BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH

----------------------------

NGUYỄN THẢO ANH

TÁC ĐỘNG CỦA KIỆT QUỆ TÀI CHÍNH

ĐẾN CÁC CÔNG CỤ QUẢN LÝ THU NHẬP

TẠI CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2018

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH

----------------------------

NGUYỄN THẢO ANH

TÁC ĐỘNG CỦA KIỆT QUỆ TÀI CHÍNH

ĐẾN CÁC CÔNG CỤ QUẢN LÝ THU NHẬP

TẠI CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM

Chuyên ngành: Tài Chính – Ngân Hàng

Mã số: 60340201

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

Người hướng dẫn khoa học:

PGS. TS. TRẦN THỊ THÙY LINH

TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2018

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn “Tác động của kiệt quệ tài chính đến các công cụ

quản lý thu nhập tại các doanh nghiệp Việt Nam” là công trình nghiên cứu của chính

tôi và được sự hướng dẫn khoa học của PGS.TS. Trần Thị Thùy Linh.

Các nội dung nghiên cứu, kết quả trong đề tài này là trung thực và chưa công bố

bất kỳ hình thức nào. Những số liệu trong các bảng biểu phục vụ cho việc phân tích,

đánh giá được tác giả thu thập từ nhiều nguồn khác nhau và có ghi rõ trong phần tài

liệu tham khảo. Ngoài ra, trong luận văn còn sử dụng một số nhận xét, đánh giá cũng

như số liệu của các tác giả khác có trích dẫn và chú thích nguồn gốc.

TP.HCM, ngày 01 tháng 11 năm 2018

Tác giả

MỤC LỤC

TRANG PHỤ BÌA

LỜI CAM ĐOAN

MỤC LỤC

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

DANH MỤC BẢNG BIỂU

TÓM TẮT LUẬN VĂN

CHƯƠNG 1. GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI ......................................................................... 1

1.1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................... 1

1.2. Mục tiêu, đối tượng và phạm vi nghiên cứu .................................................. 2

1.2.1. Mục tiêu nghiên cứu .................................................................................... 2

1.2.2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................... 3

1.3. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................. 3

1.4. Đóng góp của đề tài .......................................................................................... 4

1.5. Nội dung đề tài .................................................................................................. 5

CHƯƠNG 2. TỔNG QUAN LÝ THUYẾT VÀ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

TRƯỚC ĐÂY ............................................................................................................... 7

2.1. Khung lý thuyết nghiên cứu ............................................................................ 7

2.1.1. Lý thuyết kiệt quệ tài chính ......................................................................... 8

2.1.2. Lý thuyết quản lý thu nhập ........................................................................ 13

2.2. Nghiên cứu thực nghiệm ................................................................................ 19

2.2.1. Nghiên cứu thực nghiệm về mối quan hệ giữa kiệt quệ tài chính và các

công cụ quản lý thu nhập ......................................................................................... 19

2.2.2. Nghiên cứu thực nghiệm về mối quan hệ giữa kiệt quệ tài chính và các đặc

điểm của công ty ...................................................................................................... 23

CHƯƠNG 3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU .................................................... 31

3.1. Dữ liệu nghiên cứu .......................................................................................... 31

3.2. Giả thuyết nghiên cứu .................................................................................... 32

3.3. Xây dựng biến nghiên cứu ............................................................................. 34

3.3.1. Biến độc lập ............................................................................................... 34

3.3.2. Biến phụ thuộc ........................................................................................... 39

3.4. Mô hình nghiên cứu ........................................................................................ 43

3.5. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................... 45

3.5.1. Thống kê mô tả và lập ma trận tương quan các biến ................................. 45

3.5.2. Ước lượng mô hình nghiên cứu ................................................................. 46

CHƯƠNG 4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU THỰC NGHIỆM ................................ 48

4.1. Phân tích thống kê mô tả dữ liệu .................................................................. 48

4.2. Kết quả ma trận tương quan giữa các biến ................................................. 50

4.3. Kết quả hồi quy ............................................................................................... 52

4.3.1. Kết quả hồi quy biến quản trị lợi nhuận .................................................... 52

4.3.2. Kết quả kiểm định tự tương quan và phương sai thay đổi ......................... 53

4.3.3. Kết quả mô hình hồi quy theo phương pháp GMM .................................. 54

CHƯƠNG 5. KẾT LUẬN ........................................................................................ 60

5.1. Kết luận ........................................................................................................... 60

5.2. Kiến nghị ......................................................................................................... 61

5.3. Hạn chế của đề tài ........................................................................................... 63

5.4. Hướng phát triển của đề tài ........................................................................... 64

TÀI LIỆU THAM KHẢO

PHỤ LỤC

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

Từ viết tắt Tiếng Anh Tiếng Việt

Điều chỉnh thu nhập dựa trên cơ sở dồn AEM Accrual earnings manipulation tích

Generalized Method of GMM Phương pháp ước lượng hồi quy tổng quát Moments

HNX Hanoi stock exchange Sở giao dịch chứng khoán tại Hà Nội

Sở giao dịch chứng khoán tại TP.Hồ Chí HOSE Ho chi minh stock exchange Minh

Phương pháp ước lượng bình phương nhỏ OLS Ordinary least squares nhất

Quản lý thu nhập dựa trên hoạt động kinh REM Real earnings manipulation doanh thực tế

DANH MỤC BẢNG BIỂU

Bảng 2.1. Tóm tắt các kết quả nghiên cứu trước đây .................................................... 27

Bảng 3.1. Bảng thống kê số lượng công ty theo ngành nghề kinh doanh ...................... 28

Bảng 3.2. Mô tả biến quản lý thu nhập thực (REM) ...................................................... 44

Bảng 3.3. Tóm tắt các biến sử dụng trong mô hình nghiên cứu .................................... 44

Bảng 4.1. Bảng thống kê mô tả các biến ........................................................................ 48

Bảng 4.2. Ma trận tương quan giữa các biến ................................................................. 52

Bảng 4.3. Kết quả hồi quy phương trình biến quản trị lợi nhuận .................................. 52

Bảng 4.4. Kết quả hồi quy ảnh hưởng của kiệt quệ tài chính đến quản lý thu nhập ..... 54

TÓM TẮT LUẬN VĂN

Mối quan hệ giữa kiệt quệ tài chính và các yếu tố khác của doanh nghiệp liên

quan đến quản lý thu nhập là chủ đề được nghiên cứu rộng rãi hiện nay bởi tầm quan

trọng cũng như ý nghĩa thực tiễn vì phát triển kinh tế phải đi kèm với minh bạch tài

chính mới tạo nền tảng, cơ sở vững chắc cho tổng thể nền kinh tế hoạt động hiệu quả

và phát triển bền vững. Nhà quản lý có những động cơ khác nhau để thao túng, điều

chỉnh thu nhập. Điều này có thể ảnh hưởng đến chất lượng của các báo cáo tài chính và

thay đổi mức độ tin cậy của báo cáo. Mục tiêu của bài nghiên cứu là xem xét dưới áp

lực của tình trạng kiệt quệ tài chính, các doanh nghiệp ở Việt Nam có điều chỉnh thu

nhập hay không? Bên cạnh đó, bài nghiên cứu xem xét mối quan hệ giữa quản lý thu

nhập và các yếu tố nội tại khác của doanh nghiệp như: Quy mô công ty,dòng tiền hoạt

động, đòn bẩy tài chính, tỷ suất sinh lợi trên tổng tài sản, phát hành thêm vốn cổ phần,

phát hành thêm nợ.

Dữ liệu được lấy theo năm bao gồm 280 công ty phi tài chính niêm yết trên sàn

giao dịch chứng khoán TP.HCM (HOSE) và sàn giao dịch chứng khoán TP.Hà Nội

(HNX) thuộc 08 ngành khác nhau trong giai đoạn từ 2008 đến 2016. Bài nghiên cứu sử

dụng hai phương pháp ước lượng mô hình chính lần lượt là: Pooled OLS và GMM hệ

thống. Đầu tiên, luận văn hồi quy OLS để ước lượng phương trình hoạt động “thông

thường”, phần dư của phép hồi quy được xem là các dấu hiệu “bất thường” về điều

chỉnh thu nhập. Từ kết quả phần dư của phép hồi quy OLS, luận văn sử dụng phương

pháp GMM để phân tích hồi quy.

Đề tài cung cấp bằng chứng thực nghiệm về mối quan hệ của tình trạng kiệt quệ

tài chính và quản lý thu nhập ở các doanh nghiệp Việt Nam. Kết quả nghiên cứu cho

thấy, các công ty có dấu hiệu kiệt quệ tài chính có quản lý thu nhập thông qua hai công

cụ: quản lý thu nhập dựa trên hoạt động kinh doanh thực và quản lý thu nhập dựa trên

cơ sở dồn tích. Ngoài ra, bài nghiên cứu còn tìm thấy mối quan hệ ngược chiều giữa

quy mô công ty và quản lý thu nhập. Dòng tiền hoạt động, đòn bẩy tài chính, tỷ suất

sinh lợi trên tổng tài sản, phát hành thêm vốn cổ phần, phát hành thêm nợ có mối tương

quan có ý nghĩa thống kê với quản lý thu nhập.

Từ khóa: Quản lý thu nhập, kiệt quệ tài chính, quản lý thu nhập hoạt động thực, quản lý thu nhập dưa trên cơ sở dồn tích, GMM

1

CHƯƠNG 1. GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI

1.1. Lý do chọn đề tài

Theo báo cáo tình hình kinh tế xã hội 6 tháng đầu năm 2017 của Tổng cục

Thống kê về tình trạng doanh nghiệp kinh doanh khó khăn buộc phải ngừng hoạt động

hoặc phá sản, số lượng và tỷ lệ doanh nghiệp ngừng hoạt động tăng đột biến. Thị

trường chứng khoán cũng chứng kiến số lượng doanh nghiệp đăng ký hủy niêm yết

tăng mà nguyên nhân chủ yếu là do kinh doanh yếu kém thể hiện qua kết quả hoạt

động lỗ 3 năm liên tục, lỗ lũy kế vượt quá vốn điều lệ thực góp. Một trong những vấn

đề được giới đầu tư quan tâm trong thời gian gần đây chính là tính minh bạch trong báo

cáo tài chính của các doanh nghiệp. Tuy nhiên báo cáo tài chính của các doanh nghiệp

Việt Nam không được đánh giá cao về chất lượng. Cụ thể, trong tháng 12 năm 2017,

ngân hàng Thế giới (WB) và Bộ Tài chính trong báo cáo đánh giá sự tuân thủ các

chuẩn mực và quy tắc trong lĩnh vực kế toán và kiểm toán (ROSC) đánh giá “báo cáo

tài chính được lập và trình bày theo chuẩn mực kế toán Việt Nam có chất lượng chưa

cao”. Báo cáo ROSC được triển khai thực hiện tại Việt Nam trong giai đoạn 2015 -

2017, dưới sự phối hợp chặt chẽ giữa Bộ Tài chính, WB và các bên có liên quan. Chất

lượng báo cáo tài chính như trên sẽ dẫn đến gia tăng sự quan ngại về rủi ro trong hoạt

động đầu tư và thương mại của các nhà đầu tư tại Việt Nam. Việc thiếu minh bạch

trong báo cáo tài chính của doanh nghiệp để lại dư chấn tâm lý của thị trường về việc

kiểm soát tính minh bạch thông tin tài chính, cũng như phát hiện các gian lận tài chính.

Do đó, phát triển kinh tế phải đi kèm với minh bạch tài chính mới tạo được nền tảng,

cơ sở vững chắc cho tổng thể nền kinh tế cũng như các doanh nghiệp hoạt động hiệu

quả và tăng trưởng bền vững.

2

Một trong những hành vi ảnh hưởng đến chất lượng báo cáo tài chính đó là quản

lý thu nhập. Đặc biệt trong giai đoạn khủng hoảng, doanh nghiệp phải đối diện áp lực

với kết quả hoạt động kinh doanh yếu kém hay tình hình tài chính khó khăn, đây là bối

cảnh "lý tưởng" để các nhà quản lý tăng cường tác động làm thay đổi kết quả hoạt

động kinh doanh thực tế của doanh nghiệp hay nói cách khác là quản lý thu nhập. Hành

vi điều chỉnh thu nhập đã gây ra những bất lợi rất lớn cho nhà đầu tư cũng như các chủ

thể sử dụng thông tin báo cáo tài chính để đưa ra quyết định như: các cơ quan quản lý

nhà nước, ngân hàng, các tổ chức xếp hạng tín nhiệm…Do đó, việc tìm hiểu và phân

tích các nguyên nhân, nhân tố có ảnh hưởng đến quản lý thu nhập là rất cần thiết nhằm

đánh giá được bức tranh tài chính thực sự của công ty. Từ đó, việc ra quyết định sẽ

chính xác hơn, và về dài hạn sẽ làm cho nền kinh tế chung trở nên ổn định hơn.

Trên thế giới các nghiên cứu trước đây về đề tài quản lý thu nhập chủ yếu được

thực hiện tại các quốc gia có hệ thống tài chính phát triển tiên tiến như: Hoa Kỳ, Anh,

Tây Ban Nha…Trong khi đó tại Việt Nam vấn đề nghiên cứu về quản lý thu nhập vẫn

còn khá đơn sơ và hạn chế. Với mục đích đánh giá ảnh hưởng của mức độ kiệt quệ tài

chính lên các công cụ quản lý thu nhập của các doanh nghiệp, bài nghiên cứu: “Tác

động của kiệt quệ tài chính đến các công cụ quản lý thu nhập tại các doanh nghiệp

Việt Nam” được thực hiện nhằm kiểm định các nhân tố có tác động lên hành động

quản lý thu nhập tại các doanh nghiệp tại Việt Nam, từ đó, đề xuất các giải pháp và

khuyến nghị nhằm hạn chế các thủ thuật này cũng như nâng cao tính minh bạch của thị

trường tài chính Việt Nam.

1.2. Mục tiêu, đối tượng và phạm vi nghiên cứu

1.2.1. Mục tiêu nghiên cứu

3

- Mục tiêu nghiên cứu tổng quát: Đề tài được thực hiện nhằm mục tiêu nghiên

cứu tác động của kiệt quệ tài chính lên các công cụ quản lý thu nhập tại các

doanh nghiệp Việt Nam.

- Mục tiêu nghiên cứu cụ thể: Để giải quyết được mục tiêu nghiên cứu chung, đề

tài phân tích và ước lượng các phương trình hồi quy để trả lời cho các mục tiêu

cụ thể sau:

1) Công cụ quản lý thu nhập dựa trên hoạt động kinh doanh thực có mối

quan hệ cùng chiều với kiệt quệ tài chính ở các doanh nghiệp Việt Nam

không?

2) Có tồn tại mối quan hệ cùng chiều giữa kiệt quệ tài chính và quản lý thu

nhập thông qua công cụ quản lý thu nhập kế toán dồn tích hay không?

3) Xác định các đặc điểm khác công ty có mối quan hệ với quản lý thu

nhập, nếu tồn tại thì mối quan hệ đó là như thế nào?

1.2.2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là mối quan hệ giữa kiệt quệ tài chính và

các yếu tố khác của công ty đối với quản lý thu nhập của các doanh nghiệp niêm yết

tại sàn giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh (HOSE) và sàn giao dịch

chứng khoán Hà Nội (HNX).

Không gian nghiên cứu, đề tài nghiên cứu được giới hạn trong phạm vi 280

công ty niêm yết tại tại sàn giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh (HOSE) và

sàn giao dịch chứng khoán Hà Nội (HNX) trong giai đoạn từ năm 2008 đến năm 2016.

Vì đặc thù về cấu trúc vốn của các doanh nghiệp tài chính nên bài nghiên cứu này

không bao gồm các doanh nghiệp tài chính trong mẫu dữ liệu.

1.3. Phương pháp nghiên cứu

4

Bài nghiên cứu sử dụng hai phương pháp kiểm định mô hình chính lần lượt là:

Pooled OLS và GMM hệ thống. Đầu tiên, luận văn hồi quy Pooled OLS các phương

trình để ước lượng các chỉ tiêu hoạt động “thông thường”của doanh nghiệp. Phần dư

của phép hồi quy sẽ được xem là “bất thường” (abnormal) và là biến đại diện cho hành

vi điều chỉnh thu nhập. Nói cách khác, chênh lệch giữa giá trị quan sát và giá trị ước

lượng sẽ phản ánh mức độ thực hiện hành vi điều chỉnh của công ty. Luận văn tiếp tục

kiểm định hiện tượng tự tương quan và phương sai thay đổi.

Từ kết quả phần dư của phép hồi quy OLS, luận văn sử dụng phương pháp

GMM để kiểm định ba câu hỏi nghiên cứu của đề tài. GMM hệ thống được biết đến là

một phương pháp có rất nhiều ưu điểm khắc phục được hầu hết các hiện tượng trong

kinh tế lượng như phương sai thay đổi, tự tương quan và đặc biệt là hiện tượng nội

sinh. Do đó, việc dùng phương pháp GMM sẽ giúp kết quả kiểm định trong bài nghiên

cứu có tính bền vững cao hơn.

1.4. Đóng góp của đề tài

Đề tài cung cấp bằng chứng thực nghiệm về mối quan hệ của tình trạng kiệt quệ

tài chính và quản lý thu nhập của các doanh nghiệp Việt Nam. Từ những nền tảng lý

thuyết cũng như bằng chứng thực nghiệm, bài nghiên cứu có một vài đóng góp cho các

nhà điều hành quốc gia cũng như các chủ thể sử dụng thông tin tài chính doanh nghiệp

như: các nhà đầu tư, người lao động, kiểm toán viên, ngân hàng, đối tác...

Đầu tiên, bài nghiên cứu cho thấy rằng các nhà quản lý doanh nghiệp thường

lựa chọn một trong hai công cụ quản lý thu nhập hoặc phối hợp cả hai công cụ (công

cụ quản lý thu nhập thực tế hoặc công cụ quản lý thu nhập kế toán dồn tích) khi công

ty phải đối mặt với các tình huống kiệt quệ tài chính. Điều này có hàm ý đối với các

nhà điều hành quốc gia, bài nghiên cứu cung cấp một chỉ báo về mức độ áp lực dẫn

đến quản lý thu nhập tại công ty đang tiến gần đến thủ tục phá sản. Các nhà điều hành

5

quốc gia có thể áp dụng cơ sở và nền tảng nghiên cứu này để kiểm tra chặt chẽ hơn đối

với doanh nghiệp đang hoạt động tại Việt Nam từ đó có thể ban hành/sửa đổi luật.

Ngoài ra, các phát hiện từ bài nghiên cứu này cũng cung cấp một kỹ thuật hiệu quả cho

kiểm toán viên nhằm giúp họ đưa ra các kết luận phù hợp và chính xác hơn bằng cách

nổ lực phân tích hoạt động điều chỉnh thu nhập thực khi công ty đang gặp khó khăn về

tài chính mặc dù hành vi điều chỉnh thu nhập thực khó bị phát hiện và được ngụy trang.

Hơn thế nữa, đối với các nhà đầu tư, có thể được cảnh báo về thông tin thu nhập bất

thường khi các công ty đối mặt với kiệt quệ tài chính, nhằm hạn chế những thiệt hại vì

những thông tin không chính xác từ thị trường do hành vi bóp méo báo cáo tài chính.

1.5. Nội dung đề tài

Luận văn được chia làm năm chương với nội dung các chương như sau:

- Chương 1: Giới thiệu. Đây là phần mở đầu tổng quan đề tài nghiên cứu. Nội

dung chương này sẽ nêu rõ lý do lựa chọn đề tài, mục tiêu nghiên cứu, đối

tượng – phạm vi nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu và đóng góp của đề tài.

- Chương 2: Phần tổng quan lý thuyết sẽ trình bày nền tảng cơ sở lý thuyết về:

kiệt quệ tài chính, quản lý thu nhập và những nghiên cứu trên thế giới về mối

quan hệ giữa quệ tài chính và quản lý thu nhập với phương pháp luận và kết

quả thực nghiệm khác nhau.

- Tiếp theo, nội dung chương 3 trình bày phương pháp nghiên cứu. Trong chương

này sẽ mô tả biến sử dụng trong mô hình đồng thời giải thích về mẫu nghiên

cứu và nguồn dữ liệu; sau đó là giới thiệu phương pháp hồi quy và các kiểm

định cần thực hiện.

- Thống kê mô tả các biến, kết quả nghiên cứu thực nghiệm và kiểm định mô hình

được trình bày ở Chương 4. Ngoài ra, trong nội dung chương này còn thảo luận

kết quả nghiên cứu và so sánh với một số nghiên cứu trước đó.

6

- Chương 5 là phần kết luận của bài nghiên cứu, sẽ trình bày những kết luận

chính, đóng góp của bài nghiên cứu đồng thời đề xuất khuyến nghị và giải pháp

rút ra từ đề tài.

7

CHƯƠNG 2. TỔNG QUAN LÝ THUYẾT VÀ KẾT QUẢ NGHIÊN

CỨU TRƯỚC ĐÂY

Dưới sự bất ổn của thị trường tài chính, các nhà quản trị tài chính hay các giám

đốc tài chính luôn phải đối diện với các tình huống rất áp lực của doanh nghiệp như:

IPO, thay đổi xếp hạng tín nhiệm của doanh nghiệp, các thương vụ thâu tóm và sáp

nhập...Chính những tình huống khó khăn này là động cơ thúc đẩy các nhà quản lý sử

dụng các phương thức thao túng báo cáo tài chính nhằm mục đích phóng đại mức lợi

nhuận của doanh nghiệp đảm bảo sự ổn định trong thu nhập trong các cuộc khủng

hoảng cũng như mục đích mang lại lợi ích cho chính bản thân các nhà quản lý. Hay cụ

thể hơn, thước đo hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp chính là lợi nhuận. Về cơ bản,

lợi nhuận của doanh nghiệp được hình thành từ hai thành phần chính là doanh thu và

chi phí, do đó, hành vi thao túng lợi nhuận sẽ được thực hiện thông qua các thủ thuật

làm tăng/giảm hai thành phần này. Một số nghiên cứu gần đây (Choi, Kim và Lee,

2011; Trombetta và Imperatore, 2014) cũng đã phân tích ảnh hưởng suy thoái kinh tế

đối với chất lượng báo cáo tài chính trong tình hình gia tăng số lượng các công ty lâm

vào tình trạng khó khăn về tài chính, đặc biệt là các công ty nhỏ. Kết quả nghiên cứu

cho thấy hành vi thao túng, điều chỉnh lợi nhuận tăng lên khi cuộc khủng hoảng kinh tế

trở nên tồi tệ hơn.

2.1. Khung lý thuyết nghiên cứu

Mục tiêu chính của bài nghiên cứu là kiểm định mối quan hệ giữa kiệt quệ tài

chính và quản lý thu nhập do đó trong nội dung khung lý thuyết nghiên cứu sẽ làm rõ

các lý thuyết liên quan. Thứ nhất, luận văn trình bày lý thuyết kiệt quệ tài chính và

những hậu quả của kiệt quệ tài chính có thể để lại đối với doanh nghiệp và các chủ thể

khác trong nền kinh tế. Kiệt quệ tài chính là một khái niệm có ý nghĩa rộng, thể hiện

8

tình trạng khó khăn về tài chính, không phải tất cả các công ty lâm vào tình trạng kiệt

quệ đều dẫn đến kết quả phá sản do các doanh nghiệp vẫn có thể trì hoãn, giảm thiểu

khả năng phá sản bằng những nổ lực và các giải pháp hợp lý để vượt qua khủng hoảng,

phục hồi hoạt động kinh doanh. Do đó, kiệt quệ tài chính là một “bối cảnh lý tưởng”

tác động đến hành vi của nhà quản lý và nổi bật là hành vi điều chỉnh thu nhập trong

báo cáo tài chính nhằm nổ lực giúp công ty vượt qua khủng hoảng. Thứ hai, luận văn

trình bày các công cụ điều chỉnh thu nhập phổ biến hiện được nghiên cứu ở nhiều quốc

gia trên thế giới đó là: Quản lý thu nhập dựa trên hoạt động kinh doanh thực tế (Real

activity earnings manipulation - REM) và quản lý thu nhập dựa trên cơ sở dồn tích

(Accrual earnings manipulation - AEM). Bài nghiên cứu tập trung phân tích đặc điểm

và chi phí cơ hội giữa hai công cụ quản lý thu nhập này trong bối cảnh doanh nghiệp

lâm vào tình trạng kiệt quệ tài chính. Các lý thuyết liên quan này có liên hệ mật thiết

với chủ đề nghiên cứu của đề tài.

2.1.1. Lý thuyết kiệt quệ tài chính

Thuật ngữ “kiệt quệ tài chính” là một khái niệm có ý nghĩa rộng. Nhiều nhà

nghiên cứu kinh tế định nghĩa: kiệt quệ tài chính là tình trạng khó khăn về tài chính của

doanh nghiệp giai đoạn từ trước thời điểm tuyên bố phá sản đến lúc phá sản (Atlman

và Hotchkiss, 2006; Li Jiming và Du Weiwei, 2011; Tinoco và Nick Wilson, 2013).

Altman và Hotchkiss (2006) đưa ra một số thuật ngữ mô tả tình trạng “kiệt quệ tài

chính” thường được sử dụng trong nghiên cứu kinh tế bao gồm: thua lỗ (failure) , mất

khả năng chi trả (insolvency), vỡ nợ (default) và phá sản (bankruptcy).

Về khía cạnh kinh tế, thua lỗ (failure) được định nghĩa khi tỷ suất sinh lợi thực

tế trên khoản vốn đầu tư sau khi đã xem xét yếu tố rủi ro, liên tục thấp hơn đáng kể so

với tỷ suất sinh lợi của các khoản đầu tư tương đương trên thị trường. Một số định

nghĩa khác cũng được đưa ra về tình trạng thua lỗ, đó là khi doanh thu không đủ bù đắp

9

cho chi phí và tỷ suất sinh lợi bình quân trên khoản đầu tư liên tục thấp hơn mức chi

phí vốn của một doanh nghiệp. Các công ty thua lỗ vẫn có thể tiếp tục hoạt động khi

các nhà đầu tư chấp nhận mức tỷ suất sinh lợi thấp. Hơn nữa, một số doanh nghiệp

kinh doanh thua lỗ trong một vài năm nhưng vẫn có khả năng thanh toán các nghĩa vụ

nợ ngắn hạn. Do đó, các tình huống thua lỗ như trên chưa thể khẳng định sự chấm dứt

hoạt động của một doanh nghiệp.

Mất khả năng chi trả (insolvency) - là một thuật ngữ tiếp theo để mô tả kết quả

hoạt động kinh doanh yếu kém của một doanh nghiệp. Các nhà nghiên cứu phân loại

mất khả năng chi trả thành hai dạng đó là: “Mất khả năng chi trả kỹ thuật” và “mất khả

năng chi trả giá trị”. Trong đó, mất khả năng chi trả kỹ thuật tồn tại khi công ty không

thể thanh toán các nghĩa vụ nợ ngắn hạn đến hạn, biểu hiện ở mất khả năng thanh

khoản. Walter (1957) thảo luận về mất khả năng chi trả kỹ thuật và đề xuất lý thuyết

dòng tiền ròng tương đối với các nghĩa vụ nợ ngắn hạn là tiêu chuẩn để mô tả việc mất

khả năng chi trả kỹ thuật. Công ty trong tình trạng “mất khả năng chi trả giá trị” khi giá

trị hợp lý của tổng tài sản nhỏ hơn tổng nợ phải trả của công ty. Do đó, giá trị kinh tế

ròng của công ty mang giá trị âm. Mất khả năng chi trả kỹ thuật rất dễ phát hiện, trong

khi đó mất khả năng chi trả giá trị thì khó phát hiện hơn và cần phải phân tích định giá

một cách toàn diện.

Một thuật ngữ khác có liên quan đến kiệt quệ tài chính là “vỡ nợ". Thuật ngữ

này thể hiện mối quan hệ giữa doanh nghiệp đi vay và chủ nợ. Vỡ nợ (default) được

phân loại thành: vỡ nợ kỹ thuật và vỡ nợ pháp lý. Vỡ nợ kỹ thuật xảy ra khi công ty đi

vay vi phạm các điều kiện của hợp đồng vay đã ký kết với chủ nợ, và đây là cơ sở dẫn

đến vỡ nợ pháp lý. Khi công ty thường xuyên chậm trả các khoản tiền vay, tiền gốc trái

phiếu đúng hạn, hay còn gọi là các nghĩa vụ định kỳ, thì vỡ nợ pháp lý có thể xảy ra.

Đặc biệt đối với các trái phiếu phát hành công chúng, khi một công ty không thực hiện

10

việc chi trả lãi hoặc gốc đúng hạn, và vấn đề này không được khắc phục trong khoảng

thời gian, thường là 30 ngày, thì chứng khoán đó được xem như vỡ nợ.

Thuật ngữ cuối cùng có liên quan đến kiệt quệ tài chính đó chính là phá sản

(bankruptcy). Doanh nghiệp lâm vào tình trạng khó khăn về tài chính ngày càng

nghiêm trọng và kéo dài, những vấn đề này không được giải quyết có thể phải bước

vào giai đoạn đệ đơn xin phá sản. Phá sản là hành vi doanh nghiệp đệ đơn xin phá sản

đến cơ quan chức năng và được cấp có thẩm quyền chấp nhận.

Từ những thuật ngữ trình bày ở trên cho thấy kiệt quệ tài chính là một khái niệm

có ý nghĩa khá rộng, thể hiện tình trạng khó khăn về tài chính của doanh nghiệp như:

kinh doanh thu lỗ, mất khả năng chi trả, thanh khoản kém, vỡ nợ hay có thể dẫn đến hệ

quả cuối cùng là phá sản. Đã có rất nhiều đề tài nghiên cứu xoay quanh chủ đề kiệt quệ

tài chính. Không phải tất cả các công ty lâm vào tình trạng kiệt quệ tài chính đều dẫn

đến kết quả phá sản. Do đó, việc lựa chọn chủ đề nghiên cứu liên quan đến kiệt quệ tài

chính có ý nghĩa rộng, mở rộng phạm vi nghiên cứu và đặt ra nhiều vấn đề để thảo

luận. Kiệt quệ tài chính tác động đến các chủ thể trong nền kinh tế. Thứ nhất, điều này

tác động đến chính bản thân doanh nghiệp, cổ đông, trái chủ, và đối tác. Kiệt quệ tài

chính làm gia tăng chi phí phát sinh từ các hành vi dịch chuyển rủi ro giữa cổ đông và

người đại diện, tức là các nhà quản lý công ty. Chính những mâu thuẫn về quyền lợi đã

dẫn đến việc cổ đông và người đại diện thực hiện các “trò chơi” để đảm bảo quyền lợi

cũng như giảm thiểu rủi ro cho chính mình, từ đó đưa ra những quyết định đầu tư và tài

trợ sai lầm. Các hành vi dịch chuyển rủi ro này được nghiên cứu rộng rãi trong các tài

liệu. Galai và Masulis (1976) và Jensen và Meckling (1976) cho thấy rằng cổ đông

chiếm đoạt tài sản từ các trái chủ bằng cách dịch chuyển tài sản của công ty vào các dự

án rủi ro cao. Điều này có thể chuyển hướng nguồn lực theo hướng tối đa hóa sự giàu

có của các cổ đông và có thể gây thiệt hại cho trái chủ nếu dự án thất bại. Hoặc cổ

đông có thể từ chối đầu tư vào các dự án tiềm năng, thu tiền bỏ chạy bằng hình thức cổ

11

tức tiền mặt…Tất cả những trò chơi này đều làm gia tăng chi phí cho doanh nghiệp,

gây thiệt hại bởi những quyết định đầu tư hay tài trợ sai lầm dẫn đến tình trạng khó

khăn của doanh nghiệp trở nên nghiêm trọng hơn. Hơn nữa, tình trạng này làm cho

doanh nghiệp khó khăn trong việc thanh toán các nghĩa vụ nợ ngắn hạn, đối tác bị nợ

tiền hàng cũng bị kéo theo tình trạng khó khăn. Thứ hai, kiệt quệ tài chính gây ảnh

hưởng đến hoạt động tín dụng của ngân hàng. Các doanh nghiệp khó khăn về tài chính

không kịp thời thanh toán các khoản gốc, lãi đến hạn từ đó gia tăng tỷ lệ nợ quá hạn,

nợ xấu và ngân hàng có khả năng mất vốn. Thứ ba, kiệt quệ tài chính ảnh hưởng chung

đến toàn bộ nền kinh tế thị trường. Tỷ lệ gia tăng số lượng doanh nghiệp khó khăn về

tài chính làm gia tăng tỷ lệ thất nghiệp, người lao động bị nợ lương, các doanh nghiệp

nợ thuế gây bội chi ngân sách tạo ra bất ổn đến toàn bộ nền kinh tế nếu tình trạng các

doanh nghiệp khó khăn đệ đơn xin phá sản càng nhiều.

Kể từ khi chỉ số kiệt quệ tài chính lần đầu tiên được đưa ra bởi Beaver (1966),

đã có rất nhiều chỉ số khác được phát triển (Altman, 1968, 1993; Carcello & Neal,

2000; Fich & Slezak, 2008; Jaggi & Lee, 2002; Mousavi, Ouenniche, & Xu, 2015;

Tinoco & Wilson, 2013; Zmijewski, 1984). Chỉ số kiệt quệ tài chính được nghiên cứu

rộng rãi và được dùng để dự đoán nguy cơ phá sản. Một số chỉ số thường được sử dụng

như chỉ số Altman (z-score), chỉ số h-score, phương pháp ước lượng xác suất vỡ nợ

của Carcello & Neal. Trong số đó, chỉ số z-score là một trong những phương pháp

được sử dụng phổ biến để dự đoán nguy cơ phá sản. Công thức tính hệ số nguy cơ phá

sản z-score như sau:

Z-score = 1,2 x A1+1,4 x A2+3,3 x A3+0,6 x A4+1,0 x A5

Trong đó:

12

Ký hiệu Công thức tính toán Trọng số

1,2 X1 Vốn lưu động (Tài sản ngắn hạn – Nợ ngắn hạn)/Tổng tài sản

Lợi nhuận chưa phân phối/Tổng tài sản 1,4 X2

Lợi nhuận trước lãi vay và thuế/Tổng tài sản 3,3 X3

Vốn hóa thị trường/Tổng nợ phải trả 0,6 X4

X5 Doanh thu thuần/Tổng tài sản 0,999

Sau khi đã tính toán được hệ số Z, chúng ta sẽ đối chiếu với giá trị so sánh như sau:

2.99 < Z : Doanh nghiệp có tài chính lành mạnh

1.81 < Z < 2.99 : Doanh nghiệp không có vấn đề trong ngắn hạn, tuy nhiên cần phải xem

xét điều kiện tài chính một cách thận trọng

Z ≤ 1.81 : Doanh nghiệp có vấn đề kiệt quệ tài chính.

Tuy nhiên các phương pháp liên quan đến dự đoán xác suất vỡ nợ tùy thuộc vào từng

nền kinh tế, mỗi thị trường cần một mô hình riêng biệt để dự đoán chính xác xác suất

vỡ nợ. Do đó, luận văn dựa trên phương pháp nghiên cứu của Fich và Slezak (2008),

phương pháp này hoàn toàn dựa trên dữ liệu sổ sách kế toán được đo lường bằng

EBIT/chi phí lãi vay. Điều này dựa trên giả định rằng nếu công ty không có khả năng

tạo ra thu nhập đủ để chi trả lãi vay thì có khả năng sẽ sớm đối mặt với việc mất khả

năng chi trả các khoản nợ đến hạn.

Từ những hậu quả tiêu cực nói trên, cho thấy tất cả doanh nghiệp bị lâm vào

tình trạng kiệt quệ tài chính đều không muốn những chủ thể liên quan nhận thấy những

tín hiệu khó khăn về tài chính mà mình đang gặp phải. Kiệt quệ tài chính là một quá

trình kể từ lúc doanh nghiệp gặp phải một số khó khăn về tài chính cho đến khi phá

sản. Không phải tất cả các công ty kiệt quệ tài chính đều dẫn đến ngừng hoạt động. Các

13

doanh nghiệp khi lâm vào tình trạng này có thể trì hoãn, giảm thiểu khả năng phá sản

bằng những nổ lực và các giải pháp hợp lý để vượt qua khủng hoảng, phục hồi hoạt

động kinh doanh. Do đó, kiệt quệ tài chính là một bối cảnh lý tưởng tác động đến hành

vi của nhà quản lý và nổi bật là hành vi điều chỉnh thu nhập trong báo cáo tài chính đã

được nghiên cứu ở các quốc gia trên thế giới. Một số bài nghiên cứu cho thấy khi lâm

vào tình trạng khó khăn về tài chính, các nhà quản lý càng có động cơ mạnh mẽ để

thực hiện hành vi thao túng (điều chỉnh) thu nhập (Adu- Boateng, 2011; Burgstahler và

Dichev, 1997). Thực tế, các công ty lâm vào kiệt quệ tài chính thường có hành vi điều

chỉnh tăng thu nhập so với các doanh nghiệp có tình hình tài chính lành mạnh (Campa

& Camacho-Miñano, 2014; Rosner, 2003) và trong một số trường hợp, điều chỉnh thu

nhập làm “sạch” các tín hiệu tiêu cực của tình trạng kiệt quệ tài chính (Iatridis &

Kadorinis, 2009; Jaggi & Lee, 2002; Sweeney, 1994).

Tóm lại, lý thuyết kiệt quệ tài chính cho thấy những hậu quả của thông tin

doanh nghiệp lâm vào tình trạng kiệt quệ tài chính và những ảnh hưởng tiêu cực đối

với các chủ thể trong nên kinh tế. Do đó các nhà quản lý dường như muốn nổ lực “che

dấu”, “làm sạch” tín hiệu khó khăn của doanh nghiệp. Kiệt quệ tài chính là bối cảnh "lý

tưởng" để các nhà quản lý tăng cường điều chỉnh kết quả hoạt động kinh doanh và cụ

thể là quản trị (điều chỉnh) thu nhập nhằm đưa doanh nghiệp vượt qua khủng hoảng.

Nội dung tiếp theo sẽ trình bày về lý thuyết các phương pháp quản lý thu nhập thường

được vận dụng khi doanh nghiệp lâm vào tình trạng kiệt quệ tài chính.

2.1.2. Lý thuyết quản lý thu nhập

Mục tiêu chính của các doanh nghiệp là tối đa hóa giá trị cổ đông bằng cách

khai thác hiệu quả vốn cổ phần và nợ. Các cổ đông đều kỳ vọng công ty sẽ hoạt động

có hiệu quả trong tương lai. Do đó, thông qua các thông tin mà báo cáo tài chính cung

cấp về tình hình tài chính, kết quả hoạt động kinh doanh, dòng tiền của doanh nghiệp,

14

nhà quản trị đều mong muốn cung cấp những thông tin lạc quan đến cổ đông và chủ nợ

vì mục tiêu gia tăng vốn và thu hút vốn đầu tư vào doanh nghiệp. Tuy nhiên, các công

ty không chắc chắn có thể đáp ứng được những kỳ vọng của nhà đầu tư trong mọi thời

điểm, đồng thời nhà quản lý cũng không mong muốn giá chứng khoán công ty bị sụt

giảm. Do đó, các công ty có nhiều động cơ quản lý chỉ tiêu lợi nhuận trên báo cáo tài

chính nhằm đáp ứng được kỳ vọng của cổ đông và giữ giá của cổ phiếu ở mức kỳ

vọng. Đã có rất nhiều đề tài nghiên cứu về những nguyên nhân dẫn đến hành vi điều

chỉnh lợi nhuận của nhà quản lý như: gia tăng lợi ích của nhà quản lý, phát hành cổ

phiếu lần đầu ra công chúng, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp, gia tăng điểm xếp hạng

tín dụng… Một hướng nghiên cứu mới trong thời gian gần đây là nghiên cứu kiệt quệ

tài chính có phải là nguyên nhân dẫn đến hành vi điều chỉnh thu nhập của nhà quản lý

hay không trong bối cảnh ngày càng có nhiều doanh nghiệp đệ đơn xin phá sản.

Trong nhiều tài liệu hiện nay thường nghiên cứu hai kỹ thuật quản lý thu nhập,

đó là: quản lý thu nhập thực tế (Real earning management - REM) và quản lý thu nhập

dựa trên cơ sở dồn tích (Accrual earning management - AEM). Kết quả hoạt động kinh

doanh được cấu thành từ hai khía cạnh là: hoạt động sản xuất kinh doanh thực tế và ghi

nhận các bút toán kế toán dồn tích, do đó các công ty có hai phương pháp để điều

chỉnh thu nhập. Cả hai công cụ đều có tác động đến thu nhập theo các cách khác nhau.

Quản lý thu nhập thông qua “hoạt động điều chỉnh thực tế” và “hoạt động điều chỉnh

dồn tích” là hai chiến lược phổ biến của nhà quản trị tài chính vận dụng nhằm đảm bảo

mức độ ổn định cho doanh nghiệp trong một vài giai đoạn khó khăn, đặc biệt là khi

doanh nghiệp đối diện với tình trạng kiệt quệ tài chính và có thể dẫn đến phá sản.

Quản lý thu nhập dựa trên hoạt động kinh doanh thực tế (Real earnings

manipulation - REM) được định nghĩa là việc thực hiện các hoạt động bất thường

trong kinh doanh để điều chỉnh thu nhập (Rowchowdhury, 2006). Một số hoạt động bất

thường điển hình để điều chỉnh thu nhập mà doanh nghiệp thường sử dụng làm tăng

15

doanh thu như: giảm chi phí nghiên cứu phát triển, giảm chi phí bán hàng và chi phí

quản lý, giảm giá hàng bán để gia tăng doanh thu, bán tài sản cố định để tăng thu nhập,

sản xuất vượt công suất để giảm giá vốn hàng bán. Hệ quả là REM sẽ ảnh hưởng tiêu

cực đến hiệu quả hoạt động của công ty trong tương lai (Rowchowdhury, 2006). Nhiều

nghiên cứu đã nhận dạng các phương pháp phổ biến của REM. Các phương pháp đó có

thể được chia thành ba hành vi bất thường trong: hoạt động kinh doanh, hoạt động đầu

tư và hoạt động tài trợ (Wu và cộng sự, 2007). Các công ty có thể thay đổi hoạt động

kinh doanh và các hoạt động đầu tư từ đó làm thay đổi lợi nhuận, ví dụ như thay đổi

biến phí (các khoản chi phí cho nghiên cứu và phát triển, chi phí quản lý, chi phí bán

hàng...). Trên cơ sở chuẩn mực kế toán quốc tế IFRS, chi phí nghiên cứu và quảng cáo

được ghi nhận là chi phí phát sinh trong kỳ và không được vốn hóa vào tài sản vô hình

do đó, bằng việc giảm các khoản mục này, lợi nhuận sẽ lập tức gia tăng. Chi phí nghiên

cứu phát triển được ghi nhận là chi phí hơn là được vốn hóa vào tài sản vô hình bởi vì

không thể xác định được lợi ích kinh tế tương lai thu được ở giai đoạn nghiên cứu

(Theo IASB 1998, IAS số 38). Do đó, các dự án phát triển có thể gia tăng thu nhập

bằng cách giảm chi phí tùy ý như nghiên cứu phát triển. Mặc khác, hoạt động kinh

doanh và hoạt động đầu tư có thể bị sai lệch nếu các công ty sản xuất quá mức, sử dụng

các chính sách giảm giá để thúc đẩy gia tăng doanh thu từ đó làm gia tăng thu nhập

(Roychowdhury 2006). Nếu các công ty tiến hành sản xuất quá mức thì chi phí trên

mỗi sản phẩm sẽ giảm do chi phí cố định phân bổ trên số lượng lớn các sản phẩm đầu

ra từ đó làm tăng thu nhập. Nhà quản lý cũng có thể đưa ra chính sách chiết khấu cao

để tăng doanh thu nhanh chóng. Công ty cũng có thể bán tài sản cố định nhằm làm tăng

thu nhập. Lựa chọn cuối cùng mà các nhà nghiên cứu xác định để thay đổi hoạt động

kinh doanh và hoạt động đầu tư là tái cấu trúc. Ví dụ, các doanh nghiệp có thể tham gia

mua lại doanh nghiệp hoặc tham gia vào các hợp đồng cho thuê hoạt động hoặc cho

thuê tài chính với mục đích chính là gia tăng thu nhập được báo cáo (Xu và cộng sự,

2007, Dye 2002). Các công ty cũng có thể điều chỉnh thu nhập bằng cách thay đổi các

16

hoạt động tài trợ. Các quyền chọn cổ phiếu được tung ra nếu thu nhập thực tế thấp hơn

mức thu nhập mục tiêu. Nguyên nhân là do các khoản bổ sung, phần thưởng thông qua

các quyền chọn cổ phiếu không liên quan đến tiền mặt (Matsunaga,1995). Việc đưa ra

các quyền chọn cổ phiếu này làm giảm thu nhập trên mỗi cổ phiếu (EPS). Để tránh sự

giảm hoặc pha loãng EPS, các cổ phiếu được mua lại và sau đó dẫn đến tăng EPS

(Hribar và cộng sự, 2006, Bens và cộng sự, 2003). Các công ty cũng có các công cụ tài

chính để tự bảo vệ mình khỏi việc sụt giảm thu nhập. Hoán đổi nợ - vốn cổ phần cũng

được sử dụng để tăng lợi nhuận hoán đổi được báo cáo thu nhập (Hand 1989).

Quản lý thu nhập thực có thể ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động kinh doanh của

doanh nghiệp trong tương lai. Tuy nhiên, kết quả hoạt đông kinh doanh trong tương lai

sẽ khác nhau tùy thuộc vào môi trường kinh doanh của mỗi doanh nghiệp. Ví dụ, sẽ tốn

kém hơn đối với doanh nghiệp chịu nhiều áp lực cạnh tranh trong ngành (Zang 2012).

Do đó, mức độ cạnh tranh trong cùng ngành sẽ hạn chế việc sử dụng REM. Hơn nữa,

Rowchowdhury (2006) chứng minh rằng mức độ sở hữu của cổ đông nội bộ càng cao

thì mức độ giám sát càng cao, từ đó hạn chế khả năng áp dụng REM. Hơn nữa, tăng

thu nhập sổ sách thông qua việc áp dụng REM chịu thuế cao hơn so với việc áp dụng

AEM. Do đó, mức thuế cận biên cao hơn sẽ hạn chế các doanh nghiệp sử dụng REM

để điều chỉnh tăng thu nhập (Zang 2012). Cuối cùng, Zang (2012) lập luận rằng các

doanh nghiệp gặp khó khăn về tài chính sẽ nhận thấy việc áp dụng công cụ REM để

điều chỉnh thu nhập khá tốn kém vì mục tiêu chính của họ là duy trì hoạt động kinh

doanh bình thường (Zang 2012). Do REM có chi phí cao nên Zang (2012) kết luận các

công ty trong tình trạng khó khăn về tài chính thường hạn chế sử dụng điều chỉnh thu

nhập thông qua hoạt động thực tế.

Gunny (2010) thừa nhận rằng sử dụng công cụ điều chỉnh thu nhập thực REM

khá tốn kém do những hậu quả kinh tế để lại, nhưng ông cũng lập luận rằng những lợi

ích của việc áp dụng REM vượt trội chi phí nếu đáp ứng các mục tiêu thu nhập. Đạt

17

được lợi nhuận mục tiêu là tín hiệu tốt về tình hình hoạt động công ty trong tương lai

(Gunny 2010), không đạt được lợi nhuận mục tiêu đồng nghĩa với việc sụt giảm giá cổ

phiếu (Skinner và Sloan, 2002). Tín hiệu thu nhập tích cực có vai trò quan trọng đối

với các nhà quản lý, Graham và cộng sự (2005) cho thấy rằng các nhà quản lý sẵn

sàng áp dụng REM để đáp ứng mục tiêu thu nhập trong ngắn hạn, mặc dù hành vi này

có thể để lại hậu quả trong dài hạn. Điều này cũng có thể được quan sát thấy trong thực

tế, bằng chứng cho thấy các doanh nghiệp phải đối mặt với những hạn chế về dòng tiền

làm giảm chi tiêu vốn cũng như các khoản chi phí R & D (Fazarri và cộng sự 2000,

Himmelberg và Petersen 1994). Theo Beaver (1966), các công ty kinh doanh đang gặp

khó khăn về tài chính có dòng tiền tương đối thấp hơn so với các công ty có tình hình

tài chính lành mạnh, điều này gợi ý rằng kiệt quệ về tài chính có liên quan đến các hoạt

động điều chỉnh thu nhập. Kiệt quệ tài chính có thể có liên quan đến các yếu tố quyết

định hành vi điều chỉnh thu nhập thực REM của doanh nghiệp.

Quản lý thu nhập dựa trên cơ sở dồn tích (Accrual earnings manipulation -

AEM) là việc vận dụng linh hoạt các chính sách kế toán được thừa nhận bởi các quy

định về kế toán để tác động điều chỉnh các khoản mục nhằm đạt được mức lợi nhuận

mong muốn (Dechow và cộng sự, 1995…). Mục tiêu chính của các khoản dồn tích là

để chứng minh hiệu quả thực sự của công ty bằng cách ghi nhận doanh thu và chi phí

tại thời điểm phát sinh giao dịch, không phải thời điểm thực tế thu, chi tiền. Ví dụ,

doanh thu chưa thực hiện là một khoản dồn tích được báo cáo khi luồng tiền từ bán

hàng được nhận trước khi ghi nhận việc bán hàng. Mặc dù mục đích các khoản dồn

tích là phản ánh hiệu quả thực sự của một công ty, nhưng chúng cũng có thể được sử

dụng để điều chỉnh thu nhập. Thu nhập trong báo cáo tài chính có thể bị điều chỉnh khi

ghi nhận các khoản dồn tích cho các sự kiện đòi hỏi sự thận trọng trong các tiêu chuẩn

kế toán. Ví dụ như những khoản lỗ từ các khoản nợ xấu, suy giảm tài sản và giá trị

thanh lý của tài sản dài hạn. Nếu những ước tính sai lệch gây ảnh hưởng đến hiệu quả

18

hoạt động kinh doanh thực, AEM đã được các nhà quản lý áp dụng (Healy và Wahlen

1998).

Tuy nhiên, hành vi điều chỉnh thu nhập dựa trên cơ sở dồn tích này có thể bị hạn

chế bởi một số yếu tố. Thứ nhất, việc sử dụng AEM bị hạn chế bởi sự giám sát của

kiểm toán viên. Các công ty kiểm toán lớn như Big Four, có nhiều kinh nghiệm và họ

phải đối mặt với rủi ro danh tiếng nhiều hơn và đầu tư nhiều hơn vào tài nguyên kiểm

toán do đó dễ dàng phát hiện hành vi AEM so với các công ty kiểm toán nhỏ (Becker

và cộng sự,1998). Thứ hai, việc áp dụng AEM bị hạn chế bởi tính linh hoạt trong kế

toán của một công ty. Barton và Simko (2002) cho thấy khả năng vận dụng sự dồn tích

của công ty thông qua các khoản dự phòng bị hạn chế bởi mức độ tích lũy đã được áp

dụng trong giai đoạn trước vì chúng nên được đảo ngược trong các giai đoạn khác. Các

biến đại diện độ trễ của các tài sản hoạt động ròng phải nằm trong khoảng AEM trong

các giai đoạn trước. Giá trị cao hơn của đại lượng đó sẽ cho thấy sự thao túng về kế

toán ít hơn. Chu kỳ hoạt động của một công ty ảnh hưởng đến tính linh hoạt trong hoạt

động kế toán của một công ty. Sự đảo chiều dồn tích có thể được hoãn lại ở mức độ lớn

hơn nếu chu kỳ hoạt động dài hơn (Zang 2012). Hơn nữa, khả năng sử dụng quyền tự

quyết trong báo cáo tài chính sẽ giảm cùng với sự giám sát của cơ quan giám sát vì

mức áp dụng AEM giảm cùng với việc ứng dụng của Sox (Cohen và cộng sự, 2008).

Sox là một cách để bảo vệ các nhà đầu tư bên ngoài, có thể lập luận rằng bảo vệ nhà

đầu tư nói chung hạn chế khả năng áp dụng AEM của các công ty. Sự tương quan tiêu

cực giữa bảo vệ nhà đầu tư và AEM được xác nhận bởi Leuz và cộng sự (2003). Lý do

bài nghiên cứu cung cấp là nếu các nhà đầu tư được bảo vệ nhiều hơn, người trong nội

bộ sẽ gặp khó khăn hơn trong việc giành được lợi ích kiểm soát cá nhân, loại bỏ các

biện pháp để che giấu hiệu quả kinh doanh thực sự (Leuz và cộng sự, 2003). Việc áp

dụng AEM bị hạn chế bởi kiểm toán viên giám sát, tính linh hoạt kế toán và sự bảo vệ

nhà đầu tư.

19

2.2. Nghiên cứu thực nghiệm

Có rất nhiều nghiên cứu thực nghiệm để tìm hiểu động cơ nào dẫn đến quản lý

thu nhập của doanh nghiệp. Một trong những hướng nghiên cứu gần đây tập trung tìm

hiểu về vấn đề kiệt quệ tài chính có khả năng là động cơ mạnh mẽ để nhà quản lý tiến

hành các thủ thuật điều chỉnh lợi nhuận khi tình hình số lượng công ty lâm vào tình

trạng kiệt quệ tài chính ngày càng nhiều và hành vi bóp méo báo cáo tài chính ngày

càng tinh vi hơn. Ngoài ra còn có rất nhiều yếu tố bên trong cũng như bên ngoài doanh

nghiệp tác động dẫn đến việc lựa chọn và thực hiện các hành động điều chỉnh, thay đổi

lợi nhuận vì một mục tiêu cụ thể. Trong nội dung này, đề tài sẽ lần lượt trình bày

những nghiên cứu thực nghiệm trên thế giới về: mối quan hệ giữa kiệt quệ tài chính và

các công cụ quản lý thu nhập; mối quan hệ giữa các yếu tố khác của doanh nghiệp đối

với quản lý thu nhập.

2.2.1. Nghiên cứu thực nghiệm về mối quan hệ giữa kiệt quệ tài chính và

các công cụ quản lý thu nhập

Enomoto và cộng sự (2015) xem xét sự khác biệt về quản lý thu nhập dựa trên

dồn tích và quản lý thu nhập dựa trên hoạt động kinh doanh thực tế giữa các quốc gia

với quan điểm bảo vệ nhà đầu tư. Theo các nghiên cứu trước đây (Leuz và cộng sự,

2003), các tác giả đưa ra giả thuyết rằng quản lý thu nhập bị hạn chế bởi pháp luật ở

các quốc gia bảo vệ nhà đầu tư mạnh mẽ. Để điều chỉnh thu nhập thực ở các quốc gia

có sự bảo vệ của nhà đầu tư mạnh mẽ này, các tác giả có giả thuyết: quản lý thu nhập

thực được thực hiện thường xuyên hơn so với quản lý thu nhập dồn tích. Nghiên cứu

của tác giả sử dụng dữ liệu từ 222.513 quan sát năm - công ty từ 38 quốc gia trong giai

đoạn 1991 đến năm 2010. Kết quả cho thấy các nhà quản lý ở các nước có hệ thống

luật pháp bảo vệ nhà đầu tư mạnh mẽ hơn có xu hướng tham gia quản lý thu nhập thực

thay vì quản lý thu nhập dồn tích. Các tác giả cũng cho thấy rằng quản lý thu nhập thực

20

bị hạn chế bởi các nhà phân tích. Kết quả không bị ảnh hưởng bởi việc kiểm soát chất

lượng kiểm toán hoặc phương pháp tính toán được sử dụng.

Achleitner và cộng sự (2014) xem xét ảnh hưởng của các công ty gia đình đối

với quản lý thu nhập thực (REM) và quản lý lợi tức dựa trên doanh thu (ABEM). Bằng

việc sử dụng của cải về mặt xã hội làm khuôn khổ lý thuyết và xem xét các hàm ý khác

nhau giữa REM và ABEM tác động lên sự bền vững chuyển tiếp của các công ty gia

đình, các tác giả lập giả thiết và sử dụng một mẫu gồm 402 công ty niêm yết ở Đức

trong giai đoạn 1998-2008 rằng các công ty gia đình cam kết tham gia ít hơn vào REM

và có nhiều chính sách ABEM giảm thu nhập so với một mẫu của 436 công ty không

phải gia đình. Các tác giả cung cấp thêm bằng chứng rằng các công ty gia đình so với

các công ty không phải là gia đình sử dụng REM và ABEM như các công cụ thay thế

hơn là bổ sung để quản lý thu nhập. Nhìn chung, những phát hiện của các tác giả cho

thấy rằng các công ty gia đình sử dụng các hoạt động quản lý thu nhập một cách chiến

lược, tránh những ảnh hưởng kìm hãm giá trị dài hạn của doanh nghiệp (tức là REM)

và tham gia vào các hoạt động giúp gia đình duy trì sự kiểm soát xuyên thế hệ

(ABEM).

Zang (2012) nghiên cứu xem liệu các nhà quản lý có sử dụng công cụ quản lý

thu nhập nào trong hai công cụ: điều chỉnh thu nhập thực, điều chỉnh thu nhập dồn tích.

Tác giả nhận thấy rằng các nhà quản lý đánh giá để lựa chọn một trong hai phương

pháp quản lý thu nhập dựa trên chi phí tương đối của hai công cụ. Tác giả sử dụng một

mô hình thực tiễn kết hợp các chi phí liên quan đến hai công cụ quản lý thu nhập, tác

giả đưa ra bằng chứng cho thấy nhà quản lý có thể sử dụng thay thế một trong hai

công cụ này. Zang cũng cho rằng nhà quản trị ưa thích quản lý thu nhập dồn tích hơn

quản lý thu nhập thực bởi vì việc điều chỉnh này có thể thực hiện sau khi kết thúc năm

tài chính, lúc này nhà quản trị thực sự biết liệu có cần phải điều chỉnh thu nhập hay

không.

21

Campa và Minano (2014) phân tích liệu các công ty vừa và nhỏ lâm vào tình

trạng kiệt quệ tài chính ở Tây Ban Nha có khuynh hướng quản lý thu nhập hơn so với

các công ty có tình hình tài chính lành mạnh hay không. Các tác giả cũng nghiên cứu

các kỹ thuật mà các công ty này thường sử dụng để quản lý thu nhập. Bằng việc phân

tích một mẫu phù hợp của các công ty phá sản và công ty có tình hình tài chính lành

mạnh, kết quả cho thấy rằng các công ty phá sản tăng cường quản lý, điều chỉnh thu

nhập nhiều hơn so với công ty có tình hình tài chính lành mạnh. Họ đạt được điều đó

bằng cách sử dụng cả hai công cụ điều chỉnh thu nhập: công cụ kế toán dồn tích và

hoạt động kinh doanh thực. Kết quả nghiên cứu cho thấy Các công ty tiến hành điều

chỉnh thu nhập ít nhất là ba năm trước khi bắt đầu thủ tục phá sản, nhưng hoạt động

thao túng thực sự đã dừng lại ngay trước năm nộp đơn xin phá sản. Các phát hiện cũng

chỉ ra rằng các công cụ quản lý thu nhập thay đổi dựa trên ngành nghề mà công ty hoạt

động và số năm trước khi phá sản. Bằng chứng này có liên quan đến các thành phần

trong nền kinh tế như: chính phủ, cơ quan giám sát và tất cả những người tham gia vào

thủ tục phá sản.

Habib và cộng sự (2013) thực hiện bài nghiên cứu nhằm mục đích kiểm tra quản

lý thu nhập của các công ty gặp khó khăn tài chính và để xem liệu những thay đổi này

có biến động gì trong cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu gần đây hay không. Tác giả

đã thực hiện bài nghiên cứu tại New Zealand về kiệt quệ tài chính, quản lý thu nhập và

định giá thị trường trong suốt khủng hoảng tài chính toàn cầu. Mặc dù vấn đề kiệt quệ

tài chính của các công ty đã được quan tâm nghiên cứu trong nhiều năm, nhưng các

hoạt động kiếm lời của các công ty kiệt quệ tài chính ít được chú ý nghiên cứu. Các tác

giả đã sử ba đại lượng kiệt quệ, sự khác biệt dồn tích và một đại lượng phổ biến cho

quản lý thu nhập để chứng minh ảnh hưởng của kiệt quệ lên quản lý thu nhập. Bài

nghiên cứu đã phát hiện rằng, các nhà quản lý của các công ty kiệt quệ tài chính tham

gia nhiều vào các hoạt động quản lý thu nhập làm giảm lợi nhuận so với các công ty có

tình hình tài chính lành mạnh. Báo cáo cũng tìm thấy một số bằng chứng về ảnh hưởng

22

của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đối với mối liên hệ giữa quản lý rủi ro tài

chính và quản lý thu nhập. Cuối cùng, bài nghiên cứu này cho thấy một số bằng chứng

về định giá thị trường tích cực của các khoản dự phòng theo quyết định trong giai đoạn

phi khủng hoảng, nhưng giảm đáng kể các hệ số giá trong giai đoạn khủng hoảng tài

chính toàn cầu.

Leuz và cộng sự (2003) xem xét sự khác biệt có hệ thống trong quản lý thu nhập

trên 31 quốc gia. Các tác giả đề xuất một lời giải thích cho những khác biệt này dựa

trên quan niệm rằng người trong cuộc, nhằm mục đích bảo vệ lợi ích kiểm soát riêng

của họ, sử dụng quản lý thu nhập để che giấu hoạt động của công ty. Do đó, việc quản

lý thu nhập dự kiến sẽ giảm trong việc bảo vệ nhà đầu tư bởi vì sự bảo vệ mạnh mẽ sẽ

hạn chế khả năng tiếp cận các quyền lợi của người có quyền kiểm soát cá nhân làm

giảm các ưu đãi của họ để che dấu hiệu suất của công ty. Những phát hiện của tác giả

phù hợp với dự đoán này và gợi ý mối liên hệ nội sinh giữa quản trị doanh nghiệp và

chất lượng của các khoản thu nhập được báo cáo.

Defond và Park (2001) cho rằng nếu thị trường dự đoán tính đảo ngược của các

khoản tích lũy vốn lưu động bất thường, thì mức độ báo cáo về những bất ngờ thu nhập

có các khoản tích lũy bất thường sẽ khác với mức độ tiềm ẩn được định giá bởi thị

trường. Các tác giả kỳ vọng nhận thức của thị trường về sự khác biệt này ảnh hưởng

đến các ERCs liên quan đến những khoản thu nhập bất ngờ có các khoản dư nợ bất

thường. Các tác giả kiểm tra dự đoán bằng cách sử dụng một đại lượng dồn tích bất

thường để ghi lại sự khác biệt giữa vốn lưu động được báo cáo và một đại diện cho kỳ

vọng của thị trường về mức vốn lưu động cần thiết để hỗ trợ doanh thu hiện tại. Phù

hợp với các giả thuyết, các tác giả tìm thấy ERC cao hơn khi các khoản dự phòng bất

thường hạn chế mức độ của các khoản thu nhập bất thường và các ERCs thấp hơn khi

các khoản trích trước bất thường đã phóng đại mức độ bất lợi của thu nhập. Các tác giả

cũng tìm thấy kết quả phù hợp với các nhà phân tích dự đoán xem xét các ý nghĩa đảo

23

ngược của các khoản dự phòng bất thường trong việc điều chỉnh dự báo thu nhập trong

tương lai. Những phát hiện này phù hợp với những người tham gia thị trường dự đoán

những ý nghĩa đảo ngược của các khoản dự phòng bất thường. Tuy nhiên, phân tích lợi

nhuận cổ phiếu tiếp theo cung cấp bằng chứng cho thấy những người tham gia thị

trường không hoàn toàn hiểu được các ý nghĩa về giá của các khoản dự phòng bất

thường vào ngày công bố lợi nhuận.

Nghiên cứu của Campa và Minano (2015) đã xem xét áp lực của các nhà quản

lý khi đối mặt với tình trạng kiệt quệ tài chính dẫn đến sự lựa chọn giữa hai công cụ

quản lý thu nhập, đó là: quản lý thu nhập thực, và quản lý thu nhập dựa trên cơ sở dồn

tích nhằm điều chỉnh thu nhập của doanh nghiệp. Bài nghiên cứu của tác giả được thực

hiện tại Tây Ban Nha với mẫu dữ liệu bao gồm 362 công ty vừa và nhỏ trong giai đoạn

từ năm 2006 đến năm 2009. Mức độ kiệt quệ tài chính của công ty càng nghiêm trọng,

nhà quản trị sử dụng các công cụ điều chỉnh thu thu nhập càng nhiều, chủ yếu là sử

dụng điều chỉnh thu nhập thực và ít sử dụng điều chỉnh thu nhập dồn tích. Điều này gợi

ý rằng, trong những tình huống tài chính càng phức tạp, nhà quản trị cố gắng điều

chỉnh gia tăng lợi nhuận bằng cách sử dụng các chiến lược điều chỉnh ít bị phát hiện và

hiệu quả hơn. Khi đặt ra sự chọn lựa chọn giữa hai công cụ quản lý thu nhập: quản lý

thu nhập thực và quản lý thu nhập dồn tích, trong tình trạng tài chính "cực kỳ khó

khăn" cần có kết quả ngay lập tức, nhà quản trị thường lựa chọn điều chỉnh thu nhập

thực, bất kể điều này có thể gây ra những thiệt hại và chi phí ảnh hưởng đến công ty

trong dài hạn (Chamberlain, Butt, & Sarkar, 2014; Kim , Kim , & Song, 2013).

2.2.2. Nghiên cứu thực nghiệm về mối quan hệ giữa kiệt quệ tài chính và

các đặc điểm của công ty

Alhadab và cộng sự (2016) cho rằng quản lý thu nhập xoay quanh vấn đề IPO

đã được nghiên cứu ở một số bài nghiên cứu, nhưng vẫn rất ít công trình nghiên cứu

24

phân tích tác động của môi trường pháp lý đối với các hoạt động điều chỉnh thu nhập.

Các tác giả nhận thấy rằng môi trường pháp lý sẽ tác động đến hoạt động quản lý

khoản thu nhập thực và quản lý thu nhập dồn tích của các công ty IPO. Kết quả của các

tác giả cho thấy các công ty IPO niêm yết trên thị trường đầu tư thay thế ở Anh (AIM)

có mức độ điều chỉnh thu nhập dồn tích cao hơn dựa trên doanh thu dồn tích (tùy theo

chi phí) để quản lý thu nhập xoay quanh vấn đề IPO hơn so với các công ty niêm yết

lớn được kiểm soát chặt chẽ ở thị trường Anh.

Ticono và Wilson (2013) sử dụng một mẫu 23.218 quan sát công ty - năm của

các công ty niêm yết trong giai đoạn 1980-2011, tác giả nghiên cứu thống kê lợi ích

của việc kết hợp dữ liệu kế toán, dữ liệu thị trường và kinh tế vĩ mô để giải thích rủi ro

tín dụng doanh nghiệp. Báo cáo này phát triển các mô hình rủi ro cho các công ty niêm

yết dự báo tình trạng tài chính và phá sản. Các mô hình ước tính sử dụng kết hợp dữ

liệu kế toán, thông tin thị trường chứng khoán và các đại diện cho những thay đổi trong

môi trường kinh tế vĩ mô. Mục đích là để tạo ra các mô hình với tính chính xác dự

đoán, giá trị thực tế và các động lực phụ thuộc vĩ mô có liên quan đến việc kiểm tra

kiệt quệ. Kết quả cho thấy lợi ích của việc kết hợp dữ liệu kế toán, thị trường và dữ liệu

kinh tế vĩ mô trong các mô hình dự báo tình trạng suy thoái tài chính cho các công ty

niêm yết. Hiệu suất của các mô hình ước tính được so sánh với các mô hình được xây

dựng bằng cách sử dụng một mạng nơ ron (MLP) và so với đặc điểm kỹ thuật điểm Z

của Altman (1968).

Trong nghiên cứu về ảnh hưởng của thể chế và nhân tố về mặt văn hóa lên khía

cạnh quản lý thu nhập Geiger và Smith (2010) xem xét tác động của định hướng của

các nhóm lợi ích liên quan đến định hướng của cổ đông và mức độ văn hoá đối nhận

thức của cá nhân đối với các hoạt động quản lý thu nhập. Xem xét khía cạnh nhận thức

từ 1,260 người từ 13 quốc gia chỉ ra rằng các cá nhân từ các cơ sở có liên quan đến các

bên liên quan ít chấp nhận quản lý thu nhập so với những người tham gia từ nguồn gốc

25

thể chế theo cổ đông và các cá nhân từ các nền văn hoá khép kín. Các phát hiện của các

tác giả cung cấp bằng chứng về sự khác nhau về nhận thức giữa các quốc gia về quản

lý thu nhập và gợi ý nhu cầu nghiên cứu thêm về mối liên hệ giữa các biện pháp quản

lý thu nhập được báo cáo.

Iatridis và Kadorinis (2009) tập trung vào việc điều tra các động cơ và đặc điểm

của các công ty ở Anh tham gia vào các hoạt động quản lý thu nhập. Bài nghiên cứu

tập trung đặc biệt vào việc cung cấp các thông tin tiết lộ về kế toán tự nguyện, vi phạm

các điều khoản nợ, bồi thường quản lý và nhu cầu về vốn chủ sở hữu và nợ của các

công ty và mối quan hệ của họ với việc sử dụng quản lý thu nhập. Nghiên cứu xem xét

cả độ nghiêng quản lý thu nhập của các công ty nhằm đáp ứng hoặc vượt quá dự báo

của các nhà phân tích tài chính. Các phát hiện chỉ ra rằng, các công ty có lợi nhuận

thấp và các đại lượng đòn bẩy cao có thể sử có quản lý thu nhập. Ngoài ra, các công ty

gần có sự vi phạm trong các giao ước nợ cũng có xu hướng sử dụng các hoạt động

quản lý thu nhập thực. Tương tự như vậy, các công ty có xu hướng sử dụng quản lý thu

nhập để cải thiện chỉ số tài chính và sau đó gia tăng thu nhập nhà quản lý và đáp

ứng/vượt quá dự báo thu nhập của các nhà phân tích tài chính. Ngược lại, nghiên cứu

cho thấy rằng các công ty cung cấp tiết lộ kế toán tự nguyện dường như ít có xu hướng

sử dụng quản lý thu nhập.

Fitch và Slezak (2007) xem xét các công ty có khó khăn về tài chính và các đặc

điểm của quản trị ảnh hưởng đến (1) khả năng tránh phá sản của công ty và (2) sức

mạnh của thông tin tài chính kế toán để dự đoán sự phá sản. Nhìn chung, những phát

hiện của các tác giả chỉ ra rằng các đặc tính quản trị của một công ty có tình hình khó

khăn sẽ ảnh hưởng đáng kể đến khả năng phá sản. Họ cũng tìm thấy rằng các hội đồng

quản trị nhỏ và độc lập với tỷ lệ thành viên hội đồng quản trị độc lập cao hơn và có

quyền sở hữu cổ phần lớn hơn sẽ có hiệu quả hơn trong việc tránh phá sản khi lâm vào

tình trạng kiệt quệ tài chính. Những kết quả này phù hợp với nhận định rằng: các cấu

26

trúc quản trị này sẽ giúp giám sát hiệu quả hơn tình hình hoạt động kinh doanh của

công ty. Kết quả nghiên cứu cũng phù hợp với quan điểm cho rằng việc đưa vào các

đặc điểm quản trị sẽ tăng cường sức mạnh của các mô hình kế toán tài chính trong việc

dự báo phá sản.

Arnedo và cộng sự (2007) phân tích sự khác biệt về chất lượng thu nhập giữa

các công ty nhà nước và tư nhân ở Tây Ban Nha. Các tác giả bỏ qua những ưu đãi về

tăng thu nhập dựa trên những kết quả trước đây của Bỉ bằng cách xem xét các khác biệt

về thể chế và sự khác biệt về loại người nắm giữ và đề xuất một phương pháp làm

mượt thu nhập mới. Không có sự khác biệt đáng kể nào được tìm thấy đối với những

người làm mượt thu nhập thu nhặt lợi tức và người tăng lương ngoại trừ những người

có trong chỉ số Ibex 35 của Tây Ban Nha, cho thấy mức độ thao túng thấp hơn do sự

kiểm soát áp lực thị trường tốt hơn. Mức giảm thu nhập cao hơn được tìm thấy ở các

công ty tư nhân. Các tác giả cho rằng đây là hành vi chiếm đoạt của các công ty nhà

nước thông qua các hoạt động thực tế trong mối quan hệ với các ngân hàng.

Ewert và Wagenhofer (2005) nhận định rằng các tiêu chuẩn kế toán chặt chẽ

hơn sẽ làm giảm việc quản lý thu nhập và cung cấp thêm thông tin liên quan đến thị

trường vốn. Các tác giả phân biệt giữa quản lý kế toán và quản lý thu nhập thực và giả

định rằng một người đặt ra tiêu chuẩn chỉ có thể ảnh hưởng đến việc quản lý thu nhập

kế toán do tính chặt chẽ của các tiêu chuẩn. Trong mô hình cân bằng kỳ vọng hợp lý,

các tác giả thấy rằng tiêu chuẩn càng chặt chẽ thì càng làm gia tăng chất lượng thu

nhập. Thứ nhất, các nhà quản lý tăng quản lý thu nhập tốn kém hơn vì chất lượng thu

nhập cao hơn làm tăng lợi nhuận biên của việc quản lý thu nhập thực. Thứ hai, các tiêu

chuẩn chặt chẽ hơn có thể tăng chứ không giảm kế hoạch dự kiến và quản lý thu nhập

tổng thể. Thứ ba, dự kiến tổng chi phí quản lý thu nhập cũng có thể tăng lên.

27

Các bài nghiên cứu của Subramanyam (1996) và Kasanen, Kinnunen, và

Niskanen (KKN, 1996) đều xem xét tại sao các nhà quản lý thao túng các thủ thuật kế

toán. Subramanyam nhận thấy rằng các quyết toán tùy ý được kết hợp với một số biện

pháp thực hiện và kết luận rằng các lựa chọn tích lũy của người quản lý làm tăng tính

tin cậy của thu nhập kế toán. Tuy nhiên, một lựa chọn cạnh tranh mạnh mẽ là mô hình

Jones đã làm sai lệch một cách có hệ thống các khoản dự phòng theo quyết định, do đó

chúng có chứa một thành phần không thể tránh được. Không giống như nhiều nghiên

cứu của Hoa Kỳ, KKN tìm thấy bằng chứng mạnh mẽ về quản lý thu nhập ở Phần Lan,

nơi mà các nhà quản lý Phần Lan thiết lập thu nhập để đáp ứng nhu cầu về cổ tức của

các nhà đầu tư tổ chức.

Bảng 2.1. Tóm tắt các kết quả nghiên cứu trước đây

Mục tiêu Tác giả Kết quả nghiên cứu nghiên cứu

Campa và Các công ty lâm vào tình trạng kiệt quệ tài chính

Minano (2014) tăng cường quản lý thu nhập nhiều hơn so với

công ty có tình hình tài chính lành mạnh thông

qua cả hai công cụ: quản lý thu nhập thực (REM) Mối quan hệ

và quản lý thu nhập dồn tích (AEM) giữa quản lý thu

nhập và kiệt quệ Habib và cộng Chứng minh kiệt quệ tài chính có ảnh hưởng đến

tài chính sự (2013) quản lý thu nhập. Các công ty kiệt quệ tài chính

tại New Zealand tham gia nhiều hơn vào các hoạt

động quản lý thu nhập (điều chỉnh giảm lợi

nhuận) so với các công ty tài chính lành mạnh

28

Zang (2012) Các nhà quản lý lựa chọn hai phương pháp quản

lý thu nhập, dựa trên chi phí tương đối khi sử

dụng mỗi công cụ điều chỉnh. Kết quả nghiên

cứu cho thấy nhà quản trị ưa thích công cụ quản

trị dồn tích hơn quản lý thu nhập thực.

Arnedo và cộng Kết quả nghiên cứu cho thấy mức độ điều chỉnh

sự (2007) thu nhập sẽ thấp hơn nếu có sự kiểm soát thị

trường tốt.

Ewert và Các tiêu chuẩn kế toán chặt chẽ hơn sẽ làm giảm

Wagenhofer quản lý thu nhập. Việc gia tăng quản lý thu nhập

(2005) không mang lại hiệu quả và thực tế tốn kém hơn,

vì để đáp ứng chất lượng thu nhập cao hơn sẽ

làm tăng chi phí quản lý thu nhập thực. Mối quan hệ

giữa quản lý thu Leuz và cộng sự Việc quản lý thu nhập sẽ sụt giảm khi tình hình

nhập và các đặc (2003) bảo vệ nhà đầu tư mạnh mẽ sẽ hạn chế khả năng

điểm khác của tiếp cận các quyền lợi của người có quyền kiểm

công ty soát cá nhân làm giảm các ưu đãi của họ để che

dấu kết quả hoạt động thực sự của công ty

Defond và Park Các tác giả tìm thấy kết quả phù hợp với các nhà

(2001) phân tích dự đoán xem xét các ý nghĩa đảo

ngược của các khoản dự phòng bất thường trong

việc điều chỉnh dự báo thu nhập trong tương lai.

Subramanyam Tìm thấy bằng chứng mạnh mẽ về quản lý thu

nhập ở Phần Lan, nơi mà các nhà quản lý Phần

29

Lan thiết lập thu nhập để đáp ứng nhu cầu về cổ (1996)

tức của các nhà đầu tư tổ chức

Alhadab và Môi trường pháp lý sẽ tác động đến hoạt động

cộng sự (2016) quản lý thu nhập dồn tích của các công ty IPO.

Các công ty IPO ở Anh có mức độ điều chỉnh thu

nhập dồn tích cao hơn so với các công ty niêm

yết lớn được kiểm soát chặt chẽ.

Iatridis và Các công ty có lợi nhuận thấp và các đại lượng

Kadorinis đòn bẩy cao sử dụng các công cụ quản lý thu

(2009) nhập. Các công ty gần có khả năng vi phạm

nghĩa vụ nợ hoặc cần vay vốn cũng có xu hướng

sử dụng các công cụ quản lý thu nhập thực.

Enomoto và Các nhà quản lý ở các nước có chính sách bảo vệ

cộng sự (2015) nhà đầu tư chặt chữ hơn có xu hướng tham gia

quản lý thu nhập thực thay vì quản lý thu nhập

dồn tích.

Fitch và Slezak Kết quả cho thấy hội đồng quản trị nhỏ và độc

(2007) lập với tỷ lệ thành viên hội đồng quản trị độc lập

cao hơn và có quyền sở hữu cổ phần lớn hơn sẽ

có hiệu quả hơn trong việc tránh phá sản khi lâm

vào tình trạng kiệt quệ tài chính. Cấu trúc quản

trị sẽ giúp giám sát hiệu quả hơn tình hình hoạt

động, giảm thiểu khả năng phá sản.

Achleitner và Các công ty gia đình so với các công ty khác sử

30

cộng sự (2014) dụng REM và ABEM là các công cụ thay thế

hơn là bổ sung để quản lý thu nhập.

Ticono và Kết quả cho thấy lợi ích của việc kết hợp dữ liệu

Wilson (2013) kế toán, thị trường và dữ liệu kinh tế vĩ mô trong

các mô hình dự báo tình trạng suy thoái tài chính

của các công ty niêm yết

Qua bản tóm tắt các nghiên cứu trước đây, về mặt lịch sử cho thấy đã có rất

nhiều nghiên cứu liên quan đến chủ đề mối quan hệ giữa quản lý thu nhập và kiệt quệ

tài chính. Tuy nhiên, các nghiên cứu chỉ tập trung thảo luận về một công cụ quản lý thu

nhập cụ thể và rất ít nghiên cứu tìm hiểu về việc phối hợp giữa hai công cụ quản lý thu

nhập và chi phí cơ hội về việc lựa chọn một trong hai công cụ này. Các nghiên cứu

thường chỉ cung cấp các bằng chứng thể hiện việc lựa chọn điều chỉnh thu nhập thực

(Burnett và cộng sự., 2012; Cohen & Zarowin, 2010; Cohen và cộng sự., 2008; Kim và

cộng sự., 2013) hoặc nhấn mạnh các chiến lược sử dụng công cụ ngược lại là điều

chỉnh thu nhập dồn tích (Achleitner và cộng sự., 2014; Eisele, 2012) tùy thuộc vào bối

cảnh của mỗi nền kinh tế. Tuy nhiên, bài nghiên cứu gốc của Campa và Minano (2015)

đã nghiên cứu áp lực của các nhà quản lý khi đối mặt với tình trạng kiệt quệ tài chính

dẫn đến quản lý thu nhập dựa trên cả hai công cụ. Điều này thể hiện bức tranh toàn

cảnh về quản lý thu nhập vì các công ty có thể sử dụng nhiều hơn một chiến lược quản

lý thu nhập tại cùng một thời điểm vì một mục tiêu cụ thể. Ngoài ra, bài nghiên cứu

còn phân tích các yếu tố nội tại khác của doanh nghiệp có khả năng ảnh hưởng đến

quản lý thu nhập. Các biến nghiên cứu dễ xảy ra các hiện tượng: tương quan, Bài

nghiên cứu của Campa và Minano (2015) sử dụng phương pháp ước lượng GMM hệ

thống có nhiều ưu điểm khắc phục các vấn đề nội sinh trong mô hình nghiên cứu.

31

CHƯƠNG 3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

3.1. Dữ liệu nghiên cứu

Luận văn sử dụng mẫu dữ liệu bao gồm các doanh nghiệp được niêm yết trên

hai sàn chứng khoán ở Việt Nam là sàn giao dịch chứng khoán TP.HCM (HOSE) và

sàn giao dịch chứng khoán TP.Hà Nội (HNX). Các doanh nghiệp có năm tài chính bắt

đầu từ ngày 01 tháng 01 và kết thúc vào ngày 31 tháng 12, trong giai đoạn nghiên cứu

từ năm 2008 - 2016. Dữ liệu có mức độ tin cậy do báo cáo tài chính được kiểm toán và

có sự giám sát của Ủy ban chứng khoán. Để có được nguồn dữ liệu đáng tin cậy và phù

hợp với nội dung nghiên cứu, các công ty cuối cùng trong mẫu nghiên cứu được lựa

chọn theo trình tự loại trừ như sau:

Đầu tiên, tác giả loại trừ các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng,

bảo hiểm, bất động sản và các quỹ đầu tư, công ty chứng khoán1, nguyên nhân

là do quy định về kế toán doanh nghiệp trong các lĩnh vực này có tính đặc thù,

không phù hợp với mục tiêu đề tài nghiên cứu. Mẫu nghiên cứu chỉ bao gồm các

doanh nghiệp phi tài chính.

Tiếp theo, luận văn loại trừ các doanh nghiệp không có đủ số liệu BCTC trong

09 năm (từ năm 2008 đến năm 2016). Điều này dựa trên việc cân nhắc ảnh

hưởng đến kết quả mô hình hồi quy và giả định rằng các doanh nghiệp không có

đủ BCTC là những công ty mới thành lập, mới cổ phần hóa hay không thỏa mãn

giả định hoạt động liên tục nên BCTC của những công ty này khác biệt và khó

đánh giá.

Cuối cùng luận văn thu thập được một bảng dữ liệu cân bằng (balance data) bao

1 Các công ty được phân loại theo tiêu chuẩn phân loại ngành công nghiệp toàn cầu (GICS).

gồm 280 công ty phi tài chính niêm yết thuộc 08 ngành khác nhau trong giai

32

đoạn từ 2008 đến 2016 với 2520 quan sát. Nguồn dữ liệu báo cáo tài chính công

ty thu thập từ các website: www.cafef.vn và www.cophieu68.vn.

Bảng 3.1. Bảng thống kê số lượng công ty theo ngành nghề kinh doanh

STT Ngành Số lượng công ty Tần suất Tỷ trọng

1 Công nghệ thông tin 13 117 4.64%

2 Công nghiệp 129 1161 46.07%

3 Dầu khí 4 36 1.43%

4 Dịch vụ tiêu dùng 23 207 8.21%

5 Dược phẩm và Y tế 10 90 3.57%

6 Hàng tiêu dùng 56 504 20.00%

7 Nguyên vật liệu 32 288 11.43%

Tiện ích cộng đồng 8 13 117 4.64%

100% Tổng cộng 280 2520

3.2. Giả thuyết nghiên cứu

Luận văn xem xét ảnh hưởng của kiệt quệ tài chính đến hành vi điều chỉnh thu

nhập của các doanh nghiệp phi tài chính niêm yết tại Việt Nam dựa trên phương pháp

tiếp cận của Campa và Camacho – Minano (2015) nghiên cứu tại Tây Ban Nha có mục

tiêu phù hợp với mục tiêu nghiên cứu của đề tài, hơn nữa nghiên cứu này xem xét một

các tổng quát vấn đề quản lý thu nhập khi nghiên cứu cả hai công cụ REM và AEM mà

ít có ở các tác giả khác. Campa và cộng sự đã nghiên cứu vấn đề: ảnh hưởng của kiệt

quệ tài chính đến quản lý thu nhập ở các doanh nghiệp. Bằng chứng nghiên cứu thực

nghiệm cho thấy mức độ kiệt quệ tài chính khác nhau có tác động đến hành vi điều

chỉnh thu nhập của doanh nghiệp. Mức độ kiệt quệ tài chính càng nghiêm trọng thì nhà

quản trị sử dụng các công cụ điều chỉnh thu nhập nhiều hơn, chủ yếu là sử dụng công

cụ điều chỉnh thu nhập thực và hạn chế sử dụng công cụ điều chỉnh thu nhập dồn tích.

33

Điều này gợi ý rằng, khi lâm vào tình trạng khó khăn về tài chính, doanh nghiệp

thường cố gắng gia tăng lợi nhuận bằng cách sử dụng các công cụ điều chỉnh thu nhập

khó bị phát hiện nhằm mục đích né tránh những tác động tiêu cực của kiệt quệ tài

chính gây ra đối với bản thân doanh nghiệp cũng như đối với cổ đông, nhà đầu tư,

người lao động... Campa và Camacho – Minano (2015) cho rằng việc sử dụng các công

cụ quản lý thu nhập khác nhau có thể thay đổi tùy thuộc vào bối cảnh mỗi quốc gia.

Bối cảnh nền kinh tế Việt Nam hiện nay phát triển mạnh mẽ trên mọi lĩnh vực tuy

nhiên cũng đối diện với nhiều thách thức và khó khăn đối với các doanh nghiệp. Theo

báo cáo tình hình kinh tế xã hội 6 tháng đầu năm 2017 của Tổng cục Thống kê về tình

trạng doanh nghiệp kinh doanh khó khăn buộc phải ngừng hoạt động hoặc phá sản,

đáng quan ngại nhất là số lượng và tỷ lệ doanh nghiệp ngừng hoạt động tăng đột biến.

Trong năm 2016, tổng số doanh nghiệp ngừng hoạt động có đăng ký trên phạm vi cả

nước là 19.917 doanh nghiệp, tăng 27.3% so với năm 2015. Cả nước năm 2016 có

12.478 doanh nghiệp hoàn thành thủ tục giải thể, tăng 31.8% so với năm 2015. Thị

trường chứng khoán cũng chứng kiến số lượng doanh nghiệp đăng ký hủy niêm yết

tăng mà nguyên nhân chủ yếu là do kinh doanh yếu kém thể hiện qua kết quả hoạt

động lỗ 3 năm liên tục, lỗ lũy kế vượt quá vốn điều lệ thực góp. Thông tin về kết quả

hoạt động kinh doanh của công ty được cung cấp thông qua báo cáo tài chính, tuy

nhiên báo cáo tài chính của các doanh nghiệp Việt Nam không được đánh giá cao về

chất lượng. Cụ thể, ngân hàng Thế giới (WB) và Bộ Tài chính trong báo cáo đánh giá

sự tuân thủ các chuẩn mực và quy tắc trong lĩnh vực kế toán và kiểm toán tại đánh giá

“báo cáo tài chính được lập và trình bày theo chuẩn mực kế toán Việt Nam có chất

lượng chưa cao”. Dựa trên mô hình và bằng chứng thực nghiệm trong nghiên cứu của

Campa và Camacho – Minano (2015) cũng như bối cảnh nền kinh tế Việt Nam, bài

nghiên cứu kỳ vọng rằng các công ty ở Việt Nam có mức độ kiệt quệ tài chính càng

cao sẽ tác động làm gia tăng quản lý (điều chỉnh) thu nhập. Từ đó tác giả xây dựng giả

thuyết nghiên cứu như sau:

34

H1: Các công ty có kiệt quệ tài chính thì có động cơ điều chỉnh thu nhập thực

thông qua điều chỉnh doanh thu.

H2: Các công ty có kiệt quệ tài chính thì có động cơ điều chỉnh thu nhập thực

thông qua điều chỉnh chi phí.

H3: Các công ty có kiệt quệ tài chính thì có động cơ điều chỉnh thu nhập dựa

trên cơ sở dồn tích.

3.3. Xây dựng biến nghiên cứu

3.3.1. Biến độc lập

Kiệt quệ tài chính (DISTRESS)

Mục đích chính của đề tài là nghiên cứu mối quan hệ giữa quản lý thu nhập và

mức độ kiệt quệ tài chính ở các doanh nghiệp Việt Nam. Do đó việc ước lượng biến

kiệt quệ tài chính là điều quan trọng. Kiệt quệ tài chính trong luận văn được đo lường

bởi biến giả, trong đó biến giả bằng 1 khi tỷ số thu nhập hoạt động trên chi phí lãi vay

nhỏ hơn 1, và ngược lại bằng 0 tương tự với cách đo lường của Fich và Slezak (2008)

và Campa và Camacho – Minano (2015). Điều này thể hiện rằng nếu công ty không có

khả năng tạo ra thu nhập đủ để chi trả lãi vay thì có khả năng sẽ sớm đối mặt với việc

mất khả năng chi trả các khoản nợ đến hạn dẫn đến các vấn đề như: mất khả năng

thanh toán, vỡ nợ, phá sản…

DISTRESS = 1 trong trường hợp doanh nghiệp lâm vào kiệt quệ tài chính

DISTRESS = 0 trong trường hợp ngược lại

Các nghiên cứu trước đây cho rằng động cơ chính khiến các doanh nghiệp quản

trị báo cáo tài chính (thông qua điều chỉnh doanh thu và chi phí) nhằm mục đích che

giấu vấn đề kiệt quệ tài chính của doanh nghiệp. Các công ty lâm vào tình trạng kiệt

quệ tài chính sẽ có hành vi thao túng lợi nhuận bằng các phương pháp khác nhau. Cụ

thể, các doanh nghiệp này sẽ gia tăng lợi nhuận và làm giảm chi phí để che giấu vấn đề

kiệt quệ tài chính của mình (Campa và Camacho – Minano, 2015). Do đó, luận văn kỳ

35

vọng một mối quan hệ cùng chiều giữa kiệt quệ tài chính và hành vi điều chỉnh lợi

nhuận của các doanh nghiệp (+).

Quy mô công ty (SIZE)

Luận văn sử dụng biến quy mô công ty là yếu tố tác động đến hành vi điều

chỉnh lợi nhuận và đo lường bằng cách lấy logarithm tự nhiên của tổng tài sản tương tự

như cách đo lường của Becker và các cộng sự (1998), Myers và các cộng sự, (2003),

Ashbaugh và các cộng sự (2003), Nagy (2005), Abbott và các cộng sự (2006).

Johnson và các cộng sự (2002) chỉ ra rằng sự phức tạp của báo cáo tài chính sẽ

có sự khác biệt tùy theo quy mô của công ty, các công ty có quy mô lớn sẽ tăng trưởng

tốt hơn và đa dạng hóa tốt hơn các công ty quy mô nhỏ. Bushmen và các cộng sự

(2003) nhấn mạnh tầm quan trọng của quy mô công ty trong cấu trúc sở hữu của doanh

nghiệp. Các tác giả chỉ ra rằng vấn đề bất cân xứng thông tin giữa nhà quản trị và cổ

đông sẽ tương đối cao hơn ở các công ty lớn so với các công ty nhỏ do sự phức tạp

trong cấu trúc sở hữu của các công ty có quy mô lớn. Một số tác giả cũng lập luận rằng

yêu cầu về quản trị, giám sát hoạt động cao hơn ở các công ty lớn, từ đó hạn chế hành

vi điều chỉnh thu nhập ở các công ty này.

Tuy nhiên, mối quan hệ giữa quy mô công ty và quản trị lợi nhuận chưa thực sự

rõ ràng. Một mặt, Dechow và Dichev (2002) tìm thấy mối quan hệ cùng chiều giữa

chất lượng dồn tích các khoản mục kế toán và quy mô công ty. Kết quả này chỉ ra rằng

các công ty có quy mô lớn có chất lượng dồn tích ổn định hơn đồng nghĩa với việc

công ty lớn ít điều chỉnh thu nhập hơn so với công ty nhỏ. Tương tự, Lee và Choi

(2002) tìm thấy bằng chứng thực nghiệm cho thấy các công ty có quy mô nhỏ có động

cơ quản trị lợi nhuận cao hơn để tránh báo cáo lỗ so với các công ty có quy mô lớn.

Ngược lại, Lobo và Zhou (2006) lập luận rằng các công ty lớn có nhiều cơ hội và động

cơ để quản trị lợi nhuận hơn so với các công ty nhỏ, do các đối tượng bên ngoài khó có

thể phát hiện hành vi điều chỉnh lợi nhuận trong hệ thống báo cáo tài chính phức tạp

của công ty lớn. Phù hợp với quan điểm này, Moses (1987) cho rằng các công ty có

36

quy mô lớn điều chỉnh lợi nhuận nhiều hơn so với các công ty có quy mô nhỏ.

Michaelson và các cộng sự (1995) cũng cung cấp bằng chứng thực nghiệm tương tự.

SIZE = Ln(Tổng tài sản)

Tốc độ tăng trưởng của công ty (GROWTH)

Các nghiên cứu trước đây tìm thấy bằng chứng cho thấy các nhà quản trị của

công ty sẽ thực hiện các điều chỉnh lợi nhuận để tránh xu hướng tăng trưởng tiêu cực

(Bartov,1993; Wild, 1996). Nagar (2002) cũng tìm thấy kết quả tương tự cho thấy các

nhà quản trị né tránh xu hướng tiêu cực bởi họ sẽ đạt được lợi ích nhất định khi công ty

đạt được mục tiêu đề ra. Tuy nhiên, Abdul Rahman và Ali (2006) và Bowen và cộng

sự (2008) đề nghị một hướng nghiên cứu ngược lại. Kết quả của họ tiết lộ rằng tốc độ

tăng trưởng có tương quan ngược chiều với hành vi điều chỉnh thu nhập dựa trên cơ sở

dồn tích. Hơn thế nữa, Gunny (2010) tìm thấy rằng các công ty có tốc độ tăng trưởng

cao thì ít có hành vi thao túng lợi nhuận thông qua công cụ điều chỉnh lợi nhuận dựa

trên hoạt động thực. Do đó, đề tài nghiên cứu kỳ vọng tốc độ tăng trưởng của công ty

có ảnh hưởng đáng kể đến hành vi điều chỉnh lợi nhuận nhưng chiều hướng tác động

thì chưa rõ ràng. Đồng thời, dựa vào đề nghị của các nghiên cứu trước đây (Beatty và

các cộng sự, 2002; Johnson và các cộng sự, 2002; Nagy, 2005; Yu, 2008; McNichols

và Stubeen, 2008), luận văn đo lường tốc độ tăng trưởng bằng thay đổi trong doanh thu

thuần của công ty.

Salest − Salest−1 Salest−1

GROWTH =

Đòn bẩy tài chính (LEV)

Bartov (1993), DeFond và Park (1994) tìm thấy mối tương quan cùng chiều

giữa mức độ sử dụng đòn bẩy với hành vi điều chỉnh lợi nhuận. Họ cho rằng các công

ty đối mặt với tình trạng kiệt quệ tài chính hoặc có gánh nặng lãi vay càng lớn thì sẽ có

động cơ để thực hiện các điều chỉnh lợi nhuận. Luận văn kỳ vọng đòn bẩy có tác động

tích cực đáng kể đến hành vi điều chỉnh thu nhập của các công ty. Đòn bẩy tài chính

37

được đo lường bằng tổng nghĩa vụ nợ trên tổng tài sản như cách tính toán của các tác

giả Balsam và các cộng sự (2003), Nagy (2005), Carey và Simnett (2006), Abbott và

các cộng sự (2006), Cohen và Zarowin (2010) (+).

Nợ ngắn hạn+Nợ dài hạn

Tổng tài sản

LEV =

Dòng tiền hoạt động (CFO) và tỷ suất sinh lợi trên tổng tài sản (ROA)

Dòng tiền hoạt động kinh doanh của công ty và hành vi điều chỉnh thu nhập

được cho rằng có mối quan hệ đáng kể với nhau. Cụ thể, Kirschenheiter và Melumad

(2002) cho rằng lợi nhuận được công bố cho phép các nhà đầu tư có thể đánh giá được

dòng tiền trong tương lai của công ty. Do đó, việc duy trì mức độ biến động ở mức nhỏ

nhất có thể giúp cải thiện sự kỳ vọng của các nhà đầu tư về tình hình hoạt động của

công ty trong tương lai. Phản ứng lại tình huống này, các công ty đang đối mặt với sự

gia tăng (sự suy giảm) đáng kể trong dòng tiền hoạt động có thể thực hiện các hành vi

điều chỉnh lợi nhuận giảm (tăng) để duy trì mức độ lợi nhuận không quá biến động.

Điều này có thể giúp giá cổ phiếu của các công ty gia tăng trong ngắn hạn, và do đó

làm gia tăng động cơ của các nhà quản trị làm mượt (smooth) lợi nhuận (Hunt và các

cộng sự, 1997; Trueman và Titman, 1988). Theo đó, các công ty có dòng tiền thặng dư

sẽ có hành vi điều chỉnh lợi nhuận giảm và ngược lại, các công ty có dòng tiền cạn

kiệt/âm có xu hướng điều chỉnh gia tăng lợi nhuận. Do đó, luận văn kỳ vọng dòng tiền

và lợi nhuận có ảnh hưởng đáng kể đến hành vi điều chỉnh lợi nhuận của doanh nghiệp.

Đồng thời, dòng tiền trong luận văn được đo lường bởi tỷ lệ lưu chuyển tiền tệ ròng từ

hoạt động sản xuất kinh doanh trên tổng tài sản như cách tính toán của Alghamdi

(2012), Rohaida (2011), Habbash (2010) và Campa và Camacho – Minano (2015) đã

áp dụng trong nghiên cứu của các tác giả. Tỷ suất sinh lợi trên tổng tài sản (ROA) được

tính bởi lợi nhuận sau thuế trên tổng tài sản.

CFO = EBIT + khấu hao tài sản vô hình hữu hình +/- chênh lệch hàng tồn kho

+/- chênh lệch khoản phải thu +/- chênh lệch khoản phải trả

38

Lợi nhuận sau thuế

Tổng tài sản

ROA =

Phát hành vốn cổ phần (EISSUE)

Các nghiên cứu trước đây cho rằng một trong các động cơ để các nhà quản trị

điều chỉnh lợi nhuận là giá trị vốn hóa. Có thể thấy rằng lợi nhuận càng cao sẽ giúp cổ

phiếu công ty có thể được định giá cao hơn, điều này sẽ có ích đối với cổ đông hiện

hữu (Rangan, 1998). Các cổ đông hiện hữu bao gồm các nhà quản lý - những người

nắm giữ các cổ phần của công ty và do đó họ có động cơ duy trì hoặc gia tăng tài sản

cá nhân bằng cách quản trị lợi nhuận của công ty. Vì vậy, hành động phát hành thêm

vốn cổ phần có thể ảnh hưởng đến hành vi điều chỉnh lợi nhuận của các nhà quản trị.

Cho nên tương tự như nghiên cứu của Campa và Camacho – Minano (2015), luận văn

kỳ vọng tác động đáng kể của việc phát hành thêm vốn cổ phần đến hành vi điều chỉnh

thu nhập. Phát hành thêm vốn cổ phần đo lường bằng sự thay đổi trong vốn chủ sở

hữu.

Vốn góp chủ sở hữut − Vốn góp chủ sở hữut−1 Vốn góp chủ sở hữut−1

EISSUE =

Gia tăng nợ (DISSUE)

Tương tự như phát hành vốn cổ phần, việc gia tăng nợ của công ty sẽ có thể tác

động đến hành vi điều chỉnh lợi nhuận. Để việc phát hành nợ dễ dàng thực hiện, các

công ty sẽ có xu hướng điều chỉnh gia tăng lợi nhuận nhằm giúp cho công ty dễ dàng

hơn trong việc vay nợ. Hơn nữa, khi lợi nhuận của công ty được cải thiện có thể là điều

kiện thuận lợi để các tổ chức tín dụng chấp nhận cho công ty vay nợ. Do đó, có thể các

công ty tăng nợ sẽ có hành vi điều chỉnh lợi nhuận để có thể dễ dàng tiếp cận với

khoản tín dụng hơn. Do đó trong luận văn này, tác động đáng kể của việc gia tăng nợ

đến hành vi điều chỉnh lợi nhuận được kỳ vọng có mối tương quan và tương tự như

Campa và Camacho – Minano (2015), luận văn kỳ vọng rằng tác động này sẽ là cùng

39

chiều. Nói cách khác, các công ty gia tăng nợ càng nhiều thì càng có hành vi điều

chỉnh tăng lợi nhuận (+).

Nợ phải trả t − Nợ phải trả t−1 Nợ phải trả t−1

DISSUE =

3.3.2. Biến phụ thuộc

Biến phụ thuộc trong luận văn được đo lường theo hai phương pháp quản lý thu

nhập thực và quản lý thu nhập dồn tích.

Biến quản lý thu nhập dựa trên hoạt động thực tế

Trong nghiên cứu này biến quản lý thu nhập dựa trên hoạt động thực tế được

xác định theo nghiên cứu của Campa và Camacho – Minano (2015). Các nghiên cứu

này chỉ ra rằng việc quản lý thu nhập thực tế được xác định bởi hai chỉ số đó là: dòng

tiền hoạt động bất thường (ACFO) và chi phí sản xuất bất thường (APROD).

Bảng 3.2. Mô tả biến quản lý thu nhập thực (REM)

Ký hiệu Tác giả nghiên cứu trước đây Mô tả

Roychowdhury (2006), Campa và Mức độ dòng tiền hoạt động ABNCFO Camacho – Minano (2015) bất thường

Roychowdhury (2006), Campa và Mức độ chi phí hoạt động bất ABNPROD Camacho – Minano (2015) thường

Nguồn: Tác giả tự tổng hợp

Cụ thể, theo nghiên cứu của Roychowdhury (2006) và Campa và Camacho –

Minano (2015), luận văn tập trung vào việc nghiên cứu hành vi thao túng doanh thu và

chi phí sản xuất. Đây được xem là hai yếu tố quan trọng trong các thành phần thường

40

bị điều chỉnh nhất của báo cáo tài chính của công ty đó là: doanh thu, chi phí, khoản

phải thu, giá vốn hàng bán và hàng tồn kho (Dechow và các cộng sự, 2011; Ricci,

2011).

Đầu tiên, luận văn phân tích việc thao túng doanh thu (ABNCFO) bằng cách

ước lượng hồi quy theo phương trình (1) để tính toán dòng tiền hoạt động “thông

thường” dựa trên doanh thu của các công ty đã trình bày trong báo cáo tài chính

(Roychowdhury, 2006; Campa và Camacho – Minano, 2015). Sau đó, dòng tiền bất

thường của công ty (ABNCFO) sẽ được tính toán bằng sự chênh lệch giữa dòng tiền

hoạt động thực tế và dòng tiền hoạt động “thông thường” được đo lường bởi việc sử

dụng các hệ số hồi quy trong phương trình (1). Trị tuyệt đối phần dư của phép hồi quy

sẽ được xem là “bất thường” (abnormal) và là biến đại diện cho quản lý thu

nhập thực (REM) tương tự như nghiên cứu của Ines Lisboa (2017) và Safa Lazzem

(2017). Nói cách khác, giá trị tuyệt đối của chênh lệch giá trị thực và giá trị ước lượng

sẽ phản ánh mức độ thực hiện hành vi điều chỉnh thu nhập của công ty. Một sự gia tăng

trong biến số này (trị tuyệt đối của phần dư) hàm ý công ty có hành vi điều chỉnh dòng

tiền.

= 𝛽0 + 𝛽1 ∗ + 𝛽2 ∗ + 𝛽3 ∗ + 𝜀𝑖𝑡 (1) 𝐶𝐹𝑂𝑖𝑡 𝐴𝑠𝑠𝑒𝑡𝑖𝑡−1 1 𝐴𝑠𝑠𝑒𝑡𝑖𝑡−1 𝑆𝑎𝑙𝑒𝑠𝑖𝑡 𝐴𝑠𝑠𝑒𝑡𝑖𝑡−1 ∆𝑆𝑎𝑙𝑒𝑠𝑖𝑡 𝐴𝑠𝑠𝑒𝑡𝑖𝑡−1

Trong đó:

CFOit là dòng tiền hoạt động được tính toán bằng lợi nhuận trước lãi vay và thuế

(EBIT) + khấu hao +/- sự chênh lệnh trong hàng tồn kho ở năm t so với năm t – 1 +/-

sự chênh lệnh trong khoản phải thu ở năm t so với năm t – 1 +/- sự chênh lệnh trong

khoản phải trả ở năm t so với với năm t – 1.

Assetit−1 là tổng tài sản của năm trước

Salesit là Doanh thu thuần

41

∆Salesit là sự thay đổi trong doanh thu thuần

Dòng tiền bất thường của công ty (ABNCFO) sẽ được tính toán bằng trị tuyệt

đối giá trị chênh lệch giữa dòng tiền hoạt động thực tế và dòng tiền hoạt động “thông

thường” (đã được đo lường bởi việc sử dụng các hệ số hồi quy trong phương trình (1))

theo phương trình:

− ( ) | 𝐴𝐵𝑁𝐶𝐹𝑂 𝑖𝑡 = | 𝐶𝐹𝑂𝑖𝑡 𝐴𝑠𝑠𝑒𝑡𝑖𝑡−1 ̂ 𝐶𝐹𝑂𝑖𝑡 𝐴𝑠𝑠𝑒𝑡𝑖𝑡−1

Việc thao túng điều chỉnh chi phí sản xuất (ABNPROD) cũng được phân tích

bằng cách ước lượng phương trình (2) và dùng các hệ số hồi quy để tính toán chi phí

sản suất “thông thường” của công ty (Roychowdhury, 2006; Campa và Camacho –

Minano, 2015). Sau đó, chi phí sản xuất bất thường của công ty (ABNPROD) sẽ được

tính toán bằng sự chênh lệch giữa chi phí sản xuất thực tế và chi phí sản xuất “thông

thường” được đo lường bởi việc sử dụng các hệ số hồi quy trong phương trình (2). Trị

tuyệt đối phần dư của phép hồi quy sẽ được xem là “bất thường” (abnormal) và là

biến đại diện cho quản lý thu nhập thực (REM) tương tự như nghiên cứu của Ines

Lisboa (2017) và Safa Lazzem (2017). Nói cách khác, giá trị tuyệt đối của chênh lệch

giá trị thực và giá trị ước lượng sẽ phản ánh mức độ thực hiện hành vi điều chỉnh của

công ty. Một sự gia tăng trong biến số này (trị tuyệt đối của phần dư) hàm ý công ty có

hành vi điều chỉnh chi phí.

= 𝛽0 + 𝛽1 ∗ + 𝛽2 ∗ + 𝛽3 ∗ + 𝛽4 ∗ 𝑃𝑅𝑂𝐷𝑖𝑡 𝐴𝑠𝑠𝑒𝑡𝑖𝑡−1 1 𝐴𝑠𝑠𝑒𝑡𝑖𝑡−1 𝑆𝑎𝑙𝑒𝑠𝑖𝑡 𝐴𝑠𝑠𝑒𝑡𝑖𝑡−1 ∆𝑆𝑎𝑙𝑒𝑠𝑖𝑡 𝐴𝑠𝑠𝑒𝑡𝑖𝑡−1 ∆𝑆𝑎𝑙𝑒𝑠𝑖𝑡−1 𝐴𝑠𝑠𝑒𝑡𝑖𝑡−1

+ 𝜀𝑖𝑡 (2)

Trong đó:

PRODit là Giá vốn hàng bán

Assetit−1 là Tổng tài sản của năm trước

42

Salesit là Doanh thu thuần

∆Salesit là Sự thay đổi trong doanh thu thuần

Chi phí sản xuất bất thường của công ty (ABNPROD) sẽ được tính toán bằng trị

tuyệt đối của giá trị chênh lệch giữa chi phí sản xuất thực tế và chi phí sản xuất “thông

thường” (đã đo lường bởi việc sử dụng các hệ số hồi quy trong phương trình (2)) theo

phương trình:

− | 𝐴𝐵𝑁𝑃𝑅𝑂𝐷 𝑖𝑡 = | 𝑃𝑅𝑂𝐷𝑖𝑡 𝐴𝑠𝑠𝑒𝑡𝑖𝑡−1 ̂ 𝑃𝑅𝑂𝐷𝑖𝑡 𝐴𝑠𝑠𝑒𝑡𝑖𝑡−1

Biến quản lý thu nhập dựa trên cơ sở dồn tích

Việc ước lượng đại diện cho hoạt động điều chỉnh dựa trên cơ sở dồn tích trong

luận văn này được căn cứ theo phương pháp dồn tích vốn luân chuyển bất thường

(AWCA) như phương pháp tiếp cận của DeFond và Park (2001) đã dùng trong nghiên

cứu của các tác giả. Bên cạnh đó, Kim và các cộng sự (2003) lập luận: trong khi các

nghiên cứu trước đây sử dụng biến dồn tích bất thường theo mô hình của Jones (1991)

và các nghiên cứu liên quan, thì các mô hình này bị chỉ trích khi việc ước lượng các

tham số hồi quy có thể bị chệch (biased) và tồn tại sai số đo lường (Bernard và

Skinner, 1997; Guay và các cộng sự, 1996; Healy, 1996). Phương pháp đo lường của

DeFond và Park (2001) thì độc lập với sai số đo lường tiềm tàng có liên quan đến các

tham số trong mô hình của Jones (1991).

Theo đó, dồn tích vốn luân chuyển bất thường (AWCA) được ước lượng bằng

việc tính trị tuyệt đối giá trị chênh lệch giữa dồn tích vốn luân chuyển thực và dồn tích

vốn luân chuyển kỳ vọng bằng cách sử dụng công thức (3) dưới đây. Sau khi tính toán

giá trị AWCA, luận văn chia cho giá trị tổng tài sản của năm trước để hiệu chỉnh quy

mô của công ty.

43

𝐴𝑊𝐶𝐴𝑖𝑡 = |𝑊𝐶𝑖𝑡 − ( ) ∗ 𝑆𝑖𝑡| (3) 𝑊𝐶𝑖𝑡−1 𝑆𝑖𝑡−1

Trong đó:

AWCAit là dồn tích vốn luân chuyển bất thường

WCit là vốn luân chuyển được đo lường bởi chênh lệch giữa tài sản ngắn hạn và

nợ ngắn hạn

Sit là doanh thu thuần

3.4. Mô hình nghiên cứu

Để phân tích ảnh hưởng của kiệt quệ tài chính đến hành vi điều chỉnh thu nhập

và các yếu tố khác tác động đến hành vi điều chỉnh thu nhập của các công ty phi tài

chính niêm yết tại Việt Nam trong giai đoạn 2008 – 2016, luận văn ước lượng phương

trình hồi quy (4) tương tự như phương pháp tiếp cận của Campa và Camacho – Minano

(2015). Sau khi tính toán được phần giá trị bất thường trong mức hoạt động của

doanh nghiệp bằng các ước lượng phương trình (1) (2) (3) như trên, luận văn tiếp tục

ước lượng sự tương quan của các giá trị bất thường này (Y lần lượt là |ABNCFO|,

|ABNPROD| và |AWCA|) với biến giả DISTRESS. Phương trình hồi quy để kiểm

định mối quan hệ giữa kiệt quệ tài chính và quản lý thu nhập được xây dựng như sau:

Yit = β0 + β1 ∗ DISTRESSit + β2 ∗ SIZEit + β3 ∗ CFOit + β4 ∗ LEVit + β5 ∗

ROAit + β6 ∗ EISSUEit + β7 ∗ DISSUEit + β8 ∗ GROWTHit + εit (4)

Trong đó:

Yit lần lượt là |ABNCFO|, |ABNPROD| và |AWCA|

44

DISTRESSit là biến giả đại diện các công ty đang đối mặt với kiệt quệ tài chính,

với nếu thu nhập hoạt đông trước thuế nhỏ hơn phần chi phí lãi vay mà công ty phải trả

thì biến giả bằng 1 và ngược lại bằng 0

SIZEit là quy mô của công ty được tính bởi logarithm tự nhiên của tổng tài sản

CFOit là dòng tiền từ hoạt động trên tổng tài sản

LEVit là đòn bẩy của công ty được đo lường bởi tổng nợ trên vốn chủ sở hữu

ROAit là lợi nhuận của công ty được tính bởi lợi nhuận sau thuế trên tổng tài sản

EISSUEit là sự thay đổi trong vốn chủ sở hữu

DISSUEit là sự thay đổi trong tổng nợ

GROWTHit là tăng trưởng của công ty được tính bởi sự thay đổi trong doanh thu

thuần.

εit là sai số mô hình

Bảng 3.3: Tóm tắt các biến sử dụng trong mô hình nghiên cứu

Kỳ vọng Biến Ký hiệu Cách tính dấu

Biến phụ thuộc

Hành vi điều Giá trị tuyệt đối của chênh lệch giữa dòng

chỉnh lợi |ABNCFO| tiền thực và dòng tiền ước lượng theo

nhuận phương trình (1)

Giá trị tuyệt đối của giá vốn hàng bán thực Hành vi điều |ABNPROD| và giá vốn hàng bán ước lượng theo chỉnh chi phí phương trình (2)

Giá trị tuyệt đối của chênh lệch giữa vốn Hành vi điều luân chuyển trong năm t với năm t – 1 sau chỉnh vốn |AWCA| khi điều chỉnh ước lượng theo phương luân chuyển trình (3)

45

EBIT

Biến độc lập

<1

chi phí lãi vay

EBIT

>1

chi phí lãi vay

Biến giả bằng 1 nếu Kiệt quệ tài DISTRESS + Biến giả bằng 0 nếu chính

Quy mô SIZE Ln(Tổng tài sản) +/-

Salest − Salest−1 Salest−1

Tăng trưởng GROWTH GROWTH = +/-

Nợ ngắn hạn+Nợ dài hạn

Vốn chủ sở hữu

Đòn bẩy LEV LEV = +/-

CFO = EBIT + khấu hao tài sản vô hình

Dòng tiền hữu hình +/- chênh lệch hàng tồn kho +/- CFO +/- hoạt động chênh lệch khoản phải thu +/- chênh lệch

khoản phải trả

Lợi nhuận sau thuế

Tổng tài sản

ROA = Lợi nhuận ROA +/-

Sự thay đổi EISSUE =

Vốn góp chủ sở hữut − Vốn góp chủ sở hữut−1 Vốn góp chủ sở hữut−1

trong vốn EISSUE +/-

chủ sở hữu

Nợ phải trả t − Nợ phải trả t−1 Nợ phải trả t−1

Sự thay đổi DISSUE DISSUE = + trong nợ

Nguồn: Tổng hợp của tác giả

3.5. Phương pháp nghiên cứu

3.5.1. Thống kê mô tả và lập ma trận tương quan các biến:

Đầu tiên, bài nghiên cứu sẽ trình bày thống kê mô tả các biến sử dụng trong mô

hình để mô tả đặc tính của dữ liệu và đưa ra những nhận xét ban đầu và tổng thể về dữ

liệu nghiên cứu. Các tiêu chí trình bày trong thống kê mô tả biến bao gồm: số quan sát,

giá trị trung bình, trung vị, giá trị lớn nhất, giá trị nhỏ nhất và độ lệch chuẩn.

46

Tiếp theo, luận văn tiến hành lập ma trận tương quan giữa các biến trong mô

hình nghiên cứu với hai mục đích:

- Xem xét mối tương quan tuyến tính đơn biến giữa biến phụ thuộc và các biến

độc lập.

- Xem xét hệ số tương quan giữa các biến độc lập để từ đó đánh giá vấn đề đa

cộng tuyến có tồn tại trong mô hình nghiên cứu không từ đó để thực hiện các

kiểm định cần thiết.

3.5.2. Ước lượng mô hình nghiên cứu:

Liu và các cộng sự (2014) và Campa và Camacho – Minano (2015) đã đề nghị

sử dụng phương pháp ước lượng GMM hệ thống để khắc phục vấn đề nội sinh trong

mô hình nghiên cứu. Trong đó vấn đề nội sinh được xác định bởi các trường hợp sau:

- Mối tương quan giữa các biến độc lập với nhau; chẳng hạn như quy mô công ty

có thể tác động đáng kể đến đòn bẩy các công ty, khi quy mô công ty tăng thì

các công ty có thể tiếp cận với các khoản vay dễ dàng hơn với chi phí thấp…

- Mối tương quan giữa biến độc lập và sai số của mô hình; ngoài các yếu tố được

đưa vào mô hình nghiên cứu giải thích quản lý lợi nhuận thì còn nhiều yếu tố

khác có ảnh hưởng đến quản lý lợi nhuận nhưng không được đưa vào mô hình

nghiên cứu, mà các yếu tố này lại thể hiện trong sai số của mô hình, cũng như

các yếu tố này sẽ có tương quan với các biến độc lập đã đưa vào mô hình nghiên

cứu.

- Ảnh hưởng của biến phụ thuộc (hành vi điều chỉnh lợi nhuận) đến các biến độc

lập trong mô hình nghiên cứu; các công ty có hành vi điều chỉnh lợi nhuận có

thể hướng đến việc tiếp cận với các khoản vay với chi phí thấp, điều này cho

thấy rằng hành vi điều chỉnh lợi nhuận có thể làm thay đổi tỷ lệ đòn bẩy của các

công ty…

Hơn thế nữa, để giải quyết vấn đề nội sinh như Liu và các cộng sự (2014) và

Campa và Camacho – Minano (2015) đã đề nghị, các nhà nghiên cứu trước đây đề xuất

47

hai phương pháp có thể khắc phục hiện tượng nội sinh bao gồm phương pháp hồi quy

hai bước (2SLS) và phương pháp hồi quy GMM. Tuy nhiên, phương pháp hồi quy hai

bước (2SLS) yêu cầu phải tuân thủ các giả định sau:

- Không tồn tại hiện tượng phương sai thay đổi

- Không tồn tại hiện tượng tự tương quan

Do đó, trong trường hợp tồn tại hiện tượng phương sai thay đổi và tự tương

quan thì phương pháp hồi quy GMM sẽ được lựa chọn đề ước lượng mô hình nghiên

cứu do có thể khắc phục cả vấn đề nội sinh, tự tương quan và phương sai thay đổi như

Milena (2007) đã đề nghị. Ngược lại, khi không tồn tại hiện tượng phương sai thay đổi

và tự tương quan thì không cần thiết dùng đến phương pháp hồi quy GMM, cho nên

phương pháp hồi quy hai bước (2SLS) sẽ được sử dụng.

Mặt khác, để chứng tỏ kết quả nghiên cứu mà luận văn đạt được là đáng tin cậy

và có thể dùng để thảo luận, luận văn tiến hành kiểm tra kết quả hồi quy từ phương

pháp ước lượng GMM hệ thống bằng kiểm định AR(2) và Hansen. Kiểm định AR(2)

xem xét hiện tượng tự tương quan bậc hai với giả thuyết H0 là không tồn tại hiện tượng

tự tương quan bậc hai. Kiểm định Hansen xem xét tính giá trị của các biến công cụ mà

luận văn đưa vào trong phương pháp ước lượng GMM để xử lý hiện tượng nội sinh và

các hiện tượng khác với giả thuyết H0 của kiểm định là các biến công cụ không tương

quan với phần dư của mô hình. Cho nên, với hai giả thuyết H0 thì có thể thấy rằng khi

p-value của hai kiểm định đều lớn hơn mức ý nghĩa thống kê thì không thể bác bỏ giả

thuyết H0, nói cách khác kết quả hồi quy là đáng tin cậy và có thể dùng cho việc phân

tích.

48

CHƯƠNG 4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU THỰC NGHIỆM

4.1. Phân tích thống kê mô tả dữ liệu

Trong phần này, luận văn trình bày kết quả thống kê mô tả dữ liệu bao gồm: giá

trị trung bình, trung vị, giá trị nhỏ nhất, giá trị lớn nhất và độ lệch chuẩn của các biến

trong bài nghiên cứu. Kết quả thống kê mô tả các biến số được tổng hợp trong bảng 4.1

bằng phần mềm Stata. Từ bảng kết quả thống kê mô tả, tác giả đưa ra những nhận định

tổng quan về mẫu dữ liệu nghiên cứu.

Bảng 4.1. Bảng thống kê mô tả các biến

Số quan Giá trị Trung Giá trị Giá trị Độ chênh Biến sát trung bình vị nhỏ nhất lớn nhất lệch

|ABNCFO| 2403 0.1194 0.0819 0.0000 1.6159 1.6159

|ABNPROD| 2136 0.1248 0.0955 0.0000 1.4000 1.4000

|AWCA| 2403 0.1417 0.0658 0.0000 57.7069 57.7069

DISTRESS 2403 0.0874 0 0 1 1

SIZE 2403 26.8956 26.8152 23.2204 31.1344 7.9140

CFO 2403 0.0654 0.0533 -0.6959 1.9027 2.5985

LEV 2403 1.3005 0.9606 0.0026 7.2708 7.2682

ROA 2403 0.0704 0.0569 -0.6455 0.7837 1.4292

EISSUE 2403 0.1678 0 -0.6986 15.5000 16.1986

DISSUE 2403 0.2585 0.0863 -0.9848 35.2810 36.2658

GROWTH 2403 0.0858 0.0968 -4.6430 5.5031 10.1462

Nguồn: Tổng hợp kết quả từ phần mềm Stata 13

49

Dựa vào bảng số liệu thống kê mô tả trình bày trên, có thể thấy rằng so với các

hành vi điều chỉnh lợi nhuận dựa trên hoạt động thực (ABNCFO, ABNPROD) ít biến

động hơn so với hoạt động điều chỉnh lợi nhuận dựa trên cơ sở dồn tích (AWCA).

Trong đó, doanh nghiệp có hoạt động quản lý dòng tiền cao nhất và thấp nhất lần lượt

là Công ty Cổ phần Đầu tư CMC (năm 2008) và Công ty cổ phần Chế biến Hàng Xuất

khẩu Long An (năm 2011). Các doanh nghiệp quản lý chi phí cao nhất và thấp nhất lần

lượt là Công ty cổ phần Chế biến Hàng Xuất khẩu Long An (năm 2011) và Công ty Cổ

phần Bột Giặt Lix (năm 2009). Các doanh nghiệp quản lý thu nhập thông qua các hoạt

động dồn tích lớn nhất và nhỏ nhất lần lượt là Công ty Cổ phần Vật tư Kỹ thuật Nông

nghiệp Cần Thơ (năm 2015) và Công ty Cổ phần Sara Việt Nam (năm 2016). Bên cạnh

đó, dựa vào giá trị trung bình của biến DITRESS có thể thấy rằng trong tổng số 2403

quan sát thì có trung bình khoảng 210 quan sát có tình trạng kiệt quệ tài chính.

Ngoài ra, quy mô của các doanh nghiệp trong mẫu nghiên cứu đạt giá trị trung

bình khoảng 479 tỷ VNĐ với độ lệch chuẩn đạt 7.9104 cho thấy rằng trong giai đoạn

nghiên cứu các doanh nghiệp đã thực hiện nhiều chính sách nhằm mở rộng quy mô của

mình cũng như có sự khác biệt đáng kể trong quy mô giữa các doanh nghiệp. Công ty

có quy mô lớn nhất là Công ty Cổ phần Tập Đoàn Hòa Phát (năm 2016) và quy mô nhỏ

nhất là Công ty cổ phần Sách và Thiết bị Giáo dục Nam Định (năm 2008).

Dòng tiền hoạt động (CFO) của các doanh nghiệp trong mẫu nghiên cứu đạt giá

trị trung bình khoảng 6,54% so với tổng tài sản với độ chênh lệch 2.5985 cho thấy rằng

trong giai đoạn nghiên cứu các doanh nghiệp đã thực hiện nhiều chính sách nhằm cải

thiện dòng tiền hoạt động của mình. Công ty có dòng tiền hoạt động lớn nhất là Công

ty cổ phần Thương Mại Xuất nhập khẩu Thủ Đức (năm 2011) và dòng tiền hoạt động

nhỏ nhất là Công ty cổ phần Chế biến Hàng Xuất khẩu Long An (năm 2011).

50

Lợi nhuận sau thuế trên tổng tài sản của các doanh nghiệp trong mẫu nghiên cứu

đạt giá trị trung bình khoảng 7,04% và cho thấy rằng trong giai đoạn nghiên cứu các

doanh nghiệp đã thực hiện chính sách nhằm cải thiện lợi nhuận của mình cũng như có

sự khác biệt đáng kể trong tỷ suất lợi nhuận trên tổng tài sản giữa các doanh nghiệp.

Công ty có ROA lớn nhất là Công ty Cổ phần Tập Đoàn Kinh Đô (năm 2015) và ROA

nhỏ nhất là Công ty cổ phần Chế biến Hàng Xuất khẩu Long An (năm 2012).

Tỷ lệ nợ của các doanh nghiệp trong mẫu nghiên cứu đạt giá trị trung bình

khoảng 1,3005 so với vốn chủ sở hữu cho thấy rằng trong giai đoạn nghiên cứu các

doanh nghiệp đã thực hiện vay nợ nhiều hơn so với vốn chủ sở hữu của các doanh

nghiệp cũng như có sự khác biệt đáng kể trong tỷ lệ đòn bẩy giữa các doanh nghiệp.

Công ty có tỷ lệ đòn bẩy cao nhất là Công ty cổ phần Tập đoàn Kỹ nghệ Gỗ Trường

Thành (năm 2016) và tỷ lệ đòn bẩy thấp nhất là Công ty cổ phần Đầu Tư Điện Tây

Nguyên (năm 2010).

Tốc độ tăng trưởng các doanh nghiệp trong mẫu nghiên cứu đạt giá trị trung

bình khoảng 8,58% với độ lệch chuẩn đạt 101,46% cho thấy rằng trong giai đoạn

nghiên cứu các doanh nghiệp đã thực hiện nhiều chính sách nhằm gia tăng tốc độ tăng

trưởng của doanh nghiệp cũng như có sự khác biệt đáng kể trong tốc độ tăng trưởng

giữa các doanh nghiệp. Công ty có tốc độ tăng trưởng cao nhất là Công ty cổ phần Sara

Việt Nam (năm 2016) và tốc độ tăng trưởng thấp nhất là Công ty cổ phần Sara Việt

Nam (năm 2015).

4.2. Kết quả ma trận tương quan giữa các biến

Kết quả ma trận tương quan được thể hiện trong bảng 4.2 trình bày tiếp theo.

Căn cứ vào kết quả ma trận tương quan, bài nghiên cứu sẽ phân tích mối quan hệ giữa

biến độc lập với biến phụ thuộc và mối quan hệ giữa các biến độc lập với nhau.

51

Dựa vào bảng kết quả ma trận tương quan giữa các biến, có thể thấy rằng, biến

quy mô có tương quan tuyến tính đơn biến ngược chiều với quản lý dòng tiền ở mức ý

nghĩa thống kê 10%. Ngược lại, quản lý chi phí, dòng tiền hoạt động, tỷ suất sinh lợi

trên tài sản, phát hành thêm nợ và vốn cổ phần thể hiện mối tương quan tuyến tính đơn

biến cùng chiều với quản lý dòng tiền ở mức ý nghĩa thống kê 10%.

Bên cạnh đó, biến dòng tiền tự do, tỷ suất sinh lợi trên tổng tài sản, phát hành

thêm nợ, phát hành thêm vốn cổ phần, tốc độ tăng trưởng của công ty có tương quan

tuyến tính đơn biến cùng chiều với quản lý chi phí ở mức ý nghĩa thống kê 10%.

Trong mối quan hệ với quản trị dòng tiền dựa trên cơ sở dồn tích ta có thể thấy,

biến quy mô công ty có tương quan tuyến tính đơn biến ngược chiều ở mức ý nghĩa

thống kê 10% và biến tốc độ tăng trưởng công ty có tương quan tuyến tính đơn biến

cùng chiều ở mức ý nghĩa thống kê 10%.

Ngoài ra, dựa vào giá trị tuyệt đối của các hệ số tương quan giữa các biến độc

lập có thể thấy rằng, tất cả các hệ số tương quan này đều nhỏ hơn 0,6 (xét về giá trị

tuyệt đối). Cho nên, luận văn có thể kết luận rằng không tồn tại không vấn đề hiện

tượng đa cộng tuyến trong mô hình nghiên cứu vì theo Franke (2010) đề nghị rằng khi

hệ số tương quan giữa các biến độc lập lớn hơn 0,8 thì sẽ có thể tồn tại hiện tượng đa

cộng tuyến trong mô hình nghiên cứu.

52

Bảng 4.2. Ma trận tương quan giữa các biến

|ABNCFO|

|ABNPROD|

|AWCA|

DISTRESS SIZE

CFO

LEV

ROA

EISSUE

DISSUE GROWTH

1

|ABNCFO|

1

|ABNPROD| 0.3604***

0.0148

0.0333

1

|AWCA|

-0.0334

-0.0351

0.0016*

1

DISTRESS

-0.0555***

-0.0198

-0.058***

-0.0602***

1

SIZE

0.2305***

0.0649***

-0.0005

-0.0649***

-0.0257

1

CFO

-0.0034

-0.0187

-0.0266

0.0798***

0.3008***

-0.1474***

1

LEV

0.1366***

0.2609***

0.0093

-0.4212***

0.0051

0.2627***

-0.3611***

1

ROA

1

0.0968***

0.0553**

0.0364*

-0.0449**

0.055***

-0.0616***

-0.0295

0.0278

EISSUE

0.1079***

0.1056***

0.0083

-0.0612***

0.0363*

-0.0691***

0.0355*

0.0186

0.0450**

1

DISSUE

0.1032***

0.0591***

0.3319***

-0.1714***

0.0823***

0.0183

0.0791***

0.1684***

0.0825*** 0.1377*** 1

GROWTH

Trong đó: *, ** và *** lần lượt thể hiện mức ý nghĩa thống kê 10%, 5% và 1%.

Nguồn: Tổng hợp kết quả từ phần mềm Stata 13.

52

4.3. Kết quả hồi quy

4.3.1. Kết quả hồi quy biến quản trị lợi nhuận

Bảng 4.3 dưới đây thể hiện kết quả hồi quy các tham số từ mô hình quản trị lợi

nhuận mà luận văn đã đề cập trong phần 3.3.2. Từ các hệ số hồi quy trong bảng 4.3,

luận văn tính toán các biến đại diện cho quản lý lợi nhuận như đã trình bày trong phần

3.3.2 để tính toán ra mức dòng tiền hoạt động bất thường (ACFO), chi phí sản xuất bất

thường (APROD).

Bảng 4.3. Kết quả hồi quy phương trình biến quản lý lợi nhuận

CFO 2.45*108 PROD -2.01*109***

Biến 1 𝐴𝑠𝑠𝑒𝑡𝑖𝑡−1 (0.61) (-4.8)

0.0172*** 0.9534***

𝑆𝑎𝑙𝑒𝑠𝑖𝑡 𝐴𝑠𝑠𝑒𝑡𝑖𝑡−1 (5.46) (286.79)

-0.0036 0.0061

∆𝑆𝑎𝑙𝑒𝑠𝑖𝑡 𝐴𝑠𝑠𝑒𝑡𝑖𝑡−1 (-0.42) (0.69)

0.0035 - ∆𝑆𝑎𝑙𝑒𝑠𝑖𝑡−1 𝐴𝑠𝑠𝑒𝑡𝑖𝑡−1 (0.42)

Hệ số chặn 0.0425*** -0.1236***

(7.11) (-20.53)

R2 1.47% 98.05%

Nguồn: Tổng hợp từ phần mềm Stata 13.

Trong đó, bảng kết quả thể hiện hệ số hồi quy và giá trị thống kê t của các phương

trình hồi quy sau:

53

=β0+β1* +β2* +β3* +εit (1) CFOit Assetit-1 1 Assetit-1 Salesit Assetit-1 ∆Salesit Assetit-1

(2) =β0+β1* +β2* +β3* +β4* PRODit Assetit-1 1 Assetit-1 Salesit Assetit-1 ∆Salesit Assetit-1 ∆Salesit-1 Assetit-1

*, ** và *** lần lượt thể hiện mức ý nghĩa thống kê 10%, 5% và 1%.

4.3.2. Kết quả kiểm định tự tương quan và phương sai thay đổi

Bảng 4.4. Kết quả kiểm định tự tương quan và phương sai thay đổi

Biến phụ Kiểm định phương sai thay đổi Kiểm định tự tương quan

thuộc

0.0000 0.0046 ABNCFO

0.0000 0.0000 ABNPROD

0.0000 0.2239 AWCA

Dựa vào giá trị p-value của hai kiểm định phương sai thay đổi và tự tương quan

có thể thấy rằng nhìn chung các giá trị p-value nhỏ hơn mức ý nghĩa 10% do đó luận

văn bác bỏ giả thiết H0 của hai kiểm định. Nói cách khác, kết quả kiểm định bảng trên

cho thấy có tồn tại hiện tượng tự tương quan và phương sai thay đổi. Do đó đề tài

nghiên cứu tiếp tục sử dụng phương pháp hồi quy GMM đề ước lượng mô hình nghiên

cứu ảnh hưởng của kiệt quệ tài chính đến quản lý lợi nhuận do phương pháp hồi quy

này thể khắc phục cả vấn đề nội sinh đã xảy ra trong mô hình nghiên cứu, cụ thể là các

hiện tượng: tự tương quan, phương sai thay đổi…

- Mối tương quan giữa các biến độc lập với nhau: quy mô công ty có thể tác động

đáng kể đến đòn bẩy các công ty, khi quy mô công ty tăng thì các công ty có thể

tiếp cận với các khoản vay dễ dàng hơn với chi phí thấp…

54

- Mối tương quan giữa biến độc lập và sai số của mô hình. Ngoài các yếu tố được

đưa vào mô hình nghiên cứu giải thích cho quản lý lợi nhuận thì còn nhiều yếu

tố khác có ảnh hưởng đến quản lý lợi nhuận nhưng không được đưa vào mô

hình nghiên cứu, mà các yếu tố này lại thể hiện trong sai số của mô hình, cũng

như các yếu tố này sẽ có tương quan với các biến độc lập đã đưa vào mô hình

nghiên cứu.

- Ảnh hưởng của biến phụ thuộc (hành vi điều chỉnh lợi nhuận) đến các biến độc

lập trong mô hình nghiên cứu; các công ty có hành vi điều chỉnh lợi nhuận có

thể hướng đến việc tiếp cận với các khoản vay với chi phí thấp, điều này cho

thấy rằng hành vi điều chỉnh lợi nhuận có thể làm thay đổi tỷ lệ đòn bẩy của các

công ty…

4.3.3. Kết quả mô hình hồi quy theo phương pháp GMM

Bảng 4.5. Kết quả hồi quy ảnh hưởng của kiệt quệ tài chính đến quản lý thu nhập

Biến |AbnCFO| |AbnPROD| |AWCA| Kỳ vọng dấu

+ DISTRESS

+/- SIZE

+/- CFO

LEV +/-

ROA +/-

+/- EISSUE 0.0490*** (5.01) -0.0183*** (-2.93) 0.3721*** (8.1) 0.0249*** (3.22) 0.4644*** (6.1) 0.0116** (2.37) 0.0205** (2.4) -0.0117*** (-2.78) 0.0793* (1.81) 0.0207*** (2.89) 0.3426*** (4.15) 0.0066* (1.84) 0.5751*** (13.1) 0.0206** (1.97) -0.7207*** (-3.94) -0.1027*** (-5.65) -0.6848*** (-2.92) -0.0339* (-1.91)

+/- 0.0581*** 0.0231*** -0.1272*** DISSUE

55

+ GROWTH

Hệ số chặn

(6.98) 0.0033 (0.31) 0.4882*** (2.95) 0.000 0.491 0.230 (2.63) 0.0121 (1.38) 0.3647*** (3.35) 0.000 0.125 0.525 (-27.17) 3.1229*** (305.25) -0.4939* (-1.83) 0.000 0.107 0.156 AR(1) AR(2) Hansen

Trong đó, AR(1) và AR(2) kiểm định hiện tượng tự tương quan bậc 1 và bậc 2; Hansen

xem xét vấn đề tương quan giữa các biến công cụ và phần dư của mô hình. Ngoài ra: *,

** và *** lần lượt thể hiện mức ý nghĩa thống kê 10%, 5% và 1%.

Nguồn: Tổng hợp kết quả từ phần mềm Stata 13.

Sau khi đã tính toán được các biến đại diện cho quản lý lợi nhuận, luận văn tiếp

tục thực hiện việc ước lượng mô hình nghiên cứu đã trình bày trong phần 3.3 bằng

phương pháp hồi quy GMM. Theo đó, kết quả ước lượng ảnh hưởng của kiệt quệ tài

chính đến quản lý thu nhập được trình bày trong bảng 4.5. Dựa vào bảng kết quả, kết

quả hồi quy cho thấy rằng biến kiệt quệ tài chính có ảnh hưởng đến quản lý dòng tiền,

quản lý thu nhập dựa trên cơ sở dồn tích ở mức ý nghĩa 1% và ảnh hưởng đến quản lý

chi phí ở mức ý nghĩa 5%. Điều này cho thấy rằng đây là bằng chứng thực nghiệm cho

thấy các công ty có dấu hiệu kiệt quệ tài chính ở Việt Nam có sử dụng cả hai công cụ

quản lý thu nhập thực và quản lý thu nhập dựa trên cơ sở dồn tích thể hiện qua việc

thực hiện điều chỉnh dòng tiền, chi phí và các khoản dồn tích. Kết quả này phù hợp với

kỳ vọng của luận văn đặt ra trong phần 3.2.2 và tương tự với phát hiện trong nghiên

cứu của Campa và Camacho – Minano (2015): các công ty lâm vào tình trạng kiệt quệ

tài chính có nhiều dấu hiệu quản lý thu nhập thông qua hai công cụ quản lý thu nhập

hoạt động thực và quản lý thu nhập dựa trên cơ sở dồn tích. Có thể giải thích bằng

chứng này là để che giấu tình trạng kiệt quệ tài chính của mình, các doanh nghiệp có

56

xu hướng thực hiện các quản lý thu nhập thông qua điều chỉnh doanh thu, chi phí và

vận dụng kế toán dồn tích từ đó làm điều chỉnh lợi nhuận của doanh nghiệp. Kết quả

nghiên cứu cho thấy các công ty niêm yết tại thị trường chứng khoán Việt Nam có thực

hiện quản lý lợi nhuận khi lâm vào tình trạng khó khăn về tài chính trong giai đoạn

2008 – 2016 mặc dù hàng năm các công ty niêm yết đều phải thực hiện đánh giá công

bố thông tin và minh bạch.

Tiếp theo, quy mô của các doanh nghiệp cho thấy tác động ngược chiều với

quản lý dòng tiền và quản lý chi phí ở mức ý nghĩa 1% điều này đồng nghĩa với việc

quy mô doanh nghiệp có tác động ngược chiều với quản lý hoạt động thực, nhưng có

tác động cùng chiều với các hoạt động điều chỉnh dồn tích ở mức ý nghĩa 10%. Điều

này phù hợp với nhận định ở những nghiên cứu trước đây về mối quan hệ không rõ

ràng giữa quy mô công ty và quản trị lợi nhuận. Kết quả này cho thấy rằng các doanh

nghiệp có quy mô càng lớn thì sẽ càng ít thực hiện các quản lý thu nhập thực nhưng có

sử dụng hoạt động dựa trên cơ sở kế toán dồn tích . Điều này phù hợp với kỳ vọng của

luận văn đặt ra trong phần 3.2.2 và tương tự với các kết quả thực nghiệm của Lee và

Choi (2002) tìm thấy bằng chứng thực nghiệm cho thấy các công ty có quy mô nhỏ có

động cơ quản trị lợi nhuận cao hơn để tránh báo cáo lỗ so với các công ty có quy mô

lớn bất chấp những hậu quả có thể để lại trong dài hạn. Có thể lập luận rằng các công

ty có quy mô càng lớn có yêu cầu về quản trị, giám sát hoạt động cao hơn so với các

công ty nhỏ, từ đó hạn chế hành vi điều chỉnh thu nhập ở các công ty này. Kết quả

nghiên cứu mặt khác còn cho thấy quy mô công ty có tác động cùng chiều với các hoạt

động điều chỉnh dồn tích ở mức ý nghĩa 10% điều này thể hiện ở Việt Nam chất lượng

kế toán dồn tích có chất lượng không cao.

Dòng tiền tự do được tìm thấy có mối quan hệ cùng chiều với quản lý dòng tiền

và quản lý chi phí, ngược lại có tác động ngược chiều với các hoạt động dồn tích ở

mức ý nghĩa 10%. Kết quả này cho thấy rằng các doanh nghiệp càng có dòng tiền tự do

57

càng thặng dư thì sẽ càng thúc đẩy quản lý dòng tiền và quản lý chi phí. Điều này

tương tự với phát hiện của Kirschenheiter và Melumad (2002), Trueman và Titman

(1988) và Hunt và các cộng sự (1997) và có thể thấy rằng lợi nhuận được công bố cho

phép các nhà đầu tư có thể đánh giá được dòng tiền trong tương lai của công ty. Do đó,

việc duy trì mức độ biến động ở mức nhỏ nhất có thể giúp cải thiện sự kỳ vọng của các

nhà đầu tư về tình hình hoạt động của công ty trong tương lai. Phản ứng lại tình huống

này, các công ty đang đối mặt với sự gia tăng (sự suy giảm) trong dòng tiền hoạt động

có thể thực hiện các hành vi điều chỉnh lợi nhuận giảm xuống (gia tăng) để duy trì mức

độ lợi nhuận không quá biến động điều này thể hiện qua mức tăng trong giá trị tuyệt

đối của dòng tiền “bất thường”. Hành động này có thể giúp giá cổ phiếu của các công

ty gia tăng trong ngắn hạn, và do đó làm gia tăng động cơ của các nhà quản trị làm

mượt (smooth) lợi nhuận.

Đòn bẩy của các doanh nghiệp có ảnh hưởng cùng chiều với quản lý doanh thu

và quản lý chi phí ở mức ý nghĩa 10%. Kết quả này cho thấy rằng các công ty có tỷ lệ

đòn bẩy càng cao thì sẽ càng gia tăng hành vi điều chỉnh lợi nhuận và điều chỉnh chi

phí. Điều này phù hợp với kỳ vọng ban đầu của luận văn và phù hợp với một số bằng

chứng thực nghiệm như của Bartov (1993), DeFond và Park (1994). Điều này có thể

giải thích là do các công ty có đòn bẩy tài chính càng cao, khả năng đối mặt với tình

trạng kiệt quệ tài chính càng lớn hoặc có gánh nặng lãi vay càng lớn thì sẽ có nhiều

động cơ để thực hiện các hành vi điều chỉnh lợi nhuận và chi phí.

Tỷ suất sinh lợi trên tổng tài sản được tìm thấy có mối quan hệ cùng chiều với

quản lý dòng tiền và quản lý chi phí ở mức ý nghĩa 10%. Kết quả này cho thấy rằng

các doanh nghiệp có suất sinh lợi trên tổng tài sản càng cao thì sẽ càng thúc đẩy quản

lý dòng tiền và quản lý chi phí. Điều này tương tự với phát hiện của Kirschenheiter và

Melumad (2002), Trueman và Titman (1988) và Hunt và các cộng sự (1997) và có thể

thấy rằng lợi nhuận được công bố cho phép các nhà đầu tư có thể đánh giá được dòng

58

tiền trong tương lai của công ty. Do đó, việc duy trì mức độ biến động ở mức nhỏ nhất

có thể giúp cải thiện sự kỳ vọng của các nhà đầu tư về tình hình hoạt động của công ty

trong tương lai.

Phát hành thêm vốn cổ phần có ảnh hưởng cùng chiều đến quản lý dòng tiền và

quản lý chi phí của các doanh nghiệp và ngược chiều với quản lý thu nhập dựa trên

hoạt động dồn tích ở mức ý nghĩa 10%. Điều này ngụ ý rằng việc phát hành thêm vốn

cổ phần sẽ làm gia tăng quản lý dòng tiền và quản lý chi phí của các doanh nghiệp

nhưng làm giảm quản lý thu nhập thông qua các hoạt động dồn tích. Điều này phù hợp

với các nghiên cứu trước đây thường cung cấp bằng chứng thực nghiệm cho thấy một

trong các động cơ để các nhà quản trị điều chỉnh lợi nhuận là giá trị vốn hóa, hành

động phát hành thêm vốn cổ phần ảnh hưởng đến quản lý thu nhập và có kết quả

tương tự với nghiên cứu của Campa và Camacho – Minano (2015).

Tương tự, phát hành thêm nợ có ảnh hưởng cùng chiều đến quản lý doanh thu,

chi phí của các doanh nghiệp ở mức ý nghĩa 10% và có ảnh hưởng ngược chiều với

quản lý lợi nhuận dựa trên cơ sở dồn tích. Điều này ngụ ý rằng việc phát hành thêm nợ

sẽ làm thúc đẩy hành vi điều chỉnh doanh thu và chi phí của các doanh nghiệp. Điều

này có thể giải thích là do các công ty sẽ có xu hướng điều chỉnh gia tăng lợi nhuận

nhằm giúp cho công ty dễ dàng hơn trong việc vay nợ. Hơn nữa, khi lợi nhuận của

công ty được cải thiện có thể là điều kiện thuận lợi để các tổ chức tín dụng chấp nhận

cho công ty vay nợ. Kết quả nghiên cứu phù hợp với kỳ vọng của luận văn.

Cuối cùng, tốc độ tăng trưởng của các doanh nghiệp có mối quan hệ cùng chiều

với hành vi điều chỉnh dựa trên hoạt động dồn tích ở mức ý nghĩa 1%. Kết quả này cho

thấy rằng các doanh nghiệp có càng tốc độ tăng trưởng càng cao sẽ càng gia tăng quản

lý thông qua các hoạt động dồn tích. Điều này tương tự với phát hiện của Bartov,1993;

59

Wild, 1996). Nagar (2002) bằng chứng cho thấy các nhà quản trị của công ty sẽ thực

hiện các điều chỉnh lợi nhuận để tránh xu hướng tăng trưởng tiêu cực quá mức.

Sau khi phân tích hồi quy, luận văn tiếp tục kiểm định kết quả nghiên cứu. Dựa

vào các kết quả kiểm định được trình bày trong bảng 4.5 có thể thấy rằng các kiểm

định của AR(2) và Hansen đều có giá trị p-value lớn hơn mức ý nghĩa 10%. Kết quả

này ngụ ý rằng các giả thuyết H0 của hai kiểm định đều không bị bác bỏ, nói cách

khác, sau khi sử dụng phương pháp ước lượng GMM, mô hình nghiên cứu không tồn

tại hiện tượng tự tương quan đồng thời các biến công cụ được sử dụng trong phương

pháp GMM không tương quan với phần dư mô hình. Do đó kết quả ước lượng từ

phương pháp hồi quy GMM là đáng tin cậy và có thể sử dụng để phân tích.

Tóm lại, kết quả nghiên cứu ở thị trường Việt Nam đã cung cấp bằng chứng

thực nghiệm về sự tồn tại mối quan hệ giữa kiệt quệ tài chính và điều chỉnh thu nhập

thông qua hai công cụ phổ biến là: quản lý thu nhập thực và quản lý thu nhập dựa trên

kế toán dồn tích. Kết quả nghiên cứu này phù hợp với rất nhiều các nghiên cứu khác

được thực hiện ở các nền kinh tế khác nhau trên thế giới và đóng góp bằng chứng thực

nghiệm nhấn mạnh ảnh hưởng của mức độ kiệt quệ tài chính đến hành vi quyết định

của người quản lý như nghiên cứu gốc của tác giả Campa và Camacho – Minano

(2015). Điều này phù hợp với nội dung với phần đặt vấn đề của luận văn khi nhận định

báo cáo tài chính ở Việt Nam có chất lượng chưa cao, các nhà quản lý tùy thuộc vào

mục tiêu cụ thể để tiến hành điều chỉnh thu nhập, đặc biệt là trong bối cảnh lâm vào

tình trạng kiệt quệ tài chính. Ngoài ra, bài nghiên cứu còn tìm thấy tác động của các

đặc điểm khác của công ty như: quy mô công ty, tốc độ tăng trưởng, đòn bẩy tài chính,

dòng tiền hoạt động, tỷ suất sinh lợi trên tổng tài sản, phát hành thêm vốn cổ phần và

nợ cũng có tác động đáng kể đến hành vi điều chỉnh thu nhập. Mối quan hệ về dấu

không rõ ràng tuy nhiên đều có tác động đáng kể đến quản lý thu nhập.

60

CHƯƠNG 5. KẾT LUẬN

5.1. Kết luận

Hiện nay, một trong những vấn đề được giới đầu tư quan tâm chính là tính minh

bạch trong báo cáo tài chính của các doanh nghiệp. Thông tin về kết quả hoạt động

kinh doanh của công ty được cung cấp thông qua báo cáo tài chính, tuy nhiên báo cáo

tài chính của các doanh nghiệp Việt Nam không được đánh giá cao về chất lượng. Do

đó, luận văn với mục đích xem xét ảnh hưởng của kiệt quệ tài chính đến quản lý thu

nhập của các công ty niêm yết tại Việt Nam. Bằng cách thu thập số liệu từ các báo cáo

tài chính, kết hợp với việc loại trừ các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh trong lĩnh

vực ngân hàng, bảo hiểm, bất động sản và các quỹ đầu tư, công ty chứng khoán và loại

trừ các doanh nghiệp không có đủ số liệu BCTC trong 09 năm (từ năm 2008 đến năm

2016), kết quả luận văn có được mẫu nghiên cứu nghiên cứu bao gồm 280 doanh

nghiệp phi tài chính niêm yết trên hai sàn giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí

Minh và Thành phố Hà Nội trong giai đoạn 2008 – 2016 thuộc 08 ngành nghề kinh

doanh khác nhau.

Mặt khác, luận văn tiếp cận phương pháp nghiên cứu theo như sự đề nghị của

Campa và Camacho – Minano (2015). Trong đó, luận văn xem xét quản lý thu nhập

thông qua quản lý thu nhập thực tế theo cách đo lường của Roychowdhury (2006) và

các hoạt động kế toán dồn tích theo như phương pháp tiếp cận của DeFond và Park

(2001). Đồng thời luận văn sử dụng phương pháp ước lượng GMM để hồi quy mô hình

nghiên cứu như phương pháp mà Liu và các cộng sự (2014) và Campa và Camacho –

Minano (2015) đã sử dụng trong nghiên cứu của các tác giả khi xem xét vấn đề này.

Bài nghiên cứu đã tìm thấy bằng chứng thực nghiệm cho thấy các công ty có dấu hiệu

kiệt quệ tài chính ở Việt Nam có hành vi điều chỉnh tăng dòng tiền hoạt động, giảm

61

thiểu chi phí mà doanh nghiệp phải gánh chịu, kết quả là sẽ làm gia tăng thu nhập. Có

thể giải thích bằng chứng này là các công ty lâm vào tình trạng khó khăn về tàu chính

cố tình che giấu tình trạng kiệt quệ tài chính của mình, các doanh nghiệp có xu hướng

thực hiện các quản lý thu nhập thông qua gia tăng dòng tiền và giảm thiểu chi phí để

từ đó làm điều chỉnh tăng lợi nhuận của doanh nghiệp.

Ngoài ra, các đặc điểm khác của doanh nghiệp cũng cho thấy tác động đáng kể

đến quản lý thu nhập của các công ty bao gồm: quy mô doanh nghiệp, dòng tiền hoạt

động, đòn bẩy, lợi nhuận, phát hành thêm vốn chủ sở hữu, phát hành thêm nợ và tăng

trưởng của công ty. Cụ thể, các doanh nghiệp càng có quy mô lớn, dòng tiền càng

thặng dư, lợi nhuận càng nhiều và càng tăng trưởng thì càng thúc đẩy quản lý thu nhập

của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp có quy mô lớn sẽ có hệ thống báo cáo tài chính

phức tạp do đó họ có nhiều cơ hội để quản trị lợi nhuận hơn so với các công ty nhỏ và

ít bị phát hiện hơn. Các yếu tố khác đều thể hiện mối quan hệ với quản lý thu nhập của

các doanh nghiệp và có ý nghĩa tring một số trường hợp cụ thể.

Luận văn đã cung cấp bằng chứng thực nghiệm về tác động của kiệt quệ tài

chính đến quản lý thu nhập của các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt

Nam. Bài nghiên đóng góp bằng chứng thực nghiệm nhấn mạnh mức độ kiệt quệ tài

chính ảnh hưởng đến hành vi của nhà quản lý. Kết quả nghiên cứu phù hợp với nghiên

cứu gốc thực hiện tại thị trường có nền kinh tế đang phát triển khi cho rằng có mối

quan hệ đồng biến giữa kiệt quệ tài chính và các hoạt động điều chỉnh lợi nhuận thông

qua hai công cụ quản lý thu nhập thực và quản lý thu nhập dồn tích.

5.2. Kiến nghị

62

Từ các kết quả đạt được, luận văn có một số kiến nghị đề xuất dành cho các nhà

đầu tư, nhà phân tích bên ngoài công ty nhằm phát hiện các quản lý thu nhập của các

doanh nghiệp. Cụ thể như sau:

Đầu tiên các nhà đầu tư, nhà phân tích bên ngoài có thể phát hiện các quản lý

thu nhập của các doanh nghiệp thông qua dấu hiệu kiệt quệ tài chính. Cụ thể, các nhà

đầu tư, nhà phân tích bên ngoài có thể xem xét thu nhập hoạt động của các doanh

nghiệp không đủ trang trải phần chi phí lãi vay của các doanh nghiệp đang phải gánh

chịu từ việc vay mượn thì có thể cân nhắc đến việc đầu tư vào các công ty này bởi vì

khi đó các công ty này sẽ có động cơ thúc đẩy các quản lý thu nhập thông qua gia tăng

dòng tiền và giảm thiểu chi phí để từ đó làm gia tăng ảo lợi nhuận của doanh nghiệp.

Tiếp theo các nhà đầu tư, nhà phân tích bên ngoài có thể xem xét đến quy mô

của các doanh nghiệp để có thể biết được quản lý thu nhập của các doanh nghiệp.

Ngược với tâm lý cho rằng các công ty có quy mô nhỏ mới là các công ty thường có

hành vi điều chỉnh lợi nhuận, thì với mẫu nghiên cứu này, luận văn thấy rằng các công

ty có quy mô lớn sẽ có nhiều cơ hội để quản trị lợi nhuận của họ hơn so với các công ty

có quy mô nhỏ do các đối tượng bên ngoài khó có thể phát hiện việc quản trị lợi nhuận

trong hệ thống báo cáo tài chính phức tạp. Cho nên các nhà đầu tư, nhà phân tích bên

ngoài có thể cân nhắc đến việc đầu tư vào các công ty có quy mô lớn nếu như không

nắm bắt được tất cả các thông tin của doanh nghiệp này.

Tương tự như quy mô, lợi nhuận, dòng tiền thường là các yếu tố được các nhà

đầu tư, các nhà phân tích bên ngoài chú ý đến khi đánh giá tình hình hoạt động của một

doanh nghiệp. Trái ngược với quan điểm lợi nhuận nhiều, dòng tiền thặng dư thì sẽ ít

điều chỉnh thu nhập, với mẫu nghiên cứu này, luận văn thấy rằng lợi nhuận được công

bố cho phép các nhà đầu tư có thể đánh giá được dòng tiền trong tương lai của công ty.

Do đó, việc duy trì mức độ biến động ở mức nhỏ nhất có thể giúp cải thiện sự kỳ vọng

63

của các nhà đầu tư về tình hình hoạt động của công ty trong tương lai. Phản ứng lại

tình huống này, các công ty đang đối mặt với sự gia tăng (sự suy giảm) trong dòng tiền

hoạt động có thể thực hiện các hành vi điều chỉnh lợi nhuận giảm xuống (gia tăng) để

duy trì mức độ lợi nhuận không quá biến động. Điều này có thể giúp giá cổ phiếu của

các công ty gia tăng trong ngắn hạn, và do đó làm gia tăng động cơ của các nhà quản

trị làm trơn (smooth) lợi nhuận. Cho nên một dấu hiệu gia tăng trong lợi nhuận hay

dòng tiền không có ngụ ý rằng công ty không có hành vi điều chỉnh lợi nhuận. Do đó,

các nhà đầu tư, các nhà phân tích bên ngoài cũng cần chú ý và cẩn trọng khi đánh giá

các doanh nghiệp dựa vào hoạt động và lợi nhuận.

5.3. Hạn chế của đề tài

Luận văn đã đóng góp về mặt lý thuyết và thực nghiệm về mối quan hệ giữa kiệt

quệ tài chính và hành vi điều chỉnh thu nhập của các doanh nghiệp, giải quyết được

mục tiêu cũng như câu hỏi nghiên cứu đặt ra ban đầu, tuy nhiên luận văn vẫn tồn tại

một số hạn chế nhất định. Cụ thể như:

Đầu tiên, mẫu nghiên cứu của luận văn chỉ bao gồm 280 doanh nghiệp phi tài

chính niêm yết trên hai sàn nghiên cứu thì với số lượng doanh nghiệp này vẫn còn

tương đối, không thể đại diện cho tổng thể các doanh nghiệp phi tài chính đang hoạt

động tại Việt Nam (với số tổng các doanh nghiệp phi tài chính gần khoảng 700 doanh

nghiệp). Do đó, kết quả nghiên cứu chỉ đúng với 280 doanh nghiệp phi tài chính này,

kết quả nghiên cứu không khái quát được tất cả các công ty tại thị trường Việt Nam.

Tiếp theo, giai đoạn nghiên cứu trải dài từ năm 2008 đến năm 2016. Tuy nhiên

trong năm 2008, 2009 cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đã xảy ra. Cuộc khủng

hoảng tài chính này có những tác động tiềm tàng đến các biến số trong mô hình nghiên

cứu cho nên sẽ có thể ảnh hưởng đến quản lý thu nhập của các doanh nghiệp. Vì thế

64

kết quả nghiên cứu vẫn chưa thật sự như kỳ vọng ban đầu của luận văn. Kết quả là đây

là hạn chế thứ hai của đề tài.

Đồng thời, mô hình nghiên cứu cũng như các biến số được sử dụng trong luận

văn là chủ yếu dựa vào phương pháp tiếp cận của Campa và Camacho – Minano

(2015) do đó có thể tồn tại các yếu tố khác ảnh hưởng đến quản lý thu nhập nhưng

không được đưa vào mô hình nghiên cứu của luận văn để xem xét. Do đó cũng là một

hạn chế tiếp theo của đề tài.

Bài nghiên cứu mặc dù vẫn có những hạn chế tuy nhiên kết quả hồi quy có ý

nghĩa thống kê và đa phần phù hợp với bài nghiên cứu gốc và kỳ vọng ban đầu của

luận văn.

5.4. Hướng phát triển của đề tài

Từ các hạn chế mà luận văn tìm thấy, luận văn cũng đưa ra một số hướng

nghiên cứu tiếp theo đối với đề tài này. Đầu tiên, các nghiên cứu tiếp theo nên mở rộng

số lượng doanh nghiệp để có thể đại diện cho các doanh nghiệp đang hoạt động tại Việt

Nam, có thể lấy thêm các công ty ở các thị trường chứng khoán khác nhau (như thị

trường OTC) để mở rộng phạm vi nghiên cứu và kết quả nghiên cứu có tính khái quát

cao hơn.

Thứ hai, các nghiên cứu sau này có thể sử dụng biến giả đại diện cho khủng

hoảng tài chính toàn cầu hoặc tách mẫu nghiên cứu trước và sau khủng hoảng tài chính

xảy ra để loại bỏ ảnh hưởng tiềm tàng của khủng hoảng tài chính đến các biến số trong

mô hình nghiên cứu cho nên sẽ có thể ảnh hưởng đến quản lý thu nhập của các doanh

nghiệp.

65

Cuối cùng, các nghiên cứu sau này có thể đưa thêm một số yếu tố ảnh hưởng

đến quản lý thu nhập phù hợp với thị trường Việt Nam để từ đó có thể đánh giá toàn

diện các tác động đến quản lý thu nhập của các doanh nghiệp đang hoạt động tại Việt

Nam.

Tóm lại, các nghiên cứu phát triển trong tương lai có thể mở rộng và khắc phục

những hạn chế còn tồn tại của đề tài nhằm đưa ra những kết quả nghiên cứu tốt hơn, từ

đó cung cấp thông tin tốt hơn cho các nhà đầu tư cũng như nhà làm chính sách về kiệt

quệ tài chính và quản lý thu nhập của các công ty ở nền kinh tế Việt Nam.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Alghamdi, S., & Ali, L. (2012). Investigation into earnings management practices

and the role of corporate governance and external audit in emerging markets:

Empirical evidence from Saudi listed companies (Doctoral dissertation, Durham

University).

2. Alhadab, M., Clacher, I., & Keasey, K. (2016). A comparative analysis of real and

accrual earnings management around initial public offerings under different

regulatory environments. Journal of Business Finance & Accounting, 43(7-8), 849-

871.

3. Altman, E. I., & Hotchkiss, E. (2006). Corporate financial distress and bankruptcy:

Predict and avoid bankruptcy, analyze and invest in distressed debt. Hoboken.

4. Balsam, S., Chen, L. H., & Sankaraguruswamy, S. (2003). Earnings management

prior to stock option grants.

5. Barton, J., & Simko, P. J. (2002). The balance sheet as an earnings management

constraint. The accounting review, 77(s-1), 1-27.

6. Campa, D., & Camacho-Miñano, M. D. M. (2014). Earnings management among

bankrupt non-listed firms: evidence from Spain. Spanish Journal of Finance and

Accounting/Revista Espanola de Financiacion y Contabilidad, 43(1), 3-20.

7. Campa, D., & Camacho-Miñano, M. D. M. (2015). The impact of SME’s pre –

bankruptcy financial distress on earnings management tools. International Review

of Financial Analysis.

8. Choi, J. H., Kim, J. B., & Lee, J. J. (2011). Value relevance of discretionary

accruals in the Asian financial crisis of 1997–1998. Journal of Accounting and

Public Policy, 30(2), 166-187.

9. Cohen, D. A., & Zarowin, P. (2010). Accrual-based and real earnings management

activities around seasoned equity offerings. Journal of accounting and

Economics, 50(1), 2-19.

10. Dechow, P. M., Ge, W., Larson, C. R., & Sloan, R. G. (2011). Predicting material

accounting misstatements. Contemporary accounting research, 28(1), 17-82.

11. DeFond, M. L., & Park, C. W. (2001). The reversal of abnormal accruals and the

market valuation of earnings surprises. The Accounting Review, 76(3), 375-404.

12. Enomoto, M., Kimura, F., & Yamaguchi, T. (2015). Accrual-based and real

earnings management: An international comparison for investor protection. Journal

of Contemporary Accounting & Economics, 11(3), 183-198.

13. Hand, J. R. (1989). 1988 Competitive Manuscript Award: Did Firms Undertake

Debt-Equity Swaps for an Accounting Paper Profit or True Financial

Gain?. Accounting Review, 587-623.

14. Healy, P. M., & Wahlen, J. M. (1999). A review of the earnings management

literature and its implications for standard setting. Accounting horizons, 13(4), 365-

383.

15. Iatridis, G., & Kadorinis, G. (2009). Earnings management and firm financial

motives: A financial investigation of UK listed firms. International Review of

Financial Analysis, 18(4), 164-173.

16. Kirschenheiter, M., & Melumad, N. D. (2002). Can “Big Bath” and Earnings

Smoothing Co-exist as Equilibrium Financial Reporting Strategies?. Journal of

Accounting Research, 40(3), 761-796.

17. Lee, B. B., & Choi, B. (2002). Company size, auditor type, and earnings

management. Journal of Forensic Accounting, 3(1), 27-50.

18. McNichols, M. F., & Stubben, S. R. (2008). Does earnings management affect

firms’ investment decisions?. The accounting review, 83(6), 1571-1603.

19. Michelson, S. E., Jordan-Wagner, J., & Wootton, C. W. (1995). A market based

analysis of income smoothing. Journal of Business Finance & Accounting, 22(8),

1179-1193.

20. Roychowdhury, S. (2006). Earnings management through real activities

manipulation. Journal of accounting and economics, 42(3), 335-370.

21. Skinner, D. J., & Sloan, R. G. (2002). Earnings surprises, growth expectations, and

stock returns or don't let an earnings torpedo sink your portfolio. Review of

accounting studies, 7(2-3), 289-312.

22. Tinoco, M. H., & Wilson, N. (2013). Financial distress and bankruptcy prediction

among listed companies using accounting, market and macroeconomic

variables. International Review of Financial Analysis, 30, 394-419.

23. Trombetta, M., & Imperatore, C. (2014). The dynamic of financial crises and its

non-monotonic effects on earnings quality. Journal of Accounting and Public

Policy, 33(3), 205-232.

24. Trueman, B., & Titman, S. (1988). An explanation for accounting income

smoothing. Journal of accounting research, 127-139.

25. Yu, F. F. (2008). Analyst coverage and earnings management. Journal of financial

economics, 88(2), 245-271.

PHỤ LỤC

Phụ lục 1: Thống kê mô tả

Phụ lục 2: Ma trận tương quan

Phụ lục 3: Kết quả hồi quy biến quản lý thu nhập

Phụ lục 4: Kết quả hồi quy theo phương pháp GMM