấn Độ. Các nhà sản xuất Anh hy vọng với

hệ thống đường sắt này sẽ mở ra thị trường rộng lớn cho hàng hóa của họ ở những nơi

5 Grand Trunk Road: Là một trong những con đường lâu đời nhất và dài nhất ở khu vực Châu Á. Trong hơn hai thiên niên kỷ, nó đã gắn kết các vùng phía đông và phía tây của tiểu lục địa Ấn Độ, kết nối Nam Á với Trung Á.

mà họ vẫn chưa được khai thác được trong vùng nội địa, đồng thời nó cũng tạo thuận

69

lợi cho việc nhập khẩu nguyên liệu của Ấn Độ vào Anh. Ngân hàng và các nhà đầu tư

Anh cũng coi sự phát triển đường sắt ở Ấn Độ như một nguồn đầu tư an toàn cho vốn

thặng dư của họ. Các nhà sản xuất thép của Anh coi nó như là một lối thoát cho các

sản phẩm của họ bao gồm: đường ray, động cơ, toa xe…Tuyến đường sắt đầu tiên từ

Bombay đến Thana được mở cửa cho giao thông và hoạt động kinh tế vào năm 1853,

cho phép chính phủ quản lý Ấn Độ một cách hiệu quả hơn và cũng có thể huy động

quân đội dễ dàng hơn. Đến cuối năm 1869, hơn 4000 dặm đường sắt đã được xây

dựng. Với tầm quan trọng đặc biệt đối với việc khai thác, vận chuyển nguyên liệu, lưu

thông sản xuất, phân phối sản phẩm, mạng lưới đường sắt nói riêng và giao thông vận

tải nói chung đến lượt mình lại có ảnh hưởng lớn đối với kinh tế thuộc địa. Đó là lý do

tại sao các thuộc địa Anh càng có tiền đề để phát triển, dù kéo theo sự phát triển đó,

chúng càng lệ thuộc hơn vào chính quốc.

2.3. Về văn hóa-giáo dục

Mỗi nước thực dân khi đi xâm lược thuộc địa đều cố gắng du nhập và áp đặt nền

văn hóa của nước mình lên thuộc địa và văn hóa cũng trở thành một công cụ hữu dụng

để thực dân đạt được những mục đích xâm chiếm thuộc địa của mình. Tuy nhiên, văn

hóa của mỗi dân tộc rất khác nhau, có những đặc trưng riêng, được hình thành trong

quá trình xây dựng và phát triển của dân tộc do đó khi sự tiếp xúc xảy ra giữa hai nền

văn hóa khác nhau sẽ dẫn đến ba khả năng: một là, sẽ xảy ra quá trình tiếp biến văn

hóa; hai là sự đồng hóa văn hóa và thứ ba là sự đối kháng giữa các nền văn hóa.

Những khả năng này phụ thuộc vào mức độ tương đồng của hai nền văn hóa tiếp xúc

với nhau và trong quá trình xâm lược của thực dân chúng còn phụ thuộc vào cách thức

mà các nước đế quốc áp đặt văn hóa lên dân tộc thuộc địa. Xét trên khía cạnh này giữa

Anh và Pháp có sự khác nhau bởi nét đặc thù của thực dân Pháp khi xâm chiếm thuộc

địa thì ngoài bóc lột về kinh tế còn thực hiện những chính sách áp đặt cả về văn hóa.

Pháp chọn chiêu bài “khai hóa” các dân tộc thuộc địa do đó mà văn hóa là một trong

những lĩnh vực mà thực dân Pháp rất lưu tâm đến. Còn đối với Anh, mục tiêu căn bản

và chủ đạo nhất khi đi xâm chiếm thuộc địa lại là thương mại, do đó trên lĩnh vực văn

hóa Anh không áp đặt một khuôn mẫu nào cho thuộc địa của mình cả, Anh chỉ chọn

70

lọc một số yếu tố văn hóa ảnh hưởng trực tiếp đến công cuộc cai trị của mình lại ít gây

ra sự phản kháng của nhân dân thuộc địa, tiêu biểu đó chính là ngôn ngữ, giáo dục.

Về văn hóa:Ấn Độ và Việt Nam đều là những quốc gia có lịch sử lâu đời, đặc

biệt là Ấn Độ-một trong bốn nền văn minh tiêu biểu của thế giới cổ đại, đặc biệt là quê

hương của ba tôn giáo lớn và thực dân Anh đã lợi dụng điều này để thực hiện chính

sách chia để trị, khoét sâu mâu thuẫn giữa các tôn giáo. Họ duy trì những sự chia rẽ và

hiện trạng không thống nhất về lãnh thổ cũng như về chính trị, tôn giáo và sử dụng

những sự chia rẽ đó để bảo đảm cho quyền lực của Anh. “Vào năm 1858, Lord

Elphinstone đã dùng một ám dụ để chỉ định chính sách ấy, ông tuyên bố là phải đảm

bảo an ninh cho Ấn Độ bằng cách thiết lập quân đội theo nguyên tắc đóng tàu steamers

(chia vỏ tàu thành từng ngăn với những vách ngăn kín): dân Hinđu, dân Hồi, dân Sikh

sẽ không bao giờ được dùng trng cùng một đơn vị quân đội” [1, tr.50]. Ngoài ra Hồi

giáo cũng được dùng để chống Ấn Độ giáo, các châu quận để chống các tiểu quốc của

các maharajah. Để cai trị Ấn Độ có hiệu quả thì sự hiểu biết về lịch sử, truyền thống và

văn hóa của nó cũng trở thành một yêu cầu đối với người Anh. Tiếng Phạn cũng được

người Anh quan tâm và một số cơ sở giáo dục đã được thiết lập cho mục đích này.

Nhiều học giả châu Âu và quan chức chính phủ ngày càng quan tâm đến ngôn ngữ của

Ấn Độ. William Jones đã thành lập nên Hiệp hội châu Á. Bản thân Jones cũng là một

học giả lớn của tiếng Phạn. Ông đã dịch một số tác phẩm cổ xưa của Ấn Độ như Manu

Smriti. Nhiều bài báo khoa học của Jones được viết bằng tiếng Phạn về lịch sử của Ấn

Độ đã được công bố trên Tạp chí của Hiệp hội châu Á. Ngoài ra còn có Charles

Wilkins dịch Bhagavad Gita sang tiếng Anh. Max Mueller dịch Rig Veda. Trung tâm

nghiên cứu khảo cổ học của Ấn Độ được thành lập nhờ nỗ lực của Alexander

Cunningham và John Marshall. James Princep đã giải mã được những chữ khắc

Ashokan được viết trong Brahmi. Người Ấn, đặc biệt là những tri thức Ấn cũng đã ảnh

hưởng rất lớn từ văn hóa Anh trong tác phong, lối sống, cách tư duy, đến trình độ sản

xuất, tri thức khoa học… Sự tương đồng văn hóa ấy chính là điều kiện để các quốc gia

này giành được quyền tự trị, đồng thời lại là chất kết dính tự nhiên về quyền lợi giữa

họ và chính quốc, bên cạnh sự can thiệp của thực dân.

71

Về phía Pháp, họ đã không xem xét một chính sách "liên kết" cho phép các nhà

cầm quyền bản xứ tiếp tục cai trị với sự giúp đỡ của người Pháp và duy trì truyền

thống, phong tục của họ. Thay vào đó, người Pháp đã chọn áp dụng chính sách "đồng

hóa", phát triển từ Cách mạng Pháp năm 1789 được dựa trên các nguyên tắc tự do,

bình đẳng và tất cả các công dân, các thuộc địa cũng không phải là một trường hợp

ngoại lệ. Những người dân bản địa và cả tổ chức kinh tế và xã hội của họ sẽ phải tiến

hành như thể mọi thứ đã thực sự thuộc về Pháp, là Pháp. Họ nghĩ rằng người An Nam

lúc bấy giờ đang đại diện cho man rợ và cách xa sự tiến bộ của nhân loại. Thật không

may cho người Pháp khi họ cho rằng theo thời gian dân bản địa có thể quên đi nền văn

hóa, văn minh của mình và trở thành người Pháp. “Mặc dù Pháp thấy chính sách này

là một thay đổi tích cực cho người dân bản địa của thuộc địa nhưng đồng hóa tức là

phá hủy truyền thống của dân bản xứ. Chính sách này sẽ tạo ra một số người không

còn được tiếp tục gìn giữ và phát huy văn hóa bản địa nhưng họ sẽ không bao giờ sống

thoải mái và chấp nhận coi mình như một người Pháp. Không giống như người Ả Rập

châu Phi, Đông Dương đã có một nền văn hóa khá cao, một phần do kết quả ảnh

hưởng từ Trung Quốc trong thời kỳ Bắc thuộc. Họ đã có một hệ thống đạo đức, giáo

dục, và một thể chế chính trị-xã hội phức tạp về mặt tổ chức. Người Pháp phải đối mặt

với một xã hội hoàn toàn khác về các quy tắc ứng xử và những giá trị truyền thống.

Người Pháp đề cao và coi trọng cá nhân; Đông Dương đánh giá cao sự đoàn kết tập

thể của họ. Sự ra đời của những luật lệ mà Pháp đưa ra thường mâu thuẫn với phong

tục, đạo đức xã hội của địa phương, dẫn đến sự ra đời của một thế hệ nhầm lẫn không

biết theo đường nào. Theo truyền thống Việt Nam, bất cứ ai dưới tuổi hai mươi sẽ phải

đối mặt với hình phạt tù cho sự bất tuân hoặc thiếu tôn trọng đối với một thành viên

trong gia đình tức họ phải vâng lời và tôn trọng người lớn tuổi. Theo luật của Pháp, trẻ

em không có nghĩa vụ pháp lý vâng lời cha mẹ sau khi năm hai mươi tuổi. Khi những

gia đình sống trong giai đoạn chuyển tiếp hai luật khác nhau này thì thù hận gia đình

thường xảy ra. Ví dụ, theo pháp luật người Việt, ông nội là người đứng đầu của gia

đình và có quyền dạy bảo thậm chí là dùng bạo lực đối với con cháu của mình. Theo

luật của Pháp khi con cháu mình đã trở thành một công dân Pháp thì không phải tuân

theo những người lớn tuổi hay gia đình nữa. Sự ra đời của pháp luật Pháp đã phá hủy

72

các phong tục cổ xưa mà Đông Dương đã áp dụng. Trong 1800, trước khi có những

quy định của Pháp, hình phạt dành cho một người phụ nữ ngoại tình là bị thú kéo hay

giẫm đạp đến chết. Năm 1875, người Pháp chỉ áp dụng hình phạt tám tháng lao động

khổ sai cho tội này. Trước khi luật Pháp ra đời, việc nói ra một tên riêng của cá nhân là

không được phép, đê tiện, và thiếu tôn trọng với tổ tiên nhưng đến thời Pháp, việc sử

dụng tên riêng đã được tiến hành. Mặc dù Pháp nỗ lực để Đông Dương đồng hóa vào

văn hóa Pháp và tuân thủ pháp luật phương Tây nhưng người dân bản địa ít khi nhận

được đối xử bình đẳng của người Pháp. Không những thế Đông Dương bị phá hủy

truyền thống của họ để trở thành một khu vực thuộc Pháp và sự ép buộc văn hóa đó đã

làm cho họ bực bội, thất vọng, và rất dễ dẫn đến một hành động trả thù” [34, tr.26-27].

Nếu như đối với các thuộc địa Anh các yếu tố về văn hóa vật chất được du nhập

nhiều nhất vào thuộc địa thì đối với các thuộc địa Pháp, các yếu tố được du nhập từ

chính quốc mạnh nhất lại là tư tưởng và tri thức xã hội. Như chúng ta đã biết, từ sau

cuộc đại cách mạng tư sản Pháp năm 1789, văn hóa tiến bộ của nước Pháp lan tỏa

khắp Châu Âu và thế giới với khẩu hiệu nổi tiếng “tự do, bình đẳng, bác ái”. Thực dân

Pháp cố gắng ngăn chặn sự tiếp thu trọn vẹn những yếu tố tiến bộ trên ở các thuộc địa

và sử dụng khẩu hiệu này để mị dân, phục vụ công cuộc khai thác, bóc lột. Song với

công cụ là tiếng Pháp và sự hoạt động tích của Hội Liên hiệp các dân tộc thuộc địa

Pháp (thành lập năm 1921) trong việc tuyên truyền, đưa sách báo tiến bộ về thuộc địa,

nhân dân các thuộc địa, đặc biệt là tầng lớp tri thức Tây học vẫn có điều kiện tìm hiểu

sâu rộng về văn hóa tiến bộ của Pháp. Thông qua quá trình tìm hiểu ấy, người dân

thuộc địa đã nhận thấy rõ bản chất lừa bịp của những luận điệu mà thực dân rêu rao,

bởi những gì chúng gây ra ở thuộc địa trái ngược hẳn với những điều tốt đẹp được

phản ánh trong văn hóa-tư tưởng Pháp. Thực tế đó lý giải vì sao ở các thuộc địa Pháp,

những tư tưởng dân chủ tư sản tiến bộ, tích cực rất phát triển và các cuộc đấu tranh của

nhân dân thuộc địa thường diễn ra hết sức quyết liệt. Người ta thường nói rằng:

“những kẻ chống đối người Pháp sâu cay nhất lại là những người biết tiếng Pháp giỏi

nhất” [dẫn theo 3, tr.320]. Đó được coi như là một kết quả trái ngược với chính sách

đồng hóa của thực dân Pháp.

73

Về giáo dục: Việc thi hành những biện pháp cải cách giáo dục của Anh và Pháp

đều có mục đích rất giống nhau nhằm đào tạo ra một tầng lớp Anh hóa và Pháp hóa

người bản xứ để thực hiện chính sách “dùng người bản xứ trị người bản xứ”, thế

nhưng kết quả từ những đổi mới trong giáo dục tại Ấn Độ và Việt Nam lại rất khác

nhau và như chúng ta đã biết tiếng Anh sau đó đã trở thành ngôn ngữ rất phổ biến tại

Ấn Độ còn tiếng Pháp tại Việt Nam không phổ biến rộng rãi, chủ yếu chỉ còn được

giảng dạy trong những trường, những gia đình theo đạo Thiên Chúa hoặc những học

giả say mê với ngôn ngữ này mà thôi.

Ban đầu, Công ty Đông Ấn không nghĩ rằng họ sẽ can thiệp vào lĩnh vực giáo

dục ở Ấn Độ. Chính vì thế, khi người Anh vào Ấn Độ thì các hệ thống giáo dục cũ vẫn

tiếp tục duy trì: Pathsalas, một hình thức giáo dục đặc biệt nhằm đáp ứng yêu cầu giáo

dục cho một xã hội nông thôn và luôn mở cửa cho tất cả tầng lớp xã hội. Giáo dục

trong các madrasas5F tiếng Phạn phổ biến trong Hinđu giáo và Phật giáo. Người Hồi giáo lại chủ yếu học tập 6. Giáo dục đại học chỉ giới hạn trong đẳng cấp trên. Hệ thống giáo

dục này cuối cùng đã được thay đổi bởi người Anh. Khoảng đầu thế kỷ 19, công ty đã

nhận thức được sự cần thiết phải giới thiệu giáo dục phương Tây ở Ấn Độ. Các nhà

truyền giáo quan tâm đến việc truyền bá Kitô thông qua giáo dục đã thành lập một số

cơ sở giảng dạy gắn liền với nhà thờ của họ. Đạo Luật Hiến chương năm 1813 nêu lên

rằng Công ty Đông Ấn sẽ chi khoảng một vạn rúp cho giáo dục của Ấn Độ. Nhưng

ngay cả số tiền ít ỏi này cũng không được sử dụng vì một cuộc tranh luận dữ dội về

phương tiện giảng dạy đã diễn ra. Một bên là sự ủng hộ việc học tập truyền thống Ấn

Độ thông qua các ngôn ngữ bản xứ là tiếng Phạn và Ba Tư. Ý kiến còn lại cho rằng

giáo dục phương Tây nên được truyền đạt thông qua trung gian là tiếng Anh. Người

mang đến kết thúc cho cuộc tranh luận sôi nổi này là Thomas Macaulay, thành viên

luật đầu tiên trong Hội đồng Toàn Quyền của Anh ở Ấn Độ. Thông qua tác phẩm Biên

bản về giáo dục ở Ấn Độ (Macaulay’s Minute) viết vào tháng 2 năm 1835, ông đã giới

6Từ Madrasah xuất phát từ triconsonantal gốc Do Thái, có nghĩa là "nơi diễn ra việc học tập và nghiên cứu" dùng để chỉ bất kỳ loại hình tổ chức giáo dục nào, cho dù thế tục hay tôn giáo (của bất kỳ tôn giáo nào). Ở phương Tây, nó thường được dùng để chỉ một loại hình của trường tôn giáo nghiên cứu về Hồi giáo.

thiệu và đưa tiếng Anh trở thành một công cụ để giáo dục nhân dân Ấn Độ về tư tưởng

74

phương Tây nhằm tạo ra một tầng lớp Anh hóa làm trung gian cho hai nền văn hóa

này. Năm 1835, chính phủ đã thông qua một đạo luật tuyên bố rằng quỹ giáo dục sẽ

được sử dụng để truyền đạt tri thức phương Tây thông qua tiếng Anh. Năm 1844, tiếng

Anh trở thành ngôn ngữ chính thức và những người biết tiếng Anh sẽ được trọng dụng

hơn khi kiếm việc làm. Điều này thực sự đã giúp cho sự lan tỏa rộng rãi của nền giáo

dục Anh cũng như ngôn ngữ tiếng Anh ở Ấn Độ. Năm 1854, Charles Wood, Chủ tịch

Ban kiểm soát của Công ty, soạn thảo ra một kế hoạch tổ chức lại giáo dục. Thông qua

bản báo cáo và khuyến nghị của Chalers Wood chính phủ đã tuyên bố ý định của mình

là “tạo ra một hệ thống giáo dục khớp nối đúng cách từ tiểu học đến đại học”. Theo đó

các trường đại học đã được thành lập tại Calcutta, Bombay và Madras (1857).

Cũng cần phải nhớ rằng nhu cầu để quan chức bản địa biết tiếng Anh là một

trong những lý do chính khiến chính phủ thực hiện việc truyền bá giáo dục phương

Tây. Sử dụng người Ấn Độ được đào tạo là cần thiết cho một bộ máy quan liêu đang

mở rộng vì sử dụng người Anh ở mọi cấp chính quyền vừa tốn kém và khó khăn. Do

đó, hơn hết là tạo ra một tầng lớp mà Ấn Độ trong máu và màu da, nhưng Anh trong

thị hiếu, quan điểm, đạo đức và trí tuệ. Bên cạnh đó, giáo dục phương Tây còn để hòa

giải giữa người dân Ấn Độ và sự cai trị của Anh vì nó đã tôn vinh cai trị của Anh.

Ở Việt Nam, khi người Pháp giành được những thắng lợi quân sự trên vùng đất

Nam Kỳ, họ đã đặt sự quan tâm vào giáo dục. Đô đốc Bonard cho rằng “Trường học sẽ

là cơ hội tốt để chúng ta đồng hóa toàn bộ một dân tộc bằng cách đưa ngay dân tộc này

vào hang các quốc gia thuộc ngôn ngữ Âu châu bởi việc loại bỏ chữ Hán…” [dẫn theo

19, tr.51], quả thực đây không phải là một nhiệm vụ dễ dàng. “Trước khi có được sự

ổn định, nền giáo dục Pháp ở Nam Kỳ đã phải trải qua nhiều lần thay đổi, điều chỉnh

về chương trình học, tổ chức hệ thống, thậm chí chính quyền thực dân còn dùng đến

các biện pháp hành chính để hỗ trợ” [19, tr.51]. “ Nền Nho học của thế kỷ XIX có thể

là lực cản của sự phát triển xã hội, lạc hậu về nội dung và phương pháp giáo dục

nhưng vẫn còn đủ khả năng để đào tạo nên những sỹ phu yêu nước, trung thành với

nền độc lập của quốc gia – dân tộc. Do đó, khi quân đội triều đình vừa thất bại trước

ưu thế về vũ khí của quân xâm lược thì ngay lập tức khởi phát một phong trào kháng

chiến quy tụ toàn thể dân chúng Nam Kỳ mà lực lượng lãnh đạo, không ai khác, chính

75

là quan lại và sỹ phu. Đô đốc Bonard quay sang tìm kiếm sự hợp tác từ phía các nhà

Nho, bằng những lời lẽ đi ngược lại quan điểm của các nhà truyền giáo “Còn về tôn

giáo của người Pháp, nguyên tắc của Pháp là không ép buộc ai theo tôn giáo đó cả; vì

thế mọi người An Nam, không kể thuộc đạo nào, đều có thể hành đạo theo ý mình mà

không sợ gì cả…; người Pháp tôn trọng chữ nghĩa và những người học thức… Thay vì

xua đuổi những người có học, Chính phủ chỉ mong muốn được dùng họ để phục vụ

hạnh phúc dân chúng. Chỗ nào mà tổ chức của nước An Nam có thể lập lại được, thì

các quan An Nam đều đã được phục chức. Mong rằng các bậc hiền giả đã cai trị dân

chúng hãy xuất hiện! Những chức vụ chưa có người hay chưa có người xứng đáng

nắm giữ chắc chắn sẽ được giao cho người tài đức nhất. Đối lại với thái độ đầy thiện

chí đó, các nhà Nho né tránh mọi sự tiếp xúc và trung thành với những mệnh lệnh của

nhà vua đã rút lui, mang theo họ tất cả những tài liệu lưu trữ. Thế là các cơ quan hành

chính của Pháp phải đứng trước một khoảng chân không tuyệt đối. Trong nhận thức

của người dân, mọi sự tiếp cận với quân viễn chinh và hợp tác với chính quyền thực

dân đều là hành vi phản quốc, một tội lỗi không thể dung thứ. Chủ trương cai trị trực

tiếp của Đô đốc De La Grandière cũng không mang lại hiệu quả. Số nhân viên bản xứ

mà người Pháp thu nhận được nếu không phải là các con chiên thì là những tay ranh

mãnh “sau khi bị đuổi khỏi làng vì đói khổ hay phạm tội, lưng họ dẻo, rất hám sống,

không nghĩ gì đến cuộc chiến đấu dân tộc, sẵn sang phục vụ mọi ông chủ. Buộc phải

tuyển chọn những con người mà long trung thành còn quan trọng hơn khả năng thì

những viên chức này chỉ có thể là không ngoan nhưng “rất ít học thức mà nhiều người

trong số họ trước đây sẽ không bao giờ được nhận làm một chân thư lại trơn trong các

văn phòng. Chúng ta bắt buộc phải lấy những con người rất ít được học hành trong

một tầng lớp rất kém về đạo đức,… Bởi vì cần phải có những người theo chúng ta nên

chúng ta đã phong những chức quan huyện cho những người rất tầm thường, mù chữ,

và đã gây nên một sự tổn thương rất lớn về đạo lý cho nền cai trị của chúng ta. Trong

khi đó, tại các trường làng, những nhà Nho hàng ngày vẫn dưỡng nuôi lòng yêu nước

cho học trò bằng lời dạy của Thánh hiền; chữ Hán vẫn là phương tiện lưu giữ những

giá trị văn hóa truyền thống, kháng cự lại mọi chủ trương khai hóa, truyền bá văn minh

phương Tây” [19, tr.51-52-53].

76

“Bị cô lập giữa một xứ sở xa lạ, điều mà người Pháp cần là sự ổn định về chính

trị; có một lực lượng nhân sự đủ trình độ và long trung thành cần thiết cho bộ máy

công quyền; sự giao tiếp trực tiếp với người bản xứ mà không phải thông qua trung

gian là những thông ngôn mà họ không mấy tin tưởng và đặc biệt, trong ánh mắt của

chính quyền thực dân, nền Nho học và chữ Hán là nguyên nhân của mọi bất ổn, rào

cản của mọi nhu cầu tiếp xúc với dân chúng, chướng ngại của mọi dự định truyền bá

tôn giáo và văn minh, nhất thiết phải loại bỏ. Cùng với những cuộc hành quân, tất cả

những ước muốn vừa nêu được trao cho sự nghiệp giáo dục do người Pháp đảm trách.

Thế hệ trưởng thành trong môi trường Khổng giáo đang tích cực thực hiện các

hoạt động kháng chiến rồi sẽ trôi vào quá khứ. Tương lai cho sự ổn định của nền thống

trị Pháp ở Nam Kỳ thuộc về trẻ em – đối tượng hướng đến của nền giáo dục mới. G.

Dumoutier, Giám đốc học chính, cho rằng: “ Một khi người ta muốn thay đổi hình

dạng hoặc màu sắc của một cái cây, người ta không thể bắt đầu với những cây đã phát

triển hoàn toàn và đã sinh hoa kết quả, mà người ta phải tác động đến các hạt, phải

chăm sóc điều khiển việc nảy mầm và phát triển của nó trong những miếng đất được

chọn lọc và chuẩn bị đầy đủ. Muốn biến cải một dân tộc cũng phải làm như vậy.

Người ta sẽ thất bại nếu tấn công trực diện vào một nền văn minh cổ trên hai nghìn

năm như nền văn minh này. Nếu chúng ta muốn đặt được vĩnh viễn ảnh hưởng của

nước Pháp trên phần đất này của thế giới thì phải làm cho họ tiêm nhiễm tư tưởng của

chúng ta dạy cho họ tiếng nói của chúng ta và do đó phải bắt đầu từ nhà trường và chú

ý trước tiên đến trẻ em”. Thật vậy, một khi nền giáo dục mới thành công trong việc

“giải phóng hoàn toàn và vĩnh viễn các thần dân mới của nước Pháp ra khỏi ảnh hưởng

của những nhà Nho ở Huế và của nền văn minh Trung Hoa – Khổng giáo thì điều

người Pháp có được không chỉ là “những nhân viên giàu năng lực”, như mong muốn

của Đô đốc Bonard, mà to lớn hơn, Nam Kỳ sẽ trở thành “một mảnh đất Pháp trong

trái tim, trong tư tưởng và trong khát vọng”. Như vậy, giáo dục cùng với các lĩnh vực

khác, sẽ đảm nhận sứ mệnh: Biến Nam Kỳ thành “một Đế quốc Gia Tô và Pháp”. Như

vậy, mục đích giáo dục đã được xác định nhưng đường lối giáo dục thì chưa có được

sự thống nhất. Phát xuất từ những dụng ý và quyền lợi khác nhau, thương nhân, giáo

sỹ và những sỹ quan “am hiểu tường tận nhất đất nước và nhân dân Nam Kỳ” đã nêu

77

những quan điểm khác nhau trong việc định hướng con đường phát triển tiếp theo của

nền giáo dục Pháp tại Nam Kỳ, sau hơn 10 năm tiến hành mà không có kết quả đáng

kể. Kéo sang Nam Kỳ với động cơ chủ yếu là lợi nhuận, các thương nhân Pháp đều

mong muốn chấm dứt càng sớm càng tốt tình trạng loạn lạc do chiến tranh gây nên để

dự phần hưởng lợi từ hoạt động xuất nhập khẩu của cảng Sài Gòn và tập trung xây

dựng các cơ sở kinh tế cạnh tranh với thương nhân người Hoa đã hiện diện từ trước và

một số ít thương nhân người Việt. Không khó để những kẻ buôn bán nhận ra rằng giữa

sỹ phu Nho học và quân phiến loạn có một mối quan hệ rất chặt chẽ. Do vậy, trong hội

nghị giáo dục toàn Nam Kỳ được tổ chức vào đầu năm 1873, họ đã bày tỏ quan điểm:

“Nền giáo dục của chúng ta trước hết, trên hết là bằng tiếng Pháp… Đó là một nền

giáo dục thực dụng và phải đi đến một mục đích nhất định. Bằng cách phổ cập hóa tư

tưởng và văn hóa (không phải về hình thức mà là nội dung) mà người ta giáo dục tinh

thần yêu nước. Bằng cách phổ biến một cách liên tục những nguyên tắc về tài năng của

người Pháp trong dân chúng mà chúng ta Pháp hóa người Việt”. Để thực hiện, nhà

cầm quyền chỉ cần làm theo phương pháp tuyên truyền mà Giáo hội đã làm, tức là in

nhiều sách và phát tận tay cho học sinh. Nội dung của sách không nên quá nặng về

tuyên truyền mà trước hết phải tạo sự hứng khởi nơi người đọc bằng các mẩu chuyện

cười của Việt Nam hay của Pháp rồi sau đó mới là những nội dung phục vụ chính trị.

Còn đối với trường học của các thầy đồ, cũng chẳng có gì khó khăn để giải quyết, cứ

lấy “ văn học đối lập với văn học; với chữ Hán lấy chữ Latinh chọi lại, lấy tư tưởng

chọi lại với tư tưởng, hình thức chọi hình thức”.

Có một sự tương đồng nhất định trong quan điểm về đường lối giáo dục giữa

thương nhân và giáo sỹ. Cũng nên nhắc lại rằng, năm 1861, khi Đô đốc Bonard chủ

trương bảo lưu sự tồn tại của nền Nho học thì các giáo sỹ đã không tiếc lời đả kích.

Mãi sau này, khi nhắc lại, Linh mục Louvet vẫn chưa nguôi nỗi ấm ức, đã phê phán

Bonard “là một đầu óc dối trá và hão huyền khi cho rằng cách cứu nguy duy nhất cho

thuộc địa này là trao trọn việc cai trị cho những nhà Nho, là những kẻ thù nguy hiểm

nhất của Gia Tô giáo và nước Pháp”; Trưởng tu viện Launay cũng có cùng thái độ

“Bonard cho tổ chức lại việc học chữ Nho và tái lập các danh hiệu tiến sỹ, cử nhân cũ

mà không tự hỏi: phải chăng là tốt hơn nên tách người An Nam ra khỏi tất cả những gì

78

có thể giữ họ trong tư tưởng dân tộc, nghĩa là tư tưởng đồng nghĩa với chống Pháp”.

Một bên vì mục đích kinh tế, một bên vì nhu cầu truyền giáo, nhưng cả thương nhân

và giáo sỹ lại cùng xem chữ Hán là kẻ tử thù, nhất quyết cho rằng đường lối đúng đắn

của nền giáo dục phải là: xóa bỏ nền Nho học, thiết lập các trường học dạy những hiểu

biết thưởng thức bằng chữ viết theo mẫu tự Latin.Là sỹ quan có hiểu biết sâu sắc về tổ

chức hành chính và xã hội Việt Nam, Luro đã nhìn nhận vấn đề một cách bình tĩnh.

Sau khi chỉ ra một loạt bất cập của nền giáo dục do người Pháp tổ chức, Luro cho

rằng: Không nên nóng vội mà phải đi sâu vào tâm lý nhân dân, vì đây cũng là một điều

kiện cai trị bằng phương pháp “đồng hóa”. Phải hiểu rằng, phong tục, ngôn ngữ, luật

pháp của một dân tộc không phải dễ dàng thay đổi trong vài ba năm. “Phải tìm hiểu

những thứ đó, hướng dẫn người dân bị trị đi theo ý định của ta, muốn vậy ta cũng phải

học chữ Hán”; Không nên đóng cửa các trường học dạy chữ Hán mà cứ để họ dạy như

thường nhưng bắt buộc các thầy giáo dạy chữ Hán phải học chữ quốc ngữ và dạy lại

cho học trò. Lại phải dùng cả chữ quốc ngữ, chữ Hán để phổ biến khoa học, làm cho

nền văn minh của nước Pháp thâm nhập vào nhân dân; Việc phổ biến tiếng Pháp thì

đầu tiên phải dựa vào lớp công chức quan lại mới và các nhà giàu; Phải làm sao để

nhân dân thấy rằng, tiếng Pháp là cái cửa ngõ mà mọi người phải qua để đi tới con

đường khoa học. Trong các trường thì nên dạy cho học sinh về khoa học là sở trường

của người Pháp. Đó là phương pháp duy nhất để quần chúng hóa trường học và thu hút

người dân thuộc địa vào quỹ đạo văn minh, khoa học; Sau khi được đào tạo, những

người “cộng sự” phải vừa là nho sỹ vừa là công chức, vừa là thông dịch và không nên

biến họ thành những con vẹt. Không tán đồng cách nhìn của Luro về vấn đề chữ Hán,

ý kiến của Philastre là: Người Pháp vẫn phải dạy những nội dung như người Việt Nam

đã học từ trước, nhưng phải thay chữ Hán bằng chữ quốc ngữ - “Người ta sẽ không từ

chối học chữ Latinh, nhất là nếu tiếng An Nam sẽ được đưa ra bằng bản dịch của một

vài tác phẩm sơ đẳng và cổ điển Trung Quốc. Nếu sau đó người ta cung cấp cho học

sinh những sách viết bằng tiếng An Nam, chứa đựng những tư tưởng mới đối với họ,

họ sẽ tiếp tục theo học, chữ Hán sẽ mất một phần uy thế và người An Nam sẽ bắt đầu

viết tiếng nói của họ”. Quan điểm về đường lối giáo dục của Luro (và Philastre) rất

gần gũi với chủ trương của Bonard, tức là, dù xuất phát từ chính sách đồng hóa nhưng

79

khi tình hình Nam Kỳ còn nhiều bất ổn, thì khôn ngoan hơn trong đường lối cai trị là

một vẻ ngoài tự do và tôn trọng các truyền thống văn hóa bản địa. Do vậy, chữ Hán và

nền Nho học vẫn được duy trì, theo Luro; hay chí ít ra dù được biên soạn bằng chữ

quốc ngữ, nội dung của nền Nho học vẫn được lưu giữ trong chương trình học, theo đề

nghị của Philastre. Tính thuyết phục không thuộc về những quan điểm chủ quan, xa rời

thực tế và như sẽ thấy, khi xây dựng chương trình học và tổ chức nền giáo dục ở Nam

Kỳ, người Pháp đã thay thế sự vội vàng ban đầu bằng những bước đi cẩn trọng hơn.

Chương trình học và hệ thống tổ chức giáo dục được thiết kế nhằm đáp ứng mục

đích giáo dục, phù hợp với đường lối giáo dục của nhà cầm quyền. Khi nền giáo dục

còn đang trong quá trình dò dẫm thì chương trình học và hệ thống tổ chức, do sự chi

phối của quan điểm cai trị và tình hình thực tế ở Nam Kỳ, chưa thể có ngay được sự ổn

định. Điều mà người Pháp quan tâm nhiều nhất từ khi chuyển quân vào Gia Định

(1859) cho đến khi thâu tóm toàn bộ Nam Kỳ (1867) là các vấn đề liên quan đến cuộc

chiến tranh giành lãnh thổ: kế hoạch đánh chiếm các tỉnh, thái độ của triều đình Huế,

phong trào kháng chiến lan rộng khắp nơi do các sỹ phu lãnh đạo và được dân chúng

hết long ủng hộ. Do đó, trong báo cáo đọc tại buổi họp ngày 23/10/1889 của Hội đồng

Nghiên cứu Đông Dương, Emile Roucoules viết “Trong giai đoạn chiến tranh chinh

phục, các vị tư lệnh không thể nghĩ đến việc tổ chức giáo dục và chỉ cấp một số học

bổng, trích từ quỹ quân đội, cho hai trường để đào tạo những phụ tá cần thiết, những

người, hầu hết chỉ nói được một thứ tiếng Latinh bập bẹ…”. Giáo dục, theo thứ bậc ưu

tiên, còn ở vào vị trí thứ yếu, chưa được tổ chức quy củ.

Sau khi hạ thành Gia Định (1859), đoàn quân viễn chinh gặp phải trở ngại đầu

tiên trên vùng đất mới: giao tiếp với người bản xứ. “Đối với một nước đi chinh phục,

chướng ngại lớn nhất phải khắc phục trước những dân tộc bị chinh phục chính là sự

khác biệt về ngôn ngữ”. Bị cô lập, bị người bản xứ lợi dụng sự kém hiểu biết về ngôn

ngữ lừa vào những ổ phục kích, gặp khó khăn khi muốn trưng lên một thông cáo hay

chỉ thị, người Pháp chỉ còn biết trông cậy vào sự hỗ trợ của các giáo sỹ Thiên chúa và

một số con chiên, những con người không đáng tin lắm, ở vai trò thông ngôn. Trong

hoàn cảnh đó, ngày 21/9/1861, Đô đốc Charner ký Nghị định thành lập trường Bá Đa

Lộc, do Giáo sỹ Croc và Linh mục Thu, người Việt, phụ trách, với mục đích được xác

80

định: Đào tạo thông ngôn và những thư ký làm việc trong các cơ quan hành chính.

Như vậy, mở trường đào tạo thông ngôn là bước đầu tiên trong việc thiết lập một nền

giáo dục Âu hóa tại Nam Kỳ. Trên thực tế, đây là một cơ sở đào tạo nhân viên phục vụ

cho quân đội Pháp chiếm đóng ở Nam Kỳ hơn là một cơ sở giáo dục đúng nghĩa.

Để tuyên bố “Người Pháp tôn trọng chữ nghĩa và người có học thức” không trở

thành lời nói suông, Thống đốc Bonard, ngày 31/3/1863, đã ký Nghị định tái lập nền

học chính tại 3 tỉnh miền Đông (Gia Định, Biên Hòa, Định Tường) mà nội dung chính

là:“Đứng đầu mỗi tỉnh về ngành giáo dục là một viên Đốc học. Nhiệm vụ của Đốc học

cũng như xưa, tức tổ chức và tập trung tất cả những gì liên quan tới học chính tại phủ

huyện và xã thôn trong tỉnh, mở các cuộc thi khảo lục cá nguyệt, trông nom việc thực

thi quyền lợi của giới sỹ phu trong xã thôn, khuyến khích việc học hành…

Đốc học làm việc dưới sự chỉ đạo của Tổng đốc tỉnh (người Pháp) và có nhiệm

sở tại tỉnh lỵ. Đốc học lại có những viên chức phụ tá trong nhiệm vụ học chính, giữ

chức Giáo thọ tại phủ và Huấn đạo tại huyện…Mỗi viên đốc học phụ trách một nhà

trường giáo dục thanh niên gọi là học sanh được lựa chọn trong số học sinh thông

minh nhất trong tỉnh nhằm mục đích đẩy mạnh việc học vấn của họ: sẽ có 10 học sanh

tại tỉnh Gia Định, 6 học sanh tại tỉnh Định Tường, 6 học sanh tại tỉnh Biên Hòa; có thể

nhận cả tú tài hay cử nhân trong số học sanh đó” [19, tr.54-56].

2.4. Về xã hội

Dưới tác động của những chính sách kinh tế mà Anh và Pháp thực hiện, xã hội

của Ấn Độ và Việt Nam đã có rất nhiều những biến chuyển đáng kể.

Xã hội Ấn Độ đã trải qua nhiều thay đổi sau khi người Anh đến Ấn Độ. Trong

thế kỷ XIX, những phong tục lễ nghi như giết trẻ sơ sinh nữ, tảo hôn, sati, chế độ đa

thê và một hệ thống đẳng cấp cứng nhắc trở nên phổ biến hơn. Những hoạt động này

đã hạ thấp giá trị của con người. Phụ nữ bị phân biệt đối xử ở tất cả các lĩnh vực của

đời sống, họ là thành phần thiệt thòi trong xã hội. Họ không có quyền gia nhập vào bất

kỳ hoạt động nào để cải thiện tình trạng của họ. Giáo dục bị giới hạn cho một số ít

những người đàn ông thuộc đẳng cấp trên. Bà la môn đã sử dụng kinh Vệ Đà và những

nghi lễ, cúng tế, thực hành sau khi sinh hoặc tử vong được vạch ra bởi tầng lớp linh

mục.

81

Khi người Anh đến Ấn Độ, họ mang những ý tưởng mới như quyền tự do, bình

đẳng, quyền công dân từ thời kỳ Phục Hưng, Phong trào Cải cách và từ những cuộc

cách mạng khác diễn ra ở châu Âu. Những ý tưởng này đã thức tỉnh một số thành phần

của xã hội Ấn, dẫn đến một số phong trào cải cách ở các tầng lớp khác nhau để tìm

kiếm sự thống nhất xã hội và phấn đấu hướng tới tự do, bình đẳng. Đi đầu trong các

phong trào này là tầm nhìn chiến lược của Raja Ram Mohan Roy, Sir Syed Ahmed

Khan, Aruna Asaf Ali và Pandita Ramabai. Tri thức Ấn Độ như Raja Rammohan Roy

đã có những hành động để loại trừ tệ nạn xã hội. Một giai đoạn cải cách xã hội đã bắt

được Rammohan Roy giúp đỡ. Năm 1829, tục lệ Sati6F đầu ở Ấn Độ trong thời gian Toàn quyền của William Bentinck (1828-1835), người đã 7 đã được coi là bất hợp pháp và

bị trừng phạt pháp luật. Tục giết trẻ sơ sinh nữ đã bị cấm. Tuy nhiên, ngày nay tục lệ

này vẫn được thực hiện trong các vùng lạc hậu ở Ấn Độ. Chế độ nô lệ đã được tuyên

bố là bất hợp pháp. Nhờ sự tiến hành và thúc đẩy của Isar Chandra Vidyasagar, luật tái

hôn Widow đã được Dalhousie thông qua vào năm 1856. Nhiều biện pháp pháp lý đã

được giới thiệu để cải thiện tình trạng của phụ nữ, họ bắt đầu nhận được những cơ hội

giáo dục tốt hơn và có cơ hội nghề nghiệp ngoài xã hội. Vai trò của phụ nữ như

Captain Laxmi Sehgal trong Quân đội Quốc gia Ấn Độ (INA), Sarojini Naidu, Annie

Besant, Aruna Asaf Ali và nhiều người khác là vô cùng quan trọng trong cuộc đấu

tranh đòi tự do... Vidyasagar cũng vận động chống lại tình trạng kết hôn ở trẻ em và

chế độ đa thê. Tập tục man rợ giết trẻ em làm vật cúng tế cho thần linh của một số bộ

lạc đã bị cấm dưới thời Toàn quyền Hardinge. Những thay đổi này diễn ra đầu tiên ở

Bengal, sau đó lan ra khắp Ấn Độ. Mặc dù, Anh muốn người Ấn Độ được giáo dục và

đủ hiểu biết để tiêu thụ hàng hóa của họ nhưng không được đến mức tổn hại lợi ích

của Anh. Một số người Anh tin rằng phương Tây là hiện đại và cao cấp, trong khi cho

rằng Ấn Độ là già nua và lạc hậu, tất nhiên điều đó không đúng sự thật vì Ấn Độ đã có

một kho tàng tri thức rất phong phú từ rất lâu đời. Đến thời điểm này, cũng có một

nhóm người Anh có tư tưởng nhân văn đối với Ấn Độ. Họ muốn Ấn Độ hiểu biết được

7Sati là một tục lệ được thực hiện bởi các tín đồ theo đạo Hindu. Theo đó, khi người chồng qua đời và được đem đi hỏa táng, góa phụ phải tự nhảy vào giàn thiêu theo chồng.

những tiến bộ của khoa học. Tuy nhiên, chính phủ Anh rất thận trọng trong việc thực

82

hiện hiện đại hóa nhanh chóng Ấn Độ. Họ sợ gặp phải sự phản đối của nhân dân nếu

can thiệp quá nhiều vào niềm tin tôn giáo và tập quán xã hội của người Ấn. Do đó,

mặc dù họ có đề cập đến việc tiến hành cải cách nhưng trong thực tế rất ít biện pháp

được thực hiện và nếu có cũng chỉ là nửa vời.

Điểm khác nhau căn bản trong kết cấu các giai tầng xã hội của Ấn Độ và Việt

Nam chính là ở thời điểm xuất hiện và vai trò của hai giai cấp đối kháng với nhau là:

tư sản và công nhân. Do thực dân Anh tiến hành khai thác thuộc địa từ rất sớm và

đồng thời cũng đầu tư để phát triển sản xuất nên ở các thuộc địa Anh, giai cấp tư sản

và giai cấp công nhân người bản xứ hầu như ra đời cùng lúc. Trên cơ sở tiếp nhận

những biến đổi tích cực do thực dân mang lại, đồng thời thông qua quá trình tham gia

vào guồng máy thương mại của chính quốc và của thế giới, giai cấp tư sản thuộc địa

ngày càng phát triển, trưởng thành về kinh tế và ý thức chính trị, đặc biệt là tầng lớp tư

sản dân tộc. Ở các lãnh thổ tự trị, quá trình trưởng thành này diễn ra nhanh hơn bởi

giai cấp tư sản chủ yếu là người da trắng, trong đó chiếm đại đa số là người Anh, được

thừa hưởng vốn văn hóa hoàn chỉnh của phương Tây và có tiềm lực kinh tế khá mạnh.

Thực tế đã chứng minh từ cuối thế kỷ XIX, giai cấp tư sản ở các thuộc địa này đã lãnh

đạo thành công phong trào đấu tranh giành quyền tự trị và ngày càng tỏ ra độc lập hơn

so với chính quốc. Ấn Độ thuộc Anh đã thành lập được Đảng của giai cấp tư sản từ rất

sớm so với các thuộc địa của các đế quốc khác, đó chính là Đảng quốc đại ở Ấn Độ,

mặc dù lúc ban đầu đảng này có thể chỉ là “cái nắp an toàn” cần thiết cho chính quyền

thực dân Anh. Nhưng dần dần, cùng với sự trưởng thành của giai cấp tư sản, đặc biệt

là qua các cuộc đại chiến thế giới, đảng ngày một mạnh lên thoát khỏi sự kiểm soát

của thực dân Anh và nắm vai trò quan trọng đối với phong trào đấu tranh giành độc

lập. Giai cấp công nhân ở các thuộc địa Anh cùng với sự phát triển của kinh tế tư bản

chủ nghĩa và sự phát triển của giai cấp tư sản cũng không ngừng tăng lên về số lượng.

Từ năm 1880 đến năm 1900, giai cấp công nhân Ấn Độ đã tăng từ 44.000 người lên

đến 161.000 người. Tuy vậy, với kinh nghiệm thống trị của giai cấp tư sản ở chính

quốc, thực dân Anh đã rất chú ý tìm cách chia cắt, phá hoại phong trào công nhân.

Hơn nữa, do sự phát triển của giai cấp tư sản, giai cấp công nhân đã được thu hút vào

phong trào chống thực dân Anh với lãnh đạo là giai cấp tư sản.

83

Ở các thuộc địa Pháp, do được khai thác muộn hơn và phương pháp khai thác

còn cổ sơ, lạc hậu, không có sự đầu tư lớn về khoa học kỹ thuật nên giai cấp tư sản

thuộc địa ra đời rất muộn, thế lực kinh tế yếu ớt và theo đó, năng lực chính trị cũng

hạn chế hơn. Ở Việt Nam thuộc Pháp, mãi đến sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất,

giai cấp tư sản mới hình thành và “toàn bộ lực lượng nòng cốt của giai cấp tư sản Việt

Nam vào cuối những năm 20 đạt khoảng 2000 người, chiếm 0,1% dân số cả nước”.

Tuy nhiên, do bị thực dân Pháp chèn ép, cản trở phát triển nên giai cấp tư sản ở các

thuộc địa Pháp cũng sớm có tinh thần dân tộc và tham gia lãnh đạo phong trào đấu

tranh chống thực dân Pháp, nhưng không sớm lập được Đảng riêng hoặc đảng lập ra

có cương lĩnh chưa vững vàng. Điều ấy xuất phát ở chỗ giai cấp tư sản ở thuộc địa

Pháp bị lệ thuộc quá chặt chẽ vào thực dân Pháp về quyền lợi, thế lực kinh tế yếu ớt và

số lượng nhỏ bé, không cho phép họ có tiếng nói chính trị mạnh mẽ hơn. Trong khi đó,

bởi cần nhiều nhân công cho công cuộc khai thác ban đầu với vốn đầu tư còn ít, công

nhân ở thuộc địa Pháp lại ra đời sớm hơn giai cấp tư sản, chủ yếu là công nhân mỏ và

công nhân đồn điền. Với ưu thế đông đảo, có quyền lợi gắn bó chặt chẽ với nhân dân

lao động hơn giai cấp tư sản, lại có sự hỗ trợ tích cực từ phong trào công nhân Pháp

vốn có truyền thống cách mạng từ lâu, giai cấp công nhân thuộc địa Pháp đã tham gia

đấu tranh giải phóng dân tộc và ngày càng đóng vai trò quan trọng. Ở Đông Dương,

năm 1930, giai cấp công nhân đã thành lập được chính đảng của mình và nắm trọn

quyền lãnh đạo phong trào giải phóng dân tộc.

Tiểu kết chương 2:Như vậy, vào giữa thế kỷ XIX cả Anh và Pháp đều đặt ách

cai trị trực tiếp vào Ấn Độ, Việt Nam và đương nhiên sau đó cả hai nước thực dân này

đều tiến hành xây dựng chế độ thuộc địa của mình. Tinh thần chung của các nước thực

dân khi xâm chiếm thuộc địa là giống nhau, đều là nhằm biến thuộc địa thành một

thuộc địa khai khẩn bậc nhất, đảm bảo siêu lợi nhuận cao cho đế quốc. thế nhưng do

những đặc thù riêng của từng nước đế quốc, xuất phát từ lịch sử xã hội, kinh tế, chính

trị của từng nước mà cách hành xử đối với các thuộc địa của Anh và Pháp có phần

không giống nhau. “Người Anh giống như một luồng nước chảy mạnh và nhanh, họ

đầy kiên trì, đầy nghị lực và có một tinh thần dũng cảm không ai có thể chống lại. nếu

họ thực sự muốn một cái gì, thì họ sẽ dùng bạo lực để có cho được cái đó” [dẫn theo 4,

84

tr.156]. Nước Anh lúc bấy giờ lại đi đầu trong cuộc cách mạng công nghiệp và “việc

nước Anh đã sớm vượt trội trong những ngành then chốt này tự thân nó là một thành

tựu-không phải do trời cho, không phải ngẫu nhiên mà có, mà là kết quả của sự làm

việc, của trí thông minh tháo vát, trí tưởng tượng và tài kinh doanh” [4, tr.218]. Còn

nước Pháp, với những tư tưởng tiến bộ từ cuộc thời kỳ Ánh sáng và cuộc cách mạng tư

sản Pháp năm 1789 đã tạo ra những vỏ bọc cho sự xâm lược của mình nhưng “chủ

trương rằng hiện tượng thực dân là do một ý tưởng vô vị lợi đem reo rắc văn minh chỉ

đạo là một giả hình” [20,tr.19] và “họ lợi dụng tôn giáo để xâm nhập về kinh tế, biến

người bản xứ thành tay sai cho đế quốc và phản bội Tổ Quốc” [20, tr.207]. Do đó, xét

về lối hành xử Anh có phần khéo léo, khôn ngoan hơn cả trong lĩnh vực chính trị cũng

như kinh tế, văn hóa, xã hội. Họ tập trung vào khai thác và đầu tư, khác với người

Pháp với hi vọng biến thuộc địa phải trở thành phiên bản của Pháp trong cả chính trị,

văn hóa và xã hội. Chính điều này sau đó đã gây ra những tác động rất khác nhau trong

và sau thời kỳ thuộc địa.

85

Chương 3. TÁC ĐỘNG TỪ CÁC CHÍNH SÁCH THUỘC ĐỊA

CỦA ANH VÀ PHÁP ĐỐI VỚI ẤN ĐỘ VÀ VIỆT NAM

Trong các nước thực dân kiểu cũ, Anh và Pháp được coi là hai đại diện tiêu biểu

nhất cả về diện tích các thuộc địa và cách cai trị. Họ đã cùng thực hiện ở Ấn Độ và

Việt Nam những chính sách tương đối giống nhau nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển

của nền kinh tế đế quốc và phục hồi sự giảm sút địa vị của các nước tư bản già cỗi

như: thực hiện việc cai trị trực tiếp, chia để trị, hợp để trị về chính trị; khai thác, bóc

lột tàn tệ về kinh tế trên cơ sở vẫn duy trì những quan hệ sản xuất tiền tư bản và du

nhập thêm quan hệ sản xuất tư bản; nắm độc quyền về ngoại thương; thực hiện đồng

hóa các khía cạnh khác nhau trong lĩnh vực văn hóa; hạn chế phát triển giáo dục bản

địa… Tuy nhiên, để phục vụ tốt nhất, hiệu quả nhất cho nhu cầu của chính quốc, bên

cạnh những chính sách chung đó, hai nước đế quốc Anh và Pháp cũng tạo ra những lối

hành xử riêng đối với thuộc địa mang đậm bản chất, đặc trưng của mình nhằm xây

dựng nên những thuộc địa kiểu Anh hoặc kiểu Pháp. Kết quả là những hệ quả mà

chính sách thuộc địa của hai đế quốc này mang lại cũng gồm có hai mặt chung và

riêng và đương nhiên cũng có cả tác động tiêu cực lẫn tích cực.

3.1. Những tác động tiêu cực từ các chính sách thuộc địa của Anh, Pháp đối với

Ấn Độ và Việt Nam

3.1.1. Về kinh tế

Trên lĩnh vực kinh tế, Ấn Độ và Việt Nam đều phải “thừa hưởng” một di sản đặc

biệt nặng nề do chế độ thuộc địa để lại. Đó là một nền kinh tế què quặt, biến dạng, chủ

yếu phục vụ nhu cầu khai thác của chính quốc, hầu như không có công nghiệp

nặng…Họ biến các nước thuộc địa trở thành cái đuôi của nền kinh tế tại chính quốc,

chuyên cung cấp những gì chính quốc cần và gánh hộ những hậu quả khủng hoảng,

thiệt hại của chính quốc.

Điển hình như chính sách tô cao thuế nặng của Anh trong nông nghiệp và công

nghiệp đã dẫn đến một số tác động tiêu cực đến tình hình kinh tế, xã hội của Ấn Độ:

Sự sụp đổ của các ngành công nghiệp dệt may, sản phẩm kim loại, thủy tinh và giấy.

86

Tình trạng thất nghiệp ngày càng tăng của thợ dệt buộc họ phải chuyển sang canh tác

nông nghiệp. Năm 1813, thủ công mỹ nghệ của Ấn Độ bị mất cả hai thị trường trong

và ngoài nước. Từ một nước xuất khẩu Ấn Độ đã trở thành một nước nhập khẩu các

mặt hàng may mặc. Như vậy, rõ ràng là các chính sách kinh tế của Anh là để phục vụ

lợi ích của Công ty Đông Ấn và sau đó là Đế chế Anh. Bên cạnh đó, trong thời gian

cai trị của Anh, các khoản thu trong lĩnh vực nông nghiệp mà chủ yếu là đất tiếp tục

tăng, lý do cho điều này rất nhiều. Trước đó, Anh đến để thương mại với Ấn Độ. Dần

dần, họ cần tiền để chinh phục lãnh thổ rộng lớn của Ấn Độ, để phát triển thương mại,

các dự án của công ty cũng như chi phí cho lĩnh vực quản lý. Bắt đầu từ năm 1765 khi

công ty giành được quyền thuế ở Bengal, Bihar và Orissa, họ đã cố gắng nghĩ và thực

hiện nhiều chính sách để loại bỏ các khiếm khuyết của hệ thống thuế đất. Năm 1793,

Lord Cornwallis giới thiệu hệ thống thu thuế mới ở Bengal, Bihar và Orissa, được gọi

là sự định cư vĩnh viễn (The Permanent Settlement). Theo hệ thống này, địa chủ sẽ trở

thành chủ sở hữu đất vĩnh viễn, được quyền cha truyền con nối trên đất của mình. Họ

phải trả một số tiền tức thuế cho Công ty vào một ngày cố định trong năm hoặc đất của

họ sẽ bị tịch thu và bán cho địa chủ khác. Tuy định cư vĩnh viễn mang lại lợi cho địa

chủ nhiều hơn Công ty vì thuế là cố định và không bị tính thêm bất kỳ khoản nào do

tăng năng suất nhưng nó vẫn có một vài tác động không tốt đến nền kinh tế: địa chủ dễ

bị mất đất khi mùa vụ không thuận lợi, thương mại hóa đất đai, để tăng thu nhập thì

địa chủ ưu tiên trồng các loại cây công nghiệp hơn lương thực- một trong những

nguyên nhân gây ra nhiều nạn đói tồi tệ. Ngoài ra còn có các chính sách về thuế áp

dụng cho cộng đồng làng xã (hệ thống thuế Mahalwari năm 1822) ở Punjab, khu vực

Madhya Pradesh và Tây Uttar Pradesh, áp dụng cho nông dân (hệ thống thuế

Ryotwari) trong thời gian 30 năm và phải trả khoảng một nửa tổng sản phẩm canh tác.

Chính sách của Anh còn khiến nền nông nghiệp của Ấn Độ bị thương mại hóa. Nhiều

loại cây trồng thương mại đã được trồng nhằm các mục đích khác nhau. Thuốc phiện

Ấn Độ đã được sử dụng để đổi lấy trà của Trung Quốc, việc buôn bán thuốc phiện đã

được kiểm soát chặt chẽ bởi các thương nhân Anh và có rất ít cơ hội cho các người Ấn

kiếm lợi nhuận. Ấn Độ cũng đã buộc phải sản xuất chàm và bán nó theo sự quyết định

bởi người Anh, chàm đã được gửi sang Anh và được sử dụng như một chất nhuộm vải

87

của Anh. Tất cả nông dân bắt buộc phải trồng chàm trên 3/20 diện tích đất của họ. Còn

trong các đồn điền trà quyền sở hữu thay đổi khá thường xuyên. Các công nhân trong

đồn điền làm việc gặp phải rất nhiều khó khăn. Thương mại hóa nông nghiệp còn làm

tăng tốc độ chuyển quyền sở hữu đất do đó làm tăng số lượng người lao động không

có đất. Nó cũng mang lại một số lượng lớn nhà buôn và tầng lớp trung gian. Người

nông dân bây giờ phụ thuộc vào họ để bán sản phẩm trong thời gian thu hoạch. Bởi vì

những người nông dân bây giờ chuyển sang cây công nghiệp, sản xuất lương thực

giảm đi và dẫn đến nạn đói và sự nổi dậy của những người nông dân. Chính sách kinh

tế của Anh đã mang lại cho họ một khoản lợi nhuận lớn, một khoản lớn trong đó được

dùng để trả lương cho người Anh đang cai trị Ấn Độ. Nếu khoản chi này được đầu tư ở

Ấn Độ nó đã có thể cải thiện rất nhiều nền kinh tế ở đất nước này.

Ở Việt Nam, “chính sách nông nghiệp của Pháp đã buộc quá nhiều người lâm

vào cảnh nghèo đói, sự mất đất và các loại thuế khắc nghiệt được đặt ra bởi các nhà

cầm quyền thuộc địa làm cho nông dân quá nghèo để mua hàng hóa thành phẩm”

[34, tr.76].

Trong công nghiệp, “điều kiện làm việc nghèo nàn, lương thấp, và sự đối đãi tàn

tệ rất phổ biến trong các ngành sản xuất ở An Nam. Một ví dụ nghiêm trọng về điều

kiện làm việc trong ngành công nghiệp là công ty sản xuất lốp Micheli. Vào giai đoạn

bùng nổ thập niên 20 của thế kỷ XX, Michelin đã tạo hàng nghìn việc làm ở thuộc địa.

Các đồn điền cao su cung cấp nguyên liệu thô, và công ty thành lập những cơ sở sản

xuất tại nhiều địa điểm. Mặc dù mang đến cơ hội việc làm, Michelin cũng đã trở thành

một biểu tượng của những nơi có điều kiện làm việc nghèo nàn và đối xử độc ác của

An Nam. Hầu hết người lao động bị bệnh sốt rét, kiết lỵ, suy dinh dưỡng, hoặc cả ba.

Từ năm 1917 cho đến năm 1944, 12.000 trong số 45.000 công nhân, gần một phần bốn

đã chết vì các điều kiện làm việc tồi tệ.” [34, tr.77].

3.1.2. Về chính trị-xã hội

Ở Ấn Độ và Việt Nam còn tồn tại những mối quan hệ chính trị ngổn ngang do

chính sách “chia để trị” và “hợp để trị” của thực dân; một nền văn hóa lai căng giữa

các yếu tố Âu châu với các yếu tố bản xứ; một xã hội tồn tại rất nhiều giai cấp, cả cũ

cả mới với trình độ dân trí vô cùng hạn chế… Với những “di sản” này, sau khi giành

88

độc lập, các nước thuộc địa cũ đã phải vất vả trong việc đấu tranh, cải tạo chúng, từ đó

mới bắt tay thực sự được vào công cuộc xây dựng đất nước. Công cuộc khôi phục và

phát triển đó không phải ở nước thuộc địa cũ nào cũng thực hiện suôn sẻ và nhanh

chóng thành công. Có nhiều nước do không giải quyết nổi các khó khăn lúc ban đầu đã

chọn giải pháp tạm thời quay lại dựa vào chính quốc cũ, tức là chấp nhận một sự lệ

thuộc mới với những thỏa hiệp của đế quốc đó, rõ nhất là trường hợp của thuộc địa

Anh. Và cũng vì thế nền độc lập còn chưa vững chắc, tồn tại nhiều yếu kém do hoàn

cảnh khách quan, hầu hết các thuộc địa cũ này lại trở thành mục tiêu, đối tượng của

chủ nghĩa thực dân kiểu mới.

Để chứng minh rõ hơn những “di sản” do thực dân để lại, chúng ta có thể tìm

hiểu vài nét về hai “di sản” phổ biến nhất ở các thuộc địa sau giải phóng đó là nạn đói

và nạn dốt. Người ta đã thống kê được rằng, ngay trong thời kì còn dưới ách thực dân,

bản thân các nước thuộc địa là nơi xuất khẩu và cung cấp lương thực chủ yếu cho

chính quốc, nhưng nhân dân thuộc địa vẫn bị chết đói và số người chết đói ngày càng

gia tăng, tỉ lệ với số lượng lương thực xuất khẩu. Ở Ấn Độ, trong nửa sau thế kỉ XIX,

số lượng lương thực xuất khẩu tăng lên hơn 10 lần thì số người dân Ấn Độ chết đói

tăng lên 37,5 lần. Sau khi giành được độc lập, Ấn Độ có 80% dân số sản xuất lương

thực nhưng vẫn là một nước thiếu lương thực. Tình hình đó cũng diễn ra tương tự ở

Việt Nam thuộc Pháp. Sự cấu kết bóc lột thuộc địa giữa thực dân Pháp với quân phiệt

Nhật từ năm 1940 đã gây ra nạn đói khủng khiếp đầu năm 1945, làm chết gần 2 triệu

người dân. Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, Việt Nam có gần 90% dân số là

nông dân, nhưng nguy cơ của nạn đói mới vẫn còn đe dọa… Về nạn dốt, theo một

cuộc điều tra của Hội đồng bảo trợ Liên hợp quốc, vào những năm 50, tỉ lệ trẻ em đi

học ở Angiêri là 15%, Tuynidi là 17%, châu Phi đen là 10 – 15%. Tỉ lệ mù chữ ở các

nước thuộc địa rất cao: Xu-đăng là 99,9%, Nam Phi là 90%, Ấn Độ là 92% (năm

1950) và ở Việt Nam là hơn 90% (năm 1945)… Chính sách ngu dân của chủ nghĩa

thực dân chính là cơ sở dẫn đến hậu quả này.

Ở Việt Nam, cũng gặp phải những khó khăn tương tự, sau cách mạng tháng Tám

thành công, ngày 2/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập khai sinh

ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Chính quyền Cách mạng ra đời chưa có thời

89

gian củng cố, đã phải đương đầu với hàng loạt khó khăn thách thức của “giặc đói”,

“giặc dốt”, “giặc ngoại xâm”. Việt Nam đã bắt tay ngay vào giải quyết những khó

khăn cấp bách của đời sống nhân dân, tăng cường thực lực cách mạng trên tất cả các

phương diện chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội mà trước đó đang rất nguy

kịch: Dưới chế độ thực dân nửa phong kiến, nền nông nghiệp Việt Nam hết sức nghèo

nàn về cơ sở vật chất, lạc hậu về kỹ thuật và hoàn toàn dựa vào lao động thủ công và

phụ thuộc vào thiên nhiên. Năng suất các loại cây trồng đều rất thấp. Năng suất lúa

bình quân 1 ha thời kỳ 1930-1944 là 12 tạ, trong khi đó Thái Lan là 18 tạ và Nhật Bản

là 34 tạ. Ruộng đất phần lớn tập trung trong tay giai cấp địa chủ phong kiến và thực

dân Pháp. Nhân dân lao động chiếm 97% số hộ nhưng chỉ sử dụng 36% ruộng đất.

Trong nông thôn có tới 59,2% số hộ không có ruộng đất phải sống bằng cày thuê, cấy

rẽ. Nghịch cảnh sâu sắc diễn ra dưới thời thực dân Pháp chiếm đóng: Hàng năm Việt

Nam xuất khẩu trên 1 triệu tấn gạo trắng, nhưng nông dân Việt Nam, người làm ra lúa

gạo, lại luôn luôn phải chịu cảnh đói nghèo. Năm 1945 có trên 2 triệu người chết đói.

Cơ sở vật chất kỹ thuật nghèo nàn: cả nước chỉ có 12 công trình thuỷ nông nhỏ, đảm

bảo tưới cho 15% diện tích canh tác, không có công trình tiêu úng nên lũ lụt thường

xuyên xảy ra, bình quân 2 năm 1 lần vỡ đê. Nông nghiệp chủ yếu là quảng canh, năng

suất cây trồng, vật nuôi rất thấp. Năm 1939 được coi là năm được mùa nhất trước cách

mạng nhưng năng suất lúa bình quân cả nước Việt Nam cũng chỉ đạt hơn 10 tạ/ha. Sản

xuất công nghiệp rất nhỏ bé và què quặt, chủ yếu là công nghiệp khai thác mỏ và một

số cơ sở công nghiệp nhẹ nhằm bóc lột nguồn nhân công rẻ mạt và vơ vét tài nguyên

khoáng sản. Từ năm 1930 đến năm 1945, thực dân Pháp đã khai thác: 2,76 triệu tấn

than, 217.300 tấn kẽm, chì; 598.000 tấn sắt, măng gan, 1.384 kg vàng, 315.500 tấn

phốt pho. Trong hơn 10 năm, từ năm 1930 đến năm 1943, cả nước chỉ có khoảng 200

xí nghiệp công nghiệp và 90.000 công nhân, trong đó 60% là công nhân khai thác mỏ.

Việt Nam không có một cơ sở công nghiệp luyện kim, công nghiệp chế tạo thiết bị và

hoá chất nào. Công nghiệp hàng tiêu dùng cũng chỉ có một số nhà máy đường, rượu,

xay xát lương thực, dệt may, giấy với máy móc thiết bị cũ. Vào những năm 1938-

1939, tỷ trọng công nghiệp chỉ chiếm 10% trong tổng giá trị sản lượng công nông

nghiệp cả nước. Khu vực tiểu thủ công nghiệp và các làng nghề truyền thống bị kìm

90

hãm và mai một. So với tổng số vốn đầu tư vào công nghiệp toàn Đông Dương thời kỳ

1913-1939, vốn đầu tư cho ngành mỏ chiếm 40%, riêng thời kỳ 1924-1930 là 52%,

trên 90% dân số mù chữ. Trung bình 1 vạn dân chỉ có 115 học sinh vỡ lòng, 210 học

sinh tiểu học, 2 học sinh chuyên nghiệp và đại học. Cơ sở y tế thiếu thốn và chủ yếu

phục vụ cho quân đội viễn chinh Pháp và bọn tay sai phản động. Cả nước Việt Nam

chỉ có 213 bác sĩ, 335 y sĩ, 264 nữ hộ sinh, bình quân 1 vạn dân mới có 0,23 bác sĩ và

y sĩ [44].

Với hệ quả ấy, các thuộc địa cũ sau khi giành độc lập đã phải nỗ lực rất nhiều

trong cải tạo, xóa bỏ tàn tích quá khứ và có như thế, họ mới thực sự có được sự phát

triển độc lập, vững bền cho chính mình. Ngoài ra, dựa trên chủ nghĩa xét lại trong

nghiên cứu lịch sử Nam Á, các học giả cho rằng “truyền thống của xã hội Ấn Độ như

ta biết hiện nay là sản phẩm do thực dân Anh sáng tạo vào thế kỷ 19” [42, tr.167]. Và

Đạo Hồi với cộng đồng Hồi giáo tại Ấn Độ, cho dù thực tế ngày nay là một quốc gia,

thì cũng là một sản phẩm tưởng tượng do thực dân Anh hun đúc nên. Thực dân Anh

chính là những người đầu tiên đặt nền móng hình thành nên tư tưởng Đa số và Thiểu

số ở Ấn Độ khi tiến hành cuộc điều tra xã hội vào cuối thế kỷ19 về tôn giáo. Theo

Mushirul Hasan đề cập trong cuốn India’s Partition thì Syed Ahmad Khan, người

thành lập ra trường đại học Aligarh, đã giới thiệu về mặt ngôn ngữ và từ vựng từ Chủ

nghĩa thiểu số. Ông đưa ra khái niệm này khi có tư tưởng ái ngại cho một số người

theo đạo Hồi tại Ấn sẽ bị đe dọa bởi số đông những người theo Hindu giáo với cải

cách quan liêu, hay sợ bị ảnh hưởng từ chính sách giáo dục của Anh, chiến dịch phục

hồi Hindu giáo mạnh mẽ khiến trong ông hình thành tư tưởng ly khai để bảo vệ quyền

lợi cho chính mình và những người như mình. Cuộc điều tra này đã phân định về số

lượng giữa hai tôn giáo lớn, Hindu giáo và Hồi giáo, và hình thành một khoảng cách

mập mờ cho những người dân không có ý niệm nào về việc phân chia tôn giáo trên

vùng tiểu lục địa này. Khi nhìn thấy sự bất mãn của quần chúng Ấn Độ dưới sự cai trị

của mình, thực dân Anh dùng chính sách chia và trị. Bên cạnh việc tạo ra các yếu tố về

văn hóa thiên về tôn giáo để gây chia rẽ trong cộng đồng thì biện pháp hữu hiệu nhất

của Anh là liên tục tiến hành cải cách để điều chỉnh chính sách sao cho phù hợp và

hiệu quả nhất trong việc gây mâu thuẫn trong nội bộ Ấn Độ. Điểm mấu chốt nhất của

91

các cải cách Ripon năm 1882-1883, chia rẽ Bengal năm 1905, cải cách Morley-Minto

năm 1909, Montagu- Chemsford năm 1919 và đặc biệt là đạo luật Rowlatt năm 1935

là bầu cử riêng rẽ. Đạo luật Rowlatt còn được đánh giá là âm mưu gây rối nội bộ Ấn

Độ. Ngoài ra, thực dân Anh còn ủng hộ nhóm người Hồi giáo ở tầng lớp cao, tạo nên

sự chia rẽ giữa người Hồi giáo và Hindu giáo, các tầng lớp cao thấp giữa những người

Hồi giáo vốn trước đó hàng triệu người theo Hindu giáo và Hồi giáo sống trên khắp

đất nước này trong mối thân tình, hoà thuận tuyệt vời. Thế mà vào ngày 14/8/1947,

tiểu lục địa Ấn Độ bị chia cắt thành hai lãnh thổ, hai quốc gia độc lập và quan niệm

của những nhà sử học theo khuynh hướng chủ nghĩa dân tộc Ấn Độ là đổ lỗi cho chủ

nghĩa thực dân Anh đã xé rời hai cộng đồng có chung một lịch sử và truyền thống với

chính sách “chia và trị”. Nếu nhìn nhận một cách khách quan, chúng ta có thể thấy

rằng thực dân Anh đã gây ra tình trạng mâu thuẫn giữa hai tôn giáo này bằng những

chính sách chia để trị của mình, nhưng vấn đề chia cắt của Ấn Độ từ 1947 cho đến nay

thì không thể đổ lỗi cho thực dân Anh mà đó là trách nhiệm của chính phủ Ấn Độ và

Pakistan, mà cụ thể là ở hai nhà lãnh đạo liên đoàn Hồi giáo M.A.Jinnah và lãnh tụ

Đảng Quốc đại J.Nehru. Do đó, trong phạm vi của luận án này, khi đánh giá về hệ quả

của các chính sách thực dân, người nghiên cứu cho rằng chính sách chia để trị của thực

dân Anh chỉ có hệ quả là gây ra mâu thuẫn sâu sắc giữa các tôn giáo trong Ấn Độ

thuộc Anh lúc bấy giờ mà thôi.

3.2. Những tác động tích cực từ những chính sách thuộc địa của Anh, Pháp đối

với Ấn Độ và Việt Nam.

3.2.1. Về kinh tế

Có thể khẳng định rằng những chính sách thuộc địa của Anh và Pháp đều nhằm

mục đích khai thác thuộc địa một cách hiệu quả nhất, lâu dài nhất. Do đó những hệ

quả, tác động tích cực mà họ mang lại cho thuộc địa là ít ỏi và mang tính khách quan.

Tuy nhiên, do đặc thù và sự linh hoạt của từng nước đế quốc mà tác động ấy có sự

nhiều hay ít hơn. Cũng như C. Mác đã từng phân tích về sự thống trị của thực dân Anh

ở Ấn Độ, chủ nghĩa thực dân kiểu cũ nói chung khi thống trị thuộc địa sẽ phải thực

hiện một quá trình gồm hai mặt: mặt phá hoại và mặt xây dựng.

92

Xuất khẩu và nhập khẩu tại các thuộc địa, đặc biệt là với các vùng lãnh thổ nhiệt

đới mới chiếm được vẫn chưa đủ. Họ muốn nhìn thấy Bộ Thuộc địa sẽ thông qua một

chính sách tích cực cho sự phát triển thuộc địa, một trong số đó sẽ là tăng sản xuất của

thuộc địa và giảm bớt thương mại giữa các nước thuộc địa với các nước khác. Trước

khi doanh nghiệp tư nhân có thể khai thác các nguồn lực một cách hiệu quả thì đường

sắt, đường giao thông, bến cảng và các công trình khác của cơ sở hạ tầng trong lĩnh

vực kinh tế cũng cần thiết được xây dựng đồng thời phải nghiên cứu các vấn đề trong

sản xuất [41, tr.9].

Khi tiến hành đặt ách cai trị lên thuộc địa, mặc dù theo đặc thù của chủ nghĩa

thực dân kiểu cũ vẫn là giữ lại cơ bản sự thống trị của giai cấp cũ, nhưng đối với thực

dân Anh và Pháp, để đảm bảo cho sự cai trị tuyệt đối, thống nhất và hiệu quả của

mình, đã tiến hành xóa bỏ, phá vỡ một số điểm lạc hậu của xã hội trước đây như: làm

phá sản các công xã nông thôn (ở Ấn Độ thuộc Anh), gia giảm hoặc tước quyền của

các tiểu vương để thống nhất các tiểu vương dưới sự điều khiển của thực dân, phần

nào giảm bớt tình trạng chia cắt, xẻ lẻ lãnh thổ và những xung đột vũ trang giữa các bộ

lạc hoặc các tiểu vương quốc… Sự phá hoại này đã giúp giảm bớt đi những tàn tích

nặng nề của chế độ cũ và đồng thời cũng tạo ra cơ sở cho chủ nghĩa thực dân tiến hành

mặt xây dựng. Mặt xây dựng của chủ nghĩa thực dân Anh và Pháp ở thuộc địa chủ yếu

biểu hiện ở việc đưa các yếu tố xã hội phương Tây vào thuộc địa nhằm mục đích để

cai trị và khai thác thuộc địa hiệu quả hơn và phục vụ cho đời sống của giới thực dân ở

thuộc đia. Mặt xây dựng này thể hiện rõ hơn ở các nước thuộc địa Anh, nhất là về kinh

tế. Về kinh tế, họ du nhập vào Ấn Độ và Việt Nam một số lượng lớn các loại cây trồng

thương mại như: cao su, chè, cà phê, chàm, thuốc phiện, bông, đay, mía và hạt có

dầu….Đến cuối năm 1869, hơn 4000 dặm đường sắt đã được xây dựng tại Ấn Độ.

Mặc dù, trong quy hoạch, xây dựng và quản lý của người Anh, lợi ích và sự phát triển

của Ấn Độ không hề được xem xét và tính đến. Mục đích chính là để phục vụ lợi ích

kinh tế, hành chính và quân sự của người Anh trên đất Ấn. Sự đi lại thuận tiện của

người dân Ấn Độ bằng đường sắt giữa các thành phố lớn chỉ là một tác động khách

quan. Ngoài ra, sự xuất hiện của đường sắt còn giúp phá vỡ rào cản tôn giáo và đẳng

cấp trong xã hội Ấn Độ. Con người thuộc các tôn giáo và nguồn gốc xã hội khác nhau

93

cùng đi trong một khoang tàu, tiếp xúc với nhau chính là một thách thức cho các quan

niệm chính thống lâu đời về tiện dân, chế độ đẳng cấp… Đây là những lợi ích cơ bản

cho sự phát triển của dân tộc Ấn Độ. Sự ra đời của đường sắt, điện báo và hệ thống

bưu chính đã gắn kết các khu vực khác nhau của Ấn Độ và thúc đẩy sự trao đổi ý kiến

của người dân, đặc biệt là các nhà lãnh đạo tại các khu vực. Dòng điện báo đầu tiên từ 8 Calcutta đến Agra đã được thiết lập vào năm 1853. Với một con tem nửa đồng anna7F

có thể gửi được một lá thư tới khắp các vùng ở Ấn Độ. Sự cải thiện trong hệ thống

thông tin liên lạc đã góp phần hình thành nên tinh thần đoàn kết của các khu vực ở Ấn

Độ. Sách, báo, tạp chí được lưu hành rộng rãi, dễ dàng để người Ấn Độ nắm bắt thông

tin trên cả nước.

Cuộc sống của người dân cũng có nhiều biến chuyển khi người Pháp vào Việt

Nam. Họ cũng xây dựng các tuyến đường sắt kết nối các thành phố lớn. Niềm tự hào

đặc biệt cho cả người Việt Nam và người Pháp là đã có một tuyến đường sắt nối thủ

đô phía Bắc, Hà Nội và Sài Gòn là thành phố lớn ở miền Nam Việt Nam. Ngoài các

đường sắt, xe tải và xe ô tô cũng được nhập khẩu từ Pháp,họ xây dựng lề đường,

đường và cầu cống. Mặc dù nó được giới hạn chủ yếu là các thành phố lớn, thị xã

nhưng người Pháp cũng mang điện đến nhiều nơi ở Việt Nam. Họ thiết kế Sài Gòn và

Hà Nội thành những nơi rất đẹp, thành phố hiện đại với công viên công cộng tốt, và

những con đường rộng. Họ xây dựng các khách sạn mà hiện nay vẫn còn sử dụng. Các

nhà hàng ngoài trời, các tòa nhà hiện đại, và những đại lộ rộng lớn ở Sài Gòn giống

như Paris. Người Pháp thậm chí còn xây dựng luật pháp, y tế và trường học, giới thiệu

việc thực hành y học hiện đại.

3.3.2. Về chính trị-xã hội

Những chính sách của Anh đã làm xuất hiện những yếu tố mới ở Ấn Độ và Việt

Nam.Ở Ấn Độ, đó là sự xuất hiện của tầng lớp trung lưu và cho vay lãi. Thời hạn đóng

thuế và đòi hỏi quá mức thu nhập của chính phủ Anh buộc nông dân phải vay vốn từ

người khác. Những người cho vay thường bóc lột nông dân bằng cách tính lãi suất cao.

Họ thường sử dụng những cách không công bằng như ghi chép sai sự thật, chữ ký giả

mạo. Hệ thống pháp luật và chính sách mới được giới thiệu bởi người Anh chỉ cho 8 Anna: đồng tiền ở Ấn Độ và Pa-ki-xtan trước kia, có giá trị bằng 1/16 đồng rupi

94

những người là thương gia địa phương hoặc địa chủ vay tiền. Trong trường hợp,

những người này không trả lại khoản vay với lãi suất đầy đủ thì đất đai của họ sẽ

chuyển sang tay của chủ nợ. Một tác động lớn nữa do chính sách kinh tế của Anh ở Ấn

Độ là sự ra đời của tầng lớp trung lưu mới. Với sự gia tăng lợi ích thương mại của

Anh, cơ hội mới mở ra cho một phần nhỏ người dân Ấn Độ. Họ thường hoạt động như

các đại lý, trung gian của các thương nhân Anh và có tài sản rất lớn. Sau Permanent

Settlement đã hình thành nên một phần của tầng lớp mới này, họ chính là những người

thay thế tầng lớp quý tộc địa chủ cũ bị mất quyền sở hữu đất đai. Những người này

biết tiếng Anh và trở thành tầng lớp trung lưu mới. Với sự lây lan của sức mạnh Anh

tại Ấn, cơ hội việc làm mới cũng được tạo ra. Xã hội Ấn Độ đã chứng kiến sự ra đời

của tòa án luật mới, các quan chức chính phủ và các cơ quan thương mại. Những

người có tri thức tự nhiên có được sự bảo trợ và một tầng lớp trung lưu có tay nghề đã

được tạo ra bởi người Anh. Khi người Anh đến Ấn Độ, họ cũng mang những ý tưởng

mới như quyền tự do, bình đẳng, quyền công dân từ thời kỳ Phục Hưng, Phong trào

Cải cách và từ những cuộc cách mạng khác diễn ra ở châu Âu. Những ý tưởng này đã

thức tỉnh một số thành phần của xã hội Ấn, dẫn đến một số phong trào cải cách ở các

tầng lớp khác nhau để tìm kiếm sự thống nhất xã hội và phấn đấu hướng tới tự do, bình

đẳng. Đi đầu trong các phong trào này là tầm nhìn chiến lược của Raja Ram Mohan

Roy, Sir Syed Ahmed Khan, Aruna Asaf Ali và Pandita Ramabai. Tri thức Ấn Độ như

Raja Rammohan Roy đã có những hành động để loại trừ tệ nạn xã hội.

Ở Việt Nam, “dưới sự cai trị của Pháp, chính quyền thực dân kiểm soát tất cả các

mối quan hệ nước ngoài, dân sự hành chính, thương mại và hải quan. Đông Dương

không có tự do báo chí, tự do ngôn luận, tự do rời khỏi đất nước. Kết quả là hầu hết

người An Nam bị mắc kẹt tại quê hương của họ. Nhưng từ bên ngoài, ảnh hưởng

chống thực dân từ từ bắt đầu tràn vào Đông Dương. Vào thế kỷ XX, các tác phẩm của

nhà triết học Pháp thế kỷ mười tám, Tuyên ngôn Độc lập Mỹ, và Tuyên ngôn Nhân

quyền của Pháp đã đến trong tay của tầng lớp trí thức thông qua Đông Dương Bản

dịch của Trung Quốc. Ngay sau đó, các công trình của Karl Marx, HG Wells, Charles

Darwin, và các kinh tế và các nhà khoa học chính trị đã được dịch sang quốc ngữ và

người An Nam có thể đọc…Một nhóm được gọi là "trí thức mới" xuất hiện. Không

95

giống như các nhóm xã hội khác, không phải tình trạng cũng không phải sự giàu có

được coi là một trí thức mới-quan trọng là quan điểm chính trị của họ. Các thành viên

trí thức mới đã đọc, viết, và suy nghĩ về sự thay đổi. Đồng thời, những người An Nam

khác lại quan tâm đến những nhân vật anh hùng, cả ở trong và ngoài nước, cả trong

quá khứ và hiện tại [34, tr.83].

Một hệ quả đặc biệt quan trọng nữa đối với các thuộc địa của Anh và Pháp cũng

xuất phát từ điểm giống và khác nhau giữa chúng, đó là về phong trào đấu tranh giải

phóng dân tộc, về tình đoàn kết, hợp tác và xây dựng đất nước sau khi giành độc lập cụ

thể như sau:

Về những nét tương đồng, trong quá trình đấu tranh giành độc lập và xây dựng

đất nước, do có những điểm tương đồng, các nước thuộc địa đã có xu hướng liên kết

với nhau rất rõ nét. Đối với các thuộc địa của Pháp, sự liên kết đó được biểu hiện ở sự

thành lập và hoạt động của Hội Liên hiệp các dân tộc thuộc địa Pháp và tình đoàn kết

chiến đấu của nhân dân ba nước Đông Dương… Đối với các thuộc địa của Anh, sự tập

trung các thuộc địa cũ trong một tổ chức là Khối Liên hiệp Anh, cùng đấu tranh giành

quyền bình đẳng với nước Anh và quan hệ mật thiết với nhau trên nhiều lĩnh vực cũng

nói lên sự liên kết đó.

Các thuộc địa của Anh và Pháp trong điều kiện bị cai trị của từng đế quốc có

nhiều điểm khác nhau đã hình thành nên những nét đặc thù về con đường phát triển và

trình độ phát triển, song vẫn giữ mối quan hệ gắn bó tự nhiên vì cùng chịu nhiều hậu

quả giống nhau từ quá khứ thuộc địa. Mối quan hệ liên kết giữa các thuộc địa. Mối

quan hệ liên kết giữa các thuộc địa của Anh và các thuộc địa của Pháp được biểu hiện

rất đa dạng như các quan hệ song phương (ví dụ: Ấn Độ - Việt Nam), các quan hệ ở

từng khu vực (châu Phi, Đông Nam Á…) và các quan hệ trong các tổ chức, hội nghị

(Hội nghị Liên Á tháng 3 năm 1947 tại New Delhi (Ấn Độ), Hội nghị Á – Phi năm

1955 tại Băngđung (Inđônêxia)… Các mối quan hệ liên kết này ngày càng phát triển

theo hướng hợp tác tốt đẹp với mục tiêu cùng giúp nhau qua quá khứ, tiến tới tương

lai, xây dựng tình hữu nghị, sự tiến bộ và lợi ích chung…Bên cạnh sự liên kết giữa các

thuộc địa với nhau, phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở các thuộc địa của Anh

và Pháp còn có xu hướng đoàn kết chặt chẽ và mật thiết với phong trào đấu tranh của

96

nhân dân chính quốc. Chính mối quan hệ qua lại sâu sắc giữa chủ nghĩa đế quốc ở

chính quốc và chủ nghĩa đế quốc ở thuộc địa mà như Nguyễn Ái Quốc đã ví với hình

ảnh “con đỉa hai vòi”, là cội nguồn cho sự thống khổ chung của nhân dân lao động ở

cả chính quốc cũng như thuộc địa, cái “vòi” này là nguồn nuôi dưỡng cho cái “vòi”

kia. Muốn chấm dứt sự thống khổ ấy, nhân dân lao động nhất thiết phải chặt đứt hai

vòi của con đỉa đế quốc. Và đó là cơ sở cho mối quan hệ giữa cách mạng chính quốc

và cách mạng thuộc địa. Điều này thể hiện rất rõ ở nước Pháp và thuộc địa của nó.

Về những điểm khác biệt, việc lựa chọn con đường và giai cấp lãnh đạo phong

trào giải phóng dân tộc ở Ấn Độ và Việt Nam là khác nhau và nó biểu trưng cho các

thuộc địa của Anh và Pháp. Con đường thường thấy ở hầu hết các thuộc địa kiểu Anh

là con đường đấu tranh dưới sự lãnh đạo của giai cấp tư sản, còn các thuộc địa của

Pháp (mà Đông Dương là thuộc địa quan trọng và điển hình nhất là có xu hướng chọn

con đường giải phóng dân tộc dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân. Sự khác nhau

này có thể được giải thích bằng lí do chủ yếu là kinh tế. Chính nền kinh tế tư bản chủ

nghĩa phát triển sớm và mạnh hơn (do được đầu tư) ở các thuộc địa Anh đã tạo ra một

giai cấp tư sản tương đối đông đảo, có tiềm lực kinh tế nhất định, có ý thức chính trị

cao và do đó đã sớm khẳng định được vai trò lãnh đạo phong trào giải phóng dân tộc

của mình. Hơn nữa, chính sách cai trị gián tiếp, mềm dẻo và dần chuyển sang hình

thức chủ nghĩa thực dân kiểu mới với mô hình các lãnh thổ tự trị đã cho thấy ở một

mức độ nào đó thực dân Anh có chủ ý tạo điều kiện cho giai cấp tư sản ở thuộc địa

phát triển và coi đây là chỗ dựa để duy trì địa vị của mình. Thực tế trong lịch sử phát

triển của mình, tư sản Anh rất thành công trong việc “tư sản hóa” kẻ thù giai cấp, biến

nó thành những bộ phận có chung quyền lợi và quay trở lại phục vụ tích cực cho mình.

Điều đó thể hiện ở những chính sách mua chuộc, biến một bộ phận công nhân thành

“công nhân quý tộc” hoàn toàn xa lạ về quyền lợi và mục đích đấu tranh của giai cấp

công nhân nói chung; thể hiện ở việc biến một bộ phận giai cấp phong kiến thành

phong kiến tư sản hóa. Đối với thuộc địa, thực dân Anh cũng tiến hành tương tự như

vậy. Bên cạnh việc tạo điều kiện phát triển kinh tế cho một bộ phận giai cấp tư sản

thuộc địa tay sai, thực dân Anh còn tìm ra cách khống chế hiệu quả sự trỗi dậy của giai

cấp tư sản dân tộc. Ở Ấn Độ, thực dân Anh cho phép giai cấp tư sản bản xứ thành lập

97

Đảng Quốc đại, thậm chí còn giúp đỡ rất nhiệt tình, nhưng thông qua đó, đã nhanh

chóng chi phối đường lối của Đảng này, biến nó thành “cái nắp an toàn” cho sự thống

trị của Anh. Sự chi phối này diễn ra suốt một thời gian dài và có tác động to lớn đến

phương pháp đấu tranh của giai tư sản bản xứ. Hầu hết các Đảng tư sản ở thuộc địa

Anh đều lựa chọn đấu tranh theo con đường ôn hòa. Điều đó rất thuận lợi cho thực dân

Anh, trước xu thế thời đại sau này, thực hiện việc trao trả độc lập “nhẹ nhàng” cho các

thuộc địa mà vẫn giữ được quyền tiếp tục chi phối chúng. Chính sách mềm mỏng với

giai cấp tư sản thuộc địa tạo điều kiện cho giai cấp này phát triển và giành quyền lãnh

đạo phong trào đấu tranh ở thuộc địa trong sự kiểm soát của người Anh, điều đó cũng

đồng nghĩa với việc thực dân Anh kìm hãm sự trưởng thành của giai cấp vô sản thuộc

địa, khiến giai cấp này có thể đông nhưng không mạnh, thành lập đảng cộng sản muộn

và đảng này thường không giành được quyền lãnh đạo phong trào giải phóng dân tộc.

Có thể nói, những gì mà thực dân Anh áp dụng với giai cấp tư sản và vô sản ở thuộc

địa chính là những biểu hiện của một thực dân “mạnh” có ưu thế vượt trội về kinh tế,

quân sự và kinh nghiệm cai trị thuộc địa… Bởi những lí do trên, giai cấp tư sản ở

thuộc địa Anh ngày càng có tiếng nói nhất định trong cuộc đấu tranh giành độc lập, tuy

nhiên quyền lợi thì lại ràng buộc với tư bản Anh. Thực tế lịch sử đã chứng minh, dưới

sự lãnh đạo của giai cấp tư sản, phong trào đấu tranh giành độc lập của nhân dân các

thuộc địa của Anh đã phát triển rất mạnh mẽ từ cuối thế kỉ XIX và đã sớm giành được

hầu hết quyền tự trị. Nhưng, hầu hết các thuộc địa của Anh sau khi giành được độc lập

lại tham gia vào Khối Liên hiệp Anh dưới sự đứng đầu của Anh, lại tiếp tục đấu tranh

giành quyền bình đẳng về thành viên và xây dựng Khối Liên hiệp Anh theo hướng

hiện đại. Điều đó như một minh chứng cho sự ràng buộc mật thiết không thể tách rời

giữa giai cấp tư sản các thuộc địa và nước Anh. Phải chăng vì thế mà cuộc cách mạng

giải phóng dân tộc ở thuộc địa Anh thường được coi là không triệt để, điển hình như

Ấn Độ, trước khi độc lập đã bị tách thành hai nước: Ấn Độ của những người Ấn Độ

giáo và Pakixtan của những người Hồi giáo?

Ở các thuộc địa của Pháp thì ngược lại, nền kinh tế thuộc địa phát triển muộn và

thua kém hơn đã khiến cho giai cấp tư sản ở các thuộc địa của Pháp không giành được

những ưu thế như giai cấp tư sản ở các thuộc địa của Anh. Thêm vào đó, là kẻ đại diện

98

cho thực dân “yếu” (phát triển kinh tế tư bản muộn và kém hơn Anh trên nhiều lĩnh

vực), thực dân Pháp không có khả năng thực hiện được những chính sách mềm mỏng,

hiệu quả như Anh. Do vậy, với lực lượng đông đảo hơn, hội tụ đủ các yếu tố chủ quan

và khách quan, truyền thống và hiện đại (tinh thần yêu nước, những đặc điểm chung

của giai cấp công nhân thế giới, đồng minh tự nhiên với giai cấp nông dân, được trang

bị lí luận Mác – Lênin), bị áp bức, bóc lột nặng nề, lại được sự hỗ trợ tích cực từ

phong trào công nhân ở thuộc địa của Pháp vốn cũng có truyền thống cách mạng cao,

giai cấp công nhân thuộc địa của Pháp đã sớm nắm được ngọn cờ lãnh đạo phong trào

giải phóng dân tộc. Dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân, phong trào giải phóng

dân tộc ở các thuộc địa của Pháp diễn ra rất triệt để, bất chấp những thủ đoạn lừa bịp

khôn khéo hay những hoạt động quân sự rầm rộ, ráo riết của thực dân Pháp. Việt Nam

chính là một thuộc địa của Pháp rất điển hình về sự lựa chọn con đường giải phóng

dân tộc này. Mặc dù Việt Nam đã giành được độc lập từ tay quân phiệt Nhật (kẻ đánh

bại thực dân Pháp ở Đông Dương) bằng cuộc Cách mạng tháng Tám dưới sự lãnh đạo

của Đảng Cộng sản và lãnh tụ Hồ Chí Minh, nhưng với bản chất ngoan cố, thực dân

Pháp đã núp bóng quân Anh tiếp tục quay trở lại xâm lược Việt Nam lần thứ hai với

mong muốn khôi phục lại chế dộ thuộc địa ở nơi đây. Song, theo con đường cách

mạng đã chọn, nhân dân Việt Nam đã tiến hành kháng chiến chống Pháp thắng lợi với

đỉnh cao là chiến thắng Điện Biên Phủ lẫy lừng năm 1954, thực sự quét sạch quân

Pháp khỏi Đông Dương. Chiến thắng Điện Biên Phủ ở Việt Nam đã được coi là mốc

đánh dấu mở đầu cho sự sụp đổ cho chủ nghĩa thực dân kiểu cũ. Nó đã đánh bại mưu

đồ khôi phục lại hệ thống thuộc địa của một tên thực dân kiểu cũ, ngoan cố, điển hình

nhất, đó là thực dân Pháp, mặc dù Pháp đã tìm cả sự giúp đỡ ở nước Mĩ - một đế quốc

mạnh nhất bấy giờ.

Mặc dù cùng xây dựng, phát triển đất nước đi lên từ điểm xuất phát là thuộc địa,

nhưng những nước vốn là thuộc địa của Anh có nhiều điều kiện để phát triển kinh tế

và hiện nay có nhiều nước phát triển nhanh hơn các nước vốn là thuộc địa của Pháp.

Có thể coi chính sách thuộc địa khác nhau của thực dân Anh và thực dân Pháp là một

trong những lí do để giải thích điều đó, bởi rõ ràng nhờ chính sách đầu tư mạnh cho

thuộc địa của thực dân Anh, các thuộc địa Anh đã được thừa hưởng một hệ thống cơ

99

sở vật chất – kĩ thuật tốt hơn hẳn so với các thuộc địa Pháp, trong khi đó đế quốc Pháp

lại chú trọng hơn đến xuất khẩu tư bản với hình thức cho vay lấy lãi là chính, ít đầu tư

vào thuộc địa. Tuy nhiên, theo người viết, trong thời đại khoa học – công nghệ phát

triển mạnh mẽ, nhanh chóng như hiện nay, sự khác biệt đó chỉ mang tính tạm thời và

không đóng vai trò chi phối tất cả. Sự nhạy bén, kịp thời và đúng đắn trong đường lối

phát triển mới chính là yếu tố quyết định sự phát triển vững bền cho mỗi quốc gia.

3.3.3. Về văn hóa-giáo dục

Mặc dù mặt xây dựng của thực dân Anh và Pháp không nhằm mang lại lợi ích

cho thuộc địa, nhưng do sự phát triển khách quan, những yếu tố xây dựng của thực dân

đã thực sự làm thay đổi bộ mặt thuộc địa. Phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa với

công nghiệp, khoa học kĩ thuật đã xuất hiện ở các thuộc địa, dù theo lối áp đặt và cón

rất phiến diện nhỏ bé, nhưng đã tạo ra được những cơ sở đầu tiên cho sự phát triển

kinh tế của thuộc địa theo một hướng mới, tiếp cận với trình độ của thế giới. Những

yếu tố văn hóa tích cực của phương Tây du nhập vào thuộc địa, nhất là báo chí và giáo

dục đã tạo ra những nhân tố và lực lượng mới để cải tạo xã hội. Các tri thức người bản

xứ được đào tạo theo phương pháp phương Tây đã sớm được tiếp xúc với văn hóa,

khoa học cùng các kiến thức cần thiết để xây dựng đất nước, và chính họ, với vốn

tiếng Anh, tiếng Pháp, những cơ hội du học ở chính quốc sẽ là những người đầu tiên

nhận thức được tình cảnh của dân tộc, có nhiều khả năng nhất trong việc tìm ra con

đường giải phóng dân tộc và lãnh đạo cuộc đấu tranh cuộc giải phóng dân tộc đúng

đắn. Phải chăng vì thế mà người ta đã từng nói rằng, những người bản xứ chống Pháp

sâu cay nhất là những người giỏi tiếng Pháp nhất và con đường sang Pháp là con

đường chống nước Pháp.

Về mặt giáo dục, giáo dục phương Tây còn ảnh hưởng đến xã hội Ấn Độ trong

một cách mà người Anh không bao giờ có thể tưởng tượng ra. Lý thuyết của các triết

gia như John Locke, Jeremy Bentham, Adam Smith, Voltaire đã thấm nhuần trong tư

tưởng của người dân bản địa cùng với các khái niệm về một Ấn Độ tự do, bình đẳng

và dân chủ. Kết quả của việc tiếp xúc với những tư tưởng này đó chính là Ấn Độ bắt

đầu nhận ra sự cần thiết phải thay đổi. Bên cạnh đó, việc áp dụng tiếng Anh trong hệ

thống giáo dục là một phước lành trong mục đích ngụy trang của thực dân Anh. Ấn Độ

100

từ các khu vực khác nhau nói ngôn ngữ khác nhau bây giờ có thể giao tiếp với nhau

thông qua môi trường tiếng Anh. Tiếng Anh do đó đã đoàn kết tri thức Ấn lại với nhau

và mang lại một cảm giác của sự thống nhất giữa họ. Một tinh thần dân tộc dần dần

xuất hiện. Những chính sách của người Pháp cũng đã tạo nên nhiều thay đổi trong lĩnh

vực giáo dục, đồng thời văn hóa Việt Nam cũng có thêm nhiều yếu tố mới đến từ

phương Tây. Phát xuất từ yêu cầu của việc cai trị và những nhận thức khác nhau về

tình hình Việt Nam, các Đô đốc, Toàn quyền Pháp đã có những chủ trương khác nhau

trong việc tổ chức nền giáo dục Phổ thông thay cho nền Nho học hiện đang tồn tại. Đã

có lúc các sỹ quan Pháp định xóa bỏ việc học chữ Hán, phủ nhận chương trình Nho

học nhưng rồi họ cũng nhận ra rằng: phong tục, ngôn ngữ, luật pháp của một dân tộc

không thể dễ dàng thay đổi; phải dùng cả chữ quốc ngữ, chữ Hán để phổ biến khoa

học, làm cho nền văn minh của nước Pháp thâm nhập vào dân chúng. Sự cẩn trọng đã

thay thế cho thái độ vội vàng. Người Pháp đã từng bước xây dựng được một chương

trình học toàn diện nhằm mang đến cho học sinh những hiểu biết về đất nước, con

người, cách ứng xử và những tri thức thuộc về khoa học thường thức gắn liền với các

môn học như Toán pháp, Luân lý, Quốc văn, Sử ký, Địa dư, Cách trí, Vệ sinh, Triết

học… được quy định cụ thể về nội dung, thời lượng. “Trường học đã nhận được 1,5

triệu franc để xây dựng cơ sở vật chất thích hợp cho giáo dục và đào tạo Pháp và An

Nam. Trường đào tạo chuyên nghiệp cũng nhận được cùng một số tiền” [34, tr 51].

“Chương trình học cũng lưu giữ lại một số nội dung của nền Nho học như việc giảng

dạy trong một chừng mực nhất định các sách Tứ Thư, Ngũ Kinh và nhiều tác phẩm

chữ Hán khác. Không còn vẻ huy hoàng trong quá khứ, nền Nho học của thế kỷ XIX

đã trở thành lực cản của sự phát triển xã hội, lỗi thời về nội dung và phương pháp.

Tầng lớp sỹ phu có thể là hình mẫu đạo đức, trọn đạo trung quân nhưng lại không hữu

dụng trong việc phát triển khoa học kỹ thuật, mở mang kinh tế, dựng xây tiềm lực

quốc phòng để đất nước đủ khả năng đối mặt với âm mưu và sự xâm lược của thực dân

phương Tây. Trong khi đó, chương trình học của Pháp, tuy nặng nền nhưng có phạm

vi rộng, đã đáp ứng được yêu cầu nhận thức lẫn thực nghiệm đối với người học. Từ lợi

thế này, chương trình mới đã dần thay thế những nguyên lý Khổng – Mạnh; nền giáo

dục Việt Nam tách khỏi ảnh hưởng của Trung Hoa, mang diện mạo hoàn toàn mới:

101

“Trường học được lập và tổ chức theo mô hình hiện đại, vận hành theo kiểu công

nghiệp: học chính quy, được tổ chức chặt chẽ theo hệ thống ngành dọc, giống như nhà

máy – tập trung và đúng giờ giấc; chương trình học theo từng cấp, từng hệ, tương đối

được thống nhất, với phương pháp giảng dạy được đưa vào từ chính quốc. Việc bỏ chữ

Hán, để thay thế bằng tiếng Pháp và một phần chữ Quốc ngữ sẽ thay đổi dần lối tư duy

và những kiến thức rập khuôn, có sẵn trong sách vở, cũng có nghĩa là tiếp cận với

những tư tưởng và nền văn minh phương Tây hiện đại…, học sinh chuyển từ lối học

thụ động sang lối học chủ động, tích cực. Học không viển vông như trước mà mang

tính chất thực tiễn nhiều hơn. Tinh thần khoa học làm thay đổi phương pháp tư duy và

lối sống của học sinh…mở ra một chân trời mới lạ cho thanh niên Việt Nam”.

Những thay đổi trong giáo dục đã tác động đến nền văn hóa Việt Nam. “Nhờ

những cải cách giáo dục, số người biết đọc tăng lên, tạo cơ hội cho sự phát triển của

báo chí. Giáo dục tạo đã cho sự phát triển của văn học, báo chí, trở thành cốt lõi văn

hóa. Trưởng thành từ nhà trường Pháp – Việt, các trí thức Tân học đã tiếp nhận những

giá trị của hệ tư tưởng khai sáng về tự do, bình đẳng, bác ái…và sau khi vượt qua

những trở ngại, tiếng Pháp, ngôn ngữ chính trong học đường, trở thành phương tiện để

trí thức Việt Nam tiếp xúc trực tiếp với các hệ tư tưởng mới của thời đại, để văn hóa

Việt Nam giao lưu với văn hóa Pháp và phương Tây. Như vậy, thông qua trường học

(và những con đường khác), “Trước hết, lớp văn hóa phương Tây mang đến cho văn

hóa Việt Nam những giá trị mới như tự do, bình đẳng, dân chủ…là những giá trị nhân

văn thuộc về con người phổ quát mà tư tưởng Ánh sáng nêu ra. Sau đó, nó giúp người

Việt Nam phát triển được ý thức cá nhân, coi cá nhân không đối lập mà hỗ trợ cho sự

phát triển của xã hội. Chính sự thức tỉnh của ý thức cá nhân đã là một trong những

động lực phát triển của văn hóa giai đoạn này.

Trong các trường Pháp – Việt, học sinh được tiếp xúc nhiều với văn chương và

lịch sử Pháp, được dạy nhiều về “sự khai hóa của Pháp ở An Nam” và định hướng

nhìn nhận những cuộc khởi nghĩa của dân chúng là bạo loạn giặc cướp. Tạp chí Nam

Phong (1919) đã bày tỏ sự lo lắng: “Trong các trường trung học, người ta không dạy

cho học trò Nam sử và Việt văn, người ta dạy lịch sử Pháp và văn chương Pháp. Bởi

thế cho nên những học sinh ta sau khi tốt nghiệp hay đã thôi học không biết tí gì về

102

nước mình, người ta đã làm cho họ hóa ra người ngoại quốc”. Cuối niên khóa 1941 –

1942, theo số liệu của Annuaire statistique de 1’ I-C, Việt Nam có 3 trường Trung học,

16 trường Cao đẳng Tiểu học, tuyệt đại đa số học sinh là ở bậc Tiểu học, mà chủ yếu

thuộc trình độ Sơ đẳng, chiếm 88,18%; 1% ở bậc Cao đẳng Tiểu học và chỉ 0,12% ở

bậc Trung học. Như vậy, không thể phủ nhận những tiến bộ về chương trình học, sự

quy củ của hệ thống tổ chức giáo dục, hệ thống bằng cấp của nền giáo dục Pháp – Việt

và tầm cao học vấn của các trí thức Tân học: “Nhìn lại lịch sử hình thành lớp trí thức

Việt Nam qua các thế hệ, tôi [Hoàng Tụy] vẫn băn khoăn một câu hỏi lớn: tại sao

trong hơn 80 năm qua, hình như chưa có thế hệ trí thức nào vượt qua được về tài năng,

trí tuệ và cả phẩm chất nhân cách, thế hệ trí thức những năm 30 – 45 thế kỷ trước –

thời kỳ Tự lực Văn đoàn, trào lưu Thơ mới, có các nhạc sỹ Văn Cao, Đặng Thế Phong,

có các nhà khoa học, giáo dục hiện đại Đặng Thai Mai, Hoàng Xuân Hãn, Tạ Quang

Bửu, Lê Văn Thiêm, Tôn Thất Tùng, Hồ Đắc Di, Nguyễn Mạnh Tường, Nguyễn Văn

Huyên, Trần Đức Thảo, có những nhà hoạt động chính trị Phạm Văn Đồng, Võ

Nguyên Giáp, Phan Thanh… Hầu hết những trí thức này đều học trường Pháp” nhưng

nếu xem xét nên giáo dục Việt Nam từ lập trường dân tộc và tiêu chí đánh giá sự phát

triển là số học sinh theo học tại các cơ sở giáo dục do người Pháp tổ chức thì những

đánh giá đại loại như “Thực dân Pháp thực hiện chính sách ngu dân về giáo dục, đầu

độc về văn hóa nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho chúng trong việc cai trị và khai thác

thuộc địa” không hẳn hoàn toàn là hay phát xuất từ định kiến chính trị. “Chính sách

giáo dục ngu dân làm công cụ nô dịch tinh thần” có thể là nhận định nặng lời đối với

nền giáo dục phổ thông thời Pháp đô hộ. Nhưng quan điểm “coi giáo dục như một thứ

của quý không thể đem phân phát cho bất kì ai” và sự hạn chế về đối tượng học sinh

“trước hết trong đám con em những người cầm đầu, con em những bậc kì hào” đã dẫn

đến tình trạng hơn 95% dân số Việt Nam mù chữ sau cách mạng tháng Tám – 1945.

Điều này đã đi ngược lại sứ mệnh khai hóa mà Pháp đã tuyên bố khi bắt đầu cuộc

chiến tranh xâm lược.

Không còn đủ sức để giải quyết các vấn đề xã hội, lại bị chính tầng lớp sỹ phu và

học sinh người Việt chối bỏ, đầu thế kỷ XX, nền Nho học đã vĩnh viễn trôi vào quá

khứ. Sự tồn tại của nền Tây học do chính quyền thực dân Pháp tổ chức dù không thành

103

công nếu nhìn từ quan điểm giáo dục đại chúng nhưng đã góp phần hiện đại hóa nền

giáo dục bản xứ, đặt nền tảng xây dựng nền giáo dục theo hướng hiện đại, hợp thời. Đi

cùng với sự phát triển của giáo dục, văn hóa phương Tây dần lan tỏa vào xã hội Việt

Nam đương cơn chuyển mình và một cách tự nhiên, hòa nhập vào văn hóa dân tộc.

Văn hóa phương Tây đã gợi ra cho các sỹ phu Phạm Phú Thứ, Đặng Huy Trứ,

Nguyễn Trường Tộ… những ý tưởng cải cách giáo dục thực sự nhưng tính bảo thủ của

văn hóa đã gieo rắc nỗi hoài nghi và cùng với những chuyển biến bất ngờ của tình hình

chiến sự, đã ngăn cản việc thực hiện các kiến nghị canh tân đất nước. Mô hình giáo

dục phương Tây đã được chính quyền thực dân Pháp áp dụng ở Việt Nam nhưng trong

buổi đầu, dân chúng đã phản ứng bằng thái độ bất hợp tác và chỉ chấp nhận khi mô

hình giáo dục này chứa đựng yếu tố bản xứ. Như vậy, dù trong hoàn cảnh đất nước

còn chủ quyền độc lập hay đã bị kẻ xâm lược tước đoạt, quá trình tiếp xúc, tiếp nhận

văn hóa luôn đi cùng với quá trình tiếp biến, tương tác văn hóa. Sự nghiệp “chinh phục

tinh thần” của người Pháp đã tạo nên nhiều thay đổi trong lĩnh vực giáo dục đồng thời

văn hóa bản xứ cũng có them nhiều yếu tố mới đến từ phương Tây. Tuy những tư

tưởng cao quý của trào lưu triết học Ánh sáng kết tinh trong khẩu hiệu “Tự do – Bình

đẳng – Bác ái” không được thể hiện, nhưng sự ra đời học chính do người Pháp chủ trì

đã đánh dấu bước phát triển của nền giáo dục Việt Nam.” [19, tr 109-114].

Trong thực tế, cũng có một số tác động tích cực đã đến Đông Dương thông qua

hệ thống trường học của Pháp. Về lý thuyết, giáo dục là giáo dục cho người An Nam

theo cách của Pháp thống nhất trên toàn quốc và họ đã làm được điều đó ở một mức

định thông qua sự lây lan của chữ quốc ngữ. Nhưng thật không may, hệ thống giáo dục

áp đặt lên Đông Dương chỉ củng cố huyền thoại là người châu Á là kém cỏivà chỉ có

thể nâng cao trình độ thông qua người Pháp. Sách giáo khoa của người An Nam được

kiểm duyệt để ngăn chặn bất kỳ ảnh hưởng chống thực dân xâm nhập vào các trường

học, và theo đuổi một nền giáo dục đại học ở nước ngoài. Mặc dù một số người An

Nam đã nhận được bằng đại học, họ vẫn không nhận được cùng một mức lương trong

lực lượng lao động là người Pháp” [34, tr.87].

104

Tiểu kết chương 3: Như vậy, hệ quả của các chính sách thuộc địa đối với bản

thân đế quốc Anh và Pháp cũng như đối với các nước thuộc địa là rất to lớn, sâu sắc và

được thể hiện ở hai mặt: chung và riêng. Đó là biểu hiện của tính biện chứng, khách

quan của lịch sử - xã hội và do vậy xâm lược thuộc địa chắc chắn không phải là giải

pháp tốt nhất cho sự phát triển của một quốc gia, nhà nước nào cả. Lịch sử từ giữa thế

kỉ XX đến nay đã chứng minh cho sự thật ấy. Thời đại mới đang tạo cơ hội cho các

nước Anh, Pháp và các thuộc địa cũ khép lại quá khứ, hướng tới tương lai, cùng xây

dựng mối quan hệ hợp tác, bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau, hai bên cùng có lợi. Đây mới

chính là xu hướng của sự phát triển và tiến bộ mà thế giới đang khẳng định. Đối với

thực dân Anh và Pháp, việc đi xâm chiếm các thuộc địa giàu tiềm năng như Ấn Độ và

Đông Dương đã mang lại rất nhiều lợi ích kinh tế cho họ. Nhờ bóc lột thuộc địa, tư

bản Anh, Pháp ngày càng trở nên giàu có, thu được nhiều lợi nhuận khổng lồ và giải

quyết được vấn đề về nhân công, mở rộng thị trường. Các nước này chiếm độc quyền

mua bán ở các thuộc địa của mình và đã biến thuộc địa trở thành nơi tiêu thụ hầu hết

hàng hóa, nơi cung cấp thường xuyên một khối lượng lớn các sản phẩm cần thiết cho

chính quốc. Việc tiêu thụ áp đặt đối với thuộc địa và sự nhập khẩu ồ ạt, dễ dàng bởi

thuế quan thấp đã không tạo ra được cơ chế kích thích cho sản xuất trong nước mà

ngược lại, nó tạo ra sự thụ động rất lớn cho kinh tế của chính quốc. Việc độc quyền

thuộc địa đã dần làm mất đi tính cạnh tranh của kinh tế Anh, Pháp và do đó, các nước

này ngày càng tụt hậu so với các nước tư bản “trẻ” như Mĩ, Đức. Như thế có nghĩa là

thuộc địa là thế mạnh giữ lại địa vị cho đế quốc Anh, Pháp, nhưng đồng thời chính nó

lại khiến cho hai đế quốc này không thể phát triển thêm địa vị của mình được nữa.

Việc bóc lột thuộc địa đã đem lại nguồn lợi rất lớn cho cả Anh và Pháp, nhưng lại làm

cho nền kinh tế của các nước này ngày càng phát triển thụ động, mang tính chất ăn

bám và mất tính cạnh tranh.

Một tác động nữa từ quá trình đi xâm chiếm thuộc địa là nó đã khiến mối quan hệ

giữa Anh và Pháp trở nên hết sức phức tạp: lúc thì tranh giành, căng thẳng, lúc thỏa

hiệp, hợp tác. Sự tranh giành đã trở thành tất yếu đối với các nước đế quốc khi mà nhu

cầu thuộc địa đã trở nên bức thiết và những mảnh đất “vô chủ” thì chẳng còn bao

nhiêu. Hai đế quốc này đụng độ về quyền lợi với nhau ở rất nhiều khu vực:tại Châu

105

Phi, nổi bất nhất là quyền lợi ở Ai Cập (vụ kênh đào Xuyê), Xuđăng (vụ Phasôđa)…

Năm 1898, tại làng Beticubas ở Tây Ni-giê, quốc kì Anh và Pháp kéo lên chỉ cách

nhau 800 thước. Nhưng rồi sự căng thẳng cuối cùng cũng phải dịu xuống và giải pháp

“hợp tác” đã được lựa chọn, Pháp buộc phải nhường Ai Cập cho Anh và rút lui khỏi

vùng Phasôđa, không dám tranh chấp Đông Xu-đăng với Anh. Ở châu Á, Pháp chấp

nhận giải pháp của Anh biến Xiêm thành “vùng đệm” giữa khu vực thuộc địa của Anh

và của Pháp và cuối cùng đành để Xiêm trở thành nơi ảnh hưởng nhiều hơn của Anh,

Ngược lại, năm 1946, Anh lại tạo bàn đạp cho Pháp quay trở lại Đông Dương. Sự

“hợp tác” được xuất phát từ quyền lợi chung của hai nước đế quốc “già”- hai đế quốc

có hệ thống thuộc địa lớn nhất, nay buộc phải dựa vào nhau để chống lại cuộc đấu

tranh chia lại thuộc địa của các nước đế quốc “trẻ” có tiềm lực kinh tế mạnh, mà hùng

hổ nhất là Đức. Trong các vụ hợp tác, đế quốc Pháp luôn là nước nhẫn nhịn và chịu

thiệt thòi hơn do tiềm lực kinh tế mạnh hơn của Anh và sự đe dọa trực tiếp của nước

Đức đối với Pháp. Cũng từ sự hợp tác về vấn đề thuộc địa, Anh và Pháp dẫn xích lại

gần nhau và cùng đứng trong một phe đế quốc, đó là phe Hiệp ước để tham gia Chiến

tranh thế giới lần thứ nhất. Bên cạnh đó, người Anh, với chính sách khôn khéo, mềm

dẻo của mình họ đã lập nên mô hình thuộc địa độc đáo là các lãnh thổ tự trị và đặt

chúng trong cùng một tổ chức mà người ta quen gọi là Khối Liên hiệp Anh. Đây là tổ

chức quan trọng đã giúp nước Anh chịu đựng các cuộc khủng hoảng kinh tế trong thế

kỉ XX tốt hơn bất cứ những quan hệ đối ngoại nào. “Điều này có thể dẫn chứng bằng

những số liệu trong thời kỳ khủng hoảng năm 1929 đến năm 1939, tỉ lệ hàng nhập

khẩu từ Khối Liên hiệp vẫn tăng từ 26% lên 38% trong tổng số nhập khẩu của Anh

cũng tăng từ 40% lên 45%” [13, tr.284]. Hơn nữa, các lãnh thổ tự trị còn là những

đồng minh chính trị rất quan trọng và trung thành với chính quốc. Trong Chiến tranh

thế giới thứ nhất, quân đội của các quốc gia này đã tham gia và đóng góp vào thắng lợi

của quân Anh. Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, với vai trò tích cực tham gia cùng

phe thắng trận, mỗi xứ tự trị đã giành cho mình một lá phiếu ở Hội Quốc liên và điều

này có ý nghĩa rất lớn trong việc đảm bảo ưu thế tiếng nói của người Anh trên chính

trường thế giới. Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, khối Liên hiệp Anh ngày càng

chuyển biến theo hướng từ một tổ chức liên hiệp thuộc địa thành một tổ chức quốc tế

106

hiện đại. Điều ấy được thể hiện nổi bật ở sự kiện Ấn Độ giành được độc lập và tham

gia Khối Liên hiệp Anh với một tư cách hoàn toàn mới: tư cách một quốc gia tự chủ có

thể chế cộng hòa. Thực ra, để chấp nhận sự chuyển biến này, chính phủ Anh đã phải

cân nhắc rất nhiều bởi một thành viên cộng hòa với người đứng đầu quốc gia là Thủ

tướng hay Tổng thống được phép tồn tại trong Khối Liên hiệp Anh sẽ vi phạm nghiêm

trọng đến tính nguyên tắc đã ràng buộc các nước thành viên, đó là trung thành với nhà

vua Anh. Nhưng cuối cùng, trên cơ sở xác định “cắt đứt quan hệ với Ấn Độ được coi

như là đòn nghiêm trọng đánh vào sự tồn tại của Khối Liên hiệp Anh vì điều đó tước

đi của khối này gần 2/3 dân số và phần lớn lãnh thổ, làm giảm sút tiềm lực kinh tế và

tổn thất uy tín của khối châu Á và trên toàn thế giới” [3, tr. 328]. Chính phủ Anh đã

tìm mọi cách thỏa hiệp để tiếp nhận thành viên Cộng hòa Ấn Độ (1949). Sự kiện này

đã mở ra một thời kì mới, thời kì mà các quốc gia châu Á và châu Phi vốn là thuộc địa

của Anh sau khi giành được độc lập đã được kết nạp thành viên của Khối Liên hiệp

Anh. Khối Liên hiệp Anh hiện đại đã được khai sinh và trở thành một Khối Liên hiệp

đa sắc tộc. Tất cả các thành viên của nó (trừ Môdămbích gia nhập vào tháng 11 năm

1995) đều có mối quan hệ mang tính lịch sử với nhau (vốn là thuộc địa, khu vực bảo

hộ hoặc lãnh thổ tự trị của đế quốc Anh), đều sử dụng tiếng Anh là ngôn ngữ chính

thức duy nhất và thừa nhân vương triều Anh là biểu tượng của hiệp hội tự do, là người

đứng đầu Khối Liên hiệp Anh về danh nghĩa. Như vậy, có thể nói rằng với chính sách

mềm dẻo và khôn khéo, thực dân Anh đẫ xây dựng thành công tổ chức Liên hiệp các

thuộc địa của mình, biến nó thành một đồng minh tin cậy và vững chắc cho. Nước

Pháp dù cũng rất cố gắng thành lập nên khối liên hiệp của mình, nhưng trên thực tế, tổ

chức đó không thể tồn tại bởi những chính sách cai trị trực tiếp, cứng nhắc của thực

dân Pháp, đã khiến cho các thuộc địa không hề muốn chấp nhận một sự hợp tác mang

tính lừa bịp nào của chính quốc. Tình cảnh cùng cực của nhân dân thuộc địa Pháp đã

thúc đẩy họ đấu tranh quyết liệt để thoát hoàn toàn khỏi sự lệ thuộc vào chính quốc, có

như thế họ mới có cơ hội phát triển cùng các quốc gia độc lập khác. Cũng có trường

hợp như nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, năm 1946 đã kí hiệp ước Sơ bộ ngày 6

tháng 3 với Chính phủ Pháp, chấp nhận là một quốc gia tự do trong Khối Liên hiệp

Pháp, tức là thằ nhận sự tồn tại của Liên hiệp Pháp. Song đó chỉ là một giải pháp tình

107

thế mang tính sách lược mềm dẻo, tạm thời. Và thực tế lịch sử đã chứng minh sự chiến

đấu dũng cảm, quyết liệt của nhân dân Việt Nam với thực dân Pháp, làm nên một

chiến thắng Điện Biên Phủ lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu, đánh bại hoàn toàn

thực dân Pháp ở Đông Dương và đánh dấu sự mở đầu cho sự sụp đổ của chủ nghĩa

thực dân kiểu cũ trên phạm vi toàn thế giới.

Việc thực dân Anh và Pháp tổ chức các đơn vị hành chính, xây dựng hệ thống

thuế quan, mở rộng giao thông vận tải, phát triển bưu chính viễn thông, xây dựng và

huấn luyện quân đội thuộc địa theo kiểu phương Tây… nhằm mục đích phục vụ cai trị,

bóc lột nhưng lại tạo ra những yếu tố hiện đại, những khả năng mới cho các thuộc địa

mà chính nhân dân thuộc địa đã sử dụng chúng rất hiệu quả trong công cuộc chống

chủ nghĩa thực dân và xây dựng đất nước theo hướng tiên tiến sau này. Khi xem xét

tình hình Ấn Độ cuối thế kỉ XIX, C. Mác cũng đã chỉ ra rằng, chính mạng lưới dây

điện tín của thực dân Anh đã góp phần thống nhất Ấn Độ, việc người Anh tổ chức và

huấn luyện quân đội Ấn Độ sẽ tạo điều kiện để Ấn Độ giành được độc lập bằng chính

lực lượng của mình và cách sử dụng hơi nước do người Anh đem vào đã tạo ra khả

năng liên lạc nhanh chóng trong lãnh thổ Ấn Độ cũng như giữa Ấn Độ với châu Âu và

thế giới… Những hệ quả tích cực trên rõ ràng không thể nằm trong ý muốn chủ quan

của thực dân Anh, Pháp và thực sự đã vượt khỏi tầm tính toán, kiểm soát của chún.

Ngay cả khi bắt các thuộc địa tham gia vào vào hai cuộc chiến tranh thế giới để cung

cấp sức người, sức của cho chính quốc, thực dân Anh và Pháp cũng đâu biết được

rằng, chính trong quá trình chiến đấu bên cạnh người Anh, người Pháp trên chiến

trường, những người dân thuộc địa đã hiểu rõ hơn về bản chất của chủ nghĩa đế quốc,

chủ nghĩa thực dân và nhận thức ra vai trò và địa vụ mà dân tộc mình phải xứng đáng

được hưởng, đó là địa vị của những dân tộc độc lập đã cùng góp phần làm nên chiến

thắng cho chính quốc. Đây chính là sự phát triển khách quan của lịch sử tạo nên tiền

đề cho nhân dân các nước thuộc địa tự giải phóng mình. Tuy nhiên, như Mác đã kết

luận về Ấn Độ, chỉ khi nào các thuộc địa giành được độc lập thì mới có thể gặt hái

được đầy đủ và trọn vẹn những yếu tố tích cực trên.

108

KẾT LUẬN

Lịch sử chủ nghĩa thực dân là một nội dung lớn trong lịch sử tiến hóa của nhân

loại. Đây là vấn đề được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm và không ít những công trình

với các góc độ nhìn nhận khác nhau. Cho đến này ngay, mặc dù chủ nghĩa thực dân đã

cáo chung nhưng nhìn nhận lại lịch sử của nó (chủ nghĩa thực dân) thật sự là vấn đề có

ý nghĩa quan trọng. Trong suốt quá trình tồn tại của mình, chủ nghĩa thực dân có một

vị trí quan trọng trong tiến trình lịch sử nhân loại. Việc xâm chiếm thuộc địa có ý

nghĩa sống còn đối với chủ nghĩa thực dân. Dĩ nhiên, để đi đến sự thống trị các nước

thuộc địa ở châu Á có hiệu quả thì chủ nghĩa thực dân phải tốn không ít những thách

thức về người và của. Khi đã trở thành thuộc địa, nửa thuộc địa nhân dân các nước

châu Á bị thống trị trở thành đối tượng bóc lột dã man của các nước thực dân. Nền

thống trị mà các nước thực dân áp đặt ở thuộc địa là hà khắc và toàn diện. Chính sách

thống trị và bóc lột của các nước thực dân về kinh tế, chính trị để lại những hậu quả to

lớn đối với các thuộc địa ở Châu Á xét trên cả hai phương diện: Tiêu cực và tích cực,

trong đó hệ quả tiêu cực là chủ yếu. Chính điều này đã bắt buộc các nước thuộc địa

phải hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Tuy nhiên, những hậu quả tích cực, mặc dù

không phải là cơ bản nhưng nó cũng xuất hiện và điều này nằm ngoài ý muốn của chủ

nghĩa thực dân và vết thương mà chủ nghĩa thực dân để lại cho các dân tộc châu Á là

vô cùng to lớn.

Thực dân Anh và Pháp là hai lực lượng đi đầu trong lĩnh vực xâm chiếm thuộc

địa. Họ xây dựng chế độ thuộc địa khác nhau ở Ấn Độ và Việt Nam nhưng mục đích

của họ đều là “tới bất cứ nơi đâu lợi nhuận dẫn chúng ta đến, khắp mọi biển rộng, mọi

bến bờ. vì tình yêu lợi nhuận, mọi cảng trên thế giới rộng lớn này chúng ta đều thăm

dò” [dẫn theo 4, 144]. Hai hệ thống thuộc địa lớn nhất thế giới vừa mang tính chung

vừa có nét đặc thù đã tạo ra những hệ quả khá quan trọng đối với sự phát triển và mối

quan hệ của hai đế quốc Anh và Pháp. Sau khi hai hệ thống thuộc địa sụp đổ, thời gian

đầu, các nước thực dân rơi vào khủng hoảng, đặc biệt là Pháp với những thất bại nặng

nề ở Đông Dương, còn sau đó, Anh đã nhanh chóng lấy lại thăng bằng hơn với sự giúp

sức của Khối Liên hiệp Anh. Tuy nhiên, ở các thuộc địa thì việc lấy phục hồi nền kinh

109

tế thời hậu thuộc địa gặp nhiều khó khăn và mất rất nhiều thời gian bởi vì các chính

sách thuộc địa của thực dân ngót gần một thế kỷ từ 1858-1945, đã để lại một hệ quả

rất lớn đối với Ấn Độ và Việt Nam trong và sau thời kỳ thuộc địa.Trải qua một khoảng

thời gian dài, người Anh và người Pháp đã áp đặt lên thuộc địa những điều lệ mới, quy

tắc mới buộc người dân bản địa phải tuân theo, thậm chí phải từ bỏ di sản văn hóa của

mình để đồng hóa với nền văn hóa của thực dân. Các cường quốc thực dân tin rằng

một quốc gia thuộc địa khi biếtvề văn hóa phương Tây sẽ không còn chống lại sự

chiếm đóng của thực dân. Thế nhưng kết quả thực dân đạt được còn phụ thuộc rất

nhiều vào cách thức mà họ tiến hành ở thuộc địa và bản tính của người dân bản địa sẽ

quyết định sự tiếp nhận hay từ chối di sản mà thực dân để lại. Sự khéo léo của người

Anh, họ “giống như một luồng nước chảy mạnh và nhanh, họ kiên trì, đầy nghị lực và

có một tinh thần dũng cảm không ai có thể chống lại” [dẫn theo 4, tr.156] đã làm cho

họ thành công hơn Pháp trong quá trình xâm chiếm và cai trị thuộc địa. Mặc dù “sự

xâm nhập của chủ nghĩa tư bản Anh đã làm cản trở nghiêm trọng đối với nền nông

nghiệp và các nghề thủ công truyền thống nhưng mặt khác đưa đến hậu quả khách

quan tất yếu là làm phát triển một số nhân tố của chủ nghĩa tư bản ở Ấn Độ” [16, tr.7].

Ở Việt Nam nói riêng và Đông Dương nói chung, người Pháp cũng làm được điều đó:

“Mặc dù Đông Dương là khu vực có truyền thống nông nghiệp nhưng người Pháp hiểu

rõ tầm quan trọng phải mở rộng ngành công nghiệp trong các thuộc địa. Thực dân tin

rằng họ có thể lấy những thành tựu từ cuộc Cách mạng công nghiệp và áp dụng chúng

vào các thuộc địa” [34, tr.77].

Tóm lại, chủ nghĩa thực dân bên cạnh việc mang lại những yếu tố khách quan

tích cực mà không phải nước thuộc địa nào cũng nhận ra và chấp nhận thì còn để lại

những gánh nặng thật nặng nề cho các nước thuộc về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã

hội… Giải quyết hậu quả ấy là trách nhiệm và đòi hỏi sự nỗ lực cao của các dân tộc

thuộc địa cũng như sự giúp đỡ của cộng đồng quốc tế nhưng phải trải qua nhiều năm

nữa mới khắc phục được. Do đó, “Hãy xóa bỏ nạn người bóc lột người thì nạn dân tộc

này bóc lột dân tộc khác cũng bị xóa bỏ. Khi mà sự đối kháng giữa các giai cấp trong

nội bộ dân tộc không còn nữa, thì đồng thời mối quan hệ thù địch giữa các dân tộc

cũng mất theo” [dẫn theo 9, tr.43].

110

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tiếng Việt

1. Nguyễn Thế Anh (1968), Bán đảo Ấn Độ từ 1857 đến 1947, Quán sách số 34, 117

Lê Lợi, Sài Gòn.

2. Nguyễn thế Anh (1970), Việt Nam dưới thời Pháp đô hộ, Nxb Lửa thiêng,

Sài Gòn.

3. Đỗ Thanh Bình (2010), Lịch sử phong trào giải phóng dân tộc thế kỷ XX - Một

cách tiếp cận, Nxb Đại Học Sư Phạm, Hà Nội.

4. David S. Landes (2001), Sự giàu và nghèo của các dân tộc, vì sao một số giàu đến

thế mà một số lại nghèo đến thế, Ng.dịch Diệu Bình, Nxb thống kê, Hà Nội.

5. F.Ia Pôlianxki (1978), Lịch sử kinh tế các nước ngoài Liên Xô (tập3), Ng.dịch

Trương Hữu Quýnh, Nxb KHXH, Hà Nội.

6. Lê Phụng Hoàng (2009), Các bài giảng về lịch sử chế độ thực dân, Khoa lịch sử-

Đại học Sư phạm Tp. HCM.

7. Jawaharlal Nehru (1990), Phát hiện Ấn Độ (tập 3), Nxb Văn học, Hà Nội.

8. Karl Marx (1867), Tư bản, Nxb CTQG, Hà Nội.

9. Khoa chủ nghĩa xã hội khoa học trường Nguyễn Ái Quốc trung ương (1976), Giới

thiệu tác phẩm của C.Mác và Ph Ăng-ghen “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản”,

Nxb Sự thật, Hà Nội.

10. Nguyễn Văn Kiệm (2003), Góp phần tìm hiểu một số vấn đề lịch sử cận đại Việt

Nam, Nxb văn hóa thông tin, Hà Nội.

11. Đinh Xuân Lâm (2008), Đại cương lịch sử Việt Nam (tập II), Nxb Giáo dục,

Hà Nội.

12. Phan Ngọc Liên (2008), Từ điển thuật ngữ lịch sử phổ thông, Nxb Hà Nội.

13. Michel Beaud (2002), Lịch sử Chủ nghĩa Tư bản – từ 1500 đến 2000, ng.dịch

Huyền Giang, Nxb Thế giới, Hà Nội.

14. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập (tập 1), Nxb CTQG, Hà Nội.

15. Vũ Dương Ninh, Nguyễn Văn Hồng (2009), Lịch sử thế giới cận đại, Nxb Giáo

dục, Hà Nội.

16. Ngô Minh Oanh (2004), Các nhân vật lịch sử hiện đại (tập II): Ấn Độ, Nxb Giáo

dục, Tp. HCM.

111

17. Philippe Devillers (2006), Người Pháp và người Annam, bạn hay thù?, Nxb tổng

hợp Tp. HCM, Tp. HCM.

18. Ray-mông-bác-bê (1963), Đặc điểm của chủ nghĩa thực dân Pháp, Nxb Sự thật,

Hà Nội.

19. Hồ Thanh Tâm (2013), Yếu tố Pháp-Việt trong lĩnh vực cải cách giáo dục ở Việt

Nam thời kỳ 1862-1945, Luận văn thạc sĩ lịch sử, trường Đại học Sư phạm

Tp. HCM, Tp. HCM.

20. Nguyễn Văn Trung (1963), Chủ nghĩa thực dân Pháp – Thực chất và huyền thoại,

Tập I – văn hóa và chính trị, Nam Sơn xuất bản, Huế.

21. Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia (2003), Lịch sử Việt Nam 1858-

1896, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

22. Nguyễn Khắc Viện (1985), Bàn về “thế giới thứ ba”, Nxb Thông tin lý luận,

Hà Nội.

Tiếng Anh

23. Alfred Cunningham (1902), The French in Tonkin and South China, Hongkong

Daily Press, London.

24. Aparoa Basu (1982), Essay in the history of Indian education, New Delhi:

Concept, New Delhi.

25. Arthur Girault (1916), The colonial tariff policy of France, Oxford: At the

Clarendon Press.

26. Cotterell tupp (1906), French Indo-China, Proceedings of the central Asian

society, London.

27. Daniel Butt (2013), Colonialism and Postcolonialism, The International

Encyclopedia of Ethics, Wiley-Blackwell.

28. Darrell J. Kozlowski (2010), Key Concepts in American History-Colonialism,

Chelsea House, London.

29. Erik Bleich (2005), “The legacies of history- Colonization and immigrant

integration in Britain and France”, Theory and Society,3(4), pp.171-195.

30. Frederick Cooper (1947), Colonialism in Question-Theory, Knowledge, History,

University of California Press, London.

112

31. Gregory Fremont-Barnes (2007), Essential Histories, The Indian Mutiny 1857-58,

Osprey Publishing, New York.

32. H. V. Bowen, Elizabeth Mancke, and John G. Reid (2012), Britain’s Oceanic

Empire, Atlantic and Indian Ocean Worlds, c. 1550–1850, Cambridge

University Press, Cambridge.

33. James Onley Dr (2009), The Raj reconsidered: British India’s informal Empire

and spheres of influence In Asia and Africa, Asian Affairs, XL(I).

34. Julia Alayne Grenier Burlette (2007), French influence overseas: The rise and fall

of colonial Indochina, Northwestern State University.

35. Julian Go (2011), Patterns of Empire-The British and American Empires, 1688 to

the Present, Cambridge University Press.

36. Patrick Ziltener, Daniel Künzler (2013), Impacts of Colonialism – A Research

Survey, Journal of World-Systems Research, 19(2), pp.290-311.

37. Paul Gillen and Devleena Ghosh (2007), Colonialism &Modernity, University of

New South Wales Press.

38. Ronald J. Horvath (1972), A Definition of Colonialism, Current Anthropology,

13(1), pp.45-57.

39. Ryan Brown (2010), The British empire in India, Ashbrook Statesmanship Thesis-

Recipient of the 2010 Charles E. Parton Award.

40. S. Gopal (1965), British Policy in India 1858-1905, Cambridge University Press,

Cambridge.

41. Stephen Constantine (2005),The making of British colonial development policy

1914–1940, Frank Cass.

42. Sugata Bose and Ayesha Jalal (2001), Chapter 16: The partition of India and the

creation of Pakistan,Modern South Asia, Oxford.

Internet

43. http://vietnamnet.vn/vn/kinh-te/108902/suy-ngam-ve-khat-vong-phat-trien.html

44. http://www.chinhphu.vn/portal/page/portal/chinhphu/NuocCHXHCNVietNam/Th

ongTinTongHop/kinhtexahoi

PHỤ LỤC

Hình 1.1: Khu vực Nam Á giữa thế kỷ XVIII

Nguồn: H. V. Bowen, Elizabeth Mancke, and John G. Reid, Britain’s Oceanic Empire,

Atlantic and Indian Ocean Worlds, c. 1550–1850, Cambridge University Press, xvii.

Hình 2.1: Ấn Độ năm 1857

Nguồn: Gregory Fremont-Barnes (2007), Essential Histories, The Indian Mutiny

1857-58, Osprey Publishing Tr. 10

Hình 2.3: Thuộc địa của Anh ở Ấn Độ trong thập niên 90 của thế kỷ XIX

Nguồn: James Onley Dr (2009), The Raj reconsidered: British India’s informal Empire

and spheres of influence In Asia and Africa, Asian Affairs, XL(I), tr 45.