ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
------------------------------------------
NGUYỄN ĐỨC GIANG
ÁP DỤNG LIỆU PHÁP NHẬN THỨC HÀNH VI
CHO MỘT TRƢỜNG HỢP TRẦM CẢM
VỊ THÀNH NIÊN
LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC
Hà Nội -2019
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
------------------------------------------
NGUYỄN ĐỨC GIANG
ÁP DỤNG LIỆU PHÁP NHẬN THỨC HÀNH VI
CHO MỘT TRƢỜNG HỢP TRẦM CẢM
VỊ THÀNH NIÊN
LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC
Chuyên ngành: Tâm lý học lâm sàng
Mã số: Thí Điểm
Ngƣời Hƣớng Dẫn Khoa Học: GS.TS. TRẦN THỊ MINH ĐỨC
Hà Nội -2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự
hướng dẫn của GS. TS. Trần Thị Minh Đức. Các kết quả nêu trong luận văn
chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Những số liệu, trích dẫn
trong luận văn đảm bảo tính trung thực, tin cậy và chính xác.
Hà Nội, ngày 10 tháng 7 năm 2019
Học viên
Nguyễn Đức Giang
LỜI CẢM ƠN
Với tình cảm chân thành và lòng biết ơn sâu sắc, cho phép tôi gửi lời cảm
ơn chân thành nhất tới:
Trường Đại học khoa học xã hội và nhân văn, các thầy cô trong khoa Tâm lý
học - các giảng viên đã tận tình giảng dạy và tạo mọi điều kiện giúp đỡ tôi trong
quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Đặc biệt tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến người hướng dẫn luận văn
GS.TS Trần Thị Minh Đức – giảng viên đã truyền cảm hứng về thái độ, đạo đức
hành nghề cho tôi và cũng là người đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo và giúp đỡ,
động viên tôi trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Cảm ơn những người bạn - đồng nghiệp đã cùng tôi trao đổi và về chuyên
môn. Cảm ơn gia đình đã động viên, khích lệ và giúp đỡ tôi trong quá trình học tập
và nghiên cứu khoa học, cảm ơn thân chủ của tôi đã đồng ý để tôi đưa quá trình
làm việc vào trong luận văn.
Mặc dù đã cố gắng rất nhiều, nhưng luận văn không tránh khỏi những thiếu
sót; tác giả rất mong nhận được sự thông cảm, chỉ dẫn, giúp đỡ và đóng góp ý kiến
của các nhà khoa học, của quý thầy cô và các bạn đồng nghiệp.
Hà Nội, ngày 10 tháng 7 năm 2019
Học viên
Xin chân thành cảm ơn!
Nguyễn Đức Giang
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ............................................................................................................... 3
LỜI CẢM ƠN ..................................................................................................................... 4
PHẦN MỞ ĐẦU ................................................................................................................. 1
1. Lý do chọn ca lâm sàng .............................................................................................. 1
2. Mục đích nghiên cứu................................................................................................... 2
3. Đối tƣợng nghiên cứu ................................................................................................. 2
5. Khách thể nghiên cứu ................................................................................................. 3
6. Câu hỏi nghiên cứu. .................................................................................................... 3
7. Phƣơng pháp nghiên cứu ........................................................................................... 3
8. Dự kiến cấu trúc của luận văn .................................................................................. 6
Chƣơng 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ RỐI LOẠN TRẦM CẢM Ở TRẺ
VỊ THÀNH NIÊN ............................................................................................................... 7
1.1. Tổng quan về rối loạn trầm cảm ............................................................................... 7
1.1.1. Điểm luận nghiên cứu vềrối loạn trầm cảm ở trẻvị thành niên ........................... 7
1.1.2. Các nghiên cứu về đánh giá và can thiệp trầm cảm ở trẻ vị thành niên. ...........10
1.2. Một số vấn đề lý luận về rối loạn trầm cảm vị thành niên. ................................ 15
1.2.1. Khái niệm rối loạn trầm cảm ................................................................................15
1.2.2. Khái niệm về trẻ vị thành niên ...............................................................................16
1.2.3. Các tiêu chuẩn chẩn đoán trầm cảm ....................................................................17
1.3. Đặc điểm của rối loạn trầm cảm ở tuổi vị thành niên. ........................................ 18
1.4. Lý luận về liệu pháp nhận thức hành vi ................................................................ 20
1.4.1. Các bước thực hiện về liệu pháp nhận thức hành vi cho người có rối loạn trầm
cảm ....................................................................................................................................20
1.4.2. Một số kỹ thuật trong liệu pháp nhận thức hành vi. ............................................22
Chƣơng 2 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU TRƢỜNG HỢP TRẺ VỊ THÀNH NIÊN
MẮC RỐI LOẠN TRẦM CẢM .................................................................................... 26
2.1. Thông tin chung về thân chủ ................................................................................... 26
2.1.1. Thông tin về hành chính ........................................................................................26
2.1.2. Những lý do thăm khám .........................................................................................26
2.1.3. Hoàn cản gặp gỡ. ...................................................................................................26
2.1.4. Ấn tượng chung về thân chủ ..................................................................................27
2.2. Các vấn đề đạo đức và hạn chế trong nghiên cứu ............................................... 27
2.2.1. Vấn đề đạo đức trong nghiên cứu .........................................................................27
2.2.2. Hạn chế trong nghiên cứu .....................................................................................28
2.3. Đánh giá ...................................................................................................................... 28
2.3.1. Mô tả vấn đề ...........................................................................................................28
2.3.2. Đánh giá sơ bộ .......................................................................................................30
2.3.3. Kết luận chung và chẩn đoán ................................................................................33
2.3.4. Cá nhân hóa định hình trường hợp.......................................................................34
2.4. Kế hoạch trị liệu ........................................................................................................ 35
2.4.1 Mục tiêu đầu ra .......................................................................................................35
2.4.2. Mục tiêu quá trình hỗ trợ .......................................................................................35
2.5. Thực hiện các phiên can thiệp ................................................................................. 37
2.6. Đánh giá hiệu quả can thiệp .................................................................................... 83
2.7. Kết thúc ca và theo dõi sau can thiệp ..................................................................... 85
2.8. Bàn luận chung. ......................................................................................................... 86
2.8.1 Bàn luận về ca lâm sàng đã thực hiện. ..................................................................86
2.8.2. Tự đánh giá về chất lượng can thiệp trị liệu ........................................................88
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ ................................................................................ 90
1. Kết Luận ........................................................................................................................ 90
2. Kiến nghị ........................................................................................................................ 91
TÀI LIỆU THAM KHẢO. ............................................................................................. 92
PHỤ LỤC
DANH MỤC BẢNG BIỂU.
Bảng 1. Thang đánh giá trầm cảm Beck ................................................................... 32
Bảng 2. Kết quả thang đánh giá Dass 21 .................................................................. 32
Bảng 3. Kết quả thang đánh giá lo âu Zung (SAS) ................................................... 32
Bảng 4. Bảng phân loại các hoạt động hứng thú. .................................................... 65
Bảng 5. Bảnh kết quả đánh giá cảm xúc trước và sau khi thực hiện hoạt động hứng
thú đi bộ ..................................................................................................................... 69
Bảng 6. Bảnh mẫu đánh giá cảm xúc trước và sau khi thực hiện hoạt động hứng thú
đọc sách ..................................................................................................................... 71
Bảng 7. Bảng kết quả đánh giá cảm xúc trước và sau khi thực hiện hoạt động hứng
thú đọc sách ............................................................................................................... 73
Bảng 8. Bảng hướng dẫn ghi chép bài tập thách thức suy nghĩ tự động .................. 81
Bảng 9. Bảng ghi chép bài tập thách thức suy nghĩ tự động .................................... 82
DANH MỤC HÌNH ẢNH ĐÍNH KÈM
Hình 1.1 Sơ đồ “trời mưa” thể hiện suy nghĩ – cảm xúc- hành vi của người có trầm
cảm. ........................................................................................................................... 48
Hình 1.2. Sơ đồ “trời mưa” thể hiện suy nghĩ – cảm xúc- hành vi của người không
có trầm cảm ............................................................................................................... 48
Hình 2. Mô hình về tương tác hai chiều giữa hoạt động và trầm cảm ...................... 49
Hình 3. Vòng xoắn ốc giữa trầm cảm và cảm xúc .................................................... 50
Hình 4. Mẫu Suy nghĩ-cảm xúc-hành động .............................................................. 53
Hình 5. Bài tập về nhà về suy nghĩ-cảm xúc-hành động của thân chủ. .................... 59
DANH MỤC VIẾT TẮT
Chữ đầy đủ Chữ viết tắt
tên viết tắt bệnh viện BM
Liệu pháp nhận thức hành vi CBT
Human immunodeficiency virus infection HIV
Nhà tâm lý NTL
Thân chủ TC
Trung học phổ thông THPT
Tên ẩn danh của thân chủ VNA
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn ca lâm sàng
Ngày nay, với sức ép đến từ nhiều mặt của cuộc sống, các vấn đề tâm lý nảy
sinh. Các rối loạn tâm thần có căn nguyên tâm lý cũng trở nên phổ biến hơn và một
trong số đó là rối loạn trầm cảm. Trầm cảmcó xu hướng ngày một gia tăng ở nhiều
nước trên thế giới, nhất là các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam. Hiện
nay, rối loạn trầm cảm gây ảnh hưởng đến khoảng 350 triệu người. Một cuộc điều
tra của tổ chức Y tế thế giới thực hiện tại 17 nước cho thấy trung bình cứ 1 trong 20
người cho rằng họ từng trải qua một gia đoạn trầm cảm trong những năm trước đó
(WHO,2012), ở Viêt Nam tỷ lệ người được chẩn đoán có rối loạn trầm cảm là 2,8%.
Trầm cảm là một trong những nguyên nhân trực tiếp dẫn đến tự sát, 45-70% những
người tự sát mắc bênh trầm cảm và 15% số đó đã tử vong do thực hiên được hành vi
tự sát.Tỷ lê rối loạn trầm cảm ở trẻ em là 0,4 đến 2,5%, tỷ lê này ở trẻ vị thành niên
từ 0,4 đến 8,3%, trong đó trầm cảm nặng chiếm khoảng 15% đến 20%. Vị thành
niên là lứa tuổi có nhiều biến đổi về cả mặt thể chất lẫn sự thay đổi về sinh lý bên
trong cũng như về mặt tinh thần. Trước những tác động của môi trường mà trẻ ở lứa
tuổi này chưa thích nghi được, những thay đổi ý có thể dẫn đến dễ dẫn những phản
ứng cảm xúc, những hành vi lêch lạc, ngoài ra còn có thể dẫn đến những ảnh hưởng
liên quan đến sức khỏe tâm thần mà một trong số đó có thể kể tới bệnh trầm cảm.
Như chúng ta đã biết rối loạn trầm cảm (Depression disoder) là một bênh lý
cảm xúc biểu hiên đặc trưng bởi khí sắc trầm, giảm hoặc mất sự quan tâm, thích
thú, giảm năng lượng dẫn tới tăng sự mêt mỏi và giảm hoạt động, các biểu hiện này
tồn tại trong thời gian dài, ít nhất trên hai tuần. Tuy nhiên các nghiên cứu cho thấy
rối loạn trầm cảm ở trẻ vị thành niên có nhiều biểu hiện đặc trưng riêng, đó là tính
đa dạng chưa ổn định. Ngoài các biểu hiên về khí sắc trầm, mất sự quan tâm thích
thú, giảm năng lượng, dễ mệt mỏi thì trầm cảm ở trẻ vị thành niên còn có các triệu
chứng như rối loạn hành vi, tăng hoạt đông, cáu bẳn, không tuân theo nề nếp, chán
học,... Ngoài ra trẻ thường có các biểu hiện cơ thể (đau mỏi, ngôt ngạt khó chịu, rối
1
loạn tiêu hóa, đau tức vùng ngực, bụng...), các biểu hiện này đôi khi làm che lấp đi
những biểu hiện về khí sắc, làm cho việc chẩn đoán đánh giá lâm sàng rất khó có
thể nhận biết, đôi khi dẫn đến những chẩn đoán nhầm lẫn trong việc thực hành lâm
sàng. Do đó làm cho việc điều trị rối loạn trầm cảm ở trẻ vị thành niên càng trở nên
khó khăn hơn.
Ngày nay với sự tiến bộ của nhiều ngành khoa học trong đó có sự phát triển
của y học với sự ra đời của nhiều thế hệ thuốc trống trầm cảm mới, cùng với đó là
sự phát triển của ngành tâm lý lâm sàng mà các phương pháp trị liệu mới bằng trị
liệu tâm lý đã giúp công tác điều trị rối loạn trầm cảm ngày càng có nhiều tiến bộ.
Trên thế giới đã có nhiều tiến bộ trong việc điều trị và trị liệu cho rối loạn trầm cảm
nói chung, rối loạn trầm cảm ở vị thành niên nói riêng. Tuy nhiên vẫn còn đó nhiều
vấn đề mà các nhà chuyên môn còn phải tiếp tục nghiên cứu và thảo luận. Ở Việt
Nam, rối loạn trầm cảm ở trẻ em và trẻ vị thành niên trong những năm gần đây đang
được quan tâm hơn, tuy nhiên những công trình nghiên cứu chuyên sâu về rối loạn
trầm cảm ở lứa tuổi này, đặc biệt là những công trình nghiên cứu về tâm lý lâm sàng
còn chưa thực sự nhiều và một trong số đó những nghiên cứu trường hợp mang tính
chuyên sâu về trị liệu theo liệu pháp nhận thức hành vi trên đối tượng là trẻ vị thành
niên cũng thực sự còn hạn chế.Vì những lý do đó, tôi tiến hành đề tài nghiên cứu
“áp dụng liệu pháp nhận thức hành vi trên một trường hợp trầm cảm vị thành niên”.
Qua đó làm dày thêm các công trình nghiên cứu về rối loạn trầm cảm ở trẻ vị thành
niên ở Việt Nam, đặc biệt là những nghiên cứu với tiếp cận của chuyên ngành tâm
lý lâm sàng.
2. Mục đích nghiên cứu
- Làm rõ hệ thống lý thuyết nghiên cứu về trị liệu nhận thức hành vi trên
đối tượng rối loạn trầm cảm vị thành niên.
- Đề xuất các hoạt động can thiệp tâm lý bằng liệu pháp nhận thức hành vi
cho trường hợp lâm sàng được nghiên cứu
3. Đối tƣợng nghiên cứu
- Hiệu quả liệu pháp nhận thức hành vi trong can thiệp rối loạn trầm cảm ở
2
trẻvị thành niên
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Điểm luận một số nghiên cứu về điều trị trầm cảm bằng liệu
pháp CBT
- Xác định các phương pháp và công cụ đánh giá cho một bệnh
nhân trầm cảm vị thành niên
- Trình bày một số khái niệm liên quan đến trầm cảm: khái niệm,
triệu chứng, tiêu chuẩn chẩn đoán.
- Thực hiện liệu pháp CBT để điều trị cho một bệnh nhân trầm
cảm tuổi vị thành niên.
- Đánh giá hiệu quả của liệu pháp CBT đối với trường hợp cụ thể.
- Đưa ra kết luận, khuyến nghị
5. Khách thể nghiên cứu
Một trẻở tuổi vị thành niên có rối loạn trầm cảm.
6. Câu hỏi nghiên cứu.
- Những yếu tố nào gây ra rối loạn trầm cảm ở khách thể nghiên cứu?
- Những hoạt động hỗ trợ, can thiệp phù hợp nào khi áp dụng liệu pháp
nhận thức hành vi cho trường hợp ca lâm sàng được nghiên cứu?
7. Phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau đây:
Phương pháp nghiên cứu tài liệu
Nghiên cứu tổng quan các nghiên cứu trên thế giới và Việt Nam về rối loạn
trầm cảm ở trẻ vị thành niên.
Phương pháp quan sát
Trong nghiên cứu này phương pháp quan sát được thực hiện với mục đích
quan sát những hành vi, biểu hiện về cảm xúc của thân chủ thông qua gương mặt và
tư thế ngồi trong các phiên trị liệu từ đó đưa ra những bằng chứng cho thân chủ biết
về sự tiến triển của thân chủ sau những phiên làm việc.
Phương pháp hỏi chuyện lâm sàng
Hỏi chuyện lâm sàng hay phỏng vấn lâm sàng đây là một trong những
3
phương pháp chủ đạo trong khi thực hiện nghiên cứu này. Mục đích của việc sử
dụng phương pháp này trong nghiên cứu này nhằm đánh giá nhận thức, cảm xúc,
hành vi cũng như các đặc điểm nhân cách của thân chủ, phân tích và sắp xế chúng
vào một hiện tượng tâm lý hoặc tâm bệnh lý nào đó với các tiêu chí như loại hình,
mức độ…
Việc sử dụng phương pháp này trong nghiên cứu này không chỉ nhằm lắng
nghe những than phiền của thân chủ về vấn đề của thân chủ mà còn làm rõ những
động cơ tiềm ẩn và các cơ chế tâm lý bên trong của thân chủ, cũng như trợ giúp tâm
lý “khẩn cấp” cho thân chủ trong những trường hợp cần thiết.
Phương pháp trắc nghiệm/thang đo
- Trong các nghiên cứu về trầm cảm, một số tác giả đã xâ dựng và áp dụng
những thang đánh giá khác nhau để xác định sự tồn tại của mức độ nghiêm trọng
của rối loạn này trên các nhóm khách thể nghiên cứu.
- Trong nghiên cứu này các thang đánh giá được sử dụng bao gồm:
Thang đánh giá trầm cảm BDI (Beck Depression Inventory). Beck (1988)
nhấn mạnh đến 21 biểu hiện là sự u buồn, sự bi quan, cảm giác thất bại, sự mất
niềm vui sống, cảm giác tội lỗi, cảm giác muốn trừng phạt, chán ghét bản thân, ý
nghĩ tự tử, khóc lóc, lo lắng, mất hứng thú, khó quyết định, cảm giác vô giá trị, mất
năng lượng, thay đổi hói quen ngủ, cảm thấy khó chịu, mất cảm giác ngon miệng,
khó tập trung, mệt mỏi và mất hứng thú tình dục.
Thang đánh giá lo âu - trầm cảm – stress DASS - 21. Do 2 nhà khoa học S.H.
Lovibond và P.F Lovibond từ trường đại học New South Wales tạo ra vào năm
1995 để đánh giá mức độ lo âu, trầm cảm, tress của các khác thể từ 15 tuổi trở lên.
Đây là phiên bản rút gọn của DASS - 42. Theo đó thang đánh giá lo âu – trầm cảm
– stress DASS - 21 có 21 mục mỗi mục được đánh giá bởi bốn mức độ đánh giá như
sau: 0 điểm: Không đúng với tôi chút nào cả; 1 điểm: Đúng với tôi phần nào, hoặc
thỉnh thoảng mới đúng; 2 điểm: Đúng với tôi phần nhiều, hoặc phần lớn thời gian là
đúng; 3 điểm: Hoàn toàn đúng với tôi, hoặc hầu hết thời gian là đúng. Cách tính
điểm của thang cũng được phân loại theo từng thang điểm để đo từng thông số về lo
âu; trầm cảm và stress.
4
Tính điểm stress (S) = tổng điểm các câu (1, 6, 8, 11, 12, 14, 18) nhân hệ số 2.
Tính điểm lo âu (A) = tổng điểm các câu (2, 4, 7, 9, 15, 19, 20) nhân hệ số 2.
Tính điểm trầm cảm (D) = tổng điểm các câu (3, 5, 10, 13, 16, 17, 21) nhân
hệ số 2. Kết quả của thang cũng được phân ra làm 5 mức độ từ bình thường, nhẹ,
vừa đến nặng và rất thăng. Tương ứng với các mức độ là các hệ số điểm được phân
loại như sau:
Stress
Lo âu
Trầm cảm
Mức độ
(S)
(A)
(D)
Bình thường
0-14
0-7
0-9
Nhẹ
15-18
8-9
10-13
Vừa
19-25
10-14
14-20
Nặng
26-33
15-19
21-27
Rất nặng
≥34
≥20
≥28
Thang đánh giá Lo âu SAS. (self – rating Anxiety Scale): SAS là thang trắc
nghiệm bao gồm 20 mục thang điểm tự lượng giá, được soạn thảo bởi William
Zung để đo lường những khía cạnh rối loạn lo âu, trong đó có 5 mục đo lường các
triệu chứng về cảm xúc và 15 mục về thể chất. Đồng thời trong số 20 mục thang
điểm này cũng có 5 mục không biểu hiện cá nhân có triệu chứng và 15 mục biểu
hiện có triệu chứng. Có 4 mức điểm để cá nhân lựa chọn và tự đánh giá về mình
theo từng mục thang điểm. Cách tính điểm của SAS vô cùng đơn giản. Bước một,
tất cả các mục thang điểm sau khi đã đánh giá được cộng lại sẽ cho ra một tổng số
điểm nào đó trên dãy số từ 20 đến 80. Bước hai, lấy tổng số điểm này chia cho 80
để ra con số thập phân từ 0.25 đến 1.00, và theo đó số thập phân càng cao càng thể
hiện rõ dấu hiệu rối loạn lo âu.
Phương pháp nghiên cứu trường hợp.
- Phương pháp này nhằm tìm hiểu, mô tả, nghiên cứu, phát hiện, xây dựng
chân dung tâm lý của thân chủ.
- Phương pháp ghiên cứu trường hợp nhằm chỉ ra các yếu tố của thân chủ
5
như:
Các sự kiện, hiện tượng quan trọng đã diễn ra trong cuộc sống của thân
chủ và có thể liên quan đến các vấn đề của thân chủ; cách thức thân chủ ứng phó
với các sự kiện hay tình huống đó; hiệu quả của các cách thức ứng phó đó với mức
độ stress mà các sự kiện tình huống đó gây ra cho thân chủ.
Các diễn biến nhận thức, thái độ, xúc cảm, hành vi của thân chủ trước,
trong và sau khi xuất hiện rối loạn.
Các yếu tố nguy cơ và các yếu tố thúc đẩy vấn đề/khó khăn của thân chủ.
Đánh giá của thân chủ và những người liên quan đến vấn đề của thân chủ.
Các cơ chế phòng vệ của thân chủ.
Các sự kiện quan trọng diễn ra trong cuộc đời thân chủ.
Cấu trúc nhân cách của thân chủ, các tầng bậc nhu cầu và hệ thống giá trị
của thân chủ, những nỗ lực và cách thức mà họ tìm kiếm đối tượng để thỏa mãn nhu
cầu của bản thân; mức độ nhu cầu mà họ đạt được, hay không đạt được, các giá trị
và nguyên tắc sống mà thân chủ theo đuổi.
Các mối liên hệ/ liên hệ của thân chủ với những người xung quanh và
môi trường.
Ảnh hưởng của môi trường, những người xung quanh đến thân chủ và
vấn đề rối loạn của thân chủ.
8. Dự kiến cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, khuyến nghị, tài liệu tham khảo luận văn được
trình bày trong 02 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về rối loạn trầm cảm ở trẻ vị thành niên
6
Chương 2:Nghiên cứu trường hợp trẻ vị thành niên mắc rối loạn trầm cảm
Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ RỐI LOẠN TRẦM CẢM
Ở TRẺ VỊ THÀNH NIÊN
1.1. Tổng quan về rối loạn trầm cảm
1.1.1. Điểm luận nghiên cứu vềrối loạn trầm cảm ở trẻvị thành niên
Các nghiên cứu ở nước ngoài
Theo một cuộc khảo sátcủa Martin-Guehl và cộng sự về tỷ lệ rối loạn trẻ em
và thanh thiếu niên có sự chăm sóc của cha mẹ kết quả cho thấy có hơn một đứa trẻ
trong số 10 trẻ dưới 13 tuổi bị rối loạn trầm cảm, và tỷ lệ hiện nhiễm ở nhóm tuổi
dưới vị thành niên là 5%. Trầm cảm nặng đã có mặt ở 6% mẫu trẻ em, chứng trầm
cảm thường xuyên (dysthymia) ở mức 4% và rối loạn điều chỉnh với tâm trạng thái
trầm cảm trong khoảng 1%. Tất cả các rối loạn trầm cảm đều ở mức trung bình.
Trầm cảm không điển hình (theo nghĩa Anglosaxon của thuật ngữ) đã có mặt trong một nửa số thanh thiếu niên bị trầm cảm (Martin-Guehl C và cộng sự, 2003)1
Theo nghiên cứu của Merikangas và cộng sự cho thấy có khoảng 11% trẻ vị thành niên trải nghiệm rối loạn trầm cảm ở tuổi 18 (Merikangas và cộng sự,2010)2,
Các nghiên cứu cho thấy trẻ vị thành niên bị trầm cảm là đáng lo ngại vì nó có thể
trở thành mãn tính, tái phát và bị suy yếu chức năng, ngoài ra trầm cảm ở tuổi vị
1Martin-Guehl C, Maurice-Tison S, Bouvard MP, Prevalence of depressive disorders in children and
adolescents attending primary care. A survey with the Aquitaine Sentinelle Network,2003. 2Merikangas et al, Lifetime prevalence of mental disoders in US adolescent: Results from the National
Comorbidity Survey Replication – Adolescent Supplenment (NCS-A), Journal of the American Academy of
child and Adolescent Psyciatry, 2010. 3Hammen et al, Early onset recurrent subtype of adolescent depression: Clinical and psychosocial correlates. Journal of child psychology and psychiatry,2008. 4Rao and Chen, Characteristics, correlates, and outcomes of childhood and adolescent depressive disorders. Dialogues in clinical neuroscience,2009
7
thành niên còn liên quan đến nhiều vấn đề thích nghi về lâu dài (Hammen và cộng sự,2008)3, gây tốn kém về tài chính và tinh thần cho ga đình và xã hội (Rao and Chen,2009)4. Trầm cảm gây ra các khó khăn trong mối quan hệ, nhận thức, chức
năng học tập (Fletcher, 2010)5, trầm cảm cũng làm tăng rối loạn lo âu, rối loạn ăn uống, hút thuốc, nghiện rượu và tự vẫn (Sihvola và cộng sự, 2007).6
Các nghiên cứu trong nước
Ở Việt Nam Hoàng Cẩm Tú đã tiến hành nghiên cứu về rối loạn hành vi,
Cảm xúc ở trẻ em và trẻ vị thành niên ở hai phương Kim Liên và Trung Tự (Hà Nội)7cho thấy 2,2% trẻ 4-18 tuổi có lo âu trầm cảm.
Một nghiên cứu khác của tác giả Nguyễn Bá Đạt nghiên cứu về rối loạn trầm
cảm và một số yếu tố tâm lý xã hội liên quan ở học sinh trung học phổ thông trên địa bàn Hà Nội8, kết quả chỉ ra rằng có 18,8% trẻ có các biểu hiện rối loạn trầm cảm
và có tới 9,1% trẻ được khẳng định là mắc rối loạn trầm cảm.
Nghiên cứu của tác giả Đỗ Ngọc Khanh với đề tài “Trầm Cảm ở học sinh trung học phổ thông Việt Nam và một số yếu tố tác động”9bằng thang sàng lọc mức
độ trầm cảm PHQ-9 cho thấy có 26,6% số học sinh trung học phổ thông có mức độ
trầm cảm từ nhẹ đến nặng, trong đó có 4,3% số học sinh bị trầm cảm nặng, 8,1% số
học sinh bị trầm cảm vừa và 14,2% số học sinh bị trầm cảm nhẹ. Cũng theo nghiên
cứu này có tới 100% học sinh trung học phổ thông bị trầm cảm vừa và nặng đã từng
có suy nghĩ tiêu cực về bản thân, trong đó có đến 92,4% số học sinh suy nghĩ
thường xuyên, Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy có 80,4% số học sinh trầm cảm
vừa và nặng có khó khăn trong việc tập trung học bài và làm việc nhà. Ngoài ra kết
quả nghiên cứu cũng cho thấy có 69,6% số học sinh bị trầm cảm vừa và nặng
5Fletcher, Adolescent depression and educational attainment: Results using sibling fixed effects. Health
Economics, 2010.
6Sihvolaet al, Minor depression in adolescence: Phenomenology and clinical correlates,
Journal of Affective Disorders, February 2007, 97(1-3):211-8·
7 Hoàng Cẩm Tú, Rối loạn hành vi, cảm xúc ở trẻ em và trẻ vị thành niên ở hai phương Kim Liên và Trung
Tự,1999. 8Nguyễn Bá Đạt, Rối loạn trầm cảm và một số yếu tố tâm lý xã hội liên quan ở học sinh trung học phổ thông
trên địa bàn Hà Nội, Tạp chí Giáo dục, số (42), 2002, tr. 12-14. 9Đỗ Ngọc Khanh, Trầm Cảm ở học sinh trung học phổ thông Việt Nam và một số yếu tố tác động,2018
8
thường xuyên có rối loạn ăn uống đi kèm. Một con số đáng báo động mà nghiên
cứu này chỉ ra có tới 43,5% tỷ lệ học sinh có suy nghĩ tự gây tổn thương cho bản
thân hoặc hành vi toan tính tự sát.
Nghiên cứu của nhóm tác giả Cao Vũ Hùng, Hoàng Cẩm Tú và Nguyễn Viết
Thiêm về “Đặc điểm lâm sàng và tìm hiểu các yếu tố liên quan trong bệnh rối loạn trầm cảm tuổi vị thành niên”10, nghiên cứu đượctiến hành trên 40 bệnh nhân từ 10-
19 tuổi được khám và điều trị tại Khoa Tâm thần - Bệnh Viện Nhi Trung Ương từ
tháng 9/2004 đến tháng 8/2006, được chẩn đoán là rối loạn trầm cảm. Kết quả cho
thấy, tuổi trung bình của bệnh nhi là 14,08±1,39 tuổi, trong đó 10-15 tuổi chiếm
77,5% cho thấy tuổi xuất hiện trầm cảm ở trẻ em khá sớm; tỷ lệ nữ cao hơn nam
(1,86/1). Đặc điểm lâm sàng là: mức độ trầm cảm trung bình chiếm tỷ lệ cao
(57,5%), thường khởi phát từ từ với các triệu chứng cơ thể; có đầy đủ các triệu
chứng của trầm cảm, trong đó tỷ lệ cao là khí sắc giảm (100%), giảm năng lượng,
mệt mỏi (92,5%), mất quan tâm thích thú (100%), giảm tập trung chú ý (95%),
giảm lòng tự trọng, tự tin (82,5%), rối loạn ăn (85%), rối loạn ngủ (92,5%), ý tưởng
và hành vi tự sát là triệu chứng mang tính chất cấp cứu cần được quan tâm (72,5%);
thường kèm theo các rối loạn lo âu, rối loạn dạng cơ thể, hành vi né tránh… Các
yếu tố liên quan gồm: gia đình xung đột, bố mẹ li dị hoặc li thân; các biến cố xảy ra
với trẻ có tỷ lệ cao 57,5%; yếu tố gia đình có tỷ lệ cao trong trầm cảm mức độ
nặng.(Cao Vũ Hùng và cộng sự, 2007)
Một nghiên cứu khác của tác giả Cao Vũ Hùng về “rối loạn trầm cảm ở trẻ vị thành niên điều trị tại bệnh viên nhi trung ương”11kết quả cũng chỉ ra rằng trong số
trẻ vị thành niên bị tram cảm, độ tuổi từ 13 -16 chiếm tỉ lệ cao (63,75%) tuổi trung
bình mắc bệnh là 14,15 tuổi, nữ gặp nhiều hơn nam (1,16/1). Có tới 80% trường
hợp ảnh hưởng tới học tập. Về các trạng thái trầm cảm: giai đoạn trầm cảm chiếm tỷ
10Cao Vũ Hùng và cs, Đặc điểm lâm sàng và tìm hiểu các yếu tố liên quan trong bệnh rối loạn trầm cảm tuổi
vị thành niên, Tạp Chí Y học thực hành, số 10,2007, pp 57-59. 11Cao Vũ Hùng (2010), Rối loạn trầm cảm ở trẻ vị thành niên điều trị tại bệnh viên nhi trung ương, Luận án tiến sỹ y học, Đại Học Y Hà Nội, Hà Nội.
9
lệ cao nhất (73,75%), tiếp đến là trầm cảm tái diễn chiếm 17,5%. Trầm cảm vừa là
chủ yếu khi đến viện chiếm (61,25%), trầm cảm nặng chiếm tới 28,75% (Cao Vũ
Hùng, 2010)
1.1.2. Các nghiên cứu về đánh giá và can thiệp trầm cảm ở trẻ vị
thành niên.
Một báo cáo do Compton và cộng sự năm 2004 đánh giá về liệu pháp nhận thức hành vi khi điều trị lo âu và trầm cảmở trẻ em và thanh thiếu niên12. Báo cáo kết luận
rằng trong dân số trẻ em và thanh thiếu niên, có 21 thử nghiệm có kiểm chứng ngẫu
nhiên đánh giá liệu pháp nhận thức hành vi điều trị lo âu và 12 thử nghiệm có kiểm
chứng ngẫu nhiên điều trị trầm cảm. Đối với mục đích báo cáo này, chỉ có thử nghiệm
xuất bản bằng tiếng Anh, các tạp chí tương đương từ năm 1990 đến 2002 tiếp nhận trẻ
từ 8 – 18 tuổi và dùng 1 phương pháp kết quả cải thiện lâm sàng.
Với 21 nghiên cứu liên quan đến rối loạn lo âu, trong đó 19 thử nghiệm liên
quan phỏng vấn lâm sàng bán cấu trúc (semi – structured); Thang phỏng vấn rối
loạn lo âu, phiên bản trẻ em và cha mẹ (ADIS-C/P: Anxiety Disorders Interview
Schedule, Child and Parents Versions) được sử dụng trong 13 nghiên cứu. 6 trong
12 tạp chí liên quan đến trầm cảm cũng sử dụng phỏng vấn bán cấu trúc, thường
dùng Thang rối loạn khí sắc (SAD – Schedule for Affective Disorders) và tâm thần
phân liệt cho trẻ đi học; còn lại 6 nghiên cứu trầm cảm thanh thiếu niên, không ghi
nhận phương pháp nghiên cứu hoặc dựa vào tự báo cáo.
Liệu pháp nhận thức hành vi đối với rối loạn lo âu tập trung vào giáo dục trẻ
em và cha mẹ làm thế nào khắc phục lo âu qua một số chiến lược điều trị khác nhau
phụ thuộc vào tình trạng của trẻ. Những buổi trị liệu này bao gồm giải nhạy cảm hệ
thống, thư giãn cơ, bộc lộ từ từ và trị liệu gia đình. Trái lại, khi trị liệu trầm cảm
liệu pháp tập trung vào các vấn đề: giảm sự thích thú; kỹ năng giải quyết vấn đề
nghèo nàn; và những tri giác, tư duy và quan điểm bản thân và tương lai bi quan,
12Compton SN, March JS, Brent D, Albano AM, Weersing R, Curry J. Cognitive-behavioral psychotherapy for anxiety and depressive disorders in children and adolescents: an evidence- based medicine review,Journal of the American Academy of Child and Adolescent Psychiatry,2004;43:930-959.
10
các buổi trị liệu thường xây dựng lại kỹ năng tổng quát, giáo dục và kỹ năng đối
phó trầm cảm. Can thiệp gia đình trong điều trị trầm cảm trẻ em có thể hoặc không
cần sử dụng, điều này phụ thuộc vào mối quan hệ giữa cha mẹ và trẻ.
Bài viết này cũng đánh giá thiết kế theo dõi follow-up và những kết quả theo
dõi trong quần thể lo âu và trầm cảm. Theo dõi trong nghiên cứu liên quan đến lo âu
từ 1 tháng đến 6 năm cho thấy hiệu quả đạt đựơc sau trị liệu mang tính lâu dài. Trái
lại, trong thử nghiệm trầm cảm, theo dõi ngắn hạn (1 đến 9 tháng) cho thấy liệu
pháp này đạt hiệu quả và duy trì sự ổn định của bệnh nhân, trong khi theo dõi lâu
dài (9 tháng đến 2 năm) cho thấy sự tái phát hay tái diễn triệu chứng trầm cảm.
Một cách tổng quát, một số lớn bằng chứng ủng hộ sử dụng liệu pháp nhận
thức hành vi đối với lo âu và trầm cảm ở trẻ em. Một giới hạn ghi nhận trong báo
cáo là thiếu nhận biết về bệnh phối hợp trong thiết kế nghiên cứu. Ngoài ra, các câu
hỏi vẫn còn liên quan đến phối hợp liệu pháp nhận thức hành vi và thuốc và có hay
không cung cấp lợi ích phụ. Điều trị cần thanh lọc và cơ chế hoạt động giá trị, và
hiệu quả lâu dài của liệu pháp nhận thức hành vi và sử dụng các buổi trị liệu “tăng
cường – booster” để điều trị hiệu quả và thành công còn ít nên sẽ làm tiếp trong
nghiên cứu về sau
Một nghiên cứu trong nước của tác giả Trần Thị Thu Hằng (2011)13chỉ ra
một số khó khăn chung khi sử dụng liệu pháp nhận thức hành vi khi áp dụng cho ca
bệnh trầm cảm vị thành niên như sau: “bệnh nhân bỏ trị liệu ngang chừng, không có
động cơ cũng như nhìn thấy sự cần thiết phải thực hiện hoạt động, bệnh nhân cũng
như gia đình quá kì vọng vào sự thay đổi tình trạng bệnh chỉ sau một hai buổi trị
liệu hay chấm dứt hoàn toàn tình trạng trầm cảm bằng trị liệu tâm lí.” (Trần Thu
Hằng; Một số khó khăn trong quá trình sử dụng kỹ thuật tái cấu trúc nhận thức và
13Trần Thu Hằng(2011), Một số khó khăn trong quá trình sử dụng kỹ thuật tái cấu trúc nhận thức và hoạt hóa
hành vi đối với trẻ em vị thành niên có rối loạn trầm cảm, Luận văn thạc sĩ tâm lý lâm sang trẻ em, Đại học Giáo Dục- DDHQGHN, Hà Nội, pp 13
11
hoạt hóa hành vi đối với trẻ em vị thành niên có rối loạn trầm cảm, 2011)
Ngoài ra cũng theo báo cáo này tác giả cũng chỉ ra 3 vấn đề khó khăn trong
từng phiên làm việc khi thực hiện liệu pháp nhận thức hành vi cho thân chủ vị thành
niên có rối loạn trầm cảm cụ thể như sau:
Từ phía bệnh nhân, hầu hết họ không có động cơ để thực hiện các bài tập
cũng như các yêu cầu của NTL cũng như yêu cầu của kĩ thuật.
Về mặt kĩ thuật, bệnh nhân cảm thấy mình có thể làm được nhiều hơn yêu
cầu của kĩ thuật nhưng thực chất thì họ không muốn làm những việc vì thấy quá đơn
giản. Cấu trúc nội dung các buổi của kĩ thuật chưa cân xứng. Bài tập đơn giản, nhất
là phần bài tập đánh giá tâm trạng nhanh trong tuần làm các em cảm thấy nhàm
chán. Nếu bệnh nhân bỏ làm nhiệm vụ của tuần trước, nhà trị liệu vẫn phải dành
thời gian để yêu cầu họ làm lại trong phiên trị liệu sau. Vì nếu họ bỏ được 1 tuần thì
tuần tiếp theo họ cũng có xu hướng không làm vì cho rằng yêu cầu của nhà trị liệu
không phải điều bắt buộc.
Từ phía nhà trị liệu, kinh nghiệm thực tế của nhà trị liệu chưa nhiều nên sử
dụng kỹ thuật còn dễ bị dẫn dắt theo những vấn đề mới của bệnh nhân mang đến
làm ảnh hưởng đến thời gian trị liệu. Chỉ kết thúc phiên trị liệu khi đã có được một
kế hoạch rõ ràng cho tuần tiếp theo và đạt được sự đồng thuận trong việc phân công
những ai kiểm tra, đôn đốc để chắc chắn các nhiệm vụ được thực hiện. Nhất là phải
cung cấp các mẫu bảng theo dõi hành vi và cấu trúc nhận thức cho gia đình trước
khi họ ra về. Nhà trị liệu luôn cần ghi lại những kết luận của buổi làm việc và một
số nhiệm vụ cho gia đình. Nên ghi nhiệm vụ cho gia đình vào giấy để họ cầm về
như một điều nhắc nhở họ thực hiện. Thậm chí cung cấp số điện thoại và sắp xếp
thời gian để kiểm tra một lần trong tuần trước thời điểm của phiên trị liệu tiếp theo”
(tr.13; Trần Thu Hằng; Một số khó khăn trong quá trình sử dụng kỹ thuật tái cấu
trúc nhận thức và hoạt hóa hành vi đối với trẻ em vị thành niên có rối loạn trầm
cảm, 2011)
14Trần Thị Minh Đức, Bùi Thị Hồng Thái và Ngô Xuân Diệp, Phụ nữ sau sinh rối nhiễu tâm lý và các biện pháp hỗ trợ, NXB ĐHQGHN,2016
12
Trong cuốn chuyên khảo “Phụ nữ sau sinh rối nhiễu tâm lý và các biện pháp hỗ trợ”14 của nhóm tác giả Trần Thị Minh Đức, Bùi Thị Hồng Thái và Ngô Xuân
Diệp năm 2016 có viết: Liệu pháp CBT đối với người có rối nhiễu tâm lý là một
dạng đặc biệt của trị liệu tâm lý, trong đó cá nhân sẽ nhận biết và thay đổi lối suy
nghĩ tiêu cực và hành vi không phù hợp dẫn đến cảm xúc phiền muộn, Joseph
Goldberg (2005) tiến hành thử nghiệm quy mô lớn liên quan đến hơn 400 thân chủ
bị trầm cảm kháng trị thấy rằng việc sử dụng liệu pháp CBT đối với trầm cảm làm
giảm đáng kể triệu chứng trầm cảm
Các tác giả theo quan điểm nhận thức hành vi cho rằng, trầm cảm có
nguyên nhân từ sự thích nghi không tốt về nhận thức, nhận thức sai lệch, hoặc có
những suy nghĩ không hợp lý, phán xét lệch lạc, Nhận thức không phù hợp dẫn đến
trầm cảm có thể được học hỏi từ quan sát xã hội, như trường hợp trẻ em trong một
gia đình có rối loạn chức năng, trẻ chứng kiến cha mẹ của họ đã đối phó không
thành công với căng thẳng hoặc sự kiện gây chấn thương trong cuộc sống. Hoặc,
nhận thức có thể dẫn đến trầm cảm do thiếu kinh nghiệm thích ứng, hoặc thiếu các
kỹ năng ứng phó. Theo lý thuyết nhận thức hành vi, người bị trầm cảm suy nghĩ
khác hơn những người không bị trầm cảm, và sự khác biệt trong suy nghĩ này làm
cho họ trở nên chán nản, thu mình. Ví dụ người bị trầm cảm có xu hướng nhìn bản
thân, môi trường sống và tương lai của họ từ trong bóng tối, bi quan và tư duy tiêu
cực. Người trầm cảm thường đánh giá tình huống tồi tệ hơn nhiều so với cơ chế
phát triển các triệu chứng trầm cảm khi họ phản ứng với các tình huống căng thẳng.
Theo Aaron Beck (1997), suy nghĩ tiêu cực được tạo ra bởi niềm tin của sự
rối loạn chức năng, nó thường là nguyên nhân chính của triệu chứng trầm cảm. Khi
cá nhân có những suy nghĩ tiêu cực hơn thực tế trải nghiệm sẽ khiến cá nhân trở nên
chán nản. Beck cho rằng bộ ba nhận thức tiêu cực thống trị suy nghĩ của người trầm
cảm đó là: 1/Tôi bị lỗi hoặc tôi không hoàn thiện, 2/ Tất cả những kinh nghiệm của
tôi là thất bại hoặc dẫn đến thất bại, 3/ Tương lai là vô vọng. Theo Beck, có rất
nhiều những thừa nhận phi thực tế, tiêu cực như “Một tình huống hay một người
nào đó được cho là không an toàn sẽ thống trị suy nghĩ cảm xúc cho tới khi chúng
được chứng minh là an toàn”. Do đó, theo ông, tốt hơn cả là cứ thừa nhận là tồi
nhất. Các yếu tố xã hội thời thơ ấu có thể ảnh hưởng tới quá trình nhận thức của con
13
người ở vào tuổi trưởng thành. Khi những niềm tin không đúng về bản thân đang
hiện diện trong nhận thức của họ, trầm cảm rất có khả năng xảy ra với họ (nếu nó
chưa xảy ra).
Nghiên cứu của Trần Như Minh Hằng về hiệu quả của liệu pháp nhận thức hành vi và các yếu tố liên quan trong điều trị bệnh trầm cảm (2012)15có nêu “Đã có
nhiều nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có đối chứng cho thấy hiệu quả
điều trị của liệu pháp nhận thức hành vi (CBT) trong điều trị giai đoạn cấp cũng như
trong phòng ngừa tái phát trầm cảm có hiệu quả bằng hoặc hơn hẳn các phương
pháp trị liệu tâm lý khác như liệu pháp tâm lý động (Gallagher và Thompson,
Steuer và CS), liệu pháp hành vi (Thompson và Cs), liệu pháp tương tác cá nhân
(Elkin và Cs).
Liệu pháp nhận thức hành vi (CBT) cũng cho thấy có hiệu quả rõ rệt với mức
độ bằng hoặc hơn so với các thuốc chống trầm cảm đối với những trường hợp trầm
cảm nhẹ và vừa. Riêng đối với những trường hợp trầm cảm nặng thường ít khi liệu
pháp được sử dụng đơn độc mà thường được sử dụng với các thuốc chống trầm
cảm. Nhiều nghiên cứu so sánh liệu pháp nhận thức hành vi (CBT) với thuốc chống
trầm cảm ba vòng cho thấy không có sự khác biệt trong điều trị giai đoạn cấp của
trầm cảm (Covi và Lipman, Hollon và Cs, Oei và Yeoh).
Liệu pháp nhận thức hành vi (CBT) không những có tác dụng điều trị trong
giai đoạn cấp mà còn có tác dụng làm giảm tỷ lệ tái phát của trầm cảm so với thuốc
chống trầm cảm 3 vòng. Các tác giả Gloaguen V, Cottraux J và Cs khi tổng hợp
phân tích 8 công trình nghiên cứu với tổng cộng 241 bệnh nhân đã nhận thấy tỉ lệ tái
phát ở nhóm bệnh nhân được điều trị bằng liệu pháp nhận thức hành vi (CBT) là
29,5%, trong khi đó nhóm được điều trị bằng thuốc chống trầm cảm ba vòng tỷ lệ
tái phát lên tới 60%.
Cũng trong nghiên cứu này khi nghiên cứu trên 80 khách thể nghiên cứu
được chia thành 2 nhóm mỗi nhóm 40 người nhằm so sánh hiệu quả của liệu pháp
nhận thức hành vi so với thuốc chống trầm cảm 3 vòng amitriptylin đã cho ra một
15Trần Như Minh Hằng, Hiệu quả của liệu pháp nhận thức hành vi và các yếu tố liên quan trong điều trị bệnh trầm cảm, (2012)
14
vài thông số về kết quả như sau: Số bệnh nhân đáp ứng hoàn toàn với điều trị sau ba
tháng ở nhóm được điều trị bằng liệu pháp nhận thức hành vi là 95%, còn ở nhóm
được điều trị bằng thuốc là 80%. Tỷ lệ tái phát ở nhóm bệnh nhân được điều trị
bằng liệu pháp nhận thức hành vi là 10% trong khi đó tỷ lệ này ở nhóm trị liệu bằng
thuốc chống trầm cảm amitriptyline là 22,5%.”
1.2. Một số vấn đề lý luận về rối loạn trầm cảm vị thành niên.
1.2.1. Khái niệm rối loạn trầm cảm
Theo từ điển tâm lý học của Vũ Dũng định nghĩa; “Trầm cảm là trạng thái
xúc cảm mạnh đặc trưng bởi bối cảnh cảm xúc âm tính, bởi những thay đổi của môi
trường về những quan điểm của động cơ nhận thức và bởi tính thụ động của hành vi nói chung”16
Theo tác giả Nguyễn Viết Thiêm đã định nghĩa về căn bệnh trầm cảm
như sau: “Trầm cảm là trạng thái giảm khí sắc, giảm năng lượng và giảm hoạt
động. Trong các cơn điển hình, có biểu hiện ức chế toàn bộ hoạt động tâm thần.
Bệnh nhân có khí sắc buồn rầu, ủ rũ, giảm hứng thú và quan tâm, cảm thấy tương
lai ảm đạm, tư duy chậm chạp, liên tưởng khó khăn, tự cho mình là hèn kém, giảm
sút lòng tự tin, thường hoang tưởng bị tội, dẫn đến tự tử, giảm vận động, ít nói,
thường nằm hoặc ngồi lâu ở một tư thế, kèm theo sự rối loạn các chức năng sinh học (mất ngủ, chán ăn, mệt mỏi…)17
Có rất nhiều các khái niệm về rối loạn trầm cảm được các tác giả, các nhà
tâm lý đưa ra. Tuy nhiên trong nghiên cứu này chúng tôi sử dụng và theo sát các
khái niệm của Bảng phân loại bệnh quốc tế (ICD - 10) và Bảng phân loại tâm thần
16 Vũ Dũng (2008), Từ điển Tâm lý học, Nhà xuất bản từ điển Bách Khoa, Hà Nội.
17 Nguyễn Viết Thêm (1993), Đặc điểm trạng thái trầm cảm trong lâm sàng tâm thần học ngày
nay, Các chuyên đề về tâm thần học, Hà Nội 63 - 70.
15
lần thứ 5 của hiệp hội tâm thần học Mỹ (DSM-5)
Theo bảng phân loại bệnh quốc tế ICD -10 khẳng định rằng: “Trầm cảm là
trạng thái rối loạn cảm xúc, biểu hiện bằng giảm khí sắc, mất mọi quan tâm thích
thú, giảm năng lượng dẫn đến tăng sự mệt mỏi và giảm hoạt động, phổ biến là tăng
sự mệt mỏi sau một số cố gắng nhỏ, tồn tại trong một khoảng thời gian kéo dài, ít nhất là hai tuần.18
Theo bảng phân loại tâm thần lần thứ 5 của Hiệp hội Tâm thần Mỹ DSM-5
cho rằng: “Rối loạn trầm cảm bao gồm trầm cảm chủ yếu, loạn khí sắc, trầm cảm
do một chất và trầm cảm do một bệnh thực tổn. Rối loạn trầm cảm bao gồm được
đặc trưng bởi khí sắc trầm buồn, mất hầu hết các hứng thú/sở thích, có suy nghĩ và hành vi tự tử.19
1.2.2. Khái niệm về trẻ vị thành niên
Theo Từ điển tiếng Việt “Vị thành niên là những người chưa đến tuổi trưởng
thành để chịu trách nhiệm về những hành động của mình”. Trong các văn bản pháp
luật hiện hành ở nước ta (như Bộ luật Dân sự, Bộ luật Lao động) có dùng thuật ngữ
“người chưa thành niên” và có quy định cụ thể về độ tuổi và mức độ mà người chưa
thành niên phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình.
Cho đến nay, trong văn bản pháp luật thực định cũng có những tên gọi khác
nhau: người chưa thành niên, trẻ vị thành niên và trẻ em. Pháp luật ở mỗi quốc gia
có những tiêu chí cụ thể quy định về người chưa thànhniên khác nhau.
Đa số các quốc gia đều ghi nhận trong hệ thống pháp luật độ tuổi được coi là
người chưa thành niên.
Điều 1, Công ước quốc tế về quyền trẻ em (United Nations Convention on
the Rights of the Child) được Đại hội đồng Liên Hợp Quốc thông qua ngày
20/11/1989 có ghi: “Trong phạm vi Công ước này, trẻ em có nghĩa là người dưới 18
tuổi, trừ trường hợp luật pháp áp dụng đối với trẻ em có quy định tuổi thànhniên
18 WHO (1992), The ICD-10 Classification of Mental and Behavioural Disorders, Diagnostic criteria for research, Geneva, 91 19 American Psychiatric Association; Diagnostic and statistical manual of mental disorders: 5th Edn.
Washington, DC: (2013)
16
sớm hơn”.
Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) lứa tuổi 10 - 19 tuổi là độ tuổi vị thành
niên.Thanh niên trẻ là lứa tuổi 19 - 24 tuổi. Chương trình Sức khỏe sinh sản/Sức
khỏe tình dục vị thành niên - thanh niên của khối Liên minh châu Âu (EU) và Quỹ
Dân số Liên Hiệp Quốc(UNFPA) lấy độ tuổi 15 - 24 tuổi.
Ở Việt Nam, người chưa thành niên được xác định tương đối thống nhất
trong Hiến pháp năm 1992, Bộ luật Hình sự năm 1999, Bộ luật Tố tụng Hình sự
năm 2003, Bộ luật Lao động, Bộ luật Dân sự, Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính
và một số văn bản quy phạm pháp luật khác. Các văn bản pháp luật đều quy định
tuổi của người chưa thành niên là dưới 18 tuổi và trong từng lĩnh vực cụ thể đều có
những chế định pháp luật hoặc các quy định riêng cho người chưa thành niên
1.2.3. Các tiêu chuẩn chẩn đoán trầm cảm
Theo sổ tay chẩn đoán và phân loại bệnh tâm thần của Hội tâm thần học, tâm
lý Hoa Kỳ DSM -5 (2013), trầm cảm là dạng rối loạn tâm thần biểu hiện đặc trưng
bởi ít nhất 5 trong số các dấu hiệu cơ bản là: 1/khí sắc trầm, 2/ mất quan tâm, thích
thú, 3/có biểu hiện sụt cân khi không ăn kiêng hoặc tăng cân, 4/mất ngủ hoặc ngủ
quá nhiều, 5/sự kích động tâm vận độn hoặc chậm vận động, 6/mệt mỏi hoặc mất
năng lượng, 7/Cảm thấy không xứng đáng hoặc tội lỗi quá mức hoặc không thích
hợp, 8/Giảm khả năng suy nghĩ, tập trung hoặc khả năng ra quyết định và 9/Suy
nghĩ vè cái chết hoặc có ý tưởng và kế hoạch tự sát. Các biểu hiện trên xuất hiện
trong khoảng thời gian 2 tuần.
Trong phân loại quốc tế về các rối loạn tâm thần và hành vi ICD-10, trong
các giai đoạn trầm cảm điển hình là nhẹ, vừa và nặng, người bệnh thường có biểu
hiện:1/Khí sắc trầm; 2/Mất mọi quan tâm, hứng thú; 3/Giảm năng lượng dẫn đến
tăng sự mệt mỏi và giảm hoạt động.
Ngoài ra, người bệnh còn có một số triệu chứng phổ biến khác là: 1/ Giảm
sút tập trung và chú ý; 2 Giảm sút tính tự trọng và lòng tin; 3/Ý tưởng buộc tội và
không xứng đáng; 4/Cảm thấy tương lai ảm đạm và bi quan; 5/Có ý tưởng và hành
17
vi tự hủy hoại, hoặc tự sát; 6/ Rối loạn giấc ngủ; 7/ Ăn ít ngon miệng.
1.3. Đặc điểm của rối loạn trầm cảm ở tuổi vị thành niên.
Nghiên cứu của nhóm tác giả Cao Vũ Hùng, Hoàng Cẩm Tú và Nguyễn Viết
Thiêm năm 2007 về “Đặc điểm lâm sàng và tìm hiểu các yếu tố liên quan trong bệnh rối loạn trầm cảm tuổi vị thành niên” 20chỉ ra rằng: Với đặc trưng ở lứa tuổi
mà các đặc điểm về biểu hiện của trầm cảm ở lứa tuổi vị thành niên cũng có sự khác
biệt so với trầm cảm ở người lớn, những khác biệt đó được thể hiện qua những biểu
hiện sau đây:
- Thường thể hiện bằng triệu chứng cơ thể mà đau là triệu chứng hay được
kể đến. Thường là đau đầu, đau bụng, đau ngực, ngột ngạt kèm cảm giác lo buồn
chán nản…Chính vì các biểu hiện triệu chứng cơ thể nổi bật nên đối với các thể
trầm cảm cảm nhẹ, có nhiều tác giả gọi là trầm cảm che đậy bởi triệu chứng cơ thể,
các thể này thường không được phát hiện chẩn đoán sớm và tất nhiên không được
điều trị. Đa phần các trường hợp này được bố mẹ đưa đến các cơ sở nội nhi khám
bệnh với các chẩn đoán và điều trị các bệnh lý cơ thể về tim mạch, tiêu hoá, thần
kinh…, và được điều trị bằng các thuốc chuyên khoa đặc hiệu nhưng không thấy kết
quả, hoặc không thấy có các bằng chứng tổn thương thực thể rõ ràng.
- Khí sắc trầm: Trẻ có cảm giác buồn chán nhẹ không rõ rệt, không giải
thích được nguyên cớ, hay cáu kỉnh. Giảm hứng thú trong học tập, công việc được
giao phó, và cả trong các sinh hoạt nhóm hay đoàn thể.
- Tư duy: Khó tập trung chú ý, khó tiếp thu trong học tập, kết quả học giảm
sút, quá trình này có thể diễn ra từ từ hoặc nhanh chóng, đây cũng là lý do quan
trọng mà các bậc cha mẹ đưa trẻ đến các cơ sở khám bệnh hoặc tư vấn tâm lý. Một
số khác lại cảm thấy hưng phấn, thấy khả năng của mình vượt trội, trẻ chăm chỉ học
tập, kết quả ban đầu tốt nhưng sau đó kết quả lại giảm sút một cách rõ rệt.
- Các hoạt động xã hội: Trẻ thu mình cô lập không muốn giao tiếp hay tham
gia các hoạt động đoàn thể, phàn nàn không có bạn thân hoặc khó chia sẻ với bạn.
Trẻ thờ ơ, ít quan tâm đến các hoạt động diễn ra xung quanh, với những người xung
20 Cao Vũ Hùng và cs, Đặc điểm lâm sàng và tìm hiểu các yếu tố liên quan trong bệnh rối loạn trầm cảm tuổi vị thành niên, Tạp Chí Y học thực hành, số 10,2007
18
quanh, có thể ngay cả với những người thân thiết nhất. Các biểu hiện thay đổi ở các
mức độ khác nhau, từ kém nhiệt tình đến tình trạng thờ ơ. Một số khác lại gia nhập
nhóm bạn để chia sẻ, đồng cảm. Một số lao vào học tập nhưng một số lại từ chối
làm mọi việc.
- Rối loạn ăn: Thường nổi bật là cảm giác chán ăn, không có hứng thú trong
ăn uống, mất cảm giác ngon miệng, hậu quả là trẻ bị giảm cân. Tuy nhiên có thể ăn
nhiều hơn bình thường hay ăn vô độ dẫn đến tăng cân. Tăng hay giảm cân là triệu
chứng cần lưu ý ở vị thành niên, bởi đây là giai đoạn trẻ phát triển mạnh mẽ và
nhanh chóng về thể chất, nên triệu chứng giảm cân không rõ ràng mà có khi biểu
hiện tình trạng chậm hay ngừng tăng cân so với lứa tuổi.
- Rối loạn giấc ngủ, trẻ ngủ nhiều hơn bình thường hoặc ngủ ít, trong rất
nhiều trường hợp trẻ thường xuyên có ác mộng. Có thể biểu hiện tình trạng trẻ nằm
nhiều nhưng lại mất ngủ, trẻ thường phàn nàn khó vào giấc ngủ hay chất lượng giấc
ngủ giảm sút, hay bị thức giấc lúc nửa đêm, dậy sớm…
- Đi kèm với các triệu chứng về cảm xúc, cơ thể là các biểu hiện rối loạn
hành vi, như quậy phá, hành vi chống đối xã hội, chống đối bố mẹ, trốn học, trộm
cắp, lập băng đảng hay nhóm bạn xấu và sử dụng các chất gây nghiện. Rối loạn
hành vi ở thanh thiếu niên ngày càng có xu hướng tăng cao, thu hút sự chú ý của
cộng đồng xã hội, trong số này tỷ lệ có rối loạn trầm cảm cao.
- Tự sát cũng là một triệu chứng rất quan trọng và nghiêm trọng trong bệnh
trầm cảm tuổi vị thành niên, ở các mức độ khác nhau từ ý tưởng đến có hành vi tự
sát. Trẻ thực hiện hành vi tự sát bằng các hình thức khác nhau như uống thuốc, đập
đầu vào tường, thắt cổ, cắt mạch máu,… và thường xẩy ra ở bệnh nhân có mức độ
19
trầm cảm nặng.(Cao Vũ Hùng và cộng sự, 2007)
1.4. Lý luận về liệu pháp nhận thức hành vi
1.4.1. Các bước thực hiện về liệu pháp nhận thức hành vi cho người có rối
loạn trầm cảm
Trong bài viết của tác giả Kendra Cherry trên trang verywell mind có tựa đề “Cognitive Behavioral Therapy (CBT)21” tác giả có nêu: “Liệu pháp nhận thức hành
vi (CBT) là một hình thức tâm lý trị liệu giúp bệnh nhân hiểu rõ sự ảnh hưởng của
suy nghĩ và cảm xúc lên hành vi. CBT thường được sử dụng để điều trị các rối liên
CBT thường được áp dụng trong một khoảng thời gian ngắn và tập trung giúp bệnh
nhân đương đầu với một vấn đề cụ thể. Trong suốt quá trình điều trị, bệnh nhân sẽ
quan đến sợ hãi, nghiện, trầm cảm và lo âu.
học cách xác định và thay đổi các suy nghĩ tiêu cực gây ảnh hưởng xấu lên hành vi
và cảm xúc.
Nội dung cốt lõi của CBT chính là suy nghĩ và cảm xúc của chúng ta đóng
một vai trò căn bản trong việc quyết định các hành vi mà ta thể hiện. Ví dụ, nếu một
người dành nhiều thời gian suy nghĩ về một vụ rơi máy bay, tai nạn trên đường
băng hay các thảm họa hàng không thì người này sẽ tránh né việc di chuyển bằng
máy bay.
Mục tiêu của CBT là dạy cho bệnh nhân rằng mặc dù không thể điều khiển
tất cả mọi thứ nhưng họ có thể kiểm soát cách mà họ hiểu, tiếp nhận và giải quyết
các vấn đề trong cuộc sống của chính họ”.
Theo nghiên cứu: “Ứng dụng mô hình trị liệu nhận thức hành vi cho 20 trẻ em có rối loạn lo âu và gia đình” 22năm 2003 của các tác giả Nguyễn Hồng Thúy,
Trần Thành Nam, Cao Vũ Hùng, Đặng Hoàng Minh quy trình trị liệu nhận thức
hành vi dựa trên quan điểm cho rằng: nhận thức – cảm xúc – hành vi có liên quan
với nhau. Có 3 nguyên tắc cơ bản trong trị liệu nhận thức hành vi là:
- Nhận thức (suy nghĩ) của con người có ảnh hưởng đến hành vi và cảm
21 https://www.verywell.com/what-is-cognitive-behavior-therapy-2795747
22 https://tamlyhoclamsang.wordpress.com/2009/09/14/quy-trinh-tr%E1%BB%8B- li%E1%BB%87u-nh%E1%BA%ADn-th%E1%BB%A9c-hanh-vi-cho-tr%E1%BA%BB-em- r%E1%BB%91i-lo%E1%BA%A1n-lo-au-va-gia-dinh/
20
xúc của người đó.
- Nhận thức (những ý nghĩ bất hợp lý) có thể nhận ra và thay đổi được.
- Việc thay đổi những ý nghĩ vô lý bằng những ý nghĩ đúng đắn phù hợp v
thì hành vi cảm xúc cũng có thể được thay đổi.
Quy trình trị liệu nhận thức hành vi cho người trầm cảm gồm những bước
như sau:
Bước 1: Nhận diện được các cảm xúc, các triệu chứng cơ thể và ý nghĩ
Đây là bước đầu tiên của quy trình trị liệu nhận thức hành vi. Cần thiết phải
làm cho thân chủ hiểu được có sự khác nhau giữa các ý nghĩ, cảm xúc, triệu chứng
cơ thể.
Nhận diện các cảm xúc với mục đích thân chủ phải mô tả được các trạng thái
cảm xúc khác nhau với cường độ khác nhau. Có thể dùng hình vẽ minh họa hoặc
thang đo…
Nhận diện các triệu chứng cơ thể với mục đích phải nhận diện được các triệu
chứng cơ thể liên quan với trầm cảm như là: đau bụng, đau đầu, nhức cơ, mất ngủ…
Nhận diện các ý nghĩ với mục đích thân chủ phải nhận diện được các ý nghĩ
làm xuất hiện trầm cảm để chứng minh mối liên quan giữa các tình huống, ý nghĩ
với cảm xúc. Đây cũng là bước đầu tiên của quy trình cấu trúc lại nhận thức.
Bước 2: Cấu trúc lại nhận thức gồm 4 bước:
Nhận ra được các ý nghĩ nằm sau các triệu chứng trầm cảm
Tìm bằng chứng phản bác lại ý nghĩ dựa trên 4 nguồn: Những trải nghiệm trong
quá khứ của thân chủ; Khả năng thay thế; tần xuất gặp phải; Những triển vọng khác
Lượng giá ý nghĩ dựa trên bằng chứng
Xem xét hậu quả khi tình huống sợ xảy ra thực
Thường áp dụng với trẻ lớn và vị thành niên, nếu tình huống trong ý nghĩ lo
âu thực sự xảy ra thì sẽ có hậu quả gì?” và “Hậu quả đó ảnh hưởng đến cuộc sống
có lớn không?
Bước 3: Hoạt Hóa hành vi.
Hoạt hóa hành vi là bước bao gồm các kĩ thuật để thân chủ thực hiện các hành
vi mà trước kia thân chủ đã từng có hứng thú, hoặc các hành vi hiện tại thân chủ có
21
thể thực hiện được. Nhằm mục đích gia tăng các hành vi đem lại hứng thú xã hội cho
thân chủ, để từ đó thân chủ thoát khỏi tình trạng trầm cảm của mình. Việc thực hiện
các bài tập về hành vi giúp thân chủ có cách ứng phó mới với các hoàn cảnh.
Bước 4: Kỹ thuật thư giãn:
Thân chủ phải hết sức tập trung, ý thức của mình vào việc hình dung ra cảm
giác căng cơ, trùng cơ hoặc từ trạng thái căng cơ sang trùng cơ, các bầi tập nên đơn
giản, ngắn, với trẻ hư giãn: nhỏ nên dưới dạng trò chơi. Tập tuần tự từng nhóm cơ
(đặc biệt là cơ hai bàn tay, hai cánh tay, vai, cổ, ngực, bụng, bàn chân…)
Kỹ thuật này sử dụng xen kẽ trong các phiên trị liệu.
1.4.2. Một số kỹ thuật trong liệu pháp nhận thức hành vi.
Nhà liệu pháp dùng các kỹ thuật khác nhau để làm bộc lộ và kiểm tra các ý
nghĩ và làm thay đổi hành vi của bệnh nhân.
Các kỹ thuật nhận thức:
Với mục đích là làm bộc lộ và kiểm tra ý nghĩ, thay đổi hành vi của thân chủ.
Bao gồm 4 quá trình:
Đầu tiên là nhận diện các tư duy tự động bao gồm các niềm tin không hợp
lý (Identifying irrational beliefs), Nhà trị liệu phải cho họ thấy rằng cảm xúc của họ
(hay còn gọi là hậu quả cảm xúc) không phải do người khác gây ra hoặc các nguồn
lực bên ngoài (sự kiện kích hoạt), giúp thân chủ hiểu rằng chính cách mà họ làm, họ
cảm nhận và thể hiện, cư xử ra bên ngoài…thông qua cách mà thân chủ nghĩ và
niềm tin không hợp lý - nhận thức sai lệch.
Thứ hai là kiểm chứng các tư duy tự động, nhà trị liệu hướng dẫn và giúp đỡ
thân chủ kiểm chứng giá trị của các tư duy tự động, Thân chủ được hướng dẫn để
sẵn sàng chất vấn lại với những ý nghĩ của họ trước một sự kiện đau buồn hoặc gây
ra những cảm xúc khác, cách thay đổi suy luận của họ. Mục đích là khuyến khích
thân chủ đưa ra các giải thích thay thế cho các sự kiện cũng là một cách làm xói
mòn các tư duy tự động.
Thứ ba, nhận diện các giả định kém thích ứng. Một khi niềm tin đã nhận
diện thì khuôn mẫu biểu hiện các nguyên tắc hay các giả định kém thích ứng đã dẫn
22
dắt cuộc sống của thân chủ đến với thất vọng, thất bại và cuối cùng là trầm cảm.
Thứ tư là kiểm chứng và thay thế giá trị của giả định kém thích ứng.khi đã
nhận diện được các giả định kém thích ứng, Nhà trị liệu đương đầu với từng loại để
giúp thân chủ nhìn ra các sai lầm vốn có của niềm tin không hợp lý thông qua
cuộc tranh luận ý thức(cognitive disputation) bằng cách hỏi – yêu cầu đưa ra - giải
thích bằng chứng về niềm tin bởi những câu hỏi trực tiếp; và hình thức thứ hai được
lựa chọn để đương đầu với niềm tin là dùng tranh luận tưởng tượng (imaginal
disputation), đây là kỹ thuật cho phép trí tưởng tượng của thân chủ đi ngược lại
niềm tin không hợp lý, tưởng tượng với tình huống không thoải mái và từng mức
thang bậc dễ chịu hơn, ít căng thẳng hơn, ít giận hơn…hoặc giảm hơn bất cứ điều gì
liên quan đến cảm xúc tiêu cực. Khi thân chủ có thể nói ra rằng mình có thể tưởng
tượng việc giảm dần cường độ mạnh mẻ của cảm xúc, và Nhà trị liệu sẽ hỏi để giúp
than chủ tìm ra suy nghĩ gì đã sử dụng để tạo ra sự cải thiện. Và dần những suy nghĩ
này sẽ được sử dụng trong những tình huống thật trong tương lai đễ thay thế các suy
nghĩ đã sinh ra cảm xúc tiêu cực, (Parrott, 1997). Kỹ thuật thứ ba là tranh luận hành
vi (behavioral disputation) với mục đích là thay đổi hành vi khi các niềm tin không
hợp lý, các giả định kém thích ứng được chứng minh là sai hoàn toàn, và một niềm
tin mới đã được xuất hiện.
Ngoài ra Sharf (1996) tóm tắt các kỹ thuật REBT, là các kỹ thuật bổ sung
tiếp tục thành công (Additional techniques for continuting success) như : đương đầu
với nhận xét về bản thân (coping self-statements) nhằm gia cố các kiểu suy nghĩ
hợp lý ; Ám chỉ (Referenting) thường dùng trong cho việc khắc phục để hồi
phục; các phương pháp giáo dục tâm lý (Psychoeducational method)khuyến khích
thân chủ học thêm cách để cũng cố hành vi mới thường thông qua đọc sách; dạy
người khác (teaching order) Ellis khuyến khích thân chủ hướng dẫn và chia sẻ với
càng nhiều người càng tốt cách thức khám phá những niềm tin không hợp lý để
ngăn cản chúng, với cách làm này thân chủ có thêm việc thực hành bổ sung giúp
hình thành suy nghĩ chống lại những niềm tin không hợp lý; giải quyết vấn đề
(Problem solving)bao gồm các kỹ năng giải quyết vấn đề như lên kế hoạch, kế
hoạch dự phòng, dự đoán các vấn đề hay các trở lực, giúp thân chủ tự tin vào khả
23
năng của mình hơn và hạn chế các niềm tin không hợp lý; đóng vai (role
playing)được thực hành trong phiên trị liệu hoặc như một bài tập về nhà những tình
huống mà thân chủ muốn cải thiện, vừa giúp thân chủ có các kỹ năng cần thiết và
thứ hai là bộc lộ cảm xúc .
Các kỹ thuật hành vi:
Các kỹ thuật hành vi và nhận thức đi đôi với nhau. Kỹ thuật hành vi nhằm
kiểm tra và thay đổi các nhận thức kém thích ứng, không chính xác nhằm hướng tới
mục đích chung đó là giúp thân chủ nhận ra những niềm tin giả định và nhận thức
không chính xác của bản thân, học các chiến lược và cách thức mới để giải quyết
vấn đề. Các kỹ thuật hành vi bao gồm lên các kế hoạch hoạt động, thư giãn, làm bài
tập về nhà như viết nhật ký ý nghĩ và tư duy hành vi và cảm xúc kèm theo, diễn tập
nhận thức, đóng vai. Để đơn giản và thành công thì Nhà trị liệu chia các công việc
thành các bài tập khác nhau, với mục đích chứng tỏ với thân chủ rằng họ có khả
năng thành công. Các đặc điểm chính của bài tập là:
Nhận diện vấn đề.
Hình thành nên một kế hoạch, dự án. Giao bài tập hay hoạt động cho thân
chủ từ đơn giản đến phức tạp với mục đích làm cho thân chủ nhận thấy một cách
trực tiếp và ngay lập tức rằng họ đang có được trải nghiệm thành công.
Khuyến khích thân chủ chấp nhận bản thân, đánh giá thực tế các thành công
thực sự của họ. Nhấn mạnh sự thành công này là do nỗ lực và kỹ năng của thân chủ.
Nhằm làm giảm nghi ngờ của thân chủ, cải thiện sự tự tin vào bản thân, giảm ảnh
hưởng từ các niềm tin – nhận thức không phù hợp.
Nhà trị liệu cùng với thân chủ đưa ra các bài tập mới cụ thể và phức tạp hơn.
Trong diễn tập nhận thức, thân chủ tưởng tượng một tình huống khó khăn
cùng với sự trợ giúp của nhà trị liệu, sẽ hướng dẫn từng bước trực diện và giải quyết
thành công với tình huống. việc khuyến khích thân chủ trở nên tự lực bằng cách
thực hiện các bài tập được giao hay các hành động, công việc đơn giản như căm sóc
bản thân, tự chọn giày, đi mua sắm…được gọi là những bài tập tự lực, bên cạnh đó
là bài tập đóng vai là một kỹ thuật hiệu quả trong việc rút ra các tư duy tự động và
24
thực hành thay thế bởi các hành vi mới thích ứng hơn. Các kỹ thuật thư giản, giúp
thân chủ vượt qua những thời điểm khó khăn như hoạt động thể thao, tiếp xúc xã
hội, làm việc hay vui chơi…
Giải cảm ứng hệ thống cũng là một kỹ thuật hành vi thường được áp dụng
kềm với kỹ thuật nhận thức, khi thân chủ tưởng tượng một tình huống hay một sự
việc mà bản thân đã trải nghiệm gây lo sợ, cùng với kỹ thuật thư giãn sẽ giúp thân
chủ đối phó với phản ứng sợ và cuối cùng loại bỏ được lo âu, mức độ sẽ tăng dần
cho đến khi tiếp xúc với thực tế, với mục đích thân chủ sẽ dần trở nên giải nhạy cảm
với các đáp ứng sợ hãi đã trải nghiệm và học cách cải thiện phản ứng, đối phó với
tình huống.
Nhà trị liệu hướng dẫn cho thân chủ các bài tập thư giản như kỹ thuật thư
giãn bằng các bài tập thở…Ngoài ra, còn có các kỹ năng khác như kỹ năng giao
tiếp, kỹ năng tự khẳng định bản thân, kỹ năng xã hội…các kỹ thuật sẽ được thay đổi
25
theo từng cá nhân và theo từng vấn đề.
Chƣơng 2
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU TRƢỜNG HỢP TRẺ VỊ THÀNH NIÊN
MẮC RỐI LOẠN TRẦM CẢM
2.1. Thông tin chung về thân chủ
2.1.1. Thông tin về hành chính
Họ và tên: VNA - Nữ Ngày tháng năm sinh: 2000
(gọi tắt là thân chủ)
Dân tộc: Kinh Học vấn: 12 12
Địa chỉ: Phố Huế, Quận Hai Bà Trưng, Nghề nghiệp: Mới tốt nghiệp
TP Hà Nội THPT. (Chuẩn bị đi du học).
Thân chủ được bác sĩ viện sức khỏe tâm thần BM giới thiệu tới người hỗ trợ
tâm lý
2.1.2. Những lý do thăm khám
- Một số biểu hiện lâm sàng ở thân chủ:
- Thân chủ luôn cảm thấy mệt mỏi, kêu mệt mỏi
- Không tập trung chú ý học bài và công việc được giao,
- Mất hứng thú với những công việc yêu thích trước đây,
- Thường hay cáu gắt khi không hài lòng về điều gì đó, dễ xúc động (khóc)
khi có chuyện không vui.
- Không thích giao lưu nói chuyện với mọi người xung quanh (trước đây
không như vậy).
- Ám ảnh sợ máu và kim tiêm. Thân chủ nói do xem phim nhiều và đã từng
nhìn thấy cảnh người tiêm trích nên có nỗi sợ với kim tiêm và máu do lo sợ lây
nhiễm HIV.
2.1.3. Hoàn cản gặp gỡ.
- Thân chủ đến gặp người trợ giúp tâm lý (tác giả luận văn) thông quan lời
26
giới thiệu của một bác sĩ tâm thần.
- Thân chủ tới gặp người trợ giúp tại phòng tham vấn tâm lý tại cơ sở thực
tập của người trợ giúp, thân chủ đi cùng với mẹ của mình.
- Khi tới gặp người trợ giúp, thân chủ rất chủ động, không có cảm giác bị
cha mẹ ép đi, nên khi tiếp xúc với người trợ giúp tâm lý khá thoải mái.
Người trợ giúp tâm lý hỗ trợ cho thân chủ tại một không gian trợ giúp an
toàn, thoải mái, đảm bảo sự riêng tư và bí mật khiến thân chủ có thể chia sẻ vấn đề
của bản thân một cách dễ dàng.
2.1.4. Ấn tượng chung về thân chủ
- Thân chủ khá cởi mở khi chia sẻ vấn đề của bản thân với nhà tâm lý, cho
thấy thân chủ là người dễ tiếp cận.
- Thân chủ nói chuyện mạch lạc, có động cơ sẵn sàng thay đổi và có mong
muốn thoát ra tình trạng hiện tại của bản thân.
- Thân chủ có nhận thức rõ ràng về vấn đề của mình. Điều này giúp thân
chủ dễ dàng hơn khi nắm bắt các nội dung của các buổi trị liệu và yêu cầu của
người trợ giúp.
- Nhà tâm lý nhận thấy thân chủ có khí sắc trầm buồn và dễ xúc động khi
chia sẻ vấn đề của bản thân.
2.2. Các vấn đề đạo đức và hạn chế trong nghiên cứu
2.2.1. Vấn đề đạo đức trong nghiên cứu
Đạo đức trong nghiên cứu đặc biệt là vấn đề đạo đức trong can thiệp trị liệu
đối với một nghiên cứu trường hợp là một trong những yếu tố vô cùng quan trọng,
nó thể hiện tính chuyên nghiệp và định hướng cho những nhà tâm lý hướng đến
những tư tưởng cao đẹp khi thực hành nghề trị liệu tâm lý. Trong nghiên cứu này có
thể kể đến những vấn đề liên quan đến khía cạnh đạo đức như sau:
Trong nghiên cứu này tôi sử dụng các kỹ thuật chính sau: kĩ thuật hoạt hóa hành
vi; kĩ thuật xúc cảm hành vi hợp lý; kĩ thuật thư giãn, đó đều là những kĩ thuật được
kiểm nghiệm và có những bằng trứng nghiên cứu rõ ràng trong can thiệp trị liệu.
Các kỹ thuật vừa nêu trên khi áp dụng cho thân chủ của tôi được đánh giá là
27
phù hợp với độ tuổi và trình độ nhận thức của thân chủ.
Trong suốt quá trình can thiệp, tính liên tục của các phiên làm việc luôn được
đảm bảo, cho đến hết quá trình trị liệu. Trong quá trình trị liệu tôi luôn bám sát vào
kết hoạch trị liệu đã được đề ra.
Tuân thủ các nguyên tắc trong tham vấn trị liệu tâm lý một trong số đó là
nguyên tắc bảo mật thông tin của thân chủ được tôi thực hiện đúng cam kết với
những gì đề ra với thân chủ.
2.2.2. Hạn chế trong nghiên cứu
- Trong quá trình trị liệu, học viên chưa kết nối trực tiếp thường xuyên với
người giám sát chuyên môn. Điều này làm giảm đi những lợi ích mà thân chủ có thể
được thừa hưởng.
Việc quá trình trị liệu chỉ được thực hiện trong 8 phiên làm việc với thân chủ
có thể khiến cho quá trình thực hiện trị liệu nhận thức hành vi giảm sút về mặt hiệu
quả do chưa thể hiện được hết đầy đủ những phiên làm việc cần có của một tiến
trình trị liệu nhận thức hành vi đưa ra. Thực tế quá trình giúp đỡ thân chủ cần được
tiếp tục.
Những hạn chế của một người mới bước vào nghề ở dạng “vừa học vừa
hành” nên còn hạn chế về chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp. Điều này cũng làm
giảm xút hiệu quả hỗ trợ cho thân chủ. Mặt khác, thời gian hoàn thành 8 phiên và
thời gian viết hoàn chỉnh luận văn để khá dài, điều này có thể làm giảm xút chất
lượng viết luận văn (do có thể quên, hoặc nhớ “lộn xộn”).
2.3. Đánh giá
2.3.1. Mô tả vấn đề
Thân chủ là một học sinh nữ 18 tuổi, đến phòng tham vấn vì có những biểu
hiện mệt mỏi, hay buồn chán và có rối loạn giấc ngủ cùng với đó là những rắc rối
trong cuộc sống liên quan đến mối quan hệ của thân chủ với cha mẹ. Thân chủ đã
từng đến khám và điều trị tại viện sức khỏe tâm thần Bạch Mai.
Theo thân chủ nói, thân chủ là một người dễ bị áp lực, đặc biệt là những áp lực
liên quan đến việc học tập.Thân chủ kể rằng, khi còn học tiểu học thân chủ là một cô
bé có học lực giỏi. Tuy nhiên từ khi học cấp 2, bắt đầu từ năm lớp 8, học lực của thân
28
chủ giảm sút và thân chủ cảm thấy khó chịu vì điều này. Đến năm lớp 9 áp lực từ việc
học tập khiến thân chủ thêm mệt mỏi và rơi vào trạng thái trầm cảm. Thân chủ đã
từng được điều trị tâm lý vào khoảng thời gian đó. Cũng theo lời thân chủ nói, thân
chủ được bố mẹ đầu tư và quan tâm rất nhiều. Tuy nhiên, thân chủ cho rằng, đó là
kiểu quan tâm thái quá, nó khiến thân chủ ngột ngạt và khó chịu.
Vào lớp 10, thân chủ có những hành vi chống đối. Thân chủ thường bị ghi
tên vào sổ đầu bài. Điều này khiến cha mẹ liên tục phải lên gặp giáo viên chủ
nhiệm. Thân chủ chia sẻ rằng lúc đó thân chủ chơi với nhóm bạn mà theo thân chủ
là nhóm nghịch nhất lớp, tuy đi học đều nhưng thân chủ thường xuyên trốn tiết.
Điều này khiến thân chủ bị các thầy cô chú ý và không có thiện cảm tốt về thân chủ.
Bố mẹ thân chủ trong thời gian này cũng thường xuyên phàn nàn về thân chủ.
Nhưng theo thân chủ thời gian đó là thời gian thân chủ cảm thấy vui và thoải mái
hơn so với trước đây. Thân chủ nói việc thân chủ có những hành vi như vậy là để
chống đối lại cha mẹ và đôi khi thân chủ cảm thấy vui vì điều đó.
Sau khoảng thời gian học lớp 11, thân chủ lại quay lại với cuộc sống trước
kia của mình, thân chủ không muốn nói chuyện hay đi chơi với bạn bè như trước
kia. Và từ đó đến nay thân chủ rơi vào trạng thái trầm buồn.
Trong mối quan hệ của thân chủ với cha luôn có những xung đột. Thân chủ
nói việc thân chủ cảm thấy áp lực và căng thẳng trong chuyện học tập một phần là
vì cha thân chủ hay so sánh thân chủ với các bạn bè cùng tuổi, đặc biệt là với con
của bạn bố. Ngay cả khi thân chủ đạt thành tích cao trong học tập cũng không được
cha khen ngợi (ví dụ khi thân chủ đạt điểm 8, 9 môn ngoại ngữ nhưng bố thân chủ
cũng chỉ nói: “Chỉ được có thế thôi à”. Còn khi thân chủ chưa đạt thành tích tốt
trong học tập, bố lại nói: “Học cho con chứ không phải học cho bố”. Mặc dù sau
năm học lớp 10 thân chủ đã cố gắng thay đổi rất nhiều nhưng do kết quả học của
thân chủ không được như ý muốn nên không được bố mẹ ghi nhận. Ngay cả khi
thân chủ đỗ đại học với số điểm khá cao thì bố thân chủ cũng không tỏ ra hài lòng
và chỉ nói “được có bấy nhiêu thôi thì làm sao xin học bổng được”. Tất cả điều này
khiến thân chủ cảm thấy áp lực và mình đang phải làm theo ý của người khác. Thân
chủ cảm thấy mình và bố khá giống nhau vì có phần nóng tính, do vậy thân chủ hay
29
mâu thuẫn với bố.
Mối quan hệ của thân chủ và mẹ có phần bớt căng thẳng hơn, tuy nhiên theo
thân chủ đôi khi mẹ hay xâm phạm vào quyền riêng tư của thân chủ. Điều này cũng
khiến thân chủ cảm thấy ngột ngạt và khó chịu.
Thân chủ cho rằng, mình là người vô dụng, không có chính kiến và tương lai
vô định vì ngành học mà bố mẹ cho thân chủ theo học không phải là sự yêu thích
của thân chủ. Ví dụ, khi chuẩn bị thi đại học, bố mẹ không cho thân chủ theo đuổi
ngành thân chủ yêu thích là Thiết kế thời trang. Bố mẹ định hướng cho thân chủ
phải theo khối ngành kinh tế. Thân chủ cảm thấy bất lực với chính mình.
Cũng theo lời thân chủ kể, thân chủ cũng từng có bạn trai. Cách đây 2 năm
thân chủ đã chia tay với bạn trai điều này khiến cho thân chủ buồn rất nhiều.Thân chủ
nói do thân chủ hay ghen tuông nên thân chủ chia tay bạn trai. Người bạn trai đó đã
không níu giữ khiến thân chủ buồn và day dứt trong lòng trong thời gian đầu mới chia
tay. Hiện tại cảm giác buồn hay day dứt trong lòng của thân chủ không còn nữa, thân
chủ nghĩ có thể thời gian trôi qua nên thân chủ vượt qua được chuyện này.
Thân chủ nói mình có ám ảnh sợ máu và kim tiêm là do thân chủ xem phim
nhiều và đã từng nhìn thấy cảnh người tiêm trích nên thân chủ có nỗi sợ với kim
tiêm và máu do lo sợ lây nhiễm HIV.
Theo lời kể của mẹ thân chủ, việc sợ kim tiêm và máu có thể do câu chuyện
của mẹ khi thân chủ còn nhỏ, mẹ kể cho thân chủ nghe một câu chuyện liên quan
đến vụ việc một cô gái giúp đỡ người tai nạn giao thông nhưng không may máu của
người bị tai nạn giao thông dính vào vết thương hở ở tay của cô gái, người bị tai nạn
giao thông trước đó đã nhiễm HIV và làm cho cô gái giúp đỡ bị lây nhiễm HIV. Bà
nói rằng: Việc kể câu chuyện lây nhiễm HIV là chỉ có ý muốn con mình cẩn thận và
lưu ý khi muốn giúp đỡ ai đó. Tuy nhiên câu chuyện lại làm thân chủ có ám ảnh và
luôn sợ lây nhiễm HIV đặc biệt là khi nhìn thấy máu và kim tiêm.
2.3.2. Đánh giá sơ bộ
2.3.2.1. Trò chuyện lâm sàng
Qua trò chuyện lâm sàng với thân chủ, người trợ giúp nhận thấy một số vấn
30
đề nổi bật như sau:
- Sức khỏe tâm thần
Các triệu chứng của trầm cảm (gồm các biểu hiện căng thẳng, buồn, thiếu
sinh lực, cảm thấy mình vô dụng, mất hứng thú xã hội…).
Triệu chứng của ám ảnh sợ bao gồm ám ảnh sợ máu và kim tiêm liên quan
đến việc sợ bị lây nhiễm HIV khi chứng kiến cảnh người trích ma túy và xem phim
ảnh liên quan.
Cơ thể và sức khỏe thể chất: lúc nào thân chủ cũng cảm thấy mệt mỏi.
- Các mối quan hệ
Có mâu thuẫn với cha. Thân chủ cảm thấy áp lực với cha khi cha hay so sánh
thân chủ với các bạn khác, đặc biệt là trong kết quả học tập.
Yêu sớm, buồn bực vì bỏ người yêu và cảm giác bị người yêu “bỏ rơi”.
- Các chức năng hoạt động khác
Vui chơi giải trí: không muốn tham gia các hoạt động vui chơi, cũng như các
hoạt động gây hứng thú trước đây
- Các nguy cơ bị ảnh hưởng:
Chuẩn bị qua Pháp học tập. Điều này có thể dẫn tới việc thân chủ có xáo trộn
cảm xúc, có lo lắng mơ hồ. Thân chủ có thể bị shock văn hóa, có khó khăn khi phải
hòa nhập với môi trường mới. Đặc biệt có mối lo sợ không có đủ ngoại ngữ tiếng
Pháp để theo học, theo yêu cầu về chứng chỉ A2.
- Nguy cơ tự tử
Ý nghĩ tự tử: Thân chủ đã từng có suy nghĩ tự tử khi còn học lớp 8. Tuy
nhiên thân chủ chưa lên kế hoạch tự sát khi suy nghĩ tự sát ở thời điểm trước đây
xuất hiện.
Mức độ nguy cơ tự tử hiện tại: hiện tại do thân chủ đã được sử dụng thuốc
chống trầm cảm nên ý nghĩ về tự sát không còn. Hiện tại thân chủ nói rằng suy nghĩ
tự sát không còn nữa.
2.3.2.2. Kết quả đánh giá qua test tâm lý
Lý do chọn các test dưới đây do khi thăm khám hỏi chuyện và quan sát thân
chủ, nhà tâm lý nhận thấy thân chủ có những biểu hiện liên quan đến rối loạn trầm
31
cảm, có ám ảnh sợ và có biểu hiện của stress.
Các test tâm lý đã được lựa chọn sử dụng đã cho kết quả như sau:
Bảng 1.Thang đánh giá trầm cảm BDI
BDI Điểm đánh giá Kết quả
Không có trầm cảm 0 – 13
Trầm cảm mức độ nhẹ 14 - 19 39 điểm
Trầm cảm mức độ vừa 20 - 29
Trầm cảm mức độ nặng ≥ 30
Kết quả chẩn đoán: Trầm cảm mức độ nặng
Bảng 2. Kết quả thang đánh giá Dass 21
Trầm Cảm Lo âu Stress
DASS Điểm Kết quả Điểm Kết quả Điểm Kết quả
Không có 0-9 0-7 0 -14
Mức độ nhẹ 10-13 8-9 15 -18
26 điểm 21 điểm 32 điểm Mức độ vừa 14-20 10-14 19-25
Mức độ nặng 21-27 15-19 26-33
Rất nặng ≥ 28 ≥ 20 ≥ 34
Kết quả chẩn đoán qua thang Dass 21 cho thấy thân chủ có trầm cảm mức
độ nặng, lo âu mức độ nặngvà stress ở mức độ nặng.
Bảng 3. Kết quả thang đánh giá lo âu Zung (SAS)
ZUNG (SAS) Điểm đánh giá Kết quả
Không có lo âu bệnh lý 20 – 44.
44 điểm Lo âu mức độ nhẹ đến trung bình 45 – 59
Lo âu mức độ nặng 60 - 74
32
Lo âu mức độ rất nặng 75 - 80
Kết quả chẩn đoán lo âu theo thang đánh giá củaZung cho thấy: Không có lo
âu bệnh lý. Tuy nhiên điểm trắc nghiệm đạt ở ngưỡng cao, ngấp nghé điểm lo âu ở
mức độ nhẹ.
2.3.3. Kết luận chung và chẩn đoán
Với trường hợp của thân chủ NA, căn cứ vào tiêu chuẩn chẩn đoán bệnh tâm
thần quốc tế như ICD-10 và DSM-5, VNA có thể đáp ứng tiêu chuẩn chẩn đoán ở
các rối loạn:
(I) Trầm cảm (giai đoạn trầm cảm nặng không có các triệu chứng loạn thần)
(mã F32.2 theo ICD-10) mã 296.23 theo DSM-5.
Theo đó thân chủ đáp ứng 5 biểu hiện kéo dài hơn 2 tuần thuộc các tiêu chí
nhóm A theo bảng phân loại bệnh sổ tay chẩn đoán rối loạn tâm thần DSM –5
(1) Giảm khí sắc (qua quan sát thấy nét mặt của VNA lúc nào cũng trong
trạng thái trầm buồn.
(2) Giảm sút rõ ràng các thích thú/sở thích ở tất cả hoặc hầu như tất cả các
hoạt động, có phần lớn thời gian trong ngày, hầu như hằng ngày.
(3) Mất ngủ hoặc ngủ nhiều hầu như hằng ngày (tiêu chuẩn 4 trong các tiêu
chuẩn chẩn đoán trầm cảm.
(4) Mệt mỏi hoặc mất năng lượng hầu như hằng ngày.(tiêu chuẩn thứ 6 trong
các tiêu chuẩn chẩn đoán trầm cảm).
(5) . Giảm khả năng suy nghĩ, tập trung chú ý hoặc khó đưa ra quyết định
hầu như hằng ngày (tiêu chuẩn 8 trong các tiêu chuẩn chẩn đoán trầm cảm).
(II) Rối loạn ám ảnh sợ đặc hiệu (mã F40.2 theo ICD-10.) mã300.29 theo
DSM – 5. Theo đó thân chủ đáp ứng các tiêu chuẩn sau:
(1) Sợ hãi hoặc lo âu về một đối tượng hoặc tình huống đặc biệt (ví dụ: máy
bay, sợ độ cao, sợ động vật, sợ tiêm thuốc, nhìn thấy máu) cụ thể ở đây là thân chủ
sợ thấy máu và kim tiêm.
(2) Các đối tượng hoặc tình huống gây ám ảnh sợ hầu hết luôn kích thích
gây sợ hãi và lo âu ngay lập tức.
(3) Các đối tượng hoặc tình huống gây ám ảnh sợ gây ra né tránh hoặc chịu
33
đựng với sự sợ hãi hoặc lo âu mạnh mẽ.
(4) Sợ hãi và lo âu không tương xứng với sự nguy hiểm thực sự của đối
tượng hoặc tình huống gây ám ảnh sợ và bối cảnh văn hóa xã hội.
(5) Sự sợ hãi, lo âu, né tránh dai dẳng, kéo dài ít nhất 6 tháng.
2.3.4. Cá nhân hóa định hình trường hợp
VNA đáp ứng tiêu chuẩn chẩn đoán trầm cảm theo kết luận chẩn đoản lâm
sàng và điểm số trắc nghiệm. Trầm cảm trong trường hợp này có thể lý giải theo
nhiều cách tiếp cận khác nhau:
Từ góc độ của thuyết hành vi, thân chủ có rất ít những củng cố tích cực trong
cuộc sống, đặc biệt là những củng cố tích cực đến từ gia đình. Thay vào đó, thân
chủ nhận lại các củng cố tiêu cực từ gia đình như việc bố hay so sánh thân chủ với
các con của bạn bố. Khi thân chủ đạt được điểm số cao trong học tập cũng không
được cha mẹ khen ngợi. Cha mẹ luôn kiểm soát thân chủ khiến thân chủ cảm thấy
khó chịu, mặc dù đã lớn nhưng thân chủ cho rằng mình chỉ như một đứa trẻ lớn về
thể xác chứ không có được sự tự do riêng tư của bản thân. Chính mối quan hệ gia
đình lỏng lẻo đã khiến thân chủ tìm đến các mới quan hệ thân mật từ bên ngoài gia
đình - yêu sớm. Mối quan hệ của thân chủ với bạn trai cũ cũng đem lại củng cố tiêu
cực với thân chủ. Từ những điều này khiến thân chủ xa lánh và không muốn thiết
lập mối quan hệ nào dẫn đến việc thân chủ mất hứng thú xã hội không muốn giao
lưu tiếp xúc với bạn bè, người thân.
Từ thuyết nhận thức, thân chủ có tự đánh giá thấp về bản thân, có niềm tin
tiêu cực về bản thân. Điều này góp phần gia tăng các triệu chứng trầm cảm ở thân
chủ. Thân chủ cho rằng mình “là người thấp kém”, “tương lai của em vô định không
biết sẽ như thế nào”. Sự đánh giá thấp ấy là hệ quả của việc bị bố mẹ luôn đem ra
so sánh thân chủ với các bạn bè cùng trang lứa khi thân chủ bị điểm thấp, khi thân
chủ được kết quả lại không được khen ngợi mà chỉ nói “được có bấy nhiêu thôi”
hay “ học cho con không phải học cho bố mẹ”. Hơn nữa khi thân chủ thi đại học lại
bị gia đình ngăn cản không cho thân chủ thi ngành thân chủ thích – ngành thiết kế
thời trang, bố mẹ ép thân chủ theo một ngành khác điều này khiến thân chủ cảm
thấy lòng tự trọng bị giảm sút, thân chủ cảm thấy mình thật vô dụng không quyết
34
định được tương lai của bản thân.
Ngoài ra, thân chủ đáp ứng tiêu chuẩn chẩn đoán rối loạn ám ảnh đặc hiệu
theo kết luận chẩn đoán lâm sàng từ bác sỹ. Điều này có thể lý giải theo cách tiếp
cận nhận thức trong việc hình thành lo âu, ám ảnh sợ như sau: Ám ảnh của thân
chủ có thể được củng cố từ sự nhận thức sai lầm người chăm sóc, cụ thể ở đây là
thông qua các lý giải về virut HIV qua câu chuyện hổi nhỏ mà mẹ kể cho thân chủ.
Như vậy, hành vi của mẹ hay nói cách khác là câu chuyện của mẹ chính là yếu tố
quan trọng trong việc hình thành và phát triển ám ảnh ở thân chủ.
2.4. Kế hoạch trị liệu
2.4.1 Mục tiêu đầu ra
Những thay đổi, kết quả được kỳ vọng sau khi kết thúc quá trình trị liệu là:
1. Cải thiện mối quan hệ trong gia đình thân chủ. Trong đó nhà trị liệu tham
vấn với NA cách thức cải thiện mối quan hệ của thân chủ với cha mẹ. Bên cạnh đó
nhà tâm lý cũng tham vấn cho bố mẹ thân chủ cách thức thiết lập một mối quan hệ
gắn bó an toàn với thân chủ
2. Giảm các triệu chứng trầm cảm.
3. Giảm các triệu chứng ám ảnh sợ máu và kim tiêm liên quan đến việc sợ
lây nhiễm HIV.
2.4.2. Mục tiêu quá trình hỗ trợ
(1) Cải thiện mối quan hệ của thân chủ trong gia đình
Trong đó nhà trị liệu tham vấn với thân chủ cách thức cải thiện mối quan hệ
của thân chủ với cha mẹ.
Bên cạnh đó nhà tâm lý cũng tham vấn cho bố mẹ thân chủ về cách thức thiết
lập một mối quan hệ gắn bó an toàn với con.
(2) Giảm trầm cảm
Nhà trị liệu cần làm là xây dựng một mối quan hệ tích cực đối với thân chủ,
ở đó VNA được lắng nghe, chấp nhận và thấu hiểu, điều này là điểm khởi đầu giúp
NA thoát khỏi những đánh giá sai lầm về thế giới ở thực tại thân chủ đang sống, cho
thân chủ thấy được thân chủ cũng đang sống ở thế giới mà thân chủ có được sự lắng
nghe, tin tưởng, chấp nhận và thấu hiểu với thân chủ. Tiếp đó nhà tâm lý sẽ giáo
35
dục tâm lý về trầm cảm và liệu pháp nhận thức hành vi cho thân chủ để thân chủ
hiểu hơn về khó khăn của mình cũng như cách thức mà nhà tâm lý sẽ sử dụng để
giúp đỡ thân chủ trong tương lai
Nhà trị liệu cũng cần làm công tác tham vấn với gia đình để gia đình có
những đánh giá ghi nhận tích cực về bản thân thân chủ qua đó giúp thân chủ củng
cố niềm tin vào bản thân và giảm bớt áp lực cho thân chủ.Từ đó thiết lập mối quan
hệ an toàn giữa thân chủ với các thành viên trong gia đình đặc biệt là giữa thân chủ
với bố.
Nhà tâm lý cùng thảo luận xác định các vấn đề khó khăn của thân chủ và
hướng dẫn thân chủ kĩ năng giải quyết vấn đề.
Ngoài ra nhà trị liệu cũng cần cho thân chủ thấy rằng tình trạng này của thân
chủ một phần do thân chủ không có những hứng thú với xã hội điều này làm cho
thân chủ có tâm trạng buồn dầu thiếu những hoạt động mang lại niềm vui cho thân
chủ. Trong trường hợp đó nhà trị liệu cũng cần thực hiện liệu pháp kích hoạt hành
vi để giúp thân chủ lấy lại hứng thú với xã hội. Để làm được việc này nhà trị liệu
cần hội ý với thân chủ và giúp thân chủ lên danh sách những hoạt động những trải
nghiệm mà thân chủ có hứng thú trước đây, cùng thân chủ thảo luận và bàn bạc
xem những hoạt động nào thân chủ có thể thực hiện trong giai đoạn này (bàn bạc
cùng thân chủ những yếu tố cản trở hay những khó khăn khi thực hiện hoạt động)
và trước khi thực hiện ở thực tế thân chủ sẽ thực hành những hoạt động này với nhà
tâm lý để đảm bảo không có những khó khăn khi phát sinh và để thân chủ tự tin
thực hiện hoạt động đó.
Nhà trị liệu cho thân chủ luyện tập bài tập thư giãn. Để thân chủ giảm bớt
những lo âu, căng thẳng trong cuộc sống
Tiếp theo nhà trị liệu cho thân chủ thực hiện bài tập về nhận thức thông qua
liệu pháp thách thức suy nghĩ và cảm xúc. Nhằm thay đổi những niềm tin phí lý của
thân chủ về cuộc sống.
(3) Giảm ám ảnh sợ kim tiêm và máu do sợ bị lây nhiễm HIV
Như đã nêu ở phần trước đó nguyên nhân gây ra ám ảnh sợ của thân chủ chủ
yếu liên quan đến thân chủ đã từng trứng kiến hành vi tiêm trích và những hình ảnh
36
liên quan đến phim ảnh mà thân chủ được xem. Do đó việc đầu tiên cần làm để
giảm ám ảnh cho thân chủ là cho thân chủ bình thường hóa phản ứng của thân chủ
bằng cách chỉ ra cho thân chủ biết việc có sợ hãi trước những cảnh tượng như vậy là
dễ hiểu.
Sau khi bình thường hóa phản ứng của thân chủ nhà tâm lý giúp thân chủ cải
thiện các triệu chứng của ám ảnh sợ của thân chủ bằng việc tham vấn về HIV cho
thân chủ, cho thân chủ thấy rằng việc lây nhiễm HIV trong đời sống hàng ngày là
rất khó, đặc biệt khi thân chủ có đời sống sinh hoạt lành mạnh như hiện tại để thân
chủ cảm thấy an tâm hơn.
Sau đó nhà tâm lý có thể xử dụng kĩ thuật màn hình hoặc bàn tay để giúp
thân chủ xoá các hình ảnh xâm nhập gây sợ hãi cho thân chủ.
Bước tiếp theo nhà tâm lý có thể sử dụng liệu pháp giải mẫn cảm kết hợp với
thư giãn và hướng dẫn thân chủ luyện tập bài tập này khi thân chủ gặp các triệu
chứng lo hãi này ở nhà.
2.5. Thực hiện các phiên can thiệp
Buổi 1. Ngày 26/07/2018
Mục tiêu phiên trị liệu
Thiết lập mối quan hệ và khai thác thông tin về vấn đề của thân chủ.
Hỗ trợ tâm lý ban đầu cho thân chủ.
Các kỹ thuật sử dụng trong phiên trị liệu
Trò chuyện lâm sàng
Kĩ thuật thư giãn
Các hoạt động trong phiên trị liệu
Thiết lập mối quan hệ với thân chủ -
Khai thác thông tin, xác định vấn đề -
- Hỗ trợ tâm lý bước đầu cho thân chủ thông qua kĩ thuật thư giãn.
Hoạt động 1: thiết lập mối quan hệ với thân chủ và khai thác thông tin từ
37
thân chủ
Thông qua các hoạt động giới thiệu cho thân chủ về nhà tâm lý cũng như
cách thức tiến hành một phiên trị liệu, các vấn đề liên quan đến bảo mật thông tin
của thân chủ.
(Trích đoạn làm việc với thân chủ)
NTL (Nhà trị liệu): Chào em! Anh là Giang là học viên tâm lý lâm sàng, anh
được bác sĩ VTC giới thiệu hỗ trợ cho em. Anh có thể giúp gì được cho em?
TC (Thân chủ): Chào anh! Em là NA em muốn nhờ anh giúp em một số vấn
đề liên quan đến tình trạng bệnh hiện tại của em. Hiện tại em rất khó chịu trong
người, thường xuyên mất ngủ và đau đầu, em không muốn ra ngoài chỉ muốn nằm
một mình trong nhà.
NTL: Hiện tại em đang cảm thấy mệt mỏi, khó chịu trong người đặc biệt là
chứng mất ngủ và đau đầu và có những căng thẳng trong việc học tiếng. Một số
người đến gặp anh cũng có những vấn đề tương tự. Để có thể giúp được em, anh
cần thêm những thông tin từ phía em cũng như quá trình xuất hiện và tiến triển
những triệu chứng mệt mỏi đó như thế nào. Tuy nhiên, trước tiên anh xin giới thiệu
đôi chút về bản thân: anh là Nguyễn Đức Giang, hiện đang là học viên cao học
chuyên ngành tâm lý học lâm sàng tại trường đại học khoa học xã hội và nhân văn.
Anh chuyên hỗ trợ cho các thân chủ là người có khó khăn liên quan đến các rối
nhiễu tâm lý. Anh đã tốt nghiệp cử nhân Tâm lý học, chuyên ngành tham vấn tâm lý,
trường đại học khoa học xã hội và nhân văn Hà Nội. Bây giờ em giới thiệu qua về
bản thân em.
TC: Dạ, hiện em vừa tốt nghiệp THPT, em chuẩn bị đi du học anh ạ. Em đi
học ở Pháp, mà tiếng Pháp của em không thật sự ổn. Em chưa qua được A2 điều
này càng khiến em căng thẳng và mệt mỏi. Nhiều lúc em muốn bỏ cuộc vì em không
biết làm thế nào để có thể vượt qua… Em chưa từng đến gặp một chuyên gia tâm lý
nào, đây là lần đầu tiên em bác sỹ giới thiệu em đến gặp anh.
NTL: Như em chia sẻ em chưa từng gặp một nhà tâm lý nào để tìm kiếm sự
trợ giúp. Vậy để cho phiên làm việc của chúng ta diễn ra một cách tốt nhất anh xin
nói qua về khung làm việc để em nắm được. Trị liệu tâm lý là hoạt động mà ở đó
38
anh là nhà tâm lý, người lắng nghe câu chuyện, còn em là người chia sẻ câu chuyện
của mình. Sau khi anh đã hiểu vấn đề của em, anh sẽ hướng dẫn và thảo luận với
em,giúp em thực hiện một số chiến lược thông qua các liệu pháp tâm lý phù hợp để
cùng em giải quyết các vấn đề của mình. Anh chỉ có thể giúp đỡ em một cách tốt
nhất khi anh hiểu thật sự câu chuyện của em. Trong quá trình trợ giúp, có thể anh
sẽ sử dụng một số trắc nghiệm để tránh giá tình trạng sức khỏe tâm lý của em. Có
thể anh sẽ giao cho em một số bài tập yêu cầu em thực hiện ở nhà, sau đó chúng ta
sẽ chia sẻ trong các phiên làm việc. Một điều nữa anh cũng muốn thông tin lại cho
em rõ và để em cảm thấy an tâm khi chia sẻ vấn đề của mình, đó là: mọi thông tin
của em chia sẻ với anhluôn được giữ bí mật, trừ những trường hợp ngoại lệ sau
đây: 1/ Em cho phép anh nói cho người khác biết; 2/ Em vi phạm pháp luật, em tự
hủy hoại bản thân hoặc hủy hoại người khác và 3/ Em có vấn để phải ra tòa và tòa
hỏi anh về những vấn để của em.Trong những trường hợp này, cả em và anh, chúng
ta đều không giữ được bí mật của em.
TC: Dạ vâng em hiểu rồi ạ.
NTL: Cảm ơn em. Để cho quá trình làm việc của chúng ta thuận tiện hơn
anh muốn em chia sẻ đôi chút thông tin về bản thân em.
TC: ...(thân chủ chia sẻ thông tin và các vấn đề của bản thân)
- Hỏi chuyện lâm sàng về những vấn đề khó khăn của thân chủ.
Đánh giá nhanh tâm trạng ban đầu: Thân chủ đánh giá tâm trạng của mình ở
mức 4 điểm.
Thân chủ nói mình là một người dễ bị áp lực. Đặc biệt là những áp lực liên
quan đến việc học tập. Theo lời kể của thân chủ, khi còn học tiểu học thân chủ là
một cô bé có học lực giỏi. Tuy nhiên từ khi học cấp 2, bắt đầu từ năm lớp 8 học lực
của thân chủ giảm sút và thân chủ cảm thấy khó chịu vì điều đó. Đến năm lớp 9 áp
lực từ việc học tập khiến thân chủ thêm mệt mỏi và rơi vào trạng thái trầm cảm.
Thân chủ đã được điều trị tâm lý vào khoảng thời gian đó và đã thuyên giảm vấn đề
của thân chủ. Thân chủ nói mình được bố mẹ đầu tư và quan tâm rất nhiều. Nhưng
theo thân chủ, sự quan tâm đó là kiểu quan tâm thái quá, nó khiến thân chủ ngột
39
ngạt và khó chịu. Thân chủ nói mình luôn cảm thấy tức thở và muốn nổ tung.
Khi lên lớp 10 thân chủ có những hành vi chống đối. Ở trường, thân chủ
thường bị ghi tên vào sổ đầu bài. Điều này khiến cha mẹ thân chủ liên tục phải lên
gặp giáo viên chủ nhiệm. Thân chủ nói mình chơi với nhóm bạn nghịch nhất lớp,
thân chủ nói thân chủ đi học đều nhưng thường xuyên trốn tiết. Việc làm này khiến
thân chủ bị các thầy cô chú ý và không có thiện cảm tốt về thân chủ. Bố mẹ thân
chủ trong thời gian này cũng thường xuyên phàn nàn về thân chủ. Nhưng theo thân
chủ thời gian đó là thời gian thân chủ cảm thấy vui và thoải mái hơn so với trước
đây. Thân chủ nói việc thân chủ có những hành vi như vậy là để chống đối lại cha
mẹ và đôi khi thân chủ cảm thấy vui vì điều đó. Sau khoảng thời gian đó (năm thân
chủ học lớp 11) thân chủ lại quay lại với cuộc sống trước kia, Thân chủ không
muốn nói chuyện hay đi chơi với bạn bè như trước kia. Và từ đó đến nay thân chủ
rơi vào trạng thái trầm buồn.
Trong mối quan hệ của thân chủ với cha mẹ cũng có những xung đột. Thân
chủ nói việc thân chủ cảm thấy áp lực và căng thẳng trong chuyện học tập một phần
là vì cha thân chủ hay so sánh thân chủ với các bạn bè cùng tuổi, đặc biệt là với con
của bạn bố. Ngay cả khi thân chủ đạt thành tích cao trong học tập cũng không được
cha khen ngợi (ví dụ khi thân chủ đạt điểm 8,9 môn ngoại ngữ nhưng bố thân chủ
cũng chỉ “bĩu môi”. Còn khi thân Quan sát của nhà tâm lý
chủ chưa đạt thành tích tốt trong Trong giao tiếp lần đầu với nhà
học tập bố thân chủ lại nói thân trị liệu, thân chủ khi nói chuyện thường
chủ với hàm ý “học cho con chứ xuyên cạy móng tay, thể hiện sự e ngại,
không phải học cho bố”. Mặc dù thiếu tự tin; nét mặt có phần ủ rũ, khí sắc
sau năm học lớp 10 thân chủ đã cố trầm buồn. Tuy nhiên, trong quá trình
gắng thay đổi rất nhiều nhưng do hỏi chuyện, ngôn ngữ giao tiếp của thân
điểm số của thân chủ không được chủ khá linh hoạt. Thân chủ dễ dàng
như y muốn nên thân chủ không thiết lập cuộc nói chuyện với nhà trị liệu.
được ghi nhận.) Điều này khiến
thân chủ cảm thấy áp lực và mình đang phải làm theo ý của người khác.Thân chủ
cảm thấy mình và bố khá giống nhau vì có phần nóng tính do vậy hay mâu thuẫn
40
với bố.
Mối quan hệ của thân chủ và mẹ có phần bớt căng thẳng hơn, tuy nhiên theo
thân chủ đôi khi mẹ hay xâm phạm vào quyền riêng tư của thân chủ. Điều này khiến
thân chủ cảm thấy ngột ngạt và khó chịu.
Cũng theo như lời thân chủ kể thân chủ cũng từng có bạn trai. Cách đây 2
năm thân chủ đã chia tay với bạn trai điều này khiến cho thân chủ buồn rất nhiều.
Thân chủ nói do thân chủ hay ghen điều đó khiến thân chủ chia tay bạn trai. Vì
người bạn trai đó không níu giữ khiến thân chủ buồn và day dứt trong lòng.
Ngoài ra thân chủ có nhắc tới thân chủ sợ máu và kim tiêm. Thân chủ nói do
thân chủ xem phim nhiều và đã từng nhìn thấy cảnh người tiêm trích nên thân chủ
có nỗi sợ với kim tiêm và máu do lo sợ lây nhiễm HIV.
- Hoạt động trợ giúp tâm lý ban đầu thông qua kĩ thuật thư giãn
Sau khi nói chuyện với thân chủ nhà tâm lý hỗ trợ ban đầu bằng kĩ thuật thư
giãn giúp thân chủ cải thiện một số vấn đề liên quan đến sự lo âu cũng như giúp thân
chủ bớt căng thẳng hoặc suy nghĩ nhiều trước khi ngủ để có thể cải thiện phần nào
giấc ngủ của thân chủ.
NTL: giờ em tìm một tư thế ngồi thoải mái sau đó nhắm mắt rồi đặt một tay
lên ngực của em hít vào những hơi thở thật chậm. Hãy cảm nhận ngực em đang
phồng lên và xẹp xuống theo hơi thở. Tiếp tục một lần nữa 1,2,3 hít vào;1,2,3 thở
ra… lần cuối cùng em hít vào thấy ngực mình đang phồng lên rồi thở ra xẹp xuống
(hướng dẫn thân chủ thực hành). Bây giờ em hãy miêu tả lại những gì cơ thể em
cảm nhận thấy sau khi luyện tập thở ngực.
TC: Em cảm thấy em tập trung hơn vào hơi thở của mình. Thấy dễ chịu và
cảm thấy như được thư giãn và thoải mái hơn.
NTL: Như vậy em có những phản hồi rất tốt sau khi thực hiện bài tập thở
ngực, anh hi vọng sau buổi làm việc ngày hôm nay khi nào em cảm thấy cơ thể có
những khó chịu em hãy tìm một nơi yên tĩnh, không bị phân tán rồi chọn một tư thế
thoải mái có thể ngồi hoặc nằm tùy theo cảm nhận của em tư thế nào mang lại sự
thoải mái cho em sau đó hãy thực hành bài tập thở anh vừa hướng dẫn. Sau khi
41
luyện tập thở em hãy viết lại cảm nhận của em sau khi thực hành bài tập thở đó.
TC:Dạ vâng ạ.
NTL: Như vậy anh và em vừa thực hành về bài tập thở ngực và đây cũng là
phần cuối của phiên làm việc ngày hôm nay. Ở buổi tới anh sẽ cùng em trao đổi
tiếp về các nan đề của em, hẹn em vào ngày 30/07 tới chúng ta ta sẽ làm việc tiếp.
cảm ơn em về sự hợp tác chia sẻ trong buổi ngày hôm nay.
TC: Dạ vâng ạ. Cảm ơn anh đã lắng nghe và chia sẻ cùng em ạ
Trước khi kết thúc ca trị liệu, nhà trị liệu cho thân chủ đánh giá lại tâm trạng
sau khi kết thúc phiên làm việc. Kết quả đánh giá nhanh tâm trạng trước khi kết
thúc cho thấy: Thân chủ đánh giá tâm trạng của mình ở mức 5, trong khi lúc mới
đếm thân chủ đánh giá mình được 4 điểm về tâm trạng.
Kết quả thang đánh giá tâm trạng trước và sau phiên làm việc của thân chủ
Cuối cùng nhà tâm lýtổng kết phiên trị liệu, giao hoạt động ở nhà cần làm
(phiếu đánh giá tâm trạng và hoạt động ở nhà), hẹn thân chủ sẽ đánh giá tình trạng
42
trầm cảm của thân chủ ở buổi sau và kết thúc phiên thứ nhất.
Buổi 2.Ngày 30 tháng 7 năm 2018
Mục tiêu của phiên trị liệu
Hỗ trợ tâm lý ban đầu cho thân chủ.
Khai thác thông tin của thân chủ và từ phụ huynh của trẻ để xác định vấn đề
của thân chủ.
Các kỹ thuật sử dụng trong phiên làm việc
- Kỹ thuật hỏi chuyện lâm sàng;
kỹ năng thấu cảm, kỹ năng lắng nghe; -
- kỹ năng giáo dục tâm lý
- Sử dụng test: đánh giá trầm cảm BDI; đánh giá lo âu Zung; đánh giá lo
âu trầm cảm và stress DASS - 21. Để hỗ trợ Đánh giá vấn đề của thân chủ
Các hoạt động trong phiên trị liệu
Hoạt động 1: Làm việc với phụ huynh của thân chủ
(phiên làm việc với phụ huynh của thân chủ)
- Trò chuyện lâm sàng với mẹ của thân chủ
Khai thác thông tin từ mẹ thân chủ cho thấy:
Theo lời mẹ nói gia đình rất quan tâm đến thân chủ, cũng theo lời mẹ thân
chủ nói thân chủ và bố thân chủ có chút mâu thuẫn liên quan đến viếc bố thân chủ
luôn tạo sức ép về học tập cho thân chủ, bố thân chủ là người ít khen thân chủ hay
so sánh thân chủ với con bạn bè của bố, vì lo lắng cho con nên bố thân chủ cũng
luôn kiểm soát mọi hành động của thân chủ, sợ thân chủ ăn chơi lêu lổng theo đám
bán xấu,
Ngoài ra theo như lời mẹ kể việc VNA có ám ảnh sợ liên quan đến máu và
kim tiêm có thể từ câu chuyện của mẹ kể cho bé khi bé còn nhỏ, nội dung câu
chuyện nói về một cô gái giúp đỡ một người khi bị tai nạn giao thông nhưng chẳng
may máu của người bị tai nạn giao thông có dính vào vết thương hở của cô gái, tuy
nhiên người bị tai nạn giao thông bị HIV do vậy cô gái bị lây nhiễm HIV từ đó. Mẹ
chỉ kể câu chuyện để trẻ cần cẩn trọng trong mọi tình huống nhưng không biết điều
43
đó có phải là nguyên nhân dẫn đến ám ảnh sợ của thân chủ hay không.
Cũng theo như lời mẹ nói thân chủ là một đứa con gái ngoan tuy nhiên gần
đây thân chủ hay nhốt mình trong phòng, mặt mày luôn ủ rũ không tươi tắn, sức học
của thân chủ cũng có phần giảm sút đi nhiều. Mẹ cũng nói khi thân chủ học cấp 2
mẹ thân chủ cũng cho thân chủ theo học những môn mà thân chủ thích như lớp tập
võ, tập làm diễn viên hay tập làm MC. Tuy nhiên từ khi thân chủ học cấp 3 mẹ cũng
có tạo áp lực về việc học tập cho thân chủ luôn muốn thân chủ học lớp chọn điều
này có thể gây thêm áp lực cho con, nhưng từ khi biết vấn đề của con mẹ cũng đã
xin chuyển lớp cho con, để trẻ học ở lớp thường để trẻ giảm bớt áp lực”
Hoạt động 2: Làm việc với thân chủ(phiên làm việc với thân chủ)
- Đánh giá tâm trạng ban đầu của thân chủ.
Thân chủ chấm điểm tâm trạng ban đầu của thân chủ đạt 6 điểm
- Nói chuyện với thân chủ về bài tập về nhà của buổi trị liệu lần trước
Trao đổi với thân chủ về bài tập về nhà cho thấy thân chủ có thực hiện bài
tập thở ngực. Sau mỗi lần thực hiện bài tập thực hiện bài tập thân chủ thấy thoải mái
hơn chút, nhưng theo thân chủ thân chủ vẫn thấy mình ít hoạt động trong ngày,
ngoài giờ học tiếng Pháp, các hoạt động sinh hoạt thường ngày và thực hiện bài tập
thở ngực thân chủ vẫn thấy mình có nhiều thời gian rảnh điều này khiến thân chủ
cảm thấy nhàm chán về cuộc sống hiện tại của thân chủ. Những lúc như vậy thân
chủ thường suy nghĩ tiêu cực, ngồi hoặc nằm trong phòng và suy nghĩ những gì đã
trải qua và sắp tới với bản thân mình, điều đó khiên thân chủ mệt mỏi và khó chịu.
Thân chủ mong muốn được thoát ra khỏi thực trạng này, nhưng lại chưa biết bắt đầu
từ đâu.
- Tiếp tục thiết lập mối quan hệ với thân chủ và khai thác vấn đề từ thân chủ.
Sau khi trao đổi với thân chủ về tuần vừa rồi thân chủ cảm thấy như thế nào.
Nhà tâm lý khai thác tiếp câu chuyện hồi nhỏ mẹ kể liệu có liên quan đến vấn đề ám
ảnh sợ hiện tại của thân chủ. Như thân chủ chia sẻ ở buổi trước việc thân chủ sợ
kim tiêm hay sợ máu không chỉ đơn thuần vì xem nhiều hình ảnh có liên quan đến
tiêm trích mà hồi nhỏ thân chủ được mẹ kể về một câu chuyện liên quan đến một
người giúp đỡ một nạn nhân bị tai nạn giao thông nhưng vo tình để máu người tai
44
nạn giao thông dính vào vết thương hở, và sau khi đến viện nạn nhân kia được xét
nghiệm là có HIV nên người giúp đỡ phải điều trị phơi nhiễm HIV. Câu chuyện mẹ
kể làm thân chủ ám ảnh và sợ rằng vô tình cũng bị như vậy thì sẽ bị nhiễm HIV,
cũng theo thân chủ kể hồi nhỏ trên đường từ nhà thân chủ tới trường có rất nhiều
kim tiêm do những người tiêm trích bỏ lại điều này cũng làm thân chủ ám ảnh
không biết lúc đó mình có dẫm phải cái kim tiêm nào không? Ngoài ra theo thân
chủ, nói sắp tới thân chủ có chuyển nhà qua khu vực Long Biên và việc thân chủ
phải đi qua một con đường gần nhà ở đó là nơi tụ tập nhiều người thực hiện hành vi
tiêm trích khiến thân chủ lo sợ những người đó làm ảnh hưởng đến mình.
- Hỗ trợ tâm lý ban đầu cho thân chủ thông qua việc bàn về những nỗi lo
sợ của trẻ.
Nhà tâm lý nói chuyện với thân chủ về những lo lắng của trẻ. Nói cho thân
chủ biết rằng nỗi lo lắng của thân chủ liên quan đến sợ máu và kim tiêm là hoàn
toàn có thể hiểu được tuy nhiên những điều lo lắng của thân chủ không phải có thể
thường xuyên xảy ra. Ngoài ra giáo dục cho thân chủ về HIV cũng như cách phòng
ngừa nhiễm HIV nếu xảy ra các tình huống xấu như dính máu của người HIV vào
vết thương hở, hay việc dẫm phải kim tiêm có chứa máu của người nhiễm HIV…
Nhà tâm lý tư vấn cho thân chủ biết trong những trường hợp như vậy hoàn toàn có
thể đến cơ quan y tế để thực hiện các hỗ trợ phòng ngừa sau phơi nhiễm. trong đó
nhà tâm lý nhấn mạnh hiện nay khi bị phơi nhiễm HIV trong vòng 72 giờ sau khi
phơi nhiễm có thể dùng thuốc nhằm ngăn HIV phát triển và lây nhiễm cho người bị
phơi nhiễm.
Sau khi được tư vấn và giáo dục về HIV thân chủ cảm thấy đỡ lo lắng hơn.
Cũng sau hoạt động này nhà tâm lý cho thân chủ thực hiện các test đánh giá nhằm
hỗ trợ việc chẩn đoán vấn đề của thân chủ.
- Thực hiên các test đánh giá
Sau khi hỏi chuyện lâm sàng và thực hiện hỗ trợ tâm lý ban đầu cho thân chủ
nhà tâm lý cho thân chủ làm một số test đánh giá nhằm mục đích hỗ trợ đưa ra các
chẩn đoán chính xác về vấn đề của thân chủ. Trong đó nhà tâm lý cho thân chủ thực
45
hiện các test đánh giá và cho ra những kết quả như sau:
+ Test đánh giá trầm cảm nghiệm pháp Beck: 39 điểm => có dấu hiệu trầm
cảm ở mức độ nặng
+ Test đánh giá mức độ lo âu Zung: 44 điểm => không có dấu hiệu lo âu
+ Test đánh giá lo âu – trầm cảm – stress DASS - 21: (điểm trầm cảm đạt 26
điểm; điểm lo âu đạt 21 điểm; điểm stress đạt 32 điểm)
Kết quả cho thấy thân chủ có trầm cảm mức độ nặng, lo âu mức độ nặng
và stress ở mức độ nặng.
Nhận định: Với những kết quả thu được qua phỏng vấn lâm sàng và thực
hiện các test: Thân chủ có thể đáp ứng các dấu hiệu của rối loạn trầm cảm, ám ảnh
sợ đi kèm.
- Giao bài tập về nhà, nhà tâm lý khuyến nghị thân chủ tiếp tục thực hiện
bài tập thở bụng.
- Đánh giá tâm trạng sau buổi trị liệu và kết thúc phiên làm việc.
Đánh giá tâm trạng sau buổi trị liệu thân chủ chấm điểm cảm xúc được 7
điểm
46
Kết quả đánh giá tâm trạng của thân chủ trong phiên làm việc
Buổi 3: Ngày 04 tháng 8 năm 2018
Mục tiêu phiên trị liệu
- Giáo dục tâm lý về trầm cảm và trị liệu tâm lý.(Mối tương quan giữa hoạt
động và trầm cảm)
Các kỹ thuật sử dụng trong phiên trị liệu
- Giáo dục tâm lý
- Tham vấn tâm lý
Các hoạt động trong phiên trị liệu
- Đánh giá tâm trạng nhanh ban đầu của thân chủ
- Giáo dục tâm lý cho thân chủ về trầm cảm.
- Giao bài tập về nhà và đánh giá tâm trạng của thân chủ sau phiên làm việc
Đánh giá tâm trạng nhanh ban đầu của thân chủ
Đánh giá tâm trạng nhanh ban đầu của thân chủ đang ở mức 4 điểm.
Giáo dục tâm lý cho thân chủ về trầm cảm.
Qua những kết quả thu được từ phần đánh giá thông qua các công cụ lâm
sàng cũng như quan sát lâm sàng từ buổi số 2. Nhà tâm lý trao đổi và cung cấp tới
thân chủ những thông tin khoa học và những giải thích về tình trạng trầm cảm ở
thân chủ.
Cho thân chủ thấy được sự buồn chán là cái gây ra vấn đề cho thân chủ. Về để giúp
thân chủ vượt qua điều đó cần phải làm việc với nó để thân chủ thấy tốt hơn.
Để thực hiện được điều này nhà tâm lý cho thân chủ biết được mối quan hệ
giữa ba thành tố của trầm cảm: suy nghĩ – cảm xúc – hành động
Để minh chứng cho thân chủ thấy nhà tâm lý sử dụng sơ đồ “trời mưa” để
minh họa cho thân chủ thấy được sự tác động qua lại của ba thành tố đó đồi với
trầm cảm.
Nội dung của phiên làm việc, phản hồi của thân chủ và diễn biến phiên làm
việc được thể hiện dưới đây:
NTL: Em nhìn vào hai hình dưới đây và cho anh biết sự khác biệt như thế
nào giữa suy nghĩ - cảm xúc – hành vi của một người trầm cảm và một người không
47
có trầm cảm trong cùng một tình huống khi trời mưa?
Hình 1.1 sơ đồ “trời mƣa” thể hiện suy nghĩ – cảm xúc- hành vi của ngƣời có
trầm cảm.
Hình 1.2. sơ đồ “trời mƣa” thể hiện suy nghĩ – cảm xúc- hành vi của ngƣời
không có trầm cảm
TC: Em thấy rằng với người trầm cảm với sự kiên khi trời mưa, Suy nghĩ của
họ sẽ là hỏng kế hoạch rồi, không có việc để làm. Khi đó hành vi của họ là nằm trong
phòng không làm gì. Cảm nhận khi đó của người trầm cảm là: buồn, chán, cô đơn.
Còn đối với người bình thường không có trầm cảm.Cùng sự kiện trời mưa
với người bình thường họ sẽ suy nghĩ: May quá không phải làm gì nữa, mình có thể
48
ở nhà đọc sách hoặc chơi và cảm xuc của họ là vui vẻ đón nhận tình huống đó.
NTL: Như em vừa chia sẻ đó là sự khác biệt trong suy nghĩ – cảm nhận và
hành vi của người có trầm cảm với người không có trầm cảm em à. Như em vừa
chia sẻ với cùng một tình huống, một sự kiện nhưng với suy nghĩ và thực hiện
những hoạt động khác nhau sẽ mang lại cho ta những cảm nhận và trạng thái cảm
xúc khác nhau dù cho đó có thể là những sự kiện hay tình huống không thực sự
khiến ta hài lòng và đó là thông điệp anh muốn gửi tới em sau khi cùng em phân
tích sơ đồ “trời mưa” nêu trên. Vậy theo NA em cần làm những gì để có thể cải
thiện vấn đề nêu trên của mình?
TC. Theo em nghĩ trước hết bản thân em cần có những suy nghĩ khác đi với
một một sự việc hay tình huống nào đó khiến chúng ta cảm thấy không cảm thấy
thoải mái. Nếu được vậy em sẽ cảm thấy tốt hơn và có những hoạt động có ích hơn,
chúng khiến em có thể có cảm xúc tốt hơn ạ.
NTL. Em có thể hiểu
được như vậy khiến anh rất vui,
đó là những gì anh muốn chia
sẻ với em NA à, em thấy đó suy
nghĩ ảnh hưởng rất nhiều đến
hành vi và cảm xúc của mối
chúng ta. Nhưng đó không phải
mối quan hệ một chiều em à, cả
ba thành tố này đều ảnh hưởng
tác động qua lại lẫn nhau và nó
Hình 2. Mô hình về tương tác hai chiều giữa
hoạt động và trầm cảm
ảnh hưởng đến tâm lý cũng như
chất lượng cuộc sống của mỗi
cá nhân. Để em thấy rõ hơn về điều này anh sẽ cho em xem thêm một ví dụ khác để
thấy được sự ảnh hưởng của ba thành tố này đến chất lượng cuộc sống của chúng
ta em nhé.
49
TC: Dạ vâng
NTL: Nhìn vào hình 1.1 này em sẽ thấy rằng trầm cảm sẽ làm cho em không
còn hứng thú làm gì cả. Đồng thời ít hoạt động hoặc các hoạt động tiêu cực sẽ làm
cho em thấy em buồn thêm.
TC: dạ vâng.
NTL. Dưới đây là một ví dụ khác, em nhìn vào hình 1.4 và cho anh biết em
thấy gì qua hình vẽ đó.
(Hình 3. Vòng xoắn ốc giữa trầm cảm và cảm xúc)
Thân chủ: Em thấy rằng ở phía trên này trầm cảm làm cho em không muốn
làm việc, không muốn làm việc, hoạt động lại làm cho trầm cảm tăng lên, và tiếp
thế trầm cảm lại làm cho mình không muốn làm việc. Đó như là một vòng luẩn
quẩn ý anh ạ.
NTL: ừ em! như em chia sẻ trầm cảm và các hoạt động sống trong ngày của
mỗi chúng ta nó có tác động qua lại lẫn nhau em à. Nếu như cái gọi là trầm cảm
khiến cho em không muốn thực hiện một công việc gì cả, nó cản trở em trong mọi
hoạt động hàng ngày, thì việc không thường xuyên thực hiện các hoạt động trong
cuộc sống cũng có tác động ngược trở lại, nó khiến trầm cảm của em trở nên nặng
50
hơn. Cứ như vậy nó trở thành một vòng luẩn quẩn em à.
TC. Dạ vâng.
NTL: vậy theo em chúng ta cần làm gì để có thể giảm bớt và ngăn chặn trầm
cảm tiếp diễn vòng luẩn quẩn như trên được?
TC: Dạ, em nghĩ bản thân mình cần phải có nhiều hoạt động hơn trong ngày
anh ạ. Nhưng điều đó là quá khó với em. Giờ lúc nào em cũng chỉ muốn nằm một
mình thôi anh ạ.
NTL. Anh hiểu rằng việc thực hiện các hoạt động trong cuộc sống hằng ngày
là vô cùng khó khăn, nhưng như anh và em vừa bàn luận ở phiá trên khi và chỉ khi
chúng ta có thêm nhiều hoạt động trong ngày thì tình trạng trầm cảm của em mới có
thể giải quyết được. Hơn nữa đây mới chỉ là cái nhìn mà anh muốn cho em biết bản
thân sẽ thực hiện trong những ngày tới. Và để thực hiện điều đó chúng ta cần thêm
thời gian và có những kế hoạch cho những bước đi cụ thể tiếp theo em à.
TC: Dạ vâng ạ.
NTL. Theo em nếu một ngày em không làm gì, chỉ ngồi hoặc nằm trên
giường em sẽ thấy như thế nào?
TC: Dạ, ôi em nghĩ đủ thứ trên đời anh ạ, suy nghĩ linh tinh mà không thể
nào ngưng được, toàn thấy bản thân thật tồi tệ và thật vô tích sự anh à, nhưng mà
em chẳng muốn làm gì cả, không có một chút sức sống nào luôn ý ạ, mỗi lúc như
vậy em cô đơn và buồn chán vô cùng anh ạ.
NTL. ừ em, như em chia sẻ nếu một ngày không làm gì em sẽ cảm thấy cô
đơn và chán nản, những suy nghĩ tiêu cực về bản thân lại hiện lên. Đó là diễn biến,
là một vòng luẩn quẩn với những ai đang trong tình trạng như em. Và như em thấy
đó, các hoạt động hay nói khác đi là hành vi của mỗi chúng ta nó ảnh hưởng qua
lại đối với nhận thức hay suy nghĩ và cả cảm xúc của mỗi chúng ta. Đó là những
điều anh muốn em nhận thấy được trong buổi ngày hôm nay để em có cái nhìn rõ
nhất về vấn đề của em và quan trọng hơn anh muốn cho em thấy được phướng
hướng những buổi tiếp theo anh và em cần làm gì để em thoát khỏi tình trạng trên.
51
TC: Dạ vâng ạ…
Như vậy thông qua phiên làm việc này Học viên muốn truyền đạt cho thân
chủ hiểu hơn về trầm cảm và những thành tố quan trọng ảnh hưởng đến sự tiến
triển của trầm cảm, cũng thông qua đây học viên bước đầu cho thân chủ biết được
thân chủ cần phải làm gì để hạn chế vấn đề của bản thân. Đây cũng được coi là
phiên dẫn dắt thân chủ đến với các hoạt động tại các phiên trị liệu tiếp theo.
Cũng trong phiên làm việc này nhà tâm lý cho thân chủ thực hiện hoạt động
nhận diện cảm xúc thông qua thang đáng giá tâm trạng bản thân.
Hoạt động này giúp TC hiểu điều gì khiến mình cảm thấy dễ chịu và điều
khiến mình khó chịu, qua hoạt động này giúp TC nhận biết cảm xúc của mình ở
nhiều thời điểm khác nhau và có thể thấy cảm xúc thay đổi như thế nà
Giao bài tập về nhà
NTL: NA có thể nói lại các nội dung cơ bản mà chúng ta đã thực hiện tại
phiên làm việc ngày hôm nay?
Thân chủ: Trong buổi trị liệu ngày hôm nay em đã nhận biếtvề trầm cảm
và các yếu tố ảnh hưởng đến sự tiến triển của trầm cảm
NTL: Như vậy là em đã nắm được nội dung của buổi làm việc ngày hôm
nay. Sau ngày hôm nay anh muốn em thực hành sử dụng mẫu Suy nghĩ - cảm xúc-
hành động trong một tuần khi em cảm thấy buồn. Anh sẽ gửi em một mẫu nhật kí
theo dõi các thành tố trên. Em sẽ ghi chép lại dựa theo mẫu mà anh đã gửi.
Thân chủ:Dạ vâng em sẽ thực hiện theo hướng dẫn của anh
52
(Dưới đây là ví dụ về mẫu Suy nghĩ - cảm xúc- hành động)
Hình 4. Mẫu Suy nghĩ-cảm xúc-hành động
Đánh giá tâm trạng của thân chủ sau phiên trị liệu.
Kết thúc buổi trị liệu: cho thân chủ đánh giá sự hài lòng của bản thân sau
buổi trị liệu thông qua thang đánh giá cảm xúc thể hiện sự hài lòng của bản thân về
buổi trị liệu. Cùng với đó nhà trị liệu nhắc lại những gì mà thân chủ và nhà tham
vấn đã thực hiện trong buổi trị liệu.Sau đó thông báo cho thân chủ về định hướng
buổi kế tiếp
Thân chủ đánh giá trạng thái cảm xúc của bản thân trước khi đến trị liệu đạt
mức 4 điểm Sau trị liệu thân chủ đánh giá 6 điểm
NTL: em cảm thấy như thế nào về buổi làm việc ngày hôm nay?
TC: Em cảm thấy những chia sẻ của anh ngày hôm nay về trầm cảm làm em
có cái nhìn rõ hơn về bệnh tình của em, cũng qua đây em biết mình cần phải làm gì
trong những ngày sắp tới để thoát ra sự khó chịu này.
NTL. ừ em! Em thấy được sự hữu ích của phiên làm việc ngày hôm nay làm
anh rất vui. Hi vọng buổi làm việc ngày hôm nay đã cho em được cái nhìn rõ hơn về
vấn đề của em cũng như điều cần thiết trong những ngày sắp tới để giúp em vượt
qua những khó khăn ấy. Bây giờ trước khi kết thúc buổi làm việc anh muốn em
đánh giá trạng thái cảm xúc của mình sau phiên làm việc này. Đây là thang đánh giá
cảm xúc nhanh em hãy khoanh tròn vào số điểm tương ứng với tâm trạng lúc này
của em vào đây em nhé!
53
TC: Dạ vâng ạ.
…….
Kết quả đánh giá tâm trạng của thân chủ trong phiên làm việc
………………………………………
Buổi 4. Ngày 07 tháng 08 năm 2018
Mục tiêu của phiên trị liệu
Giáo dục tâm lý về trầm cản cho cha mẹ & Kĩ năng khen ngợi tích cực
Hướng dẫn thân chủ kĩ năng giải quyết vấn đề.
Tham vấn về lo lắng của thân chủ khi thân chủ chuẩn bị phỏng vấn xin visa ,
hương dẫn thân chủ thư giãn khi có lo lắng ập tới
Các kỹ thuật sử dụng trong phiên trị liệu
- Kỹ năng giáo dục tâm lý
- Kỹ năng giải quyết vấn đề.
Các hoạt động trong phiên trị liệu
- Hoạt động 1: Giáo dục tâm lý cho cha mẹ:
Trước khi bước vào phiên làm việc với phụ huynh nhà tâm lý cảm ơn sự có
mặt của phụ huynh trong buổi làm việc ngày hôm nay. Sau đó nhà tâm lý chia sẻ
với phụ huynh về kết quả của đánh giá của trẻ. Tiếp theo đó nhà tâm lý chia sẻ
54
những thông tin cần thiết cho phụ huynh hiểu được trầm cảm là gì tương ứng với đó
là những dấu hiệu và triệu chứng trầm cảm mà NA đang có (Giáo dục tâm lý về
trầm cảm cho phụ huynh của trẻ). Bên cạnh đó nhà tâm lý không quên nói chuyện
với phụ huynh về kế hoạch cũng như phương pháp trị liệu sử dụng với thân chủ
(Giới thiệu lý thuyết (CBT) và nói về chiến lược trị liệu).
Một khía cạnh nữa trong phiên làm việc này nhà tâm lý không quên nhắc tới
đó là việc khích lệ phụ huynh tham dự tích cực vào việc này. Cho phụ huynh thấy
được cha mẹ hiểu con nhất. Nhà tâm lý cho họ thấy rằng mình cần sự hỗ trợ của họ
để có thông tin về tiến triển trị liệu và giúp nhà tâm lý hỗ trợ thân chủ thực hiện kĩ
năng ở nhà. Ngoài ra việc thu thập thông tin từ cha mẹ có thể giúp xây dựng kế
hoạch trị liệu cụ thể và đúng phương hướng hơn.
Cũng trong phiên làm việc này nhà tâm lý giúp phụ huynh thay đổi cách cha
mẹ nhìn nhận con họ. Giúp cha mẹ thấy không phải là trẻ hư (lười, chỉ nằm dài,
không làm bài, v.v).Trẻ đang có bệnh và cần hỗ trợ. Giúp cha mẹ thấy việc chỉ trích
hoặc ứng xử tiêu cực của cha mẹ có thể làm trẻ tệ hơn
Một trong những nội dung quan trọng trong phiên làm việc với phụ huynh
này là việc nhà tâm lý hướng dẫn phụ huynh chiến lược củng cố tích cực để trẻ
tham gia các hoạt động tốt hơn: thể hiện sự quan tâm đến con đúng cách, dạy kĩ
năng khen ngợi của cha mẹ khi thân chủ thực hiện các hành vi tốt.
“Trích đoạn phiên làm việc với phụ huynh khi thực hiện giáo dục kĩ năng
55
làm cha mẹ tích cực
NTL: Vừa rồi em và chị đã chia sẻ những vấn đề liên quan đến em nhà
mình, cũng như nói về vấn đề trầm cảm mà NA đang phải đối diện với nó. qua trao
đổi với NA và chị em thấy rằng một trong những yếu tố là nguyên nhân của vấn đề
của NA là mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình chưa thực sự có nhiều
củng cố tích cực, đặc biệt trong đó có mối quan hệ của em với cha. Chính vì vậy ở
buổi làm việc ngày hôm nay em sẽ hỗ trợ chị một kỹ năng trong việc hỗ trợ em nhà
mình đó là kỹ năng đưa ra lời động viên tích cực với trẻ.
PH: ừ em, chị cũng thấy như em nói, đúng là mối quan hệ của cháu với bố
cháu chưa thực sự tốt, mà chị chưa biết làm thế nào để giúp em nó. Em à.
NTL: Dạ vâng, như em đã nói mối quan hệ của em với bố có những bất đồng
do thiếu được những củng cố tích cực, vậy việc cần thiết lúc này là gia tăng những
củng cố tích cực và hạn chế những củng cố tiêu cực trong các sự kiện đời sống hàng
ngày. Trước kia khi em NA có những cố gắng trong sinh hoạt hàng ngày, ví dụ như
em được 8 điểm môn tiếng anh, anh chị hay nói “được có 8 điểm thôi á”. Theo chị
khi chị là NA được nhận những phản hồi như vậy chị sẽ có cảm nhận như thế nào?
PH: ừm... nếu là tôi chắc tôi cũng không được vui cho lắm.
NTL: Dạ vâng, đó là những cảm nhận mà NA cảm thấy khi đón nhận những
phản hồi như vậy chị ạ. Nó không chỉ một hai lần mà rất nhiều lần em phải chịu
đựng những khó chịu như vậy, và lâu dần nó khiến bé không còn muốn cố gắng, và
như em chia sẻ chính điều đó khiến em cảm thấy những cố gắng của em là vô ích.
Vậy nếu bây giờ vẫn trong tình huống đó chị sẽ hướng dẫn anh nói gì khiến bé có
cảm nhận tốt hơn?
PH: chị sẽ bảo anh nói với con “Con đã cố gắng rất nhiều, con cố gắng tiếp
tục phát huy nhé”
NTL: Dạ vâng, như vậy là chị đã có thể hướng dẫn anh đưa ra một phản hồi
tích cực với em nhà mình, em hi vọng những phản hồi như vậy sẽ diễn ra nhiều hơn,
vì điều này khiến cho em có những củng cố tích cực từ gia đình chị ạ.
…
56
NTL: ở thời điểm hiện tại theo như chia sẻ của NA và từ phía chị, em thường
hay nằm trong phòng một mình, không tham gia bất cứ hoạt động gì. Em có phản
hồi rằng khi như vậy mẹ thường hay nói em không chịu hoạt động, không chịu cố
gắng thay đổi gì cả. Điều này cũng khiến em cảm thấy buồn vì không ai hiểu mình,
phần khác em cũng cảm thấy bản thân thật vô dụng khi là con gái lớn trong nhà mà
không giúp gì được cho bố mẹ. Như chị biết đó, không phải là em không muốn hoạt
động mà do cái trầm cảm khiến em không muốn thực hiện các hoạt động hàng
ngày, nó khiên em thiếu sinh lực và không muốn thực hiện những hoạt động đó. Vậy
vừa nãy chị và em đã thực hiện mẫu việc nói câu phản hồi tích cực, vậy trong
trường hợp này nếu được chị sẽ nói gì với em để em có thể có hứng thú tham gia
các hoạt động thường ngày?
PH: chắc chị chỉ biết nói con cố gắng đi lại hoặc làm gì đó cho đỡ ủ rũ thôi
em à.
NTL: Dạ vâng, như vậy là chị cũng đã đưa ra một phản hồi không quá làm cho
bé khó chịu. Nhưng nếu chỉ nói vậy chị nghĩ em có thể thay đổi được gì không chị?
PH: Chị nghĩ là không em à.
NTL:Dạ vâng, đó cũng là điều em nghĩ tới, nếu là em hoặc một phụ huynh
đã từng được tham vấn kĩ năng làm cha mẹ trong trường hợp đó họ sẽ nói “Mẹ biết
là cái trầm cảm khiến con không muốn đi đâu, làm gì khỏi phòng, nhưng mẹ hiểu là
thực sự con không hề muốn vậy. Nếu có thể mẹ nghĩ con nên thử một hoạt động nào
đó mà con muốn con à, nếu thấy khó khăn trong việc đó, mẹ sẽ cùng con cố gắng để
thực hiện điều đó. Mẹ tin rằng con có thể làm được điều đó. Khi nào con sẵn dàng
hãy nói với mẹ nhé”. Vừa rồi em vừa giúp chị đưa ra một phản hồi tích cực trong
một tình huống thường ngày mà bé NA đang gặp phải. Chị thấy đó trong câu phản
hồi trên thân chủ sẽ cảm thấy có được sự đồng cảm, rằng mẹ hiểu cho vấn đề của
mình, hơn nữa em cũng cảm thấy rằng em không hề đơn độc một mình trong nỗ lực
thoát ra khỏi những khó khăn của em, hơn nữa em có thêm động lực và niềm tin để
thay đổi.
PH: Đúng rồi em à, chị thấy anh chị còn nhiều hạn chế trong việc ứng xử
với con em à.
57
NTL: Dạ vâng chị có thể hiểu như vậy là rất tốt. em hi vọng chị và anh nhà
mình có những thay đổi trong cách giao tiếp hàng ngày với NA. Trong giai đoạn
này là giai đoạn em bước vào giai đoạn khủng hoảng tuổi vị thành niên, em cũng
như các bạn trong cùng độ tuổi có những sự nhạy cảm trong tiếp xúc hàng ngày,
đặc biệt từ môi trường gia đình. Rất hi vọng anh chị có những thay đổi khi đưa ra
những phản hồi trong giao tiếp hàng ngày với em NA. Nếu cần có những hỗ trợ nào
cần thiết trong việc thiết lập mối quan hệ nhằm mang lại những củng cố tích cực
cho mối quan hệ gia đình anh chị cứ phản hồi em sẽ hỗ trợ anh chị.
PH: Cảm ơn em đã hỗ trợ chị và em NA.
NTL: Dạ vâng cảm ơn chị về sự hợp tác trong buổi làm việc ngày hôm nay.
- Hoạt động 2: Hƣớng dẫn thân chủ
Xem lại bài tập về nhà buổi trước của thân chủ.
Ở tuần vừa rồi thân chủ đã thực hiện bài tập về nhà về thực hiện ghi chép suy
nghĩ – cảm nhận và hành vi của trẻ khi trẻ buồn. trong phiên làm việc này với nhà
tâm lý thân chủ phản hồi lại rằng thân chủ chỉ thực hiện được bài tập này 3 ngày.
Sau đó thân chủ cảm thấy chán nản và không muốn thực hiện bài tập nữa. nhà tâm
lý ghi nhận những cố gắng của thân chủ trong việc thực hiện bài tập và hỏi chuyện
thân chủ về những khó khăn cản trở thân chủ khi thực hiện bài tập và cùng thân chủ
thảo luận những bước đi phù hợp để tiếp tục thực hiện bài tập đó. Sau đó khích lệ
thân chủ cố gắng thực hiện các bài tập về nhà đã được giao. Sau khi thảo luận với
thân chủ về bài tập về nhà nhà tâm lý giới thiệu cho thân chủ về mục tiêu của phiên
58
trị liệu này.
(Một ghi chép của thân chủ về mẫu nhật ký suy nghĩ cảm nhận và hành vi
của thân chủ)
Hình 5.Bài tập về nhà về suy nghĩ-cảm xúc-hành động của thân chủ.
Giới thiệu về kỹ năng giải quyết vấn đề
Đầu tiên học viên thảo luận cho thân chủ biết được tại sao cần thực hiện kĩ
này. Nhà tâm lý cho thân chủ thấy được người trầm cảm thường cảm thấy bất lực
trước một tình huống nào đó khó giải quyết, cho thân chủ thấy được có khó khăn
cần phải tìm ra giải pháp thay vì buông xuông và bất lực với nó; ngoài ra giải quyết
vấn đề là cách để tăng cảm nhận về kiểm soát và hiệu quả bản thân; nhà tâm lý cũng
nhấn mạnh rằng đây là kĩ năng có ích nhất và có thể sử dụng rộng rãi. Một điều nữa
nhà tâm lý cần cho thân chủ thấy được rằng tâm trạng buồn cũng là vấn đề cần giải
quyết. Sau khi cho thân chủ thấy được tầm quan trọng của việc học kĩ năng này nhà
tâm lý hướng dẫn thân chủ làm thể nào để có thể giải quyết một vấn đề.
Hướng dẫn kĩ năng giải quyết vấn đề
Nhà tâm lý cho thân chủ biết rằng tất cả mọi người đôi khi đều có vấn đề. Giải
quyết giúp chúng ta cảm thấy tốt hơn và thoát khỏi vấn đề. Sau đó nhà tâm lý cùng
59
thảo luận với thân chủ những vấn đề nào trẻ đã trải qua? Thân chủ chia sẻ rằng một
số vấn đề mà thân chủ gặp phải đó là: hay cáu giận khi bố mẹ luôn quản thúc mình
chẳng hạn như việc đi chơi với bạn phải về nhà trước 9 giờ tối điều đó khiến thân chủ
khó chịu. ngoài ra một vấn đề nữa thân chủ cũng cảm thấy đó là vấn đề khó giải
quyết đó là việc thân chủ khó khăn trong việc hoàn thành bài tập tiếng Pháp.
Sau khi cùng thân chủ vạch ra những nan đề cần giải quyết nhà tâm lý cùng
thân chủ hướng dẫn thân chủ cách thức để giải quyết một nan đề. Theo đó nhà tâm
lý hướng dẫn thân chủ thực hiện các bước như sau để có thể giải quyết một nan đề.
1) Nhận dạng vấn đề
2) Suy nghĩ về giải pháp
3) Xem xét từng cái (điểm lợi, điểm hại)
4) Xem kết quả (nếu không đạt, chọn một phướng án khác).
Tiếp đó nhà tâm lý cùng thân chủ thực hành giải quyết 1 vấn đề của thân chủ
ngay tại buổi trị liệu. Ngay trong buổi trị liệu này thân chủ chọn nan đề cần giải
quyết là việc nói chuyện với cha mẹ về việc quản thúc cá nhân khi đi chơi với bạn
bè phải về đúng giờ.
Theo đó thân chủ lựa chọn vấn đề thân chủ cảm thấy khó chịu với bố mẹ về
việc kiểm soát thân chủ quá mức khi thân chủ muốn đi đâu đó, đặc biệt là việc thân
chủ đi chơi với bạn bè.
(Dưới đây là trích đoạn về hoạt động mà thân chủ và nhà tâm lý đã thực
hiện trong phiên làm việc.)
NTL: vừa rồi anh và em đã bàn tới một kĩ năng mới và cách thức thực hiện kĩ
năng đó, đó là kĩ năng giải quyết vấn đề. Bây giờ anh và em sẽ cùng lựa chọn một
trong những vấn đề của em để thực hiện kĩ năng mới mà anh vừa giới thiệu cho em.
TC: Dạ vâng a
NTL: Vậy bây giờ nếu như được lựa chọn một vấn đề cần giải quyết, em
nghĩ vấn đề đó là gì?
TC: Em nghĩ đó là việc em cảm thấy khó chịu với bố mẹ về việc kiểm soát
thân chủ quá mức khi thân chủ muốn đi đâu đó, đặc biệt là việc thân chủ đi chơi với
bạn bè.
60
NTL: Em vừa lựa chọn một vấn đề mà em cần giải quyết, vậy theo em giải
pháp cho vấn đề trên sẽ như thế nào?
TC: dạ. anh biết không trước kia em thường nghe theo bố mẹ sắp xếp thời gian
khi thực hiện một hoạt động nào đó, em bị gò bó thời gian, thường thì khi đi chơi với
bạn bè vào buổi em bị thúc ép đến 9h đêm phải về. Nhưng giờ đây em nghĩ mình không
còn là một đứa trẻ khi cứ bị thúc ép về mặt thời gian như vậy, em biết được cần phải
làm gì khi đi ra ngoài vào buổi tối một mình như vậy. Em nghĩ giải pháp mà em lựa
chọn là thực hiện một buổi nói chuyện riêng với mẹ về vấn đề nêu trên.
NTL: rất tốt, em đã lựa chọn được một giải pháp anh nghĩ là rất phù hợp,
vậy theo em, trong buổi nói chuyện đó em sẽ nói gì để bố mẹ hiểu em.
TC: Trong buổi làm việc đó em sẽ cho bố mẹ biết được những khó chịu khi
phải chịu sự chi phối của một ai khác, em mong muốn bố mẹ hiểu rằng giờ em đã
lớn cần có những khoảng thời gian riêng của bản thân. Đặc biệt em muốn có thời
gian bên một số người bạn thân của mình trước khi đi du học. Em cũng muốn cho
bố mẹ biết rằng em biết được những lo lắng của bố mẹ là muốn tốt cho bản thân
nhưng việc làm ấy khiến em cảm thấy ngột ngạt và khó chịu. Hơn nữa em không
còn là một đứa bé mà cứ suốt ngày khống chế thời gian của em như vậy. em muốn
mình được trưởng thành chứ không phải mãi trong cái bọc như một đứa trẻ mà bố
mẹ em vẫn làm với em.
NTL: Em có thể chia sẻ như vậy anh cảm thấy rất mừng về điều đó. Vậy theo
em bố mẹ có chấp nhận lời đề nghị đó của em?
TC: thực ra là em cũng ngại chia sẻ lắm em cũng sợ bố mẹ nói em như
những lần trước rằng mới bấy nhiều mà bày đặt như lớn lắm. Nhưng em nghĩ nếu
em nói được như thế bố mẹ em sẽ chấp nhận, mà nếu có không thì em cũng muốn
nói ra những gì em muốn nói chứ em thấy ngột ngạt khó chịu lắm.
NTL: Ừ em! Anh cũng tin rằng với những gì em chia sẻ bố mẹ em sẽ nhận ra
được em đã khôn lớn thực sự, và chí ít điều đó khiến bố mẹ không cảm thấy lo lắng
nữa như em nói. Và anh tin em lựa chọn đó là phù hợp với vấn đề của em lúc này.
TC: Dạ vâng ạ.
NTL: Như vậy anh và em vừa thực hành ộ kĩ năng mới trong buổi ngày hôm
61
nay. Anh hi vọng em sẽ áp dụng những gì em và anh thảo luận trong phiên làm việc
ngày hôm nay vào những vấn đề trong cuộc sống của em. Cảm ơn em vì đã hợp tác
với anh trong hoạt động này.
TC: Dạ vâng anh!
Giao bài tập về nhà về giải quyết vấn đề của thân chủ. (yêu cầu thân chủ thực
hiện về giải pháp cho vấn đề mà thân chủ đã cùng nhà tâm lý thực hiện trong buổi
làm việc).
Kết thúc buổi trị liệu: cho thân chủ đánh giá sự hài lòng của bản thân sau
buổi trị liệu thông qua thang đánh giá cảm xúc thể hiện sự hài lòng của bản thân về
buổi trị liệu. Cùng với đó nhà trị liệu nhắc lại những gì mà thân chủ và nhà tham
vấn đã thực hiện trong buổi trị liệu. Sau đó nhắc thân chủ mục tiêu của buổi làm
việc kế tiếp đó là thực hiện liệu pháp hoạt hóa hành vi. Cuối cùng Thân chủ đánh
giá trạng thái cảm xúc của bản thân trước khi đến trị liệu đạt mức 4.5 điểm. Sau trị
liệu thân chủ đánh giá 6 điểm
62
Kết quả đánh giá tâm trạng của thân chủ trong phiên làm việc
Buổi 5 Ngày 11 tháng 8 năm 2018
Mục tiêu của phiên trị liệu
- Hướng dẫn thân chủ thực hiện kỹ thuật hoạt hóa hành vi. (Mở đầu bằng
các hoạt động giúp thân chủ khơi gợi các hoạt động gây hứng thú)
Các kỹ thuật xử dụng trong phiên trị liệu
- Hoạt hóa hành vi
Các hoạt động trong phiên trị liệu
- Kiểm tra và thảo luận cùng thân chủ về bài tập về nhà.
- Giới thiệu cho thân chủ về liệu pháp kích hoạt hành vi và áp dụng liệu
pháp đối với thân chủ trong phiên trị liệu.
Kiểm tra và thảo luận cùng thân chủ về bài tập về nhà
Ở buổi trước nhà tâm lý đã hướng dẫn thân chủ kĩ năng giải quyết vấn đề và
yêu cầu thân chủ thực hiện kĩ năng giải quyết vấn đề với những vấn đề mà thân chủ
thấy cần phải giải quyêt. Với vấn đề được thảo luận về việc giải quyết vấn đề liên
quan đến sự khó chịu khi bị cha mẹ gò ép về mặt thời gian thân chủ có chia sẻ đã
chia sẻ với phụ huynh, và phản hồi lại rằng thân chủ được mẹ ghi nhận về vấn đề đó
và sẽ xem xét kĩ vấn đề mà thân chủ đặt vấn đề. Thân chủ có nói mẹ đã đồng ý
không gò ép quá về mặt thời gian, tuy nhiên cũng không cho phép thân chủ về nhà
quá muộn, nếu có gì cần phải gọi điện cho gia đình. Thân chủ thấy được sự hài lòng
thông qua việc nêu ra vấn đề với cha mẹ
Giới thiệu cho thân chủ về liệu pháp kích hoạt hành vi và áp dụng liệu pháp
đối với thân chủ trong phiên trị liệu.
Nhà trị liệu để thân chủ nêu ra những hoạt động gây hứng thú trước đây của
thân chủ. Thảo luận cùng thân chủ về những hoạt động gây hứng thú đó.
NTL: Ở buổi trước anh và em đã làm việc về kĩ năng giải quyết vấn đề. ở
buổi này anh sẽ cùng em thực hiện một chiến lược mới giúp em giảm trầm cảm đó
là chiến lược hoạt hóa hành vi. Em đã từng nghe đến chiến lược này bao giờ chưa?
TC: Em chưa ạ.
NTL: Trước khi đi vào chiến lược này anh muốn hỏi em một câu hỏi theo em
63
câu nói “nhàn cư vi bất thiện” có ý nghĩ gì?
TC. Em không chắc em trả lời có đúng không nhưng theo em đại ý của nó là
nhàn rỗi khiến con người ta dễ sinh hư.
NTL: Cảm ơn em đã trả lời câu hỏi của anh, câu trả lời của em là hoàn toàn
chính xác. Như em nói nhàn rỗi khiến con người ta dễ sinh ra những hành vi và suy
nghĩ không đúng đắn, điều này làm ảnh hưởng đến sức khỏe tinh thần và thể chất
của chúng ta. Người có trầm cảm cũng vậy họ thường suy nghĩ tiêu cực và có
những hành vi chưa phù hợp, một phần lớn là do họ thiếu những hoạt động mang
lại sự hứng thú cho họ trong ngày. Và để giúp em cải thiện vấn đề đó anh sẽ cùng
em hoc một chiến lược mới có ích cho sức khỏe thể chất và tinh thần đó là chiến
lược hoạt hóa hành vi.
TC: Dạ vâng ạ.
NTL: ừ em. Để em hiểu hơn tại sao hoạt hóa hành vi có thể giúp em cải
thiện về sức khỏe thể chất và tinh thần anh chia sẻ với em một chút về tác dụng của
liệu pháp đó như sau: Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng chỉ cần luyện tập thể lực 30
phút mỗi ngày có thể tạo ra những chất hóa học gây ra cảm giác sảng khoái, hay
còn được biết đến như là endorphin – đó là một chất dẫn truyền thần kinh trong
não bộ có tác dụng tạo cảm xúc tích cực cải thiện tâm trạng, giảm đau. Tin tốt là
em không cần phải là một vận động viên mới có thể tập luyện thể lực thường xuyên,
em chỉ cần tìm một hoạt động mà em hứng thứ và thực hiện. Thậm chí chỉ cần một
khối lượng hoạt động nhỏ với cường độ từ nhẹ đến vừa phải đã có thể tạo ra những
sự thay đổi trong tâm trạng của em nếu em làm liên tục trong một khoảng thời gian.
TC: Dạ vâng ạ. Nhưng giờ đây em không cảm thấy hứng thú với điều gì anh
ạ, với thể dục, thể thao hay gym lại càng là cực hình với em anh ạ.
NTL: Anh hiểu giờ đây thật khó để em có thể tham gia bất cứ hoạt động nào
như trước kia, nhưng em biết đấy anh ở đây là để giúp em có thể thực hiện những
điều đó.
64
TC: Dạ vâng ạ...
Qua thảo luận với thân chủ thân chủ đưa ra các hoạt động gây hứng thú trước
kia với thân chủ như sau: đọc sách, viết truyện, đi bộ, đi cà phê cùng bạn bè; nhảy
múa; tập thể hình
Sau đó cùng thân chủ sắp xếp lại thứ bậc ưu tiên cho những hoạt động mà
thân chủ vừa nêu ra. ( đi bộ; đọc sách; nhảy múa trong nhà; tập thể hình; đạp xe;
viết truyện; đi cà phê cùng bạn)
Từ những hoạt động hứng thú nêu trên Nhà tâm lý cho thân chủ chọn một
hoạt động trong nhà và một hoạt động ngoài trời. hướng dẫn thân chủ chuẩn bị một
kế hoạch dự trù trong trường hợp thời tiết không phù hợp với kế hoạch ban đầu của
thân chủ.
Sau khi thảo luận thân chủ đã đưa ra một danh sách các hoạt động được phân
loại như sau
Bảng 4. Bảng phân loại các hoạt động hứng thú.
Thảo luận cùng thân chủ về những bước đi phù hợp cho một hoạt động mà
thân chủ chọn để thực hiện trong tuần này.Thân chủ lựa chọn hoạt động đi bộ với
các bước đi cụ thể:
Ngày 1: đi bộ quanh sân nhà 2 vòng
65
Ngày 2: đi bộ quanh khu nhà 1 vòng
Ngày 3 : đi bộ quanh khu nhà 2 vòng
Ngày 3: ra công viên gần nhà đi bộ 20 phút
Ngày 4: đi bộ ở công viên gần nhà 25 phút
Ngày 5: đi bộ ở công viên gần nhà 30 phút
Ngày 6: đi bộ ở công viên gần nhà 40 phút
Ngày 7: đi bộ ở công viên gần nhà 50 phút
Trong trường hợp thời tiết xấu không thể tham gia hoạt động này thân chủ đã
lựa chọn thực hiện một vài động tác múa đã từng được học trong các khóa sinh hoạt
Thân chủ đã lựa chọn khung giờ 4h30 các buổi chiều để thực hiện hoạt động
nêu trên.
Giới thiệu cho thân chủ về thang chấm điểm cảm xúc khi thân chủ thực hiện
hoạt động gây hứng thú.
NTL: Vừa rối anh đã cùng em thảo luận về các bước đi cho hoạt động gây
hứng thú cho em. Giờ anh sẽ hướng dẫn em thực hiện cách chấm điểm cảm xúc của
mình trước và sau khi tiến hành hoạt động.
TC: Dạ vâng ạ.
NTL: Dưới đây là thang chấm điểm cảm xúc cá nhân. Em có thể chấm điểm
cảm xúc của mình trước và sau khi em thực hiện hoạt động nêu trên. Theo đó thang
dưới đây có điểm số từ 1-9 tương ứng với đó 1 điểm là điểm số đánh giá tâm trạng
ở mức thấp nhất của em và 9 điểm là điểm số đánh giá tâm trạng cao nhất. Em có
thể lựa chọn một điểm số thích hợp nhất với tâm trạng của bản thân để đánh giá
tâm trạng trước và sau hoạt động mà em thực hiện trong ngày.
TC: Dạ vâng.
NTL: Em đã rõ cách thức thực hiện việc chấm điểm cảm xúc bản thân chưa?
TC: Em rõ rồi ạ.
Nhà trị liệu giao bài tập về nhà: Thân chủ thực hiện hoạt động đi bộ. và chấm
66
điểm cảm xúc trước và sau khi thực hiện hoạt động đi bộ.
Trước khi kết thúc phiên trị liệu nhà tâm lý cho thân chủ nhắc lại về hoạt động
được tiến hành trong phiên trị liệu sau đó thông báo cho thân chủ về buổi làm việc kế
67
tiếp sau đó cho thân chủ chấm điểm cảm xúc của mình trước và sau phiên trị liệu.
Kết quả tự đánh giá nhanh tâm trạng của thân chủ
………………………………………
Buổi 6. Ngày 14 tháng 08 năm 2018
Mục tiêu của phiên trị liệu
Hoạt hóa hành vi của thân chủ (thảo luận về các bƣớc đi phù hợp để
thực hiện hành vi)
Các kỹ thuật xử dụng trong phiên trị liệu
- Hoạt hóa hành vi (tiếp)
Các hoạt động trong phiên trị liệu
- Kiểm tra và thảo luận bài tập về nhà của thân chủ.
Qua thảo luận với thân chủ về việc thực hiện hoạt động khi ở nhà. Thân chủ
chia sẻ lại rằng thân chủ chỉ thực hiện hoạt động đi bộ 2 ngày đầu tiên. Nhà tâm lý
có hỏi chuyện về điều gì cản trở thân chủ thực hiện hoạt động đó. Thân chủ cho
rằng thân chủ thấy nó không có tác dụng thân chủ thấy mệt mỏi và không muốn
thực hiện hoạt động nên thân chủ ngưng không thực hiện. nhà tâm lý đã làm việc
với thân chủ về các trở ngại trên của thân chủ. Chia sẻ lại với thân chủ về những
khó khăn khi thân chủ phải thực hiện các bài tập. nhà tâm lý cũng cấp lại cho thân
chủ những thông tin hữu ích về việc thực hiện hoạt động đi bộ nêu trên. Và cho thân
68
chủ thấy được để đạt hiệu quả cần có thời gian chứ không phải có thể ngày một,
ngày hai thực hiện sẽ cho thấy tác dụng của bài tập. Sau đó khuyến khích và khích
lệ thân chủ tiếp tục thực hiện bài tập này khi ở nhà.
Bảng 5. Bảnh kết quả đánh giá cảm xúc trước và sau khi thực hiện hoạt động
hứng thú đi bộ
Thảo luận về những bước đi phù hợp cho từng hoạt động kế tiếp của thân
chủ. Cụ thể ở đây là một hoạt động gây hứng thú có thể thực hiện ở trong nhà của
69
thân chủ.
Trong phiên làm việc này sau khi hướng dẫn thân chủ chọn một hoạt động
gây hứng thú cho thân chủ để thân chủ thực hiện, thân chủ đã lựa chọn hoạt động
gây hứng thú tiếp theo của thân chủ là: đọc sách. Tuy nhiên theo lời thân chủ mặc
dù đây là hoạt động hứng thú của thân chủ nhưng thân chủ rất khó để có thể thực
hiện hoạt động này. Chính vì vậy nhà tâm lý đã giúp thân chủ lựa chọn những bước
đi phù hợp với hoạt động này, để thân chủ có thể thực hiện hoạt động này một cách
dễ dàng hơn.
Qua thảo luận với thân chủ, thân chủ đã lựa chọn những bước đi phù hợp mà
thân chủ lựa chọn cho việc đọc sách như sau:
Thân chủ lựa chọn đọc những cuốn truyện dễ đọc với nội dung dễ hiểu ->
đọc những truyện ngắn dễ đọc -> đọc những cuốn sách hay phù hợp với sở thích.
Ngoài ra nhà trị liệu cũng đã thảo luận cùng thân chủ đề ra mục tiêu đọc sách của
thân chủ từ cấp độ đọc sách với số lượng trang ít vừa với sự tập trung của thân chủ
dần dần cải thiện khả năng đọc của thân chủ với thời lượng và số trang dài hơn qua
đó kéo dài sự tập trung chú ý của thân chủ.
Sau đó nhà tâm lý cho thân chủ thực hiện hoạt động đọc sách ngay tại buổi
trị liệu: kết quả đưa ra thân chủ có thể đọc được hơn 4 trang sách.
Tiếp theo nhà tâm lý thảo luận với thân chủ những bước đi phù hợp cho việc
thực hiện hoạt động đọc sách. Trong tuần tới thân chủ lựa chọn thực hiện việc đọc
sách như sau:
Ngày 1: đọc 5 trang của một cuốn truyện dễ đọc.
Ngày 2: đọc 7 trang sách của cuốn truyện trên
Ngày 3: đọc 10 trang cuốn truyện dễ đọc trên
Ngày 4: đọc 15 trang cuốn truyện dễ đọc trên
Ngày 5: đọc 20 trang của cuốn truyện dễ đọc trên
Ngày 6: đọc 25 trang của cuốn truyện dễ đọc trên.
Ngày 7: đọc 30 trang của cuốn truyện dễ đọc
Giao bài tập về nhà cho thân chủ: Thân chủ tiếp tục thực hiện hoạt động gây
hứng thú ở buổi trước đó và thực hiện thêm hoạt động gây hứng thú đã được bàn tới
70
trong buổi này cùng với đó là bài tập chấm điểm cảm xúc của thân chủ trước và sau khi
thực hiện bài tập.Cụ thể, sau khi đọc xong thân chủ tự đánh gia tâm trạng của thân chủ
như thế nào và điền thang đánh giá tâm trạng sau hoạt động theo tuần như sau:
Bảng 6. Bảnh mẫu đánh giá cảm xúc trước và sau khi thực hiện hoạt động hứng
thú đọc sách
- Kết thúc buổi trị liệu nhà tâm lý cho thân chủ đánh giá sự hài lòng của
thân chủ về buổi trị liệu. Cùng với đó nhà trị liệu nhắc lại những gì mà thân chủ và
nhà tham vấn đã thực hiện trong buổi trị liệu, cuối cùng nhà tâm lý giới thiệu cho
71
thân chủ về mục tiêu của buổi tới sẽlàm việc với thân chủ về sự lo lắng của thân chủ
khi thân chủ chuẩn bị qua đất nước khác học tập và thực hiện chiến lược mới giảm
trầm cảm đó là liệu pháp thư giãn.
Thân chủ đánh giá trạng thái cảm xúc của bản thân trước khi đến trị liệu đạt
mức 6 điểm. Sau trị liệu thân chủ đánh giá 7.5 điểm.
Kết quả thang đánh giá tâm trạng nhanh của thân chủ
………………………………………
Buổi 7. Ngày 18 tháng 08 năm 2018
Mục tiêu của phiên trị liệu
- Tham vấn với thân chủ về sự lo lắng của thân chủ khi thân chủ chuẩn bị
qua đất nước khác học tập.
- Thực hiện liệu pháp Thư giãn.
Các kỹ thuật xử dụng trong phiên trị liệu
Liệu pháp thư giãn
Tham vấn cá nhân
Các hoạt động trong phiên trị liệu
- Kiểm tra và thảo luận về bài tập về nhà của thân chủ.
- Khen ngợi và khích lệ thân chủ thực hiện các hoạt động gây hứng thú kế
72
tiếp đã được đặt ra trong buổi trước
- Tham vấn với thân chủ về sự lo lắng của thân chủ khi thân chủ chuẩn bị
qua đất nước khác học tập.
- Hướng dẫn thân chủ thực hiện bài tập thư giãn tưởng tượng.
Kiểm tra và thảo luận về bài tập về nhà của thân chủ.
Kết quả hoạt động tuần vừa rồi thân chủ thực hiện hoạt động về bài tập đọc
sách như sau.
Bảng 7. Bảng kết quả đánh giá cảm xúc trước và sau khi thực hiện hoạt động
hứng thú đọc sách
Sau khi nhận được kết quả thực hiện hoạt động tuần vừa rồi của thân chủ học
viên khen ngợi việc thân chủ hoàn thành bài tập và khích lệ thân chủ tiếp tục thực
73
hiện các hoạt động gây hứng thú đã được đặt ra trong buổi trước.
Tham vấn với thân chủ về sự lo lắng của thân chủ khi thân chủ chuẩn bị qua
đất nước khác học tập.
Nhà tham vấn để thân chủ vạch ra những thuận lợi cũng như khó khăn của
bản thân khi chuẩn bị sang đất nước khác du học.
(Trích đoạn làm việc với thân chủ về giải quyết nhưng lo lắng của thân chủ
trước khi qua Pháp học tập)
NTV:Như em chia sẻ em chuẩn bị qua Pháp học tập, theo em khi qua đó em
phải đối diện với những khó khăn nào?
TC: Dạ, em nghĩ nhiều nhất đến việc bất đồng ngôn ngữ anh ạ, em sợ tiếng
Pháp của em chưa tốt, ngoài ra nhưng khác biệt về văn hóa đặc biệt là đồ ăn thức
uống có khi cũng là trở ngại của em anh à. Em cung lo qua đó không ai hiểu em mà
em lại như thế này em không biết mình có vượt qua được không nữa ý?
NTL: anh hiểu rằng những điều em vừa chia sẻ là những trở ngại vô cùng
khó khăn đối với em lúc này. Nó là những khó khăn không chỉ ở riêng em mà với
nhiều tu học sinh cũng đều có những trở ngại như vậy, việc phải đối diện với những
khó khăn ấy khi học tập ở một đất nước mới, một nền văn hóa mới với một cô bé
mới lớn quả thật không hề dễ dàng chút nào. Nhưng em biết đó khó khăn nào cũng
có thể vượt qua được việc quan trọng nhất là em đã nhìn thấy được những khó khăn
đó, bây giờ anh sẽ cùng em làm việc về những khó khăn em vừa kể trên. Đầu tiên
anh và em sẽ nói về vấn đề bất đồng ngôn ngữ em nhé.
TC:Dạ vâng ạ.
NTL:Theo em để khắc phục tình trạng đó em nghĩ mình cần phải làm gì?
TC: Em nghĩ mình cần trau rồi tiếng Pháp của em nhiều hơn, nhưng anh biết
đó tiếng Pháp của em vẫn chưa ổn lắm mà em sắp phải qua đó rồi.
NTL: Ừ em, như em nói em cần phải trau rồi tiếng Pháp nhiều hơn và anh
nghĩ đó là một giải pháp rất tốt, tuy nhiên cũng như em nói em sắp phải qua bên đó
rồi mà trình độ tiếng Pháp của em chưa được ổn lắm. Vậy theo em, với việc hạn chế
về mặt ngôn ngữ như vậy khi qua đó em cần những hỗ trợ từ những nguồn như thế
nào để giải quyết vấn đề đó?
74
TC: Dạ, à anh ơi em qua đó em ở với ông bà trẻ em, Ông bà em là người gốc
Việt, chắc em sẽ học hỏi từ ông bà em.
NTL: Ồ anh nghĩ đó là một nguồn trợ giúp rất tốt cho em khi em qua đó để
trau rồi thêm vốn ngoại ngữ của em đó. Em thử nghĩ xem em có thể có những trợ
giúp từ nguồn nào nữa không?
TC: à, em cũng có biết một bạn bên nhà ngoại của ông bà trẻ em cũng như
em qua đó học tập, em có thể cùng bạn đó rèn luyện thêm, nói đến đây em mới nghĩ
ra chắc trong trường cũng có những anh chị hoặc những bạn người Việt như em,
em nghĩ em sẽ học hỏi từ đó nữa anh ạ. Ui tự nhiên thấy vui anh ạ, vì không phải có
một mình em đối diện với vấn đề của mình ở đây mà em còn có những người khác
hỗ trợ em nữa.
NTL: Đúng rồi đó em, đó là điều mà anh muốn em luôn nghĩ tới dù khó khăn
thế nào chúng ta đều có những cách thức để vượt qua em à. Ngoài những điều chia
sẻ của em với những người mới qua học tập ở môi trường mới, với vốn ngoại ngữ
chưa thực sự tốt, anh còn thấy họ sự dụng phần mềm nói chuyện với người nước
ngoài thông qua một vài công cụ như google translate, cũng giúp họ phần nào khi
giao tiếp với người bản xứ được tốt hơn trong giai đoạn đầu, tuy nhiên những giải
pháp mà em vừa nói tới mới là những giải pháp tối ưu để vốn ngoại ngữ của em
được tốt hơn em à.
TC: Dạ vâng ạ. Em thấy mình như chút đi phần nào gánh nặng ý anh ạ.
NTL: Thật tốt khi em thấy như vậy. Tiếp đến anh và em sẽ bàn tới vấn đề
khác biệt về văn hóa em nhé.
TC: Dạ vâng ạ
NTL: Như em đã nói vấn đề về khác biệt về văn hóa mà em lo sợ có hơi khác
đó là việc đồ ăn thức uống có chế biến hơi khác ở Việt Nam. Trước hết anh muốn
em thử đưa ra một vài giải pháp về vấn đề này.
TC: Em nghĩ chắc là em sẽ học nấu ăn thêm với mẹ anh ạ, em sẽ học chế biết
các món Việt nhiều hơn để qua đó em thích nghi được anh ạ.
NTL: Thật tốt khi em đưa ra một giải pháp tốt như vậy, anh tin là em có thể
khắc phục được trở ngại này mà. Ngoài ra như em đã chia sẻ em có nói qua đó em
75
sẽ ở với ông bà và ông bà em là người Việt, em nghĩ sao khi hỏi ông bà em về vấn
đề này?
TC: Dạ vâng. Kể ra khi nói chuyện với anh em mới thấy là Ông bà em cũng
là người Việt chắc em sẽ hỏi ông bà về cách ông bà làm quen với môi trường bên
đây như thế nào anh ạ.
NTL: Ừ em. Anh nghĩ chắc ông bà sẽ có rất nhiều kinh nghiệm về vấn đề
này cũng như những khác biết khác mà ông bà đã thích nghi được để chia sẻ với em
đó. Vậy giờ anh và em sẽ nói về việc đối mặt với trầm cảm khi em qua đó em nhé.
TC: Dạ vâng ạ. Cái này làm em lo nhất đó ạ.
NTL: ừ em. Em thấy đó vừa rồi em đều đã đưa cho anh những giải pháp rất
hay về nan đề của em, giờ anh muốn em thử tiếp tục đưa ra một giải pháp nữa cho
vấn đề này em à.
TC: Dạ, giờ em chỉ nghĩ đến việc sẽ áp dụng các bài tập của anh và tiếp tục
nhận sự hỗ trợ từ bác sĩ của em ở Việt Nam, về điều này em sẽ nhờ trợ giúp của mẹ
em nữa.
NTL: Đúng rồi, cách em đưa ra giải pháp khiến anh thấy vui khi em nghĩ
được như vậy. Ngoài giải pháp trên, em nghĩ sao về nguồn hỗ trợ đến từ ông bà trẻ
của em bên đó?
TC: Dạ vâng, bố mẹ em cũng đã nói cho ông bà bên đó về vấn đề của em
anh ạ. Em nghĩ khi nào em buồn bực quá chắc em cũng sẽ nói chuyện với bà em bên
đó để giảm bớt những căng thẳng buồn bực anh ạ.
NTL: Thật tốt khi em chia sẻ lại với anh như vậy. Anh hi vọng em có thể
vượt qua những khó khăn này với những giải pháp mà em đề cập tới. Ngoài ra như
em biết đó ở buổi trước anh và em đã làm việc với nhau về cách thức để giải quyết
vấn đề, ở buổi này anh thấy em ứng dụng kĩ năng này rất tốt, nếu em có những khó
khăn nào phát sinh anh hi vọng em tiếp tục sử dụng kĩ năng này để giải quyết
những nan đề khác của em trong cuộc sống.
TC:Dạ vâng ạ, em cảm ơn anh Giang nhé!
Với những khó khăn mà thân chủ gặp phải nhà tâm lý khuyến khích thân chủ
76
sử dụng kĩ năng giải quyết vấn đề đã được học để đưa ra giải pháp cho bản thân.
Giới thiệu cho thân chủ về một chiến lược mới giúp thân chủ giảm trầm cảm:
Liệu pháp thư giãn.
Nhà tâm lý hướng dẫn thân chủ thư giãn với các bài tập như sau:
Bài tập 1: cánh ray và chân nặng. cho thân chủ ngồi ở tư thế thoải mái, nhắm
mắt và tưởng tượng cánh tay và chân của thân chủ đang nặng. Tập trung đầu tiên
vào cánh tay thuận nhắc thầm “tay phải nặng lên” làm từ 3- 6 lần, mỗi lần 30- 60
giây. Khi kết thúc, lắc vai hoặc lắc đầu, đây chính là sự xả bỏ toàn thân để ra khỏi
trạng thái đờ đẫn, rồi từ từ mở mắt. Sau đó đổi tay trái lặp lại quá trình này. Chuyển
qua chân phải rồi chân trái cũng làm như vậy. Cuối cùng thư giãn với cả 2 tay, cả 2
chân dùng các mật lệnh sau:
“ Cả 2 tay tôi nặng lên”
“ Cả 2 chân tôi nặng lên”
“ Cả chân lẫn tay tôi đều nặng lên”
Bài tập 2: Cánh tay và chân ấm. nhà trị liệu hướng dẫn thân chủ chọn tư thế
ngồi thoải mái, tập trung vào nhịp thở “tôi biết tôi đang thở” “ hơi thở của tôi thật
bình thản và thư giãn” và quán tưởng cảm giác ấm nóng từ từ lan khắp cơ thể quá
trình ấy bắt đầu từ tay thuận như sau: “tay phải tôi ấm lên , tay trái tôi ấm lên, chân
phải tôi ấm lên, chân trái của tôi ấm lên, chân phải của tôi ấm lên, cả 2 bàn chân và
bàn tay của tôi cùng ấm dần lên, cảm giác ấm toàn bộ cơ thể , lan xuống vùng ngực,
vùng bụng,…” quá trình ấy được dừng lại và nhà tâm trị liệu hướng dẫn thân chủ
mở mắt từ từ và vẫn duy trì nhịp thở cho đến khi thân chủ mở mắt hoàn toàn.
- Giao bài tập về nhà: thân chủ tiếp tục thực hiện các hoạt động gây
hứng thú cho thân chủ mà buổi trước đó thân chủ đã đề ra cùng với đó là bài tập
thực hiện bài tập thư giãn và chấm điểm cảm xúc của bản thân trước và sau mỗi
hoạt động thân chủ đã thực hiện.
Kết thúc buổi tham vấn: cho thân chủ đánh giá sự hài lòng của bản thân sau
buổi trị liệu thông qua thang đánh giá cảm xúc. Cùng với đó nhà trị liệu nhắc lại
những gì mà thân chủ và nhà tham vấn đã thực hiện trong buổi trị liệu, giới thiệu
cho thân chủ về hoạt động của buổi trị liệu tới bàn về những suy nghĩ tiêu cực và
77
cách thức thay đổi những suy nghĩ tiêu cực đó.
NTL: Vừa rồi anh cùng em đã thực hiện bài tập thư giãn trước khi kết thúc
buổi làm việc ngày hôm nay anh muốn biết em cảm thấy như thế nào sau buổi làm
việc này?
TC: Dạ em thấy dễ chịu hơn phần nào anh ạ, nhưng thú thực với anh có
anh ở đây hướng dẫn em mới thực hiện được, em sợ về nhà em lại quên mất cách
thực hiện bài tập này anh ạ.
NTL: ừ em, điều em lo ngại cũng là điều dễ hiểu, anh sẽ ghi âm lại bài tập
này rồi gửi em, khi nào thực hành bài tập ở nhà em mở file ghi âm ra để luyện tập
bài tập này em nhé. Em có thắc mắc nào về bài tập cần anh hỗ trợ nữa không nhỉ?
TC: Dạ vâng, em không có thắc mắc nào nữa anh ạ
NTL: Như vậy buổi làm việc ngày hôm nay anh đã hướng dẫn em một chiến
lược mới để hỗ trợ em giảm bớt những lo â cũng như giúp em cải thiện vấn đề
trầm cảm, buổi tới anh sẽ cùng em thực hiện một chiến lược mới nhằm giúp em
làm việc với những suy nghĩ tiêu cực của bản thân. Anh hẹn em đến thứ 3 (ngày
21/08) tới anh sẽ cùng em làm việc tiếp em nhé.
TC: Dạ vâng ạ.
NTL: ừ em. Giờ trước khi ra về anh muốn em đánh giá tâm trạng của em
sau khi kết thúc phiên làm việc thông qua thang đánh giá tâm trạng nhanh này
nhé.
TC: Dạ vâng ạ.
…………….
Thân chủ đánh giá trạng thái cảm xúc của bản thân trước khi đến trị liệu đạt
78
mức 6 điểm. Sau trị liệu thân chủ đánh giá 8 điểm.
Kết quả đánh giá tâm trạng của thân chủ trong phiên làm việc
………………………………………
Buổi 8. Ngày 21 tháng 08 năm 2018
Mục đích phiên trị liệu
- Phiên làm việc giúp thân chủ thay đổi nhận thức, niềm tin cốt lõi đang có
ở thân chủ
Các kỹ thuật xử dụng trong phiên trị liệu
- Tham vấn tâm lý
- Kỹ thuật thách thức suy nghĩ tự động
Các hoạt động trong phiên trị liệu
- Kiểm tra và thảo luận về bài tập về nhà
- Thảo luận kế hoạch tương lai và ngăn ngừa tái phát.
Trước khi vào làm việc với chiên lược mới nhà tâm lý kiểm tra lại bài tập về
nhà của thân chủ. Kiểm tra bài tập cho thấy thân chủ đã cố gắng thực hiện bài tập.
tuy nhiên cũng theo chia sẻ em còn chưa thật sự tập trung hoàn toàn vào bài tập. đôi
khi trong lúc tập bài tập thư giãn thân chủ vẫn có những suy nghĩ linh tinh hiện lên
trong đầu. Khi đó nhà tâm lý trấn an thân chủ rằng việc trong lúc đầu mới tập bài
tập thư giãn có những suy nghĩ linh tinh xuất hiện trong đầu là điều dễ hiểu. tuy
nhiên trong những lúc ấy thân chủ không nên cố gắng luyện tập tiếp mà hãy đi ra
79
ngoài và thực hiện bài tập đó vào một khoảng thời gian khác. Hơn nữa trong lúc
mới tập thân chủ nếu chưa quán tưởng tốt có thể thư giãn bằng cấp độ thấp hơn
bằng cách tập bài tập thở bụng. khi đó thân chủ chú tâm vào nhịp thở để trấn áp lại
những dòng suy nghĩ hiện hữu trong em.
- Giới thiệu cho thân chủ một chiến lược mới giúp thân chủ giảm trầm cảm
thông qua liệu pháp thay đổi suy nghĩ – cảm xúc.
Ở Phiên làm việc này trước khi đi vào hướng dẫn thân chủ thực hiện bài tập
giúp thân chủ thay thế những suy nghĩ cảm xúc tiêu cực nhà tâm lý giới thiệu cho
thân chủ về liệu pháp cấu trúc lại nhận thức – xúc cảm. Trong hoạt động này nhà
tâm lý cần cho thân chủ thấy được cùng một vấn đề, cùng một tình huống, một sự
kiện, hay cùng một câu nói, hoặc cùng một hành động… có thể tạo ra stress tiêu cực
cho người này mà không ảnh hưởng đáng kể đến người khác. Nhà tâm lý cho thân
chủ thấy rằng cách thức mà mỗi cá nhân đáp ứng lại những vấn đề bên trong hay
bên ngoài cơ thể phụ thuộc đáng kể vào khả năng nhận diện và thấu hiểu bản chất
của nó. Cho thân chủ nhận ra rằng trước mỗi biến cố trong cuộc sống mỗi người
thường có những cách nhận diện và có các chiến lược ứng phó khác nhau. Chẳng
hạn cùng là vấn đề đau đầu mất ngủ, một người thì rất lo lắng phải tìm đến thuốc
ngủ và thuốc giảm đau để ngăn chặn tình trạng đó, một người khác thì bình tĩnh sử
dụng các liệu pháp thư giãn, thở sâu, thiền để đối phó vì họ tin rằng 80% đâu đâu
mất ngủ là do thiếu oxy, thiếu máu len não. Như vậy, cái cách thức mà chúng ta
nhận diện các tình huống, các vấn đề trong cuộc sống có ảnh hưởng đáng kể đến
chiến lược chúng ta hành động và ứng phó. Cũng trong bước này nhà tâm lý cho
thân chủ thấy được mỗi suy nghĩ niềm tin, thái độ sống tích cực sẽ mang đến những
điều tốt đẹp cho cuộc sống của bạn. Ngược lại, nhữn suy nghĩ niềm tin, thái độ sống
tiêu cực chỉ mang đến những điều tệ hại. nhấn mạnh rằng thân chủ cần học cách suy
nghĩ tích cực, sử dụng sức mạnh của sự tự khẳng định tích cực để chuyển đổi những
suy nghĩ, niềm tin tiêu cực.
- Hướng dẫn thân chủ thực hiện chiến lược thách thức suy nghĩ tự động
(thông qua ví dụ thực tế).
NTL: Vừa rồi anh đã giới thiệu cho em biết một chiến lược mới mà em có
80
thể áp dụng để đối phó lại với những suy nghĩ và niềm tin tiêu cực mà em đang
có. Bây giờ anh sẽ đưa ra một ví dụ mẫu sau đó anh và em sẽ cùng thảo luận
trên những vấn đề mà em đang gặp phải.
TC: Dạ vâng.
NTL: Quay trở lại với ví dụ mà trong phiên làm việc mấy hôm trước đó
anh có nhắc tới một ví dụ về người trầm cảm sau khi trượt kì thi đại học anh ta
cảm thấy buồn và thất vọng về bản thân và cho rằng bản thân mình là kẻ thất bại
và đó là suy nghĩ tự động của anh ý, nếu suy nghĩ tự động tiêu cực ý tiếp diễn anh
ta sẽ luôn cho rằng mình là người thất bại, là một người thua kém và không thể
nào thành công được nữa. Để ngăn chặn suy nghĩ tự động ấy tiếp diễn chúng ta
có thể nghĩ khác đi bằng cách đưa ra những suy nghĩ thay thế như: trượt đại học
thì cũng buồn đó, nhưng mình không thể buồn mãi như vậy, mình còn có những
cố hội khác, mình sẽ cố gắng ôn tập thật tốt cho kì thi vào năm sau.
Nhà tâm lý cho thân chủ xem bảng hướng dẫn ghi chép bài tập thách thức
suy nghĩ tự độngvà hướng dẫn cho thân chủ cách thức thay thể khi có suy nghĩ như
vậy.
Sự kiện cảm xúc suy nghĩ tự động Hƣớng dẫn những suy nghĩ thay
của thân chủ thế
Trượt kì thi đại Mình là người thất bại. Mình thi trượt đại học, nhưng
học không phải là người thất bại. Mìnhlà một người thua
kém và không thể nào Trượt đại học thì cũng buồn đó,
thành công được nữa. nhưng mình còn có những cố hội
khác.Mình sẽ cố gắng ôn tập thật Mình không bằng mấy
tốt cho kì thi tới. đứa bạn thân của mình.
Các bạn khác cũng có những
điều không bằng mình.
Bảng 8. Bảng hƣớng dẫn ghi chép bài tập thách thức suy nghĩ tự động
NTL: Vừa rồi anh đã chia sẻ cho em về cách thức để có thể ngăn chặn
81
những luồng suy nghĩ tiêu cực ấp tới với bản thân mỗi chung ta. Giờ thì anh muốn
anh và em sẽ liệt kê một vài suy nghĩ tiêu cực đang có trong em sau đó chúng ta
cùng thực hành ngay tại đây để hiểu rõ hơn về cách thức thực hiện mẫu bài tập này.
TC: Dạ vâng! … (thân chủ trình bài về những suy nghĩ tiêu cực hiện hữu
trong em).
Sau khi thân chủ chia sẻ về những suy nghĩ tiêu cực của bản thân, nhà tâm lý
đã hướng dẫn em thực hiện theo mẫu bài tập thách thức những suy nghĩ tiêu cực tự
động nêu trên và dưới đây là bảng liệt kê về hoạt động mà thân chủ đã thực hiện
trong phiên làm việc.
82
Bảng 9. Bảng ghi chép bài tập thách thức suy nghĩ tự động
- Giao bài tập về nhà cho thân chủ: Nhà tâm lý giao bài tập về việc ghi chép
lại những sự kiện và những suy nghĩ tiêu cực diễn ra trong ngày sau đó viết ra
những suy nghĩ thay thế để chấn áp những suy nghĩ, niềm tin tiêu cực ở thân chủ.
Sau đó nhà tâm lý kết thúc buổi tham vấn: cho thân chủ đánh giá sự hài lòng của
bản thân sau buổi trị liệu thông qua thang đánh giá cảm xúc thể hiện sự hài lòng của
bản thân về buổi trị liệu. Cùng với đó nhà trị liệu nhắc lại những gì mà thân chủ và
nhà tham vấn đã thực hiện trong buổi trị liệu.
Thân chủ đánh giá trạng thái cảm xúc của bản thân trước khi đến trị liệu đạt
mức 7 điểm. Sau trị liệu thân chủ đánh giá 8 điểm.
Kết quả đánh giá tâm trạng của thân chủ trong phiên làm
2.6. Đánh giá hiệu quả can thiệp
Đánh giá từ phía nhà tâm lý
Qua tiến trình trị liệu cho thân chủ học viên nhận thấy rằng mình đã đạt được
2/3 mục tiêu trị liệu cho thân chủ.
Mục tiêu 1: Thiết lập mối quan hệ gắn bó an toàn giữa thân chủ và người
thân trong gia đình
Mục tiêu 2: giảm trầm cảm.
Đánh giá các chức năng của Thân chủ cho thấy:
Thân chủ cảm thấy ổn hơn, khí sắc của thân chủ cho thấy sự tươi tắn hơn,
83
biểu hiện đau đầu, mệt mỏi có phần thuyên giảm.
Thân chủ có thể tham gia các hoạt động sinh hoạt trong cuộc sống thường
ngày mà không cảm thấy khó khăn như trước
Đánh giá chất lượng cuộc sống (cảm nhận chủ quan của TC về hạnh phúc
của bản thân, về cuộc sống…)
Thân chủ cảm thấy sự thoải mái và tình cảm trong gia đình có phần được
cải thiện, em mong muốn có thêm thời gian bên gia đình trước khi đi du học, mặc
dù trước đây em mong muốn đi du học để được tự lập hơn.
Đánh giá từ phía bác sĩ tâm thần học
Trong quá trình thực hiện ca lâm sàng tôi luôn có những trao đổi cần thiết với bác sĩ
tâm thần người đã giới thiệu ca lâm sàng cho tôi hỗ trợ. Sau quá trình hỗ trợ của tôi
cho thân chủ bác sĩ tâm thần có chia sẻ lại một số triệu chứng của thân chủ đã được
thuyên giảm như tình trạng nhức đầu, mệt mỏi thường xuyên của thân chủ không
còn diễn ra thường xuyên như trước, khí sắc của thân chủ tươi tắn hơn và thân chủ
đã có thể tham gia một số hoạt động sinh hoạt hàng ngày như đi làm bán thời gian
sau một thời gian sang Pháp, có tiếp tục thực hiện những bài tập trong quá trình trị
liệu tâm lý trước đây. Một điều đặc biệt khi nhận được nhận xét từ bác sĩ tâm thần
khi trao đổi với tôi, bác sĩ có chia sẻ rằng thân chủ đã được giảm liều thuốc xuống
liều thuốc nhẹ hơn.
Đánh giá từ phía gia đình.
Sau quá trình trị liệu với thân chủ mẹ thân chủ có chia sẻ với nhà tâm lý
những dấu hiệu tích cực như sau: mẹ thân chủ chia sẻ rằng thân chủ có thể tham gia
một số hoạt động khác ngoài hoạt động học tập trong ngày của thân chủ như việc
thân chủ tham gia chạy bộ và đi xe đạp cùng bà chủ nhà là bà con bên họ nội của
thân chủ bên đó, ngoài ra em có đi làm bán thời gian vào một số buổi chiều và cuối
tuần, phụ huynh có chia sẻ mối quan hệ của em với bố được cải thiện hơn, hàng
tuần khi bố của thân chủ có gọi điện cho em hỏi thăm về tình hình hiện tại của thân
chủ khi sang Pháp du học. Theo lời mẹ kể thân chủ chia sẻ rằng em cảm nhận được
sự quan tâm từ bố điều này khiên em vui hơn và có động lực trong học tập hơn.
84
Đánh giá từ phía thân chủ.
Thân chủ chia sẻ rằng mặc dù có những khó khăn về giao tiếp và trong công việc
học tập trên trường của thân chủ, tuy nhiên thân chủ thấy sức khỏe được cải thiện
hơn, những biểu hiện mất ngủ, đau đầu, mệt mỏi mặc dù vẫn còn nhưng đã giảm đi
nhiều so với trước. Thân chủ có đi làm bán thời gian vào một số buổi trong tuần,
trong tuần em vẫn thực hiện các bài tập như đi bộ và đạp xe. Thân chủ cũng chia sẻ
rằng em có thiết lập được một số mối quan hệ trong trường, em có làm quen được
một số người bạn ở Việt Nam khi qua đó học tập. Thân chủ còn chia sẻ với nhà tâm
lý với mong muốn được giảm liều thuốc khi thấy bản thân ổn hơn, muốn sử dụng
liều nhẹ hơn vì không muốn phụ thuộc vào thuốc nhiều.
2.7. Kết thúc ca và theo dõi sau can thiệp
Case trị liệu kết thúc sau 8 phiên trị liệu. yêu cầu kết thúc trị liệu đến từ thân
chủ do thân chủ phải qua Pháp để học tập. Mặc dù kế hoạch trị liệu chưa hoàn thiện
theo đúng lộ trình nhưng đã có 2/3 mục tiêu của kế hoạch trị liệu được hoàn thành.
Ở thời điểm kết thúc trị liệu thân chủ tuy đã cảm thấy thoải mái hơn tuy nhiên vẫn
còn đó những vấn đề cần được giải quyết, đặc biệt là các vấn đề của triệu chứn ám
ảnh sợ kim tiêm và các vấn đề lo lắng khi đi học xa nhà, các dấu hiệu trầm cảm của
thân chủ có những cải thiện như thân chủ dễ đi vào giấc ngủ hơn, thân chủ ít có
những suy nghĩ tiêu cực hơn, khí sắc trên khuân mặt tốt hơn và tâm trạng của thân
chủ được cải thiện rõ rệt, đặc biệt sau quá trình trị liệu thân chủ đã có những hành vi
tốt hơn trong vấn đề chăm sóc sức khỏe bản thân như tập đi bộ, chạy bộ hoặc đạp
xe. Thân chủ cũng có những hành vi tốt là tiền đề để thiết lập một thói quen tốt gây
hứng thú cho thân chủ đó là hoạt động đọc sách và tập viết truyện. Tuy nhiên cũng
theo thân chủ vẫn còn đó một số những triệu chứng chưa thể giải quyết đó là giấc
ngủ không sâu giấc, dễ mệt mỏi và đau đầu. Đặc biệt do những tác dụng phụ của
thuốc chống trầm cảm nên thân chủ cảm thấy hơi mệt mỏi vào buổi sáng.
Trước khi kết thúc case trị liệu nhà tâm lý có đưa ra lịch hẹn với thân chủ cứ
sau 2 tuần thân chủ báo cáo về tình hình hiện tại sau khi qua học bên Pháp, và trao
đổi với thân chủ về các bài tập mà thân chủ đã được thực hành với nhà tâm lý trong
85
các phiên trị liệu
Sau can thiệp cứ 2 tuần thân chủ lại gọi điện cho nhà trị liệu. Thân chủ chia
sẻ rằng lúc đầu mới sang thân chủ gặp nhiều khó khăn đặc biệt trong giao tiếp ngoài
ra thân chủ cũng nói giấc ngủ của thân chủ khi mới sang có phần khó ngủ hơn trong
mấy ngày đầu do thay đổi múi giờ nên giấc ngủ sinh lý có thể thay đổi – Điều này
đã được nhà trị liệu và thân chủ bàn tới từ trước trong các phiên làm việc trực tiếp.
Ngoài ra thân chủ cảm thấy nhớ nhà, nhớ gia đình nhưng do lịch học cũng khá
nhiều và cũng có người quen ở cùng nên thân chủ cảm thấy đỡ cô đơn và nhớ nhà
hơn. Sau khi nói chuyện với thân chủ thân chủ cũng đã gửi lại cho nhà tâm lý
những hoạt động mà thân chủ duy trì khi ở Pháp
2.8. Bàn luận chung.
2.8.1 Bàn luận về ca lâm sàng đã thực hiện.
Qua ca lâm sàng có thể thấy những vấn đề của thân chủ được hình thành và nảy
sinh chủ yếu từ các mối quan hệ xung quanh thân chủ. Là một người thực hành tâm lý
khi xem xét vấn đề của thân chủ dưới quan điểm của các lý thuyết tâm lý tôi nhận thấy
một số vấn đề cần bàn luận như sau:
Dưới góc độ của lý thuyết hành vi có thể thấy rằng thân chủ thiếu những củng
cố tích cực từ môi trường xung quanh đặc biệt là những củng cố tích cực trong các mối
quan hệ gia đình, phần nhiều trong số đó là những củng cố tiêu cực trong mối quan hệ
của thân chủ với cha của em.
Qua lăng kính của lý thuyết nhận thức có thể thấy những niềm tin cốt lõi của
thân chủ về bản thân được đánh giá rất thấp bằng chứng là việc thân chủ cho rằng
“mình là người vô dung, không làm được việc gì cả” Điều này bắt nguồn từ sự đánh
giá thấp của cha về khả năng của thân chủ khi thân chủ chưa đạt kết quả như mong
muốn của ngườ cha.
Xét theo khía cạnh phân tâm học chúng ta thấy rằng cha của thân chủ là một
ông bố toàn năng còn mẹ của thân chủ là một người mẹ chưa đủ bao dưỡng chính vì
vậy thân chủ nảy sinh những rối nhiễu tâm lý.
Ngoài ra khi xem xét trường hợp ca lâm sàng mà tôi nghiên cứu, tôi thấy rằng
có một số cơ chế tâm lý nảy sinh trong quá trình tiến triển vấn đề của thân chủ. Đầu
86
tiên có thể thấy được khi thân chủ lên lớp 10 thân chủ có tham gia một nhóm bạn, mà
theo như thân chủ nói mọi người xung quanh em cho rằng đó là nhóm bạn nghịch
ngợm, hay rủ nhau trốn tiết, mặc dù trước đó theo như thân chủ chia sẻ thân chủ là một
học sinh ngoan, có thành tích khá trong lớp, điều này có thể thấy thân chủ đã xuất hiện
cơ chế phản ứng ngược nhằm thực hiện những hành vi chống đối gây ra sự khó chịu
của thân chủ đối với bố mẹ em. Một cơ chế tâm lý khác có thể nhận thấy ở thân chủ đó
là cơ chế né tránh, điều này thể hiện ở chỗ mặc dù thân chủ sợ khi phải đối diện với
mọi thứ một mình, khi không có sự chăm sóc như trước kia của thân chủ nhưng thân
chủ lựa chọn và mong muốn thoát khỏi môi trường gia đình mà thân chủ đang sinh
sống vì thân chủ cho rằng nó quá ngột ngạt với bản thân thân chủ.
Trên đây là một số quan điểm của tác giả khi bàn luận về vấn đề của thân chủ.
Việc nhìn nhận dưới các góc độ khác nhau từ các lý thuyết tâm lý cho tác giả nhìn nhận
bức chân dung tâm lý của trường hợp nghiên cứu được rõ nét hơn, cũng qua đây tác giả
có những nhìn nhận khác quan và trên cơ sở đó tác giả có thể đưa ra những kỹ thuật
tâm lý phù hợp hơn trong quá trình thực hiện ca lâm sàng.
Cũng trong phần bàn luận này tác giả muốn bàn luận tới một số vấn đề khác
trong quá trình thực hiện ca lâm sàng như sau:
Mặc dù những khó khăn và tồn tại khi thực hiện ca lâm sàng, nhưng về cơ bản
tôi thấy được những chuyển biến tích cực của thân chủ khi thực hiện trị liệu. đặc biệt
khi các kĩ năng tham vấn như lắng nghe, đưa ra những lời phản hồi, hay kĩ năng thể
hiện sự thấu cảm khi làm việc với các vấn đề của thân chủ làm cho thân chủ cảm thấy
dễ chịu và thoải mái hơn. Các hoạt động hướng dẫn diễn ra theo kế hoạch của liệu pháp
nhận thức và hành vi giúp thân chủ cấu trúc lại suy nghĩ của bản thân và giúp thân chủ
có những hoạt động nhiều lợi ích hơn trong cuộc sống hàng ngày điều này giúp cho đời
sống tinh thần của thân chủ được cải thiện, các triệu chứng trầm cảm của thân chủ đã
thuyên giảm. Điều này thể hiện rõ khi những triệu chứng buồn dầu, mệt mỏi của thân
chủ phần nào được cải thiện, khí sắc trên khuân mặt của thân chủ tươi tắn hơn, khi tiếp
xúc với thân chủ thấy được em đã có những nụ cười xã hội điều này thể hiện sự hài
lòng của thân chủ sau quá trình trị liệu.
Ca lâm sàng của tôi được tiến hành trong 8 phiên trị liệu với thân chủ và có 2
87
phiên làm việc cùng với phụ huynh của thân chủ. Mặc dù một tiến trình trị liệu theo
tôi cần nhiều thời gian hơn nữa để thực hiện đúng lộ trình của liệu pháp nhận thức
hành vi. Nhưng vì thời gian của thân chủ có hạn chỉ có thể gặp nhà tâm lý trong hơn
1 tháng sau đó phải qua một đất nước khác để theo đuổi chương trình học đã được
lên kế hoạch sẵn, nhà tâm lý với mong muốn để đảm bảo cho thân chủ được tham
gia một cấu trúc trị liệu về cơ bản gần như hoàn chỉnh của liệu pháp nhận thức hành
vi tôi đã cố gắng trong vòng 8 buổi với 8 phiên trị liệu cho thân chủ và 2 phiên làm
việc với phụ huynh, thực hiện các kĩ thuật cốt yếu của liệu pháp nhận thức hành vi
cho thân chủ - ca bệnh trầm cảm vị thành niên.
Một vấn đề nữa cần bàn tới đối với trường hợp lâm sàng này là sau quá trình
trị liệu thân chủ mới chỉ đạt được 2 mục tiêu đó là thiết lập mối quan hệ tốt giữa các
thành viên trong gia đình và giảm trầm cảm, còn mục tiêu dập tắt cac suy nghĩ ám
ảnh sợ máu của thân chủ chưa được giải quyết, điều này là hạn chế do thời gian
thân chủ có thể gặp nhà tâm lý là rất gấp rút. Tuy nhiên sau quá trình trị liệu nhà
tâm lý đã bàn với thân chủ về vấn đề này và hướng dẫn thân chủ sau khi qua học tập
ở Pháp thân chủ tìm kiếm một nhà trị liệu tâm lý và tiếp tục tham gia điều trị thuốc
để giải quyết các vấn đề còn tồn tại ở thân chủ.
2.8.2. Tự đánh giá về chất lượng can thiệp trị liệu
Qua quá trình trị liệu cho trường hợp thân chủ trầm cảm vị thành niên nêu
trên tôi thấy rằng có một số vấn đề cần bàn luận như sau:
Về ưu điểm: Tôi thấy rằng bản thân đã thực hiện về cơ bản đi đúng một tiến
trình trị liệu với các bước thực hiện tiến trình trị liệu rõ ràng và phù hợp với thân chủ.
Sau quá trình trị liệu thân chủ đã có những chuyển biến tích cực của thân chủ
khi thực hiện trị liệu. Điều này thể hiện rõ khi những triệu chứng buồn dầu, mệt mỏi
của thân chủ phần nào được cải thiện, khí sắc trên khuân mặt của thân chủ tươi tắn
hơn, sau mỗi buổi khi chấm điểm cảm xúc thân chủ đều thể hiện sự hài lòng của
thân chủ sau quá trình trị liệu.
Bên cạnh đó vẫn còn có một số tồn tại trong quá trình trị liệu như sau:bản
thân là một người mới thực hành nghề trị liệu, còn thiếu nhiều những kĩnh nghiệm
88
trong chẩn đoán, can thiệp do vậy những kĩ thuật khi thực hiện trong quá trình trị
liệu đối với bệnh nhân còn nhiều thiếu sót điều này làm ảnh hưởng không nhỏ đối
với hiệu quả trị liệu với thân chủ.
Hơn nữa trong quá trình thực hiện ca lâm sàng, tôi tự thấy rằng bản thân
chưa thu xếp thời gian đến gặp nhà giám sát chuyên môn nhiều để đón nhận những
đóng góp kịp thời, mang lại những lợi ích tốt hơn cho thân chủ trong quá trình trị
liệu. Đó là một vấn đề liên quan đến khía cạnh đạo đức trong thực hành can thiệp trị
liệu. Điều này làm tôi thực sự chưa hài lòng về bản thân trong quá trình thực hiện ca
can thiệp này, và đây sẽ là một bài học quan trọng tôi có thể rút ra và ghi nhớ trong
quá trình thực hành nghề sau này, nhằm mang lại những lợi ích tốt nhất cho những
89
thân chủ mà tôi có thể trợ giúp.
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
1. Kết Luận
Bằng phương pháp tiến hành nghiên cứu trường hợp điển hình, có theo dõi
dọc dài ngày, sử dụng các trắc nghiệm hỗ trợ chẩn đoán và đánh giá hiệu quả điều
trị trên bệnh nhân tuổi vị thành niên. Tôi rút ra kết luận như sau:
Ở trường hợp ca lâm sàng tôi can thiệp trị liệu yếu tố gia đình đóng vai trò
quan trọng trong việc hỗ trợ thân chủ hàn gắn vết thương tâm lý. Đặc biệt hơn khi
một phần nguyên nhân vấn đề của thân chủ đến từ yếu tố gia đình. Do vậy sự hợp
tác của gia đình trẻ trong quá trình can thiệp trị liệu cho thân chủ đóng một vai trò
vô cùng quan trọng. Tuy nhiên trong quá trình làm ca việc gặp đầy đủ phụ huynh
trong các phiên làm việc với phụ huynh còn những khó khăn. Điều này có thể bắt
nguồn từ yếu tố văn hóa trong các gia đình Việt Nam cho rằng việc chăm sóc sức
khỏe cho con cái do ngườimẹ đảm nhận nhiều hơn, do vậy hầu hết các phiên làm
việc tôi chỉ làm việc được với mẹ của thân chủ. Điều này cũng làm ảnh hưởng phần
nào đến hiệu quả của quá trình trị liệu.
Một yếu tố nữa khi thực hiện can thiệp cho ca lâm sàng tôi thấy rằng việc
cho thân chủ chấm điểm cảm xúc trước và sau mỗi phiên làm việc khiến thân chủ
cảm thấy không thực sự hứng thú khi tiến hành hoạt động nêu trên.
Thân chủ đang trong độ tuổi đi học, hoạt động chính là học nên các hoạt
động làm cho thân chủ vui vẻ hơn, hoạt động được nhiều hơn lại ít đi. Thân chủ có
xu hướng không làm các nhiệm vụ cũ khi chuyển sang một kỹ năng mới và phải
thực hiện các nhiệm vụ mới.
Bên cạnh đó nhà trị liệu do cũng bị giới hạn về thời gian nên chưa kiểm tra
sát sao việc này dẫn đến ảnh hưởng tới hiệu quả trị liệu. Cấu trúc các phiên trị liệu
chưa thực sự cân đối và hấp dẫn để thu hút sự tham gia ở thân chủ, chưa tạo ra được
nhiều nhu cầu cảm thấy cần phải làm ở thân chủ.
Tuy có những khó khăn và tồn tại khi thực hiện ca lâm sàng như trên, nhưng
về cơ bản tôi thấy được những chuyển biến tích cực của thân chủ khi thực hiện trị
90
liệu. đặc biệt khi các kĩ năng tham vấn như lắng nghe, đưa ra những lời phản hồi, hay
kĩ năng thể hiện sự thấu cảm khi làm việc với các vấn đề của thân chủ làm cho thân
chủ cảm thấy dễ chịu và thoải mái hơn. Các hoạt động của liệu pháp nhận thức và
hành vi giúp thân chủ cấu trúc lại suy nghĩ của bản thân và giúp thân chủ có những
hoạt động khiết thực hơn trong cuộc sống hàng ngày qua đó giúp cho tinh thần và
cảm xúc của thân chủ thoải mái hơn. Điều này thể hiện rõ khi những triệu chứng
buồn dầu, mệt mỏi của thân chủ phần nào được cải thiện, khí sắc trên khuân mặt của
thân chủ tươi tắn hơn, khi tiếp xúc với thân chủ thấy được thân chủ đã có những nụ
cười xã hội điều này thể hiện sự hài lòng của thân chủ sau quá trình trị liệu.
2. Kiến nghị
Từ những kết luận nêu trên qua quá trình can thiệp trị liệu cho một trường
hợp thân chủ có rối loạn trầm cảm ở tuổi vị thành niên tôi có đề xuất một số khuyến
nghị như sau:
Cần có những nguyên tắc cụ thể hơn nhằm đảm bảo sự thống nhất của các
thành viên trong gia đình tham gia vào các phiên trị liệu, nhằm đảm bảo lợi ích
chung của thân chủ khi tham gia hoạt động can thiệp trị liệu tâm lý.
Nếu thân chủ bỏ làm nhiệm vụ của tuần trước, nhà trị liệu vẫn phải dành thời
gian để yêu cầu họ làm lại trong phiên trị liệu sau. Vì nếu họ bỏ được 1 tuần thì tuần
tiếp theo họ cũng có xu hướng không làm vì cho rằng yêu cầu của nhà trị liệu không
phải điều bắt buộc.
Cũng qua trường hợp nêu trên tôi cần thấy rằng cần phải linh hoạt hơn khi
đưa ra một cấu trúc hợp lý trong tiến trình can thiệp cho thân chủ, điều này giúp
91
thân chủ hứng thú tham gia các hoạt động trong mỗi phiên trị liệu được tốt hơn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO.
1. Vũ Dũng (2008), Từ điển Tâm lý học, Nhà xuất bản từ điển Bách Khoa, Hà Nội
2. Nguyễn Bá Đạt, Rối loạn trầm cảm và một số yếu tố tâm lý xã hội liên quan ở
I. Tài liệu trong nƣớc.
3. Trần Thị Minh Đức, Bùi Thị Hồng Thái và Ngô Xuân Diệp, Phụ nữ sau sinh rối
học sinh trung học phổ thông trên địa bàn Hà Nội,2002.
4. Cao Vũ Hùng và cs, Đặc điểm lâm sàng và tìm hiểu các yếu tố liên quan trong
nhiễu tâm lý và các biện pháp hỗ trợ, NXB ĐHQGHN,2016
5. Cao Vũ Hùng, Rối loạn trầm cảm ở trẻ vị thành niên điều trị tại bệnh viên nhi
bệnh rối loạn trầm cảm tuổi vị thành niên,2007
6. Hoàng Cẩm Tú, Rối loạn hành vi, cảm xúc ở trẻ em và trẻ vị thành niên ở hai
trung ương,2010
7. Nguyễn Viết Thêm (1993), Đặc điểm trạng thái trầm cảm trong lâm sàng tâm
phương Kim Liên và Trung Tự,1999.
8. Đỗ Ngọc Khanh, Trầm Cảm ở học sinh trung học phổ thông Việt Nam và một số
thần học ngày nay, Các chuyên đề về tâm thần học, Hà Nội 63 - 70.
9. Trần Thu Hằng; Một số khó khăn trong quá trình sử dụng kỹ thuật tái cấu trúc
yếu tố tác động,2018
nhận thức và hoạt hóa hành vi đối với trẻ em vị thành niên có rối loạn trầm cảm,
2011
II. Tài liệu nƣớc ngoài.
7. American Psychiatric Association; Diagnostic and statistical manual of mental
disorders: 5th Edn. Washington, DC: (2013)
8. Compton SN, March JS, Brent D, Albano AM, Weersing R, Curry J. Cognitive-
behavioral psychotherapy for anxiety and depressive disorders in children and
adolescents: an evidence-based medicine review. J Am Acad Child Adolesc
Psychiatry.2004;43:930-959. Abstract.
9 . Fletcher, Adolescent depression and educational attainment: Results using
92
sibling fixed effects. Health Economics, 2010.
10. Hammen et al, Early onset recurrent subtype of adolescent depression: Clinical
and psychosocial correlates. Journal of child psychology and psychiatry,2008.
11. Hankin et al Development of depression fro preadolescence to young adulthood:
Emerging gender differences in a10 year longitudinal study. Journal of Abnormal
psychology,1998.
12. Martin-Guehl C, Maurice-Tison S, Bouvard MP, Prevalence of depressive
disorders in children and adolescents attending primary care. A survey with the
Aquitaine Sentinelle Network,2003.
13.Merikangas et al, Lifetime prevalence of mental disoders in US adolescent:
Results from the National Comorbidity Survey Replication – Adolescent
Supplenment (NCS-A), Journal of the American Academy of child and Adolescent
Psyciatry, 2010.
14. Rao and Chen, Characteristics, correlates, and outcomes of childhood and
adolescent depressive disorders. Dialogues in clinical neuroscience,2009.
15. Shalmans, Sandra, Depression: Questions You Have – Answers You need.
People’s Medical Society, 1997.
16. WHO, Children and aldolescent disorders, Management of Mental Disorders,
2000.
17. WHO (1992), The ICD-10 Classification of Mental and Behavioural Disorders,
Diagnostic criteria for research, Geneva, 91
Link tham khảo:
1. ttps://www.verywell.com/what-is-cognitive-behavior-therapy-2795747
2. https://tamlyhoclamsang.wordpress.com/2009/09/14/quy-trinh-
tr%E1%BB%8B-li%E1%BB%87u-nh%E1%BA%ADn-th%E1%BB%A9c-
hanh-vi-cho-tr%E1%BA%BB-em-r%E1%BB%91i-lo%E1%BA%A1n-lo-au-
93
va-gia-dinh/
PHỤ LỤC
THAM VẤN - BIÊN BẢN LÀM VIỆC VỚI THÂN CHỦ
Thời gian: 9h 00’ ngày 26/07/2018. Độ dài của buổi tham vấn: 2h
Họ tên thân chủ: VNA. Cán bộ tham vấn: Nguyễn Đức Giang
Địa điểm tham vấn: Phòng Tham vấn tâm lý – Nhà bình yên
Hình thức tham vấn: Tham vấn trực tiếp.
Tình hình hiện tại của thân chủ
(phân biệt điều TC nói và nhận định của NTV)
Trao đổi với thân chủ:Theo như thân chủ nói em là một người dễ bị áp lực.
đặc biệt là những áp lực liên quan đến việc học tập của em, theo lời kể của em, khi
còn học tiểu học em là một cô bé có học lực giỏi. Tuy nhiên từ khi em học cấp 2,
bắt đầu từ năm lớp 8 học lực của em giảm sút và em cảm thấy khó chịu vì điều đó.
Đến năm lớp 9 áp lực từ việc học tập khiến em thêm mệt mỏi và rơi vào trạng thái
trầm cảm. Em đã từng được điều trị tâm lý vào khoảng thời gian đó. Cũng theo như
lời em nói em được bố mẹ đầu tư và quan tâm rất nhiều, nhưng theo em sự quan
tâm đó là kiểu quan tâm thái quá, nó khiến em ngột ngạt và khó chịu
Khi lên lớp 10 em có những hành vi chống đối. em thường bị ghi vào sổ đầu
bài, khiến cha mẹ em liên tục phải lên gặp giáo viên chủ nhiệm. Em nói em chơi với
nhóm bạn mà theo em là nhóm nghịch nhất lớp, em nói em đi học đều nhưng em
thường xuyên trốn tiết. Việc làm này khiến em bị các thầy cô chú ý và có thiện cảm
không tốt về em. Bố mẹ em trong thời gian này cũng thường xuyên phàn nàn về em.
Nhưng theo em thời gian đó là thời gian em cảm thấy vui và thoải mái hơn so với
trước đây. Em nói việc em có những hành vi như vậy là để chống đối lại cha mẹ và
đôi khi em cảm thấy vui vì điều đó. Sau khoảng thời gian đó (năm em học lớp 11)
em lại quay lại với cuộc sống trước kia của em, em không muốn nói chuyện hay đi
chơi với bạn bè như trước kia. Và từ đó đến nay em rơi vào trạng thái trầm buồn.
Trong mối quan hệ của em với cha mẹ cũng có những xung đột. Em nói việc
em cảm thấy áp lực và căng thẳng trong chuyện học tập một phần là vì cha em hay
so sánh em với các bạn bè cùng tuổi với em, đặc biệt là với con của bạn bố. Ngay
cả khi em đạt thành tích cao trong học tập cũng không được cha khen ngợi (ví dụ
khi em đạt điểm 8,9 môn ngoại ngữ nhưng bố em cũng chỉ nói “chỉ được có thế
thôi à” Còn khi em chưa đạt thành tích tốt trong học tập bố em lại nói em với hàm
y “học cho con chứ không phải học cho bố”. Mặc dù sau năm học lớp 10 em đã cố
gắng thay đổi rất nhiều nhưng do điểm số của em không được như y muốn nên em
không được ghi nhận.) Điều này khiến em cảm thấy áp lực và mình đang phải
làm theo ý của người khác. Em cảm thấy mình và bố khá giống nhau vì có phần
nóng tính do vậy hay mâu thuẫn với bố.
Mối quan hệ của em và mẹ em có phần bớt căng thẳng hơn, tuy nhiên theo em
đôi khi mẹ hay xâm phạm vào quyền riêng tư của em. Điều này khiến em cảm thấy
ngột ngạt và khó chịu.
Cũng theo như lời em kể em kể em cũng từng có bạn trai. Cách đây 2 năm em
đã chia tay với bạn trai điều này khiến cho em buồn rất nhiều. Em nói do em hay
ghen điều đó khiến em chia tay bạn trai. Vì người bạn trai đó không níu giữ khiến
em buồn và day dứt trong lòng.
Ngoài ra em còn có ám ảnh sợ máu và kim tiêm. Em nói do em xem phim
nhiều và đã từng nhìn thấy cảnh người tiêm trích nên em có nỗi sợ với kim tiêm và
máu do lo sợ lây nhiễm HIV.
- Quan sát của nhà tham vấn: thân chủ khi nói chuyện thường xuyên cạy
móng tay thể hiện sự e ngại, thiếu tự tin trong giao tiếp khi lần đầu gặp mặt và làm
việc với nhà trị liệu, nét mặt có phần ủ rũ, thiếu khí sắc.
- Tuy nhiên trong quá trình hỏi chuyện thân chủ không có những hành vi
tỏ ra bất thường, ngôn ngữ giao tiếp khá linh hoạt, dễ dàng thiết lập cuộc nói
chuyện với nhà trị liệu
Mục tiêu
Khai thác thông tin, xác định vấn đề của thân chủ, tìm hiểu nguyên nhân -
gây ra vấn đề của thân chủ.
- Thiết lập mối quan hệ với thân chủ.
- Đánh giá các nguy cơ đối với thân chủ: tự tử, tự xâm hai bản thân,…
- Trao đổi với bố những phương pháp hỗ trợ, tương tác hiệu quả với thân
chủ nhằm làm giải quyết khó khăn của thân chủ
- Thống nhất nguyên tắc trong tham vấn, lịch tư vấn với thân chủ
Hoạt động
- Trao đổi với thân chủ: Thân chủ đến gặp nhà tham vấn với mong muốn
được trợ giúp, tháo gỡ vấn đề gì?
- Thực hiện các phỏng vấn lâm sàng liên quan đến các triệu chứng cơ thể
của thân chủ khi thân chủ nhắc tới.
- Tìm hiểu các thông tin về các mối quan hệ của thân chủ:
+ Tìm hiểu mối quan hệ giữa thân chủ với các thành viên trong gia đình cho
thấy: thân chủ có mẫu thuẫn với bố, mẹ điều này đến từ việc bố thân chủ hay tạo áp
lực học tập cho thân chủ bằng việc hay so sánh thân chủ với những người khác; bố,
mẹ thân chủ quan tâm đến thân chủ nhưng quan tâm một cách thái quá kiểm soát
hoạt động của trẻ vì đó trẻ luôn cảm thấy áp lực và gò bó khi ở cạnh người thân.
+ tìm hiểu mối quan hệ của trẻ với bạn trai cũ: qua tìm hiểu về các mối quan
hệ của trẻ trẻ có nói trẻ đã từng có bạn trai hơn tuổi nhưng đã chia tay lúc đầu sau
khi chia tay thân chủ cũng rất buồn và khó chịu nhưng ở hiện tại thân chủ không
còn có những cảm giác đó.
+ tìm hiểu về mối quan hệ của thân chủ với bạn bè: theo như thân chủ nói
hiện tại thân chủ ít tiếp xúc với các bạn cùng lớp, thân chủ không còn nói chuyện
với các bạn trong lớp như trước kia.
Kết quả ban đầu
(Lưu ý: Đây không phải là kết luận. Kết quả test chỉ có giá trị tham khảo).
Với những khai thác ban đầu nhà tâm lý không đặt ngoài giả thuyết thân chủ có
rối loạn trầm cảm và có ám ảnh sợ đi kèm.
Bài tập về nhà
- Thân chủ có thể thực hiện bài tập thư giãn theo hướng dẫn của nhà tâm
lý khi gặp các tình huống gây khó chịu, căng thẳng cho thân chủ.
Mục tiêu buổi tiếp theo
Trao đổi với mẹ để có cái nhìn toàn diện hơn về vấn đề của trẻ. -
Hướng dẫn kĩ năng làm cha mẹ giúp giải quyết các mâu thuẫn giữa cha -
mẹ và thân chủ, qua đó giúp cho vấn đề thân chủ được cải thiện
Tiếp tục khai thác thông tin của thân chủ -
Câu hỏi giám sát
- Liệu còn ẩn chứa nguyên nhân nào khác dẫn tới vấn đề của thân chủ?
Những thông tin khác
THAM VẤN - BIÊN BẢN LÀM VIỆC VỚI THÂN CHỦ
Thời gian: 9h 00’ ngày 30/07/2018. Độ dài của buổi tham vấn: 2h
Họ tên thân chủ: VNA. Cán bộ tham vấn: Nguyễn Đức Giang
Địa điểm tham vấn: Phòng Tham vấn tâm lý – Nhà bình yên
Hình thức tham vấn: Tham vấn trực tiếp
Tình hình hiện tại của thân chủ
(phân biệt điều TC nói và nhận định của NTV)
- Trao đổi với mẹ TC: Mẹ trẻ là một nhân viên văn phòng, công việc liên
quan đến giấy tờ sổ sách và làm theo giờ hành chính.
- Theo như lời mẹ nói gia đình rất quan tâm đến thân chủ, cũng theo lời
mẹ thân chủ nói thân chủ và bố thân chủ có chút mâu thuẫn liên quan đến viếc bố
thân chủ luôn tạo sức ép về học tập cho thân chủ, bố thân chủ là người ít khen
thân chủ hay so sánh thân chủ với con bạn bè của bố, vì lo lắng cho con nên bố
thân chủ cũng luôn kiểm soát mọi hành động của thân chủ, sợ thân chủ ăn chơi
lêu lổng theo đám bán xấu,
- Ngoài ra theo như lời mẹ kể việc NA có ám ảnh sợ liên quan đến máu
và kim tiêm có thể từ câu chuyện của mẹ kể cho bé khi bé còn nhỏ, nội dung câu
chuyện nói về một cô gái giúp đỡ một người khi bị tai nạn giao thông nhưng
chẳng may máu của người bị tai nạn giao thông có dính vào vết thương hở của cô
gái, tuy nhiên người bị tai nạn giao thông bị HIV do vậy cô gái bị lây nhiễm HIV
từ đó. Mẹ chỉ kể câu chuyện để trẻ cần cẩn trọng trong mọi tình huống nhưng
không biết điều đó có phải là nguyên nhân dẫn đến ám ảnh sợ của thân chủ hay
không.
- Cũng theo như lời mẹ nói thân chủ là một đứa con gái ngoan tuy nhiên
gần đây thân chủ hay nhốt mình trong phòng, mặt mày luôn ủ rũ không tươi tắn,
sức học của thân chủ cũng có phần giảm sút đi nhiều. Mẹ cũng nói khi thân chủ
học cấp 2 mẹ thân chủ cũng cho thân chủ theo học những môn mà thân chủ thích
như lớp tập võ, tập làm diễn viên hay tập làm MC. Tuy nhiên từ khi thân chủ học
cấp 3 mẹ cũng có tạo áp lực về việc học tập cho thân chủ luôn muốn thân chủ học
lớp chọn điều này có thể gây thêm áp lực cho con, nhưng từ khi biết vấn đề của
con mẹ cũng đã xin chuyển lớp cho con, để trẻ học ở lớp thường để trẻ giảm bớt
áp lực.
- Trao đổi với trẻ: trao đổi với thân chủ về tuần vừa rồi thân chủ cảm
thấy như thế nào? Còn điều gì thân chủ muốn tiếp tục được chia sẻ? Cùng với đó
nhà tâm lý khai thác tiếp câu chuyện hồi nhỏ mẹ kể liệu có liên quan đến vấn đề
ám ảnh sợ hiện tại của thân chủ.
Mục tiêu
Khai thác các thông tin dẫn đến tình trạng của thân chủ thông qua mẹ. -
Tiếp tục khai thác thông tin từ thân chủ -
Hỗ trợ tâm lý ban đầu thông qua các kĩ năng tham vấn để trẻ cảm thấy -
ổn hơn.
Hoạt động
Trò chuyện lâm sàng với cha mẹ của trẻ -
Trao đổi với cha mẹ về vấn đề của con và hướng dẫn cha mẹ kỹ năng -
làm cha mẹ tích cực: thể hiện sự quan tâm đến con đúng cách, dạy kĩ năng khen
ngợi của cha mẹ khi thân chủ thực hiện các hành vi tốt.
- Tiếp tục thiết lập mối quan hệ với thân chủ và khai thác thêm vấn đề
của thân chủ
Hỗ trợ tâm lý ban đầu -
Thực hiện các đánh giá với thân chủ: -
Test đánh giá trầm cảm: Beck
Test đánh giá mức độ lo âu: Zung
Test đánh giá mức độ trầm cảm, lo âu, tress: Dass 21
Hỗ trợ tâm lý ban đầu cho thân chủ: Cho thân chủ thực hiện bài tập thư -
giãn giúp thân chủ giải tỏa những áp lực cũng như các lo lắng ban đầu về vấn đề
của mình.
Kết quả ban đầu
(Lưu ý: Đây không phải là kết luận. Kết quả test chỉ có giá trị tham khảo).
- Cha mẹ của trẻ đã nhận ra vấn đề của con là do đâu và lý do cần phải
thay đổi cách cư xử của mình nếu muốn cải thiện vấn đề của con. Khen ngợi con
nhiều hơn khi con có nhưng thay đổi mang tín hiệu tốt để giúp thân chủ tự tin và
cải thiện mối quan hệ gia đình
Test đánh giá trầm cảm nghiệm pháp Beck: 39 điểm => có dấu hiệu -
trầm cảm ở mức độ nặng
Test đánh giá mức độ lo âu Zung : 44 điểm => không có dấu hiệu lo âu -
Test đánh giá lo âu – trầm cảm – stress: -
+ điểm trầm cảm đạt: 26 điểm
+ điểm lo âu đạt: 21 điểm
+ điểm stress đạt: 32 điểm
Kết quả cho thấy thân chủ có trầm cảm mức độ nặng, lo âu mức độ
nặng và stress ở mức độ nặng.
Nhận định: Với những kết quả thu được qua phỏng vấn lâm sàng và thực
hiện các test: Thân chủ có thể đáp ứng các dấu hiệu của rối loạn trầm cảm, ám
ảnh sợ đi kèm.
Bài tập về nhà
Cha mẹ thực hiện kĩ năng khen ngợi khi ở nhà với thân chủ. -
Mục tiêu buổi tiếp theo
Giáo dục tâm lý với thân chủ -
Câu hỏi giám sát
THAM VẤN - BIÊN BẢN LÀM VIỆC VỚI THÂN CHỦ
Thời gian: 9h 30’ ngày 04/08/2018. Độ dài của buổi tham vấn: 1h30’
Họ tên thân chủ: VNA Cán bộ tham vấn: Nguyễn Đức Giang
Địa điểm tham vấn: Phòng Tham vấn tâm lý – Nhà Bình Yên
Hình thức tham vấn: Tham vấn trực tiếp.
Tình hình hiện tại của thân chủ
(phân biệt điều TC nói và nhận định của NTV)
- Trao đổi với trẻ: trao đổi về cảm nhận của trẻ trong tuần vừa rồi.
Thân chủ cảm thấy thoải mái, dễ chịu hơn phần nào.
- Tuy nhiên những triệu chứng về mặt cơ thể của thân chủ vẫn còn:
đau đầu, mệt mỏi.
Mục tiêu
Giáo dục tâm lý cho thân chủ về trầm cảm và liệu pháp tâm lý
Hoạt động
Giáo dục tâm lý về trầm cảm và liệu pháp tâm lý.
- Giáo dục về trầm cảm thông qua và Sơ đồ Sũy nghĩ – Cảm xúc –
Hành vi
Ví dụ minh họa về sơ đồ suy nghĩ – cảm xúc – hành vi thông qua sự
kiện trời mưa
+ Người trầm cảm:
Sự kiện: trời mưa
Suy nghĩ: hỏng kế hoạch đi chơi, không có việc để làm
Hành vi: nằm trong phòng không làm gì.
Cảm nhận: buồn, chán, cô đơn.
+ Người bình thường.
Sự kiện: Trời mưa
Suy nghĩ: May quá không phải đi chợ với mẹ nữa, mình có thể ở nhà
đọc sách hoặc chơi
Hành vi: mời bạn tới nhà nói chuyện, chơi game
Cảm nhận: Vui vẻ,..
- Giới thiệu về nhiệt kế cảm xúc: thang đo cảm xúc với mức độ từ 0-10
điểm trong đó 0 là trạng thái tồi tệ nhất; 10 điểm là trạng thái cảm xúc tốt
nhất,
- Giới thiệu về trị liệu: gới thiệu cho thân chủ biết trị liệu tâm lý là gì
và các liệu pháp được sử dụng khi trị liệu cùng với thân chủ, các liệu pháp ấy
được sử dụng khi nào với những đối tượng như thế nào. Qua đó thân chủ có
cái nhìn tổng quát về tiến trình trị liệu, thêm tin tưởng vào quá trình trị liệu
- Giao bài tập về nhà.
- Kết thúc buổi trị liệu: cho thân chủ đánh giá sự hài lòng của bản thân
sau buổi trị liệu thông qua thang đánh giá cảm xúc thể hiện sự hài lòng của
bản thân về buổi trị liệu. Cùng với đó nhà trị liệu nhắc lại những gì mà thân
chủ và nhà tham vấn đã thực hiện trong buổi trị liệu.
Thân chủ đánh giá trạng thái cảm xúc của bản thân trước khi đến trị liệu
đạt mức 4 điểm
Sau trị liệu thân chủ đánh giá 6 điểm
Kết quả ban đầu
(Lưu ý: Đây không phải là kết luận. Kết quả test chỉ có giá trị tham khảo).
Thân chủ hiểu thêm về vấn đề của mình -
Thân chủ có cái nhìn bao quát về tiến trình trị liệu -
Bài tập về nhà
- Bài tập về nhà: làm bài tập liên quan đến Suy nghĩ – Cảm nhận –
Hành vi và dùng nhiệt kế cảm xúc để đo cảm xúc
Mục tiêu buổi tiếp theo
Giáo dục tâm lý về trầm cảm ở trẻ cho phụ huynh -
Hướng dẫn thân chủ kĩ năng giải quyết vấn đề -
Câu hỏi giám sát
Những thông tin khác
THAM VẤN - BIÊN BẢN LÀM VIỆC VỚI THÂN CHỦ
Thời gian: 9h 00’ ngày 07/08/2018. Độ dài của buổi tham vấn: 2h
Họ tên thân chủ: VNA . Cán bộ tham vấn: Nguyễn Đức Giang
Địa điểm tham vấn: Phòng Tham vấn tâm lý – Nhà bình yên
Hình thức tham vấn: Tham vấn trực tiếp.
Tình hình hiện tại của thân chủ
(phân biệt điều TC nói và nhận định của NTV)
- Trao đổi với trẻ: Thân chủ vẫn còn có những triệu chứng mệt mỏi;
không tập trung; lo lắng không biết có vượt qua vòng phòng vấn khi xin visa du
học
Mục tiêu
- Giáo dục tâm lý về trầm cản cho cha mẹ
- Hướng dẫn thân chủ kĩ năng giải quyết vấn đề
- Tham vấn giúp thân chủ giảm lo lắng về vấn đề thân chủ vừa đề cập tới
Hoạt động
Tham vấn về lo lắng của thân chủ khi thân chủ chuẩn bị phỏng vấn xin
visa , hương dẫn thân chủ thư giãn khi có lo lắng ập tới.
Giáo dục tâm lý về trầm cản cho cha mẹ & Kĩ năng giải quyết vấn đề cho
thân chủ.
- Hoạt động 1: Giáo dục tâm lý cho cha mẹ:
+ Bắt đầu xây dựng mối quan hệ và khen ngợi sự cam kết của cha mẹ.
+ Nói về kết quả của đánh giá.
+ Giáo dục tâm lý về trầm cảm ở trẻ.
+ Giới thiệu lý thuyết (CBT) và nói về chiến lược trị liệu.
+ Tạo mối quan hệ hợp tác với cha mẹ. Cha mẹ cần tham dự tích cực vào
việc này! Cha mẹ hiểu con nhất! NTL cần dựa vào họ để có thông tin về tiến
triển trị liệu và giúp khái quát hóa kĩ năng ở nhà.
+ Thu thập thông tin từ cha mẹ có thể giúp xây dựng kếhoạch trị liệu cụ
thể. Đánh giá khả năng hỗ trợ của cha mẹ
+ Thay đổi cách cha mẹ nhìn nhận con họ
o Giúp cha mẹ thấy không phải là trẻ hư (lười, chỉ nằm dài, không làm bài,
v.v).
o Trẻ đang có bệnh và cần hỗ trợ
o Giúp cha mẹ thấy việc chỉ trích hoặc ứng xử tiêu cực của cha mẹ có thể
làm trẻ tệ hơn
o Dạy phụ huynh chiến lược củng cố tích cực để trẻ tham gia các hoạt động
tốt hơn
- Hoạt động 2: Hướng dẫn thân chủ kỹ năng giải quyết vấn đề.
+ Xem lại bài tập về nhà buổi trước của thân chủ. Sau đó cùng thân chủ
thao luận về bài tập về nhà đó.
+ Giới thiệu về kỹ năng giải quyết vấn đề
+ Hướng dẫn thân chủ làm thể nào để có thể giải quyết một vấn đề.
1. Nhận dạng vấn đề
2. Suy nghĩ về giải pháp
3. Xem xét từng cái (điểm lợi, điểm hại)
4. Chọn một vấn đề và thử giải quyết vấn đề đó
5. Xem kết quả (nếu không đạt, chọn cái khác)
+ Cùng thân chủ thực hành giải quyết 1 vấn đề của thân chủ ngay tại buổi
trị liệu
+ Giao bài tập về nhà về giải quyết vấn đề của thân chủ.
Kết thúc buổi trị liệu: cho thân chủ đánh giá sự hài lòng của bản thân sau
buổi trị liệu thông qua thang đánh giá cảm xúc thể hiện sự hài lòng của bản thân
về buổi trị liệu. Cùng với đó nhà trị liệu nhắc lại những gì mà thân chủ và nhà
tham vấn đã thực hiện trong buổi trị liệu.
Thân chủ đánh giá trạng thái cảm xúc của bản thân trước khi đến trị liệu
đạt mức 4.5 điểm
Sau trị liệu thân chủ đánh giá 6 điểm
Kết quả ban đầu
(Lưu ý: Đây không phải là kết luận. Kết quả test chỉ có giá trị tham khảo).
- Thân chủ biết cách giải quyết vấn đề
Bài tập về nhà
- Bài tập về nhà: Thân chủ lựa chọn 1 vấn đề và thực hiện giải quyết vấn
đề đó. Đánh giá cảm xúc của bản thân sau khi thực hiện bài tập
Mục tiêu buổi tiếp theo
- Thực hiện chiến lược hoạt hóa hành vi với thân chủ
Câu hỏi giám sát
THAM VẤN - BIÊN BẢN LÀM VIỆC VỚI THÂN CHỦ
Thời gian: 9h 00’ ngày 11/08/2018. Độ dài của buổi tham vấn: 1h
Họ tên thân chủ: VNA. Cán bộ tham vấn: Nguyễn Đức Giang
Địa điểm tham vấn: Phòng Tham vấn tâm lý – Nhà bình yên
Hình thức tham vấn: Tham vấn trực tiếp.
Tình hình hiện tại của thân chủ
(phân biệt điều TC nói và nhận định của NTV)
Trao đổi với trẻ: Thân chủ cảm thấy cảm thấy mọi thứ được cải thiện -
tuy nhiên trong tuần vừa rồi nhà thân chủ chuyển nhà sang quận khác nên thân
chủ cảm thấy nhiều lúc hơi mệt vì cùng với gia đình chuyển dọn đồ đạc. thân chủ
cũng nói tuy mệt nhưng em cảm nhận được mình có ích hơn khi phụ giúp gia đình
chuyển nhà sang chỗ ở mới.
Mục tiêu
- Thực hiện chiến lược hoạt hóa hành vi
Hoạt động
Chiến lược Hoạt hóa hành vi
Kiểm tra và thảo luận cùng thân chủ về bài tập về nhà. -
Giới thiệu cho thân chủ về liệu pháp kích hoạt hành vi và vai trò của -
liệu pháp đối với người trầm cảm.
Để thân chủ nêu ra những hoạt động gây hứng thú trước đây của thân -
chủ. Thảo luận cùng thân chủ về những hoạt động gây hứng thú đó. (đọc sách,
viết chuyện, đi bộ, đi chơi cùng bạn bè )
Sau đó cùng thân chủ sắp xếp lại thứ bậc ưu tiên cho những hoạt động -
mà thân chủ vừa nêu ra. ( đi bộ; đọc sách; đi chơi cùng bạn bè; viết truyện)
Thảo luận cùng thân chủ về những bước đi phù hợp cho một hoạt động -
mà thân chủ chọn để thực hiện trong tuần này.
Thân chủ lựa chọn hoạt động đi bộ với các bước đi cụ thể:
Ngày 1: đi bộ quanh sân nhà 2 vòng
Ngày 2: đi bộ quanh khu nhà 1 vòng
Ngày 3 : đi bộ quanh khu nhà 2 vòng
Ngày 3: ra công viên gần nhà đi bộ 20 phút
Ngày 4: đi bộ ở công viên gần nhà 25 phút
Ngày 5: đi bộ ở công viên gần nhà 30 phút
Ngày 6: đi bộ ở công viên gần nhà 40 phút
Ngày 7: đi bộ ở công viên gần nhà 50 phút
Giới thiệu cho thân chủ về thang chấm điểm cảm xúc khi thân chủ thực -
hiện hoạt động gây hứng thú.
- Giao bài tập về nhà: Thân chủ thực hiện hoạt động đã chọn và chấm
điểm cảm xúc của mình trước và sau khi thực hiện bài tập.
Kết thúc buổi trị liệu: Cho thân chủ chấm điểm cảm xúc của bản thân thể
hiện sự hài lòng hay không hài lòng sau khi kết thúc buổi trị liệu. Cùng với đó
nhà trị liệu nhắc lại những gì mà thân chủ và nhà tham vấn đã thực hiện trong
buổi trị liệu.
Thân chủ đánh giá trạng thái cảm xúc của bản thân trước khi đến trị liệu đạt
mức 6 điểm
Sau trị liệu thân chủ đánh giá 7 điểm
Kết quả ban đầu
(Lưu ý: Đây không phải là kết luận. Kết quả test chỉ có giá trị tham khảo).
- Thân chủ hiểu được việc trải nghiệm những hoạt động đặc biệt là
những hoạt động gây hứng thú có ảnh hưởng tích cực như thế nào đối với cảm
xúc cũng như vấn đề của thân chủ. Qua đó Thân chủ biết được một cách ứng phó
mới với vấn đề của mình.
Bài tập về nhà
- Bài tập về nhà: : Thân chủ thực hiện hoạt động đã chọn và chấm điểm
cảm xúc của mình trước và sau khi thực hiện bài tập
Mục tiêu buổi tiếp theo
Câu hỏi giám sát
Những thông tin khác
THAM VẤN - BIÊN BẢN LÀM VIỆC VỚI THÂN CHỦ
Thời gian: 9h 00’ ngày 14/08/2018. Độ dài của buổi tham vấn: 1h
Họ tên thân chủ: VNA. Cán bộ tham vấn: Nguyễn Đức Giang
Địa điểm tham vấn: Phòng Tham vấn tâm lý – Nhà bình yên
Hình thức tham vấn: Tham vấn trực tiếp.
Tình hình hiện tại của thân chủ
(phân biệt điều TC nói và nhận định của NTV)
Trao đổi với thân chủ: thân chủ cảm thấy cảm xúc được cải thiện khi -
trải nghiệm hoạt động hứng thú trước kia.
Tuy nhiên ngoài giờ học tiếng Pháp và sinh hoạt cùng gia đình cùng -
giờ luyện tập đi bộ thân chủ vẫn chưa biết phải làm gì cho đỡ buồn chán.
Mục tiêu
- Thực hiện tiếp chiến lược hoạt hóa hành vi
Hoạt động
Chiến lược Hoạt hóa hành vi (tiếp)
Kiểm tra và thảo luận bài tập về nhà của thân chủ. -
Thảo luận cùng thân chủ về những hoạt động gây hứng thú kế tiếp -
của thân chủ. (thảo luận về nhữn bước đi phù hợp cho từng hoạt động kế tiếp
của thân chủ)
Hoạt động gây hứng thú tiếp theo của thân chủ là: đọc sách.
Những bước đi phù hợp mà thân chủ lựa chọn cho việc đọc sách.
Thân chủ lựa chọn đọc những cuốn truyện dễ đọc với nội dung dễ hiểu ->
đọc những truyện ngắn dễ đọc -> đọc những cuốn sách hay phù hợp với sở
thích. Ngoài ra nhà trị liệu cũng đã thảo luận cùng thân chủ đề ra mục tiêu đọc
sách của thân chủ từ cấp độ đọc sách với số lượng trang ít vừa với sự tập trung
của thân chủ dần dần cải thiện khả năng đọc của thân chủ với thời lượng và số
trang dài hơn qua đó kéo dài sự tập trung chú ý của thân chủ.
- Thực hiện hoạt động đọc sách ngay tại buổi trị liệu: kết quả đưa ra
thân chủ có thể đọc được hơn 4 trang sách.
Trong tuần tới thân chủ lựa chọn thực hiện việc đọc sách như sau:
Ngày 1: đọc 5 trang của một cuốn truyện dễ đọc.
Ngày 2: đọc 7 trang sách của cuốn truyện trên
Ngày 3: đọc 10 trang cuốn truyện dễ đọc trên
Ngày 4: đọc 15 trang cuốn truyện dễ đọc trên
Ngày 5: đọc 20 trang của cuốn truyện dễ đọc trên
Ngày 6: đọc 25 trang của cuốn truyện dễ đọc trên.
Lưu ý: sau khi đọc xong thân chủ viết nhật kí về những gì mình hiểu được
cũng như tâm trạng của thân chủ như thế nào sau khi thực hiện hoạt động đó.
- Giao bài tập về nhà cho thân chủ: Thân chủ tiếp tục thực hiện hoạt
động gây hứng thú ở buổi trước đó và thực hiện thêm hoạt độn gây hứng thú đã
được bàn tới trong buổi này cùng với đó là bài tập chấm điểm cảm xúc của thân
chủ trước và sau khi thực hiện bài tập
- Thân chủ đánh giá sự hài lòng của thân chủ về buổi trị liệu thông qua
đánh giá sự hài lòng của mình về buổi làm việc. Cùng với đó nhà trị liệu nhắc lại
những gì mà thân chủ và nhà tham vấn đã thực hiện trong buổi trị liệu.
Thân chủ đánh giá trạng thái cảm xúc của bản thân trước khi đến trị liệu
đạt mức 6 điểm
Sau trị liệu thân chủ đánh giá 7.5 điểm
Kết quả ban đầu
(Lưu ý: Đây không phải là kết luận. Kết quả test chỉ có giá trị tham khảo).
- Thân chủ hiểu được việc trải nghiệm những hoạt động đặc biệt là
những hoạt động gây hứng thú có ảnh hưởng tích cực như thế nào đối với cảm
xúc cũng như vấn đề của thân chủ. Qua đó Thân chủ biết được một cách ứng
phó mới với vấn đề của mình.
Bài tập về nhà
- Bài tập về nhà: : Thân chủ thực hiện hoạt động đã chọn và chấm điểm
cảm xúc của mình trước và sau khi thực hiện bài tập
Mục tiêu buổi tiếp theo
-
Câu hỏi giám sát
Những thông tin khác
THAM VẤN - BIÊN BẢN LÀM VIỆC VỚI THÂN CHỦ
Thời gian: 9h 00’ ngày 18/08/2018. Độ dài của buổi tham vấn: 1h
Họ tên thân chủ: VNA. Cán bộ tham vấn: Nguyễn Đức Giang
Địa điểm tham vấn: Phòng Tham vấn tâm lý – Nhà bình yên
Hình thức tham vấn: Tham vấn trực tiếp.
Tình hình hiện tại của thân chủ
(phân biệt điều TC nói và nhận định của NTV)
- Trao đổi với thân chủ: thân chủ cảm thấy cảm xúc được cải thiện khi trải
nghiệm hoạt động hứng thú trước kia.
Mục tiêu
- Tham vấn cho thân chủ về vấn đề lo lắng của thân chủ khi thân chủ
chuẩn bị đi du học
- Áp dụng kĩ thuật thư giãn trong tiến trình trị liệu đối với thân chủ
Hoạt động
Hoạt động 1: Tham vấn với thân chủ về sự lo lắng của thân chủ khi thân chủ
chuẩn bị qua đất nước khác học tập.
- Nhà tham vấn để thân chủ vạch ra những thuận lợi cũng như khó khăn
của bản thân khi chuẩn bị sang đất nước khác du học.
- Với những khó khan mà thân chủ gặp phải nhà tâm lý khuyến khích thân
chủ sử dụng kĩ năng giải quyết vấn đề đã được học để đưa ra giải pháp cho bản thân.
Hoạt động 2: Thực hiện liệu pháp Thư giãn.
- Kiểm tra và thảo luận về bài tập về nhà của thân chủ. Khen ngợi và khích
lệ thân chủ thực hiện các hoạt động gây hứng thú kế tiếp đã được đặt ra trong buổi
trước.
- Giới thiệu cho thân chủ về một chiến lược mới giúp thân chủ giảm trầm
cảm: Liệu pháp thư giãn.
- Hướng dẫn thân chủ thực hiện bài tập thư giãn tưởng tượng.
Bài tập 1 cánh ray và chân nặng. Cánh tay và chân nặng: cho thân chủ ngồi ở
tư thế thoải mái, nhắm mắt và tưởng tượng cánh tay và chân của thân chủ đang
nặng. Tập trung đầu tiên vào cánh tay thuận nhắc thầm “tay phải nặng lên” làm từ
3- 6 lần, mỗi lần 30- 60 giây. Khi kết thúc, lắc vai hoặc lắc đầu, đây chính là sự xả
bỏ toàn thân để ra khỏi trạng thái đờ đẫn, rồi từ từ mở mắt. Sau đó đổi tay trái lặp
lại quá trình này. Chuyển qua chân phải rồi chân trái cũng làm như vậy. Cuối cùng
thư giãn với cả 2 tay, cả 2 chân dùng các mật lệnh sau:
“ cả 2 tay tôi nặng lên”
“ cả 2 chân tôi nặng lên”
“ Cả chân lẫn tay tôi đều nặng lên”
Bài tập 2 Cánh tay và chân ấm. nhà trị liệu hướng dẫn thân chủ chọn tư thế
ngồi thoải mái, tập trung vào nhịp thở “tôi biết tôi đang thở” “ hơi thở của tôi thật
bình thản và thư giãn” và quán tưởng cảm giác ấm nóng từ từ lan khắp cơ thể quá
trình ấy bắt đầu từ tay thuận như sau: “tay phải tôi ấm lên , tay trái tôi ấm lên, chân
phải tôi ấm lên, chân trái của tôi ấm lên, chân phải của tôi ấm lên, cả 2 bàn chân và
bàn tay của tôi cùng ấm dần lên, cảm giác ấm toàn bộ cơ thể , lan xuống vùng ngực,
vùng bụng,…” quá trình ấy được dừng lại và nhà tâm trị liệu hướng dẫn thân chủ
mở mắt từ từ và vẫn duy trì nhịp thở cho đến khi thân chủ mở mắt hoàn toàn.
- Giao bài tập về nhà: thân chủ tiếp tục thực hiện các hoạt động gây hứng
thú cho thân chủ mà buổi trước đó thân chủ đã đề ra cùng với đó là bài tập thực hiện
bài tập thư giãn và chấm điểm cảm xúc của bản thân trước và sau mỗi hoạt động
thân chủ đã thực hiện.
Kết thúc buổi tham vấn: cho thân chủ đánh giá sự hài lòng của bản thân sau
buổi trị liệu thông qua thang đánh giá cảm xúc thể hiện sự hài lòng của bản thân về
buổi trị liệu. Cùng với đó nhà trị liệu nhắc lại những gì mà thân chủ và nhà tham
vấn đã thực hiện trong buổi trị liệu
Thân chủ đánh giá trạng thái cảm xúc của bản thân trước khi đến trị liệu đạt
mức 6 điểm. Sau trị liệu thân chủ đánh giá 8 điểm
Kết quả ban đầu
(Lưu ý: Đây không phải là kết luận. Kết quả test chỉ có giá trị tham khảo).
- Thân chủ biết được một chiến lược mới
Bài tập về nhà
- Bài tập về nhà: : Thân chủ thực hiện hoạt động đã chọn và chấm điểm
cảm xúc của mình trước và sau khi thực hiện bài tập
Mục tiêu buổi tiếp theo
Câu hỏi giám sát
THAM VẤN - BIÊN BẢN LÀM VIỆC VỚI THÂN CHỦ
Thời gian: 9h 00’ ngày 21/08/2018. Độ dài của buổi tham vấn: 1h
Họ tên thân chủ: VNA. Cán bộ tham vấn: Nguyễn Đức Giang
Địa điểm tham vấn: Phòng Tham vấn tâm lý – Nhà bình yên
Hình thức tham vấn: Tham vấn trực tiếp.
Tình hình hiện tại của thân chủ
(phân biệt điều TC nói và nhận định của NTV)
- Trao đổi với thân chủ: thân chủ cảm thấy đỡ mệt mỏi và cảm giác đau đầu
không còn nhiều nữa. dễ đi vào giấc ngủ hơn khi thực hiện bài tập thư giãn.
Mục tiêu
- Áp dụng liệu pháp nhận thức: suy nghĩ – cảm xúc hợp lý với thân chủ.
Nhằm thay đổi những niềm tin sai lệch, tiêu cực của thân chủ trong các tình huống
thường ngày.
Hoạt động
Thay đổi nhận thức.
- Kiểm tra và thảo luận về bài tập về nhà.
- Giới thiệu cho thân chủ một chiến lược mới giúp thân chủ giảm trầm cảm
thông qua liệu pháp thay đổi suy nghĩ – cảm xúc.
- Hướng dẫn thân chủ thực hiện chiến lược mới thông qua ví dụ thực tế mà
thân chủ đã, đang trải nghiệm.
Ví du
Sự kiện cảm xúc/suy nghĩ tự Suy nghĩ thay thế
động
Mẹ nói không cố gắng Cảm thấy mình bị xúc Thực ra mẹ cũng chỉ lo
gì cả, suốt ngày nằm ì phạm, mẹ không hiểu lắng cho mình, mẹ nói
một chỗ cho mình, mẹ không như vậy là để mình cố
yêu thương mình gắng hoạt động nhiều
hơn để có thể thoạt ra
khỏi vấn đề của mình
nhanh hơn.
Bố mẹ không cho mình Nghĩ rằng bố mẹ không Bố mẹ chỉ là lo lắng
đi chơi về khuya tin mình, chắc mình cho mình, sợ mình đi
chẳng có chút niềm tin về đêm lại có con trai
nào ở bố mẹ, bố mẹ chỉ lêu lổng trêu ghẹo, mà
nghĩ mình là đứa hư về khuya không có ai
hỏng hay đi chơi khuya để nhờ giúp đỡ, bố mẹ
với những đứa bạn hư cũng chỉ là có ý tốt cho
mình thôi.
…. …. ….
- Giao bài tập về nhà cho thân chủ:
Kết thúc buổi tham vấn: cho thân chủ đánh giá sự hài lòng của bản thân sau
buổi trị liệu thông qua thang đánh giá cảm xúc thể hiện sự hài lòng của bản thân về
buổi trị liệu. Cùng với đó nhà trị liệu nhắc lại những gì mà thân chủ và nhà tham
vấn đã thực hiện trong buổi trị liệu.
Thân chủ đánh giá trạng thái cảm xúc của bản thân trước khi đến trị liệu đạt
mức 7 điểm
- Sau trị liệu thân chủ đánh giá 8 điểm
Kết quả ban đầu
(Lưu ý: Đây không phải là kết luận. Kết quả test chỉ có giá trị tham khảo).
- Thân chủ biết được một chiến lược mới trong việc ứng phó với nan đề
của mình
Bài tập về nhà
- Bài tập về nhà: thân chủ thực hiện bài tập thay đổi suy nghĩ cảm - xúc
mà nhà trị liệu đã hướng dẫn và thực hiện hoạt động chấm điểm cảm xúc trước và
sau khi thực hiện bài tập.
Mục tiêu buổi tiếp theo
Câu hỏi giám sát
Những thông tin khác