BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Trần Thư Hà

RỐI NHIỄU TÂM LÝ CỦA ĐIỀU DƯỠNG

VIÊN Ở MỘT SỐ BỆNH VIỆN TẠI

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC

Thành phố Hồ Chí Minh – 2013

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Trần Thư Hà

RỐI NHIỄU TÂM LÝ CỦA ĐIỀU DƯỠNG

VIÊN Ở MỘT SỐ BỆNH VIỆN TẠI

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Chuyên ngành

: Tâm lý học

Mã số

: 60 31 04 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

TS. TRƯƠNG CÔNG THANH

Thành phố Hồ Chí Minh – 2013

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Những số liệu,

kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa được công bố trong các công trình

khác.

Tác giả luận văn

TRẦN THƯ HÀ

LỜI CẢM ƠN

Tôi xin chân thành cảm ơn Quý Thầy/Cô Trường Đại học sư phạm Thành

phố Hồ Chí Minh, đặc biệt là những Thầy/Cô Khoa Tâm lý giáo dục và những

Thầy/Cô khác đã giảng dạy cho tôi trong suốt thời gian học tập tại Trường. Tôi xin

gửi lời tri ân sâu sắc tới Tiến sĩ Trương Công Thanh, người hướng dẫn khoa học đã

tận tình chỉ bảo, nhận xét, góp ý, hỗ trợ cũng như động viên tôi trong quá trình thực

hiện luận văn.

Tôi xin chân thành cảm ơn các Điều dưỡng viên của bốn bệnh viện tại Thành

phố Hồ Chí Minh: bệnh viện Thống Nhất, bệnh viện Nhân dân Gia Định, bệnh viện

Nhi đồng 2, bệnh viện Phạm Ngọc Thạch đã tạo điều kiện tối ưu, nhiệt tình hỗ trợ

và tích cực tham gia cùng tôi trong quá trình thực hiện luận văn.

Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến các anh/chị, các bạn lớp

Tâm lý K22; đến những người thân trong gia đình đã động viên, giúp đỡ tôi trong

khi học cũng như trong quá trình thực hiện luận văn.

Trần Thư Hà

MỤC LỤC

1TLời cam đoan1T

1TLời cảm ơn1T

1TMục lục1T

1TDanh mục các chữ viết tắt1T

1TDanh mục các bảng1T

1TDanh mục các biểu đồ1T

1TMỞ ĐẦU1T .................................................................................................................... 1

1TChương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ RỐI NHIỄU TÂM LÝ CỦA ĐIỀU

Trang phụ bìa

1T1.1. Lược sử nghiên cứu vấn đề1T ............................................................................... 5

1T1.1.1. Những nghiên cứu ở nước ngoài1T ................................................................ 5

1T1.1.2. Những nghiên cứu trong nước1T .................................................................... 6

1T1.2. Khái niệm rối nhiễu tâm lý1T ............................................................................. 10

1T1.3. Rối nhiễu lo âu, căng thẳng nghề nghiệp, rối nhiễu nhân cách1T ...................... 15

1T1.3.1. Rối nhiễu lo âu1T ......................................................................................... 15

1T1.3.2. Căng thẳng nghề nghiệp1T ........................................................................... 24

1T1.3.3. Rối nhiễu nhân cách1T ................................................................................. 29

1T1.4. Rối nhiễu tâm lý của điều dưỡng viên1T ............................................................ 33

1T1.4.1. Nghề điều dưỡng1T ...................................................................................... 33

1T1.4.2. Vai trò và đặc điểm tâm lý của điều dưỡng viên1T ...................................... 36

1T1.4.3. Biểu hiện rối nhiễu tâm lý của điều dưỡng viên1T ...................................... 40

1TTIỂU KẾT CHƯƠNG 11T ......................................................................................... 43

1TChương 2. THỰC TRẠNG RỐI NHIỄU TÂM LÝ CỦA ĐIỀU DƯỠNG

DƯỠNG VIÊN1T ........................................................................................................... 5

1T2.1. Tổ chức nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu1T ........................................... 44

1T2.1.1. Mẫu nghiên cứu1T ........................................................................................ 44

1T2.1.2. Phương pháp nghiên cứu1T .......................................................................... 46

VIÊN Ở MỘT SỐ BỆNH VIỆN TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH1T ............... 44

1T2.2. Kết quả nghiên cứu thực trạng1T ........................................................................ 54

1T2.2.1. Rối nhiễu lo âu của điều dưỡng viên1T ....................................................... 54

1T2.2.2. Căng thẳng nghề nghiệp của điều dưỡng viên1T ......................................... 66

1T2.2.3. Rối nhiễu nhân cách của điều dưỡng viên1T ............................................... 82

1T2.2.4. Quan điểm của điều dưỡng viên với những đánh giá hiện nay của

1T2.3. Một số biện pháp nhằm giảm thiểu tối đa những biểu hiện RNTL của

xã hội về nghề điều dưỡng1T ....................................................................... 87

1T2.3.1. Cơ sở đề xuất biện pháp1T ........................................................................... 89

1T2.3.2. Một số biện pháp cụ thể1T ........................................................................... 94

1TTIỂU KẾT CHƯƠNG 21T ......................................................................................... 98

1TKẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ1T ................................................................................ 99

1TTÀI LIỆU THAM KHẢO1T .................................................................................... 102

điều dưỡng viên1T .............................................................................................. 89

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

: căng thẳng nghề nghiệp CTNN

: rối nhiễu lo âu RNLA

: rối nhiễu nhân cách RNNC

: rối nhiễu tâm lý RNTL

DANH MỤC CÁC BẢNG

1TBảng 1.1. Biểu hiện RNNC theo DSM1T ................................................................ 31

1TBảng 2.1. Phân bố khách thể nghiên cứu1T ............................................................. 44

1TBảng 2.2. Biểu hiện RNLA về mặt sinh lý – thể chất1T ......................................... 55

1TBảng 2.3. Tỷ lệ mức độ RNLA về mặt sinh lý – thể chất1T .................................. 57

1TBảng 2.4. Biểu hiện của RNLA về mặt tâm lý1T .................................................... 59

1TBảng 2.5. Tỷ lệ mức độ RNLA về mặt tâm lý1T ..................................................... 60

1TBảng 2.6. Sự khác biệt RNLA theo lứa tuổi và khoa làm việc1T ............................ 61

1TBảng 2.7. Những nguyên nhân chủ quan của RNLA1T .......................................... 64

1TBảng 2.8. Biểu hiện CTNN về mặt sinh lý – thể chất1T ........................................ 66

1TBảng 2.9. Tỷ lệ mức độ CTNN về mặt sinh lý – thể chất1T .................................. 69

1TBảng 2.10. Biểu hiện CTNN về mặt tâm lý1T .......................................................... 70

1TBảng 2.11. Tỷ lệ mức độ CTNN về mặt tâm lý1T .................................................... 73

1TBảng 2.12. Sự khác biệt CTNN theo lứa tuổi và khoa làm việc1T ............................ 74

1TBảng 2.13. Những nguyên nhân khách quan của CTNN1T ...................................... 77

1TBảng 2.14. Biểu hiện RNNC1T ................................................................................. 82

1TBảng 2.15. Tỷ lệ mức độ RNNC1T ........................................................................... 84

1TBảng 2.16. Sự khác biệt RNNC theo lứa tuổi và khoa làm việc1T ........................... 85

1TBảng 2.17. Nguyên nhân RNNC1T .......................................................................... 86

1TBảng 2.18. Quan điểm của điều dưỡng viên với những đánh giá hiện nay

1TBảng 2.19. Đánh giá của điều dưỡng viên về mức độ cần thiết của nhóm

của xã hội về nghề điều dưỡng.1T ........................................................... 87

1TBảng 2.20. Đánh giá của điều dưỡng viên về mức độ cần thiết của nhóm

biện pháp điều dưỡng thực hiện1T .......................................................... 90

1TBảng 2.21. Đánh giá của điều dưỡng viên về mức độ cần thiết của nhóm

biện pháp bệnh viện thực hiện1T ............................................................. 92

biện pháp từ phía xã hội ...................................................................... 93

DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ

1TBiểu đồ 1.1. Các mức độ rối nhiễu tâm lý theo APA1T ............................................ 11

1TBiểu đồ 2.1. Biểu hiện RNLA về mặt sinh lý – thể chất1T ....................................... 56

1TBiểu đồ 2.2. Tỷ lệ mức độ RNLA về mặt sinh lý – thể chất1T ................................. 58

1TBiểu đồ 2.3. Tỷ lệ mức độ RNLA về mặt tâm lý1T .................................................. 61

1TBiểu đồ 2.4. Biểu hiện CTNN về mặt sinh lý – thể chất1T ....................................... 68

1TBiểu đồ 2.5. Tỷ lệ mức độ CTNN về mặt sinh lý – thể chất1T ................................. 69

1TBiểu đồ 2.6. Tỷ lệ mức độ CTNN về mặt tâm lý1T ................................................. 74

1TBiểu đồ 2.7. Biểu hiện RNNC1T ............................................................................... 83

1TBiểu đồ 2.8. Tỷ lệ mức độ RNNC1T ......................................................................... 84

1

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Đề tài “Nghiên cứu đặc điểm nguyên nhân tử vong của bệnh nhân rối loạn tâm

thần” được đăng trên “Tạp chí thông tin Y dược” năm 2002 của Trần Văn Cường về

mối quan hệ giữa rối nhiễu tâm lý và bệnh tật đưa ra kết luận của Tổ chức y tế Thế

giới (WHO): “Trong số các bệnh không truyền nhiễm, ước lượng rằng nhóm bệnh

do rối nhiễu tâm lý gây ra gánh nặng bệnh tật và tử vong nhiều hơn các nhóm khác,

nhiều hơn cả nhóm bệnh ung thư và nhóm bệnh tim mạch. Rối nhiễu tâm lý là yếu

tố nguy cơ quan trọng làm tăng thêm những bệnh lý về tim mạch, tiểu đường, tiêu

hóa… Trong nhiều bệnh thực thể, những người có sẵn rối nhiễu tâm lý từ trước sẽ

chậm trễ trong việc điều trị, tìm kiếm sự giúp đỡ khiến cho bệnh nặng hơn. Ngược

lại, những người mắc bệnh mãn tính, bệnh nan y dễ bị rối nhiễu tâm lý” [4]. Ngoài

ra, theo WHO, những người sống trong các tình trạng rối nhiễu tâm lý, như: rối loạn

trầm cảm, lo lắng, căng thẳng thần kinh, rối loạn hành vi sẽ dễ sa sút trong học tập,

làm việc và có thể bị thất học, thất nghiệp, nặng hơn có thể tự tử…

Nguyên nhân dẫn đến rối nhiễu tâm lý không chỉ là yếu tố bệnh lý mà còn do

rất nhiều yếu tố khác. Điều kiện xã hội, hoàn cảnh sống, áp lực học tập - công

việc… cũng làm cho con người rơi vào tình trạng rối nhiễu tâm lý.

Rối nhiễu tâm lý có thể xảy ra ở mọi lứa tuổi, mọi đối tượng, trong đó có điều

dưỡng viên. Rối nhiễu tâm lý của điều dưỡng biểu hiện chủ yếu là: lo âu; căng

thẳng, mệt mỏi; rối nhiễu hành vi và nhân cách khiến họ mất tập trung trong công

việc, sinh hoạt cuộc sống hàng ngày gặp nhiều trở ngại, sức khỏe giảm sút…

Điều dưỡng viên được coi là một trong những đối tượng dễ bị rối nhiễu tâm lý

• Thứ nhất, do môi trường làm việc có nhiều yếu tố bất lợi, như: vi sinh vật gây

vì ba nguyên nhân chính sau đây:

bệnh làm cho người điều dưỡng có nguy cơ mắc bệnh lây nhiễm cao; đối

tượng tiếp xúc thường xuyên của điều dưỡng viên là người bệnh, nhiều khi

bệnh nhân “giận” bệnh, sẽ “giận” lây sang cả điều dưỡng; yêu cầu của bệnh

2

viện với điều dưỡng viên khá cao, thường xuyên kiểm tra định kỳ hoặc đột

• Thứ hai, do đặc trưng nghề nghiệp, thời gian làm việc thất thường (phải trực

xuất kỹ năng lâm sàng và kiến thức nghề nghiệp của điều dưỡng…

đêm, trực trong các ngày nghỉ lễ, làm theo ca kíp). Điều dưỡng viên cũng chịu

áp lực khi không được quyền tự quyết trong công việc của mình, luôn phải

thực hiện theo y lệnh của bác sĩ. Đối tượng công việc là người bệnh, chỉ một

sơ xuất nhỏ của điều dưỡng viên rất có thể gây ảnh hưởng xấu đến tính mạng

• Thứ ba, do bản thân điều dưỡng viên, rất nhiều người ở vào tình thế “nghề

bệnh nhân.

chọn mình chứ không phải mình chọn nghề”. Họ trở thành điều dưỡng vì “bất

đắc dĩ” nên không toàn tâm toàn ý trong công việc, dễ có tâm trạng chán nản

khi làm việc.

Điều dưỡng viên là lực lượng chiếm số lượng tương đối đông trong hoạt động

nghề Y. Tuy nhiên, những đề tài cũng như những bài viết về đối tượng này chưa

nhiều, chưa sâu và chưa hệ thống, thường chỉ là viết về một nhóm điều dưỡng của

một bệnh viện hay một địa phương nào đó. Đặc biệt, nghiên cứu về đặc điểm rối

Đình Chính, Cao Ngọc Nga, Nguyễn Đỗ Nguyên, Ngô Tích LinhP

Pcó đề tài nghiên cứu:

nhiễu tâm lý của điều dưỡng viên càng hạn chế. Năm 2009, nhóm tác giả Trương

“Rối loạn tâm thần ở điều dưỡng và nữ hộ sinh Bà Rịa – Vũng Tàu”. Một nghiên cứu

khác cho ra kết quả: rối loạn tâm thần ở điều dưỡng trực tiếp phục vụ bệnh nhân tâm

thần là 48,32%, và ở nhân viên y tế trực tiếp phục vụ bệnh nhân lao phổi là 15,5% [3].

Các đề tài đó mới chỉ dừng ở việc nghiên cứu mối liên quan của căng thẳng với công

việc của điều dưỡng. Cũng chưa có đề tài nào đi sâu vào nghiên cứu RNTL của điều

dưỡng viên đang làm việc tại các bệnh viện lớn của thành phố Hồ Chí Minh.

Xuất phát từ những nội dung trình bày trên, chúng tôi chọn nghiên cứu đề tài

“Rối nhiễu tâm lý của điều dưỡng viên ở một số bệnh viện tại thành phố Hồ

Chí Minh”.

3

2. Mục đích nghiên cứu

Khảo sát thực trạng rối nhiễu tâm lý của điều dưỡng viên ở một số bệnh viện

tại thành phố Hồ Chí Minh. Trên cơ sở đó đề xuất một số biện pháp giúp điều

dưỡng viên phòng tránh, giảm thiểu rối nhiễu tâm lý.

3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Rối nhiễu tâm lý của điều dưỡng viên bệnh viện.

3.2. Khách thể nghiên cứu

Điều dưỡng viên đang làm việc ở một số bệnh viện tại thành phố Hồ Chí Minh.

4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu

4.1. Về đối tượng nghiên cứu

Nghiên cứu rối nhiễu tâm lý của điều dưỡng viên trong công việc và cuộc

sống hàng ngày biểu hiện qua 3 nhóm: nhóm rối nhiễu lo âu, nhóm căng thẳng nghề

nghiệp và nhóm rối nhiễu nhân cách.

4.2. Về khách thể nghiên cứu

Khách thể nghiên cứu là 200 điều dưỡng viên đang làm việc ở một số khoa

của 4 bệnh viện tại thành phố Hồ Chí Minh: bệnh viện Phạm Ngọc Thạch, bệnh

viện Thống Nhất, bệnh viện Nhân dân Gia Định, bệnh viện Nhi Đồng 2.

Mỗi bệnh viện nghiên cứu 50 điều dưỡng viên.

5. Giả thuyết nghiên cứu

Điều dưỡng viên bệnh viện có những biểu hiện của rối nhiễu tâm lý, như: rối

nhiễu lo âu, căng thẳng nghề nghiệp và rối nhiễu nhân cách. Xét trên tổng thể mức

độ xuất hiện các biểu hiện thì có những điều dưỡng đã bị rối nhiễu tâm lý.

Nếu tìm hiểu được thực trạng và nguyên nhân rối nhiễu tâm lý của điều dưỡng

viên sẽ đề xuất được một số biện pháp phù hợp giúp điều dưỡng viên bệnh viện

phòng tránh, giảm thiểu rối nhiễu tâm lý.

4

6. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Phân tích, tổng hợp các vấn đề lý luận cơ bản liên quan đến rối nhiễu tâm

lý, rối nhiễu tâm lý trong hoạt động nghề nghiệp, từ đó hình thành cơ sở lý luận cho

đề tài.

- Khảo sát thực trạng rối nhiễu tâm lý của điều dưỡng viên bệnh viện.

- Đề xuất một số biện pháp giúp điều dưỡng viên bệnh viện phòng tránh,

giảm thiểu rối nhiễu tâm lý.

7. Phương pháp nghiên cứu

7.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận

Thu thập các tài liệu có liên quan đến vấn đề để nghiên cứu, phân tích, tổng

hợp các tài liệu, như: rối nhiễu tâm lý, đặc điểm tâm lý người điều dưỡng, đặc điểm

nghề điều dưỡng, rối nhiễu tâm lý của điều dưỡng viên,... phục vụ cho việc nghiên

cứu nhằm xây dựng cơ sở lý luận cho đề tài.

7.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn

Đề tài sử dụng một số phương pháp nghiên cứu phối hợp với nhau, trong đó

điều tra bằng phiếu hỏi là phương pháp nghiên cứu quan trọng nhất, các phương

pháp còn lại là phương pháp bổ trợ.

7.2.1. Phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi.

7.2.2. Phương pháp phỏng vấn.

7.2.3. Phương pháp quan sát.

7.3. Phương pháp xử lý số liệu thống kê toán học

Sử dụng phương pháp xử lý thống kê bằng phần mềm SPSS 16.0 for

window để xử lý và phân tích số liệu của luận văn.

5

Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ RỐI NHIỄU TÂM LÝ

CỦA ĐIỀU DƯỠNG VIÊN

1.1. Lược sử nghiên cứu vấn đề

1.1.1. Những nghiên cứu ở nước ngoài

Hầu hết các nghiên cứu về RNTL và điều trị RNTL được tiến hành ở các nước

nói tiếng Anh và các nước Phương Tây.

Vào những năm 1955, một số tác giả đã quan tâm đến việc nghiên cứu yếu tố

tâm lý ảnh hưởng đến sức khỏe [24], Naiemeh Seydefatamie, Maryam Tfreshi và

Hamid Hagani nghiên cứu khách thể là sinh viên năm nhất đã thu được kết quả: rối

nhiễu tâm lý của sinh viên là 65,8%; stress trong môi trường tình huống không quen

thuộc là 64,2%; stress nhiều hơn đáng kể so với sinh viên năm thứ tư.

Một nghiên cứu ở Tehran với mẫu khảo sát có đặc điểm: hầu hết các sinh viên

là nữ tỉ lệ 87,2% từ 18 đến 24 tuổi, khoảng 57% sinh viên sống trong ký túc xá của

trường học đến từ các nước khác. Kết quả nghiên cứu, sinh viên gặp khó khăn khi

stress thì mới tìm kiếm bạn bè tỉ lệ 76,2% và thay đổi các mối quan hệ trong xã hội

tỉ lệ 63,4%. [28]

Kết quả một nghiên cứu định tính của nhóm tác giả H.J Hoekstra, B.B Van

Meijel, T.G Vande Hoflemen trên sinh viên Điều dưỡng năm nhất về nhận thức đối

với các bệnh nhân tâm thần và chăm sóc sức khỏe tâm thần ảnh hưởng đến sự lựa

chọn của họ về chuyên môn trong việc chăm sóc sức khỏe tâm thần và tương lai

làm việc trong lĩnh vực này. Phương pháp phỏng vấn sinh viên tại một trường học

của Hà Lan. Kết quả, 70% sinh viên có nhận thức tiêu cực đối với người bệnh bị

tâm thần. [26]

Khi tìm hiểu: “Sức khỏe tâm lý của nữ hộ sinh Úc trong lúc mang thai và sau

khi sinh”, tác giả Mc.Cann, T.V. Klark.E và cộng sự đã khảo sát các nữ hộ sinh này

tại các bệnh viện phụ sản Melbourne, Australia. Kết quả cho thấy: những phụ nữ có

niềm tin tôn giáo thì mức độ rối nhiễu tâm lý thấp hơn nhiều so với các nhóm còn

lại. Như vậy yếu tố niềm tin trong bản thân mỗi nữ hộ sinh giúp họ giảm thiểu

những vấn đề rối nhiễu tâm lý. [25]

6

Nhiều nghiên cứu gần đây đã cho biết mức độ phổ biến của các RNTL ngày

càng gia tăng.

Theo Viện Sức khỏe Tâm thần Quốc gia Mỹ (NIMH), khoảng 26% người

Mỹ trưởng thành trên 18 tuổi bị một số loại RNTL. Năm 1994 nghiên cứu khảo sát

trên toàn quốc gia (NCS) cho biết 30% số người được hỏi đã từng có biểu hiện triệu

chứng của RNTL ít nhất một năm trước. Cuộc khảo sát cũng chỉ ra rằng gần một

nửa số người lớn đã từng trải qua một vài loại rối nhiễu tâm lý tại một số thời điểm

trong cuộc sống của họ. [24]

X.N.Miaxisshev đã có công trình nghiên cứu rối nhiễu nhân cách và chỉ ra:

rối nhiễu nhân cách là một căn bệnh của nhân cách có căn nguyên tâm lý. Sự rối

loạn các quan hệ đóng vai trò xuất phát điểm và quyết định. Từ những rối nhiễu đó

dẫn đến rối nhiễu sự tiếp nhận và rối nhiễu các chức năng tâm lý tùy theo cách tiếp

nhận và xử lý hiện thực thế nào. Ông nhấn mạnh, nguyên nhân chính làm phát sinh

rối nhiễu hành vi ở trẻ em và con người nói chung là do sự mâu thuẫn tâm lý, nghĩa

là sự mâu thuẫn nội tâm. [28]

1.1.2. Những nghiên cứu trong nước

Ở Việt Nam có một số nghiên cứu về RNTL của nhiều đối tượng nói chung và

của điều dưỡng viên bệnh viện nói riêng, điển hình là những nghiên cứu sau đây:

 Trước hết là những nghiên cứu về RNTL, sức khỏe tâm thần của một số đối

tượng, như: nông dân, sinh viên, cộng đồng dân cư, trẻ em, cha mẹ khi nuôi dạy con

cái, cụ thể:

• “Sức khỏe tâm thần của sinh viên Y tế công cộng và sinh viên Điều dưỡng

trường Đại học Y dược thành phố Hồ Chí Minh” của Huỳnh Hồ Ngọc Quỳnh - một

nghiên cứu tại thời điểm xác định các vấn đề về sức khỏe tâm thần và các yếu tố

liên quan (bao gồm yếu tố bảo vệ và yếu tố nguy cơ) có tác động đến sức khỏe tâm

thần của sinh viên khoa Y tế công cộng và khoa Điều dưỡng tại Đại học Y dược

thành phố Hồ Chí Minh. Nghiên cứu cho thấy sinh viên nữ có khuynh hướng lo âu

nhiều hơn nhưng lại ít trầm cảm hơn sinh viên nam. Những yếu tố gia đình có ảnh

hưởng đến mức độ trầm cảm của sinh viên nam. Đối với mức độ trầm cảm của sinh

7

viên nữ, những yếu tố liên quan đến môi trường học tập có tác động mạnh mẽ.

Chiều hướng tích cực của sức khỏe tâm thần được đo lường thông qua các thang đo

về hạnh phúc và hy vọng trên sinh viên nam chịu ảnh hưởng của các yếu tố liên

quan đến nhà trường. Đối với nữ, tất cả các yếu tố bao gồm các đặc điểm về gia

đình, nhà trường và xã hội đều có tác động đến cảm nhận về hạnh phúc và hy vọng

của họ. [15]

• Nhóm tác giả Trần Ngọc Đăng và cộng sự (2010) xác định tỷ lệ RNTL và

các yếu tố liên quan đến RNTL (bao gồm yếu tố nhà trường, gia đình và bản thân)

của sinh viên khoa Y tế công cộng Trường Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh

là: 58,47%, không có sự khác biệt về tỷ lệ rối nhiễu tâm lý giữa nam và nữ. Ngoài

ra, nhóm cũng tìm thấy một số yếu tố gia đình, nhà trường, bản thân có liên quan

đến RNTL. [15]

• Một nhóm tác giả khảo sát nhận thức về sức khỏe tâm thần trong dân số

chung ở Thành phố Hồ Chí Minh vào năm 2002 của Bệnh viện tâm thần cho thấy

cộng đồng hiểu biết về sức khỏe tâm thần còn ít và phiến diện, tuy nhiên có sự đồng

ý cao với khái niệm “Cuộc sống hạnh phúc là cuộc sống không có bệnh tật và chan

hòa tình cảm của bản thân với mọi người xung quanh”. [15]

• Nghiên cứu về mới đây bạo lực tình dục tại Việt Nam, những người cung

cấp thông tin tin rằng bạo lực không chỉ ảnh hưởng về thực thể mà còn cả về sức

khỏe tâm lý của phụ nữ. Lạm dụng tình dục được đề cập ít nhất. Bạo lực tình dục

được xem là riêng tư và không được thảo luận cởi mở trong cộng đồng. Phụ nữ sẽ

tìm kiếm sự chăm sóc sức khỏe chỉ trong những trường hợp rất nghiêm trọng. Các

nhóm hòa giải ở địa phương được dùng để dàn xếp các trường hợp bạo lực tình dục.

Nhân viên y tế có nhận thức về bạo lực tình dục và lên án nó nhưng không được

chuẩn bị để can thiệp. Tình trạng này thường do không biết biểu hiện của vấn đề,

hoặc không được đào tạo đầy đủ. [5]

• Một nghiên cứu stress trong việc nuôi con cái của các gia đình có con nhỏ

chậm phát triển trí tuệ ở Miền Trung Việt Nam: 106 người mẹ và 93 người cha có

con được phát hiện chậm phát triển trí tuệ, được thực hiện với cha mẹ có con tàn tật

8

trong một số trường mẫu giáo ở Huế. Những bà mẹ có con gái hoặc có con hoạt

động tư duy kém hơn thì có mức độ stress cao hơn. Kết quả cho thấy, những bà mẹ

có chồng gặp các vấn đề về sức khỏe cũng bị stress nhiều hơn những bà mẹ khác.

Có mối tương quan giữa mức độ hoạt động tư duy của trẻ và tress của cha mẹ. Cả

bố và mẹ đều stress khi bị tủi nhục. Cha mẹ càng tủi nhục nhiều thì họ càng bị stress

nhiều. Tình trạng kinh tế xã hội là nguyên nhân chính dẫn đến sự tủi nhục.[5]

• Kết quả điều tra dịch tễ mẫu, do Trung tâm Nghiên cứu và Đào tạo Phát

triển cộng đồng tiến hành trên 1.000 trẻ trong độ tuổi từ 8 - 17 tuổi ở 31 xã thuộc 5

tỉnh: Lào Cai, Hưng Yên, Đà Nẵng, Phú Yên, Bến Tre từ năm 2001 đến 2005, cho

thấy: cứ 10 trẻ thì có 2 trẻ bị RNTL. Một khảo sát khác cũng của trung tâm này

trong năm 2008 với nhóm phụ nữ mang thai 3 tháng cuối hoặc mới sinh con trong

vòng 2 tháng đầu tại Hà Nội và Hà Nam cho thấy, tỷ lệ chị em bị RNTL tương ứng

với mỗi tỉnh là 22% và 33%. [18]

• Kết quả điều tra Quốc gia về vị thành niên và thanh niên Việt Nam năm

2008 mới được công bố cho thấy, trong số hơn 10.000 thanh thiếu niên có hơn 73%

người từng có cảm giác buồn chán, hơn 4% từng nghĩ đến chuyện tử tử. So với số

liệu cuộc điều tra trước đó vào năm 2003, các chuyên gia nhận thấy tỷ lệ thanh thiếu

niên trải qua cảm giác buồn chán đã tăng lên. Đặc biệt, cảm giác nghĩ đến chuyện tự

tử tăng lên khoảng 30%. [18]

• “Những trẻ sống trong gia đình có bố mẹ thường xuyên đánh, chửi nhau có

nhiều nguy cơ bị trầm cảm và có hành vi sai trái. Các biểu hiện này tỉ lệ thuận với

mức độ bạo lực trong gia đình mà trẻ chứng kiến hàng ngày”. Đây là nhận định

được đưa ra tại kết quả nghiên cứu “Rối nhiễu tâm lý ở trẻ em sống trong gia đình

có bạo lực” của tác giả Nguyễn Bá Đạt tại Hội nghị Quốc gia về phòng, chống bạo

lực gia đình. Kết quả nghiên cứu được tiến hành trên 145 trẻ trong độ tuổi từ 12 đến

15 đang học Trung học cơ sở ở huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương cùng 52 phụ

huynh của 52 trẻ đang sống trong những gia đình có bạo lực cho thấy: Trong số 52

trẻ sống trong gia đình bạo lực thì có đến 36,5% trẻ bị lo âu, trầm cảm ở mức độ

nhẹ; 15,4% trẻ ở mức độ vừa và 15,3% trẻ trầm cảm ở mức độ nặng. Từ chỗ lo âu,

9

trầm cảm dẫn đến trẻ có những hành vi gây hấn, sai phạm. Có 11,5% trẻ có nhiều

hành vi gây hấn. Hơn 30% trẻ có hành vi sai phạm, trong đó 7,7% trẻ có nhiều hành

vi sai phạm. [5]

 RNTL của điều dưỡng viên cũng được một số tác giả chú ý tìm hiểu, cụ thể

là những nghiên cứu sau:

• Đề tài nghiên cứu “Rối loạn tâm thần ở điều dưỡng và nữ hộ sinh tỉnh Bà

Rịa – Vũng Tàu năm 2009” của nhóm tác giả Trương Đình Chính, Cao Ngọc Nga,

Nguyễn Đỗ Nguyên và Ngô Tích Linh được thực hiện trên 382 điều dưỡng và nữ hộ

sinh được chọn ngẫu nhiên hệ thống tại các cơ sở y tế công của tỉnh Bà Rịa Vũng

Tàu. Kết quả nghiên cứu cho thấy, tỷ lệ có rối loạn tâm thần là 59%. Những yếu

tố thuộc môi trường làm việc có liên quan đến khả năng mắc rối loạn tâm thần là

làm việc tại các khoa nhiều bệnh nhân hoặc bệnh nhân nặng, công việc đòi hỏi quan

sát hoặc lựa chọn chính xác. Các yếu tố gia đình và xã hội có liên quan với

khả năng mắc các rối loạn tâm thần là bất hòa với hàng xóm. [2]

• Nhóm tác giả Lê Thành Tài, Trần Ngọc Xuân, Trần Trúc Linh thực hiện đề tài

“Tình hình căng thẳng nghề nghiệp của nhân viên điều dưỡng” [16] với mục đích

nhằm xác định tỉ lệ nhân viên điều dưỡng bị CTNN tại bệnh viện đa khoa Trung

ương Cần Thơ, bệnh viện đa khoa thành phố Cần Thơ và bệnh viện đa khoa Châu

Thành - Hậu Giang, đồng thời xác định các yếu tố có thể gây CTNN cho 378 nhân

viên điều dưỡng ở ba tuyến bệnh viện này. Kết quả nghiên cứu cho thấy: Tỉ lệ

45,2% bị căng thẳng ở mức cao; 42,8% ở mức trung bình. Tại bệnh viện Đa khoa

Trung ương Cần Thơ, tỉ lệ điều dưỡng bị căng thẳng cao nhất với 53,1%. Các tác giả

cũng đưa ra một số yếu tố có thể gây CTNN cho điều dưỡng, bao gồm:

- Yếu tố cá nhân: thâm niên công tác.

- Tính chất công việc: làm việc quá giờ (>8h/ngày) và công việc nhiều áp lực.

- Không hứng thú với công việc.

- Làm việc trong điều kiện thiếu thốn máy móc, trang thiết bị; đông người, ồn ào;

tiếp xúc nhiều vi khuẩn, virus, dễ tổn thương bởi các vật sắc nhọn và thường gặp phản

ứng của bệnh nhân và người nhà, như: chửi mắng, đe dọa, hành hung....

10

- Mâu thuẫn với đồng nghiệp, cấp trên; công việc thiếu an toàn.

- Thu nhập từ nghề nghiệp chưa thỏa đáng và công việc ít có cơ hội thăng tiến.

• Ba tác giả Nguyễn Văn Nhận, Nguyễn Bá Dương, Nguyễn Sinh Phúc cho

biết: các chủ xí nghiệp, các nhà kinh doanh, các nhân viên y tế đặc biệt là điều

dưỡng viên và tất cả những ai làm nghề có liên quan đến sự cạnh tranh, làm nghề

đòi hỏi có trách nhiệm cao và thường xuyên đấu tranh với hoàn cảnh, công việc

thường có các biểu hiện tổn thương về sinh học trong một thời điểm nào đó với một

mức độ nhất định. [12]

• Bác sỹ Đặng Phương Kiệt với: "Stress sức khỏe" đã đưa ra các số liệu phản

ánh một phần căng thẳng nghề nghiệp trong ngành Y tế qua khảo sát 80 cán bộ làm

việc trong các khoa Hồi sức cấp cứu, Điều trị tích cực, Điều trị bỏng của 6 bệnh

viện trung ương và 6 bệnh viện địa phương trong vòng 5 năm. Đó là: 100% cán bộ

nhân viên giảm trọng lượng so với ngày mới làm việc và không một ai tăng cân trở

lại, 15% người mắc một số bệnh, như: loét dạ dày, bệnh truyền nhiễm, suy nhược

thần kinh. Cũng trong tài liệu này, tác giả giới thiệu thêm một cuộc khảo sát khác

tại 3 bệnh viện tuyến tỉnh và cho thấy: có đến 20% cán bộ nhân viên mắc bệnh viêm

gan, 100% bị giảm bạch cầu hạt, 9% bị tổn thương thể nhiễm sắt. [9]

Như vậy những đề tài trong nước nghiên cứu về RNTL của điều dưỡng chỉ

tập trung vào việc phân tích thực trạng CTNN và tìm hiểu nguyên nhân gây nên

CTNN của người điều dưỡng. Tuy nhiên, người điều dưỡng bị RNTL không chỉ là

CTNN mà còn có thể có nhiều biểu hiện khác nữa. Chính vì thế, việc nghiên cứu

RNTL của điều dưỡng viên là rất cần thiết.

1.2. Khái niệm rối nhiễu tâm lý

 Ở nước ngoài: có một số tổ chức và cá nhân đã xây dựng khái niệm rối

nhiễu tâm lý như sau:

• APA – Hiệp hội tâm lý học Hoa Kỳ trong DSM – IV – TR (Dignosic &

statistical Manual of Mental díosdess - Sổ tay chẩn đoán và thống kê các rối nhiễu

tâm thần) đã đưa ra khái niệm: “RNTL một hành vi có ý nghĩa lâm sàng hoặc một

hội chứng tâm lý xuất hiện ở một cá nhân gây ra sự đau khổ, bất lực, rối loạn chức

11

năng, làm gia tăng hành vi nguy cơ tự hủy hoại bản thân, làm cá nhân mất khả năng

kiểm soát bản thân”. Khái niệm RNTL này được sử dụng nhằm phân biệt RNTL với

những rối loạn sinh lý do tổn thương thực thể hoặc do não bộ gây ra. APA cũng

xây dựng “Các mức độ rối nhiễu tâm lý” – Sức khỏe tâm lý được biểu diễn là hàm

số liên tục khác với quan niệm cũ là “hay có bệnh” . [20]

Hội chứng rối nhiễu tâm lý (nặng)

Triệu chứng nhẹ, thoáng qua: tai nạn; ảnh hưởng trầm cảm; cảm giác lo lắng, mất người thân, người sống sót tội lỗi; tâm thể; khó chịu; ngủ khó khăn, tuyệt vọng; nóng nảy; lo ngại; cảm thấy quan trọng của người khác; tự tử.

Những vấn đề tâm lý, xã hội: tăng hành vi uống rượu; bạo lực; lạm dụng thuốc, các chất kích thích…

Sức khỏe tâm lý bình thường

Biểu đồ 1.1. Các mức độ rối nhiễu tâm lý theo APA

12

• Sức khỏe được WHO định nghĩa là sự thoải mái về thể chất, tâm lý và xã

hội. Ngày nay nhiều kết quả nghiên cứu đã chứng tỏ mối quan hệ giữa ba mặt trên

của sức khỏe con người. Đó cũng là chất lượng cuộc sống. Theo định nghĩa về sức

khỏe của WHO thì sức khỏe tâm trí là một bộ phận tạo nên sức khỏe ở mỗi chúng

ta. RNTL (mental disorders) biểu thị sự lệch lạc về sức khỏe tâm thần, đây không

phải là bệnh mới, nói đúng hơn, đó là sự nhìn nhận mới về tình trạng sức khỏe tâm

lí theo hướng dự phòng, điều trị sớm bệnh tâm thần (mental illness).

WHO đã phân loại RNTL như sau: [4]

- RNTL thực thể, như: sa sút trí tuệ, mê sảng và chấn thương não.

- Rối loạn hành vi và tâm lý do việc sử dụng các chất hướng thần, chủ yếu là

rượu và các thuốc hướng thần khác.

- Bệnh tâm lý phân liệt và các rối loạn hoang tưởng có liên quan. Rối nhiễu

tính tình: dễ xúc động, điên cuồng, lưỡng cực – trầm cảm: vui, buồn thất thường.

- Những rối loạn về thực thể về thần kinh liên quan đến stress: sợ hãi, lo lắng,

hoảng loạn…

- Những rối nhiễu hành vi liên quan đến các vấn đề về sinh lý và các yếu tố cơ

thể: rối loạn ăn uống, giấc ngủ và hoạt động tình dục. Những rối nhiễu về hành vi

và nhân cách ở người lớn.

- Những rối nhiễu về phát triển tâm lý. Những rối nhiễu hành vi và cảm xúc

khởi phát từ thời thơ ấu, dậy thì, như: ADHD…

- Những RNTL khác chưa xác định, khác với các thể trên.

• Việc phân loại và chẩn đoán là mối quan tâm lớn đối với các nhà trị liệu

cũng như các bệnh nhân và người nhà bệnh nhân có RNTL, hay bệnh tâm thần. Tổ

chức Y tế Thế giới đưa ra một hệ thống phân loại bệnh tâm thần riêng; hiệp hội tâm

thần của Mỹ, Pháp, Trung Quốc… cũng đưa ra một bảng phân loại riêng. Mặc dù

vậy, những bảng phân loại khác nhau kể trên vẫn có nhiều điểm chung, đặc biệt

giữa chúng có sự thống nhất ở các tiêu chí xác định các bệnh tâm thần phổ biến.

Dựa trên sự ý kiến chung giữa các chuyên gia trong lĩnh vực sức khỏe tâm thần,

hiện nay, việc xác định và chẩn đoán các RNTL được giới hạn lại. Mỗi loại RNTL

13

có các tiêu chí chẩn đoán rõ ràng, được thừa nhận trên khắp thế giới. Bảng phân loại

rối loạn tâm thần và hành vi của Tổ chức Y tế thế giới đưa ra năm 1992 (ICD – 10,

1992) và Bảng tiêu chuẩn chẩn đoán và phân loại rối loạn tâm thần của các nhà tâm

thần học Mỹ tái bản và bổ sung năm 2000 (DSM – IV – TR, 2000) là hai công cụ đã

được quốc tế hóa, được các nhà tâm thần học, tâm lý học, công tác xã hội sử dụng

nhiều trong nghiên cứu và chẩn đoán, trị liệu RNTL ở người lớn cũng như trẻ

em. Bảng phân loại bệnh tâm thần của Hiệp hội tâm thần Mỹ (DSM - IV – TR,

2000) mô tả khoảng 250 RNTL khác nhau. Một số RNTL phổ biến có thể kể đến

như: rối loạn ăn uống (chán ăn, ăn vô độ…), rối loạn cảm xúc (trầm cảm, hưng

cảm…), rối loạn dạng cơ thể, rối loạn giấc ngủ, rối loạn lo âu và rối loạn nhân

cách... [20]

• Một số tác giả là Robert S.Feldman (2003), Paul Bennett (2003), James

E.Maddux và Barbara A. Winstead (2008) đều cho rằng: một kinh nghiệm hay một

hành vi ứng xử của cá nhân được xem là rối nhiễu phải đáp ứng các tiêu chí: lệch

chuẩn về mặt thống kê, rối loạn chức năng, rối loạn stress, sai lệch các nguyên tắc

xã hội, làm suy giảm hoạt động nghề nghiệp, đời sống gia đình và xã hội, đặt cá

nhân vào tình huống nguy hiểm. Những người bị các triệu chứng: lo âu không rõ lý

do kéo dài, buồn rầu, ám sợ đám đông, bị tổn thương tâm lý, khó tập trung trong

công việc, chán nản, rối nhiễu hành vi…ở mức độ nhẹ và do các sự kiện trong cuộc

sống gây ra được gọi là những người bị RNTL. Chữa trị RNTL cần phải sử dụng

các liệu pháp tâm lý. [18]

 Ở Việt Nam, RNTL là khái niệm đã được các tác giả trong nước đề cập chủ

yếu trong những nghiên cứu ở lĩnh vực trị liệu tâm lý.

• Thuật ngữ “rối nhiễu tâm lý” được dịch từ tiếng Anh là “mental disorder”,

tiếng Pháp là “trouble mentaux”. Bác sĩ Nguyễn Khắc Viện sử dụng thuật ngữ này

thay cho “rối loạn tâm thần”, “bệnh tâm thần” hay “bệnh lý” trong thăm khám và

chữa trị tâm lý cho trẻ em và thanh niên ở Trung tâm nghiên cứu tâm lý trẻ em (N -

T). Trong tác phẩm “Tâm lý lâm sàng trẻ em Việt Nam” (1999), Nguyễn Khắc Viện

đã viết: “Ở N - T, chúng tôi chủ trương không dùng từ tâm thần nữa mà dùng từ tâm

14

lý để nói chung, như khi nói khám tâm lý không nói khám tâm thần, nếu ghép vào

trong khuôn viên của một bệnh viện tâm thần sẽ rất ít ai đến và cũng không mấy bác

sĩ, y tá, giáo viên, cán bộ xã hội chịu học tập chuyên khoa này”.[18] Tác giả thừa

nhận và sử dụng bảng phân loại rối loạn tâm thần và hành vi của WHO và APA.

• Theo tác giả Lê Khanh trong bài viết “Tình trạng rối nhiễu tâm lý”: “Sinh

một đứa con đã khó, nuôi dưỡng bé để trở nên một con người toàn vẹn lại còn khó

hơn. WHO đã định nghĩa, sức khỏe là tình trạng không bệnh tật và có sự ổn định về

sức khỏe thể chất và tâm thần. Điều này cho thấy, một đứa con khỏe mạnh không

chỉ cần tăng trưởng tốt về chiều cao và cân nặng, mà còn phải có một trí tuệ tương

ứng với lứa tuổi. Khi một đứa trẻ có những thái độ đáp ứng hoặc hành vi không

bình thường, không phù hợp với cách ứng xử như những trẻ khác cùng độ tuổi, trẻ

có những hạn chế về giác quan, về vận động …chúng ta gọi đó là những trẻ có tình

trạng RNTL”.[18]

• Tác giả Trung Nguyên với bài nghiên cứu “Nghiên cứu rối nhiễu tâm lý ở

trẻ em và thanh thiếu niên” đã cụ thể hóa khái niệm RNTL như sau: [14]

- RNTL không phải là một khái niệm đặc thù hay cá biệt về một hoặc một

nhóm chứng bệnh về tâm thần.

- Rối loạn về tâm thần (rối loạn tâm thần) hoặc bệnh tâm thần được dịch từ

gốc tiếng Anh “mental disorder” hay “mental illness” còn được biết đến theo thuật

ngữ “psychological disorder” được dịch là “rối nhiễu tâm lý”.

- Một RNTL, cũng được biết đến như là một rối loạn tâm thần, là một mô hình

của hành vi hoặc triệu chứng tâm lý tác động nhiều lĩnh vực cuộc sống và / hoặc tạo

ra đau khổ cho những người gặp những triệu chứng này. Các chứng rối loạn chúng

ta biết và thường nói đến như: rối loạn trong phổ tự kỷ (ASD - Autism Spectrum

Disorder), tăng động thiếu chú ý (ADHD - Attention Deficit Hyperactivity

Disorder) v.v...Dù diễn đạt theo những cách khác nhau RNTL, rối loạn tâm thần, rối

loạn tâm lý thì đều mang nội dung ý nghĩa như nhau.

15

- Không giống các bệnh thực thể khác, chẩn đoán RNTL bác sĩ phải dựa trên

kết quả hỏi khám lâm sàng tỉ mỉ và trình tự tư duy phân tích tâm lý lâm sàng và tâm

thần học, các xét nghiệm khác chủ yếu giúp loại trừ bệnh thực thể.

Như vậy, có nhiều định nghĩa khác nhau về RNTL, tuy nhiên chúng ta có thể

hiểu một cách chung nhất: RNTL là trạng thái bệnh lý về mặt tinh thần, cũng giống

như những bệnh khác về mặt cơ thể. Đó không phải là điên, hay thần kinh như mọi

người thường nghĩ. Một người có RNTL là người có các hành vi, cảm xúc kém

thích nghi, mang tính kỳ lạ, gây đau khổ hoặc làm ảnh hưởng đến sức khoẻ, cuộc

sống, mối quan hệ của bản thân và những người xung quanh.

Trên cơ sở các quan niệm và phân tích trên, xuất phát từ mục đích nghiên

cứu của đề tài, chúng tôi thống nhất với khái niệm RNTL của APA, theo đó:

“RNTL là hành vi có ý nghĩa lâm sàng hoặc một hội chứng tâm lý xuất hiện ở

một cá nhân gây ra sự đau khổ, bất lực, rối loạn chức năng, làm gia tăng hành vi

nguy cơ tự hủy hoại bản thân, làm cá nhân mất khả năng kiểm soát bản thân”.

1.3. Rối nhiễu lo âu, căng thẳng nghề nghiệp, rối nhiễu nhân cách

1.3.1. Rối nhiễu lo âu

1.3.1.1. Khái niệm rối nhiễu lo âu

Dr Savitri Ramaiah khi nghiên cứu về lo âu đã có những phân tích về lo âu, sợ

hãi, rối nhiễu lo âu như sau: [19]

- Lo âu (anxiety) là một rối loạn cảm xúc đặc trưng bởi cảm giác lo sợ lan tỏa,

khó chịu, mơ hồ, kèm theo các triệu chứng thần kinh tự chủ như đau đầu, vã mồ

hôi, siết chặt ở ngực, khô miệng, khó chịu ở thượng vị, bứt rứt, không thể ngồi yên

hoặc đứng yên một chỗ. Ngoài ra còn kèm theo các triệu chứng: kém tập trung chú

ý, không thể thư giãn, kích động cơ thể. Lo âu về bản chất là sự đáp ứng với một đe

dọa không được biết trước từ bên trong.

- Khác với lo âu, sợ hãi lại là một đáp ứng với một đe dọa được biết rõ từ bên

ngoài. Tuy nhiên, nếu lo âu và sợ hãi quá mức ảnh hưởng nghiêm trọng tới cuộc

sống, vẫn tiếp tục khi mối lo thực tế đã kết thúc thì đó là bệnh lý.

16

- Tất cả các RNLA được đặc trưng bởi những triệu chứng sợ mà không có

nguyên nhân đầy đủ. Vì hầu hết mọi người trải nghiệm lo âu vào một thời điểm nào

đó trong đời của họ. Lo âu bình thường phải được phân biệt với rối nhiễu lo âu. Để

chẩn đoán một RNLA, những triệu chứng phải hiện diện trong một giai đoạn kéo

dài (thường ít nhất là 6 tháng), có cản trở đến hoạt động chức năng bình thường của

một người. RNLA là một trong những rối loạn có tính phổ biến cao, có tỷ lệ gia

tăng cùng với sức ép ngày càng lớn của cuộc sống và thường kết hợp với nhiều loại

rối loạn khác như: trầm cảm, rối loạn nhân cách, rối loạn ăn uống.

Xuất phát từ những phân tích trên, chúng tôi có khái niệm: “RNLA là sự lo sợ

quá mức trước một tình huống xảy ra, có tính chất mơ hồ vô lý, lặp lại và kéo dài

gây ảnh hưởng tới sự thích nghi với cuộc sống”.

1.3.1.2. Biểu hiện rối nhiễu lo âu

RNLA có biểu hiện tương đối đặc biệt: người bệnh luôn cho rằng có một điều

xấu đang và thậm chí đã xảy ra với mình, dù rằng thực tế không phải như vậy. Cùng

với những lo âu mơ hồ hay rõ rệt, bệnh nhân RNLA còn dễ bị thêm những chứng

bệnh khác, như: hồi hộp, nghẹt thở, đau ngực, nhức đầu, đau lưng, co giật cơ bắp,

đổ mồ hôi nhiều, hoa mắt, rối loạn tiêu hóa, khô miệng và mất ngủ.

Những biểu hiện của RNLA rất đa dạng và phức tạp, biểu hiện cả về mặt

sinh lý và mặt tâm lý.

 Những biểu hiện về sinh lý

Những biểu hiện sinh lý của RNLA bao gồm những triệu chứng của hệ thần

kinh giao cảm, như: run, đổ mồ hôi, dãn đồng tử và trải nghiệm chủ quan của nhịp

tim nhanh mà nhiều người gọi nó là “hồi hộp”. Những người bệnh lo âu cũng

thường xuyên kể những triệu chứng của dạ dày – ruột (ví dụ: tiêu chảy) và rối loạn

đường niệu (ví dụ: tiểu thường xuyên). Sự tăng thông khí đi kèm với các rối loạn

giao cảm này có thể dẫn đến chóng mặt và ngất cũng như cảm giác dị cảm ở đầu

chi, mất cảm giác hoặc tê bì quanh miệng. Những triệu chứng lo âu có thể theo tình

huống hoặc trôi lơ lửng. Lo âu tình huống được gây ra bởi một phản ứng quá mức

với những yếu tố sang chấn môi trường bên ngoài, có thể nhận diện được. Trái lại,

17

lo âu trôi lơ lửng không có yếu tố khởi phát bên ngoài cụ thể. Những người bệnh lo

âu toàn thể có triệu chứng lo âu dai dẳng, bao gồm: tăng cảnh giác và lo âu quá mức

qua ít nhất một giai đoạn 6 tháng. Những triệu chứng “lơ lửng” gây ra đau khổ có ý

nghĩa cho người bệnh nhưng không liên quan đến một người hay một tình huống cụ

thể. RNLA toàn thể có tỉ lệ 3 – 5% trong dân số và thường kèm với trầm cảm chủ

yếu. Khoảng 50% người bệnh khởi phát lo âu toàn thể ở thời thiếu nhi hoặc vị thành

niên. Những triệu chứng mạn tính và có xu hướng nặng hơn trong thời kỳ sang

chấn. Đòi hỏi điều trị thường không xác định dù một số người bệnh lo âu toàn thể

trở nên gần như mất triệu chứng trong một vài năm. [17]

Khi gặp phải những vấn đề gây lo sợ hoặc chỉ cần nghĩ về nó, nhịp tim của

người bị RNLA tăng lên, đập nhanh hơn bình thường, lồng ngực căng ra, có thể

kèm theo cảm giác đau ngực, tức ngực, nhịp thở bị rối loạn (như: thở gấp, thở ngắn,

khó thở, có cảm giác ngột ngạt…). Ngoài ra, cơ thể còn tiết ra nhiều mồ hôi, nhiệt

độ cơ thể tăng cao hoặc hạ thấp đột ngột gây ra hiện tượng choáng ngất hoặc gần

giống như vậy. Những triệu chứng này gây khó khăn cho việc sinh hoạt bình

thường, nhiều người lầm tưởng những triệu chứng đó là biểu hiện của các bệnh về

tim mạch.

Sự lo âu, sợ hãi cao độ thường xuyên gây ra những vấn đề về tiêu hóa, như: rối

loạn đường ruột, co thắt dạ dày, ăn không tiêu, buồn nôn…Người bệnh gặp khó

khăn về ăn uống, như: có cảm giác vướng họng, khó nuốt, khô miệng hoặc tăng tiết

nước bọt…Từ đó trở nên biếng ăn, suy giảm trọng lượng cơ thể dẫn đến hệ miễn

dịch suy yếu, dễ mắc các bệnh thông thường. Người bị RNLA đi tiểu nhiều lần

trong ngày hoặc tiểu tiện rất khó khăn, các triệu chứng tiêu chảy hoặc táo bón xuất

hiện nhiều hơn khiến cho cơ thể càng dễ bị suy nhược.

Thần kinh của người bị RNLA cực kỳ nhạy cảm, họ luôn cảm thấy đầu óc

căng cứng, bất cứ một tác động nhỏ nào đều làm họ khó chịu. chính vì vậy mà họ dễ

trở nên tức giận, cáu gắt, luôn cảnh giác với tất cả mọi thứ xung quanh.

Vận động của người bị RNLA thường chập chạp, chân tay thường hay run rẩy,

bủn rủn, nhức mỏi, các cơ căng cứng, đau nhức…

18

Giấc ngủ của người bị RNLA cũng bị rối loạn. Họ khó ngủ, ngủ ít, có thể nằm

trằn trọc hàng giờ mà vẫn không thể ngủ được; hoặc lại ngủ nhiều hơn mức bình

thường. Họ dễ gặp ác mộng, khó có thể ngủ ngon và dù đã ngủ nhiều thì khả năng

phục hồi sau giấc ngủ không nhiều, họ vẫn cảm thấy rất mệt mỏi.

 Những biểu hiện về tâm lý

• Cảm xúc

Triệu chứng ưu thế là cảm giác lo lắng quá mức, sợ hãi một đối tượng hay một

hoàn cảnh đặc biệt nào đó; cũng có khi lo âu không vì một đối tượng hay một tình

huống nào cụ thể. Một số người bệnh lo sợ khi đối diện với người lạ, nói chuyện

trước công chúng, ăn uống trước mặt người khác, dùng hệ thống vệ sinh công

cộng…Số người bệnh khác lại rất sợ mình bị mất tự chủ, bị điên, sợ chết…Những

nỗi sợ rất vô lý nhưng họ không có cách nào tránh được.

Sợ hãi và lo lắng thường xuyên làm cho người bệnh cảm thấy mệt mỏi, sinh ra

những cảm xúc tiêu cực, như: dễ nổi giận, hay cáu gắt khó chịu, dễ bị kích động

hoặc cảm thấy hoang mang, tuyệt vọng. Bất cứ một động tác nhỏ nào từ người xung

quanh cũng làm cho họ trở nên bực bội, tức giận. Những cảm xúc âm tính đó nếu

tích tụ lâu dài thì người bị rối nhiễu lo âu sẽ không còn hứng thú với thế giới xung

quanh.

Người bị RNLA thường ở trong trạng thái thần kinh căng thẳng vì luôn sợ

điều xấu sẽ xảy đến hoặc sẽ gặp phải đối tượng mà họ cho là nguy hiểm. Khi nghĩ

đến mối nguy hiểm là có thực hay tưởng tượng, người bệnh có cảm giác rất khó

chịu, họ làm mọi cách để cảm giác này mất đi nhưng đều không được. Người bệnh

thấy khổ sở, đau đớn khi không thể loại bỏ những ý nghĩ vô lý trong đầu. Họ cảm

thấy bồn chồn, bất an dù có nguyên nhân cụ thể hay không vì luôn phải sống trong

cảm giác mối đe dọa ở khắp mọi nơi và có thể xuất hiện bất cứ lúc nào. Tình trạng

này kéo dài sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến ăn uống, sinh hoạt, làm việc của người

bệnh, đặc biệt làm cho họ không có trạng thái tinh thần khỏe mạnh.

19

• Nhận thức

Tri giác của người bị RNLA mất đi tính chính xác và xem xét mọi việc xung

quanh theo sự lo âu của mình. Ví dụ, khi nhìn bạn bè tụ tập nói chuyện với nhau thì

người bệnh sẽ lo lắng, nghĩ rằng bạn bè đang nói xấu mình.

Hiệu quả công việc của người bị RNLA không cao do khả năng tập trung giảm

đi rất nhiều. Họ không thể chú ý trong một thời gian dài vào bất cứ việc gì, việc cố

gắng tập trung dù rất nhỏ cũng làm cho họ cảm thấy cực kỳ mệt mỏi, kiệt sức. Suy

nghĩ của họ trở nên kém linh hoạt, chậm chạp, thường không xử lý tốt thông tin

được tiếp nhận.

Trí nhớ của người bị RNLA cũng giảm sút, tuy không nhiều nhưng gây ra sự

căng thẳng. Người bệnh cảm thấy khó khăn trong việc nhớ chính xác thông tin. Để

nỗ lực ghi nhớ một điều gì đó, họ phải tốn rất nhiều thời gian nhưng hiệu quả không

cao. Công việc, sinh hoạt hàng ngày bị ảnh hưởng do người bệnh thường xuyên nhớ

trước, quên sau, lẫn lộn mọi việc dù chỉ là những công việc đơn giản, lặt vặt.

Người bị RNLA đôi khi có những ý nghĩ rất vô lý, ngớ ngẩn, như: nghĩ rằng

mình sẽ phát điên hay tất cả mọi người đều ghét mình, tất cả mọi thứ đều cực kỳ dơ

bẩn, cảm giác mọi vật xung quanh không có thực…Những suy nghĩ này xuất hiện

khiến người bệnh cư xử kỳ lạ, có thể ảnh hưởng đến người khác.

• Hành vi

Người bị RNLA ở mức độ nặng thường tránh né tiếp xúc với những đối tượng

mà họ cho là gây ra sự sợ hãi cho họ. Người bệnh tránh đi đến những nơi đông

người, ít hoặc không tham gia các hoạt động xã hội vì sợ tiếp xúc với người lạ,

không đi đến những không gian kín, có người còn không tiếp xúc với động vật.

Hành vi tránh né đó khiến người bệnh dần dần hạn chế sự giao tiếp và các hoạt

động xã hội bình thường, dẫn đến giảm chất lượng cuộc sống và công việc.

Biểu hiện của RNLA về hành vi còn thể hiện rất đa dạng, có khi cáu kỉnh, có

khi như sắp khóc, có khi ấp úng không nói nên lời, chân tay căng cứng, bất

động…Người bị rối nhiễu lo âu luôn có sự bồn chồn, bất an dẫn đến đứng ngồi

không yên, không thể ngồi yên một chỗ, chân tay luôn cử động.

20

Người bị RNLA luôn có những ý nghĩ ám ảnh đeo bám buộc họ phải thực

hiện hành vi nhất định để xóa đi ý nghĩ đó, thường họ sẽ lặp đi lặp lại hành vi này

nhiều lần vì cảm giác an tâm thường không tồn tại lâu.

1.3.1.3. Nguyên nhân rối nhiễu lo âu

Xác định chính xác nguyên nhân gây ra RNLA không đơn giản vì nó không

hình thành chỉ do một nguyên nhân riêng biệt nào mà đó có thể là sự kết hợp của

nhiều nhân tố. Người nghiên cứu đi sâu vào các nhân tố quan trọng, gồm: nguyên

nhân về sinh học, về tâm lý, về văn hóa xã hội.

• Theo DSM – IV – TR, “Sổ tay chẩn đoán và thống kê các rối nhiễu tâm

thần” đưa ra các nguyên nhân của RNLA như sau: [20]

Nguyên nhân chính xác của RNLA không được biết rõ nhưng nó bao gồm

nhiều yếu tố khác nhau, chủ yếu liên quan tới các sang chấn tâm lý kết hợp với yếu

tố nhân cách có xu hướng lo âu.

Các RNLA nằm trong số các vấn đề sức khỏe tâm thần được điều trị thường

gặp nhất. Cả hai yếu tố tâm lý xã hội và sinh học có liên quan đến căn nguyên của

chúng. Các yếu tố tâm lý xã hội bao gồm: kém thích nghi dẫn tới sợ một thứ hoặc

tình huống vô hại và tiếp xúc với yếu tố sang chấn mạnh. Các yếu tố sinh học bao

gồm: di truyền và giới tính. Các RNLA thường thấy trong các thành viên trong gia

đình của người bệnh nhiều hơn trong dân số chung và tỉ lệ hòa hợp của chúng cao

hơn trong số sinh đôi đơn hợp tử so với dị hợp tử. Những liên quan đến sinh lý thần

kinh. Hoạt động dẫn truyền thần kinh bị thay đổi đi kèm với những triệu chứng lo

âu, đặc biệt là giảm hoạt động serôtnin và gamma – aminobutyric acid (GABA),

giảm gắn kết thụ thể GABA – benzodiazepine và tăng hoạt động của

norepinephrine. Về giải phẫu thần kinh, nhân xanh là vị trí của các tế bào thần kinh

noradrenergic, nhân bèo là vị trí của các tế bào thần kinh serotonergic, vỏ não thái

dương, vỏ não trán và nhân đuôi (đặc biệt trong AABB) được coi là liên quan đến

sự phát triển của các rối loạn lo âu.

Các nguyên nhân thực thể của những triệu chứng lo âu bao gồm: uống cà phê

quá nhiều, lạm dụng và cai chất, cường giáp, thiếu vitamin B12, giảm hoặc tăng

21

đường máu, thiếu máu và u tủy thượng thận (u nằm ở tủy thượng thận tiết

epinephrine). Những triệu chứng lo âu (khó thở, tức ngực, nhịp tim nhanh, đổ mồ

hôi) cũng xuất hiện trong các rối loạn tim mạch như loạn nhịp tim và các rối loạn hô

hấp như bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính. Tuy nhiên, rối loạn tim mạch và rối loạn hô

hấp phải được loại trừ.

Lo âu được nhận thấy ở nhiều người bệnh trầm cảm, những người bệnh có

RNLA thường kèm với rối loạn trầm cảm và rối loạn khí sắc, trong đó rối loạn trầm

cảm là chủ yếu. Vì vậy, có thể khó phân biệt RNLA và trầm cảm. Mối liên quan

sinh học gần gũi giữa các nhóm rối loạn này được củng cố bởi các nghiên cứu cho

thấy các bất thường thần kinh nội tiết và các thay đổi điện não đồ trong giấc ngủ

giống nhau ở những người bệnh AABB và rối loạn trầm cảm chủ yếu.

Các RNLA phải được phân biệt với các giai đoạn tiền triệu và loạn thần của

tâm thần phân liệt khi mà lo âu thường nổi bật và lo âu nghi bệnh, trong đó có đau

khổ quan trọng mà không phát hiện có bệnh thực thể nặng.

• Theo một số tác giả nghiên cứu về tâm lý như: Robert Feldman, Dr Savitri

Ramaiah, Rosen, Fox and Gregory thì RNTL có những nguyên nhân sau:

 Nguyên nhân sinh học

Con người là một thực thể sinh học nên yếu tố sinh học vô cùng quan trọng,

liên quan trực tiếp đến vấn đề sức khỏe, tinh thần của con người. Những vấn đề cơ

bản thuộc yếu tố sinh học được xem là nguyên nhân gây ra RNLA của một người

bao gồm: di truyền, chất dẫn truyền thần kinh, cấu trúc và hoạt động của não, thể

chất.

Di truyền

Các lý thuyết sinh học đã chứng minh rằng nhân tố di truyền đóng vai trò quan

trọng trong các RNLA. Nhiều nghiên cứu được thực hiện để kiểm chứng sự liên

quan giữa di truyền và chứng RNLA. Nghiên cứu của Gregory năm 1959 về sức

khỏe tâm thần của của các gia đình trong 142 bệnh nhân tâm thần nội trú ở một số

bệnh viện, độ tuổi trung bình là 35, cho thấy nếu trong gia đình có một thành viên

có hành vi bất thường thì những thành viên khác cũng sẽ bị ảnh hưởng và từ đó xuất

22

hiện một hay kết hợp nhiều dạng của chứng rối nhiễu lo âu [27, tr.162]. Thành viên

có thể là cha mẹ, anh chị em hoặc cả những người thân thuộc trong họ hàng người

bệnh. Những bậc cha mẹ có ý nghĩ ám ảnh thì những đứa con vô tình hay cố ý “lây

nhiễm” những ý nghĩ đó từ cha mẹ và tương tự với các dạng rối nhiễu lo âu khác.

Một người trong cặp song sinh đơn tử bị rối loạn hoảng sợ thì người kia có đến 30%

nguy cơ sẽ bị bệnh tương tự [23, tr.548]. Một đứa trẻ dễ bị rối nhiễu lo âu nếu tỉ lệ

người thân qua nhiều thế hệ bị rối nhiễu lo âu. Như vây, có thể thấy nhân tố di

truyền ảnh hưởng không nhỏ đến sức khỏe tâm thần của một cá nhân. Tuy nhiên,

đây chưa phải là nguyên nhân quyết định gây ra rối nhiễu lo âu ở một cá nhân mà

còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác.

Cấu trúc và hoạt động của não

Những nghiên cứu chức năng thần kinh qua hình ảnh cho thấy rằng vùng trán

và vùng chẩm của não có liên hệ với việc đáp ứng lo lắng. Người bệnh rối loạn

hoảng sợ có sự đáp ứng không bình thường của vùng thái dương và vùng vỏ trước

thùy trán. Một số công trình nghiên cứu chứng minh những dị thường tại các vị trí

bên trong thân não có thể gắn với những cơn kịch phát lo âu. Hiện nay, người ta

cũng đang nghiên cứu xem xét những dị thường như vậy ảnh hưởng như thế nào

đến các triệu chứng rối loạn ám ảnh – cưỡng chế. Bệnh nhân rối nhiễu lo âu tổng

quát còn có sự tăng bất thường trong hoạt động của vùng vỏ não và giảm hoạt động

trong vùng hạch cơ bản. Ở bệnh nhân ám ảnh sợ xã hội, hạch hạnh nhân, vùng đồi

hải mã và nhiều phần trong vùng vỏ có sự bất thường. Kích thước vùng đồi hải mã

nhỏ hơn bình thường có thể là nguyên nhân dẫn đến việc phát triển rối loạn căng

thẳng hậu chấn thương. [22]

Hoạt động chức năng của não bị xáo trộn và bất thường có thể dẫn đến những

rối loạn về tâm lý, làm giảm khả năng điều khiển cảm xúc một cách bình thường

của con người.

Thể chất

Trí óc và cơ thể có mối quan hệ tương hỗ với nhau vì thế, bất cứ sự thay đổi

bất thường nào trong mối tương tác này đều có thể gây ra lo âu. Điều này thường

23

gặp ở những trường hợp, như: phụ nữ mang thai, lứa tuổi vị thành niên ở giai đoạn

dậy thì, thời kỳ bình phục bệnh. Ở những trường hợp đó, sức khỏe của cá nhân

không đạt mức tốt nhất, các cơ quan chức năng trong cơ thể hoạt động không nhịp

nhàng dẫn đến tâm lý cá nhân trở nên bất ổn, dễ roi vào trạng thái lo âu. [19]

 Nguyên nhân tâm lý

Yếu tố tâm lý là một trong những nguyên nhân quan trọng đẩy con người đến

tình trạng lo âu. Có thể kể đến trong yếu tố này những nguyên nhân, như: sự nhận

thức sai lệch của cá nhân trước các tình huống, áp lực cuộc sống và những sang

chấn tâm lý, sự xung đột nội tâm.

Áp lực cuộc sống và những sang chấn tâm lý

Nhiều vấn đề căng thẳng trong cuộc sống, như: áp lực học hành, công việc quá

tải, thất bại trong chuyện tình cảm…nếu không được giải quyết hợp lý và kịp thời

thì sẽ trở thành gánh nặng về tinh thần, làm cho con người mệt mỏi, phiền muộn.

Tình trạng này kéo dài, tất yếu sẽ xảy ra rối nhiễu tâm lý. Những trạng thái cảm xúc

đó dễ xảy ra hơn đối với cá nhân thiếu hụt kỹ năng xã hội cần thiết, nhất là lứa tuổi

vị thành niên. Vì ở độ tuổi này, tâm lý các em chưa thật sự vững vàng, hoàn thiện,

bên cạnh đó còn có thêm những thay đổi đột ngột về sinh lý.

Ngoài những áp lực cuộc sống, những sang chấn tâm lý cũng khiến cá nhân bị

tổn thương tâm lý. Sau khi trải qua hoặc chứng kiến một biến cố, người ta có khả

năng bị mắc chứng rối loạn sang chấn sau chấn thương. Bị lạm dụng tình dục, bạo

hành gia đình, người thân mất, sống sót sau thảm họa hay chiến tranh…cũng gây ra

những tổn thương tinh thần và nếu không vượt qua nổi có thể dẫn đến rối loạn tâm

thần. [22]

Sự xung đột nội tâm

Những triệu chứng của rối nhiễu lo âu thực chất là những cố gắng nhằm bảo

vệ con người khỏi lo lắng, sợ hãi. Rối loạn hoảng sợ và các ám ảnh sợ là kết quả

của những xung đột vô thức bật lên thành ý thức. Những xung đột vô thức này có

thể xem như có nguồn gốc từ thời thơ ấu. Trong quá khứ chủ thể từng có kinh

nghiệm khó chịu, sợ hãi một đối tượng, một tình huống cụ thể nào đó thì những

24

kinh nghiệm này sẽ chuyển vào vô thức, những xung đột mang tính bản năng này sẽ

định hướng cho suy nghĩ và hành động của cá nhân ở bề mặt ý thức. Ví dụ, thuở

nhỏ đứa trẻ bị nhện cắn và chịu những tổn thương nặng nề thì lớn lên sẽ có tâm lý

sợ nhện và luôn tìm cách tránh né nỗi sợ đó. Trong các rối nhiễu ám ảnh – cưỡng

chế, kiểu ám ảnh là một nỗ lực đẩy lùi lo sợ do một xung đột có liên hệ nhưng đầy

sợ hãi gây ra. Bằng cách thay thế một ám ảnh chiếm đoạt một cách tượng trưng

xung năng bị cấm đoán, con người sẽ được giải tỏa phần nào. Hành vi cưỡng chế là

một nhiệm vụ mang tính nghi thức cũng cho phép con người tránh được điều có thể

tạo ra xung đột vô thức. [27]

 Nguyên nhân văn hóa – xã hội

Tỉ lệ mắc RNLA và các dạng thường gặp của rối loạn này được xem xét thấy

có sự khác biệt giữa các nền văn hóa khác nhau, các tầng lớp xã hội và giữa các thời

đại. Nhà nghiên cứu W.H.Auden đã nhận xét thời đại ngày nay có thể gọi là “kỷ

nguyên của lo âu” vì lo âu và những rối loạn tâm thần đang ngày càng tăng cao. Sự

biến đổi nhanh chóng trong mọi mặt của đời sống xã hội; sự đối mặt với cuộc sống

mưu sinh đầy khắc nghiệt trước sự thay đổi các nấc thang giá trị về đạo lý, cương

thường; cũng như những quy luật khắt khe của cơ chế thị trường đã hình thành

nhiều tình huống stress, gây ra những xung đột và lo âu mới cho cá nhân và xã hội ở

những mức độ khác nhau. Những nước càng phát triển thì tỉ lệ mắc các rối nhiễu

này càng nhiều. Nghiên cứu của Hollingshead và Redlich (1958) nhấn mạnh: các

cơn hoảng loạn hầu như không xuất hiện ở những tầng lớp thượng lưu mà tồn tại ở

những tầng lớp thấp và cùng quẫn nhất trong xã hội; ngược lại, rối loạn ám ảnh –

cưỡng chế thường lại xuất hiện ở những tầng lớp thượng lưu nhiều hơn.

1.3.2. Căng thẳng nghề nghiệp

1.3.2.1. Khái niệm căng thẳng nghề nghiệp

Năm 1999, Viện An toàn và sức khỏe nghề nghiệp của Mỹ đã đưa ra khái

niệm: "Căng thẳng nghề nghiệp là phản ứng có hại về thể chất và cảm xúc xảy ra

khi yêu cầu của công việc không tương thích với khả năng, nguồn lực, hay nhu cầu

25

của người lao động. CTNN có thể dẫn đến sức khỏe kém và thậm chí là gây ra bệnh

tật". [28]

Hội đồng Châu Âu, quản lý việc làm và các vấn đề xã hội cho rằng: "Căng

thẳng nghề nghiệp là sự phản ứng của cảm xúc, nhận thức, cư xử, sinh lý đối với

các khía cạnh bất lợi, độc hại của công việc, môi trường làm việc và cơ quan tổ

chức. Đó là tình trạng đặc thù bởi mức độ cao của sự phấn chấn, bệnh tật và cảm

giác không thể đối đầu". [16]

Các khái niệm trên đã làm sáng tỏ được những ảnh hưởng tiêu cực, những

nguyên nhân dẫn đến căng thẳng trong công việc. Mỗi người đều phải lao động để

tồn tại, để khẳng định giá trị bản thân mình. Trước áp lực của công việc, không ít

người cảm thấy hứng thú, được kích thích để hành động. Và do đó, CTNN không

chỉ là hoàn toàn có hại về thể chất và cảm xúc.

Cũng như định nghĩa về stress, định nghĩa về CTNN dưới góc độ tâm lý bao

gồm các tiêu chí sau: [9]

- Chỉ ra được bản chất là: sự căng thẳng về tâm lý (stressor).

- Tác nhân là: điều kiện lao động.

- Yếu tố cá nhân.

- Ảnh hưởng của căng thẳng nghề nghiệp.

Như vậy, dựa vào những nghiên cứu trên, chúng tôi quan niệm rằng : "CTNN

là trạng thái căng thẳng về tâm lý được tạo ra bởi sự tương tác giữa các điều kiện

lao động với nhân cách của con người khiến các chức năng bình thường về sinh

lý, tâm lý bị thay đổi".

1.3.2.2. Biểu hiện căng thẳng nghề nghiệp

Tác giả L. Levi với bài viết "Stress nghề nghiệp" được đăng trên Tạp chí Nhà

Tâm lý học Hoa Kỳ [21] đã kết luận: căng thẳng nghề nghiệp biểu hiện ở hai mặt

tâm lý và sinh lý. Mặt tâm lý có 12 biểu hiện cơ bản là:

Lo hãi, căng thẳng, dễ phát cáu, lú lẫn. 1.

Cảm giác hụt hẫng, tức giận và oán giận. 2.

Quá nhạy cảm cảm xúc và hiếu động 3.

26

Nén lại các cảm nghĩ. 4.

Giảm hiệu quả trong giao tiếp. 5.

Co mình lại và trầm cảm. 6.

Cảm giác bị xa lánh, ghét bỏ. 7.

Buồn chán và không toại nguyện trong nghề nghiệp. 8.

Mệt mỏi tinh thần và trí lực giảm sút. 9.

Mất tập trung. 10.

Mất tính tự phát và sáng tạo. 11.

Giảm lòng tự trọng. 12.

Trong đó, tác giả nhấn mạnh: lo lắng, căng thẳng, tức giận và oán hận là các

triệu chứng thường được nhắc tới nhiều hơn. Một số người thấy sức ép nghề nghiệp

quá lớn sinh ra tâm lý xa cách và dần trở nên trầm nhược. Tình trạng này có thể xảy

ra sau khi người lao động cố gắng nhưng thất bại không vượt qua được tình huống

stress. Nếu hiện tượng này thường diễn ra thì hậu quả có thể người lao động cảm

thấy không tự lực được dẫn đến không muốn thay đổi gì cả mặc dù vẫn có khả năng

làm. Mặt khác, một số người có thể chẳng bao giờ cố gắng cả bởi vì họ đã mang

nặng ý nghĩ không thể tự lực trong hoạt động nghề nghiệp rồi.

Mặt sinh lý, L. Levi lệt kê có 13 biểu hiện thực thể như sau:

Tăng nhịp và huyết áp. 1.

Tiết chất Adrenaline và Norardrenaline. 2.

Bệnh đường tiêu hóa như loét. 3.

Các chấn thương thân thể. 4.

Sự mệt mỏi thể xác. 5.

Cái chết, bệnh tim mạch. 6.

Các chứng bệnh hô hấp. 7.

Vã mồ hôi. 8.

Các chứng bệnh ngoài da. 9.

Các chứng nhức đầu. 10.

Ung thư. 11.

27

Sự căng thẳng cơ bắp. 12.

Các rối loạn giấc ngủ. 13.

Cùng chung với quan điểm của L.Levi, bác sĩ Lê Quốc Nam khi tư vấn về sức

khỏe nghề nghiệp cũng nhấn mạnh: Triệu chứng sớm của stress do công việc

thường là nhức đầu, rối loạn giấc ngủ, khó tập trung, dễ cáu kỉnh, khó chịu ở dạ

dày, không hài lòng về công việc, xuống tinh thần. Stress dễ gây ra lo âu, mất tập

trung chú ý, mất tự tin, mất động cơ làm việc, cảm giác thất vọng, dễ bị kích thích,

dễ giận dữ, lạm dụng rượu hay chất gây nghiện, trầm cảm, tự tử. Về thực thể, những

steess tâm lý kéo dài làm tăng nguy cơ mắc các bệnh tim mạch. Sự tích luỹ stress

nghề nghiệp cũng có thể dẫn đến các rối loạn cơ - xương vùng thắt lưng và chi trên.

Nếu stress tại nơi làm việc không được giải quyết, dễ dẫn đến tình trạng kiệt sức

liên tục về mặt thể chất và tâm thần, xuất hiện những cảm xúc tiêu cực như tự đánh

giá thấp bản thân, cảm giác không ai có thể giúp mình được và tuyệt vọng. Những

triệu chứng này sẽ dẫn đến các rối loạn mãn tính về sức khỏe, suy giảm trầm trọng

khả năng tham gia cuộc sống hằng ngày. Những người bị stress trong công việc

cũng thường để stress tác động tới đời sống gia đình do họ dễ bị kích thích, dễ giận,

mất kiên nhẫn, buồn, kiệt sức, mất thích thú, quá mệt mỏi, giảm tình dục, ảnh

hưởng đến sự chăm sóc con cái và đến quan hệ với các thành viên khác trong gia

đình. [11]

Như vậy, người lao động khi bị CTNN sẽ xuất hiện những phản ứng sinh lý và

cảm xúc âm tính. CTNN được xem như thách thức mang tính toàn cầu đối với sức

khoẻ của người lao động. Theo định nghĩa về sức khoẻ của WHO, những người bị

CTNN cũng được xem như không khỏe mạnh, không có động cơ, làm việc không

hiệu quả và có nguy cơ bị tai nạn cao.

1.3.2.3. Nguyên nhân căng thẳng nghề nghiệp

Có rất nhiều nguyên nhân gây ra CTNN cho người lao động, như:

 Do các mối quan hệ trong công việc

Quan hệ với quản lý

28

Mối quan hệ giữa người chủ và nhân viên không thân thiện, cởi mở với nhau

là một trong nhiều nguyên nhân dẫn đến sự căng thẳng. Tình trạng không có đối

thoại, người lao động thụ động, không được góp ý trong việc xếp đặt công việc

hoặc không được sự hỗ trợ từ cấp trên để hoàn thành công việc đã gây nên sự phản

cảm, bất bình nơi họ. Người lao động cũng rất nhạy cảm khi nhận thấy quản lý có

vẻ chán làm việc hay quản lý không có khả năng trong khi mình cứ phải tuân theo

mệnh lệnh của họ.

Quan hệ với đồng nghiệp

Những mối quan hệ của cá nhân trong việc làm là rất quan trọng cho sự toại

nguyện với nghề nghiệp. Sự nâng đỡ, hợp tác từ phía đồng nghiệp có tác dụng giảm

nhẹ căng thẳng. Ngược lại, đồng nghiệp hỗ trợ ít, không thân thiện...làm xuất hiện

hoặc gia tăng mức độ stress.

 Do áp lực công việc

Quá tải lao động

Quá tải lao động thường được xem xét về hai mặt lượng và chất. Quá tải về

lượng phát sinh khi các đòi hỏi về khối lượng công việc rất nhiều mà phải làm trong

một thời gian ngắn. Trước tình đó, chủ thể buộc phải kéo dài thời gian làm việc, ít

nghỉ giải lao. Quá tải về chất khi yêu cầu của công việc phức tạp, khó khăn, đòi hỏi

nhiều trách nhiệm, vượt quá khả năng của người lao động. Công việc thay đổi quá

nhanh, nhân viên không đáp ứng kịp thời. Đây chính là một dạng của áp lực công

việc đòi hỏi người lao động phải tích cực, năng động để đáp ứng được sự biến đổi

đó. Nếu chủ thể không thích nghi được sẽ nảy sinh cảm giác lo sợ bị nhìn nhận yếu

kém, không đáp ứng được yêu cầu của công việc. [24]

Dưới tải lao động

Căng thẳng còn phát sinh khi lượng công việc quá ít, công việc quá đơn giản.

Có thể ban đầu người lao động thấy thoải mái, dễ chịu, không bị áp lực công việc đè

nặng. Nhưng nếu tình trạng này kéo dài, chủ thể sẽ có tâm lý buồn chán. Mỗi người

đều có nhu cầu được khẳng định bản thân mình qua các hoạt động nên khi nhu cầu

không được thỏa mãn, các xúc cảm âm tính tích tụ gây nên stress.

29

Người lao động làm công việc đơn điệu, lặp lại gây nhàm chán cũng thể hiện

sự dưới tải lao động. Việc làm không mang ý nghĩa thử thách, có tính đổi mới sẽ

không còn làm cho người lao động thấy hứng thú và chú ý chuyên tâm vào công

việc nữa. Đáp ứng tâm sinh lý của người lao động với những nghề buồn tẻ thường

là: chán nản, buồn nôn, yếu các cơ bắp, nhức đầu và nhìn mờ nhưng không tồn tại

bất cứ một cơ sở thực tổn nào.

Làm ca kíp đòi hỏi người lao động phải luân phiên quay vòng giờ làm việc.

Điều này có thể gây xáo trộn trong giấc ngủ, các nhịp sinh lý thần kinh. Con người

có thể mất đồng bộ về hoạt động tâm trí và thể lực. [24], [28]

 Do môi trường làm việc không thuận lợi

Bao gồm các tác nhân, như: chỗ làm việc chật hẹp, đông người, ồn ào, không

đủ ánh sáng, nhiệt độ quá nóng hoặc quá lạnh; không khí ô nhiễm...Người lao động

cũng cảm thấy căng thẳng khi có hóa chất hoặc vật thể rủi ro trong cơ sở, thiếu an

toàn lao động, đối mặt với đe dọa, chấn thương.

 Do các yếu tố chủ quan

Các vấn đề khó khăn cá nhân cũng ảnh hưởng đến khả năng làm việc của

người lao động, ví dụ như những tác nhân từ gia đình. Gia đình là tổ ấm, một chốn

riêng tư và yên tĩnh giúp tái tạo và tập hợp lại những sức mạnh bên trong để đáp

ứng những đòi hỏi bên ngoài. Tuy nhiên khi sức ép xâm chiếm nơi ẩn náu này, gia

đình lục đục, bất hòa thì nó có thể khuếch đại các hậu quả của stress nghề nghiệp.

Hoặc khi cá nhân phải có trách nhiệm với quá nhiều người, tình trạng sức khỏe

không tốt, nhiều thói hư tật xấu, như: nghiện rượu, thuốc lá, đam mê bài bạc dễ có

phản ứng stress. Khả năng ứng phó có được từ kiến thức và kinh nghiệm với công

việc, nhân cách người lao động có tác dụng điều tiết stress nghề nghiệp.

1.3.3. Rối nhiễu nhân cách

1.3.3.1. Khái niệm rối nhiễu nhân cách

Rối nhiễu nhân cách là một trong các nhóm của rối nhiễu tâm lý theo sự phân

loại của WHO. Có rất nhiều ý kiến khác nhau của các tác giả hay các nhóm tổ chức

trong và ngoài nước về RNNC. Sau đây là một số ý kiến thường gặp:

30

Rối nhiễu nhân cách (Personality disorders) theo J.Reich và Kaplan là: “Một

tập hợp các trạng thái để biệt định các đối tượng có cách sống, cách cư xử và cách

phản ứng hoàn toàn khác biệt với người thường nhưng lại không đủ các triệu chứng

của một bệnh lý tâm thần đặc trưng”. Hai tác giả cũng đưa ra các con số là từ 6% tới

11,1% dân số có vấn đề về rối nhiễu nhân cách. [17]

Theo Giáo sư Đặng Phương Kiệt: “RNNC là một kiểu tri giác, tư duy hoặc

ứng xử kém thích nghi, cứng nhắc, tồn tại lâu dài (mãn tính). Những kiểu rối nhiễu

này có thể làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến năng lực một cá nhân vận hành trong

những môi trường xã hội hoặc lao động và có thể gây ra nỗi khổ tâm đáng kể.

Những rối nhiễu này thường có thể được nhận biết vào lúc con người đạt tới tuổi

thanh niên”. [9]

Tuy quan niệm về RNNC mà mỗi tác giả đưa ra là khác nhau nhưng đều nhấn

mạnh: “RNNC là những hành vi, ứng xử khác thường song chưa phải là bệnh

tâm thần đặc trưng”, đây cũng là khái niệm của đề tài về RNNC. Khái niệm về

RNNC là một khái niệm tiến triển và thay đổi theo sự phát triển của ngành tâm

thần.

1.3.2.2. Biểu hiện rối nhiễu nhân cách

 Người bị RNNC thường có những biểu hiện như sau:

Người bị RNNC có thái độ và hành vi là nguyên nhân gây ra những vấn đề lớn

cho chính bản thân họ và người khác. Ví dụ như: cách họ nhìn cuộc sống, cách họ

nghĩ, quan hệ với người khác, cách làm việc.

Người bị RNNC có thể không có tính mềm dẻo trong cư xử.

Hầu hết những người RNNC không nguy hiểm, nhưng họ có nhiều nhu cầu và

dễ bị tổn thương.

 Hiện nay cả 2 cách phân loại bệnh tật quốc tế như DSM và ICD đều có

khuynh hướng tách RNNC ra khỏi các lý thuyết bệnh lý và đặt trọng tâm trên

các biểu hiện lâm sàng. DSM và ICD đã nêu lên những biểu hiện lâm sàng của

RNNC như sau: [4]

31

Bảng 1.1. Biểu hiện RNNC theo DSM

DSM ICD

Tiêu chuẩn chẩn đoán của DSM hướng Tiêu chuẩn chẩn đoán

đến hành vi hoặc đặc điểm tính cách kéo dài của ICD bao gồm đa dạng các điều

từ thời ấu thơ đến thời điểm hiện tại. RNNC kiện hướng đến các đặc điểm tính

được mô tả như là tập hợp các hành vi là cách lâu dài của trạng thái nhận

nguyên nhân gây ra sự suy giảm lớn về chức thức, đồng thời hành vi có sự khác

biệt rõ ràng với sự chấp nhận và năng xã hội, nghề nghiệp hoặc gây ra cảm

mong chờ của xã hội. giác đau buồn chủ quan.

Rối nhiễu nhân cách là một dạng bất Rối nhiễu nhân cách bao gồm

biến của quá trình sống và cư xử đi lệch ra các dạng hành vi bền vững và ăn

ngoài nền văn hóa tương quan với người đó, sâu bộc lộ qua sự đáp ứng cứng

có tính chi phối và cứng nhắc, thường xuất nhắc trong các hoàn cảnh cá nhân

hiện vào đầu tuổi thiếu niên hoặc đầu tuổi và xã hội khác nhau.

trưởng thành, hằng định với thời gian và là

nguồn gốc gây đau khổ hoặc sút giảm chức

năng.

Theo hệ thống DSM, có 3 nhóm rối nhiễu nhân cách:

Nhóm A: Kỳ quái/lập dị

- RNNC hoang tưởng.

- RNNC phân liệt.

- RNNC dạng phân liệt.

Nhóm B: Kịch tính/nhiều cảm xúc/bất định

- RNNC chống đối xã hội: Có biểu hiện chủ yếu bằng sự khó hoặc không thích

ứng thường xuyên với các quy tắc đạo đức xã hội và pháp luật, không quá ngạc

nhiên khi các nghiên cứu chỉ ra rằng căn bệnh này có tỷ lệ cao ở tù nhân (những

32

người thường có hành vi bạo lực), tương tự như vậy người lạm dụng rượu và các

chất gây nghiện cũng được ghi nhận là có khả năng mắc cao hơn cộng đồng.

- RNNC cảm xúc không ổn định.

- RNNC kịch tính.

- RNNC ái kỷ: Có biểu hiện qua ảo tưởng và hành vi tự cao tự đại, khát vọng

được người khác ngưỡng mộ, tham vọng thành công chói sáng trong mọi lĩnh vực

và thiếu sự đồng cảm với người khác.

Nhóm C: Lo âu

- RNNC tránh né: Có đặc điểm chung là sự ức chế về mặt xã hội, tự đánh giá

thấp bản thân và rất nhạy cảm đối với phán xét không thuận lợi của người khác đối

với mình. Đối với một số tác giả căn bệnh này là một kiểu ám ảnh sợ xã hội lan tỏa.

Người bệnh nghèo nàn trong các mối quan hệ, họ thường chỉ có vài người bạn, ít

tham gia vào các hoạt động chung.

- RNNC phụ thuộc.

- RNNC ám ảnh, cưỡng chế: Có đặc tính là sự quan tâm quá mức tới những

chi tiết, quy tắc, sắp xếp trật tự và hoàn hảo. Mặt khác lại rất sợ phạm sai lầm,

nghiền ngẫm và lý luận suông, hệ quả là không dám làm và hay lưỡng lự. Về cảm

xúc thường đè nén, trở ngại trong giao tiếp, thiếu khôi hài, cởi mở và khi thương

lượng với người khác thường cứng nhắc.

1.3.3.3. Nguyên nhân của rối nhiễu nhân cách

Nguyên nhân của bệnh đến nay chưa được biết cặn kẽ, như nhiều rối loạn tinh

thần khác nó là sự phối hợp giữa0T 0Tgien, môi trường xã hội và các yếu tố tâm lý.

 Nguyên nhân sinh học

Do tổn thương hệ thần kinh trung ương làm rối loạn hoạt động tiết ra nội tiết

tố của tuyến yên khiến cơ thể bị thiếu hụt một số chất ảnh hưởng đến quá trình nhận

thức, tư duy và hành động của con người.

Do những khiếm khuyết trên cơ thể khiến con người luôn thấy mặc cảm, tránh

né mọi người từ đó có những suy nghĩ, cư xử khác thường.

33

Do di truyền: Tính cách có khả năng truyền một phần từ cha mẹ sang thế hệ

sau được cho là có liên quan.

Các nhà khoa học theo thuyết đa nhân cách cho rằng: con người ngay từ khi

sinh ra đã mang trong mình nhiều “mầm nhân cách” khác nhau, giống như mang

nhiều hạt giống. Hạt giống nào phù hợp với cơ thể, điều kiện sống và giáo dục thì sẽ

phát triển trở thành nhân cách của người đó. Khi ấy, họ “bỏ quên” các nhân cách

kém hoặc không phát triển khác. Tuy có quá trình “chọn lọc tự nhiên” như vậy

nhưng những mầm nhân cách kia không bị mất đi hoàn toàn mà ẩn núp ở đâu đó

trong tiềm thức. Dưới tác động của một tác nhân nào đó, các nhân cách còn lại kia

sẽ trỗi dậy, kiểm soát và đưa người ta vào chứng RNNC. [4]

 Nguyên nhân tâm lý

Con người khi bị chỉ trích hay không được chấp nhận bởi cha mẹ hoặc cộng

đồng xung quanh sẽ có những cảm xúc đau đớn lặp đi lặp lại. Hiện tượng này tạo

ra cơ chế phòng thủ, một cách đơn giản họ nghĩ rằng cách tốt nhất để giảm thiểu

đau đớn đó là tránh né các mối quan hệ có nguy cơ0T 0T.

Những trải nghiệm lo âu trong quá khứ vào thời thơ ấu và thanh niên có thể

tạo ra cho con người nhu cầu muốn tránh né và cảm giác sợ hãi các mối quan hệ

mới.

Tìm hiểu quá khứ của người bị RNNC cho thấy có người bị lạm dụng cảm

xúc, lạm dụng tình dục. [4]

1.4. Rối nhiễu tâm lý của điều dưỡng viên

1.4.1. Nghề điều dưỡng

1.4.1.1. Khái niệm nghề điều dưỡng

Florent Nightingale (1860) – người đầu tiên trên Thế giới sáng lập ra ngành

điều dưỡng đã đưa ra khái niệm: “Điều dưỡng là một nghệ thuật sử dụng môi

trường của người bệnh để hỗ trợ sự hồi phục của họ”. Khái niệm của Florent

Nightingale phản ánh mối quan tâm của thời đại mà bà đang sống. Bà đặt vai trò

trọng tâm của người điều dưỡng là giải quyết các yếu tố môi trường xung quanh nơi

người bệnh để họ được hồi phục một cách tự nhiên. [1]

34

Năm 1960 Yrirginia Handerson lại cho rằng: "Chức năng duy nhất của người

điều dưỡng là hỗ trợ các hoạt động nâng cao hoặc hồi phục sức khỏe của người

bệnh hoặc người khỏe, hoặc cho cái chết được thanh thản mà mỗi cá thể có thể tự

thực hiện nếu họ có sức khỏe, ý chí và kiến thức. Giúp đỡ các cá thể sao cho họ đạt

được sự độc lập càng sớm càng tốt". Khái niệm này đã được hội đồng điều dưỡng

Quốc tế chấp nhận vào năm 1973 và đa số các nhà nghiên cứu về nghề điều dưỡng

cũng đã có sự thống nhất. Theo Handerson chức năng nghề nghiệp của người điều

dưỡng là chăm sóc và hỗ trợ người bệnh thực hiện các hoạt động hàng ngày. [1]

Khái niệm của Hội điều dưỡng Mỹ vào năm 1965: “Điều dưỡng là một nghề

hỗ trợ cung cấp các dịch vụ chăm sóc đóng góp vào việc hồi phục nâng cao sức

khỏe”. Năm 1980, khái niệm trên đã được sửa đổi để phản ánh rõ bản chất nghề

nghiệp, các khía cạnh luật pháp về phạm vi thực hành của người điều dưỡng và thể

hiện xu hướng của ngành điều dưỡng trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe. Khái niêm

được sửa đổi thành: “Điều dưỡng là chẩn đoán và điều trị những phản ứng của con

người đối với bệnh hiện tại hoặc bệnh có tiềm năng xảy ra”. Tuy nhiên cũng có ỷ

kiến cho rằng khái niệm đã thiên về kỹ thuật và giảm đi thiên chức chăm sóc sức

khỏe của nghề. [2]

1.4.1.2. Đặc điểm của nghề điều dưỡng

Nghề điều dưỡng là nghề chăm sóc sức khỏe cho con người nên vừa có những

đặc điểm chung của nghề thầy thuốc vừa có những đặc điểm riêng.

Một số đặc điểm chung như sau:[2]

- Nghề có đối tượng hoạt động đa dạng và phức tạp.

- Nghề thầy thuốc là nghề cao quý thuộc nhóm những ngành nghề hoạt động

giữa con người với con người – chủ thể và đối tượng đều là những con người. Đối

tượng con người ở đây xét về cấp độ sinh học vừa có những nét đặc trưng của loài,

vừa có những đặc điểm riêng không lặp lại ở từng cá thể. Xét về cấp độ tâm lý – xã

hội, mỗi con người đều là một nhân cách, vừa có những đặc điểm tâm lý – xã hội

chung của một nhóm (của một giai cấp, một dân tộc…), mang những dấu ấn văn

hóa, lịch sử của một quốc gia…, lại vừa có những nét riêng của chính con người đó.

35

- Trong hoạt động nghề y, con người vừa là khách thể chịu sự tác động của các

yếu tố tự nhiên và xã hội, vừa là chủ thể của các tác động lên người khác.

- Có thể nói, nghề y là một nghề đặc biệt vì có đối tượng hoạt động là người

bệnh. Đây chính là điểm khác biệt về cơ bản của nghề y so với những ngành nghề

khác. Ở người bệnh, các quá trình sinh học của cơ thể, hoặc là từng bộ phận, hoặc là

toàn bộ diễn ra không bình thường bị chi phối bởi những tác nhân gây bệnh khác

nhau. Song, vì con người là một cấu trúc hệ thống thống nhất (cả về mặt sinh học,

cả về mặt tâm lý xã hội), nên các tác nhân gây bệnh không chỉ tạo ra những bất bình

thường cho quá trình sinh học mà còn làm ảnh hưởng đến cả quá trình tâm lý. Và

ngược lại, những tác nhân gây biến đổi tâm lý lại kéo theo những biến đổi sinh học

trên người bệnh.

- Một điều thật rõ ràng, đối tượng hoạt động của nghề thầy thuốc là người

bệnh chứ không phải đơn thuần là bệnh tật. Đó là những con người với một thế giới

thể chất và tâm lý muôn hình muôn vẻ dưới tác động của những bệnh tật khác nhau.

Với đối tượng hoạt động này không cho phép thầy thuốc có thái độ làm việc tắc

trách, qua loa; không cho phép thầy thuốc phạm sai lầm dù rất nhỏ. Những sai lầm

của thầy thuốc sẽ gây tác hại trực tiếp đến tính mạng của người bệnh và thầy thuốc

sẽ có rất ít cơ may để chuộc lại lỗi lầm. Muốn hành nghề có hiệu quả, người thầy

thuốc phải được đào tạo và thường xuyên phải đào tạo lại một cách nghiêm túc,

phải không ngưng rèn luyện cả đức và tài sao cho xứng đáng với lời Chủ tịch Hồ

Chí Minh đã dạy: “Người thầy thuốc giỏi đồng thời phải là như người mẹ hiền”.

Điều dưỡng là một nghề chuyên nghiệp nên cũng có những đặc điểm riêng, cụ

thể là: [12]

- Bác sĩ và điều dưỡng là hai nghề có định hướng khác nhau. Bác sĩ làm nhiệm

vụ chẩn đoán và điều trị. Điều dưỡng chăm sóc và đáp ứng các nhu cầu cơ bản cho

người bệnh về thể chất và tinh thần.

- Điều dưỡng là một ngành học và khoa học về chăm sóc. Do đặc thù của nghề

điều dưỡng là làm công việc chăm sóc từ đơn giản nhất đến những công việc phức

tạp nhất. Từ việc thay ga trải giường tới các công việc nghiên cứu, quản lý, đào tạo

36

và trở thành các chuyên gia điều dưỡng lâm sàng có trình độ. Vì thế ngành điều

dưỡng gồm nhiều cấp trình độ để đáp ứng nhu cầu hành nghề và yêu cầu chăm sóc

sức khỏe. Ngày nay, do sự phát triển của у học đòi hỏi tính chuyên môn hóa ngày

càng cao đã làm cho điều dưỡng trở thành môt ngành đa khoa có nhiều chuyên

khoa, như: điều dưỡng nhi, điểu dưỡng phòng mổ, điều dưỡng cộng đồng, điều

dưỡng tâm thần...

1.4.2. Vai trò và đặc điểm tâm lý của điều dưỡng viên

1.4.2.1. Vai trò của điều dưỡng viên

Điều dưỡng viên là người phụ trách công tác điều dưỡng, chăm sóc sức khỏe,

kiểm tra tình trạng bệnh nhân và các công việc khác để phục vụ cho quá trình chăm

sóc sức khỏe ban đầu cho đến phục hồi, trị liệu cho bệnh nhân.

Ở Việt Nam, trước đây người điều dưỡng được gọi là y tá, có nghĩa là người

phụ tá của người thầy thuốc. Ngày nay, điều dưỡng đã được xem là một nghề độc

lập trong hệ thống y tế do đó người làm công tác điều dưỡng được gọi là điều

dưỡng viên. Người điều dưỡng hiện có nhiều cấp bậc, trình độ và đã được qui định

rất cụ thể và chi tiết trong hệ thống ngạch, bậc công chức theo các văn bản quy định

của Bộ Nội vụ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Lực lượng điều dưỡng viên giữ vai trò nồng cốt trong hệ thống chăm sóc sức

khỏe ban đầu với mục tiêu chẩn đoán, điều trị, chăm sóc các nhu cầu thiết yếu của

người dân trong việc nâng cao sức khỏe, duy trì, phục hồi và dự phòng bệnh tật ở ba

tuyến: tuyến đầu, tuyến sau, và tuyến cuối kết hợp với các chuyên ngành khác trong

toán chăm sóc sức khỏe. Người điều dưỡng có những vai trò cụ thể như sau:

Vai trò người chăm sóc

Theo Benner và Wrubel thì: chăm sóc là yếu tố cơ bản để thưc hành điều

dưỡng hiệu quả. Mọi máy móc, kỹ thuật hiện đại không thay thế được sự chăm sóc

của người điều dưỡng vì các thiết bị này sẽ không tác động được tới cảm xúc và

điều chỉnh hành động cho thích hợp với nhu cầu đa dạng của mỗi cá thể. Chăm sóc

là nền tảng của mọi can thiệp điều dưỡng và là thuộc tính cơ bản của người điều

dưỡng. [10]

37

Leiningerm cho rằng: chăm sóc là yếu tố thiết yếu của điều dưỡng, là một nét

đặc biệt và là đặc tính duy nhất của điều dưỡng. Theo bà "không có sự chữa bệnh

nào mà không có sự chăm sóc nhưng sự chăm sóc có thể diễn ra mà không có điều

trị". [10]

Theo Jen Watson: "Thực hành chăm sóc là hạt nhân của nghề điều dưỡng" và

đưa ra hai giả định vể những giá trị của sự chăm sóc con người là: [10]

- Chăm sóc và tình cảm tạo ra những năng lượng cơ bản về thể chất và tinh

thần.

- Chăm sóc và tình cảm thiết yếu cho sự tồn tại và nuôi dưỡng con người.

Vai trò người truyền đạt thông tin

Thông tin có hiệu quả là yếu tố thiết yếu của mọi nghề phục vụ trong đó có

nghề điều dưỡng. Giao tiếp quy định mối quan hệ giữa người bệnh và người điều

dưỡng, giữa người điều dưỡng và đồng nghiệp. Nó có vai trò trong mọi hoạt động

của người điều dưỡng. Người điều dưỡng thường xuyên giao tiếp cả bằng ngôn ngữ

và phi ngôn ngữ. Loại giao tiếp này đòi hỏi phải chính xác, rõ ràng và phù hợp. [1]

Vai trò người giáo viên

Nhu cầu giáo dục sức khỏe của người điều dưỡng đối với người bệnh ngày

càng tăng. Ngày nay, người ta chú trọng đến việc nâng cao và duy trì sức khỏe hơn

là chỉ chữa bệnh thuần túy. Vì vậy người bệnh cần có thêm kiến thức để tự theo dõi

và chăm sóc nhằm rút ngắn ngày nằm viện. Sự gia tăng của các bệnh mãn tính và tật

nguyền đòi hỏi người bệnh và gia đình phải có thêm kiến thức và kỹ năng để tự

chăm sóc tại nhà. Qui trình giảng dạy gồm 4 thành phần cơ bản: nhận định, lập kế

hoạch, thực hiện kế hoạch và lượng giá.

Vai trò người tư vấn

Tư vấn là quá trình giúp đỡ người bệnh để nhận biết và đương đầu với những

stress về tâm lý hoặc những vấn đề xã hội để cải thiện các mối quan hệ giữa người

với người và để thúc đẩy sự phát triển của mỗi người. Tư vấn liên quan đến sự hỗ

trợ về tình cảm, tri thức và tâm lỷ. Người điều dưỡng tập trung vào giúp cho người

bệnh phát triển những thái độ, tình cảm và các hành vi mới. Người điều dưỡng

38

khuyến khích người bệnh tìm kiếm những hành vi thay thế, nhận ra sự lựa chọn và

xây dựng ý thức tự kiểm soát.

Tư vấn đòi hỏi kỹ năng giao tiếp chữa bệnh, kỹ năng phân tích tình hình, tổng

hợp thông tin và đánh giá quá trình tiến triển của người bệnh sau khi đã được tư

vấn. Người diều dưỡng phải là một mô hình mẫu để hướng dẫn những hành vi

mong muốn, phải thể hiện sự quan tâm tới lợi ích của người khác, phải có suy nghĩ

sáng tạo, mội thái độ linh hoạt và hài hước khi tiếp xúc với các đối tượng người

khác nhau.

Điều dưỡng viên tư vấn bệnh nhân mỗi khi gặp họ ở bất kỳ nơi nào tại văn

phòng hay tại nơi tư vấn bệnh nhân ở bệnh viện. Bệnh nhân tìm kiếm điều đưỡng

như là một chuyên gia chăm sóc sức khỏe. Điều dưỡng viên được yêu cầu phải cùng

kiểm tra thuốc với bệnh nhân sau khi họ nhận thuốc và tư vấn cho họ những loại trừ

khi sử dụng. Công việc tư vấn của điều dưỡng viên không hoàn toàn kết thúc khi

bệnh nhân xuất viện mà điều dưỡng viên còn phải tiếp tục tư vấn cho gia đình của

họ để đảm bảo rằng bệnh nhân được chăm sóc trong một môi trường ổn định. Trong

thời gian điều trị bệnh khắc nghiệt và khó khăn, điều dưỡng viên sẽ tư vấn để quyết

định cho bệnh nhân được thực hiện các điều trị hợp lý và nhanh chóng. [1]

Vai trò người biện hộ cho người bệnh

Biện hộ nghĩa là hành động thay hoặc bảo vệ lợi ích cho người khác. Vỉ vậy,

biện hộ là thúc đẩy những hành động tốt đẹp nhất cho người bệnh, bảo đảm cho

những nhu cầu của người bệnh được đáp ứng. [2]

1.4.2.2. Một số đặc điểm tâm lý của điều dưỡng viên

Khách thể nghiên cứu của đề tài là điều dưỡng viên, chính vì vậy việc tìm hiểu

các đặc điểm tâm lý của họ là một trong những cơ sở quan trọng để xác định các

biện pháp tác động phù hợp.

Điều dưỡng viên là những người thuộc lứa tuổi từ 20 tuổi trở đi, được xếp vào

giai đoạn tuổi trưởng thành nên có sự hội tụ đầy đủ những điều kiện sinh học để làm

vợ, làm chồng, làm cha, làm mẹ, cũng như làm người lao động thực sự trong gia

đình và xã hội. Đó là sự phát triển về thể chất đã đạt đến mức hoàn thiện, trọng

39

lượng não đã đạt đến mức tối đa, hoạt động hệ thần kinh cấp cao đã đạt đến mức

trưởng thành, quá trình hưng phấn và ức chế diễn ra cân bằng. [1], [13]

Người điều dưỡng đã hội tụ các tiêu chuẩn cần và đủ để xây dựng gia đình.

Đại đa số những người trong độ tuổi này đã lấy vợ, lấy chồng, có gia đình riêng.

Cùng với tình yêu và hạnh phúc đôi lứa, việc ra đời của đứa con đầu lòng là sự kiện

quan trọng của những đôi vợ chồng trẻ. Nghĩa vụ đối với gia đình, xã hội của những

ông bố, bà mẹ nặng nề hơn trước và sắc thái hạnh phúc vợ chồng theo đó cũng có

nét mới so với trước đây. Trong giai đoạn này, việc nuôi dạy con cái sao cho nó

phát triển tốt về mặt thể lực, trí tuệ và nhân cách (con khỏe, con ngoan, trò giỏi) trở

thành mục tiêu phấn đấu, trách nhiệm, nghĩa vụ và niềm hạnh phúc to lớn của

những người làm bố, làm mẹ. Điều này chi phối không ít đến cuộc sống và nỗ lực

của người làm cha, làm mẹ bên cạnh sự phấn đấu cho chính bản thân mình. Cho nên

bên cạnh những trăn trở trong công việc, người điều dưỡng cũng luôn lo lắng cho

cuộc sống gia đình. [1], [13]

Song song với việc “lập thân”, người điều dưỡng tập trung cho sự nghiệp,

hành nghề một cách tích cực, những người ở lứa tuổi khoảng 30 – 40 tuổi không chỉ

có nghề mà bắt đầu có tay nghề khá cao. Sự say mê sáng tạo trong nghề nghiệp bắt

đầu được hình thành và ngày càng phát triển ở mức bền vững, sâu sắc. Nghề nghiệp

không chỉ có ý nghĩa to lớn đối với bản thân họ mà còn có ảnh hưởng đến cuộc

sống gia đình họ. Với đặc trưng nghề là chăm sóc sức khỏe người bệnh nên điều

dưỡng viên thường có tính tỉ mỉ, cẩn thận trong công việc. Không chỉ chăm sóc sức

khỏe mà còn là tư vấn viên cho bệnh nhân nên người điều dưỡng có thể dễ nhạy

cảm, cảm thông hơn với mọi người. [1], [13]

Điều dưỡng làm việc tại 4 bệnh viện ở thành phố Hồ Chí Minh là: bệnh viện

Nhân dân Gia Định, bệnh viện Thống Nhất, bệnh viện Phạm Ngọc Thạch, bệnh

viện Nhi đồng 2 cũng có những đặc điểm tâm lý như trên. Tuy nhiên, môi trường

sống, chế độ làm việc ở mỗi bệnh viện khác nhau... có thể khiến cho điều dưỡng

viên có những biểu hiện RNTL không giống nhau.

40

1.4.3. Biểu hiện rối nhiễu tâm lý của điều dưỡng viên

1.4.3.1. Rối nhiễu lo âu

Điều dưỡng là người đầu tiên đón chào một đứa trẻ ra đời, cũng là người cuối

cùng chứng kiến người bệnh từ giã cuộc sống. Điều dưỡng luôn luôn sát cánh cùng

bác sĩ với tư cách là người chịu trách nhiệm trước sự sống còn của người bệnh, là

người chăm sóc sức khỏe cho mọi người. Như vậy, đối tượng làm việc của họ là

con người chứ không phải máy móc, chỉ một sai sót nhỏ cũng có thể ảnh hưởng đến

tính mạng bệnh nhân. Các điều dưỡng không chỉ chăm sóc sức khỏe cho bệnh nhân

mà còn phải tìm hiểu hoàn cảnh gia đình, tính khí để chia sẻ, hỗ trợ tinh thần bệnh

nhân. Với mỗi người bệnh có sự khác biệt nhau về đặc điểm tâm sinh lý, hoàn cảnh

sống, bệnh tật... Vì vậy điều dưỡng sẽ có sự chăm sóc khác nhau đối với từng bệnh

nhân. Quá trình chăm sóc muốn hiệu quả thì yêu cầu với người điều dưỡng ngoài

nắm vững chuyên môn phải hiểu tâm lý người bệnh, luôn đối xử với họ ân cần, nhã

nhặn; ngoài ra còn phải biết giải đáp khéo léo những thắc mắc của người nhà bệnh

nhân. Đòi hỏi này tương đối khó cho những điều dưỡng trẻ mới vào nghề, chưa có

kinh nghiệm ứng xử, chưa có sự kiên nhẫn, bền bỉ, linh hoạt. Do đó trước phản ứng

không hợp tác, cáu gắt của người bệnh và thân nhân, điều dưỡng dễ trở nên lúng

túng, mất bình tĩnh, thiếu tự tin, thường xuyên lo lắng, cảm thấy bất an. [10]

Những điều dưỡng ở giai đoạn lứa tuổi (khoảng 37 – 45 tuổi) có biểu hiện của

“khủng hoảng giữa đời”. Dấu hiệu đặc trưng của nó là hiện tượng: mất ngủ, trằn

trọc, thất vọng, chán chường, thờ ơ, lãnh đạm với cuộc sống do con người tĩnh tâm

nhìn lại mình, tự suy xét về những thành bại trong cuộc đời. Người thành đạt cảm

thấy mãn nguyện, kẻ thất bại thấy chua xót, nuối tiếc một thời tuổi trẻ và những cơ

hội bỏ lỡ. Họ muốn làm lại nhưng đã thấy quá muộn và cảm thấy tương lai ảm đạm.

[13]

Như vậy, RNTL của người điều dưỡng biểu hiện ở mặt RNLA là: lo lắng, thất

vọng, tự ti, bất an... Những triệu chứng này kéo dài liên tục và phát triển cao độ thì

sẽ gây ra cho điều dưỡng những rối loạn về thể chất, nhận thức và hành vi.

41

1.4.3.2. Căng thẳng nghề nghiệp

Công việc đang làm chưa đúng với nguyện vọng, sở thích cũng làm cho người

điều dưỡng dễ bị RNTL. Họ chọn nghề điều dưỡng không phải do tự nguyện, do

yêu thích mà có thể vì bị bắt buộc hoặc vì một giải pháp tình thế nào đó. Chính điều

này làm cho điều dưỡng không hứng thú làm việc, chán nản nghề. Điều dưỡng trẻ

thì muốn đổi nghề, sẵn sàng bỏ công việc điều dưỡng để làm việc khác; điều dưỡng

lớn tuổi thì không còn cơ hội chọn nghề khác nên không hào hứng với công việc,

không tích cực tiếp nhận kiến thức dẫn đến sai sót khi làm việc và nếu bị phê bình

sẽ dễ bị căng thẳng, tuyệt vọng... tổn thương tâm lý.

Điều dưỡng là một công việc đòi hỏi rất nhiều thời gian. Trong 8 tiếng làm

việc chính thức, điều dưỡng viên quay cuồng với các bệnh nhân. Nhưng ngoài thời

gian hành chính, họ cũng phải trực chuyên môn, thường xuyên phải làm việc vào

những ngày lễ và nghỉ cuối tuần để đảm bảo bệnh nhân luôn được chăm sóc. Với

những nữ điều dưỡng, thời gian cho tình yêu, gia đình và thời gian tận hưởng cuộc

sống của họ ít nhiều bị "co" hơn các ngành nghề khác. Áp lực về thời gian của công

việc dễ khiến cho người điều dưỡng bị căng thẳng, mệt mỏi... [3]

Điều dưỡng là nghề của những người siêng năng và cẩn trọng, bởi họ luôn

phải chú ý trong mọi thời điểm về tình trạng và diễn biến của người bệnh, phát hiện

ngay từng thay đổi nhỏ trong tình trạng sức khỏe của người bệnh mà mình đã được

phân công chăm sóc. Điều dưỡng cũng là nghề đòi hỏi một tinh thần "thép", nhất là

khi chứng kiến những tình huống tai biến, đôi khi cả những trường hợp tử vong của

bệnh nhân. Đối tượng phục vụ của nghề là những người bệnh, nguy cơ lây nhiễm

(viêm gan B, viêm gan C, lao, tả, HIV/AIDS, v.v.), chế độ lương bổng chưa thỏa đáng,

áp lực từ bệnh nhân, gia đình bệnh nhân, và cả lãnh đạo đơn vị. Trong bệnh viện, điều

dưỡng tiếp xúc, trao đổi, chăm sóc bệnh nhân nhiều nhất. Với những điều kiện làm

việc căng thẳng, sức khỏe tâm thần của điều dưỡng có thể bị ảnh hưởng, từ đó ảnh

hưởng đến thái độ tiếp xúc với bệnh nhân và ảnh hưởng đến kết quả điều trị.

Nghiên cứu của điều dưỡng trưởng Đặng Trần Ngọc Thanh - giảng viên

Trường đại học y khoa Phạm Ngọc Thạch và cộng sự tại 7 khoa chăm sóc đặc biệt

42

(ICU) của 7 bệnh viện đa khoa cấp I tại thành phố Hồ Chí Minh cho thấy: Khi điều

dưỡng làm việc tại ICU, họ phải làm việc thật nhanh, luôn chân luôn tay rất vất vả.

Ngoài ra, phần lớn bệnh nhân đều nặng hoặc hôn mê, lại không có người thân trực

tiếp chăm sóc nên tất cả công việc từ theo dõi các dấu hiệu sống, cho bệnh nhân

dùng thuốc đến nuôi ăn, vệ sinh người bệnh đều do điều dưỡng đảm nhận. Do đó

điều dưỡng dễ có tâm trạng nhàm chán trong công việc.

Tóm lại, nghề y nói chung và nghề điều dưỡng nói riêng là nghề đặc biệt, đặc

thù ở đối tượng tác động. Tính chất áp lực của công việc, môi trường làm việc khiến

cho người điều dưỡng dễ bị căng thẳng nghề nghiệp với những biểu hiện: chán nản,

mệt mỏi, ngột ngạt, khó chịu, không còn hứng thú làm việc...

1.4.3.3. Rối nhiễu nhân cách

Người điều dưỡng mà bị RNNC thì sẽ có những hành vi, ứng xử bất thường,

như: tránh né tiếp xúc với mọi người, làm việc lặng lẽ, âm thầm... và nguy hiểm hơn

có thể thực hiện sai những thủ thuật chăm sóc sức khỏe gây ảnh hưởng xấu đến tính

mạng người bệnh. Vì thế, điều dưỡng bị RNNC nặng có thể sẽ phải nghỉ làm để

đảm bảo an toàn, hiệu quả cho công việc.

Điều dưỡng phải thường xuyên tiếp xúc với bệnh nhân nên những điều dưỡng

làm trong các khoa mà có nhiều bệnh nhân nặng, không thể giao tiếp được sẽ dễ bị

rơi vào trạng thái khép kín, không muốn nói chuyện, sống nội tâm...Những triệu

chứng này mà diễn ra liên tục khiến cho điều dưỡng viên dễ dàng bị RNNC.

Ngoài ra, nguyên nhân RNNC ở người điều dưỡng có thể là: những tổn

thương trong quá khứ, kèm theo tình trạng RNLA và CTNN kéo dài, người điều

dưỡng sẽ bị những tổn thương cả về thể chất và tâm lý, nhân cách rối nhiễu.

43

TIỂU KẾT CHƯƠNG 1

Qua nghiên cứu các vấn đề về RNTL của điều dưỡng đang làm việc tại bệnh

viện, chúng tôi rút ra một số tiểu kết như sau:

RNTL là hội chứng tâm lý làm giảm sức khỏe, gây ra rối loạn chức năng

khiến cá nhân khó làm chủ hành vi ứng xử của mình. Vì vậy, công việc không đạt

được kết quả như mong muốn, cuộc sống gặp nhiều khó khăn. Điều dưỡng viên khi

mắc phải một trong những hội chứng của RNTL thì cuộc sống và công việc sẽ chịu

những tác động lớn theo chiều hướng tiêu cực.

Nghiên cứu RNTL của điều dưỡng viên tại các bệnh viện ở thành phố Hồ

Chí Minh, người nghiên cứu tập trung vào 3 nhóm: rối nhiễu lo âu, căng thẳng nghề

nghiệp và rối nhiễu nhân cách.

Những nguyên nhân gây ra RNTL của điều dưỡng làm tại bệnh viện bao

gồm những nguyên nhân khách quan và những nguyên nhân chủ quan. Trong đó,

nguyên nhân khách quan có ảnh hưởng lớn hơn.

44

Chương 2. THỰC TRẠNG RỐI NHIỄU TÂM LÝ

CỦA ĐIỀU DƯỠNG VIÊN Ở MỘT SỐ BỆNH VIỆN TẠI

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

2.1. Tổ chức nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu

2.1.1. Mẫu nghiên cứu

Chúng tôi lựa chọn khảo sát mẫu là 200 điều dưỡng viên (cả nam và nữ) đang

làm việc tại 4 bệnh viện trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh. Bốn bệnh viện bao

gồm cả đa khoa và chuyên khoa, đó là: bệnh viện Nhân dân Gia Định, bệnh viện

Thống Nhất, bệnh viện Phạm Ngọc Thạch, bệnh viện Nhi Đồng 2. Mỗi bệnh viện

chúng tôi chọn ngẫu nhiên 50 điều dưỡng viên làm việc ở bất kỳ một trong bốn

khoa: Nội, Ngoại, Nhi và Cấp cứu của bệnh viện.

Mẫu nghiên cứu gồm 200 điều dưỡng được phân bố theo giới tính, lứa tuổi,

tình trạng hôn nhân và khoa làm việc như sau:

Bảng 2.1. Phân bố khách thể nghiên cứu

Tiêu chí phân loại Số lượng Tỷ lệ %

Nam 54 27

Giới tính

Nữ 146 73

Tổng 200 100

Từ 20 – 40 tuổi 171 85,5

Lứa tuổi

Từ 41 – 55 tuổi 29 14,5

Tổng 200 100

Chưa có người yêu 98 49

Tình trạng hôn nhân

Có người yêu 60 30

45

Kết hôn, chưa có con 17 8,5

Kết hôn, có con 25 12,5

Tổng 200 100

Nội 62 31

Ngoại 60 30

Khoa làm việc

Nhi 17 8,5

Cấp cứu 61 30,5

Tổng 200 100

Qua bảng 2.1, ta thấy:

- Với tiêu chí phân loại theo giới tính: có sự chênh lệch lớn giữa tỉ lệ điều dưỡng

nữ (73%) và điều dưỡng nam (27%), số lượng nữ nhiều hơn nam gần 3 lần. Đây cũng

là điểm đặc trưng của ngành điều dưỡng.

- Với tiêu chí phân loại theo lứa tuổi: nhóm khách thể được khảo sát có tuổi đời

tương đối trẻ. 171 điều dưỡng viên trong tổng số mẫu là 200 điều dưỡng thuộc lứa tuổi

từ 20 – 40 tuổi, chiếm 85,5%. Sau khi học 2 năm ngành điều dưỡng bậc Trung học

chuyên nghiệp thì một sinh viên có thể trở thành một điều dưỡng viên. 20 tuổi đã đi

làm, đó vừa là cơ hội cũng vừa là thách thức với những người điều dưỡng trẻ. Vì thế,

có thể họ cũng sẽ gặp những vấn đề về tâm lý.

- Với tiêu chí phân loại theo tình trạng hôn nhân: tỷ lệ điều dưỡng chưa có

người yêu chiếm số lượng lớn nhất (49%), điều dưỡng đã kết hôn có con ít nhất, chỉ

chiếm 12,5%. Điều này cũng phù hợp với tỷ lệ lứa tuổi ở trên, ngoài ra cũng còn có

một số điều dưỡng trong độ tuổi từ 41 – 55 tuổi chưa có người yêu, chủ yếu là những

nữ điều dưỡng trưởng khoa của bệnh viện. Nguyên nhân chủ yếu là do họ quá say mê

công việc mà không có thời gian dành cho hạnh phúc của cá nhân mình. Đúng như tâm

sự của chị T.T.T điều dưỡng trưởng khoa Nội – bệnh viện Thống Nhất: “Ngày cũng

46

như đêm, ngày nghỉ cũng như ngày thường, tôi cứ bị cuốn theo công việc nên để tuổi

thanh xuân vụt đi. Giờ đã lớn tuổi chẳng còn muốn nghĩ đến chuyện yêu đương, lập gia

đình gì nữa, lấy công việc làm niềm vui”. [Phụ lục 2]

- Với tiêu chí phân loại theo khoa làm việc: tỷ lệ điều dưỡng làm việc ở 3 khoa

nội, ngoại, cấp cứu của 4 bệnh viện là tương đương nhau; khoa nhi là ít điều dưỡng

nhất (8,5%). Vì bệnh viện nào cũng có khoa nội, ngoại, cấp cứu; do tính đặc thù, bệnh

viện Nhi Đồng 2 và bệnh viện Thống Nhất không có khoa Nhi. Đối tượng bệnh

nhân và tính chất công việc ở các khoa này khác nhau nên tâm lý – cảm xúc của

điều dưỡng làm việc tại các khoa cũng sẽ không giống nhau.

Với việc phân loại mẫu theo các tiêu chí trên, đề tài muốn nhấn mạnh đến

những đặc trưng biểu hiện qua tiêu chí của khách thể nghiên cứu.

2.1.2. Phương pháp nghiên cứu

2.1.2.1. Phương pháp nghiên cứu tài liệu

 Mục đích: Xây dựng khung lý luận làm cơ sở nghiên cứu đề tài.

 Nội dung:

- Khái quát, hệ thống những vấn đề lý luận về RNTL nói chung và RNTL của

điều dưỡng nói riêng.

- Làm sáng tỏ các khái niệm công cụ trong việc nghiên cứu thực trạng RNTL

của điều dưỡng.

- Phân tích, tổng hợp các công trình nghiên cứu trước, từ đó chỉ ra những vấn

đề cần tiếp tục nghiên cứu.

- Xác lập cơ sở lý luận cho việc lựa chọn và thiết lập công cụ nghiên cứu cũng

như phương pháp nghiên cứu của đề tài.

 Cách tiến hành:

Thu thập những tài liệu có liên quan đến vấn đề nghiên cứu, phân tích, tổng

hợp các tài liệu, như: rối nhiễu tâm lý, đặc điểm tâm lý lứa tuổi, đặc điểm nghề điều

dưỡng...phục vụ cho việc nghiên cứu nhằm làm rõ cơ sở lý luận của vấn đề cần

nghiên cứu.

2.1.2.2. Phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi

47

 Mục đích:

Tìm hiểu thực trạng rối nhiễu tâm lý của điều dưỡng làm việc tại bệnh viện.

 Nội dung:

Rối nhiễu tâm lý của điều dưỡng viên tại một số bệnh viện trên địa bàn thành

phố Hồ Chí Minh.

 Cách tiến hành:

Trên cơ sở những vấn đề lý luận về đặc điểm nghề điều dưỡng, đặc điểm tâm

lý lứa tuổi người điều dưỡng, rối nhiễu tâm lý nói chung và rối nhiễu tâm lý của

điều dưỡng viên nói riêng, chúng tôi xây dựng phiếu thăm dò ý kiến, nội dung nhằm

khảo sát thực trạng rối nhiễu tâm lý của điều dưỡng làm thể hiện ở 3 mặt: rối nhiễu

lo âu, căng thẳng nghề nghiệp, rối nhiễu nhân cách.

Hệ thống câu hỏi trong phiếu thăm dò ý kiến gồm 2 phần: [Phụ lục 1]

Phần I: thông tin cá nhân của khách thể nghiên cứu, gồm: giới tính, lứa tuổi,

tình trạng hôn nhân, bệnh viện và khoa đang làm việc, thu nhập hàng tháng công

việc điều dưỡng, chỗ ở hiện tại, phương tiện đi làm, tham gia tư vấn sức khỏe tâm

lý.

Phần II: nội dung chính của phiếu thăm dò ý kiến gồm 8 câu hỏi.

Câu 1: khảo sát mức độ biểu hiện của rối nhiễu lo âu – triệu chứng của rối

nhiễu tâm lý ở người điều dưỡng thể hiện tại 2 mặt: sinh lý và tâm lý. Trong đó, mặt

tâm lý xét ở góc độ: cảm xúc, nhận thức, hành vi. Có 5 mức độ lựa chọn: rất thường

xuyên (5 điểm), thường xuyên (4 điểm), thỉnh thoảng (3 điểm), hiếm khi (2 điểm),

không bao giờ (1 điểm).

- Từ RNLA 1 đến RNLA 4 là: những RNLA biểu hiện ở mặt sinh lý.

- Từ RNLA 5 đến RNLA 23 là: những RNLA biểu hiện ở mặt tâm lý, bao

gồm:

 Từ RNLA 5 đến RNLA 16 là: những RNLA biểu hiện ở mặt cảm xúc.

 Từ RNLA 17 đến RNLA 20 là: những RNLA biểu hiện ở mặt nhận thức.

 Từ RNLA 21 đến RNLA 23 là: những RNLA biểu hiện ở mặt hành vi.

48

Thang đánh giá: luận văn đánh giá RNLA theo điểm số của từng biểu hiện và

theo tổng điểm số của tất cả các biểu hiện.

 Theo điểm của từng biểu hiện

Từ 1 điểm đến 1,5 điểm: không bao giờ có biểu hiện RNLA.

Từ 1,51 điểm đến 2,5 điểm: hiếm khi có biểu hiện RNLA.

Từ 2,51 điểm đến 3,5 điểm: thỉnh thoảng có biểu hiện RNLA.

Từ 3,51 điểm đến 4,5 điểm: thường xuyên có biểu hiện RNLA.

Từ 4,51 điểm đến 5 điểm: rất thường xuyên có biểu hiện RNLA.

 Theo tổng điểm của các biểu hiện

• RNLA về mặt sinh lý – thể chất

Dựa trên bảng thống kê tổng điểm thực tế các biểu hiện RNLA về mặt sinh lý

– thể chất trên toàn mẫu nghiên cứu [Phụ lục 3 – Bảng 2.25], dựa vào thang đánh

giá trình bày ở trên và dựa vào tổng điểm lý thuyết 4 biểu hiện RNLA về mặt sinh

lý – thể chất của điều dưỡng viên tối thiểu là 4 điểm, tối đa là 20 điểm, trung bình là

10 điểm, chúng tôi đưa ra thang điểm phân loại các mức độ RNLA thể hiện qua mặt

sinh lý - thể chất như sau:

Từ 4 điểm đến 10 điểm: không bị RNLA sinh lý - thể chất .

Từ 11 điểm đến 15 điểm: RNLA sinh lý - thể chất nhẹ.

Từ 16 điểm đến 20 điểm: RNLA sinh lý - thể chất nặng .

• RNLA về mặt tâm lý

Dựa trên bảng thống kê tổng điểm thực tế các biểu hiện RNLA về mặt tâm lý

trên toàn mẫu nghiên cứu [Phụ lục 3 – Bảng 2.26], dựa vào thang đánh giá trình bày

ở trên và dựa vào tổng điểm lý thuyết 17 biểu hiện RNLA về mặt tâm lý của điều

dưỡng viên tối thiểu 17 điểm, tối đa là 85 điểm, trung bình là 42,5 điểm, chúng tôi

đưa ra thang điểm phân loại các mức độ RNLA thể hiện qua mặt tâm lý như sau:

Từ 17 điểm đến 42 điểm: không bị RNLA tâm lý.

Từ 43 điểm đến 68 điểm: RNLA tâm lý nhẹ.

Từ 69 điểm đến 85 điểm: RNLA tâm lý nặng.

49

Câu 2: khảo sát những nguyên nhân gây nên RNLA của điều dưỡng với 2 loại

nguyên nhân chính là: nguyên nhân chủ quan và nguyên nhân khách quan. Trong

đó, nguyên nhân chủ quan bao gồm: nguyên nhân sinh lý, nguyên nhân tâm lý;

nguyên nhân khách quan là nguyên nhân văn hóa – xã hội. Có 5 mức độ lựa chọn:

rất đồng ý (5 điểm), đồng ý (4 điểm), phân vân (3 điểm), không đồng ý (2 điểm),

hoàn toàn không đồng ý (1 điểm).

- Từ nguyên nhân thứ 1 đến nguyên nhân thứ 3 là: những nguyên nhân sinh lý.

- Từ nguyên nhân thứ 4 đến nguyên nhân thứ 7 là: những nguyên nhân tâm lý.

- Nguyên nhân thứ 8 là: nguyên nhân văn hóa – xã hội.

Thang đánh giá:

Từ 1 điểm đến 1,5 điểm: điều dưỡng hoàn toàn không đồng ý nguyên nhân

gây nên RNLA.

Từ 1,51 điểm đến 2,5 điểm: điều dưỡng không đồng ý nguyên nhân gây nên

RNLA.

Từ 2,51 điểm đến 3,5 điểm: điều dưỡng không biết nguyên nhân có gây nên

RNLA hay không.

Từ 3,51 điểm đến 4,5 điểm: điều dưỡng đồng ý nguyên nhân gây nên RNLA.

Từ 4,51 điểm đến 5 điểm: điều dưỡng hoàn toàn không đồng ý nguyên nhân

gây nên RNLA.

Câu 3: khảo sát mức độ biểu hiện của căng thẳng nghề nghiệp – triệu chứng

của rối nhiễu tâm lý ở người điều dưỡng thể hiện tại 2 mặt: thể chất và tâm lý.

Trong đó, mặt tâm lý xét ở góc độ: cảm xúc - nhận thức, thái độ - cư xử. Có 5 mức

độ lựa chọn: rất thường xuyên (5 điểm), thường xuyên (4 điểm), thỉnh thoảng (3

điểm), hiếm khi (2 điểm), không bao giờ (1 điểm).

- Từ CTNN 1 đến CTNN 8 là: những CTNN biểu hiện ở mặt thể chất.

- Từ CTNN 9 đến CTNN 22 là: những CTNN biểu hiện ở mặt tâm lý, bao gồm:

 Từ CTNN 9 đến CTNN 18 là: những CTNN biểu hiện ở mặt cảm xúc – nhận thức.

 Từ CTNN 19 đến CTNN 22 là: những CTNN biểu hiện ở mặt hành vi - ứng xử.

50

Thang đánh giá: luận văn đánh giá CTNN theo điểm số của từng biểu hiện và

theo tổng điểm số của tất cả các biểu hiện.

 Theo điểm của từng biểu hiện

Từ 1 điểm đến 1,5 điểm: không bao giờ có biểu hiện CTNN.

Từ 1,51 điểm đến 2,5 điểm: hiếm khi có biểu hiện CTNN.

Từ 2,51 điểm đến 3,5 điểm: thỉnh thoảng có biểu hiện CTNN.

Từ 3,51 điểm đến 4,5 điểm: thường xuyên có biểu hiện CTNN.

Từ 4,51 điểm đến 5 điểm: rất thường xuyên có biểu hiện CTNN.

 Theo tổng điểm của các biểu hiện

• CTNN về mặt sinh lý – thể chất

Dựa trên bảng thống kê tổng điểm thực tế các biểu hiện CTNN về mặt sinh lý

– thể chất trên toàn mẫu nghiên cứu [Phụ lục 3 – Bảng 2.27], dựa vào thang đánh

giá trình bày ở trên và dựa vào tổng điểm lý thuyết 8 biểu hiện CTNN về mặt sinh

lý – thể chất của điều dưỡng viên tối thiểu là 8 điểm, tối đa là 40 điểm, trung bình là

20 điểm, chúng tôi đưa ra thang điểm phân loại các mức độ CTNN thể hiện qua mặt

sinh lý - thể chất như sau:

Từ 8 điểm đến 20 điểm: không bị CTNN sinh lý - thể chất .

Từ 21 điểm đến 30 điểm: CTNN sinh lý - thể chất nhẹ.

Từ 31 điểm đến 40 điểm: CTNN sinh lý - thể chất nặng.

• CTNN về mặt tâm lý

Dựa trên bảng thống kê tổng điểm thực tế các biểu hiện RNLA về mặt CTNN

trên toàn mẫu nghiên cứu [Phụ lục 3 – Bảng 2.28], dựa vào thang đánh giá trình bày

ở trên và dựa vào tổng điểm lý thuyết 14 biểu hiện CTNN về mặt tâm lý của điều

dưỡng viên tối thiểu 14 điểm, tối đa là 70 điểm, trung bình là 35 điểm, chúng tôi

đưa ra thang điểm phân loại các mức độ CTNN thể hiện qua mặt tâm lý như sau:

Từ 14 điểm đến 35 điểm: không bị CTNN tâm lý.

Từ 36 điểm đến 47 điểm: CTNN tâm lý nhẹ.

Từ 48 điểm đến 70 điểm: CTNN tâm lý nặng.

51

Câu 4: khảo sát mức độ xuất hiện những nguyên nhân gây nên CTNN của

điều dưỡng với 2 loại nguyên nhân chính là: nguyên nhân chủ quan và nguyên nhân

khách quan. Trong đó, nguyên nhân chủ quan bao gồm: yếu tố bản thân và yếu tố

gia đình; nguyên nhân khách quan xét ở 3 phương diện: quan hệ trong công việc

của người điều dưỡng, tính chất nghề điều dưỡng, môi trường làm việc. Có 5 mức

độ lựa chọn: rất đồng ý (5 điểm), đồng ý (4 điểm), phân vân (3 điểm), không đồng ý

(2 điểm), hoàn toàn không đồng ý (1 điểm).

- Từ nguyên nhân thứ 1 đến nguyên nhân thứ 15 là: những nguyên nhân khách

quan.

- Từ nguyên nhân thứ 16 đến nguyên nhân thứ 17 là: những nguyên nhân chủ

quan.

Thang đánh giá:

Từ 1 điểm đến 1,5 điểm: điều dưỡng hoàn toàn không đồng ý nguyên nhân

gây nên CTNN.

Từ 1,51 điểm đến 2,5 điểm: điều dưỡng không đồng ý nguyên nhân gây

nên CTNN.

Từ 2,51 điểm đến 3,5 điểm: điều dưỡng không biết nguyên nhân có gây

nên CTNN hay không.

Từ 3,51 điểm đến 4,5 điểm: điều dưỡng đồng ý nguyên nhân gây nên CTNN.

Từ 4,51 điểm đến 5 điểm: điều dưỡng hoàn toàn không đồng ý nguyên nhân

gây nên CTNN.

Câu 5: khảo sát mức độ biểu hiện của rối nhiễu nhân cách – triệu chứng của

rối nhiễu tâm lý ở người điều dưỡng. Có 5 mức độ lựa chọn: rất thường xuyên (5

điểm), thường xuyên (4 điểm), thỉnh thoảng (3 điểm), hiếm khi (2 điểm), không bao

giờ (1 điểm).

Thang đánh giá: luận văn đánh giá RNNC theo điểm số của từng biểu hiện và

theo tổng điểm số của tất cả các biểu hiện.

 Theo điểm của từng biểu hiện

Từ 1 điểm đến 1,5 điểm: không bao giờ có biểu hiện RNNC.

52

Từ 1,51 điểm đến 2,5 điểm: hiếm khi có biểu hiện RNNC.

Từ 2,51 điểm đến 3,5 điểm: thỉnh thoảng có biểu hiện RNNC.

Từ 3,51 điểm đến 4,5 điểm: thường xuyên có biểu hiện RNNC.

Từ 4,51 điểm đến 5 điểm: rất thường xuyên có biểu hiện RNNC.

 Theo tổng điểm của các biểu hiện

Dựa trên bảng thống kê tổng điểm thực tế các biểu hiện RNNC trên toàn mẫu

nghiên cứu [Phụ lục 3 – Bảng 2.29], dựa vào thang đánh giá trình bày ở trên và dựa

vào tổng điểm lý thuyết 7 biểu hiện RNNC của điều dưỡng viên tối thiểu là 7 điểm,

tối đa là 35 điểm, trung bình là 17,5 điểm, chúng tôi đưa ra thang điểm phân loại

các mức độ RNNC như sau:

Từ 7 điểm đến 17 điểm: không bị RNNC.

Từ 18 điểm đến 28 điểm: RNNC nhẹ.

Từ 29 điểm đến 35 điểm: RNNC nặng.

Câu 6: khảo sát những nguyên nhân khách quan và chủ quan gây nên RNNC

của điều dưỡng. Trong đó, nguyên nhân chủ quan bao gồm: yếu tố bản thân và yếu

tố gia đình; nguyên nhân khách quan xét ở 3 phương diện: quan hệ trong công việc

của người điều dưỡng, tính chất nghề điều dưỡng, môi trường làm việc. Có 5 mức

độ lựa chọn: rất đồng ý (5 điểm), đồng ý (4 điểm), phân vân (3 điểm), không đồng ý

(2 điểm), hoàn toàn không đồng ý (1 điểm).

Thang đánh giá:

Từ 1 điểm đến 1,5 điểm: điều dưỡng hoàn toàn không đồng ý nguyên nhân

gây nên RNNC.

Từ 1,51 điểm đến 2,5 điểm: điều dưỡng không đồng ý nguyên nhân gây nên

RNNC.

Từ 2,51 điểm đến 3,5 điểm: điều dưỡng không biết nguyên nhân có gây nên

RNNC hay không.

Từ 3,51 điểm đến 4,5 điểm: điều dưỡng đồng ý nguyên nhân gây nên RNNC.

Từ 4,51 điểm đến 5 điểm: điều dưỡng hoàn toàn không đồng ý nguyên nhân

gây nên RNNC.

53

Câu 7: khảo sát nhận thức nghề nghiệp của người điều dưỡng bằng việc yêu

cầu khách thể cho biết ý kiến về những đánh giá hiện nay của xã hội với nghề điều

dưỡng. Có 5 mức độ lựa chọn: rất đồng ý (5 điểm), đồng ý (4 điểm), phân vân (3

điểm), không đồng ý (2 điểm), hoàn toàn không đồng ý (1 điểm).

Thang đánh giá:

Từ 1 điểm đến 1,5 điểm: điều dưỡng hoàn toàn không đồng ý với những đánh giá.

Từ 1,51 điểm đến 2,5 điểm: điều dưỡng không đồng ý với những đánh giá.

Từ 2,51 điểm đến 3,5 điểm: điều dưỡng không có ý kiến với những đánh giá.

Từ 3,51 điểm đến 4,5 điểm: điều dưỡng đồng ý với những đánh giá.

Từ 4,51 điểm đến 5 điểm: điều dưỡng hoàn toàn đồng ý với những đánh giá.

Câu 8: khảo sát ý kiến của khách thể nghiên cứu về một số biện pháp đề xuất

có thể khắc phục những RNTL của điều dưỡng, với 5 mức độ lựa chọn: rất cần thiết

(5 điểm), cần thiết (4 điểm), có cũng được không cũng được (3 điểm), không cần

thiết (2 điểm), hoàn toàn không cần thiết (1 điểm).

- Các biện pháp đối với người điều dưỡng: 17 biện pháp.

- Các biện pháp đối với bệnh viện: 11 biện pháp.

- Các biện pháp đối với xã hội: 6 biện pháp.

Thang đánh giá:

Từ 1 điểm đến 1,5 điểm: biện pháp để khắc phục RNTL hoàn toàn không

cần thiết.

Từ 1,51 điểm đến 2,5 điểm: biện pháp để khắc phục RNTL không cần thiết.

Từ 2,51 điểm đến 3,5 điểm: biện pháp để khắc phục RNTL có cũng được,

không có cũng được.

Từ 3,51 điểm đến 4,5 điểm: biện pháp để khắc phục RNTL cần thiết.

Từ 4,51 điểm đến 5 điểm: biện pháp để khắc phục RNTL rất cần thiết.

Chúng tôi phát ra 200 phiếu hỏi cho 200 điều dưỡng của 4 bệnh viện trả lời,

mỗi bệnh viện 50 phiếu. Số phiếu thu về là 200 phiếu, trong đó không có phiếu nào

là không hợp lệ.

54

2.1.2.3. Phương pháp phỏng vấn

Mục đích: Người nghiên cứu tiến hành phỏng vấn một số điều dưỡng của 4

bệnh viện: bệnh viện Phạm Ngọc Thạch, bệnh viện Nhân dân Gia Định, bệnh viện

Nhi đồng 2, bệnh viện Thống Nhất nhằm thu thập thêm thông tin để đánh giá về

mức độ biểu hiện những rối nhiễu lo âu của điều dưỡng viên, đồng thời phân tích

các nguyên nhân của thực trạng.

Khách thể: 9 điều dưỡng viên làm việc tại 4 bệnh viện trên, trong đó có những

điều dưỡng trong độ tuổi từ 20 – 40 tuổi và cũng có những điều dưỡng trong độ tuổi

từ 41 – 55 tuổi.

Cách tiến hành: Trò chuyện, trao đổi trực tiếp với điều dưỡng viên của 4 bệnh

viện được chọn làm khách thể nghiên cứu.

2.1.2.4. Phương pháp thống kê toán học

Sử dụng phương pháp xử lý thống kê bằng phần mềm SPSS 16.0 for window

để tính:

- Tỷ lệ phần trăm, thống kê tần số.

- Điểm trung bình, xếp thứ hạng.

- Kiểm nghiệm T – test.

Mức ý nghĩa thống kê: khoảng tin cậy 95%, α = 0,05.

2.1.2.5. Nghiên cứu điều tra bằng quan sát

Thăm quan các khoa của các bệnh viện, quan sát công việc của các điều

dưỡng; quan sát môi trường, cơ sở vật chất tại bệnh viện.

2.2. Kết quả nghiên cứu thực trạng

Chúng tôi tiến hành nghiên cứu thực trạng RNTL của điều dưỡng viên ở ba

biểu hiện: rối nhiễu lo âu, căng thẳng nghề nghiệp, rối nhiễu nhân cách

2.2.1. Rối nhiễu lo âu của điều dưỡng viên

2.2.1.1. Thực trạng rối nhiễu lo âu của điều dưỡng viên

a. RNLA của điều dưỡng viên bệnh viện biểu hiện qua mặt sinh lý - thể chất

Sinh lý và tâm lý là hai mặt của sức khỏe con người, tác động qua lại, tương

hỗ lẫn nhau. Khi tâm lý của một người bị tổn thương thì thể chất, sức khỏe của họ

55

cũng bị ảnh hưởng. Vì vậy, để phân tích được kỹ những biểu hiện của RNLA ở thể

chất, nhóm nghiên cứu chúng tôi đã điều tra bằng bảng hỏi về sức khỏe – bệnh tật

của khách thể. Kết quả thu được như sau:

 Biểu hiện RNLA về mặt sinh lý – thể chất trên toàn mẫu nghiên cứu

Bảng 2.2. Biểu hiện RNLA về mặt sinh lý – thể chất

Rất

Không

Hiếm

Thỉnh

Thường

thường

Thứ

TT

Biểu hiện

bao giờ

khi

thoảng

xuyên

ĐTB

xuyên

hạng

(%)

(%)

(%)

(%)

(%)

1 Rối loạn nhịp thở.

41

37,5

14,5

7

1,88

4

0

2 Rối loạn tiêu hóa.

22,5

35

24,5

18

2,88

2

0

3 Ngủ gặp ác mộng

33

39

15

7

2,15

3

6

4 Nhức mỏi cơ.

12,5

21

28

17,5

21

3,14

1

Điểm trung bình chung

2,515

Qua kết quả bảng 2.2, điểm trung bình chung đạt được 2,515 cho thấy điều

dưỡng thỉnh thoảng gặp những biểu hiện về sinh lý của RNLA, trong đó điểm trung

bình dao động trong khoảng từ 1,88 đến 3,14. Cụ thể, các biểu hiện mà điều dưỡng

cho rằng họ hiếm gặp (có điểm trung bình nhỏ hơn 2,51) là: 1,3. thường xuyên gặp

phải là biểu hiện 4 (có điểm trung bình lớn nhất: 3,14). Những biểu hiện mà điều

dưỡng cho rằng họ thỉnh thoảng gặp (có điểm trung bình lớn hơn 2,51).

"Nhức mỏi cơ" là biểu hiện có điểm trung bình cao nhất 3,14 . 21% điều

dưỡng trả lời rất thường xuyên bị nhức mỏi cơ, phần lớn những người này thuộc lứa

tuổi từ 41 đến 55 hoặc làm ở khoa cấp cứu. Vì tuổi từ 41 trở lên xuất hiện các rối

loạn sinh lý, sẽ dễ gặp những tổn thương về cơ - xương - khớp; mặt khác điều

dưỡng của khoa cấp cứu lúc nào cũng phải khẩn trương, thao tác nhanh nhạy. Theo

như chị L. điều dưỡng khoa cấp cứu – bệnh viện Thống Nhất chia sẻ: "Làm ở khoa

cấp cứu là cứu người hơn cứu hỏa, điều dưỡng đi như chạy. Bệnh nhân đến viện

bao giờ cũng vào cấp cứu đầu tiên sau đó mới chuyển đến các khoa khác cho nên

có ngày chúng tôi phải vận chuyển đến gần 100 ca bệnh". [Phụ lục 2] Nguyên nhân

56

bị nhức mỏi cơ có thể là: sức khỏe bản thân – cơ thể thiếu hụt chất giảm đau. Tuy

nhiên chỉ có 5% điều dưỡng đồng ý "cơ thể bị thiếu hụt một số chất giảm đau" là

nguyên nhân. Khi làm việc tại bệnh viện, phương tiện luôn đi cùng với người điều

dưỡng chính là chiếc xe tiêm, họ phải thường xuyên đẩy xe tới giường bệnh để thực

hiện các thủ thuật cho bệnh nhân. Xe tiêm chứa tất cả các dụng cụ cũng như các

chất thải y tế cho nên tương đối nặng. Ngoài ra vận chuyển bệnh nhân cũng là công

việc của điều dưỡng. Do vậy, điều dưỡng phải luôn chân luôn tay, chủ yếu là đi và

đứng trong công việc. Hình thức vận động như thế này dễ dẫn đến nhức mỏi cơ –

xương – khớp.

Không có điều dưỡng nào trả lời rất thường xuyên bị rối loạn nhịp thở. Điều

dưỡng viên là những người có kiến thức về y học cho nên trước khi chăm sóc sức

khỏe cho người khác thì bản thân họ cũng phải biết điều trị cho mình tránh khỏi

những triệu chứng gây ảnh hưởng xấu đến sức khỏe.

Tóm lại, những biểu hiện RNLA về mặt sinh lý xảy ra ở điều dưỡng viên

không nhiều, phần lớn điều dưỡng bị nhức mỏi cơ và chỉ có 6% thường xuyên ngủ

gặp ác mộng. Có thể nói, trong vai trò người thầy thuốc đem sức khỏe đến cho mọi

người, điều dưỡng đã trang bị cho mình một thể chất tương đối ổn định.

Biểu đồ 2.1. Biểu hiện RNLA về mặt sinh lý – thể chất

 RNLA về mặt sinh lý – thể chất trên toàn mẫu nghiên cứu.

57

Dựa vào tổng điểm về mặt sinh lý - thể chất [Phụ lục 3 – Bảng 2.25] và thang

đánh giá [xem trang 48] ta có tỷ lệ mức độ RNLA về mặt sinh lý – thể chất như sau:

Bảng 2.3. Tỷ lệ mức độ RNLA về mặt sinh lý – thể chất

TT Mức độ RNLA sinh lý – thể chất Số lượng Tỷ lệ (%)

Không bị RNLA sinh lý – thể chất 1 146 73

RNLA sinh lý – thể chất nhẹ 40 20 2

RNLA sinh lý – thể chất nặng 3 14 7

Từ bảng 2.3, ta có: 146 điều dưỡng viên không bị RNLA về mặt sinh lý – thể

chất đạt 73%, bên cạnh đó vẫn có 14 điều dưỡng viên bị “RNLA sinh lý nặng”

chiếm 7%. Tức là, khi bắt đầu vào học cũng như khi bắt đầu đi làm, tất cả các điều

dưỡng đều phải trải qua đợt kiểm tra sức khỏe vì điều dưỡng có khỏe mạnh thì mới

chăm sóc được bệnh nhân và họ là những người hoàn toàn khỏe mạnh về thể chất

và thoải mái về tinh thần nhưng trong quá trình làm việc do chịu nhiều yếu tố tác

động nên người điều dưỡng vẫn bị RNLA.

Khái quát lại, từ những phân tích trên cho thấy rằng: RNLA của điều dưỡng

viên về mặt sinh lý – thể chất khi xét trên phương diện từng biểu hiện xuất hiện ở

mẫu khảo sát cho ra kết quả là biểu hiện “nhức mỏi cơ” hay gặp, biểu hiện “rối loạn

nhịp thở” ít gặp. Khi xét trên phương diện cả 4 biều hiện xuất hiện ở từng khách thể

khảo sát thì kết quả cho thấy đa số điều dưỡng viên không bị RNLA về mặt sinh lý

- thể chất, tuy nhiên vẫn còn một tỷ lệ khá lớn điều dưỡng viên bị RNLA về mặt

sinh lý - thể chất ở các mức độ khác nhau.

58

73%

20%

7%

Biểu đồ 2.2. Tỷ lệ mức độ RNLA về mặt sinh lý – thể chất

b. RNLA của điều dưỡng viên bệnh viện biểu hiện qua mặt tâm lý

 Biểu hiện RNLA về mặt tâm lý trên toàn mẫu nghiên cứu

Theo lý thuyết những biểu hiện của RNLA về tâm lý là nhiều triệu chứng

nhất. Thực tế, mức độ xuất hiện của các triệu chứng này với người điều dưỡng

như sau:

59

Bảng 2.4. Biểu hiện của RNLA về mặt tâm lý

TT

ĐTB

Thứ hạng

Biểu hiện

Không bao giờ (%)

Hiếm khi (%)

Thỉnh thoảng (%)

Thường xuyên (%)

19,5 35

33 41

34 17

13,5 7

Rất thường xuyên (%) 0 0

2,42 1,96

5 9

1 2

rứt, khó

3,5

27

32,5

12,5

24,5

3

3,28

1

31,5

34,5

23,5

10,5

2,13

0

7

4

42

32,5

24,5

1,84

11

1,0

0

5

Lo lắng vô cớ. Hồi hộp. Bứt chịu. Dễ nổi cáu. Bị mất bình tĩnh và khó tập trung. Dễ dàng khóc. Luôn bị bất an. Không hài lòng. Không tự tin.

29,5 35 12,5 37,5 44

33 33,5 55,5 30,5 37,5

26,5 24,5 32 32 18,5

10 7,0 0 0 0

2,20 2,04 2,20 1,94 1,74

1,0 0 0 0 0

6 8 6 10 13

6 7 8 9 10 Hay thất vọng.

bị

kích

34

53,5

8,5

4

1,82

0

12

11

0

0

54,5

27

18,5

12

1,64

14

0

11

20,5

57,5

11

2,68

3

13

0

49

32,5

14,5

4,0

1,74

12

14

2

8

33,5

27

17,5

14

2,96

15

6

23,5

42

16

12

6,5

2,36

16

19

35

23,5

22,5

0

2,50

4

17

2,0

Dễ động. Luôn cho rằng đám đông nói xấu mình. nhớ Thường trước, quên sau. Luôn nghĩ đến điều những không có thực. Ít đến chỗ đông người. Không tham gia vào các hoạt động tập thể. Tránh tiếp xúc với người mà cho là sẽ gây ra nỗi sợ hãi. Điểm trung bình chung

60

Dựa vào bảng 2.4, ta thấy: nhìn chung điều dưỡng hiếm khi gặp các RNLA

về mặt tâm lý, mức độ xuất hiện các biểu hiện RNLA tâm lý ít hơn cả RNLA sinh

lý, điểm trung bình chung chỉ đạt 2,0. Trong đó biểu hiện: “Nhìn thấy đám đông tụ

tập bàn tán thì người điều dưỡng cho rằng họ đang nói xấu mình” điểm trung bình

thấp nhất: 1,64; có đến 54,5% điều dưỡng trả lời không bao giờ nghĩ rằng đám đông

tụ tập đang nói xấu mình. Biểu hiện “Cảm thấy bứt rứt, khó chịu” xếp hạng đầu tiên

với điểm trung bình là 3,28. Bứt rứt, khó chịu cũng là cảm giác thường xảy ra với

nhiều người do áp lực công việc, áp lực cuộc sống hay vấn đề thời tiết, khí hậu

không thuận lợi. “Lo lắng vô cớ, hồi hộp, dễ nổi cáu, luôn bị mất bình tĩnh và khó

tập trung, bất an, không hài lòng, không tự tin, hay thất vọng, dễ bị kích động, nhìn

thấy đám đông tụ tập thì cho rằng họ đang nói xấu mình, thường nhớ trước quên

sau, luôn nghĩ đến những điều không có thực, tránh tiếp xúc với người mà cho rằng

sẽ gây ra nỗi sợ hãi” là những biểu hiện tâm lý của RNLA mà không một điều

dưỡng nào trả lời là “rất thường xuyên xảy ra với mình”. Hầu hết các biểu hiện

RNLA tâm lý đều hiếm khi xảy ra với người điều dưỡng. Khi trả lời bảng hỏi, tỷ lệ

điều dưỡng viên chọn cột “hiếm khi” trong các cột chỉ mức độ xuất hiện các trạng

thái tâm lý là cao nhất.

 RNLA về mặt tâm lý trên toàn mẫu nghiên cứu.

Dựa vào tổng điểm về mặt tâm lý [Phụ lục 3 – Bảng 2.26] và thang đánh giá

[xem trang 48] ta có tỷ lệ mức độ RNLA về mặt tâm lý như sau:

Bảng 2.5. Tỷ lệ mức độ RNLA về mặt tâm lý

Mức độ RNLA tâm lý Không bị RNLA tâm lý RNLA tâm lý nhẹ RNLA tâm lý nặng TT 1 2 3 Số lượng 139 61 0 Tỷ lệ (%) 69,5 30,5 0

Từ bảng 2.5, ta có: 146 điều dưỡng viên không bị RNLA về mặt tâm lý đạt

69,5%; bên cạnh đó không có điều dưỡng viên nào bị “RNLA tâm lý nặng”; có

61/200 mẫu khảo sát, chiếm 30,5% bị “RNLA tâm lý nhẹ”.Tức là, nhân viên điều

dưỡng từ khi làm việc tại bệnh viên thì tâm lý cũng có sự thay đổi.

61

Khái quát lại, từ những phân tích trên cho thấy rằng: RNLA của điều dưỡng

viên về mặt tâm lý khi xét trên phương diện từng biểu hiện xuất hiện ở mẫu khảo

sát cho ra kết quả là các biểu hiện “bứt rứt, khó chịu; nhớ trước quên sau; ít đến chỗ

đông người” hay gặp, các biểu hiện “luôn cho rằng đám đông đang nói xấu mình,

nghĩ đến điều không có thực, hay thất vọng” ít gặp. Khi xét trên phương diện cả 17

biều hiện xuất hiện ở từng khách thể khảo sát thì kết quả cho thấy đa số điều dưỡng

viên không bị RNLA về mặt tâm lý, tuy nhiên vẫn còn một tỷ lệ khá lớn điều dưỡng

viên bị RNLA về mặt tâm lý.

69,5%

30,5%

Biểu đồ 2.3. Tỷ lệ mức độ RNLA về mặt tâm lý

c. So sánh sự khác biệt RNLA theo lứa tuổi và khoa làm việc

Bảng 2.6. Sự khác biệt RNLA theo lứa tuổi và khoa làm việc

RNLA Sinh lý – thể chất Tâm lý

9,53 40,01 Từ 20 – 40 tuổi Lứa 9,62 40,86 Từ 41 – 55 tuổi tuổi Mức ý nghĩa KĐ T - Test 0,882 0,456

10,26 40,72 Nội

9,38 39,72 Ngoại

Mức ý nghĩa KĐ T - Test 0,121 0,345 Khoa

9,65 41,24 làm việc Nhi

8,93 39,70 Cấp cứu

Mức ý nghĩa KĐ T - Test 0,418 0,311

62

• RNLA về mặt sinh lý – thể chất

 So sánh theo lứa tuổi

Kết quả kiểm định T – Test trong bảng 2.6, cho thấy giá trị p (trong kiểm

định t) > 0,05 nghĩa là không có sự khác biệt có ý nghĩa về trung bình giữa 2 nhóm

khách thể điều dưỡng khi xét đến yếu tố lứa tuổi. Như vậy, không có sự khác biệt

về RNLA sinh lý – thể chất khi xét với biến lứa tuổi. Điểm trung bình nhóm có lứa

tuổi từ 20 - 40 tuổi là 9,53 thấp hơn điểm trung bình nhóm có lứa tuổi từ 41 - 55 là

9,62. Đặc điểm này cũng dễ lý giải, nhóm khách thể lớn tuổi có những điều dưỡng

sắp phải về hưu, nếu là người yêu công việc thì tâm lý họ chưa thực sự sẵn sàng cho

việc này nhưng lại luôn nghĩ đến nên có thể trong mọi chuyện sẽ nhạy cảm, mềm

yếu hơn và hay lo lắng hơn. Hai giá trị điểm trung bình đó đều nhỏ hơn điểm trung

bình lý thuyết lý tưởng là 10 [xem trang 48] nghĩa là những điều dưỡng thuộc 2

nhóm lứa tuổi này đều không bị RNLA sinh lý – thể chất.

 So sánh theo khoa làm việc

Đối với 2 khoa: Nội và Ngoại

Từ kết quả ở bảng 2.6, ta thấy điểm trung bình RNLA sinh lý của khoa Nội

là 10,62 > điểm trung bình lý thuyết lý tưởng là 10 và điểm trung bình RNLA sinh

lý của khoa Ngoại là 9,38 > điểm trung bình lý thuyết lý tưởng là 10, giá trị p (trong

kiểm định t) 0,121 > 0,05. Do đó, không có sự khác biệt có ý nghĩa về trung bình

giữa 2 nhóm khách thể điều dưỡng khi xét đến yếu tố khoa làm việc. Điều dưỡng

Nội bị RNLA sinh lý ở mức rất nhẹ, điều dưỡng Ngoại không bị RNLA sinh lý.

Đối với 2 khoa: Nhi và Cấp cứu

Kết quả kiểm định T – Test ở bảng 2.6 có giá trị p = 0,481(trong kiểm định t)

> 0,05 nghĩa là không có sự khác biệt có ý nghĩa về trung bình giữa 2 nhóm khách

thể điều dưỡng của khoa Nhi và khoa Cấp cứu. Điểm trung bình RNLA sinh lý của

điều dưỡng ở 2 khoa này đều nhỏ hơn điểm trung bình lý thuyết lý tưởng là 10. Như

vậy, từ số liệu điểm trung bình, giá trị p của kiểm định T – Test, ta thấy, điều dưỡng

Nhi và điều dưỡng Cấp cứu không có sự khác biệt về RNLA sinh lý và cả 2 nhóm

khách thể này đều không bị RNLA sinh lý.

63

• RNLA về mặt tâm lý

 So sánh theo lứa tuổi

Từ kết quả ở bảng 2.6, điểm trung bình RNLA tâm lý của 2 nhóm tuổi tương

đương nhau, giá trị p > 0,05. Nghĩa là, mức độ RNLA tâm lý của nhóm lứa tuổi 20

– 40 tuổi không khác biệt với nhóm lứa tuổi từ 41 – 55 tuổi. Như vậy, điều kiện làm

việc có tác động lớn đến 2 nhóm khách thể này. Mặc dù lứa tuổi khác nhau nhưng

cùng làm chung trong môi trường bệnh viện nên các điều dưỡng có biểu hiện

RNLA tâm lý gần giống nhau.

 So sánh theo khoa làm việc

Đối với 2 khoa: Nội và Ngoại

Qua bảng 2.6 cho biết kết quả kiểm định T – Test ở bảng 2.6 có giá trị p =

0,481(trong kiểm định t) > 0,05 nghĩa là không có sự khác biệt có ý nghĩa về trung

bình giữa 2 nhóm khách thể điều dưỡng khi xét theo yếu tố khoa. Tuy nhiên điểm

trung bình RNLA tâm lý của điều dưỡng khoa Nội cao hơn, tức là mức độ RNLA

của điều dưỡng Nội khoa cao hơn điều dưỡng Ngoại khoa không chỉ ở mặt sinh lý

mà còn ở cả mặt tâm lý. Nguyên nhân có thể kể đến là do đặc trưng của công việc

từng khoa. Khoa Nội thường tiếp nhận những bệnh nhân điều trị lâu dài nên họ dễ

gặp căng thẳng, dễ nảy sinh cáu gắt sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến người điều dưỡng vì

điều dưỡng viên tiếp xúc với bệnh nhân nhiều nhất. Bệnh nhân đến với khoa Ngoại

là cần những can thiệp ngoại khoa, sau khi các can thiệp này kết thúc 7 đến 10 ngày

người bệnh có thể xuất viện hoặc chuyển sang khoa Nội để điều trị. Như vậy, so với

khoa Nội, thời gian bệnh nhân ở lại khoa Ngoại chữa trị sẽ ngắn hơn mà bệnh nhân

đến viện chỉ mong sớm khỏi bệnh để về nên nếu không phải nằm lâu thì người bệnh

sẽ bớt lo lắng, tinh thần thoải mái, giao tiếp với điều dưỡng dễ chịu, do đó người

điều dưỡng khoa Ngoại nhìn chung sẽ ít bị RNLA hơn.

Đối với 2 khoa: Nhi và Cấp cứu

Kết quả kiểm định T – Test ở bảng 2.6 có giá trị p = 0,311 (trong kiểm định

t) > 0,05 nghĩa là không có sự khác biệt có ý nghĩa về trung bình giữa 2 nhóm

khách thể điều dưỡng của khoa Nhi và khoa Cấp cứu. Điểm trung bình RNLA tâm

64

lý của điều dưỡng ở khoa Nhi và khoa Cấp cứu lần lượt là 41,24 và 39,70 đều nhỏ

hơn điểm trung bình lý thuyết lý tưởng 42,5 [xem trang 48] . Như vậy, từ số liệu

điểm trung bình, giá trị p của kiểm định T – Test, ta thấy, điều dưỡng Nhi và điều

dưỡng Cấp cứu không có sự khác biệt về RNLA tâm lý và cả 2 nhóm khách thể này

đều không bị RNLA tâm lý.

2.2.1.2. Nguyên nhân rối nhiễu lo âu của điều dưỡng viên

a. Nguyên nhân chủ quan

Bảng 2.7. Những nguyên nhân chủ quan của RNLA

ĐTB TT Nguyên nhân Thứ hạng Đồng ý (%) Phân vân (%) Không đồng ý (%) Rất đồng ý (%)

1 Người thân bị RNLA. 30,5 13 4 0 1,68 Hoàn toàn không đồng ý (%) 52,5 6

Gặp phải những vấn đề 21 30,5 19,5 20,5 8,5 2 2,65 1 không tốt về sức khỏe.

Cơ thể bị thiếu hụt một

3 số chất có tác dụng giảm 58,5 25 11,5 5 0 1,63 7

đau.

Gặp những thất bại trong 41 39,5 9 10,5 0 1,89 4 2 chuyện tình cảm.

45 40,5 0 14,5 0 1,84 5 Bị mất người thân. 3

Thời ấu thơ đã trải qua 42,5 40 13 4,5 0 1,80 6 5 nhiều nỗi sợ hãi.

Cuộc sống gia đình có 36,5 45 18,5 0 0 1,82 7 4 nhiều áp lực.

Điểm trung bình chung 1,82

Qua kết quả phân tích nguyên nhân chủ quan, ta thấy điểm trung bình chung

của nhóm những nguyên nhân chủ quan là : 1,82. Như vậy, điều dưỡng đều không

đồng ý rằng những RNLA của bản thân có khả năng chịu tác động từ những yếu tố

65

chủ quan. Trong đó, điểm trung bình của 7 nguyên nhân này dao động trong khoảng

từ 1,63 đến 2,65.

Những số liệu trong bảng 2.12 cho thấy, “Gặp phải những vấn đề không tốt

về sức khỏe” là nguyên nhân có điểm trung bình cao nhất 2,65; ngoại trừ nguyên

nhân này có 8,5% điều dưỡng lựa chọn "rất đồng ý", các nguyên nhân còn lại không

có điều dưỡng nào lựa chọn "rất đồng ý". 10,5% điều dưỡng "đồng ý" với nguyên

nhân "Gặp thất bại trong chuyện tình cảm". Thực tế này dễ lý giải, với người bệnh

nhân viên y tế phải có mặt bên cạnh 24/24, điều dưỡng làm theo ca kíp nên những

ngày nghỉ của những đối tượng khác thì họ vẫn phải đi làm, không có thời gian

chung vui cùng người thân của mình trong các dịp lễ - tết. Nếu người thân hiểu và

thông cảm sẽ không sao, nhưng nếu không hiểu thì vấn đề tình cảm của điều dưỡng

có thể thất bại dẫn đến tâm trạng lo âu, buồn chán. Chia sẻ về thực trạng khó giải

quyết này của nghề điều dưỡng, chị V.T.T.H – bệnh viện Nhân dân Gia Định ngậm

ngùi: “Vào làm ở đây, công việc quần quật lại vô cớ bị chửi, các em chỉ biết khóc.

Mong ước lớn nhất của điều dưỡng là được nghỉ ngơi thứ bảy - chủ nhật nhưng

không được. Cứ ngày lễ là ngày mà điều dưỡng phải tối mặt mũi vì tai nạn nhiều,

bệnh tăng. Mặc dù, lãnh đạo bệnh viện đã rất ưu ái cho anh em điều dưỡng nhưng

không thể bù đắp được, nhất là về vấn đề tổn thương trong tình cảm. Thời gian qua

đi, tuổi trẻ không còn, nhiều bạn trẻ sợ “ế” và thực tế không ít trường hợp như thế

trong giới điều dưỡng”.[Phụ lục 2] 58,5% điều dưỡng “hoàn toàn không đồng ý”

với nguyên nhân “Cơ thể bị thiếu hụt một số chất có tác dụng giảm đau”, tức là hầu

hết các điều dưỡng đều có cấu tạo cơ thể bình thường, đủ khả năng thực hiện công

việc chăm sóc sức khỏe cộng đồng.

b. Nguyên nhân khách quan

Chỉ có một nguyên nhân khách quan mà đề tài đưa ra để khảo sát mẫu là:

“Thường xuyên phải đối mặt với cuộc sống mưu sinh khắc nghiệt” gây nên RNLA

của người điều dưỡng được khảo sát. Kết quả: điểm trung bình 2,30 tức là điều

dưỡng không đồng ý đây là nguyên nhân. Trong đó, 61% điều dưỡng hoàn toàn

không đồng ý và không đồng ý với nguyên nhân này, chỉ có 17% điều dưỡng đồng

66

ý cho rằng đây là nguyên nhân khách quan tác động đến một vài triệu chứng của

RNLA mà họ gặp phải.

Tóm lại, trong các nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan như đã

phân tích có nguyên nhân tác động trực tiếp, có nguyên nhân tác động gián tiếp làm

xuất hiện RNLA ở điều dưỡng viên. Những biện pháp này có thể khắc phục được từ

phía bản thân người điều dưỡng, từ bệnh viện và từ xã hội. Việc làm mất hoặc làm

giảm nguyên nhân gây RNLA là cần thiết để điều dưỡng hoàn toàn khỏe mạnh mới

có thể chăm sóc sức khỏe cho mọi người được. Đặc biệt những điều dưỡng viên

được chọn làm mẫu nghiên cứu đang làm việc tại 4 bệnh viện lớn luôn tập trung

đông bệnh nhân cho nên yêu cầu có giải pháp lại càng cấp thiết.

2.2.2. Căng thẳng nghề nghiệp của điều dưỡng viên

2.2.2.1. Thực trạng căng thẳng nghề nghiệp của điều dưỡng viên

a. CTNN của điều dưỡng viên bệnh viện biểu hiện qua mặt sinh lý – thể chất

 Biểu hiện CTNN về mặt sinh lý – thể chất trên toàn mẫu nghiên cứu

Bảng 2.8. Biểu hiện CTNN về mặt sinh lý – thể chất

TT Biểu hiện ĐTB Thứ hạng Thường xuyên (%) Thỉnh thoảng (%) Hiếm khi (%) Không bao giờ (%) Rất thường xuyên (%)

1 0 29 26,5 22,5 22 3,38 2

2 0 22,5 37,5 35,5 4,5 3,02 5

3 0 3,5 24 40 32,5 3,22 3

4 0 18 34,5 30 17,5 3,47 1 Đau nhức mỗi khi kết thúc công việc. Quá mệt mỏi khi phải làm hài lòng tượng nhiều đối khác nhau trong công việc. Những mùi đặc của bệnh trưng viện làm ngột ngạt, khó chịu… Giảm cân từ khi làm tại bệnh viện.

67

5 11 18 41 17,5 12,5 3,02 4

6 28,5 24 24 18 5,5 2,48 6

tai nạn nghề 7 47,5 40 12,5 0 1,65 7 0

8 0 94 6 0 0 1,06 8 Cứ nghĩ đến việc phải đi làm là thấy đau đầu. Mất ngủ khi phải xuyên thường chứng kiến những cái chết của bệnh nhân. Bị nghiệp. Bị lây bệnh từ bệnh nhân.

Điểm trung bình chung 3,02

Kết quả các số liệu ở bảng 2.8, điểm trung bình chung đạt 3,02 cho thấy điều

dưỡng thỉnh thoảng bị CTNN về mặt sinh lý – thể chất, trong đó điểm trung bình

dao động từ 1,06 đến 3,47. Cụ thể: biểu hiện mà điều dưỡng cho rằng thỉnh thoảng

gặp (có điểm trung bình lớn hơn 2,51) là các biểu hiện: 1, 2, 3, 4, 5 và tiêu chí mà

điều dưỡng cho rằng hiếm khi gặp (có điểm trung bình lớn hơn 1,51) là hai biểu

hiện: 6, 7; riêng biểu hiện 8 điều dưỡng trả lời không bao giờ gặp (điểm trung bình

1,06 < 1,5).

Biểu hiện CTNN 4 “Giảm cân từ khi làm tại bệnh viện” là biểu hiện có điểm

trung bình cao nhất 3,47 có 47,5% điều dưỡng cho rằng họ rất thường xuyên và

thường xuyên bị giảm cân từ khi làm điều dưỡng viên bệnh viện và 34,5% thỉnh

thoảng bị giảm cân, chỉ có 18% là hiếm khi bị giảm cân. Trực đêm, thức đêm, giờ

giấc nghỉ ngơi không ổn định là đặc trưng của nghề điều dưỡng mà không ngủ đúng

giờ, thời gian ngủ ít là nguyên nhân cơ bản hàng đầu của việc bị giảm cân. Làm

theo ca kíp nên điều dưỡng không chỉ ngủ hạn chế mà còn phải ăn vội vàng để rồi

tiếp tục công việc, điều dưỡng H – bệnh viện Nhi đồng 2 nói vui: “Nếu như trước

kia tụi mình đi học phải ăn tranh thủ - ngủ khẩn trương thì bây giờ đi làm, điệp khúc

đó lại lặp lại cho nên chẳng ai tăng cân được”[Phụ lục 2]. Ăn và ngủ là hai yếu tố cơ

bản giúp con người thay đổi cân nặng của mình. Với điều dưỡng, hai yếu tố này đều

68

không được thực hiện khoa học, do đó chắc chắn sẽ bị giảm cân. Như vậy, hoạt

động đặc thù của nghề nghiệp đã trở thành nguyên nhân làm giảm sức khỏe người

điều dưỡng. Sức khỏe giảm không chỉ biểu hiện ở việc bị giảm cân mà còn biểu

hiện ở hiện tượng đau nhức toàn thân, có 44,5% điều dưỡng trả lời là thường xuyên

và rất thường xuyên: “Đau nhức mỗi khi kết thúc công việc”, biểu hiện này có điểm

trung bình khá cao 3,38.

Không có điều dưỡng nào trả lời là không bao giờ mắc phải các triệu chứng:

“Đau nhức mỗi khi kết thúc công việc; mệt mỏi khi phải làm hài lòng nhiều đối

tượng khác nhau, như: đồng nghiệp, bệnh nhân, người nhà bệnh nhân...; Những mùi

đặc trưng của bệnh viện làm ngột ngạt, khó chịu…, giảm cân từ khi làm ở bệnh

viện, bị lây bệnh từ bệnh nhân”. Cao nhất là 32,5% điều dưỡng rất thường xuyên bị

ngột ngạt, khó chịu vì mùi của bệnh viện. Biểu hiện 8 “Bị lây bệnh từ bệnh nhân”

đạt điểm trung bình thấp nhất 1,06; không điều dưỡng nào thường xuyên hoặc rất

thường xuyên mắc phải biểu hiện này. Bệnh nhân đa dạng về loại bệnh, khả năng

xảy ra rủi ro nghề nghiệp với người điều dưỡng tương đối cao. Như bệnh viện Phạm

Ngọc Thạch là bệnh viện chuyên khoa lao phổi, chỉ cần nói chuyện trực tiếp với

người bệnh là có thể lây bệnh, dịch tiết bệnh nhân cũng là yếu tố nguy cơ truyền

bệnh. Trong khi đó, điều dưỡng là nhân viên y tế tiếp xúc với người bệnh nhiều

nhất nhưng 94% điều dưỡng không bị lây bệnh. Có thể nói, điều dưỡng viên luôn

biết cách bảo vệ sức khỏe cho mình và người khác, thận trọng trong công việc.

Biểu đồ 2.4. Biểu hiện CTNN về mặt sinh lý – thể chất

69

 CTNN về mặt sinh lý – thể chất trên toàn mẫu nghiên cứu

Dựa vào tổng điểm về mặt sinh lý - thể chất [Phụ lục 3 – Bảng 2.27] và thang

đánh giá [xem trang 50] ta có tỷ lệ mức độ CTNN về mặt sinh lý – thể chất như sau:

Bảng 2.9. Tỷ lệ mức độ CTNN về mặt sinh lý – thể chất

TT Mức độ CTNN sinh lý – thể chất Số lượng Tỷ lệ (%)

1 Không bị CTNN sinh lý – thể chất 80 40

2 CTNN sinh lý – thể chất nhẹ 119 59,5

3 CTNN sinh lý – thể chất nặng 1 0,5

Từ bảng 2.9, ta có: 80 điều dưỡng viên không bị CTNN về mặt sinh lý – thể

chất đạt 40%, và chỉ có một điều dưỡng viên bị “CTNN sinh lý nặng” chiếm 0,5%.

Và phần lớn nhân viên điều dưỡng rơi vào trạng thái “CTNN sinh lý nhẹ”, có tới

119/200 mẫu khảo sát. So sánh với RNLA sinh lý, tính phổ biến của CTNN sinh lý

ở điều dưỡng cao hơn. Như vậy, công việc có tác động lớn đến sức khỏe sinh lý của

người điều dưỡng.

Khái quát lại, từ những phân tích trên cho thấy rằng: CTNN của điều dưỡng

viên về mặt sinh lý – thể chất khi xét trên phương diện từng biểu hiện xuất hiện ở

mẫu khảo sát cho ra kết quả là các biểu hiện “giảm cân; đau nhức” hay gặp, các

biểu hiện “lây nhiễm, mất ngủ” ít gặp. Khi xét trên phương diện cả 8 biều hiện xuất

hiện ở từng khách thể khảo sát thì kết quả cho thấy đa số điều dưỡng viên thỉnh

thoảng bị CTNN về mặt sinh lý – thể chất, vẫn còn một tỷ lệ khá lớn điều dưỡng

viên bị CTNN về mặt sinh lý – thể chất.

50,5%

40%

0,5%

Biểu đồ 2.5. Tỷ lệ mức độ CTNN về mặt sinh lý – thể chất

70

b. CTNN của điều dưỡng viên bệnh viện biểu hiện qua mặt tâm lý

 Biểu hiện CTNN về mặt tâm lý trên toàn mẫu nghiên cứu

Bảng 2.10. Biểu hiện CTNN về mặt tâm lý

ĐTB TT Biểu hiện Thứ hạng Thường xuyên (%) Thỉnh thoảng (%) Hiếm khi (%) Không bao giờ (%) Rất thường xuyên (%) Nhàm chán vì

1 tính đơn điệu 6 30 29,5 17 17,5 3,10 5

của công việc.

Khi làm việc,

2 chỉ mong đến 0 16,5 23 42 18,5 3,62 1

giờ nghỉ.

Mất hết nhiệt

3 huyết và đam 11 29 41,5 18,5 0 2,68 9

mê làm việc.

Sẵn sàng bỏ việc

này nếu có công 12 11,5 34 18 24,5 3,32 3 4 việc khác thay

thế.

Làm việc giống 11 28,5 18 30,5 12 3,04 7 5 như cái máy.

Bị mất tập trung 29 41,5 24 5,5 0 2,06 13 6 khi làm việc.

Không chịu

đựng được thời 0 12 37,5 28 22,5 3,61 2 7 gian làm việc

thất thường.

71

Không còn hứng

8 thú sáng tạo 12 12,5 41,5 23 11 3,08 6

trong công việc.

Luôn bị phân

9 tâm khi làm 19 34,5 35 6 5,5 2,44 10

việc.

10 Muốn đổi nghề. 11 12 30,5 29,5 17 3,30 4

Hay cáu kỉnh 34,5 23 21,5 11 0 2,19 12 11 với đồng nghiệp.

Ngại giao tiếp

với mọi người 12,5 22,5 41,5 18 5,5 2,82 8 12 trong quá trình

làm việc.

Không hứng thú

với các hoạt 25 29 35 5,5 5,5 2,38 11 13 động của

khoa/bệnh viện.

Không còn

muốn quan tâm

đến các mối 47,5 28 18,5 6 0 14 1,83 14 quan hệ trong

khoa/bệnh viện

nữa.

Điểm trung bình chung 2,93

Từ số liệu ở bảng 2.10, điểm trung bình chung 2,93 tức là điều dưỡng thỉnh

thoảng bị CTNN về mặt tâm lý, trong đó điểm trung bình dao động từ 1,83 đến

3,62. Cụ thể: tiêu chí mà điều dưỡng cho rằng thỉnh thoảng gặp (có điểm trung

72

trong khoảng 2,51 đến 3,5) là các biểu hiện: 1, 2, 3, 4, 5, 7, 8, 10, 12, và tiêu chí mà

điều dưỡng cho rằng hiếm khi gặp (có điểm trung bình trong khoảng 1,51 đến 2,5)

là các biểu hiện: 6, 9, 11, 13, 14.

Những CTNN xếp ở thứ hạng trên trung bình (từ thứ hạng 1 đến thứ hạng 7)

mà điều dưỡng hay gặp là: nhàm chán công việc, không chịu được thời gian làm

việc thất thường, không còn hứng thú sáng tạo khi làm việc.

Biểu hiện 2 “Khi làm việc chỉ mong đến giờ nghỉ” xếp hạng đầu tiên với

điểm trung bình 3,62 và 42% điều dưỡng đều trả lời thường xuyên có trạng thái cảm

xúc này, đặc biệt là khi bị quá tải công việc. Nhu cầu này của điều dưỡng xuất phát

từ tính chất của công việc, 35% điều dưỡng rất đồng ý, 54% điều dưỡng đồng ý với

nguyên nhân “Công việc phải làm triền miên”. [Bảng 2.13] Qua quan sát, chúng tôi

nhận thấy công việc của một điều dưỡng bệnh viện Thống Nhất trong ngày thường

là: 7h sáng họp giao ban khoa sau đó nhận hồ sơ bệnh án, kiểm thuốc, chuẩn bị xe

tiêm. 8h đẩy xe đến buồng bệnh làm thủ thuật tiêm, truyền, thay băng... cho người

bệnh. Trung bình một điều dưỡng phụ trách từ 5 đến 6 buồng bệnh, tương ứng từ 15

đến 20 bệnh nhân, do đó sớm nhất là 10h điều dưỡng mới có thể đẩy xe tiêm về và

phải trực tiếp phân loại, xử lý các loại chất thải, dịch tiết của bệnh nhân trên xe

tiêm. Khoảng 11h điều dưỡng lại ngồi viết hồ sơ bệnh án. 12h họ mới được nghỉ

trưa ăn cơm trong vòng 1 tiếng, nhiều người chưa xong việc thì tranh thủ 30 phút

ngủ trưa để ăn. Điều dưỡng còn phải thay nhau trực trưa. 1h chiều họ lại tiếp tục

công việc như buổi sáng. Trong quá trình làm việc độc lập mà có bệnh nhân mới

chuyển đến, hay y lệnh khẩn của bác sĩ thì điều dưỡng phải thực hiện trước. Theo

giờ làm việc thì 4h là điều dưỡng có thể về nhưng nhiều khoa 6h mà vẫn đông đảo

điều dưỡng ở lại vì chưa xong việc thì chưa về. Ngày trực thì chỉ có 2 điều dưỡng

làm việc 24/24 với gần 100 bệnh nhân trong một khoa.

Chính vì tần suất công việc cao độ như vậy nên 30,5% điều dưỡng được

khảo sát nhận thấy rằng mình thường xuyên: “Làm việc giống như cái máy” và có

đến 29,5% điều dưỡng thường xuyên: “Muốn đổi nghề”, 24,5% điều dưỡng rất

thường xuyên: “Sẵn sàng bỏ việc này nếu có công việc khác thay thế”. Thực tế

73

“chảy máu” điều dưỡng tại các bệnh viện công hiện nay còn do áp lực công việc

quá lớn. Điều dưỡng tuyển vào rồi lại đi đã trở thành điệp khúc lặp lại nhiều lần. Lý

giải vấn đề này, điều dưỡng trưởng V.T.T.H – bệnh viện Nhi đồng 2 giải thích:

“Bệnh nhân ngày càng đông, tỷ lệ bệnh nặng lại tăng gây áp lực trong môi trường

làm việc người điều dưỡng. Trước đây, bệnh nặng ở phòng hồi sức chỉ 45 bệnh/kíp

trực nhưng bây giờ đã lên 60 ca bệnh nặng/kíp, rất áp lực nên nhiều em đã xin

nghỉ”. Theo thống kê của Bộ Y tế, tỷ lệ bác sĩ so với nhân viên điều dưỡng, hộ sinh

tại các bệnh viện mới đạt 1/1,65, như vậy còn thiếu từ 40 đến 60 nghìn điều dưỡng

viên. Thế nhưng, tỷ lệ điều dưỡng viên có trình độ cao đẳng, đại học mới đạt 6%.

Hầu hết, hơn 50 trường Đại học – Cao đẳng – Trung cấp chuyên nghiệp có đào tạo

ngành điều dưỡng đều tuyển một lượng lớn chỉ tiêu cho ngành này nhưng khi ra

trường số làm đúng ngành khá ít. Tuy được ưu ái với chế độ làm việc chỉ 7

tiếng/ngày với khoa làm theo 3 ca 4 kíp, phụ cấp độc hại nhiều hơn… nhưng bệnh

viện Phạm Ngọc Thạch đang đối mặt với bài toán hóc búa: không có điều dưỡng

nào muốn về làm.

 CTNN về mặt tâm lý trên toàn mẫu nghiên cứu

Dựa vào tổng điểm CTNN về mặt tâm lý [Phụ lục 3 – Bảng 2.28] và thang

đánh giá [xem trang 50] ta có tỷ lệ mức độ CTNN về mặt tâm lý như sau:

Bảng 2.11. Tỷ lệ mức độ CTNN về mặt tâm lý

TT Mức độ CTNN tâm lý Số lượng Tỷ lệ (%)

Không bị CTNN tâm lý 1 95 47,5

CTNN tâm lý nhẹ 105 52,5 2

CTNN tâm lý nặng 3 0 0

Từ bảng 2.11, ta có: 95 điều dưỡng viên không bị CTNN về mặt tâm lý đạt

47,5%; bên cạnh đó không có điều dưỡng viên nào bị “CTNN tâm lý nặng”; có

105/200 mẫu khảo sát, chiếm 52,5,5% bị “CTNN tâm lý nhẹ”. Như tỷ lệ điều dưỡng

viên bị CTNN tâm lý cao hơn điều dưỡng viên bị RNLA tâm lý.

74

Khái quát lại, từ những phân tích trên cho thấy rằng: CTNN của điều dưỡng

viên về mặt tâm lý khi xét trên phương diện từng biểu hiện xuất hiện ở mẫu khảo

sát cho ra kết quả là các biểu hiện “nhàm chán công việc, không chịu được thời gian

làm việc thất thường, không còn hứng thú sáng tạo khi làm việc” hay gặp, các biểu

hiện “không quan tâm đến các mối quan hệ, cáu với đồng nghiệp, mất tập trung khi

làm việc” ít gặp. Khi xét trên phương diện cả 14 biều hiện xuất hiện ở từng khách

thể khảo sát thì kết quả cho thấy điều dưỡng viên thỉnh thoảng bị CTNN về mặt

tâm lý, vẫn còn một tỷ lệ khá lớn điều dưỡng viên bị CTNN về mặt tâm lý.

52,5%

47,5%

Biểu đồ 2.6. Tỷ lệ mức độ CTNN về mặt tâm lý

c. So sánh sự khác biệt CTNN theo lứa tuổi và khoa làm việc

Bảng 2.12. Sự khác biệt CTNN theo lứa tuổi và khoa làm việc

CTNN Sinh lý Tâm lý

21,29 35,85 Từ 20 – 40 tuổi Lứa 21,34 37,90 Từ 41 – 55 tuổi tuổi Mức ý nghĩa KĐ T - Test 0,982 0,037

21,16 35,57 Nội

21,85 36,80 Ngoại

Mức ý nghĩa KĐ T - Test 0,229 0,227 Khoa

21 36 làm việc Nhi

20,97 35,92 Cấp cứu

Mức ý nghĩa KĐ T - Test 0,971 0,955

75

• CTNN về mặt sinh lý – thể chất

 So sánh theo lứa tuổi

Kết quả kiểm định T – Test trong bảng 2.12, cho thấy giá trị p (trong kiểm

định t) > 0,05 nghĩa là không có sự khác biệt có ý nghĩa về trung bình giữa 2 nhóm

khách thể điều dưỡng khi xét đến yếu tố lứa tuổi. Như vậy, không có sự khác biệt

về CTNN sinh lý – thể chất khi xét với biến lứa tuổi. Điểm trung bình nhóm có lứa

tuổi từ 20 - 40 tuổi là 21,29 thấp hơn điểm trung bình nhóm có lứa tuổi từ 41 - 55 là

21,34 và 2 nhóm khách thể này đều có điểm trung bình cao hơn điểm trung bình lý

thuyết lý tưởng là 20 [xem trang 50]. Do đó, 2 nhóm khách thể khảo sát đều bị

CTNN sinh lý nhẹ, trong đó nhóm điều dưỡng lớn tuổi bị CTNN sinh lý ở mức độ

cao hơn nhóm điều dưỡng nhỏ tuổi.

 So sánh theo khoa làm việc

Đối với 2 khoa: Nội và Ngoại

Từ kết quả ở bảng 2.12, ta thấy điểm trung bình CTNN sinh lý của khoa Nội

là 21,16 > điểm trung bình lý thuyết lý tưởng 20 và điểm trung bình CTNN sinh lý

của khoa Ngoại là 21,85 > điểm trung bình lý thuyết lý tưởng 20, giá trị p (trong

kiểm định t) 0,229 > 0,05. Do đó, không có sự khác biệt có ý nghĩa về trung bình

giữa 2 nhóm khách thể điều dưỡng khi xét đến yếu tố khoa làm việc. Điều dưỡng

Nội và Ngoại đều bị CTNN sinh lý ở mức nhẹ, trong đó điều dưỡng Ngoại bị

CTNN sinh lý cao hơn điều dưỡng Nội.

Đối với 2 khoa: Nhi và Cấp cứu

Kết quả kiểm định T – Test ở bảng 2.12 có giá trị p = 0,971 (trong kiểm định

t) > 0,05 nghĩa là không có sự khác biệt có ý nghĩa về trung bình giữa 2 nhóm

khách thể điều dưỡng của khoa Nhi và khoa Cấp cứu. Điểm trung bình CTNN sinh

lý của điều dưỡng ở 2 khoa này đều cao hơn điểm trung bình lý thuyết lý tưởng 20.

Như vậy, từ số liệu điểm trung bình, giá trị p của kiểm định T – Test, ta thấy, điều

dưỡng Nhi và điều dưỡng Cấp cứu không có sự khác biệt về CTNN sinh lý và cả 2

nhóm khách thể này đều bị CTNN sinh lý nhẹ.

76

• CTNN về mặt tâm lý

 So sánh theo lứa tuổi

Từ kết quả ở bảng 2.12, điểm trung bình CTNN tâm lý của nhóm tuổi 41 – 55

tuổi là 27,90 cao hơn nhóm lứa tuổi 20 – 40 tuổi là 35,85 và cả 2 nhóm này đều có

giá trị điểm trung bình CTNN tâm lý cao hơn điểm trung bình lý thuyết lý tưởng 35

[xem trang câu 3 – Phần II]. Tức là, 2 nhóm điều dưỡng xét theo lứa tuổi đều bị

CTNN tâm lý nhẹ, nhóm cao tuổi ở mức cao hơn nhóm trẻ tuổi. Giá trị p < 0,05

nghĩa là mức độ CTNN tâm lý của nhóm lứa tuổi 20 – 40 tuổi khác biệt so với

nhóm lứa tuổi từ 41 – 55 tuổi.

 So sánh theo khoa làm việc

Đối với 2 khoa: Nội và Ngoại

Qua bảng 2.12 cho biết kết quả kiểm định T – Test có giá trị p = 0,227 (trong

kiểm định t) > 0,05 nghĩa là không có sự khác biệt có ý nghĩa về trung bình giữa 2

nhóm khách thể điều dưỡng khi xét theo yếu tố khoa. Tuy nhiên điểm trung bình

CTNN tâm lý của điều dưỡng khoa Ngoại cao hơn, tức là mức độ CTNN của điều

dưỡng Ngoại khoa cao hơn điều dưỡng Nội khoa không chỉ ở mặt sinh lý mà còn ở

mặt tâm lý. Điểm trung bình CTNN tâm lý của điều dưỡng 2 khoa Nội và Ngoại lần

lượt là 35,57 và 36,80 đều cao hơn điểm trung bình lý thuyết lý tưởng 35, như vậy,

điều dưỡng ở 2 khoa này bị CTNN tâm lý nhẹ.

Đối với 2 khoa: Nhi và Cấp cứu

Kết quả kiểm định T – Test ở bảng 2.12 có giá trị p = 0,955 (trong kiểm định

t) > 0,05 nghĩa là không có sự khác biệt có ý nghĩa về trung bình giữa 2 nhóm

khách thể điều dưỡng của khoa Nhi và khoa Cấp cứu. Điểm trung bình RNLA tâm

lý của điều dưỡng ở khoa Nhi và khoa Cấp cứu lần lượt là 36 và 35,92 đều lớn hơn

điểm trung bình lý thuyết lý tưởng 35. Như vậy, từ số liệu điểm trung bình, giá trị p

của kiểm định T – Test, ta thấy, điều dưỡng Nhi và điều dưỡng Cấp cứu không có

sự khác biệt về CTNN tâm lý và cả 2 nhóm khách thể này đều CTNN tâm lý nhẹ.

77

2.2.2.2. Nguyên nhân căng thẳng nghề nghiệp của điều dưỡng viên

a. Nguyên nhân chủ quan

Đề tài nghiên cứu đưa ra 2 nguyên nhân để khảo sát nhóm khách thể là:

“Chưa có nhiều kinh nghiệm” với điểm trung bình 2,38 và “Hay sử dụng các chất

kích thích như: cà phê, rượu, bia, thuốc lá...” với điểm trung bình 2,16. Như vậy,

điều dưỡng không biết bản thân “Chưa có nhiều kinh nghiệm” có phải là nguyên

nhân gây nên CTNN cho mình hay không, đồng thời cũng không đồng ý thói quen

người điều dưỡng “Hay sử dụng các chất kích thích” là nguyên nhân chủ quan của

CTNN.

Với nguyên nhân “Chưa có nhiều kinh nghiệm trong công việc”, 13% điều

dưỡng đồng ý và có tới 41,5% điều dưỡng không đồng ý, có một số điều dưỡng

giống như chị K.T.V cho rằng: “Chỉ cần 6 tháng học việc là có thể làm thành thạo

các thủ thuật của điều dưỡng, điều quan trọng để không bị stress nghề nghiệp là

kinh nghiệm để xử trí tình huống và kinh nghiệm chịu đựng áp lực”. Trong khi đó,

nguyên nhân: “Hay sử dụng các chất kích thích” có 37% điều dưỡng không đồng ý;

11,5% điều dưỡng đồng ý, chủ yếu là điều dưỡng nam và những điều dưỡng nữ đã

lớn tuổi vì họ thường có sở thích “Uống ly cà phê cho tỉnh táo trước khi làm việc”.

b. Nguyên nhân khách quan

Bảng 2.13. Những nguyên nhân khách quan của CTNN

TT Nguyên nhân ĐTB Thứ hạng Không đồng ý (%) Phân vân (%) Đồng ý (%) Rất đồng ý (%) Hoàn toàn không đồng ý (%)

1 65,5 17 12 5,5 0 1,58 13

tự 2 30 33,5 31 5,5 2,12 10 0

3 46,5 22,5 19 6 2,02 9 6 Đồng nghiệp không thân thiện trong quan hệ, không hỗ trợ trong công việc. Không có quyền quyết trong công việc. Cấp trên luôn không hài lòng.

78

44 21,5 23,5 11 0 2,02 9 4

12 44 32,5 6 5,5 2,49 7 5

16,5 38,5 39,5 5,5 2,34 0 8 6

0 34 42 17,5 6,5 1,96 11 7

5,5 23 33 38,5 4,04 4 8 0

5,5 5,5 54 35 4,18 2 9 0

0 12 59,5 28,5 4,16 3 10 0

5,5 5,5 40,5 48,5 11 0 4,32 1

0 5,5 22,5 42,5 29,5 3,96 6 12

39,5 44 5,5 11 0 1,88 12 13

12 11 39 38 4,03 5 14 0

trường

0 11 46 43 15 0 4,32 1

Bệnh nhân và người nhà bệnh nhân gây khó dễ. Khoa thường xuyên đem hiệu quả công việc ra để bình xét thi đua. Tại nơi làm việc có sự phân biệt đối xử. Luôn có cảm giác bị xa lánh, ghét bỏ khi ở nơi làm việc. Yêu cầu của công việc không hợp lý. Công việc phải làm triền miên. Nhịp độ làm việc quá nhanh. Chế độ nghề nghiệp dành cho người lao động không thỏa đáng. Tiền lương nhận được từ công việc đang làm không xứng đáng với công sức đã bỏ ra và không đảm bảo được cuộc sống. Luôn bị giám sát khi làm việc. Bệnh nhân quá đông trong khi điều dưỡng lại quá ít. làm việc Môi chứa đựng nhiều yếu tố không an toàn, nguy cơ lây nhiễm cao.

Điểm trung bình chung 2,49

79

Qua kết quả bảng 2.13, điểm trung bình chung của nhóm nguyên nhân khách

quan đạt được 2,49. Như vậy, điều dưỡng không biết những CTNN của bản thân có

chịu tác động từ những điều kiện khách quan hay không, vì có nguyên nhân tỷ lệ

điều dưỡng đồng ý cao, có nguyên nhân tỷ lệ điều dưỡng đồng ý lại thấp. Điểm

trung bình của 15 nguyên nhân này dao động trong khoảng từ 4,32 đến 1,58.

“Công việc phải làm triền miên” là nguyên nhân xếp hạng thứ 2 với điểm

trung bình 4,18; có 54% điều dưỡng đồng ý với nguyên nhân này và không điều

dưỡng nào là hoàn toàn không đồng ý. Thực tế, thời gian làm việc hiện nay của điều

dưỡng là 3 - 4 tua/ngày, 3 ca 4 kíp, làm cả ngày nghỉ, ngày lễ, có khoa thường làm

việc 8 tiếng/ngày. Điều dưỡng không chỉ thực hiện các kỹ thuật chăm sóc trên

người bệnh mà còn phải đảm nhiệm rất nhiều việc, như: ghi hồ sơ bệnh án, làm thủ

tục xuất và nhập viện cho bệnh nhân, giải thích mọi thắc mắc của thân nhân người

bệnh, trực tiếp tiếp xúc và phân loại các rác thải y tế... Điều dưỡng đến bệnh viện là

cứ thế cuốn theo guồng quay của công việc, nhiều người không kịp ăn sáng, ăn trưa

2TNgoài vai trò của một người chăm sóc bệnh, điều dưỡng viên đôi khi còn như một

thì phải tranh thủ, đến giờ nghỉ theo quy định mà vẫn còn ở viện vì việc chưa xong.

người thân, người bạn giúp bệnh nhân vượt qua những thời điểm khó khăn nhất của

cuộc sống. Bệnh nhân la lối chửi mắng, điều dưỡng là người nghe đầu tiên; bệnh

nhân đau đớn 2Tđiều dưỡng là người trước tiên biết; bệnh nhân không tự vệ sinh được,

điều dưỡng giúp đỡ; bệnh nhân không tự ăn được, điều dưỡng cho ăn... Đón nhận

một đứa trẻ chào đời với tiếng khóc “oe oe” và chứng kiến sự ra đi của một con

người cũng là điều dưỡng. Điều dưỡng L.T.N ấm ức: “Tại khoa Nội Tiết – bệnh

viện Gia Định, có rất nhiều bệnh nhân bị biến chứng bàn chân do bệnh đái tháo

đường. Bàn chân của những bệnh nhân này bị hoại tử và bốc mùi hôi thối. Nói thật,

người nhà của bệnh nhân còn muốn tránh càng xa càng tốt. Thế nhưng, các điều

dưỡng hàng ngày vẫn lau rửa, vệ sinh sạch sẽ cho người bệnh. Có nhiều người sau

khi làm việc xong thì không ăn được cơm. Làm điều dưỡng còn khổ và khó hơn làm

dâu. Và hiếm có một nghề nào buộc con người phải vượt qua giới hạn về tình

thương và sự chai lì trước những điều tiếng không hay cũng như đối mặt với những

hiểm họa rình rập”.

80

Nguyên nhân xếp hạng 1, có điểm trung bình cao nhất 4,32 là: “Chế độ nghề

nghiệp dành cho người lao động không thỏa đáng”. Trong đó, 48,5% điều dưỡng

hoàn toàn đồng ý rẳng người điều dưỡng bị CTNN do chịu chế độ nghề nghiệp

không thỏa đáng. Thu nhập thực tế hiện nay của những điều dưỡng làm việc tại 4

bệnh viện mà chúng tôi khảo sát là: 61% điều dưỡng thu nhập dưới 5 triệu, 39%

điều dưỡng thu nhập trên 5 triệu. [Phụ lục 3– Bảng 2.22]. Với mức lương như vậy

khó đảm bảo được cuộc sống với “giá cả liên tục leo thang” cho người điều dưỡng.

Có quá nhiều điều cay nghiệt với nghề điều dưỡng, nhưng chế độ đãi ngộ và sự

công nhận vẫn chưa tương xứng. Đến năm 2007, vị trí của người điều dưỡng trong

chăm sóc, điều trị bệnh nhân mới được công nhận, lần đầu tiên người điều dưỡng

được “lên hạng”, đứng chung với đội ngũ y bác sĩ nhận danh hiệu “Thầy thuốc ưu

tú”. Th.S T.T.K.N - Trưởng phòng điều dưỡng bệnh viện Phạm Ngọc Thạch là một

trong những điều dưỡng trở thành “Thầy thuốc ưu tú” đầu tiên sau hơn 20 năm “ẩn

mình” cho biết: “Với tấm bằng trung cấp ra trường, nhiều điều dưỡng chỉ có thu

nhập trên 2 - 4 triệu đồng/tháng. Mức lương tăng dần theo trình độ và chức vụ công

tác nhưng con số đó không thấm vào đâu so với công việc”. Chế độ nghề nghiệp

chưa thỏa đáng không chỉ biểu hiện ở tiền lương không đủ chi trả cho cuộc sống

hàng ngày của người điều dưỡng mà còn biểu hiện ở những chính sách mà bệnh

viện áp dụng cho điều dưỡng viên, như: chính sách thưởng – phạt có sự phân biệt

giữa điều dưỡng và bác sĩ, sự thành công của một ca mổ thì bác sĩ sẽ được vinh

danh đầu tiên; chính sách cho đi học nâng cao trình độ; chính sách bảo hiểm tai nạn

nghề nghiệp vẫn chưa thực sự ưu ái cho những điều dưỡng làm trong điều kiện có

nhiều độc hại...

“Môi trường làm việc chứa đựng nhiều yếu tố không an toàn, nguy cơ lây

nhiễm cao” cũng là nguyên nhân đứng thứ 1, có điểm trung bình cao nhất 4,32 với

89% điều dưỡng đồng ý và rất đồng ý với nguyên nhân này, không có điều dưỡng

nào là không đồng ý. Hàng ngày, điều dưỡng phải gặp gỡ, trao đổi, làm các kỹ thuật

chăm sóc trực tiếp trên người những bệnh nhân đang mắc các bệnh truyền nhiễm,

đặc biệt là bệnh viện Phạm Ngọc Thạch có rất nhiều bệnh nhân bị lao phổi do đang

81

bị nhiễm HIV giai đoạn cuối. Bệnh nhân hắt hơi là có thể truyền vi khuẩn gây bệnh

cho điều dưỡng, dịch tiết của bệnh nhân tiếp xúc với da người điều dưỡng là điều

dưỡng có thể bị lây bệnh. Thực tế, bệnh viện Phạm Ngọc Thạch, nhiều điều dưỡng

viên đã bị mắc lao phổi từ bệnh nhân. Môi trường làm việc ngoài vấn đề chứa đựng

các yếu tố độc hại thì còn có thêm yếu tố nơi làm việc của điều dưỡng không đảm

bảo. Tại một số khoa trong 4 bệnh viện khảo sát với diện tích chỉ khoảng 200m2 mà

có đến gần 100 con người ở đó, mùi bệnh nhân, mùi thuốc, mùi ẩm mốc của các

bức tường, cửa, nền nhà... vì đã xây dựng quá lâu luôn song hành cùng bước chân

người điều dưỡng. Sài Gòn, trời nóng như đổ lửa, ai cũng ao ước được ngồi làm

việc trong phòng có máy điều hòa nhiệt độ. Riêng với các điều dưỡng tại các bệnh

viện, đó là điều không bao giờ xảy ra. Nhiệt độ tăng cao, bệnh nhân đông nghịt họ

luôn phải làm việc trong một môi trường ngột ngạt, nóng bức.0T

Mẫu điều dưỡng viên được khảo sát có mối quan hệ với đồng nghiệp rất tốt,

hầu hết các điều dưỡng luôn đoàn kết, giúp đỡ nhau vượt qua mọi khó khăn của

công việc. Do đó, một số nguyên nhân mà đề tài đưa ra, như: “Đồng nghiệp không

thân thiện trong quan hệ, không hỗ trợ trong công việc. Luôn có cảm giác bị xa

lánh, ghét bỏ khi ở nơi làm việc...” có đến 65,5% điều dưỡng không đồng ý.

Tóm lại, nguyên nhân khách quan gây ra CTNN cho điều dưỡng chủ yếu là:

môi trường, điều kiện cơ sở vật chất làm việc còn nhiều hạn chế, chứa đựng nhiều

yếu tố nguy cơ; tính chất công việc có nhiều áp lực... Bên cạnh đó, nguyên nhân: “

Bản thân chưa có kinh nghiệm làm việc” và “Hay sử dụng chất kích thích” không

được mẫu khảo sát coi là nguyên nhân chủ quan gây ra CTNN cho người điều

dưỡng.

82

2.2.3. Rối nhiễu nhân cách của điều dưỡng viên

2.2.3.1. Thực trạng rối nhiễu nhân cách của điều dưỡng viên

a. Biểu hiện RNNC của điều dưỡng viên trên toàn mẫu nghiên cứu

Bảng 2.14. Biểu hiện RNNC

TT Biểu hiện ĐTB Thứ hạng Thường xuyên (%) Thỉnh thoảng (%) Hiếm khi (%) Không bao giờ (%) Rất thường xuyên (%)

25 50,5 12 12,5 0 2,12 4 1

dễ xúc 25 24 17,5 22 11,5 2,71 2 2

28,5 30 30,5 11 0 2,24 3 3

39,5 43 12 5,5 0 4 1,84 7 muốn người ngưỡng

45 35,5 6,5 13 0 1,88 6 5

41 29,5 18,5 5,5 5,5 2,05 5 6

7 12 19,5 23 27,5 18 3,20 1

Luôn cố tỏ ra mình là người quan trọng trong mọi vấn đề. Rất động. Một trách lời móc nhẹ nhàng của người khác cũng thấy bị tổn thương. Luôn được khác mộ. Thường tự đánh giá thấp bản thân. Quá cứng nhắc trong các mối và hệ quan nguyên tắc trong công việc. Rất sợ mắc sai lầm và thường không dám tự quyết trong mọi việc.

Điểm trung bình chung 2,12

Từ số liệu ở bảng 2.14 điểm trung bình chung 2,12 tức là điều dưỡng hiếm gặp

các biểu hiện của RNNC, trong đó điểm trung bình dao động từ 1,84 đến 3,20. Cụ

83

thể: biểu hiện mà điều dưỡng cho rằng hiếm gặp (có điểm trung bình trong khoảng

1,51 đến 2,5) là: 1, 3, 4, 5, 6 và biểu hiện mà điều dưỡng cho rằng thỉnh thoảng gặp

(có điểm trung bình trong khoảng 2,51 đến 3,5) là: 2, 7.

“Rất sợ mắc sai lầm và thường không dám tự quyết trong mọi việc” là biểu

hiện có điểm trung bình cao nhất. Trong đó, 18% điều dưỡng trả lời là “rất thường

xuyên gặp” và 27,5% trả lời là “thường xuyên gặp” mặc dù có tới 30% điều dưỡng

viên “hoàn toàn không đồng ý” với nguyên nhân CTNN: “Điều dưỡng viên không

có quyền tự quyết trong công việc”. Như vậy, mẫu khảo sát thiếu tự tin vào bản

thân khi làm việc và không quyết đoán trong mọi vấn đề.

“Rất dễ xúc động” là biểu hiện được xếp hạng thứ 2 với 22% điều dưỡng trả

lời “thường xuyên gặp”. Thực tế này xuất phát từ tâm lý “sợ chai lỳ cảm xúc” của

điều dưỡng, nó thể hiện cái “tâm” với nghề và cái “tình” với bệnh nhân của họ. Vì

thế mà đã xảy ra rất nhiều trường hợp điều dưỡng bật khóc nức nở khi chứng kiến

sự ra đi của người bệnh.

Biểu hiện “Luôn muốn được người khác ngưỡng mộ” có điểm trung bình

thấp nhất 1,84 với 43% điều dưỡng trả lời “hiếm khi” gặp. Điều này thể hiện nếp

sống khép kín, có phần an phận, không muốn nổi trội, không muốn đấu tranh của

người điều dưỡng.

Như vây, điều dưỡng chưa bị RNNC, 7 biểu hiện của RNNC mà điều dưỡng

trả lời ở mức độ “không bao giờ” gặp chiếm tỷ lệ thấp nhất là 12% và cao nhất là 41%.

Biểu đồ 2.7. Biểu hiện RNNC

84

b. RNNC của điều dưỡng viên trên toàn mẫu nghiên cứu

Dựa vào tổng điểm về RNNC [Phụ lục 3 – Bảng 2.29] và thang đánh giá

[xem trang 51] ta có tỷ lệ mức độ RNNC như sau:

Bảng 2.15. Tỷ lệ mức độ RNNC

Mức độ RNNC TT Số lượng Tỷ lệ (%)

1 Không bị RNNC 154 77

2 RNNC nhẹ 46 23

RNNC nặng 0 0

3 Từ bảng 2.15, ta có: 154 điều dưỡng viên không bị RNNC đạt 77%; bên cạnh

đó không có điều dưỡng viên nào bị “RNNC nặng”; có 46/200 mẫu khảo sát, chiếm

23% bị “RNNC nhẹ”.

Khái quát lại, từ những phân tích trên cho thấy rằng: RNNC của điều dưỡng

viên khi xét trên phương diện từng biểu hiện xuất hiện ở mẫu khảo sát cho ra kết

quả là các biểu hiện “sợ mắc sai lầm, dễ xúc động” hay gặp, các biểu hiện “luôn

muốn được ngưỡng mộ, đánh giá thấp bản thân” ít gặp. Khi xét trên phương diện cả

7 biều hiện xuất hiện ở từng khách thể khảo sát thì kết quả cho thấy đa số điều

dưỡng viên không bị RNNC, tuy nhiên vẫn còn một tỷ lệ điều dưỡng bị RNNC khi

xét RNNC xuất hiện trên toàn mẫu nghiên cứu.

77%

23%

Biểu đồ 2.8. Tỷ lệ mức độ RNNC

85

c. So sánh sự khác biệt RNNC theo lứa tuổi và khoa làm việc

Bảng 2.16. Sự khác biệt RNNC theo lứa tuổi và khoa làm việc

RNNC

16,02 Từ 20 – 40 tuổi

16,10 Lứa tuổi Từ 41 – 55 tuổi

Mức ý nghĩa KĐ T - Test 0,854

16,35 Nội

15,58 Ngoại

0,057 Mức ý nghĩa KĐ T - Test Khoa

17,51 làm việc Nhi

17,55 Cấp cứu

0,997 Mức ý nghĩa KĐ T - Test

 So sánh theo lứa tuổi

Kết quả kiểm định T – Test trong bảng 2.16, cho thấy giá trị p (trong kiểm

định t) > 0,05 nghĩa là không có sự khác biệt có ý nghĩa về trung bình giữa 2 nhóm

khách thể điều dưỡng khi xét đến yếu tố lứa tuổi. Như vậy, không có sự khác biệt

về RNNC khi xét với biến lứa tuổi. Điểm trung bình nhóm có lứa tuổi từ 20 - 40

tuổi là 16,02 thấp hơn điểm trung bình nhóm có lứa tuổi từ 41 - 55 là 16,10 và 2

nhóm khách thể này đều có điểm trung bình thấp hơn điểm trung bình lý thuyết lý

tưởng là 17,5 [xem trang 51]. Do đó, 2 nhóm khách thể khảo sát theo lứa tuổi đều

không bị RNNC.

 So sánh theo khoa làm việc

Đối với 2 khoa: Nội và Ngoại

Từ kết quả ở bảng 2.16 ta thấy, điểm trung bình RNNC của khoa Nội là

16,35 < điểm trung bình lý thuyết lý tưởng 17,5 và điểm trung bình RNNC của

khoa Ngoại là 15,58 < điểm trung bình lý thuyết lý tưởng 17,5; giá trị p (trong kiểm

định t) 0,057 > 0,05. Do đó, không có sự khác biệt có ý nghĩa về trung bình giữa 2

nhóm khách thể điều dưỡng khi xét đến yếu tố khoa làm việc. Điều dưỡng Nội và

Ngoại đều không bị RNNC.

86

Đối với 2 khoa: Nhi và Cấp cứu

Kết quả kiểm định T – Test ở bảng 2.16 có giá trị p = 0,997 (trong kiểm định

t) > 0,05 nghĩa là không có sự khác biệt có ý nghĩa về trung bình giữa 2 nhóm

khách thể điều dưỡng của khoa Nhi và khoa Cấp cứu. Điểm trung bình RNNC của

điều dưỡng ở 2 khoa này đều cao hơn điểm trung bình lý thuyết lý tưởng 17,5. Như

vậy, từ số liệu điểm trung bình, giá trị p của kiểm định T – Test, ta thấy, điều dưỡng

Nhi và điều dưỡng Cấp cứu không có sự khác biệt về RNNC và cả 2 nhóm khách

thể này đều bị RNNC nhẹ.

2.2.3.2. Nguyên nhân rối nhiễu nhân cách của điều dưỡng viên

Bảng 2.17. Nguyên nhân RNNC

ĐTB TT Nguyên nhân Thứ hạng Đồng ý (%) Phân vân (%) Không đồng ý (%) Rất đồng ý (%) Hoàn toàn không đồng ý (%)

33 45 18,5 5,5 0 1,96 4 1

45,5 49 5,5 0 0 1,60 6 2

28,5 16,5 13 30 12 3 2,80 1

34,5 30,5 17,5 11,5 6 2,24 2 4

6 6 47 35 6 1,89 5 5

6 0 52,5 41,5 0 1,60 6 6

thường 30,5 46 12 11,5 0 2,04 3 7 Từ nhỏ đã bị thiếu thốn tình cảm. Khi còn là học sinh, luôn bị giáo viên đánh giá là hạnh kiểm kém. Bố mẹ luôn tự quyết cho mọi chuyện. Là con một trong gia đình nên luôn được chiều chuộng. Có nhiều anh em nên bị chia sẻ tình thương của bố mẹ. Luôn bị phản bội trong tình yêu. Mọi người không tin tưởng.

Điểm trung bình chung 1,96

87

Qua bảng 2.17 cho thấy kết quả điểm trung bình của những nguyên nhân

RNNC là 1,96 tức là: điều dưỡng không đồng ý đó là 7 nguyên nhân gây nên

RNNC. Điểm trung bình của những nguyên nhân dao động từ 1,60 đến 2,80.

Nguyên nhân được 30% điều dưỡng "đồng ý", có điểm trung bình cao nhất

2,80 là "Bố mẹ luôn tự quyết cho mọi chuyện". Lý do này lý giải vì sao nhiều người

được bố mẹ chọn trường cho thi, chọn nghề cho làm. Rất nhiều điều dưỡng viên học

ngành điều dưỡng là để thỏa mãn mong muốn của bố mẹ và rồi đi làm không có

hứng thú với nghề nên nảy sinh những RNLA, tâm lý muốn bỏ nghề.

"Khi còn là học sinh, luôn bị giáo viên đánh giá là hạnh kiểm kém” là

nguyên nhân xếp hạng thấp nhất, có 49% điều dưỡng viên không đồng ý với nguyên

nhân này. Tức là, những nhân viên điều dưỡng xuất phất điểm đều có phẩm chất

đạo đức tốt. Tuy nhiên khi đi làm, do môi trường làm việc, có nhiều yếu tố tác động

mà một số điều dưỡng đã bị tha hóa về phẩm chất. Đây chính là những "con sâu làm

rầu nồi canh" khiến cho xã hội có những đánh giá chưa thật xác đáng về nghề và

người điều dưỡng.

2.2.4. Quan điểm của điều dưỡng viên với những đánh giá hiện nay của xã

hội về nghề điều dưỡng

Bảng 2.18. Quan điểm của điều dưỡng với những đánh giá hiện nay

của xã hội về nghề điều dưỡng.

TT Đánh giá ĐTB Thứ hạng Đồng ý (%) Phân vân (%) Không đồng ý (%) Rất đồng ý (%) Hoàn toàn không đồng ý (%)

39 43,5 12 5,5 0 1,84 5 1

53 35,5 6 0 5,5 1,70 6 2

Điều dưỡng là công việc sử dụng những kỹ thuật tay chân đơn giản, làm mãi rồi sẽ quen. Điều dưỡng là phải làm theo y lệnh của bác sĩ nên bệnh nhân không cần hỏi điều dưỡng.

88

0 11 37 28,5 23,5 3,64 4 3

0 5,5 18 36,5 40 4,11 2 4

0 6 31 46,5 16,5 3,74 3 5

48 35 17 0 0 1,69 7 6

53,5 29,5 17 0 0 1,64 8 7

0 0 5,5 42,5 52 8 4,46 1

0 0 5,5 43 9 51,5 4,46 1

Rủi ro nghề nghiệp xảy ra với người điều dưỡng cao hơn so với các nhân viên y tế khác. thường Điều dưỡng xuyên tiếp xúc với bệnh nhân nên dễ thông cảm với người bệnh. Người điều dưỡng phải chịu nhiều sức ép trong công việc, đó là: sức ép từ đồng nghiệp, bệnh nhân, người nhà bệnh nhân... Điều dưỡng không quan trọng bằng bác sĩ trong công tác chăm sóc sức khỏe. Công việc điều dưỡng ở các khoa gần giống nhau do đó nghề điều dưỡng không có sự sáng tạo. Vai trò của người điều dưỡng trong công tác chăm sóc sức khỏe là rất quan trọng. Người điều dưỡng không chỉ chăm sóc về bệnh tật mà còn chăm sóc về tinh thần cho người bệnh.

Điểm trung bình chung 3,64

89

Qua kết quả bảng 2.18, điểm trung bình chung đạt được 3,64 cho thấy, nhìn

chung là quan điểm của mẫu khách thể điều dưỡng khảo sát đồng ý với những đánh

giá hiện nay của xã hội về nghề điều dưỡng. Trong đó, điểm trung bình dao động

trong khoảng rừ 1,64 đến 4,46.

Hai đánh giá mà không có điều dưỡng nào “không đồng ý” hoặc “hoàn toàn

không đồng ý”, xếp hạng cao nhất là: “Vai trò của người điều dưỡng trong công tác

chăm sóc sức khỏe là rất quan trọng” và “Người điều dưỡng không chỉ chăm sóc về

bệnh tật mà còn chăm sóc về tinh thần cho người bệnh”. Những đánh giá này hoàn

toàn phù hợp với chức năng và tính chất của nghề điều dưỡng.

Những đánh giá 1, 2, 6, 7 xếp hạng thấp vì tỷ lệ điều dưỡng đồng ý là 0% hoặc

5,5%. Những đánh giá này thể hiện nhìn nhận sai lệch của xã hội về nghề điều

dưỡng, do các đánh giá đó quá đề cao vai trò của bác sĩ và hạ thấp công việc của

người điều dưỡng.

Tóm lại, những điều dưỡng được khảo sát đã có những quan điểm đúng đắn về

nghề, nhận thức đúng tính chất của công việc và vai trò của người điều dưỡng.

2.3. Một số biện pháp nhằm giảm thiểu tối đa những biểu hiện RNTL của điều

dưỡng viên

2.3.1. Cơ sở đề xuất biện pháp

Như chúng tôi đã phân tích, “sản phẩm” của hoạt động nghề điều dưỡng là sức

khỏe, là tính mạng của con người. Và những con người đang ngày đêm thực hiện

hoạt động đó là điều dưỡng viên. Để “sản phẩm” của mình không trở thành “phế

phẩm”, buộc người điều dưỡng phải luôn làm việc với cái đầu sáng suốt, tinh thần

sảng khoái, thể chất khỏe mạnh... Ngoài ra, 4 bệnh viện mà chúng tôi chọn khảo sát

là những bệnh viện cấp Sở và cấp Bộ, tập trung rất nhiều bệnh nhân từ mọi nơi đến

(bệnh viện Thống Nhất và bệnh viện Phạm Ngọc Thạch thường có bệnh nhân là

người nước ngoài) nên áp lực với những điều dưỡng viên làm ở các bệnh viện này

là tương đối lớn. Vì thế họ rất cần có những phương pháp giúp họ tránh khỏi những

triệu chứng của RNLA.

90

Từ kết quả khảo sát thực trạng đã trình bày ở phần 2.2, chúng tôi thấy: điều

dưỡng viên đang làm việc tại 4 bệnh viện điển hình của thành phố Hồ Chí Minh có

gặp phải một số vấn đề của RNTL tuy chưa phải ở mức độ thường xuyên. Mặt khác,

hiện nay, xã hội vẫn có những đánh giá chưa thực sự công bằng cho nghề điều

dưỡng khi đem so sánh nghề này với nghề bác sĩ hay với một số nghề khác, mặc dù

ý nghĩa của công việc này là vô cùng to lớn.

Từ những cơ sở lý luận về RNTL nói chung và RNTL của người điều dưỡng

nói riêng được trình bày ở chương 1, chúng tôi quan niệm rằng: RNTL là một hội

chứng tâm lý xuất hiện làm rối loạn chức năng gây ra sự mất kiểm soát bản thân.

Việc khắc phục các RNTL không chỉ cần sự nỗ lực của chính bản thân chủ thể

người điều dưỡng mà còn cần sự hỗ trợ, sự tác động trực tiếp từ phía bệnh viện và

xã hội.

Để có cơ sở đề xuất các biện pháp nhằm giảm bớt RNTL cho điều dưỡng viên,

chúng tôi tiến hành khảo sát mức độ cần thiết một số biện pháp như sau:

• Nhóm biện pháp đối với bản thân điều dưỡng viên

Bảng 2.19. Đánh giá của điều dưỡng viên về mức độ cần thiết

của nhóm biện pháp mà họ thực hiện

Thứ TT Biện pháp ĐTB hạng

1 Tự điều trị 1,78 11

2 Khám bác sĩ chuyên khoa 3,68 8

3 Nhờ sự hỗ trợ của chuyên viên tư vấn tâm lý. 3,74 7

4 Chia sẻ với người thân vấn đề của mình. 3,24 8

5 Sử dụng thuốc an thần. 1,87 10

6 Uống nhiều: rượu, cà phê, các chất kích thích khác... 1,70 12

7 Hút thuốc lá. 1,29 16

Giải trí nhẹ nhàng, lành mạnh: nghe nhạc, đọc sách, xem phim, đi 8 4,18 3 du lịch...

9 Xây dựng mối quan hệ tốt với mọi người xung quanh. 3,84 6

91

10 Luôn nghĩ đến những điều tích cực. 3,99 4

11 Thường xuyên tụ tập bạn bè để nhậu. 1,53 15

12 Nghỉ làm đi chơi. 1,65 14

Trình bày với đồng nghiệp, cấp trên, công đoàn những khó khăn 3,88 5 13 mà bản thân gặp phải trong công việc.

4,24 2 14 Tập thể dục đều đặn.

15 Học tập, dinh dưỡng hợp lý. 4,35 1

2,46 9 16 Trị liệu tâm lý

17 Không tiếp xúc với bất kỳ một người nào. 1,06 17

Điểm trung bình chung 3,24

Từ kết quả của bảng 2.19, cho thấy điểm trung bình chung là: 3,24, điều

dưỡng cho rằng trong 17 biện pháp trên có những biện pháp không phù hợp. Đó là

các biện pháp điểm trung bình ít, xếp hạng rất thấp (xếp từ thứ 10 trở xuống), như:

sử dụng thuốc an thần, tự điều trị, sử dung chất kích thích, nghỉ làm đi chơi, tụ tập

bạn bè nhậu, không tiếp xúc với mọi người; biện pháp: “không tiếp xúc với bất kỳ

một người nào” có điểm trung bình thấp nhất: 1,06. Như vậy, điều dưỡng viên đã có

nhận thức đúng đắn về các cách làm cải thiện tình trạng RNTL. Theo họ, biện pháp:

“Học tập, dinh dưỡng hợp lý” cho bản thân là cần thiết (điểm trung bình: 4,35 cao

nhất). Tuy nhiên, biện pháp “trị liệu tâm lý” chỉ đạt điểm trung bình: 2,46 – xếp thứ

hạng 9 tương đối thấp. Có thể nói nhận thức của điều dưỡng viên về vai trò của các

biện pháp tâm lý đối với sức khỏe con người còn nhiều hạn chế. Khi khảo sát về

việc tham gia hoạt động tư vấn tâm lý có đến 53% khách thể nghiên cứu trả lời chưa

từng tham gia tư vấn về sức khỏe tâm lý, điểm trung bình: 1,53. [Phụ lục 3– Bảng

2.27]

92

• Nhóm biện pháp đối với bệnh viện

Bảng 2.20. Đánh giá của điều dưỡng viên về mức độ cần thiết

của nhóm biện pháp bệnh viện thực hiện

Thứ TT Biện pháp ĐTB hạng

1 Tăng số lượng điều dưỡng để giảm tải công việc. 5 4,35

Trang bị thêm các phương tiện bảo hộ cho điều dưỡng để 2 4 4,41 giảm tai nạn nghề nghiệp.

Tổ chức các khóa học miễn phí cho người điều dưỡng để 3 3,78 8 nâng cao tay nghề.

Tạo điều kiện cho các điều dưỡng viên được sáng tạo trong 4 4,48 2 công việc.

Xây dựng mối quan hệ thân thiện, bình đẳng giữa các nhân 5 7 4,11 viên y tế.

6 Tổ chức các đợt vui chơi giải trí cho nhân viên. 2 4,48

Xây dựng và áp dụng chế độ thưởng – phạt rõ ràng, hợp lý 7 6 4,30 cho người lao động.

Trả lương cho điều dưỡng sao cho đảm bảo được cuộc sống 8 4,71 1 của họ.

Kịp thời bênh vực quyền lợi đúng đắn cho người điều dưỡng 9 4,42 3 trước những đối tượng khác.

Khuyến khích điều dưỡng sử dụng các chất gây nghiện để 10 1,60 10 tập trung cao trong công việc.

Định kỳ thay đổi khoa làm việc cho điều dưỡng nhằm giảm 11 2,78 9 sự nhàm chán.

Điểm trung bình chung 4,35

Các biện pháp: 6 “Tổ chức các đợt vui chơi giải trí cho nhân viên”, 8 “Trả

lương cho điều dưỡng sao cho đảm bảo được cuộc sống của họ”, 9 “Kịp thời bênh

93

vực quyền lợi đúng đắn cho người điều dưỡng trước những đối tượng khác” có

điểm trung bình lần lượt: 4,48; 4,71; 4,42 và đều có trên 90% điều dưỡng được khảo

sát cho rằng: “cần thiết và rất cần thiết” bệnh viện phải có những biện pháp này.

[Phụ lục 3– Bảng 2.28] Đây là những biện pháp tác động trực tiếp đến đời sống vật

chất và tinh thần của người điều dưỡng, thể hiện nhu cầu chính đáng của điều

dưỡng viên đối với đơn vị mình làm việc và cống hiến.

Trong 11 biện pháp đề xuất cho bệnh viện, biện pháp 10 “Khuyến khích điều

dưỡng sử dụng các chất gây nghiện để tập trung cao trong công việc” được 100%

điều dưỡng lựa chọn là: “hoàn toàn cần thiết và không cần thiết”. [Phụ lục – Bảng

2.28] Như vậy, những giải pháp mà điều dưỡng đưa ra cho bệnh viện nhằm cải

thiện tình trạng RNTL cho họ là đúng đắn và cần thiết.

• Nhóm biện pháp từ phía xã hội

Bảng 2.21. Đánh giá của điều dưỡng viên về mức độ cần thiết

của nhóm biện pháp từ phía xã hội

Thứ TT Biện pháp ĐTB hạng

Nhận thức đúng đắn về công việc và vai trò của người điều 1 4,30 4 dưỡng trong công tác chăm sóc sức khỏe.

Cảm thông với người điều dưỡng khi số lượng bệnh nhân quá 2 4,11 5 đông, công việc quá nhiều.

Mở thêm các cơ sở khám chữa bệnh rối nhiễu tâm lý cho người 3 4,04 6 điều dưỡng.

Đề ra các chính sách xã hội bảo vệ quyền lợi hợp lý cho người 4 4,41 3 điều dưỡng.

Có thái độ tôn trọng người điều dưỡng như các nhân viên y tế 5 4,56 1 khác.

6 Luôn hợp tác với điều dưỡng viên nếu là bệnh nhân của họ. 4,52 2

Điểm trung bình chung 4.355

94

Số liệu ở bảng 2.21 đã chứng minh đó là nhóm giải pháp cần thiết mà xã hội

phải thực hiện nhằm giảm thiểu tối đa những triệu chứng RNTL của người điều

dưỡng vì điểm trung bình chung khá cao: 4,355. Cả 6/6 biện pháp đều có điểm

trung bình lớn hơn 4,00. Một số biện pháp đáng chú ý như: “Có thái độ tôn trọng

người điều dưỡng như các nhân viên y tế khác” đạt điểm trung bình cao nhất: 4,56;

“Luôn hợp tác với điều dưỡng viên nếu là bệnh nhân của họ” đạt điểm trung bình:

4,52; “Đề ra các chính sách xã hội bảo vệ quyền lợi hợp lý cho người điều dưỡng”

đạt điểm trung bình: 4,41. Những biện pháp này đều có trên 80% điều dưỡng lựa

chọn “rất cần thiết và cần thiết”. [Phụ lục 3– Bảng 2.28]

2.3.2. Một số biện pháp cụ thể

2.3.2.1. Biện pháp của điều dưỡng: học tập và dinh dưỡng hợp lý; xây dựng

tốt các mối quan hệ, đặc biệt luôn thân thiện với bệnh nhân

• Cở sở của biện pháp

Bản thân người điều dưỡng phải tự biết thay đổi, tự khẳng định mình trước

mọi người.

Trước kia, nghề điều dưỡng được gọi là “y tá”, tức là người giúp việc vặt

trong ngành y nên được đào tạo đại khái. Chính trình độ thấp, người điều dưỡng

không đủ khả năng làm tốt công việc dẫn đến không đem lại lòng tin của mọi người,

xã hội chưa thực sự coi trọng. Thực tế đó còn ảnh hưởng đến tận ngày nay. Vì vậy,

để thay đổi quan niệm của xã hội, bản thân người điều dưỡng phải biết tự hoàn thiện

mình.

Tri thức nhân loại là vô tận và không ngừng phát triển. Những kiên thức mà

điều dưỡng được tiếp nhận khi còn đang ngồi trên ghế nhà trường sẽ không đủ phục

vụ cho công việc cũng như cuộc sống của họ, nên trước hết, luôn tự học với nhiều

hình thức trở thành bắt buộc với điều dưỡng. Không học tập, người điều dưỡng sẽ

lạc hậu, theo Noel Fissenger: “Người thầy thuốc sau 5 năm không đọc một tạp chí

nào thì người thầy thuốc trở lại thời kỳ đồ đá”. Học tập để có kiến thức toàn diện sẽ

giúp điều dưỡng không chỉ nắm vững chuyên môn mà còn giải quyết được nhiều

vấn đề nảy sinh trong công việc và đời sống hàng ngày.

95

• Phương pháp thực hiện

Điều dưỡng viên có thể học ở đồng nghiệp về chuyên môn và cách ứng xử, có

thể học qua các phương tiện thông tin đại chúng, có thể xin bệnh viện cho đi học

các lớp nâng cao dài hạn hoặc ngắn hạn.

Điều dưỡng phải biết chăm sóc tốt cho bản thân mình trước khi chăm sóc cho

bệnh nhân, cần tranh thủ có những giây phút thư giãn, nghỉ ngơi trong quỹ thời gian

làm việc dày đặc, tích cực tham gia vào các phong trào hoạt động của khoa,

bệnh viện.

Luôn giữ thái độ niềm nở với mọi đối tượng giao tiếp là rất cần thiết với điều

dưỡng, đặc biệt đối với bệnh nhân điều dưỡng cần luôn tỏ ra thân thiện, chăm sóc

ân cần. Chính sự tận tình của người điều dưỡng sẽ giúp bệnh nhân yên tâm điều trị,

sẽ cải thiện được cái nhìn vốn ác cảm của người bệnh với điều dưỡng viên khiến

mối quan hệ điều dưỡng – bệnh nhân phát triển tốt đẹp, cũng theo đó mà người điều

dưỡng sẽ thấy thoải mái, vui vẻ khi làm việc, giảm căng thẳng và tai nạn nghề

nghiệp, hạn chế những lo âu.

2.3.2.2. Biện pháp của lãnh đạo bệnh viện: trả lương hợp lý; phân bố đúng

người, đúng việc; quan tâm đến sức khỏe nhân viên

• Mục đích thực hiện

Giúp người điều dưỡng không mắc phải những biểu hiện của RNTL để làm

việc hiệu quả.

Giữ chân điều dưỡng viên để họ không bỏ viện đi làm công việc khác.

• Phương pháp thực hiện

Cải thiện điều kiện làm việc, nâng cao chất lượng chế độ đãi ngộ với người

điều dưỡng. Một số biện pháp cụ thể như sau:

Trả mức lương đúng với công việc và vị trí cho từng điều dưỡng sao cho đảm

bảo được cuộc sống của họ. Với những điều dưỡng làm trong môi trường dễ bị lây

nhiễm, dễ mắc bệnh như khoa X – quang, khoa hô hấp – truyền nhiễm, bệnh viện

lao phổi Phạm Ngọc Thạch thì phải tăng tiền trợ cấp độc hại.

Cần có sự sâu sát, sắp xếp công việc, phân công hiệu quả trong công việc

tránh tình trạng dồn nhiều công việc cùng lúc. Thường xuyên có hoạt động để bồi

96

dưỡng năng lực chuyên môn, tập huấn về cách sử dụng các trang thiết bị dụng cụ

hiện có hoặc mới nhằm giúp cho các nhân viên sử dụng thành thạo nhất. Tổ chức

các cuộc thi cả về lý thuyết và thực hành với mục đích để người điều dưỡng phấn

đấu nâng cao tay nghề, chứ không phải nhằm hạ thi đua, giảm thu nhập của điều

dưỡng viên như một số bệnh viện đã từng làm.

Có cuộc tầm soát và phát hiện các nhân viên đã bị tác động của stress tại cơ

quan có biện pháp hỗ trợ như: tạo điều kiện hồi phục bằng nghỉ ngơi, mang đến lời

động viên tinh thần, chuyển đổi công việc khác khi không phù hợp, luân phiên nhân

viên tại những khoa thường có áp lực từ công việc cao và độc hại.

2.3.2.3. Biện pháp từ phía xã hội: tuyên truyền đúng đắn về nghề điều

dưỡng để xây dựng thái độ tôn trọng người điều dưỡng như các nhân viên y tế

khác, xây dựng môi trường an toàn cho điều dưỡng viên...

• Cơ sở của biện pháp

Tại các nước phát triển Anh, Mỹ, Canada,... cũng như các nước đang phát

triển như Thái Lan, Philippines, Malaysia, ... Điều dưỡng viên đã được nâng cao vai

trò trong việc quản lý các cơ sở y tế ban đầu, bệnh viện, toán chăm sóc sức khỏe,

tham gia khám và điều trị – chăm sóc các bệnh cấp và mãn tính theo chuyên ngành

của điều dưỡng, có mặt trong hầu hết các lãnh vực khác và là nghề đang được kính

trọng nhất hiện nay.

Riêng tại Việt Nam thì tình hình không khả quan và còn nhiều tồn tại. Mặc dù

trình độ đào tạo và phạm vi thực hành của điều dưỡng Việt Nam hiện nay đã có

nhiều thay đổi, song trong nhận thức chung về vai trò của người điều dưỡng chưa

được cập nhật phù hợp với thực tế. Vì thế các cơ quan chức năng cần có các biện

pháp tuyên truyền đúng đắn về nghề điều dưỡng để xã hội thay đổi cái nhìn vốn có

về nghề này và những con người làm nghề này.

• Phương pháp thực hiện

Giải pháp trước mắt nhằm giảm thiểu những tổn thương tâm sinh lý của điều

dưỡng bệnh viện là cần thực sự quan tâm đến công tác an toàn vệ sinh lao động,

duy trì và thực hiện tốt phong trào “Xanh - Sạch - Đẹp, An toàn vệ sinh lao động”

tại nơi làm việc.

97

Thực hiện nghiêm túc việc khám sức khỏe định kỳ và khám phát hiện bệnh

nghề nghiệp, trong đó thực hiện đầy đủ những quy định về thủ tục và hồ sơ khám

sức khỏe định kỳ để tạo điều kiện thuận lợi cho việc quản lý sức khỏe của nhân viên

y tế trong quá trình lao động, giúp người sử dụng lao động thường xuyên cập nhật

thông tin về tình hình sức khỏe của người lao động để quản lý và tổ chức sắp xếp

lao động phù hợp với yêu cầu công việc và tình trạng quá tải ở các bệnh viện hiện

nay. Vì điều dưỡng có khoẻ mạnh, tinh thần có thoải mái thì mới phát huy hết khả

năng, nhiệt huyết chăm sóc cho người bệnh.

98

TIỂU KẾT CHƯƠNG 2

Qua kết quả nghiên cứu thực trạng cho thấy, điều dưỡng đang làm việc tại 4

bệnh viện trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh là: Nhân dân Gia Định, Thống Nhất,

Nhi đồng 2, Phạm Ngọc Thạch có những biểu hiện của RNTL, trong đó CTNN là

nhiều nhất. Kết quả so sánh 3 dạng của RNTL (RNLA, CTNN, RNNC) theo

phương diện lứa tuổi và khoa làm việc, ít có sự khác biệt giữa nhóm lứa tuổi từ 20 –

40 tuổi và nhóm lứa tuổi từ 41 – 55 tuổi; có sự khác biệt giữa khoa Nội và khoa

Ngoại, giữa khoa Nhi và khoa Cấp cứu.

Có nhiều nguyên nhân gây ra thực trạng trên, trong đó bao gồm các nguyên

nhân chủ quan và các nguyên nhân khách quan. Các nguyên nhân khách quan chủ

yếu là do các yếu tố xã hội, áp lực công việc, môi trường làm việc... Các nguyên

nhân chủ quan chủ yếu là yếu tố sinh học và yếu tố tâm lý của người điều dưỡng.

Để giảm bớt RNTL, chúng tôi cũng đề xuất một số biện pháp của bản thân

người điều dưỡng, của bệnh viện và của xã hội.

99

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

1. Kết luận

Qua nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn của điều dưỡng làm việc tại 4

bệnh viện tiêu biểu trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh, chúng tôi có cơ sở đưa ra

một số kết luận như sau:

1.1. Rối nhiễu tâm lý là một hành vi có ý nghĩa lâm sàng hoặc một hội chứng

tâm lý xuất hiện ở một chủ thể gây ra sự đau khổ, bất lực, rối loạn chức năng... làm

cho chủ thể (điều dưỡng) khó tự chủ được hành vi ứng xử của mình, gây ảnh hưởng

không tốt đến cuộc sống và công việc của người điều dưỡng.

1.2. Kết quả nghiên cứu thực trạng RNTL của điều dưỡng viên bệnh viện

cho thấy:

Điều dưỡng đang làm việc tại 4 bệnh viện trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh

là: Nhân dân Gia Định, Thống Nhất, Nhi đồng 2, Phạm Ngọc Thạch hay gặp một số

biểu hiện của RNTL như: nhức mỏi cơ; bứt rứt, khó chịu; giảm cân; dễ xúc động,

mệt mỏi... Về RNLA: tỷ lệ điều dưỡng bị RNLA sinh lý – thể chất nhẹ là: 20,7%; tỷ

lệ điều dưỡng bị RNLA tâm lý nhẹ là: 30,5%. Về CTNN: tỷ lệ điều dưỡng bị CTNN

sinh lý nhẹ là: 52,5%; tỷ lệ điều dưỡng bị CTNN tâm lý nhẹ là: 50,5%, CTNN tâm

lý nặng là: 0,5%. Về RNNC: tỷ lệ điều dưỡng bị RNNC nhẹ là: 23%.

Kết quả so sánh từng biểu hiện của 3 dạng RNTL (RNLA, CTNN, RNNC)

theo phương diện lứa tuổi và khoa làm việc là: hầu như là không có sự khác biệt;

tuy nhiên vẫn có hiện tượng điều dưỡng khoa Ngoại bị CTNN về mặt tâm lý và sinh

lý – thể chất cao hơn điều dưỡng khoa Nội, có sự khác biệt CTNN về mặt tâm lý

giữa nhóm lứa tuổi từ 20 – 40 tuổi và nhóm lứa tuổi từ 41 – 55 tuổi.

Các RNTL gây ảnh hưởng cho điều dưỡng ở nhiều mặt, như: tâm sinh lý, công

việc, hoạt động giao tiếp...

Từ kết quả nghiên cứu thực trạng cũng khẳng định có nhiều nguyên nhân gây

nên RNTL ở điều dưỡng viên, bao gồm các nguyên nhân chủ quan và các nguyên

nhân khách quan. Các nguyên nhân khách quan chủ yếu là do các yếu tố xã hội, áp

100

lực công việc, môi trường làm việc... Các nguyên nhân chủ quan chủ yếu là yếu tố

sinh học và yếu tố tâm lý của người điều dưỡng.

1.3. Để giảm thiểu tối đa RNTL của điều dưỡng viên bệnh viện cần phải có

những biện pháp tác động phù hợp. Căn cứ từ kết quả thực trạng nghiên cứu đề tài,

căn cứ vào tình hình hoạt động thực tế của 4 bệnh viện mà có điều dưỡng đang làm

việc là khách thể nghiên cứu và từ kết quả khảo sát về mức độ cần thiết của một số

biện pháp, chúng tôi đưa ra một số đề xuất: với bản thân người điều dưỡng phải

luôn tự học để phát triển trong công việc cũng như các hoạt động khác làm thay đổi

nhận thức của xã hội về nghề điều dưỡng, với bệnh viện phải đổi mới theo chiều

hướng tích cực điều kiện làm việc và các chế độ đãi ngộ cho người điều dưỡng, đối

với xã hội phải xây dựng các chính sách bảo vệ quyền lợi chính đáng cho người

điều dưỡng...

2. Kiến nghị

2.1. Đối với người điều dưỡng

- Luôn tự học mọi lúc, mọi nơi với nhiều hình thức. Học để không lạc hậu,

học để có kiến thức toàn diện vì đặc thù nghề điều dưỡng có sản phẩm là sức khỏe,

tính mạng con người nên yêu với người điều dưỡng ngoài việc làm đúng chuyên

môn, tay nghề thành thạo còn phải làm nhiều việc khác trong quá trình chăm sóc

sức khỏe người bệnh.

- Phải tự biết chăm sóc bản thân mình, có chế độ nghỉ ngơi, dinh dưỡng hợp

lý. Vì người điều dưỡng có khỏe mạnh thì mới làm tốt được mọi việc.

- Phải luôn giữ thái độ chân thành, tôn trọng, cảm thông chia sẻ với người

bệnh sao cho xứng đáng với lời dạy của Bác là “lương y như từ mẫu”.

2.2. Đối với bệnh viện

- Trả lương cho người điều dưỡng phải đảm bảo được cuộc sống của họ, cải

thiện điều kiện làm việc cho điều dưỡng, xây dựng lại chế độ đãi ngộ với người

điều dưỡng phải thật phù hợp.

- Tổ chức các hoạt động vui chơi giải trí thu hút điều dưỡng tham gia để

giảm CTNN, như: thi văn nghệ, thi đấu thể thao, thi nấu ăn... giữa các

101

khoa/phòng/ban với nhau; bố trí nhiều đợt thăm quan du lịch trong năm để tất cả

các điều dưỡng đều có thể tham gia.

- Xây dựng nếp sống đoàn kết, tôn trọng lẫn nhau giữa các nhân viên trong

bệnh viện.

2.3. Đối với các cơ quan chức năng có liên quan

- Các cơ quan chức năng cần có các biện pháp tuyên truyền đúng đắn về

nghề điều dưỡng để xã hội thay đổi cái nhìn vốn có về nghề này và những con

người làm nghề này.

- Quan tâm đến công tác an toàn vệ sinh lao động, duy trì và thực hiện tốt

phong trào “Xanh - Sạch - Đẹp, An toàn vệ sinh lao động” tại nơi làm việc. Thực

hiện nghiêm túc việc khám sức khỏe định kỳ và khám phát hiện bệnh nghề nghiệp,

trong đó thực hiện đầy đủ những quy định về thủ tục và hồ sơ khám sức khỏe định

kỳ để tạo điều kiện thuận lợi cho việc quản lý sức khỏe của nhân viên y tế trong quá

trình lao động, giúp người sử dụng lao động thường xuyên cập nhật thông tin về

tình hình sức khỏe của người lao động để quản lý và tổ chức sắp xếp lao động phù

hợp với yêu cầu công việc và tình trạng quá tải ở các bệnh viện hiện nay. Vì điều

dưỡng có khoẻ mạnh, tinh thần có thoải mái thì mới phát huy hết khả năng, nhiệt

huyết chăm sóc cho người bệnh.

102

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tiếng Việt

1. Bộ Y Tế (2004), Tài liệu quản lý điều dưỡng, Nxb Y học, Hà Nội.

2. Bộ Y Tế (2005), Điều dưỡng cơ bản, Nxb Y học, Hà Nội.

3. Trương Đình Chính, Cao Ngọc Nga, Nguyễn Đỗ Nguyên, Ngô Tích Linh

(2009), Rối loạn tâm thần ở điều dưỡng và nữ hộ sinh Bà Rịa - Vũng Tàu.

4. Trần Văn Cường (2002), “Nghiên cứu đặc điểm nguyên nhân tử vong của bệnh

nhân rối loạn tâm thần”, Tạp chí thông tin Y dược (4).

5. Nguyễn Bá Đạt (2010), “Rối nhiễu tâm lý ở trẻ em sống trong gia đình có bạo

lực”, Báo Tiếp thị và gia đình.

6. Bùi Thị Hạnh Dung (2011), Tìm hiểu biểu hiện rối nhiễu lo âu của học sinh

trung học phổ thông ở thành phố Hồ Chí Minh, Luận văn tốt nghiệp.

7. Trịnh Thị Minh Dung (2005), Bước đầu tìm hiểu stress nghề nghiệp ở nữ công

nhân một số công ty tại khu công nghiệp Biên Hòa, Luận văn tốt nghiệp.

8. Lê Khanh (2010), “Tình trạng rối nhiễu tâm lý”, Báo Sức khỏe và đời sống.

9. Đăng Phương Kiệt (2001), Cơ sở tâm lý học ứng dụng, Nxb Đại học Quốc gia

Hà Nội.

10. Nguyễn Thị Mến (2005), Đánh giá thực trạng năng lực chăm sóc người bệnh

của điều dưỡng viên, Luận án Tiến sĩ Y khoa, Trường Đại học Y Hà Nội,

Hà Nội.

11. Lê Quốc Nam (2012), “Căng thẳng nghề nghiệp ở nhân viên y tế, gánh nặng

không thể xem nhẹ”, Tạp chí Y học.

12. Nguyễn Văn Nhận (1998), Tâm lý học Y học, Nxb Y học, Hà Nội.

13. Vũ Thị Nho (1999), Tâm lý học phát triển, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.

14. Trung Nguyên, (2010), “Nghiên cứu rối nhiễu tâm lý ở trẻ em và thanh thiếu

niên”, Tạp chí Y học.

15. Huỳnh Hồ Ngọc Quỳnh (2009), Sức khỏe tâm thần của sinh viên Y tế công cộng

và sinh viên Điều dưỡng Đại học Y dược thành phố Hồ Chí Minh.

16. Lê Thành Tài, Trần Ngọc Xuân, Trần Trúc Linh (2007) “Tình hình căng thẳng

nghề nghiệp của nhân viên điều dưỡng”, Tạp chí Y học.

103

17. Lê Minh Thuận (2011), Rối nhiễu tâm lý của sinh vỉên Đại học Y dược, Luận

văn Thạc sĩ Tâm lý, Trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh.

18. Nguyễn Khắc Viện (1999), Tâm lý lâm sàng trẻ em Việt Nam, Nxb Y học,

Hà Nội.

19. Dr Savitri Ramaiah (2004) - Nguyễn Như Ý biên dịch , Lo âu , Nxb Tổng hợp

thành phố Hồ Chí Minh.

20. Hiệp hội tâm lý học Hoa kỳ (1999), Sổ tay chẩn đoán và thống kê các rối nhiễu

tâm thần.

21. L.Levi – Minh Đức biên dịch (2006), “Stress nghề nghiệp”, Tạp chí Tâm lý học.

22. Robert Feldman – Hồ Kim Chung biên dịch (2004), Tâm lý học căn bản, Nxb

Văn hóa thông tin.

Tiếng Anh

23. Health Trasion Review (1996), The Cultrual, Social and Behavioural

Determinants of Health.

24. H. Seley (1956), “Stress and psychiatry”, Am J Psychiatry, 113, (5).

25. Mccam, T.V. E Clark (2010), “Australian Bachelor of Midwifery students

mental health literacy: an exploratory study”, Nurs health Sci, 12, (1).

26. Naiemeh, Seyedfatemi, Maryam Tafreshi, Hamid Hagani (2007), “Experienced

stressors and coping strategies among Iranian nursing student”, BMC

Nursing, 6, (11), 1 – 10.

27. Rosen, Fox and Gregory (1972), Abnormal psychology (Second edition),

W.B.Sauders Company.

28. Seley, H. (1955), “Stress and disease”, Science, 122, (3171), 625 – 31.

29. Probst, M, J Peuskens (2010), “Attitudes of Flemish phyiotherpy students

towards mental health and psychiatry”, Physiotherapy, 96, (1), 44 – 51.

30. Woods, M.A (2010), “Public health intervention model: impact on Australian

community and mental health nursing students practice”, Int J Nurs Educ

Scholarsh, 7, (1).

.

Phụ lục 1

PHIẾU THĂM DÒ Ý KIẾN

Kính chào các anh/chị điều dưỡng!

Chúng tôi đang nghiên cứu sự ảnh hưởng của điều kiện làm việc đến sức

khỏe tinh thần của điều dưỡng viên từ đó đưa ra một số đề xuất nhằm đảm bảo sức

khỏe tinh thần cho người điều dưỡng. Để đạt được mục đích đó, rất mong các

anh/chị trả lời các câu hỏi sau đây. Mọi thông tin đều được giữ bí mật và chỉ được

sử dụng với mục đích nghiên cứu. Những ý kiến phản ánh đúng suy nghĩ của các

anh/chị sẽ góp phần vào thành công của đề tài.

Chúng tôi rất mong nhận được sự hợp tác của các anh/chị!

PHẦN I: THÔNG TIN CÁ NHÂN

(Đánh dấu X vào ô trước trả lời của anh/chị)

1. Giới tính Nam Nữ

2. Lứa tuổi Từ 20 – 40 tuổi Từ 41 – 55 tuổi

Độc thân, chưa có người yêu Độc thân, đã có người yêu

Đã kết hôn, chưa có con Đã kết hôn, có con

3. Tình trạng hôn nhân của anh/chị

Bệnh viện Nhân dân Gia Định Bệnh viện Nhi đồng 2

Bệnh viện Phạm Ngọc Thạch Bệnh viện Thống Nhất

4. Tên Bệnh viện anh/chị đang làm việc

Nội

5. Khoa anh/chị đang làm việc

Ngoại

Nhi

Cấp cứu

Dưới 5 triệu

Từ 5 – 10 triệu Trên 10 triệu

6. Thu nhập hàng tháng của anh/chị từ công việc đang làm tại bệnh viện

Nhà trọ Nhà của riêng mình

Nhà của bố mẹ Nhà của bà con

7. Chỗ ở hiện tại của anh/chị

Cùng với gia đình Cùng với bạn

Một mình

8. Hiện tại anh/chị đang sống cùng ai

Đi bộ Xe đạp

Xe buýt Xe máy

Ô tô

9. Phương tiện đi làm của anh/chị

Có Không

10. Anh/chị đã từng tham gia tư vấn về sức khỏe tâm lý chưa?

PHẦN II: CÂU HỎI THĂM DÒ Ý KIẾN

UCâu 1:U Anh/chị hãy đọc kỹ những câu dưới đây và trả lời bằng cách đánh dấu

X vào các mức độ thường gặp của các biểu hiện ở anh/chị.

MỨC ĐỘ

Không Rất Thường Thỉnh Hiếm Stt CÁC BIỂU HIỆN bao thường xuyên thoảng khi giờ xuyên

Khi nghĩ về những điều

1 gây lo sợ, tôi thường bị

rối loạn nhịp thở.

Tôi bị rối loạn tiêu hóa 2 do quá lo âu.

Tôi hay gặp ác mộng khi 3 ngủ.

4 Tôi bị nhức mỏi cơ.

5 Tôi lo lắng vô cớ.

6 Tôi cảm thấy hồi hộp.

Tôi cảm thấy bứt rứt, khó 7 chịu.

8 Tôi dễ nổi cáu.

Tôi bị mất bình tĩnh và 9 khó tập trung.

Tôi có thể dễ dàng òa 10 khóc.

11 Tôi luôn bị bất an.

Tôi luôn cảm thấy không 12 hài lòng.

Tôi không đủ tự tin vào 13 bản thân.

Mọi thứ vớ vẩn đều làm 14 tôi thất vọng.

15 Tôi dễ bị kích động.

Khi nhìn thấy đám đông

đang tụ tập bàn tán, tôi 16 luôn cho rằng họ đang

nói xấu mình.

Tôi thường nhớ trước, 17 quên sau.

Tôi luôn nghĩ đến những 18 điều không có thực.

Tôi ít đến chỗ đông 19 người

Tôi không tham gia vào 20 các hoạt động tập thể.

Tôi tránh tiếp xúc với

21 người mà tôi cho là sẽ

UCâu 2U: Dưới đây có thể là những nguyên nhân gây ra các biểu hiện trên ở

gây cho tôi nỗi sợ hãi.

anh/chị. Hãy đánh dấu X vào mức độ của các nguyên nhân mà anh/chị thấy phù

hợp.

MỨC ĐỘ

Hoàn

Rất toàn Phân Không Stt CÁC NGUYÊN NHÂN Đồng đồng không vân đồng ý ý ý đồng

ý

1 Tôi có người thân bị rối nhiễu

lo âu.

2 Tôi gặp phải những vấn đề

không tốt về sức khỏe.

3 Cơ thể tôi bị thiếu hụt một số

chất có tác dụng giảm đau.

4 Tôi gặp những thất bại trong

chuyện tình cảm.

5 Tôi bị mất người thân.

6 Thời ấu thơ của tôi đã trải qua

nhiều nỗi sợ hãi.

7 Cuộc sống gia đình tôi có

nhiều áp lực.

8 Tôi thường xuyên phải đối mặt

với cuộc sống mưu sinh khắc

UCâu 3U: Anh/chị hãy đọc kỹ những câu dưới đây và trả lời bằng cách đánh dấu

nghiệt.

X vào các mức độ thường gặp của các biểu hiện ở anh/chị.

MỨC ĐỘ

Không Rất Thường Thỉnh Hiếm Stt CÁC BIỂU HIỆN bao thường xuyên thoảng khi giờ xuyên

Tôi bị đau nhức khắp người 1 mỗi khi kết thúc công việc.

Tôi quá mệt mỏi khi phải

làm hài lòng nhiều đối

tượng khác nhau, như: 2

đồng nghiệp, bệnh nhân,

người nhà bệnh nhân...

Những mùi đặc trưng của

3 bệnh viện khiến tôi ngột

ngạt, khó chịu…

Tôi không tăng cân mà còn

4 bị giảm cân từ khi làm việc

tại bệnh viện.

Cứ nghĩ đến việc phải đi 5 làm là tôi thấy đau đầu.

Tôi bị mất ngủ khi phải

thường xuyên chứng kiến 6 những cái chết của bệnh

nhân.

Tôi bị tai nạn nghề nghiệp:

kim chích thuốc bệnh nhân

đâm vào tay, chỗ trầy xước 7

trên cơ thể tiếp xúc với

dịch tiết của bệnh nhân...

Tôi bị lây bệnh từ bệnh 8 nhân.

Tôi cảm thấy nhàm chán vì

9 tính đơn điệu của công

việc.

Khi làm việc, tôi chỉ mong 10 đến giờ nghỉ.

Tôi mất hết nhiệt huyết và 11 đam mê làm việc.

Tôi sẵn sàng bỏ việc này

12 nếu có công việc khác thay

thế.

Tôi thấy mình làm việc 13 giống như cái máy.

Tôi luôn bị mất tập trung 14 khi làm việc.

Tôi không chịu đựng được

15 thời gian làm việc thất

thường.

16 Tôi không còn hứng thú

sáng tạo trong công việc.

Tôi luôn bị phân tâm khi 17 làm việc.

18 Tôi muốn đổi nghề.

Tôi hay cáu kỉnh với đồng 19 nghiệp.

Tôi ngại giao tiếp với mọi

20 người trong quá trình làm

việc.

Tôi không hứng thú với các

21 hoạt động của khoa/bệnh

viện.

Tôi không còn muốn quan

22 tâm đến các mối quan hệ

UCâu 4:U Dưới đây có thể là những nguyên nhân gây ra các biểu hiện ở câu 3 mà

trong khoa/bệnh viện nữa.

anh/chị thường gặp. Hãy đánh dấu X vào mức độ của các nguyên nhân mà anh/chị

thấy phù hợp.

MỨC ĐỘ

Stt CÁC NGUYÊN NHÂN Đồng ý Phân vân Không đồng ý Rất đồng ý Hoàn toàn không đồng ý

Đồng nghiệp của tôi không thân

1 thiện trong quan hệ, không hỗ trợ

trong công việc.

Tôi không có quyền tự quyết 2 trong công việc của mình.

3 Cấp trên luôn không hài lòng về

việc tôi đang làm.

Bệnh nhân và người nhà bệnh

4 nhân gây khó dễ cho công việc

của tôi.

Khoa thường xuyên đem hiệu

5 quả công việc của tôi ra để bình

xét thi đua.

Tại nơi làm việc của tôi có sự

6 phân biệt đối xử về: giới, lứa

tuổi, trình độ, địa vị...

Tôi luôn có cảm giác bị xa lánh, 7 ghét bỏ khi ở nơi làm việc.

Yêu cầu của công việc không hợp 8 lý.

9 Công việc phải làm triền miên.

10 Nhịp độ làm việc quá nhanh.

Chế độ nghề nghiệp dành cho 11 người lao động không thỏa đáng.

Tiền lương tôi nhận được từ công

việc đang làm không xứng đáng 12 với công sức đã bỏ ra và không

đảm bảo được cuộc sống.

13 Tôi luôn bị giám sát khi làm việc.

Bệnh nhân quá đông trong khi 14 điều dưỡng lại quá ít.

Môi trường làm việc chứa đựng

15 nhiều yếu tố không an toàn, nguy

cơ lây nhiễm cao.

Tôi chưa có nhiều kinh nghiệm 16 trong công việc.

Tôi hay sử dụng các chất kích

17 thích, như: cà phê, rượu, bia,

UCâu 5U: Anh/chị hãy đọc kỹ những câu dưới đây và trả lời bằng cách đánh dấu

thuốc lá...

X vào các mức độ thường gặp của các biểu hiện ở anh/chị.

MỨC ĐỘ

Rất Không Thường Thỉnh Hiếm Stt CÁC BIỂU HIỆN thường bao xuyên thoảng khi xuyên giờ

Tôi luôn cố tỏ ra mình là

1 người quan trọng trong mọi

vấn đề.

2 Tôi rất dễ xúc động.

Một lời trách móc nhẹ

3 nhàng của người khác là tôi

cũng thấy bị tổn thương.

Tôi luôn muốn được người 4 khác ngưỡng mộ.

Tôi thường tự đánh giá 5 thấp bản thân.

Tôi quá cứng nhắc trong

6 các mối quan hệ và nguyên

tắc trong công việc.

Tôi rất sợ mắc sai lầm và

7 thường không dám tự quyết

trong mọi việc.

UCâu 6U: Dưới đây có thể là những nguyên nhân gây ra các biểu hiện ở câu 5

mà anh/chị thường gặp. Hãy đánh dấu X vào mức độ của các nguyên nhân mà

anh/chị thấy phù hợp.

MỨC ĐỘ

Stt CÁC NGUYÊN NHÂN Đồng ý Phân vân Không đồng ý Rất đồng ý Hoàn toàn không đồng ý

Từ nhỏ tôi đã bị thiếu thốn tình 1 cảm.

Khi còn là học sinh, tôi luôn bị

2 giáo viên đánh giá là hạnh kiểm

kém.

Bố mẹ là người tự quyết cho tôi 3 trong mọi chuyện của tôi.

Tôi là con một trong gia đình nên 4 luôn được chiều chuộng.

Tôi có nhiều anh em nên bị chia 5 sẻ tình thương của bố mẹ.

Tôi luôn bị phản bội trong tình 6 yêu.

UCâu 7U: Dưới đây là những đánh giá hiện nay của xã hội về nghề điều dưỡng.

Mọi người thường không tin 7 tưởng tôi.

Xin vui lòng cho biết ý kiến của anh/chị về các đánh giá đó bằng cách đánh dấu X

vào mức độ đồng ý.

MỨC ĐỘ

Stt CÁC ĐÁNH GIÁ Rất đồng ý Phân vân Đồng ý Không đồng ý Hoàn toàn không đồng ý

Điều dưỡng là công việc sử

dụng những kỹ thuật tay 1 chân đơn giản, làm mãi rồi

sẽ quen.

Điều dưỡng là phải làm theo

y lệnh của bác sĩ nên bệnh 2 nhân không cần hỏi điều

dưỡng.

Rủi ro nghề nghiệp xảy ra

với người điều dưỡng cao 3 hơn so với các nhân viên y

tế khác.

Điều dưỡng thường xuyên

tiếp xúc với bệnh nhân nên 4 dễ thông cảm với người

bệnh.

Người điều dưỡng phải chịu

nhiều sức ép trong công

5 việc, đó là: sức ép từ đồng

nghiệp, bệnh nhân, người

nhà bệnh nhân...

Điều dưỡng không quan

6 trọng bằng bác sĩ trong công

tác chăm sóc sức khỏe.

Công việc điều dưỡng ở các

khoa gần giống nhau do đó 7 nghề điều dưỡng không có

sự sáng tạo.

Vai trò của người điều

dưỡng trong công tác chăm 8 sóc sức khỏe là rất quan

trọng.

Người điều dưỡng không chỉ

chăm sóc về bệnh tật mà còn 9 chăm sóc về tinh thần cho

người bệnh.

UCâu 8:U Dưới đây là những biện pháp để khắc phục những biểu hiện ở các

câu trên xảy ra với người điều dưỡng. Vui lòng đánh dấu X vào các mức độ của

từng biện pháp mà anh/chị chọn.

Stt CÁC BIỆN PHÁP Cần thiết Rất cần thiết Không cần thiết Hoàn toàn không cần thiết MỨC ĐỘ Có cũng được, không cũng được

ĐỐI VỚI BẢN THÂN

1 Tự điều trị

2 Khám bác sĩ chuyên khoa

Nhờ sự hỗ trợ của chuyên viên 3 tư vấn tâm lý.

Chia sẻ với người thân vấn đề 4 của mình.

5 Sử dụng thuốc an thần.

Uống nhiều: rượu, cà phê, các 6 chất kích thích khác...

7 Hút thuốc lá.

Giải trí nhẹ nhàng, lành mạnh:

8 nghe nhạc, đọc sách, xem phim,

đi du lịch...

Xây dựng mối quan hệ tốt với 9 mọi người xung quanh.

Luôn nghĩ đến những điều tích 10 cực.

Thường xuyên tụ tập bạn bè để 11 nhậu.

12 Nghỉ làm đi chơi.

Trình bày với đồng nghiệp, cấp

trên, công đoàn những khó khăn 13 mà bản thân gặp phải trong công

việc.

14 Tập thể dục đều đặn.

15 Dinh dưỡng hợp lý.

16 Trị liệu tâm lý

Không tiếp xúc với bất kỳ một 17 người nào.

ĐỐI VỚI BỆNH VIỆN

Tăng số lượng điều dưỡng để 1 giảm tải công việc.

Trang bị thêm các phương tiện 2 bảo hộ cho điều dưỡng để giảm

tai nạn nghề nghiệp.

Tổ chức các khóa học miễn phí

3 cho người điều dưỡng để nâng

cao tay nghề.

Tạo điều kiện cho các điều

4 dưỡng viên được sáng tạo trong

công việc.

Xây dựng mối quan hệ thân

5 thiện, bình đẳng giữa các nhân

viên y tế.

Tổ chức các đợt vui chơi giải trí 6 cho nhân viên.

Xây dựng và áp dụng chế độ

7 thưởng – phạt rõ ràng, hợp lý

cho người lao động.

Trả lương cho điều dưỡng sao

8 cho đảm bảo được cuộc sống

của họ.

Kịp thời bênh vực quyền lợi

9 đúng đắn cho người điều dưỡng

trước những đối tượng khác.

Khuyến khích điều dưỡng sử

10 dụng các chất gây nghiện để tập

trung cao trong công việc.

Định kỳ thay đổi khoa làm việc

11 cho điều dưỡng nhằm giảm sự

nhàm chán.

ĐỐI VỚI XÃ HỘI

Nhận thức đúng đắn về công

việc và vai trò của người điều 1 dưỡng trong công tác chăm sóc

sức khỏe.

Cảm thông với người điều

2 dưỡng khi số lượng bệnh nhân

quá đông, công việc quá nhiều.

Mở thêm các cơ sở khám chữa

3 bệnh rối nhiễu tâm lý cho người

điều dưỡng.

Đề ra các chính sách xã hội bảo

4 vệ quyền lợi hợp lý cho người

điều dưỡng.

Có thái độ tôn trọng người điều

5 dưỡng như các nhân viên y tế

khác.

Luôn hợp tác với điều dưỡng 6 viên nếu là bệnh nhân của họ.

TRÂN TRỌNG CẢM ƠN SỰ GIÚP ĐỠ CỦA ANH/CHỊ!

Phụ lục 2

BIÊN BẢN PHỎNG VẤN

Xin anh/chị vui lòng trả lời một số câu hỏi sau:

Câu 1: Anh/chị hãy mô tả công việc của mình và cho biết những suy nghĩ về

nghề?

Chị K.T.V cho rằng: “Chỉ cần 6 tháng học việc là có thể làm thành thạo các

thủ thuật của điều dưỡng, điều quan trọng để không bị stress nghề nghiệp là kinh

nghiệm để xử trí tình huống và kinh nghiệm chịu đựng áp lực”.

Điều dưỡng H nói vui: “Nếu như trước kia tụi mình đi học phải ăn tranh thủ -

ngủ khẩn trương thì bây giờ đi làm, điệp khúc đó lại lặp lại cho nên chẳng ai tăng

cân được”.

Chị L. điều dưỡng khoa cấp cứu – bệnh viện Thống Nhất chia sẻ: “Làm ở

khoa cấp cứu là cứu người hơn cứu hỏa, điều dưỡng đi như chạy. Bệnh nhân đến

viện bao giờ cũng vào cấp cứu đầu tiên sau đó mới chuyển đến các khoa khác cho

nên có ngày chúng tôi phải vận chuyển đến gần 100 ca bệnh".

Điều dưỡng L.T.N ấm ức: “Tại khoa Nội Tiết – bệnh viện Gia Đinh, có rất

nhiều bệnh nhân bị biến chứng bàn chân do bệnh đái tháo đường. Bàn chân của

những bệnh nhân này bị hoại tử và bốc mùi hôi thối. Nói thật, người nhà của bệnh

nhân còn muốn tránh càng xa càng tốt. Thế nhưng, các điều dưỡng hàng ngày vẫn

lau rửa, vệ sinh sạch sẽ cho người bệnh. Có nhiều người sau khi làm việc xong thì

không ăn được cơm. Làm điều dưỡng còn khổ và khó hơn làm dâu… Và hiếm có

một nghề nào buộc con người phải vượt qua giới hạn về tình thương và sự chai lì

trước những điều tiếng không hay cũng như đối mặt với những hiểm họa rình rập”.

Câu 2: Công việc có ảnh hưởng như thế nào đến cuộc sống riêng tư của

anh/chị?

Chị T.T.T điều dưỡng trưởng khoa Nội – bệnh viện Thống Nhất tâm sự: “Ngày

cũng như đêm, ngày nghỉ cũng như ngày thường, tôi cứ bị cuốn theo công việc nên để

tuổi thanh xuân vụt đi. Giờ đã lớn tuổi chẳng còn muốn nghĩ đến chuyện yêu đương,

lập gia đình gì nữa, lấy công việc làm niềm vui".

Chị V.T.T.H – bệnh viện Nhân dân Gia Định ngậm ngùi: “Vào làm ở đây,

công việc quần quật lại vô cớ bị chửi, các em chỉ biết khóc. Mong ước lớn nhất của

điều dưỡng là được nghỉ ngơi thứ bảy - chủ nhật nhưng không được. Cứ ngày lễ là

ngày mà điều dưỡng phải tối mặt mũi vì tai nạn nhiều, bệnh tăng. Mặc dù, lãnh đạo

bệnh viện đã rất ưu ái cho anh em điều dưỡng nhưng không thể bù đắp được, nhất là

về vấn đề tổn thương trong tình cảm. Thời gian qua đi, tuổi trẻ không còn, nhiều

bạn trẻ sợ “ế” và thực tế không ít trường hợp như thế trong giới điều dưỡng”.

Câu 3: Anh/chị hay đồng nghiệp của anh/chị đã bao giờ muốn bỏ nghề?

Cô D.T (53 tuổi) – điều dưỡng bệnh viện Gia Định tâm sự: “Cũng có lúc chán,

cô muốn tìm một công việc khác, nhưng rồi nghĩ lại, nếu có bỏ chắc rồi sẽ quay lại

thôi. Bởi làm điều dưỡng cô vừa chăm sóc sức khỏe cho bệnh nhân, vừa chăm sóc

cho bản thân và cả những người xung quanh”.

Điều dưỡng trưởng V.T.T.H – bệnh viện Nhi đồng 2 giải thích: “Bệnh nhân

ngày càng đông, tỷ lệ bệnh nặng lại tăng gây áp lực trong môi trường làm việc

người điều dưỡng. Trước đây, bệnh nặng ở phòng hồi sức chỉ 45 bệnh/kíp trực

nhưng bây giờ đã lên 60 ca bệnh nặng/kíp, rất áp lực nên nhiều em đã xin nghỉ”.

Th.S T.T.K.N, Trưởng phòng điều dưỡng bệnh viện Phạm Ngọc Thạch là một

trong những điều dưỡng trở thành “Thầy thuốc ưu tú” đầu tiên sau hơn 20 năm “ẩn

mình” cho biết: “Với tấm bằng trung cấp ra trường, nhiều điều dưỡng chỉ có thu

nhập trên 2 - 4 triệu đồng/tháng. Mức lương tăng dần theo trình độ và chức vụ công

tác nhưng con số đó không thấm vào đâu so với công việc. Cho nên có rất nhiều

người làm điều dưỡng được đến gần 10 năm mà vẫn bỏ nghề”.

Phụ lục 3

MỘT SỐ BẢNG BIỂU

Bảng 2.22: Tỷ lệ thu nhập thực tế hàng tháng của điều dưỡng viên

do bệnh viện trả cho

TT Thu nhập Số lượng Tỷ lệ (%)

1 Học việc, không lương: 0 triệu 12 6,0

2 Dưới 5 triệu 73 36,5

3 Từ 5 – 10 triệu 115 57,5

Bảng 2.23: Tỷ lệ điều dưỡng viên tham gia tư vấn tâm lý – sức khỏe

TT Tham gia tư vấn Số lượng Tỷ lệ (%)

1 94 47,0 Có

2 106 53,0 Không

Bảng 2.24: Ý kiến của điều dưỡng về các biện pháp

Stt CÁC BIỆN PHÁP

Cần thiết (%) Không cần thiết (%) Rất cần thiết (%)

Hoàn toàn không cần thiết (%) Tỷ lệ % Có cũng được, không cũng được (%)

Tổ chức các đợt vui chơi giải 0 6 40 54 1 0 trí cho nhân viên.

Trả lương cho điều dưỡng

0 6 17 77 2 sao cho đảm bảo được cuộc 0

sống của họ.

Kịp thời bênh vực quyền lợi

đúng đắn cho người điều 0 0 6 46,5 47,5 3 dưỡng trước những đối tượng

khác.

Khuyến khích điều dưỡng sử

4 dụng các chất gây nghiện để 0 0 0 60 40

tập trung cao trong công việc.

Đề ra các chính sách xã hội

5 bảo vệ quyền lợi hợp lý cho 0 0 5,5 48 46,5

người điều dưỡng.

Có thái độ tôn trọng người

6 điều dưỡng như các nhân 44 56 0 0 0

viên y tế khác.

Luôn hợp tác với điều dưỡng 7 0 0 48 52 0 viên nếu là bệnh nhân của họ.

Bảng 2.25: Thống kê tổng điểm về các biểu hiện RNLA về mặt

sinh lý – thể chất trên toàn mẫu nghiên cứu

TT 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 Điểm mức độ 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 18 Số khách thể 1 28 26 27 49 14 13 9 13 6 14 Tỷ lệ (%) 0,5 14,0 13,0 13,5 24,5 7,0 6,5 4,5 6,5 3,0 7,0

Bảng 2.26: Thống kê tổng điểm các biểu hiện RNLA về

mặt tâm lý trên toàn mẫu nghiên cứu

TT Điểm mức độ Số khách thể Tỷ lệ (%)

1 32 5 2,5

2 33 3 1,5

3 34 12 6,0

4 35 19 9,5

5 36 27 13,5

6 37 23 11,5

7 38 9 4,5

8 39 16 8,0

9 40 6 3,0

10 41 10 5,0

11 42 9 4,5

12 43 13 6,5

13 44 9 4,5

14 45 9 4,5

15 46 4 2,0

16 47 5 2,5

17 49 5 2,5

18 50 1 0,5

19 51 5 2,5

20 52 3 1,5

21 53 2 1,0

22 55 1 0,5

23 58 4 2,0

Bảng 2.27: Thống kê tổng điểm các biểu hiện CTNN về mặt

sinh lý – thể chất trên toàn mẫu nghiên cứu

TT 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 Điểm mức độ 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 31 Số khách thể 1 11 9 24 18 17 31 23 27 6 8 12 4 4 4 1 Tỷ lệ (%) 0,5 5,5 4,5 12,0 9,0 8,5 15,5 11,5 13,5 3,0 4,0 6,0 2,0 2,0 2,0 0,5

Bảng 2.28: Thống kê tổng điểm các biểu hiện CTNN về mặt

tâm lý trên toàn mẫu nghiên cứu

TT 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 Điểm mức độ 27 28 29 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 44 45 Số khách thể 2 11 18 20 20 4 20 8 3 10 32 21 6 8 1 16 Tỷ lệ (%) 1,0 5,5 9,0 10,0 10,0 2,0 10,0 4,0 1,5 5,0 16,0 10,5 3,0 4,0 0,5 8,0

Bảng 2.29: Thống kê tổng điểm các biểu hiện RNNC trên toàn mẫu nghiên cứu

TT Điểm mức độ Số khách thể Tỷ lệ (%)

1 13 24 12.0

2 14 11 5.5

3 15 69 34.5

4 16 39 19.5

5 17 11 5.5

6 18 24 12.0

7 19 11 5.5

8 23 11 5.5