ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC
NGUYỄN HOÀNG TRÚC PHƢƠNG
PHONG CÁCH LÀM CHA MẸ Ở NHỮNG GIA ĐÌNH CÓ
TRẺ CÓ RỐI LOẠN TĂNG ĐỘNG GIẢM CHÚ Ý
LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC
Chuyên ngành: TÂM LÝ HỌC LÂM SÀNG TRẺ EM VÀ VỊ THÀNH NIÊN
Mã số: Thí điểm
HÀ NỘI – 2017
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC
NGUYỄN HOÀNG TRÚC PHƢƠNG
PHONG CÁCH LÀM CHA MẸ Ở NHỮNG GIA ĐÌNH CÓ
TRẺ CÓ RỐI LOẠN TĂNG ĐỘNG GIẢM CHÚ Ý
Chuyên ngành: TÂM LÝ HỌC LÂM SÀNG TRẺ EM VÀ VỊ THÀNH NIÊN
Mã số: Thí điểm
LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC
Cán bộ hƣớng dẫn:
PGS.TS Đặng Hoàng Minh
PGS.TS Bahr Weiss
HÀNỘI – 2017
LỜI CÁM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu, các thầy cô giáo, các cán bộ
quản lý thuộc Trƣờng Đại học Giáo dục, Đại học Quốc gia Hà Nội đã quan tâm,
tạo điều kiện và giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu tại trƣờng.
Tôi xin gửi sự kính trọng và lời biết ơn sâu sắc đến ngƣời hƣớng dẫn khoa
học PGS.TS.Đặng Hoàng Minh và PGS. TS Barh Weiss về những giúp đỡ, định
hƣớng quan trọng, đặc biệt là về tinh thần nghiêm túc trong nghiên cứu khoa học
để tôi có thể hoàn thành luận văn thạc sĩ này.
Xin gửi lời biết ơn sâu sắc tới gia đình những ngƣời tham gia nghiên cứu đã
dành thời gian tham gia trả lời phiếu hỏi và nhiệt tình đóng góp, chia sẻ với chúng
tôi những thắc mắc để chúng tôi hoàn thiện hơn trong nghiên cứu của mình.
Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến gia đình, bạn bè, đồng
nghiệp vì đã luôn hỗ trợ, động viên và tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất cho tôi
trong suốt thời gian học tập và nghiên cứu hoàn thành luận văn.
Hà Nội, ngày tháng năm 2017
Tác giả
Nguyễn Hoàng Trúc Phƣơng
i
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU
ADHD
CĐ Cao đẳng
Diagnostic and Statistical Manual of Mental
Disorders DSM (Sổ tay Chẩn đoán và Thống kê các Rối loạn tâm
thần) (của Hiệp hội Tâm thần học Hoa Kỳ).
ĐH Đại học
ICD – 10 International Statistical Classification of Diseases -
Phân loại quốc tế về bệnh tật (Tái bản lần thứ 10)
PAQ – R Parental Authority – Revised
(Uy quyền Cha mẹ - Phiên bản cải biên).
TH Tiểu học
THCS Trung học cơ sở
THPT Trung học phổ thông
SBQ Student Behavior Questionaire
(Bảng liệt kê Hành vi cho Học sinh)
ii
DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1 Thống kê mô tả hai nhóm nghiên cứu .......................................... 33
Bảng 2.2 Bảng phân tích Cronback Alpha thang PAQ – R .......................... 45
Bảng 3.1 Điểm phong cách cha mẹ giữa hai nhóm ...................................... 48
Bảng 3.2 Điểm phong cách cha mẹ với khu vực .......................................... 52
Bảng 3.3 Điểm phong cách cha mẹ với trình độ học vấn ............................. 52
Bảng 3.4 Điểm phong cách cha mẹ với nghề ............................................... 53
Bảng 3.5 Điểm phong cách cha mẹ với thu nhập ......................................... 53
Bảng 3.6 Điểm phong cách cha mẹ với tình trạng công việc ....................... 53
Bảng 3.7 Điểm phong cách cha mẹ với cấu trúc gia đình ............................ 54
Bảng 3.8 Điểm phong cách cha mẹ với tình trạng hôn nhân ........................ 54
iii
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Bảng 2.1 Thống kê mô tả hai nhóm nghiên cứu .......................................... 33
Bảng 2.2 Bảng phân tích Cronback Alpha thang PAQ – R .......................... 45
Bảng 3.1 Điểm phong cách cha mẹ giữa hai nhóm ...................................... 48
Bảng 3.2 Điểm phong cách cha mẹ với khu vực .......................................... 52
Bảng 3.3 Điểm phong cách cha mẹ với trình độ học vấn ............................. 52
Bảng 3.4 Điểm phong cách cha mẹ với nghề ............................................... 53
Bảng 3.5 Điểm phong cách cha mẹ với thu nhập ......................................... 53
Bảng 3.6 Điểm phong cách cha mẹ với tình trạng công việc ....................... 53
Bảng 3.7 Điểm phong cách cha mẹ với cấu trúc gia đình ............................ 54
Bảng 3.8 Điểm phong cách cha mẹ với tình trạng hôn nhân ........................ 54
iv
MỤC LỤC
LỜI CÁM ƠN ........................................................................................................... i
DANH MỤC BẢNG ............................................................................................... iii
DANH MỤC BIỂU ĐỒ .......................................................................................... iv
MỤC LỤC ................................................................................................................ v
MỞ ĐẦU .................................................................................................................. 1
1. Lý do chọn đề tài .................................................................................................. 1
2. Câu hỏi nghiên cứu .............................................................................................. 4
3. Mục đích nghiên cứu ............................................................................................ 4
4. Nhiệm vụ nghiên cứu ........................................................................................... 4
4.1. Nghiên cứu lý luận ............................................................................................ 4
4.1. Nghiên cứu thực tiễn ......................................................................................... 4
5. Đối tƣợng, khách thể nghiên cứu ......................................................................... 5
5.1. Đối tƣợng nghiên cứu........................................................................................ 5
5.2. Khách thể nghiên cứu ........................................................................................ 5
6. Giả thuyết nghiên cứu .......................................................................................... 5
7. Giới hạn đề tài ...................................................................................................... 5
7.1. Giới hạn nội dung .............................................................................................. 5
7.2. Giới hạn địa bàn và khách thể nghiên cứu ........................................................ 5
8. Phƣơng pháp nghiên cứu ...................................................................................... 5
8.1. Phƣơng pháp nghiên cứu lý luận ....................................................................... 5
8.2. Phƣơng pháp điều tra bằng bảng hỏi ................................................................. 6
8.4. Phƣơng pháp toán thống kê ............................................................................... 6
9. Đóng góp mới của đề tài ...................................................................................... 6
9.1. Đóng góp về mặt lý luận ................................................................................... 6
9.2. Đóng góp về mặt thực tiễn ................................................................................ 6
10. Đạo đức nghiên cứu ........................................................................................... 7
11. Cấu trúc luận văn ............................................................................................... 7
CHƢƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHONG CÁCH LÀM CHA MẸ Ở
NHỮNG GIA ĐÌNH CÓ TRẺ CÓ RỐI LOẠN TĂNG ĐỘNG GIẢM CHÚ Ý .... 8
v
1.1. Rối loạn tăng động giảm chú ý ...................................................................... 8
1.1.1. Lịch sử ........................................................................................................ 8
1.1.1.1. Lịch sử giai đoạn đầu của rối loạn tăng động giảm chú ý ....................... 8
1.1.1.2. Quá trình phát triển tiếp theo của những khám phá về rối loạn tăng động
giảm chú ý ................................................................................................................ 9
1.1.2. Định nghĩa rối loạn tăng động giảm chú ý .............................................. 10
1.1.2.1. Định nghĩa rối loạn tăng động giảm chú ý theo lịch sử hệ thống DSM 10
1.1.2.2. Định nghĩa rối loạn tăng động giảm chú ý theo hệ thống phân loại bệnh
quốc tế lần thứ 10 (ICD – 10) ................................................................................ 11
1.1.3. Các nguyên tắc chỉ đạo chẩn đoán rối loạn tăng động giảm chú ý.......... 11
1.1.3.1. Theo sổ tay thống kê và chẩn đoán các rối loạn tâm thần rút gọn – IV 12
1.1.3.2. Theo ICD – 10 ....................................................................................... 14
1.1.4. Dịch tễ học và nguyên nhân ..................................................................... 16
1.1.4.1. Dịch tễ .................................................................................................... 16
1.1.4.2. Nguyên nhân .......................................................................................... 17
1.1.5. Các phƣơng thức điều trị rối loạn tăng động giảm chú ý ........................ 19
1.1.5.1. Điều trị bằng hóa dƣợc ........................................................................... 20
1.1.5.2. Điều trị bằng các liệu pháp tâm lý xã hội .............................................. 21
1.1. Phong cách làm cha mẹ ................................................................................ 23
1.1.6. Định nghĩa ................................................................................................ 23
1.1.7. Phân loại các kiểu phong cách làm cha mẹ ............................................. 24
1.1.8. Tính cách của trẻ và phong cách làm cha mẹ .......................................... 25
1.2. Phong cách làm cha mẹ trong những gia đình có trẻ đƣợc chẩn đoán rối loạn
tăng động giảm chú ý ............................................................................................. 27
1.1.9. Các nghiên cứu ở phƣơng Tây ................................................................. 27
1.1.10. Các nghiên cứu ở châu Á và Việt Nam ................................................... 29
1.1.10.1. Các nghiên cứu ở châu Á ....................................................................... 29
1.1.10.2. Các nghiên cứu ở Việt Nam ................................................................... 30
Tiểu kết chƣơng 1 ................................................................................................... 31
CHƢƠNG 2 TỔ CHỨC NGHIÊN CỨU ........................................................... 32
vi
2.1. Đặc điểm khách thể nghiên cứu ................................................................... 32
2.1.1. Mục đích lựa chọn và phân loại khách thể .............................................. 32
2.1.2. Đặc điểm nhóm trẻ đƣợc mời tham gia nghiên cứu từ khoa Tâm lý Tâm
thần Trẻ em, bệnh viện Tâm thần thành phố Hồ Chí Minh ................................... 32
2.1.3. Đặc điểm nhóm trẻ ở hai trƣờng tiểu học trên địa bàn tỉnh Long An ..... 32
2.2. Thống kê mô tả dữ liệu ................................................................................ 33
2.3. Tổ chức thu thập số liệu ............................................................................... 41
2.1.4. Giai đoạn một ........................................................................................... 41
2.1.5. Giai đoạn hai ............................................................................................ 42
2.4. Các loại thang đo đƣợc sử dụng trong nghiên cứu ...................................... 42
2.1.6. Thang đo sàng lọc các vấn đề sức khỏe tâm thần của trẻ ........................ 42
2.1.7. Thang đo phong cách làm cha mẹ ........................................................... 43
2.5. Chiến lƣợc phân tích số liệu......................................................................... 43
2.1.8. Phân tích mô tả ......................................................................................... 44
2.1.9. Kiểm định thang đo bằng phân tích Cronbach Alpha: độ ti cậy của thang
đo PAQ – R ............................................................................................................ 44
2.1.10. Kiểm định t-test ........................................................................................ 46
Tiểu kết chƣơng 2 ................................................................................................... 46
CHƢƠNG 3 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ........................................................... 48
3.1. So sánh phong cách làm cha mẹ của hai nhóm trẻ ...................................... 48
Bảng 3.1 Điểm phong cách cha mẹ giữa hai nhóm .............................................. 48
3.2. So sánh phong cách làm cha mẹ của hai nhóm trẻ trong mối liên hệ với các
yếu tố nhân khẩu .................................................................................................... 48
Tiểu kết chƣơng 3 ................................................................................................... 56
CHƢƠNG 4 KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ ............................................... 58
4.1. Kết luận ........................................................................................................ 58
4.2. Khuyến nghị ................................................................................................. 59
2.1.11. Đối với các cơ sở chăm sóc và điều trị .................................................... 59
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 61
PHỤ LỤC ............................................................................................................. 68
vii
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Rối loạn tăng động giảm chú ý (tiếng Anh: Attention Deficit – Hyperactivity
Disorder, đƣợc viết tắt là ADHD) là một rối loạn tâm thần phổ biến. Theo DSM-5
(Cẩm nang chẩn đoán và thống kê các rối loạn tâm thần của Mỹ, 2012) thì ADHD
đƣợc xếp vào phân loại rối loạn thần kinh phát triển và có tỉ lệ lƣu hành trong hầu
hết các nền văn hóa là 5% ở trẻ em và 2,5% ở ngƣời lớn [33]. Rối loạn này đƣợc
đặc trƣng bởi sự giảm duy trì chú ý và tăng mức độ xung động ở trẻ em hoặc trẻ vị
thành niên so với trẻ cùng lứa tuổi và mức độ phát triển. Đây là một rối loạn mạn
tính kéo dài từ tuổi thơ cho đến tuổi trƣởng thành.
Phần lớn các đặc tính thƣờng đƣợc nhắc đến nhất của trẻ ADHD là tăng
động, thiếu hụt sự chú ý (thời gian tập trung chú ý ngắn, dễ bị xao nhãng, không
hoàn thành nhiệm vụ, quên đồ dùng quan trọng, v.v...), suy giảm vận động trị giác,
thiếu ổn định về mặt cảm xúc, xung động (thiếu suy nghĩ trƣớc khi hành động,
hoạt động không có tổ chức), thiếu sót trong trí nhớ và suy nghĩ, thiếu sót trong
nghe và nói, rối loạn học tập, có dấu hiệu thân kinh nhẹ và bất thƣờng trong điện
não. Khoảng 75% trẻ ADHD có biểu hiện rối loạn hành vi nhƣ là gây hấn và thách
thức [1]. Với các hành vi gây hấn và thách thức, trẻ ADHD thƣờng gặp khó khăn
trong các giao tiếp xã hội (với bạn đồng trang lứa, với giáo viên và cả với các
thành viên trong gia đình). Với triệu chứng tăng động, trẻ ADHD lại gặp khó khăn
trong những nhiệm vụ đòi hỏi sự tập trung, ảnh hƣởng đến khả năng học tập của
trẻ. [1, tr 156].
Các vấn đề của trẻ ADHD có biểu hiện dai dẳng kéo dài đến độ tuổi vị thành
niên đến trƣởng thành. Các nhà khoa học đã thống kê rằng trong số 50% các
trƣờng hợp, một số triệu chứng có thể thuyên giảm khi trẻ bƣớc vào tuổi vị thành
niên hoặc giai đoạn sớm của tuổi trƣởng thành. Tăng động là triệu chứng đầu tiên
thuyên giảm và xao nhãng là triệu chứng cuối cùng. Khoảng 50% còn lại thì triệu
chứng có thể tồn tại dai dẳng trong suốt thời kỳ tuổi trƣởng thành. Điều này ảnh
hƣởng đến trình độ học vấn, khả năng làm việc và các mối quan hệ của ngƣời lớn
có ADHD [1].
1
Trong một nghiên cứu về Ảnh hƣởng của ADHD lên cuộc sống cá nhân, gia
đình, cộng đồng và cuộc sống tuổi trƣởng thành của tiến sĩ Harpin, thuộc Trung
tâm Trẻ em Ryegate, Vƣơng Quốc Anh (2005) đã chỉ ra tác động của ADHD đến
cuộc sống cá nhân và các thành viên gia đình gồm có các khó khăn trong học tập,
thiếu hụt các kỹ năng xã hội, căng thẳng trong các mối quan hệ xã hội và tƣơng
tác cha mẹ - con cái. Bên cạnh đó, ADHD còn liên quan đến gia tăng chi phí chăm
sóc sức khỏe cho bệnh nhân và các thành viên gia đình của họ.
Trong một khảo sát thực tế về rối loạn tăng động giảm chú ý của Kewlay
(1999) [23], ông đã chỉ ra những thay đổi của các vấn đề của trẻ ADHD và gia
đình theo ba mốc phát triển (trẻ nhỏ, trẻ vị thành niên và giai đoạn từ vị thành niên
đến tuổi trƣởng thành). Giai đoạn trẻ nhỏ (7 tuổi), vấn đề trẻ gặp là lòng tự trọng
thấp. Bƣớc sang tuổi vị thành niên (11 tuổi), vấn đề trẻ gặp là hành vi phá vỡ, trì
hoãn học tập và thiếu hụt các kỹ năng xã hội. Giai đoạn từ vị thành niên đến tuổi
trƣởng thành (từ 13 trở lên), các vấn đề xuất hiện với danh sách dài hơn là hành vi
thách thức, rối loạn chống đối xã hội, bỏ học, rối loạn cƣ xử, nghiện chất, thiếu
động lực và các khó khăn học tập phức tạp.
Nhƣ vậy, rối loạn tăng động có những tác động rất lớn và phức tạp không chỉ
trên bản thân trẻ bị rối loạn này mà còn trên các thành viên gia đình. Chính vì vậy
mà rối loạn tăng động giảm chú ý đang đƣợc quan tâm để tìm hiểu nguyên nhân
cũng nhƣ những cách thức can thiệp hiệu quả cho rối loạn này.
Ngày nay, nguyên nhân của rối loạn tăng động giảm chú ý có vẻ ngày càng
đƣợc khẳng định nhiều hơn thông qua các chứng cứ khoa học có liên quan đến gen
và di truyền. Bên cạnh đó, các yếu tố tâm lý cũng đóng một vai trò nhất định trong
rối loạn này, chẳng hạn nhƣ vai trò của các bậc phụ huynh trong hỗ trợ điều trị các
triệu chứng của rối loạn tăng động ở trẻ. Trong đó, tƣơng tác cha mẹ - con cái và
phong cách làm cha mẹ của phụ huynh có ảnh hƣởng đến kết quả điều trị cho trẻ
em có rối loạn tăng động giảm chú ý.
Những nghiên cứu về mối quan hệ giữa trẻ rối loạn tăng động giảm chú ý và
cha mẹ của chúng ngày càng đƣợc các nhà khoa học quan tâm khám phá. Những
cách thức nuôi dạy trẻ sai lầm có thể gây ra những phản ứng tiêu cực. Bởi vì trẻ
2
rối loạn tăng động giảm chú ý thƣờng có những vấn đề hành vi, chú ý và học tập
nên cha mẹ của trẻ thƣờng tƣơng tác với chúng một cách khắt khe [38]. Tƣơng tác
giữa cha mẹ và con cái thƣờng bị ảnh hƣởng bởi nhiều yếu tố bao gồm các vấn đề
kinh tế gia đình, các vấn đề sức khỏe tâm thần của cha mẹ [9] và phong cách làm
cha mẹ. Kết quả điều trị kém có thể đƣợc tiên lƣợng ở những trẻ đƣợc đối xử bởi
những cha mẹ có phong cách làm cha mẹ không hiệu quả [16]. Những nghiên cứu
trƣớc đây cho thấy rằng sự vô trách nhiệm với trẻ và kỹ năng làm cha mẹ kém có
thể làm nặng thêm các triệu chứng ADHD [22].
Gần đây trên thế giới, phƣơng pháp điều trị hiệu quả nhất cho rối loạn tăng
động giảm chú ý là trị liệu đa phƣơng thức bao gồm kết hợp điều trị với
methylphenidate và liệu pháp gia đình, hoặc là huấn luyện hành vi và dạy những kỹ
năng ứng phó cho giáo viên và các chƣơng trình giáo dục ở trƣờng học [1, tr 168 -
169]. Trong một nghiên cứu tổng hợp, kết quả cho thấy rằng liệu pháp hành vi cha
mẹ (behavioral parenting therapy) là một can thiệp hiệu quả trong việc cải thiện hành
vi trẻ em, hành vi cha mẹ, và nhận thức của cha mẹ về những trẻ rối loạn tăng động
giảm chú ý [20]. Tập huấn phụ huynh cũng có thể giúp cải thiện khả năng của họ
trong việc giải quyết những vấn đề của trẻ em và trẻ vị thành niên [31]. Từ những
điều trên, ta có thể thấy rằng phong cách làm cha mẹ có một vai trò quan trọng trong
việc cải thiện thành tích cho trẻ rối loạn tăng động giảm chú ý.
Hiện nay, ở Việt Nam, chƣa có nghiên cứu nào đƣợc thực hiện để tìm hiểu về
phong cách làm cha mẹ ở những gia đình có trẻ bị rối loạn tăng động giảm chú ý.
Hiện tại, chỉ có một vài bài viết tổng hợp thông tin bàn về mối quan hệ giữa trẻ rối
loạn tăng động giảm chú ý và cha mẹ trong gia đình. Do đó, đề tài này nghiên cứu
nhằm tìm hiểu sự khác biệt trong phong cách cha mẹ giữa hai nhóm phụ huynh có
trẻ rối loạn tăng động giảm chú ý và phụ huynh có trẻ với sức khỏe tâm thần bình
thƣờng. Một khi phong cách làm cha mẹ của phụ huynh nhóm trẻ rối loạn tăng
động giảm chú ý đƣợc xác định, chúng ta có thể giúp điều chỉnh những kiểu làm
cha mẹ sai lầm và do đó, góp phần cải thiện triệu chứng. Từ đó, có thể có những
dự báo và phƣơng hƣớng phù hợp cho những can thiệp về mặt lâm sàng cho trẻ rối
loạn tăng động giảm chú ý cùng với gia đình.
3
Với những lý do trên đây, việc nghiên cứu đề tài “Phong cách làm cha mẹ ở
những gia đình có trẻ có rối loạn tăng động giảm chú ý” là việc cần thiết, không
những có ý nghĩa về mặt lý thuyết mà còn có ý nghĩa thiết thực trong hỗ trợ điều
trị lâm sàng cho trẻ rối loạn tăng động giảm chú ý.
2. Câu hỏi nghiên cứu
Phụ huynh của trẻ đƣợc chẩn đoán có rối loạn tăng động giảm chú ý có
phong cách làm cha mẹ độc đoán và/hoặc có phong cách làm cha mẹ dễ dãi hơn so
với phong cách làm cha mẹ của phụ huynh có con bình thƣờng hay không?
Những yếu tố nhân khẩu nào có ảnh hƣởng đến phong cách làm cha mẹ của
phụ huynh?
3. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu này đƣợc tiến hành nhằm tìm hiểu phong cách làm cha mẹ của
những phụ huynh có con đƣợc chẩn đoán có rối loạn tăng động giảm chú ý.
Tìm hiểu sự khác biệt trong phong cách làm cha mẹ của phụ huynh của
những trẻ em đƣợc chẩn đoán có rối loạn tăng động giảm chú ý so với phụ huynh
của những trẻ em bình thƣờng.
Tìm hiểu sự khác biệt trong phong cách làm cha mẹ của hai nhóm phụ huynh
này trong mối liên hệ với các yếu tố nhân khẩu nhƣ khu vực sinh sống, trình độ
học vấn, mức thu nhập, loại công việc và tình trạng công việc của cha mẹ, tình
trạng hôn nhân của cha mẹ, cấu trúc gia đình, v.v…
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Nghiên cứu lý luận
Hệ thống hóa những vấn đề lý luận về rối loạn tăng động giảm chú ý.
Hệ thống hóa các khái niệm, định nghĩa về phong cách làm cha mẹ.
4.1. Nghiên cứu thực tiễn
Xác định các kiểu phong cách làm cha mẹ và sự khác biệt trong phong cách
làm cha mẹ của phụ huynh có con đƣợc chẩn đoán có rối loạn tăng động giảm chú
ý và phụ huynh có con bình thƣờng.
Dự báo và kiến nghị các phƣơng pháp giáo dục con cái, tƣơng tác giữa cha
mẹ và trẻ có rối loạn tăng động giảm chú ý.
4
5. Đối tƣợng, khách thể nghiên cứu
5.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Phong cách làm cha mẹ của phụ huynh có con đƣợc chẩn đoán có rối loạn
tăng động giảm chú ý.
5.2. Khách thể nghiên cứu
50 trẻ em từ 6 tuổi đến 8 tuổi đƣợc chẩn đoán có rối loạn tăng động giảm chú
ý và 50 cha hoặc mẹ của những em này.
50 học sinh tiểu học từ 6 tuổi đến 8 tuổi và 50 cha hoặc mẹ của những em này.
6. Giả thuyết nghiên cứu
Phụ huynh của trẻ đƣợc chẩn đoán có rối loạn tăng động giảm chú ý có
phong cách làm cha mẹ độc đoán hơn so với phong cách làm cha mẹ của phụ
huynh có con bình thƣờng.
Phụ huynh của trẻ đƣợc chẩn đoán có rối loạn tăng động giảm chú ý có
phong cách làm cha mẹ dễ dãi hơn so với phong cách làm cha mẹ của phụ huynh
có con bình thƣờng.
7. Giới hạn đề tài
7.1. Giới hạn nội dung
Phong cách làm cha mẹ của phụ huynh của trẻ đƣợc chẩn đoán có rối loạn
tăng động giảm chú ý và phụ huynh của những trẻ em bình thƣờng.
So sánh sự khác biệt trong phong cách làm cha mẹ của hai nhóm phụ huynh này.
Phong cách cha mẹ qua sự tự báo cáo của cha mẹ.
7.2. Giới hạn địa bàn và khách thể nghiên cứu
50 trẻ từ 6 đến 8 tuổi đƣợc chẩn đoán mắc rối loạn tăng động giảm chú ý và
50 cha hoặc mẹ (đƣợc lấy từ Khoa khám Tâm lý Tâm thần trẻ em, bệnh viện Tâm
thần thành phố Hồ Chí Minh).
50 trẻ từ 6 đến 8 tuổi không có vấn đề sức khỏe tâm thần và 50 cha hoặc mẹ
(đƣợc lấy từ trƣờng Tiểu học Nguyễn Văn Phú và trƣờng tiểu học Bình Hữu, tỉnh
Long An.
8. Phƣơng pháp nghiên cứu
8.1. Phƣơng pháp nghiên cứu lý luận
5
Phƣơng pháp này sẽ hệ thống lại cơ sở lý thuyết, đồng thời tìm hiểu các
nghiên cứu đã có về phong cách làm cha mẹ của phụ huynh, tìm hiểu phong cách
cha mẹ của những phụ huynh có con đƣợc chẩn đoán có rối loạn tăng động giảm
chú ý ở nƣớc ta. Từ đó, đề xuất cho hƣớng nghiên cứu thực nghiệm tiếp theo.
8.2. Phƣơng pháp điều tra bằng bảng hỏi
Thang PAQ – R (Bộ câu hỏi về phong cách làm cha mẹ do cha mẹ báo cáo).
SBQ (Bảng Liệt Kê Hành Vi Cho Học Sinh do học sinh báo cáo).
8.4. Phƣơng pháp toán thống kê
Dùng để xử lý số liệu khoa học và khách quan. Các thông tin về số liệu sẽ
đƣợc định lƣợng cụ thể và mã hóa bằng phần mềm SPSS20.
9. Đóng góp mới của đề tài
9.1. Đóng góp về mặt lý luận
Tìm hiểu sự khác biệt trong phong cách làm cha mẹ giữa nhóm phụ huynh có
con đƣợc chẩn đoán có rối loạn tăng động giảm chú ý và nhóm phụ huynh có con
có sức khỏe tâm thần bình thƣờng.
Xác định mối liên hệ giữa phong cách cha mẹ ở những gia đình có con đƣợc
chẩn đoán có rối loạn tăng động giảm chú ý.
9.2. Đóng góp về mặt thực tiễn
Đây là luận văn đầu tiên ở Việt Nam nghiên cứu về phong cách làm cha mẹ
của những phụ huynh có con đƣợc chẩn đoán có rối loạn tăng động giảm chú ý.
Nghiên cứu sẽ bổ xung thông tin về phong cách cha mẹ, sự khác biệt trong
phong cách cha mẹ giữa hai nhóm phụ huynh, nhóm phụ huynh của trẻ có chẩn
đoán rối loạn tăng động giảm chú ý và nhóm phụ huynh của trẻ bình thƣờng, các
yếu tố nhân khẩu học liên quan đến những sự khác biệt trong hai nhóm phụ huynh
này.
Từ những thông tin này, cùng với các kết quả của những nghiên cứu trong
lĩnh vực này trên toàn thế giới, xác định các phƣơng pháp phù hợp trong tham vấn
và hỗ trợ về tâm lý xã hội, đặc biệt là trong tƣơng tác giữa ngƣời chăm sóc và trẻ
có rối loạn tăng động giảm chú ý, bên cạnh phƣơng pháp điều trị bằng thuốc trong
bối cảnh hiện nay.
6
Kết quả nghiên cứu có thể đƣợc dùng để làm tài liệu tham khảo.
10. Đạo đức nghiên cứu
Đề cƣơng nghiên cứu đƣợc phê duyệt và thông qua Hội đồng đạo đức nghiên
cứu của trƣờng Đại học Giáo dục trƣớc khi triển khai.
Khách thể nghiên cứu đƣợc thông báo đầy đủ và về mục đích, nội dung, nguy
cơ nếu có của nghiên cứu và có quyền từ chối tham gia nghiên cứu.
Bảo mật các thông tin do khách thể cung cấp và cam kết chỉ đƣợc sử dụng
cho mục đích của nghiên cứu.
Các số liệu đƣợc trình bày trung thực. Không trình bày nghiên cứu, số liệu
của ngƣời khác nhƣ của chính mình, dù cho có trích dẫn.
11. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và khuyến nghị, danh mục tài liệu tham khảo,
phụ lục, nội dung chính của luận văn đƣợc trình bày trong 3 chƣơng:
Chƣơng 1. Cơ sở lý luận nhận của phong cách làm cha mẹ trong gia đình có
trẻ có rối loạn tăng động giảm chú ý
Chƣơng 2. Tổ chức và phƣơng pháp nghiên cứu
Chƣơng 3. Phân tích kết quả nghiên cứu
7
CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHONG CÁCH LÀM CHA MẸ Ở NHỮNG GIA
ĐÌNH CÓ TRẺ CÓ RỐI LOẠN TĂNG ĐỘNG GIẢM CHÚ Ý
1.1. Rối loạn tăng động giảm chú ý
1.1.1. Lịch sử
1.1.1.1. Lịch sử giai đoạn đầu của rối loạn tăng động giảm chú ý
ADHD đã trải qua nhiều giai đoạn trong sự phát triển về định nghĩa cũng nhƣ
tên gọi. Có thể tóm tắt một số cột mốc và tác giả tiêu biểu cho quá trình phát triển
này.
- Alexander Crichton: Ví dụ đầu tiên về một rối loạn mà dƣờng nhƣ tƣơng tự
với ADHD đã đƣợc đƣa ra bởi một bác sĩ ngƣời Scotland, Alexander Crichton vào
năm 1798. Trong ấn phẩm Điều tra về bản chất và nguồn gốc của sự xáo trộn tâm
thần, ông đề cập đến khái niệm "mất khả năng chú ý với mức độ kiên trì cần thiết
đến một đối tƣợng bất kỳ". Theo Crichton, kém chú ý, nếu không phải bẩm sinh
thì cũng có thể bị gây ra bởi rối loạn thần kinh. Quan niệm này sau đó đã đƣợc
phát hiện trong các khái niệm về tổn thƣơng não tối thiểu hoặc rối loạn chức năng.
Công trình của ông đƣa ra sau khi bác sĩ ngƣời Đức Melchior Adam Weikard,
ngƣời đã xuất bản một sách giáo trình y khoa năm 1775, trong đó có một chƣơng
gọi là rối loạn sự chú ý.
- Heinrich Hoffmann: Năm 1844, bác sĩ ngƣời Đức Heinrich Hoffmann tạo
ra những câu chuyện minh họa về trẻ em bao gồm "Phil đứng ngồi không yên"
(Fidgety Phil). Các mô tả này rất ăn khớp với loại hiếu động của ADHD.
- Sir George Frederic Still: Các diễn thuyết của Sir George Frederic Still vào
năm 1902 đƣợc xem xét bởi nhiều tác giả nổi tiếng, chẳng hạn nhƣ Barkley và
Conners, là điểm khởi đầu mang tính khoa học về lịch sử của ADHD. Still mô tả
20 trƣờng hợp trẻ em với "khiếm khuyết trong kiểm soát về mặt đạo đức nhƣ một
biểu hiện bệnh mà không có sự bất thƣờng về trí tuệ tổng thể và không có bệnh lý
thực thể".
8
- Alfred Frank Tredgold: Tredgold năm 1908 đã thảo luận một mối tƣơng
quan giữa tổn thƣơng não sớm, ví dụ, do dị tật bẩm sinh hoặc thiếu oxy chu sinh,
và các vấn đề hành vi hoặc các khó khăn học tập sau đó. Tại thời điểm đó, dịch
bệnh viêm não đang lan rộng trên khắp thế giới; ảnh hƣởng còn lại của viêm não
có nhiều điểm tƣơng đồng với một số triệu chứng ADHD. Khái niệm về "rối loạn
hành vi sau viêm não" (Post Encephalitic Behavior Disorder) đã đƣợc giới thiệu
sau đó. Ngoài ra, Tredgold là ngƣời đầu tiên thảo luận về tầm quan trọng của việc
sửa đổi môi trƣờng nhƣ là một phần của quản lý cho rối loạn này.
- Franz Kramer và Hans Pollnow: Năm 1932, hai bác sĩ ngƣời Đức Franz
Kramer và Hans Pollnow báo cáo về một bệnh tăng động ở trẻ nhỏ với "triệu
chứng đặc trƣng nhất là vận động không ngơi nghỉ”. Các trẻ em đƣợc mô tả là
không thể ngồi yên dù chỉ một giây, thích trèo lên cao. Họ cũng mô tả một số tính
năng khác của ADHD.
- Charles Bradley: Năm 1937, Charles Bradley từ tiểu bang Rhode Island
báo cáo tác dụng tích cực của thuốc kích thích ở trẻ em bị rối loạn hành vi khác
nhau. Đây là mô tả đầu tiên về hiệu quả của điều trị kích thích trên ADHD, ông đã
sử dụng amphetamine racemic.
- Leandro Panizzon: Methylphenidate đƣợc tổng hợp lần đầu tiên vào năm
1944 do Leandro Panizzon và biệt dƣợc là "Ritalin" năm 1954 bắt nguồn từ họ
ngƣời vợ của Panizzon, nghĩa là Marguerite hoặc "Rita".
1.1.1.2. Quá trình phát triển tiếp theo của những khám phá về rối loạn tăng động
giảm chú ý
Tổn thƣơng não tối thiểu và Rối loạn chức năng não tối thiểu (Minimal
Brain Damage and Minimal Brain Dysfunction)
Khái niệm về tổn thƣơng não tối thiểu đƣợc phổ biến đặc biệt là giữa năm
1930 và 1940. Nhiều tác giả kết luận rằng chứng tăng động ở trẻ em có thể là do
não bộ bị tổn thƣơng. Các khái niệm mới về "tổn thƣơng não tối thiểu" đƣợc dựa
trên một số sự xem xét. Đầu tiên, Tredgold đã tuyên bố rằng các hình thức nhẹ của
tổn thƣơng não ở trẻ nhỏ, mặc dù không nhận ra đƣợc vào thời điểm nào, có thể
dẫn đến di chứng về hành vi, những di chứng này sẽ xuất hiện lần đầu ở tuổi đi
9
học. Thứ hai, các biến thể về mức độ, vị trí của tổn thƣơng não bộ hay thể loại tổn
thƣơng cũng đƣợc thảo luận. Thứ ba, các khái niệm về "một sự liên tục của tổn
thƣơng não khác nhau, từ những bất thƣờng nghiêm trọng, chẳng hạn nhƣ bại não
và suy giảm về mặt tâm thần, cho đến “tổn thƣơng tối thiểu" đƣợc giới thiệu bởi
Knobloch và Pasamanick năm 1959.
Mặc dù thực tế giả thuyết này nói rằng một tổn thƣơng não tối thiểu có thể
dẫn đến rối loạn hành vi đã đƣợc thành lập và phổ biến rộng rãi nhƣng có nhiều
thách thức về khái niệm này. Đặc biệt trong năm 1960, một số nhà nghiên cứu
phát hiện trẻ có xung động tăng động mà không có các yếu tố chấn thƣơng nguyên
nhân cổ điển hoặc nhiễm trùng trong tiền sử. Họ đề xuất một sự rối loạn chức
năng, chứ không phải tổn thƣơng não bộ, là nguyên nhân đặc trƣng của hội chứng.
Trong năm 1963, Nhóm Nghiên cứu Quốc tế Oxford về Thần kinh học trẻ em
(Bax và MacKeith 1963) đã tổ chức một hội nghị và cho rằng tổn thƣơng não
không nên đƣợc suy đoán từ các dấu hiệu hành vi có vấn đề một cách đơn lẻ. Họ
chủ trƣơng một sự thay đổi trong thuật ngữ bằng cách thay thế thuật ngữ "tổn
thƣơng não tối thiểu" với "rối loạn chức năng não bộ tối thiểu".
1.1.2. Định nghĩa rối loạn tăng động giảm chú ý
1.1.2.1. Định nghĩa rối loạn tăng động giảm chú ý theo lịch sử hệ thống DSM
DSM II – 1968: Sổ tay chẩn đoán và thống kê các rối loạn tâm thần ấn bản
lần thứ 2 đã đề cập đến “Phản ứng tăng động của thời thơ ấu” (Hyperkinetic
Reaction of Childhood) và định nghĩa nó trong hai câu “Rối loạn đƣợc đặc trƣng
bởi sự hoạt động, bồn chồn không yên, sự xao nhãng quá mức và khoảng chú ý
ngắn, đặc biệt là ở trẻ em; hành vi giảm dần vào giai đoạn vị thành niên”
DSM III – 1980: Đến ấn bản lần thứ III đề cập đến rối loạn kém chú ý
(Attention Deficit Disorder) có hay không có sự tăng động. Năm 1987 DSM-III-R:
khái niệm của hai thể phụ đƣợc loại bỏ và đƣợc đặt lên lại “rối loạn tăng động kém
chú ý”. Những triệu chứng về kém chú ý, tăng động xung động đƣợc kết hợp lại
thành một danh sách triệu chứng riêng lẻ với một điểm số riêng lẻ.
DSM IV – 1994: ADHD đƣợc chia nhỏ thành 3 thể phụ, loại trội về kém chú
ý, loại trội về xung động-tăng động, và loại kết hợp cả hai.
10
DSM 5 – 2013: Tƣơng đồng với DSM-IV về tiêu chuẩn chẩn đoán, chia
ADHD thành hai lĩnh vực chính là tăng động và kém chú ý, và 3 thể phụ. Tuy
nhiên có thay đổi một số đặc điểm [18]. ADHD là một rối loạn thần kinh phát
triển đƣợc định nghĩa bởi những mức độ bất thƣờng của sự không chú ý, vô tổ
chức, và/ hoặc xung động-hoạt động quá mức. Sự không chú ý và vô tổ chức bao
gồm việc không có khả năng duy trì ở lại trong nhiệm vụ, dƣờng nhƣ không lắng
nghe, làm mất chất liệu với mức độ không phù hợp với tuổi hay mức phát triển.
Xung động-hoạt động quá mức bao gồm hoạt động quá mức, bồn chồn, không khả
năng ngồi tại chỗ, xâm hại hoạt động của ngƣời khác, không có khả năng chờ đợi -
những triệu chứng quá mức so với tuổi hoặc mức độ phát triển. Trong giai đoạn
thơ ấu, ADHD thƣờng chồng lấp với các rối loạn khác, những rối loạn mà đƣợc
xem là “rối loạn hƣớng nội” (externalizing disorder), nhƣ rối loạn chống đối và rối
loạn cƣ xử. ADHD thƣờng dai dẳng đến tuổi trƣởng thành với những bất thƣờng
trong chức năng xã hội, học tập và nghề nghiệp [52, tr 32].
1.1.2.2. Định nghĩa rối loạn tăng động giảm chú ý theo hệ thống phân loại bệnh
quốc tế lần thứ 10 (ICD – 10)
Nhóm rối loạn này có đặc trƣng là: Khởi bệnh sớm; sự kết hợp của một hành
vi hoạt động quá mức, kém kiểm tra với thiếu chú ý rõ rệt và thiếu kiên trì trong
công việc; và những đặc điểm hành vi trên lan tỏa trong một số lớn hoàn cảnh và
kéo dài với thời gian. [9, tr 256]
Nhƣ vậy, có rất nhiều định nghĩa về rối loạn này trong lịch sử phát triển của
nó. Trong khuôn khổ luận văn này, chúng tôi sử dụng định nghĩa theo hệ thống
phân loại bệnh quốc tế lần thứ 10 (ICD – 10) vì mẫu nghiên cứu đƣợc lấy từ bệnh
viện và việc chẩn đoán sang lọc cũng đƣợc các bác sỹ thực hiện theo tiêu chí của
ICD – 10.
1.1.3. Các nguyên tắc chỉ đạo chẩn đoán rối loạn tăng động giảm chú ý
Rối loạn tăng động, giảm chú ý đƣợc đặc trƣng bởi sự giảm duy trì chú ý và
tăng mức độ xung động ở trẻ em hoặc trẻ vị thành niên so với trẻ cùng lứa tuôi và
mức độ phát triển. Trƣớc đây, tăng động đƣợc tin là triệu chứng sâu xa của rối
loạn này, quan điểm chung hiện nay là tăng động thƣờng là triệu chứng thứ phát
11
do khả năng kiểm soát xung động kém. Sự xung động và tăng động cùng là một
phần trong tiêu chuẩn chẩn đoán. Hiện nay chẩn đoán rối loạn tăng động giảm chú
ý dựa trên sự đồng thuận của các chuyên gia, họ cho rằng ba phân nhóm – giảm
chú ý, tăng động/xung động và loại phối hợp – đều cùng là biểu hiện của rối loạn
tăng động giảm chú ý.
Để đáp ứng các tiêu chuẩn chẩn đoán, một số triệu chứng phải xuất hiện
trƣớc 7 tuổi mặc dù ADHD không đƣợc chẩn đoán ở rất nhiều trẻ em cho đến khi
trẻ lớn hơn 7 tuổi khi mà hành vi của trẻ gây ra rắc rối ở trƣờng và ở các nơi khác.
Để khẳng định chẩn đoán cho rối loạn tăng động giảm chú ý, sự rối loạn tập trung
và tăng động/xung động đƣợc phải đƣợc nhận thấy ít nhất ở hai môi trƣờng và ảnh
hƣởng đến sự phát triển chức năng xã hội phù hợp của trẻ. ADHD không đƣợc
chẩn đoán khi triệu chứng xảy ra ở trẻ em, trẻ vị thành niên hoặc ngƣời trƣởng
thành mắc rối loạn phát triển lan tỏa, tâm thần phân liệt hoặc các rối loạn tâm thần
khác. [1, tr 150].
1.1.3.1. Theo sổ tay thống kê và chẩn đoán các rối loạn tâm thần rút gọn – IV
A. Có sự hiện diện của (1) hoặc (2)
(1) Sáu trong những triệu chứng không chú ý sau đây (hoặc nhiều hơn đã kéo
dài trong ít nhất sáu tháng) ở một mức độ mất thích nghi và không tƣơng ứng với
sự phát triển của trẻ:
Mất chú ý:
Thƣờng không thể tập trung chú ý vào những chi tiết hoặc mắc những lỗi
lầm do lơ đễnh trong những bài làm ở trƣờng, trong công việc hoặc trong những
hoạt động khác.
Thƣờng khó khăn duy trì sự chú ý vào công việc hoặc trong các trò chơi.
Thƣờng có vẻ không lắng nghe khi ngƣời ta nói chuyện với đƣơng sự.
Thƣờng không tuân thủ những mệnh lệnh và không hoàn thành bài làm ở
trƣờng, công việc ở nhà hoặc những đòi hỏi về nghề nghiệp (điều này không phải
do hành vi chống đối, cũng không phải do mất khả năng hiểu biết các mệnh lệnh).
Thƣờng gặp khó khăn về tổ chức những công việc hoặc những sinh hoạt của
bản thân.
12
Thƣờng tránh né, ghét, hoặc làm một cách miễn cƣỡng những công việc cần
phải nỗ lực về tinh thần (nhƣ làm bài ở trƣờng hoặc ở nhà).
Thƣờng đánh mất những đồ dung cần thiết đối với công việc hoặc sinh hoạt
của bản thân (ví dụ: đồ chơi, tập bài làm, bút chì, sách vở hoặc đồ dùng).
Thƣờng dễ bị đãng trí bởi các kích thích bên ngoài.
Thƣờng hay bị quên trong đời sống hàng ngày.
(2) Có sáu triệu chứng gia tăng hoạt động – xung động sau đây (hoặc nhiều
hơn) đã kéo dài ít nhất sáu tháng ở mức độ mất thích nghi và không tƣơng ứng với
mức độ phát triển của trẻ:
Gia tăng hoạt động:
Thƣờng động đạy tay chân hoặc vặn vẹo trên ghế ngồi.
Thƣờng đứng dậy trong lớp học hoặc trong những tình huống khác mà đúng
ra cần phải ngồi yên.
Thƣờng chạy nhảy hoặc leo trèo mọi nơi trong những tình huống không phù
hợp (ở thiếu niên hoặc ngƣời lớn, triệu chứng này có thể giới hạn trong một cảm
giác bứt rứt chủ quan).
Thƣờng gặp khó khăn chỉ khi phải giữ yên tĩnh trong các trò chơi hoặc các
hoạt động giải trí.
Thƣờng “lăng xăng” hoặc hoạt động liên tục.
Thƣờng nói quá nhiều.
Tính xung động
Thƣờng trả lời ngay khi câu hỏi chƣa đƣợc nói ra hết.
Thƣờng cảm thấy khó mà chờ đợi đến phiên mình.
Thƣờng ngắt lời ngƣời khác hoặc xen ngang vào việc của ngƣời khác (ví dụ:
ngắt ngang câu chuyện hoặc trò chơi).
B. Một số triệu chứng gia tăng hoạt động – xung động hoặc mất chú ý gây trở
ngại về chức năng đã hiện diện trƣớc 7 tuổi.
C. Có một mức độ nào đó về trở ngại chức năng liên quan đến những triệu
chứng trong hai loại môi trƣờng khác nhau hoặc nhiều hơn (ví dụ: ở trƣờng hoặc
tại công sở và ở nhà).
13
D. Phải có bằng chứng rõ ràng về một sự biến đổi về lâm sàng trong hoạt
động xã hội, học tập hoặc nghề ghiệp.
E. Những triệu chứng không phải chỉ có xảy ra trong Rối loạn phát triển lan
tỏa, Tâm thần phân liệt hoặc trong Rối loạn tâm thần khác (ví dụ: rối loạn khí sắc,
rối loạn lo âu, rối loạn phân ly hoặc rối loạn nhân cách).
Mã hóa theo loại
F90.0 [314.01] Giảm chú ý/ tăng động loại hỗn hợp: nếu cùng một lúc các
tiêu chuẩn A1 và A2 đƣợc hội đủ trong sáu tháng cuối.
F90.0 [314.00] Giảm chú ý/ tăng động loại mất chú ý chiếm ư thế: nếu tiêu
chuẩn A1 hội đủ mà không hội đủ tiêu chuẩn A2 trong sáu tháng cuối.
F90.0 [314.01] Giảm chú ý/ tăng động loại tăng động – xung động chiếm ưu
thế: nếu tiêu chuẩn A2 hội đủ mà không hội đủ tiêu chuẩn A1, trong sáu tháng
cuối
Ghi chú mã hóa: đối với những đƣơng sự (đặc biệt là những thiếu niên và
ngƣời lớn) mà các triệu chứng hiện tại không còn hội đủ toàn bộ những tiêu chuẩn
chẩn đoán thì ghi rõ: “phục hồi một phần” [4, tr 45-47].
1.1.3.2. Theo ICD – 10
Các đặc trƣng chủ yếu là tật chứng về sự chú ý và tăng hoạt động: cả hai tiêu
chuẩn này đều cần thiết trong chẩn đoán và phải đƣợc thấy rõ ràng trong nhiều
hoàn cảnh. (thí dụ ở nhà, ở lớp, ở trong bệnh viện).
Tật chứng về sự chú ý biểu hiện bằng sự đình chỉ trƣớc thời hạn các nhiệm
vụ đang làm và bỏ giở các hoạt động trong khi chƣa hoàn thành. Các trẻ em
thƣờng chuyển từ một hoạt động này sang một hoạt động khác, hình nhƣ chúng
thôi không chú ý đến một công việc bởi vì chúng bị hấp dẫn bởi công việc khác
(trong khi đó thì những nghiên cứu trong phòng thí nghiệm thƣờng không cho
thấy một sự bất thƣờng về sự đãng trí giác quan hay tri giác). Thiếu kiên trì và
thiếu chú ý chỉ có thể đƣa vào chẩn đoán nếu chúng quá đáng so với lứa tuổi và
thƣơng trí. Tăng hoạt động bao gồm sự hoạt động quá mức, đặc biệt trong những
hoàn cảnh đòi hỏi một sự yên tĩnh nào đó. Tùy theo hoàn cảnh, nó biểu hiện ở trẻ
em chạy và nhảy liên tục hoặc đứng dậy khỏi chỗ trong khi ngƣời ta yêu cầu ngồi
14
yên, nói quá mức và làm ồn ào, hoặc cựa quậy không ngừng trong khi ngồi. Tiêu
chuẩn để đánh giá là mức hoạt động quá cao trong khuôn khổ ngƣời ta chờ đợi ở
một đứa bé trong một hoàn cảnh nhất định và so với một đứa bé cùng lứa tuổi
cùng mức độ trí tuệ. Đặc điểm hành vi này biểu hiện rõ ràng hơn trong những
hoàn cảnh có tổ chức và có cấu trúc đòi hỏi một sự kiểm tra bản thân ở mức cao.
Các triệu chứng kết hợp không đủ hoặc không cần thiết để đặt chẩn đoán,
nhƣng có thể giúp cho chẩn đoán. Thiếu kiềm chế trong các mối quan hệ xã hội,
sự dại dột trong những hoàn cảnh nguy hiểm, sự coi thƣờng các nguyên tắc xã hội
một cách xung động (nhƣ can thiệp vào hay làm gián đoạn những công việc của
ngƣời khác, hoặc vội vã đƣa ra những câu trả lời cho những câu hỏi trƣớc khi
chúng đƣợc phát biểu đầy đủ, hoặc không yên tâm chờ đợi đến lƣợt mình) tất cả là
những nét đặc trƣng của những trẻ em có những rối loạn này.
Các khó khăn trong học tập và sự vụng về trong vận động xuất hiện với các
tần số bất thƣờng phải đƣợc ghi chú riêng (từ F80 đến F89) nếu có, nhƣng chúng
không đƣợc xem nhƣ là một thành phần của chẩn đoán hiện tại về rối loạn tăng
động. Các triệu chứng rối loạn hành vi không phải là những chỉ tiêu bao gồm hay
loại trừ chẩn đoán nhƣng có chúng hay không có chúng là cơ sở để sự phân chia
chủ yếu của rối loạn.
Các rối loạn hành vi đặc trƣng phải xuất hiện sớm (trƣớc 6 tuổi) và tồn tại lâu
dài. Tuy nhiên tăng động khó phát hiện trƣớc tuổi vào trƣờng bởi vì các biến đổi
của trạng thái bình thƣờng rất rộng; chỉ những cách biệt cực xa mới phải làm chẩn
đoán ở trẻ em trƣớc tuổi đi học.
Ở tuổi thanh niên, chẩn đoán rối loạn tăng động còn có thể đặt ra. Cơ sở nhƣ
nhau nhƣng sự chú ý và hoạt động phải đƣợc đánh giá theo các chuẩn mực tƣơng
ứng của sự phát triển.
Khi tăng động xuất hiện ở tuổi trẻ em nhƣng đã mất để nhƣờng chỗ cho một
rối loạn khác nhƣ một rối loạn nhân cách chống đối xã hội hoặc lạm dụng ma túy,
thì ngƣời ta ghi mã ở trạng thái hiện tại hơn là trạng thái trƣớc kia.
Chẩn đoán phân biệt: Các rối loạn hỗn hợp thƣờng gặp, và các rối loạn lan
tỏa của sự phát triển đƣợc ƣu tiên chẩn đoán nếu chúng xuất hiện. Những vấn đề
15
chủ yếu trong chẩn đoán nằm ở chỗ phân biệt với các rối loạn hành vi; rối loạn
tăng động đƣợc ƣu tiên chẩn đoán hơn các rối loạn hành vi, khi các tiêu chuẩn
đƣợc đáp ứng. Tuy nhiên các thể nhẹ hơn của tăng động và thiếu chú ý cũng phổ
biến trong rối loạn hành vi. Khi cả hai nét tăng động và rối loạn hành vi đều có và
tăng động lan tỏa và nặng thì chẩn đoán “rối hoạn hành vi tăng động (F90.1). Một
vấn đề khác phát sinh ở chỗ tăng động và thiếu chú ý thuộc loại không đặc trƣng
cho một rôi loạn tăng động, có thể xuất hiện nhƣ một triệu chứng của lo âu hay
trầm cảm. Do vậy, trạng thái bất an, thành phần điển hình của rối loạn trầm cảm
kích động, không đƣợc đƣa vào chẩn đoán của một rối loạn tăng động. Cũng nhƣ
vậy, trạng thái bất an đó thƣờng là một thành phần của lo âu trầm trọng cũng
không đƣợc đƣa vào chẩn đoán của một rối loạn tăng động. Nếu các tiêu chuẩn
cho một trong những rối loạn lo âu đƣợc thỏa mãn thì chẩn đoán này phải ƣu tiên
hơn là chẩn đoán rối loạn tăng động, trừ khi có bằng chứng là có thêm rối loạn
tăng động cùng với trạng thái bất an kết hợp với lo âu. Tƣơng tự nhƣ vậy nên tiêu
chuẩn của rối loạn cảm xúc (F30 – F39) đƣợc thoả mãn thì không đƣợc chẩn đoán
thêm rối loạn tăng động, đơn giản vì có suy giảm tập trung và có kích động tâm
thần vận động. Chỉ làm cả hai chẩn đoán khi các triệu chứng trên không phải đơn
thuần là một phần của rối loạn cảm xúc và khi chúng cho thấy rõ ràng là các rối
loạn tăng động riêng biệt.
Sự khởi phát cấp của một hành vi tăng động ở một đứa trẻ ở tuổi đi học có
thể là kết quả của một rối loạn phản ứng (tâm sinh hoặc thực tổn) một trạng thái
hƣng cảm, bệnh tâm thần phân liệt hay bệnh thần kinh (thí dụ sốt ho thấp khớp).
- Loại trừ các rối loạn lo âu (F41 hoặc F93.0)
- Các rối loạn khia sắc (cảm xúc) (F30 – F39)
- Các rối loạn phát triển lan tỏa (F84)
- Tâm thần phân liệt (F20)
1.1.4. Dịch tễ học và nguyên nhân
1.1.4.1. Dịch tễ
ADHD là rối loạn tâm thần phổ biến nhất trẻ nhỏ. Nhìn chung, tỉ lệ lƣu hành
từ 5 - 12% trẻ em tuổi đi học.
16
Tỉ lệ nam: nữ khoảng 3:1 ở trẻ em và vị thành niên, nhƣng cho rằng chẩn
đoán này cho trẻ nữ bị bỏ sót. Xấp xỉ 8-10% nam và 3-4% nữ dƣới 18 tuổi có
ADHD. Khoảng 80% các trẻ ADHD sẽ tiếp tục thỏa mãn các tiêu chuẩn chẩn
đoán ADHD ở tuổi vị thành niên và 60% sẽ duy trì các triệu chứng cốt lõi ở tuổi
trƣởng thành.
Trong các tƣ liệu khoa học quốc tế, những ƣớc tính về tỉ lệ lƣu hành thay đổi
qua các nghiên cứu. Ở Colombia, tỉ lệ lƣu hành ADHD đƣợc ƣớc tính là 19% đối
với nam và 12% đối với nữ; loại kết hợp (ADHD) là 6.4%, loại kém chú ý là 4.8%
và loại tăng động xung động là 3%. Một phạm vi rộng nhƣ vậy trong ƣớc tính tỉ lệ
lƣu hành dƣờng nhƣ không phản ánh sự khác biệt thực sự trong số ngƣời có
ADHD ở các dân số khác nhau. Polanczyk và các cộng sự (2008) đã tiến hành một
tổng quan hệ thống các nghiên cứu tỉ lệ lƣu hành và kết luận rằng phần lớn các sự
thay đổi bắt nguồn từ các phƣơng pháp sử dụng, chẳng hạn nhƣ cách thức mà các
triệu chứng đƣợc đo lƣờng và các định nghĩa chính xác đƣợc sử dụng. Có sự khác
biệt tƣơng đối nhỏ trong các khu vực khác nhau trên thế giới và tổng kết về tỉ lệ
lƣu hành của sự tổng quan là vào khoảng 5,3% [20].
Ở Việt Nam, từ năm 2007 đến nay đã xuất hiện một vài nghiên cứu về tỉ lệ
mắc ADHD nhƣng chỉ diễn ra ở địa bàn Hà Nội và trên một số trƣờng tiểu học và
trung học cơ sở (THCS). Các nghiên cứu cũng cho kết quả rất khác nhau, tỉ lệ mắc
phải dao động từ 3-6,3%. Trong đó, theo Võ Thị Minh Chí (2003) tỉ lệ nam là
1,28%, nữ là 0,19% ở học sinh THCS [5,6]. Tại thành phố Hồ Chí Minh (2013),
có 2,3% trẻ có biểu hiện rối loạn giảm chú ý [4].
1.1.4.2. Nguyên nhân
Các nguyên nhân của ADHD liên quan đến sự tƣơng tác của nhiều yếu tố gen
và môi trƣờng. Không có một nguyên nhân trực tiếp nào gây ra ADHD, kể cả gen
và không liên quan đến gen. Mà là những tƣơng tác phức tạp của nhiều yếu tố
nguy cơ và môi trƣờng.
Gen
17
Có bằng chứng mạnh mẽ từ các nghiên cứu về sự đóng góp lớn của di truyền
đối với ADHD. Phát hiện này đƣợc hỗ trợ bởi các nghiên cứu song sinh, nghiên cứu nhận nuôi, các nghiên cứu gia đình và các nghiên cứu di truyền học phân tử.
ADHD là rối loạn có thể có tính di truyền rất cao nhƣng tỷ lệ không phải là
100%. Nó đã đƣợc báo cáo trong một số nghiên cứu cao đến 79%. ADHD chia sẻ
một nguy cơ về di truyền với những vấn đề phối hợp phát triển, khả năng đọc, IQ,
những vấn đề về khí sắc và ứng xử.
Các gen nhạy cảm (Susceptibility Genes)
Những bất thƣờng ở các gen quy định thụ thể dopamine D4 và D5 (DRD 4 &
DRD5) đƣợc nối kết với ADHD. Các gen quy định chất vận chuyển dopamine
(dopamine transporter genes - DAT1) đƣa đến mức độ dopamine thấp trong não
bộ của những bệnh nhân ADHD.
Một số rối loạn hiếm gặp về gen nhƣ hội chứng mất đoạn và bất thƣờng
nhiễm sắc thể đƣợc kết hợp với ADHD. Những ví dụ bao gồm U sợi thần kinh
type 1, hội chứng Angelman, hội chứng Prader-Willi, hội chứng nhiễm sắc thể X
dễ vỡ, bệnh xơ cứng củ và mất đoạn nhỏ nhiễm sắc thể 22 q 11.
Hình ảnh học thần kinh và hóa học thần kinh
ADHD đƣợc cho là do việc hoạt động kém ở những cấu trúc vỏ não vùng
trán và dƣới vỏ làm giảm sự sản xuất dopamine và norepinephrine. Những nghiên
cứu về hình ảnh học thần kinh xác nhận rằng những bất thƣờng của não bộ trong
các mạng lƣới trán-dƣới vỏ đƣợc nối kết với ADHD nhƣng những kỹ thuật về hình
ảnh học thần kinh không phải là các công cụ có giá trị trong chẩn đoán ADHD;
những đo lƣờng hình ảnh không đủ độ đặc hiệu và độ nhạy để có thể sử dụng cho
mục đích chẩn đoán.
Lƣng vỏ não trƣớc Cingulate đƣợc cho là có nối kết với chú ý có chọn lọc
(chi tiết, lắng nghe, lỏng lẻo, quên). Vỏ não vận động trán trƣớc đƣợc gắn với
những triệu chứng tăng động. Vỏ não trán-ổ mắt đƣợc gắn với những triệu chứng
xung động. Vỏ não trƣớc trán vùng lƣng bên đƣợc liên kết với chức năng giải
quyết vấn đề, duy trì chú ý và chức năng quản trị (tổ chức, theo dõi, tránh nỗ lực
tinh thần).
18
Những nghiên cứu hình ảnh học thần kinh và MRI ở trẻ ADHD đã báo cáo
những sự bất thƣờng ở vỏ não tiền trán, hạch nền, kích thƣớc giảm của vỏ não
trán, tiểu não, hạch nền, thể chai và thùy trán. Chứng giảm lƣu thông máu cũng
được báo cáo ở vùng vân.
Các yếu tố giai đoạn mang thai và ở đầu giai đoạn thời thơ ấu
Một số yếu tố đã cho thấy sự liên kết về mặt dịch tễ và lâm sàng với ADHD.
Những yếu tố này bao gồm sử dụng rƣợu và thuốc lá dẫn đến hội chứng ảnh
hƣởng đến trẻ sơ sinh do ngƣời mẹ khi mang thai nghiện rƣợu (hội chứng rƣợu-
bào thai) hoặc dùng ma túy nhƣ heroin trong thời gian thai kỳ. Ngƣời ta cũng cho
rằng trẻ này sinh rất nhẹ cân, sinh non, giảm oxi trong bào thai, chấn thƣơng não
có thể dẫn đến ADHD. Sự căng thẳng của ngƣời mẹ cũng đƣợc nối kết với
ADHD.
Những yếu tố độc tố và chế độ ăn uống
Tiếp xúc với các chất độc nhƣ thuốc trừ sâu, polychlorinated biphenyl
(PCBs), đƣa đến và thiếu sắt và kẽm đã đƣợc nghiên cứu trong nỗ lực để hiểu
những đóng góp của chung đối với ADHD.
Phụ gia thực phẩm, đƣờng, chất tạo màu, các axit béo omega 3 và chế độ ăn
hạn chế (elimination diet) đã đƣợc nghiên cứu liên quan đến các triệu chứng
ADHD. Thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên gần đây cho thấy một số lợi ích trong
việc sử dụng chế độ ăn loại trừ trong việc cải thiện các triệu chứng ADHD.
Các yếu tố tâm lý xã hội
ADHD có liên quan với bất lợi tâm lý xã hội ban đầu nghiêm trọng. Học vấn
của cha mẹ thấp, nghèo đói, thiếu thốn, cha mẹ tiêu cực, bị bắt nạt bởi các bạn
đồng trang lứa, bất hòa trong gia đình có liên quan đến ADHD [19].
1.1.5. Các phương thức điều trị rối loạn tăng động giảm chú ý
Nhƣ đã thảo luận ở phần lý do chọn đề tài, trẻ ADHD gặp nhiều khó khăn
trong hầu hể các khía cạnh đời sống của trẻ. Bên cạnh những triệu chứng cốt lõi
tăng động/xung động và suy giảm chú ý, trẻ ADHD còn gặp nhiều vấn đề khác là
hệ quả của những triệu chứng chính nhƣ rối loạn hàn vi, các vấn đề trong tƣơng
tác xã hội. Vì vậy, trong những thập niên trƣớc, nhiều phƣơng pháp điều trị
19
ADHD đã đƣợc nghiên cứu. Các phƣơng pháp điều trị đã đƣợc chứng minh là hiệu
quả trong nhiều thử nghiệm khác nhau là thuốc và điều trị hành vi. Qua thời gian,
hai phƣơng pháp này ngày càng đƣợc các nhà khoa học đào sâu, phát triển và thực
hành kết hợp trong điều trị. Gần đây trên thế giới, phƣơng pháp điều trị hiệu quả
nhất cho rối loạn tăng động giảm chú ý là trị liệu đa phƣơng thức bao gồm kết hợp
điều trị thuốc methylphenidate với liệu pháp gia đình, hoặc là huấn luyện hành vi
và dạy những kỹ năng ứng phó cho cha mẹ và các chƣơng trình giáo dục ở trƣờng
học [1, tr 168 - 169].
1.1.5.1. Điều trị bằng hóa dược
Đối với hầu hết trẻ em, thuốc rất hiệu quả cho các triệu chứng cốt lõi của
ADHD là thiếu chú ý, hiếu động, và bốc đồng.
Thuốc kích thích hệ thần kinh trung ương:
Một số thuốc giống giao cảm đƣợc dùng trong tâm thần học nhƣ các thuốc
kích thích tâm thần và hồi sức là dextroamphetamin (Dexedrin), methylphenidat
(Ritalin) và pemolin (Cylert). Các thuốc này đƣợc dùng để chữa chứng ngủ rũ và
tăng động – giảm chú ý.
Dextroamphetamin viên 5mg, 10mg; cho ngƣời lớn, liều ban đầu 2.5-
10mg/ngày, trung bình 10-20mg/ngày, tối đa 40mg/ngày; nếu dùng cho trẻ ba hay
trên ba tuổi, cần thăm dò liều thích hợp;
Methylphenidat cho trẻ em 6 tuổi hoặc trẻ lớn hơn nhƣng cần thăm dò liều
lƣợng; có viên 5mg, 10mg, 20mg; cho ngƣời lớn bắt đầu 5mg/ngày, tăng dần đến
20-30mg/ngày, tối đa 60-80mg/ngày;
Pemolin tuy tác dụng có phần không mạnh bằng hai loại trên nhƣng khả năng
gây lạm dụng thấp nên đƣợc dùng nhiều hơn; có viên 18.75mg, 37.5mg, 75mg; bắt
đầu dùng liều 18.75-37.5mg/ngày, trung bình 56.25-75mg/ngày, tối đa
112.5mg/ngày. Cho trẻ em, cần thăm dò liều lƣợng thích hợp.
Có hai vấn đề tranh cãi về sử dụng các thuốc này:
Thuốc làm giảm nhẹ sự tăng trƣởng: cho nghỉ thuốc một thời gian, sự phát
triển trở lại bình thƣờng rõ ràng.
20
Quen thuốc và lạm dụng thuốc: sẽ không có vấn đề gì nếu dùng thuốc hợp lý
trong phạm vi liều lƣợng thƣờng dùng.
Thuốc chống trầm cảm
Imipramin (Tofranil) đặc biệt cho thể trầm cảm có rối loạn ám ảnh và/hay là
lo âu viên 25mg, cho thanh thiếu niên 1-3 viên/ngày;
Desipramin (Norpramin) dùng có lợi khi các thuốc kích thích không cho hiệu
quả. Thuốc này còn dùng để điều trị rối loạn giảm chú ý – tăng động kết hợp với
tic và khi dùng thuốc kích thích điều trị cho một trẻ bị giảm chú ý – tăng động đã
làm xấu đi rối loạn tic. Thuốc có dạng viên 25mg, cho thanh thiếu niên bắt đầu
dùng 1-2 viên/ngày, có thể tăng đến 5-6 viên/ngày. Cho trẻ em, cần thăm dò liều
lƣợng.
Các thuốc chống trầm cảm ba vòng tác động bằng cách phong bế sự tái bắt
giữ catecholamin; cần dùng rất thận trọng vì thuốc có khả năng gây độc cho tim.
Nhƣ vậy, bên cạnh những lợi ích mà việc điều trị thuốc có thể đem lại nhƣ là
giúp trẻ kiểm soát đƣợc những hành vi tăng động/xung động, cải thiện khả năng
chú ý thì cũng tồn tại những mặt hạn chế do các tác dụng phụ không mong muốn
của thuốc.
1.1.5.2. Điều trị bằng các liệu pháp tâm lý xã hội
Nhƣ đã biết, mặc dù thuốc có vai trò quan trọng trong điều trị ADHD, tuy
nhiên phƣơng pháp này chỉ là một phần trong chiến lƣợc điều trị đa phƣơng thức
cho trẻ ADHD. Đối với các vấn đề thiếu hụt kỹ năng xã hội, các liệu pháp tâm lý
cá nhân giúp trẻ thay đổi hành vi, tƣ vấn cho cha mẹ và điều trị các rối loạn phát
triển đặc hiệu cùng tồn tại đều rất cần thiết [1, tr 168].
Những can thiệp tâm lý xã hội cho trẻ ADHD bao gồm giáo dục tâm lý, khắc
phục những kỹ năng tổ chức học tập, huấn luyện cha mẹ, sửa đổi hành vi ở lớp
học và tại nhà, liệu pháp nhận thức hành vi, huấn luyện kỹ năng xã hội. Huấn
luyện kỹ năng hành vi, nhóm xã hội cho cha mẹ có trẻ ADHD, và những can thiệp
hành vi ở trƣờng và tại nhà, đã đƣợc nghiên cứu độc lập và kết hợp với việc quản
lý thuốc cho ADHD.
21
Sự đánh giá và điều trị các rối loạn học tập và rối loạn tâm thần khác đi kèm
cũng là một trong những vấn đề quan trọng. Khi đứa trẻ đƣợc trợ giúp để cấu trúc
môi trƣờng của chúng, những lo lắng của chúng sẽ giảm đi. Rất hữu ích khi cha
mẹ và giáo viên làm việc cùng nhau để thiết lập những mong đợi cụ thể cho đứa
trẻ và và một hệ thống phần thƣởng cho trẻ khi những mong đợi đƣợc đáp ứng.
Mục đích chung của liệu pháp là giúp đỡ phụ huynh nhận thức và thúc đẩy ý
tƣởng rằng mặc dù trẻ không thể biểu hiện các triệu chứng của ADHD một cách
“tự nguyện” trẻ vẫn có khả năng đáp ứng đƣợc những mong đợi có thể (phù hợp
với trẻ).
Phụ huynh cũng đƣợc giúp đỡ để nhận thức rằng, cho dù những khó khăn của
con cái họ nhƣ vậy, mỗi đứa trẻ phải đối diện mới những khó khăn trƣởng thành
thông thƣờng bao gồm xây dựng lòng tự trọng khi trẻ pháp triển một ý thức về sự
thông thạo. Do đó đứa trẻ ADHD không có đƣợc lợi ích từ việc đƣợc miễn những
yêu cầu, mong đợi và hoạch định có thể đối với những trẻ khác. Huấn luyện cha
mẹ là một phần lồng ghép của những can thiệp điều trị đối với trẻ ADHD. Hầu hết
việc huấn luyện cha mẹ đƣợc dựa trên những can thiệp hành vi có thể sử dụng với
những củng cố tích cực đối với cả hành vi xã hội lẫn hành vi học tập.
Liệu pháp nhóm nhắm đến mục tiêu về những kỹ năng xã hội, gia tăng lòng
tự trọng và phát triển ý thức về sự thành công có thể rất có lợi cho những trẻ
ADHD vốn có những khó khăn trong các môi trƣờng nhóm, đặc biệt là ở trƣờng.
Một can thiệp nhóm kéo dài một năm trong môi trƣờng lâm sàng cho những bé
trai có rối loạn đã mô tả mục tiêu là giúp những bé trai này phát triển kỹ năng chơi
trò chơi và ý thức thông thạo với bạn bè cùng trang lứa. Những bé trai này đầu
tiên đƣợc yêu cầu thực hiện những trò chơi vui vẻ, theo cặp, và kế đó dần đƣợc
yêu cầu thực hiện những nhiệm vụ theo nhóm. Trẻ đƣợc hƣớng dẫn theo những
chỉ dẫn sau: chờ đợi, tập trung chú ý, và đƣợc khen thƣởng khi hợp tác thành
công. [16]
Tất cả những phƣơng pháp can thiệp tâm lý xã hội trên đều nhằm đến hỗ trợ
trẻ ADHD trong các khía cạnh khó khăn về mặt xã hội. Nhƣ vậy, hỗ trợ điều trị
22
cho trẻ ADHD đang đƣợc ngày càng chú ý ở mức toàn diện hơn trên tất cả các mặt
đời sống của trẻ.
1.1. Phong cách làm cha mẹ
1.1.6. Định nghĩa
Phong cách làm cha mẹ (đƣợc dịch từ tiếng Anh là “parenting style”) đƣợc
đề cập nhiều bắt đầu từ những năm 1920. Làm cha mẹ là một hoạt động phức tạp
bao gồm nhiều hành vi cụ thể nhƣ làm việc cá nhân và cùng nhau để gây ảnh
hƣởng đến các kết quả của con cái. Mặc dù hành làm cha mẹ là cụ thể, chẳng hạn
nhƣ đánh đòn hoặc đọc to, có thể ảnh hƣởng đến phát triển của trẻ, nhƣng nhìn
vào bất kỳ hành vi cụ thể nào trong sự tách biệt cũng có thể gây hiểu nhầm. Nhiều
tác giả đã lƣu ý rằng những thực hành cụ thể trong nuôi dạy con cái là ít quan
trọng trong việc dự đoán hạnh phúc của con cái hơn là mẫu hình chung của cha
mẹ. Hầu hết các nhà nghiên cứu đã cố gắng để mô tả mẫu hình này của cha mẹ
dựa trên khái niệm về phong cách làm cha mẹ của Diana Baumrind.
Theo Baumrind (1991) việc xây dựng phong cách làm cha mẹ đƣợc sử dụng
để nắm bắt sự thay đổi bình thƣờng trong các nỗ lực của cha mẹ để kiểm soát và
xã hội hóa con cái của họ. Tồn tại hai điểm rất quan trọng trong việc tìm hiểu định
nghĩa này. Đầu tiên, phong cách làm cha mẹ là có nghĩa là để mô tả sự thay đổi
bình thƣờng ở cha mẹ. Nói cách khác, các loại hình phong cách làm cha mẹ mà bà
Baumrind đã phát triển không nên đƣợc hiểu là bao gồm các hành vi lệch chuẩn
của cha mẹ, chẳng hạn nhƣ có thể đƣợc quan sát thấy trong những gia đình lạm
dụng hoặc bỏ rơi con cái. Thứ hai, Baumrind giả định rằng làm cha mẹ bình
thƣờng xoay quanh các vấn đề về kiểm soát. Mặc dù cha mẹ có thể khác nhau ở
cách họ cố gắng để kiểm soát hay xã hội hóa con cái của họ và mức độ mà họ làm
nhƣ vậy, nó đƣợc giả định rằng vai trò chính của tất cả các bậc cha mẹ là gây ảnh
hƣởng, dạy dỗ và kiểm soát con cái của họ. [5].
Bên cạnh đó, theo Maccoby và Martin (1983) phong cách làm cha mẹ có hai
yếu tố chính: sự nồng nhiệt và những mong muốn của cha mẹ. Trong đó, sự nồng
nhiệt đƣợc thể hiện qua mức độ ấm áp trong đáp ứng và hỗ trợ con cái. Những
mong muốn của cha mẹ đƣợc thể hiện qua mức độ kiểm soát, đƣa ra những yêu
23
cầu trên con cái của cha mẹ.
Nhƣ vậy, mặc dầu mỗi tác giả khi nghiên cứu về phong cách làm cha mẹ
thƣờng đƣa ra những ý kiến riêng nhƣng hầu hết đều ủng hộ và xây dựng khái
niệm phong cách làm cha mẹ dựa trên quan điểm của Diana Baumrind (1991) [5].
Bà cho rằng “phong cách làm cha mẹ là những khuôn mẫu khác nhau mà cha mẹ
thƣờng sử dụng để cố gắng kiểm soát và xã hội hóa đứa trẻ”. Và trong nghiên cứu
này, chúng tôi cũng ủng hộ định nghĩa này của Diana Baumrind để hiểu về phong
cách làm cha mẹ.
1.1.7. Phân loại các kiểu phong cách làm cha mẹ
Theo Diana Baumrind, có bốn khía cạnh quan trọng trong phong cách làm cha mẹ
[18]:
- Chiến lƣợc kỷ luật
- Ấm áp và chăm sóc
- Cách thức giao tiếp với con cái
- Kỳ vọng về sự trƣởng thành của con cái và cách thức kiểm soát.
Dựa trên bốn khía cạnh này, bà cho rằng có ba phong cách cha mẹ chủ yếu
là: phong cách làm cha mẹ dân chủ, phong cách làm cha mẹ độc đoán và phong
cách làm cha mẹ dễ dãi.
Diana Baumrid (1966) [54] mô tả ba phong cách làm cha mẹ điển hình nhƣ
sau:
Cha mẹ có phong cách làm cha mẹ dễ dãi có huynh hƣớng cƣ xử một cách
không trừng phạt, chấp nhận và khẳng định nhằm hƣớng đến sự bất đồng, mong
muốn và hành động của trẻ. Cha mẹ hỏi ý kiến trẻ về các quyết định và đƣa ra các
giải thích về luật lệ gia đình. Cha mẹ đƣa ra một vài yêu cầu cho trách nhiệm gia
đình và hành vi có trật tự. Cha mẹ thể hiện mình với con cái nhƣ một nguồn lực để
đáp ứng các mong ƣớc của trẻ, chứ không phải nhƣ một ý tƣởng cho con cái mô
phỏng theo, hay không phải nhƣ một tác nhân tích cực có nhiệm vụ xây dựng hoặc
thay đổi hành vi trong hiện tại hay tƣơng lai của con trẻ. Cha mẹ cho phép con cái
điều tiết các hoạt động của mình càng nhiều càng tốt, tránh việc kiểm soát, và
không khuyến khích con cái tuân thủ một số các tiêu chuẩn bên ngoài. Cha mẹ
24
hƣớng đến sử dụng lý trí hoặc hành động, nhƣng không sử dụng quyền lực để thực
hiện mục đích của mình.
Cha mẹ có phong cách làm cha mẹ độc đoán thƣờng cố gắng định hình, kiểm
soát, đánh giá hành vi và thái độ của con cái theo một bộ tiêu chuẩn đạo đức,
thƣờng là một tiêu chuẩn tuyệt đối, đƣợc thúc đẩy và hình thành một cách chủ
quan bởi ngƣời thẩm quyền cao hơn. Phụ huynh đánh giá sự vâng lời nhƣ một đức
tính tốt và ủng hộ việc trừng phạt, áp dụng các biện pháp mạnh mẽ để ngăn chặn
sự tự ý xảy ra khi hành vi hoặc niềm tin của con cái xung đột với những gì cha mẹ
nghĩ đó là đức tính tốt. Cha mẹ tin vào việc kiểm soát con cái, hạn chế quyền tự
chủ của con cái, và phân công trách nhiệm gia đình để khắc sâu sự tôn trọng công
việc. Cha mẹ xem việc giữ gìn trật tự và cấu trúc truyền thống nhƣ một mục đích
có giá trị cao. Cha mẹ không khuyến khích sự cho và nhận bằng lời nói và tin rằng
con cái nên vâng lời mình vì việc gì đó đƣợc cho là đúng.
Cha mẹ có phong cách làm cha mẹ dân chủ cố gắng để chỉ đạo các hoạt động
của con cái nhƣng theo một định hƣớng hợp lý. Cha mẹ khuyến khích cho và nhận
bằng lời nói, chia sẻ với con cái những lý do đằng sau những quyết định của mình,
và gạ gẫm sự phản đối của trẻ khi trẻ từ chối tuân theo. Cả hai sự tự chủ và sự tuân
thủ kỷ luật đều đƣợc coi trọng. Vì vậy cha mẹ thƣờng kiểm soát chắc chắn các
điểm khác biệt giữa cha mẹ và con cái, nhƣng không bao bọc con cái bởi các ràng
buộc. Cha mẹ thực thi quan điểm riêng của mình nhƣ một ngƣời trƣởng thành,
nhƣng công nhận sở thích cá nhân và tính cách đặc biệt của trẻ. Cha mẹ có phong
cách làm cha mẹ dân chủ thƣờng khẳng định phẩm chất hiện tại của con cái,
nhƣng cũng đặt ra các tiêu chuẩn cho hành vi trong tƣơng lai. Cha mẹ sử dụng lý
trí, quyền lực và định hình cách giáo dục và củng cố để đạt đƣợc mục tiêu của
mình. Cha mẹ không áp đặt quyết định của mình trên sự đồng thuận nhóm hoặc
những ham muốn cá nhân của con cái.
1.1.8. Tính cách của trẻ và phong cách làm cha mẹ
Phong cách làm cha mẹ uy quyền
- Khuynh hƣớng sôi nổi và hạnh phúc
- Tự tin về khả năng làm chủ công việc.
25
- Quy chế cảm xúc phát triển tốt
- Kỹ năng xã hội phát triển
- Ít cứng nhắc về đặc điểm giới tính (ví dụ: nhạy cảm ở bé trai và độc lập ở bé
gái)
Phong cách làm cha mẹ độc đoán
- Có huynh hƣơng lo lắng, dễ từ bỏ và không hạnh phúc
- Hành xử kém đối với các việc gây thất vọng (đặc biệt các bé gái dễ từ bỏ và
bé trai đặc biệt trở nên không thân thiện)
- Học tốt ở trƣờng (có thể so sánh với các nghiên cứu cho mẹ phong cách uy
quyền )
- Không có khuynh hƣớng tham gia vào các hoạt động chống đối xã hội (ví
dụ: ma túy và lạm dụng rƣợu, đập phá, các băng nhóm)
Phong cách làm cha mẹ dễ dãi
- Quy chế cảm xúc kém
- Nổi loạn và ngang bƣớng khi sự ham muốn bị thách thức.
- Kiên trì thấp với các nhiệm vụ có tính thử thách
- Hành vi chống đối xã hội
Ngoài ra, trong một nghiên cứu mới hơn, Maccoby và Martin (1983) [28] đã
bổ sung thêm một phong cách làm cha mẹ vào ba loại phong cách trên. Phân loại
bốn phong cách làm cha mẹ của ông là:
- Phong cách làm cha mẹ dân chủ (cha mẹ có sự ấm áp, mong đợi của cha mẹ
rõ ràng, luật lệ đƣợc đƣa ra phù hợp và có thảo luận với con cái).
- Phong cách làm cha mẹ độc đoán (ít thể hiện sự nồng ấm, cha mẹ đƣa ra
mong đợi và luật lệ theo cách áp đặt, thiếu sự trao đổi, có nhiều hình phạt nghiêm
khắc về thể chất nếu trẻ phạm lỗi).
- Phong cách làm cha mẹ dễ dãi – nuông chiều (cha mẹ thể hiện mức độ nồng
ấm cao nhƣng với sự kiểm soát thấp).
- Phong cách làm cha mẹ thờ ơ – không quan tâm (thể hiện thấp cả về sự
nồng ấm và kiểm soát).
Nhƣ vậy với mỗi phong cách làm cha mẹ, sự tƣơng tác giữa cha mẹ với con
26
cái là khác nhau, chất lƣợng tƣơng tác ảnh hƣởng đến tính cách của đứa trẻ. Trong
nghiên cứu này, chúng tôi xin sử dụng thang đo phong cách cha làm mẹ dựa trên
ba yếu tố dân chủ, độc đoán và dễ dãi để thực hành. Do đó, chúng tôi dựa vào sự
phân loại 3 phong cách làm cha mẹ dân chủ, độc đoán, dễ dãi.
1.2. Phong cách làm cha mẹ trong những gia đình có trẻ được chẩn đoán rối
loạn tăng động giảm chú ý
1.1.9. Các nghiên cứu ở phương Tây
Hamid Alizadeh (2007) [16] xác định mối quan hệ giữa sự tự tin của cha mẹ,
sự ấp áp và gần gũi với con cái và sự trừng phạt trong gia đình của trẻ em bị chứng
tăng động, giảm chú ý (ADHD). Về phƣơng pháp, chẩn đoán ADHD đƣợc thiết
lập thông qua phỏng vấn lâm sàn với cha mẹ, con cái, và giáo viên theo tiêu chuẩn
DSM – IV – TR. Chẩn đoán này cũng đƣợc thiết lập bằng cách cho cha mẹ hoàn
thành khảo sát về thang đo đánh giá cha mẹ của Conner, và các giao viên hoàn
thành thang đo đánh giá giao viên của Conner. Hai nhóm cha mẹ ngƣời Iran, một
nhóm với con cái bị ADHD (N=130) và một nhóm kiểm soát (N=120), thang đo
phong cách cha mẹ và sự tƣ tin đƣợc lấy từ bảng khảo sát đã thực hiện. Kết quả
của nghiên cứu đã chỉ ra cha mẹ của trẻ bị ADHD thì cho thấy có một sự tự tin
thấp hơn và ít ấm áp và ít gần gũi với con cái của họ hơn, sử dụng biện phát trừng
phạt mạnh hơn so với cha mẹ của nhóm kiểm soát. Kết luận của nghiên cứu cung
cấp một bằng chứng mạnh mẽ rằng trẻ em bị ADHD thì có rủi ro đáng xem xét về
sự ngƣợc đãi bởi cha mẹ của chúng. Thay vì chỉ tập trung vào chứng ADHD của
trẻ, phƣơng pháp điều trị cũng cần tính đến chức năng của cha mẹ.
Trong nghiên cứu của mình, Shakila Yousefia (2011) [34] nhắm đến so sánh
áp lực nuôi dạy trẻ của những ngƣời mẹ có trẻ bị ADHD và những đứa trẻ bình
thƣờng. Phƣơng pháp so sánh nhân quả đƣợc sử dụng. Đặc trƣng của mẫu là gồm
các trẻ em từ 5 đến 12 tuổi đƣợc chuyển đến bệnh viện tâm thần (bệnh viện I bn-e-
sina và bệnh viện Shaykh Doctor, thuộc Iran). Tất cả những ngƣời mẹ của nhóm
trẻ bình thƣờng (từ 5-12 tuổi) đƣợc chọn ở trƣờng mẫu giáo và tiểu học trong địa
bàn quận 4 của Mashhad với 50 cha mẹ có trẻ bị ADHD và 80 ngƣời mẹ trong
nhóm trẻ bình thƣờng đƣợc chọn theo phƣơng pháp chọn mẫu cả khối (cluster
27
sampling). Các công cụ đƣợc đề xuất là thang đo phong cách cha mẹ Diana
Baumrind và chỉ số áp lực nuôi dạy trẻ (PSI). Phƣơng pháp nghiên cứu đƣợc sử
dụng là kiểm định T-test cho các nhóm độc lập, phân tích ANOVA hai chiều. Các
kết quả cho thấy rằng có một sự khác biết có ý nghĩa thống kê giữa áp lực nuôi
dạy trẻ của những ngƣời mẹ có con bị ADHD và nhóm trẻ bình thƣờng. Và có một
sự khác biệt có ý nghĩa thông kê giữa phong cách cha mẹ giữa những ngƣời mẹ có
con bị ADHD và nhóm trẻ bình thƣờng. Bên cạnh đó có một sự khác biệt có ý
nghĩa thông kê trong áp lực nuôi dạy trẻ giữa những ngƣời mẹ có con bị ADHD và
nhóm trẻ bình thƣờng. Và mức độ áp lực nuôi dạy trẻ có một tác động lên phong
cách cha mẹ của nhóm trẻ bị ADHD. Nói cách khác, áp lực nuôi dạy trẻ càng cao,
thì phong cách cha mẹ độc đoán càng cao.
Trong nghiên cứu so sánh về hiệu quả của cha mẹ và hành vi trẻ em trong
một mẫu gồm có cha mẹ và trẻ em từ lớp 4 đến lớp 6 có và không có ADHD của
Primack và cộng sự (2012) [32]. Mục tiêu của nghiên cứu là sử dụng báo cáo của
cả cha mẹ và trẻ. Kết quả đã cho thấy hiệu quả trong cách làm cha mẹ của những
cha mẹ của trẻ ADHD thấp hơn so với những cha mẹ của trẻ không ADHD, và
nếu phản hồi điều này cho họ biết sẽ cải thiện hiệu quả của vai trò làm cha mẹ, và
điều này đƣợc biết có gắn kết tích cực đến kết quả điều trị ADHD.
Mahboobeh Firouzkouhi Moghaddam và cộng sự (2013) [29] so sánh phong
cách cha mẹ của những cha mẹ của trẻ có và không có ADHD cho thấy rằng cha
mẹ của trẻ ADHD có phong cách cha mẹ độc đoán nhiều hơn và ít có phong cách
cha mẹ dễ dãi hơn. Những cách nuôi dạy nhƣ vậy có thể dẫn đến việc làm xấu đi
những triệu chứng của ADHD, vì thế việc cải thiện phong cách cha mẹ với liệu
pháp gia đình, huấn luyện phụ huynh về hành vi, các chƣơng trình giáo dục học
đƣờng, và kỹ năng ứng phó giảng dạy có thể cải thiện chất lƣợng cuộc sống và các
mối quan hệ trong gia đình có trẻ em ADHD.
Nhìn chung, các tài liệu nghiên cứu của các tác giả phƣơng Tây cho thấy
những đặc điểm chung trong tƣơng tác cha mẹ - con cái trong gia đình có trẻ
ADHD là trẻ ADHD nhận đƣợc ít sự quan tâm, ít sự nồng ấm, và có khuynh
hƣớng chịu sự trừng phạt nhiều hơn so với những trẻ bình thƣờng và trẻ không có
28
ADHD. Các nghiên cứu cũng chỉ ra tác động của các triệu chứng ADHD ở trẻ tạo
ra áp lực hơn cho cha mẹ trong nuôi dạy con cái so với những trẻ em bình thƣờng.
Áp lực trong nuôi dạy con cái càng cao thì cha mẹ càng có khuynh hƣớng phong
cách độc đoán càng nhiều. Điều này nói lên rằng cha mẹ của trẻ ADHD thƣờng có
phong cách độc đoán hơn, kém hiệu quả hơn so với phong cách cha mẹ của những
phụ huynh có con bình thƣờng hay không có ADHD.
1.1.10. Các nghiên cứu ở châu Á và Việt Nam
1.1.10.1. Các nghiên cứu ở châu Á
Theo Li-Ren Chang cùng cộng sự (2013) [27] các tài liệu nghiên cứu phƣơng
Tây khảo chứng sự tƣơng tác cha – con kém và sự tƣơng tác mẹ – con kém ở các
gia đình có trẻ em bị tăng động/ giảm chú ý (ADHD). Tuy vậy, phƣơng pháp giáo
dục của cha và sự ảnh hƣởng của phƣơng pháp này trong các gia đình châu Á có
trẻ bị ADHD vẫn chƣa đƣợc khám phá. Các tác giả so sánh mối tƣơng tác cha –
con và phong cách làm cha giữa trẻ em bị ADHD và không bị ADHD và nhận ra
mối tƣơng quan của các thang đo phong cách cha mẹ này. Về phƣơng pháp, sự
tƣơng tác cha – con và phong cách làm cha đƣợc so sánh với giữa 296 trẻ bị tăng
động/ giảm chú ý (ADHD) và 229 trẻ em không bị ADHD ở Đài Loan. Tất cả trẻ
em và cha mẹ của chúng nhận các bảng phỏng vấn tâm thần để chẩn đoán ADHD
và các rối loại tâm thần khác của trẻ, và ngƣời cha cũng đƣợc đánh giá về các triệu
chứng ADHD, lo âu và trầm cảm. Cả ngƣời cha và con đều báo cáo về phong cách
làm cha, sự tƣơng tác cha – con, các vấn đề về hành vi tại nhà, và nhận thức về sự
hỗ trợ của gia đình. Các kết quả cho thấy trẻ em bị ADHD ít nhân đƣợc sự quan
tâm hơn và bị bảo vệ quá mức và kiểm soát độc đoán từ cha của chúng. Chúng có
ít sự tƣơng tác linh hoạt với cha hơn, các vấn đề đối xử nghiêm khắc, và nhận thức
sự hỗ trợ gia đình thì ít hơn trẻ không bị ADHD. Tƣơng quan đối với sự tƣơng tác
cha – con kém là các yếu tố các triệu chứng ADHD khi còn nhỏ, bệnh tật, tuổi
đánh giá, và triệu chứng lạo thần và trầm cảm ở ngƣời cha. Thêm vào đó, trẻ em
báo cáo tiêu cực hơn về sự tƣơng tác cha-con và phong cách làm cha hơn những
ngƣời cha bao cáo. Nhƣ vậy, các nghiên cứu của tác giả gợi ý rằng tác động tiêu
cực của ADHD lên phong cách cha mẹ và tƣơng tác cha – con. Nhƣng biện pháp
29
can thiệp lâm sàn nhắm đến cải thiện tƣơng tác cha – con nên đƣợc chú ý hơn.
Gau và Chang (2013) [14] điều tra nghiên cứu sự tƣơng tác mẹ – con và
phong cách làm mẹ trong thanh thiếu niên bị và không bị chứng tăng động giảm
chú ý (ADHD) trong một mẫu gồm 190 thanh thiếu niên bị DSM-IV ADHD kéo
dài, và 147 ADHD không kéo dài và 233 không bị ADHD. Cả ngƣời tham dự và
cha mẹ của họ nhận phỏng vấn tâm thần cho các triệu chứng ADHD và các rối
loạn tâm thần khác, và thƣớc đo phong cách mẹ dựa trên công cụ kết nối cha mẹ
(Parental Bonding Instruments), thƣớc đo sự tƣơng tác với mẹ và vấn đề hành xử
trong gia đình dựa trên thống kê điều chỉnh xã hội (Social Adjustment Inventory).
Ngƣời mẹ cũng báo có về ADHD và các triệu chứng tâm thần/ trầm cảm của họ.
Kết quả dựa trên cả hai thông tin viên chỉ ra rằng cả hai nhóm trẻ ADHD nhận
đƣợc ít tình cảm/ chăm sóc và bảo vệ quá mức và kiểm soát từ những ngƣời mẹ,
và nhận thức sự hỗ trợ của gia đình ít hơn những đứa trẻ không bị ADHD. Sự
không tập trung và bệnh tật ở trẻ, và trầm cảm ở mẹ có tƣơng quan đáng kể tới sự
suy giảm trong tình yêu thƣơng/sự quan tâm của ngƣời mẹ và sự kiểm soát gia
tăng; tăng động -tính bốc đồng của trẻ em và đặc điểm loạn thần của mẹ có tƣơng
quan đáng kể với sự bảo vệ quá mức của mẹ; và thiếu chú ý và bệnh tật của đứa
trẻ, và triệu chứng loạn thần/ trầm cảm của mẹ có tƣơng quan đáng kể với suy
giảm tƣơng tác mẹ-con và hỗ trợ gia đình ít hơn. Những phát hiện của chúng tôi
gợi ý rằng, bất kể chuẩn đoán ADHD ở trẻ em, lâu dài, đặc biệt là các triệu chứng
thiếu chú ý và bệnh kết hợp với triệu chứng loạn thần/ trầm cảm của mẹ liên quan
với cách nuôi dạy con kém của mẹ.
1.1.10.2. Các nghiên cứu ở Việt Nam
Hiện nay ở Việt Nam chƣa có tài liệu hay nghiên cứu nào đề cập đến phong
cách cha mẹ trong gia đình có trẻ rối loạn tăng động giảm chú ý.
Tóm lại, các nghiên cứu ở châu Á, cụ thể là Trung Quốc cũng chỉ ra rằng
trong tƣơng tác giữa cha mẹ và con cái, trẻ ADHD nhận đƣợc ít tình cảm, sự quan
tâm chăm sóc hơn và chịu sự kiểm soát cao hơn so với những dứa trẻ bình thƣờng.
Nhƣ vậy, cha mẹ trẻ ADHD cũng có phong cách độc đoán hơn so với cha mẹ của
trẻ em bình thƣờng.
30
Tiểu kết chƣơng 1
Về phong cách làm cha mẹ của phụ huynh trong gia đình có trẻ ADHD
Khái quát tình hình nghiên cứu về phong cách làm cha mẹ trong gia đình có
trẻ rối loạn tăng động giảm chú ý bƣớc đầu đƣợc chúng tôi rút ra một số kết luận
nhƣ sau:
Về phân loại phong cách làm cha mẹ, chúng tôi chọn phân loại theo ba phong
cách: phong cách làm cha mẹ dân chủ, phong cách làm cha mẹ độc đoán và phong
cách làm cha mẹ dễ dãi. Trong phân loại này, phong cách làm cha mẹ dân chủ
đƣợc cho là phong cách làm cha mẹ hiệu quả hơn hẳn so với hai phong cách còn
lại.
Thông qua phân tích và tổng hợp các nghiên cứu về tƣơng tác và phong cách
làm cha mẹ của phu huynh trẻ ADHD trên toàn thế giới, kết luận đƣợc rút ra là
cha mẹ của trẻ ADHD có phong cách làm cha mẹ độc đoán hơn so với cha mẹ của
những trẻ em không có ADHD hoặc những trẻ em bình thƣờng. Phong cách làm
cha mẹ của những phụ huynh này bị ảnh hƣởng bởi nhiều yếu tố nhƣ: kinh tế, xã
hội, tình trạng sức khỏe tâm thần của cha mẹ, sự tự tin của cha mẹ trong nuôi dạy
con cái, sự áp lực và căng thẳng của phụ huynh trẻ ADHD đến từ những hành vi
bốc đồng hay tăng động của trẻ.
Các kết quả nghiên cứu cũng cho thấy hệ quả là trẻ ADHD thƣờng chịu sự
kiểm soát và các phƣơng pháp trừng phạt nhiều hơn, đồng thời lại ít nhận đƣợc sự
nồng ấm, quan tâm hơn từ cha mẹ.
Nhƣ vậy, từ các kết quả nghiên cứu của châu Âu và châu Á, chúng ta nhận
thấy có những sự ảnh hƣởng tiêu cực qua lại giữa trẻ ADHD và cha mẹ của trẻ khi
chƣa có sự hƣớng dẫn hay can thiệp nào của các công tác hỗ trợ và điều trị. Qua
đó, chúng ta cũng nhận thấy tầm quan trọng của việc tìm hiểu kiểu tƣơng tác cũng
nhƣ phong cách làm cha mẹ của phụ huynh trẻ ADHD trong bối cảnh ở Việt Nam.
31
TÀI LIỆU THAM KHẢO
A. Tài liệu tiếng Việt
[1] Nguyễn Kim Việt biên dịch và hiệu đính. Tóm lượt tâm thần học trẻ
em và thanh thiếu niên 2015.
[2] Lâm Xuân Điền, Sổ tay thống kê và chẩn đoán các rối loạn tâm thần
rút gọn – IV, bản dịch của Bệnh viện Tâm thần thành phố Hồ Chí
Minh, 2000
[3] Lê Thị Minh Hà. Hướng nghiên cứu về trẻ có rối loạn tăng động
giảm chú ý (ADHD), Tạp chí Khoa học ĐH Sƣ phạm TP. HCM,
27/08/2012
[4] Lê Thị Minh Hà. Thực trạng trẻ có rối loạn giảm chú ý tại TP. HCM,
Tạp chí Khoa học ĐH Sƣ phạm TP. HCM, 2013
[5] Nguyễn Thị Thanh Vân (2009). Quan hệ giữa trẻ rối loạn tăng động
giảm chú ý và cha mẹ trong gia đình, Bệnh Viện Bạch Mai, bài đăng
trên tạp chí Tâm lý học số 2/2009
[6] Nguyễn Thị Thu Hiền. Nghiên cứu tỉ lệ học sinh tiểu học mắc rối
loạn tăng động giảm chú ý tại quận Ba Đình, Hà Nội, Luận văn Thạc
sĩ ngành Tâm lý học lâm sàng trẻ em và vị thành niên, năm bảo vệ
2012
[7] Nguyễn Văn Nhận và cộng sự (2006), Tâm Lý Học Y Học, NXB Y
Học
[8] Nguyễn Văn Siêm, Cao Tiến Đức (2011), Dƣợc lý học tâm thần, hóa
liệu pháp trong một số rối loạn tâm thần ở rẻ em và thanh thiếu niên,
NXB Y học, trang 235-236
[9] Nguyễn Việt, Phân loại bệnh quốc tế lần thứ 10, bản dịch của Viện
sức khỏe tâm Thần, Bệnh viện Tâm thần Trung ƣơng, 1992
[10] Phạm Thị Bích Phƣợng. Ảnh hưởng của phong cách làm cha mẹ
đến hành vi không thích nghi của trẻ VTN có rối loạn hành vi, Luận
61
văn ThS ngành Tâm lý học lâm sàng trẻ em và vị thành niên, năm bảo
vệ 2012.
B. Tài liệu tiếng Anh
[1] American Psychiatric Association (2000). Diagnostic and statistical
manual of mental disorders (4th ed., text rev.). Washington, DC:
Author.
[2] American Psychiatric Association (2013). Diagnostic and statistical
manual of mental disorders (5th ed.). Arlington, VA: American
Psychiatric Publishing.
[3] Anastopoulos AD, Guevremont DC, Shelton TL, DuPaul GJ.
Parenting stress among families of children with attention deficit
hyperactivity disorder. J Abnorm Child Psychol. 1992 Oct; 20(5):
503-520.
[4] Baumrind (1967) Parental disciplinary patterns and social
competence in children: 239-276
[5] Baumrind (1991) The influence of parenting style on adolescent
competence and substance use: 56-95
[6] Benjamin J. Sadock, Virginia A. Sadock, Pedro Ruiz-Kaplan and
Sadock's Synopsis of Psychiatry-Wolters Kluwer (2014)
[7] Chao, R.K 2001 Extending research on the consequences of
parenting style for Chinese Amercans and European Amercans, Child
Development, 1832-1843
[8] Clyde C. Robinson, Barbara Mandleco, Susanne Frost Olsen,
and Craig H. Hart (1995). Authoritative, authoritarian, and
permissive parenting practices: development of a new measure.
Psychological Reports: Volume 77, Issue , pp. 819-830.
[9] Conger RD, Conger KJ, Elder GH Jr, et al. A family process model
of economic Hardship and adjustment of early ado- lescent boys.
Child Dev 1992
62
[10] David Reitman, Paula C. Rhode, Stephen D. A. Hupp, Cherie
Altobello. Development and Validation of the Parental Authority
Questionnaire – Revised, Journal of Psychopathology and Behavioral
Assessment, 2002, Volume 24, Number 2, Page 119
[11] ERIC Identifier, 1999 Parenting Style and Its Correlates. ERIC
Digest.
[12] Frank C Verhulst and Jan van der Ende (2006), Assessment Scales
in Child and Adolescent Psychiatry, Informa Publishing, Page 166.
[13] Gary R. VandenBos (2012), APA Dictionary of Clinical Psychology-
American Psychological Association
[14] Gau SS, Chang JP. Maternal parenting styles and mother- child
relationship among adolescents with and without per- sistent
attention-deficit/hyperactivity disorder. Res Dev Dis- abil. 2013 May;
34(5): 1581-94.
[15] Glyn Lewis Anthony J. Pelosi. The Case-Control Study in
Psychiatry. British Journal of Psychiatry (1990), 157, 197-207
[16] Hamid Alizadeh, Kimberly F. Applequist, Frederick L. Coolidge.
Parental self-confidence, parenting styles, and corporal punishment
in families of ADHD children in Iran. (2007) Page 570-571
[17] Hoza B, Owens JS, Pelham WE, Swanson J M, Conners C K,
Hinshaw S, et al. Parent cognitions as predictors of child treatment
response in attention-deficit/hyperactivity disorder. Journal of
Abnormal Child Psychology 2000; 28: 569–583.
[18] Joseph Sadek el al (2014). A Clinician’s Guide to ADHD, Springer
International Publishing, Page 3-5
[19] Joseph Sadek el al (2014). A Clinician’s Guide to ADHD, Springer
International Publishing, Page 7-9
[20] Kaplan & Sadocks. Attention Deficit / Hyperactivity Disorder. In
Synopsis of Psychiatry. 2007, Tenth edition: 1206- 1217.
63
[21] Kaplan and Sadock's Synopsis of Psychiatry: Behavioral
Sciences/Clinical Psychiatry (2014).
[22] Keown LJ, Woodward LJ. Early parent-child relations and family
functioning of preschool boys with pervasive hyper- activity. J
Abnorm Child Psychol 2002; 30: 541–553.
[23] Kewley GD. Attention deficit hyperactivity disorder: Recognition,
reality and resolution. London: David Fulton Publishers, 1999.
[24] Lange, K. W., Reichl, S., Lange, K. M., Tucha, L., & Tucha, O.
(2010). The history of attention deficit hyperactivity
disorder. Attention Deficit and Hyperactivity Disorders, 2(4), 241–
255.
[25] Lee PC, Niew WI, Yang HJ, Chen VC, Lin KC. A meta-anal- ysis
of behavioral parent training for children with attention deficit
hyperactivity disorder. Res Dev Disabil. 2012 Nov-Dec; 33(6): 2040-
9.
[26] Li-Ren Chang, Yen-Nan Chiu, Yu-Yu Wu, Susan Shur-Fen Gau
(2013) Father's parenting and father–child relationship among
children and adolescents with attention-deficit/hyperactivity disorder.
[27] Li-Ren Chang, Yen-Nan Chiu, Yu-Yu Wu, Susan Shur-Fen Gau
(2013). Maternal parenting styles and mother–child relationship
among adolescents with and without persistent attention-
deficit/hyperactivity disorder. Comprehensive Psychiatry, Volume 54,
Issue 2, Pages 128-140
[28] Maccoby, E.E & Martin, J.A. (1983) Socialization in the context of
the family: Parent-child interation. In P.H Mussen (Ed). Handbook of
Child Psychology: Socialization, Personality, and Social Development
(Vol. 4, pp: 1-101), New York.
[29] Mahboobeh Firouzkouhi Moghaddam, Marzeyeh Assareh,
Amirahossein Heidaripoor, Raheleh Eslami Rad, Masoud Pishjoo .
64
The study comparing parenting styles of children with ADHD and
normal children. Arch Psychiatr Psychother, 2013; 15(4) 45–49 [30] Malek A1, Amiri S, Sadegfard M, Abdi S, Amini S. Associated
factors with attention deficit hyperactivity disorder (ADHD): a case-
control study. arch iran medicine journal. 2012 Sep;15(9):560-3.
[31] McCleary L, Ridley T. Parenting adolescents with ADHD:
evaluation of a psychoeducation group. Patient Educ Couns. 1999
Sep; 38(1): 3-10.
[32] Primack, B. A., Hendricks, K. M., Longacre, M. R., Adachi-
Mejia, A. M., Weiss, J. E., Titus, L. J., … Dalton, M. A. (2012).
Parental Efficacy and Child Behavior in a Community Sample of
Children with and without Attention-Deficit Hyperactivity Disorder
(ADHD). Attention Deficit and Hyperactivity Disorders,4(4), 189–197
[33] Polanczyk G, de Lima MS, Horta BL, Biederman J, Rohde LA
(2007). The worldwide prevalence of ADHD: a systermatic review
and metaregression analysis. Am J Psychiatry 164 (6): 942-8
[34] Shakila Yousefia, Atefeh Soltani Far, Ebrahim Abdolahian.
Parenting stress and parenting styles in mothers of ADHD with
mothers of normal children. Procedia - Social and
BehavioralSciences. Volume 30, 2011, Pages 1666–1671
[35] Terry C. Chi , Stephen P. Hinshaw. Mother–Child Relationships of
Children With ADHD: The Role of Maternal Depressive Symptoms
and Depression-Related Distortions. Journal of Abnormal Child
Psychology, Vol. 30, No. 4, August 2002, pp. 387–400.
[36] Weiss M, Wiess G. Attention Deficit Hyperactivity Disorder. In
Lewis M. Comprehensive textbook of child and adolescent psychiatry
from Lippincott Williams & Wilkins. 2007 (fourth edition): 430-454.
[37] Weiss, B., Han, S., Harris, V., Catron, T., Ngo, V. K., Caron, A.,
Guth, C. (2013). An Independent Randomized Clinical Trial of
Multisystemic Therapy with Non-Court-Referred Adolescents with
65
Serious Conduct Problems. Journal of Consulting and Clinical
Psychology, 81(6), 10.1037/a0033928.
[38] Wiener S. Textbook of child & Adolescent psychiatry.2004 3ed
Philadelphia: Saunders: 390-450.
[39] Yousefia SH, Soltani Far A, Abdolahian E. Parenting stress and
parenting styles in mothers of ADHD with mothers of normal
children. Procedia - Social and Behavioral Sciences. 2011; 30: 1666 –
1671.
[40] Öngel, Ü. (2006). "ADHD" and Parenting Styles. In Lloyd,
G., Stead, J. and Cohen, D. (eds). Critical New Perspective s
on ADHD. London: Routledg.115-127
C. Các trang web
[41] http://www.aboutkidshealth.ca/En/ResourceCentres/ADHD/Treatmen
tofADHD/Pages/CreatingaTreatmentPlanforADHD.aspx
[42] http://www.studygs.net/vietnamese/adhd.htm
[43] http://adc.bmj.com/content/90/suppl_1/i2.full
[44] https://www.ncbi.nlm.nih.gov/pmc/articles/PMC3746212/
[45] http://www.devpsy.org/teaching/parent/baumrind_styles.html
[46] https://books.google.com.vn/books?id=4jAB2xgTc_8C&pg=PA127&
lpg=PA127&dq=parenting+styles+David+1996+ADHD&source=bl&
ots=68XKIm8gBA&sig=3ARhSR7-
dpQj2B3lTbfG10mXIIM&hl=vi&sa=X&ved=0ahUKEwiFwsLBtOP
QAhWBNo8KHdeJAC8Q6AEIJTAB#v=onepage&q=parenting%20st
yles%20David%201996%20ADHD&f=false
[47] http://www.ustunongel.com/pg_77_adhd-and-parenting-styles-hade-
ve-ebeveyn-yaklasimlari.html
[48] https://vi.scribd.com/doc/99124578/Baumrind-The-Influence-of-
Parenting-Style-on-Adolescent-Competence-and-Substance-Use
[49] http://www.ericdigests.org/1999-4/parenting.htm
[50] https://www.jstor.org/stable/1131344?seq=1#page_scan_tab_contents
66
[51] https://www.ncbi.nlm.nih.gov/pubmed/14528566
[52] http://www.babycenter.com/0_behavior-therapy-and-parent-training-
for-adhd_67406.bc
[53] https://psicovalero.files.wordpress.com/2014/11/dsm-v-ingles-
manual-diagnc3b3stico-y-estadc3adstico-de-los-trastornos-
mentales.pdf
[54] http://www.devpsy.org/teaching/parent/baumrind_styles.html