ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y DƯỢC NGÔ THỊ TRANG
THỰC TRẠNG STRESS VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ
LIÊN QUAN Ở HỌC SINH TRƯỜNG TRUNG HỌC
PHỔ THÔNG LƯƠNG PHÚ - PHÚ BÌNH
THÁI NGUYÊN
LUẬN VĂN THẠC SĨ Y HỌC
THÁI NGUYÊN - NĂM 2017
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y DƯỢC NGÔ THỊ TRANG
THỰC TRẠNG STRESS VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ
LIÊN QUAN Ở HỌC SINH TRƯỜNG TRUNG HỌC
PHỔ THÔNG LƯƠNG PHÚ - PHÚ BÌNH
THÁI NGUYÊN
Chuyên ngành: Y HỌC DỰ PHÒNG
Mã số : 60 72 01 63
LUẬN VĂN THẠC SĨ Y HỌC
HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. ĐÀM THỊ BẢO HOA
THÁI NGUYÊN - NĂM 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn “Thực trạng stress và một số yếu tố liên
quan ở học sinh trường trung học phổ thông Lương Phú - Phú Bình -Thái
Nguyên” là công trình nghiên cứu của riêng tôi, do tôi thực hiện dưới sự
hướng dẫn của TS Đàm Thị Bảo Hoa.
Các số liệu, kết quả trong luận văn là trung thực và chưa từng được
công bố trong bất kỳ một công trình nghiên cứu nào khác.
Tác giả luận văn
Ngô Thị Trang
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin trân trọng cảm ơn Đảng ủy, Ban giám hiệu, Phòng đào tạo,
Khoa Y tế công cộng – Trường đại học Y Dược Thái Nguyên; Đảng ủy, Ban
Giám hiệu trường Cao đẳng Y tế Thái Nguyên đã tạo điều kiện thuận lợi cho
tôi trong quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn này.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới các Thầy, Cô giáo đã tận
tình giảng dạy, cung cấp kiến thức cho tôi trong quá trình học tập, nghiên
cứu và đóng góp những ý kiến vô cùng quý giá để tôi hoàn thành luận văn và
khóa học này.
Đặc biệt tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc và lời cảm ơn chân thành
tới TS Đàm Thị Bảo Hoa - người thầy đã tận tình giảng dạy, cung cấp cho tôi
những kiến thức, phương pháp luận quý báu và trực tiếp hướng dẫn tôi suốt
quá trình nghiên cứu để tôi hoàn thành luận văn này.
Với lòng biết ơn sâu sắc, tôi xin chân thành cảm ơn những người thân
yêu trong gia đình đã luôn động viên, tạo mọi điều kiện thuân lợi cho tôi
trong quá trình học tập. Tôi xin gửi lời cảm ơn tới bạn bè, đồng nghiệp đã
dành cho tôi những tình cảm tốt đẹp cũng như sự giúp đỡ tận tình để tôi vượt
qua mọi khó khăn, hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình.
Thái Nguyên, tháng 10 năm 2017
Học viên
Ngô Thị Trang
KÝ HIỆU VIẾT TẮT
ĐTNC : Đối tượng nghiên cứu
: Điều tra viên ĐTV
: Knowledge – Attitudes - Practices KAP
(Kiến thức, Thái độ, Thực hành)
: Trung tâm phòng chống khủng hoảng tâm lý PCP
PVS : Phỏng vấn sâu
SKTT : Sức khỏe tâm thần
THPT : Trung học phổ thông
THCS : Trung học cơ sở
TP : Thành phố
VTN : Vị thành niên
WHO : World Health Organization
(Tổ chức Y tế thế giới)
YSR : Youth Self - Report
(Thang đo về hành vi)
DASS : Depression – Anxiety – Stress Scale 21
(Thang đo Trầm cảm – Lo âu – Căng thẳng)
MỤC LỤC
ĐẶT VẤN ĐỀ .............................................................................................................................................................................................. 1
Chương 1. TỔNG QUAN .......................................................................................................................................................... 3
1.1. Một số khái niệm cơ bản ..................................................................................................................................................... 3
1.1.1. Khái niệm về stress ................................................................................................................................................................ 3
1.1.2. Các dấu hiệu của stress .................................................................................................................................................... 3
1.1.3. Nguyên nhân của stress ................................................................................................................................................... 4
1.1.4. Ảnh hưởng của stress .......................................................................................................................................................... 6
1.2. Thực trạng rối loạn stress ở học sinh phổ thông trên Thế giới và Việt Nam ............. 8
1.2.1. Thực trạng rối loạn stress ở học sinh phổ thông trên Thế giới ................................ 8
1.2.2. Thực trạng rối loạn stress ở học sinh phổ thông tại Việt Nam ................................ 9
1.3. Các yếu tố liên quan đến rối loạn stress ở học sinh .................................................................. 12
1.3.1. Các nghiên cứu trên thế giới................................................................................................................................. 12
1.3.2. Các nghiên cứu tại Việt Nam .............................................................................................................................. 15
1.4. Công cụ sử dụng nghiên cứu stress ở học sinh - sinh viên ............................................. 18
1.5. Giới thiệu về địa bàn nghiên cứu ......................................................................................................................... 20
Chương 2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ............................ 21
2.1. Đối tượng nghiên cứu .......................................................................................................................................................... 21
2.2. Thời gian và địa điểm nghiên cứu ...................................................................................................................... 21
2.3. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................................................................................. 21
2.4. Cỡ mẫu và kĩ thuật chọn mẫu ................................................................................................................................... 21
2.5. Công cụ và vật liệu nghiên cứu .............................................................................................................................. 23
2.5.1. Công cụ và vật liệu dành cho nghiên cứu thực trạng stress và tác
hại tâm lý của stress sở học sinh ............................................................................................................... 23
2.5.2. Công cụ và vật liệu dành cho nghiên cứu các yếu tố liên quan đến
stress ở học sinh ................................................................................................................................................................ 23
2.6. Kĩ thuật thu thập số liệu .................................................................................................................................................... 23
2.6.1. Đối với học sinh và cha mẹ của học sinh ........................................................................................... 23
2.6.2. Đối với giáo viên chủ nhiệm và ban lãnh đạo nhà trường ......................................... 24
2.7. Chỉ số nghiên cứu ...................................................................................................................................................................... 24
2.7.1. Các chỉ số về thông tin chung của đối tượng nghiên cứu ........................................... 24
2.7.2. Mục tiêu 1: Các chỉ số về thực trạng stress ở học sinh .................................................. 24
2.7.3. Mục tiêu 2: Các chỉ số về yếu tố liên quan đến stress ở học sinh ................... 24
2.8. Phương pháp đánh giá ......................................................................................................................................................... 25
2.9. Biện pháp khống chế sai số ......................................................................................................................................... 26
2.10. Xử lý và phân tích số liệu ........................................................................................................................................... 27
2.11. Đạo đức nghiên cứu ............................................................................................................................................................ 27
Chương 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ............................................................................................................... 28
3.1. Đặc điểm chung của đối tượng tham gia nghiên cứu ............................................................. 28
3.1.1. Các thông tin chung của học sinh ................................................................................................................. 28
3.1.2. Thông tin chung về nhóm cha mẹ học sinh .................................................................................... 29
3.2. Thực trạng stress ở học sinh trường THPT Lương Phú - Phú Bình -
Thái Nguyên ........................................................................................................................................................................... 30
3.3. Các yếu tố liên quan ............................................................................................................................................................... 35
Chương 4. BÀN LUẬN ............................................................................................................................................................. 45
4.1. Đặc điểm chung của đối tượng tham gia nghiên cứu ............................................................. 45
4.1.1. Các đặc điểm chung về nhóm học sinh nghiên cứu ............................................................ 45
4.1.2. Các đặc điểm chung về nhóm cha mẹ học sinh ........................................................................ 46
4.2. Thực trạng stress ở học sinh trường THPT Lương Phú – Phú Bình –
Thái Nguyên ........................................................................................................................................................................... 46
4.3. Một số yếu tố liên quan đến stress ở học sinh trường Trung học phổ
thông Lương Phú – Phú Bình – Thái Nguyên ....................................................................... 49
4.3.1. Liên quan theo khối học, giới tính và dân tộc ............................................................................. 49
4.3.2. Liên quan giữa yếu tố gia đình và stress ở học sinh ........................................................... 51
4.3.3. Liên quan giữa các yếu tố thuộc về nhà trường với stress ở học sinh ....... 53
4.3.4. Liên quan giữa các hành vi sức khỏe và stress ở học sinh ........................................ 55
KẾT LUẬN .................................................................................................................................................................................................... 57
1. Về thực trạng stress ở học sinh trường THPT Lương Phú – Phú Bình –
Thái Nguyên ........................................................................................................................................................................... 57
2. Một số yếu tố liên quan đến stress ở học sinh trường THPT Lương Phú
– Phú Bình – Thái Nguyên ................................................................................................................................ 57
KHUYẾN NGHỊ .................................................................................................................................................................................... 58
TÀI LIỆU THAM KHẢO ..............................................................................................................................................................
PHỤ LỤC ..................................................................................................................................................................................................................
DANH MỤC BẢNG
Bảng 3.1. Đặc điểm về thông tin chung của học sinh ........................................................................ 28
Bảng 3.2. Đặc điểm chung về nhóm cha mẹ học sinh ...................................................................... 29
Bảng 3.3. Mức độ stress theo khối học ................................................................................................................... 31
Bảng 3.4. Các đặc điểm của stress theo thang đo DASS 21 .................................................... 32
Bảng 3.5. Tỷ lệ lo âu và trầm cảm ở học sinh do stress theo thang DASS 21 .......... 32
Bảng 3.6. Đặc điểm của lo âu do stress theo thang DASS 21 ............................................... 33
Bảng 3.7. Đặc điểm của trầm cảm do stress theo thang DASS 21 .................................. 33
Bảng 3.8. Phân bố stress theo giới, dân tộc ...................................................................................................... 35
Bảng 3.9. Phân bố stress theo khối học .................................................................................................................. 35
................................................................................................................................................................................................... 36
Bảng 3.10. Phân tích đặc điểm giới tính của học sinh mắc stress theo khối lớp
Bảng 3.11. Mối liên quan giữa học thêm ngoài trường với stress ở học sinh..36
Bảng 3.12. Phân bố stress theo dự định tương lai của học sinh .......................................... 37
Bảng 3.13. Phân bố stress theo đặc điểm của cha mẹ học sinh ............................................ 37
Bảng 3.14. Phân bố stress theo các yếu tố gia đình .............................................................................. 39
Bảng 3.15. Phân bố stress theo cảm nhận của học sinh về nhà trường ..................... 40
Bảng 3.16. Phân bố stress theo các yếu tố về nhà trường ............................................................ 41
Bảng 3.17. Phân bố stress theo các hành vi sức khỏe ........................................................................ 42
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 3.1. Tỷ lệ stress ở học sinh .............................................................................................................. 30
Biểu đồ 3.2. Mức độ stress ở học sinh ....................................................................................................... 30
Biểu đồ 3.3. Đặc điểm kiến thức, thái độ, thực hành của cha mẹ học sinh
về chăm sóc rối loạn stress ở học sinh .................................................................... 38
DANH MỤC HỘP KẾT QUẢ ĐỊNH TÍNH
Hộp 3.1. Các ý kiến về rối loạn stress ở học sinh ......................................................................... 34
Hộp 3.2. Các ý kiến về mối quan hệ của học sinh tại lớp / trường ............................. 43
Hộp 3.3. Ý kiến về các hoạt động ngoại khóa, thể thao, năng khiếu ....................... 44
1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Stress là một biểu hiện thường gặp trong cuộc sống và là một trong
những vấn đề sức khoẻ đáng kể nhất trong xã hội hiện đại và thế kỷ 21 [47].
Stress là mối tương quan giữa tác nhân kích thích và phản ứng của cơ thể.
Nếu đáp ứng của cơ thể với các yếu tố stress không thích hợp và cơ thể không
tạo ra được một cân bằng mới, thì chức năng của cơ thể ít nhiều bị ảnh hưởng,
xuất hiện các dấu hiệu rối loạn tâm lý như: mất ngủ, đau đầu, buồn phiền, trầm
cảm, sợ hãi, lo âu, tức giận... thậm chí dẫn đến hành vi tự sát [5], [10], [12], [17].
Theo thống kê của Trung tâm phòng chống khủng khoảng tâm lý
(PCP), ở Việt Nam học sinh, sinh viên từ 15 - 24 tuổi là nhóm tuổi có ý định
tự tử cao nhất [27]. Điều tra quốc gia về vị thành niên và thanh niên Việt Nam
(năm 2010) đối với hơn 10.000 người trong nhóm tuổi này cho thấy có 4,1%
người nghĩ đến chuyện tự tử và 25% đã tìm cách kết thúc cuộc sống do căng
thẳng quá mức vì: không đạt được kết quả học tập như mong muốn; bị mất
danh dự, bị sỉ nhục trước trường, trước tập thể lớp; bị người thân xúc phạm,
vu oan, hiểu lầm; bị áp lực do gia đình, nhà trường kỳ vọng ở các em quá cao
trong học tập; gia đình có nhiều xung đột không thể giải quyết: cha mẹ
thường cãi vã nhau, anh em hiềm khích…[6].
Báo cáo của WHO (2003) cho thấy có 33% dân số thế giới gặp các vấn
đề liên quan đến sức khỏe tâm thần và dự đoán đến năm 2020, các vấn đề sức
khỏe tâm thần sẽ là gánh nặng bệnh tật lớn thứ hai toàn cầu, chỉ đứng sau
bệnh tim mạch. Theo đó, khoảng 20% trẻ em và vị thành niên đang mắc các
vấn đề về sức khỏe tâm thần (trong đó có stress) [55]. Tại Việt Nam vấn đề
stress học đường đang được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm bởi những hậu
quả do stress gây ra như giảm kết quả học tập, trầm cảm, lo âu, dễ giận dữ, bỏ
nhà đi bụi thậm chí là tự sát... Trong đó, học sinh trung học phổ thông là
2
nhóm tuổi dễ mắc stress. Nghiên cứu stress ở trẻ vị thành niên qua đường dây
nóng của Phạm Hồng Định trong 200 mẫu trẻ em thì học sinh trung học phổ
thông chiếm 194 trường hợp [7]. Nguyên nhân là do ở lứa tuổi này hoạt động
của các em được mở rộng và đa dạng hơn. Trong học tập, yêu cầu đối với các
em cao hơn. Càng đến cuối cấp, lịch học càng dày đặc hơn nhằm đáp ứng
mục đích chọn trường, chọn nghề của học sinh. Cùng với đó, sự thay đổi về
sinh lý của lứa tuổi cũng làm gia tăng căng thẳng cho học sinh [13]. Theo
nghiên cứu cắt ngang của Khoa nhân văn và xã hội học Viện công nghệ New
Delhi, Ấn Độ, tỷ lệ mắc các rối loạn tâm lý ở thanh thiếu niên Ấn Độ khoảng
14,4-31,7%, trong đó rối loạn stress là 20% [58]. Tại Việt Nam, Nghiên cứu
của tác giả Trần Thị Hồng Vân tại trường THPT Phan Đình Phùng, Hà Nội
cho kết quả 46,1% học sinh bị stress ở các mức độ khác nhau [29].
Hiện nay tại Thái Nguyên chưa có nhiều nghiên cứu về stress ở học
sinh trung học phổ thông trong khi đây là đối tượng chịu nhiều tác động từ
các yếu tố khác nhau như gia đình, nhà trường, xã hội… Đặc biệt là học sinh
ở các vùng nông thôn như Trường trung học phổ thông Lương Phú - Phú Bình
- Thái Nguyên ngoài việc học các em còn phải phụ giúp gia đình tăng gia sản
xuất. Vậy câu hỏi đặt ra là: Thực trạng stress ở học sinh trung học phổ thông
như thế nào? Những yếu tố nào liên quan đến tình trạng stress ở học sinh
trung học phổ thông?
Xuất phát từ những lý do trên, tôi chọn đề tài: “Thực trạng stress và
một số yếu tố liên quan ở học sinh trường trung học phổ thông Lương Phú
- Phú Bình - Thái Nguyên”
Mục tiêu nghiên cứu:
1. Mô tả thực trạng stress ở học sinh trường Trung học phổ thông
Lương Phú - Phú Bình - Thái Nguyên, năm 2016.
2. Phân tích một số yếu tố liên quan đến stress tâm lý ở học sinh trường
trung học phổ thông Lương Phú - Phú Bình - Thái Nguyên.
3
Chương 1
TỔNG QUAN
1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1. Khái niệm về stress
Trong cuộc sống hiện đại thuật ngữ stress xuất hiện ngày càng nhiều,
tuy nhiên mỗi tác giả sử dụng thuật ngữ này với những sắc thái khác nhau.
Walter Cannon, bác sĩ chuyên khoa thần kinh nổi tiếng của Mỹ, định nghĩa
stress là biểu hiện khó chịu hay những áp lực của đời sống cá nhân [37].
Hiện nay, stress là một thuật ngữ được dùng rộng rãi. Định nghĩa của
Han Selye đưa ra năm 1976 được cho là đầy đủ nhất: “Stress là tình trạng
căng thẳng thể hiện mối tương tác giữa tác nhân công kích và phản ứng của
cơ thể” [12].
Trong điều kiện bình thường, stress là một đáp ứng thích nghi về mặt
tâm lý, sinh học và tập tính. Stress đặt con người vào quá trình dàn xếp, thích
ứng với môi trường xung quanh, tạo cho cơ thể một sự cân bằng mới sau khi
chịu đựng những tác động của môi trường. Nói cách khác, stress bình thường
đã góp phần làm cho cơ thể thích nghi. Nếu đáp ứng của cá nhân với stress
không đầy đủ, không thích hợp và cơ thể không tạo ra được một cân bằng mới
thì những chức năng của cơ thể ít nhiều sẽ bị rối loạn, những dấu hiệu bệnh lý
cơ thể, tâm lý, tập tính sẽ xuất hiện và tạo ra những stress bệnh lý cấp tính
hoặc kéo dài [17].
1.1.2. Các dấu hiệu của stress
Các dấu hiệu bị ảnh hưởng bởi stress bao gồm những bất bình thường
về thể chất, thần kinh và quan hệ xã hội. Cụ thể là sự kiệt sức, tự dưng thèm
ăn hay bỏ ăn, đau đầu, khóc, mất ngủ, rối loạn giấc ngủ hoặc là ngủ quên và
những biểu hiện khó chịu khác cũng là dấu hiệu của stress. Stress còn đi kèm
với cảm giác bất an, giận dữ hoặc sợ hãi. Người bị stress thường có biểu hiện
4
là tăng nhịp tim, tăng huyết áp, nhức đầu, mệt mỏi, hơi thở ngắn, ra mồ hôi.
Biểu hiện cảm xúc là cảm thấy khó chịu, dễ cáu gắt, lo âu, trầm cảm, buồn bã,
chán nản, thờ ơ, không thân thiện, sa sút tinh thần… Có những hành vi như
lạm dụng chất kích thích (rượu, thuốc lá), dễ gây hấn, bất cần đời, xáo trộn
các sinh hoạt hàng ngày (ăn uống, giấc ngủ), mất tập trung, hay quên, xa lánh
mọi người, có vấn đề về tình dục… Stress trầm trọng và kéo dài có thề làm
tổn hại hệ miễn dịch và các chức năng sinh lý khác, làm suy yếu khả năng
chống lại bệnh tật của cơ thể cũng như sự xâm nhập của vi trùng và làm tăng
nguy cơ tử vong [10], [19].
1.1.3. Nguyên nhân của stress
Có rất nhiều nguyên nhân gây ra stress nhưng thông thường bao gồm 4
nguyên nhân cơ bản sau:
Môi trường bên ngoài: Thiên tai, thời tiết, tiếng ồn, giao thông, bụi và sự
ô nhiễm…
Những căng thẳng từ xã hội và gia đình: Các vấn đề về tài chính, do sự
mất mát của người thân, mâu thuẫn trong gia đình (cha mẹ ly hôn, tranh chấp,
xích mích, bất hòa…), quan hệ bạn bè không tốt, tình yêu tan vỡ hay bị phụ
bạc…[3].
Các vấn đề về thể chất: Thay đổi cơ thể, không đủ chất dinh dưỡng, ốm
đau, bệnh tật.
Suy nghĩ của bản thân: Đôi khi, cách chúng ta suy nghĩ hay phiên giải
những điều đã hoặc sẽ xảy ra đem đến cho chính mình rất nhiều căng thẳng.
Thường đó là những suy nghĩ tiêu cực. Ví dụ, nếu trượt đại học, tương lai thật
mù mịt...[3], [17].
Nghiên cứu của Đỗ Thị Lệ Hằng năm 2009 cho thấy các tác nhân gây
stress ở trẻ vị thành niên bao gồm 4 nhóm tác nhân là học tập, mối quan hệ
với gia đình, mối quan hệ với bạn bè và các tình huống bất thường. Trong đó
tác nhân do các tình huống bất thường (trung bình là 1.6) cao hơn so với các
5
tác nhân khác như học tập (trung bình là 1.5), mối quan hệ với gia đình (trung
bình là 1.3) và bạn bè (trung bình là 1.2). Khi so sánh các tác nhân gây stress
cho học sinh theo cấp học thì học sinh cấp 3 chịu áp lực học tập cao hơn học
sinh cấp 2, do các em chuẩn bị cho việc lựa chọn nghề sau này và phải đối
mặt với nhiều kỳ thi quan trọng như tốt nghiệp Trung học phổ thông, thi đỗ
đại học… Cũng theo nghiên cứu này trẻ nam chịu ảnh hưởng từ áp lực học
tập cao hơn trẻ nữ [8].
Theo Nguyễn Thị Hằng Phương trong nghiên cứu “Thực trạng và
nguyên nhân gây ra rối loạn lo âu ở học sinh THPT chuyên Quảng Bình” có 4
nhóm nguyên nhân chính dẫn đến rối loạn lo âu ở học sinh trung học phổ
thông là: nhóm nguyên nhân liên quan đến học tập, liên quan đến bản thân
học sinh, liên quan đến gia đình và liên quan đến các mối quan hệ xã hội [20].
Nghiên cứu của Phùng Đức Nhật và cộng sự phát hiện các yếu tố gây
stress ở học sinh như: lo lắng về kết qủa học tập, về tương lai; lo lắng về kinh
tế gia đình, về áp lực học tập, tình hình an ninh nơi ở và thiếu bạn chia sẻ khi
buồn. Có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa tỷ lệ stress ở học sinh với
tỷ lệ học sinh cảm thấy lo lắng về kết quả học tập, về tương lai và về bệnh của
bản thân. Những học sinh lo lắng về kinh tế gia đình bị stress cao gấp 1,56 lần
học sinh không lo lắng về kinh tế gia đình. Học sinh lo lắng nhiều về áp lực
học tập sẽ bị stress gấp 1,81 lần học sinh không lo lắng. Tỷ lệ học sinh lo lắng
vì không có bạn để chia sẻ cao gấp 1,57 lần học sinh không lo lắng. Nhóm
học sinh lo lắng về tình hình an ninh nơi ở bị stress gấp 1,5 lần nhóm không
lo lắng [18].
Trong nghiên cứu về stress trong học tập ở học sinh, sinh viên của tác
giả Edem Maxwell Azila-Gbettor cho rằng stress có ảnh hưởng đến kết quả
học tập của học sinh, sinh viên và stress là hậu quả của việc học tập vượt quá
khả năng của cơ thể [40].
6
Tổng quan nghiên cứu “Hiệu quả của việc quản lý căng thẳng về các
vấn đề sức khoẻ tâm thần ở thanh thiếu niên vị thành niên và thanh thiếu
niên” của tác giả Zhang Jiapeng Casper, đối với thanh thiếu niên, kiểm tra ở
trường học, xung đột gia đình và mối quan hệ bạn bè bất hòa là một yếu tố
quan trọng ảnh hưởng đến stress và trầm cảm [61].
1.1.4. Ảnh hưởng của stress
Tổng hợp từ nhiều nghiên cứu cho thấy, stress có thể gây nhiều tác
động xấu cho bản thân những người mang nó, đồng thời cũng gây ra những
bất lợi cho những người xung quanh và xã hội nói chung. Sau đây là những
tác động chính mà stress có thể gây ra:
Tác động của stress đối với cảm xúc, tâm lý: Trạng thái stress thường
biểu hiện rõ ở mặt cảm xúc với các biểu hiện thường gặp như: lo âu, dễ nổi
nóng, nổi cáu, hồi hộp, chán nản, sợ hãi, không hài lòng về bản thân (tự đổ lỗi
cho bản thân), cảm thấy trống rỗng mất phương hướng, cảm thấy dễ bị tổn
thương, căng thẳng…[3]. Đây là những ảnh hưởng ban đầu của stress với các
dấu hiệu cơ bản như tinh thần dao động, hành vi thất thường có thể làm bạn
bè và gia đình xa lánh, những người bị stress gần như luôn đắm chìm trong
các hành vi tiêu cực như bỏ học đi chơi game, dễ có hành vi hung hãn dẫn tới
bạo lực học đường, bỏ nhà đi bụi, giao du với những người xấu trong xã hội,
có thể làm những người xung quanh và cả xã hội phải trả giá đắt. Áp lực học
hành đến từ chương trình học, sự kỳ vọng của cha mẹ vào con cái, tâm lý
bằng cấp, không đánh giá đúng năng lực của bản thân con cái để có những đòi
hỏi phù hợp,… cũng đang ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe tâm thần trẻ
vị thành niên. Số lượng học sinh mắc chứng nhiễu tâm (lo âu, trầm cảm,
hoảng loạn, hung tính,…) do học tập ngày càng lớn. Thậm chí có những trẻ
dẫn tới hành vi tự sát do không biết cách vượt qua stress. Đây là những hậu
quả đáng tiếc do stress gây ra. Phản ứng gây stress thông thường có thể giúp
thanh thiếu niên phản ứng thích ứng với những thách thức của tuổi vị thành
7
niên, nhưng có thể dẫn đến sự căng thẳng trong số thanh thiếu niên có nguy
cơ cao, làm tăng khả năng bị bệnh tâm thần. Sự tăng nhạy cảm với kích thích
cảm xúc liên quan đến tuổi dậy thì có thể làm trầm trọng thêm các khuynh
hướng cá nhân đối với quá trình xử lý tình cảm phóng đại, có thể góp phần
vào sự xuất hiện các rối loạn tâm lý ở tuổi trẻ này [59].
Tác động của stress đối với cơ thể: Khi ở trong trạng thái stress, về mặt
cơ thể thường có các biểu hiện như: mệt mỏi, đau đầu, đau lưng đau cơ bắp,
chóng mặt, đổ mồ hôi, tức ngực khó thở, tay chân bủn rủn, ăn không ngon, ăn
quá nhiều hoặc quá ít, khó ngủ, mất ngủ, tim đập nhanh, thở gấp, bị tiêu chảy
hoặc táo bón …[3]. Khi rơi vào tình trạng stress tâm lý hay thể chất, cơ thể sẽ
gia tăng sản xuất các loại hormon như adrenaline và cortisol. Các hormon này
tạo ra các thay đổi rõ rệt ở nhịp tim, huyết áp, sự trao đổi chất và các hoạt
động thể chất khác. Mặc dù đôi khi phản ứng sinh học này giúp hoạt động
hiệu quả hơn trong những khoảng thời gian ngắn, nhưng nó cực kỳ nguy hại
cho cơ thể nếu xảy ra trong thời gian dài.
Tác động của stress đối với sức khỏe và đời sống: Stress kéo dài được
xem là một trong những nguyên nhân phổ biến của nhiều căn bệnh như: Bệnh
tâm thần kinh, Bệnh tim mạch, Stress làm da xuất hiện nhiều dấu hiệu xấu,
thậm chí các biểu hiện của bệnh tật, ví dụ như mụn sưng đỏ, phồng rộp lên
hay là bệnh Zona, Bệnh tiêu hóa, Bệnh tình dục, Bệnh phụ khoa, Bệnh cơ
xương khớp hay toàn thân: Suy sụp, mệt mỏi, dễ mắc các bệnh dị ứng hay
bệnh truyền nhiễm. Các thay đổi hành vi chẳng hạn như lạm dụng rượu bia,
thuốc lá cũng làm suy giảm đáng kể tình trạng thể chất con người. Các phát
hiện cũng cho thấy rằng cần sa thường được sử dụng như là một chiến lược
ứng phó với căng thẳng. Khi cơ thể phải chịu quá mức tình trạng stress, nguy
cơ bị lệ thuộc vào rượu là rất cao [3], [54], [43]. Việc sử dụng rượu quá nhiều
sẽ làm tinh thần bấn loạn và vì thế làm cho các mối quan hệ cá nhân thêm
căng thẳng, cả trong gia đình lẫn nơi công sở.
8
Tác động của stress đối với khả năng ra quyết định: Stress ảnh hưởng
khá nghiêm trọng đến mặt trí tuệ của mỗi người, các biểu hiện thường thấy
như: mất khả năng tập trung, liên tưởng chậm, phán đoán không chính xác, trí
nhớ giảm sút, khả năng nhận định, đánh giá kém. Stress ở mức độ nào cũng
nhanh chóng làm cho con người mất khả năng đưa ra các quyết định chính
xác, nhất là khi sự tự tin mất đi [19], [45].
Trong nghiên cứu Mức độ căng thẳng về tâm lý xã hội kinh niên cao có
thể dẫn đến sự gia tăng BMI đối với những cô gái thừa cân và béo phì, nghiên
cứu cũng cho thấy thanh thiếu niên nữ nhạy cảm với stress do tâm lý xã hội
hơn là thanh thiếu niên nam [50].
Nghiên cứu của tác giả Linda WP về chủ động và thụ động trong ứng
phó với sự căng thẳng với ý tưởng tự sát ở những người căng thẳng cho thấy
có mối liên quan giữa stress và ý tưởng tự tử ở mức cao và trung bình [49].
1.2. Thực trạng rối loạn stress ở học sinh phổ thông trên Thế giới và Việt Nam
1.2.1. Thực trạng rối loạn stress ở học sinh phổ thông trên Thế giới
Stress là một trong những vấn đề sức khỏe tâm thần cần được quan
tâm. Theo báo cáo của WHO (2003), khoảng 20% trẻ em và vị thành niên
đang mắc các vấn đề về sức khỏe tâm thần, tỷ lệ này khác biệt ở các quốc gia
khác nhau, do những khác biệt về kinh tế, xã hội nhưng cũng một phần do sử
dụng các công cụ đo đạc khác nhau và cách thức lấy mẫu khác nhau [56]. Các
điều tra dịch tễ học ở nhiều quốc gia trên thế giới đều cho thấy các rối loạn
tâm thần ở trẻ em và thanh thiếu niên rất phổ biến và chiếm tỷ lệ khoảng từ
13–29% [35], [36], [38], [39]. Nghiên cứu của tác giả Noelle R. Leonard về
căng thẳng, đối phó và sử dụng chất gây nghiện trong thanh thiếu niên các
trường tư thục, tỷ lệ học sinh bị stress là 31%, trong đó nữ bị stress cao hơn nam
(60% so với 41%) [54]. Trong phần tổng quan của tác giả Shilpa Taragar (2009),
nghiên cứu về yếu tố gây stress ở học sinh cho biết tỷ lệ học sinh 10 – 19 tuổi
bị stress là khoảng 10 – 20%, trong đó nguyên nhân chính gây ra stress ở học
9
sinh chủ yếu là do các yếu tố gia đình [57]. Hay trong nghiên cứu của tác giả
Kouzma NM (2004), tại Australia cũng chỉ ra rằng có 10 – 15% học sinh
trung học phổ thông bị căng thẳng [46]. Tổng quan nghiên cứu của tác giả
Zhang Jiapeng Casper (2012), có tới 25 – 30% học sinh Mỹ chịu ảnh hưởng
của stress và Hiệp hội Y tế Hoa Kỳ nghiên cứu về stress trên 16 nghìn sinh
viên thì có 33,7% sinh viên các trường Đại học, Cao đẳng bị stress [61]. Tại
Goa, Ấn Độ, theo Pillai và cộng sự (2008) nghiên cứu ở lứa tuổi 12-16 tuổi,
tỷ lệ stress thấp là 1,8% [29]. Nghiên cứu cắt ngang của Khoa nhân văn và xã
hội học Viện công nghệ New Dehi, Ấn Độ (2015), tỷ lệ mắc các rối loạn tâm
thần ở thanh thiếu niên Ấn Độ khoảng 14,4-31,7% [58]. Trong phần tổng
quan của tác giả Trần Thị Hồng Vân và cộng sự cho biết tại Israel, theo
Farbstein và cộng sự (2009) nghiên cứu ở lứa tuổi 14-17 tuổi, tỷ lệ stress là
11,7% còn tại Puerto Rico, theo Canino và cộng sự (2004) nghiên cứu ở độ
tuổi 4-17 tuổi, tỷ lệ này là 19,8%. Tại Zurich Conton Swetzerland, theo
Steinhausen và cộng sự (1998) nghiên cứu ở độ tuổi 6-17 tuổi, tỷ lệ stress là
22,5% hay theo Guan và cộng sự (2010) nghiên cứu tại Trung Quốc ở độ tuổi
5-17 tuổi, tỷ lệ trẻ stress là 16,22% [29].
1.2.2. Thực trạng rối loạn stress ở học sinh phổ thông tại Việt Nam
Ở Việt Nam, số lượng trẻ em trong độ tuổi học sinh mắc các rối loạn
stress, lo âu và trầm cảm có xu hướng tăng lên trong những năm gần đây.
Nghiên cứu của tác giả Nguyễn Thị Hằng Phương trong tổng số 600 em tham
gia điều tra thì tất cả các em đều có biểu hiện bất thường về sức khỏe và tâm
lý trong vòng 2 tháng trở lại đây [20]. Một nghiên cứu của viện Tâm thần Mai
Hương năm 2005 cho thấy tỷ lệ học sinh có vấn đề về sức khỏe tâm thần
chung là 19,46% [5].
Một số nghiên cứu điển hình về stress như nghiên cứu của tác giả Trần
Thị Hồng Vân và cộng sự (2014), tại trường THPT Phan Đình Phùng - Hà
Nội, cho thấy có đến 46,1% học sinh bị stress, trong đó nhẹ là 18,9%, vừa là
10
20,1%, nặng là 5,2% và rất nặng là 2,5% (tính trên tổng số học sinh tham gia
nghiên cứu) [29]. Nghiên cứu của Trung tâm nghiên cứu Phụ nữ - Đại học
Quốc gia Hà Nội (2008), khảo sát trên 200 học sinh lớp 12 đã chỉ ra rằng 47%
học sinh bị stress ở các mức độ nhẹ, vừa và nặng [24]. Theo nghiên cứu mức
độ stress của học sinh lớp 12 trường THPT Đông Hà – Quảng Trị nhìn từ góc
độ tổng quát phần lớn học sinh ở trong trạng thái stress cấp tính chiếm 69.6%
và 30.4% học sinh ở mức độ bắt đầu quá tải vì stress, không đủ năng lực kiểm
soát các trở ngại gặp phải, cần được hỗ trợ để vượt qua [3]. Nghiên cứu của
tác giả Hồ Hữu Tính và Nguyễn Doãn Thành (2009) ở học sinh THPT Phan
Bội Châu, Phan Thiết, Bình Thuận trên học sinh lớp 12 cho kết quả 38% học
sinh có biểu hiện stress [25]. Theo tác giả Hoàng Cẩm Tú và Đặng Hoàng
Minh (2010) nghiên cứu trên học sinh của 2 trường THPT Nguyễn Trãi (Hà
Nội) và Vân Tảo (Hà Tây) cho thấy các trường hợp mắc vấn đề sức khỏe tâm
thần (trong đó có stress) là 25.76% [14].
Một nghiên cứu được thực hiện tại các tỉnh miền Bắc trên trẻ vị thành
niên (2012) sử dụng thang đo YSR (Youth Self - Report) cho kết quả đáng
báo động khi so sánh kết quả nghiên cứu với các quốc gia khác, thấy rằng
Việt Nam xếp cao nhất trong các quốc gia được nghiên cứu, nghiên cứu chỉ ra
rằng có 18% trẻ trong nghiên cứu gặp ít nhất 1 trong 8 triệu chứng về rối
nhiễu tâm lý được đề cập trong thang đo YSR: Lo âu/trầm cảm, Thu
mình/trầm cảm, bệnh tâm cảm, vấn đề xã hội, vấn đề suy nghĩ, vấn đề chú ý,
hành vi hung tính, phá bỏ qui tắc [16]. Nghiên cứu “Đánh giá mức độ căng
thẳng tâm lý của học sinh tiểu học ở Hà Nội” có 25.8% học sinh bị stress ở
mức độ vừa và 29% học sinh lo âu ở mức độ vừa và nhẹ [31]. Tuy nhiên một
nghiên cứu năm 2007 trên 2 tỉnh miền trung lại cho kết quả tỷ lệ trẻ vị thành
niên mắc các bệnh tâm thần là 9% [29]. Một nghiên cứu khác tại Hội thảo
quốc gia “Sức khỏe tâm thần trong trường học” do Quỹ tài năng trẻ tâm lý
học - giáo dục học (Hội Khoa học tâm lý giáo dục Việt Nam) tổ chức tại
11
Đồng Nai, nhiều chuyên gia tâm lý - SKTT đã lên tiếng cảnh báo về tình
trạng SKTT ngày càng sa sút của học sinh. Tâm lý lo sợ không hoàn thành bài
vở mới là nỗi ám ảnh với các học sinh lứa tuổi THPT, nhất là các em lớp 12.
Từ đó, học sinh cảm thấy căng thẳng trong việc học, 13,6% học sinh khá thấy
ăn không ngon, 17,6% chỉ muốn uống nước hoặc sữa và gần 20% thường
xuyên bỏ bữa. Thậm chí, một số em tâm sự đang đối mặt với một kỳ thi quan
trọng, sợ làm bài không tốt, sợ gia đình sẽ thất vọng và khi nghĩ đến những
điều đó thì các em chỉ muốn... “nổ tung” [1].
Kết quả khảo sát của một nhóm nghiên cứu xác định: có gần 27% học
sinh Tây Ninh có tâm lý buồn phiền từ nhẹ đến nặng. Tỷ lệ này được nhìn
nhận là thấp hơn TP. Hồ Chí Minh và Long An, song nếu so sánh với các tiêu
chuẩn của nhiều quốc gia trên thế giới có liên quan vấn đề này thì con số vừa
nêu thuộc loại quá cao. Nhóm nghiên cứu ghi nhận: học sinh ở bậc học càng
cao thì các trường hợp rơi vào trạng thái buồn phiền càng nhiều; tỷ lệ này ở
học sinh lớp 10 chỉ chiếm 23% nhưng ở lớp 12 là 30% [21].
Nghiên cứu gần đây nhất của Đặng Hoàng Minh và Trịnh Thị Mai
(2013) trong phần tổng quan của nghiên cứu cho biết khảo sát về sức khỏe
tâm thần của Tổ chức Y tế Thế giới trên mẫu nghiên cứu gồm 1.202 học sinh ở
Việt Nam trong độ tuổi 10-16 tuổi, tỷ lệ học sinh có vấn đề về sức khỏe tâm thần
chung là 19,46% [15]. Còn nghiên cứu gần đây nhất của Đặng Hoàng Minh,
Bahr Weiss và Nguyễn Cao Minh năm 2013 đã điều tra dịch tễ trên 1.314 trẻ
em từ 6 – 16 tuổi ở 10 tỉnh, thành phố Việt Nam đã cho thấy có 9,6% trẻ có
các vấn đề hướng nội ở mức lâm sàng. Trong đó, lo âu/ trầm cảm chiếm
1,8%, thu mình chiếm 2,1%, than phiền cơ thể chiếm 4,1%. Tỉ lệ này ở mức
ranh giới là 18,3%. Bên cạnh đó, tỉ lệ trẻ em từ 6 – 16 tuổi có các bất thường
về tình cảm là 16,29%, ở mức ranh giới là 11,59%, kết quả nghiên cứu cũng
gợi ý rằng có từ 12-13% trẻ em Việt Nam (trong độ tuổi 6-16) gặp phải những
vấn đề SKTT một cách rõ rệt. Điều này có nghĩa là có khoảng 2.7 triệu trẻ em
12
và vị thành niên trên toàn quốc gặp phải vấn đề SKTT (trong đó có stress)
[33]. Nghiên cứu tại trường THPT Yên Mô B Ninh Bình (2007) của Phạm
Thanh Bình sử dụng thang đo mức độ lo âu của Soly-Bensabel (60-90 điểm)
cho kết quả số lượng học sinh trong mức điểm 70-80 điểm chiếm số lượng
nhiều nhất, tiếp đến là số lượng học sinh 80-90 điểm, điều này có nghĩa có
một số lượng lớn học sinh được điều tra đang ở mức độ stress cao [4].
Học sinh, sinh viên là những chuyên gia tương lai của đất nước, có vai
trò quan trọng đến chất lượng của lực lượng sản xuất trong nền kinh tế tri thức
và sự bền vững của xã hội. Trong quá trình học tập, họ tích cực trau dồi, phát
triển các phẩm chất tâm lý, để thực sự làm chủ bản thân, làm chủ xã hội văn
minh, hiện đại. Do đó, hiện tượng stress luôn nảy sinh, ảnh hưởng mạnh mẽ
đến sự thành công, hay thất bại của quá trình hoàn thiện nhân cách cũng như
phẩm chất tâm lý nghề nghiệp của họ [11]
Đã có nhiều nghiên cứu về sức khỏe tâm thần của trẻ vị thành niên và
thanh niên Việt Nam nói chung, tuy nhiên chưa có nhiều nghiên cứu cụ thể về
vấn đề rối loạn stress ở học sinh, đặc biệt là học sinh Trung học phổ thông,
trong khi đây là đối tượng chịu nhiều áp lực từ gia đình, nhà trường và xã
hội.... Mặc dù các nghiên cứu không hoàn toàn nhất quán, nhưng các nghiên
cứu đều cho thấy một xu hướng rõ ràng, tỷ lệ trẻ vị thành niên, thanh niên,
học sinh Việt Nam gặp các vấn đề về rối loạn stress là đáng kể.
1.3. Các yếu tố liên quan đến rối loạn stress ở học sinh
1.3.1. Các nghiên cứu trên thế giới
Nghiên cứu tự đánh giá nguyên nhân stress ở học sinh cuối cấp 3
(2004) của Kouzma NM, Kennedy GA chỉ ra rằng nguyên nhân chính dẫn đến
stress bao gồm các kì kiểm tra, điểm số, lo lắng cho tương lai, lựa chọn nghề
nghiệp, ôn thi, khối lượng kiến thức, kỳ vọng của gia đình và bản thân [46].
Một tổng quan về nguyên nhân stress ở thanh thiếu niên vị thành niên và
thanh thiếu niên của tác giả Zhang Jiapeng Casper (2012), phần lớn học sinh cho
13
biết mức căng thẳng về tinh thần và lo lắng là do tham gia các kỳ thi. Các nghiên
cứu ở Hoa Kỳ ước tính rằng một tỷ lệ lớn trẻ em đã được báo cáo bị stress do
kiểm tra. Trong đó Hill nhận thấy rằng từ 25% đến 30% sinh viên Hoa Kỳ bị ảnh
hưởng bất lợi do stress vì những khiếm khuyết liên quan đến lo lắng. Cũng theo
đó ảnh hưởng của stress đối với sinh viên đại học là rất lớn. Hiệp hội Y tế
Trường Cao đẳng Hoa Kỳ đã khảo sát hơn 16.000 sinh viên đại học cho thấy
33.7% cho rằng stress đã can thiệp vào thành tích học tập của họ [61]. Những
học sinh có điểm trung bình cao thường gặp stress khi phải liên tục học tập để
đạt được kì vọng cao của cha mẹ, thầy cô. Đôi khi những học sinh này tự đặt áp
lực lên mình. Học sinh có điểm trung bình thấp phải đối mặt với cảm giác thất
vọng về bản thân và tự ti khi so sánh với những học sinh giỏi hơn. Khi nhận định
về những nguyên nhân gây stress ở học sinh thì yếu tố về khối lượng công
việc mà học sinh phải làm xếp thứ hai và phần lớn học sinh nhận định rằng
lượng bài tập về nhà thường xuyên làm họ mất ngủ [61]. Trong cuộc thăm dò
năm 2005 thực hiện bởi The Washington Post, Quỹ Kaiser Family và Đại học
Harvard, khảo sát hơn một nửa số thanh thiếu niên khu vực Washington the
District, trong đó 58% nói rằng các yếu tố trường học là nguyên nhân lớn nhất
gây stress [29]. Tuy nhiên một nghiên cứu trường hợp ở Bangkok, Thái Lan
(2010) của Youjaiyen M, Sirimai W, Thongsai S trên 300 học sinh trung học
phổ thông lại cho kết quả các em học sinh có kết quả học tập thấp có căng thẳng
cao hơn so với những em có thành tích học tập cao hơn [53]. Trong một
nghiên cứu thực nghiệm về stress ở học sinh trung học phổ thông của Ezila
Gbettor tại một trường ở khu vực ngoại ô New York, Mỹ cho kết quả rằng
học sinh có điểm trung bình cao thường có mức stress cao hơn những học
sinh có điểm trung bình thấp hơn, những học sinh tham gia các lớp chuyên
thường có mức độ stress cao hơn các lớp bình thường. Những học sinh nữ có
mức độ stress trong học tập nhiều hơn nam [40].
14
Nghiên cứu tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến stress ở học sinh trung học
phổ thông tham gia chương trình học dự bị đại học và học sinh bình thường
của Suldo SM, Shaunessy E, Thalji A, và cộng sự (2009) tại Mỹ trên 319 học
sinh cấp 3 (162 học sinh trong chương trình dự bị đại học và 157 học sinh
bình thường) cho kết quả: Nguyên nhân chính dẫn đến stress của những học
sinh tham gia chương trình dự bị đại học là yêu cầu học tập. Trái lại, các học
sinh bình thường thì có xu hướng bị stress bởi quan hệ bố mẹ con cái, khó
khăn trong học tập, xung đột trong gia đình và quan hệ bạn bè cũng như quá
trình chuyển đổi các vai trò trong xã hội. So với học sinh bình thường, học
sinh tham gia chương trình dự bị Đại học có nhiều biểu hiện tâm thần hơn, và
giảm khả năng học tập khi họ đối diện với stress ở mức độ cao. Cụ thể là
stress liên quan đến yêu cầu học tập, sự thay đổi vai trò và các vấn đề xã hội,
khó khăn trong học tập và các hoạt động ngoại khóa [60].
Nghiên cứu của Shilpa Taragar về căng thẳng ở học sinh cấp 3 (2009)
tại Ấn Độ cho rằng không có mối liên quan giữa một số thông tin cá nhân của
đối tượng (tuổi, số lượng anh chị em, kích cỡ gia đình, nghề nghiệp của cha,
nghề nghiệp của mẹ) với stress ở học sinh, nhưng có mối liên quan giữa nơi
sống với stress, những trẻ ở vùng ngoại thành có tỷ lệ stress ở mức độ nhẹ và
vừa thấp hơn so với thành thị, tuy nhiên đối với mức độ stress nặng thì ở khu
vực thành thị lại cao hơn nhiều so với nông thôn (22,4% so với 9,9%). Có mối
liên quan giữa giới và stress, các học sinh nam có xu hướng cao hơn các học
sinh nữ, tuy nhiên ở mức độ stress nhẹ và vừa thì nữ có xu hướng cao hơn
nam (71,7% và 21,9% so với 66% và 8,5%) [57]. Kết quả nghiên cứu của
Finkelstein DM chỉ ra rằng so với thanh thiếu niên có cha mẹ có trình độ học
vấn cao thì thanh thiếu niên có cha mẹ có trình độ học vấn thấp hơn có mức
stress cao hơn (E3 beta = 1.70, p <.01, E2 beta = 1.94, p <.01, E1 beta = 3.19,
p <.0001) [42]. Cũng trong phần tổng quan về nguyên nhân stress của tác giả
Zhang Jiapeng Casper (2012), thì yếu tố đầu tiên ảnh hưởng đến stress ở học
15
sinh là cuộc sống cá nhân của họ, đối với một số người thì đó là việc chia tay
với bạn trai hay bạn gái, cãi nhau với cha mẹ, anh chị em, cha mẹ bất đồng,
tình hình tài chính thay đổi, chấn thương bệnh tật của người thân trong
gia đình hay các vấn đề quan hệ với bạn bè và gia đình [61].
Kết quả nghiên cứu của tác giả Leslie R. Rith-Najarian và cộng sự
(2014), chỉ ra không có sự liên quan giữa tuổi tác, giới tính và chủng tộc/sắc
tộc với stress ở học sinh [48].
1.3.2. Các nghiên cứu tại Việt Nam
Nhiều nghiên cứu đã tìm hiểu, đưa ra một số yếu tố ảnh hưởng
đến stress ở vị thành niên, thanh niên nói chung và học sinh trung học phổ
thông nói riêng. Theo một nghiên cứu do TS. Đỗ Ngọc Khanh hướng dẫn cho
thấy dường như có mối liên quan giữa kết quả học tập với tỷ lệ mắc stress của
học sinh. Nghiên cứu cho thấy những học sinh có kết quả học tập càng cao thì
tỷ lệ mắc stress càng lớn. Cụ thể, trong số những học sinh có kết quả học tập
loại giỏi thì có đến 33% có dấu hiệu của stress trong khi đó ở nhóm học sinh
có kết quả học tập trung bình tỷ lệ này chỉ có 21,1%, và tỷ lệ nhóm học sinh
khá là 24,5% [31]. Một nghiên cứu về stress trong học tập của học sinh trung
học phổ thông (2007) của tác giả Phạm Thanh Bình nhận định có 2 nhóm
nguyên nhân chính: Nguyên nhân khách quan như: phương pháp giảng dạy
của giáo viên, sự quan tâm của giáo viên đối với một số học sinh khá hay kém
trong lớp, mục đích của môn học đối với kỳ thi đại học, cao đẳng sắp tới…
nguyên nhân chủ quan như: chưa biết phân bố hợp lý thời gian học tập và
nghỉ ngơi, thời gian vui chơi giải trí ít… Nguyên nhân chủ quan có ảnh hưởng
thường xuyên và mạnh mẽ đến mức độ stress hơn so với nguyên nhân khách
quan [4]. Tác giả Lê Thị Thanh Thủy thực hiện một nghiên cứu định tính trên
65 học sinh có dấu hiệu stress có 89,2% học sinh cảm thấy căng thẳng vì thời
gian dành cho việc học quá nhiều, trong đó mức độ rất căng thẳng chiếm
49,2%. Các em học sinh lớp 12 cho rằng quỹ thời gian hạn hẹp với lịch học
16
dày đặc được coi là điều lo lắng nhất, bên cạnh đó các em còn chịu áp lực vì
khối lượng kiến thức phải tích lũy quá lớn. Áp lực trong học tập của học sinh
khối 12 lớn hơn khối 10 và 11 bởi 2 kỳ thi tốt nghiệp Trung học phổ thông và
thi vào đại học [24]. Tác giả Phạm Tiến Sỹ trong một bài tổng quan có nhận
định: trong điều kiện hiện tại, môi trường học đường còn chứa đựng nhiều
nguy cơ, trong thời gian gần đây, trên các website thường xuất hiện các clip
đánh nhau, hành hạ, lột đồ, mại dâm, điều đó cũng dần len lỏi và ảnh hưởng
đến trẻ vị thành niên, tạo cảm giác mất an toàn, lo âu ở trẻ. Áp lực học hành
đến từ chương trình học, sự kỳ vọng của cha mẹ vào con cái, tâm lý bằng cấp,
không đánh giá đúng năng lực của bản thân con cái để có những đòi hỏi phù
hợp,… cũng đang ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe tâm thần trẻ vị thành
niên. Số lượng học sinh mắc chứng nhiễu tâm (lo âu, trầm cảm, hoảng loạn,
hung tính, tự sát…) do học tập ngày càng lớn [24]. Theo một nghiên cứu
khác, có 47% số học sinh được khảo sát nói rằng mình bị nhiều áp lực bởi
việc học hằng ngày và 34% cho rằng có quá nhiều cạnh tranh trong lớp học;
60% trả lời có áp lực do nghĩ về tương lai và 32% than phiền về việc bị phụ
huynh quan tâm quá nhiều đến việc học tập, từ đó tạo nên áp lực cho các em.
Cũng theo kết quả nghiên cứu, khối lượng học tập là một gánh nặng đối với
học sinh, có 70% học sinh được khảo sát đều nhận định: có quá nhiều bài tập
ở trường, chưa kể số lượng bài tập được giao về nhà và các bài thi, kiểm tra
thường xuyên gây áp lực cho học sinh. Hơn 80% học sinh bày tỏ mối lo lắng
về điểm số, bởi điểm số không như mong đợi dễ làm cho cha mẹ các em thất
vọng và bản thân các em cũng thấy lo sợ về tương lai… Tất cả những hiện
tượng nêu trên nếu kéo dài thì sẽ ảnh hưởng đến sức khoẻ, không chỉ thể chất
mà còn cả tinh thần của học sinh. Điều này được minh chứng qua kết quả
nghiên cứu: hơn 71% học sinh có biểu hiện chán nản, thất vọng trong học tập.
Các triệu chứng khác như thiếu tự tin, khó tập trung trong học tập cũng chiếm
một tỷ lệ tương đối cao [21].
17
Kết quả nghiên cứu cho thấy trong số các huyện và thành phố của Tây
Ninh đã qua khảo sát, điều tra, tỷ lệ học sinh bị stress do học tập có sự khác
biệt. Nơi mà học sinh có biểu hiện stress cao nhất là Hoà Thành, thấp nhất là
huyện Tân Biên. Kết quả nghiên cứu cũng chỉ ra rằng ở những gia đình có từ
hai con trở lên thì tỷ lệ con em bị căng thẳng thần kinh thấp hơn những gia
đình chỉ có một con. Những học sinh có tranh cãi gay gắt với thầy cô giáo
hoặc bị thầy cô la mắng, hăm dọa hoặc bị phạt thì tình trạng bị stress cao hơn
khoảng từ 22 - 40% so với những học sinh khác. Điều này nói lên việc học
sinh bị căng thẳng tinh thần không chỉ do học hành, bài vở mà còn do các
nguyên nhân khác có liên quan đến vai trò của gia đình và nhà trường [21].
Trong nghiên cứu “Thực trạng sức khỏe tâm thần của học sinh THCS ở
Hà Nội và nhu cầu tham vấn sức khỏe tâm thần học đường” stress liên quan
đến gia đình, quan hệ với bố mẹ và các chấn thương ở trẻ… [14]. Nghiên cứu
của Hồ Hữu Tính và Nguyễn Doãn Thành (2010) tại trường THPT Phan Bội
Châu, Phan Thiết, Bình Thuận chỉ ra các mối liên quan có ý nghĩa thống kê
giữa stress ở học sinh lớp 12 với giới tính và học lực; đứng ở góc độ gia đình,
có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa stress với sức khỏe người thân và
những áp lực, kỳ vọng học tập từ gia đình; đứng ở góc độ nhà trường, có mối
liên quan giữa stress với những áp lực học tập và thi cử; đứng ở góc độ bản
thân học sinh là những cạnh tranh trong học tập, ngoại hình bản thân, những
bệnh lý liên quan đến học tập (cận thị, cong vẹo cột sống) và việc không tập
thể dục thể thao đều đặn; đứng ở góc độ xã hội như không có bạn bè thân và
những lo lắng về an ninh nơi ở. Ngoài vấn đề học tập, mối quan hệ với bạn bè
cũng được xem là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng stress
trong học sinh. Nghiên cứu cũng cho kết quả như sau: số học sinh bị bắt nạt
về thể chất và tinh thần khiến sinh ra stress chiếm tỷ lệ tương đương với số
em bị stress do học tập [25].
18
1.4. Công cụ sử dụng nghiên cứu stress ở học sinh - sinh viên
Trên thế giới hiện nay có nhiều bộ công cụ được sử dụng để đánh giá các
vấn đề về sức khỏe tâm thần. Một số bộ công cụ đã được chuẩn hóa và sử
dụng phổ biến trong các nghiên cứu cũng như trong chẩn đoán lâm sàng về
stress như: bộ công cụ về đánh giá stress nghề nghiệp (JSQ), đánh giá trạng
thái phản ứng thông qua test Soly-Bensabal, nghiên cứu sức khỏe tâm thần
bằng thang SDQ, bộ câu hỏi đánh giá stress của Beck & Srivastava…
Bộ câu hỏi đánh giá stress của Beck & Srivastava (BBSI) (1991): được
chỉnh sửa dựa trên những kết quả điều tra của Firth (1983) và Frances &
Naftel (1986). Bộ câu hỏi được chia làm 2 phần: phần 1 là những câu hỏi yêu
cầu sinh viên mô tả những khó khăn gặp phải trong cuộc sống cũng như các
kỳ thi trong vòng 1 tháng qua mà sinh viên cảm thấy áp lực; phần 2 bao gồm
44 tiểu mục, mỗi tiểu mục được cho điểm từ 0 đến 4 điểm để đánh giá mức độ
tress ở sinh viên [55], tuy nhiên bộ câu hỏi này thường dùng để đánh giá
stress và trầm cảm ở sinh viên.
Đánh giá trạng thái phản ứng thông qua test Soly-Bensabal bao gồm 30
câu hỏi, mỗi câu hỏi là trạng thái biểu hiện phản ứng có số điểm tương ứng
theo các mức độ từ điểm 1 đến điểm 4. Theo Soly-Bensabal, thông qua điểm
số về những mức độ biểu hiện cụ thể, có thể xác định mức độ stress [11].
Bộ câu hỏi về Điểm mạnh và khó khăn (SDQ) (Goodman, 1997; Goodman
et al; 1998). Các Thang đo này đã được sửa đổi từ những công cụ đánh giá các
vấn đề về tâm lý và hành vi được sử dụng nhiều nhất có tên là Rutter A, dành
cho trẻ em và trẻ vị thành niên và Rutter B, công cụ dành cho phụ huynh và giáo
viên. Mặc dù vẫn tương tự với tài liệu của Rutter, ngôn từ của Bộ câu hỏi về
Điểm mạnh và khó khăn đã được sắp xếp lại để tập trung vào đánh giá điểm
mạnh và khó khăn trong hành vi và cảm xúc của trẻ. Bộ câu hỏi thực tế bao gồm
với 5 Thang đo: hành vi được xã hội ủng hộ, tính hiếu động, những vấn đề về
cảm xúc, vấn đề hành vi, và vấn đề bạn bè. Bộ tài liệu có các thang đo khác nhau
19
dành cho những người chăm sóc, hoặc giáo viên của trẻ từ 3 đến 16 tuổi, và dành
cho thanh thiếu niên từ 11 đến 18 tuổi. Những câu hỏi này cũng đã được sử dụng
cho trẻ khuyết tật và giáo viên cùng người chăm sóc trẻ, tuy nhiên bộ câu hỏi
này chủ yếu đánh giá về sức khỏe tâm thần nói chung [34].
Thang đánh giá stress, lo âu, trầm cảm của Lovibond (DASS 42 và DASS
21) (Depression – Anxiety – Stress Scale): là thang đo đánh giá được cả 3 vấn đề
SKTT gồm stress, lo âu và trầm cảm, được sử dụng khá phổ biến trong nghiên
cứu khoa học cũng như được ứng dụng trong lâm sàng giúp hỗ trợ chẩn đoán.
Thang đo DASS 21, đây là phiên bản rút gọn của DASS 42 nhằm tạo sự tiện lợi
hơn cho người dùng. DASS 42 gồm 42 tiểu mục chia thành 3 nhóm, mỗi nhóm
14 tiểu mục sẽ đánh giá về một vấn đề sức khỏe tâm thần là stress, lo âu hoặc
trầm cảm. Tương tự, DASS 21 gồm 21 tiểu mục chia thành 3 nhóm, mỗi nhóm
gồm 7 tiểu mục. Mỗi tiểu mục là một mô tả về triệu chứng thực thể hoặc tinh
thần. Điểm cho mỗi tiểu mục là từ 0 đến 3 điểm, tùy thuộc vào mức độ và thời
gian xuất hiện triệu chứng. Cũng như thang đo khác, kết quả thu được từ DASS
21 không có ý nghĩa chẩn đoán xác định bệnh mà chỉ có vai trò sàng lọc ban đầu
những đối tượng có biểu hiện stress, lo âu, trầm cảm. Từ đó khuyến cáo họ nên
tìm sự giúp đỡ từ các chuyên gia tâm lý sớm và có chế độ điều trị, chăm sóc,
nghỉ ngơi phù hợp. Các biểu hiện về thể chất và tâm lý được mô tả trong
thang đo chỉ tính được trong khoảng thời gian 1 tuần trở lại vì vậy kết quả thu
được từ thang đo chỉ có giá trị ngay tại thời điểm đánh giá [32], [51].
Trong các thang đo trên hiện chỉ có thang đo DASS 21 được Viện sức
khỏe tâm thần quốc gia biên dịch, thử nghiệm trên một số đối tượng nghề
nghiệp khác nhau như lái xe bus, công nhân dệt may...[32] và cũng được sử
dụng nhiều trong các nghiên cứu trên đối tượng là học sinh - sinh viên tại Việt
Nam. Nghiên cứu của Lê Minh Thuận (2010) ở sinh viên trường Đại học Y -
Dược thành phố Hồ Chí Minh, tác giả Eslami AA và cộng sự (2016) trong
nghiên cứu “Hiệu quả rèn luyện tính ứng phó với mức độ căng thẳng, lo âu và
20
trầm cảm của học sinh trung học” và các tác giả Singh K, Junnarkar M,
Sharma S, trong nghiên cứu “Lo lắng, căng thẳng, trầm cảm, và chức năng
tâm lý xã hội của thanh thiếu niên Ấn Độ” đều sử dụng bộ công cụ này do
tính thuận tiện và nó phù hợp với đối tượng học sinh [23], [58], [41].
Như vậy, sử dụng DASS 21 để đánh giá thực trạng stress ở học sinh là
hoàn toàn phù hợp và khả thi. Điều này rất quan trọng để làm tăng cường sự
quan tâm, chăm sóc về sức khỏe tâm thần cho học sinh. Do đó, trong nghiên
cứu này chúng tôi sử dụng bộ công cụ DASS 21 cho học sinh tự điền và xác
định học sinh có tổng điểm stress >14 là có vấn đề stress.
1.5. Giới thiệu về địa bàn nghiên cứu
Trường THPT Lương Phú – Phú Bình – Thái Nguyên nằm trên địa bàn một
xã khu vực 2 nông thôn, kinh tế còn khó khăn, nghề nghiệp chính là nông nghiệp
nên ngoài việc học tập tại trường thì các em còn phải phụ giúp gia đình tăng gia
sản xuất, điều đó có thể là gánh nặng gây ảnh hưởng tới SKTT và thể chất của
học sinh. Trường trung học phổ thông Lương Phú được thành lập vào năm 2003
với cơ sở vật chất nghèo nàn, trong hai năm đầu trường phải mượn cơ sở vật chất
tại trường THCS Lương Phú để đáp ứng nhu cầu học tập của các em học sinh.
Đến năm 2005 cơ sở vật chất của trường cơ bản được hoàn thiện phục vụ nhu
cầu học tập cho khoảng hơn 1200 các con em trên địa bàn xã và các xã lân cận…
Khoảng cách từ nhà đến trường của nhiều em học sinh còn khá xa gần 20km,
điều kiện giao thông đi lại còn nhiều khó khăn, phương tiện đi lại chủ yếu là xe
đạp… điều đó cũng gây ảnh hưởng đến sức khỏe của các em học sinh. Trong đó
SKTT ảnh hưởng nhiều đến cuộc sống của học sinh, đến mối quan hệ của học
sinh với thầy cô, bạn bè, người thân, đến kết quả học tập cũng như sự phát triển
chung của các em học sinh. Những năm gần đây, các nghiên cứu đánh giá về sức
khỏe tâm thần của học sinh, đặc biệt là học sinh phổ thông mới được chú trọng
nhiều hơn. Vì vậy, đánh giá stress của học sinh phổ thông rất cần thiết để góp
phần đưa ra giải pháp can thiệp nhằm tăng cường sức khỏe tâm thần cho học sinh.
21
Chương 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
* Nghiên cứu định lượng
- Học sinh khối 10, 11, 12 trường Trung học phổ thông Lương Phú - Phú
Bình - Thái Nguyên.
- Cha mẹ học sinh.
- Tiêu chuẩn lựa chọn: Tất cả những học sinh và cha mẹ học sinh đồng ý
tham gia nghiên cứu.
- Tiêu chuẩn loại trừ: Những học sinh, cha mẹ học sinh từ chối hoặc bỏ
tham gia nghiên cứu
* Nghiên cứu định tính
- Lãnh đạo nhà trường.
- Giáo viên chủ nhiệm lớp tham gia nghiên cứu.
2.2. Thời gian và địa điểm nghiên cứu
- Thời gian: Từ tháng 6/2016 - 12/2016.
- Địa điểm: Trường trung học phổ thông Lương Phú - Phú Bình - Thái Nguyên.
2.3. Phương pháp nghiên cứu
Sử dụng phương pháp nghiên cứu mô tả, thiết kế cắt ngang, kết hợp định
lượng và định tính.
2.4. Cỡ mẫu và kĩ thuật chọn mẫu
* Cỡ mẫu nghiên cứu định lượng:
Cỡ mẫu học sinh:
Được tính theo công thức tính cỡ mẫu cho tỷ lệ
Trong đó: n: Là cỡ mẫu nghiên cứu
22
α: Mức ý nghĩa thống kê; với α = 0,05 thì hệ số =1,96
p: Tỷ lệ rối loạn stress, chọn p = 0,5 (Theo nghiên cứu
“Thực trạng stress của học sinh trung học phổ thông và một số yếu tố liên
quan tại trường trung học phổ thông Phan Đình Phùng, Hà Nội, năm 2014 của
Trần Thị Hồng Vân và cộng sự, tỷ lệ học sinh bị stress là 46,1%) [29].
q: 1 - p
d: Độ chính xác mong muốn, chọn d = 0,05
Áp dụng công thức ta có số đối tượng nghiên cứu (ĐTNC) là: 385 người.
Cỡ mẫu cha mẹ học sinh: Toàn bộ cha mẹ học sinh của 1 lớp khối 10, 1
lớp khối 11 và 1 lớp khối 12 tham gia nghiên cứu.
* Cỡ mẫu nghiên cứu định tính:
Cỡ mẫu Lãnh đạo nhà trường và giáo viên chủ nhiệm: toàn bộ lãnh đạo
nhà trường và giáo viên chủ nhiệm của các lớp tham gia nghiên cứu.
* Kỹ thuật chọn mẫu
- Chọn chủ đích trường trung học phổ thông Lương Phú - Phú Bình -
Thái Nguyên.
- Chọn khối: Chọn cả 3 khối lớp 10, 11, 12 tham gia nghiên cứu.
- Chọn lớp: 12 lớp (4 lớp khối 10, 4 lớp khối 11 và 4 lớp khối 12)
Cách chọn: Mỗi khối có 10 lớp, mỗi lớp trung bình có 40 học sinh.
Lập danh sách các lớp theo khối. Bốc thăm ngẫu nhiên mỗi khối 4 lớp
vào nghiên cứu.
- Chọn học sinh: Chọn toàn bộ học sinh trong các lớp đã được chọn.
- Chọn mẫu cha mẹ học sinh: Trong 12 lớp đã được chọn vào nghiên cứu,
bốc thăm mỗi khối 1 lớp và chọn toàn bộ cha/mẹ của các em học sinh trong lớp đó.
Chọn mẫu lãnh đạo nhà trường và giáo viên chủ nhiệm: Chọn toàn bộ
lãnh đạo nhà trường và giáo viên chủ nhiệm các lớp tham gia nghiên cứu.
23
2.5. Công cụ và vật liệu nghiên cứu
2.5.1. Công cụ và vật liệu dành cho nghiên cứu thực trạng stress và tác hại
tâm lý của stress sở học sinh
- Sử dụng Test tâm lý: DASS 21 để đánh giá thực trạng stress và một số
hậu quả của stress ở học sinh.
- Phiếu điều tra học sinh về một số tác hại tâm lý của stress.
2.5.2. Công cụ và vật liệu dành cho nghiên cứu các yếu tố liên quan đến
stress ở học sinh bao gồm:
- Phiếu điều tra học sinh: xây dựng theo yêu cầu và mục tiêu nghiên
cứu. Sau khi xây dựng xong, tiến hành điều tra thử trên 15 học sinh và chỉnh
sửa nội dung cho phù hợp với đối tượng và mục tiêu nghiên cứu.
- Phiếu điều tra cha mẹ học sinh: được xây dựng tương tự như mẫu
phiếu điều tra học sinh.
- Phiếu phỏng vấn sâu giáo viên chủ nhiệm, lãnh đạo nhà trường.
2.6. Kĩ thuật thu thập số liệu
2.6.1. Đối với học sinh và cha mẹ của học sinh
Bước 1: Chuẩn bị
- Trước nghiên cứu: Nghiên cứu viên liên hệ với Ban giám hiệu và giáo
viên chủ nhiệm để thảo luận và thống nhất về nội dung, cách thức, thời gian
nghiên cứu. Lấy phiếu đồng ý tham gia nghiên cứu của cha mẹ và học sinh.
- Trước khi phát vấn bằng bộ phiếu tự điền được thiết kế sẵn, điều tra
viên giới thiệu với học sinh và cha mẹ học sinh về mục đích và lợi ích của
nghiên cứu. Điều tra viên cũng giới thiệu nội dung của phiếu tự điền, giải
thích một số cụm từ mà đối tượng nghiên cứu chưa hiểu rõ.
Bước 2: Tiến hành điều tra
- Học sinh và cha mẹ học sinh điền các thông tin vào phiếu theo sự
hướng dẫn và giám sát của điều tra viên.
24
- Ngay sau khi học sinh và cha mẹ học sinh điền phiếu xong, ĐTV
kiểm tra lại phiếu nếu có thông tin thiếu sót hoặc có những câu hỏi mà học sinh,
cha mẹ học sinh chưa điền thì yêu cầu bổ sung ngay tại thời điểm điều tra.
2.6.2. Đối với giáo viên chủ nhiệm và ban lãnh đạo nhà trường
Bước 1: Chuẩn bị
Trước nghiên cứu: Nghiên cứu viên liên hệ với giáo viên chủ nhiệm và
lãnh đạo nhà trường để thống nhất thời gian phỏng vấn.
Trước khi phỏng vấn: Giới thiệu với đối tượng nghiên cứu về mục đích
và lợi ích của nghiên cứu. Đảm bảo các thông tin được giữ bí mật, không gây
ảnh hưởng đến đối tượng nghiên cứu.
Bước 2: Tiến hành phỏng vấn
- Điều tra viên đặt câu hỏi và giải thích câu hỏi để đối tượng trả lời.
- Kiểm tra lại phiếu phỏng vấn để bổ sung những thông tin còn thiếu.
2.7. Chỉ số nghiên cứu
2.7.1. Các chỉ số về thông tin chung của đối tượng nghiên cứu
- Các chỉ số về thông tin chung của học sinh bao gồm: phân bố theo
giới tính, phân bố theo khối học, phân bố theo dân tộc.
- Các chỉ số về thông tin chung của cha mẹ học sinh bao gồm: phân bố
theo nhóm tuổi, phân bố theo giới tính, phân bố theo dân tộc của cha mẹ học
sinh, theo trình độ văn hóa.
2.7.2. Mục tiêu 1: Các chỉ số về thực trạng stress ở học sinh
- Tỷ lệ học sinh bị stress theo thang đo DASS 21 (Depression – Anxiety
– Stress Scale 21).
- Mức độ stress theo thang đo DASS 21.
- Đặc điểm stress tâm lý của học sinh theo thang đo DASS 21.
- Một số ảnh hưởng của stress đối với học sinh như lo âu, trầm cảm.
2.7.3. Mục tiêu 2: Các chỉ số về yếu tố liên quan đến stress ở học sinh
* Các yếu tố về gia đình như:
25
- Tình trạng hôn nhân của cha, mẹ.
- Nghề nghiệp của cha, mẹ.
- Trình độ học vấn của cha, mẹ.
- KAP của cha mẹ về chăm sóc rối loạn stress ở trẻ.
- Thứ tự con trong gia đình.
- Tần suất mâu thuẫn trong gia đình.
- Tần suất đối tượng bị mắng, chửi.
- Sự quan tâm của cha mẹ với stress ở học sinh.
* Các yếu tố về nhà trường:
- Cảm nhận về lượng kiến thức tại trường.
- Lượng bài tập về nhà.
- Nội quy nhà trường.
- Sự quan tâm của giáo viên chủ nhiệm.
- Hài lòng với các mối quan hệ bạn bè.
- Áp lực việc thi cử.
* Các hành vi sức khỏe:
- Chơi thể thao.
- Tham gia các hoạt động ngoại khóa câu lạc bộ, năng khiếu.
2.8. Phương pháp đánh giá
* Đánh giá stress và lo âu, trầm cảm do stress theo thang DASS 21
Mức độ đánh giá:
0 điểm: Không đúng với tôi chút nào cả
1 điểm: Đúng với tôi phần nào, hoặc thỉnh thoảng mới đúng
2 điểm: Đúng với tôi phần nhiều, hoặc phần lớn thời gian là đúng
3 điểm: Hoàn toàn đúng với tôi, hoặc hầu hết thời gian là đúng
Các câu hỏi theo thang đo DASS 21 (xem phần phụ lục)
Cách tính điểm:
26
Điểm của stress và lo âu, trầm cảm do stress được tính bằng cách cộng
điểm các đề mục thành phần, rồi nhân hệ số 2.
Mức độ Trầm cảm Lo âu Stress
Bình thường 0 – 9 0 - 7 0 - 14
Nhẹ 10 – 13 8 - 9 15 - 18
Vừa 14 – 20 10 - 14 19 - 25
Nặng 21 – 27 15 - 19 26 - 33
Rất nặng ≥ 28 ≥ 20 ≥ 34
Đánh giá KAP: dựa trên bộ câu hỏi phỏng vấn KAP của cha mẹ học sinh.
* Đánh giá kiến thức: phần kiến thức, mỗi câu trả lời đúng được tính 1 điểm, trả
lời sai không tính điểm. Tổng số điểm của phần kiến thức được phân chia làm 2
mức độ chưa tốt và tốt theo phân loại của Bloom như sau [22]:
- Số điểm đạt được < 80% : Chưa tốt
- Số điểm đạt được ≥ 80%: : Tốt
* Đánh giá thái độ: mỗi câu hỏi có 5 mức trả lời và được cho điểm từ 1 – 5 điểm
tương ứng với các mức. Tổng điểm phần thái độ được đánh giá theo 2 mức:
- Số điểm đạt < 80 % : Chưa tốt
- Số điểm đạt được ≥ 80%: : Tốt
* Đánh giá thực hành: mỗi câu trả lời đúng được tính 1 điểm, trả lời sai không
tính điểm. Tổng số điểm của phần thực hành được đánh giá theo 2 mức:
- Số điểm đạt < 80 % : Chưa tốt
- Số điểm đạt được ≥ 80%: : Tốt
* Đánh giá KAP của cha mẹ học sinh trong công tác chăm sóc sức khỏe
2.9. Biện pháp khống chế sai số
Tập huấn kỹ cho điều tra viên và thực hành điều tra.
Thiết kế bộ câu hỏi ngắn gọn, dễ hiểu, trước khi tiến hành điều tra có
điều tra thử và chỉnh sửa bộ câu hỏi cho phù hợp.
27
Mọi thông tin cá nhân của các đối tượng nghiên cứu được giữ bí mật,
không tiết lộ nhằm thu thập thông tin một cách chính xác nhất.
Đối tượng nghiên cứu được sắp xếp vị trí chỗ ngồi, có sự giám sát của
ĐTV để tránh sự trao đổi thông tin, các vấn đề chưa rõ có thể hỏi trực tiếp ĐTV.
Sau khi đối tượng nghiên cứu tự điền phiếu câu hỏi, ĐTV kiểm tra rà
soát lại các thông tin, đầy đủ mới thu lại phiếu.
2.10. Xử lý và phân tích số liệu
Số liệu được nhập và quản lý bằng phần mềm Epidata 3.1
Phân tích và xử lý số liệu dựa trên phần mềm SPSS 18.0 với các test
thống kê thông thường như tính tỷ lệ %, sử dụng kiểm định Khi bình phương,
giá trị OR, để xem xét các yếu tố liên quan.
2.11. Đạo đức nghiên cứu
Nghiên cứu này được sự đồng ý của lãnh đạo nhà trường, giáo viên chủ
nhiệm, phụ huynh và học sinh tham gia nghiên cứu. Trước khi tham gia
nghiên cứu đối tượng nghiên cứu được giải thích rõ về mục đích của nghiên
cứu và hoàn toàn có quyền quyết định tự nguyện tham gia nghiên cứu hay
không, đồng thời có giấy cam kết đồng ý tham gia nghiên cứu của phụ huynh
và học sinh. Thông tin của đối tượng nghiên cứu hoàn toàn được giữ bí mật,
không gây ảnh hưởng đến cuộc sống, tâm lý và sức khỏe của đối tượng
nghiên cứu. Kết quả nghiên cứu được thông báo cho các đơn vị y tế, cơ quan
chuyên trách trên địa bàn. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu nhằm cung cấp
thông tin và đưa ra những khuyến nghị cho việc làm giảm tình trạng stress và
nâng cao sức khỏe cho học sinh.
28
Chương 3
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. Đặc điểm chung của đối tượng tham gia nghiên cứu
3.1.1. Các thông tin chung của học sinh
Bảng 3.1. Đặc điểm về thông tin chung của học sinh
Tổng Đặc điểm Số lượng Tỷ lệ (%) n (396) %
Nam 51 37,0 138 34,8 Khối 10 Nữ 87 63,0
Nam 64 34,2 187 47,2 Khối 11 Nữ 123 65,8
Nam 36 50,7 71 18 Khối 12 Nữ 35 49,3
Kinh 364 91,9 396 100 Dân tộc Khác 32 8,1
Nhận xét: Trong tổng số 396 học sinh tham gia nghiên cứu, học sinh
khối 10 chiếm 34,8%, trong đó nam là 37%, nữ là 63%, khối 11 là 47,2%
trong đó nam là 34,2%, nữ là 65,8% và học sinh khối 12 tham gia vào nghiên
cứu là 18%, trong đó nam là 50,7%, nữ là 49,3%.
- Đa số học sinh là người dân tộc kinh 91,9%, học sinh các dân tộc thiểu
số chiếm 8,1%.
29
3.1.2. Thông tin chung về nhóm cha mẹ học sinh
Bảng 3.2. Đặc điểm chung về nhóm cha mẹ học sinh
Số lượng Đặc điểm Tỷ lệ (%) (Tổng = 113)
30-40 45 39,8
41-50 58 51,3 Tuổi
Trên 50 10 8,9
Nam 64 56,6 Giới Nữ 49 43,4
Tiểu học trở xuống 5 4,4
Trung học cơ sở 43 38,1 Trình độ học vấn Trung học phổ thông 41 36,3
Chuyên nghiệp 24 21,2
Kinh 100 88,5 Dân tộc Khác 13 11,5
Nhận xét: Trong tổng số 113 cha mẹ học sinh tham gia nghiên cứu tỷ lệ
cha mẹ học sinh từ 30 – 40 tuổi tham gia nghiên cứu là 39,8%, 40 – 50 tuổi
tham gia nghiên cứu là 51,3%, trên 50 tuổi chiếm 8,9%.
- Phụ huynh nam tham gia nghiên cứu là 56,6%, phụ huynh nữ là 43,4%.
- Trình độ học vấn của nhóm cha mẹ tham gia nghiên cứu đa số là trung
học phổ thông trở xuống, chuyên nghiệp chiếm 21,2%.
- Đa số phụ huynh tham gia nghiên cứu là người dân tộc kinh 88,5%,
dân tộc thiểu số chiếm 11,5%.
30
3.2. Thực trạng stress ở học sinh trường THPT Lương Phú - Phú Bình -
Thái Nguyên
Biểu đồ 3.1. Tỷ lệ stress ở học sinh
Nhận xét: Trong 396 học sinh tham gia nghiên cứu có 123 học sinh có biểu
hiện stress chiếm tỷ lệ 31,1%.
Biểu đồ 3.2. Mức độ stress ở học sinh
Nhận xét: Trong 123 học sinh bị stress, stress ở mức độ nhẹ chiếm
39%, vừa chiếm 30,9%, nặng chiếm 22% và rất nặng là 8,1%.
31
Bảng 3.3. Mức độ stress theo khối học
Stress Stress (+)
Khối Số lượng Tỷ lệ (%) (Tổng = 123)
Nhẹ 21 48,8
Vừa 12 27,9 Khối 10
(Tổng = 43) Nặng 8 18,6
Rất nặng 2 4,7
Nhẹ 19 34,5
Vừa 17 30,9 Khối 11
(Tổng = 55) Nặng 14 25,5
Rất nặng 5 9,1
Nhẹ 8 32,0
Vừa 9 36,0 Khối 12
(Tổng = 25) Nặng 5 20.0
Rất nặng 3 12,0
Nhận xét: Học sinh khối 10 bị stress mức độ nhẹ là 48,8%, vừa là
27,9%, nặng là 18,6% và rất nặng là 4,7%.
Học sinh khối 11 bị stress mức độ nhẹ là 34,5%, vừa là 30,9%, nặng là
25,5% và rất nặng là 9,1%.
Học sinh khối 12 bị stress mức độ nhẹ là 32%, vừa là 36%, nặng là 20%
và rất nặng là 12%.
32
Bảng 3.4. Các đặc điểm của stress theo thang đo DASS 21
Số lượng Tỷ lệ (%) Đặc điểm của stress (Tổng = 123)
Cảm giác không thoải mái được 117 95,1
Phản ứng thái quá với mọi tình huống 95 77,2
Hay suy nghĩ quá mức 122 99,2
Dễ bị kích động 98 79,7
Khó thư giãn 118 95,9
Khó thích nghi 109 88,6
Dễ phật ý, tự ái 90 73,2
Nhận xét: Đặc điểm stress hay gặp ở học sinh là hay suy nghĩ quá mức
(99,2%), khó thư giãn được (95,9%) và cảm giác không thoải mái (95,1%).
Tiếp đến là các biểu hiện khó thích nghi với các tình huống (88,6%), dễ bị
kích động (79,7%), phản ứng thái quá với mọi tình huống (77,2%) và dễ phật
ý, tự ái (73,2%).
Bảng 3.5. Tỷ lệ lo âu và trầm cảm ở học sinh do stress theo thang DASS 21
Số lượng Tỷ lệ (%) Đặc điểm (Tổng = 123)
81 65,9 Có Lo âu 42 34,1 Không
69 56,1 Có Trầm cảm 54 43,9 Không
Nhận xét: Tỷ lệ học sinh bị lo âu do stress chiếm 65,9% và trầm cảm
do stress chiếm 56,1%.
33
Bảng 3.6. Đặc điểm của lo âu do stress theo thang DASS 21
Số lượng Tỷ lệ (%) Đặc điểm của lo âu (Tổng = 81)
Cảm giác bị khô miệng 48 59,3
Rối loạn nhịp thở 35 43,2
Ra mồ hôi (chẳng hạn như mồ hôi tay…) 55 67,9
Lo lắng về những tình huống gây hoảng sợ 74 91,4 hoặc biến thành trò cười
Có biểu hiện gần như hoảng loạn 40 49,4
Nghe rõ tiếng nhịp tim dù không làm gì 48 59,3
Sợ vô cớ 50 61,7
Nhận xét: Đặc điểm lo âu hay gặp nhất ở học sinh là biểu hiện hay lo
lắng về những tình huống gây hoảng sợ hoặc biến học sinh thành trò cười
chiếm 91,4% và có tới 61,7% học sinh có biểu hiện sợ vô cớ và gần như
hoảng loạn là 49,4%.
Bảng 3.7. Đặc điểm của trầm cảm do stress theo thang DASS 21
Số lượng Tỷ lệ (%) Đặc điểm của trầm cảm (Tổng = 69)
58 84,1 Không có chút cảm xúc tích cực nào
66 95,7 Khó bắt tay vào công việc
54 78,3 Không có gì để mong đợi
65 94,2 Chán nản, thất vọng
58 84,1 Không hăng hái với việc gì
31 44,9 Không đáng làm người
42 60,9 Cảm thấy cuộc sống vô nghĩa
34
Nhận xét: Đặc điểm hay gặp của trầm cảm theo thang DASS 21 là khó
bắt tay vào công việc (95,7%), cảm thấy chán nản, thất vọng (94,2%), không
hăng hái với bất kỳ việc gì (84,1%) và không có chút cảm xúc tích cực nào
(84,1%), tiếp đến là biểu hiện không có gì để mong đợi (78,3%), có tới 60,9%
học sinh cảm thấy cuộc sống vô nghĩa và thậm chí là cảm thấy mình không
đáng làm người (44,9%).
Hộp 3.1. Các ý kiến về rối loạn stress ở học sinh
Phỏng vấn sâu lãnh đạo nhà trường và giáo viên chủ nhiệm về nguy cơ
mắc stress của học sinh bằng các câu hỏi: “Theo Anh/chị học sinh có thể bị
stress không? Nếu có thì học sinh khối nào dễ bị stress nhất?”. Các ý kiến đều
cho rằng stress là vấn đề thường gặp ở học sinh ở tất cả các khối. Cụ thể là:
“… Tất cả các học sinh đều có thể bị stress, không trừ khối nào vì lượng kiến
thức là quy định chung, tuy nhiên khối 12 dễ bị mắc stress hơn cả do áp lực
học tập, thi cử, lựa chọn nghề nghiệp. Đặc biệt bây giờ chỉ có một kỳ thi
quyết định, vừa thi tốt nghiệp vừa lựa chọn nghề nghiệp luôn nên các em phải
nỗ lực hết mình cho kỳ thi đó…”
Ý kiến ông D.N.B – Lãnh đạo nhà trường
“… Theo tôi, khối 12 dễ bị stress nhất do áp lực học tập, thi cử đặc biệt là thi
cuối khóa, vừa thi tốt nghiệp vừa thi đại học luôn, yêu cầu các em phải nắm
vững cả kiến thức từ năm lớp 10 và lớp 11 nên ngoài thời gian học trên lớp
nhiều em còn tham gia các lớp học thêm và học tại nhà nên thời gian nghỉ
ngơi gần như không có hoặc quá ít…”
Ý kiến bà L.T.H.G – Giáo viên chủ nhiệm
Nhận xét: Các ý kiến trên đều nhận định tất cả các học sinh đều có
nguy cơ bị mắc stress, nhưng học sinh khối 12 dễ bị mắc stress hơn cả chủ
yếu do áp lực thi cử, học tập.
35
3.3. Các yếu tố liên quan
Bảng 3.8. Phân bố stress theo giới, dân tộc
Stress (+) Stress (-) Bệnh
X2, p Tỷ lệ Tỷ lệ Số lượng Số lượng Các yếu tố (%) (%)
Nam 41 72,8 110 27,2 1,741 Giới >0,05 Nữ 82 66,5 163 33,5
Kinh 117 67,9 247 32,1 2,464 Dân tộc >0,05 Khác 6 81,2 26 18,8
Nhận xét: Không có mối liên quan giữa giới tính và dân tộc của học
sinh với rối loạn stress (p>0,05).
Bảng 3.9. Phân bố stress theo khối học
Stress Stress (+) Stress (-)
Khối 2, p
Số lượng Tỷ lệ (%) Số lượng Tỷ lệ (%)
10 43 31,2 95 68,8 0,809 11 55 29,4 132 70,6 Khối >0,05 12 25 35,2 46 64,8
Nhận xét: Học sinh khối 10 bị stress là 31,2%, khối 11 bị stress là
29,4% và khối 12 bị stress chiếm tỷ lệ cao nhất với 35,2% tuy nhiên sự khác
biệt này không có ý nghĩa thống kê (p>0,05).
36
Bảng 3.10. Phân tích đặc điểm giới tính của học sinh mắc stress
theo khối lớp
Stress (-)
Yếu tố Tỷ lệ% 2, p Stress (+) Số lượng Tỷ lệ% Số lượng
16 31,4 35 68,6 Nam 0,02 Khối 10
> 0,05 (Tổng = 43) 27 31,0 60 69,0 Nữ
16 25,0 48 75,0 Nam 0,912 Khối 11
> 0,05 (Tổng = 55) 39 31,7 84 68,3 Nữ
9 25,0 27 75,0 Nam 3,338 Khối 12
> 0,05 (Tổng = 25) 16 45,7 19 54,3 Nữ
Nhận xét: Tỷ lệ stress ở học sinh nữ có xu hướng cao hơn học sinh nam.
Tuy nhiên sự khác biệt về đặc điểm stress theo giới ở các khối lớp chưa có ý
nghĩa (p>0,05).
Bảng 3.11. Mối liên quan giữa học thêm ngoài trường với stress ở học sinh
Học thêm ngoài trường Có stress Không stress Tổng
Có 87 218 305
Không 36 55 91
Tổng 123 273 396
2, p 2 = 3,986, p < 0,05
Nhận xét: Có mối liên quan giữa nhóm có học thêm ngoài trường với
tỷ lệ stress ở học sinh (p<0,05).
37
Bảng 3.12. Phân bố stress theo dự định tương lai của học sinh
Stress (+) Stress (-)
Yếu tố 2, p
Học chuyên nghiệp Số lượng 64 Tỷ lệ (%) 28,1 Số lượng 164 Tỷ lệ (%) 71,9 2,24 Dự
>0,05 định Khác 59 35,1 109 64.9
Nhận xét: Không có mối liên quan giữa dự định tương lai với stress ở
học sinh (p>0,05).
Bảng 3.13. Phân bố stress theo đặc điểm của cha mẹ học sinh
Bệnh Stress (+) Stress (-)
2, p Các yếu tố Số lượng Số lượng Tỷ lệ (%) Tỷ lệ (%)
13 48,1 14 51,9
3,951 <0,05 Khác (ly dị, ly thân, góa...) Kết hôn Tình trạng hôn nhân 110 29,8 259 70,2
Khác 116 30,9 260 69,1
0,153 >0,05 Viên chức 7 35,0 13 65,0 Nghề nghiệp của bố
Khác 120 31,0 267 69,0
0,022 >0,05 Viên chức 3 33,3 6 66,7 Nghề nghiệp của mẹ
< THPT 22 28,2 56 71,8
0,370 >0,05 ≥ THPT 101 31,8 217 68,2 Trình độ học vấn của bố
< THPT 27 30,0 63 70,0
0,061 >0,05 ≥ THPT 96 31,4 210 68,6 Trình độ học vấn của mẹ
38
Nhận xét:
- Có mối liên quan giữa tình trạng hôn nhân của cha mẹ học sinh với
stress ở học sinh (nhóm có cha mẹ ly dị, ly thân, góa, không kết hôn có nguy cơ
bị stress cao hơn so với nhóm có cha mẹ kết hôn sống cùng nhau với p<0,05).
- Không có mối liên quan giữa nghề nghiệp, trình độ học vấn của cha
mẹ học sinh với stress ở học sinh (p>0,05).
Biểu đồ 3.3. Đặc điểm kiến thức, thái độ, thực hành của cha mẹ học sinh
về chăm sóc rối loạn stress ở học sinh
Nhận xét:
- Kiến thức về stress ở học sinh của cha mẹ đa số ở mức độ tốt
(87,6%), chưa tốt chiếm 12,4%.
- Đa số cha mẹ có thái độ tốt đối với stress ở học sinh chiếm 75,2%,
thái độ chưa tốt chiếm 24,8%.
- Thực hành chăm sóc rối loạn stress ở học sinh của cha mẹ chủ yếu ở
mức độ chưa đạt (83,2%), thực hành đạt chỉ chiếm 16,8%.
39
Bảng 3.14. Phân bố stress theo các yếu tố gia đình
Bệnh Stress (+) Stress (-)
Số X2,p (%) Số lượng (%) Các yếu tố lượng
60 27,3 160 72,7 Cả
3,32 > 0,05 63 35,8 113 64,2 Thứ Con thứ mấy trong gia đình
Không tốt 2 100,0 0 0,0
4,46 < 0,05 121 30,7 273 69,3 Tốt Quan tâm của gia đình
Thường xuyên 27 42,9 36 57,1
4,87 < 0,05 Ít khi 96 28,8 237 71,2 Mâu thuẫn trong gia đình
Thường xuyên 79 38,3 127 61,7
Tần suất bị mắng, chửi 10,65 < 0,05 44 23,2 146 76,8 Ít khi
Nhận xét:
- Không có mối liên quan giữa nhóm con cả, con thứ trong gia đình với
stress ở học sinh (p>0,05).
- Có mối liên quan giữa mức độ quan tâm của gia đình, mức độ mâu
thuẫn trong gia đình và tần suất học sinh bị mắng, chửi với biểu hiện stress ở
học sinh (p<0,05).
40
Bảng 3.15. Phân bố stress theo cảm nhận của học sinh về nhà trường
Bệnh Stress (+) Stress (-)
Số Tỷ lệ Số Tỷ lệ X2,p
Các yếu tố lượng (%) lượng (%)
Cảm nhận Quá tải 50,8 32 49,2 33
14,11
về lượng
< 0,001
Bình thường 27,2 241 72,8 90 kiến thức
Cảm nhận Quá tải 52,9 32 47,1 36
18,36
lượng bài
< 0,001
Bình thường 26,5 241 73,5 87 tập về nhà
1,56
Cảm nhận Quá khắt khe 35,8 70 64,2 39
> 0,05
về nội quy Bình thường 29,3 203 70,7 84 nhà trường
Thường xuyên 55,3 34 44,7 42 Áp lực việc
25,73
< 0,001
thi cử Bình thường 25,3 239 74,7 81
Nhận xét:
- Có sự liên quan rõ rệt giữa cảm nhận về lượng kiến thức ở trường,
lượng bài tập về nhà và áp lực thi cử với stress ở học sinh (p<0,001).
- Không có sự liên quan giữa cảm nhận về nội quy nhà trường với stress
ở học sinh (p>0,05).
41
Bảng 3.16. Phân bố stress theo các yếu tố về nhà trường
Bệnh Stress (+) Stress (-)
Số Tỷ lệ Số Tỷ lệ X2, p
Các yếu tố lượng (%) lượng (%)
3,12
Sự quan Ít quan tâm 144 45,2 17 54,8
109
29,9
256
70,1
tâm của
> 0,05
Thường xuyên GVCN
2,07
Mối quan Không hài lòng 6 50,0 6 50,0
hệ bạn bè
> 0,05
Hài lòng 117 30,5 267 69,5 ở trường
Sự quan Ít quan tâm 37,3 116 62,7 69
6,31
tâm của
Quan tâm 25,6 157 74,4 54
< 0,05
bạn bè
Nhận xét:
- Không có mối liên quan giữa sự quan tâm của giáo viên chủ nhiệm, mối
quan hệ với bạn bè ở trường của học sinh với biểu hiện stress ở học sinh (p>0,05).
- Có mối liên quan giữa sự quan tâm của bạn bè với stress ở học sinh,
nhóm học sinh không nhận được sự quan tâm của bạn bè thường xuyên có
nguy cơ bị stress cao hơn nhóm học sinh thường xuyên nhận được sự quan
tâm của bạn bè (p<0,05).
42
Bảng 3.17. Phân bố stress theo các hành vi sức khỏe
Bệnh Stress (+) Stress (-)
X2, p Số Tỷ lệ Số Tỷ lệ
Các yếu tố lượng (%) lượng (%)
0,01
Không 30,6 68 69,4 30
> 0,05
Chơi thể thao
Có 31,2 205 68,8 93
Các hoạt động Không 31 31,3 68 68,7
0,004
> 0,05
khác (năng
khiếu, câu lạc Có 92 31,0 205 69,0 bộ, ngoại khóa)
Nhận xét: Không có sự khác biệt về tỷ lệ stress giữa nhóm học sinh có
các hành vi sức khỏe như chơi thể thao, tham gia các hoạt động ngoại khóa
(năng khiếu, câu lạc bộ...) và nhóm học sinh không có các hành vi sức khỏe
trên (p>0,05).
43
Hộp 3.2. Các ý kiến về mối quan hệ của học sinh tại lớp / trường
Thảo luận về “Mối quan hệ của học sinh với bạn bè và thầy cô trong
lớp/trường, Mối quan hệ đó có tác động như thế nào đến stress ở học sinh?”
nhận được khá nhiều ý kiến. Cụ thể là:
“… Học sinh trong lớp đa số là đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau tuy nhiên học sinh giữa các lớp, các khối thì ít giao lưu giúp đỡ, chia sẻ kinh nghiệm với nhau, đôi khi còn gây gổ đánh nhau…
Về mối quan hệ giữa các thầy cô giáo với học sinh cơ bản là tốt, thường xuyên trao đổi, giúp đỡ học sinh về các vấn đề học tập và cuộc sống…
Theo tôi nếu mối quan hệ của học sinh với bạn bè, thầy cô tốt sẽ giúp học sinh thoải mái hơn, bớt căng thẳng hơn, bây giờ hiện tượng bạo lực học đường đang là mối lo lắng thường trực của các em, chỉ cần “nhìn đểu”, “nói đểu” thôi cũng xảy ra đánh lộn nên nhiều em sợ phải đến trường…”
Ý kiến ông D.N.B – Lãnh đạo nhà trường
“… Trong lớp, các em cơ bản đoàn kết, giúp đỡ nhau trong học tập, thi đua học tập tốt, tuy nhiên một số lớp vẫn có hiện tượng chia nhóm, chưa thực sự quan tâm giúp đỡ những bạn yếu kém hơn còn trong trường thì học sinh giữa các khối chưa thực sự quan tâm đến nhau, còn một số hiện tượng xích mích, gây gổ đánh nhau, nhiều học sinh do xích mích còn sợ đến trường…
Còn nói về mối quan hệ giữa thầy cô trong trường với học sinh thì thầy cô luôn luôn quan tâm, giúp đỡ các em trong học tập và chia sẻ với các em các vướng mắc trong cuộc sống, đặc biệt là các giáo viên chủ nhiệm…
Quan hệ của học sinh với thầy cô, bạn bè tốt sẽ giúp các em yên tâm học tập và thoải mái trao đổi các vấn đề trong học tập cũng như cuộc sống như vậy sẽ làm giảm bớt stress ở học sinh…”
Ý kiến ông N.Đ.G – Giáo viên chủ nhiệm
Nhận xét: Các ý kiến đều cho rằng mối quan hệ giữa các thầy cô với
học sinh và giữa các học sinh trong lớp cơ bản là tốt, tuy nhiên học sinh trong
trường vẫn còn hiện tượng xích mích, gây gổ với nhau và nếu mối quan hệ
này tốt sẽ làm giảm stress ở học sinh.
44
Hộp 3.3. Ý kiến về các hoạt động ngoại khóa, thể thao, năng khiếu
Phỏng vấn sâu và thảo luận nhóm về “Các hoạt động ngoại khóa, thể
dục thể thao tại trường, mức độ tham gia của học sinh và việc tham gia các
hoạt động đó ảnh hưởng như thế nào đến stress ở học sinh?” với giáo viên
chủ nhiệm và phụ trách Đoàn Đội nhận được các ý kiến:
“… Về hoạt động ngoại khóa thì hơn 1 tháng nhà trường tổ chức một lần có
thể là hội thao, năng khiếu cầu lông, võ thuật và lao động tình nguyện hoặc
thi diễn văn nghệ… Hàng tuần đoàn trường vẫn thực hiện hoạt động tập thể
dục giữa giờ 3 lần/tuần và mỗi năm nhà trường tổ chức hội khỏe phù đổng
một lần, tỷ lệ học sinh tham gia các hoạt động này là khá đông và tích cực.
Việc tham gia các hoạt động này giúp học sinh bớt căng thẳng trong học tập
và làm giảm stress ở học sinh…”
Ý kiến ông N.T.Đ – Cán bộ đoàn
“…Tham gia các hoạt động ngoại khóa, vui chơi giải trí và thể dục thể thao
giúp học sinh giảm bớt căng thẳng trong cuộc sống và học tập…”
Ý kiến của bà N.T.T – Giáo viên chủ nhiệm
“... Việc tổ chức các hoạt động ngoại khóa, hội khỏe phù đổng và các câu lạc
bộ như câu lạc bộ võ học, cầu lông... được các em học sinh tham gia nhiệt
tình và hăng hái, các hoạt động này giúp các em học sinh giao lưu, học hỏi và
đoàn kết giúp đỡ nhau hơn, như vậy sẽ giúp giảm bớt mâu thuẫn và những
căng thẳng ở học sinh...”
Ý kiến của ông N.Đ.G – Giáo viên chủ nhiệm kiêm công tác đoàn
Nhận xét: Các ý kiến đều cho rằng việc tham gia các hoạt động ngoại
khóa, thể dục thể thao, năng khiếu... đều có tác dụng làm giảm bớt căng thẳng
ở học sinh và giúp học sinh đoàn kết hơn.
45
Chương 4
BÀN LUẬN
4.1. Đặc điểm chung của đối tượng tham gia nghiên cứu
4.1.1. Các đặc điểm chung về nhóm học sinh nghiên cứu
Nghiên cứu được tiến hành tại trường Trung học phổ thông Lương Phú
– Phú Bình – Thái Nguyên đóng trên địa bàn một xã thuộc khu vực nông thôn
của tỉnh Thái Nguyên. Trước khi tiến hành nghiên cứu, nhóm nghiên cứu đã
liên hệ, vận động cha mẹ học sinh đồng ý cho con em mình tham gia vào
nghiên cứu thông qua Ban giám hiệu nhà trường và giáo viên chủ nhiệm các
lớp. Đa số các cha mẹ đã đồng ý cho con em mình tham gia vào nghiên cứu.
Nghiên cứu được tiến hành trên 396 em học sinh các khối 10, 11, 12. Trong
nhóm nghiên cứu, học sinh khối 10 tham gia vào nghiên cứu chiếm tỷ lệ 34,8%,
khối 11 chiếm đa số với 47,2%, khối 12 chiếm tỷ lệ thấp nhất với 18%. Phải
chăng do học sinh khối 10 mới chuyển từ môi trường trung học cơ sở lên môi
trường trung học phổ thông với môi trường học mới, khối lượng kiến thức
nhiều và phương pháp học mới, học sinh chưa kịp thích nghi với sự thay đổi
đó nên dẫn tới những ảnh hưởng đến tâm lý của học sinh. Còn học sinh khối
12 phải chịu nhiều áp lực về học tập, thi cử cuối khóa, lựa chọn ngành nghề
và kỳ vọng, áp lực từ gia đình nên học sinh khối 12 cũng chịu nhiều ảnh
hưởng đến tâm lý do đó tỷ lệ học sinh khối 10 và khối 12 tham gia vào nghiên
cứu thấp hơn so với khối 11. Trong khi đó học sinh khối 11 đã có một năm
làm quen với môi trường mới, cách học mới và chưa chịu nhiều áp lực về thi
cử cuối khóa, lựa chọn nghề nghiệp và áp lực gia đình nên tâm lý thoải mái
hơn, tỷ lệ tham gia nghiên cứu cũng cao hơn.
46
Tỷ lệ học sinh tham gia nghiên cứu không đồng đều giữa nam và nữ, tỷ
lệ học sinh nữ tham gia nghiên cứu cao hơn so với học sinh nam (61,9% so
với 38,1%). Đặc biệt tỷ lệ giới tính khác biệt rõ rệt ở khối 10 (nữ 63%, nam
37%) và khối 11 (nữ 65,8%, nam 34,2%). Tỷ lệ nam và nữ tham gia nghiên
cứu ở khối 12 khá tương đồng (50,7% so với 49,3%).
Thái Nguyên có nhiều dân tộc anh em sinh sống, đặc biệt ở các vùng
nông thôn, do vậy đặc điểm dân tộc của đối tượng tham gia nghiên cứu cũng
cần được quan tâm. Yếu tố dân tộc và các vấn đề liên quan đến văn hóa của
mỗi dân tộc có thể có mối liên quan đến các yếu tố tâm lý của đối tượng. Qua
nghiên cứu cho thấy đa số học sinh tham gia nghiên cứu đều là dân tộc kinh
(91,9%), các dân tộc khác chỉ chiếm 8,1%.
4.1.2. Các đặc điểm chung về nhóm cha mẹ học sinh
Nhóm nghiên cứu tiến hành khảo sát trên 113 cha mẹ học sinh tham gia
nghiên cứu. Kết quả nghiên cứu cho thấy độ tuổi của cha mẹ học sinh tham
gia nghiên cứu từ 30 tuổi trở lên, độ tuổi tham gia nghiên cứu nhiều nhất là 40
– 50 tuổi chiếm 51,3 %, từ 30 – 40 tuổi chiếm 39,8%, trên 50 tuổi chỉ chiếm
8,9%. Trình độ học vấn của cha mẹ học sinh đa số từ trung học phổ thổng trở
lên chiếm 57,5%, từ trung học cơ sở trở xuống chiếm 42,5%. Với độ tuổi chủ
yếu dưới 50 tuổi và trình độ học vấn đa số từ trung học phổ thông trở lên nên
có thể kiến thức, thái độ của cha mẹ học sinh về chăm sóc rối loạn stress ở
học sinh sẽ đa số ở mức độ tốt.
4.2. Thực trạng stress ở học sinh trường THPT Lương Phú – Phú Bình –
Thái Nguyên
Nghiên cứu khảo sát vấn đề stress ở học sinh trường Trung học phổ
thông Lương Phú – Phú Bình - Thái Nguyên bằng thang đo DASS 21 cho
thấy tỷ lệ học sinh bị stress là 31,1%, trong đó nhẹ là 39%, vừa 30,9%, nặng
47
22% và rất nặng 8,1%, với các biểu hiện thường gặp nhất là hay suy nghĩ quá
mức (99,2%), khó thư giãn được (95,9%) và cảm giác không thoải mái
(95,1%). So sánh với một số nghiên cứu khác trong phần tổng quan, kết quả
nghiên cứu của chúng tôi khá tương đồng. Kết quả nghiên cứu của tác giả
Noelle R. Leonard về căng thẳng, đối phó và sử dụng chất gây nghiện trong
thanh thiếu niên các trường tư thục, tỷ lệ học sinh bị stress là 31% [54]. Một
nghiên cứu về stress ở học sinh lớp 12 trường Trung học phổ thông Đông Hà
– Quảng Trị sau kỳ nghỉ tết nguyên đán, sử dụng thang đo tự đánh giá về
stress của Cohen cho thấy tỷ lệ học sinh bị stress là 30,4% [3]. Theo Hoàng
Cẩm Tú và Đặng Hoàng Minh khảo sát sức khỏe tâm thần trên 1727 học sinh
Trung học cơ sở Hà Nội cho thấy có 25,76% tổng số học sinh có vấn đề về
sức khỏe tâm thần nói chung và 29,7% học sinh có biểu hiện về cảm xúc
stress nói riêng [14]. Nghiên cứu của chúng tôi cũng cho kết quả thấp hơn
một số nghiên cứu trong nước và ngoài nước. Theo tác giả Ahmad Ali Eslami
và cộng sự nghiên cứu trên 126 học sinh ở Iran cho thấy tỷ lệ học sinh bị
stress là 49,2% [41]. Kết quả nghiên cứu của Trần Thị Hồng Vân sử dụng
thang đo DASS 42 trên 482 học sinh trường Trung học phổ thông Phan Đình
Phùng, Hà Nội nhận thấy 46,1% học sinh bị stress ở các mức độ khác nhau,
nhẹ 18,9%, vừa 20,1%, nặng 5,2% và rất nặng là 2,5% (tính trên tổng số học
sinh tham gia nghiên cứu) [29]. Nghiên cứu của Hồ Hữu Tính và cộng sự về
thực trạng stress lo âu và mối liên quan trên 287 học sinh lớp 12 trường Trung
học phổ thông Phan Bội Châu, Phan Thiết, Bình Thuận cho kết quả 38% học
sinh bị stress lo âu [25]. Một nghiên cứu khác về tình trạng stress và các yếu
tố liên quan ở học sinh một trường Trung học phổ thông tại tỉnh Đồng Nai, tỷ
lệ học sinh bị stress là 44,8%, trong đó stress nhẹ là 34,8%, nặng là 10%, chia
theo hai mức độ [18]. Nghiên cứu của Lê Hải Yến trên 678 sinh viên trường
Cao đẳng Y tế Thái Nguyên sử dụng thang đo DASS 21 cho thấy 49,5% sinh
viên có biểu hiện stress ở các mức độ, nhẹ 16,2%, vừa 14,7%, nặng 13% và
48
rất nặng là 4,6% (tính trên tổng số sinh viên tham gia nghiên cứu) [30]. So với
một số nghiên cứu khác kết quả của nhóm nghiên cứu cũng cao hơn như
nghiên cứu của Kamlesh Singh và cộng sự tại Ấn Độ sử dụng thang đo DASS
21 trên 1812 học sinh từ 12 đến 19 tuổi cho thấy tỷ lệ học sinh bị mắc các rối
loạn về sức khỏe tâm thần là 14,4% - 31,7%, trong đó rối loạn stress là 20%
[58]. Nghiên cứu của Trường Đại học Giáo dục (2012), “Đánh giá mức độ
căng thẳng tâm lý của học sinh tiểu học ở Hà Nội” cho kết quả 25,8% học
sinh bị mắc stress [31]. Nguyên nhân dẫn đến sự khác biệt này có thể do thời
điểm tiến hành nghiên cứu, địa điểm nghiên cứu, đối tượng và công cụ sử
dụng trong các nghiên cứu là khác nhau.
Bên cạnh rối loạn stress thì những ảnh hưởng của stress như dẫn đến lo
âu, trầm cảm cũng là những vấn đề sức khỏe tâm thần mà chúng tôi quan tâm.
Tỷ lệ học sinh bị rối loạn trầm cảm do stress là 65.9% và tỷ lệ học sinh bị rối
loạn lo âu do stress là 56,1%. Nghiên cứu của chúng tôi cao hơn so với nghiên
cứu về stress, lo âu, trầm cảm ở sinh viên y khoa của tác giả Trần Kim Trang
(2011), cho thấy có mối liên quan giữa stress với lo âu và trầm cảm
(p<0.001), trong đó rối loạn kết hợp stress – trầm cảm là 46.8%, lo âu – trầm
cảm là 21.1%, rối loạn kết hợp cả stress – lo âu – trầm cảm là 52.8% [26].
Vậy đáng lưu ý khi nghiên cứu của chúng tôi có 65,9% học sinh bị rối loạn
kết hợp dạng stress – trầm cảm và 56,1% học sinh bị rối loạn kết hợp dạng
stress - lo âu với các biểu hiện nặng chiếm tỷ lệ khá cao như biểu hiện của lo
âu do stress là lo lắng về những tình huống gây hoảng sợ hoặc biến học sinh
thành trò cười chiếm 91,4%, có tới 61,7% học sinh có biểu hiện sợ vô cớ và
gần như hoảng loạn là 49,4%. Biểu hiện của trầm cảm do stress như cảm thấy
chán nản, thất vọng (94,2%), không hăng hái với bất kỳ việc gì (84,1%) và
không có chút cảm xúc tích cực nào (84,1%), tiếp đến là biểu hiện không có
gì để mong đợi (78,3%), có tới 60,9% học sinh cảm thấy cuộc sống vô nghĩa
49
và thậm chí là cảm thấy mình không đáng làm người (44,9%). Những rối loạn
này khiến cho việc học tập, sức khoẻ và quan hệ xã hội của học sinh bị ảnh
hưởng là điều không thể tránh khỏi, hơn nữa đây có thể là nguyên nhân dẫn
đến những hậu quả khôn lường của stress là tự sát ở các em học sinh. Hiện
nay có rất ít nghiên cứu về rối loạn lo âu, trầm cảm do stress ở học sinh do đó
đây là điểm mới trong đề tài nghiên cứu của chúng tôi, tuy nhiên trong nghiên
cứu này vẫn còn những yếu tố liên quan giữa stress – lo âu – trầm cảm chưa
được khai thác, đây sẽ là hướng đi mới cho những nghiên cứu tiếp theo của
chúng tôi.
4.3. Một số yếu tố liên quan đến stress ở học sinh trường Trung học phổ
thông Lương Phú – Phú Bình – Thái Nguyên
Trong quá trình thực hiện nghiên cứu, một số yếu tố được đưa ra để
phân tích, tìm hiểu mối liên quan với stress ở học sinh bao gồm:
4.3.1. Liên quan theo khối học, giới tính và dân tộc
Phân tích mối liên quan giữa khối học và stress, kết quả định tính cho
thấy hầu hết các ý kiến đều cho rằng khối 12 có nguy cơ bị rối loạn stress cao
hơn khối 10 và 11 do các áp lực về học tập thi cử cuối cấp làm gia tăng stress
ở học sinh, tuy nhiên kết quả định lượng cho thấy không có mối liên quan
giữa các khối học với stress ở học sinh (p>0,05). Kết quả này tương tự nghiên
cứu của tác giả Trần Thị Hồng Vân tại trường Trung học phổ thông Phan
Đình Phùng, Hà Nội, sự khác biệt về tỷ lệ stress giữa các khối 10, 11, 12
không có ý nghĩa thông kê (p>0,05) [29].
Nghiên cứu của chúng tôi cũng cho kết quả không có mối liên quan
giữa giới tính của học sinh với tỷ lệ mắc stress ở học sinh (p>0,05). Kết quả
này tương tự với nghiên cứu của tác giả Leslie R. Rith-Najarian và cộng sự
(2014) tại Mỹ, không có sự khác biệt về giới tính với stress ở học sinh
50
(p>0,05) [47] và nghiên cứu của Trần Thị Hồng Vân (2014), không có sự
khác biệt về tỷ lệ stress giữa nam và nữ (p>0,05) [29]. Tuy nhiên có nhiều
nghiên cứu lại chỉ ra có sự liên quan giữa giới tính và stress, nghiên cứu của
tác giả Noelle R. Leonard và cộng sự (2015) về stress, đối phó và sử dụng
chất gây nghiện trong thanh thiếu niên trong các trường tư thục cho thấy
stress ở nam cao hơn ở nữ với p<0,05 [54]. Nghiên cứu của tác giả Hồ Hữa
Tính và Nguyễn Doãn Thành (2009) về thực trạng stress lo âu và những yếu
tố liên quan ở học sinh cấp 3 trường Trung học phổ thông Phan Bội Châu,
Phan Thiết, Bình Thuận cũng cho thấy có mối liên quan có ý nghĩa thông kê
giữa stress với giới tính của học sinh (p<0,05) [25]. Sở dĩ có sự khác nhau
giữa các nghiên cứu có thể là do cỡ mẫu, loại hình nghiên cứu và công cụ sử
dụng nghiên cứu khác nhau.
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy sự khác biệt về dân tộc với
stress ở học sinh không có ý nghĩa thông kê (p>0,05). Nghiên cứu của chúng
tôi giống với nghiên cứu của tác giả Đàm Thị Bảo Hoa và cộng sự (2014), khi
đánh giá hiệu quả mô hình phát hiện và can thiệp sớm rối loạn tâm thần ở học
sinh từ 6 – 15 tuổi tại thành phố Thái Nguyên, không có mối liên quan giữa
dân tộc và stress ở học sinh (p>0,05) [9]. Kết quả này cũng giống với nghiên
cứu của tác giả Leslie R. Rith-Najarian và cộng sự (2014) tại Mỹ, không có sự
khác biệt giữa yếu tố dân tộc với stress ở học sinh (p>0,05) [48]. Trong
nghiên cứu này, tỷ lệ stress ở nhóm học sinh dân tộc kinh là 32,1%, nhóm các
dân tộc khác là 18,8%. Mặc dù không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về
tỷ lệ mắc bệnh theo yếu tố dân tộc, tuy nhiên tỷ lệ mắc bệnh ở nhóm dân tộc
thiểu số nhỏ hơn rõ rệt so với nhóm đân tộc kinh, điều này gợi ý cho một
nghiên cứu rộng hơn về vấn đề này.
51
4.3.2. Liên quan giữa yếu tố gia đình và stress ở học sinh
Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy có sự liên quan giữa tình trạng hôn
nhân của cha mẹ, mức độ quan tâm của gia đình, mức độ mâu thuẫn trong gia
đình và tần suất học sinh bị gia đình mắng, chửi với stress ở học sinh
(p<0.05). Kết quả này giống với nghiên cứu về thực trạng sức khỏe tâm thần
của học sinh trung học cơ sở ở Hà Nội và nhu cầu tham vấn của tác giả Đặng
Hoàng Minh cho thấy số trẻ có bố mẹ ly hôn hoặc ly thân bị stress cao hơn
những trẻ có bố mẹ đang sống cùng nhau [14]. Tác giả Nguyễn Thị Hằng
Phương (2009) trong một nghiên cứu về rối loạn lo âu ở học sinh trường
Trung học phổ thông chuyên Quảng Bình cũng cho thấy bên cạnh nguyên
nhân gây lo lắng cho các em là kinh tế gia đình không tốt thì việc gia đình có
xung đột, cha mẹ bất hòa, ly thân, góa… cũng là mối lo lắng thường trực của
các em học sinh [20]. Trong nghiên cứu về sức khỏe tâm thần ở học sinh tiểu
học và trung học cơ sở của tác giả Đàm Thị Bảo Hoa (2014), 52,1% học sinh
stress do bị bố mẹ đánh, mắng và 36,6% stress do bị thầy cô phạt… [9].
Kathleen Ries Merikangas (2009) cũng đề cập đến các stress của môi trường
gia đình như cha mẹ thất nghiệp, cấu trúc gia đình phức tạp, cha mẹ ly hôn
hoặc đơn thân là những yếu tố nguy cơ cao của bệnh [44]. Tác giả Menelik
Desta và cộng sự (2008) thực hiện một nghiên cứu bệnh chứng trên trẻ em và
trẻ vị thành niên ở Addis Ababa, Ethiopia đã nhận thấy tuổi, khó khăn về kinh
tế và có cha mẹ đơn thân, ly hôn là các yếu tố nguy cơ mắc bệnh [52]. Tuy
nhiên kết quả của chúng tôi cũng khác với một số nghiên cứu khác như
nghiên cứu của Phùng Đức Nhật (2012) về stress ở học sinh trường Trung học
phổ thông Nam Hà, tỉnh Đồng Nai, có mối liên quan có ý nghĩa thống kê về
tình trạng kinh tế của gia đình với stress ở học sinh nhưng không có sự liên
quan về tình trạng hôn nhân của cha mẹ và những lo lắng về xáo trộn trong
gia đình với stress ở học sinh [18].
52
Trong nghiên cứu, chúng tôi cũng quan tâm đến các yếu tố nghề
nghiệp, trình độ học vấn của cha mẹ cũng như đối tượng là con thứ mấy trong
gia đình, tuy nhiên không có sự liên quan có ý nghĩa thống kê giữa nghề
nghiệp, trình độ học vấn của cha mẹ và thứ tự con trong gia đình với stress ở
học sinh (p>0.05). Finkelstein DM và cộng sự (2007), nghiên cứu về stress
trên 1167 thiếu niên da đen và trắng người Mỹ gốc Phi và học sinh trung học
phổ thông công lập Midwestern nhận thấy nhóm học sinh có cha mẹ có trình
độ học vấn thấp có tỷ lệ stress cao hơn nhóm học sinh có cha mẹ có trình độ
học vấn cao (p<0,0001) [42]. Tác giả Kathleen Ries Merikangas (2009) cũng
cho thấy có sự liên quan giữa stress ở học sinh với nghề nghiệp của cha mẹ,
những học sinh có cha mẹ thất nghiệp có nguy cơ bị stress cao hơn những học
sinh khác [44]. Kết quả nghiên cứu của tác giả Trần Thị Hồng Vân trong
nghiên cứu về stress ở học sinh trường Trung học phổ thông Phan Đình
Phùng, Hà Nội cũng cho thấy không có sự khác biệt về tỷ lệ stress giữa các
nhóm có tình trạng hôn nhân của bố mẹ khác nhau, giữa nhóm sống cùng bố
mẹ với nhóm chỉ sống cùng bố hoặc mẹ và không có sự khác biệt giữa nhóm
là con cả hay con thứ trong gia đình (p>0,05), tuy nhiên lại có sự khác biệt có
ý nghĩa thống kê về tỷ lệ stress giữa các nhóm có mức độ mâu thuẫn trong gia
đình khác nhau (p<0,05) [29]. Tác giả Hồ Hữu Tính (2009) trong một nghiên
cứu về stress ở học sinh cấp 3 cũng thấy rằng 78% trong tổng số học hinh
thường xuyên bị stress lo âu vì những xung đột trong quan hệ gia đình [25].
Nghiên cứu của Shilpa Taragar (2009) về stress ở học sinh cấp 3 tại Ấn Độ lại
cho rằng không có mối liên quan giữa một số thông tin cá nhân của đối tượng
như tuổi, số lượng anh chị em trong gia đình, kích cỡ gia đình và nghề nghiệp
của cha mẹ với stress ở học sinh [57].
Trong nghiên cứu này chúng tôi cũng quan tâm đến mối liên quan giữa
kiến thức, thái độ và thực hành chăm sóc rối loạn stress của cha mẹ học sinh
53
với tỷ lệ stress ở học sinh. Cụ thể kiến thức tốt chiếm 87,6%, chưa tốt chiếm
12,4%, thái độ tốt chiếm 75,2%, thái độ chưa tốt chỉ chiếm 24,8%. Phải
chăng, do sự phổ biến của các phương tiện truyền thông, cha mẹ được tiếp
xúc với nhiều nguồn thông tin đại chúng như ti vi, báo, đài, internet… nên
cha mẹ có kiến thức và thái độ tốt về chăm sóc rối loạn stress ở học sinh. Tuy
nhiên vì chưa có bất cứ lớp tập huấn về chăm sóc sức khỏe tâm thần nào cho
cha mẹ học sinh được tổ chức tại trường hay địa phương nên mức độ thực
hành tốt của cha mẹ về chăm sóc rối loạn stress ở học sinh chỉ chiếm 16,8%,
thực hành chưa tốt chiếm đến 83,2%. Hạn chế của nghiên cứu này là chưa
ghép cặp cha/mẹ - học sinh được do phiếu điều tra của học sinh không thể
hiện thông tin cá nhân nên khó cho quá trình ghép cặp do đó chưa tìm được
mối liên quan giữa kiến thức, thái độ và thực hành của cha mẹ với tỷ lệ stress
ở học sinh. Tuy nhiên trong nghiên cứu về rối loạn tâm thần ở học sinh từ 6 –
15 tuổi tại thành phố Thái Nguyên của tác giả Đàm Thị Bảo Hoa (2014), cho
thấy có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa kiến thức và thái độ của cha
mẹ với stress ở học sinh [9]. Do đó đây cũng là một yếu tố cần được quan tâm
nghiên cứu, phân tích để tìm hiểu các yếu tố liên quan đến kiến thức, thái độ và
thực hành của cha mẹ với stress ở học sinh trong những nghiên cứu tiếp theo.
4.3.3. Liên quan giữa các yếu tố thuộc về nhà trường với stress ở học sinh
Trong phần tổng quan về nguyên nhân gây stress ở thanh thiếu niên vị
thành niên và thanh thiếu niên của tác giả Zhang Jiapeng Casper (2012) cho
biết phần lớn học sinh bị căng thẳng là do áp lực khi tham gia các kỳ thi, kiểm
tra tại trường và đa số học sinh cũng cho rằng lượng bài tập phải làm ở nhà
quá lớn, phần lớn học sinh nhận định rằng bài tập về nhà thường xuyên làm
họ mất ngủ [61]. Trong cuộc thăm dò năm 2005 thực hiện bởi
The Washington Post, Quỹ Kaiser Family và Đại học Harvard, khảo sát hơn
một nửa số thanh thiếu niên khu vực Washington the District, trong đó 58%
54
nói rằng các yếu tố trường học là nguyên nhân lớn nhất gây stress [29]. Hay
trong nghiên cứu của tác giả Kouzma NM (2004) cũng chỉ ra rằng nguyên
nhân chính dẫn đến stress ở học sinh bao gồm các kì kiểm tra, điểm số, thi cử,
và khối lượng kiến thức tại trường cũng như ở nhà [46]. Theo một nghiên cứu
ở học sinh lớp 12 trường THPT Đông Hà – Quảng Trị có tới 77,1% học sinh
bị stress do lượng kiến thức quá nhiều và khó, 36,9% học sinh cho rằng việc
làm bài thi và kiểm tra nhiều là nguyên nhân gây ra stress ở học sinh [3].
Nghiên cứu của Hồ Hữu Tính và Nguyễn Doãn Thành (2010) tại trường
THPT Phan Bội Châu, Phan Thiết, Bình Thuận chỉ ra mối liên quan có ý
nghĩa thông kê giữa những áp lực học tập và thi cử với stress ở học sinh,
trong đó có 33% trong tổng số học sinh thường hay có stress lo âu vì áp lực
học tập tại trường và 29% học sinh thường hay bị stress vì áp lực thi cử, 70%
trong tổng số học sinh thường hay bị stress vì học môn học không thích và
48% học sinh bị stress vì học những thầy cô mà học sinh không thích [25].
Trong một đánh giá về mức độ căng thẳng tâm lý của học sinh tiểu học ở Hà
Nội của trường Đại học Giáo dục cho thấy có mối liên quan giữa việc học tập
và stress ở học sinh, 32,7% học sinh cho rằng tình trạng căng thẳng mà các
em gặp phải là do học cả ngày lẫn tối không có thời gian để nghỉ ngơi. Ngoài
bài tập trong bài học, học sinh còn phải làm thêm các bài tập nâng cao là
nguyên nhân mà 30.06% học sinh cho rằng chúng có ảnh hưởng đến trạng thái
căng thẳng mà các em đang đối mặt. Nghiên cứu này cũng cho thấy phương
pháp giảng dạy, sự quan tâm của giáo viên và cơ sở vật chất của nhà trường cũng
là những yếu tố nhà trường gây ra tình trạng căng thẳng ở học sinh [31]. Trong
nghiên cứu về biểu hiện stress trong học tập của học sinh lớp 12 trường THPT
Đông Hà – Quảng Trị (2013) thấy rằng có khá nhiều nguyên nhân dẫn đến
tình trạng stress ở học sinh, trong đó hầu hết học sinh cho rằng nguyên nhân
gây stress ở học sinh là do lượng kiến thức nhiều và khó, chiếm 77,1%,
chương trình sách giáo khoa mới nhiều và nặng so với học sinh. Đa số ý kiến
55
cũng cho rằng nguyên nhân gây stress là do lịch học dày đặc, học trên lớp,
học thêm, học ở nhà, chiếm 60,9%. Bên cạnh đó 36,9% học sinh cũng cho
rằng làm bài thi và bài kiểm tra nhiều cũng là nguyên nhân gây ra stress ở học
sinh, nguyên nhân ít được lựa chọn nhất là xuất phát từ quan hệ với bạn bè, sự
quan tâm của bạn bè, chiếm 16.3% [3]. Tác giả Trần Thị Hồng Vân trong một
nghiên cứu về stress ở học sinh THPT cũng nhận định có mối liên quan giữa
lượng kiến thức học tập tại trường, sự quan tâm của giáo viên chủ nhiệm với
stress ở học sinh (p<0.05), hay lượng bài tập về nhà, nội quy của nhà trường
cũng liên quan đến stress ở học sinh, tuy nhiên mối liên quan này không có ý
nghĩa thống kê (p>0.05) [29]. Nghiên cứu của chúng tôi khá phù hợp với
những nghiên cứu trên, có mối liên quan rõ rệt giữa lượng kiến thức tại
trường, lượng bài tập về nhà và áp lực thi cử với stress ở học sinh (p<0.001),
điểm mới của nghiên cứu này là chỉ ra có mối liên quan có ý nghĩa thông kê
về sự quan tâm của bạn bè với stress ở học sinh, những học sinh không có bạn
bè, không bao giờ hoặc ít khi nhận được sự quan tâm của bạn bè có nguy cơ
bị stress cao hơn những học sinh khác (p<0.05), trong phần kết quả định tính
cũng cho kết quả tương tự, hầu hết các ý kiến đều cho rằng mối quan hệ giữa
các học sinh trong trường chưa thực sự tốt và tất cả đều nhận định nếu mối
quan hệ của học sinh với bạn bè, thầy cô tốt thì sẽ giúp làm giảm căng thẳng ở
học sinh. Ngoài ra nghiên cứu này cũng nhận thấy tỷ lệ học sinh bị stress có
sự khác biệt giữa các nhóm học sinh có cảm nhận về nội quy nhà trường khác
nhau, cảm nhận về sự quan tâm của giáo viên chủ nhiệm và sự hài lòng với các
mối quan hệ ở trường, tuy nhiên sự khác biệt này chưa có ý nghĩa (p>0.05).
4.3.4. Liên quan giữa các hành vi sức khỏe và stress ở học sinh
Hoạt động thể dục thể thao và các hoạt động ngoại khóa, năng khiếu
khác luôn mang lại nhiều lợi ích về sức khỏe thể chất và tinh thần cho con
người, nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng chơi thể thao giúp giải tỏa căng thẳng
56
và bảo vệ con người tránh khỏi stress. Nghiên cứu của Trần Thị Hồng Vân về
stress ở học sinh THPT cũng cho thấy có sự liên quan có ý nghĩa giữa nhóm
chơi thể thao và nhóm không chơi thể thao với stress, cụ thể có tới 58.5% học
sinh không chơi thể thao mắc stress, còn ở nhóm có chơi thể thao con số này
là 48.1% (p<0.001) [29]. Kết quả phỏng vấn sâu của chúng tôi cho thấy hầu
hết các ý kiến đều nhận định việc tham gia các hoạt động thể thao, năng
khiếu, ngoại khóa là những hoạt động hữu ích, nếu luyện tập đúng và đủ thời
gian sẽ giúp làm giảm căng thẳng ở học sinh. Tuy nhiên kết quả nghiên cứu
định lượng lại chưa chỉ ra được có sự liên quan có ý nghĩa thống kê giữa chơi
thể thao, tham gia các hoạt động ngoại khóa và năng khiếu với tỷ lệ stress ở
học sinh. Có thể do thời gian học trên lớp và học thêm ngoài lớp quá nhiều,
thời gian dành cho nghỉ ngơi và tham gia các hoạt động vui chơi thể dục thể
thao, năng khiếu, ngoại khóa còn ít nên chưa đạt được kết quả làm giảm stress
ở học sinh.
57
KẾT LUẬN
Nghiên cứu thực trạng stress ở 396 học sinh của trường Trung học phổ
thông Lương Phú – Phú Bình – Thái Nguyên, nhận thấy:
1. Về thực trạng stress ở học sinh trường THPT Lương Phú – Phú Bình –
Thái Nguyên
Tỷ lệ stress ở học sinh là 31,1%, trong đó mức độ nhẹ là 39%, vừa là
30,9%, nặng là 22% và rất nặng là 8,1%. Các biểu hiện stress thường gặp nhất
là hay suy nghĩ quá mức (99,2%), khó thư giãn được (95,9%) và cảm giác
không thoải mái (95,1%).
Rối loạn lo âu do stress ở học sinh là 65,9%. Đặc điểm hay gặp nhất là:
hay lo lắng về những tình huống gây hoảng sợ hoặc biến học sinh thành trò
cười chiếm 91,4% và có tới 61,7% học sinh có biểu hiện sợ vô cớ và gần như
hoảng loạn là 49,4%.
Trầm cảm do stress là 56,1%. Đặc điểm hay gặp nhất là: khó bắt tay
vào công việc (95,7%), cảm thấy chán nản, thất vọng (94,2%), không hăng
hái với bất kỳ việc gì (84,1%) và không có chút cảm xúc tích cực nào
(84,1%). Các biểu hiện nặng cũng chiếm tỷ lệ khá cao như không có gì để
mong đợi (78,3%), có tới 60,9% học sinh cảm thấy cuộc sống vô nghĩa và
thậm chí là cảm thấy mình không đáng làm người (44,9%).
2. Một số yếu tố liên quan đến stress ở học sinh trường THPT
Lương Phú – Phú Bình – Thái Nguyên
- Các yếu tố gia đình như: tình trạng hôn nhân của cha mẹ, mức độ
quan tâm của gia đình, mức độ mâu thuẫn trong gia đình và tần suất bị mắng
chửi có liên quan đến stress ở học sinh.
- Các yếu tố trường lớp như: cảm nhận về lượng kiến thức tại trường,
lượng bài tập về nhà, áp lực thi cử và sự quan tâm của bạn bè là có liên quan
đến stress ở học sinh.
58
KHUYẾN NGHỊ
Tỷ lệ stress và lo âu, trầm cảm do stress ở học sinh trường THPT
Lương Phú – Phú Bình – Thái Nguyên tương đối cao nên cần có những giải
pháp cụ thể để nhằm giảm thiểu các rối loạn đó như:
Về phía học sinh: Cần có phương pháp học tập phù hợp, sắp xếp thời
gian học tập và nghỉ ngơi hợp lý, ngủ đủ giấc, tham gia các hoạt động vui
chơi, thể dục thể thao thường xuyên để làm giảm bớt căng thẳng ở học sinh.
Những học sinh bị stress nặng và rất nặng cần được khám và tư vấn của các
bác sĩ chuyên khoa để có phương pháp ứng phó với stress kịp thời tránh
những hậu quả đáng tiếc xảy ra.
Về phía gia đình: Cha mẹ cần quan tâm đến con em mình một cách
đúng đắn, sử dụng các kỹ năng nói chuyện, định hướng, giáo dục trẻ thay vì
kỹ năng phạt hay mắng, chửi trẻ khi bị mắc lỗi, luôn tạo môi trường gia đình
hòa thuận để giảm bớt căng thẳng cho các con.
Về phía nhà trường: Giáo viên cần cân đối lại lượng bài tập về nhà
sao cho phù hợp với học sinh, cân đối lại lượng bài tập giữa các môn học với
nhau. Xây dựng các hoạt động ngoại khóa, câu lạc bộ, vui chơi ngoài giờ học
để giúp học sinh giao lưu, đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau trong học tập nhằm giảm
bớt căng thẳng cho học sinh.
Có những lớp tập huấn về chăm sóc sức khỏe tâm thần cho cha mẹ học
sinh, giáo viên chủ nhiệm và các giáo viên khác trong trường nhằm làm giảm
thiểu các yếu tố nguy cơ, đặc biệt là các rối loạn tâm thần liên quan đến yếu tố
gia đình và nhà trường ở học sinh.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
A. Tài liệu tiếng Việt
1. Hùng Anh (2005), Học sinh stress-hậu hoạ khôn lường, tại trang web:
http://suckhoedoisong.vn/hoc-sinh-stress-hau-hoa-khon-luong-
n98240.html, ngày truy cập 10/04/2016.
2. Ngân Anh (2014), Học sinh Việt Nam sống trong stress, tại trang web:
vietnamnet.vn/vn/giao-duc/.../hoc-sinh-viet-nam-song-trong-
stress.html, Ngày truy cập 08/04/2016.
3. Biểu hiện stress trong hoc tập của học sinh lớp 12 trường THPT Đông Hà-
Quảng trị (2013), doc.edu.vn/.../de-tai-bieu-hien-stress-trong-hoc-tap-
cua-hoc-sinh-lop-12..., Ngày truy cập 08/04/2016.
4. Phạm Thanh Bình (2007), "Stress trong học tập của học sinh trung học phổ
thông", Tạp chí tâm lý học, Số 12(105), tr.29-33.
5. Bệnh viên tâm thần Mai Hương (2007), Dự án chăm sóc sức khỏe tâm thần
học sinh trường học Hà Nội.
6. Bộ nội vụ, Quỹ Dân số Liên hợp quốc Tổng cục dân số (2010), “Báo cáo
Quốc gia về Vị thành niên và Thanh niên Việt Nam lần thứ 2 năm 2010”
7. Phạm Hồng Định (2007), Nghiên cứu stress ở những trẻ em vị thành niên
qua đường dây tư vấn và hỗ trợ trẻ em 18001567, Luận văn thạc sỹ tâm
lý học, Trường đại học Khoa học xã hội và Nhân văn.
8. Đỗ Thị Lệ Hằng (2009), "Các tác nhân gây stress và các ứng phó với stress
của trẻ vị thành niên", Tạp chí tâm lý học, Số 7 (124), tr.20-26.
9. Đàm Thị Bảo Hoa (2014), Đánh giá hiệu quả mô hình phát hiện và can
thiệp sớm rối loạn tâm thần ở học sinh từ 6 - 15 tuổi tại thành phố Thái
Nguyên, Luận án tiến sĩ y học, Trường đại học Y-Dược Thái Nguyên.
10. Thu Huyền (2017), Nguyên nhân và cách giảm stress cho học sinh, tại
trang web: http://thpt-baria brvt.edu.vn/index.php? Module=Content
&Action=view&id=509&Itemid=7, ngày truy cập 10/04/2016.
11. Phạm Thị Thanh Hương (2004), "Một số biểu hiện và mức độ stress ở
sinh viên trong học tập", Tạp chí tâm lý học, Số 3/2004, tr.58-63.
12. Đặng Phương Kiệt (2000), Tâm lý và sức khỏe, Nhà xuất bản Văn hóa
thông tin, Hà Nội.
13. Ngô Thị Liên (2013), “Thực trạng biểu hiện lo âu của học sinh Trung học
phổ thông huyện Chương Mỹ - Thành phố Hà Nội, tr. 71-77.
14. Đặng Hoàng Minh và Hoàng Cẩm Tú (2010), "Thực trạng sức khỏe tâm
thần ở học sinh trung học cơ sở ở Hà Nội và nhu cầu tham vấn sức
khỏe tâm thần học đường", Tạp chí Khoa học Xã hội và Nhân văn, 25.
15. Đặng Hoàng Minh, Trịnh Thị Mai (2013), Thực trạng các vấn đề Sức
khẻo tâm thần của học sinh trung học phổ thông nội trú ở vùng dân tộc
thiểu số phía Bắc, Luận văn thạc sỹ, Trường Đại học Giáo dục.
16. Nguyễn Cao Minh (2012), Điều tra tỷ lệ trẻ em và VTN ở miền Bắc có các
vấn đề sức khỏe tâm thần, Luận văn thạc sỹ, Trường Đại học Giáo dục.
17. Nguyễn Văn Nhận (2001), Tâm lý y học, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội.
18. Phùng Đức Nhật (2012), “Tình trạng stress và các yếu tố liên quan ở học
sinh trường THPT Nam Hà, thành phố Biên Hoà, tỉnh Đồng Nai năm
2012”, Tạp chí Y học TP. Hồ Chí Minh, tập 18, Phụ bản của số 6
(2014), tr.639-645.
19. Hồ Thanh Mỹ Phương (2007), "Kỹ năng giám sát sự lo lắng và căng
thẳng", Tài liệu phục vụ chuyên đề rèn luyện kỹ năng sống cho sinh
viên thiệt thòi trường Đại học An Giang.
20. Nguyễn Thị Hằng Phương (2009), “Thực trạng và nguyên nhân gây ra rối
loạn lo âu ở học sinh THPT chuyên Quảng Bình”, Tạp chí Tâm lý học,
6 (123), tr.57-63.
21. Sức khoẻ tâm thần học sinh: Vấn đề không thể xem nhẹ,
http://www.baotayninh.vn/van-de-su-kien/suc-khoe-tam-than-hoc-sinh-
van-de-khong-the-xem-nhe-65729.html, truy cập ngày 08/04/2016.
22. Dương Đình Thiện, Phạm Ngọc Khái và cs. (1999), Dịch tễ và thống kê
ứng dụng trong nghiên cứu khoa học, NXB Y học, Hà Nội, tr. 17-45
23. Lê Minh Thuận (2011), “Sức khỏe tâm lý của sinh viên: Nghiên cứu cắt
ngang”, Tạp chí Y học thực hành, 7(774).
24. Lê Thị Thanh Thủy (2009), "Stress trong học tập và cách ứng phó ở học
sinh cuối cấp trung học phổ thông", Tạp chí tâm lý học, Số 4 (121),
tr.22-27.
25. Hồ Hữu Tính, Nguyễn Doãn Thành (2009), Thực trạng stress lo âu và
những liên quan đến lo âu ở học sinh cấp 3 trường trung học phổ thông
Phan Bội Châu, Phan Thiết, Bình Thuận, Tạp chí Y học TP. Hồ Chí
Minh, 14(2), tr.180-187.
26. Trần Kim Trang (2012), Stress, lo âu và trầm cảm ở sinh viên y khoa, Tạp
chí Y học TP. Hồ Chí Minh, tập 16, Phụ bản số 1, tr. 356-362.
27. Trung tâm phòng chống khủng hoảng tâm lý (PCP) (2011), “Báo cáo Sức
khỏe tâm thần ở Thanh thiếu niên – Một vấn đề cần được xem xét nghiêm
túc năm 2011”
28. Hoàng Cẩm Tú (1997), Một số nhận xét rối loạn lo âu trẻ em điều trị tại
khoa tâm thần – Viện sức khỏe trẻ em, Kỷ yếu công trình nghiên cứu
khoa học viện bảo vệ sức khỏe trẻ em.
29. Trần Thị Hồng Vân (2014), Thực trạng stress của học sinh trung học phổ
thông và một số yếu tố liên quan tại trường trung học phổ thông Phan
Đình Phùng - Hà Nội năm 2014, Trường đại học Y tế công cộng.
30. Lê Hải Yến (2016), “Thực trạng stress ở sinh viên trường Cao đẳng Y
tế Thái Nguyên năm 2016”, Luận văn thạc sỹ, Trường Đại học Y tế
công cộng.
31. Trường Đại học Giáo dục (2012), “Đánh giá mức độ căng thẳng tâm lý
của học sinh tiểu học ở Hà Nội”, Luận văn thạc sỹ, Trường Đại học
Giáo dục.
32. Viện sức khỏe tâm thần quốc gia, Thang đo đánh gia lo âu - trầm cảm -
stress (DASS21), truy cập ngày 6/1/2016, tại trang
web:http://www.nimh.gov.vn/trac-nghiem-tam-ly/28-cac-trc-
nghim/151-thang- anh-gia-lo-au-trm-cm-stress-dass-21.html.
33. Sinh Vũ (2013), Hội thảo “Thực trạng và thách thức về sức khỏe tâm thần
ở trẻ em Việt Nam”, tại trang web: http://dantri.com.vn/suc-khoe/thuc-
trang-va-thach-thuc-ve-suc-khoe-tam-than-o-tre-em-viet-nam-
1387902828.htm, truy cập ngày 10/08/2016.
A. Tài liệu nước ngoài
34. Amstadter A.B vaf al, et (2011), “Prevalence and correlates of probable
adolescent mental health problems reported by parents in Viet Nam”,
soc Psychiatru Epidemiology, 46, pp. 95-100.
35. Bela Shah, Rashmi Parhee, Narender Kumar et al (2005), Mental Health
Research in India, Indian Council Of Medical Research, pp. 24-37.
36. Costello E. J., Sarah M., Alaattin E., et al (2003), "Prevalence and
Development of Psychiatric Disorders in Childhood and Adolescence",
Arch. Gen. Psychiatry, 60, pp. 837-44.
37. David S. Goldstein (2010), “Adrenal Responses to Stress”, Cellular and
molecular neurobiology Journal, 30(8), pp. 1433-1440.
38. Demir T., Karacetin G., Demir D. E., et al (2011), Epidemiology of
depression in an urban population of Turkish children and adolescents,
University of Istanbul, Cerrahpasa Medical Faculty, Department of Child
and Adolescent Psychiatry, Istanbul, Turkey, pp. 5-12.
39. Donald W., Spady M., et al (2001), "Prevalence of Mental Disorders in
Children Living in Alberta, Canada, as Determined From Physician
Billing Data", Arch. Pediatr. Adolesc. Med., 155, pp. 1153-59.
40. Edem Maxwell Azila-Gbettor, Eli Ayawo Atatsi, Lydia Sylvia Danku,
Newell Yao Soglo (2015), “Stress and Academic Achievement:
Empirical Evidence of Business Students in a Ghanaian Polytechnic”,
International Journal of Research in Business Studies and
Management, 2(4), pp. 78-98.
41. Eslami AA, Rabiei L, Afzali SM, Hamidizadeh S, Masoudi R (2016),
“The Effectiveness of Assertiveness Training on the Levels of Stress,
Anxiety, and Depression of High School Students”, Iran Red Crescent
Med J, 18(1).
42. Finkelstein DM, Kubzansky LD, Capitman J, Goodman E (2007),
“Socioeconomic differences in adolescent stress: the role of
psychological resources”, J Adolesc Health, 40(2), pp.127-34.
43. Hyman SM, Sinha R (2008), “Stress-related factors in cannabis use and
misuse: implications for prevention and treatment”, J Subst Abuse
Treat, 36(4), pp.400-13.
44. Kathleen R. M., Erin F. N., Ronald C. K. (2009), "Epidemiology of mental
disorders in children and adolescents", Epidemiology of mental disorders
in children - Merikangas et al Dialogues in Clinical Neuroscience, 11(1),
pp. 62-67.
45. Kassam KS, Koslov K, Mendes WB (2009), “Decisions under distress:
stress profiles influence anchoring and adjustment”, Psychol Sci,
20(11), pp.1394-1399.
46. Kouzma NM and Kennedy GA (2004), “Selt-reported sources of stress in
senior high school students”, Psychoi Rep, 94, pp.314-316.
47. Kudielka BM1, Wüst S (2010), “Human models in acute and chronic
stress: assessing determinants of individual hypothalamus-pituitary-
adrenal axis activity and reactivity”, Stress, 13(1), pp.1-14.
48. Leslie R. Rith-Najarian, Katie A. McLaughlin, Margaret A.
Sheridan and Matthew K. Nock (2014), “The biopsychosocial model of
stress in adolescence: self-awareness of performance versus stress
reactivity”, Stress, 17(2), pp.193-203.
49. Linda WP, Marroquín B, Miranda R (2012), “Active and passive problem
solving as moderators of the relation between negative life event stress
and suicidal ideation among suicide attempters and non-attempters”,
Arch suicide Res, 16(3), pp.183-97.
50. Lu Q, Hou F, Zhang Z, Tao F (2016), “Relationship between chronic
psychosocial stress and BMI among adolescents”, Zhonghua Liu Xing
Bing Xue Za Zhi, 37(1), pp.40-4.
51. Luke Parkitny and Mc.Auley J, (2010), “The Depression anxiety stress
scale (DASS)” Journal of Physiothegrapy.5.
52. Menelik D, et al (2008), Epidemiology of child psychiatric disorders in Addis
Ababa, Ethiopia, From the Division of Child and Adolescent Psychiatry,
Department of Clinical Sciences, Umeå University, Umeå, Sweden, New
Series No 1155 - ISSN 0346-6612 - ISBN 978-91-7264-511-0, pp. 13-21.
53. Youjaiyen M, Sirimai M and Thongsai S (2010), Stress and coping
behaviors among high school student: Case study in Bangkok.
54. Noelle R. Leonard, Marya V. Gwadz, Amanda Ritchie, Jessica L.
Linick, Charles M. Cleland, Luther Elliott, and Michele Grethel (2015),
“A multi-method exploratory study of stress, coping, and substance use
among high school youth in private schools”, Front Psychol, 6.
55. Philip Burnard et al (2008), “A Comparative, longitudinal study of stress
in student nurses in 5 countries: Albania, Brunei, the Czech Republic,
Malta and Wales”, Elsevierhealth Journal, 28, pg. 134-145.
56. Regional Office for the Western Pacific World Health Organization
(2003), Investing in Mental health, World Health Organization,
Geneva, pp.3-48.
57. Shilpa Taragar (2009), Stressors among the students of hing school,
Degree of Master of Home Science in Human Development.
58. Singh K, Junnarkar M, Sharma S, “Anxiety, stress, depression, and
psychosocial functioning of Indian adolescents”, Department of
Humanities and Social Sciences, Indian Institute of Technology Delhi,
New Delhi, India.
59. Spear LP (2009), “Heightened stress responsivity and emotional reactivity
during pubertal maturation: Implicationsfor psychopathology”, Dev
Psychopathol, 21(1), pp.87-97.
60. Suldo SM và các cộng sự (2009), “sources of stress for student in hing
school college preparatory and general education programs: group
diffirences and associations with adjustment”, Adolescence. 44 (176),
tr. 25-48.
61. Zhang, Jiapeng, Casper (2012), “Effectiveness of Stress Management on
Mental Health Issues in Adolescent and Young Adult”, The HKU
Scholars Hub.
DANH MỤC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU ĐÃ CÔNG BỐ
1. Ngô Thị Trang, Đàm Thị Bảo Hoa, Lê Hải Yến, Khúc Thị Tuyết Hường
(2017), “Thực trạng stress ở học sinh trường trung học phổ thông Lương
Phú – Phú Bình – Thái Nguyên”, Tạp chí Y học thực hành (1054), số
8/2017, tr. 207-209.
PHỤ LỤC
Phụ lục 1: Bộ câu hỏi phỏng vấn học sinh
Tên điều tra viên:…………………………
Ngày/tháng/năm PV: ……………………
Mã số phiếu: _ _ _
Hướng dẫn trả lời:
- Lựa chọn câu trả lời theo ý của bạn và khoanh tròn vào số ở cột “Trả lời”
- Trả lời lần lượt các câu hỏi, hết 1 câu chuyển xuống câu dưới. Nếu lựa
chọn nào có hình ( )thì chuyển đến câu hỏi được đánh số bên cạnh.
Trả lời Ghi chú
Câu hỏi TT PHẦN A. THÔNG TIN CHUNG 1 Năm sinh ………………………..
2 Giới tính
3 Dân tộc 1. Nam 2. Nữ 1. Kinh
4 Khối học
5 Học kỳ I vừa qua, kết quả học tập của bạn đạt loại gì? (Khoanh tròn vào 1 đáp án)
6 Bạn thấy tình trạng sức khỏe của mình hiện nay như thế nào?
7 Sau khi học hết cấp 3 bạn
có dự định gì? 88. Khác (ghi rõ)……………… 1. 10 2. 11 3. 12 1. Giỏi 2. Khá 3. Trung bình 4. Yếu 5. Kém 1. Khỏe mạnh 2. Bình thường 3. Không khỏe 4. Rất không khỏe 1. Đi làm 2. Học nghề
8 Tổng thời gian bạn dành cho việc học trong 1 ngày là bao nhiêu? (Bao gồm cả trên lớp, ở nhà, học thêm)
9 Bạn cảm thấy thời gian dành cho việc học của bạn như thế nào?
10 Bạn có đi học thêm
không?
11 Trung bình số buổi học thêm ngoài giờ học chính trên lớp
12 Thời gian bạn tự học trong
ngày là bao nhiêu?
3. Trung cấp 4. Cao đẳng 5. Đại học 6. Du học 88. Khác (ghi rõ)……………… 1. Dưới 6h/ ngày 2. 06-10h/ ngày 3. 10-14h/ngày 4. Trên 14h/ngày 1. Ít 2. Vừa phải 3. Nhiều 1. có 2. Không 1. Dưới 3 buổi 2. 3-7 buổi 3. Trên 7 buổi 1. Không tự học 2. Dưới 1 tiếng 3. 1-3 tiếng 4. 3-5 tiếng 5. Trên 5 tiếng
PHẦN B. YẾU TỐ GIA ĐÌNH 13 Tình trạng hôn nhân hiện
tại của bố, mẹ bạn?
14 Trình độ học vấn cao nhất
của bố bạn là gì?
15 Trình độ học vấn cao nhất
của mẹ bạn là gì?
1. Đang sống cùng 2. Ly hôn/ly thân/góa 1. Tiểu học/không biết chữ 2. THCS 3. THPT 4. Trung cấp/cao đẳng 5. Đại học trở lên 99. Không trả lời 1. Tiểu học/không biết chữ 2. THCS 3. THPT 4. Trung cấp/cao đẳng
16 Nghề nghiệp của bố bạn là
gì?
17 Nghề nghiệp của mẹ bạn
là gì?
5. Đại học trở lên 99. Không trả lời 1. Nhân viên nhà nước 2. Buôn bán 3. Nông dân 4. Thất nghiệp 88. Khác (ghi rõ)……………… 1. Nhân viên nhà nước 2. Buôn bán 3. Nông dân 4. Thất nghiệp
88. Khác (ghi rõ)………………
18 Bạn có bao nhiêu anh chị em ruột trong gia đình? (Bao gồm cả bạn)
19 Bạn là con thứ mấy trong
gia đình?
20 Bạn có từng chứng kiến bố mẹ cãi nhau kịch liệt (như quát nạt, la hét hay tranh cãi dữ dội…) 1. Một 2. Hai 3. Từ ba trở lên 1. 1 2. 2 3. 3 4. Từ 4 trở lên 1. Không bao giờ 2. Hiếm khi 3. Thỉnh thoảng (1-2 lần/ tuần) 4. Thường xuyên (trên 2 lần/
tuần)
21 Tần suất bạn bị bố/mẹ hay trong gia đình
người mắng/chửi?
1. Không bao giờ 2. Hiếm khi 3. Thỉnh thoảng (1-2 lần/ tuần) 4. Thường xuyên (trên 2 lần/
tuần)
22 Bạn tâm sự với ai nhiều nhất khi cần sự giúp đỡ? (Khoanh tròn vào 1 đáp án)
1. Bố đẻ/ bố dượng/ bố nuôi 2. Mẹ đẻ/ mẹ kế/ mẹ nuôi 3. Anh chị em ruột 4. Họ hàng 5. Bạn bè 6. Không có ai 88. Khác (ghi rõ)………………
23 Sự quan tâm của bố mẹ với bạn như thế nào?
1. Tốt 2. Bình thường 3. Không tốt
1. Có 2. Không 99. Không trả lời/ không biết 24 Trong gia đình bạn có ai có vấn đề về sức khỏe tâm thần không?
PHẦN C. YẾU TỐ NHÀ TRƯỜNG 25 Phương pháp học tập của
bạn trên lớp là gì? 1. Học chủ động 2. Học thụ động
26 Bạn cảm thấy lượng kiến tại nhà
thức đang học trường thế nào?
27 Bạn cảm thấy lượng bài tập giao về nhà thế nào?
28 Bạn cảm thấy nội quy ở
nhà trường thế nào?
29 Mức độ hài lòng của bạn với các mối quan hệ bạn bè trong trường như thế nào?
30 Thời gian thi, kiểm tra các môn học có tạo áp lực cho bạn không?
31 Thầy cô giáo có quan tâm chia sẻ những khó khăn hay giải đáp thắc mắc của bạn trong học tập không? 1. Ít 2. Hợp lý 3. Quá tải 1. Ít 2. Hợp lý 3. Quá tải 1. Rất thoải mái 2. Thoải mái 3. Bình thường 4. Khắt khe 5. Rất khắt khe 1. Rất không hài lòng 2. Không hài lòng 3. Bình thường 4. Hài lòng 5. Rất hài lòng 1. Không bao giờ 2. Hiếm khi 3. Thỉnh thoảng 4. Thường xuyên 1. Không bao giờ 2. Hiếm khi 3. Thỉnh thoảng 4. Thường xuyên
1. Dễ hiểu và dễ tiếp thu 2. Khó hiểu, khó tiếp thu 32 Bạn đánh giá như thế nào về phương pháp dạy của giáo viên?
33 Bạn bè ở lớp có quan tâm chia sẻ, giúp đỡ bạn trong học tập không?
34 Bạn tham gia vào lớp học năng khiếu, thể thao hay hoạt động ngoại khóa, câu lạc bộ không? 1. Không bao giờ 2. Hiếm khi 3. Thỉnh thoảng 4. Thường xuyên 1. Không bao giờ 2. Hiếm khi 3. Thỉnh thoảng 4. Thường xuyên
1. Có 2. Không Chuyển câu 37 PHẦN D. YẾU TỐ LỐI SỐNG VÀ HÀNH VI SỨC KHỎE 35 Bạn có chơi thể thao (đi bộ, đá bóng, tập yoga…) không?
36 Tần suất bạn chơi thể thao (đi bộ, đá bóng, tập yoga…) trong 1 tuần như thế nào?
37 Bạn có uống rượu bia
không? 1. Không bao giờ chơi thể thao 2. Hiếm khi (1-2 lần/tuần) 3. Thỉnh thoảng (3-4 lần/tuần) 4. Thường xuyên (≥5 lần/tuần) 1. Có 2. Không Chuyển câu 39
38 Tần suất bạn uống rượu bia
trong 1 tuần như thế nào?
1. Không bao giờ uống bia rượu 2. Hiếm khi (1-2 lần/tuần) 3. Thỉnh thoảng (3-4 lần/tuần) 4. Thường xuyên (≥5 lần/tuần)
39 Bạn có hút thuốc lá không? 1. Có
2. Không Chuyển câu 41
40 Tần suất bạn hút thuốc lá
trong 1 ngày như thế nào?
1. Không bao giờ hút thuốc lá 2. Từ 1 - 4 điếu thuốc 3. Từ 5 - 10 điếu thuốc 4. Trên 10 điếu thuốc
Phần E: SỨC KHỎE TÂM THẦN
Hãy đọc mỗi câu và khoanh tròn vào các số 0, 1, 2 và 3 ứng với tình trạng mà
bạn cảm thấy trong suốt một tuần qua. Không có câu trả lời đúng hay sai. Và
đừng dừng lại quá lâu ở bất kỳ câu nào.
Mức độ đánh giá:
0 Không đúng với tôi chút nào cả
1 Đúng với tôi phần nào, hoặc thỉnh thoảng mới đúng
2 Đúng với tôi phần nhiều, hoặc phần lớn thời gian là đúng
3 Hoàn toàn đúng với tôi, hoặc hầu hết thời gian là đúng
41 Trong tuần qua, tôi thấy khó mà thoải mái được 0 1 2 3
42 Trong tuần qua, tôi có xu hướng phản ứng thái 0 1 2 3 quá với mọi tình huống
43 Trong tuần qua, tôi thấy mình đang suy nghĩ 0 1 2 3 quá nhiều
44 Trong tuần qua, tôi thấy bản thân dễ bị kích 0 1 2 3 động
45 Trong tuần qua, tôi thấy khó thư giãn được 0 1 2 3
46 Trong tuần qua, tôi không chấp nhận được việc 0 1 2 3 có cái gì đó xen vào cản trở việc tôi đang làm
47 Trong tuần qua, tôi thấy mình khá dễ phật ý, tự 0 1 2 3 ái
48 Tôi bị khô miệng 0 1 2 3
49 Tôi bị rối loạn nhịp thở (thở gấp, khó thở dù 0 1 2 3 chẳng làm việc gì nặng)
50 Tôi bị ra mồ hôi (chẳng hạn như mồ hôi tay...) 0 1 2 3
51 Tôi lo lắng về những tình huống có thể làm tôi 0 1 2 3 hoảng sợ hoặc biến tôi thành trò cười
52 Tôi thấy mình gần như hoảng loạn 2 3 0 1
53 Tôi nghe thấy rõ tiếng nhịp tim dù chẳng làm
việc gì cả (ví dụ, tiếng nhịp tim tăng, tiếng tim 0 2 3 1
loạn nhịp)
54 Tôi hay sợ vô cớ 0 1 2 3
55 Tôi dường như chẳng có chút cảm xúc tích cực 0 1 2 3 nào
56 Tôi thấy khó bắt tay vào công việc 0 1 2 3
57 Tôi thấy mình chẳng có gì để mong đợi cả 0 1 2 3
58 Tôi cảm thấy chán nản, thất vọng 0 1 2 3
59 Tôi không thấy hăng hái với bất kỳ việc gì nữa 0 1 2 3
60 Tôi cảm thấy mình chẳng đáng làm người 0 1 2 3
61 Tôi thấy cuộc sống vô nghĩa 0 1 2 3
Xin chân thành cảm ơn!
Ngày……tháng…….năm 2016
Chữ ký xác nhận của điều tra viên: ……………….…….
Phụ lục 2: Phỏng vấn sâu giáo viên chủ nhiệm và lãnh đạo nhà trường
PHIẾU PHỎNG VẤN SÂU GIÁO VIÊN
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
CHỦ NHIỆM VÀ LÃNH ĐẠO NHÀ TRƯỜNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y DƯỢC
-----------------------
1. Giới thiệu
Chúng tôi đang tiến hành nghiên cứu “Thực trạng stress và một số yếu tố liên quan đến stress ở học sinh trường THPT Lương Phú-Phú Bình- Thái Nguyên” làm cơ sở đề xuất một số giải pháp giúp hạn chế tình trạng stress ở học sinh. Chúng tôi muốn lắng nghe ý kiến, chia sẻ của các thầy/cô về những vấn đề được đưa ra. Thầy/cô có thể nói bất kỳ điều gì mình muốn chia sẻ, sẽ không có ai phê phán ý kiến nào đúng hoặc sai. Mọi thông tin, quan điểm cá nhân sẽ được giữ bí mật và không gây ảnh hưởng đến cuộc sống cũng như công việc của thầy/cô.
2. Thông tin hành chính Tuổi: ................... Dân tộc: 1. Kinh 2. Thiểu số Giới tính: 1. Nam 2. Nữ Thời gian giảng dạy/ công tác tại trường: ............... (năm) Chức vụ: 1. Giáo viên chủ nhiệm khối: .............. 2. Lãnh đạo nhà trường
3. Câu hỏi phỏng vấn 3.1. Theo thầy/cô học sinh có thể bị stress không? đối tượng học sinh khối nào dễ bị stress? Vì sao? .............................................................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
...........................................................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
3.6. Thầy/cô nhận thấy mối quan hệ của học sinh với bạn bè trong lớp/trường như thế nào, mối quan hệ đó có tác động đến stress ở học sinh không? .............................................................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
3.2. Thầy/cô hãy cho biết các hoạt động ngoại khóa, các hoạt động thể dục thể thao của trường? Các hoạt động được tổ chức bao lâu một lần? Mức độ tham gia của học sinh ra sao? Và theo Anh/chị việc tham gia các hoạt động thể dục, thể thao của học sinh có tác động như thế nào đến vấn đề stress ở học sinh? .............................................................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
3.3. Theo thầy/cô việc học sinh phụ giúp gia đình tăng gia sản xuất ở gia đình ngoài giờ học có nhiều không? Nếu có việc đó có ảnh hưởng đến sức khỏe, học tập của học sinh không? Nếu có thì ảnh hưởng như thế nào? .............................................................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
3.4. Mối quan hệ giữa thầy/cô và học sinh như thế nào? Thầy/cô có thường xuyên trao đổi, chia sẻ với học sinh về các vấn đề trong học tập hay trong cuộc sống không? .............................................................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
3.7. Nhà trường có những biện pháp nào để phòng chống stress ở học sinh? .............................................................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
Cảm ơn thầy/cô đã tham gia phỏng vấn!
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
Phụ lục 3: Bộ câu hỏi phỏng vấn cha mẹ học sinh
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y DƯỢC
------------------
PHIẾU ĐIỀU TRA K.A.P VỀ CHĂM SÓC RỐI LOẠN STRESS Ở THANH THIẾU NIÊN (Phiếu dành cho cha mẹ học sinh)
1.5. Dân tộc:
(2) Thiểu số
3. Trung học phổ thông 4. Đại học, cao đẳng, trung học nghề
3. Khác (Ghi rõ): 2. Mẹ
I. HÀNH CHÍNH 1.1. Họ và tên................................................................................................... 1.2. Tuổi: __ __ 1.3. Nghề nghiệp:…………............................................................................. 1.4. Giới: (1) Nam (2) Nữ (1) Kinh 1.6. Trình độ học vấn: 1. ≤ Tiểu học 2. Trung học cơ sở 1.7. Quan hệ với học sinh: 1. Bố 1.8. Thông tin về học sinh:
Họ tên trẻ: Lớp: Trường: THPT Lương Phú 1.9. Anh (chị) có bao nhiêu con ? __.
Số con trai: __ Số con gái: __
2. Không
4. Chuyên gia tâm lý 5. Ý kiến khác (nêu cụ thể) …………. ………………………………………. Số con dưới 18 tuổi: __ Cháu............là con thứ mấy: __ 1.10. Địa chỉ gia đình: Tổ (xóm): .....................Phường.(xã) ...............…........ Quận (huyện) ……………... Tỉnh (TP)…………..… Điện thoại:................... II. PHẦN KHẢO SÁT A. KIẾN THỨC KT1. Anh (chị) có biết học sinh cũng có thể bị stress không? 1. Có Nếu “CÓ” trả lời tiếp từ câu KT2; Nếu “KHÔNG”, trả lời tiếp từ câu KT5. KT2. Theo anh (chị) ai là người có vai trò quan trọng trong việc chăm sóc, tư vấn hỗ trợ cho học sinh bị stress? (Có thể chọn nhiều đáp án) 1. Bác sỹ chuyên khoa Tâm thần 2. Cha mẹ trẻ 3. Giáo viên
4. Có thể nguy hiểm cho học sinh hoặc người khác 6. Không ảnh hưởng gì hoặc rất ít
4. Có mất mát lớn
5. Môi trường xung quanh phức tạp, bất lợi
6. Môi trường giáo dục không thuận lợi (quá đông học sinh, thiếu giáo viên, quá tải học tập, ….)
1........................................................................................................... 2. ..................................................................................................... 3. .......................................................................................................
KT3. Nếu không được tư vấn và hỗ trợ thì rối loạn stress sẽ ảnh hưởng đến học sinh như thế nào? (Có thể chọn nhiều đáp án) 1. Ảnh hưởng đến kết quả học tập 2. Ảnh hưởng đến quan hệ xã hội (với bạn bè, thầy cô giáo, …) KT4. Nếu không được tư vấn, hỗ trợ thì stress sẽ có những khả năng tiến triển nào trong các khả năng dưới đây ?(Khoanh vào ý trả lời đúng) 4. Ảnh hưởng đến tương lai của trẻ 1. Rối loạn stress sẽ tự hết 5. Ảnh hưởng đến những người khác 2. Nặng dần lên, khó điều trị KT5. Những nguyên nhân có thể dẫn đến stress ở học sinh là gì? (Có thể chọn nhiều đáp án) 1. Kết quả học tập không như mong muốn 2. Không đáp ứng được kỳ vọng của cha mẹ 3. Môi trường gia đình không thuận lợi (cha mẹ bất hoà, quá bận, nghèo khó, trình độ hiểu biết hạn chế, có người thân mắc nghiện, hư hỏng…) KT6. Anh (chị) biết những trắc nghiệm nào để giúp phát hiện sớm stress ở học sinh? KT7. Biện pháp nào dưới đây áp dụng để phòng stress ở học sinh? (Khoanh vào các câu trả lời đúng) 1. Giảm áp lực cho học sinh (học tập, làm việc...) 2. Dạy học sinh kỹ năng sống thích hợp (rèn luyện nhân cách cho trẻ) 3. Tạo môi trường gia đình thuận lợi (Hòa thuận, thương yêu, quan tâm, chia sẻ) 4. Tạo môi trường xã hội, môi trường giáo dục thuận lợi
B. THÁI ĐỘ TĐ1. Anh (chị) có đồng ý với ý kiến: đối với học sinh, sức khỏe tinh thần là quan trọng nhất không? 1. Rất không đồng ý 2. Không đồng ý 3. Không rõ ràng 4. Đồng ý 5. Rất đồng ý
TĐ2. Anh (chị) quan tâm đến sức khỏe tinh thần của con mình như thế nào?
3. Quan tâm 1. Rất không quan tâm
4. Rất quan tâm 2. Không quan tâm
3. Không rõ rang
TĐ3. Chăm sóc, nâng cao sức khoẻ tinh thần, phòng chống stress cho con có phải là việc làm cần thiết không?
4. Cần thiết 1. Rất không cần thiết
5. Rất cần thiết 2. Không cần thiết
3. Không rõ rang
TĐ4. Cha mẹ, các thành viên trong gia đình có vai trò như thế nào trong việc chăm sóc, nâng cao sức khoẻ tinh thần, phòng chống stress cho học sinh ?
1. Gia đình không có chức năng này 4. Không rõ ràng
2. Rất không quan trọng 5. Quan trọng
3. Không quan trọng 6. Rất quan trọng
TĐ5. Nếu được biết con mình thực sự đang bị stress, anh (chị) sẽ có thái độ thế nào?
1. Không để ý, không quan tâm 3. Chấp nhận
2. Lo lắng 4. Quan tâm tìm hiểu để giúp đỡ trẻ
TĐ6. Theo anh (chị), việc phát hiện, tư vấn sớm rối loạn stress ở học sinh có ích lợi thế nào cho tương lai của trẻ ?
1. Hoàn toàn vô ích 4. Có ích lợi
2. Không có ích lợi gì 5. Rất có ích
3. Không rõ rang
C. THỰC HÀNH TH1. Anh (chị) có thường xuyên chú ý đến rối loạn stress của con mình không?
1. Không bao giờ chú ý 3. Thường xuyên chú ý
2. Thỉnh thoảng 4. Rất thường xuyên
TH2. Anh (chị) có thường xuyên quan sát, theo dõi các hoạt động của con để phát hiện sớm rối loạn stress không?
1. Không bao giờ chú ý 3. Thường xuyên
2. Thỉnh thoảng 4. Rất thường xuyên
3. Thường xuyên 4. Rất thường xuyên
3. Thường xuyên 4. Rất thường xuyên
3. Thường xuyên 4. Rất thường xuyên
3. Thường xuyên 4. Rất thường xuyên
4. Kỹ năng phạt 5. Kỹ năng khác (nêu cụ thể)…………. ………………………………………..
TH3. Anh (chị) có thường xuyên trao đổi, liên hệ với các giáo viên để tìm hiểu rối loạn stress của con mình không? 1. Không bao giờ 2. Thỉnh thoảng TH4. Anh (chị) có thường xuyên hỏi bạn bè của con để tìm hiểu về rối loạn stress của trẻ không? 1. Không bao giờ 2. Thỉnh thoảng TH5. Anh (chị) có thường xuyên theo dõi kết quả học tập của trẻ để tìm hiểu về rối loạn stress của trẻ không ? 1. Không bao giờ 2. Thỉnh thoảng TH6. Nếu thấy con có biểu hiện khác thường, anh (chị) có quan tâm tìm hiểu về nguyên nhân không ? 1. Không bao giờ 2. Thỉnh thoảng TH7. Khi một con, em của mình có rối loạn stress, anh (chị) làm gì? (Được phép chọn nhiều phương án trả lời) 4. Hỏi ý kiến một nhà tâm lý giáo dục 1. Không làm gì 5. Hỏi ý kiến một bác sỹ chuyên khoa 2. Tự tìm hiểu về vấn đề đó 6. Khác……………………………… 3. Hỏi ý kiến người có kinh nghiệm TH8. Anh (chị) đã sử dụng những kỹ năng nào trong các kỹ năng sau để chăm sóc rối loạn stress cho học sinh ?(Được phép chọn nhiều phương án trả lời) 1. Kỹ năng trò chuyện 2. Kỹ năng định hướng hoạt động 3. Kỹ năng khuyến khích Xin chân thành cảm ơn !
Ngày Tháng Năm 2016
(Ký, ghi râ hä tªn) (Ký, ghi râ hä tªn)
NGƯỜI ĐƯỢC PHỎNG VẤN NGƯỜI ĐIỀU TRA
Phụ lục 4: Kế hoạch nghiên cứu
STT 1
Tên hoạt động Thu thập thông tin, số liệu thứ cấp địa phương 01/03- 5/03
Thời gian Địa điểm Dự kiến kết quả thập được Thu đầy đủ các thông tin cần thiết
2 Trường THPT Lương Phú- Phú Bình- Thái Nguyên
6/03 - 15/05
3 Tổng hợp thông tin từ số liệu thứ cấp, xây dựng nội dung đề cương nghiên cứu Báo cáo đề cương Xây dựng được đề cương nghiên cứu hoàn chỉnh
20/05 Trường Đại học Y-Dược Thái Nguyên
4
Nếu đề cương được Hội đồng thông qua, triển khai tiếp các nội dung công việc như sau:
5
Tháng 06/2016
Trường Đại học Y-Dược Thái Nguyên
6 09/2016
Chuẩn bị công cụ thu thập số liệu, tập huấn điều tra viên và tiến hành thu thâp thông tin Thu thập số liệu, phỏng lãnh đạo nhà vấn ban trường, GVCN, học sinh và cha mẹ học sinh Thu thập được đầy đủ thông tin phục cho vụ nghiên cứu
7 luận
16/10- 12/2016 Viết xong văn
8
Tổng hợp, phân tích kết quả thu được, viết Luận văn Chỉnh sửa Luận văn theo yêu cầu Tháng 3,4/2017 Hoàn chỉnh luận văn
9 Bảo vệ Luận văn
Trường THPT Lương Phú- Phú Bình- Thái Nguyên Trường Đại học Y-Dược Thái Nguyên Trường Đại học Y-Dược Thái Nguyên Trường Đại học Y-Dược Thái Nguyên