BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG

-----o0o-----

LUẬN VĂN THẠC SĨ

NGHIÊN CỨU CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ LẠM PHÁT

MỤC TIÊU VÀ KHẢ NĂNG ÁP DỤNG TẠI VIỆT NAM

Chuyên ngành: Tài chính - Ngân hàng

NGUYỄN THỊ THANH TÂM

Hà Nội, năm 2017

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG

-----o0o-----

LUẬN VĂN THẠC SĨ

NGHIÊN CỨU CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ LẠM PHÁT

MỤC TIÊU VÀ KHẢ NĂNG ÁP DỤNG TẠI VIỆT NAM

Ngành: Tài chính - Ngân hàng - Bảo hiểm

Chuyên ngành: Tài chính - Ngân hàng

Mã số: 60340201

Họ và tên học viên: Nguyễn Thị Thanh Tâm

Người hướng dẫn: TS. Nguyễn Thị Lan

Hà Nội, năm 2017

i

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn này hoàn toàn do tôi thực hiện. Các đoạn trích

dẫn và số liệu sử dụng trong luận văn đều được dẫn nguồn và có độ chính xác trong

phạm vi hiểu biết của tôi. Các kết quả nghiên cứu trong luận văn do tôi tự tìm hiểu

một cách trung thực, khách quan phù hợp với thực tiễn của Việt Nam.

Hà Nội , ngày tháng năm

Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Thanh Tâm

ii

LỜI CẢM ƠN

Luận văn thạc sỹ với đề tài “Nghiên cứu Chính sách tiền tệ lạm phát mục

tiêu và khả năng áp dụng tại Việt Nam” là kết quả của quá trình cố gắng không

ngừng của bản thân và được sự giúp đỡ, động viên khích lệ của các thầy, bạn bè

đồng nghiệp và người thân. Qua trang viết này tôi xin gửi lời cảm ơn tới những

người đã giúp đỡ tôi trong thời gian học tập - nghiên cứu khoa học vừa qua.

Tôi xin tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc đối với cô giáo TS. Nguyễn Thị

Lan đã trực tiếp tận tình hướng dẫn cũng như cung cấp tài liệu thông tin khoa học

cần thiết cho luận văn này.

Xin chân thành cảm ơn Lãnh đạo trường Đại học Ngoại Thương, khoa Tài

Chính Ngân Hàng đã tạo điều kiện cho tôi hoàn thành tốt công việc nghiên cứu

khoa học của mình.

Với điều kiện thời gian cũng như kinh nghiệm còn hạn chế của một học viên,

luận văn này không thể tránh được những thiếu sót. Tôi rất mong nhận được sự chỉ

bảo, đóng góp ý kiến của cácthầy cô để tôi có điều kiện bổ sung, nâng cao ý thức

của mình,phục vụ tốt hơn công tác thực tế sau này.

Xin chân thành cảm ơn!

iii

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN ...................................................................................................... i

LỜI CẢM ƠN ........................................................................................................... ii

DANH MỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ, HÌNH ẢNH ...................................................... vi

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT.................................................................... vii

TÓM TẮT KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU LUẬN VĂN ......................................... viii

LỜI MỞ ĐẦU ............................................................................................................ 1

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ LẠM PHÁT

MỤC TIÊU ................................................................................................................ 6

1.1Chính sách tiền tệ và mục tiêu của chính sách tiền tệ .................................. 6

1.1.1. Khái niệm chính sách tiền tệ .................................................................... 6

1.1.2 Mục tiêu của chính sách tiền tệ: ................................................................ 6

1.1.2.1 Ổn định giá trị đồng tiền ....................................................................... 6

1.1.2.2 Tăng công ăn việc làm: ......................................................................... 7

1.1.2.3 Tăng trưởng kinh tế: ............................................................................. 7

1.1.3. Các công cụ của chính sách tiền tệ: ......................................................... 9

1.1.3.1 Các công cụ gián tiếp ........................................................................... 9

1.1.3.2 Các công cụ trực tiếp .......................................................................... 12

1.1.4 Cơ chế truyền dẫn: ................................................................................... 13

1.1.4.1 Kênh lãi suất ....................................................................................... 13

1.1.4.2 Kênh tín dụng ...................................................................................... 14

1.1.4.3. Kênh giá các tài sản khác .................................................................. 14

1.1.4.4. Kênh tỷ giá hối đoái ........................................................................... 15

1.1.5. Điều kiện để thực hiện chính sách tiền tệ hiệu quả .............................. 16

1.2. Chính sách tiền tệ lạm phát mục tiêu: ........................................................ 16

1.2.1 Khái niệm: ................................................................................................ 16

1.2.2 Đặc điểm của cơ chế điều hành chính sách tiền tệ lạm phát mục tiêu: 17

1.2.3 Các trụ cột cơ bản của chính sách tiền tệ lạm phát mục tiêu ................ 19

1.2.3.1 Tính minh bạch: .................................................................................. 19

1.2.3.2 Công bố thông tin ................................................................................ 20

iv

1.2.3.3 Chiến lược truyền thông ..................................................................... 20

1.2.3.4 Trách nhiệm giải trình ........................................................................ 21

1.2.4 Các điều kiện cơ bản để áp dụng Chính sách tiền tệ lạm phát mục tiêu

............................................................................................................................ 21

1.2.5 Các nguyên tắc của chính sách tiền tệ lạm phát mục tiêu ..................... 22

1.3 Kinh nghiệm của các nước và bài học rút ra cho Việt Nam ...................... 24

1.3.1 Kinh nghiệm của một số nước ................................................................. 24

1.3.2 Bài học rút ra cho Việt Nam. ................................................................... 31

CHƯƠNG II NGHIÊN CỨU KHẢ NĂNG ÁP DỤNG CHÍNH SÁCH TIỀN

TỆ LẠM PHÁT MỤC TIÊU TẠI VIỆT NAM .................................................... 33

2.1. Cơ chế điều hành Chính sách tiền tệ của Việt Nam thời gian qua ( luật

NHNN) .................................................................................................................. 33

2.1.1. Mục tiêu của chính sách tiền tệ của Việt Nam thời gian qua ............... 33

2.1.3. Cơ chế điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng nhà nước thời

gian qua.............................................................................................................. 34

2.1.3.1 Giai đoạn 2010 đến năm 2012 ........................................................... 34

2.1.3.2. Đặc điểm điều hành CSTT ở Việt Nam giai đoạn 2013 -2016 .......... 36

2.2 Đánh giá chính sách tiền tệ của Việt Nam và sự cần thiết phải áp dụng

chính sách tiền tệ lạm phát mục tiêu ở Việt Nam ............................................. 43

2.2.1. Đánh giá ................................................................................................... 43

2.2.1.1 Về những thành tựu đạt được: ............................................................ 43

2.2.1.2 Những bất cập và nguyên nhân: ......................................................... 45

2.2.2. Sự cần thiết của chính sách tiền tệ lạm phát mục tiêu tại Việt Nam .... 55

CHƯƠNG 3 GIẢI PHÁP NÂNG CAO KHẢ NĂNG ÁP DỤNG CHÍNH SÁCH

TIỀN TỆ LẠM PHÁT MỤC TIÊU TẠI VIỆT NAM ......................................... 58

3.1. Quan điểm áp dụng chính sách tiền tệ lạm phát mục tiêu tại Việt Nam . 58

3.2. Giải pháp áp dụng chính sách tiền tệ lạm phát mục tiêu tại Việt Nam giai

đoạn tới. ................................................................................................................ 60

3.2.1. Nâng cao tính độc lậpcủa NHNN ........................................................... 60

v

3.2.2 Thành lập Ban điều hành CHính sách Tiền tệ trực thuộc Ngân hàng

Nhà nước. .......................................................................................................... 64

3.2.3. Áp dụng cơ chế giải trình và tính minh bạch ........................................ 65

3.2.4 Điều hành chính sách tiền tệ theo khuôn khổ hành lang lãi suất ......... 66

3.2.5 Cơ chế phối hợp các chính sách vĩ mô .................................................... 67

3.2.6 Các giải pháp mang tính kỹ thuật: .......................................................... 70

3.2.7. Xây dựng lộ trình thực hiện áp dụng chính sách tiền tệ lạm phát mục

tiêu tại việt nam ................................................................................................. 71

3.2.7.1. Xây dựng cấu trúc kỹ thuật chính sách tiền tệ lạm phát mục tiêu : ... 71

3.2.7.2. Xây dựng lộ trình thực hiện áp dụng chính sách tiền tệ lạm phát mục

tiêu tại Việt Nam ............................................................................................. 74

KẾT LUẬN .............................................................................................................. 76

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 77

vi

DANH MỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ, HÌNH ẢNH

Bảng 1.1. Các yếu tố chính để lạm phát mục tiêu thực hiện thành công ................. 24

Bảng 1.2. Tình trạng các điều kiện tiên quyết vào thời điểm IT được đưa ra .............. 26

Bảng 1.3: Tỷ lệ lạm phát trước khi chuyển sang khuôn khổ lạm phát mục tiêu (tỷ lệ

lạm phát được đo bằng CPI bình quân/năm; %) .......................................................... 28

Bảng 2.1: Mục tiêu và thực hiện CSTT 2010 - 2016 ................................................ 38

Hình 2.2 : Diễn biến giá vàng và biến động tỷ giá trên thị trường tự do .................. 41

giai đoạn 2009 – 2016 ............................................................................................... 41

Hình 2.3 : Tốc độ huy động vốn ngoại tệ giai đoạn 2010-2016 ............................... 42

Hình 2.4 : Chênh lệch lãi suất huy động VND và USD............................................ 43

Hình 2.5 : Diễn biến lạm phát từ năm 2013 – 2016 ................................................. 44

vii

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

ADB : Ngân hàng Phát triển Châu Á (Asian Development Bank)

CSTT : Chính sách Tiền tệ (Monetary Policy)

CSTK : Chính sách tài khóa

CPI : Chỉ số giá cả hàng tiêu dùng ( consumer Price Index)

DTBB : Dự trữ bắt buộc

NHNN : Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (State Bank of Vietnam – SBV)

NHTW : Ngân hàng Trung ương

NHTM : Ngân hàng Thương mại

NHTMCP : Ngân hàng Thương mại cổ phần

NHTM NN : Ngân hàng thương mại Nhà nước

IT : Lạm phát mục tiêu (Inflation Targeting)

Implicit IT : Lạm phát mục tiêu ngầm định (Implicit Inflation Targeting)

Partial IT : Lạm phát mục tiêu một phần (Partial Inflation Targeting)

FFIT : Lạm phát mục tiêu hoàn toàn (full-fledged inflation targeting)

KBNN : Kho bạc Nhà nước

M1 : Tổng khối lượng tiền theo nghĩa hẹp

M2 : Tổng phương tiện thanh toán (Tổng khối lượng tiền theo nghĩa rộng)

MB : Tổng khối lượng tiền cơ sở (Tiền cơ bản – Monetary Base)

MS : Tổng cung ứng tiền tệ (Money Supply)

OMO : Nghiệp vụ thị trường mở (Open Market Operation)

SWAP : Nghiệp vụ hoán đổi ngoại tệ

TTTC : Thị trường tài chính

TCTD : Tổ chức tín dụng

IMF : Quỹ Tiền tệ Quốc tế (International Monetary Fund)

WTO : Tổ chức Thương mại Thế giới (World Trade Organization)

GSO hay TCTK : Tổng cục Thống kê (General Statistics Office)

VND : Việt Nam đồng

USD : Đô la Mỹ

viii

TÓM TẮT KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU LUẬN VĂN

Công trình nghiên cứu “Nghiên cứu Chính sách tiền tệ lạm phát mục tiêu và

khả năng áp dụng tại Việt Nam” nghiên cứu tập trung vào nội dung cơ bản của

chính sách tiền tệ lạm phát mục tiêu, bao gồm: khái niệm chính sách tiền tệ và mục

tiêu của chính sách tiền tệ; các công cụ cung như cơ chế truyền dẫn; những điều

kiện tiên quyết để áp dụng khuôn khổ lạm phát mục tiêu thành công; đặc điểm của

cơ chế điều hành chính sách tiền tệ lam phát mục tiêu; định nghĩa về các trụ cột cơ

bản của chính sách tiền tệ lạm phát mục tiêu , ngoài ra phân tích kinh nghiệm của

các nước công nghiệp phát triển và mới nổi trong việc áp dụng khuôn khổ lạm phát

mục tiêu và bài học rút ra cho Việt Nam. Luận văn phân tích cơ chế điều hành

chính sách tiền tệ của Việt Nam trong thời gian vừa qua , nêu rõ về thực trạng biến

động nền kinh tế Việt Nam qua sự điều hành chính sách tiền tệ của NHNN, qua đó

giúp chúng ta thấy được những thành tự đạt được cũng như những bất cập và

nguyên nhân cụ thể. Bên cạnh đó trên cơ sở nghiên cứu kinh nghiệm các nước áp

dụng lạm phát mục tiêu và thực tiễn điều hành chính sách tiền tệ , luận văn đưa ra

những giải pháp và đã giải quyết những vấn đề sau: Đánh giá hiệu quả cơ chế điều

hành chính sách tiền tệ hiện nay của Việt Nam trong giai đoạn gần đây và đưa ra

một số gợi ý chính sách nhằm hoàn thiện cơ chế chính sách tiền tệ hiện hành và tạo

tiền đề cho việc áp dụng lạm phát mục tiêu ở Việt Nam; Đánh giá khả năng áp dụng

chính sách tiền tệ lạm phát mục tiêu của Việt Nam và đề xuất thiết lập các tiền đề

chuẩn bị áp dụng cơ chế lạm phát mục tiêu ở Việt Nam; đề xuất cơ chế điều hành

chính sách tiền tệ lạm phát mục tiêu áp dụng cho Việt Nam; đề xuất lộ trình áp dụng

chính sách tiền tệ lạm phát mục tiêu ở Việt Nam cũng như đề xuất các nhóm giải

pháp nhằm áp dụng thành công chính sách tiền tệ lạm phát mục tiêu ở Việt Nam.

Nhìn chung Việt Nam còn quá nhiều việc phải làm cho đến khi áp dụng đầy đủ khuôn

khổ lạm phát mục tiêu. Nhưng không vì thế chúng ta bi quan về khả năng áp dụng

khuôn khổ điều hành CSTT lấy lạm phát làm mục tiêu. Ban đầu có thể áp dụng IT

ngầm định, hay IT một phần này chứ không chờ khi hội đủ các điều kiện mới thực

hiện

1

LỜI MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Thực trạng biến động kinh tế của Việt Nam trong những năm qua cho thấy rõ

những bằng chứng tiêu biểu về tình trạng lạm phát cao và đó cũng là nguy cơ lớn

đối với sự ổn định kinh tế vĩ mô và tăng trưởng kinh tế dài hạn ở Việt Nam. Nhiều

người đã đặt ra nghi vấn về khả năng ổn định và kiềm chế lạm phát khi mà quá trình

hội nhập quốc tế và tự do hóa tài chính mạnh mẽ trong khi những nền tảng kinh tế vĩ

mô còn lỏng lẻo. Điều đó đòi hỏi chúng ta phải thẳng thắn nhìn nhận lại cơ chế điều

hành chính sách tiền tệ ở nước ta hiện nay. Phải chăng cơ chế điều hành chính sách

tiền tệ hiện nay không thực sự mang lại hiệu quả trong bối cảnh kinh tế trong nước

diễn biến phức tạp và ngày càng hội nhập sâu rộng hơn vào nền kinh tế thế giới đầy

biến động? Câu hỏi này đã và đang thu hút sự quan tâm của nhiều đại biểu Quốc hội

và các chuyên gia kinh tế.

Áp dụng chính sách tiền tệ đa mục tiêu, chúng ta kỳ vọng vừa đẩy nhanh tốc

độ tăng trưởng, vừa kiểm soát giá cả - lạm phát, ổn định tiền tệ cũng như sử dụng

chính sách tiền tệ như một công cụ bổ trợ ổn định ngân sách, xóa đói giảm nghèo,

bảo đảm an ninh quốc gia. Với những mục tiêu kể trên, có thể thấy đây là một nước

đi rất tham vọng của chính phủ, tuy nhiên, trong những năm gần đây cơ chế này đã

bộc lộ rõ những hạn chế của mình. Từ những thực trạng và vấn đề nêu trên, tôi chọn

đề tài “Nghiên cứu Chính sách tiền tệ lạm phát mục tiêu và khả năng áp dụng

tại Việt Nam” để nghiên cứu và đề xuất khả năng áp dụng tại thị trường Việt nam

hiện nay. Đề tài nghiên cứu này được triển khai nhằm khái quát những vấn đề lý

luận cơ bản về cơ chế lạm phát mục tiêu, kinh nghiệm áp dụng của các nước trên thế

giới và đánh giá thực trạng và khả năng áp dụng cơ chế lạm phát mục tiêu tại Việt

Nam. Và đề xuất lộ trình cụ thể và các nhóm giải pháp để có thể áp dụng cơ chế này

ở nước ta trong thời gian tới.

2. Tổng quan nghiên cứu

2.1 Tổng quan nghiên cứu ngoài nước

Có nhiều công trình nghiên cứu quốc tế về khuôn khổ chính sách tiền tệ lạm

phát mục tiêu, các công trình nghiên cứu tập trung vào những nội dung cơ bản của

2

khuôn khổ lạm phát mục tiêu, bao gồm: khái niệm, định nghĩa khuôn khổ lạm phát

mục tiêu; các yếu tố cơ bản của khuôn khổ lạm phát mục tiêu; những điều kiện tiên

quyết để áp dụng khuôn khổ lạm phát mục tiêu thành công;so sánh những lợi thế/bất

lợi của việc áp dụng khuôn khổ lạm phát mục tiêu so với các khuôn khổ chính sách

tiền tệ trước đây ; tác động của việc áp dụng khuôn khổ lạm phát mục tiêu đến các

kết quả vĩ mô của nền kinh tế; kinh nghiệm của các nước công nghiệp phát triển và

mới nổi trong việc áp dụng khuôn khổ lạm phát mục tiêu và bài học rút ra; và các nội

dung liên quan khác.

Charles Freedman và Inci Otker-Robe (2010) đưa ra nhận định rằng một trong

những lợi ích của việc điều hành khuôn khổ chính sách tiền tệ lạm phát mục tiêu

cùng với một cơ chế tỷ giá thả nổi là làm cho các thành viên tham gia vào nền kinh

tế sẽ nhận thức rõ hơn về rủi ro hai chiều trên thị trường ngoại hối, và IT bởi vậy sẽ

dẫn tới việc sử dụng và phát triển các công cụ tự phòng ngừa (hedging fa- cilities)

và tạo ra các động lực cho việc giảm các sai lệch về ngoại tệ trên bảng tổng kết tài

sản. nhiều tác giả của nhiều Ngân hàng Trung ương trên thế giới nghiên cứu về kinh

nghiệm của các nước trong việc đưa ra áp dụng và thực hiện lạm phát mục tiêu, bao

gồm Charles Freedman (Canada), David Vavra (CH Séc), Klaus Schmidt –Hebbel

(Chile), Agnes Csermely và Gabor Orban (Hungary), Meir Sokoler (Israel), Jacub

Borowski và Marek Rozkrut (Ba Lan), Dan Bucsa và Andrian Codirlasu (Romania),

A.Hakan Kara (Thổ Nhĩ Kỳ), Haber- meier và cộng sự. Jonas và Mishkin (2003)

tổng kết những kinh nghiệm lạm phát mục tiêu tại ba quốc gia có nền kinh tế chuyển

đổi là CH Séc, Ba Lan và Hungary. Charles Freedman và Inci Otker – Robe (2010)

mô tả kinh nghiệm của một số nước (Canada, Chile, CH Séc, Hungary, Israel,

Balan, Romania, Thổ Nhĩ Kỳ) trong việc đưa ra áp dụng và thực hiện khuôn khổ

lạm phát mục tiêu.

Các nghiên cứu nước ngoài đã phân tích khá đầy đủ cả về lý thuyết và thực

tiễn những vấn đề cơ bản nhất của khuôn khổ lạm phát mục tiêu. Đây là nền tảng cơ

bản chúng ta đi sâu nghiên cứu về khả năng áp dụng khuôn khổ điều hành chính

sách tiền tệ lạm phát mục tiêu ở Việt Nam.

3

2.2 Tổng quan nghiên cứu trong nước

Hiện nay, việc đưa ra các chính sách và điều hành các chính sách tiền tệ một cách

hiệu quả là tiền đề để thị trường hoạt động ổn định và phát triển. Đề tài nghiên cứu hoạt

động của các chính sách tiền tệ không mới. Đã có rất nhiều các công trình khoa học, đề tài

nghiên cứu được các tác giả tìm hiểu nhằm phân tích thực trạng và đưa ra các giải pháp áp

dụng tại thị trường Việt Nam. Có thể kể tên một số đề tài như: Công trình nghiên cứu “

Thành công trong điều hành chính sách tiền tệ năm 2015, triển vọng và giải pháp 2016”

của tác giả Nguyễn Thị Hồng ( 2016). Theo tác giả: (i) NHNN đã tổ chức thực hiện điều

hành chính sách tiền tệ một cách hiệu quả, (ii) công cụ tỷ giá được NHNN điều hành chủ

động và linh hoạt , (iii) NHNN điều tiết thanh khoản hợp lý để duy trì lãi suất liên ngân

hàng thấp hơn với thị trường ; “Kết quả điều hành chính sách tiền tệ năm 2015 và trọng

tâm điều hành năm 2016” của ThS. Lê Thanh Tùng (2016); “Lạm phát năm 2014 và một

số khuyến nghị cho năm 2015” của tác giả Bùi Quốc Dũng; “Kinh tế Việt Nam 2013: Tập

trung giải quyết các điểm nghẽn” của tác giả Tú Uyên ( 2013).

Ngoài ra, có nhiều công trình nghiên cứu đề cập tới vấn đề cải cách Ngân hàng Nhà

nước nhằm nâng cao tính độc lập của Ngân hàng Trung ương để thực thi chính sách tiền tệ

hiệu quả hơn của tác giả Vũ Thị Liên và các cộng sự năm 2007 và tác giả Nguyễn Đại Lai

năm 2005; “ Điều hành chính sách tiền tệ góp phần kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ

mô và thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội” của tac giả Nguyễn Thị Hồng (2015); Điều

hành chính sách tiền tê 2012 và triển vọng 2013” của tác giả Nghiêm Xuân Thành (2013);

Nguyễn Văn Tiến, Vũ Hoàng Phương Quế (2005) nghiên cứu, so sánh kinh nghiệm áp

dụng chính sách lạm phát mục tiêu của một số nước (New Zealand, Canada, ECB) và đưa

ra một số gợi ý cho Việt Nam. Theo các tác giả: (i) lựa chọn chính sách lạm phát mục tiêu

phải trên cơ sở sau một thời kỳ kiềm chế lạm phát thành công; (ii) chỉ số CPI và chỉ số lạm

phát cơ bản phải sử dụng song song để đo lường lạm phát; (iii) chính sách lạm phát mục

tiêu phải có tính linh hoạt cao; và (iv) chính sách lạm phát mục tiêu phải đảm bảo sự công

khai minh bạch và gắn liền với trách nhiệm cao của Ngân hàng Trung ương.

Nhìn chung, chưa có nhiều công trình nghiên cứu về lạm phát mục tiêu ở Việt Nam.

Ngoài ra, các bài viết về chính sách tiền tệ lạm phát mục tiêu ở Việt Nam mới chỉ đưa ra

được những nét tổng quan, chưa giải thích cặn nên hay không nên áp dụng khuôn khổ điều

4

hành chính sách tiền tệ lạm phát mục tiêu, chưa đưa ra được những đánh giá sâu sắc và

toàn diện về khả năng áp dụng lạm phát mục tiêu tại Việt Nam, cũng như chưa đưa ra

được lộ trình và giải pháp áp dụng lạm phát mục tiêu ở Việt Nam.

3. Mục tiêu nghiên cứu

• Trên cơ sở nghiên cứu các vấn đề cơ bản của lạm phát mục tiêu, kinh nghiệm áp

Nghiên cứu sẽ tập trung vào những vấn đề chính sau:

dụng khuôn khổ chính sách tiền tệ lạm phát mục tiêu của các nước và thực tiễn Việt Nam

đưa ra câu trả lời về việc có nên áp dụng khuôn khổ chính sách tiền tệ lạm phát mục tiêu ở

• Đánh giá cơ chế điều hành chính sách tiền tệ của Việt Nam hiện nay và nghiên cứu

Việt Nam hay không.

• Đề xuất các nhóm giải pháp để tiến tới áp dụng chính sách tiền tệ lạm phát mục tiêu

khả năng áp dụng khuôn khổ chính sách tiền tệ lạm phát mục tiêu của Việt Nam.

tại Việt Nam trong tương lai.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu khóa luận là CSTT Lạm phát mục tiêu và khả năng áp dụng

tại Việt Nam.

4.2. Phạm vi nghiên cứu :

Nghiên cứu sẽ tập trung vào cơ chế điều hành chính sách tiền tệ trong giai đoạn gần

đây ở Việt Nam và những vấn đề đặt ra. Trên cơ sở phân tích kinh nghiệm của các quốc

gia phải đối mặt với việc kiểm soát tỷ lệ lạm phát cao trên thế giới, các điều kiện để áp

dụng được thành công chính sách tiền tệ lạm phát mục tiêu tại Việt Nam.

5. Phương pháp nghiên cứu:

Nghiên cứu chủ yếu dung phương pháp phân tích định tính, trên cơ sở các dữ liệu

thu thập để đánh giá cơ chế điều hành chính sách tiền tệ tại Việt Nam, đồng thời phân tích

đánh giá khả năng áp dụng chính sách lạm phát mục tiêu tại Việt Nam. Nghiên cứu sử

dụng phương pháp quy nạp, diễn giải, đi từ khái quát chung đến vấn đề cụ thể, gắn lý luận

với thực tiễn và bên cạnh đó sử dụng những phương pháp khoa học như thống kê phân

tính, so sánh tổng hợp.

5

6. Kết cấu luận văn

Ngoài phần mở đầu và kết luận, mục lục, danh mục bảng biểu, hình vẽ, sơ

đồ... luận văn được trình bày trong 3 chương:

- Chương 1: Cơ sở lý luận về Chính sách tiền tệ lạm phát mục tiêu.

- Chương 2: Nghiên cứu khả năng áp dụng Chính sách tiền tệ lạm phát mục

tiêu tại Việt Nam.

- Chương 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao khả năng áp dụng Chính sách

tiền tệ lạm phát mục tiêu tại Việt Nam trong thời gian tới.

6

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ LẠM PHÁT

MỤC TIÊU

1.1Chính sách tiền tệ và mục tiêu của chính sách tiền tệ

1.1.1. Khái niệm chính sách tiền tệ

Chính sách tiền tệ là một trong những chính sách kinh tế vĩ mô của nhà nước,

trong đó NHTW thông qua các công cụ của mình để tác động đến lãi suất hoặc

lượng tiền cung ứng nhằm đạt được những mục tiêu kinh tế đặt ra.

Chính sách tiền tệ là hệ thống biện pháp của một nhà nước trong lĩnh vực lưu

thông tiền tệ, nhằm điều hành khối lượng cung và cầu tiền tệ bằng các biện pháp

như phát hành tiền, chống lạm phát, dự trữ pháp định và quản lí dự trữ ngoại tệ, tái

chiết khấu các kì phiếu và lãi suất, chính sách lãi suất... để đáp ứng kịp thời nhu cầu

giao dịch, ổn định sức mua của đồng tiền, phát triển sản xuất, kinh doanh trong một

giai đoạn nhất định. Là một bộ phận quan trọng trong hệ thống chính sách và cơ chế

quản lí kinh tế của nhà nước, trên cơ sở vận dụng đúng đắn quy luật của sản xuất

hàng hoá và quy luật lưu thông tiền tệ để tổ chức tốt quá trình chu chuyển tiền tệ.

Chính sách tiền tệ nhằm đáp ứng kịp thời nhu cầu của sản xuất - kinh doanh, thực

hiện sự kiểm tra có hiệu lực của nhà nước ở tầm vĩ mô cũng như ở tầm vi

mô. Chính sách tiền tệ là một hệ thống các biện pháp do ngân hàng trung ương thực

hiện nhằm tác động lên mức độ hoạt động kinh tế. Mục tiêu hàng đầu của ngân

hàng trung ương ở nhiều nước là kiểm soát lạm phát và giám sát hệ thống ngân

hàng. Tuy nhiên, hoạt động của cơ quan này cũng ảnh hưởng đến các khía cạnh

khác của nền kinh tế, như mức GDP thực, thất nghiệp và tỉ giá hối đoái.

1.1.2 Mục tiêu của chính sách tiền tệ:

1.1.2.1 Ổn định giá trị đồng tiền

Ổn định giá trị đồng tiền là mục tiêu quan trọng nhất và là mục tiêu hàng đầu

của CSTT trong định hướng ổn định và phát triển kinh tế vĩ mô của mỗi nền kinh tế.

Giá cả ổn định là động lực góp phần phân phối các nguồn lực xã hội một cách hiệu

quả nhất, đây là lợi ích có tầm quan trọng đối với sự thịnh vượng kinh tế trong dài

hạn. Mặt khác, giá cả ổn định cho phép các thị trường tài chính hoạt động trơn tru

và hiệu quả trong việc dẫn vốn từ khu vực có nguồn vốn nhàn rỗi đến khu vực sản

xuất hiệu quả. Vì vậy, NHTW phải góp phần duy trì tăng trưởng liên tục nhưng ổn

7

định triệt tiêu những nhân tố gây nên sự tăng nhu cầu giả tạo để tăng chi phí lên cao.

Trong cuộc đấu tranh này, lãi suất và cung ứng tiền tệ là hai thứ vũ khí lợi hại, luôn

nắm bắt và theo dõi được thực tế diễn biến của quá tình thực hiện mục tiêu để từ đó

có những giải pháp, điều chỉnh phù hợp.

Ngoài ra, việc tỉ giá hối đoán biến động cũng làm tăng giảm chiều hướng giá

cả của hàng hóa trong nước do khuyến khích các hoạt động nhập khẩu hay xuất

khẩu tùy vào chiều biến động của tỉ giá. Điều đó dẫn đến chỉ số lạm phát cũng bị

ảnh hưởng theo và ảnh hưởng đến đời sống nhân dân. Tỉ giá hối đoái biến động

cũng gây khó khăn cho chính NHTW trong việc thu hút dòng vốn ngoại tệ để làm

dự trữ ngoại tệ cho quốc gia. Vì vậy, về cả góc độ tăng trưởng kinh tế lẫn ổn đinh

đời sống nhân dân thì việc ổn định tỉ giá đồng tiền đều đóng góp một vai trò rất

quan trọng, do đó, nhiệm vụ của NHTW là phải sử dụng các công cụ của CSTT để

ổn định tỉ giá hối đoái.

1.1.2.2 Tăng công ăn việc làm:

Tạo công ăn việc làm, giảm tỉ lệ thất nghiệp luôn là vấn đề hết sức cấp thiết và

cần phải giải quyết. CSTT thực hiện mục tiêu tạo việc làm có ý nghĩa quan trọng vì:

- Chỉ số thất nghiệp là một trong những chỉ tiêu phản ánh khả năng sử dụng hiệu

quả nguồn lực của xã hội.

- Không có công ăn việc làm thì sẽ sinh ra nhiều tệ nạn xã hội như nghiện ngập,

rượi chè , cờ bạc, mại dâm... gây mất ổn định xã hội.

- Các khoản trợ cấp thất nghiệp tăng lên làm thay đổi cơ cấu chi ngân sách và là một

trong những nguyên nhân gây ra thâm hụt ngân sách.

Mỗi nước cần xác định ỷ lệ thất nghiệp tự nhiên, từ đó đưa ra các giải pháp

thích hợp. Với CSTT mở rông nhằm khuyến khích đầu tư, mở rộng sản xuất kinh

doanh và tạo việc làm cho người lao đông; chính sách tiền tệ thu hẹp thì hạn chế

đầu tư, kìm hãm sự phát triển quá đà của nền kinh tế, và như vậy tỉ lệ thất nghiệp lại

tăng lên. Việc chính phủ cung cấp thông tin tốt hơn về những công việc chưa có

người làm hoặc là chương trình đào tạo nghề nghiệp có thể làm giảm tỷ lệ thất

nghiệp tự nhiên.

1.1.2.3 Tăng trưởng kinh tế:

8

Một nền kinh tế có mức tăng trưởng cao và bền vững là điều cần thiết cho bất

cứ quốc gia nào muốn đất nước phát triển mạnh. Với CSTT cũng phải đảm bảo tăng

trưởng kinh tế, nghĩa là đảm bảo sự tăng trưởng GDP thực tế.

- Khi khối luợng tiền tệ tăng, lãi suất giảm, kích thích đầu tư , mở rông sản

xuất, tăng GDP. Mặt khác, tăng khối lương tiền tệ sẽ làm tăng tổng cầu, sức mua

hàng tăng lên vì vậy hàng tồn đọng sẽ giảm đi, là tiền đề cho các doanh nghiệp mở

rộng sản xuất kinh doanh.

- Khi khối lượng tiền tệ giảm, lãi suất có xu hướng tăng lên, đầu tư giảm

xuống do vốn đầu tư có giá cao hơn dẫn đến giảm GDP. Bên cạnh đó, giảm khối

lượng tiền tệ, sẽ làm giảm tổng cầu, sức mua sẽ giảm, làm tăng hàng hóa tồn đọng

của các doanh nghiệp dẫn đến các doanh nghiệp không có cơ hội mở rộng sản xuất

và GDP sẽ giảm. Như vậy, cần phải sử dụng các công cụ CSTT phù hợp với điều

kiện và hoàn cảnh cụ thể trên cơ sở vận dụng tối ưu các quy luật phát triển kinh tế

vào việc xây dựng các CSTT.

* Mối quan hệ giữa các mục tiêu

Các mục tiêu có mối quan hệ mật thiết với nhau, tác động qua lại và thúc đẩy

lẫn nhau. Như vậy, trong quá trình thực hiện CSTT không thể tuyệt đối hóa mục

tiêu, không thể giải quyết độc lập từng mục tiêu trên tầm vĩ mô. Tuy nhiên, trong

những giai đoạn nhất định ở những điều kiện và hoàn cảnh cụ thể, các mục tiêu của

CSTT nhiều khi không có sự thống nhất. Điển hình khi nền kinh tế đang mở rộng và

thất nghiệp giảm xuống, đầu tư và tiêu dùng tăng lên thì lạm phát lại ở mức cao.

Ngược lại, nếu NHTW muốn giảm lạm phát thì cần phải thắt chặt chi tiêu, giảm

mức cung tiền, đẩy lãi suất tăng cao khiến cho nền kinh tế có khả năng bị thu hẹp và

thất nghiệp lại là một vấn đề nhức nhối. Sự mâu thuẫn giữa các mục tiêu đòi hỏi

NHTW phải linh hoạt trong quá trình thực hiện CSTT, lựa chọn mục tiêu được ưu

tiên hơn qua từng thời kì và quan trọng hơn là NHTW cần phải nắm bắt kịp thời các

diễn biến của quá trình thực hiện để tiến hành điều chỉnh kịp thời. Lý luận cũng như

thực tiễn đã chứng minh để thực hiện CSTT hiệu quả cần sự phối hợp của các chính

sách tiền tệ khác.

9

- Phối hợp với chính sách tài chính quốc gia trong quá trình thực thi CSTT vì

mục tiêu chỉ yếu của chính sách tài chính là điều chỉnh thu nhập và chi tiêu của

Chính phủ, hướng nền kinh tế vào tăng sản lượng và sử dụng nhân lực tiềm năng.

Tuy nhiên, điều này lại phụ thuộc nhiều vào thu chi của NSNN. NSNN vững mạnh

sẽ là cơ sở quan trọng nhất ổn định giá trị đồng tiền, ngược lại, sự thiếu hụt ngân

sách, bất kể được bù đắp bằng con đường nào đều được trực tiếp hoặc gián tiếp làm

giá trị đồng tiền mất ổn định.

- Thông qua chính sách tài chính và CSTT tác dụng đến tổng cầu. Trong thực

tế, chính sách tài chính và CSTT có thể làm tăng nhu cầu, giảm thất nghiệp, nhưng

sẽ làm gia tăng lạm phát. Để giải quyết mâu thuẫn này CSTT cần có sự phối hợp

chặt chẽ với chính sách phân phối thu nhập, cụ thể là chính sách phân phối của Nhà

nước phải thể hiện sự kiểm soát về tiền lương và giá cả

- Đối với các nước kém phát triển và đang phát triển, thường NSNN bị bội chi

rất lớn, cán cân thanh toán thâm hụt kéo dài, tốc độ tăng trưởng kinh tế chưa cao.

1.1.3. Các công cụ của chính sách tiền tệ:

1.1.3.1 Các công cụ gián tiếp

a. Nghiệp vụ thị trường mở (OMO)

OMO là hoạt động NHTW mua, bán giấy tờ có giá ngắn hạn mà chủ yếu là

tín phiếu Kho bạc trên thị trường tiền tệ mở để làm thay đổi lượng tiền mặt của các

NHTM dẫn đến ảnh hưởng đến khả năng tạo tiền gửi thông qua cung ứng tín dụng

của hệ thống ngân hàng làm thay đổi lượng tiền cung ứng.

Cơ chế tác động :Nghiệp vụ thị trường mở có 2 loại: được phép mua bán

chứng khoán vào những thời điểm nhất định sau khi nghiệp vụ được tiến hành và

loại không được phép mua bán lại.Khi NHTW đem chứng khóan ra thị trường mở

để bán nó thu tiền hay séc về, cho nên:

- Giảm lượng cung tiền mắt trong lưu thông từ đó giảm khả năng cho vay của

các ngân hàng trung gian.Khi ngân hàng trung gian mua chứng khóan của NHTW

thì dự trữ tiền của nó sẽ giảm xuống và khả năng cung ứng tiền của nó bị thắt chặt.

- Lượng chứng khoán tăng lên, chứng khoán trở nên thừa và giá của nó sẽ

giảm xuống, lãi suất của nó sẽ tăng lên. Lãi suất chứng khoán tăng lên buộc các

10

ngân hàng phải tăng lãi suất để tránh tình trạng người dân rút tiền ra khỏi ngân hàng

để đầu tư vào chứng khoán. Lãi suất ngân hàng tăng làm lượng tiền cung ứng giảm

và do đó tiền trở nên khan hiếm, do đó tỉ giá và giá cả hàng hóa giảm xuống. Và

ngược lại khi NHTW ra thị trường mở để muachứng khoán.Như vậy khi NHTW

thực hiện nghiệp vụ bán, nó thắt chặt cung ứng tiền, tăng lãi suất, giảm tỉ giá và giá

cả hạ xuống và ngược lại khi thực hiện nghiệp vụ mua.

Ưu điểm: Do vận dụng tính linh hoạt của thị trường nên đây được coi là một

công cụ rất năng động, hiệu quả, chính xác của CSTT vì khối lượng chứng khoán

mua (bán) tỷ lệ với qui mô lượng tiền cung ứng cần điều chỉnh, ít tốn kém về chi

phí , dễ đảo ngược tình thế.

Nhược điểm: Vì được thực hiện thông qua quan hệ trao đổi nên nó còn phụ

thuộc vào các chủ thể khác tham gia trên thị trường và mặt khác để công cụ này

hiệu quả thì cần phải có sự phát triển đồng bộ của thị trường tiền tệ ,thị trường vốn.

b. Dự trữ bắt buộc

Số tiền dự trữ bắt buộc là số tiền mà các NH phảI giữ lại, do NHTW qui

định, gửi tại NHTW, không hưởng lãI, không được dùng để đầu tư, cho vay và

thông thường được tính theo một tỷ lệ nhất định trên tổng só tiền gửi của khách

hàng để đảm bảo khả năng thanh toán, sự ổn định của hệ thống ngân hàng.

Cơ chế tác động:

Thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc ảnh hưởng đến lượng tiền cung ứng theo ba

cách:

- Khi NHTW quyết định tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc, một phần dự trữ vượt

mức trước đây của các NHTM chuyển thành dự trữ bắt buộc làm giảm khả năng cho

vay của hệ thống ngân hàng.

- Tỷ lệ dự trữ bắt buộc (r) là một thành phần của mẫu số trong hệ số mở rộng

tiền gửi, nên có thể làm thay đổi hệ số mở rộng tiền gửi và khả năng mở rộng hệ

thống tiền gửi của ngân hàng.

- Tỷ lệ dự trữ bắt buộc tăng làm giảm mức cung ứng vốn của NHTM trên thị

trường liên ngân hàng. Trong điều kiện cầu vốn khả dụng không thay đổi, sự giảm

11

sút này làm tăng lãi suất liên ngân hàng, từ đó dẫn đến tăng các mức lãi suất dài hạn

và giảm khối lượng tiền cung ứng.

Ưu điểm: Đây là công cụ mang nặng tính quản lý Nhà nước nên giúp

NHTW chủ động trong việc đIều chỉnh lượng tiền cung ứng và tác động của nó

cũng rất mạnh (chỉ cần thay đổi một lượng nhỏ tỷ lệ dự trữ bắt buộc là ảnh hưởng

tới một lượng rất lớn mức cung tiền).

Nhược điểm: Tính linh hoạt của nó không cao vì việc tổ chức thực hiện nó

rất chậm ,phức tạp, tốn kém và có thể gây ra tình trạng kém ổn định cho các ngân

hàng.

c. Chính sách tái chiết khấu

Chính sách tái chiết khấu bao gồm các qui định về việc cho vay của NHTW

đối với các NHTG. NHTW thường cho các NHTG vay dưới hình thức chiết khấu lại

các giấy tờ có giá ngắn hạn (chủ yếu là tín phiếu kho bạc và thương phiếu) do các

NHTG đưa đến, bởi vậy chính sách cho vay của NHTW đối với các NHTG được gọi

là chính sách tái chiết khấu.

Cơ chế tác động: Các NHTG vay từ NHTW chủ yếu là nhằm giải quyết

vấn đề thiếu hụt tiền mặt tạm thời để đáp ứng nhu cầu thanh toán hoặc để bù đắp

thiếu hụt trong quỹ dự trữ bắt buộc. Những thay đổi trong chính sách tái chiết khấu

của NHTW sẽ tác động đến khối lượng vay chiết khấu của các NHTG, từ đó ảnh

hưởng tới lượng tiền cung ứng.

NHTW thông qua việc thay đổi các qui định về hạn mức tái chiết khấu, lãi

suất tái chiết khấu và các điều kiện tái chiết khấu sẽ ảnh hưởng đến các hoạt động đi

vay chiết khấu từ NHTW của các NHTG trên hai phương diện: khối lượng và giá.

Khối lượng vốn khả dụng được bổ sung từ NHTW có thể bị giới hạn hoặc nới rộng

căn cứ vào hạn mức tái chiết khấu và các điều kiện tái chiết khấu, từ đó ảnh hưởng

đến khả năng tạo tiền của hệ thống NHTG, làm cho lượng tiền cung ứng bị thay đổi.

Khi lượng vốn khả dụng thay đổi, quan hệ cung cầu vốn và do đó lãi suất trên thị

trường liên ngân hàng cũng thay đổi.

Ưu điểm: các khoản cho vay của NHTW đều được đảm bảo bằng các

giấy tờ có giá. Do đó các khoản cho vay sẽ chắc chắn được thu hồi khi đến hạn.Tuy

12

nhiên tác dụng của chính sách chỉ có thể phát huy khi các NHTG có nhu cầu vay

từ NHTW.

Nhược điểm: Với sự phát triển của thị trường tài chính, các NHTG có thể

tìm kiếm được các nguồn vay khác ngoài NHTW làm cho sự phụ thuộc của chúng

vào NHTW giảm đi, do đó làm giảm mức độ phát huy hiệu quả của công cụ này.

Hơn nữa, NHTW khó kiểm soát được hoàn toàn những tác động của công cụ này

bởi NHTW chỉ có thể thay đổi mức lãi suất tái chiết khấu và các điều kiện chiết

khấu mà không thể bắt các NHTG vay từ mình.

1.1.3.2 Các công cụ trực tiếp

a. Ấn định hạn mức tín dụng của các NHTM

Là việc NHTW quy định tổng mức dư nợ của các NHTM không được vượt

quá một lượng nào đó trong một thời gian nhất định(một năm) để thực hiện vai

trò kiểm soát mức cung tiền của mình.Việc định ra hạn mức tín dụng cho toàn nền

kinh tế dựa trên cơ sở là các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô(tốc độ tăng trưởng ,lạm phát

tiêu thụ..) sau đó NHTW sẽ phân bổ cho các NHTM và NHTM không thể cho vay

vượt quá hạn mức do NHTW quy định .

Cơ chế tác động: Đây là một cộng cụ điều chỉnh một cách trực tiếp đối với

lượng tiền cung ứng, việc quy định pháp lý khối lượng hạn mức tín dụng cho nền

kinh tế có quan hệ thuận chiều với qui mô lượng tiền cung ứng theo mục tiêu của

NHTM.

Ưu điểm: Giúp NHTW điều chỉnh ,kiểm soát được lượng tiền cung ứng

khi các công cụ gián tiếp kém hiệu quả, đặc biệt tác dụng nhất thời của nó rất cao

trong những giai đoạn phát triển quá nóng, tỷ lệ lạm phát quá cao của nền kinh tế .

Nhược điểm: Triệt tiêu động lực cạnh tranh giữa các NHTM,làm giảm

hiệu quả phân bổ vốn trong nến kinh tế ,dễ phát sinh nhiều hình thức tín dụng

ngoàI sự kiểm soát của NHTW và nó sẽ trở nên quá kìm hãm khi nhu cầu tín dụng

cho việc phát triển kinh tế tăng lên.

b. Ấn định lãi suất hay khung lãi suất của các NHTM

NHTW đưa ra một khung lãi suất hay ấn dịnh một trần lãi suất cho vay

để hướng các NHTM điều chỉnh lãi suất theo giới hạn đó,từ đó ảnh hưởng tới

13

qui mô tín dụng của nền kinh tế và NHTW có thể đạt được quản lý mức cung

tiền của mình.

Cơ chế tác động:Việc điều chỉnh lãi suất theo xu hướng tăng hay giảm

sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới qui mô huy động và cho vay của các NHTM làm cho

lượng tiền cung ứng thay đổi theo.

Ưu điểm: Giúp cho NHTW thực hiện quản lý lượng tiền cung ứng theo

mục tiêu của từng thời kỳ,đIều này phù hợp với các quốc gia khi chưa có điều

kiện để phát huy tác dụng của các công cụ gián tiếp.

Nhược điểm: Nó dễ làm mất đi tính khách quan của lãi suất trong nền

kinh tế vì thực chất lãi suất là “giá cả” của vốn do vậy nó phải được hình thành

từ chính quan hệ cung cầu về vốn trong nến kinh tế. Mặt khác việc thay đổi quy

định điều chỉnh lãi suất dễ làm cho các NHTM bị động,tốn kém trong hoạt động

kinh doanh của mình.

c. Ấn định tỉ giá hối đoái

Tỉ giá hối đoái là đại lượng biều thị mối tương quan về mặt giá trịgiữa

hai đồng tiền.nói cách khác tỉ giá hối đoái là giá cả của một đơn vị tiền tệ nước

này được biểu hiện bằng một đơn vị tiền nước khác.

Cơ chế tác động: Tác động đến hoạt động kinh tế , từ hoạt động xuất nhập

khẩu đến sản xuất kinh doanh và tiêu dùng trong nước qua biến đổi của giá cả hàng

hóa.

Ưu điểm: Việc cố định tỷ giá hối đoái không gây bất ổn đối với nền kinh tế,

tránh được tình trạng phá giá cạnh tranh, giúp cho các nhà đầu tư và kinh doanh

quốc tế tránh được những rủi ro về sự thay đổi tỷ giá. Do đó hiệu quả kinh doanh sẽ

tăng lên, góp phần thúc đẩy thương mại và đầu tư quốc tế.

Nhược điểm: Công cụ mang tính chất cứng nhắc, hành chính .Việc ấn định tỷ

giá hối đoái trong điều kiện tự do hóa nguồn vốn sẽ làm vô hiệu hóa CSTT.

1.1.4 Cơ chế truyền dẫn:

1.1.4.1 Kênh lãi suất

Khi thực hiện thắt chặt tiền tệ (giảm cung tiền), nhu cầu về trái phiếu sẽ tăng

trong khi nhu cầu về tiền giảm. Nếu giá cả không điều chỉnh kịp thời, cung tiền thực

14

tế sẽ giảm, làm tăng lãi suất, chi phí vốn tăng. Chi tiêu đầu tư giảm, làm giảm tổng

cầu và sản lượng. Cơ chế này diễn ra bên tài sản nợ của bảng tổng kết tài sản của

ngân hàng. Các nhà kinh tế đã nhấn mạnh vai trò của lãi suất trong việc phản ứng

trước những thay đổi của chính sách tiền tệ cũng như trong việc tác động tới các hoạt

động kinh tế thực. Cơ chế truyền dẫn này được thể hiện như sau:

Thắt chặt tiền tệ lãi suất tăng đầu tư giảm sản lượng giảm.

1.1.4.2 Kênh tín dụng

Kênh tín dụng là một tập hợp các yếu tố làm phóng đại và lan truyền các tác

động của lãi suất. Nói cách khác, kênh tín dụng là một cơ chế tăng cường, nó không

phải là một kênh hoàn toàn độc lập hay song song với các kênh khác. Ở các nước có

thị trường tín dụng tư nhân kém phát triển hoặc chịu sự can thiệp của Chính phủ, tác

động của chính sách tiền tệ đến tổng cầu thông qua việc thay đổi khối lượng tín

dụng còn lớn hơn là thông qua lãi suất. Khi các điều kiện tiền tệ bị thắt chặt, các

ngân hàng không muốn chỉ dựa duy nhất vào việc tăng lãi suất để hạn chế khối

lượng tín dụng mà còn muốn thắt chặt các điều khoản tín dụng để ngăn chặn khách

hàng đầu tư vào các dự án rủi ro. Điều này làm giảm cung tín dụng. Bên cạnh đó,

chính sách tiền tệ cũng tác động đến khả năng tiếp cận nguồn tín dụng của người đi

vay. Một người đi vay có tình trạng tài chính không lành mạnh, giá trị tài sản ròng

nhỏ, sẽ phải chịu chi phí lớn hơn và các điều kiện tín dụng khắt khe hơn. Những

thay đổi trong chính sách tiền tệ sẽ tác động đến trạng thái tài chính của người vay,

do đó, tác động đến các quyết định đầu tư và chi tiêu của họ. Một chính sách tiền tệ

thắt chặt sẽ tác động trực tiếp đến bảng tổng kết tài sản của người đi vay thông qua

ít nhất là hai kênh: (i) lãi suất tăng lên trực tiếp làm tăng chi phí trả lãi của người đi

vay, làm giảm luồng tiền mặt ròng và trạng thái tài chính của người vay yếu kém; (ii)

lãi suất tăng lên làm giá của các tài sản khác giảm xuống, trong đó có giá của các tài

sản thế chấp của người vay. Chính sách tiền tệ thắt chặt cũng gián tiếp tác động đến

bảng tổng kết tài sản của người vay thông qua việc làm suy giảm chi tiêu của người

tiêu dùng và làm cho doanh thu của các hãng giảm xuống.

1.1.4.3. Kênh giá các tài sản khác

15

Một chính sách tiền tệ thắt chặt sẽ làm giảm giá các tài sản tài chính khác, như

cổ phiếu, trái phiếu, bất động sản v.v... khiến cho các hộ gia đình giảm những kỳ

vọng về thu nhập và họ phải điều chỉnh tiêu dùng. Ngoài ra, những thay đổi trong

chính sách tiền tệ làm thay đổi giá trị các tài sản mà các công ty đang nắm giữ, làm

giảm giá trị thị trường của công ty, làm tăng tỷ lệ nợ/tài sản, khiến các công ty gặp

khó khăn trong việc thanh toán các khoản nợ. Các hộ gia đình và các công ty trở

nên dễ bị tổn thương hơn trước những suy giảm tài chính, họ cố gắng phục hồi bảng

tổng kết tài sản của mình thông qua cắt giảm chi tiêu và vay mượn. Như vậy, đầu tư

và tiêu dùng đều giảm và kết quả cuối cùng là sản lượng của nền kinh tế giảm.

1.1.4.4. Kênh tỷ giá hối đoái

Chính sách tiền tệ còn tác động đến nền kinh tế thông qua kênh tỷ giá hối đoái.

Tại nhiều nước đang phát triển, đặc biệt các nước có thị trường trái phiếu, cổ phiếu,

bất động sản còn chưa phát triển, tỷ giá hối đoái chính là giá tài sản quan trọng nhất

chịu tác động của chính sách tiền tệ. Khi tỷ giá được thả nổi, thắt chặt tiền tệ làm

tăng lãi suất, làm cho đồng nội tệ lên giá danh nghĩa. Một mặt, nó làm giảm nhu cầu

về hàng hóa trong nước vì hàng hóa trong nước lúc này trở nên đắt hơn tương đối so

với hàng hóa nước ngoài và vì thế làm giảm tổng cầu. Mặt khác, thay đổi tỷ giá

cũng tác động đáng kể đến bảng tổng kết tài sản. Tại các nền kinh tế nhỏ, mở cửa

với cơ chế tỷ giá linh hoạt, tỷ giá hối đoái là một kênh đặc biệt quan trọng, khác với

các kênh trên, nó không chỉ tác động đến tổng cầu mà còn tác động đến tổng cung.

Với cơ chế tỷ giá hối đoái cố định, hiệu quả của chính sách tiền tệ sẽ giảm đi.

Thường thì các nước duy trì một biên độ tỷ giá dao động rộng. Hơn nữa, nếu các tài

sản trong nước và nước ngoài không thể thay thế hoàn toàn cho nhau thì vẫn có sự

chênh lệch giữa lãi suất trong nước và lãi suất quốc tế. Vì thế, thậm chí nếu tỷ giá

danh nghĩa cố định thì chính sách tiền tệ vẫn có thể tác động đến tỷ giá thực thông

qua mức giá. Cơ chế tác động này có thể thể hiện như sau:

Thắt chặt tiền tệ đồng nội tệ lên giá, xuất khẩu giảm, nhập khẩu tăng,

xuất khẩu ròng giảm sản lượng giảm.

16

1.1.5. Điều kiện để thực hiện chính sách tiền tệ hiệu quả

Để phát huy một cách tốt nhất hiệu quả sử dụng công cụ chính sách tiền tệ,

mục tiêu hoạt động, mục tiêu trung gian, mục tiêu cuối cùng và chiến lược hoạt

động trong việc điều hành chính sách tiền tệ cần một số điều kiện sau:

Một là, tính độc lập, trách nhiệm và minh bạch của Ngân hàng Trung ương

trong điều hành chính sách tiền tệ;

Hai là, sự phù hợp về mục tiêu và biện pháp của các chính sách vĩ mô là điều

kiện quan trọng để đảm bảo tính hiệu quả của quá trình xây dựng và thực thi chính

sách tiền tệ;

Ba là, sự phát triển của các định chế tài chính và thị trường tiền tệ.

Tóm lại, để bảo đảm cho sự thành công của chính sách tiền tệ trong việc theo

đuổi mục tiêu đặt ra, thì ngoài việc Ngân hàng Trung ương xây dựng một khuôn khổ

chính sách tiền tệ phù hợp với thực tế của nền kinh tế thì các điều kiện trên cần được

thỏa mãn . Tính độc lập, sự minh bạch và trách nhiệm trong điều hành chính sách tiền

tệ của Ngân hàng Trung ương đảm bảo lòng tin của các thành viên thị trường tài

chính đối với việc thực thi chính sách tiền tệ của Ngân hàng Trung ương. Sự phù

hợp về mục tiêu và giải pháp vĩ mô đảm bảo tính hiệu quả của mục tiêu mà chính sách

tiền tệ theo đuổi, và sự phát triển của các định chế tài chính và thị trường tiền tệ là điều

kiện hỗ trợ tích cực cho việc thành công của quá trình xây dựng và thực thi chính

sách tiền tệ.

1.2. Chính sách tiền tệ lạm phát mục tiêu:

1.2.1 Khái niệm:

Ngân hàng Trung ương Châu Âu (ECB) (2004) định nghĩa CSLPMT là “một

chiến lược chính sách tiền tệ nhằm mục tiêu duy trì ổn định giá cả bằng cách tập

trung vào khoảng chênh giữa dự báo lạm phát được công bố với mức CSLPMT đã

được công bố”. Quan điểm của ECB cho rằng trong cơ chế của LPMT, dự báo lạm

phát là trọng tâm của việc lập và công bố chính sách, đồng nghĩa với việc “Ngân

hàng Trung ương thông báo các quyết định chính sách tiền tệ dưới hình thức điều

chỉnh đối với độ lệch của dự báo lạm phát theo một thước đo cụ thể so với LPMT cụ

thể trong một thời gian cụ thể” (ECB 2004).

17

Bernanke và cộng sự (1999) có quan điểm về LPMT như sau: “LPMT là một

hệ thống các chính sách tiền tệ được thể hiện bằng tuyên bố công khai về mục tiêu

(hoặc nhiều mục tiêu) rõ ràng đối với tỷ lệ lạm phát trong một hoặc một số khoảng

thời gian và chính thức thừa nhận lạm phát thấp và ổn định là mục tiêu dài hạn

chính của chính sách tiền tệ. Những đặc trưng quan trọng khác của LPMT là những

nỗ lực mạnh mẽ nhằm thông tin cho công chúng về các kế hoạch và mục tiêu của

các nhà quản lý tiền tệ và cả về cơ chế tăng cường trách nhiệm của Ngân hàng

Trung ương để đạt được các mục tiêu này”. (Bernanke và cộng sự ,1999).

Như vậy, Chính sách lạm phát mục tiêu được hiểu là chính sách mà ngân

hàng trung ương sẽ đưa ra mục tiêu lạm phát trong một thời gian khá dài và được

quyền chủ động sủ dụng các công cụ chính sách tiền tệ như nghiệp vụ thị trường

mở, lãi suất cơ bản, lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu, tỷ giá… để đạt mục

tiêu đó. Một chính sách lạm phát mục tiêu được coi là thành công nếu như trong

quá trình thực hiện lạm phát sẽ vân động xoay quanh mức mục tiêu đã đề ra.

Chính sách lạm phát mục tiêu được áp dụng nhiều bởi các nước phát triển và

các nước mới nổi khi lãnh đạo các nước nhận định rằng, lạm phát hay nói cách khác

ổn định giá là mục tiêu chính của chính sách tiền tệ. Tùy từng thời kỳ, mức lạm phát

mục tiêu có thể có những điều chỉnh theo năm, tuy nhiên mức điều chỉnh có thể

không quá lớn so với định hướng dài hạn đã xác định từ thời gian trước.

1.2.2 Đặc điểm của cơ chế điều hành chính sách tiền tệ lạm phát mục tiêu:

So với cơ chế điều hành chính sách tiền tệ trước nó, cơ chế điều hành CSTT

lạm phát mục tiêu có một số đặc điểm chính sau:

Thứ nhất, cho phép xác lập một khuôn khổ CSTT minh bạch với sự bảo đảm

bằng trách nhiệm và uy tín trước công chúng bởi Ngân hàng Trung ương. Đó là cơ

sở xác định lòng tin của công chúng với cơ quan quản lý tiền tệ và là cơ chế đánh

giá mức độ hoàn thành sứ mệnh của Ngân hàng Trung ương;

Thứ hai, đây là cơ chế điều hành CSTT vừa tạo cho Ngân hàng Trung ương

sự tập trung cần thiết vừa được quyền tự do, linh hoạt và quyền tự quyết nhất định

trong điều hành chính sách tiền tệ;

18

Thứ ba, tính độc lập tương đối của Ngân hàng Trung ương được duy trì nên

Ngân hàng Trung ương có thể đối phó hiệu quả với những cú sốc xảy ra trong nước

cũng như bảo vệ nền kinh tế trước những cú sốc xảy ra bên ngoài quốc gia; Thứ tư,

do hướng vào một mục tiêu duy nhất là lạm phát nên chính sách tiền tệ lạm phát

mục tiêu đã tạo tiền đề cho các mục tiêu kinh tế vĩ mô khác phát triển ổn định trong

dài hạn như tăng trưởng, việc làm v.v… Điều này được minh chứng rõ hơn khi tiếp

cận với các nền kinh tế đã áp dụng cơ chế điều hành CSTT lạm phát mục tiêu. Tuy

nhiên, cho dù có nhiều ưu điểm, cơ chế điều hành CSTT lạm phát mục tiêu hoàn

toàn không phải là phương thức hữu dụng bách bệnh.

Tuy nhiên, cần lưu ý rằng các đặc điểm trên cũng tạo nên những thách thức:

Một là, do cơ chế ràng buộc giữa quyền và trách nhiệm trong điều hành CSTT

lạm phát mục tiêu nên chính Ngân hàng Trung ương có thể bị trả giá rất đắt nếu

những gì họ tự quyết trong việc điều hành CSTT lại dẫn tới lạm phát cao chứ không

phải là lạm phát thấp và ổn định.

Hai là, do các hiệu ứng của chính sách lên lạm phát có độ trễ về mặt thời gian

nên Ngân hàng Trung ương không thể dễ dàng kiểm soát được lạm phát. Như vậy,

việc đạt được mục tiêu lạm phát một cách chính xác về thời gian thường gặp khó

khăn và cũng vì thế mà việc đánh giá mức độ thành công của chính sách cũng

thường chậm trễ.

Ba là, việc cố gắng để đạt được lạm phát mục tiêu có thể dẫn đến một mức

tăng trưởng không bền vững của công ăn việc làm và sản lượng. Bốn là, do cơ chế

ràng buộc thông tin giữa Ngân hàng Trung ương và công chúng nên Ngân hàng

Trung ương luôn đứng trước áp lực phải minh bạch hơn, đối thoại tốt hơn trong khi

không phải lúc nào họ cũng có thể đáp ứng yêu cầu này.

Tuy nhiên, nhược điểm của cơ chế lạm phát mục tiêu là khi năng lực điều tiết

của chính sách tiền tệ không cao sẽ đẩy Ngân hàng Trung ương vào vòng luẩn quẩn

trong việc lựa chọn ưu tiên giữa các cơ chế điều hành (tỷ giá, lãi suất, và khối lượng

tiền) của chính sách tiền tệ. Mặt khác, khi áp dụng lạm phát mục tiêu, Ngân hàng

Trung ương sẽ phải chịu trách nhiệm chính thức và vô điều kiện trong việc thực

hiện chính sách tiền tệ để đạt được chỉ số mục tiêu dựa trên chỉ số dự báo lạm phát

19

do chính Ngân hàng Trung ương đưa ra. Khi đó, dự báo lạm phát được xem như là

mục tiêu trung gian của chính sách tiền tệ, vì vậy, không ít người đã không đề cập

đến lạm phát mục tiêu mà chỉ nói đến dự báo lạm phát mục tiêu (targeting inflation

forecast).

Một sự khác biệt nữa của cơ chế điều hành chính sách tiền tệ lạm phát mục

tiêu so với cơ chế điều hành khác là nó tạo cho Ngân hàng Trung ương sự tự do và

linh hoạt trong việc điều hành chính sách tiền tệ, xác định khung lạm phát mục tiêu

(một chỉ số hoặc một khoảng biên độ). Tuy nhiên, để áp dụng lạm phát mục tiêu thì

Ngân hàng Trung ương, trước hết, phải có được sự tin tưởng cao từ xã hội và phải

hoạt động một cách minh bạch. Hơn nữa, kinh nghiệm của các nước áp dụng lạm

phát mục tiêu đã chỉ ra sự cần thiết hình thành những điều kiện tiên quyết để áp

dụng lạm phát mục tiêu trong điều hành chính sách tiền tệ. Trên tất cả, lạm phát

mục tiêu chỉ có thể áp dụng ở những nước mà ở đó có thể đảm bảo duy trì lạm phát

ở mức thấp không chỉ trên hình thức mà là trên thực tế. Các cơ quan quản lý tiền tệ

cần hiểu rằng với sự trợ giúp của tiền tệ, việc mở rộng ngân sách không những

không thúc đẩy sự phát triển các khu vực kinh tế, mà tiền tệ hóa thâm hụt ngân sách

còn là tiền đề trực tiếp cho sự gia tăng giá cả trong nền kinh tế, phá hủy tính ổn định

của khu vực tài chính và làm tổn hại đến tăng trưởng kinh tế trong dài hạn

1.2.3 Các trụ cột cơ bản của chính sách tiền tệ lạm phát mục tiêu

Chính sách tiền tệ lạm phát mục tiêu sẽ trở nên thiếu hiệu quả nếu thiếu những

trụ cột cơ bản sau:

1.2.3.1 Tính minh bạch:

Tính minh bạch của Ngân hàng Trung Ương (NHTW) được thể hiện qua hai

yếu tố: Thứ nhất, đó là mối quan hệ giữa tính minh bạch và hiệu quả của chính sách

tiền tệ. Thứ hai, mối quan hệ giữa tính minh bạch và trách nhiệm giải trình của

NHTW.

Tính minh bạch của chính sách tiền tệ đòi hỏi NHTW phải minh bạch trong

mục tiêu của chính sách, minh bạch trong hoạt động của cơ chế truyền tải tiền tệ

giữa hành động chính sách của NHTW và các biến mục tiêu, minh bạch trong việc

đánh giá triển vọng của hoạt động kinh tế và lạm phát từ quan điểm của NHTW, và

20

minh bạch trong việc thiết lập tỷ lệ lãi suất chính sách. Nói chung, tính minh bạch

sẽ giúp cải thiện chức năng của chính sách tiền tệ trong một số khía cạnh sau:

Thứ nhất, tính minh bạch làm tăng hiểu biết tốt hơn của công chúng về thị

trường và chính sách tiền tệ; và chính sách tiền tệ sẽ được lợi từ sự hiểu biết và ủng

hộ của công chúng.Ví dụ, để “làm lạnh” nền kinh tế đang quá nóng, chính sách tiền

thắt chặt là cần thiết, nhưng điều này lại dẫn đến một sự đánh đổi giữa lạm phát và

tăng trưởng.NHTW nên nhấn mạnh đến vai trò của chính sách tiền tệ là để kiềm chế

lạm phát trong dài hạn và khẳng định rằng một môi trường lạm phát thấp sẽ giúp

nền kinh tế đạt được mức tăng trưởng năng suất cao hơn. Nếu công chúng hiểu và

tin tưởng vào mục tiêu mà NHTW đang hướng tới, lạm phát kỳ vọng sẽ giảm và do

đó sẽ giảm chi phí kiềm chế lạm phát.

Thứ hai, mối quan hệ giữa tính minh bạch và chức năng của chính sách tiền

tệ. Khi thị trường tài chính hiểu và dự đoán được những động thái của NHTW,

những bước đầu tiên trong cơ chế truyền tải tiền tệ giữa các hành động chính sách

và hoạt động kinh tế cũng như lạm phát được thực hiện trôi chảy hơn.

1.2.3.2 Công bố thông tin

Mức độ công bố thông tin của NHTW đối với thị trường thể hiện Sự minh

bạch trong điều hành chính sách tiền tệ. Các loại thông tin mà các NHTW thường

công bố nhằm minh bạch hóa điều hành CSTT bao gồm:

Thứ nhất, dự báo về các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô, tài chính, tiền tệ và khả năng

đạt được mục tiêu;

Thứ hai, mục tiêu điều hành (mức lạm phát, hay cung tiền, hay tỷ giá mà

CSTT cần đạt được);

Thứ ba, biên bản các cuộc họp và quyết định chính sách; thứ tư, kết quả bỏ

phiếu ra quyết định chính sách;

Thứ năm, các giải thích về việc thay đổi chính sách. NHTW thường công bố

thông tin bằng cách: báo cáo,thông cáo báo chí, họp giao ban báo chí, tổ chức các

cuộc họp chính thức hoặc bất thường và phát biểu, tuyên bố của lãnh đạo NHTW và

các chuyên gia NHTW.

1.2.3.3 Chiến lược truyền thông

21

Trong việc truyền tải quan điểm của NHTW đến thị trường và công chúng thì

truyền thông đóng vai trò rất quan trọng. Một số thông tin mà NHTW cần truyền tải

gồm: (i) Ngân hàng Trung ương phải khẳng định mục tiêu lạm phát thấp và ổn định

là phương tiện để đạt được mục tiêu cuối cùng cho nền kinh tế tăng trưởng lành

mạnh, khi đó việc làm được cung cấp nhiều hơn và mức sống của người dân sẽ

được cải thiện trong một môi trường ổn định; (ii) NHTW phải khẳng định chính

sách tiền tệ là phương tiện cần thiết nhưng không đủ để đạt được các mục tiêu kinh

tế. Khi giới thiệu khuôn khổ chính sách tiền tệ lạm phát mục tiêu, NHTW nên cố

gắng truyền tải cho công chúng và thị trường hiểu rõ cách mà khuôn khổ này được

điều hành. Tức là NHTW cung cấp những cuộc thảo luận về mục tiêu chính sách,

nhận thức hiện tại của NHTW về cơ chế truyền tải của chính sách tiền tệ, và giải

thích việc lựa chọn các thông số thiết kế chính của cơ chế lạm phát mục tiêu. Trong

số những khía cạnh quan trọng nhất của chiến lược truyền thông là cung cấp lời giải

thích rõ ràng cách thức Ngân hàng Trung ương sẽ phản ứng như thế nào với tác

động của các cú sốc cung và cầu lên lạm phát dự báo.

1.2.3.4 Trách nhiệm giải trình

Để trách nhiệm giải trình là một yếu tố quan trọng trong khuôn khổ ủng hộ

tính độc lập của NHTW.Để trách nhiệm giải trình được hiệu quả, cơ quan giám sát

phải có đủ lượng thông tin cần thiết và chính xác để đánh giá việc điều hành chính

sách của NHTW.Các NHTW cung cấp thông tin đó trong nội dung chiến lược

truyền thông toàn diện của họ, và nhu cầu cung cấp thông tin này đóng vai trò thiết

yếu ngày càng tăng trong tính minh bạch của chính sách tiền tệ.

1.2.4 Các điều kiện cơ bản để áp dụng Chính sách tiền tệ lạm phát mục tiêu

Thứ nhất, Ngân hàng Trung ương cần có một mức độ độc lập tương đối trong

việc xây dựng và thực thi CSTT, mặc dù không Ngân hàng Trung ương nào có thể

hoàn toàn độc lập khỏi sự ảnh hưởng của Chính phủ. Ngân hàng Trung ương cần

phải, trong giới hạn cho phép, được tự do lựa chọn các công cụ để đạt được tỷ lệ

lạm phát mục tiêu. Để thực hiện yêu cầu này, quốc gia đó cần từ bỏ nguyên tắc

“ngân sách chi phối”, cũng như các vấn đề thuộc chính sách tài khóa không được gây

ra bất cứ ảnh hưởng nào đến chính sách tiền tệ.

22

Thứ hai, CSTT chỉ hướng tới một mục tiêu duy nhất là thực hiện lạm phát mục

tiêu và Ngân hàng Trung ương không có trách nhiệm với các mục tiêu khác như:

tiền lương, mức thất nghiệp hay tỷ giá.

Thứ ba, thể chế tài khóa, tài chính vững mạnh. Thể chế tài khóa vững mạnh thể

hiện ở sự cân bằng trong thu chi ngân sách, kỷ luật rõ ràng trong các hoạt động thu

chi, không có sự can thiệp để Ngân hàng Trung ương tài trợ cho thâm hụt ngân sách

hoặc phát hành tiền để Chính phủ trả nợ. Thể chế tài chính vững mạnh được thể hiện

ở sự phát triển vững vàng của hệ thống ngân hàng và hệ thống các định chế tài chính

phi ngân hàng.

Thứ tư, thể chế tiền tệ vững mạnh. Phải có cam kết mang tính thể chế được

phổ biến rộng rãi về việc ổn định giá cả và phải được hiểu là mục tiêu quan trọng

nhất của chính sách tiền tệ trong dài hạn.

1.2.5 Các nguyên tắc của chính sách tiền tệ lạm phát mục tiêu

Tô Thị Ánh Dương và các cộng sự (2012) đã nghiên cứu và tổng hợp Các

nguyên tắc của chính sách tiền tệ lạm phát mục tiêu bao gồm:

Nguyên tắc 1: Vai trò chính của chính sách tiền tệ là để cung cấp một neo

danh nghĩa cho nền kinh tế và việc thiết lập các mục tiêu khác phải không bất tương

thích với neo của chính sách tiền tệ. Với nguyên tắc này, Ngân hàng Trung ương

cần nêu rõ rằng chính sách tiền tệ chỉ nhằm theo đuổi một neo danh nghĩa duy nhất

là lạm phát, nó không thể theo đuổi mục tiêu thực như tăng trưởng kinh tế hay việc

làm được. Việc vừa đặt mục tiêu lạm phát thấp và đặt mục tiêu tăng trưởng cao sẽ

làm cho công chúng và thị trường không còn tin vào chính sách tiền tệ lấy lạm phát

làm mục tiêu nữa, hơn nữa cũng gây khó khăn cho Ngân hàng Trung ương khi đồng

thời phải theo đuổi hai mục tiêu có sự đánh đổi này.

Nguyên tắc 2: Cơ chế chính sách tiền tệ lạm phát làm mục tiêu hiệu quả sẽ có

tác động thuận lợi đến phúc lợi của nền kinh tế từ việc giảm tính bất trắc, định hình

kỳ vọng lạm phát và làm giảm phạm vi tác động và tính khốc liệt của chu kỳ bùng

nổ - đổ vỡ.

Nguyên tắc 3: Thành công của một cơ chế lạm phát mục tiêu phụ thuộc vào

các chính sách khác, các chính sách này phải làm cho nhiệm vụ của chính sách tiền

23

tệ dễ dàng hơn và đáng tin cậy hơn. Chẳng hạn, khi ngân sách thâm hụt lớn và rủi ro

không trả được nợ nảy sinh, bù đắp thâm hụt bằng phương thức phát hành nợ trở

nên khó khăn, khi đó cho dù một chính sách tiền tệ có hướng vào mục tiêu lạm phát

thì công chúng và thị trường sẽ kỳ vọng vào một chính sách tài khóa được tài trợ

bởi “tiền tệ hóa”, dẫn đến lạm phát kỳ vọng tăng và ảnh hưởng đến lạm phát thực tế.

Nguyên tắc 4: Do độ trễ trong cơ chế truyền tải tiền tệ và do cả vấn đề không

đạt mục tiêu lạm phát đề ra và chênh lệch sản lượng thực tế từ sản lượng tiềm năng,

không thể có khả năng và cũng sẽ không thỏa mãn để giữ lạm phát chính xác bằng

với mục tiêu. Nguyên tắc này cho thấy Ngân hàng Trung ương không nên cố gắng

điều hành chính sách tiền tệ để lạm phát thực tế bằng đúng với mục tiêu, chi phí của

nỗ lực này sẽ vô cùng lớn cho dù có làm cho lạm phát gần với mục tiêu. Với nguyên

tắc này, Ngân hàng Trung ương cần đưa ra một khoảng xung quanh lạm phát trung

tâm không quá hẹp để mục tiêu thường xuyên không đạt, nhưng cũng không nên

quá rộng để luôn đạt mục tiêu đề ra.

Nguyên tắc 5: Căn cứ vào khả năng có thể xảy ra xung đột/ mâu thuẫn giữa

mục tiêu lạm phát và các mục tiêu khác, Ngân hàng Trung ương phải có những mục

tiêu rõ ràng, hợp lý và đủ độc lập để đạt được các mục tiêu đề ra. Để thực hiện

nguyên tắc này nhiều nước đã đưa vào luật những điều khoản tăng tính độc lập của

Ngân hàng Trung ương, hoặc bổ nhiệm Thống đốc Ngân hàng với nhiệm kỳ dài hơn

và lệch so với nhiệm kỳ của Tổng thống/Thủ tướng.

Nguyên tắc 6: Phải có những cơ chế giám sát và giải trình hiệu quả để đảm

bảo Ngân hàng Trung ương đang thực hiện những hành động tương thích với các

mục tiêu đã công bố và chính sách tiền tệ phải được dựa trên những thông lệ hợp lý

(sound practices). Nguyên tắc này có thể được áp dụng thông qua việc giám sát của

Quốc hội hoặc từ Chính phủ. Với khuôn khổ chính sách tiền lệ lấy lạm phát làm

mục tiêu, mục tiêu lạm phát được định lượng rõ ràng vì thế cũng dễ dàng hơn cho

các cơ quan chức năng có thẩm quyền giám sát và cũng dễ dàng hơn cho Ngân hàng

Trung ương khi phải giải trình

24

1.3 Kinh nghiệm của các nước và bài học rút ra cho Việt Nam

1.3.1 Kinh nghiệm của một số nước

Nghiên cứu kinh nghiệm của các quốc gia đã thực hiện lạm phát mục tiêu

cho thấy, các quốc gia không nhất thiết phải đáp ứng tất cả các điều kiện tiên quyết

của khuôn khổ lạm phát mục tiêu ngay từ đầu thì mới có thể thực hiện thành công

khuôn khổ lạm phát mục tiêu. Trong số các nước nghiên cứu, chỉ có Canada có vị

thế tốt tại thời điểm nước này chuyển sang áp dụng khuôn khổ IT. Tại một số quốc

gia, chỉ một số điều kiện tiên quyết được đáp ứng, ở một số quốc gia khác, một số

điều kiện khác được bỏ qua hoặc có thể được thiết lập dần dần theo thời gian trong

quá trình thực hiện khuôn khổ của lạm phát mục tiêu .

Charles Freedman and İnci Ötker-Robe (2009) đã tổng hợp các điều kiện

cũng như tình trạng áp dụng các điều kiện của một số nước qua hai bảng sau:

Bảng 1.1. Các yếu tố chính để lạm phát mục tiêu thực hiện thành công

Quốc gia đáp ứng điều kiện Romania và Thổ Nhĩ Kỳ

Canada, Chile, Cộng hòa Séc; Hungary, Israel và Ba Lan (cùng với neo tỷ giá hối đoái theo biên độ: exchange rate bands)

Israel (Chính phủ đặt ra các mục tiêu); Canada, CH Séc, Hungary và Thổ Nhĩ Kỳ (NHTW và Chính phủ cùng tham gia hoạch định mục tiêu); Chile và Ba Lan (NHTW đặt ra mục tiêu)

Canada, Chile, CH Séc, Hungary, Israel, Ba Lan, Romania, Thổ Nhĩ Kỳ

Các điều kiện Duy trì giá cả ổn định là mục tiêu chính của chính sách tiền tệ Duy trì giá cả ổn định là mục tiêu chính, bên cạnh việc duy trì các mục tiêu khác Độc lập về mục tiêu (goal) hoặc thỏa thuận với chính phủ về chiến lược chuyển sang lạm phát mục tiêu Không có sự áp chế tài chính* (fiscaldominance) (chính phủ tiếp cận giới hạn hoặc bị cấm) với nguồn tín dụng của Ngân hàng Trung ương) Ngân hàng trung ương độc lập trong việc sử Canada, Chile, CH Séc, Hungary, Israel, Ba Lan, Romania, Thổ Nhĩ Kỳ

25

dụng các công cụ * Hiểu rõ cơ chế truyền tải CSTT

Kiểm soát lãi suất ngắn hạn ở mức độ hợp lý* Phát triển thị trường tài chính một cách hợp lý*

Canada (tương đối tốt mặc dù còn có những khoảng trống); Chile, CH Séc, Hungary, Israel, Ba Lan, Romania và Thổ Nhĩ Kỳ (đang nỗ lực thực hiện trên những nền tảng cơ bản ban đầu) Canada, Chile, CH Séc, Thổ Nhĩ Kỳ, Hungary, Israel và Ba Lan (mặc dù hợp lý, nhưng việc kiểm soát hơi phức tạp bởi theo đuổi đồng thời cả mục tiêu tỷ giá hối đoái) Canada và Chile (phát triển tốt); CH Séc, Hungary, Israel (phát triển tương đối tốt), Thổ Nhĩ Kỳ, Ba Lan, và Romania (phát triển không tốt bằng các nước khác) Canada, Chile, CH Séc, Hungary, Israel, Ba Lan, Romania, Thổ Nhĩ Kỳ

Thị trường tài chính ổn định một cách hợp lý* Năng lực mô hình hóa/dự báo Cơ chế về trách nhiệm giải trình

Canada (phát triển tốt); các nước còn lại mới ở giai đoạn ban đầu, đã phát triển và cải thiện theo thời gian Canada (không có cơ chế trách nhiệm giải trình chính thức ngay từ đầu, tuy nhiên, cần phải giải thích chính sách tiền tệ cho công chúng; cơ chế chính thức được thành lập theo thời gian); Thổ Nhĩ Kỳ (thông qua các yêu cầu thông báo cho công chúng về hoạt động của Ngân hàng Trung ương và chính sách tiền tệ và khi các mục tiêu không đáp ứng được trong thời gian dự kiến).

Nguồn: Charles Freedman and İnci Ötker-Robe (2009).

Ghi chú: * Đa số các nước đáp ứng điều kiện này.

26

Bảng 1.2. Tình trạng các điều kiện tiên quyết vào thời điểm IT được đưa ra

Các điều kiện tiên quyết bị bỏ qua

Tình trạng chung

- Khả năng dự báo/mô hình hóa - Sự am hiểu về cơ chế truyền tải và cơ chế này hoạt động tốt - Không có các neo kép (Ba Lan, Israel, Hungary) - Độc lập về mục tiêu/pháp lý

Canada

Quốc gia Các điều kiện tiên quyết đã được thiết lập - Giá cả ổn định là mục tiêu hàng đầu và NHTW độc lập trong việc sử dụng các công cụ vào thời điểm đưa ra áp dụng IT - Không bị áp chế tài chính - Kiểm soát hợp lý lãi suất ngắn hạn - Thị trường tài chính phát triển tốt - Lạm phát thấp là một trong những mục tiêu của CSTT - Công cụ CSTT độc lập về thực tế (defacto) - Không bị áp chế tài chính - Kiểm soát hiệu quả lãi suất ngắn hạn - Am hiểu cơ chế truyền tải, các thị trường tài chính phát triển tốt. Hệ thống tài chính lành mạnh và ổn định.

Chile

- Độc lập không chính thức về mục tiêu (thỏa thuận chung là khuôn khổ IT cần được thúc đẩy nếu mục tiêu thuộc trách nhiệm của cả NHTW và Chính phủ) - Không có cơ chế về trách nhiệm giải trình chính thức, mặc dù NHTW được kỳ vọng sẽ giải thích cho công chúng về trách nhiệm của họ trong khuôn khổ IT - Sự hiện diện của neo kép - Khả năng dự báo/ mô hình hóa - Hiểu biết cơ bản về cơ chế chuyền tải

CH Séc

- Chỉ thị (mandate) về ổn định giá cả - Hệ thống ngân hàng yếu kém - Không có kinh nghiệm dự báo về lạm phát - Chưa am hiểu về cơ chế truyền tải - Lòng tin và giải trình trách nhiệm thấp - Cơ cấu tổ chức không phù hợp - Hỗ trợ về chính trị thấp

- Độc lập hoàn toàn - Không bị áp chế tài chính - Hệ thống tài chính ổn định - Kiểm soát hợp lý lãi suất ngắn hạn - Thị trường tài chính phát triển tốt - Không bị áp chế tài chính - Công cụ CSTT độc lập - Thực hiện CSTT hiệu quả với lãi suất chủ đạo (key interest rate) - Thị trường tài chính phát triển tốt

27

- Neo kép (biên độ tỷ giá, mở rộng vào thời điểm đưa ra áp dụng IT) - Khả năng dự báo/mô hình hóa dần dần được thiết lập - Chưa am hiểu về cơ chế truyền tải và chưa sử dụng nhiều kinh tế lượng - Chưa thiết lập nguyên tắc (rule) tài chính

Hungary

Isarel

Balan

- Sự độc lập về pháp lý còn yếu - Hiểu biết cơ bản về cơ chế truyền tải - Khả năng dự báo/mô hình hóa dần dần được nâng cao - Sự hiện diện của neo kép (biên độ trườn bò, mở rộng từng bước) - Sự có mặt của neo kép (biên độ trườn bò, mở rộng từng bước sau khi áp dụng IT và thậm chí thả nổi) - Thị trường tài chính chưa phát triển - Khả năng dự báo chưa tốt - Hoạt động của cơ chế truyền tải chưa tốt - Số liệu đánh giá các diễn biến lạm phát còn hạn chế - Năng lực dự báo/mô hình hóa ngày càng phát triển - Hiểu biết về cơ chế truyền tải dần được cải thiện

Giá cả ổn định là mục - tiêu hàng đầu và NHTW độc lập trong việc sử dụng các công cụ vào thời điểm đưa ra áp dụng IT - Hệ thống tài chính ổn định - Kiểm soát hợp lý lãi suất ngắn hạn - Thị trường tài chính phát triển tốt - Không bị áp chế tài chính - Kiểm soát hợp lý lãi suất ngắn hạn - Sự độc lập thực tế của NHTW ngày càng tăng - Thị trường tài chính phát triển tốt - Hệ thống tài chính ổn định - Cam kết về ổn định giá cả - Không bị áp chế tài chính - Kiểm soát hợp lý lãi suất ngắn hạn - Công cụ CSTT độc lập - Thị trường tài chính phát triển tốt. - Hệ thống tài chính lành mạnh, an toàn

Nguồn: Charles Freedman and İnci Ötker-Robe (2009).

Bảng 1.1 và Bảng 1.2 cho thấy, hầu hết các quốc gia đã có một số yếu tố

chủ chốt của khuôn khổ lạm phát mục tiêu tại thời điểm bắt đầu thực hiện lạm phát

mục tiêu, đó là: ổn định giá cả là mục tiêu bao trùm của chính sách tiền tệ (ngay

cả khi có mục tiêu khác trong điều lệ của Ngân hàng Trung ương); Ngân hàng

Trung ương độc lập trong việc sử dụng các công cụ CSTT; sự tiếp cận của chính

phủ đối với nguồn tài chính của Ngân hàng Trung ương đã bị cấm hoặc bị hạn

chế; Kiểm soát lãi suất ngắn hạn một cách hợp lý; hệ thống tài chính và thị

trường tài chính ổn định và phát triển tốt, tạo điều kiện thuận lợi cho việc truyền tải

28

các tác động tiền tệ đến lãi suất thị trường. Những yếu tố này có thể được xem như

là những thuận lợi để các quốc gia có thể thực hiện thành công khuôn khổ lạm

phát mục tiêu. Ngược lại, bảng trên cũng cho thấy, ở hầu hết các nước, khả năng

mô hình hóa và dự báo lạm phát còn hạn chế; cơ sở dữ liệu về kinh tế không đầy

đủ; sự hiểu biết và hoạt động của cơ chế truyền dẫn chưa tốt; Ngân hàng Trung

ương không độc lập về mặt pháp lý (mục tiêu). Một số nước vẫn tiếp tục theo đuổi

hai neo danh nghĩa (tỷ giá và mục tiêu lạm phát), họ chỉ từ bỏ cơ chế đó dần dần

theo thời gian. Tại Ba Lan, cơ chế tỷ giá biên độ trườn bò (crawling band) được

loại bỏ tương đối nhanh, nhưng ở Israel và Hungary việc loại bỏ cơ chế tỷ giá neo

biên độ mất tới 5 năm và 7 năm, tương ứng, sau khi đã áp dụng IT.

Việc so sánh mức độ lạm phát vào thời điểm bắt đầu thực hiện chuyển đổi với

các thời điểm trước đó phản ánh việc lựa chọn giữa chuyển đổi từng bước từ cơ chế tiền tệ cũ sang cơ chế IT (Chile và Israel) và chuyển đổi nhanh (Brazil, CH Séc, Ba Lan, Nam Phi) sang khuôn khổ IT (xem Bảng 1.3).

Bảng 1.3: Tỷ lệ lạm phát trước khi chuyển sang khuôn khổ lạm phát mục tiêu (tỷ lệ lạm

phát được đo bằng CPI bình quân/năm; %)

Nước

t 1999 Brasil 1990 Chile 1997 CH Séc 1991 Israel Ba Lan 1998 Nam Phi 1999

LP tại thời điểm t<4 năm 66.0 20.6 … 19.8 33.3 8.6

LP tại thời điểm t<3 năm 15.8 19.9 10.1 16.3 26.8 7.4

LP tại thời điểm t<2 năm 6.9 14.7 9.1 20.2 20.2 8.6

LP tại thời điểm t<1 năm 3.2 17.0 8.8 17.2 15.9 6.9

LP tại thời điểm t 4.9 26.0 8.4 19.0 11.7 5.2

Nguồn: IMF, International Financial Statistics.

Ghi chú: LP (lạm phát); t là thời điểm chuyển sang khuôn khổ lạm phát mục tiêu.

Bảng 1.3 cho thấy, vì là một trong những nước đầu tiên chỉ sau New Zealand áp

dụng khuôn khổ ID nên Chile và Israel có nhiều rủi ro hơn vì phải “vừa học vừa

làm” để hạ thấp tỷ lệ lạm phát cao. Trong khi đó các nước thị trường mới nổi khác

có giai đoạn chuyển đổi ngắn hơn hoặc chuyển ngay sang khuôn khổ lạm phát mục

tiêu. Thêm vào đó, những nước chuyển sang khuôn khổ lạm phát mục tiêu vào cuối

29

những năm 90 có được lợi thế lớn từ việc học hỏi kinh nghiệm của các nước đi

trước.

Tóm lại, không có bằng chứng chắc chắn nào về ích lợi của tiếp cận từ từ so

với tiếp cận nhanh. Các điều kiện ban đầu, cụ thể là những điều kiện cần thiết cho

FFIT đã được thiết lập ngay từ đầu và mức độ cấp bách về sự cần thiết có một neo

thay thế và tốc độ đạt được các kết quả trong việc áp dụng cơ chế tỷ giá hối đoái

linh hoạt, môi trường thể chế/môi trường hoạt động giúp cho việc thực hiện IT được

trôi chảy sẽ là những yếu tố quyết định độ dài của giai đoạn chuyển đổi

Đi vào từng cách tiếp cận một để thấy rõ hơn động lực thúc đẩy các yếu tố

này, bắt đầu với cách tiệp cận từ từ. Cách tiếp cận này được thúc đẩy bởi những yếu

tố. Tại Thổ Nhĩ Kỳ, các cơ quan quản lý có cách tiếp cận rất thận trọng, họ tránh áp

dụng khuôn khổ IT khi các điều kiện chưa chín muồi, vì như vậy dễ bỏ quả các yếu

tố căn bản để áp dụng IT thành công dẫn đến mất lòng tin của công. Đề cập đến sự

cần thiết phải có một neo danh nghĩa thay thế cơ chế tỷ giá neo trườn bò (crawling

peg regime) sau khủng hoảng, các cơ quan quản lý áp dụng một phần khuôn khổ IT

cho đến khi đa số yếu tố cơ bản của khuôn khổ đã được thiết lập. Tương tự, ở các

nước khác như Chile, Hungary, và Israel, thời kỳ chuyển đổi tương đối dài một

phần là do những khó khăn trong việc phải thiết lập đồng thời một loạt các yêu cầu

về thể chế nhằm thực hiện thành công IT. Chính sách này có nghĩa là những nước

trên chỉ hủy bỏ từ từ vai trò neo danh nghĩa của tỷ giá, ngầm định áp dụng hay áp

dụng một phần (implicit/partial IT) khuôn khổ IT, trong đó đồng thời tham gia mục

tiêu lạm phát và mục tiêu tỷ giá. Lạm phát mục tiêu hoàn toàn (FFIT) đạt được khi

cơ chế tỷ giá neo theo biên độ cuối cùng đã bị hủy bỏ.

Một số nước có cách tiếp cận IT nhanh hơn tiêu biểu tại CH Séc, các cơ quan

quản lý nhanh chóng áp dụng cơ chế IT chính thức sau khi đồng Koruna buộc phải

rời bỏ cơ chế tỷ giá neo với biên độ ngang (horizontal band) trong cuộc khủng

hoảng tiền tệ vào giữa những năm 1997. Chính phủ quyết định chuyển nhanh sang

một khuôn khổ thay thế nhằm duy trì niềm tin và ổn định các điều kiện thị trường.

Lạm phát mục tiêu đã được áp dụng sau sáu tháng chuẩn bị khẩn trương với đa số

yếu tố cơ bản để thực hiện IT đã được thiết lập, mặc dù một số yếu tố khác bị bỏ

30

qua. Trong bối cảnh một số điều kiện chưa được thiết lập hoàn toàn, để có thể áp

dụng nhanh chóng IT đòi hỏi những nỗ lực lớn nhằm nâng cao năng lực và là một

quá trình “vừa học, vừa làm”. Một chỉ thị (mandate) rõ ràng nhằm theo đuổi ổn định

giá cả đã bị bỏ qua ngay từ đầu, và chỉ được áp dụng chính thức vài năm sau đó.

Bên cạnh đó, sự am hiểu của Ngân hàng Trung ương về cơ chế truyền tải tiền tệ,

cũng như năng lực mô hình hóa và dự báo hiệu quả hơn chỉ có được sau vài năm áp

dụng IT.

Kinh nghiệm của Cộng hòa Séc đã làm nổi lên những tranh cãi về tính độc lập

của Ngân hàng Trung ương trong bối cảnh nhận thức và sự hỗ trợ của công chúng

đối với cơ chế mới là hạn chế, và thiếu tuyên bố rõ ràng về ổn định giá cả. Mặc dù

vấp phải những khó khăn này, việc áp dụng cơ chế IT tương đối nhanh giúp nền

kinh tế vượt qua khủng hoảng nhanh hơn, và niềm tin vào cơ chế IT từ đó đến nay

vẫn vững chắc. Thậm chí ở những nơi mà khuôn khổ IT được áp dụng không trong

điều kiện khủng hoảng, việc thiếu những điều kiện tiên quyết đã là những thách

thức. Cụ thể, trong những năm đầu thực hiện IT tại Ba Lan, sự am hiểu về cơ chế

truyền tải chính sách tiền tệ và năng lực dự báo hạn chế đã làm vấn đề quản lý tiền

tệ phức tạp thêm.

Về tổng thể, những nỗ lực nâng cao năng lực thực hiện cơ chế tỷ giá linh hoạt

thúc đẩy khả năng của các nước áp dụng IT như là một khuôn khổ chính sách tiền tệ

mới. Tại cả hai nước Ba Lan và CH Séc, những nước chuyển đổi sang IT sau một

thời gian ngắn, các cơ quan quản lý đã thiết lập những yếu tố của cơ chế tỷ giá linh

hoạt vào thời điểm cho phép đồng bản tệ thả nổi. Những yếu tố này bao gồm: phát

triển hiệu quả thị trường ngoại hối, thiết lập các hệ thống quản lý rủi ro ngoại hối

phù hợp, hình thành các chính sách can thiệp nhất quán, và thiết lập năng lực thực

hiện chính sách tiền tệ phù hợp, bao gồm khả năng tác động đến lãi suất ngắn hạn.

Tại những nước này, cũng như những nước có thời kỳ chuyển đổi dài hơn (Chile,

Hungary, Israel, và Thổ Nhĩ Kỳ), những yếu tố này được thiết lập dần dần theo thời

gian, thúc đẩy hoạt động của khuôn khổ FFIT cùng với một cơ chế tỷ giá thả nổi.

Bởi vậy, thiết lập khả năng thực hiện IT và chuyển sang một cơ chế tỷ giá linh hoạt

phải đồng thời được tăng cường.

31

1.3.2 Bài học rút ra cho Việt Nam.

Thứ nhất, những yếu tố quan trọng nhằm giúp cho khuôn khổ IT khả thi hơn và ít

thách thức hơn đó là: (1) ổn định giá cả là mục tiêu bao trùm của CSTT; (2) không có áp

chế tài chính; (3) Ngân hàng Trung ương độc lập trong việc sử dụng các công cụ của

mình; (4) đồng thuận cao ở trong nước về tầm quan trọng của mục tiêu lạm phát

(inflation target); (5) sự hiểu biết cơ bản về cơ chế truyền tải CSTT, và khả năng phù hợp

nhằm tác động đến lãi suất ngắn hạn; và (6) hệ thống tài chính và các thị trường hoạt

động tốt. Những yếu tố này có thể được xem như các điều kiện cơ bản đảm bảo cho việc

đem đến một khuôn khổ IT thành công.

Thứ hai, cần có một số điều kiện nhất định để thực hiện thành công lạm phát mục

tiêu , tuy nhiên, từ kinh nghiệm của các quốc gia cho thấy, nếu thiếu một số trong những

yếu tố cơ bản sẽ làm cho việc thực hiện thành công khuôn khổ lạm phát mục tiêu khó

khăn hơn, có nhiều thử thách hơn. Vì vậy, các quốc gia nên tránh công bố lạm phát mục

tiêu trước khi đạt được một số điều kiện tối thiểu.

Thứ ba, để thực hiện thành công IT không cần thiết phải đủ tất cả các điều kiện

trước khi khuôn khổ IT được đưa ra. Kinh nghiệm các nước cho thấy, tại nhiều nước

hiện nay có khuôn khổ IT thành công, một số điều kiện chưa có ngay từ đầu, tuy nhiên,

các cơ quan quản lý trong quá trình thiết lập các điều kiện này cũng “vừa học, vừa làm”.

Ngân hàng Trung ương sẽ có những nỗ lực tốt nhất nhằm thiết lập những điều kiện cần

thiết và làm việc với chính phủ để hướng tới mục tiêu. Bằng chứng cũng cho thấy, việc

áp dụng IT thúc đẩy sự phát triển của các yếu tố góp phần thực hiện thành công chính

sách này.

Thứ tư, thiết lập các yếu tố hỗ trợ cho một khuôn khổ IT thành công và cần

phải đồng thời được củng cố. Thiết lập một số yếu tố chủ chốt có thể thúc đẩy việc

áp dụng một số dạng (form) của IT (ví dụ: IT ngầm định-implicit IT; IT một phần -

partial IT), về phần mình, điều này sẽ thúc đẩy việc thiết lập các tiền đề cho một

khuôn khổ FFIT thành công. Điều quan trọng trong quá trình chuyển đổi sang FFIT

là: (1) duy trì các chính sách vĩ mô và chính sách cơ cấu lành mạnh nhằm tạo lập

một môi trường phù hợp với IT; (2) tập trung công việc vào việc thiết lập các tiền

đề; và (3) đẩy mạnh các nỗ lực nhằm đáp ứng những yêu cầu của một cơ chế tỷ giá

32

linh hoạt hơn. Điều này sẽ giúp đất nước tránh khỏi các cú sốc bất ngờ đối với cơ

chế tỷ giá hối đoái.

Thứ năm, Ngân Hàng Trung Ương áp dụng IT cần hết sức thận trọng nhằm

tránh việc làm mất niềm tin và xói mòn hiệu quả tương lai của chính sách tiền tệ.

Bất cứ việc sửa đổi mục tiêu hoặc các tham số của mục tiêu cần được thông báo rõ

ràng cho công chúng và cần chỉ ra rằng chính sách tiền tệ tiếp tục tập trung cao độ

vào kiểm soát lạm phát trong trung hạn. Để đối phó với việc thiếu một cam kết về tỷ

lệ lạm phát thấp, Ngân hàng Trung ương cần áp dụng một kế hoạch quyết đoán để

đưa lạm phát trở lại mức mục tiêu đặt ra.

Môi trường kinh tế hiện nay là khó khăn và vô cùng bất. Các Ngân hàng

Trung ương cần cân bằng những rủi ro này để chống lại rủi ro của các áp lực lạm

phát mới sau khi giá hàng hóa đảo ngược, bởi vì nhiều nhà lập chính sách tại các

nền kinh tế tiên tiến và mới nổi nới lỏng chính sách tiền tệ nhằm đối phó với triển

vọng kinh tế xấu đi. Bởi vậy, Một loạt những thách thức mà các nhà lập chính sách

phải đối mặt trong bối cảnh toàn cầu hóa ngày càng tăng. Chịu trách nhiệm về

nhiệm vụ lạm phát mục tiêu, các Ngân hàng Trung ương áp dụng IT phải đương đầu

với những biến động trên các thị trường hàng hóa, rối loạn tài chính toàn cầu, suy

giảm kinh tế, sự đảo ngược của các luồng vốn, và tỷ giá hối đoái giảm.

33

CHƯƠNG II NGHIÊN CỨU KHẢ NĂNG ÁP DỤNG CHÍNH SÁCH TIỀN

TỆ LẠM PHÁT MỤC TIÊU TẠI VIỆT NAM

2.1. Cơ chế điều hành Chính sách tiền tệ của Việt Nam thời gian qua ( luật NHNN)

2.1.1. Mục tiêu của chính sách tiền tệ của Việt Nam thời gian qua

Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (1997) quy định: “Mục tiêu CSTT là

nhằm ổn định giá trị đồng tiền, kiềm chế lạm phát, góp phần thúc đẩy tăng trưởng

kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh và nâng cao đời sống nhân dân”.Và

luật Ngân hàng Nhà nước năm 2010 quy định: “Chính sách tiền tệ quốc gia là các

quyết định về tiền tệ ở tầm quốc gia của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, bao gồm

quyết định mục tiêu ổn định giá trị đồng tiền biểu hiện bằng chỉ tiêu lạm phát, quyết

định sử dụng các công cụ và biện pháp để thực hiện mục tiêu đề ra”.

Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã điều hành CSTT với nguyên tắc thận trọng,

linh hoạt và hiệu quả trên nền tảng các công cụ CSTT hiện đại và công nghệ tiên

tiến. Mục tiêu bao trùm CSTT tới năm 2020 là ổn định giá trị đồng tiền, kiểm soát

lạm phát, củng cố vững chắc hệ thống ngân hàng và tạo môi trường thuận lợi tăng

trưởng kinh tế. Trong đó, mục tiêu ổn định giá trị đồng tiền và kiểm soát được lạm

phát là mục tiêu quan trọng nhất và cũng là mục tiêu cơ sở để thực hiện các mục

tiêu khác (Nghị quyết số 01/NQ-CP, 2012). Khi thực hiện được mục tiêu trên,

NHNN đã góp phần ổn định được nền kinh tế tạo đà cho tăng trưởng kinh tế. Ngoài

ra, ổn định giá trị đồng tiền, kiểm soát lạm phát cũng tránh lãng phí không cần thiết

cho nền kinh tế và tạo tâm lý ổn định cho các chủ thể đầu tư, tiêu dùng trong nền

kinh tế.

Với mục tiêu kiểm soát lạm phát, NHNN cần xác định mức lạm phát bao

nhiêu là hợp lý, có nên duy trì lạm phát ở mức 0%? Thực tế cho thấy trong điều

kiện nước ta hiện nay, việc duy trì lạm phát ở mức 4% – 5% là hợp lý, bởi với mức

lạm phát thấp, không những không gây ảnh hưởng xấu tới nền kinh tế mà ngược lại

còn là chất kích thích giúp nền kinh tế phát triển.

Với mục tiêu tăng trưởng kinh tế, thông qua việc điều hành sự ổn định của lãi

suất nội tệ, ngoại tệ và bình ổn tỷ giá với mục tiêu linh hoạt trong ngắn hạn, ổn định

trong dài hạn để khuyến khích xuất khẩu, NHNN đảm bảo sự an toàn cho các nhà

34

đầu tư trong và ngoài nước. Điều này tạo sự tăng trưởng ổn định của đầu tư, qua đó

tạo ra sự tăng trưởng bền vững cho nền kinh tế.

2.1.3. Cơ chế điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng nhà nước thời gian

qua

2.1.3.1 Giai đoạn 2010 đến năm 2012

Trong thời kỳ từ 2010 đến 2012, tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam đã

giảm từ mức trên 8% của 3 năm trước, xuống chỉ còn trung bình 6,5%/năm, bối

cảnh kinh tế có nhiều yếu tố khó khăn cả trong nước và trên thị trường thế giới.

Tình hình trong nước lạm phát tăng cao, ảnh hưởng nghiêm trọng đến ổn định kinh

tế vĩ mô. Trước tình hình đó, Chính phủ đã có những chủ trương, định hướng và

quan điểm chỉ đạo điều hành về chính sách tiền tệ, thực hiện các Nghị quyết của

Đảng và Quốc hội về phát triển kinh tế xã hội, tập trung kiềm chế lạm phát, ổn định

kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội, thể hiện trong cac Nghị quyết 11/2011/NQ-

CP, Nghị quyết 01/2012/NQ-CP, Nghị quyết 13/2012/NQ-CP.

➢ Mục tiêu CSTT

Thứ nhất, về việc thực hiện chính sách đa mục tiêu, Theo luật NHNN 2010,

mục tiêu CSTT là ổn định giá trị đồng tiền. Tuy nhiên trên thực tế, NHNN Việt

Nam theo đuổi CSTT đa mục tiêu, được thể hiện rõ trong những nghị quyết của

Chính phủ và chỉ thị của NHNN ban hành hàng năm. NHNN vừa thực hiện các mục

tiêu của CSTT, đồng thời thực hiện các nhiệm vụ khác do Chính phủ đề ra như

kiềm chết lạm phát, ổn định hệ thống ngân hàng tỷ giá, giá vàng và các nhiệm vụ xã

hội khác. Do đó các giải pháp và công cụ điều hành CSTT nhiều khi phải ưu tiên

giải quyết các mục tiêu trước mắt nhằm hỗ trợ tăng trưởng để ổn định kinh tế vĩ mô.

Việc theo đuổi cùng lúc nhiều mục tiêu khác nhau làm cho NHNN đôi jhi rơi vào

tình trạng tự mâu thuẫn khi các mục tiêu lại có tác động trái chiều làm triệt tiêu

chính sách hoặc chi phối tới các mục tiêu CSTT.

Thứ hai, tác động của mục tiêu trung gian đến mục tiêu cuối cùng chưa được

rõ nét. Mục tiêu trung gian bao gồm các chỉ tiêu được NHTW lựa chọn để đạt được

mục đích cuối cùng của bCSTT. Các chỉ tiêu được lựa chọn làm mục tiêu chịu tác

động trực tiếp của công cụ CSTT và phản ánh những thay đổi tức thời trong điều

35

hành CSTT. Lựa chọn đúng mục tiêu hoạt động, mục tiêu trung gian, do đó là căn

cứ chính xác để điều chỉnh hướng cũng như liều lượng can thiệp CSTT, nhất quán

hướng tới mục tiêu cuối cùng. Hiên tại NHNN lựa chọn MB làm mục tiêu hoạt

động và M2, tăng trưởng tín dụng làm mục tiêu trung gian của CSTT.Tuy nhiên, có

thể thấy rõ ràng là tác động của M2 đến các biến số vĩ mô của kinh tế còn lỏng lẻo,

thể hiện ở diễn biến của tổng phương tiện thanh toán M2 không phù hợp với tốc độ

tăng trưởng kinh tế và lạm phát ( Bảng 2.1).

Thứ 3, NHNN chưa dự báo chính xác và kiểm soát hết các nhân tố ảnh hướng

tới mức cung tiền M2 và MB. Sự biến động thường xuyên số dư tiền gửi của Kho

bạc Nhà nước tại hệ thống NHTM làm giảm khả năng dự báo chính xác mức cung

tiền M2 của NHNN. Việc tiền tệ hóa các khoản nợ của Chính phủ một cách trực

tiếp hoạc gián tiếp khiến NHNN không độc lập trong việc chi phối các kênh cung

ứng tiền cơ sở MB. Khác biệt lớn giữa M2, tăng trưởng tín dụng thực hiện càng cho

thấy sự không chắc chắn của việc lựa chọn mục tiêu này.

➢ Điều hành công cụ CSTT

- Trong thời gian qua, NHNN đã phối hợp các công cụ một cách linh hoạt, tuy

nhiên, các các biện pháp can thiệt hành chính được sử dụng nhiều. Từ tháng 6/2002,

NHNN Việt Nam đã áp dụng cơ chế lãi suất thỏa thuận, xóa bỏ biên độ khống chế

lãi suất cho vay, cho phép các TCTD và khách hàng tự thỏa thuận lãi suất cho vay.

Tuy nhiên từ đó đến nay, NHNN đã áp dụng một số biện pháp mang tính hành

chính trong từng thời kỳ nhằm đạt được các mục tiêu khác nhau của CSTT. Mặc dù

các công cụ trực tiếp này đã kiểm soát được lạm phát, sau đó là hỗ trợ các doanh

nghiệp vay vốn. Việc quy định mức lãi suất như nhàu khiến các ngân hàng khác

nhau về mưc rủi ro khiến các NHTM nhỏ gặp khó khăn trong việc huy động vốn và

phải sử dụng nguồn vốn với quy mô khá lớn không chỉ để để giải quyết nhu cầu

thanh thoản tạm thời mà còn như một nguồn vốn huy động để cho vay đối với

khách hàng doanh nghiệp, cá nhân. Động thái trên của hệ thống ngân hàng nhiều

thời điểm đã đẩy lãi suất trên TTLNH tăng cao vào giai đoạn 2010-2012.

- Năm 2012, lạm phát có dấu hiệu chững lại và đi xuống thì NHNN liên tục

điều chỉnh trần lãi suất huy động, lãi suất tái cấp vốn theo hướng giảm dần đồng

36

hành với tốc độ lạm phát nhưng vẫn đảm bảo được nguyên tắc lãi suất thực dương.

Khi lạm phát cả năm 2013 đứng ở mức tăng 6,04% so với năm 2012 và bình quân

năm tăng 6,6%- mức tăng thaaos nhất trong vòng thập kỷ qua. Điều này chứng tỏ

hiệu quả kiềm chế lạm phát của chính sách tăng lãi suất.

➢ Đánh giá kết quả điều hành CSTT giai đoạn 2010-2012

Giai đoạn 2010-2012, kinh tế thế giới có những biến động phức tạp, trong khi

tình hình trong nước lạm phát tăng cao, ảnh hưởng nghiêm trọng đến ổn định kinh

tế vĩ mô. Trước tình hình đó, Chính phủ đã có những chủ trương, định hướng và

quan điểm chỉ đạo điều hành về chính sách tiền tệ ( CSTT), đặc biệt là điều chỉnh

mục tiêu chính sách tiền tệ, thực hiện các Nghị quyết của Đảng và Quốc hội về phát

triển kinh tế xã hội, tập trung kiềm chế lamh phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm

an sinh xã hội . Đây là sự điều chỉnh đúng hướng, phù hợp với yêu cầu tái cơ cấu

nền kinh tế vĩ mô và thị trường. NHNN đã thực hiên việc điều hành tương đối linh

hoạt, hiệu quả các công cụ chính sach tiền tệ, góp phần kiểm soát tổng Phương tiện

thanh toán và dư nợ tín dụng phù hợp với mục tiêu kiềm chế lạm phát, ổn định kinh

tế vĩ mô và bảo đảm tăng trưởng kinh tế ở mức hợp lý. Mặt bằng lãi suất huy động

và lãi suất cho vay giảm mạnh, tỷ giá cơ bản ổn định, dự trữ ngoại hối tăng nhanh;

tình trạng dola hóa, vàng hóa giảm đáng kể, niềm tin vào đồng tiền Việt Nam đã

phần nào được khẳng định. Tuy nhiên, điều hành và thực thi CSTT cũng còn nhiều

vấn đề tồn tại, đặc biệt khi thời gian tới phải đối mặt với nhiều rủi ro và thách thức

trước sự biến động phức tạp của kinh tế trong nước cũng như thế giới.

2.1.3.2. Đặc điểm điều hành CSTT ở Việt Nam giai đoạn 2013 -2016

Trong giai đoạn 2013 đến 2016, kinh tế trong nước chịu tác động của bối cảnh

kinh tế thế giới nhìn chung còn nhiều khó khăn, phức tạp, tốc độ phục hồi chậm.

Cùng với đó là những khó khăn từ những vấn đề chưa được giải quyết triệt để của

nền kinh tế trong nước như áp lực về khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế chưa

cao; sức ép nợ xấu còn nặng nề; hàng hóa trong nước tiêu thụ chậm; năng lực quản

lý và cạnh tranh của doanh nghiệp thấp… Tốc độ tăng trưởng kinh tế trong 4 năm

đều đạt ở mức thấp, nhưng có xu hướng tăng dần, trong đó tốc độ tăng trưởng năm

2013 là 6,24%, năm 2014 là 5,03%, năm 2015 là 5,42% và năm 2016 là 5,98%.

37

Doanh nghiệp hoạt động khó khăn, quy mô hàng tồn kho lớn, tuy nhiên xu hướng

thanh lọc diễn ra mạnh mẽ đã phát huy hiệu quả để sàng lọc những doanh nghiệp

thực sự có chất lượng, không chỉ linh hoạt để tồn tại qua giai đoạn khó khăn nhất

mà còn tìm kiếm cơ hội kinh doanh mới để mở rộng quy mô hoạt động. Sự ổn định

trong mục tiêu điều hành kinh tế vĩ mô, cùng với sự tăng trưởng chậm từ phía cầu

mặc dù có thể tạo ra những khó khăn cho tăng trưởng kinh tế, song đã tạo cho

CSTT sự thuận lợi nhất định trong việc thực hiện các biện pháp để đạt được mục

tiêu giảm tỷ lệ lạm phát và ổn định giá cả.

➢ Mục tiêu điều hành CSTT

Trước những bối cảnh kinh tế vĩ mô như vậy, bước sang năm 2013, Chính phủ

đã thay đổi định hướng, khẳng định mục tiêu ưu tiên kiềm chế lạm phát, ổn định

kinh tế vĩ mô . Đây dường như là lần đầu tiên có sự thống nhất trong tư tưởng chỉ

đạo của Chính phủ cũng như những phản ứng của NHNN trước diễn biến của thị

trường, thể hiện sự nhất quán cao của mục tiêu kiểm soát lạm phát. Bên cạnh đó,

Chính phủ còn nhấn mạnh tầm quan trọng của việc phối hợp chặt chẽ giữa các

chính sách vĩ mô, đặc biệt là giữa chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa trong

“cuộc chiến” chống lạm phát. Theo đó, Chính phủ xác định kiểm soát lạm phát nằm

ở vị trí số 1 trong nhóm giải pháp nhằm ổn định kinh tế vĩ mô, cần điều hành CSTT

chủ động, linh hoạt và thận trọng, chính sách tài khóa thắt chặt, kết hợp hài hòa giữa

CSTT và chính sách tài khóa để kiểm soát tốc độ tăng tổng phương tiện thanh toán

tín dụng, đảm bảo lãi suất ở mức hợp lý và đảm bảo thanh khoản cho nền kinh tế.

Tuy nhiên, điều quan trọng là các chính sách cần thực hiện đồng bộ, hiệu quả đạt

được các mục tiêu đề ra và đem lại niềm tin cho nhà đầu tư và dân chúng. Cứ như

vậy, mục tiêu điều hành của CSTT trong 4 năm cũng đã được duy trì tương đối ổn

định, tập trung vào nhiệm vụ kiểm soát lạm phát. Sự thống nhất trong mục tiêu điều

hành được kéo dài trong một khoảng thời gian 4 năm là một thuận lợi đối với CSTT

để có thể phát huy tác dụng của các công cụ điều hành, hướng đến mục tiêu ổn định

giá cả trong trung hạn từ đó củng cố lại niềm tin đối với CSTT.

➢ Điều hành công cụ CSTT

38

Bảng 2.1: Mục tiêu và thực hiện CSTT 2010 - 2016

Tăng Lạm Năm Chỉ tiêu M2 Tín dụng trưởng phát

2010 Mục tiêu 8,5 – 9 <10 25 25

Thực hiện 6,31 19,9 33,3 31,2

2011 Mục tiêu 5 <15 15-16 20

Thực hiện 5,32 6,5 12,4 14,4

2012 Mục tiêu 6,5 7 – 8 14-16 15-17

Thực hiện 6,78 11,8 22,4 8,9

2013 Mục tiêu 7 7 14-16 12

5,9 Thực hiện 18,52 18,5 12,5

<10 2014 Mục tiêu 6 – 6,5 14 – 16 15 – 17

Thực hiện 5,03 6,81 22,4 8,91

2015 Mục tiêu 5,5 6,5 14 – 16 12

Thực hiện 5,42 6,6 14,64

2016 Mục tiêu 5,8 7 16 – 18 12 – 14

5,89 Thực hiện 1,84 15,65

Nguồn: Vụ Chính sách tiền tệ - NHNN ( 2010-2016)

Trong bối cảnh tín dụng VND tăng trưởng chậm, NHNN đã nới lỏng đổi

tượng được vay ngoại tệ theo chủ trườn của Chính phủ, tập trung vào các lĩnh vực

ưu tiên và khả năng cân đối ngoại tệ của NHTM. Với lãi suất thấp hơn 4-5%/ năm

so với vay vốn VND, các doanh nghiệp có thể tiếp cận nguồn tín dụng giá rẻ, góp

phần giảm chi phí trong việc tìm kiếm thị trường mới thay thế để giảm dần sự phụ

thuộc vào thị trường Trung Quốc.

Tại một số thời điểm trong 2013, áp lực tỷ giá tăng nhẹ theo diễn biến trên thị

trường tài chính trong nước và quốc tế, một số NHTM đã nâng giá USD lên kịch

trần cho phép, thậm chí tăng giá mua bán bằng giá bán lên kịch trần 21,036 VNĐ,

giá bán USD trên thị trường tự do lên tới 21,320 VNĐ. Để chấm dứt áp lực lên tỷ

giá, ngày 27/6/2013, NHNN đã điều chỉnh tăng tỷ giá bình quân lien ngân hàng

them 1% lên mức 21,036 VNĐ sau 1,5 ổn định ở mức 20,828 VND, đồng thời tiếp

39

tục khẳng định quyết tâm ổn định tỷ giá như định hướng đề ra từ đầu năm. Sau thời

gian đó, nhu cầu USD tại các NHTM bắt đầu hạ nhiệt, gây tác động lan tỏa sang thị

trường tự do. Trong những ngày cuối năm 2013, giá USD tại NHTM ổn định quanh

mức 21,140 VND. Trên thị trường tự do, giá USD phổ biến ở mức 21.180- 21,200

VND. Nhờ chính sách ổn định tỷ giá và chủ động can thiệp trong trường hợp cần

thiết, thị trường ngoại tệ 2013 giữ được sự ổn định, tỷ giá dao động trong biên độ

cho phép, không có đột biến về nhu cầu ngoại tệ trên thị trường. Chênh lệch tỷ giá

chính thức và tỷ giá trên thị trường tự do được thu hẹp, tỷ lrrj đo la hóa giảm xuống

13,2% từ mức 15,8 % vào cuối năm 2011. Thị trường trong nước không còn chịu

tác động của giá USD trên thị trường quốc tế. Tỷ giá ổn định đã góp phần tích cực

trong việc ổn định lạm phát, thu hút đầu tư nước ngoài, tăng dự trữ ngoại hối. Do tỷ

giá ổn định, các tổ chức kinh tế và cá nhân có thiên hướng đẩy mạnh bán ngoại tệ

cho NHTM để lấy VND. Phát huy kết quả đạt được năm 2013, NHNN đề ra mục

tiêu ổn định tỷ góa vào năm 2014 với biên độ không quá 2%, kết hợp chặt chẽ giữ

chính sách tỷ giá và chính sách lãi suất.

Bước sang năm 2015, là một năm đầy biến động và thách thức, trong bối cảnh

đồng đo la Mỹ liên tục tăng giá do kỳ vọng Fed điều chỉnh tăng lãi suất và Trung

Quốc bất ngờ điều chỉnh mạnh tỷ giá đồng nhân dân tệ kéo theo làn sóng giảm

mạnh các đồng tiền của các đối tác thương mại Việt Nam. Ở trong nước , việc huy

động trái phiếu Chính phủ với lượng lớn để bù đắp thâm hụt ngân sách không thành

công đã đẩy lãi suất TPCP tăng cao, tạo áp lực lên thị trường tiền tệ. Trước tình

hình đó NHNN đã chủ động, linh hoạt trong điều hành để đưa những giải pháp phù

hợp với tình hình mới bằng cách điều chỉnh biên độ tỷ giá giữa Đồng Việt Nam và

Đô la Mỹ tăng từ +/-1% lên +/-2%. Tiếp đó NHNN điều chỉnh tỷ giá bình quân liên

ngân hàng giữa Đồng Việt Nam và USD them 1%, đồng thời mở rộng biên độ tỷ giá

từ +/-2% lên +/-3%. Việc điều chỉnh này được truyền thông rõ rang đến thị trường

và đón nhận được sự ủng hộ và đánh giá cao từ thị trường và các tổ chức tín dụng.

Tỷ giá và thị trường ngoại hối đã nhanh chóng đi vào ổn định.

➢ Đánh giá kết quả điều hành CSTT giai đoạn 2013-2016

Kinh tế vĩ mô ổn định trở lại, lạm phát đã được kiểm soát, góp phần hỗ trợ

40

tăng trưởng kinh tế

Tỷ lệ lạm phát sau khi tăng cao và biến động mạnh trong giai đoạn 2007 –

2012, trong 4 năm trở lại đây đã được kiềm chế ở mức thấp Chu kỳ lạm phát ba

năm (hai năm tăng, một năm giảm) kéo dài trong giai đoạn trước đây dường như đã

được xóa bỏ, gợi ý rằng chu kỳ lạm phát tăng cao có thể đã chấm dứt và Việt Nam

có thể đi vào một thời kỳ có mức tăng lạm phát ổn định hơn.

Với mục tiêu điều hành chính sách tiền tệ thận trọng nhằm ổn định kinh tế vĩ

mô và hỗ trợ hệ thống doanh nghiệp thoát khỏi tình trạng khó khăn, CSTT của

NHNN giai đoạn vừa qua đã góp phần duy trì đà tăng trưởng kinh tế nhất định trong

điều kiện vĩ mô nhiều bất ổn. Dù chịu áp lực mở rộng tín dụng từ nhiều phía để thúc

đẩy nền kinh tế Việt Nam thoát khỏi suy thoái, NHNN vẫn kiên trì định hướng tăng

trưởng tín dụng thận trọng nhằm đáp ứng nhu cầu vốn của nền kinh tế theo nguyên

tắc bảo đảm chất lượng tín dụng, hạn chế phân bổ vốn vào khu vực không khuyến

khích có nguy cơ gây ra lạm phát cao và tăng trưởng thiếu bền vững trong tương lai.

Bên cạnh đó, NHNN cũng tạo điều kiện thuận lợi cho các NHTM chuyển dịch cơ

cấu tín dụng theo hướng ưu tiên tập trung vào lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, sản

xuất hàng xuất khẩu…; điều chỉnh giảm lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa bằng VND

đối với năm nhóm lĩnh vực ưu tiên; kiểm soát tỷ trọng dư nợ cho vay đối với các

lĩnh vực không khuyến khích. Nhờ vậy, tăng trưởng kinh tế tuy không phục hồi

mạnh mẽ nhưng đã được cải thiện dần qua thời gian.

Diễn biến CSTT và lạm phát, tăng trưởng kinh tế trong giai đoạn vừa qua đã

cho thấy mục tiêu tăng trưởng không phải khi nào cũng có thể đánh đổi bằng mức

lạm phát cao, bằng chứng là giai đoạn 2010 – 2012, tỷ lệ lạm phát cao song tốc độ

tăng trưởng kinh tế vẫn thường xuyên không đạt mục tiêu đề ra. Ngược lại trong các

năm 2015, 2016, sự ổn định giá cả do CSTT mang lại lại có tác động lớn đối với ổn

định kinh tế vĩ mô, do đó, thúc đầy phục hồi kinh tế.

Tình trạng đôla hóa, vàng hóa có xu hướng giảm, tỷ giá diễn biến ổn định, dự

trữ ngoại hối được cải thiện

NHNN đã từng bước điều chỉnh tỷ giá về đúng giá trị thực, thông qua đó, làm giảm

áp lực tăng giá nội tệ và đảm bảo lợi thế ngoại thương của hàng hóa xuất khẩu của Việt

41

Nam. Điều đáng nói là đã có sự thay đổi đáng kể trong cách thức điều hành tỷ giá. Đã có

sự thông báo trước biên độ và chủ động điều chỉnh trong năm để giúp neo giữ kỳ vọng tỷ

giá và tạo sự ổn định trên thị trường ngoại hối. Nếu như trong giai đoạn trước, tỷ giá

thường được cố gắng neo giữ, sau đó, đến khi không thể neo giữ thêm thị đồng nội tệ

được phá giá với biên độ lớn. Tuy nhiên, trong 3 năm trở lại đây, tỷ giá đã được điều

chỉnh linh hoạt về mức giá trị thực, với nhiều lần điều chỉnh và mỗi lần điều chỉnh chỉ

diễn ra với biên độ nhỏ. Cùng với đó là nỗ lực giảm mức đô la hóa trong nền kinh tế,

tuyên bố rõ ràng và thực thi có kết quả các cam kết về biến động tỷ giá của NHNN, từ đó

tạo dựng niềm tin của thị trường đối với chính sách tỷ giá.

Hình 2.2 : Diễn biến giá vàng và biến động tỷ giá trên thị trường tự do

giai đoạn 2009 – 2016

Nguồn:Vụ Quản lý ngoại hối - NHNN, Reuters

Tình trạng đô la hóa tiền mặt đã được kiểm soát nhờ những hoạt động kiểm

tra chặt chẽ và ráo riết của NHNN phối hợp với các cơ quan chức năng trong

việc hạn chế, phát hiện và xử lý các trường hợp mua bán ngoại tệ trái quy định

của pháp luật.Tình trạng đô la hóa bảng tổng kết tài sản của hệ thống ngân hàng

cũng giảm, thể hiện qua tỷ lệ tăng trưởng huy động vốn ngoại tệ giảm mạnh

(Hình 2.2)

42

Hình 2.3 : Tốc độ huy động vốn ngoại tệ giai đoạn 2010-2016

Nguồn: Vụ Dự báo thống kê tiền tệ - NHNN

Cùng với diễn biến tương đối ổn định của tỷ giá và xu hướng giảm của tình

trạng đô la hóa, dự trữ ngoại hối của Việt Nam đạt mức cao nhất trong lịch sử, hơn 35

tỷ USD vào tháng 6/2016 do NHNN đã mua được lượng lớn ngoại tệ bổ sung. Điều

này vừa làm tăng khả năng kiểm soát tỷ giá của NHNN, đồng thời góp phần nâng cao

niềm tin của công chúng đối với các giải pháp điều hành chính sách tiền tệ.

Lãi suất được điều hành theo hướng giảm dần nhưng vẫn đảm bảo mức chênh

lệch đáng kể giữa lãi suất VND và lãi suất USD, giúp gia tăng lợi ích cho người

dân nắm giữ VND.

Nhờ sự điều hành hợp lý và khéo léo của chính sách tiền tệ trong thời gian

qua đã giúp Việt nam đạt được mục tiêu ổn định lạm phát và tỷ giá đồng thời cũng

hỗ trợ được cho tăng trưởng GDP. Điều đáng nhấn mạnh ở đây là sự thành công

trong điều hành chính sách lãi suất trong giai đoạn 2014-2016 so với giai đoạn trước

đó thể hiện rõ nét ở việc lãi suất thị trường giảm nhưng chênh lệch giữa lãi suất

VND và lãi suất USD cũng được thu hẹp đáng kể trong khi tỷ giá vẫn ổn định (Hình

2.4 ). Đây là một minh chứng cho thấy chính sách tiền tệ của NHNN một mặt vừa

giúp tăng cường được vị thế của đồng Việt Nam, mặt khác thông qua việc giảm

được lãi suất thị trường đã giúp cho các doanh nghiệp nâng cao hơn nữa khả năng

tiếp cận vốn giúp hỗ trợ tích cực cho sự hồi phục của nền kinh tế.

43

Hình 2.4 : Chênh lệch lãi suất huy động VND và USD

Nguồn: Vụ Quản lý ngoại hối - NHNN

2.2 Đánh giá chính sách tiền tệ của Việt Nam và sự cần thiết phải áp dụng chính

sách tiền tệ lạm phát mục tiêu ở Việt Nam

2.2.1. Đánh giá

2.2.1.1 Về những thành tựu đạt được:

Có thể khẳng định rằng thành tựu nổi bật nhất trong điều hành CSTT là đã

phần nào kiểm soát được lạm phát, hỗ trợ tốt cho tăng trưởng kinh tế.

Thứ nhất, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, đẩy lùi và kiểm soát được lạm phát, ổn

định sức mua của đồng Việt Nam. Sự ổn định trong việc điều hành kinh tế vĩ mô đã tạo

điều kiện giúp nền kinh tế Việt Nam đạt được tốc độ tăng trưởng cao và ổn định. Từ

năm 2014 luôn đạt mức tăng trưởng dương và cao hơn nhiều so với các năm trước đó.

Trong các năm 2013, 2014, 2015, 2016 khi hầu hết các quốc gia trên thế giới có mức

tăng trưởng âm, nền kinh tế có dấu hiệu đi xuống thì Việt Nam lại tăng trưởng lần lượt

ở các mức 6,18%, 5,32%, 6,78%, 5,89%; mặc dù thấp hơn các năm trước đó nhưng

cũng đã thể hiện được nỗ lực không nhỏ của Chính phủ Việt Nam cũng như các cơ

quan điều hành trong việc kiềm chế lạm phát. Các mục tiêu kinh tế xã hội khác như

chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo thêm công ăn việc làm, thực hiện chính sách xóa đói

44

giảm nghèo, v.v... cũng được hỗ trợ bằng các biện pháp cụ thể như: tỷ trọng cho vay

đối với các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh tăng lên, ưu tiên đầu tư tín dụng vào

các ngành trọng điểm, mũi nhọn, cho vay người nghèo, v.v...

Hình 2.5 : Diễn biến lạm phát từ năm 2013 – 2016

Nguồn: Tổng cục thống kê - http://www.gso.gov.vn

Thứ hai, các công cụ của CSTT được xây dựng tương đối hoàn chỉnh, chuyển

dần từ sử dụng các công cụ trực tiếp sang các công cụ gián tiếp. Thời gian đầu,

công cụ CSTT được sử dụng chủ yếu là các công cụ trực tiếp như hạn mức tín dụng,

công cụ kiểm soát lãi suất. Tuy nhiên, ngay trong việc sử dụng công cụ trực tiếp

cũng có những chuyển biến tích cực: đầu tiên, ngân hàng Nhà Nước Việt Nam quy

định tỷ lệ lãi suất cụ thể, sau đó là trần lãi suất, lãi suất cơ bản và cuối cùng là lãi

suất thoả thuận. Cho đến nay, các công cụ trực tiếp được sử dụng ít đi, Ngân hàng

Nhà Nước Việt Nam chủ yếu điều hành CSTT bằng các công cụ gián tiếp như dự

trữ bắt buộc, chiết khấu, nghiệp vụ thị trường mở.

Nhìn chung trong tình hình nền kinh tế có những dấu hiệu bất ổn định, lạm

phát gia tăng, các công cụ của CSTT đã được NHNN Việt Nam áp dụng theo hướng

thắt chặt nhằm giảm thiểu mức cung ứng tiền tệ trong nền kinh tế. Các công cụ

được thực hiện cả đan xen và kết hợp với nhau, trong đó việc điều chỉnh công cụ

này lại góp phần làm thay đổi các chính sách ở công cụ kia. Cụ thể, khi ngân hàng

Nhà Nước Việt Nam thực hiện nâng hạn mức tín dụng cho vay đối với các NHTM,

khiến cho dư nợ tín dụng tăng lên, lưu lượng cho vay giảm xuống, khiến lãi suất

45

cho các khoản vay tăng lên. Hay khi NHNN Việt Nam tăng tỷ lệ DTBB đối với các

NHTM, khiến cho lượng dự trữ vượt quá giảm xuống, lượng vốn cho vay do đó

giảm xuống, khiến cho các NHTM phải tăng cường huy động vốn bằng việc nâng

lãi suất tiền gửi, v.v…Các công cụ của CSTT đã được kết hợp một cách tương đối

chặt chẽ và linh hoạt với nhau, thể hiện sự nỗ lực của NHNN Việt Nam trong việc

chống lại những tác động xấu của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới.

2.2.1.2 Những bất cập và nguyên nhân:

❖ Những bất cập:

Thứ nhất, mục tiêu của CSTT chưa rõ ràng, thậm chí mâu thuẫn nhau.

Trong nhiều năm qua, Việt Nam đã và đang thực hiện CSTT đa mục tiêu.

Chúng ta vừa kỳ vọng đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng, nhanh chóng vươn lên và ra

khỏi nhóm nước có thu nhập thấp và giải quyết công ăn việc làm, vừa kỳ vọng kiểm

soát giá cả và lạm phát, ổn định tiền tệ, vừa sử dụng CSTT như một công cụ bổ trợ

ổn định ngân sách, xóa đói giảm nghèo, đảm bảo an ninh quốc gia. Trong những

năm gần đây đây, cơ chế điều hành CSTT này đã bắt đầu bộc lộ những hạn chế của

mình. Lạm phát Việt Nam lên mức cao nhất khu vực mà nguyên nhân chính là tăng

trưởng quá nóng. Lạm phát cao luôn là mối đe dọa tiềm ẩn đối với sự ổn định kinh

tế vĩ mô và tăng trưởng kinh tế dài hạn ở Việt Nam. Cùng với đó, quá trình hội nhập

quốc tế và tự do hóa tài chính mạnh mẽ trong khi những nền tảng kinh tế vĩ mô còn

yếu kém, lỏng lẻo khiến mục tiêu ổn định và kiểm soát lạm phát của NHNN trong

những năm tới là khá khó khăn. Việc điều hành CSTT có tính “giật cục” từ đầu năm

2013 đến nay chỉ để chống đỡ lạm phát là minh chứng rất rõ cho vấn đề này. Kết

quả nghiên cứu và thực tế cho thấy Chính phủ đã có những phản ứng chậm và thụ

động trong đa số trường hợp trong việc chống lạm phát thông qua các chính sách

tiền tệ và tài khóa.

Thứ hai, các công cụ CSTT còn lạc hậu và bộc lộ nhiều bất cập.

Công cụ lãi suất: trong giai đoạn 2013 đến nay, NHNN đã thực hiện tiến trình

tự do hóa lãi suất. Với việc trần lãi suất cho vay ngoại tệ được xóa bỏ và việc thực

hiện cơ chế lãi suất thỏa thuận đối với VNĐ thì lãi suất đã được tự do hóa hoàn

toàn. Lãi suất cơ bản NHNN Việt Nam công bố làm tham khảo và định hướng lãi

46

suất thị trường. Các TCTD mở rộng huy động và cho vay đối với nền kinh tế, qua

đó góp phần giúp kinh tế đạt được sự tăng trưởng cao qua nhiều năm. Tuy nhiên,

cùng với tốc độ tăng trưởng cao của nền kinh tế qua các năm thì áp lực lạm phát đã

gia tăng qua các năm năm 2013, 2015 và 2016. Cùng với đó là dấu hiệu của cuộc

đại suy thoái kinh tế thế giới mà khởi nguồn từ cuộc khủng hoảng tín dụng ở Mỹ.

Vì vậy, CSTT thắt chặt đã được NHNN Việt Nam thực thi từ đầu năm 2013 và áp

dụng triệt để từ năm 2016 đến nay. Việc thắt chặt CSTT là quyết định tất yếu để

ngăn chặn đà lạm phát đang gia tăng mạnh. Tuy nhiên, hiệu ứng ngắn hạn của nó là

tác động đến tính thanh khoản của các TCTD, đẩy lãi suất huy động của các TCTD

lên cao. Do vậy, có thể gây mất an toàn hệ thống tài chính – ngân hàng.

Công cụ hạn mức tín dụng: HMTD là một công cụ mạnh, mang tính hành

chính và có hiệu lực đáng kể. Tuy nhiên, trong nền kinh tế thị trường, cung cầu tín

dụng luôn biến động không ngừng nên công cụ này ít được NHNN Việt Nam áp

dụng. Mặc dù vậy, trong những năm nền kinh tế có lạm phát ở mức cao, công cụ

này cũng đã góp vai trò tích cực trong việc kiểm soát vấn đề lạm phát.

Trong trường hợp NHNN Việt Nam áp dụng công cụ này, NHNN Việt Nam luôn

có sự điều chỉnh mục tiêu HMTD sao cho phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế.

Bởi nếu cố định HMTD một cách chủ quan có thể dẫn tới sự phát triển không lành

mạnh của nền kinh tế. Trong trường hợp mức tăng trưởng tín dụng quá cao có thể

dẫn tới tình trạng lạm phát. Ngược lại, khi dòng vốn không được cung cấp đầy đủ

cho các chủ thể trong nền kinh tế có thể kiềm chế sự phát triển của nền kinh tế,

trong khi tăng trưởng tín dụng chưa gây ra hiệu ứng đáng lo ngại về lạm phát đối

với nền kinh tế. Chính vì thế, NHNN Việt Nam phải dựa trên những quyết định, chủ

trương của Chính phủ, và thực tiễn nền kinh tế để đưa ra những quyết định đúng

đắn đối với mức HMTD.

Công cụ chiết khấu: công cụ chiết khấu chưa thực sự đóng vai trò là công cụ

của NHNN Việt Nam để cung ứng nguồn vốn ngắn hạn và bù đắp thiếu hụt tạm thời

trong thanh toán của các NHTM, thể hiện là nghiệp vụ này diễn ra không thường

xuyên, số lượng NHTM tham gia chiết khấu không nhiều, chủ yếu tập trung ở

NHTM quốc doanh và chưa tác động đến các điều kiện tín dụng trên thị trường

47

nhằm đạt được mục tiêu CSTT trong từng thời kỳ. Mức độ tác động của lãi suất

chiết khấu đối với lãi suất thị trường và nhu cầu tiền tệ chưa cao, sự thay đổi lãi suất

tái chiết khấu trong thời gian qua không làm tăng, giảm nhu cầu vay vốn của các

NHTM. Có thể nói, công cụ tái chiết khấu chưa thực hiện được đúng vai trò là công

cụ cấp tín dụng ngắn hạn (kể cả hình thức cho vay qua đêm) của NHNN Việt Nam

cho các ngân hàng và chưa có sự phân biệt rõ giữa các hình thức tái chiết khấu.

Việc điều tiết tiền tệ thông qua công cụ tái chiết khấu trong từng thời kỳ cũng chưa

được định hướng rõ: điều tiết qua lãi suất hay qua khối lượng.

Công cụ DTBB: DTBB có liên quan đến lãi suất đầu vào và việc cung ứng vốn cho

nền kinh tế, vì vậy việc điều chỉnh tỷ lệ DTBB nên linh hoạt hơn đối với tiền gửi là

ngoại tệ do tình hình ngoại tệ của các NHTM hiện nay huy động rất khó khăn trong

khi nhu cầu vay của nền kinh tế rất cao chưa đáp ứng được.

Công cụ tỷ giá hối đoái: trong nền kinh tế thị trường thì tỷ giá hối đoái được

xem như là một trong những công cụ tiền tệ quan trọng nhất trong quản lý và điều

hành kinh tế của đất nước. Do vậy, việc sử dụng công cụ tỷ giá như thế nào để nó

có thể được phát huy với tư cách là một công cụ tiền tệ quan trọng là một trong

những vấn đề cần có sự quan tâm đúng mức.

Từ sau đổi mới kinh tế đến nay, tỷ giá hối đoái đã được sự quan tâm đặc biệt

của các nhà chức trách, đặc biệt là của các doanh nghiệp, theo đó là của một bộ

phận không nhỏ dân cư trong xã hội. Tuy nhiên, để tỷ giá hối đoái có thể được phát

huy đầy đủ vai trò vốn có của nó thì việc nhận thức một cách chính xác, đầy đủ và

toàn diện bản chất của tỷ giá hối đoái trong nền kinh tế thị trường, đặc biệt trong

điều kiện cụ thể của Việt Nam là một yếu tố cực kỳ quan trọng.

Thứ ba, điều hành CSTT với chế độ tỷ giá chưa hợp lý.

Trong giai đoạn từ năm 2013 đến nay, Việt Nam đã thực hiện điều chỉnh tỷ giá

giữa VND và USD theo từng thời kỳ trong năm, biên độ tỷ giá được nới lỏng ở mức

thấp hơn 1%. Điều này được lý giải là do đến nay VND vẫn là một đồng tiền yếu

khi nhìn từ nhiều góc độ khác nhau của một đồng tiền. Trước hết, và cũng là từ góc

nhìn quan trọng nhất thì tiền Việt Nam vẫn chỉ là một đồng tiền quốc gia, chưa

được phép tự do chuyển đổi, chưa được bất cứ bạn hàng nào trên thị trường thế giới

48

chấp nhận làm đồng tiền thanh toán quốc tế trong các giao dịch kinh tế quốc tế. Do

vậy, vị thế của VND trên thị trường tiền tệ thế giới nói chung, trong các giao dịch

kinh tế đối ngoại nói riêng, chưa được xác lập, chưa có khả năng cạnh tranh với các

đồng tiền khác trên thị trường thế giới, đặc biệt với các ngoại tệ tự do chuyển đổi

như USD, EURO, v.v… Hơn nữa, khi đã là một đồng tiền yếu thì khả năng chống

chọi lại với những biến động bất thường trong đời sống kinh tế thế giới - đặc biệt

với các cuộc khủng hoảng kinh tế - tài chính thế giới là rất nhỏ. Là một đồng tiền

yếu mà thường xuyên bị điều chỉnh theo hướng giảm dần sức mua so với các ngoại

tệ tự do chuyển đổi như USD thì việc kiềm chế và đẩy lùi lạm phát tiền tệ rất khó có

thể thực hiện được. Nói cách khác, khi một đồng tiền yếu lại thường xuyên bị “phá

giá” theo kiểu thường xuyên điều chỉnh giảm tỷ giá hối đoái, làm giảm sức mua của

nó thì việc duy trì sự ổn định sức mua của đồng tiền là rất khó. Theo đó, lạm phát

lại luôn có cơ hội để bùng phát.

Những bài học kinh nghiệm của thế giới về phá giá tiền tệ luôn là những cảnh

báo cần được quan tâm đặc biệt mỗi khi thực hiện thay đổi tỷ giá hối đoái. Do vậy,

có thể nhận thức được một cách sâu sắc rằng việc phá giá tiền tệ chỉ có thể thực

hiện trong những hoàn cảnh đặc biệt, và không phải với nền kinh tế nào cũng có thể

sử dụng giải pháp này. Đây cũng là cái lý mà nhiều năm nay, Trung Quốc vẫn

không thực hiện phá giá đồng tiền của họ theo khuyến cáo của một số tổ chức tài

chính quốc tế, cũng như một số nước lớn trên thế giới, trong đó nổi lên là Mỹ. Phá

giá tiền tệ mà không làm tốt khâu chuẩn bị thì hậu quả với nền kinh tế đất nước sẽ

là rất khó lường. Vì vậy, trong những trường hợp như thế, có thể nói được là, “phá

giá tiền tệ là phá vỡ niềm tin”.

Việc thực hiện công cụ tỷ giá hối đoái còn nhiều hạn chế. Đến nay, tỷ giá hối

đoái mới được các NHTM xem như là một công cụ đơn thuần nhằm phục vụ cho

mục đích kinh doanh của họ. Do vậy mà những điều chỉnh nới lỏng biên độ dao

động của tỷ giá hối đoái rất được các NHTM đặc biệt quan tâm. Mặt khác, do có sự

điều chỉnh và quản lý của NHTW trong việc thay đổi tỷ giá hối đoái nên các NHTM

khó có thể tự do thay đổi tỷ giá theo ý mình, và đó cũng trở thành một trong những

áp lực cho NHTW. Khi NHTW chưa kịp điều chỉnh thì có thể khiến cho các NHTM

49

gặp khó khăn trong việc mua bán ngoại tệ, thậm chí còn là cản trở cho hoạt động

của doanh nghiệp. Điều này đã dẫn đến quan điểm muốn tự do hóa lãi suất, tự do

hóa tỷ giá hối đoái, tự do hóa ngoại hối, tức là muốn thả nổi hoàn toàn. Những quan

điểm này thường bắt nguồn từ một nhận thức cực đoan rằng, đã là kinh tế thị trường

thì mọi biến động của giá cả, lãi suất, tỷ giá hối đoái trên thị trường đều do thị

trường quyết định, Nhà nước không thể, và theo đó là, không nên có một sự can

thiệp nào. Giá cả, lãi suất, tỷ giá hối đoái là những công cụ kinh tế có tầm quan

trọng đặc biệt, và là những công cụ kinh tế luôn có độ nhạy cảm kinh tế rất cao, do

vậy việc nhận biết và vận dụng chúng trong điều hành kinh tế vĩ mô cần có một sự

chuẩn xác và linh hoạt. Hơn nữa, vẫn còn nhiều quan điểm về tỷ giá hối đoái thiếu

chuẩn xác. Đó là việc cho rằng, “các nước lựa chọn một hệ thống kinh tế mở thường

thiên về lựa chọn chế độ tỷ giá cố định”. Thực ra, chế độ tỷ giá cố định chỉ xuất

hiện trong điều kiện của một nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung – quan liêu – bao

cấp. Trong kinh tế thị trường, chế độ tỷ giá thường được lựa chọn là thả nổi, và thả

nổi có kiểm soát.

Hiện nay, vấn đề sử dụng ngoại tệ nào để làm đồng tiền định giá cũng đang

được sự quan tâm của các chuyên gia kinh tế và các nhà khoa học. Có ý kiến cho

rằng, đã từ lâu, đồng Việt Nam gắn bó với USD, coi USD vừa là đồng tiền thanh

toán, vừa là đồng tiền định giá. Với tình hình mới của thế giới và trong nước, liệu

có nên tiếp tục gắn VND với USD nữa không? Điều này nghĩa là, ngoài USD, tiền

Việt Nam nên có sự chuyển đổi giữa đồng Yên Nhật, Bảng Anh. Khi đó, việc mở

rộng quan hệ giữa VND với các ngoại tệ khác lại càng làm cho không những các

nhà kinh doanh sẽ phải năng động hơn và kỹ lưỡng hơn trong các quyết định kinh

doanh của mình, mà còn làm cho các nhà chức trách càng thấy sự cần thiết phải

nhanh chóng làm cho VND sớm trở thành đồng tiền tự do chuyển đổi.

Một loại ý kiến khác cần được xem xét, nghiên cứu một cách cẩn trọng là, chủ

động giảm giá đồng Việt Nam ở mức độ vừa phải để có thể một mặt hỗ trợ các

doanh nghiệp xuất khẩu và cạnh tranh với hàng nhập khẩu. Việc giảm sức mua của

đồng bản tệ để đẩy mạnh xuất khẩu là một trong những vấn đề được rút ra từ thực

tiễn hoạt động kinh doanh (chủ yếu trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại – trong xuất

50

nhập khẩu hàng hóa), và vì thế, nó cũng đã trở thành một trong những vấn đề có

tính lý thuyết để giảng dạy trong các trường kinh tế. Tuy nhiên, việc giảm giá đồng

bản tệ còn tùy thuộc vào kiều kiện kinh tế - xã hội cụ thể của từng nước. Với những

nước giàu thì đây chỉ là vấn đề có tính sách lược, chỉ áp dụng cho những thời điểm

cần thiết. Khi tiến hành phá giá như vậy, người ta đã có sự tính toán rất cẩn thận

khoản ngân sách Nhà nước cần có để bù đắp cho các thành viên trong xã hội khi

đồng tiền của họ bị mất giá.

Tỷ giá hối đoái là một công cụ tiền tệ có một vai trò đặc biệt quan trọng trong

điều hành kinh tế vĩ mô cũng như trong hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp

nói chung, của các NHTM nói riêng. Việc đề ra chính sách tỷ giá hối đoái không chỉ

cần tôn trọng các quy luật vận động của kinh tế thị trường nói chung, mà đặc biệt

còn tùy thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia. Vì vậy, không có

một khuôn mẫu nào cho chính sách tỷ giá hối đoái có thể áp dụng cho tất cả các

nước được. Trong đó, việc phá giá tiền tệ luôn là một trong những vấn đề mang tính

nhạy cảm cao nên càng phải rất thận trọng khi đề cập đến vấn đề này.

Thứ tư, điều hành CSTT dựa trên lượng cung tiền là chủ yếu, không dựa trên

lãi suất thị trường.

Để thực hiện nhiệm vụ ổn định giá trị đồng tiền, NHNN đã xây dựng và thực

thi các công cụ CSTT nhằm đưa tiền ra và rút tiền về từ lưu thông theo tín hiệu thị

trường. Trong đó, NVTTM là công cụ CSTT gián tiếp quan trọng nhất để làm thay

đổi cung – cầu tiền tệ dẫn đến thay đổi lãi suất trên thị trường tiền tệ.

Thông qua việc mua bán giấy tờ có giá tại thị trường mở, NHNN có thể mở

rộng hoặc thu hẹp khối lượng tiền dự trữ trong hệ thống ngân hàng và tác động một

cách tốt nhất đến cơ số tiền tệ, lượng tiền cung ứng.

Hiện nay số thành viên tham gia vào thị trường mở tuy có xu hướng tăng qua

các năm nhưng vẫn chiếm tỷ lệ rất nhỏ trong tổng số các NHTM trên thị trường tài

chính và chủ yếu là các NHTM có quy mô nhỏ đa số vẫn còn đứng ngoài cuộc đã

hạn chế hiệu quả điều tiết thị trường của nghiệp vụ này.

Hàng hóa tham gia thị trường mở còn nghèo nàn về chủng loại, các công cụ tài

chính chủ yếu giao dịch trên thị trường mở bao gồm các loại giấy tờ có giá phát

51

hành bằng đồng Việt Nam như: tín phiếu NHNN Việt Nam, trái phiếu Chính phủ

và trái phiếu chính quyền địa phương do UBND thành phố HCM và UBND thành

phố Hà Nội phát hành. Việc điều tiết lượng tiền trên thị trường mở còn thực hiện

một chiều, chủ yếu là dùng là kênh bơm tiền đáp ứng nhu cầu thiếu hụt vốn khả

dụng của các NHTM mà chưa thực hiện tốt chức năng của nghiệp vụ này là sử dụng

như một kênh thu hút tiền nhàn rỗi của các NHTM nhằm trung hoà nguồn vốn được

bơm quá nhiều qua kênh khác.

Thứ năm, điều hành chính sách tiền tệ không song hành với chính sách tài

khóa.

Kể từ năm 2013 đến nay, Để thực hiện các yêu cầu ổn định vĩ mô, khôi phục

hệ thống doanh nghiệp, đảm bảo an sinh xã hội, cả chính sách tài khóa và CSTT đều

được vận dụng tối đa. Tuy vậy, các yêu cầu này được thực hiện một cách bị động

khi vấn đề đã nảy sinh và các chính sách được sử dụng để giảm nhẹ hậu quả.

Trong quá trình triển khai, mỗi chính sách thường sử dụng công cụ riêng của

mình và theo đuổi các mục tiêu chính sách riêng. Chính sách tài khóa vừa phải thực

hiện yêu cầu kiểm soát hoặc cắt giảm chi tiêu, vừa thực hiện chức năng hỗ trợ các

doanh nghiệp, tập đoàn nhà nước, đảm bảo an sinh xã hội. CSTT một mặt nhằm

mục tiêu kiềm chế lạm phát nhưng vừa phải duy trì sự ổn định của hệ thống ngân

hàng, đôi khi các mục tiêu này lại mâu thuẫn với yêu cầu tăng trưởng hoặc tháo gỡ

khó khăn cho hệ thống doanh nghiệp. Vì thế mà rất khó thực hiện yêu cầu cắt giảm

chi tiêu cũng như yêu cầu đảm bảo phân bổ chi tiêu đúng đối tượng và có hiệu quả.

Tình trạng này dẫn tới mâu thuẫn và khó khăn trong việc phối hợp giữa hai chính

sách ở Việt Nam.

CSTT luôn là công cụ chủ yếu và quan trọng nhất để điều chỉnh nền kinh tế

trong việc chống lạm phát hay tăng trưởng kinh tế. CSTK đôi khi chưa thật thắt chặt

trong thời kỳ lạm phát cao và chưa phát huy hết vai trò trong thời kỳ ưu tiên tăng

trưởng kinh tế. Trong thực tế việc định lượng các mục tiêu kinh tế vĩ mô thường

dựa vào mức đã đạt được năm trước mà ít có sự dự báo những biến động trong kỳ

kế hoạch và độ trễ của các chính sách trong thời kỳ trước. Ðặc biệt, từ năm 2013,

các chỉ tiêu vĩ mô phản ánh mục tiêu chính sách thường xuyên bị điều chỉnh căn cứ

52

vào năng lực đạt được mục tiêu của nền kinh tế. Ðiều này thể hiện việc xây dựng

mục tiêu chính sách khá hình thức và ảnh hưởng đến sự phối hợp chính sách một

cách chủ động.

❖ Những nguyên nhân:

Thứ nhất, là do NHNN là mô hình NHTW trực thuộc Chính phủ nên NHNN

phải chịu sức ép của chính phủ.

NHNN Việt Nam chưa thực sự là cơ quan hoạch định CSTT mà về cơ bản chỉ

là cơ quan thực thi CSTT, thậm chí quá trình điều hành còn bị chi phối bởi các

quyết định của Chính phủ. CSTT phụ thuộc quá nhiều vào các chính sách khác,

thậm chí làm hộ công việc của các khác như chính sách hỗ trợ thông qua lãi suất, tỷ

giá; khoanh nợ, xoá nợ của các NHTM, v.v... Thêm vào đó, còn có khá nhiều các cơ

quan, tổ chức tham gia chỉ đạo và giám sát việc xây dựng, thực thi CSTT.

Thứ hai, là nền kinh tế vẫn trong tình trạng bị “đô là hóa” và “vàng hóa”.

Một nền kinh tế khi ngoại tệ được sử dụng một cách rộng rãi thay thế cho đồng bản

tệ trong toàn bộ hay một số chức năng của tiền tệ thì theo thông lệ chung có thể hiểu

nền kinh tế đó bị “đô la hoá”. Ở Việt Nam, tỷ lệ “đô la hóa” và “vàng hóa” những

năm gần đây khá cao. Khi nền kinh tế bị đô la hoá, vàng hóa thì đồng bản tệ thực

chất đang bị yếu đi và kém hấp dẫn, không được ưa chuộng, thể hiện ở tiêu chí tỷ

trọng ngoại tệ (USD) trong tổng phương tiện thanh toàn ngày càng lớn và đôla được

sử dụng trong các giao dịch thanh toán ngày càng nhiều... Đô la hoá cũng có những

lợi ích kinh tế nhất định, như đôla hoá gắn chặt hơn nền kinh tế trong nước với nền

kinh tế quốc tế, mở ra cơ hội cạnh tranh với các thị trường này; giảm chi phí in tiền

cho NHNN. Tuy nhiên, đôla hóa có những ảnh hưởng tiêu cực rất lớn đến nền kinh

tế như “đô la hóa”, “vàng hóa” khiến cho khả năng kiểm soát cung tiền của NHNN

gặp khó khăn, hiệu quả của các công cụ chính sách tiền tệ hạn chế và tác động rất

phức tạp, làm cho việc thiết lập cơ chế chuyển tải chính sách tiền tệ khó khăn hơn,

thậm chí gây áp lực tới NHNN can thiệp trên thị trường ngoại hối.

Thứ ba, là do ảnh hưởng của sự suy thoái kinh tế diễn ra trên toàn thế giới

làm cho thị trường tiền tệ Việt Nam trở nên nhiều bất ổn, xáo trộn .

53

Diễn biến kinh tế thế giới trong những năm qua diễn biến khó lường, các cuộc

khủng hoảng liên tiếp nổ ra kéo theo sự suy thoái kinh tế trên toàn thế giới cũng ảnh

hưởng nhất định đến việc xác định mục tiêu, khả năng dự báo và điều hành CSTT

của Việt Nam. Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ, diễn biến phức tạp giá dầu thô

trên thị trường quốc tế có ảnh hưởng nhất định đến khả năng dự báo, hoạch định

mục tiêu điều hành CSTT của NHNN Việt Nam.

Thứ tư, là do hoạt động ngân hàng thiếu kỷ luật và còn chưa minh bạch.

Cùng với sự phát triển nhanh về quy mô, các TCTD hiện nay đang tiềm ẩn

những yếu kém, rủi ro nhất định. Hệ thống các TCTD tiềm ẩn rủi ro tín dụng và rủi

ro thanh khoản khá cao, tính ổn định, hiệu quả hoạt động và khả năng cạnh tranh

chưa cao. Chất lượng tín dụng còn thấp. Tỷ lệ nợ xấu so tổng dư nợ đối với nền

kinh tế trên thực tế còn cao. Hiện nay, một khối lượng không nhỏ tín dụng được đầu

tư vào bất động sản trong khi thị trường bất động sản sụt giảm mạnh và chưa có khả

năng phục hồi trong ngắn hạn. Do đó, nguy cơ nợ xấu tiếp tục tăng sẽ tác động

không nhỏ đến khả năng thanh khoản và kết quả kinh doanh của một số các TCTD

có liên quan chặt chẽ đến bất động sản (đầu tư bất động sản, nhận tài sản bảo đảm

bằng bất động sản cho các khoản tín dụng, cấp tín dụng cho các ngành xây dựng).

Sự đan xen sở hữu vốn TCTD này với TCTD khác dẫn đến không chỉ vấn đề vốn

điều lệ tăng không thực chất mà còn giảm hiệu quả quản trị ngân hàng, gia tăng

xung đột lợi ích, đồng thời làm cho rủi ro có tính hệ thống lớn hơn khi TCTD hoặc

cổ đông lớn của TCTD gặp khó khăn thì sẽ ảnh hưởng tới không chỉ một TCTD.

Năng lực quản trị của các TCTD còn nhiều bất cập so với quy mô, tốc độ tăng

trưởng và mức độ rủi ro trong hoạt động. Chiến lược kinh doanh của nhiều TCTD

thiên về hướng phát triển theo chiều rộng hơn là chiều sâu, chủ yếu tăng trưởng

nhanh về quy mô và tập trung vào các lĩnh vực có mức độ rủi ro cao để tạo lợi

nhuận lớn hơn. Hệ thống quản trị, nhất là hệ thống quản trị rủi ro, hệ thống kiểm tra,

kiểm soát và kiểm toán nội bộ của các TCTD hoạt động chưa có hiệu quả và chưa

phù hợp với thông lệ, chuẩn mực quốc tế. Chính sách, quy trình kinh doanh của các

TCTD nhìn chung còn hạn chế dẫn đến chưa kiểm soát có hiệu quả những rủi ro

trọng yếu trong hoạt động. Ý thức chấp hành pháp luật của các TCTD chưa cao.

54

Năng lực cạnh tranh của các TCTD Việt Nam còn hạn chế. Thiếu các NHTM

có quy mô lớn và có khả năng cạnh tranh tầm khu vực. Cạnh tranh giữa các TCTD

chưa lành mạnh, thiếu sự hợp tác giữa các TCTD dẫn đến kỷ cương, kỷ luật, chính

sách, pháp luật trong hoạt động ngân hàng chưa được chấp hành triệt để. Mục tiêu

chạy theo lợi nhuận đã lấn át yêu cầu bảo đảm an toàn kinh doanh của các TCTD và

dẫn tới vi phạm quy định pháp luật về hoạt động ngân hàng khá phổ biến. Phương

thức cạnh tranh chủ yếu của các TCTD Việt Nam là bằng giá/lãi suất, chưa coi

trọng chất lượng dịch vụ. Cùng với năng lực quản trị yếu kém, đạo đức kinh doanh

ngân hàng chưa cao làm gia tăng mức độ rủi ro hoạt động và vi phạm pháp luật

trong lĩnh vực ngân hàng. Cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng có nơi, có lúc trở

nên quá mức, không có trật tự, kỷ cương gây nhiều khó khăn cho công tác quản lý

nhà nước, gia tăng rủi ro và gian lận trong hoạt động ngân hàng.

Thứ năm, là năng lực điều hành của NHNN còn hạn chế chưa thích ứng kịp

thời với những thay đổi của nền kinh tế.

Khi hội nhập quốc tế, đòi hỏi NHNN phải có năng lực điều hành tốt để có thể

nưa nền kinh tế vượt qua những tác động bất lợi, nhất là trong điều kiện kinh tế thị

trường chuea thật sự phát triển đầy đủ ở nước ta. Cụ thể được thể hiện ở hai mặt

sau:

- Việc thu thập thông , phân tích thông tin ở NHNN còn chậm ở Việt Nam

nói chung và lĩnh vực tiền tệ ngân hàng nói riêng, công tác thu thập, phân tích thông

tin để đưa ra những dự báo còn chậm so với diễn biến thực tế đang diễn ra vì số liệu

thông tin chưa được công khai, minh bạch ở từng NHTM và ngay cả ở NHNN hệ

thống chỉ tiêu đánh giá cũng chưa đồng bộ với thông lệ quốc tế, những số liệu về

nhu cầu vốn khả dụng của hệ thống NHTM, vòng quay đồng tiền, tài sản có ngoại tệ

ròng, lượng tiền mặt trong lưu thông,tất cả đều chưa được cập nhập thường xuyên

và thường diễn ra chậm hơn so với thực tế, vì vậy mà NHNN thiếu cơ sở để đưa ra

những dự báo và xác định khối tiền cần thiết cho nền kinh tế. Điều hành CSTT của

NHNN gặp phải nhiều khó khăn trong quá trình điều tiết lượng cung tiền phù hợp

với nhu cầu xã hội nhằm khắc phục những bất lợi từ bên ngoài vào nền kinh tế.

55

- Sự phối hợp các công cụ, các giải pháp chưa mang lại hiệu quả cao. Việc sử

dụng các công cụ của CSTT thường là đi sau những diễn biến thực tế, sự điều chỉnh

khối tiền cung ứng tăng thêm trong kỳ thường dựa vào các dấu hiệu thị trường như

giá cả, tỷ giá, lãi suất NHNN chưa có những định hướng dài hạn có hiệu quả, các

biện pháp đồng bộ để thực hiện cũng như chưa tạo ra được hệ thống truyền dẫn

CSTT hoàn thiện, bao gồm việc phát triển thị trường tiền tệ, thị trường trái phiếu,

thị trường thương phiếu… để lãi suất tái chiết khấu do NHNN điều tiết thực hiện

đầy đủ vai trò của nó trong việc điều tiết lãi suất thị trường và tác động đến cung

tiền, điều này làm giảm hiệu lực tác động của CSTT đối với nền kinh tế.

NHNN Việt Nam vẫn đang thiếu nhân sự có năng lực, cả ở cấp quản lý, điều

hành lẫn các cán bộ tác nghiệp trực tiếp. Trước mắt, tình trạng cạnh tranh thu hút

nhân tài giữa các ngân hàng vẫn đang diễn ra khiến cho chi phí lương bổng trong

ngành tăng cao. Đó là chưa kể đến chi phí đào tạo huấn luyện kỹ năng (cả kỹ năng

cứng và kỹ năng mềm) mà hầu như mỗi ngân hàng có tầm cỡ đều phải cố gắng tự

tài trợ để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, bắt nhịp được với những biến động

khôn lường của nền kinh tế và có thể phục vụ tốt nhất cho khách hàng ngày càng

khó tính hơn. Về lâu dài, tình trạng khan hiếm nhân sự cấp cao có thể khiến cho các

NHTM Việt Nam phải thuê mướn chuyên viên nước ngoài cộng tác. Chi phí nhân

sự tăng lên sẽ ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động và khả năng mở rộng mạng lưới

của hệ thống ngân hàng Việt Nam trong trước mắt.

2.2.2. Sự cần thiết của chính sách tiền tệ lạm phát mục tiêu tại Việt Nam

Với chính sách tiền tệ đa mục tiêu, chúng ta kỳ vọng vừa đẩy nhanh tốc độ

tăng trưởng, vừa kiểm soát giá cả - lạm phát, ổn định tiền tệ cũng như sử dụng chính

sách tiền tệ như một công cụ bổ trợ ổn định ngân sách, xóa đói giảm nghèo, bảo

đảm an ninh quốc gia. Tuy nhiên, trong những năm gần đây cơ chế này đã bộc lộ rõ

những hạn chế của mình. NHNN luôn bị đặt vào thế tiến thoái lưỡng nan vừa phải

làm cái này nhưng vẫn phải làm cái kia mà không làm không được. Vì chính sách

đa mục tiêu, nên NHNN phải linh hoạt trong điều hành, có những ứng biến, quyết

sách hợp lý. Tuy nhiên NHNN không đạt mục tiêu lâu dài cũng như không tránh

khỏi những “phản ứng” phụ. Cụ thể, thời gian qua, NHNN đã sử dụng công cụ tín

56

phiếu khá tốt qua thị trường mở, điều hòa lượng tiền cung ứng, giữ mặt bằng lãi

suất ổn định, tăng dự trữ ngoại hối...Song cũng không loại trừ khả năng có những

thời điểm lượng tiền NHNN hút về không được như mong muốn. Kinh nghiệm

nhiều quốc gia trên thế giới cho thấy lạm phát mục tiêu là một lựa chọn hợp lý cho

chính sách tiền tệ ở nước ta trong thời gian tới, theo đó duy trì mức lạm phát hợp lý

và ổn định trở thành mục tiêu hàng đầu của chính sách tiền tệ để bảo đảm ổn định

kinh tế vĩ mô.

Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng một nền kinh tế sẽ vận hành tốt hơn, khi xét

về tỷ lệ tăng trưởng GDP thực tế, về việc làm, và về cải thiện đời sống nhân dân, nếu tỷ lệ lạm phát thấp và được duy trì ổn định ở mức đó. Trong khi lạm phát cao là

“cơn ác mộng” thì giảm phát/thiểu phát là “nỗi ám ảnh” của Chính phủ các nước.

Theo định nghĩa của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), giảm phát là sự sụt giảm kéo dài

của chỉ số giá chung như chỉ số giá tiêu dùng hoặc chỉ số giảm phát GDP, kéo theo

suy thoái hoặc trì trệ kinh tế, làm cho tổng cầu, đặc biệt là phần chi tiêu (C) và đầu

tư (I) bị sụt giảm theo. Giảm phát làm tăng giá trị của các khoản nợ danh nghĩa và

nếu quá mức có thể dẫn đến tình trạng vỡ nợ hay phá sản các con nợ, cuối cùng là gây

tác hại cho nền kinh tế. Điều đáng ngại là giảm phát làm giảm hiệu quả chính sách

tiền tệ do khả năng truyền tải tác động của chính sách tiền tệ thông qua kênh lãi suất

thực giảm sút không chỉ khi lãi suất thực giảm xuống bằng 0 và lạm phát âm. Vì

vậy, làm thế nào duy trì và kiểm soát được lạm phát ở mức hợp lý trở thành vấn đề

trung tâm, mục tiêu tối cao của chính sách tiền tệ để phát huy tác dụng “bôi trơn” và

giảm tác dụng “cản trở” của lạm phát. Vấn đề này cũng gây không ít tranh cãi trong

giới kinh tế. Một trong những vấn đề đã trở thành triết lý hay chủ thuyết của việc lấy

lạm phát làm mục tiêu chính sách tiền tệ là mối quan hệ nghịch giữa tăng trưởng

kinh tế và lạm phát. Nếu bảo đảm sự ổn định tiền tệ và duy trì lạm phát ở mức hợp

lý (lạm phát thấp nằm trong một biên độ dự tính nhất định) thì chính sách tiền tệ sẽ

góp phần thực hiện tốt mục tiêu tăng trưởng kinh tế ít nhất là trong ngắn hạn, kể cả

góp phần bảo đảm mục tiêu ổn định tỷ giá và an toàn hệ thống ngân hàng. Ngoài ra

kinh nghiệm thực tế chứng minh rằng điều hành chính sách tiền tệ trong ngắn hạn

để đạt được các mục tiêu khác như giảm tỷ lệ thất nghiệp hay tăng tổng sản lượng

57

(GDP) có thể xung đột với mục tiêu ổn định giá. Dường như các Ngân hàng Trung

ương bị công luận chỉ trích nhiều hơn khi nâng lãi suất (đây là một trong những thủ

thuật thông thường để chống lạm phát) so với trường hợp hạ lãi suất. Mặt khác, Ngân

hàng Trung ương luôn phải chịu những áp lực phải kích thích các hoạt động kinh tế.

Về nguyên tắc, lấy lạm phát làm mục tiêu sẽ giúp giải quyết được vấn đề bất đối

xứng này bằng cách lấy lạm phát chứ không phải GDP hay tỷ lệ thất nghiệp làm mục

tiêu cuối cùng của chính sách tiền tệ.

58

CHƯƠNG 3 GIẢI PHÁP NÂNG CAO KHẢ NĂNG ÁP DỤNG CHÍNH SÁCH

TIỀN TỆ LẠM PHÁT MỤC TIÊU TẠI VIỆT NAM

3.1. Quan điểm áp dụng chính sách tiền tệ lạm phát mục tiêu tại Việt Nam

Thứ nhất, chính sách tiền tệ lạm phát mục tiêu được áp dụng tại các nước trên

thế giới ngày càng tỏ ra có hiệu quả hơn (thể hiện qua các kết quả vĩ mô, khả năng

chống đỡ với các cú sốc v.v…) so với chính sách tiền tệ truyền thống (neo danh

nghĩa với cung tiền hoặc tỷ giá), mặc dù phương án vận hành chính sách giữa các

nước không hoàn toàn giống nhau. Tuy vậy, do nhiều lý do khác nhau, tới nay mới

có khoảng 30 nước trên thế giới áp dụng lạm phát mục tiêu. Điều này cũng hàm ý có

một số khó khăn, thách thức nhất định khi tiến tới áp dụng chính sách tiền tệ lạm

phát mục tiêu. Tuy nhiên, những thảo luận của IMF với các nước thành viên năm

2006 cho thấy số lượng áp dụng lạm phát mục tiêu ở các nền kinh tế mới nổi và

đang phát triển có thể tăng gấp 4 lần trong thập kỷ tới. Như vậy, lạm phát mục tiêu

đang trở thành một xu thế đáng kể và là một sự chuyển đổi cần thiết, đặc biệt đối

với các nước đang phát triển như Việt Nam.

Thứ hai, về mặt chủ quan, do đeo đuổi chính sách tiền tệ đa mục tiêu, đồng

thời sử dụng Tổng phương tiện thanh toán M2 làm mục tiêu trung gian, Ngân hàng

Nhà nước đang ngày càng khó khăn cho trong việc kiểm soát lạm phát. Điều này thể

hiện rất rõ qua các số liệu lạm phát trong những năm gần đây. Lạm phát tăng nhanh

nhưng Ngân hàng Nhà nước chưa có biện pháp, công cụ thật sự hữu hiệu để kiểm

soát lạm phát. Chính vì vậy, Ngân hàng Nhà nước cũng ý thức được rằng, cần tìm

một neo mới cho chính sách tiền tệ sao cho có thể chủ động kiểm soát lạm phát, ổn

định giá cả, duy trì lạm phát ở mức thấp và ổn định và phương án tối ưu là lấy lạm

phát làm mục tiêu cho khuôn khổ chính sách tiền tệ.

Thứ ba, đối với Việt Nam việc hướng tới chính sách tiền tệ lạm phát mục tiêu

là phù hợp với Chiến lược phát triển hệ thống Ngân hàng Việt Nam, theo đó xây

dựng Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trở thành Ngân hàng Trung ương hiện đại có

nhiệm vụ chủ yếu là kiểm soát lạm phát để ổn định tiền tệ và giám sát để đảm bảo

hoạt động lành mạnh của hệ thống ngân hàng. Trên thực tế, để chuẩn bị tiền đề thực

hiện chiến lược này, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã có sự chuẩn bị và tổ chức

nghiên cứu, khảo sát cơ chế lạm phát mục tiêu tại một số nước trên thế giới.

59

Thứ tư, quan điểm của các nhà lãnh đạo đứng đầu Chính phủ Việt Nam về mối

tương quan giữa mục tiêu lạm phát và mục tiêu tăng trưởng kinh tế trong thời gian gần

đây đã có sự đổi mới. Họ đã nhận ra rằng, chúng ta không thể tăng trưởng kinh tế cao

bằng mọi giá. Chống lạm phát đòi hỏi phải có sự đánh đổi. Nghị quyết 11 của Chính

phủ đã khẳng định kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô là mục tiêu ưu tiên

hàng đầu năm 2011, 2012. Chính quan điểm đổi mới này đã tạo tiền đề cần thiết,

không thể thiếu, để ủng hộ việc áp dụng chính sách tiền tệ lạm phát mục tiêu trong

tương lai của Ngân hàng Nhà nước.

Dĩ nhiên, bên cạnh các tiền đề tích cực nói trên, Việt Nam hiện tại đã đủ điều

kiện chuyển đổi trực tiếp ngay sang khuôn khổ chính sách tiền tệ lạm phát mục tiêu

hoàn toàn hay chưa lại là vấn đề khác. Các nghiên cứu trên đây của Dự án cho thấy,

một nước muốn áp dụng khuôn khổ chính sách tiền tệ lạm phát mục tiêu khả thi và

ít thách thức hơn phải đáp ứng các điều kiện sau: (i) ổn định giá cả là mục tiêu bao

trùm của CSTT; (ii) sự tiếp cận của chính phủ đối với nguồn tài chính của ngân hàng

trung ương đã bị cấm hoặc bị hạn chế; (iii)Ngân hàng Nhà nước độc lập trong việc sử

dụng các công cụ của mình; (iv) đồng thuận cao ở trong nước về tầm quan trọng của

mục tiêu lạm phát; (v) sự hiểu biết cơ bản về cơ chế truyền tải CSTT và khả năng

phù hợp nhằm tác động đến lãi suất ngắn hạn; và (vi) hệ thống tài chính và các thị

trường hoạt động tốt.

Nghiên cứu kinh nghiệm của các quốc gia đã thực hiện lạm phát mục tiêu cũng

cho thấy, các quốc gia không nhất thiết phải đáp ứng tất cả các điều kiện tiên quyết của

khuôn khổ lạm phát mục tiêu ngay từ đầu thì mới có thể thực hiện thành công khuôn

khổ lạm phát mục tiêu. Tại một số quốc gia, chỉ một số điều kiện tiên quyết được đáp

ứng, ở một số quốc gia khác, một số điều kiện khác được bỏ qua hoặc có thể được

thiết lập dần dần theo thời gian trong quá trình thực hiện khuôn khổ của lạm phát

mục tiêu. Hơn nữa, quá trình chuyển đổi từ cơ chế điều hành chính sách tiền tệ cũ

sang cơ chế điều hành chính sách tiền tệ lạm phát mục tiêu ở các quốc gia là khác

nhau. Quá trình chuyển đổi sang IT thường bắt đầu bằng việc nhà lập chính sách

tuyên bố về dự định áp dụng khuôn khổ IT. Quá trình chuyển đổi sẽ kết thúc khi hầu

hết các yếu tố của khuôn khổ lạm phát mục tiêu hoàn toàn (FFIT) được thiết lập. Đa

60

số quốc gia mới nổi trải qua thời kỳ quá độ trước khi áp dụng khuôn khổ lạm phát

mục tiêu hoàn toàn, tiếp tục một số cơ chế trung gian (ngầm định áp dụng - implicit

IT, hoặc áp dụng một phần - partial IT) trong thời kỳ chuyển đổi. Tại Việt Nam cũng

nên áp dụng kinh nghiệm này với việc chuyển đổi từng bước cơ chế chính sách tiền

tệ hiện hành sang khuôn khổ chính sách tiền tệ lấy lạm phát làm mục tiêu thông qua

cơ chế lạm phát mục tiêu ngầm định.

3.2. Giải pháp áp dụng chính sách tiền tệ lạm phát mục tiêu tại Việt Nam giai đoạn

tới.

3.2.1. Nâng cao tính độc lậpcủa NHNN

Vị thế độc lập đã tạo điều kiện cho NHTW chủ động trong việc lựa chọn và

quyết định các chính sách, biện pháp điều hành chính sách tiền tệ, can thiệp thị

trường hối đoái mà không bị phụ thuộc vào các mục tiêu khác.

Hiện tại, vị thế Ngân hàng Nhà nước còn mơ hồ. Về thể chế chính trị hiện

hành, Ngân hàng Nhà nước được cơ cấu trong bộ máy hành pháp, chức năng như

một Bộ quản lý ngành. Ngân hàng Nhà nước là cơ quan có nhiệm vụ xây dựng và

điều hành CSTT. Điều 1 Luật Ngân hàng Nhà nước năm 1997 và Điều 2 Luật

NHNN năm 2010 quy định: “Ngân hàng Nhà nước Việt Nam là cơ quan ngang Bộ

của Chính phủ, là Ngân hàng Trung ương của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam”.

Trên thực tế, Ngân hàng Nhà nước thường được hiểu và đối xử như một cơ quan

ngang Bộ/một cơ quan hành chính nhà nước, chịu sự quản lý, điều hành toàn diện cả

về tổ chức và hoạt động của Chính phủ. Theo Luật NHNN, có đến 15 nội dung lớn

trực tiếp hoặc gián tiếp liên quan đến điều hành chính sách tiền tệ do Chính phủ hoặc

Thủ tướng Chính phủ quyết định. Nếu Ngân hàng Nhà nước Việt Nam muốn chuyển

sang cơ chế điều hành chính sách tiền tệ lạm phát mục tiêu thì trước hết các thể chế

chính sách tiền tệ phải được Quốc hội và Chính phủ sửa đổi, điều chỉnh.

Về thể chế kinh tế hiện hành, Ngân hàng Nhà nước phụ thuộc vào Chính phủ

gần như tuyệt đối về tài chính. Vốn pháp định của Ngân hàng Nhà nước do Thủ

tướng Chính phủ quy định và do ngân sách nhà nước cấp. Thu chi tài chính của

Ngân hàng Nhà nước được Chính phủ quy định tuy có tính đến đặc thù, song về

nguyên tắc thực hiện theo quy định của Luật Ngân sách Nhà nước.

61

Để đưa ra một kịch bản hoàn hảo về đổi mới Ngân hàng Nhà nước đảm bảo

cho Ngân hàng này với tư cách là NHTW có mức độ độc lập cao trong điều hành

chính sách tiền tệ do các thể chế chính trị và kinh tế của Việt Nam đang trong quá

trình đổi mới, hoàn thiện để phù hợp với yêu cầu hội nhập quốc tế là rất khó. Một

nhóm các nhà khoa học đã nghiên cứu và đã đưa ra giả định vào một trong hai kịch

bản dưới đây:

* Kịch bản thứ nhất: Đổi mới Ngân hàng Nhà nước Việt Nam theo mô hình

Ngân hàng Trung ương hiện đại trực thuộc Quốc hội.

Với kịch bản này, đảm bảo cho Ngân hàng Trung ương một vị thế pháp lý có

sự độc lập cao, một mặt, Ngân hàng Trung ương không bị áp lực của Chính phủ,

dẫn đến bị động trong điều hành chính sách tiền tệ, mặt khác, Ngân hàng Trung

ương sẽ chịu áp lực cao trong trách nhiệm giải trình và tính công khai, minh bạch

trước công chúng về kết quả điều hành chính sách tiền tệ.

Có hai vấn đề trong nội dung kịch bản thứ nhất: Thứ nhất, tính chất trực thuộc

Quốc hội: Ngân hàng Trung ương trực thuộc Quốc hội không phải là một cơ quan

thuộc bộ máy Quốc hội. Các cơ quan thuộc bộ máy Quốc hội có chức năng lập

pháp, còn Ngân hàng Trung ương có chức năng riêng của mình. Sự trực thuộc Quốc

hội của Ngân hàng Trung ương ở đây bao gồm: (i) Hội đồng chính sách tiền tệ (Hội

đồng hoạch định và thực thi CSTT) do Quốc hội thành lập và quyết định; Thống

đốc và Phó Thống đốc NHTW do Quốc hội bầu và quyết định; (ii) Vốn pháp định

và tài chính hoạt động của Ngân hàng Trung ương được thông qua bởi Quốc hội,

Ủy ban Ngân sách của Quốc hội và Tổng Kiểm toán Nhà nước giám sát. Thứ hai,

Ngân hàng Trung ương hiện đại là một NHTW có được các mục tiêu hoạt động

phù hợp với ”thiên chức”của mình và có đầy đủ thẩm quyền cũng như điều kiện để

thực hiện được mục tiêu này vì lợi ích chung của xã hội.

Theo những phân tích trong kịch bản này, mức độ độc lập trong điều hành

chính sách tiền tệ tại kịch bản thứ nhất dường như là tuyệt đối. Ngân hàng Trung

ương được toàn quyền trong điều hành chính sách tiền tệ để đạt được các mục tiêu

đã hoạch định. Một mặt, Ngân hàng Trung ương hoàn toàn không chịu sức ép nào từ

Chính phủ, mặt khác, do trách nhiệm giải trình trước Quốc hội (tức là trước toàn

62

dân) đòi hỏi rất cao nên sẽ tạo cho Ngân hàng Trung ương quyết tâm lớn trong điều

hành chính sách tiền tệ để đạt được mục tiêu mà họ đã cam kết. Tuy nhiên, sự lựa

chọn này chưa phù hợp trong trung hạn (5-10 năm) đối với Ngân hàng Trung ương

Việt Nam do về thể chế pháp luật đòi hỏi chúng ta phải sửa đổi từ Hiến pháp nước

Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam đến rất nhiều bộ luật cơ bản như: Luật Tổ

chức Quốc hội, Luật Ngân hàng Nhà nước, Luật các Tổ chức Tín dụng, Luật Ngân

sách Nhà nước, Luật Thương mại,...

* Kịch bản thứ hai: Đổi mới Ngân hàng Nhà nước theo mô hình Ngân hàng

Trung ương hiện đại, độc lập với Chính phủ về thực thi chính sách tiền tệ.

Bản chất của kịch bản này là Ngân hàng Trung ương độc lập tương đối với

Chính phủ. Về mô hình tổ chức, Ngân hàng Trung ương là một bộ phận của Chính

phủ, chịu sự quản lý của Chính phủ về cơ cấu tổ chức. Nhưng về mô hình hoạt

động, Ngân hàng Trung ương được độc lập trong việc xác định khối lượng tiền

cung ứng cho nền kinh tế và chủ động sử dụng các công cụ để điều hành chính sách

tiền tệ một cách hiệu quả. Với kịch bản này, Ngân hàng Trung ương vẫn phụ thuộc

Chính phủ về tài chính hoạt động, bởi vậy, vẫn còn chịu sức ép nhất định từ Chính

phủ. Để hạn chế sức ép từ Chính phủ, hoạt động điều hành chính sách tiền tệ của

Ngân hàng Trung ương phải thông qua Hội đồng Chính sách Tiền tệ Quốc gia do

Quốc hội quyết định. Điều này cho phép Hội đồng Chính sách Tiền tệ Quốc gia độc

lập với Chính phủ nên các quyết định tiền tệ sẽ chủ động hơn và phù hợp với mục

tiêu của Hội đồng. Hội đồng CSTT Quốc gia được thành lập khác biệt với Hội đồng

Tư vấn CSTT Quốc gia hiện hành cả về cấu trúc quyền lực, nhiệm vụ, thành phần

Hội đồng, trách nhiệm cá nhân cũng như mối liên hệ với Ngân hàng Trung ương.

Hội đồng hoạt động với tư cách là một cơ quan quản trị, làm việc theo chế độ tập

thể, quyết nghị theo đa số phiếu. Như vậy, với mô hình này, Ngân hàng Trung ương

cải cách theo hướng chỉ độc lập với Chính phủ trong điều hành chính sách tiền tệ và

có thể cải cách trong thời gian trung hạn vì việc vận dụng kịch bản này không nhất

thiết phải sửa đổi nhiều hệ thống luật pháp mà chỉ cần Chính phủ có động thái sau:

63

Thứ nhất, Chính phủ đề nghị Quốc hội thông qua Hội đồng Chính sách Tiền

tệ Quốc gia và Quốc hội quyết định Chủ tịch Hội đồng Chính sách Tiền tệ Quốc

gia.

Thứ hai, Chính phủ bàn giao dần quyền lực điều hành chính sách tiền tệ sang

Hội đồng CSTT Quốc gia trong thời gian trung hạn.

Hiện tại, vai trò của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam còn nhiều hạn chế. Cơ chế

ra quyết định tiền tệ hiện nay vừa phức tạp, vừa chưa thể hiện được vai trò, sự tự chủ

của Ngân hàng Nhà nước. Thêm vào đó, không chỉ có Quốc hội, Chính phủ mà còn

quá nhiều cơ quan nhà nước khác tham gia chỉ đạo, giám sát xây dựng và thực hiện

chính sách tiền tệ. Do sự chi phối quá sâu của Chính phủ nên tính độc lập, chủ động

của Ngân hàng Nhà nước trong việc điều hành chính sách tiền tệ bị giảm đi. Theo

quy định tại Luật Ngân hàng Nhà nước, Chính phủ quyết định lượng tiền cung ứng

bổ sung cho lưu thông hàng năm. Vì vậy, hàng năm, trên cơ sở các chỉ tiêu kinh tế

xã hội của Chính phủ về tốc độ tăng trưởng kinh tế, chỉ số lạm phát và các chỉ số

kinh tế vĩ mô khác, Ngân hàng Nhà nước tính toán xác định lượng tiền cung ứng

tăng thêm để trình Chính phủ phê duyệt. Hàng quý, Ngân hàng Nhà nước thực hiện

tính toán lượng tiền cung ứng tăng thêm cho từng mục tiêu như mua ngoại tệ, thực

hiện cho vay tái cấp vốn trên cơ sở giới hạn phạm vi được duyệt.

Tuy nhiên, trong điều kiện hiện nay, thị trường có nhiều biến động khó lường,

đòi hỏi điều hành của Ngân hàng Nhà nước cần linh hoạt hơn thì việc bị giới hạn bởi

chỉ tiêu cung ứng tiền được xác định trước hàng năm hoặc hàng quý (mặc dù cũng

có thể điều chỉnh) đã hạn chế tính chủ động của Ngân hàng Nhà nước trong việc điều

tiết thị trường, có thể gây ra sự biến động của lãi suất thị trường, đặc biệt là lãi suất liên

ngân hàng. Bởi vậy, để hướng tới áp dụng chính sách tiền tệ lạm phát mục tiêu,

Ngân hàng Nhà nước cần có vị thế độc lập hơn (độc lập tương đối). Kinh nghiệm

các nước cho thấy, tính độc lập ở đây không nhất thiết phải là độc lập về mô hình tổ

chức hoặc độc lập trong việc xác định mục tiêu chính sách tiền tệ mà là độc lập

hoàn toàn (cả về mặt pháp lý và thực tế) trong việc sử dụng các công cụ chính sách

tiền tệ để đạt được mục tiêu lạm phát.

64

3.2.2 Thành lập Ban điều hành CHính sách Tiền tệ trực thuộc Ngân hàng Nhà

nước.

Kinh nghiệm quốc tế về điều hành chính sách cho thấy các nước đều thành lập

Ban điều hành (hoặc Hội đồng/Ủy ban) Chính sách Tiền tệ và Ban điều hành này có

vai trò rất quan trọng trong điều hành chính sách tiền tệ. Trong khi đó, ở Việt Nam

có Hội đồng Tư vấn chính sách tiền tệ quốc gia (được quy định tại Điều 4 Luật

NHNN năm 1997, Thống đốc NHNN chỉ là Ủy viên thường trực trong Hội đồng).

Hội đồng Tư vấn CSTT Quốc gia hiện nay chưa phải là một cơ quan có đầy đủ

thẩm quyền, trách nhiệm trong việc đưa ra các quyết định quan trọng trong điều

hành CSTT và các hoạt động khác của Ngân hàng Nhà nước.

Theo quy định tại Khoản 4, Điều 7 Luật NHNN năm 2010, Thống đốc Ngân

hàng Nhà nước có quyền quyết định thành lập, chấm dứt hoạt động của chi nhánh,

văn phòng đại diện, các ban, hội đồng tư vấn về các vấn đề liên quan đến chức năng

nhiệm vụ của NHNN. Vì vậy, để đảm bảo sự đồng bộ trong việc điều hành CSTT,

tăng cường sự phối hợp giữa các chính sách vĩ mô và phân công trách nhiệm rõ

ràng, trước mắt, Ngân hàng Nhà nước nên thành lập Ban điều hành CSTT của mình

theo hướng sau:

Về ban thành viên Ban điều hành Chính sách Tiền tệ

Chủ tịch Hội đồng nên do Thống đốc đảm nhiệm, uỷ viên thường trực là Phó

thống đốc được giao phụ trách chỉ đạo điều hành các Nghiệp vụ thị trường mở

(OMO), các uỷ viên khác là các Phó Thống đốc và một số lãnh đạo các Vụ thuộc

NHNN có liên quan mà nòng cốt là thành viên Ban điều hành OMO.

Về phương thức hoạt động

Ban điều hành CSTT sẽ họp và quyết định phương án điều hành CSTT trong

tháng tới bao gồm mục tiêu điều hành CSTT và phương án điều hành tất cả các công

cụ CSTT trong đó có OMO. Đặc biệt, trong trường hợp Ngân hàng Nhà nước đã

thực hiện việc điều tiết lãi suất trên cơ sở thiết lập hành lang lãi suất và lấy lãi suất

Repo 7 ngày làm lãi suất định hướng thì Ban điều hành CSTT sẽ quyết định mức lãi

suất Repo trong tháng tới. Cuộc họp của Ban điều hành nên được thông báo trước

và cố định lịch hàng tháng. Đồng thời, một số định hướng chính trong điều hành

65

CSTT cần được công bố công khai và giải thích rõ ràng để các TCTD cũng như

công chúng nắm được định hướng điều hành của NHNN. Điều này sẽ góp phần tạo

kỳ vọng của thị trường theo định hướng của NHNN cũng như nâng cao tính minh

bạch trong điều hành CSTT.

3.2.3. Áp dụng cơ chế giải trình và tính minh bạch

Lý do quan trọng trong việc áp dụng CSTT lạm phát mục tiêu là nó làm cho

chính sách tiền tệ trở nên rõ ràng và minh bạch. Có hai vấn đề cần được làm rõ: Thứ

nhất, mục tiêu lạm phát được chuyển tới thị trường và công chúng như thế nào? Thứ

hai, trách nhiệm của Ngân hàng Nhà nước về thực thi mục tiêu lạm phát sẽ ra sao?

Cơ chế truyền tải thích hợp, bao gồm: nội dung truyền tải, cách thức truyền tải, và

các cam kết khi công bố nội dung truyền tải.

Thứ nhất, nội dung truyền tải cần bao gồm: (i) quan điểm của Ngân hàng Nhà

nước về việc thực hiện mục tiêu lạm phát; (ii) tổng quan tình hình lạm phát theo

mục tiêu; (iii) diễn biến lạm phát trong thực tế; (iv) những động thái/giải pháp của

Ngân hàng Nhà nước để thực hiện mục tiêu lạm phát; và (v) các giải trình khi cần

điều chỉnh mục tiêu.

Thứ hai, về cách thức truyền tải có thể áp dụng các kênh thường xuyên, định

kỳ và không định kỳ. Kênh thường xuyên, định kỳ (tháng, quý) thông qua các ấn

phẩm như báo cáo thường niên, báo cáo định kỳ về lạm phát; thông qua giải trình

định kỳ của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước trên truyền hình. Kênh đột xuất thông

qua tổ chức họp báo, trả lời báo chí và công chúng.

Thứ ba, về cam kết nội dung truyền tải: các ấn phẩm - báo cáo, trả lời báo chí

của Ngân hàng Nhà nước cần được xác thực bởi Thống đốc Ngân hàng Nhà nước.

Trên cơ sở thực tế của Ngân hàng Nhà nước hiện nay, đối chiếu với kinh

nghiệm quốc tế, tăng cường công tác truyền thông trong điều hành CSTT cần được

đẩy mạnh hơn nữa trên những phương diện sau: Trong ngắn hạn: (i) NHNN xác

định các loại thông tin cần công bố cho thị trường; (ii) quy định những thông tin

công bố định kỳ (hoặc đột xuất) về điều hành CSTT; (iii) tổ chức khảo sát thường

kỳ hoặc đột xuất nhằm thăm dò ý kiến của các thành viên thị trường tiền tệ về nhu

cầu thông tin, kênh cung cấp thông tin; (iv) đối với trang thông tin điện tử của

66

NHNN, các thông tin về điều hành CSTT được cung cấp một cách đầy đủ, đảm bảo

tính minh bạch sao cho tất cả các thành viên thị trường tiền tệ đều có khả năng truy

cập và nắm bắt thông tin kịp thời. Trong trung, dài hạn: (i) tổ chức họp báo định kỳ

hoặc đột xuất khi có các thay đổi trong điều hành chính sách tiền tệ; (ii) công bố các

báo cáo điều hành CSTT của Ngân hàng Nhà nước theo định kỳ, các phân tích và dự

báo triển vọng kinh tế vĩ mô, lạm phát, tài chính tiền tệ và định hướng điều hành.

3.2.4 Điều hành chính sách tiền tệ theo khuôn khổ hành lang lãi suất

Xét các điều kiện thị trường tiền tệ Việt Nam hiện nay cho thấy chưa đủ các

điều kiện cần thiết để NHNN thực hiện chuyển hoàn toàn sang khuôn khổ CSTT

điều tiết lãi suất. Do đó, NHNN tiếp tục lựa chọn mục tiêu điều hành theo khối

lượng kết hợp với việc điều tiết lãi suất, đồng thời chuẩn bị các điều kiện để chuyển

dần sang điều tiết lãi suất để nâng cao hiệu quả và tăng tính minh bạch trong điều

hành chính sách tiền tệ, tiến tới thực hiện khuôn khổ CSTT theo mục tiêu lạm phát

nhằm thực hiện mục tiêu CSTT đã quy định rõ trong Luật Ngân hàng Nhà nước

2010. Theo đó NHNN tiếp tục điều hành lượng tiền cung ứng trong phạm vi Thủ

tướng Chính phủ phê duyệt để đạt được các chỉ tiêu tiền tệ định hướng (tổng phương

tiện thanh toán và tín dụng) kết hợp với điều tiết lãi suất, trên cơ sở đó đạt được mục

tiêu lạm phát đã được Quốc hội thông qua.

Do đó, trong khi chưa chuyển sang cơ chế lạm phát mục tiêu, Ngân hàng Nhà

nước vẫn có thể nghiên cứu áp dụng việc điều hành CSTT theo lãi suất, trước mắt

xây dựng một hành lang lãi suất thị trường liên ngân hàng với biên độ chênh lệch

khoảng 2 % để điều tiết lãi suất thị trường : (i) "Trần" là lãi suất tái cấp vốn, "sàn"

là lãi suất tái chiết khấu (hiện nay là 9% - 7%/năm); lãi suất cơ bản và lãi suất

nghiệp vụ thị trường mở biến động trong phạm vi hành lang này (ii) Lãi suất nghiệp

vụ thị trường mở đóng vai trò định hướng và thực hiện việc "bơm" tiền ra hoặc

"hút" tiền về, từ đó tác động đến cung - cầu vốn, lãi suất thị trường liên ngân hàng

và lãi suất huy động, cho vay của NHTM. Trên thực tế, NHNN đã và đang tích cực

hỗ trợ thanh khoản thông qua tái cấp vốn và hoán đổi ngoại tệ đối với ngân hàng

thương mại với kỳ hạn dài hơn, khối lượng lớn hơn so với trước đây; chỉ đạo các

ngân hàng thương mại (NHTM) Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong cung ứng vốn

67

và điều chỉnh lãi suất giảm dần phù hợp diễn biến nền kinh tế; chỉ đạo các chi nhánh

NHNN các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương triển khai kịp thời các chính

sách, cơ chế tiền tệ, tín dụng và hoạt động ngân hàng, đồng thời thường xuyên theo

dõi, kiểm tra, giám sát và thanh tra hoạt động của các tổ chức tín dụng trên địa bàn.

Đồng thời, NHNN cũng chỉ đạo thực hiện các biện pháp phù hợp để các tổ chức tín

dụng tập trung vốn phục vụ phát triển kinh tế địa phương, nhất là đáp ứng nhu cầu

vốn chi phí sản xuất - kinh doanh của khu vực nông nghiệp và nông thôn, xuất

khẩu, doanh nghiệp nhỏ và vừa, tập trung ngoại tệ cho vay đối với những mặt hàng

thiết yếu cho sản xuất mà trong nước chưa sản xuất được... Đặc biệt, điều hành lãi

suất cho vay là một hoạt động vô cùng quan trọng trong lĩnh vực quản lý thị trường

tài chính của Ngân hàng Nhà nước.

3.2.5 Cơ chế phối hợp các chính sách vĩ mô

Để đạt được những mục tiêu kinh tế vĩ mô đặt ra, chính sách tiền tệ phải có sự

phối hợp tốt với các chính sách vĩ mô khác, đặc biệt là chính sách tài khóa.

Trên thực tế, trong một số thời kỳ, Chính phủ kêu gọi ổn định giá cả nhằm duy

trì mục tiêu lạm phát nhưng mức vay nợ của Chính phủ không giảm, bội chi ngân

sách cao, dư nợ cho vay của hệ thống Quỹ hỗ trợ phát triển (Ngân hàng Phát triển)

không ngừng tăng cộng với các đợt điều chỉnh lương rất nhạy cảm thực sự là cú hích

đẩy mặt bằng giá tăng. Lạm phát tăng cao xuất phát từ M2 gia tăng còn do tiền gửi

của Kho bạc Nhà nước (KBNN) tại các NHTM vẫn ở mức lớn, đầu tư ngân sách và

tín dụng phát triển qua Ngân hàng Phát triển quốc gia cũng rất lớn nhưng vẫn chưa

được linh hoạt để điều chuyển tiền gửi KBNN về Ngân hàng Nhà nước để hạn chế

số nhân tiền tệ. Ảnh hưởng lan truyền của tình trạng này là mặt bằng lãi suất bị đẩy

lên cộng hưởng bởi nhu cầu huy động vốn của TCTD tăng mạnh (đặc biệt vào cuối

năm) do áp lực của tỷ lệ tăng trưởng mà Quốc hội đề ra. Lãi suất cao cùng với các

quy định thắt chặt việc kiểm soát chất lượng tín dụng của hệ thống ngân hàng sẽ

làm cho nhu cầu đầu tư giảm tương đối, trong khi mức lãi suất cao lại không giảm

được tỷ lệ lạm phát bởi nguyên nhân chủ yếu xuất phát từ phía tổng cung: giá

nguyên liệu thế giới, vấn đề cơ cấu, hiệu quả v.v...

68

Vào những tháng đầu năm 2011, cùng với việc đưa ra thông điệp mạnh mẽ với

các nhóm giải pháp đồng bộ nhằm kiểm soát lạm phát, tăng cường ổn định vĩ mô,

đảm bảo các cân đối lớn của nền kinh tế, Chính phủ đã nhấn mạnh đến tầm quan

trọng của việc phối hợp chặt chẽ giữa các chính sách vĩ mô, đặc biệt là giữa chính

sách tiền tệ và chính sách tài khóa trong “cuộc chiến” chống lạm phát. Theo đó,

Chính phủ xác định kiểm soát lạm phát nằm ở vị trí số 1 trong nhóm giải pháp nhằm

ổn định kinh tế vĩ mô, cần điều hành chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt và thận

trọng, chính sách tài khóa thắt chặt, kết hợp hài hòa giữa chính sách tiền tệ và chính

sách tài khóa để kiểm soát tốc độ Tổng phương tiện thanh toán, tín dụng, bảo đảm

lãi suất ở mức hợp lý, và đảm bảo thanh khoản cho nền kinh tế.

Theo lý thuyết “bộ ba bất khả thi”, một quốc gia không thể đồng thời đạt được

cả ba mục tiêu: (i) tự do hóa tài khoản vốn; (ii) chính sách tiền tệ độc lập; và (iii)

chính sách tỷ giá ổn định (tỷ giá cố định hoặc được neo điều chỉnh). Trong khi đó,

Việt Nam đã thực hiện mở cửa tài khoản vốn theo lộ trình đã cam kết: (i) chính sách

ngoại hối từng bước được tự do hóa, xóa bỏ nhiều loại giấy phép theo hướng phù

hợp dần với thông lệ quốc tế và yêu cầu hội nhập quốc tế; (ii) thay đổi cơ chế điều

hành tỷ giá từ tỷ giá cố định sang tỷ giá có điều chỉnh, đến tỷ giá công bố theo mức

hình thành cuối ngày trên thị trường; (iii) từ tháng 12/2005, các giao dịch vãng lai đã

được tự do hóa hoàn toàn và các giao dịch vốn đã được nới lỏng đáng kể với việc

ban hành Pháp lệnh ngoại hối.

Như vậy, một trong những mục tiêu ưu tiên hàng đầu của Nhà nước ta hiện

nay là thu hút nguồn vốn từ nước ngoài để hỗ trợ phát triển kinh tế. Điều này cũng

nghĩa là Việt Nam cần phải lựa chọn giữa một trong hai mục tiêu còn lại trong “bộ ba

bất khả thi” là giữ tỷ giá tương đối độc lập hoặc tự chủ trong chính sách tiền tệ nhằm

tìm ra đường lối phát triển phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của nền kinh tế.

Do vậy, để đảm bảo mục tiêu chung, sự phối hợp hiệu quả giữa công tác điều hành tỷ

giá hối đoái và các công cụ của chính sách tiền tệ cần được đặc biệt coi trọng.

Tuy nhiên, trên thực tế, mục tiêu điều hành chính sách tỷ giá còn chưa rõ ràng.

Việc đặt mục tiêu điều hành tỷ giá để ổn định giá trị đồng tiền, hàm nghĩa ổn định

giá trị đối nội (lạm phát được kiểm soát) và ổn định giá trị đối ngoại (ổn định tỷ giá)

69

vẫn còn chứa đựng mâu thuẫn: (i) Luật Ngân hàng Nhà nước quy định tỷ giá là một

công cụ của chính sách tiền tệ thì tỷ giá không thể là một mục tiêu của chính sách,

nếu để mục tiêu ổn định giá trị đồng tiền sẽ khó khăn trong việc điều hành CSTT

trong bối cảnh luồng vốn nước ngoài luân chuyển nhanh và mạnh hơn trong quá

trình tự do hóa; (ii) trong bối cảnh thị trường ngoại tệ có nhiều biến động phức tạp,

khó lường, nền kinh tế có độ mở cửa cao, các giao dịch vốn đã từng bước được tự

do hóa thì việc công bố chính sách của Chính phủ về việc cố định biên độ hoặc một

mức tăng/giảm tỷ giá sẽ khuyến khích hoạt động đầu cơ và trong trường hợp thị

trường thế giới biến đổi quá phức tạp, Chính phủ không duy trì được chính sách như

công bố sẽ ảnh hưởng phần nào tới lòng tin của thị trường.

Như vậy, lý thuyết cũng như thực tế cho thấy việc phối hợp nhịp nhàng giữa

chính sách tiền tệ và chính sách tỷ giá là một yêu cầu thiết yếu. Việc điều chỉnh tỷ giá

tương đối linh hoạt phải dựa trên việc quản lý tương đối chặt chẽ chính sách tiền tệ.

Thời gian tới, chính sách tiền tệ và chính sách tỷ giá hối đoái cần được phối hợp nhịp

nhàng nhằm đảm bảo mục tiêu kiểm soát lạm phát, hạn chế nhập siêu cũng như

giảm thiểu sức hấp dẫn của việc găm giữ ngoại tệ.

Kinh nghiệm các nước trong việc đưa ra và áp dụng khuôn khổ CSTT lạm phát

mục tiêu cho thấy những nỗ lực nâng cao năng lực thực hiện cơ chế tỷ giá linh hoạt

(phát triển hiệu quả thị trường ngoại hối, thiết lập các hệ thống quản lý rủi ro ngoại

hối phù hợp, hình thành các chính sách can thiệp nhất quán v.v...) thúc đẩy khả năng

của các nước áp dụng lạm phát mục tiêu như là một khuôn khổ chính sách tiền tệ

mới. Bởi vậy, thiết lập khả năng thực hiện chính sách lạm phát mục tiêu và chuyển

sang một cơ chế tỷ giá linh hoạt phải đồng thời được tăng cường. Do đó, để tạo tiền

đề cho việc đưa ra áp dụng lạm phát mục tiêu ở Việt Nam, một vấn đề đặc biệt quan

trọng là cần nâng cao năng lực thực hiện cơ chế tỷ giá linh hoạt. Hướng phát triển

lâu dài là giảm dần sự điều tiết của Nhà nước bằng cách luôn mở cả hai chiều biên

độ và tăng biên độ một cách đáng kể cho đến khi đã có đủ các điều kiện vĩ mô (tăng

trưởng kinh tế cao, bền vững; xây dựng và quản lý quỹ dự trữ ngoại hối quốc gia

vững mạnh, đảm bảo an toàn, thanh khoản và có lợi nhuận; xây dựng một hệ thống

ngân hàng đủ mạnh, có khả năng tham gia vào thị trường ngoại hối quốc tế; phát

70

triển thanh toán qua ngân hàng; phát triển các thị trường tài chính, tiền tệ trong

nước; chính sách huy động vốn ở trong và ngoài nước có hiệu quả, có hành lang pháp

lý đồng bộ và đầy đủ để tạo dựng và duy trì môi trường kinh doanh lành mạnh) mới

có thể thả nổi tỷ giá.

3.2.6 Các giải pháp mang tính kỹ thuật:

Phương pháp tính toán và đo lường lạm phát

Thực tế, hầu hết các nước khi đánh giá lạm phát đều sử dụng chỉ số giá tiêu

dùng (CPI) làm công cụ nền tảng, bởi CPI có những lợi thế riêng như: tính quảng bá

tương đối rộng đối với xã hội, được công bố và tính toán thường xuyên. Bên cạnh

đó, Ngân hàng Nhà nước có thể sử dụng chỉ số CPI đã loại trừ một số yếu tố (những

yếu tố mang tính ngắn hạn và có thể nhanh chóng mất đi) - chỉ số điều chỉnh này

được gọi là chỉ số lạm phát cơ bản (core inflation).

Có thể nói, việc tính toán CPI để đo lường lạm phát ở Việt Nam còn nhiều hạn

chế. Việc đánh giá CSTT lạm phát mục tiêu ở Việt Nam mà chỉ dựa vào CPI là rất ít

tin cậy. Đặc biệt, việc thống kê xác định tỷ trọng cơ cấu tiêu dùng để xác định quyền

số cho CPI là không cập nhật với xu hướng tiêu dùng của xã hội. Chẳng hạn tính

CPI năm 2010 vẫn trên cơ sở vào kết quả điều tra năm 2005. Đây là nguyên nhân

kỹ thuật dẫn đến sai số trong CPI, chưa kể pháp điều tra, thống kê quá thô sơ càng

làm cho CPI thiếu chính xác. Chính vì vậy, kiến nghị tổng quát cho nghiên cứu này

là: (i) nâng cao chất lượng công tác thống kê, gồm thống kê giá và thống kê tiền tệ;

Tổng cục Thống kê (TCTK) cần nghiên cứu đưa chuỗi số liệu về cùng gốc so sánh

để đảm bảo tính nhất quán của số liệu; TCTK làm đầu mối tổng hợp thông tin và

thiết kế mẫu biểu thu thập thông tin gửi các bộ, ngành nhằm phục vụ công tác cung

cấp số liệu theo định kỳ, qua đó quy định lại các quyền số cố định cho phù hợp với

xu hướng của xã hội theo hướng giảm bớt tỷ trọng nhóm hàng hóa lương thực, thực

phẩm (hiện tại chiếm 39,93% trong CPI); (iii) cơ quan thống kê cần chính xác, khẩn

trương trong công tác điều tra thu thập số liệu, loại trừ tối đa những tác động làm phát

sinh những sai số thống kê. Muốn vậy, phải hoàn thiện bộ máy thống kê từ Trung

ương đến địa phương, tạo ra cơ sở tin cậy theo dõi, cập nhật biến động giá cả, nhanh

chóng, kịp thời cung cấp thông tin.

71

Công tác dự báo lạm phát

Dự báo lạm phát đóng một vai trò quan trọng trong việc chỉ đạo chính sách khi

các quốc gia thực hiện lạm phát mục tiêu, bởi vì luôn có độ trễ giữa các hoạt động

điều hành chính sách tiền tệ và những tác động đó tới chỉ số lạm phát. Dự báo lạm

phát có thể được xem như là mục tiêu trung gian của chính sách. Các nền kinh tế

mới nổi ít dựa vào các số liệu thống kê thị trường để dự báo lạm phát do thiếu hụt

dữ liệu, thay đổi cấu trúc liên tục, và tính dễ tổn thương của các thị trường này với

những cú sốc. Trong thực tế, dự báo lạm phát dựa trên sự kết hợp của nhiều chỉ số

biến đổi, mô hình kinh tế lượng và đánh giá chất lượng. Dự báo lạm phát là một

thách thức đặc biệt đối với hầu hết các quốc gia.

Tại Việt Nam hiện nay, công tác dự báo kinh tế nói chung, khả năng phân tích

và dự báo lạm phát nói riêng còn nhiều hạn chế, do thiếu cơ sở dữ liệu để có thể lập

mô hình dự báo lạm phát và thiếu cán bộ có đủ trình độ để thiết lập mô hình có kết

quả sát thực. Đồng thời, Ngân hàng Nhà nước thiếu một hệ thống thông tin để cập

nhật kịp thời những thay đổi trên thị trường tài chính và tình hình kinh tế tác động

đến lạm phát để có cơ sở phân tích và dự báo chính xác lạm phát.

3.2.7. Xây dựng lộ trình thực hiện áp dụng chính sách tiền tệ lạm phát mục tiêu

tại việt nam

3.2.7.1. Xây dựng cấu trúc kỹ thuật chính sách tiền tệ lạm phát mục tiêu :

a) Thời điểm áp dụng

Do tình hình kinh tế hiện tại ở Việt Nam như sau: (i) từ năm 2004 đến nay,

lạm phát ở Việt Nam biến động phức tạp, hiện Ngân hàng Nhà nước chưa thể kiểm

soát được lạm phát trong ngắn hạn; (ii) trong ngắn hạn, Ngân hàng Nhà nước chưa

thể cải cách thật nhanh để hội đủ các điều kiện cơ bản áp dụng CSTT lạm phát mục

tiêu. Bởi vậy, Việt Nam chưa thể chuyển đổi ngay sang cơ chế lạm phát mục tiêu

hoàn toàn/toàn phần. Tuy nhiên, ban đầu Việt Nam có thể áp dụng IT ngầm định

(Ngân hàng Nhà nước có thể thỏa thuận với Chính phủ về việc thực hiện lạm phát

mục tiêu mà không cần công bố cho toàn thể công chúng).

72

b) Khung lạm phát mục tiêu

Khung lạm phát mục tiêu chính là biên độ mà tại đó chỉ số lạm phát được phép

biến động. Việc đưa ra khung chỉ số lạm phát có thể cho phép Ngân hàng Nhà nước

linh hoạt ứng phó với những cú sốc và đưa ra lựa chọn tối ưu trong bối cảnh Ngân

hàng Nhà nước còn theo đuổi các mục tiêu khác. Sự linh hoạt của Ngân hàng Nhà

nước phụ thuộc vào biên độ của khung chỉ số lạm phát, tuy nhiên nếu khung chỉ số

lạm phát quá rộng, nó sẽ làm cho những kỳ vọng lạm phát và những cam kết của

Ngân hàng Nhà nước không rõ ràng. Việc lựa chọn thu hẹp hay mở rộng biên độ của

khung lạm phát phụ thuộc vào tần suất, mức độ nghiêm trọng của các cú sốc và sự

tín nhiệm của Ngân hàng Nhà nước.Hầu hết Ngân hàng Trung ương các nước hoặc

là đặt điểm mục tiêu, hoặc là vừa đặt điểm mục tiêu và cho phép biên độ giao động là

± 2% hoặc ít hơn.

Tại các nước áp dụng chính sách tiền tệ lạm phát mục tiêu, có một số nước áp

dụng khung lạm phát mục tiêu (New Zealand: 0-3%; Canada: 1-3%; EU: 2% hoặc <

2%), trong khi một số nước khác lại chọn lạm phát mục tiêu là một con số cụ thể.

Từ trước tới nay, chỉ tiêu lạm phát hàng năm (31/12 năm sau so với 31/12 năm trước)

do Quốc hội thông qua được xem như một mức trần được phép về lạm phát của năm

đó. Liên tục nhiều năm qua, chỉ số lạm phát thực tế thường thoát ly ở mức cách biệt

khá lớn so với mức trần Quốc hội cho phép. Do chúng ta xác định chỉ số CPI dự

kiến thiếu căn cứ khoa học nên từ năm 2004 tới nay, lạm phát thực tế thường cao

hơn nhiều so với lạm phát mục tiêu. Việc đặt mục tiêu lạm phát chỉ có mức trần

nhưng không quy định mức sàn đã làm cho Ngân hàng Nhà nước rất bị động trong

kiểm soát thiểu phát cũng như trong điều hành chính sách tiền tệ nói chung. Từ

những nghiên cứu này, nhóm các nhà khoa học đã nghiên cứu và đưa ra kịch bản lựa

chọn khung mục tiêu lạm phát để Ngân hàng Nhà nước Việt Nam nghiên cứu ứng

dụng khi áp dụng chính sách tiền tệ lạm phát mục tiêu như sau:

Khung lạm phát mục tiêu là một biên độ vừa đảm bảo ổn định giái cả, kiểm

soát lạm phát và đảm bảo mục tiêu tăng trưởng kinh tế tối thiểu

73

Biên độ có thể hợp lý cho giai đoạn 5 năm đầu áp dụng chính sách tiền tệ lạm

phát mục tiêu là (6%/năm, ±2%/năm) và cho giai đoạn các năm tiếp theo là

(4%/năm, ±1%). Cơ sở của kịch bản này được giải trình như sau:

Thứ nhất, trong thời gian trung hạn Việt Nam vẫn là nước có tỷ trọng nhập

khẩu nguyên liệu đầu vào lớn. Một mặt, chúng ta phụ thuộc vào giá cả thế giới, mặt

khác, cơ chế kiểm soát đầu cơ nâng giá trong kênh phân phối nguyên liệu nhập khẩu

còn kém hiệu quả. Do vậy, xu hướng giá cả thị trường còn tăng mạnh và biến động

bất thường hàng năm. Chúng ta không thể đặt biên độ mục tiêu lạm phát hẹp hơn

±2% cho giai đoạn 5 năm đầu và ±1% cho các năm tiếp theo vì lạm phát thực tế biến

động dễ chệch biên độ đặt ra. Điều này nếu xảy ra sẽ buộc Ngân hàng Nhà nước

phải giải trình, xin điều chỉnh mục tiêu là hết sức phức tạp.

Thứ hai, sai số trong tính toán CPI đến một vài phần trăm là chuyện có thể xảy

ra, nhất là khi trình độ và công cụ tính CPI của Việt Nam còn rất hạn chế. Vì vậy, biên

độ đặt ra là ±2% cho giai đoạn 5 năm đầu và ±1% cho giai đoạn tiếp theo là phù hợp.

Thứ ba, mức sàn lạm phát 4% cho giai đoạn 5 năm đầu và 3% cho giai đoạn

tiếp theo hàm ý đảm bảo cho nền kinh tế đạt mức tăng trưởng kỳ vọng tối thiểu.

Thứ tư, mức trần lạm phát 8% cho giai đoạn 5 năm đầu và 5% cho giai đoạn 5

năm tiếp theo cũng hàm ý đảm bảo kiểm soát lạm phát giảm thấp trong trung hạn

nhưng vẫn kích thích tăng trưởng kinh tế kỳ vọng.

c) Công cụ truyền dẫn lạm phát mục tiêu

Kinh nghiệm cho thấy các nước áp dụng chính sách tiền tệ lạm phát mục tiêu

đều vận hành chính sách thông qua công cụ lãi suất chủ đạo của Ngân hàng Trung

ương để tác động vào lãi suất thị trường. Công cụ lãi suất của Ngân hàng Trung

ương, một mặt, duy trì sự ổn định của lãi suất thị trường, mặt khác, tạo điều kiện để

ngân hàng thương mại quản lý thanh khoản. Công cụ này thiết lập một khung bao

gồm mức lãi suất cao nhất (mức trần) và mức lãi suất thấp nhất (mức sàn) mà Ngân

hàng Trung ương sẽ áp dụng đối với ngân hàng thương mại sao cho lãi suất tiền gửi,

cho vay qua đêm trên thị trường liên ngân hàng và kể cả mức lãi suất chủ đạo của

Ngân hàng Trung ương nằm trong khung lãi suất này. Đồng thời, công cụ này cũng

tạo điều kiện để các NHTM gửi tiền hoặc vay tiền từ Ngân hàng Trung ương. Trên cơ

74

sở kinh nghiệm các nước, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cũng phải lựa chọn một

công cụ lãi suất làm lãi suất chủ đạo. Công cụ lãi suất này phải đáp ứng các nguyên

tắc sau: (i) lãi suất chủ đạo thực hiện vai trò định hướng thị trường và là cơ sở hình

thành lãi suất thị trường; (ii) lãi suất chủ đạo đảm bảo cho Ngân hàng Nhà nước

thực sự là người cho vay cuối cùng đối với NHTM. Hàm ý rằng, lãi suất cho các

NHTM vay của Ngân hàng Nhà nước tối thiểu phải bằng hoặc cao hơn lãi suất cho

vay trên thị trường liên ngân hàng; (iii) lãi suất chủ đạo được xác định trên cơ sở

đánh giá mức lạm phát kỳ vọng trong khoảng thời gian tối thiểu phải hàng năm vì cơ

chế truyền dẫn từ lãi suất chính thức đến mục tiêu lạm phát có độ trễ nhất định về

thời gian, thường mất khoảng 1,5-2 năm.

3.2.7.2. Xây dựng lộ trình thực hiện áp dụng chính sách tiền tệ lạm phát mục

tiêu tại Việt Nam

Từ những phân tích trên về các điều kiện tiền đề cho chính sách tiền tệ lạm

phát mục tiêu trên đây nhằm hàm ý chúng ta cần xác định thời gian áp dụng thích

hợp để có thể phản ứng với những biến động của thị trường mà không gây nên các

cú sốc cho nền kinh tế. Hơn nữa, Ngân hàng Nhà nước phải có khoảng thời gian nhất

định để, một mặt, đưa tỷ lệ lạm phát tới gần khung mục tiêu đã lựa chọn, mặt khác,

phải chuẩn bị các tiền đề cho quá trình chuyển đổi sang thực hiện chính sách tiền tệ

lạm phát mục tiêu hoàn toàn. Trên cơ sở những phân tích tại phần trước về khung lạm

phát mục tiêu, có thể xác định lộ trình chuẩn bị này vào khoảng 4-5 năm (2017-

2021). Khi thực hiện chính sách tiền tệ lạm phát mục tiêu tức là chúng ta khẳng định

chính sách tiền tệ sẽ theo đuổi mục tiêu lạm phát thấp để ổn định giá cả. Đây là mục

tiêu trung hạn có độ trễ ít nhất là 5 năm. Vì vậy, lộ trình áp dụng chính sách ít nhất

• Giai đoạn đầu là 3 năm chấp nhận mục tiêu lạm phát ở mức lạm phát cao

được chia làm hai giai đoạn:

• Giai đoạn cho 2 năm tiếp theo đưa khung lạm phát giảm xuống ở mức nhất

hơn với biên độ rộng hơn (6%, ±2%).

định (4%, ±1%).

Để Ngân hàng Nhà nước có thể áp dụng chính sách tiền tệ lạm phát mục tiêu

theo lộ trình trên, cần phối hợp đồng bộ các nhóm giải pháp:

• Nhóm giải pháp đổi mới thể chế: xây dựng Luật Ngân hàng Trung ương Việt

75

Nam thay thế Luật Ngân hàng Nhà nước theo hướng đổi mới Ngân hàng Nhà nước

• Nhóm giải pháp kỹ thuật: hoàn thiện phương pháp xác định chỉ số lạm phát

thành Ngân hàng Trung ương hiện đại; thành lập Hội đồng Chính sách Tiền tệ.

• Nhóm giải pháp hỗ trợ: đẩy mạnh công tác truyền thông về lạm phát mục

(CPI);

tiêu; nâng cao năng lực dự báo lạm phát; phát triển và hoàn thiện thị trường tài chính;

củng cố và phát triển hệ thống ngân hàng; nâng cao tính minh bạch và trách nhiệm giải

trình của Ngân hàng Trung ương; phối hợp tốt giữa chính sách tiền tệ và chính sách tài

khóa; hoàn thiện cơ chế điều hành tỷ giá hối đoái theo hướng linh hoạt hơn.

76

KẾT LUẬN

Nền kinh tế Việt Nam đang ngày càng hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế

giới, bởi vậy, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cần cải cách mạnh mẽ hơn theo xu

hướng trở thành Ngân hàng Trung ương hiện đại để đáp ứng những yêu cầu của nền

kinh tế Việt Nam. Trong khi đó, với sự biến động ngày càng tăng của nền kinh tế

thế giới và sự phát triển ngày càng đa dạng của nền kinh tế thị trường, các giao dịch

kinh tế, tiền tệ ngày càng trở nên phức tạp hơn, thì việc điều hành chính sách tiền tệ

của Ngân hàng Nhà nước còn nhiều tồn tại, hạn chế. Cơ chế điều hành chính sách

tiền tệ hiện nay tỏ ra không hiệu quả trong việc kiểm soát lạm phát. Từ năm 2004

đến nay, lạm phát diễn biến phức tạp và gia tăng, kinh tế vĩ mô gặp nhiều bất ổn.

Như vậy, trên cơ sở nghiên cứu kinh nghiệm các nước áp dụng lạm phát mục

tiêu và thực tiễn điều hành chính sách tiền tệ ở Việt Nam. Với đề tài : “Nghiên cứu

Chính sách tiền tệ lạm phát mục tiêu và khả năng áp dụng tại Việt Nam”, luận

văn đã giải quyết những vấn đề sau: Đánh giá hiệu quả cơ chế điều hành chính sách

tiền tệ hiện nay của Việt Nam trong giai đoạn gần đây và đưa ra một số gợi ý chính

sách nhằm hoàn thiện cơ chế chính sách tiền tệ hiện hành và tạo tiền đề cho việc áp

dụng lạm phát mục tiêu ở Việt Nam; Đánh giá khả năng áp dụng chính sách tiền tệ

lạm phát mục tiêu của Việt Nam và đề xuất thiết lập các tiền đề chuẩn bị áp dụng cơ

chế lạm phát mục tiêu ở Việt Nam; đề xuất cơ chế điều hành chính sách tiền tệ lạm

phát mục tiêu áp dụng cho Việt Nam; đề xuất lộ trình áp dụng chính sách tiền tệ lạm

phát mục tiêu ở Việt Nam cũng như đề xuất các nhóm giải pháp nhằm áp dụng thành

công chính sách tiền tệ lạm phát mục tiêu ở Việt Nam.

Việt Nam còn quá nhiều việc phải làm cho đến khi áp dụng đầy đủ khuôn khổ

lạm phát mục tiêu. Nhưng không vì thế chúng ta bi quan về khả năng áp dụng khuôn

khổ điều hành CSTT lấy lạm phát làm mục tiêu. Ban đầu có thể áp dụng IT ngầm

định, hay IT một phần này chứ không chờ khi hội đủ các điều kiện mới thực hiện.

Kinh nghiệm một số nước (Chile, Israel, Hungary v.v…) thực hiện cơ chế lấy lạm

phát làm mục tiêu chỉ ra rằng có thể triển khai cơ chế này theo phương pháp tiếp cận

tiệm tiến từng bước trong thời kỳ quá độ.

77

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

I. Danh mục tài liệu tham khảo tiếng Việt

1. TS. Lê Vinh Danh, “Chính sách tiền tệ và Điều tiết vĩ mô của NHTW”, NXB

Tài chính, Hà Nội 2005.

“Luật ngân sách Nhà nước”, Hà Nội 2012. 2.

“Luật ngân hàng nhà nước”, Hà Nội 2012. 3.

“Luật các tổ chức tín dụng”, Hà Nội 2012. 4.

“Dự toán NSNN”, Hà Nội 2013. 5.

“Dự toán NSNN”, Hà Nội 2014. 6.

7. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, “Báo cáo thường niên Ngân hàng Nhà nước

Việt Nam 2009 ”, Hà Nội 2009.

8. “Báo cáo định kỳ hàng quý triển vọng kinh tế thế giới của IMF, WB năm

2013- 2014”

9. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, “ Báo cáo thường niên Ngân hàng Nhà nước

Việt Nam 2010”, Hà Nội 2010.

10. “Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội năm 2014”, Tổng cục thuế, Hà Nội 2014.

11. “Thông tư 36/2014/TT_NHNN ngày 20/11/2014 quy định các giới hạn, tỷ lệ

đảm bảo an toàn trong hoạt động của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước

ngoài”, Hà Nội 2014.

12. “Nghị quyết 77/2014/QH13 ngày 10/11/2014 về kế hoạch phát triển kinh tế -

xã hội năm 2015”, Hà Nội 2014.

13. “Nghị định số 01/2014/NĐ-CP ngày 3/1/2014 về việc nhà đầu tư nước ngoài

mua cổ phần của tổ chức tín dụng Việt Nam”, Hà Nội 2014.

14. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, ”Kỷ yếu hội thảo quốc tế Chính sách tiền tệ

phối hợp với các chính sách kinh tế vĩ mô khác trong điều kiện kinh tế thế giới

biến động”, Nhà xuất bản Giao thông vận tải, Hà Nội 2011.

15. Ngân hàng nhà nước Việt nam, “Thông cáo báo chí Ngân hàng Nhà nước Việt

Nam 2012”, Hà Nội 2012.

16. Hà Quỳnh Hoa, “Mục tiêu chính sách tiền tệ đến năm 2015”, Tạp chí kinh tế

và phát triển, số 204, tháng 6/2014.

78

17. PGS.TS. Tô Kim Ngọc, “Chính sách mục tiêu lạm phát trong điều kiện khủng

hoảng tài chính”, Tạp chí ngân hàng số 8 tháng 4/2012, Hà Nội 2012.

18. PGS.TS. Tô Kim Ngọc, “Sử dụng công cụ trong điều hành chính sách tiền tệ

từ 2011 đến nay”, Tạp chí ngân hàng số 2 tháng 4/2011, Hà Nội 2011.

19. Ủy ban Giám sát tài chính Quốc gia, ”Báo cáo triển vọng kinh tế Việt Nam

2012 – 2013”, Hà Nội 2011.

20. Đỗ Thị Đức Minh, “Chính sách mục tiêu kiểm soát lạm phát - một cách tiếp

cận trong việc điều hành chính sách tiền tệ ở Việt Nam”, NXB Thống kê, Hà

Nội 2005.

21. NHNN, “Luật NHNN năm 1997, Luật Các TCTD, Hà Nội 1998

22. năm 1997, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội. NHNN (2004), Luật sửa

đổi, bổ sung một số điều của Luật NHNN năm 2003; Luật sửa đổi, bổ sung

một số điều của Luật Các TCTD năm 2004”, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia,

Hà Nội.

23. NHNN, “Luật NHNN Việt Nam; Luật Các TCTD”, Nhà xuất bản Chính trị -

Hành chính, Hà Nội 2010.

24. NHNN, “ Đề án “Mục tiêu, giải pháp phát triển ngành ngân hàng Việt Nam

đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020”, Hà Nội 2006.

25. Nguyễn Đồng Tiến, “Phương pháp tính lạm phát cơ bản và giải pháp lựa chọn

ở Việt Nam”, Đề tài NHKH, Hà Nội 2006.

26. Nguyễn Hữu Nghĩa, “Lấy lạm phát làm mục tiêu là khuôn khổ điều hành

chính sách tiền tệ - Sự lựa chọn chiến lược của chính sách tiền tệ Việt Nam

đến năm 2015?”, NXB Thống kê, Hà Nội 2005.

27. Tô Thị Ánh Dương, “Lạm phát mục tiêu và hàm ý đối với khuôn khổ chính

sách tiền tệ ở Việt Nam”, Đề tài NCKH , Hà Nội 2012.

28. Nguyễn Ngọc Bảo, “Điều hành chính sách tiền tệ trong tiến trình tự do hóa

giao dịch vốn tại Việt Nam”, Đề tài NCKH, Hà Nội 2008.

II. Tài liệu tham khảo tiếng Anh

29. Sami ben Naceur, Ảm Hosny, and Gregory Hadjian. (2015). Hơ to De-

Dollarize Financial Systems in Caucasus and Central Asia? IMF Working

79

Paper.

30. Lee J.Krajewski, Larry P.Ritzman, 1996, Operations management strategy and

Analysis, Fourth Edition, Addison-Wesley Publishing Company, Inc.

31. Fredric S. Mishkin (2004), The Economics of Money, Banking, and Financial

Markets, the seventh edition, Pearson - Addison Wesley Publishing Company,

Inc.

32. Alan S. Blinder (2000), Central banking in theory and practice, the MIT Press,

London.

33. Andrea Schaechter (2001), Implementation of Monetary Policy and the

Central Bank’s Balance Sheet, IMF Working pa- per, Washington DC.

34. Andrea Schaechter, Mark Stone, and Mark Zelmer, 2002, Establishing Initial

Conditions in Support of Inflation Targeting, IMF Working Paper 02/102

(Washington: In- ternational Monetary Fund).

35. Alina Carare, Implementing Inflation Targeting: Forecasting Inflation, IMF

Institute, Inflation targeting course Sep- tember 2005.

36. Ball,L.and Sheridan,N.(2003),DoesInflationTargetingMatter?

37. NBER Working Paper No. W9577.

38. Charles Freedman and İnci Ötker-Robe, 2009, Country Experiences with the

Introduction and Implementation of Inflation Targeting, IMF working paper

No 09/161.

39. Chorng-Huey Wong, Inflation targeting: Conceptual and Institutional Aspects,

IMF Institute Inflation targeting course September 2005.

40. Debelle, G., Inflation Targeting and Output Stabilization, Research Discussion

Paper 1999-08, This paper was pre- pared for a seminar on “Inflation

Targeting in Brazil” held in Rio de Janiero, 3-5 May 1999.

41. European Central Bank, The monetary policy of the ECB, 2001.

80

III. Danh mục tài liệu tham khảo từ Internet

1. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, 2012, Chính sách tiền tệ,

http://www.sbv.gov.vn/wps/portal/!ut/p/c4/04_SB8K8xLLM9MSSzPy8xBz9

CP0os3gDFxNLczdTEwN3NyNzA0__INfAYEcXIyNXM_2CbEdFAJ2JW1

M!/

[Ngày truy cập: 9/10/2012]

2. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, 2012, Tạp chí ngân hàng,

http://www.sbv.gov.vn/wps/portal/!ut/p/c5/tap-chi-ngan-hang

[Ngày truy cập: 14/10/2012]

3. Tâm Thời, 2012, Chính sách tiền tệ đang bị mắc kẹt,

http://vietnamnet.vn/vn/kinh-te/96599/chinh-sach-tien-te-dang-bi-mac-

ket.html

[Ngày truy cập: 15/10/2012]

4. Nguyễn Thị Kim Thanh, 2009, Chính sách tiền tệ năm 2009 – những thách

thức đặt ra cho năm 2010,

http://www.baomoi.com/Chinh-sach-tien-te-nam-2009-Nhung-thach-thuc-dat-

ra-cho-nam-2010/126/3700110.epi

[Ngày truy cập: 22/10/2012]

5. Hà An, Mạn Đình, 2009, Những điểm nhấn trong điều hành chính sách tiền tệ

năm 2009,

http://www.hvnh.edu.vn/magazine/311/481

[Ngày truy cập: 15/10/2012]

6. Nguyễn Hòa Bình, 2009, Nhìn lại các công cụ của chính sách tiền tệ thời

gian qua và một vài đề xuất,

http://thongtinphapluatdansu.edu.vn/2009/09/30/3860/

[Ngày truy cập: 28/10/2012]

7. Hà Nam, 2010, Ngân hàng Nhà nước thực hiện tốt chính sách tiền tệ, tín dụng,

http://www.taichinhdientu.vn/Home/Nam-2010-NHNN-thuc-hien-tot-chinh-

sach-tien-te-tin-dung/201012/104433.dfis

[Ngày truy cập: 29/10/2012]

81

8. Ngọc Châu, 2010, Chính sách tiền tệ 2010: cân bằng lạm phát và tăng trưởng,

http://cafef.vn/tai-chinh-ngan-hang/chinh-sach-tien-te-2010-can-bang-lam-

phat-va-tang-truong-20100115042833243ca34.chn

[Ngày truy cập: 5/11/2012]

9. Nguyễn Thị Hải Hà, 2011, Những tác động của chính sách tiền tệ thắt chặt,

http://www.vietinbank.vn/web/home/vn/research/12/nhung-tac-dong-cua-

chinh-sach-tien-te-that-chat.html

[Ngày truy cập: 5/11/2012]

10. Hải Minh, 2009, Chính sách tiền tệ 2010 tiếp sức cho nền kinh tế,

http://baodatviet.vn/Home/kinhte/Chinh-sach-tien-te-2010-tiep-suc-cho-kinh-

te/200912/74138.datviet

[Ngày truy cập: 10/11/2012]

11. Nguyên Hà, 2010, Đầu năm 2010: “Thắt chặt tiền tệ có phần quá mạnh”,

http://vneconomy.vn/20100507125436835P0C6/dau-nam-2010-that-chat-tien-

te-co-phan-qua-manh.htm

[Ngày truy cập: 12/11/2012]

12. Thuận Hải, 2010, Chính sách tiền tệ đa mục tiêu,

http://www.tuanvietnam.net/2010-04-20-chinh-sach-tien-te-da-muc-tieu

[Ngày truy cập: 15/11/2012]

13. Việt Hà, 2012, Điều hành chính sách tiền tệ đạt được mục tiêu đề ra,

http://dangcongsan.vn/cpv/Modules/News/NewsDetail.aspx?co_id=30363&cn

id=501270

[Ngày truy cập: 20/11/2012]

14. Hữu Vinh, 2011, Điều hành chính sách tiền tệ 2011: Ghìm cương những con

ngựa bất kham,

http://baotintuc.vn/143n20111230164651718t128/dieu-hanh-chinh-sach-tien-te-

2011-ghim-cuong-nhung-con-ngua-bat-kham.htm

[Ngày truy cập: 21/11/2012]

15. Southerm Bank, 2013, Báo cáo tình hình quản trị công ty 6 tháng đầu năm

2013,

82

http://www.southermbank.com.vn

[Ngày truy cập: 21/10/2013]

16 Freedman, C. và Laxton, D. Why Inflation Targeting?, IMF Working Paper

WP/09/86, International Monetary Fund. 2009.

17 12.Friedman, M. (1968), The Role of Monetary Policy, The American

Economic Review, No. 1, Vol. LVIII.1968.

18 FredericS.Mishkin,(1998),Exchange-RatePegginginEmerging

-Market Countries?

19 Frederic S. Mishkin (2000), Inflation targeting in emerging market countries,

Working Paper 7618.

20 Frederic S. Mishkin (2001), Inflation Targeting, The paper was prepared for

Brian Vane and Howard Vine, An Encyclo- pedia of Macroeconomics, Edward

Elgar.

21 F.S. Mishkin, (2004), Can Inflation Targeting Work in Emerg ing Market

Countries?, Working Paper 10646, NBER Working Paper Series.

22 F. Mishkin và Schmidt-Hebbel, K. (2005), Does Inflation Tar geting Make a

Difference?, Paper prepared for the Ninth Annual Conference of the Central

Bank of Chile “Mon- etary Policy Under Inflation Targeting”, Santiago, Chile,

October 20 and 21, 2005.

23 Filho, I. C. (2010), Inflation Targeting and the Crisis: An Empirical

Assessment, IMF Working Paper, Research Department.

24 Gómez,J.,Uribe,J.D.,andVargas,H.(2002), TheImplementation of Inflation

Targeting in Colombia, The paper is presented in the conferences: “Inflation

Targeting, Macroeconomic Modelling and Forecasting” Banco de la Republica

and Bank of England, Bogota, January 14-15, 2002.

25 Jonas,J.andMishkin,F.S.(2003),InflationTargetinginTransition Countries:

Experience and Prospects, Working Paper 9667, NBER Working Paper

Series.

26 Ramkishen.S.Rajan, Inflation targeting frameworks in Asia, Business Times:

Editorial & Opinion (page 8) Webnes- day, March 24, 2004.

83

27 Roger, S. (2009), Inflation Targeting at 20: Achievements and Challenges,

IMF Working Paper, IMF.

28 Seung Heon Lee, The Bank of Korea, Inflation Targeting: Experience of

Korea, IMF Institute Inflation targeting course September 2005.

29 Sherwin, M. (2000), Institutional Frameworks for Inflation Targeting, Bank of

Thailand Symposium “Practical Ex- periences on Inflation Targeting”,

Bangkok.

Tomas J.T. Balino and Lorena M. Zamalloa (1997), Instruments of Monetary

Management - Issues and Country Experi- ences, International Monetary

Fund, Washington DC.