BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Lê Thị Thùy Linh

ĐỘNG CƠ SỬ DỤNG RƯỢU BIA

CỦA SINH VIÊN ĐẠI HỌC TRÊN ĐỊA BÀN

TP. HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC

Thành phố Hồ Chí Minh – 2013

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Lê Thị Thùy Linh

ĐỘNG CƠ SỬ DỤNG RƯỢU BIA

CỦA SINH VIÊN ĐẠI HỌC TRÊN ĐỊA BÀN

TP. HỒ CHÍ MINH

Chuyên ngành

: Tâm lý học

Mã số

: 60 31 04 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

TS. ĐINH PHƯƠNG DUY

Thành phố Hồ Chí Minh – 2013

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan, đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số

liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực và chưa từng

được công bố trong bất kỳ một công trình nghiên cứu nào khác.

Tác giả

1

Lê Thị Thùy Linh

LỜI CẢM ƠN

Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô trong khoa Tâm lý - Giáo dục, Phòng

Sau đại học Trường Đại học Sư phạm Tp. Hồ Chí Minh đã trực tiếp giảng dạy và

giúp đỡ tôi trong quá trình học và hoàn tất luận văn này.

Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Tiến sĩ Đinh Phương Duy đã tận tâm

giảng dạy và hướng dẫn tôi trong quá trình học và trong suốt quá trình thực hiện luận

văn này. Những định hướng và điều chỉnh của Thầy đã giúp tôi trưởng thành hơn,

2

chuyên nghiệp hơn trong nghiên cứu khoa học.

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN ........................................................................................................ 1

LỜI CẢM ƠN .............................................................................................................. 2

MỤC LỤC .................................................................................................................... 3

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ......................................................................... 5

MỞ ĐẦU ....................................................................................................................... 6

1. Tính cấp thiết của vấn đề nghiên cứu ........................................................................... 6

2. Mục đích nghiên cứu ...................................................................................................... 7

3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu .............................................................................. 8

4. Giả thuyết nghiên cứu .................................................................................................... 8

5. Nhiệm vụ nghiên cứu ...................................................................................................... 8

6. Giới hạn của đề tài .......................................................................................................... 8

7. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................................... 9

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ ĐỘNG CƠ SỬ DỤNG RƯỢU BIA ............ 10

1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ........................................................................................ 10

1.1.1. Quan điểm của một số học thuyết về động cơ. ..................................................... 10

1.1.2. Các công trình nghiên cứu về động cơ ở Việt Nam. ............................................. 14

1.1.3. Các công trình nghiên cứu về vấn đề sử dụng rượu, bia trên thế giới ......................... 16

1.1.4. Các công trình nghiên cứu về vấn đề sử dụng rượu, bia ở Việt Nam ............................ 18

1.1.5. Các chính sách về phòng chống tác hại của rượu, bia ở Việt Nam....................... 20

1.2. Những vấn đề lí luận chung về động cơ sử dụng bia rượu .................................... 21

1.2.1. Khái niệm động cơ ................................................................................................ 21

1.2.2. Cấu trúc động cơ của nhân cách. ........................................................................... 25

1.2.3. Phân loại động cơ .................................................................................................. 28

1.2.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến động cơ sử dụng bia rượu ........................................... 29

1.3. Ảnh hưởng của hành vi lạm dụng bia rượu đối với con người. ............................ 30

CHƯƠNG 2: KHẢO SÁT ĐỘNG CƠ SỬ DỤNG RƯỢU BIA CỦA SINH VIÊN ĐẠI HỌC TRÊN ĐỊA BÀN TP HCM ..................................................................... 35

2.1. Thể thức nghiên cứu .................................................................................................. 35

2.2. Kết quả nghiên cứu. ................................................................................................... 36

2.2.1. Mục đích sử dụng rượu, bia của sinh viên ............................................................ 37

3

2.2.2. Nhận thức của sinh viên đại học trên địa bàn TP HCM về rượu bia và tác hại của hành vi lạm dụng rượu bia............................................................................................... 40

2.2.3. Thái độ của sinh viên đối với vấn đề sử dụng rượu bia. ....................................... 59

2.2.4. Hành vi sử dụng rượu bia của sinh viên ................................................................ 61

2.2.5. Các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi sử dụng rượu bia của sinh viên .............................. 67

2.2.6. Nhu cầu và mức độ sử dụng rượu bia của sinh viên đại học trên địa bàn TP HCM ......................................................................................................................................... 72

CHƯƠNG 3: MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP SINH VIÊN TỰ ĐIỀU CHỈNH NHU CẦU VÀ MỨC ĐỘ SỬ DỤNG RƯỢU BIA ........................................................... 80

3.1. Cơ sở đề xuất giải pháp ............................................................................................. 80

3.1.1. Cơ sở Tâm l í .......................................................................................................... 80

3.1.2 Cơ sở pháp lý .......................................................................................................... 81

3.2 Biện pháp thực hiện phòng, chống tác hại của lạm dụng rượu, bia của nhà nước. ............................................................................................................................................. 83

3.2.1 Biện pháp về kiểm soát nhu cầu sử dụng rượu, bia ............................................... 83

3.2.2. Biện pháp về kiểm soát nguồn cung cấp rượu, bia ............................................... 84

3.2.3 Biện pháp về giảm tác hại ...................................................................................... 85

3.2.4. Biện pháp về huy động nguồn lực ......................................................................... 86

3.2.5. Biện pháp về nghiên cứu khoa học và hợp tác quốc tế ......................................... 87

3.3. Đề xuất một số biện pháp giúp sinh viên tự điều chỉnh hành vi sử dụng rượu bia ............................................................................................................................................. 88

3.3.1. Tác động nâng cao nhận thức của sinh viên về rượu bia và hậu quả của việc lạm dụng rượu bia. ................................................................................................................. 88

3.3.2. Tác động thay đổi hành vi ..................................................................................... 89

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ................................................................................... 91

TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................ 93

4

PHỤ LỤC ................................................................................................................... 95

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

ĐH CN : Đại học Công Nghiệp

ĐH LĐ-XH : Đại học Lao Động - Xã Hội

ĐH TDTT : Đại học Thể Dục Thể Thao

ĐLC : Độ lệch chuẩn

SL : Số lượng

5

TB : Trung Bình

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của vấn đề nghiên cứu

Trong tâm lí học động cơ là một vấn đề được các nhà khoa học rất quan tâm.

Tất cả những công trình nghiên cứu nhằm mục đích lí giải vì sao con người hành

động thế này hay thế khác về thực chất là những công trình nghiên cứu về động cơ.

Khái niệm động cơ thường được dùng như một trong những khái niệm trung tâm để lí

giải hành vi của con người. Các nhà tâm lí học đã nghiên cứu và chỉ ra rằng động cơ

có một vai trò quan trọng trong quá trình hoạt động của con người. Động cơ chính là

lực thúc đẩy con người hành động để đạt được mục đích của mình. Nói khác đi động

cơ chính là yếu tố thôi thúc con người hành động để thoả mãn nhu cầu. Vậy thì,

những động cơ nào có vai trò thúc đẩy hành vi sử dụng rượu bia của con người nói

chung và tầng lớp sinh viên nói riêng?

Thanh niên trong đó có sinh viên là lực lượng xã hội to lớn, là nguồn lực mạnh

mẽ thúc đẩy sự phát triển xã hội hiện tại và là người chủ tương lai của đất nước. Nghị

quyết Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khoá

VII về công tác thanh niên trong thời kỳ mới đã khẳng định: “Thanh niên là lượng

xung kích trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Sự nghiệp đổi mới có thành

công hay không, đất nước bước vào thế kỷ 21 có vị trí xứng đáng trong cộng đồng

thế giới hay không, cách mạng Việt Nam có vững bước theo con đường xã hội chủ

nghĩa hay không, phần lớn tuỳ thuộc vào lực lượng thanh niên, vào việc bồi dưỡng,

rèn luyện thế hệ thanh niên”. Lứa tuổi thanh niên trong đó có sinh viên là lực lượng

hậu bị của đất nước. Đây là độ tuổi mà mỗi cá nhân khởi đầu quá trình thực sự chủ

động và tích cực tham gia vào đời sống xã hội. Hoạt động chủ đạo của sinh viên là

học tập và rèn luyện chuẩn bị cho nghề nghiệp. Nếu họ không nhận thức được tác hại

của bia rượu nói riêng và các chất kích thích nói chung mà có hành vi lạm dụng thì sẽ

có ảnh hưởng tiêu cực đến bản thân và cộng đồng.

Vấn đề sử dụng rượu bia đã có từ lâu đời nhưng càng ngày càng trở nên thịnh

6

hành bởi vì Việt Nam cũng như một số nước châu Á khác (Nhật Bản, Hàn Quốc…)

thì uống rượu bia trở thành nhu cầu đòi hỏi trong làm ăn. Quán ăn, nhà hàng là nơi

nhiều giao kèo quan trọng được kí kết, chính nhu cầu này đã ảnh hưởng đến nhận

thức của giới trẻ hiện nay về hành vi uống bia rượu, đặc biệt là hình thành trong họ

quan niệm “bia rượu” là thứ không thể thiếu trong bước đường xây dựng sự nghiệp

của một người thành công. Quan niệm người Việt Nam coi biết uống bia rượu như là

một “tố chất”, “làm sếp thì phải biết uống bia rượu”, thậm chí uống bia rượu được coi

như một cách để chứng tỏ bản lĩnh của bản thân như là: nam giới tửu lượng kém thì

bị coi là “đàn bà”, “yếu”, người có tửu lượng cao thì được coi là “đấng nam nhi”…

những quan niệm này đã ảnh hưởng không nhỏ tới hành vi sử dụng rượu bia của giới

trẻ hiện nay.

Theo nghiên cứu của WHO thì rượu là nguyên nhân đứng thứ 5 trong danh

sách 10 nguyên nhân gây tử vong cao nhất trên toàn cầu. Theo đánh giá của bộ y tế

mỗi năm người Việt Nam tiêu thụ hàng tỉ lít bia và là nước tiêu thụ Heineken đứng

thứ 3 trên thế giới (sau Mĩ và Đức). Năm 2011 Việt Nam tiêu thụ 2,6 tỉ lít bia. Một

nghiên cứu mới đây của Viện Chiến lược và Chính sách y tế cho thấy, có 1/3 dân số

Việt Nam sử dụng bia rượu. Tỷ lệ lạm dụng rượu là gần 1/5 (đối với bia, tỷ lệ này

thấp hơn). Theo thống kê của Viện chiến lược & chính sách y tế thì 1/3 số người sử

dụng rượu bia bắt đầu uống trước 20 tuổi, đây là lứa tuổi học sinh và đầu sinh viên.

Đã có rất nhiều đề tài nghiên cứu về động cơ, đặc biệt là các đề tài về động cơ

học tập và động cơ lựa chọn nhề nghiệp…. Tuy nhiên, tôi nhận thấy chưa có một đề

tài cụ thể nào nghiên cứu về động cơ sử dụng rượu bia của sinh viên trong phạm vi

rộng và ở phạm vi hẹp hơn là sinh viên TP HCM. Vì những lí do trên, người nghiên

cứu quyết định chọn đề tài “Động cơ sử dụng rượu bia của sinh viên đại học TP

HCM” làm đề tài nghiên cứu của mình.

2. Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở nghiên cứu động cơ sử dụng bia rượu của sinh viên đại học trên địa

bàn TP HCM, người nghiên cứu chỉ ra những động cơ chủ đạo thúc đẩy hành vi sử

7

dụng và hành vi lạm dụng rượu bia ở sinh viên. Từ đó, đề xuất một số kiến nghị giúp

sinh viên tự điều chỉnh mức độ và cường độ sử dụng bia rượu cho phù hợp với sức

khỏe của cá nhân và yêu cầu của cộng đồng.

3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu

3.1. Khách thể nghiên cứu: Sinh viên các trường đại học trên địa bàn TP HCM

3.2. Đối tượng nghiên cứu: Động cơ sử dụng bia rượu của sinh viên

4. Giả thuyết nghiên cứu

- Hiện nay, sinh viên đại học trên địa bàn TP HCM sử dụng rượu bia thường

xuyên và ở mức độ lạm dụng.

- Sinh viên sử dụng rượu bia vì một số động cơ mang tính chất tâm lý như: để

giảm thiểu các cảm xúc tiêu cực, để hòa nhập với nhóm bạn bè, để phù hợp với yêu

cầu của xã hội.

- Không có sự khác biệt về động cơ sử dụng rượu bia của sinh viên các nhóm

ngành được khảo sát.

5. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Nghiên cứu các vấn đề lí luận về động cơ, lý thuyết về ảnh hưởng của rượu

bia đối với con người

- Khảo sát động cơ sử dụng bia rượu của sinh viên đại học trên địa bàn TP

HCM

- Đề xuất một số kiến nghị giúp sinh viên tự điều chỉnh mức độ và cường độ sử

dụng bia rượu cho phù hợp với sức khỏe của cá nhân và yêu cầu của cộng đồng.

6. Giới hạn của đề tài

6.1. Giới hạn nội dung nghiên cứu: Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu động cơ sử

dụng rượu bia của sinh viên đại học trên địa bàn TP HCM ở 3 mặt biểu hiện (nhận

thức của sinh viên về rượu bia và tác hại của hành vi lạm dụng rượu bia, thái độ - tình

8

cảm của sinh viên đối với vấn đề sử dụng rượu bia, mức độ và cường độ sử dụng

rượu bia của sinh viên), sự khác nhau về động cơ sử dụng rượu bia giữa sinh viên các

nhóm ngành.

6.2. Phạm vi khảo sát: Khảo sát động cơ sử dụng bia rượu của 371 sinh viên

thuộc một số trường đại học trên địa bàn TP HCM:

+ Trường ĐH Công Nghiệp TP HCM

+ Trường ĐH Lao Động – Xã Hội

+ Trường ĐH Thể Dục Thể Thao TP HCM ….

7. Phương pháp nghiên cứu

1. Phương pháp nghiên cứu lý luận: Đề tài nghiên cứu có tham khảo một số giáo

trình, tài liệu, các công trình nghiên cứu của các tác giả trong và ngoài nước, các bài

viết trên các tạp chí, website có liên quan. Đó là những cơ sở để người nghiên cứu

phân tích, tổng hợp và khái quát những vấn đề có liên quan đến đề tài nghiên cứu

nhằm làm cơ sở lý luận cho vấn đề nghiên cứu và nội dung nghiên cứu.

2. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi: Đề tài nghiên cứu được thực hiện theo cách

tiếp cận thực tiễn và hoạt động. Vì thế, người nghiên cứu sử dụng phương pháp điều

tra bằng bảng hỏi làm phương pháp chủ đạo nhằm thu thập thông tin thực tế từ học

sinh và giáo viên về vấn đề động cơ chọn nghề. Bảng hỏi được xây dựng theo thứ tự

các bước sau:

Bước 1: Xây dựng phiếu thăm dò mở

Bước 2: Xây dựng phiếu thăm dò ý kiến chính thức

3. Phương pháp thống kê toán học: Người nghiên cứu sử dụng phần mềm thống kê

9

SPSS để xử lý số liệu thu được bằng các phép toán thống kê.

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ ĐỘNG CƠ SỬ DỤNG RƯỢU BIA

1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

1.1.1. Quan điểm của một số học thuyết về động cơ.

Hướng nghiên cứu động cơ hoạt động của động vật và đặc biệt là của con

người đã tồn tại từ rất lâu trong tâm lý học. Bằng các cách tiếp cận và các phương

pháp nghiên cứu khác nhau, các nhà tâm lý học đã tìm cách lý giải tại sao con người

lại thực hiện một hành vi nào đó, tại sao anh ta lại tích cực trong việc thực hiện nhiệm

vụ này hay tỏ ra thờ ơ trong khi thực hiện nhiệm vụ kia…Tất cả những tìm tòi thuộc

loại này thực chất là nghiên cứu về động cơ.

Động cơ là một trong những vấn đề trọng tâm trong Tâm lý học được quan tâm

nghiên cứu từ rất sớm. Ronald E. Smith cho rằng, khái niệm động cơ được dùng như

một khái niệm trung tâm nhằm giải thích cho hành vi và các nguyên nhân của nó. Có

nhiều trường phái nghiên cứu khác nhau khi nghiên cứu về động cơ. Các tác giả đều

coi động cơ con người là vấn đề trung tâm, tuy nhiên giữa các tác giả lại có quan

điểm rất khác nhau khi bàn về nội hàm của khái niệm động cơ.

Từ thời cổ đại, khi tâm lý học chưa trở thành một bộ môn khoa học độc lập, mà

nó còn là một bộ môn của triết học thì vấn đề nguyên nhân thúc đẩy bên trong hoạt

động của con người đã được các nhà nghiên cứu khoa học đặt ra. Ví dụ như, Aristote

(384-322 TCN), tác giả cuốn Tâm lý học đầu tiên “Bàn về tâm hồn” đã dựa trên cơ sở

sinh vật học để giải thích động cơ hoạt động. Ông cho rằng nhiều hành vi con người

được thúc đẩy bởi “sự thèm muốn”. Hành động luôn hướng tới thỏa mãn “sự thèm

muốn”. Nghĩa là hành vi được thúc đẩy bởi các trạng thái nội tại như đói, khát, ham

muốn tình dục… Nếu hành động thành công con người sẽ cảm thấy khoái lạc. Tuy

nhiên, Aristote cũng đã chỉ ra được rằng, con người khác con vật ở chỗ con người có

khả năng dùng lý trí của mình để ức chế các thèm muốn. Tuy vậy, những kết luận

10

trong thời kỳ bấy giờ thiếu cơ sở khoa học để chứng minh động cơ một cách rõ ràng.

Phân tâm học, đứng đầu là S. Freud đã lý giải bản chất động cơ con người theo

hướng sinh vật hoá. Quan điểm này cho rằng, bản năng sẵn có từ khi con người mới

sinh là động lực thúc đẩy (động cơ) mọi hoạt động của con người. Do đó theo ông, về

bản chất động cơ của con người mang tính vô thức. Đời sống con người do bản năng

tình dục (libido) chi phối tất cả các hoạt động. Năng lượng ấy thoát ra ngoài ở những

dạng hoạt động khác nhau. Nếu nhu cầu về bản năng ấy không được thỏa mãn, con

người sẽ rơi vào trạng thái căng thẳng. Atler, nhà tâm lý học theo trường phái Phân

tâm học kiểu mới cho rằng, động lực cơ bản của hành vi quyết định mục đích cũng

như con đường của hoạt động. Mối quan hệ giữa khát vọng hung mạnh và cảm giác

yếu kém quy định tính chất những động cơ khi con người hành động. Nhìn chung, lý

thuyết Phân tâm nhìn nhận động cơ con người như những bản năng.

Tâm lý học Hành vi: (đại diện tiêu biểu là J. Watson) đã lấy hành vi làm đối

tượng nghiên cứu của mình. Những người theo chủ nghĩa hành vi cho rằng cái quy

định (động cơ) của phản ứng là những kích thích từ bên ngoài vào nhu cầu của cơ thể

lúc tiếp nhận kích thích đó (S->R, S-O-S hay S-r-s-R). Cả chủ nghĩa hành vi cổ điển

lẫn chủ nghĩa hành vi mới đều mắc phải sai lầm là đã sinh vật hóa con người, đồng

nhất tâm lý con người và tâm lý động vật. Các tác giả theo trường phái này cũng chưa

giải thích được nguyên nhân nào thúc đẩy con người thực hiện các hành động. Họ

cho rằng, nhu cầu con người cũng tương đương với nhu cầu của động vật, bỏ qua tính

chất xã hội của con người.

Tâm lý học Ghestalt (đại diện tiêu biểu là M. Wertheimer, V. Kohler và K.

Koffka). Trường phái này chủ yếu nghiên cứu về tri giác và các quy luật của nó,

ngoài ra còn nghiên cứu một phần về tư duy. K. Lewin – một trong những đại diện

của trường phái này đã chú ý nhiều hơn đến vấn đề nhân cách, vấn đề động cơ. Theo

ông, đông cơ là sự tương tác của lực bên trong trường lực, phủ nhận tác động từ thế

giới bên ngoài. K. Lewin mới chỉ có thể nói đến những dấu hiệu đặc trưng tiến trình

vận động của động cơ, những yếu tố tâm lý ảnh hưởng tiến trình đó, làm động cơ

11

mạnh lên hay ngược lại. Lewin đã không quan tâm đến kinh nghiệm con người, đánh

giá thấp những đặc điểm nhân cách, nhu cầu và khát vọng đã có ở một người. Nhược

điểm của Lewin là chỉ mới chú ý đến mặt cơ động của động cơ mà chưa chú ý đến

mặt nội dung của nó. Bên cạnh đó, ông đã phủ nhận vai trò của những tác động bên

ngoài trong việc hình thành động cơ.

Tâm lý học Nhân văn: (đại diện tiêu biểu C. Roger) cho rằng sự hình thành

động cơ hoạt động của con người diễn ra một cách có ý thức trên nền tảng bền vững

của bẩm sinh và di truyền.

Tâm lý học Hoạt động có nền tảng là chủ nghĩa duy vật biện chứng đã khẳng

định r ằng: Động cơ hoạt động của con người được hình thành và phát triển ngay

trong quá trình con người hoạt động và giao lưu trong các mối quan hệ xã hội mà nó

gia nhập vào một cách có ý thức. Động cơ hoạt động của con người do đó có bản chất

xã hội không tách tời khỏi sự vận động, phát triển của ý thức. Vào năm 1926, L.X.

Vưgôtxki đã đề xuất phải xây dựng “một khoa học về hành vi con người”. Ông đề

xuất nghiên cứu hành vi con người trong mối quan hệ con người với thực tại xung

quanh. Mặc dù chưa đề cập đến động cơ thúc đẩy hành vi con người, nhưng

Vưgôtxki đã xây dựng cơ sở lý luận và phương pháp luận làm nền tảng cho hàng loạt

công trình nghiên cứu về động cơ sau này. Năm 1953, X.L. Rubinstein xem “hành

động ý chí nhất thiết bao hàm động cơ cho nên có thể phân biệt mức độ của hành

động ý chí tùy thuộc tính chất của những động cơ chủ đạo”. Theo tác giả, động cơ ý

chí có thể bắt nguồn từ những ham muốn, nhu cầu, cảm xúc, tính cách, tư tưởng,

nhận thức trước những nhiệm vụ mà đời sống xã hội đặt ra. X.L. Rubinstein mới chỉ

dừng lại ở mức độ nghiên cứu nhiệm vụ chính của phạm trù động cơ và chỉ ra con

đường giải quyết nhiệm vụ. Đến năm 1966 xuất hiện lý thuyết “tâm thế” của D.N.

Uzanadze, cho rằng động cơ thúc đẩy hành vi con người tuân theo lý thuyết tâm thế.

Ông cho rằng “nhu cầu là nguồn gốc tính tích cực” của nhân cách. Khi chủ thể hướng

ra môi trường bên ngoài nhằm mục đích thỏa mãn nhu cầu trước mắt, thì mọi tình

trạng xuất hiện nhất định gây ra trong chủ thể một tâm thế nhất định, và thông qua

12

tâm thế này hướng dẫn toàn bộ hành vi tiếp theo của nó. Ông không tán thành việc

đưa khái niệm “đấu tranh động cơ” vào tâm lý học. Vì ông cho rằng, mọi hành vi chỉ

có một động cơ đem lại ý nghĩa cho hành vi đó. Quan điểm của ông bị các nhà tâm lý

học khác phê phán, bởi động cơ tồn tại như một hệ thống những động cơ. Khi thực

hiện một hoạt động bất kỳ, bao giờ cũng có sự đấu tranh giữa các động cơ đó. Tuy

nhiên, ông đã vạch ra được những hiểu biết mới về khái niệm nhu cầu, các dạng nhu

cầu, mối liên hệ của chúng với các hình thức hành vi con người, mối tương quan giữa

hành vi và tâm thế. P.M.Jakobson thì xác định con người thực hiện những hành động

do mục đích chung hoặc mục đích cụ thể. Ông phân biệt động cơ hành vi theo nghĩa

hẹp, đó là những động cơ của hành vi cụ thể, và theo nghĩa rộng thì động cơ hành vi

là tổng hòa những yếu tố tâm lý quyết định hành vi của con người nói chung.

V.S.Merlin đồng nhất khái niệm động cơ với nhu cầu, nó biểu thị mối quan hệ con

người với sự vật, hiện tượng. Mỗi động cơ đều có hai khía cạnh kích thích hành động

và thái độ cảm xúc. Trong lịch sử nghiên cứu về vấn đề động cơ, Leonchiev là tác giả

nghiên cứu sâu sắc và có sức thuyết phục lớn. Theo Leonchiev, đối tượng đáp ứng

nhu cầu này hay nhu cầu khác nằm trong hiện thực khách quan, khi chúng bộc lộ ra

và được chủ thể nhận biết. Đối tượng ấy có chức năng thúc đẩy, hướng dẫn hoạt

động, tức trở thành động cơ. Ông mô tả “đối tượng ấy xuất hiện với tính chất là một

hiện tượng tinh thần, một động cơ thúc đẩy từ bên trong”. A.N. Leonchiev cho rằng

động cơ là: a) Động cơ và nhu cầu là hai hiện tượng tâm lý gắn bó chặt chẽ với nhau;

b) Động cơ chính là đối tượng có khả năng đáp ứng nhu cầu đã được chủ thể tri giác,

biểu tượng, tư duy… Đó là sự phản ánh chủ quan về đối tượng thỏa mãn nhu cầu; c)

Động cơ có chức năng thúc đẩy và định hướng hoạt động nhằm thỏa mãn nhu cầu.

B.Ph. Lomov cho rằng, nhu cầu có quan hệ mật thiết với động cơ và chúng ta không

thể tách biệt nhu cầu và động cơ. Vì thế, khi nghiên cứu động cơ phải nghiên cứu

động cơ trong mối liên hệ với nhu cầu. Theo B.Ph. Lomov, động cơ là sự biểu hiện

chủ quan của nhu cầu và ngược lại, nhu cầu là cơ sở của động cơ. “Sự thay đổi những

động cơ này chỉ xảy ra khi có thay đổi cơ bản về hoàn cảnh sống và hoạt động sống

13

cá nhân trong xã hội (và hơn cả thế nữa: sự thay đổi của chính xã hội)”. Khác với

Tâm lý học phương Tây, các nhà tâm lý học của Liên Xô (cũ) không xem xét động cơ

như một thành tố độc lập. Động cơ không những là một bộ phận cấu thành của hoạt

động mà còn là một thành phần của một hệ thống phức tạp có mối liên hệ với nhu

cầu. “… Động cơ là sự phản ánh của nhu cầu. Những đối tượng đáp ứng nhu cầu này

hay nhu cầu khác tồn tại trong hiện thực khách quan, một khi chúng bộc lộ ra, được

chủ thể nhận biết (ý thức được) sẽ thúc đẩy, hướng dẫn con người hoạt động. Nói

khác đi, khi nhu cầu gặp đối tượng có khả năng thỏa mãn thì trở thành động cơ hoạt

động”. Qua tìm hiểu một số công trình nghiên cứu về động cơ hoạt động của các tác

giả theo quan điểm tâm lý học Hoạt động, có thể đi đến những kết luận sau:

- Động cơ chính là những yếu tố kích thích, thúc đẩy con người hoạt động. Nội

dung của động cơ là mối quan hệ giữa chủ thể và môi trường.

- Hoạt động của con người có một hệ thống động cơ thúc đẩy theo cấu trúc thứ

bậc. Động cơ nào chiếm ưu thế sẽ qui định xu hướng hành vi của con người.

Nói tóm lại, trong tâm lý học có rất nhiều quan điểm khác nhau về động cơ.

Tuy nhiên, các quan điểm đều thống nhất xem động cơ là những yếu tố kích thích,

quy định sự lựa chọn và định hướng của hành vi, nguyên nhân thúc đẩy con người

hành động nhằm thỏa mãn nhu cầu.

1.1.2. Các công trình nghiên cứu về động cơ ở Việt Nam.

Ở Việt Nam có nhiều công trình nghiên cứu về động cơ. Quan điểm của các

nhà tâm lý học Việt Nam về động cơ: Nguyễn Quang Uẩn cho rằng, động cơ là “cái

thúc đẩy con người hoạt động nhằm thỏa mãn nhu cầu, là cái làm nảy sinh tính tích

cực và quy định xu hướng của hướng tích cực đó. Động cơ là động lực kích thích trực

tiếp, là nguyên nhân trực tiếp của hành vi”. Theo Vũ Dũng (Từ điển Tâm lý học,

2008) động cơ là: “cái thúc đẩy hành động, gắn liền với việc thỏa mãn những nhu cầu

của chủ thể, là toàn bộ điều kiện bên trong và bên ngoài có khả năng khơi dậy tính

tích cực của chủ thể và xác định tính xu hướng của nó; Đối tượng (vật chất hay tinh

thần) thúc đẩy và xác định sự lựa chọn xu hướng của hành động mà vì nó hành động

14

được thực hiện; Nguyên nhân, cơ sở của sự lựa chọn các hành động và hành vi”. Các

nhà tâm lý học của Việt Nam chịu sự ảnh hưởng tư tưởng của các nhà tâm lý học

Liên Xô (cũ). Vì thế, quan điểm về động cơ của các nhà tâm lý học Việt Nam khá

giống với quan điểm của các nhà tâm lý học Liên Xô (cũ).

Có thể nói những đề tài được tập trung nghiên cứu sớm và nhiều nhất liên quan

đến động cơ trong hoạt động giáo dục như động cơ học tập, động cơ chọn nghề hay

ngành học: Hoàng Thị Thu Hà (2003), Các yếu tố kích thích hoạt động học tập của

sinh viên ĐH Sư phạm, tạp chí Tâm lý học số 3/2003. Vũ Bích Hạnh (2007), Tìm

hiểu thực trạng hình thành và phát triển động cơ học tập của sinh viên khoa Báo chí,

Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Khoá luận tốt nghiệp 2003-2007.

Đào Lan Hương (2006), Nghiên cứu động cơ học tập của sinh viên trường Cao đẳng

Sư Phạm Bắc Ninh. Dương Thị Kim Oanh (2004), Nghiên cứu động cơ học tập của

sinh viên khoa Sư phạm kỹ thuật trường ĐH Bách khoa Hà Nội, tạp chí Tâm lý học,

số 4/2004. Trần Thị Thơm (2006), Động cơ học tập chuyên ngành Tâm lý học của

sinh viên khoa Tâm lý, trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Khoá luận tốt

nghiệp 2002-2004. Trần Thị Thìn, Động cơ học tập của sinh viên sư phạm - thực

trạng và phương hướng giáo dục, Luận văn Tiến sĩ Tâm lý học 2004. Lê Xuân Tiến

(1997), Tìm hiểu động cơ học tập của học sinh lớp 5, Luận án Thạc sĩ khoa học sư

phạm - tâm lý. Trương Thành Trung (2006), Hình thành động cơ đúng đắn trong hoạt

động học tập của sinh viên Đại học Quân sự hiện nay, tạp chí Tâm lý học số 3/2006.

Một mảng nghiên cứu được nhiều người quan tâm nữa đó là động cơ thành đạt.

Động cơ thành đạt là một trong những vấn đề được rất nhiều người quan tâm, vì con

người nhìn chung có xu hướng mong muốn được thành đạt trong cuộc sống. Hơn thế

nữa, thực tiễn cuộc sống cho thấy tất cả mọi người từ mỗi cá nhân đến các tổ chức có

quy mô lớn nhỏ, từ các nhà kinh doanh đến các nhà giáo dục, các nhà lãnh đạo đất

nước trên khắp thế giới đều quan tâm đến sự thành đạt của con người, của các tổ

chức, các quốc gia và đó là động lực thúc đẩy con người vươn tới đỉnh cao thành đạt.

Có lẽ nhu cầu xã hội thiết thực đã làm cho vấn đề động cơ thành đạt sớm trở thành đề

15

tài nghiên cứu của tâm lý học: Trần Anh Châu (2006), Giới thiệu một số nghiên cứu

về động cơ thành đạt, tập chí Tâm lý học số 5.Võ Thị Ngọc Châu, Nghiên cứu nhu

cầu thành đạt và quan hệ của nó với tính tích cực nhận thức của sinh viên (1999). Lê

Thanh Hương (2001), Động cơ thành đạt trong khoa học của cán bộ nghiên cứu thuộc

trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia. Lê Thị Thanh Hương (2008),

Động cơ thành đạt của thanh niên hiện nay, đề tài cấp viện. Lã Thị Thu Thuỷ (2006),

Nhu cầu thành đạt nghề nghiệp của trí thức….

Tiếp theo, vấn đề nghiên cứu động cơ trong lĩnh vực kinh tế - quản trị kinh

doanh như: động cơ lao động, động cơ lựa chọn sản phẩm tiêu dùng…cũng đang

được quan tâm nghiên cứu sâu rộng: Văn Thị Kim Cúc (2006), Động cơ làm việc của

chủ doanh nghiệp kinh tế tư nhân trong giai đoạn hiện nay, Tạp chí Tâm lý học số

3/2006. Lê Văn Hảo (2006), Động lực làm việc bên trong và bên ngoài của cán bộ

nghiên cứu Viện Khoa học Xã hội Việt Nam và Viện Khoa học và Công nghệ Việt

Nam, Tạp chí Tâm lý học số 6/2006…

Ngoài ra, các đề tài liên quan đến mảng động cơ phạm tội của tội phạm cũng

đã được nghiên cứu nhiều: Ngô Thị Thuận (2007), Động cơ phạm tội của kẻ phạm

tội, Niên luận…

Nói chung, ở Việt Nam có nhiều công trình nghiên cứu về động cơ dựa vào cơ

sở lý luận và phương pháp luận của tâm lý học hoạt động. Các công trình nghiên cứu

về động cơ đã được các nhà nghiên cứu đề cập ở nhiều góc độ, lĩnh vực khác nhau,

ngày càng khẳng định được tầm quan trọng của nó đối với đời sống tâm lý mỗi con

người.

1.1.3. Các công trình nghiên cứu về vấn đề sử dụng rượu, bia trên thế giới

Các nghiên cứu gần đây của nhiều nước trên thế giới như Thụy Điển, Anh,…

cho thấy xu hướng trẻ hóa tuổi bắt đầu uống rượu, gia tăng trong tần suất và lượng

rượu tiêu thụ ở nhóm tuổi thanh niên (WHO, 2004). Trong năm 2004 - 2005, cứ

100.000 học sinh trung học ở Anh thì có 146 học sinh bị nhà trường tạm thời cho

nghỉ học vì có liên quan đến đồ uống có cồn và 06 trên 100.000 học sinh bị đuổi khỏi

16

trường học. Và, đồ uống có cồn còn được xác định là có mối liên quan đến tình trạng

trốn học. Ở London, trong độ tuổi 14-16 có hơn 2/3 lạm dụng rượu, bia và đó là

những đối tượng thường xuyên trốn học (Best, D; Manning, V; Gossop, M et al.

(2006). Excessive drinking and other problem behaviours among 14-16 year old

children. Addictive Behaviours. 31(8): 1424-1435). Độ tuổi và địa điểm sử dụng

rượu, bia có mối liên hệ với việc sử dụng rượu, bia của giới trẻ, theo một cuộc khảo

sát ở North West của Anh cho thấy: Khoảng 90% số học sinh (tuổi 15 và 16) được

khảo sát cho biết họ thỉnh thoảng uống rượu. 38.0% thường rơi vào trạng thái “hũ

chìm”, 24.4% là thường xuyên uống (uống hai hay nhiều lần một tuần) và 49.8%

uống tại các nơi công cộng (chẳng hạn như tại các câu lạc bộ, đường phố và công

viên). Trẻ em thường uống rượu ở các nơi công cộng nhiều hơn là uống tại gia đình

(Trích lại từ Alcohol and adolescents, 2010). Nghiên cứu của Victoria White và Jane

Hayman, 2006 về “Sử dụng đồ uống có cồn của học sinh trung học Úc vào năm

2005”. Kết quả, tỷ lệ học sinh hiện đang uống rượu, bia trước thời điểm khảo sát tăng

lên theo lứa tuổi với 10% ở tuổi 12 và tăng lên tới 49% ở độ tuổi 17. Cha mẹ là yếu tố

có sự tác động phổ biến nhất đến việc sử dụng rượu, bia của học sinh, với 37% nam

giới và 38% nữ giới cho thấy họ đã được cha mẹ họ cho uống rượu trong tuần qua.

Ba địa điểm mà giới trẻ thường uống rượu là tại gia đình, tại nhà của bạn bè hoặc tại

các bữa tiệc. Các kết quả khảo sát mới nhất của Anh cho thấy không có sự khác biệt

về giới tính trong việc sử dụng rượu, bia của giới trẻ và sự tác động của bạn bè cũng

như áp lực tự thân là một trong yếu tố khiến giới trẻ tìm đến rượu, bia: nữ giới ngày

nay đã “bắt kịp” nam giới về việc tiếp cận và sử dụng rượu, bia. Ở Anh, dưới 18 tuổi

không được phép mua rượu cho mình nhưng 63% những người tuổi từ 16 – 17 và

10% người ở độ tuổi 12 – 15 đã say sưa trong năm qua nói rằng họ thường mua rượu

trong quán rượu, quầy bar và câu lạc bộ đêm. Giới trẻ coi rượu như là một phương

tiện giao lưu xã hội với bạn bè (62%).

Uống rượu để gia tăng sự tự tin cũng là một chỉ báo quan trọng

(www.ias.org.uk/resources/factsheets/adohlescents.pdf). Các chương trình quảng cáo

17

về rượu, bia trên các phương tiện truyền thông đại chúng có sự tác động nhất định

đến việc sử dụng rượu trong thanh thiếu niên. Một nghiên cứu gần đây về ảnh hưởng

của việc quảng cáo rượu đối với thanh thiếu niên ở Ai-len cho thấy: Đa số những

thanh thiếu niên được khảo sát đều khẳng định là họ yêu thích các chương trình

quảng cáo về rượu. Và, hầu hết các thanh thiếu niên tin rằng nội dung của các chương

trình quảng cáo sẽ góp phần định hướng cho hành động hay mục tiêu cho họ, bởi vì

các chương trình quảng cáo mô tả cảnh - nhảy múa, sự giải trí ở hộp đêm, âm nhạc

sôi động... Thanh thiếu niên coi những quảng cáo về rượu, bia như là những gợi ý,

những chương trình quảng cáo rượu, bia tạo nên khuynh hướng bao trùm rằng rượu

sẽ đem đến thành công trong cuộc sống và tình dục… (Trích lại từ Alcohol and

advertising, 2010). Theo nghiên cứu về nước Pháp, các vấn đề do rượu, bia gây ra

thiệt hại chiếm 1,5% tổng sản phẩm quốc nội (GDP) năm 1997, cao hơn so với thuốc

lá (1,2%). Nghiên cứu khác ở Mỹ báo cáo một con số cao hơn là 2,1% tổng sản phẩm

quốc nội (GDP) (Trích lại từ điều tra Y tế Việt Nam, 2006:97).

Như vậy, qua các nghiên cứu của mình, các tác giả phương Tây cho thấy rằng,

lứa tuổi lần đầu tiếp cận rượu, bia đang được trẻ hóa. Sử dụng rượu, bia khác nhau

theo lứa tuổi và không có sự khác biệt về giới trong việc sử dụng rượu, bia. Địa điểm

mà giới trẻ sử dụng rượu, bia là tại gia đình, tại nhà của bạn bè hoặc tại các bữa tiệc.

Cùng với gia đình thì yếu tố nhóm bạn, các chương trình quảng cáo về rượu, bia cũng

có sự tác động nhất định đến hành vi sử dụng rượu, bia của giới trẻ.

1.1.4. Các công trình nghiên cứu về vấn đề sử dụng rượu, bia ở Việt Nam

Ở Việt Nam các vấn đề về rượu, bia đã được nghiên cứu từ những năm 90 của

thập kỷ trước. Các nghiên cứu chỉ ra rằng: tuổi lần đầu sử dụng rượu, bia có sự chênh

lệch với các nước trong khu vực, nam giới sử dụng, lạm dụng và nghiện rượu, bia

nhiều hơn so với nữ giới, tỉ lệ đã từng uống hết một cốc rượu, bia tăng theo độ tuổi.

Nghiên cứu tại phường Trung Trực, Hà Nội năm 1994 với số mẫu là 7.986 người từ

15 tuổi trở lên cho thấy nghiện rượu chỉ có ở nam giới, với 1.9% nghiện rượu, bia và

50 – 60% tổng số người nghiện rượu ở lứa tuổi 30 đến 50. Cuộc Điều tra Y tế quốc

18

gia (2001 – 2002), đã phát hiện 22.2% dân số trên 15 tuổi có uống rượu bia từ một

lần trở lên trong tuần, trong đó nam chiếm 46% và nữ chiếm 2%; 77.9% dân số trên

10 tuổi đang dùng rượu, bia đã bắt đầu uống trong độ tuổi 15 – 25. Nghiên cứu về các

bệnh lý liên quan đến rượu tại huyện Ba Vì khám lâm sàng trên 585 đối tượng từ 18

đến 60 tuổi năm 2003 cho thấy ở nam giới tỷ lệ nghiện rượu là 8% trong khi đó tỷ lệ

này ở nữ là 0% (Trích lại từ điều tra Y tế Việt Nam, 2006:101).

Năm 2006, được sự uỷ quyền của Dự án thành phần Chính sách Y tế; Viện

Chiến lược và Chính sách Y tế, Bộ Y tế đã tiến hành nghiên cứu đánh giá về “Tình

hình lạm dụng rượu bia tại Việt Nam”, cuộc điều tra đã chỉ ra rằng: Tỷ lệ sử dụng

rượu (ít nhất là 1 lần/tuần) tại các địa bàn nghiên cứu là 33.5%. Tỷ lệ sử dụng rượu

trong nhóm nam là 64%, cao hơn so với số liệu điều tra về tình hình sử dụng rượu,

bia tại 12 quốc gia đang phát triển (50%) và thấp hơn so với tỷ lệ sử dụng rượu của

nam giới trong khu vực Tây Thái Bình Dương là 84%.

Cuộc Điều tra quốc gia về vị thành niên và thanh niên Việt Nam (SAVY) do

Tổng cục Thống kê và Bộ Y tế phối hợp với một số tổ chức quốc tế thực hiện năm

2003 (SAVY 1) với tổng số mẫu là 7.584 vị thành niên và thanh niên từ 14 – 25 tuổi

tại 42 tỉnh, cho thấy uống rượu, bia là hiện tượng phổ biến ở nam thanh niên (69%)

và ít phổ biến hơn ở nữ thanh thiếu niên với 28.1% nữ cho biết họ đã từng uống rượu,

bia. Tỷ lệ thanh niên đã từng uống rượu, bia tăng lên theo độ tuổi. Cuộc điều tra lần

thứ hai SAVY 2 năm 2009 đã được tiến hành với 10.044 vị thành niên và thanh niên

trong độ tuổi 14-25 sống ở khắp 63 tỉnh/thành trên toàn quốc bao gồm cả nông thôn

và thành phố lớn, cho thấy, tỷ lệ chung những người được hỏi đã từng uống hết một

cốc rượu/bia là khá cao, 58.6%, trong đó 79.9% đối với nam và 36.5% đối với nữ. Tỷ

lệ từng uống hết một cốc rượu, bia tăng lên theo độ tuổi, với 47.5% ở nhóm tuổi 14-

17, 66.9% ở nhóm tuổi 18-21 và 71.2% ở nhóm tuổi 22-25.

Ngoài ra, còn rất nhiều các công trình nghiên cứu khác về tác hại của rượu, bia

đối với sức khỏe con người và hậu quả của việc sử dụng rượu, bia khi tham gia giao

19

thông. Tuy nhiên, hầu hết các công trình nghiên cứu ở nước ta đều nhằm điều tra thực

trạng sử dụng rượu, bia và những hệ lụy của nó chứ chưa đi sâu vào nghiên cứu

nguyên nhân dẫn đến hành vi sử dụng rượu, bia.

1.1.5. Các chính sách về phòng chống tác hại của rượu, bia ở Việt Nam

Nước ta đã từng có thời kỳ cấm tư nhân nấu rượu, bán rượu hoặc đã có chính

sách hạn chế quảng cáo rượu bia, cấm lái xe khi say rượu, cấm lực lượng vũ trang

uống rượu, bia trong giờ làm việc, cấm say rượu, bia nơi công cộng và cấm bán rượu

cho trẻ em. Chính phủ còn có Nghị định số 53/CP ngày 26/6/1994 quy định biện

pháp xử lý hành chính đối với cán bộ, viên chức nhà nước và người có hành vi liên

quan đến say rượu, bê tha. Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ số 351/TTG ngày 25

tháng 8 năm 1996 về việc cấm bán các loại rượu và nước uống có nồng độ cồn từ 14

độ trở lên cho người chưa thành niên và rượu, bia cho trẻ em dưới 16 tuổi. Nghiêm

cấm việc bán và uống rượu, bia trong các trường phổ thông… Năm 1998, Chính phủ

đã đưa ra luật áp thuế tiêu thụ đặc biệt với mặt hàng rượu, bia. Thủ tướng Chính phủ

cũng đã ban hành quyết định số 35/2001/QĐ – TTg ngày 19/3/2001 phê duyệt.

Chiến lược chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân giai đoạn 2001-2010, trong

đó có mục tiêu phòng, chống nghiện rượu (Trích theo Tạp chí Dân tộc học số

6/2006:3). Ngày 07 tháng 04 năm 2008 Chính phủ có Nghị định số 40/2008/NĐ-CP

về sản xuất, kinh doanh rượu... Quy định về việc cấm sử dụng rượu, bia khi tham gia

giao thông từ 2007 và luật Giao thông đường bộ có hiệu lực từ 01/07/2009 cấm người

điều khiển xe ô tô, máy kéo, xe máy chuyên dùng trên đường mà trong máu và hơi

thở có nồng độ cồn; cấm người điều khiển xe mô tô, xe gắn máy mà trong máu có

nồng độ cồn vượt quá 50mg/100ml máu hoặc 0,25mg/l khí thở. Đặc biệt, chưa có quy

định phù hợp trong quảng cáo, khuyến mãi và đưa hình ảnh sử dụng rượu, bia trên

các phương tiện truyền thông và cũng chưa có chính sách truyền thông giáo dục về

tác hại của rượu, bia. Các chính sách chưa đồng bộ, chưa đầy đủ. Nguyên nhân của

tình trạng này là do chưa có cơ chế triển khai thực hiện, chưa được các cấp quan tâm,

20

thiếu sự tham gia của người dân và thiếu sự đầu tư nguồn lực.

Hiện nay, Chính phủ đã giao cho Bộ Y tế làm đầu mối xây dựng dự án Luật

Phòng, chống tác hại của lạm dụng rượu, bia. Theo lộ trình, trong năm 2010, Bộ Y tế

sẽ chủ trì xây dựng hoàn thiện và trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt chính sách

quốc gia phòng chống tác hại của lạm dụng rượu, bia. Trong dự thảo đề cương Chính

sách quốc gia phòng chống tác hại lạm dụng rượu, bia giai đoạn 2010 - 2020, một

trong những nội dung cơ bản là cấm quảng cáo, khuyến mãi rượu, bia dưới mọi hình

thức. Nhà nước sẽ tăng thuế tiêu thụ đặc biệt, quy định về thời gian và mật độ các

điểm bán lẻ rượu, bia, cấm trẻ em dưới 18 tuổi và phụ nữ mang thai sử dụng rượu,

bia… với sự ra đời của Luật Phòng, chống tác hại của lạm dụng rượu, bia cũng như

chính sách quốc gia về phòng chống tác hại lạm dụng rượu, bia.

Các công trình và số liệu trên là cơ sở đáng tin cậy để kế thừa và tiếp tục

nghiên cứu trên các bình diện khác nhau.Có thể nói, đã có nhiều công trình khảo sát

tác hại khi con người lạm dụng rượu bia và các công trình nghiên cứu về động cơ

nhưng chưa có công trình nghiên cứu nào được công bố liên quan đến động cơ sử

dụng rượu bia của Sinh viên tại TP Hồ Chí Minh.

1.2. Những vấn đề lí luận chung về động cơ sử dụng bia rượu

1.2.1. Khái niệm động cơ

Thuật ngữ động cơ (motivation) dựa trên cơ sở của một hàm chỉ ẩn dụ về sự

hoạt động, bởi thuật ngữ này có xuất xứ từ chữ movere trong tiếng Latinh, chỉ sự vận

động. Tương tự, trong tiếng Việt, thuật ngữ “động cơ” hàm chỉ lực đẩy (“cơ”) của

hành vi hay hoạt động (“động”). Theo cách hiểu thông thường thì “động cơ” được

dùng để mô tả sự khởi xướng cho một hoạt động.

Trong tâm lý học có rất nhiều định nghĩa khác nhau về động cơ hoạt động của

con người. Tuy nhiên, các định nghĩa đều thống nhất trong cách nhìn nhận động cơ là

một hiện tượng tâm lý thúc đẩy, quy định sự lựa chọn và hướng của hành vi, nhằm lý

giải nguyên nhân dẫn đến hành vi đó.Về bản chất, trước hết, động cơ là sự phản ánh

tâm lý về đối tượng có khả năng thỏa mãn nhu cầu của chủ thể. Nhu cầu được đề cập

21

ở đây bao giờ cũng có đối tượng cụ thể. Lúc đầu, chủ thể chưa nhận ra đối tượng của

nhu cầu, chủ thể xuất hiện trạng thái cần một cái gì đó. Chỉ khi nhu cầu bắt gặp được

đối tượng có khả năng thỏa mãn nó, đối tượng ấy được tri giác, tư duy, nó đạt được

khả năng thúc đẩy và định hướng hoạt động chủ thể, tức trở thành động cơ của hoạt

động. Thứ hai, động cơ đặc trưng của con người mang tính lịch sử - xã hội. Điều này

khẳng định, động cơ của con người nảy sinh và hình thành trong quá trình phát triển

của cá thể, chứ không phải có sẵn từ lúc mới sinh ra. Hệ thống động cơ con người

được hình thành trên cơ sở hoạt động và giao tiếp của chủ thể trong mối quan hệ xã

hội, cũng như trong mối quan hệ con người với thế giới khách quan. Mặt khác, tính

lịch sử - xã hội của động cơ còn thể hiện ở chỗ, đối tượng thỏa mãn nhu cầu của con

người là những sản phẩm của quá trình sản xuất xã hội. Kể cả đối với những động cơ

có nguồn gốc sinh học, đáp ứng nhu cầu tồn tại của cơ thể, vì việc đáp ứng cũng

mang tính xã hội, phụ thuộc điều kiện sống cụ thể, đặc biệt là văn hóa, lối sống.

Trong tâm lí học, vấn đề bản chất động cơ còn nhiều quan điểm khác nhau,

nhưng theo Tâm lí học Macxit, động cơ là sự phản ánh tâm lí về đối tượng có khả

năng thỏa mãn nhu cầu của chủ thể. Nhu cầu bao giờ cũng nhằm vào một đối tượng

nhất định. Nó hối thúc con người hành động nhằm đáp ứng thoả mãn và chỉ khi gặp

được đối tượng có khả năng thoả mãn thì nó mới có thể trở thành động cơ thúc đẩy,

định hướng hoạt động của chủ thể, thôi thúc con người hoạt động nhằm thoả mãn nhu

cầu. Như vậy, ở đây có mối quan hệ giữa động cơ và nhu cầu. Trong tâm lí học, hai

hiện tượng này luôn được nghiên cứu trong mối quan hệ chặt chẽ với nhau, nhiều khi

đan xen nhau, khó tách rời. Có thể nói rằng, nếu nhìn nhận nhu cầu như là một tất yếu

khách quan, thể hiện sự đòi hỏi của chủ thể về những điều kiện cần thiết cho sự tồn

tại và phát triển, thì động cơ là biểu hiện chủ quan của tất yếu khách quan đó.

Tuy nhiên, động cơ và nhu cầu không đồng nhất với nhau, những nhu cầu

giống nhau có thể được thoả mãn bằng những động cơ khác nhau. Và ngược lại, ở

đằng sau những động cơ khác nhau lại có những nhu cầu khác nhau. Mối quan hệ

22

không đồng nhất giữa động cơ và nhu cầu nhờ tính chất đa dạng, đa phương thức

trong động cơ, và cách thức thoả mãn nhu cầu trong hành động của con người. Có thể

nói: động cơ của hoạt động có thể thấy đó chính là đối tượng của hoạt động ấy.

Xét về phương diện phát sinh, thì đối với hoạt động của con người, sự không

trùng khớp giữa các động cơ và mục tiêu là hiện tượng khởi điểm. Trái lại, sự trùng

khớp động cơ và mục tiêu lại là hiện tượng có sau: hoặc đó là kết quả của việc mục

tiêu có một động lực thúc đẩy độc lập, hoặc đó là kết qủa của sự ý thức về các động

cơ làm cho chúng trở thành những động cơ - mục tiêu. Khác với mục tiêu, các động

cơ thường không được chủ thể ý thức về nó ngay lúc đó, khi chúng ta thực hiện

những hành động này hay hành động khác thì thường lúc đó chúng ta không ý thức

về những động cơ đã thúc đẩy chúng ta. Khi được hỏi về duyên cớ của hành động đó

thì chúng ta không khó khăn gì khi nêu ra nó, nhưng việc nêu duyên cớ này hoàn toàn

không phải bao giờ cũng chỉ rõ cho người ta biết những động cơ thực sự đã thôi thúc

các hành động ấy. Tuy nhiên, những động cơ này cũng không tách rời khỏi ý thức,

ngay cả khi con người không ý thức được động cơ hành động của mình thì ngay

những lúc như vậy, động cơ cũng được phản ánh vào tâm lí, nhưng ở dưới một hình

thức đặc biệt: hình thức sắc thái cảm xúc của hành động. Sắc thái cảm xúc này

(cường độ, dấu hiệu của nó và đặc tính về chất của nó) thực hiện một chức năng đặc

biệt, và điều đó đòi hỏi phải phân biệt khái niệm cảm xúc với khái niệm hàm ý nhân

cách. Tuy thế, không phải ngay từ đầu đã có sự không trùng khớp của hai khái niệm

này, mà sự không trùng khớp chỉ xuất hiện do kết qủa phân đôi chức năng của động

cơ nảy sinh trong tiến trình phát triển của hoạt động con người. Còn việc những động

cơ mà lúc bấy giờ không được ý thức, hoàn toàn không chứng tỏ rằng động cơ là một

bản nguyên đặc biệt, lẩn khuất trong những tầng sâu của tâm lý. Những động cơ

không được ý thức cũng chịu sự quy định như bất cứ một sự phản ánh tâm lí nào

khác, chịu sự quy định của tồn tại thực tế, của hoạt động con người trong thế giới

khách quan. Và các động cơ chỉ lộ ra trước ý thức một cách khách quan bằng cách

phân tích hoạt động của con người, còn trong chủ quan thì những động cơ chỉ thể

23

hiện dưới dạng gián tiếp của nó mà thôi, tức là dưới dạng hình thức những trải

nghiệm như: mong muốn, ý muốn, nguyện vọng đạt tới mục tiêu… Sự ý thức được

động cơ là một hiện tượng có sau, chỉ nảy sinh ở mức độ nhân cách và thường xuyên

được tái tạo lại trong tiến trình phát triển nhân cách.

Các động cơ đặc trưng của con người mang tính lịch sử - xã hội. Động cơ của

con người nảy sinh ngay trong chính quá trình phát triển của cá thể, chứ không phải

có sẵn từ lúc đứa trẻ mới sinh ra. Trong tuổi ấu nhi, các động cơ mới được hình thành

một cách có thứ bậc, nhưng hết sức mờ nhạt, không rõ ràng. Dần dần, trong quá trình

phát triển, những động cơ này mới dần mang tính chất xã hội nhiều hơn, do những

động cơ đó gắn liền với việc trẻ lĩnh hội được những chuẩn mực, quy tắc hành vi

trong xã hội. Phần lớn các nhà tâm lí học đều thừa nhận rằng, hệ thống động cơ của

con người được hình thành trên cơ sở hoạt động, giao tiếp của con người trong hệ

thống các quan hệ xã hội, nhóm xã hội nhất định. Nhưng trong hoàn cảnh buộc con

người phải lựa chọn động cơ nào cho phù hợp với việc tiến hành hành động, khi đó

có quá trình đấu tranh động cơ, hành động ý chí, khả năng nhận thức sẽ giúp con

người đối chiếu, so sánh động cơ để chọn ra đâu là động cơ phù hợp với điều kiện,

hoàn cảnh xung quanh, giúp chủ thể lường trước diễn biến và kết quả hành động. Tuy

nhiên, để làm rõ cơ chế hình thành động cơ lại chưa được nhiều nhà nghiên cứu,

nghiên cứu một cách sâu sắc. Mặt khác, đối tượng thoả mãn của con người là những

sản phẩm của quá trình sản xuất xã hội, với tư cách là những phản ánh tâm lí về đối

tượng đó nên động cơ đặc trưng của con người mang nguồn gốc xã hội. Ngay cả một

số động cơ mang tính chất sinh vật như động cơ đáp ứng nhu cầu tồn tại của con

người, các nhu cầu bản năng của con người cũng mang tính xã hội, nó phụ thuộc vào

điều kiện sống, lối sống, đặc trưng của mỗi dân tộc.

Đề tài này chủ yếu đi theo hướng của tâm lý hoạt động nên người nghiên cứu

đã chọn lựa định nghĩa động cơ trong Từ điển Tâm lý học làm nền tảng cho quá trình

nghiên cứu của mình.

- Theo Từ điển Tâm lý học, GS.TS Vũ Dũng và các cộng sự cho rằng động cơ

24

có thể được hiểu như sau:

+ Cái thúc đẩy hành động, gắn liền với việc thỏa mãn những nhu cầu của chủ

thể, là toàn bộ những điều kiện bên trong và bên ngoài có khả năng khơi dậy tính tích

cực của chủ thể và xác định xu hướng của nó.

+ Đối tượng (vật chất hay tinh thần) thúc đẩy và xác định sự lựa chọn xu

hướng của hoạt động mà vì nó hành động được thực hiện

+ Nguyên nhân, cơ sở của sự lựa chọn các hành động và hành vi.

Từ định nghĩa động cơ nền tảng, người nghiên cứu đưa ra định nghĩa động

cơ sử dụng bia rượu như sau: Động cơ sử dụng bia rượu được hiểu là cái thúc

đẩy và định hướng hành vi sử dụng bia rượu của con người.

1.2.2. Cấu trúc động cơ của nhân cách.

Nghiên cứu cấu trúc động cơ có ý nghĩa thực tiễn rất lớn trong ứng dụng tâm lí

học, nhằm nâng cao hiệu quả của giáo dục điều chỉnh hành vi lệch chuẩn. Phần lớn

các nhà tâm lí học khẳng định rằng, động cơ của con người mang tính hệ thống. Các

động cơ khác nhau của con người nằm trong một mối quan hệ chặt chẽ tạo nên một

hệ thống thống nhất, trọn vẹn. Trong mỗi hoàn cảnh, điều kiện cụ thể mà phân biệt

đâu là động cơ chủ đạo, đâu là động cơ thứ yếu. Sự đấu tranh động cơ, động cơ nào

sẽ là động lực thúc đẩy chính con người tham gia vào quá trình hoạt động do trình độ

nhận thức của mỗi người, do các quy tắc, chuẩn mực mà con người nắm được trong

quá trình hoạt động của mình. Ngày nay, trong tâm lí học có khá nhiều cách phân loại

động cơ dựa trên các tiêu chí khác nhau. Người ta có thể phân ra, động cơ gần, động

cơ xa, động cơ thứ phát, động cơ nguyên phát, động cơ tạo ý hay động cơ chức năng

thúc đẩy, động cơ đẩy hay động cơ kéo…. Trong thực tiễn của cuộc sống, chúng ta

đều nhận thấy rằng, mỗi người sống trong một thời đại có những động cơ gần như

giống nhau. Nhiều nhà tâm lí học đã khái quát nên những động cơ chung nhất như:

động cơ thành đạt, động cơ giao tiếp, động cơ tự khẳng định bản thân… Tuy nhiên,

với mỗi người lại có những động lực thúc đẩy họ thực hiện theo những cách riêng

25

nhằm đáp ứng động cơ đó. Như vậy trong cấu trúc của một động cơ, ít nhất có thể

thấy được hai khía cạnh: khía cạnh nội dung của động cơ và khía cạnh lực của động

cơ.

- Về nội dung của động cơ: Nội dung của động cơ phản ánh cái mà con người

muốn vươn tới, muốn đạt tới. Nội dung này vừa có tính khái quát vừa có tính cụ thể,

tùy thuộc vào từng điều kiện cụ thể nơi con người đang sống hay trong hoạt động của

từng người cụ thể. Ví dụ như đối với nhà doanh nghiệp thì động cơ thành đạt mang

tính khái quát được thực hiện trong hoạt động kinh doanh như sản xuất, tiêu thụ sản

phẩm, chiếm lĩnh thị trường… còn đối với nhà khoa học thì đó lại là động cơ chiếm

lĩnh tri thức, thực hiện trong các công tác nghiên cứu, tìm tòi, phát minh…

- Khía cạnh lực của động cơ: phản ánh độ mạnh của động cơ. Khía cạnh lực

thể hiện ở chỗ, một động cơ nhất định có khả năng thúc đẩy những hoạt động khác

nhau nhằm thoả mãn động cơ đó hay không. Nếu có thì có thể duy trì hoạt động đến

mức nào, tính tích cực mạnh mẽ hay nửa vời…

Vì các hiện tượng tâm lí nảy sinh và tồn tại như một hình thức phản ánh tích

cực của môi trường sống và các hoạt động sống của con người. Các động cơ của con

người cũng được phản ánh như vậy. Vì vậy, khó có thể tách rời khía cạnh nội dung

và lực của động cơ. Một lực không có nội dung thì khó có thể đạt được một ý nghĩa

nào đó và không tồn tại như một lực thúc đẩy. Sự thay đổi khía cạnh nội dung của

động cơ sẽ kéo theo những thay đổi lực của động cơ. Khi đó, động cơ đã hình thành

sẽ mất đi và thay vào đó là sự xuất hiện động cơ mới khác về chất. Tuy nhiên, lí

thuyết về hai thành phần này của động cơ chưa được làm rõ trong các công trình

nghiên cứu của tâm lí học.

Quá trình hình thành động cơ bắt đầu từ nhận thức của chủ thể đối với đối

tượng, thái độ của chủ thể đối với đối tượng và xu hướng hành vi của chủ thể.

- Nhu cầu: là sự đòi hỏi tất yếu mà con người thấy cần phải thỏa mãn trong

những điều kiện nhất định để tồn tại và phát triển.

Có thể phân thành 2 loại nhu cầu:

26

+ Nhu cầu vật chất: giúp cho sự tồn tại và phát triển về mặt sinh học, đó là nhu

cầu ăn, uống, ngủ …

+ Nhu cầu tinh thần: Bao gồm những nhu cầu về các hoạt động trên lĩnh vực

nhận thức, học tập, giao lưu …

Mối quan hệ giữa động cơ và nhu cầu: Trong tâm lý học hiện đại, nhu cầu

được xem là “gốc rễ” của động cơ. Một nhu cầu thực sự bao giờ cũng là nhu cầu về

một cái gì đó, chúng ta muốn đề cập đến tính đối tượng của nhu cầu. Trước khi được

thỏa mãn lần đầu tiên thì nhu cầu chưa biết đến đối tượng của nó, đối tượng này cần

phải được phát lộ ra. Lúc đó, nhu cầu chỉ xuất hiện như một điều kiện, một tiền đề

cho hoạt động. Và khi nhu cầu tìm thấy đối tượng, đối tượng được hình dung, được

tư duy ra, nó có được chức năng thúc đẩy và hướng dẫn hoạt động, tức trở thành động

cơ. Như vậy, động cơ là sự phản ánh nhu cầu, biểu hiện chủ quan của nhu cầu. Còn

nhu cầu là mặt tất yếu khách quan, nhu cầu buộc hành vi con người phải tìm ra những

phương thức thỏa mãn nó, nhu cầu chính là nguồn gốc tính tích cực hoạt động, động

lực thúc đẩy con người hành động. Vậy, động cơ và nhu cầu thống nhất biện chứng

với nhau, nhưng không đồng nhất.

- Hứng thú: là thái độ đặc biệt của cá nhân đối với đối tượng nào đó, vừa có ý

nghĩa trong cuộc sống, vừa đem lại cho cá nhân sự hấp dẫn về mặt tình cảm. Hứng

thú biểu hiện ở sự tập trung cao độ, ở sự say mê, hấp dẫn bởi nội dung hoạt động, ở

bề rộng và chiều sâu của hứng thú. Hứng thú làm nảy sinh khát vọng hành động, làm

tăng hiệu quả của hoạt động nhận thức, tăng sức làm việc. Sự hứng thú thể hiện trước

hết ở sự tập trung chú ý cao độ, sự say mê của chủ thể hoạt động. Sự hứng thú gắn

liền với tình cảm của con người, nó là động cơ thúc đẩy con người tham gia tích cực

vào hoạt động đó. Trong bất cứ công việc gì, nếu có hứng thú làm việc con người sẽ

có cảm giác dễ chịu với hoạt động, nó là động cơ thúc đẩy con người tham gia tích

cực và sáng tạo hơn vào hành động đó. Ngược lại nếu không có hứng thú, dù là hành

động gì cũng sẽ không đem lại kết quả cao. Đối với các hoạt động nhận thức, sáng

tạo, hoạt động học tập, khi không có hứng thú sẽ làm mất đi động cơ học, kết quả học

27

tập sẽ không cao, thậm chí xuất hiện cảm xúc tiêu cực.

1.2.3. Phân loại động cơ

Thông thường, Tâm lý học phân động cơ thành 2 loại: “ngắn hạn” và “dài hạn”

(Cheplov đưa ra kiểu phân biệt này). Động cơ ngắn hạn chỉ liên quan đến tương lai

gần của nhân cách, còn động cơ lâu dài thì gắn với tương lai tương đối dài các mức

khác nhau trong quá trình phát triển nhân cách… Những người trẻ tuổi thường chịu

tác động của những động cơ ngắn hạn.

V.G.Axêev chia động cơ thành 2 loại: “động cơ tích cực và động cơ tiềm

tàng”.

Stephen Worchil và Wayne Shebilsue cho rằng, động cơ có thể phân thành 2

loại: động cơ nguyên thủy (primary motive) và động cơ xã hội (social motive). Động

cơ nguyên thủy có liên quan đến các nhu cầu sinh học của con người. Các động cơ

này không phải học, giống nhau ở tất cả các động vật và có ý nghĩa rất quan trọng

cho việc tồn tại của một cơ thể hay một loài. Đói, khát, nhu cầu về không khí, nghỉ

ngơi, ham muốn về tình dục được xếp vào loại này. Động cơ xã hội xuất phát từ học

tập và giao tiếp xã hội. Nhu cầu xác nhập, gây gổ hiếu chiến và thành quả được xếp

vào nhóm động cơ xã hội.

Theo G. Murphay và một số các nhà Tâm lý học phương Tây, động cơ được

phân thành 2 loại: động cơ cấp một và động cơ cấp hai hay còn gọi là động cơ

nguyên phát và động cơ thứ phát. Động cơ nguyên phát là những động cơ bên trong,

gắn liền với nhu cầu của cơ thể và động cơ thứ phát. Động cơ cấp hai hay còn gọi là

động cơ thứ phát được hình thành như những công cụ nhằm đáp ứng các động cơ

nguyên phát.

Schwartz và Bilsky cho rằng, động cơ của con người có thể được phân thành

10 loại: “tự điều chỉnh, kích thích, đề cao khoái cảm, thành đạt, quyền lực, tính an

toàn, tính thỏa hiệp, tính truyền thống, mong muốn thuận lợi, tính toàn diện” … Tuy

nhiên, trong thực tế, động cơ của con người rất phong phú và đa dạng và có mối liên

hệ mật thiết với nhu cầu. Các loại động cơ trong hệ thống động cơ không phải là bất

28

biến mà luôn thay đổi.

Theo trường phái Tâm lý học hoạt động, động cơ được chia thành 2 loại cơ

bản: động cơ chủ đạo và động cơ thứ yếu. Hai loại động cơ này có mối quan hệ mật

thiết với nhau và trong những hoàn cảnh cụ thể chúng tạo thành một hệ thống thứ bậc

động cơ.

Theo Nguyễn Quang Uẩn (2003), có rất nhiều cách phân loại động cơ: “Động

cơ ham thích và động cơ nghĩa vụ; động cơ quá trình và động cơ kết quả; động cơ

gần và động cơ xa; động cơ cá nhân, động cơ xã hội và động cơ công việc; động cơ

bên trong và động cơ bên ngoài; động cơ tạo ý và động cơ kích thích”

Theo quan điểm của người nghiên cứu, động cơ của con người rất phong phú

và đa dạng nên có rất nhiều cách phân loại động cơ. Ở mỗi lĩnh vực và tùy thuộc vào

cách tiếp cận khác nhau thì có những cách phân loại khác nhau. Trong đề tài nghiên

cứu này, căn cứ vào tính chất, người nghiên cứu phân động cơ làm hai loại:

Động cơ sử dụng rượu, bia có tính chất sinh lý là động cơ nảy sinh từ nhu cầu

có tính chất bẩm sinh, sinh lý của người tiêu dùng nhằm thỏa mãn nhu cầu: duy trì,

kéo dài, phát triển cuộc sống của họ, trong đời sống thường ngày loại động cơ này

thường giống nhau và có chung một điểm là: rõ nét, đơn giản trùng lặp dễ phát hiện.

Động cơ sử dụng rượu, bia có tính chất tâm lý đây là loại động cơ nảy sinh từ

nhu cầu xã hội, tinh thần của người tiêu dùng. Các động cơ này có sự khác nhau lớn

giữa các cá nhân về phương thức thực hiện và mức độ thỏa mãn. Đặc điểm của loại

động cơ này là sâu sắc, kín đáo đa dạng và luôn được đánh giá bởi các giá trị, chuẩn

mực xã hội…

1.2.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến động cơ sử dụng bia rượu

- Các yếu tố bên trong: nhu cầu, hứng thú cá nhân…

- Các yếu tố bên ngoài: truyền thống, yêu cầu của công việc, dư luận nhóm…:

Sử dụng rượu bia là hành vi gắn liền với văn hóa truyền thống của nhiều quốc gia

trên thế giới. Dung nạp rượu bia với mức độ hợp lý có thể đem lại cho người sử dụng

một số lợi ích như: cảm giác hưng phấn, lưu thông huyết mạch, thuân lợi trong giao

29

tiếp xã hội… Nhưng, rượu, bia lại có thể gây nghiện, nếu không biết kiềm chế, người

sử dụng rất dễ bị lệ thuộc dẫn đến tình trạng lạm dụng rượu, bia. Theo Hiệp hội Bia,

Rượu, Nước giải khát Việt Nam năm 2012, Việt Nam là quốc gia có xu hướng gia

tăng nhanh về mức tiêu thụ rượu, bia bình quân đầu người: Mức tiêu thụ rượu, bia

bình quân đầu người (trên 15 tuổi) đã tăng từ 1.6 lít rượu và 10,04 lít bia năm 2000

lên 4.1 lít rượu và 22 lít bia năm 2008. Hiện nay, mức tiêu thụ rượu, bia bình quân tại

Việt Nam khoảng 1.07% cồn nguyên chất/người/năm đứng thứ 149 thế giới (bia là 27

lít/người/năm)

1.3. Ảnh hưởng của hành vi lạm dụng bia rượu đối với con người.

Rượu là sản phẩm đồ uống có cồn thực phẩm, được sản xuất từ quá trình lên

men (có hoặc không chưng cất) từ tinh bột của các loại ngũ cốc, dịch đường của cây

và hoa quả hoặc được pha chế từ cồn thực phẩm (Etanol).

Rượu thủ công là rượu được sản xuất bằng dụng cụ truyền thống như nồi

(kháp) đồng, ống dẫn hơi rượu, bồn lạnh quy mô nhỏ do tổ chức, hộ gia đình hoặc cá

nhân thực hiện.

Bia là đồ uống lên men chứa độ cồn thực phẩm thấp, được sản xuất từ nguyên

liệu chính là malt đại mạch, hoa houplon, nấm men và nước.

Đơn vị rượu là đơn vị đo lường dùng để quy đổi rượu, bia với nồng độ khác

nhau, tương đương với 10 grams Etanol nguyên chất chứa trong dung dịch uống

(khoảng 2/3 chai bia 500ml hoặc 01 lon bia 330ml 5%, 1 cốc bia hơi 330ml, 1 ly nhỏ

100ml rượu vang 13.5%, 1 chén 30ml rượu mạnh 40%-43%).

Bia 4-5 độ cồn Mức độ uống rượu bia Số gam cồn uống/ngày Rượu mạnh 40 độ cồn Rượu vang 12 độ cồn

Uống ít < 1 ly 25ml <1 ly 88ml < 1 ly 220ml

0,1-9,9g (nghĩa là ít hơn 1 đơn vị rượu)

1-3 ly 25ml (25-75ml) 1-3 ly 88ml (88-260ml) Uống vừa phải 10-29,9g (1-3 đơn vị rượu) 1-3 ly 220ml (2/3 -2 lon/chai bia 330ml)

30

Uống nhiều >30g > 3 ly 25ml > 3 ly 88ml > 3ly 220ml

(> 75ml) (>260ml)

(nhiều hơn 3 đơn vị rượu) (> 2 lon/chai bia330ml)

> 4 ly 25ml (> 100ml) > 4 ly 88ml (>350ml) Uống quá nhiều > 40g (nhiều hơn 4 đơn vị rượu) > 4 ly 220ml (gần 3 lon/chai bia 330ml)

Lạm dụng rượu, bia là việc sử dụng rượu, bia với mức độ không thích hợp

(phụ nữ, người trên 65 tuổi uống trên 14 đơn vị rượu mỗi tuần, hơn 2 đơn vị rượu

mỗi ngày, hơn 1/2 đơn vị rượu mỗi giờ; nam giới 65 tuổi trở xuống uống trên 21 đơn

vị rượu mỗi tuần, hơn 3 đơn vị rượu mỗi ngày, hơn 1 đơn vị rượu mỗi giờ; trẻ em sử

dụng rượu, bia) dẫn đến sự biến đổi về chức năng của cơ thể hoặc xuất hiện dấu hiệu

về lâm sàng ảnh hưởng có hại đến sức khỏe người sử dụng hoặc sử dụng rượu, bia

trong trường hợp pháp luật nghiêm cấm. Lạm dụng rượu, bia là nguyên nhân của hơn

60 loại bệnh, tật, đứng hàng thứ năm trong số 10 nguyên nhân cao nhất dẫn đến tử

vong sớm và tàn tật trên thế giới. Các rối loạn do lạm dụng rượu (14%) là nguyên

nhân hàng đầu của gánh nặng bệnh tật ở nam giới, tiếp đến là trầm cảm (11%) và tai

nạn giao thông (8%). Theo ước tính của Tổ chức Y tế thế giới, lạm dụng rượu bia gây

ra 4% trường hợp tử vong và 4.65% tổng gánh nặng bệnh tật toàn cầu; tương đương

gánh nặng về sức khỏe do hút thuốc lá gây ra. Ngoài các tác hại về sức khỏe, lạm

dụng rượu bia còn là căn nguyên của nhiều vấn đề xã hội nghiêm trọng khác như: bạo

lực cá nhân, mất trật tự an toàn xã hội, tội phạm, phân hóa xã hội và gánh nặng về

kinh tế đối với cá nhân, gia đình và toàn xã hội do liên quan đến các phí tổn về chăm

sóc sức khỏe, giảm hoặc mất năng suất lao động và giải quyết các hậu quả xã hội

khác...

Ngoài ra, Ethanol trong rượu bia làm cho các cơ quan không nhận được tín

hiệu được truyền tải đi tự não bộ. Điều này giải thích vì sao thức uống có cồn làm suy

giảm khả năng điều khiển tâm thần và hành vi của người uống. Gần 20% ethanol là

chất gây nghiện thẩm thấu đến hệ thống mạch máu thông qua bao tử, và 80% qua các

mao mạch ruột. Thời gian rượu tồn tại trong bao tử càng nhiều thì số lượng ethanol

31

cô đọng trong máu càng nhiều. Điều này giải thích vì sao những người bị say rượu

thường không thể tiếp nhận được thực phẩm sau khi say bởi vì quá trình làm việc của

bao tử đã bị đảo lộn, bao tử trống rỗng vì các mạch máu đã bị tê liệt bởi ethanol

không thể tiêu hóa được thực phẩm. Ethanol có thể hòa tan được rất nhanh trong

nước và ít phân hủy được trong chất béo. Vì thế rượu bia cũng vậy, chúng dễ dàng

thẩm thấu vào những nơi có nhiều cơ bắp trên cơ thể (các bắp cơ) hơn là những vị trí

có nhiều mỡ (mỡ bụng). Khi hai người có cân nặng ngang nhau, nhưng cơ thể của họ

có những phản ứng khác nhau khi uống rượu khi lượng mỡ và lượng cơ trên cơ thể

họ khác nhau. Vì thế hai người có cùng cân nặng nhưng người cao và ốm sẽ dễ bị say

xỉn hơn những người lùn mập. Đối với cơ thể phụ nữ, lượng mỡ trong cơ thể có nhiều

hơn cơ thể nam giới. Điều này cũng giải thích vì sao những phụ nữ có thể uống rượu

thì sẽ khó say hơn nam giới khi uống cùng một lượng rượu. Quá trình trao đổi chất

của cơ thể chính là phương cách tốt nhất để đào thải chất độc ra ethanol ra khỏi cơ

thể. Một số loại rượu bia có thể bị đốt cháy bởi năng lượng của cơ thể, chuyển đổi

rượu thành nước và cacbon dioxit. Một số cồn sẽ bốc hơi qua hơi thở và nước tiểu

(10%). Gan lúc này có nhiệm vụ rất quan trọng. Gan giải độc gần như 90% chất

ethanol trong máu. Khi đốt cháy cồn cũng đồng thời làm cho mạch máu bị giãn ra tại

chỗ và dần trở nên giòn hơn, về già dễ bị tai biến mạch máu (vỡ động mạch, tắc vón

cục trong mạch máu). Bình thường cơ thể một người có thể giải độc được 10 gram

ethanol mỗi giờ. Những người bị bệnh gan sẽ không thể uống được rượu vì gan

không xử lý và chuyển hóa ethanol ra khỏi cơ thể. Những người bị bệnh gan mãn tính

có thể hư tổn toàn bộ chức năng gan vì uống bia, rượu. Đối với bệnh nhân xơ gan,

các tế bào gan có thể ngưng hoạt động vì ethanol làm khóa chặt các mạch máu đến

gan. Vì thế, đối với bệnh nhân bị gan thì không nên uống rượu, cho dù đó là một

lượng rất ít.. Lưu ý rằng tốc độ phân hủy cồn không thay đổi trong giới hạn nhất định.

Tốc độ phân hủy cồn không tăng lên vì hay uống rượu. Hiệu ứng quen với cồn

thường được nhìn thấy ở những người nghiện rượu không do phân hủy cồn nhanh mà

là do hệ thống thần kinh đã quen với lượng chất độc cao hơn. Tác động của rượu, bia

32

đối với người sử dụng phụ thuộc vào: Lượng rượu, bia sử dụng; Tốc độ uống nhanh

như thế nào; Chiều cao cân nặng; Giới tính; Tình trạng sức khoẻ nói chung; Chức

năng gan; Uống rượu, bia một mình hay với nhiều người; Có dùng rượu, bia với các

chất gây nghiện khác không.

Rượu, bia làm chậm quá trình chuyển tải thông tin từ não đến toàn bộ cơ thể.

Điều này khiến cho người sử dụng: Cảm thấy thư thái, sảng khoái; Có những lời nói

và hành động khác thường; Quay cuồng, khó giữ thăng bằng; Khó khăn trong việc

kiểm soát và phối hợp các cử động của cơ thể; Phản ứng chậm; Dễ nổi cáu; Nôn ói;

Nhìn không rõ; Líu lưỡi (nói không rõ). Uống rất nhiều rượu, bia trong một thời gian

ngắn gây ra: Trạng thái lơ mơ; Đau đầu; Buồn nôn hoặc nôn; Run rẩy; Bất tỉnh (ngất

xỉu); Ngừng thở (hiếm). Rượu, bia gây ảnh hưởng đến thị lực và chức năng kết hợp

động tác của cơ thể, do đó trong tình trạng say rượu, bia, người sử dụng dễ gây tai

nạn giao thông, hoặc chết đuối.

Uống nhiều rượu, bia trong một thời gian dài gây ra các vấn đề về sức khoẻ,

tinh thần và gây ra các vấn đề xã hội khác. Uống nhiều rượu trong thời gian dài còn

gây tổn thương vĩnh viễn đối với một số bộ phận của cơ thể. Các loại thức uống có

cồn như bia, rượu vang 12% cồn hay rượu 40%... khi uống quá mức sẽ có hại cho sức

khỏe. Các tác hại do uống quá nhiều rượu bia gây ra như nghiện, giảm trí nhớ, loạn

thần, rối loạn giấc ngủ; tăng huyết áp, đột quỵ, tai biến mạch máu não; dễ bị ung thư:

vòm họng, thực-thanh quản, dạ dày, đại tràng, vú; giảm hoạt động tình dục; gây rối

loạn cân bằng nước - điện giải, dễ bị sỏi thận - đường tiết niệu; nếu người mẹ mang

thai uống rượu bia dễ gây dị tật và sinh bé nhẹ cân, kích thước nhỏ…

Say rượu, bia: Rượu, bia nói chung có tác dụng ức chế hệ thần kinh trung ương

giống như một số loại thuốc ngủ hay thuốc an thần nhẹ. Từ dân gian “say” ám chỉ

đến các thay đổi về mặt hành vi, cảm xúc, ngôn ngữ… do rượu gây ra đối với người

uống. Mức độ thay đổi này tùy thuộc vào nhiều yếu tố như nồng độ rượu, số lượng

rượu uống vào, tình trạng dạ dày lúc uống, khả năng giải độc của gan… Người uống

rượu bia khi say sẽ có một số biểu hiện sau:

33

Nói nhiều hay lè nhè -

Cử động lung tung hay không chính xác -

Mắt nhìn lờ đờ -

Đi đứng loạng choạng -

Dễ xuất hiện các cơn bùng nổ, gây hấn -

Nếu say nặng thì tự ngã gục hay ngủ say tại bàn … -

Tác động của rượu đến tri giác và hệ thần kinh tùy thuộc nồng độ rượu trong

máu:

- Mức độ 0.05% nồng độ rượu trong máu: có sự giảm sút về mặt suy nghĩ,

phán xét và kiềm chế, thường đương sự nói nhiều, hơi kích động nhẹ.

- Mức độ 0.1% nồng độ rượu trong máu: xuất hiện các cử động vụng về, cầm

nắm vật dụng không chính xác.

- Mức độ 0.2% nồng độ rượu trong máu: chức năng vùng vận động và kiểm

soát hành vi cảm xúc của não bị ức chế nên dễ xuất hiện các cơn bùng nổ giận dữ,

gây hấn, đi đứng loạng choạng.

- Mức độ 0.3% nồng độ rượu trong máu: xuất hiện tình trạng lú lẫn hay sững

sờ, đương sự không còn nhận thức rõ môi trường xung quanh.

- Mức độ 0.4 – 0.5% nồng độ rượu trong máu: hôn mê.

- Nếu nồng độ cao hơn: các trung tâm kiểm soát nhịp thở và nhịp tim ở não bị

34

ảnh hưởng và đương sự có thể chết do suy hô hấp.

CHƯƠNG 2: KHẢO SÁT ĐỘNG CƠ SỬ DỤNG RƯỢU BIA CỦA

SINH VIÊN ĐẠI HỌC TRÊN ĐỊA BÀN TP HCM

2.1. Thể thức nghiên cứu

Thực hiện các nhiệm vụ đã xác định, người nghiên cứu biên soạn các công cụ

khảo sát động cơ sử dụng rượu, bia của sinh viên trên địa bàn TP HCM. Để xây dựng

bảng khảo sát chính thức, người nghiên cứu đã tiến hành thăm dò bằng một bảng hỏi

mở rộng. Bảng hỏi này được thăm dò trên 50 sinh viên của trường Đại học Kinh tế

TP HCM (xem Phụ lục 1).

Từ kết quả thăm dò và cơ sở lí luận về động cơ, cấu tạo và tính chất của đồ

uống có cồn, tác động của việc lạm dụng rượu bia đối với sức khỏe con người, người

nghiên cứu đã xây dựng bảng khảo sát (xem Phụ lục 2) gồm các phần như nhận thức,

thái độ và cách xử sự của sinh viên đại học trên địa bàn TP HCM đối với việc sử

dụng rượu bia; những yếu tố ảnh hưởng đến hành vi sử dụng rượu bia của sinh viên.

Bảng khảo sát được tiến hành trên 371 sinh viên của 3 trường đại học trên địa

bàn TP HCM, gồm trường Đại học Thể dục thể thao (143 sinh viên, chiếm 38.5% ),

Đại học Công nghiệp (125 sinh viên, chiếm 33.7%), Đại học Lao động thương binh

và xã hội (103 sinh viên, chiếm 27.8%). Vì nhiều kết quả nghiên cứu đã chỉ ra sự

khác biệt trong mức độ, mục đích, nhu cầu… sử dụng rượu bia giữa nam và nữ nên

đề tài không so sánh sự khác biệt về động cơ sử dụng rượu bia theo giới tính. Đề tài

cũng không đi theo hướng so sánh sự khác biệt trong động cơ sử dụng rượu bia giữa

sinh viên các năm đầu và sinh viên năm cuối. Đề tài sẽ tập trung điều tra, phân tích và

so sánh động cơ sử dụng rượu bia của sinh viên các nhóm ngành khác nhau.

Phiếu thăm dò ý kiến được xây dựng theo nguyên tắc khuyết danh nhằm đảm

bảo tính trung thực và khách quan, bao gồm 2 phần cơ bản: Phần thông tin của khách

thể và phần nội dung. Phần thông tin của khách thể bao gồm: tên trường, giới tính,

35

sinh viên năm thứ mấy nhằm so sánh sự khác biệt trong nhận thức, thái độ và hành vi

đối với việc sử dụng rươu, bia giữa sinh viên các nhóm ngành. Phần nội dung của

phiếu thăm dò có tổng cộng là 12 câu chính và được cấu trúc như sau:

- Biểu hiện của động cơ sử dụng rượu bia: câu 1, 3, 5, 6, 9, 10, 12.

+ Nhận thức của sinh viên về vấn đề sử dụng rượu bia: câu 5, 6, 12

+ Thái độ của sinh viên về vấn đề sử dụng rượu bia: câu 1

+ Hành vi sử dụng rượu bia của sinh viên: câu 10

+ Mục đích sử dụng rượu bia của sinh viên : câu 3

- Những yếu tố ảnh hưởng đến hành vi sử dụng rượu bia của sinh viên: câu 11

- Đánh giá nhu cầu và mức độ lạm dụng rượu bia của sinh viên: câu 7, 8, 9

Với tất cả những số liệu thu được, người nghiên cứu sử dụng phần mềm máy

tính SPSS để thống kê tần số, tính tỉ lệ phần trăm, tính điểm trung bình và độ lệch

chuẩn cho các câu 3, 5, 6, 9, 10, 11, 12.

Cách tính điểm trung bình cho các câu hỏi có 5 phương án trả lời được cho điểm từ 1

đến 5 theo thứ tự từ thấp nhất đến cao nhất: Mỗi mức độ cách nhau 0.8 điểm

Từ 1 đến cận 1.80: Mức độ 1

Từ 1.80 đến cận 2.60: Mức độ 2

Từ 2.60 đến cận 3.40: Mức độ 3

Từ 3.40 đến cận 4.20: Mức độ 4

Từ 4.20 đến 5: Mức độ 5

2.2. Kết quả nghiên cứu.

Bảng 2.1 Loại rượu bia sinh viên thường sử dụng

Đồ uống % SL

Bia chai / lon 69.3% 257

Rượu 14.5% 54

36

Rượu & Bia 16.2% 60

Theo kết quả nghiên cứu chúng ta thấy rằng đồ uống sinh viên ưa chuộng nhất

là các loại bia chai hoặc bia lon (chiểm 69.3%). Chúng ta thấy rằng điều này là hoàn

toàn hợp lí khi mà thị trường bia đang phát triển mạnh mẽ ớ nước ta. Theo số liệu

thống kê năm 2011, Việt Nam là nước tiêu thụ bia nhiều nhất Đông Nam Á. Cả nước

tiêu thụ gần 2.6 tỉ lít bia/năm, vượt xa Thái Lan và Philippines - hai nước đứng ở vị

trí tiếp theo. 14.5% sinh viên thì lại thường xuyên uống rượu & 16.2% sinh viên cho

biết họ có thể sử dụng cả rượu và bia (câu 2).

Có 100% sinh viên được khảo sát cho biết họ đã từng say rượu bia (câu 4).

2.2.1. Mục đích sử dụng rượu, bia của sinh viên

Kết quả chung về mục đích sử dụng rượu, bia của sinh viên

Chú thích:

M1. Tăng cảm giác thèm ăn và kích thích tiêu hóa

M2. Tạo phong cách riêng cho bản thân

M3. Thỏa mãn nhu cầu muốn uống

M4. Giảm thiểu triệu chứng mất ngủ

M5. Giải trí trong thời gian rảnh

M6. Giảm căng thẳng và các cảm xúc tiêu cực trong cuộc sống

M7. Tạo tiền đề thuận lợi cho các mối quan hệ giao tiếp

M8. Tạo cảm giác tự tin trước người khác giới

M9. Kích thích trí tưởng tượng

Bảng 2.2. Mục đích sử dụng rượu bia của sinh viên

Mục đích Xếp loại TB

M1 2.42 4

M2 2.03 9

M3 2.28 6

37

M4 2.21 7

M5 2.56 3

M6 2.88 2

M7 3.68 1

M8 2.29 5

M9 2.12 8

Từ kết quả khảo sát ở bảng 2.2 người nghiên cứu rút ra một số nhận xét mang

tính khái quát như sau:

- Sinh viên đại học trên địa bàn TP HCM sử dụng rượu, bia với các mục đích

chủ yếu là “để tạo tiền đề thuận lợi cho các mối quan hệ giao tiếp” (TB = 3.68),

“giảm căng thẳng và cảm xúc tiêu cực trong cuộc sống” (TB = 2.88), “giải trí trong

thời gian rảnh” (TB = 2.56).

Bảng 2.3. Tỉ lệ sinh viên lựa chọn mục đích sử dụng rượu bia

Mức độ đồng ý Mục

đích 5đ % 4đ % 3đ % 2đ % 1đ %

M1 9 2.4% 70 18.9% 102 27.5% 82 22.1% 108 29.1%

M2 8 19 2.2% 5.1% 96 25.9% 108 29.1% 141 38.0%

36 M3 18 4.9% 9.7% 98 26.4% 102 27.5% 117 31.5%

36 M4 10 2.7% 9.7% 99 26.7% 102 27.5% 124 33.4%

M5 24 6.5% 64 17.3% 99 26.7% 92 24.8% 92 24.8%

M6 28 7.5% 95 25.6% 118 31.8% 74 19.9% 63 17.0%

M7 69 18.6% 166 44.7% 103 27.8% 14 3.8% 19 5.1%

M8 13 3.5% 44 11.9% 111 29.9% 75 20.2% 128 34.5%

M9 22 5.9% 27 7.3% 69 18.6% 109 29.4% 144 38.8%

- Cụ thể, theo kết quả thống kê thu được trong bảng 2.3, có 63,3% sinh viên

38

(18.6% rất đồng ý + 44.7% đồng ý) khẳng định rằng mục đích sử dụng rượu bia của

họ là để tạo tiền đề thuận lợi cho các mối quan hệ giao tiếp. Có thể nói mục đích sử

dụng rượu, bia này của sinh viên bị ảnh hưởng không nhỏ bởi thói quen của xã hội

ngày nay, khi mà các hợp đồng làm ăn, các mối quan hệ giao dịch hầu như đều diễn

ra bên bàn nhậu, đòi hỏi người ta phải biết và sử dụng rượu bia thường xuyên. 33.1%

sinh viên (7.5% rất đồng ý + 25.6% đồng ý) cho biết họ sử dụng rượu bia như một

phương pháp giảm căng thẳng và các cảm xúc tiêu cực trong cuộc sống của mình.

Chúng ta biết rằng, rượu bia có chứa cồn là một chất hóa học tác động trực tiếp lên hệ

thần kinh gây ức chế và làm chậm quá trình truyền tải thông tin từ não bộ đến cơ thể

khiến cho người uống có cảm giác sảng khoái hưng phấn ban đầu nên không chỉ sinh

viên mà nhiều người thuộc mọi tầng lớp, mọi lứa tuổi, giới tính và công việc đã tìm

đến rượu bia như một cách để trốn tránh vấn đề thực tại. Một lí do nữa được 23.8%

sinh viên (6.5% rất đồng ý + 17.3% đồng ý) khẳng định sử dụng rượu bia là để “giải

trí trong thời gian rảnh”. Đây là mục đích sử dụng đáng lo ngại, bởi lứa tuổi và đặc

trưng của sinh viên là sự trẻ trung, năng động, ngoài công việc học tập và rèn luyện

trong nhà trường các em cần tham gia các hoạt động xã hội, thể dục thể thao, văn hóa

văn nghệ để nâng cao các kĩ năng sống cho bản thân chứ không phải là la cà bên bàn

nhậu.

- Nhiều sinh viên “hoàn toàn không đồng ý” và “không đồng ý” lựa chọn

những mục đích sử dụng rượu bia như: tăng cảm giác thèm ăn và kích thích tiêu hóa

(51,2%) , tạo phong cách riêng cho bản thân (67,1%) , thỏa mãn nhu cầu muốn uống

(59%), giảm thiểu triệu chứng mất ngủ (61%) , kích thích trí tưởng tượng (68.2%).

So sánh mục đích sử dụng rượu bia của sinh viên các trường

Bảng 2.4. So sánh mục đích sử dụng rượu bia của sinh viên các trường.

Trường Mục ĐH TDTT ĐH CN ĐH LĐ-XH đích TB ĐLC ĐLC TB TB ĐLC

M1 2.47 1.17 1.17 2.42 2.34 1.16

39

M2 2.04 1.00 1.02 2.08 1.91 0.97

2.38 1.15 2.16 1.10 2.29 1.20 M3

2.29 1.12 2.16 1.05 2.11 1.11 M4

2.56 1.23 2.55 1.18 2.55 1.24 M5

2.86 1.18 2.87 1.20 2.86 1.19 M6

3.73 0.99 3.60 1.01 3.58 1.05 M7

2.35 1.18 2.29 1.12 2.27 1.19 M8

2.18 1.20 2.07 1.14 2.12 1.19 M9

Theo kết quả thống kê bảng 2.4 xét riêng các mục đích sử dụng rượu bia được

nhiều sinh viên lựa chọn nhiều nhất (gồm M7, M5, M6) chúng ta thấy rằng với 2 mục

đích M5 & M6 thì không có sự khác biệt giữa sinh viên các trường. Tuy nhiên, ở mục

đích M7 thì lại có sự chênh lệch đáng kể, theo kết quả này thì sinh viên trường ĐH

TDTT cho biết họ “rất đồng ý”, “đồng ý”, “khá đồng ý” với mục đích “tạo tiền đề

thuận lợi cho các mối quan hệ giao tiếp” nhiều nhất (TB = 3.73). Tiếp đó là đến sinh

viên trường ĐH CN (TB = 3.60) và cuối cùng là sinh viên trường ĐH LĐ-XH (TB =

3.58).

Ở hầu hết các mục đích còn lại, chúng ta thấy rằng điểm trung bình của sinh

viên trường ĐH TDTT luôn cao hơn điểm trung bình của sinh viên hai trường còn lại.

Điều này chứng tỏ nhiều sinh viên ĐH TDTT có xu hướng lựa chọn các mục đích sử

dụng rượu bia này hơn.

2.2.2. Nhận thức của sinh viên đại học trên địa bàn TP HCM về rượu bia và tác

hại của hành vi lạm dụng rượu bia.

Để khảo sát nhận thức của sinh viên đại học trên địa bàn TP HCM, người

nghiên cứu đưa ra các câu hỏi khảo sát gồm câu 5, câu 6, câu 12. Đây là những câu

hỏi dùng để điều tra nhận thức của sinh viên về ảnh hưởng tiêu cực của việc lạm

dụng rượu bia (câu 5), nhận thức về tính chất của rượu bia (câu 6) & nhận thức về

phương pháp hạn chế tác hại của tình trạng say rượu bia (câu 12).

40

2.2.2.1. Nhận thức về ảnh hưởng tiêu cực của việc lạm dụng rượu bia

Kết quả chung nhận thức về ảnh hưởng tiêu cực của việc lạm dụng rượu bia

Bảng 2.5 Nhận thức về ảnh hưởng tiêu cực của việc lạm dụng rượu, bia

Trường Độ lệch chuẩn TB

ĐH TDTT 4.08 0.99

ĐH CN 4.17 0.90

ĐH LĐ-XH 4.20 0.87

Chú thích:

A1. Mất an toàn khi tham gia giao thông

A2. Lãng phí tiền bạc và thời gian

A3. Gây thoái hóa não bộ

A4. Tổn thương các cơ quan trong cơ thể như: gan, thận, tim…

A5. Nguyên nhân gây ra xung đột và bạo hành gia đình

A6. Nguyên nhân gia tăng các hành vi phạm tội

A7. Là một nguyên nhân gây suy thoái giống nòi

A8. Uống rượu bia gây nguy cơ ung thư cao hơn bình thường.

Bảng 2.6 Tỉ lệ sinh viên đồng ý với ảnh hưởng tiêu cực

của việc lạm dụng rượu bia

Mức độ đồng ý Ảnh

hưởng

tiêu 5 đ % 4 đ % 3đ % 2đ % 1đ %

cực

A1 289 77.9 77 20.8 5 1.3 0 0.0 0 0.0

A2 162 43.7 153 41.2 14 22.4 83 3.8 5 1.3

A3 132 35.6 153 41.2 13 17.0 63 3.5 5 1.3

A4 177 47.7 131 35.3 7 7.3 27 1.9 7 1.9

A5 172 46.4 132 35.6 15.4 12 57 3.2 19 5.1

A6 142 38.3 187 50.4 9.4 6 35 1.6 8 2.2

41

A7 96 25.9 170 45.8 22.6 12 84 3.2 19 5.1

A8 110 29.6 151 40.7 74 19.9 16 4.3 5 1.3

Từ kết quả khảo sát ở bảng 2.6 cho phép người nghiên cứu rút ra một số nhận

xét mang tính khái quát sau:

Tất cả các ảnh hưởng tiêu cực đưa ra đều được đa số sinh viên đồng ý (TB =

4.15, min = 1, max = 5, độ lệch chuẩn = 0.92)

Sự nhận định của sinh viên về các ảnh hưởng tiêu cực khi việc lạm dụng rượu,

bia đối với sức khỏe và đời sống con người không có sự chênh lệch lớn. Trong đó,

các ảnh hưởng như: “gây mất an toàn khi tham gia giao thông”, “nguyên nhân gây ra

xung đột và bạo hành gia đình”, “lãng phí tiền bạc và thời gian” được sinh viên cho là

có tác động tiêu cực nhiều nhất đến đời sống của con người. Gần như 100% sinh viên

(98.7% rất đồng ý & đồng ý) cho rằng lạm dụng rượu bia gây “mất an toàn khi tham

gia giao thông”. Rượu bia là chất kích thích, khi dung nạp dù ít hay nhiều đều dẫn

đến các rối loạn về tâm thần. Mức độ nhẹ làm ngưỡng cảm giác, cảm nhận giảm,

phản ứng chậm, tư duy logic giảm sút, gặp khó khăn trong phán đoán tình hình...

Mức trung bình làm bệnh nhân đãng trí, tri giác thiếu chính xác... Mức độ nặng gây

ra trạng thái choáng váng, không làm chủ được hành vi. Các mức độ rối loạn như trên

đều ảnh hưởng đến khả năng điều khiển và làm chủ các phương tiện khi tham gia

giao thông của người sử dụng rượu bia. Vì vậy để đảm bảo an toàn cho bản thân và

những người xung quanh khi tham gia điều khiển các phương tiện giao thông, tuyệt

đối không nên sử dụng rượu bia. Chúng ta thấy kết quả thống kê này là hoàn toàn hợp

lí khi các phương tiện thông tin đại chúng như truyền hình, báo chí, mạng

internet…thường xuyên cập nhật các tin tức liên quan đến tai nạn giao thông do

người điều khiển có sử dụng rượu, bia gây ra. Theo số liệu của Uỷ ban An Toàn Giao

Thông quốc gia, năm 2011 cả nước xảy ra 12.441 vụ tai nạn giao thông, làm chết

10.543 người và làm bị thương 9.671 người. Lạm dụng rượu bia là một trong những

nguyên nhân chủ yếu gấy tai nạn giao thông. Theo báo cáo, có khoảng gần 8% các vụ

42

tai nạn giao thông liên quan trực tiếp đến việc lạm dụng rượu, bia.

88.7% sinh viên đại học trên địa bàn TP HCM “rất đồng ý” & “đồng ý” rằng

lạm dụng rượu bia là “nguyên nhân gia tăng các hành vi phạm tội” và 82% sinh viên

cho rằng “rượu bia là nguyên nhân gây ra xung đột và bạo hành gia đình”. Nhận định

này phù hợp với số liệu trong một công bố tại hội thảo liên quan đến an toàn giao

thông do Uỷ ban An Toàn Giao Thông quốc gia tổ chức cuối năm 2011, số liệu công

bố cho thấy tại Việt Nam, 60% bạo lực gia đình xuất phát từ say rượu, ngộ độc rượu

bia, chiếm gần 22% các loại ngộ độc; 7% số bệnh nhân tâm thần xuất phát từ rượu

bia... Bạo lực gia đình do các ông chồng nghiện bia rượu ngày càng nghiêm trọng, tội

ác giết người cũng có từ nguyên nhân này. Nhiều gia đình tan nát, nhiều người chồng

phải vào tù vì bia, rượu. Ngoài ra, các vụ án đâm chém, giết người do say xỉn thường

xảy ra. Trong hàng quán, trên đường phố, các "đệ tử Lưu Linh" sẵn sàng gây sự hành

hung người khác, hoặc chém giết nhau chỉ vì lên cơn say không kiểm soát được hành

vi. Ở các tòa án, không ít các vụ án hình sự mà bị cáo gây án mạng hoặc có hành vi

phạm tội khác do bia rượu.

Nhận định “lạm dụng rượu bia gây lãng phí về tiền bạc và thời gian” được

84.9% sinh viên ủng hộ (rất đồng ý & đồng ý), đây là một vấn đề rõ ràng vì chúng ta

có thể quan sát thấy hằng ngày tại các quán ăn nhậu, thậm chí ngay tại gia đình, sau

các buổi làm việc, đặc biệt là dịp lễ tết và ngày nghỉ, người Việt có thói quen “lai rai”

với người thân và bạn bè. Các báo cáo của Bộ y tế cũng cho thấy ngoài việc mất an

toàn khi tham gia giao thông, gây tổn hại nghiêm trọng đến sức khỏe và tài chính cá

nhân thì việc lạm dụng rượu bia sẽ gây tổn hại lớn về kinh tế cho xã hội do chi phí

hàng năm chi cho công tác xử lí các hậu quả của việc lạm dụng rượu bia khá cao.

Theo số liệu của Bộ Công thương công bố tháng 7 năm 2012, mức tiêu thụ bia bình

quân đầu người của Việt Nam năm 2010 là 30.3 lít, gấp 2 lần số lượng tiêu thụ năm

2006. Theo ước tính, Việt Nam mỗi năm tiêu tốn 291.72 triệu USD vào bia, rượu.

Thêm vào đó, đa số sinh viên cũng nhất trí rằng lạm dụng rượu bia dẫn tới

những hậu quả khôn lường về sức khỏe như: gây thoái hóa não bộ (75.8% rất đồng ý

43

& đồng ý), làm tổn thương các bộ phận trong cơ thể (83.0% rất đồng ý & đồng ý), là

một nguyên nhân gây thoái hóa giống nòi (71.7% rất đồng ý & đồng ý) và gây nguy

cơ ung thư cao hơn bình thường (70.3% rất đồng ý & đồng ý). Như chúng ta đã biết,

lạm dụng rượu, bia là nguyên nhân của hơn 60 loại bệnh tật, đừng hàng thứ 3 trong số

các nguyên nhân dẫn đến tử vong sớm và tàn tật trên thế giới. Theo ước tính của Tổ

chứ Y tế thế giới, lạm dụng rượu bia gây ra 4% trường hợp tử vong và 4.65 % tổng

gánh nặng bệnh tật toàn cầu. việc lạm dụng rượu ngày càng tăng vì vậy rượu bộc lộ

rất nhiều những tác dụng xấu:các bệnh lí về tim mạch, hô hấp, tiêu hóa, và đặc biệt

chúng ta xem xét về mặt tâm thần. Rượu bia tác dụng rất lớn về mặt tâm thần, nó tác

dụng lên hệ thống thần kinh trung ương với nhiều cơ chế: Rượu bia làm teo mô não,

ức chế hệ thần kinh trung ương, phá hủy tế bào não. Rượu bia gây trở ngại cho việc

thông tin giữa các tế bào thần kinh do tương tác lên các receptor của các tế bào thần

kinh, thúc đẩy ức chế chất dẫn truyền thần kinh GABA và glutamine làm cho cơ thể

trở nên uể oải và đờ đẫn. Thường xuyên đưa một lượng cồn vào bên trong cơ thể có

thể để lại những tổn thương vĩnh viễn không thể phục hồi. Não bộ có thể bị suy giảm

kích thước và dẫn tới những thiếu hụt trong các sợi thần kinh, nơi vận chuyển thông

tin giữa các tế bào não. Như vậy rượu ảnh hưởng rất lớn tới thần kinh và các hoạt

động tâm thần, khi lạm dụng rượu có thể gây nhiều tác hại nguy hiểm. Uống quá

nhiều rượu làm tổn hại sức khỏe của chúng ta. Cồn rượu phá hủy gan, thận, tim…

Gan là cơ quan dễ chịu tổn hại do tác dụng của rượu nhất bởi vì đây là nơi rượu và

các chất độc khác được chuyển hóa. Uống rượu trong thời gian dài có thể dẫn tới

viêm gan. Có tới 70% những người bị viêm gan do rượu bị xơ gan. Khi gan trở nên

xơ hóa, các mô gan khỏe mạnh sẽ bị thay thể bởi các mô sẹo, làm gan không thể hoạt

động được như chức năng vốn có; Dạ dày: rượu gây kích thích niêm mạc dạ dày và

ruột, gây ra hiện tượng nôn mửa, cảm giác buồn nôn và cuối cùng dẫn đến loét dạ

dày; Tụy: Tuyến tụy tiết ra kích thích tố insulin và glucagon, quy định cách thức ăn

được chia nhỏ và được sử dụng để cấp năng lượng của cơ thể. Uống rượu lâu dài có

thể dẫn đến viêm tuyến tụy; Ung thư: Nghiên cứu chỉ ra rằng uống lâu dài làm tăng

44

nguy cơ ung thư miệng, thanh quản, cổ họng và thực quả. Bên cạnh đó Rượu là đặc

biệt nguy hiểm đối với thai nhi, có thể dẫn đến hội chứng hội chứng thai nhi nghiện

rượu, nguyên nhân số một gây ra suy giảm trí tuệ ở trẻ. Khi em bé được tiếp xúc với

rượu trong bụng mẹ ở bất kỳ giai đoạn nào của thai kỳ, chúng sẽ gặp nhiều khó khăn

sau này về khả năng học tập, trí nhớ và sự tập trung bởi vì rượu xâm nhập vào tử

cung làm, làm suy yếu sự phát triển của một số cấu trúc trong não, hạch nền, tiểu

não…Các chuyên gia y tế khuyến cáo rằng phụ nữ mang thai nên tránh uống rượu

trong thời kỳ mang bầu.

Theo kết quả thống kê từ bảng 2.6, chúng ta thấy rằng không phải tất cả sinh

viên đều đồng ý với các ảnh hưởng tiêu cực được nêu ra, đáng chú ý là có 5.1% sinh

viên hoàn toàn không cho rằng lạm dụng rượu bia là “một trong những nguyên nhân

gây xung đột và bạo hành gia đình”, 5.1% sinh viên cũng cho rằng lạm dụng rượu bia

không phải là “nguyên nhân gây suy thoái giống nòi”, 4.3% sinh viên không đồng ý

rằng “uống rượu bia gây nguy cơ ung thư cao hơn bình thường”. Khá nhiều sinh viên

tỏ ra phân vân khi cho biết ý kiến đánh giá của mình về các ảnh hưởng tiêu cực của

việc lạm dụng rượu bia. Cụ thể, có 22.4% sinh viên phân vân trước nhận định lạm

dụng rượu bia “gây lãng phí tiền bạc và thời gian”, 22,6% sinh viên phân vân trước

nhận định lạm dụng rượu bia “gây suy thoái giống nòi”, 19.9% sinh viên phân vân

trước nhận định “uống rượu bia gây nguy cơ ung thư cao hơn bình thường”, 17% sinh

viên phân vân trước nhận định lạm dụng rượu bia gây thoái hóa não bộ, 15.4% sinh

viên phân vân trước nhận định lạm dụng rượu bia là “nguyên nhân gây ra xung đột và

bạo hành gia đình”, 9.4% sinh viên phân vân trước nhận định lạm dụng rượu bia “là

nguyên nhân gia tăng hành vi phạm tội”. Đặc biệt, 5 sinh viên (chiếm 1.3%) phân vân

với nhận định lạm dụng rượu bia “gây mất an toàn khi tham gia giao thông”. Đây là

những con số đáng để lưu tâm.

Tóm lại: Hầu hết sinh viên đại học trên địa bàn TP HCM nhận thức về các ảnh

hưởng tiêu cực của việc lạm dụng rượu, bia một cách rõ ràng. Đây là một kết quả

đáng mừng, chứng tỏ sinh viên thường xuyên cập nhật các thông tin liên quan đến

45

hậu quả của việc lạm dụng rượu, bia. Tuy nhiên, theo kết quả khảo sát thu được ở các

mục “phân vân”, “không đồng ý” & “hoàn toàn không đồng ý” trong bảng 2.6 chúng ta

thấy vẫn còn những con số đáng quan tâm.

So sánh nhận thức về tác hại của hành vi lạm dụng rượu bia giữa các nhóm

khách thể.

Bảng 2.7. So sánh nhận thức của sinh viên các trường về tác hại

của việc lạm dụng rượu bia

Trường

Ảnh hưởng ĐH ĐHTDTT ĐHCN tiêu cực LĐ-XH

TB ĐLC TB ĐLC TB ĐLC

A1 4.68 0.69 4.81 0.41 4.78 0.41

A2 3.88 0.94 4.05 0.84 4.01 0.90

A3 4.01 0.96 4.13 0.82 4.14 0.87

A4 4.32 0.90 4.34 0.82 4.46 0.80

A5 3.92 1.17 4.14 1.02 4.07 0.99

A6 4.08 0.93 4.25 0.80 4.19 0.7

A7 3.78 1.0 3.73 1.04 3.87 0.94

A8 3.98 0.94 3.93 0.94 4.13 0.83

Người nghiên cứu nhận thấy sinh viên trường ĐH LĐ-XH có xu hướng đồng ý

nhiều hơn sinh viên hai trường còn lại đối với các tác hại được đưa ra khảo sát (TB =

4.20), sau đó tới sinh viên trường ĐH CN (TB = 4.17), cuối cùng là sinh viên ĐH

TDTT (TB = 4.08). Kết quả thống kê bảng 2.7 cho thấy: những nhận định về tác hại

của việc lạm dụng rượu bia được các sinh viên của cả ba trường đồng ý nhiều nhất là:

“mất an toàn khi tham gia giao thông”, “tổn thương các cơ quan trong cơ thể”,

“nguyên nhân gia tăng các hành vi pham tội”. Ngược lại, nhận định được các sinh

viên của cả ba trường “không đồng ý” nhiều nhất là “lạm dụng rượu bia là một

46

nguyên nhân gây suy thoái giống nòi”.

Điểm trung bình của sinh viên ĐH TDTT ở hầu hết các tác hại đều nhỏ hơn so

với điểm trung bình của sinh viên ĐH CN & ĐH LĐ-XH. Điều này chứng tỏ có

nhiều sinh viên ĐH TDTT sẽ “phân vân”, “không đồng ý” với các tác hại của việc

lạm dụng rượu bia hơn 2 trường còn lại.

So sánh giữa trường ĐHCN và ĐH LĐ-XH, chúng ta thấy rằng đối với các tác

hại A8, A7 và A4 nhiều sinh viên ĐH LĐ-XH có xu hướng “đồng ý” và “rất đồng ý”

hơn sinh viên ĐH CN. Ngược lại, đối với các tác hại A1, A5, A6 thì nhiều sinh viên

ĐH CN lại có xu hướng “đồng ý” & “rất đồng ý” hơn.

Trước tất cả các nhận định thì sinh viên trường ĐH LĐ-XH tỏ ra ít phân vân

hơn nhiều so với sinh viên hai trường còn lại (xem Bảng 2.8).

Bảng 2.8. So sánh mức độ “phân vân” của sinh viên trước các nhận định về tác

động tiêu cực của việc lạm dụng rượu bia.

Trường

ĐHTDTT ĐHCN ĐH LĐ - XH Ảnh hưởng tiêu cực SL % SL % SL %

A1 1 0.7% 1 0.8% 0 0.0%

A2 31 21.7% 29 23.2% 23 22.3%

A3 23 16.1% 29 23.2% 11 10.7%

A4 12 8.4% 10 8.0% 5 4.9%

A5 25 17.5% 15 12.0% 17 16.5%

A6 17 11.9% 10 8.0% 8 7.8%

A7 32 22.4% 35 28.0% 17 16.5%

A8 28 19.6% 32 25.6% 14 13.6%

Phân vân mang tính trung gian, tức là không ủng hộ và cũng không phản đối do

đó mức độ này thể hiện sự nghi ngờ hoặc chưa chắc chắn về một nhận định nào đó.

47

Mức độ phân vân cho thấy kiến thức của một số sinh viên về ảnh hưởng tiêu cực của

rượu bia còn chưa rõ ràng. Đáng lưu ý là ở một số ảnh hưởng được đưa ra khảo sát

(A2, A7, A8) thì tỉ lệ sinh viên lựa chọn mức độ “phân vân” khá cao.

2.2.2.2. Nhận thức về tính chất của rượu, bia.

Kết quả nhận thức chung về tính chất của rượu, bia

Bảng 2.9. Nhận thức về tính chất của rượu, bia

Trường TB Độ lệch chuẩn

ĐH TDTT 3.28 1.31

ĐH CN 3.22 1.30

ĐH LĐ-XH 3.33 1.23

Chú thích:

T1. Uống rượu, bia chỉ gây ức chế hoạt động của hệ thần kinh chứ không làm

chết các tế bào thần kinh

T2. Sử dụng nhiều rượu/ bia thường xuyên sẽ làm con người lệ thuộc vào rượu/

bia

T3. Uống nhiều rượu/ bia sẽ cung cấp cho cơ thể nhiều nước

T4. Nồng độ cồn trong rượu, bia càng thấp thì cơ thể càng dễ hấp thụ

T5. Say rượu, bia chính là tình trạng ngộ độc cồn

T6. Bia không có khả năng gây nghiện như rượu

T7. Chỉ sử dụng rượu/ bia giả kém chất lượng mới bị ung thư gan và dạ dày

T8. Các loại rượu, bia nấu thủ công không đảm bảo chất lượng do người nấu sử

dụng các loại men ủ bán đại trà không rõ thành phần và xuất xứ

T9. Một số loại rượu, bia đang bán trên thị trường được pha chế trực tiếp từ

cồn công nghiệp và các hóa chất độc hại với giá rẻ

T10. Sử dụng rượu/ bia càng sớm con người càng dễ bị lệ thuộc vào rượu/ bia

hơn

T11. Người có cha (mẹ) lạm dụng rượu/ bia sẽ có nguy cơ nghiện cao hơn

48

Bảng 2.10. Tỉ lệ sinh viên đồng ý với các nhận định về tính chất

của rượu bia

Mức độ đồng ý Tính

chất

của 5 đ % 4 đ % 3đ % 2đ % 1đ % rượu

bia

T1 159 42.9% 30 8.1% 21% 65 17.5% 39 10.5% 79

T2 154 41.5% 130 35% 12% 33 8.9% 11 3.0% 43

T3 34 9.2% 13 3.5% 18% 143 38.5% 114 30.7% 67

T4 99 26.7% 30 8.1% 154 42% 61 16.4% 26 7.0%

T5 167 45.0% 75 20.2% 48 13% 52 14.0% 24 6.5%

T6 101 27.2% 27 7.3% 25% 81 21.8% 69 18.6% 92

T7 56 15.1% 33 8.9% 14% 113 30.5% 117 31.5% 53

T8 137 36.9% 84 22.6% 63 17% 56 15.1% 30 8.1%

T9 166 44.7% 163 43.9% 18 5% 11 3.0% 13 3.5%

T10 152 41.0% 121 32.6% 61 16% 27 7.3% 10 2.7%

T11 124 33.4% 45 12.1% 83 22% 69 18.6% 50 13.5%

Theo kết quả thống kê ở bảng 2.10 cho thấy sinh viên có xu hướng đồng ý với

đa số các tính chất của rượu/ bia được nêu ra. Trong 11 nhận định được đưa ra thì các

nhận định T1, T3, T4, T6 &T7 có nội dung ngược với tính chất thật của rượu/ bia,

các nhận định còn lại phù hợp với kết quả nghiên cứu về rượu/ bia của các nhà khoa

học.

- Những nhận định về tính chất của rượu/ bia được sinh viên đồng tình ủng hộ

cao gồm: “Một số loại rượu, bia đang bán trên thị trường được pha chế trực tiếp từ

cồn công nghiệp và các hóa chất độc hại với giá rẻ” (chiếm 88.6% sinh viên rất đồng

ý & đồng ý), “Sử dụng nhiều rượu/ bia thường xuyên sẽ làm con người lệ thuộc vào

rượu/ bia” (chiếm 76.5% sinh viên rất đồng ý & đồng ý), " Sử dụng rượu/ bia càng

49

sớm con người càng dễ bị lệ thuộc vào rượu/ bia hơn” (chiếm 72.6% sinh viên rất

đồng ý & đồng ý), “Say rượu, bia chính là tình trạng ngộ độc cồn” (chiếm 65.2% sinh

viên rất đồng ý & đồng ý), “Các loại rượu, bia nấu thủ công không đảm bảo chất

lượng do người nấu sử dụng các loại men ủ bán đại trà không rõ thành phần và xuất

xứ” (chiếm 59.5% sinh viên rất đồng ý & đồng ý). Ngược lại, những nhận định về

tính chất của rượu bia có nhiều sinh viên không đồng tình ủng hộ gồm: “Uống nhiều

rượu/ bia sẽ cung cấp cho cơ thể nhiều nước” (chiếm 69.2% sinh viên hoàn toàn

không đồng ý & không đồng ý), “Chỉ sử dụng rượu/ bia giả kém chất lượng mới bị

ung thư gan và dạ dày” (chiếm 62% sinh viên hoàn toàn không đồng ý & không đồng

ý).

- Xét riêng số liệu thống kê cho từng nhận định thì có sự bất ngờ thú vị. Trong

khi 51% sinh viên rất đồng ý & đồng ý rằng “Uống rượu, bia chỉ gây ức chế hoạt

động của hệ thần kinh chứ không làm chết các tế bào thần kinh” , thì chỉ có 28% sinh

viên phản đối nhận định này. Còn lại 21% sinh viên tỏ ra phân vân. Thực tế, các

nghiên cứu khoa học đã chỉ ra rằng rượu bia giết chết tế bào não rất nhanh. Kết quả

nghiên cứu của Trường ĐH Y khoa Heidelberg, Đức cho thấy, chỉ cần 6 phút sau khi

uống rượu, các tế bào não đã bắt đầu bị tiêu diệt. Chất kích thích trong rượu bia còn

tác động trực tiếp lên hệ thần kinh, gây nên tình trạng rối loạn cảm xúc, hành vi.

Người nghiện rượu sức khoẻ tâm thần thường sa sút với những biểu hiện như giảm trí

nhớ, loạn thần, ảo giác, lo âu. Kết quả thống kê này có thể được giải thích do kiến

thức về rượu bia chưa được đưa vào môi trường học tập của học sinh, sinh viên. Các

loại hình truyền thông hay chỉ ra các tác hại của rượu bia với con người, nhưng đó là

các tác hại có thể nhìn thấy trực tiếp còn những tác hại ngầm như rượu bia giết chết

các tế bào thần kinh ngay sau khi uống thì ít người biết đến.

- Ngoài 76.5% sinh viên nhất trí (rất đồng ý & đồng ý) với nhận định “Sử dụng

nhiều rượu/ bia thường xuyên sẽ làm con người lệ thuộc vào rượu/ bia”, thì vẫn có

11.9% sinh viên phản đối và 11.6% sinh viên phân vân trước nhận định đó. Đây là

một con số đáng quan tâm vì 23.5% (= 11.9% + 11.6%) tức là gần 1/ 4 số sinh viên

không biết rõ rằng rượu bia có tính chất gây nghiện, khi sử dụng nhiều và thường

50

xuyên thì con người sẽ bị lệ thuộc vào rượu, bia. Tương tự,vẫn còn 26.4% sinh viên

(10% sinh viên không đồng ý và 16.4% sinh viên phân vân) không biết rõ rằng “Sử

dụng rượu bia càng sớm con người càng dễ bị lệ thộc vào rượu bia hơn”.

- Mặc dù rượu, bia là chất lỏng nhưng uống nhiều rượu bia không những không

cung cấp nước cho cơ thể mà còn làm cơ thể mất nước, do chất cồn có trong rượu bia

sẽ khóa chặt các chất chống khử nước trong cơ thể, biểu hiện dễ thấy nhất là chúng ta

đi tiểu nhiều hơn sau khi uống rượu hoặc bia, nhiều người nhầm tưởng có biểu hiện

này là do rượu bia bổ sung cho cơ thể nhiều nước. Đó có thể là lí do vẫn có 12.7%

sinh viên đồng ý là “Uống nhiều rượu bia sẽ cung cấp cho cơ thể nhiều nước, và

18,1% sinh viên phân vân trước nhận định trên.

- Đối với nhận định “Nồng độ cồn trong rượu bia càng thấp thì cơ thể càng dễ

hấp thụ” có 34.8% sinh viên ủng hộ (rất đồng ý & đồng ý), 23,4% sinh viên phản đối,

còn lại 41.5% sinh viên tỏ ra phân vân. Điều này có thể giải thích do sinh viên nghĩ

rằng rượu bia càng nhẹ độ (nồng độ cồn thấp) thì càng dễ uống tức là càng dễ hấp

thụ. Thực tế, các công trình nghiên cứu chỉ ra rằng nồng độ cồn càng cao thì cơ càng

dễ hấp thụ vào cơ thể người uống. Khi bạn uống một cốc rượu, khoảng 20 % lượng

cồn sẽ bị hấp thụ vào dạ dày, 80% còn lại bị hấp thụ bên trong ruột non. Rượu được

hấp thu nhanh như thế nào phụ thuộc vào nồng độ của rượu trong thức uống (vodka

sẽ được hấp thụ nhanh hơn so với bia, vì vodka có nồng độ cồn cao hơn) và tình trạng

dạ dày của bạn.

- Ngược lại với 65.2% sinh viên rất đồng ý & đồng ý “Say rượu bia chính là

tình trạng ngộ độc cồn” thì có 20.5% sinh viên không đồng ý và 12.9% sinh viên băn

khoăn trước nhận định trên. Đây cũng là con số đáng quan tâm.

- 34.5% sinh viên rất dồng ý & đồng ý cho rằng “Bia không có khả năng gây

nghiện như rượu”, 24.8% sinh viên băn khoăn trước nhận định trên. Sở dĩ có kết quả

trên vì thông thường chúng ta quen thộc với cụm từ “nghiện rượu” vì thế sinh viên

cho rằng chỉ rượu mới gây nghiện. Tuy nhiên, chất gây nghiện ở đây là cồn vì thế bia

cũng có khả năng gây nghiện, nhưng do nồng độ cồn trong bia thấp hơn rượu rất

51

nhiều nên tác động gây nghiện cũng chậm hơn và lâu hơn nhiều.

- 24% sinh viên rất đồng ý & đồng ý cho rằng “chỉ sử dụng rượu bia giả kém

chất lượng mới bị ung thư gan và dạ dày”. Thực tế, thành phần chính trong rượu bia

là cồn có tác động trực tiếp lên hoạt động sinh hóa của các cơ quan trong cơ thể, cản

trở hoạt động bình thường của chúng dẫn đến các rối loạn và bệnh tật. Vì thế không

chỉ rượu bia giả mới gây hại mà dùng rượu bia thật với liều lượng cao cũng bị các

loại bệnh trên.

- Theo kết quả thống kê, có 23.2% sinh viên không đồng ý và 17.0% sinh viên

phân vân với nhận định “Các loại rượu, bia nấu thủ công không đảm bảo chất lượng

do người nấu sử dụng các loại men ủ bán đại trà không rõ thành phần và xuất xứ”.

Điều này có thể giải thích do thói quen sử dụng rượu tự nấu đã có từ lâu đời của

người Việt, đây là loại rượu người dân nấu theo kinh nghiệm, không thông qua kiểm

định về quy trình ủ và nấu. Chúng ta thấy rằng thị trường rượu bia đa dạng phong phú

về mặt số lượng và chất lượng, góp phần không nhỏ trong đó là rượu bia nấu thủ

công có giá rẻ hơn các sản phẩm có thương hiệu. Tuy nhiên, nguyên liệu nấu rượu

trước đây được làm từ các sản phẩm tự nhiên không có các chất hóa học độc hại như

bây giờ, hiện nay các loại men ủ thì được bán đại trà nhưng không ít loại có thành

phần và xuất xứ không rõ ràng, vì thế các cơ quan chức năng khuyến cáo nên hạn chế

sử dụng loại rượu bia này.

- Có 32.1% sinh viên hoàn toàn không & không đồng ý, 22.4% sinh viên phân

vân, 45.5% sinh viên rất đồng ý & đồng ý với nhận định “Người có cha (mẹ) lạm

dụng rượu bia sẽ có nguy cơ nghiện rượu bia cao hơn”.

Tóm lại: Kết quả thống kê cho thấy nhận thức của sinh viên về các tính chất

của rượu bia còn khá mơ hồ và phiến diện, hầu hết kiến thức của sinh viên về tác

động của rượu bia đối với cơ thể con người còn mang tính chất kinh nghiệm. Điều

này chứng tỏ sinh viên thường xuyên sử dụng đồ uống này nhưng họ lại không mấy

quan tâm tìm hiểu để trang bị cho mình các kiến thức về rượu bia nhằm phòng tránh

các tác hại của nó một cách khoa học khi sử dụng.

52

So sánh giữa các nhóm khách thể về nhận thức tính chất của rượu bia

Bảng 2.11. So sánh nhận thức của sinh viên giữa các trường

về tính chất của rượu bia

Trường

ĐHTDTT ĐHCN Tính chất của rượu bia ĐH LĐ-XH

TB ĐLC TB

T1 T2 T3 T4 T5 T6 T7 T8 T9 T10 T11 3.33 3.96 2.08 3.19 3.53 2.85 2.40 3.45 4.21 3.97 3.12 3.31 3.95 2.21 3.23 3.60 2.90 2.50 3.52 4.21 3.95 3.20 1.11 1.10 1.04 0.99 1.28 1.22 1.27 1.27 0.99 1.03 1.29 ĐLC TB 1.17 0.99 1.10 1.01 1.21 1.24 1.29 1.16 0.86 1.03 1.28 ĐLC 1.11 1.04 1.09 1.03 1.10 1.18 1.36 1.28 1.01 0.96 1.17

2.99 3.99 2.22 2.96 3.54 2.70 2.29 3.54 4.24 3.89 3.02 Từ kết quả thống kê ở bảng 2.10 và 2.11 cho phép người nghiên cứu rút ra một

số nhận xét mang tính khái quát sau:

Trường ĐH LĐ-XH có nhiều sinh viên đồng tình với các tính chất của rượu bia

được đưa ra khảo sát hơn hai trường còn lại (TB = 3.33), tiếp theo là ĐH TDTT (TB

= 2.28), cuối cùng là ĐH CN (TB = 2.22)

Xét từng nhận định thì chúng ta sẽ thấy rõ hơn một số khác biệt. Đối với các

nhận định T2 (Sử dụng nhiều rượu/ bia thường xuyên sẽ làm con người lệ thuộc vào

rượu/ bia), và T9 (Một số loại rượu, bia đang bán trên thị trường được pha chế trực

tiếp từ cồn công nghiệp và các hóa chất độc hại với giá rẻ) chúng ta nhận thấy điểm

trung bình của sinh viên 3 trường không có sự chênh lệch đáng kể.

Ngược lại, ở các nhận định: T1 (Uống rượu, bia chỉ gây ức chế hoạt động của

hệ thần kinh chứ không làm chết các tế bào thần kinh), T4 (Nồng độ cồn trong rượu,

bia càng thấp thì cơ thể càng dễ hấp thụ), T6 (Bia không có khả năng gây nghiện như

rượu), T7 (Chỉ sử dụng rượu/ bia giả kém chất lượng mới bị ung thư gan và dạ dày),

T10 (Sử dụng rượu/ bia càng sớm thì con người càng dễ lệ thuộc vào rượu/ bia hơn),

53

T11 (Người có cha (mẹ) lạm dụng rượu/ bia sẽ có nguy cơ nghiện rượu/ bia cao hơn)

thì điểm trung bình của sinh viên trường ĐH CN thấp hơn hẳn so với điểm trung bình

của sinh viên ĐH TDTT và ĐH LĐ-XH. Điều này chứng tỏ nhiều sinh viên của ĐH

CN có xu hướng không đồng tình hơn với các nhận định này.

Ở nhận định T3 (Uống nhiều rượu bia sẽ cung cấp cho cơ thể nhiều nước) &

T8 (Các loại rượu, bia nấu thủ công không đảm bảo chất lượng do người nấu sử dụng

các loại men ủ bán đại trà không rõ thành phần và xuất xứ) thì điểm trung bình của

sinh viên ĐH TDTT thấp hơn hẳn điểm trung bình của sinh viên hai trường còn lại.

Điều đó cho thấy nhiều sinh viên ĐH TDTT có xu hướng phản đối 2 nhận định trên

hơn, tức là nhiều sinh viên TDTT biết rằng uống rượu bia sẽ làm cơ thể mất nước,

nhưng cũng không ít bạn cho rằng nhận định “Các loại rượu, bia nấu thủ công không

đảm bảo chất lượng do người nấu sử dụng các loại men ủ bán đại trà không rõ thành

phần và xuất xứ” là chưa thật hợp lí.

Các nhận định T4 (Nồng độ cồn trong rượu, bia càng thấp thì cơ thể càng dễ

hấp thụ), T5 (Say rượu bia chính là tình trạng ngộ độc cồn), T7 (Chỉ sử dụng rượu/

bia giả kém chất lượng mới bị ung thư gan và dạ dày), T11 (Người có cha (mẹ) lạm

dụng rượu/ bia sẽ có nguy cơ nghiện rượu/ bia cao hơn) chúng ta thấy rằng điểm

trung bình của trường ĐH LĐ-XH cao hơn khá nhiều so với điểm trung bình của 2

trường còn lại. Chứng tỏ so với ĐH TDTT & ĐH CN thì trường ĐH LĐ-XH có nhiều

sinh viên đồng tình cao hơn với các tính chất này.

2.2.2.3. Nhận thức về các phương pháp hạn chế tình trạng say rượu, bia

Kết quả chung về nhận thức các phương pháp hạn chế tình trạng say rượu bia

Bảng 2.12. Nhận thức về các phương pháp hạn chế tình trạng say rượu, bia

Trường Độ lệch chuẩn TB

ĐH TDTT 1.35 3.35

ĐH CN 1.28 3.41

ĐH LĐ-XH 1.38 3.38

Chú thích:

54

P1. Ăn no trước khi sử dụng rượu/ bia

P2. Không dùng nhiều loại rượu/ bia cùng lúc

P3. Uống nhiều nước khi sử dụng rượu/ bia

P4. Uống trà đặc hoặc café ngay sau khi sử dụng rượu/ bia

P5. Ăn nhiều rau xanh và trái cây khi sử dụng rượu/ bia

P6. Không pha trộn rượu/ bia với các loại đồ uống có ga

P7. Uống rượu/ bia chậm (nhâm nhi) sẽ lâu say hơn

P8. Không nên tắm ngay sau khi uống rượu/ bia

P9. Uống Paracetamol để chống say rượu/ bia

Bảng 2.13 : Tỉ lệ sinh viên đồng ý với các phương pháp hạn chế tình trạng say

rượu bia.

PP Mức độ đồng ý

hạn 5đ % 4đ % 3đ % 2đ % 1đ % chế

P1 84 22.6% 159 42.9% 62 16.7% 26 7.0% 40 10.8%

P2 159 42.9% 126 34.0% 54 14.6% 15 4.0% 17 4.6%

P3 71 19.1% 109 29.4% 86 23.2% 57 15.4% 48 12.9%

P4 26 7.0% 43 11.6% 95 25.6% 90 24.3% 116 31.3%

P5 75 20.2% 128 34.5% 100 27.0% 49 13.2% 18 4.9%

P6 164 44.2% 106 28.6% 44 11.9% 27 7.3% 30 8.1%

P7 65 17.5% 95 25.6% 105 28.3% 65 17.5% 41 11.1%

P8 181 48.8% 118 31.8% 40 10.8% 28 7.5% 5 1.3%

P9 16 4.3% 32 8.6% 77 20.8% 146 39.4% 98 26.4%

Theo kết quả thống kê bảng 2.12 chúng ta thấy rằng đa số sinh viên hiểu biết

về các biện pháp hạn chế tình trạng say rượu bia. Điều đáng mừng là sinh viên biết

phân biệt sự có lợi và có hại trong các biện pháp nêu ra.

Các biện pháp có ích như (P1) “ăn no trước khi uống rượu bia” vì khi bụng

đói, lượng axit trong dạ dày tăng lên, khi kết hợp với chất cồn trong rượu, bia sẽ làm

bạn dễ say hơn, kèm theo đó là cảm giác nôn nao, khó chịu. Vì vậy, vừa ăn, vừa uống 55

hay ăn một chút lót dạ trước khi uống rượu, bia là cách tốt nhất để đẩy lùi cơn say và

giảm bớt tác hại của rượu, bia với sức khỏe cơ thể; (P2) “không dùng nhiều loại rượu

bia cùng lúc” vì mỗi loại có thành phần và liều lượng khác nhau, khi uống lẫn lộn, sẽ

dễ làm say hơn; (P3) “uống nhiều nước khi sử dụng rượu bia”, việc này cũng giúp

đẩy nhanh quá trình đào thải chất cồn ra khỏi cơ thể qua đường tiểu tiện, làm bạn

không bị say khi uống rượu; (P5) “ăn nhiều rau xanh và trái cây khi sử dụng rượu

bia” vì r au xanh, hoa quả, đậu nành rất giàu vitamin và chất chống oxi hóa, giúp bảo

vệ gan và hạn chế tác hại của cồn trong rượu tới hoạt động của gan; (P6) “không pha

trộn rượu bia với các loại đồ uống có ga” vì nước uống có ga sẽ làm tăng nồng độ của

rượu bia; (P7) “uống rượu bia chậm sẽ lâu say hơn” uống rượu từ từ cũng là cách

giảm cơn say vì 1 lượng cồn lớn bất ngờ "đổ bộ" vào cơ thể trong thời gian ngắn sẽ

gây tác động nhanh, mạnh tới não bộ, có thể dẫn tới choáng và nhanh say hơn; (P8)

“không nên tắm ngay sau khi uống rượu bia” vì việc tắm ngay sau khi uống rượu sẽ

làm tiêu hao một lượng lớn đường glucose có trong cơ thể, từ đó làm giảm lượng

đường trong máu, dẫn tới hạ đường huyết đột ngột, giảm thân nhiệt có thể gây đột

quỵ, trụy tim mạch

Và các biện pháp gây tác dụng ngược như: (P4) “uống trà đặc hay café ngay

sau khi sử dụng rượu bia” vì trong trà có thành phần tanin kích thích nhanh hơn quá

trình thẩm thấu của cồn vào dạ dày và gây hại cho dạ dày nhiều hơn; (P9) “uống

paracetamol để chống say rượu bia” vì khi uống rượu nhiều rất dễ bị ngộ độc thuốc,

nhất là các thuốc có hại cho gan như paracetamol. Việc biết được các cách giảm thiểu

say rượu bia là cần thiết để bảo vệ sức khỏe của cá nhân trước tác hại của cồn trong

những tình huống buộc phải uống nhiều rượu bia. Những biện pháp đưa ra được

nhiều sinh viên ủng hộ được xếp loại theo bảng sau:

Phương pháp hạn chế Xếp loại

P1 4

56

P2 2

P3 6

P4 8

P5 5

P6 3

P7 7

P8 1

P9 9

Kết quả cho thấy các phương pháp hạn chế tình trạng say rượu bia được nhiều

sinh viên cho là hiệu quả nhất là: P8, P2, P6. Các phương pháp mà nhiều sinh viên ít

đồng tình nhất bao gồm P9, P4 & P7.

Tuy nhiên, ngoài đa số sinh viên biết phân biệt các biện pháp có lợi và có hại

trong số các biện pháp nêu ra để khảo sát, thì vẫn còn một số sinh viên không biết về

các biện pháp này. Điều đó được thể hiện trong số liệu thống kê ở mức “phân vân”,

“không đồng ý” của các phương pháp P1, P2, P3, P5, P6, P7, P8 và mức “rất đồng

ý”, “đồng ý”, “bình thường” của các phương pháp P4, P9.

So sánh nhận thức của sinh viên về các phương pháp hạn chế tình trạng say rượu

bia

Bảng 2.14. Điểm trung bình mức độ đồng ý của sinh viên với các phương pháp

hạn chế tình trạng say rượu bia.

Trường Phương

pháp hạn ĐH TDTT ĐH LĐ-XH ĐH CN

chế TB ĐLC ĐLC TB TB ĐLC

P1 3.63 1.20 1.22 3.57 3.58 1.25

P2 4.08 1.08 1.00 4.05 4.04 1.15

P3 3.16 1.29 1.19 3.38 3.26 1.39

P4 2.28 1.22 1.20 2.61 2.27 1.25

57

P5 3.45 1.09 1.13 3.52 3.60 1.10

P6 3.95 1.22 3.88 1.26 3.97 1.31

P7 3.22 1.25 3.13 1.18 3.30 1.27

P8 4.19 0.98 4.18 0.94 4.18 1.07

P9 2.20 1.11 2.32 1.06 2.23 1.04

So sánh điểm trung bình và độ lệch chuẩn chung của 3 trường (Bảng 2.14)

chúng ta thấy có sự khác biệt trong nhận thức của sinh viên 3 trường về phương pháp

hạn chế say rượu bia. Theo kết quả trên thì sinh viên ĐH CN có xu hướng đồng ý hơn

với các phương pháp hạn chế tình trạng say rượu bia được đưa ra khảo sát (TB =

3.41) và sự lựa chọn của sinh viên trường này cũng ít có sự biến thiên (ĐLC = 1.28)

hơn sinh viên hai trường ĐH TDTT (TB = 3.35, ĐLC = 1.35) & ĐH LĐ-XH (TB =

3.38, ĐLC = 1.38)

Cụ thể, khi xét riêng từng phương pháp trong bảng 2.14, chúng ta có thể rút ra

một số kết luận mang tính khái quát sau:

Sinh viên ĐH CN có điểm trung bình cao hơn khá nhiều so với sinh viên hai

trường ĐH TDTT & ĐH LĐ-XH ở các phương pháp (P3) Uống nhiều nước khi sử

dụng rượu/ bia (điểm trung bình ĐHCN = 3.38 , ĐH TDTT = 3.16 , ĐH LĐ-XH =

3.26 ); (P4) Uống trà đặc hoặc café ngay sau khi sử dụng rượu/ bia (điểm trung bình

ĐHCN = 2.61 , ĐH TDTT = 2.28 , ĐH LĐ-XH = 2.27); (P9) Uống Paracetamol để

chống say rượu/ bia (điểm trung bình ĐHCN = 2.32 , ĐH TDTT = 2.20 , ĐH LĐ-XH

= 2.23).

Đối với phương pháp (P1) Ăn no trước khi sử dụng rượu/ bia; (P2) Không

dùng nhiều loại rượu/ bia cùng lúc, chúng ta thấy có sự tương đồng trong nhận thức

của sinh viên hai trường ĐH CN & ĐH LĐ-XH, chỉ có nhận thức của sinh viên

trường ĐH TDTT có sự khác biệt hơn. Có sự chênh lệch khá rõ ràng trong nhận thức

của sinh viên 3 trường ở các phương pháp (P5) Ăn nhiều rau xanh và trái cây khi sử

dụng rượu/ bia; (P7) Uống rượu/ bia chậm sẽ lâu say hơn.

Riêng phương pháp (P8) Không nên tắm ngay sau khi uống rượu/ bia thì không

58

có sự khác biệt đáng kể trong nhận thức của sinh viên 3 trường trên.

2.2.3. Thái độ của sinh viên đối với vấn đề sử dụng rượu bia.

Kết quả chung về thái độ - tình cảm của sinh viên đối với vấn đề sử dụng

rượu bia

Thái độ là một biểu hiện của động cơ, sau nhận thức. Thái độ chính là mặt tình

cảm của con người, nó cho thấy cá nhân đồng tình hay phản đối, hoặc nhận định thế

nào về một vấn đề.

Bảng 2.15. Thái độ của sinh viên đối với vấn đề sử dụng rượu bia.

Mức độ SL %

Rất cần thiết 3 0.8%

Khá cần thiết 39 10.5%

Bình thường 186 50.1%

Không cần thiết 122 32.9%

Hoàn toàn không cần thiết 21 5.7%

Thực tế, sử dụng rượu bia là vấn đề có từ lâu đời, rượu bia còn tồn tại cho tới

ngày nay và có xu hướng phát triển mạnh mẽ hơn chứng tỏ nó có một giá trị sử dụng

nhất định trong đời sống của xã hội. Chúng ta biết rằng kinh tế phát triển, đời sống

khấm khá và dân số trẻ là điều kiện để phát triển ngành rượu bia. Theo các báo cáo,

lượng rượu bia tiêu thụ của thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng có xu hướng

tăng mạnh, điều này cho thấy nhu cầu sử dụng rượu bia của người dân cũng tăng lên

đáng kể, rượu bia trở thành một phương tiện thông dụng nhằm phục vụ cho các mục

đích giao tiếp trong xã hội. Tuy nhiên, kéo theo đó là các hệ lụy về mặt sức khỏe, an

toàn giao thông, bạo hành… do sử dụng quá nhiều rượu bia gây ra. Các vấn đề này là

sự nhức nhối cho xã hội, gây đau đầu cho các cơ quan chức năng. Chính vì vậy mặc

dù số lượng rượu bia tiêu thụ hàng năm tăng cao, nhưng vì những tác hại to lớn mà

nó gây ra nên con người vẫn có xu hướng không đồng tình với việc sử dụng loại đồ

59

uống này.

Kết quả thống kê ở bảng 2.15 cho thấy đa số sinh viên cho rằng sử dụng rượu

bia là “khá cần thiết”, “bình thường” & “không cần thiết”. Trong đó, số sinh viên cho

biết mức độ cần thiết của việc sử dụng rượu bia là “bình thường” chiếm tỉ lệ cao nhất.

Tỉ lệ sinh viên cho rằng uống rượu bia là “không cần thiết” cao thứ 2. Mức độ “khá

cần thiết” chiếm tỉ lệ sinh viên cao thứ 3, sau đó là tỉ lệ sinh viên cho rằng sử dụng

rượu bia là “hoàn toàn không cần thiết” cao thứ tư. Cuối cùng, mức độ “rất cần thiết”

có tỉ lệ sinh viên lựa chọn rất ít. Theo kết quả này chúng ta có thể thấy rằng ít sinh

viên đánh giá cao mức độ cần thiết của việc sử dụng rượu bia, nhưng ngược lại cũng

không có nhiều sinh viên cho rằng sử dụng rượu bia là “hoàn toàn không cần thiết”.

So sánh về thái độ của sinh viên đối với vấn đề sử dụng rượu bia

Bảng 2.16 So sánh về thái độ của sinh viên đối với vấn đề sử dụng rượu bia.

ĐH CN ĐH TDTT ĐH LĐ-XH Mức độ

SL % SL % SL %

Rất cần thiết 3 2% 0 0% 0 0%

Khá cần thiết 11 9% 17 12% 11 11%

Bình thường 61 49% 74 52% 51 50%

Không cần thiết 39 31% 47 33% 36 35%

Hoàn toàn không cần 11 9% 5 3% 5 5% thiết

Từ kết quả khảo sát ở bảng 2.16 cho chúng ta thấy có sự tương đồng trong thái

độ của sinh viên hai trường ĐH TDTT & ĐH LĐ-XH đối với vấn đề sử dụng rượu

bia. Riêng sinh viên ĐH CN có sự khác biệt hơn, điều này được thể hiện trong số liệu

của từng mức độ. Trong khi không có sinh viên nào của ĐH TDTT & ĐH LĐ-XH

đánh giá sử dụng rượu bia là “rất cần thiết” thì vẫn có 2% sinh viên được khảo sát

của trường ĐH CN cho biết họ thấy việc sử dụng rượu bia là “rất cần thiết”. Ngược

60

lại, cũng chính ĐH CN là trường có tỉ lệ sinh viên cho rằng sử dụng rượu bia là “hoàn

toàn không cần thiết” cao nhất (ĐH CN = 9%, ĐH TDTT = 3%, ĐH LĐ-XH = 5%).

Số sinh viên trường ĐH CN lựa chọn 3 mức “khá cần thiết”, “bình thường”, “không

cần thiết” ít hơn 2 trường còn lại.

2.2.4. Hành vi sử dụng rượu bia của sinh viên

Kết quả chung hành vi sử dụng rượu bia của sinh viên

Chú thích:

H1.Tôi uống rượu, bia một mình

H2. Tôi uống đến say để quên đi những khó khăn trong cuộc sống

H3. Tôi uống để thỏa mãn sự thèm rượu, bia của cơ thể

H4. Một số người thân quen phàn nàn về việc sử dụng rượu bia của tôi

H5. Tôi uống nhiều rượu, bia khi tụ họp với nhóm bạn bè

H6. Tôi đồng ý khi được rủ / mời đi uống rượu, bia

H7. Tôi chủ động rủ / mời người thân hoặc bạn bè uống rượu, bia khi có cơ hội

H8. Tôi nói nhiều hơn, dễ trở nên bốc đồng và khó kiểm soát được cảm xúc cá

nhân sau khi uống rượu/ bia

H9. Tôi gặp rắc rối ở trường học/ nơi cư trú vì sử dụng rượu, bia

H10.Tôi bị cảnh sát giao thông phạt vì sử dụng rượu/ bia khi tham gia giao

thông.

H11. Tôi tích trữ sẵn rượu, bia để tiện sử dụng

H12. Tôi ngủ gục tại chỗ sau khi uống rượu bia và lúc tỉnh lại thường không nhớ

rõ mình đã làm gì

H13. Tôi chứng tỏ bản lĩnh cá nhân bằng cách cố gắng uống nhiều rượu/ bia

trong các bữa tiệc có sự tham gia của những người khác giới

H14. Tôi thẳng thắn từ chối lời mời uống thêm khi cảm thấy cơ thể có dấu hiệu

say

H15. Tôi vẫn uống để không làm mất lòng bạn bè, mặc dù biết đó là rượu bia

không rõ thành phần và nguồn gốc xuất xứ.

61

Bảng 2.17. Tỉ lệ lựa chọn các hành vi sử dụng rượu bia của sinh viên

Hành Mức độ đồng ý

vi 5 đ % 4 đ % 3đ % 2đ % 1đ %

H1 1 0.3 8 2.2 7.3 90 24.3 245 66.0 27

H2 14 3.8 24 6.5 12.5 150 40.4 136 36.7 46

H3 0 0.0 16 4.3 5.9 89 24.0 244 65.7 22

H4 32 8.7 25 6.8 9.7 104 28.0 173 46.6 36

H5 35 9.4 88 23.7 25.6 128 34.5 24 6.5 95

H6 19 5.0 34 9.2 101 27.3 155 41.9 61 16.4

H7 5 1.3 31 8.4 18.8 164 44.3 100 27.0 70

H8 13 3.5 39 10.5 16.2 155 41.8 103 27.8 60

H9 3 0.8 16 4.3 4.1 68 18.3 268 72.2 15

H10 3 0.8 4 1.1 2.7 41 11.1 313 84.3 10

H11 5 1.3 0 0.0 4.4 39 10.6 310 83.6 16

H12 4 1.1 19 5.1 4.6 103 27.8 227 61.3 17

H13 4 1.1 9 2.4 6.4 111 30.0 223 60.0 24

H14 127 34.2 64 17.3 18.9 72 19.4 37 10.0 70

21 5.7 68 18.3 21.6 127 34.2 75 20.2 80

H15

Kết quả thống kê ở bảng 2.17 cho thấy hầu hết sinh viên lựa chọn mức độ “khá

nhiều lần”, “ít khi” và “chưa bao giờ” để cho biết tần số xuất hiện các hành vi sử

dụng rượu bia của mình. Tuy nhiên, khi xét riêng từng hành vi chúng ta sẽ thấy có

những vấn đề đáng quan tâm.

-Xét kết quả thống kê ở nhóm hành vi gồm H1, H7 và H11. Đây là nhóm hành

vi thể hiện sự chủ động trong việc sử dụng rượu bia, chúng ta thấy rằng: Bên cạnh

66% sinh viên chưa bao giờ “uống rượu bia một mình” thì vẫn có những sinh viên đã

từng uống rượu bia một mình. Đáng chú ý là có 2.2% sinh viên nhiều lần và 7.3%

sinh viên khá nhiều lần uống rượu bia một mình. Số còn lại là 24.3% sinh viên cho

62

biết họ ít khi uống rượu bia một mình. Tương tự, cũng có 1.3% sinh viên luôn luôn

tích trữ và 4.4% sinh viên khá nhiều lần tích trữ sẵn rượu bia để tiện sử dụng , 10.6%

sinh viên cho biết dù không nhiều nhưng cũng thi thoảng họ tích trữ loại đồ uống này

để tiện cho việc sử dụng. Uống rượu bia một mình và tích trữ sẵn rượu bia để tiện cho

việc sử dụng không phải là hành vi hiếm thấy ở Việt Nam, trong hầu hết các gia đình

thường có thói quen tích trữ một lượng rượu bia nhất định để người đàn ông trong gia

đình uống trước mỗi bữa ăn, đãi khách tới chơi hay sử dụng trong các dịp lễ tết. Tuy

nhiên, với đặc trưng của sinh viên là những người trẻ tuổi chưa có gia đình riêng, một

số lượng không nhỏ sinh viên đi ở trọ thì việc tích trữ sẵn rượu bia để tiện cho việc sử

dụng và vấn đề uống rượu bia một mình là rất đáng lo ngại.

Về hành vi “chủ động rủ (mời) bạn bè hay người thân uống rượu bia khi có cơ

hội” (H7) có 1.6% sinh viên cho biết rằng họ luôn luôn chủ động, 8.4% sinh viên

nhiều lần và 18.8% sinh viên khá nhiều lần chủ động trong việc mời gọi người khác

sử dụng rượu bia, 44.3% sinh viên cũng có chủ động mời rủ người khác uống rượu

bia nhưng ít khi, chỉ có 27% sinh viên là chưa bao giờ thực hiện hành vi này. Chúng

ta biết rằng có nhiều lí do để sinh viên tụ tập bên bàn nhậu như: khao đồ mới, sinh

nhật, khao học bổng, ăn mừng…. Đôi khi chỉ một nồi lẩu, vài con mực hay ít đồ ăn

cũng có thể ăn mừng được. Cứ như vậy thói quen ăn nhậu khi “có dịp” được hình

thành trong lối sống của sinh viên. Đặc biệt là với nam sinh viên thì việc chủ động tổ

chức các “cuộc ăn mừng” là vấn đề đã trở nên hết sức bình thường.

- Nhóm hành vi gồm H4, H9, H10 sẽ cho chúng ta biết có bao nhiêu phần trăm

sinh viên gặp rắc rối trong các mối quan hệ tình cảm (người thân quen), môi trường

hoạt động (nhà trường hoặc nơi cư trú) và pháp luật do hành vi uống rượu bia của họ.

Trong mối quan hệ tình cảm thì có 46.6% sinh viên chưa bao giờ bị người thân quen

phàn nàn về hành vi uống rượu bia của họ, 28% sinh viên dù “ít khi” nhưng vẫn bị

người thân quen phàn nàn, 9.7% bị phàn nàn khá nhiều lần, 6.8% sinh viên bị phàn

nàn nhiều lần và đáng chú ý là có tới 8.7% sinh viên luôn luôn bị những người thân

quen phàn nàn về việc sử dụng rượu bia của họ. Trong mối quan hệ với môi trường

63

hoạt động thì 72.2% sinh viên khẳng định mình chưa bao giờ gặp rắc rối ở trường học

/ nơi cư trú vì vấn đề sử dung rượu bia. Ngược lại, 4.3% sinh viên nhiều lần, 4.1%

sinh viên khá nhiều lần và 18.3% sinh viên thi thoảng gặp rắc rối, và đặc biệt là dù ít

nhưng vẫn có 0.8% sinh viên khẳng định họ luôn luôn gặp rắc rối ở trường học hay

nơi cư trú do sử dụng rượu bia. Vấn đề sử dụng rượu bia trong giới sinh viên không

có gì xa lạ, mặc dù vậy việc uống rượu bia sẽ không gây rắc rối nếu sinh viên vẫn

tỉnh táo và khỏe mạnh sau khi uống, ngược lại nếu sau khi uống rượu bia làm cho

sinh viên say xỉn, ói mửa, gây mất trật tự công cộng hay giảm sút về mặt thể lực và

nhận thức… thì chắc chắn sẽ gây phiền toái cho sinh viên do bị người thân phàn nàn,

rắc rối ở trường học hay nơi cư trú.

Tương tự, sử dụng rượu bia khi tham gia giao thông sẽ có nguy cơ tai nạn rất

cao, gây nguy hiểm và thiệt hại cho cả bản thân và người khác. Chính vì thế luật giao

thông quy định xử phạt những người tham gia giao thông có nồng độ cồn trong máu

cao hơn mức cho phép, nhưng theo con số thống kê thu được thì ngoài 84.3% sinh

viên chưa bao giờ bị cảnh sát giao thông phạt thì số sinh viên còn lại cho biết họ đã

từng bị phạt do sử dụng rượu bia trong khi tham gia lưu thông trên đường (0.8% luôn

luôn bị phạt, 1.1% nhiều lần bị phạt, 2.7% khá nhiều lần bị phạt, và 11.1% ít khi bị

phạt).

- Xét kết quả thống kê của nhóm hành vi gồm H2, H3, H13 chúng ta thấy rằng

không ít sinh viên tìm đến rượu bia như một phương pháp để trốn tránh những vấn đề

gây cảm xúc tiêu cực, họ uống đến say để quên đi khó khăn trong cuộc sống (3.8%

luôn luôn, 6.5% nhiều lần, 12.5% khá nhiều lần, 40.4% ít khi), chỉ có 36.7% là chưa

bao giờ thực hiện hành vi này. Về mặt sinh lý, cồn trong rượu bia làm thay đổi cân

bằng hóa chất bên trong bộ não của chúng ta. Nó ảnh hưởng đến các chất bên trong

trung khu tưởng thưởng của não bộ như dopamine chẳng hạn. Cơ thể sẽ cảm thấy

“thèm” rượu để khôi phục lại trạng thái khoan khoái dễ chịu và tránh né những cảm

xúc tiêu cực. Những người đã gặp phải stress nặng hoặc các vấn đề về tâm lý như

64

trầm cảm có nguy cơ mắc chứng nghiện rượu cao hơn người bình thường.

Uống rượu bia để thỏa mãn sự “thèm” của cơ thể thường chỉ có ở những người

thường xuyên uống rượu bia, đặc biệt là đối với người nghiện rượu. Tuy nhiên, kết

quả điều tra vẫn cho thấy ngoài 65.7% sinh viên chưa bao giờ uống vì thèm rượu bia

vẫn có 4.3% sinh viên nhiều lần, 5.9% sinh viên khá nhiều lần và 24% sinh viên thi

thoảng uống rượu bia để thỏa mãn sự thèm của cơ thể.

Đối với người Việt, quan niệm “nam vô tửu như cờ vô phong” vẫn còn tồn tại.

Quan niệm này ảnh hưởng không nhỏ đến hành vi uống rượu bia của giới trẻ. Theo

kết quả thống kê thu được, có 1.1% sinh viên khẳng định rằng họ “luôn luôn” chứng

tỏ bản lĩnh cá nhân bằng cách cố gắng uống nhiều rượu bia trong các bữa tiệc có sự

tham gia của những người khác giới. 2.4% sinh viên cho biết, họ cũng nhiều lần thực

hiện hành vi trên, 6.4% sinh viên khá nhiều lần chứng tỏ bản lĩnh kiểu này, 30% sinh

viên cũng thi thoảng cố gắng uống nhiều rượu bia để chứng tỏ bản lĩnh cá nhân trước

mặt những người khác giới.

- Nhóm hành vi H5, H6, H15 được đưa ra để khảo sát mức độ ảnh hưởng của

nhóm bạn bè đến hành vi sử dụng rượu bia của sinh viên. 9.4% sinh viên cho biết, họ

“luôn luôn” uống nhiều rượu bia khi tụ họ với nhóm bạn bè (hành vi H5), 5.0% sinh

viên “luôn luôn” đồng ý khi được rủ mời đi uống rượu bia (hành vi H6), 5.7% sinh

viên cho biết họ vẫn uống để không làm mất lòng bạn bè mặc dù biết đó là rượu bia

không rõ thành phần nguồn gốc xuất xứ (hành vi H15). Tương tự, 23.7% sinh viên

nhiều lần, 25.6% sinh viên khá nhiều lần thực hiện hành vi H5. Đối với hành vi H6

thì có 9.2% sinh viên nhiều lần, 27.3% sinh viên khá nhiều lần thực hiện hành vi này.

Đồng thời, có 18.3% sinh viên nhiều lần, 21.6% sinh viên khá nhiều lần thực hiện

hành vi H15. Những con số nêu trên cho thấy nhóm bạn bè có ảnh hưởng rất lớn tới

hành vi uống rượu bia của nhiều sinh viên, với họ đã vào bàn nhậu là phải chơi hết

mình, nhiệt tình tức là không từ chối. Những nhân tố xã hội như bắt chước đám đông,

môi trường sống….. cũng đóng một vai trò quan trọng trong việc phát triển nên

chứng nghiện rượu của một người. Nhiều thanh niên nghĩ rằng họ cần uống rượu để

65

chứng tỏ bản thân hay chỉ vì lý do đơn giản tất cả bạn bè của họ đều uống

- Hành vi “nói nhiều hơn, dễ trở nên bốc đồng và khó kiểm soát được cảm xúc

cá nhân sau khi uống rượu/ bia” (H8) và hành vi “ngủ gục tại chỗ sau khi uống rượu

bia và lúc tỉnh lại thường không nhớ rõ mình đã làm gì” (H12) là kết quả tác động

của rượu bia lên hệ thần kinh của con người khi nồng độ cồn trong máu đạt tới một

mức độ nhất định, có thể nói lúc này con người đã “say” rượu bia. Riêng hành vi H12

thường xảy ra khi cơ thể tiếp nhận một lượng lớn rượu bia trong một thời gian ngắn.

Kết quả điều tra cho thấy có 61.3% sinh viên chưa bao giờ uống đến mức “trở nên

bốc đồng và không kiểm soát được cảm xúc cá nhân”, 27.8% sinh viên chưa bao giờ

uống đến mức “ngủ gục tại chỗ ngay sau khi uống”. Các sinh viên còn lại đều đã từng

uống “say” tới mức H8 và H12, điều này sẽ làm ảnh hưởng tiêu cực tới chính cá nhân

và cộng đồng.

- Hành vi “thẳng thắn từ chối lời mời uống thêm khi cảm thấy cơ thể có dấu

hiệu say” (H14) thể hiện khả năng tự kiềm chế của sinh viên khi sử dụng rượu bia.

Kết quả thống kê của hành vi này cho thấy một dấu hiệu đáng mừng khi 34.2% sinh

viên luôn luôn thẳng thắn từ chối uống thêm, 17.3% sinh viên nhiều lần và 18.9%

sinh viên khá nhiều lần thẳng thắn từ chối uống thêm khi cơ thể có dấu hiệu say.

Ngược lại thì vẫn còn 19.4% sinh viên ít khi từ chối và 10% sinh viên chưa bao giờ

từ chối uống thêm mặc dù biết mình đã bắt đầu say. Sinh viên không từ chối uống

thêm có thể là do không muốn làm mất lòng người mời, không muốn bị phản đối…

Tuy nhiên việc từ chối khi thấy cơ thể có dấu hiệu say là cần thiết để bảo vệ chính

mình và người khác.

So sánh giữa các nhóm khách thể về hành vi sử dụng rượu bia

Bảng 2.18. So sánh điểm trung bình giữa sinh viên các trường khi lựa chọn hành

vi sử dụng rượu bia.

Trường

Hành vi ĐHCN ĐHTDTT ĐH LĐ-XH

66

H1 TB 1.50 ĐLC 0.72 TB 1.44 ĐLC 0.77 TB 1.44 ĐLC 0.79

H2 H3 H4 H5 H6 H7 H8 H9 H10 H11 H12 H13 H14 H15 2.00 1.52 2.06 3.06 2.50 2.22 2.18 1.50 1.24 1.27 1.52 1.52 3.42 2.49 2.01 1.46 2.03 3.01 2.53 2.16 2.23 1.54 1.31 1.38 1.56 1.54 3.23 2.63 1.09 0.80 1.31 1.12 1.05 0.99 1.03 0.95 0.71 0.85 0.91 0.79 1.46 1.20 1.01 0.83 1.33 1.12 0.95 0.93 1.09 0.90 0.64 0.67 0.87 0.83 1.43 1.18 1.10 0.79 1.18 1.07 1.11 0.99 1.11 0.64 0.62 0.40 0.93 0.89 1.29 1.15

2.03 1.51 1.97 2.83 2.29 2.04 2.25 1.27 1.18 1.12 1.66 1.62 3.66 2.58 Kết quả bảng 2.18 cho thấy ở hầu hết các hành vi thì ít có sự cách biệt trong

điểm trung bình giữa các trường. Riêng trong 3 hành vi H9, H11 và H14 thì số liệu

xử lí cho thấy điểm trung bình và độ lệch chuẩn của trường ĐH CN có sự khác biệt

hơn so với 2 trường ĐH TDTT và ĐH LĐ-XH, điều này cho thấy sinh viên ĐH CN

có sự lựa chọn ổn định hơn, tỉ lệ sinh viên của trường này “gặp rắc rối ở trường học

hay nơi cư trú” và “tích trữ sẵn rượu bia để tiện sử dụng” thấp hơn 2 trường còn lại.

Đồng thời sinh viên ĐH CN cũng “thẳng thắn từ chối lời mời uống thêm khi thấy cơ

thể đã có dấu hiệu say” nhiều hơn sinh viên ĐH TDTT và ĐH LĐ –XH.

2.2.5. Các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi sử dụng rượu bia của sinh viên

Kết quả chung về các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi sử dụng rượu bia của

sinh viên

Chú thích:

Y1. Cha mẹ thường xuyên uống rượu/ bia

Y2. Nhóm bạn thân thường xuyên uống rượu bia

Y3. Sử dụng rượu/ bia giúp tôi tránh né được các cảm xúc tiêu cực

67

Y4. Uống rượu/ bia là một nhu cầu không thể thiếu của cơ thể

Y5. Uống rượu/ bia giúp tôi thấy tự tin trước người khác giới

Y6. Các chương trình quảng cáo rượu/ bia hấp dẫn trên truyền hình

Y7. Thói quen ăn nhậu trong các hoạt động giao tiếp, kí kết hợp đồng của xã hội

hiện nay

Bảng 2.19. Tỉ lệ sinh viên lựa chon các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi sử dụng

rượu bia của mình

Mức độ ảnh hưởng YT

AH 5 đ % 4 đ % 3đ % 2đ % % 1đ

Y1 107 28.8% 78 21.0% 71 19.1% 31 8.4% 84 22.6%

Y2 136 36.7% 39 10.5% 109 29.4% 61 16.4% 26 7.0%

11.1% 13 3.5% 105 28.3% 104 28.0% 108 29.1% Y3 41

7.0% 15 4.0% 91 24.5% 91 24.5% 148 39.9% Y4 26

7.3% 16 4.3% 113 30.5% 78 21.0% 137 36.9% Y5 27

7.3% 4 1.1% 72 19.4% 106 28.6% 162 43.7% Y6 27

Y7 139 37.5% 74 19.9% 83 22.4% 48 12.9% 27 7.3%

Kết quả thống kê ở bảng 2.19 cho thấy các yếu tố ảnh hưởng rất nhiều tới hành

vi sử dụng rượu bia của sinh viên bao gồm các yếu tố: đầu tiên, yếu tố có sự ảnh

hưởng lớn nhất chính là”thói quen ăn nhậu trong các hoạt động giao tiếp, kí kết hợp

đồng của xã hội hiện nay” (37.5% sinh viên bị ảnh hưởng rất nhiều, 19.9% sinh viên

bị ảnh hưởng nhiều). Kết quả này hoàn toàn phù hợp với thực tế. Chúng ta thấy số

lượng rượu bia được tiêu thụ ngày càng tăng cao do nhu cầu sử dụng rượu bia trong

các mối quan hệ làm ăn hay giao tiếp là rất lớn. Xu hướng của thời đại đòi hỏi thanh

niên trong đó sinh viên phải biết uống rượu bia để các cuộc giao dịch trở nên suôn sẻ

hơn. Chính điều này đã tác động lớn tới hành vi sử dụng rượu bia của sinh viên, thúc

đẩy sinh viên chủ động đến với rượu bia hơn.

Yếu tố có ảnh hưởng nhiều thứ hai tới hành vi sử dụng rượu bia của sinh viên

68

là yếu tố “cha mẹ thường xuyên uống rượu, bia” (28.8% sinh viên bị ảnh hưởng rất

nhiều, 21.0% sinh viên bị ảnh hưởng nhiều). Điều này có thể giải thích do rượu trong

nhiều nền văn hóa là một chất gây nghiện được xã hội công nhận, có thể dễ dàng

kiếm được và rẻ tiền và ngay trong một số trường hợp việc uống rượu được dự kiến

trước. Trong nhiều dân tộc rượu đã hoàn toàn đi vào đời sống hằng ngày. Những

người đàn ông có tửu lượng cao thường được xem là có tính khí đàn ông, đáng khâm

phục và từng trải. Người Việt có thói quen là tích trữ rượu trong nhà để sử dụng hằng

ngày hay vào các dịp lễ tết, ở không ít các gia đình từ nông thôn đến thành thị chúng

ta đều có thể bắt gặp hình ảnh người đàn ông trong gia đình thường uống rượu trước

các bữa ăn. Có lẽ do từ lúc còn nhỏ chúng ta đã chứng kiến cha sử dụng rượu bia một

cách thường xuyên, vì vậy khi lớn lên nam giới cũng có xu hướng bắt chước hành vi

này.

Một yếu tố nữa cũng có ảnh hưởng không nhỏ tới hành vi uống rượu bia của

sinh viên hiện nay đó là “Nhóm bạn thân thường xuyên uống rượu bia” (36.7% sinh

viên bị ảnh hưởng rất nhiều, 10.5% sinh viên bị ảnh hưởng nhiều). Điều này cũng dễ

giải thích dựa vào đặc điểm lứa tuổi của sinh viên, bạn bè là một phần rất quan trọng

trong cuộc sống tình cảm tinh thần của sinh viên, đồng tuổi sẽ có cùng tâm lí và dễ

hiểu nhau, dễ chia sẻ tâm tư tình cảm với nhau hơn. Đặc biệt, với sinh viên đi học xa

gia đình thì bạn bè là chỗ dựa lớn về mặt tinh thần, ai cũng có nhu cầu được công

nhận, được thuộc về một nhóm nào đó, để được công nhận trong một nhóm nào đó

thì cần phải có những hành vi tương đồng với những người trong nhóm đó. Điều này

giải thích tại sao khi nhóm bạn thân thường xuyên uống rượu bia có ảnh hưởng rất

lớn đến hành vi uống rượu bia của sinh viên

Bảng kết quả trên cũng cho biết những yếu tố ít ảnh hưởng tới hành vi sử dụng

rượu bia của sinh viên. Trong đó yếu tố “các chương trình quảng cáo rượu bia hấp

dẫn trên truyền hình” là yếu tố có sự ảnh hưởng ít nhất tới hành vi uống rượu bia của

sinh viên (43.7% sinh viên không bị ảnh hưởng, 28.6% sinh viên ít bị ảnh hưởng).

Hai yếu tố ít ảnh hưởng nữa là “uống rượu bia để thỏa mãn nhu cầu của cơ thể”

69

(39.9% sinh viên không bị ảnh hưởng, 24.5% sinh viên ít bị ảnh hưởng) và “Uống

rượu/ bia giúp tôi thấy tự tin trước người khác giới” (36.9% sinh viên không bị ảnh

hưởng, 21.0% sinh viên ít bị ảnh hưởng).

So sánh giữa các nhóm khách thể về các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi sử

dụng rượu bia của sinh viên

Bảng 2.20 : So sánh các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi sử dụng rượu bia của sinh

viên giữa các trường

Trường

ĐH YTAH ĐHTDTT ĐHCN LĐ-XH

TB ĐLC TB ĐLC TB ĐLC

3.04 1.51 3.06 1.43 3.44 1.39 Y1

3.16 1.15 3.23 1.04 3.48 1.00 Y2

2.32 1.14 2.17 1.07 2.47 1.12 Y3

2.17 1.19 1.91 0.98 2.22 1.19 Y4

2.17 1.19 2.23 1.11 2.20 1.13 Y5

1.87 1.00 1.97 1.03 1.95 1.01 Y6

3.45 1.20 3.55 1.08 3.49 1.24 Y7

Bảng 2.21. So sánh tỉ lệ các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi sử dụng rượu bia của

sinh viên giữa các trường

Yếu tố 1đ 2đ 3đ 4đ 5đ

Y1 21.6% 9.6% 24.0% 26.4% 18.4%

Y2 4.8% 16.0% 35.2% 34.4% 9.6%

Y3 31.2% 32.8% 24.0% 9.6% 2.4% ĐH

CN Y4 41.6% 31.2% 20.0% 5.6% 1.6%

Y5 33.6% 20.0% 36.8% 5.6% 4.0%

Y6 39.2% 32.8% 20.0% 5.6% 2.4%

70

Y7 5.6% 8.0% 28.8% 39.2% 18.4%

Y1 27.3% 8.4% 18.2% 25.2% 21.0%

Y2 10.5% 21.0% 25.2% 32.9% 10.5%

Y3 30.8% 25.2% 29.4% 10.5% 4.2% ĐH Y4 39.9% 20.3% 26.6% 8.4% 4.9% TDTT Y5 40.6% 20.3% 25.9% 8.4% 4.9%

Y6 48.3% 24.5% 18.9% 8.4% 0.0%

Y7 7.7% 15.4% 21.7% 35.0% 20.3%

Y1 17.5% 6.8% 14.6% 36.9% 24.3%

Y2 4.9% 10.7% 28.2% 44.7% 11.7%

Y3 24.3% 26.2% 32.0% 13.6% 3.9% ĐH

Y4 36.9% 22.3% 28.2% 6.8% 5.8% LĐ-

XH Y5 35.9% 23.3% 29.1% 7.8% 3.9%

Y6 42.7% 29.1% 19.4% 7.8% 1.0%

Y7 8.7% 15.5% 15.5% 38.8% 21.4%

So sánh sự khác nhau trong việc lựa chọn các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi sử

dụng rượu bia của sinh viên 3 trường thông qua 2 bảng thống kê “điểm trung bình”

và thống kê “tỉ lệ phần trăm” sinh viên từng trường lựa chọn các yếu tố ảnh hưởng,

chúng ta được kết quả như bảng sau:

Bảng 2.22 So sánh sự khác nhau trong việc lựa chọn các yếu tố ảnh hưởng đến

hành vi sử dụng rượu bia của sinh viên

Trường Xếp loại Yếu tố ảnh hưởng nhiều Yếu tố ảnh hưởng ít

1 Y7 Y4

2 Y2 Y6 ĐHCN

3 Y1 Y3

71

1 Y7 Y6 ĐH 2 Y1 Y5 TDTT 3 Y2 Y4

1 Y1 Y6 ĐH LĐ- 2 Y7 Y4 & Y5 XH 3 Y2 Y3

2.2.6. Nhu cầu và mức độ sử dụng rượu bia của sinh viên đại học trên địa bàn TP

HCM

Để đánh giá mức độ và cường độ sử dụng rượu bia của sinh viên đại học trên

địa bàn TP HCM, người nghiên cứu sử dụng kết quả thống kê thu được ở 3 câu hỏi:

câu 7 (khảo sát nhu cầu sử dụng rượu bia của sinh viên), câu 8 (khảo sát khả năng

dung nạp rượu bia trong một lần uống), câu 9 (khảo sát tần số sinh viên cảm nhận các

trạng thái của cơ thể sau khi sử dụng rượu bia). Thông qua phân tích các kết quả này

chúng ta có thể biết được mức “tửu lượng” của sinh viên hiện nay, số lần uống rượu

bia trong một tuần và tình trạng cơ thể mà sinh viên thường xuyên cảm nhận thấy sau

khi uống. Từ đó có thể nhận xét mức độ lạm dụng rượu bia của sinh viên đại học trên

địa bàn TP HCM hiện nay.

2.2.6.1. Nhu cầu sử dụng rượu bia của sinh viên

Kết quả chung về nhu cầu sử dụng rượu bia của sinh viên

Bảng2.23 Nhu cầu sử dụng rượu bia của sinh viên.

Nhu cầu SL %

Ngày nào cũng uống 3 0.8%

4 – 5 lần / tuần 23 6.2%

2 – 3 lần / tuần 27 7.3%

1 lần / tuần 195 52.6%

Nhu cầu thể hiện cường độ sử dụng rượu bia của sinh viên trong một tuần.

Chúng ta có thể thấy rằng tỉ lệ sinh viên có nhu cầu sử dụng rượu bia ở mức độ “1 lần

/ tuần” là cao nhất (52,6%), khá nhiều sinh viên uống ít hơn ở mức độ “vài tuần 1

lần” (33.2%). Một số sinh viên cho biết họ có nhu cầu cao hơn là “4 – 5 lần / tuần”

(6.2%) và “2 – 3 lần / tuần” (7.3%), đặc biệt, có 0.8% sinh viên cho biết nhu cầu của 72

họ là “ngày nào cũng uống”. Các con số 6.2%, 7.3% & 0.8% cho thấy có không ít

sinh viên đang sử dụng rượu bia một cách thường xuyên, điều này sẽ gây ảnh hưởng

không tốt đến quá trình học tập, sinh hoạt và sức khỏe của sinh viên, đây thực sự là

con số đáng lưu tâm.

So sánh nhu cầu sử dụng rượu bia của sinh viên

Bảng 2.24. So sánh nhu cầu sử dụng rượu bia của sinh viên.

ĐH CN

SL % ĐH TDTT % SL ĐH LĐ-XH % SL

3 2.4% 0 0.0% 0 0.0%

Nhu cầu Ngày nào cũng uống 4 – 5 lần / tuần 2 – 3 lần / tuần 1 lần / tuần Vài tuần 1 lần 8 8 52 54 6.4% 6.4% 41.6% 43.2% 9 13 90 31 6.3% 9.1% 62.9% 21.7% 6 6 53 38 5.8% 5.8% 51.5% 36.9%

Bảng 2.24 cho thấy trường ĐH TDTT có tỉ lệ sinh viên uống rượu bia thường

xuyên (2 – 3 lần / tuần & 4 – 5 lần / tuần ) cao nhất, tỉ lệ sinh viên uống “1 lần / tuần”

của trường này cũng cao hơn hẳn. Tuy nhiên, tỉ lệ sinh viên trường ĐH TDTT có nhu

cầu uống rượu bia ở mức độ “vài tuần / lần” thì lại thấp hơn rất nhiều so với 2 trường

còn lại. Điều này chứng tỏ sinh viên ĐH TDTT có nhu cầu sử dụng rượu bia cao hơn

sinh viên trường ĐH CN & ĐH LĐ-XH

ĐH CN là trường có tỉ lệ sinh viên thường xuyên uống rượu bia cao thứ 2, đặc

biệt đây cũng là trường duy nhất có sinh viên uống rượu bia “hằng ngày”.

2.2.6.2. Khả năng dung nạp rượu bia của sinh viên

Khảo sát khả năng dung nạp chính là khảo sát lượng sử dụng rượu bia của sinh

viên trong một lần uống. Điều này thể hiện mức độ sử dụng nhiều hay ít so với tiêu

chuẩn trong một lần uống. Tác động của rượu đến tri giác và hệ thần kinh tùy thuộc

nồng độ rượu trong máu: Mức độ 0,05% nồng độ rượu trong máu: có sự giảm sút về

mặt suy nghĩ, phán xét và kiềm chế, thường đương sự nói nhiều, hơi kích động nhẹ.

Mức độ 0,1% nồng độ rượu trong máu: xuất hiện các cử động vụng về, cầm nắm vật

dụng không chính xác. Mức độ 0,2% nồng độ rượu trong máu: chức năng vùng vận 73

động và kiểm soát hành vi cảm xúc của não bị ức chế nên dễ xuất hiện các cơn bùng

nổ giận dữ, gây hấn, đi đứng loạng choạng. Mức độ 0,3% nồng độ rượu trong máu:

xuất hiện tình trạng lú lẫn hay sững sờ, đương sự không còn nhận thức rõ môi trường

xung quanh. Mức độ 0,4 – 0,5% nồng độ rượu trong máu: hôn mê. Nếu nồng độ cao

hơn: các trung tâm kiểm soát nhịp thở và nhịp tim ở não bị ảnh hưởng và đương sự có

thể chết do suy hô hấp.

Kết luận chung về khả năng dung nạp rượu bia của sinh viên

Bảng 2.25. Khả năng dung nạp rượu bia của sinh viên.

Khả năng dung nạp SL %

1 lon bia 330ml , hoặc 1 li rượu (12ml) 40 độ 138 37.2% cồn / 1 lần uống

2 -3 lon bia 330ml , hoặc 2 - 3 li rượu (12ml) 120 32.3% 40 độ cồn / 1 lần uống

Trên 4 lon bia 330ml , hoặc trên 4 li rượu 113 30.5% (12ml) 40 độ cồn / 1 lần uống

Bảng 2.25 cho biết “tửu lượng” của sinh viên là khá cao, vì tỉ lệ sinh viên uống

được “1 lon bia 330ml , hoặc 1 li rượu (12ml) 40 độ cồn / 1 lần uống” chỉ chiếm

37.2% , số còn lại khẳng định mình có thể uống được nhiều hơn thế, chúng ta biết

rằng sử dụng “2 -3 lon bia 330ml , hoặc 2 - 3 li rượu (12ml) 40 độ cồn / 1 lần uống”

được coi là khá nhiều, còn sử dụng “Trên 4 lon bia 330ml , hoặc trên 4 li rượu (12ml)

40 độ cồn / 1 lần uống” được coi là quá nhiều. Trong một lần uống, nếu đưa vào cơ

thể một lượng cồn cao hơn mức cho phép sẽ gây ra tình trạng ngộ độc. Tùy vào số

lượng uống, loại rượu bia, cách uống, thời gian sẽ gây ra các tình trạng ngộ độc khác

nhau. Lúc này cồn trong rượu bia sẽ làm các cơ quan trong cơ thể bị tổn thương,

trước tiên là hệ thần kinh. Vì thế, việc uống nhiều rượu bia trong cùng một lần uống

74

là điều rất nguy hiểm.

So sánh khả năng dung nạp rượu bia của sinh viên

Bảng 2.26. So sánh khả năng dung nạp rượu bia của sinh viên

ĐH TDTT ĐH CN ĐH LĐ-XH Khả năng dung nạp

SL % SL % SL %

1 lon bia 330ml , hoặc 1 li rượu 58 40.7% 41 32.5% 39 38.2% (12ml) 40 độ cồn / 1 lần uống

2 -3 lon bia 330ml , hoặc 2 - 3 li 39 27.5% 47 37.6% 33 32.4% rượu (12ml) 40 độ cồn / 1 lần uống

Trên 4 lon bia 330ml , hoặc trên 4

li rượu (12ml) 40 độ cồn / 1 lần 46 31.8% 37 29.9% 30 29.4%

uống

So sánh khả năng dung nạp rượu bia của sinh viên 3 trường chúng ta thấy rằng

tỉ lệ sinh viên uống quá nhiều rượu bia trong một lần uống của ĐH TDTT là cao nhất

(31.8%), hai trường còn lại có tỉ lệ sinh viên uống ở mức độ quá nhiều cũng không ít

(ĐH CN = 29.9%, ĐH LĐ-XH = 29.4%). Có thể thấy rằng gần 1/3 số sinh viên được

khảo sát cho biết họ có thể uống “Trên 4 lon bia 330ml , hoặc trên 4 li rượu (12ml)

40 độ cồn / 1 lần uống”.

37.6% sinh viên ĐH CN cho biết họ có thể uống “2 -3 lon bia 330ml , hoặc 2 -

3 li rượu (12ml) 40 độ cồn / 1 lần uống”, đây là trường có tỉ lệ sinh viên uống khá

nhiều rượu bia trong cùng một lần uống cao nhất trong 3 trường. có 32.4% sinh viên

ĐH LĐ-XH & 27.5% sinh viên ĐH TDTT cũng khẳng định trong một lần họ có thể

uống cùng mức độ này.

Uống được nhiều rượu bia là một điều thuận lợi trong các giao tiếp ngày nay,

những người có “tửu lượng” cao sẽ khiến người khác khâm phục. Tuy vậy, chính

việc thể hiện tửu lượng của bản thân bằng cách uống nhiều rượu bia trong cùng một

lần uống sẽ âm thầm gây tổn thương nghiêm trọng cho cơ thể. Chúng ta nhận thấy

75

không ít sinh viên tự hào rằng mình có “tửu lượng cao” và không ngần ngại thể hiện

điều đó trước mọi người trong các cuộc ăn nhậu. Thậm chí, có những sinh viên không

uống được nhiều rượu bia nhưng để không bị coi thường họ đã “luyện uống” để nâng

cao “tửu lượng”, đây là một sai lầm lớn của nhiều người trẻ tuổi vì chúng ta biết rằng

rằng tốc độ phân hủy cồn không thay đổi trong giới hạn nhất định. Tốc độ phân hủy

cồn không tăng lên vì thường xuyên uống rượu. Hiệu ứng quen với cồn thường được

nhìn thấy ở những người nghiện rượu không phải là do phân hủy cồn nhanh mà là do

hệ thống thần kinh đã quen với lượng chất độc cao hơn. Tác động của rượu, bia đối

với người sử dụng phụ thuộc vào: Lượng rượu, bia sử dụng; Tốc độ uống nhanh như

thế nào; Chiều cao cân nặng; Giới tính; Tình trạng sức khoẻ nói chung; Chức năng

gan; Uống rượu, bia một mình hay với nhiều người; Có dùng rượu, bia với các chất

gây nghiện khác không. Sai lầm này xuất phát từ nhận thức chưa đúng hoặc chưa đầy

đủ về rượu bia, cũng có thể do các yếu tố tác động đã thúc đẩy hành vi sử dụng nhiều

rượu bia của sinh viên.

2.2.6.3. Các trạng thái của cơ thể sau khi sử dụng rượu bia

Sau khi uống, ta thấy cồn xuất hiện trong máu và tuỳ theo nồng độ của rượu mà

người uống có nhiều cảm giác khác nhau.

- 1-100mg/dl: Cảm thấy thoải mái, êm dịu.

- 100-150mg/dl: Mất phối hợp động tác và dễ bị kích thích.

- 150-200mg/dl: Nói không rõ và thất điều.

- >250mg/dl: Ngất hoặc hôn mê.

Kết quả chung về mức độ sinh viên cảm nhận các trạng thái của cơ thể sau

khi sử dụng rượu bia

Bảng 2.27 Tỉ lệ sinh viên lựa chọn các trạng thái của cơ thể sau khi sử dụng rượu

Trạng thái

Mức độ đồng ý

5 đ

%

4 đ

%

3 đ

%

%

%

Thỏa mãn

30

8.1%

45

12.1%

77

20.8% 122 32.9% 96

25.9%

Phấn khích

26

7.0%

47

12.7%

104 28.0% 103 27.8% 90

24.3%

76

bia

Dễ chịu

21

5.7%

19

5.1%

16.4% 146 39.4% 123 33.2%

61

Khó chịu

101 27.2%

116 31.3%

18.6% 63

17.0% 21

5.7%

69

Mệt mỏi

144 38.8%

107 28.8%

15.6% 49

13.2% 12

3.2%

58

Kết quả thống kê ở bảng 2.27 cho phép người nghiên cứu đưa ra một số kết

luận mang tính khái quát sau:

Đối với 3 loại trạng thái “thỏa mãn”, “phấn khích” và “dễ chịu” thì số sinh viên

lựa chọn mức độ “ít khi” nhiều nhất, mức độ “không bao giờ” có số sinh viên lựa

chọn nhiều thứ 2, mức độ “khá nhiều lần” có số sinh viên lựa chọn nhiều thứ 3, mức

độ “nhiều lần” có số sinh viên lựa chọn nhiều thứ 4, và cuối cùng mức độ “luôn luôn”

có số sinh viên chọn là ít nhất

Ngược lại, hai loại trạng thái là “khó chịu” và “mệt mỏi” thì số sinh viên lựa

chọn mức độ “luôn luôn” nhiều nhất, mức độ “nhiều lần” có số sinh viên lựa chọn

nhiều thứ 2, mức độ “khá nhiều lần” có số sinh viên lựa chọn nhiều thứ 3, mức độ “ít

khi” có số sinh viên lựa chọn nhiều thứ 4, và cuối cùng mức độ “không bao giờ” có

số sinh viên chọn là ít nhất.

Các trạng thái “phấn khích”, “dễ chịu”, “khó chịu” và “mệt mỏi” là các trạng

thái sẽ xuất hiện khi con người uống rượu bia, tùy vào loại đồ uống, liều lượng uống

và cách thức uống làm xuất hiện các trạng thái khác nhau. Có thể chỉ một hay nhiều

trạng thái dễ chịu hoặc khó chịu xuất hiện, cũng có thể cả 4 trạng thái trên sẽ xuất

hiện một cách tuần tự từ dễ chịu đến khó chịu trong cùng một lần uống. Tuy nhiên,

riêng trạng thái “thỏa mãn” chỉ xuất hiện khi cơ thể có nhu cầu cấp thiết phải uống

rượu bia, đây là một trạng thái đặc biệt, chính vì thế con số 8.1% sinh viên khẳng

định họ “luôn luôn cảm thấy thỏa mãn”, 12.1% sinh viên cảm thấy “nhiều lần thỏa

mãn” sau khi sử dụng rượu bia là con số cần phải suy nghĩ.

Các trạng thái “khó chịu”, “mệt mỏi” thường xuất hiện khi cơ thể lâm vào tình

trạng ngộ độc cồn hay còn gọi là say rượu. Ngộ độc cồn nhẹ sẽ làm cơ thể cảm thấy

khó chịu, nặng hơn thì cảm thấy mệt mỏi, vì vậy khi sinh viên cho biết họ cảm thấy

77

khó chịu và mệt mỏi chứng tỏ họ đã có dấu hiệu say rượu bia. Theo kết quả thống kê

thì có 38.8% sinh viên khẳng định họ “luôn luôn” cảm thấy mệt mỏi và 27.2% sinh

viên khẳng định họ “luôn luôn” cảm thấy khó chịu sau khi uống rượu bia, 28.8% sinh

viên cho biết họ “nhiều lần” cảm thấy mệt mỏi, 31.3% sinh viên “nhiều lần” cảm thấy

khó chịu sau khi uống rượu bia. Điều này chứng tỏ những sinh viên này thường

xuyên lâm vào trạng thái “say” mỗi khi uống rượu bia.

So sánh giữa các nhóm khách thể về mức độ cảm nhận các trạng thái của cơ thể

sau khi sử dụng rượu bia

Bảng 2.28. So sánh mức độ cảm nhận các trạng thái sau khi uống rượu bia của

sinh viên 3 trường.

Trường

ĐHTDTT ĐHCN Trạng thái

TB ĐLC 1.24 2.43 1.20 2.58 1.08 2.11 1.21 3.57 1.19 3.87 TB ĐLC 1.23 2.48 1.21 2.52 1.17 2.14 1.17 3.64 1.13 3.82 ĐH LĐ-XH TB ĐLC 1.22 2.38 1.23 2.44 1.10 2.09 1.28 3.55 1.22 3.91 Thỏa mãn Phấn khích Dễ chịu Khó chịu Mệt mỏi

Theo kết quả thống kê ở bảng 2.27 chúng ta thấy rằng không có sự khác biệt

lớn trong việc lựa chọn các trạng thái giữa sinh viên 3 trường ĐH TDTT, ĐH CN và

ĐH LĐ-XH. Tuy nhiên, khi so sánh điểm trung bình ở các trạng thái “thỏa mãn”,

“phấn khích”, “dễ chịu”, “khó chịu” thì thấy rằng sinh viên trường ĐH LĐ-XH có

điểm trung bình luôn thấp hơn 2 trường còn lại. Riêng ở trạng thái “mệt mỏi” thì sinh

viên trường ĐH LĐ-XH lại có điểm trung bình cao nhất.

Nhận xét chung về kết quả nghiên cứu

Từ kết quả nghiên cứu về nhu cầu, nhận thức, thái độ, hành vi của sinh viên đại

học trên địa bàn TP HCM, chúng ta có thể rút ra kết luận mang tính khái quát về

động cơ sử dụng rượu bia của sinh viên như sau:

Động cơ thúc đẩy hành vi sử dụng rượu bia của sinh viên đại học trên địa bàn

TP HCM đa phần là động cơ có tính chất tâm lý. Sinh viên sử dụng rượu bia nhằm

78

thỏa mãn nhu cầu giao tiếp với nhóm bạn bè, muốn được hòa nhập và được nhóm bạn

bè thừa nhận. Muốn được thừa nhận là một nhu cầu mạnh mẽ, đặc biệt là ở lứa tuổi

sinh viên nhu cầu này càng cao, họ sẽ cố gắng bắt chước cách sử xự chung của các

thành viên trong nhóm để hòa nhập, chính vì vậy nên nhận thức và hành vi của nhóm

bạn bè sẽ ảnh hưởng rất lớn đến hành vi sử dụng rượu bia của sinh viên. Một động cơ

tâm lý nữa thúc đẩy sinh viên sử dụng rượu bia đó là xu thế sử dụng rượu bia trong

các hoạt động giao tiếp, kí kết hợp đồng…trong xã hội hiện nay. Thói quen sử dụng

rượu bia phục vụ cho công việc, quan hệ xã hội đã ăn sâu vào đời sống người dân. Từ

sinh nhật, cưới hỏi, liên hoan, gặp gỡ đối tác làm ăn cho đến xin việc, xin học…đều

diễn ra bên ly rượu cốc bia, người có tửu lượng cao sẽ thuận lợi trong các hoạt động

này vì vậy việc sinh viên chủ động “luyện đô” là điều không khó hiểu. Các vấn đề

tâm lý cá nhân như căng thẳng, cô đơn, lo sợ trong cuộc sống cũng thúc đẩy sinh viên

đến với rượu bia.

Tuy nhiên, cũng có những động cơ mang tính chất sinh lý thúc đẩy sinh viên

uống rượu bia như động cơ để “thỏa mãn sự thèm của cơ thể ”. Nhưng những sinh

viên sử dụng rượu bia với động cơ này chiếm tỉ lệ rất ít. Có thể ban đầu những sinh

viên này uống vì những động cơ tâm lý như trên, nhưng sau một thời gian sử dụng

thường xuyên lâu dài thì họ bị lệ thuộc vào rượu bia, lúc này động cơ sử dụng rượu

bia chuyển từ động cơ mang tính chất tâm lý sang động cơ sử dụng mang tính chất

sinh lý.

Theo kết quả điều tra có không ít sinh viên uống rượu bia với mức độ nhiều và

cường độ thường xuyên, tình trạng này sẽ dẫn đến nguy cơ lệ thuộc vào rượu bia

trong tương lai. Đây là vấn đề nghiêm trọng cần gia đình, nhà trương và xã hội phải

79

quan tâm.

CHƯƠNG 3: MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP SINH VIÊN TỰ ĐIỀU

CHỈNH NHU CẦU VÀ MỨC ĐỘ SỬ DỤNG RƯỢU BIA

3.1. Cơ sở đề xuất giải pháp

3.1.1. Cơ sở Tâm l í

Đặc điểm lứa tuổi cho biết những nét tâm lý chung của sinh viên, hiểu biết

những đặc điểm này chúng ta sẽ có các tác động phù hợp để giúp sinh viên điều chỉnh

nhu cầu và mức độ sử dụng rượu bia cho phù hợp với sức khỏe cá nhân và yêu cầu

của cộng đồng.

Những nét tâm lý đặc trưng của sinh viên bao gồm:

- Một trong những đặc điểm tâm lý quan trọng nhất ở lứa tuổi thanh niên - sinh

viên là sự phát triển tự ý thức. Nhờ có tự ý thức phát triển, sinh viên có những hiểu

biết, thái độ, có khả năng đánh giá bản thân để chủ động điều chỉnh sự phát triển bản

thân theo hướng phù hợp với xu thế xã hội.

- Ở SV đã bước đầu hình thành thế giới quan để nhìn nhận, đánh giá vấn đề

cuộc sống, học tập, sinh hoạt hàng ngày.

- Sinh viên là lứa tuổi rất thích khám phá, tìm tòi cái mới, đồng thời, họ thích

bộc lộ những thế mạnh của bản thân, thích học hỏi, trau dồi, trang bị vốn sống, hiểu

biết cho mình, dám đối mặt với thử thách để khẳng định mình.

- Một đặc điểm tâm lý nổi bật nữa ở lứa tuổi này là tình cảm ổn định.

- Sinh viên là lứa tuổi đạt đến độ phát triển sung mãn của đời người. Họ là lớp

người giàu nghị lực, giàu ước mơ và hoài bão, thực tế và năng động

- Hạn chế của sinh viên là sự thiếu chín chắn trong suy nghĩ, hành động. Thêm

vào đó, do đặc điểm nhạy cảm, ham thích những điều mới lạ kết hợp với sự bồng bột,

thiếu kinh nghiệm của thanh niên, do đó, sinh viên dễ dàng tiếp nhận cả những nét

văn hoá không phù hợp với chuẩn mực xã hội, với truyền thống tốt đẹp của dân tộc

80

và không có lợi cho bản thân họ.

3.1.2 Cơ sở pháp lý

3.1.2.1. Chính sách, pháp luật về phòng, chống tác hại của lạm dụng rượu,

bia

Các văn bản quy phạm pháp luật về rượu, bia đã được ban hành từ những năm

1945 cho đến nay cho thấy nhà nước đã quan tâm đến việc quản lý đối với rượu từ rất

sớm. Tuy nhiên, cho đến nay, chính sách, pháp luật về quản lý rượu, bia đã và đang

bộc lộ những hạn chế, bất cập, đòi hỏi phải khẩn trương nghiên cứu, điều chỉnh,

nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của đời sống kinh tế - xã hội của đất nước, cụ

thể là:

- Các quy định pháp luật về quản lý nhà nước đối với rượu, bia tản mát ở

nhiều văn bản pháp luật khác nhau:

Các quy định pháp luật liên quan đến rượu, bia nằm rải rác và phân tán trong

quá nhiều văn bản quy phạm pháp luật, dưới các hình thức khác nhau từ Luật, Nghị

định cho đến Thông tư như Bộ luật Hình sự năm 1999; Bộ luật dân sự năm 2005;

Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004; Luật giáo dục 2005; Luật hàng

không dân dụng Việt Nam năm 2006; Luật thuế tiêu thụ đặc biệt năm 1998; Luật

Thương mại năm 2005; Luật giao thông đường bộ năm 2008; Luật chất lượng sản

phẩm hàng hóa năm 2007; Luật phòng, chống bạo lực gia đình năm 2007, Luật An

toàn thực phẩm 2011... đều có những quy định trực tiếp hoặc gián tiếp liên quan đến

việc hạn chế sản xuất, kinh doanh, tiêu thụ và sử dụng rượu, bia. Nghị định số

40/2008/NĐ-CP ngày 7/4/2008 của Chính phủ về sản xuất, kinh doanh rượu và

Thông tư số 10/2008/TT-BCT ngày 25/7/2008 của Bộ Công thương hướng dẫn thực

hiện một số điều của Nghị định số 40/2008/NĐ-CP ngày 7/4/2008 về sản xuất, kinh

doanh rượu mới chỉ bước đầu tập trung vào các quy định về sản xuất, kinh doanh

rượu và chưa đề cập đến phòng, chống tác hại của lạm dụng rượu, bia. Lĩnh vực sản

xuất, kinh doanh bia cũng chưa có văn bản điều chỉnh cụ thể. Do quá nhiều văn bản

cùng điều chỉnh lĩnh vực quản lý rượu, bia đã dẫn tới sự chồng chéo, thiếu đồng bộ,

81

khó thống nhất trong tổ chức thực thi.

- Chính sách, pháp luật về phòng, chống tác hại của lạm dụng rượu, bia chưa

hoàn thiện và còn nhiều khoảng trống:

Mặc dù pháp luật về rượu, bia được ban hành sớm nhưng mới chỉ tập trung vào

các quy định nhằm giảm thiểu hậu quả của lạm dụng rượu, bia mà chưa có các quy

định mang tính phòng ngừa. Chỉ khi các cá nhân lạm dụng rượu, bia dẫn đến các hậu

quả xấu trong các quan hệ xã hội như khi tham gia giao thông, khi tham gia giao dịch

dân sự, có hành vi vi phạm pháp luật hình sự do sử dụng rượu, bia... hoặc trong sản

xuất nếu có vi phạm các điều kiện thì mới bị xử lý. Các nội dung khác như tuyên

truyền, giáo dục; các quy định về hạn chế tuổi sử dụng; giờ bán; địa điểm bán, in

cảnh báo sức khỏe trên bao bì..., các biện pháp giảm nhu cầu sử dụng rượu, bia, các

biện pháp kiểm soát nguồn cung cấp rượu, bia nhằm mục đích phòng, chống lạm

dụng, kiểm soát và quản lý chặt chẽ đối với rượu, bia đều không được quan tâm đúng

mức và còn thiếu những quy định phù hợp. Điều đó cho thấy, các văn bản quy phạm

pháp luật về phòng, chống tác hại của lạm dụng rượu, bia chưa bảo đảm tính dự

phòng tác hại của lạm dụng rượu, bia đến kinh tế - xã hội trong đó có vấn đề liên

quan đến sức khỏe. Trong khi xu thế hiện nay coi y tế dự phòng là nền tảng của y tế

hiện đại. Việc can thiệp bằng pháp luật nhằm điều chỉnh các yếu tố nguy cơ do rượu,

bia mang lại là một yêu cầu cấp thiết.

Bên cạnh đó, Nhà nước mới tập trung quản lý được hoạt động của các sơ sản

xuất, kinh doanh rượu, bia có giấy phép và đăng ký kinh doanh mà chưa có biện pháp

quản lý chặt chẽ đối với rượu thủ công trong nhân dân. Việc quản lý cấp phép chỉ

thực hiện đối với kinh doanh rượu còn đối với bia thì chưa thực hiện quản lý cấp

phép đối với mặt hàng này.

Đồng thời, cơ chế phối hợp giữa các Bộ, ngành có liên quan trong triển khai thi

hành các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý sản xuất, kinh doanh cũng như

phòng, chống tác hại của lạm dụng rượu, bia còn chưa thực sự đồng bộ và chặt chẽ,

chưa có cơ quan đầu mối về phòng, chống tác hại của lạm dụng rượu, bia.

82

3.1.2.2. Quan điểm về phòng, chống tác hại của lạm dụng rượu, bia

(Trích dự thảo đề cương Chính sách quốc gia phòng chống tác hại lạm dụng rượu,

bia giai đoạn 2010 – 2020)

Rượu là hàng hóa hạn chế kinh doanh, bia và đồ uống có cồn khác là hàng hóa

kinh doanh có điều kiện; không khuyến khích sử dụng rượu, bia và đồ uống có cồn.

Kiểm soát toàn diện, đồng bộ đối với sản xuất, kinh doanh và sử dụng rượu, bia

phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và tập quán văn hóa

truyền thống để bảo vệ sức khỏe cộng đồng.

Tăng cường biện pháp thông tin, giáo dục, truyền thông để nâng cao nhận thức

của người dân về tác hại của lạm dụng rượu, bia.

Mọi người có quyền được bảo vệ khỏi ảnh hưởng bởi tác hại của lạm dụng rượu,

bia.

Khuyến khích cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp và cá nhân tham gia phòng, chống

tác hại của lạm dụng rượu, bia.

3.2 Biện pháp thực hiện phòng, chống tác hại của lạm dụng rượu, bia của nhà

nước.

(Trích dự thảo đề cương Chính sách quốc gia phòng chống tác hại lạm dụng rượu,

bia giai đoạn 2010 – 2020)

3.2.1 Biện pháp về kiểm soát nhu cầu sử dụng rượu, bia

3.2.1.1. Kiểm soát việc sử dụng rượu, bia để tạo dựng môi trường xã hội an

toàn, lành mạnh, giảm thiểu và phòng ngừa tác hại của lạm dụng rượu, bia:

- Quy định việc cấm sử dụng rượu, bia trong giờ làm việc, tại nơi làm việc,

trong bữa ăn giữa hai buổi trong ngày làm việc và ngày trực.

- Người điều khiển các phương tiện tham gia giao thông, người dưới 18 tuổi,

phụ nữ có thai, người vì nguyên nhân bệnh lý không được sử dụng rượu, bia.

- Phát động cộng đồng không lạm dụng rượu, bia trong đám tang, lễ hội, đám

cưới; hộ gia đình không nấu rượu; gia đình và khu dân cư không có người nghiện

rượu, bia; không tham gia giao thông sau khi sử dụng rượu, bia.

3.2.1.2. Kiểm soát chặt chẽ quảng cáo, tiếp thị, khuyến mại rượu, bia: Quy định việc cấm quảng cáo, tiếp thị và khuyến mại đối với rượu trên 15o, quảng các 83

rượu trên internet; tài trợ để quảng cáo rượu; chỉ được phát thông tin về quảng cáo

bia trên các kênh thông tin đại chúng sau 22 giờ.

3.2.1.3. Tăng cường trách nhiệm của cơ sở kinh doanh rượu, bia: Nghiên cứu,

bổ sung vào điều kiện cấp giấy phép kinh doanh rượu, bia quy định người lao động

của cơ sở kinh doanh rượu, bia phải được tập huấn về trách nhiệm trong cung cấp

rượu, bia với các nội dung cụ thể như: các quy định của pháp luật về phòng, chống

tác hại của rượu, bia, cách nhận biết tuổi, nhận biết dấu hiệu về lạm dụng rượu, bia

của khách hàng.

3.2.1.4. Tăng cường tuyên truyền, kiểm tra, giám sát và xử lý vi phạm pháp

luật về kiểm soát nhu cầu sử dụng rượu, bia.

3.2.1.5. Áp dụng chính sách thuế phù hợp đối với rượu, bia nhằm giảm lạm

dụng và giảm thiểu tác hại do lạm dụng rượu, bia.

3.2.1.6. Có chính sách phù hợp khi tham gia đàm phán, gia nhập các điều ước

quốc tế trong lĩnh vực thương mại nhằm hạn chế nguy cơ lạm dụng rượu, bia do tác

động của các điều ước này.

3.2.2. Biện pháp về kiểm soát nguồn cung cấp rượu, bia

3.2.2.1. Quy hoạch đồng bộ về sản xuất rượu, bia trong cả nước và từng địa

phương.

3.2.2.2. Kiểm soát kinh doanh rượu thủ công: Thực hiện cấp phép sản xuất

rượu thủ công nhằm mục đích kinh doanh, quản lý tiêu chuẩn chất lượng, an toàn

thực phẩm và nhãn hàng hóa đối với rượu thủ công.

3.2.2.3. Kiểm soát việc ghi nhãn rượu, bia để gắn trách nhiệm của người sản

xuất đối với sức khỏe và tính mạng của người tiêu dùng và ngăn chặn hàng giả, hàng

kém chất lượng; nghiên cứu quy định việc in cảnh báo về tác hại của lạm dụng rượu,

bia trên nhãn sản phẩm.

3.2.2.4. Tăng cường biện pháp kiểm soát chất lượng, an toàn thực phẩm và

biện pháp phòng, chống rượu, bia nhập lậu, giả và kém chất lượng.

84

3.2.2.5. Kiểm soát hoạt động bán rượu, bia:

- Cấp phép kinh doanh bán lẻ rượu; nghiên cứu, xây dựng cơ chế, lộ trình khả

thi để cấp phép kinh doanh bán lẻ bia (xin ý kiến ban soạn thảo), kiểm soát giá rượu,

bia.

- Nghiên cứu, quy định về lượng rượu, bia tối đa được bán cho một khách hàng

sử dụng tại chỗ, không được bán rượu, bia cho người có biểu hiện say rượu, bia;

không được bán rượu, bia cho người dưới 18 tuổi, phụ nữ có thai; bán rượu, bia tại

trường học, bệnh viện, công sở và nơi làm việc khác; từng bước cấm bán rượu, bia

sau 22 giờ.

3.2.2.6. Hạn chế, tiến tới không sử dụng lao động dưới 18 tuổi làm việc trong

các cơ sở sản xuất, kinh doanh rượu, bia.

3.2.2.7. Tăng cường tuyên truyền, kiểm tra, giám sát và xử lý vi phạm pháp

luật về kiểm soát nguồn cung cấp rượu, bia.

3.2.3 Biện pháp về giảm tác hại

3.2.3.1. Thông tin, giáo dục, truyền thông

- Nghiên cứu, quy định việc in thông tin về tuổi và đối tượng không được uống

rượu, bia và các tác hại của lạm dụng rượu, bia trên nhãn sản phẩm rượu, bia.

- Tăng cường hoạt động thông tin, giáo dục, truyền thông nhằm nâng cao nhận

thức của cộng đồng về tác hại của lạm dụng rượu, bia, về quyền của trẻ em không bị

ép buộc hoặc khuyến khích sử dụng rượu, bia và vận động, thuyết phục người dân

không lạm dụng rượu, bia.

- Lồng ghép giáo dục về tác hại của lạm dụng rượu, bia phù hợp với các cấp

học, bậc học, chú trọng tuyên truyền, thông tin cho học sinh về tuổi được phép mua,

được phép uống rượu, bia; kỹ năng từ chối uống rượu, bia; tác hại của lạm dụng

rượu, bia đối với sức khỏe và xã hội.

- Truyền thông, giáo dục trong cộng đồng và trên các phương tiện thông tin đại

chúng phải được tiến hành đồng bộ để cảnh báo về tác hại của lạm dụng rượu, bia và

85

chuyển tải thông điệp uống rượu, bia có chừng mực đến với mọi người dân.

3.2.3.2. Triển khai các biện pháp dự phòng đặc biệt cho các nhóm có nguy cơ

cao như: trẻ vị thành niên, phụ nữ có thai hoặc dự định có thai; sàng lọc và điều trị

can thiệp sớm đối với người đã lạm dụng rượu, bia thông qua việc cung cấp các dịch

vụ chẩn đoán, điều trị (về sức khỏe tâm thần, về các bệnh mãn tính, cai nghiện);

chăm sóc liên tục với sự tham gia của nhân viên y tế và nhóm đồng đẳng.

3.2.3.3. Tăng cường năng lực cho mạng lưới chăm sóc sức khỏe ban đầu, đào

tạo kiến thức kỹ năng cho cán bộ y tế và cán bộ công tác xã hội để kịp thời phát hiện,

thực hiện có hiệu quả các biện pháp giảm thiểu tác hại của lạm dụng rượu, bia. Chủ

động tiếp cận và tạo điều kiện thuận lợi cho người nghiện rượu, bia trong cộng đồng

dễ dàng được tiếp nhận các dịch vụ can thiệp sớm, điều trị cai nghiện tại cộng đồng

và phục hồi tái hòa nhập.

3.2.3.4. Tăng cường kiểm tra, xử lý vi phạm về nồng độ cồn trong máu và khí

thở của người tham gia giao thông nhằm giảm tai nạn giao thông do sử dụng rượu,

bia gây ra. Nghiên cứu, quy định thống nhất về nồng độ cồn trong máu và khí thở của

người tham gia điều khiển phương tiện giao thông đường bộ, đường sắt và đường

thủy nội địa.

3.2.3.5. Đẩy mạnh việc chủ động phòng ngừa và ngăn chặn các vi phạm pháp

luật về trật tự xã hội và tội phạm do sử dụng rượu, bia gây ra với sự tham gia tích cực

của các tổ chức đoàn thể, xã hội và cộng đồng.

3.2.4. Biện pháp về huy động nguồn lực

3.2.4.1. Nghiên cứu, đề xuất Quốc hội cho phép trích một khoản kinh phí trên

giá sản phẩm rượu, bia để hỗ trợ trực tiếp cho các hoạt động phòng, chống tác hại của

lạm dụng rượu, bia và nâng cao sức khỏe cộng đồng.

3.2.4.2. Nghiên cứu, chuẩn bị các điều kiện cần thiết để thành lập Quỹ Nâng

cao sức khỏe để trực tiếp quản lý và điều phối các hoạt động nâng cao sức khỏe cộng

86

đồng, trong đó có phòng, chống tác hại của lạm dụng rượu, bia.

3.2.4.3. Tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức phi chính phủ trong nước và

quốc tế, các cộng đồng dân cư, đặc biệt là các hiệp hội, cơ sở sản xuất kinh doanh

rượu, bia hỗ trợ nguồn lực để phòng, chống tác hại của lạm dụng rượu, bia.

3.2.4.4. Thành lập Ban chỉ đạo quốc gia phòng, chống tác hại của lạm dụng

rượu, bia

- Trưởng Ban chỉ đạo quốc gia là Phó Thủ tướng Chính phủ.

- Lãnh đạo các Bộ, ngành, đoàn thể, tổ chức xã hội là thành viên của Ban Chỉ

đạo quốc gia: Bộ Y tế, Bộ Công Thương, Bộ Công an, Bộ Tài chính, Bộ Văn hoá,

Thể thao và Du lịch, Bộ Thông tin và Truyền thông, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Kế

hoạch và Đầu tư, Bộ Khoa học và Công nghệ, một số tổ chức chính trị xã hội, tổ chức

xã hội và một số cơ quan, tổ chức có liên quan khác.

- Văn phòng thường trực của Ban chỉ đạo quốc gia đặt tại Bộ Y tế, do Bộ

trưởng Bộ Y tế thành lập và trực thuộc Bộ Y tế.

- Ban Chỉ đạo quốc gia chịu trách nhiệm xây dựng và tổ chức thực hiện kế

hoạch phòng, chống tác hại của lạm dụng rượu, bia giai đoạn 2013 - 2020.

3.2.5. Biện pháp về nghiên cứu khoa học và hợp tác quốc tế

3.2.5.1. Hình thành và duy trì hệ thống thu thập và phân tích các thông tin dữ

liệu có liên quan đến sản xuất, kinh doanh, sử dụng rượu bia nhằm cung cấp bằng

chứng để xây dựng chính sách, pháp luật.

3.2.5.2. Nghiên cứu, khảo sát thường kỳ, thống kê, đánh giá thực trạng sử dụng

rượu, bia; mức độ lạm dụng rượu, bia; các tác hại của rượu bia đến sức khỏe con

người, kinh tế - xã hội; mối liên quan giữa lạm dụng rượu, bia với tác hại về sức khỏe

và xã hội để đề xuất các biện pháp can thiệp giảm thiểu tác hại phù hợp và khả thi.

3.2.5.3. Các chính sách can thiệp giảm tác hại của lạm dụng rượu, bia phải

được giám sát, đánh giá hiệu quả thực thi để kịp thời điều chỉnh.

3.2.5.4. Đẩy mạnh hợp tác với các nước khi tham gia các hiệp định kinh tế và

thương mại quốc tế liên quan đến lĩnh vực rượu, bia nhằm giảm tác động bất lợi đối

87

với sức khỏe cộng đồng.

3.2.5.5. Tăng cường chia sẻ, trao đổi kinh nghiệm quốc tế và khu vực trong

thiết lập cơ sở dữ liệu, nghiên cứu khoa học, xây dựng chính sách, pháp luật về

phòng, chống tác hại của lạm dụng rượu, bia.

3.3. Đề xuất một số biện pháp giúp sinh viên tự điều chỉnh hành vi sử dụng rượu

bia

3.3.1. Tác động nâng cao nhận thức của sinh viên về rượu bia và hậu quả của việc

lạm dụng rượu bia.

Kết quả điều tra về nhận thức của sinh viên đại học trên địa bàn TP HCM cho

thấy có không ít sinh viên mơ hồ về các tính chất và tác hại của rượu bia dẫn đến

hành vi sử dụng rượu bia của sinh viên còn nhiều vấn đề cần lo ngại. Chính vì thế

việc nâng cao kiến thức về rượu bia cho sinh viên là rất cần thiết. Dựa vào kết quả

điều tra ở chương II và cơ sở đề xuất giải pháp, người nghiên cứu đưa ra một số biện

pháp nâng cao nhận thức của sinh viên về rượu bia như sau:

- Nâng cao nhận thức thông qua các buổi thảo luận theo chuyên đề. Thảo luận

là một hình thức tổ chức dạy học phổ biến ở bậc đại học, hình thức này tạo điều kiện

cho sinh viên nói lên ý kiến, suy nghĩ, quan điểm cá nhân về vấn đề được đưa ra. Các

chuyên đề về rượu bia thường có tính chất “mở” sẽ kích thích sự tham gia đóng góp ý

kiến, tranh luận, phản biện của nhiều sinh viên. Đây chính là điều kiện thuận lợi để

sinh viên cập nhật các thông tin, kiến thức mới về tính chất và tác động của rượu bia.

- Nâng cao nhận thức thông qua tuyên truyền bằng văn hóa, văn nghệ. Đây là

hình thức sân khấu hóa các ảnh hưởng của rượu bia đến đời sống con người, hình

thức này thu hút sự quan tâm của đông đảo sinh viên do tính sinh động & nghệ thuật

của nó. Đây cũng được coi là một trong những hình thức tuyên truyền rất hiệu quả

cần được phát huy.

- Nâng cao nhận thức thông qua các phương tiện truyền thông. Đặc biệt trong

điều kiện khoa học công nghệ phát triển, thông tin bùng nổ, chỉ cần một máy điện

thoại cũng có thể thỏa mãn nhu cầu thông tin của các sinh viên. Lợi dụng ưu thế đó,

88

việc tuyên truyền tác hại, kết quả nghiên cứu mới của các nhà khoa học trên thế giới

về rượu bia… thông qua các videoclip, các bài báo đăng trên các trang web mà sinh

viên thường quan tâm cũng có hiệu quả nhất định.

- Nâng cao nhận thức thông qua việc phát các tờ rơi có chưa nội dung là các

kiến thức khoa học về tính chất và tác hại của rượu bia. Đây là một phương pháp

truyền thông khá hiệu quả.

- Nâng cao nhận thức thông qua tổ chức các hoạt động giao lưu với những

người đã và đang gánh chịu hậu quả do sử dụng rượu bia gây ra. Khi mắt thấy, tai

nghe một tấm gương sống thì con người sẽ nhớ lâu hơn. Vì vậy việc cho sinh viên

trực tiếp thấy những người tàn phế do uống nhiều rượu bia gây tai nạn giao thông;

những bệnh nhân sơ gan, ung thư dạ dày…; những người bị rối loạn tâm thần do sử

dụng quá nhiều rượu bia, hay những người đang trong quá trình cai nghiện rượu… có

lẽ sẽ tác động mạnh mẽ tới nhận thức của sinh viên hơn là những tài liệu khô cứng

trong sách vở.

- Nâng cao nhận thức bằng cách thay đổi một số quan niệm như “nam vô tửu

như cờ vô phong”, “rượu ngon phải có bạn hiền” hay “vô tửu bất thành lễ”…Thực tế,

những quan niệm này đã tồn tại từ rất lâu, nó có ảnh hưởng không nhỏ tới thái độ và

hành vi sử dụng rượu bia của sinh viên. Để thay đổi một vấn đề đã trở thành quan

niệm cần có sự đầu tư thời gian, công sức và trí tuệ của toàn xã hội.

3.3.2. Tác động thay đổi hành vi

- Thay đổi thói quen sử dụng rượu bia trong các dịp tiệc tùng. Hầu như các

hoạt động lễ hội, đình đám, kỉ niệm đều có những cuộc vui bên chén rượu. Uống

rượu là một phương tiện giao tiếp, một sinh hoạt giữa người và người, ví dụ như cần

thảo luận về những dự án làm ăn. Còn một lý do cộng đồng nữa là con người thường

uống rượu theo nhóm để thỏa mãn nhu cầu gặp gỡ, chia sẻ, trò chuyện, thảo luận

thông tin. Vấn đề ở chỗ rượu làm con người hưng phấn để thúc đẩy giao tiếp xã hội

hiệu quả hơn. Tuy nhiên, đối với sinh viên việc uống rượu thường xuyên chắc chắn

sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến sức khỏe, học tập và kinh tế cá nhân. Vì thế, thay đổi thói

89

quen sử dụng rượu bia trong các dịp gặp mặt sẽ giúp sinh viên vừa thỏa mãn nhu cầu

giao tiếp, vừa bảo vệ được sức khỏe bản thân, vừa an toàn khi tham gia giao thông.

- Tham gia các hoạt động văn hóa, thể dục thể thao dành cho sinh viên. Có

nhiều nguyên nhân khiến người ta uống rượu, nhưng có thể quy về hai nhóm chính:

những nguyên nhân thuộc về xã hội vầ những nguyên nhân thuộc về cá nhân. Về mặt

cá nhân đôi khi người ta uống rượu vì buồn, vì cô đơn, để giải sầu: "Dục phá thành

sầu duy hữu tửu". Việc tham gia các câu lạc bộ văn nghệ, đội bóng đá (bóng chuyền,

điền kinh…), lớp yoga, câu lạc bộ thiền…sẽ giúp sinh viên giảm thiểu thời gian rảnh,

né tránh trạng thái cô đơn.

- Xây dựng một chế độ sinh hoạt khoa học, không có rượu bia. Đây là một

phương pháp tích cực, chế độ ăn, ngủ, sinh hoạt điều độ, ít sử dụng rượu bia sẽ đem

đến lợi ích về mặt sức khỏe, tinh thần, kinh tế cho cá nhân và gia đình.

- Xây dựng các mối quan hệ tốt trong gia đình, trường học và xã hội để tránh

các cảm xúc tiêu cực do xung đột gây ra, giảm thiểu các trạng thái căng thẳng, buồn

bã, cô đơn… là nguyên nhân tâm lý của hành vi lạm dụng rượu bia.

- Tham gia các lớp dạy kĩ năng sống. Các kĩ năng ứng phó với strees, kĩ năng

xây dựng các mối quan hệ, kĩ năng đàm phán, kĩ năng từ chối…sẽ giúp sinh viên

tránh tiếp xúc với rượu bia một cách dễ dàng hơn.

Cuối cùng, điều quan trọng để định hướng hành vi sử sụng rượu bia một cách

khoa học chính là sự tự ý thức bảo vệ sức khỏe, an toàn của bản thân mỗi sinh viên.

Điều này đòi hỏi sinh viên phải có sự chủ động, tích cực tìm hiểu về các kiến thức

liên quan đến rượu bia và tác hại của chúng, đồng thời chính cá nhân sinh viên phải

biết điều chỉnh hành vi sử dụng rượu bia cho phù hợp. Người nghiên cứu mong muốn

thông qua các biện pháp sẽ tác động mạnh mẽ đến tính tự chủ, sự tự ý thức của mỗi

90

sinh viên.

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

Kết luận

Dựa trên những lý luận về động cơ, các nghiên cứu về tác hại của việc lạm

dụng rượu, bia và kết quả khảo sát thực tiễn cho phép người nghiên cứu rút ra một số

kết luận mang tính khái quát sau:

1. Có nhiều công trình nghiên cứu của các tác giả trong và ngoài nước về thực

trạng sử dụng rượu, bia của thanh niên. Tuy nhiên, những nghiên cứu về động cơ sử

dụng rượu, bia của sinh viên vẫn chưa được quan tâm và nghiên cứu một cách thỏa

đáng.

2. Sinh viên là lực lượng lao động có tri thức khoa học to lớn của xã hội, đóng

vai trò quan trọng trong sự phát triển của đất nước. Ở lứa tuổi này, động cơ hoạt động

của họ chịu sự chi phối của quan hệ bạn bè, các thói quen và yêu cầu của xã hội

đương thời.

3. Động cơ sử dụng rượu, bia bao hàm ba yếu tố, đó là nhận thức, thái độ và

biểu hiện ra bên ngoài bằng những hành vi cụ thể. Động cơ sử dụng rượu, bia của

sinh viên chịu sự tác động của các yếu tố bên trong như đặc điểm, quy luật tâm lý lứa

tuổi thanh niên, các tri thức và kinh nghiệm sống mà sinh viên đã tích lũy, và các yếu

tố bên ngoài như tác động của truyền thống, tác động từ phía bạn bè hay do yêu cầu

của xã hội.

4. Động cơ sử dụng rượu, bia của sinh viên đại học trên địa bàn TP. Hồ Chí

Minh chủ yếu là các động cơ mang tính chất tâm lý như động cơ muốn được nhóm

bạn bè công nhận, động cơ muốn hòa nhập cùng xu thế chung của xã hội đó là sử

dụng rượu, bia như một loại xúc tác trong các cuộc giao tiếp. Nhìn chung, kết quả

trên phù hợp với giả thuyết nghiên cứu được đưa ra ban đầu.

5. Có sự tương đối giống nhau về động cơ sử dụng rượu, bia của sinh viên đại

91

học thuộc các nhóm ngành khác nhau trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh.

Kiến nghị

Từ những kết quả thu được khi thực hiện đề tài, người nghiên cứu đưa ra

những kiến nghị sau nhằm tạo cơ sở để thực hiện các giải pháp hạn chế tình trạng sử

dụng rượu bia của sinh viên:

Thứ nhất, Nhà nước và các cơ quan chức năng cần nghiêm chỉnh thực hiện luật

pháp, cương quyết xử phạt người sử dụng rượu, bia khi tham gia giao thông. Nghiêm

trị những kẻ buôn bán rượu, bia trái phép. Cần xây dựng những chính sách phòng,

chống tác hại của rượu, bia một cách hiệu quả. Có các chính sách khuyến khích người

dân không sử dụng rượu, bia trong các dịp lễ hội, văn hóa, truyền thống của dân tộc.

Thứ hai, các trường cần xây dựng một môi trường học tập và sinh hoạt phong

phú, sinh động để lôi cuốn, thu hút sự quan tâm của sinh viên vào việc trau dồi kĩ

năng nghề nghiệp cũng như các kĩ năng sống cho bản thân.

Thứ ba, từng gia đình Việt Nam cần ý thức được tác hại của việc sử dụng rượu

bia, hạn chế tích trữ rượu bia trong gia đình, thay đổi thói quen sử dụng rượu bia

trong các ngày lễ tết, cha mẹ cần gương mẫu không sử dụng rượu bia khi tham gia

giao thông, không uống rượu bia say xỉn gây mất trật tự công cộng.

Thứ tư, bản thân sinh viên cần tự trang bị cho mình các kiến thức về rượu, bia

và cách giảm thiểu tác hại của rượu, bia. Kiên quyết nói không với rượu, bia khi tham

gia giao thông. Chủ động tuyên truyền, khuyến khích người thân và bạn bè không sử

92

dụng, lạm dụng rượu, bia.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. A.N.Leonchiev (1989), Hoạt động - ý thức - nhân cách, NXB Giáo dục.

2. Dương Thiệu Tống (2005), Thống kê ứng dụng trong nghiên cứu khoa học giáo

dục, Nxb KHXH, HN.

3. Đào Thị Oanh (2007), Vấn đề nhân cách trong Tâm lý học ngày nay, Nxb Giáo

dục, HN.

4. Đặng Phương Kiệt: Cơ sở tâm lí học ứng dụng, Nxb ĐHQGHN, 2001, tập 1.

5. Đỗ Long (2007), Những nghiên cứu Tâm lý học, Nxb Chính trị quốc gia, HN

6. Điều tra quốc gia về vị thành niên và thanh niên Việt Nam (2003) SAVY 1

7. Điều tra quốc gia về vị thành niên và thanh niên Việt Nam (2009) SAVY 2

8. Hiệp hội Bia, Rượu, Nước giải khát Việt Nam, 2012.

9. Kết quả điều tra của Vụ Các vấn đề xã hội - Văn phòng Quốc hội, 2008.

10. Lomov (2001), Những vấn đề lý luận và phương pháp luận tâm lý học, Nxb

ĐHQGHN, HN.

11. Leonchiep, Hoạt động – ý thức – nhân cách, Nxb Giáo dục

12. Lê Quang Sơn: Bài giảng phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu khoa

học, 2008.

13. Lê Văn Hồng (chủ biên): Tâm lí học lứa tuổi và tâm lí học sư phạm, Nxb Đại

học Quốc Gia Hà Nội, 2001.

14. Nguyễn Khắc Viện, Từ điển Tâm lý học, NXB Văn hoá thông tin.

15. Nguyễn Ngọc Bích: Tâm lí học nhân cách - một số vấn đề lí luận, Nxb

ĐHQGHN, 2000.

16. Nguyễn Quang Uẩn (2002), Tâm lý học đại cương, Nxb ĐHQGHN, HN.

17. Nguyễn Quang Uẩn (chủ biên): Giáo trình tâm lí học đại cương, Nxb ĐHSP,

2006.

18. Nguyễn Văn Đồng (2007), Tâm lý học phát triển, Nxb Chính trị quốc gia, HN.

93

19. Nguyễn Xuân Thức (2007), Tâm lý học đại cương, Nxb ĐHSP, HN.

20. Phạm Minh Hạc (1993), Tâm lý học đại cương, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

21. Phạm Minh Hạc. Hành vi và hoạt động. NXBGD. 1989

22. Phạm Minh Hạc (2003), Một số công trình Tâm lý học của A.N.Lêônchiep,

Nxb Giáo dục, HN.

23. Phạm Minh Hạc (2001), Tuyển tập Tâm lý học, Nxb Giáo dục, HN.

24. Phạm Minh Hạc: Tâm lí học nghiên cứu con người trong thời đại mới, Nxb GD,

2006.

25. Phạm Minh Hạc: Tâm lí học Vưgôtxki, Nxb Gd, 1997, tập 1.

26. Phan Trọng Ngọ (chủ biên): Các lý thuyết phát triển tâm lí người, Nxb ĐHSP,

2003.

27. Stephen Worchel (2007), Tâm lý học – nguyên lý và ứng dụng,Nxb Lao động –

xã hội, HN.

28. Trần Trọng Thủy (1992), Khoa học chẩn đoán tâm lý, Nxb Giáo dục, HN.

29. Vũ Cao Đàm (2005), Phương pháp luận nghiên cứu khoa học, Nxb Khoa học và

Kỹ thuật, Hà Nội.

30. Vũ Dũng (2002), Từ điển Tâm lý học, Nxb khoa học xã hội, HN.

31. Vũ Thị Nho, (2005), Tâm lý học phát triển, Nxb ĐHQGHN, HN.

32. Võ Thị Minh Chí: Lịch sử tâm lý học, Nxb Giáo dục, 2004.

33. thuvienykhoa.vn

34. www.tamly.com.vn

94

35. www.google.com.vn

PHỤ LỤC

Phụ lục 1

MẪU PHIẾU PHỎNG VẤN

1. Theo bạn, tại sao rượu bia lại được sử dụng phổ biến trong đời sống?

.......................................................................................................................................

.......................................................................................................................................

2. Theo bạn, thế nào là lạm dụng rượu bia?

............................................................................................................................

............................................................................................................................

3. Bạn cho biết những tác hại của việc lạm dụng rượu bia mà bạn thấy?

............................................................................................................................

............................................................................................................................

4. Bạn sử dụng rượu bia với mục đích gì?

............................................................................................................................

............................................................................................................................

5. Bạn hãy vui lòng cho biết :

- Số lượng rượu bia bạn uống trong một lần:

- Số lần uống rượu bia trong một tuần:

- Loại rượu / bia bạn hay uống:

6. Khi say rượu bạn cảm thấy như thế nào?

............................................................................................................................

............................................................................................................................

7. Theo bạn, làm thế nào để hạn chế hiện tượng sinh viên lạm dụng rượu bia?

............................................................................................................................

95

...................................................................................................................

Phụ lục 2

PHIẾU THĂM DÒ Ý KIẾN

Hiện nay chúng tôi đang tiến hành nghiên cứu đề tài: “Động cơ sử dụng rượu bia của

sinh viên đại học trên địa bàn thành phố HCM”, rất mong các bạn vui lòng cung cấp cho

chúng tôi những thông tin về vấn đề này bằng cách trả lời các câu hỏi sau đây.

Xin trân trọng cảm ơn!

Câu 1: Bạn có cho rằng sử dụng rượu, bia là cần thiết không…(đánh dấu X vào ô phù hơp với bạn ).

1. Rất cần thiết

2. Khá cần thiết

3. Bình thường

4. Không cần thiết

5. Hoàn toàn không cần

Câu 2: Bạn thường sử dụng loại đồ uống nào? (đánh dấu X vào ô phù hơp với bạn).

1. Các loại bia chai/ lon

2. Các loại bia hơi (bia tươi )

3. Các loại rượu vang, sâm panh

4. Rượu gạo nấu thủ công

5. Rượu thuốc (rượu ngâm )

6. Các loại rượu vodka

7. Các loại rượu mạnh khác

Câu 3: Tại sao bạn sử dụng rượu, bia ? (đánh dấu X vào ô phù hơp với bạn theo thang điểm ).

5 điểm = Rất đồng ý

4 điểm = Đồng ý

3 điểm = Khá đồng ý

96

2 điểm = Không đồng ý

1 điểm = Hoàn toàn không đồng ý

STT

Mục đích sử dụng rượu, bia

Mức độ đồng ý

5

4

3

2

1

1

Tăng cảm giác thèm ăn và kích thích tiêu hóa

2

Tạo phong cách riêng cho bản thân

3

Thỏa mãn nhu cầu muốn uống

4

Giảm thiểu triệu chứng mất ngủ

5

Giải trí trong thời gian rảnh

6

Giảm căng thẳng và các cảm xúc tiêu cực trong cuộc sống

7

Tạo tiền đề thuận lợi cho các mối quan hệ giao tiếp

8

Tạo cảm giác hưng phấn và tự tin trước người khác giới

9

Kích thích trí tưởng tượng

Câu 4: Bạn đã say rượu/ bia bao giờ chưa?

1. Có

2. Chưa

Câu 5: Dưới đây là một số nhận định về ảnh hưởng tiêu cực của việc lạm dụng rượu bia đối với con người, hãy cho biết ý kiến đánh giá của bạn bằng cách cho điểm theo thang (đánh dấu X vào ô điểm mà bạn cho là phù hợp)

5 điểm = Rất đồng ý

4 điểm = Đồng ý

3 điểm = Phân vân

2 điểm = Không đồng ý

1 điểm = Hoàn toàn không đồng ý

97

STT

Ảnh hưởng tiêu cực

Mức độ đồng ý

5

4

3

2

1

1

Mất an toàn khi tham gia giao thông

2

Lãng phí tiền bạc và thời gian

3

Gây thoái hóa não bộ

4

Tổn thương các cơ quan trong cơ thể như: gan, thận, tim…

5

Nguyên nhân gây ra xung đột và bạo hành gia đình

6

Nguyên nhân gia tăng các hành vi phạm tội

7

Là một nguyên nhân gây suy thoái giống nòi

8

Uống rượu bia gây nguy cơ ung thư cao hơn bình thường

Câu 6: Dưới đây là một số nhận định về tính chất của rượu bia, hãy cho biết ý kiến của bạn bằng cách đánh dấu X vào ô bạn cho là phù hợp.

5 điểm = Rất đồng ý

4 điểm = Đồng ý

3 điểm = Phân vân

2 điểm = Chưa đồng ý

1 điểm = Hoàn toàn không đồng ý

STT

Tính chất của rượu, bia

Mức độ đồng ý

5

4

3

2

1

1

Uống rượu, bia chỉ gây ức chế hoạt động của hệ thần kinh chứ không làm chết các tế bào thần kinh

2

Sử dụng nhiều rượu/ bia thường xuyên sẽ làm con

98

người lệ thuộc vào rượu/ bia

3

Uống nhiều rượu/ bia sẽ cung cấp cho cơ thể nhiều nước

4

Nồng độ cồn trong rượu, bia càng thấp thì cơ thể càng dễ hấp thụ

5

Say rượu, bia chính là tình trạng ngộ độc cồn

6

Bia không có khả năng gây nghiện như rượu

7

Chỉ sử dụng rượu/ bia giả kém chất lượng mới bị ung thư gan và dạ dày

8

Các loại rượu, bia nấu thủ công không đảm bảo chất lượng do người nấu sử dụng các loại men ủ bán đại trà không rõ thành phần và xuất xứ

9

Một số loại rượu, bia đang bán trên thị trường được pha chế trực tiếp từ cồn công nghiệp và các hóa chất độc hại với giá rẻ

10

Sử dụng rượu/ bia càng sớm con người càng dễ bị lệ thuộc vào rượu/ bia hơn

11

Người có cha (mẹ) lạm dụng rượu/ bia sẽ có nguy cơ nghiện rượu/ bia cao hơn

Câu 7: Nhu cầu sử dụng rượu, bia của bạn hiện nay? (đánh dấu X vào ô phù hơp với bạn ).

1. Ngày nào cũng uống

2. 4 -5 lần / tuần

3. 2 – 3 lần / tuần

4. 1 lần / tuần

5. Không uống bao giờ

Câu 8: Khả năng dung nạp rượu bia của bạn hiện nay? (đánh dấu X vào ô phù hơp với bạn ).

1. 1 lon bia 330ml , hoặc 1 li rượu (12ml) 40 độ cồn / 1 lần uống

99

2. 2 -3 lon bia 330ml , hoặc 2 - 3 li rượu (12ml) 40 độ cồn / 1 lần uống

3. Trên 4 lon bia 330ml , hoặc trên 4 li rượu (12ml) 40 độ cồn / 1 lần uống

Câu 9: Dưới đây là một số trạng thái của cơ thể sau khi sử dụng rượu bia, hãy cho biết tần số bạn cảm nhận được các trạng thái trên bằng cách đánh dấu X vào các ô thể hiện mức độ mà bạn cho là phù hợp với mình.

5 điểm = Luôn luôn

4 điểm = Nhiều lần

3 điểm = Khá nhiều lần

2 điểm = Ít khi

1 điểm = Chưa bao giờ

STT Trạng thái

5

4

3

2

1

1

Thỏa mãn

2

Phấn khích

3

Dễ chịu

4

Khó chịu

5

Mệt mỏi

Câu 10: Hành vi sử dụng rượu bia của bạn được thể hiện như thế nào? (đánh dấu X vào các ô thể hiện mức độ mà bạn cho là phù hợp với mình).

5 điểm = Luôn luôn

4 điểm = Nhiều lần

3 điểm = Khá nhiều lần

2 điểm = Ít khi

1 điểm = Chưa bao giờ

5

STT

Hành vi

4

3

2

1

1

Tôi uống rượu, bia một mình

2

Tôi uống đến say để quên đi những khó khăn trong cuộc sống

100

3

Tôi uống để thỏa mãn sự thèm rượu, bia của cơ thể

4

Một số người thân quen phàn nàn về việc sử dụng rượu bia của tôi

5

Tôi uống nhiều rượu, bia khi tụ họp với nhóm bạn bè

6

Tôi đồng ý khi được rủ / mời đi uống rượu, bia

7

Tôi chủ động rủ / mời người thân hoặc bạn bè uống rượu, bia khi có cơ hội

8

Tôi nói nhiều hơn, dễ trở nên bốc đồng và khó kiểm soát được cảm xúc cá nhân sau khi uống rượu/ bia

9

Tôi gặp rắc rối ở trường học/ nơi cư trú vì sử dụng rượu, bia

10

Tôi bị cảnh sát giao thông phạt vì sử dụng rượu/ bia khi tham gia giao thông.

11

Tôi tích trữ sẵn rượu, bia để tiện sử dụng

12

Tôi ngủ gục tại chỗ sau khi uống rượu bia và lúc tỉnh lại thường không nhớ rõ mình đã làm gì

13

Tôi chứng tỏ bản lĩnh cá nhân bằng cách cố gắng uống nhiều rượu/ bia trong các bữa tiệc có sự tham gia của những người khác giới

14

Tôi thẳng thắn từ chối lời mời uống thêm khi cảm thấy cơ thể có dấu hiệu say

15

Tôi vẫn uống để không làm mất lòng bạn bè, mặc dù biết đó là rượu bia không rõ thành phần và nguồn gốc xuất xứ

101

Câu 11: Hãy cho biết mức độ ảnh hưởng của các yếu tố sau đây đối với hành vi sử dụng rượu, bia của bạn bằng cách đánh dấu X vào ô bạn cho là phù hợp với mình.

5 điểm = Ảnh hưởng rất nhiều

4 điểm = Ảnh hưởng nhiều

3 điểm = Bình thường

2 điểm = Ảnh hưởng ít

1 điểm = Hoàn toàn không ảnh hưởng

STT

Yếu tố ảnh hưởng

Mức độ ảnh hưởng

5

4

3

2

1

1

Cha mẹ thường xuyên uống rượu/

bia

2

Nhóm bạn thân thường xuyên uống

rượu bia

3

Sử dụng rượu/ bia giúp tôi tránh né

được các cảm xúc tiêu cực

4

Uống rượu/ bia là một nhu cầu

không thể thiếu của cơ thể

5

Uống rượu/ bia giúp tôi thấy tự tin

trước người khác giới

6

Các chương trình quảng cáo rượu/

bia hấp dẫn trên truyền hình

7

Thói quen ăn nhậu trong các hoạt

động giao tiếp, kí kết hợp đồng của

xã hội hiện nay

Câu 12: Dưới đây là các phương pháp mà một số người dùng để hạn chế tình trạng say rượu bia, hãy cho biết ý kiến đánh giá của bạn về các phương pháp trên bằng cách đánh dấu X vào ô mà bạn cho là phù hợp.

5 điểm = Rất đồng ý

4 điểm = Đồng ý

102

3 điểm = Bình thường

2 điểm = Phân vân

1 điểm = Không đồng ý

STT

Phương pháp hạn chế

Mức độ đồng ý

5

4

3

2

1

1

Ăn no trước khi sử dụng rượu/ bia

2

Không dùng nhiều loại rượu/ bia cùng lúc

3

Uống nhiều nước khi sử dụng rượu/ bia

4

Uống trà đặc hoặc café ngay sau khi sử dụng rượu/ bia

5

Ăn nhiều rau xanh và trái cây khi sử dụng rượu/ bia

6

Không pha trộn rượu/ bia với các loại đồ uống có ga

7

Uống rượu/ bia chậm (nhâm nhi) sẽ lâu say hơn

8

Không nên tắm ngay sau khi uống rượu/ bia

9

Uống Paracetamol để chống say rượu/ bia

Bạn vui lòng cho biết thêm

- Trường: ……………………………………………….

- SV năm thứ: ………………………………………….

- Giới tính: Nam / Nữ

103