BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
Lê Thị Thùy Linh
ĐỘNG CƠ SỬ DỤNG RƯỢU BIA
CỦA SINH VIÊN ĐẠI HỌC TRÊN ĐỊA BÀN
TP. HỒ CHÍ MINH
LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC
Thành phố Hồ Chí Minh – 2013
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
Lê Thị Thùy Linh
ĐỘNG CƠ SỬ DỤNG RƯỢU BIA
CỦA SINH VIÊN ĐẠI HỌC TRÊN ĐỊA BÀN
TP. HỒ CHÍ MINH
Chuyên ngành
: Tâm lý học
Mã số
: 60 31 04 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. ĐINH PHƯƠNG DUY
Thành phố Hồ Chí Minh – 2013
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan, đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số
liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực và chưa từng
được công bố trong bất kỳ một công trình nghiên cứu nào khác.
Tác giả
1
Lê Thị Thùy Linh
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô trong khoa Tâm lý - Giáo dục, Phòng
Sau đại học Trường Đại học Sư phạm Tp. Hồ Chí Minh đã trực tiếp giảng dạy và
giúp đỡ tôi trong quá trình học và hoàn tất luận văn này.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Tiến sĩ Đinh Phương Duy đã tận tâm
giảng dạy và hướng dẫn tôi trong quá trình học và trong suốt quá trình thực hiện luận
văn này. Những định hướng và điều chỉnh của Thầy đã giúp tôi trưởng thành hơn,
2
chuyên nghiệp hơn trong nghiên cứu khoa học.
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ........................................................................................................ 1
LỜI CẢM ƠN .............................................................................................................. 2
MỤC LỤC .................................................................................................................... 3
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ......................................................................... 5
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................... 6
1. Tính cấp thiết của vấn đề nghiên cứu ........................................................................... 6
2. Mục đích nghiên cứu ...................................................................................................... 7
3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu .............................................................................. 8
4. Giả thuyết nghiên cứu .................................................................................................... 8
5. Nhiệm vụ nghiên cứu ...................................................................................................... 8
6. Giới hạn của đề tài .......................................................................................................... 8
7. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................................... 9
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ ĐỘNG CƠ SỬ DỤNG RƯỢU BIA ............ 10
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ........................................................................................ 10
1.1.1. Quan điểm của một số học thuyết về động cơ. ..................................................... 10
1.1.2. Các công trình nghiên cứu về động cơ ở Việt Nam. ............................................. 14
1.1.3. Các công trình nghiên cứu về vấn đề sử dụng rượu, bia trên thế giới ......................... 16
1.1.4. Các công trình nghiên cứu về vấn đề sử dụng rượu, bia ở Việt Nam ............................ 18
1.1.5. Các chính sách về phòng chống tác hại của rượu, bia ở Việt Nam....................... 20
1.2. Những vấn đề lí luận chung về động cơ sử dụng bia rượu .................................... 21
1.2.1. Khái niệm động cơ ................................................................................................ 21
1.2.2. Cấu trúc động cơ của nhân cách. ........................................................................... 25
1.2.3. Phân loại động cơ .................................................................................................. 28
1.2.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến động cơ sử dụng bia rượu ........................................... 29
1.3. Ảnh hưởng của hành vi lạm dụng bia rượu đối với con người. ............................ 30
CHƯƠNG 2: KHẢO SÁT ĐỘNG CƠ SỬ DỤNG RƯỢU BIA CỦA SINH VIÊN
ĐẠI HỌC TRÊN ĐỊA BÀN TP HCM ..................................................................... 35
2.1. Thể thức nghiên cứu .................................................................................................. 35
2.2. Kết quả nghiên cứu. ................................................................................................... 36
2.2.1. Mục đích sử dụng rượu, bia của sinh viên ............................................................ 37
3
2.2.2. Nhận thức của sinh viên đại học trên địa bàn TP HCM về rượu bia và tác hại của
hành vi lạm dụng rượu bia............................................................................................... 40
2.2.3. Thái độ của sinh viên đối với vấn đề sử dụng rượu bia. ....................................... 59
2.2.4. Hành vi sử dụng rượu bia của sinh viên ................................................................ 61
2.2.5. Các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi sử dụng rượu bia của sinh viên .............................. 67
2.2.6. Nhu cầu và mức độ sử dụng rượu bia của sinh viên đại học trên địa bàn TP HCM
......................................................................................................................................... 72
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP SINH VIÊN TỰ ĐIỀU CHỈNH NHU
CẦU VÀ MỨC ĐỘ SỬ DỤNG RƯỢU BIA ........................................................... 80
3.1. Cơ sở đề xuất giải pháp ............................................................................................. 80
3.1.1. Cơ sở Tâm l í .......................................................................................................... 80
3.1.2 Cơ sở pháp lý .......................................................................................................... 81
3.2 Biện pháp thực hiện phòng, chống tác hại của lạm dụng rượu, bia của nhà nước.
............................................................................................................................................. 83
3.2.1 Biện pháp về kiểm soát nhu cầu sử dụng rượu, bia ............................................... 83
3.2.2. Biện pháp về kiểm soát nguồn cung cấp rượu, bia ............................................... 84
3.2.3 Biện pháp về giảm tác hại ...................................................................................... 85
3.2.4. Biện pháp về huy động nguồn lực ......................................................................... 86
3.2.5. Biện pháp về nghiên cứu khoa học và hợp tác quốc tế ......................................... 87
3.3. Đề xuất một số biện pháp giúp sinh viên tự điều chỉnh hành vi sử dụng rượu bia
............................................................................................................................................. 88
3.3.1. Tác động nâng cao nhận thức của sinh viên về rượu bia và hậu quả của việc lạm
dụng rượu bia. ................................................................................................................. 88
3.3.2. Tác động thay đổi hành vi ..................................................................................... 89
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ................................................................................... 91
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................ 93
4
PHỤ LỤC ................................................................................................................... 95
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ĐH CN : Đại học Công Nghiệp
ĐH LĐ-XH : Đại học Lao Động - Xã Hội
ĐH TDTT : Đại học Thể Dục Thể Thao
ĐLC : Độ lệch chuẩn
SL : Số lượng
5
TB : Trung Bình
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của vấn đề nghiên cứu
Trong tâm lí học động cơ là một vấn đề được các nhà khoa học rất quan tâm.
Tất cả những công trình nghiên cứu nhằm mục đích lí giải vì sao con người hành
động thế này hay thế khác về thực chất là những công trình nghiên cứu về động cơ.
Khái niệm động cơ thường được dùng như một trong những khái niệm trung tâm để lí
giải hành vi của con người. Các nhà tâm lí học đã nghiên cứu và chỉ ra rằng động cơ
có một vai trò quan trọng trong quá trình hoạt động của con người. Động cơ chính là
lực thúc đẩy con người hành động để đạt được mục đích của mình. Nói khác đi động
cơ chính là yếu tố thôi thúc con người hành động để thoả mãn nhu cầu. Vậy thì,
những động cơ nào có vai trò thúc đẩy hành vi sử dụng rượu bia của con người nói
chung và tầng lớp sinh viên nói riêng?
Thanh niên trong đó có sinh viên là lực lượng xã hội to lớn, là nguồn lực mạnh
mẽ thúc đẩy sự phát triển xã hội hiện tại và là người chủ tương lai của đất nước. Nghị
quyết Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khoá
VII về công tác thanh niên trong thời kỳ mới đã khẳng định: “Thanh niên là lượng
xung kích trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Sự nghiệp đổi mới có thành
công hay không, đất nước bước vào thế kỷ 21 có vị trí xứng đáng trong cộng đồng
thế giới hay không, cách mạng Việt Nam có vững bước theo con đường xã hội chủ
nghĩa hay không, phần lớn tuỳ thuộc vào lực lượng thanh niên, vào việc bồi dưỡng,
rèn luyện thế hệ thanh niên”. Lứa tuổi thanh niên trong đó có sinh viên là lực lượng
hậu bị của đất nước. Đây là độ tuổi mà mỗi cá nhân khởi đầu quá trình thực sự chủ
động và tích cực tham gia vào đời sống xã hội. Hoạt động chủ đạo của sinh viên là
học tập và rèn luyện chuẩn bị cho nghề nghiệp. Nếu họ không nhận thức được tác hại
của bia rượu nói riêng và các chất kích thích nói chung mà có hành vi lạm dụng thì sẽ
có ảnh hưởng tiêu cực đến bản thân và cộng đồng.
Vấn đề sử dụng rượu bia đã có từ lâu đời nhưng càng ngày càng trở nên thịnh
6
hành bởi vì Việt Nam cũng như một số nước châu Á khác (Nhật Bản, Hàn Quốc…)
thì uống rượu bia trở thành nhu cầu đòi hỏi trong làm ăn. Quán ăn, nhà hàng là nơi
nhiều giao kèo quan trọng được kí kết, chính nhu cầu này đã ảnh hưởng đến nhận
thức của giới trẻ hiện nay về hành vi uống bia rượu, đặc biệt là hình thành trong họ
quan niệm “bia rượu” là thứ không thể thiếu trong bước đường xây dựng sự nghiệp
của một người thành công. Quan niệm người Việt Nam coi biết uống bia rượu như là
một “tố chất”, “làm sếp thì phải biết uống bia rượu”, thậm chí uống bia rượu được coi
như một cách để chứng tỏ bản lĩnh của bản thân như là: nam giới tửu lượng kém thì
bị coi là “đàn bà”, “yếu”, người có tửu lượng cao thì được coi là “đấng nam nhi”…
những quan niệm này đã ảnh hưởng không nhỏ tới hành vi sử dụng rượu bia của giới
trẻ hiện nay.
Theo nghiên cứu của WHO thì rượu là nguyên nhân đứng thứ 5 trong danh
sách 10 nguyên nhân gây tử vong cao nhất trên toàn cầu. Theo đánh giá của bộ y tế
mỗi năm người Việt Nam tiêu thụ hàng tỉ lít bia và là nước tiêu thụ Heineken đứng
thứ 3 trên thế giới (sau Mĩ và Đức). Năm 2011 Việt Nam tiêu thụ 2,6 tỉ lít bia. Một
nghiên cứu mới đây của Viện Chiến lược và Chính sách y tế cho thấy, có 1/3 dân số
Việt Nam sử dụng bia rượu. Tỷ lệ lạm dụng rượu là gần 1/5 (đối với bia, tỷ lệ này
thấp hơn). Theo thống kê của Viện chiến lược & chính sách y tế thì 1/3 số người sử
dụng rượu bia bắt đầu uống trước 20 tuổi, đây là lứa tuổi học sinh và đầu sinh viên.
Đã có rất nhiều đề tài nghiên cứu về động cơ, đặc biệt là các đề tài về động cơ
học tập và động cơ lựa chọn nhề nghiệp…. Tuy nhiên, tôi nhận thấy chưa có một đề
tài cụ thể nào nghiên cứu về động cơ sử dụng rượu bia của sinh viên trong phạm vi
rộng và ở phạm vi hẹp hơn là sinh viên TP HCM. Vì những lí do trên, người nghiên
cứu quyết định chọn đề tài “Động cơ sử dụng rượu bia của sinh viên đại học TP
HCM” làm đề tài nghiên cứu của mình.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu động cơ sử dụng bia rượu của sinh viên đại học trên địa
bàn TP HCM, người nghiên cứu chỉ ra những động cơ chủ đạo thúc đẩy hành vi sử
7
dụng và hành vi lạm dụng rượu bia ở sinh viên. Từ đó, đề xuất một số kiến nghị giúp
sinh viên tự điều chỉnh mức độ và cường độ sử dụng bia rượu cho phù hợp với sức
khỏe của cá nhân và yêu cầu của cộng đồng.
3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu: Sinh viên các trường đại học trên địa bàn TP HCM
3.2. Đối tượng nghiên cứu: Động cơ sử dụng bia rượu của sinh viên
4. Giả thuyết nghiên cứu
- Hiện nay, sinh viên đại học trên địa bàn TP HCM sử dụng rượu bia thường
xuyên và ở mức độ lạm dụng.
- Sinh viên sử dụng rượu bia vì một số động cơ mang tính chất tâm lý như: để
giảm thiểu các cảm xúc tiêu cực, để hòa nhập với nhóm bạn bè, để phù hợp với yêu
cầu của xã hội.
- Không có sự khác biệt về động cơ sử dụng rượu bia của sinh viên các nhóm
ngành được khảo sát.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu các vấn đề lí luận về động cơ, lý thuyết về ảnh hưởng của rượu
bia đối với con người
- Khảo sát động cơ sử dụng bia rượu của sinh viên đại học trên địa bàn TP
HCM
- Đề xuất một số kiến nghị giúp sinh viên tự điều chỉnh mức độ và cường độ sử
dụng bia rượu cho phù hợp với sức khỏe của cá nhân và yêu cầu của cộng đồng.
6. Giới hạn của đề tài
6.1. Giới hạn nội dung nghiên cứu: Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu động cơ sử
dụng rượu bia của sinh viên đại học trên địa bàn TP HCM ở 3 mặt biểu hiện (nhận
thức của sinh viên về rượu bia và tác hại của hành vi lạm dụng rượu bia, thái độ - tình
8
cảm của sinh viên đối với vấn đề sử dụng rượu bia, mức độ và cường độ sử dụng
rượu bia của sinh viên), sự khác nhau về động cơ sử dụng rượu bia giữa sinh viên các
nhóm ngành.
6.2. Phạm vi khảo sát: Khảo sát động cơ sử dụng bia rượu của 371 sinh viên
thuộc một số trường đại học trên địa bàn TP HCM:
+ Trường ĐH Công Nghiệp TP HCM
+ Trường ĐH Lao Động – Xã Hội
+ Trường ĐH Thể Dục Thể Thao TP HCM ….
7. Phương pháp nghiên cứu
1. Phương pháp nghiên cứu lý luận: Đề tài nghiên cứu có tham khảo một số giáo
trình, tài liệu, các công trình nghiên cứu của các tác giả trong và ngoài nước, các bài
viết trên các tạp chí, website có liên quan. Đó là những cơ sở để người nghiên cứu
phân tích, tổng hợp và khái quát những vấn đề có liên quan đến đề tài nghiên cứu
nhằm làm cơ sở lý luận cho vấn đề nghiên cứu và nội dung nghiên cứu.
2. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi: Đề tài nghiên cứu được thực hiện theo cách
tiếp cận thực tiễn và hoạt động. Vì thế, người nghiên cứu sử dụng phương pháp điều
tra bằng bảng hỏi làm phương pháp chủ đạo nhằm thu thập thông tin thực tế từ học
sinh và giáo viên về vấn đề động cơ chọn nghề. Bảng hỏi được xây dựng theo thứ tự
các bước sau:
Bước 1: Xây dựng phiếu thăm dò mở
Bước 2: Xây dựng phiếu thăm dò ý kiến chính thức
3. Phương pháp thống kê toán học: Người nghiên cứu sử dụng phần mềm thống kê
9
SPSS để xử lý số liệu thu được bằng các phép toán thống kê.
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ ĐỘNG CƠ SỬ DỤNG RƯỢU BIA
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Quan điểm của một số học thuyết về động cơ.
Hướng nghiên cứu động cơ hoạt động của động vật và đặc biệt là của con
người đã tồn tại từ rất lâu trong tâm lý học. Bằng các cách tiếp cận và các phương
pháp nghiên cứu khác nhau, các nhà tâm lý học đã tìm cách lý giải tại sao con người
lại thực hiện một hành vi nào đó, tại sao anh ta lại tích cực trong việc thực hiện nhiệm
vụ này hay tỏ ra thờ ơ trong khi thực hiện nhiệm vụ kia…Tất cả những tìm tòi thuộc
loại này thực chất là nghiên cứu về động cơ.
Động cơ là một trong những vấn đề trọng tâm trong Tâm lý học được quan tâm
nghiên cứu từ rất sớm. Ronald E. Smith cho rằng, khái niệm động cơ được dùng như
một khái niệm trung tâm nhằm giải thích cho hành vi và các nguyên nhân của nó. Có
nhiều trường phái nghiên cứu khác nhau khi nghiên cứu về động cơ. Các tác giả đều
coi động cơ con người là vấn đề trung tâm, tuy nhiên giữa các tác giả lại có quan
điểm rất khác nhau khi bàn về nội hàm của khái niệm động cơ.
Từ thời cổ đại, khi tâm lý học chưa trở thành một bộ môn khoa học độc lập, mà
nó còn là một bộ môn của triết học thì vấn đề nguyên nhân thúc đẩy bên trong hoạt
động của con người đã được các nhà nghiên cứu khoa học đặt ra. Ví dụ như, Aristote
(384-322 TCN), tác giả cuốn Tâm lý học đầu tiên “Bàn về tâm hồn” đã dựa trên cơ sở
sinh vật học để giải thích động cơ hoạt động. Ông cho rằng nhiều hành vi con người
được thúc đẩy bởi “sự thèm muốn”. Hành động luôn hướng tới thỏa mãn “sự thèm
muốn”. Nghĩa là hành vi được thúc đẩy bởi các trạng thái nội tại như đói, khát, ham
muốn tình dục… Nếu hành động thành công con người sẽ cảm thấy khoái lạc. Tuy
nhiên, Aristote cũng đã chỉ ra được rằng, con người khác con vật ở chỗ con người có
khả năng dùng lý trí của mình để ức chế các thèm muốn. Tuy vậy, những kết luận
10
trong thời kỳ bấy giờ thiếu cơ sở khoa học để chứng minh động cơ một cách rõ ràng.
Phân tâm học, đứng đầu là S. Freud đã lý giải bản chất động cơ con người theo
hướng sinh vật hoá. Quan điểm này cho rằng, bản năng sẵn có từ khi con người mới
sinh là động lực thúc đẩy (động cơ) mọi hoạt động của con người. Do đó theo ông, về
bản chất động cơ của con người mang tính vô thức. Đời sống con người do bản năng
tình dục (libido) chi phối tất cả các hoạt động. Năng lượng ấy thoát ra ngoài ở những
dạng hoạt động khác nhau. Nếu nhu cầu về bản năng ấy không được thỏa mãn, con
người sẽ rơi vào trạng thái căng thẳng. Atler, nhà tâm lý học theo trường phái Phân
tâm học kiểu mới cho rằng, động lực cơ bản của hành vi quyết định mục đích cũng
như con đường của hoạt động. Mối quan hệ giữa khát vọng hung mạnh và cảm giác
yếu kém quy định tính chất những động cơ khi con người hành động. Nhìn chung, lý
thuyết Phân tâm nhìn nhận động cơ con người như những bản năng.
Tâm lý học Hành vi: (đại diện tiêu biểu là J. Watson) đã lấy hành vi làm đối
tượng nghiên cứu của mình. Những người theo chủ nghĩa hành vi cho rằng cái quy
định (động cơ) của phản ứng là những kích thích từ bên ngoài vào nhu cầu của cơ thể
lúc tiếp nhận kích thích đó (S->R, S-O-S hay S-r-s-R). Cả chủ nghĩa hành vi cổ điển
lẫn chủ nghĩa hành vi mới đều mắc phải sai lầm là đã sinh vật hóa con người, đồng
nhất tâm lý con người và tâm lý động vật. Các tác giả theo trường phái này cũng chưa
giải thích được nguyên nhân nào thúc đẩy con người thực hiện các hành động. Họ
cho rằng, nhu cầu con người cũng tương đương với nhu cầu của động vật, bỏ qua tính
chất xã hội của con người.
Tâm lý học Ghestalt (đại diện tiêu biểu là M. Wertheimer, V. Kohler và K.
Koffka). Trường phái này chủ yếu nghiên cứu về tri giác và các quy luật của nó,
ngoài ra còn nghiên cứu một phần về tư duy. K. Lewin – một trong những đại diện
của trường phái này đã chú ý nhiều hơn đến vấn đề nhân cách, vấn đề động cơ. Theo
ông, đông cơ là sự tương tác của lực bên trong trường lực, phủ nhận tác động từ thế
giới bên ngoài. K. Lewin mới chỉ có thể nói đến những dấu hiệu đặc trưng tiến trình
vận động của động cơ, những yếu tố tâm lý ảnh hưởng tiến trình đó, làm động cơ
11
mạnh lên hay ngược lại. Lewin đã không quan tâm đến kinh nghiệm con người, đánh
giá thấp những đặc điểm nhân cách, nhu cầu và khát vọng đã có ở một người. Nhược
điểm của Lewin là chỉ mới chú ý đến mặt cơ động của động cơ mà chưa chú ý đến
mặt nội dung của nó. Bên cạnh đó, ông đã phủ nhận vai trò của những tác động bên
ngoài trong việc hình thành động cơ.
Tâm lý học Nhân văn: (đại diện tiêu biểu C. Roger) cho rằng sự hình thành
động cơ hoạt động của con người diễn ra một cách có ý thức trên nền tảng bền vững
của bẩm sinh và di truyền.
Tâm lý học Hoạt động có nền tảng là chủ nghĩa duy vật biện chứng đã khẳng
định r ằng: Động cơ hoạt động của con người được hình thành và phát triển ngay
trong quá trình con người hoạt động và giao lưu trong các mối quan hệ xã hội mà nó
gia nhập vào một cách có ý thức. Động cơ hoạt động của con người do đó có bản chất
xã hội không tách tời khỏi sự vận động, phát triển của ý thức. Vào năm 1926, L.X.
Vưgôtxki đã đề xuất phải xây dựng “một khoa học về hành vi con người”. Ông đề
xuất nghiên cứu hành vi con người trong mối quan hệ con người với thực tại xung
quanh. Mặc dù chưa đề cập đến động cơ thúc đẩy hành vi con người, nhưng
Vưgôtxki đã xây dựng cơ sở lý luận và phương pháp luận làm nền tảng cho hàng loạt
công trình nghiên cứu về động cơ sau này. Năm 1953, X.L. Rubinstein xem “hành
động ý chí nhất thiết bao hàm động cơ cho nên có thể phân biệt mức độ của hành
động ý chí tùy thuộc tính chất của những động cơ chủ đạo”. Theo tác giả, động cơ ý
chí có thể bắt nguồn từ những ham muốn, nhu cầu, cảm xúc, tính cách, tư tưởng,
nhận thức trước những nhiệm vụ mà đời sống xã hội đặt ra. X.L. Rubinstein mới chỉ
dừng lại ở mức độ nghiên cứu nhiệm vụ chính của phạm trù động cơ và chỉ ra con
đường giải quyết nhiệm vụ. Đến năm 1966 xuất hiện lý thuyết “tâm thế” của D.N.
Uzanadze, cho rằng động cơ thúc đẩy hành vi con người tuân theo lý thuyết tâm thế.
Ông cho rằng “nhu cầu là nguồn gốc tính tích cực” của nhân cách. Khi chủ thể hướng
ra môi trường bên ngoài nhằm mục đích thỏa mãn nhu cầu trước mắt, thì mọi tình
trạng xuất hiện nhất định gây ra trong chủ thể một tâm thế nhất định, và thông qua
12
tâm thế này hướng dẫn toàn bộ hành vi tiếp theo của nó. Ông không tán thành việc
đưa khái niệm “đấu tranh động cơ” vào tâm lý học. Vì ông cho rằng, mọi hành vi chỉ
có một động cơ đem lại ý nghĩa cho hành vi đó. Quan điểm của ông bị các nhà tâm lý
học khác phê phán, bởi động cơ tồn tại như một hệ thống những động cơ. Khi thực
hiện một hoạt động bất kỳ, bao giờ cũng có sự đấu tranh giữa các động cơ đó. Tuy
nhiên, ông đã vạch ra được những hiểu biết mới về khái niệm nhu cầu, các dạng nhu
cầu, mối liên hệ của chúng với các hình thức hành vi con người, mối tương quan giữa
hành vi và tâm thế. P.M.Jakobson thì xác định con người thực hiện những hành động
do mục đích chung hoặc mục đích cụ thể. Ông phân biệt động cơ hành vi theo nghĩa
hẹp, đó là những động cơ của hành vi cụ thể, và theo nghĩa rộng thì động cơ hành vi
là tổng hòa những yếu tố tâm lý quyết định hành vi của con người nói chung.
V.S.Merlin đồng nhất khái niệm động cơ với nhu cầu, nó biểu thị mối quan hệ con
người với sự vật, hiện tượng. Mỗi động cơ đều có hai khía cạnh kích thích hành động
và thái độ cảm xúc. Trong lịch sử nghiên cứu về vấn đề động cơ, Leonchiev là tác giả
nghiên cứu sâu sắc và có sức thuyết phục lớn. Theo Leonchiev, đối tượng đáp ứng
nhu cầu này hay nhu cầu khác nằm trong hiện thực khách quan, khi chúng bộc lộ ra
và được chủ thể nhận biết. Đối tượng ấy có chức năng thúc đẩy, hướng dẫn hoạt
động, tức trở thành động cơ. Ông mô tả “đối tượng ấy xuất hiện với tính chất là một
hiện tượng tinh thần, một động cơ thúc đẩy từ bên trong”. A.N. Leonchiev cho rằng
động cơ là: a) Động cơ và nhu cầu là hai hiện tượng tâm lý gắn bó chặt chẽ với nhau;
b) Động cơ chính là đối tượng có khả năng đáp ứng nhu cầu đã được chủ thể tri giác,
biểu tượng, tư duy… Đó là sự phản ánh chủ quan về đối tượng thỏa mãn nhu cầu; c)
Động cơ có chức năng thúc đẩy và định hướng hoạt động nhằm thỏa mãn nhu cầu.
B.Ph. Lomov cho rằng, nhu cầu có quan hệ mật thiết với động cơ và chúng ta không
thể tách biệt nhu cầu và động cơ. Vì thế, khi nghiên cứu động cơ phải nghiên cứu
động cơ trong mối liên hệ với nhu cầu. Theo B.Ph. Lomov, động cơ là sự biểu hiện
chủ quan của nhu cầu và ngược lại, nhu cầu là cơ sở của động cơ. “Sự thay đổi những
động cơ này chỉ xảy ra khi có thay đổi cơ bản về hoàn cảnh sống và hoạt động sống
13
cá nhân trong xã hội (và hơn cả thế nữa: sự thay đổi của chính xã hội)”. Khác với
Tâm lý học phương Tây, các nhà tâm lý học của Liên Xô (cũ) không xem xét động cơ
như một thành tố độc lập. Động cơ không những là một bộ phận cấu thành của hoạt
động mà còn là một thành phần của một hệ thống phức tạp có mối liên hệ với nhu
cầu. “… Động cơ là sự phản ánh của nhu cầu. Những đối tượng đáp ứng nhu cầu này
hay nhu cầu khác tồn tại trong hiện thực khách quan, một khi chúng bộc lộ ra, được
chủ thể nhận biết (ý thức được) sẽ thúc đẩy, hướng dẫn con người hoạt động. Nói
khác đi, khi nhu cầu gặp đối tượng có khả năng thỏa mãn thì trở thành động cơ hoạt
động”. Qua tìm hiểu một số công trình nghiên cứu về động cơ hoạt động của các tác
giả theo quan điểm tâm lý học Hoạt động, có thể đi đến những kết luận sau:
- Động cơ chính là những yếu tố kích thích, thúc đẩy con người hoạt động. Nội
dung của động cơ là mối quan hệ giữa chủ thể và môi trường.
- Hoạt động của con người có một hệ thống động cơ thúc đẩy theo cấu trúc thứ
bậc. Động cơ nào chiếm ưu thế sẽ qui định xu hướng hành vi của con người.
Nói tóm lại, trong tâm lý học có rất nhiều quan điểm khác nhau về động cơ.
Tuy nhiên, các quan điểm đều thống nhất xem động cơ là những yếu tố kích thích,
quy định sự lựa chọn và định hướng của hành vi, nguyên nhân thúc đẩy con người
hành động nhằm thỏa mãn nhu cầu.
1.1.2. Các công trình nghiên cứu về động cơ ở Việt Nam.
Ở Việt Nam có nhiều công trình nghiên cứu về động cơ. Quan điểm của các
nhà tâm lý học Việt Nam về động cơ: Nguyễn Quang Uẩn cho rằng, động cơ là “cái
thúc đẩy con người hoạt động nhằm thỏa mãn nhu cầu, là cái làm nảy sinh tính tích
cực và quy định xu hướng của hướng tích cực đó. Động cơ là động lực kích thích trực
tiếp, là nguyên nhân trực tiếp của hành vi”. Theo Vũ Dũng (Từ điển Tâm lý học,
2008) động cơ là: “cái thúc đẩy hành động, gắn liền với việc thỏa mãn những nhu cầu
của chủ thể, là toàn bộ điều kiện bên trong và bên ngoài có khả năng khơi dậy tính
tích cực của chủ thể và xác định tính xu hướng của nó; Đối tượng (vật chất hay tinh
thần) thúc đẩy và xác định sự lựa chọn xu hướng của hành động mà vì nó hành động
14
được thực hiện; Nguyên nhân, cơ sở của sự lựa chọn các hành động và hành vi”. Các
nhà tâm lý học của Việt Nam chịu sự ảnh hưởng tư tưởng của các nhà tâm lý học
Liên Xô (cũ). Vì thế, quan điểm về động cơ của các nhà tâm lý học Việt Nam khá
giống với quan điểm của các nhà tâm lý học Liên Xô (cũ).
Có thể nói những đề tài được tập trung nghiên cứu sớm và nhiều nhất liên quan
đến động cơ trong hoạt động giáo dục như động cơ học tập, động cơ chọn nghề hay
ngành học: Hoàng Thị Thu Hà (2003), Các yếu tố kích thích hoạt động học tập của
sinh viên ĐH Sư phạm, tạp chí Tâm lý học số 3/2003. Vũ Bích Hạnh (2007), Tìm
hiểu thực trạng hình thành và phát triển động cơ học tập của sinh viên khoa Báo chí,
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Khoá luận tốt nghiệp 2003-2007.
Đào Lan Hương (2006), Nghiên cứu động cơ học tập của sinh viên trường Cao đẳng
Sư Phạm Bắc Ninh. Dương Thị Kim Oanh (2004), Nghiên cứu động cơ học tập của
sinh viên khoa Sư phạm kỹ thuật trường ĐH Bách khoa Hà Nội, tạp chí Tâm lý học,
số 4/2004. Trần Thị Thơm (2006), Động cơ học tập chuyên ngành Tâm lý học của
sinh viên khoa Tâm lý, trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Khoá luận tốt
nghiệp 2002-2004. Trần Thị Thìn, Động cơ học tập của sinh viên sư phạm - thực
trạng và phương hướng giáo dục, Luận văn Tiến sĩ Tâm lý học 2004. Lê Xuân Tiến
(1997), Tìm hiểu động cơ học tập của học sinh lớp 5, Luận án Thạc sĩ khoa học sư
phạm - tâm lý. Trương Thành Trung (2006), Hình thành động cơ đúng đắn trong hoạt
động học tập của sinh viên Đại học Quân sự hiện nay, tạp chí Tâm lý học số 3/2006.
Một mảng nghiên cứu được nhiều người quan tâm nữa đó là động cơ thành đạt.
Động cơ thành đạt là một trong những vấn đề được rất nhiều người quan tâm, vì con
người nhìn chung có xu hướng mong muốn được thành đạt trong cuộc sống. Hơn thế
nữa, thực tiễn cuộc sống cho thấy tất cả mọi người từ mỗi cá nhân đến các tổ chức có
quy mô lớn nhỏ, từ các nhà kinh doanh đến các nhà giáo dục, các nhà lãnh đạo đất
nước trên khắp thế giới đều quan tâm đến sự thành đạt của con người, của các tổ
chức, các quốc gia và đó là động lực thúc đẩy con người vươn tới đỉnh cao thành đạt.
Có lẽ nhu cầu xã hội thiết thực đã làm cho vấn đề động cơ thành đạt sớm trở thành đề
15
tài nghiên cứu của tâm lý học: Trần Anh Châu (2006), Giới thiệu một số nghiên cứu
về động cơ thành đạt, tập chí Tâm lý học số 5.Võ Thị Ngọc Châu, Nghiên cứu nhu
cầu thành đạt và quan hệ của nó với tính tích cực nhận thức của sinh viên (1999). Lê
Thanh Hương (2001), Động cơ thành đạt trong khoa học của cán bộ nghiên cứu thuộc
trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia. Lê Thị Thanh Hương (2008),
Động cơ thành đạt của thanh niên hiện nay, đề tài cấp viện. Lã Thị Thu Thuỷ (2006),
Nhu cầu thành đạt nghề nghiệp của trí thức….
Tiếp theo, vấn đề nghiên cứu động cơ trong lĩnh vực kinh tế - quản trị kinh
doanh như: động cơ lao động, động cơ lựa chọn sản phẩm tiêu dùng…cũng đang
được quan tâm nghiên cứu sâu rộng: Văn Thị Kim Cúc (2006), Động cơ làm việc của
chủ doanh nghiệp kinh tế tư nhân trong giai đoạn hiện nay, Tạp chí Tâm lý học số
3/2006. Lê Văn Hảo (2006), Động lực làm việc bên trong và bên ngoài của cán bộ
nghiên cứu Viện Khoa học Xã hội Việt Nam và Viện Khoa học và Công nghệ Việt
Nam, Tạp chí Tâm lý học số 6/2006…
Ngoài ra, các đề tài liên quan đến mảng động cơ phạm tội của tội phạm cũng
đã được nghiên cứu nhiều: Ngô Thị Thuận (2007), Động cơ phạm tội của kẻ phạm
tội, Niên luận…
Nói chung, ở Việt Nam có nhiều công trình nghiên cứu về động cơ dựa vào cơ
sở lý luận và phương pháp luận của tâm lý học hoạt động. Các công trình nghiên cứu
về động cơ đã được các nhà nghiên cứu đề cập ở nhiều góc độ, lĩnh vực khác nhau,
ngày càng khẳng định được tầm quan trọng của nó đối với đời sống tâm lý mỗi con
người.
1.1.3. Các công trình nghiên cứu về vấn đề sử dụng rượu, bia trên thế giới
Các nghiên cứu gần đây của nhiều nước trên thế giới như Thụy Điển, Anh,…
cho thấy xu hướng trẻ hóa tuổi bắt đầu uống rượu, gia tăng trong tần suất và lượng
rượu tiêu thụ ở nhóm tuổi thanh niên (WHO, 2004). Trong năm 2004 - 2005, cứ
100.000 học sinh trung học ở Anh thì có 146 học sinh bị nhà trường tạm thời cho
nghỉ học vì có liên quan đến đồ uống có cồn và 06 trên 100.000 học sinh bị đuổi khỏi
16
trường học. Và, đồ uống có cồn còn được xác định là có mối liên quan đến tình trạng
trốn học. Ở London, trong độ tuổi 14-16 có hơn 2/3 lạm dụng rượu, bia và đó là
những đối tượng thường xuyên trốn học (Best, D; Manning, V; Gossop, M et al.
(2006). Excessive drinking and other problem behaviours among 14-16 year old
children. Addictive Behaviours. 31(8): 1424-1435). Độ tuổi và địa điểm sử dụng
rượu, bia có mối liên hệ với việc sử dụng rượu, bia của giới trẻ, theo một cuộc khảo
sát ở North West của Anh cho thấy: Khoảng 90% số học sinh (tuổi 15 và 16) được
khảo sát cho biết họ thỉnh thoảng uống rượu. 38.0% thường rơi vào trạng thái “hũ
chìm”, 24.4% là thường xuyên uống (uống hai hay nhiều lần một tuần) và 49.8%
uống tại các nơi công cộng (chẳng hạn như tại các câu lạc bộ, đường phố và công
viên). Trẻ em thường uống rượu ở các nơi công cộng nhiều hơn là uống tại gia đình
(Trích lại từ Alcohol and adolescents, 2010). Nghiên cứu của Victoria White và Jane
Hayman, 2006 về “Sử dụng đồ uống có cồn của học sinh trung học Úc vào năm
2005”. Kết quả, tỷ lệ học sinh hiện đang uống rượu, bia trước thời điểm khảo sát tăng
lên theo lứa tuổi với 10% ở tuổi 12 và tăng lên tới 49% ở độ tuổi 17. Cha mẹ là yếu tố
có sự tác động phổ biến nhất đến việc sử dụng rượu, bia của học sinh, với 37% nam
giới và 38% nữ giới cho thấy họ đã được cha mẹ họ cho uống rượu trong tuần qua.
Ba địa điểm mà giới trẻ thường uống rượu là tại gia đình, tại nhà của bạn bè hoặc tại
các bữa tiệc. Các kết quả khảo sát mới nhất của Anh cho thấy không có sự khác biệt
về giới tính trong việc sử dụng rượu, bia của giới trẻ và sự tác động của bạn bè cũng
như áp lực tự thân là một trong yếu tố khiến giới trẻ tìm đến rượu, bia: nữ giới ngày
nay đã “bắt kịp” nam giới về việc tiếp cận và sử dụng rượu, bia. Ở Anh, dưới 18 tuổi
không được phép mua rượu cho mình nhưng 63% những người tuổi từ 16 – 17 và
10% người ở độ tuổi 12 – 15 đã say sưa trong năm qua nói rằng họ thường mua rượu
trong quán rượu, quầy bar và câu lạc bộ đêm. Giới trẻ coi rượu như là một phương
tiện giao lưu xã hội với bạn bè (62%).
Uống rượu để gia tăng sự tự tin cũng là một chỉ báo quan trọng
(www.ias.org.uk/resources/factsheets/adohlescents.pdf). Các chương trình quảng cáo
17
về rượu, bia trên các phương tiện truyền thông đại chúng có sự tác động nhất định
đến việc sử dụng rượu trong thanh thiếu niên. Một nghiên cứu gần đây về ảnh hưởng
của việc quảng cáo rượu đối với thanh thiếu niên ở Ai-len cho thấy: Đa số những
thanh thiếu niên được khảo sát đều khẳng định là họ yêu thích các chương trình
quảng cáo về rượu. Và, hầu hết các thanh thiếu niên tin rằng nội dung của các chương
trình quảng cáo sẽ góp phần định hướng cho hành động hay mục tiêu cho họ, bởi vì
các chương trình quảng cáo mô tả cảnh - nhảy múa, sự giải trí ở hộp đêm, âm nhạc
sôi động... Thanh thiếu niên coi những quảng cáo về rượu, bia như là những gợi ý,
những chương trình quảng cáo rượu, bia tạo nên khuynh hướng bao trùm rằng rượu
sẽ đem đến thành công trong cuộc sống và tình dục… (Trích lại từ Alcohol and
advertising, 2010). Theo nghiên cứu về nước Pháp, các vấn đề do rượu, bia gây ra
thiệt hại chiếm 1,5% tổng sản phẩm quốc nội (GDP) năm 1997, cao hơn so với thuốc
lá (1,2%). Nghiên cứu khác ở Mỹ báo cáo một con số cao hơn là 2,1% tổng sản phẩm
quốc nội (GDP) (Trích lại từ điều tra Y tế Việt Nam, 2006:97).
Như vậy, qua các nghiên cứu của mình, các tác giả phương Tây cho thấy rằng,
lứa tuổi lần đầu tiếp cận rượu, bia đang được trẻ hóa. Sử dụng rượu, bia khác nhau
theo lứa tuổi và không có sự khác biệt về giới trong việc sử dụng rượu, bia. Địa điểm
mà giới trẻ sử dụng rượu, bia là tại gia đình, tại nhà của bạn bè hoặc tại các bữa tiệc.
Cùng với gia đình thì yếu tố nhóm bạn, các chương trình quảng cáo về rượu, bia cũng
có sự tác động nhất định đến hành vi sử dụng rượu, bia của giới trẻ.
1.1.4. Các công trình nghiên cứu về vấn đề sử dụng rượu, bia ở Việt Nam
Ở Việt Nam các vấn đề về rượu, bia đã được nghiên cứu từ những năm 90 của
thập kỷ trước. Các nghiên cứu chỉ ra rằng: tuổi lần đầu sử dụng rượu, bia có sự chênh
lệch với các nước trong khu vực, nam giới sử dụng, lạm dụng và nghiện rượu, bia
nhiều hơn so với nữ giới, tỉ lệ đã từng uống hết một cốc rượu, bia tăng theo độ tuổi.
Nghiên cứu tại phường Trung Trực, Hà Nội năm 1994 với số mẫu là 7.986 người từ
15 tuổi trở lên cho thấy nghiện rượu chỉ có ở nam giới, với 1.9% nghiện rượu, bia và
50 – 60% tổng số người nghiện rượu ở lứa tuổi 30 đến 50. Cuộc Điều tra Y tế quốc
18
gia (2001 – 2002), đã phát hiện 22.2% dân số trên 15 tuổi có uống rượu bia từ một
lần trở lên trong tuần, trong đó nam chiếm 46% và nữ chiếm 2%; 77.9% dân số trên
10 tuổi đang dùng rượu, bia đã bắt đầu uống trong độ tuổi 15 – 25. Nghiên cứu về các
bệnh lý liên quan đến rượu tại huyện Ba Vì khám lâm sàng trên 585 đối tượng từ 18
đến 60 tuổi năm 2003 cho thấy ở nam giới tỷ lệ nghiện rượu là 8% trong khi đó tỷ lệ
này ở nữ là 0% (Trích lại từ điều tra Y tế Việt Nam, 2006:101).
Năm 2006, được sự uỷ quyền của Dự án thành phần Chính sách Y tế; Viện
Chiến lược và Chính sách Y tế, Bộ Y tế đã tiến hành nghiên cứu đánh giá về “Tình
hình lạm dụng rượu bia tại Việt Nam”, cuộc điều tra đã chỉ ra rằng: Tỷ lệ sử dụng
rượu (ít nhất là 1 lần/tuần) tại các địa bàn nghiên cứu là 33.5%. Tỷ lệ sử dụng rượu
trong nhóm nam là 64%, cao hơn so với số liệu điều tra về tình hình sử dụng rượu,
bia tại 12 quốc gia đang phát triển (50%) và thấp hơn so với tỷ lệ sử dụng rượu của
nam giới trong khu vực Tây Thái Bình Dương là 84%.
Cuộc Điều tra quốc gia về vị thành niên và thanh niên Việt Nam (SAVY) do
Tổng cục Thống kê và Bộ Y tế phối hợp với một số tổ chức quốc tế thực hiện năm
2003 (SAVY 1) với tổng số mẫu là 7.584 vị thành niên và thanh niên từ 14 – 25 tuổi
tại 42 tỉnh, cho thấy uống rượu, bia là hiện tượng phổ biến ở nam thanh niên (69%)
và ít phổ biến hơn ở nữ thanh thiếu niên với 28.1% nữ cho biết họ đã từng uống rượu,
bia. Tỷ lệ thanh niên đã từng uống rượu, bia tăng lên theo độ tuổi. Cuộc điều tra lần
thứ hai SAVY 2 năm 2009 đã được tiến hành với 10.044 vị thành niên và thanh niên
trong độ tuổi 14-25 sống ở khắp 63 tỉnh/thành trên toàn quốc bao gồm cả nông thôn
và thành phố lớn, cho thấy, tỷ lệ chung những người được hỏi đã từng uống hết một
cốc rượu/bia là khá cao, 58.6%, trong đó 79.9% đối với nam và 36.5% đối với nữ. Tỷ
lệ từng uống hết một cốc rượu, bia tăng lên theo độ tuổi, với 47.5% ở nhóm tuổi 14-
17, 66.9% ở nhóm tuổi 18-21 và 71.2% ở nhóm tuổi 22-25.
Ngoài ra, còn rất nhiều các công trình nghiên cứu khác về tác hại của rượu, bia
đối với sức khỏe con người và hậu quả của việc sử dụng rượu, bia khi tham gia giao
19
thông. Tuy nhiên, hầu hết các công trình nghiên cứu ở nước ta đều nhằm điều tra thực
trạng sử dụng rượu, bia và những hệ lụy của nó chứ chưa đi sâu vào nghiên cứu
nguyên nhân dẫn đến hành vi sử dụng rượu, bia.
1.1.5. Các chính sách về phòng chống tác hại của rượu, bia ở Việt Nam
Nước ta đã từng có thời kỳ cấm tư nhân nấu rượu, bán rượu hoặc đã có chính
sách hạn chế quảng cáo rượu bia, cấm lái xe khi say rượu, cấm lực lượng vũ trang
uống rượu, bia trong giờ làm việc, cấm say rượu, bia nơi công cộng và cấm bán rượu
cho trẻ em. Chính phủ còn có Nghị định số 53/CP ngày 26/6/1994 quy định biện
pháp xử lý hành chính đối với cán bộ, viên chức nhà nước và người có hành vi liên
quan đến say rượu, bê tha. Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ số 351/TTG ngày 25
tháng 8 năm 1996 về việc cấm bán các loại rượu và nước uống có nồng độ cồn từ 14
độ trở lên cho người chưa thành niên và rượu, bia cho trẻ em dưới 16 tuổi. Nghiêm
cấm việc bán và uống rượu, bia trong các trường phổ thông… Năm 1998, Chính phủ
đã đưa ra luật áp thuế tiêu thụ đặc biệt với mặt hàng rượu, bia. Thủ tướng Chính phủ
cũng đã ban hành quyết định số 35/2001/QĐ – TTg ngày 19/3/2001 phê duyệt.
Chiến lược chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân giai đoạn 2001-2010, trong
đó có mục tiêu phòng, chống nghiện rượu (Trích theo Tạp chí Dân tộc học số
6/2006:3). Ngày 07 tháng 04 năm 2008 Chính phủ có Nghị định số 40/2008/NĐ-CP
về sản xuất, kinh doanh rượu... Quy định về việc cấm sử dụng rượu, bia khi tham gia
giao thông từ 2007 và luật Giao thông đường bộ có hiệu lực từ 01/07/2009 cấm người
điều khiển xe ô tô, máy kéo, xe máy chuyên dùng trên đường mà trong máu và hơi
thở có nồng độ cồn; cấm người điều khiển xe mô tô, xe gắn máy mà trong máu có
nồng độ cồn vượt quá 50mg/100ml máu hoặc 0,25mg/l khí thở. Đặc biệt, chưa có quy
định phù hợp trong quảng cáo, khuyến mãi và đưa hình ảnh sử dụng rượu, bia trên
các phương tiện truyền thông và cũng chưa có chính sách truyền thông giáo dục về
tác hại của rượu, bia. Các chính sách chưa đồng bộ, chưa đầy đủ. Nguyên nhân của
tình trạng này là do chưa có cơ chế triển khai thực hiện, chưa được các cấp quan tâm,
20
thiếu sự tham gia của người dân và thiếu sự đầu tư nguồn lực.
Hiện nay, Chính phủ đã giao cho Bộ Y tế làm đầu mối xây dựng dự án Luật
Phòng, chống tác hại của lạm dụng rượu, bia. Theo lộ trình, trong năm 2010, Bộ Y tế
sẽ chủ trì xây dựng hoàn thiện và trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt chính sách
quốc gia phòng chống tác hại của lạm dụng rượu, bia. Trong dự thảo đề cương Chính
sách quốc gia phòng chống tác hại lạm dụng rượu, bia giai đoạn 2010 - 2020, một
trong những nội dung cơ bản là cấm quảng cáo, khuyến mãi rượu, bia dưới mọi hình
thức. Nhà nước sẽ tăng thuế tiêu thụ đặc biệt, quy định về thời gian và mật độ các
điểm bán lẻ rượu, bia, cấm trẻ em dưới 18 tuổi và phụ nữ mang thai sử dụng rượu,
bia… với sự ra đời của Luật Phòng, chống tác hại của lạm dụng rượu, bia cũng như
chính sách quốc gia về phòng chống tác hại lạm dụng rượu, bia.
Các công trình và số liệu trên là cơ sở đáng tin cậy để kế thừa và tiếp tục
nghiên cứu trên các bình diện khác nhau.Có thể nói, đã có nhiều công trình khảo sát
tác hại khi con người lạm dụng rượu bia và các công trình nghiên cứu về động cơ
nhưng chưa có công trình nghiên cứu nào được công bố liên quan đến động cơ sử
dụng rượu bia của Sinh viên tại TP Hồ Chí Minh.
1.2. Những vấn đề lí luận chung về động cơ sử dụng bia rượu
1.2.1. Khái niệm động cơ
Thuật ngữ động cơ (motivation) dựa trên cơ sở của một hàm chỉ ẩn dụ về sự
hoạt động, bởi thuật ngữ này có xuất xứ từ chữ movere trong tiếng Latinh, chỉ sự vận
động. Tương tự, trong tiếng Việt, thuật ngữ “động cơ” hàm chỉ lực đẩy (“cơ”) của
hành vi hay hoạt động (“động”). Theo cách hiểu thông thường thì “động cơ” được
dùng để mô tả sự khởi xướng cho một hoạt động.
Trong tâm lý học có rất nhiều định nghĩa khác nhau về động cơ hoạt động của
con người. Tuy nhiên, các định nghĩa đều thống nhất trong cách nhìn nhận động cơ là
một hiện tượng tâm lý thúc đẩy, quy định sự lựa chọn và hướng của hành vi, nhằm lý
giải nguyên nhân dẫn đến hành vi đó.Về bản chất, trước hết, động cơ là sự phản ánh
tâm lý về đối tượng có khả năng thỏa mãn nhu cầu của chủ thể. Nhu cầu được đề cập
21
ở đây bao giờ cũng có đối tượng cụ thể. Lúc đầu, chủ thể chưa nhận ra đối tượng của
nhu cầu, chủ thể xuất hiện trạng thái cần một cái gì đó. Chỉ khi nhu cầu bắt gặp được
đối tượng có khả năng thỏa mãn nó, đối tượng ấy được tri giác, tư duy, nó đạt được
khả năng thúc đẩy và định hướng hoạt động chủ thể, tức trở thành động cơ của hoạt
động. Thứ hai, động cơ đặc trưng của con người mang tính lịch sử - xã hội. Điều này
khẳng định, động cơ của con người nảy sinh và hình thành trong quá trình phát triển
của cá thể, chứ không phải có sẵn từ lúc mới sinh ra. Hệ thống động cơ con người
được hình thành trên cơ sở hoạt động và giao tiếp của chủ thể trong mối quan hệ xã
hội, cũng như trong mối quan hệ con người với thế giới khách quan. Mặt khác, tính
lịch sử - xã hội của động cơ còn thể hiện ở chỗ, đối tượng thỏa mãn nhu cầu của con
người là những sản phẩm của quá trình sản xuất xã hội. Kể cả đối với những động cơ
có nguồn gốc sinh học, đáp ứng nhu cầu tồn tại của cơ thể, vì việc đáp ứng cũng
mang tính xã hội, phụ thuộc điều kiện sống cụ thể, đặc biệt là văn hóa, lối sống.
Trong tâm lí học, vấn đề bản chất động cơ còn nhiều quan điểm khác nhau,
nhưng theo Tâm lí học Macxit, động cơ là sự phản ánh tâm lí về đối tượng có khả
năng thỏa mãn nhu cầu của chủ thể. Nhu cầu bao giờ cũng nhằm vào một đối tượng
nhất định. Nó hối thúc con người hành động nhằm đáp ứng thoả mãn và chỉ khi gặp
được đối tượng có khả năng thoả mãn thì nó mới có thể trở thành động cơ thúc đẩy,
định hướng hoạt động của chủ thể, thôi thúc con người hoạt động nhằm thoả mãn nhu
cầu. Như vậy, ở đây có mối quan hệ giữa động cơ và nhu cầu. Trong tâm lí học, hai
hiện tượng này luôn được nghiên cứu trong mối quan hệ chặt chẽ với nhau, nhiều khi
đan xen nhau, khó tách rời. Có thể nói rằng, nếu nhìn nhận nhu cầu như là một tất yếu
khách quan, thể hiện sự đòi hỏi của chủ thể về những điều kiện cần thiết cho sự tồn
tại và phát triển, thì động cơ là biểu hiện chủ quan của tất yếu khách quan đó.
Tuy nhiên, động cơ và nhu cầu không đồng nhất với nhau, những nhu cầu
giống nhau có thể được thoả mãn bằng những động cơ khác nhau. Và ngược lại, ở
đằng sau những động cơ khác nhau lại có những nhu cầu khác nhau. Mối quan hệ
22
không đồng nhất giữa động cơ và nhu cầu nhờ tính chất đa dạng, đa phương thức
trong động cơ, và cách thức thoả mãn nhu cầu trong hành động của con người. Có thể
nói: động cơ của hoạt động có thể thấy đó chính là đối tượng của hoạt động ấy.
Xét về phương diện phát sinh, thì đối với hoạt động của con người, sự không
trùng khớp giữa các động cơ và mục tiêu là hiện tượng khởi điểm. Trái lại, sự trùng
khớp động cơ và mục tiêu lại là hiện tượng có sau: hoặc đó là kết quả của việc mục
tiêu có một động lực thúc đẩy độc lập, hoặc đó là kết qủa của sự ý thức về các động
cơ làm cho chúng trở thành những động cơ - mục tiêu. Khác với mục tiêu, các động
cơ thường không được chủ thể ý thức về nó ngay lúc đó, khi chúng ta thực hiện
những hành động này hay hành động khác thì thường lúc đó chúng ta không ý thức
về những động cơ đã thúc đẩy chúng ta. Khi được hỏi về duyên cớ của hành động đó
thì chúng ta không khó khăn gì khi nêu ra nó, nhưng việc nêu duyên cớ này hoàn toàn
không phải bao giờ cũng chỉ rõ cho người ta biết những động cơ thực sự đã thôi thúc
các hành động ấy. Tuy nhiên, những động cơ này cũng không tách rời khỏi ý thức,
ngay cả khi con người không ý thức được động cơ hành động của mình thì ngay
những lúc như vậy, động cơ cũng được phản ánh vào tâm lí, nhưng ở dưới một hình
thức đặc biệt: hình thức sắc thái cảm xúc của hành động. Sắc thái cảm xúc này
(cường độ, dấu hiệu của nó và đặc tính về chất của nó) thực hiện một chức năng đặc
biệt, và điều đó đòi hỏi phải phân biệt khái niệm cảm xúc với khái niệm hàm ý nhân
cách. Tuy thế, không phải ngay từ đầu đã có sự không trùng khớp của hai khái niệm
này, mà sự không trùng khớp chỉ xuất hiện do kết qủa phân đôi chức năng của động
cơ nảy sinh trong tiến trình phát triển của hoạt động con người. Còn việc những động
cơ mà lúc bấy giờ không được ý thức, hoàn toàn không chứng tỏ rằng động cơ là một
bản nguyên đặc biệt, lẩn khuất trong những tầng sâu của tâm lý. Những động cơ
không được ý thức cũng chịu sự quy định như bất cứ một sự phản ánh tâm lí nào
khác, chịu sự quy định của tồn tại thực tế, của hoạt động con người trong thế giới
khách quan. Và các động cơ chỉ lộ ra trước ý thức một cách khách quan bằng cách
phân tích hoạt động của con người, còn trong chủ quan thì những động cơ chỉ thể
23
hiện dưới dạng gián tiếp của nó mà thôi, tức là dưới dạng hình thức những trải
nghiệm như: mong muốn, ý muốn, nguyện vọng đạt tới mục tiêu… Sự ý thức được
động cơ là một hiện tượng có sau, chỉ nảy sinh ở mức độ nhân cách và thường xuyên
được tái tạo lại trong tiến trình phát triển nhân cách.
Các động cơ đặc trưng của con người mang tính lịch sử - xã hội. Động cơ của
con người nảy sinh ngay trong chính quá trình phát triển của cá thể, chứ không phải
có sẵn từ lúc đứa trẻ mới sinh ra. Trong tuổi ấu nhi, các động cơ mới được hình thành
một cách có thứ bậc, nhưng hết sức mờ nhạt, không rõ ràng. Dần dần, trong quá trình
phát triển, những động cơ này mới dần mang tính chất xã hội nhiều hơn, do những
động cơ đó gắn liền với việc trẻ lĩnh hội được những chuẩn mực, quy tắc hành vi
trong xã hội. Phần lớn các nhà tâm lí học đều thừa nhận rằng, hệ thống động cơ của
con người được hình thành trên cơ sở hoạt động, giao tiếp của con người trong hệ
thống các quan hệ xã hội, nhóm xã hội nhất định. Nhưng trong hoàn cảnh buộc con
người phải lựa chọn động cơ nào cho phù hợp với việc tiến hành hành động, khi đó
có quá trình đấu tranh động cơ, hành động ý chí, khả năng nhận thức sẽ giúp con
người đối chiếu, so sánh động cơ để chọn ra đâu là động cơ phù hợp với điều kiện,
hoàn cảnh xung quanh, giúp chủ thể lường trước diễn biến và kết quả hành động. Tuy
nhiên, để làm rõ cơ chế hình thành động cơ lại chưa được nhiều nhà nghiên cứu,
nghiên cứu một cách sâu sắc. Mặt khác, đối tượng thoả mãn của con người là những
sản phẩm của quá trình sản xuất xã hội, với tư cách là những phản ánh tâm lí về đối
tượng đó nên động cơ đặc trưng của con người mang nguồn gốc xã hội. Ngay cả một
số động cơ mang tính chất sinh vật như động cơ đáp ứng nhu cầu tồn tại của con
người, các nhu cầu bản năng của con người cũng mang tính xã hội, nó phụ thuộc vào
điều kiện sống, lối sống, đặc trưng của mỗi dân tộc.
Đề tài này chủ yếu đi theo hướng của tâm lý hoạt động nên người nghiên cứu
đã chọn lựa định nghĩa động cơ trong Từ điển Tâm lý học làm nền tảng cho quá trình
nghiên cứu của mình.
- Theo Từ điển Tâm lý học, GS.TS Vũ Dũng và các cộng sự cho rằng động cơ
24
có thể được hiểu như sau:
+ Cái thúc đẩy hành động, gắn liền với việc thỏa mãn những nhu cầu của chủ
thể, là toàn bộ những điều kiện bên trong và bên ngoài có khả năng khơi dậy tính tích
cực của chủ thể và xác định xu hướng của nó.
+ Đối tượng (vật chất hay tinh thần) thúc đẩy và xác định sự lựa chọn xu
hướng của hoạt động mà vì nó hành động được thực hiện
+ Nguyên nhân, cơ sở của sự lựa chọn các hành động và hành vi.
Từ định nghĩa động cơ nền tảng, người nghiên cứu đưa ra định nghĩa động
cơ sử dụng bia rượu như sau: Động cơ sử dụng bia rượu được hiểu là cái thúc
đẩy và định hướng hành vi sử dụng bia rượu của con người.
1.2.2. Cấu trúc động cơ của nhân cách.
Nghiên cứu cấu trúc động cơ có ý nghĩa thực tiễn rất lớn trong ứng dụng tâm lí
học, nhằm nâng cao hiệu quả của giáo dục điều chỉnh hành vi lệch chuẩn. Phần lớn
các nhà tâm lí học khẳng định rằng, động cơ của con người mang tính hệ thống. Các
động cơ khác nhau của con người nằm trong một mối quan hệ chặt chẽ tạo nên một
hệ thống thống nhất, trọn vẹn. Trong mỗi hoàn cảnh, điều kiện cụ thể mà phân biệt
đâu là động cơ chủ đạo, đâu là động cơ thứ yếu. Sự đấu tranh động cơ, động cơ nào
sẽ là động lực thúc đẩy chính con người tham gia vào quá trình hoạt động do trình độ
nhận thức của mỗi người, do các quy tắc, chuẩn mực mà con người nắm được trong
quá trình hoạt động của mình. Ngày nay, trong tâm lí học có khá nhiều cách phân loại
động cơ dựa trên các tiêu chí khác nhau. Người ta có thể phân ra, động cơ gần, động
cơ xa, động cơ thứ phát, động cơ nguyên phát, động cơ tạo ý hay động cơ chức năng
thúc đẩy, động cơ đẩy hay động cơ kéo…. Trong thực tiễn của cuộc sống, chúng ta
đều nhận thấy rằng, mỗi người sống trong một thời đại có những động cơ gần như
giống nhau. Nhiều nhà tâm lí học đã khái quát nên những động cơ chung nhất như:
động cơ thành đạt, động cơ giao tiếp, động cơ tự khẳng định bản thân… Tuy nhiên,
với mỗi người lại có những động lực thúc đẩy họ thực hiện theo những cách riêng
25
nhằm đáp ứng động cơ đó. Như vậy trong cấu trúc của một động cơ, ít nhất có thể
thấy được hai khía cạnh: khía cạnh nội dung của động cơ và khía cạnh lực của động
cơ.
- Về nội dung của động cơ: Nội dung của động cơ phản ánh cái mà con người
muốn vươn tới, muốn đạt tới. Nội dung này vừa có tính khái quát vừa có tính cụ thể,
tùy thuộc vào từng điều kiện cụ thể nơi con người đang sống hay trong hoạt động của
từng người cụ thể. Ví dụ như đối với nhà doanh nghiệp thì động cơ thành đạt mang
tính khái quát được thực hiện trong hoạt động kinh doanh như sản xuất, tiêu thụ sản
phẩm, chiếm lĩnh thị trường… còn đối với nhà khoa học thì đó lại là động cơ chiếm
lĩnh tri thức, thực hiện trong các công tác nghiên cứu, tìm tòi, phát minh…
- Khía cạnh lực của động cơ: phản ánh độ mạnh của động cơ. Khía cạnh lực
thể hiện ở chỗ, một động cơ nhất định có khả năng thúc đẩy những hoạt động khác
nhau nhằm thoả mãn động cơ đó hay không. Nếu có thì có thể duy trì hoạt động đến
mức nào, tính tích cực mạnh mẽ hay nửa vời…
Vì các hiện tượng tâm lí nảy sinh và tồn tại như một hình thức phản ánh tích
cực của môi trường sống và các hoạt động sống của con người. Các động cơ của con
người cũng được phản ánh như vậy. Vì vậy, khó có thể tách rời khía cạnh nội dung
và lực của động cơ. Một lực không có nội dung thì khó có thể đạt được một ý nghĩa
nào đó và không tồn tại như một lực thúc đẩy. Sự thay đổi khía cạnh nội dung của
động cơ sẽ kéo theo những thay đổi lực của động cơ. Khi đó, động cơ đã hình thành
sẽ mất đi và thay vào đó là sự xuất hiện động cơ mới khác về chất. Tuy nhiên, lí
thuyết về hai thành phần này của động cơ chưa được làm rõ trong các công trình
nghiên cứu của tâm lí học.
Quá trình hình thành động cơ bắt đầu từ nhận thức của chủ thể đối với đối
tượng, thái độ của chủ thể đối với đối tượng và xu hướng hành vi của chủ thể.
- Nhu cầu: là sự đòi hỏi tất yếu mà con người thấy cần phải thỏa mãn trong
những điều kiện nhất định để tồn tại và phát triển.
Có thể phân thành 2 loại nhu cầu:
26
+ Nhu cầu vật chất: giúp cho sự tồn tại và phát triển về mặt sinh học, đó là nhu
cầu ăn, uống, ngủ …
+ Nhu cầu tinh thần: Bao gồm những nhu cầu về các hoạt động trên lĩnh vực
nhận thức, học tập, giao lưu …
Mối quan hệ giữa động cơ và nhu cầu: Trong tâm lý học hiện đại, nhu cầu
được xem là “gốc rễ” của động cơ. Một nhu cầu thực sự bao giờ cũng là nhu cầu về
một cái gì đó, chúng ta muốn đề cập đến tính đối tượng của nhu cầu. Trước khi được
thỏa mãn lần đầu tiên thì nhu cầu chưa biết đến đối tượng của nó, đối tượng này cần
phải được phát lộ ra. Lúc đó, nhu cầu chỉ xuất hiện như một điều kiện, một tiền đề
cho hoạt động. Và khi nhu cầu tìm thấy đối tượng, đối tượng được hình dung, được
tư duy ra, nó có được chức năng thúc đẩy và hướng dẫn hoạt động, tức trở thành động
cơ. Như vậy, động cơ là sự phản ánh nhu cầu, biểu hiện chủ quan của nhu cầu. Còn
nhu cầu là mặt tất yếu khách quan, nhu cầu buộc hành vi con người phải tìm ra những
phương thức thỏa mãn nó, nhu cầu chính là nguồn gốc tính tích cực hoạt động, động
lực thúc đẩy con người hành động. Vậy, động cơ và nhu cầu thống nhất biện chứng
với nhau, nhưng không đồng nhất.
- Hứng thú: là thái độ đặc biệt của cá nhân đối với đối tượng nào đó, vừa có ý
nghĩa trong cuộc sống, vừa đem lại cho cá nhân sự hấp dẫn về mặt tình cảm. Hứng
thú biểu hiện ở sự tập trung cao độ, ở sự say mê, hấp dẫn bởi nội dung hoạt động, ở
bề rộng và chiều sâu của hứng thú. Hứng thú làm nảy sinh khát vọng hành động, làm
tăng hiệu quả của hoạt động nhận thức, tăng sức làm việc. Sự hứng thú thể hiện trước
hết ở sự tập trung chú ý cao độ, sự say mê của chủ thể hoạt động. Sự hứng thú gắn
liền với tình cảm của con người, nó là động cơ thúc đẩy con người tham gia tích cực
vào hoạt động đó. Trong bất cứ công việc gì, nếu có hứng thú làm việc con người sẽ
có cảm giác dễ chịu với hoạt động, nó là động cơ thúc đẩy con người tham gia tích
cực và sáng tạo hơn vào hành động đó. Ngược lại nếu không có hứng thú, dù là hành
động gì cũng sẽ không đem lại kết quả cao. Đối với các hoạt động nhận thức, sáng
tạo, hoạt động học tập, khi không có hứng thú sẽ làm mất đi động cơ học, kết quả học
27
tập sẽ không cao, thậm chí xuất hiện cảm xúc tiêu cực.
1.2.3. Phân loại động cơ
Thông thường, Tâm lý học phân động cơ thành 2 loại: “ngắn hạn” và “dài hạn”
(Cheplov đưa ra kiểu phân biệt này). Động cơ ngắn hạn chỉ liên quan đến tương lai
gần của nhân cách, còn động cơ lâu dài thì gắn với tương lai tương đối dài các mức
khác nhau trong quá trình phát triển nhân cách… Những người trẻ tuổi thường chịu
tác động của những động cơ ngắn hạn.
V.G.Axêev chia động cơ thành 2 loại: “động cơ tích cực và động cơ tiềm
tàng”.
Stephen Worchil và Wayne Shebilsue cho rằng, động cơ có thể phân thành 2
loại: động cơ nguyên thủy (primary motive) và động cơ xã hội (social motive). Động
cơ nguyên thủy có liên quan đến các nhu cầu sinh học của con người. Các động cơ
này không phải học, giống nhau ở tất cả các động vật và có ý nghĩa rất quan trọng
cho việc tồn tại của một cơ thể hay một loài. Đói, khát, nhu cầu về không khí, nghỉ
ngơi, ham muốn về tình dục được xếp vào loại này. Động cơ xã hội xuất phát từ học
tập và giao tiếp xã hội. Nhu cầu xác nhập, gây gổ hiếu chiến và thành quả được xếp
vào nhóm động cơ xã hội.
Theo G. Murphay và một số các nhà Tâm lý học phương Tây, động cơ được
phân thành 2 loại: động cơ cấp một và động cơ cấp hai hay còn gọi là động cơ
nguyên phát và động cơ thứ phát. Động cơ nguyên phát là những động cơ bên trong,
gắn liền với nhu cầu của cơ thể và động cơ thứ phát. Động cơ cấp hai hay còn gọi là
động cơ thứ phát được hình thành như những công cụ nhằm đáp ứng các động cơ
nguyên phát.
Schwartz và Bilsky cho rằng, động cơ của con người có thể được phân thành
10 loại: “tự điều chỉnh, kích thích, đề cao khoái cảm, thành đạt, quyền lực, tính an
toàn, tính thỏa hiệp, tính truyền thống, mong muốn thuận lợi, tính toàn diện” … Tuy
nhiên, trong thực tế, động cơ của con người rất phong phú và đa dạng và có mối liên
hệ mật thiết với nhu cầu. Các loại động cơ trong hệ thống động cơ không phải là bất
28
biến mà luôn thay đổi.
Theo trường phái Tâm lý học hoạt động, động cơ được chia thành 2 loại cơ
bản: động cơ chủ đạo và động cơ thứ yếu. Hai loại động cơ này có mối quan hệ mật
thiết với nhau và trong những hoàn cảnh cụ thể chúng tạo thành một hệ thống thứ bậc
động cơ.
Theo Nguyễn Quang Uẩn (2003), có rất nhiều cách phân loại động cơ: “Động
cơ ham thích và động cơ nghĩa vụ; động cơ quá trình và động cơ kết quả; động cơ
gần và động cơ xa; động cơ cá nhân, động cơ xã hội và động cơ công việc; động cơ
bên trong và động cơ bên ngoài; động cơ tạo ý và động cơ kích thích”
Theo quan điểm của người nghiên cứu, động cơ của con người rất phong phú
và đa dạng nên có rất nhiều cách phân loại động cơ. Ở mỗi lĩnh vực và tùy thuộc vào
cách tiếp cận khác nhau thì có những cách phân loại khác nhau. Trong đề tài nghiên
cứu này, căn cứ vào tính chất, người nghiên cứu phân động cơ làm hai loại:
Động cơ sử dụng rượu, bia có tính chất sinh lý là động cơ nảy sinh từ nhu cầu
có tính chất bẩm sinh, sinh lý của người tiêu dùng nhằm thỏa mãn nhu cầu: duy trì,
kéo dài, phát triển cuộc sống của họ, trong đời sống thường ngày loại động cơ này
thường giống nhau và có chung một điểm là: rõ nét, đơn giản trùng lặp dễ phát hiện.
Động cơ sử dụng rượu, bia có tính chất tâm lý đây là loại động cơ nảy sinh từ
nhu cầu xã hội, tinh thần của người tiêu dùng. Các động cơ này có sự khác nhau lớn
giữa các cá nhân về phương thức thực hiện và mức độ thỏa mãn. Đặc điểm của loại
động cơ này là sâu sắc, kín đáo đa dạng và luôn được đánh giá bởi các giá trị, chuẩn
mực xã hội…
1.2.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến động cơ sử dụng bia rượu
- Các yếu tố bên trong: nhu cầu, hứng thú cá nhân…
- Các yếu tố bên ngoài: truyền thống, yêu cầu của công việc, dư luận nhóm…:
Sử dụng rượu bia là hành vi gắn liền với văn hóa truyền thống của nhiều quốc gia
trên thế giới. Dung nạp rượu bia với mức độ hợp lý có thể đem lại cho người sử dụng
một số lợi ích như: cảm giác hưng phấn, lưu thông huyết mạch, thuân lợi trong giao
29
tiếp xã hội… Nhưng, rượu, bia lại có thể gây nghiện, nếu không biết kiềm chế, người
sử dụng rất dễ bị lệ thuộc dẫn đến tình trạng lạm dụng rượu, bia. Theo Hiệp hội Bia,
Rượu, Nước giải khát Việt Nam năm 2012, Việt Nam là quốc gia có xu hướng gia
tăng nhanh về mức tiêu thụ rượu, bia bình quân đầu người: Mức tiêu thụ rượu, bia
bình quân đầu người (trên 15 tuổi) đã tăng từ 1.6 lít rượu và 10,04 lít bia năm 2000
lên 4.1 lít rượu và 22 lít bia năm 2008. Hiện nay, mức tiêu thụ rượu, bia bình quân tại
Việt Nam khoảng 1.07% cồn nguyên chất/người/năm đứng thứ 149 thế giới (bia là 27
lít/người/năm)
1.3. Ảnh hưởng của hành vi lạm dụng bia rượu đối với con người.
Rượu là sản phẩm đồ uống có cồn thực phẩm, được sản xuất từ quá trình lên
men (có hoặc không chưng cất) từ tinh bột của các loại ngũ cốc, dịch đường của cây
và hoa quả hoặc được pha chế từ cồn thực phẩm (Etanol).
Rượu thủ công là rượu được sản xuất bằng dụng cụ truyền thống như nồi
(kháp) đồng, ống dẫn hơi rượu, bồn lạnh quy mô nhỏ do tổ chức, hộ gia đình hoặc cá
nhân thực hiện.
Bia là đồ uống lên men chứa độ cồn thực phẩm thấp, được sản xuất từ nguyên
liệu chính là malt đại mạch, hoa houplon, nấm men và nước.
Đơn vị rượu là đơn vị đo lường dùng để quy đổi rượu, bia với nồng độ khác
nhau, tương đương với 10 grams Etanol nguyên chất chứa trong dung dịch uống
(khoảng 2/3 chai bia 500ml hoặc 01 lon bia 330ml 5%, 1 cốc bia hơi 330ml, 1 ly nhỏ
100ml rượu vang 13.5%, 1 chén 30ml rượu mạnh 40%-43%).
Bia 4-5 độ cồn Mức độ uống
rượu bia Số gam cồn
uống/ngày Rượu mạnh
40 độ cồn Rượu vang 12
độ cồn
Uống ít < 1 ly 25ml <1 ly 88ml < 1 ly 220ml
0,1-9,9g (nghĩa
là ít hơn 1 đơn
vị rượu)
1-3 ly 25ml
(25-75ml) 1-3 ly 88ml
(88-260ml) Uống vừa
phải 10-29,9g
(1-3 đơn vị
rượu) 1-3 ly 220ml
(2/3 -2 lon/chai bia
330ml)
30
Uống nhiều >30g > 3 ly 25ml > 3 ly 88ml > 3ly 220ml
(> 75ml) (>260ml)
(nhiều hơn 3
đơn vị rượu) (> 2 lon/chai
bia330ml)
> 4 ly 25ml
(> 100ml) > 4 ly 88ml
(>350ml) Uống quá
nhiều > 40g
(nhiều hơn 4
đơn vị rượu) > 4 ly 220ml
(gần 3 lon/chai bia
330ml)
Lạm dụng rượu, bia là việc sử dụng rượu, bia với mức độ không thích hợp
(phụ nữ, người trên 65 tuổi uống trên 14 đơn vị rượu mỗi tuần, hơn 2 đơn vị rượu
mỗi ngày, hơn 1/2 đơn vị rượu mỗi giờ; nam giới 65 tuổi trở xuống uống trên 21 đơn
vị rượu mỗi tuần, hơn 3 đơn vị rượu mỗi ngày, hơn 1 đơn vị rượu mỗi giờ; trẻ em sử
dụng rượu, bia) dẫn đến sự biến đổi về chức năng của cơ thể hoặc xuất hiện dấu hiệu
về lâm sàng ảnh hưởng có hại đến sức khỏe người sử dụng hoặc sử dụng rượu, bia
trong trường hợp pháp luật nghiêm cấm. Lạm dụng rượu, bia là nguyên nhân của hơn
60 loại bệnh, tật, đứng hàng thứ năm trong số 10 nguyên nhân cao nhất dẫn đến tử
vong sớm và tàn tật trên thế giới. Các rối loạn do lạm dụng rượu (14%) là nguyên
nhân hàng đầu của gánh nặng bệnh tật ở nam giới, tiếp đến là trầm cảm (11%) và tai
nạn giao thông (8%). Theo ước tính của Tổ chức Y tế thế giới, lạm dụng rượu bia gây
ra 4% trường hợp tử vong và 4.65% tổng gánh nặng bệnh tật toàn cầu; tương đương
gánh nặng về sức khỏe do hút thuốc lá gây ra. Ngoài các tác hại về sức khỏe, lạm
dụng rượu bia còn là căn nguyên của nhiều vấn đề xã hội nghiêm trọng khác như: bạo
lực cá nhân, mất trật tự an toàn xã hội, tội phạm, phân hóa xã hội và gánh nặng về
kinh tế đối với cá nhân, gia đình và toàn xã hội do liên quan đến các phí tổn về chăm
sóc sức khỏe, giảm hoặc mất năng suất lao động và giải quyết các hậu quả xã hội
khác...
Ngoài ra, Ethanol trong rượu bia làm cho các cơ quan không nhận được tín
hiệu được truyền tải đi tự não bộ. Điều này giải thích vì sao thức uống có cồn làm suy
giảm khả năng điều khiển tâm thần và hành vi của người uống. Gần 20% ethanol là
chất gây nghiện thẩm thấu đến hệ thống mạch máu thông qua bao tử, và 80% qua các
mao mạch ruột. Thời gian rượu tồn tại trong bao tử càng nhiều thì số lượng ethanol
31
cô đọng trong máu càng nhiều. Điều này giải thích vì sao những người bị say rượu
thường không thể tiếp nhận được thực phẩm sau khi say bởi vì quá trình làm việc của
bao tử đã bị đảo lộn, bao tử trống rỗng vì các mạch máu đã bị tê liệt bởi ethanol
không thể tiêu hóa được thực phẩm. Ethanol có thể hòa tan được rất nhanh trong
nước và ít phân hủy được trong chất béo. Vì thế rượu bia cũng vậy, chúng dễ dàng
thẩm thấu vào những nơi có nhiều cơ bắp trên cơ thể (các bắp cơ) hơn là những vị trí
có nhiều mỡ (mỡ bụng). Khi hai người có cân nặng ngang nhau, nhưng cơ thể của họ
có những phản ứng khác nhau khi uống rượu khi lượng mỡ và lượng cơ trên cơ thể
họ khác nhau. Vì thế hai người có cùng cân nặng nhưng người cao và ốm sẽ dễ bị say
xỉn hơn những người lùn mập. Đối với cơ thể phụ nữ, lượng mỡ trong cơ thể có nhiều
hơn cơ thể nam giới. Điều này cũng giải thích vì sao những phụ nữ có thể uống rượu
thì sẽ khó say hơn nam giới khi uống cùng một lượng rượu. Quá trình trao đổi chất
của cơ thể chính là phương cách tốt nhất để đào thải chất độc ra ethanol ra khỏi cơ
thể. Một số loại rượu bia có thể bị đốt cháy bởi năng lượng của cơ thể, chuyển đổi
rượu thành nước và cacbon dioxit. Một số cồn sẽ bốc hơi qua hơi thở và nước tiểu
(10%). Gan lúc này có nhiệm vụ rất quan trọng. Gan giải độc gần như 90% chất
ethanol trong máu. Khi đốt cháy cồn cũng đồng thời làm cho mạch máu bị giãn ra tại
chỗ và dần trở nên giòn hơn, về già dễ bị tai biến mạch máu (vỡ động mạch, tắc vón
cục trong mạch máu). Bình thường cơ thể một người có thể giải độc được 10 gram
ethanol mỗi giờ. Những người bị bệnh gan sẽ không thể uống được rượu vì gan
không xử lý và chuyển hóa ethanol ra khỏi cơ thể. Những người bị bệnh gan mãn tính
có thể hư tổn toàn bộ chức năng gan vì uống bia, rượu. Đối với bệnh nhân xơ gan,
các tế bào gan có thể ngưng hoạt động vì ethanol làm khóa chặt các mạch máu đến
gan. Vì thế, đối với bệnh nhân bị gan thì không nên uống rượu, cho dù đó là một
lượng rất ít.. Lưu ý rằng tốc độ phân hủy cồn không thay đổi trong giới hạn nhất định.
Tốc độ phân hủy cồn không tăng lên vì hay uống rượu. Hiệu ứng quen với cồn
thường được nhìn thấy ở những người nghiện rượu không do phân hủy cồn nhanh mà
là do hệ thống thần kinh đã quen với lượng chất độc cao hơn. Tác động của rượu, bia
32
đối với người sử dụng phụ thuộc vào: Lượng rượu, bia sử dụng; Tốc độ uống nhanh
như thế nào; Chiều cao cân nặng; Giới tính; Tình trạng sức khoẻ nói chung; Chức
năng gan; Uống rượu, bia một mình hay với nhiều người; Có dùng rượu, bia với các
chất gây nghiện khác không.
Rượu, bia làm chậm quá trình chuyển tải thông tin từ não đến toàn bộ cơ thể.
Điều này khiến cho người sử dụng: Cảm thấy thư thái, sảng khoái; Có những lời nói
và hành động khác thường; Quay cuồng, khó giữ thăng bằng; Khó khăn trong việc
kiểm soát và phối hợp các cử động của cơ thể; Phản ứng chậm; Dễ nổi cáu; Nôn ói;
Nhìn không rõ; Líu lưỡi (nói không rõ). Uống rất nhiều rượu, bia trong một thời gian
ngắn gây ra: Trạng thái lơ mơ; Đau đầu; Buồn nôn hoặc nôn; Run rẩy; Bất tỉnh (ngất
xỉu); Ngừng thở (hiếm). Rượu, bia gây ảnh hưởng đến thị lực và chức năng kết hợp
động tác của cơ thể, do đó trong tình trạng say rượu, bia, người sử dụng dễ gây tai
nạn giao thông, hoặc chết đuối.
Uống nhiều rượu, bia trong một thời gian dài gây ra các vấn đề về sức khoẻ,
tinh thần và gây ra các vấn đề xã hội khác. Uống nhiều rượu trong thời gian dài còn
gây tổn thương vĩnh viễn đối với một số bộ phận của cơ thể. Các loại thức uống có
cồn như bia, rượu vang 12% cồn hay rượu 40%... khi uống quá mức sẽ có hại cho sức
khỏe. Các tác hại do uống quá nhiều rượu bia gây ra như nghiện, giảm trí nhớ, loạn
thần, rối loạn giấc ngủ; tăng huyết áp, đột quỵ, tai biến mạch máu não; dễ bị ung thư:
vòm họng, thực-thanh quản, dạ dày, đại tràng, vú; giảm hoạt động tình dục; gây rối
loạn cân bằng nước - điện giải, dễ bị sỏi thận - đường tiết niệu; nếu người mẹ mang
thai uống rượu bia dễ gây dị tật và sinh bé nhẹ cân, kích thước nhỏ…
Say rượu, bia: Rượu, bia nói chung có tác dụng ức chế hệ thần kinh trung ương
giống như một số loại thuốc ngủ hay thuốc an thần nhẹ. Từ dân gian “say” ám chỉ
đến các thay đổi về mặt hành vi, cảm xúc, ngôn ngữ… do rượu gây ra đối với người
uống. Mức độ thay đổi này tùy thuộc vào nhiều yếu tố như nồng độ rượu, số lượng
rượu uống vào, tình trạng dạ dày lúc uống, khả năng giải độc của gan… Người uống
rượu bia khi say sẽ có một số biểu hiện sau:
33
Nói nhiều hay lè nhè -
Cử động lung tung hay không chính xác -
Mắt nhìn lờ đờ -
Đi đứng loạng choạng -
Dễ xuất hiện các cơn bùng nổ, gây hấn -
Nếu say nặng thì tự ngã gục hay ngủ say tại bàn … -
Tác động của rượu đến tri giác và hệ thần kinh tùy thuộc nồng độ rượu trong
máu:
- Mức độ 0.05% nồng độ rượu trong máu: có sự giảm sút về mặt suy nghĩ,
phán xét và kiềm chế, thường đương sự nói nhiều, hơi kích động nhẹ.
- Mức độ 0.1% nồng độ rượu trong máu: xuất hiện các cử động vụng về, cầm
nắm vật dụng không chính xác.
- Mức độ 0.2% nồng độ rượu trong máu: chức năng vùng vận động và kiểm
soát hành vi cảm xúc của não bị ức chế nên dễ xuất hiện các cơn bùng nổ giận dữ,
gây hấn, đi đứng loạng choạng.
- Mức độ 0.3% nồng độ rượu trong máu: xuất hiện tình trạng lú lẫn hay sững
sờ, đương sự không còn nhận thức rõ môi trường xung quanh.
- Mức độ 0.4 – 0.5% nồng độ rượu trong máu: hôn mê.
- Nếu nồng độ cao hơn: các trung tâm kiểm soát nhịp thở và nhịp tim ở não bị
34
ảnh hưởng và đương sự có thể chết do suy hô hấp.
CHƯƠNG 2: KHẢO SÁT ĐỘNG CƠ SỬ DỤNG RƯỢU BIA CỦA
SINH VIÊN ĐẠI HỌC TRÊN ĐỊA BÀN TP HCM
2.1. Thể thức nghiên cứu
Thực hiện các nhiệm vụ đã xác định, người nghiên cứu biên soạn các công cụ
khảo sát động cơ sử dụng rượu, bia của sinh viên trên địa bàn TP HCM. Để xây dựng
bảng khảo sát chính thức, người nghiên cứu đã tiến hành thăm dò bằng một bảng hỏi
mở rộng. Bảng hỏi này được thăm dò trên 50 sinh viên của trường Đại học Kinh tế
TP HCM (xem Phụ lục 1).
Từ kết quả thăm dò và cơ sở lí luận về động cơ, cấu tạo và tính chất của đồ
uống có cồn, tác động của việc lạm dụng rượu bia đối với sức khỏe con người, người
nghiên cứu đã xây dựng bảng khảo sát (xem Phụ lục 2) gồm các phần như nhận thức,
thái độ và cách xử sự của sinh viên đại học trên địa bàn TP HCM đối với việc sử
dụng rượu bia; những yếu tố ảnh hưởng đến hành vi sử dụng rượu bia của sinh viên.
Bảng khảo sát được tiến hành trên 371 sinh viên của 3 trường đại học trên địa
bàn TP HCM, gồm trường Đại học Thể dục thể thao (143 sinh viên, chiếm 38.5% ),
Đại học Công nghiệp (125 sinh viên, chiếm 33.7%), Đại học Lao động thương binh
và xã hội (103 sinh viên, chiếm 27.8%). Vì nhiều kết quả nghiên cứu đã chỉ ra sự
khác biệt trong mức độ, mục đích, nhu cầu… sử dụng rượu bia giữa nam và nữ nên
đề tài không so sánh sự khác biệt về động cơ sử dụng rượu bia theo giới tính. Đề tài
cũng không đi theo hướng so sánh sự khác biệt trong động cơ sử dụng rượu bia giữa
sinh viên các năm đầu và sinh viên năm cuối. Đề tài sẽ tập trung điều tra, phân tích và
so sánh động cơ sử dụng rượu bia của sinh viên các nhóm ngành khác nhau.
Phiếu thăm dò ý kiến được xây dựng theo nguyên tắc khuyết danh nhằm đảm
bảo tính trung thực và khách quan, bao gồm 2 phần cơ bản: Phần thông tin của khách
thể và phần nội dung. Phần thông tin của khách thể bao gồm: tên trường, giới tính,
35
sinh viên năm thứ mấy nhằm so sánh sự khác biệt trong nhận thức, thái độ và hành vi
đối với việc sử dụng rươu, bia giữa sinh viên các nhóm ngành. Phần nội dung của
phiếu thăm dò có tổng cộng là 12 câu chính và được cấu trúc như sau:
- Biểu hiện của động cơ sử dụng rượu bia: câu 1, 3, 5, 6, 9, 10, 12.
+ Nhận thức của sinh viên về vấn đề sử dụng rượu bia: câu 5, 6, 12
+ Thái độ của sinh viên về vấn đề sử dụng rượu bia: câu 1
+ Hành vi sử dụng rượu bia của sinh viên: câu 10
+ Mục đích sử dụng rượu bia của sinh viên : câu 3
- Những yếu tố ảnh hưởng đến hành vi sử dụng rượu bia của sinh viên: câu 11
- Đánh giá nhu cầu và mức độ lạm dụng rượu bia của sinh viên: câu 7, 8, 9
Với tất cả những số liệu thu được, người nghiên cứu sử dụng phần mềm máy
tính SPSS để thống kê tần số, tính tỉ lệ phần trăm, tính điểm trung bình và độ lệch
chuẩn cho các câu 3, 5, 6, 9, 10, 11, 12.
Cách tính điểm trung bình cho các câu hỏi có 5 phương án trả lời được cho điểm từ 1
đến 5 theo thứ tự từ thấp nhất đến cao nhất: Mỗi mức độ cách nhau 0.8 điểm
Từ 1 đến cận 1.80: Mức độ 1
Từ 1.80 đến cận 2.60: Mức độ 2
Từ 2.60 đến cận 3.40: Mức độ 3
Từ 3.40 đến cận 4.20: Mức độ 4
Từ 4.20 đến 5: Mức độ 5
2.2. Kết quả nghiên cứu.
Bảng 2.1 Loại rượu bia sinh viên thường sử dụng
Đồ uống % SL
Bia chai / lon 69.3% 257
Rượu 14.5% 54
36
Rượu & Bia 16.2% 60
Theo kết quả nghiên cứu chúng ta thấy rằng đồ uống sinh viên ưa chuộng nhất
là các loại bia chai hoặc bia lon (chiểm 69.3%). Chúng ta thấy rằng điều này là hoàn
toàn hợp lí khi mà thị trường bia đang phát triển mạnh mẽ ớ nước ta. Theo số liệu
thống kê năm 2011, Việt Nam là nước tiêu thụ bia nhiều nhất Đông Nam Á. Cả nước
tiêu thụ gần 2.6 tỉ lít bia/năm, vượt xa Thái Lan và Philippines - hai nước đứng ở vị
trí tiếp theo. 14.5% sinh viên thì lại thường xuyên uống rượu & 16.2% sinh viên cho
biết họ có thể sử dụng cả rượu và bia (câu 2).
Có 100% sinh viên được khảo sát cho biết họ đã từng say rượu bia (câu 4).
2.2.1. Mục đích sử dụng rượu, bia của sinh viên
Kết quả chung về mục đích sử dụng rượu, bia của sinh viên
Chú thích:
M1. Tăng cảm giác thèm ăn và kích thích tiêu hóa
M2. Tạo phong cách riêng cho bản thân
M3. Thỏa mãn nhu cầu muốn uống
M4. Giảm thiểu triệu chứng mất ngủ
M5. Giải trí trong thời gian rảnh
M6. Giảm căng thẳng và các cảm xúc tiêu cực trong cuộc sống
M7. Tạo tiền đề thuận lợi cho các mối quan hệ giao tiếp
M8. Tạo cảm giác tự tin trước người khác giới
M9. Kích thích trí tưởng tượng
Bảng 2.2. Mục đích sử dụng rượu bia của sinh viên
Mục đích Xếp loại TB
M1 2.42 4
M2 2.03 9
M3 2.28 6
37
M4 2.21 7
M5 2.56 3
M6 2.88 2
M7 3.68 1
M8 2.29 5
M9 2.12 8
Từ kết quả khảo sát ở bảng 2.2 người nghiên cứu rút ra một số nhận xét mang
tính khái quát như sau:
- Sinh viên đại học trên địa bàn TP HCM sử dụng rượu, bia với các mục đích
chủ yếu là “để tạo tiền đề thuận lợi cho các mối quan hệ giao tiếp” (TB = 3.68),
“giảm căng thẳng và cảm xúc tiêu cực trong cuộc sống” (TB = 2.88), “giải trí trong
thời gian rảnh” (TB = 2.56).
Bảng 2.3. Tỉ lệ sinh viên lựa chọn mục đích sử dụng rượu bia
Mức độ đồng ý Mục
đích 5đ % 4đ % 3đ % 2đ % 1đ %
M1 9 2.4% 70 18.9% 102 27.5% 82 22.1% 108 29.1%
M2 8 19 2.2% 5.1% 96 25.9% 108 29.1% 141 38.0%
36 M3 18 4.9% 9.7% 98 26.4% 102 27.5% 117 31.5%
36 M4 10 2.7% 9.7% 99 26.7% 102 27.5% 124 33.4%
M5 24 6.5% 64 17.3% 99 26.7% 92 24.8% 92 24.8%
M6 28 7.5% 95 25.6% 118 31.8% 74 19.9% 63 17.0%
M7 69 18.6% 166 44.7% 103 27.8% 14 3.8% 19 5.1%
M8 13 3.5% 44 11.9% 111 29.9% 75 20.2% 128 34.5%
M9 22 5.9% 27 7.3% 69 18.6% 109 29.4% 144 38.8%
- Cụ thể, theo kết quả thống kê thu được trong bảng 2.3, có 63,3% sinh viên
38
(18.6% rất đồng ý + 44.7% đồng ý) khẳng định rằng mục đích sử dụng rượu bia của
họ là để tạo tiền đề thuận lợi cho các mối quan hệ giao tiếp. Có thể nói mục đích sử
dụng rượu, bia này của sinh viên bị ảnh hưởng không nhỏ bởi thói quen của xã hội
ngày nay, khi mà các hợp đồng làm ăn, các mối quan hệ giao dịch hầu như đều diễn
ra bên bàn nhậu, đòi hỏi người ta phải biết và sử dụng rượu bia thường xuyên. 33.1%
sinh viên (7.5% rất đồng ý + 25.6% đồng ý) cho biết họ sử dụng rượu bia như một
phương pháp giảm căng thẳng và các cảm xúc tiêu cực trong cuộc sống của mình.
Chúng ta biết rằng, rượu bia có chứa cồn là một chất hóa học tác động trực tiếp lên hệ
thần kinh gây ức chế và làm chậm quá trình truyền tải thông tin từ não bộ đến cơ thể
khiến cho người uống có cảm giác sảng khoái hưng phấn ban đầu nên không chỉ sinh
viên mà nhiều người thuộc mọi tầng lớp, mọi lứa tuổi, giới tính và công việc đã tìm
đến rượu bia như một cách để trốn tránh vấn đề thực tại. Một lí do nữa được 23.8%
sinh viên (6.5% rất đồng ý + 17.3% đồng ý) khẳng định sử dụng rượu bia là để “giải
trí trong thời gian rảnh”. Đây là mục đích sử dụng đáng lo ngại, bởi lứa tuổi và đặc
trưng của sinh viên là sự trẻ trung, năng động, ngoài công việc học tập và rèn luyện
trong nhà trường các em cần tham gia các hoạt động xã hội, thể dục thể thao, văn hóa
văn nghệ để nâng cao các kĩ năng sống cho bản thân chứ không phải là la cà bên bàn
nhậu.
- Nhiều sinh viên “hoàn toàn không đồng ý” và “không đồng ý” lựa chọn
những mục đích sử dụng rượu bia như: tăng cảm giác thèm ăn và kích thích tiêu hóa
(51,2%) , tạo phong cách riêng cho bản thân (67,1%) , thỏa mãn nhu cầu muốn uống
(59%), giảm thiểu triệu chứng mất ngủ (61%) , kích thích trí tưởng tượng (68.2%).
So sánh mục đích sử dụng rượu bia của sinh viên các trường
Bảng 2.4. So sánh mục đích sử dụng rượu bia của sinh viên các trường.
Trường Mục ĐH TDTT ĐH CN ĐH LĐ-XH đích TB ĐLC ĐLC TB TB ĐLC
M1 2.47 1.17 1.17 2.42 2.34 1.16
39
M2 2.04 1.00 1.02 2.08 1.91 0.97
2.38 1.15 2.16 1.10 2.29 1.20 M3
2.29 1.12 2.16 1.05 2.11 1.11 M4
2.56 1.23 2.55 1.18 2.55 1.24 M5
2.86 1.18 2.87 1.20 2.86 1.19 M6
3.73 0.99 3.60 1.01 3.58 1.05 M7
2.35 1.18 2.29 1.12 2.27 1.19 M8
2.18 1.20 2.07 1.14 2.12 1.19 M9
Theo kết quả thống kê bảng 2.4 xét riêng các mục đích sử dụng rượu bia được
nhiều sinh viên lựa chọn nhiều nhất (gồm M7, M5, M6) chúng ta thấy rằng với 2 mục
đích M5 & M6 thì không có sự khác biệt giữa sinh viên các trường. Tuy nhiên, ở mục
đích M7 thì lại có sự chênh lệch đáng kể, theo kết quả này thì sinh viên trường ĐH
TDTT cho biết họ “rất đồng ý”, “đồng ý”, “khá đồng ý” với mục đích “tạo tiền đề
thuận lợi cho các mối quan hệ giao tiếp” nhiều nhất (TB = 3.73). Tiếp đó là đến sinh
viên trường ĐH CN (TB = 3.60) và cuối cùng là sinh viên trường ĐH LĐ-XH (TB =
3.58).
Ở hầu hết các mục đích còn lại, chúng ta thấy rằng điểm trung bình của sinh
viên trường ĐH TDTT luôn cao hơn điểm trung bình của sinh viên hai trường còn lại.
Điều này chứng tỏ nhiều sinh viên ĐH TDTT có xu hướng lựa chọn các mục đích sử
dụng rượu bia này hơn.
2.2.2. Nhận thức của sinh viên đại học trên địa bàn TP HCM về rượu bia và tác
hại của hành vi lạm dụng rượu bia.
Để khảo sát nhận thức của sinh viên đại học trên địa bàn TP HCM, người
nghiên cứu đưa ra các câu hỏi khảo sát gồm câu 5, câu 6, câu 12. Đây là những câu
hỏi dùng để điều tra nhận thức của sinh viên về ảnh hưởng tiêu cực của việc lạm
dụng rượu bia (câu 5), nhận thức về tính chất của rượu bia (câu 6) & nhận thức về
phương pháp hạn chế tác hại của tình trạng say rượu bia (câu 12).
40
2.2.2.1. Nhận thức về ảnh hưởng tiêu cực của việc lạm dụng rượu bia
Kết quả chung nhận thức về ảnh hưởng tiêu cực của việc lạm dụng rượu bia
Bảng 2.5 Nhận thức về ảnh hưởng tiêu cực của việc lạm dụng rượu, bia
Trường Độ lệch chuẩn TB
ĐH TDTT 4.08 0.99
ĐH CN 4.17 0.90
ĐH LĐ-XH 4.20 0.87
Chú thích:
A1. Mất an toàn khi tham gia giao thông
A2. Lãng phí tiền bạc và thời gian
A3. Gây thoái hóa não bộ
A4. Tổn thương các cơ quan trong cơ thể như: gan, thận, tim…
A5. Nguyên nhân gây ra xung đột và bạo hành gia đình
A6. Nguyên nhân gia tăng các hành vi phạm tội
A7. Là một nguyên nhân gây suy thoái giống nòi
A8. Uống rượu bia gây nguy cơ ung thư cao hơn bình thường.
Bảng 2.6 Tỉ lệ sinh viên đồng ý với ảnh hưởng tiêu cực
của việc lạm dụng rượu bia
Mức độ đồng ý Ảnh
hưởng
tiêu 5 đ % 4 đ % 3đ % 2đ % 1đ %
cực
A1 289 77.9 77 20.8 5 1.3 0 0.0 0 0.0
A2 162 43.7 153 41.2 14 22.4 83 3.8 5 1.3
A3 132 35.6 153 41.2 13 17.0 63 3.5 5 1.3
A4 177 47.7 131 35.3 7 7.3 27 1.9 7 1.9
A5 172 46.4 132 35.6 15.4 12 57 3.2 19 5.1
A6 142 38.3 187 50.4 9.4 6 35 1.6 8 2.2
41
A7 96 25.9 170 45.8 22.6 12 84 3.2 19 5.1
A8 110 29.6 151 40.7 74 19.9 16 4.3 5 1.3
Từ kết quả khảo sát ở bảng 2.6 cho phép người nghiên cứu rút ra một số nhận
xét mang tính khái quát sau:
Tất cả các ảnh hưởng tiêu cực đưa ra đều được đa số sinh viên đồng ý (TB =
4.15, min = 1, max = 5, độ lệch chuẩn = 0.92)
Sự nhận định của sinh viên về các ảnh hưởng tiêu cực khi việc lạm dụng rượu,
bia đối với sức khỏe và đời sống con người không có sự chênh lệch lớn. Trong đó,
các ảnh hưởng như: “gây mất an toàn khi tham gia giao thông”, “nguyên nhân gây ra
xung đột và bạo hành gia đình”, “lãng phí tiền bạc và thời gian” được sinh viên cho là
có tác động tiêu cực nhiều nhất đến đời sống của con người. Gần như 100% sinh viên
(98.7% rất đồng ý & đồng ý) cho rằng lạm dụng rượu bia gây “mất an toàn khi tham
gia giao thông”. Rượu bia là chất kích thích, khi dung nạp dù ít hay nhiều đều dẫn
đến các rối loạn về tâm thần. Mức độ nhẹ làm ngưỡng cảm giác, cảm nhận giảm,
phản ứng chậm, tư duy logic giảm sút, gặp khó khăn trong phán đoán tình hình...
Mức trung bình làm bệnh nhân đãng trí, tri giác thiếu chính xác... Mức độ nặng gây
ra trạng thái choáng váng, không làm chủ được hành vi. Các mức độ rối loạn như trên
đều ảnh hưởng đến khả năng điều khiển và làm chủ các phương tiện khi tham gia
giao thông của người sử dụng rượu bia. Vì vậy để đảm bảo an toàn cho bản thân và
những người xung quanh khi tham gia điều khiển các phương tiện giao thông, tuyệt
đối không nên sử dụng rượu bia. Chúng ta thấy kết quả thống kê này là hoàn toàn hợp
lí khi các phương tiện thông tin đại chúng như truyền hình, báo chí, mạng
internet…thường xuyên cập nhật các tin tức liên quan đến tai nạn giao thông do
người điều khiển có sử dụng rượu, bia gây ra. Theo số liệu của Uỷ ban An Toàn Giao
Thông quốc gia, năm 2011 cả nước xảy ra 12.441 vụ tai nạn giao thông, làm chết
10.543 người và làm bị thương 9.671 người. Lạm dụng rượu bia là một trong những
nguyên nhân chủ yếu gấy tai nạn giao thông. Theo báo cáo, có khoảng gần 8% các vụ
42
tai nạn giao thông liên quan trực tiếp đến việc lạm dụng rượu, bia.
88.7% sinh viên đại học trên địa bàn TP HCM “rất đồng ý” & “đồng ý” rằng
lạm dụng rượu bia là “nguyên nhân gia tăng các hành vi phạm tội” và 82% sinh viên
cho rằng “rượu bia là nguyên nhân gây ra xung đột và bạo hành gia đình”. Nhận định
này phù hợp với số liệu trong một công bố tại hội thảo liên quan đến an toàn giao
thông do Uỷ ban An Toàn Giao Thông quốc gia tổ chức cuối năm 2011, số liệu công
bố cho thấy tại Việt Nam, 60% bạo lực gia đình xuất phát từ say rượu, ngộ độc rượu
bia, chiếm gần 22% các loại ngộ độc; 7% số bệnh nhân tâm thần xuất phát từ rượu
bia... Bạo lực gia đình do các ông chồng nghiện bia rượu ngày càng nghiêm trọng, tội
ác giết người cũng có từ nguyên nhân này. Nhiều gia đình tan nát, nhiều người chồng
phải vào tù vì bia, rượu. Ngoài ra, các vụ án đâm chém, giết người do say xỉn thường
xảy ra. Trong hàng quán, trên đường phố, các "đệ tử Lưu Linh" sẵn sàng gây sự hành
hung người khác, hoặc chém giết nhau chỉ vì lên cơn say không kiểm soát được hành
vi. Ở các tòa án, không ít các vụ án hình sự mà bị cáo gây án mạng hoặc có hành vi
phạm tội khác do bia rượu.
Nhận định “lạm dụng rượu bia gây lãng phí về tiền bạc và thời gian” được
84.9% sinh viên ủng hộ (rất đồng ý & đồng ý), đây là một vấn đề rõ ràng vì chúng ta
có thể quan sát thấy hằng ngày tại các quán ăn nhậu, thậm chí ngay tại gia đình, sau
các buổi làm việc, đặc biệt là dịp lễ tết và ngày nghỉ, người Việt có thói quen “lai rai”
với người thân và bạn bè. Các báo cáo của Bộ y tế cũng cho thấy ngoài việc mất an
toàn khi tham gia giao thông, gây tổn hại nghiêm trọng đến sức khỏe và tài chính cá
nhân thì việc lạm dụng rượu bia sẽ gây tổn hại lớn về kinh tế cho xã hội do chi phí
hàng năm chi cho công tác xử lí các hậu quả của việc lạm dụng rượu bia khá cao.
Theo số liệu của Bộ Công thương công bố tháng 7 năm 2012, mức tiêu thụ bia bình
quân đầu người của Việt Nam năm 2010 là 30.3 lít, gấp 2 lần số lượng tiêu thụ năm
2006. Theo ước tính, Việt Nam mỗi năm tiêu tốn 291.72 triệu USD vào bia, rượu.
Thêm vào đó, đa số sinh viên cũng nhất trí rằng lạm dụng rượu bia dẫn tới
những hậu quả khôn lường về sức khỏe như: gây thoái hóa não bộ (75.8% rất đồng ý
43
& đồng ý), làm tổn thương các bộ phận trong cơ thể (83.0% rất đồng ý & đồng ý), là
một nguyên nhân gây thoái hóa giống nòi (71.7% rất đồng ý & đồng ý) và gây nguy
cơ ung thư cao hơn bình thường (70.3% rất đồng ý & đồng ý). Như chúng ta đã biết,
lạm dụng rượu, bia là nguyên nhân của hơn 60 loại bệnh tật, đừng hàng thứ 3 trong số
các nguyên nhân dẫn đến tử vong sớm và tàn tật trên thế giới. Theo ước tính của Tổ
chứ Y tế thế giới, lạm dụng rượu bia gây ra 4% trường hợp tử vong và 4.65 % tổng
gánh nặng bệnh tật toàn cầu. việc lạm dụng rượu ngày càng tăng vì vậy rượu bộc lộ
rất nhiều những tác dụng xấu:các bệnh lí về tim mạch, hô hấp, tiêu hóa, và đặc biệt
chúng ta xem xét về mặt tâm thần. Rượu bia tác dụng rất lớn về mặt tâm thần, nó tác
dụng lên hệ thống thần kinh trung ương với nhiều cơ chế: Rượu bia làm teo mô não,
ức chế hệ thần kinh trung ương, phá hủy tế bào não. Rượu bia gây trở ngại cho việc
thông tin giữa các tế bào thần kinh do tương tác lên các receptor của các tế bào thần
kinh, thúc đẩy ức chế chất dẫn truyền thần kinh GABA và glutamine làm cho cơ thể
trở nên uể oải và đờ đẫn. Thường xuyên đưa một lượng cồn vào bên trong cơ thể có
thể để lại những tổn thương vĩnh viễn không thể phục hồi. Não bộ có thể bị suy giảm
kích thước và dẫn tới những thiếu hụt trong các sợi thần kinh, nơi vận chuyển thông
tin giữa các tế bào não. Như vậy rượu ảnh hưởng rất lớn tới thần kinh và các hoạt
động tâm thần, khi lạm dụng rượu có thể gây nhiều tác hại nguy hiểm. Uống quá
nhiều rượu làm tổn hại sức khỏe của chúng ta. Cồn rượu phá hủy gan, thận, tim…
Gan là cơ quan dễ chịu tổn hại do tác dụng của rượu nhất bởi vì đây là nơi rượu và
các chất độc khác được chuyển hóa. Uống rượu trong thời gian dài có thể dẫn tới
viêm gan. Có tới 70% những người bị viêm gan do rượu bị xơ gan. Khi gan trở nên
xơ hóa, các mô gan khỏe mạnh sẽ bị thay thể bởi các mô sẹo, làm gan không thể hoạt
động được như chức năng vốn có; Dạ dày: rượu gây kích thích niêm mạc dạ dày và
ruột, gây ra hiện tượng nôn mửa, cảm giác buồn nôn và cuối cùng dẫn đến loét dạ
dày; Tụy: Tuyến tụy tiết ra kích thích tố insulin và glucagon, quy định cách thức ăn
được chia nhỏ và được sử dụng để cấp năng lượng của cơ thể. Uống rượu lâu dài có
thể dẫn đến viêm tuyến tụy; Ung thư: Nghiên cứu chỉ ra rằng uống lâu dài làm tăng
44
nguy cơ ung thư miệng, thanh quản, cổ họng và thực quả. Bên cạnh đó Rượu là đặc
biệt nguy hiểm đối với thai nhi, có thể dẫn đến hội chứng hội chứng thai nhi nghiện
rượu, nguyên nhân số một gây ra suy giảm trí tuệ ở trẻ. Khi em bé được tiếp xúc với
rượu trong bụng mẹ ở bất kỳ giai đoạn nào của thai kỳ, chúng sẽ gặp nhiều khó khăn
sau này về khả năng học tập, trí nhớ và sự tập trung bởi vì rượu xâm nhập vào tử
cung làm, làm suy yếu sự phát triển của một số cấu trúc trong não, hạch nền, tiểu
não…Các chuyên gia y tế khuyến cáo rằng phụ nữ mang thai nên tránh uống rượu
trong thời kỳ mang bầu.
Theo kết quả thống kê từ bảng 2.6, chúng ta thấy rằng không phải tất cả sinh
viên đều đồng ý với các ảnh hưởng tiêu cực được nêu ra, đáng chú ý là có 5.1% sinh
viên hoàn toàn không cho rằng lạm dụng rượu bia là “một trong những nguyên nhân
gây xung đột và bạo hành gia đình”, 5.1% sinh viên cũng cho rằng lạm dụng rượu bia
không phải là “nguyên nhân gây suy thoái giống nòi”, 4.3% sinh viên không đồng ý
rằng “uống rượu bia gây nguy cơ ung thư cao hơn bình thường”. Khá nhiều sinh viên
tỏ ra phân vân khi cho biết ý kiến đánh giá của mình về các ảnh hưởng tiêu cực của
việc lạm dụng rượu bia. Cụ thể, có 22.4% sinh viên phân vân trước nhận định lạm
dụng rượu bia “gây lãng phí tiền bạc và thời gian”, 22,6% sinh viên phân vân trước
nhận định lạm dụng rượu bia “gây suy thoái giống nòi”, 19.9% sinh viên phân vân
trước nhận định “uống rượu bia gây nguy cơ ung thư cao hơn bình thường”, 17% sinh
viên phân vân trước nhận định lạm dụng rượu bia gây thoái hóa não bộ, 15.4% sinh
viên phân vân trước nhận định lạm dụng rượu bia là “nguyên nhân gây ra xung đột và
bạo hành gia đình”, 9.4% sinh viên phân vân trước nhận định lạm dụng rượu bia “là
nguyên nhân gia tăng hành vi phạm tội”. Đặc biệt, 5 sinh viên (chiếm 1.3%) phân vân
với nhận định lạm dụng rượu bia “gây mất an toàn khi tham gia giao thông”. Đây là
những con số đáng để lưu tâm.
Tóm lại: Hầu hết sinh viên đại học trên địa bàn TP HCM nhận thức về các ảnh
hưởng tiêu cực của việc lạm dụng rượu, bia một cách rõ ràng. Đây là một kết quả
đáng mừng, chứng tỏ sinh viên thường xuyên cập nhật các thông tin liên quan đến
45
hậu quả của việc lạm dụng rượu, bia. Tuy nhiên, theo kết quả khảo sát thu được ở các
mục “phân vân”, “không đồng ý” & “hoàn toàn không đồng ý” trong bảng 2.6 chúng ta
thấy vẫn còn những con số đáng quan tâm.
So sánh nhận thức về tác hại của hành vi lạm dụng rượu bia giữa các nhóm
khách thể.
Bảng 2.7. So sánh nhận thức của sinh viên các trường về tác hại
của việc lạm dụng rượu bia
Trường
Ảnh hưởng ĐH ĐHTDTT ĐHCN tiêu cực LĐ-XH
TB ĐLC TB ĐLC TB ĐLC
A1 4.68 0.69 4.81 0.41 4.78 0.41
A2 3.88 0.94 4.05 0.84 4.01 0.90
A3 4.01 0.96 4.13 0.82 4.14 0.87
A4 4.32 0.90 4.34 0.82 4.46 0.80
A5 3.92 1.17 4.14 1.02 4.07 0.99
A6 4.08 0.93 4.25 0.80 4.19 0.7
A7 3.78 1.0 3.73 1.04 3.87 0.94
A8 3.98 0.94 3.93 0.94 4.13 0.83
Người nghiên cứu nhận thấy sinh viên trường ĐH LĐ-XH có xu hướng đồng ý
nhiều hơn sinh viên hai trường còn lại đối với các tác hại được đưa ra khảo sát (TB =
4.20), sau đó tới sinh viên trường ĐH CN (TB = 4.17), cuối cùng là sinh viên ĐH
TDTT (TB = 4.08). Kết quả thống kê bảng 2.7 cho thấy: những nhận định về tác hại
của việc lạm dụng rượu bia được các sinh viên của cả ba trường đồng ý nhiều nhất là:
“mất an toàn khi tham gia giao thông”, “tổn thương các cơ quan trong cơ thể”,
“nguyên nhân gia tăng các hành vi pham tội”. Ngược lại, nhận định được các sinh
viên của cả ba trường “không đồng ý” nhiều nhất là “lạm dụng rượu bia là một
46
nguyên nhân gây suy thoái giống nòi”.
Điểm trung bình của sinh viên ĐH TDTT ở hầu hết các tác hại đều nhỏ hơn so
với điểm trung bình của sinh viên ĐH CN & ĐH LĐ-XH. Điều này chứng tỏ có
nhiều sinh viên ĐH TDTT sẽ “phân vân”, “không đồng ý” với các tác hại của việc
lạm dụng rượu bia hơn 2 trường còn lại.
So sánh giữa trường ĐHCN và ĐH LĐ-XH, chúng ta thấy rằng đối với các tác
hại A8, A7 và A4 nhiều sinh viên ĐH LĐ-XH có xu hướng “đồng ý” và “rất đồng ý”
hơn sinh viên ĐH CN. Ngược lại, đối với các tác hại A1, A5, A6 thì nhiều sinh viên
ĐH CN lại có xu hướng “đồng ý” & “rất đồng ý” hơn.
Trước tất cả các nhận định thì sinh viên trường ĐH LĐ-XH tỏ ra ít phân vân
hơn nhiều so với sinh viên hai trường còn lại (xem Bảng 2.8).
Bảng 2.8. So sánh mức độ “phân vân” của sinh viên trước các nhận định về tác
động tiêu cực của việc lạm dụng rượu bia.
Trường
ĐHTDTT ĐHCN ĐH
LĐ - XH Ảnh
hưởng
tiêu cực SL % SL % SL %
A1 1 0.7% 1 0.8% 0 0.0%
A2 31 21.7% 29 23.2% 23 22.3%
A3 23 16.1% 29 23.2% 11 10.7%
A4 12 8.4% 10 8.0% 5 4.9%
A5 25 17.5% 15 12.0% 17 16.5%
A6 17 11.9% 10 8.0% 8 7.8%
A7 32 22.4% 35 28.0% 17 16.5%
A8 28 19.6% 32 25.6% 14 13.6%
Phân vân mang tính trung gian, tức là không ủng hộ và cũng không phản đối do
đó mức độ này thể hiện sự nghi ngờ hoặc chưa chắc chắn về một nhận định nào đó.
47
Mức độ phân vân cho thấy kiến thức của một số sinh viên về ảnh hưởng tiêu cực của
rượu bia còn chưa rõ ràng. Đáng lưu ý là ở một số ảnh hưởng được đưa ra khảo sát
(A2, A7, A8) thì tỉ lệ sinh viên lựa chọn mức độ “phân vân” khá cao.
2.2.2.2. Nhận thức về tính chất của rượu, bia.
Kết quả nhận thức chung về tính chất của rượu, bia
Bảng 2.9. Nhận thức về tính chất của rượu, bia
Trường TB Độ lệch chuẩn
ĐH TDTT 3.28 1.31
ĐH CN 3.22 1.30
ĐH LĐ-XH 3.33 1.23
Chú thích:
T1. Uống rượu, bia chỉ gây ức chế hoạt động của hệ thần kinh chứ không làm
chết các tế bào thần kinh
T2. Sử dụng nhiều rượu/ bia thường xuyên sẽ làm con người lệ thuộc vào rượu/
bia
T3. Uống nhiều rượu/ bia sẽ cung cấp cho cơ thể nhiều nước
T4. Nồng độ cồn trong rượu, bia càng thấp thì cơ thể càng dễ hấp thụ
T5. Say rượu, bia chính là tình trạng ngộ độc cồn
T6. Bia không có khả năng gây nghiện như rượu
T7. Chỉ sử dụng rượu/ bia giả kém chất lượng mới bị ung thư gan và dạ dày
T8. Các loại rượu, bia nấu thủ công không đảm bảo chất lượng do người nấu sử
dụng các loại men ủ bán đại trà không rõ thành phần và xuất xứ
T9. Một số loại rượu, bia đang bán trên thị trường được pha chế trực tiếp từ
cồn công nghiệp và các hóa chất độc hại với giá rẻ
T10. Sử dụng rượu/ bia càng sớm con người càng dễ bị lệ thuộc vào rượu/ bia
hơn
T11. Người có cha (mẹ) lạm dụng rượu/ bia sẽ có nguy cơ nghiện cao hơn
48
Bảng 2.10. Tỉ lệ sinh viên đồng ý với các nhận định về tính chất
của rượu bia
Mức độ đồng ý Tính
chất
của 5 đ % 4 đ % 3đ % 2đ % 1đ % rượu
bia
T1 159 42.9% 30 8.1% 21% 65 17.5% 39 10.5% 79
T2 154 41.5% 130 35% 12% 33 8.9% 11 3.0% 43
T3 34 9.2% 13 3.5% 18% 143 38.5% 114 30.7% 67
T4 99 26.7% 30 8.1% 154 42% 61 16.4% 26 7.0%
T5 167 45.0% 75 20.2% 48 13% 52 14.0% 24 6.5%
T6 101 27.2% 27 7.3% 25% 81 21.8% 69 18.6% 92
T7 56 15.1% 33 8.9% 14% 113 30.5% 117 31.5% 53
T8 137 36.9% 84 22.6% 63 17% 56 15.1% 30 8.1%
T9 166 44.7% 163 43.9% 18 5% 11 3.0% 13 3.5%
T10 152 41.0% 121 32.6% 61 16% 27 7.3% 10 2.7%
T11 124 33.4% 45 12.1% 83 22% 69 18.6% 50 13.5%
Theo kết quả thống kê ở bảng 2.10 cho thấy sinh viên có xu hướng đồng ý với
đa số các tính chất của rượu/ bia được nêu ra. Trong 11 nhận định được đưa ra thì các
nhận định T1, T3, T4, T6 &T7 có nội dung ngược với tính chất thật của rượu/ bia,
các nhận định còn lại phù hợp với kết quả nghiên cứu về rượu/ bia của các nhà khoa
học.
- Những nhận định về tính chất của rượu/ bia được sinh viên đồng tình ủng hộ
cao gồm: “Một số loại rượu, bia đang bán trên thị trường được pha chế trực tiếp từ
cồn công nghiệp và các hóa chất độc hại với giá rẻ” (chiếm 88.6% sinh viên rất đồng
ý & đồng ý), “Sử dụng nhiều rượu/ bia thường xuyên sẽ làm con người lệ thuộc vào
rượu/ bia” (chiếm 76.5% sinh viên rất đồng ý & đồng ý), " Sử dụng rượu/ bia càng
49
sớm con người càng dễ bị lệ thuộc vào rượu/ bia hơn” (chiếm 72.6% sinh viên rất
đồng ý & đồng ý), “Say rượu, bia chính là tình trạng ngộ độc cồn” (chiếm 65.2% sinh
viên rất đồng ý & đồng ý), “Các loại rượu, bia nấu thủ công không đảm bảo chất
lượng do người nấu sử dụng các loại men ủ bán đại trà không rõ thành phần và xuất
xứ” (chiếm 59.5% sinh viên rất đồng ý & đồng ý). Ngược lại, những nhận định về
tính chất của rượu bia có nhiều sinh viên không đồng tình ủng hộ gồm: “Uống nhiều
rượu/ bia sẽ cung cấp cho cơ thể nhiều nước” (chiếm 69.2% sinh viên hoàn toàn
không đồng ý & không đồng ý), “Chỉ sử dụng rượu/ bia giả kém chất lượng mới bị
ung thư gan và dạ dày” (chiếm 62% sinh viên hoàn toàn không đồng ý & không đồng
ý).
- Xét riêng số liệu thống kê cho từng nhận định thì có sự bất ngờ thú vị. Trong
khi 51% sinh viên rất đồng ý & đồng ý rằng “Uống rượu, bia chỉ gây ức chế hoạt
động của hệ thần kinh chứ không làm chết các tế bào thần kinh” , thì chỉ có 28% sinh
viên phản đối nhận định này. Còn lại 21% sinh viên tỏ ra phân vân. Thực tế, các
nghiên cứu khoa học đã chỉ ra rằng rượu bia giết chết tế bào não rất nhanh. Kết quả
nghiên cứu của Trường ĐH Y khoa Heidelberg, Đức cho thấy, chỉ cần 6 phút sau khi
uống rượu, các tế bào não đã bắt đầu bị tiêu diệt. Chất kích thích trong rượu bia còn
tác động trực tiếp lên hệ thần kinh, gây nên tình trạng rối loạn cảm xúc, hành vi.
Người nghiện rượu sức khoẻ tâm thần thường sa sút với những biểu hiện như giảm trí
nhớ, loạn thần, ảo giác, lo âu. Kết quả thống kê này có thể được giải thích do kiến
thức về rượu bia chưa được đưa vào môi trường học tập của học sinh, sinh viên. Các
loại hình truyền thông hay chỉ ra các tác hại của rượu bia với con người, nhưng đó là
các tác hại có thể nhìn thấy trực tiếp còn những tác hại ngầm như rượu bia giết chết
các tế bào thần kinh ngay sau khi uống thì ít người biết đến.
- Ngoài 76.5% sinh viên nhất trí (rất đồng ý & đồng ý) với nhận định “Sử dụng
nhiều rượu/ bia thường xuyên sẽ làm con người lệ thuộc vào rượu/ bia”, thì vẫn có
11.9% sinh viên phản đối và 11.6% sinh viên phân vân trước nhận định đó. Đây là
một con số đáng quan tâm vì 23.5% (= 11.9% + 11.6%) tức là gần 1/ 4 số sinh viên
không biết rõ rằng rượu bia có tính chất gây nghiện, khi sử dụng nhiều và thường
50
xuyên thì con người sẽ bị lệ thuộc vào rượu, bia. Tương tự,vẫn còn 26.4% sinh viên
(10% sinh viên không đồng ý và 16.4% sinh viên phân vân) không biết rõ rằng “Sử
dụng rượu bia càng sớm con người càng dễ bị lệ thộc vào rượu bia hơn”.
- Mặc dù rượu, bia là chất lỏng nhưng uống nhiều rượu bia không những không
cung cấp nước cho cơ thể mà còn làm cơ thể mất nước, do chất cồn có trong rượu bia
sẽ khóa chặt các chất chống khử nước trong cơ thể, biểu hiện dễ thấy nhất là chúng ta
đi tiểu nhiều hơn sau khi uống rượu hoặc bia, nhiều người nhầm tưởng có biểu hiện
này là do rượu bia bổ sung cho cơ thể nhiều nước. Đó có thể là lí do vẫn có 12.7%
sinh viên đồng ý là “Uống nhiều rượu bia sẽ cung cấp cho cơ thể nhiều nước, và
18,1% sinh viên phân vân trước nhận định trên.
- Đối với nhận định “Nồng độ cồn trong rượu bia càng thấp thì cơ thể càng dễ
hấp thụ” có 34.8% sinh viên ủng hộ (rất đồng ý & đồng ý), 23,4% sinh viên phản đối,
còn lại 41.5% sinh viên tỏ ra phân vân. Điều này có thể giải thích do sinh viên nghĩ
rằng rượu bia càng nhẹ độ (nồng độ cồn thấp) thì càng dễ uống tức là càng dễ hấp
thụ. Thực tế, các công trình nghiên cứu chỉ ra rằng nồng độ cồn càng cao thì cơ càng
dễ hấp thụ vào cơ thể người uống. Khi bạn uống một cốc rượu, khoảng 20 % lượng
cồn sẽ bị hấp thụ vào dạ dày, 80% còn lại bị hấp thụ bên trong ruột non. Rượu được
hấp thu nhanh như thế nào phụ thuộc vào nồng độ của rượu trong thức uống (vodka
sẽ được hấp thụ nhanh hơn so với bia, vì vodka có nồng độ cồn cao hơn) và tình trạng
dạ dày của bạn.
- Ngược lại với 65.2% sinh viên rất đồng ý & đồng ý “Say rượu bia chính là
tình trạng ngộ độc cồn” thì có 20.5% sinh viên không đồng ý và 12.9% sinh viên băn
khoăn trước nhận định trên. Đây cũng là con số đáng quan tâm.
- 34.5% sinh viên rất dồng ý & đồng ý cho rằng “Bia không có khả năng gây
nghiện như rượu”, 24.8% sinh viên băn khoăn trước nhận định trên. Sở dĩ có kết quả
trên vì thông thường chúng ta quen thộc với cụm từ “nghiện rượu” vì thế sinh viên
cho rằng chỉ rượu mới gây nghiện. Tuy nhiên, chất gây nghiện ở đây là cồn vì thế bia
cũng có khả năng gây nghiện, nhưng do nồng độ cồn trong bia thấp hơn rượu rất
51
nhiều nên tác động gây nghiện cũng chậm hơn và lâu hơn nhiều.
- 24% sinh viên rất đồng ý & đồng ý cho rằng “chỉ sử dụng rượu bia giả kém
chất lượng mới bị ung thư gan và dạ dày”. Thực tế, thành phần chính trong rượu bia
là cồn có tác động trực tiếp lên hoạt động sinh hóa của các cơ quan trong cơ thể, cản
trở hoạt động bình thường của chúng dẫn đến các rối loạn và bệnh tật. Vì thế không
chỉ rượu bia giả mới gây hại mà dùng rượu bia thật với liều lượng cao cũng bị các
loại bệnh trên.
- Theo kết quả thống kê, có 23.2% sinh viên không đồng ý và 17.0% sinh viên
phân vân với nhận định “Các loại rượu, bia nấu thủ công không đảm bảo chất lượng
do người nấu sử dụng các loại men ủ bán đại trà không rõ thành phần và xuất xứ”.
Điều này có thể giải thích do thói quen sử dụng rượu tự nấu đã có từ lâu đời của
người Việt, đây là loại rượu người dân nấu theo kinh nghiệm, không thông qua kiểm
định về quy trình ủ và nấu. Chúng ta thấy rằng thị trường rượu bia đa dạng phong phú
về mặt số lượng và chất lượng, góp phần không nhỏ trong đó là rượu bia nấu thủ
công có giá rẻ hơn các sản phẩm có thương hiệu. Tuy nhiên, nguyên liệu nấu rượu
trước đây được làm từ các sản phẩm tự nhiên không có các chất hóa học độc hại như
bây giờ, hiện nay các loại men ủ thì được bán đại trà nhưng không ít loại có thành
phần và xuất xứ không rõ ràng, vì thế các cơ quan chức năng khuyến cáo nên hạn chế
sử dụng loại rượu bia này.
- Có 32.1% sinh viên hoàn toàn không & không đồng ý, 22.4% sinh viên phân
vân, 45.5% sinh viên rất đồng ý & đồng ý với nhận định “Người có cha (mẹ) lạm
dụng rượu bia sẽ có nguy cơ nghiện rượu bia cao hơn”.
Tóm lại: Kết quả thống kê cho thấy nhận thức của sinh viên về các tính chất
của rượu bia còn khá mơ hồ và phiến diện, hầu hết kiến thức của sinh viên về tác
động của rượu bia đối với cơ thể con người còn mang tính chất kinh nghiệm. Điều
này chứng tỏ sinh viên thường xuyên sử dụng đồ uống này nhưng họ lại không mấy
quan tâm tìm hiểu để trang bị cho mình các kiến thức về rượu bia nhằm phòng tránh
các tác hại của nó một cách khoa học khi sử dụng.
52
So sánh giữa các nhóm khách thể về nhận thức tính chất của rượu bia
Bảng 2.11. So sánh nhận thức của sinh viên giữa các trường
về tính chất của rượu bia
Trường
ĐHTDTT ĐHCN Tính
chất của
rượu bia ĐH
LĐ-XH
TB ĐLC TB
T1
T2
T3
T4
T5
T6
T7
T8
T9
T10
T11 3.33
3.96
2.08
3.19
3.53
2.85
2.40
3.45
4.21
3.97
3.12 3.31
3.95
2.21
3.23
3.60
2.90
2.50
3.52
4.21
3.95
3.20 1.11
1.10
1.04
0.99
1.28
1.22
1.27
1.27
0.99
1.03
1.29 ĐLC TB
1.17
0.99
1.10
1.01
1.21
1.24
1.29
1.16
0.86
1.03
1.28 ĐLC
1.11
1.04
1.09
1.03
1.10
1.18
1.36
1.28
1.01
0.96
1.17
2.99
3.99
2.22
2.96
3.54
2.70
2.29
3.54
4.24
3.89
3.02
Từ kết quả thống kê ở bảng 2.10 và 2.11 cho phép người nghiên cứu rút ra một
số nhận xét mang tính khái quát sau:
Trường ĐH LĐ-XH có nhiều sinh viên đồng tình với các tính chất của rượu bia
được đưa ra khảo sát hơn hai trường còn lại (TB = 3.33), tiếp theo là ĐH TDTT (TB
= 2.28), cuối cùng là ĐH CN (TB = 2.22)
Xét từng nhận định thì chúng ta sẽ thấy rõ hơn một số khác biệt. Đối với các
nhận định T2 (Sử dụng nhiều rượu/ bia thường xuyên sẽ làm con người lệ thuộc vào
rượu/ bia), và T9 (Một số loại rượu, bia đang bán trên thị trường được pha chế trực
tiếp từ cồn công nghiệp và các hóa chất độc hại với giá rẻ) chúng ta nhận thấy điểm
trung bình của sinh viên 3 trường không có sự chênh lệch đáng kể.
Ngược lại, ở các nhận định: T1 (Uống rượu, bia chỉ gây ức chế hoạt động của
hệ thần kinh chứ không làm chết các tế bào thần kinh), T4 (Nồng độ cồn trong rượu,
bia càng thấp thì cơ thể càng dễ hấp thụ), T6 (Bia không có khả năng gây nghiện như
rượu), T7 (Chỉ sử dụng rượu/ bia giả kém chất lượng mới bị ung thư gan và dạ dày),
T10 (Sử dụng rượu/ bia càng sớm thì con người càng dễ lệ thuộc vào rượu/ bia hơn),
53
T11 (Người có cha (mẹ) lạm dụng rượu/ bia sẽ có nguy cơ nghiện rượu/ bia cao hơn)
thì điểm trung bình của sinh viên trường ĐH CN thấp hơn hẳn so với điểm trung bình
của sinh viên ĐH TDTT và ĐH LĐ-XH. Điều này chứng tỏ nhiều sinh viên của ĐH
CN có xu hướng không đồng tình hơn với các nhận định này.
Ở nhận định T3 (Uống nhiều rượu bia sẽ cung cấp cho cơ thể nhiều nước) &
T8 (Các loại rượu, bia nấu thủ công không đảm bảo chất lượng do người nấu sử dụng
các loại men ủ bán đại trà không rõ thành phần và xuất xứ) thì điểm trung bình của
sinh viên ĐH TDTT thấp hơn hẳn điểm trung bình của sinh viên hai trường còn lại.
Điều đó cho thấy nhiều sinh viên ĐH TDTT có xu hướng phản đối 2 nhận định trên
hơn, tức là nhiều sinh viên TDTT biết rằng uống rượu bia sẽ làm cơ thể mất nước,
nhưng cũng không ít bạn cho rằng nhận định “Các loại rượu, bia nấu thủ công không
đảm bảo chất lượng do người nấu sử dụng các loại men ủ bán đại trà không rõ thành
phần và xuất xứ” là chưa thật hợp lí.
Các nhận định T4 (Nồng độ cồn trong rượu, bia càng thấp thì cơ thể càng dễ
hấp thụ), T5 (Say rượu bia chính là tình trạng ngộ độc cồn), T7 (Chỉ sử dụng rượu/
bia giả kém chất lượng mới bị ung thư gan và dạ dày), T11 (Người có cha (mẹ) lạm
dụng rượu/ bia sẽ có nguy cơ nghiện rượu/ bia cao hơn) chúng ta thấy rằng điểm
trung bình của trường ĐH LĐ-XH cao hơn khá nhiều so với điểm trung bình của 2
trường còn lại. Chứng tỏ so với ĐH TDTT & ĐH CN thì trường ĐH LĐ-XH có nhiều
sinh viên đồng tình cao hơn với các tính chất này.
2.2.2.3. Nhận thức về các phương pháp hạn chế tình trạng say rượu, bia
Kết quả chung về nhận thức các phương pháp hạn chế tình trạng say rượu bia
Bảng 2.12. Nhận thức về các phương pháp hạn chế tình trạng say rượu, bia
Trường Độ lệch chuẩn TB
ĐH TDTT 1.35 3.35
ĐH CN 1.28 3.41
ĐH LĐ-XH 1.38 3.38
Chú thích:
54
P1. Ăn no trước khi sử dụng rượu/ bia
P2. Không dùng nhiều loại rượu/ bia cùng lúc
P3. Uống nhiều nước khi sử dụng rượu/ bia
P4. Uống trà đặc hoặc café ngay sau khi sử dụng rượu/ bia
P5. Ăn nhiều rau xanh và trái cây khi sử dụng rượu/ bia
P6. Không pha trộn rượu/ bia với các loại đồ uống có ga
P7. Uống rượu/ bia chậm (nhâm nhi) sẽ lâu say hơn
P8. Không nên tắm ngay sau khi uống rượu/ bia
P9. Uống Paracetamol để chống say rượu/ bia
Bảng 2.13 : Tỉ lệ sinh viên đồng ý với các phương pháp hạn chế tình trạng say
rượu bia.
PP Mức độ đồng ý
hạn 5đ % 4đ % 3đ % 2đ % 1đ % chế
P1 84 22.6% 159 42.9% 62 16.7% 26 7.0% 40 10.8%
P2 159 42.9% 126 34.0% 54 14.6% 15 4.0% 17 4.6%
P3 71 19.1% 109 29.4% 86 23.2% 57 15.4% 48 12.9%
P4 26 7.0% 43 11.6% 95 25.6% 90 24.3% 116 31.3%
P5 75 20.2% 128 34.5% 100 27.0% 49 13.2% 18 4.9%
P6 164 44.2% 106 28.6% 44 11.9% 27 7.3% 30 8.1%
P7 65 17.5% 95 25.6% 105 28.3% 65 17.5% 41 11.1%
P8 181 48.8% 118 31.8% 40 10.8% 28 7.5% 5 1.3%
P9 16 4.3% 32 8.6% 77 20.8% 146 39.4% 98 26.4%
Theo kết quả thống kê bảng 2.12 chúng ta thấy rằng đa số sinh viên hiểu biết
về các biện pháp hạn chế tình trạng say rượu bia. Điều đáng mừng là sinh viên biết
phân biệt sự có lợi và có hại trong các biện pháp nêu ra.
Các biện pháp có ích như (P1) “ăn no trước khi uống rượu bia” vì khi bụng
đói, lượng axit trong dạ dày tăng lên, khi kết hợp với chất cồn trong rượu, bia sẽ làm
bạn dễ say hơn, kèm theo đó là cảm giác nôn nao, khó chịu. Vì vậy, vừa ăn, vừa uống
55
hay ăn một chút lót dạ trước khi uống rượu, bia là cách tốt nhất để đẩy lùi cơn say và
giảm bớt tác hại của rượu, bia với sức khỏe cơ thể; (P2) “không dùng nhiều loại rượu
bia cùng lúc” vì mỗi loại có thành phần và liều lượng khác nhau, khi uống lẫn lộn, sẽ
dễ làm say hơn; (P3) “uống nhiều nước khi sử dụng rượu bia”, việc này cũng giúp
đẩy nhanh quá trình đào thải chất cồn ra khỏi cơ thể qua đường tiểu tiện, làm bạn
không bị say khi uống rượu; (P5) “ăn nhiều rau xanh và trái cây khi sử dụng rượu
bia” vì r au xanh, hoa quả, đậu nành rất giàu vitamin và chất chống oxi hóa, giúp bảo
vệ gan và hạn chế tác hại của cồn trong rượu tới hoạt động của gan; (P6) “không pha
trộn rượu bia với các loại đồ uống có ga” vì nước uống có ga sẽ làm tăng nồng độ của
rượu bia; (P7) “uống rượu bia chậm sẽ lâu say hơn” uống rượu từ từ cũng là cách
giảm cơn say vì 1 lượng cồn lớn bất ngờ "đổ bộ" vào cơ thể trong thời gian ngắn sẽ
gây tác động nhanh, mạnh tới não bộ, có thể dẫn tới choáng và nhanh say hơn; (P8)
“không nên tắm ngay sau khi uống rượu bia” vì việc tắm ngay sau khi uống rượu sẽ
làm tiêu hao một lượng lớn đường glucose có trong cơ thể, từ đó làm giảm lượng
đường trong máu, dẫn tới hạ đường huyết đột ngột, giảm thân nhiệt có thể gây đột
quỵ, trụy tim mạch
Và các biện pháp gây tác dụng ngược như: (P4) “uống trà đặc hay café ngay
sau khi sử dụng rượu bia” vì trong trà có thành phần tanin kích thích nhanh hơn quá
trình thẩm thấu của cồn vào dạ dày và gây hại cho dạ dày nhiều hơn; (P9) “uống
paracetamol để chống say rượu bia” vì khi uống rượu nhiều rất dễ bị ngộ độc thuốc,
nhất là các thuốc có hại cho gan như paracetamol. Việc biết được các cách giảm thiểu
say rượu bia là cần thiết để bảo vệ sức khỏe của cá nhân trước tác hại của cồn trong
những tình huống buộc phải uống nhiều rượu bia. Những biện pháp đưa ra được
nhiều sinh viên ủng hộ được xếp loại theo bảng sau:
Phương pháp hạn chế Xếp loại
P1 4
56
P2 2
P3 6
P4 8
P5 5
P6 3
P7 7
P8 1
P9 9
Kết quả cho thấy các phương pháp hạn chế tình trạng say rượu bia được nhiều
sinh viên cho là hiệu quả nhất là: P8, P2, P6. Các phương pháp mà nhiều sinh viên ít
đồng tình nhất bao gồm P9, P4 & P7.
Tuy nhiên, ngoài đa số sinh viên biết phân biệt các biện pháp có lợi và có hại
trong số các biện pháp nêu ra để khảo sát, thì vẫn còn một số sinh viên không biết về
các biện pháp này. Điều đó được thể hiện trong số liệu thống kê ở mức “phân vân”,
“không đồng ý” của các phương pháp P1, P2, P3, P5, P6, P7, P8 và mức “rất đồng
ý”, “đồng ý”, “bình thường” của các phương pháp P4, P9.
So sánh nhận thức của sinh viên về các phương pháp hạn chế tình trạng say rượu
bia
Bảng 2.14. Điểm trung bình mức độ đồng ý của sinh viên với các phương pháp
hạn chế tình trạng say rượu bia.
Trường Phương
pháp hạn ĐH TDTT ĐH LĐ-XH ĐH CN
chế TB ĐLC ĐLC TB TB ĐLC
P1 3.63 1.20 1.22 3.57 3.58 1.25
P2 4.08 1.08 1.00 4.05 4.04 1.15
P3 3.16 1.29 1.19 3.38 3.26 1.39
P4 2.28 1.22 1.20 2.61 2.27 1.25
57
P5 3.45 1.09 1.13 3.52 3.60 1.10
P6 3.95 1.22 3.88 1.26 3.97 1.31
P7 3.22 1.25 3.13 1.18 3.30 1.27
P8 4.19 0.98 4.18 0.94 4.18 1.07
P9 2.20 1.11 2.32 1.06 2.23 1.04
So sánh điểm trung bình và độ lệch chuẩn chung của 3 trường (Bảng 2.14)
chúng ta thấy có sự khác biệt trong nhận thức của sinh viên 3 trường về phương pháp
hạn chế say rượu bia. Theo kết quả trên thì sinh viên ĐH CN có xu hướng đồng ý hơn
với các phương pháp hạn chế tình trạng say rượu bia được đưa ra khảo sát (TB =
3.41) và sự lựa chọn của sinh viên trường này cũng ít có sự biến thiên (ĐLC = 1.28)
hơn sinh viên hai trường ĐH TDTT (TB = 3.35, ĐLC = 1.35) & ĐH LĐ-XH (TB =
3.38, ĐLC = 1.38)
Cụ thể, khi xét riêng từng phương pháp trong bảng 2.14, chúng ta có thể rút ra
một số kết luận mang tính khái quát sau:
Sinh viên ĐH CN có điểm trung bình cao hơn khá nhiều so với sinh viên hai
trường ĐH TDTT & ĐH LĐ-XH ở các phương pháp (P3) Uống nhiều nước khi sử
dụng rượu/ bia (điểm trung bình ĐHCN = 3.38 , ĐH TDTT = 3.16 , ĐH LĐ-XH =
3.26 ); (P4) Uống trà đặc hoặc café ngay sau khi sử dụng rượu/ bia (điểm trung bình
ĐHCN = 2.61 , ĐH TDTT = 2.28 , ĐH LĐ-XH = 2.27); (P9) Uống Paracetamol để
chống say rượu/ bia (điểm trung bình ĐHCN = 2.32 , ĐH TDTT = 2.20 , ĐH LĐ-XH
= 2.23).
Đối với phương pháp (P1) Ăn no trước khi sử dụng rượu/ bia; (P2) Không
dùng nhiều loại rượu/ bia cùng lúc, chúng ta thấy có sự tương đồng trong nhận thức
của sinh viên hai trường ĐH CN & ĐH LĐ-XH, chỉ có nhận thức của sinh viên
trường ĐH TDTT có sự khác biệt hơn. Có sự chênh lệch khá rõ ràng trong nhận thức
của sinh viên 3 trường ở các phương pháp (P5) Ăn nhiều rau xanh và trái cây khi sử
dụng rượu/ bia; (P7) Uống rượu/ bia chậm sẽ lâu say hơn.
Riêng phương pháp (P8) Không nên tắm ngay sau khi uống rượu/ bia thì không
58
có sự khác biệt đáng kể trong nhận thức của sinh viên 3 trường trên.
2.2.3. Thái độ của sinh viên đối với vấn đề sử dụng rượu bia.
Kết quả chung về thái độ - tình cảm của sinh viên đối với vấn đề sử dụng
rượu bia
Thái độ là một biểu hiện của động cơ, sau nhận thức. Thái độ chính là mặt tình
cảm của con người, nó cho thấy cá nhân đồng tình hay phản đối, hoặc nhận định thế
nào về một vấn đề.
Bảng 2.15. Thái độ của sinh viên đối với vấn đề sử dụng rượu bia.
Mức độ SL %
Rất cần thiết 3 0.8%
Khá cần thiết 39 10.5%
Bình thường 186 50.1%
Không cần thiết 122 32.9%
Hoàn toàn không cần thiết 21 5.7%
Thực tế, sử dụng rượu bia là vấn đề có từ lâu đời, rượu bia còn tồn tại cho tới
ngày nay và có xu hướng phát triển mạnh mẽ hơn chứng tỏ nó có một giá trị sử dụng
nhất định trong đời sống của xã hội. Chúng ta biết rằng kinh tế phát triển, đời sống
khấm khá và dân số trẻ là điều kiện để phát triển ngành rượu bia. Theo các báo cáo,
lượng rượu bia tiêu thụ của thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng có xu hướng
tăng mạnh, điều này cho thấy nhu cầu sử dụng rượu bia của người dân cũng tăng lên
đáng kể, rượu bia trở thành một phương tiện thông dụng nhằm phục vụ cho các mục
đích giao tiếp trong xã hội. Tuy nhiên, kéo theo đó là các hệ lụy về mặt sức khỏe, an
toàn giao thông, bạo hành… do sử dụng quá nhiều rượu bia gây ra. Các vấn đề này là
sự nhức nhối cho xã hội, gây đau đầu cho các cơ quan chức năng. Chính vì vậy mặc
dù số lượng rượu bia tiêu thụ hàng năm tăng cao, nhưng vì những tác hại to lớn mà
nó gây ra nên con người vẫn có xu hướng không đồng tình với việc sử dụng loại đồ
59
uống này.
Kết quả thống kê ở bảng 2.15 cho thấy đa số sinh viên cho rằng sử dụng rượu
bia là “khá cần thiết”, “bình thường” & “không cần thiết”. Trong đó, số sinh viên cho
biết mức độ cần thiết của việc sử dụng rượu bia là “bình thường” chiếm tỉ lệ cao nhất.
Tỉ lệ sinh viên cho rằng uống rượu bia là “không cần thiết” cao thứ 2. Mức độ “khá
cần thiết” chiếm tỉ lệ sinh viên cao thứ 3, sau đó là tỉ lệ sinh viên cho rằng sử dụng
rượu bia là “hoàn toàn không cần thiết” cao thứ tư. Cuối cùng, mức độ “rất cần thiết”
có tỉ lệ sinh viên lựa chọn rất ít. Theo kết quả này chúng ta có thể thấy rằng ít sinh
viên đánh giá cao mức độ cần thiết của việc sử dụng rượu bia, nhưng ngược lại cũng
không có nhiều sinh viên cho rằng sử dụng rượu bia là “hoàn toàn không cần thiết”.
So sánh về thái độ của sinh viên đối với vấn đề sử dụng rượu bia
Bảng 2.16 So sánh về thái độ của sinh viên đối với vấn đề sử dụng rượu bia.
ĐH CN ĐH TDTT ĐH LĐ-XH Mức độ
SL % SL % SL %
Rất cần thiết 3 2% 0 0% 0 0%
Khá cần thiết 11 9% 17 12% 11 11%
Bình thường 61 49% 74 52% 51 50%
Không cần thiết 39 31% 47 33% 36 35%
Hoàn toàn không cần 11 9% 5 3% 5 5% thiết
Từ kết quả khảo sát ở bảng 2.16 cho chúng ta thấy có sự tương đồng trong thái
độ của sinh viên hai trường ĐH TDTT & ĐH LĐ-XH đối với vấn đề sử dụng rượu
bia. Riêng sinh viên ĐH CN có sự khác biệt hơn, điều này được thể hiện trong số liệu
của từng mức độ. Trong khi không có sinh viên nào của ĐH TDTT & ĐH LĐ-XH
đánh giá sử dụng rượu bia là “rất cần thiết” thì vẫn có 2% sinh viên được khảo sát
của trường ĐH CN cho biết họ thấy việc sử dụng rượu bia là “rất cần thiết”. Ngược
60
lại, cũng chính ĐH CN là trường có tỉ lệ sinh viên cho rằng sử dụng rượu bia là “hoàn
toàn không cần thiết” cao nhất (ĐH CN = 9%, ĐH TDTT = 3%, ĐH LĐ-XH = 5%).
Số sinh viên trường ĐH CN lựa chọn 3 mức “khá cần thiết”, “bình thường”, “không
cần thiết” ít hơn 2 trường còn lại.
2.2.4. Hành vi sử dụng rượu bia của sinh viên
Kết quả chung hành vi sử dụng rượu bia của sinh viên
Chú thích:
H1.Tôi uống rượu, bia một mình
H2. Tôi uống đến say để quên đi những khó khăn trong cuộc sống
H3. Tôi uống để thỏa mãn sự thèm rượu, bia của cơ thể
H4. Một số người thân quen phàn nàn về việc sử dụng rượu bia của tôi
H5. Tôi uống nhiều rượu, bia khi tụ họp với nhóm bạn bè
H6. Tôi đồng ý khi được rủ / mời đi uống rượu, bia
H7. Tôi chủ động rủ / mời người thân hoặc bạn bè uống rượu, bia khi có cơ hội
H8. Tôi nói nhiều hơn, dễ trở nên bốc đồng và khó kiểm soát được cảm xúc cá
nhân sau khi uống rượu/ bia
H9. Tôi gặp rắc rối ở trường học/ nơi cư trú vì sử dụng rượu, bia
H10.Tôi bị cảnh sát giao thông phạt vì sử dụng rượu/ bia khi tham gia giao
thông.
H11. Tôi tích trữ sẵn rượu, bia để tiện sử dụng
H12. Tôi ngủ gục tại chỗ sau khi uống rượu bia và lúc tỉnh lại thường không nhớ
rõ mình đã làm gì
H13. Tôi chứng tỏ bản lĩnh cá nhân bằng cách cố gắng uống nhiều rượu/ bia
trong các bữa tiệc có sự tham gia của những người khác giới
H14. Tôi thẳng thắn từ chối lời mời uống thêm khi cảm thấy cơ thể có dấu hiệu
say
H15. Tôi vẫn uống để không làm mất lòng bạn bè, mặc dù biết đó là rượu bia
không rõ thành phần và nguồn gốc xuất xứ.
61
Bảng 2.17. Tỉ lệ lựa chọn các hành vi sử dụng rượu bia của sinh viên
Hành Mức độ đồng ý
vi 5 đ % 4 đ % 3đ % 2đ % 1đ %
H1 1 0.3 8 2.2 7.3 90 24.3 245 66.0 27
H2 14 3.8 24 6.5 12.5 150 40.4 136 36.7 46
H3 0 0.0 16 4.3 5.9 89 24.0 244 65.7 22
H4 32 8.7 25 6.8 9.7 104 28.0 173 46.6 36
H5 35 9.4 88 23.7 25.6 128 34.5 24 6.5 95
H6 19 5.0 34 9.2 101 27.3 155 41.9 61 16.4
H7 5 1.3 31 8.4 18.8 164 44.3 100 27.0 70
H8 13 3.5 39 10.5 16.2 155 41.8 103 27.8 60
H9 3 0.8 16 4.3 4.1 68 18.3 268 72.2 15
H10 3 0.8 4 1.1 2.7 41 11.1 313 84.3 10
H11 5 1.3 0 0.0 4.4 39 10.6 310 83.6 16
H12 4 1.1 19 5.1 4.6 103 27.8 227 61.3 17
H13 4 1.1 9 2.4 6.4 111 30.0 223 60.0 24
H14 127 34.2 64 17.3 18.9 72 19.4 37 10.0 70
21 5.7 68 18.3 21.6 127 34.2 75 20.2 80
H15
Kết quả thống kê ở bảng 2.17 cho thấy hầu hết sinh viên lựa chọn mức độ “khá
nhiều lần”, “ít khi” và “chưa bao giờ” để cho biết tần số xuất hiện các hành vi sử
dụng rượu bia của mình. Tuy nhiên, khi xét riêng từng hành vi chúng ta sẽ thấy có
những vấn đề đáng quan tâm.
-Xét kết quả thống kê ở nhóm hành vi gồm H1, H7 và H11. Đây là nhóm hành
vi thể hiện sự chủ động trong việc sử dụng rượu bia, chúng ta thấy rằng: Bên cạnh
66% sinh viên chưa bao giờ “uống rượu bia một mình” thì vẫn có những sinh viên đã
từng uống rượu bia một mình. Đáng chú ý là có 2.2% sinh viên nhiều lần và 7.3%
sinh viên khá nhiều lần uống rượu bia một mình. Số còn lại là 24.3% sinh viên cho
62
biết họ ít khi uống rượu bia một mình. Tương tự, cũng có 1.3% sinh viên luôn luôn
tích trữ và 4.4% sinh viên khá nhiều lần tích trữ sẵn rượu bia để tiện sử dụng , 10.6%
sinh viên cho biết dù không nhiều nhưng cũng thi thoảng họ tích trữ loại đồ uống này
để tiện cho việc sử dụng. Uống rượu bia một mình và tích trữ sẵn rượu bia để tiện cho
việc sử dụng không phải là hành vi hiếm thấy ở Việt Nam, trong hầu hết các gia đình
thường có thói quen tích trữ một lượng rượu bia nhất định để người đàn ông trong gia
đình uống trước mỗi bữa ăn, đãi khách tới chơi hay sử dụng trong các dịp lễ tết. Tuy
nhiên, với đặc trưng của sinh viên là những người trẻ tuổi chưa có gia đình riêng, một
số lượng không nhỏ sinh viên đi ở trọ thì việc tích trữ sẵn rượu bia để tiện cho việc sử
dụng và vấn đề uống rượu bia một mình là rất đáng lo ngại.
Về hành vi “chủ động rủ (mời) bạn bè hay người thân uống rượu bia khi có cơ
hội” (H7) có 1.6% sinh viên cho biết rằng họ luôn luôn chủ động, 8.4% sinh viên
nhiều lần và 18.8% sinh viên khá nhiều lần chủ động trong việc mời gọi người khác
sử dụng rượu bia, 44.3% sinh viên cũng có chủ động mời rủ người khác uống rượu
bia nhưng ít khi, chỉ có 27% sinh viên là chưa bao giờ thực hiện hành vi này. Chúng
ta biết rằng có nhiều lí do để sinh viên tụ tập bên bàn nhậu như: khao đồ mới, sinh
nhật, khao học bổng, ăn mừng…. Đôi khi chỉ một nồi lẩu, vài con mực hay ít đồ ăn
cũng có thể ăn mừng được. Cứ như vậy thói quen ăn nhậu khi “có dịp” được hình
thành trong lối sống của sinh viên. Đặc biệt là với nam sinh viên thì việc chủ động tổ
chức các “cuộc ăn mừng” là vấn đề đã trở nên hết sức bình thường.
- Nhóm hành vi gồm H4, H9, H10 sẽ cho chúng ta biết có bao nhiêu phần trăm
sinh viên gặp rắc rối trong các mối quan hệ tình cảm (người thân quen), môi trường
hoạt động (nhà trường hoặc nơi cư trú) và pháp luật do hành vi uống rượu bia của họ.
Trong mối quan hệ tình cảm thì có 46.6% sinh viên chưa bao giờ bị người thân quen
phàn nàn về hành vi uống rượu bia của họ, 28% sinh viên dù “ít khi” nhưng vẫn bị
người thân quen phàn nàn, 9.7% bị phàn nàn khá nhiều lần, 6.8% sinh viên bị phàn
nàn nhiều lần và đáng chú ý là có tới 8.7% sinh viên luôn luôn bị những người thân
quen phàn nàn về việc sử dụng rượu bia của họ. Trong mối quan hệ với môi trường
63
hoạt động thì 72.2% sinh viên khẳng định mình chưa bao giờ gặp rắc rối ở trường học
/ nơi cư trú vì vấn đề sử dung rượu bia. Ngược lại, 4.3% sinh viên nhiều lần, 4.1%
sinh viên khá nhiều lần và 18.3% sinh viên thi thoảng gặp rắc rối, và đặc biệt là dù ít
nhưng vẫn có 0.8% sinh viên khẳng định họ luôn luôn gặp rắc rối ở trường học hay
nơi cư trú do sử dụng rượu bia. Vấn đề sử dụng rượu bia trong giới sinh viên không
có gì xa lạ, mặc dù vậy việc uống rượu bia sẽ không gây rắc rối nếu sinh viên vẫn
tỉnh táo và khỏe mạnh sau khi uống, ngược lại nếu sau khi uống rượu bia làm cho
sinh viên say xỉn, ói mửa, gây mất trật tự công cộng hay giảm sút về mặt thể lực và
nhận thức… thì chắc chắn sẽ gây phiền toái cho sinh viên do bị người thân phàn nàn,
rắc rối ở trường học hay nơi cư trú.
Tương tự, sử dụng rượu bia khi tham gia giao thông sẽ có nguy cơ tai nạn rất
cao, gây nguy hiểm và thiệt hại cho cả bản thân và người khác. Chính vì thế luật giao
thông quy định xử phạt những người tham gia giao thông có nồng độ cồn trong máu
cao hơn mức cho phép, nhưng theo con số thống kê thu được thì ngoài 84.3% sinh
viên chưa bao giờ bị cảnh sát giao thông phạt thì số sinh viên còn lại cho biết họ đã
từng bị phạt do sử dụng rượu bia trong khi tham gia lưu thông trên đường (0.8% luôn
luôn bị phạt, 1.1% nhiều lần bị phạt, 2.7% khá nhiều lần bị phạt, và 11.1% ít khi bị
phạt).
- Xét kết quả thống kê của nhóm hành vi gồm H2, H3, H13 chúng ta thấy rằng
không ít sinh viên tìm đến rượu bia như một phương pháp để trốn tránh những vấn đề
gây cảm xúc tiêu cực, họ uống đến say để quên đi khó khăn trong cuộc sống (3.8%
luôn luôn, 6.5% nhiều lần, 12.5% khá nhiều lần, 40.4% ít khi), chỉ có 36.7% là chưa
bao giờ thực hiện hành vi này. Về mặt sinh lý, cồn trong rượu bia làm thay đổi cân
bằng hóa chất bên trong bộ não của chúng ta. Nó ảnh hưởng đến các chất bên trong
trung khu tưởng thưởng của não bộ như dopamine chẳng hạn. Cơ thể sẽ cảm thấy
“thèm” rượu để khôi phục lại trạng thái khoan khoái dễ chịu và tránh né những cảm
xúc tiêu cực. Những người đã gặp phải stress nặng hoặc các vấn đề về tâm lý như
64
trầm cảm có nguy cơ mắc chứng nghiện rượu cao hơn người bình thường.
Uống rượu bia để thỏa mãn sự “thèm” của cơ thể thường chỉ có ở những người
thường xuyên uống rượu bia, đặc biệt là đối với người nghiện rượu. Tuy nhiên, kết
quả điều tra vẫn cho thấy ngoài 65.7% sinh viên chưa bao giờ uống vì thèm rượu bia
vẫn có 4.3% sinh viên nhiều lần, 5.9% sinh viên khá nhiều lần và 24% sinh viên thi
thoảng uống rượu bia để thỏa mãn sự thèm của cơ thể.
Đối với người Việt, quan niệm “nam vô tửu như cờ vô phong” vẫn còn tồn tại.
Quan niệm này ảnh hưởng không nhỏ đến hành vi uống rượu bia của giới trẻ. Theo
kết quả thống kê thu được, có 1.1% sinh viên khẳng định rằng họ “luôn luôn” chứng
tỏ bản lĩnh cá nhân bằng cách cố gắng uống nhiều rượu bia trong các bữa tiệc có sự
tham gia của những người khác giới. 2.4% sinh viên cho biết, họ cũng nhiều lần thực
hiện hành vi trên, 6.4% sinh viên khá nhiều lần chứng tỏ bản lĩnh kiểu này, 30% sinh
viên cũng thi thoảng cố gắng uống nhiều rượu bia để chứng tỏ bản lĩnh cá nhân trước
mặt những người khác giới.
- Nhóm hành vi H5, H6, H15 được đưa ra để khảo sát mức độ ảnh hưởng của
nhóm bạn bè đến hành vi sử dụng rượu bia của sinh viên. 9.4% sinh viên cho biết, họ
“luôn luôn” uống nhiều rượu bia khi tụ họ với nhóm bạn bè (hành vi H5), 5.0% sinh
viên “luôn luôn” đồng ý khi được rủ mời đi uống rượu bia (hành vi H6), 5.7% sinh
viên cho biết họ vẫn uống để không làm mất lòng bạn bè mặc dù biết đó là rượu bia
không rõ thành phần nguồn gốc xuất xứ (hành vi H15). Tương tự, 23.7% sinh viên
nhiều lần, 25.6% sinh viên khá nhiều lần thực hiện hành vi H5. Đối với hành vi H6
thì có 9.2% sinh viên nhiều lần, 27.3% sinh viên khá nhiều lần thực hiện hành vi này.
Đồng thời, có 18.3% sinh viên nhiều lần, 21.6% sinh viên khá nhiều lần thực hiện
hành vi H15. Những con số nêu trên cho thấy nhóm bạn bè có ảnh hưởng rất lớn tới
hành vi uống rượu bia của nhiều sinh viên, với họ đã vào bàn nhậu là phải chơi hết
mình, nhiệt tình tức là không từ chối. Những nhân tố xã hội như bắt chước đám đông,
môi trường sống….. cũng đóng một vai trò quan trọng trong việc phát triển nên
chứng nghiện rượu của một người. Nhiều thanh niên nghĩ rằng họ cần uống rượu để
65
chứng tỏ bản thân hay chỉ vì lý do đơn giản tất cả bạn bè của họ đều uống
- Hành vi “nói nhiều hơn, dễ trở nên bốc đồng và khó kiểm soát được cảm xúc
cá nhân sau khi uống rượu/ bia” (H8) và hành vi “ngủ gục tại chỗ sau khi uống rượu
bia và lúc tỉnh lại thường không nhớ rõ mình đã làm gì” (H12) là kết quả tác động
của rượu bia lên hệ thần kinh của con người khi nồng độ cồn trong máu đạt tới một
mức độ nhất định, có thể nói lúc này con người đã “say” rượu bia. Riêng hành vi H12
thường xảy ra khi cơ thể tiếp nhận một lượng lớn rượu bia trong một thời gian ngắn.
Kết quả điều tra cho thấy có 61.3% sinh viên chưa bao giờ uống đến mức “trở nên
bốc đồng và không kiểm soát được cảm xúc cá nhân”, 27.8% sinh viên chưa bao giờ
uống đến mức “ngủ gục tại chỗ ngay sau khi uống”. Các sinh viên còn lại đều đã từng
uống “say” tới mức H8 và H12, điều này sẽ làm ảnh hưởng tiêu cực tới chính cá nhân
và cộng đồng.
- Hành vi “thẳng thắn từ chối lời mời uống thêm khi cảm thấy cơ thể có dấu
hiệu say” (H14) thể hiện khả năng tự kiềm chế của sinh viên khi sử dụng rượu bia.
Kết quả thống kê của hành vi này cho thấy một dấu hiệu đáng mừng khi 34.2% sinh
viên luôn luôn thẳng thắn từ chối uống thêm, 17.3% sinh viên nhiều lần và 18.9%
sinh viên khá nhiều lần thẳng thắn từ chối uống thêm khi cơ thể có dấu hiệu say.
Ngược lại thì vẫn còn 19.4% sinh viên ít khi từ chối và 10% sinh viên chưa bao giờ
từ chối uống thêm mặc dù biết mình đã bắt đầu say. Sinh viên không từ chối uống
thêm có thể là do không muốn làm mất lòng người mời, không muốn bị phản đối…
Tuy nhiên việc từ chối khi thấy cơ thể có dấu hiệu say là cần thiết để bảo vệ chính
mình và người khác.
So sánh giữa các nhóm khách thể về hành vi sử dụng rượu bia
Bảng 2.18. So sánh điểm trung bình giữa sinh viên các trường khi lựa chọn hành
vi sử dụng rượu bia.
Trường
Hành vi ĐHCN ĐHTDTT ĐH
LĐ-XH
66
H1 TB
1.50 ĐLC
0.72 TB
1.44 ĐLC
0.77 TB
1.44 ĐLC
0.79
H2
H3
H4
H5
H6
H7
H8
H9
H10
H11
H12
H13
H14
H15 2.00
1.52
2.06
3.06
2.50
2.22
2.18
1.50
1.24
1.27
1.52
1.52
3.42
2.49 2.01
1.46
2.03
3.01
2.53
2.16
2.23
1.54
1.31
1.38
1.56
1.54
3.23
2.63 1.09
0.80
1.31
1.12
1.05
0.99
1.03
0.95
0.71
0.85
0.91
0.79
1.46
1.20 1.01
0.83
1.33
1.12
0.95
0.93
1.09
0.90
0.64
0.67
0.87
0.83
1.43
1.18 1.10
0.79
1.18
1.07
1.11
0.99
1.11
0.64
0.62
0.40
0.93
0.89
1.29
1.15
2.03
1.51
1.97
2.83
2.29
2.04
2.25
1.27
1.18
1.12
1.66
1.62
3.66
2.58
Kết quả bảng 2.18 cho thấy ở hầu hết các hành vi thì ít có sự cách biệt trong
điểm trung bình giữa các trường. Riêng trong 3 hành vi H9, H11 và H14 thì số liệu
xử lí cho thấy điểm trung bình và độ lệch chuẩn của trường ĐH CN có sự khác biệt
hơn so với 2 trường ĐH TDTT và ĐH LĐ-XH, điều này cho thấy sinh viên ĐH CN
có sự lựa chọn ổn định hơn, tỉ lệ sinh viên của trường này “gặp rắc rối ở trường học
hay nơi cư trú” và “tích trữ sẵn rượu bia để tiện sử dụng” thấp hơn 2 trường còn lại.
Đồng thời sinh viên ĐH CN cũng “thẳng thắn từ chối lời mời uống thêm khi thấy cơ
thể đã có dấu hiệu say” nhiều hơn sinh viên ĐH TDTT và ĐH LĐ –XH.
2.2.5. Các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi sử dụng rượu bia của sinh viên
Kết quả chung về các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi sử dụng rượu bia của
sinh viên
Chú thích:
Y1. Cha mẹ thường xuyên uống rượu/ bia
Y2. Nhóm bạn thân thường xuyên uống rượu bia
Y3. Sử dụng rượu/ bia giúp tôi tránh né được các cảm xúc tiêu cực
67
Y4. Uống rượu/ bia là một nhu cầu không thể thiếu của cơ thể
Y5. Uống rượu/ bia giúp tôi thấy tự tin trước người khác giới
Y6. Các chương trình quảng cáo rượu/ bia hấp dẫn trên truyền hình
Y7. Thói quen ăn nhậu trong các hoạt động giao tiếp, kí kết hợp đồng của xã hội
hiện nay
Bảng 2.19. Tỉ lệ sinh viên lựa chon các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi sử dụng
rượu bia của mình
Mức độ ảnh hưởng YT
AH 5 đ % 4 đ % 3đ % 2đ % % 1đ
Y1 107 28.8% 78 21.0% 71 19.1% 31 8.4% 84 22.6%
Y2 136 36.7% 39 10.5% 109 29.4% 61 16.4% 26 7.0%
11.1% 13 3.5% 105 28.3% 104 28.0% 108 29.1% Y3 41
7.0% 15 4.0% 91 24.5% 91 24.5% 148 39.9% Y4 26
7.3% 16 4.3% 113 30.5% 78 21.0% 137 36.9% Y5 27
7.3% 4 1.1% 72 19.4% 106 28.6% 162 43.7% Y6 27
Y7 139 37.5% 74 19.9% 83 22.4% 48 12.9% 27 7.3%
Kết quả thống kê ở bảng 2.19 cho thấy các yếu tố ảnh hưởng rất nhiều tới hành
vi sử dụng rượu bia của sinh viên bao gồm các yếu tố: đầu tiên, yếu tố có sự ảnh
hưởng lớn nhất chính là”thói quen ăn nhậu trong các hoạt động giao tiếp, kí kết hợp
đồng của xã hội hiện nay” (37.5% sinh viên bị ảnh hưởng rất nhiều, 19.9% sinh viên
bị ảnh hưởng nhiều). Kết quả này hoàn toàn phù hợp với thực tế. Chúng ta thấy số
lượng rượu bia được tiêu thụ ngày càng tăng cao do nhu cầu sử dụng rượu bia trong
các mối quan hệ làm ăn hay giao tiếp là rất lớn. Xu hướng của thời đại đòi hỏi thanh
niên trong đó sinh viên phải biết uống rượu bia để các cuộc giao dịch trở nên suôn sẻ
hơn. Chính điều này đã tác động lớn tới hành vi sử dụng rượu bia của sinh viên, thúc
đẩy sinh viên chủ động đến với rượu bia hơn.
Yếu tố có ảnh hưởng nhiều thứ hai tới hành vi sử dụng rượu bia của sinh viên
68
là yếu tố “cha mẹ thường xuyên uống rượu, bia” (28.8% sinh viên bị ảnh hưởng rất
nhiều, 21.0% sinh viên bị ảnh hưởng nhiều). Điều này có thể giải thích do rượu trong
nhiều nền văn hóa là một chất gây nghiện được xã hội công nhận, có thể dễ dàng
kiếm được và rẻ tiền và ngay trong một số trường hợp việc uống rượu được dự kiến
trước. Trong nhiều dân tộc rượu đã hoàn toàn đi vào đời sống hằng ngày. Những
người đàn ông có tửu lượng cao thường được xem là có tính khí đàn ông, đáng khâm
phục và từng trải. Người Việt có thói quen là tích trữ rượu trong nhà để sử dụng hằng
ngày hay vào các dịp lễ tết, ở không ít các gia đình từ nông thôn đến thành thị chúng
ta đều có thể bắt gặp hình ảnh người đàn ông trong gia đình thường uống rượu trước
các bữa ăn. Có lẽ do từ lúc còn nhỏ chúng ta đã chứng kiến cha sử dụng rượu bia một
cách thường xuyên, vì vậy khi lớn lên nam giới cũng có xu hướng bắt chước hành vi
này.
Một yếu tố nữa cũng có ảnh hưởng không nhỏ tới hành vi uống rượu bia của
sinh viên hiện nay đó là “Nhóm bạn thân thường xuyên uống rượu bia” (36.7% sinh
viên bị ảnh hưởng rất nhiều, 10.5% sinh viên bị ảnh hưởng nhiều). Điều này cũng dễ
giải thích dựa vào đặc điểm lứa tuổi của sinh viên, bạn bè là một phần rất quan trọng
trong cuộc sống tình cảm tinh thần của sinh viên, đồng tuổi sẽ có cùng tâm lí và dễ
hiểu nhau, dễ chia sẻ tâm tư tình cảm với nhau hơn. Đặc biệt, với sinh viên đi học xa
gia đình thì bạn bè là chỗ dựa lớn về mặt tinh thần, ai cũng có nhu cầu được công
nhận, được thuộc về một nhóm nào đó, để được công nhận trong một nhóm nào đó
thì cần phải có những hành vi tương đồng với những người trong nhóm đó. Điều này
giải thích tại sao khi nhóm bạn thân thường xuyên uống rượu bia có ảnh hưởng rất
lớn đến hành vi uống rượu bia của sinh viên
Bảng kết quả trên cũng cho biết những yếu tố ít ảnh hưởng tới hành vi sử dụng
rượu bia của sinh viên. Trong đó yếu tố “các chương trình quảng cáo rượu bia hấp
dẫn trên truyền hình” là yếu tố có sự ảnh hưởng ít nhất tới hành vi uống rượu bia của
sinh viên (43.7% sinh viên không bị ảnh hưởng, 28.6% sinh viên ít bị ảnh hưởng).
Hai yếu tố ít ảnh hưởng nữa là “uống rượu bia để thỏa mãn nhu cầu của cơ thể”
69
(39.9% sinh viên không bị ảnh hưởng, 24.5% sinh viên ít bị ảnh hưởng) và “Uống
rượu/ bia giúp tôi thấy tự tin trước người khác giới” (36.9% sinh viên không bị ảnh
hưởng, 21.0% sinh viên ít bị ảnh hưởng).
So sánh giữa các nhóm khách thể về các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi sử
dụng rượu bia của sinh viên
Bảng 2.20 : So sánh các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi sử dụng rượu bia của sinh
viên giữa các trường
Trường
ĐH YTAH ĐHTDTT ĐHCN LĐ-XH
TB ĐLC TB ĐLC TB ĐLC
3.04 1.51 3.06 1.43 3.44 1.39 Y1
3.16 1.15 3.23 1.04 3.48 1.00 Y2
2.32 1.14 2.17 1.07 2.47 1.12 Y3
2.17 1.19 1.91 0.98 2.22 1.19 Y4
2.17 1.19 2.23 1.11 2.20 1.13 Y5
1.87 1.00 1.97 1.03 1.95 1.01 Y6
3.45 1.20 3.55 1.08 3.49 1.24 Y7
Bảng 2.21. So sánh tỉ lệ các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi sử dụng rượu bia của
sinh viên giữa các trường
Yếu tố 1đ 2đ 3đ 4đ 5đ
Y1 21.6% 9.6% 24.0% 26.4% 18.4%
Y2 4.8% 16.0% 35.2% 34.4% 9.6%
Y3 31.2% 32.8% 24.0% 9.6% 2.4% ĐH
CN Y4 41.6% 31.2% 20.0% 5.6% 1.6%
Y5 33.6% 20.0% 36.8% 5.6% 4.0%
Y6 39.2% 32.8% 20.0% 5.6% 2.4%
70
Y7 5.6% 8.0% 28.8% 39.2% 18.4%
Y1 27.3% 8.4% 18.2% 25.2% 21.0%
Y2 10.5% 21.0% 25.2% 32.9% 10.5%
Y3 30.8% 25.2% 29.4% 10.5% 4.2% ĐH Y4 39.9% 20.3% 26.6% 8.4% 4.9% TDTT Y5 40.6% 20.3% 25.9% 8.4% 4.9%
Y6 48.3% 24.5% 18.9% 8.4% 0.0%
Y7 7.7% 15.4% 21.7% 35.0% 20.3%
Y1 17.5% 6.8% 14.6% 36.9% 24.3%
Y2 4.9% 10.7% 28.2% 44.7% 11.7%
Y3 24.3% 26.2% 32.0% 13.6% 3.9% ĐH
Y4 36.9% 22.3% 28.2% 6.8% 5.8% LĐ-
XH Y5 35.9% 23.3% 29.1% 7.8% 3.9%
Y6 42.7% 29.1% 19.4% 7.8% 1.0%
Y7 8.7% 15.5% 15.5% 38.8% 21.4%
So sánh sự khác nhau trong việc lựa chọn các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi sử
dụng rượu bia của sinh viên 3 trường thông qua 2 bảng thống kê “điểm trung bình”
và thống kê “tỉ lệ phần trăm” sinh viên từng trường lựa chọn các yếu tố ảnh hưởng,
chúng ta được kết quả như bảng sau:
Bảng 2.22 So sánh sự khác nhau trong việc lựa chọn các yếu tố ảnh hưởng đến
hành vi sử dụng rượu bia của sinh viên
Trường Xếp loại Yếu tố ảnh hưởng nhiều Yếu tố ảnh hưởng ít
1 Y7 Y4
2 Y2 Y6 ĐHCN
3 Y1 Y3
71
1 Y7 Y6 ĐH 2 Y1 Y5 TDTT 3 Y2 Y4
1 Y1 Y6 ĐH LĐ- 2 Y7 Y4 & Y5 XH 3 Y2 Y3
2.2.6. Nhu cầu và mức độ sử dụng rượu bia của sinh viên đại học trên địa bàn TP
HCM
Để đánh giá mức độ và cường độ sử dụng rượu bia của sinh viên đại học trên
địa bàn TP HCM, người nghiên cứu sử dụng kết quả thống kê thu được ở 3 câu hỏi:
câu 7 (khảo sát nhu cầu sử dụng rượu bia của sinh viên), câu 8 (khảo sát khả năng
dung nạp rượu bia trong một lần uống), câu 9 (khảo sát tần số sinh viên cảm nhận các
trạng thái của cơ thể sau khi sử dụng rượu bia). Thông qua phân tích các kết quả này
chúng ta có thể biết được mức “tửu lượng” của sinh viên hiện nay, số lần uống rượu
bia trong một tuần và tình trạng cơ thể mà sinh viên thường xuyên cảm nhận thấy sau
khi uống. Từ đó có thể nhận xét mức độ lạm dụng rượu bia của sinh viên đại học trên
địa bàn TP HCM hiện nay.
2.2.6.1. Nhu cầu sử dụng rượu bia của sinh viên
Kết quả chung về nhu cầu sử dụng rượu bia của sinh viên
Bảng2.23 Nhu cầu sử dụng rượu bia của sinh viên.
Nhu cầu SL %
Ngày nào cũng uống 3 0.8%
4 – 5 lần / tuần 23 6.2%
2 – 3 lần / tuần 27 7.3%
1 lần / tuần 195 52.6%
Nhu cầu thể hiện cường độ sử dụng rượu bia của sinh viên trong một tuần.
Chúng ta có thể thấy rằng tỉ lệ sinh viên có nhu cầu sử dụng rượu bia ở mức độ “1 lần
/ tuần” là cao nhất (52,6%), khá nhiều sinh viên uống ít hơn ở mức độ “vài tuần 1
lần” (33.2%). Một số sinh viên cho biết họ có nhu cầu cao hơn là “4 – 5 lần / tuần”
(6.2%) và “2 – 3 lần / tuần” (7.3%), đặc biệt, có 0.8% sinh viên cho biết nhu cầu của
72
họ là “ngày nào cũng uống”. Các con số 6.2%, 7.3% & 0.8% cho thấy có không ít
sinh viên đang sử dụng rượu bia một cách thường xuyên, điều này sẽ gây ảnh hưởng
không tốt đến quá trình học tập, sinh hoạt và sức khỏe của sinh viên, đây thực sự là
con số đáng lưu tâm.
So sánh nhu cầu sử dụng rượu bia của sinh viên
Bảng 2.24. So sánh nhu cầu sử dụng rượu bia của sinh viên.
ĐH CN
SL % ĐH TDTT
%
SL ĐH LĐ-XH
%
SL
3 2.4% 0 0.0% 0 0.0%
Nhu cầu
Ngày nào cũng
uống
4 – 5 lần / tuần
2 – 3 lần / tuần
1 lần / tuần
Vài tuần 1 lần 8
8
52
54 6.4%
6.4%
41.6%
43.2% 9
13
90
31 6.3%
9.1%
62.9%
21.7% 6
6
53
38 5.8%
5.8%
51.5%
36.9%
Bảng 2.24 cho thấy trường ĐH TDTT có tỉ lệ sinh viên uống rượu bia thường
xuyên (2 – 3 lần / tuần & 4 – 5 lần / tuần ) cao nhất, tỉ lệ sinh viên uống “1 lần / tuần”
của trường này cũng cao hơn hẳn. Tuy nhiên, tỉ lệ sinh viên trường ĐH TDTT có nhu
cầu uống rượu bia ở mức độ “vài tuần / lần” thì lại thấp hơn rất nhiều so với 2 trường
còn lại. Điều này chứng tỏ sinh viên ĐH TDTT có nhu cầu sử dụng rượu bia cao hơn
sinh viên trường ĐH CN & ĐH LĐ-XH
ĐH CN là trường có tỉ lệ sinh viên thường xuyên uống rượu bia cao thứ 2, đặc
biệt đây cũng là trường duy nhất có sinh viên uống rượu bia “hằng ngày”.
2.2.6.2. Khả năng dung nạp rượu bia của sinh viên
Khảo sát khả năng dung nạp chính là khảo sát lượng sử dụng rượu bia của sinh
viên trong một lần uống. Điều này thể hiện mức độ sử dụng nhiều hay ít so với tiêu
chuẩn trong một lần uống. Tác động của rượu đến tri giác và hệ thần kinh tùy thuộc
nồng độ rượu trong máu: Mức độ 0,05% nồng độ rượu trong máu: có sự giảm sút về
mặt suy nghĩ, phán xét và kiềm chế, thường đương sự nói nhiều, hơi kích động nhẹ.
Mức độ 0,1% nồng độ rượu trong máu: xuất hiện các cử động vụng về, cầm nắm vật
dụng không chính xác. Mức độ 0,2% nồng độ rượu trong máu: chức năng vùng vận
73
động và kiểm soát hành vi cảm xúc của não bị ức chế nên dễ xuất hiện các cơn bùng
nổ giận dữ, gây hấn, đi đứng loạng choạng. Mức độ 0,3% nồng độ rượu trong máu:
xuất hiện tình trạng lú lẫn hay sững sờ, đương sự không còn nhận thức rõ môi trường
xung quanh. Mức độ 0,4 – 0,5% nồng độ rượu trong máu: hôn mê. Nếu nồng độ cao
hơn: các trung tâm kiểm soát nhịp thở và nhịp tim ở não bị ảnh hưởng và đương sự có
thể chết do suy hô hấp.
Kết luận chung về khả năng dung nạp rượu bia của sinh viên
Bảng 2.25. Khả năng dung nạp rượu bia của sinh viên.
Khả năng dung nạp SL %
1 lon bia 330ml , hoặc 1 li rượu (12ml) 40 độ 138 37.2% cồn / 1 lần uống
2 -3 lon bia 330ml , hoặc 2 - 3 li rượu (12ml) 120 32.3% 40 độ cồn / 1 lần uống
Trên 4 lon bia 330ml , hoặc trên 4 li rượu 113 30.5% (12ml) 40 độ cồn / 1 lần uống
Bảng 2.25 cho biết “tửu lượng” của sinh viên là khá cao, vì tỉ lệ sinh viên uống
được “1 lon bia 330ml , hoặc 1 li rượu (12ml) 40 độ cồn / 1 lần uống” chỉ chiếm
37.2% , số còn lại khẳng định mình có thể uống được nhiều hơn thế, chúng ta biết
rằng sử dụng “2 -3 lon bia 330ml , hoặc 2 - 3 li rượu (12ml) 40 độ cồn / 1 lần uống”
được coi là khá nhiều, còn sử dụng “Trên 4 lon bia 330ml , hoặc trên 4 li rượu (12ml)
40 độ cồn / 1 lần uống” được coi là quá nhiều. Trong một lần uống, nếu đưa vào cơ
thể một lượng cồn cao hơn mức cho phép sẽ gây ra tình trạng ngộ độc. Tùy vào số
lượng uống, loại rượu bia, cách uống, thời gian sẽ gây ra các tình trạng ngộ độc khác
nhau. Lúc này cồn trong rượu bia sẽ làm các cơ quan trong cơ thể bị tổn thương,
trước tiên là hệ thần kinh. Vì thế, việc uống nhiều rượu bia trong cùng một lần uống
74
là điều rất nguy hiểm.
So sánh khả năng dung nạp rượu bia của sinh viên
Bảng 2.26. So sánh khả năng dung nạp rượu bia của sinh viên
ĐH TDTT ĐH CN ĐH LĐ-XH Khả năng dung nạp
SL % SL % SL %
1 lon bia 330ml , hoặc 1 li rượu 58 40.7% 41 32.5% 39 38.2% (12ml) 40 độ cồn / 1 lần uống
2 -3 lon bia 330ml , hoặc 2 - 3 li 39 27.5% 47 37.6% 33 32.4% rượu (12ml) 40 độ cồn / 1 lần uống
Trên 4 lon bia 330ml , hoặc trên 4
li rượu (12ml) 40 độ cồn / 1 lần 46 31.8% 37 29.9% 30 29.4%
uống
So sánh khả năng dung nạp rượu bia của sinh viên 3 trường chúng ta thấy rằng
tỉ lệ sinh viên uống quá nhiều rượu bia trong một lần uống của ĐH TDTT là cao nhất
(31.8%), hai trường còn lại có tỉ lệ sinh viên uống ở mức độ quá nhiều cũng không ít
(ĐH CN = 29.9%, ĐH LĐ-XH = 29.4%). Có thể thấy rằng gần 1/3 số sinh viên được
khảo sát cho biết họ có thể uống “Trên 4 lon bia 330ml , hoặc trên 4 li rượu (12ml)
40 độ cồn / 1 lần uống”.
37.6% sinh viên ĐH CN cho biết họ có thể uống “2 -3 lon bia 330ml , hoặc 2 -
3 li rượu (12ml) 40 độ cồn / 1 lần uống”, đây là trường có tỉ lệ sinh viên uống khá
nhiều rượu bia trong cùng một lần uống cao nhất trong 3 trường. có 32.4% sinh viên
ĐH LĐ-XH & 27.5% sinh viên ĐH TDTT cũng khẳng định trong một lần họ có thể
uống cùng mức độ này.
Uống được nhiều rượu bia là một điều thuận lợi trong các giao tiếp ngày nay,
những người có “tửu lượng” cao sẽ khiến người khác khâm phục. Tuy vậy, chính
việc thể hiện tửu lượng của bản thân bằng cách uống nhiều rượu bia trong cùng một
lần uống sẽ âm thầm gây tổn thương nghiêm trọng cho cơ thể. Chúng ta nhận thấy
75
không ít sinh viên tự hào rằng mình có “tửu lượng cao” và không ngần ngại thể hiện
điều đó trước mọi người trong các cuộc ăn nhậu. Thậm chí, có những sinh viên không
uống được nhiều rượu bia nhưng để không bị coi thường họ đã “luyện uống” để nâng
cao “tửu lượng”, đây là một sai lầm lớn của nhiều người trẻ tuổi vì chúng ta biết rằng
rằng tốc độ phân hủy cồn không thay đổi trong giới hạn nhất định. Tốc độ phân hủy
cồn không tăng lên vì thường xuyên uống rượu. Hiệu ứng quen với cồn thường được
nhìn thấy ở những người nghiện rượu không phải là do phân hủy cồn nhanh mà là do
hệ thống thần kinh đã quen với lượng chất độc cao hơn. Tác động của rượu, bia đối
với người sử dụng phụ thuộc vào: Lượng rượu, bia sử dụng; Tốc độ uống nhanh như
thế nào; Chiều cao cân nặng; Giới tính; Tình trạng sức khoẻ nói chung; Chức năng
gan; Uống rượu, bia một mình hay với nhiều người; Có dùng rượu, bia với các chất
gây nghiện khác không. Sai lầm này xuất phát từ nhận thức chưa đúng hoặc chưa đầy
đủ về rượu bia, cũng có thể do các yếu tố tác động đã thúc đẩy hành vi sử dụng nhiều
rượu bia của sinh viên.
2.2.6.3. Các trạng thái của cơ thể sau khi sử dụng rượu bia
Sau khi uống, ta thấy cồn xuất hiện trong máu và tuỳ theo nồng độ của rượu mà
người uống có nhiều cảm giác khác nhau.
- 1-100mg/dl: Cảm thấy thoải mái, êm dịu.
- 100-150mg/dl: Mất phối hợp động tác và dễ bị kích thích.
- 150-200mg/dl: Nói không rõ và thất điều.
- >250mg/dl: Ngất hoặc hôn mê.
Kết quả chung về mức độ sinh viên cảm nhận các trạng thái của cơ thể sau
khi sử dụng rượu bia
Bảng 2.27 Tỉ lệ sinh viên lựa chọn các trạng thái của cơ thể sau khi sử dụng rượu
Trạng thái
Mức độ đồng ý
5 đ
%
4 đ
%
3 đ
%
2đ
%
1đ
%
Thỏa mãn
30
8.1%
45
12.1%
77
20.8% 122 32.9% 96
25.9%
Phấn khích
26
7.0%
47
12.7%
104 28.0% 103 27.8% 90
24.3%
76
bia
Dễ chịu
21
5.7%
19
5.1%
16.4% 146 39.4% 123 33.2%
61
Khó chịu
101 27.2%
116 31.3%
18.6% 63
17.0% 21
5.7%
69
Mệt mỏi
144 38.8%
107 28.8%
15.6% 49
13.2% 12
3.2%
58
Kết quả thống kê ở bảng 2.27 cho phép người nghiên cứu đưa ra một số kết
luận mang tính khái quát sau:
Đối với 3 loại trạng thái “thỏa mãn”, “phấn khích” và “dễ chịu” thì số sinh viên
lựa chọn mức độ “ít khi” nhiều nhất, mức độ “không bao giờ” có số sinh viên lựa
chọn nhiều thứ 2, mức độ “khá nhiều lần” có số sinh viên lựa chọn nhiều thứ 3, mức
độ “nhiều lần” có số sinh viên lựa chọn nhiều thứ 4, và cuối cùng mức độ “luôn luôn”
có số sinh viên chọn là ít nhất
Ngược lại, hai loại trạng thái là “khó chịu” và “mệt mỏi” thì số sinh viên lựa
chọn mức độ “luôn luôn” nhiều nhất, mức độ “nhiều lần” có số sinh viên lựa chọn
nhiều thứ 2, mức độ “khá nhiều lần” có số sinh viên lựa chọn nhiều thứ 3, mức độ “ít
khi” có số sinh viên lựa chọn nhiều thứ 4, và cuối cùng mức độ “không bao giờ” có
số sinh viên chọn là ít nhất.
Các trạng thái “phấn khích”, “dễ chịu”, “khó chịu” và “mệt mỏi” là các trạng
thái sẽ xuất hiện khi con người uống rượu bia, tùy vào loại đồ uống, liều lượng uống
và cách thức uống làm xuất hiện các trạng thái khác nhau. Có thể chỉ một hay nhiều
trạng thái dễ chịu hoặc khó chịu xuất hiện, cũng có thể cả 4 trạng thái trên sẽ xuất
hiện một cách tuần tự từ dễ chịu đến khó chịu trong cùng một lần uống. Tuy nhiên,
riêng trạng thái “thỏa mãn” chỉ xuất hiện khi cơ thể có nhu cầu cấp thiết phải uống
rượu bia, đây là một trạng thái đặc biệt, chính vì thế con số 8.1% sinh viên khẳng
định họ “luôn luôn cảm thấy thỏa mãn”, 12.1% sinh viên cảm thấy “nhiều lần thỏa
mãn” sau khi sử dụng rượu bia là con số cần phải suy nghĩ.
Các trạng thái “khó chịu”, “mệt mỏi” thường xuất hiện khi cơ thể lâm vào tình
trạng ngộ độc cồn hay còn gọi là say rượu. Ngộ độc cồn nhẹ sẽ làm cơ thể cảm thấy
khó chịu, nặng hơn thì cảm thấy mệt mỏi, vì vậy khi sinh viên cho biết họ cảm thấy
77
khó chịu và mệt mỏi chứng tỏ họ đã có dấu hiệu say rượu bia. Theo kết quả thống kê
thì có 38.8% sinh viên khẳng định họ “luôn luôn” cảm thấy mệt mỏi và 27.2% sinh
viên khẳng định họ “luôn luôn” cảm thấy khó chịu sau khi uống rượu bia, 28.8% sinh
viên cho biết họ “nhiều lần” cảm thấy mệt mỏi, 31.3% sinh viên “nhiều lần” cảm thấy
khó chịu sau khi uống rượu bia. Điều này chứng tỏ những sinh viên này thường
xuyên lâm vào trạng thái “say” mỗi khi uống rượu bia.
So sánh giữa các nhóm khách thể về mức độ cảm nhận các trạng thái của cơ thể
sau khi sử dụng rượu bia
Bảng 2.28. So sánh mức độ cảm nhận các trạng thái sau khi uống rượu bia của
sinh viên 3 trường.
Trường
ĐHTDTT ĐHCN Trạng thái
TB ĐLC
1.24
2.43
1.20
2.58
1.08
2.11
1.21
3.57
1.19
3.87 TB ĐLC
1.23
2.48
1.21
2.52
1.17
2.14
1.17
3.64
1.13
3.82 ĐH
LĐ-XH
TB ĐLC
1.22
2.38
1.23
2.44
1.10
2.09
1.28
3.55
1.22
3.91 Thỏa mãn
Phấn khích
Dễ chịu
Khó chịu
Mệt mỏi
Theo kết quả thống kê ở bảng 2.27 chúng ta thấy rằng không có sự khác biệt
lớn trong việc lựa chọn các trạng thái giữa sinh viên 3 trường ĐH TDTT, ĐH CN và
ĐH LĐ-XH. Tuy nhiên, khi so sánh điểm trung bình ở các trạng thái “thỏa mãn”,
“phấn khích”, “dễ chịu”, “khó chịu” thì thấy rằng sinh viên trường ĐH LĐ-XH có
điểm trung bình luôn thấp hơn 2 trường còn lại. Riêng ở trạng thái “mệt mỏi” thì sinh
viên trường ĐH LĐ-XH lại có điểm trung bình cao nhất.
Nhận xét chung về kết quả nghiên cứu
Từ kết quả nghiên cứu về nhu cầu, nhận thức, thái độ, hành vi của sinh viên đại
học trên địa bàn TP HCM, chúng ta có thể rút ra kết luận mang tính khái quát về
động cơ sử dụng rượu bia của sinh viên như sau:
Động cơ thúc đẩy hành vi sử dụng rượu bia của sinh viên đại học trên địa bàn
TP HCM đa phần là động cơ có tính chất tâm lý. Sinh viên sử dụng rượu bia nhằm
78
thỏa mãn nhu cầu giao tiếp với nhóm bạn bè, muốn được hòa nhập và được nhóm bạn
bè thừa nhận. Muốn được thừa nhận là một nhu cầu mạnh mẽ, đặc biệt là ở lứa tuổi
sinh viên nhu cầu này càng cao, họ sẽ cố gắng bắt chước cách sử xự chung của các
thành viên trong nhóm để hòa nhập, chính vì vậy nên nhận thức và hành vi của nhóm
bạn bè sẽ ảnh hưởng rất lớn đến hành vi sử dụng rượu bia của sinh viên. Một động cơ
tâm lý nữa thúc đẩy sinh viên sử dụng rượu bia đó là xu thế sử dụng rượu bia trong
các hoạt động giao tiếp, kí kết hợp đồng…trong xã hội hiện nay. Thói quen sử dụng
rượu bia phục vụ cho công việc, quan hệ xã hội đã ăn sâu vào đời sống người dân. Từ
sinh nhật, cưới hỏi, liên hoan, gặp gỡ đối tác làm ăn cho đến xin việc, xin học…đều
diễn ra bên ly rượu cốc bia, người có tửu lượng cao sẽ thuận lợi trong các hoạt động
này vì vậy việc sinh viên chủ động “luyện đô” là điều không khó hiểu. Các vấn đề
tâm lý cá nhân như căng thẳng, cô đơn, lo sợ trong cuộc sống cũng thúc đẩy sinh viên
đến với rượu bia.
Tuy nhiên, cũng có những động cơ mang tính chất sinh lý thúc đẩy sinh viên
uống rượu bia như động cơ để “thỏa mãn sự thèm của cơ thể ”. Nhưng những sinh
viên sử dụng rượu bia với động cơ này chiếm tỉ lệ rất ít. Có thể ban đầu những sinh
viên này uống vì những động cơ tâm lý như trên, nhưng sau một thời gian sử dụng
thường xuyên lâu dài thì họ bị lệ thuộc vào rượu bia, lúc này động cơ sử dụng rượu
bia chuyển từ động cơ mang tính chất tâm lý sang động cơ sử dụng mang tính chất
sinh lý.
Theo kết quả điều tra có không ít sinh viên uống rượu bia với mức độ nhiều và
cường độ thường xuyên, tình trạng này sẽ dẫn đến nguy cơ lệ thuộc vào rượu bia
trong tương lai. Đây là vấn đề nghiêm trọng cần gia đình, nhà trương và xã hội phải
79
quan tâm.
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP SINH VIÊN TỰ ĐIỀU
CHỈNH NHU CẦU VÀ MỨC ĐỘ SỬ DỤNG RƯỢU BIA
3.1. Cơ sở đề xuất giải pháp
3.1.1. Cơ sở Tâm l í
Đặc điểm lứa tuổi cho biết những nét tâm lý chung của sinh viên, hiểu biết
những đặc điểm này chúng ta sẽ có các tác động phù hợp để giúp sinh viên điều chỉnh
nhu cầu và mức độ sử dụng rượu bia cho phù hợp với sức khỏe cá nhân và yêu cầu
của cộng đồng.
Những nét tâm lý đặc trưng của sinh viên bao gồm:
- Một trong những đặc điểm tâm lý quan trọng nhất ở lứa tuổi thanh niên - sinh
viên là sự phát triển tự ý thức. Nhờ có tự ý thức phát triển, sinh viên có những hiểu
biết, thái độ, có khả năng đánh giá bản thân để chủ động điều chỉnh sự phát triển bản
thân theo hướng phù hợp với xu thế xã hội.
- Ở SV đã bước đầu hình thành thế giới quan để nhìn nhận, đánh giá vấn đề
cuộc sống, học tập, sinh hoạt hàng ngày.
- Sinh viên là lứa tuổi rất thích khám phá, tìm tòi cái mới, đồng thời, họ thích
bộc lộ những thế mạnh của bản thân, thích học hỏi, trau dồi, trang bị vốn sống, hiểu
biết cho mình, dám đối mặt với thử thách để khẳng định mình.
- Một đặc điểm tâm lý nổi bật nữa ở lứa tuổi này là tình cảm ổn định.
- Sinh viên là lứa tuổi đạt đến độ phát triển sung mãn của đời người. Họ là lớp
người giàu nghị lực, giàu ước mơ và hoài bão, thực tế và năng động
- Hạn chế của sinh viên là sự thiếu chín chắn trong suy nghĩ, hành động. Thêm
vào đó, do đặc điểm nhạy cảm, ham thích những điều mới lạ kết hợp với sự bồng bột,
thiếu kinh nghiệm của thanh niên, do đó, sinh viên dễ dàng tiếp nhận cả những nét
văn hoá không phù hợp với chuẩn mực xã hội, với truyền thống tốt đẹp của dân tộc
80
và không có lợi cho bản thân họ.
3.1.2 Cơ sở pháp lý
3.1.2.1. Chính sách, pháp luật về phòng, chống tác hại của lạm dụng rượu,
bia
Các văn bản quy phạm pháp luật về rượu, bia đã được ban hành từ những năm
1945 cho đến nay cho thấy nhà nước đã quan tâm đến việc quản lý đối với rượu từ rất
sớm. Tuy nhiên, cho đến nay, chính sách, pháp luật về quản lý rượu, bia đã và đang
bộc lộ những hạn chế, bất cập, đòi hỏi phải khẩn trương nghiên cứu, điều chỉnh,
nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của đời sống kinh tế - xã hội của đất nước, cụ
thể là:
- Các quy định pháp luật về quản lý nhà nước đối với rượu, bia tản mát ở
nhiều văn bản pháp luật khác nhau:
Các quy định pháp luật liên quan đến rượu, bia nằm rải rác và phân tán trong
quá nhiều văn bản quy phạm pháp luật, dưới các hình thức khác nhau từ Luật, Nghị
định cho đến Thông tư như Bộ luật Hình sự năm 1999; Bộ luật dân sự năm 2005;
Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004; Luật giáo dục 2005; Luật hàng
không dân dụng Việt Nam năm 2006; Luật thuế tiêu thụ đặc biệt năm 1998; Luật
Thương mại năm 2005; Luật giao thông đường bộ năm 2008; Luật chất lượng sản
phẩm hàng hóa năm 2007; Luật phòng, chống bạo lực gia đình năm 2007, Luật An
toàn thực phẩm 2011... đều có những quy định trực tiếp hoặc gián tiếp liên quan đến
việc hạn chế sản xuất, kinh doanh, tiêu thụ và sử dụng rượu, bia. Nghị định số
40/2008/NĐ-CP ngày 7/4/2008 của Chính phủ về sản xuất, kinh doanh rượu và
Thông tư số 10/2008/TT-BCT ngày 25/7/2008 của Bộ Công thương hướng dẫn thực
hiện một số điều của Nghị định số 40/2008/NĐ-CP ngày 7/4/2008 về sản xuất, kinh
doanh rượu mới chỉ bước đầu tập trung vào các quy định về sản xuất, kinh doanh
rượu và chưa đề cập đến phòng, chống tác hại của lạm dụng rượu, bia. Lĩnh vực sản
xuất, kinh doanh bia cũng chưa có văn bản điều chỉnh cụ thể. Do quá nhiều văn bản
cùng điều chỉnh lĩnh vực quản lý rượu, bia đã dẫn tới sự chồng chéo, thiếu đồng bộ,
81
khó thống nhất trong tổ chức thực thi.
- Chính sách, pháp luật về phòng, chống tác hại của lạm dụng rượu, bia chưa
hoàn thiện và còn nhiều khoảng trống:
Mặc dù pháp luật về rượu, bia được ban hành sớm nhưng mới chỉ tập trung vào
các quy định nhằm giảm thiểu hậu quả của lạm dụng rượu, bia mà chưa có các quy
định mang tính phòng ngừa. Chỉ khi các cá nhân lạm dụng rượu, bia dẫn đến các hậu
quả xấu trong các quan hệ xã hội như khi tham gia giao thông, khi tham gia giao dịch
dân sự, có hành vi vi phạm pháp luật hình sự do sử dụng rượu, bia... hoặc trong sản
xuất nếu có vi phạm các điều kiện thì mới bị xử lý. Các nội dung khác như tuyên
truyền, giáo dục; các quy định về hạn chế tuổi sử dụng; giờ bán; địa điểm bán, in
cảnh báo sức khỏe trên bao bì..., các biện pháp giảm nhu cầu sử dụng rượu, bia, các
biện pháp kiểm soát nguồn cung cấp rượu, bia nhằm mục đích phòng, chống lạm
dụng, kiểm soát và quản lý chặt chẽ đối với rượu, bia đều không được quan tâm đúng
mức và còn thiếu những quy định phù hợp. Điều đó cho thấy, các văn bản quy phạm
pháp luật về phòng, chống tác hại của lạm dụng rượu, bia chưa bảo đảm tính dự
phòng tác hại của lạm dụng rượu, bia đến kinh tế - xã hội trong đó có vấn đề liên
quan đến sức khỏe. Trong khi xu thế hiện nay coi y tế dự phòng là nền tảng của y tế
hiện đại. Việc can thiệp bằng pháp luật nhằm điều chỉnh các yếu tố nguy cơ do rượu,
bia mang lại là một yêu cầu cấp thiết.
Bên cạnh đó, Nhà nước mới tập trung quản lý được hoạt động của các sơ sản
xuất, kinh doanh rượu, bia có giấy phép và đăng ký kinh doanh mà chưa có biện pháp
quản lý chặt chẽ đối với rượu thủ công trong nhân dân. Việc quản lý cấp phép chỉ
thực hiện đối với kinh doanh rượu còn đối với bia thì chưa thực hiện quản lý cấp
phép đối với mặt hàng này.
Đồng thời, cơ chế phối hợp giữa các Bộ, ngành có liên quan trong triển khai thi
hành các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý sản xuất, kinh doanh cũng như
phòng, chống tác hại của lạm dụng rượu, bia còn chưa thực sự đồng bộ và chặt chẽ,
chưa có cơ quan đầu mối về phòng, chống tác hại của lạm dụng rượu, bia.
82
3.1.2.2. Quan điểm về phòng, chống tác hại của lạm dụng rượu, bia
(Trích dự thảo đề cương Chính sách quốc gia phòng chống tác hại lạm dụng rượu,
bia giai đoạn 2010 – 2020)
Rượu là hàng hóa hạn chế kinh doanh, bia và đồ uống có cồn khác là hàng hóa
kinh doanh có điều kiện; không khuyến khích sử dụng rượu, bia và đồ uống có cồn.
Kiểm soát toàn diện, đồng bộ đối với sản xuất, kinh doanh và sử dụng rượu, bia
phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và tập quán văn hóa
truyền thống để bảo vệ sức khỏe cộng đồng.
Tăng cường biện pháp thông tin, giáo dục, truyền thông để nâng cao nhận thức
của người dân về tác hại của lạm dụng rượu, bia.
Mọi người có quyền được bảo vệ khỏi ảnh hưởng bởi tác hại của lạm dụng rượu,
bia.
Khuyến khích cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp và cá nhân tham gia phòng, chống
tác hại của lạm dụng rượu, bia.
3.2 Biện pháp thực hiện phòng, chống tác hại của lạm dụng rượu, bia của nhà
nước.
(Trích dự thảo đề cương Chính sách quốc gia phòng chống tác hại lạm dụng rượu,
bia giai đoạn 2010 – 2020)
3.2.1 Biện pháp về kiểm soát nhu cầu sử dụng rượu, bia
3.2.1.1. Kiểm soát việc sử dụng rượu, bia để tạo dựng môi trường xã hội an
toàn, lành mạnh, giảm thiểu và phòng ngừa tác hại của lạm dụng rượu, bia:
- Quy định việc cấm sử dụng rượu, bia trong giờ làm việc, tại nơi làm việc,
trong bữa ăn giữa hai buổi trong ngày làm việc và ngày trực.
- Người điều khiển các phương tiện tham gia giao thông, người dưới 18 tuổi,
phụ nữ có thai, người vì nguyên nhân bệnh lý không được sử dụng rượu, bia.
- Phát động cộng đồng không lạm dụng rượu, bia trong đám tang, lễ hội, đám
cưới; hộ gia đình không nấu rượu; gia đình và khu dân cư không có người nghiện
rượu, bia; không tham gia giao thông sau khi sử dụng rượu, bia.
3.2.1.2. Kiểm soát chặt chẽ quảng cáo, tiếp thị, khuyến mại rượu, bia: Quy
định việc cấm quảng cáo, tiếp thị và khuyến mại đối với rượu trên 15o, quảng các
83
rượu trên internet; tài trợ để quảng cáo rượu; chỉ được phát thông tin về quảng cáo
bia trên các kênh thông tin đại chúng sau 22 giờ.
3.2.1.3. Tăng cường trách nhiệm của cơ sở kinh doanh rượu, bia: Nghiên cứu,
bổ sung vào điều kiện cấp giấy phép kinh doanh rượu, bia quy định người lao động
của cơ sở kinh doanh rượu, bia phải được tập huấn về trách nhiệm trong cung cấp
rượu, bia với các nội dung cụ thể như: các quy định của pháp luật về phòng, chống
tác hại của rượu, bia, cách nhận biết tuổi, nhận biết dấu hiệu về lạm dụng rượu, bia
của khách hàng.
3.2.1.4. Tăng cường tuyên truyền, kiểm tra, giám sát và xử lý vi phạm pháp
luật về kiểm soát nhu cầu sử dụng rượu, bia.
3.2.1.5. Áp dụng chính sách thuế phù hợp đối với rượu, bia nhằm giảm lạm
dụng và giảm thiểu tác hại do lạm dụng rượu, bia.
3.2.1.6. Có chính sách phù hợp khi tham gia đàm phán, gia nhập các điều ước
quốc tế trong lĩnh vực thương mại nhằm hạn chế nguy cơ lạm dụng rượu, bia do tác
động của các điều ước này.
3.2.2. Biện pháp về kiểm soát nguồn cung cấp rượu, bia
3.2.2.1. Quy hoạch đồng bộ về sản xuất rượu, bia trong cả nước và từng địa
phương.
3.2.2.2. Kiểm soát kinh doanh rượu thủ công: Thực hiện cấp phép sản xuất
rượu thủ công nhằm mục đích kinh doanh, quản lý tiêu chuẩn chất lượng, an toàn
thực phẩm và nhãn hàng hóa đối với rượu thủ công.
3.2.2.3. Kiểm soát việc ghi nhãn rượu, bia để gắn trách nhiệm của người sản
xuất đối với sức khỏe và tính mạng của người tiêu dùng và ngăn chặn hàng giả, hàng
kém chất lượng; nghiên cứu quy định việc in cảnh báo về tác hại của lạm dụng rượu,
bia trên nhãn sản phẩm.
3.2.2.4. Tăng cường biện pháp kiểm soát chất lượng, an toàn thực phẩm và
biện pháp phòng, chống rượu, bia nhập lậu, giả và kém chất lượng.
84
3.2.2.5. Kiểm soát hoạt động bán rượu, bia:
- Cấp phép kinh doanh bán lẻ rượu; nghiên cứu, xây dựng cơ chế, lộ trình khả
thi để cấp phép kinh doanh bán lẻ bia (xin ý kiến ban soạn thảo), kiểm soát giá rượu,
bia.
- Nghiên cứu, quy định về lượng rượu, bia tối đa được bán cho một khách hàng
sử dụng tại chỗ, không được bán rượu, bia cho người có biểu hiện say rượu, bia;
không được bán rượu, bia cho người dưới 18 tuổi, phụ nữ có thai; bán rượu, bia tại
trường học, bệnh viện, công sở và nơi làm việc khác; từng bước cấm bán rượu, bia
sau 22 giờ.
3.2.2.6. Hạn chế, tiến tới không sử dụng lao động dưới 18 tuổi làm việc trong
các cơ sở sản xuất, kinh doanh rượu, bia.
3.2.2.7. Tăng cường tuyên truyền, kiểm tra, giám sát và xử lý vi phạm pháp
luật về kiểm soát nguồn cung cấp rượu, bia.
3.2.3 Biện pháp về giảm tác hại
3.2.3.1. Thông tin, giáo dục, truyền thông
- Nghiên cứu, quy định việc in thông tin về tuổi và đối tượng không được uống
rượu, bia và các tác hại của lạm dụng rượu, bia trên nhãn sản phẩm rượu, bia.
- Tăng cường hoạt động thông tin, giáo dục, truyền thông nhằm nâng cao nhận
thức của cộng đồng về tác hại của lạm dụng rượu, bia, về quyền của trẻ em không bị
ép buộc hoặc khuyến khích sử dụng rượu, bia và vận động, thuyết phục người dân
không lạm dụng rượu, bia.
- Lồng ghép giáo dục về tác hại của lạm dụng rượu, bia phù hợp với các cấp
học, bậc học, chú trọng tuyên truyền, thông tin cho học sinh về tuổi được phép mua,
được phép uống rượu, bia; kỹ năng từ chối uống rượu, bia; tác hại của lạm dụng
rượu, bia đối với sức khỏe và xã hội.
- Truyền thông, giáo dục trong cộng đồng và trên các phương tiện thông tin đại
chúng phải được tiến hành đồng bộ để cảnh báo về tác hại của lạm dụng rượu, bia và
85
chuyển tải thông điệp uống rượu, bia có chừng mực đến với mọi người dân.
3.2.3.2. Triển khai các biện pháp dự phòng đặc biệt cho các nhóm có nguy cơ
cao như: trẻ vị thành niên, phụ nữ có thai hoặc dự định có thai; sàng lọc và điều trị
can thiệp sớm đối với người đã lạm dụng rượu, bia thông qua việc cung cấp các dịch
vụ chẩn đoán, điều trị (về sức khỏe tâm thần, về các bệnh mãn tính, cai nghiện);
chăm sóc liên tục với sự tham gia của nhân viên y tế và nhóm đồng đẳng.
3.2.3.3. Tăng cường năng lực cho mạng lưới chăm sóc sức khỏe ban đầu, đào
tạo kiến thức kỹ năng cho cán bộ y tế và cán bộ công tác xã hội để kịp thời phát hiện,
thực hiện có hiệu quả các biện pháp giảm thiểu tác hại của lạm dụng rượu, bia. Chủ
động tiếp cận và tạo điều kiện thuận lợi cho người nghiện rượu, bia trong cộng đồng
dễ dàng được tiếp nhận các dịch vụ can thiệp sớm, điều trị cai nghiện tại cộng đồng
và phục hồi tái hòa nhập.
3.2.3.4. Tăng cường kiểm tra, xử lý vi phạm về nồng độ cồn trong máu và khí
thở của người tham gia giao thông nhằm giảm tai nạn giao thông do sử dụng rượu,
bia gây ra. Nghiên cứu, quy định thống nhất về nồng độ cồn trong máu và khí thở của
người tham gia điều khiển phương tiện giao thông đường bộ, đường sắt và đường
thủy nội địa.
3.2.3.5. Đẩy mạnh việc chủ động phòng ngừa và ngăn chặn các vi phạm pháp
luật về trật tự xã hội và tội phạm do sử dụng rượu, bia gây ra với sự tham gia tích cực
của các tổ chức đoàn thể, xã hội và cộng đồng.
3.2.4. Biện pháp về huy động nguồn lực
3.2.4.1. Nghiên cứu, đề xuất Quốc hội cho phép trích một khoản kinh phí trên
giá sản phẩm rượu, bia để hỗ trợ trực tiếp cho các hoạt động phòng, chống tác hại của
lạm dụng rượu, bia và nâng cao sức khỏe cộng đồng.
3.2.4.2. Nghiên cứu, chuẩn bị các điều kiện cần thiết để thành lập Quỹ Nâng
cao sức khỏe để trực tiếp quản lý và điều phối các hoạt động nâng cao sức khỏe cộng
86
đồng, trong đó có phòng, chống tác hại của lạm dụng rượu, bia.
3.2.4.3. Tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức phi chính phủ trong nước và
quốc tế, các cộng đồng dân cư, đặc biệt là các hiệp hội, cơ sở sản xuất kinh doanh
rượu, bia hỗ trợ nguồn lực để phòng, chống tác hại của lạm dụng rượu, bia.
3.2.4.4. Thành lập Ban chỉ đạo quốc gia phòng, chống tác hại của lạm dụng
rượu, bia
- Trưởng Ban chỉ đạo quốc gia là Phó Thủ tướng Chính phủ.
- Lãnh đạo các Bộ, ngành, đoàn thể, tổ chức xã hội là thành viên của Ban Chỉ
đạo quốc gia: Bộ Y tế, Bộ Công Thương, Bộ Công an, Bộ Tài chính, Bộ Văn hoá,
Thể thao và Du lịch, Bộ Thông tin và Truyền thông, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Kế
hoạch và Đầu tư, Bộ Khoa học và Công nghệ, một số tổ chức chính trị xã hội, tổ chức
xã hội và một số cơ quan, tổ chức có liên quan khác.
- Văn phòng thường trực của Ban chỉ đạo quốc gia đặt tại Bộ Y tế, do Bộ
trưởng Bộ Y tế thành lập và trực thuộc Bộ Y tế.
- Ban Chỉ đạo quốc gia chịu trách nhiệm xây dựng và tổ chức thực hiện kế
hoạch phòng, chống tác hại của lạm dụng rượu, bia giai đoạn 2013 - 2020.
3.2.5. Biện pháp về nghiên cứu khoa học và hợp tác quốc tế
3.2.5.1. Hình thành và duy trì hệ thống thu thập và phân tích các thông tin dữ
liệu có liên quan đến sản xuất, kinh doanh, sử dụng rượu bia nhằm cung cấp bằng
chứng để xây dựng chính sách, pháp luật.
3.2.5.2. Nghiên cứu, khảo sát thường kỳ, thống kê, đánh giá thực trạng sử dụng
rượu, bia; mức độ lạm dụng rượu, bia; các tác hại của rượu bia đến sức khỏe con
người, kinh tế - xã hội; mối liên quan giữa lạm dụng rượu, bia với tác hại về sức khỏe
và xã hội để đề xuất các biện pháp can thiệp giảm thiểu tác hại phù hợp và khả thi.
3.2.5.3. Các chính sách can thiệp giảm tác hại của lạm dụng rượu, bia phải
được giám sát, đánh giá hiệu quả thực thi để kịp thời điều chỉnh.
3.2.5.4. Đẩy mạnh hợp tác với các nước khi tham gia các hiệp định kinh tế và
thương mại quốc tế liên quan đến lĩnh vực rượu, bia nhằm giảm tác động bất lợi đối
87
với sức khỏe cộng đồng.
3.2.5.5. Tăng cường chia sẻ, trao đổi kinh nghiệm quốc tế và khu vực trong
thiết lập cơ sở dữ liệu, nghiên cứu khoa học, xây dựng chính sách, pháp luật về
phòng, chống tác hại của lạm dụng rượu, bia.
3.3. Đề xuất một số biện pháp giúp sinh viên tự điều chỉnh hành vi sử dụng rượu
bia
3.3.1. Tác động nâng cao nhận thức của sinh viên về rượu bia và hậu quả của việc
lạm dụng rượu bia.
Kết quả điều tra về nhận thức của sinh viên đại học trên địa bàn TP HCM cho
thấy có không ít sinh viên mơ hồ về các tính chất và tác hại của rượu bia dẫn đến
hành vi sử dụng rượu bia của sinh viên còn nhiều vấn đề cần lo ngại. Chính vì thế
việc nâng cao kiến thức về rượu bia cho sinh viên là rất cần thiết. Dựa vào kết quả
điều tra ở chương II và cơ sở đề xuất giải pháp, người nghiên cứu đưa ra một số biện
pháp nâng cao nhận thức của sinh viên về rượu bia như sau:
- Nâng cao nhận thức thông qua các buổi thảo luận theo chuyên đề. Thảo luận
là một hình thức tổ chức dạy học phổ biến ở bậc đại học, hình thức này tạo điều kiện
cho sinh viên nói lên ý kiến, suy nghĩ, quan điểm cá nhân về vấn đề được đưa ra. Các
chuyên đề về rượu bia thường có tính chất “mở” sẽ kích thích sự tham gia đóng góp ý
kiến, tranh luận, phản biện của nhiều sinh viên. Đây chính là điều kiện thuận lợi để
sinh viên cập nhật các thông tin, kiến thức mới về tính chất và tác động của rượu bia.
- Nâng cao nhận thức thông qua tuyên truyền bằng văn hóa, văn nghệ. Đây là
hình thức sân khấu hóa các ảnh hưởng của rượu bia đến đời sống con người, hình
thức này thu hút sự quan tâm của đông đảo sinh viên do tính sinh động & nghệ thuật
của nó. Đây cũng được coi là một trong những hình thức tuyên truyền rất hiệu quả
cần được phát huy.
- Nâng cao nhận thức thông qua các phương tiện truyền thông. Đặc biệt trong
điều kiện khoa học công nghệ phát triển, thông tin bùng nổ, chỉ cần một máy điện
thoại cũng có thể thỏa mãn nhu cầu thông tin của các sinh viên. Lợi dụng ưu thế đó,
88
việc tuyên truyền tác hại, kết quả nghiên cứu mới của các nhà khoa học trên thế giới
về rượu bia… thông qua các videoclip, các bài báo đăng trên các trang web mà sinh
viên thường quan tâm cũng có hiệu quả nhất định.
- Nâng cao nhận thức thông qua việc phát các tờ rơi có chưa nội dung là các
kiến thức khoa học về tính chất và tác hại của rượu bia. Đây là một phương pháp
truyền thông khá hiệu quả.
- Nâng cao nhận thức thông qua tổ chức các hoạt động giao lưu với những
người đã và đang gánh chịu hậu quả do sử dụng rượu bia gây ra. Khi mắt thấy, tai
nghe một tấm gương sống thì con người sẽ nhớ lâu hơn. Vì vậy việc cho sinh viên
trực tiếp thấy những người tàn phế do uống nhiều rượu bia gây tai nạn giao thông;
những bệnh nhân sơ gan, ung thư dạ dày…; những người bị rối loạn tâm thần do sử
dụng quá nhiều rượu bia, hay những người đang trong quá trình cai nghiện rượu… có
lẽ sẽ tác động mạnh mẽ tới nhận thức của sinh viên hơn là những tài liệu khô cứng
trong sách vở.
- Nâng cao nhận thức bằng cách thay đổi một số quan niệm như “nam vô tửu
như cờ vô phong”, “rượu ngon phải có bạn hiền” hay “vô tửu bất thành lễ”…Thực tế,
những quan niệm này đã tồn tại từ rất lâu, nó có ảnh hưởng không nhỏ tới thái độ và
hành vi sử dụng rượu bia của sinh viên. Để thay đổi một vấn đề đã trở thành quan
niệm cần có sự đầu tư thời gian, công sức và trí tuệ của toàn xã hội.
3.3.2. Tác động thay đổi hành vi
- Thay đổi thói quen sử dụng rượu bia trong các dịp tiệc tùng. Hầu như các
hoạt động lễ hội, đình đám, kỉ niệm đều có những cuộc vui bên chén rượu. Uống
rượu là một phương tiện giao tiếp, một sinh hoạt giữa người và người, ví dụ như cần
thảo luận về những dự án làm ăn. Còn một lý do cộng đồng nữa là con người thường
uống rượu theo nhóm để thỏa mãn nhu cầu gặp gỡ, chia sẻ, trò chuyện, thảo luận
thông tin. Vấn đề ở chỗ rượu làm con người hưng phấn để thúc đẩy giao tiếp xã hội
hiệu quả hơn. Tuy nhiên, đối với sinh viên việc uống rượu thường xuyên chắc chắn
sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến sức khỏe, học tập và kinh tế cá nhân. Vì thế, thay đổi thói
89
quen sử dụng rượu bia trong các dịp gặp mặt sẽ giúp sinh viên vừa thỏa mãn nhu cầu
giao tiếp, vừa bảo vệ được sức khỏe bản thân, vừa an toàn khi tham gia giao thông.
- Tham gia các hoạt động văn hóa, thể dục thể thao dành cho sinh viên. Có
nhiều nguyên nhân khiến người ta uống rượu, nhưng có thể quy về hai nhóm chính:
những nguyên nhân thuộc về xã hội vầ những nguyên nhân thuộc về cá nhân. Về mặt
cá nhân đôi khi người ta uống rượu vì buồn, vì cô đơn, để giải sầu: "Dục phá thành
sầu duy hữu tửu". Việc tham gia các câu lạc bộ văn nghệ, đội bóng đá (bóng chuyền,
điền kinh…), lớp yoga, câu lạc bộ thiền…sẽ giúp sinh viên giảm thiểu thời gian rảnh,
né tránh trạng thái cô đơn.
- Xây dựng một chế độ sinh hoạt khoa học, không có rượu bia. Đây là một
phương pháp tích cực, chế độ ăn, ngủ, sinh hoạt điều độ, ít sử dụng rượu bia sẽ đem
đến lợi ích về mặt sức khỏe, tinh thần, kinh tế cho cá nhân và gia đình.
- Xây dựng các mối quan hệ tốt trong gia đình, trường học và xã hội để tránh
các cảm xúc tiêu cực do xung đột gây ra, giảm thiểu các trạng thái căng thẳng, buồn
bã, cô đơn… là nguyên nhân tâm lý của hành vi lạm dụng rượu bia.
- Tham gia các lớp dạy kĩ năng sống. Các kĩ năng ứng phó với strees, kĩ năng
xây dựng các mối quan hệ, kĩ năng đàm phán, kĩ năng từ chối…sẽ giúp sinh viên
tránh tiếp xúc với rượu bia một cách dễ dàng hơn.
Cuối cùng, điều quan trọng để định hướng hành vi sử sụng rượu bia một cách
khoa học chính là sự tự ý thức bảo vệ sức khỏe, an toàn của bản thân mỗi sinh viên.
Điều này đòi hỏi sinh viên phải có sự chủ động, tích cực tìm hiểu về các kiến thức
liên quan đến rượu bia và tác hại của chúng, đồng thời chính cá nhân sinh viên phải
biết điều chỉnh hành vi sử dụng rượu bia cho phù hợp. Người nghiên cứu mong muốn
thông qua các biện pháp sẽ tác động mạnh mẽ đến tính tự chủ, sự tự ý thức của mỗi
90
sinh viên.
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Kết luận
Dựa trên những lý luận về động cơ, các nghiên cứu về tác hại của việc lạm
dụng rượu, bia và kết quả khảo sát thực tiễn cho phép người nghiên cứu rút ra một số
kết luận mang tính khái quát sau:
1. Có nhiều công trình nghiên cứu của các tác giả trong và ngoài nước về thực
trạng sử dụng rượu, bia của thanh niên. Tuy nhiên, những nghiên cứu về động cơ sử
dụng rượu, bia của sinh viên vẫn chưa được quan tâm và nghiên cứu một cách thỏa
đáng.
2. Sinh viên là lực lượng lao động có tri thức khoa học to lớn của xã hội, đóng
vai trò quan trọng trong sự phát triển của đất nước. Ở lứa tuổi này, động cơ hoạt động
của họ chịu sự chi phối của quan hệ bạn bè, các thói quen và yêu cầu của xã hội
đương thời.
3. Động cơ sử dụng rượu, bia bao hàm ba yếu tố, đó là nhận thức, thái độ và
biểu hiện ra bên ngoài bằng những hành vi cụ thể. Động cơ sử dụng rượu, bia của
sinh viên chịu sự tác động của các yếu tố bên trong như đặc điểm, quy luật tâm lý lứa
tuổi thanh niên, các tri thức và kinh nghiệm sống mà sinh viên đã tích lũy, và các yếu
tố bên ngoài như tác động của truyền thống, tác động từ phía bạn bè hay do yêu cầu
của xã hội.
4. Động cơ sử dụng rượu, bia của sinh viên đại học trên địa bàn TP. Hồ Chí
Minh chủ yếu là các động cơ mang tính chất tâm lý như động cơ muốn được nhóm
bạn bè công nhận, động cơ muốn hòa nhập cùng xu thế chung của xã hội đó là sử
dụng rượu, bia như một loại xúc tác trong các cuộc giao tiếp. Nhìn chung, kết quả
trên phù hợp với giả thuyết nghiên cứu được đưa ra ban đầu.
5. Có sự tương đối giống nhau về động cơ sử dụng rượu, bia của sinh viên đại
91
học thuộc các nhóm ngành khác nhau trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh.
Kiến nghị
Từ những kết quả thu được khi thực hiện đề tài, người nghiên cứu đưa ra
những kiến nghị sau nhằm tạo cơ sở để thực hiện các giải pháp hạn chế tình trạng sử
dụng rượu bia của sinh viên:
Thứ nhất, Nhà nước và các cơ quan chức năng cần nghiêm chỉnh thực hiện luật
pháp, cương quyết xử phạt người sử dụng rượu, bia khi tham gia giao thông. Nghiêm
trị những kẻ buôn bán rượu, bia trái phép. Cần xây dựng những chính sách phòng,
chống tác hại của rượu, bia một cách hiệu quả. Có các chính sách khuyến khích người
dân không sử dụng rượu, bia trong các dịp lễ hội, văn hóa, truyền thống của dân tộc.
Thứ hai, các trường cần xây dựng một môi trường học tập và sinh hoạt phong
phú, sinh động để lôi cuốn, thu hút sự quan tâm của sinh viên vào việc trau dồi kĩ
năng nghề nghiệp cũng như các kĩ năng sống cho bản thân.
Thứ ba, từng gia đình Việt Nam cần ý thức được tác hại của việc sử dụng rượu
bia, hạn chế tích trữ rượu bia trong gia đình, thay đổi thói quen sử dụng rượu bia
trong các ngày lễ tết, cha mẹ cần gương mẫu không sử dụng rượu bia khi tham gia
giao thông, không uống rượu bia say xỉn gây mất trật tự công cộng.
Thứ tư, bản thân sinh viên cần tự trang bị cho mình các kiến thức về rượu, bia
và cách giảm thiểu tác hại của rượu, bia. Kiên quyết nói không với rượu, bia khi tham
gia giao thông. Chủ động tuyên truyền, khuyến khích người thân và bạn bè không sử
92
dụng, lạm dụng rượu, bia.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. A.N.Leonchiev (1989), Hoạt động - ý thức - nhân cách, NXB Giáo dục.
2. Dương Thiệu Tống (2005), Thống kê ứng dụng trong nghiên cứu khoa học giáo
dục, Nxb KHXH, HN.
3. Đào Thị Oanh (2007), Vấn đề nhân cách trong Tâm lý học ngày nay, Nxb Giáo
dục, HN.
4. Đặng Phương Kiệt: Cơ sở tâm lí học ứng dụng, Nxb ĐHQGHN, 2001, tập 1.
5. Đỗ Long (2007), Những nghiên cứu Tâm lý học, Nxb Chính trị quốc gia, HN
6. Điều tra quốc gia về vị thành niên và thanh niên Việt Nam (2003) SAVY 1
7. Điều tra quốc gia về vị thành niên và thanh niên Việt Nam (2009) SAVY 2
8. Hiệp hội Bia, Rượu, Nước giải khát Việt Nam, 2012.
9. Kết quả điều tra của Vụ Các vấn đề xã hội - Văn phòng Quốc hội, 2008.
10. Lomov (2001), Những vấn đề lý luận và phương pháp luận tâm lý học, Nxb
ĐHQGHN, HN.
11. Leonchiep, Hoạt động – ý thức – nhân cách, Nxb Giáo dục
12. Lê Quang Sơn: Bài giảng phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu khoa
học, 2008.
13. Lê Văn Hồng (chủ biên): Tâm lí học lứa tuổi và tâm lí học sư phạm, Nxb Đại
học Quốc Gia Hà Nội, 2001.
14. Nguyễn Khắc Viện, Từ điển Tâm lý học, NXB Văn hoá thông tin.
15. Nguyễn Ngọc Bích: Tâm lí học nhân cách - một số vấn đề lí luận, Nxb
ĐHQGHN, 2000.
16. Nguyễn Quang Uẩn (2002), Tâm lý học đại cương, Nxb ĐHQGHN, HN.
17. Nguyễn Quang Uẩn (chủ biên): Giáo trình tâm lí học đại cương, Nxb ĐHSP,
2006.
18. Nguyễn Văn Đồng (2007), Tâm lý học phát triển, Nxb Chính trị quốc gia, HN.
93
19. Nguyễn Xuân Thức (2007), Tâm lý học đại cương, Nxb ĐHSP, HN.
20. Phạm Minh Hạc (1993), Tâm lý học đại cương, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
21. Phạm Minh Hạc. Hành vi và hoạt động. NXBGD. 1989
22. Phạm Minh Hạc (2003), Một số công trình Tâm lý học của A.N.Lêônchiep,
Nxb Giáo dục, HN.
23. Phạm Minh Hạc (2001), Tuyển tập Tâm lý học, Nxb Giáo dục, HN.
24. Phạm Minh Hạc: Tâm lí học nghiên cứu con người trong thời đại mới, Nxb GD,
2006.
25. Phạm Minh Hạc: Tâm lí học Vưgôtxki, Nxb Gd, 1997, tập 1.
26. Phan Trọng Ngọ (chủ biên): Các lý thuyết phát triển tâm lí người, Nxb ĐHSP,
2003.
27. Stephen Worchel (2007), Tâm lý học – nguyên lý và ứng dụng,Nxb Lao động –
xã hội, HN.
28. Trần Trọng Thủy (1992), Khoa học chẩn đoán tâm lý, Nxb Giáo dục, HN.
29. Vũ Cao Đàm (2005), Phương pháp luận nghiên cứu khoa học, Nxb Khoa học và
Kỹ thuật, Hà Nội.
30. Vũ Dũng (2002), Từ điển Tâm lý học, Nxb khoa học xã hội, HN.
31. Vũ Thị Nho, (2005), Tâm lý học phát triển, Nxb ĐHQGHN, HN.
32. Võ Thị Minh Chí: Lịch sử tâm lý học, Nxb Giáo dục, 2004.
33. thuvienykhoa.vn
34. www.tamly.com.vn
94
35. www.google.com.vn
PHỤ LỤC
Phụ lục 1
MẪU PHIẾU PHỎNG VẤN
1. Theo bạn, tại sao rượu bia lại được sử dụng phổ biến trong đời sống?
.......................................................................................................................................
.......................................................................................................................................
2. Theo bạn, thế nào là lạm dụng rượu bia?
............................................................................................................................
............................................................................................................................
3. Bạn cho biết những tác hại của việc lạm dụng rượu bia mà bạn thấy?
............................................................................................................................
............................................................................................................................
4. Bạn sử dụng rượu bia với mục đích gì?
............................................................................................................................
............................................................................................................................
5. Bạn hãy vui lòng cho biết :
- Số lượng rượu bia bạn uống trong một lần:
- Số lần uống rượu bia trong một tuần:
- Loại rượu / bia bạn hay uống:
6. Khi say rượu bạn cảm thấy như thế nào?
............................................................................................................................
............................................................................................................................
7. Theo bạn, làm thế nào để hạn chế hiện tượng sinh viên lạm dụng rượu bia?
............................................................................................................................
95
...................................................................................................................
Phụ lục 2
PHIẾU THĂM DÒ Ý KIẾN
Hiện nay chúng tôi đang tiến hành nghiên cứu đề tài: “Động cơ sử dụng rượu bia của
sinh viên đại học trên địa bàn thành phố HCM”, rất mong các bạn vui lòng cung cấp cho
chúng tôi những thông tin về vấn đề này bằng cách trả lời các câu hỏi sau đây.
Xin trân trọng cảm ơn!
Câu 1: Bạn có cho rằng sử dụng rượu, bia là cần thiết không…(đánh dấu X vào ô phù hơp
với bạn ).
1. Rất cần thiết
2. Khá cần thiết
3. Bình thường
4. Không cần thiết
5. Hoàn toàn không cần
Câu 2: Bạn thường sử dụng loại đồ uống nào? (đánh dấu X vào ô phù hơp với bạn).
1. Các loại bia chai/ lon
2. Các loại bia hơi (bia tươi )
3. Các loại rượu vang, sâm panh
4. Rượu gạo nấu thủ công
5. Rượu thuốc (rượu ngâm )
6. Các loại rượu vodka
7. Các loại rượu mạnh khác
Câu 3: Tại sao bạn sử dụng rượu, bia ? (đánh dấu X vào ô phù hơp với bạn theo thang điểm
).
5 điểm = Rất đồng ý
4 điểm = Đồng ý
3 điểm = Khá đồng ý
96
2 điểm = Không đồng ý
1 điểm = Hoàn toàn không đồng ý
STT
Mục đích sử dụng rượu, bia
Mức độ đồng ý
5
4
3
2
1
1
Tăng cảm giác thèm ăn và kích thích tiêu hóa
2
Tạo phong cách riêng cho bản thân
3
Thỏa mãn nhu cầu muốn uống
4
Giảm thiểu triệu chứng mất ngủ
5
Giải trí trong thời gian rảnh
6
Giảm căng thẳng và các cảm xúc tiêu cực trong cuộc
sống
7
Tạo tiền đề thuận lợi cho các mối quan hệ giao tiếp
8
Tạo cảm giác hưng phấn và tự tin trước người khác
giới
9
Kích thích trí tưởng tượng
Câu 4: Bạn đã say rượu/ bia bao giờ chưa?
1. Có
2. Chưa
Câu 5: Dưới đây là một số nhận định về ảnh hưởng tiêu cực của việc lạm dụng rượu bia đối
với con người, hãy cho biết ý kiến đánh giá của bạn bằng cách cho điểm theo thang (đánh
dấu X vào ô điểm mà bạn cho là phù hợp)
5 điểm = Rất đồng ý
4 điểm = Đồng ý
3 điểm = Phân vân
2 điểm = Không đồng ý
1 điểm = Hoàn toàn không đồng ý
97
STT
Ảnh hưởng tiêu cực
Mức độ đồng ý
5
4
3
2
1
1
Mất an toàn khi tham gia giao thông
2
Lãng phí tiền bạc và thời gian
3
Gây thoái hóa não bộ
4
Tổn thương các cơ quan trong cơ thể như: gan,
thận, tim…
5
Nguyên nhân gây ra xung đột và bạo hành gia đình
6
Nguyên nhân gia tăng các hành vi phạm tội
7
Là một nguyên nhân gây suy thoái giống nòi
8
Uống rượu bia gây nguy cơ ung thư cao hơn bình
thường
Câu 6: Dưới đây là một số nhận định về tính chất của rượu bia, hãy cho biết ý kiến của bạn
bằng cách đánh dấu X vào ô bạn cho là phù hợp.
5 điểm = Rất đồng ý
4 điểm = Đồng ý
3 điểm = Phân vân
2 điểm = Chưa đồng ý
1 điểm = Hoàn toàn không đồng ý
STT
Tính chất của rượu, bia
Mức độ đồng ý
5
4
3
2
1
1
Uống rượu, bia chỉ gây ức chế hoạt động của hệ
thần kinh chứ không làm chết các tế bào thần kinh
2
Sử dụng nhiều rượu/ bia thường xuyên sẽ làm con
98
người lệ thuộc vào rượu/ bia
3
Uống nhiều rượu/ bia sẽ cung cấp cho cơ thể nhiều
nước
4
Nồng độ cồn trong rượu, bia càng thấp thì cơ thể
càng dễ hấp thụ
5
Say rượu, bia chính là tình trạng ngộ độc cồn
6
Bia không có khả năng gây nghiện như rượu
7
Chỉ sử dụng rượu/ bia giả kém chất lượng mới bị
ung thư gan và dạ dày
8
Các loại rượu, bia nấu thủ công không đảm bảo
chất lượng do người nấu sử dụng các loại men ủ
bán đại trà không rõ thành phần và xuất xứ
9
Một số loại rượu, bia đang bán trên thị trường được
pha chế trực tiếp từ cồn công nghiệp và các hóa
chất độc hại với giá rẻ
10
Sử dụng rượu/ bia càng sớm con người càng dễ bị
lệ thuộc vào rượu/ bia hơn
11
Người có cha (mẹ) lạm dụng rượu/ bia sẽ có nguy
cơ nghiện rượu/ bia cao hơn
Câu 7: Nhu cầu sử dụng rượu, bia của bạn hiện nay? (đánh dấu X vào ô phù hơp với bạn ).
1. Ngày nào cũng uống
2. 4 -5 lần / tuần
3. 2 – 3 lần / tuần
4. 1 lần / tuần
5. Không uống bao giờ
Câu 8: Khả năng dung nạp rượu bia của bạn hiện nay? (đánh dấu X vào ô phù hơp với bạn ).
1. 1 lon bia 330ml , hoặc 1 li rượu (12ml) 40 độ cồn / 1 lần uống
99
2. 2 -3 lon bia 330ml , hoặc 2 - 3 li rượu (12ml) 40 độ cồn / 1 lần uống
3. Trên 4 lon bia 330ml , hoặc trên 4 li rượu (12ml) 40 độ cồn / 1 lần uống
Câu 9: Dưới đây là một số trạng thái của cơ thể sau khi sử dụng rượu bia, hãy cho biết tần
số bạn cảm nhận được các trạng thái trên bằng cách đánh dấu X vào các ô thể hiện mức độ
mà bạn cho là phù hợp với mình.
5 điểm = Luôn luôn
4 điểm = Nhiều lần
3 điểm = Khá nhiều lần
2 điểm = Ít khi
1 điểm = Chưa bao giờ
STT Trạng thái
5
4
3
2
1
1
Thỏa mãn
2
Phấn khích
3
Dễ chịu
4
Khó chịu
5
Mệt mỏi
Câu 10: Hành vi sử dụng rượu bia của bạn được thể hiện như thế nào? (đánh dấu X vào các
ô thể hiện mức độ mà bạn cho là phù hợp với mình).
5 điểm = Luôn luôn
4 điểm = Nhiều lần
3 điểm = Khá nhiều lần
2 điểm = Ít khi
1 điểm = Chưa bao giờ
5
STT
Hành vi
4
3
2
1
1
Tôi uống rượu, bia một mình
2
Tôi uống đến say để quên đi những khó
khăn trong cuộc sống
100
3
Tôi uống để thỏa mãn sự thèm rượu, bia
của cơ thể
4
Một số người thân quen phàn nàn về việc
sử dụng rượu bia của tôi
5
Tôi uống nhiều rượu, bia khi tụ họp với
nhóm bạn bè
6
Tôi đồng ý khi được rủ / mời đi uống
rượu, bia
7
Tôi chủ động rủ / mời người thân hoặc
bạn bè uống rượu, bia khi có cơ hội
8
Tôi nói nhiều hơn, dễ trở nên bốc đồng
và khó kiểm soát được cảm xúc cá nhân
sau khi uống rượu/ bia
9
Tôi gặp rắc rối ở trường học/ nơi cư trú
vì sử dụng rượu, bia
10
Tôi bị cảnh sát giao thông phạt vì sử
dụng rượu/ bia khi tham gia giao thông.
11
Tôi tích trữ sẵn rượu, bia để tiện sử dụng
12
Tôi ngủ gục tại chỗ sau khi uống rượu
bia và lúc tỉnh lại thường không nhớ rõ
mình đã làm gì
13
Tôi chứng tỏ bản lĩnh cá nhân bằng cách
cố gắng uống nhiều rượu/ bia trong các
bữa tiệc có sự tham gia của những người
khác giới
14
Tôi thẳng thắn từ chối lời mời uống thêm
khi cảm thấy cơ thể có dấu hiệu say
15
Tôi vẫn uống để không làm mất lòng bạn
bè, mặc dù biết đó là rượu bia không rõ
thành phần và nguồn gốc xuất xứ
101
Câu 11: Hãy cho biết mức độ ảnh hưởng của các yếu tố sau đây đối với hành vi sử dụng
rượu, bia của bạn bằng cách đánh dấu X vào ô bạn cho là phù hợp với mình.
5 điểm = Ảnh hưởng rất nhiều
4 điểm = Ảnh hưởng nhiều
3 điểm = Bình thường
2 điểm = Ảnh hưởng ít
1 điểm = Hoàn toàn không ảnh hưởng
STT
Yếu tố ảnh hưởng
Mức độ ảnh hưởng
5
4
3
2
1
1
Cha mẹ thường xuyên uống rượu/
bia
2
Nhóm bạn thân thường xuyên uống
rượu bia
3
Sử dụng rượu/ bia giúp tôi tránh né
được các cảm xúc tiêu cực
4
Uống rượu/ bia là một nhu cầu
không thể thiếu của cơ thể
5
Uống rượu/ bia giúp tôi thấy tự tin
trước người khác giới
6
Các chương trình quảng cáo rượu/
bia hấp dẫn trên truyền hình
7
Thói quen ăn nhậu trong các hoạt
động giao tiếp, kí kết hợp đồng của
xã hội hiện nay
Câu 12: Dưới đây là các phương pháp mà một số người dùng để hạn chế tình trạng say rượu
bia, hãy cho biết ý kiến đánh giá của bạn về các phương pháp trên bằng cách đánh dấu X
vào ô mà bạn cho là phù hợp.
5 điểm = Rất đồng ý
4 điểm = Đồng ý
102
3 điểm = Bình thường
2 điểm = Phân vân
1 điểm = Không đồng ý
STT
Phương pháp hạn chế
Mức độ đồng ý
5
4
3
2
1
1
Ăn no trước khi sử dụng rượu/ bia
2
Không dùng nhiều loại rượu/ bia cùng lúc
3
Uống nhiều nước khi sử dụng rượu/ bia
4
Uống trà đặc hoặc café ngay sau khi sử
dụng rượu/ bia
5
Ăn nhiều rau xanh và trái cây khi sử dụng
rượu/ bia
6
Không pha trộn rượu/ bia với các loại đồ
uống có ga
7
Uống rượu/ bia chậm (nhâm nhi) sẽ lâu say
hơn
8
Không nên tắm ngay sau khi uống rượu/
bia
9
Uống Paracetamol để chống say rượu/ bia
Bạn vui lòng cho biết thêm
- Trường: ……………………………………………….
- SV năm thứ: ………………………………………….
- Giới tính: Nam / Nữ
103