BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
----------oOo----------
TRẦN LÊ THANH HẢI
NGHIÊN CỨU TÁC ĐỘNG CỦA NỢ NƯỚC NGOÀI
LÊN TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ CỦA VIỆT NAM.
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
TP. HỒ CHÍ MINH - NĂM 2013
BỘ GIÁO DỤC VÀO ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
----------oOo---------
TRẦN LÊ THANH HẢI
NGHIÊN CỨU TÁC ĐỘNG CỦA NỢ NƯỚC NGOÀI
LÊN TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ CỦA VIỆT NAM.
Chuyên ngành:
Kinh tế Tài chính – Ngân hàng
Mã ngành:
60340201
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. LÊ THỊ LANH
TP. HỒ CHÍ MINH - NĂM 2013
LỜI CAM ĐOAN
Tác giả xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tác giả với sự
giúp đỡ của Cô hướng dẫn và những người mà tác giả đã cảm ơn. Số liệu thống kê
được lấy từ nguồn đáng tin cậy, nội dung và kết quả nghiên cứu của luận văn này
chưa từng được công bố trong bất cứ công trình nào cho tới thời điểm hiện nay.
Tp. Hồ Chí Minh, ngày tháng năm 2013
Tác giả
Trần Lê Thanh Hải
MỤC LỤC
.................... Trang
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
DANH MỤC BẢNG BIỂU
DANH MỤC HÌNH VẼ, ĐỒ THỊ
TÓM TẮT .............................................................................................................. 1
CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU TỔNG QUAN NỘI DUNG CỦA LUẬN VĂN VÀ
CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU .............................................................................. 2
CHƯƠNG 2: KHUNG LÝ THUYẾT CỦA ĐỀ TÀI VÀ TỔNG QUAN CÁC
NGHIÊN CỨU TRƯỚC ĐÂY .............................................................................. 4
2.1 Khung lý thuyết và các quan điểm của các nhà kinh tế học trên thế giới
về mối quan hệ giữa nợ nước ngoài đối với tăng trưởng kinh tế:..................... 4
2.1.1 Nợ nước ngoài thúc đẩy tăng trưởng kinh tế: ............................................ 5
2.1.2 Nợ nước ngoài kìm hãm tăng trưởng kinh tế: ........................................... 5
2.1.3 Nợ nước ngoài vừa thúc đẩy vừa kìm hãm tăng trưởng kinh tế: ................ 6
2.1.4 Nợ nước ngoài không tác động đến tăng trưởng kinh tế: ........................ 11
2.2 Các nghiên cứu của các nhà kinh tế học trên thế giới về tác động của nợ
nước ngoài đối với tăng trưởng kinh tế. ............................................................ 11
2.2.1 Nghiên cứu của Maureen Were (2001) “Tác động của nợ nước ngoài đối
với tăng trưởng kinh tế ở Kenya”. ................................................................... 11
2.2.2 Nghiên cứu của Frimpong, J.M.and Oteng-Abayi,E.F. (2006), “Tác động
của nợ nước ngoài đến tăng trưởng kinh tế ở Ghana. Một nghiên cứu thực
nghiệm” .......................................................................................................... 14
2.2.3 Nghiên cứu của Shahnawaz Malik, Muhammad Khizar Hayat và
Muhammad Umer Hayat (2010) “Nợ nước ngoài và tăng trưởng kinh tế.
Nghiên cứu thực nghiệm từ Pakistan” ........................................................... 16
2.2.4 Nghiên cứu của Sulaiman, L.A và Azeez, B.A (2012) "Tác động của nợ
nước ngoài đến tăng trưởng kinh tế ở Nigeria" ................................................ 17
2.2.5 Nghiên cứu của Okonkwa, C.S & Odularu, G.O. (2013): "Mối quan hệ
giữa nợ nước ngoài, gánh nặng nợ và tăng trưởng kinh tế: Nghiên cứu thực
nghiệm và bài học chính sách từ các nước Tây Phi" ........................................ 18
2.3 Các nghiên cứu của các tác giả trong nước về mối quan hệ giữa nợ nước
ngoài và tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam: ......................................................... 21
2.3.1 Nghiên cứu của Lâm Xiêm Dung (2011) "Tác động của nợ công đối với
tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam" ................................................................... 21
2.3.2 Nghiên cứu của Đoàn Ngọc Châu (2012) "Tác động của nợ nước ngoài
đến tăng trưởng kinh tế của Việt Nam" ........................................................... 23
2.3.3 Nghiên cứu của Nguyễn Thị Song Hoanh (2012) "Tác động của nợ nước
ngoài đối với tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam" .............................................. 24
CHƯƠNG 3: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ................................................ 27
3.1 Thu thập dữ liệu cho mô hình nghiên cứu: .................................................. 27
3.2 Mô tả các biến trong mô hình nghiên cứu: .................................................. 28
3.3 Mô hình nghiên cứu tác động của nợ nước ngoài đối với tăng trưởng kinh tế
tại Việt Nam: ..................................................................................................... 31
3.4 Phương pháp nghiên cứu: ............................................................................ 33
CHƯƠNG 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN ............................ 35
4.1 Kiểm định nghiệm đơn vị riêng lẻ từng biến để xác định thuộc tính dừng
của các chuỗi số thời gian: ................................................................................ 35
4.2 Chọn bước trễ tối ưu cho các biến trong mô hình: ...................................... 37
4.3 Kiểm định đồng liên kết theo phương pháp Johansen (Johansen
Cointegration Test) để xem xét mối quan hệ cân bằng dài hạn giữa các biến
trong mô hình: ................................................................................................... 38
4.4: Kiểm định mối quan hệ trong dài hạn bằng mô hình VECM (Vector Error
Correction Model): ............................................................................................ 42
4.5: Hiệu chỉnh sự mất cân bằng giữa động thái ngắn hạn và giá trị dài hạn bằng
mô hình hiệu chỉnh sai số ECM (Error Correction Model): .............................. 47
4.5.1 Kiểm định nghiệm đơn vị phần dư: .................................................... 48
4.5.1.1 Kiểm định phần dư có phân phối chuẩn (Kiểm định Histogram-
Normality của phương trình (1): ..................................................................... 49
4.5.1.2 Kiểm định phương sai của sai số là đồng nhất: .................................... 50
4.5.2 Mô hình hiệu chỉnh sai số ECM hai bước trễ: .................................... 51
4.5.3 Mô hình hiệu chỉnh sai số ECM một bước trễ: ................................... 53
Kết quả hồi quy mô hình hiệu chính sai số ECM với một bước trễ được trình
bày trong bảng 4.11 ........................................................................................ 53
* Kiểm định các khuyết tật của mô hình ECM một bước trễ: .......................... 58
4.5.3.1 Kiểm định ý nghĩa thống kê của mô hình ECM một bước trễ (kiểm định
RESET của Ramsey): ..................................................................................... 58
4.5.3.2 Kiểm định phần dư có phân phối chuẩn (Kiểm định Histogram -
Normality)của mô hình ECM một bước trễ: .................................................... 58
4.5.3.3 Kiểm định sự phù hợp của hàm hồi quy (kiểm định Wald) mô hình
ECM một bước trễ: ......................................................................................... 60
4.5.3.4 Kiểm định tự tương quan (Kiểm định Breusch-Godfrey) mô hình ECM
một bước trễ: .................................................................................................. 60
4.6 Thảo luận kết quả nghiên cứu: .................................................................... 61
CHƯƠNG 5: KẾT LUẬN ................................................................................... 63
5.1 Kết luận: ...................................................................................................... 63
5.2 Một số gợi ý chính sách đối với nền kinh tế Việt Nam: .............................. 64
5.3 Hạn chế của đề tài và bước nghiên cứu tiếp theo: ....................................... 67
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Tên Tiếng Anh Ký hiệu ECM Error correction model
EXDY
FDIY
Total external debt as a percentage of GDP Foreign direct investment as a percentage of GDP Gross domestic investment as a percentage of GDP
GDIY GDP Gross domestic product IMF International Monetary Fund
HIPC Highly Indebted Poor Country ODA Office Development Assistance
OLS Ordinary Least Square
RYPC Real GDP per capita Tên Tiếng Việt Mô hình hiệu chỉnh sai số % Dư nợ trên tổng sản phẩm quốc nội. % Đầu tư trực tiếp nước ngoài trên tổng sản phẩm quốc nội. % Đầu tư trong nước trên tổng sản phẩm quốc nội. Tổng sản phẩm quốc nội Quỹ tiền tệ quốc tế Các nước nghèo có dung lượng nợ lớn Vốn hỗ trợ phát triển chính thức Phương pháp bình phương nhỏ nhất Thu nhập quốc dân thực tế tính theo đầu người
Total debt service as a percentage TDSE of exports VND USD US Dollar WB World Bank % Nợ phải trả trên xuất khẩu Đồng Việt Nam Đô la Mỹ Ngân hàng thế giới
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 4.1. Bảng kết quả kiểm định nghiệm đơn vị
Bảng 4.2. Bảng độ trễ tối ưu
Bảng 4.3: Kết quả kiểm định đồng liên kết Johansen theo thống kê Trace
Bảng 4.4: Kết quả kiểm định đồng liên kết Johansen theo thống kê Max-Eigen
Bảng 4.5 Kết quả hồi quy ước lượng vector sai số ngẫu nhiên VECM
Bảng 4.6: Hồi quy đồng liên kết
Bảng 4.7 Kiểm định phần dư để kiểm tra đồng liên kết
Bảng 4.8: Bảng tổng hợp kết quả phần dư có phân phối chuẩn
Bảng 4.9 Kết quả kiểm định phương sai sai số thay đổi
Bảng 4.10 Hồi quy mô hình ECM hai bước trễ
Bảng 4.11 Hồi quy mô hình ECM một bước trễ
Bảng 4.12: Kết quả kiểm định ý nghĩa thống kê của mô hình ECM một bước trễ
Bảng 4.13 Kết quả kiểm định Histogram - Normality mô hình ECM một bước trễ
Bảng 4.14 Kiểm định Wald mô hình ECM một bước trễ
Bảng 4.15 Bảng kết quả kiểm định tự tương quan
DANH MỤC HÌNH VẼ, BIỂU ĐỒ
Hình 1.1 Đường cong Laffer nợ
Hình 1.2 Mối liên hệ “threshold effect” giữa nợ và tăng trưởng.
Hình 4.1 Kết quả kiểm định Histogram – Normality của phần dư
Hình 4.2 Kết quả kiểm định Histogram - Normality mô hình ECM một bước trễ
1
TÓM TẮT
Nghiên cứu này thực hiện nhằm kiểm tra sự tác động của nợ nước ngoài
đến tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam trong ngắn hạn và dài hạn bằng cách sử
dụng số liệu chuỗi thời gian từ năm 1986 đến năm 2012. Trong bài nghiên cứu
này các yếu tố sau được coi là yếu tố chính tác động lên tăng trưởng kinh tế:
đầu tư trực tiếp nước ngoài trên GDP, nợ nước ngoài trên GDP, đầu tư trong
nước trên GDP và tỷ lệ tổng nợ phải trả trên xuất khẩu.
Bài viết tham khảo nghiên cứu của tác giả Okonkwa, C.S & Odularu,
G.O.(2013)sử dụng phương pháp kiểm định nghiệm đơn vị (Unit root test) của
Augmented Dickey-Fuller (ADF) để kiểm định tính dừng của số liệu chuỗi thời
gian, lý thuyết đồng liên kết (Co-integration) của Johansen để đo lường các mối
quan hệ trong dài hạn giữa các biến (quan hệ đồng liên kết) và cuối cùng là sử dụng
mô hình điều chỉnh sai số ECM (Error Correction Model) theo Engle - Granger hai
bước (1987) để thực hiện khảo sát mối quan hệ động trong ngắn hạn giữa các biến
vĩ mô.
Kết quả nghiên cứu cho thấy các biến nghiên cứu đều có mối tương quan
đồng liên kết. Trong dài hạn, các biến vĩ mô có sự tác động lên tăng trưởng kinh tế
đó là biến đầu tư trực tiếp nước ngoài tương quan dương với tăng trưởng kinh tế và
biến đầu tư trong nước trên GDP, nợ nước ngoài trên GDP và nợ phải trả trên xuất
khẩu tỷ lệ nghịch với tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam. Trong khi đó, xét về ngắn
hạn, biến tăng trưởng kinh tế chịu ảnh hưởng bởi chính nó ở độ trễ một kỳ. Ngoài ra
nó còn còn bị tác động bởi biến nợ nước ngoài trên GDP ở kỳ hiện tại và nợ phải
trả trên xuất khẩu ở độ trễ thứ nhất. Các biến đầu tư trực tiếp nước ngoài và đầu tư
trong nước không thể hiện sự tác động của nó lên tăng trưởng kinh tế trong ngắn
hạn. Bài viết cũng đưa ra một số gợi ý chính sách dựa trên kết quả nghiên cứu nhằm
giúp cho nền kinh tế của Việt Nam tăng trưởng ổn định và bền vững.
Từ khóa: Nợ nước ngoài, tăng trưởng kinh tế, đồng liên kết, mô hình ECM,
đầu tư.
2
CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU TỔNG QUAN NỘI DUNG CỦA LUẬN VĂN VÀ
CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
Trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, nguồn vốn vay nợ luôn đóng vai
trò hết sức quan trọng đối với mỗi quốc gia, thị trường vốn ngày càng phát triển đã
tạo điều kiện cho hoạt động vay nợ diễn ra dễ dàng và thuận lợi hơn từ đó góp phần
gia tăng nợ nước ngoài của các quốc gia trong quá trình phát triển.
Theo Tokunbo và cộng sự (2006), các nghiên cứu ban đầu của các nhà kinh
tế trong những thập niên 50 và 60 đã tìm thấy một lý thuyết chung về nợ nước
ngoài và tăng trưởng kinh tế. Tất cả họ đều chia sẻ quan điểm chung rằng việc
chuyển giao các nguồn lực nước ngoài (thông qua các khoản vay, viện trợ và tài
trợ) tại các nước kém phát triển là cần thiết, nó bổ sung nguồn vốn thiếu hụt trong
nước. Với nguồn vốn được bổ sung sẽ giúp các nước chuyển đổi nền kinh tế để
tạo ra mức tăng trưởng cao hơn.
Trong những năm qua, Việt Nam liên tục đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế
cao, đó không chỉ dựa vào yếu tố nội sinh mà còn có sự tác động của yếu tố bên
ngoài. Để đạt được tốc độ tăng trưởng cao trong điều kiện vốn trong nước còn hạn
chế, các nước đang phát triển thường thu hút các nguồn vốn nước ngoài bằng nhiều
cách khác nhau, trong đó vay nợ là một phương thức phổ biến.
Tuy nhiên, nợ nước ngoài cũng có mặt bất lợi khi nó được tích lũy vượt quá
một giới hạn nhất định. Nếu nguồn vốn vay này không được phân bổ hiệu quả sẽ
không tạo được nguồn để trả nợ. Theo Nakatani và Herara (2007) vấn đề nợ nước
ngoài nhìn chung sẽ dẫn đến "nợ dư thừa" (debt overhang) và tạo ra "hiệu ứng chèn
lấn" (crowding out effect) trong đầu tư công tại các quốc gia khác nhau. Việc tích
lũy nợ lớn của các quốc gia đang phát triển sẽ cản trở quá trình tăng trưởng và lợi
nhuận đạt được từ tăng trưởng sẽ bị kìm hãm bởi các khoản nợ phải thanh toán,
nguồn dự trữ ngoại tệ giảm do được sử dụng để trả nợ sẽ ảnh hưởng đến khả năng
thanh toán làm giảm khả năng tiếp cận các nguồn lực tài chính bên ngoài từ đó có
những tác động bất lợi đến đến đầu tư.
3
Như vậy, thật khó để nói liệu nợ nước ngoài có tác động nghịch chiều hay
thuận chiều đến tăng trưởng kinh tế. Trên thực tế, việc nắm rõ sự tác động này
trong thực trạng cụ thể của nền kinh tế là hết sức cần thiết để hoạch định những
chính sách quản lý hoạt động vay nợ nước ngoài một cách có hiệu quả nhất.
Thấy được tầm quan trọng của vấn đề này, tác giả chọn đề tài "Nghiên cứu
tác động của nợ nước ngoài lên tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam'' làm luận văn tốt
nghiệp cho mình nhằm tìm ra câu trả lời cho các câu hỏi sau:
1. Liệu rằng có tồn tại hay không tồn tại mối quan hệ giữa nợ nước ngoài và tăng
trưởng kinh tế ở Việt Nam?
2. Mức độ tác động của mỗi biến đến tăng trưởng kinh tế là như thế nào trong ngắn
hạn và trong dài hạn?
Luận văn sẽ trả lời các câu hỏi trên và hi vọng đóng góp một phần hoàn thiện
trong việc nghiên cứu tác động nợ nước ngoài đến tăng trưởng kinh tế.
Bài viết đánh giá tác động của nợ nước ngoài lên tăng trưởng kinh tế và xác
định sự tồn tại của gánh nặng nợ ở Việt Nam với chuỗi dữ liệu thời gian từ năm
1986-2012. Người viết dựa vào nghiên cứu của tác giả Okonkwa, C.S & Odularu,
G.O.(2013) để xây dựng mô hình cho Việt Nam.
Bài nghiên cứu gồm năm phần:
Chương 1: Giới thiệu nội dung chính của bài viết và vấn đề cần nghiên cứu.
Chương 2: Trình bày khung lý thuyết và các kết quả nghiên cứu trước đây
của các tác giả trong và ngoài về tác động của nợ nước ngoài lên tăng trưởng kinh
tế.
Chương 3: Phương pháp nghiên cứu.
Chương 4: Các kết quả nghiên cứu thực nghiệm.
Chương 5: Kết luận và nêu ra các hạn chế của bài làm và đề xuất hướng
nghiên cứu tiếp theo.
Ngoài ra, luận văn còn có các phần phụ lục bao gồm những nội dung cần
thiết nhằm chi tiết hóa, minh họa và bổ trợ cho nội dung luận văn. Phụ lục được
xem như một phần không thể tách rời của luận văn.
4
CHƯƠNG 2: KHUNG LÝ THUYẾT CỦA ĐỀ TÀI VÀ TỔNG QUAN CÁC
NGHIÊN CỨU TRƯỚC ĐÂY
2.1 Khung lý thuyết và các quan điểm của các nhà kinh tế học trên
thế giới về mối quan hệ giữa nợ nước ngoài đối với tăng trưởng kinh tế:
Nợ nước nước ngoài gia tăng là do Chính phủ cần bù đắp cho thâm hụt ngân
sách, khi nguồn thu không đủ tài trợ cho nhu cầu đầu tư và chi tiêu công. Do đó, nợ
nước ngoài tăng cũng không ngoài mục tiêu nhằm ổn định và tăng trưởng kinh tế.
Nợ nước ngoài của quốc gia là số dư của mọi nghĩa vụ nợ hiện hành (không
bao gồm nghĩa vụ nợ dự phòng) về trả gốc và lãi tại một thời điểm của các khoản
vay nước ngoài của quốc gia. Hay nói cách khác, nợ nước ngoài là tổng số tiền mà
một quốc gia có trách nhiệm và bị ràng buộc phải thanh toán cho các chủ thể có
quyền sở hữu chính thức đối với khoản tiền đó. Các chủ thể trong quan hệ nợ là chủ
nợ và con nợ. Chủ nợ là người cho vay có trách nhiệm cung cấp các khoản tiền cho
người đi vay, có thể là một quốc gia, một tổ chức quốc tế, một doanh nghiệp hoặc
một cá nhân nước ngoài.
Tăng trưởng kinh tế là sự tăng thêm (hay gia tăng) về quy mô sản lượng của
nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định. Tăng trưởng kinh tế được phản ánh ở nhiều
chỉ tiêu nhưng chỉ tiêu thường được sử dụng là Tổng sản phẩm quốc nội (GDP),
tổng sản phẩm quốc dân (GNP), tổng thu nhập quốc dân (GNI), tốc độ tăng trưởng
GDP thực bình quân đầu người (real GDP per capita), tăng trưởng vốn, lao động,
sự gia tăng dung lượng thị trường...Sự tương tác giữa các bộ phận cấu thành GDP
như tiêu dùng nội địa, đầu tư, chi tiêu chính phủ và cán cân thương mại sẽ làm thay
đổi tốc độ tăng trưởng kinh tế.
Quá trình tăng trưởng thể hiện các nguồn lực tăng trưởng như tài nguyên
thiên nhiên, vốn, lao động, công nghệ, quản lý, quan hệ, thị trường... được khai thác
và sử dụng có hiệu quả cao nhất. Tăng trưởng kinh tế bao hàm cả tăng trưởng theo
chiều rộng và chiều sâu, số lượng và chất lượng, ngắn hạn và dài hạn...Nhiều công
trình nghiên cứu trong và ngoài nước đã lượng hoá tác động của các nguồn lực tăng
5
trưởng đến chất lượng và động thái tăng trưởng thông qua các mô hình như mô hình
tái sản xuất giản đơn của C.Mác, tái sản xuất mở rộng của V.I. Lênin, mô hình các
giai đoạn tăng trưởng kinh tế của W.Rostow hoặc Solow,...hoặc hàm sản xuất Cob
Douglas.
Quá trình tăng trưởng kinh tế có thể có nhiều mô hình khác nhau như tăng
trưởng kinh tế nội sinh, tăng trưởng kinh tế ngoại sinh hoặc sự kết hợp của cả hai
mô hình này tùy điều kiện và sự lựa chọn chiến lược của các quốc gia. Như vậy,
tăng trưởng kinh tế là quá trình tích luỹ giá trị gia tăng của một nền kinh tế từ các
nguồn lực trong và ngoài nước và nó phải được thúc đẩy bằng những động lực đủ
mạnh của chính sách hoặc những yếu tố khác trong điều kiện toàn cầu hoá và hội
nhập kinh tế quốc tế.
Nợ gia tăng là do Chính Phủ cần bù đắp cho thâm hụt ngân sách, khi nguồn
thu không đủ tài trợ cho nhu cầu đầu tư và chi tiêu công, do đó nợ tăng cũng không
ngoài mục tiêu nhằm ổn định và tăng trưởng kinh tế. Trên thực tế nợ nước ngoài gia
tăng luôn thúc đẩy tăng trưởng kinh tế hay không là một câu hỏi còn gây rất nhiều
tranh cãi. Đã có nhiều nghiên cứu lý thuyết và thực nghiệm xoay quoanh mối quan
hệ này, dưới đây tác giả trích dẫn một số quan điểm nổi bật của các nhà kinh tế học
trên thế giới về mối quan hệ giữa nợ nước ngoài và tăng trưởng kinh tế xoay quoanh
bốn trường phái: Nợ thúc đẩy tăng trưởng, Nợ kìm hãm tăng trưởng, Nợ vừa thúc
đẩy lại vừa kìm hãm tăng trưởng (tùy theo quy mô nợ), Nợ không tác động đến tăng
trưởng kinh tế.
2.1.1 Nợ nước ngoài thúc đẩy tăng trưởng kinh tế:
Các nghiên cứu lý thuyết về tác động của nợ trong ngắn hạn hầu hết đều cho
thấy mối quan hệ cùng chiều giữa nợ và tăng trưởng.
Elmendorf & Mankiw (1999), Frimpong et al (2006) cho rằng, trong ngắn
hạn, nợ có thể kích thích nhu cầu và sản lượng, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
2.1.2 Nợ nước ngoài kìm hãm tăng trưởng kinh tế:
Các nghiên cứu về nợ trong dài hạn hầu hết cho thấy mối quan hệ nghịch
biến giữa nợ và tăng trưởng kinh tế.
6
Các nghiên cứu của Fosu (1996) chỉ ra rằng có tồn tại một mối quan hệ
ngược chiều giữa nợ nước ngoài và tăng trưởng kinh tế ở các nước Cận Châu
Phi. Bằng cách sử dụng phương pháp bình phương bé nhất, nghiên cứu cho
thấy, hầu hết các nước có nợ cao đều giảm 1% tăng trưởng GDP hàng năm.
Nghiên cứu của Okonkwa, C.S & Odularu, G.O.(2013) cũng cho thấy nợ
nước ngoài tác động nghịch chiều đến tăng trưởng kinh tế ở cả 4 nước gồm Ivory
Coast, Gambia, Ghana và Senegal giai đoạn từ năm 1970 đến năm 2007.
Theo Benedict Clements và các cộng sự (2003), thanh toán nợ nước ngoài
cũng có khả năng ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế do làm giảm đầu tư tư nhân.
Khi các yếu tố khác không đổi, thanh toán nợ cao có thể làm tăng thâm hụt ngân
sách, giảm tiết kiệm công, điều này lần lượt có thể làm tăng lãi suất hoặc làm giảm
nguồn tín dụng sẵn có của đầu tư tư nhân từ đó làm giảm tăng trưởng kinh tế. Trả
nợ cao cũng có thể có những tác động bất lợi đến các thành phần của chi tiêu công
bằng cách siết chặt các nguồn lực sẵn có cho cơ sở hạ tầng làm ảnh hưởng không tốt
đến tăng trưởng kinh tế.
Savvides (1992) khẳng định rằng nếu một quốc gia có con nợ không thể trả
nợ nước ngoài thì sẽ ảnh hưởng đến tình hình kinh tế của đất nước. Quốc gia đó chỉ
được hưởng lợi một phần từ sự gia tăng sản lượng hoặc xuất khẩu bởi vì một phần
của sự gia tăng đó được dùng để thanh toán các món nợ cho các chủ nợ. Như vậy,
đối với quốc gia con nợ nói chung, nợ cao có thể làm giảm lợi nhuận để đầu tư và
không khuyến khích việc hình thành vốn trong nước, điều này có thể ảnh hưởng đến
tiết kiệm và đầu tư tư nhân, ngay cả khi các khoản nợ nước ngoài được vay bởi
Chính phủ. Chính phủ có ít động lực để tiến hành những chính sách thúc đẩy sự
hình thành nguồn vốn trong nước hoặc làm giảm tiêu dùng hiện tại để nền kinh tế
tăng trưởng cao trong tương lai và có thể trả nợ cao hơn.
2.1.3 Nợ nước ngoài vừa thúc đẩy vừa kìm hãm tăng trưởng kinh tế:
Các nhà kinh tế học vẫn còn tranh luận về tác động thuận chiều hoặc nghịch
chiều của nợ nước ngoài lên tăng trưởng kinh tế. Mặc dù, có thể thấy đa số đều kết
luận rằng có mối quan hệ ngược chiều giữa nợ nước ngoài và tăng trưởng, tuy nhiên
7
ở một mức độ nào đó, rõ ràng không thể phủ nhận vai trò của nợ trong việc bổ sung
nguồn vốn đầu tư quan trọng cho nền kinh tế cũng như bù đắp thiếu hụt trong chi
tiêu Chính phủ, đặc biệt đối với các nước đang phát triển, nghĩa là nợ nước ngoài
góp phần thúc đẩy kinh tế phát triển. Vậy phải chăng giữa nợ nước ngoài đã không
chỉ dừng lại ở mối quan hệ tuyến tính. với lập luận này, nhiều nhà nghiên cứu cũng
đã tìm kiếm và phát hiện ra bằng chứng về mối quan hệ phi tuyến giữa nợ nước
ngoài và tăng trưởng kinh tế.
Các lý thuyết kinh tế cho rằng mức vay nợ hợp lý ở các nước đang phát triển
sẽ kích thích tăng trưởng kinh tế. Các quốc gia ở giai đoạn phát triển đầu với dung
lượng vốn nhỏ hơn sẽ có những cơ hội đầu tư với tỷ suất hoàn vốn cao hơn so với
các nền kinh tế phát triển, mức nợ tích lũy cao quá mức hợp lý có thể dẫn tới tăng
trưởng kinh tế thấp hơn.
Một số nghiên cứu khác đã xem xét tác động của nợ nước ngoài đến tăng
trưởng kinh tế tại các nước phát triển. Hầu hết các nghiên cứu này đã được thúc đẩy
bởi giả thuyết "nợ dư thừa" - một tình huống mà khi gánh nặng nợ quốc gia trở nên
quá lớn, sẽ có một phần lớn sản lượng chỉ để dành chi trả cho các chủ nợ nước
ngoài và do đó tạo ra tác động không khuyến khích đầu tư. Pattillo và cộng sự
(2002) đã nghiên cứu trên một bộ dữ liệu của 93 nước đang phát triển trong giai
đoạn 1969 - 1998 và nhận thấy rằng ảnh hưởng của nợ nước ngoài lên tăng trưởng
GDP bình quân đầu người là ngược chiều với mức hiện giá thuần của nợ đạt trên 35
- 40% GDP. Tại mức nợ thấp, nợ gần như có tác động cùng chiều lên tăng trưởng
nhưng khi trên một ngưỡng nào đó hay thường gọi là một điểm ngoặt (turning
point), việc gia tăng thêm nợ bắt đầu gây tác động trái chiều lên tăng trưởng. Đồng
thời, sử dụng đường cong nợ Laffer để phản ánh tác động của nợ lên tăng trưởng.
8
Hình 1.1 Đường cong Laffer nợ
(Nguồn: Catherine Pattillo, Hélène Poirson and Luca Ricci, "External Debt and
Growth" (2002), IMF Working Paper Rearch Department)
Đường cong Laffer nợ cho thấy tổng nợ càng lớn sẽ đi kèm khả năng trả nợ
càng giảm. Đường cong nợ Laffer thể hiện rằng cùng phía bên trái, hoặc là mặt "tốt"
của đường cong, khi nghĩa vụ nợ gia tăng thì sẽ tương ứng với sự gia tăng khả năng
trả nợ, tuy nhiên, dọc theo mặt bên phải hay mặt "xấu" của đường cong nợ Laffer,
khi tổng nợ càng tăng lên sẽ dẫn đến khả năng trả nợ càng giảm. Đỉnh đường cong
Laffer nợ đã gợi ý điểm mà tại đó sự tăng lên trong tổng nợ bắt đầu tạo ra gánh
nặng cho đầu tư, cải tổ kinh tế và các hoạt động khác. Đây là điểm mà tại đó nợ bắt
đầu ảnh hưởng ngược chiều đến tăng trưởng. Vì vậy đỉnh của đường cong Laffer nợ
là mức độ nợ tối ưu mà một quốc gia có thể duy trì mà không phải lo ngại vấn đề
“nợ dư thừa”.
Mô hình "debt overhang" không trực tiếp phân tích ảnh hưởng của nợ nước
ngoài đến tăng trưởng kinh tế nhưng lại gợi ý rằng tổng nợ lớn sẽ kìm hãm tăng
trưởng và sẽ làm giảm đầu tư. Do đó, ở mức hợp lý, vay nợ tăng lên sẽ khuyến
khích tăng trưởng nhưng tổng nợ tích lũy lớn sẽ có thể cản trở tăng trưởng. Từ đó
có thể kết luận rằng nợ và tăng trưởng có mối liên hệ phi tuyến.
Lý thuyết “debt overhang” còn đi đến một kết quả rộng hơn, đó là mức nợ
nước ngoài quá cao sẽ làm giảm các ưu đãi của Chính phủ cho các hoạt động cải tổ
cơ cấu và tài khóa do việc củng cố tình hình tài khóa quốc gia có thể làm tăng áp
9
lực trả nợ nước ngoài. Những bất lợi này đối với công cuộc cải tổ đang là mối quan
ngại lớn ở các nước có thu nhập thấp, nơi mà việc cải cách cơ cấu là cần thiết để
duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế.
Các nghiên cứu cũng đã chỉ ra rằng nợ nước ngoài sẽ tác động cùng chiều
đến tăng trưởng cho đến một ngưỡng nợ nhất định, gọi là “threshold level”. Tuy
nhiên, khi vượt qua ngưỡng này, nợ bắt đầu tác động ngược chiều đến tăng trưởng.
Theo Cohen (1993), mối quan hệ giữa giá trị của nợ và đầu tư có thể được mô tả
tương tự với đường cong Laffer: Khi tổng nợ tăng cao hơn mức “threshold level”,
các khoản chi trả thực tế cho nợ nước ngoài sẽ giảm. Điều này hàm ý rằng sự tăng
lên trong giá trị của nợ sẽ làm cho số tiền chi trả cho nợ tăng lên đến mức
“threshold level”, tức là ở phía bên trái đường cong Laffer. Ngược lại, giá trị nợ
tăng lên thì số tiền thực dùng cho việc trả nợ của quốc gia đó giảm đi tương đối.
Các nghiên cứu cũng đã chỉ ra đó chính là mối liên hệ “threshold level” giữa
mức nợ nước ngoài và tăng trưởng kinh tế. Cụ thể, nợ nước ngoài có mối liên hệ
hình chữ U ngược với tăng trưởng kinh tế (hình 1.2). Khi các nước bắt đầu vay nợ,
các khoản nợ này có xu hướng thúc đẩy tăng trưởng (chuyển từ mức nợ 0 đến điểm
A trong hình 1.2). Khi tỷ lệ nợ tăng lên quá điểm A, việc vay nợ gia tăng sẽ cản trở
tăng trưởng mặc dù nợ đóng góp dương trong tăng trưởng. Do đó, điểm A được coi
là điểm biểu diễn "mức nợ tối đa hóa tăng trưởng". Khi nợ tiến đến điểm B, nợ bắt
đầu ảnh hưởng ngược chiều đến tăng trưởng, tình hình của nền kinh tế lúc này sẽ tồi
tệ hơn trước khi nước đó vay nợ.
10
Đóng góp của nợ vào tăng trưởng
sản lượng bình quân đầu người hàng
năm (%)
Hình 1.2 Mối liên hệ “threshold effect” giữa nợ và tăng trưởng.
Một số nghiên cứu thực nghiệm đã tìm ra các bằng chứng ủng hộ lý thuyết
“debt overhang”. Có không ít các bài nghiên cứu đã sử dụng kỹ thuật kinh tế lượng
để đánh giá ảnh hưởng trực tiếp của dung lượng nợ đến đầu tư. Trong đó, dung
lượng nợ được dự đoán sẽ gây ra cả những ảnh hưởng trực tiếp (qua việc cản trở các
ưu đãi để tiến hành cải cách cơ cấu) và gián tiếp (thông qua ảnh hưởng đến đầu tư).
Ở các nước có thu nhập trung bình, Warner (1992) kết luận rằng khủng hoảng nợ
không ảnh hưởng đến đầu tư, trong khi Chowdhury (2001) lại tìm ra các bằng
chứng ủng hộ cho lý thuyết “debt overhang”. Fosu (1999) trong bài nghiên cứu cho
55 nước Châu Phi cũng đã chứng minh sự tồn tại của lý thuyết “debt overhang”.
Đây là lý thuyết và quan điểm của các nhà kinh tế trên thế giới về nợ nước
ngoài và tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, để có cơ sở mở rộng và tìm hiểu về các tác
động của nợ nước ngoài đối với tăng trưởng kinh tế đồng thời làm căn cứ vận dụng
các nghiên cứu đó tại Việt Nam, tác giả sẽ tìm hiểu thêm một số công trình nghiên
cứu thực nghiệm về mối quan hệ giữa nợ nước ngoài và tăng trưởng kinh tế.
Kể từ nửa sau thập niên 90, các nhà làm chính sách trên thế giới đã nhận ra
mối liên hệ giữa việc mắc nợ nước ngoài cao trong nhiều nền kinh tế đang phát triển
với nguy cơ giới hạn sự tăng trưởng và phát triển ở các quốc gia này.
Were (2001) cũng đã đánh giá tác động của nợ nước ngoài đối với tăng
11
trưởng kinh tế và đầu tư tư nhân tại Kenya. Nghiên cứu sử dụng mô hình đầu
tư tăng trưởng dựa trên nghiên cứu của Elbadawi (1996) sử dụng dữ liệu chuỗi
thời gian từ năm 1970 đến năm 1995. Kết quả cho thấy nợ nước ngoài tác
động ngược chiều đến tăng trưởng kinh tế, vì vậy tồn tại vấn đề “nơ dư thừa"
(debt overhang) tại Kenya.
Folorunso S. Ayadi, Felix O.Ayadi (2008) nghiên cứu mối quan hệ giữa
nợ nước ngoài và tăng trưởng kinh tế ở Nigeria và Nam Phi cho thấy nợ nước
ngoài tác động ngược chiều với tăng trưởng kinh tế. Tại Nigeria, nợ nước
ngoài góp phần thúc đẩy tăng trưởng, nhưng sau đó nó tác động ngược chiều
với tăng trưởng. Xuất khẩu ít ảnh hưởng đến tăng trưởng ở Nigeria nhưng
cùng chiều với tăng trưởng kinh tế tại Nam Phi.
2.1.4 Nợ nước ngoài không tác động đến tăng trưởng kinh tế:
Trong nghiên cứu của Chowdhury (1994) lại cho thấy rằng không có tác
động đáng kể của nợ nước ngoài đối với tăng trưởng kinh tế. Nghiên cứu sử dụng
chuỗi dữ liệu thời kỳ 1970 đến 1988 đối với các nước Châu Á Thái Bình Dương
bao gồm: Bangladesh, Indonesia, Malaysia, Philippines, South Korea, Srilanka và
Thailand. Kết quả chỉ ra rằng nợ nước ngoài chỉ có tác động nhỏ đối với tổng sản
phẩm quốc dân (GNP). Adegbite và các cộng sự (2008) cũng không tìm thấy mối
quan hệ phi tuyến giữa nợ nước ngoài và tăng trưởng kinh tế ở Nigeria.
2.2 Các nghiên cứu của các nhà kinh tế học trên thế giới về tác động của
nợ nước ngoài đối với tăng trưởng kinh tế.
Tác giả nghiên cứu các công trình nghiên cứu thực nghiệm về mối quan hệ
giữa tác động của nợ nước ngoài lên tăng trưởng kinh tế tại các quốc gia trên thế
giới mang tính đại diện và có thể ứng dụng vào phân tích đối với Việt Nam. Tóm
lược các công trình nghiên cứu cụ thể như sau:
2.2.1 Nghiên cứu của Maureen Were (2001) “Tác động của nợ nước
ngoài đối với tăng trưởng kinh tế ở Kenya”.
Bài viết này xem xét cơ cấu nợ nước ngoài của Kenya và tác động của nó đối
với tăng trưởng kinh tế. Tác giả đã sử dụng bộ dữ liệu thời gian từ năm 1970-1995
12
để tiến hành các bước thực nghiệm.
Trong cơ cấu nợ nước ngoài của Kenya, những năm 1970, chủ yếu là nợ
song phương. Từ đầu năm 1980 trở đi, chủ yếu là nợ dài hạn khu vực công, nợ
đa phương chính thức. Kể từ đầu những năm 1990, tỷ lệ nợ nước ngoài trên GNP
rất cao 39% (1970-1980), 67% (1981-1990) và 89% (1991-1999). Tỷ lệ tăng trưởng
kinh tế bình quân 5,1% (1970-1980), 4.2% (1981-1990) và 2.3% (1991-1999). Tỷ lệ
nợ nước ngoài trên xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ bình quân 121% (1970-1980),
260% (1981-1990) và 268% (1991-1999).
Để đo lường các nhân tố tác động đến tăng trưởng kinh tế, tác giả đã sử
dụng phương pháp Dickey-Fuller (DF) và Augmented Dickey-Fuller (ADF) để
kiểm định tính dừng và không dừng (unit roots or non- stationary tests) của các
chuỗi thời gian sử dụng trong mô hình, và tiếp tục sử dụng phương pháp phân tích
đồng tích hợp (Cointegration) của Engle - Granger (1987) để đo lường các mối
quan hệ trong dài hạn giữa các biến (quan hệ đồng liên kết). Cuối cùng, tác giả sử
dụng mô hình điều chỉnh sai số ECM (Error Correction Model) để thực hiện khảo
sát mối quan hệ trong ngắn hạn giữa các biến vĩ mô. Từ đó, rút ra kết luận, nhận xét
và đề xuất.
Mô hình nghiên cứu:
. GRATE = a0 + a1DEDGDP + a2DDSR + a3FFDC + a4PINV +
a5DTOT + a6SER + a7INFL + a8GPUIV + a9DRER + u1t
. PINV = b0 + b1DEDGDP + b2DDSR + b3FFDC + b4DTOT + b5DINT +
b6SER + b7DRER + b8INFL + b9GRATE + b10GPUIV + u2t
Trong đó :
+ GRATE là tỷ lệ tăng trưởng GDP thực
+ Biến INT là tỷ lệ lãi suất
+ Biến EDGDP là tỷ lệ của nợ nước ngoài trên GDP
+ Biến DSR nợ phải trả trên giá trị xuất khẩu
+ Biến FFDC là tài trợ nước ngoài ròng bù đắp thâm hụt
+ Biến PINV tỷ lệ đầu tư tư nhân trên GDP
13
+ Biến TOT là các điều khoản thương mại
+ Biến SER tỷ lệ nhập học tiểu học như đào tạo phát triển nguồn nhân lực
+ Biến INFL là tỷ lệ lạm phát
+ Biến RER là tỷ giá hối đoái thực
+ Biến GPUIV là tỷ lệ đầu tư công trên GDP
Kết quả chỉ ra rằng, sự tích lũy nợ nước ngoài có tác động ngược chiều với
tăng trưởng kinh tế và đầu tư tư nhân. Điều này khẳng định sự tồn tại về vấn đề
gánh nặng nợ ở Kenya. Tuy nhiên, kết quả cũng cho thấy dòng vốn nợ hiện tại kích
thích đầu tư tư nhân. Việc thanh toán nợ không thể hiện tác động âm đến tăng
trưởng nhưng có một vài “hiệu ứng chèn lấn” đối với đầu tư tư nhân.
Nguyên nhân gia tăng nợ nước ngoài ở Kenya có thể được truy nguồn từ cả
yếu tố bên trong và bên ngoài. Yếu tố nội bộ chủ yếu là qua chính sách mở rộng tài
khóa và chính sách thương mại bị bóp méo, đặc biệt là các chính sách hạn chế xuất
khẩu. Các yếu tố bên ngoài bao gồm sự suy giảm về thương mại dẫn đến thâm hụt
cán cân thanh toán, tỷ lệ lãi suất cao trên thế giới và chủ nghĩa bảo hộ gia tăng bởi
các nước phát triển có xu hướng phân biệt đối xử chống lại xuất khẩu ở nước kém
phát triển. Ngoài những yếu tố này, tình trạng hạn hán cũng đã góp phần vào gánh
nặng nợ nước ngoài tại Kenya.
Bằng cách sử dụng mô hình hiệu chỉnh sai số, kết quả cho thấy vấn đề nợ dư
thừa thể hiện ở cả hai phương trình. Trong phương trình đầu tư tư nhân, nợ nước
ngoài khuyến khích đầu tư tư nhân, trong khi đó việc tích lũy nợ ngăn cản đầu tư.
Có vài “hiệu ứng lấn át” được thể hiện trong mô hình, đó là kết quả liên quan đến
việc thanh toán các khoản nợ phải trả nước ngoài. Nhưng việc thanh toán nợ không
tương quan âm đến tăng trưởng kinh tế. Tỷ lệ trả nợ ở Kenya được coi là tương đối
thấp so với những nước nghèo (HIPCs) có thu nhập thấp khác. Nhìn chung, kết quả
nghiên cứu hỗ trợ cho lập luận nợ nước ngoài vẫn ảnh hưởng trực tiếp đến tăng
trưởng kinh tế thậm chí nếu đầu tư không bị những tác động bất lợi.
Những nỗ lực giải quyết cuộc khủng hoảng nợ nước ngoài đã không có kết
quả. Kenya đã không thể đạt được mục tiêu trở thành một nước công nghiệp hóa
14
vào năm 2020 mà không có sự hỗ trợ tài chính từ bên ngoài. Kết quả này là sự hỗ
trợ cần thiết cho Kenya để được xem xét các biện pháp giảm nợ toàn diện. Việc đạt
được đồng thời nợ nước ngoài và tăng trưởng kinh tế bền vững thật sự khó đạt được
nếu các biện pháp khả thi không được thực hiện. Chính phủ có thể đóng vai trò
quan trọng trong việc kích thích nền kinh tế nếu các nguồn lực thu được từ các
khoản giảm nợ được chú trọng vào đầu tư công một cách hiệu quả thông qua việc
Chính phủ mở rộng khu vực sản xuất tư nhân không những không gây ra sự chèn
lấn cho đầu tư tư nhân mà còn có tác dụng kích thích hiệu ứng đầu tư cùng chiều.
2.2.2 Nghiên cứu của Frimpong, J.M.and Oteng-Abayi,E.F. (2006), “Tác
động của nợ nước ngoài đến tăng trưởng kinh tế ở Ghana. Một nghiên cứu
thực nghiệm”
Trọng tâm của nghiên cứu này là đánh giá tác động của nợ nước ngoài đến
tăng trưởng kinh tế của Ghana. Tác giả đã sử dụng bộ dữ liệu thời gian từ năm
1970-1999, để tiến hành các bước thực nghiệm.
Những năm của thập niên 80, Ghana phải đối mặt với một vấn đề nợ rất
nghiêm trọng, các khoản thanh toán nợ nước ngoài là 577.000.000 USD (114%
GDP) vào cuối năm 1982. Cuộc khủng hoảng nợ này là do sự tăng vọt giá dầu trên
thị trường quốc tế, và việc tăng lãi suất cho vay ở các nước phương Tây, trong bối
cảnh các chính sách kinh tế và quản lý kinh tế trong nước yếu kém. Vào cuối năm
2000, nợ của Chính phủ Ghana và nợ bảo lãnh đã lên đến 6 tỷ USD, chiếm khoảng
571% của doanh thu tài chính, 157% xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ và 78% của
GDP.
Tình trạng nợ nước ngoài của Ghana cũng giống như các nước HIPC hay
Sub Sahara, quốc gia pha trộn bởi đói nghèo, cơ cấu kinh tế yếu kém, là một nước
có lịch sử khó khăn về trả nợ và đã được nhóm nước G8 xóa nợ vào tháng 7 năm
2005. Tỷ lệ về nợ nước ngoài trên GDP rất cao chỉ ra rằng Ghana đứng trước nguy
cơ của việc tích lũy nợ, có thể là không bền vững trong dài hạn. Xu hướng này nếu
không được kiểm soát có thể khiến Ghana lâm vào một cuộc khủng hoảng nợ, có
thể làm cho đất nước bị rủi ro về tài chính nghiêm trọng.
15
Để đo lường các nhân tố tác động đến tăng trưởng kinh tế trong mô hình
thực nghiệm, tác giả đã sử dụng phương pháp Augmented Dickey-Fuller (ADF),
Phillips-Perron (PP) và KPSS để kiểm nghiệm đơn vị và tiếp tục sử dụng phương
pháp phân tích đồng tích hợp (Co-integration) của Johansen-Juselius để đo lường
các mối quan hệ trong dài hạn giữa các biến (quan hệ đồng liên kết). Cuối cùng, tác
giả sử dụng mô hình điều chỉnh sai số VECM (Vector Error Correction Model) để
thực hiện khảo sát mối quan hệ động trong ngắn hạn giữa các biến vĩ mô. Từ đó, rút
ra kết luận và nhận xét đề xuất. Mô hình cụ thể như sau:
Yt = α0 + α1 lnEDTt + α2 lnTDSt + α3 lnINVt + α4 lnFDIt + α5 EXPt + εt
Trong đó :
+ Biến Y là biến phụ thuộc đại diện cho mức tăng trưởng kinh tế;
+ Biến EDT là tỷ số giữa tổng số nợ nước ngoài trên GDP;
+ Biến FDI là tỷ lệ đầu tư trực tiếp nước ngoài trên GDP;
+ Biến INV là tỷ lệ đầu tư trong nước trên GDP;
+ Biến TDS là tỷ lệ nợ phải trả trên xuất khẩu (%)
+ Biến EXP là chỉ tiêu đại diện cho biến đo lường độ mở của nền kinh tế (%)
Kết quả thực nghiệm cho thấy trong dài hạn, dòng nợ nước ngoài (EDT), nợ
phải trả (TDS) và đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) ảnh hưởng đến tăng trưởng
GDP. Sự gia tăng dòng vốn nợ nước ngoài thúc đẩy tăng trưởng GDP. Tuy nhiên,
sự gia tăng nợ phải thanh toán làm giảm tăng trưởng kinh tế và có bằng chứng cho
thấy có sự tồn tại của “hiệu ứng lấn át” ở Ghana. Bên cạnh đó, vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài (FDI) tác động cùng chiều và có ý nghĩa đối với tăng trưởng GDP.
Trong khi đó, đầu tư trong nước ở mức thấp không thể thúc đẩy được tăng trưởng
kinh tế. Kết quả thực nghiệm của mô hình VECM cũng cho thấy, trong ngắn hạn
vẫn tồn tại vấn đề “nợ dư thừa” ở Ghana thông qua biến đầu tư trong nước cho thấy
nó có ý nghĩa thống kê và ngược chiều với tăng trưởng kinh tế. Tăng trưởng GDP
giảm khi nợ phải trả tăng.
16
2.2.3 Nghiên cứu của Shahnawaz Malik, Muhammad Khizar Hayat và
Muhammad Umer Hayat (2010) “Nợ nước ngoài và tăng trưởng kinh tế.
Nghiên cứu thực nghiệm từ Pakistan”
Trọng tâm của nghiên cứu này là khám phá mối quan hệ giữa nợ nước ngoài
và tăng trưởng kinh tế ở Pakistan cho giai đoạn năm 1972 đến năm 2005, từ đó
đưa ra những nhận xét và khuyến nghị về nợ nước ngoài của Pakistan.
Mặc dù, tình hình chính trị thường xuyên bất ổn nhưng Pakistan có tốc độ
tăng trưởng kinh tế rất cao. Tuy nhiên, Pakistan lại thường xuyên phải đối mặt với
vấn đề nghiêm trọng trong cán cân thanh toán do thâm hụt ngân sách. Để giải
quyết thâm hụt cán cân thanh toán quốc gia họ đã dựa vào nợ nước ngoài. Do quá
phụ thuộc vào nguồn lực bên ngoài và không kiểm soát được nguồn vốn vay,
Ngân hàng Thế giới đã phân loại Pakistan là quốc gia mắc nợ nghiêm trọng của
Nam Á vào năm 2001. Nợ nước ngoài của Pakistan bình quân trên 50% GDP.
Pakistan đã được sắp xếp lại nợ nước ngoài hai lần giữa năm 1998 và 2001 bởi vì
nước này không thể trả nợ nước ngoài. Trong đó nợ nước ngoài năm 1972-1973 là
4.385 triệu USD đã tăng lên 29.630 triệu USD (năm 2005-2006) cho thấy một sự
gia tăng liên tục nợ nước ngoài. Trong nghiên cứu này tác giả sử dụng mô hình như
sau:
GDP = α0 + α1 ED + α2 DS + ut
Trong đó :
+ Biến GDP là biến phụ thuộc đại cho tổng sản phẩm quốc nội ;
+ Biến ED là biến tổng nợ nước ngoài
+ Biến DS là biến nợ phải trả.
Để đo lường các nhân tố tác động đến tăng trưởng kinh tế trong mô hình
thực nghiệm, tác giả đã sử dụng phương pháp Augmented Dickey-Fuller (ADF) để
kiểm định tính dừng và không dừng (unit roots or non-stationary tests) của các
chuỗi thời gian sử dụng trong mô hình thực nghiệm. Sau đó, áp dụng phương pháp
bình phương bé nhất (OLS) để hồi qui mô hình. Từ đó đưa ra kết luận, nhận xét và
đề xuất.
17
Kết quả thực nghiệm cho thấy: Nợ nước ngoài tác động ngược chiều đến
tăng trưởng kinh tế. Bằng chứng cho thấy khi tăng nợ nước ngoài là nguyên nhân
chính của suy giảm trong đầu tư sẽ dẫn đến suy giảm tăng trưởng kinh tế. Nợ phải
trả cũng đã tác động ngược chiều đến tăng trưởng kinh tế.
Tình trạng nợ nước ngoài tác động ngược chiều đến tăng trưởng kinh tế của
Pakistan là do Pakistan đang phải đối mặt với nhiều vấn đề như bất ổn chính trị,
khủng bố, dẫn đến công tác quản lý nợ của Chính phủ quá yếu kém, trong khi chi
tiêu công quá lớn không kiểm soát được, phải chấp thuận các điều kiện không thuận
lợi từ WB và IMF. Cuối cùng Pakistan phải thu hẹp hoạt động thương mại để tiết
kiệm cán cân thanh toán đáp ứng nghĩa vụ nợ của đất nước.
2.2.4 Nghiên cứu của Sulaiman, L.A và Azeez, B.A (2012) "Tác động của
nợ nước ngoài đến tăng trưởng kinh tế ở Nigeria"
Bài nghiên cứu này sử dụng mô hình hồi quy tuyến tính, đại diện là tổng sản
phẩm quốc nội (tăng trưởng GDP) là biến phụ thuộc để tính toán tăng trưởng kinh tế
và các biến nợ nước ngoài (EXD), tỉ lệ nợ nước ngoài so với xuất khẩu (EXD/X),
lạm phát (INF) và tỉ giá (EXR) là biến độc lập. Dữ liệu hàng năm thu thập từ Ngân
hàng trung ương của Nigeria và Văn phòng quản lý nợ từ năm 1970 đến năm 2010.
Nghiên cứu sử dụng phương pháp bình phương nhỏ nhất (OLS), phương pháp kiểm
định nghiệm đơn vị (ADF), kiểm định đồng liên kết Johansen và phương pháp hiệu
chỉnh sai số (ECM).
Mô hình cụ thể như sau:
GDP = B0 + B1 EXD + B2 EXD/X + B3INF + B4EXR + e
Trong đó:
Biến GDP: Tăng trưởng kinh tế (%)
Biến EXD: Nợ nước ngoài
e: Phần dư nước ngoài/GDP (%)
Biến EXD/X: Tỷ lệ nợ nước ngoài / XK (%)
Biến INF: Lạm phát (%)
EXR: Tỷ giá hối đoái
18
B0 : Hằng số
B1 – B4: Hệ số các biến
Nghiên cứu đưa ra kết quả, nợ nước ngoài tác động ngược chiều đến tăng
trưởng kinh tế. Tỉ lệ của nợ nước ngoài so với xuất khẩu, lạm phát và tỉ giá hối đoái
tác động cùng chiều đến tăng trưởng kinh tế ở Nigeria.
Phương pháp kiểm định đồng liên kết (Johansen) cho thấy có sự cân bằng
giữa các biến nói trên trong dài hạn. Phương pháp hiệu chỉnh sai số (ECM) cho thấy
trong ngắn hạn nợ nước ngoài có mối quan hệ cùng chiều nhưng không đáng kể đến
tăng trưởng kinh tế của Nigeria.
2.2.5 Nghiên cứu của Okonkwa, C.S & Odularu, G.O. (2013): "Mối
quan hệ giữa nợ nước ngoài, gánh nặng nợ và tăng trưởng kinh tế: Nghiên cứu
thực nghiệm và bài học chính sách từ các nước Tây Phi"
Trọng tâm của nghiên cứu này là đánh giá tác động của nợ nước ngoài đến
tăng trưởng kinh tế của các nước Tây Phi, bao gồm Ivory Coast, Gambia, Ghana và
Senegal. Tác giả đã sử dụng bộ dữ liệu thời gian từ năm 1970 đến năm 2007 để tiến
hành các bước thực nghiệm.
Nghiên cứu này ban đầu sử dụng mô hình tự hồi quy vector VAR. Đây là
một hệ thống đa biến gồm nhiều phương trình (mô hình hệ phương trình) và có các
độ trễ của các biến số. VAR là mô hình động của một số biến thời gian. Khi sử
dụng mô hình VAR không cần xác định biến nào là biến nội sinh và biến nào là
biến ngoại sinh, nhưng phương pháp này cho thấy mối quan hệ giữa nợ nước ngoài
và tăng trưởng thật khó để xác định dựa trên thông tin chứa đựng trong các biến để
từ đó suy luận ra những tác động đồng thời. Do đó, tác giả chuyển qua sử dụng
phương trình tuyến tính đơn dựa trên kỹ thuật đồng tích hợp của Engle - Granger
hai bước (1987) để giải thích trong ngắn hạn. Bằng cách làm này, tác giả đã đánh
giá trực tiếp tác động của nợ nước ngoài bằng cách quan sát các tác động đồng thời
của các nhân tố nợ đối với tăng trưởng kinh tế.
Hầu hết các nghiên cứu đều sử dụng mô hình tăng trưởng tân cổ điển đưa
thêm nhiều nhân tố khác như nợ và xuất khẩu là các biến không được đưa thêm vào
19
trong mô hình tăng trưởng tân cổ điển truyền thống. Nghiên cứu sử dụng mô hình
tăng trưởng nội sinh, các biến nợ được lựa chọn là các biến chính để đánh giá GDP
thực.
Trong bài, tác giả sử dụng mô hình bán logarit tuyến tính do chuỗi dữ liệu đầu
tư trực tiếp nước ngoài ròng trong số bốn nước chọn nghiên cứu có số âm nên tác giả
không thể lấy log của biến này. Mô hình cụ thể như sau: lnRYPCt = α0 + α1,s∑k
s=1FDIYit-s + α2,s∑k
s=1lnEXDYit-s +
α3,s ∑k
s=1lnGDIYit-s + α4,s ∑k
s=1lnTDSEit-s + εit
Trong đó :
* Biến phụ thuộc:
+ RYPC: Tăng trưởng thu nhập bình quân đầu người thực, là biến đại diện cho
mức tăng trưởng kinh tế (real GDP per capita);
* Biến độc lập:
+ Biến FDI là tỷ lệ đầu tư trực tiếp nước ngoài trên GDP (%);
+ Biến EXDY là tỷ số giữa tổng số nợ nước ngoài trên GDP (%);
+ Biến GDIY là tỷ lệ tổng ngạch đầu tư quốc nội trên GDP (%);
+ Biến TDSE là tỷ lệ nợ phải trả trên xuất khẩu (%);
+ Biến εit: Sai số
Kết quả kiểm định nghiệm đơn vị cho thấy các biến đều dừng tại kỳ sai
phân bậc 1. Dựa theo cách kiểm định độ trễ tối ưu, tác giả đã xem xét kỹ lưỡng
kết quả dựa trên mỗi độ trễ và lựa chọn độ trễ 1 thể hiện phù hợp với dữ liệu
nghiên cứu. Kiểm định đồng liên kết của Johansen thể hiện có ít nhất 1 vector
đồng liên kết trong mô hình nghiên cứu, điều này hàm ý rằng tồn tại mối quan hệ
cân bằng dài hạn. Để giải thích mối quan hệ giữa nợ nước ngoài và tăng trưởng
kinh tế trong dài hạn, tác giả sử dụng phương trình chuẩn hóa đồng liên kết. Tuy
nhiên, kết quả cho thấy trong dài hạn nợ nước ngoài không tác động đến tăng
trưởng kinh tế. Do đó, tác giả thực hiện kiểm định mô hình hiệu chỉnh sai số
ECM để đánh giá tác động trong ngắn hạn.
Tác giả dự tính xây dựng mô hình hiệu chỉnh sai số VECM bao gồm phần
20
hiệu chỉnh sai số ECT thực hiện tốc độ điều chỉnh phần nhiễu trong dài hạn tương
ứng với số vector của mô hình. Kết quả của VECM cho thấy có quá nhiều biến
không có ý nghĩa thống kê. Mô hình VAR không đánh giá các tác động đồng
thời. Hiểu được vấn đề này, tác giả đã xử lý với kỹ thuật đồng tích hợp của Engle
- Granger hai bước để tìm ra phần hiệu chỉnh sai số. Phương pháp này giống như
VECM nhưng thay vì đánh giá một phương trình vector thì đánh giá ECM bằng
phương trình đơn để đánh giá mối quan hệ trong ngắn hạn. Để làm điều này, tác
giả thực hiện kiểm định nghiệm đơn vị phần dư ADF theo phương pháp Engle -
Granger hai bước (1987). Kết quả cho thấy phần dư là chuỗi dừng thể hiện tồn tại
sự cân bằng trong dài hạn giữa các biến trong mô hình nghiên cứu.
Mô hình hiệu chỉnh sai số (phương trình tuyến tính đơn) cho thấy tác động
ngắn hạn đối với biến phụ thuộc. Mô hình cụ thể như sau:
∆lnRYPCt = α0 + α1,s∑k
s=0∆lnRYPCit-s+ α2,s∑k
s=0∆lnFDIYit-s +
α3,s∑k
s=0∆lnGDIYit-s +
s=0∆lnEXDYit-s + α4,s∑k α5,s∑k
s=0∆lnTDSEit-s + ECTt-1 + εit
ECTt-1(error correction term) là biến điều chỉnh sai số
Kết quả mô hình ECM cho thấy, trong ngắn hạn:
- Biến đầu tư trực tiếp nước ngoài thể hiện các tác động hỗn hợp đối với
các nước liên quan. Đầu tư trực tiếp nước ngoài khuyến khích biến đổi công nghệ
góp phần thúc đẩy tăng trưởng. Đối với một vài nước, biến này có ý nghĩa thống
kê thậm chí lên đến 2 bước trễ (Gambia). Việc thay đổi dấu từ âm sang dương
trong thời kỳ trễ, có thể thấy Gambia đã không nhanh chóng thu hút ủng hộ đầu
tư trực tiếp nước ngoài.
- Biến nợ nước ngoài trên GDP hầu như là ngược chiều với tăng trưởng
kinh tế ở tất cả các nước.
- Biến đầu tư trong nước trên GDP tương quan dương đối với tăng trưởng
kinh tế, ngoại trừ Senegal thể hiện ngược chiều, dường như không có ý nghĩa
thống kê. Mặc dù trong nghiên cứu không phân biệt giữa đầu tư công và đầu tư tư
nhân nhưng đầu tư trong nước nhìn chung cùng chiều với tăng trưởng thu nhập
21
bình quân đầu người, riêng Senegal có quan hệ ngược chiều với tăng trưởng kinh
tế và không có ý nghĩa thống kê. Do đó, nghiên cứu chỉ ra là không thể có một
suy luận chung của đầu tư trong nước đối với tăng trưởng kinh tế.
- Biến nợ phải trả trên xuất khẩu thể hiện tương quan âm ở Cote d'Ivoire và
Gambia và thể hiện mối tương quan dương ở nước Ghana và Senegal.
- Hệ số ECT có ý nghĩa thống kê ở Gambia, Ghana và Senegal, riêng Cote
d'Ivoire hệ số này không có ý nghĩa thống kê, điều này ngụ ý rằng không có bất
kỳ đồng liên kết nào trong số các biến ở Cote d'Ivoire.
2.3 Các nghiên cứu của các tác giả trong nước về mối quan hệ giữa nợ
nước ngoài và tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam:
2.3.1 Nghiên cứu của Lâm Xiêm Dung (2011) "Tác động của nợ công đối
với tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam"
Dựa theo bài nghiên cứu của hai tác giả Folorunso S.Ayadi and Felix
O.yadi (2011), bài viết đã sử dụng số liệu nợ nước ngoài để phân tích tác động
của nợ công đối với tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam giai đoạn 1991 đến năm
2009 thông qua những kênh truyền dẫn trung gian làm biến độc lập bao gồm: Tỷ
lệ tăng trưởng xuất khẩu, tỷ lệ tăng trưởng vốn, tỷ lệ thanh toán nợ trên GDP
thực, quy mô nợ nước ngoài đối với GDP thực, tỷ lệ đầu tư trên GDP thực và một
biến phụ thuộc là tỷ lệ tăng trưởng thực hàng năm. Mô hình thực nghiệm được
xây dựng như sau:
- Mô hình hồi quy tổng quát PRM:
Yi = β1 + β2 EXPOi + β3 GCAPi + β4 DSERGDPi + β5 DEBGDPi + β6
GFIGDPi + ui
- Hàm hồi quy tổng thể PRF:
E(Y/EXPOi, GCAPi, DSERGDPi, DEBGDPi, GFIGDPi, GFIGDPi)
Trong đó:
Yi : Tỷ lệ tăng trưởng thực hàng năm
EXPOi : Tỷ lệ tăng trưởng xuất khẩu
GCAPi : Tỷ lệ tăng trưởng vốn
22
DSERGDPi : Tỷ lệ thanh toán nợ trên GDP thực
DEBGDPi : Quy mô nợ nước ngoài đối với GDP thực
GFIGDPi : Tỷ lệ đầu tư trên GDP thực
Bài viết sử dụng 19 quan sát (1991 – 2009) quan sát thứ i có 6 giá trị ứng với
tỷ lệ tăng trưởng thực hàng năm (Yi), tỷ lệ tăng trưởng xuất khẩu (EXPOi), tỷ lệ
tăng trưởng vốn (GCAPi), tỷ lệ thanh toán nợ trên GDP thực (DSERGDPi), quy mô
nợ nước ngoài đối với GDP thực (DEBGDPi), tỷ lệ đầu tư trên GDP thực
(GFIGDPi).
Hàm hồi quy mẫu SRF được xây dựng từ 19 quan sát này có dạng:
Tuy nhiên, sau khi thực hiện chạy mô hình và tiến hành kiểm định sự có mặt
của biến không cần thiết là biến GCAPi (tỷ lệ tăng trưởng vốn) và biến GFIGDi (tỷ
lệ đầu tư trên GDP thực). Điều này cũng đồng nghĩa với việc mô hình đã bỏ bớt
2.63% giải thích sự biến động của tỷ lệ tăng trưởng thực hàng năm. Như vậy, mô
hình còn lại có 3 biến giải thích cho biến Yi (tỷ lệ tăng trưởng thực hàng năm) với
độ tin cậy 89%, đó là các biến EXPOi (tỷ lệ tăng trưởng xuất khẩu), DSERGDPi (tỷ
lệ thanh toán nợ trên GDP thực) và DEBGDPi (quy mô nợ nước ngoài đối với GDP
thực).
Đồng thời với 3 biến được chọn, bài viết đã thực hiện kiểm định các khuyết
tật của mô hình và thu được kết quả tốt như mô hình không có hiện tượng đa cộng
tuyến, không có hiện tượng tự tương quan và không xảy ra hiện tượng phương sai
thay đổi.
Từ kết quả hồi quy của mô hình đã điều chỉnh, có thể kết luận tỷ lệ tăng
trưởng kinh tế thực có mối quan hệ đồng biến với tỷ lệ tăng trưởng xuất khẩu và
quy mô nợ nước ngoài trên GDP thực, bởi sự tác động dương của những yếu tố này
lên tăng trưởng kinh tế, trong đó sự tác động của quy mô nợ nước ngoài trên GDP
thực được xem là không đáng kể khi hệ số của nó thu được từ mô hình ước lượng là
23
0.001356. Đối với tỷ lệ thanh toán nợ/GDP thực có hệ số thu được từ mô hình là -
3.845316 thì mối quan hệ của nó với tỷ lệ tăng trưởng kinh tế thực là nghịch biến,
điều này có ý nghĩa là tỷ lệ thanh toán nợ/GDP thực đã tác động âm một cách mạnh
mẽ lên tỷ lệ tăng trưởng kinh tế thực của Việt Nam.
2.3.2 Nghiên cứu của Đoàn Ngọc Châu (2012) "Tác động của nợ nước
ngoài đến tăng trưởng kinh tế của Việt Nam"
Dựa vào nghiên cứu của tác giả Sulaiman L.A và Azeer B.A (2012) ở
Nigeria. Mô hình nghiên cứu có dạng cụ thể như sau:
GDP = B0 + B1EXD + B2EXD/X + B3INF + B4EXR + e
Trong đó:
Biến GDP: Tăng trưởng kinh tế (%)
Biến EXD: Nợ nước ngoài/GDP (%)
Biến EXD/X: Tỷ lệ nợ nước ngoài / XK (%)
Biến INF: Lạm phát (%)
EXR: Tỷ giá hối đoái
B0 : Hằng số
B1 – B4: Hệ số các biến độc lập
e: Phần dư
Nghiên cứu sử dụng:
- Phương pháp kiểm định nghiệm đơn vị (ADF), phương pháp đồng liên kết
Engle – Granger
- Phương pháp bình phương bé nhất (OLS)
- Mô hình hiệu chỉnh sai số (ECM)
Dữ liệu thu thập từ Ngân hàng thế giới World Bank (WB), Ngân hàng phát
triển Châu Á (ADB), Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam giai đoạn từ năm 1986 đến
năm 2011.
Mô hình giả định biến tăng trưởng kinh tế là biến phụ thuộc trong khi các
biến nợ nước ngoài/GDP, tỷ lệ nợ nước ngoài/XK, Lạm phát và Tỷ giá hối đoái đại
diện cho các biến độc lập.
24
Theo kết quả nghiên cứu, các biến nợ nước ngoài, nợ nước ngoài/XK và lạm
phát đã giải thích được khoảng 58.7% thay đổi của biến tăng trưởng kinh tế trong
giai đoạn nghiên cứu từ 1986 đến năm 2011. Các biến này cũng đều có quan hệ cân
bằng dài hạn với tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam qua các năm.
Nghiên cứu cho thấy nợ nước ngoài tác động dương đến tăng trưởng kinh tế
tại Việt Nam, nó đóng vai trò quan trọng đối với quá trình phát triển kinh tế của đất
nước như nợ nước ngoài đã tác động dương đối với xuất khẩu của nền kinh tế.
Trong khi đó, lạm phát tác động âm đến tăng trưởng kinh tế. Điều này ngụ ý rằng
vay nợ nước ngoài đã làm cho chi tiêu của Chính phủ tăng lên do đó làm tăng tỷ lệ
lạm phát trong nền kinh tế là do phần lớn số nợ nước ngoài dùng để chi cho đầu tư.
Trong ngắn hạn, nợ nước ngoài có tác động ngược chiều đến tăng trưởng
kinh tế ở thời điểm hiện tại. Khi nợ nước ngoài tăng 1% thì tăng trưởng kinh tế sẽ
giảm một khoảng gần bằng 0.019%. Chính phủ cần phải kìm chế lạm phát, ổn định
kinh tế vĩ mô, đặc biết tái cấu trúc đầu tư công, tiết giảm chi phí, đảm bảo chất
lượng các công trình đầu tư công đạt hiệu quả hơn để nâng cao khả năng hấp thu nợ
nước ngoài nhằm duy trì tăng trưởng kinh tế ở mức hợp lý.
2.3.3 Nghiên cứu của Nguyễn Thị Song Hoanh (2012) "Tác động của nợ
nước ngoài đối với tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam"
Luận văn sử dụng phương pháp bình phương nhỏ nhất (OLS) để chạy hồi
quy tuyến tính nhằm đo lường tác động tuyến tính và phi tuyến tính của nợ nước
ngoài lên tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam dựa theo công trình nghiên cứu của
Catherine Pattillo, Hèlene Poirson và Luca Ricci (2002).
Mô hình cụ thể như sau:
Mô hình dạng tổng quát thứ nhất: Yi = i + Xi + Di + ui
Trong đó, ui là sai số. Ký hiệu (i) tương ứng với biến giải thích cho từng thời
kỳ.
* Biến phụ thuộc:
Yi: là tốc độ tăng trưởng GDP bình quân đầu người thực đại diện cho tăng
trưởng kinh tế tại Việt Nam.
25
* Biến độc lập:
Xi: Tỷ lệ đầu tư trên GDP (INVESTi), độ mở của nền kinh tế (OPENi), cán
cân ngân sách trên GDP (FISBALi)
Di: Các chỉ tiêu nợ gồm Nợ nước ngoài so với GDP (DEBTGDPi), Tỷ lệ
thanh toán nợ trên xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ (DEBTSERXi).
Mô hình nghiên cứu cụ thể:
Yi = a0 + a1 lnINVEST + a2OPENi + a3FISBALi + a4DEBTSERXi +
a5lnDEBTGDPi + ui
Mô hình dạng tổng quát thứ hai: Yi = i + Xi + Di + D2
i + ui
Trong đó, ui là sai số. Ký hiệu (i) tương ứng với biến giải thích cho từng thời
kỳ.
* Biến phụ thuộc:
Yi: là tốc độ tăng trưởng GDP bình quân đầu người thực đại diện cho tăng
trưởng kinh tế tại Việt Nam.
* Biến độc lập:
Xi: Độ mở của nền kinh tế (OPENi), cán cân ngân sách trên GDP (FISBALi)
Di: Các chỉ tiêu nợ gồm Nợ nước ngoài so với GDP (DEBTGDPi), Tỷ lệ
thanh toán nợ trên xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ (DEBTSERXi).
Mô hình nghiên cứu cụ thể:
Yi = 0 + 1OPENi + 2FISBALi + 3DEBTSERXi + 4lnDEBTGDPi +
i + ui
5lnDEBTGDP2
Nghiên cứu cho thấy nợ nước ngoài tác động đến tăng trưởng kinh tế của
Việt Nam. Khi tỷ lệ nợ nước ngoài trên GDP tăng 1% thì tốc độ tăng trưởng thu
nhập bình quân đầu người tăng 0.040055% và ngược lại khi tỷ lệ nợ nước ngoài
trên GDP giảm 1% thì tốc độ tăng trưởng thu nhập bình quân đầu người giảm
0.040055%. Tồn tại mối quan hệ phi tuyến giữa nợ nước ngoài và tăng trưởng kinh
tế thể hiện thông qua việc khi nợ nước ngoài chưa vượt qua mức ngưỡng, nợ có tác
động cùng chiều đối với tăng trưởng kinh tế nhưng khi nợ nước ngoài tăng và vượt
qua mức ngưỡng thì nợ nước ngoài có tác động ngược chiều với tăng trưởng kinh tế
26
thông qua việc sử dụng phương trình bậc hai gồm cả chỉ tiêu nợ nước ngoài so với
GDP và chỉ tiêu nợ nước ngoài bình phương so với GDP trong phương trình hồi
quy, hệ số của chỉ tiêu nợ nước ngoài so với GDP mang dấu dương tuy nhiên chỉ
tiêu nợ nước ngoài bình phương so với GDP lại mang dấu âm. Điều này thể hiện tác
động ngược chiều của nợ nước ngoài đối với tăng trưởng kinh tế khi nợ nước ngoài
tăng và vượt qua mức ngưỡng.
Tóm lại, với khá nhiều quan điểm khác nhau còn tồn tại về ảnh hưởng của
nợ nước ngoài lên tăng trưởng kinh tế nên tác giả thực hiện đề tài này nhằm tìm
kiếm bằng chứng thực nghiệm để làm rõ về mối quan hệ giữa nợ nước ngoài và
tăng trưởng kinh tế tại việt nam là như thế nào.
27
CHƯƠNG 3: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1 Thu thập dữ liệu cho mô hình nghiên cứu:
Dữ liệu nghiên cứu gồm 1 biến phụ thuộc là chỉ số tốc độ tăng trưởng GDP
thực bình quân đầu người và 4 biến giải thích đại điện cho nợ nước ngoài bao
gồm 27 quan sát tại Việt Nam từ năm 1986 khi nền kinh tế bắt đầu mở cửa cho
đến hết năm 2012. Số quan sát là tương đối thấp do các số liệu thống kê tài chính
trong nước không đầy đủ và rất khó tiếp cận nên đề tài phải sử dụng số liệu từ các
tổ chức tài chính quốc tế như số liệu của WB, IMF.
Trong nghiên cứu của các nhà kinh tế trên thế giới về tác động của nợ nước
ngoài đối với tăng trưởng kinh tế, có thể thấy như nghiên cứu của Maureen Were
(2001) tại Kenya đã sử dụng bộ số liệu thời gian từ năm 1970 đến 1995 (bao gồm
25 quan sát), hoặc nghiên cứu của Frimpong, J.M và Oteng-Abayi (2006) tại Ghana
sử dụng bộ số liệu từ năm 1970 đến năm 1999 (bao gồm 29 quan sát) hoặc là bài
nghiên cứu của Okonkwa, C.S và Odularu, G.O (2013) sử dụng bộ số liệu từ năm
1970 đến năm 2007 (bao gồm 37 quan sát), do đó khi tác giả nghiên cứu mối quan
hệ giữa nợ nước ngoài đến tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam từ năm 1986 đến năm
2012 (với 27 quan sát) là vẫn có cơ sở để thực hiện bài viết này.
Dữ liệu sử dụng trong nghiên cứu là dữ liệu hàng năm, là nguồn dữ liệu thứ
cấp được thu thập từ cơ sở dữ liệu World Development Indicators (WDI-2012) của
Ngân hàng Thế giới (World Bank) và cơ sở dữ liệu của Quỹ tiền tệ quốc tế
(International Monetary Fund): World Economic Outlook Database (WEO), 2012.
Các số liệu thống kê tính theo đồng đô la Mỹ theo mức giá hiện hành. Trong đó,
biến tăng trưởng kinh tế, biến đầu tư trực tiếp nước ngoài, biến nợ nước ngoài và
biến nợ phải trả so với xuất khẩu được thu thập từ website của Ngân hàng Thế Giới
(WB). Riêng biến đầu tư trong nước so với GDP được thu thập từ website của Quỹ
Tiền tệ quốc tế (IMF). Mô tả thống kê cho các biến được cung cấp ở phụ lục 1.
Trên cơ sở những nghiên cứu thực nghiệm trên thế giới về mối quan hệ giữa
nợ nước ngoài và tăng trưởng kinh tế, tác giả lựa chọn nghiên cứu của Okonkawa,
28
C.S & Odularu, G.O. (2013) để làm bài tham khảo chính cho bài viết. Bên cạnh đó,
tác giả cũng tham khảo thêm các nghiên cứu của Maureen Were (2001), Frimpong,
J.M & Oteng-Abayi (2008), Shahnawaz Malik, Muhammad Khizar Hayat &
Muhammad Umer Hayat (2010), Sulaiman, L.A & Azeez, B.A (2012) để chọn các
biến phù hợp với đặc thù tại Việt nam và năng lực nghiên cứu. Tác giả nhận thấy, 4
biến giải thích bao gồm: đầu tư trực tiếp nước ngoài trên GDP, nợ nước ngoài trên
GDP, đầu tư trong nước trên GDP và nợ phải trả trên xuất khẩu là các biến đã được
các nghiên cứu trước đây sử dụng phổ biến nhất với tần suất lặp đi lặp lại ở các
nước đặc biệt là các nước đang phát triển. Vì vậy, những biến này sẽ là các biến
được sử dụng xuyên suốt cho toàn luận văn của tác giả.
Tất cả các giá trị chuỗi dữ liệu đều được đưa về dạng cơ số mũ tự nhiên để
giảm vấn đề của hiệp phương sai không đồng nhất đến mức tối đa có thể.
3.2 Mô tả các biến trong mô hình nghiên cứu:
Để tìm câu trả lời cho câu hỏi về mối quan hệ giữa nợ nước ngoài và tăng
trưởng kinh tế cho mẫu nghiên cứu, tác giả dựa theo đề xuất của Bosworth và
Collins (2003) cho thấy cần tập trung vào một tập hợp cốt lõi của các biến giải thích
đã được chứng minh phù hợp với tăng trưởng kinh tế để đưa vào mô hình nghiên
cứu.
Để đo lường tác động của nợ nước ngoài đến tăng trưởng kinh tế của Việt
Nam, tác giả sử dụng các chỉ tiêu: Tốc độ tăng trưởng GDP thực bình quân đầu
người để đại diện cho mức tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam, và các biến: đầu tư
trực tiếp nước ngoài, nợ nước ngoài, đầu tư trong nước, nợ phải trả trên xuất khẩu
như là chỉ tiêu đại diện cho nợ nước ngoài của Việt Nam trong mẫu cần nghiên cứu.
Điều này được kế thừa từ các nghiên cứu đo lường mức độ ảnh hưởng của nợ nước
ngoài đến tăng trưởng kinh tế của Okonkwa, C.S & Odularu, G.O.(2013) và
Frimpong, J.M.and Oteng-Abayi,E.F., (2006) và vì sự tương thích với bộ dữ liệu mà
tác giả thu thập được.
Dựa vào đặc thù nền kinh tế Việt Nam để ước lượng tác động của nợ nước
ngoài lên tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam giai đoạn 1986-2012, những biến giải
29
thích được tác giả xác định bởi khuôn khổ lý thuyết là các nhân tố tác động đến tăng
trưởng kinh tế cụ thể như sau:
- Tổng đầu tư trực tiếp nước ngoài trên GDP (FDIY): được tính bằng
cách lấy tỷ lệ giữa vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trên GDP.
Theo IMF, FDI là hình thức đầu tư quốc tế phản ánh mục tiêu của một thực
thể cư trú tại một nền kinh tế nhằm có được lợi ích lâu dài trong một doanh nghiệp
cư trú tại một nền kinh tế khác. Lợi ích lâu dài có nghĩa là tồn tại một mối quan hệ
dài hạn giữa nhà đầu tư trực tiếp và doanh nghiệp và một mức độ ảnh hưởng đáng
kể của nhà đầu tư đối với việc quản lý doanh nghiệp (nguồn: IMF 1993).
Đầu tư trực tiếp nước ngoài là nguồn bổ sung cho mức đầu tư thấp ở các
nước đang phát triển, giúp các nước này đạt mức tăng trưởng tốt hơn, nhờ đó mà
dần cải thiện được tích lũy và đầu tư, khắc phục được tình trạng thiếu vốn kéo dài.
Việc xác định biến FDIY đã được sử dụng trong các công trình nghiên cứu
của Husain và Jun (1992) cho thấy biến FDI có tác động cùng chiều và có ý nghĩa
tới tăng trưởng kinh tế của các nước khối ASEAN. Rana và Dowling (1990) cũng
rút ra các kết luận tương tự khi nghiên cứu trường hợp 23 nước đang phát triển ở
Châu Á. Friompong, J.M. và Oteng-Abayie, E.F. (2006) cũng nhận thấy hệ số của
vốn FDI có tác động cùng chiều tới tăng trưởng kinh tế khi nghiên cứu ở Ghana.
Mahnaz Rabiei, Zohreh Ghavam Masoudi (2012) trong nghiên cứu về FDI và tăng
trưởng kinh tế ở tám nước hồi giáo (Bangladesh, Ai Cập, Indonesia, Iran, Malaysia,
Nigeria, Pakistan và Thổ Nhĩ Kỳ) cho thấy 1% tăng của tăng trưởng kinh tế làm cho
FDI tăng 4.7% ở các nước Hồi giáo trong mẫu nghiên cứu.
- Tỷ lệ đầu tư trong nước trên GDP (GDIY): là biến đại diện cho tỷ lệ
tăng trưởng của yếu tố đầu vào và vốn trong quá trình sản xuất. Để nắm bắt được
tác động của nguồn tài nguyên trong nước đến tăng trưởng kinh tế, tác giả sử dụng
tỷ lệ tổng mức đầu tư so với GDP để đại diện cho đầu tư.
Việc xác định biến GDIY đã được sử dụng trong các công trình nghiên cứu
của Catherine Pattillo (2002), Clements, B.Bhattarcharya, R & Nguyen, T.Q (2003),
Alfredo Schclarek (2004), Friompong, J.M. và Oteng-Abayie, E.F. (2006); Sen, S.,
30
Kasibhatla, K.M.,& Stewart D.B (2007) và Folorunso S.Ayadi và Felix O.Ayadi
(2008). Tuy nhiên mối quan hệ giữa đầu tư trong nước so với GDP trong nghiên
cứu của Frimpong, J.M. & Oteng-Abayie, E.F. (2006), Folorunso S.Ayadi và Felix
O.Ayadi (2008) là ngược chiều, trong khi nghiên cứu của Catherine Pattillo (2002),
Alfredo Schclarek (2004), Sen, S., Kasibhatla, K.M. & Stewart D.B (2007) và
Clements, B.Bhattarcharya, R. và Nguyen, T.Q (2003) thì mối quan hệ này là cùng
chiều ở các nước có thu nhập thấp và các nước đang phát triển.
- Chỉ số nợ nước ngoài trên GDP(EXDY): được đo bằng tỉ số phần trăm
giữa tổng nợ nước ngoài trên GDP. Đây là chỉ số để đánh giá tình hình nợ và gánh
nặng nợ nước ngoài của một quốc gia. Nợ nước ngoài trên GDP biểu diễn mối
tương quan giữa tổng số nợ nước ngoài so với năng lực tạo ra nguồn thu nhập để trả
nợ ở trong nước. Khi nợ nước ngoài của một quốc gia tăng lên nhưng tỉ lệ tăng thấp
hơn so với tỷ lệ tăng trưởng GDP thì nợ nước ngoài trên GDP sẽ giảm và ngược lại.
Biến EXDY hầu như được sử dụng trong tất cả các công trình nghiên cứu về
mối quan hệ giữa nợ nước ngoài và tăng trưởng kinh tế. Theo công trình nghiên cứu
của Adegite et al (2008) tại Nigeria, Folorunso S.Ayadi và Felix O.Ayadi (2008) tại
Nigeria và Nam Phi hay Frimpong et al (2006) tại Ghana thì nợ có tác động cùng
chiều với tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, mối quan hệ giữa nợ nước ngoài và tăng
trưởng kinh tế trong các công trình nghiên cứu của Fosu (1996) ở các nước cận
Châu Phi, Were (2001) ở Kenya, Catherine Pattillo (2002), Alfredo Schclarek
(2004) hay Okonkwa, C.S & Odularu, G.O. (2013) đều có mối quan hệ ngược
chiều.
- Chỉ số nợ phải trả hàng năm so với xuất khẩu (TDSE): được đo lường
bằng tỉ số phần trăm giữa giá trị nợ hàng năm bao gồm cả vốn gốc lẫn lãi nợ và thu
từ xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ. Còn gọi là tổng nợ phải trả hàng năm so với kim
ngạch thu xuất khẩu. Đây là chỉ số đánh giá khả năng thanh toán bằng ngoại tệ của
quốc gia vay nợ trong ngắn hạn hay nói cách khác đây là một tiêu chí quan trọng,
phản ánh quan hệ giữa nghĩa vụ nợ phải trả so với năng lực xuất khẩu hàng hóa và
dịch vụ của quốc gia đi vay. Nguồn thu từ xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ là nguồn
31
ngoại tệ có thể sử dụng để trả nợ nước ngoài. Đối với đa số các quốc gia đang phát
triển, mối tương quan giữa xuất khẩu và nhập khẩu có tính quyết định lượng ngoại
tệ có được để trả nợ và ngược lại. Nếu chỉ số này cao có thể ngăn cản một quốc gia
không thể dành nguồn lực cho hoạt động sản xuất.
Việc xác định biến TDSE đã được sử dụng trong các công trình nghiên cứu
của Savvides (1992), Metwally và các cộng sự (1994), Serieux and Samy (2001),
Karagol (2002), Benedict Clements và các cộng sự (2003), Frimpong et al (2006),
Sulaiman, L.A và Azeez, B.A (2012) cho thấy rằng việc trả nợ có tác động ngược
chiều và có ý nghĩa tới tăng trưởng thu nhập bình quân đầu người. Trong khi đó,
Elbadawi, Ndulu và Ndung'u (1997) nhận thấy mối quan hệ có ý nghĩa thống kê và
có tác động cùng chiều giữa việc thanh toán nợ và tăng trưởng kinh tế ở các nước
Cận Châu Phi, trong khi Fosu (1999), Catherine Pattillo (2002), Alfredo Schclarek
(2004), Folorunso S.Ayadi và Felix O.Ayadi (2008) cho rằng không có mối quan hệ
đối với các nước khu vực đó.
Như vậy, qua phần trình bày ở trên, nghiên cứu kỳ vọng tỷ lệ đầu tư trực tiếp
nước ngoài trên GDP bổ sung nguồn lực bên ngoài thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và
mong đợi một tác động dương đến tăng trưởng, vì vậy kỳ vọng α1,s> 0; tỷ lệ đầu tư
trong nước so với GDP dự kiến sẽ có ảnh hưởng thuận chiều vào tăng trưởng GDP
nên nghiên cứu mong đợi α2,s> 0; tương tự nợ nước ngoài tác động dương đến tăng
trưởng kinh tế, nghiên cứu mong đợi α3,s> 0; tỷ lệ tổng nợ phải trả trên xuất khẩu dự
kiến sẽ tác động ngược chiều với tăng trưởng kinh tế do việc giảm chi phí đầu tư
trong nước từ dịch vụ thanh toán nợ nên nghiên cứu dự đoán α4,s< 0.
3.3 Mô hình nghiên cứu tác động của nợ nước ngoài đối với tăng trưởng
kinh tế tại Việt Nam:
Mô hình thực nghiệm tác giả xây dựng dựa theo lý thuyết kinh tế học về tăng
trưởng và kế thừa các nghiên cứu thực nghiệm trước đó.
Bài viết sử dụng mô hình dựa theo công trình nghiên cứu của tác giả
Okonkwa, C.S & Odularu, G.O.(2013):"External Debt, debt burden and
economic growth nexus: Empirical evidence and policy lesons from selected West
32
African Countries". Nghiên cứu này được trình bày tại trung tâm Hội nghị nghiên
cứu kinh tế của các nước Châu Phi (CSAE) và được đăng trên tạp chí kinh doanh
quốc tế - quyển 3, số 1: Tháng 3 năm 2013. Theo tác giả mô hình này là phù hợp
với nghiên cứu về nợ nước ngoài của Việt Nam hiện nay vì các nước Tây Phi cũng
có nền kinh tế đang phát triển và tình trạng sử dụng vốn vay từ nước ngoài như Việt
Nam. Bên cạnh đó, tác giả có thể tìm thấy số liệu thống kê của các biến trong mô
hình trong khi các mô hình khác rất khó tìm được đủ số liệu thống kê. Do đó, các
biến đưa vào đề tài cũng phù hợp khi áp dụng cho Việt Nam. Ngoài ra, tác giả thực
hiện bài nghiên cứu ở các nước Tây Phi đến từ trường Đại học "School of
Economics, University of Nottingham" của Anh Quốc, vốn cập nhật các phương
pháp nghiên cứu tiên tiến nhất. Vì vậy, thiết nghĩ đây là nguồn tham khảo đáng quý
khi áp dụng các phương pháp nghiên cứu của các tác giả này nhằm áp dụng cho
điều kiện Việt Nam.
Trong bài, tác giả sử dụng mô hình logarit tuyến tính, tất cả các giá trị chuỗi
dữ liệu đều được đưa về dạng cơ số mũ tự nhiên. Mô hình cụ thể như sau: s=1lnFDIYit-s + α2,s∑k lnRYPCt = α0 + α1,s∑k
s=1lnEXDYit-s +
α3,s ∑k
s=1lnGDIYit-s + α4,s ∑k
s=1lnTDSEit-s + εit (1)
Trong đó :
* Biến phụ thuộc:
+ RYPC: là biến đại diện cho mức tăng trưởng kinh tế (real GDP per capita: tốc
độ tăng trưởng GDP thực bình quân đầu người) và các biến độc lập sau:
* Biến độc lập:
+ Biến FDI là tỷ lệ đầu tư trực tiếp nước ngoài trên GDP (%);
+ Biến EXDY là tỷ số giữa tổng số nợ nước ngoài trên GDP (%);
+ Biến GDIY là tỷ lệ đầu tư trong nước trên GDP (%);
+ Biến TDSE là tỷ lệ nợ phải trả trên xuất khẩu (%);
+ α0 là hằng số
+ α1,s - a4,slà hệ số của các biến độc lập
+ Biến εit: Sai số ngẫu nhiên.
33
So sánh kết quả của các công trình nghiên cứu của các nhà kinh tế học trên
thế giới, tác giả nhận thấy tại các quốc gia khác nhau sẽ có kết quả khác nhau về
hướng tác động của các nhân tố tác động lên tăng trưởng kinh tế, khác nhau khi sử
dụng các bộ biến độc lập khác nhau trong mô hình nghiên cứu.
Tác giả sử dụng phân tích định lượng thông qua việc ước lượng mô hình
nghiên cứu để tìm câu trả lời cho các câu hỏi nghiên cứu.
3.4 Phương pháp nghiên cứu:
Để phân tích tác động của nợ nước ngoài đến tăng trưởng kinh tế trong ngắn
hạn và dài hạn, phương pháp nghiên cứu thực nghiệm mà tác giả sử dụng trong mô
hình định lượng dựa theo phương pháp của tác giả Okonkwa, C.S & Odularu,
G.O.(2013) trong nghiên cứu thực nghiệm về các biến vĩ mô tác động đến tăng
trưởng kinh tế ở các nước Tây Phi.
Trong nghiên cứu này, Okonkwa, C.S & Odularu, G.O. đã sử dụng phương
pháp Augmented Dickey-Fuler (ADF) để kiểm định tính dừng và không dừng của
các chuỗi thời gian sử dụng trong mô hình. Tiếp đến, tác giả sử dụng phương pháp
đồng tích hợp (Cointegration) của Johansen để kiểm định đồng liên kết giữa các
biến trong mô hình. Mô hình VECM được sử dụng để đo lường mối quan hệ trong
dài hạn giữa các biến. Cuối cùng tác giả sử dụng mô hình điều chỉnh sai số ECM
(Error Correction Model) theo Engle & Granger hai bước (1987) để thực hiện khảo
sát mối quan hệ động trong ngắn hạn giữa các biến vĩ mô.
Như vậy, để đo lường các nhân tố tác động đến tăng trưởng kinh tế trong mô
hình thực nghiệm, tác giả thực hiện theo các bước sau:
Dựa vào lý thuyết về đồng liên kết như trên, phương pháp kiểm định và phân
tích mô hình được sử dụng như sau:
i. Kiểm tra thuộc tính dừng của các chuỗi thời gian sử dụng trong mô hình
thực nghiệm bằng cách dùng phương pháp kiểm định nghiệm đơn vị Augmented
Dickey Fuller (ADF). Chuỗi dữ liệu thời gian thường là chuỗi không dừng, do đó
việc kiểm định tính dừng là rất cần thiết vì nếu chuỗi không dừng có thể đưa đến kết
quả hồi quy giả mạo.
34
ii. Sau khi xét tính dừng của dữ liệu, tác giả kiểm định đồng liên kết theo
phương pháp phân tích đồng tích hợp của Johansen để đo lường mối quan hệ cân
bằng trong dài hạn giữa các biến. Sử dụng mô hình VECM để đánh giá mối quan hệ
của nợ nước ngoài và tăng trưởng kinh tế trong dài hạn.
iii. Nếu các biến có hiện tượng đồng liên kết, mô hình hiệu chỉnh sai số -
Error Correction Model (ECM) theo phương pháp của Engle - Granger hai bước
(1987) được dùng để kiểm định ảnh hưởng ngắn hạn giữa các biến trong mô hình.
hiện dựa trên phần mềm Eview 6.0.
Tất cả các mô hình và kỹ thuật kiểm định như mô tả ở trên đều được thực
35
CHƯƠNG 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
4.1 Kiểm định nghiệm đơn vị riêng lẻ từng biến để xác định thuộc tính
dừng của các chuỗi số thời gian:
Để kết quả ước lượng không bị thiên lệch, các biến nghiên cứu sẽ được kiểm
định tính dừng. Johnston và DiNardo (1997) và Gujarati (2003) đồng tình rằng việc
tính toán trung bình của một chuỗi không dừng hoặc ngẫu nhiên sẽ không gặt hái
được kết quả hợp lý. Theo như Gujarati (2003), "biến phụ thuộc của một chuỗi
không ổn định sẽ đi theo độ lệch của biến giải thích, tạo ra các kết quả không có
nghĩa". Nói một cách khác, hồi quy lệch sẽ cho kết quả các kiểm định thống kê t và R2 rất tốt nhưng mô hình có thể hoàn toàn không có ý nghĩa. Vì vậy, trước khi xây
dựng và phân tích mô hình, cần phải có thuộc tính tĩnh của các biến chuỗi trước khi
đưa vào sử dụng. Nếu các chuỗi này có cùng bậc tích hợp, khi đó có thể tồn tại một
mối quan hệ có ý nghĩa trong dài hạn giữa chúng, hay nói cách khác là sự kết hợp
những chuỗi không dừng tạo nên một sự kết hợp bền vững dựa trên phương pháp
đồng tích hợp.
Có hai kiểm định nghiệm đơn vị phổ biến và thường được sử dụng trong các
nghiên cứu là kiểm định Phillips - Perron (PP), Augmented Dickey - Fuller. Phillips
- Perron (1988) phát triển một lý thuyết phức tạp hơn về tính không dừng. Kiểm
định Phillips - Perron giống với kiểm định Augmented Dickey - Fuller, mặc dù
chúng bao gồm một sự tự điều chỉnh với kiểm định DF có tính đến phần dư tự
tương quan. Tuy nhiên, kiểm định PP thường tạo ra những kết quả giống như kiểm
định Augmented Dickey - Fuller và cũng thiên về những giới hạn tương tự như
kiểm định Augmented Dickey - Fuller. Các nghiên cứu cũng cho thấy rằng không
có kiểm định nào là tối ưu trong mọi trường hợp.
Khác với dữ liệu bảng (Panel data), hầu hết các số liệu về chuỗi thời gian
trong nghiên cứu đều không dừng. Để chuỗi dữ liệu thời gian đạt trạng thái dừng,
trước tiên lấy logarit của các biến, dữ liệu sẽ trở nên đồng đều hơn, tuy nhiên nếu
chuỗi dữ liệu vẫn không dừng thì tiếp tục lấy sai phân cho đến khi chuỗi dữ liệu
36
nghiên cứu đạt trạng thái dừng. Trong bài nghiên cứu này tác giả sử dụng phương
pháp Augumented Dickey-Fuller (ADF) để kiểm định tính dừng (stationary) của các
biến.
Giả thuyết H0 (Null Hypothesis) trong kiểm định ADF là tồn tại một nghiệm
đơn vị và nó sẽ bị bác bỏ nếu giá trị kiểm định ADF lớn hơn giá trị tới hạn của nó.
Trong kiểm định ADF, giá trị kiểm định không theo phân phối chuẩn, vì vậy giá trị
tới hạn được dựa trên bảng giá trị tính sẵn của Mackinnon (1991). So sánh giá trị
kiểm định ADF với giá trị tới hạn của của Mackinnon (1991) chúng ta sẽ có được
kết luận về tính dừng cho các chuỗi quan sát.
Bảng 4.1 mô tả tóm tắt kết quả kiểm định nghiệm đơn vị của các biến theo
phương pháp của Augmented Dickey - Fuller (ADF). Phần kết quả chi tiết được nêu
trong phụ lục 2. Với mức ý nghĩa thống kê là 1%, 5% và 10%, kết quả thu được sau
khi tác giả chạy kiểm kịnh được tóm tắt lại như sau:
Bảng 4.1. Bảng kết quả kiểm định nghiệm đơn vị
ADF Kết quả
LRYPC LFDIY LEXDY LGDIY LTDSE -1.834846 -2.079429 -3.079079 -1.472812 -3.275255 Mức 1% Mức 5% Mức 10% -2.998064 -3.752946 -3.004861 -3.769597 -2.981038 -3.711457 -2.998064 -3.752946 -2.981038 -3.711457 -2.638752 Không dừng -2.642242 Không dừng -2.629906 Không dừng mức 1% -2.638752 Không dừng -2.629906 Không dừng mức 1%
ADF Kết quả
D(LRYPC) -4.061890 -7.221337 D(LFDIY) D(LEXDY) -3.654109 -7.002935 D(LGDIY) -4.297104 D(LTDSE) -2.632604 Dừng -2.632604 Dừng -2.632604 Dừng mức 5%, 10% -2.632604 Dừng -2.632604 Dừng Mức 1% Mức 5% Mức 10% -2.986225 -3.724070 -2.986225 -3.724070 -2.986225 -3.724070 -2.986225 -3.724070 -2.986225 -3.724070 (Nguồn: Kết quả tổng hợp từ Eview 6.0)
Kết quả kiểm định cho thấy tất cả các chuỗi số liệu dạng logarite đều dừng
khi lấy sai phân bậc 1. Các biến dừng ở sai phân bậc 1 hay I(1) nên có thể tồn tại
mối quan hệ đồng tích hợp giữa các biến. Vì vậy, tác giả có thể phân tích đồng liên
kết trong dài hạn.
37
4.2 Chọn bước trễ tối ưu cho các biến trong mô hình:
Trước khi tiến hành phân tích đồng liên kết để từ đó đo lường tác động của
nợ nước ngoài lên tăng trưởng kinh tế, tác giả tiến hành chọn bước trễ cho các biến
trong mô hình nhằm tăng tính chính xác khi thực hiện kiểm định. Việc xác định độ
trễ tối ưu được dựa vào giá trị thống kê AIC (Akaike information criterion) trong
bảng kết quả. Chạy eview cho từng độ trễ rồi so sánh AIC xem AIC ứng với độ trễ
nào là nhỏ nhất thì đó là độ trễ tối ưu cần tìm. Kết quả kiểm định bước trễ thể hiện
qua bảng 4.2:
VAR Lag Order Selection Criteria Endogenous variables: LRYPC LFDIY LEXDY LGDIY LTDSE Exogenous variables: C Date: 11/23/13 Time: 22:34 Sample: 1986 2012 Included observations: 25
Lag
LogL
LR
FPE
AIC
SC
HQ
0
-105.1518
NA
0.004622
8.812148
8.879761
1
-7.489032
1.45E-05
9.055923 4.461774*
2
31.95984
148.4475 44.18273*
2.999123 1.843213*
6.00e-06*
4.524740
3.404800 2.586955*
* indicates lag order selected by the criterion LR: sequential modified LR test statistic (each test at 5% level) FPE: Final prediction error AIC: Akaike information criterion SC: Schwarz information criterion HQ: Hannan-Quinn information criterion
(Nguồn: Kết quả từ Eview 6.0)
Bảng 4.2. Bảng độ trễ tối ưu:
Kết quả chọn độ trễ tối ưu được thể hiện ở bảng 4.2 với các tiêu chuẩn lựa
chọn độ trễ khác nhau (LR, FPE, AIC, SC, HQ). Trong bảng kết quả, hầu hết các
tiêu chuẩn đều chọn độ trễ là 2, riêng tiêu chuẩn SC chọn độ trễ là 1. Theo tiêu
38
chuẩn AIC cho thấy tại độ trễ 2 là tối ưu nhất. Vì vậy, trong bài này, tác giả chọn
bước trễ là 2 cho mô hình để thực hiện các kiểm định tiếp theo.
4.3 Kiểm định đồng liên kết theo phương pháp Johansen (Johansen
Cointegration Test) để xem xét mối quan hệ cân bằng dài hạn giữa các biến
trong mô hình:
David A. Dickey, Dennis W. Jansen và Daniel I. Thornton quan sát thấy “các
kiểm định nghiệm đơn vị được thực hiện đối với các chuỗi thời gian đơn biến
(Univariate), tức là duy nhất. Ngược lại, đồng kết hợp lại xử lý mối quan hệ giữa
một nhóm các biến, mà ở đó (một cách vô điều kiện) mỗi biến đều có nghiệm đơn
vị”. Mục đích của kiểm định đồng liên kết là quyết định xem liệu một nhóm các
chuỗi số không dừng có đồng liên kết hay không.
Sau khi kiểm tra tính dừng của các biến chuỗi thời gian, tác giả thực hiện
bước tiếp theo là tiến hành kiểm định tính đồng liên kết.
Engle và Granger (1987) cho rằng nếu kết hợp tuyến tính của các chuỗi thời
gian không dừng có thể là một chuỗi dừng và các chuỗi thời gian không dừng đó
được cho là đồng liên kết. Kết hợp tuyến tính dừng được gọi là phương trình đồng
liên kết và có thể được giải thích như mối quan hệ cân bằng dài hạn giữa các biến.
Nói cách khác, nếu phần dư trong mô hình hồi quy giữa các chuỗi thời gian không
dừng là một chuỗi dừng thì kết quả hồi quy là thực và thể hiện mối quan hệ cân
bằng dài hạn giữa các biến trong mô hình.
Đầu tiên tác giả thực hiện kiểm định đồng liên kết theo phương pháp
Johansen. Khi đó, có thể thêm số giả thiết về số phương trình đồng liên kết. Ở đây
có bốn giả thiết H0 tác giả kiểm định.
(i) "None" nghĩa là không có đồng liên kết.
(ii) "At most 1" nghĩa là có ít nhất một mối quan hệ đồng liên kết.
(iii) "At most 2" nghĩa là có ít nhất hai mối quan hệ đồng liên kết.
(iv) "At most 3" nghĩa là có ít nhất ba mối quan hệ đồng liên kết.
(v) "At most 4" nghĩa là có ít nhất bốn mối quan hệ đồng liên kết.
39
Để quyết định bác bỏ hay chấp nhận giả thuyết H0, cần so sánh giá trị thống
kê vết "Trace Statistic" với giá trị tới hạn "Critical Value" ở mức ý nghĩa xác định
được chọn là 5%.
- Nếu Trace Statistic < Critical Value: Chấp nhận giả thuyết H0.
- Nếu Trace Statistic > Critical Value: Bác bỏ giả thuyết H0.
Nếu theo thống kê kiểm định giá trị riêng cực đại của ma trận (Maximal
Eigenvalue) thì so sánh giá trị thống kê Max-Eigen "Max-Eigen Statistic" với giá trị
tới hạn "Critical Value" ở mức ý nghĩa được chọn là 5%.
- Nếu Max-Eigen Statistic < Critical Value: Chấp nhận giả thuyết H0.
- Nếu Max-Eigen Statistic > Critical Value: Bác bỏ giả thuyết H0.
Tác giả thực hiện kiểm định đồng liên kết dựa trên phương pháp VAR của
Johansen theo thống kê vết (Trace) và theo thống kê kiểm định giá trị riêng cực đại
của ma trận (maximal eigenvalue), kết quả kiểm định đồng liên kết theo bảng 4.3 và
bảng 4.4 như sau:
Bảng 4.3. Kết quả kiểm định đồng liên kết Johansen theo thống kê
Trace:
P-Value Giả thuyết H0 Giả thuyết H1 Giá trị riêng của ma trận (Eigenvalue) Giá trị tới hạn 5% (Critical Value) Giá trị thống kê ma trận (Trace statistic)
0.0000 0.0000 0.0000 0.0125 0.0983 r = 0 r =1 r=2 r=3 r=4 0.965385 0.828522 0.740823 0.499401 0.107600 174.7870 96.06403 57.74484 19.33898 2.732167 69.81889 47.85613 29.79707 15.49471 3.841466 r ≤ 1 r ≤ 2 r ≤ 3 r ≤ 4 r ≤ 5
* Bác bỏ giả thuyết H0 ở mức ý nghĩa 5% (Nguồn: Kết quả tổng hợp từ Eview 6.0)
Nhìn vào kết quả nhận thấy:
+ H0: r = 0 tức các biến không có mối quan hệ đồng liên kết.
+ H1: r ≤ 1tức các biến có ít nhất một mối liên hệ đồng liên kết.
40
Ứng với giả thuyết kiểm định này từ bảng kết quả cho thấy giá trị thống kê
Trace statistic = 174.7870 lớn hơn giá trị tới hạn Critical statistic = 69.81889, ứng
với mức ý nghĩa thống kê P-value = 0.0000, nhỏ hơn so với mức nghĩa nghiên cứu
5%. Do đó bác bỏ giả thuyết H0, chấp nhận giả thuyết H1, tức là các biến có ít nhất
một mối quan hệ đồng liên kết.
Tương tự với các giả thuyết:
+ H0: r=1 tức các biến có một mối quan hệ đồng liên kết.
+ H1: r ≤ 2 tức các biến có ít nhất hai mối liên hệ đồng liên kết.
Ứng với giả thuyết kiểm định này từ bảng kết quả cho thấy giá trị thống kê
Trace statistic = 96.06403 lớn hơn giá trị tới hạn Critical statistic = 47.85613, ứng
với mức ý nghĩa thống kê P-value = 0.0000, nhỏ hơn so với mức nghĩa nghiên cứu
5%. Do đó bác bỏ giả thuyết H0, chấp nhận giả thuyết H1, tức là các biến có ít nhất
hai mối quan hệ đồng liên kết.
Tương tự giả thuyết H0: r=2, H1: r ≤ 3 và H0: r=3, H1: r ≤ 4 kết quả cho thấy
giá trị Trace statistic lần lượt là 51.74484, 19.33898 đều lớn hơn so với giá trị
Critical statistic 29.79707, 15.49471 với giá trị P-value lần lượt là 0.0000, 0.0125
cũng đều nhỏ hơn so với mức ý nghĩa 5%. Do đó, bác bỏ giả thuyết H0, chấp nhận
giả thuyết H1, tức là các biến có ít nhất ba mối quan hệ đồng liên kết đối với cặp giả
thuyết H0: r=2, H1: r ≤ 3 và các biến có ít nhất bốn mối quan hệ đồng liên kết đối
với cặp giả thuyết H0: r=3, H1: r ≤ 4.
Giả thuyết H0 còn lại được chấp nhận vì giá trị Trace statistic là 2.732167
nhỏ hơn so với giá trị Critical statistic 3.841466, với giá trị P-value là 0.0983 cũng
lớn hơn nhiều so với mức ý nghĩa 5%.
Tác giả cũng dựa trên nghiên cứu đồng kết hợp theo thống kê Max-Eigen,
dưới đây là kết quả kiểm định đồng liên kết Johansen theo thống kê Max-Eigen:
41
Bảng 4.4. Kết quả kiểm định đồng liên kết Johansen theo thống kê Max-Eigen:
P-Value Giả thuyết H0 Giả thuyết H1 Giá trị riêng của ma trận (Eigenvalue) Giá trị tới hạn 5% (Critical Value) Thống kê giá trị riêng cực đại của ma trận (Max - Eigen Statistic)
r = 0 r =1 r=2 r=3 r=4 0.965385 0.828522 0.740823 0.499401 0.107600 80.72298 42.31918 32.40587 16.60681 2.732167 33.87687 27.58434 21.13162 14.26460 3.841466 0.0000 0.0003 0.0009 0.0209 0.0983 r ≤ 1 r ≤ 2 r ≤ 3 r ≤ 4 r ≤ 5 * Bác bỏ giả thuyết H0 ở mức ý nghĩa 5% (Nguồn: Kết quả tổng hợp từ Eview 6.0)
Nhìn vào kết quả nhận thấy:
+ H0: r=0 tức các biến không có mối quan hệ đồng liên kết.
+ H1: r ≤ 1 tức các biến có ít nhất một mối liên hệ đồng liên kết.
Ứng với giả thuyết kiểm định này từ bảng kết quả cho thấy giá trị thống kê
Max-Eigen statistic = 80.72298 lớn hơn giá trị tới hạn Critical statistic = 33.87687,
ứng với mức ý nghĩa thống kê P-value = 0.0000, nhỏ hơn so với mức nghĩa nghiên
cứu 5%. Do đó bác bỏ giả thuyết H0, chấp nhận giả thuyết H1, tức là các biến có ít
nhất một mối quan hệ đồng liên kết.
Tương tự với các giả thuyết:
+ H0: r=1 tức các biến có một mối quan hệ đồng liên kết.
+ H1: r ≤ 2 tức các biến có ít nhất hai mối liên hệ đồng liên kết.
Ứng với giả thuyết kiểm định này từ bảng kết quả cho thấy giá trị thống kê
Max-Eigen statistic = 42.31918 lớn hơn giá trị tới hạn Critical statistic = 27.58434,
ứng với mức ý nghĩa thống kê P-value = 0.0003, nhỏ hơn so với mức nghĩa nghiên
cứu 5%. Do đó bác bỏ giả thuyết H0, chấp nhận giả thuyết H1, tức là các biến có ít
nhất hai mối quan hệ đồng liên kết.
Tương tự giả thuyết H0: r=2, H1: r ≤ 3 và H0: r=3, H1: r ≤ 4 kết quả cho thấy
giá trị Trace statistic lần lượt là 32.40587, 16.60681 đều lớn hơn so với giá trị
Critical statistic 21.13162, 14.26460 với giá trị P-value lần lượt là 0.0009, 0.0209
42
cũng đều nhỏ hơn so với mức ý nghĩa 5%. Do đó, bác bỏ giả thuyết H0, chấp nhận
giả thuyết H1, tức là các biến có ít nhất ba mối quan hệ đồng liên kết đối với cặp giả
thuyết H0: r=2, H1: r ≤ 3 và các biến có ít nhất bốn mối quan hệ đồng liên kết đối
với cặp giả thuyết H0: r=3, H1: r ≤ 4.
Giả thuyết H0 còn lại được chấp nhận vì giá trị Trace statistic là 2.732167
nhỏ hơn so với giá trị Critical statistic 3.841466, với giá trị P-value là 0.0983 cũng
lớn hơn nhiều so với mức ý nghĩa 5%.
Trong hai bảng phân tích, r là số mối quan hệ đồng liên kết giữa các biến.
Hai bảng 4.4 và 4.5 đều cho kết quả đồng liên kết theo phương pháp Johansen, theo
thống kê Trace và thống kê Max - Eigen, kết quả cả hai mô hình cho thấy có bốn
mối quan hệ đồng liên kết tồn tại giữa các biến trong mô hình.
4.4: Kiểm định mối quan hệ trong dài hạn bằng mô hình VECM (Vector
Error Correction Model):
Kết quả kiểm định tính dừng ở bảng 4.1 cho thấy các biến trong phương trình
(1) đều dừng ở sai phân bậc 1. Sau khi kiểm định đồng liên kết theo phương pháp
Johansen cho thấy mô hình có 4 vector đồng liên kết (chi tiết xem phụ lục 3, 4). Do
các biến trong phương trình đều có tính không dừng và đồng liên kết nên có thể sử
dụng phương pháp VECM để ước lượng tác động trong dài hạn. Kết quả mô hình
hồi quy đồng liên kết như sau (chi tiết xem phụ lục 5)
Bảng 4.5: Kết quả hồi quy ước lượng vector sai số ngẫu nhiên VECM:
0.28589 -2.08801 -14.2366 -6.31239
Vector Error Correction Estimates Cointegrating Eq CointEq1 t-statistics LRYPC(-1) LFDIY(-1) LEXDY(-1) LGDIY(-1) LTDSE(-1) C 1.000000 0.310010 -2.854014 -30.26881 -7.311600 116.3295 (Nguồn: Kết quả tổng hợp từ Eview 6.0)
43
Từ bảng kết quả 4.5 cho thấy, trong dài hạn hầu như tất cả các biến trong
phương trình đều ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam.
- Hệ số của LFDIY = 0.310010 > 0 cho biết tỷ lệ đầu tư trực tiếp nước ngoài
so với GDP có tác động cùng chiều với tăng trưởng kinh tế với mức ý nghĩa =
1%. Trong điều kiện các yếu tố khác không đổi, khi tỷ lệ đầu tư trực tiếp nước
ngoài trên GDP tăng 1% thì tăng trưởng kinh tế tăng 0.310010%.
- Hệ số của LEXDY = 2.854014 < 0 cho biết tỷ lệ nợ nước ngoài trên GDP
có tác động ngược chiều với tăng trưởng kinh tế với mức ý nghĩa = 1%. Trong
điều kiện các yếu tố khác không đổi, khi tỷ lệ nợ nước ngoài trên GDP tăng 1% thì
tăng trưởng kinh tế giảm 2.854014%.
- Hệ số của LGDIY = -30.26881 < 0, hệ số mang dấu âm cho thấy đầu tư
trong nước có tác động ngược chiều với tăng trưởng kinh tế với mức ý nghĩa =
1%. Trong điều kiện các yếu tố khác không đổi, khi tỷ lệ tổng đầu tư so với GDP
tăng 1% thì tăng trưởng thu nhập bình quân đầu người giảm 30.26881%.
- Hệ số của LTDSE = -7.311600 < 0 cho biết tỷ lệ nợ nước ngoài so với xuất
khẩu có tác động ngược chiều với tăng trưởng kinh tế với mức ý nghĩa = 1%.
Trong điều kiện các yếu tố khác không đổi, khi tỷ lệ nợ nước ngoài trên xuất khẩu
tăng 1% thì tăng trưởng kinh tế giảm 7.311600%.
Tóm lại, hệ số xác định R2 = 0.545372 cho biết các biến trong mô hình giải
thích được 54.53% sự biến động của tăng trưởng kinh tế bởi tỷ lệ đầu tư trực tiếp
nước ngoài trên GDP, nợ nước ngoài trên GDP, đầu tư trong nước trên GDP và nợ
phải trả trên xuất khẩu. Còn lại 45.46% được giải thích bởi các nhân tố khác ngoài
mô hình.
Như vậy, trong dài hạn đầu tư trực tiếp nước ngoài, nợ nước ngoài trên GDP,
đầu tư trong nước trên GDP và nợ phải trả trên xuất khẩu đều tác động đến tăng
trưởng kinh tế. Do đó, tác giả có thể kết luận các giả thiết của biến độc lập như sau:
- Tổng đầu tư trực tiếp nước ngoài trên GDP (FDIY) có tác động cùng
chiều với tăng trưởng kinh tế. Điều này hoàn toàn phù hợp với công trình nghiên
44
cứu của Husain và Jun (1992), Rana và Dowling (1990), Friompong, J.M. & Oteng-
Abayie, E.F. (2006) và Mahnaz Rabiei, Zohreh Ghavam Masoudi (2012).
FDI đã được nhìn nhận như là một trong những trụ cột góp phần vào tăng
trưởng kinh tế của Việt Nam. Vai trò của FDI được thể hiện thông qua việc đóng
góp vào các yếu tố quan trọng của tăng trưởng kinh tế như: Bổ sung nguồn vốn đầu
tư, chuyển giao công nghệ, đẩy mạnh xuất khẩu, tạo việc làm và phát triển nguồn
nhân lực. Bên cạnh đó, FDI cũng góp phần thúc đẩy Việt Nam tham gia hội nhập
sâu rộng hơn vào nền kinh tế thế giới. Cụ thể, xét về vốn, FDI thường ổn định hơn
các nguồn vốn khác và thường được đầu tư trong các dự án dài hạn. Xét về công
nghệ, kỹ năng và phương pháp quản lý, các nhà đầu tư nước ngoài thường đưa các
công nghệ tiến tiến và phương pháp quản lý tối ưu đến các nước tiếp nhận đầu tư.
Bên cạnh đó, các nhà đầu tư nước ngoài cũng cải tiến và nâng cấp công nghệ để phù
hợp hơn với nước chủ nhà. Các khu vực có vốn FDI thường phát triển hơn các khu
vực khác. Xét về thị trường, có thể thấy FDI đưa các sản phẩm của thị trường trong
nước tiếp cận với thị trường thế giới. Ngoài ra các nhà đầu tư nước ngoài còn giúp
nước tiếp nhận đầu tư khai thác hết lợi thế cạnh tranh của mình để các sản phẩm
trong nước ngày càng tốt hơn khi tiếp cận với thị trường quốc tế.
Việt Nam thực hiện Luật Đầu tư nước ngoài (1987) trong bối cảnh kinh tế –
xã hội còn phát triển ở mức rất thấp, cơ sở hạ tầng và khoa học công nghệ chưa phát
triển, nguồn nhân lực dồi dào nhưng phần lớn là trong lĩnh vực nông nghiệp và chưa
qua đào tạo. Trước những mâu thuẫn bất cập trong quá trình tổ chức triển khai Luật
đầu tư nước ngoài, tháng 6 năm 1990 Việt Nam thực hiện sửa đổi, điều chỉnh và bổ
sung luật này. Trong quá trình sửa đổi luật và các quy định liên quan đã dần xuất
hiện hiện tượng kiểm soát chặt trở lại nguồn vốn này bằng cách đưa ra nhiều quy
định khắt khe, ràng buộc phức tạp gây ra tâm lý lo ngại trong giới đầu tư nước
ngoài tại Việt Nam. Số dự án đầu tư nước ngoài được chấp nhận đã giảm mạnh vào
cuối năm 1996 và càng trở nên nghiêm trọng vào năm 1997 do do ảnh hưởng của
cuộc khủng hoảng Châu Á. Từ sau khi thông qua Luật sửa đổi, bổ sung Luật đầu tư
nước ngoài năm 1999, cho phép nhiều dự án chuyển đổi từ hình thức liên doanh
45
sang 100% vốn nước ngoài hoặc ngược lại theo nguyện vọng của các nhà đầu tư
nước ngoài, đồng thời cũng giảm giá thuê đất cho nhà đầu tư, cho phép họ chuyển
đổi ngành nghề kinh doanh cho phù hợp với tình hình mới. Những chính sách này
đã góp phần đáng kể tốc độ suy giảm đầu tư vào Việt Nam hai năm 1998-1999
trong bối cảnh cạnh tranh ngày càng tăng của các nước trong khu vực.
Qua năm 2004 và năm 2005, do kết quả của cải thiện môi trường đầu tư bằng
việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đầu tư nước ngoài năm 2000, Chính phủ
còn cho phép đầu tư gián tiếp vào 35 ngành, đồng thời mở cửa hơn một số ngành do
Nhà nước độc quyền nắm giữ trước đây như điện lực, bảo hiểm, ngân hàng, viễn
thông cho đầu tư nước ngoài và cho phép chuyển đổi doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài sang công ty cổ phần. Năm 2004, Việt Nam đã chú trọng hơn tới công
tác xúc tiến đầu tư ở trong và ngoài nước. Do đó, từ năm 2005 đến năm 2009, bắt
đầu một làn sóng FDI thứ hai vào Việt Nam. Đây là giai đoạn diễn biến khá phức
tạp của nền kinh tế thế giới. Giai đoạn này bắt đầu bằng việc bối cảnh khu vực cũng
như quốc tế có nhiều thay đổi thuận lợi cùng môi trường đầu tư trong nước tiếp tục
được cải thiện, chủ yếu do thủ tục đầu tư đã trở nên thông thoáng hơn sau khi ban
hành Luật Đầu tư và Luật Doanh nghiệp chung cho đầu tư nước ngoài thống nhất
như đầu tư trong nước.
Như vậy, có thể nhận thấy vai trò tích cực của đầu tư trực tiếp nước ngoài
đối với tăng trưởng kinh tế. Việt Nam có thể thúc đẩy tăng trưởng kinh tế từ góc độ
tăng thu hút FDI.
- Chỉ số nợ nước ngoài trên GDP (EXDY): có tác động ngược chiều với
tăng trưởng kinh tế. Kết quả này phù hợp với kết quả công trình nghiên cứu của
Fosu (1996) ở các nước cận Châu Phi, Were (2001) ở Kenya, Catherine Pattillo
(2002), Alfredo Schclarek (2004) hay Okonkwa, C.S & Odularu, G.O. (2013).
Biến nợ nước ngoài thể hiện vai trò quan trọng và có ý nghĩa trong việc giải
thích sự gia tăng của GDP bình quân đầu người của Việt Nam, nhưng vẫn có những
vấn đề như sau. Thứ nhất, với hệ số là âm, có thể nhận định rằng việc sử dụng nợ
nước ngoài chưa hiệu quả, nguyên nhân cũng là do khả năng quản lý, tham nhũng
46
quốc gia, thủ tục hành chính trong việc giải ngân và phân phối vốn còn rất cồng
kềnh. Ngoài ra, do đặc điểm các khoản vay nước ngoài của Việt Nam thường đi
kèm với các ưu đãi về thời hạn trả nợ, về tiền lãi, đồng thời do Việt Nam là một
quốc gia mới nổi đáng chú ý trên thị trường thế giới, việc tiếp cận các nguồn vốn
quốc tế của Việt Nam là tương đối dễ dàng, cùng với những ưu đãi như vậy, đưa
đến tâm lý ỷ lại trong việc sử dụng vốn đầu tư bắt nguồn từ nước ngoài, do đó khiến
cho hiệu quả đầu tư bị thu hẹp. Do những tâm lý như vậy khiến cho việc sử dụng nợ
nước ngoài chẳng những đã không hiệu quả mà tiền lãi còn bị tích lũy, đưa đến hiệu
quả sử dụng nợ không cao khiến cho quốc gia dễ lâm vào tình trạng khủng hoảng.
Khi tỉ lệ nợ trên GDP vượt qua một ngưỡng cụ thể ở từng quốc gia, nó gia
tăng nguy cơ khủng hoảng và tăng độ bất ổn, giảm thiểu tăng trưởng. Nợ cao gây ra
tăng trưởng thấp hay nó chính là hiệu ứng tích lũy của những quyết định không tốt
về chi tiêu, thuế khóa, sử dụng nguồn lực tài chính sai lầm. Và một khi nợ vượt
qua ngưỡng an toàn thì nợ trở thành một trong những nhân tố gây cản trở lớn đến
tăng trưởng.
- Tổng đầu tư trong nước so với GDP (GDI) có tác động ngược chiều với
tăng trưởng kinh tế. Điều này hoàn toàn phù hợp với các công trình nghiên cứu của
Krugman, (1988); Sachs (1989) và Claessens & Diwan (1989). Đây là dấu hiệu của
nợ dư thừa, nó hoạt động như một mức thuế suất cao làm giảm lợi nhuận đầu tư và
không khuyến khích hình thành vốn trong nước. Nợ dư thừa gián tiếp làm suy yếu
mức GDP bằng cách hạn chế hình thành vốn do tăng thuế kỳ vọng. Do đó đầu tư
trong nước trở nên kém hiệu quả để làm tác động thuận chiều vào tăng trưởng GDP.
Kết quả này cũng phù hợp với nghiên cứu của Iyoha (1999) ở các nước cận Châu
Phi; Elbadawi et al (1997) ở các nước đang phát triển, Mwaba (2001) ở nước
Uganda, Frimpong, J.M. & Oteng-Abayie, E.F. (2006) ở Ghana và Folorunso
S.Ayadi & Felix O.Ayadi (2008) ở Nigeria.
Một nền kinh tế mắc nhiều nợ thì những nhà đầu tư tư nhân cho rằng kết quả
lợi nhuận thu được trong tương lai sẽ bị đánh thuế, lợi nhuận kì vọng của nhà đầu tư
cá nhân sẽ giảm, do đó đầu tư và tăng trưởng cũng hạ xuống theo. Đầu tư tư nhân
47
cũng có thể bị ảnh hưởng xấu bởi bất ổn của nền kinh tế và chính sách thuế khóa
mới được áp dụng vì số nợ lớn. Và những động lực để Chính phủ thực hiện những
cải cách có thể giảm sút vì những cải cách thành công sẽ gây ra áp lực lớn hơn để
trả nợ. Hiện tượng nợ cao tạo ra áp lực lên nợ công và có thể giảm đầu tư công và
chi tiêu công, từ đó giảm tăng trưởng kinh tế.
- Chỉ số nợ phải trả trên xuất khẩu (TDSE): có tác động ngược chiều với
tăng trưởng kinh tế. Kết luận này hoàn toàn phù hợp với quan điểm của Savvides
(1992), Metwally và các cộng sự (1994), Serieux and Samy (2001), Karagol (2002),
Benedict Clements và các cộng sự (2003), Frimpong et al (2006) vàSulaiman, L.A
và Azeez, B.A (2012).
Thanh toán nợ nước ngoài có khả năng ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế do
làm giảm đầu tư tư nhân. Khi các yếu tố khác không đổi, thanh toán gốc và lãi nợ
cao có thể làm tăng thâm hụt ngân sách, giảm tiết kiệm công, điều này lần lượt có
thể làm tăng lãi suất hoặc làm giảm nguồn tín dụng sẵn có của đầu tư tư nhân từ đó
làm giảm tăng trưởng kinh tế. Trả nợ cao cũng có thể có những tác động bất lợi đến
các thành phần của chi tiêu công bằng cách siết chặt các nguồn lực sẵn có cho cơ sở
hạ tầng làm ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế.
4.5: Hiệu chỉnh sự mất cân bằng giữa động thái ngắn hạn và giá trị dài
hạn bằng mô hình hiệu chỉnh sai số ECM (Error Correction Model):
Engle - Granger (1987) khẳng định rằng nếu có một cân bằng hay mối quan hệ
đồng liên kết giữa các biến không dừng, chắc chắn phải tồn tại một sự biểu thị hiệu
chỉnh sai số của số liệu. Engle và Granger chỉ ra rằng nếu tồn tại một mối quan hệ
đồng liên kết thì một hồi quy OLS đơn giản cũng có thể cung cấp những ước lượng
phù hợp cho các hệ số cân bằng dài hạn. Điều kiện tiên quyết cho sự tồn tại của
đồng liên kết là tất cả các biến liên quan phải liên kết ở cùng bậc. Khi đó, các phần
dư ước lượng dài hạn có thể được sử dụng như hệ số hiệu chỉnh sai số (error
correction terms ECT) để giải thích các trạng thái ngắn hạn. Và mục đích kiểm định
là để kiểm tra mức độ hiệu chỉnh trong ngắn hạn để hướng tới cân bằng trong dài
48
hạn là như thế nào (để hướng tới trạng thái cân bằng cần trải qua một chuỗi điều
chỉnh các tác động chệch hướng so với dài hạn).
Do phát hiện có sự tồn tại mối quan hệ đồng liên kết giữa các biến trong mô
hình ban đầu, bước tiếp theo tác giả ước lượng phương trình động sử dụng mô hình
hiệu chỉnh sai số ECM, trong đó lấy sai phân bậc 1 (first dfferent) của biến độc lập
và sai số trễ (lag residuals) từ phương trình đầu tiên được gọi là "biến điều chỉnh sai
số" (error correction term) để tính toán mức độ tác động của tăng trưởng kinh tế và
xác định mức chênh lệch trong ngắn hạn so với mức cân bằng dài hạn của chỉ số
tăng trưởng kinh tế bằng phương pháp Engle Granger hai bước.
4.5.1 Kiểm định nghiệm đơn vị phần dư:
Để làm điều này, đầu tiên tác giả thực hiện kiểm định nghiệm đơn vị phần dư
ADF để kiểm tra đồng tích hợp xác định mối quan hệ dài hạn của các biến tại chuỗi
gốc. Giả thiết H0 cho kiểm định này chỉ ra rằng không có mối quan hệ đồng liên kết
và giả thiết này chỉ có thể bị bác bỏ khi phần dư được tìm thấy là chuỗi dừng tại kỳ
gốc. Bảng 4.6 thể hiện hồi quy đồng liên kết.
Bảng 4.6 Hồi quy đồng liên kết
(Nguồn: Kết quả từ Eview 6.0)
Kiểm định nghiệm đơn vị phần dư được tổng kết trong bảng 4.7. Kiểm định
phần dư của hồi quy đồng liên kết cho thấy phần dư tránh được nghiệm đơn vị, bác
bỏ được giả thiết H0 không có đồng liên kết. Điều này được chấp nhận bởi kiểm
49
định nghiệm đơn vị của ADF. Kết quả cho thấy trị tuyệt đối giá trị thống kê ADF
lớn hơn trị tuyệt đối giá trị tới hạn nên kết luận phần dư là chuỗi dừng ở mức ý
nghĩa 5% và 10%.
Bảng 4.7 Kiểm định phần dư để kiểm tra đồng liên kết:
ADF Mức 5% Mức 10% Kết quả
ECT -3.740472 -3.595026 -3.233456 Dừng
(Nguồn: Kết quả tổng hợp từ Eview 6.0)
4.5.1.1 Kiểm định phần dư có phân phối chuẩn (Kiểm định Histogram-
Normality của phương trình (1):
Theo lý thuyết định lượng nếu phần dư không ngẫu nhiên, không có phân
phối chuẩn, là một thông tin quan trọng cho biết mô hình hồi quy chưa tốt do có thể
bị các lỗi như bỏ sót biến quan trọng, sai dạng hàm, phương sai thay đổi, tự tương
quan... Hơn nữa, phần dư là hạng nhiễu có trung bình bằng không và phương sai
không đổi. Nếu giả định này không thỏa mãn thì các thống kê suy luận của mô hình
hồi quy không còn giá trị nữa. Do đó, để kiểm định phần dư có phân phối chuẩn hay
không tác giả sử dụng thống kê JB của Jarque-Berra (1990).
. Cơ sở kiểm định: Kiểm định cặp giả thiết:
- H0: Phần dư không có phân phối chuẩn
- H1: Phần dư có phân phối chuẩn
. Tiêu chuẩn kiểm định: Với mức ý nghĩa 5%
- Nếu P-value < 0.05 => bác bỏ giả thiết H1, chấp nhận giả thiết H0.
- Nếu P-value > 0.05 => bác bỏ giả thiết H0, chấp nhận giả thiết H1.
. Kết quả kiểm định:
50
Hình 4.1 Kết quả kiểm định Histogram – Normality của mô hình (1)
(Nguồn: kết quả từ Eview 6.0)
Bảng 4.8: Bảng tổng hợp kết quả phần dư có phân phối chuẩn
Mức ý nghĩa Kết luận
Histogram - Normality Test: H0: Phần dư có phân phối chuẩn
Jarque-Berra 0.178066
Probability 0.914815 5% Chấp nhận giả thuyết
(Nguồn: kết quả tổng hợp từ Eview 6.0)
Căn cứ vào kết quả kiểm định nhận thấy giá trị Probability của thống kê JB
(= 0.178066) là 0.914815 > 0.05, giá trị của Skewness = -0.196536 gần giá trị 0 và
giá trị Kurtosis = 2.938560 gần giá trị 3 nên bác bỏ giả thiết chấp H0, chấp nhận giả
thiết H1 là phần dư có phân phối chuẩn.
4.5.1.2 Kiểm định phương sai của sai số là đồng nhất:
Sử dụng kiểm định White với cặp giả thiết sau:
H0: phương sai sai số đồng đều (không có hiện tượng phương sai thay đổi)
H1: Phương sai sai số không đồng đều (có hiện tượng phương sai sai số thay
đổi)
Kết quả như bảng 4.9
51
Bảng 4.9 Kết quả kiểm định phương sai sai số thay đổi
(Nguồn: Kết quả từ Eview 6.0)
Từ bảng kết quả cho thấy chỉ số Obs*R-squared có Prob.Chi-Square =
0.0583 > mức ý nghĩa = 0.05, do đó, chấp nhận giả thiết H0 nghĩa là mô hình
không có hiện tượng phương sai thay đổi hay phương sai của sai số là đồng nhất.
Kết quả từ kiểm định đồng liên kết của Johansen cũng có thể suy ra các biến
trong mô hình có mối quan hệ đồng liên kết, từ đây có thể kiểm định bằng mô hình
ECM.
Mô hình hiệu chỉnh sai số ECM là phương trình tuyến tính đơn giúp tác giả
tìm ra tác động ngắn hạn đối với biến phụ thuộc. Mô hình như sau:
∆lnRYPCt = α0 + α1,s∑k
s=0∆lnRYPCit-s + α2,s∑k
s=0∆lnFDIYit-s +
α3,s∑k
s=0∆lnEXDYit-s + α4,s∑k
s=0∆lnGDIYit-s + α5,s∑k
s=0∆lnTDSEit-s + ECTt-1+ it(2)
∆ là sai phân bậc 1 của biến số,
ECTt-1 là "biến điều chỉnh sai số" (error correction term) được lấy từ phần
dư của phương trình hồi quy gốc theo phương pháp bình phương bé nhất.
4.5.2 Mô hình hiệu chỉnh sai số ECM hai bước trễ:
Đầu tiên, tác giả ước lượng với mô hình ECM 2 bước trễ.
Mô hình cụ thể như sau:
∆lnRYPCt = α0 + α1,s∑2
s=0∆lnRYPCit-s + α2,s∑2
s=0∆lnFDIYit-s +
α3,s∑2
s=0∆lnEXDYit-s + α4,s∑2
s=0∆lnGDIYit-s + α5,s∑2
s=0∆lnTDSEit-s + ECTt-1+ it (3)
Mức độ tác động của các biến trong mô hình được thể hiện qua bảng 4.10:
(Chi tiết xem phụ lục 6)
52
Bảng 4.10: Hồi quy mô hình ECM hai bước trễ
SAI SỐ CHUẨN THỐNG KÊ T BIẾN Prob.
D(LRYPC(-1)) D(LRYPC(-2)) D(FDIY) D(FDIY(-1)) D(FDIY(-2)) D(LEXDY) D(LEXDY(-1)) D(LEXDY(-2)) D(LGDIY) D(LGDIY(-1)) D(LGDIY(-2)) D(LTDSE) D(LTDSE(-1)) D(LTDSE(-2)) HỆ SỐ 0.486710 0.139157 0.302322 0.032734 -0.124718 0.442847 0.213223 0.005604 0.474341 -0.064067 -0.132597 -0.201567 -0.361033 -0.259226 0.287743 0.260561 0.191431 0.192137 0.143821 0.184385 0.216808 0.26096 0.264221 0.290407 0.149404 0.174195 0.164096 0.215117 1.691474 0.534065 1.579275 0.170368 -0.867174 2.401748 0.983467 0.021473 1.795242 -0.22061 -0.887507 -1.157131 -2.20014 -1.205047 0.1292 0.6078 0.1529 0.8690 0.4111 0.0431** 0.3542 0.9834 0.1104 0.8309 0.4007 0.2806 0.0590 0.2626
-2.736077 0.267204
ECTt-1(-1) C R-squared Adjusted R-squared S.E. of regression Sum squared resid Log likelihood F-statistic Prob(F-statistic) 0.480926 0.05145 Mean dependent var S.D. dependent var Akaike info criterion Schwarz criterion Hannan-Quinn criter. Durbin-Watson stat -1.315851 0.013748 0.832580 0.518667 0.198508 0.315245 17.935000 2.652267 0.083286 ** thể hiện mức ý nghĩa thống kê là 5% 0.0256** 0.7961 0.016896 0.286125 -0.16125 0.624119 0.047109 1.936121
(Nguồn: Kết quả tổng hợp từ Eview 6.0)
Kết quả cho thấy, chỉ số kiểm nghiệm F có hệ số hồi quy F= 2.652267 với
mức ý nghĩa 0.083286 <= 5%, do đó mô hình này chưa phù hợp. Do đó, tác giả
tiến hành điều chỉnh bước trễ xuống còn một kỳ.
53
4.5.3 Mô hình hiệu chỉnh sai số ECM một bước trễ:
Mô hình điều chỉnh như sau:
∆lnRYPCt = α0 + α1,s∑1
s=0∆lnRYPCit-s + α2,s∑1
s=0∆lnFDIYit-s +
α3,s∑1
s=0∆lnEXDYit-s + α4,s∑1
s=0∆lnGDIYit-s + α5,s∑1
s=0∆lnTDSEit-s + ECTt-1+ it (4)
Kết quả hồi quy mô hình hiệu chính sai số ECM với một bước trễ được trình
bày trong bảng 4.11
Bảng 4.11 Hồi quy mô hình ECM một bước trễ
BIẾN Prob.
D(LRYPC(-1)) D(FDIY) D(FDIY(-1)) D(LEXDY) D(LEXDY(-1)) D(LGDIY) D(LGDIY(-1)) D(LTDSE) D(LTDSE(-1)) SAI SỐ HỆ SỐ CHUẨN 0.441423 0.202522 0.235040 0.153216 -0.003392 0.049267 0.339770 0.124688 0.067072 0.156011 0.188823 0.123091 0.031051 0.105078 -0.155359 0.140959 -0.344704 0.136486 THỐNG KÊ T 2.179632 0.0469** 0.1473 1.534040 0.9461 -0.068856 2.724974 0.0164* 0.6738 0.429916 0.1473 1.534008 0.7719 0.295508 -1.102154 0.2890 -2.525564 0.0242**
-3.665889 0.0025*** -0.426948 0.6759
-0.947827 0.258553 -0.018160 0.042535
ECTt-1(-1) C R-squared Adjusted R-squared S.E. of regression Sum squared resid Log likelihood F-statistic Prob(F-statistic) 0.809002 0.672574 0.18709 0.490039 13.67836 5.929906 0.001478 Mean dependent var S.D. dependent var Akaike info criterion Schwarz criterion Hannan-Quinn criter. Durbin-Watson stat 0.050628 0.326960 -0.214269 0.322036 -0.065521 2.274493 ***, **, * thể hiện mức ý nghĩa thống kê lần lượt là 1%, 5%, 10%
(Nguồn: Kết quả tổng hợp từ Eview 6.0)
Kết quả ECM cho thấy các hệ số tương quan ước lượng của các biến trong
mô hình hiệu chỉnh sai số, nó thể hiện mối quan hệ động trong ngắn hạn giữa các
các biến nợ nước ngoài với tăng trưởng kinh tế. Kết luận về các hệ số tương quan
dựa trên giá trị P-value (Prob.) với mức ý nghĩa 5%. Dấu và độ lớn của các hệ số
54
thể hiện xu hướng và tốc độ hiệu chỉnh hướng tới cân bằng dài hạn. Nó có thể là
dương hoặc âm và có ý nghĩa hay không có ý nghĩa thống kê.
Mô hình hồi quy cho thấy hệ số xác định R2 = 0.809002 cho biết các biến
trong mô hình giải thích được 80.90% sự biến động của tăng trưởng kinh tế bởi tác
động của chính nó, ngoài ra còn chịu ảnh hưởng của biến nợ nước ngoài trên GDP,
nợ phải trả trên xuất khẩu, còn lại 19.1% được giải thích bởi các nhân tố khác ngoài
mô hình.
Hệ số Durbin Watson = 2.27 thỏa điều kiện 1 < DW < 3 cho thấy mô hình
không có dấu hiệu xảy ra hiện tượng tương quan chuỗi (tự tương quan). Đồng thời
qua chỉ số kiểm nghiệm F có thể thấy hệ số hồi quy F= 5.929906với mức ý nghĩa
0.001478 <= 1%, do đó mô hình này là phù hợp.
Trong ngắn hạn, biến tăng trưởng kinh tế nhận được sự đồng thuận từ chính
giá trị quá khứ của nó hay nói cách khác nó chịu tác động bởi chính nó ở độ trễ một
kỳ. Nghĩa là một sự tăng lên của tăng trưởng kinh tế ở thời điểm hiện tại có thể
được giải thích bởi quá trình tăng lên của tăng trưởng thu nhập bình quân đầu người
ở một năm trước đó (hệ số này có ý nghĩa thống kê). Ngoài ra có 2 biến vĩ mô khác
cũng thể hiện được sự ảnh hưởng của nó tới tăng trưởng kinh tế, đó là biến nợ nước
ngoài trên GDP (D(LEXDY) ở kỳ hiện tại) và nợ phải trả trên xuất khẩu
(D(LTDSE(-1)) ở độ trễ thứ nhất).
Hệ số D(LEXDY) = 0.339770 > 0, hệ số tương quan của biến nợ nước ngoài
có giá trị dương thể hiện sự điều chỉnh tăng trong ngắn hạn của EXDY đối với tác
động trong giá trị hiện tại của tăng trưởng kinh tế. Trong điều kiện các yếu tố khác
không đổi, khi tỷ lệ nợ nước ngoài so với GDP tăng (giảm) 1% thì tốc độ tăng
trưởng thu nhập bình quân đầu người tăng (giảm) 0.339770%.
Hệ số của D(LTDSE(-1)) = -0.344704 < 0, hệ số mang dấu âm cho biết tỷ lệ
thanh toán nợ nước ngoài so với xuất khẩu tác động ngược chiều với tăng trưởng
kinh tế. Trong điều kiện các yếu tố khác không đổi, khi tỷ lệ thanh toán nợ nước
ngoài so với xuất khẩu tăng (giảm) 1% thì tốc độ tăng trưởng thu nhập bình quân
đầu người giảm (tăng) 0.344704%.
55
Các hệ số tương quan của của những biến khác như đầu tư trực tiếp nước
ngoài, đầu tư trong nước đều không có ý nghĩa thống kê chứng tỏ rằng trong ngắn
hạn tăng trưởng kinh tế Việt Nam thời kỳ này ít chịu tác động bởi những biến vĩ mô
này.
Như vậy, trong ngắn hạn, tổng nợ nước ngoài trên GDP tác động cùng chiều
với tăng trưởng kinh tế và nợ phải trả trên xuất khẩu tác động ngược chiều với tăng
trưởng kinh tế. Các biến đầu tư trực tiếp nước ngoài và đầu tư trong nước không có
ý nghĩa thống kê do P-value lớn hơn = 5% cho nên không tác động đến tăng
trưởng kinh tế. Do đó, tác giả có thể kết luận các giả thiết của biến độc lập như sau:
- Chỉ số nợ nước ngoài trên GDP (EXDY): có tác động cùng chiều với tăng
trưởng kinh tế. Kết quả này phù hợp với kết quả của công trình nghiên cứu của
Adegite et al (2008), Folorunso S.Ayadi và Felix O.Ayadi (2008) và Frimpong et al
(2006).
Nợ nước ngoài nếu được sử dụng hợp lý sẽ bổ sung nguồn vốn bị thiếu hụt
trong nước, nó không chỉ góp phần tăng thêm lực lượng vật chất để đầu tư phát triển
mà còn tận dụng được các thành tựu khoa học công nghệ, trình độ quản lý và kỹ
năng lao động tiên tiến để phát triển nhanh nền kinh tế của mình và đẩy nhanh quá
trình công nghiệp hóa nền kinh tế. Việt Nam đang trong giai đoạn phát triển nên
nhu cầu đầu tư cao do đó rất cần nguồn vốn để bổ sung cho nguồn vốn bị thiếu hụt.
Có thể thấy, nợ nước ngoài của Việt Nam đã tăng lên rất nhanh trong nửa
cuối thập niên 80, phần lớn số dư nợ này là những khoản vay từ Liên Xô (cũ),
Trung Quốc và các nước Xã hội chủ nghĩa Đông Âu, ngoài ra còn có một số khoản
vay của một số tổ chức quốc tế, chủ yếu phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng, một phần
đầu tư phát triển giao thông, y tế, xã hội và phục vụ an ninh quốc phòng nên hiệu
quả đầu tư thấp, thời hạn thu hồi vốn quá lâu nên cũng không có khả năng tạo
nguồn thu nhập để trả nợ. Do đó, trong giai đoạn từ năm 1986-1988, khi tỷ giá giữa
USD và VND thấp, tức là đồng Việt Nam bị đánh giá cao thì GDP tính theo USD
rất cao nên tỷ lệ nợ nước ngoài trên GDP khá nhỏ. Năm 1993 và 1997, sau khi tham
gia các vòng đàm phán xử lý nợ quá hạn nên tình hình nợ nước ngoài của Việt Nam
56
bằng các loại ngoại tệ mạnh đã được cải thiện rõ đến cuối năm 1999, rồi tiếp tục
giảm mạnh đến cuối năm 2000. Tuy nhiên, trong giai đoạn này đồng tiền Việt Nam
bị phá giá rất mạnh nên GDP tính theo USD đã giảm rất mạnh kéo theo tỷ lệ nợ
nước ngoài trên GDP tăng lên khá cao. Hậu quả từ năm 1989 đến năm 1999, tỷ lệ
này cao gấp 2 lần giới hạn cho phép và vượt ra khỏi ngưỡng an toàn giới hạn nợ của
quốc gia. Đến năm 1999, tỷ lệ nợ giảm xuống mức thấp nhất giai đoạn này song vẫn
còn 81.05%. Từ năm 2001 đến năm 2007 dư nợ nước ngoài của Việt Nam tăng
chậm so với giữa thập kỷ 90 là vì hoạt động kinh tế tăng chậm, Việt Nam đang tích
cực trả nợ và một phần cũng vì việc giải ngân vốn ODA chậm. Từ năm 2008 đến
năm 2012 Việt Nam đón nhận một nguồn vốn lớn từ nước ngoài nhưng Ngân hàng
Nhà nước chưa có kinh nghiệm trung hòa dòng tiền nên với lượng vốn tăng đột biến
này đã dẫn đến lạm phát, bong bóng trên thị trường tài sản. Tuy nhiên tỷ lệ nợ nước
ngoài trên GDP liên tục giảm từ năm 2000 đến nay. Trong suốt giai đoạn này, tỷ lệ
nợ nước ngoài trên GDP luôn nhỏ hơn 50% trong giới hạn an toàn, không vượt quá
giới hạn nợ của quốc gia.
Do đó, kết quả này hoàn toàn phù hợp với giai đoạn phát triển hiện tại ở Việt
Nam.
- Chỉ số nợ phải trả trên xuất khẩu (TDSE): có tác động ngược chiều với
tăng trưởng kinh tế. Kết luận này hoàn toàn phù hợp với quan điểm của Savvides
(1992), Metwally và các cộng sự (1994), Serieux and Samy (2001), Karagol (2002),
Benedict Clements và các cộng sự (2003), Frimpong et al (2006) và Sulaiman, L.A
và Azeez, B.A (2012).
Nợ phải trả hàng năm (gồm trả vốn gốc, trả lãi dài hạn và trả lãi ngắn hạn)
không tương quan với tổng dư nợ. Trong giai đoạn 1986-1996, Việt Nam có tổng
dư nợ rất cao nhưng nợ phải trả lại rất thấp; nguyên nhân là do Việt Nam đang trong
quá trình đàm phán lại nợ đối với các nước Phương Tây cũng như các nước thuộc
khối Liên xô cũ, do đó không trả nợ ồ ạt. Mặt khác, tiềm lực kinh tế Việt Nam lúc
đó còn yếu nên khả năng trả nợ còn thấp. Ngoài ra, do phần lớn vốn vay nước ngoài
là ODA, thời gian ân hận kéo dài nên cũng chưa đến giai đoạn phải trả nợ.
57
Tuy nhiên, tình hình đã khác kể từ năm 1997, tức là 5 năm sau khi Nhật Bản
nối lại viện trợ cho Việt Nam. Nợ phải trả năm 1997 đạt 868 triệu USD, gấp 2,1 lần
so với năm 1996. Trong các năm sau 1997, nợ phải trả hầu như liên tục tăng lên, đạt
mức cao nhất khoảng 1,1 tỷ USD vào năm 2001 khi Việt Nam đẩy mạnh trả nợ cho
nước Nga. Trong năm 2002, Việt Nam trả nợ nước ngoài khoảng 1,2 tỷ USD. Đặc
biệt, sau giai đoạn tỷ lệ nợ phải trả trên tổng kim ngạch xuất khẩu tăng mạnh (1998-
1999) do xuất khẩu tăng chậm, thì từ năm 2000 đến nay, tỷ lệ này đã liên tục giảm
xuống, năm 2012 chỉ còn 3.1%.
Giá trị xuất khẩu là nguồn thu ngoại tệ xuất khẩu thể hiện cho khả năng trả
nợ của một quốc gia. Thực hiện chính sách, hội nhập với kinh tế của khu vực và thế
giới, Việt Nam là một trong những nước có độ mở cửa thương mại lớn nhất thế giới.
Tổng giá trị xuất khẩu của Việt Nam đã tăng 66 lần từ 1.7 tỷ USD từ năm 1986 lên
114.57 tỷ USD năm 2012. Mặc dù Việt Nam có mức tổng nợ lớn nhưng nợ phải trả
hàng năm bao gồm trả nợ gốc và trả lãi lại khá thấp do phần lớn các khoản nợ là
những khoản viện trợ không hoàn lại hoặc vay ưu đãi với lãi suất thấp. Giá trị xuất
khẩu cao hơn gấp nhiều lần so với số nợ phải trả hàng năm cho thấy tính thanh
khoản trong khả năng thanh toán nợ nước ngoài.
Tuy nhiên, nếu so với quy mô của nền kinh tế, mức dự trữ ngoại tệ còn quá ít
thì tổng mức nợ nước ngoài của Việt Nam không phải là nhỏ. Hơn nữa nợ nước
ngoài cũng đã tích tụ một khối lượng đáng kể nợ đến hạn phải trả hàng năm. Năm
2007 Việt Nam phải trả cả gốc và lãi là 1,255 triệu USD và tăng lên 3,551 triệu
USD vào năm 2012, trong khi đó khả năng thanh toán nợ của nền kinh tế nói chung
và của ngân sách Nhà nước nói riêng là rất khó khăn.
Số hạng hiệu chỉnh sai số ECTt-1 = -0.947827 có giá trị tuyệt đối rất nhỏ,
mang dấu âm và có ý nghĩa thống kê. Hệ số này mang dấu âm hàm ý rằng các nhân
tố ở thời kỳ này chịu ảnh hưởng bởi những bất cân bằng thời kỳ trước. Khi để mất
cân bằng thì quá trình điều chỉnh để trở về cân bằng dài hạn là rất chậm.
58
* Kiểm định các khuyết tật của mô hình ECM một bước trễ:
4.5.3.1 Kiểm định ý nghĩa thống kê của mô hình ECM một bước trễ
(kiểm định RESET của Ramsey):
Một trong những kiểm định phổ biến nhất để kiểm định sai dạng mô hình là
kiểm định RESET của Ramsay (1969), đây là loại kiểm định Wald thông thường
(dựa trên thống kê F) cho việc đưa thêm các giải thích vào mô hình. Nếu một hoặc
một số hệ số có ý nghĩa thống kê thì đó là dấu hiệu của việc sai mô hình (tổng quát),
ngược lại nếu chấp nhận giả thuyết thì mô hình ban đầu là đúng.
. Cơ sở kiểm định: Kiểm định cặp giả thiết:
- H0: Mô hình chỉ định đúng
- H1: Mô hình chỉ định sai
. Tiêu chuẩn kiểm định: Với mức ý nghĩa 5%
- Nếu P-value > 0.05 => bác bỏ giả thiết H1, chấp nhận giả thiết H0.
- Nếu P-value < 0.05 => bác bỏ giả thiết H0, chấp nhận giả thiết H1.
. Kết quả kiểm định:
Thực hiện kiểm định RESET Ramsey của mô hình hồi quy ECM một bước
trễ cho kết quả như bảng 4.12 sau:
Bảng 4.12 Kết quả kiểm định ý nghĩa thống kê của mô hình ECM một
bước trễ:
(Nguồn: kết quả từ Eview 6.0)
Căn cứ vào kết quả kiểm định cho thấy P-value = 0.1571 > 0.05 nên chấp
nhận giả thiết H0. Do đó, có thể kết luận mô hình ECM một bước trễ có dạng hàm
đúng, không thiếu biến.
4.5.3.2 Kiểm định phần dư có phân phối chuẩn (Kiểm định Histogram -
Normality)của mô hình ECM một bước trễ:
. Cơ sở kiểm định: Kiểm định cặp giả thiết:
59
- H0: Phần dư không có phân phối chuẩn
- H1: Phần dư có phân phối chuẩn
. Tiêu chuẩn kiểm định: Với mức ý nghĩa 5%
- Nếu P-value < 0.05 => bác bỏ giả thiết H1, chấp nhận giả thiết H0.
- Nếu P-value > 0.05 => bác bỏ giả thiết H0, chấp nhận giả thiết H1.
. Kết quả kiểm định:
Hình 4.2 Kết quả kiểm định Histogram - Normality mô hình ECM một bước
trễ
(Nguồn: kết quả từ Eview 6.0)
Bảng 4.12: Bảng tổng hợp phần dư có phân phối chuẩn của mô hình ECM một
bước trễ
ECM dựa trên phần dư Mức ý
phương pháp Engle-Granger nghĩa Kết luận
Histogram - Normality Test: H0: Phần dư có phân phối chuẩn
Jarque-Berra 2.12085
Probability 0.346372 5% Chấp nhận giả thuyết
(Nguồn: kết quả tổng hợp từ Eview 6.0)
Căn cứ vào kết quả kiểm định nhận thấy giá trị Probability của thống kê JB (
= 2.120485) là 0.346372 > 0.05, giá trị của Skewness = 0.643801 gần giá trị 0 và
giá trị Kurtosis = 3.614609 gần giá trị 3 nên chấp nhận giả thuyết H0 là phần dư có
phân phối chuẩn.
60
4.5.3.3 Kiểm định sự phù hợp của hàm hồi quy (kiểm định Wald) mô
hình ECM một bước trễ:
Để kiểm chứng các hệ số tuyến tính của mô hình có đồng thời bằng không
hay không, tác giả tiến hành thực hiện kiểm định Wald, với giả thuyết:
H0: Mô hình không tồn tại hay các biến độc lập hoàn toàn không giải thích
cho biến phụ thuộc.
H1: Có ít nhất một biến ≠ 0
Kết quả như bảng 4.13 sau:
Bảng 4.13 Kiểm định Wald mô hình ECM một bước trễ
(Nguồn: kết quả từ Eview 6.0)
Với mức ý nghĩa =5%, kiểm định ràng buộc tuyến tính (kiểm định Wald)
có P-value = 0.0115 <, do đó bác bỏ giả thuyết các biến trong mô hình đồng thời
bằng không. Điều này cho thấy kết quả hồi quy mô hình là có ý nghĩa.
4.5.3.4 Kiểm định tự tương quan (Kiểm định Breusch-Godfrey) mô hình
ECM một bước trễ:
Giả thiết: H0: Mô hình không có hiện tượng tự tương quan
H1: Mô hình có hiện tượng tự tương quan
Kết quả như bảng 4.14 sau:
Bảng 4.14 Bảng kết quả kiểm định tự tương quan:
(Nguồn: Kết quả từ Eview 6.0)
61
Từ bảng kết quả cho thấy Obs*R-squared = 1.725834 với Prob.Chi-Square =
0.4219 > mức ý nghĩa =5%, chấp nhận H0 nghĩa là mô hình không có hiện tượng
tự tương quan.
4.6 Thảo luận kết quả nghiên cứu:
Qua phân tích kết quả nghiên cứu có thể rút ra được những đặc điểm nổi bật
như sau:
- Thứ nhất, trong các biến vĩ mô đưa vào nghiên cứu bao gồm biến đầu tư
trực tiếp nước ngoài, biến đầu tư trong nước, biến nợ nước ngoài và nợ phải trả trên
xuất khẩu đều ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế tại Việt nam, cho thấy tồn tại mối
quan hệ giữa những biến kinh tế vĩ mô với tăng trưởng kinh tế Việt Nam cả trong
ngắn hạn và dài hạn. Trong ngắn hạn, các biến nợ nước ngoài và nợ phải trả trên
xuất khẩu có tác động đến tăng trưởng kinh tế. Trong dài hạn, như đã đề cập ở trên,
hầu hết các biến đều ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế. Việc tập trung vào các biến
này khi phân tích vấn đề tăng trưởng sẽ giúp cho các nhà hoạch định chính sách hay
những đối tượng phân tích khác có cái nhìn toàn diện hơn trong việc đưa ra các kết
luận của mình.
- Thứ hai, sự tác động của mỗi biến đến tăng trưởng kinh tế có thể tóm tắt lại
như sau:
+ Kết quả đồng liên kết cho thấy tồn tại sự cân bằng về dài hạn giữa các biến
trong mô hình. Trong đó, biến đầu tư trực tiếp nước ngoài tương quan cùng chiều
với tăng trưởng kinh tế. Điều này cho thấy đầu tư trực tiếp nước ngoài là kênh dẫn
vốn giúp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong dài hạn. Các biến còn lại tác động
ngược chiều đến tăng trưởng kinh tế, cho thấy nợ nước ngoài khi vượt ngưỡng an
toàn sẽ tác động xấu đến tăng trưởng kinh tế.
+ Phân tích ECM cho thấy tăng trưởng kinh tế trong ngắn hạn chịu ảnh
hưởng bởi chính nó ở độ trễ một kỳ. Ngoài ra nó còn còn bị tác động bởi biến nợ
nước ngoài trên GDP (D(LEXDY) ở kỳ hiện tại) và nợ phải trả trên xuất khẩu
(D(LTDSE(-1)) ở độ trễ thứ nhất).
62
Như vậy, hai câu hỏi nghiên cứu đề ra ban đầu đã tìm thấy được câu trả lời từ
các kết quả đạt được. Với những kết quả có được từ nghiên cứu, hoàn toàn có cơ sở
để tin rằng tại Việt Nam, nghiên cứu tác động của tăng trưởng kinh tế thể hiện qua
chỉ số tăng trưởng thu nhập bình quân đầu người có thể được giải thích thông qua
sự thay đổi của các các biến vĩ mô bao gồm đầu tư trực tiếp nước ngoài, đầu tư
trong nước, nợ nước ngoài và nợ phải trả trên xuất khẩu. Nói cách khác, giữa chúng
thật sự tồn tại mối quan hệ động trong ngắn hạn và cả cân bằng trong dài hạn.
63
CHƯƠNG 5: KẾT LUẬN
5.1 Kết luận:
Kết quả của luận văn với việc sử dụng các phương pháp kiểm định đồng liên
kết, mô hình hiệu chỉnh sai số VECM và ECM tại Việt Nam cho thấy nợ nước
ngoài thực sự có ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế cả trong ngắn hạn và trong dài
hạn. Luận văn đã cố gắng khai thác hết chuỗi thời gian gắn liền từ khi nền kinh tế
Việt nam bắt đầu mở cửa cho đến thời điểm hiện tại nhằm có thêm quan sát để chạy
dữ liệu, tăng cường độ tin cậy cho nghiên cứu.
Cụ thể, trong dài hạn, các biến vĩ mô đều tác động lên tăng trưởng kinh tế đó
là đầu tư trực tiếp nước ngoài tác động thuận chiều đến tăng trưởng kinh tế, và đầu
tư trong nước, nợ nước ngoài trên GDP, nợ phải trả trên xuất khẩu tác động nghịch
chiều lên tăng trưởng kinh tế. Các biến này đã giải thích được 54.53% thay đổi của
biến tăng trưởng kinh tế Việt Nam trong giai đoạn nghiên cứu. Trong khi đó, xét về
ngắn hạn biến tăng trưởng kinh tế chịu ảnh hưởng bởi chính nó ở độ trễ một kỳ.
Ngoài ra nó còn bị tác động bởi biến nợ nước ngoài trên GDP (D(LEXDY) ở kỳ
hiện tại) và nợ phải trả trên xuất khẩu (D(LTDSE(-1)) ở độ trễ thứ nhất). Các biến
đầu tư trực tiếp nước ngoài và đầu tư trong nước không thể hiện sự tác động của nó
lên tăng trưởng kinh tế trong ngắn hạn.
Mối quan hệ ngược chiều giữa tăng trưởng kinh tế và nợ phải trả chỉ ra rằng
các nguồn lực huy động từ nước ngoài hiện đang bị phân bổ không hiệu quả hoặc
chi tiêu không hợp lý. Khi mối tác động ngược chiều của gánh nặng nợ đến năng
suất ngày càng gia tăng thì khả năng trả nợ trong tương lai của quốc gia cũng suy
giảm.
Trong giai đoạn khảo sát, nợ nước ngoài chỉ có tác động cùng chiều với tăng
trưởng kinh tế tại Việt Nam trong giai đoạn đầu vay nợ, khi nợ chưa vượt mức
ngưỡng nào đó nhưng sau đó, khi các khoản vay nợ ngày càng nhiều, nợ vượt qua
mức ngưỡng nào đó kết hợp với hiệu quả sử dụng nợ thấp thì nợ trở nên có tác động
ngược chiều lên tăng trưởng kinh tế.
64
Nợ nước ngoài quá cao sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế của một quốc
gia qua một số kênh sau: Thứ nhất, số nợ phải trả lớn sẽ làm cạn kiệt nguồn vốn và
dự trữ ngoại hối của quốc gia do số tiền này được dùng vào việc trả lãi suất và các
khoản nợ đến hạn. Thứ hai, khi một quốc gia không có khả năng thực hiện nghĩa vụ
trả nợ của mình thì các quốc gia và tổ chức cho vay sẽ đánh giá quốc gia đó có
nhiều rủi ro hơn, từ đó sẽ làm suy giảm sự sẵn lòng cho vay. Điều này cũng đồng
nghĩa với việc quốc gia đi vay sẽ có thể phải trả lãi suất cao hơn cho các khoản vay
mới của mình. Thứ ba, tích lũy nợ sẽ làm giảm hiệu quả của nền kinh tế do đó sẽ
gây khó khăn trong việc điều chỉnh để thích ứng và đối phó một cách hiệu quả với
các cú sốc và sự biến động tài chính quốc tế. Cuối cùng, để có thể tiết kiệm đủ
ngoại tệ phục vụ cho các khoản nợ phải trả, nhiều nước cần cắt giảm nhập khẩu, hạn
chế thương mại và từ đó gây ra tình trạng xấu đi của cán cân thương mại.
Từ các kết quả phân tích trên, có thể thấy được rằng vay nợ nước ngoài có
hai mặt đối lập, một mặt nó là nguồn lực cho phát triển kinh tế - xã hội, mặt khác
nếu quản lý không tốt, hiệu quả sử dụng vốn thấp, không hợp lý sẽ dẫn tới những
hậu quả tiêu cực cho nền kinh tế.
Luận văn đã giải quyết được mục tiêu nghiên cứu đề ra ban đầu đó là nhận
diện sự ảnh hưởng của nợ nước ngoài đến tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam, kiểm
định mối quan hệ trong ngắn hạn và dài hạn và mức độ tác động của mỗi biến đối
với tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam.
Như vậy, với những kết quả đạt được, mục tiêu nghiên cứu đã được làm rõ,
mối quan hệ giữa nợ nước ngoài và tăng trưởng kinh tế là thực sự tồn tại cả trong
ngắn hạn và dài hạn. Điều này cho thấy nghiên cứu đã tìm kiếm được những kênh
truyền dẫn góp phần làm tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam và từ đó có thể đưa ra
những gợi ý chính sách để tham khảo.
5.2 Một số gợi ý chính sách đối với nền kinh tế Việt Nam:
Qua kết quả phân tích sự tác động của nợ nước ngoài đến tăng trưởng kinh tế
tại Việt Nam, từ đó có thể thấy rằng cần có những giải pháp dựa trên những nhân tố
này để có được những chính sách, định hướng nhằm phát triển lâu dài. Do đó, trong
65
dài hạn tăng trưởng kinh tế có sự cân bằng với các biến đầu tư trực tiếp nước ngoài,
đầu tư trong nước, nợ nước ngoài trên GDP và nợ phải trả trên xuất khẩu. Trong
ngắn hạn, biến tăng trưởng kinh tế bị tác động bởi chính nó ở độ trễ một kỳ. Ngoài
ra nó còn còn bị tác động bởi biến nợ nước ngoài nên các giải pháp của tác giả tập
trung vào các chính sách liên quan tới việc ổn định các nhân tố này. Ngoài ra, còn
có thêm một số giải pháp phụ khác nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế phát triển.
Sau đây tác giả đưa ra một số gợi ý chính sách:
- Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài: Như kết quả phân tích cho thấy đầu tư
trực tiếp nước ngoài là biến giải thích tác động của chỉ số tăng trưởng thu nhập bình
quân đầu người trong dài hạn. Do đó, để tăng trưởng kinh tế phát triển cần thu hút
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Muốn vậy, cần phải xây dựng và thực hiện cơ chế,
chính sách khuyến khích, thu hút các dự án đầu tư hình thành mạng lưới liên kết sản
xuất, kinh doanh và có chính sách ưu đãi đối với các công ty đa quốc gia để hình
thành các cụm công nghiệp - dịch vụ. Cần ban hành các chính sách, quy định về
thuế, phí, đất đai, quản lý ngoại hối... để thu hút, khuyến khích đầu tư nhiều hơn vào
lĩnh vực sản xuất, chế biến sử dụng đầu vào trong nước thay vì nhập khẩu, gia công,
lắp ráp, chú trọng vào kinh doanh thương mại, nhất là tại thị trường nội địa. Ban
hành văn bản pháp quy nhằm điều chỉnh và quản lý thống nhất hoạt động xúc tiến
đầu tư để thu hút nguồn FDI.
- Quản lý nợ nước ngoài chặt chẽ để nền kinh tế tăng trưởng tốt.
Kết quả thực nghiệm cho thấy trong dài hạn nợ nước ngoài tác động nghịch
chiều đến tăng trưởng kinh tế. Trong khi đó, trong ngắn hạn nợ nước ngoài tác động
thuận chiều đến tăng trưởng kinh tế. Do đó, để đảm bảo nền kinh tế Việt Nam tăng
trưởng nhanh và bền vững, Chính phủ cần phải xây dựng một cơ cấu nợ bền vững,
lựa chọn hợp lý các nguồn vay nước ngoài nhằm hướng tới nâng cao chất lượng
nguồn vay, sử dụng vốn vay trên nguyên tắc khai thác triệt để các nguồn vốn ưu đãi
có thời gian ân hạn dài, lãi suất thấp, tỷ lệ ưu đãi cao như viện trợ phát triển chính
thức để đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng nhằm tác động đến tăng trưởng lâu dài, bền
vững. Ngoài ra, cần phải tính đến tổng nợ nước ngoài phải trả với tổng các khoản
66
vay mới, tránh tình trạng tổng phải trả lớn hơn tổng khoản vay vì các năm qua con
số trả nợ thấp do các khoản vay mới chưa đến hạn nhưng những năm sắp tới sẽ phải
chịu áp lực trả nợ khi thanh toán đến hạn. Bên cạnh đó, cần hạn chế việc đầu tư quá
mức bằng nguồn vốn vay nước ngoài của Chính phủ vào các dự án không có khả
năng tạo ra nguồn ngoại tệ để trả nợ hoặc các dự án không phù hợp với tình hình
phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
- Chú trọng vấn đề thanh toán nợ nước ngoài:
Kết quả nghiên cứu cho thấy trong ngắn hạn nợ phải trả trên xuất khẩu tương
quan âm với tăng trưởng kinh tế. Do đó, cần chú trọng đẩy mạnh xuất khẩu để tạo
nguồn thu ngoại tệ, thay thế các khoản nợ vay nước ngoài bằng cách thu hút vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài để giảm áp lực phải trả nợ gốc và lãi khi đến hạn thanh
toán.
- Tăng cường công tác của cơ quan thống kê để những dữ liệu kinh tế vĩ mô
trở nên dễ tiếp cận với đa số mọi người. Những số liệu thống kê cần được đăng tải
một cách rõ ràng, dễ tra cứu trên các trang web chính thức, đặc biệt là cần lưu trữ
dữ liệu cho thời gian dài, phân bổ không chỉ theo năm mà còn theo tháng. Khi thông
tin được tra cứu dễ dàng thuận tiện, đó cũng là lúc những phân tích trở nên chính
xác và dễ áp dụng bởi những người nghiên cứu nhằm tăng cường tính hiệu quả về
mặt thông tin.
- Qua phân tích, biến tăng trưởng kinh tế chịu tác động của chính nó từ quá
khứ. Do đó, cần làm cho nền kinh tế tăng trưởng hơn nữa. Nhà nước cần phải kịp
thời có biện pháp xử lý hoặc làm giảm các biểu hiện như thâm hụt quá mức cán cân
thanh toán, nhập siêu, tình trạng căng thẳng và mất cân đối về vốn đầu tư, nợ tồn
đọng vốn đầu tư…Tiếp tục rà soát để hoàn chỉnh hơn các quy định pháp luật, chính
sách để huy động tối đa mọi nguồn lực, trước hết là nội lực về vốn, đất đai, tài
nguyên, khoáng sản, công nghệ, lao động … tập trung cho lĩnh vực có lợi thế cạnh
tranh cao và mang lại hiệu quả kinh tế. Cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh
khuyến khích các thành phần kinh tế, sớm cơ cấu lại toàn bộ nền kinh tế cả trong
nông nghiệp và công nghiệp. Hội nhập sâu và rộng vào đời sống kinh tế quốc tế sẽ
67
tạo ra những thuận lợi cho nền kinh tế và cũng đặt nền kinh tế trước nhiều thách
thức và khó khăn vì vậy Việt Nam phải chủ động trong việc thực hiện các cam kết
với các tổ chức quốc tế.
Trên cơ sở kết luận nghiên cứu thực nghiệm nêu trên, Việt Nam cần phải có
một chính sách vay nợ hợp lý, sử dụng hiệu quả nguồn vốn vay để đảm bảo tăng
trưởng kinh tế bền vững. Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu
rộng như hiện nay, thách thức đặt ra cho Việt Nam nói riêng và các nước đang phát
triển khác nói chung là cần nhận thức đúng đắn vai trò vay và trả nợ như thế nào để
vừa khai thác nguồn vốn vay nước ngoài sao cho hiệu quả để làm đòn bẩy phát triển
kinh tế và không làm gia tăng những nguy cơ đối với an ninh tài chính và không
phụ thuộc vào những can thiệp về kinh tế chính trị từ nước ngoài.
5.3 Hạn chế của đề tài và bước nghiên cứu tiếp theo:
Mặc dù có sự cố gắng rất nhiều trong phân tích thực nghiệm bằng định
lượng, nhưng theo ý kiến cá nhân, đề tài này vẫn còn mặt hạn chế.
Chưa khảo lược đầy đủ các lý thuyết trong nước và nước ngoài về nợ nước
ngoài tác động đến tăng trưởng kinh tế cũng như mối quan hệ tác động qua lại giữa
chúng.
Các biến trong mô hình chưa đầy đủ, vì lý do cơ sở dữ liệu phục vụ nghiên
cứu không thể thu thập được nên một số biến đã không được trình bày trong mô
hình nên các biến mang tính khiếm khuyết trong mô hình nghiên cứu. Do các số
liệu thống kê tài chính trong nước không đầy đủ và rất khó tiếp cận nên đề tài phải
sử dụng số liệu từ các tổ chức tài chính quốc tế như số liệu của WB, IMF. Điều này
có thể dẫn đến kết quả thực nghiệm thu được có sự khác biệt so với các báo cáo
trong nước.
Đề tài sử dụng số liệu hàng năm trong giai đoạn từ năm 1986 đến 2012 nên
mẫu thu thập được tương đối nhỏ (chỉ có 27 quan sát) nên khi sử dụng phương pháp
đồng liên kết của Engle - Granger hai bước (1987) có thể đưa ra kết quả chưa thật
chính xác, khó đạt được độ tin cậy cao.
68
Việc phân tích định lượng của luận văn chỉ mới tập trung vào tác động của
các biến vĩ mô đến tăng trưởng kinh tế mà chưa phân tích được tác động giữa các
nhân tố vĩ mô này với nhau, giữa biến vĩ mô này với các biến còn lại. Nếu phân tích
được điều này, nghiên cứu sẽ đưa ra được cái nhìn toàn diện hơn cho vấn đề nghiên
cứu.
Hạn chế về kiến thức kinh tế lượng nên việc xử lý và đọc số liệu từ kết quả
nghiên cứu còn tồn tại.
Từ những hạn chế được nhận dạng như trên, hướng nghiên cứu tiếp theo của
đề tài là:
Lược khảo đầy đủ hơn các nghiên cứu trong nước cũng như trên thế giới về
nợ nước ngoài và tăng trưởng kinh tế.
Xây dựng mô hình nghiên cứu đầy đủ các biến để có sơ sở đánh giá đầy đủ,
toàn diện về nợ nước ngoài và tăng trưởng kinh tế.
Thu thập dữ liệu nghiên cứu từ nhiều nguồn khác nhau để có bộ số liệu hoàn
thiện phục vụ nghiên cứu.
Kiểm định đầy đủ, toàn diện theo mô hình nghiên cứu để có thể thảo luận và
gợi ý khả thi.
Đọc dữ liệu và nhận định, đánh giá mang tính xác đáng hơn và gợi ý chính
sách đầy đủ hơn để nâng cao giá trị của đề tài nghiên cứu.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. TÀI LIỆU TIẾNG VIỆT
- Đoàn Ngọc Châu, 2012. Tác động của nợ nước ngoài đến tăng trưởng kinh tế
của Việt Nam. Luận văn thạc sĩ. Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh;
- Lâm Xiêm Dung, 2011. Tác động của nợ công đối với tăng trưởng kinh tế tại
Việt Nam. Luận văn thạc sĩ. Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh;
- Nguyễn Thị Song Hoanh, 2012. Tác động của nợ nước ngoài đối với tăng
trưởng kinh tế tại Việt Nam.
- Phạm Trí Cao, Vũ Minh Châu, 2009. Kinh tế lượng ứng dụng. NXB Thống kê;
2. TÀI LIỆU TIẾNG ANH
- Adegbite, E. O., Ayadi, F. S. and Ayadi, O. F. 2008. The Impact of Nigeria’s
External Debt on Economic Development. International Journal of Emerging Markets,
Vol. 3, 3, 2008, pp. 285-301.
- Alfredo Schclarek 2004, Debt and Economic Growth in Developing and
Industrial Countries,Lund University, Department of Economics in its series Working
Papers
- Bosworth, B., and Collins S.M, 2003. The Empirics of Growth: An Update.
Brooking Papers on Economic Activity, 2003, no.2, pp.113-206;
- Catherine Pattillo, Hélène Poirson and Luca Ricci, 2002.External Debt and
Growth. Magazine Finance and Development of the IMF, June 2002, Volume 39,
Number 2;
- Chowdhury, A. R. 2001. External Debt and Growth in Developing Countries; A
Sensitivity and Causal Analysis.WIDER Discussion Paper No. 2001/95 .
- Chowdhury, K., 1994. A structural analysis of external debt and economic
growth: some evidence from selected countries in Asia and the Pacific. Applied
Economics, 26, pp. 1121-1131.
- Clements, B., R. Bhattacharya and T.Q.Nguyen, 2003. External debt, public
investment and growth in low-income countries.A new perspective on the African and
Latin. IMF Working paper 03/249;
- Cohen, D.,1997. Growth and external debt. A new perspective on the African
and Latin American tragedies. Centre for Economic Policy Research Discussion Paper, No.
1753.
- Diwan, 1. and Claessens, S. (1989). Liquidity, Debt Relief and
Conditionality. In: Diwan, 1. (Editor), Dealing with the Debt crisis, A
World Bank Symposium Volume, Washington, DC: World Bank.
- Elbadawi 1., Benno N., and Njuguna, N. (1996). Debt Overhang and
Economic Growth in Sub-Saharan Africa. In: lgbal, Zubair and Ravi
(Editors) External Finance for Low- Income Countries. Washington DC:
IMF Institute
- Elbadawi, A. I., J. B. Ndulu, and N. Ndung'u, 1996. Debt Overhang and
Economic Growth in Sub-Saharan Africa. Paper presented at the IMF/World Bank
Conference on External Financing for Low-income Countries, December. Washington,
DC: IMF/World Bank ;
- Elbadawi, I.A., Ndulu, B.J. and Ndungu, N., 1999 in Iqbal, Z. and Ravi, K.
(Eds), Debt Overhang and Economic Growth in Sub-Saharan Africa. External Finance
for Low-income Countries, IMF Institute, Washington, DC, Ch. 5.
- Elmendorf, Douglas W., and N. Gregory Mankiw. 1999. Government Debt. In
(J. B. Taylor & M. Woodford (ed.)). Handbook of Macroeconomics 1, part 3: 1615-
1669
- Engle,R.F and Granger, C.W.J, 1983 và 1986. Cointe-gration and Error
- Folorunso S. Ayadi and Felix O.Ayadi, 2008. The impact ofExternal Debt on
Economic Growth: a comparative study of Nigeria and South Africa.
- Fosu, A. K., 1996. The Impact of External Debt on Economic Growth in Sub-
Saharan Africa. Journal of Economic Development, Vol. 21, 1, pp. 93-118.
- Fosu, A. K., 1999. The External Debt Burden and Economic Growth in the
1980s: Evidence from Sub-Saharan Africa. Canadian Journal of Development Studies,
Vol. 20, 2, pp. 307-318.
- Frimpong, J. M. and Oteng-Abayi, E. F., 2006.The Impact Of External Debt On
Economic Growth In Ghana: A Cointegration Analysis;
- Hansen, Henrik, 2001, The Impact of Aid and External Debt on Growth and
Investment: Insights from Cross-Country Regression Analysis, paper presented at
WIDER Conference on Debt Relief (Helsinki: United Nations University) (August).
- Husain I. and Jun K.1992, Capital Flows to South A sian and ASEAN Countries:
Trends, Determinants and Policy Implications, World Bank Working Papers, 842,
Washington D.C.
- Iyoha, M.A. (1999). External Debt and Economic growth in Sub-
Saharan African Countries: An econometric study. AERC Research Paper 90,
African Economic Research Consortium, Nairobi.
- Karagol, E. 2002. The Causality Analysis of External Debt Service and GNP:
The Case of Turkey. Central Bank Review, Vol. 2, 1, pp. 39-64.
- Krugman, P. (1988). Financing Vs Forgiving a Debt Overhang.
Journal of Development Economics, 29: 252-268.
- Mahnaz Rabiei and Zohreh Ghavam Masoudi2012, Foreign Direct Investment
and Economic Growth in Eight Islamic Developing Countries. European Journal of
Scientific Research Volume 68 Issue 4 Jan, 2012.
- Metwally, M. M. and Tamaschke, R. 1994. The interaction among foreign debt,
capital flows and growth; case studies. Journal of Policy Modelling, Vol. 16, 6, pp.
597-608.
- Mwaba, A.(2001). External Debt and Debt Reduction Measures in
Uganda. Paper prepared for the WIDER Conference on Debt Relief,
Helsinki. 1 7-18 September.
- Nakatani, P and Herrera, R., 2007. The south has already repaid its external
debt to the north, but the north refuses to recognize its debts to the south. CES
Working Paper, 2007.14.
- Okonkwa, C.S & Odularu, G.O., 2013. External Debt, debt burden and
economic growth nexus: Empirical evidence and policy lesons from selected West
African Countries. International Journal of Economics & Business Studies; Spring
2013, Vol. 3 Issue 1, p20, March 2013
- Pattillo, C., H.Poirson, and L.Ricci, 2002. What are the Channels through which
External Debt Affects Growth?. IMF Working Paper No.04/15 (Washington:
International Monetary Fund).
- Rana B.P. and Dowling J.M, 1988. The Impact of Foreign Capital on Economic
Growth: Evidence from Asian Developing Countries. The Developing Economies, Vol
24, No.01, March 1988.
- Reinhart, Carmen and Kenneth Rogoff, 2010. Growth in a Time of
Debt.American Economic Review, May forthcoming;
- Sachs, J. (1989). The Debt Overhang of Developing Countries. In:
Calvo, Guillermo A. et al (Editors), Debt, Stabilization and Development:
Essays in memory of Carlos Diaz-Alejandro. Oxford: Basil Blackwell.
- Savvides, A. 1992. Investment Slowdown in Developing Countries During the
1980s: Debt Overhang Or Foreign Capital Inflows. Kyklos, Vol. 45, 3, pp. 363-378.
- Sen, S., Kasibhatla, K.M., and Stewart D.B. 2007. Debt Overhang and
Economic Growth - The Asian and the Latin American Experience. Economic Systems,
Vol. 31, 1, pp. 3-11
- Serieux, John and Yiagadeesen Samy 2001, The debt service burden and
growth: Evidence from low income countries, The North-South Institute, Ottawa.
- Shahnawaz Malik, Muhammad Khizar Hayat và Muhammad Umer Hayat,
2010. External Debt and Economic Growth: Empirical Evidence from Pakistan. No.
ISSN 1450-2887.
- Sulaiman, L. A. & Azeez, B. A. (2012). Effect of External Debt on Economic
Growth of Nigeria. Journal of Economics and Sustainable Development,
- Tokunbo Simbowale Osinubi, Risikat Oladoyin S.Dauda and Oladele
Emmanuel Olaleru, 2007. Budget Deficits, External Debt and Economic Growth in
Nigeria;
- Warner, Andrew M, 1992. Did the Debt Crisis Cause the Investment Crisis?. The
Quarterly Journal of Economics, MIT Press, vol. 107(4), pages 1161-86, November.
- Were, Maureen, 2001. The Impact of External Debt on Economic Growth and
Private Investment in Kenya: An Empirical Assessment. Kenya Institute for Public
Policy Research and Analysis.
PHỤ LỤC
PHỤ LỤC 1: SỐ LIỆU SỬ DỤNG CHO NGHIÊN CỨU
1.1 ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI SO VỚI GDP
FDI (USD)
GDP theo giá hiện hành (USD) Năm 40,000 26,336,617,864 1986 10,363,704 36,658,108,169 1987 7,680,000 25,423,812,494 1988 4,070,000 6,293,304,847 1989 180,000,000 6,471,740,486 1990 375,190,278 9,613,369,554 1991 473,945,856 9,866,990,096 1992 926,303,715 13,180,954,014 1993 1,944,515,936 16,286,434,094 1994 1,780,400,000 20,736,163,915 1995 2,395,000,000 24,657,470,332 1996 2,220,000,000 26,843,701,137 1997 1,671,000,000 27,209,601,996 1998 1,412,000,000 28,683,658,005 1999 1,298,000,000 31,172,517,272 2000 1,300,000,000 32,685,199,371 2001 1,400,000,000 35,058,216,051 2002 1,450,000,000 39,552,513,118 2003 1,610,000,000 45,427,854,693 2004 1,954,000,000 52,917,296,789 2005 2,400,000,000 60,913,515,795 2006 6,700,000,000 71,015,592,863 2007 9,579,000,000 91,094,051,435 2008 97,180,304,813 7,600,000,000 2009 8,000,000,000 106,426,845,157 2010 2011 7,430,000,000 123,679,274,491 2012 10,460,000,000 141,669,099,289
FDI/GDP (%) 0.0002 0.0283 0.0302 0.0647 2.7813 3.9028 4.8033 7.0276 11.9395 8.5860 9.7131 8.2701 6.1412 4.9227 4.1639 3.9773 3.9934 3.6660 3.5441 3.6926 3.9400 9.4345 10.5155 7.8205 7.5169 6.0075 7.3834
(Nguồn: Ngân hàng thế giới World Bank)
1.2 TỔNG NỢ NƯỚC NGOÀI SO VỚI GDP (EXDY)
Tổng nợ nước ngoài/GDP (%)
GDP theo giá Tổng nợ nước hiện hành ngoài (USD) (USD) Năm 26,336,617,864 174,639,000 1986 36,658,108,169 191,481,000 1987 25,423,812,494 1988 617,485,000 6,293,304,847 1989 20,705,350,000 6,471,740,486 1990 23,270,059,000 9,613,369,554 1991 23,395,042,000 9,866,990,096 1992 24,331,839,000 13,180,954,014 1993 24,167,607,000 16,286,434,094 1994 24,799,403,000 20,736,163,915 1995 25,427,802,000 24,657,470,332 1996 26,255,068,000 26,843,701,137 1997 21,750,708,000 27,209,601,996 1998 22,432,189,000 28,683,658,005 1999 23,248,660,000 31,172,517,272 2000 12,859,279,000 32,685,199,371 2001 12,616,661,000 35,058,216,051 2002 13,303,697,000 39,552,513,118 2003 15,958,354,000 45,427,854,693 2004 17,993,066,000 52,917,296,789 2005 19,038,679,000 60,913,515,795 2006 18,648,547,000 71,015,592,863 2007 23,284,721,000 91,094,051,435 2008 26,487,635,000 2009 33,084,796,000 97,180,304,813 2010 49,343,084,000 106,426,845,157 2011 57,840,538,000 123,679,274,491 2012 48,900,000,000 141,669,099,289
0.6631 0.5223 2.4288 329.0060 359.5642 243.3594 246.5984 183.3525 152.2703 122.6254 106.4792 81.0272 82.4422 81.0519 41.2520 38.6005 37.9474 40.3473 39.6080 35.9782 30.6148 32.7882 29.0772 34.0448 46.3634 46.7666 34.5171
(Nguồn: Ngân hàng thế giới World Bank)
1.3 TỔNG ĐẦU TƯ TRONG NƯỚC SO VỚI GDP (GDIY)
NĂM
Tổng đầu tư trong nước (USD)
GDP theo giá hiện hành (USD)
Tổng đầu tư trong nước/GDP (%)
1986 1987 1988 1989 1990 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012
26,336,617,864 3,766,136,355 36,658,108,169 5,242,109,468 25,423,812,494 3,635,605,187 6,293,304,847 855,260,129 6,471,740,486 76,366,538 9,613,369,554 825,788,445 9,866,990,096 1,107,076,289 13,180,954,014 3,311,055,648 16,286,434,094 4,149,783,407 20,736,163,915 5,627,794,887 24,657,470,332 6,928,749,163 26,843,701,137 7,596,767,422 27,209,601,996 7,904,389,380 28,683,658,005 7,925,294,707 31,172,517,272 9,230,182,364 32,685,199,371 10,187,976,644 35,058,216,051 11,646,339,372 39,552,513,118 14,021,365,900 45,427,854,693 16,113,260,060 52,917,296,789 18,822,682,468 60,913,515,795 22,422,265,164 71,015,592,863 30,629,025,202 91,094,051,435 36,173,447,825 37,054,850,225 97,180,304,813 41,038,191,493 106,426,845,157 36,473,018,047 123,679,274,491 32,980,566,314 141,669,099,289
14.30 14.30 14.30 13.59 1.18 8.59 11.22 25.12 25.48 27.14 28.10 28.30 29.05 27.63 29.61 31.17 33.22 35.45 35.47 35.57 36.81 43.13 39.71 38.13 38.56 29.49 23.28
(Nguồn: Quỹ tiền tệ quốc tế IMF)
1.4 TỔNG DỊCH VỤ NỢ SO VỚI XUẤT KHẨU (TDSE)
Tổng thanh toán nợ nước ngoài Xuất khẩu Năm (USD) (USD) 1986 1,569,738 1,744,152,802 1987 1,540,007 2,200,010,135 1988 3,109,440 1,003,045,220 1989 235,343,130 1,500,912,822 1990 174,224,727 2,332,325,663 1991 159,892,361 2,971,976,971 1992 265,696,702 3,428,344,548 1993 416,831,627 3,785,936,669 1994 305,781,813 5,539,525,598 1995 364,020,829 6,804,127,643 1996 413,162,545 10,077,135,253 11,570,361,478 1997 867,777,111 1998 1,098,274,039 12,203,044,875 1999 1,433,214,762 14,332,147,618 2000 1,286,627,060 17,155,027,470 2001 1,195,958,076 17,850,120,542 2002 1,214,698,256 19,913,086,161 23,452,274,132 2003 844,281,869 29,862,568,271 2004 806,289,343 36,702,948,394 2005 954,276,658 2006 941,543,930 44,835,425,231 2007 1,255,973,052 54,607,524,002 2008 1,419,654,342 70,982,717,110 2009 1,526,615,692 66,374,595,299 2010 2,887,970,809 82,513,451,680 2011 3,200,840,915 100,026,278,600 2012 3,551,670,000 114,570,000,000
Tổng dịch vụ nợ so với xuất khẩu (%) 0.09 0.07 0.31 15.68 7.47 5.38 7.75 11.01 5.52 5.35 4.1 7.5 9 10 7.5 6.7 6.1 3.6 2.7 2.6 2.1 2.3 2 2.3 3.5 3.2 3.1
(Nguồn: Ngân hàng thế giới World Bank)
1.5 TĂNG TRƯỞNG THU NHẬP QUỐC DÂN THỰC TẾ TÍNH THEO ĐẦU NGƯỜI
GDP per capita growth % 0.4 1.1 2.6 4.9 3.1 4 6.7 6.2 7 7.8 7.6 6.5 4.2 3.2 5.4 5.5 5.8 6.1 6.5 7.2 7 7.3 5.2 4.2 5.7 4.9 3.9
Năm 1986 1987 1988 1989 1990 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012
(Nguồn: Số liệu được thu thập từ số liệu đã được tính toán của Ngân hàng thế giới World Bank)
PHỤ LỤC 2: BẢNG SỐ LIỆU HỒI QUY MÔ HÌNH
LGDIY (%)
Năm 1986 1987 1988 1989 1990 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012
LRYPC (%) -0.9163 0.0953 0.9555 1.5892 1.1314 1.3863 1.9021 1.8245 1.9459 2.0541 2.0281 1.8718 1.4351 1.1632 1.6864 1.7047 1.7579 1.8083 1.8718 1.9741 1.9459 1.9879 1.6487 1.4351 1.7405 1.5892 1.3610
LFDIY (%) -8.7924 -3.5659 -3.4997 -2.7384 1.0229 1.3617 1.5693 1.9498 2.4799 2.1501 2.2735 2.1126 1.815 1.5938 1.4265 1.3806 1.3846 1.2991 1.2653 1.3063 1.3712 2.2444 2.3529 2.0568 2.0172 1.793 1.9992
LEXDY (%) -0.4108 2.6603 -0.6494 2.6603 0.8874 2.6603 5.7961 2.6093 5.8849 0.1655 5.4945 2.1506 5.5078 2.4177 5.2114 3.2237 5.0257 3.2379 4.8091 3.3010 4.6679 3.3358 4.3948 3.3429 4.4121 3.3690 4.3951 3.3189 3.7197 3.3881 3.6533 3.4395 3.6362 3.5032 3.6975 3.5681 3.6790 3.5687 3.5829 3.5715 3.4215 3.6058 3.4901 3.7642 3.3700 3.6816 3.5277 3.6410 3.8365 3.6522 3.8452 3.3841 3.5415 3.1476
LTDSE (%) -2.4079 -2.6593 -1.1712 2.7524 2.0109 1.6827 2.0477 2.3988 1.7084 1.6771 1.4110 2.0149 2.1972 2.3026 2.0149 1.9021 1.8083 1.2809 0.9933 0.9555 0.7419 0.8329 0.6931 0.8329 1.2528 1.1632 1.1314
(Nguồn: Tính toán của tác giả từ excel)
PHỤ LỤC 3: KIỂM ĐỊNH TÍNH DỪNG CÁC BIẾN THEO PHƯƠNG PHÁP
AUGMENTED DICKEY-FULER (ADF):
3.1. Kiểm định tính dừng của biến LRYPC:
Kết quả cho thấy biến LRYPC là chuỗi dừng không dừng ở kỳ gốc và dừng ở
sai phân bậc 1.
(Nguồn: Kết quả từ Eview 6.0)
(Nguồn: Kết quả từ Eview 6.0)
3.2 Kiểm định tính dừng của biến LFDIY:
Kết quả cho thấy biến LFDIY là không dừng ở kỳ gốc và dừng tại sai phân bậc
1.