BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP.HỒ CHÍ MINH _________________

NGUYỄN THỊ MỸ LINH NGHIÊN CỨU TỰ ĐÁNH GIÁ CỦA SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH VỀ PHẨM CHẤT NGHỀ NGHIỆP

Chuyên ngành: Tâm lý học Mã số: 60 31 80

LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS.TS. ĐOÀN VĂN ĐIỀU

Thành phố Hồ Chí Minh – 2007

MỞ ĐẦU

1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI

Trong xu thế toàn cầu hoá, Việt Nam đã mở rộng quan hệ đối ngoại theo nền

kinh tế thị trường, đồng thời đang từng bước gia nhập vào nền kinh tế thế giới. Mặt

khác, sự kiện Việt Nam gia nhập WTO đã đặt ra yêu cầu xã hội cần có một đội ngũ

nhân lực trí tuệ để hội nhập nền kinh tế quốc tế. Muốn đạt được mục tiêu đó bước đầu

của khâu đào tạo là cung cấp được nguồn nhân lực có trình độ đáp ứng được nhu cầu

phát triển các mặt của xã hội.

Trong hoạt động của con người, để thực hiện có hiệu quả công việc con

người cần có một số phẩm chất tâm lý đặc trưng phù hợp với hoạt động nghề nghiệp

của mình. Như vậy, vấn đề đặt ra đối với các cơ sở đào tạo, nhất là đối với các trường

đại học – nơi đào tạo các chuyên gia trong những lĩnh vực khoa học công nghệ cần tổ

chức chương trình đào tạo phát triển năng lực nghề nghiệp của mỗi ngành nghề cụ

thể. Có như vậy, sinh viên ra trường mới có những phẩm chất nghề nghiệp phù hợp

và đáp ứng được những đòi hỏi ngày càng cao của thị trường lao động xã hội.

Cùng với sự nghiệp đổi mới và phát triển đất nước, trường Đại học Kinh tế

Thành phố Hồ Chí Minh không ngừng phát triển với nhiều đóng góp lớn lao vào sự

nghiệp xây dựng và phát triển nền kinh tế quốc dân cũng như đã đào tạo và cung cấp

nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế xã hội. Với vị trí là một trường đại

học đào tạo đa ngành thuộc lĩnh vực kinh tế, quy mô đào tạo rất lớn, hơn 45.000 sinh

viên hàng năm (chính quy và không chính quy), vì vậy, vấn đề nghiên cứu tìm hiểu

những phẩm chất nghề nghiệp của sinh viên trường Đại học Kinh tế là cần thiết trong

giai đoạn hiện nay.

Với ý nghĩa nêu trên, chúng tôi thấy đề tài “Nghiên cứu tự đánh giá của sinh

viên trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh về phẩm chất nghề nghiệp” cần

được thực hiện.

2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU

Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và khảo sát thực trạng tự đánh giá của sinh viên

Đại học Kinh tế về phẩm chất nghề nghiệp và một số yếu tố ảnh hưởng đến việc hình

thành các phẩm chất nghề nghiệp, từ đó đề xuất một số biện pháp để hình thành một

số phẩm chất nghề nghiệp cho sinh viên.

3. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU

- Nghiên cứu tài liệu để xác định một số vấn đề lý luận về đặc điểm tâm lý của

sinh viên và phẩm chất nghề nghiệp

- Khảo sát thực trạng tự đánh giá của sinh viên trường Đại học Kinh tế về phẩm

chất nghề nghiệp của ngành kinh tế.

- Đề xuất một số giải pháp nhằm tổ chức nội dung giáo dục phẩm chất nghề

nghiệp cho sinh viên trường Đại học Kinh tế

4. KHÁCH THỂ – ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU

- Khách thể: Sinh viên trường Đại học Kinh tế TP.HCM

- Đối tượng: Sự tự đánh giá một số phẩm chất nghề nghiệp của sinh viên

5. GIẢ THUYẾT NGHIÊN CỨU

Mặc dù đa số sinh viên tự đánh giá về các phẩm chất nghề nghiệp một cách

tích cực và các yếu tố như giới tính, nơi cư trú và việc đi làm thêm có ảnh hưởng

đến kết quả tự đánh giá, nhưng các phẩm chất nghề nghiệp trên cơ sở tự đánh giá

của sinh viên vẫn khác so với yêu cầu mục tiêu đào tạo của trường.

6. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Các phương pháp dưới đây được sử dụng:

6.1. Phương pháp nghiên cứu tài liệu: đọc sách, tham khảo tài liệu và các vấn đề có

liên quan, phục vụ cho việc viết cơ sở lý luận.

6.2. Phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi, gồm:

- 1 phiếu thăm dò mở nhằm tìm hiểu nhận thức của sinh viên về các phẩm chất

nghề nghiệp, được xây dựng trên cơ sở kết quả điều tra sơ bộ ban đầu qua trao đổi

với sinh viên, giáo viên và tham khảo tài liệu

- 1 phiếu thăm dò kín (thang đo) nhằm tìm hiểu mức độ tự đánh giá của sinh

viên về các phẩm chất nghề nghiệp.

6.3. Phương pháp thống kê: phục vụ cho việc xử lý kết quả thu được từ bảng phỏng

vấn, thang đo, bao gồm:

Thống kê tần số (Frequency) -

Tính điểm trung bình (Mean) -

- Phân tích biến lượng (Anova)

So sánh trung bình (F - test) -

trong phần mềm SPSS for Win 11.0

7. GIỚI HẠN VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI

Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu nội dung tự đánh giá của sinh viên qua các

khía cạnh đặc biệt chiếm vị trí quan trọng đối với sự phát triển nhân cách của lứa

tuổi này là những phẩm chất tâm lý phù hợp với nghề nghiệp tương lai của họ như:

đạo đức, học tập, giao tiếp xã hội, ý chí, đặc điểm cá nhân, xu hướng nhân cách và

cảm xúc. Sinh viên được chọn là những người đang chuẩn bị vào Giai đoạn chuyên

ngành (Sinh viên năm thứ 2).

8. CẤU TRÚC LUẬN VĂN

Ngoài nội dung của phần mở đầu và kết luận, đề tài bao gồm 2 chương sau:

Chương 1. Cơ sở lý luận của đề tài.

Chương 2. Thực trạng tự đánh giá về phẩm chất nghề nghiệp của sinh viên trường

Đại học Kinh tế TP.HCM.

CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI

1.1. LỊCH SỬ CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

Từ lâu trong xã hội đã chú trọng đến việc đảm bảo cho lao động nghề có được

những phẩm chất phù hợp với nghề. Để xác định những phẩm chất tâm lý phù hợp

với đặc điểm nghề nghiệp cá nhân, cần phải tính đến những thiên hướng và năng lực

của bản thân; phải biết những phẩm chất cá nhân có phù hợp với những yêu cầu mà

nghề đó quy định hay không; trong đó phải xét đến các khả năng về thể chất, đặc

điểm tính cách, hứng thú, tri thức, kỹ năng, kỹ xảo,… và bao hàm cả lĩnh vực tình

cảm và ý chí.

Để đảm bảo cho con người tham gia vào hoat động nghề nghiệp có được các

phẩm chất tâm lý phù hợp với nghề cao, người ta đã quan tâm ngay từ khâu tuyển

chọn. Năm 1883, nhà Tâm lý học Anh F.Galton đã dùng test chẩn đoán nhân cách để

phục vụ cho việc tư vấn nghề; năm 1908, nhà Tâm lý học Mỹ F.Parsons cũng dùng

test và angket để nghiên cứu năng lực học sinh nhằm mục đích hướng nghiệp; năm

1912, giáo sư G.Munsterberg – Giám đốc phòng thí nghiệm trường Đại học tổng hợp

Harward- đã soạn thảo bảng hướng dẫn tuyển chọn về mặt tâm lý những người làm

nghề điện thoại viên.

Ơ Liên Xô đã có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề này, từ những năm 20

của thế kỷ XX, việc nghiên cứu tâm lý phục vụ cho tuyển chọn, tư vấn và đào tạo

nghề rất được chú trọng. Năm 1921, phòng thí nghiệm tâm lý chuyên nghiên cứu

nhân cách học sinh phục vụ hướng nghiệp được thành lập trong Viện nghiên cứu lao

động trung ương và Viện nghiên cứu lao động toàn Ucraina; năm 1927, Hội nghị toàn

liên bang về tâm sinh lý lao động và tuyển chọn nghề được tổ chức ở Mátxcơva,

nhiều nhà tâm lý học nổi tiếng như E.A.Climôp, V.I.Segurôva… đã đi sâu nghiên cứu

về xu hướng, về hứng thú nghề nghiệp như là phẩm chất quyết định hiệu quả hoạt

động nghề [23, tr.52]; ngoài ra còn có nghiên cứu về mặt tâm lý của một loạt các

nghề phổ biến và xây dựng những phương pháp xác định sự phù hợp nghề nghiệp của

con người. Những nghiên cứu này được tiến hành cho học sinh trước khi bước vào

chọn nghề, để tránh sự lãng phí trong đào tạo khi các em lựa chọn nghề không đúng

với hoàn cảnh thực tế của mình. Từ năm 1970 ở các trường Lêningrat, tiến hành

nghiên cứu nhân cách của học sinh lớn bằng cách phát hiện thiên hướng nghề nghiệp

của các em với sự giúp đỡ của Viện bồi dưỡng Giáo viên,…

Riêng đối với ngành sư phạm, tác giả Ph.N.Gôlôbin có công trình nghiên cứu

về “Những phẩm chất tâm lý của người giáo viên”, ông đã vạch ra được những phẩm

chất tâm lý chủ yếu quyết định sự thành công trong công tác của người giáo viên, qua

đó đề ra những yêu cầu nghề nghiệp làm cơ sở giúp cho sinh viên, giáo viên rèn

luyện và phát triển năng lực sư phạm phù hợp.

Đề tài nghiên cứu “Mối quan hệ giữa khuynh hướng, hứng thú nghề nghiệp và

kết quả học tập của sinh viên học viện Quân y” của tác giả Nguyễn Sinh Phúc được

đăng trên Tạp chí Tâm lý học 5/1999, bàn về mối quan hệ giữa phẩm chất nghề

nghiệp và kết quả học tập. Tác giả tập trung khảo sát mối quan hệ giữa 3 yếu tố

khuynh hướng nghề, hứng thú nghề và kết quả học tập. Tuy nhiên phần tìm hiểu xu

hướng nghề nghiệp trên sinh viên của tác giả khá đơn giản, chỉ điều tra bằng những câu

hỏi về mức độ yêu thích đối với nghề nghiệp chớ không bàn gì đến các phẩm chất nghề

nghiệp.

Đề tài “Nghiên cứu mức độ phù hợp của kỳ thi tuyển sinh vào trường Đại học

Sư phạm Thành phố Hồ Chí minh với kết quả học tập của học sinh ở lớp 12 và kỳ thi

tú tài” do tác giả Đoàn Văn Điều làm chủ nhiệm. Đây là đề tài cấp cơ sở mã số 2000-

06, ĐHSP TPHCM, 2001, do một số giảng viên khoa Tâm lý – Giáo dục của trường

Đại học Sư phạm thực hiện, cũng đề cập đến sự tự đánh giá của sinh viên về xu

hướng nghề nghiệp và kết quả học tập. Công trình tập trung nghiên cứu những vấn đề

xoay quanh đầu vào của sinh viên trúng tuyển vào Đại học Sư phạm năm 2000, trong

đó có vấn đề “tự đánh giá phù hợp với nghề”, “tự đánh giá các phẩm chất sư phạm”

của sinh viên và chỉ số tương quan giữa các yếu tố trên với kết quả học tập bậc phổ

thông và kết quả tuyển sinh đại học. Do khách thể nghiên cứu của đề tài là những

sinh viên năm thứ nhất, nên những đánh giá cũng chưa khái quát cao về các phẩm

chất đặc trưng của nghề sư phạm.

Đề tài khoa học cấp Bộ, mã số B91-38-06, Viện Nghiên cứu phát triển giáo

dục năm 1993, tác giả Mạc Văn Trang có nghiên cứu những yêu cầu tâm lý cơ bản

đối với một số nghề và nghiên cứu trắc đạc tâm lý của cá nhân phù hợp nghề.

Đi từ phân tích hoạt động nghề nghiệp đến những yêu cầu tâm sinh lý của cá

nhân, để đáp ứng đòi hỏi của nghề cần vận dụng nghiên cứu phẩm chất tâm lý phù

hợp nghề. Người lao động phù hợp nghề có ý nghĩa kinh tế và nhân văn to lớn mà

trong thực tế nhiều khi cả xã hội lẫn cá nhân đều chưa ý thức được tầm quan trọng

của nó. Phù hợp nghề sẽ giúp cho giáo dục đào tạo nghề đạt hiệu quả hơn; cá nhân có

phẩm chất tâm lý phù hợp nghề sẽ làm việc với chất lượng, năng suất lao động cao,

người lao động cảm thấy hứng thú, sáng tạo và gắn bó với nghề hơn. Dưới góc độ

nghiên cứu khoa học giáo dục, tác giả Nguyễn Bá Huy nhận thấy rằng: Quá trình đào

tạo học viên sư phạm ở các nhà trường quân đội hiện nay, cần tập trung giáo dục

những phẩm chất cơ bản sau: Thế giới quan khoa học và niềm tin cộng sản chủ nghĩa,

phẩm chất trí tuệ; phẩm chất xúc cảm, tình cảm; phẩm chất ý chí, phẩm chất tổ chức

kỷ luật và đề ra một số biện pháp giáo dục phẩm chất nghề nghiệp nhằm góp phần

quan trọng trong việc nâng cao chất lượng đào tạo toàn diện đội ngũ giáo viên cũng

như hình thành các phẩm chất nghề nghiệp cho giáo viên trong các nhà trường quân

đội hiện nay [17].

Tác giả Đỗ Văn Thọ, Học viện Cảnh sát nhân dân, trong nghiên cứu “Nâng cao

những phẩm chất tâm lý phù hợp nghề cho sinh viên bằng tác động trực tiếp trong

quá trình giảng dạy-tổ chức học tập” trên tạp chí Tâm lý học số 6/2006, ông nhận xét

rằng nếu tạo được sự thống nhất đồng bộ trong giảng dạy các môn học và trong tổ

chức các hoạt động của sinh viên, thì hiệu quả nâng cao các phẩm chất tâm lý phù

hợp nghề cho sinh viên sẽ cao hơn nhiều.

Mặc dù phẩm chất nghề nghiệp đặc trưng cho từng ngành, từng nghề rất quan

trọng và cần thiết để làm cơ sở cho việc giáo dục và đào tạo nhưng trên thực tế rất ít

các đề tài nghiên cứu về vấn đề này, riêng với lĩnh vực ngành nghề kinh tế hầu như

chưa được nghiên cứu. Chính vì vậy, qua đề tài này tác giả muốn góp phần xác định

những phẩm chất tâm lý phù hợp với ngành nghề kinh tế, để tạo điều kiện trong công

tác giáo dục đào tạo nghề đáp ứng được những yêu cầu thực tiễn trong giai đoạn hiện

nay.

1.2. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ

1.2.1. Khái niệm đánh giá và tự đánh giá

Để tìm hiểu khái niệm tự đánh giá, trước hết cần phải định nghĩa đánh giá là

gì? Đánh giá có nghĩa là nhận xét, bình phẩm về giá trị của một sự vật, một sự việc

hay một người nào đó [30, tr.589]. Như vậy, nội dung của đánh giá là làm rõ giá trị

của một người hay một sự vật. Theo giáo sư Trần Bá Hoành, “đánh giá là quá trình

hình thành những nhận định, phán đoán về kết quả của công việc, dựa vào sự phân

tích những thông tin thu được đối chiếu với những mục tiêu, tiêu chuẩn đã đề ra,

nhằm đề xuất những quyết định thích hợp để cải thiện thực trạng, điều chỉnh nâng cao

chất lượng, hiệu quả công việc [1, tr.5].

Tác giả Văn Thị Kim Cúc (2003), trong nghiên cứu “Tìm hiểu sự đánh giá bản

thân ở trẻ 10-15 tuổi” ở Tạp chí Tâm lý học, số 7, 7/2003 cho rằng Tự đánh giá của

cá nhân được xem như là “Ý thức về giá trị của cái Tôi” [5, tr.19]

Việc tự đánh giá của con người thích hợp và khách quan đến mức nào và thuộc

tính đó thay đổi ra sao theo lứa tuổi? Những khác biệt về đối tượng và phương thức

đánh giá đã gây ra nhiều khó khăn cho việc kiểm tra tính thích hợp của các ý kiến tự

đánh giá. Trong một số trường hợp sự tự đánh giá được kiểm tra bằng phương pháp

so sánh mức độ kỳ vọng được biểu hiện trong đó với các kết quả hoạt động thực tế

như những thành tích thi đấu thể thao, điểm số trong học tập, các số liệu trắc

nghiệm,… Ở những trường hợp khác, sự tự đánh giá được đem đối chiếu với sự đánh

giá của những người xung quanh (thầy cô giáo, cha mẹ,…) với tư cách là những giám

định viên của cá nhân đó.

Bản thân quá trình tự đánh giá đó có những chức năng khác nhau. Một mặt sự

tự đánh giá là một quá trình nhận thức muốn đạt tới một hoạt động có kết quả, cá thể

phải có những hiểu biết khách quan về mình và những phẩm chất của mình. Mặt

khác, sự tự đánh giá thường được dùng làm phương tiện tự vệ tâm lý; nguyện vọng

muốn có hình ảnh “cái Tôi” tích cực, thường kích thích con người cường điệu những

ưu điểm của mình. Mối tương quan giữa hai chức năng này và động thái phát triển

theo lứa tuổi vẫn còn là vấn đề các nhà hoa học rất quan tâm nghiên cứu.

Nói chung, xét về toàn bộ từ tính phù hợp của tự đánh giá, rõ ràng là tăng theo

lứa tuổi. Xét về đa số các chỉ số thì tự đánh giá của người lớn thực tế hơn, khách quan

hơn thanh niên, còn thanh niên thì lại khách quan hơn thiếu niên. Ơ đây có dấu ấn của

kinh nghiệm sống, của sự phát triển trí tuệ, tính ổn định của mức độ kỳ vọng. Mà

thực tế những xu hướng này không đi theo đường thẳng, cần chú ý đến sự thay đổi

của chính các tiêu chuẩn đánh giá theo lứa tuổi [3, tr.95].

Qua các định nghĩa trên, tác giả chấp nhận “tự đánh giá là sự đánh giá của cá

nhân về các giá trị của bản thân với tư cách là một con người trong mối quan hệ với

người khác; trên cơ sở tự đánh giá cá nhân sẽ biết rõ được các nhu cầu của bản thân,

những điểm mạnh và điểm yếu đang tồn tại ở bản thân, những phán đoán rõ ràng về

sự đúng sai, từ đó giúp cá nhân có thêm sức mạnh để duy trì trạng thái cân bằng tâm

lý làm động lực để vươn lên trong mọi hoàn cảnh”

1.2.2. Quan hệ tự đánh giá với tự ý thức và cái Tôi

Theo Đỗ Ngọc Khanh, tự đánh giá là một hình thức phát triển cao của sự tự ý

thức, là sự đánh giá tổng thể của một cá nhân về cá giá trị bản thân với tư cách là một

con người trong hoạt động và giao tiếp với những người khác [16, tr.33]. Như vậy, tự

đánh giá là mức độ phát triển cao của tự ý thức; giữa tự đánh giá và tự ý thức có mối

liên kết chặt chẽ. Tự đánh giá được hình thành trên cơ sở của tự ý thức.

Tự ý thức là sự tri giác cái diễn ra trong tâm hồn con người. Ơ đây, tính dễ hiểu

của kinh nghiệm đối với một cá nhân người trực tiếp trải nghiệm kinh nghiệm của

mình trở nên rõ ràng. Chỉ có chính tôi và một mình tôi quan sát và tri giác các phản

ứng thứ cấp của tôi – Còn được xem như là một quá trình tri giác bên trong nội quan

cá nhân [28, tr.72]. Còn theo định nghĩa của Vưgotxki, tự ý thức là ý thức xã hội

được chuyển vào bên trong [22, tr.182].

Tự ý thức còn được xem như là một quá trình ý thức về chính mình, về bản

thân mình. Tự ý thức của cá nhân biểu hiện ra ở các dấu hiệu sau:

- Tự nhận thức về mình: vẻ bề ngoài, nội dung tâm hồn, vị trí và các quan hệ xã

hội của cá nhân,…

- Có thái độ đối với mình như: tự phê bình, tự đánh giá, tự nhận định,…

- Có dự định về đường đời của mình: chọn thần tượng, chọn mẫu người để bắt

chước, có lý tưởng, chí hướng,…

- Và có khả năng tự kiềm chế, tự thúc đẩy, tự kiểm tra,… Tất cả những biểu hiện

đó được kết tinh lại ở hoạt động tự giáo dục của cá nhân [12, tr.82].

Ơ trình độ phát triển cao nhất của ý thức là tự ý thức; con người có khả năng tự

biến đổi chính bản thân mình bằng việc tự điều chỉnh, tự điều khiển hoạt động bản

thân để thích ứng với hoàn cảnh. Khi đã có ý thức về bản thân mình, chủ thể tự phản

ánh bản thân mình theo một mẫu mực nhất định của cái Tôi và chỉ đạo hành động của

mình theo khuôn mẫu ấy. Cũng theo những lý giải về nội dung tự ý thức, các tác giả

Nguyễn Quang Uẩn, Nguyễn Văn Luỹ và Đinh Văn Vang, trong Giáo trình Tâm lý

học đại cương đã khái quát “Tự ý thức là mức độ phát triển cao của ý thức. Tự ý thức

là ý thức về mình, có nghĩa là khi bản thân trở thành đối tượng “mổ xẻ”, phân tích, lý

giải,… thì lúc đó con người đang tự ý thức. Tự ý thức biểu hiện ở những mặt sau:

Chủ thể tự nhận thức về bản thân mình từ bên ngoài đến nội dung tâm hồn, đến vị thế

và các quan hệ xã hội, trên cơ sở đó tự nhận xét, tự đánh giá. Từ đó có thái độ rõ ràng

đối với bản thân, tự điều chỉnh, tự điều khiển hành vi theo mục đích tự giác, qua đó

chủ thể có khả năng tự giáo dục, tự hoàn thiện mình.

Trong Tâm lý học nhân cách, cái Tôi được nghiên cứu như một thành

phần quan trọng của nhân cách. Để hình thành một con người như một chỉnh thể

trọn vẹn có cá tính, giúp cá nhân phân biệt với những người khác nhờ cái Tôi

của mình, vì vậy quá trình hình thành nhân cách bao gồm cả việc hình thành

hình ảnh “cái Tôi” tương đối bền vững, tức là một quan niệm toàn vẹn về bản

thân mình. Hình ảnh “cái Tôi” (đôi khi còn đươc gọi là “khái niệm cái Tôi”

hoặc là “cái Tôi quan điểm”), đó là một hiện tượng tâm lý phức tạp, không chỉ

quy vào việc hiểu một cách đơn giản những phẩm chất của mình hoặc toàn bộ

những ý kiến của sự tự đánh giá. Hình ảnh cái Tôi đó không đơn giản là sự phản

ánh “dưới hình thức biểu tượng hoặc khái niệm” những thuộc tính đã có một

cách khách quan nào đó và không phụ thuộc vào trình độ nhận thức của mình,

mà còn là tâm thế xã hội, thái độ của cá nhân,… Theo quan điểm của Shibutani

(S.L.Albrecht,1980), khi cá nhân tham dự vào một hoạt động xã hội, thì cái Tôi

bao gồm năm khía cạnh: tính đồng nhất, quá trình tự ý thức, tính ổn định, tự

đánh giá về bản thân và ý thức xã hội. Theo ông, tính đồng nhất là một nhân tố

trong cấu trúc của cái Tôi. Nó thể hiện bản thân qua cách ứng xử. Tính đồng

nhất của mỗi cá nhân là khác nhau. Điều này giúp chúng ta có thể nhận thấy

được một cách chính xác hành vi đó là của ai và người đó sẽ xử sự ra sao [20,

tr.141].

Xét theo phương diện phát triển lứa tuổi, hình ảnh cái Tôi cá nhân sẽ

thay đổi theo lứa tuổi. Các công trình Tâm lý học nghiên cứu về vấn đề này đã

đi theo một số hướng. Trước hết người ta nghiên cứu những chuyển biến trong

nội dung hình ảnh cái Tôi và các bộ phận cấu thành của nó – những phẩm chất

nào được nhận thức rõ nhất, mức độ và tiêu chuẩn tự đánh giá thay đổi như thế

nào theo lứa tuổi, vẻ bề ngoài có ý nghĩa như thế nào, những phẩm chất trí tuệ,

đạo đức có ý nghĩa như thế nào…. Tiếp theo người ta nghiên cứu mức độ tin

cậy và tính chất khách quan của nó. Cuối cùng nghiên cứu sự thay đổi cấu trúc

của hình ảnh cái Tôi nói chung, tức là nghiên cứu mức độ phân hoá của nó (tính

phức tạp về mặt nhận thức), tính nhất quán bên trong (tính hoàn chỉnh), độ bền

vững (tính ổn định theo thời gian), giá trị chủ quan, độ tương phản cũng như

mức độ tự trọng. Xét theo tất cả các chỉ số nói trên, các độ tuổi khác nhau, hình

ảnh cái Tôi cũng thay đổi khác nhau [3, tr.91]. Tuỳ thuộc vào sự giáo dục và lối

sống của cá nhân, mà các phẩm chất của cái Tôi được xác định, cùng các khả

năng tự điều chỉnh, các sức mạnh của bản thân được xác định. Nó là một cấu

tạo tự ý thức của nhân cách.

Từ các phân tích trên về các khái niệm Tự đánh giá, tự ý thức và cái Tôi,

chúng ta thấy rằng giữa chúng có mối liên hệ với nhau; khi xem xét tự đánh giá,

chúng ta không thể không xem xét vấn đề tự ý thức, bởi vì cá nhân muốn đánh

giá chính xác về bản thân, trước hết họ phải tự nhận thức về mình, tức là tự ý

thức về chính bản thân mình, hay nói cách khác là có khái niệm rõ ràng về bản

thân (cái Tôi).

1.2.3. Các khía cạnh của tự đánh giá.

Như trên đã phân tích, nội dung tự đánh giá ở các lứa tuổi là khác nhau. Nghiên

cứu này tập trung vào tuổi thanh niên sinh viên, nên chúng tôi chỉ nêu lên những quan

điểm về nội dung tự đánh giá của lứa tuổi này.

Nội dung tự đánh giá chính là đánh giá về cái Tôi của cá nhân. Đối với sinh

viên, hoạt động học tập, hoạt động xã hội và môi trường sống của sinh viên có những

nét đặc trưng và đòi hỏi khác về chất so với các lứa tuổi trước đó. Cuộc sống của các

em bị chi phối mạnh mẽ những nhiệm vụ đầu tư và chuẩn bị nghề nghiệp tương lai.

Nội dung tự đánh giá bao gồm:

- Những hình ảnh chung về bản thân của cá nhân, họ so sánh mình với

người khác qua các đặc điểm bên ngoài, nhận biết những đặc điểm của hình

thức thân thể, dần dần sinh viên hiểu mình rõ hơn, đánh giá bản thân chính xác

hơn; thông qua những cuộc trao đổi thông tin, các đánh giá về các hiện tượng

mà họ quan tâm có liên quan đến bản thân. Thường thường bi ểu tượng về cái

Tôi được hình thành theo hướng các thuộc tính tâm lý của con người như một

cá thể được nhận biết sớm hơn các thuộc tính của nhân cách.

- Hình ảnh chung về bản thân được xét cụ thể trên các mặt: học tập, giao

tiếp xã hội, thể chất, cảm xúc, đạo đức… các đặc điểm của nhân cách như ý

chí, tình cảm, trí tuệ, năng lực, mục đích sống,… ngày càng có ý nghĩa đối với

bản thân họ, tạo nên một hình ảnh cái Tôi có chiều sâu, có hệ thống, chính xác

và đầy đủ hơn.

- Hình ảnh chi tiết hơn, ý thức về cái Tôi rõ ràng và đầy đủ hơn đã vạch cho họ các

lựa chọn các kế hoạch tiếp theo trên đường đời của mình, đặt ra vấn đề tự khẳng định

mình và tìm kiếm vị trí cho riêng mình trong cuộc sống.

1.3. ĐẶC ĐIỂM CỦA THANH NIÊN SINH VIÊN.

1.3.1. Đặc điểm lứa tuổi của thanh niên sinh viên

Thời kỳ sinh viên thường nằm trong độ tuổi thanh niên, được xác định khoảng

từ 18 đến 25 tuổi nên còn được gọi là thanh niên sinh viên. Sở dĩ lấy khoảng độ tuổi

sinh viên từ 18 đến 25, vì đây là độ tuổi quy định trong tuyển sinh vào đại học của Bộ

Giáo dục – Đào tạo. Mặt khác, vì mốc bắt đầu của tuổi sinh viên là 18, nên sinh viên

được xếp vào tuổi thanh niên muộn hay còn được xem là sự bắt đầu của tuổi người

lớn [3, tr.62]. Tuổi sinh viên là độ tuổi trưởng thành về mặt sinh học cũng như cả về

mặt xã hội. Ơ lứa tuổi này hoạt động, cấu trúc và vai trò nhân cách đã mang những

phẩm chất mới được xem như là dấu hiệu của người trưởng thành.

Sự phát triển thể chất: Do sinh viên ở trong độ tuổi chuyển tiếp từ giai đoạn

cuối tuổi thanh niên sang đầu giai đoạn tuổi trưởng thành, nên có thể nói rằng đây là

giai đoạn phát triển ổn định; mặt khác đến 24, 25 tuổi thì con người đã hoàn tất sự

phát triển về thể chất (nữ sớm hơn nam 1,2 năm). Đến 25 tuổi cũng là năm kết thúc

giai đoạn đào tạo dài nhất ở đại học.

Trong quá trình phát triển này, quá trình chín muồi sinh học cơ bản đã được

hoàn thiện đến mức có thể coi là chu trình người trưởng thành như: Sự phát triển ổn

định, đồng đều về hệ xương, cơ bắp tạo ra nét đẹp hoàn mỹ ở người thanh niên. Các

tố chất về thể lực như sức nhanh, sức bền bỉ, dẻo dai, linh hoạt đều phát triển mạnh

nhờ sự phát triển ổn định của các tuyến nội tiết cũng như sự tăng cường các hooc-

môn nam và nữ; hệ thống tim mạch, thần kinh mang tính ổn định và hoạt động theo

nhịp bình thường thuộc chu kỳ người lớn.

Sự phát triển tâm lý: Bước sang tuổi sinh viên, các chức năng tâm lý cũng có

nhiều thay đổi, đặc biệt trong lĩnh vực phát triển trí tuệ, khả năng tư duy. Các nghiên

cứu tâm lý học cho thấy rằng ở tuổi này, các hoạt động tư duy của thanh niên sinh

viên rất tích cực và có tính độc lập, tư duy lý luận phát triển mạnh, có khả năng khái

quát các vấn đề, nhờ đó mà tự mình phát hiện ra cái mới. Sự phát triển mạnh của tư

duy lý luận liên quan chặt chẽ với khả năng sáng tạo.

1.3.2. Các hoạt động cơ bản của thanh niên sinh viên

1.3.2.1. Đặc điểm hoạt động học tập

Xuất phát từ mục tiêu của giáo dục đại học nhằm bồi dưỡng nhân tài, tạo

nguồn nhân lực chuyên môn cao cấp ở các lĩnh vực nghề nghiệp. Vì vậy, những đặc

điểm chung trong hoạt động học tập của sinh viên như sau:

Hoạt động học tập của sinh viên hướng vào việc hình thành và phát triển hoàn

thiện nhân cách người chuyên gia trong các lĩnh vực nghề nghiệp tương ứng, vì vậy

học tập của sinh viên mang tính đặc trưng của hoạt động nghề nghiệp tương lai. Trình

độ học vấn của sinh viên được xác định là trình độ chuyên môn nghề nghiệp, do đó

việc học tập trong trường đại học có một ý nghĩa rõ rệt, có thể xem như một dạng

hoạt động lao động. Mục đích học tập chuyên nghiệp của sinh viên là chiếm lĩnh hệ

thống các kiến thức, kỹ năng và thái độ nghề nghiệp, nhằm hình thành những phẩm

chất của người chuyên gia tương lai. Vì vậy trong quá trình học tập, sinh viên phải

xây dựng cho mình vốn hành trang trí tuệ và nhân cách đáp ứng yêu cầu nghề nghiệp

sau này.

Tính độc lập cao trong học tập: Do yêu cầu của việc đào tạo người chuyên gia

tương lai, nên việc học tập của sinh viên đòi hỏi mức độ độc lập trí tuệ cao. Sinh viên

phải tự ý thức đầy đủ về hoạt động học tập của bản thân, đó là sự giác ngộ bản thân

về việc xác định mục đích cũng như định hướng rõ rệt về vị trí của mình trong thế

giới người lớn; do đó sinh viên phải là chủ thể của hoạt động học tập, là người tổ

chức, định hướng và kiểm tra quá trình học tập đồng thời cũng là một chủ thể có

trách nhiệm của các hoạt động xã hội với tư cách là một công dân.

Quá trình học tập của sinh viên nhằm xây dựng phương pháp học tập, nghiên

cứu khoa học độc lập, tự chủ. Sở dĩ sinh viên có khả năng độc lập cao trong hoạt

động học tập là do kết quả phát triển tương đối hoàn thiện của các chức năng tâm

sinh lý của lứa tuổi này. Sự trưởng thành về trí lực, tư duy logic, thế giới quan và

nhân sinh quan là cơ sở quan trọng của sự phát triển tính độc lập cao ở lứa tuổi sinh

viên.

Tính sáng tạo: Ở đại học, sinh viên phải lĩnh hội khối lượng kiến thức rất lớn

bao gồm các kiến thức về lĩnh vực chuyên môn, chuyên ngành và các kiến thức khoa

học cơ bản, nên đòi hỏi rất cao ở tính sáng tạo của sinh viên. Sinh viên phải tự chủ

trong việc tổ chức các hoạt động tự học, tự nghiên cứu của mình cũng như hình thành

cho mình các phương pháp học tập tích cực sáng tạo để chiếm lĩnh tri thức và kinh

nghiệm làm hành trang cho tương lai khi gia nhập vào hoạt động nghề nghiệp. Hoạt

động học tập của sinh viên hiện nay đã được đặt ở một vị trí rất quan trọng theo yêu

cầu của Luật Giáo dục “Phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, tư duy sáng tạo của

người học, bồi dưỡng năng lực tự học, lòng say mê học tập và ý chí vươn lên” [21, tr.9].

Tính thực tiễn: Trong bối cảnh xã hội hiện nay, những yêu cầu của giáo dục

đào tạo nâng cao chất lượng đào tạo sinh viên, đã tạo cho sinh viên có thái độ học tập

với tính năng động, sáng tạo cao; mặt khác, để đáp ứng đòi hỏi của thực tiễn, sinh

viên phải chủ động nâng cao nghiệp vụ chuyên môn, ngoại ngữ, tin học,… để trang bị

kiến thức làm hành trang cho nghề nghiệp tương lai.

Ơ trường đại học, mục tiêu học tập của sinh viên là học cách học, mà quan trọng là

làm chủ quá trình học của bản thân như tự học, nghiên cứu khoa học,… làm cơ sở tiền đề của

việc học suốt đời của mỗi cá nhân. Trong xu thế thời đại ngày nay, sinh viên thực sự học tập

vì cuộc sống, vì nghề nghiệp tương lai của bản thân. Sinh viên tự điều khiển quá trình học tập,

biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo, biết kết hợp quá trình cá nhân hoá với quá

trình xã hội hoá trong học tập của bản thân nhằm đạt tới việc đáp ứng yêu cầu nghề nghiệp.

Ngoài ra sinh viên cần phải rèn luyện khả năng tạo nghiệp, nhạy bén với thị trường, chủ động

gia nhập vào các tổ chức hoạt động nghề nghiệp xã hội, bước đầu đối với một số sinh viên có

thể tiếp cận với một số hoạt động nghề nghiệp đơn giản như tham gia các công việc làm thêm

để kiếm thu nhập, nhưng dần dần là để nâng cao hoạt động chuyên môn nghề nghiệp, tích luỹ

kinh nghiệm gia nhập vào thị trường lao động trong tương lai.

1.3.2.2.Một số hoạt động khác của sinh viên:

Hoạt động chính trị – xã hội: Đây là một hoạt động đặc trưng ở tuổi sinh viên.

Sinh viên là những người có trí tuệ nhạy bén, mẫn cảm đối với tình hình kinh tế,

chính trị, xã hội của quốc gia, quốc tế. Về mặt tư cách của một công dân, họ có chính

kiến đối với đường lối, chủ trương, chính sách của đảng chính trị và Nhà nước, do đó

hoạt động chính trị – xã hội là nhu cầu, nguyện vọng của thanh niên sinh viên. Việc

tham gia của họ vào các tổ chức chính trị, đoàn thể xã hội như Hội sinh viên, Đoàn

thanh niên, … hay đối với những sinh viên ưu tú, được vinh dự đứng vào hàng ngũ

Đảng, mang một ý nghĩa quan trọng trong sự phát triển nhân cách toàn diện của họ.

Bên cạnh những hoạt động có ý nghĩa chính trị – xã hội, sinh viên cũng là

nhóm người tích cực tham gia vào các hoạt động khác mang tính chất giải trí, vui

chơi phù hợp với năng khiếu và sở thích cá nhân như các câu lạc bộ văn học, nghệ

thuật, thể dục thể thao, câu lạc bộ ngoại ngữ,… hay các cuộc thi về nghiệp vụ nghề

nghiệp được Đoàn trường và các cơ quan tổ chức, cũng luôn hấp dẫn và lôi cuốn sự

tham gia của nhiều sinh viên, để thoả mãn nhu cầu giao lưu phong phú cũng như nhu

cầu rèn luyện toàn diện của họ. Bao trùm lên các hoạt động phong phú, đa dạng của

sinh viên ở trường đại học là những quan hệ giao lưu, giao tiếp với hàng loạt mối

quan hệ xã hội đan xen lẫn nhau. Những mối giao lưu này mang tính phức hợp giữa

cá nhân người sinh viên với người lớn, với bạn bè cùng lứa, cùng giới, khác giới, các

tổ chức, các nhóm xã hội trực tiếp hoặc gián tiếp (thông qua phương tiện thông tin

truyền thông),…Các hoạt động giao lưu này chiếm vị trí quan trọng trong sự phát

triển đời sống tâm lý, nhân cách của sinh viên.

Vị thế xã hội của sinh viên có nhiều thay đổi so với lứa tuổi trước đó, các quan

hệ xã hội của sinh viên được mở rộng. Chính những thay đổi trong vị thế xã hội của

các em, những thách thức khách quan của cuộc sống dẫn đến sự xuất hiện ở lứa tuổi

này những nhu cầu hiểu biết thế giới, hiểu biết xã hội và các chuẩn mực quan hệ

người – người, hiểu mình và tự khẳng định mình trong đời sống xã hội.

1.3.2.3. Một số phẩm chất về nhân cách của sinh viên

Sinh viên là lứa tuổi đẹp nhất trong đời người, có sức khoẻ, có khả năng sáng

tạo và có tính độc lập cao; trong những năm theo học đại học được xem như là thời

kỳ chuyển tiếp cho việc chuẩn bị độc lập tham gia vào các cộng đồng xã hội và hoạt

động nghề nghiệp ổn định trong tương lai, do đó các em vẫn còn chịu sự tác động

giáo dục của gia đình, nhà trường và xã hội; mặt khác, ở bản thân các em cũng cần có

sự tự giáo dục và rèn luyện nhân cách bản thân để đáp ứng các yêu cầu nghề nghiệp

trong tương lai.

Sinh viên chưa có vị trí độc lập chính thức trong các tổ chức lao động xã hội,

các em đang tích cực rèn luyện cả về phẩm chất và năng lực nghề nghiệp bằng cách

tự rèn luyện, nỗ lực học tập dưới sự hướng dẫn của giảng viên và bước đầu các em

cũng trải nghiệm qua hoạt động thực tiễn như tham gia các cuộc thi về nghiệp vụ

chuyên môn, hoặc đi làm thêm để tiếp cận dần với nghề nghiệp qua công tác thực tế

chớ không phải là chỉ dừng ở việc học lý thuyết suông. Nhân cách của sinh viên phát

triển khá toàn diện và phong phú với những đặc điểm đặc trưng như sau:

- Đặc điểm về tự đánh giá, tự ý thức, tự giáo dục của sinh viên

Tự đánh giá là một trong những phẩm chất quan trọng, một trình độ phát triển

cao của nhân cách. Tự đánh giá có ý nghĩa định hướng, điều chỉnh hoạt động, hành vi

của chủ thể nhằm đạt mục đích, lý tưởng sống một cách tự giác. Tự đánh giá ở lứa

tuổi sinh viên là một hoạt động nhận thức, trong đó đối tượng nhận thức chính là bản

thân chủ thể, là quá trình chủ thể thu thập, xử lý thông tin về chính mình, chỉ ra

những tồn tại ở bản thân, từ đó có thái độ, hành vi, hoạt động phù hợp nhằm tự điều

chỉnh, tự giáo dục để hoàn thiện và phát triển nhân cách.

Đặc điểm tự đánh giá của sinh viên mang tính chất toàn diện và sâu sắc. Biểu

hiện cụ thể của nó là sinh viên không chỉ đánh giá hình ảnh bản thân mình ở hình

thức bên ngoài mà còn đi sâu vào các phẩm chất, các giá trị của nhân cách. Tự đánh

giá của họ không chỉ trả lời câu hỏi: Tôi là ai? Mà còn đi sâu vào các nội dung liên

quan đến bản thân họ như: Tôi là người như thế nào? Tôi có những phẩm chất gì? Tôi

có xứng đáng không?... Hơn thế họ còn có khả năng lý giải và trả lời câu hỏi: Tại sao

tôi là người như thế?

Những cấp độ đánh giá ở trên mang yếu tố phê phán, phân tích rõ rệt. Vì vậy tự

đánh giá của sinh viên có ý nghĩa tự ý thức và tự giáo dục cao. Tự ý thức là một trình

độ phát triển cao của ý thức, nó giúp sinh viên có hiểu biết về thái độ, hành vi cử chỉ

của mình để chủ động hướng hoạt động của mình đi theo những yêu cầu đòi hỏi của

tập thể, của cộng đồng xã hội. Tự giáo dục là một mức độ phát triển cao trong nhận

thức của sinh viên nhằm rèn luyện mình theo những mục đích và kế hoạch cuộc đời.

Nghiên cứu tự đánh giá, tự ý thức ở sinh viên cho thấy mức độ phát triển của những

phẩm chất nhân cách này có liên quan đến trình độ học lực, hình ảnh “cái Tôi”, cũng

như kế hoạch sống trong tương lai của sinh viên. Việc khám phá hình ảnh “cái Tôi”

không đơn giản chỉ phụ thuộc vào trình độ nhận thức của sinh viên, mà còn là tâm thế

xã hội, thái độ của cá nhân đối với chính bản thân mình, bao gồm ba yếu tố phụ thuộc

lẫn nhau đó là: nhận thức, xúc cảm và hành vi. Nhận thức về hình ảnh “cái tôi” chính

là sự hiểu biết về bản thân, biểu tượng về những phẩm chất và thuộc tính của mình.

Xúc cảm về “cái tôi” thể hiện ở sự đánh giá những phẩm chất và lòng tự ái có liên

quan tới những đánh giá ấy, lòng tự trọng và những tình cảm khác; Hành vi là thái độ

thực tế đối với bản thân xuất phát từ hai yếu tố nói trên.

Tóm lại những phẩm chất nhân cách như tự đánh giá, lòng tự trọng, tự tin, sự

tự ý thức đều phát triển mạnh mẽ ở tuổi sinh viên. Chính những phẩm chất nhân cách

bậc cao này có ý nghĩa rất lớn đối với việc tự giáo dục, tự rèn luyện và hoàn thiện bản

thân theo hướng tích cực của những trí thức tương lai.

- Sự phát triển về định hướng giá trị ở thanh niên sinh viên:

Định hướng giá trị là một trong những lĩnh vực rất cơ bản, quan trọng đối với

đời sống tâm lý của sinh viên. Định hướng giá trị là những giá trị được chủ thể nhận

thức, ý thức và đánh giá cao, có ý nghĩa định hướng, điều chỉnh thái độ, hành vi, lối

sống của chủ thể nhằm vươn tới những giá trị đó.

Định hướng giá trị của sinh viên liên quan mật thiết với xu hướng nhân cách và

kế hoạch đường đời của họ. Với sinh viên, những ước mơ, hoài bão, những lý tưởng

của tuổi thanh xuân dần dần được hiện thực hoá, được điều chỉnh trong quá trình học

tập ở trường đại học. Tính viễn vông, huyễn tưởng của những điều trừu tượng, xa vời

trước đây (ở tuổi thiếu niên) nhường chỗ cho các kế hoạch đường đời cụ thể, do việc

học ở đại học để trở thành người có nghề nghiệp đã được xác định rõ ràng. Sinh viên

nhìn nhận vấn đề bản chất cuộc sống tích cực và duy vật hơn, thừa nhận sự thành

công trong cuộc sống là do sự nỗ lực của bản thân hơn là sự phụ thuộc hoặc do số

phận hay sự may rủi nào đó, họ không chỉ đặt ra kế hoạch đường đời của mình mà

còn tìm cách để thực thi kế hoạch đó theo những giai đoạn nhất định. Nhiều sinh viên

ngay từ khi còn ngồi trên ghế giảng đường đại học đã có kế hoạch riêng về nhiều mặt

và để đạt được kế hoạch của mục đích đời mình; họ không ngần ngại tìm những việc

làm thêm để thoả mãn những yêu cầu học tập ngày càng cao và tạo điều kiện thuận

lợi cho việc hành nghề sau này.

Xem xét một số định hướng giá trị nghề nghiệp của sinh viên cho thấy, động

cơ chọn nghề của sinh viên rất thực tế và lành mạnh, không vì tiếng tăm, không vì sự

nhàn hạ mà cái chính là nghề nghiệp phải phù hợp với khả năng, có thu nhập cao, đáp

ứng được nhu cầu phát triển của xã hội.

Các động cơ chọn nghề (được xếp theo thứ tự lựa chọn từ cao xuống):

+ Hợp khả năng

+ Có thu nhập cao

+ Vì sự phát triển của xã hội

+ Được xã hội coi trọng

+ Đòi hỏi kỹ thuật hiện đại

+ Nghề có tính nhân đạo, lương thiện

+ Muốn trở thành nổi tiếng

+ Phù hợp với sức khoẻ bản thân

Sinh viên là lứa tuổi đạt đến độ phát triển sung mãn của đời người, họ là lớp

người giàu nghị lực, ước mơ và hoài bão. Tuy nhiên, do quy luật phát triển không

đồng đều về mặt tâm lý, do những điều kiện và hoàn cảnh sống, giáo dục không

giống nhau, nên không phải bất cứ sinh viên nào cũng phát triển ở mức tối ưu. Điều

này phụ thuộc rất nhiều vào những tình huống đúng đắn cũng như tính tích cực hoạt

động của bản thân mỗi sinh viên, vì ở giai đoạn này, sự chi phối của thế giới quan và

nhân sinh quan đối với hoạt động của sinh viên thể hiện rất rõ nét.

Nhìn chung, hệ thống định hướng giá trị của sinh viên cũng có những hướng

phát triển mới, song có thể thấy rằng, đây là những nét tính cách xã hội mới đang

được định hình và phát triển theo xu hướng phát triển của xã hội. Nếu được quan tâm

đúng mức, nó sẽ là những định hướng giá trị có lợi cho sự phát triển xã hội.

1.3.3. Phẩm chất nghề nghiệp:

1.3.3.1. Khái niệm phẩm chất

Theo từ điển “phẩm chất là giá trị tốt đẹp của con người hay của vật gì” [30,

tr.1323].

Xét theo góc độ đánh giá về tâm lý con người, khi nói đến phẩm chất là nói

đến thái độ của con người đối với hiện thực (tự nhiên, xã hội, người khác và cả bản

thân), có nghĩa nó là hệ thống những thuộc tính tâm lý biểu hiện các mối quan hệ xã

hội cụ thể của người đó.

Phẩm chất đồng nghĩa với Đức (Theo quan niệm đánh giá của người Việt Nam,

nhân cách là một thể thống nhất giữa hai mặt Đức và Tài) bao gồm :

+ Phẩm chất xã hội (hay đạo đức chính trị): thế giới quan, niềm tin, lý tưởng,

lập trường, thái độ chính trị, thái độ lao động,…

+ Phẩm chất cá nhân (hay đạo đức tư cách): các nết, các thói, các “thú” (ham

muốn).

+ Phẩm chất ý chí: tính kỷ luật, tính tự chủ, tính mục đích, tính quả quyết, tính

phê phán,…

+ Cung cách ứng xử: tác phong, lễ tiết, tính khí,… [13, tr.82]

1.3.3.2. Phẩm chất nghề nghiệp

Trong bất cứ hoạt động nào của con người, để thực hiện có hiệu quả một công

việc hay một hoạt động nào đó, con người cần phải có một số phẩm chất tâm lý cần

thiết phù hợp với nghề. Tuỳ thuộc vào nội dung và tính chất của đối tượng, mà hoạt

động đòi hỏi ở chủ thể những yêu cầu xác định, nói cách khác, mỗi hoạt động khác

nhau, mỗi nghề nghiệp khác nhau, với tính chất và mức độ khác nhau sẽ đòi hỏi cá

nhân có những phẩm chất tâm lý nhất định phù hợp với nghề nghiệp đó được gọi là

phẩm chất nghề nghiệp

Vai trò của những phẩm chất tâm lý phù hợp nghề là rất quan trọng. Nhà Tâm

lý học Xô Viết B.Ph. Lômôp coi các nhân tố tâm lý, các phẩm chất tâm lý phù hợp

với nghề là tiềm năng phát triển bậc nhất của năng suất lao động, hiệu quả lao động.

“Điều quan trọng của sự hoàn thiện lao động của con người là sự phân tích tâm lý của

họ, đặc biệt là làm rõ những đòi hỏi do hoạt động đó đề ra đối với tri giác và chú ý, trí

nhớ và tư duy, xúc cảm và ý chí của con người, đồng thời xác định cách thức có hiệu

quả nhất để hình thành các phẩm chất tâm lý quan trọng đối với hoạt động cụ thể nào

đó” [19].

Những phẩm chất tâm lý phù hợp với nghề nghiệp của cá nhân, được hình

thành chủ yếu qua ba con đường sau:

+ Những phẩm chất được hình thành do giáo dục chung hoặc do bẩm sinh đem

lại

+ Những phẩm chất hình thành và phát triển thông qua giáo dục, đào tạo chuyên

môn. Nhấn mạnh vai trò của giáo dục đào tạo trong việc hình thành phẩm chất nghề

nghiệp, trong nghiên cứu của mình, tác giả Lêvitôp đã đánh giá rằng: trong quá trình

học nghề, thanh niên sẽ được giáo dục một loạt các phẩm chất quan trọng như: tính

chính xác và cẩn thận, tính tháo vát, tính tổ chức, tinh thần trách nhiệm và tính độc

lập,… [18, tr.220].

+ Những phẩm chất hình thành và phát triển thông qua hoạt động nghề của cá

nhân trong thực tiễn. Chỉ trong tiến trình của bản thân hoạt động mới rõ ra rằng, lĩnh

vực hoạt động đó có phù hợp hay không?

Trong điều kiện xã hội phát triển, hai con đường đầu tiên có ý nghĩa vô cùng

quan trọng. Tất cả các nghề nghiệp đều đòi hỏi có sự chuẩn bị trước những điều kiện

lao động cho chủ thể thông qua giáo dục và đào tạo nghề. Trong thực tiễn nền giáo

dục xã hội, giáo dục phổ thông đã thực hiện nhiệm vụ giáo dục chung, cung cấp cho

học sinh những tri thức khoa học cơ bản làm nền tảng để tiếp thu những tri thức

chuyên môn, đồng thời hình thành và phát triển ở học sinh những phẩm chất tâm lý

cơ bản có thể đáp ứng chung cho nhu cầu của nhiều ngành nghề lao động ở mức cơ

sở. Hệ thống giáo dục chuyên nghiệp có nhiệm vụ cung cấp cho người học hệ thống

tri thức chuyên môn sâu góp phần hình thành và phát triển những phẩm chất tâm lý

cần thiết trực tiếp cho hoạt động nghề. Trong thực tế việc tuyển chọn “đầu vào” trong

tuyển sinh của các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và đào tạo

nghề, chính là việc tận dụng những phẩm chất phù hợp nghề đã có do giáo dục chung

và bẩm sinh đem lại. Quá trình giáo dục chuyên nghiệp – đào tạo nghề là cung cấp tri

thức, hình thành kỹ năng, kỹ xảo nghề, bồi dưỡng thái độ, thói quen và hành vi đúng

đắn. Nếu ngay trong quá trình đào tạo, các chủ thể lao động tương lai đã có và phát

triển được những phẩm chất phù hợp nghề cao, thì sẽ tiết kiệm được cho xã hội và cá

nhân một phần không nhỏ hao phí kinh tế và năng lượng tinh thần dùng cho việc rút

kinh nghiệm từ hoạt động thực tiễn, đồng thời tránh được những thiệt hại khó lường

do chưa có sự thích ứng kịp của cá nhân đối với yêu cầu của hoạt động.

Những cấu trúc tâm lý cá nhân cho phép chỉ đạo hành vi của mình một cách tự

giác, tích cực, điều chỉnh những phẩm chất tâm lý của chính mình theo tiêu chuẩn đã

định trước làm cho bản thân phù hợp với yêu cầu đòi hỏi của hoàn cảnh, môi trường

và điều kiện xã hội, đó chính là sự thích ứng tâm lý - xã hội. Sự thích ứng này có vai

trò rất quan trọng trong đời sống và trong sự phát triển tâm lý cá nhân. Nhờ sự thích

ứng, con người biến đổi hệ thống hành vi đã có, hình thành những ứng xử mới phù

hợp với yêu cầu, điều kiện để đảm bảo cho con người duy trì được trạng thái cân

bằng tâm lý, tồn tại được trong hoạt động mới hay trong môi trường nhiều biến

động. Ngoài ra để thích ứng, con người không chỉ hình thành những ứng xử mới

mà còn hình thành cấu tạo tâm lý mới, hay nói cách khác là những phẩm chất

tâm lý mới phù hợp với điều kiện mới, làm cho con người trưởng thành hơn và

có vai trò quan trọng trong sự phát triển tâm lý của mỗi cá nhân. Như vậy, sự

thích ứng là điều kiện cần, đảm bảo cho sự thành công của cá nhân trong hoạt

động mới, và trong đó hoạt động xã hội (bao hàm cả hoạt động nghề nghiệp) là

phương tiện để hình thành những phẩm chất của con người. Hoạt động nói

chung và lao động nói riêng có ý nghĩa quyết định trong việc hình thành tính

tích cực của con người [4, tr.179].

Theo tác giả Phạm Tất Dong, một người được coi là phù hợp với một

nghề nào đấy, nếu họ có những phẩm chất, đặc điểm tâm lý và sinh lý đáp ứng

với những yêu cầu cụ thể mà nghề đó đòi hỏi ở người lao động. Đứng trước một

nghề, có 3 trường hợp (hay còn gọi là 3 mức độ) phù hợp nghề:

- Phù hợp hoàn toàn

- Phù hợp có mức độ

- Không phù hợp

Để xác định một cá nhân có những phẩm chất phù hợ p nghề ở mức độ

nào, ngườ i ta chỉ cần làm một loạt những biện pháp nhằm đối chiếu những

đặc điểm tâm-sinh lý của cá nhân với hệ thống yêu cầu do nghề đặt ra mà

kết luận về mức độ phù h ợp nghề của người đó [6, tr.75].

X X X X

O O O O

Mức độ phù hợp nghề của cá nhân được biểu diễn với sơ đồ sau đây:

Phù hợp hay không phù hợp

Người

Nghề

Người có phẩm chất phù hợp nghề thường thể hiện rõ ở ba dấu hiệu sau:

- Đảm bảo được tốc độ làm việc, tức là bảo đảm được yêu cầu về số lượng công

việc theo định mức lao động.

- Bảo đảm độ chính xác của công việc. Đây là yêu cầu về chất lượng sản phẩm

- Trong quá trình hoạt động nghề nghiệp, cá nhân không bị công việc nghề

nghiệp gây nên những độc hại cho cơ thể của bản thân

Cũng cần nói thêm rằng, có rất nhiều trường hợp người ta thấy không phù

hợp với nghề, nhưng nếu yêu thích nghề và quyết tâm rèn luyện thì sự phù hợp

nghề lại có thể tạo ra. Tuy nhiên có những bệnh tật, khiếm khuyết cơ thể ngay

từ đầu đã khẳng định là không phù hợp với nghề (ví dụ nghề giáo viên), thì phải

tuân thủ theo các yêu cầu của nghề nghiệp đó.

Những phẩm chất tâm lý của cá nhân phù hợp với nghề có thể được xác định

trước khi chọn nghề. Nhà tâm lý học lao động Xô-viết E.A.Klinôp, trong công trình

nghiên cứu của mình, ông đã đưa ra “Bảng xác định kiểu nghề cần chọn trên cơ sở tự

đánh giá” để biết bản thân mình phù hợp với kiểu nghề nào?

Bảng tóm tắt về các kiểu nghề như sau:

Kiểu nghề Ký Những nghề thuộc kiểu

hiệu mà ta thường gặp

Người – Thiên nhiên Nt Nghề nông: trồng lúa, trồng cây, hoa

màu, kỹ sư nông học, cán bộ kỹ thuật

chăn nuôi, thú y,…

Người – Kỹ thuật Nk Thợ dệt, thợ may, thợ sửa chữa và lắp

máy, thợ tiện, thợ hàn hơi và hàn điện,

lái xe, lái tàu, thợ điều chỉnh máy, kỹ sư,

kiến trúc sư, …

Người – Người N2 Nhân viên bán hàng, phục vụ, hộ lý, y tá,

cô nuôi dạy trẻ, giáo viên, bác sĩ,…

Người – Dấu hiệu Nd Nhân viên sửa bản in, thư ký đánh máy,

điện báo viên, lập chương trình máy tính,

nghiên cứu khoa học,….

Người – Nghệ thuật Nn Ca sĩ, nhạc sĩ, diễn viên, hoạ sĩ trang trí,

thợ điêu khắc, nghệ sĩ nhiếp ảnh, thợ

sơn, nhà thiết kế,…

Việc tìm hiểu các kiểu nghề trong xã hội là rất quan trọng trong việc chọn

nghề, vì vậy cá nhân chọn nghề cần phải biết xem mình phù hợp với đối tượng lao

động nào, mình thích thú với đối tượng đó không. Đây là dấu hiệu khá ổn định và nó

có tính quyết định đến hiệu quả hoạt động của cá nhân khi tham gia vào hoạt động

nghề . Chính vì vậy, tác giả đặt trọng tâm tìm hiểu nghề qua dấu hiệu “Đối tượng lao

động”

Cách làm trắc nghiệm như sau: Cá nhân sẽ đọc lần lượt 30 câu hỏi trong “bảng

xác định kiểu nghề cần chọn trên cơ sở tự đánh giá”. Tất nhiên sẽ có câu được cá

nhân đồng ý (đúng với bản thân họ) và có câu không đồng ý (không đúng với họ)

Cách chấm điểm:

+ Nếu bạn đồng ý câu nào thì bạn dùng bút chì đánh dấu cộng (+) trước con số được

ghi cùng dòng trong một cột dọc ở bên phải. (Có 5 cột dọc tất cả, mỗi cột ứng với

một kiểu nghề)

+ Nếu bạn không đồng ý thì có 2 trường hợp xảy ra:

- Hoặc bạn không biết khẳng định ra sao. Trong trường hợp này, bạn cứ để

nguyên, không động chạm gì đến con số thuộc một trong năm cột bên phải

- Hoặc bạn phủ định câu hỏi ấy. Trong trường hợp này, bạn dùng bút chì đánh

dấu trừ (-) vào con số cùng dòng thuộc một trong năm cột bên.

Sau khi đánh dấu + và – xong, bạn hãy tổng kết theo từng cột. Nếu tổng số

các số trong cùng một cột mang dấu cộng, thì kiểu nghề tương ứng với cột đó là

phù hợp với bạn. Con số mang dấu + càng lớn thì kiểu nghề càng phù hợp. Nếu

tổng số trong cùng một cột mà mang dấu - , thì kiểu nghề tương ứng không phù

hợp. ( Xem phụ lục 1 “Bảng xác định kiểu nghề cần chọn trên cơ sở tự đánh

giá”)

Như vậy khi nói đến phẩm chất nghề nghiệp là muốn nói đến những phẩm

chất tâm lý của cá nhân phù hợp với đặc điểm và yêu cầu của nghề nghiệp cụ thể

nào đó. Người ta có thể đánh giá một cá nhân có phẩm chất nghề nghiệp phù hợp

hay không dựa trên những test chẩn đoán “đầu vào” trước khi đào tạo nghề cho

cá nhân hoặc trong quá trình học nghề và hành nghề; ngoài ra có thể căn cứ trên

hiệu quả và chất lượng của hoạt động học tập và lao động của cá nhân và trong

đó không kém phần quan trọng là những yếu tố thuộc về tâm lý cá nhân như xu

hướng, nguyện vọng, xúc cảm, năng lực, tính cách, ý chí … cá nhân thể hiện

trong hoạt động đó ra sao.

Từ các cơ sở lý luận nêu trên, các mặt tự đánh giá của sinh viên trường Đại

học Kinh tế TP.HCM về phẩm chất nghề nghiệp được nghiên cứu:

- Những nội dung liên quan đến tự đánh giá của sinh viên về phẩm chất nghề

nghiệp

+ Cơ hội nghề nghiệp của sinh viên trường Đại học Kinh tế

+ Chất lượng đào tạo của trường ĐHKT

+ Tự đánh giá của sinh viên về các yếu tố thành công trong nghề nghiệp

+ Mức độ tham gia các hoạt động của sinh viên

- Kết quả tự đánh giá của sinh viên trường ĐHKT về phẩm chất nghề

nghiệp:

+ Kết quả tổng quát của sinh viên về các nhóm phẩm chất: ý chí, năng lực,

cảm xúc, xu hướng, giao tiếp xã hội, đạo đức và đặc điểm cá nhân. Đây là

những nội dung của phẩm chất tâm lý cá nhân có liên quan đến nghề

nghiệp tương lai trong lĩnh vực hoạt động kinh tế .

+ Tìm hiểu tác động của việc làm thêm, nơi cư trú có ảnh hưởng đến kết

quả tự đánh giá của sinh viên về phẩm chất nghề nghiệp hay không?

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG TỰ ĐÁNH GIÁ VỀ PHẨM

CHẤT NGHỀ NGHIỆP CỦA SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI

HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

2.1. KẾT QUẢ VỀ KHÁCH THỂ

Chúng tôi điều tra phát phiếu “Thăm dò ý kiến” trên 400 sinh viên năm thứ II,

của các khoa khác nhau của trường Đại học Kinh tế TP.HCM, sau khi thu lại, nếu các

phiếu trả lời không hợp lệ (phiếu có câu trả lời để trống, phiếu không trả lời đầy đủ

các câu hỏi yêu cầu) sẽ bị loại.

Kết quả về khách thể nghiên cứu

- Tổng số :381, trong đó:

+ Giới: - nam: 127 - nữ: 254

+ Nơi cư trú:

- Các tỉnh: 273 - TP.HCM: 94 - Các nước Lào, Campuchia,…: 14

+ Đi làm thêm: - có: 336; - không: 45

Trong một số đặc điểm về khách thể nghiên cứu được chúng tôi khảo sát làm

cơ sở để phân tích các dữ liệu điều tra về phẩm chất nghề nghiệp, chúng tôi muốn

xem xét đến yếu tố cư trú của sinh viên như là một yếu tố môi trường có sự tác động

đến tự đánh giá của sinh viên. Số liệu của mẫu khảo sát trên toàn mẫu sinh viên được

phân bố theo địa bàn cư trú trước khi các em vào học đại học với số liệu như sau:

phần lớn sinh viên được chọn khảo sát có nguồn gốc xuất thân từ các tỉnh thành khác

(273/381, chiếm tỉ lệ 71,6%); số sinh viên là cư dân ở TP.HCM là 94/381, chiếm

24,7% và một tỉ lệ nhỏ là sinh viên du học của các nước như Lào, Campuchia,… là

14/381, chiếm 3,6%; đối với sinh viên nước ngoài, trước khi các em vào học đại học,

các em đã phải học chuyên tiếng Việt trong một năm và sau đó thi vào đại học, học

chung với sinh viên người Việt Nam, do đó các em đều biết tiếng Việt, đều có khả

năng hiểu và trả lời được bảng hỏi này. Vì là mẫu chọn ngẫu nhiên, theo từng lớp của

các khoa, nếu có sinh viên nước ngoài học chung, thì chúng tôi vẫn phát phiếu hỏi

cho các em trả lời như những sinh viên khác chớ không loại các em ra khỏi mẫu

nghiên cứu.

2.2. CÔNG CỤ NGHIÊN CỨU

Công cụ nghiên cứu chủ yếu là “phiếu thăm dò ý kiến” về sự tự đánh giá các

phẩm chất nghề nghiệp của sinh viên trường Đại học Kinh tế, được hình thành trên cơ

sở lý luận và những ý kiến thu được trên sinh viên từ kết quả điều tra thăm dò mở và

căn cứ vào mục tiêu đào tạo của trường.

* Cách soạn thang

Chúng tôi tiến hành soạn phiếu thăm dò thử trên 30 sinh viên với các câu hỏi

mở như sau:

- Câu 1. Bạn có cho rằng khi bạn học xong chương trình cử nhân kinh tế, bạn sẽ hình

thành được các phẩm chất nghề nghiệp phù hợp với các hoạt động trong các lĩnh vực

kinh doanh, thương trường không?

- Câu 2. Đối với sinh viên ngành kinh tế, để thành công trong nghề nghiệp tương lai

cần có những phẩm chất tâm lý nào?

- Câu 3. Bạn vui lòng cho biết kế hoạch học tập cũng như các hoạt động khác của bản

thân bạn trong quá trình học đại học.

Trên cơ sở các bảng trả lời của sinh viên, chúng tôi xây dựng thang thăm

dò chính thức, trong quá trình soạn thảo các câu hỏi điều tra chúng tôi có kết

hợp tham khảo các ý kiến của đại diện lãnh đạo khoa, Giảng viên,…

* Bảng hỏi chính thức được chia thành 2 phần

- Phần I: Gồm 8 câu hỏi điều tra nhằm hiểu rõ thêm về các vấn đề có liên quan

đến việc tự đánh giá của sinh viên

- Phần II: gồm 51 câu nội dung là biểu hiện của phẩm chất nghề nghiệp.

Các nội dung phẩm chất nghề nghiệp được chia thành các nhóm tiêu chí

sau:

+ Các phẩm chất thuộc về khả năng, năng lực: gồm 9 câu sau: 1, 2, 5, 23, 26,

29, 30, 31, 34

+ Các phẩm chất quan hệ giao tiếp xã hội: Gồm 9 câu sau: 3, 9, 12, 22, 25, 27,

28, 39, 50.

+ Các phẩm chất thuộc về cảm xúc: Gồm 9 câu sau: 6, 7, 8, 14, 20, 24, 36, 37,

45

+ Các phẩm chất thuộc về ý chí: Gồm 10 câu sau: 10, 11, 13, 17, 18, 21, 38,

40, 43, 48.

+ Các phẩm chất đạo đức: Gồm 7 câu sau: 32, 33, 41, 42, 44, 47, 51.

+ Các phẩm chất thuộc về xu hướng: Gồm 3 câu sau: 4, 15, 16

+ Các phẩm chất thuộc về đặc điểm cá nhân: Gồm 4 câu 19, 35, 46, 49.

Tất cả các câu hỏi trên được xây dựng theo hướng tr ả lời tích cực để

đo các mức độ đồng ý của sinh viên. Có 3 lựa chọn là: Đ úng, lúc đúng lúc

không và Không đúng.

Khi xử lý kết quả chúng tôi quy về điểm như sau:

+ Đúng: 3 điểm

+ Lúc đúng lúc không: 2 điểm

+ Không đúng: 1 điểm

Các phần trong bảng hỏ i đều có liên quan với nhau. Trong phần này có

những câu có thể cung cấp thông tin hoặc kiểm tra lại những câu trả lời của

phần kia, để kiểm tra kết quả trả lời cho chính xác hoặc để tìm hiểu sâu hơn

về các khía cạnh khác nhau của phẩm chất nghề nghiệp của khách thể

nghiên cứu

Chúng tôi dùng nhiều dạ ng câu hỏi khác nhau như câu hỏi lựa chọn,

cho điểm, câu hỏi kín và câu hỏi mở.

* Cách tiến hành: Chia thành 2 đợt

- Đợt 1: Th ăm dò thử trên mẫu nhỏ (30 sinh viên). Sau khi thu phiếu về,

chúng tôi xem xét và hoàn chỉnh các nộ i dung thành bả ng thă m dò chính

thức.

- Đợt 2: Điều tra 400 sinh viên ở mẫu nói trên bằ ng hệ thống bảng hỏi

chính thức. Thang đo này đã được khảo sát thử trên 30 sinh viên trước khi

tiế n hành khảo sát chính thức và thu được độ tin cậy là 0,93 .

2.3. KẾT QUẢ TỰ ĐÁNH GIÁ CỦA SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH

TẾ VỀ PHẨM CHẤT NGHỀ NGHIỆP

2.3.1. KẾT QUẢ TỔNG QUÁT VỀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN ĐẾN VIỆC TỰ

ĐÁNH GIÁ CỦA SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ

2.3.1.1. Cơ hội nghề nghiệp của sinh viên trường Đại học Kinh tế.

- Tự đánh giá của sinh viên về nhận định “Sinh viên tốt nghiệp Đại học Kinh

tế có nhiều cơ hội thành công hơn trong tìm kiếm việc làm”.

Kết quả thu được như sau:

Bảng 2.1. Tự đánh giá của sinh viên ĐHKT về cơ hội nghề nghiệp

Các mức lựa chọn Tần số T ỉ lệ %

Rất đồng ý 29 7,6

Đồng ý 206 54,1

Lưỡng lự 101 26,5

Không đồng ý 41 10,8

Hoàn toàn không đồng ý 4 1,0

Tổng cộng 381 100.0

Để đánh giá về nhận định của sinh viên về vấn đề này, chúng tôi phân ra như

sau:

- Nhóm cao gồm 2 mức: rất đồng ý và đồng ý

- Nhóm thấp gồm 2 mức: không đồng ý và hoàn toàn không đồng ý

Chúng tôi không đề cập đến mức lưỡng lự vì khi chọn mức này, sinh viên đã

không thể hiện được chính kiến của mình trong việc đánh giá.

Từ kết quả trên cho thấy 61,7% sinh viên ở nhóm cao đã thể hiện sự đồng ý với

ý kiến đánh giá “sinh viên tốt nghiệp đại học Kinh tế thường có nhiều cơ hội thành

công hơn trong tìm kiếm việc làm” là tương đối cao so với nhóm thấp, chiếm 11,8%.

Điều này chứng tỏ sinh viên đánh giá rất cao về chất lượng đào tạo của nhà trường

qua thực tế quá trình đào tạo của trường ĐHKT đã cung ứng được nguồn nhân lực lao

động đáp ứng được nhu cầu của thị trường lao động xã hội; mặt khác, bản thân sinh

viên tốt nghiệp đại học Kinh tế với bằng cấp và năng lực của mình họ có đủ điều kiện

để dễ dàng có được một việc làm trong xã hội.

- Để đánh giá về chất lượng đào tạo của nhà trường hiện nay có ý nghĩa như thế nào

đối với việc hình thành phẩm chất nghề nghiệp của sinh viên cũng như tìm hiểu về sự

đáp ứng nhân sự, nguồn lao động cho các doanh nghiệp và nền kinh tế hàng hoá theo

cơ chế thị trường, chúng tôi thu được các ý kiến đánh giá của sinh viên như sau:

Bảng 2.2. Ý kiến của sinh viên về chất lượng đào tạo của trường ĐHKT.

Ý kiến Số lượng Tỉ lệ %

Rất tốt 11 2,9

Tốt 207 54,3

Trung bình 151 39,6

Không tốt 9 2,4

Hoàn toàn không tốt 3 0,8

Từ kết quả bảng 2.2 cho thấy 96,8% sinh viên đánh giá chất lượng đào

tạo của nhà trường từ trung bình cho đến rất tốt, trong đó mức tốt và rất tốt

chiếm tỉ lệ 57,2%. Như vậy sinh viên đánh giá rất cao về chất lượng đào tạo

của nhà trường và trong thực tế chính chất lượng đào tạo này sẽ quyết định

hiệu quả của hoạt động nghề nghiệp của sinh viên trong thực tiễn. Và thật

vậy, số lượng sinh viên của trường tốt nghiệp hàng năm là khá lớn, nhưng

vẫn không đủ đáp ứng kịp thời và đầy đủ cho số lượng các doanh nghiệp

được thành lập. Mặt khác, trong quá trình gia nhập AFTA và WTO với những

thể chế chặt chẽ, yêu cầu nước ta phải đồng bộ phát triển kinh tế xã hội nhiều

mặt, trong đó yêu cầu rất quan trọng là phải chuẩn bị nguồn nhân lực đủ năng

lực cần thiết để chủ động hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế, trong đó đòi

hỏi rất cao ở vai trò của chất lượng giáo d ục đào tạo nói chung và của trường

Đại học Kinh tế nói riêng.

2.3.1.2. Thành công trong nghề nghiệp

- Để tìm hiểu tiêu chí đánh giá của sinh viên về các yếu tố quyết định sự

thành công trong nghề nghiệp, chúng tôi đưa ra câu hỏi “Yếu tố thể hiện một

người thành công trong nghề nghiệp là…”. Kết quả về tổng tần số và tỉ lệ

% trong từng điều kiện thành công trong nghề nghiệp được biểu hiện dưới

40.00%

35.00%

Laøm ñuùng ngheà

30.00%

Kieám nhieàu tieàn

25.00%

20.00%

Vò trí cao trong XH

15.00%

10.00%

Coù phaåm chaát TL phuø hôïp ngheà

5.00%

0.00%

1

biểu đồ sau đ ây:

Biểu đồ 2.1. Tỉ lệ % các yếu tố thành công trong nghề nghiệp

Kết quả biểu đồ 2.1 cho thấy: Đánh giá của sinh viên về vấn đề một

người thành công trong ngh ề nghiệp là người làm đúng nghề mình yêu thích

và sống được bằng thu nhập của nghề, chiếm 33.9%, kế đến là yếu tố Có các

phẩm chất tâm lý phù hợp với nghề chiếm 25.2%. Kết quả trên chứng tỏ rằng,

sinh viên đánh giá cao sự thành công trong nghề nghiệp phụ thuộc đến các

yếu tố liên quan đến nghề hơn là các yếu tố kinh tế (Kiếm được nhiều tiền,

chiếm 23.4%) và yếu tố xã hội (Chiếm một vị trí cao trong xã hội, chiếm

17.6%).

Như vậy, việc đánh giá các yếu tố thành công trong nghề nghiệp của

sinh viên là một đánh giá cân bằng giữa cuộc sống và nghề nghiệp.

- Để tìm hiểu việc sinh viên Kinh tế ra trường không làm đúng chuyên môn được đào

tạo, sinh viên có ý kiến đánh giá như thế nào, chúng tôi đưa ra những nguyên nhân

sau:

+ Không ứng dụng được kiến thức đã học ở trường đại học

+ Đồng lương công chức thấp

+ Khó tìm được việc đúng chuyên môn của mình

+ Không có kinh nghiệm

+ Không có khả năng chịu đựng áp lực của môi trường cạnh tranh

+ Không có năng lực phù hợp với việc kinh doanh, thương trường

Để trả lời câu hỏi này, sinh viên sẽ chọn 3 ý mà các em cho là phù hợp với suy nghĩ

và đánh giá của mình. Kết quả chúng tôi thu được số liệu như sau:

Bảng 2.3. Tự đánh giá của sinh viên về nguyên nhân không làm việc đúng

chuyên môn nghề nghiệp

Nguyên nhân Tần số Xếp hạng %

Không ứng dụng kiến thức đã 178 46,7 3

học

Đồng lương công chức thấp 163 42,8 4

Khó tìm việc đúng với 234 61,4 1

chuyên môn

Không có kinh nghiệm 216 56,7 2

Không chịu được áp lực của 104 27,3 6

môi trường cạnh tranh

Không có năng lực phù hợp 136 35,7 5

Qua kết quả bảng 2.3 cho thấy, việc sinh viên chọn ý kiến nào trong sự lựa

chọn của mình là hoàn toàn phụ thuộc vào chủ quan của họ, bởi vì khách thể được

khảo sát là sinh viên năm thứ 2, chưa có nhiều va chạm với nghề nghiệp vì chưa được

đi thực tập như những sinh viên năm cuối, nên với họ nhận định về vấn đề này sẽ phụ

thuộc rất nhiều vào kinh nghiệm có được từ các kênh thông tin xung quanh như báo

chí, bạn bè,…. Các ý kiến tập trung cao ở nguyên nhân khó tìm được việc đúng

chuyên môn (chiếm 61,4%) và Không có kinh nghiệm (chiếm 56,7%)

Nếu kết quả đúng như sinh viên tự đánh giá, trong đó nguyên nhân chiếm thứ

hạng cao nhất “Khó tìm việc đúng với chuyên môn đào tạo” thuộc về nguyên nhân

khách quan do đào tạo chưa đáp ứng được cung cầu của xã hội về lực lượng lao động

trong xã hội.

Nguyên nhân xếp thứ 2 thuộc về nguyên nhân chủ quan “không có kinh

nghiệm”, thì vấn đề này sinh viên có thể khắc phục được theo thời gian, khi họ đã ra

trường lâu năm và có trải nghiệm trong việc làm thực tế hoặc đối với sinh viên có đi

làm thêm thì ít nhiều họ cũng có những cơ hội để tích luỹ kinh nghiệm cho bản thân.

- Liên quan đến công việc làm thêm của sinh viên, chúng tôi có câu hỏi để tìm hiểu ý

kiến của sinh viên về vấn đề “sinh viên có cơ hội trải nghiệm hoạt động kinh doanh

từ thời đi học hoặc có đi làm thêm, dễ hình thành các phẩm chất nghề nghiệp và sẽ

có cơ hội thành công trong nghề nghiệp hơn là chỉ biết tập trung cho việc học ở

đại học”. Kết quả thu được như sau:

Bảng 2.4: Ý kiến đánh giá của sinh viên về việc đi làm thêm

Các mức lựa chọn Tần số %

Hoàn toàn đồng ý 136 35,7

Đồng ý 195 51,2

Không biết 17 4,5

Không đồng ý 29 7,6

Hoàn toàn không đồng ý 4 1,0

Tổng 381 100.0

Để đánh giá về nhận định của sinh viên về vấn đề này, chúng tôi phân ra như

sau:

- Nhóm cao gồm 2 mức: Hoàn toàn đồng ý và đồng ý

- Nhóm thấp gồm 2 mức: không đồng ý và hoàn toàn không đồng ý

Chúng tôi không đề cập đến mức Không biết vì khi chọn mức này, sinh viên đã

không thể hiện được chính kiến của mình trong việc đánh giá.

Kết quả bảng 2.4 cho thấy 86,9% sinh viên chọn ý kiến ở nhóm cao là thể hiện

sự đồng ý và 8,6% sinh viên ở nhóm thấp, thể hiện sự không đồng ý với ý kiến “sinh

viên có trải nghiệm hoạt động kinh doanh thời đi học hoặc đi làm thêm dễ hình thành

các phẩm chất nghề nghiệp và có cơ hội thành công trong nghề nghiệp hơn là chỉ tập

trung cho việc học ở đại học”. Từ đó cho thấy rằng phần lớn sinh viên đánh giá có

mối quan hệ giữa việc làm thêm trong thời sinh viên với sự hình thành phẩm chất

nghề nghiệp cũng như sự thành công về nghề nghiệp trong tương lai. Điều này chứng

tỏ rằng, sinh viên trong thời kinh tế thị trường có điều kiện năng động, nhạy bén và

họ bước vào hoạt động nghề nghiệp rất sớm ngay từ khi còn là sinh viên.

Để tìm hiểu cơ sở sinh viên có ý kiến trên, trong phần thông tin của người

được hỏi, chúng tôi có câu hỏi là “Hiện nay bạn có đi làm thêm không?”, với 2 mức

lựa chọn “có” và “không”, chúng tôi thu được kết quả như sau: Tỉ lệ chọn có làm

thêm với các loại công việc đa dạng như: dạy kèm, tiếp thị sản phẩm, khảo sát thị

trường, giới thiệu quảng cáo sản phẩm, làm việc bán thời gian, làm việc theo thời vụ

lễ, tết, nghĩ hè,… là 336, chiếm 88,2%; Không làm thêm là 45, chiếm 11,8%. Các số

liệu này càng khẳng định rằng sinh viên trong thời kỳ kinh tế thị trường và hội nhập

sẽ năng động và nhạy bén hơn, họ biết thích ứng và hoà nhập vào các công việc xã

hội để thực hành nghề, để tìm kiếm cơ hội việc làm. Mặt khác, tỉ lệ sinh viên của các

tỉnh khác chiếm khá cao (74,4%), cũng là điều kiện để sinh viên phải chọn việc làm

thêm, nhằm trang trải những chi tiêu về kinh phí học hành, ăn ở tại một thành phố lớn

như TP.HCM; do đó điều kiện môi trường cũng là yếu tố tác động đến đời sống sinh

viên, buộc họ phải tự thân vận động hơn là thụ động chờ sự chu cấp hoàn toàn của gia

đình.

Như vậy chính trong các công việc làm thêm đã giúp họ trưởng thành hơn,

quan trọng hơn nữa sinh viên sẽ biết quý trọng những giá trị của đồng tiền mà họ đã

vất vả kiếm được bằng công sức, mồ hôi của mình sau những giờ căng thẳng trên

giảng đường và cũng từ trong môi trường làm việc dù là làm thêm nhưng cũng giúp

họ có thêm những kinh nghiệm ứng xử, giao tiếp góp phần hình thành những phẩm

chất tâm lý phù hợp với công việc hiện tại của họ cũng như nghề nghiệp trong tương

lai. Chính sự trải nghiệm của bản thân sẽ giúp họ có quyết định chính xác trong việc

trả lời câu hỏi trên.

2.3.1.3. Vai trò của hoạt động cá nhân trong việc hình thành phẩm chất nghề

nghiệp

- Việc hình thành nhân cách của con người nói chung cũng như những phẩm chất tâm

lý của cá nhân phù hợp với nghề nói riêng có được là kết quả của sự phối hợp các tác

động của yếu tổ bẩm sinh hay giáo dục của gia đình, nhà trường và xã hội, trong đó

có một yếu tố rất quan trọng của tự giáo dục và rèn luyện của chính bản thân. Chính

vì vậy, chúng tôi muốn tìm hiểu xem sinh viên có ý kiến đánh giá như thế nào về vấn

đề này, số liệu thu được có kết quả như sau:

Biểu đồ 2.2. Tỉ lệ % các tác động của gia đình, nhà trường, xã hội và bản thân cá

3%

27%

4%

66%

nhân trong việc hình thành phẩm chất nghề nghiệp

Kết quả biểu đồ 2.2 cho thấy:

Góp phần hình thành phẩm chất nghề nghiệp cho sinh viên là trách nhiệm của:

- Gia đình (12/381, chiếm 3%)

- Nhà trường (103/381, chiếm 27%)

- Xã hội ( thông qua quá trình hành nghề của cá nhân trong thực tiễn) (15/381,

chiếm 4%).

- Bản thân cá nhân (251/381, chiếm 66%)

Các số liệu trên cho thấy sinh viên đánh giá cao vai trò của cá nhân trong việc

hình thành các phẩm chất nghề nghiệp, chiếm 66%. Vai trò này được biểu hiện ở sự

rèn luyện và phấn đấu của mỗi cá nhân trong cuộc sống và trong quá trình hành nghề

trong hoạt động thực tiễn.

- Liên quan đến phẩm chất năng lực của nghề nghiệp được đào tạo, chúng tôi muốn

tìm hiểu xem sinh viên có những hoạt động nào để mở rộng kiến thức, thu thập thông

tin và nâng cao khả năng chuyên môn.

Về phía nhà trường, nhằm tạo môi trường thuận lợi giúp sinh viên vận dụng

kiến thức đã học để tìm ra giải pháp sáng tạo cho việc giải quyết các tình huống kinh

doanh trong thực tiễn, đồng thời tạo lập cầu nối giữa lý thuyết trong bài giảng với

thực tế kinh doanh cũng như tạo điều kiện để xã hội đánh giá được năng lực thực chất

của sinh viên, nhà trường phối hợp với các công ty, doanh nghiệp tổ chức nhiều hoạt

động học thuật cho sinh viên; điển hình các cuộc thi: Dynamic – Sinh viên nhà doanh

nghiệp tương lai, Thử tài kinh doanh, CPA – Cơ hội thử thách toả sáng sao Kế toán,

Bản lĩnh giám đốc tài chính – CFO, Hội thảo tài chính quốc tế, Toán tài chính, Thế

giới vĩ mô, Sàn giao dịch chứng khoản ảo, Nhà tư vấn luật kinh tế trẻ,… Về phía sinh

viên, họ cũng phải chủ động tham gia các hoạt động để nâng cao khả năng hoạt động

chuyên môn. Kết quả thu được như sau:

Bảng 2.5. Mức độ tham gia các hoạt động của sinh viên

Mức độ

Các hoạt động Không Có nhưng không Thường xuyên

nhiều

1. Đọc sách, giáo trình 29 229 123

7,6% 60,1% 32,3%

2. Tham khảo tài liệu 88 209 84

chuyên môn 23,1% 54,9% 22%

3. Dự các khoá học 225 129 27

ngắn ngày 59,1% 33,9% 7,1%

4. Đọc báo, tạp chí 71 174 136

kinh tế 18,6% 45,7% 35,7%

5. Xem tivi 28 140 213

7,3% 36,7% 55,9%

6. Nghe radio 113 154 114

29,7% 40,4% 29,9%

7. Truy cập Internet 62 162 157

16,3% 42,5% 41,2%

Các hoạt động khác 44 304 33

11,5% 79,8% 8,7%

Kết quả bảng 2.5 cho thấy, sinh viên có ý thức chủ động trong việc mở rộng kiến thức,

thu thập thông tin góp phần nâng cao khả năng chuyên môn của mình qua tỉ lệ chọn ở mức độ

“có nhưng không nhiều” và “thường xuyên” chiếm tỉ lệ cao hơn mức độ chọn “không”, chỉ

riêng hoạt động tham gia các khoá học ngắn ngày, chiếm tỉ lệ cao là 59,1% sinh viên chọn mức

độ “không” cao hơn hẳn 2 mức còn lại. Đối với các hoạt động khác mà sinh viên cho rằng có

liên quan đến hoạt động học tập hoặc hoạt động chuyên môn, bao gồm những hoạt động sau:

Tham gia các câu lạc bộ, làm thêm, các hoạt động sinh viên tình nguyện, mùa hè xanh,… cũng

thu hút sự tham gia của sinh viên, điều này thể hiện rõ qua số liệu thu được ở mức chọn “có

nhưng không nhiều” là 79,8% và mức chọn “thường xuyên” là 8,7%, chỉ có số ít tỉ lệ 11,5%

sinh viên chọn là “không”. Có thể thấy rằng các hoạt động này là những hoạt động thực tiễn

trong cuộc sống, góp phần cho sinh viên mở rộng quan hệ giao lưu, giao tiếp xã hội và bước

đầu tham gia vào hoạt động nghề nghiệp. Cho dù dưới hình thức nào, là hoạt động thực tiễn

(làm thêm, sinh viên tình nguyện, mùa hè xanh,…), hay là những hoạt động thuần tuý mang

tính giải trí (đọc báo, tạp chí, xem tivi, nghe radio, truy cập Internet,…), cũng giúp ích cho việc

mở mang kiến thức của sinh viên; chính những hoạt động này sẽ góp phần hình thành một số

kinh nghiệm sống cũng như các phẩm chất nghề nghiệp cần thiết.

Các hoạt động mà sinh viên chọn ở mức độ thường xuyên, chứng tỏ rằng sinh viên có

tập trung thời gian vào các hoạt động này, chiếm tỉ lệ cao là:

- Xem tivi 213/381, chiếm 55,9%

- Truy cập Internet 157/381, chiếm 41,2%

- Đọc báo, tạp chí Kinh tế 136/381, chiếm 35,7%

- Đọc sách, giáo trình 123/381, chiếm 32,3%

2.3.2. KẾT QUẢ TỔNG QUÁT CỦA SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH

TẾ VỀ PHẨM CHẤT NGHỀ NGHIỆP

2.3.2.1. Kết quả tự đánh giá của sinh viên về các nhóm phẩm chất nghề nghiệp.

- Kết quả tự đánh giá của toàn mẫu sinh viên về nhóm phẩm chất Ý chí.

Bảng 2.6. Các phẩm chất thuộc về Ý chí

Nội dung ĐTB ĐLC Thứ

hạng

1. Tôi có thể tạo dựng lại động lực cho hoạt động sau khi thất 1,55 0,60 6

bại hoặc không thành công

2. Tôi có thể định cho mình những mức thành công mang 1,70 0,72 2

tính thực tế

3. Tôi tin rằng tôi có đủ khả năng đối mặt với những vấn đề 1,57 0,63 5

4. Tôi độc lập trong suy nghĩ và hành động 1,79 0,67 1

5. Tôi luôn cố gắng để trở thành người thành đạt 1,24 0,48 10

6. Tôi kiên quyết bảo vệ ý kiến đúng của bản thân 1,60 0,63 3

7. Tôi luôn giữ thái độ bình tĩnh khi bị người khác xúc phạm 1,60 0,63 3

8. Tôi muốn tạo dựng cuộc sống của tôi và làm chủ vận 1,28 0,56 9

mệnh đời mình

1,40 0,64 9. Là sinh viên tôi thấy mình tự chủ hơn 7

1,37 0,63 10. Là sinh viên tôi thấy mình độc lập hơn 8

Tự đánh giá chung về các phẩm chất ý chí 1,51 0,15

Kết quả của bảng 2.6 cho thấ y, điểm trung bình của thang đo các

phẩ m chất ý chí của sinh viên Đạ i học Kinh tế bằng 1,51, được x ếp vào

mức trung bình. Các nội dung trong thang đo này có điểm trung bình dao

động từ 1,24 đế n 1,70, tức là từ mức thấp cho đến trung bình khá. Xét

nội dung cụ thể, các câu có đ iểm số trung bình xế p thứ hạng cao là:

- Tôi độc lập trong suy nghĩ và hành động

- Tôi định cho mình những mức thành công mang tính thực tế

- Tôi kiên quyế t bảo vệ ý kiến đúng của bả n thân

- Tôi luôn giữ thái độ bình t ĩnh khi bị người khác xúc phạm

Những nội dung có điểm số trung bình thấp, xếp thứ hạng thấp là:

- Tôi cố gắng trở thành ngườ i thành đạt, điểm trung bình toàn mẫu

là 1,24

- Tôi muốn tạo dự ng cuộc sống của tôi và làm chủ vận mệnh đời

mình, Đ TB 1,28

- Là sinh viên tôi thấy mình độc l ập hơn, ĐTB 1,37.

- Là sinh viên tôi thấy mình tự chủ hơn, ĐTB 1,40.

Những nội dung sinh viên chọn ở mức thấp vì nó liên quan đến

tương lai, cái mà h ọ chưa biế t mình sẽ trải qua như thế nào (ngườ i

thành đạt, làm chủ vận mệnh đời mình), mặt khác sinh viên còn ngồi

trên ghế nhà trường, ít nhi ều các em cũng còn chịu sự phụ thuộc của

gia đình, nên các em nhận thấ y mình chưa đạt đến mức tự chủ và độc

lập.

- Kết quả tự đánh giá của toàn mẫu sinh viên về nhóm phẩm chất Cảm xúc

Bảng 2.7. Các phẩm chất thuộc về cảm xúc

Thứ Nội dung ĐTB ĐLC hạng

1. Tôi ham hiểu biết và thích thú với những cái lạ 1,44 0,59 9

2. Tôi có đủ khả năng chấp nhận thất bại khi tôi 1,50 0,64 8

đã cố gắng hết sức mình cho một công việc, một

quan hệ nào đó

3. Tôi làm chủ bản thân để hoàn thành công việc / 1,68 0,61 5

học tập của mình

4. Tôi thích tự đánh giá hơn là phụ thuộc vào ý 1,67 0,76 6

kiến xét đoán của người khác

5. Tôi dễ dàng nói ra cảm xúc của mình 1,81 0,79 3

6. Tôi yêu thích và an tâm với việc lựa chọn 1,71 0,70 4

ngành nghề của mình

7. Tôi tự tin khi đứng trước người lạ hay đám 2,11 0,73 1

đông

8. Tôi thích nói về những điểm mạnh của chính 2,08 0,79 2

mình

9. Tôi luôn cảm thấy thoải mái, lạc quan và yêu 1,60 0,63 7

đời

Tự đánh giá chung về các phẩm chất cảm xúc 1,73 0,15

Kết quả của bảng 2.7 cho thấy:

Những nội dung liên quan đế n các cảm xúc của cá nhân như là

nhữ ng nhận định của cá nhân về nhữ ng cảm xúc của bản thân cũng như

cách biểu hiện các cảm xúc ấy trong cuộc sống thông qua các mối quan

hệ giao tiếp, các biể u hiện của tình cảm, tâm trạng cá nhân. Những cảm

xúc này sẽ phát triển theo chiều hướng tích cự c hay tiêu cực là phụ

thuộc rất nhiều vào đặc điểm tâm lý của chủ thể cũng như nhữ ng tác

động của môi trườ ng sống xung quanh. Khi con người có những cảm xúc

tích cực, họ sẽ cảm thấy tự tin trong cuộc sống, tâm trạ ng thoả i mái, lạc

quan và yêu đời; ngược l ại nhữ ng ngườ i có cảm xúc tiêu cực sẽ cảm thấy

tự ti, lo lắng, mức độ tự tin thấp. Nhìn chung các nộ i dung trong bảng

đều được sinh viên lựa chọn ở mức độ trên trung bình, duy nhất nội dun g

“ham hiể u biết và thích thú vớ i cái mới lạ ” ở mức độ thấp, (ĐTB là

1,44). Điểm trung bình chung trên toàn m ẫu về mặt cảm xúc ở mức độ

tương đối cao là 1,73.

Những nội dung xếp thứ hạng cao là:

- Tôi tự tin đứng trước người lạ hay đám đông

- Tôi thích nói về những điểm mạnh của chính mình

- Tôi dễ dàng nói ra cảm xúc của mình

- Tôi an tâm với việc lựa chọn ngành nghề của mình

Trong kế t quả tự đánh giá của sinh viên cho thấy sinh viên có cảm

xúc tích cực đối v ới ngành nghề mà họ đã chọn (Đ TB 1,71, xếp thứ hạng

4); đây là một dấu hiệu tốt cho hoạt động họ c tập ở giai đoạn học đại

học của sinh viên đồng thời sẽ là độ ng lực để giúp họ có được sự say

mê, hứng thú với nghề nghiệp sau này.

Sinh viên đánh giá cao về sự tự tin củ a mình trong quan hệ với

ngườ i khác, xế p thứ hạng 1. Tự tin còn được gọi là lòng tự tin, là trạng

thái tâm lý tin tưởng vào nă ng lực củ a mình trong quá trình thực hiệ n

mục tiêu mình đặt ra. Tự tin có được trước tiên là xu ất phát từ sức mạnh

nội tâm của bản thân, trên cơ sở cá nhân biế t chính xác các điểm mạ nh

và điểm yếu của bản thân và khẳng định được tính tích c ực khi đánh giá

về thực lực củ a mình, nên nó còn là biểu hiện của sức khoẻ tâm lý, là

điều kiện tâm lý có lợi cho sự thành công trong họ c tập và nghề nghiệp

sau này.

Sinh viên đánh giá tích cực về những cảm xúc của bản thân như

thích nói về những điểm mạ nh của chính mình, dễ dàng bày tỏ cảm xúc

cá nhân,… đ iều này chứng tỏ rằng ở tuổi trưở ng thành sinh viên đã có

khuynh hướng thích t ự khẳ ng định bản thân mình trong mối quan hệ với

ngườ i khác.

- Kết quả tự đánh giá của toàn mẫu sinh viên về nhóm phẩm chất Năng lực.

Bảng 2.8. Các phẩm chất thuộc về khả năng, năng lực

Nội dung ĐTB ĐLC Thứ

hạng

1. Tôi cảm thấy tự hào về các kết quả đạt được 2,04 0,63 1

trong học tập, trong công việc làm thêm

2. Tôi nhận biết các kỹ năng và tài năng của tôi 1,77 0,75 6

3. Tôi ý thức được các khả năng và các giới hạn 1,35 0,54 9

của tôi

4. Tôi nhạy bén để nắm bắt cơ hội thành công 1,96 0,69 3

trên thương trường

5. Tôi có khả năng thương lượng và giải quyết 1,71 0,64 7

các vấn đề trong những tình huống khó khăn

6. Tôi cho rằng người học giỏi là người có cơ hội 1,89 0,72 4

thành công trong nghề nghiệp

7. Tôi có thể nhớ lâu những gì đã học 1,97 0,67 2

8. Tôi thích ứng tốt với các loại công việc 1,86 0,70 5

9. Tôi luôn biết những ưu điểm và hạn chế của 1,48 0,61 8

bản thân

Tự đánh giá chung về các phẩm chất năng lực 1,78 0,14

Kết quả bảng 2.8 cho thấy:

Trong 9 nội dung của thang đo về các phẩm chất năng lực bao gồm các nội

dung liên quan đến tri thức, kỹ năng và kỹ xảo trong lĩnh vực nghề nghiệp như lượng

kiến thức tiếp thu được, kỹ năng và tài năng, khả năng thích ứng, nhạy bén, khả năng

thương lượng và giải quyết công việc, những điểm mạnh và những điểm yếu của cá

nhân,…Điểm trung bình chung trên toàn mẫu của sinh viên về các phẩm chất thuộc

nhóm năng lực là 1,78; nhìn chung sinh viên tự đánh giá về nhóm năng lực là tương

đối cao. Kết quả này cho thấy sinh viên Đại học Kinh tế khá tự tin trong khi đánh giá

về khả năng, năng lực. Đây là điểm rất quan trọng, vì khả năng, năng lực của cá nhân

sẽ gắn liền với hoạt động nghề nghiệp của cá nhân trong tương lai, do vậy việc sinh

viên có tự tin vào khả năng hay năng lực của bản thân hay không sẽ giúp sinh viên có

cách nhìn nhận tích cực hay tiêu cực cả ở các khía cạnh khác trong lĩnh vực nghề

nghiệp của bản thân.

Xem xét nội dung đánh giá ở bảng trên cho thấy, những nội dung có điểm

trung bình cao là những khả năng, năng lực học tập và làm việc như “Tôi tự hào về

kết quả đạt được trong học tập và trong công việc làm thêm” (ĐTB là 2,04), “Tôi có

thể nhớ lâu những gì đã học” (ĐTB là 1,97), “Tôi nhạy bén nắm bắt cơ hội” (ĐTB là

1,96), “Tôi cho rằng người học giỏi là người có cơ hội thành công trong nghề nghiệp”

(ĐTB là 1,89), “Tôi thích ứng tốt với các loại công việc” (ĐTB là 1,86). Điểm số

đánh giá của sinh viên cho thấy có kết quả cao hơn những câu thuộc về những đánh

giá cụ thể có tính khẳng định về khả năng lực cá nhân như “Tôi nhận biết kỹ năng và

tài năng của tôi” (ĐTB là 1,77), “Tôi luôn biết những ưu điểm và hạn chế của bản

thân” (ĐTB là 1,48) và “Tôi ý thức được các khả năng và các giới hạn của tôi”(ĐTB

là 1,35).

- Kết quả tự đánh giá của toàn mẫu sinh viên về nhóm phẩm chất Đạo đức.

Bảng 2.9. Các phẩm chất thuộc về đạo đức

Nội dung ĐTB ĐLC Thứ

hạng

1. Tôi sẵn sàng giúp đỡ người khác 1,46 0,59 4

2. Tôi có thể hoàn thành tốt công việc được giao 1,57 0,56 1

1,22 0,51 7 3. Tôi muốn thay đổi nhiều điểm chưa tốt của

bản thân mình

4. Tôi luôn xấu hổ với người khác khi tôi có 1,50 0,66 2

những hành động sai trái

5. Tôi luôn chấp hành tốt những quy định của 1,47 0,60 3

pháp luật

6. Tôi luôn cố gắng làm đúng với lương tâm của 1,28 0,54 6

mình

7. Tôi biết rõ điều gì có thể làm và điều gì không 1,45 0,56 5

nên làm

Tự đánh giá chung về các phẩm chất đạo đức 1,42 0,11

Kết quả bảng 2.9 cho thấy:

Trong phần tự đánh giá về mặt đạo đức bao gồm 7 nội dung được trình bày

như: chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, lương tâm, trách nhiệm đối với công việc và

quan hệ với người khác,… kết quả cho thấy tự đánh giá về các phẩm chất thuộc về

đạo đức của toàn mẫu nghiên cứu là 1,42 ở mức trung bình. Đạo đức là một phẩm

chất rất quan trọng của con người nói chung, để hình thành được những phẩm chất

đạo đức tốt đòi hỏi một quá trình tự rèn luyện, phấn đấu của bản thân. Việc sinh viên

có ý thức về các phẩm chất đạo đức của mình và biết đánh giá nó đúng với hoàn cảnh

của mình là một động lực để giúp các em tự hoàn thiện bản thân mình trong cuộc

sống sau này.

Những nội dung được sinh viên đánh giá xếp thứ hạng cao là:

- Tôi có thể hoàn thành tốt công việc được giao

- Tôi luôn xấu hổ với người khác khi có hành động sai trái

- Tôi luôn chấp hành tốt những quy định của pháp luật

Trong tự đánh giá của sinh viên về các phẩm chất đạo đức, các nội dung “Tôi

muốn thay đổi nhiều điểm chưa tốt của bản thân “(ĐTB là 1,22), “Tôi luôn cố gắng

làm đúng với lương tâm của mình” (ĐTB là 1,28), “Tôi biết rõ điều gì làm và điều gì

không thể làm” (ĐTB là 1,45),… có điểm trung bình ở mức thấp và xếp thứ hạng

thấp. Như vậy, trên cơ sở những biểu hiện về mặt đạo đức bản thân được các em

nhìn nhận và tự đánh giá không cao, chứng tỏ là các em biết “trung thực” nhìn nhận

bản thân mình còn nhiều thiếu sót.

- Kết quả tự đánh giá của toàn mẫu sinh viên về nhóm phẩm chất Giao tiếp xã

hội.

Bảng 2.10. Các phẩm chất thuộc về quan hệ giao tiếp xã hội

Nội dung ĐTB ĐLC Thứ

hạng

1. Tôi có thể có những mối quan hệ với người khác 1,84 0,67 1

một cách dễ dàng

2. Tôi có thể thích nghi tốt với các tình hình thực tế 1,73 0,65 2

mới mẻ thường luôn đưa tới trong cuộc sống

3. Tôi có thể tạo được lòng tin nơi người khác: bạn 1,38 0,58 7

bè, cha mẹ, thầy cô giáo, đồng sự, cấp trên (trong

công việc làm thêm),…

4. Tôi cho rằng làm kinh tế tốt phải có sự quan tâm 1,28 0,54 9

sâu sắc đến các vấn đề thời sự, chính trị, xã hội

5. Tôi có ý thức hợp tác với người khác trong công 1,51 0,61 4

việc

6. Tôi tạo được niềm vui trong quan hệ với người 1,50 0,59 5

khác

7. Tôi học hỏi những kinh nghiệm từ người khác 1,40 0,59 6

8. Tôi thích làm việc hay giao tiếp với nhiều người 1,54 0,66 3

9. Tôi thường lắng nghe ý kiến của người khác khi 1,32 0,56 8

quyết định một công việc quan trọng

Tự đánh giá chung về Quan hệ giao tiếp xã hội 1,50 0,14

Kết quả bảng 2.10 cho thấy:

Quan hệ giao tiếp xã hội được thể hiện qua tự đánh giá của sinh viên trong mối

quan hệ với người khác qua các nội dung như: học hỏi kinh nghiệm, hợp tác trong

công việc, tạo được lòng tin trong quan hệ với người khác, có nhu cầu được làm việc

với người khác, chia sẻ niềm vui,…Giao tiếp xã hội cũng là một phần rất quan trọng

trong giao tiếp công việc và nó có những ảnh hưởng nhất định trong hoạt động nghề

nghiệp của cá nhân. Điểm trung bình trên toàn mẫu của sinh viên về quan hệ giao tiếp

xã hội là 1,50; trong đó những nội dung được sinh viên đánh giá xếp thứ hạng cao là:

- Tôi có thể có những mối quan hệ với người khác một cách dễ dàng

- Tôi có thể thích nghi tốt với tình hình thực tế mới mẻ thường luôn đưa tới

trong cuộc sống

- Tôi thích làm việc hay giao tiếp với nhiều người

- Tôi có ý thức hợp tác với người khác trong công việc

Nếu như các quan hệ giao tiếp với người khác được sinh viên đánh giá xếp thứ

hạng cao đồng thời sinh viên cũng bộc lộ rằng sinh viên ít quan tâm đến các vấn đề

thời sự, xã hội, bởi ở nội dung tôi cho rằng làm kinh tế tốt phải có sự quan tâm sâu

sắc đến các vấn đề thời sự, chính trị và xã hội có ĐTB thấp.

- Kết quả tự đánh giá của toàn mẫu sinh viên về nhóm phẩm chất Xu hướng

Bảng 2.11: Các phẩm chất thuộc về mục tiêu, xu hướng

Nội dung ĐTB ĐLC

1. Tôi có nhiều mục tiêu vừa cụ thể, vừa rõ rệt 1,59 0,72

trong cuộc sống

2. Tôi thường xem xét lại định hướng cho cuộc 1,60 0,76

đời mình

3. Tôi thường có những mục tiêu cụ thể để hoạch 1,59 0,67

định nghề nghiệp tương lai của mình

Tự đánh giá chung về các phẩm chất thuộc về 1,59 0,08

mục tiêu, xu hướng cá nhân

Kết quả bảng 2.11 cho thấy:

Xét về đặc điểm phát triển nhân cách thì xu hướng của cá nhân không tách

khỏi hoạt động nghề nghiệp nhằm đạt tới mục tiêu cá nhân đang hướng tới trong cuộc

sống. Với ý nghĩa là động cơ của hoạt động, xu hướng nói lên nguyện vọng của con

người muốn vươn tới một mục tiêu nào đó; do đó trong nhóm phẩm chất thuộc về xu

hướng nhân cách bao gồm các nội dung tự đánh giá của cá nhân về việc đề ra những

mục tiêu cụ thể trong cuộc sống, xem xét những định hướng trong hoạt động của

mình,… Trong phần tự đánh giá của sinh viên về nhóm phẩm chất xu hướng nhân

cách, tự đánh giá của sinh viên về các nội dung của ý chí không có sự chênh lệch

nhiều, điểm trung bình trên toàn mẫu ở tất cả 4 nội dung là 1,59 và 1,60

- Kết quả tự đánh giá của toàn mẫu sinh viên về nhóm Đặc điểm cá nhân

Bảng 2.12. Các phẩm chất thuộc về đặc điểm cá nhân

Nội dung ĐTB ĐLC Thứ

hạng

1. Là sinh viên tôi thấy mình trưởng thành hơn 1,41 4 0,64

2. Tôi luôn tìm đến những hoạt động vui chơi thể 1,76 2 0,75

thao để cân bằng đời sống tâm lý

3. Tôi biết tạo cho mình một phong cách riêng 1,59 0,67 3

4. Tôi tự tin với ngoại hình của mình 1,78 0,69 1

0,08 Tự đánh giá chung các đặc điểm cá nhân 1,63

Theo kết quả bảng 2.12 cho thấy mức độ tự đánh giá của sinh viên trường Đại

học Kinh tế về các đặc điểm cá nhân như thể chất, tinh thần,… điểm trung bình toàn

mẫu là 1.63, ở mức độ trung bình khá. Xét theo các nội dung cụ thể trong bảng thang

đo này cho thấy, các em có cách nhìn nhận và đánh giá khác nhau về các đặc điểm

của bản thân. Sinh viên có chiều hướng đánh giá cao hình thức bên ngoài, xếp thứ

hạng 1 (Tự tin với ngoại hình, ĐTB 1,78), ngoài ra sinh viên cũng có ý thức tìm đến

các hoạt động vui chơi, thể thao để cân bằng đời sống tâm lý đồng thời cũng góp

phần rèn luyện về thể chất, xếp thứ hạng 2; trong khi đó đánh giá về sự trưởng thành

của bản thân thì thấp hơn (Là sinh viên tôi thấy mình trưởng thành hơn, ĐTB 2,41).

Tuy vậy việc nhìn nhận và đánh giá về các đặc điểm của cá nhân một cách tích cực

hay tiêu cực còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố bên ngoài và yếu tố tâm sinh lý của cá

nhân.

- So sánh điểm trung bình giữa tự đánh giá của các nhóm phẩm chất nghề

nghiệp:

Tự đánh giá của sinh viên Đại học Kinh tế về các phẩm chất nghề nghiệp được

phân chia theo các nhóm: Ý chí, cảm xúc, giao tiếp xã hội, năng lực, xu hướng, đạo

đức và đặc điểm cá nhân, được biểu diễn với biểu đồ sau đây:

Biểu đồ 2.3. Điểm trung bình của các nhóm phẩm chất nghề nghiệp

Ñieåm trung bình cuûa töï ñaùnh giaù

2

Naêng löïc

Caûm xuùc

Ñaëc ñieåmcaù nhaân

Xu höôùng

YÙchí

Giao tieáp

Ñaïo ñöùc

1.5

1

B T Ñ

0.5

0

1

2

3

4

5

6

7

Caùc nhoùm phaåm chaát ngheà nghieäp

Kết quả biểu đồ 2.3 cho thấy điểm trung bình của các nhóm phẩm chất nghề

nghiệp trên mức trung bình, biểu thị trên biểu đồ là điểm trung bình các nhóm phẩm

chất nghề nghiệp đều nằm ở trong khoảng từ 1.50 đến 1.78 ( từ mức lựa chọn lúc

đúng lúc không cho đến đúng nhiều hơn là không đúng); chỉ duy nhất đánh giá về

nhóm phẩm chất đạo đức là ở mức thấp, dưới trung bình (ĐTB là 1,42).

Mức xếp hạng về các nhóm phẩm chất nghề nghiệp được phân bố như sau:

- 1. Điểm trung bình chung về phẩm chất ý chí là 1,51, xếp thứ hạng 5

- 2. Điểm trung bình chung về phẩm chất cảm xúc là 1,73, xếp thứ hạng 2.

- 3. Điểm trung bình chung về phẩm chất Khả năng, năng lực là 1,78, xếp thứ

hạng 1

- 4. Điểm trung bình chung về phẩm chất Đạo đức là 1,42, xếp thứ hạng 7

- 5. Điểm trung bình chung về phẩm chất Giao tiếp xã hội là 1,50, xếp thứ hạng

6.

- 6. Điểm trung bình chung về phẩm chất của Xu hướng nhân cách là 1,59, xếp

thứ hạng 4.

- 7. Điểm trung bình chung về phẩm chất thuộc về đặc điểm cá nhân là 1,63, xếp

thứ hạng 3.

Như vậy:

+ Tự đánh giá của sinh viên về phẩm chất nghề nghiệp có điểm trung bình của

toàn mẫu từ 1,42 đến 1,78, trong đó xếp hạng cao nhất là nhóm phẩm chất khả năng,

năng lực. Điều này chứng tỏ rằng trong nhận định của sinh viên thì năng lực gắn liền với hoạt động

nghề nghiệp, bởi năng lực chỉ hình thành và phát triển trong hoạt động. Vì vậy khi nói đến những

yếu tố tâm lý (chẳng hạn như những phẩm chất tâm lý) phù hợp với yêu cầu của một hoạt động nào

đó, đảm bảo cho hoạt động đó đạt hiệu quả cao là nói đến năng lực của cá nhân thể hiện trong lĩnh

vực hoạt động đó như thế nào.

+ Tự đánh giá về nhóm cảm xúc xếp thứ hạng 2 cho thấy sinh viên có những đánh giá theo

chiều hướng cảm xúc tích cực về những nội dung liên quan đến nghề nghiệp. Nếu như các phẩm

chất nghề nghiệp thuộc nhóm cảm xúc được coi như là những chỉ số về trí tuệ cảm xúc, (mặc dù

trong nghiên cứu này, thang đo về nhóm cảm xúc không phải là thang đo về trí tuệ cảm xúc (EQ)),

thì những phẩm chất này có ý nghĩa rất quan trọng trong việc cá nhân có thái độ, tình cảm như thế

nào đối với hoạt động của bản thân liên quan đến nghề nghiệp, bởi nếu cá nhân có những cảm xúc

tiêu cực đối với nghề nghiệp của mình, thì chắc chắn họ sẽ khó có được những hứng thú, say mê

trong hoạt động nghề nghiệp của mình, mặt khác nó còn có những ảnh hưởng tiêu cực đến sức

khoẻ tâm lý của cá nhân.

+ Các nhóm phẩm chất đặc điểm cá nhân, xu hướng nhân cách được sinh viên đánh giá ở

mức khá (ĐTB 1,63 và 1,59)

+ Các nhóm phẩm chất Ý chí và Giao tiếp xã hội được sinh viên đánh giá ở mức trung bình

+ Tự đánh giá của sinh viên về mặt đạo đức thấp hơn các nhóm phẩm chất khác, cho thấy

sinh viên ít quan tâm đến vai trò rèn luyện đạo đức trong cuộc sống, trên cơ sở của tự đánh giá một

cách trung thực với bản thân, các em sẽ có ý thức về những thiếu sót của bản thân với mong muốn

hoàn thiện mình để trở thành người có nhân cách tốt

2.3.3. SO SÁNH KẾT QUẢ TỰ ĐÁNH GIÁ CỦA SINH VIÊN NAM VÀ SINH

VIÊN NỮ ĐỐI VỚI CÁC NHÓM PHẨM CHẤT NGHỀ NGHIỆP.

2.3.3.1. So sánh tự đánh giá giữa sinh viên nam và nữ về các nhóm phẩm chất

nghề nghiệp

Bảng 2.13. So sánh sự tự đánh giá giữa sinh viên nam và nữ về các nhóm

phẩm chất nghề nghiệp

Nhóm Giới ĐTB ĐLC F p

Nam 10,23 2,34 1,83 Đạo đức

.067 Nữ 9,82 1,89 1,71

13,35 2,79 -0,78 Nam Giao tiếp xã

0.43 hội 13,57 2,58 -0,75 Nữ

15,96 2,89 -0,41 Nam Năng lực

0.03 16,08 2,52 -0,39 Nữ

15,48 3,04 -0,60 Nam Cảm xúc

0,54 15,66 2,80 -0,59 Nữ

15,18 3,14 0,24 Nam Ý chí

0,80 15,10 2,70 0,22 Nữ

4,79 1,46 0,10 Nam Xu hướng

0,92 4,77 1,47 0,09 nhân cách Nữ

6,33 1,50 -1,71 Nam Đặc điểm cá

0,08 nhân 6,63 1,66 -1,77 Nữ

Qua kết quả của bảng 2.13 cho thấy:

- Có sự khác biệt ý nghĩa giữa nam và nữ khi đánh giá về nhóm phẩm chất Năng

lực

- Không có sự khác biệt ý nghĩa giữa nam và nữ khi đánh giá về nhóm phẩm

chất Giao tiếp xã hội, Đạo đức, Cảm xúc, Ý chí , Xu hướng và Đặc điểm cá

nhân ở mức ý nghĩa p > 0,05

2.3.3.2. Xét theo từng nội dung của phẩm chất nghề nghiệp trong nhóm năng lực

bằng kiểm nghiệm F-test, chúng tôi nhận thấy có sự khác biệt trong tự đánh giá của

sinh viên nam và nữ thể hiện ở các nội dung sau đây:

Bảng 2.14. So sánh sự khác biệt giữa nam và nữ ở các nội dung phẩm chất

của nhóm Năng lực

Nội dung Giới ĐTB ĐLC F-test p

Tôi nhận biết các Nam 1,48 0,64 -2,18

0,03 kỹ năng và tài Nữ 1,65 0,75 -2,29 năng của tôi

Tôi nhạy bén nắm Nam 1,85 0,78 -3,52

bắt cơ hội thành

0,001 công thương Nữ 1,27 0,67 -3,35

trường

Kết quả bảng 2.14 cho thấy mức ý nghĩa trong kiểm định F là 0,03 < 0,05, cho

ta kết luận có sự khác biệt có ý nghĩa về trung bình giữa nam và nữ trong việc tự

đánh giá nội dung “tôi nhận biết các kỹ năng và tài năng của tôi”. Sự khác biệt đó

thể hiện ở ĐTB của nữ cao hơn nam, cho thấy nữ sinh viên tự đánh giá về các

năng lực bản thân có vẻ tự tin hơ n so với na m sinh viên

Mức ý nghĩa trong kiểm định F là 0,001 < 0,05, cho ta kết luận có

sự khác biệt ý nghĩ a về trung bình giữa nam và nữ trong việc tự đánh giá

nội dung “tôi nhạ y bén để nắm bắt cơ hội thành công trên thương

trườ ng”. Sự khác biệ t đó thể hiện ĐTB của nam cao hơn, chứng tỏ nam

sinh viên tự đánh giá về khả năng nhạy bén, nă ng động trên l ĩnh vự c

thương trường cao hơn so vớ i nữ sinh viên; điều này có vẻ hợp lý, bởi

trong giới kinh doanh thường ví rằng “thương trường nh ư chiến trườ ng”

vì vậy trong lĩnh vực hoạt động kinh doanh ngoài sự nhạ y bén nó còn đòi

hỏi rấ t cao ở sự mạo hiểm, phiêu lưu nên nó sẽ là nhữ ng cơ hội thử thách

đối với nam nhiều hơn so với nữ.

2.3.4. SO SÁNH SỰ KHÁC BIỆT GIỮA NƠ I CƯ TRÚ CỦA SINH

VIÊN TRONG TỰ ĐÁNH GIÁ VỀ CÁC NHÓM PHẨM CHẤT NGHỀ

NGHIỆP

Cụ thể trong phần này, chúng tôi so sánh sự khác biệt giữa các nơi

cư trú của sinh viên để tìm hiểu yếu tố môi trườ ng xã hộ i có ảnh hưở ng

đến kế t quả tự đánh giá về các nhóm phẩ m chất nghề nghiệp hay không.

Hơn nữ a khách thể nghiên cứu có một phần là sinh viên nước ngoài c ũng

là một yếu tố đặc biệ t về đặc đ iểm khách thể nghiên cứu.

Bảng 2.15. So sánh sự khác biệt giữa các nơi cư trú của sinh viên với kết quả

đánh giá các nhóm phẩm chất

Nhóm Cư trú ĐTB ĐLC F p

Các tỉnh 10,15 2,10

4,54 Đạo đức 0,011 TP.HCM 1,93 9,48

1,22 9,25 Nơi khác

2,74 15,24 Các tỉnh

2,83 0,06 Năng lực 2,29 15,56 TP.HCM

2,63 15,25 Nơi khác

2,90 15,73 Các tỉnh

1,10 0,33 Cảm xúc 2,71 15,22 TP.HCM

2,72 15,75 Nơi khác

2,81 15,10 Các tỉnh

0,29 0,74 Ý chí 2,96 15,28 TP.HCM

2,81 14,67 Nơi khác

1,43 4,79 Các tỉnh

0,17 0,98 Xu hướng 1,54 4,76 TP.HCM

1,86 4,75 Nơi khác

2,71 13,61 Các tỉnh

1,08 Giao tiếp 0,03 2,52 13,27 TP.HCM

2,01 12,75 Nơi khác

1,68 6,57 Các tỉnh

0,39 0,67 Đặc điểm cá 1,37 6,43 TP.HCM

nhân 1,92 6,33 Nơi khác

Kết quả bảng 2.15 cho thấy:

So sánh sự khác biệt giữa nơi cư trú của sinh viên với kết quả tự đánh

giá về các nhóm phẩm chất nghề nghiệp cho thấy:

- Có sự khác biệt giữa sinh viên ở các nơi cư trú khác nhau khi tự đánh giá về

nhóm phẩm chất đạo đức và giao tiếp.

- Không có sự khác biệt giữa sinh viên ở các nơi cư trú khác nhau khi tự đánh

giá về các nhóm phẩm chất Xúc cảm, Ý chí, Xu hướng, Năng lực và Đặc

điểm cá nhân.

2.3.5. SO SÁNH YẾU TỐ TÁC ĐỘNG GIỮA VIỆC “SINH VIÊN CÓ ĐI LÀM

THÊM HAY KHÔNG” VỚI CÁC NHÓM PHẨM CHẤT NGHỀ NGHIỆP

Bảng 2.16. So sánh giữa việc làm thêm của sinh viên với kết quả đánh giá các

nhóm phẩm chất

Nhóm Làm thêm ĐTB ĐLC F p

Có 10,11 2,06

0,54 0,58 Đạo đức Không 9,93 2,06

Có 16,04 2,82 Năng lực

0,01 0,98 Không 16,03 2,63

Có 15,04 2,65 Cảm xúc

-1,39 0,16 Không 15,68 2,91

Có 14,71 2,43 Ý chí

-1,05 0,29 Không 15,19 2,90

Có 5,00 1,75 Xu hướng

1,09 0,27 Không 4,75 1,43

Có 12,44 2,27 Giao tiếp

-2,86 0,004 Không 13,64 2,67

Có 6,04 1,52 Đặc điểm

-2,16 cá nhân 0,03 Không 6,60 1,61

Kết quả bảng 2.16 cho thấy:

- Không có sự khác biệt giữa sinh viên có đi làm thêm và sinh viên không đi làm

thêm khi tự đánh giá về nhóm phẩm chất Đạo đức, Ý chí, Xu hướng, Năng lực

và Cảm xúc

- Có sự khác biệt giữa sinh viên có đi làm thêm và sinh viên không đi làm thêm

khi tự đánh giá về nhóm phẩm chất Giao tiếp xã hội và Đặc điểm cá nhân

- Sự khác biệt giữa sinh viên có đi làm thêm và sinh viên không đi làm thêm khi đánh

giá về nhóm phẩm chất giao tiếp, thể hiện rõ ở nội dung sau đây:

Bảng 2.17. Nội dung “Tôi có ý thức hợp tác với người khác trong công việc”

Việc làm ĐTB ĐLC F p

thêm

1,31 0,60 2,56 Có 0,011

1,17 0,46 2,35 Không

Kết quả bảng 2.17 cho thấy, mức ý nghĩa p là 0,011 < 0,05, cho ta kết luận có

sự khác biệt ý nghĩa về trung bình giữa sinh viên đi làm thêm và sinh viên không đi

làm thêm trong việc tự đánh giá nội dung “tôi có ý thức hợp tác với người khác trong

công việc”

Sự khác biệt thể hiện ở điểm trung bình của nhóm sinh viên có đi làm thêm cao

hơn nhóm sinh viên không đi làm thêm khi đánh giá nội dung “Tôi có ý thức hợp tác

với người khác trong công việc”. Như vậy, chính trong quá trình đi làm thêm qua

những hoạt động thực tiễn, họ nhận thấy được sự cần thiết của sự hợp tác, phối hợp

giữa các cá nhân trong công việc tốt thì sẽ quyết định đến chất lượng và hiệu quả của

hoạt động.

Mặt khác, kết quả trên cho ta thấy có sự khác biệt giữa sinh viên có đi làm

thêm và không đi làm thêm khi tự đánh giá về nhóm phẩm chất Đặc điểm cá nhân,

với mức ý nghĩa p = 0,03 < 0,05. Sự khác biệt giữa sinh viên có đi làm thêm và sinh

viên không đi làm thêm khi đánh giá về nhóm phẩm chất Đặc điểm cá nhân.

Khi so sánh các nội dung của phẩm chất đặc điểm cá nhân, sự khác biệt thể

hiện rõ ở nội dung sau đây

Bảng 2.18: Nội dung “Là sinh viên tôi thấy mình trưởng thành hơn”

Việc làm ĐTB ĐLC F p

thêm

0,049 Không 1,42 0,56 -1,96

Có 1,54 0,61 -2,02

Kết quả bảng 2.18 cho thấy, giá trị p là 0,049 < 0,05, cho ta kết luận có sự khác

biệt ý nghĩa về trung bình giữa sinh viên đi làm thêm và sinh viên không đi làm thêm

trong việc tự đánh giá nội dung “Là sinh viên tôi thấy mình trưởng thành hơn”. Sự

khác biệt này thể hiện ở chỗ sinh viên có đi làm thêm có ĐTB cao hơn sinh viên

không đi làm thêm. Như vậy việc làm thêm có thể giúp cho sinh viên độc lập về kinh

tế, ít phụ thuộc hoàn toàn vào sự chu cấp của gia đình làm cho các em cảm thấy mình

đã trưởng thành hơn trong cuộc sống và điều này cũng có ý nghĩa quan trọng cho việc

định hướng và khẳng định vai trò tự lập của mình trong cuộc sống.

Như vậy:

Theo kết quả phân tích ở bảng trên (bảng 2.4, trang 49), có sự liên hệ giữa việc

sinh viên có hoạt động kinh doanh thời đi học hoặc đi làm thêm với việc hình thành

phẩm chất nghề nghiệp. Điều này được chứng minh qua kết quả phân tích của các

bảng trên như sau: Có sự khác biệt giữa sinh viên có đi làm thêm và sinh viên không

đi làm thêm khi tự đánh giá về các nhóm phẩm chất Giao tiếp xã hội và Đặc điểm cá

nhân.

Việc sinh viên đi làm thêm, tham gia vào hoạt động nghề nghiệp trong môi

trường xã hội dù đó là việc làm không chính thức, nhưng có thể khẳng định rằng

chính giao tiếp xã hội sẽ giúp sinh viên trưởng thành hơn trong cuộc sống.

CHƯƠNG 3: KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT KIẾN NGHỊ

3.1. KẾT LUẬN.

Sinh viên có hiểu biết nhất định về các vấn đề liên quan đến phẩm chất nghề

nghiệp và vai trò của phẩm chất tâm lý phù hợp với nghề là một yếu tố quyết định

đến sự thành công trong nghề nghiệp. Tuy vậy, sự hiểu biết còn rời rạc, thiếu hệ

thống, cụ thể sinh viên chỉ quan tâm nhiều đến nhóm phẩm chất năng lực, cảm xúc và

xem nhẹ yếu tố ý chí và đạo đức.

Trong thực tế, bất cứ một ngành nghề nào trong xã hội cũng đều có những yêu

cầu nhất định về những phẩm chất đạo đức đặc trưng của nghề; hơn nữa trong phẩm

chất nhân cách con người thì những phẩm chất đạo đức chiếm một vị trí rất quan

trọng. Bác Hồ từng dạy rằng “ Có tài mà không có đức là người vô dụng; Có đức mà

không có tài thì làm việc gì cũng khó”. Vì vậy, người có năng lực và tài năng trong

lĩnh vực nghề nghiệp nào chăng nữa cũng yêu cầu phải có đạo đức.

Ngày nay, việc học tập của sinh viên đại học không dừng lại ở kiểu học lý

thuyết suông, mà bản thân sinh viên đã biết gắn lý thuyết với thực tiễn. Bằng chứng

là sinh viên rất năng động, nhạy bén; họ tích cực tham gia vào các hoạt động xã hội,

các công việc làm thêm đa dạng với nhiều hình thức khác nhau (thường xuyên hoặc

không thường xuyên), để thực tập nghề và để mở rộng quan hệ xã hội, giúp mỗi cá

nhân thích ứng với điều kiện, môi trường và hoàn cảnh và để các em trưởng thành

hơn trong cuộc sống. Tỉ lệ 88,2% sinh viên tự đánh giá là có đi làm thêm với các mức

độ khác nhau (làm việc bán thời gian, làm theo thời vụ như dịp hè, lễ, tết,…) và

86,9% đánh giá rằng “sinh viên có cơ hội trải nghiệm hoạt động kinh doanh thời đi

học hoặc đi làm thêm dễ hình thành các phẩm chất nghề nghiệp và sẽ có cơ hội thành

công trong nghề nghiệp hơn là chỉ biết tập trung cho việc học đại học” là rất cao.

Một số nội dung sinh viên đánh giá thấp liên quan đến các vấn đề sau: (tính

trên kết quả tổng quát của từng nội dung phẩm chất có ĐTB thấp):

+ Vốn kiến thức hiểu biết xã hội không được sinh viên quan tâm (cụ thể câu “Tôi cho

rằng làm kinh tế tốt phải có sự quan tâm sâu sắc đến các vấn đề thời sự, chính trị, xã

hội” sinh viên đánh giá thấp)

+ Khả năng tự điều chỉnh, tự rèn luyện và hoàn thiện bản thân chưa cao. Cụ thể sinh

viên đánh giá thấp các nội dung sau:

- Tôi luôn cố gắng làm đúng với lương tâm của mình

- Tôi muốn thay đổi nhiều điểm chưa tốt của bản thân

+ Khả năng tự khẳng định của sinh viên trong cuộc sống thể hiện chưa cao. Cụ thể

sinh viên đánh giá thấp các nội dung sau:

- Tôi muốn tạo dựng cuộc sống của tôi và làm chủ vận mệnh đời mình

- Tôi luôn cố gắng để trở thành người thành đạt

- Là sinh viên tôi thấy mình trưởng thành hơn.

Sự thành công trong nghề nghiệp được sinh viên đánh cao là những tiêu chuẩn

liên quan đến yếu tố nghề nghiệp hơn là yếu tố kinh tế và xã hội; cụ thể là:

- Làm đúng nghề mình yêu thích và sống được bằng thu nhập của nghề

- Có các phẩm chất tâm lý phù hợp với nghề.

Sinh viên đánh giá cao vai trò hoạt động cá nhân trong việc hình thành phẩm

chất nghề nghiệp ( chiếm 66% cao hơn hẳn so với các yếu tố tác động khác như gia

đình, nhà trường và xã hội). Điều này càng khẳng định rằng với kết quả đào tạo của

trường đại học khi ra trường các em có sự thành công trong nghề nghiệp hay không

phụ thuộc vào các em có phẩm chất tâm lý phù hợp với nghề đến mức độ nào, trong

đó yếu tố quyết định phụ thuộc rất lớn ở quá trình tự rèn luyện của bản thân cá nhân.

3.2. ĐỀ XUẤT KIẾN NGHỊ:

Qua kết quả nghiên cứu chúng tôi thấy cần thiết phải giáo dục và rèn luyện các

phẩm chất tâm lý phù hợp với nghề cho sinh viên, để khi ra trường bước chân vào

nghề các em có sự thích ứng và phù hợp với nghề, tạo điều kiện để các em phát huy

khả năng và đóng góp sức mình cho sự phát triển của xã hội. Cụ thể chúng tôi đưa ra

một số kiến nghị sau đây:

1. ĐỐI VỚI NHÀ TRƯỜNG:

- Cung cấp thông tin cho sinh viên hiểu biết rõ về vai trò và vị trí của từng ngành

nghề cụ thể, những yêu cầu cụ thể của từng chuyên ngành làm cơ sở cho sinh viên

tiếp cận dần với nghề và có kế hoạch rèn luyện phẩm chất tâm lý phù hợp với nghề

- Quá trình đào tạo đại học có sự chuẩn bị sẵn sàng về mặt tâm lý để sinh viên có

thể đi vào hoạt động nghề nghiệp trong xã hội một cách chủ động và tích cực.

- Có kế hoạch và chiến lược trong giáo dục và đào tạo góp phần hình thành một

số phẩm chất nhân cách cần thiết cho từng chuyên ngành cụ thể.

2. ĐỐI VỚI GIÁO VIÊN:

- Cung cấp cho sinh viên những thông tin về nội dung và tính chất lao động của

từng nghề cụ thể có liên quan đến chuyên ngành đào tạo và những yêu cầu về phẩm

chất nghề nghiệp; qua đó trang bị cho sinh viên lòng yêu nghề, sự tự tin, nghị lực

vượt khó khăn,… để họ có được sự thích ứng và phù hợp với nghề nghiệp trong

tương lai.

- Hình thành ở sinh viên lòng say mê, hứng thú học tập và nghiên cứu khoa học,

bởi nó có liên quan chặt chẽ với hứng thú nghề nghiệp. Mà hứng thú nghề nghiệp là

động lực quan trọng để cá nhân gắn bó với nghề và qua đó phát huy năng lực, tài

năng của mình. Mặt khác, nhờ có hứng thú mà con người có sự phấn đấu và rèn luyện

bản thân để phù hợp với nghề.

- Tạo cho sinh viên sự say mê học tập những môn học có liên quan mật thiết với

nghề nghiệp tương lai và biết vận dụng những kiến thức đó vào trong thực tiễn.

3. ĐỐI VỚI SINH VIÊN:

- Có sự kết hợp chặt chẽ giữa việc học lý luận với việc nâng cao trình độ, kỹ

năng và kỹ xảo lao động.

- Xây dựng kế hoạch học thật chắc, thật sâu những môn học thuộc chuyên môn,

chuyên ngành có liên quan đến nghề nghiệp tương lai.

- Phải có kế hoạch chủ động, tự giác tu dưỡng và rèn luyện phẩm chất đạo đức

nghề nghiệp.

- Sinh viên cần nhận thức được rằng: Nghề nghiệp được xem như là việc làm

nhưng không phải bất cứ việc làm nào cũng là nghề nghiệp, do đó các em phải biết

phân bổ kế hoạch, thời gian hợp lý tránh sa đà vào việc làm thêm mà quên đi nhiệm

vụ học tập. Các em phải biết rằng việc làm thêm của sinh viên hiện nay sẽ khác xa

với nghề nghiệp sau này khi mà các em đã chính thức chọn cho mình một công việc

ổn định khi ra trường.

4. ĐỐI VỚI XÃ HỘI:

Các tổ chức xã hội, các doanh nghiệp và các đơn vị kinh tế có sự liên kết chặt

chẽ với trường đại học để tạo môi trường cho sinh viên thực hành, thực tập và có sự

hướng dẫn tận tình để các em tiếp cận thật sự với nghề, bởi vì chính môi trường hoạt

động nghề nghiệp thật sự các em mới có cơ hội vận dụng kiến thức vào thực tiễn và

qua đó hình thành những phẩm chất tâm lý phù hợp với nghề.

3.3. ĐỐI VỚI NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU SAU.

- Cần mở rộng nội dung nghiên cứu, đi sâu vào vấn đề cụ thể ví dụ như là đạo đức

kinh doanh, đây cũng là một nội dung quan trọng của phẩm chất nghề nghiệp thuộc

lĩnh vực kinh tế.

- Nghiên cứu đa dạng hơn các khách thể là sinh viên của các khoa khác nhau trong

khối kinh tế

3.4. HẠN CHẾ CỦA ĐỀ TÀI

Việc nghiên cứu đề tài được thực hiện trong điều kiện thời gian và khả năng

của bản thân có hạn nên không thể tránh khỏi những thiếu sót nhất định:

- Đề tài chưa được nghiên cứu trên toàn thể sinh viên khối kinh tế của các

trường đại học tại thành phố Hồ Chí Minh, để có những thông tin và số liệu mang

tính chất toàn diện và khái quát hơn.

- Công tác tổ chức và thực hiện các phương pháp nghiên cứu chưa thật sự nhuần

nhuyễn và đa dạng.

- Đề tài nghiên cứu vẫn còn những sơ sót về cách trình bày, cách diễn đạt và lỗi

kỹ thuật in ấn,...

Cuối cùng, chúng tôi rất mong nhận được những ý kiến quý báu từ quý thầy cô

giáo và những ai quan tâm tới vấn đề này để cho luận văn của chúng tôi được hoàn

thiện hơn.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ Giáo dục và Đào tạo (1995), Đánh giá trong giáo dục

2. Nguyễn Ngọc Bích (2000), Tâm lý học Nhân cách – Một số vấn đề lý luận,

NXB ĐHQG, Hà Nội.

3. I.X.Côn (1987), Tâm lý học Thanh niên, NXB Trẻ.

4. A.G.Côvaliôp (1971), Tâm lý học cá nhân, NXB Giáo dục Hà Nội, Tập 2.

5. Văn Thị Kim Cúc (2003),”Tìm hiểu sự đánh giá bản thân ở trẻ 10-15 tuổi”,

Tạp chí Tâm lý học, (7), tr 19.

6. Phạm Tất Dong (1989), Giúp bạn chọn nghề, NXB Giáo dục, Hà Nội.

7. Vũ Dũng (chủ biên) (2000), Từ điển Tâm lý học, NXB KHXH, Hà Nội.

8. Đại học Kinh tế TP.HCM (2007), “Đổi mới các hoạt động đào tạo nhằm đáp

ứng yêu cầu của người học và người sử dụng lao động”, Kỷ yếu hội thảo

khoa học.

9. Đại học Kinh Tế TP.HCM (2006), Tự hào Đại học Kinh tế TP.HCM, Đặc san

kỷ niệm 30 năm thành lập trường ĐHKT TP.HCM 1976-2006.

10. Vũ Cao Đàm (1999), Phương pháp luận Nghiên cứu khoa học, NXB Khoa

học và Kỹ thuật, Hà Nội.

11. Ph.N.Gônôbôlin (1976), Những phẩm chất tâm lý của người giáo viên, NXB

Giáo dục, Hà Nội.

12. Phạm Minh Hạc (chủ biên) (1982), Tâm lý học, NXB Giáo dục, Hà Nội.

13. Phạm Minh Hạc, Lê Khanh, Trần Trọng Thuỷ (1988), Tâm lý học, NXB Giáo

dục, Tập 1.

14. Phạm Minh Hạc (1989), Hành vi và hoạt động, NXB Giáo dục.

15. Hồ Ngọc Hải, Vũ Dũng (1996), Các phương pháp của tâm lý xã hội, NXB

KHXH.

16. Đỗ Ngọc Khanh (2005), Nghiên cứu sự tự đánh giá của học sinh trung học cơ

sở ở Hà Nội, Luận án Tiến sĩ Tâm lý học, Viện Tâm lý học, Hà Nội.

17. Kỷ yếu hội thảo Khoa học Tâm lý – Giáo dục Việt Nam (2006), Tâm lý học,

Giáo dục học trong thời kỳ đổi mới – Thành tựu và triển vọng.

18. N.P.Lêvitôp (1972), Tâm lý học trẻ em và Tâm lý học Sư phạm, NXB Giáo

dục, Hà Nội, Tập 3.

19. B.Ph. Lômôp (2000), Những vấn đề lý luận và phương pháp luận tâm lý học,

NXB ĐHQG, Hà Nội.

20. Đỗ Long, Phạm Thị Mai Hương (đồng chủ biên) (2002), Tính cộng đồng, tính

cá nhân và “cái Tôi” của người Việt Nam hiện nay, NXBCTQG, HN.

21. Luật Giáo dục (1998), NXB CTQG, Hà Nội.

22. A.v.Petropxki 1982), Tâm lý học lứa tuổi và Tâm lý học sư phạm, NXB Giáo

dục, Hà Nội.

23. Đỗ Văn Thọ (2003), “Nâng cao những phẩm chấy tâm lý phù hợp nghề cho

sinh viên bằng tác động trực tiếp trong quá trình giảng dạy – tổ chức học

tập”, Tạp chí Tâm lý học, (6), tr 52.

24. Trần Trọng Thuỷ (1997), Những vấn đề lý luận và phương pháp luận của Tâm

lý học, Viện Khoa học Giáo dục.

25. Hoàng Trọng (2002), Xử lý dữ liệu nghiên cứu với SPSS for Windows, NXB

Thống kê.

26. Nguyễn Quang Uẩn (chủ nhiệm) (1995), Giá trị, Định hướng giá trị nhân cách

và Giáo dục giá trị, Đề tài cấp Nhà nước KX-07-04, Hà Nội.

27. Nguyễn Khắc Viện (1991), Từ điển Tâm lý, NXB Ngoại văn, Trung tâm

nghiên cứu tâm lý trẻ em.

28. Phạm Viết Vượng (1997), Phương pháp luận nghiên cứu khoa học, NXB

ĐHQG, Hà Nội.

29. Vưgôtxki (1997), Tuyển tập Tâm lý học, NXB ĐHQG, Hà Nội.

30. Nguyễn Như Ý (chủ biên) (1999), Đại từ điển tiếng Việt, Bộ GD-ĐT, Trung

tâm Ngôn ngữ văn hoá Việt Nam, NXB VHTT.

PHỤ LỤC

PHỤ LỤC 1:

BẢNG XÁC ĐỊNH KIỂU NGHỀ CẦN CHỌN

TRÊN CƠ SỞ TỰ ĐÁNH GIÁ

STT Tự đánh giá Kiểu nghề

Nt Nk Nd Nn N2

(3) (1) (2) (4) (5) (6) (7)

1 Tôi giao tiếp với người lạ 0 0 0 0 1

rất thoải mái

2 Tôi hứng thú làm bằng tay 0 1 0 0 0

một cái gì đó trong một

thời gian dài (may, vá, đan

lát, sửa chữa đồ dùng)

3 Tôi cố gắng làm cho môi 0 0 0 1 0

trường xung quanh tươi

đẹp, sinh động

4 Tôi thường xuyên và tự 1 0 0 0 0

nguyện theo dõi và chăm

sóc cây trồng hoặc súc vật

5 Tôi có thể làm thống kê 0 0 1 0 0

tính toán hoặc vẽ hình

trong thời gian dài

6 Tôi sẵn sàng giúp đỡ các 0 0 0 0 1

bạn cùng tuổi hoặc các em

nhỏ bất cứ lúc nào

7 Tôi có thể giúp người lớn 1 0 0 0 0

tuổi chăm sóc súc vật, cây

trồng

8 Thường thường tôi ít mắc 0 0 1 0 0

sai sót trong công việc viết

lách

0 2 0 0 0 9 Những sản phẩm tự tay tôi

làm trong lúc rỗi rãi

thường làm cho các bạn và

người lớn tuổi thích thú

10 Nhiều người cho rằng tôi có 0 0 0 2 0

năng lực đối với một lĩnh vực

nghệ thuật nào đó

11 Tôi rất thích đọc sách báo 1 0 0 0 0

nói về thế giới động vật,

thực vật

12 Tôi tích cực tham gia hoạt 0 0 0 1 0

động văn nghệ tự biên, tự

diễn

13 Tôi rất thích tìm đọc các 0 1 0 0 0

vấn đề về thiết bị và vận

hành của máy

14 Tôi có thể suy nghĩ lâu dài 0 0 2 0 0

với các bài toán “nát óc”

hoặc ngồi giải các bài tập

khó

15 Tôi dễ dàn xếp những mối 0 0 0 0 2

bất hoà giữa các bạn hoặc

các em nhỏ

16 Nhiều người cho rằng tôi 0 2 0 0 0

có năng lực kỹ thuật

17 Những kết quả nghệ thuật 0 0 0 2 0

của tôi được nhiều người

không quen biết khen

ngợi, tán thưởng

18 Một số người nhận xét tôi có 2 0 0 0 0

năng lực làm việc với những đối

tượng sinh vật học (thực vật

hoặc động vật)

0 0 2 0 0 19 Nhiều người thừa nhận

rằng, tôi trình bày tư tưởng

và ý nghĩ bằng các bài viết

mạch lạc và sáng sủa dễ

hiểu

0 0 0 1 20 Hầu như tôi chẳng cãi 0

nhau với ai bao giờ

1 0 0 0 21 Những kết quả sáng tạo 0

nghệ thuật của tôi được

những người không quen

biết khen ngợi

0 1 0 0 22 Tôi học ngoại ngữ dễ dàng 0

0 0 0 2 23 Tôi thường giúp đỡ cả 0

những người không quen

biết

24 Tôi hứng thú học và tham 0 0 0 1 0

gia bất cứ công tác nghệ

thuật nào

25 Tôi thường tác động đến quá 2 0 0 0 0

trình phát triển của thực vật hoặc

động vật, hoàn thiện và thay

đổi chúng

26 Tôi thích tháo lắp những 0 1 0 0 0

máy móc, thiết bị

0 0 0 0 1 27 Tôi thường thành công

trong việc thuyết phục các

bạn hoặc em nhỏ làm kế

hoạch hành động nào đó

hợp lý

28 Tôi thường quan sát động 1 0 0 0 0

vật hoặc nghiên cứu thực

vật

0 0 1 0 0 29 Tôi thường đọc những

sách báo mà mọi người

cho là “buồn tẻ”(ví dụ:

sách khoa học thường

thức, phê bình văn học,…)

0 0 0 1 0 30 Tôi thích tìm hiểu bí mật

tay nghề của những người

làm công tác nghệ thuật và

thường lặp lại, hoạ lại

những hành động của họ.

PHỤ LỤC 2 Trường Đại học Sư Phạm TP.HCM Đề tài:”Nghiên cứu tự đánh giá của sinh viên Trường Đại học Kinh tế TPHCM về phẩm chất nghề nghiệp”

PHIẾU THĂM DÒ Ý KIẾN

Các bạn sinh viên thân mến! Nhằm mục đích tìm hiểu ý kiến đánh giá của sinh viên về các phẩm chất nghề nghiệp liên quan đến hoạt động nghề nghiệp trong tương lai, chúng tôi gởi đến các bạn phiếu thăm dò ý kiến này và mong các bạn hợp tác bằng cách đánh dấu X vào các ô trả lời dưới đây. Các bạn bày tỏ những nhận xét và suy nghĩ của cá nhân mình một cách thoải mái và thẳng thắn.Vì không ghi tên họ của các bạn, đề tài sẽ chỉ công bố những dữ kiện tổng hợp chung từ các ý kiến tham gia cuộc thăm dò này mà thôi.

Xin trân trọng cảm ơn.

Nam Nhất º Nữ Ba Tư º º º

Các tỉnh º

Có º Không º

º - Bạn là: - Sinh viên năm: Hai º - Khoa: ……………………………………………………………….. - Nơi cư trú trước khi vào trường: Thành phố Hồ Chí Minh - Hiện nay bạn có đi làm thêm không? º

1. Sinh viên tốt nghiệp Đại học Kinh tế thường sẽ có nhiều cơ hội thành công hơn

º

d. Không đồng ý e. Hoàn toàn không đồng ýº

trong tìm kiếm việc làm º º º

a. Rất đồng ý b. Đồng ý c. Lưỡng lự 2. Yếu tố thể hiện một người thành công trong nghề nghiệp là người… (Ghi số

theo thứ tự ưu tiên 1,2,3)

º

º

º

a. Chiếm một vị trí cao trong xã hội b. Kiếm được nhiều tiền c. Làm đúng nghề mình yêu thích và sống được bằng thu nhập của nghề º d. Có các phẩm chất tâm lý phù hợp với nghề của mình 3. Phẩm chất nào dưới đây cần cho nguồn nhân lực có trình độ trong các doanh nghiệp để đáp ứng nhu cầu của xã hội hiện nay, cần … (Ghi số theo thứ tự ưu tiên 1,2,3)

a. Năng động, nhạy bén và thích ứng với hoàn cảnh b. Năng lực nghề nghiệp ở trình độ cao c. Có năng lực ngoại giao, hợp tác quốc tế d. Biết liều lĩnh và cương quyết º º º º

4. Theo bạn, những sinh viên ĐHKT ra trường không làm việc đúng với chuyên

môn nghề nghiệp của mình, vì… (Chọn 3 ý )

a. Không ứng dụng được kiến thức đã học ở trường Đại học º b. Đồng lương công chức thấp º c. Khó tìm được việc đúng chuyên môn của mình º d. Không có kinh nghiệm º e. Không có khả năng chịu đưng áp lực của môi trường cạnh tranh º f. Không có năng lực phù hợp với việc kinh doanh, thương trường º

5. Hình thành phẩm chất nghề nghiệp cho sinh viên để thích ứng với công việc

sau khi ra trường là trách nhiệm của…

º c. Xã hội º b. Nhà trường º

a. Gia đình d. Bản thân cá nhân º 6. Bạn có cho rằng sinh viên có cơ hội trải nghiệm hoạt động kinh doanh từ thời đi học hoặc có đi làm thêm, dễ hình thành được các phẩm chất nghề nghiệp và sẽ thành công trong nghề nghiệp hơn là chỉ biết tập trung cho việc học ở Đại học

º Hoàn toàn đồng ý a. Đồng ý º b. Không biết º c. Không đồng ý º d. Hoàn toàn không đồng ý º

º º

º º º

7. Theo bạn nhận xét, chất lượng đào tạo của nhà trường hiện nay là d. Không tốt a. Rất tốt b. Tốt e. Hoàn toàn không tốt c. Trung bình 8. Để mở rộng kiến thức, thu thập thông tin và nâng cao khả năng chuyên

môn, bạn thường làm gì? (Xin đánh dấu vào ô tương ứng)

M Không

Thường xuyên

ức độ Có nhưng không nhiều

động

a. Đọc sách, giáo trình b. Tham khảo tài liệu chuyên môn c. Dự các khoá học ngắn ngày d. Đọc báo, tạp chí kinh tế e. Xem ti vi f. Nghe radio g. Tuy cập Internet h. Hoạt khác:……………………… (Xin vui lòng ghi rõ hoạt động gì?)

9. Dưới đây là một số câu hỏi đánh giá mức độ trưởng thành của cá nhân. Xin bạn cho biết ý kiến riêng của bạn bằng cách đánh dấu X vào ô tương ứng ở từng câu một

Câu

Không đúng

Đúng Lúc đúng lúc không

1. Tôi cảm thấy tự hào về các kết quả đạt được trong học tập, trong công việc làm thêm 2. Tôi nhận biết các kỹ năng và tài năng của tôi 3. Tôi có thể có những mối quan hệ với người khác một cách dễ dàng 4. Tôi có nhiều mục tiêu vừa rõ rệt vừa cụ thể trong cuộc sống 5. Tôi ý thức được các khả năng và các giới hạn của tôi 6. Tôi ham hiểu biết và thích thú với những cái

mới lạ 7. Tôi có đủ khả năng chấp nhận thất bại khi tôi đã cố gắng hết sức mình cho một công việc, một quan hệ nào đó 8. Tôi làm chủ được bản thân để hoàn thành công việc/học tập của mình 9. Tôi có thể thích nghi tốt với các tình hình thực tế mới mẻ thường luôn đưa tới trong cuộc sống 10. Tôi có thể tạo dựng lại động lự cho hoạt động sau khi thất bại hoặc không thành công 11. Tôi có thể định cho mình những mức thành công mang tính thực tế 12. Tôi có thể tạo được lòng tin nơi người khác: bạn bè, cha mẹ, thầy cô giáo, đồng sự, cấp trên (trong việc làm thêm) 13. Tôi tin rằng tôi có đủ khả năng đối mặt với những vấn đề sẽ gặp và tôi có thể thành công sau khi ra trường 14. Tôi thích tự đánh giá hơn là phụ thuộc vào ý kiến xét đoán của người khác 15. Tôi thường xem xét lại định hướng cho cuộc đời mình 16. Tôi thường có những mục tiêu cụ thể để hoạch định nghề nghiệp tương lai của mình 17. Là sinh viên tôi thấy mình tự chủ hơn 18. Là sinh viên tôi thấy mình độc lập hơn 19. Là sinh viên tôi thấy mình trưởng thành hơn 20. Tôi dễ dàng nói ra các cảm xúc của mình 21. Tôi muốn tạo dựng cuộc sống của tôi và làm chủ vận mệnh đời mình 22. Tôi cho rằng làm kinh tế tốt phải có sự quan tâm sâu sắc đến các vấn đề thời sự, chính trị, xã hội 23. Tôi nhạy bén để nắm bắt cơ hội thành công trên thương trường 24. Tôi yêu thích và an tâm với việc lựa chọn ngành nghề của mình 25. Tôi có ý thức hợp tác với người khác trong công việc 26. Tôi có khả năng thương lượng và giải quyết các vấn đề trong những tình huống khó khăn 27. Tôi tạo được niềm vui trong quan hệ với người khác 28. Tôi học hỏi những kinh nghiệm từ người khác 29. Tôi thích ứng tốt với các loại công việc 30. Tôi cho rằng, người học giỏi là người có cơ hội thành công trong nghề nghiệp

31. Tôi có thể nhớ lâu những gì đã học 32. Tôi sẵn sàng giúp đỡ người khác 33. Tôi có thể hoàn thành tốt công việc được giao 34. Tôi luôn biết những ưu điểm và hạn chế của bản thân 35. Tôi luôn tìm đến những hoạt động vui chơi, thể thao để cân bằng đời sống tâm lý.

36. Tôi tự tin khi đứng trước người lạ hay đám đông 37. Tôi thích nói về những điểm mạnh của chính mình 38. Tôi độc lập trong suy nghĩ và hành động 39. Tôi thích làm việc hay giao tiếp với nhiều người 40. Tôi luôn cố gắng để trở thành người thành đạt 41. Tôi muốn thay đổi nhiều điểm chưa tốt của bản thân mình 42. Tôi luôn xấu hổ với người khác khi tôi có những hành động sai trái 43. Tôi kiên quyết bảo vệ ý kiến đúng của bản thân đến cùng 44. Tôi luôn chấp hành tốt những quy định của pháp luật 45. Tôi luôn cảm thấy thoải mái, lạc quan và yêu đời 46. Tôi biết tạo cho mình một phong cách riêng 47. Tôi luôn cố gắng làm đúng với lương tâm của mình 48. Tôi luôn giữ thái độ bình tĩnh khi bị người khác xúc phạm 49. Tôi tự tin với ngoại hình của mình 50. Tôi thường lắng nghe ý kiến của người khác khi quyết định một công việc quan trọng 51. Tôi biết rõ điều gì có thể làm và điều gì không nên làm.

Xin gởi đến các bạn lời cảm ơn và chúc sức khoẻ.