BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH Bùi Thị Bích ĐỊNH HƯỚNG GIÁ TRỊ LỐI SỐNG SINH VIÊN Ở MỘT SỐ TRƯỜNG ĐẠI HỌC TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Chuyên ngành: Tâm lý học 60 31 80 Mã số: LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC TS. Huỳnh Văn Sơn

Thành phố Hồ Chí Minh – 2007

CÁC KÝ HIỆU VÀ CHỮ VIẾT TẮT

ĐHSP : Đại học Sư phạm

ĐHSPKT : Đại học Sư phạm Kỹ thuật

ĐHBK : Đại học Bách Khoa

SD : Độ lệch tiêu chuẩn

STT : Số thứ tự

TP.HCM : Thành phố Hồ Chí Minh

TB : Trung bình

DANH MỤC CÁC BẢNG

Trang

Bảng 1.1: Khách thể nghiên cứu phân bố theo giới tính, 4

trường học, năm học, khu vực và điều kiện kinh tế gia đình

Bảng 3.1: Sự lựa chọn các kiểu lối sống của sinh viên 52

Bảng 3.2: Những lối sống được giới trẻ ưu tiên hiện nay 55

Bảng 3.3: Đánh giá của sinh viên về tầm quan trọng 56

của các giá trị nhân văn

58 Bảng 3.4: Đánh giá của sinh viên về tầm quan trọng

của các giá trị đạo đức

Bảng 3.5: Đánh giá của sinh viên về tầm quan trọng 60

của các giá trị chính trị - pháp luật

Bảng 3.6: Đánh giá của sinh viên về tầm quan trọng 62

của các giá trị kinh tế

Bảng 3.7: Kết quả so sánh điểm trung bình giữa nam và nữ 64

Bảng 3.8: Kết quả so sánh điểm trung bình giữa các trường 64

Bảng 3.9: Kết quả so sánh điểm trung bình giữa sinh viên 65

năm I và năm IV

66 Bảng 3.10: Kết quả so sánh điểm trung bình

giữa sinh viên TP.HCM và sinh viên tỉnh

Bảng 3.11: Kết quả so sánh điểm trung bình giữa các điều kiện 66

kinh tế gia đình

Bảng 3.12: Thái độ tích cực của sinh viên đối với các nhóm 67

giá trị lối sống

Bảng 3.13: Sự khác biệt thái độ giữa nam và nữ 69

Bảng 3.14: Sự khác biệt thái độ giữa các trường 70

Bảng 3.15: Sự khác biệt thái độ giữa sinh viên năm I và năm IV 71

Bảng 3.16: Sự khác biệt thái độ giữa sinh viên TP.HCM và sinh viên tỉnh 71

Bảng 3.17: Sự khác biệt thái độ giữa các sinh viên có 72

điều kiện kinh tế khác nhau

Bảng 3.18: Mức độ thực hiện các hành vi tích cực của sinh viên 73

Bảng 3.19: Mức độ tồn tại các các hiện tượng tiêu cực trong 75

lối sống sinh viên

Bảng 3.20: Những biểu hiện của lối sống sinh viên hiện nay 81

Bảng 3.21: Mức độ ảnh hưởng của các yếu tố đến định hướng 95

giá trị lối sống sinh viên

100 Bảng 3.22: Sự khác biệt giữa nam và nữ về mức độ ảnh hưởng

của các yếu tố

Bảng 3.23: Sự khác biệt giữa các trường về mức độ ảnh hưởng 102

của các yếu tố

Bảng 3.24: Sự khác biệt giữa sinh viên năm I và năm IV về 103

mức độ ảnh hưởng của các yếu tố

Bảng 3.25: Sự khác biệt giữa sinh viên TP.HCM và sinh viên tỉnh 104

về mức độ ảnh hưởng của các yếu tố

104 Bảng 3.26: Sự khác biệt giữa các sinh viên có điều kiện kinh tế

gia đình khác nhau về mức độ ảnh hưởng của các yếu tố

DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ, BIỂU ĐỒ

Trang

Biểu đồ 3.1: Động cơ học tập của sinh viên 83

Biểu đồ 3.2: Sự khác biệt về hành động trên lớp học giữa sinh viên 85

năm I và năm IV

Biểu đồ 3.3: Sự khác biệt về hành động trong phòng thi 87

giữa các trường

Biểu đồ 3.4: Sự khác biệt giữa sinh viên TP.HCM và tỉnh 88

khi gặp người bị hoạn nạn

Biểu đồ 3.5: Sự khác biệt giữa nam và nữ khi có người rủ xem phim cấm 91

93 Biểu đồ 3.6: Sự khác biệt trong cách lựa chọn cuộc sống vật chất

giữa các sinh viên có điều kiện kinh tế khác nhau

MỞ ĐẦU

1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI

Khi xem xét và đánh giá về con người nói chung hay về nhân cách nói riêng, chúng

ta không thể bỏ qua vấn đề định hướng giá trị. Chính sự định hướng giá trị sẽ phản ánh nhu

cầu, nguyện vọng của con người, phản ánh cái mà họ yêu thích và cho là quý giá. Định

hướng giá trị chỉ đạo toàn bộ hoạt động của con người, bởi vì con người thường hướng vào

một loạt giá trị để xác định lối sống cho riêng mình. Biết được định hướng giá trị của con

người là biết được thái độ, hành vi của họ và sẽ dễ dàng hơn trong giao tiếp cũng như trong

quá trình tổ chức và điều khiển hoạt động.

Giá trị và định hướng giá trị luôn là lĩnh vực được ưu tiên khi bàn về nhân cách sống

của mỗi con người. Từ đại hội lần thứ VIII, Đảng đã đề xuất “xây dựng con người Việt nam

về tư tưởng, đạo đức, tâm hồn, tình cảm, lối sống” và “hình thành hệ giá trị và chuẩn mực

xã hội mới phù hợp với truyền thống, bản sắc và yêu cầu của thời đại” [14, tr.110 -113].

Bên cạnh đó, trên báo chí, tại các cuộc hội thảo quốc tế, chúng ta luôn bắt gặp những nội

dung phát biểu được đề cập: “giáo dục giá trị, xu thế ưu tiên cho thế kỷ XXI”, “sự biến đổi”,

“sự khủng hoảng giá trị”, “sự quay về với những giá trị truyền thống” [63, tr.21]. Có thể nói

việc tìm hiểu giá trị và định hướng giá trị đang là vấn đề có tính toàn cầu, là nhu cầu cấp

bách của mỗi quốc gia, nhất ở các nước đang phát triển.

Tại Việt nam, vấn đề giá trị và định hướng giá trị thời gian gần đây được quan tâm

rất nhiều trên mọi bình diện. Nước ta thực hiện đổi mới trên mọi lĩnh vực để cùng hoà nhập

với thế giới hiện đại, một thế giới trong đó nhân loại đang bước sang nền kinh tế tri thức,

quy mô phát triển kinh tế xã hội ngày càng rộng lớn, tính chất ngày càng đa dạng, phức tạp

và tốc độ phát triển ngày càng nhanh. Có biết bao cái mới, cái hay và cái đẹp được con

người đón nhận, tìm kiếm, nhưng dường như con người cũng phải gánh chịu những mặt tiêu

cực của sự phát triển - sự lấn lướt của tư duy lý trí, của nền văn minh phương Tây, đe dọa sự

phát triển cân bằng của con người. Khoa học kỹ thuật phát triển làm cho con người thông

minh hơn nhưng cũng dễ trở nên khô khan vô cảm, ích kỷ và thiếu lòng khoan dung. Trong

một xu thế chung như vậy, việc lựa chọn lối sống và định hướng giá trị lối sống sao cho vừa

thiết thực, vừa phù hợp với thời đại mà vẫn đậm đà bản sắc dân tộc không phải là đơn giản

đối với mọi người, đặc biệt với tầng lớp thanh niên - sinh viên, những người được coi là

năng động và luôn bắt nhịp với cái mới nhanh nhất, nhạy cảm với cái đẹp sớm nhất.

Hiện nay, hơn 1.319.754 sinh viên Việt nam đang theo học tại các trường Đại học và

Cao đẳng trên cả nước, họ là lớp người ưu tú chuẩn bị trở thành lực lượng lao động có trình

độ cao được Đảng, Nhà nước và nhân dân đặt nhiều hy vọng trong công cuộc đổi mới đất

nước. Do đó mà việc giáo dục giúp sinh viên định hướng các giá trị trong cuộc sống một

cách hài hoà, phù hợp để có lối sống lành mạnh và cao đẹp là việc làm cấp thiết của các cấp

các ngành có liên quan.

Thành phố Hồ Chí Minh (TP.HCM) là một trung tâm kinh tế lớn của cả nước đang

có hơn 334.797 sinh viên theo học, họ được thụ hưởng sự phát triển năng động và các

phong trào đổi mới của thành phố nhưng cũng đang bị thử thách không ít về đạo đức, lối

sống. Những năm gần đây, một số vấn đề trong lối sống của sinh viên tại TP.HCM được

báo chí đề cập nhiều và dư luận xã hội rất quan tâm cả mặt tích cực lẫn tiêu cực, tuy nhiên,

việc nghiên cứu lối sống còn mang tính khái quát, vì vậy phải tìm ra được đâu là động cơ

thúc đẩy, điều chỉnh thái độ và hành vi của sinh viên trong cuộc sống? Dưới góc độ Tâm lý

học, đó là định hướng giá trị lối sống.

Quán triệt đường lối phát triển văn hóa, giáo dục và đào tạo của Đảng –“phải đặt

trọng tâm vào nhiệm vụ xây dựng tư tưởng, đạo đức, lối sống lành mạnh. Phải tạo được sự

chuyển biến mạnh mẽ về tư tưởng, đạo đức, lối sống - một lĩnh vực then chốt trong đời sống

văn hóa dân tộc” [15,tr.24], chúng tôi thực sự quan tâm đến những thay đổi trong lối sống

của sinh viên ở vào thời điểm hiện nay tại địa bàn TP.HCM, đặc biệt về mặt định hướng giá

trị lối sống. Vì vậy, chúng tôi quyết định tìm hiểu “Thực trạng định hướng giá trị lối sống

sinh viên ở một số trường đại học tại TP.HCM”.

2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU

Đề tài nhằm tìm hiểu thực trạng định hướng giá trị lối sống của sinh viên ở một số

trường đại học tại TP.HCM hiện nay; nguyên nhân của thực trạng này, trên cơ sở đó đề xuất

một số biện pháp giáo dục lối sống và định hướng giá trị lối sống cho sinh viên.

3. NHIỆM VỤ CỦA ĐỀ TÀI

Để đạt được mục đích nêu trên, người nghiên cứu đề ra những nhiệm vụ phải thực

hiện như sau:

3.1. Khái quát những vấn đề lý luận liên quan đến đề tài: giá trị, định hướng giá trị,

lối sống, lối sống sinh viên, định hướng giá trị lối sống, định hướng giá trị lối sống sinh

viên.

3.2. Tìm hiểu thực trạng định hướng giá trị lối sống sinh viên ở một số trường đại

học tại TP.HCM. So sánh thực trạng định hướng giá trị lối sống của sinh viên theo: giới

tính, trường học, năm học, khu vực và điều kiện kinh tế gia đình.

3.3. Tìm hiểu một số yếu tố ảnh hưởng đến thực trạng định hướng giá trị lối sống

sinh viên.

3.4. Tìm hiểu nguyên nhân của thực trạng định hướng giá trị lối sống sinh viên trên

cơ sở đó có những biện pháp giáo dục lối sống và định hướng giá trị lối sống cho sinh viên.

4. ĐỐI TƯỢNG VÀ KHÁCH THỂ NGHIÊN CỨU

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Thực trạng định hướng giá trị lối sống của sinh viên

4.2. Khách thể nghiên cứu

 Sinh viên thuộc năm thứ I và năm IV tại 3 trường đại học trên địa bàn

TP.HCM, năm học 2006-2007:

- Trường Đại học Sư Phạm (ĐHSP) TP.HCM

- Trường Đại học Sư Phạm Kỹ thuật (ĐHSPKT) TP.HCM

- Trường Đại học Bách Khoa (ĐHBK) TP.HCM

Mẫu nghiên cứu được chọn ngẫu nhiên từ 3 trường và phát phiếu tập trung có hướng

dẫn. Tổng số phiếu thu về là 611 phiếu, trong đó có 12 phiếu phải loại bỏ vì không đạt yêu

cầu. Như vậy, tổng số phiếu đưa vào xử lý là 599 phịếu và được phân bố như sau:

Bảng 1.1: Khách thể nghiên cứu phân bố theo giới tính, trường học, năm học,

khu vực và điều kiện kinh tế gia đình

Điều kiện kinh tế Giới tính Trường học Năm học Khu vực gia đình

Khá Nam Nữ SP BK I IV Tỉnh

367 232 202 197 302 297 TP HCM 112 487 Khó khăn 91 SP KT 200 Trung bình 439 69

599 599 599 599 599

Phương thức xác định các nhóm sinh viên khi so sánh:

- Các nhóm sinh viên theo trường, phái tính, năm học lấy số liệu toàn thể 599 người.

- Các nhóm sinh viên theo khu vực : 100% sinh viên TPHCM, chọn ngẫu nhiên 25%

sinh viên Tỉnh để ghép chung.

- Các nhóm sinh viên theo điều kiện kinh tế gia đình: 100% sinh viên thuộc nhóm có

điều kiện kinh tế khó khăn và nhóm có điều kiện kinh tế khá. Chọn ngẫu nhiên 20% sinh

viên trong nhóm có điều kiện kinh tế trung bình để ghép chung.

 Một số giáo viên tại các trường đại học có sinh viên được nghiên cứu và được xem

là khách thể nghiên cứu hỗ trợ.

5. GIẢ THUYẾT NGHIÊN CỨU

Đa số sinh viên tại TP.HCM đều định hướng giá trị lối sống đúng đắn. Các sinh viên

biết chọn lọc một cách hài hòa giữa các giá trị nhân văn, giá trị đạo đức, giá trị chính trị -

pháp luật và giá trị kinh tế. Có sự khác biệt định hướng giá trị lối sống của sinh viên theo:

giới tính, trường học, năm học, khu vực và điều kiện kinh tế gia đình. Có nhiều yếu tố ảnh

hưởng đến thực trạng định hướng giá trị lối sống của sinh viên, phần lớn do sự tác động của

các yếu tố bên ngoài xã hội.

6. GIỚI HẠN ĐỀ TÀI

Lối sống là một phạm trù rất rộng, biểu hiện đa dạng trong mọi hoạt động của con

người. Trong điều kiện cho phép, người nghiên cứu tập trung tìm hiểu mặt định hướng giá

trị lối sống của sinh viên ở một số trường sau:

- Trường ĐHSP TP.HCM

- Trường ĐHSPKT TP.HCM

- Trường ĐHBK TP.HCM

Nghiên cứu định hướng giá trị lối sống trong đề tài này tập trung nghiên cứu nhận

thức, thái độ và những biểu hiện xu hướng hành vi đối với các giá trị lối sống của sinh viên.

Từ đó biết được phần nào nhân cách sống của sinh viên tại TP.HCM trong giai đoạn hiện

nay.

7. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Để giải quyết nhiệm vụ đã nêu, đề tài được sử dụng một số phương pháp nghiên cứu

sau:

7.1. Phương pháp nghiên cứu tài liệu

Thu thập tư liệu và các công trình nghiên cứu, đọc và phân tích theo từng bộ phận,

từng mặt, theo lịch sử thời gian để hiểu một cách đầy đủ và toàn diện. Từ đó liên kết các

thông tin từ nguồn tư liệu đã đọc và phân tích để xây dựng hệ thống lý thuyết mới đầy đủ và

sâu sắc phù hợp với đề tài nghiên cứu.

7.2. Phương pháp thực tiễn

7.2.1. Phương pháp điều tra bằng bảng câu hỏi

Đây là phương pháp chính khảo sát thực trạng định hướng giá trị lối sống và những

yếu tố ảnh hưởng cũng như nguyên nhân của thực trạng định hướng giá trị lối sống của sinh

viên tại TP.HCM. Bảng câu hỏi chính là công cụ nghiên cứu của đề tài.

Việc xây dựng bảng câu hỏi tiến hành theo 2 giai đoạn:

Giai đoạn 1: Dựa vào cơ sở lý luận về định hướng giá trị lối sống sinh viên, người

nghiên cứu soạn 2 phiếu thăm dò mở:

- Phiếu thứ nhất: Lấy ý kiến của các thầy cô đang trực tiếp giảng dạy tại các trường

đại học tại TP.HCM.

- Phiếu thứ hai: Lấy ý kiến của sinh viên tại 3 trường đại học: ĐHSP TP.HCM,

ĐHSPKT TP.HCM, ĐHBK TP.HCM, năm học 2006 – 2007.

Giai đoạn 2: từ kết quả của hai phiếu thăm dò mở, kết hợp với cơ sở lý luận, người

nghiên cứu xây dựng phiếu điều tra chính thức gồm 10 câu hỏi, trong mỗi câu hỏi bao gồm

nhiều ý (câu hỏi nhỏ).

Cấu trúc của phiếu điều tra gồm có 5 phần

Phần I: Khảo sát sự lựa chọn lối sống của sinh viên gồm có:

Câu 1: Khảo sát sự lựa chọn kiểu lối sống của sinh viên: gồm 15 kiểu lối sống cả tích

cực lẫn tiêu cực. Mỗi kiểu lối sống được đánh giá theo 5 mức độ: rất phù hợp (4 điểm), phù

hợp (3 điểm), ít phù hợp (2 điểm), không phù hợp (1 điểm) và hoàn toàn không phù hợp (0

điểm). Người được hỏi sẽ chọn 1 trong 5 mức phù hợp với họ nhất.

Câu 2: Khảo sát các kiểu lối sống được giới trẻ quan tâm nhất theo cách xếp hạng

của sinh viên.

Phần II: Khảo sát định hướng giá trị lối sống sinh viên:

Câu 3: Khảo sát nhận thức của sinh viên về mức độ quan trọng của 4 nhóm giá trị lối

sống. Gồm 40 giá trị chia đều cho 4 nhóm:

- Nhóm giá trị nhân văn: từ 1 đến 10

- Nhóm giá trị đạo đức: từ 11 đến 20

- Nhóm giá trị chính trị - pháp luật : từ 21 đến 30

- Nhóm giá trị kinh tế: từ 31 đến 40

Mỗi giá trị được đánh giá theo 5 mức: Rất quan trọng (4 điểm), quan trọng (3 điểm),

bình thường (2 điểm), không quan trọng(1 điểm) và hoàn toàn không quan trọng (0 điểm).

Câu 4: Khảo sát thái độ của sinh viên về các nhóm giá trị lối sống, gồm 20 nhận định

chia đều cho 4 nhóm giá trị:

- Nhóm giá trị nhân văn: từ 1 đến 5

- Nhóm giá trị đạo đức: từ 6 đến 10

- Nhóm giá trị chính trị - pháp luật: từ 11 đến 15

- Nhóm giá trị kinh tế: từ 16 đến 20

Thang thái độ được soạn gồm các nhận định tích cực có xen kẽ các nhận định tiêu

cực. Người trả lời chọn 1 trong 5 mức độ: rất đồng ý (4 điểm), đồng ý (3 điểm), phân vân (2

điểm), không đồng ý (1 điểm) và hoàn toàn không đồng ý (0 điểm).Với các câu tiêu cực (*),

các điểm số được quy đổi ngược lại.

Câu 5: Khảo sát biểu hiện lối sống sinh viên về các hành vi tích cực, gồm 10 ý, người

trả lời sẽ chọn 1 trong 5 mức độ thực hiện các hành vi ấy: rất thường xuyên (4 điểm),

thường xuyên (3 điểm), đôi khi (2 điểm), không thường xuyên (1 điểm) và hoàn toàn không

thường xuyên (0 điểm).

Câu 6: Khảo sát những hành vi tiêu cực còn tồn tại trong lối sống sinh viên, gồm 18 ý

được đánh giá theo 5 mức độ tương tự như các hành vi tích cực: rất thường xuyên (4 điểm),

thường xuyên (3 điểm), đôi khi (2 điểm), không thường xuyên (1 điểm) và hoàn toàn không

thường xuyên (0 điểm).

Câu 7: Khảo sát xu hướng lựa chọn lối sống trong sinh viên, gồm 10 câu hỏi nhỏ đo

những biểu hiện của lối sống được chia thành 3 nhóm

- Về học tập và nghiên cứu khoa học: từ câu 1 đến câu 4

- Về quan hệ giao tiếp - ứng xử: từ câu 5 đến câu 7

- Về sinh hoạt cá nhân: từ câu 8 đến câu 10

Mỗi câu hỏi nhỏ gồm 4 lựa chọn được đánh giá mức độ tích cực từ cao đến thấp,

người trả lời chọn 1 lựa chọn thích hợp nhất.

Phần III: Câu 8: Khảo sát các yếu tố ảnh hưởng đến định hướng giá trị lối sống sinh

viên, người nghiên cứu đưa ra 30 yếu tố và sắp xếp thành 6 nhóm, người trả lời chọn 1 trong

5 mức phù hợp nhất: rất nhiều (4 điểm), nhiều (3 điểm), trung bình (2 điểm), không (1

điểm) và hoàn toàn không (0 điểm).

Nhóm yếu tố gia đình: từ yếu tố 1 đến yếu tố 5

Nhóm yếu tố nhà trường: từ yếu tố 6 đến yếu tố 10

Nhóm yếu tố bạn bè: từ yếu tố 11 đến yếu tố 15

Nhóm yếu tố văn hoá – xã hội: từ yếu tố 16 đến yếu tố 23

Nhóm yếu tố kinh tế: từ yếu tố 24 đến yếu tố 27

Nhóm yếu tố cá nhân: từ yếu tố 28 đến yếu tố 30

Phần IV: Câu 9: khảo sát nguyên nhân của định hướng giá trị lối sống sinh viên, là

câu hỏi mở để cho người được hỏi viết câu trả lời.

Phần V: Câu 10: thu thập các biện pháp giáo dục định hướng giá trị lối sống sinh

viên, cũng là câu hỏi mở để cho người được hỏi viết câu trả lời.

7.2.2. Phương pháp phỏng vấn

Với phương pháp này, người nghiên cứu trò chuyện với một số giáo viên và sinh

viên tại các trường Đại học được nghiên cứu. Nội dung xoay quanh vấn đề về lối sống và sự

lựa chọn các giá trị lối sống của sinh viên hiện nay. Qua đó có thêm những thông tin cụ thể,

sinh động để bổ sung và khẳng định cho những kết luận về thực trạng định hướng giá trị lối

sống sinh viên.

7.3. Phương pháp thống kê toán học

Sử dụng toán thống kê để xử lý các số liệu đã thu thập được, tất cả các số thống kê

được xử lý với sự trợ giúp của phần mềm máy tính SPSS.

Chương 1: LỊCH SỬ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

1.1. Những vấn đề liên quan đến giá trị và định hướng giá trị

1.1.1. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài

Vào những năm 1968 - 1974, Viện nghiên cứu thanh niên ở Đức đã tiến hành nghiên

cứu ở 1000 học sinh phổ thông và 2000 sinh viên đại học để tìm hiểu sự định hướng giá trị.

Trong những năm 1977 - 1978, Trung tâm nghiên cứu khoa học về thanh niên ở

Bungari nghiên cứu về vấn đề giáo dục đạo đức cho thanh niên, trong đó có đề cập đến vấn

đề giá trị, đặc biệt là sự khác biệt trong thang giá trị của thanh niên so với thế hệ cha ông.

Năm 1985, Viện nghiên cứu thế giới của Nhật Bản đã chú trọng nghiên cứu thanh

niên của 11 quốc gia lứa tuổi từ 18 – 24 tuổi. Tiếp theo đó, Viện khảo sát xã hội Châu Âu

nghiên cứu trên thanh niên ở 10 nước Châu Âu. Cả hai cuộc điều tra này đều đề cập đến về

vấn đề định hướng giá trị của thanh niên nhằm giúp họ chuẩn bị bước vào cuộc sống.

Năm 1986 - 1987, UNESCO đã đề nghị Câu lạc bộ Rome tiến hành điều tra quốc tế

về giá trị đạo đức của con người chuẩn bị bước vào thế kỷ 21 trong tình hình có nhiều biến

đổi đang ảnh hưởng đến xã hội vào những năm cuối thế kỷ 20.

Năm 1988, UNESCO đã phát hành tập tài liệu nghiên cứu về hệ thống cấu trúc của

giá trị, hình thành bộ công cụ đo đạc, kiểm chứng giá trị, giúp cho những công trình nghiên

cứu giá trị đúng hướng.

Hơn 10 năm trở lại đây, các nước Châu Á và Đông Nam Á đã có nhiều cuộc hội thảo

về vấn đề nghiên cứu giá trị và giáo dục giá trị. Các chương trình giáo dục giá trị đã được

đưa vào trong trường phổ thông và cộng đồng ở một số nước như: Indonesia, Phillipin,

Singapore, Malaysia và Thái Lan.

Nhìn chung, các công trình nghiên cứu về giá trị và định hướng giá trị ở đây đã chỉ ra

được những khác biệt trong thang giá trị của thanh niên, xây dựng được những bộ dụng cụ

để đo đạc và kiểm chứng cho nghiên cứu thực tế. Ngoài ra các công trình nghiên cứu còn

được ứng dụng vào trong các trường học và cộng đồng dân cư.

1.1.2. Tình hình nghiên cứu tại Việt nam

Từ năm 1986, sau Đại hội VI của Đảng cộng sản Việt nam, đất nước ta thực hiện

chính sách mở cửa, chuyển hướng nền kinh tế từ cơ chế bao cấp sang cơ chế thị trường có

sự điều tiết của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Mở cửa là chính sách đúng đắn

nhằm đưa Việt nam hội nhập với cộng đồng thế giới để phát triển. Tuy vậy, chính sách mở

cửa đã và đang tác động đến tất cả các mặt của đời sống xã hội đồng thời tác động đến con

người Việt nam nhất là đời sống tinh thần trong đó vấn đề đạo đức, các giá trị sống của

người Việt nam nói chung và của thanh niên sinh viên nói riêng. Cũng từ đó mà xuất hiện

nhiều công trình nghiên cứu của Ban Khoa Giáo Trung Ương, Ban Tư tưởng Văn hoá Trung

Ương, các Viện nghiên cứu, các tổ chức xã hội, đoàn thể về giá trị, định hướng giá trị của

con người Việt nam.

Năm 1987 - 1988, ban Lý luận giáo dục và Giáo dục chuyên nghiệp thực hiện đề tài:

“Nghiên cứu và điều tra về xu hướng nhân cách của sinh viên”. Đề tài đã chỉ ra những xu

hướng nhân cách của sinh viên và đề cập đến vấn đề giá trị sống của sinh viên với những

đặc trưng nhất định.

Năm 1991 - 1995, chương trình Khoa học công nghệ cấp Nhà nước mã số KX - 07:

“Con người Việt nam - mục tiêu và động lực của sự phát triển kinh tế xã hội” đã được thực

hiện, nhiều nhánh đề tài xuất phát từ đây đã nghiên cứu lý luận và thực tiễn về định hướng

giá trị của con người Việt nam:

Đề tài mã số KX - 07 - 04 do PGS.TS. Nguyễn Quang Uẩn làm chủ nhiệm, nghiên

cứu: “Giá trị - Định hướng giá trị nhân cách và giáo dục giá trị” [63]. Dựa trên những giá trị

được người Việt nam quan tâm, đề tài chỉ ra xu hướng phát triển nhân cách người Việt nam

trong thời kỳ đổi mới và mở cửa.

Đề tài KX - 07 - 10 do TS. Thái Duy Tuyên làm chủ nhiệm nghiên cứu: “Tìm hiểu

định hướng giá trị của thanh niên trong cơ chế thị trường”[62].

Năm 1996, luận án phó tiến sĩ Triết học của tác giả Dương Tự Đam nghiên cứu:

“Định hướng giá trị của thanh niên sinh viên trong sự nghiệp đổi mới ở Việt nam” [9]. Luận

án đã nêu ra một số biểu hiện đặc trưng, xu hướng phát triển và sự chuyển đổi định hướng

giá trị trong sinh viên. Trên cơ sở đó đề tài đưa ra những giải pháp nhằm giáo dục định

hướng giá trị cho thanh niên sinh viên theo yêu cầu của công cuộc đổi mới.

Cùng năm 1996, Nguyễn Thị Khoa với luận án phó tiến sĩ Tâm lý học: “Định hướng

giá trị chất lượng cuộc sống gia đình của nữ trí thức hiện nay” [37]. Đề tài đã làm sáng tỏ cơ

sở lý luận về giá trị, định hướng giá trị và nêu ra những đặc trưng và xu thế định hướng giá

trị chất lượng cuộc sống gia đình của nữ trí thức, từ đó xây dựng những chuẩn giá trị gia

đình Việt nam hiện đại.

Đầu năm 2002, Đỗ Ngọc Hà với luận án tiến sĩ “Định hướng giá trị của thanh niên,

sinh viên hiện nay trước sự chuyển đổi về kinh tế, xã hội của đất nước”. Đề tài cho thấy

những giá trị nào điều tiết được cuộc sống hàng ngày và hành vi xã hội của sinh viên, trên

cơ sở đó xây dựng biểu định hướng giá trị của sinh viên Việt nam.

Như vậy, các đề tài tập trung nghiên cứu vấn đề giá trị và đinh hướng giá trị đã làm

sáng tỏ nhiều vấn đề cả tích cực lẫn tiêu cực của những thay đổi về định hướng giá trị của

người Việt nam nói chung và của thanh niên sinh viên nói riêng, trên cơ sở đó đề ra những

phương hướng và biện pháp để giúp thanh niên sinh viên hoàn thiện về mặt nhân cách.

Ngoài những đề tài nghiên cứu, còn có một số bài viết và báo cáo về giá trị và định

hướng giá trị được đăng trên các tạp chí khoa học.

1.2. Những vấn đề liên quan đến lối sống

1.2.1. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài

Thuật ngữ “lối sống” lần đầu tiên được nhà Xã hội học người Đức, Max Weber

(1864 -1920) sử dụng như một khái niệm khoa học trong công trình nghiên cứu Xã hội học.

Sự phân tầng của xã hội được Weber mô tả như hình tam giác: phần đỉnh của tam giác là

tầng lớp trên - những người chủ sở hữu phương tiện sản xuất, phần giữa là tầng lớp trung

lưu và phần đáy là tầng lớp người nghèo không của cải. Mỗi tầng lớp lại chia thành những

nhóm nhỏ dựa trên địa vị, cơ may, thu nhập và tiện nghi sinh hoạt khác với những “lối

sống” và “mức sống” khác nhau. Chính lối sống, kiểu sống của các nhóm này nói lên sự

phân tầng của xã hội khi được ông mô tả bằng những số liệu thống kê xã hội học [3].

Nhiều mặt, nhiều vấn đề của lối sống được các nhà Xã hội học phương Tây nghiên

cứu trước đây: việc làm, sự khác biệt về giới, hôn nhân gia đình, ly hôn, tôn giáo. Tuy

nhiên, các vấn đề đó chỉ được nghiên cứu tách rời, chưa theo hệ thống [3].

Vào cuối những năm 70 và đầu những năm 80 của thế kỷ 20, ở Liên Xô và các nước

Xã hội chủ nghĩa trước đây, các nhà Xã hội học và Triết học đã phát triển mạnh mẽ lý

thuyết “Lối sống Xô viết” hay “Lối sống XHCN Xô viết” với hàng trăm tác phẩm đã đề cập

đến bản chất, cấu trúc và chức năng xã hội của lối sống, chẳng hạn N.M. Kêgiêrov với “Vấn

đề lối sống trong chiến dịch tuyên truyền tư sản hiện nay”, V.I. Daxêpin với tác phẩm “Lối

sống xã hội chủ nghĩa và sự phát triển về mặt tinh thần của con người”, hay

X.X.Visnhicôxki với tác phẩm “Lối sống Xô viết hôm nay và ngày mai”. Tuy có nhiều quan

điểm và cách hiểu bản chất của lối sống khác nhau nhưng các nhà nghiên cứu các tác phẩm

này đều nhất trí với nhau rằng, khái niệm lối sống được đặc trưng cho một hiện thực xã hội,

nó là bản chất của một hình thái kinh tế xã hội nhất định được thể hiện trong đời sống hằng

ngày của các giai cấp, tầng lớp và các nhóm xã hội khác nhau trong hoạt động sống của cá

nhân. Lối sống được mô tả như một tập hợp những yếu tố của đời sống vật chất, xã hội và

tinh thần của mỗi giai cấp, tầng lớp xã hội và của nhóm người hay từng người trong xã hội,

hoặc được xem xét như một phương thức hoạt động sống của cả một xã hội.

Nhìn chung những nghiên cứu về lối sống của các nhà nghiên cứu ở các nước xã hội

chủ nghĩa đều lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm cơ sở. Tiêu chí của lối sống xã hội chủ nghĩa

được xác lập bằng cách so sánh mang tính đối lập với lối sống tư bản chủ nghĩa. Việc

nghiên cứu thường nặng về lý luận, kinh viện, chưa lý giải đúng mức các biểu hiện cụ thể,

đặc trưng các lối sống, kiểu sống hiện thực của các nhóm xã hội hay cá nhân.

1.2.2. Tình hình nghiên cứu tại Việt nam

Ở Việt nam, vấn đề lối sống được đề cập đến một cách phong phú. Từ năm 1980,

nhiều vấn đề lý luận về lối sống đã được một số tác giả tập trung nghiên cứu:

Tác giả Vũ Khiêu với “Lối sống là gì”, bên cạnh đó tác giả Hà Xuân Trường với bài

báo: “Từng bước xây dựng nền văn hóa mới’ đã đề cập đến nếp sống văn hoá và những mặt

biểu hiện của nó” [ 36 ].

Những vấn đề về lối sống cũng được tác giả Lê Như Hoa đề cập tới khi “Bàn về lối

sống, nếp sống xã hội chủ nghĩa” [17]. Đây là một công trình nghiên cứu lý luận và trình

bày một cách hệ thống các khái niệm, các mặt cần nghiên cứu lối sống ở Việt nam theo mô

hình Chủ nghĩa xã hội bao cấp (trước 1986).

Tác giả Đỗ Huy cùng các cộng sự đã bàn tới lối sống có văn hóa trong “Nhân cách

văn hóa trong bảng giá trị Việt nam” [31]. Theo đó, lối sống có văn hóa là lối sống thể hiện

được cái đúng, cái đẹp trong quan hệ giữa con người với nhau và mỗi lối sống đều có một

hệ chuẩn mực chi phối.

Những công trình này cho thấy các tác giả đã đề cập đến cơ sở lý luận của lối sống

theo những quan điểm khác nhau về mặt lý thuyết và phương pháp luận cho việc nghiên cứu

và xây dựng lối sống Xã hội chủ nghĩa chống lại lối sống Tư bản chủ nghĩa.

Những năm 90 của thế kỷ XX, sau khi đất nước đổi mới mọi lĩnh vực của đời sống

xã hội, có nhiều công trình nghiên cứu lối sống về giới trẻ ở các khía cạnh khác nhau, từ đó

đã phác họa được bức tranh sinh động về lối sống của học sinh, sinh viên và đề ra những

giải pháp giáo dục lối sống cho giới trẻ. Một số tác giả tiêu biểu như:

Trần Thị Minh Đức với công trình “Ảnh hưởng của môi trường ký túc xá sinh viên

với lối sống sinh viên nội trú” [19], đã đưa ra thực trạng lối sống của sinh viên cả mặt tích

cực lẫn mặt tiêu cực tại môi trường ký túc xá và đưa ra những kiến nghị nhằm cải tạo điều

kiện sống ở ký túc xá cho sinh viên cũng như đưa ra những biện pháp giáo dục lối sống văn

hoá cho sinh viên nội trú.

Tác giả Văn Hùng cùng với bài viết: “Thanh niên với lối sống thời mở cửa” [30], đã

phản ánh tình hình thay đổi lối sống của thanh niên trong thời kỳ mở cửa, đồng thời mở ra

nhiều vấn đề cần quan tâm nghiên cứu về lối sống thanh niên trong điều kiện mới.

Tác giả Mạc Văn Trang với công trình “Đặc điểm lối sống của sinh viên hiện nay và

những phương hướng, biện pháp giáo dục lối sống cho sinh viên [59], đã xác định khái niệm

lối sống sinh viên và nêu ra một hệ thống những đặc điểm cơ bản của lối sống sinh viên

được biểu hiện qua một loạt các hoạt động. Đặc biệt công trình đã tiến hành khảo sát, thống

kê các số liệu để đưa ra những mặt tích cực và tiêu cực trong lối sống sinh viên và đề xuất

những biện pháp giáo dục lối sống cho sinh viên. Như vậy tác giả tránh chỉ đề cập đến lý

luận về lối sống sinh viên mà đã tiếp cận lối sống sinh viên bằng những phương pháp cụ thể,

mô tả các biểu hiện cụ thể của lối sống sinh viên trong cuộc sống hiện thực của họ.

Tác giả Phạm Xuân Cảnh - Chủ tịch Hội sinh viên Hà Nội với đề tài: “Tình hình nếp

sống của sinh viên Hà Nội - Thực trạng và giải pháp” [4], đã phân tích mặt tích cực, tiêu cực

và nêu lên được một số hoạt động cơ bản của sinh viên.

Tác giả Nguyễn Quang Uẩn cùng với các cộng sự đã điều tra, phân tích các số liệu

thực tế và chỉ ra những mặt ưu và khuyết trong lối sống của sinh viên Sư phạm qua đề tài:

“Xây dựng lối sống đạo đức mới cho sinh viên Đại học Sư phạm phục vụ công nghiệp hoá,

hiện đại hoá đất nước” [64]. Công trình đã nêu lên những biểu hiện về lối sống và đạo đức

của sinh viên Sư phạm khá cụ thể và sinh động, qua đó đề xuất những phương hướng và

biện pháp giáo dục lối sống đạo đức lành mạnh cho sinh viên. Giống như tác giả Mạc Văn

Trang, tác giả Nguyễn Quang Uẩn cũng đã tiếp cận lối sống sinh viên Sư phạm trên một số

hoạt động tiêu biểu như:

- Biểu hiện của lối sống sinh viên trong hoạt động học tập

- Biểu hiện lối sống sinh viên trong quan hệ - giao tiếp ứng xử

- Biểu hiện lối sống sinh viên trong sinh hoạt tập thể và cá nhân

- Biểu hiện lối sống sinh viên trong việc sử dụng thời gian nhàn rỗi.

Nhìn chung những công trình nghiên cứu của các tác giả trên chủ yếu mô tả khái quát

về đời sống sinh viên, chưa đi sâu vào một hoạt động cơ bản tiêu biểu nào đặc trưng cho lối

sống sinh viên.

Tác giả Phạm Ngọc Định với luận án tiến sĩ Tâm lý học: “Quy trình hình thành hành

vi lối sống chuẩn mực ở học sinh lớp Một theo quan điểm công nghệ giáo dục” [16] đã tiến

hành thực nghiệm để hình thành hành vi lối sống theo chuẩn mực quy định và mẫu hành vi

ở học sinh lớp Một. Công trình đã chỉ ra, nếu tổ chức cho học sinh thực hiện những hành vi

“nề nếp, hành vi giao tiếp, hành vi tác phong” dưới sự hướng dẫn của giáo viên theo quy

trình phù hợp sẽ chuyển được những hành vi mẫu của lối sống vào trong mỗi học sinh thông

qua quá trình củng cố, trải nghiệm. Tuy nhiên, cách làm này mới chỉ thực hiện ở học sinh

lớp Một chưa đại diện được cho tất cả các lứa tuổi học sinh.

Tác giả Phạm Khắc Hùng, Phạm Hồng Quang với đề tài: “Thực trạng lối sống của

sinh viên đại học Sư phạm Thái Nguyên” [29] đã góp phần làm phong phú thêm việc nghiên

cứu lối sống của sinh viên, trên cơ sở đó đề xuất một số biện pháp giáo dục lối sống cho

sinh viên ở vùng miền núi phía Bắc.

Tác giả Trần Kiều (Viện Khoa học giáo dục) chủ trì đề tài: “Thực trạng tư tưởng

chính trị – đạo đức – lối sống thanh niên học sinh, sinh viên” đã tiến hành khảo sát khoảng

3000 học sinh Trung học Phổ thông và sinh viên về các nội dung trên, tuy nhiên cũng chỉ ở

mức độ khái quát chung, chưa đi sâu vào nghiên cứu chi tiết từng nội dung.

Với Luận án tiến sĩ Tâm lý học, tác giả Nguyễn Ánh Hồng đã “Phân tích về mặt tâm

lý học lối sống của sinh viên thành phố Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay” [28]. Luận

án làm rõ một số nội dung tâm lý: những đặc điểm biểu hiện lối sống sinh viên qua hoạt

động học tập và qua sự lựa chọn các hoạt động khác. Đặc biệt xác định được ba kiểu sống

đặc trưng của sinh viên TP.HCM.

1.3. Định hướng giá trị lối sống sinh viên

Như đã xét ở trên, có nhiều công trình nghiên cứu mang tính tầm cỡ về vấn đề định

hướng giá trị, về vấn đề lối sống của sinh viên nhưng chúng ta chưa bắt gặp đề tài nào đề

cập đến định hướng giá trị lối sống nói chung và định hướng giá trị lối sống sinh viên nói

riêng.

Định hướng giá trị lối sống là một yếu tố quan trọng trong cấu trúc nhân cách của

con người. Chính định hướng giá trị lối sống hướng sự lựa chọn chủ quan của cá nhân đối

với các giá trị khách quan của xã hội, là hệ thống tâm thế, là niềm tin và sở thích của con

người đối với một giá trị nào đó trong cuộc sống. Nó thể hiện xu hướng của lối sống: con

người mong muốn, hướng tới cái gì, sống và hoạt động vì những giá trị gì.

Với sự phát triển của kinh tế xã hội như hiện nay, tất cả những ai muốn tiến nhanh,

muốn bắt kịp với thời đại tất yếu phải có sự thay đổi. Sinh viên là những người trẻ năng

động và nhanh nhạy với những cái mới nên họ dễ dàng thay đổi cho phù hợp. Tuy nhiên, sự

thay đổi của họ như thế nào, có phù hợp với truyền thống dân tộc và thực sự phù hợp với

yêu cầu của thời đại hay không, nhất là những thay đổi của chiều kích sâu xa bên trong

(định hướng giá trị) làm nên những thay đổi trong bất cứ hành vi nào của lối sống.

Xã hội luôn vận động và biến đổi, nhân cách con người cũng sẽ vận động theo chiều

hướng của xã hội, do đó tìm hiểu định hướng giá trị lối sống của giới trẻ nói chung, đặc biệt

là của sinh viên là rất cần thiết.

Như vậy, việc nghiên cứu định hướng giá trị lối sống của sinh viên cho đến thời điểm

hiện nay là rất ít và hầu như chưa có, đặc biệt dưới góc độ Tâm lý học, vấn đề này vẫn còn

là “khoảng trống” cần được quan tâm. Trân trọng và kế thừa thành tựu từ những công trình

đi trước, chúng tôi cố gắng tìm một hướng sâu hơn để làm rõ được bản chất lối sống của

sinh viên bằng cách tập trung vào nghiên cứu mặt định hướng giá trị lối sống.

Chương 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN

2.1. Giá trị và định hướng giá trị

2.1.1.Giá trị

2.1.1.1. Khái niệm giá trị

a. Khái niệm giá trị theo từ điển

Trong tiếng Anh, khái niệm giá trị thường được nhắc tới qua hai thuật ngữ có ý nghĩa

gần như nhau, đó là: “value” - giá trị, ý nghĩa, và “worth” - vừa có nghĩa là giá trị, giá cả, ý

nghĩa, vừa có nghĩa là phẩm giá, phẩm chất. Tuy nhiên, ngày nay, thuật ngữ “value” được

dùng phổ biến hơn.

Theo từ điển Bách khoa Toàn Thư Xô Viết, “giá trị là sự khẳng định hoặc phủ định ý

nghĩa của các đối tượng thuộc thế giới xung quanh đối với con người, giai cấp, nhóm hoặc

toàn bộ xã hội nói chung. Giá trị được xác định không phải bởi bản thân các thuộc tính tự

nhiên, mà là bởi tính chất cuốn hút của các thuộc tính ấy vào phạm vi hoạt động sống của

con người, phạm vi hứng thú và nhu cầu, các mối quan hệ xã hội, các chuẩn mực và phương

thức đánh giá ý nghĩa nói trên được biểu hiện trong các nguyên tắc và chuẩn mực đạo đức,

trong lý tưởng, tâm thế và mục đích” [theo 63, tr.51-52].

Theo từ điển Triết học do M. M. Rozental (Liên Xô) chủ biên (Nxb Tiến bộ

Maxcơva, 1975), “Giá trị là những định nghĩa về mặt xã hội của các khách thể trong thế giới

chung quanh nhằm nêu bật tác dụng tích cực hoặc tiêu cực của khách thể ấy đối với con

người và xã hội (cái lợi, thiện và ác, cái đẹp và cái xấu nằm trong những hiện tượng của đời

sống xã hội hoặc tự nhiên). Xét bề ngoài, các giá trị là các đặc tính của sự vật hoặc hiện

tượng, không phải đơn thuần do kết cấu bên trong của bản thân khách thể, mà do khách thể

bị thu hút vào phạm vi tồn tại xã hội của con người và trở thành cái mang những quan hệ xã

hội nhất định. Đối với chủ thể (con người), các giá trị là các đối tượng lợi ích của nó, còn

đối với ý thức của nó thì thì chúng đóng vai trò những vật định hướng hàng ngày trong thực

trạng vật thể và xã hội, chúng biểu thị các quan hệ thực tiễn của con người đối với sự vật và

hiện tượng xung quanh mình”.

Từ điển Hán - Việt của Giáo sư Nguyễn Lân, giá trị được hiểu : là phạm trù kinh tế

của sản xuất hàng hóa, biểu hiện số lao động trừu tượng của xã hội với hao phí vào việc sản

xuất ra hàng hóa; phẩm chất tốt hay xấu, tác dụng lớn hay nhỏ của sự vật hoặc con người;

thẩm chất tốt đẹp, tác dụng lớn lao.

Theo từ điển Tiếng Việt (Nxb Khoa học xã hội), giá trị là: cái mà con người dùng

làm cơ cở để xem xét một vật có lợi ích đến mức nào đối với con người; cái mà con người

dựa vào dùng để xem xét một người đáng quý đến mức về mặt đạo đức, trí tuệ, tài năng;

những quan niệm và thực tại về cái đẹp, sự thật, điều thiện của xã hội; tính chất quy ra được

thành tiền của một vật trong quan hệ mua bán, đổi chác; độ lớn của một đại lượng, một

lượng biến thiên.

Như vậy, theo từ điển, khái niệm giá trị được hiểu nhiều nghĩa khác nhau, tùy vào

tình huống và trường hợp cụ thể mà khi sử dụng người ta có thể sử dụng nghĩa này hay

nghĩa khác của cùng một khái niệm giá trị.

b. Khái niệm giá trị theo quan điểm của các nhà khoa học nước ngoài và trong

nước

Tác giả J. H. Fichter, nhà Xã hội học Mỹ đã cho rằng: “tất cả cái gì có ích lợi, đáng

ham chuộng, đáng kính phục đối với cá nhân hoặc xã hội đều có một giá trị” [theo 63,

tr.53].

Theo tài liệu “Giáo dục giá trị” (Bộ văn hoá thể thao Philippin), khái niệm giá trị có

thể hiểu: “một vật có giá trị khi nó được thừa nhận là có ích và mong muốn có được những

thứ đó đã ảnh hưởng đến thái độ và hành vi của con người. Không chỉ có hàng hoá vật chất

mà cả lý tưởng và những khái niệm đều có giá trị như: sự thật, công lý, lương thiện” [theo

63, tr.54].

Tác giả V.P. Tugarinov (Liên Xô) lại cho giá trị là những khách thể, những hiện

tượng và những thuộc tính của chúng mà tất cả đều cần thiết cho con người (ích lợi, hứng

thú) của một xã hội hay một giai cấp nào đó cũng như một cá nhân riêng lẻ với tư cách là

phương tiện thoả mãn những nhu cầu và lợi ích của họ, đồng thời cũng là những tư tưởng và

ý định với tư cách là chuẩn mực, mục đích hay lý tưởng [theo 63, tr.54]..

L.Dramaliev (Bungari) coi “Giá trị là một thành tố khách quan của xã hội. Nó là một

loại hiện tượng xã hội đặc biệt (một vật, một đối tượng, một liên hệ, một ý niệm), thoả mãn

được những nhu cầu nhất định của con người. Giá trị là một phẩm chất khách quan, một đặc

tính, một khả năng thoả mãn những nhu cầu đã trở thành rõ rệt trong quá trình quan hệ quan

lại có tính chất xã hội giữa người với người trong hành vi thực tế của họ. Với tính cách là

một khách thể xã hội, giá trị không thể tách khỏi những nhu cầu, những mong muốn, thái

độ, những quan điểm và những hành động của con người với tư cách là một chủ thể của các

quan hệ xã hội” [theo 63, tr.54]

Tác giả T. Makiguchi (nhà giáo dục Nhật bản) cho rằng “Giá trị là sự thể hiện có tính

định lượng mối quan hệ giữa chủ thể đánh giá và đối tượng của việc đánh giá” [ 47, tr.104].

Tại Việt nam, nhiều công trình nghiên cứu về giá trị trong đó phải kể đến công trình

nghiên cứu của các tác giả: Trần Văn Giàu, Phạm Minh Hạc và Trần Trọng Thủy.

Tác giả Trần Văn Giàu cho rằng: “giá trị xuất hiện từ mối quan hệ giữa chủ thể và

đối tượng, nghĩa là từ thực tiễn và chiến đấu của con người trong xã hội. Giá trị vì thế được

xác định bởi sự đánh giá đúng đắn của con người, xuất phát từ thực tiễn và được kiểm

nghiệm qua thực tiễn” [20, tr.11].

Theo tác giả Phạm Minh Hạc: “Giá trị là tính có nghĩa tích cực, đáng quý, có ích của

các đối tượng với các chủ thể” [23, tr.301].

Còn tác giả Trần Trọng Thủy khi nghiên cứu về “Giá trị, định hướng giá trị và nhân

cách” cũng xem giá trị là một hiện tượng xã hội điển hình, biểu thị các sự vật, hiện tượng,

các thuộc tính và quan hệ của hiện thực, các tư tưởng, các chuẩn mực, mục đích và lý tưởng,

các hiện tượng của tự nhiên và xã hội được con người tạo ra nhưng đều phục vụ cho sự tiến

bộ của xã hội và sự phát triển của cá nhân con người [55, tr.11 ].

c. Khái niệm giá trị theo quan điểm các ngành khoa học

Khái niệm giá trị được rất nhiều ngành khoa học quan tâm nghiên cứu như: Triết học,

Xã hội học, Đạo đức học, Mỹ học, Tâm lý học, Giáo dục học, Kinh tế học. Cũng vì thế mà

theo mỗi ngành khoa học, khái niệm giá trị được hiểu ở những khía cạnh và góc độ khác

nhau:

Theo Kinh tế học, khái niệm giá trị luôn gắn liền với hàng hóa, giá cả và sản xuất

hàng hóa. Phía sau nó là sức lao động, giá trị lao động của con người làm ra hàng hoá.

C.Mac đã từng viết: “Lao động có một sức sản xuất đặc biệt, hoạt động của người làm ra là

một lao động được nhân lên cấp số nhân, hay là trong một khoảng thời gian như nhau, nó

tạo ra một giá trị cao hơn so với một giá trị trung bình cùng loại” [theo 63, tr.50]. Giá trị sức

mạnh của vật chất này khống chế những vật chất khác khi trao đổi. Để bộc lộ giá trị, vật

phẩm phải có ích lợi, nghĩa là có khả năng thỏa mãn nhu cầu, lòng ham muốn của con

người. Do vậy mà khi phân tích, “giá trị” là vị trí tương đối của hàng hoá trong trật tự ưu

tiên, vị trí của nó ngày càng cao thì giá trị của nó ngày càng lớn.

Dưới góc độ Triết học, có nhiều quan điểm khác nhau về giá trị. Tuy nhiên ở đây

chủ yếu được xét theo quan điểm Macxit nên giá trị được coi là những hiện tượng xã hội

đặc thù, mọi giá trị đều có nguồn gốc từ lao động sáng tạo của con người. Giá trị là sự thống

nhất giữa cái chủ quan và cái khách quan. [theo 63, tr.51]:

Dưới góc độ Xã hội học, giá trị được quan tâm ở nội dung, nguyên nhân, điều kiện

kinh tế - xã hội cụ thể trong quá trình hình thành hệ thống giá trị nhất định của một xã hội

[38, tr.74].

Giá trị trong Đạo đức học luôn gắn liền với những khái niệm trung tâm như: cái

thiện, cái ác, công bằng, bình đẳng, bác ái bởi vì khái niệm giá trị thuộc phạm vi đời sống

đạo đức của con người, các quan hệ xã hội và quá trình hình thành các chuẩn mực, quy tắc

đạo đức của xã hội [52, tr.19].

Dưới góc độ Tâm lý học, khái niệm giá trị được nghiên cứu nhằm mục đích tìm hiểu

hành vi, hoạt động của con người và dự báo sự phát triển của nhân cách.

Nhìn chung, theo quan niệm của các nhà khoa học hay dưới góc độ của các ngành

khoa học khác nhau cũng như trong một số từ điển đã định nghĩa khái niệm giá trị đều có

chung một số đặc điểm như sau:

- Mức độ của một vật đáp ứng nhu cầu và thỏa mãn được khát vọng của con người, là

cái được chủ thể đánh giá, thừa nhận trên cơ sở mối quan hệ với sự vật đó.

- Mối quan hệ giữa lợi ích cá nhân, xã hội với sự phí tổn cần thiết để tạo ra cái lợi đó.

- Mang tính khách quan - nghĩa là sự xuất hiện, tồn tại hay mất đi của giá trị nào đó

không phụ thuộc vào ý thức của con người.

- Được hiểu theo hai góc độ vật chất và tinh thần. Giá trị vật chất là giá trị đo được

bằng tiền bạc dưới góc độ kinh tế, còn giá trị tinh thần tạo cho con người khoái cảm, hứng

thú và sảng khoái.

- Trong mọi giá trị đều chứa đựng yếu tố nhận thức, tình cảm, hành vi của chủ thể

trong mối quan hệ với sự vật mang giá trị.

- Là một phạm trù lịch sử vì giá trị thay đổi theo thời gian, theo sự biến động của xã

hội, phụ thuộc vào tính dân tộc, tôn giáo và cộng đồng.

Theo quan niệm của chúng tôi: Giá trị là những cái cần, cái có ích, có ý nghĩa đối

với cá nhân, tập thể và xã hội. Nó phản ánh mối quan hệ giữa chủ thể và khách thể, giữa

chủ thể với chính mình, được đánh giá và có thể bị thay đổi theo những điều kiện xã hội

- lịch sử cụ thể tuỳ thuộc vào bản chất, trình độ phát triển của nhân cách.

2.1.1.2. Phân loại giá trị

Tùy thuộc vào mục đích tiếp cận mà các tác giả có nhiều cách phân loại giá trị khác

nhau:

Trong tác phẩm “Sự tận cùng của Triết học”, tác giả Mark Lilla (Mỹ) dựa theo sự

tiến hoá của con người, đã nêu lên những giá trị phân biệt giữa con người với động vật bao

gồm : giá trị lý trí, tình cảm, vinh dự, phẩm giá, đạo đức [theo 63, tr.57].

Cách phân loại được coi là khá phổ biến là dựa vào sự thoả mãn nhu cầu vật chất hay

nhu cầu tinh thần của con người mà giá trị được phân chia thành: giá trị vật chất, bao gồm

giá trị kinh tế và giá trị sử dụng; giá trị tinh thần bao gồm giá trị khoa học, giá trị chính trị,

giá trị đạo đức, giá trị pháp luật và giá trị tôn giáo

Theo J. H. Fichter, nhà xã hội học Mỹ, mỗi hiện tượng xã hội có thể coi được dùng

làm khởi điểm cho sự phân loại các giá trị. Ông dùng các căn cứ để phân loại giá trị là nhân

cách, xã hội và văn hoá [theo 63, tr.57].

Nhà Giáo dục học T.Makiguchi dựa trên hệ thống thang bậc giá trị đã sắp xếp theo

thứ tự Thiện, Ích, Mỹ chia giá trị thành 3 loại: Giá trị kinh tế, giá trị đạo đức, giá trị thẩm

mỹ [47, tr.112].

Dựa vào sự chi phối của giá trị trên hệ thống hành vi của con người, M.Robin và J.R.

William phân loại: hành vi cơ thể, hành vi nhân cách, hành vi văn hoá và các hành vi xã hội.

Từ đó có các giá trị: giá trị tồn tại sinh học, các giá trị tính cách và các giá trị xã hội.

Theo cách phân loại của Rokeach có hai loại giá trị: giá trị mục đích và giá trị công

cụ:

Các giá trị mục đích: thế giới hoà bình, an ninh quốc gia, tự do, bình đẳng, cuộc sống

ý nghĩa, tình bạn chân thành, tôn trọng người khác, thông minh sáng suốt, cuộc sống sung

túc.

Các giá trị công cụ: trách nhiệm, danh dự, lòng tin, thanh lịch, dũng cảm, hợp tác,

trong sạch, khoan dung, kỷ luật [theo 63, tr.58].

Theo cách tiếp cận hệ thống, hệ giá trị được cấp độ hoá theo các lát cắt sau:

Theo lát cắt thứ nhất, có các hệ giá trị sau:

Hệ giá trị phổ quát của nhân loại

Hệ giá trị của xã hội hiện đại

Hệ giá trị của xã hội thời kỳ quá độ

Hệ giá trị các thành phần cơ cấu xã hội

Hệ giá trị của nhóm

Theo lát cắt khác, giá trị được chia thành:

Hệ giá trị phổ quát toàn nhân loại

Hệ giá trị khu vực (phương Đông, phương Tây)

Hệ giá trị của hình thái kinh tế xã hội (phong kiến, tư bản, xã hội chủ nghĩa)

Hệ giá trị dân tộc

Hệ giá trị thời đại

Cũng theo cách tiếp cận hệ thống, tác giả Thái Duy Tuyên đã phân chia giá trị thành

các loại:

Giá trị nhân văn: biểu thị sự tôn trọng và yêu thương con người, thừa nhận quyền

phát triển tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc.

Giá trị đạo đức: biểu hiện ở những chuẩn mực quy định mối quan hệ giữa con người

với nhau, giữa con người với tự nhiên và với xã hội (gia đình, cộng đồng) trên tình thần yêu

thương hay thù hận, tôn trọng hay không tôn trọng.

Giá trị văn hoá: những giá trị luôn gắn liền với sự phát triển của khoa học kỹ thuật

công nghệ trên cơ sở tiến bộ xã hội và biểu hiện ở đạo đức, sống có văn hoá và sự phát triển

toàn diện của con người.

Giá trị chính trị - pháp luật, biểu hiện thái độ đối với việc giành và giữ chính quyền,

thể chế nhà nước, với quyền lợi dân tộc, giai cấp, cộng đồng, quyền công dân, mối quan hệ

bình đẳng, công bằng, tự do và dân chủ, niềm tin và lý tưởng.

Giá trị kinh tế: hướng vào sự hoạt động của nghề nghiệp, của lao động, sản xuất,

kinh doanh, các hình thức sở hữu, thu nhập và đời sống vật chất, sự giàu nghèo và hưởng

thụ [62, tr.6-11].

Có thể thấy, mỗi cách phân loại giá trị thể hiện mỗi khía cạnh khác nhau. Tuỳ theo

góc độ nghiên cứu mà người ta sẽ chọn cách phân loại giá trị tương ứng và phù hợp. Dưới

góc độ Tâm lý học, trong nghiên cứu này, chúng tôi phân loại các giá trị dựa trên cách tiếp

cận hệ thống của tác giả Thái Duy Tuyên. Theo đó, có thể quy về 4 nhóm giá trị tiêu biểu

như sau:

Nhóm giá trị nhân văn: là những giá trị vì con người, hướng con người phấn đấu

cho quyền phát triển tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc, được yêu thương và tôn trọng.

Những giá trị nhân văn có tính chất chung cho toàn nhân loại, được thừa nhận ở mọi thời

đại, mọi quốc gia và dân tộc.

Nhóm giá trị đạo đức: là những giá trị thể hiện lòng yêu thương và tôn trọng con

người, quy định chuẩn mực đạo đức trong mối quan hệ giữa con người với nhau trong xã

hội.

Nhóm giá trị chính trị - pháp luật: là những giá trị nói lên quyền lợi dân tộc, giai

cấp, quyền công dân, mối quan hệ bình đẳng, công bằng, tự do, dân chủ và lý tưởng của

người dân với thể chế Nhà nước.

Nhóm giá trị kinh tế: Là những giá trị hướng con người vào hoạt động nghề nghiệp,

kinh doanh làm tăng năng suất lao động, tăng lợi nhuận.

Có thể coi đây là bốn nhóm giá trị tiêu biểu trong cuộc sống của con người bao hàm

cả mặt vật chất và tinh thần.

2.1.1.3. Một số khái niệm liên quan

a. Hệ thống giá trị

Hệ thống các giá trị, đó là một tổ hợp giá trị khác nhau được sắp xếp, hệ thống lại

theo những nguyên tắc nhất định tạo thành một tập hợp mang tính toàn vẹn và hệ thống,

thực hiện các chức năng đặc thù trong việc đánh giá của con người theo những phương thức

vận hành nhất định của giá trị [theo 63, tr.62].

Các hệ thống giá trị có vị trí độc lập tương đối và tương tác với nhau theo những thứ

bậc khác nhau phù hợp với quá trình thực hiện các chức năng xã hội trong mỗi thời kỳ lịch

sử cụ thể. Hệ thống giá trị luôn mang tính lịch sử, chịu sự chế ước bởi lịch sử. Vì thế, trong

hệ thống giá trị luôn chứa đựng các yếu tố của quá khứ, hiện tại và tương lai, các giá trị

truyền thống, các giá trị thời đại, các giá trị mang tính nhân loại, các giá trị mang tính cộng

đồng, tính giai cấp, các giá trị mang tính lý tưởng và hiện thực.

b. Thang giá trị

Thang giá trị là một tổ hợp giá trị, một hệ thống giá trị được sắp xếp theo một trật tự

ưu tiên nhất định. Có thể coi thang giá trị là thước đo giá trị. Thang giá trị biến đổi theo thời

gian, theo sự phát triển, biến đổi của xã hội loài người và của cộng đồng cũng như của mỗi

cá nhân.

Thang giá trị, thước đo giá trị đang là vấn đề có tính nhân loại, tính thời đại và tính

dân tộc được mọi người quan tâm. Thang giá trị của xã hội, của cộng đồng và của nhóm

chuyển thành thang và thước đo giá trị của từng người. Thang giá trị là một trong những

động lực thôi thúc con người hoạt động hướng đến những giá trị phục vụ cho nhu cầu, lợi

ích của mình. Khi con người hoạt động sẽ tạo ra những giá trị lại góp phần khẳng định, củng

cố, phát huy và bổ sung để hoàn thiện hoặc thay đổi thang giá trị [theo 63, tr.63].

c. Chuẩn giá trị

Chuẩn giá trị là những giá trị giữ vị trí cốt lõi, chiếm vị trí ở thứ bậc cao hoặc vị trí

then chốt và mang tính chuẩn mực chung cho nhiều người. Khi xây dựng các giá trị theo

những chuẩn mực nhất định về kinh tế, về chính trị, về đạo đức, về xã hội hay về thẩm mỹ

sẽ tạo ra các chuẩn giá trị. Mọi hoạt động của xã hội, của nhóm cũng như của từng cá nhân

được thực hiện theo những chuẩn giá trị nhất định sẽ bảo đảm định hướng cho các hoạt

động đó và hạn chế khả năng lệch chuẩn mực xã hội, đồng thời tạo ra những giá trị tương

ứng đảm bảo sự tồn tại của con người [theo 63, tr.64].

2.1.2. Định hướng giá trị

2.1.2.1. Khái niệm định hướng giá trị theo một số từ điển nước ngoài

Thuật ngữ định hướng giá trị được sử dụng phổ biến trong Xã hội học, Tâm lý học.

Theo từ điển Bách Khoa Toàn Thư Xô Viết, định hướng giá trị là cơ sở tư tưởng,

chính trị, đạo đức, thẩm mỹ, giúp chủ thể đánh giá thực tại xung quanh và định hướng trong

thực tại đó. Định hướng giá trị hình thành thông qua chiếm lĩnh kinh nghiệm xã hội và thể

hiện trong các mục đích tư tưởng, chính kiến, và nhu cầu của nhân cách. Trong cấu trúc hoạt

động của con người, định hướng giá trị gắn liền với các đặc điểm nhận thức và ý chí của

nhân cách. Hệ thống định hướng giá trị tạo thành nội dung xu hướng của nhân cách và là cơ

sở bên trong các mối quan hệ giữa cá nhân với thực tại. Sự phát triển định hướng giá trị là

dấu hiệu của sự chín muồi nhân cách, là chỉ tiêu đo đạc tính xã hội của nhân cách [theo 63,

tr.66].

Theo “Từ điển Tâm lý học tóm tắt” của Liên Xô do A.V.Petrovski và M.G.Iarosevski

chủ biên, định hướng giá trị là phương thức chủ thể sử dụng để phân biệt các sự vật theo ý

nghĩa của chúng đối với chính mình, từ đó hình thành nội dung cơ bản của xu hướng, động

cơ hoạt động.

Như vậy, định hướng giá trị có liên quan đến mặt nhận thức, ý chí và tình cảm trong

sự phát triển nhân cách của chủ thể.

Riêng tại Việt nam, định hướng giá trị còn là một khái niệm mới mẻ chưa được đưa

vào trong từ điển Tiếng Việt, do đó chúng ta tạm thời hiểu khái niệm định hướng giá trị theo

các từ điển của nước ngoài.

2.1.2.2. Khái niệm định hướng giá trị theo quan điểm của các nhà khoa học

trong và ngoài nước

Trong tài liệu “Những cơ sở nghiên cứu xã hội học”, các tác giả đã quan niệm: “Định

hướng giá trị là khuynh hướng chung đã được quy định về mặt xã hội, được ghi lại trong

tâm lý của cá nhân, nhằm vào mục đích và phương tiện hoạt động trong lĩnh vực nào đó”

[38, tr.56]. Ở đây, định hướng giá trị đóng vai trò là một thành tố trong cấu trúc nhân cách

và là sự điều chỉnh hành vi của con người,

Một số nhà Tâm lý học xã hội quan tâm đến nhiều khía cạnh của vấn đề định hướng

giá trị, chẳng hạn:

I.T.Lêvưkin cho là: “Định hướng giá trị là việc đánh giá các khả năng và tình hình

hiện có để xác định các phương tiện và phương pháp nhằm đạt những mục tiêu đã đề ra”

[theo 63, tr.68].

Tác giả Ladov lại quan niệm: “Định hướng giá trị là những biểu tượng của con người

về những mục đích chủ yếu của cuộc đời và các phương tiên cơ bản đạt những mục tiêu ấy.

Định hướng giá trị đóng vai trò chủ đạo trong việc xây dựng các chương trình hành vi lâu

dài. Chúng hình thành trên cơ sở nhu cầu của chủ thể về việc nắm vững những hình thức cơ

bản của hoạt động sống trong những điều kiện lịch sử cụ thể xác định và do tính chất của

các quan hệ xã hội quy định. Các quan hệ xã hội này là nguồn gốc khách quan hình thành

những nhu cầu ấy” [theo 63, tr.68].

Trong công trình nghiên cứu khoa học “Những đặc trưng và xu thế phát triển nhân

cách con người Việt nam trong sự phát triển kinh tế, xã hội”, một số nhà Tâm lý học Việt

nam đã chỉ ra định hướng giá trị là cơ sở bên trong của hành vi và nó quyết định lối sống

của cá nhân:

Theo tác giả Trần Trọng Thủy, “Định hướng giá trị ở mỗi cá nhân chính là sự tiếp

thu các giá trị với tư cách là những tiêu chuẩn hành vi của mình” [55, tr.26].

Các nhà nghiên cứu trong đề tài KX - 07 - 10 quan niệm: “Định hướng giá trị là thái

độ, là sự lựa chọn các giá trị vật chất và tinh thần, là một hệ thống tâm thế, niềm tin, sở

thích của con người đối với một giá trị nào đó” [62, tr.73].

Như vậy, có nhiều quan niệm khác nhau về định hướng giá trị, song chúng ta có thể

nhận thấy một số điểm chung cơ bản sau:

- Định hướng giá trị được hình thành trong quá trình cá nhân hoặc nhóm người gia

nhập vào các quan hệ xã hội với tư cách là chủ thể của các hoạt động đó và hướng vào các

giá trị có ý nghĩa cơ bản đối với họ.

- Quá trình định hướng giá trị luôn chứa đưng các yếu tố nhận thức (đánh giá), ý chí

và cảm xúc (thử nghiệm) và các khía cạnh đạo đức, thẩm mỹ trong sự phát triển nhân cách.

- Là cơ sở bên trong của hành vi, nó quyết định lối sống của mỗi cá nhân.

Trân trọng, kế thừa từ những quan điểm về định hướng giá trị đã được nêu trên,

chúng tôi tạo lập khái niệm định hướng giá trị trong nghiên cứu này: Định hướng giá trị là

sự nhận thức, đánh giá và lựa chọn các giá trị của con người trong quá trình hoạt động.

Nó có ý nghĩa thúc đẩy, điều chỉnh thái độ và hành vi của họ nhằm đạt tới những giá trị

đó.

2.2. Lối sống và lối sống của sinh viên

2.2.1. Khái niệm lối sống và các thuật ngữ có liên quan

2.2.1.1. Khái niệm lối sống trên bình diện các khoa học khác nhau

Có nhiều quan điểm và cách tiếp cận khác nhau về khái niệm lối sống, trong nghiên

cứu này, cơ sở lý luận và phương pháp luận khi xem xét và nghiên cứu về lối sống được dựa

trên quan điểm Triết học Mác – Lênin.

a. Khái niệm lối sống theo Triết học

Tác giả V.I. Tolstykh đã định nghĩa khái niệm lối sống theo quan điểm Triết học: là

“những hình thức cố đinh, điển hình đối với những quan hệ xã hội lịch sử cụ thể) của hoạt

động sống cá nhân và tập đoàn của con người, những hình thức ấy nói lên những đặc điểm

về sự giao tế, hành vi và nếp nghĩ của họ trong các lĩnh vực lao động, hoạt động xã hội –

chính trị, sinh hoạt và giải trí” [theo 49, tr.6].

Theo định nghĩa của V.I. Tolstykh, lối sống là phạm trù rất rộng mang tính phổ biến.

Nó vừa bao hàm cả khía cạnh kinh tế lẫn khía cạnh tâm lý - xã hội có liên quan đến những

đặc điểm hành vi và giao tiếp của cá nhân và của các tập đoàn xã hội. Như vậy, lối sống ở

đây được coi là một hiện tượng xã hội chỉnh thể. Ông không chấp nhận quan niệm coi lối

sống chỉ bao gồm mặt ngoài của hoạt động sống mà không đề cập tới bản chất của nó bởi vì

lối sống theo ông là là “phòng thí nghiệm” thường xuyên hoạt động để con người tái sản

xuất bản chất của mình trong qúa trình lao động, hoạt động xã hội, sinh hoạt và vui chơi giải

trí. Nó cho phép khám phá bản chất bên trong của hiện thực xã hội, tuy nhiên không vì vậy

mà tách rời những biểu hiện sinh động và phong phú của nó.

Có thể nói, lối sống theo V.I. Tolstykh trước hết là một kiểu sống nhất định được

hình thành một cách khách quan trong một xã hội, một giai cấp hay một tập đoàn. Nhưng

khi muốn nói lên một “cái chung” nào đó đối với đa số người, khái niệm lối sống vẫn mang

tính linh hoạt và cơ động vì nó liên quan chặt chẽ đến hoạt động sống của mỗi cá nhân. Bất

cứ cá nhân nào đều có những đặc điểm tâm lý “cá biệt” của cái riêng nhưng vẫn có cái “điển

hình” của cái chung. Do vậy mà khái niệm lối sống phản ánh mối liên hệ biện chứng giữa

cái phổ biến, cái đặc thù và cái đơn nhất của quá trình phát triển của một chế độ xã hội.

b. Khái niệm lối sống theo Kinh tế học

Dưới góc độ Kinh tế học, khái niệm lối sống được N.I. Kapustin nghiên cứu như một

phạm trù xã hội - kinh tế. Ông cho rằng lối sống là kết quả tác động một cách tổng hợp của

toàn bộ các quan hệ xã hội – kinh tế trong một xã hội bao gồm các yếu tố lực lượng sản xuất

và kiến trúc thượng tầng của nó đối với con người. Bởi vì theo N.I. Kapustin “cái chủ yếu

trong khái niệm lối sống là những khía cạnh xã hội như sự hài lòng về lao động, không khí

tâm lý trong các tập thể sản xuất, hành vi con người trong tập thể sản xuất, trong sinh hoạt ở

gia đình và tất nhiên cả thái độ đối với xã hội, đối với tổ quốc, những lý tưởng sống mà các

thành viên xã hội tự chọn lấy cũng như những phương pháp đạt tới những lý tưởng ấy, đời

sống tinh thần của con người” [theo 66, tr.9].

Đối tượng nghiên cứu của lối sống theo quan điểm của Kinh tế học là:

- Khía cạnh thuần túy kinh tế của lối sống, đó là những nhu cầu tiêu biểu nhất cho

một lối sống nhất định của con người, là thái độ đối với lao động và mức độ hài lòng về lao

động, tính chất cũng như nội dung lao động, những mối liên hệ và quan hệ của con người

trong sản xuất, những định hướng mục đích, những nhân tố kích thích kinh tế đối với hoạt

động sống của con người…

- Những điều kiện kinh tế, nghĩa là cơ sở phát sinh và phát triển của một lối sống

nhất định.

Những biện pháp và phương pháp tác động kinh tế của xã hội, của giai cấp cai trị xã

hội đối với sự hình thành một lối sống thích hợp với một chế độ nhất định [66, tr.11].

Tuy xét khái niệm lối sống từ góc độ Kinh tế học nhưng N.I. Kapustin vẫn cho rằng,

xét đến cùng thì lối sống do phương thức sản xuất quyết định. Cho dù chịu sự tác động

mang tính quyết định của phương thức sản xuất nhưng lối sống không phải là kết quả thụ

động của ảnh hưởng ấy mà đến lượt mình lối sống tác động lại một cách tích cực đối với sự

phát triển của phương thức sản xuất. Do đó mà các quan hệ xã hội, các quan hệ sản xuất đối

với lực lượng sản xuất luôn được thực hiện qua lối sống của con người.

c. Khái niệm lối sống dưới góc độ Xã hội học

Khái niệm lối sống đã được tác giả M.N. Rutkevich coi là một phạm trù xã hội học.

Theo khía cạnh này, lối sống là một hiện tượng xã hội phải được xem xét một cách tổng hợp

trong sự thống nhất và trong mối liên hệ qua lại chặt chẽ giữa các mặt khác nhau của đời

sống xã hội.

Theo M.N. Rutkevich, khái niệm lối sống được định nghĩa: “Lối sống – đó là hệ

thống những nét căn bản nói lên hoạt động của các dân tộc, các giai cấp, các tập đoàn xã

hội, các cá nhân trong những điều kiện của một hình thái kinh tế - xã hội nhất định” [48,

tr.12].

Ông đã lý giải rằng lối sống cũng như phương thức sản xuất được quyết định một

mặt bởi quan hệ thực tiễn của con người đối với tự nhiên.Tuy nhiên, lối sống khác với

phương thức sản xuất. Đó là phương thức hoạt động trong khái niệm lối sống được nhấn

mạnh và lối sống không chỉ hạn chế ở lĩnh vực sản xuất của cải vật chất mà còn nói lên

những đặc điểm cơ bản về sinh hoạt, văn hoá, đời sống chính trị, đạo đức, hoạt động ngoài

sản xuất của con người. Vì vậy mà khái niệm lối sống ở đây có liên hệ mật thiết với khái

niệm hình thái kinh tế - xã hội và như vậy hình thái kinh tế - xã hội nào, lối sống ấy.

Một số nhà Xã hội học Việt nam đã có những quan niệm khác nhau về lối sống.Tác

giả Thanh Lê cho rằng: "Lối sống không những chỉ bao quát những điều kiện sống mà là

toàn bộ những hình thức hoạt động sống của con người trong quá trình sản xuất của cải vật

chất và tinh thần cũng như trong các lĩnh vực xã hội, chính trị và gia đình - sinh hoạt [43,

tr.109].

Theo tác giả Lê Như Hoa: “Lối sống là một khái niệm có tính đồng bộ và tổng hợp.

Nó bao gồm các mối quan hệ kinh tế, xã hội, tư tưởng, tâm lý, đạo đức, văn hoá và các mối

quan hệ khác nhau của con người, đặc trưng sinh hoạt của họ trong những điều kiện của một

hình thái kinh tế - xã hội nhất định. Lối sống có liên quan tới các lĩnh vực khác nhau của đời

sống xã hội như: kinh tế, chính trị, văn hoá và sinh hoạt của con người, của tập đoàn, giai

cấp và xã hội” [17, tr. 17].

d. Khái niệm lối sống trên bình diện Tâm lý học

Các nhà Tâm lý học đã nghiên cứu lối sống bằng cách tiếp cận từng cá nhân con

người để phát hiện ra lối sống của họ và khái quát đặc điểm lối sống của các cá nhân trong

nhóm thành đặc trưng lối sống của nhóm, khái quát đặc trưng lối sống của nhiều tầng lớp,

giai cấp xã hội để thấy được đặc điểm lối sống của cả cộng đồng, dân tộc, địa phương…

Việc nghiên cứu lối sống trên bình diện Tâm lý học luôn phải xem xét yếu tố chủ

quan của lối sống trong mối tương quan với điều kiện sống cả về mặt vật chất và tinh thần

cụ thể của mỗi xã hội; mối tương quan giữa cá nhân với nhóm và xã hội. Các mối tương

quan đó thể hiện qua các hình thức hoạt động sống và các mối quan hệ hiện thực của con

người. Như vậy, dù ở góc độ nào, việc nghiên cứu lối sống không thể tách rời thế giới nội

tâm và môi trường, điều kiện sống cũng như không thể tách rời các điều kiện chủ quan và

khách quan; cái riêng với cái chung; cái cá nhân với xã hội, với thời đại.

Nhà Tâm lý học Xô viết E.V. Sôrôkhôva đã quan niệm: “Lối sống là toàn bộ những

hình thức hoạt động sinh sống tiêu biểu xuất hiện trong những quan hệ kinh tế - xã hội nhất

định của các dân tộc, giai cấp, các nhóm xã hội, cá nhân trong sản xuất vật chất và tinh thần,

trong phạm vi xã hội – chính trị và riêng tư thường ngày, trong những mối quan hệ qua lại

của mọi người và trong đời sống cá nhân” [theo 66, tr.15]. Nghiên cứu lối sống theo bà

chính là nghiên cứu đời sống thực của con người bởi vì lối sống là phương thức hoạt động

đã được xác định.

Tác giả V. Đôbôrianôp lại cho rằng: “Lối sống là sinh hoạt cá nhân, chủ quan hoá

của hệ thống quan hệ xã hội, của toàn bộ tổng thể những điều kiện sống, thể hiện trong hoạt

động của con người” [theo 66, tr. 15].

Còn nhà Tâm lý học Đức, H.D. Schmit lại khẳng định việc nghiên cứu sự thay đổi,

biến động của lối sống của xã hội chính là việc nghiên cứu lối sống riêng tư của từng người.

Dưới góc độ Tâm lý học xã hội, V.I. Daxêpin quan niệm: “Lối sống là tập hợp những

hình thức hoạt động của con người trong một thể thống nhất với những môi trường hoạt

động chính của xã hội và của cá nhân” [8, tr.139]. Từ đây, tác giả đã đưa ra 5 dạng hoạt

động của lối sống: hoạt động cải tạo; hoạt động định hướng; hoạt động nhận thức; hoạt động

giao tiếp và hoạt động nghệ thuật. Lối sống được xem là phương thức tác động tương hỗ

giữa môi trường xã hội với cá nhân hoặc với tập đoàn người. Đó là phương thức hoạt động

hằng ngày có tính bền vững của con người nhằm thực hiện và phát triển nhu cầu của họ.

Như vậy, lối sống trước hết có liên quan đến những đặc điểm việc làm thỏa mãn những nhu

cầu của con người. Đó cũng chính là phương thức hoạt động hằng ngày có tính chất bền

vững của con người nhằm thực hiện và phát triển nhu cầu của họ.

Tác giả I.A. Sepkovin khi đề cập đến lối sống đã nêu lên 3 đặc trưng cơ bản về mặt

tâm lý xã hội:

- Những biểu hiện tính tích cực về mặt xã hội của cá nhân và nhóm.

- Những nhu cầu, giá trị và hứng thú được thực hiện trong đời sống, đó là những

động cơ điều chỉnh hành vi và hoạt động.

- Những tập quán và thói quen, đó là những tiêu chuẩn điển hình có tính chất xã hội

của những mối quan hệ giữa mọi người với nhau, được hình thành trong quá trình sản xuất,

trong đời sống chính trị và trong sinh hoạt [8, tr.140].

Từ việc tìm hiểu và phân tích các định nghĩa về lối sống của các nhà Tâm lý học, kế

thừa và trân trọng những người đi trước cũng như làm phong phú thêm khái niệm lối sống,

chúng tôi tạo lập cho mình một khái niệm về lối sống: Lối sống là phương thức hoạt động

đã xác định của con người, bao gồm tất cả những dạng hoạt động sống mà con người đã

lựa chọn trong những điều kiện chủ quan và khách quan nhất định.

2.2.1.2. Một số thuật ngữ có liên quan

a. Khái niệm nếp sống

Ở Việt nam, theo cách nói thông thường, hai thuật ngữ "lối sống" và "nếp sống"

thường được dùng như một. Tuy nhiên, xét về mặt khoa học, hai khái niệm này không hoàn

toàn là một.

Theo từ điển tiếng Việt đề cập đến ý nghĩa của “lối” và “nếp” như sau:

Lối: là hình thức diễn ra của hoạt động đã trở thành ổn định và mang đặc điểm riêng

như: lối sống giản dị, lối châm biếm kín đáo [69, tr.561].

Nếp: cách sống, hoạt động đã trở thành thói quen như: nếp sống văn minh, thay đổi

nếp suy nghĩ [69, tr.644].

Theo A.P. Buchenkô cho rằng: “Nếp sống không phải là một phần mà là một trong

những biểu hiện của lối sống” [theo 64, tr.17].

Tác giả Thanh Lê cho rằng: “lối sống” được hiểu rộng hơn, bao hàm trong đó có

“nếp sống”. Nếp sống - đó là hoạt động hàng ngày. Mỗi cá nhân có thể có thói quen, nếp

sống riêng của mình như: thức dậy đúng giờ, tập thể dục. Nếp sống là phương thức ứng xử

trong một tình thế nhất định nào đó, nếp sống cũng được hiểu như một phong cách, một tác

phong (quan liêu, ham danh lợi). Nếp sống còn là phương thức xử sự được quy định với các

giá trị đạo đức (tôn kính người trên, giữ gìn trật tự xã hội). Như vậy: “nếp sống là những

quy ước lặp đi lặp lại trở thành thói quen trong sinh hoạt, phong tục tập quán, hành vi đạo

đức. Nếp sống là một mặt của lối sống, ở đây muốn nói đến cách xử sự của con người [42,

tr.111].

Theo tác giả Mạc Văn Trang, “Nếp sống là mặt ổn định của lối sống, là những đặc

điểm biểu hiện của lối sống đã được hình thành nề nếp, thói quen của cá nhân (nét tính

cách), của gia đình (nếp nhà), của xã hội (phong tục, tập quán, truyền thống). Lối sống được

nảy sinh, hình thành, phát triển và đến một mức độ được củng cố, định hình thành nếp sống.

Lối sống và nếp sống không tách rời nhau” [59, tr.20].

Như vậy, nếp sống là những phương thức hoạt động, hành vi ứng xử của con người

đã được lặp đi lặp lại thành nếp, thành thói quen, phong tục được xã hội công nhận. Khi sử

dụng hai thuật ngữ lối sống và nếp sống dựa theo nguyên tắc: lối sống nói lên tính định

hướng, định tính, chỉ ra phương hướng của vấn đề, còn nếp sống nói lên tính định hình và

định lượng.

b. Khái niệm mức sống

Mức sống có quan hệ trực tiếp đến lối sống, mức sống thuộc vào những điều kiện

trực tiếp tác động đến sự hình thành và phát triển của lối sống.

Theo từ điển tiếng Việt: “Mức sống là mức đạt được của các điều kiện sinh hoạt vật

chất và tinh thần” [69, tr.631].

Tác giả Huỳnh Khái Vinh cho rằng: “mức sống là thuật ngữ kinh tế - xã hội để đánh

giá các nhu cầu về vật chất và tinh thần đã được thoả mãn và có thể đo lường trực tiếp bằng

số lượng” [67, tr.35].

Theo tác giả Thanh Lê thì mức sống nói lên trình độ vật chất và văn hoá mà con

người được hưởng thụ.

Như vậy, mức sống có liên quan đến mức thu nhập cá nhân và mức hưởng thụ phúc

lợi xã hội của cá nhân. Các tiêu chuẩn của mức sống là: ăn. mặc, ở, đi lại, học tập, sinh hoạt

văn hoá, bảo vệ sức khoẻ, bảo hiểm xã hội.

Mức sống là mặt khách quan của lối sống. Thực tế cho thấy mức sống có quan hệ với

lối sống, là điều kiện quan trọng nhất cho hoạt động sống của con người. Tuy nhiên, mức

sống không trực tiếp quyết định lối sống. Ở một số người hay nhóm người có mức sống có

thể rất cao nhưng lối sống, nếp sống của họ có thể thực dụng, bệnh hoạn. Ngược lại, rất

nhiều người, nhóm người có mức sống chưa cao nhưng lại có lối sống nghĩa tình, có trách

nhiệm. Mức sống cao có thể là phương tiện làm cho con người phát triển tốt hơn (mức sống

nói lên trình độ phát triển của xã hội), nhưng con người cũng có thể trở thành nô lệ của vật

chất và những biến tướng của lối sống vật chất thiếu lành mạnh.

c. Khái niệm lẽ sống

Lẽ sống là thuật ngữ được Đạo đức học, Triết học và cả Tâm lý học cùng quan tâm.

Theo tác giả Mạc Văn Trang: “Lẽ sống là mặt ý thức của lối sống. Nó đề cập tới mục

đích, ý nghĩa lý tưởng của cuộc sống, là lý chí, khát vọng của con người. Nó giải đáp câu

hỏi con người sống để làm gì. Nó phản ánh tính mục đích của một lối sống” [59, tr.21].

Tác giả Huỳnh Khái Vinh lại cho rằng: “Lẽ sống là mặt ý thức của lối sống có vai trò

dẫn dắt, định hướng và định tính làm cho lối sống ổn định. Lẽ sống dựa vào lý tưởng và các

giá trị xã hội phản ánh tính chủ thể của lối sống” [67, tr.35].

Như vậy, lẽ sống là quan niệm sống của con người, là sự tự nhận thức, tự giác hành

động vì một lý tưởng, một mục tiêu cao cả. Lẽ sống định hướng cho lối sống.

Điều cơ bản trong lẽ sống chính là ý nghĩa xã hội, giá trị xã hội của nó. Con người có

lẽ sống thôi chưa đủ mà quan trọng là phải có lẽ sống đúng đắn, phù hợp với sự tiến bộ của

xã hội. Có như vậy mới tạo ra sự hài hoà giữa con người với con người, giữa con người với

xã hội. Lẽ sống chân chính của con người được biểu hiện ở hoạt động sáng tạo, tích cực

cống hiến cho sự tiến bộ xã hội.

d. Khái niệm kiểu sống, cách sống.

Kiểu, cách là hình thức diễn ra của hoạt động, chẳng hạn: cách ăn nói, cách đi đứng.

Có thể hiểu kiểu sống, cách sống có nghĩa hẹp và cụ thể và là nét riêng của lối sống,

nếp sống của mỗi cá nhân, mỗi gia đình, mỗi địa phương.

Cách sống, kiểu sống phụ thuộc vào lối sống, nếp sống, cơ cấu hoạt động của con

ngưới, các nhu cầu và phương thức đặc thù của sự thoả mãn những nhu cầu đó. Kiểu sống là

những nét riêng, độc đáo trong lối sống, nếp sống ở cấp độ cá nhân hay xã hội. Các kiểu

sống khác nhau làm cho lối sống trở nên đa dạng, phong phú, sinh động trong đời sống.

2.2.2. Sinh viên và lối sống sinh viên

2.2.2.1. Khái niệm sinh viên và một số nét tâm lý đặc trưng của sinh viên

a. Khái niệm sinh viên

Ở cấp độ xã hội, sinh viên là một nhóm đặc biệt đang chuẩn bị cho hoạt động lao

động trong một lĩnh vực nghề nghiệp nhất định. Họ là những người đang chuẩn bị gia nhập

vào đội ngũ tri thức của xã hội. Họ là một bộ phận của thanh niên đang theo học ở các

trường đại học và cao đẳng.

Ở cấp độ cá nhân, sinh viên là những người đang trưởng thành về mặt xã hội, hoàn

thiện về thể lực, định hình về nhân cách, học tập để tiếp thu những tri thức, kỹ năng - kỹ xảo

của một lĩnh vực nghề nghiệp. Sinh viên đại học chủ yếu ở lứa tuổi từ 17 – 18 đến 25 – 26.

Sinh viên là lực lượng kế tiếp, bổ sung cho đội ngũ trí thức tương lai. Họ là lớp người

có văn hóa cao và có điều kiện để thu thập các thông tin về mọi lĩnh vực trong cuộc sống.

V.I. Lênin đã từng đánh giá: “sinh viên là bộ phận nhạy cảm nhất của giới tri thức, là tầng

lớp có trình độ tiên tiến nhất trong hàng ngũ thanh niên. Song bên cạnh đó, sinh viên còn

thiếu kinh nghiệm sống, cần được bổ sung bằng kinh nghiệm của lớp chiến sĩ già” [Dẫn

theo X.M. Lêpêkhin (1978)].

Tuổi sinh viên là thời kỳ phát triển mạnh mẽ của tư duy lý luận, cùng với khối lượng

tri thức mà họ đã tiếp thu được trong gia đình, ở nhà trường và ngoài xã hội, sinh viên có thể

liên kết các tri thức riêng lẻ lại với nhau hình thành nên một biểu tượng rất đặc trưng cho

giới sinh viên. Có thể nói, sinh viên chính là thời kỳ hình thành rõ nét nhất về nhân cách của

những trí thức trong tương lai. Họ có những quan điểm, nhu cầu, nguyện vọng riêng trong

quá trình tiếp nhận những thay đổi của thời đại, của nền giáo dục và đào tạo. Trong quá

trình mở cửa hội nhập cùng với sự phát triển mạnh mẽ và đa dạng của ngành giáo dục đại

học, đội ngũ sinh viên có nhiều thay đổi về định hướng giá trị, về lối sống, nhu cầu.

Bên cạnh những hướng phát triển của sinh viên nói chung, sinh viên Việt nam còn có

thêm những đặc trưng riêng của thanh niên - sinh viên của một đất nước đang trên đường

phát triển, đổi mới và hội nhập. Sinh viên là lực lượng trí thức trẻ trong sự nghiệp công

nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Chính sự nghiệp này đòi hỏi ở sinh viên phải có trình độ,

có kiến thức để học tập và tiếp thu những tiến bộ của khoa học công nghệ tiên tiến và cũng

là để khẳng định vai trò, trách nhiệm với dân tộc và đất nước.

Sinh viên Việt nam có ý thức về ý thức tự lập, tự chủ, thể hiện tính độc lập trong học

tập. Đặc biệt trong bối cảnh hiện nay, họ đã thể hiện những phẩm chất tốt đẹp của tầng lớp

trí thức trẻ. Họ năng động và sáng tạo để thích ứng với đòi hỏi của cuộc sống và nghề

nghiệp tương lai. Họ thực sự có nhu cầu cao về hoàn thiện tri thức, trình độ học vấn và các

kỹ năng để mau chóng hoà mình vào một xã hội học tập của thời đại mới. Đã có rất nhiều

những gương sinh viên điển hình trong học tập và nghiên cứu, họ không quản ngại khó khăn

về kinh tế, không chịu sự bó hẹp của thời gian và vượt qua những đam mê khác để tìm kiếm

kiến thức.

Ngoài ra, sinh viên Việt nam là những người dẫn đầu trong các phong trào như: chiến

dịch mùa hè xanh, tháng an toàn giao thông. Họ đã ý thức được trách nhiệm đối với xã hội,

phấn đấu vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh”.

Sinh viên nước ta có sự phát triển về ý thức tự lập và tự chủ. Điều này thể hiện cả

trong cuộc sống và trong học tập - họ vừa chủ động học tập để có nghề nghiệp ổn định, vừa

tự trau dồi kinh nghiệm bằng cách làm thêm và cũng là để tự lo cho bản thân. Có thể nói

sinh viên ngày nay có sự trưởng thành sớm về mặt xã hội.

Tình bạn và tình yêu ở tuổi sinh viên cũng đặc biệt phát triển và phát triển mãnh liệt nhất.

Họ hướng tới những giá trị cao quý của tình bạn và tình yêu.

Bên cạnh những mặt tích cực đã được đề cập, sinh viên là những người trẻ tuổi, chưa

độc lập về kinh tế, còn thiếu kinh nghiệm sống nên khi gặp phải những khó khăn thử thách

hay những cạm bẫy cám dỗ, họ rất dễ dao động, cuốn vào lối sống tự do, chuộng vật chất và

dễ bước vào con đường tệ nạn xã hội.

b. Một số đặc điểm tâm lý cơ bản của sinh viên

 Nhận thức

Ở tuổi sinh viên, các quá trình nhận thức đều phát triển mạnh: độ tinh nhạy của các

giác quan tăng lên rõ rệt, tri giác có mục đích đạt tới mức cao, quan sát trở nên có mục đích,

có hệ thống và toàn diện. Tư duy sâu sắc và mở rộng, tỏ ra chặt chẽ, nhất quán và có căn cứ.

Bên cạnh đó, sinh viên có “tính nhạy bén cao”, khả năng lý giải và gán ý nghĩa cho những

ấn tượng cảm tính ban đầu bằng kinh nghiệm đã có và những tri thức khoa học đã tích luỹ

được trong quá trình học. Sinh viên có năng lực giải quyết những nhiệm vụ trí tuệ ngày một

khó khăn hơn, lập luận mang tính logic. Đó chính là sự phát triển trí tuệ của sinh viên. Do

sự phát triển trí tuệ cao như vậy nên trong hoạt động nhận thức của mình, sinh viên có thể

hoạt động trí tuệ tập trung, căng thẳng, tiến hành hoạt động tư duy với sự phối hợp của

nhiều thao tác tư duy như: phân tích, so sánh, tổng hợp, trừu tượng hoá, khái quát hoá để đi

sâu vào tìm hiểu những môn học, những chuyên ngành khoa học một cách chuyên sâu nhằm

nắm được đối tượng, nhiệm vụ, phương pháp và quy luật của khoa học đó với mục đích trở

thành những chuyên gia về các lĩnh vực nhất định.

Hoạt động nhận thức của sinh viên gắn liền với học tập chuẩn bị nghề nghiệp trong

suốt quá trình học tập và rèn luyện của họ. Như vậy, sự phát triển trí tuệ của sinh viên gắn

liền và phát triển cùng với hoạt động học tập của họ.

 Đời sống tình cảm của sinh viên

Tuổi sinh viên là tuổi phát triển nhất về các loại tình cảm cấp cao: tình cảm trí tuệ,

tình cảm đạo đức, tình cảm thẩm mỹ… và được biểu hiện rất đa dạng và phong phú trong

đời sống cũng như mọi hoạt động của sinh viên. Tình cảm cấp cao ở sinh viên đã có chiều

sâu và mang một chất lượng mới hơn hẳn so với học sinh phổ thông.

Tình bạn cùng giới và khác giới ở tuổi sinh viên đặc biệt phát triển. Tình bạn giúp

sinh viên gắn kết với nhau trong học tập, vui chơi, giải trí và cùng nhau chia sẻ kinh nghiệm

trong học tập và cuộc sống. Do vậy mà tình bạn đã làm phong phú tâm hồn và nhân cách

sinh viên rất nhiều. Bên cạnh đó, tình yêu nam nữ là lĩnh vực rất đặc trưng cho thấy sinh

viên là những người trưởng thành về mọi mặt.

 Một số phẩm chất nhân cách tiêu biểu của sinh viên

Xu hướng của sinh viên phát triển nổi bật, họ có lý tưởng rõ rệt, có ước mơ và kỳ

vọng vào nghề nghiệp tương lai đang theo học. Hoạt động học tập chuẩn bị cho nghề nghiệp

tương lai là hoạt động rất cơ bản trong đời sống của sinh viên.

Mặt khác, nhu cầu của sinh viên cũng phát triển cả về số lượng lẫn chất lượng so với

học sinh phổ thông và các tầng lớp khác trong xã hội. Họ có nhu cầu khá cao về tiêu dùng,

giải trí, giao lưu và nhu cầu tham gia vào các hoạt động chính trị - xã hội.

Tự đánh giá là một trong những phẩm chất quan trọng biểu hiện trình độ phát triển

cao của nhân cách. Tự đánh giá ở sinh viên là một dạng hoạt động nhận thức trong đó đối

tượng nhận thức chính là bản thân chủ thể, là quá trình chủ thể thu thập, xử lý thông tin về

chính mình.Tự đánh giá, tự ý thức có vai trò quan trọng đối với tự nhận thức, tự phê phán và

điều chỉnh lối sống của sinh viên bởi vì nhờ đó mà sinh viên nhìn nhận ra được chính mình

để có thái độ, hành vi, hoạt động phù hợp nhằm điều chỉnh, tự giáo dục để hoàn thiện, phát

triển bản thân theo những mục tiêu nhất định.

Tóm lại, một số đặc điểm tâm lý nổi bật của sinh viên là: có trình độ phát triển nhận

thức cao, tư duy nhạy bén, linh hoạt, xu hướng nhân cách phát triển rõ rệt biểu hiện trong

hoạt động học tập; nhu cầu của sinh viên đa dạng. tự đánh giá và tự ý thức ở sinh viên phát

triển mạnh mẽ, nhờ đó giúp sinh viên tự giáo dục, tự hoàn thiện bản thân theo hướng tích

cực của người trí thức tương lai, đó là cơ sở tạo nên lối sống cũng như chi phối đến định

hướng giá trị lối sống sinh viên.

c. Các hoạt động cơ bản của sinh viên

 Hoạt động học tập

Hoạt động học tập của sinh viên mang những nét đặc thù khác xa với các bậc học

khác - mang tính độc lập cùng với sự tự ý thức và nỗ lực của bản thân để tiếp thu tri thức, kỹ

năng, kỹ xảo nghề nghiệp dưới sự hướng dẫn của giáo viên. Bên cạnh đó, họ phải tự hoàn

thiện nhân cách để trở thành người cán bộ trí thức trong tương lai.

Hoạt động diễn ra có tổ chức, kế hoạch với các phương tiện học tập được trang bị:

sách vở, đồ dùng học tập, thư viện, phòng thí nghiệm…

Khi tham gia vào hoạt động, sinh viên phải năng động, tích cực, tự giác, tâm lý căng

thẳng, nhất là trong các kỳ thi, bảo vệ khóa luận hay luận văn.

Do tính chất của đào tạo đại học mà còn có thêm hoạt động nghiên cứu khoa học.

Nghiên cứu khoa học là một hoạt động song song với hoạt động học tập của sinh viên và

ngày càng chiếm một vị trí cao. Có thể dựa trên hoạt động nghiên cứu khoa học để phân biệt

sự khác nhau giữa phương pháp học đại học so với cách học của học sinh phổ thông. Chính

qua nghiên cứu khoa học mà chúng ta nhận thấy sự chủ động, tích cực say mê tìm tòi và

muốn khám phá những điều mới lạ của sinh viên.

 Hoạt động giao tiếp - ứng xử

Đây cũng được coi là một hoạt động cơ bản của sinh viên nói riêng và của xã hội

loài người nói chung. Thông qua các mối quan hệ giao tiếp mà sinh viên tạo dựng được cho

mình hàng loạt mối quan hệ xã hội phong phú và phức tạp giữa cá nhân sinh viên với gia

đình, với thầy cô, cộng động, với bạn bè cùng lứa tuổi, cùng giới, khác giới. Tất cả góp phần

quan trọng cho sự phát triển đời sống tâm lý và sự trưởng thành về nhân cách, lối sống của

sinh viên.

Thông qua giao tiếp - ứng xử, sinh viên cũng thể hiện lối sống lành mạnh, có văn

hoá. Quan hệ giữa người với người phải là quan hệ nhân ái, dựa trên tình đồng loại “thương

người như thể thương thân, “lá lành đùm lá rách”, tôn trọng giúp đỡ lẫn nhau, không ích kỷ

hẹp hòi, thờ ơ lãnh đạm khi thấy đồng loại gặp hoạn nạn. Lối sống đẹp phải là lối sống đề

cao tính cộng đồng, hoà nhập và hợp tác, dám vì lợi ích chung mà lên án cái xấu, cái sai để

cùng nhau giữ gìn những giá trị chuẩn mực chung của xã hội.

 Hoạt động chính trị - xã hội

Đây là một hoạt động thể hiện ý thức, quan điểm chính trị, thái độ và trách nhiệm

của sinh viên đối với tập thể, cộng đồng và xã hội. Thái độ và tính tích cực hoạt động xã hội

- chính trị của sinh viên thể hiện rõ sự trưởng thành về nhân cách của họ.

Hoạt động chính trị - xã hội của sinh được tiến hành qua nhiều hình thức đa dạng và

phong phú. Khi tham gia vào các hoạt động đó, sinh viên có cơ hội hiểu sâu sắc hơn những

tri thức lý luận đã tiếp thu từ sách vở, giảng đường và quan trọng hơn cả là đem áp dụng

chúng vào thực tiễn đời sống để kiểm nghiệm, chứng minh tính đúng đắn. Bên cạnh đó các

hình thức đa dạng và phong phú của hoạt động chính trị – xã hội phát huy khả năng quan sát

tinh vi, nhạy bén, óc tò mò khoa học, năng lực hoạt động thực tiễn và đặc biệt là tình cảm

nghĩa vụ, ý thức trách nhiệm xã hội, ý thức công dân và quan niệm sống được biểu hiện

hình thành và phát triển.

 Sinh hoạt cá nhân

Sinh hoạt cá nhân của sinh viên được xet trên nhu cầu và phương thức thoả mãn nhu

cầu của cá nhân như: sử dụng thời gian rảnh rỗi, lựa chọn hình thức giải trí hay lựa chọn

cuộc sống vật chất. Nó thể hiện tính cách, ý chí của cá nhân sinh viên trong việc điều tiết

các nhu cầu sinh hoạt hằng ngày.

Những biểu hiện tích cực trong sinh hoạt cá nhân như: biết sử dụng thời gian hợp lý,

không lãng phí, không a dua, hùa theo những hình thức giải trí không lành mạnh, không đòi

hỏi hưởng thụ, biết tiết kiệm giản dị trong sinh hoạt. Bên cạnh đó, mặt tiêu cực vẫn luôn tồn

tại trong sinh hoạt cá nhân của sinh viên: phung phí tiền bạc trong chi tiêu, học cách ăn

chơi, đua đòi, nhất là tham gia vào các hình thức giải trí không lành mạnh – bài bạc, nhậu

nhẹt, xem phim cấm…

2.2.2.2. Lối sống sinh viên

Như đã phân tích, khái niệm lối sống rất đa dạng theo nhiều ngành khoa học. Trong

nghiên cứu này, lối sống sinh viên được nhấn mạnh ở khía cạnh Tâm lý học nhân cách. Tiếp

cận lối sống sinh viên là gắn lối sống với những hoạt động của họ. Hoạt động là phương

thức của quá trình hình thành và phát triển tâm lý, ý thức, nhân cách. Vậy, lối sống sinh viên

chính là các hoạt động và thể hiện trong các hoạt động đặc thù của họ.

Thông qua khái niệm lối sống nói chung, khi tiếp cận lối sống sinh viên, chúng tôi

cho rằng: Lối sống sinh viên là phương thức hoạt động đã xác định của họ; bao gồm tất

cả những hoạt động sống đặc trưng mà họ đã lựa chọn trong những điều kiện chủ quan

và khách quan nhất định.

Có thể nói lối sống là tổng hoà các hoạt động sống của con người, mỗi hoạt động thể

hiện một cách sinh động từng khía cạnh đời sống tâm lý. Tuy nhiên, “cái” đóng vai trò là

động lực thúc đẩy con người tiến hành các hoạt động trong lối sống là định hướng giá trị.

Chính định hướng giá trị giúp cá nhân tách cái có ý nghĩa, cái bản chất thiết thân đối với họ

khỏi cái vô nghĩa, cái không bản chất. Nó chính là cơ sở bên trong của hành vi, quyết định

nhân cách, lối sống của mỗi cá nhân. Như vậy, nghiên cứu lối sống sinh viên, người nghiên

cứu tập trung đi sâu vào nghiên cứu định hướng giá trị lối sống của sinh viên để từ đó

phản ánh được xu hướng lối sống sinh viên tại TP.HCM trong giai đoạn hiện nay.

2.2.3. Những yếu tố ảnh hưởng đến lối sống của sinh viên

Cùng với sự hình thành và phát triển nhân cách, lối sống sinh viên gắn với các hoạt

động đặc thù của họ trong xã hội. I.V. Lênin đã từng khẳng định: “cùng với dòng sữa mẹ,

con người hấp thu tâm lý, đạo đức của xã hội mà nó là thành viên” [18, tr.228]. Chính vì

vậy có rất nhiều yếu tố chi phối lối sống sinh viên.

2.2.3.1.Gia đình

Gia đình là một nhóm xã hội đặc biệt không giống với bất cứ một nhóm xã hội nào.

Gia đình bao gồm nhiều yếu tố phức hợp như: huyết thống, tâm lý, văn hoá và kinh tế và

thông qua đó mỗi cá nhân có sự liên hệ với gia đình. Gia đình có ảnh hưởng đặc biệt tới sự

hình thành lối sống của cá nhân.

Gia đình là nơi con người được sinh ra và lớn lên và là nơi con người được giúp đỡ

có khi trong suốt cả cuộc đời. Gia đình là môi trường giáo dục đầu tiên của con người, giúp

con người ngay từ khi còn nhỏ đã tiếp nhận những chuẩn mực đúng đắn để hội nhập vào

cuộc sống xã hội. Những giá trị được tiếp nhận từ tuổi thơ trong gia đình luôn là hành trang

cần thiết cho con người mang theo để làm phương châm “đối nhân xử thế” [34, tr.45]. Gia

đình có văn hoá, sống có tôn ti trật tự, giản dị và lành mạnh, biết giữ gìn phẩm giá gia

phong, mọi người biết yêu thương đùm bọc nhau, đồng thời ông bà cha mẹ là tấm gương

cho con cái là gia đình biết giữ gìn và phát huy truyền thống của gia đình Việt nam.

Truyền thống gia đình được hiểu là: “sự ổn định trong tổ chức sinh hoạt gia đình, thái

độ và hành vi ứng xử của nhiều thế hệ” [7, tr.26] và thể hiện ở nhiều phương diện: nghề

nghiệp, học hành, giáo dục con cái, tổ chức sinh hoạt.

Nề nếp và thói quen của gia đình trong cách tổ chức sinh hoạt, hành vi ứng xử - “trên

kính dưới nhường”, “đói cho sạch, rách cho thơm” có ý nghĩa quyết định phương hướng

phát triển toàn bộ cuộc đời của mỗi người và đặc biệt nó chi phối đến lối sống của cá nhân.

Với ý nghĩa đó mà dân gian ta đã đúc kết thành: “Giỏ nhà nào quai nhà ấy”, hay “Con nhà

tông chẳng giống lông cũng giống cánh”.

Qua thực tế, chúng ta nhận thấy người đời ngợi ca những gia đình có truyền thống,

nề nếp tốt như: sống có nghĩa tình, con cháu ngoan ngoãn thành đạt, quan hệ tốt với láng

giềng. Nhưng người ta cũng sẽ chê trách và lên án những gia đình sống thiếu đạo lý, trộm

cắp, cha mẹ làm gương xấu cho con cái.

Gia đình - cội nguồn của của đạo lý, nhân cách và văn hoá của con người - đó là một

phần quan trọng không thể thiếu trong lối sống cá nhân [10, tr.13].

2.2.3.2. Nhà trường

Nhà trường là một tổ chức xã hội với mục đích giáo dục đào tạo, hình thành và phát

triển toàn diện nhân cách con người theo yêu cầu của xã hội. Nhà trường gắn bó với con

người từ khi họ cắp sách đến trường. Nhà trường có đội ngũ các nhà sư phạm được đào tạo

về chuyên môn và được trau dồi phẩm chất đạo đức, là những tấm gương cho lớp trẻ noi

theo. Nhà trường chủ động tác động đến con người một cách có hệ thống, có mục đích, có

nội dung, phương pháp rõ ràng và cụ thể.

Nhà trường cũng chính là một xã hội thu nhỏ qua đó nhân cách sống và lối sống của

con người được hình thành và phát triển và bộc lộ. Cuộc sống của sinh viên gắn bó chặt chẽ

với nhà trường. Hầu hết các hoạt động của sinh viên được diễn ra tại nhà trường, đặc biệt

hoạt động học tập và giao tiếp. Trong nhà trường, bên cạnh việc truyền đạt những tri thức cơ

bản cho người học, còn phải thực hiện nhiệm vụ giáo dục đạo đức, lối sống cho họ. Tại Hội

nghị công tác chính trị, tư tưởng của các trường đại học toàn quốc lần vào tháng 9 năm 1998

tại Huế, thứ trưởng Nguyễn Tấn Phát đã nhấn mạnh: “Công tác chính trị, tư tưởng, đạo đức,

lối sống không chỉ nhằm ổn định tình hình mà còn thuộc về bản chất của việc dạy tốt, học

tốt, là bộ phận cấu thành của sản phẩm nhà trường”.

Ảnh hưởng từ phía nhà trường đến lối sống của mỗi cá nhân khá phong phú, trong đó

những yếu tố có tác động mạnh mẽ nhất chính là việc tổ chức hoạt động học tập và các hoạt

động vui chơi giải trí cho người học ra sao. Qua đó sẽ thể hiện quy chế, kỷ cương, nề nếp

của nhà trường có chặt chẽ hay không. Nhà trường còn diễn ra các mối quan hệ với thầy cô

và bạn bè. Một nhà trường có kỷ cương nề nếp tốt đẹp, thầy cô giỏi chuyên môn, gương

mẫu, tập thể bạn bè biết yêu đùm bọc, tương trợ và giúp đỡ lẫn nhau sẽ là môi trường giáo

dục có sự tác động mạnh mẽ đến lối sống của sinh viên. Nhà trường là môi trường có văn

hoá và được giáo dục luôn được xem là “pháo đài” vững chắc để giúp thế hệ trẻ phòng ngừa

và tránh xa các biểu hiện lối sống không lành mạnh cũng như các tệ nạn xã hội.

2.2.3.3. Xã hội

Ngoài gia đình và nhà trường, xã hội cũng là một yếu tố ảnh hưởng khá mạnh đến sự

hình thành và phát triển nhân cách cũng như lối sống sinh viên. Con người chịu ảnh hưởng

từ xã hội theo cơ chế xã hội hoá cá nhân. Các tổ chức xã hội luôn cùng với gia đình và nhà

trường để giáo dục thế hệ trẻ.

Thanh niên - sinh viên tham gia vào các tổ chức xã hội trước hết thể hiện trách nhiệm

và nghĩa vụ của người công dân và cũng là để thể hiện bản lĩnh, sức mạnh của tuổi trẻ. Các

tổ chức xã hội cũng dựa trên đó mà tổ chức các hoạt động đa dạng có sức cuốn hút sinh viên

như: chiến dịch mùa hè xanh, các hoạt động từ thiện, chương trình đền ơn đáp nghĩa, các

hoạt động tư vấn trợ giúp, các diễn đàn phòng chống tệ nạn xã hội. Như vậy, các tổ chức xã

hội vừa tuyên truyền vừa giáo dục con người bằng thực tiễn.

Xã hội còn tác động đến mỗi cá nhân thông qua dư luận xã hội. Dư luận xã hội có tác

dụng xây dựng và uốn nắn hành vi của con người, giúp con người có lối sống, cách ứng xử

sao cho hài hoà và phù hợp với mọi người trong xã hội để sống cho đúng nghĩa là một con

người.

Tuy nhiên, xã hội luôn tác động đến mỗi cá nhân bằng nhiều con đường và trong

nhiều hoàn cảnh phức tạp khác nhau. Cùng một tác động có thể có ý nghĩa đối với người

này - làm thay đổi, cũng có thể không có ý nghĩa đối với người khác bởi vì xã hội tác động

đến con người không mang tính bắt buộc như ở gia đình và nhà trường. Thực tế xã hội hiện

nay với nhiều tệ nạn, lối sống vật chất, tâm lý hưởng thụ là những mối nguy cơ đáng lo ngại

cho lối sống và nếp sống của con người nhất là tầng lớp sinh viên.

2.2.3.4. Văn hoá

Văn hoá là một khái niệm được nhiều ngành khoa học xã hội quan tâm. Văn hoá theo

cách hiểu trong đề tài này là hệ thống hữu cơ các giá trị tinh thần và vật chất do con người

sáng tạo, giao lưu, tích luỹ và phát triển thông qua hoạt động cải biến và ứng xử với thiên

nhiên, xã hội và bản thân và được biểu hiện dưới các thể thức ngày càng sâu sắc, đa dạng để

tôn vinh và phát triển toàn diện con người, nhằm làm cho thế giới có tình người [67, tr.71].

Với các chức năng : nhận thức, giáo dục, điều tiết các quan hệ, giao tiếp và dự báo,

văn hoá giúp con người nhận thức về thế giới, giáo dục con người theo các khuôn mẫu ứng

xử của xã hội, tổ chức đời sống xã hội và cá nhân, giúp con người hiểu biết về nhau và

hướng con người vào các giá trị ổn định hoặc đang và sẽ hình thành [67, tr.76 - 77].

Văn hoá luôn gắn với con người và mọi hoạt động sống của con người. Một khi văn

hoá được hình thành, nó chính là điều kiện, môi trường bảo tồn và tôn vinh các giá trị làm

người. Tất cả các hoạt động văn hoá đều nhằm phát triển các năng lực của con người để con

người tổng hoà được các thuộc tính sinh vật - xã hội và tính chất xã hội - văn hoá để phát

triển toàn diện như một nhân cách có văn hoá. Như vậy mọi hoạt động sống của con người

luôn có dấu ấn văn hoá. Cá nhân sống trong nền văn hoá nào thì xu hướng nhân cách và lối

sống của họ cũng như thế ấy.

Văn hoá Việt nam, về bản chất được kết tinh, hình thành và tôi luyện trong suốt diễn

trình lịch sử dựng nước và giữ nước, luôn mang màu sắc tình nghĩa, giàu lòng thương yêu,

nhân hậu, nhân ái, “đói cho sạch, rách cho thơm”, “giấy rách phải giữ lấy lề”, đã góp phần

vào qúa trình hình thành nhân cách và lối sống mang đậm dấu ấn con người Việt nam.

Ở thời điểm hiện nay với đặc trưng là sự giao lưu kinh tế và văn hoá, vì vậy việc tiếp

cận thông tin với các nền văn hoá khác nhau trên thế giới của mỗi người được mở rộng và

tư do hơn. Tuy nhiên, trong sự giao lưu ấy ngoài những mặt tích cực chúng ta phải chấp

nhận những mặt tiêu cực của các văn hoá phẩm đồi trụy, lối sống thiếu lành mạnh, thực

dụng và hưởng thụ. Những mặt tiêu cực này có tác động không nhỏ đến lối sống thanh niên

- sinh viên, những người trẻ tuổi thiếu kinh nghiệm và dễ bị dao động.

“Trình độ của lối sống tương ứng với trình độ của văn hoá. Bởi vậy, lối sống hiện đại

ở nước ta chỉ có thể xây dựng được trên cơ sở một nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân

tộc”[21, tr.111]. Có như vậy, mỗi người mới xây dựng được một lối sống phù hợp với

chuẩn mực chung và sắc thái riêng của từng cá nhân, nhóm, gia đình và xã hội

2.2.3.5. Kinh tế

Sự phát triển kinh tế của một quốc gia quy định mức sống, chất lượng sống của của

con người và nó sẽ tác động đến lối sống của họ. Một nền kinh tế tự cung tự cấp hay nền

kinh tế nông nghiệp lạc hậu đóng kín và cô lập sẽ tạo ra những nếp sống lối sống lạc hậu,

thiếu hoà nhập và giao lưu mà chỉ thu nhỏ trong phạm vi hẹp.

Nước ta từ khi thực hiện chính sách mở cửa, kinh tế thị trường phát triển, chính sách đầu tư

mới đã thu hút và kêu gọi được nhiều vốn đầu tư nước ngoài tạo cho đất nước ta một bộ mặt

mới và dĩ nhiên tạo ra sự phát triển kinh tế. Trong nền kinh tế thị trường, sự làm giàu luôn

được động viên và khuyến khích, nhưng phải ‘làm giàu chính đáng”. Chính sự phát triển đó

đòi hỏi mỗi người có cái nhìn mới, tâm thế mới để sẵn sàng hội nhập, đặc biệt tầng lớp

thanh niên - sinh viên.

Nền kinh tế thị trường đã kích thích mạnh mẽ tính tích cực, tính linh hoạt năng động

và sáng tạo của con người. Trong nền kinh tế như hiện nay, nếu chúng ta không thay đổi lối

sống, phong cách sống như: dám nghĩ dám làm, dám chịu trách nhiệm về hành động của

mình, chấp nhận thử thách, sẽ dễ bị đào thải. Tuy nhiên, nền kinh tế thị trường cũng có

những mặt tiêu cực tác động không nhỏ đến người Việt nam như: đề cao chủ nghĩa cá nhân,

vị kỷ, lối sống thực dụng, coi trọng đồng tiền hơn tình nghĩa.

Trong bối cảnh đất nước ta hội nhập về kinh tế như vậy, lối sống của sinh viên sẽ bị

dao động, tuy vậy, chính họ phải biết lựa chọn cho mình lối sống, cách sống sao cho phù

hợp với sự phát triển, với truyền thống của dân tộc. Đó là một thách thức.

2.2.3.6. Sự tự giáo dục của mỗi cá nhân

Lối sống của con người chịu chi phối bởi nhiều yếu tố, ngoài những yếu tố đã chỉ ra

ở trên, sự tự giáo dục của bản thân đóng vai trò hết sức quan trọng. Lý luận Tâm lý học đã

chỉ ra rằng: trong quá trình hình thành và phát triển nhân cách, hoạt động của cá nhân đóng

vai trò quyết định. Những kinh nghiệm xã hội - lịch sử loài người, nền văn hoá xã hội được

cá nhân tiếp thu và lĩnh hội thông qua hoạt động, trong đó giáo dục giữ vai trò chủ đạo, yếu

tố cá nhân đóng vai trò quyết định trong đó có sự tự giáo dục của cá nhân.

“Tự giáo dục là một hiện tượng có tính quy luật của việc phát triển cá nhân: do ảnh

hưởng của hoàn cảnh sống và của giáo dục, trong quá trình hoạt động ý thức và tự ý thức

của con người đã được hình thành. Con người đối chiếu hứng thú và nhu cầu của bản thân

với hoàn cảnh và yêu cầu của xã hội và lựa chọn những phương tiện cần thiết của lối sống

và cách cư xử” [6, tr.144].

Như vậy, đối với quá trình hình thành và phát triển nhân cách, lối sống, có thể nhận

thấy sự tự giáo dục có vai trò quan trọng giúp cho cá nhân nhìn nhận ra những ưu điểm để

phát huy và hạn chế khuyết để phấn đấu nhằm đạt đến sự hoàn thiện nhất. Một cá nhân có

sự phát triển về tự ý thức, tự đánh giá biết định hướng và điều chỉnh bản thân như thế nào

cho có ý nghĩa, họ biết lựa chọn những gì là đúng đắn, phù hợp với chính bản thân và với xã

hội. Con người là một thực thể xã hội luôn hoạt động tích cực. Sức mạnh của con người thể

hiện ở chỗ bản thân nó có thể uốn nắn mình, phát triển và làm cho mình mỗi ngày một tốt

đẹp hơn Có thể nói sự tự giáo dục là một “hàng rào miễn dịch” giúp cá nhân vượt qua

những tác động tiêu cực của cuộc sống. Trong xã hội ngày nay, những yếu tố tiêu cực xuất

hiện ngày càng nhiều và có sức quyến rũ, cám dỗ mạnh mẽ. Con người có biết nói tiếng

“không” cần thiết, có vượt qua được hay không là hoàn toàn phụ thuộc vào họ. Vì thế, sự tự

giáo dục là một nhân tố quyết định lối sống của mỗi cá nhân.

2.3. Định hướng giá trị lối sống và định hướng giá trị lối sống sinh viên

2.3.1. Giá trị lối sống và định hướng giá trị lối sống

2.3.1.1. Giá trị lối sống

Lối sống là mặt biểu hiện của một nhân cách sống và là sự tổng hoà những dạng hoạt

động sống của con người, có thể coi giá trị lối sống vừa thuộc về giá trị vật chất và giá trị

tinh thần.

Từ lý luận về giá trị và lối sống, khái niệm giá trị lối sống trong nghiên cứu này được

hiểu: Giá trị lối sống là những cái có ý nghĩa được con người lựa chọn và đánh giá cao,

biểu hiện trong mọi hoạt động sống mà con người đã lựa chọn trong những điều kiện

chủ quan và khách quan nhất định.

2.3.1.2. Định hướng giá trị lối sống

Trên cơ sở khái niệm về giá trị lối sống, có thể hiểu định hướng giá trị lối sống là

một hệ thống các giá trị lối sống phù hợp với yêu cầu của xã hội, có tính phổ biến được

nhiều người công nhận và tuân theo. Hệ thống giá trị lối sống đó có tác dụng như là mục

tiêu, đối tượng mà con người cần phải chiếm lĩnh, vừa là động cơ thúc đẩy con người hoạt

động để tự hoàn thiện mình cho phù hợp với yêu cầu của xã hội.

Trong nghiên cứu này, dưới góc độ tiếp cận Tâm lý học, chúng tôi có thể khái quát:

Định hướng giá trị lối sống là sự nhận thức, đánh giá và lựa chọn các giá trị trong các

hoạt động sống của con người. Nó có ý nghĩa thúc đẩy và điều chỉnh hành vi của họ

nhằm đạt đến các giá trị đó trong những điều kiện chủ quan và khách quan nhất định.

2.3.2. Định hướng giá trị lối sống sinh viên

Trên cơ sở lý luận về định hướng giá trị lối sống đã nêu trên, có thể tạo lập khái

niệm định hướng giá trị lối sống sinh viên cho nghiên cứu này như sau: Định hướng giá trị

lối sống sinh viên là sự nhận thức, đánh giá và lựa chọn các giá trị trong các hoạt động

sống đặc trưng của họ. Nó có ý nghĩa thúc đẩy, điều chỉnh thái độ và hành vi của sinh

viên nhằm đạt tới những giá trị đó trong những điều kiện chủ quan và khách quan nhất

định.

Khái niệm này chứa đựng những nội dung cơ bản sau:

Định hướng giá trị lối sống sinh viên trước hết thể hiện về mặt nhận thức. Sinh viên

trước tiên là người nhận thức được tầm quan trọng của các giá trị trong các hoạt động khác

nhau của đời sống. Theo lý luận Tâm lý học, nhận thức là tầng bậc tâm lý cơ bản đầu tiên

trong đời sống tâm lý của con người. Chính khi nhận thức được điều gì là quý giá, quan

trọng hay có giá trị đối với mình sinh viên mới đánh giá chúng và bày tỏ thái độ tích cực.

Khi đã nhận thức sâu sắc, có thái độ tích cực, sẽ là những hành vi minh chứng cho

nhận thức và thái độ của sinh viên về các giá trị lối sống. Họ sẽ chọn các giá trị mà họ cho

là thiết thân, ý nghĩa nhất trong cuộc sống của mình. Có thể nói những giá trị mà sinh viên

đã nhận thức và lựa chọn được trong các lĩnh vực của cuộc sống trở thành động cơ thúc đẩy,

điều chỉnh hành vi trong các hoạt động cơ bản của sinh viên. Có thể thấy được xu hướng lối

sống của sinh viên thông qua hàng loạt những hành vi tích cực hay tiêu cực mà sinh viên

thực hiện trong các hoạt động cơ bản của họ.

Bất cứ hoạt động nào diễn ra đều có những điều kiện chủ quan và khách quan chi

phối. Định hướng giá trị lối sống sinh viên được diễn ra trong thời điểm hiện nay với sự

phát triển kinh tế, chính trị, văn hoá, khoa học chung của thế giới và đất nước và hoàn cảnh

kinh tế, chính trị, văn hoá tại TP.HCM. Bên cạnh đó còn là môi trường tâm lý – xã hội, môi

trường hoạt động và giao tiếp trong trường đại học và các điều kiện học tập, sinh hoạt cụ thể

của sinh viên… tất cả các yếu tố đó – điều kiện khách quan chi phối định hướng giá trị lối

sống sinh viên.

Tuy nhiên, điều quyết định đến xu hướng lối sống sinh viên lại chính là định hướng

giá trị, đời sống tâm lý bên trong của mỗi cá nhân – điều kiện chủ quan. Trong các hoạt

động sống của sinh viên: hoạt động học tập, nghiên cứu khoa học, giao tiếp- ứng xử, sinh

hoạt cá nhân, họ làm vì mục đích gì? Tại sao họ lại làm những điều đó? Đây chính là điều

kiện chủ quan chi phối lối sống của sinh viên.

Từ những phân tích trên, trong nghiên cứu này, những nội dung chủ yếu được

nghiên cứu, khảo sát trong định hướng giá trị lối sống sinh viên là:

- Nhận thức về tầm quan trọng các nhóm giá trị lối sống: nhóm giá trị nhân

văn, giá trị đạo đức, giá trị chính trị - pháp luật và giá trị kinh tế.

- Thái độ đối với các nhóm giá trị lối sống: nhóm giá trị nhân văn, giá trị đạo

đức, giá trị chính trị - pháp luật và giá trị kinh tế.

- Biểu hiện của lối sống sinh viên:

+ Những hành vi tích cực mà sinh viên thực hiện ở các mức độ: rất thường

xuyên, thường xuyên, đôi khi, không thường xuyên và hoàn toàn không thường xuyên.

+ Những hành vi tiêu cực còn tồn tại trong lối sống sinh viên ở các mức độ:

rất thường xuyên, thường xuyên, đôi khi, không thường xuyên và hoàn toàn không thường

xuyên.

+ Xu hướng lựa chọn lối sống trong sinh viên hiện nay.

2.3.3. Định hướng giá trị lối sống sinh viên hiện nay

Hiện nay Việt nam có hơn 1.319.754 sinh viên đang theo học tại các trường Đại học

và Cao đẳng dưới một xã hội tương đối ổn định về mặt chính trị, hoà bình và độc lập nhưng

lại đang có sự biến động to lớn về sự phát triển kinh tế. Chính sách mở cửa cùng với nền

kinh tế thị trường không xa lạ đối với mọi người cũng như giới sinh viên. Trong một bối

cảnh toàn cầu đang có sự tăng dần mối liên hệ, ảnh hưởng, các tác động qua lại và phụ

thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia, dẫn đến nhiều thay đổi trong cách suy nghĩ và lối sống

của người Việt nam nói chung và tầng lớp sinh viên nói riêng. Trong học tập, sinh viên đã

và đang cố gắng lựa chọn và theo đuổi những ngành học, môn học phù hợp với xu thế phát

triển và cố gắng trau dồi các kỹ năng để thích ứng. Họ năng động và sáng tạo, ham học hỏi

và tìm hiểu những cái mới. Dường như họ cũng dấn thân trong các phong trào của xã hội.

Mỗi năm, hàng triệu lượt sinh viên tình nguyện tham gia các hoạt động vì cộng đồng, hàng

ngàn sinh viên sau khi tốt nghiệp tình nguyện trở về quê hương, đến với những vùng đặc

biệt khó khăn, vùng sâu, vùng xa, đem cái chữ đến với đồng bào dân tộc thiểu số. Màu áo

xanh tình nguyện của sinh viên đã trở thành hình ảnh thân thương, trân trọng, in đậm trong

nhân dân ta về một thế hệ trẻ nối tiếp truyền thống cha anh luôn nỗ lực học tập, rèn luyện,

sáng tạo và tình nguyện.

Bên cạnh những mặt tích cực và điển hình cho lớp trẻ, hiện nay những mặt tiêu cực

trong thanh niên - sinh viên cũng đang dần gia tăng với đà phát triển của xã hội. Nhiều

nghiên cứu đã khẳng định là thang giá trị và chuẩn giá trị của xã hội Viêt nam đang biến

động nhanh chóng. Thậm chí thang giá trị xã hội đang có chiều hướng suy thoái, xói mòn

một số giá trị truyền thống [63, tr.65]. Thực tế cũng cũng cho thấy điều này và tập trung

nhiều ở tầng lớp thanh niên, trong đó có giới sinh viên: lối sống thực dụng, trọng tiền bạc

hơn nhân nghĩa, những cuộc đua xe tốc độ, những canh bạc thâu đêm. Nếu chúng ta đến bất

cứ quán Internet nào gần các trường đại học đều thấy học sinh, sinh viên ngồi chơi game và

“chát”, thậm chí xem cả phim đồi truỵ. Hiện nay, một hiện tượng nổi lên và được coi là vấn

đề nhức nhối trong sinh viên, đó là hiện tượng “sống thử”, tưởng rằng hiểu nhau hơn, giúp

đỡ nhau cũng như tiết kiệm được tiền bạc nhưng rốt cuộc hại được nhiều hơn là lợi nhất là

phía nữ giới: ghen tuông, lo sơ bị người thân và bạn bè phát hiện. Có bạn phải đau đớn di

“giải quyết” hậu quả, có bạn phải bỏ học nửa chừng để làm mẹ.

Định hướng giá trị lối sống của sinh viên hiện nay theo nhìn nhận một cách chủ quan

của chúng tôi thì đang có những thay đổi đáng kể. Bên cạnh những mặt tích cực của truyền

thống dân tộc, định hướng giá trị lối sống của sinh viên còn chịu ảnh hưởng và bị chi phối

rất nhiều bởi những tác động từ bên ngoài xã hội, đặc biệt là những trào lưu mới, cách sống

mới, quan niệm mới được du nhập từ các nền văn hoá khác nhau trên thế giới. Vậy thực tế

định hướng giá trị lối sống sinh viên ra sao? Đó là câu hỏi mà chúng tôi mong muốn trả lời

thông qua nghiên cứu này.

CHƯƠNG 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

3.1. Sự lựa chọn lối sống của sinh viên

Bảng 3.1: Sự lựa chọn các kiểu lối sống của sinh viên

Xếp hạng Lối sống Trung bình Mức độ rất phù hợp và phù hợp % Tần số

Lành mạnh 569 96.3 3.39 1

Văn hoá 573 97.0 3.34 2

Văn minh 568 96.4 3.30 3

Hoà đồng 535 90.2 3.21 4

Tự do 496 84.2 3.12 5

Nhân văn 504 86.0 3.09 6

Tinh thần 508 85.7 3.09 7

Giản dị 478 80.7 2.99 8

Hiện đại 458 77.2 2.88 9

Truyền thống 429 72.3 2.81 10

Vật chất 297 50.6 2.41 11

Thực dụng 106 18.0 1.52 12

Ích kỷ 15 2.50 0.85 13

Xa hoa 11 1.90 0.84 14

Lập dị 16 2.70 0.73 15

Mỗi người trong xã hội đều có quyền lựa chọn cho riêng mình một lối sống phù

hợp. Sinh viên không là ngoại lệ, họ cũng lựa chọn cho mình một lối sống, cách sống mà

qua đó phản ánh được các hoạt động sống đặc trưng của họ trong điều kiện kinh tế nhất

định.

Kết quả khảo sát ở bảng 3.1 cho thấy: có 10/15 lối sống được sinh viên cho là phù

hợp với họ trong điều kiện hiện tại (điểm trung bình >2.5). Dẫn đầu trong 10 lối sống đó

là lối sống lành mạnh, lối sống này có điểm trung bình cao nhất và đứng ở vị trí số 1.

Theo sau là lối sống văn hoá (TB: 3.34) và văn minh (TB: 3.30). Đây là một sự lựa chọn

hết sức hợp lý là đúng đắn của bất cứ tầng lớp nào trong xã hội, đặc biệt, sinh viên là lớp

người có học thức, được đào tạo một cách bài bản trong những môi trường lành mạnh,

cho nên họ lựa chọn cho mình lối sống lành mạnh, có văn hoá và văn minh là điều dễ

hiểu. Đó cũng chính là điểm nổi bật của lối sống sinh viên. Thực tế những năm vừa qua,

các giáo viên nhận xét: trước tác động của nền kinh tế thị trường và quan hệ giao lưu hội

nhập quốc tế, sinh viên ngày càng sống cởi mở hơn, nhạy cảm và năng động hơn ứng xử

linh hoạt và tế nhị hơn trong mọi lĩnh vực của cuộc sống.

Lối sống hoà đồng (TB:3.21), tự do (3.12), nhân văn (3.09) cũng được sinh viên

đánh giá là phù hợp đối với họ ở mức cao. Cuộc sống nếu không muốn bị cô lập tất yếu

phải hoà mình cùng với người khác và nhanh chóng thích nghi. Tự do, đó là sự quý giá

đối với con người, vì vậy, lối sống tự do được sinh viên đề cao nhưng không xa rời lối

sống nhân văn và tinh thần.

Lối sống giản dị, hiện đại, truyền thống là những lối sống được sinh viên đánh

giá là phù hợp tuy nhiên lại đứng ở vị trí không cao trong bảng xếp hạng. Điều đáng nói

là sinh viên hiện nay không quá đặt nặng lối sống hiện đại (vị trí thứ 9) hay lối sống

truyền thống (vị trí thứ 10).

Số liệu thống kê đã chỉ ra có tới nửa số sinh viên được hỏi ưu tiên cho lối sống

vật chất. Điều này làm chúng ta phải suy nghĩ bởi vì không phải là một bộ phận nhỏ mà

rất nhiều sinh viên đã lựa chọn lối sống vật chất. Khi phỏng vấn sâu một số thầy cô, họ

đều nhận định cuộc sống sinh viên ngày nay hướng vật chất nhiều hơn, họ quan tâm đến

những gì ảnh hưởng trực tiếp. Mặt khác, khi trò chuyện với một số sinh viên tại trường

ĐHSPKT về lối sống hiện nay mà họ lựa chọn, rất nhiều sinh viên thẳng thắn chọn lối

sống vật chất vì họ cho rằng cuộc sống hiện nay phải thực tế, một vài người trong số

được hỏi cho rằng “sinh viên phải thể hiện là người có văn hoá, có lối sống lành mạnh

hơn hẳn những người khác”. Còn về lối sống vật chất thì họ cho rằng: “sau này khi ra

trường, có việc làm và tự mình làm ra tiền thì sẽ nghĩ đến nhiều hơn, còn hiện tại thì cảm

thấy chưa phù hợp”.

Như vậy, phần lớn sinh viên lựa chọn cho mình lối sống lành mạnh, văn hoá, văn

minh, muốn sống hoà đồng với mọi người. Đây là điều đáng mừng bởi vì hầu hết sinh

viên đều lựa chọn cho mình lối sống tích cực. Mặt khác, chúng ta cũng phải công nhận

rằng vẫn có một số ít sinh viên chọn cho mình lối sống thực dụng, ích kỷ, xa hoa và lập

dị. Kết quả nghiên cứu này nhắc nhở những người có trách nhiệm cần phải lưu ý: trong

công tác giáo dục gia đình, nhà trường và xã hội cần có những biện pháp giáo dục và

hướng số ít sinh viên có lối sống thực dụng, ích kỷ, xa hoa, lập dị lựa chọn cho mình lối

sống đúng đắn và phù hợp với sự tiến bộ của nhân loại và truyền thống dân tộc.

3.1.2. Những lối sống được giới trẻ ưu tiên hiện nay

Trong 15 lối sống đã được đề cập và khảo sát trong sinh viên, theo sự nhìn nhận

và đánh giá của họ, những lối sống phổ biến nhất được giới trẻ hiện nay quan tâm theo

thứ tự ưu tiên xếp hạng từ 1  3 thể hiện qua bảng 3.2:

- Ở mức ưu tiên số 1, lối sống có tần số và tỉ lệ cao nhất là lối sống hiện đại

(37.6%). Theo sau là lối sống văn minh (15.5%), tự do (12.5%) và lành mạnh (7.3%).

Các lối sống còn lại chiếm tỉ lệ không đáng kể, đặc biệt chúng ta không thấy sự có mặt

của 2 lối sống ich kỷ và lập dị.

- Ở mức ưu tiên số 2, lối sống có tần số cao nhất là lối sống văn minh, tự do, hiện

đại và lành mạnh. Các lối sống nhân văn, dân tộc, giản dị đều có tỉ lệ thấp. Riêng hai lối

sống ích kỷ (0.5%) và lập dị (0.3%) có tỉ lệ không đáng kể.

- Ở mức ưu tiên số 3, lối sống chiếm tỉ lệ cao nhất là lối sống lành mạnh. Theo

sau là lối sống hoà đồng, tự do và văn minh.

Qua bảng xếp hạng cho thấy, lối sống được giới trẻ ngày nay chấp nhận và mang

tính phổ biến nhất là lối sống hiện đại, văn minh, tự do và lành mạnh. Đối chiếu với sự

lựa chọn lối sống của sinh viên ở trên cho thấy có sự trùng hợp: đa số sinh viên cũng lựa

chọn cho mình lối sống lành mạnh, văn minh và tự do. Riêng lối sống hiện đại được giới

trẻ quan tâm và đứng ở vị trí đầu trong mức ưu tiên số 1 lại không trùng khớp với sự lựa

chọn của sinh viên (lối sống hiện đại chỉ xếp vị trí thứ 9 trong bảng xếp hạng). Ngược

lại, các lối sống văn hoá và nhân văn chiếm tỉ lệ rất thấp trong các mức ưu tiên của giới

trẻ lại phù hợp với sinh viên ở mức cao.

Bảng 3.2: Những lối sống được giới trẻ ưu tiên hiện nay

Ưu tiên 1 Ưu tiên 2 Ưu tiên 3

% Lối sống % Lối sống Lối sống %

Tần số 219 37.6 Văn minh Tần số 114 19.6 Lành mạnh Tần số 91 Hiện đại 15.7

Văn minh 93 16.0 Tự do 101 17.4 Hoà đồng 12.6 73

Tự do 75 12.9 Hiện đại 15.1 Tự do 88 10.5 61

44 Lành mạnh 7.6 Lành mạnh 12.4 Văn minh 72 10.0 58

32 Vật chất 5.5 Vật chất 7.6 Hiện đại 44 9.5 55

26 4.5 Hoà đồng 34 5.9 Thực dụng 54 9.3

49 8.4 4.3 Thực dụng 5.2 Vật chất Truyền thống Thực dụng 25 30

34 5.9 3.6 Văn hoá 5.0 Giản dị Hoà đồng 21 29

26 4.5 2.6 Tinh thần 2.8 Văn hoá Văn hoá 15 16

25 4.3 1.9 Nhân văn 2.6 Tinh thần Tinh thần 11 15

15 2.6 2.1 Xa hoa Giản dị 11 12 1.9 Truyền thống

7 Xa hoa 1.2 Giản dị 11 14 2.4 1.9 Truyền

10 1.7 3 Nhân văn 0.5 Xa hoa 10 1.7 thống Ích kỷ

9 1.6 Ích kỷ 0.5 Nhân văn 3

6 1.0 Lập dị 0.3 Lập dị 2

Như vậy, giới trẻ nói chung và sinh viên nói riêng có sự đồng nhất trong việc lựa

chọn lối sống. Họ ưu tiên cho những lối sống hiện đại, văn minh, tự do và lành mạnh. Đây

là sự lựa chọn hoàn toàn phù hợp và đúng đắn: giới trẻ cũng như sinh viên là những người

đang ở giai đoạn đầu của tuổi trưởng thành, họ nhận thức và bắt nhịp với cái mới nhanh

nhất, họ dễ dàng thay đổi. Lối sống hiện đại, phong cách sống hiện đại chúng ta bắt gặp ở

giới trẻ nhiều hơn bất cứ tầng lớp nào trong xã hội, họ ưa chuộng cuộc sống tự do tự tại,

muốn thực hiện những ước mơ và hoài bão và luôn mong muốn thể hiện mình là những

người văn minh, lịch sự và có cuộc sống lành mạnh. Tuy nhiên, theo cách xếp hạng của sinh

viên, giới trẻ nói chung lại không quan tâm nhiều đến lối sống nhân văn và có văn hoá,

ngược lại sinh viên lại rất ưu tiên những lối sống này. Sinh viên chọn những lối sống này

cũng có nguyên do của nó: sinh viên là tầng lớp trí thức, là những người được đào tạo bài

bản tại các trường học nên họ phải thể hiện nét đặc thù của sinh viên – sống nhân văn và có

văn hoá hơn.

3.2. Định hướng giá trị lối sống của sinh viên

3.2.1. Nhận thức của sinh viên về tầm quan trọng các giá trị lối sống

3.2.1.1. Nhận thức của sinh viên về tầm quan trọng các giá trị nhân văn

Bảng 3.3: Đánh giá của sinh viên về tầm quan trọng của các giá trị nhân văn

Rất quan trọng và quan trọng Các giá trị Trung bình Thứ hạng

Gia đình hạnh phúc Tần số 587 % 98.5 3.79 1

96.8 577 3.71 2 Sức khoẻ

95.2 566 3.52 3 Việc làm

93.1 532 3.47 4 Công lý

94.3 563 3.36 5 Hoà bình

86.7 517 3.30 6 Tự do

82.1 488 3.11 7 Tình yêu

84.9 505 3.10 8 Học vấn cao

62.8 374 2.73 9 Đia vị xã hội

56.2 335 2.65 10 Cái đẹp

Kết quả ở bảng 3.3 cho thấy hầu như cả 10/10 giá trị đưa ra khảo sát đều được sinh

viên cho là quan trọng đối với cuộc sống của họ (điểm trung bình > 2.5).

Khi đánh giá về tầm quan trọng của các giá trị nhân văn, gia đình hạnh phúc, sức

khoẻ và việc làm là ba giá trị được sinh viên cho là quan trọng nhất (mức rất quan trọng).

Đây là sự nhận thức rất đúng đắn và hợp lý. Trong cuộc sống, gia đình hạnh phúc (TB:

3.79) là điều mọi người đều hướng đến, đó cũng là giá trị có vị trí số 1 trong sự lựa chọn của

sinh viên. Mặc dù trong bối cảnh nền kinh tế thị trường đã và đang ảnh hưởng đến nhiều

mặt của đời sống xã hội ở Việt nam, nhưng nền tảng gia đình vẫn được coi trọng. Điều này

khẳng định vai trò quan trọng của gia đình đối với sự tồn tại và phát triển của mỗi người nói

chung và của sinh viên nói riêng. Sinh viên hết sức nâng niu và trân trọng giữ gìn truyền

thống quý báu ấy.

Theo sát gia đình hạnh phúc là sức khoẻ (TB: 3.71). Trong cuộc sống nếu không có

sức khoẻ con người khó có thể sống và làm việc tốt. Đứng thứ ba là việc làm (TB: 3.52).

Cuộc sống có ý nghĩa khi con người phải lao động để thể hiện mình là một nhân cách đóng

góp cho xã hội và mang lại lợi ích cho chính bản thân.

Những giá trị tiếp theo sau đó cũng được sinh viên đặt ở vị trí cao là công lý (TB:

3.47) và hoà bình (TB: 3.36). Các giá trị tự do, tình yêu và học vấn cao đặc trưng cho lớp

người trẻ được sinh viên đánh giá ở các mức độ quan trọng khác nhau. Sinh viên là những

người trẻ hướng đến tự do, muốn có tự do để thực hiện những ước mơ hoài bão. Sinh viên

hướng đến tình yêu không những được xem xét dưới góc độ tình cảm mà còn là đạo lý của

truyền thống văn hoá dân tộc. Tình yêu tạo cho sinh viên nhân cách lành mạnh, là nguồn lực

giúp tuổi trẻ vươn lên xây dựng lối sống tốt đẹp. Giá trị học vấn cao được tiêu biểu như giá

trị của thời đại mà sinh viên hướng đến. Sinh viên luôn có nhu cầu hoàn thiện hơn vốn kiến

thức của mình. Đây cũng là điều kiện để sinh viên phát triển tài năng, thích ứng với yêu cầu

của xã hội hiện đại và yêu cầu phát triển kinh tế thị trường theo định hướng Xã hội chủ

nghĩa.

Căn cứ vào hệ thống thứ bậc lựa chọn các giá trị của sinh viên cho thấy mặc dù điểm

trung bình ở mức quan trọng nhưng một số giá trị: “địa vị xã hội”, “cái đẹp” lại nằm ở vị trí

thấp (thứ 9, 10) trong bảng xếp hạng. Một điều trùng hợp bất ngờ khi chúng tôi đối chiếu

kết qủa này với kết quả điều tra của nhóm nghiên cứu trong đề tài mã số KX – 07 – 04, thứ

bậc giá trị địa vị xã hội cũng được sinh viên xếp ở vị trí thứ 9. Cái đẹp là giá trị đứng ở vị trí

cuối cùng trong bảng xếp hạng (vị trí thứ 10). Lẽ ra, sinh viên là những người đang ở vào

tuổi đẹp nhất thì nhu cầu về cái đẹp cũng như sự cảm thụ về cái đẹp cũng phải cao. Đây là

khía cạnh đáng lưu ý trong quá trình giáo dục toàn diện các mặt cho học sinh, sinh viên đặc

biệt là mặt “thẩm mỹ”.

Nhìn chung, sự đánh giá của sinh viên về mức độ quan trọng của các giá trị nhân văn

là tương đối phù hợp và đúng đắn. Đối chiếu với kết quả nghiên cứu của một số công trình

nghiên cứu KX – 04 – 07, KX – 04 – 09, có sự trùng hợp những đặc trưng định hướng giá

trị của sinh viên: việc làm và lập nghiệp, học vấn và tài năng, tình yêu và gia đình hạnh

phúc. Như vậy, đối với sinh viên, gia đình hoà thuận, hạnh phúc, có sức khoẻ, có việc làm là

những điều kiện cơ bản nhất để lập thân, lập nghiệp đóng góp sự phát triển của chính bản

thân, gia đình và xã hội.

3.2.1.2. Nhận thức của sinh viên về tầm quan trọng của các giá trị đạo đức

Bảng 3.4: Đánh giá của sinh viên về tầm quan trọng của các giá trị đạo đức

Rất quan trọng và quan trọng Các giá trị Trung bình Thứ hạng

Tần số %

Hiếu thảo 574 96.8 3.65 1

Có trách nhiệm 562 84.5 3.42 2

Chung thuỷ trong tình yêu 518 87.2 3.31 3

Trung thực 523 87.7 3.25 4

Biết ơn 533 89.5 3.22 5

Nhân ái 501 84.2 3.12 6

Cảm thông 457 76.8 2.97 7

Độ lượng 407 69.0 2.85 8

374 62.9 2.77 9 Biết hy sinh

344 57.9 2.67 10

Cao thượng

Giá trị đạo đức là những giá trị cốt lõi của con người. Đạo đức là một mặt quan trọng

trong bộ mặt nhân cách của mỗi người bên cạnh mặt tài. Kết quả điều tra cho thấy cả 10 giá

trị đạo đức đưa ra đều được sinh viên đánh giá ở mức quan trọng ( điềm trung bình >2.5).

Tuy nhiên trong 10 giá trị ấy, nổi trội hơn cả và được sinh viên đánh giá ở mức rất quan

trọng là giá trị hiếu thảo (3.65). Có tới 96.8% số sinh viên được khảo sát nhận định giá trị

này là quan trọng đối với cuộc sống của họ. Sự đánh giá này hoàn toàn hợp logic và đồng

nhất với sự đánh giá tầm quan trọng các giá trị nhân văn. Khi sinh viên lựa chọn các giá trị

nhân văn thì gia đình hạnh phúc là giá trị quan trọng ưu tiên số 1 trong bảng xếp hạng. Như

vậy, một gia đình hạnh phúc là gia đình ở đó đạo lý làm người phải được thực thi: con cái

hiếu thảo với ông bà cha mẹ, anh em hoà thuận thương yêu nhau, lề thói gia phong được tôn

trọng.

Bên cạnh đó, những giá trị chuẩn mực đạo đức trong mối quan hệ giữa con người với

con người được sinh viên đánh giá khá cao. Có trách nhiệm (TB: 3.42) là giá trị quan trọng

đứng thứ hai ngay sau giá trị hiếu thảo. Mỗi người trong xã hội đều phải sống có trách

nhiệm với chính bản thân mình và với những người xung quanh. Sinh viên luôn ý thức được

điều đó. Chung thuỷ trong tình yêu (TB: 3.31) cũng là một tiêu chí được sinh viên cho là

quan trọng khi đánh giá về mặt đạo đức của con người.

Ở các mức độ quan trọng khác nhau, các tiêu chí giúp tạo nên cốt cách con người vẫn

được sinh viên đề cao: trung thực (TB: 3.25), biết ơn (TB: 3.22) và nhân ái (TB: 3.12).

Như vậy, nhận thức của sinh viên về các giá trị trị đạo đức rất phù hợp và đúng đắn.

Khi đề cập đến nhân cách của sinh viên, mặt đạo đức vẫn được coi trọng ngay tại thời điểm

hiện nay. Điều này cho thấy dù có nhiều thay đổi từ khi nước ta mở cửa hội nhập, nhưng

truyền thống văn hoá Á Đông và bản sắc dân tộc của người Việt nam vẫn luôn được duy trì

– Đạo đức và cốt cách làm người.

3.2.1.3. Nhận thức của sinh viên về tầm quan trọng của các giá trị chính trị -

pháp luật

Bảng 3.5: Đánh giá của sinh viên về tầm quan trọng của các giá trị chính trị -

pháp luật.

Thứ hạng Các giá trị Rất quan trọng và quan trọng Trung bình Tần số %

Độc lập dân tộc 90.9 538 3.60 1

Dân chủ, bình đẳng 91.9 545 3.55 2

Yêu nước 87.2 518 3.40 3

Tôn trọng pháp luật 86.7 513 3.30 4

Trung thành với Tổ quốc 83.6 494 3.30 5

Tự hào dân tộc 83.9 498 3.26 6

Tin tưởng vào Đảng 74.6 442 3.05 7

Trách nhiệm công dân 77.8 461 3.02 8

Lý tưởng XHCN 72.2 428 2.99 9

Hợp tác với các dân tộc 76.7 456 2.98 10

Đối với các giá trị chính trị - pháp luật, tất cả các giá trị được đưa ra khảo sát trong

sinh viên đều được đánh giá ở mức quan trọng (điểm trung bình >2.5). Tuy nhiên, hai giá trị

được sinh viên đánh giá ở mức rất quan trọng là độc lập dân tộc (TB: 3.60) và dân chủ,

bình đẳng (TB: 3.55). Đối với mỗi người nói chung và sinh viên nói riêng, nền độc lập của

nước nhà là hết sức quan trọng. Đất nước không độc lập thì người dân chỉ là những nô lệ

không có quyền quyết định bất cứ việc gì. Như vậy, nước nhà độc lập thì nhân dân mới có

tự do. Ý thức được điều đó nên hầu hết sinh viên đã khẳng định tầm quan trọng của giá trị

này. Sống trong một đất nước có độc lập tự do thì hiển nhiên dân chủ, bình đẳng sẽ có đối

với tất cả mọi người.

Đứng thứ ba trong bảng xếp hạng là giá trị yêu nước. Một đất nước có chủ quyền,

được độc lập tự do thì mỗi người công dân sống trong đó cũng phải ý thức được mình phải

làm gì để có được điều đó. Rất đáng mừng là phần lớn sinh viên đã đánh giá cao tinh thần

yêu nước.

Tôn trọng pháp luật là giá trị cũng được sinh viên nhìn nhận và đánh giá ở mức cao.

Điều này cũng hoàn toàn dễ hiểu: sinh viên là tầng lớp trí thức nên họ khá có ý thức về việc

“sống làm việc theo hiến pháp và pháp luật”.

Là công dân của một đất nước, với tinh thần yêu nước nên đa số những sinh viên

được hỏi đều khẳng định vai trò của giá trị trung thành với tổ quốc (TB: 3.30), và lòng tự

hào dân tộc (TB: 3.26).

Tin tưởng vào Đảng và trách nhiệm công dân là hai giá trị tiếp theo được sinh viên

thừa nhận ở mức quan trọng rất khả quan. Nước ta theo con con đường Xã hội chủ nghĩa

dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản nên phần lớn người dân nói chung và tầng lớp sinh

viên nói riêng đều có sự tin tưởng vào đường lối mà Đảng đã đề ra. Nền độc lập nước nhà

có được cũng nhờ vào sự dẫn dắt của Đảng. Bên cạnh đó, chúng ta cũng nhận thấy, là người

dân của nước Việt nam, sinh viên đánh giá trách nhiệm của bản thân là quan trọng đối với

đất nước và xã hội.

Lý tưởng XHCN và hợp tác với các dân tộc là hai giá trị mặc dù điểm trung bình ở

mức quan trọng nhưng lại đứng ở vị trí thấp nhất (thứ 9, 10) trong bảng xếp hạng. Đối với

sinh viên, có lẽ đây là hai giá trị chưa thiết thực trong đời sống của họ nhưng lại rất quan

trọng đối với công dân của một nước Xã hội Chủ Nghĩa như nước Việt nam.

Tóm lại, kết quả nghiên cứu cho thấy sự nhận thức của sinh viên về các giá trị chính

trị - pháp luật là khá đúng đắn và hợp lý. Điều này chứng tỏ sinh viên quan tâm đến vận

mệnh của đất nước, ý thức quyền và nghĩa vụ của người công dân sống trong một đất nước

độc lập tự do. Tuy vậy, trong điều kiện hiện nay sinh viên lại không mặn mà lắm với lý

tưởng xã hội chủ nghĩa. Với họ có thể giá trị này còn quá xa vời. Sinh viên cũng chưa đánh

giá cao giá trị mang tính chính trị thời đại: hợp tác với các dân tộc. Qua đây cho thấy công

tác giáo dục tư tưởng chính trị tại các trường học cần được tổ chức thường xuyên, có mục

tiêu và nội dung rõ ràng và phải phù hợp với tâm lý lứa tuổi. Ngoài ra các tổ chức đoàn thể

cần giáo dục và lôi cuốn sinh viên vào những hoạt động để họ ý thức được lý tưởng Xã hội

chủ nghĩa, tôn chỉ của Đảng và nhà nước ta.

3.2.1.4. Nhận thức của sinh viên về tầm quan trọng của các giá trị kinh tế

Bảng 3.6: Đánh giá của sinh viên về tầm quan trọng của các giá trị kinh tế

Trung bình Thứ hạng Các giá trị

Rất quan trọng và quan trọng % 92.6 Tần số 553 Giữ chữ tín 3.44 1

Thành thạo máy vi tính và ngoại ngữ 523 88.2 3.38 2

Năng động, sáng tạo 542 91.1 3.27 3

Kinh nghiệm 510 85.4 3.15 4

Tính kỷ luật cao 500 83.8 3.13 5

Thu nhập cao 440 74.2 2.97 6

Biết hợp tác làm ăn 455 77.2 2.97 7

Tích cực hoạt động 457 76.9 2.92 8

Thận trọng 430 72.1 2.88 9

Tiết kiệm 414 69.6 2.86 10

Kết quả điều tra cho thấy, 10/10 giá trị kinh tế đưa ra khảo sát đều được sinh viên

đánh giá là quan trọng đối với họ. Trong đó giá trị được sinh viên quan tâm nhiều nhất là

Giữ chữ tín (TB:3.44). Hoàn toàn phù hợp khi sinh viên lựa chọn và cho giá trị này ở mức

quan trọng cao. Trong bất cứ hoạt động nào của con người, đặc biệt là trong làm ăn kinh tế,

chữ tín luôn là một yếu tố giúp cho con người dễ dàng tạo được niềm tin và sự tôn trọng của

người khác. Cha ông ta đã có câu “Một sự thất tín, vạn sự không tin”. Tra cứu số liệu của

nhóm nghiên cứu của đề tài KX 07 – 04 cho thấy có sự trái ngược khi sinh viên chọn giá trị

chữ tín, chỉ có 32.3% sinh viên chọn thật thà để giữ chữ tín, đây là điểm yếu của sinh viên

tại thời điểm đó.

Thành thạo máy vi tính và ngoại ngữ (TB:3.38) đứng thứ nhì trong bảng xếp hạng.

Thực tế cho thấy hiện nay bất cứ nơi nào sử dụng lao động ngoài năng lực chuyên môn đều

yêu cầu người xin việc phải có thêm chứng chỉ ngoại ngữ và tin học. Chúng ta chứng kiến

nhiều và rất nhiều sinh viên ngoài những giờ học chính khoá còn tham gia vào các lớp anh

văn và vi tính ban đêm để trang bị cho mình sau khi ra trường. Đất nước đã hội nhập, cơ hội

hợp tác với người nước ngoài là rất nhiều, muốn hiểu được họ và biết cách làm ăn thì không

còn cách nào khác là phải biết ngoại ngữ. Ngoài ra, năng động, sáng tạo cũng được đánh giá

ở mức cao (TB: 3.27). Đây hoàn toàn là những giá trị của thời đại được sinh viên ý thức và

chuẩn bị cho con đường nghề nghiệp sau này của mình. Kết quả này trùng hợp với kết quả

khảo cứu của đề tài nghiên cứu KX 07 – 04.

Kinh nghiệm và tính kỷ luật cao là những yếu tố giúp thành công trong mọi lĩnh vực

nói chung và trong làm kinh tế nói riêng. Một người không thể thành đạt nếu như anh không

tuân theo những nguyên tắc đã đề ra.

Tuy nhiên, một số giá trị thuộc về tính cách của cá nhân giúp ích rất nhiều trong làm

ăn kinh tế lại đứng ở thứ hạng thấp trong bảng xếp hạng: tích cực hoạt động (vị trí thứ 8),

thận trọng (vị trí thứ 9), riêng tiết kiệm giữ vị trí cuối cùng. Thông qua kết quả nghiên

cứu có thể nhận thấy sinh viên đánh giá về mức độ quan trọng của các giá trị kinh tế là

tương đối đúng đắn và phù hợp với thời đại, nhưng lại chưa quan tâm nhiều đến một số giá

trị thuộc về tính cách của mỗi cá nhân.

Tóm lại: sinh viên nhận thức khá đồng đều về bốn nhóm giá trị (xem phụ lục 05). Cả

bốn nhóm giá trị đều được sinh viên đánh giá ở mức độ quan trọng. Độ lệch tiêu chuẩn (SD)

chứng tỏ rằng độ phân tán của các điểm số quanh trung bình của cả 4 nhóm giá trị là không

đáng kể. Tuy nhiên, chúng ta cũng thấy nhóm giá trị được sinh viên đánh giá quan trọng

hơn cả là các giá trị nhân văn (điểm TB xấp xỉ ở mức rất quan trọng: 3.30). Bất cứ thời đại

nào, dân tộc nào và tầng lớp nào đều có nhu cầu được tôn trọng, thừa nhận, mưu cầu hạnh

phúc và tự do.

3.2.1.5. Kết quả so sánh điểm trung bình về mức độ quan trọng của 4 nhóm giá trị

theo phái tính, trường học, năm học, khu vực và điều kiện kinh tế gia đình.

 Kết quả so sánh theo phái tính

Bảng 3.7: Kết quả so sánh điểm trung bình giữa nam và nữ

Nữ Nam t p SD SD

Nhóm sinh viên Nhóm giá trị Nhân văn Trung bình 3.28 0.331 Trung bình 3.33 0.280 1.89 0.06

Đạo đức 0.494 0.418 3.07 3.22 -3.75 0.00

Chính trị - pháp luật 0.574 0.518 3.17 3.37 -4.19 0.00

Kinh tế 3.10 0.410 3.09 0.418 0.29 0.76

Kết quả kiểm nghiệm t chỉ ra: có sự khác biệt nhận thức giữa nam và nữ ở nhóm giá

trị đạo đức (t = -3.75, p = 0.00) và nhóm giá trị chính trị (t = - 4.19, p = 0.00). Đối với nhóm

giá trị đạo đức, điểm trung bình của nữ cao hơn so với nam (3.22 so với 3.07). Có lẽ do giới

nữ dễ cảm thông với người khác, đức tính hy sinh cao. Ngoài ra, do bị ảnh hưởng bởi tư

tưởng phong kiến nên mặc dù ở vào thời đại tự do nam nữ bình quyền nhưng nữ giới luôn ý

thức sống sao cho phải “đạo” cho nên họ là những người tuân giữ các chuẩn mực đạo đức

triệt để hơn ai hết.

Ở nhóm giá trị chính trị, điều đáng ngạc nhiên là nữ sinh viên lại rất ý thức và quan

tâm hơn nam sinh viên (3.37 so với 3.17). Khi đề cập đến các giá trị chính trị, đó không phải

là những gì cao siêu của các chính khách mà là những vấn đề thực tế của công dân trong

một nước: dân chủ, tự do, công bằng, quyền và trách nhiệm công dân. Những giá trị này

được nữ sinh viên ngày nay đánh giá cao.

 Kết quả so sánh theo trường học

Bảng 3.8: Kết quả so sánh điểm trung bình giữa các trường

ĐHSP ĐHSPKT ĐHBK

F p TB SD TB SD TB SD

Nhóm sinh viên Nhóm giá trị Nhân văn 3.33 0.297 3.29 0.341 3.28 0.300 1.42 0.24

Đạo đức 3.18 0.444 3.11 0.486 3.08 0.481 2.02 0.13

0.565 Chính trị - pháp luật 3.35 0.518 3.22 0.582 3.17 5.75 0.00

Kinh tế 3.08 0.438 3.11 0.405 3.10 0.398 0.25 0.77

Có sự khác biệt nhận thức giữa các trường ở nhóm giá trị chính trị (F = 5.75, p =

0.00). Sinh viên trường ĐHSP đặt tầm quan trọng của nhóm giá trị này ở mức khá cao. Trị

số trung bình của trường ĐHSP cao hơn so với trường ĐHSPKT và ĐHBK (3.35 so với

3.22 và 3.17). Có lẽ sinh viên ĐHSP mang tính đặc thù riêng của nghề dạy học – đó là

những người vừa “hồng” vừa “chuyên”. Không những có tri thức và kỹ năng mà sinh viên

ĐHSP phải trang bị cho mình bản lĩnh chính trị vững vàng, do vậy mà các giá trị chính trị

được họ đánh giá rất cao.

 Kết quả so sánh điểm trung bình theo năm học

Bảng 3.9: Kết quả so sánh điểm trung bình giữa năm I và năm IV

Năm I Năm IV

t SD SD p

Nhóm sinh viên Nhóm giá trị Nhân văn Trung bình 3.32 0.313 Trung bình 3.28 0.309 1.33 0.18

Đạo đức 3.14 0.460 3.11 0.481 0.58 0.55

Chính trị - pháp luật 0.522 0.586 3.32 3.18 2.95 0.03

Kinh tế 3.09 0.401 3.10 0.428 -0.34 0.73

Có sự khác biệt nhận thức giữa sinh viên năm nhất và năm cuối ở nhóm giá trị chính

trị (t = 2.95, p = 0.03). Năm nhất có điểm trung bình cao hơn so với năm cuối (3.32 so với

3.18). Điều làm chúng ta khá ngạc nhiên là sinh viên năm nhất ý thức cao về những vấn đề

chính quyền, thể chế nhà nước, quyền lợi dân tộc, giai cấp, quyền công dân, công bằng, tự

do hơn sinh viên năm cuối. Đây cũng là vấn đề cần được lý giải.

 Kết quả so sánh theo khu vực

Kết quả ở bảng 3.10 cho thấy không có sự khác biệt ý nghĩa về nhận thức đối các

nhóm giá trị giữa sinh viên tại TP.HCM hay sinh viên sống ở tỉnh. Cho dù sống ở đâu, nhận

thức về các giá trị lối sống của sinh viên là giống nhau .

Bảng 3.10: Kết quả so sánh điểm trung bình giữa sinh viên TP.HCM và sinh viên

tỉnh

Tỉnh TP.HCM t p SD SD

Nhóm sinh viên Nhóm giá trị Nhân văn Trung bình 3.28 0.332 0.284 -0.87 Trung bình 3.32 0.38

Đạo đức 3.12 0.470 0.408 -0.23 3.13 0.81

Chính trị - pháp luật 3.16 0.565 0.553 -1.66 3.28 0.09

3.08 0.406 Kinh tế 0.389 0.16 3.08 0.86

 Kết quả so sánh theo điều kiện kinh tế gia đình

Trung bình Khó khăn Khá

F p SD SD SD TB TB TB

Bảng 3.11: Kết quả so sánh điểm trung bình giữa các điều kiện kinh tế gia đình Nhóm sinh viên Nhóm giá trị Nhân văn 3.26 0.344 3.32 0.292 1.99 0.13 0.273 3.36

Đạo đức 3.13 0.476 3.16 0.470 3.19 0.480 0.23 0.79

Chính trị - pháp luật 3.22 0.591 3.25 0.551 3.25 0.615 0.05 0.94

Kinh tế 3.06 0.436 3.15 0.367 3.17 0.388 1.79 0.16

Kết quả kiểm nghiệm F cho thấy sinh viên có điều kiện kinh tế gia đình khá giả,

trung bình hay khó khăn đều nhận thức về các nhóm giá trị lối sống như nhau.

Tóm lại, sự khác biệt ý nghĩa trong nhận thức giữa các nhóm sinh viên về các giá trị

lối sống xảy ra không nhiều. Sự khác biệt hầu như chỉ xảy ra ở nhóm giá trị chính trị giữa

nam và nữ - nữ sinh viên quan tâm đến các vấn đề chính trị - pháp luật hơn nam sinh viên,

giữa các trường – trường ĐHSP đánh giá nhóm giá trị chính trị cao hơn trường ĐHSPKT

trường ĐHBK, giữa năm nhất và năm cuối - sinh viên năm nhất đánh giá các vấn đề chính

trị - pháp luật cao hơn sinh viên năm cuối.

3.2.2. Thái độ của sinh viên đối với các giá trị lối sống

3.2.2.1. Thái độ của sinh viên đối với các giá trị lối sống

Bảng 3.12: Thái độ tích cực của sinh viên đối với các giá trị lối sống

Các nhận định TB Rất đồng ý và đồng ý Thứ hạng

Tần số 587 574 % 98.3 96.5 3.68 3.58 1 2

3 588 98.5 3.55

4 5 535 530 89.8 88.5 3.17 3.11

6 511 85.7 3.10

7 470 78.7 3.02

8 475 79.4 2.99

9 491 82.2 2.99

496 82.8 2.98 10

451 75.4 2.97 11

453 76.2 2.95 12

493 82.8 2.95 13

1. Sức khỏe là vốn quý nhất của con người 5. Gia đình hạnh phúc là niềm mơ ước của mọi người 17. Thời đại này, muốn hội nhập nhanh phải năng động và sáng tạo 2. Đối với tôi, cuộc sống phải có tự do 10. Cần phải tôn trọng cá tính, tự do, sở thích của người khác 4. Để có chỗ đứng trong xã hội hiện nay phải có học 15. Nước Việt nam sẽ phát triển vượt bậc trong tương lai. 11. Mỗi lần nghe những bài hát ngợi ca quê hương đất nước, trong tôi luôn tràn ngập cảm xúc tự hào 19. Bí quyết thành công trong kinh doanh là biết hợp tác làm ăn 13. Khi làm bất cứ điều gì đều tôi đều phải quan tâm xem điều đó có ảnh hưởng đến người khác không 20. Trong kinh doanh, nếu không thành thạo vi tính và ngoại ngữ chẳng khác nào “mù chữ” 6. Hạnh phúc là biết cho đi và hy sinh vì người khác 8. Khi gặp một ai đó lâm vào hoàn cảnh khó khăn, tôi luôn giúp đỡ theo khả năng 7. Khi đã không trung thực thì làm việc gì cũng 440 73.5 2.84 14

417 69.8 2.83 15

390 407 66.5 68.1 2.73 2.66 16 17

381 164 64.0 27.6 2.62 1.76 18 19

19 3.2 0.86 20 khó 12. Tôi không ngại gian khổ hay mất mát nếu điều đó giúp ích cho đất nước tôi 3. Trong cuộc sống, với tôi tiền là trên hết* 14. Những gì không phải của riêng mình tôi không quan tâm* 18. Muốn làm giàu phải tiết kiệm 9. Tôi tự nhủ rằng: ai có ý làm hại tôi thì sớm muộn cũng phải nhận sự trừng phạt thích đáng* 16. Hầu hết mọi người đều tìm những công việc có thu nhập cao*

Căn cứ vào điểm trung bình của từng câu, kết quả nghiên cứu thể hiện ở Bảng 3.11

cho thấy sinh viên tỏ thái độ tích cực với 18/20 nhận định được đưa ra. Trong đó thái độ

rất đồng ý của sinh viên thuộc về 3 nhận định xếp thứ hạng cao nhất (điểm trung bình

>3.5). Đứng nhất, nhì trong bảng xếp hạng là 2 nhận định về sức khoẻ và hạnh phúc gia

đình. Thái độ này của sinh viên hoàn toàn hợp logic với nhận thức của họ. Khi đã coi

trọng gia đình và sức khoẻ thì rõ ràng họ cũng có thái độ rất tích cực đối với chúng: sức

khoẻ là vốn quý (TB: 3.68) và gia đình hạnh phúc là niềm mơ ước của nhiều người (TB:

3.58). Đây là 2 nhận định thuộc về nhóm giá trị nhân văn.

Đứng thứ 3 trong bảng xếp hạng là nhận định thuộc về giá trị kinh tế. Thực sự ở vào

thời đại này, muốn hội nhập nhanh phải năng động và sáng tạo (TB: 3.55). Đất nước

chúng ta đang hội nhập với thế giới nhất là trong lĩnh vực kinh tế. Từ khi Việt nam là

thành viên chính thức thứ 150 của tổ chức Thương mại thế giới thì người dân Việt nam

đặc biệt những người trẻ phải tự học hỏi và tìm mọi cách để bắt nhịp được với thế giới mà

không thể thiếu tính năng động và sáng tạo.

Xếp ở vị trí thứ 4 là nhận định thuộc về giá trị nhân văn. Trong cuộc sống bất cứ ai

cũng đều mong muốn có tự do, thái độ này cũng phù hợp với sự nhận thức của sinh viên.

Không có tự do, con người không thể làm nhữngg công việc mình yêu thích. Tiếp theo sau

là nhận định thuộc về nhóm giá trị đạo đức. Nếu trong mối quan hệ con người không có sự

tôn trọng cá tính, tự do, sở thích của người khác thì cuộc sống của con người gò bó, luôn

phải làm theo những khuôn mẫu định sẵn và mạnh ai nấy sống không cần biết đến những

người xung quanh. Rất may là sinh viên đã nhận ra giá trị đạo đức này để mà sống cùng

người khác và vì người khác thể hiện con người có lối sống nhân văn và nhân ái.

Để có chỗ đứng trong xã hội hiện nay phải có học cũng được sinh viên tỏ thái độ

khá tích cực (TB: 3.10). Một điều đáng chú ý nữa là sinh viên rất tin tưởng vào tương lai

của nước nhà - nước Việt nam sẽ phát triển vượt bậc trong tương lai (TB: 3.02). Có lẽ với

đà phát triển nhanh và mạnh như hiện nay, nước Việt nam ta sẽ còn phát triển hơn nữa.

Các nhận định còn lại thuộc 4 nhóm giá trị đều được sinh viên tỏ thái độ tích cực ở

các mức độ đậm nhạt khác nhau. Điều đáng mừng chỉ có rất ít sinh viên trong số được

khảo sát đồng tình với nhận định hầu hết mọi người đều tìm công việc có thu nhập cao

(TB: 0.86). Nhận định này đứng cuối cùng trong bảng xếp hạng. Như vậy, không phải

công việc có nhiều tiền là có sức hút mà công việc đó còn phải mang lại cho con người sự

hứng thú và niềm đam mê.

Tóm lại: Cả 4 nhóm giá trị - nhân văn, đạo đức, chính trị, kinh tế đều được sinh viên

tỏ thái độ tích cực, tuy nhiên mức độ đồng nhất là không giống nhau, điểm trung bình cho

thấy sinh viên có thái độ tích cực cao nhất đối với nhóm giá trị nhân văn. Bên cạnh đó, độ

lệch tiêu chuẩn cũng chứng tỏ độ phân tán của các điểm số quanh trung bình là không

đáng kể (xem phụ lục 06).

3.2.2.2. Kết quả so sánh điểm trung bình thái độ tích cực của sinh viên đối với 4

nhóm giá trị lối sống theo phái tính, trường học, năm học, khu vực và điều kiện kinh tế

gia đình

 Kết quả so sánh theo phái tính

Bảng 3.13: Sự khác biệt thái độ giữa nam và nữ

Nam Nữ

t P SD SD Trung bình Trung bình Nhóm sinh viên Nhóm giá trị

Nhân văn 3.22 0.364 3.30 0.3270 -2.52 0.04

Đạo đức 2.70 0.462 2.74 0.403 -1.00 0.11

Chính trị - pháp luật 2.85 0.482 2.98 0.442 -3.11 0.02

Kinh tế 2.59 0.369 2.60 0.388 -0.28 0.83

Kết quả kiểm nghiệm t ở mức ý nghĩa 0.05 cho thấy không có sự khác biệt thái độ

giữa hai phái nam và nữ về sự lưa chọn ở các nhóm giá trị đạo đức và kinh tế, tuy nhiên kết

quả kiểm nghiệm lại cho thấy có sự khác nhau giữa hai nhóm sinh viên về sự lựa chọn các

giá trị nhân văn, chính trị. Điểm trung bình của nữ cao hơn của nam ( 3.30 so với 3.22) đã

thể hiện thái độ, sự quan tâm của các nữ sinh viên về các giá trị nhân văn cao hơn so với

nam sinh viên, điều đó cũng thể hiện được được đặc điểm của giới nữ - thường có sự quan

tâm tới các giá trị mang tính nhân văn.

Với điểm trung bình ở nữ sinh viên: 2.98 so với 2.85 của nam sinh viên cũng cho

thấy các nữ sinh viên còn có sự quan tâm nhiều hơn nam sinh viên về lĩnh vực chính trị, lĩnh

vực vốn thường dành cho nam giới. Kết quả này hoàn toàn đồng nhất với sự nhận thức của

họ. Đây quả là một bất ngờ, đó có thể là một vấn đề mà chúng ta cần quan tâm tìm hiểu –

ngày nay chính trị không chỉ dành riêng cho nam giới.

 Kết quả so sánh theo trường học

Bảng 3.14: Sự khác biệt thái độ giữa các trường

ĐHSP ĐHSPKT ĐHBK

F p TB SD TB SD TB SD

Nhóm sinh viên Nhóm giá trị Nhân văn 3.29 0.330 3.25 0.344 3.20 0.374 3.09 0.04

Đạo đức 2.71 0.408 2.72 0.463 2.72 0.449 0.02 0.97

Chính trị - pháp luật 2.96 0.443 2.84 0.469 2.90 0.495 3.19 0.04

Kinh tế 2.57 0.412 2.60 0.381 2.61 0.386 0.53 0.58

Ở mức ý nghĩa 0.05, kết quả kiểm nghiệm F cho thấy không có sự khác biệt ý nghĩa

về thái độ giữa sinh viên ba trường đối với các nhóm giá trị đạo đức và kinh tế. Đối với tất

cả sinh viên, những gì thuộc về chuẩn mực đạo đức xã hội, cách đối xử giữa người với

người họ đều có thái độ như nhau.

Có sự khác biệt về thái độ của sinh viên giữa các trường đối với hai nhóm giá trị

nhân văn (F =3.09, p =0.04) và nhóm giá trị chính trị (F=3.19, p =0.04), sự khác biệt chủ

yếu giữa trường ĐHSP và trường ĐHBK. Điểm trung bình đạt được cho thấy: sinh viên

trường ĐHSP có sự quan tâm cao nhất so với sinh viên ĐHSPKT và ĐHBK ở cả hai nhóm

giá trị trên. Đối với nhóm giá trị nhân văn, điểm trung bình của trường ĐHSP (3.29) cao

hơn trường ĐHBK (3.20). Đối với nhóm giá trị chính trị sinh viên trường ĐHSP cũng có

thái độ tích cực cao hơn (2.96) sinh viên trường ĐHSPKT (2.84). Phải chăng mục tiêu đào

tạo của từng trường đã có sự ảnh hưởng đến thái độ tích cực của sinh viên đối với từng

nhóm giá trị.

 Kết quả so sánh theo năm học

Bảng 3.15: Sự khác biệt thái độ giữa sinh viên năm I và năm IV

Năm I Năm IV t

p SD SD Trung bình Trung bình Nhóm sinh viên Nhóm giá trị

Nhân văn 3.28 0.322 3.22 0.377 1.83 0.03

2.75 0.421 2.69 0.457 1.56 0.17 Đạo đức

Chính trị - pháp luật 2.97 0.448 2.83 0.477 3.79 0.20

2.61 0.25 2.58 0.385 0.400 -0.90 Kinh tế

Kết quả kiểm nghiệm t ở mức 0.05 cho thấy trong bốn nhóm giá trị, chỉ có sự khác

biệt duy nhất thái độ giữa sinh viên năm thứ nhất và sinh viên năm cuối đối với nhóm giá trị

nhân văn (t =1.83, p =0.03). Điểm trung bình của sinh viên năm nhất là 3.28, cao hơn so với

3.22 của sinh viên năm cuối đã chứng minh sinh viên năm thứ nhất có thái độ tích cực hơn

so với các sinh viên năm cuối đối với các giá trị nhân văn.

 Kết quả so sánh theo khu vực

Bảng 3.16: Sự khác biệt thái độ giữa sinh viên TP.HCM và sinh viên tỉnh

TP.HCM Tỉnh t p SD SD Trung bình Trung bình

Nhóm sinh viên Nhóm giá trị Nhân văn 3.21 0.365 0.327 -1.51 3.28 0.18

2.71 0.466 0.443 0.28 2.69 0.88 Đạo đức

Chính trị - pháp luật 2.88 0.456 0.468 -0.13 2.89 0.84

2.63 0.350 0.412 1.27 2.56 0.05 Kinh tế

Kết quả so sánh chỉ ra không có sự khác biệt ý nghĩa giữa các nhóm sinh viên sống ở

TP.HCM hay sống ở tỉnh. Như vậy, hoàn cảnh địa lý khác nhau không ảnh hưởng đến thái

độ của sinh viên đối với cá giá trị lối sống. Cho dù sinh sống ở đâu, cách nhìn nhận về

những giá trong cuộc sống của sinh viên là như nhau.

 Kết quả so sánh theo điều kiện kinh tế gia đình

Bảng 3.17: Sự khác biệt thái độ giữa các sinh viên có điều kiện kinh tế khác nhau về

các giá trị lối sống

Khó khăn Trung bình Khá

F p TB SD TB SD TB SD

Nhóm sinh viên Nhóm giá trị Nhân văn 3.22 0.392 3.31 0.334 3.27 0.336 1.50 0.22

Đạo đức 2.73 0.507 2.81 0.419 2.71 0.490 1.04 0.35

Chính trị - pháp luật 2.92 0.476 2.93 0.428 2.89 0.520 0.14 0.86

2.55 0.425 2.59 0.374 2.65 0.363 1.12 0.32 Kinh tế

Kết quả kiểm nghiệm F ở bảng 3.16 cho thấy không có sự khác biệt ý nghĩa về thái

độ tích cực đối với các nhóm giá trị lối sống ở sinh viên có hoàn cảnh kinh tế khác nhau.

Tóm lại, sự khác biệt ý nghĩa về thái độ tích cực đối với các nhóm giá trị lối sống chỉ

xảy ra giữa nam và nữ ở nhóm giá trị nhân văn (nữ có thái độ tích cự hơn nam), giữa các

trường ở nhóm giá trị nhân văn và giá trị chính trị (ĐHSP có thái độ tích cực hơn ở cả hai

nhóm giá trị so với ĐHSPKT và ĐHBK), giữa năm I và năm IV ở giá trị nhân văn (sinh

viên năm I có thái độ tích cực cao hơn sinh viên năm IV).

3.2.3. Những biểu hiện lối sống của sinh viên

3.2.3.1. Những hành vi tích cực trong lối sống sinh viên hiện nay

Lối sống tích cực của sinh viên được biểu hiện thông qua một số những hành vi

mang tính nhân văn, nhân ái, có văn hoá và mang tính tình nguyện của sinh viên (có thể coi

đó là tính tích cực xã hội của sinh viên). Thông qua các việc làm này sinh viên sẽ hiểu rõ

hơn về xã hội, về cuộc sống thực tiễn, ý thức hơn về nghĩa vụ và trách nhiệm của bản thân

đối với công cuộc công nghiệp hóa – hiện đại hóa của đất nước và giúp họ trưởng thành

hơn.

Bảng 3.18: Mức độ thực hiện các hành vi tích cực của sinh viên

Stt Hành vi Mức rất thường xuyên và thường xuyên

Tần số %

1 Nghiêm chỉnh chấp hành luật giao thông 87.7 521

2 Không chen lấn khi phải xếp hàng đến lượt mình 70.8 423

3 Nhường chỗ cho người già trên xe buýt 64.3 380

4 Ủng hộ đồng bào bị thiên tai 61.7 367

5 Tham gia công tác trật tự an toàn giao thông 23.5 139

6 Dắt người già và trẻ em qua đường 23.3 138

7 Tuyên truyền phòng chống HIV/AIDS 21.8 128

8 Tham gia chiến dịch mùa hè xanh 10.1 60

9 Hiến máu nhân đạo 9.0 54

10 Đi thăm và giúp đỡ người già neo đơn 8.3 49

Có mười tiêu chí đưa ra để sinh viên lựa chọn tùy theo các mức độ mà họ thực hiện.

Kết quả nghiên cứu cho thấy có bốn hành vi được sinh viên thực hiện thường xuyên nhất

(>50%). Hành vi đứng đầu có tỉ lệ cao nhất là nghiêm chỉnh chấp hành luật giao thông

(87.7%). Đây là một việc làm tưởng chừng như đơn giản nhưng không phải mọi người đều

có ý thức chấp hành.

Không chen lấn khi phải xếp hàng đến lượt mình là hành vi của lối sống có văn hoá

thực hiện ở những nơi công cộng. Có 70.8% sinh viên trong số được hỏi thực hiện hành vi

này thường xuyên. Dựa vào kết quả này có thể khẳng định số đông sinh viên đã thể hiện

mình là người được giáo dục.

Nhường chỗ cho người già trên xe buýt là hành vi vừa mang tính nhân văn vừa mang

tính văn hoá được 64.3% sinh viên trong số được hỏi xác nhận họ thường xuyên làm việc

này.

Việc làm của sinh viên khá phổ biến hiện nay và đáng để chúng ta trân trọng là Ủng

hộ đồng bào bị thiên tai. Đây là việc làm mang tính nhân ái, nghĩa tình, đó cũng là giá trị

đạo đức truyền thống của dân tộc Việt nam. Hiện tại có 61.7% sinh viên cho rằng thường

xuyên tham gia công tác này. Đó là dấu hiệu đáng mừng - sinh viên xem triết lý “Thương

người như thể thương thân”, “Lá lành đùm lá rách” vẫn còn nguyên giá trị. Bên cạnh đó

cũng chứng tỏ rằng sinh viên là người có trách nhiệm với những công việc chung của xã hội

Kết quả nghiên cứu cũng chỉ ra, những việc làm mà sinh viên thực hiện ở mức

thường xuyên thấp: tham gia công tác trật tự an toàn giao thông (23.5%), dắt người già và

trẻ em qua đường (23.3%), tuyên truyền phòng chống HIV/AIDS (21.8%).

Thật đáng tiếc, một số việc làm mang đậm nét sinh viên lại chỉ chiếm tỉ lệ rất khiêm

tốn. Số lượng sinh viên tham gia chiến dịch mùa hè xanh chỉ chiếm 10.1%. Hiến máu nhân

đạo là 9.0%. Đi thăm và giúp đỡ người già neo đơn chỉ có 8.3%. Kết quả này phản ánh tính

phong trào khi thực hiện những việc làm mang tính nhân văn, nhân ái của sinh viên. Điều

đó có nghĩa là nếu có thời gian, có điều kiện thuận lợi hay có bạn bè rủ rê thì sẽ tham gia

chứ họ không xác định đó là những trách nhiệm của thanh niên. Khi phỏng vấn một số sinh

viên về lý do tham gia chiến dịch mùa hè xanh, ngoài những sinh viên trả lời mang đầy tính

trách nhiệm và biểu thị tinh thần nhân ái thì cũng không ít sinh viên trả lời: “tham gia vì

vui” hay “bạn bè tham gia thì mình cũng tham gia”. Có bạn còn nói “nghỉ hè ở nhà không

biết làm gì”.

Tóm lại, những việc làm biểu hiện nghĩa cử cao đẹp, đầy lòng nhân ái đầy tình người

và mang tính tình nguyện được sinh viên thực hiện ở các mức độ khác nhau, nhìn chung

mức độ thực hiện là không cao. Chỉ có 4 việc làm được sinh viên thực hiện một cách thường

xuyên nhiều nhất. Điều ngạc nhiên là tham gia chiến dịch mùa hè xanh lại là tiêu chí bị xếp

vào nhóm có số sinh viên thực hiện thường xuyên thấp nhất. Như vậy từ nhận thức, thái độ

đến việc làm còn có một khoảng cách khá xa.

3.2.3.2. Những hiện tượng tiêu cực còn tồn tại trong lối sống sinh viên hiện nay

Bảng 3.19: Mức độ tồn tại các các hiện tượng tiêu cực trong lối sống sinh viên

hiện nay

Rất thường xuyên và thường xuyên Stt Các hiện tượng tiêu cực Tần số %

Thích chưng diện 1 368 62.7

Trốn học, bỏ tiết 2 355 60.5

Lơ là trong học tập 3 325 55.3

Không đúng giờ, đúng hẹn 4 314 53.5

Tiêu xài lãng phí 5 305 52.0

Nhậu nhẹt 6 273 46.7

Gian lận trong thi cử 7 240 40.9

Nói tục, chửi thề 8 197 33.9

9 Xem sách báo, phim ảnh đồi truỵ 146 24.9

10 Mua điểm, xin điểm 140 24.0

11 Sống thử 125 21.5

12 Không quan tâm giúp đỡ người khác 122 20.8

13 Cờ bạc, số đề 121 20.7

14 Đánh nhau 109 18.5

15 Trộm cắp 63 10.8

16 Nghiện hút 61 10.5

17 Mê tín dị đoan 59 10.1

18 Mua bán dâm 48 8.3

Để tìm hiểu về những hành vi tiêu cực hay lệch chuẩn còn tồn tại trong lối sống của

sinh viên hiện nay, 18 hành vi được đưa ra để khảo sát trong sinh viên. Kết quả cho thấy:

sinh viên đã thẳng thắn nhìn nhận tất cả những hành vi tiêu cực được đưa ra là đều có, tuy

nhiên mức độ tồn tại của mỗi hành vi cụ thể như sau:

Có 5 hành vi tiêu cực sinh viên thường xuyên thực hiện với tỉ lệ >50%. Sinh viên xác

nhận: thích chưng diện là hành vi tiêu cực mà giới sinh viên thực hiện thường xuyên nhiều

nhất (62.7%). Thật ra nhu cầu về cái đẹp của mỗi người là hoàn toàn chính đáng, ai cũng

muốn mình đẹp hơn trong mắt người khác. Tuy vậy, ăn mặc đẹp không có nghĩa là chưng

diện mà phải phù hợp với hoàn cảnh và địa vị của mình trong xã hội. Phải chăng sinh viên

là những người trong giai đoạn đầu của tuổi trưởng thành, nhận thức nhanh nhạy, dễ dàng

bắt kịp cái mới nhưng họ cũng là những người còn ít kinh nghiệm sống, ý chí chưa đủ

mạnh, chưa biết chọn lọc những gì là phù hợp nên dễ dàng bị ảnh hưởng bởi những trào lưu

mới, cách sống mới – thích chưng diện hay chạy theo “mốt”. Thực tế cho thấy trong lớp học

hay ở các giảng đường, rất nhiều sinh viên ăn mặc rất “mốt”, quần áo cũng như trang sức là

hàng hiệu đắt tiền để thể hiện “đẳng cấp”. Đây là hậu quả của ảnh hưởng các phương tiện

thông tin, nhất là phim ảnh ngoại quốc đã kích thích nhu cầu hưởng thụ của thanh niên trong

đó có sinh viên mà báo chí đã đề cập đến như là “những căn bệnh” – chơi đồ hiệu, mượn

tiền để chưng diện trong sinh viên.

Trốn học, bỏ tiết là hành vi có số sinh viên thực hiện một cách thường xuyên không

ít (60.5%). Khi trò chuyện về vấn đề này, nhiều sinh viên thú nhận trong quá trình học ít

nhất có một đến hai lần bỏ học vì lý do này hay lý do khác. Tuy vậy, mức độ xảy ra thường

xuyên thì họ không dám thẳng thắn xác nhận mà chỉ thông qua kết quả này chúng ta mới

thấy một thực trạng đáng báo động về ý thức trong học tập của sinh viên: nhiệm vụ chính

yếu của người sinh viên là đến lớp học, vậy mà có trên nửa số sinh viên được hỏi thực hiện

việc làm này thường xuyên. Đây là hồi chuông cảnh tỉnh cho các nhà có chức trách. Cho dù

học Đại học có “thoáng” hơn học phổ thông – đó là ý thức tự học là chính, thêm vào đó

không bị điểm danh hàng ngày, không kiểm tra bài cũ nhưng không vì các lý do đó mà

không coi trọng việc hàng ngày tham dự lớp học.

Lơ là trong học tập là một hiện tượng tiêu cực cũng có trên phân nửa số sinh viên

được hỏi xác nhận là thường xuyên xảy ra (55.3%). Là sinh viên mà không coi nhiệm vụ

học tập là quan trọng và cũng không nghiêm túc trong học tập thì quả là phải xem xét lại.

Qua những cuộc chuyện trò với các thầy cô trực tiếp giảng dạy tại các trường có sinh viên

được khảo sát cũng cho rằng: “một số không ít sinh viên ngày nay có thái độ học tập chưa

nghiêm túc, trong lớp khi giáo viên giảng bài nhiều em nói chuyện riêng. Họ sẵn sàng nghỉ

học khi có hoạt động gì vui hơn. Bình thường thì lớp rất vắng, chỉ khi nào có thông báo

kiểm tra lớp mới đầy đủ. Thậm chí có những sinh viên đến lớp chỉ để điểm danh”. Sinh viên

tại các trường nghiên cứu khi được hỏi cũng đếu thừa nhận: học đối phó hay học theo thời

vụ là hiện tượng khá phổ biến trong giới sinh viên hiện nay.

Không đúng giờ, đúng hẹn chiếm tỉ lệ 53.5%. Đây là một thói quen xấu còn tồn tại

khá nhiều trong sinh viên. Lẽ ra sinh viên phải là những người đúng giờ, đúng hẹn hơn ai

hết bởi vì họ là những người có học thức, trình độ văn hoá cao, vậy mà không thể hiện được

sự lịch sự, nghiêm túc và tôn trọng người khác sẽ tự mình đánh mất uy tín. Xét cho cùng thì

đây cũng là thói quen của người Việt nam nói chung, và cũng là tàn dư của tác phong nông

nghiệp, lề mề, của nếp sống “hoà cả làng”. Đất nước chúng ta đã hội nhập, mỗi người phải

mau chóng hoà mình vào, học lấy tác phong công nghiệp, giờ giấc nghiêm túc thì mới có

thể phát triển.

Một hiện tượng rất đáng ngạc nhiên đó là hầu hết sinh viên chưa trực tiếp làm ra

tiền, tất cả mọi chi phí cho học tập đều do gia đình chu cấp vậy mà họ lại tiêu xài lãng phí

(52.0%). Nếu sinh viên nào sắp xếp được thời gian đi làm thêm thì cũng chỉ để giảm bớt

gánh nặng tiền bạc cho gia đình, vậy mà cách tiêu xài của họ đáng để chúng ta phải suy

nghĩ. Thiết nghĩ, những sinh viên nằm trong số này chưa ý thức được giá trị của đồng tiền

bởi vì họ không phải vất vả để kiếm từng đồng nên thực sự chưa coi trọng. Thực tế không

thiếu gì những sinh viên xuất thân từ các vùng quê nghèo, hàng tháng cha mẹ phải dành

dụm để lo cho họ tiền học, tiền ăn ở nhưng những sinh viên này đua theo những sinh viên

con nhà giàu: cũng tiêu tiền không suy nghĩ, trang sức đắt tịền, hàng hiệu để được xem là

người sành điệu, điện thoại di động “siêu nhỏ, siêu mỏng”…

Nhậu nhẹt, gian lận trong thi cử, nói tục, chửi thề là những hiện tượng tiêu cực tiếp

theo trong bảng xếp hạng mức biểu hiện thường xuyên cũng khá nhiều (>30%). Có tới 46.7

% sinh viên cho là nhậu nhẹt thường xuyên xảy ra trong giới sinh viên. Có nhiều lý do để

sinh viên đi nhậu: nhận được học bổng nhậu, cuối tuần nhậu, lãnh lương làm thêm cũng

nhậu. Có sinh viên phấn đấu cả năm trời để được học bổng, tới khi lãnh được học bổng dẫn

bạn bè đi nhậu hết một nửa số tiền đó. Thật là nghịch lý khi giáo viên bộ môn yêu cầu sinh

viên phải mua giáo trình cho môn học thì họ nói không có tiền nhưng lại có tiền để đi nhậu.

Gian lận trong thi cử cũng có tới 40.9% sinh viên xác nhận là thường xuyên xảy ra. Mỗi

mùa thi đến, tại các trường Đại học chúng ta thường bắt gặp các băng rôn, biểu ngữ mang

khẩu hiệu “Không gian lận trong thi cử”, nhưng thực tế qua kết quả điều tra đã khẳng định

hiện tượng này còn tồn tại nhiều trong sinh viên. Điều này phản ánh thực trạng cần phải

ngăn chặn và cải thiện. Thời gian gần đây, theo chỉ thị của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào

tạo, các trường học thực hiện “Nói không với tiêu cực – không bệnh thành tích, không gian

lận trong thi cử”. Hy vọng tình trạng này sẽ được cải thiện.

Chúng ta cũng có thể thấy, một hành vi không đẹp mà lẽ ra trong sinh viên không

nên có – nói tục, chửi thề . Có tới 33.9% sinh viên cho rằng hiện tượng này còn thường

xuyên xảy ra. Phải chăng đây là một thói quen mà sinh viên không ý thức được khi mình

phát ra những ngôn từ ấy. Khi bàn về “Nếp sống văn minh trong tuổi trẻ hiện nay”, tác giả

Nguyễn Hồng Hải đã phải nhận định: Những câu nói “không còn gì để nói” và khi đưa

những ngôn từ ấy lên mặt báo sợ bị ô nhiễm. Nghe những từ ấy phát ra từ ký túc xá sinh

viên mà tưởng như mình đang đứng ở bến xe hay cái chợ nào đó [25, tr.16]. Chuyện nói tục

chửi thề là chuyện mà sinh viên cho là “xưa như trái đất” mà hình như ít có người quan tâm

góp ý bởi vì họ “đã lớn”. Chúng ta cần lưu ý, bên cạnh yếu tố giáo dục gia đình, kỷ cương

của nhà trường nên chú trọng đến việc xây dựng nếp sống văn minh trong sinh hoạt, giao

lưu văn hoá của tập thể (chi Đoàn, Hội sinh viên). Chỉ khi biết tận dụng ưu thế của dư luận

tập thể mới giúp sinh viên rèn luyện nếp sống trở thành con người có văn hoá và cần giáo

dục họ nhớ tời câu nói nổi tiếng của nhà Giáo dục học J.Rousso (Pháp): “Chúng ta cứ mải

mê học tập, sáng tạo để chinh phục tự nhiên và cải tạo xã hội, nhưng có một thứ rất cần thiết

mà chúng ta hay quên đó là phải cải tạo chính bản thân mình”.

Tiếp theo là 5 hành vi tiêu cực có tỉ lệ > 20% còn thường xuyên xảy ra trong sinh

viên:

Xem phim ảnh, sách báo đồi truỵ (24.9%) là một hiện tượng đang ngày một gia tăng

trong giới trẻ hiện nay và đặc biệt không hiếm trong sinh viên. Có 24.9% sinh viên xác nhận

là hiện tượng này xảy ra thường xuyên. Đất nước mở cửa giao lưu cả kinh tế và văn hoá,

luồng văn hoá phẩm đồi trụy không phải là hiếm thấy. Tại TP.HCM hiện nay, quanh các

trường đại học, cao đẳng rất nhiều cửa hàng máy tính có nối mạng để phục vụ nhu cầu học

tập của sinh viên. Tuy nhiên mặt trái của nó chúng ta cũng thấy rõ, thay vì vào đó để tìm

kiếm thông tin phục vụ học tập, nhiều sinh viên vào đó truy lùng các địa chỉ đen để thoả

mãn tính tó mò. Tệ hại hơn nữa là sinh viên thuê phim sex về phòng trọ để cùng xem. Hiện

tượng này phải được kịp thời ngăn chặn trong toàn xã hội, đặc biệt là trong sinh viên. Gần

đây các ban ngành cũng đã có những động thái tích cực để chống lại hiện tượng này. Có

nhiều khía cạnh cần được giải quyết tận gốc rễ nhưng có lẽ điểm mấu chốt vẫn là ý thức của

mỗi sinh viên. Tự bản thân không vượt qua được những tò mò, hiếu kỳ hay sự cám dỗ thì

mọi biện pháp tác động cũng vô ích.

Hiện tượng mua điểm, xin điểm (24.0%) còn tồn tại khá nhiều đã phản ánh thực

trạng: sinh viên còn lười biếng, ít tự giác và cố gắng trong học tập thiếu trung thực và thậm

chí không công bằng với những sinh viên khác. Đó là phẩm chất không đáng có và khó có

thể chấp nhận của một con người được đào tạo bài bản tại các trường đại học.

Sống thử trong sinh viên hiện nay đang là một trào lưu và có chiều hướng gia tăng

nhanh hơn, phổ biến hơn và cũng đáng sợ hơn và hậu quả khó mà lường trước. Có 21.5% số

sinh viên được hỏi xác nhận hiện tượng này thường xuyên xảy ra. Thực tế, khi sinh viên

nam và sinh viên nữ chung sống với nhau thì sự chung sống đó không còn là thử mà là cuộc

sống thật. Có niềm vui thật, thì hậu quả không mong muốn xảy ra cũng là thật. Khi đề cập

vấn đề này với một số sinh viên, họ cho rằng “sống thử thực chất là họ lợi dung nhau về vật

chất, tình cảm và cả tình dục”. Một sinh viên khác biện minh là “vì thiếu thốn tình cảm,

thiếu chỗ dựa, tiết kiệm được chi phí khi hai người sống chung”. Thực sự “sống thử chỉ

không có hại khi người ta bước vào với tư thế là sống thật: chín chắn trong nhân cách, có cơ

sở về vật chất, có sự nghiệp, tình yêu đích thực, có sự tôn trọng lẫn nhau và sự bình đẳng

nam nữ” [50, tr.58]. Đây là một vấn đề báo động cho ngành giáo dục.

Không quan tâm giúp đỡ người khác (20.8%) là một biểu hiện của sự ích kỷ, thực

dụng chỉ sống cho riêng mình hoàn toàn không phù hợp với truyền thống của dân tộc ta cần

phải phê phán mạnh mẽ và loại bỏ.

Cờ bạc, số đề cũng là hiện tượng đáng lo ngại trong sinh viên. Có nhiều sinh viên

xác nhận: ban đầu chỉ chơi cho vui khi bạn bè rủ nhưng tới lúc bị thua cay cú chơi cho tới

và càng chơi càng thua. Lại có sinh viên cá độ bóng đá đến nỗi lúc nào cũng nợ ngập đầu.

Nếu không ngăn chặn kịp thời khi đã “máu mê” họ sẽ lao vào cờ bạc như những con thiêu

thân và hậu quả thì chính họ và gia đình phải gánh chịu chứ không ai khác.

Đánh nhau, mê tín dị đoan, trộm cắp, nghiện hút và mua bán dâm là những hiện

tượng tiêu cực mà mức độ biểu hiện thường xuyên không cao (<20/%), tuy nhiên lại là

những biểu hiện tiêu cực mang tính nghiêm trọng và có thể cấu thành hành vi tội phạm bị

truy tố trước pháp luật: Đánh nhau, trộm cắp, nghiện hút và mua bán dâm. Chúng ta luôn

nghĩ rằng những hiện tượng này không thể có trong giới sinh viên nhưng tiếc rằng nó vẫn

còn tồn tại. Thực sự đây là một thách thức đối với ngành giáo dục đại học.

Tóm lại: Những hiện tượng tiêu cực còn tồn tại trong lối sống của sinh viên tuy

không ở mức trầm trọng nhưng cũng rất đáng để những ban ngành có trách nhiệm quan tâm.

Những biểu hiện của hiện tượng tiêu cực này rất đa dạng và phong phú: từ hoạt động học

tập, quan hệ ứng xử đến vui chơi giải trí, từ những vấn đề chấp hành nội quy, quy chế trong

trường học cho đến những tệ nạn ngoài xã hội. Có thể họ nhận thức được đó là những hành

vi không đáng có trong sinh viên, nhưng từ nhận thức họ chưa chuyển được vào hành vi.

Cần có những biện pháp cụ thể nhằm khắc phục những hiện tượng tiêu cực ấy, tiến tới hình

thành trong giới sinh viên lối sống có nề nếp, kỷ cương, quan hệ ứng xử đúng mức với

người khác và biết lựa chọn những hình thức giải trí lành mạnh.

3.2.3.3. Xu hướng lựa chọn lối sống trong sinh viên hiện nay

Bảng 3.20: Những biểu hiện của lối sống sinh viên hiện nay

% Câu Các lựa chọn

a. Có tri thức và nghề nghiệp ổn định Tần số 445 76.2

b. Có cơ hội để thành đạt 107 18.3

c. Có bằng cấp và địa vị xã hội 27 4.6 1. Mục đích học tập

d. Để giống như người khác 5 0.9

a. Nghe, ghi chép có suy nghĩ và tích cực xây dựng bài 224 38.5

b. Ghi chép bài đầy đủ để thi cử 249 42.8

c. Chỉ ghi chép những gì mình thích 108 18.6 2. Hành động trên lớp

d. Không ghi chép bất cứ điều gì 1 0.2

a. Chuẩn bị cho con đường nghiên cứu sau này 220 38.0

b. Làm theo sở thích 241 41.6

c. Bạn bè mời tham gia 29 5.0 3.Tham gia NCKH

d. Đó là môn học bắt buộc có tính điểm 89 15.4

a. Cố gắng làm bài và không có ý định sử dụng tài liệu 297 51.5

b. Hỏi bạn kế bên 208 36.0

c. Nếu thuận lợi sẽ xem tài liệu 48 8.2

4. Hành vi trong phòng thi d. Sử dụng tài liệu hay chép bài của bạn kế bên 24 4.2

a. Chia sẻ, giúp đỡ không suy nghĩ 197 34.1 5. Khi gặp b. Quan tâm giúp đỡ nhưng còn phải xem người đó là ai 314 54.4

c. Phải dè chừng kẻo “làm ơn mắc oán” 56 9.7

d. Không quan tâm, “phận ai nấy lo” 10 1.7 người bị hoạn nạn

a. Bất bình, lên án 310 54.3

b.Không dám tỏ thái độ dù biết là sai 142 24.9

c. Không phải việc của mình, không quan tâm 111 19.4 6. Trước những hành vi sai trái

d. Bao che nếu không hại gì đến mình 8 1.4

a. Hăng hái tham gia và coi đó là trách nhiệm của mình 382 67.7

b. Tham gia vì điều ấy mang lại lợi ích cho bản thân 158 28.0

c. Thoái thác, đùn đẩy trách nhiệm cho người khác 8 1.4

d. Từ chối thẳng và cho rằng đó không phải là công việc 16 2.8 7. Với các phong trào của nhà trường của mình

a. Kiên quyêt từ chối không xem 297 52.3

b. Lưỡng lự vừa muốn xem vừa không dám 172 30.3

c. Rủ thêm một số bạn khác cùng xem 28 4.9

d. Nhận lời ngay để xem nội dung ra sao 71 12.5 8. Với văn hoá phẩm không lành mạnh

a. Tham gia công tác xã hội 20 3.5

b. Học thêm ngoại ngữ, vi tính 197 34.7

c. Trò chuyện với bạn bè, người thân 133 23.5 9. Sử dụng thời gian

217 38.3

95 6.6

b. Phù hợp với điều kiện kinh tế gia đình 447 78.3

c. Đầy đủ tiện nghi để “không thua chị kém em” 7 1.2

22 3.9

rảnh rỗi d. Đọc báo, xem TV 10. Lựa a. Tiết kiệm, giản dị chọn cuộc sống vật chất d. Thật thoải mái và hợp mốt

Khi tìm hiểu về định hướng giá trị lối sống của sinh viên, chúng tôi còn quan tâm đến

một số hoạt động cơ bản trong đời sống của sinh viên – những biểu hiện của lối sống sinh

viên: học tập, giao tiếp - ứng xử, sinh hoạt cá nhân, qua đó để thấy được xu hướng lựa

chọn lối sống và các giá trị lối sống của sinh viên hiện nay.

Biểu hiện lối sống sinh viên trong học tập

Có thể nói hoạt động học tập chuẩn bị cho nghề nghiệp trong tương lai là hoạt động

chủ đạo của người sinh viên, hoạt động này thể hiện những nét đặc trưng nhất trong lối sống

sinh viên. Đối với hoạt động học tập của sinh viên, lối sống được thể hiện qua động cơ và

phong cách học tập của họ.

Biểu đồ 3.1: Động cơ học tập của sinh viên

0.9

4.6

18.3

Có tri thức và nghề nghiệp ổn định Có cơ hội để thành đạt Có bằng cấp và địa vị xã hội Để giống người khác

76.2

Kết quả nghiên cứu cho thấy: phần lớn sinh viên học đại học để có tri thức và nghề

nghiệp ổn định (76.2%). Những sinh viên học để mong có cơ hội thành đạt chỉ chiếm

18.3%. Số người học để có bằng cấp và địa vị xã hội rất ít (4.6%) và chỉ có 5 sinh viên

trong số sinh viên được hỏi đề cập đến học để giống như người khác (0.9%).

Tìm hiểu động cơ học tập của sinh viên các trường cho thấy có sự khác biệt ý nghĩa giữa trường ĐHSP, ĐHSPKT và ĐHBK. Kết quả kiểm nghiệm X2cho thấy: sinh viên ĐHSP

và ĐHSPKT quan tâm mục đích học vì tri thức và nghề nghiệp (83.8% và 78.4%) nhiều hơn

trường ĐHBK (66.5%), trong khi đó sinh viên trường ĐHBK quan tâm đến cơ hội để thành

đạt (26.4%) nhiều hơn hai trường còn lại (ĐHSP: 10.7% và ĐHSPKT: 7.9%) (xem phụ lục

07).

Sự khác nhau về động cơ học tập còn xảy ra ở những sinh viên có điều kiện kinh tế

khác nhau. Tỉ lệ sinh viên con nhà khá giả đi học để có tri thức và nghề nghiệp ổn định cao

hơn so với sinh viên có điều kiện kinh tế trung bình và khó khăn (82.4% so với 72.8% và

73.9%) (xem phụ lục 07).

Như vậy, động cơ học đại học của sinh viên tại TP.HCM đa dạng nhưng rất chính

đáng và phản ánh được sự nhạy cảm, năng động, bắt nhịp với yêu cầu của thời đại của sinh

viên và cũng phản ánh được yêu cầu phát triển của xã hội. Sống trong thời đại kinh tế tri

thức tất nhiên muốn có nghề nghiệp đòi hỏi nguồn lực người phải có tri thức khoa học kỹ

thuật ở trình độ nhất định mới có khả năng thích ứng với nhu cầu phát triển kinh tế xã hội.

Do đó mà việc sinh viên chọn con đường vào đại học để được chuẩn bị những tri thức khoa

học kỹ thuật hiện đại và có được nghề nghiệp ổn định để rồi có cơ hội sẽ thành đạt là một sự

định hướng giá trị đúng đắn và mang tính phổ biến trong thanh niên nói chung và tầng lớp

sinh viên nói riêng.

- Hành động trên lớp của sinh viên thể hiện qua bảng 3.20 cho thấy: cùng ngồi trên

ghế nhà trường trong một lớp học dưới sự hướng dẫn của giáo viên, chỉ có 38.5% số sinh

viên được hỏi xác nhận rằng trên lớp học họ nghe, ghi chép có suy nghĩ và tích cực xây

dựng bài. Những người ghi chép bài đầy đủ để thi cử lại chiếm tỉ lệ cao hơn (42.8%). Phải

chăng cách kiểm tra đánh giá hiện tại của các giáo viên còn quá nặng về lý thuyết nên số

đông sinh viên khi ngồi trên lớp học chủ yếu ghi chép để đối phó với thi cử. Có sinh viên

khi được hỏi cho là: “Có môn học chỉ cần ghi chép đầy đủ những gì giáo viên đọc ở trên lớp

là đã đủ để đi thi, không cần phải tham khảo thêm trong sách. Đó cũng là cách tiết kiệm thời

gian cho học tập”. Bên cạnh đó là cách học hiện nay của sinh viên “quá thụ động, lười suy

nghĩ và tính ỳ còn cao”. Một giáo viên đã nhận xét như vậy. Cũng giáo viên đó cho ý kiến:

“Nếu có đặt câu hỏi trên lớp thì số sinh viên tham gia phát biểu quá ít, hình như nhiệm vụ

của họ đến lớp học là chỉ để ngồi nghe giảng. Nếu không khéo sẽ không kịp thời gian để

giới thiệu và giảng bài mới”. Số sinh viên chỉ ghi chép những gì mình thích trong suốt thời

gian ngồi ở trên lớp chiếm 18.6%.

Khi xem xét về hành động trên lớp học giữa các năm học cho thấy có sự khác biệt ý

nghĩa giữa sinh viên năm I và năm IV (xem phụ lục 07). Tỉ lệ sinh viên năm nhất nghe, ghi

chép có suy nghĩ tích cực xây dựng bài (48.3%) cao hơn năm cuối (28.8%). Ngược lại sinh

viên năm cuối chỉ ghi những gì mình thích (26.3% so với 11.0%). Điều này phản ánh khá

chân thực phong cách học của sinh viên theo các năm học.

Biểu đồ 3.2: Sự khác biệt về hành động trên lớp học giữa sinh viên năm I và

50

Nghe, ghi chép có suy nghĩ và tích cực xây dựng bài

40

30

Ghi chép bài đầy đủ để thi cử

20

Chỉ ghi những gì mình thích

10

Không ghi chép bất cứ điều gì

0

Năm I

Năm IV

năm IV

- Nói đến hoạt động học tập của sinh viên không thể tách rời nghiên cứu khoa học.

Chính nghiên cứu khoa học là tiêu chí để phân biệt sự khác nhau giữa phương pháp học đại

học của sinh viên so với cách học của học sinh phổ thông. Kết quả nghiên cứu cho thấy, số

sinh viên tham gia nghiên cứu khoa học để chuẩn bị cho con đường nghiên cứu sau này

chiếm 38.0%. Số sinh viên làm theo sở thích lại cao hơn 41.6%. Bất cứ hoạt động nào khi

tham gia vào nếu chủ thể cảm thấy thích thú say mê sẽ mang lại hiệu quả. Đây cũng là

những lựa chọn mang tính rất tích cực và đúng với tính chất học ở đại học. Chỉ có 15.4% số

sinh viên được hỏi khi tham gia nghiên cứu khoa học vì đó là môn học có tính điểm. Có rất

ít sinh viên vì nể lời bạn bè mà tham gia nghiên cứu khoa học (5.0%).

Đặc điểm giới tính thể khiện khá rõ nét khi tham gia nghiên cứu khoa học. Tỉ lệ nam

sinh viên tham gia nghiên cứu khoa học theo sở thích cao hơn hẳn so với nữ sinh viên

(44.8% so với 37.1%), trong khi nữ cho rằng họ tham gia nghiên cứu khoa học vì đó là môn

học bắt buộc (nữ: 21.7% so với nam: 11.3%). Như vậy, nam sinh viên say mê với nghiên

cứu khoa học hơn nữ sinh viên (xem phụ lục 07).

Sinh viên giữa các trường tham gia nghiên cứu khoa học với mục đích không giống

nhau. Sinh viên trường ĐHSP và ĐHSPKT tham gia để Chuẩn bị cho con đường nghiên

cứu sau này (40.2%) cao hơn tỉ lệ của ĐHBK ( 33.8%). Sở dĩ có sự chênh lệch này là vì

sinh viên của trường ĐHSP và ĐHSPKT sau này sẽ là các nhà giáo, việc dạy học sẽ luôn

luôn gắn với nghiên cứu khoa học. Ngược lại, sinh viên trường ĐHBK lại tham gia nghiên

cứu theo sở thích nhiều hơn (47.4%) so với ĐHSP (34.0%) và ĐHSPKT (43.4%). Bên cạnh

đó, tỉ lệ sinh viên năm thứ nhất tham gia nghiên cứu khoa học để chuẩn bị cho con đường

nghiên cứu sau này cao hơn năm cuối (42.3% so với 33.8%) (xem phụ lục 07).

- Trong hoạt động học của sinh viên, kết quả học tập, sự nỗ lực cũng như tinh thần tự

giác còn được thể hiện một phần thông qua các kỳ thi. Có trên nửa số sinh viên khi bước

vào phòng thi, gặp đề thi ra ngay phần chưa học và giám thị có vẻ dễ tính thì họ vẫn cố gắng

làm bài và không có ý định sử dụng tài liệu (51.5%). Những sinh viên không thuộc bài tìm

cách hỏi bạn kế bên chiếm (36.0%). Trên số liệu thống kê, nếu cộng gộp cả hai lựa chọn này

lại, có thể thấy phần lớn sinh viên có ý thức nghiêm túc trong thi cử, đó là dấu hiện đáng

mừng. Còn lại số sinh viên Nếu thuận lợi sẽ xem tài liệu (8.2%) và Sử dụng tài liệu hay

chép bài của bạn kế bên (4.2%) không nhiều. Tuy nhiên, trên thực tế kết quả phỏng vấn sâu

một số giáo viên và sinh viên lại làm chúng ta phải suy nghĩ. Một số giáo viên tham gia coi

thi xác nhận: “chỉ cần giám thị hơi lơ là không nghiêm khắc trong khi coi thi là hầu hết sinh

viên trong phòng trao đổi với nhau, hoặc ngang nhiên mở tài liệu. Nếu bắt được sinh viên

mở tài liệu, tịch thu họ lại có tài liệu khác”. Ngoài ra, khi được hỏi sinh viên ở cả ba trường

đều phản ánh là hiện tượng mở tài liệu hay quay cóp trong khi thi là khá phổ biến. Có bạn

còn ngụy biện: “ sinh viên mà, quay cóp là chuyện thường”.

Kết quả kiểm nghiệm X2 cũng đã chỉ cho thấy có sự khác biệt ý nghĩa giữa ba trường

về hành động trong phòng thi của sinh viên. Tỉ lệ sinh viên ĐHSP (56.7%) và ĐHSPKT

(58.2%) không sử dụng tài liệu cao hơn ĐHBK (39.7%). Tuy vậy, sinh viên ĐHBK lại chọn

cách hỏi bạn kế bên nhiều nhất (42.3%), tiếp theo đó là ĐHSP (36.1%) và cuối cùng là

ĐHSPKT (29.6%). Như vậy, căn cứ vào tỉ lệ trả lời các lựa chọn, sinh viên ĐHSPKT

nghiêm túc nhất trong phòng thi (xem phụ lục 07).

60

50

Cố gắng làm bài và không sử dụng tài liệu

40

Hỏi bạn kế bên

30

Nếu thuận lợi sẽ sử dụng tài liệu

20

10

Sử dụng tài liệu hay chép bài của bạn

0

ĐHSP

ĐHSPKT

ĐHBK

Biểu đồ 3.3: Sự khác biệt về hành động trong phòng thi giữa các trường

Cho dù số sinh viên thực hiện những hành vi gian lận trong thi cử ở mức độ nào cũng

khó có thể chấp nhận, nhất là sinh viên các trường Sư phạm. Đây là một hiện tượng tiêu cực

cần sớm bài trừ.

Biểu hiện lối sống sinh viên trong quan hệ giao tiếp - ứng xử

Những hành vi biểu hiện thông qua quan hệ giao tiếp - ứng xử có thể cho chúng ta

biết trình độ văn hoá, văn minh, nhân cách và biết được lối sống của sinh viên. Kết quả ở

Bảng 3.18 cho thấy:

- Khi gặp người bị hoạn nạn, số sinh viên sẵn sàng chia sẻ giúp đỡ không suy nghĩ

chỉ chiếm 1/3 (34.1%), nhưng có trên phân nửa số sinh viên được hỏi đã chọn tiêu chí quan

tâm giúp đỡ nhưng còn phải xem người đó là ai (54.4%). Như vậy, việc sinh viên giúp đỡ

người khác một cách tình nguyên vô tư là không cao mà khi giúp ai đó họ đều xét đến ý

nghĩa việc họ làm và điều này còn tùy thuộc vào mối quan hệ giữa bản thân họ với người

được giúp. Từ kết quả này, kết hợp phỏng vấn sâu một số sinh viên cho thấy: số sinh viên

thực sự vô tư giúp đỡ người gặp hoạn nạn không nhiều. Một sinh viên phát biểu: “Ngày nay

thật giả lẫn lộn, không biết có phải họ gặp hoạn nạn thực sự hay chỉ giả bộ”. Ngoài ra, sinh

viên có vẻ rất dè dặt, xem xét trước khi giúp đỡ, có nhiều sinh viên thẳng thắn cho rằng

“nhiều khi làm ơn mắc oán, tốt hơn hết là không nên liên can tới ”. Đến đây chúng ta nhận

thấy có sự mâu thuẫn giữa nhận thức, thái độ và việc làm của sinh viên về các giá trị lối

sống: sự cảm thông, độ lượng, hy sinh trong nhóm giá trị đạo đức được sinh viên nhận thức

đúng và đặt ở vị trí quan trọng cũng như tỏ thái độ rất tích cực, nhưng việc làm của sinh

viên lại không đồng nhất. Như vậy, từ nhận thức đến hành động còn có khoảng cách khá xa

mà những người có trách nhiệm cần giúp sinh viên sớm rút ngắn.

Kết quả kiểm nghiệm X2 cũng chỉ ra có sự khác biệt giữa sinh viên tại TP.HCM và

sinh viên tỉnh trong cách ứng xử khi gặp người bị hoạn nạn (xem phụ lục 07): tỉ lệ sinh viên

ở tỉnh Chia sẻ, giúp đỡ không suy nghĩ nhiều hơn so với sinh viên TP.HCM (36,9% so với

29,7%), trong khi tỉ lệ sinh viên TP.HCM chọn Phải dè chừng kẻo làm ơn mắc oán lại cao

hơn (16.2% so với 4.5%). Có lẽ cách sống, lối sống của “người thành phố” trong đó có sinh

viên – ai biết người ấy, nên việc gì không liên quan đến họ thì họ phải dè chừng. Còn sinh

viên tỉnh vốn chân chất hơn, vô tư hơn nên khi thấy người khác gặp hoạn nạn họ chia sẻ

giúp đỡ không suy nghĩ.

Biểu đồ 3.4: Sự khác biệt giữa sinh viên TP.HCM và tỉnh khi gặp người bị hoạn

60

50

40

30

20

10

Chia sẻ giúp đỡ không suy nghĩ Giúp đỡ nhưng phải xem đó là ai Dè chừng kẻo "làm ơn mắc oán" Không quan tâm, "phận ai nấy lo"

0

TP.HCM

Tỉnh

nạn

- Trước những hành vi sai trái trong nhà trường và ngoài xã hội, số sinh viên có hành

vi cương quyết – bất bình lên án - chiếm tỉ lệ lạc quan: 54.3%. Điều này thể hiện sự thẳng

thắn, cương trực của tuổi trẻ. Chúng ta tin rằng cứ hai sinh viên thì có một luôn thẳng thắn

không chịu ngồi nhìn và bao che cho những hành vi sai trái. Số sinh viên chọn tiêu chí

không dám tỏ thái độ dù biết là sai chiếm 24.9%. Dù không nhiều nhưng điều này cũng làm

chúng ta đáng suy nghĩ. Có thể số người này sợ bị liên luỵ, họ không dám vì sợ hậu quả nên

nhắm mắt cho qua để khỏi dính líu đến mình. Có 19.4% trong số sinh viên được hỏi không

quan tâm đến những gì đang xảy ra xung quanh vì họ quan niệm rằng không phải việc của

mình, không quan tâm. Số còn lại chọn cách bao che nếu không hại gì đến mình không đáng

kể (1.4%).

Xem xét mối liên hệ giữa sinh viên các trường với những hành vi sai trái mà họ gặp

cho thấy có sự khác nhau về cách hành xử: tỉ lệ sinh viên ĐHSP bất bình lên án cao nhất

(63.2%), hơn hẳn hai trường còn lại, trong khi đó sinh viên ĐHBK lại không dám tỏ thái độ

dù biết là sai nhiều hơn (31.4% so với ĐHSP: 18.7% và ĐHSPKT: 24.5%). Như vậy, sinh

viên trường ĐHSP thẳng thắn, trung thực làm theo lẽ phải nhiều hơn (xem phụ lục 07).

- Khi nhà trường cần sinh viên tham gia chiến dịch Mùa hè xanh hoặc giúp đỡ đồng

bào bị thiên tai ở vùng xa, số sinh viên hăng hái tham gia ngay và coi đó là trách nhiệm của

mình chiếm 67.7%. Đó cũng là ưu điểm nổi bật đã và đang ngày càng được nhân rộng trong

thanh niên nói chung và trong sinh viên nói riêng. Những sinh viên tham gia vì thấy được

lợi ích cho bản thân không nhiều (28.0%). Số sinh viên Thoái thác, đùn đẩy trách nhiệm

cho người khác (1.4%) và từ chối thẳng và cho rằng đó không phải là công việc của mình là

không đáng kể (2.8%) . Qua đây chúng ta cũng nhận thấy phần lớn sinh viên tại TP.HCM có

lối sống tích cực, có trách nhiệm với xã hội.

Kết quả kiểm nghiệm X2 cho thấy có sự khác biệt ý nghĩa giữa các nhóm sinh viên

khi tham gia các phong trào của nhà trường (xem phụ lục 07).

Giữa nam và nữ: nữ hăng hái tham gia hơn nam (78.4% so với 60.9%), còn nam lại

quan tâm hơn đến yếu tố được lợi cho bản thân (nam: 33.3% so với nữ: 19.7%). Từ kết quả

này kết hợp với kết quả kiểm nghiệm t (về sự khác biệt nhận thức giữa nam và nữ ở nhóm

giá trị đạo đức: nữ cao hơn nam), chúng ta có thể khẳng định trong cuộc sống nữ giới hy

sinh vì người khác nhiều hơn, bao dung hơn, và độ lượng hơn nam giới.

Giữa các trường: tỉ lệ sinh viên ĐHSP và ĐHSPKT hăng hái tham gia cao hơn

ĐHBK (78.5% và 69.1% so với 55.7%). Trong khi đó có đến 36.5% sinh viên ĐHBK tham

gia vì thấy được lợi. Như vậy, tính tích cực xã hội của sinh viên ĐHBK thấp hơn nhiều so

với ĐHSP và ĐHSPKT. Có lẽ các tổ chức Đoàn, Hội sinh viên của hai trường này biết cách

vận động và lôi kéo sinh viên tham gia, bên cạch đó chính mục tiêu đào tạo của trường đã

góp phần không nhỏ trong quá trình nâng cao tính tích cực xã hội và tinh thần nhân văn,

nhân ái của sinh viên.

Giữa năm I và năm IV: tỉ lệ sinh viên năm nhất hăng hái tham gia nhiều hơn năm

cuối (74.9 so với 60.5%), trong khi đó sinh viên năm cuối tham gia vì được lợi nhiều hơn

(34.4% so với 21.9%). Có thể nói xu hướng lựa chọn lối sống của sinh viên năm cuối mang

tính cá nhân, vị kỷ hơn sinh viên năm nhất.

Giữa các khu vực: tỉ lệ sinh viên sống ở tỉnh hăng hái tham gia nhiều hơn sinh viên

TP.HCM (73.1% so với 54.1%), ngược lại nếu tham gia mà mang lại lợi ích cho bản thân

được sinh viên TP.HCM lựa chọn cao hơn (38.5% so với 22.2%). Như vậy, tính tích cực xã

hội của sinh viên sống ở tỉnh cao hơn so với sinh viên tại TP.HCM.

Biểu hiện lối sống sinh viên trong đời sống sinh hoạt cá nhân

Sinh hoạt cá nhân của sinh viên bao gồm nhiều hoạt động, trong nghiên cứu này,

chúng tôi chỉ tập trung vào một số khía cạnh như nhu cầu giải trí, sử dụng thời gian nhàn rỗi

và quan niệm về cuộc sống vật chất của sinh viên.

- Khi có người rủ xem phim có nội dung bị cấm, có 52.3% sinh viên được hỏi kiên

quyêt từ chối không xem. Như vậy, một nửa sinh viên làm chủ được bản thân mình không bị

lôi cuốn bởi những lời rủ rê từ phía bạn bè, đặc biệt họ ý thức được đó là loại văn hoá phẩm

đã bị cấm, không vì chỉ để thoả mãn tính tò mò, hiếu kỳ của mình mà vi phạm pháp luật.

Những người có thái độ chưa dứt khoát - lưỡng lự vừa muốn xem vừa không dám chiếm một

phần ba trong số sinh viên được hỏi (30.3%). Số sinh viên rủ thêm một số bạn khác cùng

xem chỉ chiếm 4.9%, nhưng số người tò mò, hiếu kỳ nhận lời ngay để xem nội dung ra sao

lại nhiều hơn (12.5%). Xét về mặt thống kê, dựa trên những con số này chúng ta có quyền

đánh giá: đối với văn hoá phẩm không lành mạnh, phần lớn sinh viên có sự lựa chọn đúng

đắn, thể hiện bản lĩnh của thanh niên và của người có học thức. Tuy nhiên, khi phỏng vấn

sâu một số sinh viên lại cho thấy có sự trái ngược: số sinh viên nhận lời xem phim có nội

dung cấm không ít. Một sinh viên nam đã xác nhận có trên 3 lần xem phim sex và cho rằng:

“quan trọng là cách xem, xem để biết về những vấn đề giới tính thì cũng chẳng sao”. Bạn N,

sinh viên trường ĐHSPKT chia sẻ: “Mới đầu không muốn xem, nhưng bạn bè rủ quá. Với

lại, tụi bạn xem ngay trong phòng, mọi cái đập vào mắt, không thể làm ngơ được”. Số sinh

viên thuê những phim có nội dung cấm về phòng xem không phải là hiện tượng hiếm thấy.

Một đĩa phim sex thuê với giá vài ngàn đồng, các bạn cùng rủ nhau xem và truyền tay nhau.

Một sinh viên khác cho biết: “Chiều tối, thấy các cửa phòng đóng kín mít là biết đang xem

phim tươi mát rồi”. Khi xâm nhập vào đời sống sinh viên, các bạn dùng cụm từ “3X” để gọi

tên các đĩa phim “con nhà nghèo”. Thật ra trong môi trường mà tất cả bạn bè xung quanh

mình đều làm như vậy thì bản thân phải có nghị lực mới có thể vượt qua cám dỗ, còn không

cũng sẽ làm giống như người ta. Đây là cách giải trí không lành mạnh cần chấn chỉnh ngay

trong đời sống sinh viên.

Giới tính thể hiện khá rõ rệt khi tìm hiểu sự khác nhau giữa nam và nữ về vấn đề này

(xem phụ lục 07).

Biểu đồ 3.5: Sự khác biệt giữa nam và nữ khi có người rủ xem phim cấm

100

80

60

40

20

Kiên quyết từ chối không xem Lưỡng lự vừa muốn vừa không dám Rủ thêm bạn khác cùng xem Nhận lời ngay

0

Nam

Nữ

Biểu đồ 3.5 cho thấy tỉ lệ nữ sinh viên kiên quyết từ chối không xem cao hơn rất

nhiều so với nam sinh viên (81.8% so với 34.5%), trong khi đó có 40% nam sinh viên trả lời

lưỡng lự vừa muốn xem vừa không dám. Có thể nói với văn hoá phẩm không lành mạnh, nữ

cương quyết bài trừ và không để tính tò mò hiếu kỳ lấn át.

Sinh viên giữa các trường cũng có sự khác nhau: tỉ lệ sinh viên ĐHSP kiên quyết

không xem cao hơn hẳn so với hai trường kia (70.8% so với ĐHSPKT: 46.7% và ĐHBK:

39.2%). Ngược lại, tỉ lệ sinh viên ĐHBK lưỡng lự vừa muốn xem vừa không dám (40.7%)

cao hơn hẳn so với ĐHSP (17.2%) và ĐHSPKT (33.0%). Có lẽ sinh viên ĐHSP và

ĐHSPKT sẽ là những thầy cô giáo trong tương lai, không những giỏi về chuyên môn mà

còn phải gương mẫu trước học trò, vì thế việc rèn luyện, tu dưỡng và tự ý thức của chính

bản thân từng sinh viên là điều rất cần thiết, nên họ kiên quyết từ chối hình thức giải trí

không lành mạnh, đặc biệt là sinh viên ĐHSP (xem phụ lục 07).

- Ngoài thời gian học ở trường, sinh viên sử dụng quỹ thời gian rảnh rỗi của mình

vào các công việc khác nhau. Một số ít trong số sinh viên được hỏi tham gia công tác xã hội

(3.5%). Số sinh viên học thêm ngoại ngữ và vi tính cao hơn nhiều (gấp mười lần, chiếm

34.7%). Khi có thời gian rảnh rỗi, có 23.5% sinh viên chọn cách trò chuyện với bạn bè và

người thân. Số đông là đọc báo, xem TV (38.3%). Như vậy, ngoài thời gian bắt buộc học ở

trường, sinh viên có nhiều lựa chọn cách thức giải trí cũng như tìm những việc làm có ích

cho xã hội và bản thân.

Kết quả kiểm nghiệm X2 ở mức ý nghĩa cho thấy: khi rảnh rỗi, sinh viên TP.HCM

học thêm ngoại ngữ, tin học nhiều hơn sinh viên tỉnh (47.7% so với 28.7%), trong khi sinh

viên tỉnh chọn cách trò chuyện với bạn bè và người thân nhiều hơn sinh viên TP.HCM

(26.9% so với 16.5%). Ở đây, đặc điểm của lối sống đô thị phản ánh rất rõ nét: người dân

thành phố luôn học và phải học nhiều để cạnh tranh và có cơ hội, còn những sinh viên tỉnh

mang đậm phong cách sống của những vùng, miền quê Việt nam (xem phụ lục 07).

- Trong cách lựa chọn cuộc sống vật chất của sinh viên cho thấy, đa số sinh viên lựa

chọn tiêu chí phù hợp với điều kiện kinh tế gia đình (78.3%). Sự lựa chọn này nói lên rằng

sinh viên biết cân đối hài hoà giữa nhu cầu của bản thân với điều kiện thoả mãn nhu cầu ấy.

Đó là tín hiệu rất đáng mừng trong sinh viên đang học tập tại TP.HCM.

Hiện nay ở nước ta đời sống vật chất đã được nâng cao, đặc biệt là tại TP.HCM, nơi

những sinh viên được hỏi trong cuộc nghiên cứu này đang sống và học tập. Sinh viên ở đây

sẽ phải hoà mình vào dòng chảy của lối sống, cách sinh hoạt của người dân thành phố, do

vậy số sinh viên lựa chọn tiêu chí tiết kiệm, giản dị cũng không nhiều (6.6%). Các tiêu chí

còn lại: đầy đủ tiện nghi để “không thua chị kém em” (1.2%) và thật thoải mái và hợp mốt

(3.9) được sinh viên chọn không đáng kể. Như vậy, đa số sinh viên không quan niệm là

người ta có gì mình phải có nấy mới là sành điệu, là thức thời.

Điều kiện kinh tế gia đình được phản ánh rất rõ trong cách lựa chọn cuộc sống vật

chất của sinh viên. Tỉ lệ sinh viên có hoàn cảnh kinh tế khó khăn chọn cách Tiết kiệm, giản

dị cao hơn hẳn so với nhóm sinh viên có điều kiện kinh tế gia đình trung bình và khá giả

(29.4% so với 11.0% và 18.8%). Hầu hết những sinh viên có điều kiện kinh tế gia đình ở

mức trung bình đã lựa chọn cho mình cuộc sống vật chất phải Phù hợp với điều kiện kinh tế

gia đình (85.7%). Kết quả này cho thấy xu hướng lựa chọn cuộc sống vật chất trong sinh

viên “rất sinh viên”- biết nhìn vào hoàn cảnh gia đình để lựa chọn cuộc sống vật chất cho

phù hợp (xem phụ lục 07).

Biểu đồ 3.6: Sự khác biệt trong cách lựa chọn cuộc sống vật chất giữa các sinh

viên có điều kiện kinh tế khác nhau

90

80

70

Tiết kiệm, giản dị

60

50

Phù hợp với điều kiện kinh tế gia đình

40

30

Đầy đủ để không "thua chị kém em"

20

Thoải mái và hợp mốt

10

0

Khó khăn

Trung bình

Khá

Tóm lại: Thông qua kết quả nghiên cứu các biểu hiện trong hoạt động học tập, trong

quan hệ giao tiếp - ứng xử và trong sinh hoạt cá nhân cho biết xu hướng lối sống của sinh

viên được bộc lộ như sau:

Trong hoạt động học tập:

Phần lớn sinh viên có động cơ học đại học đúng đắn, phù hợp với yêu cầu của nền

kinh tế thị trường và thời kỳ mở cửa hội nhập, sinh viên đi học là để có tri thức và nghề

nghiệp ổn định.

Mặc dù động cơ của sinh viên đã xác định rõ ràng nhưng trong quá trình học, tính

tích cực của họ còn chưa cao. Bên cạnh đó hình thức thi cử cũng đã khiến cho sinh viên

trong quá trình học rất “chịu khó ghi chép để có cái thi”. (ý kiến của sinh viên).

Ngoài hoạt động học, sinh viên còn tham gia nghiên cứu khoa học để chuẩn bị cho

con đường nghiên cứu sau này và họ cảm thấy thích thú khi tham gia hoạt động này. Đây là

những lý do rất tích cực khẳng định sinh viên hiện nay đã ý thức và quan tâm đến tầm quan

trọng của hoạt động nghiên cứu khoa học – phương pháp học điển hình của người sinh viên,

phát huy được tính tích cực chủ động và sáng tạo của người học.

Trong thi cử, số đông sinh viên tỏ ra khá nghiêm túc cho dù không thuộc bài và giám

thị có vẻ dễ tính. Tuy nhiên còn không ít sinh viên vẫn gian lận, chưa trung thực, gây nên sự

bất bình đẳng khi đánh giá kết quả học tập.

Biểu hiện lối sống sinh viên trong quan hệ - giao tiếp ứng xử

Số đông sinh viên tỏ ra là tầng lớp có học, hành xử mang tính nhân văn, nhân ái đối

với người gặp hoạn nạn. Khi gặp những hành vi sai trái, họ đã dám thẳng thắn lên án. Với

các phong trào tình nguyện, sinh viên tỏ rõ là tầng lớp tiên phong và là những người có

trách nhiệm với xã hội. Tuy vậy vẫn còn một số sinh viên tính toán, tư lợi, chưa có thói

quen giúp đỡ người khác một cách vô vị lợi hay thể hiện sự tình nguyện thật sự.

Biểu hiện lối sống sinh viên trong sinh hoạt cá nhân,

Phần đông sinh viên cương quyết từ chối không xem phim có nội dung cấm. Ngoài

thời gian học ở trường, sinh viên tham gia vào nhiều hoạt động khác nhau thể hiện tính nhạy

cảm năng động của sinh viên - học thêm ngoại ngữ và vi tính làm hành trang cho mình sau

khi ra trường. Ngoài ra, sinh viên còn cập nhật thêm tin tức qua việc đọc báo và xem TV.

Riêng cuộc sống vật chất, sinh viên biết cân đối hài hoà hợp lý giữa điều kiện kinh tế gia

đình với nhu cầu và sở thích của cá nhân. Như vậy, xu hướng lối sống của sinh viên khá là

cân đối, hài hoà, lành mạnh và mang tính nhân văn, phù hợp với truyền thống dân tộc và

thời đại. Song song với những điểm tích cực, sinh viên còn bộc lộ những mặt hạn chế trong

sinh hoạt cá nhân: đối với văn hoá phẩm không lành mạnh, còn không ít sinh viên chưa có

hành động từ chối dứt khoát, vẫn bị bạn bè rủ rê lối kéo, một số dù biết là bị cấm nhưng vẫn

nhận lời xem để thoả mãn tính tò mò, hiếu kỳ. Bên cạnh đó, tính tích cực xã hội của sinh

viên còn qúa thấp kể cả khi họ có thời gian rảnh rỗi.

3.3. Những yếu tố ảnh hưởng đến định hướng giá trị lối sống sinh viên

3.3.1. Ảnh hưởng của các yếu tố đến định hướng giá trị lối sống sinh viên

Bảng 3.21: Mức độ ảnh hưởng của các yếu tố đến định hướng giá trị lối sống

sinh viên

Các yếu tố ảnh hưởng rất nhiều và nhiều Trung bình Thứ hạng

28. Sự nhận thức của bản thân Tần số 553 % 94.7 3.48 1

2. Cách giáo dục của cha mẹ 91.3 539 3.48 2

30. Sự tu dưỡng và rèn luyện của bản thân 92.2 533 3.42 3

1. Sự gương mẫu của ông bà, cha mẹ 89.1 527 3.42 4

29. Tính cách của mỗi cá nhân 86.0 499 3.28 5

4. Nề nếp sinh hoạt gia đình 85.0 501 3.22 6

3. Truyền thống của gia đình 80.5 474 3.16 7

5. Điều kiện kinh tế gia đình 39.5 67.0 2.83 8

7. Cách giáo dục của thầy cô 67.7 398 2.81 9

6. Nhân cách, lối sống của thầy cô 59.6 352 2.70 10

21.Truyền thống của dân tộc 56.3 330 2.63 11

27. Chính sách coi trọng nhân lực, nhân tài của 59.7 348 2.62 12

nhà nước

8. Nề nếp, kỷ cương của nhà trường 329 55.9 2.60 13

22. Sách báo dạy làm người 316 54.2 2.53 14

26. Xu hướng Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá 305 52.7 2.53 15

của đất nước

15. Sự góp ý và phê bình của bạn bè 275 47.0 2.44 16

20. Hoạt động tuyên truyền trên các phương 247 42.3 2.40 17

tiện thông tin

11. Tính cách của bạn bè 254 43.2 2.35 18

9. Truyền thống của nhà trường 243 41.3 2.33 19

12. Lối sống của bạn bè 205 34.9 2.21 20

25. Tính cạnh tranh của nền kinh tế thị trường 202 34.9 2.16 21

16. Dư luận xã hội 172 29.4 2.07 22

10. Các hoạt động Đoàn, Hội sinh viên 131 25.6 2.05 23

13. Nề nếp sinh hoạt của bạn bè 167 28.4 2.05 24

18. Mạng Internet 170 29.1 2.03 25

24. Tính thực dụng của nền kinh tế thị trường 174 29.8 2.00 26

14. Sự rủ rê, lôi kéo của bạn bè 131 22.3 1.76 27

23. Tôn giáo 132 22.7 1.67 28

17. Các tệ nạn xã hội 122 20.7 1.59 29

19. Văn hóa phẩm không lành mạnh 70 12.1 1.34 30

Có 30 yếu tố ảnh hưởng đến lối sống và sự định hướng giá trị lối sống của sinh viên

thuộc sáu nhóm khác nhau được đưa ra để khảo sát trong sinh viên. Kết quả cho thấy: có

15/30 yếu tố được sinh viên lựa chọn có điểm trung bình > 2.5 đã thể hiện mức độ ảnh

hưởng của các yếu tố này đến sự lựa chọn lối sống và sự định hướng giá trị lối sống của sinh

viên tại TP.HCM.

Trước tiên là sự nhận thức của bản thân (TB: 3.48). Khi tham gia vào bất cứ hoạt

động nào, bản thân mỗi sinh viên là những chủ thể độc lập phải nhận thức được hoạt động

một cách sâu sắc. Nhận thức đúng mới có thái độ đúng và đi đến hành động đúng. Đây là

yếu tố có điểm trung bình xấp xỉ ở mức ảnh hướng rất nhiều. bản thân mỗi người phải có

khả năng nhìn nhận ra những điều đúng sai, phân biệt phải trái để quyết định lựa chọn cho

mình những giá trị phù hợp, lối sống tích cực.

Yếu tố thứ hai được sinh viên cho là có sự ảnh hưởng nhiều đến sự định hướng giá trị

lối sống của họ chính là cách giáo dục của cha mẹ (TB: 3.48). Đối với người Việt nam nói

riêng và người phương Đông nói chung gia đình luôn có vai trò rất quan trọng. Gia đình là

nơi lưu truyền các giá trị văn hoá của dân tộc, các giá trị sống làm người từ thế hệ này sang

thế hệ khác, mỗi cá nhân tiếp nhận nó một cách có chọn lọc và sáng tạo. Tuy nhiên việc hấp

thụ các giá trị văn hoá, đạo lý làm người của những đứa trẻ trong gia đình phụ thuộc rất

nhiều vào cách giáo dục của cha mẹ.

Đứng thứ ba là sự tu dưỡng và rèn luyện của bản thân (TB: 3.42). Đây là yếu tố

quyết định trong quá trình sống của sinh viên. Không ai khác có thể giúp đỡ họ thay đổi

trong cách sống mà chính bản thân họ phải nỗ lực. Yếu tố này được sinh viên lựa chọn ở

mức cao thể hiện sự chín chắn và sự phát triển cao về sự tự ý thức, tự đánh giá của sinh

viên. Kết quả này cũng rất phù hợp với lý luận Tâm lý học: Hoạt động của mỗi cá nhân giữ

vai trò quyết định đối với sự phát triển nhân cách con người. Như Ph.Ăngghen từng phân

tích về “Tình cảnh giai cấp công nhân Anh”: cùng một tình cảnh giống nhau nhưng ít nhất

trong giai cấp công nhân có hai phương thức hoạt động: một nhóm đấu tranh để cải thiện

tình hình, còn nhóm khác cam chịu buông trôi. Như vậy, trong bất cứ hoàn cảnh nào, nếu tự

bản thân sinh viên nỗ lực tu dưỡng rèn luyện và quyết vươn tới lối sống lành mạnh, tích cực,

biết chọn cho mình những giá trị cao đẹp thì họ sẽ là những người vượt lên tất cả để sống

đẹp và sống có ý nghĩa.

Xếp ở vị trí thứ tư là sự gương mẫu của ông bà, cha mẹ (TB: 3.42). Có thể nói những

bài học đầu tiên trong gia đình thường để lại ấn tượng sâu sắc trong mỗi cá nhân chính là sự

làm gương của ông bà cha mẹ. Không có lời dạy nào có tính thuyết phục bằng việc làm.

Chính “cách” làm của người lớn đã thuyết phục được con em mình làm theo mà không cần

phải lên lớp giảng giải.

Tính cách của mỗi cá nhân cũng ảnh hưởng khá rõ rệt đến hoạt động sống của sinh

viên (TB: 3.28). Theo lý luận Tâm lý học: tính cách là sự kết hợp độc đáo các đặc điểm tâm

lý ổn định của con người quy định phương thức hành vi điển hình của người đó trong những

điều kiện nhất định. Như vậy, khi đề cập đến tính cách của con người là nói đến hành vi, đó

là những hành vi quen thuộc biểu thị nhân cách thông qua lối sống của họ. Sinh viên thực

hiện những hành vi nào đều do tính cách của họ quy định.

Vị trí thứ 6, thứ 7 và thứ 8 cũng thuộc về nhóm yếu tố gia đình. Đó là: nề nếp sinh

hoạt gia đình (TB: 3.22), truyền thống của gia đình (TB: 3.16) và điều kiện kinh tế gia đình

(TB: 2.83). Điều này cho thấy, những yếu tố thuộc về gia đình vẫn có ảnh hưởng lớn đến lối

sống của sinh viên.

Cách giáo dục của thầy cô (TB: 2.81) và nhân cách, lối sống của thầy cô (TB: 2.70)

cũng có sự ảnh hưởng đáng kể đến lối sống của sinh viên. Những triết lý của cha ông ta đến

nay vẫn được thế hệ sinh viên thừa nhận: thầy là tấm gương cho người học noi theo, thầy có

giỏi thì trò mới giỏi.

Chính sách coi trọng nhân lực, nhân tài của nhà nước cũng là yếu tố được sinh viên

thừa nhận là có ảnh hưởng đến lối sống cũng như sự định hướng giá trị lối sống của họ.

Ngày nay thế hệ trẻ nói chung và sinh viên nói riêng rất trông mong vào những chế độ,

chính sách được các nhà lãnh đạo của đất nước sáng suốt và công bằng ra quyết định. Có

như vậy mới kích thích họ phấn đấu rèn luyện học tập và dấn thân cống hiến cho xã hội.

Nề nếp, kỷ cương của nhà trường là một yếu tố cũng giúp cho sinh viên trong các

trường học nghiêm chỉnh chấp hành những nội quy đã đề ra, có thói quen học tập nghiêm

túc.

Hai yếu tố cuối cùng trong bảng xếp hạng có ảnh hưởng đến lối sống sinh viên là

Sách báo dạy làm người và xu hướng Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá của đất nước hai yếu

tố này có điểm trung bình bằng nhau (TB: 2.53).

Như vậy, có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến lối sống của sinh viên, tuy nhiên hai nhóm

yếu tố ảnh hưởng nhiều nhất đến lối sống của họ nhóm yếu tố gia đình và nhóm yếu tố cá

nhân. Điều đáng ngạc nhiên là các yếu tố thuộc nhóm bạn bè lại không ảnh hưởng gì đến lối

sống của họ. Kết quả này chứng tỏ rằng sinh viên chọn cho mình lối sống nào, xem giá trị

nào là quan trọng hoàn toàn phụ thuộc vào bản thân họ, đồng thời nền tảng gia đình là vô

cùng quan trọng. Tuy sống trong hoàn cảnh có nhiều biến động về mọi mặt như hiện nay

nhưng nếu được sống trong một gia đình nề nếp, được giáo dục và đặc biệt là bản thân của

mỗi người biết hội nhập cho đúng với yêu cầu của thời đại và có sự nỗ lực vươn lên vượt

qua hoàn cảnh thì họ vẫn là những người trưởng thành về mặt nhân cách, có ích cho xã hội.

Qua đây chúng ta cũng nhận thấy: nhóm yếu tố thuộc về nhà trường có ảnh hưởng

đến sinh viên nhưng ở mức không cao. Thực tế cho thấy nhà trường hiện nay hầu như chỉ

tập trung bồi dưỡng cho sinh viên về mặt năng lực, còn mặt phẩm chất chưa được coi trọng.

Khi trò chuyện với các sinh viên, một số sinh viên khi được hỏi tên của các giáo viên bộ

môn, họ không thể nhớ nổi và cho rằng “học xong, thi xong là chúng em quên”. Khi hỏi một

sinh viên về ấn tượng của giáo viên đã dạy, sinh viên ấy trả lời rằng: “cô hay thầy có giọng

nói to, rõ, lôi cuốn không buồn ngủ”. Chỉ có một sinh viên trong số được hỏi đề cập tới một

cô giáo quan tâm đến sinh viên và hỏi thăm đời sống sinh viên. Một số giáo viên cũng nhận

định: “Với các tiết học được xếp như hiện nay, giáo viên đến lớp chỉ mong hoàn thành được

nội dung môn học đã là tốt rồi, khó mà có thời gian để tiếp xúc và tìm hiểu sinh viên của

mình”. Có lẽ nhà trường trong đó cụ thể là đội ngũ nhà giáo cần phải lưu ý: ngoài việc bồi

dưỡng để các em có được năng lực vào đời nên cố gắng sắp xếp có thời gian để tìm hiểu

sinh viên của mình cũng như bồi dưỡng cho các em phẩm chất – cách sống, lối sống để trở

thành những nhân cách toàn vẹn theo yêu cầu của xã hội. Ngoài ra, Đoàn Thanh niên và Hội

sinh viên cũng cần có những hoạt động thiết thực để lôi kéo sinh viên tham gia giúp sinh

viên có những kinh nghiệm sống tích cực và có lối sống đẹp cũng như biết lựa chọn những

giá trị phù hợp.

Tóm lại, trong 6 nhóm yếu tố ảnh hưởng đến định hướng giá trị lối sống sinh viên, nhóm

yếu tố bản thân có ảnh hưởng nhiều nhất (có điểm trung bình cao nhất: 3.40). Xếp thứ hai là

nhóm yếu tố gia đình (TB: 3.22). tiếp theo là nhóm yếu tố nhà trường (TB: 2.50). Nhóm yếu

tố ảnh hưởng ít nhất đến lối sống của sinh viên là văn hoá – xã hội. Điều đáng ngạc nhiên là

nhóm yếu tố bạn bè không ảnh hưởng nhiều trong khi đó lẽ ra phải là nhóm có tác động

mạnh bởi vì sinh viên là những người trẻ tuổi không thể không có bạn bè. Bạn bè là nơi họ

chia sẻ, tâm sự trong đời sống hàng ngày. Qua đây cũng thấy rằng tác động của gia đình và

bản thân mỗi sinh viên vẫn giữ vị trí hàng đầu trong việc hình thành lối sống của họ (xem

phụ lục 08).

3.3.2. Kết quả so sánh điểm trung bình về mức độ ảnh hưởng của các nhóm yếu

tố đến định hướng giá trị lối sống sinh viên theo phái tính, trường học, năm học, khu

vực và điều kiện kinh tế gia đình.

Kết quả so sánh theo phái tính

Bảng 3.22: Sự khác biệt giữa nam và nữ về mức độ ảnh hưởng của các yếu tố

Nam Nữ t p SD SD Trung bình Trung bình

Nhóm sinh viên Nhóm yếu tố Gia đình 3.21 0.549 3.24 0.540 -0.70 0.48

Nhà trường 2.44 0.672 2.58 0.629 -2.46 0.01

Bạn bè 2.22 0.708 2.08 0.653 2.33 0.02

Văn hoá - xã hội 2.07 0.552 1.98 0.577 1.70 0.09

Kinh tế 2.38 0.698 2.25 0.671 2.14 0.03

Cá nhân 3.34 0.580 3.50 0.550 -3.12 0.00

Kết quả kiểm nghiệm t ở mức α = 0.05 cho thấy: trong sáu nhóm yếu tố ảnh hưởng

đến lối sống và sự định hướng giá trị lối sống của sinh viên, có sự khác biệt ý nghĩa giữa

nam và nữ ở 4 nhóm yếu tố:

Sự khác biệt ý nghĩa giữa nam và nữ ở nhóm yếu tố nhà trường (t = -2.46, p = 0.01).

Trị số trung bình chỉ ra: nhóm yếu tố nhà trường có sự tác động mạnh đến nữ sinh viên hơn

nam sinh viên (2.58 so với 2.44). Sự thật thì chúng ta cũng nhận thấy, với đặc điểm của nữ

giới họ thường tuân thủ và làm theo những qui tắc, nề nếp mà nhà trường đã đề ra, hơn nữa

nữ luôn học hỏi, sống và làm theo gương mẫu của các thầy cô nhiều hơn nam giới.

Sự khác biệt ý nghĩa giữa nam và nữ ở nhóm yếu tố bạn bè (t = 2.33, p = 0.02). Nam

sinh viên có điểm trung bình cao hơn so với nữ sinh viên (2.22 so với 2.08). So với nữ, bạn

bè đã ảnh hưởng đến lối sống của nam nhiều hơn. Như vậy, trong lối sống, cách sống, phái

nữ thường nghe theo sự dạy dỗ của người lớn thì nam lại có khuynh hướng theo nhóm bạn

nhiều hơn.

Sự khác biệt ý nghĩa giữa nam và nữ ở nhóm yếu tố kinh tế (t = 2.14, p = 0.03). Ở

nhóm yếu tố này nam sinh viên bị ảnh hưởng nhiều hơn nữ sinh viên (2.38 so với 2.25).

Phải chăng cuộc sống của nam giới thực tế hơn nữ giới và vấn đề kinh tế luôn là trách

nhiệm của nam giới trong mỗi gia đình.

Sự khác biệt ý nghĩa giữa nam và nữ ở nhóm yếu tố bản thân cá nhân (t = -3.12, p =

0.00). Trong lối sống của mỗi cá nhân, ngoài những yếu tố môi trường xung quanh tác động

thì chính bản thân của mỗi người mới quyết định cho mình lối sống nào cũng như quyết

định lựa chọn những giá trị nào trong cuộc sống. Trong việc rèn luyện tu dưỡng bản thân và

sự tự nhận thức của bản thân ở nữ sinh viên cao hơn hẳn so với nam sinh viên (3.50 so với

3.34)

Kết quả so sánh theo trường học

Kết quả so sánh ở bảng 3.23 cho thấy: có sự khác biệt ý nghĩa giữa ba trường ở các

nhóm yếu tố: nhà trường, bạn bè và kinh tế:

Bảng 3.23: Sự khác biệt giữa các trường về mức độ ảnh hưởng của các yếu tố

ĐHSP ĐHSPKT ĐHBK

F p TB SD TB SD TB SD

Nhóm sinh viên Nhóm yếu tố Gia đình 3.23 0.545 3.23 0.543 3.21 0.548 0.10 0.90

Nhà trường 2.57 0.668 2.40 0.662 2.51 0.641 3.77 0.02

Bạn bè 2.01 0.709 2.24 0.632 2.24 0.704 7.69 0.00

Văn hoá - xã hội 1.96 0.547 2.07 0.527 2.07 0.605 2.47 0.08

2.22 0.678 2.39 0.704 2.36 0.678 3.59 Kinh tế 0.02

3.48 0.563 3.38 0.547 3.34 0.600 3.00 0.05 Cá nhân

Ở nhóm yếu tố nhà trường (F = 3.77, p = 0.02). Sự khác biệt xảy ra chủ yếu giữa

trường ĐHSP với trường ĐHSPKT. Trường ĐHSP có điểm trung bình cao hơn (2.57) so với

trường ĐHSPKT (2.40). Phải chăng sinh viên ĐHSP là những giáo viên trong tương lai vì

vậy mà tấm gương, nhân cách sống của thầy cô, những người trực tiếp dạy dỗ họ đã tác

động không nhỏ đến suy nghĩ và việc làm của sinh viên trường này. Còn sinh viên trường

ĐHSPKT, sau này ra trường họ không nhất thiết là giáo viên mà có thể là những kỹ sư trong

từng lĩnh vực đào tạo nhất định.

Sự khác biệt ở nhóm yếu tố bạn bè (F= 7.69, p = 0.00) cho thấy có sự đảo ngược về

trị số trung bình giữa trường ĐHSP và trường ĐHSPKT: trường ĐHSPKT lại có điểm trung

bình cao hơn so với trường ĐHSP (2.24 so với 2.01). Như vậy sinh viên trường ĐHSP là

nhóm chịu tác động từ phía bạn bè ít hơn cả (2.01) so với trường ĐHSPKT (2.24) và trường

ĐHBK (2.24).

Sự khác biệt giữa các trường ở nhóm yếu tố kinh tế (F= 3.59, p = 0.02). Căn cứ vào

điểm trung bình, một lần nữa sinh viên trường ĐHSPKT lại dẫn đầu – các yếu tố kinh tế chi

phối nhiều nhất (2.39) so với sinh viên trường ĐHSP (2.22) và sinh viên ĐHBK (2.36). Với

sinh viên trường ĐHSPKT, nhóm yếu tố kinh tế giữ vị trí khá quan trọng trong đời sống của

họ.

Kết quả so sánh theo năm học

Bảng 3.24: Sự khác biệt giữa sinh viên năm I và năm IV về mức độ ảnh hưởng của

các yếu tố

Năm IV Năm I t p SD SD

Nhóm sinh viên Nhóm yếu tố Gia đình Trung bình 3.21 0.549 Trung bình 3.24 0.539 -0.78 0.43

Nhà trường 2.52 0.653 2.48 0.667 0.84 0.39

Bạn bè 2.11 0.665 2.23 0.709 -2.18 0.02

Văn hoá - xã hội 1.98 0.561 2.08 0.561 -2.08 0.03

Kinh tế 2.31 0.675 2.33 0.709 -0.39 0.69

Cá nhân 3.43 0.555 3.37 0.593 1.24 0.21

Có sự khác biệt giữa năm thứ nhất và năm cuối ở hai nhóm yếu tố bạn bè (t = -2.18, p

= 0.02) và văn hoá – xã hội (t = -2.08, p = 0.03). Ở nhóm yếu tố bạn bè, sinh viên năm cuối

có điểm trung bình cao hơn so với sinh viên năm thứ nhất mới vào trường (2.23 so với

2.11). Có thể hiểu rằng, sinh viên năm cuối đã trải qua một thời gian dài trong đời sống sinh

viên, có nhiều bạn và thực sự có những tình bạn rất thân thiết và thuỷ chung cho nên không

có gì ngạc nhiên khi nhóm sinh viên này lại đặt nặng vai trò của bạn bè đối với họ trong

việc lựa chọn lối sống và các giá trị sống. Ngược lại, sinh viên năm nhất mới vào trường, họ

chưa có thời gian để tạo được những mối quan hệ bạn bè sâu sắc do đó mà đời sống của họ

chưa bị ảnh hưởng nhiều bởi mối quan hệ bạn bè.

Ở nhóm yếu tố văn hoá – xã hội, sự khác biệt giữa sinh viên năm nhất và năm cuối là

không đáng kể, chỉ có ý nghĩa về mặt thống kê. Điểm trung bình năm cuối chỉ hơi nhỉnh

hơn một chút so với năm nhất (2.08 so với 1.98).

Kết quả so sánh theo khu vực

Kết quả ở bảng 3.25 cho thấy không có sự khác biệt ý nghĩa giữa sinh viên sinh sống

tại TP.HCM hay sinh viên xuất thân từ các tỉnh. Định hướng các giá trị lối sống của sinh

viên không bị chi phối bởi hoàn cảnh địa lý.

Bảng 3.25: Sự khác biệt giữa sinh viên TP.HCM và sinh viên tỉnh

Tỉnh TP.HCM t

p SD SD Trung bính Trung bình Nhóm sinh viên Nhóm yếu tố

Gia đình 3.18 0.580 3.26 0.512 -0.97 0.33

Nhà trường 2.44 0.748 2.54 0.636 -1.02 0.30

Bạn bè 2.28 0.695 2.15 0.710 1.38 0.16

Văn hoá - xã hội 2.07 0.609 2.02 0.563 0.60 0.54

Kinh tế 2.41 0.695 2.27 0.729 1.44 0.15

Cá nhân 3.39 0.659 3.41 0.536 -0.37 0.70

Kết quả so sánh theo điều kiện kinh tế gia đình

Bảng 3.26: Sự khác biệt giữa sinh viên có điều kiện kinh tế gia đình khác nhau về

mức độ ảnh hưởng của các yếu tố

Khó khăn Trung bình Khá

F p TB SD TB SD TB SD

Nhóm sinh viên Nhóm yếu tố Gia đình 3.21 0.619 3.22 0.536 3.28 0.535 0.33 0.71

Nhà trường 2.49 0.680 2.52 0.685 2.63 0.577 0.92 0.39

Bạn bè 2.10 0.814 2.19 0.648 2.19 0.769 0.44 0.64

Văn hoá -xã hội 1.94 0.538 1.98 0.565 2.10 0.591 1.57 0.20

2.32 0.718 2.24 0.729 2.31 0.627 0.33 0.71 Kinh tế

3.49 0.505 3.34 0.708 3.48 0.524 1.72 0.18 Cá nhân

Không có sự khác biệt ý nghĩa giữa những sinh viên có điều kiện kinh tế khác nhau.

Điều đó khẳng định rằng trong việc định hướng các giá trị lối sống, sinh viên không bị chi

phối bởi điều kiện sống.

Kết luận: Theo kết quả kiểm nghiệm cho thấy các nhóm yếu tố ảnh hưởng đến định

hướng giá trị lối sống sinh viên là tương đối giống nhau, sự khác biệt ý nghĩa chỉ bắt gặp

giữa nam và nữ (nhóm yếu tố nhà trường: nữ chịu ảnh hưởng nhiều hơn nam, nhóm yếu tố

bạn bè và kinh tế: nam chịu ảnh hưởng nhiều hơn nữ, nhóm yếu tố bản thân: nữ chịu ảnh

hưởng nhiều hơn nam), giữa các trường (ở nhóm yếu tố nhà trường- ĐHSP chịu ảnh hưởng

nhiều nhất, ở nhóm yếu tố bạn bè và kinh tế sinh viên ĐHSPKT bị ảnh hưởng nhiều hơn

cả), giữa năm nhất và năm cuối ở nhóm yếu tố bạn bè và nhóm yếu tố văn hoá – xã hội, cả

hai nhóm yếu tố này sinh viên năm cuối chịu tác động nhiều hơn năm nhất.

3.4. Nguyên nhân khiến sinh viên lựa chọn lối sống và những giá trị lối sống trên

Lối sống sinh viên là một phạm trù rất rộng, biểu hiện qua nhiều mặt trong cuộc sống

của sinh viên. Là mặt biểu hiện của nhân cách của con người, lối sống được hình thành và

phát triển trong quá trình sống, nó sẽ được biến đổi và hoàn thiện theo những tác động của

đời sống xã hội, nhất là sự tăng trưởng về kinh tế, mức sống, tiện nghi, phương tiện thông

tin đại chúng và giao lưu văn hoá.

Để tìm hiểu về nguyên nhân sâu xa khiến cho sinh viên tại TP.HCM lựa chọn lối

sống và định hướng giá trị lối sống như vậy, người nghiên cứu đưa ra những câu hỏi mở để

thu thập ý kiến.

Như đã được đề cập ở trên, đa số sinh viên tại TP.HCM lựa chọn cho mình lối sống

lành mạnh, có văn hoá, văn minh, nhân ái và tự do. Tuy nhiên những lối sống vật chất, thực

dụng, ích kỷ, xa hoa và lập dị vẫn được một số ít sinh viên lựa chọn.

Về định hướng giá trị lối sống của sinh viên: Hầu hết sinh viên tại TP.HCM có nhận

thức đúng đắn và có thái độ tích cực đối với các nhóm giá trị trong lối sống. Một số hành vi

tích cực được sinh viên thực hiện một cách thường xuyên.Tuy nhiên, bên cạnh đó trong sinh

viên còn tồn tại những hành vi tiêu cực rất đáng để những người có trách nhiệm phải xem

xét. Mặt khác chưa có sự thống nhất giữa nhận thức, thái độ và hành vi của sinh viên.Vậy

đâu là nguyên nhân?

Khi phân tích nội dung các nguyên nhân thu thập ý kiến từ phía các bạn sinh viên,

người nghiên cứu tổng hợp lại bao gồm những nhóm nguyên nhân cơ bản sau:

- Từ phía gia đình: Có thể nói gia đình là trường học đầu đời của mỗi người, ở đó

mỗi cá nhân học được cách sống, cách cư xử. Nhân cách được hình thành phần lớn là trong

gia đình. Lối sống, nếp sống của gia đình được phản ánh qua lối sống nếp sống của từng

thành viên.

- Sự phát triển của kinh tế xã hội (xu thế toàn cầu hoá): Công cuộc đổi mới kinh tế,

xã hội ở Việt nam đang tạo ra những chuyển biến về lối sống và định hướng giá trị. Đất

nước Việt nam chuyển mình từ một nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế

nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường đã mang lại những lợi ích không nhỏ về

mặt kinh tế, tạo sự phát triển xã hội. Chính sự đổi mới này làm cho người Việt nam nói

chung và thanh niên trong đó có sinh viên đã phải thay đổi cách sống, lối sống cho phù hợp

– linh hoạt, nhạy bén, sáng tạo; có cá tính, có tinh thần độc lập tự chủ; có năng lực cạnh

tranh và hợp tác; có khả năng tự hoàn thiện mình [63, tr.68]. Sinh viên cũng đã thể hiện

mình là những người khá năng động, biết lựa chọn những giá trị của thời đại bên cạnh các

giá trị truyền thống của dân tộc.

Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực của xu thế toàn cầu hoá kinh tế đang kéo

theo toàn cầu hoá về văn hoá. Các nước dường như đang xích lại gần nhau bởi sự nối mạng

internet. Những trào lưu mới, phong cách sống mới đã xâm nhập vào nước ta mà người ta

cho đó là mặt trái của sự đổi mới. Thanh niên sinh viên là những người trẻ, bắt nhịp với cái

mới nhanh nhưng lại thiếu tính chọn lọc đã đưa đến sự học đòi, bắt chước từ nếp suy nghĩ,

cách ăn mặc, cách thể hiện bản thân nhiều khi đưa đến sự lố bịch trong lối sống và bị cho là

“những căn bệnh của thời đại” trong giới trẻ, thậm chí có một số sinh viên tha hoá đạo đức,

sa vào các tệ nạn xã hội và vòng phạm pháp.

- Môi trường sống xung quanh cá nhân (gia đình, nhà trường và xã hội). Lối sống

xuất phát từ những động cơ của mỗi cá nhân nhưng nó lại được hình thành chủ yếu từ môi

trường xung quanh cá nhân đó. Theo lý luận tâm lý học đó là sự ảnh hưởng của môi trường

sống đến sự hình thành và phát triển nhân cách. Trong môi trường sống của sinh viên bao

gồm: gia đình đã được đề cập ở trên; nhà trường với những thể chế nhất định giúp sinh viên

theo đúng những kỷ cương, nội quy đã đề ra, để họ trở thành những người có văn hoá, có

học trong lối sống; môi trường xã hội, đặc biệt những khu vực phòng trọ hay khu dân cư nơi

sinh viên sống và học tập ảnh hưởng rất nhiều đến cách sinh hoạt giải trí trong lối sống.

- Tự bản thân mỗi cá nhân: Mỗi sinh viên đều đã có thể nhận thức được những ưu và

khuyết điểm của chính bản thân để lựa chọn cho mình lối sống phù hợp hay hướng đến

những giá trị cao đẹp trong cuộc sống. Có nhiều sinh viên tìm cho mình lối sống đẹp, thể

hiện mình là người được giáo dục. Bên cạnh đó, một số sinh viên đã không vượt qua được

chính bản thân mình chạy theo lối sống không phù hợp với truyền thống đạo đức của người

Việt nam. Không làm chủ được bản thân nên những sinh viên này dễ dàng bị lôi kéo bởi

những bạn bè xấu, bị thói xấu tiêm nhiễm. Mặt khác, đa phần những sinh viên được khảo sát

trong nghiên cứu tại TP.HCM xuất thân từ các tỉnh vì vậy mà khi lên thành phố học, họ xa

gia đình thiếu sự kiểm soát của gia đình, nếu họ không tự bảo vệ mình, không tạo cho mình

được “hàng rào miễn dịch” trước những tệ nạn xã hội tại Thành phố này sẽ dễ dàng chạy

theo lối sống không lành mạnh.

Nằm trong nhóm nguyên nhân thuộc về bản thân mỗi cá nhân còn xuất hiện một lý

do nữa đáng làm chúng ta quan tâm đó là tâm lý lứa tuổi sinh viên: muốn khẳng định mình,

chứng tỏ mình với người khác. Theo chiều hướng tích cực, sinh viên sẽ khẳng định mình

bằng lối sống đẹp có văn hoá, lựa chọn những giá trị đích thực cho sự phát triển của bản

thân và xã hội. Điều này được biểu hiện qua thành tích học tập và các hoạt động xã hội của

sinh viên. Theo chiều hướng tiêu cực, đó là những sinh viên lơ là trong học tập, họ chỉ lo tập

trung vào chưng diện, ăn chơi để thể hiện đẳng cấp với các bạn khác để rồi sa đà vào các tệ

nạn xã hội.

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

Kết luận

Lối sống sinh viên là một phạm trù rất rộng, thể hiện một cách đa dạng trong các hoạt

động sống của họ. Trong giới hạn của đề tài, chúng tôi tập trung chủ yếu nghiên cứu định

hướng giá trị lối sống sinh viên trên bình diện Tâm lý học nhân cách. Kết quả nghiên cứu đã

thực hiện được như sau:

1.1 Về mặt lý luận

Định hướng giá trị lối sống sinh viên là sự nhận thức, đánh giá và lựa chọn các giá trị

trong các hoạt động sống đặc trưng của họ. Nó có ý nghĩa thúc đẩy, điều chỉnh thái độ và

hành vi của sinh viên nhằm đạt tới những giá trị đó trong những điều kiện chủ quan và

khách quan nhất định. Định hướng giá trị lối sống này bị ảnh hưởng bởi gia đình, nhà

trường, bạn bè, văn hoá – xã hội, kinh tế và chính bản thân mỗi cá nhân.

1.2. Kết quả nghiên cứu thực tiễn định hướng giá trị lối sống sinh viên:

1.2.1. Về sự lựa chọn lối sống của sinh viên

Đa số sinh viên TP.HCM lựa chọn cho mình lối sống lành mạnh, văn hoá, văn minh,

muốn sống hoà đồng với mọi người. Họ là những người trẻ tuổi muốn có một lối sống tự do

nhưng giản dị và biết kết hợp với lối sống truyền thống dân tộc. Sự lựa chọn lối sống của

sinh viên khá đồng nhất với sự lựa chọn lối sống của giới trẻ hiện nay, tuy nhiên ở sinh viên

nổi bật hơn là lối sống nhân văn và có văn hoá.

Mặc dù vậy, vẫn còn một số ít sinh viên còn chọn cho mình những kiểu lối sống

không phù hợp với đại đa số như lối sống xa hoa, lập dị, thực dụng và ích kỷ. Đây là những

lối sống chưa thực sự phù hợp và cần được định hướng đúng đắn hơn.

1.2.2. Khảo sát về định hướng giá trị lối sống sinh viên:

Hầu hết sinh viên TP.HCM có nhận thức khá đúng đắn về các nhóm giá trị lối sống.

Điểm trung bình đã chỉ ra: từ các giá trị nhân văn (TB:3.30) đến các giá trị đạo đức

(TB:3.12), giá trị chính trị - pháp luật (TB:3.25) cũng như các giá trị kinh tế (TB: 3.10) đều

được sinh viên ý thức và đặt ở mức quan trọng khá cao.

Bên cạnh đó, sinh viên có thái độ khá tích cực đối với các nhóm giá trị lối sống

(Điểm TB của nhóm giá trị nhân văn: 3.25, nhóm giá trị đạo đức: 2.71, nhóm giá trị chính

trị - pháp luật: 2.90 và nhóm giá trị kinh tế: 2.60). Như vậy, thái độ của sinh viên đồng nhất

với nhận thức của họ về các giá trị lối sống.

Trong các biểu hiện lối sống của sinh viên, những việc làm mang tính nhân văn nhân

ái, thấm đượm tình người, biểu hiện lối sống văn minh, văn hoá được khá đông sinh viên

thường xuyên thực hiện (>60%). Tuy vậy có những việc làm tích cực của sinh viên không

mang tính phổ biến mà chỉ có một bộ phận sinh viên thực hiện.

Những hành vi tiêu cực hay những hiện tượng lệch chuẩn còn tồn tại khá nhiều trong

lối sống sinh viên hiện nay mà tiêu biểu là: thích chưng diện (62.7%), trốn học bỏ tiết

(60.5%), lơ là trong học tập (55.3%), không đúng giờ đúng hẹn (53.5%) và tiêu xài lãng phí

(52.0%). Tất cả những tiêu cực mà sinh viên thẳng thắn nhìn nhận cần sớm được khắc phục

và loại trừ.

Xu hướng lựa chọn lối sống và những giá trị lối sống trong sinh viên ngày nay cho

thấy: sinh viên luôn có nhu cầu hoàn thiện tri thức để sau này có nghề nghiệp ổn định, đây

là xu hướng phổ biến nhất trong biểu hiện học tập của sinh viên (76.2%) Sinh viên tham gia

nghiên cứu khoa học vì nhiều mục đích khác nhau nhưng số sinh viên tham gia vì thích thú

chiếm nhiều hơn cả (41.6%). Ngoài những sinh viên nghiêm túc trong phòng thi (51.5%)

còn nhiều sinh viên quay cóp, gian lận trong thi cử. Ngoài ra, phương pháp học tập của sinh

viên trên lớp cần phải xem xét lại bởi vì họ còn thụ động, tính tích cực chưa cao và còn quá

chú tâm vào việc ghi chép để đối phó với thi cử.

Trong quan hệ giao tiếp ứng xử: đa phần sinh viên có những hành vi ứng xử lành

mạnh dựa trên chuẩn mực đạo đức của con người, dám thẳng thắn lên án những hành vi sai

trái và tỏ rõ là tầng lớp có trách nhiệm với những hoạt động của xã hội.

Trong đời sống sinh hoạt cá nhân, số đông sinh viên cương quyết từ chối không xem

phim đã bị cấm (52.3%). Ngoài thời gian học trên lớp họ còn trang bị cho nghề nghiệp sau

này bằng cách học thêm ngoại ngữ, vi tính. Riêng cuộc sống vật chất, đa số sinh viên lựa

chọn phù hợp với điều kiện kinh tế gia đình (78.3%), biết cân đối hài hoà giữa điều kiện

sống với nhu cầu và sở thích của cá nhân. Như vậy, sự lựa chọn lối sống và các giá trị lối

sống sinh viên khá là cân đối, hài hoà, lành mạnh và mang tính nhân văn, phù hợp với

truyền thống dân tộc và thời đại.

1.2.3. Những yếu tố ảnh hưởng đến lối sống và định hướng giá trị lối sống sinh

viên

Nhóm yếu tố ảnh hưởng nhiều nhất đến lối sống và sự định hướng giá trị lối sống

sinh viên là nhóm yếu tố cá nhân và nhóm yếu tố gia đình trong đó phần lớn là sự tự nhận

thức của bản thân (94.7%), sự tự tu dưỡng và rèn luyện của bản thân (92.2%) và cách giáo

dục của cha mẹ (91.3%). Không phải do yếu tố văn hoá – xã hội bên ngoài tác động chi phối

đến định hướng giá trị lối sống sinh viên mà chính bản thân mỗi cá nhân quyết định cùng

với nền tảng của gia đình. Nhóm yếu tố văn hoá – xã hội: một trong nhóm yếu tố có ảnh

hưởng ít nhất đến định hướng gia trị lối sống sinh viên, ngược lại với giả thuyết của người

nghiên cứu. Điều ngạc nhiên là nhóm yếu tố bạn bè lại ảnh hưởng không đáng kể đến định

hướng giá trị lối sống sinh viên.

2. Kiến nghị

Để giúp sinh viên nói chung và sinh viên tại TP.HCM nói riêng có được lối sống tích

cực và lành mạnh, định hướng các giá trị lối sống một cách hài hoà và đúng đắn, phù hợp

với thời đại nhưng vẫn đậm đà bản sắc dân tộc trong điều kiện sống cụ thể hiện nay, người

nghiên cứu xin kiến nghị:

2.1. Đối với các cấp lãnh đạo nhà trường, cần nâng cao nhận thức về tầm quan trọng

của việc giáo dục lối sống cho sinh viên bởi vì lối sống sinh viên chính là sản phẩm của nhà

trường – biểu hiện của nhân cách. Lối sống ấy phải phản ánh được những yêu cầu về nhân

cách của những người tri thức trẻ, những yêu cầu của thời đại. Đây vừa là mục tiêu vừa là

điều kiện để nâng cao chất lượng giáo dục đại học để đáp ứng yêu cầu của xã hội trong thời

kỳ hội nhập.

2.2. Tại các trường nên đổi mới nội dung và hình thức giáo dục đạo đức, tư tưởng

chính trị cho sinh viên để họ hình thành cho mình quan điểm sống đúng đắn, bằng cách đưa

nội dung giáo dục các giá trị sống vào những buổi sinh hoạt chính trị đầu năm nhằm giúp

sinh viên hướng vào các giá trị cơ bản của nhân loại: nhân văn, nhân ái, có đạo đức có lý

tưởng, hoài bão, tôn trọng luật pháp và có ý thức về dân tộc và thời đại vì tất cả những điều

đó hình thành nên tính tích cực trong lối sống sinh viên.

2.3. Cần chú ý quan tâm đổi mới phương pháp dạy của giáo viên để sinh viên có cách

học phù hợp, từ đó phát huy được tính tích cực chủ động, tư duy sáng tạo của sinh viên -

một mặt tích cực của lối sống trong học tập. Nghiêm minh hơn nữa trong công tác kiểm tra

và đánh giá, kiên quyết chống lại những hiện tượng tiêu cực trong thi cử và kiểm tra đánh

giá. Nên phát động phong trào học tập và nghiên cứu khoa học trong sinh viên thông qua

những hình thức phù hợp, có thi đua khen thưởng thích đáng.

2.4. Nêu gương người tốt việc tốt, bên cạnh đó những người có trách nhiệm giáo dục

giá trị lối sống cho sinh viên phải là tấm gương sáng về lối sống, bởi vì tất cả các giá trị lối

sống ấy không dừng lại ở nhận thức mà phải được sinh viên chuyển vào trong những hành

động cụ thể.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bùi Vân Anh (2006), “Bước đầu tìm hiểu thái độ của nữ sinh viên về sống thử”,

Tạp chí Tâm lý học, (2), tr.60 - 63.

2. Nguyễn Ngọc Bích (1998), Tâm lý học Nhân cách, Nxb Giáo dục.

3. Tony Bilton, Kenvin Bonnett, Philip Jones, Michelle Stanworth, Ken Sheard

Andrew Welster (1993), Nhập môn Xã hội học, Viện xã hội học, Hà Nội..

4. Phạm Xuân Cảnh (1996), Tình hình nếp sống của sinh viên Hà Nội - Thực trạng

và giải pháp, Hội sinh viên Tp. Hà Nội.

5. Vũ Đình Chiến (1998), Hình thành nhân cách và chiến lược nhân lực, Đề cương

bài giảng, Trường Cán bộ quản lý Giáo dục và Đào tạo II, TP.HCM.

6. Covaliop A.G. (1971), Tâm lý học cá nhân, Tập 1, 2, Nxb Giáo dục, Hà nội.

7. Võ Thị Cúc (1997), Văn hoá gia đình với việc hình thành và phát triển nhân

cách trẻ em, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.

8. Daxêpin V.I (1977), “Lối sống XHCN và sự phát triển về mặt tinh thần của con

người”, Tạp chí Triết học, (số1(20/80)).

9. Dương Tự Đam (1996), Định hướng giá trị của thanh niên- sinh viên trong sự

nghiệp đổi mới ở Việt nam, Luận án PTS Khoa học Triết học, Hà Nội.

10. Dương Tự Đam (1999), Gia đình trẻ và việc hình thành nhân cách thanh niên,

Nxb Thanh niên, Hà Nội.

11. Dương Tự Đam (1999), Những phương pháp tiếp cận thanh niên hiện nay, Nxb

Thanh niên, Hà Nội.

12. Dương Tự Đam (2000), Bản lĩnh thanh niên sinh viên hiện nay, Nxb Thanh

niên, Hà Nội.

13. Đảng Cộng sản Việt nam (1986), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ

VI, Nxb Sự thật, Hà Nội.

14. Đảng Cộng sản Việt nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ

VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

15. Đảng Cộng sản Việt nam (1998), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban chấp

hành Trung ương khoá VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

16. Phạm Ngọc Định (2000), Quy trình hình thành hành vi lối sống chuẩn mực ở

học sinh lớp Một theo quan điểm công nghệ giáo dục”, Luận án Tiến sĩ Tâm lý học,

Hà Nội.

17. Trần Độ (chủ biên), Quang Đạm, Lê Như Hoa, Nguyễn Văn Hy, Lê Anh Trà,

Nguyễn Khắc Viện, Hoàng Vinh (1983), Bàn về lối sống và nếp sống XHCN, Nxb

Văn hoá, Hà Nội.

18. Trần Thị Minh Đức, Nguyễn Quang Uẩn, Ngô Công Hoàn, Hoàng Mộc Lan

(1995), Tâm lý học đại cương, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

19. Trần Thị Minh Đức (1995), “Ảnh hưởng của môi trường ký túc xá sinh viên đến

lối sống của sinh viên nội trú”, Tạp chí Phát triển giáo dục, (6).

20. Trần Văn Giàu (1993), Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt nam,

Nxb Tp, Hồ Chí Minh.

21. Nguyễn Hồng Hà (2005), Môi trường văn hoá với việc xây dựng lối sống con

người Việt nam, Nxb Văn hoá - Thông tin.

22. Phạm Minh Hạc, Nguyễn Khoa Điềm (2003), Về sự phát triển và xây dựng con

người thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

23. Phạm Minh Hạc (1996), Phát triển giáo dục, phát triển con người phục vụ phát

triển xã hội - kinh tế, Nxb Khoa học xã hội.

24. Phạm Minh Hạc (2004), Một số vấn đề về nghiên cứu nhân cách, Nxb Chính trị

quốc gia, Hà Nội.

25. Nguyễn Hồng Hải (2004), “Bàn về nếp sống văn minh trong tuổi trẻ hiện nay”,

Tạp chí Thanh niên, (22), tr.16.

26. Lê Như Hoa (2003), Bản sắc dân tộc trong lối sống hiện đại, Nxb Văn hoá –

Thông tin.

27. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (1993), Văn hoá xã hội chủ nghĩa,

Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

28. Nguyễn Ánh Hồng (2002), Phân tích về mặt tâm lý học lối sống của sinh viên

thành phố Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay, Luận án tiến sĩ Tâm lý học, Hà

Nội.

29. Nguyễn Khắc Hùng, Phạm Hồng Quang (2001), “Thực trạng lối sống của sinh

viên đại học Sư phạm Thái Nguyên”, Tạp chí Đại học và Giáo dục chuyên nghiệp,

(1), tr. 20 - 22.

30. Văn Hùng (1994), “Thanh niên với lối sống thời mở cửa”, Tạp chí Thông tin

khoa học Thanh niên

31. Đỗ Huy (1993), Sự chuyển đổi các giá trị trong văn hoá Việt nam, Nxb Khoa

học Xã hội, Hà Nội.

32. Trương Đình Bảo Hương (1999), Thực trạng lối sống của học sinh, sinh viên

Tp.Hồ Chí Minh và phương hướng giáo dục lối sống đó, Luận văn Thạc sĩ, Tp.Hồ

Chí Minh.

33. Lê Hương (2003), “Đánh giá định hướng giá trị của con người”, Tạp chí Tâm lý

học, (7), tr. 1-3.

34. Đặng Cảnh Khanh (2003), Gia đình, trẻ em và sự kế thừa các giá trị truyền

thống, Nxb Lao động, Hà Nội.

35. Nguyễn Công Khanh (2001), Phương pháp nghiên cứu - Thiết kế, thích nghi và

chuẩn hoá công cụ đo lường trong các khoa học xã hội, Viện Khoa học Giáo dục, Hà

Nội.

36. Vũ Khiêu (1983), “Lối sống là gì”, Tạp chí Xã hội học, (7).

37. Nguyễn Thị Khoa (1996), Định hướng giá trị chất lượng cuộc sống gia đình

của nữ trí thức hiện nay, Luận án phó tiến sỹ Tâm lý học, Viện nghiên cứu Khoa học

Giáo dục, Hà Nội.

38. Trần Ngọc Khuê (1998), Xu hướng biến đổi tâm lý xã hội trong quá trình

chuyển sang nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay, Nxb Chính trị Quốc gia. Hà

Nội.

39. Nguyễn Lân (1989), Từ điển Hán - Việt, Nxb TP.HCM.

40. Thanh Lê (2004), Giáo dục lối sống- nếp sống mới, Nxb Tổng hợp TP.HCM

41. Thanh Lê (2001), Lối sống Xã hội chủ nghĩa và xu thế toàn cầu hóa, Nxb Khoa

học - Xã hội.

42. Thanh Lê (2000), Văn hóa và lối sống, Nxb Thanh niên.

43. Thanh Lê (1999), Văn hóa và lối sống - Hành trang vào thế kỷ 21, Nxb Khoa

học xã hội, Hà Nội.

44. Phan Huy Lê, Võ Minh Giang (1994), Các giá trị truyền thống và con người

Việt nam hiện nay, đề tài KHCN KX - 07 - 02, Hà Nội.

45. X.M. Lêpêkhin (1978), Những nguyên lý Lêninnít về giáo dục thanh niên, Nxb

Thanh niên.

46. Tsunesaburo Makaguchi (1994), Giáo dục vì cuộc sống sáng tạo, Nxb Trẻ,

Trường đại học tổng hợp TP.HCM

47. Vũ Thị Nho (1999), Tâm lý học phát triển, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.

48. Nxb Sự thật (1982), Lối sống XHCN, Hà Nội.

49. Nxb Tri thức (1997), Lối sống XHCN và sự phát triển về mặt tinh thần của con

người, Matxcơva.

50. Nguyễn Thị Oanh (2001), Thanh niên - lối sống, Nxb Trẻ.

51. Huỳnh Văn Sơn (2002), “Lối sống và sự lựa chọn các giá trị đạo đức trong lối sống của

thanh niên”, Tạp chí Tâm lý học, (2), tr.35 – 39.

52. Hà Nhật Thăng (1998), Giáo dục hệ thống giá trị đạo đức - nhân văn, Nxb Giáo

dục.

53. Lê Thi (1997), Xây dựng nhân cách con người Việt Nam, Nxb Phụ nữ.

54. Chu Khắc Thuật, Nguyễn Văn Thứ (1998), Văn hoá lối sống với môi trường,

Nxb Văn hoá - Thông tin.

55. Trần Trọng Thuỷ (1993), “Giá trị, định hướng giá trị và nhân cách”, Tạp chí

Nghiên cứu Giáo dục, (7).

56. Khúc Năng Toàn (1999), Nếp sống có văn hoá của sinh viên sư phạm, Hà Nội.

57. Dương Thiệu Tống (2005), Phương pháp nghiên cứu khoa học Giáo dục và

Tâm lý, Nxb Khoa học xã hội.

58. Tổng cục Thống kê Việt nam, Trung tâm Tư liệu thống kê, Ba Đình, Hà Nội.

59. Mạc Văn Trang (1995), Đặc điểm lối sống sinh viên hiện nay và những phương

hướng, biện pháp giáo dục lối sống cho sinh viên, Báo cáo khái quát đề tài B94 - 38 -

32, Hà Nội.

60. Mạc Văn Trang (2000), “Giáo dục - đào tạo và nhân cách trong kinh tế thị

trường”, Phát triển Giáo dục (5).

61. Mạc Văn Trang (2001), “Giao tiếp, giáo dục và sự hình thành nhân cách trẻ

em”, Tạp chí Vì trẻ thơ (123).

62. Thái Duy Tuyên (1995), Tìm hiểu định hướng giá trị của thanh niên Việt nam,

Chương trình KHCN, đề tài KX - 07 - 10, Hà Nội.

63. Nguyễn Quang Uẩn – Nguyễn Thạc – Mạc Văn Trang (1995), Giá trị - định

hướng giá trị nhân cách và giáo dục giá trị, Chương trình Khoa học công nghệ cấp

Nhà nước KX – 07. Đề tài KX 07 - 04, Hà Nội.

64. Nguyễn Quang Uẩn (1998), Xây dựng lối sống và đạo đức mới cho sinh viên Sư

phạm phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, Báo cáo tổng hợp

đề tài mã số QG/96/08, Hà Nội.

65. Đào Trí Úc (1995), Xây dựng ý thức và lối sống theo pháp luật, Đề tài KX –

07 - 17, Hà Nội.

66. Viện Thông tin KHXH, UBKHXH Việt nam (1978), Sưu tập chuyên đề lối

sống XHCN, Hà Nội.

67. Huỳnh Khái Vinh (2001), Một số vấn đề về lối sống, đạo đức, chuẩn giá trị

xã hội, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

68. Phạm Viết Vượng (2004), Phương pháp nghiên cứu khoa học, Nxb Đại học

Quốc gia Hà Nội..

69. Viện ngôn ngữ học - Trung tâm từ điển học (1998), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà

Nẵng, Hà Nội - Đà Nẵng.

70. Vụ Đại học, Trường Quản lí giáo dục và Đào tạo (1992), Giáo dục học Đại học,

Tài liệu để nghiên cứu chuyên đề Giáo dục học Đại học, Hà Nội.

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

Phụ lục 01

Trường Đại học Sư phạm Kỹ Thuật Tp. Hồ Chí Minh

PHIẾU ĐIỀU TRA

Các bạn sinh viên thân mến!

Để có những cơ sở thiết thực cho đề tài nghiên cứu về "Định hướng giá trị lối sống

sinh viên”, từ đó có những đề xuất nhằm giúp các bạn sinh viên tại Tp.Hồ Chí Minh có lối

sống tích cực, người nghiên cứu mong muốn nhận được sự cộng tác nhiệt tình của các bạn

thông qua việc cung cấp những thông tin đầy đủ và chính xác cho bảng câu hỏi sau đây.

Xin chân thành cảm ơn các bạn!

Bạn hãy cho biết đôi điều về bản thân:

Bạn là sinh viên Trường: ……………………………………………………....

Bạn đang học Khoa: ……………………………………………………………

Năm thứ: 1  2  3  4  5 

Giới tính: Nam  Nữ 

Bạn có hộ khẩu tại: Tp. Hồ Chí Minh  Tỉnh 

Bạn tự đánh giá về điều kiện kinh tế gia đình: Khá Trung bình Khó khăn

Câu 1: Dưới đây là bảng liệt kê các kiểu lối sống, bạn hãy chọn lối sống phù hợp với

mình nhất thông qua các mức độ. Hãy đánh dấu X vào 1 trong 5 cột cùng hàng.

Mức độ Stt Lối sống

Phù hợp Ít phù hợp Không phù hợp Hoàn toàn không phù hợp Rất phù hợp

Truyền thống

Lành mạnh

1 2 Hiện đại 3 Văn minh 4 Văn hoá 5 Tự do 6 Nhân văn 7 8 Vật chất 9 Tinh thần

10 Hoà đồng 11 Thực dụng 12 Ích kỷ 13 Giản dị 14 Xa hoa 15 Lập dị

Câu 2: Trong những lối sống trên, nếu chỉ chọn 1 đến 3 lối sống phổ biến nhất được giới

trẻ hiện nay quan tâm, bạn hãy cho biết đó là những lối sống nào? Xin bạn vui lòng xếp

hạng từ 1 đến 3.

…………………………………………….. …………………………………………….. …………………………………………….

Câu 3: Bạn hãy đọc kỹ những giá trị lối sống được liệt kê dưới đây và cho biết ý kiến của

bạn về mức độ quan trọng của mỗi giá trị đối với bạn. Hãy đánh dấu X vào 1 trong 5 cột

cùng hàng.

Các giá trị lối sống

Quan trọng Bình thường Hoàn toàn không quan trọng Mức độ quan trọng Không quan trọng Rất quan trọng

Nhân ái

Chung thuỷ trong tình yêu

Có trách nhiệm

Biết ơn

Trung thực

Cảm thông S t t 1 Tự do 2 Hoà bình 3 Tình yêu 4 Công lý 5 Sức khoẻ 6 Cái đẹp 7 Đia vị xã hội 8 Gia đình hạnh phúc 9 Học vấn cao Việc làm 1 0 1 1 1 2 1 3 1 4 1 5 1 6

Cao thượng

Biết hy sinh

Hiếu thảo

Độ lượng

Độc lập dân tộc

Dân chủ, bình đẳng

Tự hào dân tộc

Yêu nước

Lý tưởng XHCN

Hợp tác với các dân tộc

Trách nhiệm công dân

Trung thành với Tổ quốc

Tin tưởng vào Đảng

Tôn trọng pháp luật

Thu nhập cao

Năng động, sáng tạo

Tiết kiệm

Kinh nghiệm

Thận trọng

Giữ chữ tín

Tính kỷ luật cao

Tích cực hoạt động

Biết hợp tác làm ăn

1 7 1 8 1 9 2 0 2 1 2 2 2 3 2 4 2 5 2 6 2 7 2 8 2 9 3 0 3 1 3 2 3 3 3 4 3 5 3 6 3 7 3 8 3 9 4 Thành thạo máy vi tính và

0 ngoại ngữ

Câu 4: Bạn có ý kiến như thế nào về các nhận định sau. Hãy đánh dấu X vào 1 trong 5

cột cùng hàng thể hiện sự đồng ý của bạn.

Stt Các nhận định Mức độ đồng ý Phân vân

Không đồng ý

Đồng ý

Rất đồng ý

Hoàn toàn không đồng ý

1 Sức khỏe là vốn quý nhất của con người

2 Đối với tôi, cuộc sống phải có tự do 3 Trong cuộc sống, với tôi tiền là trên hết

4 Để có chỗ đứng trong xã hội hiện nay phải có học

5 Gia đình hạnh phúc là niềm mơ ước của mọi người

6 Hạnh phúc là biết cho đi và hy sinh vì người khác

7 Khi đã không trung thực thì làm việc

8

9

gì cũng khó Khi gặp một ai đó lâm vào hoàn cảnh khó khăn, tôi luôn giúp đỡ theo khả năng Tôi tự nhủ rằng: ai có ý làm hại tôi thì sớm muộn cũng phải nhận sự trừng phạt thích đáng.

10 Không cần thiết phải tôn trọng cá tính, tự do, sở thích của người khác

11 Mỗi lần nghe những bài hát ngợi ca quê hương đất nước, trong tôi luôn tràn ngập cảm xúc tự hào

12 Tôi không ngại gian khổ hay mất mát nếu điều đó giúp ích cho đất nước tôi 13 Khi làm bất cứ điều gì đều tôi đều phải quan tâm xem điều đó có ảnh hưởng đến người khác không

14 Những gì không phải của riêng mình tôi không quan tâm

15 Nước Việt nam sẽ phát triển vượt bậc trong tương lai.

16 Hầu hết mọi người đều muốn làm những công việc có thu nhập cao 17 Thời đại này, muốn hội nhập nhanh

phải năng động và sáng tạo

18 Muốn làm giàu phải tiết kiệm 19 Bí quyết thành công trong kinh doanh là biết hợp tác làm ăn

20 Trong kinh doanh, nếu không thành thạo vi tính và ngoại ngữ chẳng khác nào “mù chữ”

Câu 5: Trong thời gian qua, bạn đã thực hiện những hành vi sau ở mức độ nào? Hãy

đánh dấu X vào 1 trong 5 cột cùng hàng thể hiện mức độ thực hiện của bạn

Stt Hành vi Mức độ Đôi khi

Thường xuyên

Rất thường xuyên

Không thường xuyên

1 Nhường chỗ cho người già trên

Hoàn toàn không

xe buýt

2 Dắt người già và trẻ em qua đường

3 Không chen lấn khi phải xếp

hàng đến lượt mình 4 Hiến máu nhân đạo 5 Tham gia công tác trật tự an toàn giao thông

6 Nghiêm chỉnh chấp hành luật

giao thông Tham gia chiến dịch mùa hè xanh 7 8 Đi thăm và giúp đỡ người già neo đơn

9 Ủng hộ đồng bào bị thiên tai 10 Tuyên truyền phòng chống HIV/AIDS

Câu 6: Bạn nhận định như thế nào về mức độ của những hành vi sau trong sinh viên tại

Tp. Hồ Chí Minh hiện nay. Hãy đánh dấu X vào 1 trong 5 cột cùng hàng.

Stt Hành vi

Thường xuyên

Mức độ Đôi khi

Không thường xuyên

Hoàn toàn không

1 Gian lận trong thi cử 2 Lơ là trong học tập 3 Mua điểm, xin điểm

Rất thường xuyên

Trốn học, bỏ tiết Thích chưng diện Tiêu xài lãng phí

4 5 6 7 Không đúng giờ, đúng hẹn 8 Mê tín dị đoan 9 Không quan tâm giúp đỡ người khác

10 Nói tục, chửi thề 11 Cờ bạc, số đề 12 Đánh nhau 13 Trộm cắp 14 Xem phim ảnh, sách báo đồi truỵ 15 Nhậu nhẹt 16 Nghiện hút 17 Sống thử 18 Mua bán dâm

Câu 7: Bạn hãy đọc kỹ những tình huống sau đây và chọn 1 lựa chọn mà bạn cho rằng

phù hợp với mình nhất.

1. Bạn học tập vì mục đích:

Có tri thức và nghề nghiệp ổn định Có cơ hội để thành đạt Có bằng cấp và địa vị xã hội Để giống như người khác 2. Trên lớp học, bạn thường:

Nghe, ghi chép có suy nghĩ và tích cực xây dựng bài Ghi chép bài đầy đủ để thi cử Chỉ ghi chép những gì mình thích Không ghi chép bất cứ điều gì

3. Việc học của bạn thường kết hợp với nghiên cứu khoa học, bạn tham gia nghiên cứu khoa học vì:

Muốn chuẩn bị cho con đường nghiên cứu sau này Làm theo sở thích Bạn bè mời tham gia Đó là môn học bắt buộc có tính điểm

4. Khi vào phòng thi, nếu đề thi ra ngay phần bạn chưa học và giám thị có vẻ dễ tính, bạn sẽ:

Cố gắng làm bài và không có ý định sử dụng tài liệu Hỏi bạn kế bên Nếu thuận lợi sẽ xem tài liệu Sử dụng tài liệu hay chép bài của bạn kế bên 5. Khi gặp những người bị hoạn nạn, bạn thường:

Chia sẻ, giúp đỡ không suy nghĩ Quan tâm giúp đỡ nhưng còn phải xem người đó là ai Phải dè chừng kẻo “làm ơn mắc oán” Không quan tâm, “phận ai nấy lo”

6. Trước những hành vi sai trái trong nhà trường và ngoài xã hội, bạn đã:

Bất bình, lên án Không dám tỏ thái độ dù biết là sai Không phải việc của mình, không quan tâm Bao che nếu không hại gì đến mình

7. Nhà trường cần bạn tham gia chiến dịch Mùa hè xanh hoặc giúp đỡ đồng bào bị thiên tai ở vùng xa, bạn sẽ:

Hăng hái tham gia ngay và coi đó là trách nhiệm của mình Cũng tham gia vì điều ấy có thể mang lại lợi ích cho bản thân Thoái thác, đùn đẩy trách nhiệm cho người khác Từ chối thẳng và cho rằng đó không phải là công việc của mình 8. Có người rủ bạn xem một dĩa phim bị cấm lưu hành, bạn sẽ:

Kiên quyêt từ chối không xem Lưỡng lự vừa muốn xem vừa không dám Rủ thêm một số bạn khác cùng xem Nhận lời ngay để xem nội dung ra sao

9. Lúc rảnh rỗi (ngoài thời gian học tập ở trường) bạn thường làm gì?

Tham gia công tác xã hội Học thêm ngoại ngữ và tin học Trò chuyện với bạn bè, người thân Đọc báo, xem TV

10. Theo bạn, cuộc sống vật chất như thế nào là hợp với bạn nhất:

Tiết kiệm, giản dị Phù hợp với điều kiện kinh tế gia đình Đầy đủ tiện nghi để “không thua chị kém em” Thật thoải mái và hợp mốt

Câu 8: Sau đây là các yếu tố ảnh hưởng đến việc lựa chọn các giá trị lối sống của bạn.

Bạn hãy đánh dấu X vào 1 trong 5 cột cùng hàng thể hiện mức độ ảnh hưởng của mỗi yếu

tố.

Mức độ ảnh hưởng Stt Các yếu tố ảnh hưởng

Rất nhiều

Nhiều Trung bình

Không Hoàn toàn không

1 Sự gương mẫu của ông bà, cha mẹ

2 Cách giáo dục của cha mẹ Truyền thống của gia đình 3 4 Nề nếp sinh hoạt gia đình 5 Điều kiện kinh tế gia đình 6 Nhân cách, lối sống của thầy cô

7 Cách giáo dục của thầy cô 8 Nề nếp, kỷ cương của nhà trường Truyền thống của nhà trường 9 10 Các hoạt động Đoàn, Hội sinh viên

11 Tính cách của bạn bè

12 Lối sống của bạn bè 13 Nề nếp sinh hoạt của bạn bè 14 Sự rủ rê, lôi kéo của bạn bè 15 Sự góp ý và phê bình của bạn bè 16 Dư luận xã hội 17 Các tệ nạn xã hội 18 Mạng Internet 19 Văn hóa phẩm không lành mạnh

20 Hoạt động tuyên truyền trên các

phương tiện thông tin 21 Truyền thống của dân tộc 22 Sách báo dạy làm người 23 Tôn giáo 24 Tính thực dụng của nền kinh tế thị trường

25 Tính cạnh tranh của nền kinh tế thị trường

26 Xu hướng Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá của đất nước 27 Chính sách coi trọng nhân lực,

nhân tài của nhà nước 28 Sự nhận thức của bản thân 29 Tích cách của mỗi cá nhân 30 Sự tu dưỡng và rèn luyện của bản thân

31 Các yếu tố khác:

 ………………………… …

 …………………………

… Câu 9: Theo bạn, những nguyên nhân nào khiến cho sinh viên hiện nay lựa chọn lối sống

và các giá trị lối sống trên:

……………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………

Câu 10: Theo bạn, nên làm gì để giúp sinh viên tại Tp. Hồ Chí Minh có được lối sống

tích cực. Bạn hãy nêu những ý kiến và giải pháp thật cụ thể

……………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………

Xin chân thành cảm ơn bạn!

Phụ lục 02

PHIẾU XIN Ý KIẾN

Các bạn sinh viên thân mến!

Chúng tôi đang thực hiện đề tài nghiên cứu về Định hướng giá trị lối sống của sinh

viên tại Tp.Hồ Chí Minh, xin các bạn vui lòng cho biết ý kiến của mình về những vấn đề

được đề cập dưới đây. Mọi câu trả lời của các bạn đều có ý nghĩa rất quan trọng cho sự

thành công của đề tài.

Xin chân thành cảm ơn các bạn!

1. Bạn hãy cho biết lối sống mà bạn lựa chọn cho mình hiện nay? Vì sao bạn lại chọn lối sống ấy? ……………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………………… …………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………… 2 Bạn có suy nghĩ gì về giá trị cuộc sống hiện nay? ……………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………………… …………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………… 3. Trong cuộc sống hiện nay, bạn chọn cho mình những giá trị nào? (như: tự do, tình yêu, trách nhiệm, sống có nghĩa tình, kỷ luật, tinh thần học tập, việc làm ổn định, danh tiếng, giàu có, ý thức đối với bản thân và những người xung quanh). Tại sao bạn lại chọn những giá trị ấy? ……………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………………… …………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………………… …………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………… 4. Theo bạn, những yếu tố nào ảnh hưởng đến việc lựa chọn các giá trị lối sống của sinh viên (như: gia đình, nhà trường, bạn bè, kinh tế- chính trị - xã hội và các yếu tố khác)? Bạn hãy kể cụ thể theo thứ tự ưu tiên. ………………………………………………………………………………………

………………………………………………………………………………………………… …………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………………… …………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………… 5. Theo bạn, nên làm gì để sinh viên tại Tp. Hồ Chí Minh có được lối sống tích cực, lành mạnh và định hướng giá trị lối sống một cách đúng đắn. Bạn hãy nêu những ý kiến và các giải pháp thật cụ thể. ……………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………………… …………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………………… …………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………… Xin chân thành cảm ơn bạn!

Phụ lục 03

PHIẾU XIN Ý KIẾN

Kính thưa quý Thầy/Cô!

Nhằm nghiên cứu về Định hướng giá trị lối sống của sinh viên tại TP. Hồ Chí Minh,

ngay từ đầu chúng tôi đã ý thức về vai trò của Quý Thầy/Cô - những người trực tiếp tiếp

giảng dạy và làm công tác giáo dục. Do đó, chúng tôi rất mong nhận được ý kiến của quý

Thầy/Cô về vấn đề này để chúng tôi có được những cứ liệu cho nghiên cứu của mình.

1. Xin quý Thầy/cô cho biết những nhận xét của mình về sự lựa chọn lối sống của sinh viên hiện nay? ……………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………………… …………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………… 2. Thầy cô nhận thấy quan niệm của sinh viên hiện nay về giá trị cuộc sống như thế nào? ……………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………………… …………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………… 3. Thầy/Cô nhận thấy sinh viên hiện nay lựa chọn những giá trị lối sống nào? (như: tự do, tình yêu, trách nhiệm, sống có nghĩa tình, kỷ luật, tinh thần học tập, việc làm ổn định, danh tiếng, giàu có, ý thức đối với bản thân và những người xung quanh). Tại sao họ lại chọn các giá trị ấy? ……………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………………… …………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………………… …………………………………………………………………………… 4. Theo Thầy/Cô, những yếu tố nào ảnh hưởng đến sự lựa chọn các giá trị lối sống của sinh viên? (như gia đình, nhà trường, bạn bè, kinh tế - chính trị - xã hội và các yếu tố), xin hãy kể cụ thể theo thứ tự ưu tiên. ……………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………………… …………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………… 5. Xin Thầy/ Cô cho những lời khuyên, những giải pháp thiết thực để giúp cho sinh viên tại Tp. Hồ Chí Minh có được lối sống tích cực, lành mạnh và định hướng giá trị lối sống một cách đúng đắn. ……………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………………… …………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………………… …………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………

Xin trân trọng cảm ơn sự đóng góp của quý Thầy/Cô!

Phụ lục 04

PHIẾU PHỎNG VẤN

1. Trong các kiểu lối sống sau đây, bạn chọn cho mình lối sống nào? Theo bạn,

những lối sống nào được sinh viên ưu tiên lựa chọn hiện nay (Truyền thống, hiện đại, văn

minh, văn hoá, tự do, nhân văn, lành mạnh, vật chất, tinh thần, hoà đồng, thực dụng, ích kỷ,

giản dị, xa hoa, lập dị?

2. Với bạn, trong cuộc sống, điều gì là quan trọng nhất?

3. Bạn có thường xuyên tham gia Chiến dịch mùa hè xanh hoặc một số việc làm

mang tính tình nguyện không? Tại sao bạn lại tham gia các công việc ấy?

5. Bạn hãy kể ra một số hiện tượng tiêu cực còn tồn tại trong giới sinh viên hiện nay?

6. Bạn có suy nghĩ gì về hiện tượng gian lận trong phòng thi của sinh viên hiện nay?

7. Theo bạn, lối sống của sinh viên hiện nay bị ảnh hưởng bởi các yếu tố nào?

8. Theo bạn, nên làm gì để sinh viên tại Tp. Hồ Chí Minh có được lối sống tích cực,

lành mạnh?

Xin chân thành cảm ơn bạn!

Phụ lục 05

Điểm trung bình mức độ quan trọng của bốn nhóm giá trị lối sống tính trên toàn mẫu

Nhóm giá trị

Nhân văn Chính trị Đạo đức Kinh tế Trung bình 3.30 3.25 3.12 3.10 SD 0.313 0.560 0.427 0.413

Phụ lục 06

Điểm trung bình thái độ tích cực của sinh viên đối với bốn nhóm giá trị lối sống tính trên toàn mẫu

Nhóm giá trị

Nhân văn Chính trị Đạo đức Kinh tế Trung bình 3.25 2.90 2.72 2.60 SD 0.351 0.471 0.440 0.393

Phụ lục 07 Kết quả so sánh tỉ lệ xu hướng lựa chọn lối sống của sinh viên theo phái tính, trường

học, năm học, khu vực và điều kiện kinh tế gia đình

 Kết quả so sánh tỉ lệ xu hướng lựa chọn lối sống của sinh viên theo phái tính

Câu p Các lựa chọn Nam Nữ Tổng

X2 a. Chuẩn bị cho con đường nghiên cứu sau này b. Làm theo sở thích Tham gia NCKH

c. Bạn bè mời tham gia 0.04

d. Đó là môn học bắt buộc có tính điểm 13.09 Tổng

135 38.0% 159 44.8% 21 5.9% 40 11.3% 355 100% 212 60.9% 83 37.6% 82 37.1% 8 3.6% 48 21.7% 221 100% 167 78.4% 218 37.8% 241 41.8% 29 5.0% 88 15.3% 576 100% 397 67.6%

0.00 19.38 116 33.3% 42 19.7% 158 28.2%

Với các phong trào tình nguyện của trường

7 2.0% 13 3.7% 1 0.5% 3 1.4% 8 1.4% 16 2.9% a. Hăng hái tham gia ngay và coi đó là trách nhiệm của mình b. Tham gia vì điều ấy có thể mang lại lợi ích cho bản thân c. Thoái thác, đùn đẩy trách nhiệm cho người khác d. Từ chối thẳng và cho rằng đó không phải là công việc của mình

Tổng

Với văn hoá phẩm không 348 100% 121 34.5% 140 39.9% 26 213 100% 175 81.8% 31 14.5% 2 561 100% 296 52.4% 171 30.3% 28 a. Kiên quyêt từ chối không xem b. Lưỡng lự vừa muốn xem vừa không dám c. Rủ thêm một số bạn khác

0.00 121.90 lành mạnh

cùng xem d. Nhận lời ngay để xem nội dung ra sao

Tổng

a. Tham gia công tác xã hội

Sử dụng thời gian rảnh rỗi 0.04 8.05 b. Học thêm ngoại ngữ, vi tính c. Trò chuyện với bạn bè, người thân d. Đọc báo, xem TV

Tổng 7.4% 64 18.2% 351 100% 11 3.1% 137 39.1% 73 20.9% 129 36.9% 350 100% 0.9% 6 2.8% 214 100% 9 4.2% 60 28.0% 59 27.6% 86 40.2% 214 100% 5.0% 70 12.4% 565 100% 20 3.5% 197 34.9% 132 23.4% 215 38.1% 564 100%

Kết quả so sánh tỉ lệ xu hướng lựa chọn lối sống của sinh viên theo trường học

Câu Các lựa chọn ĐHSP ĐHBK Tổng p X2

0.00 Mục đích học tập

20.83 a. Có tri thức và nghề nghiệp ổn định b. Có cơ hội để thành đạt c. Có bằng cấp và địa vị xã hội d.Để giống như người khác

Tổng

ĐH SPKT 149 78.4% 34 17.9% 7 3.7% 0 0.0% 190 100% 76 40.2% 165 83.8% 21 10.7% 9 4.6% 2 1.0% 197 100% 78 40.2% 131 66.5% 52 26.4% 11 5.6% 3 1.5% 197 100% 66 33.7% 445 76.2% 107 18.3% 27 4.6% 5 0.9% 584 100% 220 38.0%

a. Chuẩn bị cho con đường nghiên cứu sau này b. Làm theo sở thích

0.01 16.09 Tham gia NCKH

c. Bạn bè mời tham gia d. Đó là môn học bắt buộc có tính điểm

Tổng

82 43.4% 10 5.3% 21 11.1% 189 100% 110 58.2% 66 34.0% 7 3.6% 43 22.2% 194 100% 110 56.7% 93 47.4% 12 6.1% 25 12.8% 196 100% 77 39.7% 241 41.6% 29 5.0% 89 15.4% 579 100% 297 51.1%

a. Cố gắng làm bài và không có ý định sử dụng tài liệu b. Hỏi bạn kế bên

0.00 22.17 Hành vi trong phòng c. Nếu thuận lợi sẽ xem tài liệu 56 29.6% 14 7.4% 70 36.1% 11 5.7% 82 42.3% 23 11.9% 208 36.0% 48 8.3%

thi 3 1.5% 9 4.8% 12 6.2% 24 4.2% d. Sử dụng tài liệu hay chép bài của bạn kế bên

Tổng

a. Bất bình, lên án

0.03 13.61

194 100% 122 63.2% 36 18.7% 34 17.6% 189 100% 97 52.7% 45 24.5% 39 21.2% 194 100% 91 46.9% 61 31.4% 38 19.6% 577 100% 310 54.3% 142 24.9% 111 19.4% Trước những hành vi sai trái

b. Không dám tỏ thái độ dù biết là sai c. Không phải việc của mình, không quan tâm d. Bao che nếu không hại gì đến mình

Tổng

1 0.5% 193 100% 150 78.5% 3 1.6% 184 100% 125 69.1% 4 2.1% 194 100% 107 55.7% 8 1.4% 571 100% 382 67.7%

38 19.9% 50 27.6% 70 36.5% 158 28.0% 0.00 27.27

0 0.0% 3 1.7% 5 2.6% 8 1.4% Với các phong trào của nhà

3 1.6% 3 1.7% 10 5.2% 16 2.8%

a. Hăng hái tham gia ngay và coi đó là trách nhiệm của mình b. Tham gia vì điều ấy có thể mang lại lợi ích cho bản thân c. Thoái thác, đùn đẩy trách nhiệm cho người khác trường d. Từ chối thẳng và cho rằng đó không phải là công việc của mình

Tổng

191 100% 136 70.8% 33 17.2% 181 100% 85 46.7% 60 33.0% 192 100% 76 39.2% 79 40.7% 564 100% 297 52.3% 172 30.3% 0.00 43.84

Với văn hoá phẩm không lành mạnh

a. Kiên quyêt từ chối không xem b. Lưỡng lự vừa muốn xem vừa không dám c. Rủ thêm một số bạn khác cùng xem d. Nhận lời ngay để xem nội dung ra sao

Tổng 5 2.6% 18 9.4% 192 100% 11 6.0% 26 14.3% 182 100% 12 6.2% 27 13.9% 194 100% 28 4.9% 71 12.5% 568 100%

Kết quả so sánh tỉ lệ xu hướng lựa chọn lối sống của sinh viên theo năm học

Năm I Tổng Câu p X2

Các lựa chọn a. Nghe, ghi chép có suy nghĩ và tích cực xây dựng bài 141 48.3% Năm IV 82 28.8% 223 38.6%

0.00 34.21 Hành động trên lớp

b. Ghi chép bài đầy đủ để thi cử c. Chỉ ghi chép những gì mình thích d. Không ghi chép bất cứ điều gì

Tổng

a. Chuẩn bị cho con đường nghiên cứu sau này b. Làm theo sở thích Tham gia NCKH

c. Bạn bè mời tham gia 0.00 12.34

d. Đó là môn học bắt buộc có tính điểm

Tổng

128 44.9% 75 26.3% 0 0.0% 285 100% 95 33.8% 113 40.2% 17 6.0% 56 19.9% 281 100% 167 60.5% 246 42.6% 107 18.5% 1 0.2% 577 100% 219 38.2% 239 41.6% 29 5.1% 87 15.2% 574 100% 379 67.8% 118 40.4% 32 11.0% 1 0.3% 292 100% 124 42.3% 126 43.0% 12 4.1% 31 10.6% 293 100% 212 74.9%

0.00 13.29 Với các phong trào của nhà trường

95 34.4% 5 1.8% 9 3.3% 157 28.1% 8 1.4% 15 2.7% 62 21.9% 3 1.1% 6 2.1% a. Hăng hái tham gia ngay và coi đó là trách nhiệm của mình b. Tham gia vì điều ấy có thể mang lại lợi ích cho bản thân c. Thoái thác, đùn đẩy trách nhiệm cho người khác d. Từ chối thẳng và cho rằng đó không phải là công việc của mình

Tổng

0.00 19.31

Với văn hoá phẩm không lành mạnh

a. Kiên quyêt từ chối không xem b. Lưỡng lự vừa muốn xem vừa không dám c. Rủ thêm một số bạn khác cùng xem d. Nhận lời ngay để xem nội dung ra sao

Tổng 276 100% 121 43.7% 95 34.3% 15 5.4% 46 16.6% 277 100% 559 100% 296 52.6% 170 30.2% 27 4.8% 70 12.4% 563 100% 283 100% 175 61.2% 7526.2 % 12 4.2% 24 8.4% 286 100%

Kết quả so sánh tỉ lệ xu hướng lựa chọn lối sống sinh viên theo khu vực

Câu Các lựa chọn Tỉnh Tổng p X2

a. Chia sẻ, giúp đỡ không suy nghĩ

TP HCM 33 29.7% 57 Khi gặp b. Quan tâm giúp đỡ nhưng 41 36.9% 64 74 33.3% 121

9.61 0.02 người bị hoạn nạn

còn phải xem người đó là ai c. Phải dè chừng kẻo “làm ơn mắc oán” d. Không quan tâm, “phận ai nấy lo”

Tổng

51.4% 57.7% 54.5% 5 4.5% 1 0.9% 111 100% 79 73.1% 18 16.2% 3 2.7% 111 100% 59 54.1% 23 10.4% 4 1.8% 222 100% 138 63.6%

0.02 9.08 Với các phong trào của nhà trường

42 38.5% 5 4.6% 3 2.8% 24 22.2% 2 1.9% 3 2.8% 66 30.4% 7 3.2% 6 2.8% a. Hăng hái tham gia ngay và coi đó là trách nhiệm của mình b. Tham gia vì điều ấy có thể mang lại lợi ích cho bản thân c. Thoái thác, đùn đẩy trách nhiệm cho người khác d. Từ chối thẳng và cho rằng đó không phải là công việc của mình

Tổng

0.01 10.64

Với văn hoá phẩm không lành mạnh

a. Kiên quyêt từ chối không xem b. Lưỡng lự vừa muốn xem vừa không dám c. Rủ thêm một số bạn khác cùng xem d. Nhận lời ngay để xem nội dung ra sao

Tổng

a. Tham gia công tác xã hội

b. Học thêm ngoại ngữ, vi tính

0.02 9.61 Sử dụng thời gian rảnh rỗi

c. Trò chuyện với bạn bè, người thân d. Đọc báo, xem TV

Tổng 109 100% 43 39.1% 41 37.3% 6 5.5% 20 18.2% 110 100% 2 1.8% 52 47.7% 18 16.5% 37 33.9% 109 100% 108 100% 64 58.7% 31 28.4% 6 5.5% 8 7.3% 109 100% 5 4.6% 31 28.7% 29 26.9% 43 39.8% 108 100% 217 100% 107 48.9% 72 32.9% 12 5.5% 28 12.8% 219 100% 7 3.2% 83 38.2% 47 21.7% 80 36.9% 217 100%

Kết quả so sánh tỉ lệ xu hướng lựa chọn lối sống của sinh viên theo điều kiện kinh tế

gia đình

Câu Khá Tổng Các lựa chọn p X2

a. Có tri thức và nghề nghiệp ổn định Khó khăn 65 73.9% Trung bình 67 72.8% 56 82.4% 188 75.8%

b. Có cơ hội để thành đạt

0.02 14.41 Mục đích học tập

c. Có bằng cấp và địa vị xã hội d.Để giống như người khác

Tổng

a. Tiết kiệm, giản dị

0.03 13.99

Lựa chọ n cuộc sống vật chất b. Phù hợp với điều kiện kinh tế gia đình c. Đầy đủ tiện nghi để “không thua chị kém em” d.Thật thoải mái và hợp mốt

Tổng 14 15.9% 6 6.8% 3 3.4% 88 100% 25 29.4% 55 64.7% 1 1.2% 4 4.7% 85 100% 20 21.7% 0 0.0% 5 5.4% 92 100% 10 11.0% 78 85.7% 0 0.0% 3 3.3% 91 100% 8 11.8% 0 0.0% 4 5.9% 68 100% 12 18.8% 46 71.9% 2 3.1% 4 6.3% 64 100% 42 16.9% 6 2.4% 12 4.8% 248 100% 47 19.6% 179 74.6% 3 1.3% 11 4.6% 240 100%

Phụ lục 08

Điểm trung bình về mức độ ảnh hưởng của 6 nhóm yếu tố đến sự định hướng

giá trị lối sống của sinh viên tính trên toàn mẫu

Nhóm yếu tố

Trung bình 3.40 3.22 2.50 2.32 2.16 2.03 SD 0.573 0.544 0.660 0.690 0.691 0.562 Cá nhân Gia đình Nhà trường Kinh tế Bạn bè Văn hoá – xã hội