ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC

VŨ NGỌC DUY

MỐI LIÊN QUAN GIỮA MỨC ĐỘ SỬ DỤNG INTERNET VỚI

TRẦM CẢM, LO ÂU, STRESS Ở HỌC SINH TRUNG HỌC

LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC

Hà Nội – 2020

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC

VŨ NGỌC DUY

MỐI LIÊN QUAN GIỮA MỨC ĐỘ SỬ DỤNG INTERNET VỚI

TRẦM CẢM, LO ÂU, STRESS Ở HỌC SINH TRUNG HỌC

LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC Chuyên ngành: Tâm lý học lâm sàng trẻ em và vị thành niên

Mã số: 8310401.05

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. TRẦN THÀNH NAM

Hà Nội – 2020

LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành luận văn này, tôi đã nhận được sự giúp đỡ, hỗ trợ

nhiệt tình, quý báu từ các thầy cô, bạn bè và đồng nghiệp.

Trước hết, tôi xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu, các thầy cô,

các cán bộ quản lý, anh chị và các bạn học viên trong chương trình Tâm

lý học lâm sàng trẻ em và vị thành niên đã đồng hành, hỗ trợ cả về

chuyên môn và tinh thần trong suốt quá trình tôi trong qua trình học tập

và nghiên cứu tại trường Đại học Giáo dục – Đại học Quốc gia Hà Nội.

Để thực hiện luận văn tôi xin chân thành gửi lời cảm ơn sâu sắc đến

PGS.TS. Trần Thành Nam là người đã trực tiếp hướng dẫn tôi trong suốt

quá trình thực hiện đề tài. Nhờ sự động viên, khích lệ, sự định hướng,

chỉ dẫn sát sao, tỉ mỉ của Thầy mà tôi đã có thể hoàn thành được luận

văn này. Qua quá trình làm việc cùng Thầy, tôi cũng đã thu được nhiều

bài học kinh nghiệm về cách làm và nghiên cứu khoa học.

Tôi cũng xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu, giáo viên và học

sinh trường THCS Hùng Vương, THCS Chu Văn An, trường THPT

Nguyễn Trãi và THPT Trần Cao Vân của tỉnh Khánh Hòa; trường

THCS Nguyễn Trãi, THCS Huỳnh Thúc Kháng, THPT Cẩm Lê, THPT

Phan Châu Trinh của thành phố Đà Nẵng đã hợp tác, hỗ trợ, tạo điều

kiện giúp tôi thu thập số liệu cho luận văn này.

Lời cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, bạn bè và đồng

nghiệp đã luôn bên cạnh, ủng hộ, động viên và tạo điều kiện tốt nhất để

tôi có thể hoàn thành luận văn này.

Khánh Hòa, ngày 15 tháng 6 năm 2020

Tác giả

Vũ Ngọc Duy

i

DANH MỤC CÁC KÍ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT

ĐTB Điểm trung bình

ĐLC Độ lệch chuẩn

DSM Diagnostic and Statistical Manual of Mental

Disorders

THCS Trung học cơ sở

THPT Trung học phổ thông

i

MỤC LỤC

LỜI CẢM ƠN ....................................................................................................... i

DANH MỤC CÁC KÍ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT ..................................... ii

DANH MỤC BẢNG ........................................................................................... iv

MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 1

CHƢƠNG 1.......................................................................................................... 6

1.1. Tổng quan lịch sử nghiên cứu vấn đề ......................................................... 6

1.1.1. Trên thế giới ............................................................................................... 6

1.1.2. Những công trình nghiên cứu tại Việt Nam ........................................... 11

1.2. Nghiên cứu về mối liên hệ giữa việc sử dụng Internet với trầm cảm, lo

âu, stress ............................................................................................................. 14

1.3. Một số vấn đề lý luận về Internet ............................................................. 20

1.3.1. Khái niệm Internet .................................................................................. 20

1.3.2. Khái niệm mức độ sử dụng Internet ....................................................... 21

1.3.3. Tiêu chuẩn đánh giá mức độ sử dụng Internet ...................................... 25

1.3.4. Trầm cảm ................................................................................................. 32

1.3.4. Lo âu ......................................................................................................... 35

1.3.5. Stress ......................................................................................................... 37

1.3.6. Học sinh trung học .................................................................................. 38

CHƢƠNG 2........................................................................................................ 46

2.1. Đặc điểm của khách thể và địa bàn nghiên cứu ...................................... 46

2.1.1. Đặc điểm địa bàn nghiên cứu .................................................................. 46

2.1.2. Đặc điểm của khách thể nghiên cứu ....................................................... 47

2.2. Quy trình nghiên cứu ................................................................................. 48

2.3. Công cụ nghiên cứu .................................................................................... 49

2.4. Chiến lƣợc nhập liệu và xử lý số liệu ........................................................ 52

CHƢƠNG 3........................................................................................................ 54

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ............................................................................... 54

ii

3.1. Thực trạng sử dụng internet ở học sinh trung học ................................. 54

3.2. Thực trạng nghiện Internet của học sinh trung học ............................... 62

3.3. Mức độ nghiện Internet theo các yếu tố nhân khẩu học ....................... 65

3.4. Thực trạng lo âu, trầm cảm và stress ở học sinh trƣờng trung học ...... 69

3.5. Thực trạng trầm cảm, lo âu, stress theo các yếu tố nhân khẩu học ...... 73

3.6. Mối liên hệ giữa việc sử dụng Internet với các biến số ........................... 84

3.7. Các yếu tố dự báo nghiện Internet ........................................................... 85

3.8. Các yếu tổ dự báo vấn đề trầm cảm, lo âu, stress ở học sinh ................ 86

3.9. Bàn luận về kết quả nghiên cứu ................................................................ 86

iii

DANH MỤC BẢNG

Bảng 3. 1: Tỷ lệ học sinh sử dụng Internet theo các cấp độ ............................... 54

Bảng 3. 2: Một số đặc điểm sử dụng Internet của khách thể .............................. 54

Bảng 3. 3: Phương tiện sử dụng để truy cập Internet.......................................... 57

Bảng 3. 4: Mục đích sử dụng Internet ................................................................. 57

Bảng 3. 5: Mức độ sử dụng Internet với đặc điểm nhân khẩu học ..................... 58

Bảng 3. 6: Thời lượng sử dụng Internet theo các biến nhân khẩu học ............... 60

Bảng 3. 7: Mức độ lệ thuộc Internet của học sinh qua thang s-IAT ................... 62

Bảng 3. 8: Tỷ lệ nghiện Internet qua thang s- IAT ............................................. 64

Bảng 3. 9: Tỷ lệ nghiện Internet theo các biến nhân khẩu học ........................... 65

Bảng 3. 10: Thực trạng lo âu, trầm cảm và stress ở học sinh ............................. 69

Bảng 3. 11: Tỷ lệ stress ở học sinh ..................................................................... 71

Bảng 3. 12: Tỷ lệ trầm cảm ở học sinh ............................................................... 72

Bảng 3. 13: Tỷ lệ lo âu ở học sinh ...................................................................... 72

Bảng 3. 14: Thực trạng trầm cảm theo các biến nhân khẩu học ......................... 73

Bảng 3. 15: Thực trạng lo âu theo các biến nhân khẩu học ................................ 77

Bảng 3. 16: Thực trạng stress theo các biến nhân khẩu học ............................... 80

Bảng 3. 17: Mối liên hệ giữa việc sử dụng Internet với trầm cảm, lo âu, stress ở

học sinh ............................................................................................................... 84

Bảng 3. 18: Các yếu tố dự đoán cho nghiện Internet .......................................... 85

Bảng 3. 19: Các yếu tố dự báo cho vấn đề trầm cảm, lo âu, stress ..................... 86

iv

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Hiện nay, Internet đã và đang đồng hành cùng với con người trong tất

cả các hoạt động hàng ngày từ học tập, làm việc đến thư giãn, giải trí. Không

thể phủ nhận những lợi ích mà Internet đã đem lại, tuy nhiên việc sử dụng

Internet cũng gây ra nhiều hậu quả tiêu cực, việc lạm dụng quá mức Internet

gây khiến người sử dụng phải đối mặt với nhiều nguy cơ liên quan đến bị bắt

nạt trực tuyến [10], dễ bị lôi kéo vào các trang web, phim ảnh không lành

mạnh [9], bỏ bê, sao nhãng học hành mà quan trong hơn là sự thay đổi nhân

cách theo chiều hướng xấu [1], liên quan đến các vấn đề về sức khỏe như:

trầm cảm, tăng động giảm chú ý, rối loạn giấc ngủ…[3].

Việc sử dụng Internet đã tăng lên theo cấp số nhân với gần 4 tỷ người

sử dụng, trong đó khu vực Châu Á có số lượng người sử dụng nhiều nhất với

gần 2 tỷ người [59], trong số đó là thanh thiếu niên [29]. Cùng với sự tăng

trưởng nhanh chóng của việc truy cập và sử dụng internet, tỷ lệ người nghiện

Internet cũng ngày càng tăng cao, đặc biệt là thanh thiếu niên [40].

Mak & cộng sự (2014) đã tiến hành một nghiên cứu trên 5266 thanh

thiếu niên từ 12 đến 18 tuổi tại 6 nước Châu Á (Trung Quốc, Hồng Kông,

Nhật Bản, Hàn Quốc, Malaysia, Philippines) cho thấy khoảng từ 6% đến 21%

trong số đó được đánh giá là nghiện Internet [84]. Tỷ lệ này cao hơn so với

nhóm tương tự ở các nước châu Âu với tỷ lệ từ 1% đến 4%

[116][31][104][61][63].

Theo We Are Social Media – Global digital report, 2018 [44] với dân

số khoảng 96 triệu người có đến 64 triệu người Việt Nam có thể tiếp cận

Internet (tăng 28% so với năm 2017), 55 triệu người thường xuyên sử dụng

mạng xã hội (tăng 20% so với năm 2017), 50 triệu người dùng Internet truy

cập các nội dung truyền thông xã hội qua điện thoại (tăng 22% so với năm

2017). Việt Nam đứng thứ 22 toàn cầu về số lượng người dân có thể tiếp cận

1

Internet, là một trong 20 nước trên thế giới có lượng người truy cập mạng xã

hội nhiều nhất. Các nghiên cứu cho thấy, có 162 triệu di động đang được sử

dụng tại Việt Nam, nghĩa là trung bình mỗi người dân sở hữu tới 2 chiếc điện

thoại, trong đó có 49 triệu điện thoại thông minh dùng để kết nối internet và

mạng xã hội. Dự tính tới năm 2020, 90% dân số Việt Nam sẽ sử dụng điện

thoại thông minh . We Are Social cũng công bố số liệu cho thấy Việt nam là

một trong các nước có tốc độ tăng trưởng người dùng internet và mạng xã hội

nhanh nhất trong khu vực châu Á với số thành viên tăng tới 25% kể từ tháng

1/2017 đến nay.

Tại Việt Nam, căn cứ theo kết quả điều tra quốc gia trên nhóm thanh

thiếu niên cho thấy việc sử dụng Internet diễn ra phổ biến ở cả thanh thiếu

niên sống ở thành thị và thanh thiếu niên ở nông thôn với tỷ lệ lần lượt là 50%

và 13% . Phần lớn cho biết họ sử dụng Internet để trò chuyện chiếm 69% và

62% chơi trò chơi trực tuyến [13]. Nghiên cứu tại Đồng Nai năm 2011 của

tác giả Lê Minh Công cho thấy có tỷ lệ khoảng 12,3% học sinh THCS

nghiện Internet ở các cấp độ [4]. Đề tài “Tương quan giữa mức độ sử dụng

Internet và các vấn đề về sức khỏe tâm thần ở học sinh Trung học cơ sở” năm

2013 của Nguyễn Thị Phương cho thấy có khoảng 10% học sinh THCS sử

dụng Internet thường xuyên [13]. Nghiên cứu của Trần Xuân Bách và cộng sự

(2017) trên 566 người từ 15 đến 25 tuổi cho thấy có 21,2% được chẩn đoán là

nghiện Internet [111]. Như vậy có thể thấy rằng việc sử dụng Internet quá

mức tại Việt Nam có xu hướng ngày càng tăng.

Đã có nhiều nghiên cứu thế giới chỉ ra rằng việc lạm dụng Internet là

một trong những yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống, mối quan hệ,

các rối loạn sức khỏe tâm thần [51][33][38][107][73][80]. Tuy vậy, các

nghiên cứu chỉ tập trung vào mức độ lạm dụng Internet và đưa ra các ảnh

hưởng của nó đến vấn đề sức khỏe tâm thần nói chung, chưa đi sâu vào các

rối loạn trầm cảm, lo âu, stress. Mặt khác, đối tượng nghiên cứu của họ

2

thường là những đối tượng riêng lẻ như: học sinh THCS, sinh viên ở các

trường đại học - cao đẳng, người trưởng thành…chưa có đánh giá và so sánh

thực tế giữa các nhóm đối tượng cụ thể với nhau như: học sinh THCS với

THPT hay giữa các khu vực, vùng miền.

Với những lý do trên, tôi quyết định thực hiện đề tài “Mối liên quan

giữa mức độ sử dụng internet với trầm cảm, lo âu, stress ở học sinh trung

học”. Nghiên cứu nhằm góp phần tìm hiểu việc sử dụng Internet của học sinh

và mối liên hệ của việc sử dụng này với các vấn đề về trầm cảm, lo âu, stress.

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

2.1. Mục đích nghiên cứu

Nghiên cứu nhằm tìm hiểu tình hình sử dụng Internet theo các mức độ

của học sinh; Đánh giá về các mối quan hệ tiềm ẩn giữa việc sử dụng Internet

với các vấn đề về trầm cảm, lo âu và stress ở học sinh.

2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

2.2.1. Nhiệm cụ nghiên cứu lý luận

- Đọc và tìm hiểu cơ sở lý luận về nghiện Internet; tổng quan nghiên

cứu về Internet với các vấn đề về trầm cảm, lo âu và stress ở các nhóm đối

tượng.

- Xây dựng các khái niệm công cụ liên quan đến đề tài: sử dụng

Internet là gì? Biểu hiện các vấn đề trầm cảm, lo âu, stress là gì?...

2.2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu thực tiễn

Tìm hiểu thực trạng, mức độ sử dụng internet hiện nay của học sinh

trường trung học và ảnh hưởng của việc sử dụng internet đến các vấn đề trầm

cảm, lo âu và stress của học sinh.

3. Đối tƣợng và khách thể nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Mối liên quan giữa mức độ sử dụng internet với vấn đề trầm cảm, lo âu,

stress ở học sinh trường trung học.

3

3.2. Khách thể nghiên cứu

Học sinh THCS và THPT trên địa bàn 2 tỉnh Khánh Hòa và thành phố

Đà Nẵng

4. Câu hỏi nghiên cứu

Thực trạng sử dụng internet ở học sinh trung học trên địa bàn 2 tỉnh

Khánh Hòa và thành phố Đà Nẵng là như thế nào?

Mức độ sử dụng internet và điểm số lo âu, trầm cảm, stress có mối liên

hệ với nhau như thế nào?

5. Giả thuyết nghiên cứu

Học sinh THCS và THPT trên địa bàn 2 tỉnh Khánh Hòa và thành phố

Đà Nẵng thường xuyên sử dụng internet. Có một tỉ lệ không nhỏ đáp ứng dấu

hiệu nghiện internet.

Mức độ sử dụng internet và điểm số lo âu, trầm cảm, stress có tương

quan thuận và có ý nghĩa thống kê

6. Phƣơng pháp nghiên cứu

6.1. Phương pháp nghiên cứu lí luận

Phương pháp này được sử dụng để khai thác và tìm kiếm các nguồn tài

liệu, bao gồm sách báo, tạp chí và các công trình nghiên cứu trên thế giới và ở

Việt Nam nhằm thu thập các thông tin về vấn đề sử dụng internet, nghiện

internet và mối liên hệ giữa việc sử dụng internet với các vấn đề về trầm cảm,

lo âu, stress để làm nền tảng lý luận cho đề tài.

6.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn

Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi được sử dụng để thu thập và đánh

giá thực trạng việc sử dụng internet cũng như bảng hỏi về các vấn đề trầm

cảm, lo âu, stress ở học sinh, cụ thể:

+ Sử dụng bằng trắc nghiệm mức độ sử dụng Internet s-IAT (phiên bản

rút gọn) do Trần Xuân Bách và cộng sự (2017) thích nghi tại Việt Nam với 12

câu [112];

4

+ Thang đo về trầm cảm, lo âu, stress: Dass – 21 (Depression Anxiety

and Stress Scales) [83].

6.3. Phương pháp xử lý số liệu

Trong nghiên cứu này, chúng tôi sử dụng phần mềm thống kê SPSS để

sử lý kết quả nghiên cứu, nhằm xác định độ tin cậy, độ mạnh của mối liên hệ

giữa mức độ sử dụng Internet với các vấn đề về trầm cảm, lo âu, stress.

7. Phạm vi nghiên cứu

7.1. Thời gian và địa điểm nghiên cứu

Thời gian: Từ tháng 12/2017 – 12/2019

Địa điểm nghiên cứu. Nghiên cứu được tiến hành với khối lớp 7, 8

(THCS) và 10,11 (THPT) trên địa bàn 2 thành phố Đà Nẵng và tỉnh Khánh

Hòa.

7.2. Mẫu nghiên cứu

Mẫu nghiên cứu là 562 học sinh được chọn ngẫu nhiên từ 4 trường

THCS và 04 trường THPT trên địa bàn thành phố Đà Nẵng và tỉnh Khánh

Hòa

8. Cấu trúc luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và khuyến nghị, danh mục tài liệu tham

khảo và các phụ lục khác, nội dung chính của luận văn sẽ được trình bày

trong 3 chương:

Chương 1: Cơ sở lí luận của vấn đề nghiên cứu

Chương 2: Tổ chức và phương pháp nghiên cứu

Chương 3: Kết quả nghiên cứu

5

CHƢƠNG 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

1.1. Tổng quan lịch sử nghiên cứu vấn đề

1.1.1. Trên thế giới

1.1.1.1. Thực trạng chung về sử dụng Internet, nghiện Internet

Các nghiên cứu trên thế giới đã được tiến hành tìm kiếm, thống kê số

lượng, tỷ lệ sử dụng Internet, nghiện Internet.

Nghiên cứu đầu tiên có quy mô là nghiên cứu của David Greenfield

(Trung tâm nghiện Internet và công nghệ Hoa Kỳ) vào năm 1999 với một

bảng khảo sát chạy trên ABCNews.Com với 17.251 người tham gia trả lời

câu hỏi, và trong đó có khoảng 6% người đủ tiêu chuẩn nghiện Internet

[54].

Tại Hoa Kỳ, Moreno và cộng sự (2011) đã sử dụng các ứng dụng tìm

kiếm như: PubMed, PsycINFO và Web of Knowledge từ khi thành lập đến

tháng 7 năm 2010. Kết quả tìm kiếm mang lại 658 bài viết, trong đó có 18

nghiên cứu, 8 báo cáo ước tính tỷ lệ nghiện Internet ở thanh thiếu niên và sinh

viên dao động từ 0% đến 26,3% [89].

Kaess và cộng sự (2014) đã tiến hành nghiên cứu tỷ lệ nghiện Internet

tại 11 quốc gia khu vự châu Âu với tuổi trung bình là 14.9, kết quả cho thấy

khoảng 4.4% được đánh giá là nghiện Internet [62]. Một nghiên cứu khác

được tiến hành trên 31 quốc gia thuộc 7 khu vực trên thế giới cho thấy ước

tính tỷ lệ nghiện Internet là 6.0%, cao nhất là ở Trung Đông với 10,9% và

thấp nhất là ở Bắc và Tây Âu với 2,6% [36].

Gần đây nhất, Laconi và cộng sự (2018), đã tiến hành nghiên cứu việc

sử dụng Internet tại 9 quốc gia châu Âu gồm Ý, Đức, Pháp, Tây Ban Nha, Ba

Lan, Thổ Nhĩ Kỳ, Hungary, Hy Lạp và Anh, với độ tuổi từ 18 đến 87, kết quả

cho thấy tỷ lệ nghiện dao động trong khoảng 14,3% đến 54,9% [74].

6

Spada và cộng sự (2014) đã mô tả mức độ phổ biến của việc sử dụng

Internet có vấn đề, nghiên cứu chỉ ra rằng có sự khác biệt theo từng khu vực,

tỷ lệ sử dụng Internet có vấn đề là 1,0 đến 9,0% ở thanh thiếu niên châu Âu,

1,0 đến 12,0% ở thanh thiếu niên Trung Đông và 2,0 đến 18,0% ở thanh thiếu

niên châu Á [103].

Tại khu vực Đông Nam Á, nghiên cứu của Yatan Pal Singh Balhara và

cộng sự (2018), dựa trên các cơ sở dữ liệu điện tử của PubMed và Google

Scholar được công bố có liên quan đến việc sử dụng Internet. Kết quả cho

thấy tỷ lệ lạm dụng Internet/ nghiện Internet có thể dao động từ 7,4% đến

46,4% [25].

Martin Mihajlov & Lucija Vejmelka (2017) trong báo cáo tóm tắt các

nghiên cứu về nghiện Internet trong vòng 20 năm bắt đầu từ 1996 cho thấy, tỷ

lệ người nghiện Internet trên toàn thế giới khoảng 6% [85].

1.1.1.2. Nghiên cứu thực trạng sử dụng Internet ở thanh thiếu niên

Tại Mỹ, Liu và cộng sự (2011) nghiên cứu trên 3.560 học sinh châu Á

và gốc Tây Ba Nha tại các trường trung học ở Connecticut. Kết quả cho thấy:

4% học sinh thuộc nhóm sử dụng internet có vấn đề [82].

Nghiên cứu tại Thổ Nhĩ Kỳ năm (2013) về sử dụng Internet với 4311

thanh thiếu niên độ tuổi từ 15 đến 19, kết quả cho thấy 5% thanh thiếu niên

được chẩn đoán là sử dụng Internet quá mức [21].

Aysegul Yolga Tahiroglu, M.D và cộng sự nghiên cứu trên 3975 thanh

thiếu niên Thổ Nhĩ Kỳ đã phát hiện có 7,6% sử dụng internet trên 12 tiếng

mỗi tuần [23].

Ở Ý, nghiều nghiên cứu về sử dụng Internet đã được thực hiện. Milani

và cộng sự (2009) tìm thấy 36,7% thanh thiếu niên tuổi từ 14–19 có dấu hiệu

sử dụng Internet có vấn đề [88]. Nghiên cứu của Poli, R., & Agrimi, E. (2012)

nghiên cứu trên 2533 học sinh cho thấy 5,01 % nghiện ở mức vừa phải, 0,79

% nghiện ở mức nghiêm trọng [99]. Gần đây, Bruno và cộng sự (2014) tiến

7

hành nghiên cứu 1035 học sinh trung học. Kết quả cho thấy 3,9% được chẩn

đoán là nghiện Internet [30].

Siomos và cộng sự (2012) tiến hành một nghiên cứu cắt ngang của toàn

bộ 2017 học sinh từ 12-19 tuổi và 1214 cha mẹ ở đảo Kos, Hy Lạp. Kết quả

15,2% được chẩn đoán nghiện Internet ở mức độ nặng, 26,9% nghiện ở mức

vừa phải [102].

Fisoun và cộng sự (2012) tiến hành một cuộc khảo sát cắt ngang đánh

giá toàn bộ số học sinh vị thành niên (N = 1270, 14–18 tuổi) của đảo Kos ở

Hy Lạp. Kết quả cho thấy: 5,3% nghiện Internet ở mức vừa phải và 14,7%

nghiện Internet ở mức nặng [47]. Cũng trên nhóm đó, nghiên cứu khác chỉ ra

rằng 7.2% nam và 5.1% nữ nghiện Internet [48].

Tại Hy Lạp, các nhà khoa học báo cáo có khoảng 8,2% thanh thiếu

niên ở đô thị được đánh giá là nghiện Internet, trong đó chủ yếu là các em trai

[71].

Johansson và cộng sự (2004) nghiên cứu trên mẫu đại diện là 3237

thanh thiếu niên, độ tuổi từ 12 đến 18 tuổi tại Na Uy. Kết quả cho thấy tỷ lệ

trung bình được chẩn đoán nghiện Internet là 1,98%; 8,68% có nguy cơ cao

nghiện Internet [61].

Kaltiala-Heino và cộng sự (2004) nghiên cứu trực tuyến trên 7292

thanh thiếu niên tại Phần Lan, độ tuổi từ 12 đến 18 cho thấy 1,7% nam và

1,4% nữ được đánh giá nghiện Internet, nghiên cứu cũng chỉ ra rằng những

người nghiện Internet đã dành nhiều thời gian trực tuyến nhiều hơn người

không nghiện (2,7 với 1,3) [63]. Một nghiên cứu khác, cho thấy có khoảng

4,7% nữ và 4,6% nam trên cộng đồng thanh thiếu niên từ 12 - 18 tuổi đủ

tiêu chuẩn của nghiện Internet (Cooper, 2002).

Kuss và cộng sự (2013) nghiên cứu trên 3105 thanh thiếu niên với độ

tuổi trung bình là 14.2 ở Hà Lan cho thấy 3,7% được phân loại là nghiện

Internet. Nghiên cứu cũng cho thấy: Việc sử dụng các ứng dụng xã hội và trò

8

chơi trực tuyến (các trang web mạng xã hội trực tuyến và Twitter) là yếu tố

làm tăng nguy cơ nghiện Internet [72].

Carbonell X và cộng sự (2012) nghiên cứu trên 1879 thanh thiếu niên ở

Tây Ban Nha. Kết quả cho thấy 6.1% có vấn đề với việc sử dụng Internet,

không có khác biệt về giới tính với vấn đề sử dụng Internet [34].

Gomez và cộng sự (2017) tiến hành nghiên cứu trên 40955 học sinh

trong độ tuổi từ 12 đến 17 ở Tây Ba Nha. Kết quả cho thấy cho thấy khoảng

16,3% được chẩn đoán là nghiện Internet [52].

Nghiên cứu tại Đức năm 2010, cho thấy: 1,5 % - 3,5% thanh thiếu niên

có dấu hiệu nghiện internet hoặc sử dụng quá mức [98].

Nghiên cứu tại Croatia (2017) trên 352 thanh thiếu niên tại 9 trường

trung học. Kết quả cho thấy 3,4% được chẩn đoán là nghiện Internet [115].

Nghiện Internet cũng đang được báo cáo như là một vấn đề sức khỏe

cộng đồng nghiêm trọng tại các quốc gia châu Á. Ở Trung Quốc, có khoảng

2,4% đến 6,0% thanh thiếu niên có dấu hiệu nghiện Internet [32]. Những

nghiên cứu gần đây về nghiện Internet (Cui, Zhao, Wu & Xu, 2006,...) cho

thấy có khoảng từ 9,72% đến 11,06% thanh thiếu niên Trung Quốc có biểu

hiện nghiện Internet [41].

Cao và cộng sự (2011) thực hiện nghiên cứu cắt ngang trên 17599

thanh thiếu niên tại 8 thành phố ở Trung Quốc với độ tuổi trung bình 16,1.

Kết quả cho thấy 8,1% được đánh giá là sử dụng Internet có vấn đề [33].

Wang và cộng sự (2011) tiến hành nghiên cứu trên 14296 học sinh tại

tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc. Kết quả cho thấy 12,2% học sinh được chẩn

đoán là sử dụng Internet có vấn đề [117]. Một nghiên cứu khác được tiến

hành năm 2013 trên 10.988 thanh thiếu niên đến từ 9 thành phố khác nhau ở

Trung Quốc, với độ tuổi từ 13 đến 23. Kết quả cho thấy: 7,5% được đánh giá

là nghiện Internet [118].

9

Lam và cộng sự (2009) nghiên cứu trên 1618 học sinh từ 13 đến 18 tuổi

tại thành phố Quảng Châu, Trung Quốc. Kết quả cho thấy, 10,2% học sinh sử

dụng Internet ở mức độ vừa phải, 0,6% là nghiện Internet [76].

Guo và cộng sự (2012) đã tiến hành nghiên cứu cắt ngang với 3254 trẻ

từ 8-17 tuổi tại Trung Quốc. Kết quả cho thấy: 3,7% trẻ em ở nông thôn,

6,4% trẻ em di cư, 3,2% trẻ em bị bỏ rơi được chẩn đoán nghiện Internet [56].

Gong và cộng sự (2009) tiến hành nghiên cứu trên 3018 học sinh (47%

nam, 53% nữ), từ 15 trường trung học và một trường đại học với độ tuổi từ

11- 23 ở Vũ Hán, Trung Quốc. Kết quả cho thấy: tỷ lệ nghiện Internet được

chẩn đoán là 5% [53].

Nghiên cứu của Xu J và cộng sự (2012) trên 5.122 thanh thiếu niên

được chọn ngẫu nhiên từ 16 trường trung học thuộc các loại trường học khác

nhau ở Thượng Hải. Kết quả cho thấy: 8,8% được xác định là người nghiện

internet [121].

Kim và cộng sự (2006) nghiên cứu trên 1573 học sinh ở Hàn Quốc, tuổi

từ 15 đến 16. Kết quả cho thấy, 1,6% được chẩn đoán là người nghiện

Internet, trong khi 38,0% có thể được phân loại là người nghiện Internet [65].

Choi và cộng sự (2009) nghiên cứu trên 2336 học sinh trung học ở Hàn

Quốc (nam, 57,5%; nữ, 42,5%). Kết quả cho thấy tỷ lệ nghiện Internet và

nghiện Internet có thể xảy ra: 2,5% và 53,7% với nam; 1,9% và 38,9% với nữ.

[38].

Sung và cộng sự (2013), đã tiến hành khảo sát trực tuyến về dựa trên

hành vi rủi ro của thanh thiếu niên Hàn Quốc với 73.238 thanh thiếu niên

tham gia. Kết quả cho thấy: 11.9% được đánh giá có nguy cơ nghiện Internet,

3.0% được đánh giá nghiện internet [106].

Tại Nhật Bản, nghiên cứu trên 853 học sinh từ 12 đến 15 tuổi cho thấy

khoảng 2% được chẩn đoán là nghiện Internet [64]. Gần đây, một cuộc khảo

10

sát dịch tễ học lớn của Morioka và cộng sự (2016) đã báo cáo rằng tỷ lệ sử

dụng Internet có vấn đề ở học sinh là 8,1% [90].

Shek và cộng sự (2012) tiến hành khảo sát theo chiều dọc tại 28 trường

trung học ở Hồng Kông, được đánh giá 2 lần/năm, mẫu lần 1 là: 3328 học

sinh, lần 2: 3580 học sinh. Kết quả cho thấy lần 1 có: 26,4% được chẩn đoán

nghiện Internet, lần 2: 26,7% được chẩn đoán là nghiện Internet. Nghiên cứu

cũng cho thấy những học sinh được chẩn đoán nghiện Internet ở lần 1 có khả

năng nghiện Internet cao hơn 7,55 lần so với học sinh được chẩn đoán nghiện

Internet ở lần 2 [101].

Tại Đài Loan, nhiều tác giả nghiên cứu cho thấy có khoảng từ 10,8%

đến 23,4% học sinh được chẩn đoán là nghiện Internet [68][69] [70] [123]

[124] [79] [125] [81].

Nghiên cứu tại Qatar (2013) trên 1624 học sinh từ 12-18 tuổi. Kết quả

cho thấy: Tỷ lệ nghiện Internet là 19,8% [27].

Tại Ấn Độ, Goel D và cộng sự (2013) nghiên cứu trên 987 thanh thiếu

niên ở Ấn Độ với độ tuổi trung bình 16,82. Kết quả cho thấy 0,7% được chẩn

đoán nghiện internet [50].

Một nghiên cứu tại Singapore trên 2735 thanh thiếu niên, độ tuổi trung

bình là 13,9. Kết quả cho thấy: 17,1% thanh thiếu niên báo cáo sử dụng nó

trong hơn 5 giờ mỗi ngày và được đánh giá là sử dụng Internet quá mức [92].

1.1.2. Những công trình nghiên cứu tại Việt Nam

Việt Nam là quốc gia với với khoảng xấp xỉ 93.6 triệu dân [120], đứng

thứ 2 khu vực Đông Nam Á và thứ 14 thế giới. Tỷ lệ người dùng Internet đã

tăng lên đáng kể, chẳng hạn như đến tháng 1 năm 2017, Việt Nam có 50.05

triệu người dùng Internet chiếm 53% dân số, và tỷ lệ tăng là 6% so với năm

2016. Tỷ lệ người sử dụng Internet ở Việt Nam được xem là ở mức cao trên

thế giới với 46 triệu người dùng mạng xã hội, chiếm 48% dân số [44].

11

Khoảng 83% sinh viên chơi trò chơi trực tuyến khi truy cập Internet theo

báo cáo của nhóm tác giả tại Trung tâm nghiên cứu Phụ Nữ (ĐH Quốc Gia Hà

Nội). Nghiên cứu cho thấy người dùng phải đối mặt với các vấn đề về nhận

thức, xúc cảm, tình cảm và hành vi khi chơi trò chơi trực tuyến. Tuy vậy, đa

phần phụ huynh không quan tâm đến những ảnh hưởng tiêu cực mà trò chơi trực

tuyến mang đến cho trẻ [8].

Báo cáo của Hồ Thị Luyến, Viện Nghiên cứu phát triển Tp.HCM

(2007) cho thấy nghiện game online đang trở thành hiện tượng cần phải được

cảnh báo đến xã hội, khi các em chơi game online không chỉ đơn thuần giải

trí mà dần cho thấy sự lệ thuộc vào trò chơi dẫn đến không tự điều chỉnh

được thói quen chơi trò chơi trực tuyến của mình. Hậu quả là kết quả học

tập bị ảnh hưởng cùng với các vấn đề tâm lý xã hội khác [11].

Tác giả Nguyễn Thị Phương Thảo (2008) cho rằng nguyên nhân

nghiện game thường là do thiếu quan tâm của gia đình, lôi kéo của bạn bè

cùng với sự hấp dẫn của các loại hình Game online. Những tác động đã được

tác giả liệt kê như vấn đề hành vi học tập, sức khỏe, giờ giấc sinh hoạt, đạo

đức của học sinh trong và sau khi chơi game [16].

Lê Minh Công (2009, 2010) gợi ý rằng, Internet đã thực sự trở thành

yếu tố gây nghiện như là các loại hình nghiện truyền thống khác và xảy

ra ở nhiều lứa tuổi khác nhau. Bên cạnh đó còn có xuất hiện đồng bệnh với

nhiều rối loạn sức khỏe tâm thần khác, đặc biệt là trầm cảm và rối loạn lo âu

đối với người lạm dụng internet nên việc điều trị cho nhóm này là một vấn đề

khó khăn và cần phải sử dụng đa trị liệu. Điều này không chỉ được phát

hiện ở Việt Nam mà còn ở nhiều nước khác trên thế giới [3][4][5].

Lê Minh Công (2011) đã tiến hành nghiên cứu về thực trạng nghiện

Internet ở các em học sinh thuộc khối THCS tại Đồng Nai. Kết quả cho

thấy: có khoảng 12,3% được đánh giá là nghiện Internet theo các cấp độ.

12

Đồng thời, những học sinh bị nghiện internet ở mức độ vừa và nhẹ có đáp

ứng đáng kể sau khi được trị liệu nhận thức hành vi (CBT) [5].

Do đặc thù, Internet trở thành nguồn cung cấp thông tin tình dục, giới

tính, là nơi thanh thiếu niên có thể hẹn hò, nảy sinh cảm xúc và tình yêu và là

yếu tố tác động đến nhân dạng và hành vi tình dục ở thanh thiếu niên Việt

Nam [93].

Đề tài “Khảo sát xã hội về dịch vụ trò chơi trực tuyến ở Việt Nam

trong bối cảnh hội nhập quốc tế ” (2010) của Viện xã hội học do TS Trịnh

Hòa Bình làm chủ nhiệm được thực hiện trên phạm vi 6 tỉnh, thành Hà

Nội, TP.HCM, Đà Nẵng, Cần Thơ, Đồng Nai và Hải Dương với 1.320

người tham gia. Theo kết quả khảo sát, mức độ chơi game online phụ thuộc

vào nghề nghiệp, giới tính, độ tuổi. Cụ thể, lứa tuổi 16-20%, nhóm tuổi đã

có khả năng nhận thức đầy đủ về các hành vi của mình, có số lượng tham

gia nhiều nhất với 42. Tiếp đến là nhóm tuổi 10-15 chiếm 26,3%; trong khi

nhóm tuổi từ 26-30 chỉ chiếm 9,5% số người được hỏi. Báo cáo này cũng

cho biết, 34% người chơi game online với tần suất hàng ngày; 25% số người

chơi với tần suất 3-4 lần/tuần; tỷ lệ người trả lời chơi ở mức độ một vài lần

trong tháng chiếm tỷ lệ không đáng kể. Nhóm nghiên cứu cho rằng nếu căn

cứ theo tiêu chí của WHO thì tỷ lệ người có dấu hiệu “nghiện” game online

chỉ 5,2%; trong khi 69,3% không có các biểu hiện nào của tiêu chuẩn nghiện

[2].

Đề tài “Tương quan giữa mức độ sử dụng Internet và các vấn đề về

sức khỏe tâm thần ở học sinh Trung học cơ sở” năm 2013 của Nguyễn Thị

Phương cho thấy có khoảng 10% học sinh THCS sử dụng Internet thường

xuyên. Nghiên cứu chỉ ra rằng mức độ sử dụng Intrernet có tương quan với

các vấn đề về sức khỏe tâm thần như: trầm cảm, lo âu, hành vi hung

tính….[13].

13

Đề tài “Nghiện Internet và chất lượng giấc ngủ của thanh thiếu niên

Việt Nam” năm 2017 do Trần Xuân Bách và cộng sự cho thấy có khoảng

21,2% người tham gia được chẩn đoán là nghiện Internet [111].

1.2. Nghiên cứu về mối liên hệ giữa việc sử dụng Internet với trầm cảm,

lo âu, stress

1.2.1. Nghiên cứu về mối liên hệ giữa việc sử dụng Internet với các vấn đề

sức khoẻ tâm thần

Cooper (2002) nghiên cứu trên cộng đồng thanh thiếu niên từ 12 - 18

tuổi tại Phần Lan, cho thấy có khoảng 9% thanh thiếu niên rơi vào tình trạng

nghiện hành vi tình dục trực tuyến (Cooper, 2002).

Choi K và cộng sự (2009) nghiên cứu trên 2336 học sinh trung học ở

Hàn Quốc cho thấy những người nghiện Internet gặp các vấn đề liên quan đến

giấc ngủ (37,7%) [38]. Theo thống kế, ở Hàn Quốc năm 2007 đã có 10

trường hợp đột tử do gián đoạn tuần hoàn máu vì ngồi chơi game quá lâu

[20].

Cao H và cộng sự (2011) đã tiến hành một nghiên cứu cắt ngang để ước

tính tỷ lệ sử dụng Internet có vấn đề và mối liên hệ của nó với các triệu chứng

tâm lý và sự hài lòng cuộc sống giữa các thanh thiếu niên ở Trung Quốc đại

lục. Kết quả cho thấy: so với người dùng internet bình thường, thanh thiếu

niên sử dụng internet có nhiều khả năng bị các triệu chứng tâm thần (p

<0,001), bao gồm thiếu năng lượng, rối loạn sinh lý, suy giảm miễn dịch, triệu

chứng cảm xúc, triệu chứng hành vi và các vấn đề thích ứng xã hội. Nghiên

cứu kết luận rằng có mối liên hệ đáng kể giữa việc sử dụng internet có vấn đề

và các triệu chứng tâm thần [33].

Koyuncu và cộng sự (2014) đã tiến hành một nghiên cứu cắt ngang về

đánh giá nghiện internet và sự cô đơn giữa học sinh trung học cơ sở và trung

học phổ thông ở Anatolia, Thổ Nhĩ Kỳ tuổi từ 11 đến 19. Kết quả cho thấy:

những học sinh béo phì; là người bận rộn, nhiệt tình, nóng nảy và thiếu kiên

14

nhẫn; lần đầu tiên sử dụng internet trước 12 tuổi; sử dụng internet mỗi ngày

và sử dụng internet hơn 2 giờ mỗi ngày là các yếu tố nguy cơ gây nghiện

internet (p <0,05). Một mối tương quan tích cực đã được tìm thấy giữa nghiện

internet và sự cô đơn (rs = 0.121; p <0,001) [73].

Lin I.H và cộng sự, (2014) đã tiến hành một nghiên cứu cắt ngang về

mối tương quan giữa ý tưởng tự tử và tự sát với nghiện internet ở nhóm từ 12-

18 tuổi ở Đài Loan. Nghiên cứu cho thấy nghiện internet có liên quan đáng kể

với ý tưởng tự sát và tự sát, thanh thiếu niên nghiện internet có nguy cơ cao

về ý tưởng tự sát hơn những người không có nghiện internet [80].

Ozturk C và cộng sự (2015) đã tiến hành một nghiên cứu mô tả cắt

ngang để phân tích các đặc điểm tính cách và nghiện internet của 328 thanh

thiếu niên theo học hai trường trung học ở vùng Aegean của Thổ Nhĩ Kỳ.

Nghiên cứu xác định rằng những học sinh có tính cách cởi mở, có trải nghiệm

có nguy cơ nghiện Internet gấp 1,79 lần với nhóm khác [95].

Ngoài ra, việc sử dụng Internet quá mức của thanh thiếu niên đã được

tìm thấy làm trầm trọng thêm các hành vi chống đối xã hội (di Gennaro &

Dutton, 2007) [43].

Zhang và cộng sự (2017), nghiên cứu trên 566 học sinh, độ tuổi từ 15

đến 25 cho thấy những người được chẩn đoán là nghiện Internet có khoảng

26,7% gặp khó khăn liên quan đến giấc ngủ, 77,2% đã phải tìm kiếm các dịch

vụ hỗ trợ về y tế [128].

1.2.2. Nghiên cứu mối liên hệ giữa việc sử dụng Internet với các vấn đề về

trầm cảm, lo âu, stress

Carli và cộng sự (2013), đã sử dụng chức năng tìm kiếm bằng cách sử

dụng cơ sở dữ liệu trên: MEDLINE, Psyc ARTICLES, PsychInfo và Web of

Science với trên 20 nghiên cứu riêng biệt. Kết quả cho thấy rằng 75% các

nghiên cứu đó cho thấy mối liên quan đáng kể giữa sử dụng Internet có vấn

đề và trầm cảm, 57% sử dụng Internet có vấn đề và rối loạn lo âu, 100% sử

15

dụng Internet có vấn đề và vấn đề tăng động giảm tập trung và 60% sử dụng

Internet có vấn đề với các triệu chứng ám ảnh cưỡng chế, ám ảnh xã hội và

66% sử dụng Internet có vấn đề với thái độ thù địch/ hành vi xâm kích [35].

Kim and cộng sự (2006), nghiên cứu về mối quan hệ nghiện Internet

với trầm cảm và ý tưởng tự sát trên 1573 thanh thiếu niên Hàn Quốc. Kết quả

cho thấy, 1,6% được chẩn đoán là nghiện Internet, 38% được phân loại là có

thể nghiện Internet. Tỷ lệ nghiện Internet không thay đổi theo giới tính. Mức

độ trầm cảm và ý tưởng tự tử là cao nhất trong nhóm nghiện Internet. Nghiên

cứu lưu ý rằng nghiện Internet có liên quan đến trầm cảm và hành vi tự sát

[65].

Yen CF và cộng sự (2007) đã tiến hành một nghiên cứu mô tả về mức

độ nghiêm trọng của các triệu chứng nghiện internet với các triệu chứng lo âu,

trầm cảm và lòng tự trọng trong thanh thiếu niên với rối loạn chú ý/ tăng động

(ADHD) ở thanh thiếu niên ở Đài Loan. Nghiên cứu cho thấy: các vấn đề lo

âu, trầm cảm và lòng tự trọng có liên quan đáng kể với các triệu chứng nghiện

internet [123].

Lam L.T và cộng sự (2009) đã tiến hành một nghiên cứu cắt ngang dựa

trên mẫu dân số là các học sinh trung học từ 13 – 18 tuổi tại Quảng Châu về

các yếu tố liên quan đến nghiện internet. Kết quả nghiên cứu cho thấy các vấn

đề liên quan đến stress có liên quan đến việc nghiện internet [76].

Bakken và cộng sự (2009), nghiên cứu về mức độ sử dụng Internet trên

3399 người tại Na Uy trên nhóm tuổi từ 17 đến 74. Nghiên cứu chỉ ra rằng:

nghiện Internet có liên quan đến thời gian trực tuyến, các rối lọan về giấc ngủ,

trầm cảm và các vấn đề tâm lý khác [24].

Weinstein và cộng sự (2010) đã tiến hành cuộc điều tra ở Mỹ và Châu

Âu, kết quả cho thấy tỷ lệ từ 1,5 % đến 8,2% được chẩn đoán là nghiện

Internet. Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng nghiện Internet có quan hệ với các rối

16

loạn tâm thần, bao gồm: rối loạn trầm cảm, rối loạn lo âu, rối loạn tăng động

giảm chú ý [109]

Ha JH và cộng sự (2013) đã nghiên cứu mối quan hệ giữa trầm cảm và

nghiện Internet trong thanh thiếu niên tại Hàn Quốc. Nghiên cứu này cho thấy

một mối liên hệ đáng kể giữa nghiện Internet và các triệu chứng trầm cảm ở

thanh thiếu niên [57].

Một nghiên cứu được thực hiện bởi Sara Thomée Mats Eklöf và cộng

sự (2007) đã đánh giá liệu số lượng thông tin và công nghệ truyền thông

(ICT) cao có phải là yếu tố nguy cơ phát triển các triệu chứng tâm lý trong

giới trẻ hay không. Kết quả cho thấy rằng gửi thư điện tử và trò chuyện trực

tuyến có liên quan đến các triệu chứng trầm cảm [110].

Năm 2010, Morrison C.M. Gore đã khám phá khái niệm nghiện

Internet và kiểm tra mối quan hệ giữa các triệu chứng gây nghiện và trầm

cảm. Một bảng câu hỏi trực tuyến được sử dụng để đo lường việc sử dụng

Internet của người tham gia, các chức năng mà họ sử dụng Internet và các

khuynh hướng trầm cảm của họ. Kết quả cho thấy nghiện Internet có liên

quan đến trầm cảm [91].

TtuncaAy và cộng sự (2010) đã nghiên cứu ảnh hưởng của mức độ

nghiện internet lên trầm cảm, cô đơn và lòng tự trọng của học sinh trung học.

Kết quả cho thấy mối quan hệ tích cực, trung bình và có ý nghĩa với nghiện

internet đã xuất hiện khi các biến trầm cảm, cô đơn và kém tự tin được xem

xét cùng nhau [114].

Mashhor N.Al-hantoushi, Saad H. Al-abdullateef (2013) tiến hành

nghiên cứu trên 716 học sinh trung học, từ 15 đến 18 tuổi tìm hiểu về mối liên

hệ giữa nghiện Internet với trầm cảm. Kết quả cho thấy nghiện Internet có

liên quan đến việc giảm hoạt động ở trường, kết quả học tập giảm sút, sử

dụng internet nhiều hơn, mức độ kiểm soát của cha mẹ thấp hơn và mức độ

trầm cảm cao hơn [86].

17

Subramanyam A và cộng sự (2013) đã tiến hành một nghiên cứu cắt

ngang về tỷ lệ nghiện internet và các vấn đề về tâm lý trên 681 học sinh nữ,

306 học sinh nam, độ tuổi trung bình 16,82. Kết quả cho thấy, những học sinh

sử dụng internet quá mức gặp các vấn đề liên quan đến rối loạn lo âu và trầm

cảm [105].

Yadav P và cộng sự (2013) đã tiến hành một nghiên cứu sơ bộ trên

internet nghiện và tương quan của nó với các đặc điểm giáo dục - xã hội, kiểu

sử dụng internet và các biến tâm lý cụ thể là trầm cảm, lo âu và căng thẳng

trong số 552 học sinh khối 11 và 12 của sáu trường trung học ở Ahmedabad,

Ấn Độ tham gia vào nghiên cứu. Kết quả cho thấy có mối tương quan thuận

mạnh mẽ giữa nghiện internet và trầm cảm, lo âu, căng thẳng [122].

Tang J và cộng sự (2014) đã tiến hành nghiên cứu ngẫu nhiên với 755

học sinh là người dùng Internet ở Vũ Hán, Trung Quốc để đánh giá tỷ lệ

nghiện internet và sự liên kết của nó với các sự kiện căng thẳng trong cuộc

sống và triệu chứng tâm lý. Phân tích hồi quy cho thấy vấn đề liên quan đến

cá nhân, vấn đề liên quan đến trường học và các triệu chứng lo âu là liên quan

đáng kể với nghiện internet [107].

Lai và cộng sự (2015) tiến hành khảo sát về hành vi rủi ro trên 5366

thanh thiếu niên ở độ tuổi từ 12 đến 18 tại 6 quốc gia Châu Á (Trung Quốc,

Hồng Kông, Nhật Bản, Hàn Quốc, Malaysia, Philippines) đã tìm thấy mối liên

hệ đáng kể giữa nghiện Internet với lo âu xã hội và trầm cảm [75].

Park S và cộng sự (2013) đã tiến hành một nghiên cứu mô tả trên 795

học sinh ở Hàn Quốc về mối liên hệ giữa việc sử dụng internet có vấn đề với

trầm cảm, ý tưởng tự tử và các triệu chứng rối loạn lưỡng cực. Nghiên cứu kết

luận rằng: việc sử dụng internet có vấn đề có liên quan đáng kể đến ý tưởng

tự tử, trầm cảm và rối loạn lưỡng cực. Phân tích hồi quy cho thấy: sử dụng

internet có vấn đề cũng dự đoán đáng kể các triệu chứng trầm cảm; dự đoán ý

18

tưởng tự tử. Ngược lại, các triệu chứng trầm cảm và ý tưởng tự tử cũng dự

đoán việc sử dụng internet có vấn đề [96].

Jang K.S và cộng sự (2008) đã tiến hành một nghiên cứu về các yếu tố

liên quan với nghiện internet và xem xét các triệu chứng tâm thần ở thanh

thiếu niên ở Seoul, Hàn Quốc với 912 học sinh tham gia. Kết quả phân tích

hồi quy logistic đa biến cho thấy rằng việc dành thời gian sử dụng Internet

quá lâu có liên quan đáng kể với nghiện Internet. Nghiên cứu kết luận rằng có

một mối liên hệ đáng kể giữa nghiện internet và các triệu chứng tâm thần là

triệu chứng ám ảnh cưỡng bức và trầm cảm [60].

Fu K.W và cộng sự (2010) đã tiến hành một nghiên cứu trong vòng 1

năm được chia làm 2 lần với mục đích kiểm tra thực trạng nghiện internet,

đánh giá sự tương quan của nó với các triệu chứng của nghiện internet, ý

tưởng tự tử, triệu chứng tâm thần trên 208 thanh thiếu niên, tuổi từ 15-19, ở

Hồng Kông, Trung Quốc. Nghiên cứu kết luận rằng nghiện internet và các

triệu chứng liên quan đến ý tưởng tự sát và trầm cảm của cá nhân [49].

Cheung L.M và cộng sự (2011) đã tiến hành một nghiên cứu trên 719

thanh thiếu niên với độ tuổi trung bình 14,7 về ảnh hưởng của chứng mất ngủ,

nghiện internet và trầm cảm ở trẻ vị thành niên ở Hồng Kông. Kết quả cho

thấy có 51,7% thanh thiếu niên có vấn đề về mất ngủ. Bên cạnh đó nghiên

cứu cho thấy nghiện internet và chứng mất ngủ nổi lên như các yếu tố giải

thích đáng kể, gây ảnh hưởng lên vấn đề trầm cảm [37].

Ostovar và cộng sự (2016) tiến hành nghiên cứu trên 1052 thanh thiếu

niên tại Iran về mối quan hệ giữa Nghiện Internet với stress, trầm cảm, lo âu.

Kết quả cho thấy Nghiện Internet là một yếu tố dự báo về stress, trầm cảm, lo

âu và cô đơn, có sự khác biệt về mức độ trầm cảm, lo âu, stress giữa nam và

nữ [94].

Li JB và cộng sự (2017) nghiên cứu trên 1015 học sinh trung học ở

Trung Quốc cho thấy có 23,5% học sinh được chẩn đoán gặp vấn đề về trầm

19

cảm ở mức độ vừa, 13,4% có vấn đề trầm cảm ở mức nghiêm trọng. Nghiên

cứu cũng chỉ ra rằng mất ngủ là yếu tố trung gian làm tăng nguy cơ trầm cảm

ở người nghiện Internet [78].

Nghiên cứu của Trần Xuân Bách và cộng sự (2017) trên 566 học sinh

độ tuổi từ 15 đến 25 cho thấy: Những người được đánh giá là nghiện Internet

có nhiều khả năng gặp vấn đề với việc tự chăm sóc bản thân, khó thực hiện

thói quen hàng ngày, bị đau và khó chịu, lo âu và trầm cảm [111].

1.3. Một số vấn đề lý luận về Internet

1.3.1. Khái niệm Internet

Internet được thành lập vào đầu những năm 1960 và sau đó trở thành

phương tiện truyền thông chính thống (Moschovitis, Polle, Schuyler, & Senft,

1999; Schneider và cộng sự, 2006). Kể từ thời điểm đó, đã có sự tăng trưởng

đáng kể trong chức năng, khả năng, khả năng truy cập và thuận tiện của

Internet. Những cải tiến này đã khuyến khích nhiều người sử dụng nó thường

xuyên hơn và nó đã trở nên mạnh mẽ ứng dụng trong xã hội hiện đại. Người

ta tin rằng các tính năng đặc biệt của Internet, chẳng hạn như tốc độ, khả năng

tiếp cận, cường độ và kích thích nội dung của nó, góp phần vào nghiện

Internet (Greenfield, 1999) [54]. Ngoài ra, Chou (2001) chỉ ra rằng các tính

năng Internet được đánh giá cao nhất bao gồm tương tác, đơn giản, sẵn có, và

thông tin phong phú và cập nhật. Trên thực tế, sự hấp dẫn của Internet đã tăng

lên nhờ vào tính khả dụng, khả năng tiếp cận và khả năng chi trả của Internet.

Việc phát triển các giao diện thân thiện cung cấp cho người dùng quyền truy

cập dễ dàng hơn và thoải mái hơn [39]. Tính đến năm 2017, 48% dân số thế

giới đã sử dụng dịch vụ Internet (Liên minh viễn thông thế giới (ITU).

2017a).

Internet là một hệ thống mạng được liên kết với máy tính lớn được sử

dụng trên toàn cầu truy cập và truyền đạt thông tin, bởi người dùng máy tính

cá nhân hoặc doanh nghiệp; nó cũng được sử dụng cho giao tiếp, nghiên cứu,

20

giải trí, giáo dục và giao dịch kinh doanh (Kraut, et al., 1998; Schneider, et

al., 2006). Ngày nay, Internet có thể liên kết tất cả các máy tính trực tuyến để

mọi người có thể sử dụng nó để giao tiếp trên khắp thế giới (Schneider và

cộng sự, 2006).

Những tác dụng của việc sử dụng Internet:

- Truy cập một “thư viện” khổng lồ của thông tin từ hàng triệu trang

web trên toàn thế giới tạo nên World Wide Web;

- Trao đổi tin nhắn email

- Chia sẻ hình ảnh và video clip với bạn bè và gia đình của bạn

- Mua hàng hóa và dịch vụ (và thường tiết kiệm tiền !)

- Sử dụng các dịch vụ trực tuyến (ngân hàng)

- Sử dụng ứng dụng để gọi điện miễn phí cho người dùng máy tính

khác (ví dụ : Skype)

- Chơi trò chơi với những người khác trực tuyến

- Bắt kịp các chương trình truyền hình và radio mà bạn đã bỏ lỡ - hoặc

xem lại

- Học một cái gì đó mới với một khóa học trực tuyến [129].

1.3.2. Khái niệm mức độ sử dụng Internet

Tại Mỹ, một nhà nghiên cứu tiên phong trong lĩnh vực này là Tiến sĩ

Kimberley Young, người lần đầu tiên xuất bản một nghiên cứu điển hình về

một phụ nữ 43 tuổi nghiện email (Young 1996). Tiếp theo là nghiên cứu

nghiện Internet đầu tiên (Young 1998b) thu thập khoảng 600 trường hợp

những người gặp vấn đề trong cuộc sống hàng ngày của họ vì họ không thể

kiểm soát Internet sử dụng. Nghiên cứu nghiện Internet ở châu Âu được

khởi xướng bởi Griffiths's về nghiện ngập công nghệ (Griffiths 1995).

Ngay sau khi công bố khái niệm về “Nghiện” đã bắt đầu một cuộc

tranh luận cả trong lĩnh vực lâm sàng và học thuật. Nhiều ý kiến tranh uận

cho rằng chỉ có những chất được đưa từ bên ngoài vào cơ thể mới có thể

21

được gọi là “nghiện”. Nhiều ý kiến cho rằng thuật ngữ nghiện (addiction)

chỉ nên được đưa vào những trường hợp liên quan đến dùng ma túy, thuốc

phiện (Rachlin, 1990; Walker,1989), đánh bài quá mức (Griffiths, 1990),

chơi trò chơi quá mức (Keeprs, 1990), ăn quá nhiều (Leisuire & Bloome,

1993), thể dục (Morgan, 1997), quan hệ tình dục (Peele & Brody, 1975) và

xem ti vi (Winn, 1983).

Hiện tại, không có sự đồng thuận cho một danh pháp nhất quán với

một số thuật ngữ được đề xuất khác nhau là: Internet phụ thuộc (teWildt

2011), sử dụng Internet bệnh lý (Morahan 2000), sử dụng Internet có vấn đề

(Davis và cộng sự, 2002), sử dụng máy tính cưỡng bức (Black et al.

1999)….Mặt khác, tham chiếu đến Internet như một phương tiện gây nghiện

không phù hợp khi xem xét rằng nhiều người dùng Internet quá mức không

phải là những người nghiện Internet, nhưng sử dụng Internet như một

phương tiện để gây nghiện (Griffiths 1999). Do đó, đã có một số đề xuất

khác nhau về phân loại Nghiện Internet.

Griffiths (1996) đề xuất cụm từ phụ thuộc hành vi Internet (Internet

behavior dependence) để nói về tình trạng nghiện Internet với 6 tiêu chuẩn

để đánh giá như một tình trạng nghiện thông thường bao gồm sự nổi bật,

thay đổi cảm xúc, sức chịu đựng, triệu chứng rút lui, xung đột và sự tái phát

[55].

Thuật ngữ sử dụng Internet bệnh lý (Pathological Internet Use) được

đưa ra bởi Young (1999) dựa trên khái niệm rối loạn kiểm soát xung động

(Impulse control disorder) để giải thích về nghiện Internet. Young cũng đưa

ra 9 triệu chứng của một người mắc chứng sử dụng Internet bệnh lý và phân

chia nghiện Internet thành 5 dạng khác nhau gồm: (1) Nghiện tình dục trực

tuyến; (2) Nghiện quan hệ trực tuyến; (3) Sự cưỡng bách Net; (4) Quá tải

thông tin và (5) Nghiện máy tính [126].

22

Thuật ngữ rối loạn nghiện Internet (Internet addiction disorder) lần

đầu được phát biểu bởi Goldberg (1996) vốn phát triển từ khái niệm rối loạn

sử dụng chất (Substance use disorder) để giải thích cho vấn đề nghiện

Internet. Dai dẳng thèm muốn; sức chịu đựng; triệu chứng cai và các hậu

quả tiêu cực là các tiêu chuẩn chẩn đoán được Goldberg sử dụng [51].

Shapira và cộng sự (2003) thì đề xuất thuật ngữ có vấn đề về sử

dụng Internet (Problematic Internet Use) vốn dựa trên khái niệm chuẩn

đoán là rối loạn kiểm soát xung động (Impulse Control Disorder) để giải

thích cho vấn đề nghiện Internet. Các tiêu chuẩn chẩn đoán gồm: sự bận tâm

với Internet dai dẳng; những dấu hiệu khó khăn có ý nghĩa về mặt lâm sàng

hay sự sa sút chức năng [100].

Ko và cộng sự (2005) đưa ra thuật ngữ nghiện Internet (Internet

addiction) từ khái niệm chuẩn đoán là nghiện hành vi (behavioral addiction)

và rối loạn kiểm soát xung lực (Impulse control disorder) để giải thích về

nghiện Internet. Nghiện Internet được đặc trưng bởi 9 triệu chứng [66].

Ngoài ra, Davis (2001) đề xuất một mô hình nhận thức và hành vi lý

thuyết về sử dụng Internet bệnh lý (PIU). Mô hình phân biệt giữa nghiện

ngập với Internet so với nghiện ngập trên Internet thông qua hai loại sau:

[42]

- Sử dụng Internet bệnh lý tổng quát (GPIU) - một sự lạm dụng quá

mức chung vào Internet nó có thể bao gồm thời gian lãnh phí trực tuyến mà

không có bất kỳ mục tiêu cụ thể nào;

- Sử dụng Internet bệnh lý cụ thể (SPIU) - Sử dụng Internet bệnh lý

cụ thể bao gồm những người phụ thuộc vào chức năng cụ thể của Internet,

bao gồm lạm dụng (lạm dụng) tài liệu/ dịch vụ tình dục trực tuyến, dịch vụ

đấu giá trực tuyến, chứng khoán trực tuyến, giao dịch và cờ bạc trực tuyến.

23

Với sự phân loại về sử dụng Internet bệnh lý này có thể được coi là

nghiện Internet, trong khi sử dụng Internet bệnh lý cụ thể có thể được coi là

nghiện ngập trên Internet (Griffiths & Pontes 2014).

Xét ở khía cạnh nào đó, việc sử dụng Internet mang lại nhiều lợi ích

khác nhau cho các khía cạnh khác nhau của cuộc sống hàng ngày; nó tạo điều

kiện cho doanh nghiệp và tăng năng suất, nó được sử dụng cho một phổ mục

đích giáo dục và nó cho phép giao tiếp dễ dàng hơn. Nghiên cứu cho thấy

rằng hoạt động giáo dục là bài tập ở nhà, tìm kiếm thông tin hữu ích hoặc tìm

kiếm thông tin y tế không liên quan đến nghiện Internet [45] [115]. Ngoài ra,

Tsitsika & Janikian (2014) kết luận rằng thanh thiếu niên sử dụng internet cho

mục đích giáo dục và nghiên cứu ít có khả năng nghiện Internet [113].

Tổng quan các nghiên cứu về sử dụng Internet cho thấy các nghiên cứu

về sử dụng Internet, nghiện Internet (Beard & Wolf, 2001; Goldberg, 1995;

Neumann, 1998; Soule & Kleen, 2003; Stanton, 2002; Young, 1998a) đã xác

định các triệu chứng sau đây có thể được tổ chức thành ba nhóm: tác động về

hành vi, thể chất và tinh thần và xã hội liên quan đến triệu chứng nghiện

Internet [77].

Nhóm Triệu chứng

 Độ dung nạp: Nhu cầu tăng về thời gian trực

tuyến

 Số lượt truy cập và thời gian truy cập dài hơn

 Dành rất nhiều thời gian cho các hoạt động liên

quan đến Internet. Hành vi

 Nói không đúng về thời gian sử dụng Internet

 Luôn phải bận tâm về việc sử dụng Internet

 Sử dụng Internet để thoát khỏi các vấn đề khác

 Duy trì việc sử dụng Internet bất chấp sự ảnh

24

hưởng về vấn đề vật chất, xã hội, nghề nghiệp

hoặc tâm lý có thể gây ảnh hưởng do sử dụng

Internet.

 Hội chứng thoái lui: Trong trạng thái lo âu, suy

nghĩ ám ảnh về việc sử dụng Internet và những

giấc mơ về Internet.

 Có mong muốn kiểm soát hoặc cắt giảm việc sử

dụng Internet Thể chất và tinh thần  Có các vấn đề về: huyết áp, căng thẳng tim mạch,

khó khăn về ghi nhớ, thiếu tập trung, nhức đầu,

đau dạ dày và cơ bắp, thị lực yếu đi

 Giảm hoạt động, hờ hững với mọi thứ, mất ngủ,

hoảng loạn, cáu kỉnh và tức giận

 Các hoạt động xã hội, nghề nghiệp hoặc giải trí

quan trọng bị từ bỏ vì sử dụng Internet.

Ảnh hưởng xã hội  Tăng căng thẳng và áp lực, giảm năng suất khi

làm việc

 Ngày làm việc dài hơn và ít thời gian giải trí

1.3.3. Tiêu chuẩn đánh giá mức độ sử dụng Internet

1.3.3.1. Tiêu chuẩn của Sue Fisher (1994)

Fisher (1994) đã đưa ra khái niệm nghiện trò chơi điện tử (Video game

Addiction) có nhiều điểm tương đồng với nghiện Internet dựa trên tiêu chuẩn

của đánh bạc bệnh lý có trong DSM- IV . Ông đề nghị và đưa ra ký hiệu mới

dựa trên DSM - IV là DSM-IV-JV (trong đó: J là Juvenile - thanh thiếu niên;

V là arcade video game - trò chơi máy tính). Theo Fisher, để đánh giá nghiện

ở một người cần dựa trên ít nhất 4/ 9 tiêu chuẩn liên quan đến: (1) Trở nên

quá bận tâm với việ sử dụng máy tính; (2) Chi phí bỏ ra để đạt được sự thoả

25

mãn khi chơi trò chơi nhiều hơn; (3) Có sự thay đổi về cảm xúc, tâm trạng

khi bị cắt hay dừng tham gia các trò chơi; (4) Tìm cách thoát ra khỏi những

vấn đề hay những trạng thái cảm xúc không thể chịu đựng bằng việc sử dụng

máy tính; (5) Đem lại được những thành tích về điểm số hay đạt được phần

thưởng sau khi tiêu tốn tiền vào trò chơi máy tính; (6) Có các hành vi để bảo

vệ, che đậy hành vi chơi trò chơi máy tính; (7) Gặp các vấn đề liên quan đến

pháp luật hoặc khó thích nghi với xã hội; (8) Gặp các vấn đề liên quan đến

mối quan hệ gia đình, bạn bè, kết quả học tập suy giảm; (9) Tìm kiếm sự trợ

giúp liên quan đến việc hỗ trợ chi phí để tiếp tục chơi máy tính [46].

1.3.3.2. Tiêu chuẩn của Ivan Goldberg (1996)

Ivan Goldberg (1996) cho rằng để đánh giá Nghiện Internet (Internet

Addiction Disorder) cần đáp ứng ít nhất ba (hay nhiều hơn) các triệu chứng

và các triệu chứng phải xuất hiện liên tục trong khoảng thời gian 12 tháng

trước, cụ thể: (1) Các tiêu chuẩn về khả năng chịu đựng; (2) Các tiêu chuẩn

liên quan đến hội chứng cai ; (3) Thất bại trong việc cắt hay kiểm soát việc sử

dụng Internet; (4) Quá bận tâm và dành nhiều thời gian trải nghiệm các hành

vi liên quan đến sử dụng Internet; (5) Suy giảm các hành vi xã hội quan

trọng, nghề nghiệp, giải trí bởi sử dụng Internet; (6) Tiếp tục duy trì việc sử

dụng Internet mặc dù bản thân gặp các vấn đề liên quan đến sức khoẻ, công

việc, các vấn đề tâm lý .... [51].

1.3.3.3. Tiêu chuẩn của Dr. Kimberly S. Young (1996)

Young (1996) đã đư ra một bảng nhằm đánh giá về nghiện Internet với

8 câu hỏi được thay đổi dựa trên tiêu chuẩn đánh bạc bệnh lý có trong DSM-

IV. Theo Young, khi người trả lời “có” ít nhất 5 hoặc hơn trong 8 câu thì có

thể coi là một trường hợp nghiện Internet, cụ thể: [127]

1. Cảm thấy quá bận tâm về Internet ( hay nghĩ về thời gian sử dụng online

trước đây hay nghĩ về hoạt động online kế tiếp)?

26

2. Cảm thấy cần thiết phải tăng việc sử dụng Internet bao gồm tăng cả về

thời gian và mức độ thỏa mãn?

3. Hay gặp thất bại trong quá trình kiểm soát hay cắt giảm hoặc bất ngờ phải

dừng sử dụng Internet?

4. Có các vấn đề liên quan đến cảm xúc, tâm trạng bồn chồn, chán nản, dễ

mệt mỏi, hay nổi cáu khi phải cắt hoặc phải dừng sử dụng Internet?

5. Khó khăn trong việc cắt giảm thời gian sử dụng Internet so với thời gian

dự định?

6. Ảnh hưởng đến mối quan hệ xã hội, chất lượng công việc, vấn đề về học

tập do sử dụng Internet ?

7. Có sự né tránh, giấu diếm về hành vi vi phạm do việc sử dụng Internet?

8. Luôn tìm đến Internet và coi việc sử dụng Internet như là cách giải toả,

thoát khỏi những vấn đề của cuộc sống hay làm giảm nhẹ những cảm xúc tiêu

cực ?

1.3.3.4. Tiêu chuẩn của Beard, K., & Wolf, E. (2001)

Trên cơ sở đánh giá tiêu chuẩn của Young, hai tác giả cho rằng tiêu

chuẩn cho việc nhận diện nghiện Internet phải hội tụ đủ 5 tiêu chuẩn, cụ thể:

[26]

1. Cảm thấy quá bận tâm về Internet (suy nghĩ về hoạt động trực tuyến trước

hay đề cập trước hoạt động kế tiếp)?

2. Cảm thấy cần thiết phải tăng việc sử dụng Internet bao gồm tăng cả về

thời gian và mức độ thỏa mãn?

3. Có sự cố gắng nhưng gặp thất bại trong việc cố gắng kiểm soát, cắt giảm

hoặc đột ngột dừng sử dụng Internet?

4. Gặp các vấn đề về cảm xúc, cảm thấy bồn chồn, buồn chán, mệt mỏi, dễ

nổi cáu khi cố gắng cắt hoặc dừng sử dụng Internet?

5. Khó khăn trong việc cắt giảm thời gian sử dụng Internet so với thời gian

dự định?

27

Trong đó có ít nhất một trong việc đáp ứng các tiêu chuẩn sau:

- Gây hủy hoại hay chịu rủi ro mất các quan hệ có ý nghĩa, công việc, giáo

dục hay cơ hội nghề nghiệp bởi vì sử dụng Internet.

- Có sự né tránh, giấu diếm về hành vi vi phạm với các thành viên trong gia

đình, nhà trị liệu hay người khác để che dấu phạm vi sử dụng Internet của

mình.

- Tìm cách sử dụng Internet, coi đó là cách để thoát khỏi những vấn đề hay

giảm đi những khó khăn cảm xúc (ví dụ như cảm giác của tình trạng không

thể tự lo liệu, tội lỗi, lo âu, trầm cảm).

1.3.3.5. Tiêu chuẩn của Shapira, N., Lessig, M., Goldsmith, T., Szabo, S.,

Lazoritz, M., Gold, M., & Stein, D. (2003)

Theo các tác giả, tiêu chuẩn đánh giá và chẩn đoán việc sử dụng

Internet được xác định bởi các tiêu chuẩn sau: [100]

A. Mối lo âu thích nghi không tốt cùng với sử dụng Internet, nhận diện bởi ít

nhất một trong các tiêu chuẩn sau:

1. Luôn bận tâm và không thể cưỡng lại việc sử dụng Internet

2. Dành quá nhiều thời gian sử dụng Internet so với dự định ban đầu.

B. Gặp các khó khăn hoặc làm suy giảm các mối quan hệ xã hội, nghề nghiệp

hay vi phạm các quy định…do việc sử dụng Internet

C. Sử dụng Internet quá mức không thấy xuất hiện đồng thời trong thời gian

có sự xuất hiện của cơn hưng cảm nhẹ hay một tình trạng nghiện gập và

không xuất hiện nhiều hơn bởi một rối loạn khác trục I.

1.3.3.6. Tiêu chuẩn của Jerald J. Block

Block (2008) nhấn mạnh rằng các triệu chứng của nghiện Internet thể

hiện thực sự ở: (1) Sử dụng Internet một cách quá mức (thường liên quan đến

không xác định được thời gian); (2) Gặp các triệu chứng của hội chứng cai

khi không thể truy cập Internet; (3) Sức chịu đựng sử dụng Internet ngày

28

càng tăng với cảm xúc ham muốn ngày càng phát triển; (4) Phủ nhận hậu quả

xảy ra [28].

1.3.3.7. Tiêu chuẩn của Chih-Hung Ko, Ju-Yu Yen, Sue-Huei Chen, Ming-

Jen Yang, Huang-Chi Lin, Cheng-Fang Yen (2009)

Tại Hàn Quốc, các nhà nghiên cứu thì cho rằng những đặc trưng phân

biệt của nghiện Internet bao gồm: [67]

Khuôn mẫu kém thích nghi của sử dụng Internet, dẫn tới những suy

nghĩ tiêu cực có ý nghĩa về mặt lâm sàng hay những khó khăn xuất hiện liên

tục trong suốt 3 tháng trước đó.

A. Ít nhất là 6 (hoặc nhiều hơn) các triệu chứng xuất hiện trong cùng thời

điểm.

1. Việc bận tâm quá mức với các hoạt động Internet.

2. Gặp thất bại trong việc cố gắng giảm việc sử dụng Internet.

3. Luôn bị thôi thúc phải tăng thời gian sử dụng Internet như một nhu cầu để

đạt được sự thoải mái.

4. Có hội chứng cai, đặc trưng bởi các vấn đề sau:

- Xuất hiện các triệu chứng khó chịu, lo âu, dễ bị kích thích và tâm trạng trở

nên dễ buồn chán sau một thời gian ngắn không sử dụng Internet.

- Sử dụng Internet để tự làm dịu hoặc ngăn chặn sự xuất hiện các triệu chứng

thoát lui.

5. Kéo dài việc sử dụng Internet hơn so với thời gian dự định.

6. Luôn có mong muốn sử dụng Internet hay có những cố gắng nhưng thất

bại để loại bỏ hay giảm sử dụng Internet.

7. Tập trung hoặc dành quá nhiều thời gian trên Internet.

8. Trải qua sự cố gắng quá mức như một hành động cần thiết để dành được

việc truy cập Internet.

9. Vẫn duy trì và tiếp tục sử dụng Internet một cách mạnh mẽ dù biết rằng sẽ

gặp những vấn đề liên quan đến cơ thể và khó khăn tâm lý.

29

B. Xuất hiện việc suy giảm các chức năng: một (hay nhiều hơn) những triệu

chứng hiện thời.

1. Gặp thất bại trong việc thực hiện các nhiệm vụ liên quan trong công việc,

nhà trường hay ở nhà do việc tái diễn việc sử dụng Internet.

2. Suy giả việc tham gia vào các hoạt động xã hội hay giải trí quan trọng.

3. Có các vi phạm liên quan đến pháp luật bởi hành vi sử dung Internet.

C. Hành vi nghiện Internet được so sánh với rối loạn loạn thần kinh chức

năng, rối loạn phân ly tuýt 1, hay rối loạn khác được phân loại trong rối loạn

kiểm soát xung lực và hay rối loạn hanh vi ứng xử trong DSM-IV-TR.

1.3.3.8. Tiêu chuẩn chẩn đoán của Tao và cộng sự 2010

Các tác giả trên cho rằng, tiêu chí chẩn đoán nghiện internet được đề

xuất bao gồm: [108]

A) Tiêu chí triệu chứng: Tất cả những điều sau đây phải có mặt:

- Lo ngại với internet (suy nghĩ về hoạt động trực tuyến trước đó hoặc

dự đoán phiên trực tuyến tiếp theo)

- Thể hiện bởi một tâm trạng khó chịu, lo lắng, khó chịu và chán nản

sau vài ngày mà không có hoạt động internet

Ít nhất một (hoặc nhiều hơn) những điều sau đây:

- Gia tăng sử dụng internet cần thiết để đạt được sự hài lòng

- Mong muốn liên tục và / hoặc cố gắng không thành công để kiểm

soát, cắt giảm hoặc ngừng sử dụng internet

- Tiếp tục sử dụng internet quá mức mặc dù biết có vấn đề về thể chất

hoặc tâm lý liên tục hoặc tái diễn có thể đã gây ra hoặc trầm trọng hơn do sử

dụng Internet

- Mất quyền lợi, sở thích trước đó, giải trí dưới dạng kết quả trực tiếp

và ngoại trừ sử dụng Internet

- Sử dụng internet để trốn thoát hoặc giảm bớt một tâm trạng khó khăn

(ví dụ: cảm giác bất lực, cảm giác tội lỗi, lo lắng)

30

B) Tiêu chí suy giảm đáng kể về mặt lâm sàng

Suy giảm chức năng (giảm khả năng xã hội, học tập, khả năng làm

việc), bao gồm mất cơ hội quan hệ, công việc, giáo dục hoặc nghề nghiệp

đáng kể

C) Tiêu chí khóa học

Thời gian nghiện internet phải kéo dài quá 3 tháng, với ít nhất 6 giờ sử

dụng Internet (không kinh doanh / không học thuật) mỗi ngày.

1.3.3.9. Tiêu chuẩn chẩn đoán theo DSM-5

Trong DSM-5, xuất bản năm 2013 của Hội Tâm thần Mỹ, trong mục

“Các bệnh nghiên cứu thêm” có đưa ra „Rối loạn chơi game internet”

(Internet Gaming Disorder) với tiêu chuẩn chẩn đoán được đề xuất như sau:

[22]

(1) Bận tâm với chơi game internet. (Những suy nghĩ của cá nhân về

hoạt động game lần trước hoặc tham gia game lần sau; chơi game internet trở

nên hoạt động ưu thế trong cuộc sống hàng ngày).

(2) Những triệu chứng thu rút (giống hội chứng cai) khi không được

chơi game internet. (Những triệu chứng này được mô tả điển hình như dễ

kích thích, lo âu, hoặc buồn rầu, nhưng không có dấu hiệu thực thể của hội

chứng cai thuốc)

(3) Sự dung nạp – nhu cầu chơi tăng lên về số lượng thời gian tham gia

game internet.

(4) Những cố gắng để kiểm soát chơi game internet không thành công.

(5) Mất quan tâm hứng thú trong những sở thích và trò vui chơi trước

đây do game internet, và chỉ còn hứng thú với game internet.

(6) Tiếp tục sử dụng một cách thái quá game internet mặc dù biết về

những vấn đề tâm lý xã hội.

(7) Lừa dối những thành viên gia đình, những nhà trị liệu hoặc những

người khác về số lượng chơi game internet

31

(8) Sử dụng game internet để trốn tránh hoặc làm giảm cảm xúc âm

tính (thí dụ, cảm thấy không nơi nương tựa, tội lỗi, lo âu).

(9) Hủy hoại hoặc làm mất mối quan hệ, việc làm quan trọng hoặc học

tập hoặc cơ hội sự nghiệp vì chơi game internet.

Đối chiếu với những tiêu chuẩn nghiện internet của Young, có thể thấy

DSM-5 của Hội Tâm thần Mỹ đã sử dụng tiêu chuẩn của Young cho chẩn

đoán rối loạn chơi game internet trong phân loại bệnh tâm thần.

Theo các nghiên cứu ở trên cho thấy, để có thể xác định một công cụ

tiêu chuẩn để đánh giá nghiện Internet hiện thời là việc khó khăn, chưa có sự

đồng nhất. Tuy nhiên, xét trên bình diện khoa học, nhiều nhà nghiên cứu ở

khắp nơi trên thế giới đã coi việc sử dụng Internet có vấn đề là một tình

trạng nghiện. Theo như đề tài chúng tôi đã trình bày, hiện có hai cách tiếp

cận xây dựng tiêu chuẩn nghiện Internet. (1) tiếp cận vấn đề rối loạn nghiện

chất; (2) tiếp cận vấn đề rối loạn kiểm soát xung lực. Dựa trên các nghiên

cứu và phân loại của một số tác giả, chúng tôi đồng thuận cho rằng nghiện

Internet là một rối loạn kiểm soát xung lực và bản tiêu chuẩn do Young

(1996) đã đề xuất là phù hợp. Về đánh giá mức độ nghiện Internet, chúng tôi

cũng cho rằng, nghiện Internet có hai mức độ theo bản đánh giá rút gọn s-

IAT, bao gồm mức độ nghiện, không nghiện. Đây là căn cứ chúng tôi sử

dụng để phân loại các mức độ sử dụng Internet của đối tượng nghiên cứu

trong đề tài là học sinh trung học.

1.3.4. Trầm cảm

1.3.4.1. Khái niệm

Theo tổ chức Y tế thế giới WHO “Trầm cảm là một rối loạn tâm thần

phổ biến, đặc trưng bởi sự buồn bã, mất đi hứng thú hoặc khoái cảm, cảm

thấy tội lỗi hoặc tự hạ thấp giá trị bản thân, bị rối loạn giấc ngủ hoặc ăn uống

và kém tập trung”. Ngoài ra, trầm cảm thường xuất hiện với các triệu chứng

của lo âu. Các vấn đề trên có thể trở thành mãn tính hoặc tái phát thường

32

xuyên và dẫn tới mất khả năng duy trì các thói quen sinh hoạt và làm việc

hàng ngày [119].

1.3.4.2. Phân loại, tiêu chí chẩn đoán trầm cảm

Theo bảng phân loại bệnh tật quốc tế ICD-10, trầm cảm được chẩn

đoán bởi:

Các triệu chứng chính liên quan đến giảm khí sắc; giảm sự quan tâm,

hứng thú trong mọi hoạt động; mất hoặc giảm năng lượng, cảm thấy dễ mệt

mỏi dù chỉ thực hiện một hoạt động hay cố gắng nhỏ.

Các triệu chứng phổ biến khác kèm theo như: Khó khăn về việc duy trì

tập trung và chú ý; Giảm sút tính tự trọng và lòng tự tin; Luôn bị ám ảnh bởi

các ý tưởng bị tội và không xứng đáng; Mất niềm tin; Có các hành vi hay ý

tưởng gây tổn hại cơ thể; Rối loạn giấc ngủ; Ăn ít ngon miệng

Các triệu chứng sinh học của trầm cảm như: sút cân (5% trong lượng

cơ thể trong 4 tuần), giảm dục năng, ít ngủ, thức dậy sớm, sững sờ…

Dựa vào các triệu chứng trên, có thể phân chia trầm cảm thành 3 mức

độ:

Mức độ nhẹ: Đây là giai đoạn đầu, xuất hiện tối thiểu 2 tuần và chưa có

nhiều trở ngại trong sinh hoạt gia đình, công việc hằng ngày và hoạt động xã

hội.

Mức độ trung bình: Các triệu chứng đặc trưng chủ yếu đặc trưng cho

giai đoạn trầm cảm nhẹ, xuất hiện tối thiểu khoảng 2 tuần và có nhiều khó

khăn trong hoạt động xã hội, nghề nghiệp hoặc công việc gia đình.

Mức độ nặng: Các triệu chứng cơ thể hầu như có mặt thường xuyên;

xuất hiện và kéo dài ít nhất là 2 tuần; ít có khả năng hoạt động xã hội, nghề

nghiệp và công việc gia đình.

Chẩn đoán trầm cảm theo DSM5, trầm cảm được đăch trưng bởi: [22]

Trầm cảm thường khởi phát lặng lẽ, mơ hồ, phần lớn các triệu chứng

biểu hiện khác nhau tùy theo từng người, từng giới tính, độ tuổi, không ai

33

giống ai.. Theo bảng phân loại này, chẩn đoán một người bị trầm cảm khi có

ít nhất 5 trong 9 triệu chứng sau, kéo dài ít nhất hai tuần:

A. Ít nhất 5 trong những triệu chứng sau, xuất hiện cùng lúc, kéo dài 2

tuần làm thay đổi so với hoạt động trước đó; ít nhất một trong các triệu chứng

phải là: (1) khí sắc trầm cảm, (2) mất hứng thú hoặc mất vui (các triệu chứng

này không phải do một bệnh khác gây nên).

(1) Khí sắc trầm cảm gần như suốt ngày, hầu như mỗi ngày được khai

báo bởi bệnh nhân (ví dụ: cảm thấy buồn hay trống rỗng, tuyệt vọng) hoặc

thông quan quan sát của người khác (ví dụ: khóc). Chú ý: ở trẻ em và thành

thiếu niên có thể biểu lộ việc dễ bực tức.

(2) Giảm sút rõ về thích thú hoặc thú vui trong tất cả, hầu như tất cả

các hoạt động hầu như suốt ngày, gần như mỗi ngày (được nhận thấy bởi

bệnh nhân hoặc thông qua quan sát của người khác)

(3) Giảm cân đáng kể không phải do ăn kiêng hoặc tăng cân (ví dụ:

thay đổi trọng lượng cơ thể quá 5% trong 1 tháng) hoặc tăng hay giảm cảm

giác ngon miệng gần như mỗi ngày. Ghi chú: ở trẻ em có thể không đạt mức

tăng cân như dự đoán.

(4) Có vấn đề về giấc ngủ như: bị mất ngủ hay ngủ quá nhiều.

(5) Kích động hay chậm chạp tâm thần vận động hầu như mỗi ngày

(được nhận thấy bởi người khác chứ không phải chỉ là cảm giác của bệnh

nhân về việc bứt rứt hoặc chậm chạp bên trong cơ thể).

(6) Mệt mỏi hoặc mất năng lượng hầu như mỗi ngày.

(7) Cảm giác bị mất giá trị hoặc cảm giác tội lỗi quá mức hoặc không

thích hợp (có thể đạt đến mức hoang tưởng) hầu như mỗi ngày (không chỉ là

việc tự trách móc hoặc có cảm giác tội lỗi do bị bệnh).

(8) Giảm khả năng suy nghĩ hoặc tập trung chú ý hoặc thiếu quyết đoán

hầu như mỗi ngày (do bệnh nhân khai báo hoặc được quan sát bởi người

khác).

34

(9) Ý nghĩ về cái chết tái diễn (không chỉ là sợ chết), các ý tưởng tự tử

tái diễn nhưng không có kế hoạch tự tử, hoặc có mưu toan tự tử hoặc có kế

hoạch tự tử cụ thể

B. Các triệu chứng này gây ra sự đau khổ đáng kể về mặt lâm sàng

hoặc làm biến đổi hoạt động xã hội, nghề nghiệp hoặc trong các lĩnh vực

quan trọng khác.

C. Các triệu chứng không phải do các tác động sinh lý trực tiếp của

một chất hoặc do một bệnh khác gây nên.

D. Các triệu chứng này không đáp ứng tiêu chuẩn chẩn đoán của Rối

loạn phân liệt cảm xúc, Rối loạn tâm thần phân liệt, Rối loạn ảo giác, hoặc

những rối loạn đặc trưng hoặc không đặc trưng khác của Hội chứng Tâm thần

phân liệt và những Rối loạn loạn thần khác. Chưa bao giờ xuất hiện một giai

đoạn hưng cảm hoặc hưng cảm nhẹ trước đó.

Hội Tâm thần học Mỹ đã phân loại rối loạn trầm cảm thành các mã số sau:

Mức độ nghiêm trọng/đặc trưng Giai đoạn đơn độc Giai đoạn tái phát

Nhẹ 296.21 (F32.0) 296.31 (F33.0)

Trung bình 296.22 (F32.1) 296.32 (F33.1)

Nặng 296.23 (F32.2) 296.33 (F33.2)

Với các triệu chứng của loạn thần 296.24 (F32.3) 296.34 (F33.3)

Thuyên giảm một phần 296.25 (F32.4) 296.35 (F33.41)

Thuyên giảm hoàn toàn 296.26 (F32.5) 296.36 (F33.42)

296.20 (F32.9) 296.30 F33.9) Không đặc hiệu

1.3.4. Lo âu

1.3.4.1 Khái niệm

Lo âu là sự sợ hãi quá mức, không có nguyên nhân, do chủ quan của

người bệnh và không thể giải thích được do một bệnh tâm thần khác hoặc do

một bệnh cơ thể. Rối loạn lo âu là rối loạn mà bệnh nhân không thể kiểm soát

35

được, biểu hiện vững chắc, mạn tính và khuếch tán, thậm chí có thể xảy ra

dưới dạng kịch phát. Rối loạn lo âu thường phối hợp với tăng cảm xúc, biểu

hiện qua các triệu chứng chung về nội tạng và vận động [14].

1.3.4.2. Phân loại và tiêu chí chẩn đoán lo âu

Theo bảng phân loại bệnh tật quốc tế ICD-10, lo âu được đưa vào các

mục từ F40-F48: các rối loạn bệnh tâm căn có liên quan đến stress và dạng cơ

thể:

F40: Các rối loạn lo âu ám ảnh sợ:

F40.0: ám ảnh sợ khoảng trống.

.00: ám ảnh sợ khoảng trống không có rối loạn hoảng sợ.

.01: ám ảnh sợ khoảng trống có rối loạn hoảng sợ.

F40.1: ám ảnh sợ xã hội.

F40.2: ám ảnh sợ đặc hiệu (riêng lẻ).

F40.8: Các rối loạn lo âu ám ảnh sợ khác.

F40.9: Rối loạn lo âu ám ảnh sợ không biệt định.

F41: Các rối loạn lo âu khác.

F41.0: Rối loạn hoảng sợ.

F41.1: Rối loạn lo âu lan toả.

F41.2: Rối loạn hỗn hợp lo âu và trầm cảm.

F41.3: Các rối loạn lo âu hỗn hợp khác.

F41.8: Các rối loạn lo âu biệt định khác.

F41.9: Rối loạn lo âu không biệt định.

F42: Rối loạn ám ảnh nghi thức.

F42.0: ý nghĩ hoặc nghiền ngẫm ám ảnh chiếm ưu thế.

F42.1: Hành vi nghi thức chiếm ưu thế.

F42.2: Các ý nghĩ và hành vi ám ảnh hỗn hợp.

F42.8: Các rối loạn ám ảnh nghi thức khác.

F42.9: Rối loạn ám ảnh nghi thức không biệt định.

36

Chẩn đoán trầm cảm theo DSM5, rối loạn lo âu gồm các mã sau: [22]

309.21 (F93.0): Rối loạn lo âu chia tách (Separation Anxiety Disorder)

312.23 (F94.0): Mất nói có lựa chọn (Selective Mutism)

300.29 (– . –) : Ám ảnh sợ chuyên biệt (Specific Phobia)

300.23 (F40.10): Rối loạn lo âu xã hội (ám ảnh sợ xã hội) (Social

Anxiety Disorder/ Social Phobia )

300.01 (F41.0): Rối loạn hoảng sợ (Panic Disorder)

300.22 (F40.00): Ám ảnh sợ khoảng trống (AgoraPhobia)

300.02 (F41.1): Rối loạn lo âu lan tỏa (Generalized Anxiety Disorder -

GAD)

– . – (– . –): Rối loạn lo âu do một chất/thuốc (Substance/ Medication –

Induced Anxiety Disorder)

293.84 (F06.4): Rối loạn lo âu do một bệnh cơ thể khác (Anxiety

Disorder Due to Another Medical Condition)

300.09 F41.8): Rối loạn lo âu biệt định khác

300.00(F41.9): Rối loạn lo âu không biệt định

1.3.5. Stress

1.3.5.1. Khái niệm

Stress có nguồn gốc từ tiếng Latinh là “strictia” bởi từ gốc “strictus” và

một phần của từ “stringere” nghĩa là kéo căng, nghịch cảnh, bất hạnh, đè nén.

Từ thế kỷ 17, stress được sử dụng với ý nghĩa là “sự khổ cực - hardship”

(Hinkle, 1973), dùng để mô tả con người trải qua thử thách gay go, tai họa

hoặc nỗi đau buồn [12].

Trong tiếng Anh, stress có nghĩa là nhấn mạnh. Thuật ngữ này được

dùng trong vật lý học để chỉ sức nén mà vật liệu phải chịu, sau đó

W.B.Cannon (1914) sử dụng trong sinh lý học [19]. Ban đầu, nó dùng để chỉ

phản ứng bình thường của cơ thể đối với bất cứ một tác động có hại nào. Sau

37

đó, stress được sử dụng để miêu tả các trạng thái của cá nhân đối với các điều

kiện bên ngoài ở các mức độ sinh lý, tâm lý và hành vi [6].

Theo Hans Syle, stress là “một hội chứng đặc hiệu bao gồm tất cả

những thay đổi được gây ra một cách không đặc hiệu bên trong hệ thống sinh

học nhằm khôi phục lại trạng thái cân bằng nội môi, khắc phục được các tình

huống để đảm bảo duy trì và thích nghi thoả đáng của cơ thể trước điều kiện

sống luôn biến đổi” hay cũng tác giả này định nghĩa trong nghiên cứu sau

đó: “stress là một trạng thái được thể hiện trong một hội chứng bao gồm tất

cả các biến cố không đặc hiệu trong một hệ thống sinh học” [58].

1.3.5.2. Tiêu chí chẩn đoán, phân loại

Theo bảng phân loại bệnh tật quốc tế ICD-10, Stress được đưa vào các

mục từ F40-F48: các rối loạn bệnh tâm căn có liên quan đến stress và dạng cơ

thể:

F43. Phản ứng với stress trầm trọng và rối loạn sự thích ứng

F43.0: Phản ứng stress cấp

F43.1: Rối loạn stress sau sang chấn

F43.2: Các rối loạn sự thích ứng

F43.8: Các phản ứng với stress trầm trọng khác

F43.9: Phản ứng với stress trầm trọng, không biệt định

1.3.6. Học sinh trung học

Học sinh trung học bao gồm học sinh THCS và học sinh THPT, nằm

trong độ tuổi từ 10 đến 18 tuổi theo quy định của pháp luật Việt Nam. Đây là

giai đoạn học sinh có nhiều thay đổi về tâm sinh lý, bước đầu hình thành nhân

cách, bước đầu các em gia nhập vào xã hội cộng đồng, vào tập thể cùng nhóm

tuổi và phát triển những kỹ năng. Đây là giai đoạn các em có sự phát triển

nhanh cả về trí tuệ và thể lực. Khái niệm vị thành niên được thừa nhận về mặt

văn hóa xã hội là một giai đoạn chuyển tiếp giữa tuổi ấu thơ và tuổi trưởng

38

thành, con người trong độ tuổi này thay đổi rất nhiều tùy theo từng dân tộc,

trong mỗi dân tộc lại thay đổi tùy thuộc vào nhiều yếu tố [15].

1.3.6.1. Đặc điểm sinh lý lứa tuổi

a. Đối với học sinh THCS

- Đối với học sinh THCS, các em đang bước vào giai đoạn cải tổ hình

thái sinh lý một cách mạnh mẽ và mang tính chất không cân đối. Đây là thời

kỳ “nhảy vọt về tầm vóc” [17] thông qua sự hoạt động của các tuyến nội tiết

quan trọng như tuyến yên, tuyến giáp trạng, tuyến sinh dục, tuyến thượng thận

đã tạo ra sự thay đổi trong cơ thể [18].

- Hoạt động tim mạch ở giai đoạn này cũng có sự thay đổi, tim phát

triển nhanh hơn các mạch máu, điều đó gây nên sự mất cân bằng và thường

xuyên gây ra các rối loạn trong hoạt động tim mạch. Các quá trình thần kinh

hưng phấn của vỏ não chiếm ưu thế nên ở lứa tuổi thiếu niên hoặc là ức chế

hoàn toàn hoặc là có phản ứng mạnh mẽ trước một kích thích mạnh kéo dài

[17], các em thường gặp các rối loạn tạm thời của tuần hoàn máu, có cảm giác

mệt mỏi, nhức đầu, chóng mặt, dễ xúc động, bực tức [18].

- Sử trưởng thành về mặt sinh dục: Ở các em nam giai đoạn này xuất

hiện hiện tượng xuất tinh lần đầu, các em nữ xuất hiện hiện tượng kinh

nguyệt.

b. Đối với học sinh THPT

- Đối với học sinh THPT, các em bước vào giai đoạn ổn định, chấm dứt

thời ký phát triển dữ dội, mất cân đối, cụ thể: trọng lượng của các em vẫn còn

tăng rất nhanh, các em nam đã đuổi kịp và vượt qua các em nữ; chiều cao tăng

chậm lại, lực cơ tiếp tục phát triển [18]; cấu tạo và chức năng của hệ thần kinh

phức tạp hơn các lứa tuổi trước, đặc biệt là số dây thần kinh liên hợp nối các

phần của vỏ não tăng lên làm cho chức năng của não được phát triển [17]; hệ

xương đã cốt hóa xong, hệ tuần hoàn trở nên ôn hòa và phát triển cân bằng

[18].

39

- Về mặt giới tính: Đa số các em đã qua thời kỳ dậy thì, chấm dứt giai đoạn

khủng hoảng của thời kỳ phát dục để chuyển sang thời kỳ ổn định hơn, cân

bằng hơn.

1.3.6.2. Đặc điểm về nhận thức xã hội

a. Đối với học sinh THCS

- Trong đời sống gia đình, vị trí của các em đã thay đổi, được thừa nhận

là thành viên tích cực, được giao các nhiệm vụ cụ thể. Bên cạnh đó, các em

được tham gia vào bàn bạc một số công việc gia đình, về những việc của cha

mẹ, anh chị, quan tâm đến việc xây dựng và bảo vệ uy tín của gia đình hơn

các em nhỏ. Những thay đổi đó đã kích thích các em hoạt động tích cực, độc

lập hơn.

- Hoạt động học tập ở nhà trường có sự thay đổi, học tập của học sinh

THCS có sự thay đổi về nội dung, tính chất so với tuổi nhi đồng;

- Ngoài xã hội, các em được thừa nhận như là một thành viên tích cực,

được gia một số công việc như: truyền thông, cổ động…Chính việc tham gia

các hoạt động xã hội mà mối quan hệ của các em được mở rộng, tiếp xúc

nhiều vấn đề xã hội làm cho tầm hiểu biết, kinh nghiệm sống, nhân cách của

các em được phát triển [17]. Khi tham gia, bản thân các em cũng cảm thấy

hứng thú và tích cự tham gia vào các hoạt động xã hội [18].

b. Đối với học sinh THPT

- Trong gia đình, các em có thêm nhiều quyền lợi và trách nhiệm của

người lớn, các em cảm thấy trách nhiệm của mình lớn hơn, đồng thời nếp

sống của gia đình, sự giáo dục của cha mẹ cũng ảnh hưởng lớn đến bộ mặt

tâm lý của lứa tuổi này.

- Ở nhà trường, hoạt động học tập ở gia đoạn này có sự thay đổi về nội

dung, tính chất so với lứa tuổi thiếu niên, các em ý thức được mình đang đứng

trước ngưỡng cửa của cuộc đời, nên thái độ tự giác của các em được nâng lên,

hoạt động học tập lúc này mang ý nghĩa sống trực tiếp.

40

- Ở ngoài xã hội, hoạt động giao tiếp xã hội có sự phát triển mạnh, vai

trò xã hội và hứng thú xã hội ngày càng được mở rộng về số lượng và chất

lượng. Khi tham gia các hoạt động xã hội, người lớn dành quyền tự quản cho

các em nhiều hơn, đòi hỏi các em phải phát huy tính tích cực, độc lập, tổ chức

của mình.

1.3.6.3. Đặc điểm về tâm lý, nhân cách và tình cảm

a. Đối với học sinh THCS

* Đặc điểm tâm lý học sinh THCS

- Sự phát triển quá trình nhận thức:

+ Khối lượng tri giác tăng lên, có khả năng phân tích và tổng hợp phức

tạp khi tri giác các sự vật, hiện tượng.

+ Trí nhớ cũng có sự thay đổi về chất, mang tính chất có điều khiển,

điều chỉnh và có tổ chức

+ Chú ý: Chú ý có chủ định phát triển rõ nét, tuy nhiên không bền

vững. Ở lứa tuổi này, khối lượng chú ý, khả năng di chuyển chú ý từ thao tác

này đến thao tác khác cũng được tăng cường rõ rệt.

+ Tư duy: Đây là giai đoạn tư duy trừu tượng tượng chiếm ưu thế.

* Đời sống tình cảm: Đặc điểm của lứa tuổi giai đoạn này là dễ xúc động,

mang tính bồng bột, dễ bị kích động, vui buồn chuyển hóa nhanh chóng. Các

em đã bắt đầu xuất hiện tình cảm khác giới, bên cạnh đó ở lứa tuổi này tình

cảm bạn bè, tình đồng chí, tình tập thể cũng đã phát triển mạnh.

* Khuynh hướng muốn làm người lớn

+ Giai đoạn này, trẻ có ấn tượng sâu sắc rằng “Mình không còn là trẻ

con nữa” “cảm giác là người lớn” [17][18], các em có nguyện vọng muốn

được làm người lớn và được đối xử như người lớn;

+ Mức độ đầu tiên và dễ nhận thấy nhất được thể hiện ở vẻ bề ngoài,

liên quan đến cử chỉ, hành vi, cách ăn mạc, đầu tóc, em trai muốn định hình

mình thành người đàn ông đích thực [18]. Các em bắt chước người lớn trong

41

cách thể hiện thái độ, hành vi của mình, có ý thức rõ rệt về giới tính, quan tâm

đến đời sống tình cảm của người lớn [17].

* Sự phát triển nhân cách

Lĩnh vực ý chí

- Xuất hiện hình mẫu lý tưởng. Hình mẫu mà các em lựa chọn có thể là

mẫu người hiện thực có phẩm chất đặc biệt hấp dẫn như: người lớn hoặc bạn

cùng trang lứa hoặc có thể là những nhân vật lịch sử, nhân vật trong phim,

ảnh, sách, báo…

- Bên cạnh đó, ở giai đoạn này, các em nam thường có xu hướng thích

thể hiện, sức mạnh của “người đàn ông thực thụ” thường được coi là phẩm

chất quan trọng. Các em thích đấu tranh, đọ sức, có thể gây gổ nhằm chứng

minh sức mạnh ưu thế của mình với người khác. Đối với các em: lòng dũng

cảm, ý chí vượt qua mọi thử thách để đạt được mục đích được coi là một giá

trị đặc biệt.

Sự phát triển tự ý thức

- Các em đã bắt đầu có sự nhìn nhần, mong muốn hiểu biết được mặt

mạnh, mặt yếu trong nhân cách của mình. Bên cạnh đó khi nhận thức về

mình, học sinh THCS còn đối chiếu mình với người khác [18]

- Bên cạnh đó các em ý thức mình là một nhân cách có quyền được tôn

trọng, được độc lập và được tin cậy như mọi người lớn khác [17].

Hứng thú

Hứng thú ở giai đoạn này có sự phát triển mạnh mẽ cả về chiều rộng

lẫn chiều sâu, các em quan tâm đến kết quả hoạt động, đến bản chất, ý nghĩa

của hoạt động.

b. Đối với học sinh THPT

* Đặc điểm tâm lý

42

- Sự phát triển của các quá trình nhận thức: Tính chủ định với các quá

trình nhận thức ở lứa tuổi THPT được tăng lên và đến cuối giai đoạn này các

em hoàn toàn làm chủ được nhận thức của mình.

+ Tri giác: Đây là thời kỳ mà trẻ có độ nhạy cao về tri giác nghe, tri

giác nhìn, có sự phối hợp nhịp nhàng giữa các cơ quan vận động: mắt nhìn, tai

nghe, tay viết….[18]. Quan sát trở nên có mục đích, có hệ thống và toàn diện

hơn. Quá trình quan sát chịu điều khiển của hệ thống tín hiệu thứ hai nhiều

hơn và không tách rời khỏi tư duy, ngôn ngữ [17].

+ Trí nhớ: Học sinh THPT đang ở giai đoạn phát triển cao về trí nhớ,

trẻ có khả năng nhớ nhanh [18]. Ghi nhớ có logic, ghi nhớ có chủ đích phát

triển mạnh và giữ vai trò chủ đạo trong hoạt động nhận thức, các em biết đưa

ra các ý chính để ghi nhớ tốt hơn, biết sắp xếp tài liệu học tập theo trình tự,

logic nhất định, biết vận dụng mối liên tưởng, đặc biệt là liên tưởng nhân quả

để ghi nhớ được tốt hơn [17].

+ Chú ý: Ở học sinh THPT chú ý có chủ định chiếm ưu thế, các em biết

đề ra mục đích của chú ý [18]. Năng lực chú ý phát triển, các em biết phân

phối chú ý, các em có thể vừa nghe giảng, vừa ghi chép [17].

+ Tư duy: Các em có khả năng tư duy lý luận, tư duy trừ tượng một

cách độ lập, sáng tạo. Tư duy chặt chẽ hơn, có căn cứ, nhất quán hơn.

+ Tưởng tượng: Đây là giai đoạn có nhiều đổi mới, nội dung tưởng

tượng phong phú trên nhiều lĩnh vực. Tưởng tượng tái tạo đã gắn với hiện

thực, tưởng tượng sáng tạo và tái tạo đều phát triển nhưng càng về sau tưởng

tượng sáng tạo chiếm ưu thế.

- Nhu cầu giao tiếp: Đây là giai đoạn mà bạn bè luôn chiếm vị trí quan

trong nhất trong mối quan hệ của các em. Điều này thể hiện lòng khát khao có

vị trí bình đẳng trong cuộc sống, bên cạnh đó quan hệ dựa dẫm, phụ thuộc vào

cha mẹ cũng dần được thay thế bằng quan hệ bình đẳng tự lập.

43

- Nhu cầu xác định vị trí xã hội: Đây là giai đoạn các em đòi hỏi xã hội

công nhận và tôn trọng các quyền lợi, nghĩa vụ xã hội của mình. Bên cạnh đó

do vị thế của người học sinh lớn, vị thế trong gia đình, xã hội được tăng

cường nên các em xuất hiện nhu cầu xác định vị trí xã hội. Nhu cầu này biểu

hiện ở tính tích cực xã hội được hình thành thể hiện: các em quan tâm nhiều

đến tình hình kinh tế, chính trị, xã hội; các em có sự đánh giá trao đổi với

nhau và tỏ thái độ của mình về vấn đề; các em sẵn sàng tham gia hoạt động xã

hội phù hợp với hứng thú, sở trường của mình.

* Đời sống tình cảm:

- Ở lứa tuổi này, tình cảm phát triển mạnh như: tình cảm trách nhiệm,

tình bạn thân thiết, tình yêu, tính hài hước [18].

- Các em ngày càng bình đẳng, độc lập trong giao tiếp với người lớn và

bạn bè cùng tuổi, cụ thể: [17]

+ Việc lựa chọn bạn bè trong gia đoạn này được xem xét một cách có

căn cứ về hứng thú, sự đồng cảm, lối sống…Các em mong muốn sự chân

thành, sự tin tưởng, hiểu biết và tôn trọng, sẵn sàng giúp đỡ lẫn nhau;

+ Đối với cha mẹ, các em thường biểu hiện tính tự lập, các em dễ có xu

hướng xa lánh người lớn mà tìm sự đồng tình, đồng cảm ở các bạn cùng lứa

tuổi;

+ Tình cảm giai đoạn này có sự phân hóa rõ rệt. Tình cảm đạo đức

được bộc lộ rõ như: sự khâm phục, kính trọng những con người dũng cảm,

kiên cường, coi trọng những giá trị đạo đức cũng như lương tâm, mong muốn

lợi ích cho người khác. Các em bắt đầu hình thành tình cảm về trí tuệ, thẩm

mỹ, xuất hiện tình yêu nam nữ.

* Sự phát triển nhân cách

Sự phát triển của tự ý thức

- Đây là giai đoạn các em có ý thức về “Hình ảnh về thân thể”.

44

- Các em đã bắt đầu có thêm nhận thức về vị trí của mình trong xã hội,

trong tương lai…

Sự hình thành thế giới quan

- Tuổi đầu thanh niên là lứa tuổi quyết định của sự hình thành thế giới

quan – hệ thống quan điểm về tự nhiên, về xã hội, về các nguyên tắc và quy

tắc ứng xử, định hướng giá trị của con người…[17].

- Sự hình thành thế giới quan ở giai đoạn này được thể hiện ở tính tích

cực của nhận thức và nội dung của thế giới quan, các em cố gắng xây dựng

quan điểm riêng của mình trong các lĩnh vực, có xu hướng sống một cuộc

sống tích cực vì xã hội, mang lại lợi ích cho người khác, quan tâm đến đời

sống tinh thần hơn vật chất [18].

Tiểu kết chƣơng 1

Tổng quan về vấn đề nghiên cứu đã làm rõ được các khái niệm liên

quan đến vấn đề nghiên cứu bao gồm: Internet, sử dụng Internet, trầm cảm, lo

âu, stress, học sinh trung học. Ngoài ra, nghiên cứu cũng tập trung tìm hiểu

các vấn đề liên quan đến mối quan hệ giữa việc sử dụng Internet với các vấn

đề về trầm cảm, lo âu, stress ở học sinh trung học hiện nay. Tổng hợp các

nghiên cứu cho thấy tỷ lên thanh thiếu niên sử dụng Internet dao động khoảng

từ 0,7% đến 26,3 % tùy theo từng khu vực.

Nghiên cứu cũng đã tìm kiếm được nguồn thông tin liên quan đến mối

liên quan giữa việc sử dụng Internet với các vấn đề về sức khỏe tâm thần nói

chung bao gồm: rối loạn về giấc ngủ, rối loạn tăng động giảm chú ý, lòng tự

trọng, rối loạn lượng cực, hành vi tự sát, ám ảnh xã hội…đặc biệt là các vấn

đề liên quan trực tiếp đến đề tài nghiên cứu như: trầm cảm, lo âu, stress.

45

CHƢƠNG 2

TỔ CHỨC VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1. Đặc điểm của khách thể và địa bàn nghiên cứu

2.1.1. Đặc điểm địa bàn nghiên cứu

Nghiên cứu được tiến hành tại 4 trường THCS và 4 trường THPT tại

Thành phố Đà Nẵng và tỉnh Khánh Hòa được lựa chọn theo nguyên tắc chọn

mẫu tiện lợi, cụ thể:

Tỉnh Khánh Hòa bao gồm 4 trường công lập: Khối THCS gồm trường:

THCS Hùng Vương và THCS Chu Văn An, Khối THPT gồm: trường THPT

Nguyễn Trãi, trường THPT Trần Cao Vân.

Trường THCS Hùng Vương, THCS Chu Văn An, THPT Nguyễn Trãi,

THPT Trần Cao Vân nằm trên địa bàn thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa. Cả

4 trường đều là trường chuẩn quốc gia và là trường điểm của thị xã Ninh Hòa

với hệ thống cơ sở vật chất, trang thiết bị được đầu tư đầy đủ, đáp ứng việc

học của các em học sinh.

Thành phố Đà Nẵng bao gồm 4 trường công lập: Khối THCS gồm

trường: THCS Nguyễn Trãi, THCS Huỳnh Thúc Kháng, Khối THPT gồm:

THPT Phan Châu Trinh, THPT Cẩm Lệ.

Trường THCS Nguyễn Trãi, THCS Huỳnh Thúc Kháng nằm trên địa

bàn quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng, đây là 2 trường điểm đạt chuẩn

quốc gia, được trang bị đầy đủ cơ sở vật chất, trang thiết bị.

Trường THPT Phan Châu Trinh là 1 trong những trường điểm nổi

tiếng của thành phố Đà Nẵng nằm trên địa bàn quận Hải Châu.

Trường THPT Cẩm Lệ cũng là 1 trong 5 trường điểm của thành phố

Đà Nẵng cùng với THPT Phan Chu Trinh. Trường nằm trên địa bàn quận

Cẩm Lệ.

46

2.1.2. Đặc điểm của khách thể nghiên cứu

Nghiên cứu này đã chọn mẫu khách thể là 562 học sinh thuộc khối

THCS và THPT trên địa bàn tỉnh Khánh Hòa và thành phố Đà Nẵng thuộc

các khối lớp 7, 8 và khối lớp 10, 11.

Bảng 2. 1: Đặc điểm khách thể nghiên cứu

Địa bàn Đặc điểm Số lượng học Tỷ lệ

sinh (%)

Khối THCS Chu Văn An 66 45.8

THCS THCS Hùng Vương 78 54.2

Lớp 7 73 50.7

8 71 49.3

Giới Nam 66 45.8 Tỉnh tính Nữ 78 54.2 Khánh Khối THPT Nguyễn Trãi 78 52.7 Hòa THPT THPT Trần Cao Vân 70 47.3

Lớp 10 80 54.1

11 68 45.9

Giới Nam 46 31.1

tính Nữ 102 68.9

Khối THCS Nguyễn Trãi 85 67.5

THCS THCS Huỳnh Thúc Kháng 41 32.5

Lớp 7 54 42.9

8 72 57.1 TP Đà

Nẵng Giới Nam 62 49.2

tính Nữ 64 50.8

Khối THPT Phan Chu Trinh 67 46.2

THPT THPT Cẩm Lệ 78 53.8

47

Lớp 10 78 53.8

11 67 46.2

Giới Nam 67 46.2

tính Nữ 78 53.8

2.2. Quy trình nghiên cứu

2.2.1. Gửi giấy mời nghiên cứu

Đầu tiên, chúng tôi gặp mặt Ban giám hiệu của các trường dự kiến thực

hiện điều tra để giới thiệu về nghiên cứu. Trên cơ sở sự đồng ý của nhà

trường, chúng tôi thông qua Phòng Đào tạo của Trường Đại học Giáo dục –

Đại học Quốc gia Hà Nội xin giấy giới thiệu để đảm bảo các thủ tục theo yêu

cầu của nhà trường. Tiếp theo, trên cơ sở mẫu nghiên cứu mà đề tài hướng

tới, thông qua Ban giám hiệu nhà trường, chúng tôi lựa chọn ngẫu nhiên một

lớp. Chúng tôi cũng làm việc với giáo viên chủ nhiệm lớp để trao đổi về mục

đích nghiên cứu, sau đó hướng dẫn mẫu cho giáo viên, nhờ giáo viên sắp xếp

lịch để chúng tôi gặp gỡ và trao đổi với các bạn học sinh. Bạn nào đồng ý

tham gia nghiên cứu chúng tôi sẽ gửi phiếu khảo sát và hướng dẫn làm các

phiếu theo quy định.

2.2.2. Quy trình chọn mẫu

Chọn mẫu: Chúng tôi xây dựng đề tài và lựa chọn khách thể nghiên cứu

là học sinh lớp 7, 8 thuộc khối THCS và lớp 10, 11 thuộc khối THPT trên địa

bàn tỉnh Khánh Hòa và thành phố Đà Nẵng

Quy trình chọn mẫu:

- Học sinh thuộc khối lớp 7, 8 thuộc 4 trường bao gồm: 2 trường THCS

trên địa bàn tỉnh Khánh Hòa và 02 trường THCS trên địa bàn thành phố Đà

Nẵng; học sinh thuộc khối 10, 11 thuộc 4 trường bao gồm: 2 trường THPT

trên địa bàn tỉnh Khánh Hòa và 02 trường THPT trên địa bàn thành phố Đà

Nẵng;

48

- Trên cơ sở các khối lớp đã được lựa chọn, chúng tôi tiến hành lựa

chọn mẫu tiện lợi trên cơ sở giới thiệu và hỗ trợ của các trường để lấy mỗi

khối 1 lớp để nghiên cứu;

- Khi phát phiếu chúng tôi giới thiệu về mục đích nghiên cứu và chấp

nhận tham gia nghiên cứu trước khi hướng dẫn các em làm.

2.2.3. Làm sạch và xử lý số liệu

Chúng tôi sử dụng phần mềm thống kê SPSS 23 để xử lý số liệu thu

thập được. Các thông số và phép toán thống kê được sử dụng trong nghiên

cứu là: Phân tích sử dụng thống kê mô tả và phân tích tương quan, hồi quy.

2.2.4. Đạo đức nghiên cứu

- Những học sinh tham gia khảo sát này hoàn toàn tự nguyện và đồng ý

tham gia vào nghiên cứu sau khi biết đầy đủ thông tin về nội dung nghiên

cứu;

- Thông tin cung cấp của tất cả các học sinh được bảo mật;

- Mọi số liệu được thu thập, mọi phân tích, diễn giải đều hoàn toàn

trung thực với khảo sát.

- Không thực hiện việc sao chép, lấy số liệu nghiên cứu của người khác

đưa vào đề tài của mình.

2.3. Công cụ nghiên cứu

2.3.1. Nghiên cứu lý luận

Để thực hiện đề tài, chúng tôi đã thực hiện thu thập những thông tin về:

- Cơ sở lý thuyết liên quan đến Internet, sử dụng Internet, nghiện

Internet, trầm cảm, lo âu, stress.

- Cập nhật các kết quả nghiên cứu trên các ấn phẩm khoa học đã được công bố

có chỉ số xuất bản trong và ngoài nước.

Từ việc tìm hiểu đó, chúng tôi thực hiện việc phân tích, tổng hợp tài

liệu và xây dựng nên các nội dung về cơ sở lí luận của đề tài. Trong đó, chúng

tôi trình bày tổng quan các nghiên cứu về Internet, sử dụng Internet, những

49

vấn đề về trầm cảm, lo âu, stress, những đặc điểm tâm sinh lý của học sinh

lứa tuổi học sinh trung học.

2.3.2. Điều tra bằng bẳng hỏi

2.3.2.1. Thu thập thông tin chung

Chúng tôi tiến hành điều tra thử trên 10 học sinh bao gồm: 05 học sinh

THCS và 05 học sinh THPT tại các trường trên địa bàn thị xã Ninh Hòa. Sau

khi điều tra thử chúng tôi chỉnh sửa lại cho phù hợp và xuống trường phát

phiếu theo hướng dẫn của nhà trường.

Chúng tôi đã tham khảo các bảng hỏi, thang đo trong các công trình

nghiên cứu trên thế giới và tại Việt Nam về vấn đề này. Bảng hỏi, thang đo

tiếng Anh được dịch và thích nghi về mặt ngôn ngữ, điều chỉnh dưới sự góp ý

của giảng viên hướng dẫn. Cấu trúc và nội dung của phiếu hỏi được sử dụng

trong nghiên cứu như sau: Đầu tiên là phần giới thiệu tóm tắt về nghiên cứu,

câu hỏi về thông tin cá nhân của học sinh như trường, lớp, năm sinh, giới tính,

học lực, tiếp theo là các bảng hỏi và thang đo:

Các câu hỏi về việc sử dụng internet: Thông qua điểm luận tài liệu về

sử dụng internet, chúng tôi thiết kế các câu hỏi về mức độ, thời lượng, địa

điểm, phương tiện, các hoạt động. Cụ thể, chúng tôi có hỏi về mức độ sử dụng

internet của học sinh (không bao giờ, rất hiếm khi, một vài lần/ tháng, một vài

lần/ tuần, hàng ngày), thời lượng sử dụng internet mỗi ngày (khoảng bao

nhiêu giờ/ ngày), và các câu hỏi đa lựa chọn như: phương tiện dùng để truy

cập internet (ví dụ: máy tính cá nhân (cố định hoặc laptop), máy tính dùng

chung của gia đình, máy tính ở quán net, máy tính bảng, ipad, điện thoại

thông minh) và mục đích sử dụng internet khi học sinh truy cập internet (ví

dụ: đăng ảnh, nói chuyện theo nhóm, gửi thư điện tử (email), học tập, xem

phim, tìm kiếm thông tin, v.v).

Chúng tôi tìm hiểu trường, lớp, giới tính, con thứ, học lực, công việc

gia đình, điều kiện kinh tế gia đình, đang sống cùng ai, sự quan tâm của gia

50

đình để thấy được sự khác nhau về việc sử dụng Internet của học sinh trung

học. Chúng tôi cũng đưa ra các câu hỏi để khảo sát về thói quen sử dụng

internet của các em như mức độ sử dụng, phương tiện truy cập internet,.

2.3.2.2. Nghiên cứu bằng trắc nghiệm s-IAT (phiên bản rút gọn)

Mục đích: Xác định thực trạng mức độ sử dụng internet

Trắc nghiệm: Nghiên cứu bằng trắc nghiệm s-IAT (phiên bản rút gọn)

do Trần Xuân Bách và cộng sự (2017) thích nghi tại Việt Nam.

Phiên bản tiếng Việt của s-IAT là một công cụ hợp lệ và đáng tin cậy

để đánh giá Internet nghiện trong dân số Việt Nam. s-IAT là một công cụ

sàng lọc hữu ích cho Internet nghiện để kịp thời thông báo và điều trị nghiện

Internet trong giới trẻ Việt Nam.

Thang S-IAT bao gồm 12 mục được đánh giá trên thang điểm Likert 5

điểm từ 1: hiếm khi đến 5: luôn luôn. Tổng số điểm của s-IAT dao động từ 12

đến 60 [97]. Chúng tôi đã sử dụng điểm cắt 36 để phân loại một người nghiện

Internet bệnh lý (Meerkerk, 2007; Zhang và cộng sự, 2017) [87] [128]. Bảng

câu hỏi này đã được dịch sang tiếng Việt dựa trên các hướng dẫn của WHO

dịch và điều chỉnh công cụ nghiên cứu (WHO). Cronbach's Alpha phiên bản

tiếng Việt của s-IAT là 0,87 (B. X. Tran et al., 2017). Chúng tôi cũng tiến

hành chạy Cronbach's Alpha trên thang đo này để đánh giá độ tin cậy. Kết

quả cho thấy Cronbach's Alpha = 0.80. Điều này cho thấy thang đo có độ tin

cậy phù hợp để sử dụng cho đề tài này.

2.3.2.3. Nghiên cứu bằng trắc nghiệm Dass - 21

Mục đích: Xác định thực trạng của học sinh liên quan đến trầm cảm, lo

âu, stress

Trắc nghiệm: Sử dụng trắc nghiệm của P. Lovibond để đánh giá thực

trạng mức độ về trầm cảm, lo âu, stress. Trắc nghiệm này được nhiều nhà

nghiên cứu ở cả châu Âu và châu Á sử dụng.

51

+ Thang đo đánh giá mức độ lo âu, trầm cảm, stress gồm 21 câu dạng

likert với 4 mức điểm từ không bao giờ đến luôn luôn. Thang đo này được

thích ứng từ thang đo DASS-21 hiện đang được sử dụng trong các bệnh viện

Tâm thần tại Việt Nam. Thang DASS nguyên gốc do P. Lovibond xây dựng

vào năm 1995 và đã được sử dụng tại Việt Nam trong hơn 10 năm qua để

đánh giá tiến triển điều trị của bộ ba Trầm cảm, Lo âu và Stress. Độ tin cậy

Cronbach‟s Alpha của các thang đo này đều cao hơn 0,80. Khi chạy kiểm

định Cronbach‟s Alpha của thang đo này trong nghiên cứu của chúng tôi cũng

tìm được kết quả tương tự 0.84. Điều này cho thấy thang đo có độ tin cậy phù

hợp để sử dụng cho đề tài này Theo đó, cách tính điểm được quy định như

sau:

(điểm câu 3 + điểm câu 5 + điểm câu 10 + điểm câu Điểm trầm cảm = 13 + điểm câu 16 + điểm câu 17 + điểm câu 21) x 2

(điểm câu 2 + điểm câu 4 + điểm câu 7 + điểm câu Điểm lo âu = 9 + điểm câu 15 + điểm câu 19 + điểm câu 20) x 2

Điểm rối loạn liên (điểm câu 1 + điểm câu 6 + điểm câu 8 + điểm câu = quan stress 11 + điểm câu 12 + điểm câu 14 + điểm câu 18) x 2

Phân mức độ các vấn đề sức khỏe tâm thần dựa vào điểm các vấn đề:

Mức độ Trầm cảm Lo âu Stress

Bình thường 0-9 0-7 0-14

Nhẹ 10-13 8-9 15-18

Trung bình 14-20 10-14 19-25

Nguy cơ 21-27 15-19 26-33

Nặng ≥ 28 ≥ 20 ≥34

2.4. Chiến lƣợc nhập liệu và xử lý số liệu

Số liệu thu thập được từ các phương pháp được xử lý bằng phần mềm

thống kê SPSS phiên bản 23.0 cho Windows. Các phép phân tích chính được

sử dụng trong nghiên cứu này là:

52

- Phân tích thực trạng: báo cáo số liệu tần suất, điểm trung bình, độ lệch

chuẩn, tỉ lệ % để mô tả bức tranh thực trạng việc sử dụng internet và các vấn

đề lo âu, trầm cảm, stress ở học sinh trung học hiện nay.

- Phân tích so sánh sự khác biệt: Được tiến hành để so sánh giữa các

nhóm phân chia theo các đặc điểm nhân khẩu học và các biến số như cấp học

(THCS hay THPT; lớp….). Các phép kiểm định cơ bản sẽ sử dụng là kiểm

định trung bình hai mẫu độc lập và phân tích phương sai ANOVA (một chiều

và hai chiều)

- Phân tích tương quan: Phân tích tương quan Pearson được tiến hành

để kiểm định mối quan hệ giữa các biến nhân khẩu học, mức độ sử dụng

internet và mức độ lo âu, trầm cảm, stress ở các nhóm khách thể nghiên cứu

- Phân tích hồi quy: Sử dụng phân tích hồi quy logistic để xác định

những yếu tố quan trọng có ý nghĩa ảnh hưởng đến mức độ sử dụng internet

và lo âu trầm cảm và stress ở khách thể nghiên cứu.

Tiểu kết chƣơng 2

Nghiên cứu của chúng tôi được thực hiện một cách nghiêm túc, chặt

chẽ và có tổ chức, bắt đầu từ việc tìm kiếm, tổng hợp các nghiên cứu lý luận

để xác lập cơ sở lý thuyết và xây dựng giả thuyết nghiên cứu đến việc khảo

sát thực tế về mối liên hệ giữa việc sử dụng Internet với các vấn đề trầm cảm,

lo âu, stress ở học sinh trung học hiện nay.

Đề tài nghiên cứu có sự kết hợp nhiều phương pháp khác nhau bao

gồm: phương pháp điều tra bằng bảng hỏi, phân tích tài liệu, thống kê toán

học hỗ trợ cho nhau trong nghiên cứu nhằm đưa ra con số thống kê chính xác,

có độ tin cậy đủ làm cơ sở cho những kết quả nghiên cứu có tính khách quan.

53

CHƢƠNG 3

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

3.1. Thực trạng sử dụng internet ở học sinh trung học

Như đã trình bày trong phần tổ chức và phương pháp nghiên cứu,

nghiên cứu của chúng tôi là nghiên cứu dự báo tìm hiểu mối liên quan giữa

mức độ sử dụng Internet và các vấn đề trầm cảm, lo âu, stress của học sinh

trung học hiện nay. Khách thể tham gia nghiên cứu là học sinh trung học cơ

sở thuộc khối 7, 8 và học sinh trung học phổ thông khối 10, 11 trên địa bàn

tỉnh Khánh Hòa và thành phố Đà Nẵng.

Bảng 3. 1: Tỷ lệ học sinh sử dụng Internet theo các cấp độ

Tỷ lệ phần trăm Số lượng

(Học sinh) (%)

Không bao giờ 3 0.5

Rất hiếm khi 22 3.9

Một vài lần/tháng 11 2.0

Một vài lần/tuần 154 27.4

Hàng ngày 372 66.2

Về tỷ lệ sử dụng internet của khách thể, kết quả thống kê dữ liệu cho

thấy hơn một nửa tổng số học sinh được hỏi truy cập hàng ngày (chiếm

66.2%), tiếp đến là vài tuần/ lần (chiếm 27.4%). Số lượng học sinh không truy

cập internet chỉ có 3 em (chiếm 0.5%). Thời lượng trung bình học sinh truy

cập internet mỗi ngày là 4.7 giờ/ ngày, độ lệch chuẩn là 4.15.

Bảng 3. 2: Một số đặc điểm sử dụng Internet của khách thể

Mức độ sử dụng Internet

Không Rất hiếm Một vài Một vài Hàng

bao giờ khi lần/tháng lần/tuần ngày

Giới Nữ 0.0% 3.8% 2.5% 22.3% 71.4%

54

1.2% 4.1% 1.2% 34.0% 59.4% tính Nam

0.0% 3.7% 2.6% 41.1% 52.6% Nhóm THCS

trường 1.0% 4.1% 1.4% 14.7% 78.8% THCS/ THPT

THPT

2.4% 28.1% 64.7% Khánh Hòa 0.7% 4.1% Khu

vực 1.5% 26.7% 67.8% Đà Nẵng 0.4% 3.7%

3.9% 47.2% 44.9% Lớp 7 0.0% 3.9%

1.4% 35.7% 59.4% Lớp 8 0.0% 3.5% Lớp 0.6% 15.9% 79.0% Lớp 10 0.6% 3.8%

2.2% 13.3% 78.5% Lớp 11 1.5% 4.4%

0.0% 0.0% 100.0% yếu 0.0% 0.0%

2.5% 25.0% 67.5% Trung bình 0.0% 5.0%

1.6% 27.6% 65.8% Học lực Khá 1.2% 3.7%

2.3% 29.4% 64.5% 0.0% Giỏi 3.7%

0.0% 20.0% 75.0% 0.0% Xuất sắc 5.0%

4.0% 22.8% 70.5% 0.0% Đại gia đình 2.7%

1.2% 29.2% 65.0% Bố và mẹ (hạt 0.0% 4.7%

nhân)

Ông bà nội 4.8% 0.0% 0.0% 14.3% 81.0%

ngoại Sống Người thân/ 12.5% 0.0% 0.0% 37.5% 50.0% cùng ai Anh chị cô dì

chú bác

Sống tại các 50.0% 0.0% 0.0% 0.0% 50.0%

trung tâm,

mái ấm

55

Riêng với mẹ 0.0% 6.1% 3.0% 33.3% 57.6%

Riêng với bố 0.0% 0.0% 0.0% 50.0% 50.0%

Hầu như 40.0% 0.0% 0.0% 0.0% 60.0%

không

Ít quan tâm 1.7% 3.3% 1.7% 20.0% 73.3% Sự quan

tâm của Nhiều sự 0.0% 5.2% 1.6% 25.1% 68.1%

gia đình quan tâm

Rất nhiều sự 0.0% 2.8% 2.4% 32.1% 62.6%

quan tâm

4.0% 16.0% 60.0% 4.0% 16.0% Nghèo Điều 1.0% 23.2% 71.4% 0.0% 4.4% Trung bình kiện 2.2% 34.8% 60.4% 0.4% 2.2% Khá kinh tế 15.4% 15.4% 61.5% 7.7% 0.0% Giàu

0.0% 28.4% 68.8% 0.0% 2.8% CC/VCNN

2.3% Buôn bán nhỏ 0.6% 1.7% 30.3% 65.1%

0.0% nghề 0.0% 0.0% 0.0% 100.0% Làm

biển Công

nông 0.0% 5.8% 1.2% 30.2% 62.8% Làm việc

nghiệp

Lao động tự 0.7% 4.1% 2.7% 23.8% 68.7%

do

Khác 0.0% 0.0% 0.0% 0.0% 100.0%

Từ bảng số liệu cho thấy, học sinh nữ sử dụng Internet nhiều học sinh

nam chiếm 71.4%; về cấp học: học sinh THPT sử dụng Internet nhiều học

sinh THCS với 78.8%; về địa bàn: khu vực sử dụng Intrernet có mức sử dụng

Internet gần như nhau; về khối lớp: các em học sinh khối 8 sử dụng Internet

nhiều hơn so với khối 7 với 59.4%, học sinh khối 10 và học sinh khối 11 có

56

mức độ sử dụng gần tương đương nhau; về học lực: học sinh có học lực yếu

sử dụng Internet nhiều hơn so với học sinh có học lực khác với tỷ lệ 100%,

tiếp theo đến học sinh có học lực xuất sắc với tỷ lệ 75%; về sự quan tâm của

gia đình: học sinh trong gia đình ít có sự quan tâm có mức sử dụng Internet

cao hơn so với học sinh thuộc các gia đình khác với tỷ lệ 73.3%; về điều kiện

kinh tế: học sinh sống trong gia đình có điều kiện kinh tế trung bình có mức

độ sử dụng Internet cao hơn các nhóm còn lại với tỷ lệ 71.4%; về công việc

của gia đình: những học sinh có gia đình làm các công việc liên quan đến đi

biển có mức độ sử dụng Internet cao hơn so với các nhóm còn lại.

Bảng 3. 3: Phương tiện sử dụng để truy cập Internet

Tỷ lệ phần trăm Số lựa chọn

(Học sinh) (%)

Máy tính dùng chung 80 14.2

Máy tính bảng 108 19.2

Máy tính cá nhân 144 25.8

Điện thoại 447 79.5

Kết quả từ bảng 3.3 cho thấy đa số các em học sinh sử dụng điện thoại

để truy cập Internet, chiếm tỷ lệ 79.5% ; tiếp theo là sử dụng máy tính cá nhân

để truy cập Internet, chiếm tỷ lệ 25.8%.

Bảng 3. 4: Mục đích sử dụng Internet

Số lựa chọn Tỷ lệ phần trăm

(Học sinh) (%)

Gửi tin nhắn 197 35.1

Gửi thư điện tử 102 18.1

Nói chuyện theo nhóm 303 53.9

Nói chuyện, chát với người khác 409 72.8

Học tập 454 80.8

57

Đăng ảnh 215 38.3

Đọc tin tức 279 49.6

Chơi game 354 63.0

Xem phim 431 76.7

Nghe nhạc 454 80.8

Tìm kiếm thông tin 398 70.8

Mua sắm 194 34.5

Kết quả từ bảng 3.4 cho thấy, mục đích chính của các em học sinh khi

sử dụng Internet là phục vụ cho hoạt động học tập, nghe nhạc với 454 học

sinh chiếm tỷ lệ 80.8% (ĐTB=0.81; ĐLC=0.394), tiếp theo là hoạt động xem

phim với 431 học sinh chiếm tỷ lệ 76.7% (ĐTB=0.77; ĐLC=0.423)và nói

chuyện, chát với người khác với 409 học sinh chiếm tỷ lệ 72.8% (ĐTB=0.73;

ĐLC=0.446)

Bảng 3. 5: Mức độ sử dụng Internet với đặc điểm nhân khẩu học

Mức độ sử dụng Internet

F p ĐLC ĐTB

Giới tính Nam 0.818 3.46 4.395 0.02 Nữ 0.718 3.61

Cấp học THCS 0.721 3.43 2.735 0.00 THPT 0.790 3.66

Khu vực Khánh Hoà 0.793 3.52 1.435 0.37 Đà Nẵng 0.736 3.58

Lớp 7 0.735 3.33

8 0.701 3.51 5.929 0.00 10 0.733 3.69

11 0.853 3.63

0.000 4.00 Học lực Yếu 0.553 0.69

58

Trung bình 3.55 0.778

Khá 3.53 0.890

Giỏi 3.55 0.722

Xuất sắc 3.65 0.745

Sống Đại gia đình 3.61 0.695

cùng ai Bố và mẹ (hạt nhân) 3.55 0.743

Ông bà nội ngoại 3.67 0.913

Người thân/ Anh chị 3.13 1.356

2.194 0.04 cô dì chú bác

Sống tại các trung 2.00 2.828

tâm, mái ấm

Riêng với mẹ 3.42 0.830

Riêng với bố 3.50 0.548

Sự quan Hầu như không 2.40 2.191

tâm Ít 3.60 0.827 3.924 0.00 Nhiều 3.56 0.769

Rất nhiều 3.54 0.685

Điều Nghèo 3.12 1.301

kiện kinh Trung bình 3.62 0.722 4.275 0.00 tế Khá 3.52 0.693

Giàu 3.23 1.235

Công Công chức/Viên chức 3.63 0.633

việc NN

Buôn bán nhỏ 3.57 0.698 0.887 0.48 Làm nghề biển 4.00 0.000

Làm nông nghiệp 3.50 0.793

Lao động tự do 3.56 0.795

59

Khác 4.00 0.000

Từ bảng số liệu kết quả cho thấy:

- Các đặc điểm về mặt giới tính, cấp học, lớp, hoàn cảnh sống, sự quan

tâm của gia đình, điều kiện kinh tế của gia đình cho thấy có sự khác biệt có ý

nghĩa về mặt thông kê, cụ thể: giữa nam và nữ (p=0.02<0.05); giữa học sinh

THCS và THPT (p=0.00<0.05); giữa học sinh các khối lớp (p=0.00<0.05); về

hoàn cảnh sống (p=0.04<0.05); sự quan tâm của gia đình (p=0.00<0.05); điều

kiện kinh tế (p=0.00<0.05) về mức độ sử dụng Internet (p<0.05).

- Các đặc điểm liên quan về khu vực sinh sống, học lực, công việc của

gia đình kết quả cho thấy không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê, cụ thể:

giữa khu vực Đà Nẵng và Khánh Hòa (p=0.37>0.05); giữa kết quả học tập

(p=0.69>0.05); và công việc của gia đình học sinh (p=0.49>0.05) về mức độ

sử dụng Internet (p>0.05).

Bảng 3. 6: Thời lượng sử dụng Internet theo các biến nhân khẩu học

Thời lượng sử dụng Internet

ĐTB ĐLC F p

Giới tính Nữ 4.760 3.9812 0.43 0.83 Nam 4.685 4.3718

Cấp học THCS 4.153 3.8799 9.230 0.00 THPT 5.235 4.3209

Khu vực Khánh Hoà 4.667 4.1658 0.118 0.73 Đà Nẵng 4.790 4.1434

Lớp 7 3.761 3.9941

8 4.504 3.7550 4.952 0.00 10 4.815 3.5814

11 5.729 5.0235

Học lực Yếu 9.250 9.5000 2.933 0.02

60

4.733 3.5691 Trung bình

5.150 4.5321 Khá

4.129 3.4906 Giỏi

5.056 5.6409 Xuất sắc

Sống Đại gia đình 5.427 5.2570

cùng ai Bố và mẹ (hạt nhân) 4.294 3.2769

Ông bà nội ngoại 4.975 5.1618

Người thân/ Anh chị 5.286 5.3140

cô dì chú bác 1.909 0.07

Sống tại các trung 0.000

tâm, mái ấm

Riêng với mẹ 5.688 5.2205

Riêng với bố 6.000 3.8079

Sự quan Hầu như không 4.800 4.0866

tâm Ít 5.203 4.0717 0.439 0.72 Nhiều 4.791 4.1802

Rất nhiều 4.537 4.1572

Điều Nghèo 3.935 4.9367

kiện kinh Trung bình 4.753 3.6825 3.103 0.02 tế Khá 4.579 4.2791

Giàu 8.000 7.9791

Công Công chức/Viên chức 5.019 5.0763

việc NN

Buôn bán nhỏ 4.691 3.5435 0.635 0.74 Làm nghề biển 3.833 2.4014

Làm nông nghiệp 4.694 4.2950

Lao động tự do 4.591 3.7954

61

Khác 8.500 4.9497

Từ bảng kết quả cho thấy:

- Các đặc điểm về mặt cấp học, lớp, học lực, điều kiện kinh tế của gia

đình cho thấy có sự khác biệt có ý nghĩa về mặt thông kê, cụ thể: giữa học

sinh THCS và THPT (p=0.00<0.05); giữa học sinh các khối lớp

(p=0.00<0.05); giữa kết quả học tập của học sinh (p=0.02<0.05); điều kiện

kinh tế (p=0.02<0.05) về thời lượng sử dụng Internet (p<0.05).

- Các đặc điểm liên quan về giới tính, khu vực sinh sống, hoàn cảnh

sống, sự quan tâm của gia đình, công việc của gia đình kết quả cho thấy

không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê, cụ thể: giữa nam và nữ

(p=0.83>0.05); khu vực Đà Nẵng và Khánh Hòa (p=0.73>0.05); giữa hoàn

cảnh sống của học sinh (p=0.07>0.05); giữa sự quan tâm của gia đình

(p=0.725>0.05); và công việc của gia đình học sinh (p=0.74>0.05) về thời

lượng sử dụng Internet (p>0.05).

3.2. Thực trạng nghiện Internet của học sinh trung học

Bảng 3. 7: Mức độ lệ thuộc Internet của học sinh qua thang s-IAT

Mức độ ĐTB ĐLC STT Câu hỏi (1) (2) (3) (4) (5)

1 Ban có thường xuyên cảm

thấy mình vào mạng 15.1 19.2 39.0 19.6 7.2 2.85 1.121 internet nhiều hơn dự kiến

không ?

2 Bạn có thường tự nhủ “chỉ

vào mạng thêm vài phút 12.9 19.7 33.9 24.1 9.3 2.97 1.153

nữa thôi” không ?

3 Bạn có thường xuyên quên 26.2 30.3 30.7 11.1 1.6 2.32 1.030 làm việc nhà vì dành thời

62

gian lên mạng không ?

4 Bạn có thường thất bại khi

tự cắt giảm thời gian vào 14.7 27.9 34.9 15.1 7.4 2.72 1.114 mạng internet của mình

không ?

5 Kết quả học tập ở trường có

bị giảm sút do thời gian bạn 31.8 33.4 25.9 7.2 1.8 2.14 1.104

dành cho internet không ?

6 Bạn có mất ngủ vì sử dụng

internet lúc đêm muộn 33.8 25.7 26.8 10.2 3.6 2.24 1.132

không ?

7 Bạn có thường chọn vào

mạng internet thay vì gặp 39.4 30.8 23.2 5.2 1.4 1.99 0.983

gỡ bạn bè không ?

8 Bạn có thường giấu việc

bạn đang online bằng phần 42.0 30.2 20.6 5.0 2.2 1.95 1.010 mềm hoặc các cách khác

không ?

9 Bạn có thường cáu kỉnh khi

người khác làm phiền lúc 31.3 30.2 27.9 7.6 3.1 2.21 1.062

bạn đang vào mạng không ?

10 Bạn có cảm thấy chán,

buồn, hay lo lắng khi không

vào mạng, và sẽ lại cảm 20.1 25.7 32.7 14.5 7.0 2.63 1.162

thấy thoải mái lúc vào mạng

lại không ?

11 Khi không sử dụng internet, 23.0 28.9 32.3 11.7 4.1 2.45 1.091

63

bạn có thường nghĩ đến

Internet và bận tâm về nó

không ?

12 Bạn có thường giữ bí mật

khi ai đó hỏi bạn làm gì trên 28.2 27.1 28.4 9.5 6.6 2.44 1.692

mạng không ?

Ghi chú: 1 = Rất hiếm khi, 2 = Hiếm khi, 3= Thỉnh thoảng,

4= Thường xuyên, 5 = Luôn luôn

Kết quả trong bảng 3.7 cho thấy một số hành vi nghiện Internet được

báo cáo nhiều hơn cả thông qua bản đánh giá nghiện s-IAT là " Thường tự nói

với mình rằng“ chỉ thêm một vài phút nữa thôi” khi bạn đang trực tuyến

(ĐTB=2.97; ĐLC=1.153), " thường xuyên cảm thấy mình vào mạng internet

nhiều hơn dự kiến" (ĐTB=2.85; ĐLC=1.121) và " thất bại khi tự cắt giảm

thời gian vào mạng internet của mình " (ĐTB=2.72; ĐLC=1.114), " Cảm

thấy chán, buồn, hay lo lắng khi không vào mạng, và sẽ lại cảm thấy thoải

mái lúc vào mạng " (ĐTB=2.63; ĐLC=1.162).

Bảng 3. 8: Tỷ lệ nghiện Internet qua thang s- IAT

Mức độ Tỷ lệ phần trăm Số lượng

(Học sinh) (%)

Không nghiện 474 85.4

Nghiện 81 14.6

Như vậy, trong số khách thể tham gia nghiên cứu, có 81 học sinh

(chiếm 14.6%) được đánh giá là nghiện Internet. So sánh với các nghiên cứu

khác cho thấy tỷ lệ được đánh giá nghiện Internet theo nghiên cứu này thấp

hơn một chút so với nghiên cứu trước đây tại Việt Nam (21,2%) (B. X. Tran

và cộng sự, 2017). Tỷ lệ nghiện Internet trong nghiên cứu hiện tại thấp hơn ở

Philippines (21,1%), Hồng Kông (16,4%) nhưng cao hơn các nước châu Á

khác bao gồm, Malaysia (14,1%), Hàn Quốc (9,7%), Trung Quốc (9,6%) và

64

Nhật Bản (6,2%) (Mak và cộng sự, 2014) [84]. Sự khác biệt có thể do các yếu

tố liên quan đến: độ tuổi, khu vực, điều kiện tiếp cận Internet hoặc cách sử

dụng công cụ nghiên cứu khác nhau. Tuy nhiên nghiên cứu này cũng có phần

nào đó tương đồng với kết quả nghiên cứu của Lê Minh Công cho thấy có tỷ

lệ khoảng 12,3% học sinh THCS nghiện Internet ở các cấp độ [6], của

Nguyễn Thị Phương (2013) cho thấy có khoảng 10% học sinh THCS sử dụng

Internet thường xuyên [13].

3.3. Mức độ nghiện Internet theo các yếu tố nhân khẩu học

Bảng 3. 9: Tỷ lệ nghiện Internet theo các biến nhân khẩu học

s-IAT N

p (chi-square (%) Không nghiện Nghiện

test) (%) (%)

Giới tính

Nam 238 31 207

(42.9%) (43.7%) (38.3%)

0.36 Nữ 317 50 267

(57.1%) (56.3%) (61.7%)

Khối

0.63 THCS 267 230 37

(48.1%) (45.8%) (45.7%)

THPT 288 44 244

(51.9%) (54.2%) (54.3%)

Khu vực

0.93 Khánh Hoà 290 42 248

(52.3%) (52.3%) (51.9%)

Đà Nẵng 265 39 226

(47.7%) (47.7%) (48.1%)

65

Lớp

7 127 10 117 0.02

(22.9%) (24.7%) (12.3%)

8 140 27 113

(25.2%) (23.8%) (33.3%)

10 155 28 127

(27.9%) (26.8%) (34.6%)

11 133 16 117

(24.7%) (19.8%) (24%)

Học lực

Yếu 5 2 3 0.02

(0.9%) (0.6%) (2.5%)

Trung bình 78 17 61

(14.2%) (12.9%) (20.9%)

Khá 237 35 202

(42.9%) (42.9%) (43.2%)

Giỏi 213 22 191

(38.6%) (40.7%) (27.2%)

Xuất sắc 19 5 14

(3.4%) (2.9%) (6.2%)

Sống cùng

Đại gia đình 146 22 124 0.23

(26.3%) (26.2%) (27.2%)

Bố và mẹ (hạt 340 47 293

nhân) (61.3%) (61.8%) (58.0%)

Ông bà nội ngoại 21 4 17

(3.8%) (3.6%) (4.9%)

66

Người thân/ Anh 7 0 7

chị cô dì chú bác (1.3%) (1.5%) (0.0%)

Sống tại các trung 2 0 2

tâm, mái ấm (0.4%) (0.4%) (0.0%)

Riêng với mẹ 33 5 28

(5.9%) (5.9%) (6.2%)

Riêng với bố 6 3 3

(1.1%) (0.6%) (3.7%)

Sự quan tâm của

gia đình

Hầu như không 5 0.00 2 3

(0.9%) (0.6%) (2.6%)

Ít 59 17 42

(10.7%) (8.9%) (20.9%)

Nhiều 248 34 214

(45.0%) (45.6%) (41.9%)

Rất nhiều 239 28 211

(43.4%) (44.9%) (34.6%)

Điều kiện kinh tế

0.96 25 4 21 Nghèo (4.5%) (4.4%) (4.9%)

295 41 254 Trung bình (53.2%) (53.6%) (50.6%)

223 34 189 Khá (40.2%) (39.9%) (42.0%)

12 2 10 Giàu (2.1%) (2.1%) (2.5%)

67

Công việc gia đình

0.32 91 107 16 CC/VCNN (20.6%) (20.6%) (20.5%)

144 173 29 Buôn bán nhỏ (33.3%) (32.7%) (37.2%)

5 6 1 Làm nghề biển (1.2%) (1.1%) (1.3%)

79 86 7 Làm nông nghiệp (15.6%) (17.9%) (9.0%)

145 121 24 Lao động tự do (27.9%) (27.4%) (30.8%)

2 1 1 Khác (0.4%) (0.2%) (1.3%)

Dựa vào bảng kết quả cho thấy:

- Giữa các biến giới tính, khối lớp, khu vực, điều kiện kinh tế, công

việc của gia đình, hoàn cảnh sống có sự tương đồng và không có sự khác biệt

về ý nghĩa thống kê p>0.05.

- Các em học sinh lớp 10 có số lượng em học sinh nghiện Internet cao

nhất với 28 học sinh (tỷ lệ 34.6%), tiếp đến là các em học sinh khối 8 với 27

học sinh (tỷ lệ 33.3%), trong khi học sinh lớp 7 có tỷ lệ nghiện Internet thấp

nhất với 10 học sinh (tỷ lệ 12.3%). Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê

p<0.05.

- Đối với các yếu tố về học lực, sự quan tâm của gia đình đều có giá trị

p<0.05. Tuy nhiên xét trên mẫu tổng thể thì không có ý nghĩa thống kê.

68

3.4. Thực trạng lo âu, trầm cảm và stress ở học sinh trƣờng trung học

Bảng 3. 10: Thực trạng lo âu, trầm cảm và stress ở học sinh

Mức độ ĐTB ĐLC Nội dung (0) (1) (2) (3)

Tôi thấy khó mà thoải mái 37.7 45.4 11.3 5.7 0.85 0.835 được

Tôi bị khô miệng 32.7 42.8 15.9 8.6 1.00 0.912

Tôi dường như chẳng có 47.9 34.5 12.9 4.8 0.75 0.858 chút cảm xúc tích cực nào

Tôi bị rối loạn nhịp thở

(thở gấp, khó thở dù chẳng 65.1 21.5 7.3 6.1 0.54 0.872

làm việc gì nặng)

Tôi thấy khó bắt tay vào 35.2 0.0 5.9 58.9 2.35 1.809 công việc

Tôi có xu hướng phản ứng 39.5 36.4 17.7 6.4 0.91 0.907 thái quá với mọi tình huống

Tôi bị ra mồ hôi (chẳng 40.2 27.3 12.1 20.4 1.13 1.151 hạn như mồ hôi tay...)

Tôi thấy mình đang suy 15.9 31.3 29.9 22.9 1.60 1.009 nghĩ quá nhiều

Tôi lo lắng về những tình

huống có thể làm tôi hoảng 25.1 0.0 18.1 56.4 2.36 1.534 sợ hoặc biến tôi thành trò

cười

Tôi thấy mình chẳng có gì 40.1 32.4 16.3 11.3 0.99 1.008 để mong đợi cả

Tôi thấy bản thân dễ bị 33.4 35.2 20.0 11.4 1.09 0.992

69

kích động

Tôi thấy khó thư giãn được 38.4 38.4 15.2 8.0 0.93 0.924

Tôi cảm thấy chán nản, thất 38.0 0.0 9.5 52.5 2.11 1.753 vọng

Tôi không chấp nhận được

việc có cái gì đó xen vào 19.5 39.9 22.7 17.9 1.39 0.994

cản trở việc tôi đang làm

Tôi thấy mình gần như 56.4 27.9 9.5 6.3 0.66 0.890 hoảng loạn

Tôi không thấy hăng hái 49.8 34.8 9.1 6.3 0.72 0.872 với bất kỳ việc gì nữa

Tôi cảm thấy mình chẳng 70.1 0.0 4.7 25.2 1.02 1.613 đáng làm người

Tôi thấy mình khá dễ phật 37.1 38.8 17.9 6.3 0.93 0.893 ý, tự ái

Tôi nghe thấy rõ tiếng nhịp

tim dù chẳng làm việc gì cả 53.4 0.0 6.4 40.2 1.63 1.810 (ví dụ, tiếng nhịp tim tăng,

tiếng tim loạn nhịp)

Tôi hay sợ vô cớ 43.5 36.1 13.4 7.0 0.84 0.907

Tôi thấy cuộc sống vô 63.4 22.1 9.1 5.4 0.56 0.866 nghĩa

Ghi chú: 0: Không đúng với tôi chút nào cả

1: Đúng với tôi phần nào, hoặc thỉnh thoảng mới đúng

2: Đúng với tôi phần nhiều, hoặc phần lớn thời gian là đúng

3: Hoàn toàn đúng với tôi, hoặc hầu hết thời gian là đúng

Kết quả trong bảng 3.10 cho thấy:

70

- Đối với các vấn đề Stress: Một số tình trạng được báo cáo nhiều hơn

cả là " Tôi thấy mình đang suy nghĩ quá nhiều” (ĐTB=1.60; ĐLC=1.009), và

" Không chấp nhận được việc có cái gì đó xen vào cản trở việc tôi đang làm "

(ĐTB=1.39; ĐLC=0.994).

- Đối với các vấn đề Lo âu: Một số tình trạng được báo cáo nhiều hơn

cả là " Lo lắng về những tình huống có thể làm tôi hoảng sợ hoặc biến tôi

thành trò cười” (ĐTB=2.36; ĐLC=1.534), và " Nghe thấy rõ tiếng nhịp tim

dù chẳng làm việc gì cả " (ĐTB=1.63; ĐLC=1.810).

- Đối với các vấn đề Trầm cảm: Một số tình trạng được báo cáo nhiều

hơn cả là " thấy khó bắt tay vào công việc” (ĐTB=2.36; ĐLC=1.534), và "

cảm thấy chán nản, thất vọng " (ĐTB=2.11; ĐLC=1.753).

Bảng 3. 11: Tỷ lệ stress ở học sinh

Mức độ Tỷ lệ phần trăm Số lượng

(Học sinh) (%)

288 51.7 Bình thường

102 18.3 Nhẹ

99 17.7 Trung bình

53 9.5 Nguy cơ

15 2.7 Nặng

Bảng số liệu cho thấy: tỷ lệ học sinh gặp vấn đề stress ở mức độ nặng

là 15 học sinh chiếm tỷ lệ 2.7%, có 53 học sinh chiếm tỷ lệ 9.5% có nguy cơ

và 99 học sinh chiếm tỷ lệ 17.7% bị stress ở mức độ trung bình do nghiện

Internet.

71

Bảng 3. 12: Tỷ lệ trầm cảm ở học sinh

Mức độ Tỷ lệ phần trăm Số lượng

(Học sinh) (%)

28.7 Bình thường 160

15.6 Nhẹ 87

28.2 Trung bình 157

14.5 Nguy cơ 81

12.9 Nặng 72

Bảng số liệu cho thấy: tỷ lệ học sinh gặp vấn đề trầm cảm ở mức độ

nặng là 72 học sinh chiếm tỷ lệ 12.9 %, có 81 học sinh chiếm tỷ lệ 14.5% có

nguy cơ và 157 học sinh chiếm tỷ lệ 28.2% bị stress ở mức độ trung bình do

nghiện Internet.

Bảng 3. 13: Tỷ lệ lo âu ở học sinh

Mức độ Tỷ lệ phần trăm Số lượng

(Học sinh) (%)

18.9 Bình thường 105

5.7 Nhẹ 32

24.4 Trung bình 136

17.6 Nguy cơ 98

33.4 Nặng 186

Bảng số liệu cho thấy: tỷ lệ học sinh gặp vấn đề lo âu ở mức độ nặng là

186 học sinh chiếm tỷ lệ 33.4 %, có 98 học sinh chiếm tỷ lệ 17.6% có nguy cơ

và 136 học sinh chiếm tỷ lệ 24.4% bị lo âu ở mức độ trung bình do nghiện

Internet.

72

3.5. Thực trạng trầm cảm, lo âu, stress theo các yếu tố nhân khẩu học

Bảng 3. 14: Thực trạng trầm cảm theo các biến nhân khẩu học

Trầm cảm p (chi- N

square 2 3 4 5 1

test)

Giới tính

Nữ 46 93 50 43 0.58 317 85

Nam 41 64 31 29 240 75

Khối

THCS 266 91 44 66 37 28 0.03

THPT 291 69 43 91 44 44

Khu vực

Khánh Hoà 291 99 42 85 32 33 0.01

Đà Nẵng 266 61 45 72 49 39

Lớp

7 127 53 16 24 21 13 0.03

8 139 38 28 42 16 15

10 156 37 25 46 25 23

73

11 135 32 18 45 19 21

Học lực

Yếu 5 2 1 1 1 0.01 0

Trung bình 78 20 11 22 16 9

Khá 240 61 36 66 49 28

Giỏi 214 65 36 67 23 23

Xuất sắc 20 12 3 1 0 4

Sự quan tâm của gia đình

Hầu như không 5 2 0 1 2 0.00 0

Ít 59 10 19 15 11 4

Nhiều 250 58 47 77 35 33

Rất nhiều 243 90 36 61 30 26

Điều kiện kinh tế

25 4 1 10 6 4 0.15 Nghèo

295 82 51 85 44 33 Trung bình

74

224 70 35 57 31 31 Khá

13 4 0 5 0 4 Giàu

Sống cùng

Đại gia đình 149 45 19 43 20 22 0.42

Bố và mẹ (hạt nhân) 339 98 56 99 48 38

Ông bà nội ngoại 21 4 4 3 6 4

Người thân/ Anh 8 2 3 2 0 1

chị cô dì chú bác

Sống tại các trung 2 0 0 0 0 2

tâm, mái ấm

Riêng với mẹ 33 5 9 9 6 4

Riêng với bố 5 1 1 1 1 1

Công việc gia đình

107 21 19 37 12 18 0.02 CC/VCNN

173 50 24 53 25 21 Buôn bán nhỏ

0 6 1 3 2 0 Làm nghề biển

7 Làm nông nghiệp 86 25 14 25 15

75

146 50 23 33 23 17 Lao động tự do

0 0 0 0 2 2 Khác

Ghi chú: 1: Bình thường; 2: Nhẹ; 3: Trung bình; 4: Nguy cơ; 5: Nặng

Dựa vào bảng số liệu cho thấy:

- Giữa các biến giới tính, điều kiện kinh tế gia đình, hoàn cảnh sống

cuae học sinh không có sự khác biệt về ý nghĩa thống kê p>0.05.

- Xét theo khối học, các em học sinh khối THPT có số lượng em học

sinh gặp các vấn đề về trầm cảm cao hơn với 44 em ( tỷ lệ 61.1%) so với

khối THCS với 28 em (tỷ lệ 38.9%), sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê

p=0.03<0.05.

- Xét theo khu vực, các em học sinh ở Đà Nẵng có số lượng em học

sinh gặp các vấn đề về trầm cảm cao hơn với 39 em ( tỷ lệ 54.2%) so với các

em ở Khánh Hoà với 33 em (tỷ lệ 45.8%), sự khác biệt này có ý nghĩa thống

kê p=0.01<0.05.

- Xét theo khối lớp, các em học sinh thuộc khối lớp 10 và 11 gặp các

vấn đề về trầm cảm cao hơn so với các em ở khối lớp 7 và 8. Sự khác biệt này

có ý nghĩa thống kê p=0.03<0.05.

- Đối với các yếu tố về học lực, công việc của gia đình, sự quan tâm

của gia đình đều có giá trị p<0.05. Tuy nhiên xét trên mẫu tổng thể thì không

có ý nghĩa thống kê.

76

Bảng 3. 15: Thực trạng lo âu theo các biến nhân khẩu học

N Lo âu p (chi-

square 3 4 5 1 2

test)

Giới tính

Nữ 316 52 80 56 112 0.40 16

Nam 241 53 56 42 74 16

Khối

THCS 266 60 16 71 42 77 0.06

THPT 291 45 16 65 56 109

Khu vực

Khánh Hoà 291 61 19 64 61 86 0.03

Đà Nẵng 266 44 13 72 37 100

Lớp

7 127 37 30 16 33 0.02 11

8 139 23 41 26 44 5

10 156 22 32 35 60 7

11 135 23 33 21 49 9

77

Học lực

Yếu 5 1 1 0 2 0.67 1

Trung bình 78 14 20 11 27 6

Khá 240 40 12 57 49 82

Giỏi 214 42 12 55 36 69

Xuất sắc 20 8 1 3 2 6

Sự quan tâm của gia đình

Hầu như không 5 2 0.40 1 0 2 0

Ít 59 11 10 8 26 5

Nhiều 250 39 15 62 52 82

Rất nhiều 243 53 12 63 38 76

Điều kiện kinh tế

25 2 0 5 7 11 0.06 Nghèo

296 53 18 75 55 95 Trung bình

Khá 223 48 14 52 35 74

78

13 2 0 4 1 6 Giàu

Hoàn cảnh sống

Đại gia đình 148 22 6 28 33 59 0.10

Bố và mẹ (hạt 339 66 22 95 58 98

nhân)

Ông bà nội 21 6 2 7 0 6

ngoại

Người thân/ 8 3 0 0 2 3

Anh chị cô dì

chú bác

Sống tại các 2 0 0 0 0 2

trung tâm, mái

ấm

Riêng với mẹ 33 8 1 5 4 15

Riêng với bố 6 0 1 1 1 3

Công việc gia đình

107 23 4 27 15 38 0.37 CC/ VCNN

173 28 13 39 34 59 Buôn bán nhỏ

6 2 2 0 1 1 Làm nghề biển

79

7 Làm nông 86 17 16 18 28

nghiệp

5 146 30 41 23 47 Lao động tự do

0 2 0 1 0 1 Khác

Ghi chú: 1: Bình thường; 2: Nhẹ; 3: Trung bình; 4: Nguy cơ; 5: Nặng

Dựa vào bảng số liệu cho thấy:

- Giữa các biến giới tính, khối lớp, học lực, công việc của gia đình,

hoàn cảnh sống, điều kiện kinh tế và sự quan tâm của gia đình không có sự

khác biệt về ý nghĩa thống kê p>0.05.

- Xét theo khu vực, các em học sinh ở Đà Nẵng có số lượng em học

sinh gặp các vấn đề về lo âu cao hơn với 100 em (tỷ lệ 53.8%) so với các em

ở Khánh Hoà với 86 em (tỷ lệ 46.2%), sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê

p=0.03<0.05.

- Xét theo khối lớp, các em học sinh thuộc khối lớp 10 và 11 gặp các

vấn đề về lo âu cao hơn so với các em ở khối lớp 7 và 8. Sự khác biệt này có

ý nghĩa thống kê p=0.02<0.05.

Bảng 3. 16: Thực trạng stress theo các biến nhân khẩu học

Stress p (chi- N

square 3 4 1 2 5

test)

Giới tính

Nữ 318 151 61 61 38 0.06 7

Nam 239 137 41 38 15 8

80

Khối

THCS 266 140 46 49 22 0.69 9

THPT 291 148 56 50 31 6

Khu vực

Khánh Hoà 290 152 56 48 25 0.77 9

Đà Nẵng 267 136 46 51 28 6

Lớp

127 74 23 8 0.35 7 2 20

8 139 66 26 26 14 7

10 156 71 31 31 18 5

11 135 77 25 19 13 1

Học lực

Yếu 5 2 0 2 0.76 1 0

7 3 Trung bình 78 42 15 11

3 Khá 240 129 42 46 20

8 Giỏi 214 103 43 36 24

81

Xuất sắc 20 12 2 4 1 1

Sự quan tâm của gia đình

Hầu như 5 3 1 1 0.72 0 0

không

Ít 59 24 10 15 8 2

Nhiều 250 127 50 39 25 9

Rất nhiều 243 134 41 44 19 4

Điều kiện kinh tế

24 11 3 5 5 0.40 0 Nghèo

297 155 52 57 27 6 Trung bình

223 119 43 34 19 8 Khá

13 3 4 3 2 1 Giàu

Sống cùng

Đại gia đình 148 74 30 25 17 2 0.00

Bố và mẹ (hạt 339 189 57 55 28 10

nhân)

Ông bà nội 21 12 4 1 3 1

82

ngoại

Người thân/ 8 3 3 0 0 2

Anh chị cô dì

chú bác

Sống tại các 2 1 0 0 1 0

trung tâm, mái

ấm

Riêng với mẹ 33 8 11 4 1 9

Riêng với bố 6 1 4 1 0 0

Công việc

108 50 21 22 8 0.02 7 CC/VCNN

174 91 31 31 17 4 Buôn bán nhỏ

6 5 0 1 0 0 Làm nghề biển

Làm nông 86 44 15 19 8 0

nghiệp

145 80 27 24 11 3 Lao động tự do

2 0 0 0 2 0 Khác

Ghi chú: 1: Bình thường; 2: Nhẹ; 3: Trung bình; 4: Nguy cơ; 5: Nặng

83

Dựa vào bảng số liệu cho thấy:

- Giữa các biến giới tính, khối lớp, khu vực, lớp, học lực, sự quan tâm,

điều kiện kinh tế của gia đình không có sự khác biệt về ý nghĩa thống kê

p>0.05.

- Đối với các yếu tố về hoàn cảnh sống của học sinh và công việc của

gia đình đều có giá trị p<0.05. Tuy nhiên xét trên mẫu tổng thể thì không có ý

nghĩa thống kê.

3.6. Mối liên hệ giữa việc sử dụng Internet với các biến số

Bảng 3. 17: Mối liên hệ giữa việc sử dụng Internet với trầm cảm, lo âu, stress

ở học sinh

s-IAT Stress Trầm cảm Lo âu

s-IAT

Stress

Trầm cảm

1 .368** .284** .229** 1 .551** .575** 1 .554** 1 Lo âu

Ghi chú: ** Tương quan có ý nghĩa ở mức 0.01

Theo bảng 3.17 thì cả 3 yếu tố đều có tương quan thuận với nghiện

Internet. Trong đó: Stress có hệ số tương quan ở mức độ trung bình , trong khi

trầm cảm và lo âu đạt ở mức thấp. Tức là, một số học sinh càng bị stress

nhiều thì khả năng các em bị nghiện Internet càng cao và ngược lại

Trầm cảm và lo âu chỉ tương quan ở mức độ thấp. Tức là, một số ít học

sinh bị trầm cảm, lo âu nhiều thì khả năng các em bị nghiện Internet càng lớn

và ngược lại.

So sánh với các nghiên cứu khác cho thấy giữa việc sử dụng Internet và

trầm cảm, lo âu, stress có mối tương quan với nhau. Kết quả nghiên cứu này

phù hợp với các nghiên cứu trước đó của Yadav P và cộng sự (2013); Ostovar

và cộng sự (2016) khi đã chỉ ra rằng: có một mối quan hệ đáng kể giữa lo

lắng, trầm cảm và căng thẳng với Nghiện Internet [94][122].

84

3.7. Các yếu tố dự báo nghiện Internet

Chúng tôi phân tích hồi quy tuyến tính đa biến để xác định các biến

nhân khẩu học (giới tính, lớp, khu vực sống, học lực, sự quan tâm của gia

đình, điều kiện kinh tế gia đình, công việc của gia đình, mức độ sử dụng, thời

gian truy cập Internet) và biến về sức khỏe tâm thần bao gồm: trầm cảm, lo âu

và stress với biến mức độ nghiện Internet. Ðối với mức độ sử dụng Internet: hệ số R=0.549 và tất cả các yếu tố chỉ giải thích được 28.1% (R2 = 0.281) sự

thay đổi của tần suất học sinh có biểu hiện sử dụng Internet ở mức nghiện. Sự

quan tâm của gia đình, mức độ truy cập, thời gian truy cập, trầm cảm, lo âu là

những yếu tố độc lập có ý nghĩa dự đoán tần suất học sinh nghiện Internet.

Bảng 3. 18: Các yếu tố dự đoán cho nghiện Internet

Nghiện Internet

0.549

Hệ số R Hệ số R2 0.281

Hệ số R điều chỉnh 0.302

Sự quan tâm của gia đình 0.002

Mức độ truy cập Internet 0.000

p Thời gian truy cập 0.001

Trầm cảm 0.003

Stress 0.000

Kết quả này phù hợp với kết quả của các nghiên cứu trước đây như :

Jang K.S và cộng sự (2008) cho thấy rằng thời gian sử dụng Internet lâu hơn

có liên quan đáng kể với nghiện Internet [60].

85

3.8. Các yếu tổ dự báo vấn đề trầm cảm, lo âu, stress ở học sinh

Bảng 3. 19: Các yếu tố dự báo cho vấn đề trầm cảm, lo âu, stress

ở học sinh trung học

Trầm cảm Lo âu Stress

0.197 0.222 0.288

Hệ số R Hệ số R2 0.17 0.028 0.062

Hệ số R điều chỉnh 0.39 0.049 0.083

Lớp 0.035

Thời gian truy cập 0.003

Sự quan tâm của gia đình 0.001

p Giới tính 0.026

Trường 0.017

Khu vực 0.004

Học lực 0.003

Chúng tôi phân tích hồi quy tuyến tính đa biến để xác định trong các

biến nhân khẩu (lớp, giới tính, trường, học lực, thời lượng truy cập…) các

biến nào là yếu tố dự đoán cho các vấn đề trầm cảm, lo âu, stress ở học sinh.

Dựa theo bảng kết quả phân tích, chúng tôi nhận thấy :

- Giới tính, trường, khu vực, học lực là yếu tố độc lập có ý nghĩa dự

đoán cho mức độ biểu hiện của trầm cảm

- Lớp là yếu tố dự đoán có ý nghĩa cho mức độ biểu hiện của lo âu.

- Thời gian truy cập là yếu tố dự đoán có ý nghĩa cho mức độ biểu hiện

của stress.

3.9. Bàn luận về kết quả nghiên cứu

Trước hết kết quả nghiên cứu cho thấy việc sử dụng Internet đang diễn

ra một cách phổ biến ở học sinh THCS và THPT, việc sử dụng Internet cũng

86

gây ảnh hưởng đến các vấn đề về sức khỏe tâm thần bao gồm: trầm cảm, lo

âu, stress, cụ thể:

- Có một tỷ lệ nhất định học sinh trung học tham gia nghiên cứu có dấu

hiệu nghiện Internet với tỷ lệ 14.6%. Đối chiếu với các kết quả nghiên cứu

trước đây cho thấy có sự tương đồng với nhiều nghiên cứu trên thế giới và tại

Việt Nam [74][103][33][6][13].

- Việc sử dụng interent của học sinh, nghiên cứu cho thấy học sinh

dành khoảng 4,7 giờ/ngày để truy cập Internet. Điều này cho thấy học sinh

dành thời gian để truy cập Internet khá nhiều.

- Khi so sánh tương quan cho thấy, việc sử dụng Internet có gây ảnh

hưởng đến các vấn đề về trầm cảm, lo âu, stress và ngược lại.

- Bên cạnh đó giới tính, trường, khu vực, học lực, lớp, thời gian truy

cập là yếu tố độc lập có ý nghĩa dự đoán cho mức độ biểu hiện của trầm cảm,

lo âu, stress của học sinh khi nghiện Internet.

Hạn chế của nghiên cứu: (1) chỉ mới sử dụng bảng hỏi tự thuật, (2)

thiết kế nghiên cứu cắt ngang nên chưa cho thấy mối quan hệ mang tính nhân

quả giữa các biến, (3) mẫu nghiên cứu tập trung ở khu vực trung tâm của các

tỉnh, thành phố. Do đó, các nghiên cứu trong tương lai có thể thực hiện là

nghiên cứu trường diễn để xem xét mối quan hệ nhân quả giữa việc sử dụng

Internet và các yếu tố liên quan, bổ sung thêm dữ liệu từ cha mẹ, giáo viên,

v.v, thu thập dữ liệu trên cả học sinh ở khu vực nông thôn.

87

KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ

Như vậy, dựa trên các kết quả nghiên cứu thu được, có thể rút ra kết

luận chính sau:

- Kết quả về mặt nghiên cứu lý luận:

Dựa trên tổng quan các nghiên cứu cho thấy, có rất nhiều nghiên cứu

tập trung tìm hiểu về thực trạng sử dụng Internet cũng như nghiện Internet ở

học sinh trung học, hệ thống hoá các khái niệm về mức độ sử dụng Internet,

tiêu chuẩn đánh giá mức độ sử dụng Internet, ảnh hưởng của việc sử dụng

Internet với các vấn đề về sức khoẻ tâm thần như: rối loạn về giấc ngủ, rối

loạn tăng động giảm chú ý, lòng tự trọng, rối loạn lượng cực, hành vi tự sát,

ám ảnh xã hội…. Đặc biệt là các nghiên cứu liên quan giữa việc sử dụng

Internet với các vấn đề về trầm cảm, lo âu, stress ở học sinh trung học hiện

nay. Tại Việt Nam, đã có những nghiên cứu về nghiện Internet với các vấn đề

về sức khoẻ tâm thần nói chung trên các nhóm riêng biệt như: học sinh

THCS, sinh viên, hay hiệu quả của việc ứng dụng trị liệu trong việc hỗ trợ

người nghiện Internet. Chưa có bất kỳ nghiên cứu nào đánh giá cụ thể các vấn

đề về trầm cảm, lo âu, stress trên nhóm đối tượng là học sinh trung học nói

chung.

- Kết quả nghiên cứu thực tiễn

Thứ nhất, chúng tôi xác định được việc sử dụng Internet đang diễn ra ở

học sinh THCS và THPT khá phổ biến, với 14.6% tổng số khách thể báo cáo

có dấu hiệu nghiện Internet.

Thứ hai, về mối quan hệ giữa sử dụng Internet với các vấn đề về trầm

cảm, lo âu, stress cho thấy việc sử dụng internet có tương quan thuận ở mức

độ thấp đến trung bình

Từ kết quả nghiên cứu này, chúng tôi đưa ra một số khuyến nghị như

sau:

88

Với những kết quả nghiên cứu nêu trên, các nghiên cứu trong tương lai

cần thực hiện thêm nghiên cứu đánh giá thêm về mối liên quan giữa việc sử

dụng Internet với các vấn đề liên quan khác, bổ sung thêm các dữ liệu cung

cấp từ gia đình, cha mẹ, thầy cô giáo…., mở rộng khu vực nghiên cứu để

đánh giá.

Đối với thang đo đánh giá việc sử dụng Internet, tại Việt Nam tác giả

Trần Xuân Bách đã thích nghi bảng rút gọn (s-IAT) từ phiên bản ban đầu của

Young. Các nghiên cứu khác có thể áp dụng phiên bản đánh giá s-IAT để

thực hiện đánh giá về mức độ sử dụng Internet.

Trước thực trạng vấn đề như vậy, việc sử dụng Internet ảnh hưởng đến

các vấn đề sức khỏe tâm thần, thể chất được khẳng định qua nhiều nghiên cứu

ở trong và ngoài nước. Vì vậy, cần đẩy mạnh và tiếp tục triển khai các chương

trình can thiệp và phòng ngừa, bao gồm: chương trình dành cho nhà trường,

gia đình và bản thân học sinh

89

TÀI LIỆU THAM KHẢO

TIẾNG VIỆT

1. Đào Lê Hòa An (2013). Nghiên cứu về hành vi sử dụng Facebook của

con người – Một thách thức mới cho Tâm lí học hiện đại. Tạp chí khoa học

Đại học sư phạm Hồ Chí Minh, số 49 – 2013, tr. 15-21

2. Trịnh Hòa Bình và cộng sự (2010). Khảo sát xã hội về dịch vụ trò chơi

trực tuyến ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế. Viện xã hội học.

3. Lê Minh Công (2009), Nghiện Internet ở thanh thiếu niên, báo cáo qua

ba trường hợp lâm sàng. Kỷ yếu hội thảo quốc tế “Nhu cầu, định hướng và

đào tạo tâm lý học đường Việt Nam. Viện Tâm lý học Việt Nam.

4. Lê Minh Công (2010), Mối quan hệ giữa trầm cảm và nghiện Internet

thông qua hai trường hợp lâm sàng. Kỷ yếu Hội thảo khoa học “ Nghiên cứu,

giảng dạy và ứng dụng Tâm lý học, Giáo dục học vào thực tiễn trong thời kỳ

hội nhập. NXB Đại học Sư phạm Hà Nội

5. Lê Minh Công (2010), Phối hợp điều trị tâm lý cho một trường hợp

nghiện game online, Tạp chí Tâm lý học Vol 2, Viện Tâm lý học

6. Lê Minh Công; Thực trạng nghiện internet ở học sinh THCS tại Tp

Biên Hoà, Đồng Nai. Luận văn thạc sĩ, 2011

Vũ Dũng (chủ biên) (2000), Từ điển tâm lý học, NXB KHXH, Hà Nội 7.

Nguyễn Thị Bích Hà, Hoàng Thị Xuân Dung, Trịnh Thị Quỳnh (2006), 8.

Tác động của game online tới thanh thiếu niên, Đề tài cấp ĐH Quốc Gia Hà

Nội

9. Trần Thị Mỹ Hạnh và Lê Cự Linh (2009), Mối liên quan của việc xem

phim ảnh và trang web khiêu dâm tới quan niệm và hành vi tình dục của

thanh thiếu niên chưa kết hôn ở quận Gia Lâm, Hà Nội. Tạp chí Y tế công

cộng. 13, tr.38-45

10. Nguyễn Thị Bích Hạnh, Trần Văn Công, (2017), “Thực trạng bắt nạt

trực tuyến ở học sinh trung học phổ thông trên địa bàn thành phố Đà Nẵng”,

Kỷ yếu Hội thảo quốc tế Tâm lý học Khu vực Đông Nam Á lần thứ nhất

“Hạnh phúc con người và phát triển bền vững”, RCP 2017, Quyển 2, tr. 355-

363.

11. Hồ Thị Luyến (2007). Ảnh hưởng của trò chơi trực tuyến đối với học

sinh PTTH ở Tp. Hồ Chí Minh. Viện Nghiên cứu phát triển Tp. HCM.

12. Trần Viết Nghị và cộng sự (2002), Cơ sở của lâm sàng tâm thần học,

(dịch theo Sidney Bloch & Bruce S. Singh, Foundations of clinical psychiatry,

Second Edition, Melbourne University Press, 2000), NXB Y học

13. Nguyễn Thị Phương (2013), Tương quan giữa mức độ sử dụng Internet

và các vấn đề về sức khỏe tâm thần ở học sinh THCS. Luận văn Thạc sĩ tâm

lý học, ĐH Giáo dục – Đại học quốc gia Hà Nội

14. Nguyễn Sinh Phúc, Giáo trình đại cương chăm sóc SKTT, NXB Lao

động – xã hội – 2014

15. Cao Ngọc Thành, Võ Văn Thắng (2013), “Sức khỏe vị thành niên, vấn

đề và giải pháp”, Giáo trình quản lý sức khỏe sinh sản, tr. 102-132.

16. Nguyễn Thị Phương Thảo (2008), Tác động của game online đối với

việc học tập và nâng cao kiến thức của học sinh đô thị hiện nay (Nghiên cứu

trường hợp tại Ninh Bình), Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Xã hội học, ĐH

Khoa học xã hội và nhân văn Hà Nội

17. Hà Thị Thư (2009), Giáo trình Tâm lý học phát triển. NXB Lao động –

Xã hội

18. Đinh Thị Kim Thoa, Nguyễn Thị Mỹ Lộc, Trần Văn Tính, Tâm lý học

phát triển, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội

19. Nguyễn Việt (1997), Stress từ bệnh học tâm thần đến cách tiếp cận

trong điều trị, Nguyễn Việt dịch và biên soạn theo M.Ferreri, H.

TÀI LIỆU TIẾNG ANH

20. Ahn DH (2007). Korean policy on treatment and rehabilitation for

adolescents‟ Internet addiction. International Symposium on the Counseling

and Treatment of Youth Internet Addiction. Seoul, Korea: National Youth

Commission. pp. 4

21. Ak, Ş., Koruklu, N., & Yılmaz, Y. (2013). A Study on Turkish

Adolescent‟s Internet Use: Possible Predictors of Internet Addiction.

Cyberpsychology, Behavior, and Social Networking, 16(3), 205–209.

22. American Psychiatric Association. Diagnostic and Statistical Manual

of Mental Disorders, 5th Ed.,DSM-5, 2013, pp 156-170.

23. Aysegul Yolga Tahiroglu. et al (2008). Internet Use Among Turkish

Adolescents. CyberPsychology & Behavior, 11(5), 537–543.

24. Bakken IJ, Wenzel HG, Gotestam KG, Johansson A, Oren A. Internet

addiction among Norwegian adults: a stratified probability sample study.

Scand J Psychol 2009;50(2):121–7

25. Balhara YP, Mahapatra A, Sharma P, Bhargava R. Problematic

internet use among students in South-East Asia: Current state of evidence.

Indian J Public Health 2018;62:197-210

26. Beard, K. W., & Wolf, E. M. (2001). Modification in the Proposed

Diagnostic Criteria for Internet Addiction. CyberPsychology & Behavior,

4(3), 377–383. doi:10.1089/109493101300210286

27. Bener A & Bhugra D: Lifestyle and depressive risk factors associated

with problematic internet use in adolescents in an Arabian Gulf culture. J

Addict Med 2013; 7:236–242

28. Block, J. J. (2008). Issues for DSM-V: Internet Addiction. American

Journal of Psychiatry, 165(3), 306–307. doi:10.1176/appi.ajp.2007.07101556

29. Bremer J. The internet and children: advantages and disadvantages.

Child Adolesc Psychiatr Clin N Am. 2005;14(3):405–28, viii. pmid:15936666

30. Bruno, A., Scimeca, G., Cava, L., Pandolfo, G., Zoccali, R. A., &

Muscatello, M. R. A. (2014). Prevalence of Internet Addiction in a Sample of

Southern Italian High School Students. International Journal of Mental Health

and Addiction, 12(6), 708–715.

31. Canan F, Yildirim O, Ustunel TY, et al. The relationshipbetween

Internet addiction and body mass index in Turkish adolescents.

Cyberpsychology, Behavior, & Social Networking 2014; 17:40–5.

32. Cao, F., & Su, L. (2007). Internet addiction among Chinese

adolescents: prevalence and psychological features. Child Care, Health and

Development, 33(3), 275–281.

33. Cao, H., Sun, Y., Wan, Y., Hao, J., & Tao, F. (2011). Problematic

Internet use in Chinese adolescents and its relation to psychosomatic

symptoms and life satisfaction. BMC Public Health, 11(1). doi:10.1186/1471-

2458-11-802

34. Carbonell X, Chamarro A, Griffiths M, Oberst U, Cladellas R, Talarn

A. Problematic Internet and cell phone use in Spanish teenagers and young

students. Anales De Psicologia 2012; 28: 789- 96

35. Carli, V., Durkee, T., Wasserman, D., Hadlaczky, G., Despalins, R.,

Kramarz, E., … Kaess, M. (2013). The Association between Pathological

Internet Use and Comorbid Psychopathology: A Systematic Review.

Psychopathology, 46(1), 1–13.

36. Cheng, C., & Li, A. Y. (2014). Internet Addiction Prevalence and

Quality of (Real) Life: A Meta-Analysis of 31 Nations Across Seven World

Regions. Cyberpsychology, Behavior, and Social Networking, 17(12)

37. Cheung, L. M., & Wong, W. S. (2010). The effects of insomnia and

internet addiction on depression in Hong Kong Chinese adolescents: an

exploratory cross-sectional analysis. Journal of Sleep Research, 20(2), 311–

317. doi:10.1111/j.1365-2869.2010.00883.x

38. Choi, K., Son, H., Park, M., Han, J., Kim, K., Lee, B., & Gwak, H.

(2009). Internet overuse and excessive daytime sleepiness in adolescents.

Psychiatry and Clinical Neurosciences, 63(4), 455–462.

39. Chou, C. (2001). Internet heavy use and addiction among Taiwanese

college students: An online interview study. Cyberpsychology and Behavior,

4(5), 573-585.

40. Christakis DA, Moreno MA. Trapped in the net: will internet

addiction become a 21st-century epidemic? Arch Pediatr Adolesc Med.

2009;163(10):959–60. pmid:19805719

41. Cui, L. J., Zhao, X., Wu, Z. M., & Xu, A. H. (2006). A research on

the effects of Internet addiction on adolescents‟ social development.

Psychological Science, 1, 34–36.

42. Davis, R. A. (2001). A cognitive-behavioral model of pathological

Internet use. Computers in Human Behavior, 17(2), 187–195.

43. di Gennaro, C., & Dutton, W. H. (2007). Reconfiguring friendships:

Social relationships and the Internet Information Communication & Society,

10(5), 519-618.

44. Digital in 2017: A study of Internet, Social Media, and Mobile use

throughout the region of Southeast Asia. We Are Social

45. Eijnden R Van den & Meerkerk G: Online

communication,compulsive Internet use, and psychosocial well-being among

adolescents: a longitudinal study. Developmental 2008;

46. Fisher, S. (1994). Identifying video game addiction in children and

adolescents. Addictive Behaviors, 19(5), 545–553. doi:10.1016/0306-

4603(94)90010-8

47. Fisoun, V., Floros, G., Geroukalis, D., Ioannidi, N., Farkonas, N.,

Sergentani, E., … Siomos, K. (2011). Internet addiction in the island of

Hippocrates: the associations between internet abuse and adolescent off-line

behaviours. Child and Adolescent Mental Health, 17(1), 37–44.

48. Fisoun V, Floros G, Siomos K, Geroukalis D, Navridis K. Internet

addiction as an important predictor in early detection of adolescent drug use

experience: Implications for research and practice. J

Addict Med 2012; 6: 77-84

49. Fu, K.-W., Chan, W. S. C., Wong, P. W. C., & Yip, P. S. F.

(2010). Internet addiction: prevalence, discriminant validity and correlates

among adolescents in Hong Kong. British Journal of Psychiatry, 196(06),

486–492.

50. Goel D, Subramanyam A, Kamath R. (2013). A study on the

prevalence of internet addiction and its association with psychopathology in

Indian adolescents, Indian Journal of Psychiatry, 55(2). 140-145.

51. Goldberg I. (1995). IAD, in Cinti M. E.(a cura di) Internet Addiction

Disorder un fenomeno sociale in espansione(pp.6-7).

Available:http://www.iucf.indiana.edu/brown/hyplan/addict.html.

52. Gómez, P., Rial, A., Braña, T., Golpe, S., & Varela, J. (2017).

Screening of Problematic Internet Use Among Spanish Adolescents:

Prevalence and Related Variables. Cyberpsychology, Behavior, and Social

Networking, 20(4), 259–267.

53. Gong, J., Chen, X., Zeng, J., Li, F., Zhou, D., & Wang, Z. (2009).

Adolescent addictive internet use and drug abuse in Wuhan, China. Addiction

Research & Theory, 17(3), 291–305.

54. Greenfield, D. N. (1999). Psychological characteristics of compulsive

internet use: A preliminary analysis. Cyberpsychology and Behavior, 8(2),

403-412.

55. Griffiths, M. D. (1996a). Internet addiction: An issue for clinical

psychology? Clinical Psychology Forum, 97, 32–36.

56. Guo, J., Chen, L., Wang, X., Liu, Y., Chui, C. H. K., He, H., … Tian,

D. (2012). The Relationship Between Internet Addiction and Depression

Among Migrant Children and Left-Behind Children in China.

Cyberpsychology, Behavior, and Social Networking, 15(11), 585–590.

57. Ha JH., Kim SY., Bae SC., Bae S., Kim H., Sim M., Lyoo IK., Cho

SC. (2013). Depression and internet addiction in adoloscents, Journal of

Psychopathology, 40(6). 424-430.

58. Hamaideh, S. H. (2009), Stressors and reactions to stressors among

university students, International Journal of Social Psychiatry.

59. Internet World Stats. Internet users of the world: Distribution by

world regions 2017 .June 30, 2017. Available from: www.internetworldstats

60. Jang, K. S., Hwang, S. Y., & Choi, J. Y. (2008). Internet Addiction and

Psychiatric Symptoms Among Korean Adolescents. Journal of School Health,

78(3), 165–171. doi:10.1111/j.1746-1561.2007.00279.x

61. Johansson A, Gotestam KG. Internet addiction: characteristics of a

questionnaire and prevalence in Norwegian youth (12–18 years).

Scandinavian Journal of Psychology 2004; 45:223–239

62. Kaess, M., Durkee, T., Brunner, R., Carli, V., Parzer, P., Wasserman,

C., … Wasserman, D. (2014). Pathological Internet use among European

adolescents: psychopathology and self-destructive behaviours. European

Child & Adolescent Psychiatry, 23(11), 1093–1102

63. Kaltiala-Heino, R., Lintonen, T., & Rimpelä, A. (2004). Internet

addiction? Potentially problematic use of the Internet in a population of 12–18

year-old adolescents. Addiction Research & Theory, 12(1), 89–96.

64. Kawabe, K., Horiuchi, F., Ochi, M., Oka, Y., & Ueno, S. (2016).

Internet addiction: Prevalence and relation with mental states in adolescents.

Psychiatry and Clinical Neurosciences, 70(9), 405–412

65. Kim, K., Ryu, E., Chon, M.-Y., Yeun, E.-J., Choi, S.-Y., Seo, J.-S., &

Nam, B.-W. (2006). Internet addiction in Korean adolescents and its relation

to depression and suicidal ideation: A questionnaire survey. International

Journal of Nursing Studies, 43(2), 185–192

66. Ko, C.-H., Yen, J.-Y., Chen, C.-C., Chen, S.-H., & Yen, C.-F.

(2005). Proposed Diagnostic Criteria of Internet Addiction for Adolescents.

The Journal of Nervous and Mental Disease, 193(11), 728–733.

67. Ko, C.-H., Yen, J.-Y., Chen, S.-H., Yang, M.-J., Lin, H.-C., & Yen, C.-

F. (2009). Proposed diagnostic criteria and the screening and diagnosing tool

of Internet addiction in college students. Comprehensive Psychiatry, 50(4),

378–384.

68. Ko, C., Yen, J.-Y., Yen, C., Chen, C., Weng, C., & Chen, C. (2008).

The Association between Internet Addiction and Problematic Alcohol Use in

Adolescents: The Problem Behavior Model. CyberPsychology & Behavior,

11(5), 571–576.

69. Ko CH, Yen JY, Chen CS, Yeh YC, Yen CF. Predictive values of

psychiatric symptoms for Internet addiction in adolescents: A 2- year

prospective study. Arch Pediat Adolescent Med 2009; 163: 937-43

70. Ko CH, Yen JY, Liu SC, Huang CF, Yen CF. The associations

between aggressive behaviors and Internet addiction and online activities in

adolescents. J Adolescent Health 2009; 44: 598-605.

71. Konstantinos E. Siomos, M.D., et al (2008). Internet Addiction

among Greek Adolescent Students. CyberPsychology & Behavior, 11(6),

653–657.

72. Kuss, D. J., van Rooij, A. J., Shorter, G. W., Griffiths, M. D., & van

de Mheen, D. (2013). Internet addiction in adolescents: Prevalence and risk

factors. Computers in Human Behavior, 29(5), 1987–1996

73. Koyuncu, T., Unsal, A., & Arslantas, D. (2014). Assessment of Internet

addiction and loneliness in secondary and high school students. JPMA. The

Journal of the Pakistan Medical Association, 64(9), 998e1002.

74. Laconi, S., Kaliszewska-Czeremska, K., Gnisci, A., Sergi, I., Barke,

A., Jeromin, F., … Kuss, D. J. (2018). Cross-cultural study of Problematic

Internet Use in nine European countries. Computers in Human Behavior, 84,

430–440.

75. Lai, C. M., Mak, K. K., Watanabe, H., Jeong, J., Kim, D., Bahar, N.,

… Cheng, C. (2015). The mediating role of Internet addiction in depression,

social anxiety, and psychosocial well-being among adolescents in six Asian

countries: a structural equation modelling approach. Public Health, 129(9),

1224–1236.

76. Lam, L. T., Peng, Z., Mai, J., & Jing, J. (2009). Factors Associated

with Internet Addiction among Adolescents. CyberPsychology & Behavior,

12(5), 551–555.

77. Law Pui Man Sally (2006). Prediction of Internet Addiction for

Undergraduates in Hong Kong. Baptist University Hong Kong. HongKong

78. Li, J.-B., Lau, J. T. F., Mo, P. K. H., Su, X.-F., Tang, J., Qin, Z.-G., &

Gross, D. L. (2017). Insomnia partially mediated the association between

problematic Internet use and depression among secondary school students in

China. Journal of Behavioral Addictions, 6(4), 554–563.

79. Lin C-H, Lin S-L, Wu C-P. The effects of parental monitoring and

leisure boredom on adolescents' Internet addiction. Adolescence 2009; 44:

993-1004

80. Lin, I.-H., Ko, C.-H., Chang, Y.-P., Liu, T.-L., Wang, P.-W., Lin, H.-

C., … Yen, C.-F. (2014). The association between suicidality and Internet

addiction and activities in Taiwanese adolescents. Comprehensive Psychiatry,

55(3), 504–510.

81. Lin MP, Ko HC, Wu JY-W. Prevalence and psychosocial risk factors

associated with Internet addiction in a nationally representative sample of

college students in Taiwan. Cyberpsychol Behav Soc Netw 2011; 14: 741-6.

82. Liu, T. C., Desai, R. A., Krishnan-Sarin, S., Cavallo, D. A., &

Potenza, M. N. (2011). Problematic Internet Use and Health in Adolescents.

The Journal of Clinical Psychiatry, 72(06), 836–845.

83. Lovibond, P. F., & Lovibond, S. H. (1995). The structure of negative

emotional states: comparison of the Depression Anxiety Stress Scales (DASS)

with the Beck Depression and Anxiety Inventories. Behaviour Research and

Therapy, 33(3), 335–343.

84. Mak, K.-K., Lai, C.-M., Watanabe, H., Kim, D.-I., Bahar, N., Ramos,

M., … Cheng, C. (2014). Epidemiology of Internet Behaviors and Addiction

Among Adolescents in Six Asian Countries. Cyberpsychology, Behavior, and

Social Networking, 17(11), 720–728.

85. Martin Mihajlov & Lucija Vejmelka: Internet addiction: A review of

the first twenty years. Psychiatria Danubina, 2017; Vol. 29, No. 3, pp 260-

272.

86. Mashhor N.Al-hantoushi, Saad H. Al-abdullateef (2013). Internet

addiction among secondary school students in Riyadh city, its prevalence,

correlates and relation to depression: A questionnaire survey. International

Journal of Medical Science and Public Health | 2014 | Vol 3 | Issue 1

87. Meerkerk, G.-J., Pwned by the Internet. Explorative research into the

causes and consequences of compulsive Internet use. 2007, IVO: Rotterdam.

88. Milani, L., Osualdella, D., & Di Blasio, P. (2009). Quality of

Interpersonal Relationships and Problematic Internet Use in Adolescence.

CyberPsychology & Behavior, 12(6), 681–684.

89. Moreno MA, Jelenchick L, Cox E, Young H & Christakis DA:

Problematic internet use among US youth: a systematic review. Arch Pediatr

Adolesc Med 2011;165: 797–805

90. Morioka H, Itani O, Osaki Y, Higuchi S, Jike M, Kaneita Y, et al.

Association Between Smoking and Problematic Internet Use Among Japanese

Adolescents: Large-Scale Nationwide Epidemiological Study. Cyberpsychol

Behav Soc Netw. 2016; 19: 557–61.

91. Morrison,C.M., Gore H. (2013). The Relationship between excessive

internet use and depression: A questionnaire-based study of young people and

adults, Journal of Psychopathology, 43. 121–126.

92. Mythily S, Qiu S, Winslow M. Prevalence and correlates of

excessive internet use among youth in Singapore. Annals Academy Med

Singapore 2008; 37: 9-14

93. Ng, D. A, Michael W. Ross, Eric A. Ratliff (2008), Internet

influences on sexual practices among young people in Ha Noi, Vietnam;

Culture, Health & Sexuality, Vulume 10 Supplement S 201-213.

94. Ostovar, S., Allahyar, N., Aminpoor, H., Moafian, F., Nor, M. B. M.,

& Griffiths, M. D. (2016). Internet Addiction and its Psychosocial Risks

(Depression, Anxiety, Stress and Loneliness) among Iranian Adolescents and

Young Adults: A Structural Equation Model in a Cross-Sectional Study.

International Journal of Mental Health and Addiction, 14(3), 257–267.

95. Öztürk, C., Bektas, M., Ayar, D., Özgüven Öztornacı, B., & Yağcı, D.

(2015). Association of Personality Traits and Risk of Internet Addiction in

Adolescents. Asian Nursing Research, 9(2), 120–124.

96. Park, S., Hong, K.-E. M., Park, E. J., Ha, K. S., & Yoo, H. J.

(2012). The association between problematic internet use and depression,

suicidal ideation and bipolar disorder symptoms in Korean adolescents.

Australian & New Zealand Journal of Psychiatry, 47(2), 153–159.

97. Pawlikowski, M., C. Altstötter-Gleich, and M. Brand, Validation and

psychometric properties of a short version of Young‟s Internet Addiction

Test. Computers in Human Behavior, 2013. 29(3): p. 1212-1223. 9.

98. Peukert, P., Sieslack, S., Barth, G., & Batra, A. (2010). Internet- und

Computerspielabhängigkeit. Psychiatrische Praxis, 37(05), 219–224

99. Poli, R., & Agrimi, E. (2011). Internet addiction disorder: Prevalence

in an Italian student population. Nordic Journal of Psychiatry, 66(1), 55–59.

100. Shapira, N. A., Lessig, M. C., Goldsmith, T. D., Szabo, S. T., Lazoritz,

M., Gold, M. S., & Stein, D. J. (2003). Problematic internet use: Proposed

classification and diagnostic criteria. Depression and Anxiety, 17(4), 207–

216. doi:10.1002/da.10094

101. Shek, D. T. L., & Yu, L. (2012). Internet Addiction Phenomenon in

Early Adolescents in Hong Kong. The Scientific World Journal, 2012, 1–9

102. Siomos, K., Floros, G., Fisoun, V., Evaggelia, D., Farkonas, N.,

Sergentani, E., … Geroukalis, D. (2012). Evolution of Internet addiction in

Greek adolescent students over a two-year period: the impact of parental

bonding. European Child & Adolescent Psychiatry, 21(4), 211–219

103. Spada, M. M. (2014). An overview of problematic Internet use.

Addictive Behaviors, 39(1), 3–6. doi:10.1016/j.addbeh.2013.09.007

104. Stavropoulos V, Alexandraki K, Motti-Stefanidi F. Recognizing

Internet addiction: prevalence and relationship to academic achievement in

adolescents enrolled in urban and rural Greek high schools. Journal of

Adolescence 2013; 36:565–576.

105. Subramanyam A & Kamath R: A study on the prevalence of internet

addiction and its association with psychopathology in Indian adolescents.

Indian J Psychiatry 2013; 55:140–3.

106. Sung J, Lee J, Noh HM, Park YS, Ahn EJ. Associations between the

risk of Internet addiction and problem behaviors among Korean adolescents.

Korean J Family Med 2013; 34: 115-22.

107. Tang, J., Yu, Y., Du, Y., Ma, Y., Zhang, D., & Wang, J. (2014).

Prevalence of internet addiction and its association with stressful life events

and psychological symptoms among adolescent internet users. Addictive

Behaviors, 39(3), 744–747.

108. Tao, R., Huang, X., Wang, J., Zhang, H., Zhang, Y., & Li, M. (2010).

Proposed diagnostic criteria for internet addiction. Addiction, 105(3), 556–

564.

109. Weinstein, A., & Lejoyeux, M. (2010). Internet Addiction or

Excessive Internet Use. The American Journal of Drug and Alcohol Abuse,

36(5), 277–283.

110. Thome´ e, S., Eklo¨ f, M., Gustafsson., E., Nilsson, R., and Hagberg,

M. (2007). Prevalence of perceived stress, symptoms of depression and sleep

disturbances in relation to information and communication technology (ICT)

use among young adults – an explorative prospective study, Computer Human

Behavior, 23. 1300–1321.

111. Tran, B. X., Huong, L. T., Hinh, N. D., Nguyen, L. H., Le, B. N.,

Nong, V. M., … Ho, R. C. (2017). A study on the influence of internet

addiction and online interpersonal influences on health-related quality of life

in young Vietnamese. BMC Public Health, 17(1)

112. Tran, B. X., Mai, H. T., Nguyen, L. H., Nguyen, C. T., Latkin, C. A.,

Zhang, M. W. B., & Ho, R. C. M. (2017). Vietnamese validation of the short

version of Internet Addiction Test. Addictive Behaviors Reports, 6, 45–50.;

113. Tsitsika A & Janikian M: Internet addictive behavior in adolescence:

a cross-sectional study in seven European countries. Cyberpsychology, 2014;

114. TtuncaAy ,AYyASs., MehmMet, BaArış HORhorZUM. (2010).

Relation between depression,loneliness, self-esteem and internet addiction,

Education Journals, 133(3),. 284-298.

115. Vejmelka, L., Strabić, N., & Jazvo, M. (2017). Online Activities and

Risk Behaviors among Adolescents in the Virtual Environment. Drustvena

Istrazivanja, 26(1), 59–78.

116. Villella C, Martinotti G, Di Nicola M, et al. Behavioural addictions in

adolescents and young adults: results from a prevalence study. Journal of

Gambling Studies 2011; 27:203–214.

117. Wang, H., Zhou, X., Lu, C., Wu, J., Deng, X., & Hong, L. (2011).

Problematic Internet Use in High School Students in Guangdong Province,

China. PLoS ONE, 6(5), e19660.

118. Wang, L., Luo, J., Bai, Y., Kong, J., Luo, J., Gao, W., & Sun, X.

(2012). Internet addiction of adolescents in China: Prevalence, predictors, and

association with well-being. Addiction Research & Theory, 21(1), 62–69.

119. WHO (2015), Mental disorder, acsess 05/10/2015, from http:

www.who.int/mediacentre/factsheets/fs396/en/.

120. “World Economic Outlook: Vietnam“. International Monetary Fund

121. Xu J, Shen LX, Yan CH, et al. Personal characteristics related to the

risk of adolescent internet addiction: A survey in Shanghai, China. BMC

Public Health 2012; 22; 12: 1106.

122. Yadav, P., Banwari, G., Parmar, C., & Maniar, R. (2013). Internet

addiction and its correlates among high school students: A preliminary study

from Ahmedabad, India. Asian Journal of Psychiatry, 6(6).

123. Yen, J.-Y., Ko, C.-H., Yen, C.-F., Wu, H.-Y., & Yang, M.-J. (2007).

The Comorbid Psychiatric Symptoms of Internet Addiction: Attention Deficit

and Hyperactivity Disorder (ADHD), Depression, Social Phobia, and

Hostility. Journal of Adolescent Health, 41(1), 93–98.

124. Yen, J.-Y., Ko, C.-H., Yen, C.-F., Chen, S.-H., Chung, W.-L., &

Chen, C.-C. (2008). Psychiatric symptoms in adolescents with Internet

addiction: Comparison with substance use. Psychiatry and Clinical

Neurosciences, 62(1), 9–16.

125. Yen CF, Ko CH, Yen JY, Chang YP, Cheng CP. Multidimensional

discriminative factors for Internet addiction among adolescents regarding

gender and age. Psychiat Clin Neuroscien 2009; 63: 357-64

126. Young, K. (1999b). Internet addiction: Symptoms, evaluation and

treatment. In L. VandeCreek & T. Jackson (Eds.), Innovations in clinical

practice: A source book, 17 (pp. 19–31). Sarasota, Florida: Professional

Resource Press.

127. Young, K. S. (1996). Internet addiction: The emergence of a new

clinical disorder. Paper presented at the 104th annual meeting of the

American Psychological Association, August 11, 1996. Toronto, Canada

128. Zhang, M. W. B., Tran, B. X., Huong, L. T., Hinh, N. D., Nguyen, H.

L. T., Tho, T. D., … Ho, R. C. M. (2017). Internet addiction and sleep quality

among Vietnamese youths. Asian Journal of Psychiatry, 28, 15–20.

Tài liệu điện tử

129. www.digitalunite.com/technology-guides/using-internet/connecting-

internet/what-internet

PHIẾU THU THẬP THÔNG TIN

Chào bạn, hiện tại chúng tôi đang thực hiện nghiên cứu về việc sử dụng

internet của học sinh với các vấn đề về cảm xúc. Những thông tin mà bạn

cung cấp sẽ là đóng góp quý báu để chúng tôi thực hiện đề tài này. Những

thông tin này sẽ được đảm bảo bí mật hoàn toàn và chỉ dùng cho mục đích

nghiên cứu.

Xin chân thành cảm ơn!

Xin hãy cho biết một vài thông tin cá nhân:

1. Giới tính: Nam  Nữ 

2. Trường: ……………………………………………

3. Lớp: 7  8  10  11 

4. Học lực năm trước:

Yếu  Trung bình  Khá  Giỏi  Xuất sắc 

5. Công việc chính của gia đình

Công chức, viên chức nhà nước  Buôn bán 

Làm biển  Làm nông nghiệp (làm ruộng) 

Lao động tự do  Khác: (ghi rõ)…………. 

6. Điều kiện kinh tế của gia đình (ước chừng):

Nghèo  Trung bình  Khá  Giàu 

7. Hiện bạn đang sống cùng:

Đại gia đình (bố, mẹ, ông, bà…)  Bố và mẹ 

Riêng với mẹ  Người thân ( anh, chị, cô, dì, chú bác, cậu…) 

Riêng với bố  Ông, bà (nội, ngoại) 

Sống tại các Trung tâm, Mái ấm… 

8. Sự quan tâm của gia đình với bạn:

Hầu như không  Ít  Nhiều  Rất nhiều 

9. Mức độ thường xuyên sử dụng Internet của bạn?

Hàng ngày  Một vài lần/tuần  Một và lần/tháng 

Rất hiếm khi  Không bao giờ 

10. Thời lượng sử dụng Internet của bạn khoảng: ……giờ/ngày

11. Phương tiện mà bạn thường sử dụng để truy cập internet (có thể lựa chọn

nhiều đáp án):

Máy tính cá nhân (để bàn hoặc laptop) 

Máy tính dùng chung (máy dùng chung ở gia đình, ở quán internet..) 

 Máy tính bảng ( ipad)

 Điện thoại

12. Bạn thường làm gì khi sử dụng internet ? (có thể lựa chọn nhiều đáp án)

 Gửi tin nhắn văn bản

 Gửi thư điện tử (email)

 Nói chuyện theo nhóm trên mạng (chat room)

 Nói chuyện, chat với người khác (cá nhân)

 Học tập

 Đăng ảnh

 Đọc tin tức

 Chơi game

 Xem phim

 Nghe nhạc

 Tìm kiếm thông tin

 Mua sắm

Bạn vui lòng đọc kỹ những câu hỏi dưới đây. Đây là bảng hỏi để thu

thập thông tin về việc sử dụng Internet trong thời gian qua của các bạn. Đối

với mỗi câu, nếu bạn thấy đúng với bản thân thì hãy đánh dấu (X) vào ô

tương ứng mà bạn cho là đúng với bản thân, tương ứng với các mức độ:

1 = Rất hiếm khi; 2 = Hiếm khi; 3 = Thỉnh thoảng

4 = Thường xuyên; 5 = Rất thường xuyên

Mức độ

Rất Rất STT Câu hỏi Hiếm Thỉnh Thƣờng hiếm thƣờng khi thoảng xuyên khi xuyên

1 Ban có thường xuyên cảm thấy mình

vào mạng internet nhiều hơn dự kiến

không ?

2 Bạn có thường tự nhủ “chỉ vào mạng

thêm vài phút nữa thôi” không ?

3 Bạn có thường xuyên quên làm việc nhà

vì dành thời gian lên mạng không ?

4 Bạn có thường thất bại khi tự cắt giảm

thời gian vào mạng internet của mình

không ?

5 Kết quả học tập ở trường có bị giảm sút

do thời gian bạn dành cho internet

không ?

6 Bạn có mất ngủ vì sử dụng internet lúc

đêm muộn không ?

7 Bạn có thường chọn vào mạng internet

thay vì gặp gỡ bạn bè không ?

8 Bạn có thường giấu việc bạn đang

online bằng phần mềm hoặc các cách

khác không ?

9 Bạn có thường cáu kỉnh khi người khác

làm phiền lúc bạn đang vào mạng không

?

10 Bạn có cảm thấy chán, buồn, hay lo

lắng khi không vào mạng, và sẽ lại cảm

thấy thoải mái lúc vào mạng lại không ?

11 Khi không sử dụng internet, bạn có

thường nghĩ đến Internet và bận tâm về

nó không ?

12 Bạn có thường giữ bí mật khi ai đó hỏi

bạn làm gì trên mạng không ?

BẠN VUI LÒNG KIỂM TRA LẠI VÀ XIN ĐỪNG ĐỂ TRỐNG.

Hãy đọc mỗi câu và khoanh tròn vào các số 0, 1, 2 và 3 ứng với tình

trạng mà bạn cảm thấy trong suốt một tuần qua. Không có câu trả lời đúng

hay sai. Và đừng dừng lại quá lâu ở bất kỳ câu nào.

Mức độ đánh giá:

0: Không đúng với tôi chút nào cả

1: Đúng với tôi phần nào, hoặc thỉnh thoảng mới đúng

2: Đúng với tôi phần nhiều, hoặc phần lớn thời gian là đúng

3: Hoàn toàn đúng với tôi, hoặc hầu hết thời gian là đúng

1. Tôi thấy khó mà thoải mái được S 0 1 2 3

2. Tôi bị khô miệng A 0 1 2 3

3. Tôi dường như chẳng có chút cảm xúc tích cực nào D 0 1 2 3

4. Tôi bị rối loạn nhịp thở (thở gấp, khó thở dù chẳng làm việc gì 0 1 2 3 A

nặng)

D 5. Tôi thấy khó bắt tay vào công việc 0 1 2 3

S 6. Tôi có xu hướng phản ứng thái quá với mọi tình huống 0 1 2 3

A 7. Tôi bị ra mồ hôi (chẳng hạn như mồ hôi tay...) 0 1 2 3

S 8. Tôi thấy mình đang suy nghĩ quá nhiều 0 1 2 3

A 9. Tôi lo lắng về những tình huống có thể làm tôi hoảng sợ hoặc biến 0 1 2 3

tôi thành trò cười

D 10. Tôi thấy mình chẳng có gì để mong đợi cả 0 1 2 3

S 11. Tôi thấy bản thân dễ bị kích động 0 1 2 3

S 12. Tôi thấy khó thư giãn được 0 1 2 3

D 13. Tôi cảm thấy chán nản, thất vọng 0 1 2 3

S 14. Tôi không chấp nhận được việc có cái gì đó xen vào cản trở việc 0 1 2 3

tôi đang làm

A 15. Tôi thấy mình gần như hoảng loạn 0 1 2 3

D 16. Tôi không thấy hăng hái với bất kỳ việc gì nữa 0 1 2 3

D 17. Tôi cảm thấy mình chẳng đáng làm người 0 1 2 3

S 18. Tôi thấy mình khá dễ phật ý, tự ái 0 1 2 3

A 19. Tôi nghe thấy rõ tiếng nhịp tim dù chẳng làm việc gì cả (ví dụ, 0 1 2 3

tiếng nhịp tim tăng, tiếng tim loạn nhịp)

A 20. Tôi hay sợ vô cớ 0 1 2 3

D 21. Tôi thấy cuộc sống vô nghĩa 0 1 2 3

Xin cảm ơn bạn đã tham gia.