BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM

TRẦN THỊ ÁNH TUYẾT

TÁC ĐỘNG CỦA CÁC CÚ SỐC BÊN NGOÀI ĐẾN

CÁC BIẾN SỐ KINH TẾ VĨ MÔ CỦA VIỆT NAM

VÀ MỘT SỐ QUỐC GIA Ở ĐÔNG NAM Á

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

TP. Hồ Chí Minh – Năm 2014

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM

TRẦN THỊ ÁNH TUYẾT

TÁC ĐỘNG CỦA CÁC CÚ SỐC BÊN NGOÀI ĐẾN

CÁC BIẾN SỐ KINH TẾ VĨ MÔ CỦA VIỆT NAM

VÀ MỘT SỐ QUỐC GIA Ở ĐÔNG NAM Á

Chuyên ngành : Tài chính - Ngân hàng

Mã số : 60340201

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

TS. LÊ THỊ KHOA NGUYÊN

TP. Hồ Chí Minh – Năm 2014

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, có sự hỗ trợ từ

giáo viên hướng dẫn là Tiến Sỹ Lê Thị Khoa Nguyên. Nội dung nghiên cứu và các

số liệu phục vụ cho việc phân tích, nhận xét và đánh giá được trình bày trong luận

văn là hoàn toàn trung thực và có nguồn gốc rõ ràng.

Tác giả luận văn

TRẦN THỊ ÁNH TUYẾT

MỤC LỤC

Trang phụ bìa

Lời cam đoan

Mục lục

Danh mục các ký hiệu, từ viết tắt

Danh mục các bảng

Danh mục các đồ thị

1. Phần mở đầu .......................................................................................................... 1

1.1 Lý do chọn đề tài ............................................................................................. 1

1.2 Mục tiêu nghiên cứu ........................................................................................ 2

1.3 Câu hỏi nghiên cứu .......................................................................................... 2

1.4 Dữ liệu và phương pháp nghiên cứu ............................................................... 2

1.5 Đóng góp của đề tài ........................................................................................ 3

1.6 Tóm tắt kết quả nghiên cứu ............................................................................. 3

1.7 Kết cấu của đề tài ............................................................................................. 4

2. Tổng quan về đề tài nghiên cứu .......................................................................... 5

2.1 Tổng quan lý thuyết cú sốc kinh tế .................................................................. 5

2.1.1 Khái niệm cú sốc kinh tế .......................................................................... 5

2.1.2 Tác động của cú sốc bên ngoài đến nền kinh tế của một quốc gia .......... 6

2.2 Tổng quan các kết quả nghiên cứu trước đây ................................................ 17

2.2.1 Các nghiên cứu nước ngoài ................................................................... 17

2.2.2 Các nghiên cứu tại Việt Nam ................................................................ 26

3. Phƣơng pháp và dữ liệu nghiên cứu .................................................................. 29

3.1 Mô hình SVARX ........................................................................................... 29

3.2 Xác định ma trận cấu trúc .............................................................................. 30

3.3 Dữ liệu nghiên cứu ........................................................................................ 32

4. Kết quả nghiên cứu ............................................................................................ 37

4.1 Kết quả các kiểm định ban đầu ...................................................................... 37

4.1.1 Kết quả kiểm định tính dừng ADF........................................................ 37

4.1.2 Kết quả kiểm định độ trễ mô hình theo từng nước ............................... 38

4.1.3 Kết quả kiểm định VAR residual Portmanteau Tests ........................... 39

4.2 Tầm quan trọng của các biến ngoại sinh đến các biến nội sinh .................... 40

4.3 Tác động của các cú sốc ngoại sinh đến các biến nội sinh ............................ 45

4.3.1 Phản ứng của sản lượng trước các cú sốc bên ngoài ............................ 45

4.3.2 Phản ứng của CPI trước các cú sốc bên ngoài ...................................... 48

4.3.3 Phản ứng của tỷ giá trước các cú sốc bên ngoài ................................... 51

5. Kết luận ............................................................................................................... 53

Tài liệu tham khảo

Phụ lục

DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, TỪ VIẾT TẮT

ADF: Phương pháp kiểm định nghiệm đơn vị Augmented Dickey Fuller

CPI: Chỉ số giá tiêu dùng

FED: Cục dự trữ liên bang Mỹ

GDP: Tổng sản lượng quốc gia

IFS: Hệ thống cơ sở dữ liệu các chỉ tiêu tài chính của Quỹ Tiền tệ Quốc tế

IMF: Quỹ tiền tệ quốc tế

OPEC: Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ

RIP: Tổng sản lượng công nghiệp

SVAR: Mô hình vector tự hồi quy cấu trúc (Structural Vector Autoregression

hay Structural VAR)

VAR: Mô hình vector tự hồi quy (Vector Autoregression)

DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 2.1: Cơ chế lan truyền của các cú sốc tiền tệ đến kinh tế vĩ mô của một quốc

gia .............................................................................................................................. 8

Bảng 2.2: Tỉ trọng xuất nhập khẩu so với GDP ở từng quốc giai đoạn 2000 - 201210

Bảng 2.3 : Cơ chế truyền dẫn cú sốc giá dầu và giá lương thực ............................. 15

Bảng 3.1: Bảng cấu trúc ma trận đơn vị .................................................................. 31

Bảng 3.2: Các biến trong mô hình cấu trúc tự hồi quy véc tơ (SVAR)................... 33

Bảng 4.1: Kiểm định tính dừng ADF ...................................................................... 37

Bảng 4.2: Kết quả kiểm định VAR lag exclusion Wald tests của Việt Nam .......... 39

Bảng 4.3: Kết quả kiểm định VAR residual Portmanteau Tests của Việt Nam ...... 40

Bảng 4.4: Phân rã phương sai của GDP đến các cú sốc bên ngoài ......................... 41

Bảng 4.5: Phân rã phương sai của CPI đến các cú sốc bên ngoài ........................... 42

Bảng 4.6: Phân rã phương sai của tỉ giá hối đoái danh nghĩa đến các cú sốc bên

ngoài. ....................................................................................................................... 44

Bảng 4.7: Phân rã Cholesky của GDP đến các cú sốc bên ngoài ............................ 47

Bảng 4.8: Phân rã Cholesky của CPI đến các cú sốc bên ngoài .............................. 49

Bảng 4.9: Phân rã Cholesky của NER đến các cú sốc bên ngoài ............................ 52

PL 1.1: Kết quả kiểm định VAR lag exclusion Wald tests của Malaysia

PL 1.2: Kết quả kiểm định VAR lag exclusion Wald tests của Thái Lan

PL 1.3: Kết quả kiểm định VAR lag exclusion Wald tests của Philippines

PL 1.4: Kết quả kiểm định VAR lag exclusion Wald tests của Singapore

PL 2.1: Kết quả kiểm định VAR residual Portmanteau Tests của Malaysia

PL 2.2: Kết quả kiểm định VAR residual Portmanteau Tests của Thái Lan

PL 2.3: Kết quả kiểm định VAR residual Portmanteau Tests của Philippines

PL 2.4: Kết quả kiểm định VAR residual Portmanteau Tests của Singapore

DANH MỤC CÁC ĐỒ THỊ

Biểu đồ 4.1: Phản ứng của GDP Việt Nam trước các cú sốc bên ngoài. ...................... 46

Biểu đồ 4.2: Phản ứng CPI Việt Nam trước các cú sốc bên ngoài ................................ 51

Biểu đồ 4.3: Phản ứng của tỷ giá Việt Nam trước các cú sốc bên ngoài ...................... 51

PL 3.1: Biểu đồ phản ứng của Malaysia

PL 3.2: Biểu đồ phản ứng của Thái Lan

PL 3.3: Biểu đồ phản ứng của Philippines

PL 3.4: Biểu đồ phản ứng của Singapore

1

1. PHẦN MỞ ĐẦU

1.1 Lý do chọn đề tài

Cú sốc kinh tế không còn là một khái niệm mới mẻ nhưng vẫn là một ẩn số

đối với các nhà hoạch định chính sách. Từ cuối năm 2007, thế giới đã chứng kiến

sự mất cân bằng giữa cung và cầu trên thị trường hàng hóa, cộng với những bất ổn

của thị trường tài chính. Các cú sốc ngoại sinh bắt đầu lan rộng ra và ảnh hưởng

đến nhiều quốc gia, đặc biệt là những quốc gia có nền kinh tế mới nổi, đang vào

giai đoạn phát triển. Tác động không lường trước được của các cú sốc ngoại sinh

khiến cho các nhà hoạch định chính sách quan ngại trước những phản ứng trong

nước đối với các chính sách được thực thi khi có bất kỳ cú sốc nào xảy ra, cũng

như cân nhắc trong mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế, đầu tư và thương mại.

Cuộc khủng hoảng châu Á năm 1997-1998 đã nhấn mạnh vai trò của sự dẫn

truyền các cú sốc trong lĩnh vực tài chính. Những thiệt hại của các nước Đông Á bị

ảnh hưởng bởi sự truyền dẫn trong giai đoạn này đã được giải thích do mức độ hội

nhập của các quốc gia (Corsetti et al., 1999), cũng như sự phụ thuộc lẫn nhau của

họ (Kaminsky et al., 2003). Cuộc khủng hoảng này đã thúc đẩy các nước tăng

cường hợp tác trên quy mô khu vực nhằm cải thiện sự ổn định tiền tệ. Sau sự sụp

đổ của Lehman Brothers đã một lần nữa đề cao các vấn đề về độ nhạy cảm của các

quốc gia Đông Á đến những biến động ngoại sinh. Nhằm đối phó với khủng hoảng

toàn cầu, các nhà chức trách đã tăng cường hợp tác trên qui mô khu vực bằng cách

ký một thỏa thuận đa phương của sáng kiến Chiang Mai công bố vào đầu năm

2009. Các thỏa thuận này tạo ra quỹ 120.000.000.000 đô la nhằm ngăn chặn một

cuộc khủng hoảng thanh khoản giữa những quốc gia tham gia ký kết.

Hiện nay, các cú sốc kinh tế có tác động mạnh mẽ cả về tích cực lẫn tiêu cực

đến nền kinh tế Việt Nam nói riêng và một số quốc gia Đông Nam Á nói chung.

Chính vì thế, việc đo lường, đánh những tác động của cú sốc bên ngoài nhằm góp

phần củng cố nhận định các cú sốc bên ngoài ngày càng có vai trò quan trọng đến

chính sách điều hành kinh tế vĩ mô ở các nền kinh tế Đông Nam Á mới nổi.

2

1.2 Mục tiêu nghiên cứu

Bài nghiên cứu tập trung vào giải quyết hai vấn đến chính sau đấy:

Thứ nhất là đánh giá tầm quan trọng các cú sốc bên ngoài đến thị

trường Việt Nam và một số quốc gia ở Đông Nam Á;

Thứ hai là đo lường mức độ ảnh hưởng của các cú sốc bên ngoài đến

thị trường Việt Nam và một số quốc gia ở Đông Nam Á. Từ đó, có được sự so sánh

về mức độ chịu ảnh hưởng của các biến vĩ mô Việt Nam so với các quốc gia: Thái

Lan, Malaysia, Singapore và Philippin là như thế nào.

1.3 Câu hỏi nghiên cứu

Bài nghiên cứu tập trung trả lời những câu hỏi nghiên cứu sau:

Các cú sốc bên ngoài (cụ thể ở đây là cú sốc từ Mỹ) giữ vai trong

quan trọng như thế nào đối với các biến số kinh tế vĩ mô đến các quốc gia mới nổi ở

Đông Nam Á?

Mức độ tác động của các cú sốc bên ngoài đến thị trường Việt Nam và

các quốc gia Đông Nam Á cụ thể ra sao?

1.4 Dữ liệu và phƣơng pháp nghiên cứu

Tác giả sử dụng mô hình Structural Vector Autoregression (Structural

VAR), gọi tắt là SVAR, để nghiên cứu tác động của các cú sốc bên ngoài đã tác

động như thế nào tới các biến số kinh tế vĩ mô trong nước. Dữ liệu lấy theo quý từ

Q1.1996 đến Q4.2012 bao gồm các chỉ số kinh tế chính đặc trưng cho quá trình hội

nhập của Việt Nam nói riêng và các quốc gia Đông Nam Á nói chung. Dữ liệu cơ sở

cho các cú sốc ngoại sinh bao gồm cú sốc giá dầu, cú sốc sản lượng Mỹ, đại diện

cho cú sốc tiền tệ của Mỹ là sự biến động lãi suất FED; chỉ số chứng khoán S&P

500 đại diện cho cú sốc tài chính Mỹ. Các biến kinh tế vĩ mô đặc trưng ở mỗi quốc

gia bao gồm sản lượng thực tế, lạm phát và tỷ giá so với đồng đô la Mỹ. Mẫu bao

gồm 5 quốc gia: Malaysia, Philippin, Singapore, Thái Lan và Việt Nam.

3

1.5 Đóng góp của đề tài

Bài nghiên cứu sử dụng mô hình SVAR, phương pháp này được xem là linh

hoạt vì nó có thể chứa nhiều mối quan hệ giữa các biến số kinh tế vĩ mô dựa trên lý

thuyết kinh tế và lần lượt cho phép chúng ta xác định được mức độ ảnh hưởng của

những cú sốc. Điểm mới của bài nghiên cứu là sự bổ sung nhằm tìm hiểu sự tương

đồng giữa kinh tế Việt Nam so với các nước trong khu vực Đông Nam Á. Các

nghiên cứu trước đây dù là nghiên cứu ở khu vực Châu Á hay Đông Nam Á cũng

loại trừ Việt Nam ra khỏi nghiên cứu một phần là vì thiếu dữ liệu, một phần cũng là

do Việt Nam mở cửa hội nhập chưa lâu. Do đó, tác giả lựa chọn mốc nghiên cứu từ

1996 đến 2012.

1.6 Tóm tắt kết quả nghiên cứu

Sử dụng mô hình VAR cấu trúc trong giai đoạn từ 1996 đến 2012 để nghiên

cứu tác động của các cú sốc ngoại sinh Mỹ đến 05 nước mới nổi Đông Nam Á. Kết

quả cho thấy các cú sốc ngoại sinh đều có vai trò quan trọng đến sự biến động các

biến số kinh tế vĩ mô của từng quốc gia, tuy nhiên mức độ ảnh hưởng của các quốc

gia là không giống nhau

Nghiên cứu cũng cho thấy diễn biến của lạm phát thì khá nhạy và mạnh

trước các cú sốc ngoại sinh. Tuy nhiên mức độ biến động và thời gian diễn biến sau

khi có cú sốc tác động là khác nhau giữa các quốc gia và các loại cú sốc.

Tác động của cú sốc về biến động của giá dầu có tác động mạnh nhất đến sự

biến động các biến số kinh tế vĩ mô của các quốc gia Đông Nam Á.

Tác động của cú sốc về lãi suất của FED có tác động không nhiều và không

đồng đều tới các quốc gia Đông Nam Á.

1.7 Kết cấu của đề tài

Nội dung chính của bài nghiên cứu bao gồm năm phần, với bố cục như sau:

1. Phần mở đầu giới thiệu về vấn đề nghiên cứu

4

2. Tổng quan lý thuyết về cú sốc ngoại sinh, các nghiên cứu trước trên giới

và tại Việt Nam

3. Phương pháp và dữ liệu nghiên cứu

4. Kết quả nghiên cứu

5. Phần cuối là kết luận của bài nghiên cứu về các kết quả đạt được, hạn chế

cũng như đề xuất hướng nghiên cứu tiếp theo.

5

2. TỔNG QUAN VỀ ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU

2.1 Tổng quan lý thuyết về cú sốc kinh tế

2.1.1 Khái niệm cú sốc kinh tế

Trong kinh tế học, cú sốc là một sự kiện bất ngờ hoặc không thể lường trước

được có ảnh hưởng tích cực hay tiêu cực đến nền kinh tế. Về mặc thực nghiệm, cú

sốc kinh tế đặc biệt đề cập đến những sự kiện xảy ra bên ngoài của một hệ thống

kinh tế nhưng có ảnh hưởng quan trọng đến bên trong hệ thống (Thomas J. Sargent

và Christopher A. Sims, 2011).

Một cú sốc kinh tế có thể được gây ra bởi nhiều sự kiện khác nhau, đó có thể

là kết quả của thiên tai, các cuộc tấn công khủng bố hoặc các sự kiện phi kinh tế có

khả năng ảnh hưởng đến các nền kinh tế trong khu vực.. Thiên tai có thể gây ra

những cú sốc kinh tế bằng cách phá hủy hàng tồn kho, phá hủy nhiều phương tiện

sản xuất, hoặc tạo ra một nhu cầu đột ngột trong lĩnh vực xây dựng hay vật tư y

tế….Sự ra đời của công nghệ mới cũng có thể dẫn đến một cú sốc kinh tế trong một

số trường hợp như công nghệ mới có thể làm tăng việc cung cấp một sản phẩm nhất

định. Những cú sốc về nhu cầu thường bắt nguồn từ các hoạt động của chính phủ,

tăng hay giảm thuế, thay đổi trong chính sách tiền tệ hoặc chính sách tài khoá cũng

có thể dẫn đến những thay đổi bất ngờ trong nhu cầu tiêu dùng.

Về mặc hình thức, cú sốc kinh tế bao gồm tác động của các biến nội sinh và

biến ngoại sinh

Biến nội sinh: là các biến có nguồn gốc trong nước, nguyên nhân gây ra bởi

các yếu tố trong nước như sự thay đổi trong chi tiêu của chính phủ, tăng giảm lãi

suất hay thuế suất…

Biến ngoại sinh: là các biến bắt nguồn từ nước ngoài, nguyên nhân gây ra bởi

các yếu tố bên ngoài như sự biến động giá cả hàng hóa thế giới (giá dầu, giá gạo..)

các cú sốc trong thương mại, sự thay đổi lãi suất của FED…

6

Sự tác động của các cú sốc kinh tế lên một quốc gia theo nhiều phương thức

truyền dẫn khác nhau. Có thể là biến động của giá dầu, giá lương thực thế giới ảnh

hưởng lên giá cả hàng hóa trong nước, gây ra lạm phát, giá cả hàng hóa cao trong

khi đó thu nhập chưa tăng kịp đã làm giảm mức tiêu thụ hàng hóa, kéo theo sản

xuất trì trệ, hàng hóa tiêu thụ chậm hơn, làm tăng tỷ lệ thất nghiệp cũng như thu

nhập thực trong dân cư giảm do chi phí sinh hoạt tăng lên. Việc tiêu thụ hàng hóa

khó khăn, đẩy doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả hơn, thu nhập ròng giảm, khiến

lượng tiền dành tái đầu tư cũng giảm theo. Lạm phát tăng lên dẫn đến việc Ngân

hàng nhà nước phải can thiệp bằng chính sách tiền tệ thắt chặt, tăng lãi suất để hút

tiền trong dân cư, kết quả là lạm phát giảm nhưng lượng tiền cho đầu tư giảm

theo kéo kinh tế tăng trưởng chậm hơn,…

Tại các quốc gia mà tốc độ tăng trưởng kinh tế liên quan trực tiếp đến dịch

vụ, thương mại quốc tế và dòng vốn nước ngoài sẽ không tránh khỏi những tác động

từ các cú sốc ngoại sinh. Sự hiện diện của các cú sốc kinh tế bao gồm cú sốc ngoại

sinh hay cú sốc nội sinh đều đặt ra yêu cầu của chính sách tiền tệ và chính sách tài

khóa được sử dụng phải kịp thời đối phó với những biến động, tránh tổn thương cho

nền kinh tế.

2.1.2 Tác động của cú sốc bên ngoài đến nền kinh tế của một quốc gia

Trong xu thế toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế ngày càng gia tăng và mở rộng

đã nêu bật nhiều vấn đề về tầm ảnh hưởng của các cú sốc bên ngoài. Đặc biệt là

những nền kinh tế dễ bị tổn thương trước những cú sốc từ bên ngoài.

Ảnh hưởng của các cú sốc bên ngoài lên một quốc gia theo nhiều phương

thức truyền dẫn khác nhau, tác động lên các biến số kinh tế vĩ mô trong nước theo

các mức độ khác nhau. Phương thức lan truyền này có thể được mô phỏng qua

bài nghiên cứu về tác động của các cú sốc kinh tế lên kỳ vọng của các yếu tố trong

một quốc gia ( Jarir Ajluni, 2005)

7

Bảng 2.1: Cơ chế lan truyền của các cú sốc tiền tệ đến kinh tế vĩ mô

của một quốc gia

Nguồn: paper “Monetary Policy Shocks in a small open economy: assessing

the “Puzzles” of Monetary Policy by SVAR” của Jarir Ajluni (2005)

Cơ chế truyền tải các cú sốc phải mất một thời gian để tạo ra ảnh hưởng đến

lạm phát và các biến kinh tế khác. Những ảnh hưởng tức thời của cú sốc bên ngoài

khiến cho chính sách tiền tệ của ngân hàng nhà nước sẽ tạo ra những thay đổi về lãi

suất, tỷ giá và giá cả tài sản. Đặc biệt là trong nền kinh tế mở với quy mô nhỏ, sự

8

thay đổi trong tỷ giá hối đoái sẽ ảnh hưởng đến giá cả hàng hóa nhập khẩu và xuất

khẩu, hay những thay đổi lãi suất sẽ có tác động trực tiếp vào nhu cầu trong nước.

Bên cạnh đó, thay đổi lãi suất trực tiếp ảnh hưởng đến lãi suất cho vay, điều này đã

ảnh hưởng đến các nhà đầu tư trong việc đưa ra quyết định đầu tư của mình.

Các cú sốc bên ngoài tác động trực tiếp hoặc gián tiếp tới các biến vĩ mô

trong nước. Phương thức tác động trực tiếp lên giá cả hàng hóa trong nước, sản

lượng hoặc tác động gián tiếp lên kỳ vọng của người dân dẫn tới sự tác động lên

sản lượng sản xuất và giá cả hàng hóa, lạm phát trong nước,…

Kết quả tính toán từ Aseanstat cũng cho thấy rằng, hầu hết các nước

ASEAN là những nước mà phần trăm xuất nhập khẩu trên GDP rất cao (trên

20%). Do đó các nước ASEAN tiếp xúc rất nhiều với các cú sốc giá hàng hóa,

đặc biệt là trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay.

9

Bảng 2.2: Tỉ trọng xuất nhập khẩu so với GDP ở từng quốc giai đoạn 2000 - 2012

STT Quốc gia Tỉ trọng xuất khẩu Tỉ trọng nhập khẩu

(đơn vị %) (đơn vị %)

31.20 1 Bruney 66.88

41.28 2 Campuchia 46.21

21.67 3 Indonesia 25.99

25.82 4 Lào 14.12

70.40 5 Malaysia 88.43

15.53 6 Myanmar 22.54

35.84 7 Phillipines 31.60

153.74 8 Singapore 170.88

59.68 9 Thái Lan 61.04

76.89 10 Việt Nam 63.06

Nguồn : Dựa trên số liệu tính toán từ Aseanstat, IMF

Cú sốc giá cả hàng hóa có thể ảnh hưởng đến các nền kinh tế mới nổi theo

nhiều cách khác nhau. Giá hàng hóa tăng cao làm tăng doanh thu trong lĩnh vực

xuất khẩu, có khả năng ảnh hưởng đến toàn bộ nền kinh tế. Mức độ tác động này

phụ thuộc vào mức độ hội nhập và mức độ đa dạng hóa nền kinh tế trong nước. Nền

kinh tế hội nhập sâu và đa dạng có thể được thúc đẩy bởi một ngành xuất khẩu đang

phát triển một cách vượt bậc. Từ đó, sự gia tăng của giá cả hàng hóa tạo ra một cú

sốc cung có tác động tiêu cực, đẩy giá thành trong nước lên cao hơn.

Mặc dù cú sốc giá hàng hóa có thể được coi như là một động lực quan trọng

của chu kỳ kinh doanh trong nền kinh tế mới nổi, nhiều tài liệu đã nghiên cứu về

vấn đền này. Chẳng hạn như một cú sốc sản lượng trên thế giới có tác động tích cực

để tạo ra một sự bùng nổ trong các nền kinh tế mới nổi phụ thuộc vào hàng hóa xuất

10

khẩu, nâng cao kim ngạch xuất khẩu. Mặt khác, các cú sốc về chính sách tiền tệ của

các cường quốc trên thế giới có thể là nguồn gốc của sự mất cân bằng trong nước.

Ví dụ, sự gia tăng lãi suất của FED có thể dẫn đến một loạt các loại hành vi tại các

thị trường tài chính quốc tế hàng đầu, ảnh hưởng đến dòng chảy của thị trường vốn

quốc tế và làm giảm giá đồng nội tệ. Động thái này cũng có khả năng làm tăng lãi

suất trong nước hoặc gây lo ngại về rủi ro cho các nhà đầu tư quốc tế, một trong số

các lo ngại đó sẽ làm tăng phí bảo hiểm rủi ro quốc gia ( Neumeyer và Perri, 2005);

hoặc các ngân hàng trung ương trong nước đáp ứng với sự gia tăng lãi suất quốc tế.

Vì vậy, điều quan trọng là những cú sốc sản lượng thế giới cũng như các cú sốc về

chính sách tiền tệ thế giới phải đánh giá vai trò của các yếu tố bên ngoài trong việc

thúc đẩy sự biến động trong nước trong các nền kinh tế mới nổi. Bên cạnh đó, các

cú sốc ngoại sinh có thể gây ra những cuộc khủng hoảng tài chính, bất ổn tiền tệ, và

những biến động trên thị trường hàng hóa.

Khủng hoảng tài chính

Các cuộc khủng hoảng trên thị trường tài chính có thể bao gồm những thay

đổi không lường trước được của dòng vốn chảy vào các thị trường mới nổi; khủng

hoảng chứng khoán, bất động sản và ngân hàng; hay khủng hoảng nợ quốc gia như

đã xảy ra trong những năm gần đây.

Bốn mươi năm qua, thế giới đã chứng kiến ba chu kỳ tăng trưởng và suy

thoái về dòng vốn ở các nước đang phát triển. Chu kỳ đầu tiên diễn ra sau những cú

sốc dầu mỏ năm 1973 và nguyên nhân được cho là xuất phát từ việc xoay vòng

đồng đô-la dầu mỏ (recycling of petrodollars) của các quốc gia thuộc tổ chức các

nước xuất khẩu dầu mỏ (OPEC) qua hệ thống ngân hàng Luân-đôn. Đây là thời kỳ

tăng trưởng cao, nhưng cũng phải hứng chịu thâm hụt ngân sách, thâm hụt cán cân

thanh toán vãng lai và lạm phát. Giai đoạn này kết thúc vào năm 1982 với cuộc

khủng hoảng nợ quốc tế, xuất phát từ Mê-hi-cô, sau đó lan nhanh ra các nước còn

lại của khu vực Mỹ La-tinh

11

Chu kỳ thứ hai bắt đầu khoảng năm 1990 và gắn liền với thuật ngữ “các thị

trường mới nổi”. Các dòng vốn được thực hiện dưới dạng giao dịch chứng khoán

nhiều hơn là khoản vay ngân hàng và bao trùm trên phạm vi địa lý rộng hơn. Nhiều

nước tiếp nhận dòng vốn này đang ứng phó với sự sụp đổ của mô hình kinh tế Xô-

Viết bằng cách tiến hành các chương trình mới về tự do hóa, tư nhân hóa và mở

cửa. Chu kỳ thứ hai này chấm dứt bởi cuộc khủng hoảng Đông Nam Á, xuất hiện

đầu tiên tại Thái Lan vào tháng 6 năm 1997.

Chu kỳ thứ ba bắt đầu vào khoảng năm 2003. Chu kỳ này diễn ra gắn với

thuật ngữ „kinh doanh chênh lệch lãi suất ( nguồn vốn ngắn hạn chảy từ các quốc

gia có lãi suất danh nghĩa thấp tới các quốc gia có lãi suất danh nghĩa cao) và cụm

từ „BRICS‟ (Braxin–Nga–Ấn Độ–Trung Quốc), do hai quốc gia lớn ở châu Á (Ấn

Độ và Trung Quốc) nới lòng việc kiểm soát dòng chảy vốn.

Bất ổn về giá trị tiền tệ

Khi một quốc gia gặp khó khăn về tài chính, thì hậu quả nghiêm trọng có thể

xảy ra không chỉ là các cuộc đổ vỡ tiền tệ và vỡ nợ. Việc vay nợ quá mức cũng có

thể dẫn tới những đợt siêu lạm phát. Điển hình là siêu lạm phát tại Đức vào năm

1921-1923. Đồng mác Đức (papiermark) được sử dụng từ năm 1914 khi chế độ bản

vị vàng bị bãi bỏ. Tỷ giá với đồng USD ban đầu ở mức 4,2 mác/USD khi Chiến

tranh thế giới thứ nhất bùng nổ. Tuy nhiên, tháng 8/1923, người ta phải bỏ ra 1 triệu

mác Đức để đổi USD. Và đến tháng 11/1923, con số này đã tăng lên 238 triệu mác.

Đó là thời điểm xuất hiện sự rối loạn tâm lý mang tên “Zero Stroke” khi người dân

Đức phải giao dịch với lượng tiền trị giá đến hàng trăm tỷ mác Đức mỗi ngày và

chóng mặt với hàng dãy số 0 tưởng như bất tận.

Lạm phát cao buộc chính phủ Đức phải định giá lại đồng mác và thay đồng

papiermark bằng đồng rentenmark với tỷ giá 4,2 rentenmark/USD và cắt bớt 12 số 0

trên tờ tiền papiermark. Dù rất nhiều người tin rằng lạm phát phi mã ở Đức là hệ

quả trực tiếp từ việc chính phủ in quá nhiều tiền để chi cho chiến tranh, nhưng

nguyên nhân chính của việc này được cho là do Đức phải bồi thường khoảng tiền

12

sau chiến tranh được quy định trong hiệp ước Versailles, buộc Đức phải trả bằng

vàng hay ngoại tệ tương ứng thay vì đồng papiermark. Để mua số ngoại tệ này,

chính phủ Đức đã phải sử dụng đồng papiermark được đảm bảo bằng nợ chính phủ

và vì vậy đã làm tăng tốc độ phá giá đồng tiền.

Những biến động trên thị trƣờng hàng hóa

Dạng cú sốc cuối cùng là những biến động của thị trường thế giới đối với các

hàng hóa cơ bản, bao gồm dầu lửa, khoáng sản và nông sản. Bên cạnh những xoay

chuyển khó lường của giá cả hàng hóa trong giai đoạn hiện nay, các nhà hoạch định

chính sách ngày càng quan tâm hơn đến việc đánh giá tác động của giá dầu. Dầu là

một mặt hàng quan trọng trong nền kinh tế của bất kỳ quốc gia nào trên thế giới bởi

vì nó là nguồn cung cấp năng lượng chính để sử dụng trong cuộc sống của xã hội

hiện đại và công nghiệp. Do đó, dầu thô được xem như sản phẩm trung gian cũng

như hàng hóa tiêu dùng. Có những sản phẩm khác nhau của dầu thô, bao gồm dầu

hỏa , dầu diesel, xăng, khí đốt…Những thay đổi trong giá dầu thô hoặc bất kỳ các

sản phẩm cuối cùng nào của dầu cũng sẽ có tác động đến người sử dụng và các

quốc gia nói chung.

Hầu hết những thay đổi lớn trong giá dầu suốt 40 năm qua thường kéo theo

những biến động trong giá cả các sản phẩm nhiên liệu khác, khoáng sản và nông

sản. Các yếu tố đặc trưng ngành gần như không có vai trò trong các mối tương quan

tổng thể này. Ví dụ, các khoản trợ cấp ethanon của Hoa Kỳ cũng như các trận hỏa

hoạn ở Nga, lũ lụt tại Canada hay hạn hán tại Úc có thể lý giải hiện tượng tăng giá

ngũ cốc năm 2010, nhưng không thể lý giải được tình trạng giá dầu tăng liên tiếp.

Một mùa đông khắc nghiệt có thể giải thích việc giá dầu tăng, nhưng không thể lý

giải tại sao giá khoảng sản cũng tăng. Xu hướng giá cả tăng mạnh trong thập niên

qua, với các đỉnh cao vào năm 2008 và 2011, bao gồm nhiều loại hàng hóa khác

nhau mà nguyên nhân chắc hẳn là do những vấn đề kinh tế vĩ mô. Điều này có thể

được giải thích với việc nền kinh tế toàn cầu tăng trưởng chóng mặt, đặc biệt tại

Trung Quốc và các quốc gia đang phát triển khác, nơi quá trình công nghiệp hóa

13

cần rất nhiều nguyên liệu đầu vào. Một nhân tố kinh tế vĩ mô khác góp phần vào

thực trạng trên là tỷ lệ lãi suất thực thấp trên phạm vi toàn cầu.

Từ sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, giá dầu thô đã có nhiều biến động

đáng kể. Xu hướng biến động của cung và cầu trong nền kinh tế toàn cầu cùng với

các hoạt động của OPEC liên tục ảnh hưởng đến giá dầu. Những thay đổi gần đây

của giá dầu trong nền kinh tế toàn cầu diễn ra hết sức nhanh chóng và không lường

trước được. Trong ngắn hạn, các cú sốc giá dầu ảnh hưởng đến kinh tế vĩ mô thông

qua các kênh khác nhau, cụ thể là thông qua tác động của chúng trên thu nhập thực

tế, chi phí sản xuất… Ngoài ra, nếu sự biến động giá dầu là kéo dài, sẽ ảnh hưởng

đến sự thay đổi cấu trúc quan trọng của nguồn cung cấp các sản phẩm từ dầu của

các quốc gia chịu tác động của cú sốc giá dầu. Các kênh kinh tế vĩ mô chính thông

qua đó giá dầu tăng ảnh hưởng đến nền kinh tế nhất định bao gồm:

Nâng cao chi phí sản xuất. Kể từ khi dầu trở thành yếu tố đầu vào của việc

sản xuất, tăng giá dầu sẽ làm tăng chi phí sản xuất, trong trung và dài hạn có thể có

một thay thế dầu với năng lượng đầu vào rẻ hơn.

Tác động đến lạm phát. Dầu là một thành phần quan trọng trong chỉ số giá

tiêu dùng, tác động đầu tiên của giá dầu tăng cao là một sự gia tăng của lạm phát.

Mức độ truyền dẫn vào giá cả hàng hóa trong nước phụ thuộc vào phản ứng trước

những cú sốc đó.

Ảnh hưởng đến thị trường tài chính. Thị trường tài chính phản ứng nhanh với

những thay đổi trong các biến kinh tế vĩ mô chính, như giá cổ phiếu, xếp hạng trái

phiếu và tỷ giá sẽ bị ảnh hưởng từ sự tăng giá dầu

Ảnh hưởng đến tâm lý. Sự không chắc chắn về giá dầu sẽ còn cao lâu dài

trong tương lai, người tiêu dùng có thể trì hoãn mua các sản phẩm liên quan đến dầu

(ví dụ như xe ô tô), hoặc giảm mức tiêu thụ dầu của họ.

Giá lương thực đang trở thành một vấn đề quan tâm hàng đầu trên toàn thế

giới. Trên thế giới đã có nhiều nghiên cứu tập trung vào mối liên hệ giữa giá lương

thực và các biến kinh tế vĩ mô. Những nghiên cứu này cung cấp bằng chứng cho

14

thấy giá lương thực có ảnh hưởng đến biến kinh tế vĩ mô như lạm phát, đầu ra, lãi

suất, tỷ giá hối đoái và các điều khoản thương mại .

15

Bảng 2.3 : Cơ chế truyền dẫn cú sốc giá dầu và giá lƣơng thực

Mô hình dựa trên paper “Economic Effects of Oil and Food Price Shocks in

Asia and Pacific Countries: An Application of SVAR Model” của Fardous Alom

(2011)

Với hai cú sốc giá dầu và thực phẩm. Khi giá dầu tăng, chi phí sản xuất tăng

ảnh hưởng đến kết quả sản xuất công nghiệp giảm. Bên cạnh đó, sự gia tăng của

nhập khẩu dẫn đến giảm xuất khẩu ròng làm cho sản lượng quốc gia giảm. Vì dầu

và lương thực tăng giá khi lạm phát tăng làm tăng nhu cầu về tiền bạc. Sự gia tăng

của lạm phát và lãi suất do cú sốc giá dầu và lương thực có thể có ảnh hưởng xấu

16

đến tỷ giá hối đoái. Điều này đưa ra hàm ý rằng các chỉ số kinh tế vĩ mô khác đang

bị ảnh hưởng bởi những cú sốc dầu và giá lương thực , nó sẽ cản trở khả năng sinh

lời của các ngành công nghiệp, từ đó làm giảm nhu cầu đối với chứng khoán trong

thị trường tài chính . Kết quả là , giá cổ phiếu trên thị trường sẽ giảm.

Khu vực châu Á – Thái Bình Dương hiện chiếm gần một nửa kim ngạch

thương mai toàn cầu và chiếm tới 60% tổng kim ngạch xuất khẩu của Mỹ. Hơn thế,

châu Á trong vài thập niên qua còn được nhắc tới như một khu vực phát triển năng

động nhất của thế giới với sự xuất hiện của các cường quốc tiềm năng như Trung

Quốc và Ấn Độ. Việt nam nói riêng và các quốc trong khu vực Đông Nam Á đang

ngày càng nâng cao vị thế cũng như sự phát triển kinh tế, mở cửa và hội nhập kinh

tế quốc tế. Trong vai trò của một Ngân hàng trung ương, FED là ngân hàng của các

ngân hàng và là ngân hàng của Chính phủ liên bang Mỹ. FED được xây dựng để

đảm bảo duy trì cho nước Mỹ một chính sách tiền tệ linh hoạt hơn, an toàn hơn, và

ổn định hơn. Trong quá trình tồn tại và phát triển cùng với lịch sử nước Mỹ, FED

ngày càng chứng mình được vai trò vô cùng quan trọng của mình trong hệ thống

ngân hàng cũng như trong nền kinh tế Mỹ, đồng thời nó cũng ảnh hưởng đến nền

kinh tế của nhiều quốc gia.

Trong thập kỷ qua, FED thường xuyên sử dụng công cụ chính sách tiền tệ để

can thiệp thị trường nhằm đảm bảo rằng nền kinh tế Mỹ đã có thể duy trì lạm phát

ở mức thấp và tăng trưởng ổn định. Cuộc khủng hoảng tài chính 2008, FED duy trì

lãi suất quỹ liên bang trong khoảng 0-0,25% để đảm bảo tính thanh khoản và củng

cố niềm tin vào thị trường. Những thay đổi thường xuyên trong chính sách tiền tệ

của Fed sẽ ảnh hưởng đến nền kinh tế của Việt Nam nói riêng và các nước trong

khu vực Đông Nam Á nói chung. Vì vậy, loại tác động của các cú sốc chính sách

tiền tệ của Mỹ trên sản lượng, lạm phát và tỷ giá của Việt Nam và một số quốc gia

mới nổi ở Đông Nam Á là gì? Các kênh truyền dẫn chính của tác động là gì? Các

nghiên cứu về những vấn đề này có thể cung cấp hỗ trợ lý thuyết cho Việt Nam nói

riêng và các quốc gia Đông Nam Á nói chung để đáp ứng với những cú sốc kinh tế

từ bên ngoài.

17

2.2 Tổng quan các kết quả nghiên cứu trƣớc đây

2.2.1 Các nghiên cứu nước ngoài

Tại Đông Á, các cú sốc ngoại sinh luôn được các nhà hoạch định chính sách

quan tâm và nhấn mạnh lên hàng đầu vì với một số đặc điểm cấu trúc của khu vực,

đặc biệt là hội nhập tài chính - thương mại cùng với các vấn đề gia tăng trong những

nỗ lực phối hợp chính sách hài hòa trong quy mô khu vực. Do đó, các nghiên cứu

gần đây đã đặt trọng tâm vào những cú sốc ngoại sinh ảnh hưởng như thế nào đến

các quốc gia trong khu vực.

Trong bài nghiên cứu của Pierre Allegret và các cộng sự (2012) nhằm

mục tiêu đánh giá tầm quan trọng của các cú sốc ngoại sinh đến biến động trong

nước tại các quốc gia Đông Á (Trung Quốc, Hàn Quốc, Hồng Kông, Indonesia,

Nhật Bản, Malaysia, Philippines, Singapore và Thailand). Dữ liệu được sử dụng cho

mô hình VAR cấu trúc trong giai đoạn Q1. 1994 đến Q.4 2010 với các biến ngoại

sinh bao gồm: giá dầu thế giới, GDP thực của Mỹ, lãi suất FED, chỉ số chứng khoán

MSCI. Các biến nội sinh đại diện cho mỗi quốc gia bao gồm GDP thực, chỉ số giá

cả hàng hóa trong nước, tỷ giá so với đồng đô la Mỹ. Các kết quả nghiên cứu cho

thấy

Về GDP

Trong tất cả các nước, ngoại trừ Indonesia, với khoảng thời gian từ kỳ 1 đến

kỳ 4 thì các cú sốc ngoại sinh giải thích ít nhất 11% cho biến động của GDP, riêng

GDP của Nhật Bản và Hồng Kông dễ bị nhạy cảm nhất với các cú sốc ngoại sinh

này, tương ứng là 58.8% và 36.8%.

Trong giai đoạn từ Quý 1/1996 đến Quý 4/2010, thể hiện sự tăng lên rõ

ràng ảnh hưởng của các cú sốc ngoại sinh. Nhất là trong ngắn hạn, các cú sốc này

giải thích hơn 15% biến động của GDP; còn trong dài hạn xét từ kỳ 16-20 các cú

sốc này đều tăng, trừ Hồng Kông – giảm xuống mức 28.92% so với mức ngắn

hạn 32.87% (mức ngắn hạn từ kỳ 1 đến kỳ 4).

18

Các cú sốc ngoại sinh ảnh hưởng nhiều lên chỉ số giá sản xuất (PPI-

producer price index) hơn so với chỉ số GDP. Trong khi đó giai đoạn 1996-2010,

thì GDP trong nước có khuynh hướng bị ảnh hưởng nhiều hơn bởi giá dầu thế giới.

Về tỷ giá hối đoái danh nghĩa:

Tác động của các cú sốc ngoại sinh lên biến tỉ giá danh nghĩa tính theo USD

(gọi tắt là NER) thì thấp trong ở kỳ 1-4 cho các nước và có 06 nước dưới 10% là

Trung Quốc (9.53%), HongKong (8.11%), Indonesia (7.46%), Nhật Bản (1.63%),

Malaysia (8.87%) và Thái Lan (6.29%); còn trong dài hạn với kỳ 16-20 thì giá trị

tác động này lớn với tất cả các nước nghiên cứu. Đặc biệt trong giai đoạn 1996-

2010, giá trị tác động này tăng đáng kể, như Nhật Bản (từ 1.63% lên 23.65%

cùng kỳ 1-4), Trung Quốc (từ 9.53% lên 46.02% cho kỳ 1-4, 90.89% cho kỳ 16-

20).

Về chỉ số PPI:

Ảnh hưởng của giá dầu thì mạnh hơn lên chỉ số PPI so với các biến số

khác. Bài nghiên cứu cũng cho thấy rằng các cú sốc thực thì ảnh hưởng mạnh hơn

các cú sốc về tài chính (đại diện là chỉ số MSCI) hay tiền tệ (đại diện là chỉ số Fed

Funds). Trong tất cả các nước, trong ngắn hạn cú sốc giá dầu tác động lên chỉ số PPI

hơn 20% (trừ Trung Quốc 15.75%)

Trong bài này, tác giả cũng chỉ ra 02 nguyên nhân chính dẫn đến sự giảm sút

ảnh hưởng GDP của Mỹ lên các nước Asian. Thứ nhất là do bắt đầu từ những

năm 1990 giao dịch giữa các nước trong khu vực tăng lên. Thứ hai là do sự ảnh

hưởng thương mại của Trung Quốc ngày càng tăng trong khu vực và trên thế giới,

theo tác giả ghi nhận thì mức độ này mạnh hơn từ sau năm 2000.

Bartosz Mackowiak (2006) thực hiện nghiên cứu tại 08 nước mới nổi

gồm HongKong, Hàn Quốc, Malaysia, Phillipines, Singapore, Thái Lan và các

nước Châu Mỹ Latinh là Chilê và Mexico, với dải dữ liệu lấy từ tháng 1/1986 đến

12/2000, trừ Thái Lan từ tháng 1/1987 do thiếu dữ liệu.

19

Tác giả sử dụng mô hình Var cấu trúc (SVAR) với các biến kinh tế vĩ mô của

một số nước tại thị trường mới nổi, Mỹ và giá cả hàng hóa thế giới. Với giả định

rằng một thị trường mới nổi là một nền kinh tế nhỏ mở. Các biến nội sinh bao

gồm lãi suất ngắn hạn, tỷ giá hối đoái, sản lượng thực, chỉ số giá cả

Các biến ngoại sinh đại diện cho lãi suất của FED, chỉ số giá hàng hóa thế

giới, cung tiền của Mỹ, sản lượng thực của Mỹ, chỉ số giá cả của Mỹ.

Tác giả tìm thấy kết quả rằng:

Các cú sốc ngoại sinh giữ vai trò quan trọng trong việc giải thích sự biến

động trong các biến số kinh tế vĩ mô tại các thị trường mới nổi, ở đây là khu vực

Đông Nam Á và khu vực Châu Mỹ Latinh.

Mức độ giải thích của các biến ngoại sinh là khác nhau giữa các thị trường

khác nhau.

Qua bài nghiên cứu, tác giả cũng đề xuất rằng các cú sốc ngoại sinh nên

đóng một vai trò quan trọng trong các mô hình áp dụng cho thị trường mới nổi;

và những thay đổi trong tỷ giá bên ngoài có thể có các ảnh hưởng khác nhau phụ

thuộc vào có hay không việc chúng phản ảnh cú sốc với chính sách tiền tệ của Mỹ

hay phản ứng mang tính hệ thống từ lãi suất của Fed đến các loại cú sốc khác;

cũng như làm thế nào để giữ cân bằng nền kinh tế trước ảnh hưởng của các cú sốc

bên ngoài.

Năm 2009, ba tác giả: Sato, Zhang và Mc Aleer sử dụng mô hình VAR cấu

trúc để xem xét ảnh hưởng của các cú sốc ngoại đến sự biến động kinh tế vĩ mô ở

Đông Á. Chỉ số GDP thực, chỉ số giá tiêu dùng CPI, sản lượng thực tế đại diện cho

các biến trong nước. Biến ngoại sinh bao gồm chỉ số giá dầu thế giới được tính theo

đồng đô la Mỹ, các cú sốc của Mỹ và cú sốc của Nhật Bản. Thời kỳ mẫu từ 1978Q1

- 2007Q4 trừ chỉ số CPI Hồng Kông (Q4.1980 – Q4.2007) và chỉ số CPI của Trung

Quốc (Q1.1986 - Q4.2007). Kết quả cho thấy rằng các biến sản lượng và lạm phát

có sự tương quan cao và có ý nghĩa thống kê với các nước Châu Á trong toàn bộ

20

thời gian lấy mẫu. Tốc độ tăng trưởng GDP thực tế của Nhật Bản có một mối tương

quan cao với các nước châu Á và trong thời kỳ hậu khủng hoảng

Kết quả từ mô hình VAR cấu trúc cho thấy:

Cú sốc Mỹ và cú sốc Nhật Bản chiếm ưu thế trong sự biến động của khu vực

trước khi xảy ra khủng hoảng tài chính , đặc biệt là trong giai đoạn 1978-1987, cả

về ngắn hạn và dài hạn. Trong thời gian hậu khủng hoảng, những cú sốc Mỹ đã trở

thành nguyên nhân chính của sự biến động trong hầu hết các nền kinh tế, ngoại trừ

nền kinh tế Trung Quốc, trong khi đó ảnh hưởng của Nhật Bản giữ vai trò ít hơn.

Cú sốc giá dầu ngày càng trở nên quan trọng trong việc ảnh hưởng đến sự ổn

định tăng trưởng sản lượng thực tế trong khu vực, đáng chú ý nhất trong các nền

kinh tế của Trung Quốc, Hồng Kông, Singapore và Thái Lan . Điều này cho thấy sự

phụ thuộc ngày càng gia tăng của các quốc gia về nguồn cung cấp dầu .

Kết quả từ đồ thị phản ứng thúc đẩy cho thấy hầu hết các nền kinh tế Đông Á

có phản ứng dương với các cú sốc bên ngoài có nguồn gốc từ Hoa Kỳ thông qua các

thời điểm khác nhau, ngoại trừ Indonesia trong thời gian sau giai đoạn khủng

hoảng. Các phản ứng thúc đẩy cho thấy các cú sốc trong khu vực có nguồn gốc từ

Trung Quốc và Nhật Bản có xu hướng ngày càng tăng, đặc biệt là trong thời kỳ hậu

khủng hoảng Những phát hiện này hàm ý rằng ảnh hưởng của cú sốc Mỹ vẫn đóng

vai trò chi phối trong biến động sản lượng thực tế trong khu vực Đông Á .

Canova (2005) cũng dùng mô hình VAR để ước tính tác động của cú sốc

chính sách tiền tệ Mỹ lên 08 thị trường mới nổi Châu Mỹ Latinh (Argentina,

Ecuador, Mexico, Panama, Peru, Uruguay, Brazil, and Chile.) giai đoạn từ

Q1/1990 đến Q2/2002 và có các phát hiện sau:

Cú sốc chính sách tiền tệ Mỹ ảnh hưởng nhanh và mạnh đến lãi suất của các

nước Châu Mỹ Latinh.

Các cú sốc ngoại sinh có vai trò quan trọng đối với sự biến động kinh tế vĩ

mô ở các nước Châu Mỹ Latinh.

21

Các cú sốc chính sách tiền tệ ảnh hưởng lớn đến các nước Châu Mỹ Latinh

liên quan đến 02 cú sốc cấu trúc khác của Mỹ đó là cú sốc cung và cú sốc cầu của

Mỹ.

Kết quả nghiên cứu của Canova cũng mang lại hàm ý chính sách quan trọng:

phải có những chính sách phù hợp để tránh những biến động mang tính chu kỳ

trong nền kinh tế Mỹ Latinh. Đa số các biến động kinh tế vĩ mô ở Mỹ latinh có

nguồn gốc từ bên ngoài, vì vậy việc hoạch định chính sách của Mỹ Latinh được yêu

cầu phải quan tâm đến những điều kiện quốc tế và nhận diện những thông tin liên

quan đến những biến đổi kinh tế của Mỹ để có những phản ứng phù hợp.

Gosse và Guillaumin (2012) nghiên cứu tác động của các cú sốc từ bên

ngoài đối với số dư tài khoản hiện tại ở châu Á. Mô hình Var cấu trúc được sử dụng

với dữ liệu theo quí từ Q1.1981 đến Q4.2010. Ba cú sốc ngoại sinh của mô hình bao

gồm cú sốc dầu , cú sốc tiền tệ của Mỹ (đại diện bởi lãi suất FED) và một cú sốc tài

chính Mỹ (đại diện bởi chỉ số S&P 500). Biến nội sinh đại diện cho mỗi quốc gia

(Trung Quốc , Hàn Quốc, Hồng Kông, Indonesia , Nhật Bản , Malaysia, Philippines

, Singapore và Thái Lan) bao gồm GDP, tỷ giá thực và số dư tài khoản hiện tại. Tác

giả đã đưa ra được những bằng chứng về các kênh truyền dẫn mà cú sốc ngoại sinh

ảnh hưởng đến số dư tài khoản hiện tại châu Á. Dầu và những cú sốc tiền tệ của Mỹ

đóng một vai trò rất lớn trong việc giải thích số dư tài khoản hiện tại châu Á. Tuy

nhiên, các cơ chế giải thích những phản ứng khác nhau. Những cú sốc dầu dẫn đến

thặng dư tài khoản vãng lai trong trung hạn. Những cú sốc tiền tệ của Mỹ chủ yếu

ảnh hưởng đến tỷ giá hối đoái và sự khác biệt giữa GDP của các quốc gia. Ở một số

nước, những cú sốc tiền tệ không thể giải thích thặng dư tài khoản hiện tại ( Trung

Quốc và Hồng Kông ). Các cú sốc tài chính chủ yếu góp phần giải thích thặng dư

Indonesia và Thái Lan, đáng chú ý là hai nước có đặc điểm chung trong việc kiểm

soát tài khoản vốn chưa chặt chẽ, thị trường tài chính phát triển chưa mạnh. Thứ

hai, kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng các cú sốc ngoại sinh có ảnh hưởng đáng kể lên

thặng dư tài khoản hiện tại ở Hàn Quốc, Malaysia, Philippines, Singapore và Thái

22

Lan. Một nửa của những cú sốc ngoại sinh giải thích một phần quan trọng của cán

cân vãng lai trong trung hạn.

Gimet (2011) đã sử dụng mô hình cấu trúc VAR để nghiên cứu sự biến động

của các nước Đông Nam Á dưới tác động của những cuộc khủng hoảng tài chính

quốc tế (cuộc khủng hoảng tài chính ở Châu Á giai đoạn từ tháng 1/1997 - tháng 12

/1999 và cuộc khủng hoảng cho vay dưới chuẩn của Mỹ từ tháng 1/2007 - tháng

12/2009. Mô hình cấu trúc Var được sử dụng để phân tích hiệu quả của các chính

sách các quốc gia sau khủng hoảng nhằm ổn định kinh tế. Các biến được chọn để

xem tác động của các cú sốc tài chính quốc tế trên các lĩnh vực kinh tế, tiền tệ và tài

chính của quốc gia (Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore, Thái Lan, Trung

Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc). Kết quả của tác giả làm nổi bật những tác động tiêu

cực của cuộc khủng hoảng tài chính đến các quốc gia mới nổi trong ASEAN, nhưng

thấp hơn các quốc gia công nghiệp phát triển. Điều này có thể kết luận rằng các biện

pháp được thông qua bởi các nền kinh tế ASEAN đang nổi lên ở đầu thập kỷ phát

huy được hiệu quả. Họ đã quyết định hạn chế sự phụ thuộc vào dòng chảy của

nguồn vốn ngắn hạn, nhằm giảm nguy cơ thiếu tính thanh khoản và ổn định tài

chính, đặc biệt là ngân hàng. Một nhóm các thị trường mới nổi như Phillipines, Thái

Lan, Malaysia, Indonesia và Hàn Quốc, đã có những tiến bộ đáng kể trong việc cải

thiện khả năng của mình để hạn chế tác động tiêu cực của biến động tài chính quốc

tế. Tác giả đã đưa ra kết luận rằng cuộc khủng hoảng tài chính gần đây đã lan rộng

trong các nước tiên tiến, mà trực tiếp thông qua các kênh tài chính bao gồm ngân

hàng và các chủ thể khác trong ngành tài chính. Sự lan tỏa cuộc khủng hoảng tại các

thị trường mới nổi là gián tiếp và là dẫn truyền thông qua các kênh liên kết giữa

thương mại và các nước công nghiệp.

Mala Raghavan and Param Silvapulle (2007) với bài nghiên cứu “Structural

VAR approach to Malaysian Monetary Policy Framework: Evidence from the Pre-

and Post-Asian Crisis Periods”, tác giả cũng sử dụng mô hình Structural VAR, với

dữ liệu từ tháng 01/1980 đến tháng 05/2006, với 09 biến được sử dụng để nghiên

cứu phản ứng trước các cú sốc ngoại sinh tác động như thế nào tới nền kinh tế nhỏ

23

mới nổi như Malaysia, nhất là tác động tới các chính sách tiền tệ của Malaysia trước

và sau cuộc khủng hoảng tài chính năm 1997. Dải dữ liệu chia làm 02 giai đoạn:

giai đoạn trước khủng hoảng từ tháng 1/1980 đến tháng 06/1997 và giai đoạn sau

khủng hoảng từ tháng 1/1998 đến tháng 5/2006. Các biến nghiên cứu chia thành

02 nhóm: nhóm ngoại sinh gồm chỉ số giá hàng hóa thế giới (PC – World

Commodity Price Index), chỉ số sản xuất công nghiệp Mỹ (IPu – Industrial

Production), chỉ số giá tiêu dùng Mỹ (Pu – Consumer Price Index), lãi suất Fed

(IRu – Federal Funds rate); nhóm thứ hai gồm chỉ số sản xuất công nghiệp

Malaysia (IPM – Industrial Production), chỉ số giá tiêu dùng Malaysia (PM –

Consumer Price Index), cung tiền M1 (M1M - Monetary Aggregate M1), lãi suất

qua đêm (IRM - Overnight Inter-bank rate) và tỷ giá danh nghĩa (EXM – Nominal

Effective Exchange Rate). Ngoài biến lãi suất Fed và lãi suất qua đêm được tính

bằng đơn vị phần trăm (%), các biến khác được lấy logarit. Tác giả áp đặt các ràng

buộc xác định trong mô hình SVAR nhằm mục đích xác định liệu chăng các biến

động trong các cơ chế truyền dẫn tiền tệ của Malaysia đã thay đổi sau cuộc khủng

hoảng. Hay tác giả kỳ vọng có thể cung cấp cho ngân hàng trung ương Malaysia

(BNM – Bank Negara Malaysia) các quan điểm giá trị trong việc xác định các

kênh truyền dẫn quan trọng, cung cấp nhiều thông tin về các cú sốc chính sách

tiền tệ, giúp Ngân hàng trung ương Malaysia tác động lên các kênh phù hợp để

đảm bảo chính sách tiền tệ mang lại hiệu quả, góp phần tăng trưởng kinh tế và duy

trì ổn định giá hàng hóa.

Qua phân tích tác giả thu được các kết quả sau:

 Trong giai đoạn trước khủng hoảng, các cú sốc tiền tệ và tỷ giá có

khuynh hướng ảnh hưởng đáng kể lên sản lượng, giá, lãi suất, cung tiền và tỷ

giá. Sau giai đoạn khủng hoảng, cung tiền có khuynh hướng ảnh hưởng mạnh lên

sản lượng.

 Mức độ của các cú sốc bên ngoài và bên trong giảm sau giai đoạn

khủng hoảng. Cụ thể, với cú sốc của các biến bên ngoài như giá cả hàng hóa thế

24

giới giảm từ 0.0198 xuống 0.0185, sản lượng công nghiệp của Mỹ giảm từ 0.0052

xuống 0.0049, lãi suất của FED giảm từ 0.4473 xuống 0.1178, riêng chỉ số giá

tiêu dùng của Mỹ tăng từ 0.0020 lên 0.0025; các biến nội sinh như chỉ số sản

xuất công nghiệp của Malaysia giảm từ 0.0510 xuống 0.0235, chỉ số sản xuất

công nghiệp giảm từ 0.0035 xuống 0.0025, cung tiền giảm từ 0.0220 xuống

0.0192,…

 Phân tích hàm phản ứng đẩy trước và sau khủng hoảng cho thấy các

biến nội sinh có khuynh hướng phản ứng dương với các biến ngoại sinh, nhất là

biến lãi suất qua đêm của Malaysia trước khủng hoảng phản ứng âm biến lãi

suất fed, nhưng sau khủng hoảng phản ứng này là dương.

 Khi phân tách phương sai tác giả thấy rằng trước giai đoạn khủng

hoảng thì ở kỳ ngắn từ kỳ 1 đến kỳ 12, mức độ biến động của các biến nội sinh chủ

yếu được giải thích bằng các biến nội sinh trong nước, các biến ngoại sinh tác

động nhiều và rõ nét hơn từ kỳ 24 đến kỳ 48 (chẳng hạn output được giải thích

bằng chỉ số giá thế giới ở kỳ 1 là 0%, kỳ 12 là 0.7%, sang kỳ 24 là 0.95%, sang

kỳ 48 là 15.86%), tuy nhiên với tỷ giá thì mức độ giải thích của các biến ngoại sinh

đa phần có khuynh hướng giảm dần (chẳng hạn ở kỳ 12 chỉ số sản xuất công nghiệp

Mỹ giải thích 10.89%, sang kỳ 24 giảm xuống 9.83%, kỳ 48 xuống 4.78%)

 Trong khi đó ở giai đoạn sau khủng hoảng thì mức độ giải thích

của các biến ngoại sinh lại tăng mạnh hơn nhiều theo kỳ dài hơn (chẳng hạn chỉ

số giá thế giới ở kỳ 12 giải thích 3.15% biến động của cung tiền, sang kỳ 24 là

7.25%, kỳ 48 tăng vọt lên 31.53%; điều này cũng xảy ra tương tự với chỉ số giá

sản xuất công nghiệp Mỹ tác động lên lãi suất từ mức 2.83% ở kỳ 12 lên mức

23.72% ở kỳ 48)

Theo bài nghiên cứu “Inflation in Developing Asia” của Juthathip

Jongwanich và Donghyun Park (2008) thuộc bộ phận nghiên cứu Ngân Hàng Phát

Triển Châu Á tìm hiểu về nguồn gốc của lạm phát của khu vực cũng như mức độ

dẫn truyền của cú sốc giá dầu, giá lương thực năm 2008 vào lạm phát tiêu dùng ở

25

chín nước Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore, Thailand, Việt Nam,

Trung Quốc, Hàn Quốc và Ấn Độ đã tìm thấy những kết quả chính sau:

Lạm phát ở các nước Châu Á đang phát triển chủ yếu có nguyên nhân là các

yếu tố cầu kéo, cụ thể là sự dư thừa của tổng cầu và kỳ vọng lạm phát. Các cú sốc

ngoại sinh như giá dầu và giá lương thực chỉ giải thích khoảng 30% lạm phát giá

tiêu dùng của khu vực này. Qua đó cho thấy rằng, lạm phát của khu vực này không

hoàn toàn là do các nhân tố ngoại sinh nằm ngoài tầm kiểm soát của các cơ quan

tiền tệ và vì vậy chính sách tiền tệ vẫn là một công cụ mạnh trong cuộc chiến chống

lạm phát ở các nước này.

Sự dẫn truyền của các cú sốc giá dầu và giá lương thực lớn hơn đáng kể đối

với giá sản xuất hơn là giá tiêu dùng. Sự tăng lên giá dầu và giá lương thực giải

thích khoảng hơn 50% lạm phát giá sản xuất trong khi đối với giá tiêu dùng con số

này chỉ dùng lại ở mức khiêm tốn là 30%.

Hahn, E. (2003) nghiên cứu tác động cua chuyển dịch cú sốc bên ngoài đến

chuỗi chỉ số giá và đến lạm phát khu vực đồng tiền chung châu Âu. Bài nghiên cứu

cũng sử dụng mô hình VAR như nghiên cứu của Mc.Carthy, J. (2000) để đo lường

mức truyền dẫn và thu được kết quả: mức truyền dẫn là lớn nhất và nhanh nhất do

cú sốc bên ngoài đó là cú sốc giá nhập khẩu trừ giá dầu mỏ, tiếp đến là cú sốc tỷ

giá, và cuối cùng là cú sốc giá dầu. Mức ảnh hưởng giảm dần theo chuỗi chỉ số giá,

nói cách khác là mức truyền dẫn đến chỉ số giá nhập khẩu là lớn nhất, tiếp đến là chỉ

số giá sản xuất và sau cùng là chỉ số giá tiêu dùng. Cú sốc bên ngoài đóng góp phần

lớn cho lạm phát ở khu vực đồng Euro kể từ khi Liên minh tiền tệ châu Âu được

thành lập.

Ruffer et (2007) cũng sử dụng mô hình VAR cho chín quốc gia Đông Á và

Ấn Độ trong giai đoạn từ 1979 đến 2003. Kết quả nghiên cứu cho thấy phần lớn

biến động của chu kỳ kinh doanh phụ thuộc vào các yếu tố bên ngoài. Nghiên cứu

làm rõ hơn quan điểm cho rằng những bất ổn bên ngoài khu vực cần phải được quan

tâm vì đấy cũng là nguồn gốc gây biến động kinh tế vĩ mô ở các thị trường mới nổi.

26

Và gần đây nhất là giải nobel nghiên cứu khoa học 2011 của Thomas J. Sargent and

Christopher A. Sims với nghiên cứu của mình là “Empirical Macroeconomics” đã

cho thấy mối quan hệ giữa chính sách kinh tế vĩ mô và tác động của chúng lên nền

kinh tế.

2.2.2 Các nghiên cứu tại Việt Nam

Lê Việt Trung và Nguyễn Thị Thúy Vinh (2011) trong bài nghiên cứu “The

impact of oil prices, real effective exchange rate and inflation on economic activity:

Novel evidence for Vietnam”. Tác giả đã sử dụng mô hình Var thực hiện nghiên

cứu đánh giá tác động của giá dầu, tỷ giá và lạm phát đến hoạt động kinh tế tại Việt

Nam. Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng giá dầu, lạm phát và tỷ giá hối đoái có mối

quan hệ dài hạn. Đồng thời, cả hai yếu tố giá dầu và tỷ giá hối đoái thực sự có tác

động đáng kể đối với các hoạt động kinh tế. Nền kinh tế Việt Nam bị ảnh hưởng bởi

sự thay đổi của giá trị đồng tiền Việt Nam hơn so với biến động của giá dầu. Lạm

phát có tác động tích cực đến hoạt động kinh tế, tuy nhiên tác động của nó không

phải là quan trọng nhất.

Nguyễn Phi Lân (2010) sử dụng chuỗi dữ liệu từ tháng 1/1998 đến tháng

12/2009 và mô hình SVAR để phân tích định lượng cơ chế truyền dẫn của chính

sách tiền tệ Việt Nam. Kết luận của tác giả cho thấy:

Cung tiền M2 có xu hướng tác động tích cực tới tăng trưởng kinh tế. Tuy

nhiên, mức độ tác động của cung tiền M2 tới khu vực sản xuất công nghiệp còn

chưa lớn, mặc dù cung tiền M2 và tín dụng đã tăng trong một thời gian từ sau

khủng hoảng tài chính 1997, điều này có thể do một phần tín dụng ngân hàng đã

không được một số tổ chức kinh tế và dân cư sử dụng đúng mục đích sản xuất kinh

doanh mà thay vào đó là đầu tư vào các lĩnh vực có mức độ rủi ro cao như chứng

khoán, hay bất động sản.

Kết quả cũng cho thấy sự biến động của tỷ giá phụ thuộc rất lớn vào công tác

điều hành chính sách tiền tệ thông qua các công cụ lãi suất và lượng tiền cung ứng

27

ra lưu thông, các nhân tố bên ngoài nền kinh tế cũng tác động tới sự biến động của

tỷ giá nhưng không quá lớn

Khu vực tiền tệ - ngân hàng trong nước tương đối nhạy cảm và chịu tác động

rất lớn bởi các cú sốc bên ngoài nền kinh tế, đặc biệt là sự biến động của giá cả

hàng hóa thế giới và dấu hiệu suy thoái hay phục hồi của nền kinh tế thế giới nói

chung và nền kinh tế Hoa Kỳ nói riêng cũng như các động thái điều hành chính

sách tiền tệ của FED

Việc thay đổi lãi suất VND trên thị trường tiền tệ thông qua sử dụng các

công cụ tiền tệ trên thị trường mở hay tái cấp vốn... sẽ mất thời gian khoảng là 3 - 5

tháng để có hiệu lực. Việc đồng VND bị mất giá cũng khiến lãi suất VND trên thị

trường tiền tệ giảm xuống nhưng sẽ mất khoảng thời gian từ 5 đến 10 tháng.

Trước các cú sốc về tăng trưởng kinh tế, cụ thể là nền kinh tế đang ở trạng

thái tăng trưởng nóng, chỉ số CPI có xu hướng tăng nhanh và liên tục trong khoảng

thời gian 5 - 10 tháng. Tuy nhiên, chỉ số CPI tương đối nhạy cảm và phản ứng

mạnh trước động thái thắt chặt chính sách tiền tệ, cụ thể là giảm mạnh trong khoảng

thời gian 6 - 9 tháng kể từ khi thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt”.

Nguyễn Thị Thu Hằng (2010) sử dụng mô hình VECM để phân tích mối

quan hệ giữa 12 biến: CPI, sản lượng sản xuất công nghiệp, cung tiền M2, tăng

trưởng tín dụng, lãi suất, chỉ số giá sản xuất PPI, thâm hụt ngân sách tích lũy, tổng

giá trị giao dịch của thị trường chứng khoán, chỉ số giá nhập khẩu, giá dầu thế giới

và giá gạo thế giới từ năm 2000 – 2010. Kết quả của nghiên cứu cho thấy:

Quán tính lạm phát của Việt Nam là cao và là một nhân tố quan trọng quyết

định lạm phát của Việt Nam trong hiện tại;

Tốc độ điều chỉnh là rất thấp trên cả thị trường tiền tệ và thị trường ngoại hối,

hàm ý kiểm soát lạm phát một cách có hiệu quả là rất khó một khi nó đã bắt đầu tăng

lên;

28

Mức truyền dẫn tỷ giá vào lạm phát là đáng kể trong ngắn hạn với việc phá

giá dẫn đến giá cả tăng lên trong khi thâm hụt ngân sách cộng dồn không có ảnh

hưởng nhiều đến lạm phát;

Cung tiền và lãi suất có tác động đến lạm phát nhưng theo độ trễ

Mức truyền dẫn trong ngắn hạn của giá quốc tế đến giá nội địa cũng có vai

trò nhất định.

Tóm lại

Trên thế giới đã có rất nhiều các nghiên cứu sử dụng mô hình SVAR kể từ

nghiên cứu của Sims (1972) để đo lường mức độ phản ứng của các cú sốc ngoại

sinh tác động đến các biến số kinh tế vĩ mô trong nước. Tuy nhiên ở Việt Nam, số

lượng các nghiên cứu về ảnh hưởng của các cú sốc ngoại sinh còn hạn chế. Các bài

nghiên cứu nói chung đều cho thấy các cú sốc ngoại sinh đều có tác động đến

các biến nội sinh, ở các quốc gia khác nhau thì mức độ ảnh hưởng không

như nhau. Đồng thời, mức độ phản ứng của các biến ngoại sinh tới các biến nội

sinh có xu hướng tăng theo thời gian, nhất là sau các cuộc khủng hoảng tài chính,

đặc biệt là các cú sốc từ nền kinh tế Mỹ.

29

3. PHƢƠNG PHÁP VÀ DỮ LIỆU NGHIÊN CỨU

3. 1 Mô hình SVAR

Mô hình Structural Vector Autoregression (Structural VAR) gọi tắt là

SVAR, ngày càng trở thành một công cụ phổ biến trong phân tích sự truyền dẫn

chính sách tiền tệ. Phương pháp SVAR được áp dụng rộng rãi trong một số phần

mềm kinh tế lượng như Eviews, Stata, giúp việc sử dụng mô hình này trở nên dễ

dàng hơn.

Trong những năm 1990, các nhà nghiên cứu kinh tế trên thế giới đã sử dụng

các mô hình tự hồi quy véc tơ (viết tắt là VAR) để phân tích cơ chế truyền tải chính

sách tiền tệ và khuôn khổ chính sách tiền tệ của các nền kinh tế. Các năm sau đó,

các dạng biến thể của mô hình VAR đã được phát triển mạnh mẽ, đặc biệt là mô

hình SVAR và được sử dụng phổ biến để phân tích các mối quan hệ giữa các biến

kinh tế vĩ mô và các biến ngoại sinh

Tương tự như phương pháp VAR, phương pháp SVAR không quan sát

trực tiếp tương quan động giữa các biến mà quan sát tác động của các cú sốc lên

mô hình. Phương pháp SVAR cũng giả định các sai số cấu trúc là trực giao, sai

số cấu trúc này chiếm một vị trí trung tâm trong phương pháp SVAR.

Về mặt lý thuyết, để đánh giá tác động của các cú sốc ngoại sinh đến Việt

Nam và một số quốc gia Đông Nam Á, tác giả xem xét mô hình VAR cấu trúc sau:

Trong đó:

(s) = 0 với s = 0, 1, 2,….., p.

y1 (t - s ) là vector của các biến ngoại sinh, và y2 (t – s) là vector của

các biến trong nước.

30

(t) là vector các cú sốc cấu trúc có nguồn gốc ngoại sinh, và (t) là

vector các cú sốc cấu trúc có nguồn gốc trong nước. ε(t)= [ (t) , (t) ] là vector sai

số ngẫu nhiên thỏa mãn điều kiện E [ ε(t)| y(t-s),s>0 ]=0 và E [ ε(t)ε(t)’| y(t-s),s>0 ]

= I với I là ma trận đơn vị.

Bốn cú sốc ngoại sinh được tác giả sử dụng để đánh giá mức độ ảnh hưởng

của các quốc gia Đông Nam Á trong giai đoạn nghiên cứu. Vector của các biến

ngoại sinh y1 (t - s ) bao gồm:

Giá dầu

GDP thực của Mỹ

Lãi suất FED

Chỉ số chứng khoán S&P 500

Vector của các biến trong nước y2(t –

Sản lượng thực tế (y),

Chỉ số tiêu dùng trong nước(CPI)

Tỷ giá hối đoái danh nghĩa so với đồng đô la Mỹ.

Mô hình này được đề xuất riêng đối với mỗ quốc gia và giả định rằng các

biến nội sinh của các quốc gia Đông Nam Á không làm thay đổi đến các biến ngoại

sinh. Điều giả định này hàm ý sự hạn chế của các khối ngoại sinh (exogeneity)

A21 s(t) = 0 với s = 0, 1…, p đại diện cho những cú sốc trong nước

(t) không ảnh hưởng đến các biến nội sinh trong vector y1(t-s) hoặc đồng

thời với độ trễ.

3.2 Xác định ma trận cấu trúc

Việc xác định các ma trận cấu trúc theo nghiên cứu “External Shocks, U.S

Monetary Policy and Macroeconomic Fluctuations in Emerging Markets” của

31

Mackowiak (2007), bao gồm 7 biến. Theo đó ma trận trong SVAR được xác định

như sau:

Bảng 3.1: Bảng cấu trúc ma trận đơn vị

Sản Lạm phát Tỷ Giá GDP Lãi suất Chỉ số S&P

lƣợng (CPI) giá dầu Mỹ FED 500

NA NA NA NA NA NA 1 Sản lƣợng

1 NA NA NA NA NA 0 Lạm phát

(CPI)

0 1 NA NA NA NA 0 Tỷ giá

0 0 NA NA 1 NA 0 Giá dầu

0 0 0 1 NA NA 0 GDP Mỹ

0 0 0 0 1 NA 0 Lãi suất

FED

0 0 0 0 0 1 0 Chỉ số S&P

500

Việc thiết lập các hạn chế từ đó xây dựng nên ma trận cấu trúc cho mô hình

là công việc quan trọng và có ảnh hưởng xuyên suốt đến kết quả ước lượng cũng

như các phân tích sau đó. Trong phần này, tác giả thiết lập các hạn chế theo nghiên

cứu của Mackowiak (2007), Sato và các cộng sự (2009).

Về các biến ngoại sinh, giả định giá dầu thực tế không bị ảnh hưởng bởi các

cú sốc ngoại sinh còn lại. GDP thực của Mỹ không chịu ảnh hưởng bởi lãi suất của

32

FED và sự biến động trên thị trường chứng khoán. Lãi suất của Mỹ không bị ảnh

hưởng bởi biến động chỉ số S & P 500 trong ngắn hạn ( Sato và các cộng sự , 2009).

Với các biến trong nước, tác giả giả định (i) một nhu cầu sốc trong nước

không ảnh hưởng đến các sản phẩm trong nước và (ii) một cú sốc tiền tệ trong nước

không ảnh hưởng đến các sản phẩm trong nước và tỷ giá. (The Sims và Zha (1999))

3.3 Dữ liệu nghiên cứu

Tác giả sử dụng dữ liệu từ Q1.1996 đến Q4.2012 bao gồm các chỉ số kinh

tế chính đặc trưng cho quá trình hội nhập của Việt Nam nói riêng và các quốc gia

Đông Nam Á nói chung. Đó là khoản thời gian mà Việt Nam kí hiệp định tự do

thương mại Mỹ 1997, khủng hoảng kinh tế châu Á 1997-1998, khủng hoảng tài

chính toàn cầu 2007-2008. Mẫu bao gồm 5 quốc gia: Malaysia, Philippin,

Singapore, Thái Lan và Việt Nam. Các quốc gia còn lại trong khu vực Asean bao

gồm Indonexia, Campuchia, Lào và Đông TiMo không đủ dữ liệu. Các biến được

lấy theo nghiên cứu "The Impact of External Shocks in East Asia: “Lessonsfrom a

Structural VAR Model with Block Exogeneity” của các tác giả Jean-PierreAllegret;

Cecile Couharde; Cyriac Guillaumin (2012)

Dữ liệu cơ sở cho các cú sốc ngoại sinh bao gồm cú sốc giá dầu, cú sốc sản

lượng Mỹ, đại diện cho cú sốc tiền tệ của Mỹ là sự biến động lãi suất FED. Cuối

cùng, chỉ số chứng khoán S&P 500 đại diện cho cú sốc tài chính Mỹ. Các biến kinh

tế vĩ mô đặc trưng ở mỗi quốc gia bao gồm sản lượng thực tế, lạm phát và tỷ giá so

với đồng đô la Mỹ

Tất cả các biến (ngoại trừ biến lãi suất FED) được chuyển thành logarit. Số

liệu GDP (tại một số quốc gia không thu thập được nên được thay bằng chỉ số giá

công nghiệp).

33

Bảng 3.2: Các biến trong mô hình cấu trúc tự hồi quy véc tơ (SVAR)

Biến ngoại sinh

Quốc gia Các biến trong mô hình Viết tắt Nguồn Đơn vị

Giá dầu thế giới OILP IFS-IMF Đôla/thùng

Mỹ GDP thực của Mỹ GDP_US Cục phân tích Triệu Đôla

kinh tế Mỹ

(BEA)

Mỹ Lãi suất FED R_US IFS-IMF %

Chỉ số chứng khoán S&P S&P500 S&P Dow Index

Jones Indices 500

LLC

34

Biến nội sinh

Quốc gia Biến Viết tắt Nguồn Đơn vị

Sản lượng công nghiệp RIP_M IFS-IMF Tỷ ringgit Malaysia

Chỉ số giá tiêu dùng CPI CPI_M IFS-IMF Index

2005=100

Tỷ giá hối đoái giữa EXR_M IFS-IMF MYR/USD

MYR và USD

RIP_P IFS-IMF Triệu peso Philippin Sản lượng công nghiệp

Chỉ số giá tiêu dùng CPI CPI_P IFS-IMF Index

2005=100

Tỷ giá hối đoái giữa PHP EXR_P IFS-IMF PHP/USD

và USD

RIP_S IFS-IMF Triệu đôla Singapore Sản lượng công nghiệp

Chỉ số giá tiêu dùng CPI CPI_S IFS-IMF Index

2005=100

Tỷ giá hối đoái giữa EXR_S IFS-IMF SGD/USD

SGD và USD

Sản lượng công nghiệp RIP_T IFS-IMF Tỷ bath Thái Lan

Chỉ số giá tiêu dùng CPI CPI_T IFS-IMF Index

2005=100

35

Tỷ giá hối đoái giữa EXR_T IFS-IMF THB/USD

THB và USD

GDP_V IFS-IMF Tỷ VNĐ Việt Nam Tổng sản lượng quốc gia

GDP

Chỉ số giá tiêu dùng CPI CPI_V IFS-IMF Index

2005=100

.Tỷ giá hối đoái giữa EXR_V IFS-IMF VNĐ/USD

VNĐ và USD

Lưu ý: IFS: Hệ thống cơ sở dữ liệu các chỉ tiêu tài chính của Quỹ Tiền tệ

Quốc tế IMF;

FED: Cục Dự trữ liên bang Hoa Kỳ.

Cú sốc ngoại sinh đầu tiên tập trung vào cú sốc cung đại diện bởi giá dầu

thực. Hầu hết các quốc gia trong bài nghiên cứu đều phải nhập khẩu nguyên liệu cho

ngành công nghiệp (Cushman và Zha, 1997). Sức ép tăng trưởng của họ vẫn phụ

thuộc vào xuất khẩu sang các nước công nghiệp, đặc biệt là với Mỹ, cú sốc thương

mại đại diện bởi cú sốc sản lượng của Mỹ. Cú sốc ngoại sinh thứ ba quan tâm đến sự

truyền dẫn chính sách tiền tệ nước ngoài, phụ thuộc vào mức độ hội nhập tài khoản

vốn và các chế độ tỷ giá hối đoái. Các quốc gia Đông Á nói chung đã áp dụng một

tỷ giá hối đoái cố định so với đồng đôla Mỹ hoặc một rổ tiền tệ trong đó đồng Đôla

chiếm một tỷ trọng nhất định (Reinhart và Rogoff, 2004). Do đó, với việc sử dụng tỷ

giá hối đoái so với đồng đôla làm cú sốc ngoại sinh, tác giả hy vọng rằng các biến

trong nước nhạy cảm với lãi suất của Mỹ. Cuối cùng, trong nền kinh tế, có một xu

hướng: hướng tới tài khoản vốn mở. Đặc biệt với nền kinh tế các quốc gia được

hưởng lợi từ dòng vốn quốc tế như Việt Nam. Dưới ảnh hưởng của sự biến động cao

như thể hiện qua cuộc khủng hoảng châu Á và gần đây hơn của cuộc khủng hoảng

tài chính toàn cầu. Đây là lý do tại sao tác giả chọn cú sốc tài chính ngoại sinh để

36

nắm bắt căng thẳng về thị trường tài chính, đại diện bởi chỉ số chứng khoán S&P

500. Biến tỷ giá hối đoái được chọn bởi bản chất của biến này tạo thành cơ chế

truyền tải quan trọng trong bất kì cú sốc nào (Cushman và Zha, 1997).

Các bƣớc tiến hành chạy mô hình SVAR trên Eviews 6.0 nhƣ sau:

Bước 1: Kiểm định tính dừng của các biến.

Bước 2: Kiểm định giá trị độ trễ tối ưu (Lag Structure/Lag Length

Criteria…).

Bước 3: Kiểm định tự tương quan phần dư (phương pháp

Portmanteau Autocorrelation Test).

Bước 4: Ước lượng mô hình và các biến số theo phương pháp Var

Bước 5: Xây dựng Ma Trận mục tiêu A0

Bước 6: Ước lượng mô hình và các biến số theo phương pháp Svar

Bước 7: Khai báo ma trận A0 vào mô hình SVAR hiện tại

Bước 8: Phân tách phương sai và phân rã Cholesky

Bước 9: Đọc kết quả phân tách phương sai và hàm phản ứng thúc đẩy

37

4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

4.1 Kết quả các kiểm định ban đầu

4.1.1 Kết quả kiểm định tính dừng ADF

Sử dụng phương pháp Augmented Dickey-Fuller để kiểm tra tính dừng cho

chuỗi dữ liệu đầu vào lần lượt trong các trường hợp có xu hướng và không có xu

hướng. Kết quả cho thấy các biến dừng khi lấy sai phân bậc 1. Vì vậy, các biến

ngoại sinh và nội sinh đủ điều kiện để chạy mô hình VAR cấu trúc.

Bảng 4.1. Kiểm định tính dừng ADF

Kiểm định ADF

Biến Trạng thái dừng Không có xu hƣớng Có xu hƣớng

(No trend) (Trend)

OILP -7,567188*** -7,511527*** Stationary (dừng)

GDP_US -5,082849*** -5,320375*** Stationary (dừng)

R_US -5,100476*** -5,061155*** Stationary (dừng)

S&P500 -5,240638*** -5,223221*** Stationary (dừng)

CPI_M -6,422302*** -6,376848*** Stationary (dừng)

EXR_M -5,140888*** -5,308119*** Stationary (dừng)

RIP_M -6,131256*** -6,156490*** Stationary (dừng)

CPI_P -5,570267*** -5,589213*** Stationary (dừng)

EXR_P -3,902681*** -5,456522*** Stationary (dừng)

38

RIP_P -3,980520*** -3,957488** Stationary (dừng)

CPI_S -4,20762*** -4,931299*** Stationary (dừng)

EXR_S -5,018789*** -7,776462*** Stationary (dừng)

RIP_S -8,707028*** -8,694984*** Stationary (dừng)

CPI_TL -6,732103*** -6,689838*** Stationary (dừng)

EXR_TL -6,231449*** -6,453992*** Stationary (dừng)

RIP_TL -7,104748*** -7,103742*** Stationary (dừng)

CPI_VN -3,454206** -5,562501*** Stationary (dừng)

EXR_VN -9,445948*** -9,369405*** Stationary (dừng)

GDP_VN -4,109657*** -4,131300*** Stationary (dừng)

Lưu ý: *** có ý nghĩa thống kê ở mức 1%; ** ở mức 5%; and * ở mức

10%; Kết quả được tính toán và thống kê trên phần mềm Eviews 6.0.

4.1.2 Kết quả kiểm định độ trễ mô hình theo từng nước

Trong mô hình VAR, độ trễ tối ưu thường được lựa chọn dựa trên các kiểm

định Akaike Information Criterion (AIC), Schwarz Information Criterion (SC) và

LR.

Nếu theo tiêu chuẩn AIC, SC và HQ thì độ trễ được lựa chọn lần lượt là: 5,

1 và 1. Tuy nhiên, độ trễ được xác định trong các kiểm định AIC, HQ và SC là

không đủ để thực hiện đánh giá tác động của các cú sốc được lượng hóa trong mô

hình. Do vậy, bài viết sử dụng phương pháp Portmanteau để kiểm định tính tự

tương quan phần dư trong mô hình.

39

Ngoài ra, kiểm định VAR lag exclusion Wald tests cho thấy có 2 trễ tối ưu

ở tất cả 05 nước Đông Nam Á. Trong bài tác giả chỉ trình bày kết quả kiểm định

VAR lag exclusion Wald tests của Việt Nam, kết quả của các nước còn lại tham

khảo thêm ở phần Phụ lục 1.

Bảng 4.2: Kết quả kiểm định VAR lag exclusion Wald tests của Việt

Nam

4.1.3 Kết quả kiểm định VAR residual Portmanteau Tests

Kiểm định VAR residual Portmanteau Tests để kiểm tra về sự tự tương

quan phần dư của mô hình. Trong phần này tác giả cũng chỉ nêu trường hợp của

Việt Nam, các quốc gia còn lại sẽ phân tích tương tự.

Kiểm định VAR residual Portmanteau Tests với giả thiết :

Ho: là không có hiện tượng tự tương quan phần dư tại độ trễ h

H1: có hiện tượng tự tương quan phần dư tại độ trễ h

40

Bảng 4.3: Kết quả kiểm định VAR residual Portmanteau Tests của Việt

Nam

Lags Q-Stat Prob. Adj Q-Stat Prob. df

15.14964 NA* 15.38635 NA* 1 NA*

40.82545 NA* 41.86695 NA* 2 NA*

72.56136 0.0160 75.14895 0.0095 3 49

Kết quả bảng 4.3 cho thấy tại độ trễ bằng 3 thì mô hình sẽ có hiện tượng tự

tương quan phần dư, vậy số trễ của mô hình SVAR theo Portmanteau Tests sẽ là 2.

(Các quốc gia còn lại được thể hiện ở Phụ lục 2)

Tóm lại, thông qua 2 kiểm định, bài viết sẽ sử dụng mô hình SVAR với độ

trễ là 2 cho tất cả các nước.

Sau khi thực hiện các kiểm định liên quan, tác giả tiến hành ước lượng mô

hình theo các cú sốc được thiết lập ở phần trên bằng phần mềm Eview. Sau đó sử

dụng phân rã phương sai và hàm phản ứng thúc đẩy để tiến hành các phân tích.

4.2 Tầm quan trọng của các biến ngoại sinh đến các biến nội sinh

Để xác định mức độ đóng góp của các biến ngoại sinh đến sự biến động các

biến kinh tế vĩ mô tại các giá trị khác nhau, và tầm quan trọng tương ứng với mỗi cú

sốc, tác giả thực hiện phân rã phương sai cho các biến trong mô hình SVAR

41

Bảng 4.4: Phân rã phƣơng sai của GDP đến các cú sốc bên ngoài

Lưu ý: “1-4” là viết tắt của giá trị trung bình từ kì 1 đến kì 4 sau khi cú sốc xảy ra

“16-20” là viết tắt của giá trị trung bình từ kì 16 đến kì 20 sau khi cú sốc xảy ra

Bảng 4.4 trình bày các phương sai của sai số (ln) GDP. Bốn khối đầu tiên

của các dòng cho thấy giá trị phương sai của sai số GDP được tạo thành bởi bốn cú

sốc ngoại sinh đại diện cho mẫu nghiên cứu. Khối cuối cùng trong bảng hiển thị các

biến ngoại sinh có thể giải thích cho tất cả các cú sốc ngoại sinh ở mỗi quốc gia.

Trong chuỗi thời gian ngắn hạn (1-4 kì), cú sốc giá dầu thế giới giải thích

hơn 8% sự biến động tổng sản lượng của Việt Nam. Theo ước tính của British

Petroleum (BP), Việt Nam là quốc gia có mức dự trữ dầu thô đứng thứ 2 trong khu

vực Đông Á. Trung bình mỗi năm ngành dầu khí Việt Nam đóng góp khoảng 25%

tổng thu ngân sách nhà nước về sản xuất và xuất khẩu dầu thô. Việt Nam sẽ không

tránh khỏi những ảnh hưởng trước tình hình biến động giá dầu. Bên cạnh cú sốc giá

dầu, biến động của GDP Việt Nam được giải thích bởi giá trị nhỏ hơn của các cú

sốc còn lại, tương ứng với phương sai của sản lượng Mỹ là 0.4%, lãi suất FED là

0.1% và chỉ số S&P 500 là 1,9%. Kết quả cho thấy trong ngắn hạn, các cú sốc ngoại

sinh đã giải thích hơn 10% sự biến động tổng sản lượng của Việt Nam. Đối với các

quốc gia còn lại, Singapore đặc biệt nhạy cảm với những cú sốc này, tương ứng với

phương sai 21,5%. Giá trị này cao hơn các nước khác như Malaysia (13,1%),

Philippines (18,7%).

42

Ở chuỗi thời gian dài hạn (16-20 kì), các cú sốc ngoại sinh ngày càng quan

trọng đến sự biến động sản lượng ở các quốc gia, thể hiện trong quan sát ở tất cả các

kỳ lấy mẫu. Quá trình này có liên quan đến sự tăng độ mở kinh tế trong các nước

Đông Á vào cuối những năm 90. Các cú sốc ngoại sinh đã giải thích hơn 13% biến

động của các biến số kinh tế vĩ mô ở các quốc gia. Biến sản lượng ở hầu hết các

nước có xu hướng chịu ảnh hưởng nhiều bởi cú sốc giá dầu. Cú sốc giá dầu đã giải

thích hơn 12% biến động sản lượng của Việt Nam trong dài hạn. Cú sốc sản lượng,

lãi suất FED và chỉ số chứng khoán của Hoa Kỳ có ảnh hưởng đến sản lượng của

các quốc gia trong khu vực nhưng mức.

Trong các quốc gia được nghiên cứu, những cú sốc GDP của Mỹ giải thích

một phần nhỏ hơn của phương sai GDP trong nước so với cú sốc giá dầu. Diễn biến

như vậy phần nào giải thích được mức độ ảnh hưởng của các quốc gia trong khu

vực kể từ những năm 90, thương mại giữa các quốc gia Asean đã có sự tăng lên

đáng kể. Đồng thời là những ảnh hưởng từ các thị trường lớn ở châu Á như Trung

Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc.

Như trong kết quả, GDP Việt Nam chịu ảnh hưởng từ các cú sốc ngoại sinh

thấp nhất là tăng trưởng kinh tế Mỹ là 0.72%, lãi suất của FED là 1,3% và chỉ số

S&P 500 là 5%. Singapore và Philippines là hai quốc gia trong khu vực có sản

lượng công nghiệp chịu sự ảnh hưởng mạnh nhất từ cú sốc giá dầu.

43

Bảng 4.5: Phân rã phƣơng sai của CPI đến các cú sốc bên ngoài

Lưu ý: “1-4” là viết tắt của giá trị trung bình từ kì 1 đến kì 4 sau khi cú sốc xảy ra

“16-20” là viết tắt của giá trị trung bình từ kì 16 đến kì 20 sau khi cú sốc xảy ra

Bảng 4.5 trình bày các phương sai của sai số chỉ số giá tiêu dùng. Trong

ngắn hạn, các cú sốc ngoại sinh đã giải thích hơn 10% mức độ ảnh hưởng đến biến

số giá tiêu dùng các quốc gia bao gồm: Việt Nam, Thái Lan, Singapore, Malaysia.

Tại Việt Nam, lạm phát chịu tác động mạnh nhất bởi sự biến động của giá

dầu thế giới trong ngắn hạn cũng như dài hạn. Tương tự như tại Singapore, mức độ

đóng góp của cú sốc giá dầu là cao nhất đến lạm phát quốc gia này. Ngược lại, tác

động của các cú sốc sản lượng, cú sốc tiền tệ và cú sốc tài chính Mỹ có ảnh hưởng

nhưng mức độ không đáng kể đến chỉ số giá cả hàng hóa của các quốc gia.

Trong dài hạn, chỉ ngoại trừ Philippines, các cú sốc ngoại sinh giải thích hơn

17% mức độ ảnh hưởng đến chỉ số giá cả hàng hóa các quốc gia, cao nhất là

Singapore, kế đến là Thái Lan. Ảnh hưởng của cú sốc giá dầu tác động nhiều nhất

và liên tục đến các quốc gia trong ngắn hạn cũng như dài hạn.

44

Bảng 4.6: Phân rã phƣơng sai của tỉ giá hối đoái danh nghĩa đến các cú

sốc bên ngoài.

Lưu ý: “1-4” là viết tắt của giá trị trung bình từ kì 1 đến kì 4 sau khi cú sốc xảy ra

“16-20” là viết tắt của giá trị trung bình từ kì 16 đến kì 20 sau khi cú sốc xảy ra

Bảng 4.6 trình bày phương sai của tỷ giá hối đoái danh nghĩa. Nhìn chung,

các quốc gia trong khu vực ít chịu tác động của các cú sốc ngoại sinh đến sự biến

động tỷ giá hối đoái. Singapore và Malaysia là hai quốc gia chịu ảnh hưởng của các

cú sốc bên ngoài đến tỷ giá hối đoái trong dài hạn hơn 10%. Các quốc gia còn lại

vẫn chịu ảnh hưởng của các cú sốc ngoại sinh đến tỷ giá nhưng không đáng kể. Kết

quả này có thể được giải thích bởi cơ chế điều hành chính sách tiền tệ ở các quốc

gia ở Đông Nam Á như Thái Lan, Malaysia, Philippines, Việt Nam…cộng với

những nỗ lực của chính sách điều hành kinh tế trong việc duy trì sự ổn định của

đồng nội tệ so với ngoại tệ.

Như vậy, các cú sốc ngoại sinh đều có tầm quan trọng đến sự biến động các

biến số kinh tế vĩ mô ở các quốc gia mới nổi. Tuy nhiên, mức độ giải thích cho sự

biến động các biến nội sinh ở những quốc gia khác nhau thì không như nhau. Giá

dầu thế giới giữ vai trò quan trọng hơn các cú sốc sản lượng và cú sốc tài chính đến

biến sự động kinh tế vĩ mô của các quốc gia mới nổi Đông Nam Á. Điều này đã

khẳng định phần nào vai trò của Mỹ đối với các thị trường mới nổi. Hạn chế ảnh

hưởng của cú sốc sản lượng Mỹ có thể được giải thích bởi sự nổi dậy trong thương

45

mại của Trung Quốc với các nước trong khu vực, cũng như mức độ hội nhập ngày

càng tăng tại các nước trong khu vực Đông Nam Á nói riêng và châu Á nói chung.

Ở chuỗi thời gian dài hạn (16-20 kì), các cú sốc ngoại sinh ngày càng quan trọng,

khẳng định được quan sát trong tất cả các thời kỳ mẫu. Quá trình này có liên quan

đến sự tăng độ mở kinh tế trong các nước Đông Á vào cuối những năm 90. Các cú

sốc ngoại sinh tác động mạnh trên chỉ số giá cả hàng hóa hơn trên GDP. Thật vậy,

chỉ số giá cả hàng hóa bị ảnh hưởng nhiều hơn từ giá cả hàng hóa quốc tế, mà cụ thể

ở đây là giá dầu.

Tầm quan trọng của các cú sốc ngoại sinh đến các biến số kinh tế vĩ mô

cung cấp một bức tranh khác nhau trong hai trường hợp cho chuỗi thời gian ngắn

hạn và dài hạn. Trong dài hạn, khoảng thời gian từ 16 đến 20 kỳ, phương sai của

các biến nội sinh có sự tăng lên so với giá trị trung bình từ kỳ 1 đến kỳ 4. Cú sốc tài

chính quốc tế (chỉ số S&P 500) giữ vai trò quan trọng không đáng kể lên biến trong

nước. Kết quả này phù hợp với những nghiên cứu gần đây về vấn đề này (Gimet,

2011).

4.3 Tác động của các cú sốc bên ngoài đến các biến nội sinh

4.3.1 Phản ứng của sản lượng trước các cú sốc bên ngoài

Phản ứng xung của mỗi biến nội sinh của các quốc gia với các cú sốc ngoại

sinh khác nhau lần lượt được mô tả tương ứng trong các đồ thị bên dưới và phụ lục.

Theo các đường dẫn thời gian về tác động của các cú sốc ngoại sinh đối với mỗi

biến trong nước, phản ứng xung không chỉ phân tích phản ứng tại một cú sốc cụ thể

trong ngắn hạn, mà còn thể hiện được kết quả trong dài hạn.

46

Biểu đồ 4.1: Phản ứng của GDP Việt Nam trƣớc các cú sốc bên ngoài.

Phản ứng của biến sản lượng của các nước với các cú sốc gần như bắt đầu

từ kỳ 02 trở đi, các phản ứng phần lớn khác nhau ở kỳ ngắn hạn. Tại Việt Nam,

phản ứng của các biến số kinh tế vĩ mô với cú sốc giá dầu là mạnh hơn so với các

nước trong bài nghiên cứu.

Để phân tích mức độ ảnh hưởng của các yếu tố được chọn đối với các biến

nội sinh trong ngắn hạn và dài hạn, cũng như khẳng định lại các phân tích kết quả

thu được từ các hàm phản ứng thúc đẩy, tác giả sử dụng thêm kết quả phân rã

Cholesky

47

Bảng 4.7 Phân rã Cholesky của GDP đến các cú sốc bên ngoài

Lưu ý: “1-4” là viết tắt của giá trị trung bình từ kì 1 đến kì 4 sau khi cú sốc xảy ra

“16-20” là viết tắt của giá trị trung bình từ kì 16 đến kì 20 sau khi cú sốc xảy ra

Biểu đồ 4.1 cho thấy trong ngắn hạn, cú sốc giá dầu tác động cùng chiều với

GDP tại Việt Nam, tác động này cũng tương tự như Thái Lan, Malaysia, Philipines.

Theo Kilian (2009), từ cuối những năm 90, cú sốc giá dầu chủ yếu là cú sốc về nhu

cầu, giá dầu tăng có thể phản ứng sự tăng trưởng của những nước phát triển. Kết

quả là xuất khẩu của của quốc gia sẽ tăng. Tuy nhiên tại Singapore, sản lượng công

nghiệp tác động ngược chiều với cú sốc giá dầu, điều bày phù hợp với lý thuyết

rằng cú sốc giá dầu ảnh hưởng tiêu cực đến các biến trong nền kinh tế vĩ mô thông

qua các kênh truyền dẫn khác nhau. Trước hết, cú sốc gây ra hiệu ứng sốc cung do

các công ty phải chịu sự gia tăng chi phí sản xuất khi giá dầu biến động. Thứ hai, cú

sốc giá dầu đề cập đến hiệu ứng xuất khẩu dầu sang các nước nhập khẩu. Còn một

quan điểm thứ ba theo Bernanke và cộng sự (1997) cho rằng phản ứng tích cực của

biến kinh tế vĩ mô trong nước với cú sốc giá dầu do chính sách tiền tệ chặt chẽ của

quốc gia để chống lại áp lực lạm phát.

Trong ngắn hạn, sản lượng của Việt Nam phản ứng tích cực trước cú sốc

sản lượng tại Mỹ. Điểm này cũng tương đồng với các quốc gia còn lại trong bài

48

nghiên cứu. Hoa kỳ như một đại diện trong hoạt động thương mại ở các nước mới

nổi, phản ứng tích cực của các quốc gia đã khẳng định mức độ mở cửa thương mại

tại các quốc gia.

Trong dài hạn, các cú sốc ngoại sinh của Mỹ ảnh hưởng không đáng kể trên

sản lượng của các quốc gia trong bài nghiên cứu, đường phản ứng có xu hướng tiệm

cận về 0. Mỹ là thị trường xuất khẩu lớn của Việt Nam hiện nay, chiếm khoảng 20-

21% kim ngạch xuất khẩu. Khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm 2008 đã làm cho tốc

độ tăng trưởng xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường Mỹ giảm do cầu tiêu dùng

tại thị trường Mỹ đang trên đà “trượt dốc”, mặt khác cạnh tranh trong xuất khẩu vào

thị trường Mỹ khốc liệt hơn do một số nhà xuất khẩu giảm giá hàng xuất khẩu để

tiêu thụ lượng hàng hoá xuất khẩu bị tồn đọng. Do đó, tốc độ tăng trưởng xuất khẩu

vào thị trường Mỹ suy giảm sẽ ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng xuất khẩu chung

của Việt Nam, từ đó tác động đến sự sụt giảm trong GDP của Việt Nam.

49

4.3.2 Phản ứng của CPI trước các cú sốc bên ngoài

Biểu đồ 4.2 Phản ứng CPI Việt Nam trƣớc các cú sốc bên ngoài

Kết quả nghiên cứu cho thấy các cú sốc ngoại sinh tác động đến chỉ số giá ở

các quốc gia khác nhau là không như nhau. Tại Việt Nam, cú sốc giá dầu tác động

liên tục, đến sau kì thứ 12 thì phản ứng chậm lại. Theo Juthathip Jongwanich và

Donghuyn Park trong bài nghiên cứu về lạm phát ở các nước Châu Á đang phát

triển vào tháng 9/2008 đã nhận định rằng có ba kênh truyền tải chính mà thông qua

đó những thay đổi trong giá dầu sẽ tác động đến giá cả trong nước. Thứ nhất là giá

dầu tăng sẽ làm tăng chi phí sản xuất vì dầu là một yếu tố đầu vào quan trọng để

sản xuất ra hầu hết các loại hàng hóa và dịch vụ kể cả lương thực và hàng hóa phi

50

lương thực. Thứ hai, giá dầu tăng sẽ gây ra tác động dây chuyền làm giá các loại

năng lượng khác cũng tăng lên. Điều này là do khi giá dầu tăng thì sản xuất và tiêu

dùng sẽ chuyển hướng sang sử dụng các loại năng lượng khác để thay thế cho dầu.

Tuy nhiên sự tăng giá sẽ là khác nhau ở những loại năng lượng khác nhau, phụ

thuộc vào mức độ thay thế của chúng cho dầu như thế nào. Thứ ba là giá dầu tăng

cũng sẽ tác động làm tăng tiền lương danh nghĩa thông qua kỳ vọng lạm phát cao.

Tiền lương phụ thuộc vào bản chất của thị trường lao động và được điều chỉnh theo

kỳ vọng lạm phát nên cũng sẽ gia tăng áp lưc vào việc tăng lên của chi phí sản xuất.

Bảng 4.8 Phân rã Cholesky của CPI đến các cú sốc bên ngoài

Lưu ý: “1-4” là viết tắt của giá trị trung bình từ kì 1 đến kì 4 sau khi cú sốc xảy ra

“16-20” là viết tắt của giá trị trung bình từ kì 16 đến kì 20 sau khi cú sốc xảy ra

Trong chuỗi thời gian dài hạn, các cú sốc ngoại sinh tác động không đáng

kể, mức giá có xu hướng đi xuống ở các quốc gia, đường biểu diễn trong đồ thị

phản ứng xung có xu hướng tiệm cận về 0. Ngoại trừ Việt Nam, các quốc gia còn

lại đều phản ứng dương trước những biến động của sản lượng Hoa Kỳ. Thật vậy,

các nước châu Á nói chung được hưởng lợi từ việc tăng xuất khẩu, từ đó cải thiện

hiệu suất tăng trưởng của họ. Tuy nhiên, kết quả thu được trong dài hạn là ảnh

hưởng của các cú sốc đến mức giá các quốc gia là yếu dần.

51

4.3.3 Phản ứng của tỷ giá trước các cú sốc bên ngoài

Biểu đồ 4.3 Phản ứng của tỷ giá Việt Nam trƣớc các cú sốc bên ngoài

Phản ứng của biến tỷ giá hối đoái danh nghĩa của các nước không đồng

đều ở các nước trong suốt kỳ 1 đến kỳ 20. Trong các quốc gia được nghiên cứu

trong bài thì Việt Nam, Singapore, Malaysia co chế độ tỷ giá hối đoái được neo

cố định theo đồng đôla. Do đó, trong dài hạn, mức độ ảnh hưởng của các cú

sốc ngoại sinh lên sự biến động tỷ giá của các quốc gia là không đáng kể.

52

Bảng 4.9 Phân rã Cholesky của NER đến các cú sốc bên ngoài

Lưu ý: “1-4” là viết tắt của giá trị trung bình từ kì 1 đến kì 4 sau khi cú sốc xảy ra

“16-20” là viết tắt của giá trị trung bình từ kì 16 đến kì 20 sau khi cú sốc xảy ra

Tại Việt Nam, phản ứng của tỷ giá hối đoái tác động ngược chiều với các cú

sốc ngoại sinh. Nhìn chung, tỷ giá hối đoái của các quốc gia trong khu vực Đông

Nam Á ít chịu sự tác động từ các cú sốc bên ngoài. Với mục tiêu theo đuổi lạm phát

mục tiêu, cùng với chế độ tỷ giá thả nổi không công bố trước, Thái Lan là quốc gia

có tỷ giá chịu sự ảnh hưởng nhiều hơn từ các cú sốc ngoại sinh so với các nước

khác.

53

5. KẾT LUẬN

Nhìn chung, các cú sốc ngoại sinh đều có ảnh hưởng quan trọng nhất định

đến các biến số kinh tế vĩ mô của từng quốc gia. Tuy nhiên, mức độ ảnh hưởng giữa

các quốc gia là không như nhau. Mặt khác, kết quả nghiên cứu cũng chỉ ra ảnh

hưởng dai dẳng của các cú sốc ngoại sinh trong dài hạn.

Nghiên cứu cũng cho thấy diễn biến của lạm phát thì khá nhạy và mạnh

trước các cú sốc ngoại sinh. Tuy nhiên mức độ biến động và thời gian diễn biến sau

khi có cú sốc tác động là khác nhau giữa các quốc gia và các loại cú sốc.

Tác động của cú sốc về biến động của giá dầu có tác động mạnh nhất đến sự

biến động các biến số kinh tế vĩ mô của các quốc gia Đông Nam Á.

Tác động của cú sốc về lãi suất của FED có tác động không nhiều và không

đồng đều tới các quốc gia Đông Nam Á.

Mặc dù đã tuân thủ theo quy trình nghiên cứu một cách chặt chẽ, tuy nhiên

nghiên cứu của tác giả vẫn còn tồn tại những hạn chế như sau:

Thứ nhất, hạn chế về quy mô mẫu, do thời gian nghiên cứu chỉ được xác

định từ quý 1 năm 1996 đến hết quý 4 năm 2012 với 65 quan sát và chỉ với 05 quốc

gia đại diện là khá nhỏ do vậy tính chính xác trong việc xử lý các kết quả bị giảm đi

đáng kể. Tuy nhiên việc mở rộng thời gian nghiên cứu về quá khứ và tăng kích

thước mẫu (số lượng quốc gia) cũng gặp phải các vấn đề về khả năng tiếp cận dữ

liệu, về tính trung thực và chính xác của dữ liệu tại thời điểm đó.

Bài nghiên cứu cũng gặp phải không ít các hạn chế thường gặp như chỉ số

giá tiêu dùng, sản lượng công nghiệp ở mỗi quốc gia, chỉ số giá hàng hóa thế giới.

Thực chất, giữa các quốc gia ASEAN có sự khác biệt về phát triển kinh tế và các

đặc điểm khác nên các chỉ số trên thường được tính riêng cho từng nước, mỗi nước

có quan điểm cũng như lựa chọn các giỏ hàng hóa làm tiêu chuẩn khác nhau. Mặc

dù bài nghiên cứu lựa chọn thống nhất một nguồn dữ liệu tin cậy (IMF) nhưng hạn

chế này khó tránh khỏi

54

Thứ hai, hạn chế của các mô hình và phương pháp nghiên cứu, vì bản chất

các mô hình trong kinh tế lượng chỉ là các phương pháp hỗ trợ cho quá trình tính

toán, nhằm giúp các nhà nghiên cứu mô hình hóa thực tế và đưa ra các kết luận. Tuy

nhiên, bức tranh kinh tế của một quốc gia không chỉ chịu tác động của những yếu tố

đặc trưng được sử dụng làm đại diện cho các biến trong mô hình, mà còn phụ thuộc

vào rất nhiều đặc điểm khác. Do đó, không mô hình nào là có thể phản ánh đúng

được thực tiễn.

Và cuối cùng là các hạn chế xuất phát từ bản thân người viết trong quá trình

nghiên cứu, mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng kỹ năng trình bày và khả năng diễn

đạt bị giới hạn, nhận thức cũng có giới hạn nên các kết luận và bình luận chưa thực

sự sâu sắc và có ý nghĩa lớn với thực tiễn.

Cuối cùng, dù đã cố gắng hoàn thiện bài nghiên cứu vế tác động của các

cú sốc ngoại sinh đến các biên sốc kinh tế vĩ mô của Việt Nam nói riêng, và đặt

trong mối quan hệ so sánh với các nướctrong khu vực nói chung, giúp loại bỏ

những đánh giá chủ quan riêng cho Việt Nam, nhưng tác giả cũng chưa thể đánh

giá bao quát hết được các vấn đề trong chính sách tiền tệ. Vì thế tác giả cũng đề

xuất thêm các nghiên cứu về:

Tác động của các cú sốc ngoại sinh từ Mỹ, Trung Quốc và những thị trường

lớn ở Châu Âu đến các biến số kinh tế vĩ mô của Việt Nam và các quốc gia trong

khu vực, bởi lẽ thị trường Mỹ, Trung Quốc và châu Âu được xem là có ảnh hưởng

lớn đến kinh tế thế giới, trong đó có Việt Nam;

Nghiên cứu hiệu ứng lan tỏa từ các thị trường chứng khoán Mỹ và khu vực

đến thị trường chứng khoán trong nước. Từ đó, đánh giá tác động của các cú sốc

ngoại sinh lên mức độ hội nhập tài chính và độ mở kinh tế của quốc gia.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tài liệu trong nƣớc

Lê Tấn Luật, Bài giảng “Kinh tế lượng”, ĐH Ngân hàng TP.HCM;

Nguyễn Phi Lân, “Nghiên cứu định lượng đo lường ảnh hưởng của các cú

sốc ngoại sinh tác động đến nền kinh tế Việt Nam”, Ngân Hàng Nhà Nước Việt

Nam;

Nguyễn Thị Liên Hoa, Trần Ngọc Dũng (2013) “Nghiên cứu cơ chế lạm

phát tại Việt Nam theo phương pháp SVAR”, Tạp trí phát triển & hội nhập;

Nguyễn Thị Thu Hằng và Nguyễn Đức Thành (2010) ,“Các nhân tố vĩ mô

quyết định lạm phát ở Việt Nam giai đoạn 2000 – 2010: các bằng chứng và thảo

luận”;

Nguyễn Trọng Hoài, Phùng Thanh Bình, Nguyễn Khánh Duy (2009), Dự

báo và Phân tích dữ liệu trong Kinh tế và Tài chính, NXB Thống kê.

Tài liệu nƣớc ngoài

Agenor P., McDermott J. and Prasad E., (1999), “Macroeconomic

fluctuations in developing countries”, IMF working paper;

Allegret G.P, Couharde C., and Guillaumin C. (2012). “The impact of

External shocks in east asia: Lessons from a structural VAR Model with Block

Exogeneity”, Journal of International Economics 132: 35-89;

Bernanke B., Gertler M. and Watson M., (1997), “Systematic Monetary

Policy and the Effects of Oil Price Shocks”, Brookings Papers on Economic

Activity;

Canova, F., (2005), “ The transmission of U.S. shocks to Latin data”,

Journal of Applied Econometrics 20, 229-251;

Corsetti G., Pesenti P.,and Roubini N., (1999), “Paper tigers? A model of the

Asian crisis”, European Economic Review, 43(7): 1211-1236;

Cushman D. O. and Zha T., (1997), “Identifying Monetary Policy in Small

Open Economy”, Journal of Monetary Economics, 39(3): 433-448;

Fardous Alom & Bert D. Ward & Baiding Hu, (2013). "Macroeconomic

effects of world oil and food price shocks in Asia and Pacific economies: application

of SVAR models," OPEC Energy Review, Organization of the Petroleum Exporting

Countries, vol. 37(3);

Gimet, C. (2011). “The vulnerability of Asean + 3 countries to international

financial crises”. Review of International Economic;

Hahn, E. (2003), “Pass-Through of External Shocks to Euro Area Inflation”.

European Central Bank. Working Paper No. 243;

Jarir Ajluni (2005), “Monetary Policy Shocks in a small

openeconomy:assessing the “Puzzles” of Monetary Policy by SVAR”

Jean-Baptiste Gosse; Cyriac Guillaumin, (2012), “Can external shocks

explain the Asian side of global imbalances? : lessons from a structural VAR model

with block exogeneity”, CFAP working papers;

Jeffrey Frankel (2012). “Economic Shocks and International Politics”.

Global Politics and Strategy, Vol. 54, No.3, pp. 29-46;

Juthathip Jongwanich and Donghyun Park, (2008), "Inflation in Developing

Asia," Journal of Asian Economics Economicsand Research Department, Asian

Development Bank (ADB);

Kaminsky G., Reinhart C. and Vegh C., (2003), “The Unholy Trinity

of Financial Contagion”, Journal of Economic Perspectives, 17(4): 51-74;

Kilian L., (2009), “Not All Oil Price Shocks Are Alike: Disentangling

Demand and Supply Shocks in the Crude Oil Market”,American Economic

Review,99(3): 1053-69;

Lê Việt Trung và Nguyễn Thị Thúy Vinh (2011), “The impact of oil prices,

real effective exchange rate and inflation on economic activity: Novel evidence for

Vietnam”, Research Institute for Economics & Business Administration, Kobe

University;

Mackowiak, B. (2007). External shocks, U.S. Monetary policy and

macroeconomic fluctuations in emerging markets. Journal of Monetary Economics,

54(8): 2512-2520;

Mala Raghavan and Param Silvapulle (2007), “Structural

VAR approach to Malaysian Monetary Policy Framework: Evidence from the Pre- and Post-Asian Crisis Periods”;

Pablo A. Neumeyer, Fabrizio Perri (2005), “Business Cycles in Emerging

Economies: The Role of Interest Rates”, NBER Working Paper No. 10387;

Reinhart C. and Rogoff K. (2004), “The Modern History of Exchange Rate

Arrangements: A Reinterpretation”, Quarterly Journal of Economics, 119(1): 1-48;

Ruffer R., Sanchez M. and Shen J.-G., (2007), “Emerging Asia‟s Growth and

Integration;

Sato K., Zhang Z.Y. and McAleer M., (2009), “Identifying Shocks in

Regionally Integrated East Asian Economies with Structural VAR and Block

Exogeneity”, CIRJE Discussion Papers 694, University of Tokyo;

Thomas J. Sargent and Christopher A. Sims (2011), “Empirical

Macroeconomics”.

PHỤ LỤC

Phụ lục 1: Kết quả kiểm định VAR lag exclusion của các quốc gia

PL 1.1 Kết quả kiểm định VAR lag exclusion Wald tests của Malaysia

PL 1.2 Kết quả kiểm định VAR lag exclusion Wald tests của Thái Lan

PL 1.3 Kết quả kiểm định VAR lag exclusion Wald tests của Philippines

PL 1.4 Kết quả kiểm định VAR lag exclusion Wald tests của Singapore

2. Kết quả kiểm định VAR residual Portmanteau Tests của các quốc gia

PL 2.1 Kết quả kiểm định VAR residual Portmanteau Tests của

Malaysia

PL 2.2 Kết quả kiểm định VAR residual Portmanteau Tests của Thái

Lan

PL 2.3 Kết quả kiểm định VAR residual Portmanteau Tests của

Philippines

PL 2.4 Kết quả kiểm định VAR residual Portmanteau Tests của

Singapore

3. Biểu đồ phản ứng của các quốc gia

PL 3.1 Biểu đồ phản ứng của Malaysia

PL 3.2 Biểu đồ phản ứng của Thái Lan

PL 3.3 Biểu đồ phản ứng của Philippines

PL 3.4 Biểu đồ phản ứng của Singapore