ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC
VŨ NGỌC DUY
MỐI LIÊN QUAN GIỮA MỨC ĐỘ SỬ DỤNG INTERNET VỚI
TRẦM CẢM, LO ÂU, STRESS Ở HỌC SINH TRUNG HỌC
LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC
Hà Nội – 2020
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC
VŨ NGỌC DUY
MỐI LIÊN QUAN GIỮA MỨC ĐỘ SỬ DỤNG INTERNET VỚI
TRẦM CẢM, LO ÂU, STRESS Ở HỌC SINH TRUNG HỌC
LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC Chuyên ngành: Tâm lý học lâm sàng trẻ em và vị thành niên
Mã số: 8310401.05
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. TRẦN THÀNH NAM
Hà Nội – 2020
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn này, tôi đã nhận được sự giúp đỡ, hỗ trợ
nhiệt tình, quý báu từ các thầy cô, bạn bè và đồng nghiệp.
Trước hết, tôi xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu, các thầy cô,
các cán bộ quản lý, anh chị và các bạn học viên trong chương trình Tâm
lý học lâm sàng trẻ em và vị thành niên đã đồng hành, hỗ trợ cả về
chuyên môn và tinh thần trong suốt quá trình tôi trong qua trình học tập
và nghiên cứu tại trường Đại học Giáo dục – Đại học Quốc gia Hà Nội.
Để thực hiện luận văn tôi xin chân thành gửi lời cảm ơn sâu sắc đến
PGS.TS. Trần Thành Nam là người đã trực tiếp hướng dẫn tôi trong suốt
quá trình thực hiện đề tài. Nhờ sự động viên, khích lệ, sự định hướng,
chỉ dẫn sát sao, tỉ mỉ của Thầy mà tôi đã có thể hoàn thành được luận
văn này. Qua quá trình làm việc cùng Thầy, tôi cũng đã thu được nhiều
bài học kinh nghiệm về cách làm và nghiên cứu khoa học.
Tôi cũng xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu, giáo viên và học
sinh trường THCS Hùng Vương, THCS Chu Văn An, trường THPT
Nguyễn Trãi và THPT Trần Cao Vân của tỉnh Khánh Hòa; trường
THCS Nguyễn Trãi, THCS Huỳnh Thúc Kháng, THPT Cẩm Lê, THPT
Phan Châu Trinh của thành phố Đà Nẵng đã hợp tác, hỗ trợ, tạo điều
kiện giúp tôi thu thập số liệu cho luận văn này.
Lời cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, bạn bè và đồng
nghiệp đã luôn bên cạnh, ủng hộ, động viên và tạo điều kiện tốt nhất để
tôi có thể hoàn thành luận văn này.
Khánh Hòa, ngày 15 tháng 6 năm 2020
Tác giả
Vũ Ngọc Duy
i
DANH MỤC CÁC KÍ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ĐTB Điểm trung bình
ĐLC Độ lệch chuẩn
DSM Diagnostic and Statistical Manual of Mental
Disorders
THCS Trung học cơ sở
THPT Trung học phổ thông
i
MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN ....................................................................................................... i
DANH MỤC CÁC KÍ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT ..................................... ii
DANH MỤC BẢNG ........................................................................................... iv
MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 1
CHƢƠNG 1.......................................................................................................... 6
1.1. Tổng quan lịch sử nghiên cứu vấn đề ......................................................... 6
1.1.1. Trên thế giới ............................................................................................... 6
1.1.2. Những công trình nghiên cứu tại Việt Nam ........................................... 11
1.2. Nghiên cứu về mối liên hệ giữa việc sử dụng Internet với trầm cảm, lo
âu, stress ............................................................................................................. 14
1.3. Một số vấn đề lý luận về Internet ............................................................. 20
1.3.1. Khái niệm Internet .................................................................................. 20
1.3.2. Khái niệm mức độ sử dụng Internet ....................................................... 21
1.3.3. Tiêu chuẩn đánh giá mức độ sử dụng Internet ...................................... 25
1.3.4. Trầm cảm ................................................................................................. 32
1.3.4. Lo âu ......................................................................................................... 35
1.3.5. Stress ......................................................................................................... 37
1.3.6. Học sinh trung học .................................................................................. 38
CHƢƠNG 2........................................................................................................ 46
2.1. Đặc điểm của khách thể và địa bàn nghiên cứu ...................................... 46
2.1.1. Đặc điểm địa bàn nghiên cứu .................................................................. 46
2.1.2. Đặc điểm của khách thể nghiên cứu ....................................................... 47
2.2. Quy trình nghiên cứu ................................................................................. 48
2.3. Công cụ nghiên cứu .................................................................................... 49
2.4. Chiến lƣợc nhập liệu và xử lý số liệu ........................................................ 52
CHƢƠNG 3........................................................................................................ 54
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ............................................................................... 54
ii
3.1. Thực trạng sử dụng internet ở học sinh trung học ................................. 54
3.2. Thực trạng nghiện Internet của học sinh trung học ............................... 62
3.3. Mức độ nghiện Internet theo các yếu tố nhân khẩu học ....................... 65
3.4. Thực trạng lo âu, trầm cảm và stress ở học sinh trƣờng trung học ...... 69
3.5. Thực trạng trầm cảm, lo âu, stress theo các yếu tố nhân khẩu học ...... 73
3.6. Mối liên hệ giữa việc sử dụng Internet với các biến số ........................... 84
3.7. Các yếu tố dự báo nghiện Internet ........................................................... 85
3.8. Các yếu tổ dự báo vấn đề trầm cảm, lo âu, stress ở học sinh ................ 86
3.9. Bàn luận về kết quả nghiên cứu ................................................................ 86
iii
DANH MỤC BẢNG
Bảng 3. 1: Tỷ lệ học sinh sử dụng Internet theo các cấp độ ............................... 54
Bảng 3. 2: Một số đặc điểm sử dụng Internet của khách thể .............................. 54
Bảng 3. 3: Phương tiện sử dụng để truy cập Internet.......................................... 57
Bảng 3. 4: Mục đích sử dụng Internet ................................................................. 57
Bảng 3. 5: Mức độ sử dụng Internet với đặc điểm nhân khẩu học ..................... 58
Bảng 3. 6: Thời lượng sử dụng Internet theo các biến nhân khẩu học ............... 60
Bảng 3. 7: Mức độ lệ thuộc Internet của học sinh qua thang s-IAT ................... 62
Bảng 3. 8: Tỷ lệ nghiện Internet qua thang s- IAT ............................................. 64
Bảng 3. 9: Tỷ lệ nghiện Internet theo các biến nhân khẩu học ........................... 65
Bảng 3. 10: Thực trạng lo âu, trầm cảm và stress ở học sinh ............................. 69
Bảng 3. 11: Tỷ lệ stress ở học sinh ..................................................................... 71
Bảng 3. 12: Tỷ lệ trầm cảm ở học sinh ............................................................... 72
Bảng 3. 13: Tỷ lệ lo âu ở học sinh ...................................................................... 72
Bảng 3. 14: Thực trạng trầm cảm theo các biến nhân khẩu học ......................... 73
Bảng 3. 15: Thực trạng lo âu theo các biến nhân khẩu học ................................ 77
Bảng 3. 16: Thực trạng stress theo các biến nhân khẩu học ............................... 80
Bảng 3. 17: Mối liên hệ giữa việc sử dụng Internet với trầm cảm, lo âu, stress ở
học sinh ............................................................................................................... 84
Bảng 3. 18: Các yếu tố dự đoán cho nghiện Internet .......................................... 85
Bảng 3. 19: Các yếu tố dự báo cho vấn đề trầm cảm, lo âu, stress ..................... 86
iv
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hiện nay, Internet đã và đang đồng hành cùng với con người trong tất
cả các hoạt động hàng ngày từ học tập, làm việc đến thư giãn, giải trí. Không
thể phủ nhận những lợi ích mà Internet đã đem lại, tuy nhiên việc sử dụng
Internet cũng gây ra nhiều hậu quả tiêu cực, việc lạm dụng quá mức Internet
gây khiến người sử dụng phải đối mặt với nhiều nguy cơ liên quan đến bị bắt
nạt trực tuyến [10], dễ bị lôi kéo vào các trang web, phim ảnh không lành
mạnh [9], bỏ bê, sao nhãng học hành mà quan trong hơn là sự thay đổi nhân
cách theo chiều hướng xấu [1], liên quan đến các vấn đề về sức khỏe như:
trầm cảm, tăng động giảm chú ý, rối loạn giấc ngủ…[3].
Việc sử dụng Internet đã tăng lên theo cấp số nhân với gần 4 tỷ người
sử dụng, trong đó khu vực Châu Á có số lượng người sử dụng nhiều nhất với
gần 2 tỷ người [59], trong số đó là thanh thiếu niên [29]. Cùng với sự tăng
trưởng nhanh chóng của việc truy cập và sử dụng internet, tỷ lệ người nghiện
Internet cũng ngày càng tăng cao, đặc biệt là thanh thiếu niên [40].
Mak & cộng sự (2014) đã tiến hành một nghiên cứu trên 5266 thanh
thiếu niên từ 12 đến 18 tuổi tại 6 nước Châu Á (Trung Quốc, Hồng Kông,
Nhật Bản, Hàn Quốc, Malaysia, Philippines) cho thấy khoảng từ 6% đến 21%
trong số đó được đánh giá là nghiện Internet [84]. Tỷ lệ này cao hơn so với
nhóm tương tự ở các nước châu Âu với tỷ lệ từ 1% đến 4%
[116][31][104][61][63].
Theo We Are Social Media – Global digital report, 2018 [44] với dân
số khoảng 96 triệu người có đến 64 triệu người Việt Nam có thể tiếp cận
Internet (tăng 28% so với năm 2017), 55 triệu người thường xuyên sử dụng
mạng xã hội (tăng 20% so với năm 2017), 50 triệu người dùng Internet truy
cập các nội dung truyền thông xã hội qua điện thoại (tăng 22% so với năm
2017). Việt Nam đứng thứ 22 toàn cầu về số lượng người dân có thể tiếp cận
1
Internet, là một trong 20 nước trên thế giới có lượng người truy cập mạng xã
hội nhiều nhất. Các nghiên cứu cho thấy, có 162 triệu di động đang được sử
dụng tại Việt Nam, nghĩa là trung bình mỗi người dân sở hữu tới 2 chiếc điện
thoại, trong đó có 49 triệu điện thoại thông minh dùng để kết nối internet và
mạng xã hội. Dự tính tới năm 2020, 90% dân số Việt Nam sẽ sử dụng điện
thoại thông minh . We Are Social cũng công bố số liệu cho thấy Việt nam là
một trong các nước có tốc độ tăng trưởng người dùng internet và mạng xã hội
nhanh nhất trong khu vực châu Á với số thành viên tăng tới 25% kể từ tháng
1/2017 đến nay.
Tại Việt Nam, căn cứ theo kết quả điều tra quốc gia trên nhóm thanh
thiếu niên cho thấy việc sử dụng Internet diễn ra phổ biến ở cả thanh thiếu
niên sống ở thành thị và thanh thiếu niên ở nông thôn với tỷ lệ lần lượt là 50%
và 13% . Phần lớn cho biết họ sử dụng Internet để trò chuyện chiếm 69% và
62% chơi trò chơi trực tuyến [13]. Nghiên cứu tại Đồng Nai năm 2011 của
tác giả Lê Minh Công cho thấy có tỷ lệ khoảng 12,3% học sinh THCS
nghiện Internet ở các cấp độ [4]. Đề tài “Tương quan giữa mức độ sử dụng
Internet và các vấn đề về sức khỏe tâm thần ở học sinh Trung học cơ sở” năm
2013 của Nguyễn Thị Phương cho thấy có khoảng 10% học sinh THCS sử
dụng Internet thường xuyên [13]. Nghiên cứu của Trần Xuân Bách và cộng sự
(2017) trên 566 người từ 15 đến 25 tuổi cho thấy có 21,2% được chẩn đoán là
nghiện Internet [111]. Như vậy có thể thấy rằng việc sử dụng Internet quá
mức tại Việt Nam có xu hướng ngày càng tăng.
Đã có nhiều nghiên cứu thế giới chỉ ra rằng việc lạm dụng Internet là
một trong những yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống, mối quan hệ,
các rối loạn sức khỏe tâm thần [51][33][38][107][73][80]. Tuy vậy, các
nghiên cứu chỉ tập trung vào mức độ lạm dụng Internet và đưa ra các ảnh
hưởng của nó đến vấn đề sức khỏe tâm thần nói chung, chưa đi sâu vào các
rối loạn trầm cảm, lo âu, stress. Mặt khác, đối tượng nghiên cứu của họ
2
thường là những đối tượng riêng lẻ như: học sinh THCS, sinh viên ở các
trường đại học - cao đẳng, người trưởng thành…chưa có đánh giá và so sánh
thực tế giữa các nhóm đối tượng cụ thể với nhau như: học sinh THCS với
THPT hay giữa các khu vực, vùng miền.
Với những lý do trên, tôi quyết định thực hiện đề tài “Mối liên quan
giữa mức độ sử dụng internet với trầm cảm, lo âu, stress ở học sinh trung
học”. Nghiên cứu nhằm góp phần tìm hiểu việc sử dụng Internet của học sinh
và mối liên hệ của việc sử dụng này với các vấn đề về trầm cảm, lo âu, stress.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu nhằm tìm hiểu tình hình sử dụng Internet theo các mức độ
của học sinh; Đánh giá về các mối quan hệ tiềm ẩn giữa việc sử dụng Internet
với các vấn đề về trầm cảm, lo âu và stress ở học sinh.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
2.2.1. Nhiệm cụ nghiên cứu lý luận
- Đọc và tìm hiểu cơ sở lý luận về nghiện Internet; tổng quan nghiên
cứu về Internet với các vấn đề về trầm cảm, lo âu và stress ở các nhóm đối
tượng.
- Xây dựng các khái niệm công cụ liên quan đến đề tài: sử dụng
Internet là gì? Biểu hiện các vấn đề trầm cảm, lo âu, stress là gì?...
2.2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu thực tiễn
Tìm hiểu thực trạng, mức độ sử dụng internet hiện nay của học sinh
trường trung học và ảnh hưởng của việc sử dụng internet đến các vấn đề trầm
cảm, lo âu và stress của học sinh.
3. Đối tƣợng và khách thể nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Mối liên quan giữa mức độ sử dụng internet với vấn đề trầm cảm, lo âu,
stress ở học sinh trường trung học.
3
3.2. Khách thể nghiên cứu
Học sinh THCS và THPT trên địa bàn 2 tỉnh Khánh Hòa và thành phố
Đà Nẵng
4. Câu hỏi nghiên cứu
Thực trạng sử dụng internet ở học sinh trung học trên địa bàn 2 tỉnh
Khánh Hòa và thành phố Đà Nẵng là như thế nào?
Mức độ sử dụng internet và điểm số lo âu, trầm cảm, stress có mối liên
hệ với nhau như thế nào?
5. Giả thuyết nghiên cứu
Học sinh THCS và THPT trên địa bàn 2 tỉnh Khánh Hòa và thành phố
Đà Nẵng thường xuyên sử dụng internet. Có một tỉ lệ không nhỏ đáp ứng dấu
hiệu nghiện internet.
Mức độ sử dụng internet và điểm số lo âu, trầm cảm, stress có tương
quan thuận và có ý nghĩa thống kê
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
6.1. Phương pháp nghiên cứu lí luận
Phương pháp này được sử dụng để khai thác và tìm kiếm các nguồn tài
liệu, bao gồm sách báo, tạp chí và các công trình nghiên cứu trên thế giới và ở
Việt Nam nhằm thu thập các thông tin về vấn đề sử dụng internet, nghiện
internet và mối liên hệ giữa việc sử dụng internet với các vấn đề về trầm cảm,
lo âu, stress để làm nền tảng lý luận cho đề tài.
6.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi được sử dụng để thu thập và đánh
giá thực trạng việc sử dụng internet cũng như bảng hỏi về các vấn đề trầm
cảm, lo âu, stress ở học sinh, cụ thể:
+ Sử dụng bằng trắc nghiệm mức độ sử dụng Internet s-IAT (phiên bản
rút gọn) do Trần Xuân Bách và cộng sự (2017) thích nghi tại Việt Nam với 12
câu [112];
4
+ Thang đo về trầm cảm, lo âu, stress: Dass – 21 (Depression Anxiety
and Stress Scales) [83].
6.3. Phương pháp xử lý số liệu
Trong nghiên cứu này, chúng tôi sử dụng phần mềm thống kê SPSS để
sử lý kết quả nghiên cứu, nhằm xác định độ tin cậy, độ mạnh của mối liên hệ
giữa mức độ sử dụng Internet với các vấn đề về trầm cảm, lo âu, stress.
7. Phạm vi nghiên cứu
7.1. Thời gian và địa điểm nghiên cứu
Thời gian: Từ tháng 12/2017 – 12/2019
Địa điểm nghiên cứu. Nghiên cứu được tiến hành với khối lớp 7, 8
(THCS) và 10,11 (THPT) trên địa bàn 2 thành phố Đà Nẵng và tỉnh Khánh
Hòa.
7.2. Mẫu nghiên cứu
Mẫu nghiên cứu là 562 học sinh được chọn ngẫu nhiên từ 4 trường
THCS và 04 trường THPT trên địa bàn thành phố Đà Nẵng và tỉnh Khánh
Hòa
8. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và khuyến nghị, danh mục tài liệu tham
khảo và các phụ lục khác, nội dung chính của luận văn sẽ được trình bày
trong 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lí luận của vấn đề nghiên cứu
Chương 2: Tổ chức và phương pháp nghiên cứu
Chương 3: Kết quả nghiên cứu
5
CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Tổng quan lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Trên thế giới
1.1.1.1. Thực trạng chung về sử dụng Internet, nghiện Internet
Các nghiên cứu trên thế giới đã được tiến hành tìm kiếm, thống kê số
lượng, tỷ lệ sử dụng Internet, nghiện Internet.
Nghiên cứu đầu tiên có quy mô là nghiên cứu của David Greenfield
(Trung tâm nghiện Internet và công nghệ Hoa Kỳ) vào năm 1999 với một
bảng khảo sát chạy trên ABCNews.Com với 17.251 người tham gia trả lời
câu hỏi, và trong đó có khoảng 6% người đủ tiêu chuẩn nghiện Internet
[54].
Tại Hoa Kỳ, Moreno và cộng sự (2011) đã sử dụng các ứng dụng tìm
kiếm như: PubMed, PsycINFO và Web of Knowledge từ khi thành lập đến
tháng 7 năm 2010. Kết quả tìm kiếm mang lại 658 bài viết, trong đó có 18
nghiên cứu, 8 báo cáo ước tính tỷ lệ nghiện Internet ở thanh thiếu niên và sinh
viên dao động từ 0% đến 26,3% [89].
Kaess và cộng sự (2014) đã tiến hành nghiên cứu tỷ lệ nghiện Internet
tại 11 quốc gia khu vự châu Âu với tuổi trung bình là 14.9, kết quả cho thấy
khoảng 4.4% được đánh giá là nghiện Internet [62]. Một nghiên cứu khác
được tiến hành trên 31 quốc gia thuộc 7 khu vực trên thế giới cho thấy ước
tính tỷ lệ nghiện Internet là 6.0%, cao nhất là ở Trung Đông với 10,9% và
thấp nhất là ở Bắc và Tây Âu với 2,6% [36].
Gần đây nhất, Laconi và cộng sự (2018), đã tiến hành nghiên cứu việc
sử dụng Internet tại 9 quốc gia châu Âu gồm Ý, Đức, Pháp, Tây Ban Nha, Ba
Lan, Thổ Nhĩ Kỳ, Hungary, Hy Lạp và Anh, với độ tuổi từ 18 đến 87, kết quả
cho thấy tỷ lệ nghiện dao động trong khoảng 14,3% đến 54,9% [74].
6
Spada và cộng sự (2014) đã mô tả mức độ phổ biến của việc sử dụng
Internet có vấn đề, nghiên cứu chỉ ra rằng có sự khác biệt theo từng khu vực,
tỷ lệ sử dụng Internet có vấn đề là 1,0 đến 9,0% ở thanh thiếu niên châu Âu,
1,0 đến 12,0% ở thanh thiếu niên Trung Đông và 2,0 đến 18,0% ở thanh thiếu
niên châu Á [103].
Tại khu vực Đông Nam Á, nghiên cứu của Yatan Pal Singh Balhara và
cộng sự (2018), dựa trên các cơ sở dữ liệu điện tử của PubMed và Google
Scholar được công bố có liên quan đến việc sử dụng Internet. Kết quả cho
thấy tỷ lệ lạm dụng Internet/ nghiện Internet có thể dao động từ 7,4% đến
46,4% [25].
Martin Mihajlov & Lucija Vejmelka (2017) trong báo cáo tóm tắt các
nghiên cứu về nghiện Internet trong vòng 20 năm bắt đầu từ 1996 cho thấy, tỷ
lệ người nghiện Internet trên toàn thế giới khoảng 6% [85].
1.1.1.2. Nghiên cứu thực trạng sử dụng Internet ở thanh thiếu niên
Tại Mỹ, Liu và cộng sự (2011) nghiên cứu trên 3.560 học sinh châu Á
và gốc Tây Ba Nha tại các trường trung học ở Connecticut. Kết quả cho thấy:
4% học sinh thuộc nhóm sử dụng internet có vấn đề [82].
Nghiên cứu tại Thổ Nhĩ Kỳ năm (2013) về sử dụng Internet với 4311
thanh thiếu niên độ tuổi từ 15 đến 19, kết quả cho thấy 5% thanh thiếu niên
được chẩn đoán là sử dụng Internet quá mức [21].
Aysegul Yolga Tahiroglu, M.D và cộng sự nghiên cứu trên 3975 thanh
thiếu niên Thổ Nhĩ Kỳ đã phát hiện có 7,6% sử dụng internet trên 12 tiếng
mỗi tuần [23].
Ở Ý, nghiều nghiên cứu về sử dụng Internet đã được thực hiện. Milani
và cộng sự (2009) tìm thấy 36,7% thanh thiếu niên tuổi từ 14–19 có dấu hiệu
sử dụng Internet có vấn đề [88]. Nghiên cứu của Poli, R., & Agrimi, E. (2012)
nghiên cứu trên 2533 học sinh cho thấy 5,01 % nghiện ở mức vừa phải, 0,79
% nghiện ở mức nghiêm trọng [99]. Gần đây, Bruno và cộng sự (2014) tiến
7
hành nghiên cứu 1035 học sinh trung học. Kết quả cho thấy 3,9% được chẩn
đoán là nghiện Internet [30].
Siomos và cộng sự (2012) tiến hành một nghiên cứu cắt ngang của toàn
bộ 2017 học sinh từ 12-19 tuổi và 1214 cha mẹ ở đảo Kos, Hy Lạp. Kết quả
15,2% được chẩn đoán nghiện Internet ở mức độ nặng, 26,9% nghiện ở mức
vừa phải [102].
Fisoun và cộng sự (2012) tiến hành một cuộc khảo sát cắt ngang đánh
giá toàn bộ số học sinh vị thành niên (N = 1270, 14–18 tuổi) của đảo Kos ở
Hy Lạp. Kết quả cho thấy: 5,3% nghiện Internet ở mức vừa phải và 14,7%
nghiện Internet ở mức nặng [47]. Cũng trên nhóm đó, nghiên cứu khác chỉ ra
rằng 7.2% nam và 5.1% nữ nghiện Internet [48].
Tại Hy Lạp, các nhà khoa học báo cáo có khoảng 8,2% thanh thiếu
niên ở đô thị được đánh giá là nghiện Internet, trong đó chủ yếu là các em trai
[71].
Johansson và cộng sự (2004) nghiên cứu trên mẫu đại diện là 3237
thanh thiếu niên, độ tuổi từ 12 đến 18 tuổi tại Na Uy. Kết quả cho thấy tỷ lệ
trung bình được chẩn đoán nghiện Internet là 1,98%; 8,68% có nguy cơ cao
nghiện Internet [61].
Kaltiala-Heino và cộng sự (2004) nghiên cứu trực tuyến trên 7292
thanh thiếu niên tại Phần Lan, độ tuổi từ 12 đến 18 cho thấy 1,7% nam và
1,4% nữ được đánh giá nghiện Internet, nghiên cứu cũng chỉ ra rằng những
người nghiện Internet đã dành nhiều thời gian trực tuyến nhiều hơn người
không nghiện (2,7 với 1,3) [63]. Một nghiên cứu khác, cho thấy có khoảng
4,7% nữ và 4,6% nam trên cộng đồng thanh thiếu niên từ 12 - 18 tuổi đủ
tiêu chuẩn của nghiện Internet (Cooper, 2002).
Kuss và cộng sự (2013) nghiên cứu trên 3105 thanh thiếu niên với độ
tuổi trung bình là 14.2 ở Hà Lan cho thấy 3,7% được phân loại là nghiện
Internet. Nghiên cứu cũng cho thấy: Việc sử dụng các ứng dụng xã hội và trò
8
chơi trực tuyến (các trang web mạng xã hội trực tuyến và Twitter) là yếu tố
làm tăng nguy cơ nghiện Internet [72].
Carbonell X và cộng sự (2012) nghiên cứu trên 1879 thanh thiếu niên ở
Tây Ban Nha. Kết quả cho thấy 6.1% có vấn đề với việc sử dụng Internet,
không có khác biệt về giới tính với vấn đề sử dụng Internet [34].
Gomez và cộng sự (2017) tiến hành nghiên cứu trên 40955 học sinh
trong độ tuổi từ 12 đến 17 ở Tây Ba Nha. Kết quả cho thấy cho thấy khoảng
16,3% được chẩn đoán là nghiện Internet [52].
Nghiên cứu tại Đức năm 2010, cho thấy: 1,5 % - 3,5% thanh thiếu niên
có dấu hiệu nghiện internet hoặc sử dụng quá mức [98].
Nghiên cứu tại Croatia (2017) trên 352 thanh thiếu niên tại 9 trường
trung học. Kết quả cho thấy 3,4% được chẩn đoán là nghiện Internet [115].
Nghiện Internet cũng đang được báo cáo như là một vấn đề sức khỏe
cộng đồng nghiêm trọng tại các quốc gia châu Á. Ở Trung Quốc, có khoảng
2,4% đến 6,0% thanh thiếu niên có dấu hiệu nghiện Internet [32]. Những
nghiên cứu gần đây về nghiện Internet (Cui, Zhao, Wu & Xu, 2006,...) cho
thấy có khoảng từ 9,72% đến 11,06% thanh thiếu niên Trung Quốc có biểu
hiện nghiện Internet [41].
Cao và cộng sự (2011) thực hiện nghiên cứu cắt ngang trên 17599
thanh thiếu niên tại 8 thành phố ở Trung Quốc với độ tuổi trung bình 16,1.
Kết quả cho thấy 8,1% được đánh giá là sử dụng Internet có vấn đề [33].
Wang và cộng sự (2011) tiến hành nghiên cứu trên 14296 học sinh tại
tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc. Kết quả cho thấy 12,2% học sinh được chẩn
đoán là sử dụng Internet có vấn đề [117]. Một nghiên cứu khác được tiến
hành năm 2013 trên 10.988 thanh thiếu niên đến từ 9 thành phố khác nhau ở
Trung Quốc, với độ tuổi từ 13 đến 23. Kết quả cho thấy: 7,5% được đánh giá
là nghiện Internet [118].
9
Lam và cộng sự (2009) nghiên cứu trên 1618 học sinh từ 13 đến 18 tuổi
tại thành phố Quảng Châu, Trung Quốc. Kết quả cho thấy, 10,2% học sinh sử
dụng Internet ở mức độ vừa phải, 0,6% là nghiện Internet [76].
Guo và cộng sự (2012) đã tiến hành nghiên cứu cắt ngang với 3254 trẻ
từ 8-17 tuổi tại Trung Quốc. Kết quả cho thấy: 3,7% trẻ em ở nông thôn,
6,4% trẻ em di cư, 3,2% trẻ em bị bỏ rơi được chẩn đoán nghiện Internet [56].
Gong và cộng sự (2009) tiến hành nghiên cứu trên 3018 học sinh (47%
nam, 53% nữ), từ 15 trường trung học và một trường đại học với độ tuổi từ
11- 23 ở Vũ Hán, Trung Quốc. Kết quả cho thấy: tỷ lệ nghiện Internet được
chẩn đoán là 5% [53].
Nghiên cứu của Xu J và cộng sự (2012) trên 5.122 thanh thiếu niên
được chọn ngẫu nhiên từ 16 trường trung học thuộc các loại trường học khác
nhau ở Thượng Hải. Kết quả cho thấy: 8,8% được xác định là người nghiện
internet [121].
Kim và cộng sự (2006) nghiên cứu trên 1573 học sinh ở Hàn Quốc, tuổi
từ 15 đến 16. Kết quả cho thấy, 1,6% được chẩn đoán là người nghiện
Internet, trong khi 38,0% có thể được phân loại là người nghiện Internet [65].
Choi và cộng sự (2009) nghiên cứu trên 2336 học sinh trung học ở Hàn
Quốc (nam, 57,5%; nữ, 42,5%). Kết quả cho thấy tỷ lệ nghiện Internet và
nghiện Internet có thể xảy ra: 2,5% và 53,7% với nam; 1,9% và 38,9% với nữ.
[38].
Sung và cộng sự (2013), đã tiến hành khảo sát trực tuyến về dựa trên
hành vi rủi ro của thanh thiếu niên Hàn Quốc với 73.238 thanh thiếu niên
tham gia. Kết quả cho thấy: 11.9% được đánh giá có nguy cơ nghiện Internet,
3.0% được đánh giá nghiện internet [106].
Tại Nhật Bản, nghiên cứu trên 853 học sinh từ 12 đến 15 tuổi cho thấy
khoảng 2% được chẩn đoán là nghiện Internet [64]. Gần đây, một cuộc khảo
10
sát dịch tễ học lớn của Morioka và cộng sự (2016) đã báo cáo rằng tỷ lệ sử
dụng Internet có vấn đề ở học sinh là 8,1% [90].
Shek và cộng sự (2012) tiến hành khảo sát theo chiều dọc tại 28 trường
trung học ở Hồng Kông, được đánh giá 2 lần/năm, mẫu lần 1 là: 3328 học
sinh, lần 2: 3580 học sinh. Kết quả cho thấy lần 1 có: 26,4% được chẩn đoán
nghiện Internet, lần 2: 26,7% được chẩn đoán là nghiện Internet. Nghiên cứu
cũng cho thấy những học sinh được chẩn đoán nghiện Internet ở lần 1 có khả
năng nghiện Internet cao hơn 7,55 lần so với học sinh được chẩn đoán nghiện
Internet ở lần 2 [101].
Tại Đài Loan, nhiều tác giả nghiên cứu cho thấy có khoảng từ 10,8%
đến 23,4% học sinh được chẩn đoán là nghiện Internet [68][69] [70] [123]
[124] [79] [125] [81].
Nghiên cứu tại Qatar (2013) trên 1624 học sinh từ 12-18 tuổi. Kết quả
cho thấy: Tỷ lệ nghiện Internet là 19,8% [27].
Tại Ấn Độ, Goel D và cộng sự (2013) nghiên cứu trên 987 thanh thiếu
niên ở Ấn Độ với độ tuổi trung bình 16,82. Kết quả cho thấy 0,7% được chẩn
đoán nghiện internet [50].
Một nghiên cứu tại Singapore trên 2735 thanh thiếu niên, độ tuổi trung
bình là 13,9. Kết quả cho thấy: 17,1% thanh thiếu niên báo cáo sử dụng nó
trong hơn 5 giờ mỗi ngày và được đánh giá là sử dụng Internet quá mức [92].
1.1.2. Những công trình nghiên cứu tại Việt Nam
Việt Nam là quốc gia với với khoảng xấp xỉ 93.6 triệu dân [120], đứng
thứ 2 khu vực Đông Nam Á và thứ 14 thế giới. Tỷ lệ người dùng Internet đã
tăng lên đáng kể, chẳng hạn như đến tháng 1 năm 2017, Việt Nam có 50.05
triệu người dùng Internet chiếm 53% dân số, và tỷ lệ tăng là 6% so với năm
2016. Tỷ lệ người sử dụng Internet ở Việt Nam được xem là ở mức cao trên
thế giới với 46 triệu người dùng mạng xã hội, chiếm 48% dân số [44].
11
Khoảng 83% sinh viên chơi trò chơi trực tuyến khi truy cập Internet theo
báo cáo của nhóm tác giả tại Trung tâm nghiên cứu Phụ Nữ (ĐH Quốc Gia Hà
Nội). Nghiên cứu cho thấy người dùng phải đối mặt với các vấn đề về nhận
thức, xúc cảm, tình cảm và hành vi khi chơi trò chơi trực tuyến. Tuy vậy, đa
phần phụ huynh không quan tâm đến những ảnh hưởng tiêu cực mà trò chơi trực
tuyến mang đến cho trẻ [8].
Báo cáo của Hồ Thị Luyến, Viện Nghiên cứu phát triển Tp.HCM
(2007) cho thấy nghiện game online đang trở thành hiện tượng cần phải được
cảnh báo đến xã hội, khi các em chơi game online không chỉ đơn thuần giải
trí mà dần cho thấy sự lệ thuộc vào trò chơi dẫn đến không tự điều chỉnh
được thói quen chơi trò chơi trực tuyến của mình. Hậu quả là kết quả học
tập bị ảnh hưởng cùng với các vấn đề tâm lý xã hội khác [11].
Tác giả Nguyễn Thị Phương Thảo (2008) cho rằng nguyên nhân
nghiện game thường là do thiếu quan tâm của gia đình, lôi kéo của bạn bè
cùng với sự hấp dẫn của các loại hình Game online. Những tác động đã được
tác giả liệt kê như vấn đề hành vi học tập, sức khỏe, giờ giấc sinh hoạt, đạo
đức của học sinh trong và sau khi chơi game [16].
Lê Minh Công (2009, 2010) gợi ý rằng, Internet đã thực sự trở thành
yếu tố gây nghiện như là các loại hình nghiện truyền thống khác và xảy
ra ở nhiều lứa tuổi khác nhau. Bên cạnh đó còn có xuất hiện đồng bệnh với
nhiều rối loạn sức khỏe tâm thần khác, đặc biệt là trầm cảm và rối loạn lo âu
đối với người lạm dụng internet nên việc điều trị cho nhóm này là một vấn đề
khó khăn và cần phải sử dụng đa trị liệu. Điều này không chỉ được phát
hiện ở Việt Nam mà còn ở nhiều nước khác trên thế giới [3][4][5].
Lê Minh Công (2011) đã tiến hành nghiên cứu về thực trạng nghiện
Internet ở các em học sinh thuộc khối THCS tại Đồng Nai. Kết quả cho
thấy: có khoảng 12,3% được đánh giá là nghiện Internet theo các cấp độ.
12
Đồng thời, những học sinh bị nghiện internet ở mức độ vừa và nhẹ có đáp
ứng đáng kể sau khi được trị liệu nhận thức hành vi (CBT) [5].
Do đặc thù, Internet trở thành nguồn cung cấp thông tin tình dục, giới
tính, là nơi thanh thiếu niên có thể hẹn hò, nảy sinh cảm xúc và tình yêu và là
yếu tố tác động đến nhân dạng và hành vi tình dục ở thanh thiếu niên Việt
Nam [93].
Đề tài “Khảo sát xã hội về dịch vụ trò chơi trực tuyến ở Việt Nam
trong bối cảnh hội nhập quốc tế ” (2010) của Viện xã hội học do TS Trịnh
Hòa Bình làm chủ nhiệm được thực hiện trên phạm vi 6 tỉnh, thành Hà
Nội, TP.HCM, Đà Nẵng, Cần Thơ, Đồng Nai và Hải Dương với 1.320
người tham gia. Theo kết quả khảo sát, mức độ chơi game online phụ thuộc
vào nghề nghiệp, giới tính, độ tuổi. Cụ thể, lứa tuổi 16-20%, nhóm tuổi đã
có khả năng nhận thức đầy đủ về các hành vi của mình, có số lượng tham
gia nhiều nhất với 42. Tiếp đến là nhóm tuổi 10-15 chiếm 26,3%; trong khi
nhóm tuổi từ 26-30 chỉ chiếm 9,5% số người được hỏi. Báo cáo này cũng
cho biết, 34% người chơi game online với tần suất hàng ngày; 25% số người
chơi với tần suất 3-4 lần/tuần; tỷ lệ người trả lời chơi ở mức độ một vài lần
trong tháng chiếm tỷ lệ không đáng kể. Nhóm nghiên cứu cho rằng nếu căn
cứ theo tiêu chí của WHO thì tỷ lệ người có dấu hiệu “nghiện” game online
chỉ 5,2%; trong khi 69,3% không có các biểu hiện nào của tiêu chuẩn nghiện
[2].
Đề tài “Tương quan giữa mức độ sử dụng Internet và các vấn đề về
sức khỏe tâm thần ở học sinh Trung học cơ sở” năm 2013 của Nguyễn Thị
Phương cho thấy có khoảng 10% học sinh THCS sử dụng Internet thường
xuyên. Nghiên cứu chỉ ra rằng mức độ sử dụng Intrernet có tương quan với
các vấn đề về sức khỏe tâm thần như: trầm cảm, lo âu, hành vi hung
tính….[13].
13
Đề tài “Nghiện Internet và chất lượng giấc ngủ của thanh thiếu niên
Việt Nam” năm 2017 do Trần Xuân Bách và cộng sự cho thấy có khoảng
21,2% người tham gia được chẩn đoán là nghiện Internet [111].
1.2. Nghiên cứu về mối liên hệ giữa việc sử dụng Internet với trầm cảm,
lo âu, stress
1.2.1. Nghiên cứu về mối liên hệ giữa việc sử dụng Internet với các vấn đề
sức khoẻ tâm thần
Cooper (2002) nghiên cứu trên cộng đồng thanh thiếu niên từ 12 - 18
tuổi tại Phần Lan, cho thấy có khoảng 9% thanh thiếu niên rơi vào tình trạng
nghiện hành vi tình dục trực tuyến (Cooper, 2002).
Choi K và cộng sự (2009) nghiên cứu trên 2336 học sinh trung học ở
Hàn Quốc cho thấy những người nghiện Internet gặp các vấn đề liên quan đến
giấc ngủ (37,7%) [38]. Theo thống kế, ở Hàn Quốc năm 2007 đã có 10
trường hợp đột tử do gián đoạn tuần hoàn máu vì ngồi chơi game quá lâu
[20].
Cao H và cộng sự (2011) đã tiến hành một nghiên cứu cắt ngang để ước
tính tỷ lệ sử dụng Internet có vấn đề và mối liên hệ của nó với các triệu chứng
tâm lý và sự hài lòng cuộc sống giữa các thanh thiếu niên ở Trung Quốc đại
lục. Kết quả cho thấy: so với người dùng internet bình thường, thanh thiếu
niên sử dụng internet có nhiều khả năng bị các triệu chứng tâm thần (p
<0,001), bao gồm thiếu năng lượng, rối loạn sinh lý, suy giảm miễn dịch, triệu
chứng cảm xúc, triệu chứng hành vi và các vấn đề thích ứng xã hội. Nghiên
cứu kết luận rằng có mối liên hệ đáng kể giữa việc sử dụng internet có vấn đề
và các triệu chứng tâm thần [33].
Koyuncu và cộng sự (2014) đã tiến hành một nghiên cứu cắt ngang về
đánh giá nghiện internet và sự cô đơn giữa học sinh trung học cơ sở và trung
học phổ thông ở Anatolia, Thổ Nhĩ Kỳ tuổi từ 11 đến 19. Kết quả cho thấy:
những học sinh béo phì; là người bận rộn, nhiệt tình, nóng nảy và thiếu kiên
14
nhẫn; lần đầu tiên sử dụng internet trước 12 tuổi; sử dụng internet mỗi ngày
và sử dụng internet hơn 2 giờ mỗi ngày là các yếu tố nguy cơ gây nghiện
internet (p <0,05). Một mối tương quan tích cực đã được tìm thấy giữa nghiện
internet và sự cô đơn (rs = 0.121; p <0,001) [73].
Lin I.H và cộng sự, (2014) đã tiến hành một nghiên cứu cắt ngang về
mối tương quan giữa ý tưởng tự tử và tự sát với nghiện internet ở nhóm từ 12-
18 tuổi ở Đài Loan. Nghiên cứu cho thấy nghiện internet có liên quan đáng kể
với ý tưởng tự sát và tự sát, thanh thiếu niên nghiện internet có nguy cơ cao
về ý tưởng tự sát hơn những người không có nghiện internet [80].
Ozturk C và cộng sự (2015) đã tiến hành một nghiên cứu mô tả cắt
ngang để phân tích các đặc điểm tính cách và nghiện internet của 328 thanh
thiếu niên theo học hai trường trung học ở vùng Aegean của Thổ Nhĩ Kỳ.
Nghiên cứu xác định rằng những học sinh có tính cách cởi mở, có trải nghiệm
có nguy cơ nghiện Internet gấp 1,79 lần với nhóm khác [95].
Ngoài ra, việc sử dụng Internet quá mức của thanh thiếu niên đã được
tìm thấy làm trầm trọng thêm các hành vi chống đối xã hội (di Gennaro &
Dutton, 2007) [43].
Zhang và cộng sự (2017), nghiên cứu trên 566 học sinh, độ tuổi từ 15
đến 25 cho thấy những người được chẩn đoán là nghiện Internet có khoảng
26,7% gặp khó khăn liên quan đến giấc ngủ, 77,2% đã phải tìm kiếm các dịch
vụ hỗ trợ về y tế [128].
1.2.2. Nghiên cứu mối liên hệ giữa việc sử dụng Internet với các vấn đề về
trầm cảm, lo âu, stress
Carli và cộng sự (2013), đã sử dụng chức năng tìm kiếm bằng cách sử
dụng cơ sở dữ liệu trên: MEDLINE, Psyc ARTICLES, PsychInfo và Web of
Science với trên 20 nghiên cứu riêng biệt. Kết quả cho thấy rằng 75% các
nghiên cứu đó cho thấy mối liên quan đáng kể giữa sử dụng Internet có vấn
đề và trầm cảm, 57% sử dụng Internet có vấn đề và rối loạn lo âu, 100% sử
15
dụng Internet có vấn đề và vấn đề tăng động giảm tập trung và 60% sử dụng
Internet có vấn đề với các triệu chứng ám ảnh cưỡng chế, ám ảnh xã hội và
66% sử dụng Internet có vấn đề với thái độ thù địch/ hành vi xâm kích [35].
Kim and cộng sự (2006), nghiên cứu về mối quan hệ nghiện Internet
với trầm cảm và ý tưởng tự sát trên 1573 thanh thiếu niên Hàn Quốc. Kết quả
cho thấy, 1,6% được chẩn đoán là nghiện Internet, 38% được phân loại là có
thể nghiện Internet. Tỷ lệ nghiện Internet không thay đổi theo giới tính. Mức
độ trầm cảm và ý tưởng tự tử là cao nhất trong nhóm nghiện Internet. Nghiên
cứu lưu ý rằng nghiện Internet có liên quan đến trầm cảm và hành vi tự sát
[65].
Yen CF và cộng sự (2007) đã tiến hành một nghiên cứu mô tả về mức
độ nghiêm trọng của các triệu chứng nghiện internet với các triệu chứng lo âu,
trầm cảm và lòng tự trọng trong thanh thiếu niên với rối loạn chú ý/ tăng động
(ADHD) ở thanh thiếu niên ở Đài Loan. Nghiên cứu cho thấy: các vấn đề lo
âu, trầm cảm và lòng tự trọng có liên quan đáng kể với các triệu chứng nghiện
internet [123].
Lam L.T và cộng sự (2009) đã tiến hành một nghiên cứu cắt ngang dựa
trên mẫu dân số là các học sinh trung học từ 13 – 18 tuổi tại Quảng Châu về
các yếu tố liên quan đến nghiện internet. Kết quả nghiên cứu cho thấy các vấn
đề liên quan đến stress có liên quan đến việc nghiện internet [76].
Bakken và cộng sự (2009), nghiên cứu về mức độ sử dụng Internet trên
3399 người tại Na Uy trên nhóm tuổi từ 17 đến 74. Nghiên cứu chỉ ra rằng:
nghiện Internet có liên quan đến thời gian trực tuyến, các rối lọan về giấc ngủ,
trầm cảm và các vấn đề tâm lý khác [24].
Weinstein và cộng sự (2010) đã tiến hành cuộc điều tra ở Mỹ và Châu
Âu, kết quả cho thấy tỷ lệ từ 1,5 % đến 8,2% được chẩn đoán là nghiện
Internet. Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng nghiện Internet có quan hệ với các rối
16
loạn tâm thần, bao gồm: rối loạn trầm cảm, rối loạn lo âu, rối loạn tăng động
giảm chú ý [109]
Ha JH và cộng sự (2013) đã nghiên cứu mối quan hệ giữa trầm cảm và
nghiện Internet trong thanh thiếu niên tại Hàn Quốc. Nghiên cứu này cho thấy
một mối liên hệ đáng kể giữa nghiện Internet và các triệu chứng trầm cảm ở
thanh thiếu niên [57].
Một nghiên cứu được thực hiện bởi Sara Thomée Mats Eklöf và cộng
sự (2007) đã đánh giá liệu số lượng thông tin và công nghệ truyền thông
(ICT) cao có phải là yếu tố nguy cơ phát triển các triệu chứng tâm lý trong
giới trẻ hay không. Kết quả cho thấy rằng gửi thư điện tử và trò chuyện trực
tuyến có liên quan đến các triệu chứng trầm cảm [110].
Năm 2010, Morrison C.M. Gore đã khám phá khái niệm nghiện
Internet và kiểm tra mối quan hệ giữa các triệu chứng gây nghiện và trầm
cảm. Một bảng câu hỏi trực tuyến được sử dụng để đo lường việc sử dụng
Internet của người tham gia, các chức năng mà họ sử dụng Internet và các
khuynh hướng trầm cảm của họ. Kết quả cho thấy nghiện Internet có liên
quan đến trầm cảm [91].
TtuncaAy và cộng sự (2010) đã nghiên cứu ảnh hưởng của mức độ
nghiện internet lên trầm cảm, cô đơn và lòng tự trọng của học sinh trung học.
Kết quả cho thấy mối quan hệ tích cực, trung bình và có ý nghĩa với nghiện
internet đã xuất hiện khi các biến trầm cảm, cô đơn và kém tự tin được xem
xét cùng nhau [114].
Mashhor N.Al-hantoushi, Saad H. Al-abdullateef (2013) tiến hành
nghiên cứu trên 716 học sinh trung học, từ 15 đến 18 tuổi tìm hiểu về mối liên
hệ giữa nghiện Internet với trầm cảm. Kết quả cho thấy nghiện Internet có
liên quan đến việc giảm hoạt động ở trường, kết quả học tập giảm sút, sử
dụng internet nhiều hơn, mức độ kiểm soát của cha mẹ thấp hơn và mức độ
trầm cảm cao hơn [86].
17
Subramanyam A và cộng sự (2013) đã tiến hành một nghiên cứu cắt
ngang về tỷ lệ nghiện internet và các vấn đề về tâm lý trên 681 học sinh nữ,
306 học sinh nam, độ tuổi trung bình 16,82. Kết quả cho thấy, những học sinh
sử dụng internet quá mức gặp các vấn đề liên quan đến rối loạn lo âu và trầm
cảm [105].
Yadav P và cộng sự (2013) đã tiến hành một nghiên cứu sơ bộ trên
internet nghiện và tương quan của nó với các đặc điểm giáo dục - xã hội, kiểu
sử dụng internet và các biến tâm lý cụ thể là trầm cảm, lo âu và căng thẳng
trong số 552 học sinh khối 11 và 12 của sáu trường trung học ở Ahmedabad,
Ấn Độ tham gia vào nghiên cứu. Kết quả cho thấy có mối tương quan thuận
mạnh mẽ giữa nghiện internet và trầm cảm, lo âu, căng thẳng [122].
Tang J và cộng sự (2014) đã tiến hành nghiên cứu ngẫu nhiên với 755
học sinh là người dùng Internet ở Vũ Hán, Trung Quốc để đánh giá tỷ lệ
nghiện internet và sự liên kết của nó với các sự kiện căng thẳng trong cuộc
sống và triệu chứng tâm lý. Phân tích hồi quy cho thấy vấn đề liên quan đến
cá nhân, vấn đề liên quan đến trường học và các triệu chứng lo âu là liên quan
đáng kể với nghiện internet [107].
Lai và cộng sự (2015) tiến hành khảo sát về hành vi rủi ro trên 5366
thanh thiếu niên ở độ tuổi từ 12 đến 18 tại 6 quốc gia Châu Á (Trung Quốc,
Hồng Kông, Nhật Bản, Hàn Quốc, Malaysia, Philippines) đã tìm thấy mối liên
hệ đáng kể giữa nghiện Internet với lo âu xã hội và trầm cảm [75].
Park S và cộng sự (2013) đã tiến hành một nghiên cứu mô tả trên 795
học sinh ở Hàn Quốc về mối liên hệ giữa việc sử dụng internet có vấn đề với
trầm cảm, ý tưởng tự tử và các triệu chứng rối loạn lưỡng cực. Nghiên cứu kết
luận rằng: việc sử dụng internet có vấn đề có liên quan đáng kể đến ý tưởng
tự tử, trầm cảm và rối loạn lưỡng cực. Phân tích hồi quy cho thấy: sử dụng
internet có vấn đề cũng dự đoán đáng kể các triệu chứng trầm cảm; dự đoán ý
18
tưởng tự tử. Ngược lại, các triệu chứng trầm cảm và ý tưởng tự tử cũng dự
đoán việc sử dụng internet có vấn đề [96].
Jang K.S và cộng sự (2008) đã tiến hành một nghiên cứu về các yếu tố
liên quan với nghiện internet và xem xét các triệu chứng tâm thần ở thanh
thiếu niên ở Seoul, Hàn Quốc với 912 học sinh tham gia. Kết quả phân tích
hồi quy logistic đa biến cho thấy rằng việc dành thời gian sử dụng Internet
quá lâu có liên quan đáng kể với nghiện Internet. Nghiên cứu kết luận rằng có
một mối liên hệ đáng kể giữa nghiện internet và các triệu chứng tâm thần là
triệu chứng ám ảnh cưỡng bức và trầm cảm [60].
Fu K.W và cộng sự (2010) đã tiến hành một nghiên cứu trong vòng 1
năm được chia làm 2 lần với mục đích kiểm tra thực trạng nghiện internet,
đánh giá sự tương quan của nó với các triệu chứng của nghiện internet, ý
tưởng tự tử, triệu chứng tâm thần trên 208 thanh thiếu niên, tuổi từ 15-19, ở
Hồng Kông, Trung Quốc. Nghiên cứu kết luận rằng nghiện internet và các
triệu chứng liên quan đến ý tưởng tự sát và trầm cảm của cá nhân [49].
Cheung L.M và cộng sự (2011) đã tiến hành một nghiên cứu trên 719
thanh thiếu niên với độ tuổi trung bình 14,7 về ảnh hưởng của chứng mất ngủ,
nghiện internet và trầm cảm ở trẻ vị thành niên ở Hồng Kông. Kết quả cho
thấy có 51,7% thanh thiếu niên có vấn đề về mất ngủ. Bên cạnh đó nghiên
cứu cho thấy nghiện internet và chứng mất ngủ nổi lên như các yếu tố giải
thích đáng kể, gây ảnh hưởng lên vấn đề trầm cảm [37].
Ostovar và cộng sự (2016) tiến hành nghiên cứu trên 1052 thanh thiếu
niên tại Iran về mối quan hệ giữa Nghiện Internet với stress, trầm cảm, lo âu.
Kết quả cho thấy Nghiện Internet là một yếu tố dự báo về stress, trầm cảm, lo
âu và cô đơn, có sự khác biệt về mức độ trầm cảm, lo âu, stress giữa nam và
nữ [94].
Li JB và cộng sự (2017) nghiên cứu trên 1015 học sinh trung học ở
Trung Quốc cho thấy có 23,5% học sinh được chẩn đoán gặp vấn đề về trầm
19
cảm ở mức độ vừa, 13,4% có vấn đề trầm cảm ở mức nghiêm trọng. Nghiên
cứu cũng chỉ ra rằng mất ngủ là yếu tố trung gian làm tăng nguy cơ trầm cảm
ở người nghiện Internet [78].
Nghiên cứu của Trần Xuân Bách và cộng sự (2017) trên 566 học sinh
độ tuổi từ 15 đến 25 cho thấy: Những người được đánh giá là nghiện Internet
có nhiều khả năng gặp vấn đề với việc tự chăm sóc bản thân, khó thực hiện
thói quen hàng ngày, bị đau và khó chịu, lo âu và trầm cảm [111].
1.3. Một số vấn đề lý luận về Internet
1.3.1. Khái niệm Internet
Internet được thành lập vào đầu những năm 1960 và sau đó trở thành
phương tiện truyền thông chính thống (Moschovitis, Polle, Schuyler, & Senft,
1999; Schneider và cộng sự, 2006). Kể từ thời điểm đó, đã có sự tăng trưởng
đáng kể trong chức năng, khả năng, khả năng truy cập và thuận tiện của
Internet. Những cải tiến này đã khuyến khích nhiều người sử dụng nó thường
xuyên hơn và nó đã trở nên mạnh mẽ ứng dụng trong xã hội hiện đại. Người
ta tin rằng các tính năng đặc biệt của Internet, chẳng hạn như tốc độ, khả năng
tiếp cận, cường độ và kích thích nội dung của nó, góp phần vào nghiện
Internet (Greenfield, 1999) [54]. Ngoài ra, Chou (2001) chỉ ra rằng các tính
năng Internet được đánh giá cao nhất bao gồm tương tác, đơn giản, sẵn có, và
thông tin phong phú và cập nhật. Trên thực tế, sự hấp dẫn của Internet đã tăng
lên nhờ vào tính khả dụng, khả năng tiếp cận và khả năng chi trả của Internet.
Việc phát triển các giao diện thân thiện cung cấp cho người dùng quyền truy
cập dễ dàng hơn và thoải mái hơn [39]. Tính đến năm 2017, 48% dân số thế
giới đã sử dụng dịch vụ Internet (Liên minh viễn thông thế giới (ITU).
2017a).
Internet là một hệ thống mạng được liên kết với máy tính lớn được sử
dụng trên toàn cầu truy cập và truyền đạt thông tin, bởi người dùng máy tính
cá nhân hoặc doanh nghiệp; nó cũng được sử dụng cho giao tiếp, nghiên cứu,
20
giải trí, giáo dục và giao dịch kinh doanh (Kraut, et al., 1998; Schneider, et
al., 2006). Ngày nay, Internet có thể liên kết tất cả các máy tính trực tuyến để
mọi người có thể sử dụng nó để giao tiếp trên khắp thế giới (Schneider và
cộng sự, 2006).
Những tác dụng của việc sử dụng Internet:
- Truy cập một “thư viện” khổng lồ của thông tin từ hàng triệu trang
web trên toàn thế giới tạo nên World Wide Web;
- Trao đổi tin nhắn email
- Chia sẻ hình ảnh và video clip với bạn bè và gia đình của bạn
- Mua hàng hóa và dịch vụ (và thường tiết kiệm tiền !)
- Sử dụng các dịch vụ trực tuyến (ngân hàng)
- Sử dụng ứng dụng để gọi điện miễn phí cho người dùng máy tính
khác (ví dụ : Skype)
- Chơi trò chơi với những người khác trực tuyến
- Bắt kịp các chương trình truyền hình và radio mà bạn đã bỏ lỡ - hoặc
xem lại
- Học một cái gì đó mới với một khóa học trực tuyến [129].
1.3.2. Khái niệm mức độ sử dụng Internet
Tại Mỹ, một nhà nghiên cứu tiên phong trong lĩnh vực này là Tiến sĩ
Kimberley Young, người lần đầu tiên xuất bản một nghiên cứu điển hình về
một phụ nữ 43 tuổi nghiện email (Young 1996). Tiếp theo là nghiên cứu
nghiện Internet đầu tiên (Young 1998b) thu thập khoảng 600 trường hợp
những người gặp vấn đề trong cuộc sống hàng ngày của họ vì họ không thể
kiểm soát Internet sử dụng. Nghiên cứu nghiện Internet ở châu Âu được
khởi xướng bởi Griffiths's về nghiện ngập công nghệ (Griffiths 1995).
Ngay sau khi công bố khái niệm về “Nghiện” đã bắt đầu một cuộc
tranh luận cả trong lĩnh vực lâm sàng và học thuật. Nhiều ý kiến tranh uận
cho rằng chỉ có những chất được đưa từ bên ngoài vào cơ thể mới có thể
21
được gọi là “nghiện”. Nhiều ý kiến cho rằng thuật ngữ nghiện (addiction)
chỉ nên được đưa vào những trường hợp liên quan đến dùng ma túy, thuốc
phiện (Rachlin, 1990; Walker,1989), đánh bài quá mức (Griffiths, 1990),
chơi trò chơi quá mức (Keeprs, 1990), ăn quá nhiều (Leisuire & Bloome,
1993), thể dục (Morgan, 1997), quan hệ tình dục (Peele & Brody, 1975) và
xem ti vi (Winn, 1983).
Hiện tại, không có sự đồng thuận cho một danh pháp nhất quán với
một số thuật ngữ được đề xuất khác nhau là: Internet phụ thuộc (teWildt
2011), sử dụng Internet bệnh lý (Morahan 2000), sử dụng Internet có vấn đề
(Davis và cộng sự, 2002), sử dụng máy tính cưỡng bức (Black et al.
1999)….Mặt khác, tham chiếu đến Internet như một phương tiện gây nghiện
không phù hợp khi xem xét rằng nhiều người dùng Internet quá mức không
phải là những người nghiện Internet, nhưng sử dụng Internet như một
phương tiện để gây nghiện (Griffiths 1999). Do đó, đã có một số đề xuất
khác nhau về phân loại Nghiện Internet.
Griffiths (1996) đề xuất cụm từ phụ thuộc hành vi Internet (Internet
behavior dependence) để nói về tình trạng nghiện Internet với 6 tiêu chuẩn
để đánh giá như một tình trạng nghiện thông thường bao gồm sự nổi bật,
thay đổi cảm xúc, sức chịu đựng, triệu chứng rút lui, xung đột và sự tái phát
[55].
Thuật ngữ sử dụng Internet bệnh lý (Pathological Internet Use) được
đưa ra bởi Young (1999) dựa trên khái niệm rối loạn kiểm soát xung động
(Impulse control disorder) để giải thích về nghiện Internet. Young cũng đưa
ra 9 triệu chứng của một người mắc chứng sử dụng Internet bệnh lý và phân
chia nghiện Internet thành 5 dạng khác nhau gồm: (1) Nghiện tình dục trực
tuyến; (2) Nghiện quan hệ trực tuyến; (3) Sự cưỡng bách Net; (4) Quá tải
thông tin và (5) Nghiện máy tính [126].
22
Thuật ngữ rối loạn nghiện Internet (Internet addiction disorder) lần
đầu được phát biểu bởi Goldberg (1996) vốn phát triển từ khái niệm rối loạn
sử dụng chất (Substance use disorder) để giải thích cho vấn đề nghiện
Internet. Dai dẳng thèm muốn; sức chịu đựng; triệu chứng cai và các hậu
quả tiêu cực là các tiêu chuẩn chẩn đoán được Goldberg sử dụng [51].
Shapira và cộng sự (2003) thì đề xuất thuật ngữ có vấn đề về sử
dụng Internet (Problematic Internet Use) vốn dựa trên khái niệm chuẩn
đoán là rối loạn kiểm soát xung động (Impulse Control Disorder) để giải
thích cho vấn đề nghiện Internet. Các tiêu chuẩn chẩn đoán gồm: sự bận tâm
với Internet dai dẳng; những dấu hiệu khó khăn có ý nghĩa về mặt lâm sàng
hay sự sa sút chức năng [100].
Ko và cộng sự (2005) đưa ra thuật ngữ nghiện Internet (Internet
addiction) từ khái niệm chuẩn đoán là nghiện hành vi (behavioral addiction)
và rối loạn kiểm soát xung lực (Impulse control disorder) để giải thích về
nghiện Internet. Nghiện Internet được đặc trưng bởi 9 triệu chứng [66].
Ngoài ra, Davis (2001) đề xuất một mô hình nhận thức và hành vi lý
thuyết về sử dụng Internet bệnh lý (PIU). Mô hình phân biệt giữa nghiện
ngập với Internet so với nghiện ngập trên Internet thông qua hai loại sau:
[42]
- Sử dụng Internet bệnh lý tổng quát (GPIU) - một sự lạm dụng quá
mức chung vào Internet nó có thể bao gồm thời gian lãnh phí trực tuyến mà
không có bất kỳ mục tiêu cụ thể nào;
- Sử dụng Internet bệnh lý cụ thể (SPIU) - Sử dụng Internet bệnh lý
cụ thể bao gồm những người phụ thuộc vào chức năng cụ thể của Internet,
bao gồm lạm dụng (lạm dụng) tài liệu/ dịch vụ tình dục trực tuyến, dịch vụ
đấu giá trực tuyến, chứng khoán trực tuyến, giao dịch và cờ bạc trực tuyến.
23
Với sự phân loại về sử dụng Internet bệnh lý này có thể được coi là
nghiện Internet, trong khi sử dụng Internet bệnh lý cụ thể có thể được coi là
nghiện ngập trên Internet (Griffiths & Pontes 2014).
Xét ở khía cạnh nào đó, việc sử dụng Internet mang lại nhiều lợi ích
khác nhau cho các khía cạnh khác nhau của cuộc sống hàng ngày; nó tạo điều
kiện cho doanh nghiệp và tăng năng suất, nó được sử dụng cho một phổ mục
đích giáo dục và nó cho phép giao tiếp dễ dàng hơn. Nghiên cứu cho thấy
rằng hoạt động giáo dục là bài tập ở nhà, tìm kiếm thông tin hữu ích hoặc tìm
kiếm thông tin y tế không liên quan đến nghiện Internet [45] [115]. Ngoài ra,
Tsitsika & Janikian (2014) kết luận rằng thanh thiếu niên sử dụng internet cho
mục đích giáo dục và nghiên cứu ít có khả năng nghiện Internet [113].
Tổng quan các nghiên cứu về sử dụng Internet cho thấy các nghiên cứu
về sử dụng Internet, nghiện Internet (Beard & Wolf, 2001; Goldberg, 1995;
Neumann, 1998; Soule & Kleen, 2003; Stanton, 2002; Young, 1998a) đã xác
định các triệu chứng sau đây có thể được tổ chức thành ba nhóm: tác động về
hành vi, thể chất và tinh thần và xã hội liên quan đến triệu chứng nghiện
Internet [77].
Nhóm Triệu chứng
Độ dung nạp: Nhu cầu tăng về thời gian trực
tuyến
Số lượt truy cập và thời gian truy cập dài hơn
Dành rất nhiều thời gian cho các hoạt động liên
quan đến Internet. Hành vi
Nói không đúng về thời gian sử dụng Internet
Luôn phải bận tâm về việc sử dụng Internet
Sử dụng Internet để thoát khỏi các vấn đề khác
Duy trì việc sử dụng Internet bất chấp sự ảnh
24
hưởng về vấn đề vật chất, xã hội, nghề nghiệp
hoặc tâm lý có thể gây ảnh hưởng do sử dụng
Internet.
Hội chứng thoái lui: Trong trạng thái lo âu, suy
nghĩ ám ảnh về việc sử dụng Internet và những
giấc mơ về Internet.
Có mong muốn kiểm soát hoặc cắt giảm việc sử
dụng Internet Thể chất và tinh thần Có các vấn đề về: huyết áp, căng thẳng tim mạch,
khó khăn về ghi nhớ, thiếu tập trung, nhức đầu,
đau dạ dày và cơ bắp, thị lực yếu đi
Giảm hoạt động, hờ hững với mọi thứ, mất ngủ,
hoảng loạn, cáu kỉnh và tức giận
Các hoạt động xã hội, nghề nghiệp hoặc giải trí
quan trọng bị từ bỏ vì sử dụng Internet.
Ảnh hưởng xã hội Tăng căng thẳng và áp lực, giảm năng suất khi
làm việc
Ngày làm việc dài hơn và ít thời gian giải trí
1.3.3. Tiêu chuẩn đánh giá mức độ sử dụng Internet
1.3.3.1. Tiêu chuẩn của Sue Fisher (1994)
Fisher (1994) đã đưa ra khái niệm nghiện trò chơi điện tử (Video game
Addiction) có nhiều điểm tương đồng với nghiện Internet dựa trên tiêu chuẩn
của đánh bạc bệnh lý có trong DSM- IV . Ông đề nghị và đưa ra ký hiệu mới
dựa trên DSM - IV là DSM-IV-JV (trong đó: J là Juvenile - thanh thiếu niên;
V là arcade video game - trò chơi máy tính). Theo Fisher, để đánh giá nghiện
ở một người cần dựa trên ít nhất 4/ 9 tiêu chuẩn liên quan đến: (1) Trở nên
quá bận tâm với việ sử dụng máy tính; (2) Chi phí bỏ ra để đạt được sự thoả
25
mãn khi chơi trò chơi nhiều hơn; (3) Có sự thay đổi về cảm xúc, tâm trạng
khi bị cắt hay dừng tham gia các trò chơi; (4) Tìm cách thoát ra khỏi những
vấn đề hay những trạng thái cảm xúc không thể chịu đựng bằng việc sử dụng
máy tính; (5) Đem lại được những thành tích về điểm số hay đạt được phần
thưởng sau khi tiêu tốn tiền vào trò chơi máy tính; (6) Có các hành vi để bảo
vệ, che đậy hành vi chơi trò chơi máy tính; (7) Gặp các vấn đề liên quan đến
pháp luật hoặc khó thích nghi với xã hội; (8) Gặp các vấn đề liên quan đến
mối quan hệ gia đình, bạn bè, kết quả học tập suy giảm; (9) Tìm kiếm sự trợ
giúp liên quan đến việc hỗ trợ chi phí để tiếp tục chơi máy tính [46].
1.3.3.2. Tiêu chuẩn của Ivan Goldberg (1996)
Ivan Goldberg (1996) cho rằng để đánh giá Nghiện Internet (Internet
Addiction Disorder) cần đáp ứng ít nhất ba (hay nhiều hơn) các triệu chứng
và các triệu chứng phải xuất hiện liên tục trong khoảng thời gian 12 tháng
trước, cụ thể: (1) Các tiêu chuẩn về khả năng chịu đựng; (2) Các tiêu chuẩn
liên quan đến hội chứng cai ; (3) Thất bại trong việc cắt hay kiểm soát việc sử
dụng Internet; (4) Quá bận tâm và dành nhiều thời gian trải nghiệm các hành
vi liên quan đến sử dụng Internet; (5) Suy giảm các hành vi xã hội quan
trọng, nghề nghiệp, giải trí bởi sử dụng Internet; (6) Tiếp tục duy trì việc sử
dụng Internet mặc dù bản thân gặp các vấn đề liên quan đến sức khoẻ, công
việc, các vấn đề tâm lý .... [51].
1.3.3.3. Tiêu chuẩn của Dr. Kimberly S. Young (1996)
Young (1996) đã đư ra một bảng nhằm đánh giá về nghiện Internet với
8 câu hỏi được thay đổi dựa trên tiêu chuẩn đánh bạc bệnh lý có trong DSM-
IV. Theo Young, khi người trả lời “có” ít nhất 5 hoặc hơn trong 8 câu thì có
thể coi là một trường hợp nghiện Internet, cụ thể: [127]
1. Cảm thấy quá bận tâm về Internet ( hay nghĩ về thời gian sử dụng online
trước đây hay nghĩ về hoạt động online kế tiếp)?
26
2. Cảm thấy cần thiết phải tăng việc sử dụng Internet bao gồm tăng cả về
thời gian và mức độ thỏa mãn?
3. Hay gặp thất bại trong quá trình kiểm soát hay cắt giảm hoặc bất ngờ phải
dừng sử dụng Internet?
4. Có các vấn đề liên quan đến cảm xúc, tâm trạng bồn chồn, chán nản, dễ
mệt mỏi, hay nổi cáu khi phải cắt hoặc phải dừng sử dụng Internet?
5. Khó khăn trong việc cắt giảm thời gian sử dụng Internet so với thời gian
dự định?
6. Ảnh hưởng đến mối quan hệ xã hội, chất lượng công việc, vấn đề về học
tập do sử dụng Internet ?
7. Có sự né tránh, giấu diếm về hành vi vi phạm do việc sử dụng Internet?
8. Luôn tìm đến Internet và coi việc sử dụng Internet như là cách giải toả,
thoát khỏi những vấn đề của cuộc sống hay làm giảm nhẹ những cảm xúc tiêu
cực ?
1.3.3.4. Tiêu chuẩn của Beard, K., & Wolf, E. (2001)
Trên cơ sở đánh giá tiêu chuẩn của Young, hai tác giả cho rằng tiêu
chuẩn cho việc nhận diện nghiện Internet phải hội tụ đủ 5 tiêu chuẩn, cụ thể:
[26]
1. Cảm thấy quá bận tâm về Internet (suy nghĩ về hoạt động trực tuyến trước
hay đề cập trước hoạt động kế tiếp)?
2. Cảm thấy cần thiết phải tăng việc sử dụng Internet bao gồm tăng cả về
thời gian và mức độ thỏa mãn?
3. Có sự cố gắng nhưng gặp thất bại trong việc cố gắng kiểm soát, cắt giảm
hoặc đột ngột dừng sử dụng Internet?
4. Gặp các vấn đề về cảm xúc, cảm thấy bồn chồn, buồn chán, mệt mỏi, dễ
nổi cáu khi cố gắng cắt hoặc dừng sử dụng Internet?
5. Khó khăn trong việc cắt giảm thời gian sử dụng Internet so với thời gian
dự định?
27
Trong đó có ít nhất một trong việc đáp ứng các tiêu chuẩn sau:
- Gây hủy hoại hay chịu rủi ro mất các quan hệ có ý nghĩa, công việc, giáo
dục hay cơ hội nghề nghiệp bởi vì sử dụng Internet.
- Có sự né tránh, giấu diếm về hành vi vi phạm với các thành viên trong gia
đình, nhà trị liệu hay người khác để che dấu phạm vi sử dụng Internet của
mình.
- Tìm cách sử dụng Internet, coi đó là cách để thoát khỏi những vấn đề hay
giảm đi những khó khăn cảm xúc (ví dụ như cảm giác của tình trạng không
thể tự lo liệu, tội lỗi, lo âu, trầm cảm).
1.3.3.5. Tiêu chuẩn của Shapira, N., Lessig, M., Goldsmith, T., Szabo, S.,
Lazoritz, M., Gold, M., & Stein, D. (2003)
Theo các tác giả, tiêu chuẩn đánh giá và chẩn đoán việc sử dụng
Internet được xác định bởi các tiêu chuẩn sau: [100]
A. Mối lo âu thích nghi không tốt cùng với sử dụng Internet, nhận diện bởi ít
nhất một trong các tiêu chuẩn sau:
1. Luôn bận tâm và không thể cưỡng lại việc sử dụng Internet
2. Dành quá nhiều thời gian sử dụng Internet so với dự định ban đầu.
B. Gặp các khó khăn hoặc làm suy giảm các mối quan hệ xã hội, nghề nghiệp
hay vi phạm các quy định…do việc sử dụng Internet
C. Sử dụng Internet quá mức không thấy xuất hiện đồng thời trong thời gian
có sự xuất hiện của cơn hưng cảm nhẹ hay một tình trạng nghiện gập và
không xuất hiện nhiều hơn bởi một rối loạn khác trục I.
1.3.3.6. Tiêu chuẩn của Jerald J. Block
Block (2008) nhấn mạnh rằng các triệu chứng của nghiện Internet thể
hiện thực sự ở: (1) Sử dụng Internet một cách quá mức (thường liên quan đến
không xác định được thời gian); (2) Gặp các triệu chứng của hội chứng cai
khi không thể truy cập Internet; (3) Sức chịu đựng sử dụng Internet ngày
28
càng tăng với cảm xúc ham muốn ngày càng phát triển; (4) Phủ nhận hậu quả
xảy ra [28].
1.3.3.7. Tiêu chuẩn của Chih-Hung Ko, Ju-Yu Yen, Sue-Huei Chen, Ming-
Jen Yang, Huang-Chi Lin, Cheng-Fang Yen (2009)
Tại Hàn Quốc, các nhà nghiên cứu thì cho rằng những đặc trưng phân
biệt của nghiện Internet bao gồm: [67]
Khuôn mẫu kém thích nghi của sử dụng Internet, dẫn tới những suy
nghĩ tiêu cực có ý nghĩa về mặt lâm sàng hay những khó khăn xuất hiện liên
tục trong suốt 3 tháng trước đó.
A. Ít nhất là 6 (hoặc nhiều hơn) các triệu chứng xuất hiện trong cùng thời
điểm.
1. Việc bận tâm quá mức với các hoạt động Internet.
2. Gặp thất bại trong việc cố gắng giảm việc sử dụng Internet.
3. Luôn bị thôi thúc phải tăng thời gian sử dụng Internet như một nhu cầu để
đạt được sự thoải mái.
4. Có hội chứng cai, đặc trưng bởi các vấn đề sau:
- Xuất hiện các triệu chứng khó chịu, lo âu, dễ bị kích thích và tâm trạng trở
nên dễ buồn chán sau một thời gian ngắn không sử dụng Internet.
- Sử dụng Internet để tự làm dịu hoặc ngăn chặn sự xuất hiện các triệu chứng
thoát lui.
5. Kéo dài việc sử dụng Internet hơn so với thời gian dự định.
6. Luôn có mong muốn sử dụng Internet hay có những cố gắng nhưng thất
bại để loại bỏ hay giảm sử dụng Internet.
7. Tập trung hoặc dành quá nhiều thời gian trên Internet.
8. Trải qua sự cố gắng quá mức như một hành động cần thiết để dành được
việc truy cập Internet.
9. Vẫn duy trì và tiếp tục sử dụng Internet một cách mạnh mẽ dù biết rằng sẽ
gặp những vấn đề liên quan đến cơ thể và khó khăn tâm lý.
29
B. Xuất hiện việc suy giảm các chức năng: một (hay nhiều hơn) những triệu
chứng hiện thời.
1. Gặp thất bại trong việc thực hiện các nhiệm vụ liên quan trong công việc,
nhà trường hay ở nhà do việc tái diễn việc sử dụng Internet.
2. Suy giả việc tham gia vào các hoạt động xã hội hay giải trí quan trọng.
3. Có các vi phạm liên quan đến pháp luật bởi hành vi sử dung Internet.
C. Hành vi nghiện Internet được so sánh với rối loạn loạn thần kinh chức
năng, rối loạn phân ly tuýt 1, hay rối loạn khác được phân loại trong rối loạn
kiểm soát xung lực và hay rối loạn hanh vi ứng xử trong DSM-IV-TR.
1.3.3.8. Tiêu chuẩn chẩn đoán của Tao và cộng sự 2010
Các tác giả trên cho rằng, tiêu chí chẩn đoán nghiện internet được đề
xuất bao gồm: [108]
A) Tiêu chí triệu chứng: Tất cả những điều sau đây phải có mặt:
- Lo ngại với internet (suy nghĩ về hoạt động trực tuyến trước đó hoặc
dự đoán phiên trực tuyến tiếp theo)
- Thể hiện bởi một tâm trạng khó chịu, lo lắng, khó chịu và chán nản
sau vài ngày mà không có hoạt động internet
Ít nhất một (hoặc nhiều hơn) những điều sau đây:
- Gia tăng sử dụng internet cần thiết để đạt được sự hài lòng
- Mong muốn liên tục và / hoặc cố gắng không thành công để kiểm
soát, cắt giảm hoặc ngừng sử dụng internet
- Tiếp tục sử dụng internet quá mức mặc dù biết có vấn đề về thể chất
hoặc tâm lý liên tục hoặc tái diễn có thể đã gây ra hoặc trầm trọng hơn do sử
dụng Internet
- Mất quyền lợi, sở thích trước đó, giải trí dưới dạng kết quả trực tiếp
và ngoại trừ sử dụng Internet
- Sử dụng internet để trốn thoát hoặc giảm bớt một tâm trạng khó khăn
(ví dụ: cảm giác bất lực, cảm giác tội lỗi, lo lắng)
30
B) Tiêu chí suy giảm đáng kể về mặt lâm sàng
Suy giảm chức năng (giảm khả năng xã hội, học tập, khả năng làm
việc), bao gồm mất cơ hội quan hệ, công việc, giáo dục hoặc nghề nghiệp
đáng kể
C) Tiêu chí khóa học
Thời gian nghiện internet phải kéo dài quá 3 tháng, với ít nhất 6 giờ sử
dụng Internet (không kinh doanh / không học thuật) mỗi ngày.
1.3.3.9. Tiêu chuẩn chẩn đoán theo DSM-5
Trong DSM-5, xuất bản năm 2013 của Hội Tâm thần Mỹ, trong mục
“Các bệnh nghiên cứu thêm” có đưa ra „Rối loạn chơi game internet”
(Internet Gaming Disorder) với tiêu chuẩn chẩn đoán được đề xuất như sau:
[22]
(1) Bận tâm với chơi game internet. (Những suy nghĩ của cá nhân về
hoạt động game lần trước hoặc tham gia game lần sau; chơi game internet trở
nên hoạt động ưu thế trong cuộc sống hàng ngày).
(2) Những triệu chứng thu rút (giống hội chứng cai) khi không được
chơi game internet. (Những triệu chứng này được mô tả điển hình như dễ
kích thích, lo âu, hoặc buồn rầu, nhưng không có dấu hiệu thực thể của hội
chứng cai thuốc)
(3) Sự dung nạp – nhu cầu chơi tăng lên về số lượng thời gian tham gia
game internet.
(4) Những cố gắng để kiểm soát chơi game internet không thành công.
(5) Mất quan tâm hứng thú trong những sở thích và trò vui chơi trước
đây do game internet, và chỉ còn hứng thú với game internet.
(6) Tiếp tục sử dụng một cách thái quá game internet mặc dù biết về
những vấn đề tâm lý xã hội.
(7) Lừa dối những thành viên gia đình, những nhà trị liệu hoặc những
người khác về số lượng chơi game internet
31
(8) Sử dụng game internet để trốn tránh hoặc làm giảm cảm xúc âm
tính (thí dụ, cảm thấy không nơi nương tựa, tội lỗi, lo âu).
(9) Hủy hoại hoặc làm mất mối quan hệ, việc làm quan trọng hoặc học
tập hoặc cơ hội sự nghiệp vì chơi game internet.
Đối chiếu với những tiêu chuẩn nghiện internet của Young, có thể thấy
DSM-5 của Hội Tâm thần Mỹ đã sử dụng tiêu chuẩn của Young cho chẩn
đoán rối loạn chơi game internet trong phân loại bệnh tâm thần.
Theo các nghiên cứu ở trên cho thấy, để có thể xác định một công cụ
tiêu chuẩn để đánh giá nghiện Internet hiện thời là việc khó khăn, chưa có sự
đồng nhất. Tuy nhiên, xét trên bình diện khoa học, nhiều nhà nghiên cứu ở
khắp nơi trên thế giới đã coi việc sử dụng Internet có vấn đề là một tình
trạng nghiện. Theo như đề tài chúng tôi đã trình bày, hiện có hai cách tiếp
cận xây dựng tiêu chuẩn nghiện Internet. (1) tiếp cận vấn đề rối loạn nghiện
chất; (2) tiếp cận vấn đề rối loạn kiểm soát xung lực. Dựa trên các nghiên
cứu và phân loại của một số tác giả, chúng tôi đồng thuận cho rằng nghiện
Internet là một rối loạn kiểm soát xung lực và bản tiêu chuẩn do Young
(1996) đã đề xuất là phù hợp. Về đánh giá mức độ nghiện Internet, chúng tôi
cũng cho rằng, nghiện Internet có hai mức độ theo bản đánh giá rút gọn s-
IAT, bao gồm mức độ nghiện, không nghiện. Đây là căn cứ chúng tôi sử
dụng để phân loại các mức độ sử dụng Internet của đối tượng nghiên cứu
trong đề tài là học sinh trung học.
1.3.4. Trầm cảm
1.3.4.1. Khái niệm
Theo tổ chức Y tế thế giới WHO “Trầm cảm là một rối loạn tâm thần
phổ biến, đặc trưng bởi sự buồn bã, mất đi hứng thú hoặc khoái cảm, cảm
thấy tội lỗi hoặc tự hạ thấp giá trị bản thân, bị rối loạn giấc ngủ hoặc ăn uống
và kém tập trung”. Ngoài ra, trầm cảm thường xuất hiện với các triệu chứng
của lo âu. Các vấn đề trên có thể trở thành mãn tính hoặc tái phát thường
32
xuyên và dẫn tới mất khả năng duy trì các thói quen sinh hoạt và làm việc
hàng ngày [119].
1.3.4.2. Phân loại, tiêu chí chẩn đoán trầm cảm
Theo bảng phân loại bệnh tật quốc tế ICD-10, trầm cảm được chẩn
đoán bởi:
Các triệu chứng chính liên quan đến giảm khí sắc; giảm sự quan tâm,
hứng thú trong mọi hoạt động; mất hoặc giảm năng lượng, cảm thấy dễ mệt
mỏi dù chỉ thực hiện một hoạt động hay cố gắng nhỏ.
Các triệu chứng phổ biến khác kèm theo như: Khó khăn về việc duy trì
tập trung và chú ý; Giảm sút tính tự trọng và lòng tự tin; Luôn bị ám ảnh bởi
các ý tưởng bị tội và không xứng đáng; Mất niềm tin; Có các hành vi hay ý
tưởng gây tổn hại cơ thể; Rối loạn giấc ngủ; Ăn ít ngon miệng
Các triệu chứng sinh học của trầm cảm như: sút cân (5% trong lượng
cơ thể trong 4 tuần), giảm dục năng, ít ngủ, thức dậy sớm, sững sờ…
Dựa vào các triệu chứng trên, có thể phân chia trầm cảm thành 3 mức
độ:
Mức độ nhẹ: Đây là giai đoạn đầu, xuất hiện tối thiểu 2 tuần và chưa có
nhiều trở ngại trong sinh hoạt gia đình, công việc hằng ngày và hoạt động xã
hội.
Mức độ trung bình: Các triệu chứng đặc trưng chủ yếu đặc trưng cho
giai đoạn trầm cảm nhẹ, xuất hiện tối thiểu khoảng 2 tuần và có nhiều khó
khăn trong hoạt động xã hội, nghề nghiệp hoặc công việc gia đình.
Mức độ nặng: Các triệu chứng cơ thể hầu như có mặt thường xuyên;
xuất hiện và kéo dài ít nhất là 2 tuần; ít có khả năng hoạt động xã hội, nghề
nghiệp và công việc gia đình.
Chẩn đoán trầm cảm theo DSM5, trầm cảm được đăch trưng bởi: [22]
Trầm cảm thường khởi phát lặng lẽ, mơ hồ, phần lớn các triệu chứng
biểu hiện khác nhau tùy theo từng người, từng giới tính, độ tuổi, không ai
33
giống ai.. Theo bảng phân loại này, chẩn đoán một người bị trầm cảm khi có
ít nhất 5 trong 9 triệu chứng sau, kéo dài ít nhất hai tuần:
A. Ít nhất 5 trong những triệu chứng sau, xuất hiện cùng lúc, kéo dài 2
tuần làm thay đổi so với hoạt động trước đó; ít nhất một trong các triệu chứng
phải là: (1) khí sắc trầm cảm, (2) mất hứng thú hoặc mất vui (các triệu chứng
này không phải do một bệnh khác gây nên).
(1) Khí sắc trầm cảm gần như suốt ngày, hầu như mỗi ngày được khai
báo bởi bệnh nhân (ví dụ: cảm thấy buồn hay trống rỗng, tuyệt vọng) hoặc
thông quan quan sát của người khác (ví dụ: khóc). Chú ý: ở trẻ em và thành
thiếu niên có thể biểu lộ việc dễ bực tức.
(2) Giảm sút rõ về thích thú hoặc thú vui trong tất cả, hầu như tất cả
các hoạt động hầu như suốt ngày, gần như mỗi ngày (được nhận thấy bởi
bệnh nhân hoặc thông qua quan sát của người khác)
(3) Giảm cân đáng kể không phải do ăn kiêng hoặc tăng cân (ví dụ:
thay đổi trọng lượng cơ thể quá 5% trong 1 tháng) hoặc tăng hay giảm cảm
giác ngon miệng gần như mỗi ngày. Ghi chú: ở trẻ em có thể không đạt mức
tăng cân như dự đoán.
(4) Có vấn đề về giấc ngủ như: bị mất ngủ hay ngủ quá nhiều.
(5) Kích động hay chậm chạp tâm thần vận động hầu như mỗi ngày
(được nhận thấy bởi người khác chứ không phải chỉ là cảm giác của bệnh
nhân về việc bứt rứt hoặc chậm chạp bên trong cơ thể).
(6) Mệt mỏi hoặc mất năng lượng hầu như mỗi ngày.
(7) Cảm giác bị mất giá trị hoặc cảm giác tội lỗi quá mức hoặc không
thích hợp (có thể đạt đến mức hoang tưởng) hầu như mỗi ngày (không chỉ là
việc tự trách móc hoặc có cảm giác tội lỗi do bị bệnh).
(8) Giảm khả năng suy nghĩ hoặc tập trung chú ý hoặc thiếu quyết đoán
hầu như mỗi ngày (do bệnh nhân khai báo hoặc được quan sát bởi người
khác).
34
(9) Ý nghĩ về cái chết tái diễn (không chỉ là sợ chết), các ý tưởng tự tử
tái diễn nhưng không có kế hoạch tự tử, hoặc có mưu toan tự tử hoặc có kế
hoạch tự tử cụ thể
B. Các triệu chứng này gây ra sự đau khổ đáng kể về mặt lâm sàng
hoặc làm biến đổi hoạt động xã hội, nghề nghiệp hoặc trong các lĩnh vực
quan trọng khác.
C. Các triệu chứng không phải do các tác động sinh lý trực tiếp của
một chất hoặc do một bệnh khác gây nên.
D. Các triệu chứng này không đáp ứng tiêu chuẩn chẩn đoán của Rối
loạn phân liệt cảm xúc, Rối loạn tâm thần phân liệt, Rối loạn ảo giác, hoặc
những rối loạn đặc trưng hoặc không đặc trưng khác của Hội chứng Tâm thần
phân liệt và những Rối loạn loạn thần khác. Chưa bao giờ xuất hiện một giai
đoạn hưng cảm hoặc hưng cảm nhẹ trước đó.
Hội Tâm thần học Mỹ đã phân loại rối loạn trầm cảm thành các mã số sau:
Mức độ nghiêm trọng/đặc trưng Giai đoạn đơn độc Giai đoạn tái phát
Nhẹ 296.21 (F32.0) 296.31 (F33.0)
Trung bình 296.22 (F32.1) 296.32 (F33.1)
Nặng 296.23 (F32.2) 296.33 (F33.2)
Với các triệu chứng của loạn thần 296.24 (F32.3) 296.34 (F33.3)
Thuyên giảm một phần 296.25 (F32.4) 296.35 (F33.41)
Thuyên giảm hoàn toàn 296.26 (F32.5) 296.36 (F33.42)
296.20 (F32.9) 296.30 F33.9) Không đặc hiệu
1.3.4. Lo âu
1.3.4.1 Khái niệm
Lo âu là sự sợ hãi quá mức, không có nguyên nhân, do chủ quan của
người bệnh và không thể giải thích được do một bệnh tâm thần khác hoặc do
một bệnh cơ thể. Rối loạn lo âu là rối loạn mà bệnh nhân không thể kiểm soát
35
được, biểu hiện vững chắc, mạn tính và khuếch tán, thậm chí có thể xảy ra
dưới dạng kịch phát. Rối loạn lo âu thường phối hợp với tăng cảm xúc, biểu
hiện qua các triệu chứng chung về nội tạng và vận động [14].
1.3.4.2. Phân loại và tiêu chí chẩn đoán lo âu
Theo bảng phân loại bệnh tật quốc tế ICD-10, lo âu được đưa vào các
mục từ F40-F48: các rối loạn bệnh tâm căn có liên quan đến stress và dạng cơ
thể:
F40: Các rối loạn lo âu ám ảnh sợ:
F40.0: ám ảnh sợ khoảng trống.
.00: ám ảnh sợ khoảng trống không có rối loạn hoảng sợ.
.01: ám ảnh sợ khoảng trống có rối loạn hoảng sợ.
F40.1: ám ảnh sợ xã hội.
F40.2: ám ảnh sợ đặc hiệu (riêng lẻ).
F40.8: Các rối loạn lo âu ám ảnh sợ khác.
F40.9: Rối loạn lo âu ám ảnh sợ không biệt định.
F41: Các rối loạn lo âu khác.
F41.0: Rối loạn hoảng sợ.
F41.1: Rối loạn lo âu lan toả.
F41.2: Rối loạn hỗn hợp lo âu và trầm cảm.
F41.3: Các rối loạn lo âu hỗn hợp khác.
F41.8: Các rối loạn lo âu biệt định khác.
F41.9: Rối loạn lo âu không biệt định.
F42: Rối loạn ám ảnh nghi thức.
F42.0: ý nghĩ hoặc nghiền ngẫm ám ảnh chiếm ưu thế.
F42.1: Hành vi nghi thức chiếm ưu thế.
F42.2: Các ý nghĩ và hành vi ám ảnh hỗn hợp.
F42.8: Các rối loạn ám ảnh nghi thức khác.
F42.9: Rối loạn ám ảnh nghi thức không biệt định.
36
Chẩn đoán trầm cảm theo DSM5, rối loạn lo âu gồm các mã sau: [22]
309.21 (F93.0): Rối loạn lo âu chia tách (Separation Anxiety Disorder)
312.23 (F94.0): Mất nói có lựa chọn (Selective Mutism)
300.29 (– . –) : Ám ảnh sợ chuyên biệt (Specific Phobia)
300.23 (F40.10): Rối loạn lo âu xã hội (ám ảnh sợ xã hội) (Social
Anxiety Disorder/ Social Phobia )
300.01 (F41.0): Rối loạn hoảng sợ (Panic Disorder)
300.22 (F40.00): Ám ảnh sợ khoảng trống (AgoraPhobia)
300.02 (F41.1): Rối loạn lo âu lan tỏa (Generalized Anxiety Disorder -
GAD)
– . – (– . –): Rối loạn lo âu do một chất/thuốc (Substance/ Medication –
Induced Anxiety Disorder)
293.84 (F06.4): Rối loạn lo âu do một bệnh cơ thể khác (Anxiety
Disorder Due to Another Medical Condition)
300.09 F41.8): Rối loạn lo âu biệt định khác
300.00(F41.9): Rối loạn lo âu không biệt định
1.3.5. Stress
1.3.5.1. Khái niệm
Stress có nguồn gốc từ tiếng Latinh là “strictia” bởi từ gốc “strictus” và
một phần của từ “stringere” nghĩa là kéo căng, nghịch cảnh, bất hạnh, đè nén.
Từ thế kỷ 17, stress được sử dụng với ý nghĩa là “sự khổ cực - hardship”
(Hinkle, 1973), dùng để mô tả con người trải qua thử thách gay go, tai họa
hoặc nỗi đau buồn [12].
Trong tiếng Anh, stress có nghĩa là nhấn mạnh. Thuật ngữ này được
dùng trong vật lý học để chỉ sức nén mà vật liệu phải chịu, sau đó
W.B.Cannon (1914) sử dụng trong sinh lý học [19]. Ban đầu, nó dùng để chỉ
phản ứng bình thường của cơ thể đối với bất cứ một tác động có hại nào. Sau
37
đó, stress được sử dụng để miêu tả các trạng thái của cá nhân đối với các điều
kiện bên ngoài ở các mức độ sinh lý, tâm lý và hành vi [6].
Theo Hans Syle, stress là “một hội chứng đặc hiệu bao gồm tất cả
những thay đổi được gây ra một cách không đặc hiệu bên trong hệ thống sinh
học nhằm khôi phục lại trạng thái cân bằng nội môi, khắc phục được các tình
huống để đảm bảo duy trì và thích nghi thoả đáng của cơ thể trước điều kiện
sống luôn biến đổi” hay cũng tác giả này định nghĩa trong nghiên cứu sau
đó: “stress là một trạng thái được thể hiện trong một hội chứng bao gồm tất
cả các biến cố không đặc hiệu trong một hệ thống sinh học” [58].
1.3.5.2. Tiêu chí chẩn đoán, phân loại
Theo bảng phân loại bệnh tật quốc tế ICD-10, Stress được đưa vào các
mục từ F40-F48: các rối loạn bệnh tâm căn có liên quan đến stress và dạng cơ
thể:
F43. Phản ứng với stress trầm trọng và rối loạn sự thích ứng
F43.0: Phản ứng stress cấp
F43.1: Rối loạn stress sau sang chấn
F43.2: Các rối loạn sự thích ứng
F43.8: Các phản ứng với stress trầm trọng khác
F43.9: Phản ứng với stress trầm trọng, không biệt định
1.3.6. Học sinh trung học
Học sinh trung học bao gồm học sinh THCS và học sinh THPT, nằm
trong độ tuổi từ 10 đến 18 tuổi theo quy định của pháp luật Việt Nam. Đây là
giai đoạn học sinh có nhiều thay đổi về tâm sinh lý, bước đầu hình thành nhân
cách, bước đầu các em gia nhập vào xã hội cộng đồng, vào tập thể cùng nhóm
tuổi và phát triển những kỹ năng. Đây là giai đoạn các em có sự phát triển
nhanh cả về trí tuệ và thể lực. Khái niệm vị thành niên được thừa nhận về mặt
văn hóa xã hội là một giai đoạn chuyển tiếp giữa tuổi ấu thơ và tuổi trưởng
38
thành, con người trong độ tuổi này thay đổi rất nhiều tùy theo từng dân tộc,
trong mỗi dân tộc lại thay đổi tùy thuộc vào nhiều yếu tố [15].
1.3.6.1. Đặc điểm sinh lý lứa tuổi
a. Đối với học sinh THCS
- Đối với học sinh THCS, các em đang bước vào giai đoạn cải tổ hình
thái sinh lý một cách mạnh mẽ và mang tính chất không cân đối. Đây là thời
kỳ “nhảy vọt về tầm vóc” [17] thông qua sự hoạt động của các tuyến nội tiết
quan trọng như tuyến yên, tuyến giáp trạng, tuyến sinh dục, tuyến thượng thận
đã tạo ra sự thay đổi trong cơ thể [18].
- Hoạt động tim mạch ở giai đoạn này cũng có sự thay đổi, tim phát
triển nhanh hơn các mạch máu, điều đó gây nên sự mất cân bằng và thường
xuyên gây ra các rối loạn trong hoạt động tim mạch. Các quá trình thần kinh
hưng phấn của vỏ não chiếm ưu thế nên ở lứa tuổi thiếu niên hoặc là ức chế
hoàn toàn hoặc là có phản ứng mạnh mẽ trước một kích thích mạnh kéo dài
[17], các em thường gặp các rối loạn tạm thời của tuần hoàn máu, có cảm giác
mệt mỏi, nhức đầu, chóng mặt, dễ xúc động, bực tức [18].
- Sử trưởng thành về mặt sinh dục: Ở các em nam giai đoạn này xuất
hiện hiện tượng xuất tinh lần đầu, các em nữ xuất hiện hiện tượng kinh
nguyệt.
b. Đối với học sinh THPT
- Đối với học sinh THPT, các em bước vào giai đoạn ổn định, chấm dứt
thời ký phát triển dữ dội, mất cân đối, cụ thể: trọng lượng của các em vẫn còn
tăng rất nhanh, các em nam đã đuổi kịp và vượt qua các em nữ; chiều cao tăng
chậm lại, lực cơ tiếp tục phát triển [18]; cấu tạo và chức năng của hệ thần kinh
phức tạp hơn các lứa tuổi trước, đặc biệt là số dây thần kinh liên hợp nối các
phần của vỏ não tăng lên làm cho chức năng của não được phát triển [17]; hệ
xương đã cốt hóa xong, hệ tuần hoàn trở nên ôn hòa và phát triển cân bằng
[18].
39
- Về mặt giới tính: Đa số các em đã qua thời kỳ dậy thì, chấm dứt giai đoạn
khủng hoảng của thời kỳ phát dục để chuyển sang thời kỳ ổn định hơn, cân
bằng hơn.
1.3.6.2. Đặc điểm về nhận thức xã hội
a. Đối với học sinh THCS
- Trong đời sống gia đình, vị trí của các em đã thay đổi, được thừa nhận
là thành viên tích cực, được giao các nhiệm vụ cụ thể. Bên cạnh đó, các em
được tham gia vào bàn bạc một số công việc gia đình, về những việc của cha
mẹ, anh chị, quan tâm đến việc xây dựng và bảo vệ uy tín của gia đình hơn
các em nhỏ. Những thay đổi đó đã kích thích các em hoạt động tích cực, độc
lập hơn.
- Hoạt động học tập ở nhà trường có sự thay đổi, học tập của học sinh
THCS có sự thay đổi về nội dung, tính chất so với tuổi nhi đồng;
- Ngoài xã hội, các em được thừa nhận như là một thành viên tích cực,
được gia một số công việc như: truyền thông, cổ động…Chính việc tham gia
các hoạt động xã hội mà mối quan hệ của các em được mở rộng, tiếp xúc
nhiều vấn đề xã hội làm cho tầm hiểu biết, kinh nghiệm sống, nhân cách của
các em được phát triển [17]. Khi tham gia, bản thân các em cũng cảm thấy
hứng thú và tích cự tham gia vào các hoạt động xã hội [18].
b. Đối với học sinh THPT
- Trong gia đình, các em có thêm nhiều quyền lợi và trách nhiệm của
người lớn, các em cảm thấy trách nhiệm của mình lớn hơn, đồng thời nếp
sống của gia đình, sự giáo dục của cha mẹ cũng ảnh hưởng lớn đến bộ mặt
tâm lý của lứa tuổi này.
- Ở nhà trường, hoạt động học tập ở gia đoạn này có sự thay đổi về nội
dung, tính chất so với lứa tuổi thiếu niên, các em ý thức được mình đang đứng
trước ngưỡng cửa của cuộc đời, nên thái độ tự giác của các em được nâng lên,
hoạt động học tập lúc này mang ý nghĩa sống trực tiếp.
40
- Ở ngoài xã hội, hoạt động giao tiếp xã hội có sự phát triển mạnh, vai
trò xã hội và hứng thú xã hội ngày càng được mở rộng về số lượng và chất
lượng. Khi tham gia các hoạt động xã hội, người lớn dành quyền tự quản cho
các em nhiều hơn, đòi hỏi các em phải phát huy tính tích cực, độc lập, tổ chức
của mình.
1.3.6.3. Đặc điểm về tâm lý, nhân cách và tình cảm
a. Đối với học sinh THCS
* Đặc điểm tâm lý học sinh THCS
- Sự phát triển quá trình nhận thức:
+ Khối lượng tri giác tăng lên, có khả năng phân tích và tổng hợp phức
tạp khi tri giác các sự vật, hiện tượng.
+ Trí nhớ cũng có sự thay đổi về chất, mang tính chất có điều khiển,
điều chỉnh và có tổ chức
+ Chú ý: Chú ý có chủ định phát triển rõ nét, tuy nhiên không bền
vững. Ở lứa tuổi này, khối lượng chú ý, khả năng di chuyển chú ý từ thao tác
này đến thao tác khác cũng được tăng cường rõ rệt.
+ Tư duy: Đây là giai đoạn tư duy trừu tượng tượng chiếm ưu thế.
* Đời sống tình cảm: Đặc điểm của lứa tuổi giai đoạn này là dễ xúc động,
mang tính bồng bột, dễ bị kích động, vui buồn chuyển hóa nhanh chóng. Các
em đã bắt đầu xuất hiện tình cảm khác giới, bên cạnh đó ở lứa tuổi này tình
cảm bạn bè, tình đồng chí, tình tập thể cũng đã phát triển mạnh.
* Khuynh hướng muốn làm người lớn
+ Giai đoạn này, trẻ có ấn tượng sâu sắc rằng “Mình không còn là trẻ
con nữa” “cảm giác là người lớn” [17][18], các em có nguyện vọng muốn
được làm người lớn và được đối xử như người lớn;
+ Mức độ đầu tiên và dễ nhận thấy nhất được thể hiện ở vẻ bề ngoài,
liên quan đến cử chỉ, hành vi, cách ăn mạc, đầu tóc, em trai muốn định hình
mình thành người đàn ông đích thực [18]. Các em bắt chước người lớn trong
41
cách thể hiện thái độ, hành vi của mình, có ý thức rõ rệt về giới tính, quan tâm
đến đời sống tình cảm của người lớn [17].
* Sự phát triển nhân cách
Lĩnh vực ý chí
- Xuất hiện hình mẫu lý tưởng. Hình mẫu mà các em lựa chọn có thể là
mẫu người hiện thực có phẩm chất đặc biệt hấp dẫn như: người lớn hoặc bạn
cùng trang lứa hoặc có thể là những nhân vật lịch sử, nhân vật trong phim,
ảnh, sách, báo…
- Bên cạnh đó, ở giai đoạn này, các em nam thường có xu hướng thích
thể hiện, sức mạnh của “người đàn ông thực thụ” thường được coi là phẩm
chất quan trọng. Các em thích đấu tranh, đọ sức, có thể gây gổ nhằm chứng
minh sức mạnh ưu thế của mình với người khác. Đối với các em: lòng dũng
cảm, ý chí vượt qua mọi thử thách để đạt được mục đích được coi là một giá
trị đặc biệt.
Sự phát triển tự ý thức
- Các em đã bắt đầu có sự nhìn nhần, mong muốn hiểu biết được mặt
mạnh, mặt yếu trong nhân cách của mình. Bên cạnh đó khi nhận thức về
mình, học sinh THCS còn đối chiếu mình với người khác [18]
- Bên cạnh đó các em ý thức mình là một nhân cách có quyền được tôn
trọng, được độc lập và được tin cậy như mọi người lớn khác [17].
Hứng thú
Hứng thú ở giai đoạn này có sự phát triển mạnh mẽ cả về chiều rộng
lẫn chiều sâu, các em quan tâm đến kết quả hoạt động, đến bản chất, ý nghĩa
của hoạt động.
b. Đối với học sinh THPT
* Đặc điểm tâm lý
42
- Sự phát triển của các quá trình nhận thức: Tính chủ định với các quá
trình nhận thức ở lứa tuổi THPT được tăng lên và đến cuối giai đoạn này các
em hoàn toàn làm chủ được nhận thức của mình.
+ Tri giác: Đây là thời kỳ mà trẻ có độ nhạy cao về tri giác nghe, tri
giác nhìn, có sự phối hợp nhịp nhàng giữa các cơ quan vận động: mắt nhìn, tai
nghe, tay viết….[18]. Quan sát trở nên có mục đích, có hệ thống và toàn diện
hơn. Quá trình quan sát chịu điều khiển của hệ thống tín hiệu thứ hai nhiều
hơn và không tách rời khỏi tư duy, ngôn ngữ [17].
+ Trí nhớ: Học sinh THPT đang ở giai đoạn phát triển cao về trí nhớ,
trẻ có khả năng nhớ nhanh [18]. Ghi nhớ có logic, ghi nhớ có chủ đích phát
triển mạnh và giữ vai trò chủ đạo trong hoạt động nhận thức, các em biết đưa
ra các ý chính để ghi nhớ tốt hơn, biết sắp xếp tài liệu học tập theo trình tự,
logic nhất định, biết vận dụng mối liên tưởng, đặc biệt là liên tưởng nhân quả
để ghi nhớ được tốt hơn [17].
+ Chú ý: Ở học sinh THPT chú ý có chủ định chiếm ưu thế, các em biết
đề ra mục đích của chú ý [18]. Năng lực chú ý phát triển, các em biết phân
phối chú ý, các em có thể vừa nghe giảng, vừa ghi chép [17].
+ Tư duy: Các em có khả năng tư duy lý luận, tư duy trừ tượng một
cách độ lập, sáng tạo. Tư duy chặt chẽ hơn, có căn cứ, nhất quán hơn.
+ Tưởng tượng: Đây là giai đoạn có nhiều đổi mới, nội dung tưởng
tượng phong phú trên nhiều lĩnh vực. Tưởng tượng tái tạo đã gắn với hiện
thực, tưởng tượng sáng tạo và tái tạo đều phát triển nhưng càng về sau tưởng
tượng sáng tạo chiếm ưu thế.
- Nhu cầu giao tiếp: Đây là giai đoạn mà bạn bè luôn chiếm vị trí quan
trong nhất trong mối quan hệ của các em. Điều này thể hiện lòng khát khao có
vị trí bình đẳng trong cuộc sống, bên cạnh đó quan hệ dựa dẫm, phụ thuộc vào
cha mẹ cũng dần được thay thế bằng quan hệ bình đẳng tự lập.
43
- Nhu cầu xác định vị trí xã hội: Đây là giai đoạn các em đòi hỏi xã hội
công nhận và tôn trọng các quyền lợi, nghĩa vụ xã hội của mình. Bên cạnh đó
do vị thế của người học sinh lớn, vị thế trong gia đình, xã hội được tăng
cường nên các em xuất hiện nhu cầu xác định vị trí xã hội. Nhu cầu này biểu
hiện ở tính tích cực xã hội được hình thành thể hiện: các em quan tâm nhiều
đến tình hình kinh tế, chính trị, xã hội; các em có sự đánh giá trao đổi với
nhau và tỏ thái độ của mình về vấn đề; các em sẵn sàng tham gia hoạt động xã
hội phù hợp với hứng thú, sở trường của mình.
* Đời sống tình cảm:
- Ở lứa tuổi này, tình cảm phát triển mạnh như: tình cảm trách nhiệm,
tình bạn thân thiết, tình yêu, tính hài hước [18].
- Các em ngày càng bình đẳng, độc lập trong giao tiếp với người lớn và
bạn bè cùng tuổi, cụ thể: [17]
+ Việc lựa chọn bạn bè trong gia đoạn này được xem xét một cách có
căn cứ về hứng thú, sự đồng cảm, lối sống…Các em mong muốn sự chân
thành, sự tin tưởng, hiểu biết và tôn trọng, sẵn sàng giúp đỡ lẫn nhau;
+ Đối với cha mẹ, các em thường biểu hiện tính tự lập, các em dễ có xu
hướng xa lánh người lớn mà tìm sự đồng tình, đồng cảm ở các bạn cùng lứa
tuổi;
+ Tình cảm giai đoạn này có sự phân hóa rõ rệt. Tình cảm đạo đức
được bộc lộ rõ như: sự khâm phục, kính trọng những con người dũng cảm,
kiên cường, coi trọng những giá trị đạo đức cũng như lương tâm, mong muốn
lợi ích cho người khác. Các em bắt đầu hình thành tình cảm về trí tuệ, thẩm
mỹ, xuất hiện tình yêu nam nữ.
* Sự phát triển nhân cách
Sự phát triển của tự ý thức
- Đây là giai đoạn các em có ý thức về “Hình ảnh về thân thể”.
44
- Các em đã bắt đầu có thêm nhận thức về vị trí của mình trong xã hội,
trong tương lai…
Sự hình thành thế giới quan
- Tuổi đầu thanh niên là lứa tuổi quyết định của sự hình thành thế giới
quan – hệ thống quan điểm về tự nhiên, về xã hội, về các nguyên tắc và quy
tắc ứng xử, định hướng giá trị của con người…[17].
- Sự hình thành thế giới quan ở giai đoạn này được thể hiện ở tính tích
cực của nhận thức và nội dung của thế giới quan, các em cố gắng xây dựng
quan điểm riêng của mình trong các lĩnh vực, có xu hướng sống một cuộc
sống tích cực vì xã hội, mang lại lợi ích cho người khác, quan tâm đến đời
sống tinh thần hơn vật chất [18].
Tiểu kết chƣơng 1
Tổng quan về vấn đề nghiên cứu đã làm rõ được các khái niệm liên
quan đến vấn đề nghiên cứu bao gồm: Internet, sử dụng Internet, trầm cảm, lo
âu, stress, học sinh trung học. Ngoài ra, nghiên cứu cũng tập trung tìm hiểu
các vấn đề liên quan đến mối quan hệ giữa việc sử dụng Internet với các vấn
đề về trầm cảm, lo âu, stress ở học sinh trung học hiện nay. Tổng hợp các
nghiên cứu cho thấy tỷ lên thanh thiếu niên sử dụng Internet dao động khoảng
từ 0,7% đến 26,3 % tùy theo từng khu vực.
Nghiên cứu cũng đã tìm kiếm được nguồn thông tin liên quan đến mối
liên quan giữa việc sử dụng Internet với các vấn đề về sức khỏe tâm thần nói
chung bao gồm: rối loạn về giấc ngủ, rối loạn tăng động giảm chú ý, lòng tự
trọng, rối loạn lượng cực, hành vi tự sát, ám ảnh xã hội…đặc biệt là các vấn
đề liên quan trực tiếp đến đề tài nghiên cứu như: trầm cảm, lo âu, stress.
45
CHƢƠNG 2
TỔ CHỨC VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đặc điểm của khách thể và địa bàn nghiên cứu
2.1.1. Đặc điểm địa bàn nghiên cứu
Nghiên cứu được tiến hành tại 4 trường THCS và 4 trường THPT tại
Thành phố Đà Nẵng và tỉnh Khánh Hòa được lựa chọn theo nguyên tắc chọn
mẫu tiện lợi, cụ thể:
Tỉnh Khánh Hòa bao gồm 4 trường công lập: Khối THCS gồm trường:
THCS Hùng Vương và THCS Chu Văn An, Khối THPT gồm: trường THPT
Nguyễn Trãi, trường THPT Trần Cao Vân.
Trường THCS Hùng Vương, THCS Chu Văn An, THPT Nguyễn Trãi,
THPT Trần Cao Vân nằm trên địa bàn thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa. Cả
4 trường đều là trường chuẩn quốc gia và là trường điểm của thị xã Ninh Hòa
với hệ thống cơ sở vật chất, trang thiết bị được đầu tư đầy đủ, đáp ứng việc
học của các em học sinh.
Thành phố Đà Nẵng bao gồm 4 trường công lập: Khối THCS gồm
trường: THCS Nguyễn Trãi, THCS Huỳnh Thúc Kháng, Khối THPT gồm:
THPT Phan Châu Trinh, THPT Cẩm Lệ.
Trường THCS Nguyễn Trãi, THCS Huỳnh Thúc Kháng nằm trên địa
bàn quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng, đây là 2 trường điểm đạt chuẩn
quốc gia, được trang bị đầy đủ cơ sở vật chất, trang thiết bị.
Trường THPT Phan Châu Trinh là 1 trong những trường điểm nổi
tiếng của thành phố Đà Nẵng nằm trên địa bàn quận Hải Châu.
Trường THPT Cẩm Lệ cũng là 1 trong 5 trường điểm của thành phố
Đà Nẵng cùng với THPT Phan Chu Trinh. Trường nằm trên địa bàn quận
Cẩm Lệ.
46
2.1.2. Đặc điểm của khách thể nghiên cứu
Nghiên cứu này đã chọn mẫu khách thể là 562 học sinh thuộc khối
THCS và THPT trên địa bàn tỉnh Khánh Hòa và thành phố Đà Nẵng thuộc
các khối lớp 7, 8 và khối lớp 10, 11.
Bảng 2. 1: Đặc điểm khách thể nghiên cứu
Địa bàn Đặc điểm Số lượng học Tỷ lệ
sinh (%)
Khối THCS Chu Văn An 66 45.8
THCS THCS Hùng Vương 78 54.2
Lớp 7 73 50.7
8 71 49.3
Giới Nam 66 45.8 Tỉnh tính Nữ 78 54.2 Khánh Khối THPT Nguyễn Trãi 78 52.7 Hòa THPT THPT Trần Cao Vân 70 47.3
Lớp 10 80 54.1
11 68 45.9
Giới Nam 46 31.1
tính Nữ 102 68.9
Khối THCS Nguyễn Trãi 85 67.5
THCS THCS Huỳnh Thúc Kháng 41 32.5
Lớp 7 54 42.9
8 72 57.1 TP Đà
Nẵng Giới Nam 62 49.2
tính Nữ 64 50.8
Khối THPT Phan Chu Trinh 67 46.2
THPT THPT Cẩm Lệ 78 53.8
47
Lớp 10 78 53.8
11 67 46.2
Giới Nam 67 46.2
tính Nữ 78 53.8
2.2. Quy trình nghiên cứu
2.2.1. Gửi giấy mời nghiên cứu
Đầu tiên, chúng tôi gặp mặt Ban giám hiệu của các trường dự kiến thực
hiện điều tra để giới thiệu về nghiên cứu. Trên cơ sở sự đồng ý của nhà
trường, chúng tôi thông qua Phòng Đào tạo của Trường Đại học Giáo dục –
Đại học Quốc gia Hà Nội xin giấy giới thiệu để đảm bảo các thủ tục theo yêu
cầu của nhà trường. Tiếp theo, trên cơ sở mẫu nghiên cứu mà đề tài hướng
tới, thông qua Ban giám hiệu nhà trường, chúng tôi lựa chọn ngẫu nhiên một
lớp. Chúng tôi cũng làm việc với giáo viên chủ nhiệm lớp để trao đổi về mục
đích nghiên cứu, sau đó hướng dẫn mẫu cho giáo viên, nhờ giáo viên sắp xếp
lịch để chúng tôi gặp gỡ và trao đổi với các bạn học sinh. Bạn nào đồng ý
tham gia nghiên cứu chúng tôi sẽ gửi phiếu khảo sát và hướng dẫn làm các
phiếu theo quy định.
2.2.2. Quy trình chọn mẫu
Chọn mẫu: Chúng tôi xây dựng đề tài và lựa chọn khách thể nghiên cứu
là học sinh lớp 7, 8 thuộc khối THCS và lớp 10, 11 thuộc khối THPT trên địa
bàn tỉnh Khánh Hòa và thành phố Đà Nẵng
Quy trình chọn mẫu:
- Học sinh thuộc khối lớp 7, 8 thuộc 4 trường bao gồm: 2 trường THCS
trên địa bàn tỉnh Khánh Hòa và 02 trường THCS trên địa bàn thành phố Đà
Nẵng; học sinh thuộc khối 10, 11 thuộc 4 trường bao gồm: 2 trường THPT
trên địa bàn tỉnh Khánh Hòa và 02 trường THPT trên địa bàn thành phố Đà
Nẵng;
48
- Trên cơ sở các khối lớp đã được lựa chọn, chúng tôi tiến hành lựa
chọn mẫu tiện lợi trên cơ sở giới thiệu và hỗ trợ của các trường để lấy mỗi
khối 1 lớp để nghiên cứu;
- Khi phát phiếu chúng tôi giới thiệu về mục đích nghiên cứu và chấp
nhận tham gia nghiên cứu trước khi hướng dẫn các em làm.
2.2.3. Làm sạch và xử lý số liệu
Chúng tôi sử dụng phần mềm thống kê SPSS 23 để xử lý số liệu thu
thập được. Các thông số và phép toán thống kê được sử dụng trong nghiên
cứu là: Phân tích sử dụng thống kê mô tả và phân tích tương quan, hồi quy.
2.2.4. Đạo đức nghiên cứu
- Những học sinh tham gia khảo sát này hoàn toàn tự nguyện và đồng ý
tham gia vào nghiên cứu sau khi biết đầy đủ thông tin về nội dung nghiên
cứu;
- Thông tin cung cấp của tất cả các học sinh được bảo mật;
- Mọi số liệu được thu thập, mọi phân tích, diễn giải đều hoàn toàn
trung thực với khảo sát.
- Không thực hiện việc sao chép, lấy số liệu nghiên cứu của người khác
đưa vào đề tài của mình.
2.3. Công cụ nghiên cứu
2.3.1. Nghiên cứu lý luận
Để thực hiện đề tài, chúng tôi đã thực hiện thu thập những thông tin về:
- Cơ sở lý thuyết liên quan đến Internet, sử dụng Internet, nghiện
Internet, trầm cảm, lo âu, stress.
- Cập nhật các kết quả nghiên cứu trên các ấn phẩm khoa học đã được công bố
có chỉ số xuất bản trong và ngoài nước.
Từ việc tìm hiểu đó, chúng tôi thực hiện việc phân tích, tổng hợp tài
liệu và xây dựng nên các nội dung về cơ sở lí luận của đề tài. Trong đó, chúng
tôi trình bày tổng quan các nghiên cứu về Internet, sử dụng Internet, những
49
vấn đề về trầm cảm, lo âu, stress, những đặc điểm tâm sinh lý của học sinh
lứa tuổi học sinh trung học.
2.3.2. Điều tra bằng bẳng hỏi
2.3.2.1. Thu thập thông tin chung
Chúng tôi tiến hành điều tra thử trên 10 học sinh bao gồm: 05 học sinh
THCS và 05 học sinh THPT tại các trường trên địa bàn thị xã Ninh Hòa. Sau
khi điều tra thử chúng tôi chỉnh sửa lại cho phù hợp và xuống trường phát
phiếu theo hướng dẫn của nhà trường.
Chúng tôi đã tham khảo các bảng hỏi, thang đo trong các công trình
nghiên cứu trên thế giới và tại Việt Nam về vấn đề này. Bảng hỏi, thang đo
tiếng Anh được dịch và thích nghi về mặt ngôn ngữ, điều chỉnh dưới sự góp ý
của giảng viên hướng dẫn. Cấu trúc và nội dung của phiếu hỏi được sử dụng
trong nghiên cứu như sau: Đầu tiên là phần giới thiệu tóm tắt về nghiên cứu,
câu hỏi về thông tin cá nhân của học sinh như trường, lớp, năm sinh, giới tính,
học lực, tiếp theo là các bảng hỏi và thang đo:
Các câu hỏi về việc sử dụng internet: Thông qua điểm luận tài liệu về
sử dụng internet, chúng tôi thiết kế các câu hỏi về mức độ, thời lượng, địa
điểm, phương tiện, các hoạt động. Cụ thể, chúng tôi có hỏi về mức độ sử dụng
internet của học sinh (không bao giờ, rất hiếm khi, một vài lần/ tháng, một vài
lần/ tuần, hàng ngày), thời lượng sử dụng internet mỗi ngày (khoảng bao
nhiêu giờ/ ngày), và các câu hỏi đa lựa chọn như: phương tiện dùng để truy
cập internet (ví dụ: máy tính cá nhân (cố định hoặc laptop), máy tính dùng
chung của gia đình, máy tính ở quán net, máy tính bảng, ipad, điện thoại
thông minh) và mục đích sử dụng internet khi học sinh truy cập internet (ví
dụ: đăng ảnh, nói chuyện theo nhóm, gửi thư điện tử (email), học tập, xem
phim, tìm kiếm thông tin, v.v).
Chúng tôi tìm hiểu trường, lớp, giới tính, con thứ, học lực, công việc
gia đình, điều kiện kinh tế gia đình, đang sống cùng ai, sự quan tâm của gia
50
đình để thấy được sự khác nhau về việc sử dụng Internet của học sinh trung
học. Chúng tôi cũng đưa ra các câu hỏi để khảo sát về thói quen sử dụng
internet của các em như mức độ sử dụng, phương tiện truy cập internet,.
2.3.2.2. Nghiên cứu bằng trắc nghiệm s-IAT (phiên bản rút gọn)
Mục đích: Xác định thực trạng mức độ sử dụng internet
Trắc nghiệm: Nghiên cứu bằng trắc nghiệm s-IAT (phiên bản rút gọn)
do Trần Xuân Bách và cộng sự (2017) thích nghi tại Việt Nam.
Phiên bản tiếng Việt của s-IAT là một công cụ hợp lệ và đáng tin cậy
để đánh giá Internet nghiện trong dân số Việt Nam. s-IAT là một công cụ
sàng lọc hữu ích cho Internet nghiện để kịp thời thông báo và điều trị nghiện
Internet trong giới trẻ Việt Nam.
Thang S-IAT bao gồm 12 mục được đánh giá trên thang điểm Likert 5
điểm từ 1: hiếm khi đến 5: luôn luôn. Tổng số điểm của s-IAT dao động từ 12
đến 60 [97]. Chúng tôi đã sử dụng điểm cắt 36 để phân loại một người nghiện
Internet bệnh lý (Meerkerk, 2007; Zhang và cộng sự, 2017) [87] [128]. Bảng
câu hỏi này đã được dịch sang tiếng Việt dựa trên các hướng dẫn của WHO
dịch và điều chỉnh công cụ nghiên cứu (WHO). Cronbach's Alpha phiên bản
tiếng Việt của s-IAT là 0,87 (B. X. Tran et al., 2017). Chúng tôi cũng tiến
hành chạy Cronbach's Alpha trên thang đo này để đánh giá độ tin cậy. Kết
quả cho thấy Cronbach's Alpha = 0.80. Điều này cho thấy thang đo có độ tin
cậy phù hợp để sử dụng cho đề tài này.
2.3.2.3. Nghiên cứu bằng trắc nghiệm Dass - 21
Mục đích: Xác định thực trạng của học sinh liên quan đến trầm cảm, lo
âu, stress
Trắc nghiệm: Sử dụng trắc nghiệm của P. Lovibond để đánh giá thực
trạng mức độ về trầm cảm, lo âu, stress. Trắc nghiệm này được nhiều nhà
nghiên cứu ở cả châu Âu và châu Á sử dụng.
51
+ Thang đo đánh giá mức độ lo âu, trầm cảm, stress gồm 21 câu dạng
likert với 4 mức điểm từ không bao giờ đến luôn luôn. Thang đo này được
thích ứng từ thang đo DASS-21 hiện đang được sử dụng trong các bệnh viện
Tâm thần tại Việt Nam. Thang DASS nguyên gốc do P. Lovibond xây dựng
vào năm 1995 và đã được sử dụng tại Việt Nam trong hơn 10 năm qua để
đánh giá tiến triển điều trị của bộ ba Trầm cảm, Lo âu và Stress. Độ tin cậy
Cronbach‟s Alpha của các thang đo này đều cao hơn 0,80. Khi chạy kiểm
định Cronbach‟s Alpha của thang đo này trong nghiên cứu của chúng tôi cũng
tìm được kết quả tương tự 0.84. Điều này cho thấy thang đo có độ tin cậy phù
hợp để sử dụng cho đề tài này Theo đó, cách tính điểm được quy định như
sau:
(điểm câu 3 + điểm câu 5 + điểm câu 10 + điểm câu Điểm trầm cảm = 13 + điểm câu 16 + điểm câu 17 + điểm câu 21) x 2
(điểm câu 2 + điểm câu 4 + điểm câu 7 + điểm câu Điểm lo âu = 9 + điểm câu 15 + điểm câu 19 + điểm câu 20) x 2
Điểm rối loạn liên (điểm câu 1 + điểm câu 6 + điểm câu 8 + điểm câu = quan stress 11 + điểm câu 12 + điểm câu 14 + điểm câu 18) x 2
Phân mức độ các vấn đề sức khỏe tâm thần dựa vào điểm các vấn đề:
Mức độ Trầm cảm Lo âu Stress
Bình thường 0-9 0-7 0-14
Nhẹ 10-13 8-9 15-18
Trung bình 14-20 10-14 19-25
Nguy cơ 21-27 15-19 26-33
Nặng ≥ 28 ≥ 20 ≥34
2.4. Chiến lƣợc nhập liệu và xử lý số liệu
Số liệu thu thập được từ các phương pháp được xử lý bằng phần mềm
thống kê SPSS phiên bản 23.0 cho Windows. Các phép phân tích chính được
sử dụng trong nghiên cứu này là:
52
- Phân tích thực trạng: báo cáo số liệu tần suất, điểm trung bình, độ lệch
chuẩn, tỉ lệ % để mô tả bức tranh thực trạng việc sử dụng internet và các vấn
đề lo âu, trầm cảm, stress ở học sinh trung học hiện nay.
- Phân tích so sánh sự khác biệt: Được tiến hành để so sánh giữa các
nhóm phân chia theo các đặc điểm nhân khẩu học và các biến số như cấp học
(THCS hay THPT; lớp….). Các phép kiểm định cơ bản sẽ sử dụng là kiểm
định trung bình hai mẫu độc lập và phân tích phương sai ANOVA (một chiều
và hai chiều)
- Phân tích tương quan: Phân tích tương quan Pearson được tiến hành
để kiểm định mối quan hệ giữa các biến nhân khẩu học, mức độ sử dụng
internet và mức độ lo âu, trầm cảm, stress ở các nhóm khách thể nghiên cứu
- Phân tích hồi quy: Sử dụng phân tích hồi quy logistic để xác định
những yếu tố quan trọng có ý nghĩa ảnh hưởng đến mức độ sử dụng internet
và lo âu trầm cảm và stress ở khách thể nghiên cứu.
Tiểu kết chƣơng 2
Nghiên cứu của chúng tôi được thực hiện một cách nghiêm túc, chặt
chẽ và có tổ chức, bắt đầu từ việc tìm kiếm, tổng hợp các nghiên cứu lý luận
để xác lập cơ sở lý thuyết và xây dựng giả thuyết nghiên cứu đến việc khảo
sát thực tế về mối liên hệ giữa việc sử dụng Internet với các vấn đề trầm cảm,
lo âu, stress ở học sinh trung học hiện nay.
Đề tài nghiên cứu có sự kết hợp nhiều phương pháp khác nhau bao
gồm: phương pháp điều tra bằng bảng hỏi, phân tích tài liệu, thống kê toán
học hỗ trợ cho nhau trong nghiên cứu nhằm đưa ra con số thống kê chính xác,
có độ tin cậy đủ làm cơ sở cho những kết quả nghiên cứu có tính khách quan.
53
CHƢƠNG 3
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. Thực trạng sử dụng internet ở học sinh trung học
Như đã trình bày trong phần tổ chức và phương pháp nghiên cứu,
nghiên cứu của chúng tôi là nghiên cứu dự báo tìm hiểu mối liên quan giữa
mức độ sử dụng Internet và các vấn đề trầm cảm, lo âu, stress của học sinh
trung học hiện nay. Khách thể tham gia nghiên cứu là học sinh trung học cơ
sở thuộc khối 7, 8 và học sinh trung học phổ thông khối 10, 11 trên địa bàn
tỉnh Khánh Hòa và thành phố Đà Nẵng.
Bảng 3. 1: Tỷ lệ học sinh sử dụng Internet theo các cấp độ
Tỷ lệ phần trăm Số lượng
(Học sinh) (%)
Không bao giờ 3 0.5
Rất hiếm khi 22 3.9
Một vài lần/tháng 11 2.0
Một vài lần/tuần 154 27.4
Hàng ngày 372 66.2
Về tỷ lệ sử dụng internet của khách thể, kết quả thống kê dữ liệu cho
thấy hơn một nửa tổng số học sinh được hỏi truy cập hàng ngày (chiếm
66.2%), tiếp đến là vài tuần/ lần (chiếm 27.4%). Số lượng học sinh không truy
cập internet chỉ có 3 em (chiếm 0.5%). Thời lượng trung bình học sinh truy
cập internet mỗi ngày là 4.7 giờ/ ngày, độ lệch chuẩn là 4.15.
Bảng 3. 2: Một số đặc điểm sử dụng Internet của khách thể
Mức độ sử dụng Internet
Không Rất hiếm Một vài Một vài Hàng
bao giờ khi lần/tháng lần/tuần ngày
Giới Nữ 0.0% 3.8% 2.5% 22.3% 71.4%
54
1.2% 4.1% 1.2% 34.0% 59.4% tính Nam
0.0% 3.7% 2.6% 41.1% 52.6% Nhóm THCS
trường 1.0% 4.1% 1.4% 14.7% 78.8% THCS/ THPT
THPT
2.4% 28.1% 64.7% Khánh Hòa 0.7% 4.1% Khu
vực 1.5% 26.7% 67.8% Đà Nẵng 0.4% 3.7%
3.9% 47.2% 44.9% Lớp 7 0.0% 3.9%
1.4% 35.7% 59.4% Lớp 8 0.0% 3.5% Lớp 0.6% 15.9% 79.0% Lớp 10 0.6% 3.8%
2.2% 13.3% 78.5% Lớp 11 1.5% 4.4%
0.0% 0.0% 100.0% yếu 0.0% 0.0%
2.5% 25.0% 67.5% Trung bình 0.0% 5.0%
1.6% 27.6% 65.8% Học lực Khá 1.2% 3.7%
2.3% 29.4% 64.5% 0.0% Giỏi 3.7%
0.0% 20.0% 75.0% 0.0% Xuất sắc 5.0%
4.0% 22.8% 70.5% 0.0% Đại gia đình 2.7%
1.2% 29.2% 65.0% Bố và mẹ (hạt 0.0% 4.7%
nhân)
Ông bà nội 4.8% 0.0% 0.0% 14.3% 81.0%
ngoại Sống Người thân/ 12.5% 0.0% 0.0% 37.5% 50.0% cùng ai Anh chị cô dì
chú bác
Sống tại các 50.0% 0.0% 0.0% 0.0% 50.0%
trung tâm,
mái ấm
55
Riêng với mẹ 0.0% 6.1% 3.0% 33.3% 57.6%
Riêng với bố 0.0% 0.0% 0.0% 50.0% 50.0%
Hầu như 40.0% 0.0% 0.0% 0.0% 60.0%
không
Ít quan tâm 1.7% 3.3% 1.7% 20.0% 73.3% Sự quan
tâm của Nhiều sự 0.0% 5.2% 1.6% 25.1% 68.1%
gia đình quan tâm
Rất nhiều sự 0.0% 2.8% 2.4% 32.1% 62.6%
quan tâm
4.0% 16.0% 60.0% 4.0% 16.0% Nghèo Điều 1.0% 23.2% 71.4% 0.0% 4.4% Trung bình kiện 2.2% 34.8% 60.4% 0.4% 2.2% Khá kinh tế 15.4% 15.4% 61.5% 7.7% 0.0% Giàu
0.0% 28.4% 68.8% 0.0% 2.8% CC/VCNN
2.3% Buôn bán nhỏ 0.6% 1.7% 30.3% 65.1%
0.0% nghề 0.0% 0.0% 0.0% 100.0% Làm
biển Công
nông 0.0% 5.8% 1.2% 30.2% 62.8% Làm việc
nghiệp
Lao động tự 0.7% 4.1% 2.7% 23.8% 68.7%
do
Khác 0.0% 0.0% 0.0% 0.0% 100.0%
Từ bảng số liệu cho thấy, học sinh nữ sử dụng Internet nhiều học sinh
nam chiếm 71.4%; về cấp học: học sinh THPT sử dụng Internet nhiều học
sinh THCS với 78.8%; về địa bàn: khu vực sử dụng Intrernet có mức sử dụng
Internet gần như nhau; về khối lớp: các em học sinh khối 8 sử dụng Internet
nhiều hơn so với khối 7 với 59.4%, học sinh khối 10 và học sinh khối 11 có
56
mức độ sử dụng gần tương đương nhau; về học lực: học sinh có học lực yếu
sử dụng Internet nhiều hơn so với học sinh có học lực khác với tỷ lệ 100%,
tiếp theo đến học sinh có học lực xuất sắc với tỷ lệ 75%; về sự quan tâm của
gia đình: học sinh trong gia đình ít có sự quan tâm có mức sử dụng Internet
cao hơn so với học sinh thuộc các gia đình khác với tỷ lệ 73.3%; về điều kiện
kinh tế: học sinh sống trong gia đình có điều kiện kinh tế trung bình có mức
độ sử dụng Internet cao hơn các nhóm còn lại với tỷ lệ 71.4%; về công việc
của gia đình: những học sinh có gia đình làm các công việc liên quan đến đi
biển có mức độ sử dụng Internet cao hơn so với các nhóm còn lại.
Bảng 3. 3: Phương tiện sử dụng để truy cập Internet
Tỷ lệ phần trăm Số lựa chọn
(Học sinh) (%)
Máy tính dùng chung 80 14.2
Máy tính bảng 108 19.2
Máy tính cá nhân 144 25.8
Điện thoại 447 79.5
Kết quả từ bảng 3.3 cho thấy đa số các em học sinh sử dụng điện thoại
để truy cập Internet, chiếm tỷ lệ 79.5% ; tiếp theo là sử dụng máy tính cá nhân
để truy cập Internet, chiếm tỷ lệ 25.8%.
Bảng 3. 4: Mục đích sử dụng Internet
Số lựa chọn Tỷ lệ phần trăm
(Học sinh) (%)
Gửi tin nhắn 197 35.1
Gửi thư điện tử 102 18.1
Nói chuyện theo nhóm 303 53.9
Nói chuyện, chát với người khác 409 72.8
Học tập 454 80.8
57
Đăng ảnh 215 38.3
Đọc tin tức 279 49.6
Chơi game 354 63.0
Xem phim 431 76.7
Nghe nhạc 454 80.8
Tìm kiếm thông tin 398 70.8
Mua sắm 194 34.5
Kết quả từ bảng 3.4 cho thấy, mục đích chính của các em học sinh khi
sử dụng Internet là phục vụ cho hoạt động học tập, nghe nhạc với 454 học
sinh chiếm tỷ lệ 80.8% (ĐTB=0.81; ĐLC=0.394), tiếp theo là hoạt động xem
phim với 431 học sinh chiếm tỷ lệ 76.7% (ĐTB=0.77; ĐLC=0.423)và nói
chuyện, chát với người khác với 409 học sinh chiếm tỷ lệ 72.8% (ĐTB=0.73;
ĐLC=0.446)
Bảng 3. 5: Mức độ sử dụng Internet với đặc điểm nhân khẩu học
Mức độ sử dụng Internet
F p ĐLC ĐTB
Giới tính Nam 0.818 3.46 4.395 0.02 Nữ 0.718 3.61
Cấp học THCS 0.721 3.43 2.735 0.00 THPT 0.790 3.66
Khu vực Khánh Hoà 0.793 3.52 1.435 0.37 Đà Nẵng 0.736 3.58
Lớp 7 0.735 3.33
8 0.701 3.51 5.929 0.00 10 0.733 3.69
11 0.853 3.63
0.000 4.00 Học lực Yếu 0.553 0.69
58
Trung bình 3.55 0.778
Khá 3.53 0.890
Giỏi 3.55 0.722
Xuất sắc 3.65 0.745
Sống Đại gia đình 3.61 0.695
cùng ai Bố và mẹ (hạt nhân) 3.55 0.743
Ông bà nội ngoại 3.67 0.913
Người thân/ Anh chị 3.13 1.356
2.194 0.04 cô dì chú bác
Sống tại các trung 2.00 2.828
tâm, mái ấm
Riêng với mẹ 3.42 0.830
Riêng với bố 3.50 0.548
Sự quan Hầu như không 2.40 2.191
tâm Ít 3.60 0.827 3.924 0.00 Nhiều 3.56 0.769
Rất nhiều 3.54 0.685
Điều Nghèo 3.12 1.301
kiện kinh Trung bình 3.62 0.722 4.275 0.00 tế Khá 3.52 0.693
Giàu 3.23 1.235
Công Công chức/Viên chức 3.63 0.633
việc NN
Buôn bán nhỏ 3.57 0.698 0.887 0.48 Làm nghề biển 4.00 0.000
Làm nông nghiệp 3.50 0.793
Lao động tự do 3.56 0.795
59
Khác 4.00 0.000
Từ bảng số liệu kết quả cho thấy:
- Các đặc điểm về mặt giới tính, cấp học, lớp, hoàn cảnh sống, sự quan
tâm của gia đình, điều kiện kinh tế của gia đình cho thấy có sự khác biệt có ý
nghĩa về mặt thông kê, cụ thể: giữa nam và nữ (p=0.02<0.05); giữa học sinh
THCS và THPT (p=0.00<0.05); giữa học sinh các khối lớp (p=0.00<0.05); về
hoàn cảnh sống (p=0.04<0.05); sự quan tâm của gia đình (p=0.00<0.05); điều
kiện kinh tế (p=0.00<0.05) về mức độ sử dụng Internet (p<0.05).
- Các đặc điểm liên quan về khu vực sinh sống, học lực, công việc của
gia đình kết quả cho thấy không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê, cụ thể:
giữa khu vực Đà Nẵng và Khánh Hòa (p=0.37>0.05); giữa kết quả học tập
(p=0.69>0.05); và công việc của gia đình học sinh (p=0.49>0.05) về mức độ
sử dụng Internet (p>0.05).
Bảng 3. 6: Thời lượng sử dụng Internet theo các biến nhân khẩu học
Thời lượng sử dụng Internet
ĐTB ĐLC F p
Giới tính Nữ 4.760 3.9812 0.43 0.83 Nam 4.685 4.3718
Cấp học THCS 4.153 3.8799 9.230 0.00 THPT 5.235 4.3209
Khu vực Khánh Hoà 4.667 4.1658 0.118 0.73 Đà Nẵng 4.790 4.1434
Lớp 7 3.761 3.9941
8 4.504 3.7550 4.952 0.00 10 4.815 3.5814
11 5.729 5.0235
Học lực Yếu 9.250 9.5000 2.933 0.02
60
4.733 3.5691 Trung bình
5.150 4.5321 Khá
4.129 3.4906 Giỏi
5.056 5.6409 Xuất sắc
Sống Đại gia đình 5.427 5.2570
cùng ai Bố và mẹ (hạt nhân) 4.294 3.2769
Ông bà nội ngoại 4.975 5.1618
Người thân/ Anh chị 5.286 5.3140
cô dì chú bác 1.909 0.07
Sống tại các trung 0.000
tâm, mái ấm
Riêng với mẹ 5.688 5.2205
Riêng với bố 6.000 3.8079
Sự quan Hầu như không 4.800 4.0866
tâm Ít 5.203 4.0717 0.439 0.72 Nhiều 4.791 4.1802
Rất nhiều 4.537 4.1572
Điều Nghèo 3.935 4.9367
kiện kinh Trung bình 4.753 3.6825 3.103 0.02 tế Khá 4.579 4.2791
Giàu 8.000 7.9791
Công Công chức/Viên chức 5.019 5.0763
việc NN
Buôn bán nhỏ 4.691 3.5435 0.635 0.74 Làm nghề biển 3.833 2.4014
Làm nông nghiệp 4.694 4.2950
Lao động tự do 4.591 3.7954
61
Khác 8.500 4.9497
Từ bảng kết quả cho thấy:
- Các đặc điểm về mặt cấp học, lớp, học lực, điều kiện kinh tế của gia
đình cho thấy có sự khác biệt có ý nghĩa về mặt thông kê, cụ thể: giữa học
sinh THCS và THPT (p=0.00<0.05); giữa học sinh các khối lớp
(p=0.00<0.05); giữa kết quả học tập của học sinh (p=0.02<0.05); điều kiện
kinh tế (p=0.02<0.05) về thời lượng sử dụng Internet (p<0.05).
- Các đặc điểm liên quan về giới tính, khu vực sinh sống, hoàn cảnh
sống, sự quan tâm của gia đình, công việc của gia đình kết quả cho thấy
không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê, cụ thể: giữa nam và nữ
(p=0.83>0.05); khu vực Đà Nẵng và Khánh Hòa (p=0.73>0.05); giữa hoàn
cảnh sống của học sinh (p=0.07>0.05); giữa sự quan tâm của gia đình
(p=0.725>0.05); và công việc của gia đình học sinh (p=0.74>0.05) về thời
lượng sử dụng Internet (p>0.05).
3.2. Thực trạng nghiện Internet của học sinh trung học
Bảng 3. 7: Mức độ lệ thuộc Internet của học sinh qua thang s-IAT
Mức độ ĐTB ĐLC STT Câu hỏi (1) (2) (3) (4) (5)
1 Ban có thường xuyên cảm
thấy mình vào mạng 15.1 19.2 39.0 19.6 7.2 2.85 1.121 internet nhiều hơn dự kiến
không ?
2 Bạn có thường tự nhủ “chỉ
vào mạng thêm vài phút 12.9 19.7 33.9 24.1 9.3 2.97 1.153
nữa thôi” không ?
3 Bạn có thường xuyên quên 26.2 30.3 30.7 11.1 1.6 2.32 1.030 làm việc nhà vì dành thời
62
gian lên mạng không ?
4 Bạn có thường thất bại khi
tự cắt giảm thời gian vào 14.7 27.9 34.9 15.1 7.4 2.72 1.114 mạng internet của mình
không ?
5 Kết quả học tập ở trường có
bị giảm sút do thời gian bạn 31.8 33.4 25.9 7.2 1.8 2.14 1.104
dành cho internet không ?
6 Bạn có mất ngủ vì sử dụng
internet lúc đêm muộn 33.8 25.7 26.8 10.2 3.6 2.24 1.132
không ?
7 Bạn có thường chọn vào
mạng internet thay vì gặp 39.4 30.8 23.2 5.2 1.4 1.99 0.983
gỡ bạn bè không ?
8 Bạn có thường giấu việc
bạn đang online bằng phần 42.0 30.2 20.6 5.0 2.2 1.95 1.010 mềm hoặc các cách khác
không ?
9 Bạn có thường cáu kỉnh khi
người khác làm phiền lúc 31.3 30.2 27.9 7.6 3.1 2.21 1.062
bạn đang vào mạng không ?
10 Bạn có cảm thấy chán,
buồn, hay lo lắng khi không
vào mạng, và sẽ lại cảm 20.1 25.7 32.7 14.5 7.0 2.63 1.162
thấy thoải mái lúc vào mạng
lại không ?
11 Khi không sử dụng internet, 23.0 28.9 32.3 11.7 4.1 2.45 1.091
63
bạn có thường nghĩ đến
Internet và bận tâm về nó
không ?
12 Bạn có thường giữ bí mật
khi ai đó hỏi bạn làm gì trên 28.2 27.1 28.4 9.5 6.6 2.44 1.692
mạng không ?
Ghi chú: 1 = Rất hiếm khi, 2 = Hiếm khi, 3= Thỉnh thoảng,
4= Thường xuyên, 5 = Luôn luôn
Kết quả trong bảng 3.7 cho thấy một số hành vi nghiện Internet được
báo cáo nhiều hơn cả thông qua bản đánh giá nghiện s-IAT là " Thường tự nói
với mình rằng“ chỉ thêm một vài phút nữa thôi” khi bạn đang trực tuyến
(ĐTB=2.97; ĐLC=1.153), " thường xuyên cảm thấy mình vào mạng internet
nhiều hơn dự kiến" (ĐTB=2.85; ĐLC=1.121) và " thất bại khi tự cắt giảm
thời gian vào mạng internet của mình " (ĐTB=2.72; ĐLC=1.114), " Cảm
thấy chán, buồn, hay lo lắng khi không vào mạng, và sẽ lại cảm thấy thoải
mái lúc vào mạng " (ĐTB=2.63; ĐLC=1.162).
Bảng 3. 8: Tỷ lệ nghiện Internet qua thang s- IAT
Mức độ Tỷ lệ phần trăm Số lượng
(Học sinh) (%)
Không nghiện 474 85.4
Nghiện 81 14.6
Như vậy, trong số khách thể tham gia nghiên cứu, có 81 học sinh
(chiếm 14.6%) được đánh giá là nghiện Internet. So sánh với các nghiên cứu
khác cho thấy tỷ lệ được đánh giá nghiện Internet theo nghiên cứu này thấp
hơn một chút so với nghiên cứu trước đây tại Việt Nam (21,2%) (B. X. Tran
và cộng sự, 2017). Tỷ lệ nghiện Internet trong nghiên cứu hiện tại thấp hơn ở
Philippines (21,1%), Hồng Kông (16,4%) nhưng cao hơn các nước châu Á
khác bao gồm, Malaysia (14,1%), Hàn Quốc (9,7%), Trung Quốc (9,6%) và
64
Nhật Bản (6,2%) (Mak và cộng sự, 2014) [84]. Sự khác biệt có thể do các yếu
tố liên quan đến: độ tuổi, khu vực, điều kiện tiếp cận Internet hoặc cách sử
dụng công cụ nghiên cứu khác nhau. Tuy nhiên nghiên cứu này cũng có phần
nào đó tương đồng với kết quả nghiên cứu của Lê Minh Công cho thấy có tỷ
lệ khoảng 12,3% học sinh THCS nghiện Internet ở các cấp độ [6], của
Nguyễn Thị Phương (2013) cho thấy có khoảng 10% học sinh THCS sử dụng
Internet thường xuyên [13].
3.3. Mức độ nghiện Internet theo các yếu tố nhân khẩu học
Bảng 3. 9: Tỷ lệ nghiện Internet theo các biến nhân khẩu học
s-IAT N
p (chi-square (%) Không nghiện Nghiện
test) (%) (%)
Giới tính
Nam 238 31 207
(42.9%) (43.7%) (38.3%)
0.36 Nữ 317 50 267
(57.1%) (56.3%) (61.7%)
Khối
0.63 THCS 267 230 37
(48.1%) (45.8%) (45.7%)
THPT 288 44 244
(51.9%) (54.2%) (54.3%)
Khu vực
0.93 Khánh Hoà 290 42 248
(52.3%) (52.3%) (51.9%)
Đà Nẵng 265 39 226
(47.7%) (47.7%) (48.1%)
65
Lớp
7 127 10 117 0.02
(22.9%) (24.7%) (12.3%)
8 140 27 113
(25.2%) (23.8%) (33.3%)
10 155 28 127
(27.9%) (26.8%) (34.6%)
11 133 16 117
(24.7%) (19.8%) (24%)
Học lực
Yếu 5 2 3 0.02
(0.9%) (0.6%) (2.5%)
Trung bình 78 17 61
(14.2%) (12.9%) (20.9%)
Khá 237 35 202
(42.9%) (42.9%) (43.2%)
Giỏi 213 22 191
(38.6%) (40.7%) (27.2%)
Xuất sắc 19 5 14
(3.4%) (2.9%) (6.2%)
Sống cùng
Đại gia đình 146 22 124 0.23
(26.3%) (26.2%) (27.2%)
Bố và mẹ (hạt 340 47 293
nhân) (61.3%) (61.8%) (58.0%)
Ông bà nội ngoại 21 4 17
(3.8%) (3.6%) (4.9%)
66
Người thân/ Anh 7 0 7
chị cô dì chú bác (1.3%) (1.5%) (0.0%)
Sống tại các trung 2 0 2
tâm, mái ấm (0.4%) (0.4%) (0.0%)
Riêng với mẹ 33 5 28
(5.9%) (5.9%) (6.2%)
Riêng với bố 6 3 3
(1.1%) (0.6%) (3.7%)
Sự quan tâm của
gia đình
Hầu như không 5 0.00 2 3
(0.9%) (0.6%) (2.6%)
Ít 59 17 42
(10.7%) (8.9%) (20.9%)
Nhiều 248 34 214
(45.0%) (45.6%) (41.9%)
Rất nhiều 239 28 211
(43.4%) (44.9%) (34.6%)
Điều kiện kinh tế
0.96 25 4 21 Nghèo (4.5%) (4.4%) (4.9%)
295 41 254 Trung bình (53.2%) (53.6%) (50.6%)
223 34 189 Khá (40.2%) (39.9%) (42.0%)
12 2 10 Giàu (2.1%) (2.1%) (2.5%)
67
Công việc gia đình
0.32 91 107 16 CC/VCNN (20.6%) (20.6%) (20.5%)
144 173 29 Buôn bán nhỏ (33.3%) (32.7%) (37.2%)
5 6 1 Làm nghề biển (1.2%) (1.1%) (1.3%)
79 86 7 Làm nông nghiệp (15.6%) (17.9%) (9.0%)
145 121 24 Lao động tự do (27.9%) (27.4%) (30.8%)
2 1 1 Khác (0.4%) (0.2%) (1.3%)
Dựa vào bảng kết quả cho thấy:
- Giữa các biến giới tính, khối lớp, khu vực, điều kiện kinh tế, công
việc của gia đình, hoàn cảnh sống có sự tương đồng và không có sự khác biệt
về ý nghĩa thống kê p>0.05.
- Các em học sinh lớp 10 có số lượng em học sinh nghiện Internet cao
nhất với 28 học sinh (tỷ lệ 34.6%), tiếp đến là các em học sinh khối 8 với 27
học sinh (tỷ lệ 33.3%), trong khi học sinh lớp 7 có tỷ lệ nghiện Internet thấp
nhất với 10 học sinh (tỷ lệ 12.3%). Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê
p<0.05.
- Đối với các yếu tố về học lực, sự quan tâm của gia đình đều có giá trị
p<0.05. Tuy nhiên xét trên mẫu tổng thể thì không có ý nghĩa thống kê.
68
3.4. Thực trạng lo âu, trầm cảm và stress ở học sinh trƣờng trung học
Bảng 3. 10: Thực trạng lo âu, trầm cảm và stress ở học sinh
Mức độ ĐTB ĐLC Nội dung (0) (1) (2) (3)
Tôi thấy khó mà thoải mái 37.7 45.4 11.3 5.7 0.85 0.835 được
Tôi bị khô miệng 32.7 42.8 15.9 8.6 1.00 0.912
Tôi dường như chẳng có 47.9 34.5 12.9 4.8 0.75 0.858 chút cảm xúc tích cực nào
Tôi bị rối loạn nhịp thở
(thở gấp, khó thở dù chẳng 65.1 21.5 7.3 6.1 0.54 0.872
làm việc gì nặng)
Tôi thấy khó bắt tay vào 35.2 0.0 5.9 58.9 2.35 1.809 công việc
Tôi có xu hướng phản ứng 39.5 36.4 17.7 6.4 0.91 0.907 thái quá với mọi tình huống
Tôi bị ra mồ hôi (chẳng 40.2 27.3 12.1 20.4 1.13 1.151 hạn như mồ hôi tay...)
Tôi thấy mình đang suy 15.9 31.3 29.9 22.9 1.60 1.009 nghĩ quá nhiều
Tôi lo lắng về những tình
huống có thể làm tôi hoảng 25.1 0.0 18.1 56.4 2.36 1.534 sợ hoặc biến tôi thành trò
cười
Tôi thấy mình chẳng có gì 40.1 32.4 16.3 11.3 0.99 1.008 để mong đợi cả
Tôi thấy bản thân dễ bị 33.4 35.2 20.0 11.4 1.09 0.992
69
kích động
Tôi thấy khó thư giãn được 38.4 38.4 15.2 8.0 0.93 0.924
Tôi cảm thấy chán nản, thất 38.0 0.0 9.5 52.5 2.11 1.753 vọng
Tôi không chấp nhận được
việc có cái gì đó xen vào 19.5 39.9 22.7 17.9 1.39 0.994
cản trở việc tôi đang làm
Tôi thấy mình gần như 56.4 27.9 9.5 6.3 0.66 0.890 hoảng loạn
Tôi không thấy hăng hái 49.8 34.8 9.1 6.3 0.72 0.872 với bất kỳ việc gì nữa
Tôi cảm thấy mình chẳng 70.1 0.0 4.7 25.2 1.02 1.613 đáng làm người
Tôi thấy mình khá dễ phật 37.1 38.8 17.9 6.3 0.93 0.893 ý, tự ái
Tôi nghe thấy rõ tiếng nhịp
tim dù chẳng làm việc gì cả 53.4 0.0 6.4 40.2 1.63 1.810 (ví dụ, tiếng nhịp tim tăng,
tiếng tim loạn nhịp)
Tôi hay sợ vô cớ 43.5 36.1 13.4 7.0 0.84 0.907
Tôi thấy cuộc sống vô 63.4 22.1 9.1 5.4 0.56 0.866 nghĩa
Ghi chú: 0: Không đúng với tôi chút nào cả
1: Đúng với tôi phần nào, hoặc thỉnh thoảng mới đúng
2: Đúng với tôi phần nhiều, hoặc phần lớn thời gian là đúng
3: Hoàn toàn đúng với tôi, hoặc hầu hết thời gian là đúng
Kết quả trong bảng 3.10 cho thấy:
70
- Đối với các vấn đề Stress: Một số tình trạng được báo cáo nhiều hơn
cả là " Tôi thấy mình đang suy nghĩ quá nhiều” (ĐTB=1.60; ĐLC=1.009), và
" Không chấp nhận được việc có cái gì đó xen vào cản trở việc tôi đang làm "
(ĐTB=1.39; ĐLC=0.994).
- Đối với các vấn đề Lo âu: Một số tình trạng được báo cáo nhiều hơn
cả là " Lo lắng về những tình huống có thể làm tôi hoảng sợ hoặc biến tôi
thành trò cười” (ĐTB=2.36; ĐLC=1.534), và " Nghe thấy rõ tiếng nhịp tim
dù chẳng làm việc gì cả " (ĐTB=1.63; ĐLC=1.810).
- Đối với các vấn đề Trầm cảm: Một số tình trạng được báo cáo nhiều
hơn cả là " thấy khó bắt tay vào công việc” (ĐTB=2.36; ĐLC=1.534), và "
cảm thấy chán nản, thất vọng " (ĐTB=2.11; ĐLC=1.753).
Bảng 3. 11: Tỷ lệ stress ở học sinh
Mức độ Tỷ lệ phần trăm Số lượng
(Học sinh) (%)
288 51.7 Bình thường
102 18.3 Nhẹ
99 17.7 Trung bình
53 9.5 Nguy cơ
15 2.7 Nặng
Bảng số liệu cho thấy: tỷ lệ học sinh gặp vấn đề stress ở mức độ nặng
là 15 học sinh chiếm tỷ lệ 2.7%, có 53 học sinh chiếm tỷ lệ 9.5% có nguy cơ
và 99 học sinh chiếm tỷ lệ 17.7% bị stress ở mức độ trung bình do nghiện
Internet.
71
Bảng 3. 12: Tỷ lệ trầm cảm ở học sinh
Mức độ Tỷ lệ phần trăm Số lượng
(Học sinh) (%)
28.7 Bình thường 160
15.6 Nhẹ 87
28.2 Trung bình 157
14.5 Nguy cơ 81
12.9 Nặng 72
Bảng số liệu cho thấy: tỷ lệ học sinh gặp vấn đề trầm cảm ở mức độ
nặng là 72 học sinh chiếm tỷ lệ 12.9 %, có 81 học sinh chiếm tỷ lệ 14.5% có
nguy cơ và 157 học sinh chiếm tỷ lệ 28.2% bị stress ở mức độ trung bình do
nghiện Internet.
Bảng 3. 13: Tỷ lệ lo âu ở học sinh
Mức độ Tỷ lệ phần trăm Số lượng
(Học sinh) (%)
18.9 Bình thường 105
5.7 Nhẹ 32
24.4 Trung bình 136
17.6 Nguy cơ 98
33.4 Nặng 186
Bảng số liệu cho thấy: tỷ lệ học sinh gặp vấn đề lo âu ở mức độ nặng là
186 học sinh chiếm tỷ lệ 33.4 %, có 98 học sinh chiếm tỷ lệ 17.6% có nguy cơ
và 136 học sinh chiếm tỷ lệ 24.4% bị lo âu ở mức độ trung bình do nghiện
Internet.
72
3.5. Thực trạng trầm cảm, lo âu, stress theo các yếu tố nhân khẩu học
Bảng 3. 14: Thực trạng trầm cảm theo các biến nhân khẩu học
Trầm cảm p (chi- N
square 2 3 4 5 1
test)
Giới tính
Nữ 46 93 50 43 0.58 317 85
Nam 41 64 31 29 240 75
Khối
THCS 266 91 44 66 37 28 0.03
THPT 291 69 43 91 44 44
Khu vực
Khánh Hoà 291 99 42 85 32 33 0.01
Đà Nẵng 266 61 45 72 49 39
Lớp
7 127 53 16 24 21 13 0.03
8 139 38 28 42 16 15
10 156 37 25 46 25 23
73
11 135 32 18 45 19 21
Học lực
Yếu 5 2 1 1 1 0.01 0
Trung bình 78 20 11 22 16 9
Khá 240 61 36 66 49 28
Giỏi 214 65 36 67 23 23
Xuất sắc 20 12 3 1 0 4
Sự quan tâm của gia đình
Hầu như không 5 2 0 1 2 0.00 0
Ít 59 10 19 15 11 4
Nhiều 250 58 47 77 35 33
Rất nhiều 243 90 36 61 30 26
Điều kiện kinh tế
25 4 1 10 6 4 0.15 Nghèo
295 82 51 85 44 33 Trung bình
74
224 70 35 57 31 31 Khá
13 4 0 5 0 4 Giàu
Sống cùng
Đại gia đình 149 45 19 43 20 22 0.42
Bố và mẹ (hạt nhân) 339 98 56 99 48 38
Ông bà nội ngoại 21 4 4 3 6 4
Người thân/ Anh 8 2 3 2 0 1
chị cô dì chú bác
Sống tại các trung 2 0 0 0 0 2
tâm, mái ấm
Riêng với mẹ 33 5 9 9 6 4
Riêng với bố 5 1 1 1 1 1
Công việc gia đình
107 21 19 37 12 18 0.02 CC/VCNN
173 50 24 53 25 21 Buôn bán nhỏ
0 6 1 3 2 0 Làm nghề biển
7 Làm nông nghiệp 86 25 14 25 15
75
146 50 23 33 23 17 Lao động tự do
0 0 0 0 2 2 Khác
Ghi chú: 1: Bình thường; 2: Nhẹ; 3: Trung bình; 4: Nguy cơ; 5: Nặng
Dựa vào bảng số liệu cho thấy:
- Giữa các biến giới tính, điều kiện kinh tế gia đình, hoàn cảnh sống
cuae học sinh không có sự khác biệt về ý nghĩa thống kê p>0.05.
- Xét theo khối học, các em học sinh khối THPT có số lượng em học
sinh gặp các vấn đề về trầm cảm cao hơn với 44 em ( tỷ lệ 61.1%) so với
khối THCS với 28 em (tỷ lệ 38.9%), sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê
p=0.03<0.05.
- Xét theo khu vực, các em học sinh ở Đà Nẵng có số lượng em học
sinh gặp các vấn đề về trầm cảm cao hơn với 39 em ( tỷ lệ 54.2%) so với các
em ở Khánh Hoà với 33 em (tỷ lệ 45.8%), sự khác biệt này có ý nghĩa thống
kê p=0.01<0.05.
- Xét theo khối lớp, các em học sinh thuộc khối lớp 10 và 11 gặp các
vấn đề về trầm cảm cao hơn so với các em ở khối lớp 7 và 8. Sự khác biệt này
có ý nghĩa thống kê p=0.03<0.05.
- Đối với các yếu tố về học lực, công việc của gia đình, sự quan tâm
của gia đình đều có giá trị p<0.05. Tuy nhiên xét trên mẫu tổng thể thì không
có ý nghĩa thống kê.
76
Bảng 3. 15: Thực trạng lo âu theo các biến nhân khẩu học
N Lo âu p (chi-
square 3 4 5 1 2
test)
Giới tính
Nữ 316 52 80 56 112 0.40 16
Nam 241 53 56 42 74 16
Khối
THCS 266 60 16 71 42 77 0.06
THPT 291 45 16 65 56 109
Khu vực
Khánh Hoà 291 61 19 64 61 86 0.03
Đà Nẵng 266 44 13 72 37 100
Lớp
7 127 37 30 16 33 0.02 11
8 139 23 41 26 44 5
10 156 22 32 35 60 7
11 135 23 33 21 49 9
77
Học lực
Yếu 5 1 1 0 2 0.67 1
Trung bình 78 14 20 11 27 6
Khá 240 40 12 57 49 82
Giỏi 214 42 12 55 36 69
Xuất sắc 20 8 1 3 2 6
Sự quan tâm của gia đình
Hầu như không 5 2 0.40 1 0 2 0
Ít 59 11 10 8 26 5
Nhiều 250 39 15 62 52 82
Rất nhiều 243 53 12 63 38 76
Điều kiện kinh tế
25 2 0 5 7 11 0.06 Nghèo
296 53 18 75 55 95 Trung bình
Khá 223 48 14 52 35 74
78
13 2 0 4 1 6 Giàu
Hoàn cảnh sống
Đại gia đình 148 22 6 28 33 59 0.10
Bố và mẹ (hạt 339 66 22 95 58 98
nhân)
Ông bà nội 21 6 2 7 0 6
ngoại
Người thân/ 8 3 0 0 2 3
Anh chị cô dì
chú bác
Sống tại các 2 0 0 0 0 2
trung tâm, mái
ấm
Riêng với mẹ 33 8 1 5 4 15
Riêng với bố 6 0 1 1 1 3
Công việc gia đình
107 23 4 27 15 38 0.37 CC/ VCNN
173 28 13 39 34 59 Buôn bán nhỏ
6 2 2 0 1 1 Làm nghề biển
79
7 Làm nông 86 17 16 18 28
nghiệp
5 146 30 41 23 47 Lao động tự do
0 2 0 1 0 1 Khác
Ghi chú: 1: Bình thường; 2: Nhẹ; 3: Trung bình; 4: Nguy cơ; 5: Nặng
Dựa vào bảng số liệu cho thấy:
- Giữa các biến giới tính, khối lớp, học lực, công việc của gia đình,
hoàn cảnh sống, điều kiện kinh tế và sự quan tâm của gia đình không có sự
khác biệt về ý nghĩa thống kê p>0.05.
- Xét theo khu vực, các em học sinh ở Đà Nẵng có số lượng em học
sinh gặp các vấn đề về lo âu cao hơn với 100 em (tỷ lệ 53.8%) so với các em
ở Khánh Hoà với 86 em (tỷ lệ 46.2%), sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê
p=0.03<0.05.
- Xét theo khối lớp, các em học sinh thuộc khối lớp 10 và 11 gặp các
vấn đề về lo âu cao hơn so với các em ở khối lớp 7 và 8. Sự khác biệt này có
ý nghĩa thống kê p=0.02<0.05.
Bảng 3. 16: Thực trạng stress theo các biến nhân khẩu học
Stress p (chi- N
square 3 4 1 2 5
test)
Giới tính
Nữ 318 151 61 61 38 0.06 7
Nam 239 137 41 38 15 8
80
Khối
THCS 266 140 46 49 22 0.69 9
THPT 291 148 56 50 31 6
Khu vực
Khánh Hoà 290 152 56 48 25 0.77 9
Đà Nẵng 267 136 46 51 28 6
Lớp
127 74 23 8 0.35 7 2 20
8 139 66 26 26 14 7
10 156 71 31 31 18 5
11 135 77 25 19 13 1
Học lực
Yếu 5 2 0 2 0.76 1 0
7 3 Trung bình 78 42 15 11
3 Khá 240 129 42 46 20
8 Giỏi 214 103 43 36 24
81
Xuất sắc 20 12 2 4 1 1
Sự quan tâm của gia đình
Hầu như 5 3 1 1 0.72 0 0
không
Ít 59 24 10 15 8 2
Nhiều 250 127 50 39 25 9
Rất nhiều 243 134 41 44 19 4
Điều kiện kinh tế
24 11 3 5 5 0.40 0 Nghèo
297 155 52 57 27 6 Trung bình
223 119 43 34 19 8 Khá
13 3 4 3 2 1 Giàu
Sống cùng
Đại gia đình 148 74 30 25 17 2 0.00
Bố và mẹ (hạt 339 189 57 55 28 10
nhân)
Ông bà nội 21 12 4 1 3 1
82
ngoại
Người thân/ 8 3 3 0 0 2
Anh chị cô dì
chú bác
Sống tại các 2 1 0 0 1 0
trung tâm, mái
ấm
Riêng với mẹ 33 8 11 4 1 9
Riêng với bố 6 1 4 1 0 0
Công việc
108 50 21 22 8 0.02 7 CC/VCNN
174 91 31 31 17 4 Buôn bán nhỏ
6 5 0 1 0 0 Làm nghề biển
Làm nông 86 44 15 19 8 0
nghiệp
145 80 27 24 11 3 Lao động tự do
2 0 0 0 2 0 Khác
Ghi chú: 1: Bình thường; 2: Nhẹ; 3: Trung bình; 4: Nguy cơ; 5: Nặng
83
Dựa vào bảng số liệu cho thấy:
- Giữa các biến giới tính, khối lớp, khu vực, lớp, học lực, sự quan tâm,
điều kiện kinh tế của gia đình không có sự khác biệt về ý nghĩa thống kê
p>0.05.
- Đối với các yếu tố về hoàn cảnh sống của học sinh và công việc của
gia đình đều có giá trị p<0.05. Tuy nhiên xét trên mẫu tổng thể thì không có ý
nghĩa thống kê.
3.6. Mối liên hệ giữa việc sử dụng Internet với các biến số
Bảng 3. 17: Mối liên hệ giữa việc sử dụng Internet với trầm cảm, lo âu, stress
ở học sinh
s-IAT Stress Trầm cảm Lo âu
s-IAT
Stress
Trầm cảm
1 .368** .284** .229** 1 .551** .575** 1 .554** 1 Lo âu
Ghi chú: ** Tương quan có ý nghĩa ở mức 0.01
Theo bảng 3.17 thì cả 3 yếu tố đều có tương quan thuận với nghiện
Internet. Trong đó: Stress có hệ số tương quan ở mức độ trung bình , trong khi
trầm cảm và lo âu đạt ở mức thấp. Tức là, một số học sinh càng bị stress
nhiều thì khả năng các em bị nghiện Internet càng cao và ngược lại
Trầm cảm và lo âu chỉ tương quan ở mức độ thấp. Tức là, một số ít học
sinh bị trầm cảm, lo âu nhiều thì khả năng các em bị nghiện Internet càng lớn
và ngược lại.
So sánh với các nghiên cứu khác cho thấy giữa việc sử dụng Internet và
trầm cảm, lo âu, stress có mối tương quan với nhau. Kết quả nghiên cứu này
phù hợp với các nghiên cứu trước đó của Yadav P và cộng sự (2013); Ostovar
và cộng sự (2016) khi đã chỉ ra rằng: có một mối quan hệ đáng kể giữa lo
lắng, trầm cảm và căng thẳng với Nghiện Internet [94][122].
84
3.7. Các yếu tố dự báo nghiện Internet
Chúng tôi phân tích hồi quy tuyến tính đa biến để xác định các biến
nhân khẩu học (giới tính, lớp, khu vực sống, học lực, sự quan tâm của gia
đình, điều kiện kinh tế gia đình, công việc của gia đình, mức độ sử dụng, thời
gian truy cập Internet) và biến về sức khỏe tâm thần bao gồm: trầm cảm, lo âu
và stress với biến mức độ nghiện Internet. Ðối với mức độ sử dụng Internet: hệ số R=0.549 và tất cả các yếu tố chỉ giải thích được 28.1% (R2 = 0.281) sự
thay đổi của tần suất học sinh có biểu hiện sử dụng Internet ở mức nghiện. Sự
quan tâm của gia đình, mức độ truy cập, thời gian truy cập, trầm cảm, lo âu là
những yếu tố độc lập có ý nghĩa dự đoán tần suất học sinh nghiện Internet.
Bảng 3. 18: Các yếu tố dự đoán cho nghiện Internet
Nghiện Internet
0.549
Hệ số R Hệ số R2 0.281
Hệ số R điều chỉnh 0.302
Sự quan tâm của gia đình 0.002
Mức độ truy cập Internet 0.000
p Thời gian truy cập 0.001
Trầm cảm 0.003
Stress 0.000
Kết quả này phù hợp với kết quả của các nghiên cứu trước đây như :
Jang K.S và cộng sự (2008) cho thấy rằng thời gian sử dụng Internet lâu hơn
có liên quan đáng kể với nghiện Internet [60].
85
3.8. Các yếu tổ dự báo vấn đề trầm cảm, lo âu, stress ở học sinh
Bảng 3. 19: Các yếu tố dự báo cho vấn đề trầm cảm, lo âu, stress
ở học sinh trung học
Trầm cảm Lo âu Stress
0.197 0.222 0.288
Hệ số R Hệ số R2 0.17 0.028 0.062
Hệ số R điều chỉnh 0.39 0.049 0.083
Lớp 0.035
Thời gian truy cập 0.003
Sự quan tâm của gia đình 0.001
p Giới tính 0.026
Trường 0.017
Khu vực 0.004
Học lực 0.003
Chúng tôi phân tích hồi quy tuyến tính đa biến để xác định trong các
biến nhân khẩu (lớp, giới tính, trường, học lực, thời lượng truy cập…) các
biến nào là yếu tố dự đoán cho các vấn đề trầm cảm, lo âu, stress ở học sinh.
Dựa theo bảng kết quả phân tích, chúng tôi nhận thấy :
- Giới tính, trường, khu vực, học lực là yếu tố độc lập có ý nghĩa dự
đoán cho mức độ biểu hiện của trầm cảm
- Lớp là yếu tố dự đoán có ý nghĩa cho mức độ biểu hiện của lo âu.
- Thời gian truy cập là yếu tố dự đoán có ý nghĩa cho mức độ biểu hiện
của stress.
3.9. Bàn luận về kết quả nghiên cứu
Trước hết kết quả nghiên cứu cho thấy việc sử dụng Internet đang diễn
ra một cách phổ biến ở học sinh THCS và THPT, việc sử dụng Internet cũng
86
gây ảnh hưởng đến các vấn đề về sức khỏe tâm thần bao gồm: trầm cảm, lo
âu, stress, cụ thể:
- Có một tỷ lệ nhất định học sinh trung học tham gia nghiên cứu có dấu
hiệu nghiện Internet với tỷ lệ 14.6%. Đối chiếu với các kết quả nghiên cứu
trước đây cho thấy có sự tương đồng với nhiều nghiên cứu trên thế giới và tại
Việt Nam [74][103][33][6][13].
- Việc sử dụng interent của học sinh, nghiên cứu cho thấy học sinh
dành khoảng 4,7 giờ/ngày để truy cập Internet. Điều này cho thấy học sinh
dành thời gian để truy cập Internet khá nhiều.
- Khi so sánh tương quan cho thấy, việc sử dụng Internet có gây ảnh
hưởng đến các vấn đề về trầm cảm, lo âu, stress và ngược lại.
- Bên cạnh đó giới tính, trường, khu vực, học lực, lớp, thời gian truy
cập là yếu tố độc lập có ý nghĩa dự đoán cho mức độ biểu hiện của trầm cảm,
lo âu, stress của học sinh khi nghiện Internet.
Hạn chế của nghiên cứu: (1) chỉ mới sử dụng bảng hỏi tự thuật, (2)
thiết kế nghiên cứu cắt ngang nên chưa cho thấy mối quan hệ mang tính nhân
quả giữa các biến, (3) mẫu nghiên cứu tập trung ở khu vực trung tâm của các
tỉnh, thành phố. Do đó, các nghiên cứu trong tương lai có thể thực hiện là
nghiên cứu trường diễn để xem xét mối quan hệ nhân quả giữa việc sử dụng
Internet và các yếu tố liên quan, bổ sung thêm dữ liệu từ cha mẹ, giáo viên,
v.v, thu thập dữ liệu trên cả học sinh ở khu vực nông thôn.
87
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
Như vậy, dựa trên các kết quả nghiên cứu thu được, có thể rút ra kết
luận chính sau:
- Kết quả về mặt nghiên cứu lý luận:
Dựa trên tổng quan các nghiên cứu cho thấy, có rất nhiều nghiên cứu
tập trung tìm hiểu về thực trạng sử dụng Internet cũng như nghiện Internet ở
học sinh trung học, hệ thống hoá các khái niệm về mức độ sử dụng Internet,
tiêu chuẩn đánh giá mức độ sử dụng Internet, ảnh hưởng của việc sử dụng
Internet với các vấn đề về sức khoẻ tâm thần như: rối loạn về giấc ngủ, rối
loạn tăng động giảm chú ý, lòng tự trọng, rối loạn lượng cực, hành vi tự sát,
ám ảnh xã hội…. Đặc biệt là các nghiên cứu liên quan giữa việc sử dụng
Internet với các vấn đề về trầm cảm, lo âu, stress ở học sinh trung học hiện
nay. Tại Việt Nam, đã có những nghiên cứu về nghiện Internet với các vấn đề
về sức khoẻ tâm thần nói chung trên các nhóm riêng biệt như: học sinh
THCS, sinh viên, hay hiệu quả của việc ứng dụng trị liệu trong việc hỗ trợ
người nghiện Internet. Chưa có bất kỳ nghiên cứu nào đánh giá cụ thể các vấn
đề về trầm cảm, lo âu, stress trên nhóm đối tượng là học sinh trung học nói
chung.
- Kết quả nghiên cứu thực tiễn
Thứ nhất, chúng tôi xác định được việc sử dụng Internet đang diễn ra ở
học sinh THCS và THPT khá phổ biến, với 14.6% tổng số khách thể báo cáo
có dấu hiệu nghiện Internet.
Thứ hai, về mối quan hệ giữa sử dụng Internet với các vấn đề về trầm
cảm, lo âu, stress cho thấy việc sử dụng internet có tương quan thuận ở mức
độ thấp đến trung bình
Từ kết quả nghiên cứu này, chúng tôi đưa ra một số khuyến nghị như
sau:
88
Với những kết quả nghiên cứu nêu trên, các nghiên cứu trong tương lai
cần thực hiện thêm nghiên cứu đánh giá thêm về mối liên quan giữa việc sử
dụng Internet với các vấn đề liên quan khác, bổ sung thêm các dữ liệu cung
cấp từ gia đình, cha mẹ, thầy cô giáo…., mở rộng khu vực nghiên cứu để
đánh giá.
Đối với thang đo đánh giá việc sử dụng Internet, tại Việt Nam tác giả
Trần Xuân Bách đã thích nghi bảng rút gọn (s-IAT) từ phiên bản ban đầu của
Young. Các nghiên cứu khác có thể áp dụng phiên bản đánh giá s-IAT để
thực hiện đánh giá về mức độ sử dụng Internet.
Trước thực trạng vấn đề như vậy, việc sử dụng Internet ảnh hưởng đến
các vấn đề sức khỏe tâm thần, thể chất được khẳng định qua nhiều nghiên cứu
ở trong và ngoài nước. Vì vậy, cần đẩy mạnh và tiếp tục triển khai các chương
trình can thiệp và phòng ngừa, bao gồm: chương trình dành cho nhà trường,
gia đình và bản thân học sinh
89
TÀI LIỆU THAM KHẢO
TIẾNG VIỆT
1. Đào Lê Hòa An (2013). Nghiên cứu về hành vi sử dụng Facebook của
con người – Một thách thức mới cho Tâm lí học hiện đại. Tạp chí khoa học
Đại học sư phạm Hồ Chí Minh, số 49 – 2013, tr. 15-21
2. Trịnh Hòa Bình và cộng sự (2010). Khảo sát xã hội về dịch vụ trò chơi
trực tuyến ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế. Viện xã hội học.
3. Lê Minh Công (2009), Nghiện Internet ở thanh thiếu niên, báo cáo qua
ba trường hợp lâm sàng. Kỷ yếu hội thảo quốc tế “Nhu cầu, định hướng và
đào tạo tâm lý học đường Việt Nam. Viện Tâm lý học Việt Nam.
4. Lê Minh Công (2010), Mối quan hệ giữa trầm cảm và nghiện Internet
thông qua hai trường hợp lâm sàng. Kỷ yếu Hội thảo khoa học “ Nghiên cứu,
giảng dạy và ứng dụng Tâm lý học, Giáo dục học vào thực tiễn trong thời kỳ
hội nhập. NXB Đại học Sư phạm Hà Nội
5. Lê Minh Công (2010), Phối hợp điều trị tâm lý cho một trường hợp
nghiện game online, Tạp chí Tâm lý học Vol 2, Viện Tâm lý học
6. Lê Minh Công; Thực trạng nghiện internet ở học sinh THCS tại Tp
Biên Hoà, Đồng Nai. Luận văn thạc sĩ, 2011
Vũ Dũng (chủ biên) (2000), Từ điển tâm lý học, NXB KHXH, Hà Nội 7.
Nguyễn Thị Bích Hà, Hoàng Thị Xuân Dung, Trịnh Thị Quỳnh (2006), 8.
Tác động của game online tới thanh thiếu niên, Đề tài cấp ĐH Quốc Gia Hà
Nội
9. Trần Thị Mỹ Hạnh và Lê Cự Linh (2009), Mối liên quan của việc xem
phim ảnh và trang web khiêu dâm tới quan niệm và hành vi tình dục của
thanh thiếu niên chưa kết hôn ở quận Gia Lâm, Hà Nội. Tạp chí Y tế công
cộng. 13, tr.38-45
10. Nguyễn Thị Bích Hạnh, Trần Văn Công, (2017), “Thực trạng bắt nạt
trực tuyến ở học sinh trung học phổ thông trên địa bàn thành phố Đà Nẵng”,
Kỷ yếu Hội thảo quốc tế Tâm lý học Khu vực Đông Nam Á lần thứ nhất
“Hạnh phúc con người và phát triển bền vững”, RCP 2017, Quyển 2, tr. 355-
363.
11. Hồ Thị Luyến (2007). Ảnh hưởng của trò chơi trực tuyến đối với học
sinh PTTH ở Tp. Hồ Chí Minh. Viện Nghiên cứu phát triển Tp. HCM.
12. Trần Viết Nghị và cộng sự (2002), Cơ sở của lâm sàng tâm thần học,
(dịch theo Sidney Bloch & Bruce S. Singh, Foundations of clinical psychiatry,
Second Edition, Melbourne University Press, 2000), NXB Y học
13. Nguyễn Thị Phương (2013), Tương quan giữa mức độ sử dụng Internet
và các vấn đề về sức khỏe tâm thần ở học sinh THCS. Luận văn Thạc sĩ tâm
lý học, ĐH Giáo dục – Đại học quốc gia Hà Nội
14. Nguyễn Sinh Phúc, Giáo trình đại cương chăm sóc SKTT, NXB Lao
động – xã hội – 2014
15. Cao Ngọc Thành, Võ Văn Thắng (2013), “Sức khỏe vị thành niên, vấn
đề và giải pháp”, Giáo trình quản lý sức khỏe sinh sản, tr. 102-132.
16. Nguyễn Thị Phương Thảo (2008), Tác động của game online đối với
việc học tập và nâng cao kiến thức của học sinh đô thị hiện nay (Nghiên cứu
trường hợp tại Ninh Bình), Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Xã hội học, ĐH
Khoa học xã hội và nhân văn Hà Nội
17. Hà Thị Thư (2009), Giáo trình Tâm lý học phát triển. NXB Lao động –
Xã hội
18. Đinh Thị Kim Thoa, Nguyễn Thị Mỹ Lộc, Trần Văn Tính, Tâm lý học
phát triển, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội
19. Nguyễn Việt (1997), Stress từ bệnh học tâm thần đến cách tiếp cận
trong điều trị, Nguyễn Việt dịch và biên soạn theo M.Ferreri, H.
TÀI LIỆU TIẾNG ANH
20. Ahn DH (2007). Korean policy on treatment and rehabilitation for
adolescents‟ Internet addiction. International Symposium on the Counseling
and Treatment of Youth Internet Addiction. Seoul, Korea: National Youth
Commission. pp. 4
21. Ak, Ş., Koruklu, N., & Yılmaz, Y. (2013). A Study on Turkish
Adolescent‟s Internet Use: Possible Predictors of Internet Addiction.
Cyberpsychology, Behavior, and Social Networking, 16(3), 205–209.
22. American Psychiatric Association. Diagnostic and Statistical Manual
of Mental Disorders, 5th Ed.,DSM-5, 2013, pp 156-170.
23. Aysegul Yolga Tahiroglu. et al (2008). Internet Use Among Turkish
Adolescents. CyberPsychology & Behavior, 11(5), 537–543.
24. Bakken IJ, Wenzel HG, Gotestam KG, Johansson A, Oren A. Internet
addiction among Norwegian adults: a stratified probability sample study.
Scand J Psychol 2009;50(2):121–7
25. Balhara YP, Mahapatra A, Sharma P, Bhargava R. Problematic
internet use among students in South-East Asia: Current state of evidence.
Indian J Public Health 2018;62:197-210
26. Beard, K. W., & Wolf, E. M. (2001). Modification in the Proposed
Diagnostic Criteria for Internet Addiction. CyberPsychology & Behavior,
4(3), 377–383. doi:10.1089/109493101300210286
27. Bener A & Bhugra D: Lifestyle and depressive risk factors associated
with problematic internet use in adolescents in an Arabian Gulf culture. J
Addict Med 2013; 7:236–242
28. Block, J. J. (2008). Issues for DSM-V: Internet Addiction. American
Journal of Psychiatry, 165(3), 306–307. doi:10.1176/appi.ajp.2007.07101556
29. Bremer J. The internet and children: advantages and disadvantages.
Child Adolesc Psychiatr Clin N Am. 2005;14(3):405–28, viii. pmid:15936666
30. Bruno, A., Scimeca, G., Cava, L., Pandolfo, G., Zoccali, R. A., &
Muscatello, M. R. A. (2014). Prevalence of Internet Addiction in a Sample of
Southern Italian High School Students. International Journal of Mental Health
and Addiction, 12(6), 708–715.
31. Canan F, Yildirim O, Ustunel TY, et al. The relationshipbetween
Internet addiction and body mass index in Turkish adolescents.
Cyberpsychology, Behavior, & Social Networking 2014; 17:40–5.
32. Cao, F., & Su, L. (2007). Internet addiction among Chinese
adolescents: prevalence and psychological features. Child Care, Health and
Development, 33(3), 275–281.
33. Cao, H., Sun, Y., Wan, Y., Hao, J., & Tao, F. (2011). Problematic
Internet use in Chinese adolescents and its relation to psychosomatic
symptoms and life satisfaction. BMC Public Health, 11(1). doi:10.1186/1471-
2458-11-802
34. Carbonell X, Chamarro A, Griffiths M, Oberst U, Cladellas R, Talarn
A. Problematic Internet and cell phone use in Spanish teenagers and young
students. Anales De Psicologia 2012; 28: 789- 96
35. Carli, V., Durkee, T., Wasserman, D., Hadlaczky, G., Despalins, R.,
Kramarz, E., … Kaess, M. (2013). The Association between Pathological
Internet Use and Comorbid Psychopathology: A Systematic Review.
Psychopathology, 46(1), 1–13.
36. Cheng, C., & Li, A. Y. (2014). Internet Addiction Prevalence and
Quality of (Real) Life: A Meta-Analysis of 31 Nations Across Seven World
Regions. Cyberpsychology, Behavior, and Social Networking, 17(12)
37. Cheung, L. M., & Wong, W. S. (2010). The effects of insomnia and
internet addiction on depression in Hong Kong Chinese adolescents: an
exploratory cross-sectional analysis. Journal of Sleep Research, 20(2), 311–
317. doi:10.1111/j.1365-2869.2010.00883.x
38. Choi, K., Son, H., Park, M., Han, J., Kim, K., Lee, B., & Gwak, H.
(2009). Internet overuse and excessive daytime sleepiness in adolescents.
Psychiatry and Clinical Neurosciences, 63(4), 455–462.
39. Chou, C. (2001). Internet heavy use and addiction among Taiwanese
college students: An online interview study. Cyberpsychology and Behavior,
4(5), 573-585.
40. Christakis DA, Moreno MA. Trapped in the net: will internet
addiction become a 21st-century epidemic? Arch Pediatr Adolesc Med.
2009;163(10):959–60. pmid:19805719
41. Cui, L. J., Zhao, X., Wu, Z. M., & Xu, A. H. (2006). A research on
the effects of Internet addiction on adolescents‟ social development.
Psychological Science, 1, 34–36.
42. Davis, R. A. (2001). A cognitive-behavioral model of pathological
Internet use. Computers in Human Behavior, 17(2), 187–195.
43. di Gennaro, C., & Dutton, W. H. (2007). Reconfiguring friendships:
Social relationships and the Internet Information Communication & Society,
10(5), 519-618.
44. Digital in 2017: A study of Internet, Social Media, and Mobile use
throughout the region of Southeast Asia. We Are Social
45. Eijnden R Van den & Meerkerk G: Online
communication,compulsive Internet use, and psychosocial well-being among
adolescents: a longitudinal study. Developmental 2008;
46. Fisher, S. (1994). Identifying video game addiction in children and
adolescents. Addictive Behaviors, 19(5), 545–553. doi:10.1016/0306-
4603(94)90010-8
47. Fisoun, V., Floros, G., Geroukalis, D., Ioannidi, N., Farkonas, N.,
Sergentani, E., … Siomos, K. (2011). Internet addiction in the island of
Hippocrates: the associations between internet abuse and adolescent off-line
behaviours. Child and Adolescent Mental Health, 17(1), 37–44.
48. Fisoun V, Floros G, Siomos K, Geroukalis D, Navridis K. Internet
addiction as an important predictor in early detection of adolescent drug use
experience: Implications for research and practice. J
Addict Med 2012; 6: 77-84
49. Fu, K.-W., Chan, W. S. C., Wong, P. W. C., & Yip, P. S. F.
(2010). Internet addiction: prevalence, discriminant validity and correlates
among adolescents in Hong Kong. British Journal of Psychiatry, 196(06),
486–492.
50. Goel D, Subramanyam A, Kamath R. (2013). A study on the
prevalence of internet addiction and its association with psychopathology in
Indian adolescents, Indian Journal of Psychiatry, 55(2). 140-145.
51. Goldberg I. (1995). IAD, in Cinti M. E.(a cura di) Internet Addiction
Disorder un fenomeno sociale in espansione(pp.6-7).
Available:http://www.iucf.indiana.edu/brown/hyplan/addict.html.
52. Gómez, P., Rial, A., Braña, T., Golpe, S., & Varela, J. (2017).
Screening of Problematic Internet Use Among Spanish Adolescents:
Prevalence and Related Variables. Cyberpsychology, Behavior, and Social
Networking, 20(4), 259–267.
53. Gong, J., Chen, X., Zeng, J., Li, F., Zhou, D., & Wang, Z. (2009).
Adolescent addictive internet use and drug abuse in Wuhan, China. Addiction
Research & Theory, 17(3), 291–305.
54. Greenfield, D. N. (1999). Psychological characteristics of compulsive
internet use: A preliminary analysis. Cyberpsychology and Behavior, 8(2),
403-412.
55. Griffiths, M. D. (1996a). Internet addiction: An issue for clinical
psychology? Clinical Psychology Forum, 97, 32–36.
56. Guo, J., Chen, L., Wang, X., Liu, Y., Chui, C. H. K., He, H., … Tian,
D. (2012). The Relationship Between Internet Addiction and Depression
Among Migrant Children and Left-Behind Children in China.
Cyberpsychology, Behavior, and Social Networking, 15(11), 585–590.
57. Ha JH., Kim SY., Bae SC., Bae S., Kim H., Sim M., Lyoo IK., Cho
SC. (2013). Depression and internet addiction in adoloscents, Journal of
Psychopathology, 40(6). 424-430.
58. Hamaideh, S. H. (2009), Stressors and reactions to stressors among
university students, International Journal of Social Psychiatry.
59. Internet World Stats. Internet users of the world: Distribution by
world regions 2017 .June 30, 2017. Available from: www.internetworldstats
60. Jang, K. S., Hwang, S. Y., & Choi, J. Y. (2008). Internet Addiction and
Psychiatric Symptoms Among Korean Adolescents. Journal of School Health,
78(3), 165–171. doi:10.1111/j.1746-1561.2007.00279.x
61. Johansson A, Gotestam KG. Internet addiction: characteristics of a
questionnaire and prevalence in Norwegian youth (12–18 years).
Scandinavian Journal of Psychology 2004; 45:223–239
62. Kaess, M., Durkee, T., Brunner, R., Carli, V., Parzer, P., Wasserman,
C., … Wasserman, D. (2014). Pathological Internet use among European
adolescents: psychopathology and self-destructive behaviours. European
Child & Adolescent Psychiatry, 23(11), 1093–1102
63. Kaltiala-Heino, R., Lintonen, T., & Rimpelä, A. (2004). Internet
addiction? Potentially problematic use of the Internet in a population of 12–18
year-old adolescents. Addiction Research & Theory, 12(1), 89–96.
64. Kawabe, K., Horiuchi, F., Ochi, M., Oka, Y., & Ueno, S. (2016).
Internet addiction: Prevalence and relation with mental states in adolescents.
Psychiatry and Clinical Neurosciences, 70(9), 405–412
65. Kim, K., Ryu, E., Chon, M.-Y., Yeun, E.-J., Choi, S.-Y., Seo, J.-S., &
Nam, B.-W. (2006). Internet addiction in Korean adolescents and its relation
to depression and suicidal ideation: A questionnaire survey. International
Journal of Nursing Studies, 43(2), 185–192
66. Ko, C.-H., Yen, J.-Y., Chen, C.-C., Chen, S.-H., & Yen, C.-F.
(2005). Proposed Diagnostic Criteria of Internet Addiction for Adolescents.
The Journal of Nervous and Mental Disease, 193(11), 728–733.
67. Ko, C.-H., Yen, J.-Y., Chen, S.-H., Yang, M.-J., Lin, H.-C., & Yen, C.-
F. (2009). Proposed diagnostic criteria and the screening and diagnosing tool
of Internet addiction in college students. Comprehensive Psychiatry, 50(4),
378–384.
68. Ko, C., Yen, J.-Y., Yen, C., Chen, C., Weng, C., & Chen, C. (2008).
The Association between Internet Addiction and Problematic Alcohol Use in
Adolescents: The Problem Behavior Model. CyberPsychology & Behavior,
11(5), 571–576.
69. Ko CH, Yen JY, Chen CS, Yeh YC, Yen CF. Predictive values of
psychiatric symptoms for Internet addiction in adolescents: A 2- year
prospective study. Arch Pediat Adolescent Med 2009; 163: 937-43
70. Ko CH, Yen JY, Liu SC, Huang CF, Yen CF. The associations
between aggressive behaviors and Internet addiction and online activities in
adolescents. J Adolescent Health 2009; 44: 598-605.
71. Konstantinos E. Siomos, M.D., et al (2008). Internet Addiction
among Greek Adolescent Students. CyberPsychology & Behavior, 11(6),
653–657.
72. Kuss, D. J., van Rooij, A. J., Shorter, G. W., Griffiths, M. D., & van
de Mheen, D. (2013). Internet addiction in adolescents: Prevalence and risk
factors. Computers in Human Behavior, 29(5), 1987–1996
73. Koyuncu, T., Unsal, A., & Arslantas, D. (2014). Assessment of Internet
addiction and loneliness in secondary and high school students. JPMA. The
Journal of the Pakistan Medical Association, 64(9), 998e1002.
74. Laconi, S., Kaliszewska-Czeremska, K., Gnisci, A., Sergi, I., Barke,
A., Jeromin, F., … Kuss, D. J. (2018). Cross-cultural study of Problematic
Internet Use in nine European countries. Computers in Human Behavior, 84,
430–440.
75. Lai, C. M., Mak, K. K., Watanabe, H., Jeong, J., Kim, D., Bahar, N.,
… Cheng, C. (2015). The mediating role of Internet addiction in depression,
social anxiety, and psychosocial well-being among adolescents in six Asian
countries: a structural equation modelling approach. Public Health, 129(9),
1224–1236.
76. Lam, L. T., Peng, Z., Mai, J., & Jing, J. (2009). Factors Associated
with Internet Addiction among Adolescents. CyberPsychology & Behavior,
12(5), 551–555.
77. Law Pui Man Sally (2006). Prediction of Internet Addiction for
Undergraduates in Hong Kong. Baptist University Hong Kong. HongKong
78. Li, J.-B., Lau, J. T. F., Mo, P. K. H., Su, X.-F., Tang, J., Qin, Z.-G., &
Gross, D. L. (2017). Insomnia partially mediated the association between
problematic Internet use and depression among secondary school students in
China. Journal of Behavioral Addictions, 6(4), 554–563.
79. Lin C-H, Lin S-L, Wu C-P. The effects of parental monitoring and
leisure boredom on adolescents' Internet addiction. Adolescence 2009; 44:
993-1004
80. Lin, I.-H., Ko, C.-H., Chang, Y.-P., Liu, T.-L., Wang, P.-W., Lin, H.-
C., … Yen, C.-F. (2014). The association between suicidality and Internet
addiction and activities in Taiwanese adolescents. Comprehensive Psychiatry,
55(3), 504–510.
81. Lin MP, Ko HC, Wu JY-W. Prevalence and psychosocial risk factors
associated with Internet addiction in a nationally representative sample of
college students in Taiwan. Cyberpsychol Behav Soc Netw 2011; 14: 741-6.
82. Liu, T. C., Desai, R. A., Krishnan-Sarin, S., Cavallo, D. A., &
Potenza, M. N. (2011). Problematic Internet Use and Health in Adolescents.
The Journal of Clinical Psychiatry, 72(06), 836–845.
83. Lovibond, P. F., & Lovibond, S. H. (1995). The structure of negative
emotional states: comparison of the Depression Anxiety Stress Scales (DASS)
with the Beck Depression and Anxiety Inventories. Behaviour Research and
Therapy, 33(3), 335–343.
84. Mak, K.-K., Lai, C.-M., Watanabe, H., Kim, D.-I., Bahar, N., Ramos,
M., … Cheng, C. (2014). Epidemiology of Internet Behaviors and Addiction
Among Adolescents in Six Asian Countries. Cyberpsychology, Behavior, and
Social Networking, 17(11), 720–728.
85. Martin Mihajlov & Lucija Vejmelka: Internet addiction: A review of
the first twenty years. Psychiatria Danubina, 2017; Vol. 29, No. 3, pp 260-
272.
86. Mashhor N.Al-hantoushi, Saad H. Al-abdullateef (2013). Internet
addiction among secondary school students in Riyadh city, its prevalence,
correlates and relation to depression: A questionnaire survey. International
Journal of Medical Science and Public Health | 2014 | Vol 3 | Issue 1
87. Meerkerk, G.-J., Pwned by the Internet. Explorative research into the
causes and consequences of compulsive Internet use. 2007, IVO: Rotterdam.
88. Milani, L., Osualdella, D., & Di Blasio, P. (2009). Quality of
Interpersonal Relationships and Problematic Internet Use in Adolescence.
CyberPsychology & Behavior, 12(6), 681–684.
89. Moreno MA, Jelenchick L, Cox E, Young H & Christakis DA:
Problematic internet use among US youth: a systematic review. Arch Pediatr
Adolesc Med 2011;165: 797–805
90. Morioka H, Itani O, Osaki Y, Higuchi S, Jike M, Kaneita Y, et al.
Association Between Smoking and Problematic Internet Use Among Japanese
Adolescents: Large-Scale Nationwide Epidemiological Study. Cyberpsychol
Behav Soc Netw. 2016; 19: 557–61.
91. Morrison,C.M., Gore H. (2013). The Relationship between excessive
internet use and depression: A questionnaire-based study of young people and
adults, Journal of Psychopathology, 43. 121–126.
92. Mythily S, Qiu S, Winslow M. Prevalence and correlates of
excessive internet use among youth in Singapore. Annals Academy Med
Singapore 2008; 37: 9-14
93. Ng, D. A, Michael W. Ross, Eric A. Ratliff (2008), Internet
influences on sexual practices among young people in Ha Noi, Vietnam;
Culture, Health & Sexuality, Vulume 10 Supplement S 201-213.
94. Ostovar, S., Allahyar, N., Aminpoor, H., Moafian, F., Nor, M. B. M.,
& Griffiths, M. D. (2016). Internet Addiction and its Psychosocial Risks
(Depression, Anxiety, Stress and Loneliness) among Iranian Adolescents and
Young Adults: A Structural Equation Model in a Cross-Sectional Study.
International Journal of Mental Health and Addiction, 14(3), 257–267.
95. Öztürk, C., Bektas, M., Ayar, D., Özgüven Öztornacı, B., & Yağcı, D.
(2015). Association of Personality Traits and Risk of Internet Addiction in
Adolescents. Asian Nursing Research, 9(2), 120–124.
96. Park, S., Hong, K.-E. M., Park, E. J., Ha, K. S., & Yoo, H. J.
(2012). The association between problematic internet use and depression,
suicidal ideation and bipolar disorder symptoms in Korean adolescents.
Australian & New Zealand Journal of Psychiatry, 47(2), 153–159.
97. Pawlikowski, M., C. Altstötter-Gleich, and M. Brand, Validation and
psychometric properties of a short version of Young‟s Internet Addiction
Test. Computers in Human Behavior, 2013. 29(3): p. 1212-1223. 9.
98. Peukert, P., Sieslack, S., Barth, G., & Batra, A. (2010). Internet- und
Computerspielabhängigkeit. Psychiatrische Praxis, 37(05), 219–224
99. Poli, R., & Agrimi, E. (2011). Internet addiction disorder: Prevalence
in an Italian student population. Nordic Journal of Psychiatry, 66(1), 55–59.
100. Shapira, N. A., Lessig, M. C., Goldsmith, T. D., Szabo, S. T., Lazoritz,
M., Gold, M. S., & Stein, D. J. (2003). Problematic internet use: Proposed
classification and diagnostic criteria. Depression and Anxiety, 17(4), 207–
216. doi:10.1002/da.10094
101. Shek, D. T. L., & Yu, L. (2012). Internet Addiction Phenomenon in
Early Adolescents in Hong Kong. The Scientific World Journal, 2012, 1–9
102. Siomos, K., Floros, G., Fisoun, V., Evaggelia, D., Farkonas, N.,
Sergentani, E., … Geroukalis, D. (2012). Evolution of Internet addiction in
Greek adolescent students over a two-year period: the impact of parental
bonding. European Child & Adolescent Psychiatry, 21(4), 211–219
103. Spada, M. M. (2014). An overview of problematic Internet use.
Addictive Behaviors, 39(1), 3–6. doi:10.1016/j.addbeh.2013.09.007
104. Stavropoulos V, Alexandraki K, Motti-Stefanidi F. Recognizing
Internet addiction: prevalence and relationship to academic achievement in
adolescents enrolled in urban and rural Greek high schools. Journal of
Adolescence 2013; 36:565–576.
105. Subramanyam A & Kamath R: A study on the prevalence of internet
addiction and its association with psychopathology in Indian adolescents.
Indian J Psychiatry 2013; 55:140–3.
106. Sung J, Lee J, Noh HM, Park YS, Ahn EJ. Associations between the
risk of Internet addiction and problem behaviors among Korean adolescents.
Korean J Family Med 2013; 34: 115-22.
107. Tang, J., Yu, Y., Du, Y., Ma, Y., Zhang, D., & Wang, J. (2014).
Prevalence of internet addiction and its association with stressful life events
and psychological symptoms among adolescent internet users. Addictive
Behaviors, 39(3), 744–747.
108. Tao, R., Huang, X., Wang, J., Zhang, H., Zhang, Y., & Li, M. (2010).
Proposed diagnostic criteria for internet addiction. Addiction, 105(3), 556–
564.
109. Weinstein, A., & Lejoyeux, M. (2010). Internet Addiction or
Excessive Internet Use. The American Journal of Drug and Alcohol Abuse,
36(5), 277–283.
110. Thome´ e, S., Eklo¨ f, M., Gustafsson., E., Nilsson, R., and Hagberg,
M. (2007). Prevalence of perceived stress, symptoms of depression and sleep
disturbances in relation to information and communication technology (ICT)
use among young adults – an explorative prospective study, Computer Human
Behavior, 23. 1300–1321.
111. Tran, B. X., Huong, L. T., Hinh, N. D., Nguyen, L. H., Le, B. N.,
Nong, V. M., … Ho, R. C. (2017). A study on the influence of internet
addiction and online interpersonal influences on health-related quality of life
in young Vietnamese. BMC Public Health, 17(1)
112. Tran, B. X., Mai, H. T., Nguyen, L. H., Nguyen, C. T., Latkin, C. A.,
Zhang, M. W. B., & Ho, R. C. M. (2017). Vietnamese validation of the short
version of Internet Addiction Test. Addictive Behaviors Reports, 6, 45–50.;
113. Tsitsika A & Janikian M: Internet addictive behavior in adolescence:
a cross-sectional study in seven European countries. Cyberpsychology, 2014;
114. TtuncaAy ,AYyASs., MehmMet, BaArış HORhorZUM. (2010).
Relation between depression,loneliness, self-esteem and internet addiction,
Education Journals, 133(3),. 284-298.
115. Vejmelka, L., Strabić, N., & Jazvo, M. (2017). Online Activities and
Risk Behaviors among Adolescents in the Virtual Environment. Drustvena
Istrazivanja, 26(1), 59–78.
116. Villella C, Martinotti G, Di Nicola M, et al. Behavioural addictions in
adolescents and young adults: results from a prevalence study. Journal of
Gambling Studies 2011; 27:203–214.
117. Wang, H., Zhou, X., Lu, C., Wu, J., Deng, X., & Hong, L. (2011).
Problematic Internet Use in High School Students in Guangdong Province,
China. PLoS ONE, 6(5), e19660.
118. Wang, L., Luo, J., Bai, Y., Kong, J., Luo, J., Gao, W., & Sun, X.
(2012). Internet addiction of adolescents in China: Prevalence, predictors, and
association with well-being. Addiction Research & Theory, 21(1), 62–69.
119. WHO (2015), Mental disorder, acsess 05/10/2015, from http:
www.who.int/mediacentre/factsheets/fs396/en/.
120. “World Economic Outlook: Vietnam“. International Monetary Fund
121. Xu J, Shen LX, Yan CH, et al. Personal characteristics related to the
risk of adolescent internet addiction: A survey in Shanghai, China. BMC
Public Health 2012; 22; 12: 1106.
122. Yadav, P., Banwari, G., Parmar, C., & Maniar, R. (2013). Internet
addiction and its correlates among high school students: A preliminary study
from Ahmedabad, India. Asian Journal of Psychiatry, 6(6).
123. Yen, J.-Y., Ko, C.-H., Yen, C.-F., Wu, H.-Y., & Yang, M.-J. (2007).
The Comorbid Psychiatric Symptoms of Internet Addiction: Attention Deficit
and Hyperactivity Disorder (ADHD), Depression, Social Phobia, and
Hostility. Journal of Adolescent Health, 41(1), 93–98.
124. Yen, J.-Y., Ko, C.-H., Yen, C.-F., Chen, S.-H., Chung, W.-L., &
Chen, C.-C. (2008). Psychiatric symptoms in adolescents with Internet
addiction: Comparison with substance use. Psychiatry and Clinical
Neurosciences, 62(1), 9–16.
125. Yen CF, Ko CH, Yen JY, Chang YP, Cheng CP. Multidimensional
discriminative factors for Internet addiction among adolescents regarding
gender and age. Psychiat Clin Neuroscien 2009; 63: 357-64
126. Young, K. (1999b). Internet addiction: Symptoms, evaluation and
treatment. In L. VandeCreek & T. Jackson (Eds.), Innovations in clinical
practice: A source book, 17 (pp. 19–31). Sarasota, Florida: Professional
Resource Press.
127. Young, K. S. (1996). Internet addiction: The emergence of a new
clinical disorder. Paper presented at the 104th annual meeting of the
American Psychological Association, August 11, 1996. Toronto, Canada
128. Zhang, M. W. B., Tran, B. X., Huong, L. T., Hinh, N. D., Nguyen, H.
L. T., Tho, T. D., … Ho, R. C. M. (2017). Internet addiction and sleep quality
among Vietnamese youths. Asian Journal of Psychiatry, 28, 15–20.
Tài liệu điện tử
129. www.digitalunite.com/technology-guides/using-internet/connecting-
internet/what-internet
PHIẾU THU THẬP THÔNG TIN
Chào bạn, hiện tại chúng tôi đang thực hiện nghiên cứu về việc sử dụng
internet của học sinh với các vấn đề về cảm xúc. Những thông tin mà bạn
cung cấp sẽ là đóng góp quý báu để chúng tôi thực hiện đề tài này. Những
thông tin này sẽ được đảm bảo bí mật hoàn toàn và chỉ dùng cho mục đích
nghiên cứu.
Xin chân thành cảm ơn!
Xin hãy cho biết một vài thông tin cá nhân:
1. Giới tính: Nam Nữ
2. Trường: ……………………………………………
3. Lớp: 7 8 10 11
4. Học lực năm trước:
Yếu Trung bình Khá Giỏi Xuất sắc
5. Công việc chính của gia đình
Công chức, viên chức nhà nước Buôn bán
Làm biển Làm nông nghiệp (làm ruộng)
Lao động tự do Khác: (ghi rõ)………….
6. Điều kiện kinh tế của gia đình (ước chừng):
Nghèo Trung bình Khá Giàu
7. Hiện bạn đang sống cùng:
Đại gia đình (bố, mẹ, ông, bà…) Bố và mẹ
Riêng với mẹ Người thân ( anh, chị, cô, dì, chú bác, cậu…)
Riêng với bố Ông, bà (nội, ngoại)
Sống tại các Trung tâm, Mái ấm…
8. Sự quan tâm của gia đình với bạn:
Hầu như không Ít Nhiều Rất nhiều
9. Mức độ thường xuyên sử dụng Internet của bạn?
Hàng ngày Một vài lần/tuần Một và lần/tháng
Rất hiếm khi Không bao giờ
10. Thời lượng sử dụng Internet của bạn khoảng: ……giờ/ngày
11. Phương tiện mà bạn thường sử dụng để truy cập internet (có thể lựa chọn
nhiều đáp án):
Máy tính cá nhân (để bàn hoặc laptop)
Máy tính dùng chung (máy dùng chung ở gia đình, ở quán internet..)
Máy tính bảng ( ipad)
Điện thoại
12. Bạn thường làm gì khi sử dụng internet ? (có thể lựa chọn nhiều đáp án)
Gửi tin nhắn văn bản
Gửi thư điện tử (email)
Nói chuyện theo nhóm trên mạng (chat room)
Nói chuyện, chat với người khác (cá nhân)
Học tập
Đăng ảnh
Đọc tin tức
Chơi game
Xem phim
Nghe nhạc
Tìm kiếm thông tin
Mua sắm
Bạn vui lòng đọc kỹ những câu hỏi dưới đây. Đây là bảng hỏi để thu
thập thông tin về việc sử dụng Internet trong thời gian qua của các bạn. Đối
với mỗi câu, nếu bạn thấy đúng với bản thân thì hãy đánh dấu (X) vào ô
tương ứng mà bạn cho là đúng với bản thân, tương ứng với các mức độ:
1 = Rất hiếm khi; 2 = Hiếm khi; 3 = Thỉnh thoảng
4 = Thường xuyên; 5 = Rất thường xuyên
Mức độ
Rất Rất STT Câu hỏi Hiếm Thỉnh Thƣờng hiếm thƣờng khi thoảng xuyên khi xuyên
1 Ban có thường xuyên cảm thấy mình
vào mạng internet nhiều hơn dự kiến
không ?
2 Bạn có thường tự nhủ “chỉ vào mạng
thêm vài phút nữa thôi” không ?
3 Bạn có thường xuyên quên làm việc nhà
vì dành thời gian lên mạng không ?
4 Bạn có thường thất bại khi tự cắt giảm
thời gian vào mạng internet của mình
không ?
5 Kết quả học tập ở trường có bị giảm sút
do thời gian bạn dành cho internet
không ?
6 Bạn có mất ngủ vì sử dụng internet lúc
đêm muộn không ?
7 Bạn có thường chọn vào mạng internet
thay vì gặp gỡ bạn bè không ?
8 Bạn có thường giấu việc bạn đang
online bằng phần mềm hoặc các cách
khác không ?
9 Bạn có thường cáu kỉnh khi người khác
làm phiền lúc bạn đang vào mạng không
?
10 Bạn có cảm thấy chán, buồn, hay lo
lắng khi không vào mạng, và sẽ lại cảm
thấy thoải mái lúc vào mạng lại không ?
11 Khi không sử dụng internet, bạn có
thường nghĩ đến Internet và bận tâm về
nó không ?
12 Bạn có thường giữ bí mật khi ai đó hỏi
bạn làm gì trên mạng không ?
BẠN VUI LÒNG KIỂM TRA LẠI VÀ XIN ĐỪNG ĐỂ TRỐNG.
Hãy đọc mỗi câu và khoanh tròn vào các số 0, 1, 2 và 3 ứng với tình
trạng mà bạn cảm thấy trong suốt một tuần qua. Không có câu trả lời đúng
hay sai. Và đừng dừng lại quá lâu ở bất kỳ câu nào.
Mức độ đánh giá:
0: Không đúng với tôi chút nào cả
1: Đúng với tôi phần nào, hoặc thỉnh thoảng mới đúng
2: Đúng với tôi phần nhiều, hoặc phần lớn thời gian là đúng
3: Hoàn toàn đúng với tôi, hoặc hầu hết thời gian là đúng
1. Tôi thấy khó mà thoải mái được S 0 1 2 3
2. Tôi bị khô miệng A 0 1 2 3
3. Tôi dường như chẳng có chút cảm xúc tích cực nào D 0 1 2 3
4. Tôi bị rối loạn nhịp thở (thở gấp, khó thở dù chẳng làm việc gì 0 1 2 3 A
nặng)
D 5. Tôi thấy khó bắt tay vào công việc 0 1 2 3
S 6. Tôi có xu hướng phản ứng thái quá với mọi tình huống 0 1 2 3
A 7. Tôi bị ra mồ hôi (chẳng hạn như mồ hôi tay...) 0 1 2 3
S 8. Tôi thấy mình đang suy nghĩ quá nhiều 0 1 2 3
A 9. Tôi lo lắng về những tình huống có thể làm tôi hoảng sợ hoặc biến 0 1 2 3
tôi thành trò cười
D 10. Tôi thấy mình chẳng có gì để mong đợi cả 0 1 2 3
S 11. Tôi thấy bản thân dễ bị kích động 0 1 2 3
S 12. Tôi thấy khó thư giãn được 0 1 2 3
D 13. Tôi cảm thấy chán nản, thất vọng 0 1 2 3
S 14. Tôi không chấp nhận được việc có cái gì đó xen vào cản trở việc 0 1 2 3
tôi đang làm
A 15. Tôi thấy mình gần như hoảng loạn 0 1 2 3
D 16. Tôi không thấy hăng hái với bất kỳ việc gì nữa 0 1 2 3
D 17. Tôi cảm thấy mình chẳng đáng làm người 0 1 2 3
S 18. Tôi thấy mình khá dễ phật ý, tự ái 0 1 2 3
A 19. Tôi nghe thấy rõ tiếng nhịp tim dù chẳng làm việc gì cả (ví dụ, 0 1 2 3
tiếng nhịp tim tăng, tiếng tim loạn nhịp)
A 20. Tôi hay sợ vô cớ 0 1 2 3
D 21. Tôi thấy cuộc sống vô nghĩa 0 1 2 3
Xin cảm ơn bạn đã tham gia.