ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------
PHẠM NGỌC ANH
SỰ DUNG HỢP CỦA PHẬT GIÁO VỚI
TÍN NGƢỠNG THỜ MẪU CỦA NGƢỜI VIỆT
Chuyên ngành: Triết học
Mã số: 60220301
LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾ T HỌC
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. ĐẶNG THỊ LAN
Hà Nội, 2016
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 3
1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................. 3
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài ................................. 4
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................. 9
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu ................................................................ 10
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu ................................................. 10
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn ................................................... 10
7. Kết cấu cấu của luận văn: ............................................................................ 10
NỘI DUNG ......................................................................................................... 11
CHƢƠNG 1: KHÁI LƢỢC VỀ PHẬT GIÁO VIỆT NAM VÀ TÍN
NGƢỠNG THỜ MẪU CỦA NGƢỜI VIỆT ................................................... 11
1.1. Quá trình hình thành, phát triển và đặc trƣng của Phật giáo Việt Nam .... 11
1.1.1. Sự du nhập của Phật giáo vào Việt Nam ............................................ 11
1.1.2. Sự phát triển của Phật giáo Việt Nam ................................................. 16
1.1.3. Đặc trưng của Phật giáo Việt Nam ..................................................... 21
1.2. Khái lƣợc về tín ngƣỡng thờ Mẫu của ngƣời Việt .................................. 25
1.2.1. Nguồn gốc của tín ngưỡng thờ Mẫu ...................................................... 25
1.2.2. Đặc trưng của tín ngưỡng thờ Mẫu ........................................................ 28
1.3. Cơ sở cho sự dung hợp của Phật giáo với tín ngƣỡng thờ Mẫu ......... 35
1.3.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế và cơ sở tâm lý cho sự dung hợp giữa Phật
giáo và tín ngưỡng thờ Mẫu .............................................................................. 36
1.3.2. Cơ sở triết lý của Phật giáo và tín ngưỡng thờ Mẫu .............................. 40
CHƢƠNG 2: NHỮNG BIỂU HIỆN CỦA SỰ DUNG HỢP GIỮA PHẬT
GIÁO VỚI TÍN NGƢỠNG THỜ MẪU CỦA NGƢỜI VIỆT ...................... 49
2.1. Sự dung hợp thể hiện qua hình tƣợng Phật Mẫu Man Nƣơng và thờ
Tứ Pháp .............................................................................................................. 49
1
2.1.1. Sự dung hợp thể hiện qua hình tượng Phật Mẫu Man Nương ............. 49
2.1.2.Sự dung hợp của Phật giáo với tín ngưỡng thờ Mẫu thông qua hệ thống
điện thờ và nghi lễ thờ Tứ Pháp ........................................................................ 58
2.2. Sự dung hợp thể hiện qua hình tƣợng Thánh Mẫu Liễu Hạnh ............ 67
2.2.1. Sự dung hợp của Phật Giáo với tín ngưỡng thờ Mẫu thông qua hình
tượng Mẫu Liễu Hạnh ....................................................................................... 67
2.2.2. Sự dung hợp của Phật giáo với tín ngưỡng thờ Mẫu thông qua hệ thống
nghi lễ và điện thờ .............................................................................................. 77
2.3. Những biểu hiện và giá trị của sự dung hợp giữa Phật giáo và tín
ngƣỡng thờ Mẫu của ngƣời Việt ...................................................................... 85
2.3.1. Sự dung hợp giữa Phật giáo và tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt
khẳng định tính độc đáo của Phật giáo Việt Nam ............................................ 85
2.3.2. Sự dung hợp giữa Phật giáo và tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt làm
phong phú thêm bản sắc văn hóa Việt Nam ..................................................... 86
KẾT LUẬN ........................................................................................................ 90
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................... 92
2
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Việt Nam là quốc gia có nhiều loại hình tín ngưỡng, tôn giáo. Với 54 dân
tộc anh em, mỗi dân tộc, kể cả người Kinh (Việt) đều lưu giữ những hình thức
tín ngưỡng, tôn giáo riêng của mình. Người Việt có các hình thức tín ngưỡng
dân gian như thờ cũng ông bà tổ tiên, thờ Thành hoàng, thờ những người có
công với cộng đồng, dân tộc, thờ thần, thờ thánh, nhất là tục thờ Mẫu của cư dân
nông nghiệp lúa nước. Cùng với vị trí địa lý nằm ở khu vực Đông Nam Á có ba
mặt giáp biển, Việt Nam rất thuận lợi trong mối giao lưu với các nước trên thế
giới và cũng là nơi rất dễ cho việc thâm nhập các luồng văn hoá, các tôn giáo
trên thế giới.Chính vì thế ở Việt Nam có không ít những tôn giáongoại lai như
Phật giáo, Hồi giáo, Kitô giáo…Trong đó mỗi loại hình tôn giáo lại có một cách
tiếp cận biến đổi khác nhau, để có thể truyền bá tư tưởng của mình một cách tốt
nhất. Tuy nhiên, điểm chung của chúng đều không thể nào xóa bỏ được các loại
hình tín ngưỡng, tôn giáo bản địa, mà rút cuộc đều phải chung sống với nó, nếu
muốn thu phục được tín đồ.
Tại Việt Nam, khi Phật giáo du nhập vào đã có một hệ thống tín ngưỡng
dân gian khá đa dạng, phong phú. Tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt có lịch
sử hình thành và phát triển từ rất lâu đời, là một loại hình tín ngưỡng tiêu biểu,
mang đậm bản sắc văn hóa Việt Nam. Khi vào Việt Nam, Phật giáo đã nhanh
chóng tổng hợp chặt chẽ với hình thức tín ngưỡng này tạo nên một Phật giáo
riêng có của Việt Nam. Phật giáo Việt nam là sản phẩm của giao lưu, tiếp biến
văn hóa Việt - Ấn nên ngay từ điểm khởi đầu ấy, nó đã đặt ra mối quan hệ tương
tác biện chứng giữa văn hóa và tôn giáo, giữa các yếu tố văn hóa nội sinh và tôn
giáo ngoại nhập.
Mặt khác, tín ngưỡng thờ Mẫu đã hòa quyện cùng Phật giáo để bổ sung
cho mình những triết lý nhân sinh, nhân bản, lòng từ bi vượt ra ngoài biên giới
quốc gia, nâng triết lý nhân sinh lên một tầm cao mới. Sự tiếp biến, giao thoa
3
giữa Phật giáo với tín ngưỡng thờ Mẫu dân gian Việt Nam đã tạo cho Phật giáo
cũng như tín ngưỡng này mang một sắc thái mới không hòa lẫn với Phật giáo ở
nước khác cũng như tín ngưỡng của nền văn hóa khác.
Từ đó,nghiên cứu mối quan hệ giữa Phật giáo với tín ngưỡng thờ Mẫu
Việt Nam trong dòng chảy lịch sử dân tộc là để khẳng định bản sắc riêng của
Phật giáo Việt Nam, khai thác giá trị văn hóa dân tộc, nhằm góp phần xây dựng
nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, củng cố khối đại đoàn kết toàn
dân.Tất cả những khía cạnh trên là cơ sở để tôi lựa chọn cho mình nghiên cứu đề
tài “Sự dung hợp của Phật giáo với tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt”.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
- Các công trình ghiên cứu về Phật giáo Việt Nam
Các công trình nghiên cứu là sách:
Nguyễn Lang với “ Việt Nam Phật giáo sử luận” (Nxb Văn học Hà Nội
1992) đã đề cập đến các giai đoạn du nhập của Phẩt giáo vào Việt Nam, vai trò
của các thiền sư trong công cuộc dựng nước và giữ nước của các triều đại phong
kiến Việt Nam. Đây là công trình nghiên cứu công phu, chi tiêt về Phật giáo
Việt Nam từ khởi nguyên hình thành trải qua các triều đại phong kiến cho đến
thể kỷ XX với phong trào chấn hưng Phật giáo. Ở mỗi giai đoạn lịch sử, tác giả
đều đi sâu phân tích các nội dung tư tưởng của Phật giáo và các đại diện tiêu
biểu cho từng trường phái. Từ đó, tác giả khái quát đặc điểm nổi bật của Phật
giáo Việt Nam gắn với các thời kỳ tương ứng.
Cuốn sách: “Phật giáo với dân tộc” của Thích Thanh Từ (Nxb Thành phố
Hồ Chí Minh, năm 1992). Trong phần 1 của công trình nghiên cứu này, tác giả
đã nêu rõ đạo Phật chung sống với người dân Việt Nam hơn 20 thế kỷ, là sợi
dây liên lạc đã thắt chặt đạo Phật với dân tộc Việt Nam thành một khối bất khả
phân ly. Tư tưởng đạo Phật đã thấm nhuần tinh thần dân tộc bởi sự liên hệ mật
thiết này, người dân Việt Nam coi đạo Phật là đạo của tổ tiên truyền lại. Từ buổi
đầu dựng nước đến cuối thời Trần, các thiền sư Phật giáo đã có sự đóng góp
4
quan trọng trong công cuộc cứu quốc và xây dựng đời sống chính trị, văn
hóa…Trong phần 2 của cuốn sách, tác giả đã lược qua một số giáo lý như: Luân
hồi, Vô ngã, Giải thoát trong đạo Phật để nêu bật luân lý trong Phật giáo là lấy
giải thoát làm mục đích, tức là biết quý trọng tự do của con người, con người tự
do là con người sống trong đất nước có tự do, đất nước có văn minh, quốc gia
tiến bộ và con người không bị ràng buộc bởi hận thù, tù tội…
Đại cương triết học Phật giáo Việt Nam (tập 1) của Nguyễn Hùng Hậu,
(Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội 2002), đã khái quát những nét cơ bản về quá
trình du nhập, cũng như ảnh hưởng của Phật giáo với dân tộc Việt Nam. Trong
chương 1, tác giả đã làm rõ thế giới quan, nhân sinh quan của Phật giáo nói
chung và nhân sinh quan, thế giới quan Phật giáo Việt Nam nói riêng. Trên cơ
sở đó, tác giả đã khảo cứu nhân sinh quan Phật giáo Việt Nam được thể hiện qua
một số nhân vật tiêu biểu như Trần Thái Tông, Trần Nhân Tông, Tuệ Trung
Thượng Sỹ. Theo đánh giá của nhà nghiên cứu Nguyễn Hùng Hậu, mặc dù tiếp
thu tư tưởng triết học nhưng Phật giáo khi được du nhập vào Việt Nam đã có sự
cải biến, bổ sung cho phù hợp với điều kiện kinh tế- xã hội và đời sống văn hóa
tinh thần của người Việt. Đặc biệt, tác giả cho rằng, tư tưởng Phật giáo đã kết
hợp hài hòa với tinh thần yêu nước nồng nàn của người Việt đã tạo nên một Phật
giáo Việt Nam mang tính nhập thế tích cực.
Lịch sử Phật giáo Việt Nam của Lê Mạnh Thát (3 tập) (Nxb. Thuận Hoá,
1999 Huế), lại coi các phân đoạn lịch sử cho sự phát triển của phật giáo Việt
Nam chỉ là nền, qua các giai đoạn lịch sử, công trình này đã phác họa một cách
rõ nét diện mạo của phật giáo Việt Nam qua những đặc điểm và các trường phái
cơ bản, Cùng phân tích về đặc điểm của Phật giáo, tác giả Nguyễn Quốc Tuấn trong
công trình: Vai trò của phật giáo Việt Nam đối với sự phát triển bền vững của đất
nước (2008) đã khái quát nên bốn đặc điểm của phật giáo.
Nguyễn Duy Hinh và cộng sự (2011), trong tác phẩm Phật giáo trong văn
hóa Việt Nam, Về hai đặc điểm Phật giáo Việt Nam in trong Về tín ngưỡng tôn
5
giáo Việt Nam hiện nay,bàn sâu về hai đặc điểm cơ bản của phật giáo Việt
Nam, đó tính dân gian và tính thống nhất và công trình Tư tưởng Phật giáo Việt
Nam (Nxb. Hội Nhà văn,Hà Nội 1999) đi sâu nghiên cứu nội dung tư tưởng
Phật giáo Việt Nam, nhằm lý giải những đặc điểm cơ bản của Phật giáo Việt
Nam được xây dựng với tư cách là một sản phẩm tôn giáo được hình thành trên
cơ sở tín ngưỡng, tâm linh của cư dân bản địa có tiếp thu tôn giáo ngoại nhập.
Ngoài ra, còn một số bài báo, tạp chí như:
Phan Đại Doãn - Lê Văn Mỹ, Phật giáo dân gian vùng Dâu (Hà Bắc),
Tạp chí văn hóa dân gian, số 1- 1987.
Nguyễn Quang Lê - Tìm hiểu mối quan hệ giữa lễ hội cổ truyền với Phật
giáo qua tín ngưỡng dân gian, Tạp chí nghiên cứu văn hóa dân gian, số 4 -
1992;
Hoàng Thị Lan với bài viết “Phật giáo với lễ hội dân gian vùng đồng
bằng trung du Bắc Bộ”, Tạp chí nghiên cứu Phật học, số 6 - 2000;
Đức Thiện - Tín ngưỡng thờ tứ pháp - hiện tượng tiếp biến văn hóa Ấn
Độ, số 6 - 2002.
Nguyễn Thị Minh Ngọc - Phật giáo dân gian: con đường nhập thế của
Phật giáo Việt Nam, Tạp chí nghiên cứu Tôn giáo, số 8 - 2008.
Nguyễn Hữu Thụ - Đôi điều về sự tiếp xúc giữa Phật giáo và tín ngưỡng
thờ mẫu qua truyền thuyết Phật mẫu Man Nương và Thánh mẫu Liễu Hạnh, Tạp
chí nghiên cứu Tôn giáo, số 4 – 2009...
Như vậy, có thể thấy, Phật giáo Việt Nam là một đề tài được nhiều nhà nghiên
cứu quan tâm.
Liên quan đến Phật giáo và ảnh hưởng của nó đối với đời sống văn hóa
tinh thần của Việt Nam còn có một số đề tài như:
Luận án Tiến sĩ Triết học của Lê Hữu Tuấn với đề tài: “Ảnh hưởng của
những tư tưởng triết học Phật giáo trong đời sống văn hóa tinh thần của dân tộc
Việt Nam” (Hà Nội, 1999),
6
Luận án Tiến sĩ Triết học của Tạ Chí Hồng với đề tài: “Ảnh hưởng của
đạo đức Phật giáo trong đời sống đạo đức của xã hội Việt Nam hiện nay” (Hà
Nội, 2004)
Bàn đến mối quan hệ giữa Phật giáo với tín ngưỡng dân gian Việt Nam có một
số công trình sau:
Luận án Tiến sĩ Triết học của Đặng Minh Châu về “Mối quan hệ giữa
Phật giáo và tín ngưỡng dân gian Việt Nam (qua nghiên cứu một số ngôi chùa
tiêu biểu của phật giáo Bắc tông)”(Hà Nội, 2015)
Luận văn Thạc sỹ của Phan Thị Kim: "Tìm hiểu mối quan hệ giữa phật
giáo với tín ngưỡng thờ mẫu ở vùng đồng bằng bắc bộ" (Hà Nội, 2011)
Luận văn Thạc sỹ của Nguyễn Huyền Trang "Sự dung thông giữa Phật giáo với
tín ngưỡng dân gian Việt Nam thời kì đầu du nhập" (Hà Nội ,2013)
- Các công trình nghiên cứu về tín ngưỡng thờ Mẫu
Vấn đề tín ngưỡng Mẫu đã và đang thu hút sự quan tâm của nhiều học
giả.Các học giả như Ngô Đức Thịnh, Đặng Văn Lung, Nguyễn Đăng Duy, Đỗ
Thị Hảo, Mai Ngọc Chúc, Nguyễn Đình San,…đã công bố các công trình nghiên
cứu về tín ngưỡng Mẫu gắn với đời sống văn hoá, lịch sử, tôn giáo… Có thể kể
đến các công trình như: “Nếp cũ tín ngưỡng Việt Nam” (quyển thượng) của
Toan Ánh , Nxb Tp. Hồ Chí Minh, 1997; “Việt Nam phong tục” của Phan Kế
Bính, Nxb Tp. Hồ Chí Minh, 1997; “Các hình thái tôn giáo tín ngưỡng ở Việt
Nam” của Nguyễn Đăng Duy , Nxb Văn hoá – Thông tin, Hà Nội, 2001; “Về tôn
giáo tín ngưỡng Việt Nam hiện nay” do Đặng Nghiêm Vạn chủ biên , Nxb khoa
học xã hội, Hà Nội, 1996; “Nữ Thần và Thánh Mẫu Việt Nam” do Vũ Ngọc
Khánh chủ biên, Nxb Thanh niên, Hà Nội, 2002. Đặc biệt hơn cả là cuốn “Đạo
Mẫu ở Việt Nam” (2 tập) do Ngô Đức Thịnh chủ biên, Nhà xuất bản Văn hóa
dân gian, Hà Nội, 2002. Đây được coi là một tác phẩm nghiên cứu một cách cơ
bản và tương đối hoàn chỉnh về tín ngưỡng Mẫu. Tác giả đã tiếp cận hiện tượng
7
tín ngưỡng này chủ yếu dưới góc độ văn hóa và phần nào cũng chỉ ra được
phương diện tín ngưỡng tôn giáo. Ngoài ra còn một số sách như:
Tín ngưỡng thờ Mẫu ở miền trung Việt Nam do Nguyễn Hữu Thông (Chủ
biên (Nxb. Thuận Hóa, Huế 2010).Trong công trình này, các tác giả tiếp tục khẳng
định tín ngưỡng thờ Mẫu là một loại hình tín ngưỡng bản địa của người Việt với sự
phát triển từ việc thờ Mẹ đến hệ thống thần linh trong Tứ phủ.
Tục thờ đức thánh Mẫu và đức thánh Trần của Vũ Ngọc Khánh (Nxb Văn
hóa - Thông tin, Hà Nội 2005) đã trình bày về sự phát triển từ nguyên lý Mẹ của
văn hóa Việt Nam phát triển đến tín ngưỡng thờ Mẫu Tứ phủ. Trên cơ sở đó,
cuốn sách tập trung vào việc phân tích và chỉ ra vị trí của Đức Mẫu Liễu Hạnh
trong đời sống tín ngưỡng Việt Nam nói chung, tín ngưỡng Tam phủ, Tứ phủ
nói riêng thông qua các nguồn thư tịch cổ về Bà trong dân gian.
Các Nữ thần Việt Nam của Đỗ Thị Hảo, Mai Thị Ngọc Chúc, (Nxb Phụ
nữ, Hà Nội 1984).cũng đã cung cấp đủ rất nhiều thông tin về hệ thống các Nữ
thần ở Việt Nam. Theo đó, các tác giả chia nữ thần ở Việt Nam thành các nữ
thần trong thần thoại, nữ thần của các dân tộc thiểu số, các Thánh Mẫu, các
Chư thần. Thông qua việc trình bày thần tích của 117 vị nữ thần ở Việt Nam
(trong đó có rất nhiều các vị được thờ trong tín ngưỡng thờ Mẫu) cùng danh
mục 362 vị nữ thần được lưu truyền trong dân gian và thần tích trên các vùng
miền khác nhau, công trình đã cung cấp một nguồn tư liệu rất phong phú và bổ ích
để các nhà nghiên cứu có thể hiểu rõ hơn về hệ thống nữ thần ở Việt Nam.
Văn hóa Thánh Mẫu, của Đặng Văn Lung,(Nxb Văn hóa -Thông tin, Hà
Nội, 2004) cũng đã đưa ra một “Văn hóa Thánh Mẫu” của người Việt trên cơ sở
phân tích sự hình thành và phát triển của các biểu tượng Thánh Mẫu. Tuy nhiên,
như tác giả đã tự nhận thấy, tác phẩm này mới chỉ dừng lại ở việc phần nào tìm
ra sự phát sinh, hình thành, truyền bá và sự sửa đổi cốt truyện, lễ hội theo lôgic -
lịch sử - chính trị - văn hóa - xã hội của đất nước.
8
Về báo, tạp chí có thể kể đến bài viết của một số tác giả như: Nguyễn Quốc
Phẩm với bài “Góp bàn về tín ngưỡng dân gian và mê tín dị đoan” (Tạp chí Văn
hoá nông thôn, số 11, trang 11 – 13, 1998); Nguyễn Hữu Toàn với bài “Một số
sinh hoạt văn hoá - tín ngưỡng ở vùng Dâu” (Tạp chí Di sản văn hoá, số 17,
2004); Đinh Gia Khánh với bài “Tục thờ Mẫu và những truyền thống văn hoá dân
gian ở Việt Nam”, Tạp chí Văn hoá, số 5, trang 7 - 13, 1992…
Nhìn chung, các công trình trên khi nghiên cứu về tín ngưỡng thờ Mẫu đã
được các tác giả tiếp cận dưới nhiều góc độ khác nhau như nhân học, văn học,
nghệ thuật, lịch sử…Ở các góc độ này, các công trình đã cung cấp một lượng
thông tin phong phú về sự phát triển của tín ngưỡng thờ Mẫu, hệ thống thần linh
cùng các thần tích của tín ngưỡng thờ Mẫu, các không gian thờ cúng của nó
trong quá khứ cũng như hiện tại, những giá trị về mặt văn học, nghệ thuật của
tín ngưỡng thờ Mẫu cũng như những tác động của nó đến văn hóa, xã hội của
người Việt cả trong lịch sử cũng như ở hiện tại.
Tuy nhiên, vấn đề sự dung hợp của Phật giáo với tín ngưỡng thờ Mẫu vẫn chưa
được nghiên cứu một cách hệ thống, chuyên sâu. Do đó, luận văn này sẽ định
hướng nghiên cứu làm rõ hơn sự dung hợp củaPhật giáo với tín ngưỡng thờ Mẫu
của người Việt.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích: Trên cơ sở trình bày một cách khái quát một số vấn đề cơ bản
về Phật giáo và tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt, luận văn làm rõ sự dung
hợp giữa Phật giáo với tín ngưỡng thời Mẫu của người Việt và chỉ ra những giá
trị của sự dung hợp đó.
Nhiệm vụ:
+ Trình bày khái lược về Phật giáo Việt Nam và tín ngưỡng thờ Mẫu của
người Việt, đồng thời chỉ ra cơ sở của sự dung hợp giữa Phật giáo với tín
ngưỡng thờ Mẫu.
9
+ Phân tích những biểu hiện cơ bản của sự dung hợp giữa Phật giáo với tín
ngưỡng thờ Mẫu của người Việt ở khu vực đồng bằng Bắc Bộ thông qua điện
thờ và lễ nghi.
+ Khái quát, nêu nên những giá trị của sự dung hợp giữa Phật giáo với tín
ngưỡng thờ Mẫu của người Việt.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của luận văn là sự dung
hợp giữa Phật giáo với tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt.
- Phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu sự dung hợp giữa Phật giáo với
tín ngưỡng thờ Mẫu trong phạm vi người Việt ở vùng châu thổ Bắc Bộ.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận: Luận văn dựa trên nền tảng lý luận quan điểm của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản
Việt Nam về tôn giáo, tín ngưỡng.
- Phương pháp nghiên cứu gồm: Đề tài sử dụng phương pháp nghiên
cứu của Chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử như:
diễn dịch, quy nạp, logic lịch sử, khái quát hóa, đối chiếu, so sánh…
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Luận văn góp phần làm sáng tỏ thêm về sự biến đổi của Phật giáo trong
quá trình tiếp xúc với tín ngưỡng bản địa, cụ thể là tín ngưỡng thờ Mẫu khi du
nhập vào Việt Nam.
- Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo phục vụ nghiên cứu, học tập
các vấn đề liên quan đến Phật giáo, tín ngưỡng thờ Mẫu.
7. Kết cấu cấu của luận văn:
Luận văn ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phần
nội dung gồm 2 chương và 6 tiết.
10
NỘI DUNG
CHƢƠNG 1: KHÁI LƢỢC VỀ PHẬT GIÁO VIỆT NAM VÀ TÍN
NGƢỠNG THỜ MẪU CỦA NGƢỜI VIỆT
1.1. Quá trình hình thành, phát triển và đặc trƣng của Phật giáo Việt Nam
1.1.1. Sự du nhập của Phật giáo vào Việt Nam
Việt Nam là quốc gia có vị trí địa lý đặc biệt – đó là nằm trên trục giao
thông từ Nam Á lên Bắc Á, gần như nằm giữa các nước Đông Nam Á và là cái
lưng của bán đảo Ấn Trung – vị trí nằm gữa Ấn Độ và Trung hoa. Với địa thế
này, Việt Nam không những chịu ảnh hưởng của kinh tế mà còn có cả văn hóa
và tôn giáo của hai nền văn minh cổ xưa này, trong đó có Phật giáo. Với biên
giới giáp Trung Quốc, nhưng những tư tưởng Phật Giáo được truyền bá vào
nước ta ở đầu tiên không phải xuất phát từ Trung Quốc mà được truyền trực tiếp
từ Ấn Độ. Trong sách Thiền Uyển Tập Anh cũng ghi nhận cuộc đàm luận giữa
thiền sư Thông Biện và Thái Hậu Phù Thánh Linh Nhân (Ỷ Lan) (khi bà hỏi về
nguồn gốc Đạo Phật Việt Nam vào dịp các cao tăng trong nước tập hợp tại
chùa Khai Quốc (nay là chùa Trấn Quốc - Hà Nội) vào ngày rằm tháng 2 năm
1096) Thông Biện dẫn chứng lời pháp sư Đàm Thiên đối thoại với Tùy Cao Đế
: "Một phương Giao Châu, đường sang Thiên Trúc, Phật pháp lúc mới tới, thì
Giang Đông (Trung Hoa) chưa có, mà Luy Lâu lại dựng chùa hơn 20 ngôi, độ
tăng hơn 40 người, dịch kinh được 15 quyển, vì nó có trước vậy, vào lúc ấy thì
đã có Khâu Đà La, Ma Ha Kỳ Vực, Khương Tăng Hội, Chi Cương Lương,
Mâu Bác tại đó"[40;89]. Hay dựa trên lời tựa truyện pháp của tướng quốc
Quyền Đức Dư đời Đường nói: “Sau khi Tào Khuê mất đi, thiền pháp thịnh
hành, đều có thừa kế. Chương Kính Uẩn thiền sư dùng tâm ấn của Mã Tổ hành
hóa ở Ngô, Việt. Vô Ngôn Thông đại sĩ, đem tôn chỉ của Bách Trượng, khai
ngộn tại Giao Châu” [41;12].
11
Trong tư liệu trong Lĩnh Nam Chính Quái cho biết một dữ kiện chứng tỏ
sự có mặt của Đạo Phật vào đời Hùng Vương thứ 3 (triều đại thứ 18 Vua Hùng
kể từ trước công nguyên 2879-258). “Truyện Nhất Dạ Trạch trong Lĩnh Nam
Trích Quái kể lại việc Chủ Đồng Tử học được đạo Phật như sau:“Thương nhân
nước ngoài tới lui buôn bán kinh thờ Tiên Dung và Đồng Tử làm chúa. Có một
khách buôn lớn bảo Tiên Dung rằng: Quí nhân hãy bỏ ra một dật vàng năm nay
cùng thương nhân ra nước ngoài mua vật quí, đến sang năm được lãi mười dật”.
Tiên Dung vui mừng bảo Đồng Tử: “Vợ chồng ta là bởi Trời mà nên. Nhưng cái
ăn cái mặc là do người làm lấy. Nay nên đem một dật vàng cùng thương nhân ra
nước ngoài mua vật quí để sinh sống”. Đồng Tử bèn cùng thương nhân đi buôn
bán lênh đênh ra khắp nước ngoài. Có núi Quỳnh Viên trên núi có am nhỏ.
Thương nhân ghé thuyền vào lấy nước. Đồng Tử lên am dạo chơi. Trong am có
một tiểu Tăng tên Phật Quang truyền pháp cho Đồng Tử. Đồng tử ở lại nghe
truyền pháp, đưa vàng cho thương nhân đi mua hàng. Đến lúc thương nhân trở
về lại tới am đó chở Đồng Tử trở về nhà vừa bảo: “Các việc linh thông đều ở đó
rồi”. Đồng Tử về đem đạo Phật nói hết với Tiên Dung. Tiên Dung giác ngộ, bèn
bỏ cả quán chợ nghề buôn để cùng Đông Tử du phương tìm thầy học đạo”
[41;19].
Từ những tư liệu này, ta có thể thấy Chử Đồng Tử đã tiếp thu đạo Phật ở
núi Quỳnh Viên – đây là một ngọn núi có tên tuổi tại cửa Sót. Do những dấu vết
của Chiêm Thành còn tồn tại đến ngày nay, ta cũng hiểu thêm từ cửa Sót về
Nam là vùng đất thuộc vương quốc Chiêm Thành. Nhà sư Phật Quang cũng
không phải là người Việt mà có thể là người Chiêm Thành hoặc Ấn Độ đang tìm
cách truyền bá Phật Giáo vào Việt Nam. Chử Đồng Tử tiếp xúc với ông và trở
thành người Phật tử Việt Nam đầu tiên có tên tuổi.
Như vậy, nếu ta liên kết các sự kiện trên lại, cùng với Bát Nàn phu nhân,
một nữ tướng của Hai Bà Trưng, xuất gia sau cuộc kháng chiến vệ quốc thất bại
năm 43 sau công nguyên và những xác nhận về tín ngưỡng của người Việt mà
12
Dương Phù1đã ghi lại, rằng khoảng 100 năm sau công nguyên dân chúng tại nước
ta có trồng một loài hoa [uất kim hương] dùng để cúng Phật. Một hiện trạng Phật
giáo sinh động như thế chắc chắn phải là kết quả của một quá trình phát triển trước
đó khá lâu trên mảnh đất này. Từ đó, có thể thấy, Phật giáo đã có mặt ngay tại nước
ta từ những năm đầu sau công nguyên, nếu không nói là sớm hơn. Quá trình du
nhập đó của Phật giáo được thực hiện thông qua hai con đường:
Phật Giáo du nhập qua con đường bộ (Ấn Độ - phía bắc Việt Nam) còn
gọi là con đường tơ lụa. Những người Ấn phát xuất từ Trung Ấn còn dùng tuyến
đường bộ quang qua đèo Hasse Des Trois Pagodes, theo sông Kanburi xuống
châu thổ sông Menam, từ đó đến sông Mêkông qua đất Lào rồi vào Thanh Hóa,
Nghệ An và đến Luy Lâu của Giao Châu. Trên tuyến đường này các nhà khảo
cổ cũng đã tìm được các cổ vật của nền văn minh Ấn Ðộ và di tích Phật Giáo.
Trong cuốn Lịch sử Phật Giáo Việt Nam (Hà Nội, 1988) có nói rõ: "Các thương
nhân xuất phát từ Trung Ấn có thể dùng tuyến đường bộ ngang qua đèo Ba Chùa
và theo sông Kanburi mà xuống Châu Thổ Mênam, bằng tuyến đường hiện nay
vẫn nối liền cảng Moulmein với thành phố Raheng, nằm trên một nhánh của con
sông Mênam (…) chính tuyến đường này dẫn tới vùng Bassak ở trung lưu sông
Mekong, địa bàn của vương quốc Kambijan. Vương quốc này có thể là do
những di dân Ấn Độ thành lập trước công nguyên. Rất có thể các tăng sĩ Ấn Độ
vào đầu công nguyên đã theo con đường này mà đến đất Lào, rồi từ đây vượt
Trường Sơn sang Thanh Hóa hay Nghệ An".
Phật Giáo du nhập qua con đường biển (Ấn Độ - phía nam Việt Nam):
Qua những tài liệu khảo cổ học người ta đã tìm thấy những di tích, di chỉ của
quá trình truyền bá phật giáo vào Việt Nam. Người ta đã tìm thấy các dòng chữ
1 Dương Phù tên tự Hiểu Nguyên, người Nam Hải, Triều vua Chương đế tìm người tài giỏi, ông đối đáp trúng cách, nên phong làm Nghị Văn.
Sanskrit của Mulavarman tại các vùng Kutei ở Borneo và các bia đá khắc chữ
13
Sanskrit của Purnavarman ở Tây Java. Các tượng Phật thuộc trường phái
Amaravati được tìm thấy ở Sampaga (Célèbes) phía nam tỉnh Giember (Ðông
Java) trên đồi Se Guntang ở Pelembang (Sumatra) là xưa nhất có thể là trước
công nguyên. Do đó, người ta đã kết luận rằng những bước đầu văn minh và tôn
giáo từ Ấn Ðộ đã truyền qua Indonesia phải xảy ra trước công nguyên và hệ luận
đương nhiên là nền văn minh và tôn giáo từ Ấn Ðộ xuôi buồm đến Giao Châu
cũng cùng thời điểm và cùng đi theo đường biển lên phương Bắc.
Văn minh và tôn giáo Ấn Độ cũng đã truyền qua Mã Lai và các vùng như
Perak, Xelebơ…qua Thái Lan, Campuchia, Miến Điện…Tại Campuchia các nhà
khảo cổ đã tìm thấy được 4 bia đá có khắc chữ Sanskrit.
Hơn nữa, từ những thế kỷ trước công nguyên Ấn Ðộ vẫn mua được vàng
ở Xibêri đi bằng con đường xuyên qua Bactriane nhưng từ thế kỷ thứ hai trước
công nguyên vì các đợt di dân lớn ở Trung Á đã làm chướng ngại con đường
chuyên chở đó. Sau đó họ chuyển hướng nhập vàng từ La Mã thế nhưng chẳng
bao lâu La Mã không bán vàng ra nước ngoài nữa nên Ấn Ðộ mới chuyển qua
các nước phía Ðông và lên tận Giao Châu để mua những tiêu, quế, gỗ trầm
hương, vàng bạc và các loại ngọc thạch.
Vì địa thế của Việt Nam nằm trên trục giao thông từ Nam Á lên Bắc Á và
gần như nằm giữa các nước Ðông Nam Á nên các tàu buôn Ấn Ðộ theo gió Tây
Nam lên trước khi đến Trung Quốc họ phải ghé qua Giao Châu như trạm dừng
chân để nghỉ ngơi cũng như học Hán văn và làm quen với phong tục của Việt
Nam và Trung Hoa trước khi đi sâu vào lục địa Trung Quốc.
Ðể có đủ những thương phẩm kể trên cung ứng cho thị trường rộng lớn
ấy, các thương gia Ấn phải theo gió mùa Tây Nam dong thuyền đến các nước
như Mã Lai, Indonesia, Việt Nam... Chuyến về họ phải đợi năm sau mới có gió
mùa Ðông Bắc để xuôi buồm về Ấn Ðộ.
Những thương gia Ấn Ðộ cố nhiên họ không phải là những Tu sĩ Phật
Giáo nhưng vì đường đi quá xa và lênh đênh trên biển cả lâu ngày nên họ
14
thường thờ và cầu nguyện Ðức Quán Thế Âm (Avalokitedvara) Bồ Tát và Ðức
Phật Nhiên Ðăng (Dipankara) để cầu che chở cho tai qua nạn khỏi trên biển cả.
Những người Ấn Ðộ rất tin tưởng vào Ðức Phật Nhiên Ðăng che chở cho họ khi
họ chí thành niệm danh hiệu của Ngài.
Có thể nói, nguyên nhân sâu xa của sự bành trướng nền văn minh và tôn
giáo của Ấn Ðộ trước công nguyên là kinh tế, thương mại, sự giao dịch giữa
Viễn Ðông và Ðịa Trung Hải. Kế đến là sự đông tiến của Alexandre, sự thành
lập triều đại Maurya, sau đó là triều đại Kaniskha ở Ấn Ðộ... Nhất là đế quốc La
Mã ở phương Tây đã kích thích mạnh mẽ nền ngoại thương Ấn Ðộ.
Cũng có quan điểm cho rằng, Phật giáo truyền vào nước ta có thể là vào
thời vua A Dục (Asoka) ở thế kỷ III trước công nguyên. Đó là một bài nghiên
cứu của Ngô Đăng Lợi, viện nghiên cứu khoa học Hải Phòng viết: "Vùng Đồ
Sơn mà có nhà nghiên cứu khẳng định chính là thành Nê Lê nơi có bảo tháp của
vua Asoka. Nếu quả vậy thì từ thế kỷ thứ ba trước Tây lịch, Đạo Phật đã được
trực tiếp truyền vào nước ta"[79;12]với sự hiện diện của đoàn truyền giáo do
Sona dẫn đầu; nhưng đây mới chỉ là giả thuyết, điều này cần được xác minh
bằng các cuộc khảo cổ tại một số địa điểm nghi vấn là có khả năng còn các
chứng cứ lịch sử quan trọng ở khu vực chùa Nê Lê (Tam Đảo), núi Quỳnh Viên
(Cửa Sót, Hà Tĩnh)...
Như vậy, Phật giáo được du nhập nước ta (thời bấy giờ là Giao Châu) trực
tiếp từ Ấn Độ, nhưng chính xác vào năm nào thì chưa thấy ai khẳng định. Tuy
nhiên, điều chắc chắn là vào khoảng thế kỷ thứ II sau công nguyên, Phật giáo đã
trở nên thịnh hành ở nước ta với một cơ sở mạnh mẽ thể hiện qua hệ
thống những cứ liệu về số lượng Tăng sĩ, chùa chiền, thành quả của công tác
dịch thuật kinh điển, v.v... tại trung tâm Luy Lâu. Và chúng ta có thể khẳng
định rằng Phật giáo truyền vào Việt Nam những năm đầu sau công nguyên bằng
những phương tiện hòa bình.
15
1.1.2. Sự phát triển của Phật giáo Việt Nam
Phật giáo có nguồn gốc ở Ấn Độ, truyền bá đến Việt Nam, đã được nhân
dân ta tiếp nhận và từ đó, Phật giáo luôn luôn đóng vai trò lịch sử nhất định
trong cuộc giữ nước và dựng nước của dân tộc Việt Nam. Suốt chiều dài lịch Sử
Phật Giáo Việt Nam đã hòa quyện vào mọi lĩnh vực đời sống, góp phần xây
dựng những văn hóa truyền thống. Vì thế lịch sử Phật giáo Việt Nam, đã trở
thành một bộ phận lịch sử Việt Nam. Phật giáo cũng vậy, tuy có những hình
thức xuất hiện khác nhau trong từng thời kỳ, nhưng lúc nào cũng tìm mọi cách
thích ứng để có những đóng góp thiết thực nhất cho dân tộc. Chúng ta có thể
chia sự phát triển của Phật giáo Việt Nam thành bốn thời kỳ:
Phật giáo thời kỳ đầu (từ thế kỷ thứ II đến hết thế kỷ thứ V)
Phật giáo thời kỳ phát triển (từ thế kỷ thứ VI đến hết thế kỷ thứ IX)
Phật giáo thời kỳ cực thịnh (từ thế kỷ thứ X đến hết thế kỷ thứ XIII)
Phật giáo thời kỳ phục hưng (Phật giáo Việt Nam trong thế kỷ XX)
Phật Giáo Việt Nam từ thế kỷ thứ II đến hết thế kỷ thứ V: thời kỳ du nhập
và hình thành Phật giáo Việt Nam
Không bao lâu khi Phật Giáo được truyền vào đất Việt, nhờ sự nổ lực hoạt
động truyền giáo của các tăng sĩ Ấn Ðộ, tại Luy Lâu, thủ phủ của Giao Chỉ lúc
bấy giờ đã trở thành một trung tâm Phật Giáo lớn nhất trong vùng. Tại đây, với
những sinh hoạt hoằng pháp của ngài Khâu Ðà La (người Ấn Ðộ đến Luy Lâu
khoảng năm 168-169) đã xuất hiện một mô hình Phật Giáo Việt Nam hóa đầu
tiên qua hình tượng Thạch Quang Phật và Man Nương Phật Mẫu (hình tượng
Phật Nữ). Một chứng liệu lịch sử quan trọng khẳng định Phật Giáo Việt Nam đã
bắt rễ sớm ở Giao Châu là sự việc ngài Mâu Bác2 theo mẹ từ Trung Quốc sang
Giao Châu khi ngài còn rất trẻ, rồi lớn lên, tại đây ngài đã viết bài
2Mâu Tử tên thật là Mâu Bác, sinh vào khoảng những năm 165-170, và mất năm nào không rõ. Theo nhiều nhà nghiên cứu, thì ông là một trong số ít người đầu tiên ở nước ngoài đến Giao Châu (vùng đất miền Bắc Việt Nam ngày nay)
"Lý hoặc Luận" và dịch một số kinh sách, chứng tỏ ngài đã học Phật giáo tại
16
Giao Châu và như thế Phật Giáo Giao Châu đã phát triển khá mạnh, ít nhất là
vào nữa đầu thế kỷ thứ III Tây Lịch.
Sang thế kỷ thứ III, có ba nhà truyền giáo nước ngoài đến hoằng Pháp tại
Giao Châu là các ngài Khương Tăng Hội3 (gốc người Sogdiane, Khương Cư);
ngài Chi Cương Lương Tiếp4 và ngài Ma Ha Kỳ Vực5 (người Ấn Ðộ).
Ðến thế kỷ thứ V, có hai thiền sư xuất hiện, là Ðạt Ma Ðề Bà
(Dharmadeva) và Huệ Thắng (người Việt). Thiền sư Ðạt Ma Ðề Bà là người Ấn
Ðộ đến Giao Châu vào giữa thế kỷ thứ V để giảng dạy về phương pháp thiền học.
Thiền sư Huệ Thắng là người địa phương là một trong những học trò của ông.
Phật giáo Việt Nam từ thế kỷ thứ VI đến hết thế kỷ thứ IX, thời kỳ phát triển:
Bước sang thời kỳ này, Phật tử Việt Nam lại tiếp nhận thêm những đoàn truyền
giáo của Trung Quốc. Không bao lâu sau đó, Phật Giáo Bắc phương (Trung
Quốc) đã chiếm ưu thế và đã thay đổi chổ đứng của Phật Giáo Nam Truyền vốn
có từ trước. Từ Buddha được dịch thành chữ Phật, và từ đây Phật dần dần thay
thế cho chữ Bụt và chữ Bụt chỉ còn giới hạn trong ca dao, tục ngữ, truyện cổ tích
mà thôi.Trong thời gian này, từ Trung Hoa có ba tông phái được truyền vào Việt
Nam, đó là Thiền Tông, Tịnh Ðộ Tông và Mật Tông.
*Thiền Tông : Là tông phái hay đúng hơn là một pháp môn tu tập có từ thời Ðức
Phật Thích Ca tại Ấn Ðộ (trong hội Linh Sơn) rồi truyền xuống cho Tôn giả Ca
Diếp, lần lượt cho đến Tổ thứ 28 Ấn Ðộ là Bồ Ðề Ðạt Ma (Bodhidharma). Ðến
năm 520 Tổ Bồ Ðề Ðạt Ma, vốn là thái tử thứ ba của vua Kancipura, Nam Ấn,
vâng theo lời thầy là Bát Nhã Ða La (Prajnatara), Bồ Ðề Ðạt Ma đến Trung Hoa
để hoằng dương Phật pháp. Tại nơi ây, Thiền Tông đã được hình thành và nhanh
3Khương Tăng Hội (? - 280) là một thiền sư sinh tại Giao Chỉ và được xem là thiền sư đầu tiên được ghi nhận trong lịch sử Phật giáo Việt Nam. Có ý kiến cho rằng ông là ông tổ của Thiền tông Việt Nam
4Có khi viết là Chi Cương Lương Lâu, là người nước Nhục Chi
5Cao tăng Ấn Độ đã từng đến Việt Nam (thời ấy gọi là Giao Châu) và Trung Hoa vào khoảng những năm 169-189.
chóng hưng thịnh.
17
Thiền hay còn gọi là tĩnh lự, chủ trương tập trung trí tuệ để tìm ra chân lý. Tu
theo pháp môn này đòi hỏi hành giả phải có nhiều công phu và khả năng trí tuệ,
do vậy chỉ phổ biến ở tầng lớp trí thức và giai cấp thượng lưu, và cũng chính
nhờ họ ghi chép lại mà chúng ta ngày nay mới biết được lịch sử Thiền Tông ở
Việt Nam.
*Tịnh Ðộ Tông:Khác với Thiền Tông, Tịnh Ðộ Tông chủ trương phải dựa vào
tha lực tức sự giúp đỡ từ bên ngoài. Thật ra, Thiền hay Tịnh Ðộ cũng chỉ là
những pháp môn tu tập thích hợp cho nhiều đối tượng khác nhau do Ðức Phật
truyền giáo ra. Chính Ðức Phật Thích Ca đã nhờ vào tự lực của mình để đến
giác ngộ thì cần phải giúp đỡ họ, sự trợ lực hay tha lực này rất quan trọng. Ðiều
này gợi cho tín đồ liên tưởng đến một cõi Niết Bàn cụ thể đó là cõi Tịnh Ðộ hay
thế giới Cực Lạc do Ðức Phật A Di Ðà làm giáo chủ. Sự giúp đỡ đó còn cho
thấy bản thân của người tín đồ cần thường xuyên đi chùa dâng hương, cúng
dường, bố thí, làm những điều thiện, tránh các điều ác và thường xuyên niệm
danh hiệu Ðức Phật A Di Ðà để đạt đến nhất tâm bất loạn và muốn đạt đến chỗ
nhất tâm bất loạn này, hành giả trong lúc niệm Phật phải hình dung, quán tưởng
về thế giới cực lạc để tâm mình hướng tới.
*Mật tông: Là một tông phái chủ trương sử dụng hình ảnh cụ thể và những mật
ngữ, mật chú để khai mở trí tuệ giác ngộ. Tương truyền Mật Tông do Phật Ðại
Nhật chủ xướng và có hai bộ kinh chính là Kinh Ðại Nhật và Kinh Kim Cương.
Mật tông truyền vào Việt Nam không còn độc lập như một tông phái riêng mà
nhanh chóng hòa vào tín ngưỡng dân gian, pha trộn với các truyền thống như
chẩn tế, cầu đồng, dùng pháp thuật, yếm bùa trị tà ma và trị bệnh. Mật tông
không có dấu hiệu phát triển rõ ràng ở Việt Nam, chỉ tuỳ thuộc vào sự thọ trì của
từng chùa và của mỗi cá nhân có cơ duyên đến với tông phái này.
Phật giáo Việt Nam từ thế kỷ thứ X đến hết thế kỷ thứ XIII: thời kỳ cực thịnh
Ðến thế kỷ thứ X thì Việt Nam đã trải qua 1000 năm Bắc thuộc.. Chính
trong thế kỷ này Ðạo Phật mới thực sự hưng thịnh và có những đóng góp tích
18
cực cho đất nước. Năm 971 vua Ðinh Tiên Hoàng định giai cấp cho tăng sĩ và
ban chức tăng thống cho Thiền sư Ngô Chân Lưu thuộc thiền phái Vô Ngôn
Thông, chính thức tiếp nhận Phật Giáo làm nguyên tắc chỉ đạo tâm linh cho
chính sự. Cũng chính trong thế kỷ này vua Lê Ðại Hành đã mời thiền sư Pháp
Thuận và thiền sư Vạn Hạnh của thiền phái Tỳ Ni Ða Lưu Chi làm cố vấn chính
sự. Các thiền sư Ngô Chân Lưu, Pháp Thuận và Vạn Hạnh cũng đã tiếp tục trợ
giúp vua Lý Thái Tổ trong thế kỷ kế tiếp.
Phật giáo Việt Nam trong thời kỳ này phát triển tới mức toàn vẹn và cực
thịnh. Do ảnh hưởng tư tuởng của vua Trần Nhân Tông và Tuệ Trung Thượng Sĩ
đầu thế kỷ thứ VIII, ba thiền phái Tỳ Ni Ða Lưu Chi, Vô Ngôn Thông và Thảo
Ðường sát nhập tạo thành một và đưa tới sự phát triển của thiền phái Trúc Lâm
là thiền phái duy nhất dưới đời Trần. Vì vậy đời Trần có thể gọi là thời đại thống
nhất của Phật Giáo các hệ phái trước đó.
Có rất nhiều chùa tháp qui mô to lớn hoặc kiến trúc độc đáo đã được xây
dựng trong thời Lý Trần như chùa Phật Tích, chùa Ðại Lãm, chùa Linh Xứng,
chùa Một Cột, chùa Phổ Minh. Khâm phục trước những thành tựu văn hóa của
Phật Giáo Việt Nam thời Lý Trần mà sách vỡ Trung Hoa truyền tụng nhiều về 4
công trình nghệ thuật lớn mà họ gọi là An Nam Tứ Ðại Khí [53; 483]. Ðó là:
Tượng Phật Chùa Quỳnh Lâm: chùa Quỳnh Lâm ở Ðông Triều (Quảng
Ninh) được xây dựng vào khoảng thế kỷ XI, có pho tượng Di Lặc bằng đồng
mà theo văn bia mà nay vẫn còn giữ được trong chùa thì tượng cao 6 trượng (1
trượng bằng khoảng 4m) đặt trong một tòa Phật điện cao 7 trượng. Ðứng từ bến
đò Ðông Triều, cách xa 10 dặm vẫn còn trong thấy nóc chánh điện.
Tháp Bảo Thiên: gồm 12 tầng, cao 20 trượng do vua Lý Thánh Tông cho
xây dựng vào năm 1057 trên khuôn viên chùa Sùng Khánh ở phía Tây Hồ Lục
Thủy (tức Hồ Gươm Hà Nội ngày nay) bằng đá và gạch, riêng tầng thứ 12 đúc
bằng đồng. Ðây là đệ nhất danh thắng đế đô một thời. Ðến năm 1414 tháp bị
quân Vương Thông tàn phá, nền tháp còn lại to như quả đồi, có thời dùng làm
19
nơi họp chợ; đến năm 1791 dỡ ra lấy gạch xây thành còn thấy 4 pho tượng Kim
Cương trấn giữ 4 cửa và nhiều tượng chim thú khác. Thời Pháp bị phá hủy hoàn
toàn để xây dựng nhà thờ lớn trên mảnh đất ấy.
Chuông Quy Ðiền: Năm 1101, vua Lý Nhân Tông cho xuất hàng vạn cân
đồng để đúc quả chuông này và dự định treo nó tại khuôn viên chùa Diên Hựu –
(Tiền thân chùa Một Cột (Hà Nội) sau này, chùa Diên Hựu xây năm 1049 với
quy mô rất to lớn) trong lầu chuông bằng đá xanh cao 8 trượng. Nhưng chuông
đúc xong to quá (đường kính 1,5 trượng (khoảng 6m) cao 3 trượng (khoảng 12 m),
nặng đến vài vạn cân) không treo nổi lên đành để ở ngoài ruộng.
Vạc Phổ Minh: đúc bằng đồng vào thời vua Trần Nhân Tông (1279-1293)
đặt tại chùa Phổ Minh (làng Tức Mặc, Nam Hà). Vạc sâu 6 thước, rộng 10 thước
nặng trên 7 tấn. Vạc to tới mức có thể nấu được cả một con bò mộng, trẻ con có
thể chạy nô đùa trên thành miệng vạc. Ðến nay vẫn còn 3 trụ đá kê chân vạc
trước sân chùa Phổ Minh.
Phật giáo Việt Nam trong thế kỷ XX: thời kỳ phục hưng
Phật giáo Việt Nam đã trải qua thời cực thịnh nhất dưới hai triều đại Lý
Trần, sang đến đời Hậu Lê rồi Nguyễn Triều thì Phật Giáo phải nhường bước
cho Nho giáo, lúc ấy đang chiếm vai trò độc tôn.
Triều đại nhà Nguyễn truyền đến đời vua Tự Ðức thì mất chủ quyền, nước
ta rơi vào vòng đô hộ của Pháp. Phật Giáo Việt Nam vốn đã suy vi nay lại điêu
tàn hơn. Trong bối cảnh đó, Ky Tô giáo đã du nhập vào Việt Nam và dân tộc Việt
Nam lại tiếp nhận thêm một tôn giáo mới của phương Tây. Tuy tinh thần khai
phóng dung hợp của Phật Giáo suốt mấy thế kỷ qua không còn được thể hiện trong
chính sách quốc gia, văn hóa và xã hội vào thế kỷ XX nhưng Phật Giáo vẫn là tôn
giáo chính của dân tộc, đóng vai trò hòa giải giữa các thế lực tranh chấp, góp phần
xây dựng tinh thần dân tộc, bảo vệ nền độc lập của quốc gia.
Vào khoảng những năm 1920-1930, trong không khí tưng bừng của
phong trào chấn hưng Phật Giáo trên thế giới, đặt biệt ở Nhật Bản, Trung Hoa,
20
Ấn Ðộ và Miến Ðiện, một số tăng sĩ và cư sĩ đã phát động phong trào chấn hưng
Phật Giáo tại Việt Nam, từ đó đưa đến sự thành lập Tổng Hội Phật Giáo Việt
Nam tại miền Bắc vào năm 1934 đặt trụ sở tại chùa Quán Sứ, và xuất bản tạp chí
Ðuốc Tuệ. Ở miền Trung, Hội An Nam Phật Học cũng ra mắt tại chùa Từ Ðàm
và cho xuất bản tạp chí Viên Âm vào 1934, đặt biệt hội đã mở các Phật Học
Viện cho tăng chúng tu học như phật học đường Báo Quốc và Kim Sơn, Trúc
Lâm và Tây Thiên. Ở Bình Ðịnh có hội Phật Học Bình Ðịnh, ở Ðà Nẵng có hội
Phật học Ðà Thanh, ra tạp chí Tam Bảo. Tại miền Nam, năm 1920, hội Lục Hòa
được thành lập để đoàn kết và vận động phong trào chấn hưng Phật Giáo. Hội
nghiên cứu Phật học Nam Kỳ ra đời, đặt trụ sở tại chùa Linh Sơn; xuất bản tạp
chí Từ Bi Âm (1932). Năm 1933 Liên Ðoàn Học Xã ra đời. Năm 1934, hội Phật
Học Lưỡng Xuyên ra đời, xuất bản tạp chí Du Tân Phật học và mở Phật Học
đường Lưỡng Xuyên.
1.1.3. Đặc trưng của Phật giáo Việt Nam
Do vị trí địa lý nằm ở góc tận cùng phía Đông Nam Châu Á nên Việt Nam
thuộc loại hình văn hóa gốc nông nghiệp trồng trọt điển hình. Tất cả những đặc
trưng của loại hình văn hóa gốc nông nghiệp trồng trọt đều được thể hiện rất rõ
nét trong đặc trưng văn hóa Việt Nam.
Vì nghề nông, nhất là nghề nông nghiệp lúa nước, cùng một lúc phụ thuộc
vào nhiều yếu tố thiên nhiên như : thời tiết, nước, khí hậu,... “ trông trời, trông
đất, trông mây; trông mưa, trông gió, trông ngày, trông đêm…” nên về mặt
nhận thức, hình thành nên lối tư duy tổng hợp, nặng về kinh nghiệm chủ quan
cảm tính: sống lâu lên lão làng, trăm hay không bằng tay quen… Người làm
nông quan tâm không phải là từng yếu tố riêng lẻ mà là những mối quan hệ giữa
chúng. Người Việt tích lũy được một kho kinh nghiệm hết sức phong phú về các
loại quan hệ này: Quạ tắm thì ráo, sáo tắm thì mưa; Được mùa lúa thì úa mùa
cau, được mùa cau thì đau mùa lúa; chuồn chuồn bay thấp thì mưa, bay cao thì
nắng, bay vừa thì râm...
21
Hơn nữa, bản tính của người Việt Nam là cởi mở, bao dung chứ không
hẹp hòi, kỳ thị, khép kín. Dù là tín ngưỡng nào, tôn giáo gì, từ đâu đến, thì cộng
đồng người ở đây cũng sẵn sàng tiếp nhận – miễn là nó không vi phạm đến lợi
ích quốc gia và đi ngược lại truyền thống văn hóa dân tộc. Khác với một số nước
phương Tây, ở Việt Nam không có tôn giáo nào giữ vai trò thống trị suốt chiều
dài lịch sử dân tộc, mà vị trí, vai trò của từng tôn giáo gắn liền với sự hưng
thịnh, suy tàn của các triều đại phong kiến trong tiến trình phát triển nhất định
của lịch sử dân tộc. Chính vì thế khi Phật giáo du nhập vào Việt Nam với khế lý,
khế cơ của mình, đã hoà nhập, thích nghi và kết hợp với đời sống tâm linh, văn
hoá của người dân Việt nên có những đặc trưng riêng biệt làm cho Phật giáo
Việt Nam trở lên linh hoạt, phong phú.
Thứ nhất, Phật giáo VIệt Nam có tính tính tổng hợp
Tổng hợp giữa Phật giáo và tín ngưỡng truyền thống
Khi du nhập vào Việt Nam, Phật giáo đã dung hợp các tín ngưỡng truyền
thống của người Việt vào hệ thống thờ cúng của mình như: thờ cúng Tổ tiên, thờ
Thần, thờ Mẫu nhưng Phật giáo vẫn giữ vai trò chủ đạo để làm nên đạo Phật
Việt Nam. Bởi Phật giáo nguyên thủy thì chỉ thờ Phật trong chùa, tín ngưỡng
truyền thống Việt Nam là thờ thần trong miếu và thờ Mẫu trong phủ. Tuy nhiên,
trong khuôn viên thờ tự của chùa của người Việt, nhất là các chùa ở vùng Bắc
Bộ, luôn có phủ Mẫu (cũng gọi là điện Mẫu) thờ chư vị thánh Mẫu và đức thánh
Cha (Trần Hưng Đạo hiển thánh). Đặc biệt, bốn vị thần được thờ nhiều nhất là
Tứ pháp: Mây-Mưa-Sấm-Chớp. Tuy nhiên, bốn vị thần này đã được "Phật hóa".
Các pho tượng này thường được gọi tượng Phật Pháp Vân, Phật Pháp Vũ, Phật
Pháp Lôi và Phật Pháp Điện, trên thực tế các tượng này hoàn toàn điêu khắc
theo tiêu chuẩn của một pho tượng Phật. Nghĩa là đầy đủ 32 tướng tốt cùng 80
vẽ đẹp, mà một trong những nét tiêu biểu chính là tướng nhục kế, những khế ấn,
và khuôn mặt đầy lòng từ mẫn... Các hệ thống thờ phụ này tổng hợp với nhau
tạo nên các ngôi chùa "tiền Phật, hậu thần" hay "tiền Phật, hậu Mẫu". Người
22
Việt Nam đưa các vị Thần, Thánh, Mẫu, thành hoàng thổ địa, anh hùng dân
tộc... vào thờ trong chùa. Đa số các chùa còn để cả bia hậu, bát nhang cho các
linh hồn đã khuất.
Tổng hợp giữa các tông phái Phật giáo
Các tông phái Phật giáo Đại thừa sau khi du nhập vào Việt Nam trộn
lẫn với nhau. Dòng thiền Tỳ Ni Đa Lưu Chi pha trộn với Mật giáo. Nhiều vị
thiền sư đời Lý như Vạn Hạnh, Từ Đạo Hạnh, Nguyễn Minh Không,... đều
giỏi pháp thuật và có tài thần thông biến hóa. Thiền tông còn kết hợp với
Tịnh Độ tông như là trong việc tụng niệm Phật A Di Đà và Bồ Tát.Các điện
thờ ở chùa miền Bắc có vô cùng phong phú các loại tượng Phật, BồTát, La
Hán của các tông phái khác nhau. Các chùa miền Nam còn có xu hướng kết
hợp Tiểu thừa với Đại thừa. Nhiều chùa mang hình thức Tiểu thừa (thờ Phật
Thích Ca Mâu Ni, sư mặc áo vàng) nhưng lại theo giáo lý Đại thừa; bên
cạnh Phật Thích Ca Mâu Ni còn có các tượng Phật nhỏ khác, bên cạnh áo
vàng còn có áo nâu, áo lam.
Tổng hợp giữa Phật giáo với các tôn giáo khác
Tín ngưỡng truyền thống đã tiếp nhận Phật giáo ngay từ đầu Công
nguyên. Sau đó Phật giáo cùng tín ngưỡng truyền thống tiếp nhận Đạo giáo. Rồi
tất cả cùng tiếp nhận Nho giáo để làm nên "Tam giáo đồng nguyên" (cả ba tôn
giáo có cùng một gốc) và "Tam giáo đồng quy" (cả ba tôn giáo có cùng một mục
đích). Điều đó được chứng minh rõ nét từ những buổi đầu xây dựng nền phong
kiến độc lập, chúng ta đã thấy các vị danh tăng Phật giáo thông hiểu Nho giáo,
uyên thâm Lão giáo, và vận dụng tam giáo nhuần nhuyễn trong cuộc sống, tu
hành của mình. Các vị ấy hành trì Phật pháp, tham gia chính sự bàn quốc kế dân
sinh như một vị thạc Nho, khi xong việc lớn lại rút về núi rừng thanh bạch ẩn tu
như một đạo sỹ. Đây là điều hiếm có ở đặc trưng văn hóa mà chưa từng thấy của
bất kỳ một dân tộc nào.
23
Thứ hai, Phật giáo Việt Nam có tính hài hòa âm dương
Sau tính tổng hợp, hài hòa âm dương là một trong những đặc tính khác
của lối tư duy nông nghiệp, nó ảnh hưởng rất lớn đến Phật giáo Việt Nam làm
cho Phật giáo Việt Nam có phần thiên về nữ tính.
Ở nước ta, dù mẫu quyền đã được thay thế bởi phụ quyền từ lâu, song chế độ
mẫu quyền vẫn còn kéo dài và dai dẳng đến tận ngày nay vẫn chưa kết thúc. Lịch
sử dân tộc Việt Nam là lịch sử chống ngoại xâm, người phụ nữ có vai trò, vị trí
quan trọng trong xã hội không chỉ vì họ phải gánh vác công việc nặng nề thay
chồng nuôi con ở hậu phương, mà còn có người trực tiếp xông pha trận mạc.
Đối với Phật giáo, các vị Phật Ấn Độ xuất thân là nam giới, khi vào Việt
Nam bị biến thành "Phật ông - Phật bà". Phật Bà Quan Âm (biến thể của Quán
Thế Âm Bồ Tát) là vị thần hộ mệnh của vùng Nam Á nên còn được gọi là Quan
Âm Nam Hải. Ngoài ra người Việt còn có những vị Phật riêng của mình như
Man Nương Phật Mẫu (tên khác: Phật Mẫu), Quan Âm Thị Kính (tên khác:
Quan Âm Tống Tử), Quan Âm Diệu Thiện (tên khác: Phật Bà Chùa Hương, Bà
chúa Ba).
Dưới con mắt của một số tín đồ Phật giáo thì Phật Bà Quan Âm có khi
còn gần gũi, thân thiết và quan trọng hơn cả Phật Thích Ca Mâu Ni. Nhiều nơi
như đền, miếu, phủ…trở thành là nơi hương hoa, oản quả nhằm thờ phụng
những bậc thánh thần thuộc giới nữ.
Thứ ba, Phật giáo Việt Nam có tính linh hoạt
Phật giáo Việt Nam còn có một đặc điểm là rất linh hoạt, mà nhà Phật
thường gọi là "tùy duyên bất biến; bất biến mà vẫn tùy duyên" nghĩa là tùy thuộc
vào tình huống cụ thể mà người ta có thể tu, giải thích Phật giáo theo các cách
khác nhau. Nhưng vẫn không xa rời giáo lý cơ bản của nhà Phật. Ví dụ: Các vị
Bồ tát, các vị hòa thượng đều được gọi chung là Phật, Phật Bà Quan Âm (vốn là
bồ tát), Phật Di Lặc (vốn là hòa thượng),... Ngoài ra Phật ở Việt Nam mang dáng
dấp hiền hòa và dân dã: ông Bụt Ốc (Thích Ca tóc xoăn), ông Nhịn ăn mà mặc
24
(chỉ Thích Ca Tuyết Sơn)... Trên đầu Phật Bà Chùa Hương còn có lọn tóc đuôi
gà rất truyền thống của phụ nữ Việt Nam
Thứ tư, Phật giáo Việt Nam gắn bó với dân tộc.
Phật giáo du nhập vào Việt Nam trở thành một tôn giáo gắn bó giữa đạo
với đời, thể hiện tinh thần nhập thế. Phật giáo Việt Nam có truyền thống yêu
nước, gắn bó với dân tộc, đồng hành trong những giai đoạn thăng trầm của đất
nước, góp phần đấu tranh chống giặc ngoại xâm, bảo vệ Tổ quốc. Trong Phật
giáo Việt Nam đã ghi nhận hai trường hợp đặc biệt: Lý Công Uẩn – một vị sư xả
pháp, xuất tu để ra đời làm bậc quân vương khai mở triều đại nhà Lý, và Trần
Nhân Tông – một vị hoàng đế từ bỏ ngai vàng để vào núi ẩn tu trở thành một vị
Tổ sư của Phật giáo đời Trần. Trong thời kỳ hội nhập, Phật giáo luôn chia sẻ
những khó khăn, hỗ trợ những người gặp hoàn cảnh khốn khó, gặp thiên tai,
địch họa để chung tay cùng đất nước góp phần ổn định xã hội, xóa đói giảm
nghèo và phát triển kinh tế xã hội.
1.2. Khái lƣợc về tín ngƣỡng thờ Mẫu của ngƣời Việt
1.2.1. Nguồn gốc của tín ngưỡng thờ Mẫu
Tín ngưỡng thờ Mẫu ở đây là một tín ngưỡng từ xa xưa của người Việt
mà được bắt đầu từ việc tôn thờ các Nữ thần. Đây là nghi lễ thờ cúng rất lâu đời
và phổ biến trong dân chúng người Việt. Tín ngưỡng lấy việc tôn thờ Mẫu (Mẹ)
làm thần tượng với các quyền năng sinh sôi, bảo trợ và che chở cho con người.
Tín ngưỡng Mẫu đã được giới tính hoá mang khuôn hình của người Mẹ, là nơi
mà ở đó người phụ nữ Việt Nam đã gửi gắm những ước vọng giải thoát của mình
khỏi những thành kiến, ràng buộc của xã hội Nho giáo phong kiến.
Từ ngàn đời xưa, tín ngưỡng thờ Mẫu đã ăn sâu vào tiềm thức của dân tộc
và đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành bản sắc văn hóa Việt Nam. Ở
đó người xưa đã khoác lên cho tự nhiên, vũ trụ thuộc tính nữ. Bởi trong khung
cảnh xã hội nông nghiệp lúa nước ở vùng nhiệt đới giớ mùa như Việt Nam, nơi
mà vai trò của người phụ nữ được đề cao thì việc nhân thần hóa các hiện tượng
25
tự nhiên dưới dạng nữ thần là phổ biến. Đó là nữ thần mặt trời, nữ thần mây,
mưa, sấm, chớp…“Xét về bản chất, tự nhiên và tính nữ có những đặc điểm
chung cơ bản. Đó là: Sản sinh, bảo trữ và che chở. Do vậy việc chuyển hóa từ
cái vô hình thành cái hữu tính, từ cái tự nhiên thành cái nhân bản mang nữ tính
là điều tất yếu và phù hợp với quy luật”[56; 386].Chỉ với những nét phác họa
vậy thôi cũng đủ cắt nghĩa tại sao trong đời sống tinh thần và tâm linh, nhiều
phụ nữ lại trở thành các thần – Nữ thần trong đó có các vị được tôn vinh là Mẫu
thần, Thánh Mẫu.
“Trên thực tế lịch sử văn hóa Việt cho thấy Việt Nam là một dân tộc
nông nghiệp với những hằng số nông dân – nông thông – nông nghiệp; phương
châm “dĩ nông vi bản” có thể coi là phương châm chiến lược trong ứng xử
truyền thống của người nông dân Việt. Sự hiện diện của thương nghiệp nhưng
bị đặt ở hàng thứ tư trong thang bậc xã hội, người làm thương nghiệp cũng hầu
hết là phụ nữ, đàn ông chỉ tập trung vào đi học, đi thi và đi phu, đi lính, nếu có
tham gia thì cũng chỉ hai lĩnh vực buôn trâu và buôn luồng; hình ảnh người phụ
nữ thắt lưng buộc bỏ que, vắn váy quai cổng “quanh năm buôn bán ở mom
song” (Tú Xương) đã trở nên rất đỗi quen thuộc” [31; 31]. Như vậy, có thể nói
dù là làm nông nghiệp hay thương nghiệp thì người phụ nữ trong xã hội cổ
truyền đều có vai trò cực kỳ quan trọng chính vì thế người dân Việt Nam thường
chọn linh tượng là nữ thần chứ không phải là nam thần. Điều đó chúng ta có thể
thấy rất rõ trong lịch sử dân tộc.
Cụ thể như đến nay vẫn còn rất nhiều di tích, đền thờ các vị Nữ thần, các
vị danh nhân nữ, hay như theo quan niệm của người xưa trong số 27 vị tiên có
nguồn gốc thuần Việt thì có tới 14 vị là tiên nữ, đặc biệt trong cuốn “từ điển di
tích văn hóa Việt Nam” mới xuất bản của viện Hán Nôm trong số 1000 di tích
văn hóa, thì đã có tới 250 di tích thờ cúng các vị thần hay danh nhân là nữ…
Tục thờ Mẫu thần và tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ, Tứ phủ có quan hệ
mật thiết với tục thờ Nữ thần, tuy nhiên chúng không phải là đồng nhất. Nói
26
cách khác Mẫu thần đều là Nữ thần nhưng không phải tất cả Nữ thần đều là
Mẫu thần, mà chỉ một số các Nữ Thần được tôn vinh là Mẫu Thần. Cũng tương
tự như vậy, ta có thể nói về tục thờ Mẫu thần và tín ngưỡng thờ Mẫu Tam Phủ,
Tứ Phủ. Rõ ràng, tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ, Tứ phủ gắn liền với tục thờ
Mẫu thần dân gian, nhưng như thế không có nghĩa là mọi Mẫu thần đều thuộc
điện thần của tín ngưỡng thờ Mẫu Tam Phủ, Tứ Phủ tức Tam tòa Thánh Mẫu là
một bước phát triển “nâng cao” “lên khuôn” từ một số hành vi tôn thờ rời rạc
đến một thứ tín ngưỡng, một “đạo” có tính hệ thống hơn. Điều đó được thể
hiện ở các điểm như:
Thứ nhất: Một tín ngưỡng vốn tản mạn, rời rạc, nay bước đầu có một hệ
thống tương đối nhất quán về điện thần với các phủ, các hàng tương đối rõ rệt.
Một điện thần với hàng mấy chục vị thần đã dần quy về một vị thần cao nhất là
Thánh Mẫu.
Thứ hai: Một tín ngưỡng dân gian bước đầu đã chứa đựng những yếu
tố về một hệ thống vũ trụ luận nguyên sơ, một vũ trụ thống nhất chia thành
bốn miền do bốn vị Thánh Mẫu cai quản. Một tín ngưỡng bước đầu thể hiện
một ý thức dân sinh, ý thức cội nguồn, dân tộc, lòng yêu nước, một thứ chủ
nghĩa yêu nước đã được linh thiêng hóa mà Mẫu chính là biểu tượng cao nhất.
Thứ ba: Một tín ngưỡng dân gian bước đầu đã được “chuẩn hóa”,
trong đó hầu đồng và lễ hội “tháng tám giỗ cha, tháng ba giỗ mẹ” là một
điển hình.
Như vậy, “về cội nguồn và bản chất thì việc thờ Nữ thần và Mẫu thần…đều
thuộc tín ngưỡng thờ thần của người Việt, mà nhà khảo cứu Toan Ánh đã gọi là
Đạo Thờ Thần”[58; 51]. Còn tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ, Tứ phủ tức là việc
tôn thờ Thánh Mẫu, tôn thờ những người cai quản những miền khác nhau trong vũ
trụ, có thể trở che và ban phát cho con người sức khỏe và tài lộc.
Tuy nhiên như chúng ta biết trong điện của tín ngưỡng thờ Mẫu Tam
phủ, Tứ phủ hiện nay các vị thần linh không chỉ thuần thúy là Nữ thần mà còn
27
có cả nam thần, và ngay cả trong nghi lễ lên đồng cũng được chia thành nghi lễ
của hai dòng thánh cha tức thờ Đức Thánh Trần và dòng đồng cốt là thờ Đức
Thánh Mẫu Liễu Hạnh . Và ở đây tại sao lại có sự đan xen như vậy? Ở đây phải
nói đến vai trò của Đạo giáo Trung Quốc. Trong quá trình phát triển của mình,
để từ tôn thờ Nữ thần phát triển thành tôn thờ Mẫu thần và phát triển hoàn thiện
thành tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ, Tứ phủ thì những ảnh hưởng của Đạo giáo
Trung Quốc có vai trò quan trọng. Từ việc tôn thờ các vị thần là nữ sau này bị
ảnh hưởng khi Đạo giáo Trung Hoa du nhập vào nước ta từ thời Bắc thuộc tín
ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ, Tứ phủ và các tín ngưỡng dân gian khác tiếp thu
ảnh hưởng của nó trên nhiều phương diện. “Đó là các quan niệm về tự nhiên,
đồng nhất con người với tự nhiên về quan niệm Tam phủ, Tứ phủ, một số vị
Thánh của Đạo giáo bắt đầu thâm nhập vào điện thần Tứ phủ, như Ngọc
Hoàng, Thái Thượng Lão quân, Nam Tào, Bắc Đẩu…Đó là các truyện thần tiên
huyền ảo, các phép thuật mang tính phù thủy để trừ tà ma….”[58;62]Đặc biệt
trong hệ thống thờ của tín ngưỡng thờ Mẫu còn thờ vua cha Đức Thánh Trần
như một đối trọng tạo nên sự hòa hợp âm dương với Thánh Mẫu Liễu Hạnh bởi
quan niệm vũ trụ luận phương Đông cổ đại nói chung và Việt Nam nói riêng
vẫn là âm dương tương khắc, tương sinh. Chính vì vậy, “các thần linh tứ phủ
còn được phân chia thành một bên là các nữ thần và bên kia là nam thần, tuy
thứ bậc chính của mỗi vị Thánh trong điện thần phụ thuộc vào việc họ thuộc
hàng nào từ trên xuống dưới, như Thánh Mẫu – Vua Cha, các Quan, các Chầu,
Ông Hoàng, các Cô, Cậu…”[58;94].
1.2.2. Đặc trưng của tín ngưỡng thờ Mẫu
Thứ nhất, tín ngưỡng thờ mẫu thờ Mẫu là một tín ngưỡng dân gian
thuần Việt.
Tín ngưỡng thờ Mẫu có lịch sử lâu đời ở Việt Nam, không hướng đến
cuộc sống sau khi chết mà hướng đến cuộc sống thực tại của con người với ước
vọng sức khỏe, tài lộc, may mắn, là một nhu cầu trong đời sống tâm linh của
28
người Việt, mang lại cho họ sức mạnh, niềm tin và có sức thu hút mọi tầng lớp
trong xã hội.
Giá trị cốt lõi của tín ngưỡng thờ Mẫu là chữ Tâm, hướng con người sống
thiện, có cái tâm trong sáng, biết đối nhân xử thế, thờ phụng ông bà tổ tiên và
biết ơn những người có công với dân, với nước.
Tục thờ Mẫu của người Việt đã được hình thành từ thờ kỳ sơ khai của dân
tộc Việt Nam.Không chỉ dừng lại ở đó, tục thờ Mẫu của người Việt còn được
thể hiện qua tư duy suy tôn các vị nữ thần có công và có đức với dân tộc trong
quá trình lịch sử đất nước gặp nhiều cuộc chiến tranh gian khổ, dân chúng cùng
cực, đồng thời cũng là chỗ dựa cho cuộc sống tinh thần gần gũi với cộng đồng
dân cư người Việt. Họ đã trở thành những thánh nhân trong lòng dân như: bà
Triệu, bà Trưng Trắc và bàTrưng Nhị, nữ tướng Lê Chân, Nguyên Phi Ỷ
Lan…Trải dài theo lãnh địa của Việt Nam, tục thờ Mẫu cũng được hình thành
và phân bố theo suốt chiều dọc của đất nước như: Vùng Tây Bắc với tín ngưỡng
thờ Mẫu điển hình của dân tộc Tày, Nùng được chi phối hình ảnh người mẹ Pựt
Luông (mẹ Phật Lớn – Mẹ Cả của miền trời với lòng từ bi khoan dung độ lượng
chăm lo cho cuộc sống con dân trần gian…), mẹ Bióc hay còn gọi là Mẻ Va (Mẹ
Hoa – là người mẹ chủ về trông coi sự sinh sản và nuôi dưỡng trẻ nhỏ…). Trung
tâm của tín ngưỡng vùng Bắc Bộ với Mẫu Liễu Hạnh tại thôn Vân Cát, xã Kim
Thái, Vụ Bản, Nam Định ngày nay.
Đối ngẫu với Bắc Bộ là điện Hòn Chén thờ Thánh Mẫu Thiên Yana ở miền
Trung (Thừa Thiên - Huế) và Tháp Bà - Nha Trang, nơi có dấu tích của văn hóa
Chăm sinh sống đều có đền thờ vị thần mẹ xứ sở vĩ đại Pô Inư Nưgar và thờ Pô
Inư Nưgar Hamu Ram (Hữu Đức – Ninh Thuận). Tại Nam bộ là thờ Linh Sơn
Thánh Mẫu (Tây Ninh), là thờ Bà Chúa Xứ (An Giang) v.v…
Thứ hai, tín ngưỡng thờ Mẫu thể hiện bản chất hướng về cội nguồn một
cách sâu sắc, mang đậm triết lý nhân sinh.
29
Ở Việt Nam, ý thức tưởng nhớ về cội nguồn của dân tộc được thể hiện rõ
qua tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, tín ngưỡng thờ thần là những vị có công lao
dựng làng, dựng nước.Đối với người mẹ, người mang nặng đẻ đau, nuôi dưỡng
nên những đứa con, thì nghĩa mẹ thật là sâu nặng khôn cùng. Từ ý nghĩa đó mở
ra một tầm nhìn văn hóa, những gì là yếu tố có ý nghĩa quyết định sinh sôi ra của
cải, hạt gạo, bát cơm, nhân số cơ bản nuôi sống dân cư nông nghiệp đều được tôn
thờ.Vì thế, cây, đất, nước được tôn vinh là những bà mẹ.
Do vậy, trong cuộc sống hàng ngày cũng như trong văn chương nghệ
thuật thì chữ “Mẫu”, chữ “Mẹ”, chữ “Cái” vẫn giữ nguyên giá trị như nó vốn có
cho đến bây giờ.
Cũng như thế, ý nghĩa của chữ Mẫu - Mẹ trong các danh từ đền Mẫu,
Thánh Mẫu trong tín ngưỡng thờ Mẫu của Việt Nam cũng không nằm ngoài ý
nghĩa đó. Ra đời từ trong cuộc sống đấu tranh với thiên nhiên khắc nghiệt, với
cường quyền đè nén, với ngoại xâm tàn bạo, tín ngưỡng thờ Mẫu đã có một mối
gắn bó rất tự nhiên với người dân lao động, cho nên hình thức của ngôi đền thờ
Mẫu vừa nhỏ nhắn về kích thước, vừa giản dị chỉ tương đương với một ngôi nhà
dân vào loại khá giả ở nông thôn, đầu hồi có cửa và mái lợp ngói. Trong đền
không để nhiều tượng mà người ta để các khám bên trong có các tượng nhỏ.
Khám thờ được chạm trổ như một ngôi chùa nhỏ bằng gỗ.
Cách bài trí của đền, phủ cũng khác với cách bài trí của chùa. Nếu như ở
chùa người ta bố trí theo thứ tự sự tu hành của các vị Phật thì ở đền người ta bài
trí theo Tứ phủ, gồm có bốn cấp là Mẫu Thiên, Mẫu Địa, Nhạc Mẫu và Mẫu
Thoải. Ở điện thờ Mẫu Thiên, người ta làm các cảnh sắc, mô hình thuộc về cõi
trời. Mẫu Địa thì đó là các cảnh núi non, bờ đất như ở đồng bằng rộng lớn. Nhạc
Mẫu thì họ làm các cảnh núi non, cây cỏ và các cô gái mặc áo chàm, còn ở điện
thờ Mẫu Thoải thì họ làm các mô hình bờ sông và các bè trôi nổi trên sông đó.
Như vậy, cách bài trí trong điện thờ Mẫu của Tứ phủ, đền đựợc mô tả theo tự
30
nhiên của bốn hình thái cơ bản của địa lý và thiên văn có mối quan hệ gắn bó
mật thiết với cuộc sống con người.
Tuy nhiên,tín ngưỡng thờ Mẫu cũng chịu ảnh hưởng của đạo Phật cho nên
trên cùng của điện thờ Mẫu có tượng Phật để thờ thêm.Cũng cần phải nhấn
mạnh thêm sự ảnh hưởng sâu rộng của tín ngưỡng thờ Mẫuvới các tôn giáo du
nhập từ bên ngoài vào. Trong quá trình du nhập Phật giáo vào nước ta, tôn giáo
này đã phát triển theo khuynh hướng dân gian hóa, giữa tín ngưỡng thờ Phật và
tín ngưỡng thờ Mẫu có sự thâm nhập và tiếp thu ảnh hưởng lẫn nhau. Điều dễ
nhận biết nhất là ở hầu hết các ngôi chùa hiện nay ở nông thôn đều có điện thờ
Mẫu. Trongđó phổ biến nhất là dạng “tiền Phật hậu Mẫu”. Người ta đi chùa vừa
để lễ Phật, vừa để cúng Mẫu. Nhiều khi điện Mẫu đã tạo nên không khí ấm
cúng, gần gũi nhộn nhịp hơn cho các ngôi chùa làng.
Không chỉ có con đường các điện Mẫu đi vào chùa, mà còn có con đường
ngược lại Phật đi vào đền, phủ thờ Mẫu. Trong điện thần cũng như cách thức
phối tự ở các ngôi đền, phủ ta đều thấy sự hiện diện của Phật, mà đại diện cao
nhất là Phật Bà Quan Âm cứu khổ cứu nạn cho chúng sinh. Cũng cần phải nhấn
mạnh rằng: Quan Âm trong Phật giáo Ấn Độ vốn là một Nam thần, nhưng khi
qua Trung Quốc vào nước ta đã bị “Nữ thần hóa”, thậm chí “Mẫu hóa” để trở
thành Quan Âm Thánh Mẫu trong tín ngưỡng thờ Mẫu Việt Nam. Trong các
ngày giỗ Mẫu, giỗ Mẹ đều có nghi thức rước Mẫu lên chùa để đón Phật về đền,
phủ cùng tham dự ngày hội. Trong hệ thống các bài chầu văn thì có văn chầu nhị
vị Bồ Tát… Điều đó chứng tỏ vai trò của người phụ nữ được khẳng định từ xưa.
Thứ ba, tín ngưỡng thờ Mẫu mang đậm sắc thái dân gian.
Tính dân gian của tục thờ Thánh Mẫu ở nước ta thể hiện dưới nhiều dạng
khác nhau, trong đó tranh thờ Mẫu là một trong những dạng thức biểu hiện sinh
động về điều đó.Ở Việt Nam, tranh thờ Mẫu phong phú về đề tài và nghệ thuật
tạo hình. Tuy nhiên, điều dễ nhận biết nhất ở thể loại tranh này là tính nhân dân
vừa giản dị vừa gần gũi lại dễ hiểu. Trong bộ tranh Tam Phủ, Tứ Phủ của tín
31
ngưỡng thờ Mẫu, ngoài các vị Ngọc Hoàng Thượng Đế, các bà chúa là những vị
thánh cai quản giang sơn riêng được đặt ở trung tâm bức tranh chiếm tỷ lệ vượt
trội thì ở xung quanh và ở dưới còn thấy rất nhiều những “Cô”, những “Cậu”
đứng hầu. Những “Cô” và “Cậu” này có tỷ lệ nhỏ hơn. Đây hẳn có mối quan hệ
giữa tín ngưỡng thờ Mẫu với tục thờ gia tiên của người Việt từ ngàn xưa. Trong
đó, các “Cô”, các “Cậu” ấy cũng chính là các bà cô, ông mãnh, các thiện nam,
tín nữ đã mất từ rất sớm mà chưa kịp làm phận sự của một con người mà ít gia
đình nào không có. Lại thấy trong các tranh này các “Cô”, các “Cậu” trên tay
cầm hoặc bưng các thứ đồ vật như khay trầu, gương, lược, hoa quả… là những
thứ các bà, các cô ở Việt Nam dùng thường nhật hoặc sai các con, các cháu cầm
giúp, điều đó đã tạo nên một không gian đầm ấm và thanh bình. Tranh thờ Bà
chúa Thượng Ngàn ở đồng bằng Bắc Bộ là một ví dụ điển hình. Như vậy, có thể
thấy giá trị cơ bản nhất trong tranh tượng thờ Mẫu chính là ở sự dân gian hóa
các bức tranh thờ, tượng thờ ở mức độ khái quát nhất, tiêu biểu nhất để trở thành
sức mạnh tâm linh, sức mạnh tinh thần cho con người. Bởi thế bất kỳ ai khi đến
với các đền phủ thờ Mẫu, được chiêm bái trước tranh thờ, tượng thờ, các cảnh
vật và hương sắc trong đền, phủ đều thấy rất gần gũi, ấm áp, thanh bình.
Ngoài ra, các nghi thức của tín ngưỡng thờ Mẫu cũng rất gần với các nghi
thức trang trí của dân gian.Trong đền, phủ ta thấy có đủ các nón ba tầm, kiệu,
võng đến các đồ dùng trong sinh hoạt thường ngày vẫn thấy trong các nhà dân
Việt Nam xưa mà những người phụ nữ thường dùng như khay đựng trầu, cau,
nón, quạt, ấm nước… Tất cả các đồ vật này chủ yếu được làm bằng giấy, đó là
các thứ giấy tráng kim rực rỡ mà mềm mại, duyên dáng rất phù hợp với tính
cách nữ. Màu sắc trong đền, phủ thường dùng các màu sặc sỡ, chủ yếu là 5 màu
chính: Xanh, trắng, vàng, đỏ, đen tức “Ngũ sắc”. Năm màu này được thể hiện rõ
nhất trong hình tượng Thánh Mẫu gắn với các chức năng của họ như Mẫu
Thượng Thiên thường dùng y phục màu xanh, Mẫu Địa thì màu vàng… Tất cả
các yếu tố ấy đều tương ứng với thuyết “Ngũ phương”, “Ngũ hành” là những
32
thuyết mang đậm chất văn hóa của các dân tộc Á Đông. Các hình thức này giúp
người ta hình dung một không gian với những vẻ đẹp của trần gian và những
hình thức của đền, phủ cũng là những hình thức quen thuộc trong sinh hoạt của
người nông dân trong cộng đồng Việt Nam.
Về các điệu múa được sử dụng trong các lễ hội đền, phủ thờ Mẫu cũng
mang tính dân gian Việt Nam rất rõ, nhất là dạng múa của phụ nữ. Có thể chỉ là
bận các áo chàm, áo mớ bảy, mớ ba và họ múa những điệu múa giống như múa
chèo nhưng nhịp điệu, lời ca lại hợp với nhạc cung văn. Có những điệu múa mà
người múa đội trên đầu cả một mâm hoa quả nhưng họ rất mềm mại uyển
chuyển không làm rơi, đổ các thứ lễ bày trên mâm đó. Và những bước đi, nhưng
nhịp điệu mềm mại, uyển chuyển của các động tác, lời ca hết sức cô đúc, nhuần
nhị và gây ấn tượng hết sức mạnh mẽ của sự múa ấy lại được cung văn tấu lên
các thứ nhạc có nhịp điệu vui nhộn làm cho không khí của các ngày lễ hội đền,
phủ Mẫu thêm tưng bừng. Mặt khác, nếu chúng ta hiểu sâu về tín ngưỡng thờ
Mẫu chúng ta sẽ tìm thấy những giá trị mang tính nhân văn tốt đẹp trong phong
tục tập quán của tổ tiên ta từ xa xưa truyền lại, đồng thời góp phần ngăn chặn
kịp thời những biểu hiện sai lệch tín ngưỡng thờ Mẫu và làm ảnh hưởng không
tốt đến nhiều người.
Như vậy, tín ngưỡng thờ Mẫu góp phần quan trọng vào việc bảo tồn và
phát huy những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc.Đó là các phong tục tập
quán có từ lâu đời từng hun đúc lên sức mạnh của nhân dân trong lịch sử dựng
nước và giữ nước của dân tộc; là nền tảng đạo đức trong cách thức ứng xử giữa
con người với con người, được thể hiện ở sự kính trọng với những người đã sinh
thành ra mình, những người có công với dân, với nước.Tất cả những nghi lễ, tập
tục cổ truyền tốt đẹp cần phải được giữ gìn và phát huy trong xu thế toàn cầu
hóa trên mọi lĩnh vực đang phát triển nhanh, mạnh và rộng khắp nhưng không
làm mất đi những giá trị văn hóa truyền thống.
33
Tục thờ Mẫu đã nằm sâu vào tâm khảm của người Việt, mà đặc biệt khi
chúng ta tìm hiểu vùng văn hóa châu thổ Bắc Bộ, thì có thể thấy rằng tục thờ
Mẫu với hệ thống cấu thành cơ bản trọn vẹn thành tín ngưỡng thờ Tứ phủ với
bốn tối thượng mang tính sáng tạo và cai quản trong bốn miền vũ trụ. Từ những
nghiên cứu cho thấy rằng: bản chất của tín ngưỡng thờ Mẫu chính là sản phẩm
của tư duy nông nghiệp lúa nước cầu mưa với ước vọng được mùa cho nên các
vị thần linh trong hệ thống điện thờ này vừa gần gũi với cuộc sống và tâm tưởng
của người cư dân người Việt, nhưng lại vừa thiêng liêng tôn kính khi được suy
tôn một quyền năng tối thượng của vũ trụ. Hơn nữa là, tín ngưỡng thờ Mẫu như
là một tín ngưỡng dân dã tràn ngập trong không gian huyền bí tâm linh và có
những ảnh hưởng đến các tôn giáo lớn khác trong khu vực và thế giới, như một
đối trọng khôn khéo để bảo tồn và gìn giữ bản sắc văn hóa truyền thống của dân
tộc Việt Nam. Đối với tôn giáo ngoại lai thì hình ảnh và vai trò của người Mẹ
thần thánh không được đề cao khi du nhập vào văn hóa bản địa của người Việt.
Nhiều khi chúng ta bắt gặp những nhận định giải thích về hình ảnh Thánh Mẫu
được đồng nhất với Quán Thế Âm Bồ Tát, Thiên Thủ Thiên Nhãn được đồng
nhất với Thánh Mẫu Đệ Nhất Thiên Tiên, Quán Âm tọa sơn được đồng nhất với
Thánh Mẫu Đệ Nhị Sơn Trang và Quán Âm Nam Hải thì đồng nhất với Thánh
Mẫu Đệ Tam Thoải Phủ…, thậm chí ở trong một chừng mực nhất định nào đó
thì Đức Mẹ Maria cũng có sự đồng nhất tương tự.
Hơn thế nữa văn hóa Việt Nam mang triết lý âm sinh dương thành, điều
này thể hiện rõ rệt ở nền văn hóa lúa nước, đề cao yếu tố yên tĩnh, hòa bình, coi
trọng tình nghĩa xóm làng tạo nên sức mạnh đoàn kết chống lại thiên tai địch
họa. Đối với người Việt Nam: "giặc đến nhà đàn bà cũng đánh".Chính vì vậy
mọi vinh quang, trách nhiệm đều quy về vai trò của người mẹ. Điều này thể hiện
qua một số hình tượng mang biểu tượng cái: Sông cái, đường cái, mẹ quê hương
xứ sở…
34
Từ những điều thể hiện triết lý xâu xa trên đây, mà ở Việt Nam, người mẹ
đuợc tôn vinh đặc biệt, có hẳn một tín ngưỡng dành cho các mẹ, đó là tín
ngưỡng thờ Mẫu. Qua đó chúng ta thấy rằng bản chất của tín ngưỡng thờ Mẫu là
tôn thờ những yếu tố, đối tượng sản sinh ra vật chất, của cải nuôi dưỡng con
người. Tất cả những yếu tố đó được suy tôn là Mẹ một cách đầy thiêng liêng.
1.3. Cơ sở cho sự dung hợp của Phật giáo với tín ngƣỡng thờ Mẫu
Trên thế giới, các nền văn hóa không đứng cô lập và bất biến, mà trái lại
thường xuyên diễn ra quá trình tiếp xúc văn hóa và tạo ra những chuyển biến
văn hóa khác nhau. Có nhiều loại hình tiếp xúc văn hóa với những dạng thức
khác nhau và đem lại những kết quả khác nhau. Trong đó có:
Tiếp biến văn hóa: là sự tiếp xúc giao lưu giữa thực thể văn hóa có mối
liên hện đáng kể về chủng tộc, địa lý hoặc lịch sử và thường tồn tại chênh về
phát triển lịch sử và quy mô không gian văn hóa. Trên nguyên tắc, quá trình tiếp
biến sẽ diễn ra theo một dòng chảy có định hướng, từ một trung tâm văn hóa lâu
đời chuyên tới một trung tâm văn hóa nhỏ và trẻ hơn. Tiếp biến văn hóa được
diễn ra bằng hai hình thức cưỡng bức hoặc tự nguyện, vay mượn. Tuy nhiên,
như tác dụng của một dòng đối lưu, nền văn hóa nhỏ cũng có thể ảnh hưởng
ngược trở lại nền văn hóa lớn. Hình thức quyết liệt nhất là quá trình phản tiếp
biến, từ chối và đề kháng chống lại các ảnh hưởng không thích hợp với văn hóa
của đối tượng tiếp nhận.
Đồng hóa văn hóa: là một hiện tượng tiếp biến văn hóa ở mức cực đoan
và thường có tác động tiêu cực, xảy ra trong một quá trình chung sống lâu dài,
trong đó, thực thể văn hóa đã bị triệt tiêu dưới sức ép của và sự xâm thực của
nền văn hóa thông trị.
Hỗn dung văn hóa hay lại tạo văn hóa. Ở loại hình này không có sự
chênh lệch quá lớn về lịch sử, không có sự đề kháng cực đoan về văn hóa trong
quá trình tiếp biến. “Đối tượng hỗn dung tồn tại như một lò luyện hợp văn hóa,
lúc đầu pha trộn nhiều yếu tố khác biệt với nhau như tiến hành một thao tác hỗn
35
hợp. Sau dần, đối tượng hỗn dung đã bản địa hóa những nhân tố ngoại sinh, tiến
hành một kiểu phản ứng hóa học để tạo ra một hợp chất mới, mang nhiều sắc
thái và nguồn gốc, nhưng vẫn của riêng mình. Điều kiện để quá trình hỗn dung
được thành công đối tượng phải có một bản sắc và bản lĩnh văn hóa
mạnh”[18;14].
Trong lịch sử nước ta, đã có nhiều quá trình tiếp xúc văn hóa ngoại sinh
như, chủ yếu với văn hóa Trung Hoa, văn hóa Chămpa ảnh hưởng của Ấn Độ
phương Nam và sau này là lối văn hóa phương Tây. Trong các quá trình tiếp xúc
văn hóa này đã tồn tại đủ cả ba loại hình tiếp biến nói trên, nhưng bền vững nhất
vẫn là loại hình thứ ba hỗn dung và lại tạo văn hóa. Quá trình hỗn dung và lai tạo
văn hóa này cũng chính là quá trình dung hợp giữa Phật giáo với tín ngưỡng thờ
Mẫu để tạo ra một loại hình văn hóa tín ngưỡng . Tuy nhiên, để quá trình dung
hợp đó được diễn ra thì cần phải có những cơ sở và điều kiện nhất định như:
1.3.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế và cơ sở tâm lý cho sự dung hợp giữa Phật
giáo và tín ngưỡng thờ Mẫu
Về điều kiện tự nhiên: Việt Nam nằm giữa ngã ba giao lưu của khu vực
Đông Nam Á, trông ra Biển Đông, được mệnh danh là “ban công của Thái Bình
Dương”. Việt Nam có trên 3.200 km bờ biển, nằm trên ngã tư của các tuyến giao
thương đường biển trong suốt thời kỳ lich sử từ cổ đại đến hiện đại, rất thuận lợi
cho sự giao lưu với các nước lân cận, là cầu nối giữa các nước Đông Bắc Á
(Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc…) với các nước Đông Nam Á (Indonesia,
Malaysia, Singapore…).
Với vị trí địa lý thuận lợi trong việc giao lưu giữa các nước và các luồng
văn hóa khác nhau, hình thành một lối sống mở, không khép kín nên các tôn
giáo truyền thống cơ bản của Trung Hoa và Ấn Độ như: Phật giáo, Nho giáo,
Đạo giáo đều có mặt rất sớm ở Việt Nam. Khác với Trung Hoa và Ấn Độ: vị trí
địa lý của Trung Hoa được bao bọc cẩn thận từ ba phía, phía Đông là Thái Bình
36
Dương mênh mông, phía Tây là sa mạc tro trụi và vùng Tây Tạng núi non hiểm
trở, phía Bắc là dãy núi Mãn Châu, rừng Xibiri, sa mạc Gobi. Do đó, người
Trung Hoa hàng ngàn năm tách biệt, không tiếp xúc với thế giới bên ngoài và
các nền văn minh khác. Còn Ấn Độ Dương, phía tây là biển Arập, phía Đông là
vịnh Bengal. Với một địa hình bao bọc bởi biển cả và núi đồi, cùng với vùng sa
mạc hoang vu ở miền Tây, khiến cho Ấn Độ cũng như một đất nước đóng kín.
Thứ đến, Việt Nam, Trung Hoa và Ấn Độ là những nước có cùng khu vực
địa văn hóa, có nhiều nét tương đồng về điều kiện tự nhiên, khí hậu nên cũng sẽ
có những nét tương đồng về nhận thức, lối sống, phong tục.
Việt Nam cũng là một xứ sở mà người dân sống ở đó phải đối đầu với một
môi trường tự nhiên đầy cam go (khí hậu nóng ẩm, mưa nhiều) thường sảy ra lũ
lụt, vỡ đê…những việc một người không thể làm được mà phải cần đến nhiều
người, đến cộng đồng. Do vậy, tính cố kết cộng đồng, tính đồng cam cộng khổ,
khoan hòa, đoàn kết của người Việt được hình thành từ rất sớm và rất mạnh mẽ. Từ
đó,trong văn học dân gian của người Việt có rất nhiều câu thành ngữ diễn tả tình
làng, nghĩa xóm như: “bán anh em xa, mua láng giềng gần”, “chết một đống còn
hơn sống một mình”, bầu ơi thương lấy bí cùng, tuy rằng khác giống nhưng chung
một giàn”… Nguyên tắc sống trọng tình và nhu cầu về một cuộc sống hòa thuận là
cở sở cho tinh thần dung hòa trong quan hệ xã hội. Bởi, người Việt luôn biết dung
hòa và hóa giải mọi đối nghịch để tìm ra nét hài hòa và thăng bằng cho mình.
Điều kiện kinh tế: Việt Nam nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa, nóng,
ẩm nhiều ao hồ, đầm lầy, sinh bãi, nên thích hợp với nghề trồng trọt. Hoạt động
kinh tế của con người Việt cổ chủ yếu là nông nghiệp lúa nước, nên lao động
sản xuất lệ thuộc nhiều vào yếu tố thiên nhiên, gắn bó với thiên nhiên, do đó,
người Việt rất tôn trọng tự nhiên, hình thành nên cách sống hòa hợp với thiện
nhiên, hòa hợp con người với con người.
Cũng vì nền sản xuất nông nghiệp lúa nước nên con người không thể
ruộng ai nhà ấy cấy, nước nhà ai nhà ấy dùng, họ cần phải liên kết, dựa dẫm vào
37
nhau để cùng lao động sản xuất, hình thành nên đặc trưng quan trọng của văn
hóa nànng nghiệp là coi trọng tập thể, cộng đồng, làm gì cũng tính đến tập thể,
cá nhân luôn đứng sau tập thể. Nên, tinh thần tương thân tương ái và hòa hợp
của người Việt rất cao.
Chính với cơ sở kinh tế thuần nông đó cùng với vai trò quan trọng của
người phụ nữ trong gia đình. Từ đó hình thành tâm lý coi trọng Mẹ, sống thiên
về Mẹ mà giới nghiên cứu văn hóa gọi đó là Mẫu tính trong văn hóa. Với
khuynh hướng thiên về “Mẫu tính” ấy, hệ quả tất yếu của nó là lối sống tình
cảm, mềm dẻo, khoan hòa, độ lượng.
Cơ sở tâm lý xã hội:Sự da dạng, phức hợp của các điều kiện tự nhiên,
kinh tế và lịch sử đã góp phần tạo nên sự đa nguyên, cộng tồn và nét đặc trưng
cho hệ ý thức tâm lý xã hội của người Việt.
Việt Nam là một nước nhỏ, bản thân nó không tạo nên những hệ thống lý
thuyết hoàn chỉnh hoặc những học thuyết giáo điều riêng cho mình như những
trung tâm văn hóa lớn trên thế giới. Một số quan điểm cho rằng, từ thời cổ đại,
người Việt đã có một chuẩn hệ tư duy và nhận thức hoàn toàn riêng, mang tính
nông nghiệp. Đó là lối suy tư phồn thực, đề cao những yếu tố sinh, dưỡng, dục
(sinh sản, nuôi dưỡng, giáo dục), mà những yếu tố đó, theo quan niệm của người
Việt là thuộc tính của Mẫu. Tính Mẫu có phần nội trội đó là cơ sở tâm lý cho sự
hình thành lối sống linh hoạt, du di, xuề xòa, tương đối, chín bỏ làm mười của
người Việt. Nguyên tắc sống trọng tình, thiên về âm tính là cơ sở tâm lý cho sự
hình thành một cuộc sống hòa thuận, khoan dung, độ lượng trong quan hệ xã
hội. “Đó là một nền văn hóa truyển thống, hiếu cổ, ít có những thay đổi cách tân
cơ bản. Nền văn hóa đó coi trọng những giá trịn tinh thần, tâm linh hơn những
giá trị vật chất, duy lý. Về phương diện ứng xử, đạo đức, tình nghĩa được coi
trọng hơn những lợi ích kinh tế của cải. Trong nền văn hóa đó, cá nhân con
người đã tìm cách thích ứng hòa đồng với môi trường tự nhiên, cộng đồng xã
38
hội và thế giới tâm lih nhiều hơn là tìm cách đấu tranh, chinh phục cho lý tưởng
tự do và giải phóng nhân cách”[17;250]
Khoan hòa cũng chính là một triết lý khôn ngoan được cha ông ta rút ra từ
trong quan hệ bang giao với nước láng giềng lớn. Lịch sử dân tộc Việt đã cho thấy,
nếu “nước lớn”mang quân sang đánh thì ta đánh lại, đánh thắng xong rồi lại cầu
hòa, cống nạp, xoa dịu, thừa thời củng cố binh lực để đối phó với ngoại bang.
Người Việt, về tâm lý, thường dễ tin, dễ mê tín, ưa huyền bí, huyền nhiệm, ưa
các môn tu luyện dưỡng sinh. Nên Việt Nam được xem là đất “dưỡng” các nhà lập
giáo và tôn giáo, người Việt được xem là có “trái tim” tôn giáo.
Tuy nhiên, dù người việt có “trái tim tôn giáo”, nhưng tâm thức tôn giáo
lại bàng bạc, dễ thỏa mãn, đây chính là điều kiện để người Việt dễ dàng dung
hợp nhiều tôn giáo ngoại lai cùng một lúc. “Người Việt theo tôn giáo những
không quá cuồng tín, không chuộng lối tu khổ hạnh. Người Việt theo đạo Phật
nhưng không là những phật tử thuần thành, theo đạo Khổng những không hẳn
thuộc hàng ngũ Nho thâm, theo đạo Lão những không quá mê đền, phủ miếu
mạo, sống tách biệt khỏi nhân sinh. Người việt vừa có thể theo Phật, lại vừa theo
Nho, và lại có thể là con nhang, đệ tử của Lão, tu không thoát tục, đạo cũng là
đời. Điều hòa trong tâm linh cũng là mộ triết lý tối thượng của người dân Việt,
không quá cuồng tín, giữ mức quân bình để đời sống được an vui, tự tại” [16;
60]. Có thể nói, người Việt trong xã hội truyền thống thường đa tín, dị tín đến
mức mê tín, nhưng không bao giờ cuồng tín. Đó là một chủ nghĩa đa thần,
phiếm thần.
Thêm nữa, người Việt không có quốc giáo, tín ngưỡng tôn giáo của người
Việt cổ trước khi có các tôn giáo ngoại nhập là đa thần giáo, nên phần nào các
tôn giáo ngoại nhập cũng có thể dễ dàng bén rễ và phát triển ở Việt Nam hơn so
với các quốc gia độc thần khác ở châu Á và châu Âu.
Người Việt ít chú trọng vào giáo điều mà chỉ chú tâm đến việc thực hành
đạo, do tính cứng nhắc, cố chấp về kinh kệ, chặt chẽ về thể chế gần như không
39
có, nên đời sống tôn giáo của người Việt phong phú và đễ phát triển hơn so với
Trung Quốc, Nhật Bản và các quốc gia độc thần giáo khác.
Như vậy, tất cả các yếu tố từ điều kiện tự nhiên, kinh tế đến cơ sở tâm lý
xã hội đã tạo một cơ sở, một “mảnh đất màu mỡ” cho sự tiếp thu các tư tưởng
tôn giáo ngoại lai, đặc biệt là Phật giáo.
1.3.2. Cơ sở triết lý của Phật giáo và tín ngưỡng thờ Mẫu
Cơ sở triết lý của Phật Giáo:
Trên bước đường truyền bá và hội nhập, Phật giáo luôn luôn cố gắng thực
hiện hai điều đó là “khế lý” và “khế cơ”. Nếu thiếu đi một trong hai yếu tố này
Phật giáo sẽ chẳng còn là Phật giáo nữa. Duy trì và phát triển hai yếu tố này,
Phật giáo được truyền vào Việt Nam và các nước khác.
“Khế lý” là nói về mặt tư tưởng nhờ “khế lý” nên dù ở thời gian và không
gian nào, giáo lý Phật-đà vẫn hợp với chân lý, tư tưởng vẫn luôn luôn phong phú,
sâu sắc mà vẫn giữ được bản chất của mình và chỉ có một vị đó là vị giải thoát.
“Khế cơ” thiên trọng về mặt lịch sử nhờ khế cơ nên dù trong hoàn cảnh và
quốc độ nào thì sự sinh hoạt, thể hiện, truyền đạt cũng luôn luôn đa dạng. Tùy
theo phong tục tập quán của mỗi quốc gia mà vẫn không hề mất gốc (Phật giáo).
Nói một cách khác thì có thể tùy nghi phương tiện theo từng vùng miền để
truyền bá giáo lý Phật-đà nhưng không làm mất đi bản sắc của Phật giáo là ứng
hợp với mọi tầng lớp và căn cơ chúng sinh.
Tên gọi tuy có khác nhưng giáo lý vẫn là một nên gọi là “khế lý”, dù một
mà không phải một, nên có nhiều tên như Phật giáo Việt Nam, Phật giáo Tây
Tạng, Phật giáo Thái Lan, v.v. tất cả đều có tên chung là Phật giáo, bảo rằng
giống cũng được nhưng bảo rằng không thì là sai. Đây gọi là khế cơ là bản địa
hóa, hay sắc thái Phật giáo của từng vùng miền.
Trên nền tảng “khế lý”, “khế cơ” tùy duyên phương tiện đã dễ dàng cho
tôn giáo này thích ứng và phát triển ở nước ta. Những triết lý căn bản đó được
đề cập đến là nội dung về thế giới quan và nhân sinh quan gần gũi với lối sống
40
và đạo đức mà người Việt muốn hướng tới. Trong đó thể hiện quan điểm về con
người và thế giới
Phật giáo cho rằng các sự vật và hiện tượng trong vũ trụ (chử pháp) là vô
thuỷ, vô chung (vô cùng, vô tận). Tất cả thế giới đều ở quá trình biến đổi liên tục
(vô thường) không có một vị thần nào sáng tạo ra vạn vật cả. Tất cả các Pháp
đều thuộc về một giới (vạn vật đều nằm trong vũ trụ) gọi là Pháp giới. Mỗi một
pháp (mỗi một sự việc hiện tượng, hay một lớp sự việc hiện tượng) đều ảnh
hưởng đến toàn Pháp. Như vậy các sự vật, hiện tượng hay các quá trình của thế
giới là luôn luôn tồn tại trong mối liên hệ, tác động qua lại và qui định lẫn nhau.
Như vậy, ngay từ đầu Phật giáo đã đặt ra mục đích giải quyết vấn đề cơ
bản của Triết học một cách biện chứng và duy vật. Phật giáo đã gạt bỏ vai trò
sáng tạo thế giới của các “đấng tối cao” của “Thượng đế” và cho rằng bản thể
của thế giới tồn tại khách quan và không do vị thần nào sáng tạo ra cả. Cái bản
thể ấy chính là sự thường hằng trong vận động của vũ trụ, là muôn ngàn hình
thức của vạn vật trong vận động, nó có mặt trong vạn vật nhưng nó không dừng
lại ở bất kỳ hình thức nào. Nó muôn hình vạn trạng nhưng lại tuân hành nghiêm
ngặt theo luật nhân quả.
Do quy luật nhân quả mà vạn vật ở trong quá trình biến đổi không ngừng,
thành, trụ, hoại, diệt (sinh thành, biến đổi, tồn tại, tan rã và diệt vong). Quá trình
đó phổ biến khắp vạn vật, trong vũ trụ, nó là phương thức thay đổi chất lượng
của sự vật và hiện tượng.
Phật giáo trong quá trình giải thích sự biến hoá vô thường của vạn vật, đã
xây dựng nền thuyết “nhân duyên”
Trong thuyết “nhân duyên” có ba khái niệm chủ yếu là Nhân, Quả và
Duyên. Cái gì phát động ra ở vật gây ra một hay nhiều kết quả nào đó, được gọi
là Nhân. Cái gì tập lại từ Nhân được gọi là Quả. Duyên: là điều kiện, mối liên hệ,
giúp Nhân tạo ra Quả. Duyên không phải là một cái gì đó cụ thể, xác định mà nó là
sự tương hợp, điều kiện để giúp cho sự biến chuyển của vạn Pháp.
41
Trong thế giới sinh vật, khi đã giải thích về nguyên nhân biến hoá vô
thường của nó, từ quá khứ đến hiện tại, từ hiện đại tới tương lai. Phật giáo đã
trình bày thuyết “ Thập Nhị Nhân Duyên” (mười hai quan hệ nhân duyên - Vô
minh, Hành,Thức, Danh sắc, Lục xứ hay lục nhập, Xúc, Thụ, Ái, Thủ, Hữu, Sinh,
Lão tử) được coi là cơ sở của mọi biến đổi trong thế giới hiền sinh, một cách tất
yếu của sự liên kết nghiệp quả.
Mối quan hệ Nhân - Duyên là mối quan hệ biện chứng trong không gian
và thời gian giữa vạn vật. Mối quan hệ đó bao trùm lên toàn bộ thế giới không
tính đến cái lớn nhỏ, không tính đến sự giản đơn hay phức tạp. Do nhân Duyên
mà vạn vật sinh hay diệt. Duyên hợp thì sinh, Duyên tan thì diệt. Vạn vât sinh
hoá vô cùng là do ở các duyên tan hợp, hợp tan nối nhau mà ra. Nên vạn vật chỉ
tồn tại ở dạng tương đối, trong dòng biến hoá vô tận vô thường, vô thực thể, vô
bản ngã, chỉ là hư ảo. Chỉ có sự biến đổi vô thường của vạn vật, vạn sự theo
nhân duyên là thường còn không thay đổi.Do vậy toàn bộ thế giới đa dạng,
phong phú, nhiều hình, nhiều vẻ cũng chỉ là dòng biến hoá hư ảo vô cùng, không
có gì là thường định, là thực, là không thực có sinh, có diệt, có người, có mình,
có cảnh, có vật, có không gian, có thời gian. Đó chính là cái chân lý cho ta thấy
được cái chân thế tuyệt đối của vũ trụ. Thấy được điều đó gọi là “ chân như” là
đạt tới cõi hạnh phúc, cực lạc, cõi niết bàn.Thế giới của chúng sinh (loài người)
cũng do nhân duyên kết hợp mà thành. Đó là sự kết hợp của hai thành phần:
Phần sinh lý và phần tâm lý:
Cái tôi sinh lý tức là thể xác, hình chất với yếu tố “ sắc” (địa, thuỷ, hoá,
phong) tức là cái cảm giác được.
Cái tôi tâm lý (tinh thần) linh hồn tức là “tâm” với 4 yếu tố (thụ, tưởng,
hành, thức) chỉ có tên gọi mà không có hình chất gọi là “ Danh”.
Như vậy, thế giới là biến ảo vô thường, vô định. Chỉ có những cái đó mới
là chân thực, vĩnh viễn, thường hằng. Nếu không nhận thức được nó thì con
người sẽ lầm tưởng ta tồn tại mãi mãi, cái gì cũng thường định, cái gì cũng của
42
ta. Do đó, mà con người cứ khát ái, tham dục cứ mong muốn và hành động
chiếm đoạt tạo ra kết quả mà kết quả đó có thể tốt, có thể xấu gây nên nghiệp
báo, rơi vào bể khổ triền miên không bao giờ dứt.
Sở dĩ có nỗi khổ là do qui định của Luật nhân quả. Vì thế mà ta không
thấy được cái luật nhân bản của mình (bản thể chân thực). Khi đã mắc vào sự
chi phối của Luật Nhân - Duyên, thì phải chịu nghiệp báo và kiếp luân hồi, luân
chuyển tuần hoàn không ngừng, không dứt.Nghiệp và luân hồi không những chỉ
là những khái niệm của Triết học Phật giáo mà có từ trong Upanishad.Nghiệp
chữ phạn và Karma là cái do những hoạt động của ta, do hậu quả việc làm của
ta, do hành động của thân thể ta. Được gọi là “thân nghiệp”, còn hậu quả của
những lời nói của ta, phát ngôn của ta thì được gọi là “khẩu nghiệp”. Hay những
cái do ý nghĩ của ta, do tâm tuệ của ta gây nên được gọi là “ý nghiệp”. Tất cả
những thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp là do ta tham dục mà thành, do ta muốn
thoả mãn tham vọng của mình gây nên. Sở dĩ ta tham dục vì ta chưa hiểu đươc
chân bản vốn có của ta cũng như vạn vật là luôn luôn biến đổi không có gì là
thường định và vĩnh viễn cả.Cuộc đời con người là sự ghánh chịu hậu quả của
nghiệp đương thời và các kiếp sống trước rồi nó tiếp tục chi phối cả đời sau.Nghiệp
báo trong một đời là sự tổng hợp của các nghiệp gây ra trong hiện tại cộng với các
nghiệp gây ra trong quá khứ, nó quyết định đời sau xấu hay tốt, thiện hay ác.
Luân hồi: Chữ phạn là Samsara. Có nghĩa là bánh xe quay tròn. Đạo phật cho
rằng, sau khi một thể xác sinh vật nào đó chết thì linh hồn sẽ tách ra khỏi thể xác và
đầu thai vào một sinh vật khác nhập vào một thể xác khác (có thể là con người, loài
vật thậm chí cỏ cây). Cứ thế mãi do kết quả, quả báo hành động của những kiếp
trước gây ra. Đó cũng là cách lý giải căn nguyên nỗi khổ ở đời con người.
Sau khi lý giải được nỗi khổ ở cuộc đời con người là do “ thập nhị nhân
duyên” làm cho con người rơi vào bể trầm luân. Đạo Phật đã chủ chương tìm
con đường diệt khổ. Con đường giải thoát đó không những đòi hỏi ta nhận thức
được nó mà cao hơn ta phải hành động, phải thấm nhuần tứ diệu đế.
43
Tứ diệu đế: Là bốn sự thật chắc chắn, bốn chân lý lớn, đòi hỏi chúng sinh
phải thấu hiểu và thực hiện nó. Tứ diệu đế gồm:
Khổ đế: Con người và vạn vật sinh ra là khổ, ốm đau là khổ, già yếu là
khổ, chết là khổ, ghét nhau mà phải sống gần nhau là khổ, yêu nhau mà phải
chia lìa nhau là khổ, mất là khổ mà được cũng là khổ....
Tập đế: Tập hợp, tụ tập lại mà thành, tạo ra nỗi khổ cho chúng sinh.
Diệt đế: Là phải thấu hiểu được “ Thập nhị nhân duyên” để tìm ra
được căn nguyên của sự khổ - để dứt bỏ từ ngọn cho đến gốc rễ của cái
khổ. Thực chất là thoát khỏi nghiệp chướng, luân hồi, sinh tử.
Đạo đế: Phật chỉ chỉ ra con đường đề thóat khổ. Nếu biết rõ nguyên
nhân của khổ, vì sao mà khổ, biết được con đường để giải thóat mà không
có phương pháp lại càng khổ, chính vì vậy Đạo đế là phần quan trọng nhất
trong tứ diệu đế. Nội dung cơ bản của đạo đế là Bát chánh đạo, gồm:
Chính kiến : hiểu biết đúng đắn
Chính tư duy : suy nghĩ đúng đắn
Chính ngữ : lời nói đúng đắn, trung thực, thận trọng
Chínhnghiệp: hành động đúng đắn
Chính mạng : kiếm sống chính đáng, lương thiện
Chính tin tiến: siêng năng phấn đấu để tiến bộ
Chínhniệm : tâm niệm điều thiện lành, nẻo chính
Chính định : tập trung tư tưởng đúng đắn
Thông tuệ Bát chính đạo có ý nghĩa rất thiết thực đối với cá nhân, xã
hội, đối với đời sống tương lai. Bát chánh đạo giúp con người cải thiện tự
thân, cải thiện hòan cảnh.Thực hiện Đạo đế là một quá trình lâu dài, kiên trì,
giữ nguyên giới luật tập trung thiên định cao độ Phật giáo đã trình bày 8 con
đường hay 8 nguyên tắc (Bát chính đạo) buộc ta phải tuân thủ bát chính đạo
44
gồm : Chính kiến, chính tư duy, chính nghiệp, chính ngữ, chính mệnh, chính
tịnh tiến, chính niệm, chính định
Muốn thực hiện được “ Bát chính đạo” thì phải có phương pháp để thực
hiện nhằm ngăn ngừa những điều gian ác gây thiệt hại cho mình và những người
làm điều thiện có lợi ích cho mình và cho người. Nội dung của các phương pháp đó
là thực hiện “ Ngũ giới” (năm điều răn) và “Lục độ” (Sáu phép tu).
Tóm lại: Phật giáo cho rằng chỉ có bằng sự kiên định để thực hiện “Bát
hành đạo”, “Ngũ giới”, “Lục độ” thì chúng sinh mới có thể giải thoát mình ra
khỏi nỗi khổ. Phật giáo không chủ trương giải phóng bằng cách mạng xã hội.
Mặc dù Phật giáo lên án rất gay gắt chế độ người bóc lột người, chống lại chủ
nghĩa duy tâm cua Bàlamôn giáo. Đó là một trong những nhược điểm đồng thời
cũng là ưu điểm nửa vời của Đạo phật. Đứng trước bể khổ của chúng sinh Phật
giáo chủ trương cải tạo tâm linh chứ không phải cải tạo thế giới hiện thực. Như
vậy, Phật giáo nguyên thuỷ có tư tưởng vô thần, phủ nhận đấng sáng tạo (vô
ngã, vô tạo giả) và có tư tưởng biện chứng (vô thường, lý thuyết Duyên khởi).
Tuy nhiên, Triết học Phật giáo cũng thể hiện tính duy tâm chủ quan khi coi thế giới
hiện thực là ảo giả và do cái tâm vô minh của con người tạo ra.
Như vậy, Phật giáo nguyên thủy có tư tưởng vô thần, có yếu tố duy vật và tư
tưởng biện chứng của thế giới. Phật giáo khuyên con người suy nghĩ thiện và
làm việc thiện nhằm góp phần hoàn thiện đạo đức cá nhân. Và những tư tưởng
xã hội Phật giáo đã phản ánh thực trạng xã hội đẳng cấp khắc nghiệt của xã hội
Ấn Độ cổ - trung đại và nêu lên ước vọng giải thoát nỗi bị kịch cho con người
lúc đó. Phật giáo cũng nói lên được tự do bình đẳng trong xã hội, đây chính là
cơ sở triết lý cho những tư tưởng Phật giáo được phổ biến trong đời sống của
đông đảo quần chúng nhân dân người Việt.
Cơ sở triết lý của tín ngưỡng thờ Mẫu:
Triết lý ăn sâu trong đời sống của người Việt về tín ngưỡng thờ Mẫu
chính là phản ánh nhu cầu, khát vọng trong đời sống thường nhật của người dân
45
sinh ra và phát triển trong nền văn minh lúa nước. Tín ngưỡng thờ Mẫu, về nghi
lễ thờ các vị Thánh và Thánh Mẫu, được sinh ra từ ước vọng của nhân dân mong
cho mưa thuận gió hòa, cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Về nghệ thuật dân gian,
đây là hình thức diễn xướng trong văn hóa tâm linh. Như vậy, ở đây, tín ngưỡng
thờ Mẫu phản ánh ý thức xã hội của người dân ở trình độ tâm lý xã hội. Khát
vọng này thể hiện trong nghi thức hầu đồng – một loại hình diễn xướng nghệ
thật dân gian trong không gian thiêng.
Các Thánh và Thánh Mẫu, có thể là Thiên thần, cũng có khi là Nhân thần
hình thành từ trí tưởng tượng của người dân. Nhân thần là người có thật trong
lịch sử, có công đánh giặc giữ nước hoặc dạy dân dệt vải, tằm tang, nghề mộc,
làm muối, làm bánh, ca công…Hiếm thấy dân tộc nào mà vai trò của các
Mẫu(mẹ) lại dầy dặn, rõ ràng và quan trọng như ở Việt Nam. Trong vốn huyền
thoại và truyền thuyết của dân tộc Việt Nam, các vị nữ thần gắn với sự kiện tạo vũ
trụ, các yếu tố bản thể của vũ trụ: Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ đều thể hiện là các
bà: bà Kim, bà Mộc, bà Thủy, bà Hỏa…Các Mẹ là những người sản sinh ra những
giá trị văn hóa: Mẹ Lúa, Mẹ Mía, Mẹ Lửa và các Mẹ là tổ sư của các nghề thủ
công, mĩ nghệ… Trong lịch sử dựng nước và giữ nước, nhiều phụ nữ cũng ra trận
trở thành anh hùng: Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Thái hậu Dương Văn Nga, nữ tướng
Bùi Thị Xuân… Các vị này được nhân dân tôn làm Thần, Thánh, được triều đình
sắc phong “Thượng đẳng thần”, được nhân dân tôn làm Thành hoàng của nhiều
làng… Riêng Liễu Hạnh công chúa được tôn làm thánh Mẫu, là Mẫu nghi thiên hạ,
một trong “Tứ bất tử” của đất nước Việt Nam gồm: Tản Viên, Sơn Thần, Thánh
Gióng, Chử Đồng Tử và Liễu Hạnh công chúa (Mẫu Liễu). Như vậy tín ngưỡng
thờ Mẫu là kết tinh của những giá trị văn hóa, xuất phát từ cuộc sống lao động, sản
xuất, đánh đuổi ngoại xâm của cả dân tộc, được bồi đắp qua suốt quá trình lịch sử.
Mẫu Tam Phủ - Tứ phủ chứa đựng tư duy biểu kiến của người Việt vè vũ
trự ở dạng nguyên sơ, thống nhất chia làm 4 miền do 4 vị Thánh Mẫu cai quản:
Mẫu Thượng Thiên cai quản miền Trời, Mẫu Thượng ngàn cai quản vùng đồi
46
núi, Mẫu Điạ (Địa Tiên Thánh Mẫu) cai quản miền đồng bằng, Mẫu Thoải cai
quản miền sông nước. Tam tòa Thánh Mẫu gồm: Mẫu Đệ nhất Thượng Thiên,
Mẫu Đệ nhị Thượng ngàn, Mẫu Đệ tam Thoái phủ. Bên cạnh các mẫu là các
quan: Tôn quân Thần Triều, Thái sư nhất phẩm, quan Đệ nhất, quan Đệ nhị,
quan Đệ Tam, quan Đệ tứ, quan lớn tuần tranh, quan Hoàng Triều, chùa Thác
Bà, chùa Bắc Lệ, chùa Mười Đồng Mô... Rồi các đức ông: Hoàng Cả, Hoàng
Ba, Hoàng Bảy, Hoàng Mười. Bên dưới có các cô: cô Đệ nhất, cô Đôi Thượng,
cô Đôi Thoải, cô Năm suối, cô Sáu lục cung, cô Tám đồi chè, cô Chín, cô Mười,
cô Bé. Điều này có thể chứng minh rằng, tuy hình thành từ trí tưởng tượng và
tâm linh của cư dân nông nghiệp, nhưng về cấu trúc tổ chức thì khá chặt chẽ, đòi
hỏi những người theo Đạo Mẫu phải thành thạo, mang tính chuyên nghiệp cao.
Về diễn xướng, bất cứ ai nếu có căn đồng (theo quan niệm) đều có thể
nhập đồng và biểu diễn các giá đồng, gồm 36 giá. Mỗi giá đồng thể hiện một
nhân vật cụ thể, với tên tuổi và tính cách khác nhau. Ví dụ: giá bà chúa Bắc Lệ
phải khác với Mười Đồng Mô, giá các đức ông thì phải oai phong, lẫm liệt, múa
kiếm, bắn cung; giá các cô bé thì phải điệu đàng, duyên dáng; giá các cậu thì nhí
nhảnh, nghịch ngợm... Trong khi hầu đồng, người được nhập đồng múa các điệu
chầu văn, lời ca mô tả nhân vật của giá đồng, tả quang cảnh nhân vật xuất hiện,
kể sự tích và công đức của các Thánh. Nghi lễ hát lên đồng được chia ra các
phần: Mời Thánh nhập, kể sự tích, công đức; xin Thánh phù hộ và đưa tiễn. Do
đó, cuối mỗi giá đồng cung văn đều tấu câu “Xe loan Thánh giá hồi cung”. Ban
nhạc chầu văn thường có các nhạc cụ: đàn nguyệt, trống ban (trống con), nhị
sáo, phách, thanh la... Đặc biệt gia điệu và tiếng hát chầu văn lảnh lót, mê đắm
lòng người. Toàn bộ phần diễn xướng khiến người xem như lạc vào thế giới siêu
nhiên của các vị Thánh. Rõ ràng, lên đồng, hát văn là phần không thể thiếu của
một tín ngưỡng tâm linh, thuộc về dân tộc Việt Nam, mà chan hòa trong đó là
những giá trị văn hóa, đạo đức, tinh thần đậm đà bản sắc dân tộc.
47
Tiểu kết chƣơng 1
Việt Nam là một quốc gia ven biển, với nhiều điều kiện thuận lợi về tự
nhiên, kinh tế, văn hóa và xã hội tạo nên sự phong phú trong đời sống tinh thần,
đặc biệt là tín ngưỡng dân gian bản địa, trong đó có tín ngưỡng thờ Mẫu. Đồng
thời với sự cởi mở trong tư duy, tinh thần sẳn sàng tiếp nhận những tín ngưỡng
tôn giáo mới, chỉ cần không đi ngược lại với văn hóa truyền thống của mình. Từ
đó, tạo nên một môi trường đặc biệt cho sự du nhập của các tín ngưỡng tôn giáo
ngoại lai, trong đó có Phật giáo. Với cơ sở triết lý mang tinh thần từ bi hỉ xả, vô
ngã vị tha, chân lý cứu khổ của Phật giáo đã luôn đáp ứng được nhu cầu tâm linh
của cư dân bản địa. Chính vì vậy, khi được truyền bá vào Việt Nam, với khế lý
khế cơ, tùy duyên tùy phương tiện của mình, Phật giáo đã nhanh chóng dung
hợp thích ứng với môi trường tín ngưỡng bản địa đặc biệt là tín ngưỡng thờ Mẫu
–trên nền tảng thờ Nữ thần và Mẫu thần. Tạo nên những sắc thái riêng biệt trong
văn hóa Phật giáo nói riêng và văn hóa Việt Nam nói chung.
48
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Toan Ánh (1992), Tín ngưỡng Việt Nam, Quyển thượng, Nxb TP. HCM.
2. Toan Ánh (1997) Nếp cũ tín ngưỡng Việt Nam (quyển thượng), Nxb
Tp. Hồ Chí Minh.
3. Trần Lâm Biền (1993), Hình tượng con người trong nghệ thuật tạo hình
truyền thống Việt Nam, Nxb Mỹ thuật, Hà Nội.
4. Phan Kế Bính (1990), Việt Nam phong tục, Nxb TP.Hồ Chí Minh,
5. Bùi Hạnh Cẩn – Lê Trân(1993), Chợ Viềng và Hội Phủ,Nxb Giáo dục, Hà Nội.
6. Trần Mạnh Cường (1999), Nhận xét đặc điểm biến đổi ý thức của trạng thái
lên đồng ở các lễ hội vùng Nam đinh, Luận án thạc sỹ tâm thần học.
7. Nguyễn Mạnh Cường (2000), Chùa Dâu – Tứ pháp và hệ thống các chùa Tứ
pháp, NXB Khoa học – Xã hội, Hà Nội.
8. Nguyễn Đăng Duy (2001), Văn Hóa Tâm Linh, Nxb Văn hóa – thông tin,
Hà Nội.
9. Nguyễn Đăng Duy (2001), Các hình thái tôn giáo tín ngưỡng ở Việt
Nam, Nxb Văn hoá – Thông tin, Hà Nội.
10. Nguyễn Hùng Hậu (2002), Đại cương triết học Phật giáo Việt Nam
(tập 1), Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
11. Nguyễn Duy Hinh (1996), Tín ngưỡng Thành Hoàng Việt Nam, Nxb Khoa
học xã hội, Hà Nội.
12. Nguyễn Duy Hinh (2002), “Bàn về khái niệm phàm và thiêng”, Tạp chí
nghiên cứu tôn giáo.
13. Nguyễn Duy Hinh (2007), Một số bài viết về tôn giáo học, Nxb Khoa học xã
hội, Hà Nội.
14. Nguyễn Duy Hinh (2007), Tâm linh Việt Nam, Nxb Từ điển bách khoa &
Viện Văn hóa, Hà Nội.
92
15. Nguyễn Thị Hiền, Tìm hiều các hình thái rối loạn cảm xúc ở bệnh nhân điều
trị nội trú tại viện sức khỏe tâm thần năm 2005, Khóa luận tốt nghiệp bác sĩ
y khoa chuyên nghành tâm thần, Đại học y Hà Nội
16. Đỗ Lan Hiền (2011), Khoan dung tôn giáo với dân chủ, đoàn kết và đồng
thuận xã hội trường hợp Việt Nam, Nxb Chính trị - Hành chính, Hà Nội.
17. Nguyễn Thừa Hỷ (2015)Văn hóa việt nam truyền thống – một góc nhìn, Nxb
thông tin và truyền thông, Hà Nội.
18. Kiều Thu Hoạch (2014), Văn hóa dân gian người Việt góc nhìn so sánh,
Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
19. Lê Văn Hưu, Phan Phu Tiên, Ngô Sĩ Liên, v.v..., dịch giả Viện Khoa Học
Xã Hội Việt Nam (1993), Nxb Khoa Học Xã Hội, Hà Nội.
20. Vũ Ngọc Khánh (2000), Đạo Thánh ở Việt Nam, (Hà Nội: Văn hóa Thông
tin), Hà Nội.
21. Vũ Ngọc Khánh (2001), Tín ngưỡng dân gian Việt Nam, Nxb. Văn hóa dân
tộc, Hà Nội
22. Vũ Ngọc Khánh (2002), Nữ thần và thánh Mẫu Việt Nam, Nxb Thanh niên,
Hà Nội
23. Vũ Ngọc Khánh (2004), Văn hóa Việt Nam, những điều cần học hỏi, Nxb.
Văn hóa thông tin, Hà Nội.
24. Vũ Ngọc Khánh (2004), Tín ngưỡng làng xã, Nxb Thanh Niên, Hà Nội.
25. Vũ Ngọc Khánh (2005), Tục thờ đức thánh Mẫu và đức thánh Trần, Nxb
Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.
26. Vũ Khiêu (cb, 2000), Văn hóa Việt Nam xã hội và con người, Nxb Khoa học
xã hội, Hà Nội.
27. Nguyễn Lang (1992)“ Việt Nam Phật giáo sử luận”, Nxb Văn học Hà Nội.
28. Vũ Tự Lập (1991), Văn hóa và cư dân đồng bằng sông hồng, Nxb Khoa học
xã hội, Hà Nội.
93
29. Nguyễn Quang Lê (1992), Tìm hiểu mối quan hệ giữa lễ hội cổ truyền với
Phật giáo, tạp chí văn hóa dân gian, số 4.
30. Lê Hồng Lý(2008), Sự tác động của kinh tế thị trường vào lễ hội tín ngưỡng,
Nxb văn hóa thông tin & viện văn hóa, Hà Nội.
31. Nguyễn Ngọc Mai (2011), Hiện tượng lên đồng trong bối cảnh mới, luận án
tiến sĩ văn hóa học.
32. Lê Minh (1994), Văn hóa gia đình Việt Nam và sự phát triển, Nxb Lao
Động, Hà Nội.
33. Phan Đăng Nhật (1991), Hát văn giá trị văn chương, Nxb Văn hóa dân tộc,
Hà Nội.
34. Phạm Quỳnh Phương(2011), Theo bước chân của Vân Cát Thần nữ, Tạp chí
Văn hóa dân gian, Số 4.
35. Vũ Quỳnh, Kiều Phú (1960), Lĩnh Nam trích quái, Nxb Văn hóa, Hà Nội.
36. Nguyễn Minh San (1996), Những nữ thần danh tiếng trong văn hóa tín
ngưỡng Việt Nam, Nxb. Phụ nữ, Hà Nội.
37. Nguyễn Minh San (1998), Tiếp cận tín ngưỡng dân giã Việt Nam, Nxb.Văn
hóa dân tộc, Hà Nội.
38. Trần Đăng Sinh (2008), “Một số chính sách của các vua đầu triều Nguyễn đối
với tín ngưỡng thờ thần ở làng xã Bắc bộ”, Tạp chí Nghiên cứu tôn giáo.
39. Hà Văn Tăng, Trương Thìn - chủ biên (1998), Tíng ngưỡng – mê tín, Nxb
Thanh niên, Hà Nội.
40. Lê Mạnh Thát (1976)Thiền Tuyển Tập Anh, bản Ronéo
41. Lê Mạnh Thát (1999)Lịch sử Phật giáo Việt Nam, Tập 1, Thuận Hóa, Huế.
42. Nguyễn Hữu Thông (cb, 2010) , Tín ngưỡng thờ Mẫu ở miền trung Việt
Nam, Nxb, Thuận Hóa, Huế.
43. Nguyễn Tài Thư (cb,1998), Lịch sử Phật giáo Việt Nam, Nxb Khoa học xã
hội, Hà Nội.
94
44. Nguyễn Quốc Tuấn (2012), Phật giáo những tri thức cơ bản, Nxb Từ điển
Bách khoa, Hà Nội.
45. Tam tòa Thánh Mẫu (Tân Việt giới thiệu) (1994), Giáng bút răn đời, Nxb
Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
46. Tư tưởng Phật giáo Việt Nam (1999),Nxb. Hội Nhà văn,Hà Nội.
47. Thích Thanh Từ (1992), Phật giáo với dân tộc, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.
48. Tín ngưỡng Mẫu và lễ hội Phủ Giầy (2011), Hội thảo quốc tế, tổ chức tại Hà
Nội .
49. Nguyễn Hứu Toàn (2004), Một số sinh hoạt văn hóa-tín ngưỡng ở vùng
Dâu, Tạp chí di sản văn hóa số 17.
50. Nguyễn Quốc Tuấn, Nguyễn Ngọc Quỳnh (2007), “Mấy vấn đề tín ngưỡng tôn
giáo khu vữc đồng bằng sông Hồng hiện nay”, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo.
51. Nguyễn Quốc Tuấn (2008), Vai trò của Phật giáo Việt Nam đối với sự phát
triển bền vững của đất nước, Tham luận hội thảo Phật giáo với văn hóa, xã
hội Việt Nam thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Hà Nội
52. Nguyễn Quốc Tuấn (2009), Phật giáo trong tiến trình văn hóa dân tộc: Nhìn
từ góc độ đa dạng tôn giáo ở Việt Nam, Kỷ yếu hội thảo Văn hóa tôn giáo
trong bối cảnh toàn cầu hóa, Trung tâm nghiên cứu tôn giáo đương đại,
ĐHQG Hà Nội.
53. Trần Ngọc Thêm (1996.), Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb thành phố
Hồ Chí Minh.
54. Ngô Đức Thịnh chủ biên (1996), Đạo Mẫu ở Việt Nam, Nxb Văn hóa, Hà Nội.
55. Ngô Đức Thịnh (2007), Đạo Mẫu, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
56. Ngô Đức Thịnh Chủ Biên (2004), Đạo Mẫu và các hình thức Shaman trong
các tộc người Việt Nam và Châu Á, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
57. Ngô Đức Thịnh chủ biên (1992), Hát văn, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
58. Ngô Đức Thịnh (2008), Lên đồng hành trình của thần linh và thân phận,
Nxb Thế Giới, Hà Nội.
95
59. Ngô Đức Thịnh chủ biên (2001), Tín ngưỡng và văn hóa tín ngưỡng, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội.
60. Ngô Đức Thịnh (2006), Văn hóa văn hóa tộc người và văn hóa Việt Nam,
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
61. Ngô Đức Thịnh (2013), Đạo mẫu Việt Nam , Nxb tôn giáo, Hà Nội.
62. Tocarep (1994), Những hình thức tôn giáo sơ khai, Nxb chính trị quốc gia,
Hà Nội.
63. Đoàn Thị Tuyến (2000), Then của người tày ở Văn Quang, lạng sơn, Tạp
chí Văn hóa dân gian, số 4.
64. Phan Lạc Tuyên(1993), Lịch sử Bang giao Việt Nam và Ðông Nam Á, Viện
đào tạo mở rộng khoa Ðông Nam Á Học, Thành Phố Hồ Chí Minh.
65. Lê Thao (2011), 36 giá đồng, Nxb Thế giới, Hà Nội.
66. Phủ Tây Hồ (2004), Nxb Thế giới, Hà Nội.
67. Bí ẩn của chiêm mộng & vu thuật (2005), Nxb Văn hoá Thông tin, Hà Nội.
68. Nguyễn Duy Quý, Ngô Đức Thịnh, Trịnh Quang Khanh...(2004), Đạo mẫu
và các hình thức Shaman trong các tộc người ở Việt Nam và châu Á, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội.
69. FrankProschan (2001) , Lên đồng (hầu bóng), kho tàng sống của di sản văn
hóa Việt Nam, Tạp chí văn hóa dân gian.
70. Đặng Nghiêm Vạn (cb, 1996),Về tôn giáo tín ngưỡng Việt Nam hiện
nay, Nxb khoa học xã hội, Hà Nội.
71. Lê Trung Vũ (chủ biên) (1992),Lễ hội cổ truyền, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
72. Nguyễn Hữu Vui, Trương Hải Cường (2003), Tôn giáo học (Tập bài giảng),
Nxb.Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
73. Trần Quốc Vượng, Lê Văn Hảo, Dương Tất Từ (1976), Mùa xuân và phong
tục Việt Nam, Nxb Văn hóa, Hà Nội.
74. Trần Quốc Vượng (1996), “Nguyên lý Mẹ của nền văn hóa Việt Nam”, Tạp
chí Văn hóa nghệ thuật, Hà Nội.
96
75. Trần Quốc Vượng (1997), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
76. Trần Quốc Vượng (1998), Việt Nam, cái nhìn địa văn hóa, Nxb. Văn hóa
dân tộc, Hà Nội.
77. Trần Quốc Vượng (2000), Văn hóa Việt Nam, tìm tòi và suy ngẫm, Nxb.Văn
hóa dân tộc, Hà Nội.
78. Theo sách Nam Hà Di tích và thắng cảnh (Sở VHTT Nam Hà, 1994)
79. Bài "Phải chăng Ðồ Sơn là nơi đầu tiên nước ta tiếp xúc với Ðạo Phật"
trong sách "Phật giáo, văn hóa và dân tộc", Hà Nội, 1990
Các trang Web tham khảo:
80. http://www.daophatngaynay.com/vn/phatgiao-vn/su-kien-van-de/12011-
Vai-tro-cua-nguoi-phu-nu-trong-van-hoa-Phat-giao-Viet-Nam.html
81. http://mantico.hatvan.vn/thanh-mau/thanh-mau-dai-chien-o-song-son.html
82. http://www.dongaphu.vn/2011/08/khoa-cung-thanh-mau.html
83. http://tuphuthanhmau.blogspot.com/p/van-khan-tu-phu.html
84. http://mantico.hatvan.vn/4-ton-quan-chu-vi-van/ban-van-quan-lon-dieu-
that.html
85. ttp://hatvan.vn/forum/threads/ban-van-chau-bat.293/
86. http://hoangbo.vn/forum/showthread.php?3089-V%C4%83n-%C3%B4ng-
Ho%C3%A0ng-B%C6%A1
87. http://www.dongaphu.vn/2011/06/ong-hoang-muoi.html
88. http://tuphuvanlinh.blogspot.com/2010/10/co-ba-bong.html
89. http://mantico.hatvan.vn/ngu-vi-ton-quan/quan-lon-de-ngu-tuan-tranh.html
97