BOÄ GIAÙO DUÏC VAØ ÑAØO TAÏO TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC SÖ PHAÏM THAØNH PHOÁ HOÀ CHÍ MINH

Đỗ Thị Chiêu Linh KHẢO SÁT MỨC ĐỘ PHÁT TRIỂN TRÍ TUỆ NGÔN NGỮ CỦA HỌC SINH KHỐI 6 TẠI QUẬN 5, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Chuyên ngành: TÂM LÝ HỌC Mã số: 60 31 80

LUẬN VĂN THẠC SỸ TÂM LÝ HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

PGS.TS. ĐOÀN VĂN ĐIỀU

Thành phố Hồ Chí Minh - 2010

LỜI CẢM ƠN

Xin cảm ơn:

-Ban giám hiệu trường Đại học Sư Phạm thành phố Hồ Chí Minh,

-Quý thầy cô trong khoa Tâm lý - Giáo dục trường Đại học Sư Phạm thành phố Hồ Chí Minh và

quý thầy cô đã trực tiếp giảng dạy tôi suốt những năm học tại trường,

-Phòng KHCN- SĐH, Thư viện và các phòng ban khác của trường Đại học Sư Phạm thành phố Hồ

Chí Minh,

-PGS.TS Đoàn Văn Điều đã quan tâm, tận tình hướng dẫn và giảng dạy tôi trong suốt 7 năm học tại

trường,

-Ba mẹ, anh chị và các bạn đồng học đã hết lòng động viên, giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn này.

Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 09 năm 2010

Tác giả

Đỗ Thị Chiêu Linh

DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT

1. BP: biện pháp

2. ĐLTC: độ lệch tiêu chuẩn

3. HS: học sinh

4. KĐ: Kim Đồng

5. KB: khác biệt

6. NN: ngôn ngữ

7. P: mức ý nghĩa

8. TM: thông minh

9. TB: trung bình

10. TBC: trung bình cộng

11. TBĐH: trung bình điều hòa

12. Tr: trang

13. THSG : thực hành Sài Gòn

14. TN: trắc nghiệm

15. TT: trí tuệ

16. VD:ví dụ

17. XS: xuất sắc

18. YN: có ý nghĩa

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Trong thực tế, trí thông minh được xem là nhân tố quan trọng giúp con người thành công

trong cuộc sống. Tại Mỹ, trắc nghiệm trí thông minh là một trong những yêu cầu bắt buộc khi tham

gia tuyển dụng lao động. Ở Việt Nam hiện nay, một số công ty lớn cũng đã chú trọng đến việc trắc

nghiệm trí thông minh nhằm tìm ra những ứng cử viên sáng giá cho vị trí tuyển dụng của mình. Và

cùng với sự tiến bộ đó, trí thông minh ngôn ngữ ở nước ta cũng được đánh giá cao. Thực tế cho thấy

hiện nay, những nghề chủ yếu sử dụng ngôn ngữ như: nghề giáo, nghề báo, dẫn chương trình, tư

vấn, tham vấn… đã ngày càng được xem trọng và thu hút sự quan tâm của nhiều tầng lớp trong xã

hội. Càng học cao, càng làm ở vị trí cao, con người càng cần đạt đến trình độ cao về ngôn ngữ

không chỉ ở tiếng mẹ đẻ mà còn về ngoại ngữ để diễn đạt, để giao tiếp hiệu quả.

Cùng với lô-gích toán học, trí tuệ ngôn ngữ được xếp vào một trong những loại trí tuệ được

chú ý và coi trọng nhất. Trí tuệ mặc nhiên được gắn liền với ngôn ngữ. Hay nói cách khác, ngôn

ngữ được xem là một trong những thành phần quan trọng của trí tuệ. Tuy thế, trí tuệ ngôn ngữ thật

sự thì phức tạp hơn nhiều [51, tr.48]. Và hiện nay, ở Việt Nam có rất ít các bài trắc nghiệm đo lường

riêng biệt trí tuệ ngôn ngữ.

Học sinh khối 6 là học sinh đầu cấp trung học cơ sở. Đó là lứa tuổi phát triển tương đối nhanh

về vốn từ khoa học. Các em có khả năng viết, nói lưu loát hơn, dùng ngữ pháp đúng hơn và ứng

dụng ngôn ngữ vào thực tiễn tốt hơn [3, tr.45]. Ngoài ra, lứa tuổi này bắt đầu có thể nắm bắt được

cấu trúc, từ vựng, ngữ nghĩa của ngôn ngữ thứ 2, ngoài tiếng mẹ đẻ. Đặc biệt, theo Howard

Gardner, mức độ trí thông minh nói chung, và trí thông minh ngôn ngữ nói riêng có thể được gia

tăng nếu biết cách rèn luyện [51], [53, [57]. Do vậy, việc xác định mức độ phát triển trí tuệ ngôn

ngữ để định hướng và bồi dưỡng ngôn ngữ cho các em là điều cần thiết hiện nay.

Xuất phát từ những lý do trên, đề tài “Khảo sát mức độ phát triển trí tuệ ngôn ngữ của học

sinh khối 6 tại quận 5, thành phố Hồ Chí Minh” được thực hiện.

2. Mục đích nghiên cứu

Khảo sát mức độ phát triển trí tuệ ngôn ngữ của học sinh khối 6 tại quận 5, thành phố Hồ Chí

Minh. Trên cơ sở kết quả khảo sát, đề xuất một số giải pháp nhằm định hướng cho sự phát triển trí

tuệ ngôn ngữ của các em.

3. Nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Nghiên cứu một số vấn đề lý luận liên quan đến đề tài như: trí tuệ, cấu trúc trí tuệ, trí tuệ

ngôn ngữ, một số biểu hiện của phát triển trí tuệ ngôn ngữ ở HS khối 6.

3.2. Khảo sát mức độ phát triển trí tuệ ngôn ngữ của học sinh khối 6.

3.3. Đề xuất một số giải pháp nhằm định hướng cho sự phát triển trí tuệ ngôn ngữ của học sinh

khối 6.

4. Đối tượng nghiên cứu

Mức độ phát triển trí tuệ ngôn ngữ của học sinh khối 6.

5. Khách thể nghiên cứu

Học sinh khối 6 tại quận 5, thành phố Hồ Chí Minh.

-Khách thể khảo sát thử nghiệm: 49 học sinh khối 6 của trường Trung học cơ sở Ba Đình,

quận 5, thành phố Hồ Chí Minh.

-Khách thể khảo sát chính thức: 217 học sinh khối 6 của trường Trung học cơ sở Thực hành

Sài Gòn và trường Trung học cơ sở Kim Đồng, quận 5, thành phố Hồ Chí Minh.

6. Giả thuyết nghiên cứu

-Mức độ phát triển trí tuệ ngôn ngữ của học sinh khối 6 đa phần ở mức trung bình.

-Nữ sinh lớp 6 có khả năng ngôn ngữ cao hơn nam sinh lớp 6.

-Có sự khác biệt về khả năng ngôn ngữ của HS giữa các trường.

7. Giới hạn đề tài

7.1. Giới hạn nội dung nghiên cứu

-Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu về trí tuệ ngôn ngữ.

7.2. Giới hạn mẫu nghiên cứu

-Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu trên khách thể là học sinh một số khối 6 tại quận 5, thành phố

Hồ Chí Minh.

8. Phương pháp nghiên cứu

8.1.Phương pháp nghiên cứu tài liệu

Tổng quan lịch sử nghiên cứu vấn đề và hệ thống hóa một số vấn đề lý luận cơ bản liên quan

đến đề tài.

8.2.Phương pháp trắc nghiệm

-Mục đích: đo lường mức độ trí tuệ ngôn ngữ của HS khối 6.

-Phương pháp gồm 2 giai đoạn: khảo sát thử nghiệm và khảo sát chính thức trên các khách thể

là HS khối 6. Phương pháp sẽ được trình bày chi tiết ở chương 2.

8.3. Phương pháp thống kê toán học

Xử lý số liệu thu được bằng phần mềm SPSS for Windows, phiên bản 11.5.

Trong những phương pháp trên, trắc nghiệm là phương pháp chính của luận văn.

CHƯƠNG 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN

1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề mức độ phát triển trí tuệ ngôn ngữ

Trí tuệ là một trong những lĩnh vực được các nhà khoa học quan tâm và nghiên cứu khá sớm.

Ta sẽ điểm qua một số nghiên cứu về trí tuệ, trí tuệ ngôn ngữ và đo lường trí tuệ theo những góc

nhìn khác nhau.

1.1.1 Những nghiên cứu ngoài nước

1.1.1.1. Những nghiên cứu về trí tuệ

 Những nghiên cứu về trí tuệ từ góc độ sinh học

Trước hết phải kể đến những nghiên cứu về phản xạ và quy luật hoạt động thần kinh cấp cao,

lý thuyết định khu chức năng tâm lý trên não bộ của các nhà sinh lý học, tiêu biểu là I.P.Pavlov,

K.X.Lésli (1890-1958), K.Gônđơstêin (1878 – 1965). Nghiên cứu cho rằng: quy luật hoạt động thần

kinh cấp cao ở người là cơ sở sinh lý thần kinh của hoạt động trí tuệ. Nếu các vùng thần kinh của

não bộ bị tổn thương, các hành động tâm lý, trí tuệ tương ứng sẽ bị mất hoặc bị rối loạn.

Một nghiên cứu tiêu biểu khác về trí tuệ nhìn từ góc độ sinh học là nghiên cứu về sự di truyền.

Năm 1869, Ph. Galton (1822 – 1911), nhà tâm lý học và nhân chủng học Anh, đã phát hành cuốn

“Thiên tài di truyền” và lập “Thuyết ưu sinh học” (Eugencs) nhấn mạnh yếu tố di truyền của trí tuệ.

Vấn đề này đã được phổ biến và ủng hộ bởi những nhà tâm lý học khác như: Cyril Burt (1966),

Jensen (1969), Jensks (1972). Thậm chí, năm 1975, Wilson tuyên bố rằng: chỉ ai có sức mạnh mới

có cơ may bảo tồn và chuyển giao gen cho đời sau [36, tr.21]. Luận điểm này đã dấy lên làn sóng

phân biệt chủng tộc ở Mỹ và ngày nay vẫn còn bị lên án. Thực tế, vẫn chưa có công trình khoa học

nào dẫn chứng rõ ràng về vai trò quyết định của yếu tố di truyền đối với trí tuệ. Vì vậy, không nên

tuyệt đối hóa yếu tố ấy dẫn đến các kết luận phi khoa học.

 Những nghiên cứu về trí tuệ từ góc độ tâm lý học

Các nhà tâm lý học theo thuyết liên tưởng như D.S. Miler (1806 – 1873), H. Spencer (1820-

1930) dựa vào cơ chế phản xạ có điều kiện của P.I. Pavlov làm cơ sở sinh lý cho các mối liên tưởng

tâm lý và cho rằng con người có 4 loại liên tưởng: giống nhau, tương phản, gần nhau về không gian

và thời gian, nhân quả. Trong đó, liên tưởng nhân quả nắm vai trò quan trọng trong các quá trình trí

tuệ. Sự phát triển trí tuệ là quá trình tích lũy các liên tưởng đó. Số lượng và tốc độ của chúng tạo

nên sự khác biệt về trình độ trí tuệ. Tuy các nhà liên tưởng đã cố gắng khách quan hóa các hiện

tượng tâm lý bằng cách kéo tâm lý học gần với sinh lý học nhưng họ vẫn chưa thể đi sâu vào bản

chất, cấu trúc và vai trò của trí tuệ con người.

Trường phái Vuxbua với đại biểu là các nhà tâm lý học Đức như: O.Quynpe (1862-1915),

O.Denxơ (1881 – 1944) và K.Biulơ (1897-1963) cho rằng: tư duy là sự vận hành của các thao tác trí

tuệ để giải quyết nhiệm vụ (bài toán tư duy). Các thao tác trí tuệ trong quá trình tư duy bao gồm:

phân tích, tổng hợp, trừu tượng hóa, khái quát hóa…Đóng góp quan trọng nhất của trường phái

Vuxbua chính là đã tạo một bước tiến lớn trên con đường tìm hiểu bản chất của trí tuệ. Lần đầu tiên

trong tâm lý học, trí tuệ được nghiên cứu như một hành động bên trong, một quá trình vận động của

thao tác trí tuệ. Tuy nhiên, bài toán tư duy (hoàn cảnh có vấn đề), theo họ, chỉ có tác dụng khởi

động cho quá trình trí tuệ. Khi các thao tác trí tuệ được vận hành, chúng không có mối liên hệ cũng

như vai trò nào đối với thao tác trí tuệ bên trong nữa. Do vậy, vấn đề bản chất xã hội và lô-gích của

trí tuệ vẫn chưa được giải quyết.

Thuyết hành vi cổ điển, đại diện là J. Watson (1878-1958) cho rằng: “hành vi trí tuệ (của cả

người và động vật) là các phản ứng có hiệu quả mà cá thể (chủ thể) học được, nhằm đáp lại các

kích thích của môi trường sống” [36, tr.17]. Tư duy trí tuệ được hình thành theo cơ chế phản xạ và

luyện tập giống như kỹ xảo. Do vậy, có thể nói học tập và kỹ xảo đạt được chính là trọng tâm

nghiên cứu của tâm lý học hành vi. Đóng góp lớn nhất của thuyết này là đưa tính chặt chẽ và khách

quan của khoa học vào việc nghiên cứu trí tuệ con người.

Các công trình nghiên cứu trí tuệ là lãnh địa thành công nhất của các nhà tâm lý học hình thái

Gestalt như M.Vecthâyme (1880- 1943), V.Kolơ (1887 – 1967), K.Copca (1886 – 1941). Theo

trường phái Gestalt, ta nên sử dụng thực nghiệm thay cho quan sát để nghiên cứu tư duy, trí tuệ. Các

nhà tâm lý học theo trường phái này đã có nhiều thành tựu còn nguyên giá trị đến ngày nay như: các

quy luật của tri giác, mối quan hệ giữa tri giác với tư duy, nguồn gốc của trí tuệ và nhất là sự phát

sinh tri giác và tư duy trong trường tri giác khi giải quyết bài toán tư duy - cơ sở lý luận của trắc

nghiệm khuôn hình tiếp diễn Raven nổi tiếng hiện nay.

Người có ảnh hưởng to lớn đối với lĩnh vực tâm lý học trí tuệ trẻ em chính là J.Piaget (1896 –

1980). Với phương pháp lâm sàng tâm lý, trắc nghiệm và quan sát khách quan, Piaget đã tìm ra học

thuyết về sự phát triển trí khôn của trẻ em với hai nội dung gắn bó hữu cơ với nhau: học thuyết về

chức năng, cấu trúc và sự phát sinh, phát triển của trí tuệ. Ông nghiên cứu trí tuệ như cấu trúc tâm lý

có tính chất thuận nghịch, là trạng thái cân bằng của cơ thể với môi trường. Đối với ông, hoạt động

trí tuệ không đơn thuần là hoạt động nhận thức mà chủ yếu là sự thay đổi của chủ thể. Sự thay đổi

đó là cơ sở phân chia các giai đoạn phát triển cụ thể. [36], [39]

Các nhà tâm lý học hoạt động với các đại diện vĩ đại là L.X.Vưgốtxki, A.N.Lêonchiev,

X.L.Rubinstêin, P.Ia.Galperin…đã tạo ra một cuộc cách mạng trong nghiên cứu trí tuệ. Trí tuệ đã

được nghiên cứu từ chức năng, cấu trúc đến nguồn gốc, nội dung xã hội, lịch sử phát sinh, hình

thành và phát triển. Sau gần 1 thế kỷ, tâm lý học hoạt động đạt được 1 số thành tựu nổi bật. Theo

họ, trí tuệ bao gồm trí tuệ bậc thấp và trí tuệ bậc cao. Trí tuệ bậc cao có sự tham gia của ngôn ngữ.

Mối quan hệ giữa chủ thể có trí tuệ bậc cao với đối tượng nhờ vào công cụ tâm lý. Trí tuệ con người

bắt nguồn từ thực tiễn đời sống văn hóa – xã hội và được hình thành theo cơ chế lĩnh hội các kinh

nghiệm. Theo đó, trí tuệ của trẻ được hình thành từ sự lĩnh hội kinh nghiệm trong các hoạt động của

chúng. Mỗi giai đoạn lứa tuổi đều có hoạt động chủ đạo, định hướng cho sự phát triển trí tuệ. Và để

trẻ phát triển trí tuệ tốt, người giáo viên phải biết tác động vào vùng phát triển gần nhất của trẻ. Với

những thành tựu kể trên, tâm lý học hoạt động đã có những đóng góp đáng kể không những trong

hoạt động nghiên cứu trí tuệ mà còn trong hoạt động giảng dạy.

Năm 1983 có lẽ là năm ghi dấu ấn quan trọng trong lịch sử nghiên cứu trí tuệ của nhân loại vì

chính năm này, quyển sách có tựa đề là “Cơ cấu trí khôn” (Frames of Mind) của giáo sư Howard

Gardner được xuất bản. Trong đó, ông đã đưa ra lý thuyết và định nghĩa mới về trí thông minh với

tên gọi: trí thông minh đa dạng. Và cũng từ đó, Gardner được biết đến cùng những công trình

nghiên cứu về trí tuệ đa dạng và mối quan hệ của chúng với giáo dục nói chung, sự phát triển về

chương trình giảng dạy, sự đánh giá trong quá trình dạy học nói riêng [57]. Quan điểm của ông đã

tạo một bước ngoặc lớn trong lịch sử nghiên cứu trí tuệ. Từ đây, trí tuệ không còn được xem như

một khối duy nhất gồm hai thành phần chính là ngôn ngữ và lô-gích toán học mà được phân thành

nhiều dạng khác nhau. Trong lý thuyết của ông có đến 10 dạng thông minh: lô-gích - toán học, ngôn

ngữ, không gian, âm nhạc, cơ thể, liên nhân cách, nội tâm, thiên nhiên, hiện sinh, tôn giáo…[51].

Và theo ông, trí tuệ không dừng ở 10 dạng thức đó mà còn tồn tại ở nhiều dạng thức khác mà chúng

ta chưa tìm thấy. Với sự sở hữu những dạng thức trên, mỗi người sẽ có 1 cách học tương ứng. Tuy

có nhiều tranh cãi khác nhau về lý thuyết này nhưng cho đến nay, những thành tựu mà Howard

Gardner mang đến cho nhân loại đã được thừa nhận và được ứng dụng rộng rãi trong nhiều trường

học ở Mỹ. [24], [51], [53]

Cách đây hơn 1 thập kỷ, một khái niệm khác về trí tuệ đã ra đời. Đó là “trí tuệ xúc cảm”. Lý

thuyết này được xây dựng dựa trên quan niệm rằng trí thông minh đã bỏ qua những vấn đề về xúc

cảm mà chỉ thiên về lý trí và những người có trí thông minh chỉ học tốt trong nhà trường nhưng

không đảm bảo đạt được sự thành công khi bước vào đời. Theo nhà tâm lý học Daniel Goleman,

chính trí tuệ xúc cảm mới là yếu tố quyết định sự thành công của mỗi cá nhân. Giới nghiên cứu

cũng đồng ý rằng, trí tuệ xúc cảm không đối nghịch mà bổ sung cho trí tuệ nói chung. Và nền giáo

dục chỉ toàn diện khi ta quan tâm đến cả hai mặt này. [12]

Gần đây, Daniel Goleman cũng đã cho ra đời quyển “trí tuệ xã hội”. Theo ông, chính trí tuệ xã

hội là nền tảng giúp ta có thể làm trẻ em trở nên vui vẻ hơn, là cơ sở của sự kết hợp hài hòa giữa

người với người, giúp cho các chủ thể mang thành kiến, căm thù có thể cùng nhau sống trong hòa

bình. Trí tuệ xã hội đã tạo mối liên hệ mật thiết giữa các cá nhân với nhau. [12]

Nhìn chung, từ lúc ra đời đến nay, trí tuệ đã được nhìn nhận dưới rất nhiều góc độ và vô số

quan điểm khác biệt. Trí tuệ đã được nhìn từ quan điểm hẹp là đồng nhất trí tuệ với tư duy, rồi đến

quan điểm truyền thống bao gồm ngôn ngữ và lô-gích toán học, đến quan điểm hiện đại, mang tính

nhân văn, gắn với thực tiễn cuộc sống như trí tuệ đa dạng của Howard Gardner, trí tuệ xúc cảm và

trí tuệ xã hội của Daniel Goleman. Nhưng nhìn chung, tất cả đều đạt được những thành tựu nhất

định để thế hệ sau kế thừa và phát huy.

1.1.1.2. Những nghiên cứu về đo lường trí tuệ

Một số học giả tin rằng việc sử dụng trắc nghiệm tâm lý có thể đã được bắt đầu từ năm 2200

trước CN ở Trung Quốc cổ đại. Tuy nhiên, hầu hết các nhà nghiên cứu đồng ý: những nỗ lực nghiên

cứu nghiêm túc về trắc nghiệm tâm lý bắt đầu từ đầu thế kỷ 20. Và chính trắc nghiệm trí tuệ đã mở

đầu cho lịch sử đo lường tâm lý của nhân loại.

Cuối thế kỷ 19, Alfred Binet thành lập phòng thí nghiệm nghiên cứu tâm lý thực nghiệm đầu

tiên ở Pháp. Ông đã nỗ lực phát triển những kỹ thuật thực nghiệm để đo lường trí tuệ và khả năng

lập luận. Binet tin rằng trí tuệ là một tính chất phức hợp có thể được xác định bằng việc đánh giá

thông qua những khả năng: giải quyết vấn đề, phán đoán, lập luận. Ông thử nghiệm rất nhiều bài tập

đo lường những khả năng này trên con của mình và những đứa trẻ khác trong trường học ở Pháp và

đã thành công.

Vào năm 1905, cùng với Théodore Simon, Binet xuất bản trắc nghiệm trí tuệ đầu tiên – thang

đo Binet – Simon. Đây là trắc nghiệm cá nhân gồm 30 bài tập được trình bày theo sự gia tăng về độ

khó. Trắc nghiệm này được sử dụng để giúp viên chức trong trường học Pa-ri thời ấy biết được trẻ

em nào cho dù cố gắng cật lực vẫn không thể tiếp thu kiến thức từ chương trình học bình thường ở

nhà trường. [55], [56]

Trong thang đo năm 1908, Binet và Simon đã giữ lại nguyên tắc phân chia tuổi như thang đo

năm 1905. Những bài tập được nhóm theo độ tuổi hơn là gia tăng độ khó. Tuy nhiên, có lẽ thành tựu

lớn nhất của thang đo này chính là giới thiệu khái niệm tuổi trí tuệ (mental age). Tuổi trí tuệ phản

ánh trí tuệ của mỗi trẻ so với trí tuệ trung bình của nhóm trẻ cùng độ tuổi, được chọn làm nhóm mẫu

trắc nghiệm. Ví dụ, nếu 1 đứa trẻ 6 tuổi có thể thực hiện những bài tập mà 2/3 đến 3/4 nhóm đại diện

ở trẻ em 8 tuổi làm được thì trẻ này có tuổi trí tuệ của trẻ lên 8. Ngược lại, một đứa trẻ 10 tuổi

không làm được những bài tập mà 2/3 đến 3/4 nhóm trẻ 5 tuổi có thể làm thì có tuổi trí tuệ là 5 [55,

tr.262]. Tuy nhiên, khái niệm “tuổi trí tuệ” nhanh chóng bộc lộ hạn chế vì không phản ánh sự chênh

lệch về trí tuệ của trẻ em qua các lứa tuổi. [36]

Cho dù thế, tác phẩm của Binet cũng đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến các nhà tâm lý học trên khắp

địa cầu. Thang đo Binet – Simon được sửa lại cho phù hợp với nhiều quốc gia. Năm 1916, Lewis

Terman, một nhà tâm lý học Mỹ, đã phát triển thang đo Standford – Binet để sử dụng cho người Mỹ

từ 3 tuổi trở lên. [55, tr.263]. Thêm vào đó, thang đo Stanford – Binet năm 1916 đã giới thiệu một

ứng dụng đầy ý nghĩa, đó là khái niệm chỉ số IQ (Intelligence quotient) đã được biết đến ngày nay.

IQ là một thương số giữa tuổi trí tuệ (mental age) và tuổi đời (chronological age) của chủ thể. Khái

niệm IQ đặc biệt này được đề xướng bởi Stern (1912). Công thức của Stern được giới thiệu trong

thang đo Stanford – Binet năm 1916 như sau:

IQ = MA/CA *100

Trong đó: MA (Mental age): tuổi trí tuệ

CA: (chronological age): tuổi đời

Những năm 30, bản chất của trí tuệ được tranh cãi trên lĩnh địa tâm lý học. Sự tranh cãi đó đã

thúc giục nhà tâm lý học Mỹ David Wechsler xây dựng thang đo trí tuệ đầu tiên dành cho người

lớn: Wechsler – Bellevue [56]. Sau này, ông còn có thang đo dành cho trẻ ở tuổi đến trường và trẻ

trước tuổi học. Các trắc nghiệm của Wechsler được xây dựng trên quan điểm:

-Trí tuệ là tổng thể của nhiều đơn vị chức năng trí tuệ, song không phải đơn thuần là tổng số

các khả năng mà là kết quả của sự phối hợp các khả năng đó.

-Các chức năng này khác nhau và có thể đo được. Do đó, có thể đo trí tuệ bằng cách đo các

đơn vị chức năng này hoặc đo sự phối hợp của chúng.

-Trí tuệ của cá nhân phụ thuộc vào các điều kiện văn hóa xã hội, nơi cá nhân đó sinh ra và lớn

lên. [30]

Bên cạnh đó, Wechsler cũng đã đề xuất công thức mới để tính chỉ số trí tuệ:

IQ = (X - X)/s *15 +100

Trong đó: X: điểm thô trắc nghiệm

X: điểm trung bình trắc nghiệm của toàn mẫu

s: độ lệch chuẩn

Ngày nay, trong đo lường trí tuệ, người ta vẫn dùng cả hai công thức Stanford – Binet và

Wechsler.

Tóm lại, từ đầu thế kỷ 20, nhiều nhà tâm lý học đã nghiên cứu về đo lường trí tuệ như: Binet,

Simon, Stern, Lewis Terman, Wechsler… Họ đã biết phát huy điểm mạnh của các nhà tâm lý học

trước để tạo nên những thành quả có ý nghĩa đến ngày nay như: các trắc nghiệm trí tuệ và các công

thức tính IQ.

1.1.1.3. Những nghiên cứu về trí tuệ ngôn ngữ

Lý thuyết trí tuệ ngôn ngữ đã được Howard Gardner đề xướng. Khác với những nhà tâm lý học

trước đây, ông xem trí tuệ ngôn ngữ như một loại hình trí tuệ độc lập với cấu trúc riêng của nó chứ

không phải đóng vai trò như một thành phần của trí tuệ. Trên quan điểm đó, ông cũng đưa ra những

câu trắc nghiệm nhằm đo lường trí tuệ ngôn ngữ.

Bên cạnh Howard Gardner, ta có thể kể đến một số công trình nghiên cứu trí tuệ, trong đó có

ngôn ngữ của các tác giả khác:

-Trắc nghiệm trí tuệ người lớn WAIS của David Wechsler (1939) có 2 hạng: hạng ngôn từ

(Verbal scale) với 6 tiểu nghiệm và hạng thực thi (Performance scale) với 5 tiểu nghiệm. Trong 6

tiểu nghiệm hạng ngôn từ có 3 tiểu nghiệm đo về ngôn ngữ.

+Tiểu nghiệm đánh giá mức độ thông hiểu chung nhằm đo năng lực phán đoán, hiểu ý

nghĩa của các thành ngữ.

+Tiểu nghiệm xác định sự giống nhau nhằm đánh giá năng lực hình thành khái niệm.

+Tiểu nghiệm về từ vựng nhằm đánh giá vốn từ vựng của cá nhân.

-Hans Eysenck, một nhà Tâm lý học người Anh khá nổi tiếng với lý thuyết phân tích nhân tố

về nhân cách. Tuy nhiên, ông cũng khẳng định những yếu tố nhân cách có liên quan đến khả năng

trí tuệ. Năm 1996, ông đưa ra bộ trắc nghiệm trí tuệ cho lứa tuổi từ 10 – 15, gồm có 5 tiểu nghiệm:

trắc nghiệm số, trắc nghiệm ngôn ngữ, trắc nghiệm suy luận trừu tượng, trắc nghiệm tri giác và trắc

nghiệm tri giác không gian. [27]

-Trắc nghiệm trí tuệ của Amthauer, một nhà tâm lý học Đức được sử dụng để đánh giá trí tuệ ở

lứa tuổi 13 đến 61. Trắc nghiệm bao gồm 9 tiểu nghiệm, trong đó có 4 tiểu nghiệm đo về ngôn

ngữ:

+Lựa chọn một cách logic. Tiểu nghiệm này nhằm nghiên cứu tư duy quy nạp, sự nhạy bén

ngôn ngữ.

+Xác định những đặc điểm chung. Ở tiểu nghiệm này, tác giả đưa ra 5 từ, trong đó có 4 từ

cùng loại. Nghiệm thể cần phát hiện từ thừa. Mục đích là nghiên cứu năng lực trừu tượng hóa của

khách thể.

+Xác định sự giống nhau, sự tương tự. Tác giả đưa ra 3 từ, giữa từ thứ nhất và từ thứ hai có

một mối liên hệ xác định. Yêu cầu tìm từ thứ 4 có liên hệ với từ thứ 3 giống như hai từ đầu. Tiểu

nghiệm nhằm đo năng lực liên hợp.

+Tiểu nghiệm phân loại nhằm đo năng lực ấp ủ những phán đoán. Nghiệm thể sẽ viết ra nét

chung cho một cặp khái niệm.

Sở dĩ 4 tiểu nghiệm này được xây dựng vì tác giả quan niệm rằng: trên bình diện trí tuệ ngôn

ngữ, những yếu tố: tư duy quy nạp, tư duy trừu tượng, tư duy liên hợp và sự hình thành phán đoán là

những yếu tố quan trọng nhất. [48, tr.110].

-Tác giả William Bernard và Jules Leopold quan niệm rằng: mức am hiểu từ ngữ phát triển

song song với trí tuệ một cách mật thiết [30, tr.237]. Do đó, các tác giả đã xây dựng trắc nghiệm

năng lực trí tuệ nhằm đo lường khả năng học tập của con người. Trắc nghiệm gồm 90 câu, trong đó

có đến phân nửa số câu đo về ngôn ngữ.

Như vậy, ngoại trừ Howard Gardner có những nghiên cứu về các loại hình trí tuệ, trong đó có

trí tuệ ngôn ngữ, đa số các nhà nghiên cứu đều xem ngôn ngữ như một thành phần không thể thiếu

của trí tuệ. Do vậy, đa phần các trắc nghiệm trí tuệ đều chú trọng đến khả năng ngôn ngữ, thiên về

khả năng ngôn ngữ.

1.1.2. Những nghiên cứu trong nước

1.1.2.1.Những nghiên cứu về trí tuệ

Mặc dù việc nghiên cứu trí tuệ đã có mặt trên thế giới từ rất sớm nhưng ở nước ta, việc nghiên

cứu vấn đề này chỉ mới bắt đầu những năm 70 của thế kỷ 20.

Đầu tiên, có thể kể đến luận án Phó Giáo sư Tiến sỹ: “Bản chất của trí thông minh và cơ sở lý

luận của đường lối lĩnh hội khái niệm” (1979) của Phạm Hoàng Gia. Tác giả đã chỉ ra hạt nhân của

trí thông minh con người là phẩm chất chủ động, linh hoạt, sáng tạo của tư duy, nhờ đó nó giải

quyết được những tình huống mới mẻ trên cơ sở nhận thức được bản chất của chúng. [34, tr.26]

Tiếp theo là luận án Tiến sỹ: “Nghiên cứu mức độ phát triển trí tuệ và thể lực của trẻ mẫu giáo

5-6 tuổi” của Lê Thị Minh Hà (2002). Đề tài đã sử dụng trắc nghiệm Raven màu để khảo sát 225 trẻ

Mầm non ở Hà Nội, Yên Bái và Phú Yên. Kết quả cho thấy trẻ ở Hà Nội đạt điểm Raven xấp xỉ

điểm chuẩn quốc tế và có mức độ trí tuệ cao hơn trẻ ở Yên Bái. Bên cạnh đó, đề tài cũng chứng

minh được mối tương quan thuận giữa thể lực và năng lực trí tuệ của trẻ 5-6 tuổi. Nhìn chung, đề tài

đã góp phần vào việc đánh giá mức độ phát triển trí tuệ và thể lực của trẻ mầm non. [26]

Tiến hành nghiên cứu trí tuệ trên khách thể ở tuổi thiếu niên thì có đề tài Tiến sỹ của Đuông Ta

Mo La Kha Xúc: “Nghiên cứu mức độ trí tuệ của học sinh từ 11 đến 15 tuổi và khả năng sử dụng

test Raven ở Lào”. Đề tài đã chứng minh được trí tuệ của học sinh Lào từ 11 đến 15 tuổi phát triển ở

mức bình thường so với học sinh cùng độ tuổi và trẻ 11- 12 tuổi có mức trí tuệ thấp hơn so với trẻ

13 – 14 tuổi. Theo đó, mức độ trí tuệ của học sinh trong nhóm 11 đến 15 tuổi liên quan trực tiếp đến

nhiều yếu tố như: giới tính, nghề nghiệp của cha mẹ, kết quả học tập của bản thân. Trong số khách

thể được khảo sát, học sinh nữ có mức độ trí tuệ thấp hơn học sinh nam. Học sinh có cha mẹ là cán

bộ, kinh doanh thường có mức trí tuệ cao hơn so với các em có cha mẹ là công nhân, nông dân và

học sinh khá giỏi có mức trí tuệ cao hơn học sinh trung bình và yếu. [14]

Trắc nghiệm Raven cũng được sử dụng để tiến hành nghiên cứu ở một số đề tài khác như:

-“Nghiên cứu mức độ phát triển trí tuệ của học sinh lớp 6 thị xã Bến Tre” của Huỳnh Văn

Chẩn (luận văn Thạc sỹ, năm 2006). Đề tài chứng minh được học sinh lớp 6, Thị xã Bến Tre đa số

có mức độ trí tuệ trung bình, đảm bảo đủ điều kiện về trí tuệ cho việc học tập của các em. Ngoài ra,

kết quả thực nghiệm sư phạm trên môn toán lớp 6 cũng cho thấy: nếu tăng cường khả năng khái

quát hóa của học sinh kết hợp với hoạt động nhóm trên lớp sẽ nâng cao mức độ phát triển trí tuệ của

các em. [25]

-“Khảo sát năng lực trí tuệ của học sinh lớp 5 tại thị xã Đồng Xoài – tỉnh Bình Phước năm học

2005-2006” của Đỗ Thị Nga (luận văn Thạc sỹ, 2006). Kết quả đã chứng tỏ hoàn cảnh sống, cách

giáo dục con cái của gia đình thuộc các giai tầng khác nhau trong xã hội đều có ảnh hưởng đến sự

phát triển trí tuệ của học sinh. [15]

Ngoài các đề tài về trí tuệ cũng có sách viết về trí tuệ như: Tâm lý học trí tuệ của Phan Trọng

Ngọ (2001). Sách đã giúp người đọc khái quát được lịch sử nghiên cứu trí tuệ trên thế giới, các

phương pháp nghiên cứu trí tuệ trong tâm lý học cũng như những vấn đề về trẻ chậm phát triển trí

tuệ.

Bên cạnh đó, cũng có một số tác giả khác nghiên cứu về trí tuệ như: Đoàn Văn Điều, Lý Minh

Tiên, (trường Đại học Sư Phạm thành phố Hồ Chí Minh), Trương Công Thanh, Nguyễn Công

Khanh (viện Khoa học Giáo dục), Nguyễn Quang Uẩn (Đại học Sư Phạm Hà Nội 1)…[15]

1.1.2.2. Những nghiên cứu về đo lường trí tuệ

Trước năm 75, ở Việt Nam đã sử dụng 1 số trắc nghiệm trí tuệ để tuyển chọn học sinh nhưng

việc sử dụng trắc nghiệm chưa được Việt hóa. Trong những năm gần đây, trắc nghiệm đã được sưu

tầm, thích nghi hóa, sử dụng trên trẻ em Việt Nam.

Hầu như những ai nghiên cứu về trí tuệ cũng đều biết đến quyển “Những trắc nghiệm tâm lý”

do Ngô Công Hoàn chủ biên. Quyển sách đã tập hợp khá nhiều trắc nghiệm trí tuệ đã được Việt hóa

của những nhà Tâm lý học có tên tuổi trên thế giới như: trắc nghiệm Denver, trắc nghiệm của Gille,

trắc nghiệm của Wechsler, trắc nghiệm hình phức hợp Rey, trắc nghiệm khuôn hình tiếp diễn

Raven, trắc nghiệm năng lực trí tuệ của William Bernard và Lules Leopold…Với nội dung và cách

hướng dẫn đầy đủ, tập tài liệu là công cụ rất cần thiết cho công tác nghiên cứu những biểu hiện tâm

lý phức tạp của con người.

Tác giả viết về đo lường trí tuệ nổi tiếng ở Việt Nam có thể kể đến là Dương Thiệu Tống. Ông

đã xuất bản quyển: “Trắc nghiệm và đo lường thành quả học tập”. Quyển sách chính là kim chỉ nam

cho sinh viên về phương pháp xây dựng và phân tích những câu trắc nghiệm khách quan thuộc lĩnh

vực giáo dục nói chung và trí tuệ nói riêng.

Quyển “Khoa học chẩn đoán tâm lý” (1992) của Trần Trọng Thủy cũng là một quyển sách khá

hay về đo lường trí tuệ. Sách đã đề cập đến lịch sử chẩn đoán trí tuệ bằng trắc nghiệm và đưa ra một

số phương pháp chẩn đoán trí tuệ trên thế giới hiện nay như: Stanford – Binet, Wechsler, Raven…

Trần Kiều cũng đã xuất bản quyển “Trí tuệ và đo lường trí tuệ”. Sách không chỉ nói đến lịch

sử và cách tính trí tuệ theo kiểu truyền thống mà còn đề cập đến loại trí tuệ mới được nghiên cứu

gần đây - trí tuệ xúc cảm.

Nói một cách khái quát, những tác phẩm về đo lường kể trên đều đã đóng góp rất lớn vào lịch

sử nghiên cứu trí tuệ nước nhà. Hiện nay nước ta đang chú trọng đến nghiên cứu và đo lường trí tuệ

nhằm phục vụ cho giáo dục cũng như cho đời sống. Nhưng xét cho cùng, số lượng các tác phẩm do

các tác giả trong nước viết vẫn chưa đủ đáp ứng nhu cầu người học. Sách về trí tuệ và đo lường về

trí tuệ hiện nay đa phần vẫn là sách ngoại văn hay sách dịch từ các tác giả nước ngoài.

1.1.2.3. Những nghiên cứu về trí tuệ ngôn ngữ

Ở nước ta, chỉ có một số tác phẩm nghiên cứu về trí tuệ ngôn ngữ, trong đó có:

-Đề tài: “Dùng phương pháp trắc nghiệm đo lường một số biểu hiện sự phát triển nhận thức và

ngôn ngữ của trẻ em mẫu giáo nhỡ và lớn tại một số trường Mầm non ở Thành phố Hồ Chí Minh”

do Đoàn Văn Điều chủ trì. [27]

-Đề tài: “Tìm hiểu mức độ phát triển ngôn ngữ của học sinh cuối bậc Tiểu học thị xã Tây Ninh

dưới góc độ Tâm lý học thần kinh”, luận văn Thạc sỹ của Nguyễn Thị Bích Phượng, 1988 [27, tr.8]

-Đề tài “Cải biên và định chuẩn trắc nghiệm ngôn ngữ của Hans Eysenck dùng đo trí thông

minh cho trẻ em từ 10 đến 15 tuổi tại thành phố Hồ Chí Minh” do nhóm tác giả Lê Thị Hân, Lý

Minh Tiên, Đỗ Hạnh Nga, Trần Thị Thu Mai, Huỳnh Lâm Anh Chương của trường Đại học Sư

Phạm thành phố Hồ Chí Minh tiến hành.

1.2.Lý luận về trí tuệ và trí tuệ ngôn ngữ

1.2.1. Lý luận về trí tuệ

1.2.1.1.Định nghĩa trí tuệ

Trí tuệ là một trong những lĩnh vực có góc nhìn đa dạng và phong phú. Thông thường, khi

được hỏi: “Một người có trí tuệ là người như thế nào?”. Câu trả lời thường gặp nhất là: một người

có khả năng giải quyết vấn đề, suy nghĩ có phê phán, học được, hiểu nhanh ... Trí tuệ của một

người, nói theo cách truyền thống, chứa đựng khả năng hiểu biết tổng quát của họ.

Đối với những lĩnh vực khác nhau, trí tuệ cũng được hiểu khác nhau.

-Trong kinh doanh, trí tuệ là thị trường được thể chế hóa trong sự tiêu dùng, giành giật nhau.

[60]

-Trong ngôn ngữ học, trí tuệ được hiểu như sau:

+Theo Từ điển Hán Việt của giáo sư Nguyễn Lân, trí là hiểu biết, tuệ là thông minh. Do

vậy, trí tuệ có thể hiểu là thông minh, hiểu biết. [33]

+Theo Từ điển Tiếng Việt Phổ Thông của Viện ngôn ngữ học, trí tuệ là “khả năng nhận

thức lý tính đạt đến một trình độ nhất định”. [6]

+Trí tuệ được dịch sang tiếng Anh là “Intelligence” và được giải thích là “khả năng hiểu,

suy nghĩ về điều gì đó và là khả năng tiếp thu, sử dụng kiến thức”. [59]

-Trong tâm lý học, có rất nhiều định nghĩa khác nhau về trí tuệ. Tuy nhiên, có thể khái quát

thành 3 nhóm quan điểm khác nhau:

 Trí tuệ gắn liền với hoạt động học tập của cá nhân

+K.Đ.Usưnxki cho rằng “Trí tuệ là một hệ thống tri thức được tổ chức tốt” [34, tr.37].

+William Bernard và Jules Leopold chỉ ra rằng: “Có mối liên hệ giữa trí thông minh và

sự học tập của cá nhân” [30, tr.237]

 Trí tuệ là năng lực tư duy trừu tượng của cá nhân

+ Phạm Hoàng Gia: “Trí tuệ chính là tính chủ động, linh hoạt và sáng tạo của tư duy thể

hiện ở năng lực vận dụng những công cụ của nền văn hóa vật chất và tinh thần của loài người để

giải quyết một cách tối ưu những tình huống mới trong học tập và trong cuộc sống.” [34, tr.197]

+Spearman: “Trí tuệ là khả năng rút ra những mối quan hệ hay tương quan”. [55, tr.254]

+Freeman: “Trí tuệ là khả năng suy nghĩ trừu tượng” [55, tr. 254]

Nhóm này đã quy khái niệm trí tuệ vào các thành phần cốt lõi của nó là tư duy và gần như

đồng nhất với chúng.

 Trí tuệ là năng lực thích ứng tích cực của cá nhân

+Đ.Wechsler (1958) “Trí tuệ là năng lực tổng thể hoặc năng lực chung của cá nhân để

hành động có mục đích, để suy nghĩ hợp lý và để ứng phó có hiệu quả với môi trường xung quanh

[47, tr. 98]

+Freeman: “Trí tuệ là sự điều chỉnh hay thích ứng của cá nhân đối với môi trường sống

của họ.” [55, tr.254]

+Trí tuệ là khả năng xử lý thông tin để giải quyết vấn đề và nhanh chóng thích nghi với

tình huống mới. (F.Raynal, A.Rieunier). [36, tr.42]

+Theo Howard Gardner, “trí tuệ là khả năng xử lý những thông tin, giải quyết các vấn đề

hoặc tạo ra các sản phẩm mà các giải pháp hay sản phẩm này có giá trị trong một hay nhiều môi

trường văn hóa” [57]

Và cũng theo ông, trí tuệ rộng hơn IQ bởi vì nếu một người có chỉ số IQ cao nhưng thiếu khả

năng tạo ra sản phẩm thì không được xem ngang bằng với trí tuệ.

Cũng chính tính cách mạng nêu trên, trong luận văn này, chúng tôi sử dụng định nghĩa trí tuệ

của Howard Gardner làm cơ sở lý luận cho đề tài.

Có nhiều quan điểm khác nhau về trí tuệ và ngày càng khám phá nhiều góc cạnh của trí tuệ.

Điều cần chú ý ở đây là trí tuệ không phải là 1 thực thể mà là một cấu trúc mang tính giả thuyết,

được dùng để chỉ rất nhiều loại hành vi được xem là thông minh. (tác giả Đoàn Văn Điều)

1.2.1.2.Cấu trúc của trí tuệ

Bên cạnh sự phong phú về quan niệm trí tuệ, sự đa dạng về cấu trúc trí tuệ cũng là một điều

đáng đề cập. Ta có thể điểm qua một số quan điểm về cấu trúc trí tuệ như sau:

 Mô hình cấu trúc trí tuệ hai thành phần

Mô hình cấu trúc hai thành phần của trí tuệ là mô hình theo kiểu phân mức trí tuệ. Có khá

nhiều tác giả đi theo hướng phân tích này như: R.Cattell (1967) với trí lỏng và trí tuệ tinh luyện,

Hebb (1974) với trí tuệ A và trí tuệ B, Jensen (1969) với trí tuệ cụ thể và trí tuệ trừu tượng…Tiêu

biểu nhất là mô hình của nhà tâm lý Spearman và N.A.Menchinxcaia

-Mô hình trí tuệ của Spearman

C.Spearman tin rằng trí tuệ con người không phải là một khối duy nhất, mà là một cấu trúc

được tạo nên bởi nhiều yếu tố. Yếu tố chung nhất được ông gọi là yếu tố G (General). Ví dụ: tính

linh hoạt, sự mềm dẻo thần kinh, …sẽ tạo ra khả năng trí tuệ tổng quát, định hướng chung cho các

hoạt động của con người. Bên cạnh đó, mỗi cá nhân còn có thêm 1 nhân tố S (Special) sẽ giúp con

người hiểu biết và thực hiện tốt các loại hoạt động chuyên biệt nào đó, ví dụ: làm toán, chơi

nhạc…Vì quá chung và trừu tượng nên giá trị thực tiễn của mô hình cấu trúc hai nhân tố do

Spearman đề xuất không cao. Tuy vậy, ông đã mở ra hướng mới trong nghiên cứu trí tuệ, đó là

phương pháp phân tích nhân tố.

-Mô hình của N.A.Menchinxcaia và E.N.Canbanova – Menle

Theo các nhà tâm lý trên, trí tuệ gồm 2 thành phần: tri thức về đối tượng (cái được phản ánh)

và các thủ thuật trí tuệ (phương thức phản ánh). Tri thức về đối tượng là số lượng các khái niệm

khoa học, được xem là nguyên liệu, là phương tiện của hoạt động trí tuệ. Thủ thuật trí tuệ chính là

hệ thống các thao tác để giải quyết nhiệm vụ đặt ra. Với quan niệm trên, các nhà tâm lý đã mang

đến những giá trị thực tiễn nhất định. Đó là họ đã chỉ ra nhiệm vụ phát triển trí tuệ cho trẻ không

phải chỉ tăng số lượng tri thức mà còn phải chú trọng đến các thủ thuật trí tuệ. Tuy nhiên, cũng

giống như Spearman, cấu trúc hai thành phần này còn quá trừu tượng.

Tóm lại, theo các nhà khoa học trên, trí tuệ được hình thành chỉ dựa trên 2 thành phần. Do vậy,

các quan niệm trên còn quá chung và trừu tượng, có giá trị thực tiễn chưa cao.

 Mô hình cấu trúc trí tuệ đa nhân tố

Trên cơ sở của phương pháp phân tích nhân tố, các nhà nghiên cứu tâm lý đã đi sâu nghiên cứu

tầng bậc vi mô của trí tuệ. Mô hình cấu trúc trí tuệ đa nhân tố cũng được hình thành trên cơ sở này.

Ta có thể điểm qua một số mô hình tiêu biểu như sau:

-Mô hình cấu trúc đa nhân tố của L.L.Thurstone

Theo Thurstone, có 7 yếu tố tạo nên trí tuệ: yếu tố N (Number) – khả năng hiểu và vận dụng

số, yếu tố V (Verbal comprehension) – lĩnh hội được ngôn ngữ nói và viết, yếu tố W (Word

fluency) – khả năng dùng từ ngữ chính xác và linh hoạt, yếu tố S (Space) – khả năng biểu tượng về

vật thể trong không gian, yếu tố M (Memory) – trí nhớ, yếu tố P (Perceptual) – Khả năng tri giác,

và yếu tố R (Reasoning) – khả năng suy luận.

Mô hình này đã đóng góp lớn cho hướng phân tích nhân tố trong nghiên cứu trí tuệ.

-Mô hình cấu trúc 3 chiều của J.P.Guilford

Mô hình trí tuệ của Guiford gồm 5 loại thao tác (nhận thức, ghi nhớ, diễn dịch, quy nạp, đánh

giá), 4 nội dung (số, ký hiệu, ngữ nghĩa, hành vi) và 6 mặt sản phẩm (đơn vị, lớp, mối liên hệ, hệ

thống, chuyển dịch và giải thích).

Mô hình 3 mặt này gồm 120 yếu tố. Guiford và sinh viên của ông đã xem xét và xác định có

80 yếu tố hợp lý và xây dựng số đo lường cho mỗi yếu tố. [36, tr.47]

-Mô hình của Phillip Vermon

Theo ông, yếu tố nhận thức tổng quát (G) ở mức độ cao nhất. Mức độ tiếp theo có 2 yếu tố

V:ed và K:m. Yếu tố V:ed hợp thành bởi các khả năng: sử dụng thành thạo lời nói, khả năng tính

toán số và khả năng suy luận, tính sáng tạo. Còn yếu tố K:m bao gồm sự thông hiểu cơ khí, khả

năng tâm lý cơ động (hoạt động) và tương quan không gian. Yếu tố đặc biệt ở mức độ thấp nhất.

-Mô hình cấu trúc trí tuệ của R.J.Sternberg

Theo Sternberg, 3 thành phần của trí tuệ bao gồm: cấu trúc, kinh nghiệm, điều kiện.

+Cấu trúc chính là cấu trúc của kỹ năng tư duy. Thành phần này bao gồm 3 thành phần nhỏ:

siêu cấu trúc, thực hiện và tiếp nhận.

+Kinh nghiệm

+Ngữ cảnh

-Mô hình trí tuệ của D.N.Perkins

Ông có 3 quan niệm phổ biến về trí tuệ:

+Trí tuệ là năng lực cá nhân

+Trí tuệ là các thủ thuật trí tuệ

+Trí tuệ là trình độ chuyên môn

Tuy nhiên, theo ông, nếu quan điểm riêng rẽ như vậy thì không có lý thuyết nào kể trên có thể

giải quyết triệt để vấn đề trí tuệ. Do đó, trí tuệ phải bao hàm cả 3 nội dung và có thể mô tả bằng

công thức:

Trí tuệ = năng lực + thủ thuật + trình độ chuyên môn

Nhìn chung, các mô hình trên đều cho rằng trí tuệ được cấu thành từ 3 yếu tố trở lên. Người

tìm ra nhiều yếu tố nhất chính là Guiford. Và cho đến này, chưa có ai vượt qua con số 120 yếu tố

của ông.

 Mô hình cấu trúc trí tuệ theo phương pháp phân tích đơn vị

-Mô hình cấu trúc trí tuệ của L.X.Vưgôtxki

Theo Vưgôtxki, trí tuệ con người có hai mức với hai cấu trúc: trí tuệ bậc thấp và trí tuệ bậc

cao.

+Hành vi trí tuệ bậc thấp là các phản ứng trực tiếp và không có sự tham gia của ký hiệu ngôn

ngữ. Loại hành vi này có ở trẻ em. Cấu trúc của loại hành vi này gồm 2 thành phần. Thứ nhất là các

kích thích của môi trường. Thứ hai là các phản ứng của cơ thể. Cấu trúc của loại trí tuệ này giống

với sơ đồ S <-> R trong các công trình nghiên cứu của tâm lý học liên tưởng và tâm lý học hành vi.

+Hành vi trí tuệ bậc cao là các phản ứng của cơ thể với vai trò trung gian của ngôn ngữ hay

các công cụ tâm lý trong các thao tác trí tuệ. Trong hành vi trí tuệ, ngôn ngữ có hai chức năng quan

trọng: lập kế hoạch và tổ chức hành vi.

Theo Vưgôtxki, công cụ tâm lý rất đa dạng về hình thức, có thể là ngôn ngữ, sơ đồ, thủ thuật

ghi nhớ, ký hiệu đại số…Chúng đóng vai trò trung gian giữa chủ thể và đối tượng để tạo ra sự biến

đổi. Tuy nhiên, chúng không làm thay đổi đối tượng mà làm thay đổi diễn biến và cấu trúc của các

chức năng tâm lý, quy định cấu trúc của hành vi.

Như vậy, loại trí tuệ bậc cao có cấu trúc: A <-> X và X <->B, trong đó A là kích thích đối

tượng, B là phản ứng và X là phương tiện.

Tính chất độc đáo trong quan niệm của L.X.Vưgôtxki là ở chỗ: đơn vị tâm lý tối thiểu chính là

cấu trúc 3 thành phần nêu trên.

Như vậy, bằng phương pháp phân tích đơn vị và phương pháp công cụ, L.V.Vưgôtxki đã tách

trí tuệ trẻ em ra thành hai mức với hai cấu trúc đặc trưng. Theo Vưgốtxki, mặc dù hai mức trí tuệ

này khác nhau về chất, nhưng chúng không hoàn toàn rách rời nhau. Trí tuệ bậc cao là sự cấu trúc

lại các hành vi trí tuệ bậc thấp trên cơ sở sử dụng phương tiện tâm lý.

-Mô hình nhiều dạng trí tuệ của H.Gardner

Dựa trên phương pháp phân tích đơn vị, H.Gardner đưa ra nhiều dạng trí tuệ có trong mỗi con

người.

Năm 1983, Gardner đã đề xướng 7 loại trí tuệ:

+Trí tuệ lôgích- toán học liên quan đến khả năng suy nghĩ một cách lô-gích, tranh luận theo

suy luận và tiến hành những hoạt động toán học. Những người có trí tuệ này có thiên hướng học tập

thông qua cách lập luận lô-gích, thích toán học, lập trình, chơi xếp hình…

+ Trí tuệ ngôn ngữ liên quan đến sự thành thạo về ngôn ngữ nói và viết để diễn tả những điều

mình nghĩ. Những người có trí tuệ này có thiên hướng học tập thông qua nói và viết, thích đọc, chơi

ô chữ…

Hai dạng thức đầu tiên này là những khả năng kinh điển có thể phát huy tốt trong những môi

trường học tập mang tính truyền thống và dễ đạt được điểm số cao trên những trắc nghiệm đo lường

chỉ số IQ.

+Trí tuệ không gian liên quan đến khả năng nhận thức và đánh tín hiệu những chiều không

gian. Người có trí tuệ không gian thường là những phi công hoặc những hoa tiêu, tài xế… Họ có

thiên hướng học tập thông qua hình ảnh, sử dụng tốt bản đồ và định hướng tốt trong không gian.

Gardner tin rằng đối với các trẻ em khiếm thị, trí tuệ về không gian cũng phát triển.

+Trí tuệ âm nhạc bao gồm khả năng nhận thức và sáng tác những cao độ, nhịp điệu của âm

thanh... Những người có trí tuệ này có thiên hướng học tập thông qua các giai điệu, âm nhạc, thích

chơi nhạc cụ, hát, đọc truyền cảm các tác phẩm…

+Trí tuệ cơ thể liên quan đến việc sử dụng những phần của cơ thể hoặc cả cơ thể để giải quyết

vấn đề hoặc tạo ra sản phẩm. Vận động viên, người khiêu vũ, bác sĩ phẫu thuật và thợ thủ công có

khả năng phát triển cao trí tuệ này. Họ có thiên hướng học tập thông qua vận động, cảm thấy thích

thú khi vận động cơ thể…

+Trí tuệ liên nhân cách chỉ khả năng của một người nhận thấy những ý định, cảm xúc và động

cơ của người khác. Người sở hữu và phát triển khả năng này có thể làm việc tốt với người khác và

có thể chọn những lĩnh vực như: kinh doanh, dạy học, tham vấn hay chính trị để phát huy chúng.

Những người sở hữu trí tuệ này có thiên hướng học tập thông qua sử dụng các kỹ năng xã hội, giao

tiếp, hợp tác làm việc với người khác, thích gặp gỡ và trò chuyện, có khả năng thông hiểu người

khác…

+Trí tuệ nội tâm được mô tả như khả năng hiểu chính bản thân mình và sử dụng thông tin đó

để điều chỉnh cuộc sống của mình. Những người có trí tuệ này có thiên hướng học tập thông qua

tình cảm, cảm giác, hiểu rõ các suy nghĩ của bản thân, từ đó có thể hiểu được cảm xúc, tình cảm của

người khác…

Gần đây (1998), Gardner bổ sung thêm 2 loại trí tuệ: thiên nhiên, hiện sinh và đánh giá chúng

dựa trên 8 tiêu chuẩn mà ông đã thiết lập trong nghiên cứu của mình.

Ông định nghĩa: một người có trí tuệ thiên nhiên là người có khả năng nhận thức và phân loại

tốt những quần thể thực vật và động vật của môi trường mà họ đang sống. Họ có năng lực học tập

thông qua thiên nhiên, các hoạt động ngoài trời…

Người có trí tuệ hiện sinh là người có khả năng học tập thông qua quan sát bức tranh tổng thể,

thông qua những câu hỏi như: “Tại sao chúng ta tồn tại ở đây?”, “Vai trò của tôi trong thế giới này

là gì?”, “Vai trò của tôi trong gia đình, nhà trường và cộng đồng là gì?”. Họ thường tìm kiếm sự

kết nối giữa những kiến thức mới học được với các ứng dụng, kiến thức trong thực tế.

Theo Gardner, mỗi loại trí thông minh có một loạt khả năng cụ thể và có thể được quan sát hay

đo lường. Và ông tuyên bố rằng: “Sự độc quyền của những người tin vào trí thông minh tổng quát,

đơn lẻ đã đến hồi kết thúc” [57]. Chính cách nhìn thoáng của Howard Gardner về trí tuệ đã giải

thích tại sao nhiều người thời đi học thì không giỏi, nhưng về sau lại rất thành công trong cuộc sống.

Nhìn chung, phương pháp phân tích đơn vị là phương pháp chia một sự vật trọn vẹn thành các

đơn vị nhỏ hơn cho đến khi đạt được đơn vị cuối cùng. Đơn vị cuối cùng này vẫn bảo toàn được bản

chất cố hữu của sự vật ban đầu. Như vậy, nhìn bên ngoài có vẻ giống, nhưng về bản chất, phương

pháp phân tích đơn vị khác với phương pháp phân tích nhân tố, một phương pháp chia sự vật trọn

vẹn thành những phần tử biệt lập nhau, có tính chất khác sự vật ban đầu.

Vưgôtxki đã kết hợp phương pháp phân tích theo đơn vị với phương pháp gián tiếp, tức là

nghiên cứu trí tuệ gián tiếp thông qua phương tiện tâm lý của nó để đưa ra mô hình cấu trúc trí tuệ

bậc thấp và bậc cao. Còn H.Gardner chủ yếu dựa trên sự phân tích toàn diện các mối quan hệ bên

trong và bên ngoài của trí tuệ để tách ra các dạng trí tuệ đặc trưng của mỗi cá nhân. Như vậy, hai

mô hình trên được xây dựng theo cách tiếp cận khác với các mô hình theo phương pháp phân tích

nhân tố. [36], [57].

1.2.1.3. Sự phát triển trí tuệ của học sinh khối 6

Sự phát triển trí tuệ là sự biến đổi về chất trong hoạt động nhận thức. Sự biến đổi này thể hiện

qua việc thay đổi cấu trúc sự vật được phản ánh thông qua hoạt động nhận thức.

Theo cách phân chia lứa tuổi của Piaget, trẻ lớp 6 là lứa tuổi chuyển giao giữa giai đoạn thao

tác cụ thể và giai đoạn thao tác hình thức. Do vậy, trí tuệ của trẻ còn mang đặc điểm của giai đoạn

thao tác cụ thể (7-8 đến 11-12 tuổi) và bắt đầu thể hiện những đặc trưng của giai đoạn thao tác hình

thức (11-12 tuổi đến 14-15 tuổi). Trẻ lứa tuổi này có thể xếp lớp, chia hạng, đếm số, đo đạt hoặc

chuyển chỗ sự vật theo thứ tự hay đảo ngược trong không gian và thời gian, sau đó lấy kết quả của

các thao tác cụ thể này để khái quát thành những giả thuyết, mệnh đề về mối quan hệ giữa chúng.

Ru – đích cũng cho rằng tư duy của học sinh lớp 6 tuy vẫn còn mang tính cụ thể, tài liệu trực

quan còn có ý nghĩa quan trọng trong việc tiếp thu kiến thức nhưng ở lứa tuổi này các em cũng bắt

đầu có sự tư duy trừu tượng. Nhờ vậy, hiểu biết của các em đã đi sâu vào các thuộc tính của sự vật.

Theo ông, hoạt động trí tuệ của trẻ trở nên phức tạp hơn do sự phát triển của các quá trình tâm lý

như: tri giác, biểu tượng, tư duy, trí nhớ, tưởng tượng, chú ý… Ví dụ: tri giác của các em trở nên có

nội dung, có tuần tự, có kế hoạch, hay nói cách khác là có chủ đích và có tổ chức hơn, làm cơ sở

cho tư duy sâu sắc hơn. Đặc trưng của trẻ ở giai đoạn này là hướng ra bên ngoài xã hội. Do đó, yếu

tố cảm xúc, các hành động xã hội và các quan hệ xã hội cũng góp phần quan trọng trong sự phát

triển trí tuệ của trẻ.

Nhìn chung, trình độ phát triển trí tuệ ở lứa tuổi này đã tạo cho các em khả năng tham gia vào

việc nghiên cứu có hệ thống các cơ sở khoa học, tiếp thu một số lượng ngày càng lớn các thủ thuật

hoạt động trí óc, kỹ năng sử dụng thông thạo các thủ thuật đó trong các điều kiện khác nhau. Đây

chính là đặc điểm tiêu biểu của học sinh cấp 2 nói chung, lớp 6 nói riêng và là điểm quyết định

những thay đổi về chất trong hoạt động trí tuệ của học sinh lứa tuổi này. [35], [38], [39]

1.2.2. Lý luận về trí tuệ ngôn ngữ

1.2.2.1.Khái niệm trí tuệ ngôn ngữ

 Định nghĩa

Mối quan hệ giữa trí tuệ và ngôn ngữ đã được đề cập ở những công trình nghiên cứu trí tuệ của

nhiều nhà tâm lý học:

-Quan điểm thứ 1 xem ngôn ngữ là độc lập, đi liền với hành vi trí tuệ nhưng không có vai trò

đáng kể trong việc tổ chức các hành vi đó. Tiêu biểu của quan điểm này chính là Jean Piaget [36,

tr.61].

-Quan điểm thứ 2 tin rằng: ngôn ngữ là thành phần của trí tuệ. Theo Hans.J.Eysenck, ngôn ngữ

là 1 trong 5 yếu tố của trí tuệ (số học, ngôn ngữ, suy luận trừu tượng, tri giác, tri giác không gian)

[27]. Vưtgốtxki cho rằng ngôn ngữ đã tham gia vào hành vi trí tuệ với 2 chức năng: lập kế hoạch và

tổ chức hành vi, tạo thành hành vi trí tuệ ngôn ngữ [36]. Trong các trắc nghiệm về trí tuệ của các

nhà tâm lý học khác như: David Wechsler, Amthauer, William Bernard và Jules Leopold cũng thể

hiện quan điểm của các ông là xem ngôn ngữ như thành phần của trí tuệ, bên cạnh toán học [48].

Howard Gardner, một nhà tâm lý học người Mỹ đã nghiên cứu về trí tuệ với góc nhìn khác:

xem trí tuệ ngôn ngữ là một trong 8 kiểu thông minh được tìm thấy ở con người, là một loại hình trí

tuệ với những đặc trưng riêng. Ông đã đưa ra những dấu hiệu để nhận biết người có trí tuệ ngôn

ngữ:

-Nhạy cảm với nhịp điệu của lời nói.

-Có kiến thức về quy luật ngữ pháp và sử dụng thích hợp những quy luật này.

-Hiểu sâu sắc ngôn từ và nhạy cảm với nghĩa đen hoặc nghĩa bóng của từ.

-Kỹ năng ngôn ngữ phát triển cao.[58]

Trên cơ sở những dấu hiệu trên, chúng tôi đưa ra định nghĩa trí tuệ ngôn ngữ như sau:

Trí tuệ ngôn ngữ là khả năng nhạy cảm với âm thanh, nhận thức và phân biệt được những âm

vị của từ ngữ, thành thạo quy tắc ngữ pháp của từ, ngữ, câu, hiểu được những tầng lớp nghĩa của

ngôn ngữ, sử dụng ngôn ngữ để đạt được mục tiêu trong cuộc sống.

 Đặc điểm

Trí tuệ ngôn ngữ mang tính phổ quát. Đa phần mọi người trên hành tinh này đều có khả năng

ngôn ngữ. Cụ thể là phần lớn các công dân ở mọi nền văn hóa đều có thể đọc và viết thông thạo.

Thêm vào đó, hầu hết mọi ngành nghề đều cần đến trí tuệ ngôn ngữ. Ví dụ: bác sỹ phải giao tiếp với

bệnh nhân, nhà kinh doanh cần thương lượng và viết báo cáo, giáo viên phải truyền đạt kiến thức

cho học sinh... Nói chung, trí tuệ ngôn ngữ là kiểu trí tuệ có ở nhiều người nhất và thể hiện rõ ràng

nhất ở các nhà văn, nhà thơ, phóng viên, biên tập viên hay các diễn giả… [51], [53, tr.12], [58].

Trí tuệ ngôn ngữ có thể nâng cao được thông qua tập luyện. Các quan điểm truyền thống trước

đây cho rằng trí tuệ không thể thay đổi kể từ lúc sinh ra cho đến khi mất đi hoặc chỉ phát triển đến

18 tuổi [54]. Theo Howard Gardner, trí tuệ nói chung và trí tuệ ngôn ngữ nói riêng đều có thể nâng

cao được thông qua tập luyện. Ông đã đưa ra những biện pháp nâng cao trí tuệ ngôn ngữ như: chơi

chữ, đọc sách, tập nói, tập kể chuyện… [51], [53, tr.11]

Khi trí tuệ ngôn ngữ phát triển cao thì kỹ năng ngôn ngữ cũng phát triển cao. Vì kỹ năng ngôn

ngữ tập trung vào việc thực hành và sử dụng ngôn ngữ trong thực tiễn nên khi trí tuệ ngôn ngữ phát

triển cao thì việc thực hành và sử dụng ngôn ngữ sẽ thành thạo và dễ đạt mục đích hơn. Những nhà

văn, nhà thơ, nhạc sỹ, diễn giả…đã khoáy động những cung bậc cảm xúc khác nhau trong mỗi

người chỉ bằng cách sử dụng ngôn ngữ của họ. Những kỹ năng ngôn ngữ bao gồm: nghe, nói, đọc,

viết, kể chuyện, giải thích, giảng dạy, thuyết phục, phân tích …

Trí tuệ ngôn ngữ gắn liền với trí tuệ âm nhạc. Người có trí tuệ ngôn ngữ cao nhạy cảm với độ

to, độ cao, các âm sắc của âm thanh ngôn ngữ nói riêng và âm thanh nói chung. Nhạc cũng là hình

thức biểu hiện của âm thanh. Do vậy, người có trí tuệ ngôn ngữ tốt cũng sẽ có trí tuệ âm nhạc tốt.

[58]

 Vai trò

Trí tuệ ngôn ngữ cho phép chúng ta thưởng thức ngữ nghĩa của từ ngữ, hiểu được trật tự từ

trong câu, học ngữ pháp rất nhanh và có các kỹ năng ngôn ngữ thành thạo. Thêm vào đó, trí tuệ

ngôn ngữ giúp phát triển giác quan nhạy cảm với những âm thanh của ngôn ngữ và thay đổi một

cách linh hoạt cấu trúc của ngữ hoặc câu cho phù hợp với bất kỳ nhu cầu nào. Đó là cơ sở để thể

hiện vai trò quan trọng nhất của trí tuệ ngôn ngữ: giúp con người đạt được những mục tiêu giao tiếp

mà họ mong muốn. [53, tr.12]

Trí tuệ ngôn ngữ quan trọng không chỉ đối với hoạt động giao tiếp giữa người và người mà còn

đối với việc bày tỏ những suy nghĩ, những mong ước và quan điểm của cá nhân. Một người không

thể trình bày những suy nghĩ của mình dễ dàng nếu không có ngôn ngữ. Xã hội ngày nay đánh giá

cao loại trí tuệ này vì chúng ta thường có khuynh hướng nhận xét người khác theo cách họ nói hay

viết hoặc ấn tượng sâu sắc với những người có khả năng nói và viết vượt trội, thể hiện khá tốt chính

mình bằng ngôn ngữ và luôn luôn biết điều gì cần nói và viết. [53, tr.12]

Trí tuệ ngôn ngữ giúp con người không chỉ nhạy cảm hay thành thạo về âm thanh, ngữ pháp,

ngữ nghĩa của ngôn ngữ, mà còn có thể kể chuyện, phiên dịch, thảo luận, giải thích, tường

thuật…Nói chung, nó giúp con người đảm nhận đa dạng những công việc liên quan đến ngôn ngữ.

Trên đây là những vai trò quan trọng của trí tuệ ngôn ngữ. Nếu hiểu rõ nhiệm vụ quan trọng

này, chúng ta sẽ biết lý do tại sao việc phát triển trí tuệ ngôn ngữ của trẻ nhỏ sẽ giúp chúng thành

công trên đường đời. [53, tr.13]

1.2.2.2. Cơ sở lý thuyết của trí tuệ ngôn ngữ

Giống như các dạng thức trí tuệ khác do Howard Gardner đề xướng, trí tuệ ngôn ngữ cũng

được xây dựng trên cơ sở sinh học, lô-gích học, tâm lý học phát triển, tâm lý học thực nghiệm, và

tâm thần học với 8 tiêu chuẩn sau:

1.Khả năng cô lập nếu có sự hư hại não bộ thể hiện ở chỗ một khả năng nào đó của một người

có thể được tách biệt từ những khả năng khác. Ví dụ: bệnh nhân đột quỵ vẫn giữ được nguyên vẹn

một số hình thức trí tuệ khác mặc dù họ bị tổn hại ở khả năng nhận thức lời nói.

2.Vai trò của não bộ trong lịch sử tiến hóa thể hiện ở chỗ mầm móng các dạng trí tuệ của con

người đã có trong các loài động vật nhưng chúng chỉ xuất hiện riêng lẻ, rời rạc và chỉ được tích hợp

ở con người. Thêm vào đó, trí tuệ giữ một vai trò quan trọng trong sự phát triển của loài người vì

nhờ nó mà con người có thể đối mặt và thích ứng với môi trường sống.

Nói chung, cả hai tiêu chuẩn trên đều dựa trên cơ sở của sinh học.

3. Sự xuất hiện của những hoạt động nòng cốt

Phân tích từ góc độ lô-gích học, mỗi kiểu trí tuệ có hàng loạt hoạt động nòng cốt có thể nhận

biết được. Ví dụ: trí tuệ ngôn ngữ bao gồm những hoạt động nòng cốt như nhận thức, phân biệt được

âm vị, nắm vững cú pháp và hiểu được nghĩa của từ. Trong trí tuệ âm nhạc, hoạt động nòng cốt là

nhận biết, phân biệt cao độ, nhịp, âm sắc, sự hòa âm…

4. Sự nhạy cảm trong việc chuyển thành mật mã

Kết quả phân tích theo góc độ lô-gích còn xác định rằng: người có trí tuệ phải nhạy cảm trong

việc mã hóa thành hệ thống biểu tượng. Theo Gardner, hệ thống biểu tượng phải có mục đích truyền

thông tin một cách chính xác và mang ý nghĩa tự nhiên. Ngôn ngữ, ký hiệu toán học, những phương

trình lô-gích, bản đồ, biểu đồ…là những biểu tượng quan trọng trong hoạt động trí tuệ.

5.Tiến trình phát triển đặc biệt thể hiện ở chỗ cá nhân sử dụng trí tuệ của mình nhằm vượt qua

một tiến trình phát triển mà trong đó xuất hiện những tình huống làm bộc lộ khả năng đặc biệt nào

đó. Một số người có thể vượt qua, một số người không thể. Thông qua đó, có thể xác định được

mức độ phát triển của trí tuệ.

6. Sự tồn tại của một số ít cư dân ngoại lệ. Đó là sự xuất hiện của nhà bác học, người phi

thường, có khả năng đặc biệt hoặc những người bệnh thần kinh nhưng giỏi về một lĩnh vực nào đó.

Gardner đề cập đến điều này để chúng ta thấy sự đối lập với khả năng trung bình hoặc yếu. Một ví

dụ về tiêu chuẩn này là người mắc chứng tự kỷ trội hơn người bình thường về khả năng tính toán số

học hay biểu diễn âm nhạc.

Gardner thiết lập 2 tiêu chuẩn trên dựa cơ sở của tâm lý học phát triển.

7. Sự ủng hộ từ tâm lý học thực nghiệm. Phương pháp thực nghiệm nghiên cứu mọi nội dung

của các dạng trí tuệ và làm sáng tỏ sự tương tác giữa các bài tập huấn luyện với dạng trí tuệ tương

ứng. Và với sự hỗ trợ của tâm lý học thực nghiệm, Gardner đã chỉ ra sự liên quan hoặc sự khác biệt

giữa hai hoạt động. Việc quan sát đối tượng tiến hành 2 hoạt động đồng thời có thể giúp ta kết luận

rằng những hoạt động đó dựa trên khả năng trí tuệ giống nhau hay khác nhau. Ví dụ: một người bận

chơi ô chữ thì khó có thể tiến hành một cuộc đối thoại hiệu quả, bởi vì cả hai công việc đều đòi hỏi

sự chú ý của trí tuệ ngôn ngữ, và do đó tạo ra sự giao thoa. Nhưng ngược lại, một người có thể vừa

đi bộ và vừa nói chuyện vì rằng trong trường hợp này, 2 loại trí tuệ khác nhau được sử dụng: vận

động cơ thể và ngôn ngữ.

8. Sự ủng hộ từ những phát minh đo nghiệm tinh thần. Các số liệu đo lường đã cung cấp những

chứng cứ về sự tồn tại của những khả năng trí tuệ. [57]

1.2.2.3. Một số biểu hiện của phát triển trí tuệ ngôn ngữ ở HS khối 6

Một người có trí tuệ ngôn ngữ, về cơ bản phải có kiến thức cũng như thành thạo trong việc sử

dụng ngôn ngữ, cụ thể là những thành phần của ngôn ngữ như: ngữ âm, âm vị, ngữ pháp, ngữ nghĩa,

ngữ dụng nhằm đạt được mục tiêu hay giải quyết vấn đề mà cuộc sống đặt ra. [51]

 Ngữ âm

Ngữ âm chính là âm thanh của ngôn ngữ, là mặt tự nhiên của ngôn ngữ. Âm thanh của mọi

ngôn ngữ được nghiên cứu từ nhiều góc độ khác nhau như: vật lý học, ngữ âm học, sinh lý học, tâm

lý học... Một số đặc trưng cơ bản của âm thanh có thể kể đến là: độ cao, độ to, âm sắc.

-Độ cao của ngữ âm cho ta biết nhiều thông tin của người phát âm như: giới tính, tuổi tác, xúc

cảm... Hầu như câu bình thường trong mọi ngôn ngữ đều kết thúc bằng độ cao đi xuống. Trái lại,

những câu nói ngập ngừng, chưa kết thúc đều có độ cao đi lên. Đối với tiếng Việt, độ cao không

những quan trọng trong việc hình thành trọng âm, ngữ điệu mà còn góp phần tạo nên thanh điệu.

-Độ to phụ thuộc vào độ mạnh, tức vào biên độ. Về mặt tâm lý, độ to sẽ thể hiện tính cách,

cảm xúc của người nói. Còn biên độ và độ mạnh là đặc trưng vật lý. Biên độ càng lớn, âm thanh

càng mạnh.

-Âm sắc là sắc thái riêng của âm thanh. Ví dụ: tiếng đàn dương cầm và tiếng đàn vĩ cầm dù

được đánh lên cùng một nốt với độ cao và độ to như nhau, thì vẫn nghe khác nhau. Đấy là sự khác

nhau về âm sắc. Bộ máy cấu âm của mỗi người không hoàn toàn như nhau vì sự hoạt động của môi,

lưỡi, thanh quản… tạo ra các âm sắc khác nhau. Đó là một trong những cơ sở quan trọng khiến cho

mỗi người có một giọng nói riêng.

Người có trí tuệ ngôn ngữ nhạy cảm với độ cao, độ to cũng như âm sắc của ngôn ngữ, do đó có

có thể nghe nói tốt. Đó là lý do vì sao họ có thể học ngôn ngữ nhanh và thường phát triển thêm loại

trí tuệ khác: trí tuệ âm nhạc.

 Âm vị

Âm vị là đơn vị ngữ âm, là mặt xã hội của ngôn ngữ. Những đơn vị ngữ âm cơ bản gồm có:

-Âm tố: là đơn vị ngữ âm nhỏ nhất. Âm tố gồm có phụ âm và nguyên âm.

+Phụ âm là âm có luồng hơi bị cản trở. Tiếng Việt có các phụ âm sau: B, C, D, Đ, G, H, K,

L, M, N, P, Q, R, S, T, V, X

+Nguyên âm là âm không có luồng hơi cản trở. Nguyên âm trong tiếng Việt gồm có: A, Ă,

Â, E, Ê, I, O, Ô, Ơ, U, Ư, Y

- Âm tiết: là đơn vị phát âm nhỏ nhất, được cấu tạo từ những âm tố. Âm tiết kết thúc bằng

nguyên âm là âm tiết mở, còn bằng phụ âm là âm tiết khép. Ví dụ: Câu “Trong đầm gì đẹp bằng

sen” có 6 âm tiết, trong đó gì là âm tiết mở, các âm tiết còn lại là âm tiết khép. Âm tiết được chia là

2 phần: âm đầu và vần. Ở dạng đầy đủ, vần có thể gồm âm đệm, âm chính và âm cuối. Âm đóng vai

trò âm chính, được gọi là âm tiết tính; còn âm không đóng vai trò đó, gọi là phi âm tiết tính.

Ví dụ: trong từ “HOANG”, âm đầu là “H”, âm đệm là “O”, âm chính là “A”, âm cuối là “NG”.

“A” còn được gọi là âm tiết tính; “H”, “O”, “NG” là phi âm tiết tính.

-Thanh điệu là hiện tượng biến đổi về độ cao âm tiết tạo nên những từ khác nhau. Tiếng Việt

có: thanh bằng (huyền, ngang) và thanh trắc (sắc, hỏi, ngã, nặng).

-Trọng âm là hiện tượng nhấn mạnh vào một âm tiết nào đó trong ngữ âm. Sự nhấn mạnh đó

thể hiện bằng ba cách: (1) tăng độ mạnh phát âm; (2) tăng độ dài phát âm và (3) tăng độ cao. Trong

Tiếng Việt, thường có trọng âm lô-gích. Ví dụ: Câu: “Tôi đi Sài Gòn”, nếu được trả lời cho câu hỏi:

“Anh đã đi đâu?” thì nhấn trọng âm ở 2 từ “Sài Gòn”, còn nếu được trả lời cho câu hỏi: “Ai đi Sài

Gòn?” thì nhấn mạnh từ “tôi”.

-Ngữ điệu là việc sử dụng sự biến đổi về độ cao, độ to, tốc độ, chỗ ngừng khi phát âm một

chuỗi âm lớn hơn một từ.

Người có trí tuệ ngôn ngữ biết trong một ngôn ngữ nhất định có những đơn vị ngữ âm gì, nhận

thức và phân biệt được những âm vị, cụ thể là cách viết và phát âm của những đơn vị trên.

Ngữ âm và âm vị được gọi chung là ngữ âm. [1], [2], [5], [22]

 Ngữ pháp

Trong tiếng Việt, nói đến ngữ pháp là nói đến cấu tạo từ, từ loại, quy tắc cấu tạo ngữ và quy

tắc cấu tạo câu.

 Cấu tạo từ

-Đơn vị ngôn ngữ nhỏ nhất có nghĩa được gọi là hình vị. Trong khi hình vị của các ngôn ngữ

biến hình như tiếng Anh có kích thước không cố định, có thể nhỏ hơn âm tiết, một âm tiết hay nhiều

âm tiết thì tuyệt đại đa số hình vị trong tiếng Việt có kích thước là âm tiết. Hình vị trong tiếng Việt

thường được gọi là tiếng.

-Từ là đơn vị ngôn ngữ nhỏ nhất có khả năng hoạt động độc lập. Khả năng hoạt động độc lập

là khả năng đảm nhiệm một chức năng cú pháp trong câu hay có quan hệ kết hợp với những đơn vị

có khả năng đó [22]. Một từ có thể có 1 tiếng hoặc nhiều tiếng.

Ví dụ: Tôi mua sách và bút.

Tôi và mua sách và bút có khả năng hoạt động độc lập với tôi làm chủ ngữ, mua sách và bút

làm vị ngữ nhưng chỉ có tôi là từ, vì mua sách và bút không phải đơn vị có khả năng hoạt động độc

lập nhỏ nhất, mà có thể phân tích thành những đơn vị có khả năng hoạt động độc lập nhỏ hơn là

mua, làm trung tâm vị ngữ; sách và bút làm bổ ngữ bổ nghĩa cho mua. Còn và là từ vì có quan hệ

kết hợp với sách, bút.

-Những phương thức cấu tạo từ phổ biến trong tiếng Việt gồm có:

+ghép: là kết hợp các hình vị với nhau. Với cách này, ta có thể tạo thành từ ghép đẳng lập như:

áo quần, nhà cửa…và từ ghép chính phụ như: hoa hồng, dưa hấu…

+láy: là phương thức lặp lại hoàn toàn hay một phần âm thanh của một hình vị. Phương thức

này tương đối phổ biến trong tiếng Việt. Ví dụ: xa xôi, chót vót…

+vay mượn: là vay mượn từ của ngôn ngữ khác để biểu thị khái niệm mới. VD: giáo viên, hiệu

trưởng, nhân đạo…là từ mượn của tiếng Hán. Hoặc: in-tơ-net, ma-ket-ting…là từ mượn của tiếng

Anh.

+trộn từ: là phương thức trộn các từ với nhau để tạo thành từ mới.VD: văn nghệ được tạo ra từ

văn học và nghệ thuật, khoa giáo được tạo ra từ khoa học và giáo dục…

+tạo từ tắt: là phương thức tạo từ bằng cách ghép các chữ cái ở đầu các từ trong một tổ hợp

định danh. Ví dụ: CN: công nguyên, TƯ (hay TW): trung ương.

 Từ loại

Tiếng việt có những loại từ phổ biến sau:

-Danh từ: là từ biểu thị sự vật hay những đối tượng được hình dung như sự vật. Có 2 loại: danh

từ riêng (Lê Văn Tám, Lý Thường Kiệt…) và danh từ chung (chó, mèo)

-Động từ: là từ biểu thị quá trình, hành động, trạng thái của sự vật. VD: mưa, đứng, thấy, là, ở,

còn…

-Tính từ: là từ biểu thị đặc điểm, tính chất của sự vật. VD: vàng hoe, đẹp, xấu…

Động từ và tính từ thường làm vị ngữ, nên còn được gọi là vị từ.

-Đại từ: là từ dùng để trực chỉ một sự vật trong một tình huống giao tiếp. Đại từ gồm có đại từ

nhân xưng (tôi, mày, nó..), đại từ chỉ định (kia, nọ, này…), và đại từ phiếm định (đâu, nào, gì,

sao…)

-Lượng từ: là từ biểu thị số lượng hay thứ tự của sự vật. VD: đôi, cặp, chục, tá…

Trong tiếng Việt, các loại từ trên được xem là thực từ vì nó có chức năng biểu thị những yếu tố

của thế giới bên ngoài được tư duy của con người nhận thức.

-Giới từ: là từ dùng để biểu thị những vai nghĩa trong câu như sở hữu, địa điểm thời gian, mục

đích, nguyên nhân, đối tượng tiếp nhận, phương tiện…như: của, đến, tới, từ, tại, để, vì, cho, bằng,

về, do, bởi. VD: Đây là tiền của tôi, tôi viết thư cho mẹ…

-Liên từ: là từ loại có chức năng nối kết các thành tố có quan hệ không phải chính phụ như: và,

hay, với, hoặc, nhưng, nếu…

Trong tiếng Việt, ranh giới của giới từ và liên từ đôi khi không được rõ nên người ta gộp

chung lại và xem như quan hệ từ hay hư từ.

-Thán từ: là từ biểu thị trực tiếp tình cảm, cảm xúc của người nói. VD: ôi, a, ối…

 Quy tắc cấu tạo ngữ

Ngữ là đơn vị đảm nhiệm một chức năng cú pháp nhất định trong câu.

Căn cứ vào số lượng từ cấu tạo nên ngữ, có thể phân biệt ngữ đơn (chỉ có 1 từ) và ngữ phức

hay còn gọi là ngữ đoạn (gồm nhiều từ). Ví dụ: Tôi đọc sách là một câu do hai ngữ cấu tạo nên. Ngữ

thứ nhất là tôi gồm một từ đóng vai trò chủ ngữ, ngữ thứ hai là đọc sách gồm hai từ đóng vai trò vị

ngữ.

Trong ngữ phức, căn cứ vào quan hệ cú pháp giữa các từ tham gia tổ hợp, có thể phân biệt:

ngữ đẳng lập có hai hay nhiều thành tố trung tâm như: sách và vở, ngữ chính phụ có một trung

thành tố trung tâm như: con mèo đen, đọc sách, và ngữ chủ vị có kết cấu chủ-vị, thường gọi là tiểu

cú như anh mua cho tôi trong câu: Cuốn sách anh mua cho tôi rất hay.

Trong loại ngữ chính phụ, căn cứ vào bản chất ngữ pháp của thành tố trung tâm, có thể phân

biệt ngữ danh từ (cuốn sách của tôi, con mèo đen) và ngữ vị từ bao gồm ngữ động từ và ngữ tính từ

(vẫn đứng yên, đọc sách, rất hay). Các ngữ một trung tâm thường có cấu trúc:

Phần trước (phụ ngữ) + Phần trung tâm + Phần sau (phụ ngữ)

 Quy tắc cấu tạo câu

Con người giao tiếp với nhau bằng câu. Do đó có thể nói: câu là đơn vị lời nói nhỏ nhất được

dùng để giao tiếp [23]. Ví dụ: Em chào thầy ạ!

Trong tiếng Việt, cấu trúc câu được phân tích dựa vào thành phần câu. Có thể xem thành phần

câu gồm hai loại: thành phần của câu và thành phần của ngữ. Trong thành phần của câu có thành

phần chính là chủ ngữ và vị ngữ, thành phần phụ là trạng ngữ (bổ nghĩa cho kết cấu chủ vị). Còn

trong thành phần của ngữ có định ngữ (bổ nghĩa cho trung tâm là danh từ và bổ ngữ (bổ nghĩa cho

trung tâm là động từ, tính từ hay vị từ).Cấu trúc phổ biến của câu là:

Chủ ngữ + động từ + bổ ngữ

-Căn cứ vào cấu trúc ngữ pháp của câu có thể phân biệt:

+Câu đơn và câu ghép

Câu đơn là câu chỉ có một cụm chủ vị nòng cốt (cụm chủ vị không bị bao hàm bởi bất kì một

ngữ đoạn hay một cụm chủ vị nào khác) như: Tôi yêu gia đình tôi hay Tôi đã tốt nghiệp Đại học.

Câu ghép là câu có nhiều (hai hoặc hơn hai) cụm chủ vị nòng cốt. Câu ghép gồm: câu ghép

đẳng lặp như: Đèn phụt tắt, căn phòng tối um, và câu ghép chính phụ như: Vì chân đau nên tôi

không thể đến trường được.

+Câu bình thường và câu đặc biệt

Câu bình thường là câu có đầy đủ hai thành phần trung tâm chủ ngữ và vị ngữ. VD: Hôm nay

trời rất đẹp hoặc câu có thành phần chủ ngữ/ vị ngữ bị tỉnh lược và có thể tái lập nhờ ngữ cảnh như:

(tôi) Đọc sách, (tôi) lạnh quá!

Câu đặc biệt là câu chỉ có một thành phần cú pháp làm trung tâm và không thể xác định được

thành phần nào bị tỉnh lược như: Một chút thẹn thùng. Anh ơi!, Chiến tranh và hoà bình, Một bữa

no.

Đây là sự phân loại có tính chất truyền thống, dựa trên cơ sở kết cấu chủ vị của câu và phổ

biến trong những tài liệu giáo khoa hiện nay.

-Căn cứ vào mục đích giao tiếp của câu có thể phân biệt:

+Câu trần thuật với mục đích: nhận định, miêu tả, kể, giới thiệu…VD: Nam là học sinh lớp 6

+Câu nghi vấn với mục đích hỏi. VD: Cá biển bán ở đâu hả chỉ? Bây giờ mấy giờ rồi?

+Câu cầu khiến với mục đích: ra lệnh, đề nghị, yêu cầu, cấm. VD: Chạy đi! Hãy mang ghế lại

đây!

+Câu cảm thán với mục đích bộc lộ cảm xúc, gọi đáp. VD: Than ôi! Dạ!

Người thông minh ngôn ngữ nắm vững những quy tắc cấu tạo từ, ngữ, câu và phân biệt được các

loại từ, có vốn từ phong phú.

 Ngữ nghĩa

Ngữ nghĩa là nghĩa của ngôn ngữ được tách riêng hay gắn với ngữ cảnh cụ thể. Ngữ nghĩa gồm

ngữ nghĩa từ vựng và ngữ nghĩa câu.

 Nghĩa từ vựng

Nghĩa từ vựng là nghĩa được biểu thị qua nội dung của từ.

-Nét nghĩa: là những đặc trưng nhỏ nhất của một từ, giúp phân biệt từ này với từ kia. VD: Từ

con trai bao gồm những nét nghĩa [+người], [+trẻ tuổi], [+giống đực]. Từ con gái bao gồm những

nét nghĩa [+người], [+trẻ tuổi], [+giốngcái].

-Đa nghĩa là hiện tượng một từ có 2 hay nhiều nghĩa có liên quan với nhau. VD:

Từ độc trong thuốc độc mang nghĩa làm hại sức khỏe hoặc làm chết người, còn từ độc trong kế

độc mang nghĩa hiểm ác, làm hại người. Chúng có liên quan với nhau.

-Đồng âm là hiện tượng một hình thức ngữ âm có 2 hay nhiều nghĩa nhưng các nghĩa này

không có mối liên hệ với nhau. VD: con ngựa đá con ngựa đá.

-Quan hệ ngữ nghĩa giữa các từ

Về bình diện từ vựng có các loại quan hệ ngữ nghĩa sau:

+Đồng nghĩa: là quan hệ giữa các từ ngữ có cùng nghĩa, nhưng có thể khác nhau về sắc thái từ

và/ hay khả năng kết hợp. Chính vì thế gần như không thể có hai từ có khả năng giao hoán hoàn

toàn, nói cách khác, gần như không có hai từ đồng nghĩa hoàn toàn. Ví dụ: cọp và hổ, mẹ và mạ.

+Trái nghĩa: là quan hệ giữa hai từ có một nét nghĩa nào đó đối lập nhau. Có 4 kiểu trái nghĩa

quan trọng.

++Trái nghĩa lưỡng phân là quan hệ giữa những cặp từ ngữ trái nghĩa tạo thành hai cực

mâu thuẫn nhau, phủ định cực này tất phải chấp nhận cực kia. Ví dụ: chẵn - lẻ, sống chết.

++Trái nghĩa nghịch đảo là quan hệ giữa những từ ngữ trái nghĩa tạo thành hai cực giả định

gần nhau. VD: Giáo viên và học sinh là cặp từ trái nghĩa nghịch đảo. Nói: “Cô là giáo viên của em

ấy”, tức là giả định “Em ấy là học sinh của cô” và ngược lại.

++Trái nghĩa phương hướng là quan hệ giữa những từ ngữ chỉ các hướng không gian, thời

gian đối lập nhau. VD: trước – sau, trái – phải, hôm qua- ngày mai…

+Quan hệ bao nghĩa là quan hệ giữa các thượng danh và hạ danh. Nghĩa thượng danh là một

phần của nghĩa hạ danh. VD: Từ di chuyển bao gồm: đi, chạy, bò, trườn…. Trong đó, di chuyển là

thượng danh, đi, chạy, bò, trườn là hạ danh.

+Quan hệ giao nghĩa: là quan hệ giữa hai từ có chung một số nét nghĩa, nhưng từ này không là

một bộ phận của từ kia. VD: dì, cô, mẹ, thím là những từ có quan hệ giao nghĩa vì có chung các nét

nghĩa [+người], [+nữ], [+thân tộc].

-Biện pháp tu từ

+So sánh: là đối chiếu sự vật, sự việc này với sự vật, sự việc khác có nét tương đồng để làm

tăng sức gợi hình, gợi cảm cho sự diễn đạt.

+Ẩn dụ: là gọi tên đối tượng này bằng tên đối tượng khác có nét tương đồng với nó nhằm tăng

sức gợi hình, gợi cảm cho sự diễn đạt [23, tr.131]

Cả hai biện pháp trên đều dựa trên sự giống nhau của đối tượng, nhưng ở so sánh ta đặt cả hai đối

tượng ra để đối chiếu, còn ở ẩn dụ ta dùng ngay tên đối tượng dùng để so sánh mà gọi tên đối tượng

được so sánh và tên thật của đối tượng được so sánh thì ẩn đi.

VD: Hai đứa trẻ giống như hai cái nấm (so sánh)

Hai cái nấm ngước lên nhìn bản thông báo. (ẩn dụ)

+Hoán dụ: là gọi tên đối tượng này bằng tên đối tượng khác có quan hệ gần gũi với nó nhằm

tăng sức gợi hình, gợi cảm cho sự diễn đạt [23, tr.131]

VD: Bàn tay ta làm nên tất cả. Bàn tay ở đây chính là con người.

+Nhân hóa: là loại ẩn dụ đặc biệt trong đó những đặc tính của người được gán cho những vật

thể không phải con người. VD: đất khát, lão Tai, bác Miệng, cô Mắt…

+Nói quá: là cách nói khoa trương, phóng đại mức độ của sự tình để nhấn mạnh, tăng sức biểu

cảm. VD: tuyệt thế giai nhân, thiên đường trần gian…

+Nói giảm: là cách nói giảm bớt mức độ của sự tình được đề cập để phù hợp với tình huống.

VD: chưa hay lắm (dở lắm), xin đừng hút thuốc (cấm hút thuốc), chẳng còn (chết)…

+Nói tránh: là biện pháp thay những từ xấu nghĩa bằng những từ đẹp, thanh nhã. VD: khiếm

thính (bị điếc), nước đang phát triển hay kém phát triển (nước nghèo)…

 Ngữ nghĩa của câu

Ngữ nghĩa câu là nghĩa được biểu thị qua nội dung của câu.

-Quan hệ nghĩa giữa các câu

+Phỏng nghĩa

Hai câu có quan hệ phỏng nghĩa khi có cùng nghĩa.

VD: (a) Ông là thầy giáo của chị và (b) Chị là học trò của ông

+Mâu thuẫn

Hai câu có quan hệ mâu thuẫn khi câu này đúng thì câu kia sai và ngược lại.

VD: (a) Anh ta thức và (b) Anh ta ngủ.

+Tương phản trên

Hai câu có tương phản trên khi không thể cùng đúng nhưng có thể cùng cai

VD: (a) Nghe những câu đùa tếu, bao giờ cô cũng hé môi cười

(b): Nghe những câu đùa tếu, không bao giờ cô hé môi cười

(c ) Nghe những câu đùa tếu, thỉnh thoảng cô hé môi cười.

Câu ( a) và (b) không bao giờ cùng đúng nhưng cả hai có thể cùng sai vì có thể xảy ra tình hình như

câu (c).

+Tương phản dưới

Hai câu có quan hệ tương phản dưới khi không thể cùng sai nhưng có thể cùng đúng

VD: (a) một số người thức và (b) một số người ngủ

+Kéo theo

Hai câu kéo theo khi câu này đúng thì câu kia đúng

VD: (a) tôi mới mua một con chó Nhật và (b) tôi mới mua một con chó

Trong rất nhiều trường hợp, quan hệ ngữ nghĩa của câu là hệ quả của quan hệ ngữ nghĩa giữa các từ.

-Biện pháp tu từ của câu

+Lựa chọn trật tự từ ngữ trong câu

Là biện pháp thay đổi trật tự từ ngữ để nhấn mạnh một nét miêu tả, một chi tiết sự tình hoặc để

tạo nhạc tính cho câu.

VD: Lom khom dưới núi tiều vài chú.

+Điệp ngữ: là biện pháp lặp từ nhằm tăng hiệu quả biểu đạt của câu

VD: Trời xanh đây là của chúng ta/ Núi rừng đây là của chúng ta.

Người thông minh ngôn ngữ có thể hiểu và phân biệt được nghĩa của từ, các tầng lớp nghĩa của

câu, các biện pháp tu từ. [1], [2], [22], [23], [49]

 Ngữ dụng

Ngữ dụng hay còn gọi là ngữ nghĩa dụng pháp là cách sử dụng ngôn ngữ trong ngữ cảnh. Ngữ

dụng thể hiện khả năng đạt được mục đích của một người thông qua phương tiện ngôn ngữ. Đây là

một khía cạnh quan trọng của trí thông minh ngôn ngữ.

Ngữ dụng bao gồm những vấn đề cơ bản sau:

-Tiền giả định: là những gì người nói hay người viết cho rằng người nhận thông tin đã biết và

không trình bày qua giao tiếp. Tuy nhiên, người nhận thông tin, với khả năng ngôn ngữ của mình sẽ

hiểu được.

Những tiền giả định có thể được sử dụng để giao tiếp thông tin một cách gián tiếp. VD: Một

người nói: “Tôi đã ngưng hút thuốc” nghĩa là chúng ta phải hiểu: trước đây anh ta đã từng hút thuốc.

Đó là tiền giả định được suy diễn từ câu nói của anh ta và không được tuyên bố trực tiếp. Nhiều

thông tin được truyền đạt trong giao tiếp hay diễn thuyết thuộc loại này.

-Hàm ngôn trong giao tiếp: là cầu nối giữa những gì người phát ngôn muốn nói và những gì họ

thể hiện. Không giống như tiền giả định, hàm ngôn là những suy diễn được người nhận thông tin rút

ra từ ngữ cảnh của phát ngôn, nghĩa là chúng không thể được tạo nên trong những phát ngôn biệt

lập mà trong cuộc đối thoại giữa người nói và người nghe. Hàm ngôn trong giao tiếp có thể bị phủ

nhận bởi vì chúng là một phần những gì được giao tiếp nhưng không được nói trực tiếp, người nói

có thể cho rằng anh ta không có ý định truyền đạt nghĩa như thế.

Nhà ngôn ngữ học Grice cho rằng việc sử dụng ngôn ngữ hiệu quả đòi hỏi phải thực hiện theo

4 phương châm:

1-Chất lượng: phải nói sự thật, không nói sai, không nói những gì thiếu chứng cứ.

2-Số lượng: không cung cấp thêm những thông tin không cần thiết, phải phục vụ cho mục đích

giao tiếp hiện thời.

3-Sự liên quan: nói những gì có liên quan đến nội dung giao tiếp.

4-Cách thức: tránh nói không rõ, tránh nói đa nghĩa, nói ngắn gọn, theo thứ tự.

Nếu nội dung giao tiếp vi phạm 1 trong 4 phương châm trên thì chúng được xem là hàm ngôn.

VD: A: Tuấn đã kết hôn chưa?

B: Anh ta đã đeo nhẫn.

B ám chỉ Tuấn đã kết hôn nhưng không nói rõ ràng. B đã vi phạm phương châm 3 vì nói những

điều không có liên quan đến nội dung A đã hỏi. Do vậy, lời nói của B chính là một hàm ngôn trong

giao tiếp.

-Hàm ngôn ước định

Không giống như hàm ngôn đối thoại, hàm ngôn ước định không cần xảy ra trong ngữ cảnh,

không phụ thuộc vào ngữ cảnh để giải thích. Chúng được tạo nên nhờ sử dụng những từ đặc biệt

như: và, nhưng, thậm chí, chưa.

VD: Lan đề nghị màu đen nhưng tôi chọn màu trắng. Không cần đặt phát ngôn này trong ngữ cảnh

giao tiếp, chỉ cần từ nhưng, chúng ta vẫn hiểu được tôi đã chọn màu trái với lời đề nghị của Lan.

-Phân biệt giữa tiền giả định và hàm ngôn

Tiền giả định là bất cứ điều gì người nói cho là sự thật trước khi tạo một phát ngôn. Trong khi

đó, hàm ngôn là một sự suy diễn hay một nghĩa được người nhận thông tin thêm vào nhưng không

được xác nhận.

Người thông minh ngôn ngữ có thể hiểu được những giả định, những ẩn ý của người giao tiếp

với mình và có thể tạo ra những ám chỉ trong ngôn ngữ của mình để đạt được mục đích trong giao

tiếp.

-Hành động ngôn từ

Hành động ngôn từ là một phát ngôn thể hiện mục đích giao tiếp của người nói.

Theo Searl, có 6 loại hành động nói chủ yếu:

+Hành động mô tả một sự tình. VD: tuyên bố, xác nhận, yêu cầu, mô tả, tiên đoán, tường

thuật…

+Hành động cam kết của người nói. VD: hứa, thề, đe dọa, đề nghị giúp ai đó…

+Hành động tuyên bố thay đổi sự tình. VD: kết tội, đặt tên, thông báo…

Loại hành động ngôn từ này khá đặc biệt vì nó chỉ có giá trị khi người nói có quyền lực

thích hợp để thực hiện.

+Hành động cầu khiến yêu cầu người nghe thực hiện hành động. VD: ra lệnh, van xin, cảnh

báo, thử thách, mời, đề nghị, xin lời khuyên.

+Hành động biểu cảm: chỉ trạng thái hay cảm xúc của người nói về một điều gì đó. VD:

chào mừng, xin lỗi, phàn nàn, cảm ơn…

+Hành động hỏi để xin thông tin. Đây là loại cầu khiến đặc biệt liên quan đến những đề

nghị về thông tin và là hình thức kinh điển của câu hỏi.

Trong giao tiếp, không phải lúc nào mục đích giao tiếp của người phát ngôn cũng phù hợp với

hình thức của câu phát ngôn. VD: A muốn khuyên B đi khám bệnh nhưng A không dùng câu cầu

khiến mà dùng câu hỏi: “Sao bạn không đi bác sĩ?”. Tuy được thể hiện bằng một hình thức khác

nhưng người nghe vẫn hiểu được ý của B.

Tình huống giao tiếp ngôn ngữ rất đa dạng và phong phú. Người thông minh ngôn ngữ không

chỉ có thể hiểu được những tiền giả định, những hàm ngôn và cả mục đích phát ngôn của người nói

hay viết để có cách ứng xử thích hợp mà còn biết sử dụng những hình thức này để đạt được mục

tiêu giao tiếp của mình. Ngược lại, nếu có một trình độ thấp về ngữ dụng, người sử dụng ngôn ngữ

không thể đạt được những mục tiêu của họ thông qua việc giao tiếp bằng lời nói hay bằng hình thức

viết. [22], [49], [51], [53]

CHƯƠNG 2

KHẢO SÁT MỨC ĐỘ PHÁT TRIỂN TRÍ TUỆ NGÔN

NGỮ CỦA HỌC SINH KHỐI 6 TẠI QUẬN 5, THÀNH

PHỐ HỒ CHÍ MINH

2.1. Mẫu nghiên cứu

Quá trình khảo sát mức độ phát triển trí tuệ ngôn ngữ của học sinh khối 6 gồm giai đoạn thử

nghiệm và giai đoạn khảo sát chính thức.

Ở giai đoạn thử nghiệm, mẫu được chọn gồm 49 HS của 2 lớp bán trú trường Trung học cơ sở

Ba Đình, quận 5, thành phố Hồ Chí Minh.

Ở giai đoạn khảo sát chính thức, mẫu được chọn gồm 217 HS của 2 trường: Trung học cơ sở

Thực hành Sài Gòn và Trung học cơ sở Kim Đồng thuộc quận 5, thành phố Hồ Chí Minh.

Sự phân bố mẫu khảo sát được thể hiện như sau:

* Phân bố mẫu thử nghiệm:

-Lớp 6/4: 32 HS

-Lớp 6/5: 17 HS

* Phân bố mẫu chính thức theo trường và giới tính:

-Trường THSG: 137 HS (Nam: 50 – Nữ: 87)

-Trường Kim Đồng: 80 HS (Nam: 44 – Nữ: 36)

*Lưu ý: Việc chọn trường và lớp để khảo sát là ngẫu nhiên do sự sắp xếp của Phòng giáo dục

quận 5 và Ban giám hiệu của các trường.

2.2. Quy trình khảo sát

 Xây dựng các bài tập trắc nghiệm

 Nội dung bài tập trắc nghiệm

Đề tài gồm 2 loại công cụ nghiên cứu:

-Thứ nhất là trắc nghiệm ngôn ngữ (TNNN) dùng để đo lường trí tuệ ngôn ngữ của học

HS khối 6, quận 5, thành phố Hồ Chí Minh. Trắc nghiệm này được người nghiên cứu tập hợp từ

những câu trắc nghiệm về ngôn ngữ trong các bài trắc nghiệm trí tuệ đã được sử dụng. Cụ thể là:

1. Trắc nghiệm trong đề tài “Cải biên và định chuẩn trắc nghiệm ngôn ngữ của Hans

Eysenck dùng đo trí thông minh cho trẻ em từ 10 đến 15 tuổi tại thành phố Hồ Chí Minh” [27]

2. Trắc nghiệm năng lực trí tuệ của William Bernard và Jules Leopold [30]

3. Trắc nghiệm trong đề tài “Khảo sát năng lực trí tuệ của học sinh lớp 5 tại thị xã Đồng

Xoài – tỉnh Bình Phước, năm học 2005 - 2006” [15]

Bài trắc nghiệm có 59 câu, được chia thành 6 nhóm:

Nhóm 1: Nhận biết từ và chữ cái

Nhóm 2: Hiểu ý nghĩa của câu, thành ngữ, tục ngữ

Nhóm 3: Tìm từ và chữ cái khác nhóm

Nhóm 4: Hiểu trật tự từ trong câu

Nhóm 5: Ghép theo phạm trù

Nhóm 6: Tìm từ cùng nghĩa

Sau khi tiến hành thử nghiệm để xác định độ tin cậy của bài TN, độ khó, độ phân cách của

từng câu TN trên 2 lớp 6/4 và 6/5 của trường Ba Đình, người nghiên cứu đã chọn được 40 câu đưa

vào bài trắc nghiệm chính thức. Bài trắc nghiệm này chia làm 6 nhóm. Cụ thể là:

 Nhóm 1: Tìm chữ cái thích hợp (từ câu 1 đến câu 4). Học sinh phải xác định được vị trí của

chữ cái dựa vào quy luật đã có hoặc tìm chữ cái không cùng quy luật. Nhóm này liên quan đến kiến

thức ngữ âm, nhằm đo lường khả năng nhớ các đơn vị ngữ âm, khả năng khái quát hóa vị trí của

chúng thành quy luật.

 Nhóm 2: Hiểu ý nghĩa của câu, thành ngữ, tục ngữ (câu 5 đến câu 8). Học sinh phải chỉ ra 2

câu có nghĩa gần nhau trong số những câu đã cho hoặc chọn câu có nghĩa hợp lý với tình huống đã

cho. Nhóm này đo lường khả năng thông hiểu ngôn ngữ ở các tầng lớp nghĩa (nghĩa đen và nghĩa

bóng), mối liên hệ lô – gích của các câu với nhau, khả năng trừu tượng hóa.

 Nhóm 3: Tìm từ khác nhóm (câu 9 đến câu 14). Cho một nhóm từ, học sinh phải chỉ ra 1 từ

không cùng nhóm. Nhóm này liên quan đến khả năng hiểu, so sánh, phân biệt các khái niệm thông

dụng.

 Nhóm 4: Xác định trật tự từ trong câu (câu 15 đến 19). Học sinh phải nhận biết trật tự từ

trong câu, sắp xếp các từ thành một câu hoàn chỉnh và xác định được nghĩa của câu là đúng hay sai.

Loại câu TN này liên quan đến sự thông thạo ngữ pháp và khả năng hiểu ý tưởng của học sinh.

 Nhóm 5: Ghép theo phạm trù (câu 20 đến 30). Với 1 từ hay một cụm từ cho sẵn, học sinh

phải ghép với 1 từ hay 1 cụm từ khác để trở thành 1 từ hay một cụm từ có nghĩa. Nhóm này nhằm

kiểm tra vốn kiến thức từ vựng của học sinh, trí nhớ từ và sự linh hoạt trong sử dụng từ ngữ.

 Nhóm 6: Tìm từ cùng nghĩa và trái nghĩa (câu 31 đến 40). Học sinh phải tìm từ cùng nghĩa

hoặc trái nghĩa với từ cho sẵn. Các câu ở nhóm này đòi hỏi học sinh phải hiểu nghĩa và so sánh

nghĩa từ.

-Thứ hai là trắc nghiệm trí tuệ ngôn ngữ (TNTTNN) dùng để đo lường trí tuệ ngôn ngữ

của HS khối 6, quận 5, thành phố Hồ Chí Minh. Trắc nghiệm này người nghiên cứu tự xây dựng,

gồm 112 câu được chia làm 3 phần: ngữ âm, ngữ pháp và ngữ nghĩa với 12 nhóm.

Ngữ âm

Nhóm 1: Xác định hình thức ngữ âm

Ngữ pháp

Nhóm 2: Xác định các kiểu từ

Nhóm 3: Điền từ để tạo thành từ láy tư

Nhóm 4: Xác định các thành phần của câu

Nhóm 5: Sắp xếp tiếng để tạo thành câu và cụm từ có nghĩa

Nhóm 6: Đặt dấu câu đúng vào ngoặc đơn

Ngữ nghĩa

Nhóm 7: Giải thích nghĩa của từ

Nhóm 8: Tìm từ đồng nghĩa và trái nghĩa

Nhóm 9: Điền từ vào chỗ trống

Nhóm 10: Tìm từ khác nhóm

Nhóm 11: Hiểu ý nghĩa thành ngữ

Nhóm 12: Xác định biện pháp tu từ

Sau khi thử nghiệm, người nghiên cứu chọn ra 64 câu với 8 nhóm.

Ngữ âm

 Nhóm 1: Xác định hình thức ngữ âm (câu 1 đến câu 7)

Trong số 4 từ cho sẵn, học sinh phải tìm 1 từ viết đúng hoặc sai chính tả. Những câu trắc

nghiệm này sẽ đo lường khả năng nhận thức, phân biệt cách viết và phát âm của những đơn vị ngữ

âm khi được kết hợp thành từ.

Ngữ pháp

 Nhóm 2: Xác định các kiểu từ (câu 8 đến câu 15)

Cụ thể là học sinh phải nhận biết được từ nào là từ láy, từ ghép, từ Hán Việt trong số 4 từ đã

cho. Thêm vào đó, học sinh phải điền từ thích hợp để tạo thành từ láy tư có nghĩa. Nhóm câu này

nhằm đo lường vốn từ vựng, dự đoán từ, trí nhớ từ của học sinh.

 Nhóm 3: Xác định các thành phần của câu (câu 16 đến câu 24)

Nhóm này yêu cầu học sinh phải xác định các thành phần trong câu, hoàn chỉnh câu sao cho

đúng ngữ pháp, nhận biết được câu thiếu những thành phần nào. Ngoài ra, học sinh phải kết hợp các

tiếng rời rạc để tạo thành câu hoặc cụm từ có nghĩa và đúng ngữ pháp. Các câu trắc nghiệm này đo

lường khả năng nhận biết các thành phần câu, sử dụng từ để đặt câu, khả năng liên kết các từ và sự

thông thạo ngữ pháp của học sinh.

 Nhóm 4: Đặt dấu câu đúng vào ngoặc đơn (câu 25 đến 32)

Trong nhóm này, các câu được cho sẵn cùng với dấu ngoặc đơn ở vị trí cần đặt dấu câu. Học

sinh sẽ xác định câu đã cho thuộc loại câu gì để đặt dấu câu thích hợp vào ngoặc đơn. Yêu cầu này

sẽ giúp kiểm tra khả năng hiểu sắc thái của câu cũng như khả năng phân biệt các loại câu.

Ngữ nghĩa

 Nhóm 5: Hiểu nghĩa của từ (câu 33 đến câu 38)

Nhóm này yêu cầu học sinh giải thích nghĩa của 1 từ có trong một câu cho sẵn bằng cách chọn

1 trong 4 lựa chọn mà học sinh cho là đúng nhất. Học sinh phải tìm từ trái nghĩa với từ đã cho trong

4 lựa chọn có sẵn. Những câu trắc nghiệm này đo lường khả năng hiểu, so sánh, phân biệt nghĩa của

từ trong ngữ cảnh cũng như kiểm tra vốn từ của học sinh.

 Nhóm 6: Hiểu nghĩa của câu (câu 39 đến 47)

Học sinh phải chỉ ra 2 câu gần nghĩa nhau trong số 4 câu cho sẵn. Thêm vào đó, học sinh phải

tìm thành ngữ có ý nghĩa đúng với yêu cầu đã cho. Ngoài ra, nhóm này đòi hỏi học sinh phải chọn 1

trong 4 lựa chọn để làm đúng câu thành ngữ. Yêu cầu này nhằm kiểm tra khả năng hiểu từng lớp

nghĩa (nghĩa đen và nghĩa bóng) của các câu thành ngữ cũng như so sánh ý nghĩa đó với nhau.

 Nhóm 7: Tìm từ khác nhóm (câu 48 đến 53)

Học sinh phải chọn 1 từ khác nhóm với 3 từ còn lại trong 4 lựa chọn cho sẵn. Yêu cầu này đòi

hỏi học sinh phải hiểu nghĩa từng từ, khái quát dấu hiệu chung của các từ, so sánh để phân biệt được

sự khác nhau của các từ.

 Nhóm 8: Xác định biện pháp tu từ (câu 54 đến 64)

Câu trắc nghiệm là những câu có chứa biện pháp tu từ. Học sinh phải nhận biết biện pháp tu từ

nào được sử dụng trong từng câu. Nhóm câu này đo lường khả năng so sánh và phân loại các biện

pháp tu từ.

 Cách đánh giá: mỗi câu đúng được 1 điểm.

 Cách xếp loại:

Việc xếp loại trí tuệ ngôn ngữ dựa trên lý thuyết phân bố chuẩn và quy ước về điểm IQ.

Cụ thể như sau:

Bảng 2.1: Phân loại điểm IQ

IQ >145 130-145 115-130 85-115 70-85 55-70 <55 Loại trí tuệ (mức độ) Thiên tài Xuất sắc Thông minh Trung bình Yếu Kém Rất kém

Phân bố chuẩn cho rằng đa phần cá thể trên hành tinh này có điểm IQ từ 85-115 và có mức trí

tuệ trung bình. Theo phân bố chuẩn, điểm trung bình cộng của IQ là 100, độ lệch chuẩn là 15. [43]

 Khảo sát thử nghiệm (từ ngày 17/4/2010 đến ngày 24/4/2010)

Cả 2 bài trắc nghiệm được khảo sát trên 2 lớp bán trú của trường Trung học cơ sở Ba Đình,

quận 5, TP.HCM với cách thực hiện như đã nêu trên. Sau đó, chúng tôi tiến hành xử lý số liệu để

tính hệ số tin cậy của bài trắc nghiệm và độ khó, độ phân cách của từng câu trắc nghiệm để chọn ra

những câu trắc nghiệm phù hợp đưa vào bài trắc nghiệm chính thức.

 Khảo sát chính thức (từ ngày 10/5/2010 đến ngày 17/5/2010)

Để đảm bảo thu được số liệu khách quan, chúng tôi phải nhờ các trường Trung học cơ sở giúp

đỡ để có lịch thu số liệu và địa điểm làm bài tập trắc nghiệm trong suốt thời gian thu số liệu. Sự

phân bố 217 khách thể được khảo sát chính thức đã trình bày ở phần 2.1.

 Xử lý số liệu

Dùng chương trình xử lý số liệu SPSS (Statistical Package for Social Sciences) trong môi

trường Windows, phiên bản 11.5 để xử lý số liệu thu được. Các số liệu được xử lý theo phương

pháp thống kê ứng dụng trong tâm lý học và giáo dục học.

Chúng tôi sử dụng các chỉ số thống kê mô tả sau:

-Trung bình cộng (arithmetic mean): là phép đo dùng để đánh giá trọng tâm của phân bố điểm.

Trong đề tài, chúng tôi tính điểm trung bình cộng của bài trắc nghiệm, nhóm bài tập trắc nghiệm và

IQ.

-Độ lệch chuẩn (standardizied deviation): là phép đo đánh giá độ phân tán hay thay đổi một

phân bố điểm xung quanh giá trị trung bình.

-Công thức Kuder Richardson: để tính độ tin cậy của bài tập trắc nghiệm.

-Tương quan Pearson giữa câu hỏi và tổng điểm: để tính độ phân cách của câu TN.

-Hồi quy tuyến tính: để viết phương trình hồi quy giữa 2 biến trí tuệ ngôn ngữ của 2 bài TNNN

và TNTTNN.

-Tỷ lệ %: để tính phần trăm số câu TN ở từng mức khó và mức phân cách, phần trăm số HS ở

từng mức trí tuệ.

- Điểm IQ với công thức:

IQ = (X - X)/s * 15 +100

trong đó: X là điểm thô, X là điểm trung bình cộng, s là độ lệch chuẩn của mẫu. Điểm IQ là cơ

sở phân loại mức độ trí tuệ ngôn ngữ của HS.

Chúng tôi sử dụng các chỉ số thống kê suy diễn sau:

-Kiểm nghiệm T (T-test): để so sánh 2 giá trị trung bình của 2 mẫu độc lập.

-Kiểm nghiệm K-S (Kolmogorov – Smirnov): để kiểm định tính chuẩn của phân bố điểm số.

 Phân tích và nhận xét kết quả khảo sát.

2.3. Kết quả khảo sát mức độ phát triển trí tuệ ngôn ngữ của học sinh khối 6

2.3.1. Kết quả khảo sát mức độ phát triển trí tuệ ngôn ngữ của học sinh khối 6 trên bài trắc nghiệm

ngôn ngữ

2.3.1.1. Kết quả về bài TNNN

Bảng 2.2: Độ tin cậy và độ khó của toàn bài TNNN

Trị số quan sát Trị số lý thuyết

-Số câu trắc nghiệm 40

-Số người làm trắc nghiệm 217

-Hệ số tin cậy (α) 0,73

-Điểm trung bình 27,82 -Điểm trung bình lý tưởng 26,03

-Điểm thấp nhất 10

-Điểm cao nhất 37

-Độ lệch tiêu chuẩn 4,73

-Bài trắc nghiệm ngôn ngữ gồm 40 câu, được khảo sát trên 217 khách thể. Sau khi tính hệ số

tin cậy của bài trắc nghiệm bằng công thức Kuder Richardson, ta thu được kết quả: α = 0,73. Như

vậy, có thể nói: bài trắc nghiệm ngôn ngữ có độ tin cậy khá cao và tính vững chãi của điểm số qua

các trường là tốt.

-Điểm trung bình của bài là 27,82. Điểm trung bình lý tưởng hay còn gọi là độ khó vừa phải

của bài trắc nghiệm là 26,03. Các trị số này gần bằng nhau nên ta có thể nói bài TNNN vừa sức với

học sinh khối 6, quận 5, thành phố Hồ Chí Minh.

2.3.1.2. Kết quả về câu trắc nghiệm của bài TNNN

 Phân tích câu trắc nghiệm theo độ khó

Theo lý thuyết thống kê, câu trắc nghiệm có độ khó xấp xỉ độ khó vừa phải thì câu trắc nghiệm

ấy vừa sức đối với học sinh. Nếu độ khó của câu trắc nghiệm < độ khó vừa phải thì câu trắc nghiệm

ấy khó hơn so với trình độ học sinh. Ngược lại, nếu độ khó câu trắc nghiệm > độ khó vừa phải thì ta

kết luận câu trắc nghiệm ấy dễ hơn so với trình độ học sinh. Do vậy, ta quy ước mức độ khó như

sau:

-Đối với câu 2 lựa chọn, điền khuyết hay trả lời ngắn, độ khó vừa phải là 0,75 (75%).

+Nếu độ khó của câu trắc nghiệm có trị số từ 0,65 (65 %) – 0,85 (85%) thì câu trắc nghiệm

ấy có độ khó vừa phải.

+ Nếu độ khó của câu trắc nghiệm có trị số > 0,85 (85%) thì câu trắc nghiệm ấy dễ hơn so

với trình độ học sinh.

+ Nếu độ khó của câu trắc nghiệm có trị số < 0,65 (65%) thì câu trắc nghiệm ấy khó hơn so

với trình độ học sinh.

-Đối với câu có 4 lựa chọn, độ khó vừa phải là: 0,62 (62 %). Do vậy:

+Nếu độ khó của câu có trị số từ: 0,52 (52 %) – 0,72 (72 %), câu ấy là câu vừa sức học

sinh.

+Nếu độ khó của câu > 0,72 (72 %), câu ấy là câu dễ.

+Nếu độ khó của câu < 0,52 (52 %), câu ấy là câu khó.

-Đối với câu 5 lựa chọn, độ khó vừa phải là: 0,60 (60%)

+ Nếu độ khó của câu có trị số từ 0,50 (50%) – 0,70 (70%), câu ấy là câu vừa sức học sinh.

+ Nếu độ khó của câu > 0,70 (70%), câu ấy là câu dễ.

+ Nếu độ khó của câu < 0,50 (50%), câu ấy là câu khó.

-Đối với câu 6 lựa chọn, độ khó vừa phải là: 0,58 (58%)

+Nếu độ khó của câu trắc nghiệm có trị số từ 0,48 (48 %) – 0,68 (68 %) thì câu trắc nghiệm

ấy có độ khó vừa phải.

+ Nếu độ khó của câu trắc nghiệm có trị số > 0,68 (68 %) thì câu trắc nghiệm ấy dễ hơn so

với trình độ học sinh.

+ Nếu độ khó của câu trắc nghiệm có trị số < 0,48 (48 %) thì câu trắc nghiệm ấy khó hơn

so với trình độ học sinh.

Bảng 2.3: Độ khó từng câu trắc nghiệm trong bài TNNN

Câu Nội dung Câu Nội dung

Độ khó Độ khó Mức độ khó

Khó

Ghép theo phạm trù Ghép theo phạm trù Tìm từ cùng nghĩa Tìm từ cùng nghĩa Tìm từ phản nghĩa Tìm từ cùng nghĩa 3 4 6 7 13 15 25 Tìm chữ cái kế tiếp Tìm chữ cái thích hợp Tìm nghĩa của câu Tìm nghĩa của câu Tìm từ khác loại Xếp tiếng thành câu Ghép theo phạm trù 0,62 0,32 0,54 0,53 0,46 0,59 0,47 28 30 32 33 34 39 0,45 0,34 0,46 0,41 0,23 0,13

Tổng cộng 13 câu, chiếm tỷ lệ 32,50%

Vừa

16 17 18 19 Xếp tiếng thành câu Xếp tiếng thành câu Xếp tiếng thành câu Xếp tiếng thành câu 0,75 0,82 0,71 0,67 26 29 31 37 40 Ghép theo phạm trù Ghép theo phạm trù Tìm từ cùng nghĩa Tìm từ cùng nghĩa Tìm từ cùng nghĩa 0,60 0,61 0,57 0,53 0,59

Tổng cộng 9 câu, chiếm tỷ lệ 22,50%

Dễ

0,90 0,95 0,96 0,92 0,81 Ghép theo phạm trù Ghép theo phạm trù Ghép theo phạm trù Ghép theo phạm trù Ghép theo phạm trù 20 21 22 23 24 0,94 0,93 0,73 0,91 0,95 Tìm chữ cái kế tiếp Tìm chữ cái khác loại Tìm 2 câu gần nghĩa Tìm nghĩa của câu Tìm từ khác loại 1 2 5 8 9

0,95 0,96 0,97 0,82 Ghép theo phạm trù Tìm từ cùng nghĩa Tìm từ cùng nghĩa Tìm từ cùng nghĩa 27 35 36 38 0,73 0,90 0,83 0,96 Tìm từ khác loại Tìm từ khác loại Tìm từ khác loại Tìm từ khác loại 10 11 12 14

Tổng cộng 18 câu, chiếm tỷ lệ 45%

Theo bảng số liệu 2.3, ta thấy bài trắc nghiệm ngôn ngữ có:

-13 câu khó, chiếm tỷ lệ 32,50%

- 9 câu vừa sức học sinh, chiếm tỷ lệ 22,50%

- 18 câu dễ, chiếm tỷ lệ 45%

Như vậy, số câu dễ và câu khó trong bài chiếm tỷ lệ cao hơn so với câu vừa sức.

Các câu khó được phân bố đều ở tất cả các nhóm khả năng, từ nhóm 1 đến nhóm 6. Cụ thể là:

- Tìm chữ cái thích hợp (nhóm 1) gồm: câu 3 và câu 4.

- Hiểu ý nghĩa của câu, thành ngữ, tục ngữ (nhóm 2) gồm: câu 6 và câu 7.

- Tìm từ khác nhóm (nhóm 3) gồm: câu 13.

- Xác định trật tự từ trong câu (nhóm 4) gồm: câu 15.

- Ghép theo phạm trù (nhóm 5) gồm: câu 15, câu 18 và câu 30.

- Tìm từ cùng nghĩa và trái nghĩa (nhóm 6) gồm: câu 32, câu 33, câu 34 và câu 39.

Trong các nhóm khả năng trên, nhóm 6 có số lượng câu khó nhiều nhất, chiếm tỷ lệ 30,77%

tổng số câu khó. Điều đáng chú ý là bài trắc nghiệm có những câu có độ khó rất thấp so với độ khó

vừa phải. Ví dụ: câu 4 có chỉ số khó là 0,32, câu 30 có chỉ số khó 0,34, câu 33 có chỉ số khó 0,41,

câu 34 có chỉ số khó 0,23, câu 39 có chỉ số khó là 0,13. Điều đó chứng tỏ những câu này rất khó so

với trình độ học sinh.

Các câu trắc nghiệm vừa phải được phân bố ở các nhóm khả năng:

- Nhóm 4 gồm: câu 16, câu 17, câu 18, câu 19.

- Nhóm 5 gồm: câu 26 và câu 29.

- Nhóm 6 gồm: câu 31, câu 37 và câu 40.

Trong đó, nhóm 4 chiếm số lượng nhiều nhất trong tổng số các câu có độ khó vừa phải.

Các câu trắc nghiệm dễ đối với học sinh tập trung ở các nhóm khả năng sau:

- Nhóm 1 gồm: câu 1 và câu 2.

- Nhóm 2 gồm: câu 5 và câu 8.

- Nhóm 3 gồm: câu 9, câu 10, câu 11, câu 12 và câu 14.

- Nhóm 5 gồm: câu 20, câu 21, câu 22, câu 23, câu 24 và câu 27.

- Nhóm 6 gồm: câu 35, câu 36 và câu 38.

Như vậy, nhóm 3 và nhóm 5 là hai nhóm có số lượng các câu dễ nhiều nhất. Nhóm khả năng

có số lượng câu dễ ít nhất là nhóm 1 và 2.

 Phân tích câu trắc nghiệm theo độ phân cách

Trong đề tài này, chúng tôi sử dụng phương pháp tính tương quan pearson (r) giữa tổng điểm

câu trắc nghiệm và tổng điểm trắc nghiệm toàn bài để xác định độ phân cách của từng câu trắc

nghiệm. Theo lý thuyết thống kê:

-Nếu trị số tương quan r <= 0,19 thì câu trắc nghiệm có độ phân cách yếu

-Nếu 0,20 <= r <= 0,29 thì câu trắc nghiệm có độ phân cách tạm được

-Nếu 0,30 <= r <= 0,39 thì câu trắc nghiệm có độ phân cách tốt

- Nếu r >= 0,40 thì câu trắc nghiệm có độ phân cách rất tốt.

Bảng 2.4 : Độ phân cách của từng câu trắc nghiệm trong bài TNNN

Câu Nội dung Câu Nội dung

Mức phân cách Rất tốt

28 31 33 Ghép theo phạm trù Tìm từ cùng nghĩa Tìm từ cùng nghĩa Độ phân cách 0,63 0,40 0,47 5 13 15 17 Tìm 2 câu gần nghĩa Tìm từ khác loại Xếp tiếng thành câu Xếp tiếng thành câu Độ phân cách 0,43 0,40 0,54 0,43

Tổng cộng 7 câu, chiếm tỷ lệ 17,50%

Tốt

19 27 37 38 0,36 0,34 0,33 0,30 1 3 7 8 18 Tìm chữ cái kế tiếp Tìm chữ cái kế tiếp Tìm nghĩa của câu Tìm nghĩa của câu Xếp tiếng thành câu 0,32 0,31 0,35 0,31 0,38 Xếp tiếng thành câu Ghép theo phạm trù Tìm từ cùng nghĩa Tìm từ cùng nghĩa

Tổng cộng 9 câu, chiếm tỷ lệ 22,50%

Tạm được

2 4 6 10 12 14 16 20 21 0,23 0,24 0,20 0,21 0,21 0,24 0,23 0,25 0,29 Tìm chữ cái khác loại Tìm chữ cái thích hợp Tìm nghĩa của câu Tìm từ khác loại Tìm từ khác loại Tìm từ khác loại Xếp tiếng thành câu Ghép theo phạm trù Ghép theo phạm trù 0,28 0,29 0,29 0,22 0,24 0,26 0,27 0,29 0,29 22 26 29 30 32 34 35 36 40 Ghép theo phạm trù Ghép theo phạm trù Ghép theo phạm trù Ghép theo phạm trù Tìm từ cùng nghĩa Tìm từ phản nghĩa Tìm từ cùng nghĩa Tìm từ cùng nghĩa Tìm từ cùng nghĩa

Tổng cộng 18 câu, chiếm tỷ lệ 45%

Yếu

9 11 23 Tìm từ khác loại Tìm từ khác loại Ghép theo phạm trù 0,18 0,18 0,16 24 25 39 Ghép theo phạm trù Ghép theo phạm trù Tìm từ cùng nghĩa 0,13 0,09 0,19

Tổng cộng 6 câu, chiếm tỷ lệ 15%

Kết quả ở bảng 2.4 cho thấy:

-Có 7 câu trắc nghiệm có độ phân cách rất tốt, chiếm tỷ lệ 17,50%.

-Có 9 câu trắc nghiệm có độ phân cách tốt, chiếm tỷ lệ 22,50%

-Có 18 câu trắc nghiệm có độ phân cách tạm được, chiếm tỷ lệ 45%

-Có 6 câu trắc nghiệm có độ phân cách yếu, chiếm tỷ lệ 15%

Như vậy, số câu trắc nghiệm có độ phân cách tạm được, tốt và rất tốt chiếm tỷ lệ cao hơn các

câu có độ phân cách yếu.

Nhìn chung, các câu TN có độ phân cách rất tốt tập trung ở các khả năng:

-Hiểu ý nghĩa của câu, thành ngữ, tục ngữ (nhóm 2) bao gồm: câu 5.

-Tìm từ khác nhóm (nhóm 3) bao gồm: câu 13.

-Xác định trật tự từ trong câu (nhóm 4) cao gồm: câu 15 và câu 17.

-Ghép theo phạm trù (nhóm 5) bao gồm: câu 28.

-Tìm từ cùng nghĩa và trái nghĩa (nhóm 6) bao gồm: câu 31 và câu 33.

Như vậy, nhóm khả năng 4 và 6 có số lượng câu TN có độ phân cách rất tốt nhiều hơn những

nhóm khả năng còn lại. Đặc biệt, hai nhóm này có những câu TN có độ phân cách rất cao, ví dụ: câu

15 (0,54) và câu 28 (0,63).

Các câu trắc nghiệm có độ phân cách tốt thuộc các nhóm khả năng sau:

- Nhóm 1 (Tìm chữ cái thích hợp) gồm: câu 1 và câu 3

- Nhóm 2 gồm: câu 7 và câu 8

- Nhóm 4 gồm: câu 18 và câu 19

- Nhóm 5 gồm: câu 27

- Nhóm 6 gồm: câu 37 và câu 38

Như vậy, nhóm 5 có số câu TN có độ phân cách tốt ít nhất (1 câu).

Các câu có độ phân cách tạm được phân bố đều từ nhóm khả năng 1 đến nhóm khả năng 6,

trong đó nhóm 2, nhóm 4 có số câu ít nhất và nhóm 5, nhóm 6 có số câu nhiều nhất. Cụ thể là:

-Nhóm 1 gồm: câu 2 và câu 4.

-Nhóm 2 gồm: câu 6.

-Nhóm 3 gồm: câu 10, câu 12 và câu 14.

-Nhóm 4 gồm: câu 16.

-Nhóm 5 gồm: câu 20, câu 21, câu 22, câu 26, câu 29, câu 30.

-Nhóm 6 gồm: câu 32, câu 34, câu 35, câu 36, câu 40.

Các câu có độ phân cách yếu tập trung ở:

-Nhóm 3 gồm: câu 9, câu 11

-Nhóm 5 gồm: câu 23, câu 24, câu 25.

-Nhóm 6 gồm: câu 39

Kết quả cho thấy nhóm 5 là nhóm có nhiều câu có độ phân cách yếu nhất.

2.3.1.3. Kết quả mức độ phát triển trí tuệ ngôn ngữ của HS khối 6 trên bài TNNN

 Kết quả tổng quát mức độ phát triển trí tuệ ngôn ngữ của HS khối 6

Kết quả điểm trung bình bài trắc nghiệm ngôn ngữ

Bảng 2.5: Kết quả điểm trung bình toàn bài TNNN của HS khối 6

ĐLTC Số học sinh (N) Điểm thấp nhất Điểm cao nhất Điểm TBC

217 10 37 27,82 4,73

Kết quả từ bảng 2.5 cho thấy: điểm trắc nghiệm trí tuệ ngôn ngữ của HS khối 6 dao động từ 10

đến 37 điểm và điểm trung bình cộng là 27,82. Không có HS nào đạt điểm tuyệt đối 40. Độ lệch

chuẩn tương đối thấp: 4,73. Điều đó chứng tỏ điểm trắc nghiệm ngôn ngữ của HS khối 6 tập trung

xung quanh điểm trung bình cộng.

Bảng 2.6: Kết quả điểm trung bình nhóm câu trong bài TNNN của HS khối 6

Nội dung

Tìm chữ cái thích hợp

Điểm Nhóm TBC câu Nhóm 1 2,82 Nhóm 2 Hiểu ý nghĩa của câu, thành ngữ, tục ngữ 2,73 5,00 Nhóm 3 3,56 Nhóm 4 8,01 Nhóm 5 5,70 Nhóm 6 Tìm từ khác nhóm Xác định trật tự từ trong câu Ghép theo phạm trù Tìm từ cùng nghĩa và trái nghĩa Điểm TBĐH 0,70 0,68 0,83 0,71 0,72 0,57 ĐLTC 0,88 0,99 1,01 1,38 1,55 1,65 Thứ bậc 4 5 1 3 2 6

Bảng 2.6 cho thấy: ở cả 6 nhóm khả năng, điểm trung bình điều hòa đều đạt từ 0,57 trở lên.

Như vậy, nhìn chung, xét về điểm trung bình, khả năng ngôn ngữ của HS khối 6 đạt từ mức trung

bình trở lên.

Điểm trung bình điều hòa của nhóm 3 (tìm từ khác nhóm) cao nhất. Điều đó chứng tỏ khả năng

hiểu, so sánh, phân biệt các khái niệm thông dụng của HS tương đối tốt. Nhóm 6 (Tìm từ cùng nghĩa

và trái nghĩa) và nhóm 2 (Hiểu ý nghĩa của câu, thành ngữ, tục ngữ) là 2 nhóm được xếp vào loại

khó nhất nhì với điểm trung bình điều hòa là 0,57 và 0,68. Điều này cho thấy khả năng hiểu nghĩa

của từ, khả năng thông hiểu ngôn ngữ ở các tầng lớp nghĩa (nghĩa đen và nghĩa bóng), mối liên hệ

lô-gích của các câu với nhau, khả năng trừu tượng hóa của học sinh chưa tốt. Nguyên nhân có thể

được giải thích theo quan điểm của Ru-đích: HS khối 6 tuy có khả năng trừu tượng hóa, hiểu biết

của các em có thể đi sâu vào các thuộc tính của sự vật nhưng khả năng đó chỉ mới bắt đầu, chưa đạt

mức chín muồi.

Phân loại mức độ trí tuệ ngôn ngữ của học sinh khối 6 trên bài TNNN

Bảng 2.7: Phân loại mức độ trí tuệ ngôn ngữ của học sinh khối 6 trên bài TNNN

Mức trí tuệ Tần số (F) Tần số (F) Điểm thô (X) Điểm thô (X)

Chỉ số thông minh (IQ) Chỉ số thông minh (IQ)

Điểm tiêu chuẩn (Z) 1,94 Điểm tiêu chuẩn (Z) 1,30 37 1 129 34 12 120

33 22 116 Thông minh 3 6 1,72 1,51 126 123 36 35 1,09

Trung bình

13 10 18 16 16 27 26 25 24 23 113 110 107 104 101 -0,17 -0,38 -0,59 -0,80 -1,01 97 94 91 88 85 32 31 30 29 28

Yếu 9 9 82 78 20 19 -1,23 -1,44 -1,65 -1,86 75 72 22 21

3 1 69 66 14 10 -2,07 -2,28 -2,92 -3,76 18 17 56 Kém và Rất 43 kém Tổng cộng: 44, chiếm 20,28 % 22 0,88 15 0,67 13 0,46 13 0,24 0,03 6 Tổng cộng: 142, chiếm 65,44 % 2 4 Tổng cộng: 24, chiếm 11,06% 2 1 Tổng cộng: 7, chiếm 3,22 %

Dựa vào bảng phân loại 2.7, ta đưa ra một số nhận xét:

-Những HS có điểm thô từ 33 đến 37 sẽ có chỉ số IQ từ 116 đến 129 và được đánh giá là thông

minh về ngôn ngữ.

-HS có điểm thô từ 23 đến 32 thì có chỉ số IQ từ 85 đến 113, đạt mức trí tuệ ngôn ngữ trung

bình.

-HS có điểm thô từ 19 đến 22 thì chỉ số IQ sẽ từ 72 đến 82, đạt mức yếu về khả năng ngôn

ngữ.

-HS có điểm thô từ 14 đến 18 thì IQ sẽ từ 56 đến 69 và bị đánh giá là kém về khả năng ngôn

ngữ.

-Và HS có điểm thô là 10, tương ứng với điểm IQ là 43 thì bị đánh giá là rất kém về khả năng

ngôn ngữ. Bảng 2.7 cho thấy: chỉ có duy nhất 1 HS có mức trí tuệ ngôn ngữ rất kém mà thôi.

160

142 (65,44%)

140

120

100

80

60

h n i s c ọ h g n ợ ư

44 (20,28%)

40

l ố S

24 (11,06%)

20

7 (3,22%)

0

Thông minh

Trung bình

Yếu

Kém và Rất kém

Mức độ trí tuệ ngôn ngữ (theo chỉ số IQ)

Biểu đồ 2.1: Biểu đồ phân loại mức độ trí tuệ ngôn ngữ của HS khối 6 trên bài TNNN

Biểu đồ phân loại mức độ trí tuệ ngôn ngữ của HS khối 6 (biểu đổ 2.1) chỉ rõ: nếu tính theo

điểm IQ, học sinh có mức trí tuệ thông minh chiếm 20,28% (44 HS), học sinh có mức trí tuệ trung

bình chiếm đến 65,44% (142 HS), học sinh có mức trí tuệ yếu chiếm 11,06 % (24 HS) và học sinh

có mức trí tuệ kém và rất kém chiếm rất ít 3,22% (7 HS). Những con số trên biểu đồ đã thể hiện rõ

rằng: HS có mức trí tuệ trung bình chiếm tỉ lệ cao nhất, hơn phân nửa số HS được khảo sát. Tỉ lệ

cao thứ 2 rơi vào mức thông minh. Thấp nhất là nhóm HS kém và rất kém. Kết quả nghiên cứu này

phù hợp với giả thuyết đã đưa ra: đa phần học sinh có mức trí tuệ trung bình.

Bảng 2.8: Kiểm nghiệm K-S điểm IQ của HS khối 6 theo bài TNNN

K-S P Kết luận Điểm TBC IQ ĐLTC IQ Số học sinh (N) Điểm IQ thấp nhất Điểm IQ cao nhất

129 99,99 15,01 1,05 0,21 Phân bố chuẩn 217 43

*Mức ý nghĩa: 0,05

Kết quả cho thấy, điểm IQ thấp nhất là 43, cao nhất là 129, điểm trung bình cộng của IQ là

99,99 và độ lệch chuẩn là 15,01. Nhìn chung, điểm trung bình cộng IQ và độ lệch chuẩn IQ của

khách thể được khảo sát gần bằng trung bình cộng và độ lệch chuẩn của phân bố chuẩn lý thuyết. Ta

dùng thêm phương pháp Kolmogorov – Smirnov để kiểm định độ chuẩn của phân bố điểm IQ qua

bài TNNN. Giả thuyết Ho cho rằng phân bố điểm IQ của HS khối 6 là phân bố chuẩn. Còn giả

thuyết H1 cho rằng phân bố trên không phải là phân bố chuẩn. Kiểm nghiệm K-S cho thấy P = 0,21

> 0,05. Do vậy, H1 bị bác bỏ và ta chấp nhận giả thuyết Ho, nghĩa là công nhận phân bố điểm IQ

của học sinh khối 6, quận 5 qua bài trắc nghiệm ngôn ngữ là phân bố chuẩn.

 Kết quả mức độ phát triển trí tuệ ngôn ngữ của HS khối 6 theo giới tính

Kết quả điểm trung bình bài TNNN theo giới tính

Kết quả từ bảng 2.9 cho thấy:

*Xét trên toàn bài TN:

- Điểm trung bình cộng của nam là 26,57 và độ lệch chuẩn là 4,90.

- Nữ có điểm trung bình cộng là 28,78 với độ lệch chuẩn: 4,39.

Nhìn chung, độ lệch chuẩn của cả hai nhóm tương đối thấp. Như vậy, điểm số của hai nhóm

nam và nữ đa phần tập trung quanh trung bình. Tuy nhiên, nữ có độ lệch chuẩn thấp hơn nam. Do

đó, có thể nói điểm số của nữ tập trung gần điểm trung bình hơn nam.

Điểm trung bình của nữ trên toàn bài TN cao hơn nam. Kiểm nghiệm T cho thấy có sự khác

biệt ý nghĩa giữa 2 nhóm về khả năng ngôn ngữ. Như vậy, nhìn tổng quát, nhóm nữ có khả năng

ngôn ngữ cao hơn nam.

Bảng 2.9: Kết quả điểm trung bình bài TNNN của HS khối 6 theo giới tính

Tiêu chí ĐLTC T P

Toàn bài TN -3,48 0,00 Kết luận Có KB

-0,62 0,53 Không KB

-1,64 0,10 Không KB

-0,40 0,68 Không

KB

-1,88 0,06 Không

-2,71 0,00

-4,25 0,00 Nhóm 1 (Tìm chữ cái thích hợp) Nhóm 2 (Hiểu nghĩa câu, thành ngữ, tục ngữ) Nhóm 3 (Tìm từ khác nhóm) Nhóm 4 (Xác định trật tự từ trong câu) Nhóm 5 (Ghép theo phạm trù) Nhóm 6 (Tìm từ cùng nghĩa và trái nghĩa) KB Có KB Có KB Điểm Giới tính TBC Nam 26,57 Nữ 28,78 Nam 2,78 2,85 Nữ Nam 2,61 Nữ 2,83 Nam 4,97 Nữ 5,02 Nam 3,36 3,72 Nữ Nam 7,69 Nữ 8,26 Nam 5,17 6,10 Nữ 4,90 4,39 0,97 0,84 1,02 0,96 0,92 1,08 1,34 1,39 1,65 1,43 1,71 1,50

*Ghi chú: Số lượng nam: 94; Số lượng nữ: 123

Mức ý nghĩa: 0,05

*Xét trên từng nhóm:

Bài trắc nghiệm khảo sát ở 6 nhóm khả năng. Tuy kiểm nghiệm T cho thấy chỉ có ở nhóm 5 và

nhóm 6 là có sự khác biệt rõ rệt về điểm trung bình giữa nam và nữ (P < 0,05). Thế nhưng, ở tất cả

các nhóm khả năng, điểm trung bình của nữ đều cao hơn nam. Như vậy, có thể nói: nữ có khả năng

ngôn ngữ cao hơn nam, đặc biệt là ở khả năng: ghép theo phạm trù (nhóm 5) và tìm từ cùng nghĩa

và trái nghĩa (nhóm 6).

Phân loại mức độ trí tuệ ngôn ngữ của nam sinh và nữ sinh khối 6 theo bài TNNN

Bảng 2.10: Phân loại mức độ trí tuệ ngôn ngữ của nam sinh khối 6 theo bài TNNN

Tần số (F) Tần số (F) Mức trí tuệ Điểm thô (X) Điểm thô (X) Chỉ số thông minh (IQ) Điểm tiêu chuẩn (Z) Chỉ số thông minh (IQ)

Điểm tiêu chuẩn (Z) 2,12 37 1 132

Tổng cộng 1, chiếm 1,06%

35 34 1 5 1,72 1,51 33 32 126 123 1,31 1,10 120 117 Xuất sắc Thông minh

31 30 29 28 27 3 12 4 7 7 0,90 0,70 0,49 0,29 0,08 114 111 107 104 101 26 25 24 23 22 -0,11 -0,32 -0,52 -0,72 -0,93 98 95 92 89 86

Trung bình Yếu 21 20 6 1 6 3 Tổng cộng 15, chiếm 15,96% 8 4 9 2 7 Tổng cộng 63, chiếm 67,02% 2 1 18 17 83 80 -1,13 -1,34 -1,74 -1,95 74 71

19 3 -1,54 77

14 2 62 -2,56 Kém

Tổng cộng 13, chiếm 13,83% Tổng cộng 2, chiếm 2,13%

Kết quả bảng 2.10 cho thấy:

Nam sinh khối 6, quận 5 có 5 phân mức trí tuệ ngôn ngữ: xuất sắc, thông minh, trung bình, yếu

và kém. Khách thể có điểm thô từ 14 đến 37 điểm, tương ứng với điểm IQ từ 62 đến 132 điểm. Cụ

thể là:

-1 học sinh xuất sắc, chiếm 1,06% với điểm thô là 37 và IQ tương ứng là 132.

-15 học sinh thông minh, chiếm 15,96% với điểm TN từ 32 đến 35 và IQ tương ứng từ 117 đến

126.

-63 học sinh trung bình, chiếm 67,02% với điểm thô từ 22 đến 31 và IQ tương ứng từ 86 đến

114.

-13 HS loại yếu, chiếm 13,83% với điểm thô từ 17 đến 21 và IQ từ 71 đến 83.

-Chỉ có 2 HS kém với điểm thô 14 và IQ tương ứng là 62.

Bảng 2.11: Phân loại mức độ trí tuệ ngôn ngữ của nữ sinh khối 6 trên bài TNNN

Tần số (F) Tần số (F) Mức trí tuệ Điểm thô (X) Điểm thô (X) Chỉ số thông minh (IQ) Chỉ số thông minh (IQ)

34 7 Điểm tiêu chuẩn (Z) 1,18

36 35 3 5 Điểm tiêu chuẩn (Z) 1,64 1,41 125 121 118

Thông minh Trung bình

33 32 31 30 29 16 10 7 6 12 0,96 0,73 0,50 0,27 0,05 114 111 108 104 101 28 27 26 25 -0,17 -0,40 -0,63 -0,86 97 94 91 87

Yếu Tổng cộng 15, chiếm 12,20% 9 15 7 9 Tổng cộng 91, chiếm 73,98% 3 1 21 20 -1,77 -2,00

24 23 22 4 4 2 -1,08 -1,31 -1,54 84 80 77 73 70

19 1 Tổng cộng 14, chiếm 11,38% 1 67 18 -2,22 -2,45 63 Kém

10 1 -4,27 36 Rất kém Tổng cộng 2, chiếm 1,63% Tổng cộng 1, chiếm 0,81%

Kết quả từ bảng 2.11 cho thấy:

Nữ sinh khối 6 cũng có 5 phân mức trí tuệ: thông minh, trung bình, yếu, kém và rất kém. Với

điểm thô từ 10 đến 36, nữ sinh có điểm IQ dao động từ 36 đến 125.

-Mức thông minh NN có 15 em, chiếm 12,20% với điểm TN đạt từ 34 đến 36.

-Mức độ trung bình có 91 em, chiếm 73,98% với điểm thô từ 25 đến 33.

-Loại yếu có 14 em, chiếm 11,38% với điểm TN dao động từ 20 đến 24.

-Loại kém rất ít, chỉ có 2 em, chiếm 1,63% với điểm TN là 18 và 19.

-Mức độ rất kém khá hiếm, chỉ có 1 HS, chiếm 0,81% với điểm TN là 10.

Biểu đồ 2.2 thể hiện rằng:

-Nếu xếp loại theo từng nhóm giới tính thì nam có loại xuất sắc còn nữ thì không, tỉ lệ học sinh

nam được xếp loại thông minh cao hơn nữ. Nhưng đến loại trung bình thì nữ cao hơn nam khá

nhiều. Và ở loại yếu và kém, tỉ lệ nữ lại ít hơn so với nam. Tuy nhiên, bảng 2.12 cho thấy trung bình

cộng IQ của nam cũng xấp xỉ bằng nữ. Và kiểm nghiệm T cũng chưa khẳng định được: có sự khác

biệt về điểm trung bình IQ của 2 nhóm nam và nữ (P = 0,97 > 0,05).

Biểu đồ 2.2: So sánh mức độ trí tuệ ngôn ngữ của HS nam và nữ khối 6 trên bài TNNN theo từng

80

73,98

67,02

70

60

50

%

Nam Nữ

40

ệ l ỉ

T

30

15,96

20

13,83

12,20

11,38

10

2,13

1,63

1,06

0,81

0

Xuất sắc

Thông minh Trung bình

Yếu

Kém

Rất kém

Mức độ trí tuệ theo từng giới

giới

Bảng 2.12: So sánh điểm trung bình IQ của HS nam và nữ khối 6 theo bài TNNN

T P Tiêu chí Giới tính ĐLTC IQ Kết luận

Số học sinh 94 Điểm TBC IQ 96,06 15,53 IQ cao nhất 129 IQ thấp nhất 56 Nam -3,45 0,00 Có KB

Nữ 123 103 13,93 126 43

Nam 94 100,05 15,06 132 0,02 0,97 Không 62

KB Nữ 123 100 14,95 125 36 Theo mẫu chung Theo từng giới tính

*Mức ý nghĩa: 0,05

-Nếu theo tiêu chí mẫu chung, điểm trung bình IQ của nam thấp hơn nữ đến 6,94 điểm. Kiểm

nghiệm T cũng cho thấy rõ có khác biệt ý nghĩa về điểm trung bình IQ giữa nam và nữ ( P = 0,00 <

0,05).

Biểu đồ 2.3 so sánh mức độ trí tuệ ngôn ngữ của nam và nữ theo mẫu chung cũng cho thấy: tỉ

lệ thông minh và trung bình của nữ đều cao hơn nam trong khi đó loại yếu và loại kém của nữ lại

thấp hơn rất nhiều so với nam.

Những kết quả trên cho ta kết luận: khả năng ngôn ngữ của nữ tốt hơn nam.

80

67,48

70

62,77

60

50

Nam

%

40

ệ l ỉ

Nữ

T

30

25,20

18,08

20

13,83

5,70

5,32

10

0,81

0,81

0

Thông minh

Trung bình

Yếu

Kém

Rất kém

Mức độ trí tuệ theo mẫu chung

Biểu đồ 2.3: So sánh mức độ trí tuệ ngôn ngữ của nam và nữ học sinh khối 6 trên bài TNNN theo

mẫu chung

 Kết quả mức độ phát triển trí tuệ ngôn ngữ của HS khối 6 theo trường

Kết quả điểm trung bình bài TNNN theo trường

Kết quả từ bảng 2.13 cho thấy:

*Xét trên toàn bài TN:

-Trường THSG có điểm trung bình cộng là 29,29 và độ lệch chuẩn là 4,24.

-Trường KĐ có điểm trung bình cộng là 25,31 và độ lệch chuẩn là 4,49.

Như vậy, với độ lệch chuẩn thấp hơn độ lệch chuẩn của trường KĐ, điểm TN của học sinh

trường THSG phân tán quanh trung bình nhiều hơn trường KĐ. So sánh về điểm trung bình ta thấy:

trường THSG có điểm trung bình cao hơn trường KĐ. Kiểm nghiệm T cũng khẳng định: sự khác

biệt này có ý nghĩa (P = 0,00 <0,05). Do đó, có thể nhận xét: về điểm trung bình toàn bài TN, học

sinh trường THSG có khả năng ngôn ngữ cao hơn học sinh trường KĐ.

Bảng 2.13: Kết quả điểm trung bình bài TNNN của HS khối 6 theo trường

ĐLTC T P Tiêu chí

6,52 0,00 Toàn bài TN

Kết luận Có KB

1,67 0,09 Không

3,58 0,00

5,11 0,00

3,44 0,00

2,30 0,02

6,58 0,00 Nhóm 1 (Tìm chữ cái thích hợp) Nhóm 2 (Hiểu nghĩa câu, thành ngữ, tục ngữ) Nhóm 3 (Tìm từ khác nhóm) Nhóm 4 (Xác định trật tự từ trong câu) Nhóm 5 (Ghép theo phạm trù) Nhóm 6 (Tìm từ cùng nghĩa và trái nghĩa) KB Có KB Có KB Có KB Có KB Có KB Trường Điểm TBC 29,29 25,31 2,90 2,69 2,91 2,42 5,27 4,54 3,80 3,15 8,20 7,70 6,21 4,81 THSG KĐ THSG KĐ THSG KĐ THSG KĐ THSG KĐ THSG KĐ THSG KĐ 4,24 4,49 0,87 0,94 0,94 1,02 0,85 1,10 1,38 1,28 1,42 1,72 1,49 1,55

*Ghi chú: Số lượng học sinh trường THSG: 137; Số lượng học sinh trường KĐ: 80

Mức ý nghĩa: 0,05

*Xét trên từng nhóm câu:

-Kết quả điểm trung bình từ nhóm 1 đến nhóm 6 cho thấy: ở cả 6 nhóm khả năng, trường

THSG có điểm trung bình cao hơn trường KĐ. Kiểm nghiệm T cũng cho thấy: có đến 5 nhóm có sự

khác biệt ý nghĩa về điểm trung bình giữa 2 trường. Như vậy, ta có thể kết luận rằng: xét về điểm

trung bình, HS trường THSG có khả năng ngôn ngữ cao hơn HS trường KĐ, cụ thể là ở các khả

năng: hiểu ý nghĩa của câu, thành ngữ, tục ngữ (nhóm 2), tìm từ khác nhóm (nhóm 3), xác định trật

tự từ trong câu (nhóm 4), ghép theo phạm trù (nhóm 5), tìm từ cùng nghĩa và trái nghĩa (nhóm 6).

Phân loại mức độ trí tuệ ngôn ngữ của HS khối 6 ở các trường theo bài TNNN

Bảng 2.14: Phân loại mức độ trí tuệ NN của HS khối 6 trường THSG theo bài TNNN

Tần số (F) Tần số (F) Mức trí tuệ Điểm thô (X) Điểm thô (X) Chỉ số thông minh (IQ) Chỉ số thông minh (IQ)

Điểm tiêu chuẩn (Z) 1,81 1,58 37 36 1 3 35 34 127 124 Điểm tiêu chuẩn (Z) 1,34 1,11 120 117 Thông minh

33 32 31 30 29 19 10 8 15 6 113 110 106 103 99 28 27 26 25 0,87 0,63 0,40 0,16 -0,06 -0,30 -0,54 -0,77 -1,01 95 92 88 85

6 11 Tổng cộng 21, chiếm 15,33% 13 15 9 5 Tổng cộng 100, chiếm 72,99% Trung bình

Yếu 24 23 3 2 -1,24 -1,48 22 21 81 78 -1,71 -1,95 74 71

20 19 1 1 1 5 Tổng cộng 11, chiếm 8,03% 2 1 67 64 18 17 -2,19 -2,42 -2,66 -2,89 60 Kém 57

Tổng cộng 5, chiếm 3,65%

Bảng kết quả phân loại mức độ trí tuệ của trường THSG (2.14) cho thấy:

Học sinh trường THSG có 4 phân mức trí tuệ: thông minh, trung bình, yếu và kém. Cụ thể là:

-Có 21 học sinh với điểm TN từ 34 đến 37, được đánh giá là thông minh về ngôn ngữ, chiếm

15,33% tổng số HS của trường THSG, với IQ từ 117 đến 127.

-100 học sinh có điểm thô từ 25 đến 33, xếp loại trung bình, chiếm 72,99%, với IQ từ 85 đến

113.

-11 học sinh có điểm TN từ 21 đến 24, bị xếp loại yếu, chiếm 8,03%, với IQ từ 71 đến 81.

-5 học sinh bị xếp loại kém, chiếm 3,65%, với điểm TN từ 17 đến 20 và IQ tương ứng từ 57

đến 67.

Bảng 2.15: Phân loại mức độ trí tuệ NN của HS khối 6 trường KĐ theo bài TNNN

Tần số (F) Tần số (F) Mức trí tuệ Điểm thô (X) Điểm thô (X)

Chỉ số thông minh (IQ) Chỉ số thông minh (IQ)

Thông minh 34 33 32 1 3 3 Điểm tiêu chuẩn (Z) 1,93 1,71 1,49 129 126 122 31 30 2 3 Điểm tiêu chuẩn (Z) 1,26 1,04 119 116

Tổng cộng 12, chiếm 15%

96 92 89 86 Trung bình 29 28 27 26 25 10 3 7 6 8 0,82 0,59 0,37 0,15 -0,06 112 109 106 102 99 24 23 22 21 10 4 8 4 -0,29 -0,51 -0,73 -0,96

Tổng cộng 60, chiếm 75%

76 Yếu 20 19 1 3 -1,18 -1,40 82 79 18 -1,62 1

Tổng cộng 5, chiếm 6,25%

Kém 14 2 -2,51 62

Tổng cộng 2, chiếm 2,50%

10 1 -3,41 49 Rất Kém Tổng cộng 1, chiếm 1,25%

Bảng phân loại 2.15 cho ta kết quả:

Học sinh trường KĐ có phân mức trí tuệ: thông minh, trung bình, yếu, kém và rất kém. Cụ thể

như sau:

-12 HS trường KĐ có điểm thô từ 30 đến 34 với IQ tương ứng từ 116 đến 129, được xếp loại

TM, chiếm 15%.

-60 HS được xếp loại TB, chiếm 75% với điểm thô dao động từ 21 đến 29 và IQ tương ứng từ

86 đến 112.

-5 HS loại yếu, chiếm 6,25% với điểm TN từ 18 đến 20 và IQ tương ứng từ 76 đến 82 .

-2 HS loại kém, chiếm 2,50% với điểm TN là 14 và IQ tương ứng là 62.

-Và chỉ 1 HS với điểm thô 10 và IQ là 49 bị xếp loại rất kém, chiếm 1,25%.

Biểu đồ 2.4: So sánh mức độ trí tuệ ngôn ngữ của HS khối 6 của trường THSG và KĐ trên bài

80

75

72,99

70

60

50

THSG KĐ

%

40

ệ l ỉ

T

30

15

15,33

20

8,03

6,25

10

3,65

2,50

1,25

0

Thông minh

Trung bình

Yếu

Kém

Rất kém

Mức độ trí tuệ ngôn ngữ theo từng trường

TNNN theo tiêu chí từng trường

-Theo tiêu chí từng trường, biểu đồ 2.4 cho ta thấy rõ: trường THSG và trường KĐ có tỉ lệ học

sinh thông minh ngôn ngữ gần bằng nhau. Nhưng ở loại trung bình thì trường KĐ có cao hơn một

chút so với trường THSG. Ở loại yếu và kém thì trường THSG cao hơn nhưng không nhiều. Kiểm

nghiệm T về IQ trung bình chưa khẳng định được có có sự khác biệt về khả năng ngôn ngữ của học

sinh giữa 2 trường. (P=0,99>0,05).

Bảng 2.16: So sánh điểm trung bình IQ của HS các trường theo bài TNNN

Trường T P Tiêu chí TBC IQ ĐLTC IQ Kết luận

Số học sinh 137 THSG 104,63 13,47 IQ cao nhất 129 IQ thấp nhất 66 Có KB 6,49 0,00 KĐ 80 92,06 14,23 120 43

THSG 137 100,06 15,04 127 57 0,00 0,99 Không KB KĐ 80 100,05 14,95 129 49

Theo mẫu chung Theo từng trường *Mức ý nghĩa: 0,05

-Theo tiêu chí mẫu chung, điểm trung bình IQ của trường THSG cao hơn hẳn so với trường

KĐ. Kiểm nghiệm T cũng cho thấy: có sự khác biệt ý nghĩa về điểm trung bình IQ giữa 2 trường. (P

= 0,00 < 0,05). Thêm vào đó, biểu đồ 2.5 cũng thể hiện rõ: tỉ lệ thông minh của trường THSG vượt

hơn hẳn so với trường KĐ. Tỉ lệ trung bình của trường THSG tuy có thấp hơn nhưng không nhiều.

Riêng về loại yếu và kém thì trường KĐ đều cao hơn trường THSG, nhất là loại yếu. Những kết quả

trên cho ta kết luận: theo điểm IQ, trường THSG có khả năng ngôn ngữ cao hơn trường KĐ.

Biểu đồ 2.5: So sánh mức độ trí tuệ ngôn ngữ của HS khối 6 của trường THSG và KĐ trên bài

80

70

70

62,77

60

50

%

40

ệ l ỉ

29,20

T

THSG KĐ

30

20

20

5,84

5

10

3,75

2,19

1,25

0

Thông minh

Trung bình

Yếu

Kém

Rất kém

Mức độ trí tuệ ngôn ngữ của trường theo mẫu chung

TNNN theo tiêu chí mẫu chung

*Tóm lại:

-Bài TNNN có độ tin cậy khá cao và tính vững chãi của điểm số qua các trường tốt. Thêm vào

đó, bài TNNN vừa sức với HS.

-Xét về điểm trung bình, khả năng ngôn ngữ của HS khối 6 đạt từ mức trung bình trở lên, điểm

số bài TNNN của HS khối 6 tập trung quanh điểm trung bình.

-Xét về điểm IQ, HS khối 6 đa phần có mức độ trí tuệ ngôn ngữ trung bình, phân bố IQ trên

bài TNNN của HS khối 6 là phân bố chuẩn.

-Xét về điểm trung bình và IQ, nữ sinh có khả năng ngôn ngữ tốt hơn nam sinh, HS trường

THSG có khả năng ngôn ngữ tốt hơn HS trường KĐ.

2.3.2. Kết quả khảo sát mức độ phát triển trí tuệ ngôn ngữ của HS khối 6 trên bài trắc nghiệm trí

tuệ ngôn ngữ

2.3.2.1. Kết quả về bài TNTTNN

Bảng 2.17: Độ tin cậy và độ khó của toàn bài TNTTNN

Trị số quan sát Trị số lý thuyết

-Số câu trắc nghiệm 64

-Số người làm trắc nghiệm 217

-Hệ số tin cậy (α) 0,80

-Điểm trung bình 46,04 -Điểm trung bình lý tưởng 42,58

-Điểm thấp nhất 15

-Điểm cao nhất 61

-Độ lệch tiêu chuẩn 7,45

Chúng tôi đã khảo sát bài trắc nghiệm trí tuệ ngôn ngữ gồm 64 câu trên 217 khách thể là học

sinh khối 6 tại quận 5, thành phố Hồ Chí Minh. Hệ số tin cậy của bài trắc nghiệm chúng tôi tính

được là: α = 0,80. Với trị số này, chúng tôi khẳng định tính tin cậy của bài trắc nghiệm trí tuệ ngôn

ngữ là cao và tính vững chãi của điểm số trắc nghiệm này qua các trường là tốt.

Điểm trung bình của toàn bài trắc nghiệm sau khi khảo sát trên 217 khách thể là 46,04. Tuy

nhiên điểm trung bình lý tưởng hay còn gọi là độ khó vừa phải của bài trắc nghiệm là 42,58. Như

vậy, điểm trung bình của toàn bài trắc nghiệm lớn hơn điểm trung bình lý tưởng của bài trắc

nghiệm. Do vậy, có thể nói, bài trắc nghiệm trí tuệ ngôn ngữ dễ hơn một chút so với trình độ học

sinh.

2.3.2.2. Kết quả về câu trắc nghiệm của bài TNTTNN

 Phân tích câu trắc nghiệm theo độ khó

Theo quy ước đã được đề cập ở phần 2.3.1.2, chúng tôi thu được kết quả sau:

Bài trắc nghiệm trí tuệ ngôn ngữ gồm 64 câu, trong đó có:

- 11 câu khó, chiếm tỷ lệ 17,19%

- 29 câu vừa sức học sinh, chiếm tỷ lệ 45,31%

- 24 câu dễ, chiếm tỷ lệ 37,50%

Nhìn chung, các câu vừa sức chiếm tỉ lệ cao nhất.

Bảng 2.18: Độ khó các câu trắc nghiệm trong bài TNTTNN

Câu Nội dung Câu Nội dung

Độ khó Độ khó

Mức độ khó Khó

24 29 37 49 56 Tạo cụm từ Đặt dấu câu Chọn từ thích hợp Tìm từ khác nhóm Xác định BP tu từ 0,46 0,53 0,46 0,50 0,50 6 12 13 15 17 22 Tìm từ sai chính tả Tạo từ láy tư Tạo từ láy tư Tạo từ láy tư Gạch dưới vị ngữ Tạo cụm từ

1 2 3 0,35 0,54 0,53 0,30 0,41 0,47 Tổng cộng 11 câu, chiếm tỷ lệ 17,19% 0,65 0,64 0,71 Tìm từ đúng chính tả Tìm từ đúng chính tả Tìm từ đúng chính tả 33 34 36 Giải thích nghĩa từ Giải thích nghĩa từ Tìm từ trái nghĩa 0,53 0,66 0,67

Vừa

0,65 0,67 0,68 0,65 0,69 0,67 0,65 0,61 0,70 0,72 0,59 39 40 43 46 47 48 53 54 55 63 64 Tìm 2 câu gần nghĩa Tìm câu thành ngữ Làm đúng thành ngữ Làm đúng thành ngữ Làm đúng thành ngữ Tìm từ khác nhóm Tìm từ khác nhóm Xác định BP tu từ Xác định BP tu từ Xác định BP tu từ Xác định BP tu từ Tìm từ đúng chính tả Tìm từ sai chính tả Tìm từ Hán Việt Tạo từ láy tư Tạo từ láy tư Tạo từ láy tư Gạch dưới vị ngữ Tạo câu Tạo câu Đặt dấu câu Đặt dấu câu Đặt dấu câu 5 7 8 10 11 14 16 20 21 27 28 32

Dễ

4 9 18 19 23 25 26 30 31 35 38 41 42 44 45 50 51 52 57 58 59 60 61 62 Làm đúng thành ngữ Làm đúng thành ngữ Làm đúng thành ngữ Tìm từ khác nhóm Tìm từ khác nhóm Tìm từ khác nhóm Xác định BP tu từ Xác định BP tu từ Xác định BP tu từ Xác định BP tu từ Xác định BP tu từ 0,96 0,82 0,73 0,88 0,84 0,88 0,93 0,94 0,85 0,78 0,77 0,79 Tìm từ đúng chính tả Xác định kiểu từ Hoàn chỉnh câu Xác định thành phần thiếu Tạo cụm từ Đặt dấu câu Đặt dấu câu Đặt dấu câu Đặt dấu câu Giải thích nghĩa từ Chọn từ thích hợp Làm đúng thành ngữ

0,60 0,58 0,65 0,81 0,82 0,81 0,79 0,81 0,75 0,80 0,68 0,83 Tổng cộng 29 câu, chiếm tỷ lệ 45,31% 0,88 0,75 0,96 0,85 0,90 0,88 0,90 0,94 0,95 0,77 0,87 0,79 Tổng cộng 24 câu, chiếm tỷ lệ 37,50%

Mức độ khó tập trung các nhóm khả năng sau:

- Xác định hình thức ngữ âm (nhóm 1) gồm: câu 6.

- Xác định các kiểu từ (nhóm 2) gồm: câu 12, câu 13 và câu 15.

- Xác định các thành phần của câu (nhóm 3) gồm: câu 17, câu 22 và câu 24.

- Đặt dấu câu đúng vào ngoặc đơn (nhóm 4) gồm: câu 29.

- Hiểu nghĩa của từ (nhóm 5) gồm: câu 37

- Tìm từ khác nhóm (nhóm 7) gồm: câu 49

- Xác định biện pháp tu từ (nhóm 8) gồm: câu 56

Như vậy, nhóm 2 và nhóm 3 là 2 nhóm khả năng tập trung nhiều câu khó nhất, chiếm 27,27%

tổng số câu khó. Trong số những câu trắc nghiệm kể trên, có các câu rất khó. Ví dụ: câu 6 với chỉ số

khó 0,35, câu 15 với chỉ số khó 0,30, câu 17 với chỉ số khó 0,41, câu 22 với chỉ số khó 0,47 và câu

24 với chỉ số khó 0,46.

Mức độ vừa xuất hiện ở cả 8 nhóm khả năng. Cụ thể là:

-Nhóm 1 gồm: câu 1, câu 2, câu 3, câu 5 và câu 7.

-Nhóm 2 gồm: câu 8, câu 10, câu11 và câu 14.

-Nhóm 3 gồm: câu 16, câu 20 và câu 21.

-Nhóm 4 gồm: câu 27, câu 28 và câu 32.

-Nhóm 5 gồm: câu 33, câu 34, câu 36.

-Nhóm 6 gồm: câu 39, câu 40, câu 43, câu 46 và câu 47.

-Nhóm 7 gồm: câu 48, câu 53.

-Nhóm 8 gồm: câu 54, câu 55, câu 63, câu 64.

Trong số đó, nhóm 1 và nhóm 6 là 2 nhóm khả năng có số lượng câu vừa sức nhiều nhất,

chiếm 17,24% tổng số câu vừa sức. Nhóm có tỉ lệ câu vừa sức thấp nhất là nhóm 7, chiếm 6,90%.

Giống như mức độ vừa, mức độ dễ cũng tập trung ở cả 8 nhóm khả năng. Cụ thể là:

- Nhóm 1 gồm: câu 4.

- Nhóm 2 gồm: câu 9.

- Nhóm 3 gồm: câu 18, câu 19 và câu 23.

- Nhóm 4 gồm: câu 25, câu 26, câu 30 và câu 31.

- Nhóm 5 gồm: câu 35 và câu 38.

- Nhóm 6 gồm: câu 41, câu 42, câu 44 và câu 45.

- Nhóm 7 gồm: câu 50, câu 51 và câu 52.

- Nhóm 8 gồm: câu 57, câu 58, câu 59, câu 60, câu 61 và câu 62.

Trong đó, nhóm 8 có tỉ lệ câu dễ cao nhất, chiếm 25% tổng số câu có mức độ dễ.

 Phân tích câu trắc nghiệm theo độ phân cách

Theo quy ước đã được đề cập ở phần 2.3.1.2, chúng tôi thu được kết quả từ bảng 2.19 như sau:

Độ phân cách của bài trắc nghiệm được chia làm 4 nhóm: rất tốt, tốt, tạm được và yếu. Cụ thể

là:

-9 câu có độ phân cách rất tốt, chiếm tỷ lệ 14,06%

-21 câu có độ phân cách tốt, chiếm tỷ lệ 32,81%

-22 câu có độ phân cách tạm được, chiếm tỷ lệ 34,38%

-12 câu có độ phân cách yếu, chiếm tỷ lệ 18,75%

Như vậy, đa phần là các câu có độ phân cách tạm được và phân cách tốt.

Mức phân cách rất tốt bao gồm các câu ở những nhóm khả năng:

- Xác định các kiểu từ (nhóm 2) gồm: câu 10, câu 12, câu 13.

- Đặt dấu câu đúng vào ngoặc đơn (nhóm 4) gồm: câu 26.

- Hiểu nghĩa của từ (nhóm 5) gồm: câu 36 và câu 38.

- Hiểu nghĩa của câu (nhóm 6) gồm: câu 39.

- Tìm từ khác nhóm (nhóm 7) gồm: câu 52.

- Xác định biện pháp tu từ (nhóm 8) gồm: câu 54.

Trong đó nhiều nhất là nhóm 2, chiếm 33,33% tổng số câu có độ phân cách rất tốt.

Mức phân cách tốt xuất hiện ở cả 8 nhóm khả năng. Cụ thể như sau:

-Nhóm 1 (Xác định hình thức ngữ âm) gồm: câu 1, câu 5.

-Nhóm 2 gồm: câu 9, câu 14.

-Nhóm 3 (Xác định các thành phần của câu) gồm: câu 16, câu 21, câu 24.

-Nhóm 4 gồm: câu 25, câu 27, câu 29, câu 31.

-Nhóm 5 gồm: câu 37.

-Nhóm 6 gồm: câu 43, câu 44, câu 45, câu 46.

-Nhóm 7 gồm: câu 48, câu 50.

-Nhóm 8 gồm: câu 55, câu 59, câu 62.

Ta thấy: Số câu có mức phân cách tốt nhiều nhất là ở nhóm 4 (Đặt dấu câu đúng vào ngoặc

đơn) và nhóm 6 (Hiểu nghĩa của câu) với tỉ lệ 19,05%. Nhóm 5 (Hiểu nghĩa của từ) là nhóm khả

năng có số câu với mức phân cách tốt ít nhất, chiếm 4,76%.

Mức phân cách tạm được cũng phân bố đều ở cả 8 nhóm khả năng. Tuy nhiên, nhóm 3 có tỉ lệ

cao nhất, chiếm 27,27%. Cụ thể là:

-Nhóm 1 gồm: câu 3, câu 4, câu 6, câu 7.

-Nhóm 2 gồm: câu 8

-Nhóm 3 gồm: câu 18, câu 19, câu 20, câu 22, câu 23.

-Nhóm 4 gồm: câu 30, câu 32.

-Nhóm 5 gồm: câu 33.

-Nhóm 6 gồm: câu 40, câu 42, câu 47.

-Nhóm 7 gồm: câu 49, câu 51.

-Nhóm 8 gồm: câu 57, câu 60, câu 61, câu 64.

Mức phân cách yếu thể hiện ở cả 8 nhóm khả năng. Cụ thể như sau:

-Nhóm 1 gồm: câu 2.

-Nhóm 2 gồm: câu 11, câu 15.

-Nhóm 3 gồm: câu 17.

-Nhóm 4 gồm: câu 28.

-Nhóm 5 gồm: câu 34, câu 35.

-Nhóm 6 gồm: câu 41.

-Nhóm 7 gồm: câu 53.

-Nhóm 8 gồm: câu 56, câu 58, câu 63.

Bảng 2.19: Độ phân cách các câu trắc nghiệm trong bài TNTTNN

Câu Nội dung Câu Nội dung

Độ phân cách Độ phân cách Mức phân cách

Rất tốt 0,43 0,41 0,41 0,40 Chọn từ thích hợp Tìm 2 câu gần nghĩa Tìm từ khác nhóm Xác định BP tu từ 38 39 52 54 0,42 0,42 0,44 0,50 0,41 Tạo từ láy tư Tạo từ láy tư Tạo từ láy tư Đặt dấu câu Tìm từ trái nghĩa 10 12 13 26 36

Tổng cộng 9 câu, chiếm tỷ lệ 14,06%

Tốt

37 43 44 45 46 48 50 55 59 62 0,31 0,35 0,33 0,34 0,39 0,34 0,33 0,31 0,34 0,32 Chọn từ thích hợp Làm đúng thành ngữ Làm đúng thành ngữ Làm đúng thành ngữ Làm đúng thành ngữ Tìm từ khác nhóm Tìm từ khác nhóm Xác định BP tu từ Xác định BP tu từ Xác định BP tu từ 0,32 0,30 0,36 0,32 0,38 0,34 0,31 0,37 0,33 0,37 0,30 Tìm từ đúng chính tả Tìm từ đúng chính tả Xác định kiểu từ Tạo từ láy tư Gạch dưới vị ngữ Tạo câu Tạo cụm từ Đặt dấu câu Đặt dấu câu Đặt dấu câu Đặt dấu câu 1 5 9 14 16 21 24 25 27 29 31

Tổng cộng 21 câu, chiếm tỷ lệ 32,81%

Tạm được

Tìm từ đúng chính tả Tìm từ đúng chính tả Tìm từ sai chính tả Tìm từ sai chính tả Tìm từ Hán Việt Hoàn chỉnh câu Xác định thành phần thiếu Tạo câu Tạo cụm từ Tạo cụm từ Đặt dấu câu 0,20 0,26 0,22 0,26 0,29 0,25 0,28 0,25 0,20 0,24 0,27 3 4 6 7 8 18 19 20 22 23 30 32 33 40 42 47 49 51 57 60 61 64 Đặt dấu câu Giải thích nghĩa từ Tìm thành ngữ Làm đúng thành ngữ Làm đúng thành ngữ Tìm từ khác nhóm Tìm từ khác nhóm Xác định BP tu từ Xác định BP tu từ Xác định BP tu từ Xác định BP tu từ 0,23 0,25 0,25 0,24 0,20 0,26 0,27 0,23 0,25 0,23 0,24

Yếu

2 11 15 17 28 34 35 41 53 56 58 63 Tìm từ đúng chính tả Tạo từ láy tư Tạo từ láy tư Gạch dưới vị ngữ Đặt dấu câu Giải thích nghĩa từ Giải thích nghĩa từ Làm đúng thành ngữ Tìm từ khác nhóm Xác định BP tu từ Xác định BP tu từ Xác định BP tu từ 0,16 0,18 0,08 0,07 0,08 0,11

Tổng cộng 22 câu, chiếm tỷ lệ 34,38% 0,15 0,18 0,16 0,11 0,18 0,13 Tổng cộng 12 câu, chiếm tỷ lệ 18,75%

2.3.2.3. Kết quả mức độ phát triển trí tuệ NN của HS khối 6 trên bài TNTTNN

 Kết quả tổng quát mức độ phát triển trí tuệ ngôn ngữ của HS khối 6

Kết quả điểm trung bình bài trắc nghiệm trí tuệ ngôn ngữ

Bảng 2.20: Kết quả điểm trung bình toàn bài TNTTNN của HS khối 6

Số học sinh (N) Điểm thấp nhất Điểm cao nhất Điểm TBC ĐLTC

217 15 61 46,05 7,45

Kết quả về điểm toàn bài trắc nghiệm cho thấy:

217 khách thể khối 6, quận 5 thực hiện bài trắc nghiệm trí tuệ ngôn ngữ 64 câu với điểm thấp

nhất là 15, điểm cao nhất là 61, điểm trung bình cộng là 46,05 và độ lệch chuẩn là 7,45. Như vậy,

không có HS nào đạt điểm tối đa bài TN trí tuệ ngôn ngữ. Độ lệch chuẩn cũng tương đối thấp: 7,45.

Điều đó cho thấy điểm TN tập trung quanh điểm trung bình.

Bảng 2.21: Kết quả điểm trung bình nhóm câu trong bài TNTTNN của HS khối 6

Nội dung Tiêu chí

Điểm TBC Điểm TBĐH ĐLTC Thứ bậc

Nhóm 1 Xác định hình thức ngữ âm Nhóm 2 Xác định các kiểu từ Xác định các thành phần của câu Nhóm 3 Nhóm 4 Đặt dấu câu đúng vào ngoặc đơn Nhóm 5 Nhóm 6 Nhóm 7 Nhóm 8 Hiểu nghĩa của từ Hiểu nghĩa của câu Tìm từ khác nhóm Xác định biện pháp tu từ 4,46 5,25 6,44 6,55 3,99 6,69 4,45 8,22 0,63 0,65 0,71 0,81 0,66 0,74 0,74 0,75 1,52 1,71 1,62 1,40 1,31 1,65 1,33 1,81 8 7 5 1 6 3 4 2

Điểm trung bình điều hòa cho thấy: hầu hết các nhóm đều có điểm >= 0,63. Điều đó chứng tỏ

khả năng ngữ âm, ngữ pháp, ngữ nghĩa của HS khối 6 ở mức trung bình trở lên. Nhóm 4 (Đặt dấu

câu đúng vào ngoặc đơn) có điểm trung bình điều hòa cao nhất, đồng nghĩa với khả năng hiểu sắc

thái của câu cũng như khả năng phân biệt các loại câu của học sinh tương đối tốt. Riêng nhóm 1

(Xác định hình thức ngữ âm), nhóm 2 (Xác định các kiểu từ ) và nhóm 5 (Hiểu nghĩa của từ) có

điểm trung bình điều hòa thấp nhất. Điều đó chứng tỏ: khả năng nhận thức, phân biệt cách viết và

phát âm của những đơn vị ngữ âm khi được kết hợp thành từ, trí nhớ từ, vốn từ vựng, khả năng dự

đoán từ, hiểu, so sánh, phân biệt nghĩa của từ trong ngữ cảnh của học sinh chưa tốt.

Phân loại mức độ trí tuệ ngôn ngữ của HS khối 6 trên bài TNTTNN

Bảng 2.22: Phân loại mức độ trí tuệ ngôn ngữ của HS khối 6 trên bài TNTTNN

Tần số (F) Tần số (F) Mức trí tuệ

Điểm thô (X) Điểm thô (X) Chỉ số thông minh (IQ) Chỉ số thông minh (IQ)

Thông minh

Điểm tiêu chuẩn (Z) 2,00 1,87 1,73 1.60 61 60 59 58 2 1 2 4 57 56 55 54 130 128 126 124 Điểm tiêu chuẩn (Z) 1,47 1,33 1,20 1,06 122 120 118 116

Trung bình

53 52 51 50 49 48 47 5 10 6 17 12 23 15 7 3 7 3 Tổng cộng: 29, chiếm 13.36% 12 14 5 9 7 4 3 114 112 110 108 106 104 102 45 44 43 42 41 40 39 0,93 0,80 0,66 0,53 0,39 0,26 0,12 -0,13 -0,27 -0,40 -0,54 -0,67 -0,81 -0,94 98 96 94 92 90 88 86

46 14 -0,00 100

Yếu

76 74 70

-1,61 -1,75 -2,01 38 37 36 35 6 1 6 7 -1,07 -1,21 -1,34 -1,48 84 82 80 78 34 33 31

28 27 26 1 2 1 25 20 15 64 62 60 -2,42 -2,55 -2,68 -2,82 -3,49 -4,16 58 Kém và Rất 48 kém 38

Tổng cộng: 156, chiếm 71.89% 2 1 1 Tổng cộng: 24, chiếm 11.06% 2 1 1 Tổng cộng: 8, chiếm 3.69%

Kết quả từ bảng 2.22 cho thấy trí tuệ ngôn ngữ của học sinh khối 6, quận 5 có 5 loại: thông

minh, trung bình, yếu, kém và rất kém. Trong đó:

- 29 học sinh thông minh về ngôn ngữ với điểm TN từ 54 đến 61 và IQ tương ứng từ 116 đến

130, chiếm 13,36%.

- 156 học sinh với điểm TN từ 39 đến 53, xếp loại trung bình, chiếm 71,89%.

- 24 học sinh xếp loại yếu, có điểm TN từ 31 đến 38, chiếm 11,06%

- 6 em loại kém và 2 em loại rất kém, có điểm TN từ 15 đến 28, chiếm 3,69%

180

156 (71,89%)

160

140

120

100 80

h n i s c ọ h g n ợ ư

60

l ố S

29 (13,36%)

40

24 (11,06%)

8 (3,69%)

20

0

Thông minh

Trung bình

Yếu

Kém và Rất kém

Mức độ trí tuệ ngôn ngữ (theo chỉ số IQ)

Biểu đồ 2.6: Biểu đồ phân loại mức độ trí tuệ ngôn ngữ của học sinh khối 6 trên bài TNTTNN

Biểu đồ phân loại mức độ trí tuệ ngôn ngữ của HS khối 6 theo điểm IQ (biểu đồ 2.6) cho thấy:

loại trung bình chiếm tỉ lệ cao nhất (71,89%), kế đến là loại thông minh (13,36%), đứng thứ 3 là loại

yếu (11,06%) và sau cùng là loại kém và rất kém (3,69%). Như vậy, đa phần học sinh khối 6, quận 5

có mức trí tuệ ngôn ngữ trung bình, phù hợp với giả thuyết đề ra.

Bảng 2.23: Kiểm nghiệm K-S điểm IQ của HS khối 6 theo bài TNTTNN

K-S P

Số học sinh (N) Điểm IQ thấp nhất Điểm IQ cao nhất Điểm TBC IQ ĐLTC IQ Kết luận

217 38 130 100,09 14,90 1,69 0,00 Phân bố chưa chuẩn

*Mức ý nghĩa: 0,05

Ta sử dụng kiểm nghiệm Kolmogorov – Smirnov để xét tính chuẩn của phân bố điểm IQ trên

bài TN trí tuệ ngôn ngữ với khách thể là học sinh khối 6. Tuy rằng điểm trung bình cộng IQ và độ

lệch chuẩn điểm IQ đều gần bằng trung bình cộng và độ lệch chuẩn của phân bố chuẩn lý thuyết.

Thế nhưng, kết quả kiểm nghiệm cho thấy: P=0,00<0,05. Như vậy, ta chấp nhận giả thuyết H1 cho

rằng phân bố trên chưa phải phân bố chuẩn.

 Kết quả mức độ phát triển trí tuệ ngôn ngữ của HS khối 6 theo giới tính

Kết quả theo điểm trung bình bài TNTTNN theo giới tính

Bảng 2.24: Kết quả điểm trung bình bài TNTTNN của HS khối 6 theo giới tính

Tiêu chí ĐLTC T P

Giới tính Điểm TBC Kết luận

Toàn bài TN -4,75 0,00

-3,31 0,00

-5,75 0,00 Có KB Có KB Có KB

-1,58 0,12 Không

-5,82 0,00

-2,62 0,01

-2,90 0,00 KB Có KB Có KB Có KB

-0,31 0,76 Không KB

-0,82 0,42 Không Nhóm 1 (Xác định hình thức ngữ âm) Nhóm 2 (Xác định các kiểu từ) Nhóm 3 (Xác định các thành phần câu) Nhóm 4 (Đặt dấu câu đúng vào ngoặc đơn) Nhóm 5 (Hiểu nghĩa của từ) Nhóm 6 (Hiểu nghĩa của câu) Nhóm 7 (Tìm từ khác nhóm) Nhóm 8 (Xác định biện pháp tu từ) KB Nam Nữ Nam Nữ Nam Nữ Nam Nữ Nam Nữ Nam Nữ Nam Nữ Nam Nữ Nam Nữ 43,35 48,11 4,07 4,75 4,54 5,80 6,23 6,59 5,93 7,02 3,72 4,19 6,33 6,98 4,41 4,47 8,11 8,31 7,99 6,30 1,53 1,45 1,69 1,51 1,81 1,45 1,61 0,99 1,36 1,24 1,62 1,63 1,39 1,28 1,93 1,71

* Số lượng nam: 94; Số lượng nữ: 123

*Mức ý nghĩa: 0,05

-Xét theo nhóm ta thấy: cả 8 nhóm khả năng, điểm trung bình cộng của nữ đều cao hơn nam.

Trong 8 nhóm ấy, có đến 5 nhóm khả năng thể hiện sự khác biệt giữa nam và nữ. Cụ thể là: khả

năng Xác định hình thức ngữ âm (nhóm 1), Xác định các kiểu từ (nhóm 2), Đặt dấu câu đúng vào

ngoặc đơn (nhóm 4), Hiểu nghĩa của từ (nhóm 5), Hiểu nghĩa của câu (nhóm 6).

-Xét theo toàn bài TN, điểm trung bình của nữ cũng cao hơn so với nam. Kiểm nghiệm T cũng

cho thấy có sự khác biệt rõ rệt giữa nam và nữ (P = 0,00 < 0,05).

Tóm lại, theo điểm trung bình trắc nghiệm, nam và nữ có sự khác biệt nhau về khả năng ngôn

ngữ, cụ thể là nữ có khả năng ngôn ngữ tốt hơn nam.

Phân loại mức độ trí tuệ ngôn ngữ của nam sinh và nữ sinh khối 6 trên bài TNTTNN

Bảng 2.25: Phân loại mức độ trí tuệ ngôn ngữ của nam sinh khối 6 trên bài TNTTNN

Mức trí tuệ Tần số (F) Tần số (F)

Điểm thô (X) Điểm thô (X) Chỉ số thông minh (IQ) Chỉ số thông minh (IQ)

Điểm tiêu chuẩn (Z) 1,70 1,45 57 55 2 2 53 52 126 122 Điểm tiêu chuẩn (Z) 1,20 1,08 118 116 Thông minh

51 50 49 48 47 46 45 44 3 7 5 6 6 6 3 6 0,95 0,83 0,70 0,58 0,45 0,33 0,20 0,08 114 112 111 109 107 105 103 101 43 42 41 40 39 38 37 36 -0,04 -0,16 -0,29 -0,41 -0,54 -0,67 -0,79 -0,92 99 97 96 94 92 90 88 86

Trung bình Yếu

35 34 33 5 1 1 3 5 Tổng cộng 12, chiếm 12,77% 2 5 4 2 2 5 1 5 Tổng cộng 68, chiếm 72,34% 1 1 31 28 84 82 81 -1,04 -1,17 -1,29 -1,54 -1,92 77 71

Tổng cộng 9, chiếm 9,57%

Kém 27 26 1 1 -2,04 -2,17 69 67 25 20 1 1 -2,29 -2,92 66 56

Tổng cộng 4, chiếm 4,26%

15 1 -3,54 47 Rất kém Tổng cộng 1, chiếm 1,06%

Bảng phân loại mức độ trí tuệ ngôn ngữ của nam sinh cho thấy:

Nam sinh khối 6, quận 5 có 5 mức trí tuệ ngôn ngữ: thông minh, trung bình, yếu, kém và rất

kém. Cụ thể như sau:

-12 HS nam được xếp loại TM có điểm TN từ 52 đến 57, tương ứng IQ từ 116 đến 126, chiếm

12,77%.

-68 HS được xếp loại trung bình có điểm TN từ 36 đến 51, với IQ từ 86 đến 114, chiếm

72,34%.

-9 HS bị xếp loại yếu có điểm TN từ 28 đến 35, tương ứng với IQ từ 71 đến 84, chiếm 9,57%.

-4 HS bị xếp loại kém có điểm TN từ 20 đến 27, tương ứng với IQ từ 56 đến 69, chiếm 4,26%.

-1 HS loại rất kém có điểm TN là 15, tương ứng với IQ là 47, chiếm 1,06%.

Bảng 2.26: Phân loại mức độ trí tuệ ngôn ngữ của nữ sinh khối 6 trên bài TNTTNN

Điểm thô Tần số (F) Điểm tiêu Chỉ số thông Điểm thô Tần số (F) Điểm tiêu Chỉ số thông Mức trí tuệ

(X) (X)

minh (IQ)

61 chuẩn (Z) 2,04 131 chuẩn (Z) 2 minh (IQ) Xuất sắc Tổng cộng 2, chiếm 1,63%

Thông minh 60 59 58 1,88 1,72 1,56 57 56 55 128 126 124 1,41 1,25 1,09 121 119 116 1 2 4

Trung bình

54 53 52 51 50 49 48 0,93 0,77 0,61 0,45 0,30 0,14 -0,01 114 112 109 107 105 102 100 47 46 45 44 43 42 -0,17 -0,33 -0,49 -0,65 -0,81 -0,97 97 95 93 90 88 85 3 2 5 3 10 7 17

41 40 39 5 3 5 Tổng cộng 20, chiếm 16,26% 9 8 9 8 3 4 Tổng cộng 88, chiếm 71,54% 1 1 38 36 83 81 78 -1,12 -1,28 -1,44 -1,60 -1,92 76 71 3 2 1 Yếu Tổng cộng 8, chiếm 6,50%

35 -2,08 69 34 -2,24 66 Kém 1 2

Tổng cộng 3, chiếm 2,44%

27 -3,35 50 25 -3,66 1 1

45 Rất kém Tổng cộng 2, chiếm 1,63%

Bảng phân loại mức độ trí tuệ ngôn ngữ của nữ cho thấy:

Nữ sinh khối 6, quận 5 có 6 mức trí tuệ ngôn ngữ: xuất sắc, thông minh, trung bình, yếu, kém

và rất kém được thể hiện cụ thể như sau:

-2 nữ sinh được xếp loại XS có điểm TN là 61, tương ứng với IQ là 131, chiếm 1,63% tổng số

học sinh nữ được khảo sát.

-20 nữ sinh được xếp loại TM có điểm TN từ 55 đến 60, tương ứng IQ từ 116 đến 128, chiếm

16,26%.

-88 nữ sinh được xếp loại trung bình có điểm TN từ 42 đến 54, với IQ từ 85 đến 114, chiếm

71,54%.

-8 nữ sinh bị xếp loại yếu có điểm TN từ 36 đến 41, tương ứng với IQ từ 71 đến 78, chiếm

6,50%.

-3 nữ sinh bị xếp loại kém có điểm TN là 34 và 35, tương ứng với IQ là 66 và 69, chiếm

2,44%.

-2 nữ sinh bị xếp loại rất kém có điểm TN là 25 và 27, tương ứng với IQ là 45 và 50, chiếm

1,63%.

Biểu đồ 2.7: So sánh mức độ trí tuệ ngôn ngữ của HS nam và nữ khối 6 trên bài TNTTNN theo từng

giới

80

72,34

71,54

70

60

Nam Nữ

50

%

40

ệ l

ỷ T

30

16,26

20

12,77

9,57

6,50

10

1,63

4,26

1,63

1,06

2,44

0

Xuất sắc Thông minh Trung bình

Yếu

Kém

Rất kém

Mức độ trí tuệ theo từng giới tính

Theo tiêu chí từng giới tính, biểu đồ 2.7 cho thấy: mức độ xuất sắc chỉ có ở nữ. Ở mức độ

thông minh, nữ chiếm tỉ lệ cao hơn nam. Ở mức trung bình, 2 nhóm nam và nữ gần bằng nhau.

Riêng mức độ yếu và kém, nam cao hơn nữ. Tuy nhiên, bảng 2.27 cho thấy: điểm trung bình IQ cả 2

nhóm chênh lệch nhau không nhiều. Kiểm nghiệm T về điểm IQ trung bình cũng chưa khẳng định

được: có sự khác biệt về khả năng ngôn ngữ giữa nam và nữ.

Bảng 2.27: So sánh điểm trung bình IQ của HS nam và nữ khối 6 theo bài TNTTNN

T P Tiêu chí Giới tính ĐLTC IQ Kết luận

Số học sinh 94 Điểm TBC IQ 94,70 15,98 IQ cao nhất 122 IQ thấp nhất 38 Nam -4,75 0,00 Có KB

Nữ 123 104,21 12,61 130 58

Nam 94 99,95 15,01 126 -0,05 0,96 Không 47 KB Nữ 123 100,04 15,04 131 45 Theo mẫu chung Theo từng giới tính

*Mức ý nghĩa: alpha= 0,05

Theo tiêu chí mẫu chung, điểm trung bình IQ của nữ cao hơn nam gần 10 điểm. Với mức ý

nghĩa P = 0,00 <0,05, kiểm nghiệm T cho thấy: có sự khác biệt ý nghĩa về điểm IQ trung bình giữa

nam và nữ. Biểu đồ 2.8 cũng cho thấy: ở mức thông minh và trung bình, nữ có tỉ lệ % cao hơn nam.

Nhưng ở mức yếu và kém, nữ lại có tỉ lệ % thấp hơn nam. Và đặc biệt, ở mức rất kém, nữ không có.

Kết quả từ biểu đồ 2.8 và điểm trung bình cho ta kết luận: mức độ trí tuệ ngôn ngữ của nữ cao hơn

nam.

80

73,98

69,15

70

60

%

50

Nam Nữ

40

ệ l ỷ T

30

20,33

20,21

20

10

4,25

4,26

4,06

2,13

1,63

0

Thông minh

Trung bình

Yếu

Kém

Rất kém

Mức độ trí tuệ theo mẫu chung

Biểu đồ 2.8: So sánh mức độ trí tuệ ngôn ngữ của nam và nữ HS khối 6 trên bài TNTTNN theo mẫu

chung

 Kết quả mức độ phát triển TTNN của HS khối 6 theo trường

Kết quả điểm trung bình bài TNTTNN theo trường

Kết quả bảng 2.28 cho thấy:

-Ở tất cả các nhóm khả năng, điểm trung bình cộng của trường THSG đều cao hơn so với

trường KĐ. Trong số 8 nhóm khả năng thì có đến 5 nhóm thể hiện sự khác biệt ý nghĩa về điểm

trung bình giữa 2 trường. Cụ thể là: khả năng Xác định hình thức ngữ âm (nhóm 1), Xác định các

kiểu từ (nhóm 2), Đặt dấu câu đúng vào ngoặc đơn (nhóm 4), Hiểu nghĩa của từ (nhóm 5), Hiểu

nghĩa của câu (nhóm 6)

-Xét theo toàn bài TN, ta thấy: trường THSG có điểm trung bình cao hơn so với trường KĐ.

Kiểm nghiệm T với mức ý nghĩa P=0,00<0,05 cho thấy: có sự khác biệt ý nghĩa về điểm trung bình

giữa 2 trường. Hay nói cách khác, trường THSG có khả năng ngôn ngữ cao hơn trường KĐ.

Bảng 2.28: Kết quả điểm trung bình bài TNTTNN của HS khối 6 theo trường

Tiêu chí ĐLTC T P Trường Điểm TBC Kết luận

Toàn bài TN 5,24 0,00

TNSG KĐ TNSG 47,96 42,78 4,89 5,94 0,00 6,70 7,58 1,37 Nhóm 1 (Xác định hình thức ngữ âm) Có KB Có KB

KĐ TNSG 3,71 5,57 3,67 0,00 1,48 1,57 Nhóm 2 (Xác định các kiểu từ) Có KB KĐ 4,71 1,80

0,78 0,44 Không

Nhóm 3 (Xác định các thành phần câu) KB TNSG KĐ 6,50 6,33 1,62 1,62

TNSG 6,82 1,12 3,53 0,00

Nhóm 4 (Đặt dấu câu đúng vào ngoặc đơn) Có KB KĐ 6,08 1,70

TNSG 4,35 1,12 5,42 0,00

Nhóm 5 (Hiểu nghĩa của từ) Có KB KĐ 3,36 1,39

4,21 0,00

Có KB

1,25 0,21 Không Nhóm 6 (Hiểu nghĩa của câu) Nhóm 7 (Tìm từ khác nhóm) KB

0,21 0,83 Không Nhóm 8 (Xác định biện pháp tu từ) KB TNSG KĐ TNSG KĐ TNSG KĐ 7,04 6,10 4,53 4,30 8,24 8,19 1,58 1,61 1,18 1,55 1,84 1,76

*Số học sinh trường TNSG: 137; Số học sinh trường KĐ: 80

*Mức ý nghĩa: alpha = 0,05

Phân loại mức độ trí tuệ NN của HS khối 6 ở các trường theo bài TNTTNN

Bảng phân loại mức độ trí tuệ ngôn ngữ của trường THSG (bảng 2.29) cho thấy:

HS trường THSG có 5 mức trí tuệ ngôn ngữ: thông minh, trung bình, yếu, kém và rất kém.

-23 HS được xếp loại TM có điểm TN từ 55 đến 61, tương ứng IQ từ 116 đến 129, chiếm

16,79%.

-95 HS TB có điểm TN từ 42 đến 54, với IQ từ 87 đến 114, chiếm 69,34%.

-15 HS yếu có điểm trắc nghiệm từ 35 đến 41, tương ứng IQ từ 71 đến 84, chiếm 10,95%.

-2 HS kém có điểm TN là 28 và 33, tương ứng IQ là 55 và 67, chiếm 1,46%.

-2 HS rất kém có điểm trắc nghiệm là 20 và 27, tương ứng IQ là 37 và 53, chiếm 1,46%.

Bảng 2.29: Phân loại mức độ trí tuệ ngôn ngữ của HS khối 6 trường THSG theo bài TNTTNN

Tần số (F) Tần số (F) Mức trí tuệ Điểm thô (X) Điểm thô (X)

Chỉ số thông minh (IQ) Chỉ số thông minh (IQ)

Thông minh

Điểm tiêu chuẩn (Z) 1,94 1,79 1,64 1,49 61 60 59 58 2 1 2 3 57 56 55 129 127 125 122 Điểm tiêu chuẩn (Z) 1,34 1,20 1,05 120 118 116

54 53 52 51 50 49 48 3 3 9 6 11 6 18 7 3 5 Tổng cộng 23 chiếm 16,79% 13 5 8 7 2 4 114 111 109 107 105 102 100 47 46 45 44 43 42 0,90 0,75 0,60 0,45 0,30 0,15 0,00 -0,14 -0,29 -0,44 -0,59 -0,74 -0,89 98 96 93 91 89 87 Trung bình

Yếu

75 73 71

4 4 1 1 -1,03 -1,18 -1,33 -1,48 37 36 35 84 82 80 78 -1,63 -1,78 -1,93 41 40 39 38

1 Tổng cộng 95, chiếm 69,34% 1 2 2 Tổng cộng 15, chiếm 10,95% 1 -2,23 28 67 -2,97 55 Kém 33

Tổng cộng 2, chiếm 1,46%

1 -3,12 53 20 1 -4,17 27 37 Rất kém Tổng cộng 2, chiếm 1,46%

Bảng 2.30: Phân loại mức độ trí tuệ ngôn ngữ của HS khối 6 trường KĐ theo bài TNTTNN

Mức trí tuệ Tần số (F) Tần số (F) Điểm thô (X) Điểm thô (X) Chỉ số thông minh (IQ) Chỉ số thông minh (IQ)

1 2 Điểm tiêu chuẩn (Z) 2,00 1,61 130 124 53 52 2 1 Điểm tiêu chuẩn (Z) 1,34 1,21 120 118 58 55 Thông minh Tổng cộng 6, chiếm 7,50%

6 6 5 2 9 4 7 0,95 0,82 0,68 0,55 0,42 0,29 0,16 43 42 41 39 38 36 35 114 112 110 108 106 104 102 0,02 -0,10 -0,23 -0,49 -0,63 -0,89 -1,02 100 98 96 93 91 87 85 50 49 48 47 46 45 44

Trung bình

2 3 5 3 2 5 4 5 Tổng cộng 66, chiếm 82,50% 1 31 83 -1,15 -1,55 77 34

Tổng cộng 3, chiếm 3.75%

Yếu 65 Kém

-2,34 27 26 25 1 1 -2,08 -2,21 69 67 2

Tổng cộng 4, chiếm 5%

1 -3,66 45 15

Tổng cộng 1, chiếm 1,25%

Rất Kém Bảng phân loại mức độ trí tuệ ngôn ngữ của trường KĐ (bảng 2.30) cho thấy:

HS trường KĐ cũng có 5 mức trí tuệ ngôn ngữ. Cụ thể như sau:

-6 HS được xếp loại TM có điểm TN từ 52 đến 58, với IQ từ 118 đến 130, chiếm 7,50%.

-66 học sinh trung bình có điểm TN từ 35 đến 50, với IQ từ 85 đến 114, chiếm 82,50%.

-3 HS yếu có điểm TN từ 31 đến 34, với IQ từ 77 đến 83, chiếm 3,75%.

-4 HS kém có điểm TN từ 25 đến 27, với IQ từ 65 đến 69, chiếm 5%.

-1 HS rất kém có điểm TN là 15, với IQ là 45, chiếm 1,25%.

Biểu đồ 2.9: So sánh mức độ trí tuệ ngôn ngữ của HS khối 6 trường THSG và KĐ trên bài TNTTNN

90

82,50

80

69,34

70

60

THSG KĐ

%

50

40

ệ l ỷ T

30

16,79

20

10,95

7,50

5

10

3,75

1,46

1,46

1,25

0

Thông minh

Trung bình

Yếu

Kém

Rất kém

Mức độ trí tuệ ngôn ngữ theo từng trường

theo tiêu chí từng trường

Biểu đồ phân loại mức độ TTNN của học sinh lớp 6 theo từng trường thể hiện rõ: cả 2 trường

đều có 5 mức trí tuệ: thông minh, trung bình, yếu, kém và rất kém. Tuy nhiên, ở mức thông minh và

yếu, trường THSG có tỉ lệ phần trăm cao hơn hẳn so với trường KĐ. Riêng mức trung bình và kém,

trường KĐ lại cao hơn trường THSG. Ở loại rất kém, 2 trường xấp xỉ bằng nhau. Thế nhưng, bảng

2.31 lại cho thấy: theo tiêu chí từng trường, IQ trung bình của 2 trường cũng xấp xỉ bằng nhau.

Kiểm nghiệm T chưa khẳng định: có sự khác biệt về khả năng NN của 2 trường

Bảng 2.31: So sánh điểm trung bình IQ của HS các trường theo bài TNTTNN

Trường T P

Tiêu chí TBC IQ ĐLTC IQ Kết luận

THSG Số học sinh 137 103,91 13,39 IQ cao nhất 130 IQ thấp nhất 48 5,24 0,00 Có KB

KĐ 80 93,55 15,15 124 38

THSG 137 99,99 15,03 129 0,06 0,95 Không 37 KB KĐ 80 99,85 14,78 130 45 Theo mẫu chung Theo từng trường

Xét theo mẫu chung, ta thấy: điểm trung bình IQ của trường THSG cao hơn hẳn so với trường

KĐ. Kiểm nghiệm T với P = 0,00<0,05 cũng khẳng định: có sự khác biệt ý nghĩa về IQ trung bình

giữa 2 trường. Thêm vào đó, biểu đồ 2.10 thể hiện: ở mức thông minh và trung bình, trường THSG

đều có tỉ lệ % cao hơn hẳn so với trường KĐ. Nhưng ở mức yếu, kém và rất kém thì trường KĐ lại

cao hơn so với trường THSG.

Từ những kết quả trên, ta có thể kết luận: trường THSG có mức độ trí tuệ ngôn ngữ cao hơn

trường KĐ.

Biểu đồ 2.10: So sánh mức độ trí tuệ ngôn ngữ của HS khối 6 của trường THSG và KĐ trên bài

80

73,72

68,75

70

60

50

%

THSG KĐ

40

ệ l ỷ T

30

21,25

18,98

20

10

5,11

5

3,75

1,46

1,25

0,73

0

Thông minh

Trung bình

Kém

Rất kém

Yếu Mức độ trí tuệ ngôn ngữ theo mẫu chung

TNTTNN theo tiêu chí mẫu chung

*Tóm lại:

-Bài TNTTNN có độ tin cậy khá cao và tính vững chãi của điểm số qua các trường tốt. Tuy

nhiên, bài TNTTNN hơi dễ hơn 1 chút so với trình độ của HS.

- Điểm số bài TNTTNN của HS khối 6 tập trung quanh điểm trung bình và khả năng ngữ âm,

ngữ pháp, ngữ nghĩa của HS khối 6 ở mức trung bình trở lên.

-Tuy kiểm nghiệm K –S cho thấy phân bố điểm IQ chưa chuẩn nhưng đa phần khách thể có

mức trí tuệ ngôn ngữ trung bình, phù hợp với giả thuyết đề ra.

-Xét về điểm trung bình và IQ, nữ sinh có khả năng ngôn ngữ tốt hơn nam sinh, HS trường

THSG có khả năng ngôn ngữ tốt hơn HS trường KĐ.

2.3.3. Tương quan giữa bài trắc nghiệm NN và bài trắc nghiệm trí tuệ NN

2.3.3.1. Kết quả tương quan giữa bài TNNN và bài TNTTNN

Hệ số tương quan Pearson R được tính cho bài TNNN và bài TNTTNN được trình bày trong

các bảng sau:

Bảng 2.32: Tương quan giữa tổng điểm bài TNNN và bài TNTTNN

R P Trắc nghiệm NN Trắc nghiệm TTNN

Tổng điểm Tổng điểm Tổng điểm Tổng điểm Kết luận Tổng điểm 0,60(**) 0,00 Có YN Nhóm 1 (Xác định hình thức ngữ âm) 0,33(**) 0,00 Có YN 0,45(**) 0,00 Có YN Nhóm 2 (Xác định các kiểu từ) 0,25(**) 0,00 Có YN Nhóm 3 (Xác định thành phần câu)

Nhóm 4 (Đặt dấu câu đúng) Nhóm 5 (Hiểu nghĩa của từ) Nhóm 6 (Hiểu nghĩa của câu) Nhóm 7 (Tìm từ khác nhóm) Nhóm 8 (Xác định biện pháp tu từ) 0,44(**) 0,00 Có YN 0,33(**) 0,00 Có YN 0,37(**) 0,00 Có YN 0,29(**) 0,00 Có YN 0,41(**) 0,00 Có YN

Tổng điểm Tổng điểm Tổng điểm Tổng điểm Tổng điểm ** Tương quan có ý nghĩa ở mức 0,01 (2 đuôi)

* Tương quan có ý nghĩa ở mức 0,05 (2 đuôi)

Bảng 2.32 cho ta thấy rằng: tổng điểm bài trắc nghiệm NN tương quan thuận với tất cả các tiêu

chí trong bài trắc nghiệm TTNN, cụ thể là với tổng điểm bài TNTTNN và các khả năng: Xác định

hình thức ngữ âm (nhóm 1), Xác định các kiểu từ (nhóm 2), Xác định thành phần câu (nhóm 3), Đặt

dấu câu đúng (nhóm 4), Hiểu nghĩa của từ (nhóm 5), Hiểu nghĩa của câu (nhóm 6), Tìm từ khác

nhóm (nhóm 7), Xác định biện pháp tu từ (nhóm 8). Mức ý nghĩa của tất cả các trường hợp tương

quan trên đều có trị số P = 0,00 < 0,01.

Bảng 2.33 : Tương quan giữa nhóm 1 của bài TNNN và bài TNTTNN

Trắc nghiệm NN Trắc nghiệm TTNN R P

0,29(**) 0,00

0,09

0,39(**) 0,00

0,19(**) 0,00

0,15(*) 0,02

0,09

0,05

0,15(*) 0,02

0,22(**) 0,00 Tổng điểm Nhóm 1 (Xác định hình thức ngữ âm) Nhóm 2 (Xác định các kiểu từ) Nhóm 3 (Xác định thành phần câu) Nhóm 4 (Đặt dấu câu đúng) Nhóm 5 (Hiểu nghĩa của từ) Nhóm 6 (Hiểu nghĩa của câu) Nhóm 7 (Tìm từ khác nhóm) Nhóm 8 (Xác định biện pháp tu từ) Kết luận Có YN 0,18 Không YN Có YN Có YN Có YN 0,17 Không YN 0,43 Không YN Có YN Có YN

Nhóm 1 (Tìm chữ cái thích hợp) Nhóm 1 (Tìm chữ cái thích hợp) Nhóm 1 (Tìm chữ cái thích hợp) Nhóm 1 (Tìm chữ cái thích hợp) Nhóm 1 (Tìm chữ cái thích hợp) Nhóm 1 (Tìm chữ cái thích hợp) Nhóm 1 (Tìm chữ cái thích hợp) Nhóm 1 (Tìm chữ cái thích hợp) Nhóm 1 (Tìm chữ cái thích hợp) ** Tương quan có ý nghĩa ở mức 0,01 (2 đuôi)

* Tương quan có ý nghĩa ở mức 0,05 (2 đuôi)

Bảng 2.33 cho ta kết quả tương quan như sau:

Khả năng Tìm chữ cái thích hợp (nhóm 1) của bài TNNN tương quan có ý nghĩa ở mức 0,01 (2

đuôi) với tổng điểm bài TNTTNN và các khả năng: Xác định các kiểu từ (nhóm 2), Xác định thành

phần câu (nhóm 3) và Xác định biện pháp tu từ (nhóm 8).

Thêm vào đó, khả năng Tìm chữ cái thích hợp của bài TNNN tương quan có ý nghĩa ở mức

0,05 (2 đuôi) với khả năng Đặt dấu câu đúng (nhóm 4) và Tìm từ khác nhóm (nhóm 7) của bài

TNTTNN.

Tuy nhiên, nhóm khả năng trên của bài TNNN không tương quan với khả năng Xác định hình

thức ngữ âm (nhóm 1), khả năng Hiểu nghĩa của từ (nhóm 5) và Hiểu nghĩa của câu (nhóm 6) của

bài TNTTNN.

Bảng 2.34 : Tương quan giữa nhóm 2 của bài TNNN và bài TNTTNN

Trắc nghiệm NN Trắc nghiệm TTNN R P

0,40(**) 0,00 Tổng điểm Kết luận Có YN

0,20(**) 0,00 Nhóm 1 (Xác định hình thức ngữ âm) Có YN

0,31(**) 0,00 Nhóm 2 (Xác định các kiểu từ) Có YN

0,17(*) 0,01 Nhóm 3 (Xác định thành phần câu) Có YN

0,31(**) 0,00 Nhóm 4 (Đặt dấu câu đúng) Có YN

0,22(**) 0,00 Nhóm 5 (Hiểu nghĩa của từ) Có YN

0,24(**) 0,00 Nhóm 6 (Hiểu nghĩa của câu) Có YN

0,19(**) 0,00

Nhóm 7 (Tìm từ khác nhóm) Có YN

0,26(**) 0,00

Có YN Nhóm 8 (Xác định biện pháp tu từ) Nhóm 2 (Hiểu ý nghĩa của câu, thành ngữ, tục ngữ) Nhóm 2 (Hiểu ý nghĩa của câu, thành ngữ, tục ngữ) Nhóm 2 (Hiểu ý nghĩa của câu, thành ngữ, tục ngữ) Nhóm 2 (Hiểu ý nghĩa của câu, thành ngữ, tục ngữ) Nhóm 2 (Hiểu ý nghĩa của câu, thành ngữ, tục ngữ) Nhóm 2 (Hiểu ý nghĩa của câu, thành ngữ, tục ngữ) Nhóm 2 (Hiểu ý nghĩa của câu, thành ngữ, tục ngữ) Nhóm 2 (Hiểu ý nghĩa của câu, thành ngữ, tục ngữ) Nhóm 2 (Hiểu ý nghĩa của câu, thành ngữ, tục ngữ)

** Tương quan có ý nghĩa ở mức 0,01 (2 đuôi)

* Tương quan có ý nghĩa ở mức 0,05 (2 đuôi)

Kết quả tương quan thể hiện ở bảng 2.34 như sau:

Khả năng Hiểu ý nghĩa của câu, thành ngữ, tục ngữ (nhóm 2) của bài TNNN tương quan có ý

nghĩa ở mức 0,01 (2 đuôi) với hầu hết các tiêu chí của bài TNTTNN, cụ thể như: tổng điểm bài

TNTTNN và các khả năng: Xác định hình thức ngữ âm (nhóm 1), Xác định các kiểu từ (nhóm 2),

Đặt dấu câu đúng (nhóm 4), Hiểu nghĩa của từ (nhóm 5), Hiểu nghĩa của câu (nhóm 6), Tìm từ

khác nhóm (nhóm 7), Xác định biện pháp tu từ (nhóm 8). Chỉ duy với khả năng Xác định thành

phần câu (nhóm 3) của bài TNTTNN, nhóm 2 của bài TNNN tương quan có ý nghĩa ở mức 0,05 (2

đuôi). Như vậy, nhóm 2 của bài TNNN tương quan với tất cả các tiêu chí của bài TNTTNN.

Bảng 2.35: Tương quan giữa nhóm 3 của bài TNNN và bài TNTTNN

Trắc nghiệm NN Trắc nghiệm TTNN R P

0,27(**) 0,00

Kết luận Có YN

0,09 0,18 Không YN

0,09 0,15 Không

YN

0,12 0,07 Không

0,18(**) 0,00

0,19(**) 0,00

0,27(**) 0,00

0,14(*) 0,03

0,21(**) 0,00

Nhóm 3 (Tìm từ khác nhóm) Nhóm 3 (Tìm từ khác nhóm) Nhóm 3 (Tìm từ khác nhóm) Nhóm 3 (Tìm từ khác nhóm) Nhóm 3 (Tìm từ khác nhóm) Nhóm 3 (Tìm từ khác nhóm) Nhóm 3 (Tìm từ khác nhóm) Nhóm 3 (Tìm từ khác nhóm) Nhóm 3 (Tìm từ khác nhóm) Tổng điểm Nhóm 1 (Xác định hình thức ngữ âm) Nhóm 2 (Xác định các kiểu từ) Nhóm 3 (Xác định thành phần câu) Nhóm 4 (Đặt dấu câu đúng) Nhóm 5 (Hiểu nghĩa của từ) Nhóm 6 (Hiểu nghĩa của câu) Nhóm 7 (Tìm từ khác nhóm) Nhóm 8 (Xác định biện pháp tu từ) YN Có YN Có YN Có YN Có YN Có YN

** Tương quan có ý nghĩa ở mức 0,01 (2 đuôi)

* Tương quan có ý nghĩa ở mức 0,05 (2 đuôi)

Bảng 2.35 cho ta kết quả:

Khả năng Tìm từ khác nhóm (nhóm 3) của bài TNNN tương quan thuận có ý nghĩa ở mức 0,01

với một số tiêu chí của bài TNTTNN như: tổng điểm, khả năng Đặt dấu câu đúng (nhóm 4), Hiểu

nghĩa của từ (nhóm 5), Hiểu nghĩa của câu (nhóm 6), Xác định biện pháp tu từ (nhóm 8). Riêng với

khả năng Tìm từ khác nhóm (nhóm 7), khả năng Tìm từ khác nhóm (nhóm 3) của bài TNNN tương

quan thuận có ý nghĩa ở mức 0,05.

Đối với các khả năng Xác định hình thức ngữ âm (nhóm 1), Xác định các kiểu từ (nhóm 2),

Xác định thành phần câu (nhóm 3) của bài TNTTNN, khả năng Tìm từ khác nhóm (nhóm 3) của bài

TNNN không có tương quan.

Bảng 2.36 : Tương quan giữa nhóm 4 của bài TNNN và bài TNTTNN

Trắc nghiệm NN Trắc nghiệm TTNN R P

0,37(**) 0,00

Nhóm 4 (Xác định trật tự từ Tổng điểm Kết luận Có YN

trong câu)

0,28(**) 0,00 Nhóm 1 (Xác định hình thức ngữ âm) Có YN

0,29(**) 0,00 Nhóm 2 (Xác định các kiểu từ) Có YN

0,17(*) 0,01 Nhóm 3 (Xác định thành phần câu) Có YN

0,28(**) 0,00 Nhóm 4 (Đặt dấu câu đúng) Có YN

0,18(**) 0,00 Nhóm 5 (Hiểu nghĩa của từ) Có YN

0,18(**) 0,00 Nhóm 6 (Hiểu nghĩa của câu) Có YN

0,18(**) 0,00

Nhóm 7 (Tìm từ khác nhóm) Có YN

0,22(**) 0,00

Nhóm 8 (Xác định biện pháp tu từ) Có YN Nhóm 4 (Xác định trật tự từ trong câu) Nhóm 4 (Xác định trật tự từ trong câu) Nhóm 4 (Xác định trật tự từ trong câu) Nhóm 4 (Xác định trật tự từ trong câu) Nhóm 4 (Xác định trật tự từ trong câu) Nhóm 4 (Xác định trật tự từ trong câu) Nhóm 4 (Xác định trật tự từ trong câu) Nhóm 4 (Xác định trật tự từ trong câu)

** Tương quan có ý nghĩa ở mức 0,01 (2 đuôi)

* Tương quan có ý nghĩa ở mức 0,05 (2 đuôi)

Bảng 2.36 cho thấy:

-Khả năng Xác định trật tự từ trong câu (nhóm 4) của bài TNNN tương quan thuận ở mức ý

nghĩa 0,01 với hầu hết các tiêu chí của bài TNTTNN như: tổng điểm toàn bài TNTTNN, khả năng

Xác định hình thức ngữ âm (nhóm 1), Xác định các kiểu từ (nhóm 2), Đặt dấu câu đúng (nhóm 4),

Hiểu nghĩa của từ (nhóm 5), Hiểu nghĩa của câu (nhóm 6), Tìm từ khác nhóm (nhóm 7), Xác định

biện pháp tu từ (nhóm 8).

-Riêng khả năng Xác định thành phần câu (nhóm 3) của bài TNTTNN, khả năng Xác định trật

tự từ trong câu (nhóm 4) của bài TNNN chỉ tương quan thuận ở mức ý nghĩa 0,05.

Như vậy, khả năng Xác định trật tự từ trong câu (nhóm 4) của bài TNNN tương quan cao với

tất cả các nhóm khả năng trong bài TNTTNN.

Bảng 2.37: Tương quan giữa nhóm 5 của bài TNNN và bài TNTTNN

Trắc nghiệm NN Trắc nghiệm TTNN R P

0,33(**) 0,00 Nhóm 5 (Ghép theo phạm trù) Tổng điểm Kết luận Có YN

0,17(**) 0,00

0,18(**) 0,00 Có YN Có YN

0,11 0,10 Không

0,31(**) 0,00

0,17(*) 0,01

0,18(**) 0,00

0,18(**) 0,00

0,29(**) 0,00 Nhóm 5 (Ghép theo phạm trù) Nhóm 5 (Ghép theo phạm trù) Nhóm 5 (Ghép theo phạm trù) Nhóm 5 (Ghép theo phạm trù) Nhóm 5 (Ghép theo phạm trù) Nhóm 5 (Ghép theo phạm trù) Nhóm 5 (Ghép theo phạm trù) Nhóm 5 (Ghép theo phạm trù) Nhóm 1 (Xác định hình thức ngữ âm) Nhóm 2 (Xác định các kiểu từ) Nhóm 3 (Xác định thành phần câu) Nhóm 4 (Đặt dấu câu đúng) Nhóm 5 (Hiểu nghĩa của từ) Nhóm 6 (Hiểu nghĩa của câu) Nhóm 7 (Tìm từ khác nhóm) Nhóm 8 (Xác định biện pháp tu từ) YN Có YN Có YN Có YN Có YN Có YN

** Tương quan có ý nghĩa ở mức 0,01 (2 đuôi)

* Tương quan có ý nghĩa ở mức 0,05 (2 đuôi)

-Khả năng Ghép theo phạm trù (nhóm 5) của bài TNNN tương quan có ý nghĩa ở mức 0,01 với

các tiêu chí của bài TNTTNN như: tổng điểm, khả năng Xác định hình thức ngữ âm (nhóm 1), Xác

định các kiểu từ (nhóm 2), Đặt dấu câu đúng (nhóm 4), Hiểu nghĩa của câu (nhóm 6), Tìm từ khác

nhóm (nhóm 7), Xác định biện pháp tu từ (nhóm 8).

-Tuy nhiên, khả năng Ghép theo phạm trù (nhóm 5) của bài TNNN tương quan có ý nghĩa ở

mức 0,05 với khả năng Hiểu nghĩa của từ (nhóm 5) của bài TNTTNN và không có tương quan với

khả năng Xác định thành phần câu (nhóm 3) của bài TNTTNN.

Bảng 2.38 : Tương quan giữa nhóm 6 của bài TNNN và bài TNTTNN

Trắc nghiệm NN Trắc nghiệm TTNN R P

0,54(**) 0,00 Tổng điểm Kết luận Có YN

0,31(**) 0,00

Có YN Nhóm 1 (Xác định hình thức ngữ âm)

0,43(**) 0,00

Có YN Nhóm 2 (Xác định các kiểu từ)

0,18(**) 0,00 Không Nhóm 3 (Xác định thành phần câu) YN

0,36(**) 0,00 Nhóm 4 (Đặt dấu câu đúng) Có YN

Nhóm 6 (Tìm từ cùng nghĩa và trái nghĩa) Nhóm 6 (Tìm từ cùng nghĩa và trái nghĩa) Nhóm 6 (Tìm từ cùng nghĩa và trái nghĩa) Nhóm 6 (Tìm từ cùng nghĩa và trái nghĩa) Nhóm 6 (Tìm từ cùng nghĩa và trái nghĩa) Nhóm 6 Nhóm 5 0,35(**) 0,00 Có

(Hiểu nghĩa của từ) YN

0,40(**) 0,00 Nhóm 6 (Hiểu nghĩa của câu) Có YN

0,23(**) 0,00 Nhóm 7 (Tìm từ khác nhóm) Có YN

0,31(**) 0,00

Nhóm 8 (Xác định biện pháp tu từ) Có YN (Tìm từ cùng nghĩa và trái nghĩa) Nhóm 6 (Tìm từ cùng nghĩa và trái nghĩa) Nhóm 6 (Tìm từ cùng nghĩa và trái nghĩa) Nhóm 6 (Tìm từ cùng nghĩa và trái nghĩa)

** Tương quan có ý nghĩa ở mức 0,01 (2 đuôi)

* Tương quan có ý nghĩa ở mức 0,05 (2 đuôi)

Kết quả ở bảng 2.38 cho thấy:

Khả năng Tìm từ cùng nghĩa và trái nghĩa (nhóm 6) của bài TNNN tương quan thuận cao với

tất cả các tiêu chí của bài TNTTNN, cụ thể như: tổng điểm bài TNTTNN, khả năng Xác định hình

thức ngữ âm (nhóm 1), Xác định các kiểu từ (nhóm 2), Xác định thành phần câu (nhóm 3), Đặt dấu

câu đúng (nhóm 4), Hiểu nghĩa của từ (nhóm 5), Hiểu nghĩa của câu (nhóm 6), Tìm từ khác nhóm

(nhóm 8). Tất cả các tương quan đều có trị số P = 0,00 < 0,01.

*Tóm lại:

Xét theo tiêu chí nhóm, ta thấy:

Đa phần các nhóm khả năng trong bài TNNN đều tương quan thuận với các nhóm khả năng

trong bài TNTTNN, ngoại trừ một số ít trường hợp sau:

-Nhóm khả năng Tìm chữ cái thích hợp (nhóm 1) của bài TNNN không tương quan với nhóm

khả năng Xác định hình thức ngữ âm (nhóm 1), Hiểu nghĩa của từ (nhóm 5), Hiểu nghĩa của câu

(nhóm 6) của bài TNTTNN.

-Nhóm khả năng Tìm từ khác nhóm (nhóm 3) của bài TNNN không tương quan với nhóm khả

năng Xác định hình thức ngữ âm (nhóm 1), Xác định các kiểu từ (nhóm 2), Xác định các thành phần

của câu (nhóm 3) của bài TNTTNN.

-Nhóm khả năng Ghép theo phạm trù (nhóm 5) của bài TNNN không tương quan với nhóm

khả năng Xác định các thành phần của câu (nhóm 3) của bài TNTTNN.

Tuy nhiên, xét về tiêu chí toàn bài, tổng điểm bài TNNN đều tương quan thuận với tất cả các

nhóm khả năng của bài TNTTNN và ngược lại, tổng điểm bài TNTTNN cũng tương quan thuận với

tất cả các nhóm khả năng của bài TNNN. Đặc biệt, tổng hai bài trắc nghiệm tương quan thuận khá

cao với R = 0,60 và mức ý nghĩa P = 0,00< 0,01.

Những kết quả trên cho ta kết luận: bài TNTTNN và bài TNNN tương quan thuận cao. Điều đó

có nghĩa là 2 bài trắc nghiệm này có giá trị đồng thời, hay nói cách khác, chúng cùng đo một thứ, đó

là: trí tuệ ngôn ngữ. Thêm vào đó, nếu HS có điểm bài TNNN cao thì cũng sẽ có điểm bài TNTTNN

cao.

2.3.3.2. Dự đoán điểm bài trắc nghiệm trí tuệ NN theo bài trắc nghiệm NN

Theo phương trình tiên đoán, ta có: y = b + ax. Như vậy, phương trình hồi quy dự báo điểm số

bài trắc nghiệm trí tuệ ngôn ngữ dựa vào bài trắc nghiệm ngôn ngữ là:

Điểm TNTTNN = 19,409 + 0,957*điểm TNNN

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

Kết luận

1. Về nghiên cứu lý luận

Trên cơ sở kế thừa, hệ thống hóa những lý luận của các nhà khoa học đi trước, luận văn đã góp

phần làm sáng tỏ định nghĩa trí tuệ, định nghĩa trí tuệ ngôn ngữ. Từ đó, cũng đã đưa ra cấu trúc trí

tuệ, đặc điểm trí tuệ ngôn ngữ, vai trò của trí tuệ ngôn ngữ, một số biểu hiện của phát triển trí tuệ

ngôn ngữ ở HS khối 6…Trên cơ sở những lý luận được nghiên cứu, tác giả đã xây dựng trắc nghiệm

đo lường trí tuệ ngôn ngữ có tính tin cậy và tính giá trị cao.

2. Về khảo sát thực trạng

Từ kết quả khảo sát thực tiễn, chúng tôi đưa ra nhận xét như sau:

2.1. Bài TNNN có độ tin cậy khá cao. Mức độ phát triển trí tuệ ngôn ngữ của HS khối 6, quận

5, thành phố Hồ Chí Minh trên bài trắc nghiệm ngôn ngữ đa phần ở mức trung bình. Phân bố điểm

số bài TNNN của HS khối 6, thành phố Hồ Chí Minh theo xu hướng phân bố chuẩn.

2.2. Bài TNTTNN có độ tin cậy khá cao và có tương quan cao với bài TNNN nên có tính giá

trị trong việc đo lường khả năng ngôn ngữ của HS khối 6, quận 5, thành phố Hồ Chí Minh. Mức độ

phát triển trí tuệ ngôn ngữ của HS khối 6, quận 5, thành phố Hồ Chí Minh trên bài trên bài

TNTTNN cũng đa phần ở mức trung bình.

Những kết quả trên cho phép ta khẳng định giả thuyết: mức độ phát triển trí tuệ ngôn ngữ của

HS khối 6, quận 5, thành phố Hồ Chí Minh chủ yếu đạt mức độ trung bình.

2.3. Cả 2 bài TNNN, TNTTNN đều cho thấy nữ sinh khối 6 có khả năng ngôn ngữ cao hơn

nam sinh khối 6. Thêm vào đó, học sinh trường THSG cũng có khả năng ngôn ngữ cao hơn trường

Kim Đồng.

2.4. Có sự tương quan thuận khá cao giữa 2 bài TNNN và TNTTNN. Điều đó chứng tỏ: bài

TNNN có thể giúp dự đoán điểm bài TNTTNN của HS khối 6 bằng phương trình tiên đoán.

Kiến nghị

Để định hướng cho sự phát triển trí tuệ ngôn ngữ của HS khối 6, chúng tôi đưa ra những kiến

nghị sau:

1. Đối với Bộ giáo dục

Theo kết quả nghiên cứu thu nhận được, đa phần HS yếu về khả năng hiểu nghĩa của từ, khả

năng thông hiểu ngôn ngữ ở các tầng lớp nghĩa (nghĩa đen và nghĩa bóng). Thế nhưng, theo cách

phân bố chương trình học Ngữ văn lớp 6 hiện nay, trong suốt 2 học kỳ của cả một năm học, HS khối

6 chỉ được học 2 tiết về “chữa lỗi dùng từ” ở tuần thứ 6 và thứ 7 của chương trình học. Do đó, Bộ

Giáo dục nên tăng cường số lượng tiết học về từ vựng trong chương trình học phổ thông.

Đối với việc rèn luyện ngữ âm, sách giáo khoa lớp 6 có những bài tập dành cho HS. Thêm vào

đó, việc luyện ngữ âm cũng đã bắt đầu cấp Tiểu học. Thế nhưng, các sách giáo khoa đều chưa hệ

thống hóa được những nguyên tắc viết và phát âm đúng những đơn vị ngữ âm. Do đó, Bộ giáo dục

nên lưu ý bổ sung thêm vấn đề này bên cạnh các bài tập rèn luyện để HS dễ tiếp thu và nhớ lâu hơn.

2. Đối với nhà trường

Nhà trường cần có những tiết ngoại khóa giúp học sinh rèn luyện ngôn ngữ. Ví dụ: thi kể

chuyện, thi đố em về ca dao, tục ngữ, vè, thi sáng tác văn thơ mỗi tuần hoặc tháng… để những học

sinh có khả năng ngôn ngữ có cơ hội phát triển và đồng thời khuyến khích các học sinh khác tham

gia rèn luyện ngôn ngữ.

3. Đối với giáo viên

Khi học về ngôn ngữ, đa phần học sinh chưa hiểu rõ những nét nghĩa của từ nên thường sử

dụng từ sai nghĩa và sai phong cách. Giáo viên cần giải thích cặn kẽ những tầng lớp nghĩa của từ để

học sinh tường tận. Bên cạnh đó, giáo viên nên khuyến khích HS sử dụng từ điển Tiếng việt để

kiểm tra những từ chưa hiểu rõ. Đó cũng là một cách tạo cho các em thói quen chủ động tìm tòi, học

hỏi những điều chưa biết. Trong quá trình giảng dạy, giáo viên cần sử dụng nhiều phương pháp dạy

học tích cực để học sinh có cơ hội bộc lộ những suy nghĩ của mình.

4. Đối với các bậc phụ huynh

Giáo dục là sự kết hợp giữa gia đình, nhà trường và xã hội, trong đó, gia đình đóng vai trò

nòng cốt. Do vậy, cha mẹ cần kết hợp với giáo viên, quan sát, phát hiện tiềm năng của con em mình

để bồi dưỡng cho đúng cách. Thêm vào đó, trong gia đình, cha mẹ nên thường xuyên lắng nghe, trò

chuyện, trao đổi với trẻ, khuyến khích trẻ bày tỏ những suy nghĩ của mình. Đó không chỉ là cách kết

nối khăng khít mối quan hệ giữa những người thân trong gia đình mà còn là cách giúp trẻ tự tin sử

dụng ngôn ngữ để diễn đạt những điều mình nghĩ.

5. Đối với các em học sinh

Các em học sinh cần tích cực tham gia các hoạt động ngoại khóa, trao đổi ý tưởng với thầy cô,

cha mẹ, bạn bè. Thêm vào đó, các em nên đọc nhiều sách và tham gia các trò chơi liên quan đến

ngôn ngữ như: ô chữ, điền từ, tìm từ… hoặc viết thư cho bạn bè, viết báo, viết nhật ký…

6. Đối với những nghiên cứu sau

Có thể đi sâu vào việc nghiên cứu trí tuệ ngôn ngữ ở góc độ ngoại ngữ.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tiếng Việt

1. Bùi Minh Toán, Lê A, Đỗ Việt Hùng (1996), Tiếng Việt thực hành, NXB Giáo dục

2. Bùi Đức Tịnh, Văn Phạm Việt Nam, NXB Thành phố Hồ Chí Minh

3. Bùi Ngọc Oánh (1993), Tâm lý học đại cương, tập 3, NXB Đại học Sư Phạm TP.HCM

4. Cao Xuân Hạo (2005), Lỗi ngữ pháp và cách khắc phục, NXB Khoa học Xã hội.

5. Cao Xuân Hạo (1991), Tiếng Việt sơ thảo ngữ pháp chức năng, NXB Khoa học xã hội

6. Chu Bích Thu, Nguyễn Ngọc Trâm, Nguyễn Thị Thanh Nga, Nguyễn Thúy Khanh, Phạm

Hùng Việt (2009), Từ điển tiếng Việt phổ thông, Viện Ngôn Ngữ học

7. Dương Thiệu Tống (1995), Trắc nghiệm và đo lường thành quả học tập, Bộ Giáo dục và đào

tạo.

8. Dương Thiệu Tống (2002), Phương pháp nghiên cứu khoa học giáo dục và tâm lý, tập 1,

NXB Đại học Quốc gia TP.HCM

9. Dương Thiệu Tống (2002), Phương pháp nghiên cứu khoa học giáo dục và tâm lý, tập 2,

NXB Đại học Quốc gia TP.HCM

10. Dương Thiệu Tống (2000), Thống kê ứng dụng trong nghiên cứu khoa học giáo dục, tập 1,

NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.

11. Dương Thiệu Tống (2000), Thống kê ứng dụng trong nghiên cứu khoa học giáo dục, tập 2,

NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.

12. Daniel Goleman (2007), Trí tuệ xúc cảm ứng dụng trong công việc, NXB Tri Thức.

13. Đoàn Văn Điều (1995), Nguyên tắc phân loại mục tiêu giáo dục, NXB Giáo dục.

14. Đuông Ta Mo La Kha Xúc (2002), Nghiên cứu mức độ phát triển trí tuệ của học sinh từ

11đến 15 tuổi và khả năng sử dụng Test Raven ở Lào, Luận án Tiến sĩ, Bộ Giáo dục và Đào

tạo trường Đại học Sư Phạm Hà Nội.

15. Đỗ Thị Nga (2006), Khảo sát năng lực trí tuệ của học sinh lớp 5 tại thị xã Đồng Xoài – tỉnh

Bình Phước năm học 2005- 2006, Luận văn Thạc sĩ Tâm lý học, Bộ giáo dục và đào tạo,

trường Đại học Sư Phạm TP.HCM.

16. Giáo trình đào tạo giáo viên THSP (1998), Rèn kỹ năng sử dụng Tiếng Việt, tập 1, Nhà xuất

bản Giáo dục.

17. Giáo trình đào tạo giáo viên THSP (1998), Rèn kỹ năng sử dụng Tiếng Việt, tập 2, Nhà xuất

bản Giáo dục.

18. Hoàng Trọng, Chu Nguyễn Hồng Ngọc (2005), Phân tích dữ liệu nghiên cứu với SPSS, NXB

Thống Kê.

19. Hoàng Trọng (2002), Xử lý dữ liệu nghiên cứu với SPSS for Windows, NXB Thống Kê.

20. Hoàng Kim Bảo, Nguyễn Hải Châu, Lương Kim Nga, Vũ Nho, Nguyễn Quang Ninh (2007),

Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên cho giáo viên THCS môn Ngữ Văn, quyển 1, Nhà xuất bản

Giáo dục.

21. Hoàng Kim Bảo, Nguyễn Hải Châu, Lương Kim Nga, Vũ Nho, Nguyễn Quang Ninh (2004),

Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên cho giáo viên THCS môn Ngữ Văn, quyển 2, Nhà xuất bản

Giáo dục.

22. Hoàng Dũng, Bùi Mạnh Hùng (2007), Giáo trình dẫn luận ngôn ngữ học, NXB Đại học Sư

Phạm TP.HCM.

23. Hoàng Xuân Tâm, Bùi Tất Tươm (2007), Dạy học Tiếng Việt trung học cơ sở, NXB Giáo

dục.

24. Howard Gardner, Phạm Toàn dịch (1997), Cơ cấu trí khôn, NXB Giáo dục

25. Huỳnh Văn Chẩn (2006), Nghiên cứu mức độ phát triển trí tuệ của học sinh lớp 6 thị xã Bến

Tre, Luận văn Thạc sĩ Tâm lý học, Bộ giáo dục và đào tạo, trường Đại học Sư Phạm

TP.HCM.

26. Lê Thị Minh Hà (2002), Nghiên cứu mức độ phát triển trí tuệ và thể lực của trẻ mẫu giáo 5-6

tuổi, Luận án Tiến sĩ, Bộ Giáo dục và Đào tạo trường Đại học Sư Phạm Hà Nội.

27. Lê Thị Hân, Lý Minh Tiên, Đỗ Hạnh Nga, Trần Thị Thu Mai, Huỳnh Lâm Anh Chương

(2002), Cải biên và định chuẩn trắc nghiệm ngôn ngữ của Hans Eysenck dùng đo trí thông

minh cho trẻ em từ 10 đến 15 tuổi tại thành phố Hồ Chí Minh, Đề tài cấp cơ sở, Bộ giáo dục

đào tạo, trường Đại học Sư Phạm TP.HCM

28. Mai Thị Kiều Phương (2007), Làm văn bằng phương pháp kết cấu và phương pháp diễn đạt,

NXB Đại học quốc gia Hà Nội

29. Mai Thị Kiều Phương (2007), Phương pháp dạy và học kĩ năng làm văn, NXB Đại học quốc

gia Hà Nội.

30. Ngô Công Hoàn (chủ biên) (2007), Những trắc nghiệm tâm lý, tập 1, NXB Đại học Sư Phạm

31. Nguyễn Quang Uẩn (chủ biên) (2001), Tâm lý học đại cương, NXB Đại học quốc gia Hà Nội

32. Nguyễn Công Khanh (2001), Ứng dụng SPSS For Windows xử lý và phân tích dữ liệu trong

các nghiên cứu về giáo dục, y tế, tâm lý và xã hội, NXB Đại học quốc gia Hà Nội

33. Nguyễn Lân (1988), Từ điển từ và ngữ Hán Việt, NXB Văn Học

34. Phạm Hoàng Gia (1979), Bản chất của trí thông minh và cơ sở lý luận của đường lối lĩnh hội

khái niệm, Luận án Phó giáo sư Tiến sĩ, Viện Khoa học giáo dục, Hà Nội.

35. Patricia H.Miler, Vũ Thị Chín dịch (2003), Các thuyết về tâm lý học phát triển, NXB Văn

hóa – Thông tin

36. Phan Trọng Ngọ (chủ biên) (2001), Tâm lý học trí tuệ, NXB Đại học quốc gia Hà Nội

37. Phạm Văn Quyết (2001), Phương pháp nghiên cứu xã hội học, NXB Đại học Quốc gia Hà

Nội

38. P.A. Ruđích (1986), Tâm lý học, NXB Thể dục Thể thao Hà Nội

39. Piaget (1998), Tâm lý học trí khôn, NXB Giáo dục

40. Phạm Minh Hạc, Lê Khanh, Trần Trọng Thủy (1988), Tâm lý học học, tập1, NXB Giáo dục

41. Phan Thị Mỹ Tiên (2007), Rèn luyện kĩ năng sử dụng ngôn ngữ để tạo lập văn bản tự sự cho

học sinh trung học cơ sở, Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học, Bộ giáo dục và đào tạo, trường Đại

học Sư Phạm TP.HCM.

42. Phan Thiều, Rèn luyện ngôn ngữ, tập 2, NXB Giáo dục

43. Robert S.Feldman (2003), Những điều trọng yếu trong tâm lý học, NXB Thống kê

44. Sách Giáo Khoa (2009), Ngữ văn lớp 6, tập 1, Nhà xuất bản Giáo dục

45. Sách Giáo Khoa (2009), Ngữ văn lớp 6, tập 2, Nhà xuất bản Giáo dục

46. Stephen Worchel, Wayne Shebilsue (2007), Tâm lý học nguyên lý và ứng dụng, NXB Lao

động – Xã hội

47. Trần Kiều (chủ biên) (2005), Trí tuệ và đo lường trí tuệ, NXB Chính trị quốc gia Hà Nội

48. Trần Trọng Thủy (1992), Khoa học chẩn đoán tâm lý, NXB Giáo dục.

49. Tô Minh Thanh (2006), Ngữ nghĩa học tiếng Anh, NXB Đại học Quốc gia TP.HCM

50. Trần Hoàng (2004), Logic học nhập môn, NXB Đại học Sư Phạm TP.HCM

51. Thomas Armstrong (2007), 7 loại hình thông minh, NXB Lao Động

52. Vũ Ngọc Khánh (2004), Để dạy và học tốt môn văn, Nhà xuất bản Đại học Sư Phạm

Tiếng Anh

53. May Lwin, Adam Khoo, Kenneth Lyen, Caroline Sim (2003), How to Multiply your child’s

intelligence, Prentice Hall

54. Phillip Carter, Ken Russell (2001), Increase your brainpower, The IQ Workout Series

55. Robert M.Kaplan, Dennis P.Saccuzzo (2001), Psychological testing, Wadsworth

56. Sandra A. McIntire, Leslie A. .Miller (2000), Foundations of Psychological testing, McGraw

Hill.

Trang web

57. www.howardgardner.com

58. www.http://hmt.myweb.uga.edu/webwrite/linguistic.htm

59. www.macmillandictionary.com

60. www.britannica.com

PHỤ LỤC 1 (TRẮC NGHIỆM NGÔN NGỮ)

Các em hãy viết hoặc đánh dấu (X) vào một số thông tin về bản thân dưới đây: Em tên là:…………………………………………. Em là: Nam  Nữ  Em học lớp: Trường: Các em hãy đọc kỹ từng câu dưới đây và chọn một câu trả lời mà các em cho là đúng nhất.

1. Kèn với chơi cũng như sách với…….. a. nghịch b. đọc c. âm nhạc d. tiếng e. giải trí 2.Xe hơi có bánh cũng như ngựa có….. a.chân b. đuôi c.phi d.tầu e.lái

3.Bò với chuồng cũng như người với…….. a.cũi b.sữa c. nhà d. trại e. quán 4. Nàng với chàng cũng như cái với…….. a.con b.ông c. đực d. mẹ 5. Nhà thảo mộc học so với nhà xã hội học cũng như cây cối so với….. a.phụ nữ b. vấn đề c. xã hội d. xã hội học 6. Sợi với vải cũng như dây kẽm với….. a.cứng b hàng rào c.dây neo d. lưới sắt e. kim khí

7. Chim so với cá cũng như máy bay so với…… a.thuyền b. cá mập c. xuồng d. tàu e. tàu ngầm

8.Vệ sinh giúp cho….. a.nước uống b. sức khỏe c. bảo hiểm d. cạnh góc 9. Nếu mọi người đều mặc áo thì những người mập mạp mặc…… a. áo rộng b.áo chật c. áo d. áo sọc 10. Quân Đức quốc xã vơ vét các thành phố bằng cách…… a. bắn phá b. thiêu đốt c. hủy hoại d. cướp bóc e. triệt hạ 11.Các thiếu nữ bao giờ cũng có…….. a. người yêu b. quần áo diện c. nụ cười d. tóc e. mắt mũi

12. Chữ nào tương tự với bất đắc chí? a. bất đắc dĩ b. bất mãn c. bất hòa d. bất tài e. bất lực 13. Nếu một người hoang mang, tức là người ấy……

a. không biết b. tiêu sài c. xúc động d. ngơ ngác 14 . Một sinh viên là một ……. a. thanh niên b. cán bộ c. học sinh d. người học nghề

15. Ngoan cố phản nghĩa với…. a. ngoan ngoãn b. hư hỏng c. phục thiện d. bướng bỉnh

PHỤ LỤC 2 (TRẮC NGHIỆM TRÍ TUỆ NGÔN NGỮ)

Các em hãy viết hoặc đánh dấu (X) vào một số thông tin về bản thân dưới đây: Em tên là:…………………………………………. Em là: Nam  Nữ  Em học lớp: Trường: Các em hãy đọc kỹ từng câu dưới đây và chọn một câu trả lời mà các em cho là đúng nhất. 1. Tìm 1 câu thành ngữ nói về sự cẩn thận trong những câu sau: a. Thâm căn cố đế b.Thất điên bát đảo c.Tiến thoái lưỡng nan d. Cẩn tắc vô ưu Điền từ vào chỗ trống để làm đúng câu thành ngữ 2. ….nói dối a. ăn xin b. ăn chay c.ăn gian d.ăn không

3. Như đổ thêm…….vào lửa a. xăng b. dầu c.nước d.cát

4. Như ……hôm ……mai

a. sao b. trăng c. chiều d. tối 5. Thẳng như ….ngựa

a. chân b. ruột c. đuôi d.thân 6.Ồn như vỡ…. a. chợ b. tổ c.òa d. bát

7.Gan như ….. a. sư tử b.cọp vằn c. cóc tía d. báo đen

8.Cơm dẻo canh….. a. chua b. ngọt c. mặn d. thơm

Tìm từ khác nhóm 9. a. khai hoang b.gặt hái c.buôn bán d.tuốt lúa 10.a. trường phổ thông b.sân trường c.vườn trường d.phòng giáo viên 11.a. máy cày b. vun xới c. làm cỏ d. bón phân 12. a. nhảy cao b. hồ bơi c. chạy bộ d. bơi lội 13.a. ham thích b. ham mê c. ham muốn d. ham hố 14.a. cung cách b. tính cách c. cá tính d. nhân cách