ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
------------
LÊ TÔ NAM
SỰ DUNG HỢP GIỮA PHẬT GIÁO VÀ TÍN NGƢỠNG
BẢN ĐỊA Ở THỊ XÃ HÀ TIÊN, TỈNH KIÊN GIANG
HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SĨ TÔN GIÁO HỌC Hà Nội - 2020
1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
------------
LÊ TÔ NAM
SỰ DUNG HỢP GIỮA PHẬT GIÁO VÀ TÍN NGƢỠNG
BẢN ĐỊA Ở THỊ XÃ HÀ TIÊN, TỈNH KIÊN GIANG
HIỆN NAY
Chuyên ngành: Tôn giáo học
Mã số: 60 22 03 09
LUẬN VĂN THẠC SĨ TÔN GIÁO HỌC
CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG:
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN HỮU THỤ
GS.TS. ĐỖ QUANG HƢNG
2
Hà Nội - 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu
khoa học của riêng tôi. Các kết quả nghiên cứu trong
luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng. Những
kết luận khoa học trong luận văn chưa từng được công
bố trên bất kỳ công trình nào khác.
Tác giả luận văn
3
Lê Tô Nam
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
Chương 1. KHÁI LƯỢC CHUNG VỀ PHẬT GIÁO VÀ TÍN NGƯỠNG
BẢN ĐỊA Ở THỊ XÃ HÀ TIÊN, TỈNH KIÊN GIANG ................................... 7
1.1. Khái lƣợc chung về đặc điểm Phật giáo ở thị xã Hà Tiên ................. 7
1.1.1. Khái lược về vùng Hà Tiên trong lịch sử ........................................ 9
1.1.2. Sự du nhập và phát triển của Phật giáo ở Hà Tiên ........................ 13
1.2. Khái lƣợc về tín ngƣỡng bản địa ở thị xã Hà Tiên tỉnh Kiên Giang . 21
1.2.1. Đặc điểm tín ngưỡng ở thị xã Hà Tiên, Kiên Giang ..................... 22
1.2.2. Một số loại hình tín ngưỡng bản địa ở thị xã Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang . 22
Tiểu kết chƣơng 1 ....................................................................................... 30
Chương 2. BIỂU HIỆN CỦA SỰ DUNG HỢP GIỮA PHẬT GIÁO VÀ TÍN
NGƯỠNG BẢN ĐỊA Ở THỊ XÃ HÀ TIÊN HIỆN NAY .............................. 31
2.1. Biểu hiện qua truyền thuyết, bài trí tƣợng thờ và nghi lễ trong chùa . 31
2.1.1. Về những câu chuyện truyền thuyết, truyện truyền miệng ở
Hà Tiên ................................................................................................... 31
2.1.2. Sự dung thông giữa Phật giáo với tín ngưỡng qua thờ cúng ........ 38
2.2. Qua thực hành một số nghi lễ Phật giáo và tín ngƣỡng .................. 45
2.2.1. Những biểu hiện tín ngưỡng ở một số nghi lễ của Phật giáo ........ 45
2.2.2. Những biểu hiện của Phật giáo ở các nghi lễ tín ngưỡng ............. 47
2.3. Một số giá trị và vấn đề đặt ra của sự dụng hợp giữa Phật giáo và
tín ngƣỡng bản địa ở thị xã Hà Tiên ................................................... 48
4
2.3.1. Một số giá trị của sự dụng hợp đem lại cho tâm linh bản địa ....... 48
2.3.2. Một số vấn đề đặt ra trong sự dung hợp........................................ 58
2.3.3. Một số giải pháp nhằm phát huy những giá trị sự dung hợp của
Phật giáo và tín ngưỡng bản địa ở thị xã Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang
hiện nay. .................................................................................................. 65
Tiểu kết chƣơng 2 ....................................................................................... 71
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 72
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 73
5
PHỤ LỤC
MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Niềm tin tín ngưỡng và tôn giáo ở Hà Tiên đã có từ rất lâu đời nay, ít
nhất từ thế kỷ I sau Công nguyên. Trải qua nhiều thăng trầm của thời gian, tín
ngưỡng và một số tôn giáo ngoại nhập đã có ảnh hưởng sâu đậm đến đời sống
văn hóa, chính trị, xã hội và giao thương nơi này. Phật giáo trước khi du nhập
vào Hà Tiên thì đã có tín ngưỡng trước đó hình thành và phát triển từ lâu.
Hà Tiên có phong cảnh tươi đẹp với nhiều loài chim thú, sản vật giá trị
thương phẩm cao, đã thu hút nhiều dân tộc tề tựu về đây an cư lập nghiệp, lập
làng lập ấp, hình thành nhiều vương triều với những triều đại được duy trì bền
bỉ. Các triều đại cũng mang theo tín ngưỡng và tôn giáo của mình vào nơi
này, mặc cho có nhiều cuộc chiến tranh vừa cục bộ vừa lâu dài, ít nhiều ảnh
hưởng đến sự tồn vong của các triều đại, sự thực hành tâm linh.
Phật giáo du nhập rõ nét vào Hà Tiên từ sau đợt kết tập kinh đển đầu
tiên vào thế kỷ IV, tín đồ Phật giáo và hàng giáo phẩm tích cực đóng góp
công sức cho công cuộc chấn hưng đại cuộc, các hoạt động từ thiện nhân đạo,
truyền bá chữ Phạn, dạy học chữ “Hán”, chữ “Pali” và sau này là chữ quốc
ngữ với sự duy trì và đóng góp không ngừng nghỉ của các dân tộc anh em
gồm Kinh, Hoa, Khmer, Chăm, Philippin, Malaysia và Ấn Độ.
Nơi đây, từ dung hợp đã tiếp biến khai sáng một hệ phái mới của Phật
giáo (Minh Đăng Quang – Hệ Khất Sĩ) và là nơi phát tâm hình thành một tôn
giáo mới nội sinh (Ngô Minh Chiêu - Đạo Cao Đài). Điểm đến của nhiều
người có vai trò to lớn như: Mạc Cửu – Khai trấn, lập chùa Tam Bảo; Mạc
Thiên Tích – Giữ biên cương, lập Tao Đàn Chiên Anh Các; Đông Hồ - Thi sĩ,
1
người đầu tiên truyền bá chữ Quốc Ngữ vào Hà Tiên,…
Kể từ khi có mặt trên vùng đất này, các loại hình tín ngưỡng và Phật
giáo không ngừng phát triển và có chỗ đứng khá vững chắc, tác động sâu rộng
đến đời sống kinh tế, văn hóa, chính trị, xã hội, đạo đức, lối sống. Các mưu đồ
chính trị muốn lợi dụng vấn đề dân tộc và Phật giáo để chống phá ta ít khi
thực hiện được.
Vấn đề tín ngưỡng và Phật giáo có đặc điểm như thế nào, quá trình này
diễn ra qua các giai đoạn lịch sử có những đặc điểm gì nổi bật; sự tác động
của tín ngưỡng và Phật giáo đối với đời sống cư dân nơi đây ra sao; sự dung
hợp giữa tín ngưỡng với Phật giáo như thế nào? Đây là những vấn đề cần làm
rõ. Tuy nhiên, cho đến nay, những nội dung nêu trên chưa được nghiên cứu
một cách có hệ thống và đầy đủ. Sự hiểu biết về các lĩnh vực trên của một số
cư dân ở tỉnh Kiên Giang nói chung và cư dân ở thị xã Hà Tiên nói riêng còn
hạn chế. Vì vậy, việc nghiên cứu về các lĩnh vực này có ý nghĩa không chỉ về
khoa học mà còn về thực tiễn trong giai đoạn hiện nay.
Với những lý do nêu trên, chúng tôi chọn vấn đề Sự dung hợp giữa
Phật giáo và tín ngưỡng bản địa ở thị xã Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang hiện nay
làm đề tài luận văn thạc sĩ Tôn giáo học.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Nghiên cứu và chỉ ra sự dung hợp giữa Phật giáo và tín ngưỡng bản địa
ở thị xã Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang hiện nay. Nhiệm vụ nghiên cứu của luận
văn có hai nội dung: Khái lược chung về Phật giáo và tín ngưỡng bản địa ở thị
xã Hà Tiên tỉnh Kiên Giang và chỉ ra những biểu hiện của sự dung hợp giữa
Phật giáo và tín ngưỡng bản địa ở thị xã Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang hiện nay.
2.1. Những công trình nghiên cứu về tộc người, văn hóa, tín ngưỡng
ở Kiên Giang, Hà Tiên
Các công trình nghiên cứu có đề cập về vùng Tây Nam bộ và tỉnh Kiên
2
Giang, Hà Tiên: Các dân tộc ít người ở Việt Nam (các tỉnh phía Nam) của
Viện Dân tộc học Việt Nam (1984); Tôn giáo, tín ngưỡng các dân tộc Việt
Nam của Nguyễn Văn Minh (2013); Lễ hội dân gian ở đồng bằng sông Cửu
Long của Trần Văn Nam (2013); Chính sách tôn giáo và nhà nước pháp
quyền của Đỗ Quang Hưng (2014); Chế độ Công điền công thổ trong lịch sử
khẩn hoang lập ấp ở Nam kỳ lục tỉnh của Nguyễn Đình Đầu (1992); Việt
Nam sử lược của Trần Trọng Kim (2017); Góp phần tìm hiểu Phật giáo Nam
Bộ của Trần Hồng Liên (2019); Đặc khảo về tín ngưỡng gia thần của Huỳnh
Ngọc Trảng và Nguyễn Đại Phúc (2013); Đại Nam nhất thống chí của Trần
Xán, Lưu Đức Xứng và Cao Xuân Dục (2012); Tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn
giáo và công tác tôn giáo của Lê Hữu Nghĩa và Nguyễn Đức Lữ (2003); Nói
về miền Nam, cá tính miền Nam và thuần phong mỹ tục Việt Nam của Sơn
Nam (2014); Đình miếu và lễ hội dân gian miền Nam của Sơn Nam (2015);
Đại Nam Nhất thống chí, Văn hóa Tùng thư (1959).
Các công trình giới thiệu trực tiếp về tỉnh Kiên Giang: Địa chí Kiên
Giang; Người Khmer ở Kiên Giang của Đoàn Thanh Nô (2004); Di tích khảo
cổ học Nền Chùa của Sở Văn hóa - thể thao và du lịch tỉnh Kiên Giang
(2009).
Những công trình này phản ánh khá sâu sắc và chi tiết về lịch sử, xã
hội, thiên nhiên, con người, phong tục tập quán, tôn giáo, tín ngưỡng của
vùng Tây Nam bộ và Kiên Giang trong quá khứ cũng như hiện tại.
2.2. Những tư liệu liên quan đến đề tài Phật giáo và tín ngưỡng bản địa
Tài liệu cụ thể của các cấp, các ngành, nhà nghiên cứu và cơ quan
chuyên môn trong tỉnh: Báo cáo tổng hợp thực trạng tôn giáo trên địa bàn tỉnh
Kiên Giang của Ban Tôn giáo tỉnh Kiên Giang (2017); Tập Văn kiện Đại hội
đại biểu Phật giáo tỉnh Kiên Giang lần thứ IV (nhiệm kỳ 2017-2022) của Ban
Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam tỉnh Kiên Giang (2017); Báo cáo công tác
tôn giáo trên địa bàn thị xã Hà Tiên của UBND thị xã Hà Tiên (2017); Sách
Nghiên cứu Hà Tiên của Trương Minh Đạt (2016); Sách Lược sử những ngôi
3
chùa ở Kiên Giang của Thượng tọa Thích Giác Phước (2002); Luận văn Thạc
sĩ về Quản lý Nhà nước đối với hoạt động tôn giáo trên địa bàn thị xã Hà Tiên
tỉnh Kiên Giang của Trần Ngọc Quyên (2017); Tập hợp tài liệu do các cơ sở
thờ tự cung cấp; Các báo cáo của UBND một số phường, xã trong thị xã.
Trong quá trình thực hiện luận văn, chúng tôi đã tiến hành khảo sát
thực địa ở nhiều chùa, đình, miếu trên địa bàn thị xã Hà Tiên hiện nay như
sau: (1) Các chùa: Phù Dung, Phật Đà, Thiên Trúc, Tam Bảo, Giải Thoát và
tịnh xá Ngọc Hồ (phường Bình San); chùa Tiên Sơn, Mũi Nai, Xà Xía (xã
Mỹ Đức); chùa Thanh Hòa (xã Thuận Yên); Tịnh xá Ngọc Đăng, Ngọc Tiên
(phường Tô Châu). (2) Đình: Thần Thành hoàng Hà Tiên (phường Đông
Hồ), đình Năm Ông (phường Bình San), đình Ông Bổn (xã Thuận Yên). (3)
Miếu: Bà Thủy Long (phường Tô Châu), miếu Quang Thánh đế (phường
Bình San), miếu Nam Hải - Tứ vị thần nữ (xã Thuận Yên).
Nguồn tư liệu điền dã thực tế 09 trường hợp, trong đó có 04 nữ giới,
tín đồ Công giáo 02 người, Phật giáo 03 người (01 ni cô), 04 người không
theo tôn giáo (01 chức việc ở đình). Gia đình thờ cúng: Ông Trần Văn Nhiên
- Số 266/7, đường Nam Hồ, Tô Châu; Bà Trần Thị Diễm Thanh - Số 197/6,
đường Phương Thành, Bình San. Chủ phương tiện tàu cá: Ông Trần Vãn Ðệ
- Chủ tàu KG-12324-TS, bà Lê Thị Nhớ - Chủ tàu KG-45463-TS; Chủ xe
khách: ông Lê Thanh Thành - Chủ xe khách số 68H-025.03, bà Nguyễn Thị
Gáo - Chủ xe khách số 68H-154.64, cùng nhiều bài phỏng vấn trực tiếp khác
liên quan đến vấn đề này.
Nguồn tài liệu này cho phép chúng tôi trình bày sâu sắc hơn những
nghiên cứu của mình trong luận văn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu và chỉ ra sự dung hợp giữa Phật giáo và tín ngưỡng bản địa
4
ở thị xã Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Khái lược chung về Phật giáo và tín ngưỡng bản địa, chỉ ra những biểu
hiện của sự dung hợp, những vấn đề đặt ra và một số giải pháp nhằm phát huy
những giá trị của sự dung hợp giữa phật giáo và tín ngưỡng bản địa ở thị xã
Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang hiện nay.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng chính của luận văn là “Sự dung hợp của Phật giáo và tín
ngưỡng bản địa ở thị xã Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang hiện nay”.
Luận văn nghiên cứu trong phạm vi thị xã Hà Tiên, cơ cấu tổ chức từ
cấp Ban Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam thị xã cho đến Ban Trị sự chùa,
Gia đình Phật tử, tổ chức từ thiện xã hội Phật giáo; các đình miếu, đời sống
tín ngưỡng và thực hành tín ngưỡng của nhân dân Hà Tiên.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Lý thuyết nghiên cứu
Luận văn sử dụng lý thuyết Thực thể tôn giáo. Với lý thuyết này, luận
văn tiếp cận hai nội dung: (1) cộng đồng (quá trình hình thành, phát triển, hệ
thống tổ chức, chức sắc, chức việc, người tu hành, tín đồ); (2) nghi lễ và thực
hành nghi lễ (tập trung vào các cuộc lễ hội diễn ra trong năm).
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về tôn giáo và công tác
tôn giáo. Luận văn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu chuyên ngành là
tôn giáo học, xã hội học. Đồng thời cũng áp dụng phương pháp nghiên cứu
liên ngành gồm: sử học, dân tộc học, triết học, văn hóa học. Quá trình thực
hiện đã thực hiện các phương pháp chuyên môn như: Nghiên cứu, phân tích,
tổng hợp, đánh giá, so sánh, điền dã, phỏng vấn sâu.
5
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn bổ sung đầy đủ hơn bức tranh chung về Phật giáo và tín
ngưỡng bản địa ở Hà Tiên. Từ đó làm rõ một số biểu hiện sự dung hợp của
Phật giáo với tín ngưỡng bản địa nơi đây.
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo hỗ trợ cho việc áp dụng
trong thực tế và công tác giảng dạy chuyên ngành Tôn giáo học và các bộ
môn khoa học xã hội khác có liên quan. Luận văn còn là cứ liệu khoa học
giúp cho chính quyền địa phương hiểu rõ hơn về Phật giáo và tín ngưỡng bản
địa Hà Tiên, từ đó đề ra những giải pháp quản lý nhà nước về tôn giáo phù
hợp với sự tồn tại của nó ở Kiên Giang.
Trên cơ sở nâng cao nhận thức về “Sự dung hợp giữa Phật giáo và tín
ngưỡng bản địa ở thị xã Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang hiện nay”, giúp cho công
tác quản lý xã hội, quản lý tín ngưỡng, tôn giáo, nhất là Phật giáo ở tỉnh Kiên
Giang được chặt chẽ hơn, các chính sách pháp luật được thực thi đầy đủ, sự
quan tâm tích cực của chính quyền đối với Phật giáo và tín ngưỡng bản địa,
để Phật giáo và tín ngưỡng tiếp tục phát triển đồng hành cùng dân tộc, xây
dựng một xã hội hòa bình, tốt đẹp, cùng tiến bộ.
8. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
6
nội dung chính của luận văn gồm 2 chương 05 tiết.
Chƣơng 1
KHÁI LƢỢC CHUNG VỀ PHẬT GIÁO VÀ TÍN NGƢỠNG BẢN ĐỊA
Ở THỊ XÃ HÀ TIÊN, TỈNH KIÊN GIANG
1.1. Khái lƣợc chung về đặc điểm Phật giáo ở thị xã Hà Tiên
Trang wedsite Wikipedia tiếng Việt, bài viết về Hà Tiên có ghi: Hà
Tiên là thành phố nằm ở phía Tấy Bắc của tỉnh Kiên Giang, thuộc vùng Kinh
tế trọng điểm của vùng Đồng bằng sông Cửu Long và nằm trong vùng tam
giác vàng của tỉnh: Rạch Giá - Hà Tiên - Phú Quốc. Phía Bắc giáp với Vương
quốc Campuchia với đường biên giới dài 13,7km, phía Đông giáp với huyện
Giang Thành, phía Nam giáp với huyện Kiên Lương, phía Tây giáp với
Vịnh Thái Lan với đường bờ biển dài 26 km. [Phụ lục 1, tr.80]
Hà Tiên có 7 đơn vị hành chính với 5 phường (Bình San, Đông Hồ, Mỹ
Đức, Pháo Đài, Tô Châu) và 2 xã (Thuận Yên, Tiên Hải). Thành phố Hà Tiên
là một dải đất hẹp nằm ven biển, với đầy đủ các dạng địa hình: vũng, vịnh,
đồng bằng, núi, sông, hang động, hải đảo...tạo nên nhiều cảnh quan đẹp. Được
ví như Vịnh Hạ Long thu nhỏ.
Vũng Đông Hồ là cửa đỗ ra biển của hai con sông, sông Giang Thành
từ Campuchia và kênh Vĩnh Tế chảy vê cho lượng nước ngọt quanh năm; Cửa
sông Tô Châu từ kênh Hà Tiên - Rạch Giá chảy xuống, rất thuận tiện cho vận
tải và du lịch đường sông nước.
Các ngọn núi trên địa bàn thành phố hầu hết đều là những thắng cảnh
như: núi Tô Châu, núi Đá Dựng, núi Bình San, núi Thạch Động, núi Đề
Liêm... Ven biển Hà Tiên có nhiều bãi biển đẹp như: bãi biển Lộc Trĩ (bãi
biển Mũi Nai). Ngoài khơi có quần đảo Hải Tặc với nhiều đảo đẹp, có tiềm
7
năng du lịch, tuy còn hoang sơ nhưng rất triển vọng phát triển du lịch biển
đảo. Nhiều thi sĩ đã xướng họa diễn tả cảm xúc, nổi tiếng có Tao đàn Châu
Anh Các với 10 bài vịnh Thập cảnh Hà Tiên.
Lượng nắng trung bình từ 6,5 đến 7,5 giờ/ngày. Năng lượng bức xạ
trung bình 150 - 160 kcal/cm² năm. Nhiệt độ trung bình hàng năm khoảng
27 °C (thấp nhất là 23,9 °C vào khoảng tháng 12 - tháng 1; cao nhất là 30,20C
vào tháng 4 - 5. Độ ẩm trung bình 81,9%. Mùa mưa thường từ tháng 5 đến
tháng 10. Lượng mưa lớn, trung bình 2.118 mm/năm.
Diện tích tự nhiên năm 2015 là 10.048,83 ha (đất nông - lâm nghiệp và
nuôi trồng thủy sản là 7.472,7 ha (chiếm 74,36 %) với nhiều diện tích có độ
phèn mặn cao, đất phi nông nghiệp là 2.373 ha, đất chưa sử dụng chủ yếu là
bãi bồi, núi đá không có cây cối chiếm 2,02%).
Kể từ năm 2000- 2001, Hà Tiên có 13 trường, gồm 1 trường mầm non
và 12 trường thuộc ngành giáo dục phổ thông (7 trường tiểu học, 3 trường
Trung học cơ sở, 1 trường Phổ thông Trung học, 1 trung tâm giáo dục kỹ
thuật hướng nghiệp dạy nghề), tỷ lệ con em đến trường hàng năm trên 99%
trẻ em. Một bệnh viện tại trung tâm thành phố quy mô 60 giường bệnh, 100%
xã phường có trung tâm y tế và khu dân cư có y tế thôn bản. Thế mạnh kinh
tế của Hà Tiên là biên giới giáp Campuchia trên bộ lẫn trên biển, Hà Tiên
cách tỉnh lị Kampot 60km và cảng Kep 20km; Đường biển và hàng không đi
các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á; đấu nối với các khu du lịch, nghĩ
dưỡng trong vùng. Trong đó có hoạt động tâm linh rất phát triển. [37]
Theo Báo cáo Tổng hợp thực trạng Tôn giáo trên địa bàn Kiên Giang
(2017) cho biết: Trên địa bàn thị xã Hà Tiên có 14 chùa, 01 đền thờ, 01 giáo
xứ, 02 giáo họ, 04 đình, 03 miếu, 01 am. Có đa dạng tín ngưỡng và nhiều tôn
giáo được duy trì gồm Phật giáo, Công giáo, Phật giáo Hòa Hảo, Cao Đài,
8
Phật đường Nam tông Minh sư đạo và Tịnh độ cư sĩ [2]. Với 20.266 tín đồ, 19
cơ sở thờ tự, 299 chức sắc, nhà tu hành, chức việc, 01 đơn vị gia đình phật tử
với 150 đoàn sinh và 8 cơ sở tín ngưỡng, dân gian. [23, tr. 39]
Phật giáo có 03 hệ phái (Nam tông, Bắc tông và Khất sĩ), 12 chùa (bắc
tông 6, nam tông 3, khất sĩ 3), có 24 chức sắc, 78 chức việc, có 8.113 tín đồ.
Tổ chức có Ban Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam thị xã, 12 Ban Trị sự
chùa, 01 Gia đình Phật tử, 01 tổ chức từ thiện xã hội.[Phụ lục 2, tr.83]
Tín ngưỡng có 01 đền thờ, 04 đình, 03 miếu, 01 am. Đối tượng thờ
cúng là ông trời, thổ thần, hải thần, nhân thần, thần hỗ [Phụ lục 2, tr.85]. Đa
số người Hà Tiên tin tưởng vào các loại hình tín ngưỡng, từ nơi thờ tập trung
ở đình miếu cho đến trong gia đình, trên phương tiện kinh doanh cho đến cập
đường lộ. Điểm đáng chú ý là ngôi đình thành hoàng làng Hà Tiên thờ cả ba
ông cháu gồm Mạc Cửu, Mạc Thiên Tích và Mạc Tử Sanh; nhà nào cũng có
ban thờ thông thiên bên ngoài và thờ tổ tiên, thần tài, thổ địa, ông táo bên
trong; trên phương tiện lớn thường có bàn thờ các vị thần phù trợ tránh tai
họa.[Phụ lục 2, tr.82]
Trong khuông khổ đề tài luận văn này, là người hoạt động hành chính,
xin dùng khái niệm được trích trong Luật Tín ngưỡng tôn giáo được thể hiện
tại Khoản 5, Điều 2, Chương I như sau: “Tôn giáo là niềm tin của con người
tồn tại với hệ thống quan niệm và hoạt động bao gồm đối tượng tôn thờ, giáo
lý, giáo luật, lễ nghi và tổ chức.” [14]. Với nhận thức như vậy, luận văn khái
lược chung về Phật Giáo ở Hà Tiên như sau.
1.1.1. Khái lược về vùng Hà Tiên trong lịch sử
Như đã biết, vùng Hà Tiên xưa kia là một phần của các vương quốc cổ,
nằm về phía Đông của các vương quốc này, trong vùng biển Vịnh Thái Lan
nhiều rừng núi, hải đảo và sản vật quí. Theo sách Lịch sử thế giới trung đại
(quyển II) nêu rõ: “Người dân xưa đã có điều kiện để sinh sống bằng lượm
9
hái, săn bắn, đánh cá, trồng trọt, do đó mà không ngừng tiến triển. Đây là một
trong những quốc gia đóng góp tích cực vào nền văn hóa lâu đời, vào vận
mệnh lịch sử ở Đông Nam Á” [18, tr.219] nói chung, mảnh đất Hà Tiên xưa
nói riêng.
Vào thế kỷ I sau công nguyên, Hà Tiên là vùng hạ của tiểu quốc Ba
Nam xưa, đây là một trong những tiểu quốc lớn mạnh và quan trọng của
vương quốc Phù Nam vào thế kỷ I. Ba Nam là tên một quả núi (thực ra là một
gò núi nhỏ ở bờ trái hạ lưu sông Mê Kông), còn gọi là Ba Phnom (Nam hay
Phnom là núi; Ba hay là dmâk, dalmâk (đặc mục) là người đi săn), về sau gọi
theo chữ Phạn trong các bi ký, Vyâdhapura, cũng chỉ là sự dịch nghĩa: Xứ sở
của những người đi săn [18, tr.221]. Tên Phù Nam (hay Bạt Nam) là chuyển
âm - Đây chắc là nơi sinh sống thuận tiện, nên dân cư sớm tập trung đông
đúc. Tiểu quốc Ba Nam sớm hình thành, phát triển nhanh, mạnh nên khiến
cho các tiểu quốc khác (vốn có quan hệ thân tộc) càng phải kết thân và thần
phục. Ba Nam trở nên có địa vị lãnh đạo, tiêu biểu cho các tiểu quốc khác, mà
tên của nó là đại diện cho sự thống nhất của các quốc gia sơ kỳ của người
Khmer: Quốc gia Phù Nam. [18]
Những nhà nước hình thành trên lãnh thổ, trong đó có vùng đất này đã
được các tài liệu cổ gọi bằng những tên gọi khác nhau, từ Phù Nam, Thủy
Chân Lạp, cho đến Việt Nam ngày nay, đã phản ảnh những bước phát triển
trong quan hệ xã hội, chính trị của các tộc người anh em. Tên gọi Phù Nam
xứng đáng là tên chính thức của vương quốc bởi vì thường được nhắc tới
trong văn bia của các đời vua và từ một câu chuyện thần thoại truyền thống,
phản ánh tính chất phát triển liên tục của lịch sử vùng này. “… Ở phía nam
quận Nhật Nam, trên bờ phía tây đại dương, rộng 3.000 lý, có một con sông
từ phía tây chạy ra bể. Vua nước ấy là một nữ hoàng, tên là Liễu Diệp. Sau có
một ngýời ở cõi ngoài tên là Hỗn Điền đêm mộng thấy thần ban cho cái cung
10
và bảo đi thuyền ra bể. Sáng sớm, Hỗn Điền đến đền thờ thần, bắt được một
cái cung ở gốc cây, rồi đi thuyền đến nước Phù Nam. Liễu Diệp đem quân ra
đánh. Hỗn Điền giương cao cái cung, từ xa bắn một phát, xuyên qua vỏ
thuyền, thẳng tới trúng phải một người. Liễu Diệp cả sợ, xin hàng. Hỗn Điền
bắt làm vợ. Rồi ông ta cai trị nước, truyền cho con cháu…”. [18, tr.222]
“Quốc gia Phù Nam duy trì đến năm 550 thì suy lụi dần rồi bị vua
Chen-la (Thủy Chân Lạp) đánh bại lên nắm bá quyền, chuyển sang một thời
kỳ mới, “Tài liệu xưa ghi chép lại như sau: “Chân Lạp ở phía tây Lâm Ấp.
Nguyên trước đây là thuộc quốc của Phù Nam…”, “Tổ tiên đã dần dần làm
cho nước trở nên hùng cường. Chi-tơ-ra-sê-na chiếm được Phù Nam và bắt
thần phục. Ông ta mất, con là I-sa-na-sê-na nối nghiệp…”. [18, tr.226]
Đánh dấu khởi đầu cho thời kỳ Ăng-co là khi ”Campuchia lâm vào tình
trạng chia rẽ và ngưng trệ do chế độ thống trị của người Gia-va gây nên.
Trong nước có nhu cầu khôi phục sự thống nhất và tự chủ... Giay-a-vác-man
II, vốn thuộc hoàng tộc Cam-pu-chia, đã phải bỏ chạy sang Gia-va khi nước
nhà có tranh chấp nội bộ và ngoại xâm, đã nhân cơ hội này trở về nước, tập
hợp lực lượng đấu tranh và lên ngôi vua năm (năm 802).“[18, tr.230-231],
đánh dấu một thời kỳ huy hoàng trong giai đoạn lịch sử kéo dài từ năm 802
đến năm 1.434 (hơn 1000 đền đài được xây dựng, nổi tiếng và được
UNESCO công nhận phế tích Angkor là di sản thế giới).
“Từ nữa thế kỷ XV, Cam-pu-chia bước vào thời kỳ suy thoái nhanh
chóng... Vương quốc của người Thái - Thống nhất vào giữa thế kỷ XIV - đã
mạnh lên, dồn dập tấn công, cướp phá và lấn đất của Cam-pu-chia trong nữa
sau thế kỷ XV và suốt thế kỷ XVI.“ [18, tr.246]
“Đầu thế kỷ XVII, trước sự uy hiếp dữ dội của người Thái, Cam-pu-
chia hướng tới kết thân và dựa vào người Việt. Năm 1.622, vua Campuchia
11
tăng thêm quan hệ hòa hiếu và kết hôn với một công chúa người Việt.“ [18,
tr.247]. Tuy nhiên, chỉ yên ổn hơn 30 năm thì nội bộ quý tộc lại tranh giành
gây mâu thuẫn trong hoàng gia, một bên theo Xiêm, một bên theo Việt.
Trong quyển Chế độ Công đền công thổ trong lịch sử khẩn hoang lập
ấp ở Nam kỳ lục tỉnh, Nguyễn Đình Đầu đã dẫn lại bài Mạc Cửu và Chúa
Nguyễn ở Hà Tiên của Trần Kinh Hòa, trong tạp chí Văn hóa Á Châu, Và
Phan Khoang, sđd, tr.423: “Nguyên Mạc Cửu là người châu Lôi tỉnh Quảng
Đông, trước làm chủ thuyền buôn, kinh doanh lớn, thường lui tới Lữ Tống
(đảo Lu-Zon của Phi-lip-pin), Chà Và (đảo Java của In-đô-nê-xi-a), Chân Lạp
(Cam-pu-chia và Nam bộ ngày nay). Khi thấy nhà Minh hết hy vọng phục
hưng đất nước từ tay thống trị người Mãn Thanh, Mạc Cửu sang ở hẵn Chân
Lạp, khoảng năm 1680, và được nhận làm quan tại triều. Song chính quyền
Chân Lạp lúc đó thường chia rẽ cạnh tranh nhau và bị nước Xiêm can thiệp
dòm ngó, nên Mạc Cửu xin tới lập nghiệp trên cửa biển Pe1am (tức Phương
Thành) thuộc tỉnh Kham (ta gọi là Màng Khảm). Nơi đây thường có người
buôn bán ngoại quốc tụ họp và chung quanh đã có lưu dân lác đác tới khẩn
hoang. Mạc Cửu mở một sòng bạc để lấy sâu, mở phố xá, xây thành trên bờ
biển và chiêu tập thêm lưu dân tới ở các nơi Phú Quốc, Lũng Kỳ (còn gọi
Trũng Kè, Lũng Cả, Réam), Cần Bột (Campốt), Rạch Giá, Luống Cày,
Hương Úc (tức Vũng Thơm hay Kompong-som) và Cà mau để lập thành 7 xã
thôn. Tương truyền rằng ở Phương Thành có tiên thường hiện ra trên sông,
nên mới đặt tên là Hà Tiên" [8], sau này có ý kiến cho rằng Mạc Cửu đặt tên
Hà Tiên là do nổi nhớ mong quê hương mà thành.
Nguyễn Đình Đầu cũng dẫn ở đoạn tiếp theo từ Hoàng Việt Giáp Tý
niên biểu, Nguyễn Bá Trác phụng biên tập, Khải Định năm thứ 10 (1925) ấn
hành, Bửu Cầm... Trương Bửu Lâm phiên địch, Sài Gòn 1963, tr.303: “Tuy
nhiên bọn cướp biển và chính quyền Xiêm thường tới đốt phá và quấy nhiễu
12
Hà Tiên, nên muốn được sinh tồn, Mạc Cửu xin thần phục Chúa Nguyễn.
Chúa Nguyễn Phúc Chu chấp thuận, trao cho Mạc Cửu chức Tổng binh và ấn
thụ để tiếp tục cai quản Hà Tiên. Từ đó, tức năm 1708, Hà Tiên thuộc bản đồ
Việt Nam, tuy ruộng đất thì đã do lưu dân khẩn hoang từ lâu trước nữa".[8]
Mặc dù có nhiều biến cố tan tóc do quân Xiêm xâm lược gây nên vào
thời đại dòng họ Mạc cai quản (1718, 1771 và 1833), nhưng các dân tộc anh
em gồm Kinh, Hoa, Khmer, Philippin ở Hà Tiên vẫn tái lập, duy trì và phát
triển vững bền cho đến ngày nay.
1.1.2. Sự du nhập và phát triển của Phật giáo ở Hà Tiên
- Sự du nhập và phát triển
"... người Ấn Độ - có lẽ đã đến đây từ đầu công nguyên - đã tham gia
một phần tích cực vào sự phát triển kinh tế, văn hóa và chính trị của các quốc
gia Phù Nam. Những người Ấn này có thể với những lý do và thời gian khác
nhau, nhưng đa số chắc là thương nhân, những người tu hành, đã đến đây làm
ăn sinh sống, truyền bá tôn giáo, đã gắn bó và đồng hóa với dân địa phương
[18, tr.223]. Về tôn giáo, nếu thời kỳ này chưa ăn sâu trong xã hội, thì ít nhất
triều đình Phù Nam cũng đã tin theo đạo Phật. Bia Võ Cảnh đã nói lên điều
đó [18, tr.224]. Sau thời kỳ kết tập kinh điển lần đầu vào thế kỷ IV, Phật giáo
mới thật sự khởi sắc phát triển mạnh mẽ, Hệ phái Phật giáo Nam tông chính
thức truyền thừa từ Ấn Độ sang, nhiều người kể từ đây vừa tin theo tín
ngưỡng vừa tin theo đạo Phật.
Đến thế kỷ XVII bắt đầu có sự bám rễ của hệ phái Phật giáo Bắc tông.
Nhiều tư liệu chứng minh rằng, có nhiều vị sứ giả, nhà nghiên cứu phía Bắc
đã đi qua đây và để lại nhiều tư liệu lịch sử có giá trị, rất tiếc không ai ở lại
xây dựng niềm tin tôn giáo của mình ở nơi đây. Mạc Cửu là người đã dừng
chân lập trấn và mang theo tín ngưỡng Trung Quốc và Phật giáo Bắc tông vào
nơi này. Cũng cùng thời kỳ này, có tài liệu minh chứng sự có mặt của một
13
linh mục Công giáo đã có mặt tại đây nhưng không rõ đã làm gì và không có
dấu tích để lại, Công giáo chỉ khởi sắc từ những năm 1960 về sau. Đến đầu
thế kỷ XX dần xuất hiện các tôn giáo nội sinh là Phật giáo Hòa Hảo, Cao đài,
Phật đường Nam tông Minh sư đạo, Tịnh độ cư sĩ.
Riêng Phật giáo, các di tích để lại từ thời cận đại đến nay cho thấy Phật
giáo ở Hà Tiên trong thế kỷ XVII có thể hình thành hai chùa, đó là chùa
Thiên Trúc và chùa Phù Dung. Sang thế kỷ XVIII xuất hiện hai chùa, là chùa
Tam Bảo và Tiên Sơn. Từ thế kỷ XX xuất hiện đông đảo các chùa khác và
các tôn giáo khác.
Ở ngôi Thiên Trúc Tự, vào những năm 1960-1963, dưới thời trụ trì
Pháp Kiên, trong lúc trùng tu lại ngôi chùa đã tìm thấy một số viên gạch ghi
ký tự Khmer số 1616 dưới Bồ Đoàn, nơi pho tượng Phật lớn ngồi. Tượng
Phật Lớn bên trong ngôi Chính điện là Phật Thích Ca ngồi trên Bồ Đoàn có
gương mặt, dáng ngồi giống như các tượng Phật của Thái Lan được bảo tồn
trong viện Bảo tàng tại Bangkok. Những người hiểu biết cho hay: Thời Mạc
Thiên Tích có hai vị hoàng tử Xiêm lưu vong tại Việt Nam, lưu ở xứ Hà
Tiên một thời gian rồi trở về nước phục vị. Sau đó các vị hoàng tử cùng các
nghệ nhân người Xiêm đã trở lại Hà Tiên tạo tác pho tượng Phật ở Chùa
Hang (Hải Sơn Tự - thuộc xã Bình An, huyện Kiên Lương, tỉnh Kiên
Giang), sau đó là pho tượng Phật Lớn tại Thiên Trúc Tự. Bức tượng cao
2,6m, thân tượng ngồi kiết già từ gối trái sang gối phải 1,9m. Một bia đá Si-
Ma với đường nét hoa văn theo Thái Lan, các chùa Nam tông trong vùng
không có bia đá này. [11, tr.4]
Từ các di chỉ trên, có thể suy đoán chùa này đã được thành lập từ trước
năm 1616, vì người Khmer và Mã Lai ở đây đầu tiên và luôn hành đạo với
đạo Phật (phái Nam tông). Nếu đúng là như thế thì đây là ngôi cổ tự đầu tiên
ở xứ Hà Tiên, theo hệ phái Phật giáo Nam tông có ảnh hưởng văn hóa Thái
14
Lan. Tuy nhiên, trải qua trên 400 năm, thời gian ấy khá dài so với nhiều thế
hệ trụ trì chưa rõ tung tích, nhiều thời gian bị bỏ hoang phế, ngôi Thiên Trúc
Tự chưa tìm được tư liệu chứng minh nhiều giai đoạn phát triển hưng thịnh
của chùa, rất cần có sự nghiên cứu sâu thêm để chứng minh lịch sử diễn ra.
Niên đại ngôi chùa cổ thứ hai có thể là chùa Phù Dung ở núi Đề Liêm,
trước tháp hòa thượng Ấn Đàm mất năm 1662. Hiện tại nơi này còn nền chùa
cũ, đã khai quật được lư đồng, chén cổ, kè đá ghi thời Mạc Cửu. Qua ba lần bị
giặc Xiêm tàn phá, ngôi cổ tự đã bị hoang phế và bỏ hoang cho đến ngày nay
chỉ còn thấy nền chùa. Nói “Tiêu tự thần chung - Tiếng chuông tĩnh mịch” là
tiếng chuông từ chùa này vọng ra hướng Bắc có hào quân sự, có chợ nhỏ ghe
tàu từ đầm Đông Hồ vào hướng Rạch Ụ. Năm 1846, sau khi khi đánh đuổi
quân Xiêm, Tổng đốc An Hà là Doãn Uẩn đã xin triều đình cho cất lại ngôi
chùa khác, vì ở chùa cũ không còn tiền nhân, chẳng ai trông coi nữa.
Tổng đốc Doãn Uẩn cùng nhân dân xã Mỹ Đức, huyện Hà Châu lập
ngôi chùa mới ngay tại nền dinh thự của ông Mạc Thiên Tích ở phía bắc núi
Bình San, và ông đã lấy chữ đầu của Phù Dung và chữ giữa của Chiên Anh
Các ghép lại đặt tên ngôi chùa mới là Phù Anh. Không lâu sau, đối chiếu với
úy của vua Thiệu Trị thì chữ Dung bị phạm úy tên của vua nên đổi lại là Cừ,
trở thành tên Phù Cừ. Theo Đại Nam nhất thống chí: “Chùa Phù-cừ. Ở chân
núi Phù-cừ xã Mỹ-đức huyện Hà Châu,…; năm Thiệu Trị thứ 6 (1856), nhân
dân tỉnh hạt xây sửa lợp ngói, …, theo núi dựng nhà, án tuệ nghiêm trang, cửa
thiền tịch mịch, cũng là 1 nơi danh thắng.” [17, tr.107]
Ngôi chùa cổ thứ ba, chính là ngôi chùa Tam Bảo của gia đình họ Mạc.
Năm 1730, “Ở huyện Hà Châu; nguyên xưa Mạc-cửu làm Thống-Binh ở Hà-
tiên lập ra; mẹ ông là Thái phu-nhân hơn 80 tuổi mộ Phật đến ở, sau bà tọa-
hóa (mất) ở trước bàn Phật. Mạc-cửu nhân đó đúc tượng bằng đồng để thờ
trong chùa, nay vẫn còn” [17, tr.107]. Cũng như lịch sử thăng trầm của Hà
15
Tiên, có nhiều giai đoạn gặp chiến tranh gián đoạn, “Đến đời Gia Long
(1802-1819) vua cho người về Hà Tiên kiến thiết xứ sở (1811). Lúc nầy nhân
dân lập lại chùa Tam Bảo và có sắc phong của vua nên chùa được mang tên
Sắc Tứ Tam Bảo Tự cũng ngay tại chỗ cũ. Đến năm 1834 giặc Xiêm đánh phá
Hà Tiên nữa, chùa lại bị hư hại,…” [12, m.B, k.2]. Đến nay đã qua 19 đời trụ
trì và đã được xây dựng khang trang, giữ được vẻ thanh tịnh vốn có của nó.
Đây cũng là nơi lưu dấu bức tường cổ, đại hồng chung cổ và tượng phật bằng
đồng Mạc Cửu đúc tặng mẹ hơn 300 năm tuổi. Chùa đã được triều đình sắc
phong nên còn gọi là Sắc tứ Tam Bảo tự, ngày nay được chính quyền công
nhận Di tích lịch sử văn hóa cấp Tỉnh.
Không thể không nhắc đến ngôi chùa Tiên Sơn trong núi Thạch Động.
Theo sách Lược sử những ngôi chùa ở Kiên Giang, thượng tọa Thích Giác
Phước, chủ biên, NXB. TP. Hồ Chí Minh, 2002 cho biết: Vào thế kỷ XVIII,
Hòa thượng Huỳnh Phong đã đến tu hành tại đây. Năm 1790, Hòa thượng
Minh Đường (Trung Quốc) đã tìm đến hang động này tu hành và đặt tên là
Bạch Vân Am. Sau đó, ngài đã giao am lại cho Bạch Vân Cư sĩ và về tu ở
chùa Địa Tạng, cách Bạch Vân Am 800m về hướng Đông Nam. Đến năm
1888, một nhóm người Minh Hương đã đến tổ chức trùng tu am xưa và cung
thỉnh Hòa thượng Thích Chánh Quả, thuộc dòng Lâm Tế Chánh tông đời thứ
39, về trụ trì. Hòa thượng đã cho đúc một số tượng Phật và Bồ tát, đổi tên
Bạch Vân Am thành Linh Sơn Tự. Ngài viên tịch năm 1913. Kế thế trụ trì là
Hòa thượng Thích Thiện Sĩ đã tổ chức trùng tu, mở rộng ngôi chùa, đặt tên
chùa Tiên Sơn. Đại đức Thích Minh Luận trụ trì chùa từ nãm 1989 đến nay
[38]. Ðây là một trong những ngôi chùa ở trong động đá nổi tiếng với sự tích
Thạch Sanh - Lý Thông. Hiện chùa được trùng tu khá khang trang, hài hòa
với thiên nhiên.
Theo HT.Thích Thiện Nhơn - Chủ tịch HĐTS TW GHPGVN - trong
16
bài Phật giáo Kiên Giang qua một góc nhìn đăng trên trang thông tin điện tử
Phật giáo Kiên Giang ngày 18 tháng 6 năm 2017 có đoạn: “Từ thời Vua Gia
long thứ 7 (1808) đã đặt ra Đạo Kiên Giang, đất Hà Tiên, Rạch Giá dưới
quyền điều hành quản lý của Tổng đốc tình An Hà (tức An Giang, Hà Tiên
ngày nay) tên là Doãn Uẩn (1843 - 1867)… Năm 1920, phong trào chấn hưng
Phật giáo Việt Nam do Hòa thượng Khánh Hòa khởi xướng… Phong trào lần
lượt ảnh hưởng đến cả vùng đất Nam Kỳ Lục Tỉnh (Biên Hòa, Gia Định,
Định Tường, Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên). Trong đó có tỉnh Rạch Giá
(Kiên Giang)”. Từ đây đã dần hình thành nhiều ngôi chùa, đó là: Chùa Mũi
Nai (1920), chùa Thanh Hòa (1927), chùa Phật Đà (1945), tịnh xá Ngọc Hồ
(1957), tịnh xá Ngọc Đăng (1960), tịnh xá Ngọc Tiên (1967), chùa Giải
Thoát, chùa Xà Xía.
… Năm 1981 thống nhất Phật giáo cả nước, Giáo hội Phật giáo Việt
Nam được thành lập. GHPGVN thị xã từ ngày thành lập đến nay, luôn ổn
định, phát triển đồng hành cùng dân tộc trong thế kỷ 21 và những thế kỷ tiếp
theo của dân tộc Việt Nam và Phật giáo Việt Nam…”.[34]
- Những đặc điểm cơ bản của Phật giáo Hà Tiên
Về Giáo lý:
Sử dụng các kinh điển từ 45 quyển chánh tạng và 92 quyển chú giải ra
tiếng bản xứ của mình để y cứ tu hành. Kinh bổn thường dùng các loại sau:
Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, Kinh Kim Cang, Kinh Bát Nhã, Kinh Đại Bát
Niết Bàn, Kinh Lăng Nghiêm, Kinh Viên Giác, Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm
Kinh, Kinh Duy Ma Cật, Kinh A Di Đà,… Về cơ bản, giáo lý Phật Giáo đề
cập đến nhiều vấn đề của thế giới và nhân sinh, rất trừu tượng, mang tính
triết học sâu sắc, chủ yếu giáo thuyết về pháp, bản thể, tâm, vô thường, nhân
duyên, sắc không, vô ngã, nhân quả, luân hồi, nghiệp và nghiệp báo, thập
nhị nhân duyên, tứ diệu đế, giải thoát và niết bàn. Ngoài ra, giáo lý Phật giáo
17
còn có những lý thuyết khác như là thuyết về Thức, mối quan hệ giữa Tâm
và Thức, giữa Tâm và Vật. Các hệ phái có cách thức tu tập, hành thiền và
sinh hoạt khá khác nhau, mang tính đặc trưng của từng hệ phái trong ngôi
nhà chung Phật pháp.
Giới luật:
Giới luật hướng dẫn nhiều điều chế định hướng dẫn tu tập. Nội dung
chủ yếu của giới luật là những điều kiêng cấm nhằm chế ngự dục vọng, từ bỏ
việc ác, khuyến khích thực hiện việc thiện để đạt đến sự giải thoát. Giới luật
quy định cho từng đối tượng riêng: Đối với tín đồ tại gia phải thực hiện “Ngũ
giới” và thập thiện. Đối với bậc Sa-di, phải giữ 105 giới, người đi tu theo Phật
trên tinh thần tự nguyện, đáp ứng được một số yêu cầu cơ bản gồm: Phải
được sự đồng ý của cha mẹ hoặc người nuôi dưỡng (nếu còn nhỏ); phải là
công dân tốt, không trong tình trạng vi phạm pháp luật; phải có thầy dẫn dắt
và có những vật dụng cần thiết của một nhà sư, có thể giữ bậc Sa-di suốt đời.
Đối với bậc Tỳ kheo, phải thực hiện đầy đủ các giới, gọi là “Cụ túc giới” gồm
250 giới, giới luật ở bậc này quy định rất chi tiết, chặt chẽ từ việc ăn, mặc, ở,
đi, đứng, nằm, ngồi (hành, trụ, tọa, ngọa), nói năng đến mối quan hệ giao tiếp
với gia đình, xã hội, đồng đạo, cách thức hành đạo, tu trì, lễ bái.
Đối với những người xuất gia, Phật giáo còn nêu lên sáu điều để hướng
dẫn tu hành, gọi là “Lục hòa tăng” hay “Lục hòa kinh pháp”. Đồng thời đối
với cả những người xuất gia lẫn những người tu tại gia có những điều răn dạy
cụ thể: Tứ vô lượng tâm (từ, bi, hỷ, xả), Vô ngã vị tha (không vì mình mà vì
mọi người), hạnh lục độ (bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí
tuệ). Để thực hiện nghiêm túc giới luật, hàng tháng hai lần vào ngày 15 và
ngày 29 hoặc 30 âm lịch, những người xuất gia tu hành trong chùa hay tập
hợp lại để tụng giới (lễ tụng giới gọi là lễ bồ tác), tức là đọc lại các giới luật.
Việc xử lý tăng chúng phạm giới luật được tiến hành theo phép Yết ma
18
(Karma) và phải được toàn thể tăng chúng nhất trí thông qua.
Nghi lễ:
Phật giáo luôn đặt nặng nghi lễ, chuộng đời sống chân thật, mộc mạc,
rất quan tâm đến giới luật: Lễ kính nhau theo tôn ti hạ lạp, đón rước trịnh
trọng có từ lâu đời; trai tăng là không thọ thực quá ngọ; tụng kinh dùng
chuông mỏ và xướng tán ngân nga; thờ các vị Phật phù trợ và cúng hương hoa
vật thực để tỏ lòng thành kính; tổ chức cúng sao hạn, chuẩn tế, coi ngày tốt
xấu; đi khuất thực không nhận tiền bạc, chỉ nhận vật thực đã chín do phật tử tự
nguyện dâng cúng, không mở lời xin hay nói khéo để người phải cho; mỗi
ngày có hai thời tụng kinh lễ bái Tam Bảo vào buổi sáng và buổi chiều, ngoài
ra chư tăng thường tụng kinh quán tưởng và chúc phúc cho phật tự trước khi
thọ thực. Khi hành lễ, các vị thường dùng trung y hoặc đại y lễ.
Y là trang phục theo nhà Phật, y thuộc loại hoại sắc, có màu vàng đậm,
xám hay nâu, đều là đơn giản, trang nghiêm, thanh tịnh. Có 03 loại: Y dùng
để mặc bên trong, y dùng để mặc ở giữa, y dùng để đắp ngoài của chư tăng.
Khi đi đến chốn đông người, đi trì bình, nhập chúng thọ trai, khi lễ tháp, khi
nghe kinh, khi lễ cao tăng,… đều có quy định mặc y phục riêng biệt cho từng
dịp lễ.
Phật giáo Nam tông và Khất sĩ thường đi khất thực, được thể hiện qua
đi bát, được thực hiện trong chùa hoặc một đợt tập trung nhất định được thông
báo trước nên ít nhiều làm mất đi tính nguyên bản của khất thực.
Phật giáo hàng năm có nhiều ngày lễ được tổ chức ở chùa và ở nơi
thuận tiện tại địa phương. Việc hành lễ do các vị cao tăng chủ trì cuộc lễ. Có
các ngày lễ chính trong năm theo âm lịch, gồm: Rằm tháng tư mừng Phật đản
sanh, thành đạo và nhập Niết bàn; An cư Kiết hạ là dịp các bậc tăng ni ở
trong chùa tu tập liên tục ba tháng để trao dồi thân, khẩu, ý; Lễ Dâng y
(Kathina - lễ Dâng bông) thực hiện tâm thí của người cúng dường và người
19
nhận được một cách bền vững, viên mãn. Ngoài ra còn có các lễ gắn với tín
ngưỡng, văn hóa, truyền thống và dân tộc: Rằm tháng giêng; Lễ Xá tội Vong
nhân; Ở đồng bào Khmer còn có những lễ hội cúng mừng năm mới (Chol
Chnam Thmay), lễ cúng trăng (Okcombok), cúng ông Tà (Nek ta), cúng cơm
(Sen prên), cúng đáp lễ (cúng thần linh, người khuất mặt), lên tổ (tế lễ, tạ lễ
cho thần giữ nhà, thần giữ sóc)…
Kiến trúc:
Các chùa được bố trí trên một khoảng không gian đất đai rộng lớn, có
nhiều cây cao bóng cả, yên tịnh và thoáng mát. Mặt tiền chùa có thể hướng về
hướng khác nhưng chính điện luôn hướng về phương đông theo quan niệm
phật ở phương tây hướng về phương đông ban phước. Chính điện được xem
như là quần thể kiến trúc chính của ngôi chùa nên thường cao hơn kết cấu các
tháp, tăng xá hoặc giảng đường khoảng hơn 01m. Trong chính điện thường có
tam cấp: cấp cao nhất thường tôn trí xá lợi, cấp giữa tôn trí Phật tổ to lớn, cấp
cuối tôn trí các pho tượng Phật khác với các tư thế ngồi hoặc nằm với những
ý nghĩa khác nhau. Ngoài ra còn có các công trình phụ trợ gồm: phật cảnh,
nhà thiền tăng ni, nhà ăn, nhà bếp, nhà vệ sinh,…
Tổ chức:
Đến nay, ở các chùa có 01 hòa thượng, 01 thượng tọa, 04 đại đức, 02 ni
sư, 02 sư cô, hàng tăng ni chúng. Nơi này có 01 vị hòa thượng chứng minh,
Ban Trị sự GHPGVN thị xã có 21 vị. Các Ban Trị sự từng chùa lo giúp việc
Phật sự có từ 03 – 07 vị. Hàng năm tổ chức cho sư sãi tham gia tu tập, báo
hiếu. Về pháp lý, các chùa căn cứ vào Hiến chương đề ra chương trình hành
động, xây dựng quy chế, nội quy (hội họp, giờ giấc, khóa tu, mùa tu); các hoạt
động luân chuyển chức sắc, đăng lý tu tập, xây dựng cơ sở thờ tự, nhà thiện
nguyện, hoạt động xã hội,… đều có đăng ký và được chấp thuận từ các cấp
20
chính quyền địa phương.
Việc xây dựng chùa chiền, nơi tu tập luôn thực hiện đúng theo pháp
luật quy định, được cấp có thẩm quyền cấp giấy phép xây dựng, trùng tu. Tiền
nhân luôn có ý thức lựa chọn những nơi cao ráo, thoáng đảng để tu tập. Ví
như chùa Ngọc Tiên, Ngọc Đăng hệ phái khất sĩ ở triền núi Tô Châu; chùa
Ngọc Đăng (khất sĩ), Phù Dung, Tam Bảo dưới chân núi Bình San; chùa Tiên
Sơn trong núi Thạch Động; chùa Vạn Hòa dưới chân núi Thuận Yên, chùa Xà
Xía ở trên gò nhỏ Xà Xía (ngôi chùa củ), chùa Mũi Nai trên ngọn núi Mũi
Nai. Tuy nhiên, vẫn có một vài ngôi chùa do chưa hiểu biết quy trình xin phép
xây dựng, trùng tu, cơi nới, bảo vệ di tích lịch sử gắn với cơ sở tôn giáo, đã
ảnh hưởng đến trật tự xây dựng đô thị.
Ngày nay, các chùa chuyên tâm ổn định tổ chức, nhân sự, (trụ trì, các
ban, người tu hành), việc tu tập. Công tác từ thiện xã hội nổi bật hơn so với
các đơn vị trong khu vực với các công trình nhà nuôi dạy trẻ, quỹ đền ơn đáp
nghĩa, hỗ trợ học sinh và người khó khăn, xây nhà đại đoàn kết. Cử và trực
tiếp mở lớp đào tạo tăng ni, giải quyết các bất đồng, cùng tiến tới “Đạo pháp -
Dân tộc – Chủ nghĩa Xã hội”. Song song đó cũng còn một số mặt còn có
những tồn tại: Các chùa chậm phân bổ người đủ uy tín, phẩm chất, phẩm trật
vào các vị trí quan trọng; trong xây dựng còn tình trạng trái phép; còn tranh
chấp nội bộ và với bên ngoài (đất đai, vị trí xây dựng, lịch sử lập chùa,…).
1.2. Khái lƣợc về tín ngƣỡng bản địa ở thị xã Hà Tiên tỉnh Kiên Giang
Cũng tiếp cận Luật Tín ngưỡng tôn giáo, tại Khoản 1, Điều 2, Chương I
định nghĩa như sau: “Tín ngưỡng là niềm tin của con người được thể hiện
thông qua những lễ nghi gắn liền với phong tục, tập quán truyền thống để
mang lại sự bình an về tinh thần cho cá nhân và cộng đồng. ” [14]. Áp dụng
khái niệm vào thực tế tìm hiểu, tín ngưỡng ở Hà Tiên được khái lược một số
21
đặc điểm và loại hình thờ cúng đáng chú ý sau đây.
1.2.1. Đặc điểm tín ngưỡng ở thị xã Hà Tiên, Kiên Giang
Tại di tích khảo cổ học Nền Chùa, các nhà khảo cổ học cũng tìm được
19 ngôi mộ hỏa táng trên những gò đá quanh Nền Chùa. Ở các gò lớn chôn
không có nấm mồ, nhiều hình thù khác nhau, các gò nhỏ được tách riêng biệt
hình tròn hoặc hình mai rùa. Than tro người chết chôn trong bình gốm dưới
trụ gạch trung tâm các ngôi mộ [24]. Điều này cho thấy Ấn Độ giáo đã tiếp
biến tín ngưỡng thờ thần của đạo Bà La Môn và Hin Đu giáo từ trước đó nữa.
Như vậy, có thể khẳng định tín ngưỡng thờ thần là khởi thủy của tâm
linh ở nơi này. Bắt nguồn từ tâm thức thờ cúng tổ tiên, mong “mẹ thiên
nhiên” không “trừng phạt”, cử hành lễ bái mong được an lành. Rồi tiếp cận
văn hóa bên ngoài, khởi đầu là sự du nhập các vị thần Bà-la-môn theo chân
người Ấn Độ truyền sang, người Khmer, người Mã Lai tiếp nhận và truyền
thừa duy trì xuyên suốt hàng thế kỷ, cho đến khi Phật giáo tiếp biến và lan
rộng trong các tầng lớp xã hội, được truyền tải tâm linh cho đến ngày nay.
Tín ngưỡng cũng có hai loại hình, đó là loại hình ngoại nhập và nội
sinh. Như đã nói ở trên, nội sinh gồm các tín ngưỡng cổ thờ ông bà tổ tiên và
nhiên thần (mẹ thiên nhiên). Trong loại hình này, cũng có thể kể đến tín
ngưỡng của người Việt, người miền Trung và người từ một số quốc gia lân
cận đem đến như: người Việt di cư từ miền Bắc vào Trung rồi đến Nam,
người từ miền Trung vào, người từ cao nguyên xuống, các quốc gia cùng tộc
người Campuchia cổ từ Phillippin, Malaysia, Thủy Chân lạp sang. Nét đặc
trưng của dòng tín ngưỡng này chủ yếu tín ngưỡng vùng biển, tín ngưỡng
trong gia đình và tín ngưỡng thờ mồ mã ông bà.
1.2.2. Một số loại hình tín ngưỡng bản địa ở thị xã Hà Tiên, tỉnh
Kiên Giang
- Thờ cúng tổ tiên trong gia đình
Theo nghĩa hẹp, Tổ tiên là những người có cùng huyết thống và đã mất
22
như: ông bà, cụ kỵ… những người đã có công sinh thành, nuôi dưỡng và có
ảnh hưởng lớn đến đời sống vật chất và tinh thần của thế hệ những người
đang sống. Theo nghĩa rộng, Tổ tiên là những người có công với đất nước,
với cộng đồng làng xã, người đã sống và chết lâu đời tại địa phương [28,
tr.24].
Thờ cúng tổ tiên có hai loại hình, đó là thờ chung dòng tộc và thờ trong
từng gia đình, mồ mả ông bà. Bàn thờ gia tiên là nơi con cháu tưởng nhớ và
báo hiếu với tổ tiên sau khi chết (con cháu có nghĩa vụ báo hiếu khi còn sống
và khi đã chết). Đây là nơi đi về của tổ tiên, là biểu tượng của thế giới người
chết hiện hữu trong thế giới người sống; Là sợi dây tâm linh nối liền cuộc
sống ở “trần gian” với cuộc sống nơi “chín suối”. Mọi biểu hiện bất thường
xảy ra trên bàn thờ cũng đều là những dấu hiệu báo trước những bất ổn đã xảy
ra ở cõi âm và sẽ xảy ra ở cõi trần.
Thờ cúng tổ tiên ở Hà Tiên có ý nghĩa to lớn trong đời sống xã hội.
Giáo dục ý thức uống nước nhớ nguồn, truyền thống yêu quê hương đất nước.
Góp phần củng cố các mối quan hệ, tạo nên sức mạnh cộng đồng, phản ánh
nếp sống, phong tục, tập quán và phương thức sống của đồng bào ta. Đây là
một kho tàng lưu giữ nhiều nét đẹp văn hóa truyền thống được lưu giữ bền
vững, truyền bá rộng khắp và không ngừng phát triển theo chiều sâu. Đây là
nơi tìm thấy sự bình đẳng, cân bằng tâm lý và tự tin hơn trong cuộc sống.
Đồng thời, tạo ra cơ hội hội nhập, phát triển kinh tế, xã hội ở mỗi cộng đồng.
Tuy nhiên, ngày nay lễ hội này còn có những hạn chế là làm gia tăng
các hiện tượng mê tín dị đoan trong tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên như đốt vàng
mã, xem bói, “kinh doanh tín ngưỡng” qua việc tổ chức đình đám.
- Thờ ông trời (thông thiên)
“Bàn ông Thiên” hay “bàn Thiên” là bàn thờ được đặt phổ biến ở trước
sân nhà người Việt ở Nam Bộ. “Thiên” theo từ điển Hán Việt nghĩa là trời,
23
“bàn ông Thiên” tức là bàn thờ ông trời. Theo tín ngưỡng dân gian, trời được
xếp trước Phật trong các đối tượng được thờ, theo thứ tự “Trời - Phật - Thánh
- Thần”, nên việc thờ Trời là việc đầu tiên của mỗi người, mỗi nhà. “Bàn thờ
Thông Thiên” có nhiều loại. Trước đây, người ta thường làm “bàn ông Thiên”
bằng cây gỗ đơn sơ, gồm một cây cột cao khoảng 1 m, phía trên đặt một tấm
ván hình vuông, mỗi cạnh dài khoảng 04cm. Về sau, một số gia đình khá giả,
dựng bàn ông Thiên bằng cột bê tông, bên trên bàn thờ dán gạch men.
Bàn thờ ông Thiên của người Hà Tiên vừa thể hiện sự mộc mạc, giản dị
và chân thành của người dân đất phương Nam, vừa ẩn sâu trong đó là triết lý
âm - dương đã tồn tại qua hàng ngàn năm với biểu tượng vuông - tròn vốn
hiện hữu lâu đời trong tâm thức của người Việt. Bàn thờ hình vuông tượng
trưng cho đất (thuộc âm), lư hương hình tròn tượng trưng cho Trời (thuộc
dương). Điều đó còn thể hiện khát khao vươn đến sự hoàn hảo của con người
phương Nam, thể hiện qua hình ảnh “bàn ông Thiên” có vuông - có tròn, có
âm - có dương.
Vào những ngày quan trọng như ngày vía mùng 9 tháng Giêng, mồng
một, ngày rằm hoặc những dịp cúng tổ nghề, lễ, tết, người ta cúng ở bàn thờ
ông Thiên trang trọng hơn, có thể là chén gạo, muối, chè, và ngày Tết còn có
thêm đĩa hoa quả.[16, tr.159-160]
- Thần Hổ
Hổ còn là một linh vật trong 12 con giáp của người Việt ta, tượng trưng
cho sức mạnh, nó còn là một trong Tứ Thánh thú cai quản. Hổ được tôn thờ,
sùng bái và gọi một cách trân trọng là ông, ngài, cậu, chúa. Hổ là loài vật linh
thiêng, là kẻ thù của các tà thần, nên thường được hiện diện như những vị
thần linh canh cửa các ngôi miếu, đình, chùa, nhà cửa. Hình tượng Hổ tượng
trưng cho sức mạnh của trần gian, đại diện cho các thần linh ở dưới mặt đất.
Thần Hổ uy linh và đầy huyền bí đã đi vào đời sống tâm linh của cư
24
dân. Ở phương vị phù trợ, loài Hổ không được vị trí độc tôn thờ phụng (thờ
chánh) mà là những con vật thờ phụ, thờ theo những bậc công danh, tiền hiền,
thánh nhân, khiến nó có nét giống với các động vật được phụng thờ khác như
chim, cá, muôn thú. Chính vì thế thường thấy Hổ được bày trí dưới gian thờ
chính, trước cổng đình chùa, nhà cửa.
Qua khảo sát, cho thấy thờ thần hổ chủ yếu ở các đình miếu, am thờ
vong linh, các ngôi mộ và trước cổng một ít nhà cư dân. Đa số cư dân không
thờ thần hổ trong nhà, họ chỉ tổ chức thờ chung với các vị thần để phù trợ cho
ngôi đình miếu của họ.
- Cô hồn
Với quan niệm là các cô hồn có mặt ở khắp mọi nơi, họ bị chết trong
các trường nhợp không người thân, không nơi nương tựa, từ người chết trên
biển, trên sông, trên rừng, trên đường cho đến người chết trẻ, người chết già,
người chết không rõ nguyên nhân, người bệnh chết. Chính vì thế nên cư dân
cho rằng, nếu gặp tai nạn, bệnh tật, chuyện rủi ro là do các cô hồn đói khát đòi
ăn. Do đã lâu không ai cúng nên về phá phách, nếu cúng kiến đầy đủ thì mọi
việc sẽ xuông sẽ, bình an. [16, tr.11-13]
Ở các ngôi miếu và trong mọi gia đình ở Hà Tiên, khi dọn cỗ làm đám
giỗ, lễ động thổ, cúng hạ điền và thượng điền, tế thần, lễ tết, mừng tròn tháng,
đầy năm, đều có mâm cơm riêng cho các cô hồn. Trong miếu cũng như trong
gia đình, luôn có cô hồn là người thân cũng có cô hồn là người phương xa
đến, cho nên trên mâm cơm này có đủ rượu thịt, hương hoa, đèn trà, bài trí từ
bốn đến tám chén (bát) cơm để đủ cho các cô hồn. Riêng ở miếu thì bài cỗ
cúng tập thể thịnh soạn bằng một con heo đã mổ thịt và một số sản vật đánh
bắt được.
Đối với phương tiện kinh doanh vận tải trên bộ, ngoài việc hàng ngày
thấp hương thờ cúng với hương hoa quả nước, hàng tháng các xe thường
25
cúng phòng ngừa tai nạn rủi ro vào ngày mùng 2 và ngày 16 âm lịch. Lễ vật
gồm có trà rượu, hoa quả, một hoặc hai con gà luộc, có dĩa muối hột chung
với ít gạo.
Trong ghe, tàu, thuyền: Những chiếc tàu nhỏ chỉ thấp hương trước mũi
tàu và thấp hương khấn vái vào chập tối, mong cho “Bà cậu”, thần sông thần
biển, thần đảo, những người phù trợ cho chiếc tàu này được may mắn, thu
hoạch cá tôm đầy khoan. Những chiếc tàu lớn thì có hẵn một bàn thờ, trên là
tôn giáo của họ, một bên dưới là bàn thờ Thần tài Thổ địa, một bên thờ cô
hồn, binh tướng dưới biển, trong sông, trên rừng, trên đảo. Đến ngày lễ cúng
còn có thêm một hoặc hai con vịt luộc với mong muốn vịt giúp bơi vượt qua
các tai nạn, rủi ro, bền bỉ, thu được nhiều cá tôm. Trên phương tiện này
thường cúng lễ trọng vào ngày xuất hành ra khơi, sau khi cập bến bốc dỡ và
vệ sinh xong ghe tàu, ngày vía các vị “Bà Cậu”, “ngày tốt, ngày lành” và các
cuộc cúng lễ tết có liên quan trong gia đình chủ phương tiện.
Trên đường, chân núi, trên đảo, bờ sông, bờ biển: Đi trên đường ở Hà Tiên, thấy những nơi có đặt một cái nhà thờ nhỏ chưa đến 1m2, bên trong có
một bài vị và bát hương, 3 - 4 chung nước là nơi thờ các cô hồn. Miễu trên
đường lộ là thờ những người bị tai nạn giao thông chết tại khu vực này, sau
đó có nhiều vụ tai nạn khác xãy ra tại đây, nơi nào có 1, 2 hoặc 3 người đã
chết thì trong vòng một năm sau cũng có trường hợp tương tự, nên cư dân lập
bàn thờ tránh tiếp tục xãy ra tai nạn, thường sau khi lập miếu thì nơi đây hết
xãy ra tại nạn, nếu lâu ngày không có người cúng kiến thì sẽ có tai nạn trở lại.
Những ngôi miễu trên bờ sông, bờ biển, trên đảo thì thờ cô hồn chết trôi dạt
vào, nếu không lập miếu thờ thì trong vòng một năm sau cũng sẽ có người
chết đuối tại đây.
- Tổ nghề
Còn gọi là tổ sư, thánh sư, nghệ sư. Đây là những người phát minh,
26
sáng lập, gây dựng nên một nghề hoặc là người đầu tiên truyền nghề cho cư
dân trong một cộng đồng quần cư hay miền nào đó, được người đời sau tôn
thờ như bậc thánh. Tổ nghề có thể là nam giới hoặc nữ giới.
Người dân bản địa không cầu kỳ khi lễ bái, cúng kiến như ở nơi khác.
Đến ngày giỗ tổ nghỉ một ngày tổ chức cúng kiến linh đình, vui chơi giải trí.
Trong ngày giỗ tổ, thức ăn chỉ cần có tâm dâng lên là đủ, không cần cao
lương mĩ vị; trang phục thì chỉ cần áo dài tay, quần chạm cẳng chân là được;
bàn thờ luôn có bài vị hay hình ảnh, câu đối, tên tiền nhân, khẩu hiệu của
nghề; không thể thiếu hương, hoa, trà, rượu, thịt. Trong ngày này, họ rất kiên
kỵ gây xích mích, tranh cãi. Ngoài ra, mỗi tổ nghề cũng có cách thức thờ cúng
và nghi thức, lời khấn khác nhau, điển hình như sau:
- Hải thần:
Hạ bạc là nghề đánh bắt tôm cá trên sông nước, biển cả. Ngày nay,
nghề hạ bạc dùng để gọi cho những người đóng tàu, ghe đi biển. Song, với
đặc tính là ven biển, sinh sống từ tài nguyên biển nên cư dân và ngư dân vẫn
thờ chung một tổ nghề hạ bạc là “Bà Cậu”. “Bà Cậu” chính là “Bảy bà ba
cậu”, gồm “Bà chúa Tiên, bà chúa Ngọc, bà chúa Xứ, bà chúa Động, bà Cố
Hỉ, bà Thủy Long, bà Thủy Tề; cậu Trầy, cậu Qúi, cậu Lý, cậu Thông,
nhưng nói theo vần kể có ba cậu. Về sau không rõ tông tích của cậu Lý và
cậu Thông”.
Giỗ tổ Thủy Tề ngày 16 – 17 tháng Giêng, vía bà Thủy Long ngày
18 – 19 tháng 5ÂL. Thường vái “Bà Cậu” phù hộ cho sóng êm gió lặng và
bắt được nhiều tôm cá. Hiện tại có 02 ngôi miếu thờ “Bà cậu”, ông Nam
Hải (Nam Hải tướng quân, giỗ vào ngày 03 – 04 tháng chạp), Tứ vị Thần
nữ. Đó là miếu bà Thủy Long ở phường Tô Châu và đình Thuận Yên ở xã
Thuận Yên. Riêng đình Thuận Yên đã có sắc phong của vua triều Nguyễn
27
vào năm 1888.
- Ông Táo
Táo nghĩa là bếp, còn gọi là Định Phúc Táo Quân, Táo Quân, Táo
Vương. Đây là những vị thần giữ bếp.
Hàng năm, đúng vào ngày 23 tháng chạp là ngày Ông Táo lên chầu
trời, còn gọi ngày này là "Tết ông Công ông Táo", nhà nào cũng tiễn Ông Táo
về trời và đón về trong ngày giao thừa. Lễ cúng tiễn đi có hương hoa, bánh
ngọt, trà nước và một con cá chép hóa vàng mã hay phóng sinh cá chép thật
về với sông hồ, biển cả [16, tr.35-41]. Cư dân nơi đây cho rằng, ông Táo cưỡi
cá chép lên trời thưa với Ngọc Hoàng Thượng đế những sự kiện xảy ra trong
năm vừa qua ở dưới trần gian. Không cúng bia rượu, vì khi đã say ông Táo
không về chầu trời được, trường hợp đi được thì khi say khó thưa đúng
chuyện ở trần gian, hoặc vào chầu mà say sỉn sẽ bị Ngọc Hoàng quở trách. Lễ
cúng rước Ông Táo về cũng nghi thức và lễ vật như trên. Song, có khác là có
thêm con gà luộc hoặc thức ăn mặn, bia rượu để mời Ông về với gia đình, vui
chơi thỏa thích.
- Thổ Địa
Còn gọi là Ông Địa, Thổ thần, Thổ Địa Long Mạch Tôn Thần.
Ông Địa nghĩa là người cai quản đất đai cho chủ nhà, Thổ thần là thần
trông coi một vùng đất, Thổ Địa Long Mạch Tôn Thần là danh hiệu được
Ngọc hoàng phong sau khi Trọng Cao chết cháy trong đống rươm cùng với
vợ và Phạm Lang (Thổ công).
Thổ Địa được xem là một trong những vị thần quan trọng trông coi nhà
cửa, đất đai. Chính vì thế mỗi khi có việc đụng chạm đến đất đai như xây cất,
đào ao, đào huyệt, mở ruộng vườn đều phải làm lễ “động thổ” hoặc “khởi
công”. Khi có lễ bái đều phải cúng Thổ Địa trước rồi mới cúng bàn Phật, bàn
thờ tổ tiên, bàn thờ thông thiên. Khi cúng thức ăn thì người cúng phải nếm
28
trước vì Thổ Địa rất sợ bị đầu độc. Ngày vía Thổ Địa vào các ngày mùng 1 và
ngày rằm hàng tháng [16, tr.108-121]. Ở Hà Tiên, việc thờ cúng Thần tài và
Thổ địa khá đa dạng.
Thờ trong nhà và nơi kinh doanh:
Bàn thờ được đặt dưới đất, trong một góc riêng, thường là cạnh bàn
thờ tổ tiên, dưới bàn thờ Phật. Tùy theo nhà khá hay nhà khó thì cách bày trí
sang trọng hay đơn giản. Có nhà khá thì thờ chung với tượng con cóc ngặm
đồng tiền, có nhà để tiền hoặc biểu trưng vàng bạc dưới tượng hoặc bên cạnh
Thần Tài. Thức ăn cúng hai ông không xa hoa, lãng phí, có chi cúng nấy, thứ
thích nhất là chuối Lá Xiêm, chè, xôi, bánh kẹo. Những nơi kinh doanh
thường cúng nải chuối Lá Xiêm, điếu thuốc lá và một ly càfê.
Thờ trong xe ô tô:
Có một số xe tải hàng, xe khách bài trí bàn thờ có Thần Tài và Ông Địa
trước đầu xe, sau kính chắn gió khá trang trọng, thấp hương vào chuyến khởi
hành đầu tiên trong ngày hoặc mỗi chuyến đi. Vật cúng thường là hương, hoa,
nước, bánh ngọt hay trái cây. Người theo Phật giáo thì thờ Phật Bà Quan Âm
với tay phải cầm nhánh Dương Liễu, tay trái cầm bình hồ ơ trước ngực; người
theo Công giáo thì thờ Đức mẹ Maria đứng ngửa hai tay ban phước. Thường
thì các vị này được đặt chung bàn thờ Ông Địa và Thần Tài. Cũng có phương
tiện chỉ thờ độc tôn một vị Phật hay mẹ Maria.
- Thần Tài
Thần tài còn gọi là Tài bạch tinh quân, Triệu công nguyên soái. Theo
dân gian, đời nhà Thương ở Trung Quốc có một người tên Triệu Công Minh,
sau khi tu đắc đạo được phong làm Chính nhất huyền đàn nguyên soái, trông
coi việc đuổi dịch bệnh, trừ tà ma trong triều đình. Ở Hà Tiên, vào ngày vía
Thần Tài, nhiều cửa hàng, xí nghiệp, cơ sở buôn bán, người kinh doanh buôn
bán sẽ khai trương, mở hàng, có nơi còn tổ chức múa lân có ông địa, nhiều
người còn đốt vàng mã. Trong dịp này nhiều người dân còn tấp nập, đổ xô đi
mua vàng vào ngày vía Thần Tài, món cá lóc nướng là món ăn được ưa
29
chuộng để cúng Thần Tài trong dịp này. [16, tr.133-142]
Ở Hà Tiên, mọi nhà, mọi hộ kinh doanh mua bán đều thờ Thần tài
chung với Ông Địa, Ông Địa bên phải còn Thần Tài bên trái. Ngoài ra Thần
Tài còn được in thành lịch treo tường, phong bì lì xì vào năm mới. Người nào
đi đường nhặt được Thần Tài thì xem như sự may mắn đã đến, liền đem về
thờ, không cho người khác. Thường thì đa số có may mắn khi nhặt được
tượng hoặc bài vị của Thần Tài.
- Đình Thành hoàng thờ Mạc Cửu, Mạc Thiên Tích và Mạc Tử Sanh
Theo nhà nghiên cứu Trương Minh Đạt, đình này nguyên sơ là miếu
Hội Đồng. Năm 1888 được sĩ phu yêu nước trong xứ này vận động trùng tu
tôn tạo. Niên hiệu năm Tự Đức thứ năm đổi thành Đình Thần hoàng Bổn cảnh
xã Mỹ Đức, thờ Quảng hậu Chánh Trực Hữu thiện Đôn ngưng chi thần. Đến
năm 1945, vua Bảo Đại căn cứ vào các sắc văn những đời vua trước ban
phong làm Mạc thị Thần chi, tư Thành hoàng Tôn thần, Hàm quang Dực bảo
Trung nhưng Thượng Đẳng thần (Thượng Đẳng thần họ Mạc). Hiện là một
trong bốn Di tích Lịch sử cấp tỉnh ở thị xã. Hàng năm, lễ Kỳ Yên từ ngày 15
đến 17 tháng hai âm lịch, giỗ Đồng Cuộc các tướng sĩ tuẫn nạn ở Xiêm ngày
24 tháng 10 âm lịch, Đại khánh Cầu an bản xứ 12 tháng 12 âm lịch, lễ Thanh
Minh vào ngày chánh tiết tháng ba.[7, tr.95-96]
Tiểu kết chƣơng 1
Tín ngưỡng và Phật giáo theo chân các vương triều cổ đại đã xuất hiện
ở Hà Tiên từ rất sớm trong suốt quá trình hình thành và phát triển luôn gắn
với sự mở mang bờ cỏi của các vương triều cũng như công sức khai thác, giao
thương sản vật giá trị của các dân tộc anh em.
Dù cho có những biến đổi của thời cuộc, hoạt động tín ngưỡng và Phật
giáo vẫn giữ gìn bản sắc nguyên sơ và có sự tiếp biến không đáng kể. Thông
qua hoạt động thờ cúng, lễ bái, thực hành mà hình thành nét dung hợp lẫn
30
nhau khá đặc sắc, mang đậm bản sắc văn hóa của cư dân vùng biển.
Chƣơng 2
BIỂU HIỆN CỦA SỰ DUNG HỢP GIỮA PHẬT GIÁO VÀ TÍN
NGƢỠNG BẢN ĐỊA Ở THỊ XÃ HÀ TIÊN HIỆN NAY
2.1. Biểu hiện qua truyền thuyết, bài trí tƣợng thờ và nghi lễ
trong chùa
Theo sách Đại từ điển Tiếng Việt của Nguyễn Như Ý xuất bản năm
1999, đã viết: “Sự dung hợp là dung hòa với nhau trong một thể thống
nhất”[39]. Còn theo Từ điển tiếng Việt do nhà xuất bản Đà Nẵng ấn hành năm
1996 có ghi: “Sự dung hợp là hòa vào nhau để hợp thành một thể thống
nhất”[29]. Trong khuôn khổ luận văn, xác định sự dung hợp là: Phật giáo
dung nạp, hòa hợp với tìn ngưỡng bản địa để trở thành nhất thể mang đậm
bản sắc tâm linh và nhập thế. Vấn đề đựợc trình bày qua những câu chuyện
truyền thuyết, truyền miệng và kết quả nghiên cứu sự dung hợp dưới đây.
2.1.1. Về những câu chuyện truyền thuyết, truyện truyền miệng ở
Hà Tiên
Chuyện truyền thuyết có thể hiểu là những câu chuyện dân gian truyền
miệng nhằm lý giải một số hiện tượng tự nhiên hoặc sự kiện lịch sử. Đặc
điểm chung thể hiện bởi các yếu tố kỳ diệu, thần thoại, viễn tưởng, nhưng lại
được cảm nhận là xác thực, diễn ra một khoảng không gian và thời gian nhất
định nào đó.
Chuyện truyền miệng được hiểu là những câu chuyện dân gian được lưu
giữ bằng phương thức truyền miệng từ đời này sang đời khác, từ địa phương
này sang địa phương khác. Ở Hà Tiên, có nhiều câu chuyện truyền thuyết và
truyền miệng được lưu truyền trong dân gian mang đậm màu sắc văn hóa tâm
linh con người nơi đây. Nó đã góp phần bổ sung vào sự phong phú trong thế
31
giới tâm linh từ tín ngưỡng cho đến tôn giáo nơi biên cương Tổ quốc.
- Câu chuyện dung hợp ở ngôi chùa Phù Dung với tín ngưỡng thờ cúng
tổ tiên và tín ngưỡng ngoại lai:
Theo truyền miệng, từ một câu chuyện truyền miệng và một lăng mộ
của người xưa sau chính điện, đã tạo nên một câu chuyện nửa thật nửa ảo gây
xúc động lòng người. Câu chuyện kể về bà Dì Tự là thứ thiếp và có con chết
non với Mạc Thiên Tích, Bà có tài văn phú, thường phục vụ chồng trong các
buổi tiếp tao nhân mặc khách xa gần, lòng luôn hướng về Phật pháp. Sau
những biến nạn do quân Xiêm gây ra ở Hà Tiên, Bà thức tỉnh lý vô thường,
kiếp nhân sinh chỉ là huyễn hóa và kiên quyết đi theo đường tu học đạo Phật.
Mạc Thiên Tích biết không lay chuyển được lòng thứ thiếp yêu quí của mình,
Ông nén lòng ưng thuận cho Bà theo đường xuất gia tu hành. Danh gọi Sư nữ
Phù Cừ xuất hiện kể từ đây.
Theo các nhà nghiên cứu, thì đây là chuyện không đúng với lịch sử, bởi
vì: Chùa Phù Dung có lịch sử xây dựng và phát triển từ trước thời Mạc Cửu
đến vùng đất này. Qua nhiều cuộc biến loạn, chùa đã có hai lần xây dựng trên
hai vị trí khác nhau. Ngôi chùa cũ có trước năm 1662 ở núi Đề Liêm, ngày
nay có thể nhìn rõ nền chùa xưa và ngôi tháp cổ của Hòa thượng Ấn Đàm đời
Lâm Tế thứ 36. Chùa Phù Dung ngày nay ta thấy trên nền Chiêu Anh Các củ,
sau khi Mạc Công Du và hai con trai theo Lê Văn Khôi tạo phản bị triều đình
nhà Nguyễn xử án tru di cả họ, 12 năm sau vua Thiệu Trị xuống lệnh ân xá
cho họ Mạc, được Tổng đốc An Hà là Doãn Uẩn cùng với nhân dân xã Mỹ
Đức dựng lên trên nền Tao Đàn Chiêu Anh Các, ở đầu bắc núi Bình San vào
năm 1846. Do xây lại trên nền nhà xưa có Tao đàn Chiêu Anh Các nên Doãn
Uẩn đã đặt tên ngôi chùa mới là “Phù Anh” (ghép từ hai chữ Phù Dung và
Chiêu Anh Các), thời vua Thiệu Trị do phạm úy nên đổi thành “Phù Cừ”.
Song, người Hà Tiên vẫn quen gọi là Phù Dung cho đến nay. Hiện trong
32
khuông viên chùa này có điện thờ Ngọc Hoàng Thượng Đế dựng năm 1752;
Ngôi nhà thờ Phật, thờ tổ, thờ vong từ năm 1846; Nhà thờ phật và nhà thờ bà
Mạc Mi Cô mới dựng những năm đầu thế kỷ XXI gần đây. Nhà nghiên cứu
Trương Minh Đạt bức xúc: Câu chuyện Phù Cừ chỉ là tư duy sáng tác văn học
của nữ sĩ Mộng Tuyết... và đây chính là một trường hợp "lộng giả thành chân"
trong nghiên cứu lịch sử. [7]
Như vậy, xuất phát từ một ngôi mộ mang tâm thức tín ngưỡng thờ cúng
tổ tiên của người xưa, một số vị sư tu ở chùa Phù Dung cho đây là vị khai sơn
của ngôi chùa này, rồi “Để ghi công trạng” đã phong một phụ nữ chưa đủ tuổi
hạ làm “Bồ Tát” đáng kính (Bà chết chỉ sau Mạc Thiên Tích vài năm). Đây
chính là biểu hiện rõ nét trong tâm thức dân gian về sự dung hợp giữa tín
ngưỡng thờ cúng tổ tiên và ở Hà Tiên.
- Câu chuyện Chùa Sắc tứ Tam Bảo được dựng nên từ một giấc mộng:
Chuyện nằm mộng chưa được chứng minh thật cụ thể thuộc phạm trù
văn hóa hay là tâm linh, khoa học hay tâm thức. Nhưng rõ ràng nó hiện hữu
trong tất cả mọi người, ai ai cũng nằm mộng ít nhất mỗi tuần vài lần. Việc
nằm mộng có nhiều loại: có thiện mộng, ác mộng, báo mộng, tiềm thức
mộng. Giấc mộng liên quan đến tâm linh, mà rõ nét nhất là tín ngưỡng trong
các giấc mộng là khá phổ biến.
Truyền miệng kể lại rằng, vào một ngày nọ, bà Thái Thái Bà Bà nằm
mộng thấy có một con rồng màu vàng ngậm cành hoa sen quấn trên một cột
bườm của một chiếc ghe thương hồ từ hướng Bắc đến. Bà đã thuật lại điềm
mộng trên cho Mạc Cửu nghe và Mạc Cửu cho là điềm lành sắp đến. Quả
vậy, ít lâu sau có một vị tu sĩ tướng mạo oai vệ xin được diện kiến. Hỏi qua
mới biết tu sĩ trước là tướng Minh triều, chán cảnh thế nhân nên quy phục
Nam triều xuất gia theo Phật pháp. Điều này ứng với điềm mộng của Thái
33
Thái Bà Bà, bởi đạo hiệu của tu sĩ là Huỳnh Long, tức là con rồng vàng. Lão
Hòa thượng được mời ở lại hướng đạo cho Bà cũng như cho người dân Hà
Tiên đến khi viên tịch, được lập tháp thờ phượng cho đến ngày nay.[9]
Nghiễm nhiên, nơi bà thường trú ngụ trở thành nơi thuyết giảng hành
đạo, được Mạc Cửu cho xây dựng thành ngôi chùa nhỏ để mẹ dùng làm nơi tu
tập sau dinh thự của mình. Từ đây, cũng là khởi nguyên của hệ phái Phật giáo
Bắc tông được truyền vào Hà Tiên, đầu tiên là do giấc mộng đẹp của bà Thái
Thái phu nhân mà hình thành và phát triển khởi sắc cho đến ngày nay.
Từ câu chuyện này, đã phản ánh sự khởi đầu của một ngôi chùa Bắc
tông trên mảnh đất Hà Tiên hữu tình là qua sự phát tâm của những tín đồ
ngoan đạo, gieo nhân, lập chùa tu tâm dưỡng tánh cho hàng thế hệ từ xưa đến
nay. Theo Sư cô Như Thảo, đang tu tại chùa cho biết: “Sau khi chết, tưởng
nhớ công đức của Bà và nhà sư, đã lập tháp thờ tại chùa. Từ đó có hoạt động
thờ cúng tổ tiên tại đây”. Khi được hỏi mọi người có đồng thuận hay không,
thì Sư cô cho biết thêm: “Chúng ta có truyền thống tôn sư trọng đạo, uống
nước nhờ nguồn từ lâu đời. Cho nên việc thờ cúng ân sư, tổ sư và người có
công là chuyện nên làm. Không nghiêm trì thờ cúng nhà chùa cảm thấy có lỗi
với tiền nhân. Chưa nghe ai phản đối việc này. Trong Phật giáo không chùa
nào không thờ các vị này”.[Phụ lục 3, tr.91]
- Tượng Phật gỗ ở bờ biển giúp mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu:
Theo tài liệu của Đại đức Thích Pháp Hảo, hiện đang trụ trì chùa Thiên
Trúc cung cấp, chùa Thiên Trúc thuộc hệ phái Nam tông, từ thế kỷ XX đến
nay được biết là nơi tu tập của cả nam lẫn nữ người Kinh hoặc người Kinh lai
Khmer, một nơi hiếm có ở khu vực Nam bộ, bởi vì thường thì người hành đạo
theo hệ phái Nam tông chỉ có ở đồng bào Khmer, Mã Lai hoặc In Đô và chỉ
có người nam đi tu. Chùa Thiên Trúc tọa lạc ở số 197/11 đường Phương
Thành, chùa đang trong giai đoạn hoàn thiện về xây dựng các công trình
34
chính. Xung quanh sự tồn tại và phát triển của ngôi chùa, xuất hiện những câu
chuyện tưởng như huyền hoặc mà có thật, khiến dư luận một thời gian bàn
tán. Sự tin vào những câu chuyện này của các tăng ni trong chùa đã thể hiện
những nét tin vào tín ngưỡng thờ thần một cách khá độc đáo.
Những năm đầu thập niên 50 của thế kỷ XX, thời tiết không thuận mùa,
nắng nóng hạn hán liên tục kéo dài, việc lao động sản xuất gặp nhiều khó
khăn, ảnh hưởng đến đời sống nhiều người dân. Lúc này có rất nhiều người
ngủ ban đêm cùng nằm mộng nghe thấy có người mách bảo trong mấy ngày
liên tiếp kêu gọi “Hãy ra bãi biển Mũi Nai thỉnh Phật về ngôi Thiên Trúc tự”.
Những người được báo mộng đến chùa gặp nhau ngồi bàn bạc, họ nhận thấy
tuy thời gian khác nhau nhưng nội dung nằm mộng đều như nhau. Sau thời
gian bán tính bán nghi lại nằm mộng thấy nhiều đêm sau nữa, họ quyết định
cùng nhau ra bãi biển Mũi Nai thắp hương vái lạy và quả thật họ tìm được
một pho tượng phật trên bãi biển. Họ đem về xem xét thấy đây là tượng phật
bằng gỗ, được chạm khắc theo mẫu tự Khmer, bị nhiều vết trầy xước. Sau đó
bức tượng đã được phục dựng lại, an trí ở bậc trung, trước pho tượng Phật
Lớn trong ngôi chính điện như ngày nay ta thấy [11]. Kể từ khi thỉnh được
pho tượng Phật về chùa Thiên Trúc thì nhân dân nơi đây được mưa thuận gió
hòa, mùa màn bội thu. Trụ trì Thích Pháp Hảo bày tỏ: “…đáp ứng nhu cầu
chung trong cộng đồng dân cư thời xa xưa mang tính phổ quát, hài hòa, phát
triển tâm linh theo dấu chân Đức Phật, được bao đời trụ trì kế thừa sự nghiệp
hoằng dương Phật pháp, ích đời - đẹp đạo mà các bậc Tiền hiền - chư vị trụ trì
- chư Tôn Đức Tăng từ thời khai sơn lập tự truyền thừa cho đến ngày
nay”.[11]
- Câu chuyện Mãng Xà không ăn thịt người mà còn “tặng quà” cho chùa:
Cũng tại ngôi chùa Thiên Trúc. Vào khoảng 13 giờ trưa nắng trong dịp
lễ Cầu An tháng giêng năm 1962, trong lúc trụ trì chùa là đại đức Pháp Kiên
đang thiền định trong tịnh thất riêng được dựng lên bằng chất liệu gỗ thiếc
35
khá đơn sơ ở phía bên trái chính điện, thì bỗng nhiên thấy từ đáy ao sen một
con Mãng Xà bò lên ngang qua tịnh thất của đại đức Pháp Kiên. Trong tình
huống bất ngờ, đại đức không còn nghĩ ra cách nào khác mà chỉ nhắm mắt lại,
để mặt cho Mãng Xà định đoạt số phận của mình, khi đến gần tịnh thất Mãng
Xà dừng trước tịnh thất trong giây lát. Cùng lúc đó có hai vị nữ cư sĩ là Giác
Chánh và Giác Ngạn, các vị hộ cơm nước hằng ngày cho chùa, đang đem
nước rửa mặt lên, chứng kiến cảnh tượng con Mãng Xà to lớn, hoảng sợ ngã
xuống đất ngất đi.
Sau một lúc thầy lẫn trò trấn tỉnh lại thì thấy vị Mãng Xà đã bò về
hướng núi Thất Sơn, để lại dấu bò trơn lán từ dưới ao lên bờ. Nhìn lên bầu
trời thì có cả đàn Quạ đen, chim Tu Hú bay sau theo hướng Mãng Xà đi, như
để yểm trợ cho thần Mãng Xà.
Sau khi Mãng Xà đi, thầy trò lần theo dấu vết từ tịnh thất xuống ao thì
bắt gặp một cây muỗng, cán muỗng làm bằng loại gỗ quý, vá muổng làm
bằng vỏ sò nhẳng bóng rất đẹp, trên cán muỗng có đề dòng chữ “Mạc Thiên
Tích”. Qua đó, nhà sư hiểu rằng Mãng Xà đã đem đến cúng dường cho một
cây muỗng quý, đến báo điềm tốt lành cho Thiên Trúc Tự.
Tài liệu Thiên Trúc Tự, có đoạn chép: “Qua đó, hiểu rằng Mãng xà đã
đem đến cúng dường cho sư Pháp Kiên một cây muổng quý. Cũng qua sự
kiện này vị Mãng xà đã đến báo điềm tốt lành cho Thiên Trúc Tự sau này…
Nhân dân, tín đồ-phật tử ở Hà Tiên, Rạch Giá và các nơi khác nghe tin về sự
kiện Mãng xà đến viếng Chùa, xem dấu vết bò dưới ao còn để lại. Mọi người
xem đây là sự kiện lạ, hiếm thấy, nên đến thăm quan rất nhiều đoàn người;
đồng thời mọi người lần lượt đóng góp tài chánh cúng dường cho Chùa với
con số khá nhiều.”.[11]
- Chuyện lạ ở ngôi tháp cổ núi Đề Liêm:
Tháp 7 tầng là nơi an ngọc vị của lão hòa thượng Ấn Đàm đời Lâm tế
36
thứ 36, đến nay thì không còn hài cốt của ông nữa mà chỉ còn bọng không
trong ngôi tháp. Nếu chỉ là một ngôi mộ bình thường như mọi ngôi mộ khác
thì không có gì phải bàn đến, nhưng xung quanh ngôi mộ cổ này đã xuất hiện
nhiều câu chuyện mang tính chất thần thánh, li kỳ, hấp dẫn của tín ngưỡng.
Điển hình là một vài câu chuyện sau đây:
Ông Lương Phấn Cang, ngụ ở khu phố IV phường Bình San kể lại: Vào
năm 1978, khi giặc Pôn Pốt đến nơi, không kịp tìm chỗ trốn, 11 người trong 3
gia đình bèn chui vào bên trong ngôi tháp, trong đó có 5 trẻ em. Một toán lính
đến nhìn vào bên trong ngôi tháp mà không thấy gì, cùng lúc có một con chó
nhảy ra, thu hút sự chú ý của chúng, sau gần 1 ngày sau mới được bộ đội phản
công đưa mọi người đang đói khát, bất tỉnh vào bệnh viện cấp cứu. Một nhân
chứng là ông Lương Phấn Cang sau thoát chết đã cất nhà cạnh ngôi tháp trông
coi và tri ân nơi cứu sống gia đình mình kể lại: “Cho đến tận bây giờ tôi
không hiểu vì sao mà cửa tháp rộng hai người có thể cùng chui vào được mà
tên lính không nhìn thấy gì, trong khi một người bình thường cũng đã nhìn
thấu từ bên này sang bên kia trong tháp, tôi không thể nào tin được mình vẫn
còn sống trước họng súng của chúng. Còn có một con chó xông ra đánh lạc
hướng bọn lính nữa. Dường như có sự sắp đặt của ai đó cứu giúp chúng tôi”.
Hiện ông Cang đã cất nhà làm vườn ở cạnh ngôi tháp, trông giữ không cho
người khác đến tháp gây hư hại.
Cách đây chừng non 10 năm, có người muốn đến cắt một đoạn rễ cây,
nhưng không thể cắt nổi, lưỡi cưa bị kẹt. Sau đó phải nhờ một vị sư đến lấy đinh
đóng lá bùa lên thân, cầu xin rất lâu mới cắt được đoạn rễ Bồ Đề mang về.
Có chị trạc ba mươi tuổi làm nghề bỏ mối cá khô, nghe lời xúi giục đã
qua xòng bạc ở biên giới Việt Nam - Campuchia thử vận may, vận may đâu
không thấy chỉ thấy sau hai ngày thua hết vốn trở thành người tay trắng, chị
định lên tháp kết liễu đời mình. Lạ thay, sau một ngày ngồi trầm tư, khóc lóc
thì chị bỏ ý định. Người ta tìm thấy lá thư tuyệt mệnh chị bỏ lại ghi tên tuổi,
37
địa chỉ của mình để tiện liên hệ cho người thân.
Khoảng năm 2014, một thanh niên tên Hà ở phường Tô Châu, cũng
thua bài ở xòng bạc từ Campuchia đã tìm đến đây, leo lên đỉnh tháp dùng áo
làm thòng lọng toan treo cổ. Chẳng may cành cây anh ta đứng bị gãy, anh té
ngã xuống bất tỉnh, bỏ luôn ý định tự tử vì hiểu rằng có ai đó chưa cho anh
chết. Chiếc áo làm thòng lọng của anh vẫn dính phất phơ trên cành cây.
Đây là những câu chuyện có thật, chính những người còn sống thuật
lại với tâm thức tôn trọng ngôi cổ tháp. Người ta coi trọng nó vì tín ngưỡng
thờ thiện thần hơn là một vị hòa thượng tu hành hiền từ. Bởi vì một vị hòa
thượng không thể nào hóa độ chúng sinh bằng cách ngẫu nhiên tài tình như
những câu chuyện kể trên, và Phật pháp giúp con người yên ổn tâm thức chứ
không phù phép biến hóa là cho tên lính bị hoa mắt, con chó đánh lạc hướng,
cành cây to không thể gãy lại tự gãy cứu người, một phụ nữ từ tà tâm trở
thành tâm thiện không tự tử nữa,… Như vậy, từ một nhà sư thuộc hệ pháp
Bắc tông của Phật giáo trở thành một vị thần cứu người, không về cõi niết
bàn mà trở thành thần cứu độ chúng sinh ở hạ giới. Thật lạ lùng là có một
cây Đa cổ thụ đã mọc rễ vươn lên bao trùm lấy ngôi tháp, như để bảo vệ sự
xụp đổ của ngôi tháp vậy.
2.1.2. Sự dung hợp giữa Phật giáo với tín ngưỡng qua thờ cúng
- Thờ thần, người có công, truyền thuyết trong ngôi chùa thờ Phật
Thờ thần:
Người Việt, hàng nghìn năm nay đã có hệ thống tín ngưỡng ăn sâu vào
đời sống tinh thần của con người. Nhiều tầng lớp cư dân, triều đại vua chúa
đã nghiêm túc duy trì, có lúc đã cụ thể thành điều luật điều chỉnh hành vi con
người. Song song đó, Phật giáo có chủ trương hộ quốc gần gũi với tín
ngưỡng. Theo thời gian, đã là tôn giáo chủ đạo trong nhiều thời kỳ lịch sử của
dân tộc. Người Kinh ở Hà Tiên cũng vậy, họ thực hành tín ngưỡng và tôn
38
giáo theo tư tưởng chung của dân tộc mình, dễ nhận thấy nhất là đời sống tâm
linh của họ rất gần gũi với tín ngưỡng nguồn cội thời An Dương Vương, Vua
Hùng, Thăng Long...
Đối với người Hoa, các vị tiền nhân luôn xem trời là bậc cao nhất trong
cõi thế gian, trời chỉ dưới Phật một cấp, nên luôn thờ theo cách thức “trước
Phật sau Trời”. Khi nhà Minh mất đi, Mạc Cửu cũng không còn vị vua chủ
đạo để phò “Thiên tử”, ông suôi về Nam, theo phò vua Thủy Chân Lạp, sau
cùng dâng đức tin thờ “Thiên tử” cho các triều đại vua chúa đất Việt, ông răn
dạy con cháu thực hành theo đức tin mới, đức tin vua chúa Việt Nam. Các vị
có xuất thân từ dòng Lâm tế đều tin tưởng và thờ phụng trời sau Phật. Ở chùa
Tiên Sơn, bàn thờ trời được đặt trên tầng cao, phía trước, bên phải và thấp
hơn tượng Phật tổ, bày trí Ngọc Hoàng chính giữa, hai bên các các vị binh
tướng phò trời, có lư hương thắp hương.
Trong dinh thự của Mạc Thiên Tích, bàn thờ trời được đặt trang trọng ở
vị trí cao nhất trong dinh thự, bên trong có bảng trích dẫn: “Ba pho tượng:
Ngọc Hoàng, Nam Tàu, Bắc Đẩu - Được nghệ nhân Trung Quốc ứng dụng
tuyệt kỹ xảo công, trong nghệ thuật tạo hình, sử dụng tre đan làm sườn, kế
đến dùng hồ bột, giấy thơm cấu trúc phần thân tượng, sau đó se những sợi chỉ
bột tạo dáng hoa văn lên Long Bào, Mão Miệng, cuối cùng tô son thếp vàng
càng làm tăng thêm phần rực rỡ .* Ba pho tượng này cũng được chính Tổng
binh Mạc Thiên Tích cung thỉnh về thờ tại đây vào năm 1752 và đề tự là
Ngọc Hoàng Bửu Điện”. Ông trời, Nam Tàu, Bắc Đẩu, các vị binh tướng đều
do tín ngưỡng mà tạo nên. Song, nó phù hợp với tư tưởng người Trung Quốc
nên được duy trì thờ phượng.
Theo ông Hứa Hòa Sai, người gốc Hoa, cho biết: “Nho giáo là chính
gốc của ông cha chúng tôi, người Hoa ai ai cũng tin tưởng tuyệt đối và hành
39
định nghiêm túc. Cao nhất là ông trời, kế đến là các vị vua, kế nữa là các vị
thần đại diện thiện ác và tâm tính con người, sau cùng là ông bà tổ tiên của
từng dòng họ.
Do vậy, bất kể đi đâu, làm gì chúng tôi đều mang theo hình ảnh này.
Thường thì nhiều gia đình dòng họ chúng tôi lập chung một ngôi đình hoặc
ngôi miếu thờ, thờ chính là ai thì đặt tên ngôi thờ tự cho vị đó hoặc theo địa
danh nơi an vị thờ cúng.
Chúng tôi không thờ Phật, ai muốn thờ Phật chỉ thờ trong gia đình,
hoặc lên chùa Phật lễ bái theo phát nguyện. Cho tới giờ đa số người Hoa theo
Phật giáo bắc tông hoặc Công giáo, chưa thấy theo Phật giáo Nam tông”. [Phụ
lục 3, tr.90]
Với người Khmer, thần rắn Naga có một vị trí rất quan trọng trong đời
sống tâm linh, tượng trưng cho cầu nối giữa trần gian và cõi Niết bàn, có ý
nghĩa trong việc trừ tà, tránh hỏa hoạn và bảo vệ Đức Phật. Hình tượng rắn
Naga xuất hiện ở khắp nơi, từ nóc chùa, chân cầu thang chánh điện, chân
cầu thang phòng đọc sách, chân cột cờ, trên những chiếc xe tang đưa người
chết đến nơi hỏa thiêu tượng trưng cho vị thần đưa linh hồn người tốt lên cõi
Niết Bàn. Với ý nghĩa như vậy, thường thì rắn được trang trí theo mô tuýp
kiến trúc, không có không gian thờ riêng biệt trong các ngôi chùa thờ Phật.
Thờ người có công:
Bên cạnh việc dung hợp giữa Phật giáo với thờ thần, ở Hà Tiên còn có
sự dung hợp giữa Phật giáo với thờ người có công. Trước tiên phải kể đến bàn
thờ tổ trong các ngôi chùa. Hệ phái Bắc tông và Khất sĩ thường thờ tổ và thờ
Phật trong một ngôi chính điện, phật trước tổ sau. Chùa Nam tông thì thờ tổ
riêng với ngôi thờ phật ở chính điện, thường là gian nhà sau, nơi chư tăng tu
tập và nghỉ ngơi. Ví như chùa Xà Xía và Mũi Nai bàn thờ tổ đặt ở ngôi tịnh
thất, cũng là nơi tiếp khách của Trụ trì, còn ở chùa Thiên Trúc thì bàn thờ tổ
40
đặt trong nhà chư tăng tu học, độ cơm hàng ngày.
Ở hệ phái Bắc tông, bàn thờ tổ bày trí trên cao nhất là ảnh hoặc tượng
ngài An-Nan-Ca-Diếp, sau đến là ảnh và bày vị các đời trụ trì qua các thế hệ:
chùa Phù Dung tám vị, chùa Tam Bảo sáu vị, chùa Phật Đà hai vị, Tiên Sơn
ba vị, Thanh Hòa một vị. Trên bàn thờ có một lư hương chung cho các vị, một
lư đồng tỏa huơng khói, một bình hoa, một dĩa trái cây, hai ngọn đèn thắp
suốt ngày đêm. Bàn thờ này được trang trí cao ráo, có khung viềng và trang trí
tông màu chủ đạo là nền đen hoặc đỏ, thếp hoa văn và chữ hán màu vàng. Hai
bên bàn thờ tổ là bàn thờ các tiền nhân có công đóng góp, xây dựng ngôi
chùa: Bên phải là bàn thờ vị trụ trì mới viên tịch hoặc các vị tiền bối có công
(Tam Bảo một vị là trụ trì Thích nữ Ni sư Như Hải, Phù Dung là năm vị, Phật
Đà là ba vị, Thanh Hòa 02 vị; Bên trái thờ chư tăng và phật tử có công (Tam
Bảo sáu vị, Phù Dung năm vị, Phật Đà hai vị); Riêng chùa Tiên Sơn thờ các
vị đóng góp cho chùa trên vách đá đối diện chính điện. Ngoài ra, Bắc tông
cũng cho lập tháp thiền táng và mộ táng các vị trụ trì viên tịch: Tam Bảo sáu
tháp, Phù Dung một tháp và một mộ, Phật Đà một mộ, Tiên Sơn hai mộ,
Thanh Hòa một mộ.
Hệ phái Khất sĩ thờ tổ là ông Minh Đăng Quang. Theo Thư viện Hoa
Sen, Sơ lược tiểu sử Tổ sư Minh Đăng Quang, viết: Ông Minh Đăng Quang
thế danh Nguyễn Thành Đạt, tự Lý Hườn, sinh năm 1923 tại làng Phú Hậu,
tổng Bình Phú, quận Tam Bình, Tỉnh Vĩnh Long. Ông là con út trong gia đình
có 5 anh chị em. Năm 15 tuổi sang Campuchia học đạo, sau 4 năm quay về
Việt Nam cưới vợ theo ý cha mẹ nhưng sau 1 năm vợ chết, ông ra bãi biển
Mũi Nai ngồi thiền bảy ngày bảy đêm và chứng ngộ lư pháp “Thuyền Bát
Nhă”, lúc này ông vừa tròn 22 tuổi. Sau khi chứng ngộ lư pháp, ông đi truyền
đạo khắp miền Nam và miền Trung, được suy tôn là Tôn sư hoặc Tổ sư của
hệ phái Khất sĩ. Hà Tiên vinh hạnh là nơi chứng ngộ của hệ phái mới, hệ phái
41
Khất sĩ Phật giáo Việt Nam.[35]
Ngôi chính điện hệ phái Khất sĩ xây theo kiến trúc bát giác, trên tường
có trang trí ảnh các thời kỳ hoạt động của Phật tổ, dùng chuông không dùng
mỏ, phía trước chính điện thờ Phật, phía sau chính điện là bàn thờ tổ độc tôn
di ảnh của tổ sư Minh Đăng Quang. Trên bàn thờ có bày một lư hương, một
bình hoa, một dĩa trái cây, hai ngọn đèn thắp suốt ngày đêm. Trong ba ngôi
tịnh xá thì có hai tịnh xá chưa có vị viên tịch chôn tại tịnh xá (Ngọc Hồ do di
dời tịnh xá, Ngọc Đăng do tiền nhân về quê yên nghĩ), ở tịnh xá Ngọc Tiên có
cố Ni trưởng Ngân Liên viên tịch. Cố Ni trưởng Ngân Liên nguyên là Viện
chủ Tịnh xá Ngọc Tiên, bàn thờ của bà được đặt bên trái bàn thờ tổ sư Minh
Đăng Quang, cũng có cách bày trí và thờ phượng như vị Tổ sư. Bên ngoài,
cách hơn 20m là tháp của cố Ni trưởng Ngân Liên.
Hệ phái Nam tông, bàn thờ tổ đặt riêng trong gian nhà sinh hoạt thường
nhật, rất gần gũi với chư tăng hàng ngày, gọi là sala. Không gian chính giữa
thờ các vị Phật từ đản sinh cho đến nhập niết bàn, bên phải thờ tăng ni từng tu
ở chùa và các vong linh, bên trái thờ các vị tổ sư và những vị có công ảnh
hưởng đến chùa.
Cách bày trí thờ phụng đều giống nhau, nhưng do chùa Xà Xía và Mũi
Nai dùng tiếng Khmer nên không đọc được, chỉ đọc được ở chùa Thiên Trúc
nhờ do người Kinh tu tập, thứ tự bày trí như sau: Bày trí trên cao nhất là di
ảnh hòa thượng Tịnh Sự - Tổ sư, viên tịch năm 1984; giữa là hòa thượng
Danh Dĩnh (1950-2012) - Ân sư của chùa và hòa thượng Danh Nhưỡng; dưới
là ba vị đại đức Thích Minh Trí - Viên tịch 1992, đại đức Thích Pháp Chơn -
Viên tịch 1989, đại đức Thích Pháp Kiên - Viên tịch 2010.
Cách thờ cúng cũng như Khất sĩ và Bắc tông, trên bàn thờ có một lư
hương chung cho các vị, một bình hoa, một dĩa trái cây, hai ngọn đèn thắp
42
suốt ngày đêm. Bàn thờ này được trang trí thấp hơn bàn thờ Phật và cao hơn
bàn thờ các vong linh. Trang trí đơn sơ, tông màu chủ đạo là nền vàng, thếp
hoa văn màu đỏ.
Mặc dù là tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên nhưng các nghi thức lễ bái đều
theo nghi thức của nhà Phật, tụng kinh phật cầu an cầu siêu tịnh độ, cúng chay
không cúng mặn, do chư tăng và phật tử không quan hệ huyết thống thực
hiện. Như đã nói trên, giữa tín ngưỡng và Phật giáo rất gần gũi với hồn thiêng
sông núi nên trong tiềm thức người dân đa số chưa nhận thức rõ ràng đâu là
hoạt động tín ngưỡng, đâu là hành vi tôn giáo. Đáng chú ý là ở ngay cả các vị
tăng ni hàng ngày thực hành cũng khó phân biệt được, từ đó việc giải thích
cho tín đồ càng khó khăn hơn, tín đồ mặc nhiên xem các vị trên bàn thờ tổ
mặc dù không phải là phật theo tôn giáo của mình, nhưng đã được thờ thì có
thể đây là những vị có ân nghĩa nào đó cần phải tôn thờ.
Thờ vong linh người đã khuất:
Hà Tiên có 12/12 chùa được các vị trụ trì qua các đời luôn tôn thờ vong
linh người đã khuất trong các ngôi chùa của mình. Việc thờ cúng người đã
khuất trong chùa là nét đặc trưng của đạo Phật. Chùa nào cũng có bàn thờ
nam, nữ đã chết. Người ta gọi là bàn thờ vong linh người đã khuất. Không
phân biệt người có công hay chết yểu, miễn gia đình có nhu cầu, gởi ảnh hoặc
bài vị, hình ảnh người chết là được thờ. Hàng ngày hai thời tụng niệm, vào
dịp rằm hàng tháng các chùa đều cúng chay cho các hương hồn.
Văn hóa đền ơn đáp nghĩa luôn được coi trọng ở mọi thời đại, mọi thế
hệ, mọi tổ chức và mọi cá nhân. Chính vì thế việc tri ân thờ cúng tín ngưỡng
này trong chùa là một nét độc đáo, sự dung thông khá rõ nét trong ngôi chùa
thờ Phật.
- Thờ Phật trong ngôi đình, miếu thờ Thần
Qua trao đổi với ông Nguyễn Thanh Được, Phó Ban Trị sự miếu Quan
43
Thánh Đế (khu phố II, phường Bình San), được biết: “Mặc dù đây là nơi thờ
tự các vị nhân thần đại diện cho các đức tính của con người Trung Quốc,
nhưng với ước mong mưa thuận gió hòa, phù trợ sao cho gia đạo yên ấm, làm
ăn ngày càng tấn tới, có nhiều sức khỏe,.. nên đồng hương bày trí thờ thêm
Bồ tát Quan Thế âm là vậy.
Mọi người rất coi trọng việc thờ Phật trong miếu, luôn cúng dường hoa
quả, bảo quản trang nghiêm nơi thờ Phật, mong được Phật phù độ hộ trì cho
miếu và bà con”. [Phụ lục 3, tr.92]
Ở nơi đây, ngoài đình thần Thuận Yên và miếu Ông Bổn ra thì các
đình, miếu, am đều dựng tượng Phật trước bàn thờ Thông Thiên, đó là Phật
Bà Quan Âm với quan niệm sẽ được phật phù hộ, chỉ bảo làm điều tốt. Tượng
Phật Bà Quan Âm được bày trí lộ thiên, có đầy đủ bàn thờ, phật cảnh ao nước
hoa sen trong chậu.
Theo dân gian, Phật Bà Quan Âm nguyên là một nam giới tên Quán
Thế Âm, do kỵ úy vua nhà Đường nên gọi là Quan Âm hoặc Quán Âm.
Không biết từ khi nào, người dân nơi đây lại chuyển thành nữ giới, có nơi tôn
là Bồ Tát, có nơi là Phật, chỉ đứng sau Phật Tổ là vị chí tôn cao nhất đạo Phật.
Đức Quan Âm ở đây cũng như các nơi khác luôn luôn có màu trắng
là tượng trưng cho sự trong sạch. Một tay cầm bình thanh tịnh chứa nước
cam lồ biểu trưng cho lòng từ bi, nước cam lồ chảy đến đâu là tình thương
xuất hiện ở nơi đó, làm mát mẻ êm dịu mọi khổ đau của chúng sinh; một
tay thiên ấn quyết “Kiết tường” vẽ chữ “Rảm” tiếng Phạn, hàm ẩn ý nghĩa
sự thanh tịnh.
Hoa sen là hoa đạo, tượng trưng cho sự thanh khiết, Phật đứng trên đài
sen mang ý nghĩa cứu người ở cõi đời dạt dào sóng gió đau khổ tai nạn chúng
sanh đang hụp lặn nổi trôi, quyết đưa chúng sinh qua bể khổ về với cuộc sống
44
thanh bình.
2.2. Qua thực hành một số nghi lễ Phật giáo và tín ngƣỡng
2.2.1. Những biểu hiện tín ngưỡng ở một số nghi lễ của Phật giáo
Ngày nay, các chùa còn lưu giữ những nghi lễ kỷ niệm các thời kỳ
hành đạo của Phật Thích Ca Mâu Ni từ đản sinh, xuất gia, thành đạo, hóa
duyên cho đến nhập niết bàn; Các ngày vía của một số vị bồ tát, các ngày lễ
thường niên. Biểu hiện tín ngưỡng ở các lễ hội của Phật giáo còn được lưu
giữ qua đại lễ Vu Lan, lễ Thượng Nguyên và lễ Hạ Nguyên.
- Đại lễ Vu Lan vào ngày rằm tháng Bảy:
Trong tín ngưỡng bản địa xem đây là “Ngày xá tội vong nhân”, “tháng
Cô hồn”, nghĩa là xá tội cho những vong hồn bị đọa đầy trong địa ngục. Ngày
này thể hiện lòng thành kính “Báo ân báo hiếu”, “Báo tứ trọng ân đức” với
các quan niệm: Báo hiếu - báo ân đối với cha mẹ, ông bà, tổ tiên; Đáp đền
công ơn người thày dậy dỗ; Tưởng nhớ tri ân những người đã bảo vệ cuộc
sống an lành cho mình và những người đó đã phải hy sinh, hoặc những người
làm ra của cải vật chất để nuôi sống mình; Nhớ ơn Tổ quốc, cộng đồng nuôi
dưỡng mình. Trong tháng này là tháng không may trong năm, cần ăn chay tu
thân tránh điều ác, kiêng kỵ không mua sắm, không đi chơi đêm, không nhổ
lông chân, không bơi lội, khai trương, xây nhà,...
Tại Hà Tiên, người theo đạo Phật cúng Rằm tháng Bảy bao giờ cũng
phải cúng ở chùa trước rồi mới đến cúng tại gia. Nghi thức lễ bái gồm có:
Cúng hương, kỳ nguyện, tán Phật, quán tưởng Phật, đảnh lễ, tán hương cúng
Phật, chú đại bi, kệ khai kinh, đọc kinh Vu Lan Bồn, kinh Báo hiếu phụ mẫu,
tán Mục Kiền Liên tôn giả, kinh Bát nhã ba la mật, chú Vãng sanh, niệm Phật,
sám Vu Lan, hồi hướng, phục nguyện và cuối cùng là tam Quy y.
Trong các gia đình, họ luôn cúng vào ban ngày, trước khi mặt trời đã
lặn, thường được cúng ở sân trước nhà hoặc trên vỉa hè. Lễ vật khác dành cho
45
những cô hồn, ma đói không nơi nương tựa không nhất thiết là chay, nhiều
nhà cúng mặn với gà, thịt heo, cua cá. Nghi thức sau cùng là “thí cô hồn”
(mọi người tranh giành vật cúng), ngụ ý muốn nói đến người sống và người
chết suôi khiến đến cùng nhau dùng vật phẩm cúng dường.
Tuy nhiên, tục lệ này còn điều chưa hợp lý khiến dư luận bức xúc, đó là
tục đốt vàng mã tràn lan từ chùa ra hộ gia đình, đường xá, hốc đá; Lễ vật, vật
phẩm bố thí nhiều nơi là tiền thật gây lãng phí, rất cần chấn chỉnh khắc phục.
- Lễ giỗ:
Lễ giỗ là một tín ngưỡng không thể thiếu đối với bất cứ người Hà Tiên
nào, và ai cũng rõ đây là một hoạt động tín ngưỡng theo loại hình thờ cúng tổ
tiên, không phải của một tôn giáo nào. Thế mà, tại các chùa đều thực hiện lễ
giỗ này theo cách riêng của đạo Phật: Tụng kinh, cầu nguyện, dùng trung y
khi hành lễ, vật thực cúng chay. Xin lấy điển hình ở ngôi chùa Thiên Trúc,
bởi vì nơi đây có cả tăng cùng với ni tu tập. Việc tổ chức lễ giỗ được thực
hiện định kỳ hàng năm, thường có trên 100 người tham dự, do tăng ni và phật
tử tề tựu về tổ chức. Những đám giỗ này mang màu sắc tôn giáo rất khác biệt
với lễ giỗ ở đình miếu hay trong mỗi gia đình.
- Lễ đón Giao thừa dịp tết Nguyên Đán:
Các chùa tổ chức tụng kinh, cầu nguyện, phát lộc, thuyết pháp, sau
cùng là ngồi thiền. Cuộc lễ này thu hút từ 20 - 200 người tham dự. Nét nhân
văn là nghi thức phát lộc, mong muốn một năm mới đầy tài lộc, may mắn,
phát tài, yên vui.
- Tết Trung Thu:
Đây là hoạt động mang tính tín ngưỡng có xuất xứ ở Trung Quốc, được
du nhập vào nước ta và duy trì hàng năm cho đến ngày nay. Các chùa cũng
như mọi gia đình đều tổ chức lễ hội đón tết trẻ em này. Họ tổ chức tụng kinh,
treo đèn lồng, thuyết pháp và ngồi thiền. Hoạt động này diễn ra vào 02 ngày
14 và rằm tháng 8 âm lịch hàng năm. Thu hút đông đảo tín đồ ở mỗi chùa
46
tham dự.
2.2.2. Những biểu hiện của Phật giáo ở các nghi lễ tín ngưỡng
Mạc Cửu là người Trung Quốc, đã khai trấn đất Hà Tiên, ông đã để lại
di sản kinh tế, văn hóa, chính trị sâu sắc trong tâm thức người Hà Tiên, trong
đó có tư tưởng về tín ngưỡng và tôn giáo được ông mang theo về vùng đất
này, đó là Đạo giáo và Nho giáo. Đạo Phật được ông phân định rõ ràng với
Đạo giáo và Nho giáo. Phật giáo là một tôn giáo, Đạo giáo và Nho giáo ngoài
là những tôn giáo còn ẩn chứa trong đó nhiều điều răn dạy đạo đức và lối
sống của con người.
Mặc dù ông cho rằng yếu tố Phật là yếu nhân thờ phụ nhưng lại là yếu
tố chủ lưu. Bởi vì, khi nhà Minh bị diệt vong, ông mất đi chỗ dựa tinh thần là
truyền thống “Vua – Tôi” của người Hoa, quyết ra đi lánh nạn chờ ngày
“phục Minh” để đưa vua trở lại tôn thờ. Nhưng khi ra đi thấy khó có ngày trở
lại nên ông chủ động tìm yếu nhân khác để tôn thờ. Qua nhiều triều đại ở
Thủy Chân Lạp, cuối cùng ông nhận thấy ở nước Nam ta có những vị minh
quân khiến ông tin tưởng gởi trọn đức tin và có thể tôn thờ. Thế là ông đầu
phục vào năm 1708. Cuộc Nam tiến của triều đình Nguyễn với sự đóng góp
của họ Mạc chỉ trong ba thế kỷ đã thống nhất xong, trở thành một nơi trù phú
với sự thống nhất về chính sách, đường lối, văn hóa nơi miền đất mới. Từ
đây, cho thấy sự thống nhất tư tưởng vua tôi của ông qua sự dung hợp rất rõ
nét từ thờ vua Trung Quốc chuyển qua thờ vua Việt Nam để ghi ơn nhà nước
Việt ta đã tạo điều kiện cho Mạc Cửu có được như vậy. Từ đây, cũng đã nảy
sinh một loại hình tín ngưỡng mới với hình ảnh Nho giáo, Phật giáo và tín
ngưỡng, điển hình là tín ngưỡng thờ thành hoàng làng.
Tín ngưỡng thành hoàng làng không có sự mâu thuẫn với tín ngưỡng
bản địa mà có sự dung vào nhau, tách riêng với Phật giáo. Thế cho nên, hoạt
động tín ngưỡng hầu như không có hoạt động của Phật giáo, chỉ có sự hỗ trợ
47
“vòng ngoài”, không chính thức trong quá trình hành lễ hoặc lễ hội của cơ sở
tín ngưỡng. Xin điển hình vài hoạt động có liên quan đến Phật giáo của các cơ
sở tín ngưỡng mang tính chất tượng trưng sau đây.
Để ghi nhớ công lao của Mạc Cửu, nhân dân Hà Tiên đã lập đền thờ
phượng và tổ chức lễ giỗ vào các ngày 26 - 27 tháng 5 âm lịch hàng năm. Lễ
giỗ được tổ chức hết sức long trọng với đủ các phần lễ và hội, thu hút hàng
nghìn người tham dự, trong đó có tăng ni phật tử Phật giáo tham gia. Các
chùa tự tập họp phật tử đọc kinh, cầu nguyện, thuyết pháp về công lao Mạc
Cửu và khuyến khích phật tử tham dự lễ hội. Trong nghi thức Lễ thỉnh sắc
được tổ chức vào ngày 27/5, các vị tăng ni hòa mình vào đoàn người xuất
phát từ đền thờ họ Mạc đến tượng đài Mạc Cửu cùng với cờ lộng, chiêng
trống, xe hoa Phật giáo.
Hàng năm, chùa Phật Đà hỗ trợ bữa cơm trưa đại chúng cho đền Mạc
Mi Cô, không tham gia hành lễ trong điện thờ. Không giống như nhiều nơi
khác, trong không gian lễ hội của tín ngưỡng đều mời các vị tăng ni đến hành
lễ trước, sau đó mới chính thức triển khai lễ hội cho ngôi tín ngưỡng của làng.
Còn ở nơi đây, mọi nghi lễ đều do Ban Tế tự thực hiện, có sự hỗ trợ của đội
học trò lễ, ban nhạc lễ, chủ lễ trong tất cả các bước, từ giai đoạn báo lễ, chính
lễ cho đến hậu lễ.
Trong dịp lễ trọng (lễ lớn trong năm) của từng gia đình, mỗi gia đình
Phật giáo đều có bàn thờ Phật, tùy theo đức tin mà thờ phật khác nhau. Những
lúc làm giỗ, luôn luôn lễ phật trước, sau đó mới tới cửu huyền thất tổ, thiên
binh thiên tướng thổ thần đất đai, vong linh người đã khuất, tế thông thiên.
2.3. Một số giá trị và vấn đề đặt ra của sự dụng hợp giữa Phật giáo
và tín ngƣỡng bản địa ở thị xã Hà Tiên
2.3.1. Một số giá trị của sự dụng hợp đem lại cho tâm linh bản địa
48
- Con người quan tâm hơn đến thờ cúng trong đa dạng
Trong thời kỳ xây dựng đất nước ngày nay, Đảng và Nhà nước ta rất
chú trọng đến hoạt động của tín ngưỡng và tôn giáo, đã ban hành Luật Tín
ngưỡng tôn giáo để điều chỉnh hành vi con người trong hoạt động này. Luật
đã xóa bỏ nhiều quan niệm cổ hủ, các hoạt động tâm linh được nhấn mạnh là
nhu cầu, là tình cảm, là đạo đức, chứa đựng nhiều điều phù hợp với công cuộc
xây dựng một xã hội mới.
Hệ thống tổ chức từ cấp giáo hội đến địa phương được hình thành và
hoạt động hiệu quả, không trùng lập, tiến bộ, bảo đảm pháp luật quy định.
Các thiết chế văn hóa mang tâm thức tâm linh được xây dựng và duy trì nề
nếp. Nơi thờ tự được tôn tạo, đầu tư xây dựng khang trang, phục vụ cho các
hoạt động tại nơi tín ngưỡng, phật giáo.
Các vị chức sắc, chức việc ngày càng được tham gia sâu rộng vào các
lĩnh vực đời sống xã hội. Họ dẫn dắt các cơ sở thờ tự ngày càng có đóng góp
nhất định vào xây dựng xã hội, đời sống văn hóa ở cơ sở. Ngoài dân gian, nhà
thờ họ tộc và bàn thờ tổ tiên được chú trọng trang hoàng quy củ hơn, bài bản
hơn, có trước có sau, có trên có dưới, có trong có ngoài theo tôn ti trật tự rành
mạch hơn.
Đời sống văn hóa, đời sống tâm linh ngày càng phát triển, họ quan tâm
hơn các hoạt động tín ngưỡng tôn giáo trong thị xã, cũng như trong tỉnh và
trong khu vực. Nhiều dòng họ đã quy tập phả hệ lập nhà thờ chung như ở
miền Bắc; đã có bày trí các câu đối, hoành phi bằng chữ quốc ngữ giúp dễ
đọc, dễ cảm nhận, dễ đi vào tiềm thức các thế hệ con cháu hơn.
Trang phục hành lễ cũng được chú ý theo hướng truyền thống, kín kẻ.
Thực phẩm bày cúng đa dạng và thịnh soạn hơn, xuất hiện nhiều món ngon
vật lạ ngoại nhập. Không gian cúng kiến được trang trí bắt mắt với nhiều pho
tượng, nhang đèn to lớn, thu hút người tham quan.
49
- Sự dung hợp góp phần trẻ hóa, nữ hóa đối tượng tham gia
Qua tìm hiểu, trước đây đa số người cao tuổi và một số ít người trẻ
tham gia các hoạt động tín ngưỡng, phật giáo tại cơ sở thờ tự. Nguyên nhân
được biết là do chưa có chủ trương “nhập thế” như hiện nay, hệ thống pháp
luật chưa thông thoáng như bây giờ, phần đông tín đồ còn nhiều lo toang vất
vả trong cuộc sống, tầng lớp thương gia, trí thức thường chú trọng hơn vào
thờ cúng tổ tiên, thần bản địa.
Ngày nay, tầng lớp thương gia ngày càng được trẻ hóa, con người có
nhiều điều kiện phát triển bản thân, phát triển gia đình và tham gia đóng góp
xây dựng xã hội, cùng với chính sách mở cửa của Nhà nước,… con người
ngày càng có nhu cầu tâm linh nhiều hơn. Ngày càng có nhiều tín đồ tham gia
thực hành tâm linh. Họ đã tạo thuận lợi, răn dạy con cháu, hướng dẫn nhau
tham gia tu học, hành thiền ở các khóa tu, các buổi tiếp cận tín ngưỡng tôn
giáo cơ bản, có người trẻ đã trở thành tín đồ ngoan đạo, cũng có người là
cộng tác viên tích cực truyền cảm hứng khá năng động. Tín hiệu này tiếp tục
củng cố vững chắc các hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo địa phương phát triển.
Phụ nữ được cho là một nửa của thế giới. Sự dung hợp tín ngưỡng bản
địa với tín ngưỡng trong Nho giáo do Mạc Cửu truyền sang đã hòa quyện vào
nhau, thúc đẩy sự bình quyền nam nữ, giúp xã hội phát triển tích cực. Mối
bình quyền này không bị ảnh hưởng nhiều bởi Nho giáo thường chiếm thế
thượng phong ở người Trung Quốc ưu tiên nam hơn nữ, nó đã hòa hợp vào tư
tưởng thờ “Nữ thần”, “Mẹ sanh”, “Bà Chúa xứ”, “Bà Cậu”… mà nâng cao vai
trò của nữ giới.
Ở Phật giáo, trong số 12 ngôi chùa đã có 06 ngôi chùa có ni giới tham
gia tu tập. Họ đã vượt qua rất nhiều khó khăn thử thách, xa quê hương bản
quán để về chốn “sơn cùng thủy tận” hành đạo. Đọc lại lịch sử, cho thấy rất rõ
50
sự gian lao những ngày đầu về gầy dựng các ngôi thờ tự của ni giới, với muôn
vàng trắc trở, nếu không có niềm tin vững chắc vào phật pháp thì rất khó có
thể trụ vững hành thiền tinh tấn cho đến ngày nay.
Trong 06 ngôi chùa ni thì đã 04 ngôi chùa do tiền nhân là ni giới sáng
lập. Có người xuất thân từ miền Trung xa xôi, có người từ một số tỉnh phía
Nam như Vũng Tàu, Trà Vinh, Vĩnh Long… Đã phát tâm tạo dựng nên
những cơ sở thờ tự thân thiện và cổ kính, tiếp nối truyền thừa những hệ phái
Phật giáo của mình đến bá tánh.
Không những chỉ có 02 hệ phái Bắc tông và Khất sĩ có ni tu tập, ở hệ
phái Nam tông theo truyền thống chỉ có tăng tu tập, nay cũng đã xuất hiện ni
giới tham gia tu hành. Đây là một trong những nét dung hợp độc đáo giữa hệ
phái này với hệ phái khác, giữa tăng và ni trong một ngôi chùa phật. Trong
không gian ngôi chùa tăng ni này, ngoài các hoạt động phật sự chung, mọi
sinh hoạt đều tách biệt tăng và ni, ít có sự ảnh hưởng, chòng chéo làm đảo lộn
trật tự lẫn nhau. Tuy nhiên, sự tế nhị trong giao tiếp giữa tăng ni thì không thể
tránh khỏi.
Hàng ni giới đã góp phần lưu giữ, phát huy giá trị tinh thần và văn hóa
bản địa. Giúp xã hội cân bằng ý thức hệ giữa nam với nữ. Họ đã cùng địa
phương hoàn thành nhiều công trình, mục tiêu, trong đó nổi bật là nuôi dạy
con cháu và làm từ thiện xã hội.
Trong tín ngưỡng, mặc dù chưa thấy có nữ giới làm chủ lễ nhưng trong
các cuộc lễ không thể thiếu công lao to lớn ở phụ nữ, từ giai đoạn chuẩn bị
cho đến hậu lễ. Mỗi cuộc lễ, từ bà lão cho đến thiếu nữ đều tích cực chăm lo,
bày trí, quét dọn, nấu nướng, cốt làm sao cho cuộc lễ diễn ra được suông sẽ và
vui tươi. Những đóng góp của phụ nữ trong tín ngưỡng tuy thầm lặng nhưng
lại rất quan trọng, rất cần phát huy vai trò của phụ nữ trong hoạt động tâm
linh ngày nay.
51
- Có su hướng biến nơi thờ Phật thành nơi an vị vong linh
Ngày nay, con người luôn tất bật với “cơm áo gạo tiền” nên ít có thời
gian chăm nom bàn thờ tiên tổ, giải pháp thường thấy là nhiều người “gởi ông
bà” vào chùa cho các vị tăng ni thay mặt phụng cúng hàng ngày. Các chùa,
chủ yếu là chùa Bắc tông và Khất sĩ, bằng tâm thế “Phổ độ chúng sinh” cũng
vui vẻ sẳn sàng nhận ủy thác này.
Nhìn lại trước đây, chùa chỉ là nơi cứu vớt những hoàn cảnh khó khăn
không nơi nương tựa thờ ở một gian cuối chính điện, chủ yếu tránh cho họ
lang thang quấy phá chúng sinh. Còn những người chết có gốc tích, có quê
hương bản quán rõ ràng đều được gia đình đưa về nhà thờ phụng với nghi
thức thờ cúng tổ tiên. Đối với những người có công đức, được tôn trọng trong
xã hội khi chết đi thì được cúng dường trai tăng, thờ cúng quy mô hơn, giúp
họ sớm được về “trời”.
Qua khảo sát thời gian qua, chúng tôi nhận thấy nhiều cuộc lễ cúng
dường trai tăng được hành lễ tại chùa, không phân biệt cao thấp, hễ khi có gia
đình muốn hành lễ sẽ được đáp ứng và định ngày cử hành, thể hiện tính nhập
thế của Phật giáo. Ngoài ra, nhiều gia đình mặc dù có bàn thờ gian tiên và có
điều kiện thờ phượng vẫn đưa bài vị, di ảnh ông bà cha mẹ lên chùa nhờ cửa
phật phụng cúng thay gia đình. Theo họ làm vậy sẽ yên tâm hơn, tránh bất
kính và thiếu lễ cho các vị, có hại cho con cháu sau này.
Như vậy, Phật giáo đã thẩm thấu sâu vào tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên,
mang hồn cốt tín ngưỡng này ở nơi ngôi chùa phật. Đây có phải là su hướng
thờ cúng của tương lai chăng? Để trả lời cho câu hỏi này, rất cần có thời gian
nghiên cứu và thực chứng.
- Đa dạng các loại hình thờ cúng
Nghi thức thờ cúng cũng có nhiều cách. Cùng một loại hình ngưỡng,
tùy từng ánh nhìn mà đối tượng thờ cũng có nghi thức, nghi lễ tổ chức và thực
52
hiện khác nhau. Ví dụ như: Thờ tổ tiên, trong chùa thờ khác, trong gia đình
thờ khác và ở đình miếu thờ cách khác. Cúng vong linh ở chùa cúng khác,
đình miếu cúng khác và gia đình cúng khác.
Với tâm thức những người xa xứ, luôn mong muốn có được chỗ dựa
tinh thần vững chắc trong cuộc sống nơi được hòa mình vào cộng đồng mới,
vào thiên nhiên tươi đẹp, người Hà Tiên luôn “Bán bà con xa mua láng giềng
gần”, “Tối lửa tắt đèn có nhau”, “Cận thân hơn cận lân”, giúp đỡ lẫn nhau
cùng vượt qua mọi khó khăn, chung sống an vui hạnh phúc. Với tâm thức đó,
dần trở thành quan niệm sống và ảnh hưởng sâu sắc vào tâm linh con người.
Ai có tín ngưỡng gì, tôn giáo nào thì họ mang theo vào vùng đất này, và được
tự do thực hành. Thấy sự “Có thờ có thiêng”, nhiều người theo tín ngưỡng và
tôn giáo khác cũng tin và thực hành hoặc thấy có ích cho cuộc sống vùng biên
nên tham gia ủng hộ, dần dung hợp vào nhau, hỗ trợ cho nhau, tạo thành một
loại hình văn hóa mới trong tín ngưỡng, tôn giáo. Mặc dù có sự dung hợp,
nhưng từng loại hình tín ngưỡng, tôn giáo vẫn giữ tính nguyên sơ của nó. Đó
là các cuộc lễ được tổ chức riêng biệt vào khoảng không gian và thời gian
khác nhau, trình tự khác nhau, dù cho được thờ cúng chung trong một ngôi
thờ tự.
Điều dễ dàng nhận biết nhất, đó là hình ảnh các vị Phật, Bồ tát có ở
khắp mọi nơi, trong nhà cũng có, đình miếu cũng có, tàu xe cũng có, tang ma
cũng có. Những vị Phật, Bồ tát nơi đây được xem như là những vị thần hộ
mệnh cho mỗi gia đình không theo tôn giáo và những tôn giáo có thờ Phật.
Mọi người tin rằng Phật luôn che chở, phù trợ cho tai qua nạn khỏi, vì thế nên
dường như trở thành hiện tượng thờ Phật trong muôn mặt đời sống kinh tế,
văn hóa, xã hội, tâm linh bản địa.
Việc thờ Phật, Bồ tát cũng muôn hình vạn trạng, ảnh có, chân dung có,
tượng Phật thì lớn nhỏ đủ kích cỡ, đơn giản thì chỉ có một bát hương dùng để
53
khấn vái. Thông thường thờ nơi trang nghiêm, cao ráo ở nơi cư ngụ, kinh doanh.
Cách thờ cúng cũng khá đơn giản, chỉ cần “thỉnh” (xin) vài cây hương,
thường là ba cây hương, từ một nơi nào đó tin tưởng đem về nhà cấm lên lư
hương nơi muốn thờ, vậy là đã có tính thiêng rồi. Đối với những chiếc xe, tàu
thì khấn vái xin được thờ cúng trên phương tiện của mình, rồi kể từ đó thờ
cúng theo nghi thức thông thường.
Không gian tưởng nhớ tâm linh cũng rất đa dạng. Tại những nơi thờ
tự, người thờ cúng thông qua những nén hương gởi tâm ý của mình đến các vị
linh ứng, xem những nén hương là trung gian giữa người với đấng linh thiêng.
Ngoài nơi thờ tự, đôi khi chỉ chấp tay hình búp sen, nhắm mắt, thành tâm cầu
khấn về một nơi xa xăm nào đó mong được sự giúp đỡ của đấng linh thiêng.
Phật, trời, thổ địa luôn có trong tâm thức người bản địa. Đã một thời
gian dài, nhiều người khi cảm thấy bị bất ngờ, hốt hoảng, khó xử, họ thường
gọi “Phật ơi”, “Mô phật”, “Trời ơi”, “Đau thấy ông Trời”, “Trời đất thiên địa
ơi”… Về sau, có các tín đồ Công giáo thì cũng thường nghe “Chúa ơi”, “Chúa
tôi”, “lại Chúa”…
Đối tượng thờ cúng cũng nhiều giai tầng trong xã hội. Bất cứ ai, không
kể giai cấp thành phần xã hội, không kể tôn giáo nào, ngay từ khi tròn tháng
đã được cha mẹ cúng bà Mẹ Sanh hay theo nghi thức của tôn giáo cha mẹ họ,
rồi đến cúng tròn năm (thôi nôi), khi chết cũng theo nghi thức của tín ngưỡng
hoặc tôn giáo họ tin theo khi còn sống. Hà Tiên, trong số dân bản địa có hơn
1.300 đảng viên và hơn 10.000 đoàn viên thanh niên, đa số họ có thông tin
không tham gia tôn giáo nào. Mặt nhiên, họ luôn thực hành tín ngưỡng thờ
cúng tổ tiên và tín ngưỡng bản địa. Đến cả giới chính trị và giới hành chính
Nhà nước cũng nghiêm túc tham gia tín ngưỡng tôn giáo, điển hình có các vị
chủ tịch và các phó chủ tịch UBND phường Đông Hồ là chủ thể trong dịp lễ
giỗ ở ngôi đình Thần Hoàng Hà Tiên. Như vậy, có thể nói tín ngưỡng đã
54
ngấm sâu sắc vào trong đời sống của người bản địa.
- Đóng góp vào nền văn hóa bản địa
Người Hà Tiên bao đời nay đã vươn lên đoàn kết xây dựng một xứ sở
“Đất Phật người hiền”, đã trở thành một trung tâm văn hóa có nét đặc sắc khó
phai trong lòng du khách khi đã đến mảnh đất Kiên Giang. Đó là sự hào sảng
vốn có của người Nam Bộ, hòa vào nét kín đáo của người Hoa, sự lạc quan
của người Khmer, đã được cộng hưởng và tiếp biến trở thành con người Hà
Tiên hiền hòa nhân hậu, có thủy có chung, sẵn sàng vượt khó đón nhận cái
mới tốt đẹp, nhưng cũng kiên quyết chống cái ác, cái không tốt một cách
không khoan nhượng.
Nơi đây, con người luôn lấy hình ảnh những vị đại diện cho cái thiện
làm kim chỉ nam cho hành động. Đó là hình ảnh của đức Phật, Trời, Ông Tà,
Thần Tài, Thổ Địa, bà Cậu, ông Nam Hải, Sơn thần, Thủy thần, Ông bà tiên
tổ,… Làm điều răn dạy nhau làm lành tránh dữ, chan hòa chung sống, giúp
nhau vượt qua khó khăn, cùng hưởng hạnh phúc.
Sự dung hợp tín ngưỡng với tôn giáo luôn ẩn chứa sâu sắc trong văn
hóa người bản địa còn được thể hiện qua các hoạt động vui chơi, giải trí, sinh
hoạt đời thường. Ngày nay, các lễ hội, lễ giỗ của tiền nhân khai trấn (Mạc
Cửu, Mạc Thiên Tích, Mạc Tử Sanh), tết Nguyên Tiêu, Tao đàn Chiêu Anh
các, đã trở thành một hoạt động văn hóa tâm linh cấp quận huyện. Mọi người
luôn kiên kỵ làm điều trái trong mọi sinh hoạt đời thường, đó là khi đi núi
không nên làm gì và nói gì, khi ra biển không nên làm và nói những gì, trước
khi giết con vật nào đó cần nói gì để con vật được “siêu thoát”, trước khi ăn
cơm cần nói và hành động gì,… Từ đó đã tạo nên một nét đẹp văn hóa mang
đậm chất tâm linh, truyền thống của cư dân. Có nhiều tôn giáo cũng bắt đầu
áp dụng những nét đẹp này vào thực hành trong tôn giáo của họ, chỉ đơn giản
nó tiến bộ và giúp hòa nhập cao.
55
- Góp phần xây dựng con người mới, xã hội mới
Chung tay đẩy lùi đói nghèo, tệ nạn xã hội:
Với văn hóa “Cứu một mạng người hơn xây mười kiển chùa”, “Lá lành
đùm lá rách”, nhiều hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo được đầu tư thực hiện,
vừa giúp đỡ khó khăn trước mắt vừa lâu dài. Việc trước mắt thường thấy là
những cuộc vận động tương thân tương trợ nhau khi bị thiệt hại do tố lốc, tai
nạn, cháy nhà, bệnh tật. Việc lâu dài, có nhiều cơ sở thờ tự đã lập quỹ từ thiện
nhân đạo hỗ trợ người khó khăn, những bữa ăn từ thiện, ngôi nhà nhân ái, nhà
dưỡng lão, nhà giữ trẻ không cha mẹ. Hàng năm, chỉ tính riêng các Phật giáo,
bình quân đã vận động trên 1 tỷ đồng cho công tác từ thiện xã hội.
Cơ sở tín ngưỡng, tôn giáo cũng nhận chăm lo, giáo dục nhiều thanh
thiếu niên lầm lỡ, người ra tù. Đã có không dưới 12 trường hợp vượt qua
được những thử thách, vươn lên hòa nhập cộng đồng, lập gia đình và cùng
làm ăn kinh tế phát triển bản thân, trong đó nhiều người đã là tấm gương vượt
khó và giúp đỡ được những người khác.
Góp phần giữ vững ANCT-TTATXH, phát triển xã hội:
Lấy lẽ phải làm điều hướng thiện, đa số ông bà cha mẹ nghe theo chức
sắc tôn giáo răn dạy tín đồ, con cháu không nghe theo kẻ xấu, có hành động đi
ngược lại với cộng đồng, làm sai lời chân lý đã dạy, sống tốt đời đẹp đạo. Chỉ
tính thời gian kể từ khi thống nhất đất nước cho đến nay, mặc dù mọi người bị
ảnh hưởng nặng nề do hậu quả Khmer Đỏ gây ra, rồi đến sự kiện chiến tranh
Biên giới Phía Bắc lan rộng, hậu quả đã làm nhiều chùa đình bị tàn phá, phải
ly tán tránh nạn, có cơ sở thờ tự hư hỏng nặng nề đến nay không thể phục
dựng được, chỉ còn lại tàn tích. Hoạt động tín ngưỡng tôn giáo tuy có những
mảng tối sáng khác nhau qua từng giai đoạn, nhưng chưa có sự “nổi dậy” gây
bất ổn trong tín ngưỡng tôn giáo đối với chính quyền qua các thời kỳ. Ngày
nay, hoạt động tín ngưỡng tôn giáo ngày càng phát triển, các chính sách pháp
56
luật được nghiêm túc thực hiện. Những trường hợp hiểu biết kém về pháp luật
trước đây giảm hẳn, ngày nay họ được tiếp cận chính sách pháp luật thường
xuyên nên các vụ việc trái pháp luật dần mất đi, chỉ còn tranh chấp nhỏ lẻ.
Ngoài chung tay xóa đói giảm nghèo, nhiều tầng lớp chức sắc và tín đồ
tín ngưỡng tôn giáo đã góp công góp của vào công cuộc giải phóng đất nước,
xây dựng địa phương khang trang như ngày nay, được xem xét nâng lên thành
phố thuộc tỉnh, đây sẽ là thành phố thứ hai ở Kiên Giang. Trong đó không
thiếu những tấm gương hi sinh anh dũng cho sự nghiệp chống giặc cứu nước.
Góp phần giáo dục con người mới:
Trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo, hàng giáo phẩm khai sơn, truyền thừa
trước đây chủ yếu sử dụng tiếng Hán, Nôm và Phạn, việc dùng chữ quốc ngữ
nhìn chung còn khá thấp, trình độ học vấn dưới cấp 1 chiếm trên 60%, cấp 2
trên 25%, chỉ có gần 5% trình độ cấp 3 hoặc tương đương. Việc răn dạy tín đồ
phần nhiều chịu ảnh hưởng nho giáo và tôn giáo ngoại nhập, có nhiều điều đi
ngược lại văn hóa bản địa nên khó hội nhập vào đời sống xã hội, thu hẹp
phạm vi ảnh hưởng của hoạt động tín ngưỡng tôn giáo. Ngày nay, với chủ
trương nhập thế đã giúp cho các tín ngưỡng tôn giáo ngày càng phát triển theo
hướng hội nhập cao độ. Các vị chức sắc ngày nay đã phần nào nhìn nhận sự
giáo dục chức sắc và tín đồ phải theo xu hướng mở hơn để hội nhập, có nhiều
vị đã có tư duy thoáng hơn và ủng hộ việc nhập thế trong thời đại mới.
Ngày nay, các vị đứng đầu trong tín ngưỡng tôn giáo đều tốt nghiệp
lớp 12 hoặc tương đương, số lượng tăng ni trẻ thông thạo hai thứ tiếng ngày
càng tăng (Khmer, Anh ngữ, Pali, Thái, Ấn Độ, Malaysia, Myanma,…),
trình độ trung cấp cao đẳng và đại học bắt đầu xuất hiện. Các tín ngưỡng tôn
giáo tạo thuận lợi cho các giới đi tu học theo hướng cao hơn để hội nhập,
chú trọng dựa vào tầng lớp trí thức để điều chỉnh trong giao tiếp ở tín
ngưỡng tôn giáo mình.
Việc dạy đạo làm người, biết trân trọng tiền nhân, đền ơn đáp nghĩa đã
57
đi vào đời sống cư dân. Ai không biết trân trọng thành quả gầy dựng của tiền
nhân, công lao của đời trước, chăm sóc nhau khi hoạn nạn thì bị xem là những
kẻ tội đồ cần giáo dục lại.
Góp tay xây dựng nên văn hóa tiên tiến:
Như đã nói ở trên, mọi thành phần giai cấp ở Hà Tiên đều có hoạt động
tín ngưỡng. Người theo tôn giáo, qua khảo sát số liệu năm 2015 chiếm
38,26% dân số toàn thị xã. Với đặc điểm thiên nhiên hữu tình, như nhà thơ
Đông Hồ đã miêu tả nét đẹp Hà Tiên trong một bài viết đang trưng bày tại
Nhà lưu niệm Đông Hồ: "Ở đây kỳ thú thay có như hầu đủ hết! Có một ít
hang sâu động hiểm của Lạng Sơn, một ít đảo đá chơi vơi giữa biển của Hạ
Long. Có một ít núi đá vôi của Ninh Bình, một ít thạch thất sơn môn của
Hương Tích. Có một ít Tây Hồ, một ít Hương Giang. Có một ít chùa chiền
của Bắc Ninh, một ít lăng tẩm của Phú Xuân. Có một ít Đồ Sơn, Cửa Tùng;
một ít Nha Trang, Long Hải…”. Thêm nữa, có rất nhiều câu chuyện truyền
miệng, truyền thuyết nữa thật nữa ảo khá độc đáo… Đã in trong tâm thức con
người bản địa, không ai không theo tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, nhiều tôn
giáo tề tựu về lập tự tu tập.
Khảo sát các dấu hiệu trên, có thể khẳng định rằng, tác dụng của sự
dung hợp đã kích thích hoạt động tín ngưỡng tôn giáo trường tồn, nó không
thể thiếu và được ủng hộ cao đối với người bản địa. Hoạt động tín ngưỡng tôn
giáo đã đóng góp tích cực vào sự phát triển của muôn mặt đời sống xã hội,
đưa xứ Hà Tiên trở thành một nơi trù phú, giàu có, nghĩa tình và phát triển
cho hiện nay và mai sau.
2.3.2. Một số vấn đề đặt ra trong sự dụng hợp
- Sự dung hợp nảy sinh thờ cúng đại trà
Sự dụng hợp trong tín ngưỡng và Phật giáo ở Hà Tiên mang tính tất yếu
của xã hội hiện đại, mỗi tín ngưỡng hoặc tôn giáo muốn tồn tại nhất thiết phải
58
phát triển, theo hướng này hay hướng khác. Ngoài những tiên bộ đã đề cập
phần trên, đó đây vẫn còn một số mặt tồn tại khách quan lẫn chủ quan, xin
nêu vài điển hình khá phổ biến.
Còn khá đông người ngày nay không hiểu vào chùa lễ Phật để đi tìm sự
an lạc trong tâm thái, để khởi phát thiện tâm, chứ đâu phải để cầu xin đắc
phúc, được lợi lộc, vốn là những điều Phật luôn khuyên con người không nên
chấp mê vào đó. Hiện còn khá phổ biến việc lễ bái không đúng cách khiến
nhiều khi dỡ khóc dỡ cười. Ví như: Ở những ngôi tín ngưỡng thì có người đến
cầu phật trời phù hộ tu tâm tích đức; Khi đến chùa lại cầu đánh bắt được
nhiều cá tôm, cầu mổ thịt bán được nhiều gia xúc, cầu cho vay được lãi cao…
Đây là những sai lầm lớn khi không tạo được công đức mà còn gây nên phạm
lỗi với những vị được tôn thờ.
Ai cũng hiểu miếu, đình, chùa vốn là chốn vô cùng linh thiêng, thanh
tịnh, tách biệt với thế tục. Đây cũng là nơi những chúng sinh ngoài thế tục tới
để tỏ lòng kính ngưỡng và gieo mầm cơ duyên với Phật pháp, còn tín ngưỡng
thì tôn kính các vị thần của mình mong mưa thuận gió hòa, thế gian an lạc.
Đối với các vị thần, thiện thần thì các vị an cư ở ngôi đình hoặc miếu của
mình, ai mong gì thì đến trước thần cầu khấn, định kỳ hàng năm chỉ vài lần
nhận lễ vật dâng cúng của cộng đồng cư dân ở một làng xã nhất định, thần chỉ
phù trợ cho những ai có lòng thành hướng thiện, thần không giúp kẻ ác hại
người. Ác thần thì có sự gây tai họa, phải thờ cùng cẩn thận để tránh tai ương
cho dân làng, cũng định kỳ hàng năm vài lần dâng lễ vật cúng thần.
Đối với các vị Phật thì không cần chút vật chất gì ở con người, mà với
sự từ bi hỷ xả, chư Phật muốn dang tay cứu độ con người ra khỏi bể khổ của
ham muốn đời thường gây cho nhiều phiền muộn. Phật chỉ có thể giúp những
người kính Phật hướng tâm tích đức tu thiện, khuyên con người từ bỏ ham
muốn vật chất, từ bỏ “tham sân si” để đạt được tâm thanh tịnh, tiến đến cảnh
giới giác ngộ, chứ không thể ban phát tài lộc, công danh, hay giúp con người
59
tiêu tai giải nạn.
Khi con người có thói quen sùng bái vật chất kim tiền, các vấn đề đạo
đức lại dường như bị xem nhẹ. Tiền lẻ vốn hoàn toàn không phải những thứ
vật chất mà con người có thể dâng lên cõi Phật để mong xả bỏ tâm tham lam
mê đắm vật chất tiền bạc, đây vốn là điều đầu tiên các vị thần và Phật khuyên
răn con người. Liệu tiền này có sạch khi trước cúng dường thì nó đã qua tay
bác hàng thịt, cô hàng cá, bác hàng rau, v.v… dính đầy vi khuẩn, chưa nói
đến sự thanh khiết cần phải dâng lên cúng Phật.
Ngày nay, hầu như không đình chùa nào không tu bổ nơi thờ tự của họ.
Việc tu bổ đúng thì không bàn đến làm chi, đằng này lại tu bổ sao cho nổi
trội, không đúng quy cách hoặc thừa công trình phụ trợ, gây lãng phí lớn.
Người ta thấy có vị sư tăng cai quản những ngôi chùa thật to lớn, lộng lẫy, đi
xe sang, điện thoại đắt tiền, biểu hiện sự ham muốn hưởng thụ tiện nghi vật
chất mạnh mẽ, nói năng hành xử không khác người ngoài thế tục. Rất cần rũ
bỏ để hướng tâm đức xứng đáng là con của Phật, người hiểu phật pháp gặp
những ngôi chùa như vậy, chắc họ suy ngẫm nhiều lắm.
Có rất nhiều người khi tới chùa cũng thắc mắc trong lòng khi nhìn thấy
những sự chướng tai gai mắt trong hành xử của tăng ni trong chùa, nhưng vì
thói quen và thấy chùa to lớn đẹp đẽ nên nghĩ rằng hẳn vẫn là tốt đẹp khi cúng
Phật ở đó. Song theo như ý kiến của nhiều người tu hành chân chính, những
ngôi chùa chẳng hề thanh tịnh sẽ không có Phật ngự mà thay vào đó lại chính
là quỷ ma hoành hành.
Gần đây nhất là dịp tết, rằm tháng giêng và tiết thanh minh, đã có nhiều
hoạt động lãng phí và phản cảm. Thay vì tổ chức nhiều hoạt động vui chơi
giải trí văn hóa hướng đến giá trị nhân văn, cố kết cộng đồng, người ta chỉ
chú tâm tổ chức dọn cổ như đám cưới, món ăn đắc tiền thếch đãi thực khách.
60
Việc cúng bái là việc con người thể hiện đức tin với trời phật, thánh thần và
người trên hộ độ cho ai có lòng thành hướng về họ. Dọn mâm cổ quá nhiều
gây tốn kém không cần thiết.
Việc đặt thùng công đức quá nhiều trong khuôn viên một ngôi thờ tự là
không cần thiết. Có nơi đặt thùng công đức gần như “mọi lúc mọi nơi” để
“nhắc nhở nhẹ” khách thập phương trong một ngôi thờ tự. Qua khảo sát ở
chùa Tam Bảo, có đến 07 thùng công đức được đặt ở điện Phật, nhà thờ Tổ,
nơi bán sách, khu tháp tiền nhân, khu phật cảnh Quan Âm bồ tát, phật cảnh
Thích Ca thành đạo dưới cội Bồ Đề và khu phật cảnh Di Lặc.
Thiếu minh bạch trong thu chi tiền công đức: Nhiều cơ sở thờ tự hiện
đang sử dụng nguồn đóng góp công đức chưa hiệu quả, chi tiêu thiếu minh
bạch. Thời gian qua đã có nhiều vụ việc tranh chấp xãy ra: Tranh chấp đất tôn
giáo giữa 02 chức sắc Phật giáo (Ngọc Đăng), tranh chấp chức vị trụ trì giữa
02 chức sắc (Phù Dung), bất đồng trong thu chi ở một số Ban Trị sự ở đình
miếu. Việc này đã gây phản cảm, bức xúc và giảm lòng tin vào một số cơ sở
tín ngưỡng tôn giáo.
Dễ thấy nhất là hoạt động cúng dường trai tăng ở các chùa Phật giáo hệ
Bắc tông. Ý nghĩa của việc cúng dường trai tăng là cúng vật phẩm để các nhà
tu hành sử dụng, xem như họ thay ông bà dùng vật cúng dường của gia đình.
Song, ngày nay có không ít cuộc cúng dường huy động đến hàng chục tăng ni,
ngoài vật dụng còn có hàng chục bao bì tiền cho riêng từng vị, khiến chi phí
cho mỗi cuộc trai tăng lên đến hàng chục triệu đồng. Thiết nghĩ cúng tiến ông
bà tổ chức đã được làm giỗ hàng năm, người mới chết đã có cúng thất tuần,
có cần thiết tổ chức trai tăng gây tốn kém hay không? Hơn nữa, hàng ngũ tăng
ni là những vị trên kẻ trước gần gũi với Phật trên cao, lại hạ mình cúng tiến
vong linh âm phủ, không cần biết nghiệp tội của họ đã trả xong hay chưa, đủ
duyên đủ kiếp được về trên không. Xin nói thêm, việc quản lý vong linh là
61
việc của “Trời”, không phải của Phật.
- Từ dung hợp, xuất hiện phong trào “ủy thác trách nhiệm” thờ cúng tổ
tiên cho ngôi chùa Phật
Việc mang tro cốt, hình ảnh người chết lên chùa thờ và cúng lễ cho
người chết tại chùa ngày nay đã trở nên phổ biến và “bình thường”. Nhưng
thực ra đây là một trong những sự bất kính lớn nhất đối với chư Phật, tổ tiên
mất đi chỗ dựa gia đình nơi con cháu.
Chùa là nơi thờ Phật, liệu rằng có thể ở cùng một nơi với âm hồn người
chết? Phật, trời, thần, tiên, thuộc nơi cảnh giới rất cao siêu, có vị thế không
thể thay đổi và được suy tôn theo cấp bậc rõ ràng. Còn các vị tổ sư, vong linh
con người vốn chỉ là chúng sinh cùng đồng hành với con người hướng đến
cảnh giới giác ngộ.
Ai cũng biết rõ, với lòng bao dung của mình thì Phật sẵn sàng bao dung
và dung nạp hết tất cả những khổ đau phiền não để hướng con người đến
thiện tâm, dần biến đổi nhận thức tín ngưỡng, dung hợp nhưng không hòa tan
mất đi, không đánh mất căn tính của mình. Vậy mà, với lý do “nương nhờ cửa
Phật”, con người đã tự ý sắp đặt để Phật “phải trông coi và bảo hộ cho người
chết”, biến ngôi chùa thành giống như một nhà thờ họ với đầy tro cốt, bài vị
và di ảnh.
Xưa, chùa làng nào, dân làng nấy thờ, đó là xuất phát từ việc tín
ngưỡng và tin theo Phật luôn ở bên cạnh, ở khắp nơi, trông nom gìn giữ cho
con người bảo trì được thiện tâm, tin điều thiện tránh điều dữ, tích phúc đức.
Việc kính Phật lên chùa là việc để thể hiện kính ngưỡng, không với tâm cầu
xin tài lộc. Còn nay, nhiều người do tâm lý đám đông, nghe nói chùa nào
thiêng, chùa nào nổi tiếng thì nô nức đến dâng lễ cầu xin, giống như một cuộc
mua bán đổi chác mặc cả với Phật.
62
- Từ dung hợp cũng có phát sinh vấn đề về an ninh trật tự
Tín ngưỡng đã từ lâu đồng hành cùng với niềm tin vào thiên nhiên, tổ
tiên ông bà, đồ vật chung quanh nhà mọi người dân. Xuất phát từ tình yêu
thương nhân loại và cầu mong một cuộc sống ổn định, đầy đủ và tránh tai
họa, con người đã thực hành nhiều nghi lễ tượng trưng cho lòng thành của
mình đối với từng loại hình tín ngưỡng mà từng cá nhân, từng gia đình, từng
cộng đồng dân cư đồng tin theo. Tuy nhiên, do chưa nhận thức đầy đủ tín
ngưỡng với mê tín nên nhiều người ngộ nhận hành vi ứng xử theo từng loại
hình tín ngưỡng, dẫn tới mê tín, thậm chí còn dị đoan, ma mị, tiêu cực. Từ
những hệ lụy này mà đã có nhiều trường hợp hao tài tốn của. Xin nêu ra đây
những loại hình hiện hữu cần xem xét loại bỏ hoặc hạn chế.
Qua khảo sát, dễ thấy nhất là vào ngày giỗ, nhà nhà đều đốt vàng mã
trước khi dọn cổ. Tục này đã có từ lâu đời nay, gây tốn kém không cần thiết
khi quan niệm rằng: Sau khi chết, con người cũng có một đời sống, cũng có
các nhu cầu như khi đang ở dương thế. Vì vậy khi người thân đã mất, phải
sắm đủ thứ vàng mã để đốt cúng để người ở đã chết sử dụng ở cõi âm.
Việc tưởng nhớ người chết là một nét đẹp văn hóa rất nhân văn sâu sắc
của đồng bào các dân tộc ở nước ta cũng như trên thế giới. Nó thể hiện sự
thương tiếc đối với một con người, một tình cảm thiêng liêng gắn chặt bền
vững đối với người quá cố. Đây là tình cảm đương nhiên của con người.
Song, đó đây đôi khi vì thương tiếc quá hoặc để chơi trội với thiên hạ, nhiều
gia đình đã thực hành một cách thái quá, người ta có thể sắm vàng mã với
hình dáng nhà lầu, xe hơi, máy lạnh, điện thoại di động, tiền các loại, để cúng
cho người đã chết.
Đối chiếu với giáo lý nhà Phật, đức Phật Thích Ca không hề dạy đốt
vàng mã để cúng gia tiên. Có một câu chuyện bị bóp méo và suy diễn ra lư do
biện minh cho việc đốt vàng mã, trong điển tích Mục Kiền Liên cứu mẹ đức
63
Phật chỉ yêu cầu “…chí thành sắm lễ nghi trai đàn đem dâng cúng dường chư
Tăng. Các ngài sẽ cầu nguyện cho thân mẫu ông được giải thoát” mà thôi, chứ
hoàn toàn không kêu gọi đốt vàng mã. Đức Khổng Từ từng có lần căm giận
thốt lên: “Kẻ nào sinh ra tục chôn người gỗ theo với người chết là bất nhân”.
Ông Mạnh Tử cũng ác cảm với tục hình nhân thế mệnh: “Kẻ nào dùng người
bù nhìn là tuyệt tự”.
Câu cửa miệng của dân gian xưa: "Tháng giêng là tháng ăn chơi, tháng
hai cờ bạc, tháng ba hội hè" đã trở thành điểm bấu víu trong cách nghĩ của
không ít người trong dịp trẩy hội đầu xuân năm mới khi sa đà vào những trò
cờ bạc đỏ đen, mê tín dị đoan. Ðây là cách nghĩ và cũng là một thói quen xấu
tồn tại từ nhiều năm nay, xuất phát từ nhận thức lệch lạc, lỗi thời, không phù
hợp với một xã hội văn minh, hiện đại. Việc để xảy ra tệ nạn cờ bạc và mê
tín dị đoan tràn lan không những làm suy giảm ý nghĩa tâm linh, vẻ đẹp
văn hóa mà còn mang lại hình ảnh phản cảm, thiếu văn minh, mất an ninh
trật tự, tác động tiêu cực đến xã hội.
Vấn đề vệ sinh môi trường cũng là vấn đề cần bàn đến do tình trạng
gây ô nhiễm môi trường nếu không nâng cao ý thức bảo vệ đầy đủ. Tuy con
người chú trọng hơn trong trang phục hành lễ, đó đây vẫn còn tình trạng ăn
mặc hở hang, phản cảm nơi thờ tự khiến dư luận bức xúc.
- Sự tiếp nhận dung hợp và tiếp biến của chính quyền cơ sở chưa
chặt chẽ
Có khá nhiều người chưa phân biệt rõ đâu là tín ngưỡng thờ thần, đâu
là các vị chân tu. Rất cần có những tuyên truyền đầy đủ để mọi người nhận
thức rõ hơn và có hình thức tu tập, thờ cúng rõ ràng hơn, không còn đan xen,
mập mờ như hiện nay ta thấy. Giữa tín ngưỡng và Phật giáo rất gần gũi với
hồn thiêng sông núi nên trong tiềm thức người dân đa số chưa nhận thức rõ
ràng đâu là hoạt động tín ngưỡng, đâu là hành vi tôn giáo. Đáng chú ý là ở
64
ngay cả các vị tăng ni hàng ngày thực hành cũng khó phân biệt được. Từ đó,
việc giải thích cho tín đồ càng khó khăn hơn, tín đồ mặc nhiên xem các vị trên
bàn thờ tổ cũng phải thờ, mặc dù không phải là phật theo tôn giáo của mình.
Sự mập mờ này nếu không nắm vững kiến thức để quản lý chặt chẽ sẽ rất dễ
bị biến tướng, lợi dụng.
Tổ chức rước tượng Phật trong tang ma đang nở rộ. Nếu chính quyền
không quản lý tốt, một ngày nào đó nhiều tổ chức tôn giáo khác, cơ sở tín
ngưỡng cũng tổ chức rước tượng đám tang hay cuộc lễ nào đó, thì sẽ trở thành
một hoạt động bát nháo, mất an ninh trật tự.
Từ sự dung hợp sẽ xuất hiện sự tiếp biến để cho ra đời một biến thể
khác, rất cần có kiến thức sâu về tôn giáo và tín ngưỡng để giải quyết hợp lý,
tránh sơ hở cho các thế lực thù địch lợi dụng chống phá.
2.3.3. Một số giải pháp nhằm phát huy những giá trị sự dung hợp
của Phật giáo và tín ngưỡng bản địa ở thị xã Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang
hiện nay
Thực hiện chủ trương lớn này, các cấp chính quyền đã ban hành nhiều
văn bản chỉ đạo cũng như thực hiện, ngày nay tỉnh Kiên Giang cũng như thị
xã Hà Tiên đang áp dụng các văn bản sau đây: Nghị quyết số 25-NQ/TW
ngày 12 tháng 3 năm 2003 của Ban Chấp hành Trung ương (khóa IX) về công
tác tôn giáo [3], Luật Tín ngưỡng tôn giáo (02/2016/QH14, ngày 18 tháng 11
năm 2016 của Quốc hội) [14], Nghị định số 162/2017/NĐ-CP ngày 30 tháng
12 năm 2017 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi
hành Luật Tín ngưỡng tôn giáo [5], Kế hoạch của Tỉnh ủy Kiên Giang về lãnh
đạo thi hành Luật Tín ngưỡng tôn giáo trên địa bàn tỉnh Kiên Giang [27],
Nghị quyết của Thị ủy Hà Tiên về thực hiện chính sách dân tộc tôn giáo trên
địa bàn thị xã Hà Tiên [25]. Từ đây, Thị ủy Hà Tiên ban hành Nghị quyết về
thực hiện chính sách dân tộc tôn giáo, UBND thị xã đề ra kế hoạch 5 năm
65
thực hiện công tác dân tộc tôn giáo trên địa bàn giai đoạn 2016 – 2021, chủ
tịch UBND các phường căn cứ kế hoạch của UBND thị xã đề ra chương trình
hành động phù hợp với tình hình thực tế địa phương.
Để góp phần khắc phục một số vấn đề đặt ra trong mối dung hợp giữa
tín ngưỡng với Phật giáo. Xin nêu ra một số giải pháp nhằm phát huy những
giá trị văn hóa của sự dung hợp của Phật giáo và tín ngưỡng bản địa ở thị xã
Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang hiện nay.
- Nắm vững các khái niệm về tín ngưỡng, tôn giáo theo Luật Tín
ngưỡng tôn giáo đã ban hành. Thực hiện đầy đủ các quy định dưới luật có liên
quan còn hiệu thực thi hành.
- Quán triệt đầy đủ các quan điểm, tư tưởng chính trị đối với cán bộ
làm công tác quản lý tín ngưỡng, tôn giáo:
Mỗi cán bộ, người làm công tác quản lý về tôn giáo cần xem đây là nội
dung quan trọng nhất để vừa xây vừa chống các hoạt động lợi dụng tín
ngưỡng, tôn giáo. Tạo mọi thuận lợi cho tín ngưỡng tôn giáo hoạt động trong
khuôn khổ pháp luật. Những điều chưa thông, chưa rõ cần trao đổi kịp thời
lên cấp trên để có ý kiến giải quyết thấu tình hợp lý, tránh đối đầu với tín
ngưỡng, tôn giáo.
Tín ngưỡng, tôn giáo cho dù có nguồn gốc từ nước ngoài hay nội sinh
nhưng vẫn luôn đồng hành cùng mọi dân tộc anh em qua mọi thời kỳ đấu
tranh chống giặc và xây dựng đất nước.
Trong chủ nghĩa xã hội ngày nay, sự tồn tại của tín ngưỡng, tôn giáo là
sự tồn tại khách quan. Việc ứng xử với tín ngưỡng, tôn giáo phải dựa trên
nhận thức và tuân thủ quy luật phát triển chung của lịch sử xã hội, quy luật
hình thành phát triển của chủ nghĩa xã hội cũng như quy luật của các loại hình
tín ngưỡng, tôn giáo. Cần phân định rõ đâu là trong và đâu là ngoài nhu cầu
66
tín ngưỡng, tôn giáo; đâu là sự đan xen giữa nhu cầu tín ngưỡng tôn giáo với
các nhu cầu khác để tránh tình trạng nhận định không sác thực, sai lầm để bị
địch lợi dụng chống phá.
- Xây dựng một hệ thống chính trị vững mạnh toàn diện: Tập trung xây
dựng hệ thống chính trị từ thị xã đến phường xã vững mạnh về chính trị, tư
tưởng và tổ chức để đủ sức lãnh đạo, quản lý và giải quyết những mâu thuẫn,
tranh chấp giữa các tôn giáo, dân tộc. Tham mưu cho các cấp ủy Đảng, chính
quyền lên kế hoạch củng cố vững chắc theo hướng lâu dài phong trào toàn
dân bảo vệ an ninh Tổ quốc, tín ngưỡng tôn giáo đồng hành cùng dân tộc,
không để phần tử xấu tuyên truyền xuyên tạc, lợi dụng chính sách tôn giáo
hoặc dân tộc để làm trái pháp luật. Tăng cường cán bộ có năng lực bám sát
địa bàn tôn giáo để làm chỗ dựa cho cấp ủy và chính quyền cơ sở; củng cố đội
ngũ cốt cán ở cơ sở ấp, khu phố. Giải quyết việc tôn giáo tham gia thực hiện
chủ trương của nhà nước, thực hiện theo nguyên tắc: Việc đạo để đạo tự giải
quyết trên cơ sở vận động của đoàn thể chính trị cấp cơ sở; Trong giải quyết
các vấn đề liên quan đến tín ngưỡng, tôn giáo, cần xem xét kĩ càng các vấn đề
lịch sử, quá trình phát triển, niềm tin để xem xét giải quyết. Tránh đối đầu,
cứng ngắc khi áp dụng pháp luật vào tín ngưỡng, tôn giáo; Khi có hoạt động
tôn giáo trái pháp luật, cần phải kiên trì cảm hóa giáo dục và răn đe. Trong
trường hợp không chấp hành theo pháp luật thì đưa ra kiểm điểm, hạ uy tín
trước dân; thu thập, củng cố tài liệu, chứng cứ pháp lý để xử lý công khai
trước pháp luật khi cần thiết.
- Nâng cao công tác tuyên truyền, giáo dục:
Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến các quan điểm, chủ trương,
chính sách về tôn giáo của Đảng và Nhà nước trong cán bộ, đảng viên, nhân
dân, nhất là trong chức sắc, chức việc, nhà tu hành và tín đồ các tôn giáo.
Khơi dậy tinh thần yêu nước, truyền thống đấu tranh bất khuất, kiên cường,
67
một lòng, một dạ theo Đảng, theo cách mạng của đồng bào các dân tộc, tôn
giáo; gắn bó với dân tộc, với đất nước và với chủ nghĩa xã hội, hăng hái thi
đua xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Đổi mới nội dung, phương thức công tác vận động đồng bào tín đồ các
tôn giáo sao cho phù hợp với đặc điểm của đồng bào có nhu cầu luôn gắn bó với
sinh hoạt tôn giáo và tổ chức tôn giáo. Tăng cường hoạt động của Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân trong việc tuyên truyền chủ trương,
chính sách đối với chức sắc, chức việc, nhà tu hành và tín đồ các tôn giáo.
Nội dung tuyên truyền cần bám sát, làm nổi bật ý nghĩa của tính nhân
văn sâu sắc của nhận thức về tôn giáo nêu trong Luật Tín ngưỡng tôn giáo.
- Phát triển đồng bộ kinh tế, xã hội, an ninh quốc phòng:
Nhà nước cần có những dự án có tính khả thi, sát yêu cầu thực tế của
nhân dân như đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng giao thông, thuỷ lợi, trường học,
bệnh viện, điện, nước sinh hoạt, bưu chính, viễn thông, phát thanh truyền hình
và các loại hình dịch vụ,... Đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và tăng
cường củng cố quốc phòng - an ninh ở các vùng đồng bào tôn giáo. Đồng thời
không ngừng nâng cao trình độ dân trí, phát triển giáo dục, y tế; phát huy
ngành nghề truyền thống của đồng; chăm lo xây dựng "thế trận lòng dân", thế
trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân. Đây vừa là yêu
cầu bức thiết của việc phát triển của địa phương và của đồng bào các tôn giáo,
vừa là nhiệm vụ quan trọng trong đấu tranh p ng chống lợi dụng vấn đề tôn
giáo xâm phạm an ninh quốc gia của các thế lực thù địch đối với vùng đồng
bào tôn giáo, biên giới, vùng sâu, vùng xa.
Tăng cường và nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh ngoại giao, quan
hệ hợp tác quốc tế, hạn chế hoạt động của các thế lực thù địch lợi dụng địa
bàn biên giới để tạo bàn đạp móc nối đưa người đi nước ngoài huấn luyện,
chuyển lực lượng và hoạt động chống phá vào nội địa để lập thực hiện âm
68
mưu “Diễn biến hòa bình” của chúng.
- Tăng cường quản lý Nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo: Trong bài
Tình hình tôn giáo và những yêu cầu đặt ra với công tác tôn giáo vận đăng
trên trang wed Ban Tôn giáo Chính phủ: “Mọi việc thành bại đều do công tác
dân vận mà ra, theo Hồ Chủ tịch dân vận là “vận động tất cả lực lượng của
mỗi người dân, không để sót một người dân nào, góp thành lực lượng toàn
dân, để thực hành những công việc nên làm… Dân vận không thể chỉ dùng
báo chương, sách vở, mít tinh, khẩu hiệu, truyền đơn, chỉ thị mà đủ”. Bác chỉ
rõ các bước đi của người làm dân vận là phải giải thích cho dân hiểu, chỉ ra
lợi ích cho họ, bàn bạc, hướng dẫn dân làm, giúp đỡ dân thực hiện và rút kinh
nghiệm việc làm với dân. Như thế, làm công tác tôn giáo vận khác với người
làm công tác quản lư tôn giáo [1]. Những năm qua, công tác tôn giáo đạt được
rất nhiều thành tựu nhưng cũng có những khuyết điểm mà Nghị quyết 25-
NQ/TW Về công tác tôn giáo năm 2003 đã chỉ ra [3]. Rõ ràng thực tiễn về tôn
giáo hiện nay ở Việt Nam có nhiều thay đổi nên cũng đặt ra cho người làm
công tác tôn giáo những yêu cầu mới, đó là công tác dân vận trong tôn giáo,
gọi tắt là “tôn vận”. Với một sự việc tôn giáo đề xuất, người quản lý tôn giáo
đối chiếu pháp luật trả lời đương sự được làm hay không được làm. Còn
người làm công tác “tôn vận” lại phải phân tích việc đó lợi hay không lợi lúc
này và nếu có lợi thì hướng dẫn thủ tục, cùng với họ tháo gỡ vướng mắc để
công việc mau kết qủa. Mục tiêu cao nhất của “tôn vận” là tập hợp được đông
đảo người có đạo trong khối đại đoàn kết toàn dân, không để tín đồ bị lực
lượng khác lôi kéo, nhất là không để họ biến thành lực lượng đối lập. Có khi
phải hy sinh cái nhỏ vì lợi ích lớn. Tránh những mâu thuẫn nhỏ nhặt, vụn về
trong giao tiếp do thiếu hiểu biết.
- Nâng cao tính tự quyết, tự chủ:
Thời gian qua, Đảng và Nhà nước ta thừa nhận và khuyến khích phát
69
huy những giá trị đạo đức, văn hóa, truyền thống tốt đẹp của tín ngưỡng, tôn
giáo trong công cuộc xây dựng xã hội mới. Có thời gian, do yêu cầu của cách
mạng cần phải tập trung cho nhiệm vụ đấu tranh giải phóng dân tộc trong điều
kiện các thế lực thù địch lợi dụng tôn giáo chống phá cách mạng nên thường
nhấn mạnh đến mặt tiêu cực, hạn chế của tôn giáo, như tư tưởng yếm thế, ru
ngủ con người. Như vậy là phiến diện, một chiều, chưa nhìn nhận sự tích cực
của hoạt động đúng đắn của tín ngưỡng, tôn giáo.
Ngày nay, kế thừa tư tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng trong cách mạng
dân tộc, dân chủ, nhưng được bổ sung, phát triển làm sâu sắc hơn trong thời
kỳ Đổi mới. Bên cạnh mặt hạn chế cần khắc phục, phải trân trọng và phát huy
những giá trị tích cực của tôn giáo, trong đó có mặt tích cực về đạo đức, văn
hóa tôn giáo. Phải để cho tôn giáo phát huy hết chức năng điều chỉnh hành vi
xã hội của con người, hướng con người đến chân, thiện, mỹ. Tín đồ các tôn
giáo với niềm tin vào đấng tối cao và cuộc sống vĩnh hằng sau khi chết, lo sợ
bị trừng phạt hoặc bị "quả báo" nếu phạm tội hoặc làm điều ác nên thường có
hành vi đạo đức hướng thiện. Giáo lý giáo luật và những lời răn dạy của tôn
giáo đã tạo ra những quy phạm đạo đức hướng con người làm các việc thiện
lành, tránh điều ác, tu nhân tích đức để được giải thoát (Phật giáo). Các tôn
giáo không chỉ "thiêng hóa" các quy phạm đạo đức mà còn tạo ra dư luận xă
hội để điều chỉnh hành vi của tín đồ hướng đến cái thiện, bài trừ cái ác. Thực
tế cho thấy, ở những nơi tôn giáo ổn định, có đông tín đồ thì các tệ nạn xã hội
ít hơn, trật tự ổn định và lối sống đạo đức nền nếp hơn.
Nhà nước tránh can thiệp quá sâu vào nội bộ của mỗi tín ngưỡng, tôn
giáo mà chỉ quản lý về mặt chủ trương, hướng dẫn những việc các tín ngưỡng
tôn giáo cần thực hiện, tạo sự đồng thuận xã hội cao và hiệu quả.
- Phát huy những điều tốt đẹp, khắc phụ những hạn chế
Phật khoan dung độ lượng, đồng cảm trong giáo lý, hướng con người tự
70
tu sửa bản thân vừa giải thoát đến sự an lạc vĩnh hằng. Trong dung hợp nhưng
vẫn giữ nguyên căn tính của mình. Các vị tăng ni phải tu tập tinh tấn khẳng
định bản chất nhà Phật, giúp con người được giải thoát, loại bỏ u mê, đồng
hành cùng chúng sinh về với cỏi niết bàn, không bỏ mất căn tính.
Tiểu kết chƣơng 2
Những truyền thuyết, truyền miệng tín ngưỡng bản địa đã làm nổi bật
hình ảnh Phật giáo trong lòng người dân Hà Tiên nói riêng, tỉnh Kiên Giang
nói chung. Sự dung hợp một lần nữa được nhắc đến khi trong các chùa đều có
ban thờ người đã chết và hương khói hàng ngày, những ngày rằm đều tổ chức
cúng chay; các chùa thể hiện một cách đậm nét sự dung hợp của mình với đại
chúng, đã nhập thế bằng hành động cụ thể thông qua việc tham gia có trách
nhiệm trong các lễ hội tín ngưỡng ở địa phương. Tuy nhiên, các ngôi thờ tín
ngưỡng thì ít chịu sự dung hợp với Phật giáo, mặc cho người bản địa luôn tôn
thờ Phật trong hoạt động tín ngưỡng của mình.
Sự dung hợp là vấn đề tất yếu của xã hội, sẽ tiếp tục được duy trì và
tiếp biến theo sự vận động của quy luật xã hội phát triển không ngừng, là nhu
cầu cơ bản, không thể hạn chế hay áp đặt ý đồ lên trên nó. Những tồn tại đặt
ra trong sự sung hợp không đáng kể. Hệ thống chính trị cũng cần có lực lượng
cán bộ đủ tầm để kịp thời xử lý tình huống khi xãy ra các tranh chấp, mâu
thuẫn về tín ngưỡng, tôn giáo mà xử lý hài hòa, dứt điểm, nhanh chóng. Tạo
thuận lợi tốt nhất cho hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo hoạt động trong khuôn
khổ pháp luật cho phép, tránh đối đầu hoặc tạo sơ hở cho các thế lực thù địch
71
chống phá.
KẾT LUẬN
Luận văn đã khái lược chung về Phật giáo và tín ngưỡng bản địa ở thị
xã Hà Tiên, nêu bật quá trình hình thành và phát triển của tín ngưỡng và
Phật giáo, nói lên những đặc điểm và loại hình sinh hoạt tâm linh. Đồng
thời, luận văn cũng làm rõ những biểu hiện của sự dung hợp giữa Phật giáo
và tín ngưỡng bản địa qua những cách bày trí, thờ phượng, nghi thức thờ
cúng, những câu chuyện truyền thuyết, truyền miệng. Rút ra những giá trị
của sự dụng hợp đem lại cho tâm linh bản địa, cũng như những hạn chế còn
tồn tại trong sự dung hợp này. Qua đó đã đề ra các giải pháp phát huy giá trị
dung hợp.
Sự dung hợp thể hiện rõ nét qua tục thờ cúng tổ tiên, với hình ảnh các
vị phật có mặt ở khắp nơi, từ trong đình chùa, nhà cửa cho đến trên phương
tiện giao thông. Trong sự dung hợp không có sự mâu thuẫn xãy ra, trái lại, tín
ngưỡng và Phật giáo lại tương trợ lẫn nhau cùng đồng hành và phát triển theo
hướng đạo đức xã hội một cách nhân văn.
Sự dung hợp không làm mất đi các giá trị tâm linh cả tín ngưỡng bản
địa lẫn Phật giáo cũng như giá trị của các tôn giáo khác. Trái lại, dung hợp đã
giúp xuất hiện một hệ phái mới trong hệ thống Phật giáo, góp một phần vào
hình thành tôn giáo mới là Cao Đài mang tâm thức người Việt ở Nam Bộ, một
vị lão Hòa thượng được thần thánh hóa, một ngôi chùa Nam tông xuất hiện nữ
giới tu tập, có sự tiếp biến từ thờ thần Ấn Độ giáo trở thành ngôi đình thần
hoàng thờ ông cháu họ Mạc.
Ngày nay, đứng trước xu hướng tín ngưỡng, tôn giáo ngày càng hoạt
động mạnh mẽ, sâu rộng trên mọi mặt đời sống xã hội, chúng ta cần phải tỉnh
táo, tránh đối đầu sẽ tạo ra sơ hở cho các thế lực thù địch có cơ hội hoạt động
72
chống phá. Rất cần có chính sách hợp lý đối với sự phát triển của một bộ phận
đồng bào vùng biên khó khăn. Hệ thống chính trị có lực lượng cán bộ đủ tầm
để kịp thời xử lý tình huống khi xãy ra các tranh chấp, mâu thuẫn về tín
ngưỡng, tôn giáo mà xử lý hài hòa, dứt điểm, nhanh chóng. Tạo thuận lợi tốt
nhất cho hoạt động tín ngưỡng, tô giáo hoạt động trong khuôn khổ pháp luật
cho phép.
Trong công cuộc đổi mới đất nước các cấp ủy Đảng, chính quyền cần
xem đây là nhân tố quan trọng cấu thành khối đại đoàn kết toàn dân tộc tham
gia vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Thông qua nội dung luận văn này đã giúp cho bản thân tôi nắm được
những vấn đề thực tiễn và nguyên tắc quản lý Nhà nước; biết cách trình bày
những vấn đề có liên quan đến tín ngưỡng, tôn giáo; nắm được vấn đề thực
tiễn trong đời sống tín ngưỡng, tôn giáo của các chức sắc và tín đồ để kịp thời
xử lý các tình huống cụ thể phát sinh trong thực tiễn liên quan đến tín
ngưỡng, tôn giáo.
73
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban Tôn giáo Chính phủ (2019), Tình hình tôn giáo và những yêu cầu
đặt ra với công tác tôn giáo vận;
2. Ban Tôn giáo Sở Nội vụ Kiên Giang (2017), Báo cáo tổng hợp thực
trạng tôn giáo trên địa bàn tỉnh Kiên Giang;
3. Ban Chấp hành Trung ương (2003), Nghị quyết số 25-NQ/TW, khóa IX,
Về công tác tôn giáo;
4. Bộ Chính trị (1990), Nghị quyết số 24-NQ/TW, khóa VI, Về tăng cường
công tác tôn giáo trong tình hình mới;
5. Chính phủ (2017), Nghị định số 162/2017/NĐ-CP, quy định chi tiết một
số điều và biện pháp thi hành Luật Tín ngưỡng tôn giáo;
6. George Coedès (2008), Cổ sử các quốc gia Ấn Độ hóa ở Viễn Đông,
Nguyễn Thừa Hỷ dịch, Nxb.Thế giới, Hà Nội;
7. Trương Minh Đạt (2016), Nghiên cứu Hà Tiên, Nxb.TP.Hồ Chí Minh;
8. Nguyễn Đình Đầu (1992), Chế độ Công điền công thổ trong lịch sử khẩn
hoang lập ấp ở Nam kỳ lục tỉnh, Nxb.Trẻ, Hồ Chí Minh;
9. Giáo hội Phật giáo Việt Nam tỉnh Kiên Giang (2013), Lịch sử chùa Sắc
Tứ Tam Bảo, Nxb.Văn hóa văn nghệ, Hồ Chí Minh;
10. Giáo hội Phật giáo Việt Nam tỉnh Kiên Giang (2017), Văn kiện Đại hội
đại biểu Phật giáo tỉnh Kiên Giang lần thứ IV, nhiệm kỳ 2017-2022;
11. Thích Pháp Hảo (2005), Thiên Trúc Tự;
12. Trần Trọng Kim (2017), Việt Nam sử lược, Nxb.Văn học, Hà Nội;
13. Trần Hồng Liên (2019), Góp phần tìm hiểu Phật giáo Nam Bộ, Nxb
Khoa học xã hội, Hồ Chí Minh;
14. Luật Tín ngưỡng tôn giáo (2016);
15. Nguyễn Văn Minh (2013), Tôn giáo tín ngưỡng các dân tộc Việt Nam,
74
Nxb.Khoa học xã hội, Hà Nội;
16. Nhiều tác giả (2013), Đặc khảo về tín ngưỡng gia thần, Nxb Văn hóa
văn nghệ, Hồ Chí Minh;
17. Nhiều tác giả (2012), Đại Nam nhất thống chí, Nxb.Lao Động, Hà Nội;
18. Nhiều tác giả (1978), Lịch sử thế giới trung đại, quyển 2, Nxb.Giáo dục,
Hà Nội;
19. Nhiều tác giả (2003), Tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo và công tác tôn
giáo, Nxb.Chính trị Quốc gia, Hà Nội;
20. Đoàn Thanh Nô (2004), Người Khmer ở Kiên Giang, Nxb.Văn hóa dân
tộc, Hà Nội;
21. Sơn Nam (2015), Đình miếu và lễ hội dân gian miền Nam, Nxb Trẻ, Hồ
Chí Minh;
22. Sơn Nam (2014), Nói về miền Nam, cá tính miền Nam và thuần phong
mỹ tục Việt Nam, Nxb Trẻ, Hồ Chí Minh;
23. Trần Ngọc Quyên (2017), Quản lý Nhà nước đối với hoạt động tôn giáo
trên địa bàn thị xã Hà Tiên tỉnh Kiên Giang, Luận văn Thạc sĩ Quản lý
công;
24. Sở Văn hóa - thể thao và du lịch tỉnh Kiên Giang (2009), Di tích khảo cổ
học Nền Chùa;
25. Thị ủy Hà Tiên (2016), Thực hiện chính sách dân tộc tôn giáo trên địa
bàn thị xã Hà Tiên;
26. Ngô Đức Thịnh (2016), Tín ngưỡng của các dân tộc Việt Nam, Nxb.
Khoa học xã hội, Hà Nội;
27. Tỉnh ủy Kiên Giang (2018), Lãnh đạo thi hành Luật Tín ngưỡng tôn giáo
trên địa bàn tỉnh Kiên Giang;
28. Phan Nhật Trinh (2016), Sự dung hợp giữa Phật giáo và tín ngưỡng thờ
75
cúng tổ tiên của người Việt hiện nay, Luận văn Tiến sĩ Tôn Giáo học, Hà
Nội;
29. Từ điển tiếng Việt (1996), Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng;
30. UBND thị xã Hà Tiên (2017), Báo cáo công tác tôn giáo trên địa bàn thị
xã Hà Tiên;
31. Văn hóa Tùng thư (1959), Đại Nam Nhất thống chí, Nhà in Bình Minh,
Sài Gòn;
32. Viện Dân tộc học thuộc Ủy ban KHXH Việt Nam (1984), Các dân tộc ít
người ở Việt Nam (các tỉnh phía Nam), Hà Nội;
33. Wedsite Phật giáo Kiên Giang (2019), Hạnh Ý, Phật giáo tỉnh Kiên
Giang 5 năm qua;
34. Wedsite Phật giáo Kiên Giang, Hòa thượng Thích Thiện Nhơn (2017),
Phật giáo Kiên Giang qua một góc nhìn;
35. Wedsite Thư viện Hoa Sen (2017), Sơ lược tiểu sử Tổ sư Minh Đăng
Quang;
36. Wedsite Trung Học Hà Tiên Xưa, Trần Văn Mãnh (2018), Chùa Tam
Bảo (Hà Tiên) qua các giai đoạn thời gian;
37. Wedsite Wikipedia (2019), Hà Tiên;
38. Wedsite Wikimedia (2019), Thạch Động thôn vân;
39. Nguyễn Như Ý (1999), Đại Từ điển Tiếng Việt, Nxb Văn hóa - Thông
76
tin, Hà Nội.
PHỤ LỤC
PHỤ LỤC 1
77
Bản đồ địa giới hành chính thị xã Hà Tiên
78
PHỤ LỤC 2
Tổ chức Tín ngưỡng và Phật giáo
THỜI GIAN THÀNH LẬP CÁC ĐÌNH, CHÙA Ở HÀ TIÊN
TT Tên chùa Hệ phái Ngƣời sáng lập Thời gian
79
CHÙA
Nam tông Kinh Bắc tông Bắc Tông Bắc tông Bắc tông Bắc tông Chưa rõ HT. Ấn Đàm Mạc Cửu HT. Minh Đường Cư sĩ Như Nghĩa TT. Thích Chí Hòa
1. 2. 3. 4. 5. 6. 7. 8. 9. 10. 11. 12. Chùa Thiên Trúc Chùa Phù Dung Chùa Tam Bảo Chùa Tiên Sơn Chùa Thanh Hòa Chùa Phật Đà Tịnh xá Ngọc Hồ Khất sĩ Tịnh xá Ngọc Đăng Khất sĩ Tịnh xá Ngọc Tiên Khất sĩ Chùa Giải Thoát Chùa Mũi Nai Chùa Xà Xía Bắc tông Nam tông Khmer Nam tông Khmer 1616 1662 1730 1790 1927 1945 1957 Ni trưởng Huỳnh Liên 1960 1967 1920 Nhân dân Thích nữ Ngân Liên Chưa rõ Đại đức Lộc Sóc Chưa rõ
ĐÌNH, MIỀU, AM
TK.XX TK.XX TK.XX 1834
13. 14. 15. 16. 17. 18. 19. 20. 21. Đình Thần Hoàng Thần hoàng bổn cảnh 1888 Thần hoàng bổn cảnh 1888 Đình Thuận Yên Nhân thần Đình Năm Ông Đình thần Xoa Ảo Nhân thần Nhân thần Đình Ông Bổn Nhân thần Đền thờ họ Mạc Thiện thần và ác thần TK.XX Miếu Thủy Long Thiện thần và ác thần TK.XX Miếu Ngũ Hỗ TK.XX Miếu Bà chúa Xứ Nhân thần Vua Triều Nguyễn Vua Triều Nguyễn Nhân dân Nhân dân Nhân dân Vua Triều Nguyễn Nhân dân Nhân dân Nhân dân
TỔ CHỨC PHẬT GIÁO THỊ XÃ HÀ TIÊN
Ban Trị sự nhiệm kỳ 2017 - 2021
Nơi
TT
Chức vụ
Pháp danh
Thế danh
tu trì
80
Chứng minh
Hòa thượng Thích Giác
1. Phó Ban Trị sự GHPG tỉnh 2. Chứng minh Ban Trị sự
1
Nguyễn Tấn Tạo
Tịnh xá Ngọc Đăng
Nghiêm
GHPG thị xã
Ban Trị sự
Chùa Phật
1.
Trưởng Ban Trị sự PG thị xã
Nguyễn Phước Thành
Thượng tọa Thích Huệ Tâm
Đà, chùa Phù Dung
2.
Đàm Hồng Phúc
Phó Trưởng Ban Thường trực Ban Trị sự GHPG thị xã
Đại đức Thích Pháp Hảo
Chùa Thiên Trúc
3.
Phó Ban Trị sự GHPG thị xã
Trần Thị Phương Chi
Sư cô Thích Nữ Như Kim
Chùa Tam Bảo
Đại đức
Chùa
4.
Phó Ban Trị sự GHPG thị xã
Chottap Panh Nhoa
Chau Bên
Xà Xía
Đại đức
Chánh thư ký Ban Trị sự
Chùa
5.
Thái Hồng Sinh
GHPG thị xã
Thích Tâm Thiền
Phật Đà
Phó thư ký Ban Trị sự GHPG
Sư cô
Chùa
Trần Yến Phượng
6.
thị xã
Thích Nữ Trí Nhân
Tam Bảo
Phan Thị Ngọc Bước
7.
Chánh văn phòng Ban Trị sự GHPG thị xã
Sư cô Thích Nữ Như Nghĩa
Chùa Tam Bảo
Con Trách
8.
Phó văn phòng Ban Trị sự GHPG thị xã
Đại đức Carusirì
Chùa Mũi Nai
Võ Ngọc Điệp
9.
Thủ quỹ Ban Trị sự GHPG thị xã
Sư cô Thích Nữ Huệ Bảo
Chùa Tam Bảo
10.
Vương Thị Kim Ngân
Ni sư Thích Nữ Định
Ủy viên Từ thiện xã hội Ban Trị sự GHPG thị xã
Tịnh xá Ngọc Hồ
Liên
11.
Ủy viên GHPG thị xã
Lâm Văn Thắng
Đại đức Thích Trung Tín
Chùa Thiên Trúc
Sư cô
12.
Ủy viên GHPG thị xã
Nguyễn Thị Thu Phụng
Chùa Giải
Thích Nữ Huệ Đức
Thoát
Chùa
Tu nữ
13.
Ủy viên GHPG thị xã
Nguyễn Thị Mỹ Quyên
Tấn Lực
Thiên Trúc
81
Cư sĩ
Chùa
14.
Ủy viên GHPG thị xã
Lâm Cẩm Tiên
Diệu Sang
Tam Bảo
Cư sĩ
Chùa
15.
Ủy viên GHPG thị xã
Trần Đắc Cường
Minh Tâm
Tam Bảo
16.
Ủy viên GHPG thị xã
Trách Trung Sơn
Cư sĩ Minh Hiện
Chùa Tam Bảo
17.
Ủy viên GHPG thị xã
Lâm Nguyệt Hồng
Cư sĩ Chân Lạc
Chùa Tam Bảo
18.
Ủy viên GHPG thị xã
Huỳnh Tú Dung
Cư sĩ Diệu Phương
Chùa Tam Bảo
19.
Ủy viên GHPG thị xã
Phạm Thúy Phương
Cư sĩ Diệu Ý
Chùa Tam Bảo
Cư sĩ
Chùa
20.
Ủy viên GHPG thị xã
Trần Chí Thông
Minh Đạt
Tam Bảo
Cư sĩ
Chùa
21.
Ủy viên GHPG thị xã
Hứa Hoàng Thuận
Minh Thiện
Tam Bảo
TỔ CHỨC CÁC BAN TRỊ SỰ, BAN ĐẠI DIỆN CƠ SỞ TÍN NGƢỠNG
82
TT Tên cơ sở Số lƣợng Cơ cấu
tín ngƣỡng Trƣởng Phó Thành viên
1. Đình Thần Hoàng 9 2 6 1
2. Đình Thuận Yên 7 2 4 1
3. Đình Năm Ông 9 2 6 1
4. Đình Ông Bổn 5 1 3 1
5. Đền thờ họ Mạc 9 2 6 1
6. Miếu Thủy Long 5 1 3 1
7. Miếu Ngũ Hỗ Không
8. Am Bà Cậu Không
83
6 Tổng cộng 44 10 28
PHỤ LỤC 3
84
Phiếu Khảo sát và Bảng phỏng vấn
85
86
87
88
89
90
91
92
93
94
95
96
97
98