BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
Trần Thư Hà
RỐI NHIỄU TÂM LÝ CỦA ĐIỀU DƯỠNG
VIÊN Ở MỘT SỐ BỆNH VIỆN TẠI
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC
Thành phố Hồ Chí Minh – 2013
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
Trần Thư Hà
RỐI NHIỄU TÂM LÝ CỦA ĐIỀU DƯỠNG
VIÊN Ở MỘT SỐ BỆNH VIỆN TẠI
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Chuyên ngành
: Tâm lý học
Mã số
: 60 31 04 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. TRƯƠNG CÔNG THANH
Thành phố Hồ Chí Minh – 2013
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Những số liệu,
kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa được công bố trong các công trình
khác.
Tác giả luận văn
TRẦN THƯ HÀ
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn Quý Thầy/Cô Trường Đại học sư phạm Thành
phố Hồ Chí Minh, đặc biệt là những Thầy/Cô Khoa Tâm lý giáo dục và những
Thầy/Cô khác đã giảng dạy cho tôi trong suốt thời gian học tập tại Trường. Tôi xin
gửi lời tri ân sâu sắc tới Tiến sĩ Trương Công Thanh, người hướng dẫn khoa học đã
tận tình chỉ bảo, nhận xét, góp ý, hỗ trợ cũng như động viên tôi trong quá trình thực
hiện luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn các Điều dưỡng viên của bốn bệnh viện tại Thành
phố Hồ Chí Minh: bệnh viện Thống Nhất, bệnh viện Nhân dân Gia Định, bệnh viện
Nhi đồng 2, bệnh viện Phạm Ngọc Thạch đã tạo điều kiện tối ưu, nhiệt tình hỗ trợ
và tích cực tham gia cùng tôi trong quá trình thực hiện luận văn.
Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến các anh/chị, các bạn lớp
Tâm lý K22; đến những người thân trong gia đình đã động viên, giúp đỡ tôi trong
khi học cũng như trong quá trình thực hiện luận văn.
Trần Thư Hà
MỤC LỤC
1TLời cam đoan1T
1TLời cảm ơn1T
1TMục lục1T
1TDanh mục các chữ viết tắt1T
1TDanh mục các bảng1T
1TDanh mục các biểu đồ1T
1TMỞ ĐẦU1T .................................................................................................................... 1
1TChương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ RỐI NHIỄU TÂM LÝ CỦA ĐIỀU
Trang phụ bìa
1T1.1. Lược sử nghiên cứu vấn đề1T ............................................................................... 5
1T1.1.1. Những nghiên cứu ở nước ngoài1T ................................................................ 5
1T1.1.2. Những nghiên cứu trong nước1T .................................................................... 6
1T1.2. Khái niệm rối nhiễu tâm lý1T ............................................................................. 10
1T1.3. Rối nhiễu lo âu, căng thẳng nghề nghiệp, rối nhiễu nhân cách1T ...................... 15
1T1.3.1. Rối nhiễu lo âu1T ......................................................................................... 15
1T1.3.2. Căng thẳng nghề nghiệp1T ........................................................................... 24
1T1.3.3. Rối nhiễu nhân cách1T ................................................................................. 29
1T1.4. Rối nhiễu tâm lý của điều dưỡng viên1T ............................................................ 33
1T1.4.1. Nghề điều dưỡng1T ...................................................................................... 33
1T1.4.2. Vai trò và đặc điểm tâm lý của điều dưỡng viên1T ...................................... 36
1T1.4.3. Biểu hiện rối nhiễu tâm lý của điều dưỡng viên1T ...................................... 40
1TTIỂU KẾT CHƯƠNG 11T ......................................................................................... 43
1TChương 2. THỰC TRẠNG RỐI NHIỄU TÂM LÝ CỦA ĐIỀU DƯỠNG
DƯỠNG VIÊN1T ........................................................................................................... 5
1T2.1. Tổ chức nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu1T ........................................... 44
1T2.1.1. Mẫu nghiên cứu1T ........................................................................................ 44
1T2.1.2. Phương pháp nghiên cứu1T .......................................................................... 46
VIÊN Ở MỘT SỐ BỆNH VIỆN TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH1T ............... 44
1T2.2. Kết quả nghiên cứu thực trạng1T ........................................................................ 54
1T2.2.1. Rối nhiễu lo âu của điều dưỡng viên1T ....................................................... 54
1T2.2.2. Căng thẳng nghề nghiệp của điều dưỡng viên1T ......................................... 66
1T2.2.3. Rối nhiễu nhân cách của điều dưỡng viên1T ............................................... 82
1T2.2.4. Quan điểm của điều dưỡng viên với những đánh giá hiện nay của
1T2.3. Một số biện pháp nhằm giảm thiểu tối đa những biểu hiện RNTL của
xã hội về nghề điều dưỡng1T ....................................................................... 87
1T2.3.1. Cơ sở đề xuất biện pháp1T ........................................................................... 89
1T2.3.2. Một số biện pháp cụ thể1T ........................................................................... 94
1TTIỂU KẾT CHƯƠNG 21T ......................................................................................... 98
1TKẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ1T ................................................................................ 99
1TTÀI LIỆU THAM KHẢO1T .................................................................................... 102
điều dưỡng viên1T .............................................................................................. 89
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
: căng thẳng nghề nghiệp CTNN
: rối nhiễu lo âu RNLA
: rối nhiễu nhân cách RNNC
: rối nhiễu tâm lý RNTL
DANH MỤC CÁC BẢNG
1TBảng 1.1. Biểu hiện RNNC theo DSM1T ................................................................ 31
1TBảng 2.1. Phân bố khách thể nghiên cứu1T ............................................................. 44
1TBảng 2.2. Biểu hiện RNLA về mặt sinh lý – thể chất1T ......................................... 55
1TBảng 2.3. Tỷ lệ mức độ RNLA về mặt sinh lý – thể chất1T .................................. 57
1TBảng 2.4. Biểu hiện của RNLA về mặt tâm lý1T .................................................... 59
1TBảng 2.5. Tỷ lệ mức độ RNLA về mặt tâm lý1T ..................................................... 60
1TBảng 2.6. Sự khác biệt RNLA theo lứa tuổi và khoa làm việc1T ............................ 61
1TBảng 2.7. Những nguyên nhân chủ quan của RNLA1T .......................................... 64
1TBảng 2.8. Biểu hiện CTNN về mặt sinh lý – thể chất1T ........................................ 66
1TBảng 2.9. Tỷ lệ mức độ CTNN về mặt sinh lý – thể chất1T .................................. 69
1TBảng 2.10. Biểu hiện CTNN về mặt tâm lý1T .......................................................... 70
1TBảng 2.11. Tỷ lệ mức độ CTNN về mặt tâm lý1T .................................................... 73
1TBảng 2.12. Sự khác biệt CTNN theo lứa tuổi và khoa làm việc1T ............................ 74
1TBảng 2.13. Những nguyên nhân khách quan của CTNN1T ...................................... 77
1TBảng 2.14. Biểu hiện RNNC1T ................................................................................. 82
1TBảng 2.15. Tỷ lệ mức độ RNNC1T ........................................................................... 84
1TBảng 2.16. Sự khác biệt RNNC theo lứa tuổi và khoa làm việc1T ........................... 85
1TBảng 2.17. Nguyên nhân RNNC1T .......................................................................... 86
1TBảng 2.18. Quan điểm của điều dưỡng viên với những đánh giá hiện nay
1TBảng 2.19. Đánh giá của điều dưỡng viên về mức độ cần thiết của nhóm
của xã hội về nghề điều dưỡng.1T ........................................................... 87
1TBảng 2.20. Đánh giá của điều dưỡng viên về mức độ cần thiết của nhóm
biện pháp điều dưỡng thực hiện1T .......................................................... 90
1TBảng 2.21. Đánh giá của điều dưỡng viên về mức độ cần thiết của nhóm
biện pháp bệnh viện thực hiện1T ............................................................. 92
biện pháp từ phía xã hội ...................................................................... 93
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
1TBiểu đồ 1.1. Các mức độ rối nhiễu tâm lý theo APA1T ............................................ 11
1TBiểu đồ 2.1. Biểu hiện RNLA về mặt sinh lý – thể chất1T ....................................... 56
1TBiểu đồ 2.2. Tỷ lệ mức độ RNLA về mặt sinh lý – thể chất1T ................................. 58
1TBiểu đồ 2.3. Tỷ lệ mức độ RNLA về mặt tâm lý1T .................................................. 61
1TBiểu đồ 2.4. Biểu hiện CTNN về mặt sinh lý – thể chất1T ....................................... 68
1TBiểu đồ 2.5. Tỷ lệ mức độ CTNN về mặt sinh lý – thể chất1T ................................. 69
1TBiểu đồ 2.6. Tỷ lệ mức độ CTNN về mặt tâm lý1T ................................................. 74
1TBiểu đồ 2.7. Biểu hiện RNNC1T ............................................................................... 83
1TBiểu đồ 2.8. Tỷ lệ mức độ RNNC1T ......................................................................... 84
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đề tài “Nghiên cứu đặc điểm nguyên nhân tử vong của bệnh nhân rối loạn tâm
thần” được đăng trên “Tạp chí thông tin Y dược” năm 2002 của Trần Văn Cường về
mối quan hệ giữa rối nhiễu tâm lý và bệnh tật đưa ra kết luận của Tổ chức y tế Thế
giới (WHO): “Trong số các bệnh không truyền nhiễm, ước lượng rằng nhóm bệnh
do rối nhiễu tâm lý gây ra gánh nặng bệnh tật và tử vong nhiều hơn các nhóm khác,
nhiều hơn cả nhóm bệnh ung thư và nhóm bệnh tim mạch. Rối nhiễu tâm lý là yếu
tố nguy cơ quan trọng làm tăng thêm những bệnh lý về tim mạch, tiểu đường, tiêu
hóa… Trong nhiều bệnh thực thể, những người có sẵn rối nhiễu tâm lý từ trước sẽ
chậm trễ trong việc điều trị, tìm kiếm sự giúp đỡ khiến cho bệnh nặng hơn. Ngược
lại, những người mắc bệnh mãn tính, bệnh nan y dễ bị rối nhiễu tâm lý” [4]. Ngoài
ra, theo WHO, những người sống trong các tình trạng rối nhiễu tâm lý, như: rối loạn
trầm cảm, lo lắng, căng thẳng thần kinh, rối loạn hành vi sẽ dễ sa sút trong học tập,
làm việc và có thể bị thất học, thất nghiệp, nặng hơn có thể tự tử…
Nguyên nhân dẫn đến rối nhiễu tâm lý không chỉ là yếu tố bệnh lý mà còn do
rất nhiều yếu tố khác. Điều kiện xã hội, hoàn cảnh sống, áp lực học tập - công
việc… cũng làm cho con người rơi vào tình trạng rối nhiễu tâm lý.
Rối nhiễu tâm lý có thể xảy ra ở mọi lứa tuổi, mọi đối tượng, trong đó có điều
dưỡng viên. Rối nhiễu tâm lý của điều dưỡng biểu hiện chủ yếu là: lo âu; căng
thẳng, mệt mỏi; rối nhiễu hành vi và nhân cách khiến họ mất tập trung trong công
việc, sinh hoạt cuộc sống hàng ngày gặp nhiều trở ngại, sức khỏe giảm sút…
Điều dưỡng viên được coi là một trong những đối tượng dễ bị rối nhiễu tâm lý
• Thứ nhất, do môi trường làm việc có nhiều yếu tố bất lợi, như: vi sinh vật gây
vì ba nguyên nhân chính sau đây:
bệnh làm cho người điều dưỡng có nguy cơ mắc bệnh lây nhiễm cao; đối
tượng tiếp xúc thường xuyên của điều dưỡng viên là người bệnh, nhiều khi
bệnh nhân “giận” bệnh, sẽ “giận” lây sang cả điều dưỡng; yêu cầu của bệnh
2
viện với điều dưỡng viên khá cao, thường xuyên kiểm tra định kỳ hoặc đột
• Thứ hai, do đặc trưng nghề nghiệp, thời gian làm việc thất thường (phải trực
xuất kỹ năng lâm sàng và kiến thức nghề nghiệp của điều dưỡng…
đêm, trực trong các ngày nghỉ lễ, làm theo ca kíp). Điều dưỡng viên cũng chịu
áp lực khi không được quyền tự quyết trong công việc của mình, luôn phải
thực hiện theo y lệnh của bác sĩ. Đối tượng công việc là người bệnh, chỉ một
sơ xuất nhỏ của điều dưỡng viên rất có thể gây ảnh hưởng xấu đến tính mạng
• Thứ ba, do bản thân điều dưỡng viên, rất nhiều người ở vào tình thế “nghề
bệnh nhân.
chọn mình chứ không phải mình chọn nghề”. Họ trở thành điều dưỡng vì “bất
đắc dĩ” nên không toàn tâm toàn ý trong công việc, dễ có tâm trạng chán nản
khi làm việc.
Điều dưỡng viên là lực lượng chiếm số lượng tương đối đông trong hoạt động
nghề Y. Tuy nhiên, những đề tài cũng như những bài viết về đối tượng này chưa
nhiều, chưa sâu và chưa hệ thống, thường chỉ là viết về một nhóm điều dưỡng của
một bệnh viện hay một địa phương nào đó. Đặc biệt, nghiên cứu về đặc điểm rối
Đình Chính, Cao Ngọc Nga, Nguyễn Đỗ Nguyên, Ngô Tích LinhP
Pcó đề tài nghiên cứu:
nhiễu tâm lý của điều dưỡng viên càng hạn chế. Năm 2009, nhóm tác giả Trương
“Rối loạn tâm thần ở điều dưỡng và nữ hộ sinh Bà Rịa – Vũng Tàu”. Một nghiên cứu
khác cho ra kết quả: rối loạn tâm thần ở điều dưỡng trực tiếp phục vụ bệnh nhân tâm
thần là 48,32%, và ở nhân viên y tế trực tiếp phục vụ bệnh nhân lao phổi là 15,5% [3].
Các đề tài đó mới chỉ dừng ở việc nghiên cứu mối liên quan của căng thẳng với công
việc của điều dưỡng. Cũng chưa có đề tài nào đi sâu vào nghiên cứu RNTL của điều
dưỡng viên đang làm việc tại các bệnh viện lớn của thành phố Hồ Chí Minh.
Xuất phát từ những nội dung trình bày trên, chúng tôi chọn nghiên cứu đề tài
“Rối nhiễu tâm lý của điều dưỡng viên ở một số bệnh viện tại thành phố Hồ
Chí Minh”.
3
2. Mục đích nghiên cứu
Khảo sát thực trạng rối nhiễu tâm lý của điều dưỡng viên ở một số bệnh viện
tại thành phố Hồ Chí Minh. Trên cơ sở đó đề xuất một số biện pháp giúp điều
dưỡng viên phòng tránh, giảm thiểu rối nhiễu tâm lý.
3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Rối nhiễu tâm lý của điều dưỡng viên bệnh viện.
3.2. Khách thể nghiên cứu
Điều dưỡng viên đang làm việc ở một số bệnh viện tại thành phố Hồ Chí Minh.
4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
4.1. Về đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu rối nhiễu tâm lý của điều dưỡng viên trong công việc và cuộc
sống hàng ngày biểu hiện qua 3 nhóm: nhóm rối nhiễu lo âu, nhóm căng thẳng nghề
nghiệp và nhóm rối nhiễu nhân cách.
4.2. Về khách thể nghiên cứu
Khách thể nghiên cứu là 200 điều dưỡng viên đang làm việc ở một số khoa
của 4 bệnh viện tại thành phố Hồ Chí Minh: bệnh viện Phạm Ngọc Thạch, bệnh
viện Thống Nhất, bệnh viện Nhân dân Gia Định, bệnh viện Nhi Đồng 2.
Mỗi bệnh viện nghiên cứu 50 điều dưỡng viên.
5. Giả thuyết nghiên cứu
Điều dưỡng viên bệnh viện có những biểu hiện của rối nhiễu tâm lý, như: rối
nhiễu lo âu, căng thẳng nghề nghiệp và rối nhiễu nhân cách. Xét trên tổng thể mức
độ xuất hiện các biểu hiện thì có những điều dưỡng đã bị rối nhiễu tâm lý.
Nếu tìm hiểu được thực trạng và nguyên nhân rối nhiễu tâm lý của điều dưỡng
viên sẽ đề xuất được một số biện pháp phù hợp giúp điều dưỡng viên bệnh viện
phòng tránh, giảm thiểu rối nhiễu tâm lý.
4
6. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Phân tích, tổng hợp các vấn đề lý luận cơ bản liên quan đến rối nhiễu tâm
lý, rối nhiễu tâm lý trong hoạt động nghề nghiệp, từ đó hình thành cơ sở lý luận cho
đề tài.
- Khảo sát thực trạng rối nhiễu tâm lý của điều dưỡng viên bệnh viện.
- Đề xuất một số biện pháp giúp điều dưỡng viên bệnh viện phòng tránh,
giảm thiểu rối nhiễu tâm lý.
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận
Thu thập các tài liệu có liên quan đến vấn đề để nghiên cứu, phân tích, tổng
hợp các tài liệu, như: rối nhiễu tâm lý, đặc điểm tâm lý người điều dưỡng, đặc điểm
nghề điều dưỡng, rối nhiễu tâm lý của điều dưỡng viên,... phục vụ cho việc nghiên
cứu nhằm xây dựng cơ sở lý luận cho đề tài.
7.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Đề tài sử dụng một số phương pháp nghiên cứu phối hợp với nhau, trong đó
điều tra bằng phiếu hỏi là phương pháp nghiên cứu quan trọng nhất, các phương
pháp còn lại là phương pháp bổ trợ.
7.2.1. Phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi.
7.2.2. Phương pháp phỏng vấn.
7.2.3. Phương pháp quan sát.
7.3. Phương pháp xử lý số liệu thống kê toán học
Sử dụng phương pháp xử lý thống kê bằng phần mềm SPSS 16.0 for
window để xử lý và phân tích số liệu của luận văn.
5
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ RỐI NHIỄU TÂM LÝ
CỦA ĐIỀU DƯỠNG VIÊN
1.1. Lược sử nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Những nghiên cứu ở nước ngoài
Hầu hết các nghiên cứu về RNTL và điều trị RNTL được tiến hành ở các nước
nói tiếng Anh và các nước Phương Tây.
Vào những năm 1955, một số tác giả đã quan tâm đến việc nghiên cứu yếu tố
tâm lý ảnh hưởng đến sức khỏe [24], Naiemeh Seydefatamie, Maryam Tfreshi và
Hamid Hagani nghiên cứu khách thể là sinh viên năm nhất đã thu được kết quả: rối
nhiễu tâm lý của sinh viên là 65,8%; stress trong môi trường tình huống không quen
thuộc là 64,2%; stress nhiều hơn đáng kể so với sinh viên năm thứ tư.
Một nghiên cứu ở Tehran với mẫu khảo sát có đặc điểm: hầu hết các sinh viên
là nữ tỉ lệ 87,2% từ 18 đến 24 tuổi, khoảng 57% sinh viên sống trong ký túc xá của
trường học đến từ các nước khác. Kết quả nghiên cứu, sinh viên gặp khó khăn khi
stress thì mới tìm kiếm bạn bè tỉ lệ 76,2% và thay đổi các mối quan hệ trong xã hội
tỉ lệ 63,4%. [28]
Kết quả một nghiên cứu định tính của nhóm tác giả H.J Hoekstra, B.B Van
Meijel, T.G Vande Hoflemen trên sinh viên Điều dưỡng năm nhất về nhận thức đối
với các bệnh nhân tâm thần và chăm sóc sức khỏe tâm thần ảnh hưởng đến sự lựa
chọn của họ về chuyên môn trong việc chăm sóc sức khỏe tâm thần và tương lai
làm việc trong lĩnh vực này. Phương pháp phỏng vấn sinh viên tại một trường học
của Hà Lan. Kết quả, 70% sinh viên có nhận thức tiêu cực đối với người bệnh bị
tâm thần. [26]
Khi tìm hiểu: “Sức khỏe tâm lý của nữ hộ sinh Úc trong lúc mang thai và sau
khi sinh”, tác giả Mc.Cann, T.V. Klark.E và cộng sự đã khảo sát các nữ hộ sinh này
tại các bệnh viện phụ sản Melbourne, Australia. Kết quả cho thấy: những phụ nữ có
niềm tin tôn giáo thì mức độ rối nhiễu tâm lý thấp hơn nhiều so với các nhóm còn
lại. Như vậy yếu tố niềm tin trong bản thân mỗi nữ hộ sinh giúp họ giảm thiểu
những vấn đề rối nhiễu tâm lý. [25]
6
Nhiều nghiên cứu gần đây đã cho biết mức độ phổ biến của các RNTL ngày
càng gia tăng.
Theo Viện Sức khỏe Tâm thần Quốc gia Mỹ (NIMH), khoảng 26% người
Mỹ trưởng thành trên 18 tuổi bị một số loại RNTL. Năm 1994 nghiên cứu khảo sát
trên toàn quốc gia (NCS) cho biết 30% số người được hỏi đã từng có biểu hiện triệu
chứng của RNTL ít nhất một năm trước. Cuộc khảo sát cũng chỉ ra rằng gần một
nửa số người lớn đã từng trải qua một vài loại rối nhiễu tâm lý tại một số thời điểm
trong cuộc sống của họ. [24]
X.N.Miaxisshev đã có công trình nghiên cứu rối nhiễu nhân cách và chỉ ra:
rối nhiễu nhân cách là một căn bệnh của nhân cách có căn nguyên tâm lý. Sự rối
loạn các quan hệ đóng vai trò xuất phát điểm và quyết định. Từ những rối nhiễu đó
dẫn đến rối nhiễu sự tiếp nhận và rối nhiễu các chức năng tâm lý tùy theo cách tiếp
nhận và xử lý hiện thực thế nào. Ông nhấn mạnh, nguyên nhân chính làm phát sinh
rối nhiễu hành vi ở trẻ em và con người nói chung là do sự mâu thuẫn tâm lý, nghĩa
là sự mâu thuẫn nội tâm. [28]
1.1.2. Những nghiên cứu trong nước
Ở Việt Nam có một số nghiên cứu về RNTL của nhiều đối tượng nói chung và
của điều dưỡng viên bệnh viện nói riêng, điển hình là những nghiên cứu sau đây:
Trước hết là những nghiên cứu về RNTL, sức khỏe tâm thần của một số đối
tượng, như: nông dân, sinh viên, cộng đồng dân cư, trẻ em, cha mẹ khi nuôi dạy con
cái, cụ thể:
• “Sức khỏe tâm thần của sinh viên Y tế công cộng và sinh viên Điều dưỡng
trường Đại học Y dược thành phố Hồ Chí Minh” của Huỳnh Hồ Ngọc Quỳnh - một
nghiên cứu tại thời điểm xác định các vấn đề về sức khỏe tâm thần và các yếu tố
liên quan (bao gồm yếu tố bảo vệ và yếu tố nguy cơ) có tác động đến sức khỏe tâm
thần của sinh viên khoa Y tế công cộng và khoa Điều dưỡng tại Đại học Y dược
thành phố Hồ Chí Minh. Nghiên cứu cho thấy sinh viên nữ có khuynh hướng lo âu
nhiều hơn nhưng lại ít trầm cảm hơn sinh viên nam. Những yếu tố gia đình có ảnh
hưởng đến mức độ trầm cảm của sinh viên nam. Đối với mức độ trầm cảm của sinh
7
viên nữ, những yếu tố liên quan đến môi trường học tập có tác động mạnh mẽ.
Chiều hướng tích cực của sức khỏe tâm thần được đo lường thông qua các thang đo
về hạnh phúc và hy vọng trên sinh viên nam chịu ảnh hưởng của các yếu tố liên
quan đến nhà trường. Đối với nữ, tất cả các yếu tố bao gồm các đặc điểm về gia
đình, nhà trường và xã hội đều có tác động đến cảm nhận về hạnh phúc và hy vọng
của họ. [15]
• Nhóm tác giả Trần Ngọc Đăng và cộng sự (2010) xác định tỷ lệ RNTL và
các yếu tố liên quan đến RNTL (bao gồm yếu tố nhà trường, gia đình và bản thân)
của sinh viên khoa Y tế công cộng Trường Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh
là: 58,47%, không có sự khác biệt về tỷ lệ rối nhiễu tâm lý giữa nam và nữ. Ngoài
ra, nhóm cũng tìm thấy một số yếu tố gia đình, nhà trường, bản thân có liên quan
đến RNTL. [15]
• Một nhóm tác giả khảo sát nhận thức về sức khỏe tâm thần trong dân số
chung ở Thành phố Hồ Chí Minh vào năm 2002 của Bệnh viện tâm thần cho thấy
cộng đồng hiểu biết về sức khỏe tâm thần còn ít và phiến diện, tuy nhiên có sự đồng
ý cao với khái niệm “Cuộc sống hạnh phúc là cuộc sống không có bệnh tật và chan
hòa tình cảm của bản thân với mọi người xung quanh”. [15]
• Nghiên cứu về mới đây bạo lực tình dục tại Việt Nam, những người cung
cấp thông tin tin rằng bạo lực không chỉ ảnh hưởng về thực thể mà còn cả về sức
khỏe tâm lý của phụ nữ. Lạm dụng tình dục được đề cập ít nhất. Bạo lực tình dục
được xem là riêng tư và không được thảo luận cởi mở trong cộng đồng. Phụ nữ sẽ
tìm kiếm sự chăm sóc sức khỏe chỉ trong những trường hợp rất nghiêm trọng. Các
nhóm hòa giải ở địa phương được dùng để dàn xếp các trường hợp bạo lực tình dục.
Nhân viên y tế có nhận thức về bạo lực tình dục và lên án nó nhưng không được
chuẩn bị để can thiệp. Tình trạng này thường do không biết biểu hiện của vấn đề,
hoặc không được đào tạo đầy đủ. [5]
• Một nghiên cứu stress trong việc nuôi con cái của các gia đình có con nhỏ
chậm phát triển trí tuệ ở Miền Trung Việt Nam: 106 người mẹ và 93 người cha có
con được phát hiện chậm phát triển trí tuệ, được thực hiện với cha mẹ có con tàn tật
8
trong một số trường mẫu giáo ở Huế. Những bà mẹ có con gái hoặc có con hoạt
động tư duy kém hơn thì có mức độ stress cao hơn. Kết quả cho thấy, những bà mẹ
có chồng gặp các vấn đề về sức khỏe cũng bị stress nhiều hơn những bà mẹ khác.
Có mối tương quan giữa mức độ hoạt động tư duy của trẻ và tress của cha mẹ. Cả
bố và mẹ đều stress khi bị tủi nhục. Cha mẹ càng tủi nhục nhiều thì họ càng bị stress
nhiều. Tình trạng kinh tế xã hội là nguyên nhân chính dẫn đến sự tủi nhục.[5]
• Kết quả điều tra dịch tễ mẫu, do Trung tâm Nghiên cứu và Đào tạo Phát
triển cộng đồng tiến hành trên 1.000 trẻ trong độ tuổi từ 8 - 17 tuổi ở 31 xã thuộc 5
tỉnh: Lào Cai, Hưng Yên, Đà Nẵng, Phú Yên, Bến Tre từ năm 2001 đến 2005, cho
thấy: cứ 10 trẻ thì có 2 trẻ bị RNTL. Một khảo sát khác cũng của trung tâm này
trong năm 2008 với nhóm phụ nữ mang thai 3 tháng cuối hoặc mới sinh con trong
vòng 2 tháng đầu tại Hà Nội và Hà Nam cho thấy, tỷ lệ chị em bị RNTL tương ứng
với mỗi tỉnh là 22% và 33%. [18]
• Kết quả điều tra Quốc gia về vị thành niên và thanh niên Việt Nam năm
2008 mới được công bố cho thấy, trong số hơn 10.000 thanh thiếu niên có hơn 73%
người từng có cảm giác buồn chán, hơn 4% từng nghĩ đến chuyện tử tử. So với số
liệu cuộc điều tra trước đó vào năm 2003, các chuyên gia nhận thấy tỷ lệ thanh thiếu
niên trải qua cảm giác buồn chán đã tăng lên. Đặc biệt, cảm giác nghĩ đến chuyện tự
tử tăng lên khoảng 30%. [18]
• “Những trẻ sống trong gia đình có bố mẹ thường xuyên đánh, chửi nhau có
nhiều nguy cơ bị trầm cảm và có hành vi sai trái. Các biểu hiện này tỉ lệ thuận với
mức độ bạo lực trong gia đình mà trẻ chứng kiến hàng ngày”. Đây là nhận định
được đưa ra tại kết quả nghiên cứu “Rối nhiễu tâm lý ở trẻ em sống trong gia đình
có bạo lực” của tác giả Nguyễn Bá Đạt tại Hội nghị Quốc gia về phòng, chống bạo
lực gia đình. Kết quả nghiên cứu được tiến hành trên 145 trẻ trong độ tuổi từ 12 đến
15 đang học Trung học cơ sở ở huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương cùng 52 phụ
huynh của 52 trẻ đang sống trong những gia đình có bạo lực cho thấy: Trong số 52
trẻ sống trong gia đình bạo lực thì có đến 36,5% trẻ bị lo âu, trầm cảm ở mức độ
nhẹ; 15,4% trẻ ở mức độ vừa và 15,3% trẻ trầm cảm ở mức độ nặng. Từ chỗ lo âu,
9
trầm cảm dẫn đến trẻ có những hành vi gây hấn, sai phạm. Có 11,5% trẻ có nhiều
hành vi gây hấn. Hơn 30% trẻ có hành vi sai phạm, trong đó 7,7% trẻ có nhiều hành
vi sai phạm. [5]
RNTL của điều dưỡng viên cũng được một số tác giả chú ý tìm hiểu, cụ thể
là những nghiên cứu sau:
• Đề tài nghiên cứu “Rối loạn tâm thần ở điều dưỡng và nữ hộ sinh tỉnh Bà
Rịa – Vũng Tàu năm 2009” của nhóm tác giả Trương Đình Chính, Cao Ngọc Nga,
Nguyễn Đỗ Nguyên và Ngô Tích Linh được thực hiện trên 382 điều dưỡng và nữ hộ
sinh được chọn ngẫu nhiên hệ thống tại các cơ sở y tế công của tỉnh Bà Rịa Vũng
Tàu. Kết quả nghiên cứu cho thấy, tỷ lệ có rối loạn tâm thần là 59%. Những yếu
tố thuộc môi trường làm việc có liên quan đến khả năng mắc rối loạn tâm thần là
làm việc tại các khoa nhiều bệnh nhân hoặc bệnh nhân nặng, công việc đòi hỏi quan
sát hoặc lựa chọn chính xác. Các yếu tố gia đình và xã hội có liên quan với
khả năng mắc các rối loạn tâm thần là bất hòa với hàng xóm. [2]
• Nhóm tác giả Lê Thành Tài, Trần Ngọc Xuân, Trần Trúc Linh thực hiện đề tài
“Tình hình căng thẳng nghề nghiệp của nhân viên điều dưỡng” [16] với mục đích
nhằm xác định tỉ lệ nhân viên điều dưỡng bị CTNN tại bệnh viện đa khoa Trung
ương Cần Thơ, bệnh viện đa khoa thành phố Cần Thơ và bệnh viện đa khoa Châu
Thành - Hậu Giang, đồng thời xác định các yếu tố có thể gây CTNN cho 378 nhân
viên điều dưỡng ở ba tuyến bệnh viện này. Kết quả nghiên cứu cho thấy: Tỉ lệ
45,2% bị căng thẳng ở mức cao; 42,8% ở mức trung bình. Tại bệnh viện Đa khoa
Trung ương Cần Thơ, tỉ lệ điều dưỡng bị căng thẳng cao nhất với 53,1%. Các tác giả
cũng đưa ra một số yếu tố có thể gây CTNN cho điều dưỡng, bao gồm:
- Yếu tố cá nhân: thâm niên công tác.
- Tính chất công việc: làm việc quá giờ (>8h/ngày) và công việc nhiều áp lực.
- Không hứng thú với công việc.
- Làm việc trong điều kiện thiếu thốn máy móc, trang thiết bị; đông người, ồn ào;
tiếp xúc nhiều vi khuẩn, virus, dễ tổn thương bởi các vật sắc nhọn và thường gặp phản
ứng của bệnh nhân và người nhà, như: chửi mắng, đe dọa, hành hung....
10
- Mâu thuẫn với đồng nghiệp, cấp trên; công việc thiếu an toàn.
- Thu nhập từ nghề nghiệp chưa thỏa đáng và công việc ít có cơ hội thăng tiến.
• Ba tác giả Nguyễn Văn Nhận, Nguyễn Bá Dương, Nguyễn Sinh Phúc cho
biết: các chủ xí nghiệp, các nhà kinh doanh, các nhân viên y tế đặc biệt là điều
dưỡng viên và tất cả những ai làm nghề có liên quan đến sự cạnh tranh, làm nghề
đòi hỏi có trách nhiệm cao và thường xuyên đấu tranh với hoàn cảnh, công việc
thường có các biểu hiện tổn thương về sinh học trong một thời điểm nào đó với một
mức độ nhất định. [12]
• Bác sỹ Đặng Phương Kiệt với: "Stress sức khỏe" đã đưa ra các số liệu phản
ánh một phần căng thẳng nghề nghiệp trong ngành Y tế qua khảo sát 80 cán bộ làm
việc trong các khoa Hồi sức cấp cứu, Điều trị tích cực, Điều trị bỏng của 6 bệnh
viện trung ương và 6 bệnh viện địa phương trong vòng 5 năm. Đó là: 100% cán bộ
nhân viên giảm trọng lượng so với ngày mới làm việc và không một ai tăng cân trở
lại, 15% người mắc một số bệnh, như: loét dạ dày, bệnh truyền nhiễm, suy nhược
thần kinh. Cũng trong tài liệu này, tác giả giới thiệu thêm một cuộc khảo sát khác
tại 3 bệnh viện tuyến tỉnh và cho thấy: có đến 20% cán bộ nhân viên mắc bệnh viêm
gan, 100% bị giảm bạch cầu hạt, 9% bị tổn thương thể nhiễm sắt. [9]
Như vậy những đề tài trong nước nghiên cứu về RNTL của điều dưỡng chỉ
tập trung vào việc phân tích thực trạng CTNN và tìm hiểu nguyên nhân gây nên
CTNN của người điều dưỡng. Tuy nhiên, người điều dưỡng bị RNTL không chỉ là
CTNN mà còn có thể có nhiều biểu hiện khác nữa. Chính vì thế, việc nghiên cứu
RNTL của điều dưỡng viên là rất cần thiết.
1.2. Khái niệm rối nhiễu tâm lý
Ở nước ngoài: có một số tổ chức và cá nhân đã xây dựng khái niệm rối
nhiễu tâm lý như sau:
• APA – Hiệp hội tâm lý học Hoa Kỳ trong DSM – IV – TR (Dignosic &
statistical Manual of Mental díosdess - Sổ tay chẩn đoán và thống kê các rối nhiễu
tâm thần) đã đưa ra khái niệm: “RNTL một hành vi có ý nghĩa lâm sàng hoặc một
hội chứng tâm lý xuất hiện ở một cá nhân gây ra sự đau khổ, bất lực, rối loạn chức
11
năng, làm gia tăng hành vi nguy cơ tự hủy hoại bản thân, làm cá nhân mất khả năng
kiểm soát bản thân”. Khái niệm RNTL này được sử dụng nhằm phân biệt RNTL với
những rối loạn sinh lý do tổn thương thực thể hoặc do não bộ gây ra. APA cũng
xây dựng “Các mức độ rối nhiễu tâm lý” – Sức khỏe tâm lý được biểu diễn là hàm
số liên tục khác với quan niệm cũ là “hay có bệnh” . [20]
Hội chứng rối nhiễu tâm lý (nặng)
Triệu chứng nhẹ, thoáng qua: tai nạn; ảnh hưởng trầm cảm; cảm giác lo lắng, mất người thân, người sống sót tội lỗi; tâm thể; khó chịu; ngủ khó khăn, tuyệt vọng; nóng nảy; lo ngại; cảm thấy quan trọng của người khác; tự tử.
Những vấn đề tâm lý, xã hội: tăng hành vi uống rượu; bạo lực; lạm dụng thuốc, các chất kích thích…
Sức khỏe tâm lý bình thường
Biểu đồ 1.1. Các mức độ rối nhiễu tâm lý theo APA
12
• Sức khỏe được WHO định nghĩa là sự thoải mái về thể chất, tâm lý và xã
hội. Ngày nay nhiều kết quả nghiên cứu đã chứng tỏ mối quan hệ giữa ba mặt trên
của sức khỏe con người. Đó cũng là chất lượng cuộc sống. Theo định nghĩa về sức
khỏe của WHO thì sức khỏe tâm trí là một bộ phận tạo nên sức khỏe ở mỗi chúng
ta. RNTL (mental disorders) biểu thị sự lệch lạc về sức khỏe tâm thần, đây không
phải là bệnh mới, nói đúng hơn, đó là sự nhìn nhận mới về tình trạng sức khỏe tâm
lí theo hướng dự phòng, điều trị sớm bệnh tâm thần (mental illness).
WHO đã phân loại RNTL như sau: [4]
- RNTL thực thể, như: sa sút trí tuệ, mê sảng và chấn thương não.
- Rối loạn hành vi và tâm lý do việc sử dụng các chất hướng thần, chủ yếu là
rượu và các thuốc hướng thần khác.
- Bệnh tâm lý phân liệt và các rối loạn hoang tưởng có liên quan. Rối nhiễu
tính tình: dễ xúc động, điên cuồng, lưỡng cực – trầm cảm: vui, buồn thất thường.
- Những rối loạn về thực thể về thần kinh liên quan đến stress: sợ hãi, lo lắng,
hoảng loạn…
- Những rối nhiễu hành vi liên quan đến các vấn đề về sinh lý và các yếu tố cơ
thể: rối loạn ăn uống, giấc ngủ và hoạt động tình dục. Những rối nhiễu về hành vi
và nhân cách ở người lớn.
- Những rối nhiễu về phát triển tâm lý. Những rối nhiễu hành vi và cảm xúc
khởi phát từ thời thơ ấu, dậy thì, như: ADHD…
- Những RNTL khác chưa xác định, khác với các thể trên.
• Việc phân loại và chẩn đoán là mối quan tâm lớn đối với các nhà trị liệu
cũng như các bệnh nhân và người nhà bệnh nhân có RNTL, hay bệnh tâm thần. Tổ
chức Y tế Thế giới đưa ra một hệ thống phân loại bệnh tâm thần riêng; hiệp hội tâm
thần của Mỹ, Pháp, Trung Quốc… cũng đưa ra một bảng phân loại riêng. Mặc dù
vậy, những bảng phân loại khác nhau kể trên vẫn có nhiều điểm chung, đặc biệt
giữa chúng có sự thống nhất ở các tiêu chí xác định các bệnh tâm thần phổ biến.
Dựa trên sự ý kiến chung giữa các chuyên gia trong lĩnh vực sức khỏe tâm thần,
hiện nay, việc xác định và chẩn đoán các RNTL được giới hạn lại. Mỗi loại RNTL
13
có các tiêu chí chẩn đoán rõ ràng, được thừa nhận trên khắp thế giới. Bảng phân loại
rối loạn tâm thần và hành vi của Tổ chức Y tế thế giới đưa ra năm 1992 (ICD – 10,
1992) và Bảng tiêu chuẩn chẩn đoán và phân loại rối loạn tâm thần của các nhà tâm
thần học Mỹ tái bản và bổ sung năm 2000 (DSM – IV – TR, 2000) là hai công cụ đã
được quốc tế hóa, được các nhà tâm thần học, tâm lý học, công tác xã hội sử dụng
nhiều trong nghiên cứu và chẩn đoán, trị liệu RNTL ở người lớn cũng như trẻ
em. Bảng phân loại bệnh tâm thần của Hiệp hội tâm thần Mỹ (DSM - IV – TR,
2000) mô tả khoảng 250 RNTL khác nhau. Một số RNTL phổ biến có thể kể đến
như: rối loạn ăn uống (chán ăn, ăn vô độ…), rối loạn cảm xúc (trầm cảm, hưng
cảm…), rối loạn dạng cơ thể, rối loạn giấc ngủ, rối loạn lo âu và rối loạn nhân
cách... [20]
• Một số tác giả là Robert S.Feldman (2003), Paul Bennett (2003), James
E.Maddux và Barbara A. Winstead (2008) đều cho rằng: một kinh nghiệm hay một
hành vi ứng xử của cá nhân được xem là rối nhiễu phải đáp ứng các tiêu chí: lệch
chuẩn về mặt thống kê, rối loạn chức năng, rối loạn stress, sai lệch các nguyên tắc
xã hội, làm suy giảm hoạt động nghề nghiệp, đời sống gia đình và xã hội, đặt cá
nhân vào tình huống nguy hiểm. Những người bị các triệu chứng: lo âu không rõ lý
do kéo dài, buồn rầu, ám sợ đám đông, bị tổn thương tâm lý, khó tập trung trong
công việc, chán nản, rối nhiễu hành vi…ở mức độ nhẹ và do các sự kiện trong cuộc
sống gây ra được gọi là những người bị RNTL. Chữa trị RNTL cần phải sử dụng
các liệu pháp tâm lý. [18]
Ở Việt Nam, RNTL là khái niệm đã được các tác giả trong nước đề cập chủ
yếu trong những nghiên cứu ở lĩnh vực trị liệu tâm lý.
• Thuật ngữ “rối nhiễu tâm lý” được dịch từ tiếng Anh là “mental disorder”,
tiếng Pháp là “trouble mentaux”. Bác sĩ Nguyễn Khắc Viện sử dụng thuật ngữ này
thay cho “rối loạn tâm thần”, “bệnh tâm thần” hay “bệnh lý” trong thăm khám và
chữa trị tâm lý cho trẻ em và thanh niên ở Trung tâm nghiên cứu tâm lý trẻ em (N -
T). Trong tác phẩm “Tâm lý lâm sàng trẻ em Việt Nam” (1999), Nguyễn Khắc Viện
đã viết: “Ở N - T, chúng tôi chủ trương không dùng từ tâm thần nữa mà dùng từ tâm
14
lý để nói chung, như khi nói khám tâm lý không nói khám tâm thần, nếu ghép vào
trong khuôn viên của một bệnh viện tâm thần sẽ rất ít ai đến và cũng không mấy bác
sĩ, y tá, giáo viên, cán bộ xã hội chịu học tập chuyên khoa này”.[18] Tác giả thừa
nhận và sử dụng bảng phân loại rối loạn tâm thần và hành vi của WHO và APA.
• Theo tác giả Lê Khanh trong bài viết “Tình trạng rối nhiễu tâm lý”: “Sinh
một đứa con đã khó, nuôi dưỡng bé để trở nên một con người toàn vẹn lại còn khó
hơn. WHO đã định nghĩa, sức khỏe là tình trạng không bệnh tật và có sự ổn định về
sức khỏe thể chất và tâm thần. Điều này cho thấy, một đứa con khỏe mạnh không
chỉ cần tăng trưởng tốt về chiều cao và cân nặng, mà còn phải có một trí tuệ tương
ứng với lứa tuổi. Khi một đứa trẻ có những thái độ đáp ứng hoặc hành vi không
bình thường, không phù hợp với cách ứng xử như những trẻ khác cùng độ tuổi, trẻ
có những hạn chế về giác quan, về vận động …chúng ta gọi đó là những trẻ có tình
trạng RNTL”.[18]
• Tác giả Trung Nguyên với bài nghiên cứu “Nghiên cứu rối nhiễu tâm lý ở
trẻ em và thanh thiếu niên” đã cụ thể hóa khái niệm RNTL như sau: [14]
- RNTL không phải là một khái niệm đặc thù hay cá biệt về một hoặc một
nhóm chứng bệnh về tâm thần.
- Rối loạn về tâm thần (rối loạn tâm thần) hoặc bệnh tâm thần được dịch từ
gốc tiếng Anh “mental disorder” hay “mental illness” còn được biết đến theo thuật
ngữ “psychological disorder” được dịch là “rối nhiễu tâm lý”.
- Một RNTL, cũng được biết đến như là một rối loạn tâm thần, là một mô hình
của hành vi hoặc triệu chứng tâm lý tác động nhiều lĩnh vực cuộc sống và / hoặc tạo
ra đau khổ cho những người gặp những triệu chứng này. Các chứng rối loạn chúng
ta biết và thường nói đến như: rối loạn trong phổ tự kỷ (ASD - Autism Spectrum
Disorder), tăng động thiếu chú ý (ADHD - Attention Deficit Hyperactivity
Disorder) v.v...Dù diễn đạt theo những cách khác nhau RNTL, rối loạn tâm thần, rối
loạn tâm lý thì đều mang nội dung ý nghĩa như nhau.
15
- Không giống các bệnh thực thể khác, chẩn đoán RNTL bác sĩ phải dựa trên
kết quả hỏi khám lâm sàng tỉ mỉ và trình tự tư duy phân tích tâm lý lâm sàng và tâm
thần học, các xét nghiệm khác chủ yếu giúp loại trừ bệnh thực thể.
Như vậy, có nhiều định nghĩa khác nhau về RNTL, tuy nhiên chúng ta có thể
hiểu một cách chung nhất: RNTL là trạng thái bệnh lý về mặt tinh thần, cũng giống
như những bệnh khác về mặt cơ thể. Đó không phải là điên, hay thần kinh như mọi
người thường nghĩ. Một người có RNTL là người có các hành vi, cảm xúc kém
thích nghi, mang tính kỳ lạ, gây đau khổ hoặc làm ảnh hưởng đến sức khoẻ, cuộc
sống, mối quan hệ của bản thân và những người xung quanh.
Trên cơ sở các quan niệm và phân tích trên, xuất phát từ mục đích nghiên
cứu của đề tài, chúng tôi thống nhất với khái niệm RNTL của APA, theo đó:
“RNTL là hành vi có ý nghĩa lâm sàng hoặc một hội chứng tâm lý xuất hiện ở
một cá nhân gây ra sự đau khổ, bất lực, rối loạn chức năng, làm gia tăng hành vi
nguy cơ tự hủy hoại bản thân, làm cá nhân mất khả năng kiểm soát bản thân”.
1.3. Rối nhiễu lo âu, căng thẳng nghề nghiệp, rối nhiễu nhân cách
1.3.1. Rối nhiễu lo âu
1.3.1.1. Khái niệm rối nhiễu lo âu
Dr Savitri Ramaiah khi nghiên cứu về lo âu đã có những phân tích về lo âu, sợ
hãi, rối nhiễu lo âu như sau: [19]
- Lo âu (anxiety) là một rối loạn cảm xúc đặc trưng bởi cảm giác lo sợ lan tỏa,
khó chịu, mơ hồ, kèm theo các triệu chứng thần kinh tự chủ như đau đầu, vã mồ
hôi, siết chặt ở ngực, khô miệng, khó chịu ở thượng vị, bứt rứt, không thể ngồi yên
hoặc đứng yên một chỗ. Ngoài ra còn kèm theo các triệu chứng: kém tập trung chú
ý, không thể thư giãn, kích động cơ thể. Lo âu về bản chất là sự đáp ứng với một đe
dọa không được biết trước từ bên trong.
- Khác với lo âu, sợ hãi lại là một đáp ứng với một đe dọa được biết rõ từ bên
ngoài. Tuy nhiên, nếu lo âu và sợ hãi quá mức ảnh hưởng nghiêm trọng tới cuộc
sống, vẫn tiếp tục khi mối lo thực tế đã kết thúc thì đó là bệnh lý.
16
- Tất cả các RNLA được đặc trưng bởi những triệu chứng sợ mà không có
nguyên nhân đầy đủ. Vì hầu hết mọi người trải nghiệm lo âu vào một thời điểm nào
đó trong đời của họ. Lo âu bình thường phải được phân biệt với rối nhiễu lo âu. Để
chẩn đoán một RNLA, những triệu chứng phải hiện diện trong một giai đoạn kéo
dài (thường ít nhất là 6 tháng), có cản trở đến hoạt động chức năng bình thường của
một người. RNLA là một trong những rối loạn có tính phổ biến cao, có tỷ lệ gia
tăng cùng với sức ép ngày càng lớn của cuộc sống và thường kết hợp với nhiều loại
rối loạn khác như: trầm cảm, rối loạn nhân cách, rối loạn ăn uống.
Xuất phát từ những phân tích trên, chúng tôi có khái niệm: “RNLA là sự lo sợ
quá mức trước một tình huống xảy ra, có tính chất mơ hồ vô lý, lặp lại và kéo dài
gây ảnh hưởng tới sự thích nghi với cuộc sống”.
1.3.1.2. Biểu hiện rối nhiễu lo âu
RNLA có biểu hiện tương đối đặc biệt: người bệnh luôn cho rằng có một điều
xấu đang và thậm chí đã xảy ra với mình, dù rằng thực tế không phải như vậy. Cùng
với những lo âu mơ hồ hay rõ rệt, bệnh nhân RNLA còn dễ bị thêm những chứng
bệnh khác, như: hồi hộp, nghẹt thở, đau ngực, nhức đầu, đau lưng, co giật cơ bắp,
đổ mồ hôi nhiều, hoa mắt, rối loạn tiêu hóa, khô miệng và mất ngủ.
Những biểu hiện của RNLA rất đa dạng và phức tạp, biểu hiện cả về mặt
sinh lý và mặt tâm lý.
Những biểu hiện về sinh lý
Những biểu hiện sinh lý của RNLA bao gồm những triệu chứng của hệ thần
kinh giao cảm, như: run, đổ mồ hôi, dãn đồng tử và trải nghiệm chủ quan của nhịp
tim nhanh mà nhiều người gọi nó là “hồi hộp”. Những người bệnh lo âu cũng
thường xuyên kể những triệu chứng của dạ dày – ruột (ví dụ: tiêu chảy) và rối loạn
đường niệu (ví dụ: tiểu thường xuyên). Sự tăng thông khí đi kèm với các rối loạn
giao cảm này có thể dẫn đến chóng mặt và ngất cũng như cảm giác dị cảm ở đầu
chi, mất cảm giác hoặc tê bì quanh miệng. Những triệu chứng lo âu có thể theo tình
huống hoặc trôi lơ lửng. Lo âu tình huống được gây ra bởi một phản ứng quá mức
với những yếu tố sang chấn môi trường bên ngoài, có thể nhận diện được. Trái lại,
17
lo âu trôi lơ lửng không có yếu tố khởi phát bên ngoài cụ thể. Những người bệnh lo
âu toàn thể có triệu chứng lo âu dai dẳng, bao gồm: tăng cảnh giác và lo âu quá mức
qua ít nhất một giai đoạn 6 tháng. Những triệu chứng “lơ lửng” gây ra đau khổ có ý
nghĩa cho người bệnh nhưng không liên quan đến một người hay một tình huống cụ
thể. RNLA toàn thể có tỉ lệ 3 – 5% trong dân số và thường kèm với trầm cảm chủ
yếu. Khoảng 50% người bệnh khởi phát lo âu toàn thể ở thời thiếu nhi hoặc vị thành
niên. Những triệu chứng mạn tính và có xu hướng nặng hơn trong thời kỳ sang
chấn. Đòi hỏi điều trị thường không xác định dù một số người bệnh lo âu toàn thể
trở nên gần như mất triệu chứng trong một vài năm. [17]
Khi gặp phải những vấn đề gây lo sợ hoặc chỉ cần nghĩ về nó, nhịp tim của
người bị RNLA tăng lên, đập nhanh hơn bình thường, lồng ngực căng ra, có thể
kèm theo cảm giác đau ngực, tức ngực, nhịp thở bị rối loạn (như: thở gấp, thở ngắn,
khó thở, có cảm giác ngột ngạt…). Ngoài ra, cơ thể còn tiết ra nhiều mồ hôi, nhiệt
độ cơ thể tăng cao hoặc hạ thấp đột ngột gây ra hiện tượng choáng ngất hoặc gần
giống như vậy. Những triệu chứng này gây khó khăn cho việc sinh hoạt bình
thường, nhiều người lầm tưởng những triệu chứng đó là biểu hiện của các bệnh về
tim mạch.
Sự lo âu, sợ hãi cao độ thường xuyên gây ra những vấn đề về tiêu hóa, như: rối
loạn đường ruột, co thắt dạ dày, ăn không tiêu, buồn nôn…Người bệnh gặp khó
khăn về ăn uống, như: có cảm giác vướng họng, khó nuốt, khô miệng hoặc tăng tiết
nước bọt…Từ đó trở nên biếng ăn, suy giảm trọng lượng cơ thể dẫn đến hệ miễn
dịch suy yếu, dễ mắc các bệnh thông thường. Người bị RNLA đi tiểu nhiều lần
trong ngày hoặc tiểu tiện rất khó khăn, các triệu chứng tiêu chảy hoặc táo bón xuất
hiện nhiều hơn khiến cho cơ thể càng dễ bị suy nhược.
Thần kinh của người bị RNLA cực kỳ nhạy cảm, họ luôn cảm thấy đầu óc
căng cứng, bất cứ một tác động nhỏ nào đều làm họ khó chịu. chính vì vậy mà họ dễ
trở nên tức giận, cáu gắt, luôn cảnh giác với tất cả mọi thứ xung quanh.
Vận động của người bị RNLA thường chập chạp, chân tay thường hay run rẩy,
bủn rủn, nhức mỏi, các cơ căng cứng, đau nhức…
18
Giấc ngủ của người bị RNLA cũng bị rối loạn. Họ khó ngủ, ngủ ít, có thể nằm
trằn trọc hàng giờ mà vẫn không thể ngủ được; hoặc lại ngủ nhiều hơn mức bình
thường. Họ dễ gặp ác mộng, khó có thể ngủ ngon và dù đã ngủ nhiều thì khả năng
phục hồi sau giấc ngủ không nhiều, họ vẫn cảm thấy rất mệt mỏi.
Những biểu hiện về tâm lý
• Cảm xúc
Triệu chứng ưu thế là cảm giác lo lắng quá mức, sợ hãi một đối tượng hay một
hoàn cảnh đặc biệt nào đó; cũng có khi lo âu không vì một đối tượng hay một tình
huống nào cụ thể. Một số người bệnh lo sợ khi đối diện với người lạ, nói chuyện
trước công chúng, ăn uống trước mặt người khác, dùng hệ thống vệ sinh công
cộng…Số người bệnh khác lại rất sợ mình bị mất tự chủ, bị điên, sợ chết…Những
nỗi sợ rất vô lý nhưng họ không có cách nào tránh được.
Sợ hãi và lo lắng thường xuyên làm cho người bệnh cảm thấy mệt mỏi, sinh ra
những cảm xúc tiêu cực, như: dễ nổi giận, hay cáu gắt khó chịu, dễ bị kích động
hoặc cảm thấy hoang mang, tuyệt vọng. Bất cứ một động tác nhỏ nào từ người xung
quanh cũng làm cho họ trở nên bực bội, tức giận. Những cảm xúc âm tính đó nếu
tích tụ lâu dài thì người bị rối nhiễu lo âu sẽ không còn hứng thú với thế giới xung
quanh.
Người bị RNLA thường ở trong trạng thái thần kinh căng thẳng vì luôn sợ
điều xấu sẽ xảy đến hoặc sẽ gặp phải đối tượng mà họ cho là nguy hiểm. Khi nghĩ
đến mối nguy hiểm là có thực hay tưởng tượng, người bệnh có cảm giác rất khó
chịu, họ làm mọi cách để cảm giác này mất đi nhưng đều không được. Người bệnh
thấy khổ sở, đau đớn khi không thể loại bỏ những ý nghĩ vô lý trong đầu. Họ cảm
thấy bồn chồn, bất an dù có nguyên nhân cụ thể hay không vì luôn phải sống trong
cảm giác mối đe dọa ở khắp mọi nơi và có thể xuất hiện bất cứ lúc nào. Tình trạng
này kéo dài sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến ăn uống, sinh hoạt, làm việc của người
bệnh, đặc biệt làm cho họ không có trạng thái tinh thần khỏe mạnh.
19
• Nhận thức
Tri giác của người bị RNLA mất đi tính chính xác và xem xét mọi việc xung
quanh theo sự lo âu của mình. Ví dụ, khi nhìn bạn bè tụ tập nói chuyện với nhau thì
người bệnh sẽ lo lắng, nghĩ rằng bạn bè đang nói xấu mình.
Hiệu quả công việc của người bị RNLA không cao do khả năng tập trung giảm
đi rất nhiều. Họ không thể chú ý trong một thời gian dài vào bất cứ việc gì, việc cố
gắng tập trung dù rất nhỏ cũng làm cho họ cảm thấy cực kỳ mệt mỏi, kiệt sức. Suy
nghĩ của họ trở nên kém linh hoạt, chậm chạp, thường không xử lý tốt thông tin
được tiếp nhận.
Trí nhớ của người bị RNLA cũng giảm sút, tuy không nhiều nhưng gây ra sự
căng thẳng. Người bệnh cảm thấy khó khăn trong việc nhớ chính xác thông tin. Để
nỗ lực ghi nhớ một điều gì đó, họ phải tốn rất nhiều thời gian nhưng hiệu quả không
cao. Công việc, sinh hoạt hàng ngày bị ảnh hưởng do người bệnh thường xuyên nhớ
trước, quên sau, lẫn lộn mọi việc dù chỉ là những công việc đơn giản, lặt vặt.
Người bị RNLA đôi khi có những ý nghĩ rất vô lý, ngớ ngẩn, như: nghĩ rằng
mình sẽ phát điên hay tất cả mọi người đều ghét mình, tất cả mọi thứ đều cực kỳ dơ
bẩn, cảm giác mọi vật xung quanh không có thực…Những suy nghĩ này xuất hiện
khiến người bệnh cư xử kỳ lạ, có thể ảnh hưởng đến người khác.
• Hành vi
Người bị RNLA ở mức độ nặng thường tránh né tiếp xúc với những đối tượng
mà họ cho là gây ra sự sợ hãi cho họ. Người bệnh tránh đi đến những nơi đông
người, ít hoặc không tham gia các hoạt động xã hội vì sợ tiếp xúc với người lạ,
không đi đến những không gian kín, có người còn không tiếp xúc với động vật.
Hành vi tránh né đó khiến người bệnh dần dần hạn chế sự giao tiếp và các hoạt
động xã hội bình thường, dẫn đến giảm chất lượng cuộc sống và công việc.
Biểu hiện của RNLA về hành vi còn thể hiện rất đa dạng, có khi cáu kỉnh, có
khi như sắp khóc, có khi ấp úng không nói nên lời, chân tay căng cứng, bất
động…Người bị rối nhiễu lo âu luôn có sự bồn chồn, bất an dẫn đến đứng ngồi
không yên, không thể ngồi yên một chỗ, chân tay luôn cử động.
20
Người bị RNLA luôn có những ý nghĩ ám ảnh đeo bám buộc họ phải thực
hiện hành vi nhất định để xóa đi ý nghĩ đó, thường họ sẽ lặp đi lặp lại hành vi này
nhiều lần vì cảm giác an tâm thường không tồn tại lâu.
1.3.1.3. Nguyên nhân rối nhiễu lo âu
Xác định chính xác nguyên nhân gây ra RNLA không đơn giản vì nó không
hình thành chỉ do một nguyên nhân riêng biệt nào mà đó có thể là sự kết hợp của
nhiều nhân tố. Người nghiên cứu đi sâu vào các nhân tố quan trọng, gồm: nguyên
nhân về sinh học, về tâm lý, về văn hóa xã hội.
• Theo DSM – IV – TR, “Sổ tay chẩn đoán và thống kê các rối nhiễu tâm
thần” đưa ra các nguyên nhân của RNLA như sau: [20]
Nguyên nhân chính xác của RNLA không được biết rõ nhưng nó bao gồm
nhiều yếu tố khác nhau, chủ yếu liên quan tới các sang chấn tâm lý kết hợp với yếu
tố nhân cách có xu hướng lo âu.
Các RNLA nằm trong số các vấn đề sức khỏe tâm thần được điều trị thường
gặp nhất. Cả hai yếu tố tâm lý xã hội và sinh học có liên quan đến căn nguyên của
chúng. Các yếu tố tâm lý xã hội bao gồm: kém thích nghi dẫn tới sợ một thứ hoặc
tình huống vô hại và tiếp xúc với yếu tố sang chấn mạnh. Các yếu tố sinh học bao
gồm: di truyền và giới tính. Các RNLA thường thấy trong các thành viên trong gia
đình của người bệnh nhiều hơn trong dân số chung và tỉ lệ hòa hợp của chúng cao
hơn trong số sinh đôi đơn hợp tử so với dị hợp tử. Những liên quan đến sinh lý thần
kinh. Hoạt động dẫn truyền thần kinh bị thay đổi đi kèm với những triệu chứng lo
âu, đặc biệt là giảm hoạt động serôtnin và gamma – aminobutyric acid (GABA),
giảm gắn kết thụ thể GABA – benzodiazepine và tăng hoạt động của
norepinephrine. Về giải phẫu thần kinh, nhân xanh là vị trí của các tế bào thần kinh
noradrenergic, nhân bèo là vị trí của các tế bào thần kinh serotonergic, vỏ não thái
dương, vỏ não trán và nhân đuôi (đặc biệt trong AABB) được coi là liên quan đến
sự phát triển của các rối loạn lo âu.
Các nguyên nhân thực thể của những triệu chứng lo âu bao gồm: uống cà phê
quá nhiều, lạm dụng và cai chất, cường giáp, thiếu vitamin B12, giảm hoặc tăng
21
đường máu, thiếu máu và u tủy thượng thận (u nằm ở tủy thượng thận tiết
epinephrine). Những triệu chứng lo âu (khó thở, tức ngực, nhịp tim nhanh, đổ mồ
hôi) cũng xuất hiện trong các rối loạn tim mạch như loạn nhịp tim và các rối loạn hô
hấp như bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính. Tuy nhiên, rối loạn tim mạch và rối loạn hô
hấp phải được loại trừ.
Lo âu được nhận thấy ở nhiều người bệnh trầm cảm, những người bệnh có
RNLA thường kèm với rối loạn trầm cảm và rối loạn khí sắc, trong đó rối loạn trầm
cảm là chủ yếu. Vì vậy, có thể khó phân biệt RNLA và trầm cảm. Mối liên quan
sinh học gần gũi giữa các nhóm rối loạn này được củng cố bởi các nghiên cứu cho
thấy các bất thường thần kinh nội tiết và các thay đổi điện não đồ trong giấc ngủ
giống nhau ở những người bệnh AABB và rối loạn trầm cảm chủ yếu.
Các RNLA phải được phân biệt với các giai đoạn tiền triệu và loạn thần của
tâm thần phân liệt khi mà lo âu thường nổi bật và lo âu nghi bệnh, trong đó có đau
khổ quan trọng mà không phát hiện có bệnh thực thể nặng.
• Theo một số tác giả nghiên cứu về tâm lý như: Robert Feldman, Dr Savitri
Ramaiah, Rosen, Fox and Gregory thì RNTL có những nguyên nhân sau:
Nguyên nhân sinh học
Con người là một thực thể sinh học nên yếu tố sinh học vô cùng quan trọng,
liên quan trực tiếp đến vấn đề sức khỏe, tinh thần của con người. Những vấn đề cơ
bản thuộc yếu tố sinh học được xem là nguyên nhân gây ra RNLA của một người
bao gồm: di truyền, chất dẫn truyền thần kinh, cấu trúc và hoạt động của não, thể
chất.
Di truyền
Các lý thuyết sinh học đã chứng minh rằng nhân tố di truyền đóng vai trò quan
trọng trong các RNLA. Nhiều nghiên cứu được thực hiện để kiểm chứng sự liên
quan giữa di truyền và chứng RNLA. Nghiên cứu của Gregory năm 1959 về sức
khỏe tâm thần của của các gia đình trong 142 bệnh nhân tâm thần nội trú ở một số
bệnh viện, độ tuổi trung bình là 35, cho thấy nếu trong gia đình có một thành viên
có hành vi bất thường thì những thành viên khác cũng sẽ bị ảnh hưởng và từ đó xuất
22
hiện một hay kết hợp nhiều dạng của chứng rối nhiễu lo âu [27, tr.162]. Thành viên
có thể là cha mẹ, anh chị em hoặc cả những người thân thuộc trong họ hàng người
bệnh. Những bậc cha mẹ có ý nghĩ ám ảnh thì những đứa con vô tình hay cố ý “lây
nhiễm” những ý nghĩ đó từ cha mẹ và tương tự với các dạng rối nhiễu lo âu khác.
Một người trong cặp song sinh đơn tử bị rối loạn hoảng sợ thì người kia có đến 30%
nguy cơ sẽ bị bệnh tương tự [23, tr.548]. Một đứa trẻ dễ bị rối nhiễu lo âu nếu tỉ lệ
người thân qua nhiều thế hệ bị rối nhiễu lo âu. Như vây, có thể thấy nhân tố di
truyền ảnh hưởng không nhỏ đến sức khỏe tâm thần của một cá nhân. Tuy nhiên,
đây chưa phải là nguyên nhân quyết định gây ra rối nhiễu lo âu ở một cá nhân mà
còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác.
Cấu trúc và hoạt động của não
Những nghiên cứu chức năng thần kinh qua hình ảnh cho thấy rằng vùng trán
và vùng chẩm của não có liên hệ với việc đáp ứng lo lắng. Người bệnh rối loạn
hoảng sợ có sự đáp ứng không bình thường của vùng thái dương và vùng vỏ trước
thùy trán. Một số công trình nghiên cứu chứng minh những dị thường tại các vị trí
bên trong thân não có thể gắn với những cơn kịch phát lo âu. Hiện nay, người ta
cũng đang nghiên cứu xem xét những dị thường như vậy ảnh hưởng như thế nào
đến các triệu chứng rối loạn ám ảnh – cưỡng chế. Bệnh nhân rối nhiễu lo âu tổng
quát còn có sự tăng bất thường trong hoạt động của vùng vỏ não và giảm hoạt động
trong vùng hạch cơ bản. Ở bệnh nhân ám ảnh sợ xã hội, hạch hạnh nhân, vùng đồi
hải mã và nhiều phần trong vùng vỏ có sự bất thường. Kích thước vùng đồi hải mã
nhỏ hơn bình thường có thể là nguyên nhân dẫn đến việc phát triển rối loạn căng
thẳng hậu chấn thương. [22]
Hoạt động chức năng của não bị xáo trộn và bất thường có thể dẫn đến những
rối loạn về tâm lý, làm giảm khả năng điều khiển cảm xúc một cách bình thường
của con người.
Thể chất
Trí óc và cơ thể có mối quan hệ tương hỗ với nhau vì thế, bất cứ sự thay đổi
bất thường nào trong mối tương tác này đều có thể gây ra lo âu. Điều này thường
23
gặp ở những trường hợp, như: phụ nữ mang thai, lứa tuổi vị thành niên ở giai đoạn
dậy thì, thời kỳ bình phục bệnh. Ở những trường hợp đó, sức khỏe của cá nhân
không đạt mức tốt nhất, các cơ quan chức năng trong cơ thể hoạt động không nhịp
nhàng dẫn đến tâm lý cá nhân trở nên bất ổn, dễ roi vào trạng thái lo âu. [19]
Nguyên nhân tâm lý
Yếu tố tâm lý là một trong những nguyên nhân quan trọng đẩy con người đến
tình trạng lo âu. Có thể kể đến trong yếu tố này những nguyên nhân, như: sự nhận
thức sai lệch của cá nhân trước các tình huống, áp lực cuộc sống và những sang
chấn tâm lý, sự xung đột nội tâm.
Áp lực cuộc sống và những sang chấn tâm lý
Nhiều vấn đề căng thẳng trong cuộc sống, như: áp lực học hành, công việc quá
tải, thất bại trong chuyện tình cảm…nếu không được giải quyết hợp lý và kịp thời
thì sẽ trở thành gánh nặng về tinh thần, làm cho con người mệt mỏi, phiền muộn.
Tình trạng này kéo dài, tất yếu sẽ xảy ra rối nhiễu tâm lý. Những trạng thái cảm xúc
đó dễ xảy ra hơn đối với cá nhân thiếu hụt kỹ năng xã hội cần thiết, nhất là lứa tuổi
vị thành niên. Vì ở độ tuổi này, tâm lý các em chưa thật sự vững vàng, hoàn thiện,
bên cạnh đó còn có thêm những thay đổi đột ngột về sinh lý.
Ngoài những áp lực cuộc sống, những sang chấn tâm lý cũng khiến cá nhân bị
tổn thương tâm lý. Sau khi trải qua hoặc chứng kiến một biến cố, người ta có khả
năng bị mắc chứng rối loạn sang chấn sau chấn thương. Bị lạm dụng tình dục, bạo
hành gia đình, người thân mất, sống sót sau thảm họa hay chiến tranh…cũng gây ra
những tổn thương tinh thần và nếu không vượt qua nổi có thể dẫn đến rối loạn tâm
thần. [22]
Sự xung đột nội tâm
Những triệu chứng của rối nhiễu lo âu thực chất là những cố gắng nhằm bảo
vệ con người khỏi lo lắng, sợ hãi. Rối loạn hoảng sợ và các ám ảnh sợ là kết quả
của những xung đột vô thức bật lên thành ý thức. Những xung đột vô thức này có
thể xem như có nguồn gốc từ thời thơ ấu. Trong quá khứ chủ thể từng có kinh
nghiệm khó chịu, sợ hãi một đối tượng, một tình huống cụ thể nào đó thì những
24
kinh nghiệm này sẽ chuyển vào vô thức, những xung đột mang tính bản năng này sẽ
định hướng cho suy nghĩ và hành động của cá nhân ở bề mặt ý thức. Ví dụ, thuở
nhỏ đứa trẻ bị nhện cắn và chịu những tổn thương nặng nề thì lớn lên sẽ có tâm lý
sợ nhện và luôn tìm cách tránh né nỗi sợ đó. Trong các rối nhiễu ám ảnh – cưỡng
chế, kiểu ám ảnh là một nỗ lực đẩy lùi lo sợ do một xung đột có liên hệ nhưng đầy
sợ hãi gây ra. Bằng cách thay thế một ám ảnh chiếm đoạt một cách tượng trưng
xung năng bị cấm đoán, con người sẽ được giải tỏa phần nào. Hành vi cưỡng chế là
một nhiệm vụ mang tính nghi thức cũng cho phép con người tránh được điều có thể
tạo ra xung đột vô thức. [27]
Nguyên nhân văn hóa – xã hội
Tỉ lệ mắc RNLA và các dạng thường gặp của rối loạn này được xem xét thấy
có sự khác biệt giữa các nền văn hóa khác nhau, các tầng lớp xã hội và giữa các thời
đại. Nhà nghiên cứu W.H.Auden đã nhận xét thời đại ngày nay có thể gọi là “kỷ
nguyên của lo âu” vì lo âu và những rối loạn tâm thần đang ngày càng tăng cao. Sự
biến đổi nhanh chóng trong mọi mặt của đời sống xã hội; sự đối mặt với cuộc sống
mưu sinh đầy khắc nghiệt trước sự thay đổi các nấc thang giá trị về đạo lý, cương
thường; cũng như những quy luật khắt khe của cơ chế thị trường đã hình thành
nhiều tình huống stress, gây ra những xung đột và lo âu mới cho cá nhân và xã hội ở
những mức độ khác nhau. Những nước càng phát triển thì tỉ lệ mắc các rối nhiễu
này càng nhiều. Nghiên cứu của Hollingshead và Redlich (1958) nhấn mạnh: các
cơn hoảng loạn hầu như không xuất hiện ở những tầng lớp thượng lưu mà tồn tại ở
những tầng lớp thấp và cùng quẫn nhất trong xã hội; ngược lại, rối loạn ám ảnh –
cưỡng chế thường lại xuất hiện ở những tầng lớp thượng lưu nhiều hơn.
1.3.2. Căng thẳng nghề nghiệp
1.3.2.1. Khái niệm căng thẳng nghề nghiệp
Năm 1999, Viện An toàn và sức khỏe nghề nghiệp của Mỹ đã đưa ra khái
niệm: "Căng thẳng nghề nghiệp là phản ứng có hại về thể chất và cảm xúc xảy ra
khi yêu cầu của công việc không tương thích với khả năng, nguồn lực, hay nhu cầu
25
của người lao động. CTNN có thể dẫn đến sức khỏe kém và thậm chí là gây ra bệnh
tật". [28]
Hội đồng Châu Âu, quản lý việc làm và các vấn đề xã hội cho rằng: "Căng
thẳng nghề nghiệp là sự phản ứng của cảm xúc, nhận thức, cư xử, sinh lý đối với
các khía cạnh bất lợi, độc hại của công việc, môi trường làm việc và cơ quan tổ
chức. Đó là tình trạng đặc thù bởi mức độ cao của sự phấn chấn, bệnh tật và cảm
giác không thể đối đầu". [16]
Các khái niệm trên đã làm sáng tỏ được những ảnh hưởng tiêu cực, những
nguyên nhân dẫn đến căng thẳng trong công việc. Mỗi người đều phải lao động để
tồn tại, để khẳng định giá trị bản thân mình. Trước áp lực của công việc, không ít
người cảm thấy hứng thú, được kích thích để hành động. Và do đó, CTNN không
chỉ là hoàn toàn có hại về thể chất và cảm xúc.
Cũng như định nghĩa về stress, định nghĩa về CTNN dưới góc độ tâm lý bao
gồm các tiêu chí sau: [9]
- Chỉ ra được bản chất là: sự căng thẳng về tâm lý (stressor).
- Tác nhân là: điều kiện lao động.
- Yếu tố cá nhân.
- Ảnh hưởng của căng thẳng nghề nghiệp.
Như vậy, dựa vào những nghiên cứu trên, chúng tôi quan niệm rằng : "CTNN
là trạng thái căng thẳng về tâm lý được tạo ra bởi sự tương tác giữa các điều kiện
lao động với nhân cách của con người khiến các chức năng bình thường về sinh
lý, tâm lý bị thay đổi".
1.3.2.2. Biểu hiện căng thẳng nghề nghiệp
Tác giả L. Levi với bài viết "Stress nghề nghiệp" được đăng trên Tạp chí Nhà
Tâm lý học Hoa Kỳ [21] đã kết luận: căng thẳng nghề nghiệp biểu hiện ở hai mặt
tâm lý và sinh lý. Mặt tâm lý có 12 biểu hiện cơ bản là:
Lo hãi, căng thẳng, dễ phát cáu, lú lẫn. 1.
Cảm giác hụt hẫng, tức giận và oán giận. 2.
Quá nhạy cảm cảm xúc và hiếu động 3.
26
Nén lại các cảm nghĩ. 4.
Giảm hiệu quả trong giao tiếp. 5.
Co mình lại và trầm cảm. 6.
Cảm giác bị xa lánh, ghét bỏ. 7.
Buồn chán và không toại nguyện trong nghề nghiệp. 8.
Mệt mỏi tinh thần và trí lực giảm sút. 9.
Mất tập trung. 10.
Mất tính tự phát và sáng tạo. 11.
Giảm lòng tự trọng. 12.
Trong đó, tác giả nhấn mạnh: lo lắng, căng thẳng, tức giận và oán hận là các
triệu chứng thường được nhắc tới nhiều hơn. Một số người thấy sức ép nghề nghiệp
quá lớn sinh ra tâm lý xa cách và dần trở nên trầm nhược. Tình trạng này có thể xảy
ra sau khi người lao động cố gắng nhưng thất bại không vượt qua được tình huống
stress. Nếu hiện tượng này thường diễn ra thì hậu quả có thể người lao động cảm
thấy không tự lực được dẫn đến không muốn thay đổi gì cả mặc dù vẫn có khả năng
làm. Mặt khác, một số người có thể chẳng bao giờ cố gắng cả bởi vì họ đã mang
nặng ý nghĩ không thể tự lực trong hoạt động nghề nghiệp rồi.
Mặt sinh lý, L. Levi lệt kê có 13 biểu hiện thực thể như sau:
Tăng nhịp và huyết áp. 1.
Tiết chất Adrenaline và Norardrenaline. 2.
Bệnh đường tiêu hóa như loét. 3.
Các chấn thương thân thể. 4.
Sự mệt mỏi thể xác. 5.
Cái chết, bệnh tim mạch. 6.
Các chứng bệnh hô hấp. 7.
Vã mồ hôi. 8.
Các chứng bệnh ngoài da. 9.
Các chứng nhức đầu. 10.
Ung thư. 11.
27
Sự căng thẳng cơ bắp. 12.
Các rối loạn giấc ngủ. 13.
Cùng chung với quan điểm của L.Levi, bác sĩ Lê Quốc Nam khi tư vấn về sức
khỏe nghề nghiệp cũng nhấn mạnh: Triệu chứng sớm của stress do công việc
thường là nhức đầu, rối loạn giấc ngủ, khó tập trung, dễ cáu kỉnh, khó chịu ở dạ
dày, không hài lòng về công việc, xuống tinh thần. Stress dễ gây ra lo âu, mất tập
trung chú ý, mất tự tin, mất động cơ làm việc, cảm giác thất vọng, dễ bị kích thích,
dễ giận dữ, lạm dụng rượu hay chất gây nghiện, trầm cảm, tự tử. Về thực thể, những
steess tâm lý kéo dài làm tăng nguy cơ mắc các bệnh tim mạch. Sự tích luỹ stress
nghề nghiệp cũng có thể dẫn đến các rối loạn cơ - xương vùng thắt lưng và chi trên.
Nếu stress tại nơi làm việc không được giải quyết, dễ dẫn đến tình trạng kiệt sức
liên tục về mặt thể chất và tâm thần, xuất hiện những cảm xúc tiêu cực như tự đánh
giá thấp bản thân, cảm giác không ai có thể giúp mình được và tuyệt vọng. Những
triệu chứng này sẽ dẫn đến các rối loạn mãn tính về sức khỏe, suy giảm trầm trọng
khả năng tham gia cuộc sống hằng ngày. Những người bị stress trong công việc
cũng thường để stress tác động tới đời sống gia đình do họ dễ bị kích thích, dễ giận,
mất kiên nhẫn, buồn, kiệt sức, mất thích thú, quá mệt mỏi, giảm tình dục, ảnh
hưởng đến sự chăm sóc con cái và đến quan hệ với các thành viên khác trong gia
đình. [11]
Như vậy, người lao động khi bị CTNN sẽ xuất hiện những phản ứng sinh lý và
cảm xúc âm tính. CTNN được xem như thách thức mang tính toàn cầu đối với sức
khoẻ của người lao động. Theo định nghĩa về sức khoẻ của WHO, những người bị
CTNN cũng được xem như không khỏe mạnh, không có động cơ, làm việc không
hiệu quả và có nguy cơ bị tai nạn cao.
1.3.2.3. Nguyên nhân căng thẳng nghề nghiệp
Có rất nhiều nguyên nhân gây ra CTNN cho người lao động, như:
Do các mối quan hệ trong công việc
Quan hệ với quản lý
28
Mối quan hệ giữa người chủ và nhân viên không thân thiện, cởi mở với nhau
là một trong nhiều nguyên nhân dẫn đến sự căng thẳng. Tình trạng không có đối
thoại, người lao động thụ động, không được góp ý trong việc xếp đặt công việc
hoặc không được sự hỗ trợ từ cấp trên để hoàn thành công việc đã gây nên sự phản
cảm, bất bình nơi họ. Người lao động cũng rất nhạy cảm khi nhận thấy quản lý có
vẻ chán làm việc hay quản lý không có khả năng trong khi mình cứ phải tuân theo
mệnh lệnh của họ.
Quan hệ với đồng nghiệp
Những mối quan hệ của cá nhân trong việc làm là rất quan trọng cho sự toại
nguyện với nghề nghiệp. Sự nâng đỡ, hợp tác từ phía đồng nghiệp có tác dụng giảm
nhẹ căng thẳng. Ngược lại, đồng nghiệp hỗ trợ ít, không thân thiện...làm xuất hiện
hoặc gia tăng mức độ stress.
Do áp lực công việc
Quá tải lao động
Quá tải lao động thường được xem xét về hai mặt lượng và chất. Quá tải về
lượng phát sinh khi các đòi hỏi về khối lượng công việc rất nhiều mà phải làm trong
một thời gian ngắn. Trước tình đó, chủ thể buộc phải kéo dài thời gian làm việc, ít
nghỉ giải lao. Quá tải về chất khi yêu cầu của công việc phức tạp, khó khăn, đòi hỏi
nhiều trách nhiệm, vượt quá khả năng của người lao động. Công việc thay đổi quá
nhanh, nhân viên không đáp ứng kịp thời. Đây chính là một dạng của áp lực công
việc đòi hỏi người lao động phải tích cực, năng động để đáp ứng được sự biến đổi
đó. Nếu chủ thể không thích nghi được sẽ nảy sinh cảm giác lo sợ bị nhìn nhận yếu
kém, không đáp ứng được yêu cầu của công việc. [24]
Dưới tải lao động
Căng thẳng còn phát sinh khi lượng công việc quá ít, công việc quá đơn giản.
Có thể ban đầu người lao động thấy thoải mái, dễ chịu, không bị áp lực công việc đè
nặng. Nhưng nếu tình trạng này kéo dài, chủ thể sẽ có tâm lý buồn chán. Mỗi người
đều có nhu cầu được khẳng định bản thân mình qua các hoạt động nên khi nhu cầu
không được thỏa mãn, các xúc cảm âm tính tích tụ gây nên stress.
29
Người lao động làm công việc đơn điệu, lặp lại gây nhàm chán cũng thể hiện
sự dưới tải lao động. Việc làm không mang ý nghĩa thử thách, có tính đổi mới sẽ
không còn làm cho người lao động thấy hứng thú và chú ý chuyên tâm vào công
việc nữa. Đáp ứng tâm sinh lý của người lao động với những nghề buồn tẻ thường
là: chán nản, buồn nôn, yếu các cơ bắp, nhức đầu và nhìn mờ nhưng không tồn tại
bất cứ một cơ sở thực tổn nào.
Làm ca kíp đòi hỏi người lao động phải luân phiên quay vòng giờ làm việc.
Điều này có thể gây xáo trộn trong giấc ngủ, các nhịp sinh lý thần kinh. Con người
có thể mất đồng bộ về hoạt động tâm trí và thể lực. [24], [28]
Do môi trường làm việc không thuận lợi
Bao gồm các tác nhân, như: chỗ làm việc chật hẹp, đông người, ồn ào, không
đủ ánh sáng, nhiệt độ quá nóng hoặc quá lạnh; không khí ô nhiễm...Người lao động
cũng cảm thấy căng thẳng khi có hóa chất hoặc vật thể rủi ro trong cơ sở, thiếu an
toàn lao động, đối mặt với đe dọa, chấn thương.
Do các yếu tố chủ quan
Các vấn đề khó khăn cá nhân cũng ảnh hưởng đến khả năng làm việc của
người lao động, ví dụ như những tác nhân từ gia đình. Gia đình là tổ ấm, một chốn
riêng tư và yên tĩnh giúp tái tạo và tập hợp lại những sức mạnh bên trong để đáp
ứng những đòi hỏi bên ngoài. Tuy nhiên khi sức ép xâm chiếm nơi ẩn náu này, gia
đình lục đục, bất hòa thì nó có thể khuếch đại các hậu quả của stress nghề nghiệp.
Hoặc khi cá nhân phải có trách nhiệm với quá nhiều người, tình trạng sức khỏe
không tốt, nhiều thói hư tật xấu, như: nghiện rượu, thuốc lá, đam mê bài bạc dễ có
phản ứng stress. Khả năng ứng phó có được từ kiến thức và kinh nghiệm với công
việc, nhân cách người lao động có tác dụng điều tiết stress nghề nghiệp.
1.3.3. Rối nhiễu nhân cách
1.3.3.1. Khái niệm rối nhiễu nhân cách
Rối nhiễu nhân cách là một trong các nhóm của rối nhiễu tâm lý theo sự phân
loại của WHO. Có rất nhiều ý kiến khác nhau của các tác giả hay các nhóm tổ chức
trong và ngoài nước về RNNC. Sau đây là một số ý kiến thường gặp:
30
Rối nhiễu nhân cách (Personality disorders) theo J.Reich và Kaplan là: “Một
tập hợp các trạng thái để biệt định các đối tượng có cách sống, cách cư xử và cách
phản ứng hoàn toàn khác biệt với người thường nhưng lại không đủ các triệu chứng
của một bệnh lý tâm thần đặc trưng”. Hai tác giả cũng đưa ra các con số là từ 6% tới
11,1% dân số có vấn đề về rối nhiễu nhân cách. [17]
Theo Giáo sư Đặng Phương Kiệt: “RNNC là một kiểu tri giác, tư duy hoặc
ứng xử kém thích nghi, cứng nhắc, tồn tại lâu dài (mãn tính). Những kiểu rối nhiễu
này có thể làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến năng lực một cá nhân vận hành trong
những môi trường xã hội hoặc lao động và có thể gây ra nỗi khổ tâm đáng kể.
Những rối nhiễu này thường có thể được nhận biết vào lúc con người đạt tới tuổi
thanh niên”. [9]
Tuy quan niệm về RNNC mà mỗi tác giả đưa ra là khác nhau nhưng đều nhấn
mạnh: “RNNC là những hành vi, ứng xử khác thường song chưa phải là bệnh
tâm thần đặc trưng”, đây cũng là khái niệm của đề tài về RNNC. Khái niệm về
RNNC là một khái niệm tiến triển và thay đổi theo sự phát triển của ngành tâm
thần.
1.3.2.2. Biểu hiện rối nhiễu nhân cách
Người bị RNNC thường có những biểu hiện như sau:
Người bị RNNC có thái độ và hành vi là nguyên nhân gây ra những vấn đề lớn
cho chính bản thân họ và người khác. Ví dụ như: cách họ nhìn cuộc sống, cách họ
nghĩ, quan hệ với người khác, cách làm việc.
Người bị RNNC có thể không có tính mềm dẻo trong cư xử.
Hầu hết những người RNNC không nguy hiểm, nhưng họ có nhiều nhu cầu và
dễ bị tổn thương.
Hiện nay cả 2 cách phân loại bệnh tật quốc tế như DSM và ICD đều có
khuynh hướng tách RNNC ra khỏi các lý thuyết bệnh lý và đặt trọng tâm trên
các biểu hiện lâm sàng. DSM và ICD đã nêu lên những biểu hiện lâm sàng của
RNNC như sau: [4]
31
Bảng 1.1. Biểu hiện RNNC theo DSM
DSM ICD
Tiêu chuẩn chẩn đoán của DSM hướng Tiêu chuẩn chẩn đoán
đến hành vi hoặc đặc điểm tính cách kéo dài của ICD bao gồm đa dạng các điều
từ thời ấu thơ đến thời điểm hiện tại. RNNC kiện hướng đến các đặc điểm tính
được mô tả như là tập hợp các hành vi là cách lâu dài của trạng thái nhận
nguyên nhân gây ra sự suy giảm lớn về chức thức, đồng thời hành vi có sự khác
biệt rõ ràng với sự chấp nhận và năng xã hội, nghề nghiệp hoặc gây ra cảm
mong chờ của xã hội. giác đau buồn chủ quan.
Rối nhiễu nhân cách là một dạng bất Rối nhiễu nhân cách bao gồm
biến của quá trình sống và cư xử đi lệch ra các dạng hành vi bền vững và ăn
ngoài nền văn hóa tương quan với người đó, sâu bộc lộ qua sự đáp ứng cứng
có tính chi phối và cứng nhắc, thường xuất nhắc trong các hoàn cảnh cá nhân
hiện vào đầu tuổi thiếu niên hoặc đầu tuổi và xã hội khác nhau.
trưởng thành, hằng định với thời gian và là
nguồn gốc gây đau khổ hoặc sút giảm chức
năng.
Theo hệ thống DSM, có 3 nhóm rối nhiễu nhân cách:
Nhóm A: Kỳ quái/lập dị
- RNNC hoang tưởng.
- RNNC phân liệt.
- RNNC dạng phân liệt.
Nhóm B: Kịch tính/nhiều cảm xúc/bất định
- RNNC chống đối xã hội: Có biểu hiện chủ yếu bằng sự khó hoặc không thích
ứng thường xuyên với các quy tắc đạo đức xã hội và pháp luật, không quá ngạc
nhiên khi các nghiên cứu chỉ ra rằng căn bệnh này có tỷ lệ cao ở tù nhân (những
32
người thường có hành vi bạo lực), tương tự như vậy người lạm dụng rượu và các
chất gây nghiện cũng được ghi nhận là có khả năng mắc cao hơn cộng đồng.
- RNNC cảm xúc không ổn định.
- RNNC kịch tính.
- RNNC ái kỷ: Có biểu hiện qua ảo tưởng và hành vi tự cao tự đại, khát vọng
được người khác ngưỡng mộ, tham vọng thành công chói sáng trong mọi lĩnh vực
và thiếu sự đồng cảm với người khác.
Nhóm C: Lo âu
- RNNC tránh né: Có đặc điểm chung là sự ức chế về mặt xã hội, tự đánh giá
thấp bản thân và rất nhạy cảm đối với phán xét không thuận lợi của người khác đối
với mình. Đối với một số tác giả căn bệnh này là một kiểu ám ảnh sợ xã hội lan tỏa.
Người bệnh nghèo nàn trong các mối quan hệ, họ thường chỉ có vài người bạn, ít
tham gia vào các hoạt động chung.
- RNNC phụ thuộc.
- RNNC ám ảnh, cưỡng chế: Có đặc tính là sự quan tâm quá mức tới những
chi tiết, quy tắc, sắp xếp trật tự và hoàn hảo. Mặt khác lại rất sợ phạm sai lầm,
nghiền ngẫm và lý luận suông, hệ quả là không dám làm và hay lưỡng lự. Về cảm
xúc thường đè nén, trở ngại trong giao tiếp, thiếu khôi hài, cởi mở và khi thương
lượng với người khác thường cứng nhắc.
1.3.3.3. Nguyên nhân của rối nhiễu nhân cách
Nguyên nhân của bệnh đến nay chưa được biết cặn kẽ, như nhiều rối loạn tinh
thần khác nó là sự phối hợp giữa0T 0Tgien, môi trường xã hội và các yếu tố tâm lý.
Nguyên nhân sinh học
Do tổn thương hệ thần kinh trung ương làm rối loạn hoạt động tiết ra nội tiết
tố của tuyến yên khiến cơ thể bị thiếu hụt một số chất ảnh hưởng đến quá trình nhận
thức, tư duy và hành động của con người.
Do những khiếm khuyết trên cơ thể khiến con người luôn thấy mặc cảm, tránh
né mọi người từ đó có những suy nghĩ, cư xử khác thường.
33
Do di truyền: Tính cách có khả năng truyền một phần từ cha mẹ sang thế hệ
sau được cho là có liên quan.
Các nhà khoa học theo thuyết đa nhân cách cho rằng: con người ngay từ khi
sinh ra đã mang trong mình nhiều “mầm nhân cách” khác nhau, giống như mang
nhiều hạt giống. Hạt giống nào phù hợp với cơ thể, điều kiện sống và giáo dục thì sẽ
phát triển trở thành nhân cách của người đó. Khi ấy, họ “bỏ quên” các nhân cách
kém hoặc không phát triển khác. Tuy có quá trình “chọn lọc tự nhiên” như vậy
nhưng những mầm nhân cách kia không bị mất đi hoàn toàn mà ẩn núp ở đâu đó
trong tiềm thức. Dưới tác động của một tác nhân nào đó, các nhân cách còn lại kia
sẽ trỗi dậy, kiểm soát và đưa người ta vào chứng RNNC. [4]
Nguyên nhân tâm lý
Con người khi bị chỉ trích hay không được chấp nhận bởi cha mẹ hoặc cộng
đồng xung quanh sẽ có những cảm xúc đau đớn lặp đi lặp lại. Hiện tượng này tạo
ra cơ chế phòng thủ, một cách đơn giản họ nghĩ rằng cách tốt nhất để giảm thiểu
đau đớn đó là tránh né các mối quan hệ có nguy cơ0T 0T.
Những trải nghiệm lo âu trong quá khứ vào thời thơ ấu và thanh niên có thể
tạo ra cho con người nhu cầu muốn tránh né và cảm giác sợ hãi các mối quan hệ
mới.
Tìm hiểu quá khứ của người bị RNNC cho thấy có người bị lạm dụng cảm
xúc, lạm dụng tình dục. [4]
1.4. Rối nhiễu tâm lý của điều dưỡng viên
1.4.1. Nghề điều dưỡng
1.4.1.1. Khái niệm nghề điều dưỡng
Florent Nightingale (1860) – người đầu tiên trên Thế giới sáng lập ra ngành
điều dưỡng đã đưa ra khái niệm: “Điều dưỡng là một nghệ thuật sử dụng môi
trường của người bệnh để hỗ trợ sự hồi phục của họ”. Khái niệm của Florent
Nightingale phản ánh mối quan tâm của thời đại mà bà đang sống. Bà đặt vai trò
trọng tâm của người điều dưỡng là giải quyết các yếu tố môi trường xung quanh nơi
người bệnh để họ được hồi phục một cách tự nhiên. [1]
34
Năm 1960 Yrirginia Handerson lại cho rằng: "Chức năng duy nhất của người
điều dưỡng là hỗ trợ các hoạt động nâng cao hoặc hồi phục sức khỏe của người
bệnh hoặc người khỏe, hoặc cho cái chết được thanh thản mà mỗi cá thể có thể tự
thực hiện nếu họ có sức khỏe, ý chí và kiến thức. Giúp đỡ các cá thể sao cho họ đạt
được sự độc lập càng sớm càng tốt". Khái niệm này đã được hội đồng điều dưỡng
Quốc tế chấp nhận vào năm 1973 và đa số các nhà nghiên cứu về nghề điều dưỡng
cũng đã có sự thống nhất. Theo Handerson chức năng nghề nghiệp của người điều
dưỡng là chăm sóc và hỗ trợ người bệnh thực hiện các hoạt động hàng ngày. [1]
Khái niệm của Hội điều dưỡng Mỹ vào năm 1965: “Điều dưỡng là một nghề
hỗ trợ cung cấp các dịch vụ chăm sóc đóng góp vào việc hồi phục nâng cao sức
khỏe”. Năm 1980, khái niệm trên đã được sửa đổi để phản ánh rõ bản chất nghề
nghiệp, các khía cạnh luật pháp về phạm vi thực hành của người điều dưỡng và thể
hiện xu hướng của ngành điều dưỡng trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe. Khái niêm
được sửa đổi thành: “Điều dưỡng là chẩn đoán và điều trị những phản ứng của con
người đối với bệnh hiện tại hoặc bệnh có tiềm năng xảy ra”. Tuy nhiên cũng có ỷ
kiến cho rằng khái niệm đã thiên về kỹ thuật và giảm đi thiên chức chăm sóc sức
khỏe của nghề. [2]
1.4.1.2. Đặc điểm của nghề điều dưỡng
Nghề điều dưỡng là nghề chăm sóc sức khỏe cho con người nên vừa có những
đặc điểm chung của nghề thầy thuốc vừa có những đặc điểm riêng.
Một số đặc điểm chung như sau:[2]
- Nghề có đối tượng hoạt động đa dạng và phức tạp.
- Nghề thầy thuốc là nghề cao quý thuộc nhóm những ngành nghề hoạt động
giữa con người với con người – chủ thể và đối tượng đều là những con người. Đối
tượng con người ở đây xét về cấp độ sinh học vừa có những nét đặc trưng của loài,
vừa có những đặc điểm riêng không lặp lại ở từng cá thể. Xét về cấp độ tâm lý – xã
hội, mỗi con người đều là một nhân cách, vừa có những đặc điểm tâm lý – xã hội
chung của một nhóm (của một giai cấp, một dân tộc…), mang những dấu ấn văn
hóa, lịch sử của một quốc gia…, lại vừa có những nét riêng của chính con người đó.
35
- Trong hoạt động nghề y, con người vừa là khách thể chịu sự tác động của các
yếu tố tự nhiên và xã hội, vừa là chủ thể của các tác động lên người khác.
- Có thể nói, nghề y là một nghề đặc biệt vì có đối tượng hoạt động là người
bệnh. Đây chính là điểm khác biệt về cơ bản của nghề y so với những ngành nghề
khác. Ở người bệnh, các quá trình sinh học của cơ thể, hoặc là từng bộ phận, hoặc là
toàn bộ diễn ra không bình thường bị chi phối bởi những tác nhân gây bệnh khác
nhau. Song, vì con người là một cấu trúc hệ thống thống nhất (cả về mặt sinh học,
cả về mặt tâm lý xã hội), nên các tác nhân gây bệnh không chỉ tạo ra những bất bình
thường cho quá trình sinh học mà còn làm ảnh hưởng đến cả quá trình tâm lý. Và
ngược lại, những tác nhân gây biến đổi tâm lý lại kéo theo những biến đổi sinh học
trên người bệnh.
- Một điều thật rõ ràng, đối tượng hoạt động của nghề thầy thuốc là người
bệnh chứ không phải đơn thuần là bệnh tật. Đó là những con người với một thế giới
thể chất và tâm lý muôn hình muôn vẻ dưới tác động của những bệnh tật khác nhau.
Với đối tượng hoạt động này không cho phép thầy thuốc có thái độ làm việc tắc
trách, qua loa; không cho phép thầy thuốc phạm sai lầm dù rất nhỏ. Những sai lầm
của thầy thuốc sẽ gây tác hại trực tiếp đến tính mạng của người bệnh và thầy thuốc
sẽ có rất ít cơ may để chuộc lại lỗi lầm. Muốn hành nghề có hiệu quả, người thầy
thuốc phải được đào tạo và thường xuyên phải đào tạo lại một cách nghiêm túc,
phải không ngưng rèn luyện cả đức và tài sao cho xứng đáng với lời Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã dạy: “Người thầy thuốc giỏi đồng thời phải là như người mẹ hiền”.
Điều dưỡng là một nghề chuyên nghiệp nên cũng có những đặc điểm riêng, cụ
thể là: [12]
- Bác sĩ và điều dưỡng là hai nghề có định hướng khác nhau. Bác sĩ làm nhiệm
vụ chẩn đoán và điều trị. Điều dưỡng chăm sóc và đáp ứng các nhu cầu cơ bản cho
người bệnh về thể chất và tinh thần.
- Điều dưỡng là một ngành học và khoa học về chăm sóc. Do đặc thù của nghề
điều dưỡng là làm công việc chăm sóc từ đơn giản nhất đến những công việc phức
tạp nhất. Từ việc thay ga trải giường tới các công việc nghiên cứu, quản lý, đào tạo
36
và trở thành các chuyên gia điều dưỡng lâm sàng có trình độ. Vì thế ngành điều
dưỡng gồm nhiều cấp trình độ để đáp ứng nhu cầu hành nghề và yêu cầu chăm sóc
sức khỏe. Ngày nay, do sự phát triển của у học đòi hỏi tính chuyên môn hóa ngày
càng cao đã làm cho điều dưỡng trở thành môt ngành đa khoa có nhiều chuyên
khoa, như: điều dưỡng nhi, điểu dưỡng phòng mổ, điều dưỡng cộng đồng, điều
dưỡng tâm thần...
1.4.2. Vai trò và đặc điểm tâm lý của điều dưỡng viên
1.4.2.1. Vai trò của điều dưỡng viên
Điều dưỡng viên là người phụ trách công tác điều dưỡng, chăm sóc sức khỏe,
kiểm tra tình trạng bệnh nhân và các công việc khác để phục vụ cho quá trình chăm
sóc sức khỏe ban đầu cho đến phục hồi, trị liệu cho bệnh nhân.
Ở Việt Nam, trước đây người điều dưỡng được gọi là y tá, có nghĩa là người
phụ tá của người thầy thuốc. Ngày nay, điều dưỡng đã được xem là một nghề độc
lập trong hệ thống y tế do đó người làm công tác điều dưỡng được gọi là điều
dưỡng viên. Người điều dưỡng hiện có nhiều cấp bậc, trình độ và đã được qui định
rất cụ thể và chi tiết trong hệ thống ngạch, bậc công chức theo các văn bản quy định
của Bộ Nội vụ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Lực lượng điều dưỡng viên giữ vai trò nồng cốt trong hệ thống chăm sóc sức
khỏe ban đầu với mục tiêu chẩn đoán, điều trị, chăm sóc các nhu cầu thiết yếu của
người dân trong việc nâng cao sức khỏe, duy trì, phục hồi và dự phòng bệnh tật ở ba
tuyến: tuyến đầu, tuyến sau, và tuyến cuối kết hợp với các chuyên ngành khác trong
toán chăm sóc sức khỏe. Người điều dưỡng có những vai trò cụ thể như sau:
Vai trò người chăm sóc
Theo Benner và Wrubel thì: chăm sóc là yếu tố cơ bản để thưc hành điều
dưỡng hiệu quả. Mọi máy móc, kỹ thuật hiện đại không thay thế được sự chăm sóc
của người điều dưỡng vì các thiết bị này sẽ không tác động được tới cảm xúc và
điều chỉnh hành động cho thích hợp với nhu cầu đa dạng của mỗi cá thể. Chăm sóc
là nền tảng của mọi can thiệp điều dưỡng và là thuộc tính cơ bản của người điều
dưỡng. [10]
37
Leiningerm cho rằng: chăm sóc là yếu tố thiết yếu của điều dưỡng, là một nét
đặc biệt và là đặc tính duy nhất của điều dưỡng. Theo bà "không có sự chữa bệnh
nào mà không có sự chăm sóc nhưng sự chăm sóc có thể diễn ra mà không có điều
trị". [10]
Theo Jen Watson: "Thực hành chăm sóc là hạt nhân của nghề điều dưỡng" và
đưa ra hai giả định vể những giá trị của sự chăm sóc con người là: [10]
- Chăm sóc và tình cảm tạo ra những năng lượng cơ bản về thể chất và tinh
thần.
- Chăm sóc và tình cảm thiết yếu cho sự tồn tại và nuôi dưỡng con người.
Vai trò người truyền đạt thông tin
Thông tin có hiệu quả là yếu tố thiết yếu của mọi nghề phục vụ trong đó có
nghề điều dưỡng. Giao tiếp quy định mối quan hệ giữa người bệnh và người điều
dưỡng, giữa người điều dưỡng và đồng nghiệp. Nó có vai trò trong mọi hoạt động
của người điều dưỡng. Người điều dưỡng thường xuyên giao tiếp cả bằng ngôn ngữ
và phi ngôn ngữ. Loại giao tiếp này đòi hỏi phải chính xác, rõ ràng và phù hợp. [1]
Vai trò người giáo viên
Nhu cầu giáo dục sức khỏe của người điều dưỡng đối với người bệnh ngày
càng tăng. Ngày nay, người ta chú trọng đến việc nâng cao và duy trì sức khỏe hơn
là chỉ chữa bệnh thuần túy. Vì vậy người bệnh cần có thêm kiến thức để tự theo dõi
và chăm sóc nhằm rút ngắn ngày nằm viện. Sự gia tăng của các bệnh mãn tính và tật
nguyền đòi hỏi người bệnh và gia đình phải có thêm kiến thức và kỹ năng để tự
chăm sóc tại nhà. Qui trình giảng dạy gồm 4 thành phần cơ bản: nhận định, lập kế
hoạch, thực hiện kế hoạch và lượng giá.
Vai trò người tư vấn
Tư vấn là quá trình giúp đỡ người bệnh để nhận biết và đương đầu với những
stress về tâm lý hoặc những vấn đề xã hội để cải thiện các mối quan hệ giữa người
với người và để thúc đẩy sự phát triển của mỗi người. Tư vấn liên quan đến sự hỗ
trợ về tình cảm, tri thức và tâm lỷ. Người điều dưỡng tập trung vào giúp cho người
bệnh phát triển những thái độ, tình cảm và các hành vi mới. Người điều dưỡng
38
khuyến khích người bệnh tìm kiếm những hành vi thay thế, nhận ra sự lựa chọn và
xây dựng ý thức tự kiểm soát.
Tư vấn đòi hỏi kỹ năng giao tiếp chữa bệnh, kỹ năng phân tích tình hình, tổng
hợp thông tin và đánh giá quá trình tiến triển của người bệnh sau khi đã được tư
vấn. Người diều dưỡng phải là một mô hình mẫu để hướng dẫn những hành vi
mong muốn, phải thể hiện sự quan tâm tới lợi ích của người khác, phải có suy nghĩ
sáng tạo, mội thái độ linh hoạt và hài hước khi tiếp xúc với các đối tượng người
khác nhau.
Điều dưỡng viên tư vấn bệnh nhân mỗi khi gặp họ ở bất kỳ nơi nào tại văn
phòng hay tại nơi tư vấn bệnh nhân ở bệnh viện. Bệnh nhân tìm kiếm điều đưỡng
như là một chuyên gia chăm sóc sức khỏe. Điều dưỡng viên được yêu cầu phải cùng
kiểm tra thuốc với bệnh nhân sau khi họ nhận thuốc và tư vấn cho họ những loại trừ
khi sử dụng. Công việc tư vấn của điều dưỡng viên không hoàn toàn kết thúc khi
bệnh nhân xuất viện mà điều dưỡng viên còn phải tiếp tục tư vấn cho gia đình của
họ để đảm bảo rằng bệnh nhân được chăm sóc trong một môi trường ổn định. Trong
thời gian điều trị bệnh khắc nghiệt và khó khăn, điều dưỡng viên sẽ tư vấn để quyết
định cho bệnh nhân được thực hiện các điều trị hợp lý và nhanh chóng. [1]
Vai trò người biện hộ cho người bệnh
Biện hộ nghĩa là hành động thay hoặc bảo vệ lợi ích cho người khác. Vỉ vậy,
biện hộ là thúc đẩy những hành động tốt đẹp nhất cho người bệnh, bảo đảm cho
những nhu cầu của người bệnh được đáp ứng. [2]
1.4.2.2. Một số đặc điểm tâm lý của điều dưỡng viên
Khách thể nghiên cứu của đề tài là điều dưỡng viên, chính vì vậy việc tìm hiểu
các đặc điểm tâm lý của họ là một trong những cơ sở quan trọng để xác định các
biện pháp tác động phù hợp.
Điều dưỡng viên là những người thuộc lứa tuổi từ 20 tuổi trở đi, được xếp vào
giai đoạn tuổi trưởng thành nên có sự hội tụ đầy đủ những điều kiện sinh học để làm
vợ, làm chồng, làm cha, làm mẹ, cũng như làm người lao động thực sự trong gia
đình và xã hội. Đó là sự phát triển về thể chất đã đạt đến mức hoàn thiện, trọng
39
lượng não đã đạt đến mức tối đa, hoạt động hệ thần kinh cấp cao đã đạt đến mức
trưởng thành, quá trình hưng phấn và ức chế diễn ra cân bằng. [1], [13]
Người điều dưỡng đã hội tụ các tiêu chuẩn cần và đủ để xây dựng gia đình.
Đại đa số những người trong độ tuổi này đã lấy vợ, lấy chồng, có gia đình riêng.
Cùng với tình yêu và hạnh phúc đôi lứa, việc ra đời của đứa con đầu lòng là sự kiện
quan trọng của những đôi vợ chồng trẻ. Nghĩa vụ đối với gia đình, xã hội của những
ông bố, bà mẹ nặng nề hơn trước và sắc thái hạnh phúc vợ chồng theo đó cũng có
nét mới so với trước đây. Trong giai đoạn này, việc nuôi dạy con cái sao cho nó
phát triển tốt về mặt thể lực, trí tuệ và nhân cách (con khỏe, con ngoan, trò giỏi) trở
thành mục tiêu phấn đấu, trách nhiệm, nghĩa vụ và niềm hạnh phúc to lớn của
những người làm bố, làm mẹ. Điều này chi phối không ít đến cuộc sống và nỗ lực
của người làm cha, làm mẹ bên cạnh sự phấn đấu cho chính bản thân mình. Cho nên
bên cạnh những trăn trở trong công việc, người điều dưỡng cũng luôn lo lắng cho
cuộc sống gia đình. [1], [13]
Song song với việc “lập thân”, người điều dưỡng tập trung cho sự nghiệp,
hành nghề một cách tích cực, những người ở lứa tuổi khoảng 30 – 40 tuổi không chỉ
có nghề mà bắt đầu có tay nghề khá cao. Sự say mê sáng tạo trong nghề nghiệp bắt
đầu được hình thành và ngày càng phát triển ở mức bền vững, sâu sắc. Nghề nghiệp
không chỉ có ý nghĩa to lớn đối với bản thân họ mà còn có ảnh hưởng đến cuộc
sống gia đình họ. Với đặc trưng nghề là chăm sóc sức khỏe người bệnh nên điều
dưỡng viên thường có tính tỉ mỉ, cẩn thận trong công việc. Không chỉ chăm sóc sức
khỏe mà còn là tư vấn viên cho bệnh nhân nên người điều dưỡng có thể dễ nhạy
cảm, cảm thông hơn với mọi người. [1], [13]
Điều dưỡng làm việc tại 4 bệnh viện ở thành phố Hồ Chí Minh là: bệnh viện
Nhân dân Gia Định, bệnh viện Thống Nhất, bệnh viện Phạm Ngọc Thạch, bệnh
viện Nhi đồng 2 cũng có những đặc điểm tâm lý như trên. Tuy nhiên, môi trường
sống, chế độ làm việc ở mỗi bệnh viện khác nhau... có thể khiến cho điều dưỡng
viên có những biểu hiện RNTL không giống nhau.
40
1.4.3. Biểu hiện rối nhiễu tâm lý của điều dưỡng viên
1.4.3.1. Rối nhiễu lo âu
Điều dưỡng là người đầu tiên đón chào một đứa trẻ ra đời, cũng là người cuối
cùng chứng kiến người bệnh từ giã cuộc sống. Điều dưỡng luôn luôn sát cánh cùng
bác sĩ với tư cách là người chịu trách nhiệm trước sự sống còn của người bệnh, là
người chăm sóc sức khỏe cho mọi người. Như vậy, đối tượng làm việc của họ là
con người chứ không phải máy móc, chỉ một sai sót nhỏ cũng có thể ảnh hưởng đến
tính mạng bệnh nhân. Các điều dưỡng không chỉ chăm sóc sức khỏe cho bệnh nhân
mà còn phải tìm hiểu hoàn cảnh gia đình, tính khí để chia sẻ, hỗ trợ tinh thần bệnh
nhân. Với mỗi người bệnh có sự khác biệt nhau về đặc điểm tâm sinh lý, hoàn cảnh
sống, bệnh tật... Vì vậy điều dưỡng sẽ có sự chăm sóc khác nhau đối với từng bệnh
nhân. Quá trình chăm sóc muốn hiệu quả thì yêu cầu với người điều dưỡng ngoài
nắm vững chuyên môn phải hiểu tâm lý người bệnh, luôn đối xử với họ ân cần, nhã
nhặn; ngoài ra còn phải biết giải đáp khéo léo những thắc mắc của người nhà bệnh
nhân. Đòi hỏi này tương đối khó cho những điều dưỡng trẻ mới vào nghề, chưa có
kinh nghiệm ứng xử, chưa có sự kiên nhẫn, bền bỉ, linh hoạt. Do đó trước phản ứng
không hợp tác, cáu gắt của người bệnh và thân nhân, điều dưỡng dễ trở nên lúng
túng, mất bình tĩnh, thiếu tự tin, thường xuyên lo lắng, cảm thấy bất an. [10]
Những điều dưỡng ở giai đoạn lứa tuổi (khoảng 37 – 45 tuổi) có biểu hiện của
“khủng hoảng giữa đời”. Dấu hiệu đặc trưng của nó là hiện tượng: mất ngủ, trằn
trọc, thất vọng, chán chường, thờ ơ, lãnh đạm với cuộc sống do con người tĩnh tâm
nhìn lại mình, tự suy xét về những thành bại trong cuộc đời. Người thành đạt cảm
thấy mãn nguyện, kẻ thất bại thấy chua xót, nuối tiếc một thời tuổi trẻ và những cơ
hội bỏ lỡ. Họ muốn làm lại nhưng đã thấy quá muộn và cảm thấy tương lai ảm đạm.
[13]
Như vậy, RNTL của người điều dưỡng biểu hiện ở mặt RNLA là: lo lắng, thất
vọng, tự ti, bất an... Những triệu chứng này kéo dài liên tục và phát triển cao độ thì
sẽ gây ra cho điều dưỡng những rối loạn về thể chất, nhận thức và hành vi.
41
1.4.3.2. Căng thẳng nghề nghiệp
Công việc đang làm chưa đúng với nguyện vọng, sở thích cũng làm cho người
điều dưỡng dễ bị RNTL. Họ chọn nghề điều dưỡng không phải do tự nguyện, do
yêu thích mà có thể vì bị bắt buộc hoặc vì một giải pháp tình thế nào đó. Chính điều
này làm cho điều dưỡng không hứng thú làm việc, chán nản nghề. Điều dưỡng trẻ
thì muốn đổi nghề, sẵn sàng bỏ công việc điều dưỡng để làm việc khác; điều dưỡng
lớn tuổi thì không còn cơ hội chọn nghề khác nên không hào hứng với công việc,
không tích cực tiếp nhận kiến thức dẫn đến sai sót khi làm việc và nếu bị phê bình
sẽ dễ bị căng thẳng, tuyệt vọng... tổn thương tâm lý.
Điều dưỡng là một công việc đòi hỏi rất nhiều thời gian. Trong 8 tiếng làm
việc chính thức, điều dưỡng viên quay cuồng với các bệnh nhân. Nhưng ngoài thời
gian hành chính, họ cũng phải trực chuyên môn, thường xuyên phải làm việc vào
những ngày lễ và nghỉ cuối tuần để đảm bảo bệnh nhân luôn được chăm sóc. Với
những nữ điều dưỡng, thời gian cho tình yêu, gia đình và thời gian tận hưởng cuộc
sống của họ ít nhiều bị "co" hơn các ngành nghề khác. Áp lực về thời gian của công
việc dễ khiến cho người điều dưỡng bị căng thẳng, mệt mỏi... [3]
Điều dưỡng là nghề của những người siêng năng và cẩn trọng, bởi họ luôn
phải chú ý trong mọi thời điểm về tình trạng và diễn biến của người bệnh, phát hiện
ngay từng thay đổi nhỏ trong tình trạng sức khỏe của người bệnh mà mình đã được
phân công chăm sóc. Điều dưỡng cũng là nghề đòi hỏi một tinh thần "thép", nhất là
khi chứng kiến những tình huống tai biến, đôi khi cả những trường hợp tử vong của
bệnh nhân. Đối tượng phục vụ của nghề là những người bệnh, nguy cơ lây nhiễm
(viêm gan B, viêm gan C, lao, tả, HIV/AIDS, v.v.), chế độ lương bổng chưa thỏa đáng,
áp lực từ bệnh nhân, gia đình bệnh nhân, và cả lãnh đạo đơn vị. Trong bệnh viện, điều
dưỡng tiếp xúc, trao đổi, chăm sóc bệnh nhân nhiều nhất. Với những điều kiện làm
việc căng thẳng, sức khỏe tâm thần của điều dưỡng có thể bị ảnh hưởng, từ đó ảnh
hưởng đến thái độ tiếp xúc với bệnh nhân và ảnh hưởng đến kết quả điều trị.
Nghiên cứu của điều dưỡng trưởng Đặng Trần Ngọc Thanh - giảng viên
Trường đại học y khoa Phạm Ngọc Thạch và cộng sự tại 7 khoa chăm sóc đặc biệt
42
(ICU) của 7 bệnh viện đa khoa cấp I tại thành phố Hồ Chí Minh cho thấy: Khi điều
dưỡng làm việc tại ICU, họ phải làm việc thật nhanh, luôn chân luôn tay rất vất vả.
Ngoài ra, phần lớn bệnh nhân đều nặng hoặc hôn mê, lại không có người thân trực
tiếp chăm sóc nên tất cả công việc từ theo dõi các dấu hiệu sống, cho bệnh nhân
dùng thuốc đến nuôi ăn, vệ sinh người bệnh đều do điều dưỡng đảm nhận. Do đó
điều dưỡng dễ có tâm trạng nhàm chán trong công việc.
Tóm lại, nghề y nói chung và nghề điều dưỡng nói riêng là nghề đặc biệt, đặc
thù ở đối tượng tác động. Tính chất áp lực của công việc, môi trường làm việc khiến
cho người điều dưỡng dễ bị căng thẳng nghề nghiệp với những biểu hiện: chán nản,
mệt mỏi, ngột ngạt, khó chịu, không còn hứng thú làm việc...
1.4.3.3. Rối nhiễu nhân cách
Người điều dưỡng mà bị RNNC thì sẽ có những hành vi, ứng xử bất thường,
như: tránh né tiếp xúc với mọi người, làm việc lặng lẽ, âm thầm... và nguy hiểm hơn
có thể thực hiện sai những thủ thuật chăm sóc sức khỏe gây ảnh hưởng xấu đến tính
mạng người bệnh. Vì thế, điều dưỡng bị RNNC nặng có thể sẽ phải nghỉ làm để
đảm bảo an toàn, hiệu quả cho công việc.
Điều dưỡng phải thường xuyên tiếp xúc với bệnh nhân nên những điều dưỡng
làm trong các khoa mà có nhiều bệnh nhân nặng, không thể giao tiếp được sẽ dễ bị
rơi vào trạng thái khép kín, không muốn nói chuyện, sống nội tâm...Những triệu
chứng này mà diễn ra liên tục khiến cho điều dưỡng viên dễ dàng bị RNNC.
Ngoài ra, nguyên nhân RNNC ở người điều dưỡng có thể là: những tổn
thương trong quá khứ, kèm theo tình trạng RNLA và CTNN kéo dài, người điều
dưỡng sẽ bị những tổn thương cả về thể chất và tâm lý, nhân cách rối nhiễu.
43
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1
Qua nghiên cứu các vấn đề về RNTL của điều dưỡng đang làm việc tại bệnh
viện, chúng tôi rút ra một số tiểu kết như sau:
RNTL là hội chứng tâm lý làm giảm sức khỏe, gây ra rối loạn chức năng
khiến cá nhân khó làm chủ hành vi ứng xử của mình. Vì vậy, công việc không đạt
được kết quả như mong muốn, cuộc sống gặp nhiều khó khăn. Điều dưỡng viên khi
mắc phải một trong những hội chứng của RNTL thì cuộc sống và công việc sẽ chịu
những tác động lớn theo chiều hướng tiêu cực.
Nghiên cứu RNTL của điều dưỡng viên tại các bệnh viện ở thành phố Hồ
Chí Minh, người nghiên cứu tập trung vào 3 nhóm: rối nhiễu lo âu, căng thẳng nghề
nghiệp và rối nhiễu nhân cách.
Những nguyên nhân gây ra RNTL của điều dưỡng làm tại bệnh viện bao
gồm những nguyên nhân khách quan và những nguyên nhân chủ quan. Trong đó,
nguyên nhân khách quan có ảnh hưởng lớn hơn.
44
Chương 2. THỰC TRẠNG RỐI NHIỄU TÂM LÝ
CỦA ĐIỀU DƯỠNG VIÊN Ở MỘT SỐ BỆNH VIỆN TẠI
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
2.1. Tổ chức nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu
2.1.1. Mẫu nghiên cứu
Chúng tôi lựa chọn khảo sát mẫu là 200 điều dưỡng viên (cả nam và nữ) đang
làm việc tại 4 bệnh viện trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh. Bốn bệnh viện bao
gồm cả đa khoa và chuyên khoa, đó là: bệnh viện Nhân dân Gia Định, bệnh viện
Thống Nhất, bệnh viện Phạm Ngọc Thạch, bệnh viện Nhi Đồng 2. Mỗi bệnh viện
chúng tôi chọn ngẫu nhiên 50 điều dưỡng viên làm việc ở bất kỳ một trong bốn
khoa: Nội, Ngoại, Nhi và Cấp cứu của bệnh viện.
Mẫu nghiên cứu gồm 200 điều dưỡng được phân bố theo giới tính, lứa tuổi,
tình trạng hôn nhân và khoa làm việc như sau:
Bảng 2.1. Phân bố khách thể nghiên cứu
Tiêu chí phân loại Số lượng Tỷ lệ %
Nam 54 27
Giới tính
Nữ 146 73
Tổng 200 100
Từ 20 – 40 tuổi 171 85,5
Lứa tuổi
Từ 41 – 55 tuổi 29 14,5
Tổng 200 100
Chưa có người yêu 98 49
Tình trạng hôn nhân
Có người yêu 60 30
45
Kết hôn, chưa có con 17 8,5
Kết hôn, có con 25 12,5
Tổng 200 100
Nội 62 31
Ngoại 60 30
Khoa làm việc
Nhi 17 8,5
Cấp cứu 61 30,5
Tổng 200 100
Qua bảng 2.1, ta thấy:
- Với tiêu chí phân loại theo giới tính: có sự chênh lệch lớn giữa tỉ lệ điều dưỡng
nữ (73%) và điều dưỡng nam (27%), số lượng nữ nhiều hơn nam gần 3 lần. Đây cũng
là điểm đặc trưng của ngành điều dưỡng.
- Với tiêu chí phân loại theo lứa tuổi: nhóm khách thể được khảo sát có tuổi đời
tương đối trẻ. 171 điều dưỡng viên trong tổng số mẫu là 200 điều dưỡng thuộc lứa tuổi
từ 20 – 40 tuổi, chiếm 85,5%. Sau khi học 2 năm ngành điều dưỡng bậc Trung học
chuyên nghiệp thì một sinh viên có thể trở thành một điều dưỡng viên. 20 tuổi đã đi
làm, đó vừa là cơ hội cũng vừa là thách thức với những người điều dưỡng trẻ. Vì thế,
có thể họ cũng sẽ gặp những vấn đề về tâm lý.
- Với tiêu chí phân loại theo tình trạng hôn nhân: tỷ lệ điều dưỡng chưa có
người yêu chiếm số lượng lớn nhất (49%), điều dưỡng đã kết hôn có con ít nhất, chỉ
chiếm 12,5%. Điều này cũng phù hợp với tỷ lệ lứa tuổi ở trên, ngoài ra cũng còn có
một số điều dưỡng trong độ tuổi từ 41 – 55 tuổi chưa có người yêu, chủ yếu là những
nữ điều dưỡng trưởng khoa của bệnh viện. Nguyên nhân chủ yếu là do họ quá say mê
công việc mà không có thời gian dành cho hạnh phúc của cá nhân mình. Đúng như tâm
sự của chị T.T.T điều dưỡng trưởng khoa Nội – bệnh viện Thống Nhất: “Ngày cũng
46
như đêm, ngày nghỉ cũng như ngày thường, tôi cứ bị cuốn theo công việc nên để tuổi
thanh xuân vụt đi. Giờ đã lớn tuổi chẳng còn muốn nghĩ đến chuyện yêu đương, lập gia
đình gì nữa, lấy công việc làm niềm vui”. [Phụ lục 2]
- Với tiêu chí phân loại theo khoa làm việc: tỷ lệ điều dưỡng làm việc ở 3 khoa
nội, ngoại, cấp cứu của 4 bệnh viện là tương đương nhau; khoa nhi là ít điều dưỡng
nhất (8,5%). Vì bệnh viện nào cũng có khoa nội, ngoại, cấp cứu; do tính đặc thù, bệnh
viện Nhi Đồng 2 và bệnh viện Thống Nhất không có khoa Nhi. Đối tượng bệnh
nhân và tính chất công việc ở các khoa này khác nhau nên tâm lý – cảm xúc của
điều dưỡng làm việc tại các khoa cũng sẽ không giống nhau.
Với việc phân loại mẫu theo các tiêu chí trên, đề tài muốn nhấn mạnh đến
những đặc trưng biểu hiện qua tiêu chí của khách thể nghiên cứu.
2.1.2. Phương pháp nghiên cứu
2.1.2.1. Phương pháp nghiên cứu tài liệu
Mục đích: Xây dựng khung lý luận làm cơ sở nghiên cứu đề tài.
Nội dung:
- Khái quát, hệ thống những vấn đề lý luận về RNTL nói chung và RNTL của
điều dưỡng nói riêng.
- Làm sáng tỏ các khái niệm công cụ trong việc nghiên cứu thực trạng RNTL
của điều dưỡng.
- Phân tích, tổng hợp các công trình nghiên cứu trước, từ đó chỉ ra những vấn
đề cần tiếp tục nghiên cứu.
- Xác lập cơ sở lý luận cho việc lựa chọn và thiết lập công cụ nghiên cứu cũng
như phương pháp nghiên cứu của đề tài.
Cách tiến hành:
Thu thập những tài liệu có liên quan đến vấn đề nghiên cứu, phân tích, tổng
hợp các tài liệu, như: rối nhiễu tâm lý, đặc điểm tâm lý lứa tuổi, đặc điểm nghề điều
dưỡng...phục vụ cho việc nghiên cứu nhằm làm rõ cơ sở lý luận của vấn đề cần
nghiên cứu.
2.1.2.2. Phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi
47
Mục đích:
Tìm hiểu thực trạng rối nhiễu tâm lý của điều dưỡng làm việc tại bệnh viện.
Nội dung:
Rối nhiễu tâm lý của điều dưỡng viên tại một số bệnh viện trên địa bàn thành
phố Hồ Chí Minh.
Cách tiến hành:
Trên cơ sở những vấn đề lý luận về đặc điểm nghề điều dưỡng, đặc điểm tâm
lý lứa tuổi người điều dưỡng, rối nhiễu tâm lý nói chung và rối nhiễu tâm lý của
điều dưỡng viên nói riêng, chúng tôi xây dựng phiếu thăm dò ý kiến, nội dung nhằm
khảo sát thực trạng rối nhiễu tâm lý của điều dưỡng làm thể hiện ở 3 mặt: rối nhiễu
lo âu, căng thẳng nghề nghiệp, rối nhiễu nhân cách.
Hệ thống câu hỏi trong phiếu thăm dò ý kiến gồm 2 phần: [Phụ lục 1]
Phần I: thông tin cá nhân của khách thể nghiên cứu, gồm: giới tính, lứa tuổi,
tình trạng hôn nhân, bệnh viện và khoa đang làm việc, thu nhập hàng tháng công
việc điều dưỡng, chỗ ở hiện tại, phương tiện đi làm, tham gia tư vấn sức khỏe tâm
lý.
Phần II: nội dung chính của phiếu thăm dò ý kiến gồm 8 câu hỏi.
Câu 1: khảo sát mức độ biểu hiện của rối nhiễu lo âu – triệu chứng của rối
nhiễu tâm lý ở người điều dưỡng thể hiện tại 2 mặt: sinh lý và tâm lý. Trong đó, mặt
tâm lý xét ở góc độ: cảm xúc, nhận thức, hành vi. Có 5 mức độ lựa chọn: rất thường
xuyên (5 điểm), thường xuyên (4 điểm), thỉnh thoảng (3 điểm), hiếm khi (2 điểm),
không bao giờ (1 điểm).
- Từ RNLA 1 đến RNLA 4 là: những RNLA biểu hiện ở mặt sinh lý.
- Từ RNLA 5 đến RNLA 23 là: những RNLA biểu hiện ở mặt tâm lý, bao
gồm:
Từ RNLA 5 đến RNLA 16 là: những RNLA biểu hiện ở mặt cảm xúc.
Từ RNLA 17 đến RNLA 20 là: những RNLA biểu hiện ở mặt nhận thức.
Từ RNLA 21 đến RNLA 23 là: những RNLA biểu hiện ở mặt hành vi.
48
Thang đánh giá: luận văn đánh giá RNLA theo điểm số của từng biểu hiện và
theo tổng điểm số của tất cả các biểu hiện.
Theo điểm của từng biểu hiện
Từ 1 điểm đến 1,5 điểm: không bao giờ có biểu hiện RNLA.
Từ 1,51 điểm đến 2,5 điểm: hiếm khi có biểu hiện RNLA.
Từ 2,51 điểm đến 3,5 điểm: thỉnh thoảng có biểu hiện RNLA.
Từ 3,51 điểm đến 4,5 điểm: thường xuyên có biểu hiện RNLA.
Từ 4,51 điểm đến 5 điểm: rất thường xuyên có biểu hiện RNLA.
Theo tổng điểm của các biểu hiện
• RNLA về mặt sinh lý – thể chất
Dựa trên bảng thống kê tổng điểm thực tế các biểu hiện RNLA về mặt sinh lý
– thể chất trên toàn mẫu nghiên cứu [Phụ lục 3 – Bảng 2.25], dựa vào thang đánh
giá trình bày ở trên và dựa vào tổng điểm lý thuyết 4 biểu hiện RNLA về mặt sinh
lý – thể chất của điều dưỡng viên tối thiểu là 4 điểm, tối đa là 20 điểm, trung bình là
10 điểm, chúng tôi đưa ra thang điểm phân loại các mức độ RNLA thể hiện qua mặt
sinh lý - thể chất như sau:
Từ 4 điểm đến 10 điểm: không bị RNLA sinh lý - thể chất .
Từ 11 điểm đến 15 điểm: RNLA sinh lý - thể chất nhẹ.
Từ 16 điểm đến 20 điểm: RNLA sinh lý - thể chất nặng .
• RNLA về mặt tâm lý
Dựa trên bảng thống kê tổng điểm thực tế các biểu hiện RNLA về mặt tâm lý
trên toàn mẫu nghiên cứu [Phụ lục 3 – Bảng 2.26], dựa vào thang đánh giá trình bày
ở trên và dựa vào tổng điểm lý thuyết 17 biểu hiện RNLA về mặt tâm lý của điều
dưỡng viên tối thiểu 17 điểm, tối đa là 85 điểm, trung bình là 42,5 điểm, chúng tôi
đưa ra thang điểm phân loại các mức độ RNLA thể hiện qua mặt tâm lý như sau:
Từ 17 điểm đến 42 điểm: không bị RNLA tâm lý.
Từ 43 điểm đến 68 điểm: RNLA tâm lý nhẹ.
Từ 69 điểm đến 85 điểm: RNLA tâm lý nặng.
49
Câu 2: khảo sát những nguyên nhân gây nên RNLA của điều dưỡng với 2 loại
nguyên nhân chính là: nguyên nhân chủ quan và nguyên nhân khách quan. Trong
đó, nguyên nhân chủ quan bao gồm: nguyên nhân sinh lý, nguyên nhân tâm lý;
nguyên nhân khách quan là nguyên nhân văn hóa – xã hội. Có 5 mức độ lựa chọn:
rất đồng ý (5 điểm), đồng ý (4 điểm), phân vân (3 điểm), không đồng ý (2 điểm),
hoàn toàn không đồng ý (1 điểm).
- Từ nguyên nhân thứ 1 đến nguyên nhân thứ 3 là: những nguyên nhân sinh lý.
- Từ nguyên nhân thứ 4 đến nguyên nhân thứ 7 là: những nguyên nhân tâm lý.
- Nguyên nhân thứ 8 là: nguyên nhân văn hóa – xã hội.
Thang đánh giá:
Từ 1 điểm đến 1,5 điểm: điều dưỡng hoàn toàn không đồng ý nguyên nhân
gây nên RNLA.
Từ 1,51 điểm đến 2,5 điểm: điều dưỡng không đồng ý nguyên nhân gây nên
RNLA.
Từ 2,51 điểm đến 3,5 điểm: điều dưỡng không biết nguyên nhân có gây nên
RNLA hay không.
Từ 3,51 điểm đến 4,5 điểm: điều dưỡng đồng ý nguyên nhân gây nên RNLA.
Từ 4,51 điểm đến 5 điểm: điều dưỡng hoàn toàn không đồng ý nguyên nhân
gây nên RNLA.
Câu 3: khảo sát mức độ biểu hiện của căng thẳng nghề nghiệp – triệu chứng
của rối nhiễu tâm lý ở người điều dưỡng thể hiện tại 2 mặt: thể chất và tâm lý.
Trong đó, mặt tâm lý xét ở góc độ: cảm xúc - nhận thức, thái độ - cư xử. Có 5 mức
độ lựa chọn: rất thường xuyên (5 điểm), thường xuyên (4 điểm), thỉnh thoảng (3
điểm), hiếm khi (2 điểm), không bao giờ (1 điểm).
- Từ CTNN 1 đến CTNN 8 là: những CTNN biểu hiện ở mặt thể chất.
- Từ CTNN 9 đến CTNN 22 là: những CTNN biểu hiện ở mặt tâm lý, bao gồm:
Từ CTNN 9 đến CTNN 18 là: những CTNN biểu hiện ở mặt cảm xúc – nhận thức.
Từ CTNN 19 đến CTNN 22 là: những CTNN biểu hiện ở mặt hành vi - ứng xử.
50
Thang đánh giá: luận văn đánh giá CTNN theo điểm số của từng biểu hiện và
theo tổng điểm số của tất cả các biểu hiện.
Theo điểm của từng biểu hiện
Từ 1 điểm đến 1,5 điểm: không bao giờ có biểu hiện CTNN.
Từ 1,51 điểm đến 2,5 điểm: hiếm khi có biểu hiện CTNN.
Từ 2,51 điểm đến 3,5 điểm: thỉnh thoảng có biểu hiện CTNN.
Từ 3,51 điểm đến 4,5 điểm: thường xuyên có biểu hiện CTNN.
Từ 4,51 điểm đến 5 điểm: rất thường xuyên có biểu hiện CTNN.
Theo tổng điểm của các biểu hiện
• CTNN về mặt sinh lý – thể chất
Dựa trên bảng thống kê tổng điểm thực tế các biểu hiện CTNN về mặt sinh lý
– thể chất trên toàn mẫu nghiên cứu [Phụ lục 3 – Bảng 2.27], dựa vào thang đánh
giá trình bày ở trên và dựa vào tổng điểm lý thuyết 8 biểu hiện CTNN về mặt sinh
lý – thể chất của điều dưỡng viên tối thiểu là 8 điểm, tối đa là 40 điểm, trung bình là
20 điểm, chúng tôi đưa ra thang điểm phân loại các mức độ CTNN thể hiện qua mặt
sinh lý - thể chất như sau:
Từ 8 điểm đến 20 điểm: không bị CTNN sinh lý - thể chất .
Từ 21 điểm đến 30 điểm: CTNN sinh lý - thể chất nhẹ.
Từ 31 điểm đến 40 điểm: CTNN sinh lý - thể chất nặng.
• CTNN về mặt tâm lý
Dựa trên bảng thống kê tổng điểm thực tế các biểu hiện RNLA về mặt CTNN
trên toàn mẫu nghiên cứu [Phụ lục 3 – Bảng 2.28], dựa vào thang đánh giá trình bày
ở trên và dựa vào tổng điểm lý thuyết 14 biểu hiện CTNN về mặt tâm lý của điều
dưỡng viên tối thiểu 14 điểm, tối đa là 70 điểm, trung bình là 35 điểm, chúng tôi
đưa ra thang điểm phân loại các mức độ CTNN thể hiện qua mặt tâm lý như sau:
Từ 14 điểm đến 35 điểm: không bị CTNN tâm lý.
Từ 36 điểm đến 47 điểm: CTNN tâm lý nhẹ.
Từ 48 điểm đến 70 điểm: CTNN tâm lý nặng.
51
Câu 4: khảo sát mức độ xuất hiện những nguyên nhân gây nên CTNN của
điều dưỡng với 2 loại nguyên nhân chính là: nguyên nhân chủ quan và nguyên nhân
khách quan. Trong đó, nguyên nhân chủ quan bao gồm: yếu tố bản thân và yếu tố
gia đình; nguyên nhân khách quan xét ở 3 phương diện: quan hệ trong công việc
của người điều dưỡng, tính chất nghề điều dưỡng, môi trường làm việc. Có 5 mức
độ lựa chọn: rất đồng ý (5 điểm), đồng ý (4 điểm), phân vân (3 điểm), không đồng ý
(2 điểm), hoàn toàn không đồng ý (1 điểm).
- Từ nguyên nhân thứ 1 đến nguyên nhân thứ 15 là: những nguyên nhân khách
quan.
- Từ nguyên nhân thứ 16 đến nguyên nhân thứ 17 là: những nguyên nhân chủ
quan.
Thang đánh giá:
Từ 1 điểm đến 1,5 điểm: điều dưỡng hoàn toàn không đồng ý nguyên nhân
gây nên CTNN.
Từ 1,51 điểm đến 2,5 điểm: điều dưỡng không đồng ý nguyên nhân gây
nên CTNN.
Từ 2,51 điểm đến 3,5 điểm: điều dưỡng không biết nguyên nhân có gây
nên CTNN hay không.
Từ 3,51 điểm đến 4,5 điểm: điều dưỡng đồng ý nguyên nhân gây nên CTNN.
Từ 4,51 điểm đến 5 điểm: điều dưỡng hoàn toàn không đồng ý nguyên nhân
gây nên CTNN.
Câu 5: khảo sát mức độ biểu hiện của rối nhiễu nhân cách – triệu chứng của
rối nhiễu tâm lý ở người điều dưỡng. Có 5 mức độ lựa chọn: rất thường xuyên (5
điểm), thường xuyên (4 điểm), thỉnh thoảng (3 điểm), hiếm khi (2 điểm), không bao
giờ (1 điểm).
Thang đánh giá: luận văn đánh giá RNNC theo điểm số của từng biểu hiện và
theo tổng điểm số của tất cả các biểu hiện.
Theo điểm của từng biểu hiện
Từ 1 điểm đến 1,5 điểm: không bao giờ có biểu hiện RNNC.
52
Từ 1,51 điểm đến 2,5 điểm: hiếm khi có biểu hiện RNNC.
Từ 2,51 điểm đến 3,5 điểm: thỉnh thoảng có biểu hiện RNNC.
Từ 3,51 điểm đến 4,5 điểm: thường xuyên có biểu hiện RNNC.
Từ 4,51 điểm đến 5 điểm: rất thường xuyên có biểu hiện RNNC.
Theo tổng điểm của các biểu hiện
Dựa trên bảng thống kê tổng điểm thực tế các biểu hiện RNNC trên toàn mẫu
nghiên cứu [Phụ lục 3 – Bảng 2.29], dựa vào thang đánh giá trình bày ở trên và dựa
vào tổng điểm lý thuyết 7 biểu hiện RNNC của điều dưỡng viên tối thiểu là 7 điểm,
tối đa là 35 điểm, trung bình là 17,5 điểm, chúng tôi đưa ra thang điểm phân loại
các mức độ RNNC như sau:
Từ 7 điểm đến 17 điểm: không bị RNNC.
Từ 18 điểm đến 28 điểm: RNNC nhẹ.
Từ 29 điểm đến 35 điểm: RNNC nặng.
Câu 6: khảo sát những nguyên nhân khách quan và chủ quan gây nên RNNC
của điều dưỡng. Trong đó, nguyên nhân chủ quan bao gồm: yếu tố bản thân và yếu
tố gia đình; nguyên nhân khách quan xét ở 3 phương diện: quan hệ trong công việc
của người điều dưỡng, tính chất nghề điều dưỡng, môi trường làm việc. Có 5 mức
độ lựa chọn: rất đồng ý (5 điểm), đồng ý (4 điểm), phân vân (3 điểm), không đồng ý
(2 điểm), hoàn toàn không đồng ý (1 điểm).
Thang đánh giá:
Từ 1 điểm đến 1,5 điểm: điều dưỡng hoàn toàn không đồng ý nguyên nhân
gây nên RNNC.
Từ 1,51 điểm đến 2,5 điểm: điều dưỡng không đồng ý nguyên nhân gây nên
RNNC.
Từ 2,51 điểm đến 3,5 điểm: điều dưỡng không biết nguyên nhân có gây nên
RNNC hay không.
Từ 3,51 điểm đến 4,5 điểm: điều dưỡng đồng ý nguyên nhân gây nên RNNC.
Từ 4,51 điểm đến 5 điểm: điều dưỡng hoàn toàn không đồng ý nguyên nhân
gây nên RNNC.
53
Câu 7: khảo sát nhận thức nghề nghiệp của người điều dưỡng bằng việc yêu
cầu khách thể cho biết ý kiến về những đánh giá hiện nay của xã hội với nghề điều
dưỡng. Có 5 mức độ lựa chọn: rất đồng ý (5 điểm), đồng ý (4 điểm), phân vân (3
điểm), không đồng ý (2 điểm), hoàn toàn không đồng ý (1 điểm).
Thang đánh giá:
Từ 1 điểm đến 1,5 điểm: điều dưỡng hoàn toàn không đồng ý với những đánh giá.
Từ 1,51 điểm đến 2,5 điểm: điều dưỡng không đồng ý với những đánh giá.
Từ 2,51 điểm đến 3,5 điểm: điều dưỡng không có ý kiến với những đánh giá.
Từ 3,51 điểm đến 4,5 điểm: điều dưỡng đồng ý với những đánh giá.
Từ 4,51 điểm đến 5 điểm: điều dưỡng hoàn toàn đồng ý với những đánh giá.
Câu 8: khảo sát ý kiến của khách thể nghiên cứu về một số biện pháp đề xuất
có thể khắc phục những RNTL của điều dưỡng, với 5 mức độ lựa chọn: rất cần thiết
(5 điểm), cần thiết (4 điểm), có cũng được không cũng được (3 điểm), không cần
thiết (2 điểm), hoàn toàn không cần thiết (1 điểm).
- Các biện pháp đối với người điều dưỡng: 17 biện pháp.
- Các biện pháp đối với bệnh viện: 11 biện pháp.
- Các biện pháp đối với xã hội: 6 biện pháp.
Thang đánh giá:
Từ 1 điểm đến 1,5 điểm: biện pháp để khắc phục RNTL hoàn toàn không
cần thiết.
Từ 1,51 điểm đến 2,5 điểm: biện pháp để khắc phục RNTL không cần thiết.
Từ 2,51 điểm đến 3,5 điểm: biện pháp để khắc phục RNTL có cũng được,
không có cũng được.
Từ 3,51 điểm đến 4,5 điểm: biện pháp để khắc phục RNTL cần thiết.
Từ 4,51 điểm đến 5 điểm: biện pháp để khắc phục RNTL rất cần thiết.
Chúng tôi phát ra 200 phiếu hỏi cho 200 điều dưỡng của 4 bệnh viện trả lời,
mỗi bệnh viện 50 phiếu. Số phiếu thu về là 200 phiếu, trong đó không có phiếu nào
là không hợp lệ.
54
2.1.2.3. Phương pháp phỏng vấn
Mục đích: Người nghiên cứu tiến hành phỏng vấn một số điều dưỡng của 4
bệnh viện: bệnh viện Phạm Ngọc Thạch, bệnh viện Nhân dân Gia Định, bệnh viện
Nhi đồng 2, bệnh viện Thống Nhất nhằm thu thập thêm thông tin để đánh giá về
mức độ biểu hiện những rối nhiễu lo âu của điều dưỡng viên, đồng thời phân tích
các nguyên nhân của thực trạng.
Khách thể: 9 điều dưỡng viên làm việc tại 4 bệnh viện trên, trong đó có những
điều dưỡng trong độ tuổi từ 20 – 40 tuổi và cũng có những điều dưỡng trong độ tuổi
từ 41 – 55 tuổi.
Cách tiến hành: Trò chuyện, trao đổi trực tiếp với điều dưỡng viên của 4 bệnh
viện được chọn làm khách thể nghiên cứu.
2.1.2.4. Phương pháp thống kê toán học
Sử dụng phương pháp xử lý thống kê bằng phần mềm SPSS 16.0 for window
để tính:
- Tỷ lệ phần trăm, thống kê tần số.
- Điểm trung bình, xếp thứ hạng.
- Kiểm nghiệm T – test.
Mức ý nghĩa thống kê: khoảng tin cậy 95%, α = 0,05.
2.1.2.5. Nghiên cứu điều tra bằng quan sát
Thăm quan các khoa của các bệnh viện, quan sát công việc của các điều
dưỡng; quan sát môi trường, cơ sở vật chất tại bệnh viện.
2.2. Kết quả nghiên cứu thực trạng
Chúng tôi tiến hành nghiên cứu thực trạng RNTL của điều dưỡng viên ở ba
biểu hiện: rối nhiễu lo âu, căng thẳng nghề nghiệp, rối nhiễu nhân cách
2.2.1. Rối nhiễu lo âu của điều dưỡng viên
2.2.1.1. Thực trạng rối nhiễu lo âu của điều dưỡng viên
a. RNLA của điều dưỡng viên bệnh viện biểu hiện qua mặt sinh lý - thể chất
Sinh lý và tâm lý là hai mặt của sức khỏe con người, tác động qua lại, tương
hỗ lẫn nhau. Khi tâm lý của một người bị tổn thương thì thể chất, sức khỏe của họ
55
cũng bị ảnh hưởng. Vì vậy, để phân tích được kỹ những biểu hiện của RNLA ở thể
chất, nhóm nghiên cứu chúng tôi đã điều tra bằng bảng hỏi về sức khỏe – bệnh tật
của khách thể. Kết quả thu được như sau:
Biểu hiện RNLA về mặt sinh lý – thể chất trên toàn mẫu nghiên cứu
Bảng 2.2. Biểu hiện RNLA về mặt sinh lý – thể chất
Rất
Không
Hiếm
Thỉnh
Thường
thường
Thứ
TT
Biểu hiện
bao giờ
khi
thoảng
xuyên
ĐTB
xuyên
hạng
(%)
(%)
(%)
(%)
(%)
1 Rối loạn nhịp thở.
41
37,5
14,5
7
1,88
4
0
2 Rối loạn tiêu hóa.
22,5
35
24,5
18
2,88
2
0
3 Ngủ gặp ác mộng
33
39
15
7
2,15
3
6
4 Nhức mỏi cơ.
12,5
21
28
17,5
21
3,14
1
Điểm trung bình chung
2,515
Qua kết quả bảng 2.2, điểm trung bình chung đạt được 2,515 cho thấy điều
dưỡng thỉnh thoảng gặp những biểu hiện về sinh lý của RNLA, trong đó điểm trung
bình dao động trong khoảng từ 1,88 đến 3,14. Cụ thể, các biểu hiện mà điều dưỡng
cho rằng họ hiếm gặp (có điểm trung bình nhỏ hơn 2,51) là: 1,3. thường xuyên gặp
phải là biểu hiện 4 (có điểm trung bình lớn nhất: 3,14). Những biểu hiện mà điều
dưỡng cho rằng họ thỉnh thoảng gặp (có điểm trung bình lớn hơn 2,51).
"Nhức mỏi cơ" là biểu hiện có điểm trung bình cao nhất 3,14 . 21% điều
dưỡng trả lời rất thường xuyên bị nhức mỏi cơ, phần lớn những người này thuộc lứa
tuổi từ 41 đến 55 hoặc làm ở khoa cấp cứu. Vì tuổi từ 41 trở lên xuất hiện các rối
loạn sinh lý, sẽ dễ gặp những tổn thương về cơ - xương - khớp; mặt khác điều
dưỡng của khoa cấp cứu lúc nào cũng phải khẩn trương, thao tác nhanh nhạy. Theo
như chị L. điều dưỡng khoa cấp cứu – bệnh viện Thống Nhất chia sẻ: "Làm ở khoa
cấp cứu là cứu người hơn cứu hỏa, điều dưỡng đi như chạy. Bệnh nhân đến viện
bao giờ cũng vào cấp cứu đầu tiên sau đó mới chuyển đến các khoa khác cho nên
có ngày chúng tôi phải vận chuyển đến gần 100 ca bệnh". [Phụ lục 2] Nguyên nhân
56
bị nhức mỏi cơ có thể là: sức khỏe bản thân – cơ thể thiếu hụt chất giảm đau. Tuy
nhiên chỉ có 5% điều dưỡng đồng ý "cơ thể bị thiếu hụt một số chất giảm đau" là
nguyên nhân. Khi làm việc tại bệnh viện, phương tiện luôn đi cùng với người điều
dưỡng chính là chiếc xe tiêm, họ phải thường xuyên đẩy xe tới giường bệnh để thực
hiện các thủ thuật cho bệnh nhân. Xe tiêm chứa tất cả các dụng cụ cũng như các
chất thải y tế cho nên tương đối nặng. Ngoài ra vận chuyển bệnh nhân cũng là công
việc của điều dưỡng. Do vậy, điều dưỡng phải luôn chân luôn tay, chủ yếu là đi và
đứng trong công việc. Hình thức vận động như thế này dễ dẫn đến nhức mỏi cơ –
xương – khớp.
Không có điều dưỡng nào trả lời rất thường xuyên bị rối loạn nhịp thở. Điều
dưỡng viên là những người có kiến thức về y học cho nên trước khi chăm sóc sức
khỏe cho người khác thì bản thân họ cũng phải biết điều trị cho mình tránh khỏi
những triệu chứng gây ảnh hưởng xấu đến sức khỏe.
Tóm lại, những biểu hiện RNLA về mặt sinh lý xảy ra ở điều dưỡng viên
không nhiều, phần lớn điều dưỡng bị nhức mỏi cơ và chỉ có 6% thường xuyên ngủ
gặp ác mộng. Có thể nói, trong vai trò người thầy thuốc đem sức khỏe đến cho mọi
người, điều dưỡng đã trang bị cho mình một thể chất tương đối ổn định.
Biểu đồ 2.1. Biểu hiện RNLA về mặt sinh lý – thể chất
RNLA về mặt sinh lý – thể chất trên toàn mẫu nghiên cứu.
57
Dựa vào tổng điểm về mặt sinh lý - thể chất [Phụ lục 3 – Bảng 2.25] và thang
đánh giá [xem trang 48] ta có tỷ lệ mức độ RNLA về mặt sinh lý – thể chất như sau:
Bảng 2.3. Tỷ lệ mức độ RNLA về mặt sinh lý – thể chất
TT Mức độ RNLA sinh lý – thể chất Số lượng Tỷ lệ (%)
Không bị RNLA sinh lý – thể chất 1 146 73
RNLA sinh lý – thể chất nhẹ 40 20 2
RNLA sinh lý – thể chất nặng 3 14 7
Từ bảng 2.3, ta có: 146 điều dưỡng viên không bị RNLA về mặt sinh lý – thể
chất đạt 73%, bên cạnh đó vẫn có 14 điều dưỡng viên bị “RNLA sinh lý nặng”
chiếm 7%. Tức là, khi bắt đầu vào học cũng như khi bắt đầu đi làm, tất cả các điều
dưỡng đều phải trải qua đợt kiểm tra sức khỏe vì điều dưỡng có khỏe mạnh thì mới
chăm sóc được bệnh nhân và họ là những người hoàn toàn khỏe mạnh về thể chất
và thoải mái về tinh thần nhưng trong quá trình làm việc do chịu nhiều yếu tố tác
động nên người điều dưỡng vẫn bị RNLA.
Khái quát lại, từ những phân tích trên cho thấy rằng: RNLA của điều dưỡng
viên về mặt sinh lý – thể chất khi xét trên phương diện từng biểu hiện xuất hiện ở
mẫu khảo sát cho ra kết quả là biểu hiện “nhức mỏi cơ” hay gặp, biểu hiện “rối loạn
nhịp thở” ít gặp. Khi xét trên phương diện cả 4 biều hiện xuất hiện ở từng khách thể
khảo sát thì kết quả cho thấy đa số điều dưỡng viên không bị RNLA về mặt sinh lý
- thể chất, tuy nhiên vẫn còn một tỷ lệ khá lớn điều dưỡng viên bị RNLA về mặt
sinh lý - thể chất ở các mức độ khác nhau.
58
73%
20%
7%
Biểu đồ 2.2. Tỷ lệ mức độ RNLA về mặt sinh lý – thể chất
b. RNLA của điều dưỡng viên bệnh viện biểu hiện qua mặt tâm lý
Biểu hiện RNLA về mặt tâm lý trên toàn mẫu nghiên cứu
Theo lý thuyết những biểu hiện của RNLA về tâm lý là nhiều triệu chứng
nhất. Thực tế, mức độ xuất hiện của các triệu chứng này với người điều dưỡng
như sau:
59
Bảng 2.4. Biểu hiện của RNLA về mặt tâm lý
TT
ĐTB
Thứ hạng
Biểu hiện
Không bao giờ (%)
Hiếm khi (%)
Thỉnh thoảng (%)
Thường xuyên (%)
19,5 35
33 41
34 17
13,5 7
Rất thường xuyên (%) 0 0
2,42 1,96
5 9
1 2
rứt, khó
3,5
27
32,5
12,5
24,5
3
3,28
1
31,5
34,5
23,5
10,5
2,13
0
7
4
42
32,5
24,5
1,84
11
1,0
0
5
Lo lắng vô cớ. Hồi hộp. Bứt chịu. Dễ nổi cáu. Bị mất bình tĩnh và khó tập trung. Dễ dàng khóc. Luôn bị bất an. Không hài lòng. Không tự tin.
29,5 35 12,5 37,5 44
33 33,5 55,5 30,5 37,5
26,5 24,5 32 32 18,5
10 7,0 0 0 0
2,20 2,04 2,20 1,94 1,74
1,0 0 0 0 0
6 8 6 10 13
6 7 8 9 10 Hay thất vọng.
bị
kích
34
53,5
8,5
4
1,82
0
12
11
0
0
54,5
27
18,5
12
1,64
14
0
11
20,5
57,5
11
2,68
3
13
0
49
32,5
14,5
4,0
1,74
12
14
2
8
33,5
27
17,5
14
2,96
15
6
23,5
42
16
12
6,5
2,36
16
19
35
23,5
22,5
0
2,50
4
17
2,0
Dễ động. Luôn cho rằng đám đông nói xấu mình. nhớ Thường trước, quên sau. Luôn nghĩ đến điều những không có thực. Ít đến chỗ đông người. Không tham gia vào các hoạt động tập thể. Tránh tiếp xúc với người mà cho là sẽ gây ra nỗi sợ hãi. Điểm trung bình chung
60
Dựa vào bảng 2.4, ta thấy: nhìn chung điều dưỡng hiếm khi gặp các RNLA
về mặt tâm lý, mức độ xuất hiện các biểu hiện RNLA tâm lý ít hơn cả RNLA sinh
lý, điểm trung bình chung chỉ đạt 2,0. Trong đó biểu hiện: “Nhìn thấy đám đông tụ
tập bàn tán thì người điều dưỡng cho rằng họ đang nói xấu mình” điểm trung bình
thấp nhất: 1,64; có đến 54,5% điều dưỡng trả lời không bao giờ nghĩ rằng đám đông
tụ tập đang nói xấu mình. Biểu hiện “Cảm thấy bứt rứt, khó chịu” xếp hạng đầu tiên
với điểm trung bình là 3,28. Bứt rứt, khó chịu cũng là cảm giác thường xảy ra với
nhiều người do áp lực công việc, áp lực cuộc sống hay vấn đề thời tiết, khí hậu
không thuận lợi. “Lo lắng vô cớ, hồi hộp, dễ nổi cáu, luôn bị mất bình tĩnh và khó
tập trung, bất an, không hài lòng, không tự tin, hay thất vọng, dễ bị kích động, nhìn
thấy đám đông tụ tập thì cho rằng họ đang nói xấu mình, thường nhớ trước quên
sau, luôn nghĩ đến những điều không có thực, tránh tiếp xúc với người mà cho rằng
sẽ gây ra nỗi sợ hãi” là những biểu hiện tâm lý của RNLA mà không một điều
dưỡng nào trả lời là “rất thường xuyên xảy ra với mình”. Hầu hết các biểu hiện
RNLA tâm lý đều hiếm khi xảy ra với người điều dưỡng. Khi trả lời bảng hỏi, tỷ lệ
điều dưỡng viên chọn cột “hiếm khi” trong các cột chỉ mức độ xuất hiện các trạng
thái tâm lý là cao nhất.
RNLA về mặt tâm lý trên toàn mẫu nghiên cứu.
Dựa vào tổng điểm về mặt tâm lý [Phụ lục 3 – Bảng 2.26] và thang đánh giá
[xem trang 48] ta có tỷ lệ mức độ RNLA về mặt tâm lý như sau:
Bảng 2.5. Tỷ lệ mức độ RNLA về mặt tâm lý
Mức độ RNLA tâm lý Không bị RNLA tâm lý RNLA tâm lý nhẹ RNLA tâm lý nặng TT 1 2 3 Số lượng 139 61 0 Tỷ lệ (%) 69,5 30,5 0
Từ bảng 2.5, ta có: 146 điều dưỡng viên không bị RNLA về mặt tâm lý đạt
69,5%; bên cạnh đó không có điều dưỡng viên nào bị “RNLA tâm lý nặng”; có
61/200 mẫu khảo sát, chiếm 30,5% bị “RNLA tâm lý nhẹ”.Tức là, nhân viên điều
dưỡng từ khi làm việc tại bệnh viên thì tâm lý cũng có sự thay đổi.
61
Khái quát lại, từ những phân tích trên cho thấy rằng: RNLA của điều dưỡng
viên về mặt tâm lý khi xét trên phương diện từng biểu hiện xuất hiện ở mẫu khảo
sát cho ra kết quả là các biểu hiện “bứt rứt, khó chịu; nhớ trước quên sau; ít đến chỗ
đông người” hay gặp, các biểu hiện “luôn cho rằng đám đông đang nói xấu mình,
nghĩ đến điều không có thực, hay thất vọng” ít gặp. Khi xét trên phương diện cả 17
biều hiện xuất hiện ở từng khách thể khảo sát thì kết quả cho thấy đa số điều dưỡng
viên không bị RNLA về mặt tâm lý, tuy nhiên vẫn còn một tỷ lệ khá lớn điều dưỡng
viên bị RNLA về mặt tâm lý.
69,5%
30,5%
Biểu đồ 2.3. Tỷ lệ mức độ RNLA về mặt tâm lý
c. So sánh sự khác biệt RNLA theo lứa tuổi và khoa làm việc
Bảng 2.6. Sự khác biệt RNLA theo lứa tuổi và khoa làm việc
RNLA Sinh lý – thể chất Tâm lý
9,53 40,01 Từ 20 – 40 tuổi Lứa 9,62 40,86 Từ 41 – 55 tuổi tuổi Mức ý nghĩa KĐ T - Test 0,882 0,456
10,26 40,72 Nội
9,38 39,72 Ngoại
Mức ý nghĩa KĐ T - Test 0,121 0,345 Khoa
9,65 41,24 làm việc Nhi
8,93 39,70 Cấp cứu
Mức ý nghĩa KĐ T - Test 0,418 0,311
62
• RNLA về mặt sinh lý – thể chất
So sánh theo lứa tuổi
Kết quả kiểm định T – Test trong bảng 2.6, cho thấy giá trị p (trong kiểm
định t) > 0,05 nghĩa là không có sự khác biệt có ý nghĩa về trung bình giữa 2 nhóm
khách thể điều dưỡng khi xét đến yếu tố lứa tuổi. Như vậy, không có sự khác biệt
về RNLA sinh lý – thể chất khi xét với biến lứa tuổi. Điểm trung bình nhóm có lứa
tuổi từ 20 - 40 tuổi là 9,53 thấp hơn điểm trung bình nhóm có lứa tuổi từ 41 - 55 là
9,62. Đặc điểm này cũng dễ lý giải, nhóm khách thể lớn tuổi có những điều dưỡng
sắp phải về hưu, nếu là người yêu công việc thì tâm lý họ chưa thực sự sẵn sàng cho
việc này nhưng lại luôn nghĩ đến nên có thể trong mọi chuyện sẽ nhạy cảm, mềm
yếu hơn và hay lo lắng hơn. Hai giá trị điểm trung bình đó đều nhỏ hơn điểm trung
bình lý thuyết lý tưởng là 10 [xem trang 48] nghĩa là những điều dưỡng thuộc 2
nhóm lứa tuổi này đều không bị RNLA sinh lý – thể chất.
So sánh theo khoa làm việc
Đối với 2 khoa: Nội và Ngoại
Từ kết quả ở bảng 2.6, ta thấy điểm trung bình RNLA sinh lý của khoa Nội
là 10,62 > điểm trung bình lý thuyết lý tưởng là 10 và điểm trung bình RNLA sinh
lý của khoa Ngoại là 9,38 > điểm trung bình lý thuyết lý tưởng là 10, giá trị p (trong
kiểm định t) 0,121 > 0,05. Do đó, không có sự khác biệt có ý nghĩa về trung bình
giữa 2 nhóm khách thể điều dưỡng khi xét đến yếu tố khoa làm việc. Điều dưỡng
Nội bị RNLA sinh lý ở mức rất nhẹ, điều dưỡng Ngoại không bị RNLA sinh lý.
Đối với 2 khoa: Nhi và Cấp cứu
Kết quả kiểm định T – Test ở bảng 2.6 có giá trị p = 0,481(trong kiểm định t)
> 0,05 nghĩa là không có sự khác biệt có ý nghĩa về trung bình giữa 2 nhóm khách
thể điều dưỡng của khoa Nhi và khoa Cấp cứu. Điểm trung bình RNLA sinh lý của
điều dưỡng ở 2 khoa này đều nhỏ hơn điểm trung bình lý thuyết lý tưởng là 10. Như
vậy, từ số liệu điểm trung bình, giá trị p của kiểm định T – Test, ta thấy, điều dưỡng
Nhi và điều dưỡng Cấp cứu không có sự khác biệt về RNLA sinh lý và cả 2 nhóm
khách thể này đều không bị RNLA sinh lý.
63
• RNLA về mặt tâm lý
So sánh theo lứa tuổi
Từ kết quả ở bảng 2.6, điểm trung bình RNLA tâm lý của 2 nhóm tuổi tương
đương nhau, giá trị p > 0,05. Nghĩa là, mức độ RNLA tâm lý của nhóm lứa tuổi 20
– 40 tuổi không khác biệt với nhóm lứa tuổi từ 41 – 55 tuổi. Như vậy, điều kiện làm
việc có tác động lớn đến 2 nhóm khách thể này. Mặc dù lứa tuổi khác nhau nhưng
cùng làm chung trong môi trường bệnh viện nên các điều dưỡng có biểu hiện
RNLA tâm lý gần giống nhau.
So sánh theo khoa làm việc
Đối với 2 khoa: Nội và Ngoại
Qua bảng 2.6 cho biết kết quả kiểm định T – Test ở bảng 2.6 có giá trị p =
0,481(trong kiểm định t) > 0,05 nghĩa là không có sự khác biệt có ý nghĩa về trung
bình giữa 2 nhóm khách thể điều dưỡng khi xét theo yếu tố khoa. Tuy nhiên điểm
trung bình RNLA tâm lý của điều dưỡng khoa Nội cao hơn, tức là mức độ RNLA
của điều dưỡng Nội khoa cao hơn điều dưỡng Ngoại khoa không chỉ ở mặt sinh lý
mà còn ở cả mặt tâm lý. Nguyên nhân có thể kể đến là do đặc trưng của công việc
từng khoa. Khoa Nội thường tiếp nhận những bệnh nhân điều trị lâu dài nên họ dễ
gặp căng thẳng, dễ nảy sinh cáu gắt sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến người điều dưỡng vì
điều dưỡng viên tiếp xúc với bệnh nhân nhiều nhất. Bệnh nhân đến với khoa Ngoại
là cần những can thiệp ngoại khoa, sau khi các can thiệp này kết thúc 7 đến 10 ngày
người bệnh có thể xuất viện hoặc chuyển sang khoa Nội để điều trị. Như vậy, so với
khoa Nội, thời gian bệnh nhân ở lại khoa Ngoại chữa trị sẽ ngắn hơn mà bệnh nhân
đến viện chỉ mong sớm khỏi bệnh để về nên nếu không phải nằm lâu thì người bệnh
sẽ bớt lo lắng, tinh thần thoải mái, giao tiếp với điều dưỡng dễ chịu, do đó người
điều dưỡng khoa Ngoại nhìn chung sẽ ít bị RNLA hơn.
Đối với 2 khoa: Nhi và Cấp cứu
Kết quả kiểm định T – Test ở bảng 2.6 có giá trị p = 0,311 (trong kiểm định
t) > 0,05 nghĩa là không có sự khác biệt có ý nghĩa về trung bình giữa 2 nhóm
khách thể điều dưỡng của khoa Nhi và khoa Cấp cứu. Điểm trung bình RNLA tâm
64
lý của điều dưỡng ở khoa Nhi và khoa Cấp cứu lần lượt là 41,24 và 39,70 đều nhỏ
hơn điểm trung bình lý thuyết lý tưởng 42,5 [xem trang 48] . Như vậy, từ số liệu
điểm trung bình, giá trị p của kiểm định T – Test, ta thấy, điều dưỡng Nhi và điều
dưỡng Cấp cứu không có sự khác biệt về RNLA tâm lý và cả 2 nhóm khách thể này
đều không bị RNLA tâm lý.
2.2.1.2. Nguyên nhân rối nhiễu lo âu của điều dưỡng viên
a. Nguyên nhân chủ quan
Bảng 2.7. Những nguyên nhân chủ quan của RNLA
ĐTB TT Nguyên nhân Thứ hạng Đồng ý (%) Phân vân (%) Không đồng ý (%) Rất đồng ý (%)
1 Người thân bị RNLA. 30,5 13 4 0 1,68 Hoàn toàn không đồng ý (%) 52,5 6
Gặp phải những vấn đề 21 30,5 19,5 20,5 8,5 2 2,65 1 không tốt về sức khỏe.
Cơ thể bị thiếu hụt một
3 số chất có tác dụng giảm 58,5 25 11,5 5 0 1,63 7
đau.
Gặp những thất bại trong 41 39,5 9 10,5 0 1,89 4 2 chuyện tình cảm.
45 40,5 0 14,5 0 1,84 5 Bị mất người thân. 3
Thời ấu thơ đã trải qua 42,5 40 13 4,5 0 1,80 6 5 nhiều nỗi sợ hãi.
Cuộc sống gia đình có 36,5 45 18,5 0 0 1,82 7 4 nhiều áp lực.
Điểm trung bình chung 1,82
Qua kết quả phân tích nguyên nhân chủ quan, ta thấy điểm trung bình chung
của nhóm những nguyên nhân chủ quan là : 1,82. Như vậy, điều dưỡng đều không
đồng ý rằng những RNLA của bản thân có khả năng chịu tác động từ những yếu tố
65
chủ quan. Trong đó, điểm trung bình của 7 nguyên nhân này dao động trong khoảng
từ 1,63 đến 2,65.
Những số liệu trong bảng 2.12 cho thấy, “Gặp phải những vấn đề không tốt
về sức khỏe” là nguyên nhân có điểm trung bình cao nhất 2,65; ngoại trừ nguyên
nhân này có 8,5% điều dưỡng lựa chọn "rất đồng ý", các nguyên nhân còn lại không
có điều dưỡng nào lựa chọn "rất đồng ý". 10,5% điều dưỡng "đồng ý" với nguyên
nhân "Gặp thất bại trong chuyện tình cảm". Thực tế này dễ lý giải, với người bệnh
nhân viên y tế phải có mặt bên cạnh 24/24, điều dưỡng làm theo ca kíp nên những
ngày nghỉ của những đối tượng khác thì họ vẫn phải đi làm, không có thời gian
chung vui cùng người thân của mình trong các dịp lễ - tết. Nếu người thân hiểu và
thông cảm sẽ không sao, nhưng nếu không hiểu thì vấn đề tình cảm của điều dưỡng
có thể thất bại dẫn đến tâm trạng lo âu, buồn chán. Chia sẻ về thực trạng khó giải
quyết này của nghề điều dưỡng, chị V.T.T.H – bệnh viện Nhân dân Gia Định ngậm
ngùi: “Vào làm ở đây, công việc quần quật lại vô cớ bị chửi, các em chỉ biết khóc.
Mong ước lớn nhất của điều dưỡng là được nghỉ ngơi thứ bảy - chủ nhật nhưng
không được. Cứ ngày lễ là ngày mà điều dưỡng phải tối mặt mũi vì tai nạn nhiều,
bệnh tăng. Mặc dù, lãnh đạo bệnh viện đã rất ưu ái cho anh em điều dưỡng nhưng
không thể bù đắp được, nhất là về vấn đề tổn thương trong tình cảm. Thời gian qua
đi, tuổi trẻ không còn, nhiều bạn trẻ sợ “ế” và thực tế không ít trường hợp như thế
trong giới điều dưỡng”.[Phụ lục 2] 58,5% điều dưỡng “hoàn toàn không đồng ý”
với nguyên nhân “Cơ thể bị thiếu hụt một số chất có tác dụng giảm đau”, tức là hầu
hết các điều dưỡng đều có cấu tạo cơ thể bình thường, đủ khả năng thực hiện công
việc chăm sóc sức khỏe cộng đồng.
b. Nguyên nhân khách quan
Chỉ có một nguyên nhân khách quan mà đề tài đưa ra để khảo sát mẫu là:
“Thường xuyên phải đối mặt với cuộc sống mưu sinh khắc nghiệt” gây nên RNLA
của người điều dưỡng được khảo sát. Kết quả: điểm trung bình 2,30 tức là điều
dưỡng không đồng ý đây là nguyên nhân. Trong đó, 61% điều dưỡng hoàn toàn
không đồng ý và không đồng ý với nguyên nhân này, chỉ có 17% điều dưỡng đồng
66
ý cho rằng đây là nguyên nhân khách quan tác động đến một vài triệu chứng của
RNLA mà họ gặp phải.
Tóm lại, trong các nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan như đã
phân tích có nguyên nhân tác động trực tiếp, có nguyên nhân tác động gián tiếp làm
xuất hiện RNLA ở điều dưỡng viên. Những biện pháp này có thể khắc phục được từ
phía bản thân người điều dưỡng, từ bệnh viện và từ xã hội. Việc làm mất hoặc làm
giảm nguyên nhân gây RNLA là cần thiết để điều dưỡng hoàn toàn khỏe mạnh mới
có thể chăm sóc sức khỏe cho mọi người được. Đặc biệt những điều dưỡng viên
được chọn làm mẫu nghiên cứu đang làm việc tại 4 bệnh viện lớn luôn tập trung
đông bệnh nhân cho nên yêu cầu có giải pháp lại càng cấp thiết.
2.2.2. Căng thẳng nghề nghiệp của điều dưỡng viên
2.2.2.1. Thực trạng căng thẳng nghề nghiệp của điều dưỡng viên
a. CTNN của điều dưỡng viên bệnh viện biểu hiện qua mặt sinh lý – thể chất
Biểu hiện CTNN về mặt sinh lý – thể chất trên toàn mẫu nghiên cứu
Bảng 2.8. Biểu hiện CTNN về mặt sinh lý – thể chất
TT Biểu hiện ĐTB Thứ hạng Thường xuyên (%) Thỉnh thoảng (%) Hiếm khi (%) Không bao giờ (%) Rất thường xuyên (%)
1 0 29 26,5 22,5 22 3,38 2
2 0 22,5 37,5 35,5 4,5 3,02 5
3 0 3,5 24 40 32,5 3,22 3
4 0 18 34,5 30 17,5 3,47 1 Đau nhức mỗi khi kết thúc công việc. Quá mệt mỏi khi phải làm hài lòng tượng nhiều đối khác nhau trong công việc. Những mùi đặc của bệnh trưng viện làm ngột ngạt, khó chịu… Giảm cân từ khi làm tại bệnh viện.
67
5 11 18 41 17,5 12,5 3,02 4
6 28,5 24 24 18 5,5 2,48 6
tai nạn nghề 7 47,5 40 12,5 0 1,65 7 0
8 0 94 6 0 0 1,06 8 Cứ nghĩ đến việc phải đi làm là thấy đau đầu. Mất ngủ khi phải xuyên thường chứng kiến những cái chết của bệnh nhân. Bị nghiệp. Bị lây bệnh từ bệnh nhân.
Điểm trung bình chung 3,02
Kết quả các số liệu ở bảng 2.8, điểm trung bình chung đạt 3,02 cho thấy điều
dưỡng thỉnh thoảng bị CTNN về mặt sinh lý – thể chất, trong đó điểm trung bình
dao động từ 1,06 đến 3,47. Cụ thể: biểu hiện mà điều dưỡng cho rằng thỉnh thoảng
gặp (có điểm trung bình lớn hơn 2,51) là các biểu hiện: 1, 2, 3, 4, 5 và tiêu chí mà
điều dưỡng cho rằng hiếm khi gặp (có điểm trung bình lớn hơn 1,51) là hai biểu
hiện: 6, 7; riêng biểu hiện 8 điều dưỡng trả lời không bao giờ gặp (điểm trung bình
1,06 < 1,5).
Biểu hiện CTNN 4 “Giảm cân từ khi làm tại bệnh viện” là biểu hiện có điểm
trung bình cao nhất 3,47 có 47,5% điều dưỡng cho rằng họ rất thường xuyên và
thường xuyên bị giảm cân từ khi làm điều dưỡng viên bệnh viện và 34,5% thỉnh
thoảng bị giảm cân, chỉ có 18% là hiếm khi bị giảm cân. Trực đêm, thức đêm, giờ
giấc nghỉ ngơi không ổn định là đặc trưng của nghề điều dưỡng mà không ngủ đúng
giờ, thời gian ngủ ít là nguyên nhân cơ bản hàng đầu của việc bị giảm cân. Làm
theo ca kíp nên điều dưỡng không chỉ ngủ hạn chế mà còn phải ăn vội vàng để rồi
tiếp tục công việc, điều dưỡng H – bệnh viện Nhi đồng 2 nói vui: “Nếu như trước
kia tụi mình đi học phải ăn tranh thủ - ngủ khẩn trương thì bây giờ đi làm, điệp khúc
đó lại lặp lại cho nên chẳng ai tăng cân được”[Phụ lục 2]. Ăn và ngủ là hai yếu tố cơ
bản giúp con người thay đổi cân nặng của mình. Với điều dưỡng, hai yếu tố này đều
68
không được thực hiện khoa học, do đó chắc chắn sẽ bị giảm cân. Như vậy, hoạt
động đặc thù của nghề nghiệp đã trở thành nguyên nhân làm giảm sức khỏe người
điều dưỡng. Sức khỏe giảm không chỉ biểu hiện ở việc bị giảm cân mà còn biểu
hiện ở hiện tượng đau nhức toàn thân, có 44,5% điều dưỡng trả lời là thường xuyên
và rất thường xuyên: “Đau nhức mỗi khi kết thúc công việc”, biểu hiện này có điểm
trung bình khá cao 3,38.
Không có điều dưỡng nào trả lời là không bao giờ mắc phải các triệu chứng:
“Đau nhức mỗi khi kết thúc công việc; mệt mỏi khi phải làm hài lòng nhiều đối
tượng khác nhau, như: đồng nghiệp, bệnh nhân, người nhà bệnh nhân...; Những mùi
đặc trưng của bệnh viện làm ngột ngạt, khó chịu…, giảm cân từ khi làm ở bệnh
viện, bị lây bệnh từ bệnh nhân”. Cao nhất là 32,5% điều dưỡng rất thường xuyên bị
ngột ngạt, khó chịu vì mùi của bệnh viện. Biểu hiện 8 “Bị lây bệnh từ bệnh nhân”
đạt điểm trung bình thấp nhất 1,06; không điều dưỡng nào thường xuyên hoặc rất
thường xuyên mắc phải biểu hiện này. Bệnh nhân đa dạng về loại bệnh, khả năng
xảy ra rủi ro nghề nghiệp với người điều dưỡng tương đối cao. Như bệnh viện Phạm
Ngọc Thạch là bệnh viện chuyên khoa lao phổi, chỉ cần nói chuyện trực tiếp với
người bệnh là có thể lây bệnh, dịch tiết bệnh nhân cũng là yếu tố nguy cơ truyền
bệnh. Trong khi đó, điều dưỡng là nhân viên y tế tiếp xúc với người bệnh nhiều
nhất nhưng 94% điều dưỡng không bị lây bệnh. Có thể nói, điều dưỡng viên luôn
biết cách bảo vệ sức khỏe cho mình và người khác, thận trọng trong công việc.
Biểu đồ 2.4. Biểu hiện CTNN về mặt sinh lý – thể chất
69
CTNN về mặt sinh lý – thể chất trên toàn mẫu nghiên cứu
Dựa vào tổng điểm về mặt sinh lý - thể chất [Phụ lục 3 – Bảng 2.27] và thang
đánh giá [xem trang 50] ta có tỷ lệ mức độ CTNN về mặt sinh lý – thể chất như sau:
Bảng 2.9. Tỷ lệ mức độ CTNN về mặt sinh lý – thể chất
TT Mức độ CTNN sinh lý – thể chất Số lượng Tỷ lệ (%)
1 Không bị CTNN sinh lý – thể chất 80 40
2 CTNN sinh lý – thể chất nhẹ 119 59,5
3 CTNN sinh lý – thể chất nặng 1 0,5
Từ bảng 2.9, ta có: 80 điều dưỡng viên không bị CTNN về mặt sinh lý – thể
chất đạt 40%, và chỉ có một điều dưỡng viên bị “CTNN sinh lý nặng” chiếm 0,5%.
Và phần lớn nhân viên điều dưỡng rơi vào trạng thái “CTNN sinh lý nhẹ”, có tới
119/200 mẫu khảo sát. So sánh với RNLA sinh lý, tính phổ biến của CTNN sinh lý
ở điều dưỡng cao hơn. Như vậy, công việc có tác động lớn đến sức khỏe sinh lý của
người điều dưỡng.
Khái quát lại, từ những phân tích trên cho thấy rằng: CTNN của điều dưỡng
viên về mặt sinh lý – thể chất khi xét trên phương diện từng biểu hiện xuất hiện ở
mẫu khảo sát cho ra kết quả là các biểu hiện “giảm cân; đau nhức” hay gặp, các
biểu hiện “lây nhiễm, mất ngủ” ít gặp. Khi xét trên phương diện cả 8 biều hiện xuất
hiện ở từng khách thể khảo sát thì kết quả cho thấy đa số điều dưỡng viên thỉnh
thoảng bị CTNN về mặt sinh lý – thể chất, vẫn còn một tỷ lệ khá lớn điều dưỡng
viên bị CTNN về mặt sinh lý – thể chất.
50,5%
40%
0,5%
Biểu đồ 2.5. Tỷ lệ mức độ CTNN về mặt sinh lý – thể chất
70
b. CTNN của điều dưỡng viên bệnh viện biểu hiện qua mặt tâm lý
Biểu hiện CTNN về mặt tâm lý trên toàn mẫu nghiên cứu
Bảng 2.10. Biểu hiện CTNN về mặt tâm lý
ĐTB TT Biểu hiện Thứ hạng Thường xuyên (%) Thỉnh thoảng (%) Hiếm khi (%) Không bao giờ (%) Rất thường xuyên (%) Nhàm chán vì
1 tính đơn điệu 6 30 29,5 17 17,5 3,10 5
của công việc.
Khi làm việc,
2 chỉ mong đến 0 16,5 23 42 18,5 3,62 1
giờ nghỉ.
Mất hết nhiệt
3 huyết và đam 11 29 41,5 18,5 0 2,68 9
mê làm việc.
Sẵn sàng bỏ việc
này nếu có công 12 11,5 34 18 24,5 3,32 3 4 việc khác thay
thế.
Làm việc giống 11 28,5 18 30,5 12 3,04 7 5 như cái máy.
Bị mất tập trung 29 41,5 24 5,5 0 2,06 13 6 khi làm việc.
Không chịu
đựng được thời 0 12 37,5 28 22,5 3,61 2 7 gian làm việc
thất thường.
71
Không còn hứng
8 thú sáng tạo 12 12,5 41,5 23 11 3,08 6
trong công việc.
Luôn bị phân
9 tâm khi làm 19 34,5 35 6 5,5 2,44 10
việc.
10 Muốn đổi nghề. 11 12 30,5 29,5 17 3,30 4
Hay cáu kỉnh 34,5 23 21,5 11 0 2,19 12 11 với đồng nghiệp.
Ngại giao tiếp
với mọi người 12,5 22,5 41,5 18 5,5 2,82 8 12 trong quá trình
làm việc.
Không hứng thú
với các hoạt 25 29 35 5,5 5,5 2,38 11 13 động của
khoa/bệnh viện.
Không còn
muốn quan tâm
đến các mối 47,5 28 18,5 6 0 14 1,83 14 quan hệ trong
khoa/bệnh viện
nữa.
Điểm trung bình chung 2,93
Từ số liệu ở bảng 2.10, điểm trung bình chung 2,93 tức là điều dưỡng thỉnh
thoảng bị CTNN về mặt tâm lý, trong đó điểm trung bình dao động từ 1,83 đến
3,62. Cụ thể: tiêu chí mà điều dưỡng cho rằng thỉnh thoảng gặp (có điểm trung
72
trong khoảng 2,51 đến 3,5) là các biểu hiện: 1, 2, 3, 4, 5, 7, 8, 10, 12, và tiêu chí mà
điều dưỡng cho rằng hiếm khi gặp (có điểm trung bình trong khoảng 1,51 đến 2,5)
là các biểu hiện: 6, 9, 11, 13, 14.
Những CTNN xếp ở thứ hạng trên trung bình (từ thứ hạng 1 đến thứ hạng 7)
mà điều dưỡng hay gặp là: nhàm chán công việc, không chịu được thời gian làm
việc thất thường, không còn hứng thú sáng tạo khi làm việc.
Biểu hiện 2 “Khi làm việc chỉ mong đến giờ nghỉ” xếp hạng đầu tiên với
điểm trung bình 3,62 và 42% điều dưỡng đều trả lời thường xuyên có trạng thái cảm
xúc này, đặc biệt là khi bị quá tải công việc. Nhu cầu này của điều dưỡng xuất phát
từ tính chất của công việc, 35% điều dưỡng rất đồng ý, 54% điều dưỡng đồng ý với
nguyên nhân “Công việc phải làm triền miên”. [Bảng 2.13] Qua quan sát, chúng tôi
nhận thấy công việc của một điều dưỡng bệnh viện Thống Nhất trong ngày thường
là: 7h sáng họp giao ban khoa sau đó nhận hồ sơ bệnh án, kiểm thuốc, chuẩn bị xe
tiêm. 8h đẩy xe đến buồng bệnh làm thủ thuật tiêm, truyền, thay băng... cho người
bệnh. Trung bình một điều dưỡng phụ trách từ 5 đến 6 buồng bệnh, tương ứng từ 15
đến 20 bệnh nhân, do đó sớm nhất là 10h điều dưỡng mới có thể đẩy xe tiêm về và
phải trực tiếp phân loại, xử lý các loại chất thải, dịch tiết của bệnh nhân trên xe
tiêm. Khoảng 11h điều dưỡng lại ngồi viết hồ sơ bệnh án. 12h họ mới được nghỉ
trưa ăn cơm trong vòng 1 tiếng, nhiều người chưa xong việc thì tranh thủ 30 phút
ngủ trưa để ăn. Điều dưỡng còn phải thay nhau trực trưa. 1h chiều họ lại tiếp tục
công việc như buổi sáng. Trong quá trình làm việc độc lập mà có bệnh nhân mới
chuyển đến, hay y lệnh khẩn của bác sĩ thì điều dưỡng phải thực hiện trước. Theo
giờ làm việc thì 4h là điều dưỡng có thể về nhưng nhiều khoa 6h mà vẫn đông đảo
điều dưỡng ở lại vì chưa xong việc thì chưa về. Ngày trực thì chỉ có 2 điều dưỡng
làm việc 24/24 với gần 100 bệnh nhân trong một khoa.
Chính vì tần suất công việc cao độ như vậy nên 30,5% điều dưỡng được
khảo sát nhận thấy rằng mình thường xuyên: “Làm việc giống như cái máy” và có
đến 29,5% điều dưỡng thường xuyên: “Muốn đổi nghề”, 24,5% điều dưỡng rất
thường xuyên: “Sẵn sàng bỏ việc này nếu có công việc khác thay thế”. Thực tế
73
“chảy máu” điều dưỡng tại các bệnh viện công hiện nay còn do áp lực công việc
quá lớn. Điều dưỡng tuyển vào rồi lại đi đã trở thành điệp khúc lặp lại nhiều lần. Lý
giải vấn đề này, điều dưỡng trưởng V.T.T.H – bệnh viện Nhi đồng 2 giải thích:
“Bệnh nhân ngày càng đông, tỷ lệ bệnh nặng lại tăng gây áp lực trong môi trường
làm việc người điều dưỡng. Trước đây, bệnh nặng ở phòng hồi sức chỉ 45 bệnh/kíp
trực nhưng bây giờ đã lên 60 ca bệnh nặng/kíp, rất áp lực nên nhiều em đã xin
nghỉ”. Theo thống kê của Bộ Y tế, tỷ lệ bác sĩ so với nhân viên điều dưỡng, hộ sinh
tại các bệnh viện mới đạt 1/1,65, như vậy còn thiếu từ 40 đến 60 nghìn điều dưỡng
viên. Thế nhưng, tỷ lệ điều dưỡng viên có trình độ cao đẳng, đại học mới đạt 6%.
Hầu hết, hơn 50 trường Đại học – Cao đẳng – Trung cấp chuyên nghiệp có đào tạo
ngành điều dưỡng đều tuyển một lượng lớn chỉ tiêu cho ngành này nhưng khi ra
trường số làm đúng ngành khá ít. Tuy được ưu ái với chế độ làm việc chỉ 7
tiếng/ngày với khoa làm theo 3 ca 4 kíp, phụ cấp độc hại nhiều hơn… nhưng bệnh
viện Phạm Ngọc Thạch đang đối mặt với bài toán hóc búa: không có điều dưỡng
nào muốn về làm.
CTNN về mặt tâm lý trên toàn mẫu nghiên cứu
Dựa vào tổng điểm CTNN về mặt tâm lý [Phụ lục 3 – Bảng 2.28] và thang
đánh giá [xem trang 50] ta có tỷ lệ mức độ CTNN về mặt tâm lý như sau:
Bảng 2.11. Tỷ lệ mức độ CTNN về mặt tâm lý
TT Mức độ CTNN tâm lý Số lượng Tỷ lệ (%)
Không bị CTNN tâm lý 1 95 47,5
CTNN tâm lý nhẹ 105 52,5 2
CTNN tâm lý nặng 3 0 0
Từ bảng 2.11, ta có: 95 điều dưỡng viên không bị CTNN về mặt tâm lý đạt
47,5%; bên cạnh đó không có điều dưỡng viên nào bị “CTNN tâm lý nặng”; có
105/200 mẫu khảo sát, chiếm 52,5,5% bị “CTNN tâm lý nhẹ”. Như tỷ lệ điều dưỡng
viên bị CTNN tâm lý cao hơn điều dưỡng viên bị RNLA tâm lý.
74
Khái quát lại, từ những phân tích trên cho thấy rằng: CTNN của điều dưỡng
viên về mặt tâm lý khi xét trên phương diện từng biểu hiện xuất hiện ở mẫu khảo
sát cho ra kết quả là các biểu hiện “nhàm chán công việc, không chịu được thời gian
làm việc thất thường, không còn hứng thú sáng tạo khi làm việc” hay gặp, các biểu
hiện “không quan tâm đến các mối quan hệ, cáu với đồng nghiệp, mất tập trung khi
làm việc” ít gặp. Khi xét trên phương diện cả 14 biều hiện xuất hiện ở từng khách
thể khảo sát thì kết quả cho thấy điều dưỡng viên thỉnh thoảng bị CTNN về mặt
tâm lý, vẫn còn một tỷ lệ khá lớn điều dưỡng viên bị CTNN về mặt tâm lý.
52,5%
47,5%
Biểu đồ 2.6. Tỷ lệ mức độ CTNN về mặt tâm lý
c. So sánh sự khác biệt CTNN theo lứa tuổi và khoa làm việc
Bảng 2.12. Sự khác biệt CTNN theo lứa tuổi và khoa làm việc
CTNN Sinh lý Tâm lý
21,29 35,85 Từ 20 – 40 tuổi Lứa 21,34 37,90 Từ 41 – 55 tuổi tuổi Mức ý nghĩa KĐ T - Test 0,982 0,037
21,16 35,57 Nội
21,85 36,80 Ngoại
Mức ý nghĩa KĐ T - Test 0,229 0,227 Khoa
21 36 làm việc Nhi
20,97 35,92 Cấp cứu
Mức ý nghĩa KĐ T - Test 0,971 0,955
75
• CTNN về mặt sinh lý – thể chất
So sánh theo lứa tuổi
Kết quả kiểm định T – Test trong bảng 2.12, cho thấy giá trị p (trong kiểm
định t) > 0,05 nghĩa là không có sự khác biệt có ý nghĩa về trung bình giữa 2 nhóm
khách thể điều dưỡng khi xét đến yếu tố lứa tuổi. Như vậy, không có sự khác biệt
về CTNN sinh lý – thể chất khi xét với biến lứa tuổi. Điểm trung bình nhóm có lứa
tuổi từ 20 - 40 tuổi là 21,29 thấp hơn điểm trung bình nhóm có lứa tuổi từ 41 - 55 là
21,34 và 2 nhóm khách thể này đều có điểm trung bình cao hơn điểm trung bình lý
thuyết lý tưởng là 20 [xem trang 50]. Do đó, 2 nhóm khách thể khảo sát đều bị
CTNN sinh lý nhẹ, trong đó nhóm điều dưỡng lớn tuổi bị CTNN sinh lý ở mức độ
cao hơn nhóm điều dưỡng nhỏ tuổi.
So sánh theo khoa làm việc
Đối với 2 khoa: Nội và Ngoại
Từ kết quả ở bảng 2.12, ta thấy điểm trung bình CTNN sinh lý của khoa Nội
là 21,16 > điểm trung bình lý thuyết lý tưởng 20 và điểm trung bình CTNN sinh lý
của khoa Ngoại là 21,85 > điểm trung bình lý thuyết lý tưởng 20, giá trị p (trong
kiểm định t) 0,229 > 0,05. Do đó, không có sự khác biệt có ý nghĩa về trung bình
giữa 2 nhóm khách thể điều dưỡng khi xét đến yếu tố khoa làm việc. Điều dưỡng
Nội và Ngoại đều bị CTNN sinh lý ở mức nhẹ, trong đó điều dưỡng Ngoại bị
CTNN sinh lý cao hơn điều dưỡng Nội.
Đối với 2 khoa: Nhi và Cấp cứu
Kết quả kiểm định T – Test ở bảng 2.12 có giá trị p = 0,971 (trong kiểm định
t) > 0,05 nghĩa là không có sự khác biệt có ý nghĩa về trung bình giữa 2 nhóm
khách thể điều dưỡng của khoa Nhi và khoa Cấp cứu. Điểm trung bình CTNN sinh
lý của điều dưỡng ở 2 khoa này đều cao hơn điểm trung bình lý thuyết lý tưởng 20.
Như vậy, từ số liệu điểm trung bình, giá trị p của kiểm định T – Test, ta thấy, điều
dưỡng Nhi và điều dưỡng Cấp cứu không có sự khác biệt về CTNN sinh lý và cả 2
nhóm khách thể này đều bị CTNN sinh lý nhẹ.
76
• CTNN về mặt tâm lý
So sánh theo lứa tuổi
Từ kết quả ở bảng 2.12, điểm trung bình CTNN tâm lý của nhóm tuổi 41 – 55
tuổi là 27,90 cao hơn nhóm lứa tuổi 20 – 40 tuổi là 35,85 và cả 2 nhóm này đều có
giá trị điểm trung bình CTNN tâm lý cao hơn điểm trung bình lý thuyết lý tưởng 35
[xem trang câu 3 – Phần II]. Tức là, 2 nhóm điều dưỡng xét theo lứa tuổi đều bị
CTNN tâm lý nhẹ, nhóm cao tuổi ở mức cao hơn nhóm trẻ tuổi. Giá trị p < 0,05
nghĩa là mức độ CTNN tâm lý của nhóm lứa tuổi 20 – 40 tuổi khác biệt so với
nhóm lứa tuổi từ 41 – 55 tuổi.
So sánh theo khoa làm việc
Đối với 2 khoa: Nội và Ngoại
Qua bảng 2.12 cho biết kết quả kiểm định T – Test có giá trị p = 0,227 (trong
kiểm định t) > 0,05 nghĩa là không có sự khác biệt có ý nghĩa về trung bình giữa 2
nhóm khách thể điều dưỡng khi xét theo yếu tố khoa. Tuy nhiên điểm trung bình
CTNN tâm lý của điều dưỡng khoa Ngoại cao hơn, tức là mức độ CTNN của điều
dưỡng Ngoại khoa cao hơn điều dưỡng Nội khoa không chỉ ở mặt sinh lý mà còn ở
mặt tâm lý. Điểm trung bình CTNN tâm lý của điều dưỡng 2 khoa Nội và Ngoại lần
lượt là 35,57 và 36,80 đều cao hơn điểm trung bình lý thuyết lý tưởng 35, như vậy,
điều dưỡng ở 2 khoa này bị CTNN tâm lý nhẹ.
Đối với 2 khoa: Nhi và Cấp cứu
Kết quả kiểm định T – Test ở bảng 2.12 có giá trị p = 0,955 (trong kiểm định
t) > 0,05 nghĩa là không có sự khác biệt có ý nghĩa về trung bình giữa 2 nhóm
khách thể điều dưỡng của khoa Nhi và khoa Cấp cứu. Điểm trung bình RNLA tâm
lý của điều dưỡng ở khoa Nhi và khoa Cấp cứu lần lượt là 36 và 35,92 đều lớn hơn
điểm trung bình lý thuyết lý tưởng 35. Như vậy, từ số liệu điểm trung bình, giá trị p
của kiểm định T – Test, ta thấy, điều dưỡng Nhi và điều dưỡng Cấp cứu không có
sự khác biệt về CTNN tâm lý và cả 2 nhóm khách thể này đều CTNN tâm lý nhẹ.
77
2.2.2.2. Nguyên nhân căng thẳng nghề nghiệp của điều dưỡng viên
a. Nguyên nhân chủ quan
Đề tài nghiên cứu đưa ra 2 nguyên nhân để khảo sát nhóm khách thể là:
“Chưa có nhiều kinh nghiệm” với điểm trung bình 2,38 và “Hay sử dụng các chất
kích thích như: cà phê, rượu, bia, thuốc lá...” với điểm trung bình 2,16. Như vậy,
điều dưỡng không biết bản thân “Chưa có nhiều kinh nghiệm” có phải là nguyên
nhân gây nên CTNN cho mình hay không, đồng thời cũng không đồng ý thói quen
người điều dưỡng “Hay sử dụng các chất kích thích” là nguyên nhân chủ quan của
CTNN.
Với nguyên nhân “Chưa có nhiều kinh nghiệm trong công việc”, 13% điều
dưỡng đồng ý và có tới 41,5% điều dưỡng không đồng ý, có một số điều dưỡng
giống như chị K.T.V cho rằng: “Chỉ cần 6 tháng học việc là có thể làm thành thạo
các thủ thuật của điều dưỡng, điều quan trọng để không bị stress nghề nghiệp là
kinh nghiệm để xử trí tình huống và kinh nghiệm chịu đựng áp lực”. Trong khi đó,
nguyên nhân: “Hay sử dụng các chất kích thích” có 37% điều dưỡng không đồng ý;
11,5% điều dưỡng đồng ý, chủ yếu là điều dưỡng nam và những điều dưỡng nữ đã
lớn tuổi vì họ thường có sở thích “Uống ly cà phê cho tỉnh táo trước khi làm việc”.
b. Nguyên nhân khách quan
Bảng 2.13. Những nguyên nhân khách quan của CTNN
TT Nguyên nhân ĐTB Thứ hạng Không đồng ý (%) Phân vân (%) Đồng ý (%) Rất đồng ý (%) Hoàn toàn không đồng ý (%)
1 65,5 17 12 5,5 0 1,58 13
tự 2 30 33,5 31 5,5 2,12 10 0
3 46,5 22,5 19 6 2,02 9 6 Đồng nghiệp không thân thiện trong quan hệ, không hỗ trợ trong công việc. Không có quyền quyết trong công việc. Cấp trên luôn không hài lòng.
78
44 21,5 23,5 11 0 2,02 9 4
12 44 32,5 6 5,5 2,49 7 5
16,5 38,5 39,5 5,5 2,34 0 8 6
0 34 42 17,5 6,5 1,96 11 7
5,5 23 33 38,5 4,04 4 8 0
5,5 5,5 54 35 4,18 2 9 0
0 12 59,5 28,5 4,16 3 10 0
5,5 5,5 40,5 48,5 11 0 4,32 1
0 5,5 22,5 42,5 29,5 3,96 6 12
39,5 44 5,5 11 0 1,88 12 13
12 11 39 38 4,03 5 14 0
trường
0 11 46 43 15 0 4,32 1
Bệnh nhân và người nhà bệnh nhân gây khó dễ. Khoa thường xuyên đem hiệu quả công việc ra để bình xét thi đua. Tại nơi làm việc có sự phân biệt đối xử. Luôn có cảm giác bị xa lánh, ghét bỏ khi ở nơi làm việc. Yêu cầu của công việc không hợp lý. Công việc phải làm triền miên. Nhịp độ làm việc quá nhanh. Chế độ nghề nghiệp dành cho người lao động không thỏa đáng. Tiền lương nhận được từ công việc đang làm không xứng đáng với công sức đã bỏ ra và không đảm bảo được cuộc sống. Luôn bị giám sát khi làm việc. Bệnh nhân quá đông trong khi điều dưỡng lại quá ít. làm việc Môi chứa đựng nhiều yếu tố không an toàn, nguy cơ lây nhiễm cao.
Điểm trung bình chung 2,49
79
Qua kết quả bảng 2.13, điểm trung bình chung của nhóm nguyên nhân khách
quan đạt được 2,49. Như vậy, điều dưỡng không biết những CTNN của bản thân có
chịu tác động từ những điều kiện khách quan hay không, vì có nguyên nhân tỷ lệ
điều dưỡng đồng ý cao, có nguyên nhân tỷ lệ điều dưỡng đồng ý lại thấp. Điểm
trung bình của 15 nguyên nhân này dao động trong khoảng từ 4,32 đến 1,58.
“Công việc phải làm triền miên” là nguyên nhân xếp hạng thứ 2 với điểm
trung bình 4,18; có 54% điều dưỡng đồng ý với nguyên nhân này và không điều
dưỡng nào là hoàn toàn không đồng ý. Thực tế, thời gian làm việc hiện nay của điều
dưỡng là 3 - 4 tua/ngày, 3 ca 4 kíp, làm cả ngày nghỉ, ngày lễ, có khoa thường làm
việc 8 tiếng/ngày. Điều dưỡng không chỉ thực hiện các kỹ thuật chăm sóc trên
người bệnh mà còn phải đảm nhiệm rất nhiều việc, như: ghi hồ sơ bệnh án, làm thủ
tục xuất và nhập viện cho bệnh nhân, giải thích mọi thắc mắc của thân nhân người
bệnh, trực tiếp tiếp xúc và phân loại các rác thải y tế... Điều dưỡng đến bệnh viện là
cứ thế cuốn theo guồng quay của công việc, nhiều người không kịp ăn sáng, ăn trưa
2TNgoài vai trò của một người chăm sóc bệnh, điều dưỡng viên đôi khi còn như một
thì phải tranh thủ, đến giờ nghỉ theo quy định mà vẫn còn ở viện vì việc chưa xong.
người thân, người bạn giúp bệnh nhân vượt qua những thời điểm khó khăn nhất của
cuộc sống. Bệnh nhân la lối chửi mắng, điều dưỡng là người nghe đầu tiên; bệnh
nhân đau đớn 2Tđiều dưỡng là người trước tiên biết; bệnh nhân không tự vệ sinh được,
điều dưỡng giúp đỡ; bệnh nhân không tự ăn được, điều dưỡng cho ăn... Đón nhận
một đứa trẻ chào đời với tiếng khóc “oe oe” và chứng kiến sự ra đi của một con
người cũng là điều dưỡng. Điều dưỡng L.T.N ấm ức: “Tại khoa Nội Tiết – bệnh
viện Gia Định, có rất nhiều bệnh nhân bị biến chứng bàn chân do bệnh đái tháo
đường. Bàn chân của những bệnh nhân này bị hoại tử và bốc mùi hôi thối. Nói thật,
người nhà của bệnh nhân còn muốn tránh càng xa càng tốt. Thế nhưng, các điều
dưỡng hàng ngày vẫn lau rửa, vệ sinh sạch sẽ cho người bệnh. Có nhiều người sau
khi làm việc xong thì không ăn được cơm. Làm điều dưỡng còn khổ và khó hơn làm
dâu. Và hiếm có một nghề nào buộc con người phải vượt qua giới hạn về tình
thương và sự chai lì trước những điều tiếng không hay cũng như đối mặt với những
hiểm họa rình rập”.
80
Nguyên nhân xếp hạng 1, có điểm trung bình cao nhất 4,32 là: “Chế độ nghề
nghiệp dành cho người lao động không thỏa đáng”. Trong đó, 48,5% điều dưỡng
hoàn toàn đồng ý rẳng người điều dưỡng bị CTNN do chịu chế độ nghề nghiệp
không thỏa đáng. Thu nhập thực tế hiện nay của những điều dưỡng làm việc tại 4
bệnh viện mà chúng tôi khảo sát là: 61% điều dưỡng thu nhập dưới 5 triệu, 39%
điều dưỡng thu nhập trên 5 triệu. [Phụ lục 3– Bảng 2.22]. Với mức lương như vậy
khó đảm bảo được cuộc sống với “giá cả liên tục leo thang” cho người điều dưỡng.
Có quá nhiều điều cay nghiệt với nghề điều dưỡng, nhưng chế độ đãi ngộ và sự
công nhận vẫn chưa tương xứng. Đến năm 2007, vị trí của người điều dưỡng trong
chăm sóc, điều trị bệnh nhân mới được công nhận, lần đầu tiên người điều dưỡng
được “lên hạng”, đứng chung với đội ngũ y bác sĩ nhận danh hiệu “Thầy thuốc ưu
tú”. Th.S T.T.K.N - Trưởng phòng điều dưỡng bệnh viện Phạm Ngọc Thạch là một
trong những điều dưỡng trở thành “Thầy thuốc ưu tú” đầu tiên sau hơn 20 năm “ẩn
mình” cho biết: “Với tấm bằng trung cấp ra trường, nhiều điều dưỡng chỉ có thu
nhập trên 2 - 4 triệu đồng/tháng. Mức lương tăng dần theo trình độ và chức vụ công
tác nhưng con số đó không thấm vào đâu so với công việc”. Chế độ nghề nghiệp
chưa thỏa đáng không chỉ biểu hiện ở tiền lương không đủ chi trả cho cuộc sống
hàng ngày của người điều dưỡng mà còn biểu hiện ở những chính sách mà bệnh
viện áp dụng cho điều dưỡng viên, như: chính sách thưởng – phạt có sự phân biệt
giữa điều dưỡng và bác sĩ, sự thành công của một ca mổ thì bác sĩ sẽ được vinh
danh đầu tiên; chính sách cho đi học nâng cao trình độ; chính sách bảo hiểm tai nạn
nghề nghiệp vẫn chưa thực sự ưu ái cho những điều dưỡng làm trong điều kiện có
nhiều độc hại...
“Môi trường làm việc chứa đựng nhiều yếu tố không an toàn, nguy cơ lây
nhiễm cao” cũng là nguyên nhân đứng thứ 1, có điểm trung bình cao nhất 4,32 với
89% điều dưỡng đồng ý và rất đồng ý với nguyên nhân này, không có điều dưỡng
nào là không đồng ý. Hàng ngày, điều dưỡng phải gặp gỡ, trao đổi, làm các kỹ thuật
chăm sóc trực tiếp trên người những bệnh nhân đang mắc các bệnh truyền nhiễm,
đặc biệt là bệnh viện Phạm Ngọc Thạch có rất nhiều bệnh nhân bị lao phổi do đang
81
bị nhiễm HIV giai đoạn cuối. Bệnh nhân hắt hơi là có thể truyền vi khuẩn gây bệnh
cho điều dưỡng, dịch tiết của bệnh nhân tiếp xúc với da người điều dưỡng là điều
dưỡng có thể bị lây bệnh. Thực tế, bệnh viện Phạm Ngọc Thạch, nhiều điều dưỡng
viên đã bị mắc lao phổi từ bệnh nhân. Môi trường làm việc ngoài vấn đề chứa đựng
các yếu tố độc hại thì còn có thêm yếu tố nơi làm việc của điều dưỡng không đảm
bảo. Tại một số khoa trong 4 bệnh viện khảo sát với diện tích chỉ khoảng 200m2 mà
có đến gần 100 con người ở đó, mùi bệnh nhân, mùi thuốc, mùi ẩm mốc của các
bức tường, cửa, nền nhà... vì đã xây dựng quá lâu luôn song hành cùng bước chân
người điều dưỡng. Sài Gòn, trời nóng như đổ lửa, ai cũng ao ước được ngồi làm
việc trong phòng có máy điều hòa nhiệt độ. Riêng với các điều dưỡng tại các bệnh
viện, đó là điều không bao giờ xảy ra. Nhiệt độ tăng cao, bệnh nhân đông nghịt họ
luôn phải làm việc trong một môi trường ngột ngạt, nóng bức.0T
Mẫu điều dưỡng viên được khảo sát có mối quan hệ với đồng nghiệp rất tốt,
hầu hết các điều dưỡng luôn đoàn kết, giúp đỡ nhau vượt qua mọi khó khăn của
công việc. Do đó, một số nguyên nhân mà đề tài đưa ra, như: “Đồng nghiệp không
thân thiện trong quan hệ, không hỗ trợ trong công việc. Luôn có cảm giác bị xa
lánh, ghét bỏ khi ở nơi làm việc...” có đến 65,5% điều dưỡng không đồng ý.
Tóm lại, nguyên nhân khách quan gây ra CTNN cho điều dưỡng chủ yếu là:
môi trường, điều kiện cơ sở vật chất làm việc còn nhiều hạn chế, chứa đựng nhiều
yếu tố nguy cơ; tính chất công việc có nhiều áp lực... Bên cạnh đó, nguyên nhân: “
Bản thân chưa có kinh nghiệm làm việc” và “Hay sử dụng chất kích thích” không
được mẫu khảo sát coi là nguyên nhân chủ quan gây ra CTNN cho người điều
dưỡng.
82
2.2.3. Rối nhiễu nhân cách của điều dưỡng viên
2.2.3.1. Thực trạng rối nhiễu nhân cách của điều dưỡng viên
a. Biểu hiện RNNC của điều dưỡng viên trên toàn mẫu nghiên cứu
Bảng 2.14. Biểu hiện RNNC
TT Biểu hiện ĐTB Thứ hạng Thường xuyên (%) Thỉnh thoảng (%) Hiếm khi (%) Không bao giờ (%) Rất thường xuyên (%)
25 50,5 12 12,5 0 2,12 4 1
dễ xúc 25 24 17,5 22 11,5 2,71 2 2
28,5 30 30,5 11 0 2,24 3 3
39,5 43 12 5,5 0 4 1,84 7 muốn người ngưỡng
45 35,5 6,5 13 0 1,88 6 5
41 29,5 18,5 5,5 5,5 2,05 5 6
7 12 19,5 23 27,5 18 3,20 1
Luôn cố tỏ ra mình là người quan trọng trong mọi vấn đề. Rất động. Một trách lời móc nhẹ nhàng của người khác cũng thấy bị tổn thương. Luôn được khác mộ. Thường tự đánh giá thấp bản thân. Quá cứng nhắc trong các mối và hệ quan nguyên tắc trong công việc. Rất sợ mắc sai lầm và thường không dám tự quyết trong mọi việc.
Điểm trung bình chung 2,12
Từ số liệu ở bảng 2.14 điểm trung bình chung 2,12 tức là điều dưỡng hiếm gặp
các biểu hiện của RNNC, trong đó điểm trung bình dao động từ 1,84 đến 3,20. Cụ
83
thể: biểu hiện mà điều dưỡng cho rằng hiếm gặp (có điểm trung bình trong khoảng
1,51 đến 2,5) là: 1, 3, 4, 5, 6 và biểu hiện mà điều dưỡng cho rằng thỉnh thoảng gặp
(có điểm trung bình trong khoảng 2,51 đến 3,5) là: 2, 7.
“Rất sợ mắc sai lầm và thường không dám tự quyết trong mọi việc” là biểu
hiện có điểm trung bình cao nhất. Trong đó, 18% điều dưỡng trả lời là “rất thường
xuyên gặp” và 27,5% trả lời là “thường xuyên gặp” mặc dù có tới 30% điều dưỡng
viên “hoàn toàn không đồng ý” với nguyên nhân CTNN: “Điều dưỡng viên không
có quyền tự quyết trong công việc”. Như vậy, mẫu khảo sát thiếu tự tin vào bản
thân khi làm việc và không quyết đoán trong mọi vấn đề.
“Rất dễ xúc động” là biểu hiện được xếp hạng thứ 2 với 22% điều dưỡng trả
lời “thường xuyên gặp”. Thực tế này xuất phát từ tâm lý “sợ chai lỳ cảm xúc” của
điều dưỡng, nó thể hiện cái “tâm” với nghề và cái “tình” với bệnh nhân của họ. Vì
thế mà đã xảy ra rất nhiều trường hợp điều dưỡng bật khóc nức nở khi chứng kiến
sự ra đi của người bệnh.
Biểu hiện “Luôn muốn được người khác ngưỡng mộ” có điểm trung bình
thấp nhất 1,84 với 43% điều dưỡng trả lời “hiếm khi” gặp. Điều này thể hiện nếp
sống khép kín, có phần an phận, không muốn nổi trội, không muốn đấu tranh của
người điều dưỡng.
Như vây, điều dưỡng chưa bị RNNC, 7 biểu hiện của RNNC mà điều dưỡng
trả lời ở mức độ “không bao giờ” gặp chiếm tỷ lệ thấp nhất là 12% và cao nhất là 41%.
Biểu đồ 2.7. Biểu hiện RNNC
84
b. RNNC của điều dưỡng viên trên toàn mẫu nghiên cứu
Dựa vào tổng điểm về RNNC [Phụ lục 3 – Bảng 2.29] và thang đánh giá
[xem trang 51] ta có tỷ lệ mức độ RNNC như sau:
Bảng 2.15. Tỷ lệ mức độ RNNC
Mức độ RNNC TT Số lượng Tỷ lệ (%)
1 Không bị RNNC 154 77
2 RNNC nhẹ 46 23
RNNC nặng 0 0
3 Từ bảng 2.15, ta có: 154 điều dưỡng viên không bị RNNC đạt 77%; bên cạnh
đó không có điều dưỡng viên nào bị “RNNC nặng”; có 46/200 mẫu khảo sát, chiếm
23% bị “RNNC nhẹ”.
Khái quát lại, từ những phân tích trên cho thấy rằng: RNNC của điều dưỡng
viên khi xét trên phương diện từng biểu hiện xuất hiện ở mẫu khảo sát cho ra kết
quả là các biểu hiện “sợ mắc sai lầm, dễ xúc động” hay gặp, các biểu hiện “luôn
muốn được ngưỡng mộ, đánh giá thấp bản thân” ít gặp. Khi xét trên phương diện cả
7 biều hiện xuất hiện ở từng khách thể khảo sát thì kết quả cho thấy đa số điều
dưỡng viên không bị RNNC, tuy nhiên vẫn còn một tỷ lệ điều dưỡng bị RNNC khi
xét RNNC xuất hiện trên toàn mẫu nghiên cứu.
77%
23%
Biểu đồ 2.8. Tỷ lệ mức độ RNNC
85
c. So sánh sự khác biệt RNNC theo lứa tuổi và khoa làm việc
Bảng 2.16. Sự khác biệt RNNC theo lứa tuổi và khoa làm việc
RNNC
16,02 Từ 20 – 40 tuổi
16,10 Lứa tuổi Từ 41 – 55 tuổi
Mức ý nghĩa KĐ T - Test 0,854
16,35 Nội
15,58 Ngoại
0,057 Mức ý nghĩa KĐ T - Test Khoa
17,51 làm việc Nhi
17,55 Cấp cứu
0,997 Mức ý nghĩa KĐ T - Test
So sánh theo lứa tuổi
Kết quả kiểm định T – Test trong bảng 2.16, cho thấy giá trị p (trong kiểm
định t) > 0,05 nghĩa là không có sự khác biệt có ý nghĩa về trung bình giữa 2 nhóm
khách thể điều dưỡng khi xét đến yếu tố lứa tuổi. Như vậy, không có sự khác biệt
về RNNC khi xét với biến lứa tuổi. Điểm trung bình nhóm có lứa tuổi từ 20 - 40
tuổi là 16,02 thấp hơn điểm trung bình nhóm có lứa tuổi từ 41 - 55 là 16,10 và 2
nhóm khách thể này đều có điểm trung bình thấp hơn điểm trung bình lý thuyết lý
tưởng là 17,5 [xem trang 51]. Do đó, 2 nhóm khách thể khảo sát theo lứa tuổi đều
không bị RNNC.
So sánh theo khoa làm việc
Đối với 2 khoa: Nội và Ngoại
Từ kết quả ở bảng 2.16 ta thấy, điểm trung bình RNNC của khoa Nội là
16,35 < điểm trung bình lý thuyết lý tưởng 17,5 và điểm trung bình RNNC của
khoa Ngoại là 15,58 < điểm trung bình lý thuyết lý tưởng 17,5; giá trị p (trong kiểm
định t) 0,057 > 0,05. Do đó, không có sự khác biệt có ý nghĩa về trung bình giữa 2
nhóm khách thể điều dưỡng khi xét đến yếu tố khoa làm việc. Điều dưỡng Nội và
Ngoại đều không bị RNNC.
86
Đối với 2 khoa: Nhi và Cấp cứu
Kết quả kiểm định T – Test ở bảng 2.16 có giá trị p = 0,997 (trong kiểm định
t) > 0,05 nghĩa là không có sự khác biệt có ý nghĩa về trung bình giữa 2 nhóm
khách thể điều dưỡng của khoa Nhi và khoa Cấp cứu. Điểm trung bình RNNC của
điều dưỡng ở 2 khoa này đều cao hơn điểm trung bình lý thuyết lý tưởng 17,5. Như
vậy, từ số liệu điểm trung bình, giá trị p của kiểm định T – Test, ta thấy, điều dưỡng
Nhi và điều dưỡng Cấp cứu không có sự khác biệt về RNNC và cả 2 nhóm khách
thể này đều bị RNNC nhẹ.
2.2.3.2. Nguyên nhân rối nhiễu nhân cách của điều dưỡng viên
Bảng 2.17. Nguyên nhân RNNC
ĐTB TT Nguyên nhân Thứ hạng Đồng ý (%) Phân vân (%) Không đồng ý (%) Rất đồng ý (%) Hoàn toàn không đồng ý (%)
33 45 18,5 5,5 0 1,96 4 1
45,5 49 5,5 0 0 1,60 6 2
28,5 16,5 13 30 12 3 2,80 1
34,5 30,5 17,5 11,5 6 2,24 2 4
6 6 47 35 6 1,89 5 5
6 0 52,5 41,5 0 1,60 6 6
thường 30,5 46 12 11,5 0 2,04 3 7 Từ nhỏ đã bị thiếu thốn tình cảm. Khi còn là học sinh, luôn bị giáo viên đánh giá là hạnh kiểm kém. Bố mẹ luôn tự quyết cho mọi chuyện. Là con một trong gia đình nên luôn được chiều chuộng. Có nhiều anh em nên bị chia sẻ tình thương của bố mẹ. Luôn bị phản bội trong tình yêu. Mọi người không tin tưởng.
Điểm trung bình chung 1,96
87
Qua bảng 2.17 cho thấy kết quả điểm trung bình của những nguyên nhân
RNNC là 1,96 tức là: điều dưỡng không đồng ý đó là 7 nguyên nhân gây nên
RNNC. Điểm trung bình của những nguyên nhân dao động từ 1,60 đến 2,80.
Nguyên nhân được 30% điều dưỡng "đồng ý", có điểm trung bình cao nhất
2,80 là "Bố mẹ luôn tự quyết cho mọi chuyện". Lý do này lý giải vì sao nhiều người
được bố mẹ chọn trường cho thi, chọn nghề cho làm. Rất nhiều điều dưỡng viên học
ngành điều dưỡng là để thỏa mãn mong muốn của bố mẹ và rồi đi làm không có
hứng thú với nghề nên nảy sinh những RNLA, tâm lý muốn bỏ nghề.
"Khi còn là học sinh, luôn bị giáo viên đánh giá là hạnh kiểm kém” là
nguyên nhân xếp hạng thấp nhất, có 49% điều dưỡng viên không đồng ý với nguyên
nhân này. Tức là, những nhân viên điều dưỡng xuất phất điểm đều có phẩm chất
đạo đức tốt. Tuy nhiên khi đi làm, do môi trường làm việc, có nhiều yếu tố tác động
mà một số điều dưỡng đã bị tha hóa về phẩm chất. Đây chính là những "con sâu làm
rầu nồi canh" khiến cho xã hội có những đánh giá chưa thật xác đáng về nghề và
người điều dưỡng.
2.2.4. Quan điểm của điều dưỡng viên với những đánh giá hiện nay của xã
hội về nghề điều dưỡng
Bảng 2.18. Quan điểm của điều dưỡng với những đánh giá hiện nay
của xã hội về nghề điều dưỡng.
TT Đánh giá ĐTB Thứ hạng Đồng ý (%) Phân vân (%) Không đồng ý (%) Rất đồng ý (%) Hoàn toàn không đồng ý (%)
39 43,5 12 5,5 0 1,84 5 1
53 35,5 6 0 5,5 1,70 6 2
Điều dưỡng là công việc sử dụng những kỹ thuật tay chân đơn giản, làm mãi rồi sẽ quen. Điều dưỡng là phải làm theo y lệnh của bác sĩ nên bệnh nhân không cần hỏi điều dưỡng.
88
0 11 37 28,5 23,5 3,64 4 3
0 5,5 18 36,5 40 4,11 2 4
0 6 31 46,5 16,5 3,74 3 5
48 35 17 0 0 1,69 7 6
53,5 29,5 17 0 0 1,64 8 7
0 0 5,5 42,5 52 8 4,46 1
0 0 5,5 43 9 51,5 4,46 1
Rủi ro nghề nghiệp xảy ra với người điều dưỡng cao hơn so với các nhân viên y tế khác. thường Điều dưỡng xuyên tiếp xúc với bệnh nhân nên dễ thông cảm với người bệnh. Người điều dưỡng phải chịu nhiều sức ép trong công việc, đó là: sức ép từ đồng nghiệp, bệnh nhân, người nhà bệnh nhân... Điều dưỡng không quan trọng bằng bác sĩ trong công tác chăm sóc sức khỏe. Công việc điều dưỡng ở các khoa gần giống nhau do đó nghề điều dưỡng không có sự sáng tạo. Vai trò của người điều dưỡng trong công tác chăm sóc sức khỏe là rất quan trọng. Người điều dưỡng không chỉ chăm sóc về bệnh tật mà còn chăm sóc về tinh thần cho người bệnh.
Điểm trung bình chung 3,64
89
Qua kết quả bảng 2.18, điểm trung bình chung đạt được 3,64 cho thấy, nhìn
chung là quan điểm của mẫu khách thể điều dưỡng khảo sát đồng ý với những đánh
giá hiện nay của xã hội về nghề điều dưỡng. Trong đó, điểm trung bình dao động
trong khoảng rừ 1,64 đến 4,46.
Hai đánh giá mà không có điều dưỡng nào “không đồng ý” hoặc “hoàn toàn
không đồng ý”, xếp hạng cao nhất là: “Vai trò của người điều dưỡng trong công tác
chăm sóc sức khỏe là rất quan trọng” và “Người điều dưỡng không chỉ chăm sóc về
bệnh tật mà còn chăm sóc về tinh thần cho người bệnh”. Những đánh giá này hoàn
toàn phù hợp với chức năng và tính chất của nghề điều dưỡng.
Những đánh giá 1, 2, 6, 7 xếp hạng thấp vì tỷ lệ điều dưỡng đồng ý là 0% hoặc
5,5%. Những đánh giá này thể hiện nhìn nhận sai lệch của xã hội về nghề điều
dưỡng, do các đánh giá đó quá đề cao vai trò của bác sĩ và hạ thấp công việc của
người điều dưỡng.
Tóm lại, những điều dưỡng được khảo sát đã có những quan điểm đúng đắn về
nghề, nhận thức đúng tính chất của công việc và vai trò của người điều dưỡng.
2.3. Một số biện pháp nhằm giảm thiểu tối đa những biểu hiện RNTL của điều
dưỡng viên
2.3.1. Cơ sở đề xuất biện pháp
Như chúng tôi đã phân tích, “sản phẩm” của hoạt động nghề điều dưỡng là sức
khỏe, là tính mạng của con người. Và những con người đang ngày đêm thực hiện
hoạt động đó là điều dưỡng viên. Để “sản phẩm” của mình không trở thành “phế
phẩm”, buộc người điều dưỡng phải luôn làm việc với cái đầu sáng suốt, tinh thần
sảng khoái, thể chất khỏe mạnh... Ngoài ra, 4 bệnh viện mà chúng tôi chọn khảo sát
là những bệnh viện cấp Sở và cấp Bộ, tập trung rất nhiều bệnh nhân từ mọi nơi đến
(bệnh viện Thống Nhất và bệnh viện Phạm Ngọc Thạch thường có bệnh nhân là
người nước ngoài) nên áp lực với những điều dưỡng viên làm ở các bệnh viện này
là tương đối lớn. Vì thế họ rất cần có những phương pháp giúp họ tránh khỏi những
triệu chứng của RNLA.
90
Từ kết quả khảo sát thực trạng đã trình bày ở phần 2.2, chúng tôi thấy: điều
dưỡng viên đang làm việc tại 4 bệnh viện điển hình của thành phố Hồ Chí Minh có
gặp phải một số vấn đề của RNTL tuy chưa phải ở mức độ thường xuyên. Mặt khác,
hiện nay, xã hội vẫn có những đánh giá chưa thực sự công bằng cho nghề điều
dưỡng khi đem so sánh nghề này với nghề bác sĩ hay với một số nghề khác, mặc dù
ý nghĩa của công việc này là vô cùng to lớn.
Từ những cơ sở lý luận về RNTL nói chung và RNTL của người điều dưỡng
nói riêng được trình bày ở chương 1, chúng tôi quan niệm rằng: RNTL là một hội
chứng tâm lý xuất hiện làm rối loạn chức năng gây ra sự mất kiểm soát bản thân.
Việc khắc phục các RNTL không chỉ cần sự nỗ lực của chính bản thân chủ thể
người điều dưỡng mà còn cần sự hỗ trợ, sự tác động trực tiếp từ phía bệnh viện và
xã hội.
Để có cơ sở đề xuất các biện pháp nhằm giảm bớt RNTL cho điều dưỡng viên,
chúng tôi tiến hành khảo sát mức độ cần thiết một số biện pháp như sau:
• Nhóm biện pháp đối với bản thân điều dưỡng viên
Bảng 2.19. Đánh giá của điều dưỡng viên về mức độ cần thiết
của nhóm biện pháp mà họ thực hiện
Thứ TT Biện pháp ĐTB hạng
1 Tự điều trị 1,78 11
2 Khám bác sĩ chuyên khoa 3,68 8
3 Nhờ sự hỗ trợ của chuyên viên tư vấn tâm lý. 3,74 7
4 Chia sẻ với người thân vấn đề của mình. 3,24 8
5 Sử dụng thuốc an thần. 1,87 10
6 Uống nhiều: rượu, cà phê, các chất kích thích khác... 1,70 12
7 Hút thuốc lá. 1,29 16
Giải trí nhẹ nhàng, lành mạnh: nghe nhạc, đọc sách, xem phim, đi 8 4,18 3 du lịch...
9 Xây dựng mối quan hệ tốt với mọi người xung quanh. 3,84 6
91
10 Luôn nghĩ đến những điều tích cực. 3,99 4
11 Thường xuyên tụ tập bạn bè để nhậu. 1,53 15
12 Nghỉ làm đi chơi. 1,65 14
Trình bày với đồng nghiệp, cấp trên, công đoàn những khó khăn 3,88 5 13 mà bản thân gặp phải trong công việc.
4,24 2 14 Tập thể dục đều đặn.
15 Học tập, dinh dưỡng hợp lý. 4,35 1
2,46 9 16 Trị liệu tâm lý
17 Không tiếp xúc với bất kỳ một người nào. 1,06 17
Điểm trung bình chung 3,24
Từ kết quả của bảng 2.19, cho thấy điểm trung bình chung là: 3,24, điều
dưỡng cho rằng trong 17 biện pháp trên có những biện pháp không phù hợp. Đó là
các biện pháp điểm trung bình ít, xếp hạng rất thấp (xếp từ thứ 10 trở xuống), như:
sử dụng thuốc an thần, tự điều trị, sử dung chất kích thích, nghỉ làm đi chơi, tụ tập
bạn bè nhậu, không tiếp xúc với mọi người; biện pháp: “không tiếp xúc với bất kỳ
một người nào” có điểm trung bình thấp nhất: 1,06. Như vậy, điều dưỡng viên đã có
nhận thức đúng đắn về các cách làm cải thiện tình trạng RNTL. Theo họ, biện pháp:
“Học tập, dinh dưỡng hợp lý” cho bản thân là cần thiết (điểm trung bình: 4,35 cao
nhất). Tuy nhiên, biện pháp “trị liệu tâm lý” chỉ đạt điểm trung bình: 2,46 – xếp thứ
hạng 9 tương đối thấp. Có thể nói nhận thức của điều dưỡng viên về vai trò của các
biện pháp tâm lý đối với sức khỏe con người còn nhiều hạn chế. Khi khảo sát về
việc tham gia hoạt động tư vấn tâm lý có đến 53% khách thể nghiên cứu trả lời chưa
từng tham gia tư vấn về sức khỏe tâm lý, điểm trung bình: 1,53. [Phụ lục 3– Bảng
2.27]
92
• Nhóm biện pháp đối với bệnh viện
Bảng 2.20. Đánh giá của điều dưỡng viên về mức độ cần thiết
của nhóm biện pháp bệnh viện thực hiện
Thứ TT Biện pháp ĐTB hạng
1 Tăng số lượng điều dưỡng để giảm tải công việc. 5 4,35
Trang bị thêm các phương tiện bảo hộ cho điều dưỡng để 2 4 4,41 giảm tai nạn nghề nghiệp.
Tổ chức các khóa học miễn phí cho người điều dưỡng để 3 3,78 8 nâng cao tay nghề.
Tạo điều kiện cho các điều dưỡng viên được sáng tạo trong 4 4,48 2 công việc.
Xây dựng mối quan hệ thân thiện, bình đẳng giữa các nhân 5 7 4,11 viên y tế.
6 Tổ chức các đợt vui chơi giải trí cho nhân viên. 2 4,48
Xây dựng và áp dụng chế độ thưởng – phạt rõ ràng, hợp lý 7 6 4,30 cho người lao động.
Trả lương cho điều dưỡng sao cho đảm bảo được cuộc sống 8 4,71 1 của họ.
Kịp thời bênh vực quyền lợi đúng đắn cho người điều dưỡng 9 4,42 3 trước những đối tượng khác.
Khuyến khích điều dưỡng sử dụng các chất gây nghiện để 10 1,60 10 tập trung cao trong công việc.
Định kỳ thay đổi khoa làm việc cho điều dưỡng nhằm giảm 11 2,78 9 sự nhàm chán.
Điểm trung bình chung 4,35
Các biện pháp: 6 “Tổ chức các đợt vui chơi giải trí cho nhân viên”, 8 “Trả
lương cho điều dưỡng sao cho đảm bảo được cuộc sống của họ”, 9 “Kịp thời bênh
93
vực quyền lợi đúng đắn cho người điều dưỡng trước những đối tượng khác” có
điểm trung bình lần lượt: 4,48; 4,71; 4,42 và đều có trên 90% điều dưỡng được khảo
sát cho rằng: “cần thiết và rất cần thiết” bệnh viện phải có những biện pháp này.
[Phụ lục 3– Bảng 2.28] Đây là những biện pháp tác động trực tiếp đến đời sống vật
chất và tinh thần của người điều dưỡng, thể hiện nhu cầu chính đáng của điều
dưỡng viên đối với đơn vị mình làm việc và cống hiến.
Trong 11 biện pháp đề xuất cho bệnh viện, biện pháp 10 “Khuyến khích điều
dưỡng sử dụng các chất gây nghiện để tập trung cao trong công việc” được 100%
điều dưỡng lựa chọn là: “hoàn toàn cần thiết và không cần thiết”. [Phụ lục – Bảng
2.28] Như vậy, những giải pháp mà điều dưỡng đưa ra cho bệnh viện nhằm cải
thiện tình trạng RNTL cho họ là đúng đắn và cần thiết.
• Nhóm biện pháp từ phía xã hội
Bảng 2.21. Đánh giá của điều dưỡng viên về mức độ cần thiết
của nhóm biện pháp từ phía xã hội
Thứ TT Biện pháp ĐTB hạng
Nhận thức đúng đắn về công việc và vai trò của người điều 1 4,30 4 dưỡng trong công tác chăm sóc sức khỏe.
Cảm thông với người điều dưỡng khi số lượng bệnh nhân quá 2 4,11 5 đông, công việc quá nhiều.
Mở thêm các cơ sở khám chữa bệnh rối nhiễu tâm lý cho người 3 4,04 6 điều dưỡng.
Đề ra các chính sách xã hội bảo vệ quyền lợi hợp lý cho người 4 4,41 3 điều dưỡng.
Có thái độ tôn trọng người điều dưỡng như các nhân viên y tế 5 4,56 1 khác.
6 Luôn hợp tác với điều dưỡng viên nếu là bệnh nhân của họ. 4,52 2
Điểm trung bình chung 4.355
94
Số liệu ở bảng 2.21 đã chứng minh đó là nhóm giải pháp cần thiết mà xã hội
phải thực hiện nhằm giảm thiểu tối đa những triệu chứng RNTL của người điều
dưỡng vì điểm trung bình chung khá cao: 4,355. Cả 6/6 biện pháp đều có điểm
trung bình lớn hơn 4,00. Một số biện pháp đáng chú ý như: “Có thái độ tôn trọng
người điều dưỡng như các nhân viên y tế khác” đạt điểm trung bình cao nhất: 4,56;
“Luôn hợp tác với điều dưỡng viên nếu là bệnh nhân của họ” đạt điểm trung bình:
4,52; “Đề ra các chính sách xã hội bảo vệ quyền lợi hợp lý cho người điều dưỡng”
đạt điểm trung bình: 4,41. Những biện pháp này đều có trên 80% điều dưỡng lựa
chọn “rất cần thiết và cần thiết”. [Phụ lục 3– Bảng 2.28]
2.3.2. Một số biện pháp cụ thể
2.3.2.1. Biện pháp của điều dưỡng: học tập và dinh dưỡng hợp lý; xây dựng
tốt các mối quan hệ, đặc biệt luôn thân thiện với bệnh nhân
• Cở sở của biện pháp
Bản thân người điều dưỡng phải tự biết thay đổi, tự khẳng định mình trước
mọi người.
Trước kia, nghề điều dưỡng được gọi là “y tá”, tức là người giúp việc vặt
trong ngành y nên được đào tạo đại khái. Chính trình độ thấp, người điều dưỡng
không đủ khả năng làm tốt công việc dẫn đến không đem lại lòng tin của mọi người,
xã hội chưa thực sự coi trọng. Thực tế đó còn ảnh hưởng đến tận ngày nay. Vì vậy,
để thay đổi quan niệm của xã hội, bản thân người điều dưỡng phải biết tự hoàn thiện
mình.
Tri thức nhân loại là vô tận và không ngừng phát triển. Những kiên thức mà
điều dưỡng được tiếp nhận khi còn đang ngồi trên ghế nhà trường sẽ không đủ phục
vụ cho công việc cũng như cuộc sống của họ, nên trước hết, luôn tự học với nhiều
hình thức trở thành bắt buộc với điều dưỡng. Không học tập, người điều dưỡng sẽ
lạc hậu, theo Noel Fissenger: “Người thầy thuốc sau 5 năm không đọc một tạp chí
nào thì người thầy thuốc trở lại thời kỳ đồ đá”. Học tập để có kiến thức toàn diện sẽ
giúp điều dưỡng không chỉ nắm vững chuyên môn mà còn giải quyết được nhiều
vấn đề nảy sinh trong công việc và đời sống hàng ngày.
95
• Phương pháp thực hiện
Điều dưỡng viên có thể học ở đồng nghiệp về chuyên môn và cách ứng xử, có
thể học qua các phương tiện thông tin đại chúng, có thể xin bệnh viện cho đi học
các lớp nâng cao dài hạn hoặc ngắn hạn.
Điều dưỡng phải biết chăm sóc tốt cho bản thân mình trước khi chăm sóc cho
bệnh nhân, cần tranh thủ có những giây phút thư giãn, nghỉ ngơi trong quỹ thời gian
làm việc dày đặc, tích cực tham gia vào các phong trào hoạt động của khoa,
bệnh viện.
Luôn giữ thái độ niềm nở với mọi đối tượng giao tiếp là rất cần thiết với điều
dưỡng, đặc biệt đối với bệnh nhân điều dưỡng cần luôn tỏ ra thân thiện, chăm sóc
ân cần. Chính sự tận tình của người điều dưỡng sẽ giúp bệnh nhân yên tâm điều trị,
sẽ cải thiện được cái nhìn vốn ác cảm của người bệnh với điều dưỡng viên khiến
mối quan hệ điều dưỡng – bệnh nhân phát triển tốt đẹp, cũng theo đó mà người điều
dưỡng sẽ thấy thoải mái, vui vẻ khi làm việc, giảm căng thẳng và tai nạn nghề
nghiệp, hạn chế những lo âu.
2.3.2.2. Biện pháp của lãnh đạo bệnh viện: trả lương hợp lý; phân bố đúng
người, đúng việc; quan tâm đến sức khỏe nhân viên
• Mục đích thực hiện
Giúp người điều dưỡng không mắc phải những biểu hiện của RNTL để làm
việc hiệu quả.
Giữ chân điều dưỡng viên để họ không bỏ viện đi làm công việc khác.
• Phương pháp thực hiện
Cải thiện điều kiện làm việc, nâng cao chất lượng chế độ đãi ngộ với người
điều dưỡng. Một số biện pháp cụ thể như sau:
Trả mức lương đúng với công việc và vị trí cho từng điều dưỡng sao cho đảm
bảo được cuộc sống của họ. Với những điều dưỡng làm trong môi trường dễ bị lây
nhiễm, dễ mắc bệnh như khoa X – quang, khoa hô hấp – truyền nhiễm, bệnh viện
lao phổi Phạm Ngọc Thạch thì phải tăng tiền trợ cấp độc hại.
Cần có sự sâu sát, sắp xếp công việc, phân công hiệu quả trong công việc
tránh tình trạng dồn nhiều công việc cùng lúc. Thường xuyên có hoạt động để bồi
96
dưỡng năng lực chuyên môn, tập huấn về cách sử dụng các trang thiết bị dụng cụ
hiện có hoặc mới nhằm giúp cho các nhân viên sử dụng thành thạo nhất. Tổ chức
các cuộc thi cả về lý thuyết và thực hành với mục đích để người điều dưỡng phấn
đấu nâng cao tay nghề, chứ không phải nhằm hạ thi đua, giảm thu nhập của điều
dưỡng viên như một số bệnh viện đã từng làm.
Có cuộc tầm soát và phát hiện các nhân viên đã bị tác động của stress tại cơ
quan có biện pháp hỗ trợ như: tạo điều kiện hồi phục bằng nghỉ ngơi, mang đến lời
động viên tinh thần, chuyển đổi công việc khác khi không phù hợp, luân phiên nhân
viên tại những khoa thường có áp lực từ công việc cao và độc hại.
2.3.2.3. Biện pháp từ phía xã hội: tuyên truyền đúng đắn về nghề điều
dưỡng để xây dựng thái độ tôn trọng người điều dưỡng như các nhân viên y tế
khác, xây dựng môi trường an toàn cho điều dưỡng viên...
• Cơ sở của biện pháp
Tại các nước phát triển Anh, Mỹ, Canada,... cũng như các nước đang phát
triển như Thái Lan, Philippines, Malaysia, ... Điều dưỡng viên đã được nâng cao vai
trò trong việc quản lý các cơ sở y tế ban đầu, bệnh viện, toán chăm sóc sức khỏe,
tham gia khám và điều trị – chăm sóc các bệnh cấp và mãn tính theo chuyên ngành
của điều dưỡng, có mặt trong hầu hết các lãnh vực khác và là nghề đang được kính
trọng nhất hiện nay.
Riêng tại Việt Nam thì tình hình không khả quan và còn nhiều tồn tại. Mặc dù
trình độ đào tạo và phạm vi thực hành của điều dưỡng Việt Nam hiện nay đã có
nhiều thay đổi, song trong nhận thức chung về vai trò của người điều dưỡng chưa
được cập nhật phù hợp với thực tế. Vì thế các cơ quan chức năng cần có các biện
pháp tuyên truyền đúng đắn về nghề điều dưỡng để xã hội thay đổi cái nhìn vốn có
về nghề này và những con người làm nghề này.
• Phương pháp thực hiện
Giải pháp trước mắt nhằm giảm thiểu những tổn thương tâm sinh lý của điều
dưỡng bệnh viện là cần thực sự quan tâm đến công tác an toàn vệ sinh lao động,
duy trì và thực hiện tốt phong trào “Xanh - Sạch - Đẹp, An toàn vệ sinh lao động”
tại nơi làm việc.
97
Thực hiện nghiêm túc việc khám sức khỏe định kỳ và khám phát hiện bệnh
nghề nghiệp, trong đó thực hiện đầy đủ những quy định về thủ tục và hồ sơ khám
sức khỏe định kỳ để tạo điều kiện thuận lợi cho việc quản lý sức khỏe của nhân viên
y tế trong quá trình lao động, giúp người sử dụng lao động thường xuyên cập nhật
thông tin về tình hình sức khỏe của người lao động để quản lý và tổ chức sắp xếp
lao động phù hợp với yêu cầu công việc và tình trạng quá tải ở các bệnh viện hiện
nay. Vì điều dưỡng có khoẻ mạnh, tinh thần có thoải mái thì mới phát huy hết khả
năng, nhiệt huyết chăm sóc cho người bệnh.
98
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2
Qua kết quả nghiên cứu thực trạng cho thấy, điều dưỡng đang làm việc tại 4
bệnh viện trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh là: Nhân dân Gia Định, Thống Nhất,
Nhi đồng 2, Phạm Ngọc Thạch có những biểu hiện của RNTL, trong đó CTNN là
nhiều nhất. Kết quả so sánh 3 dạng của RNTL (RNLA, CTNN, RNNC) theo
phương diện lứa tuổi và khoa làm việc, ít có sự khác biệt giữa nhóm lứa tuổi từ 20 –
40 tuổi và nhóm lứa tuổi từ 41 – 55 tuổi; có sự khác biệt giữa khoa Nội và khoa
Ngoại, giữa khoa Nhi và khoa Cấp cứu.
Có nhiều nguyên nhân gây ra thực trạng trên, trong đó bao gồm các nguyên
nhân chủ quan và các nguyên nhân khách quan. Các nguyên nhân khách quan chủ
yếu là do các yếu tố xã hội, áp lực công việc, môi trường làm việc... Các nguyên
nhân chủ quan chủ yếu là yếu tố sinh học và yếu tố tâm lý của người điều dưỡng.
Để giảm bớt RNTL, chúng tôi cũng đề xuất một số biện pháp của bản thân
người điều dưỡng, của bệnh viện và của xã hội.
99
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
Qua nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn của điều dưỡng làm việc tại 4
bệnh viện tiêu biểu trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh, chúng tôi có cơ sở đưa ra
một số kết luận như sau:
1.1. Rối nhiễu tâm lý là một hành vi có ý nghĩa lâm sàng hoặc một hội chứng
tâm lý xuất hiện ở một chủ thể gây ra sự đau khổ, bất lực, rối loạn chức năng... làm
cho chủ thể (điều dưỡng) khó tự chủ được hành vi ứng xử của mình, gây ảnh hưởng
không tốt đến cuộc sống và công việc của người điều dưỡng.
1.2. Kết quả nghiên cứu thực trạng RNTL của điều dưỡng viên bệnh viện
cho thấy:
Điều dưỡng đang làm việc tại 4 bệnh viện trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh
là: Nhân dân Gia Định, Thống Nhất, Nhi đồng 2, Phạm Ngọc Thạch hay gặp một số
biểu hiện của RNTL như: nhức mỏi cơ; bứt rứt, khó chịu; giảm cân; dễ xúc động,
mệt mỏi... Về RNLA: tỷ lệ điều dưỡng bị RNLA sinh lý – thể chất nhẹ là: 20,7%; tỷ
lệ điều dưỡng bị RNLA tâm lý nhẹ là: 30,5%. Về CTNN: tỷ lệ điều dưỡng bị CTNN
sinh lý nhẹ là: 52,5%; tỷ lệ điều dưỡng bị CTNN tâm lý nhẹ là: 50,5%, CTNN tâm
lý nặng là: 0,5%. Về RNNC: tỷ lệ điều dưỡng bị RNNC nhẹ là: 23%.
Kết quả so sánh từng biểu hiện của 3 dạng RNTL (RNLA, CTNN, RNNC)
theo phương diện lứa tuổi và khoa làm việc là: hầu như là không có sự khác biệt;
tuy nhiên vẫn có hiện tượng điều dưỡng khoa Ngoại bị CTNN về mặt tâm lý và sinh
lý – thể chất cao hơn điều dưỡng khoa Nội, có sự khác biệt CTNN về mặt tâm lý
giữa nhóm lứa tuổi từ 20 – 40 tuổi và nhóm lứa tuổi từ 41 – 55 tuổi.
Các RNTL gây ảnh hưởng cho điều dưỡng ở nhiều mặt, như: tâm sinh lý, công
việc, hoạt động giao tiếp...
Từ kết quả nghiên cứu thực trạng cũng khẳng định có nhiều nguyên nhân gây
nên RNTL ở điều dưỡng viên, bao gồm các nguyên nhân chủ quan và các nguyên
nhân khách quan. Các nguyên nhân khách quan chủ yếu là do các yếu tố xã hội, áp
100
lực công việc, môi trường làm việc... Các nguyên nhân chủ quan chủ yếu là yếu tố
sinh học và yếu tố tâm lý của người điều dưỡng.
1.3. Để giảm thiểu tối đa RNTL của điều dưỡng viên bệnh viện cần phải có
những biện pháp tác động phù hợp. Căn cứ từ kết quả thực trạng nghiên cứu đề tài,
căn cứ vào tình hình hoạt động thực tế của 4 bệnh viện mà có điều dưỡng đang làm
việc là khách thể nghiên cứu và từ kết quả khảo sát về mức độ cần thiết của một số
biện pháp, chúng tôi đưa ra một số đề xuất: với bản thân người điều dưỡng phải
luôn tự học để phát triển trong công việc cũng như các hoạt động khác làm thay đổi
nhận thức của xã hội về nghề điều dưỡng, với bệnh viện phải đổi mới theo chiều
hướng tích cực điều kiện làm việc và các chế độ đãi ngộ cho người điều dưỡng, đối
với xã hội phải xây dựng các chính sách bảo vệ quyền lợi chính đáng cho người
điều dưỡng...
2. Kiến nghị
2.1. Đối với người điều dưỡng
- Luôn tự học mọi lúc, mọi nơi với nhiều hình thức. Học để không lạc hậu,
học để có kiến thức toàn diện vì đặc thù nghề điều dưỡng có sản phẩm là sức khỏe,
tính mạng con người nên yêu với người điều dưỡng ngoài việc làm đúng chuyên
môn, tay nghề thành thạo còn phải làm nhiều việc khác trong quá trình chăm sóc
sức khỏe người bệnh.
- Phải tự biết chăm sóc bản thân mình, có chế độ nghỉ ngơi, dinh dưỡng hợp
lý. Vì người điều dưỡng có khỏe mạnh thì mới làm tốt được mọi việc.
- Phải luôn giữ thái độ chân thành, tôn trọng, cảm thông chia sẻ với người
bệnh sao cho xứng đáng với lời dạy của Bác là “lương y như từ mẫu”.
2.2. Đối với bệnh viện
- Trả lương cho người điều dưỡng phải đảm bảo được cuộc sống của họ, cải
thiện điều kiện làm việc cho điều dưỡng, xây dựng lại chế độ đãi ngộ với người
điều dưỡng phải thật phù hợp.
- Tổ chức các hoạt động vui chơi giải trí thu hút điều dưỡng tham gia để
giảm CTNN, như: thi văn nghệ, thi đấu thể thao, thi nấu ăn... giữa các
101
khoa/phòng/ban với nhau; bố trí nhiều đợt thăm quan du lịch trong năm để tất cả
các điều dưỡng đều có thể tham gia.
- Xây dựng nếp sống đoàn kết, tôn trọng lẫn nhau giữa các nhân viên trong
bệnh viện.
2.3. Đối với các cơ quan chức năng có liên quan
- Các cơ quan chức năng cần có các biện pháp tuyên truyền đúng đắn về
nghề điều dưỡng để xã hội thay đổi cái nhìn vốn có về nghề này và những con
người làm nghề này.
- Quan tâm đến công tác an toàn vệ sinh lao động, duy trì và thực hiện tốt
phong trào “Xanh - Sạch - Đẹp, An toàn vệ sinh lao động” tại nơi làm việc. Thực
hiện nghiêm túc việc khám sức khỏe định kỳ và khám phát hiện bệnh nghề nghiệp,
trong đó thực hiện đầy đủ những quy định về thủ tục và hồ sơ khám sức khỏe định
kỳ để tạo điều kiện thuận lợi cho việc quản lý sức khỏe của nhân viên y tế trong quá
trình lao động, giúp người sử dụng lao động thường xuyên cập nhật thông tin về
tình hình sức khỏe của người lao động để quản lý và tổ chức sắp xếp lao động phù
hợp với yêu cầu công việc và tình trạng quá tải ở các bệnh viện hiện nay. Vì điều
dưỡng có khoẻ mạnh, tinh thần có thoải mái thì mới phát huy hết khả năng, nhiệt
huyết chăm sóc cho người bệnh.
102
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Bộ Y Tế (2004), Tài liệu quản lý điều dưỡng, Nxb Y học, Hà Nội.
2. Bộ Y Tế (2005), Điều dưỡng cơ bản, Nxb Y học, Hà Nội.
3. Trương Đình Chính, Cao Ngọc Nga, Nguyễn Đỗ Nguyên, Ngô Tích Linh
(2009), Rối loạn tâm thần ở điều dưỡng và nữ hộ sinh Bà Rịa - Vũng Tàu.
4. Trần Văn Cường (2002), “Nghiên cứu đặc điểm nguyên nhân tử vong của bệnh
nhân rối loạn tâm thần”, Tạp chí thông tin Y dược (4).
5. Nguyễn Bá Đạt (2010), “Rối nhiễu tâm lý ở trẻ em sống trong gia đình có bạo
lực”, Báo Tiếp thị và gia đình.
6. Bùi Thị Hạnh Dung (2011), Tìm hiểu biểu hiện rối nhiễu lo âu của học sinh
trung học phổ thông ở thành phố Hồ Chí Minh, Luận văn tốt nghiệp.
7. Trịnh Thị Minh Dung (2005), Bước đầu tìm hiểu stress nghề nghiệp ở nữ công
nhân một số công ty tại khu công nghiệp Biên Hòa, Luận văn tốt nghiệp.
8. Lê Khanh (2010), “Tình trạng rối nhiễu tâm lý”, Báo Sức khỏe và đời sống.
9. Đăng Phương Kiệt (2001), Cơ sở tâm lý học ứng dụng, Nxb Đại học Quốc gia
Hà Nội.
10. Nguyễn Thị Mến (2005), Đánh giá thực trạng năng lực chăm sóc người bệnh
của điều dưỡng viên, Luận án Tiến sĩ Y khoa, Trường Đại học Y Hà Nội,
Hà Nội.
11. Lê Quốc Nam (2012), “Căng thẳng nghề nghiệp ở nhân viên y tế, gánh nặng
không thể xem nhẹ”, Tạp chí Y học.
12. Nguyễn Văn Nhận (1998), Tâm lý học Y học, Nxb Y học, Hà Nội.
13. Vũ Thị Nho (1999), Tâm lý học phát triển, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
14. Trung Nguyên, (2010), “Nghiên cứu rối nhiễu tâm lý ở trẻ em và thanh thiếu
niên”, Tạp chí Y học.
15. Huỳnh Hồ Ngọc Quỳnh (2009), Sức khỏe tâm thần của sinh viên Y tế công cộng
và sinh viên Điều dưỡng Đại học Y dược thành phố Hồ Chí Minh.
16. Lê Thành Tài, Trần Ngọc Xuân, Trần Trúc Linh (2007) “Tình hình căng thẳng
nghề nghiệp của nhân viên điều dưỡng”, Tạp chí Y học.
103
17. Lê Minh Thuận (2011), Rối nhiễu tâm lý của sinh vỉên Đại học Y dược, Luận
văn Thạc sĩ Tâm lý, Trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh.
18. Nguyễn Khắc Viện (1999), Tâm lý lâm sàng trẻ em Việt Nam, Nxb Y học,
Hà Nội.
19. Dr Savitri Ramaiah (2004) - Nguyễn Như Ý biên dịch , Lo âu , Nxb Tổng hợp
thành phố Hồ Chí Minh.
20. Hiệp hội tâm lý học Hoa kỳ (1999), Sổ tay chẩn đoán và thống kê các rối nhiễu
tâm thần.
21. L.Levi – Minh Đức biên dịch (2006), “Stress nghề nghiệp”, Tạp chí Tâm lý học.
22. Robert Feldman – Hồ Kim Chung biên dịch (2004), Tâm lý học căn bản, Nxb
Văn hóa thông tin.
Tiếng Anh
23. Health Trasion Review (1996), The Cultrual, Social and Behavioural
Determinants of Health.
24. H. Seley (1956), “Stress and psychiatry”, Am J Psychiatry, 113, (5).
25. Mccam, T.V. E Clark (2010), “Australian Bachelor of Midwifery students
mental health literacy: an exploratory study”, Nurs health Sci, 12, (1).
26. Naiemeh, Seyedfatemi, Maryam Tafreshi, Hamid Hagani (2007), “Experienced
stressors and coping strategies among Iranian nursing student”, BMC
Nursing, 6, (11), 1 – 10.
27. Rosen, Fox and Gregory (1972), Abnormal psychology (Second edition),
W.B.Sauders Company.
28. Seley, H. (1955), “Stress and disease”, Science, 122, (3171), 625 – 31.
29. Probst, M, J Peuskens (2010), “Attitudes of Flemish phyiotherpy students
towards mental health and psychiatry”, Physiotherapy, 96, (1), 44 – 51.
30. Woods, M.A (2010), “Public health intervention model: impact on Australian
community and mental health nursing students practice”, Int J Nurs Educ
Scholarsh, 7, (1).
.
Phụ lục 1
PHIẾU THĂM DÒ Ý KIẾN
Kính chào các anh/chị điều dưỡng!
Chúng tôi đang nghiên cứu sự ảnh hưởng của điều kiện làm việc đến sức
khỏe tinh thần của điều dưỡng viên từ đó đưa ra một số đề xuất nhằm đảm bảo sức
khỏe tinh thần cho người điều dưỡng. Để đạt được mục đích đó, rất mong các
anh/chị trả lời các câu hỏi sau đây. Mọi thông tin đều được giữ bí mật và chỉ được
sử dụng với mục đích nghiên cứu. Những ý kiến phản ánh đúng suy nghĩ của các
anh/chị sẽ góp phần vào thành công của đề tài.
Chúng tôi rất mong nhận được sự hợp tác của các anh/chị!
PHẦN I: THÔNG TIN CÁ NHÂN
(Đánh dấu X vào ô trước trả lời của anh/chị)
1. Giới tính Nam Nữ
2. Lứa tuổi Từ 20 – 40 tuổi Từ 41 – 55 tuổi