BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
Hồ Hoàng Yến
TÌM HIỂU MỨC ĐỘ TƯỞNG TƯỢNG SÁNG TẠO CỦA TRẺ 5-6 TUỔI TRONG HOẠT ĐỘNG VẼ Ở MỘT SỐ TRƯỜNG MẦM NON TẠI THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI
Chuyên ngành : TÂM LÝ HỌC : 60 31 80 Mã số
LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. HUỲNH VĂN SƠN
TP. Hồ Chí Minh – 2011
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành chương trình cao học và viết luận văn này, tôi đã nhận được
sự hướng dẫn, giúp đỡ và góp ý nhiệt tình của quý thầy cô trường Đại học Sư phạm
thành phố Hồ Chí Minh.
Trước hết, tôi xin chân thành cảm ơn quý thầy cô Trường Đại Học Sư phạm
Thành phố Hồ Chí Minh đặc biệt là những thầy cô khoa Tâm lý giáo dục và những
thầy cô đã tận tình giảng dạy cho tôi trong suốt thời gian học tập tại trường.
Tôi xin gửi lời biết ơn sâu sắc đến TS. Huỳnh Văn Sơn, người thầy kính mến
đã hết lòng quan tâm, giúp đỡ tận tình, hướng dẫn nghiên cứu tạo điều kiện giúp tôi
hoàn thành luận văn.
Tôi xin cảm ơn quý thầy cô phòng Sau Đại học đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi
trong quá trình học và thực hiện luận văn.
Đồng thời tôi cũng xin cảm ơn Ban giám hiệu, giáo viên trường Mầm non
Hoa Sen, Mầm non Hoa Mai, Mẫu giáo Hướng Dương đã tạo điều kiện cho tôi khảo
sát để hoàn thành luận văn này.
Xin chân thành cảm ơn các thầy cô trong hội đồng chấm luận văn đã cho tôi
những đóng góp quý báu để hoàn chỉnh luận văn này.
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết
quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa được công bố trong các công trình
khác.
MỤC LỤC
0TLỜI CẢM ƠN0T ............................................................................................... 2
0TLỜI CAM ĐOAN0T ......................................................................................... 3
0TMỤC LỤC0T .................................................................................................... 4
0TDANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT0T .......................................................... 9
0TDANH MỤC CÁC BẢNG0T .......................................................................... 10
0TDANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ0T..................................................................... 12
0TMỞ ĐẦU0T ....................................................................................................... 1
0T1. Lý do chọn đề tài:0T ..................................................................................................... 1
0T2. Mục đích nghiên cứu0T................................................................................................. 2
0T3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu0T ........................................................................... 2
0T4. Giả thuyết khoa học0T .................................................................................................. 3
0T5. Nhiệm vụ nghiên cứu0T ................................................................................................ 3
0T6. Giới hạn đề tài0T .......................................................................................................... 3
0T7. Phương pháp nghiên cứu0T ........................................................................................... 4
0TCHƯƠNG 1: LÝ LUẬN VỀ TƯỞNG TƯỢNG SÁNG TẠO CỦA TRẺ
MẪU GIÁO 5-6 TUỔI TRONG HOẠT ĐỘNG VẼ0T................................... 6
0T1.1. Lịch sử nghiên cứu tưởng tượng sáng tạo của trẻ mẫu giáo trong hoạt động vẽ. 0T ...... 6
0T1.1.1. Sơ lược về lịch sử nghiên cứu trên thế giới0T ..................................................... 6
0T1.1.1.1. Những công trình nghiên cứu tưởng tượng và tưởng tượng sáng tạo0T ........ 6
0T1.1.1.2. Những công trình nghiên cứu hoạt động vẽ và tưởng tượng sáng tạo trong
hoạt động vẽ của trẻ em0T ....................................................................................... 8
0T1.1.2. Sơ lược về lịch sử nghiên cứu ở Việt Nam0T .................................................... 11
0T1.2. Lý luận về tưởng tượng sáng tạo trong hoạt động vẽ của trẻ mẫu giáo 0T .................. 14
0T1.2.1. Tưởng tượng0T ................................................................................................. 14
0T1.2.1.1. Khái niệm về tưởng tượng0T ..................................................................... 14
0T1.2.1.2. Các giai đoạn của quá trình tưởng tượng0T ............................................... 16
0T1.2.1.3. Phân loại tưởng tượng0T ........................................................................... 17
0T1.2.1.4. Các phương pháp sáng tạo hình ảnh mới trong tưởng tượng0T .................. 19
0T1.2.2. Tưởng tượng sáng tạo0T ................................................................................... 19
0T1.2.2.1. Sáng tạo0T ................................................................................................ 19
0T1.2.2.2. Khái niệm tưởng tượng sáng tạo0T ............................................................ 23
0T1.2.2.3. Đặc điểm tưởng tượng sáng tạo của trẻ 5-6 tuổi0T ..................................... 24
0T1.2.3. Hoạt động vẽ0T ................................................................................................ 26
0T1.2.3.1 Khái niệm hoạt động vẽ0T .......................................................................... 26
0T1.2.3.2. Một số đặc điểm trong tranh vẽ của trẻ mẫu giáo 0T ................................... 27
0T1.2.3.3. Ý nghĩa của hoạt động tạo hình nói chung và hoạt động vẽ nói riêng đối
với sự phát triển toàn diện trẻ mẫu giáo 0T.............................................................. 30
0T1.2.3.4. Sơ lược về quá trình hình thành và phát triển hoạt động vẽ của trẻ em0T ... 35
0T1.2.3.5. Đặc điểm ngôn ngữ tạo hình trong tranh vẽ của trẻ em0T .......................... 37
0T1.2.4. Tưởng tượng sáng tạo trong hoạt động vẽ của trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi0T .............. 39
0T1.2.4.1. Đặc điểm tưởng tượng trong hoạt động vẽ của trẻ mầm non0T .................. 39
0T1.2.4.2. Tưởng tượng sáng tạo trong hoạt động vẽ của trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi0T ...... 42
0T1.2.4.3. Mối quan hệ giữa tưởng tượng sáng tạo và các yếu tố tâm lý khác trong
hoạt động vẽ của trẻ 5-6 tuổi0T .............................................................................. 44
0TCHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG MỨC ĐỘ TƯỞNG TƯỢNG SÁNG TẠO
CỦA TRẺ 5-6 TUỔI TRONG HOẠT ĐỘNG VẼ Ở MỘT SỐ TRƯỜNG
MẦM NON TẠI TP BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI 0T .............................. 50
0T2.1. Vài nét về các trường Mầm non tại thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai0T ............... 50
0T2.2. Thực trạng mức độ tưởng tượng sáng tạo của trẻ 5-6 tuổi trong hoạt động vẽ ở các
trường thuộc mẫu nghiên cứu0T ...................................................................................... 51
0T2.2.1. Khái quát về tổ chức nghiên cứu thực trạng0T .................................................. 51
0T2.2.1.1. Mục đích nghiên cứu0T ............................................................................. 51
0T2.2.1.2. Khách thể nghiên cứu0T ............................................................................ 51
0T2.2.1. Nhiệm vụ và nội dung nghiên cứu0T................................................................. 52
0T2.2.1.4. Phương pháp nghiên cứu0T ....................................................................... 52
0T2.2.2. Kết quả nghiên cứu thực trạng mức độ tưởng tượng sáng tạo của trẻ 5-6 tuổi
trong hoạt động vẽ0T .................................................................................................. 54
0T2.2.2.1. Thực trạng về mức độ tưởng tượng sáng tạo của trẻ 5-6 tuổi trong hoạt
động vẽ0T .............................................................................................................. 54
0T2.2.2.2. Thực trạng biểu hiện tưởng tượng sáng tạo qua tranh vẽ của trẻ 5-6 tuổi
qua một số tiêu chí0T ............................................................................................. 56
0T2.2.2.3 Phân tích thực trạng mức độ tưởng tượng sáng tạo của trẻ trên các phương
diện so sánh0T ....................................................................................................... 66
0T2.2.2.4. Một số yếu tố ảnh hưởng đến mức độ tưởng tượng sáng tạo trong hoạt
động vẽ của trẻ 5-6 tuổi0T ..................................................................................... 72
0T2.2.2.5. Đánh giá của giáo viên về các biện pháp có thể nâng cao tưởng tượng
sáng tạo trong hoạt động vẽ của trẻ 5-6 tuổi0T ....................................................... 82
0TCHƯƠNG 3: MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO MỨC ĐỘ TƯỞNG
TƯỢNG SÁNG TẠO CỦA TRẺ TRONG HOẠT ĐỘNG VẼ0T ................ 85
0T3.1. Một số biện pháp nâng cao mức độ tưởng tượng sáng tạo cho trẻ 5-6 tuổi trong hoạt
động vẽ0T ....................................................................................................................... 85
0T3.1.1. Một vài cơ sở lý luận nâng cao mức độ tưởng tượng sáng tạo của trẻ trong hoạt
động vẽ0T .................................................................................................................. 85
0T3.1.1.1. Khái niệm biện pháp0T ............................................................................. 85
0T3.1.1.2. Cơ sở để xây dựng một số biện pháp nâng cao tưởng tượng sáng tạo của
trẻ trong hoạt động vẽ0T ........................................................................................ 85
0T3.1.2. Đề xuất các biện pháp nâng cao khả năng tưởng tượng sáng tạo cho trẻ 5-6 tuổi
trong hoạt động vẽ0T .................................................................................................. 86
0T3.1.2.1. Biện pháp 1: Giáo viên tổ chức cho trẻ các bài tập, trò chơi “tưởng tượng
có định hướng” nhằm giúp trẻ hình thành thói quen độc lập trong việc tìm kiếm ý
tưởng, tạo ra những biểu tượng, những cách biểu đạt linh hoạt, độc đáo.0T ............ 86
0T3.1.2.2. Biện pháp 2: Tổ chức quá trình tri giác cho trẻ với học cụ trực quan đa
dạng về chủng loại và hình thức nhằm làm phong phú vốn biểu tượng về đối
tượng sắp vẽ. 0T ..................................................................................................... 89
0T3.1.2.3. Biện pháp 3: Tạo hứng thú, phát triển ở trẻ những xúc cảm, tình cảm thẩm
mỹ0T ..................................................................................................................... 92
0T3.2. Thực nghiệm một số biện pháp nâng cao mức độ tưởng tượng sáng tạo của trẻ trong
hoạt động vẽ0T ............................................................................................................... 97
0T3.2.1. Khái quát về tổ chức thực nghiệm0T ................................................................. 97
0T3.2.1.1. Mục đích thực nghiệm0T ........................................................................... 97
0T3.2.1.2. Khách thể thực nghiệm0T .......................................................................... 97
0T3.2.1.3. Nội dung thực nghiệm0T ........................................................................... 98
0T3.2.1.4 Tổ chức thực nghiệm0T ............................................................................ 101
0T3.2.2. Kết quả nghiên cứu thực nghiệm0T ................................................................. 102
0T3.2.2.1. So sánh mức độ tưởng tượng sáng tạo của nhóm đối chứng và nhóm thực
nghiệm trước thực nghiệm0T ............................................................................... 102
0T3.2.2.2. Kết quả nghiên cứu sau thực nghiệm0T ................................................... 104
0TKẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 0T .................................................................. 119
0T1. Kết luận0T ................................................................................................................ 119
0T2. Kiến nghị0T .............................................................................................................. 122
0TDANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO0T ................................................. 123
0TDANH MỤC CÁC PHỤ LỤC0T ................................................................. 128
0TPHỤ LỤC0T...................................................................................................... 1
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Viết đầy đủ Viết tắt
Thực nghiệm TN
Đối chứng ĐC
Tần số N
Tỷ lệ phần trăm %
DANH MỤC CÁC BẢNG
STT Ký hiệu Tên bảng Trang
1 Bảng 2.1 Kết quả về mức độ tưởng tượng sáng tạo trong tranh 53
vẽ của trẻ
2 Bảng 2.2 Kết quả mức độ tưởng tượng sáng tạo qua từng tiêu 56
chí cụ thể
3 Bảng 2.3 Đánh giá của giáo viên về mức độ biểu hiện tưởng 61
tượng sáng tạo của trẻ trong hoạt động vẽ.
4 Bảng 2.4 Đánh giá của giáo viên về các biểu hiện tưởng tượng 63
sáng tạo của trẻ trong hoạt động vẽ.
5 Bảng 2.5 Mức độ tưởng tượng sáng tạo của trẻ phân theo giới. 65
6 Bảng 2.6 So sánh các tiêu chí tưởng tượng sáng tạo của trẻ 65
phân theo giới.
7 Bảng 2.7 Mức độ tưởng tượng sáng tạo của trẻ phân theo 67
trường.
8 Bảng 2.8 So sánh các tiêu chí tưởng tượng sáng tạo của trẻ 68
phân theo trường.
9 Bảng 2.9 So sánh các tiêu chí tưởng tượng sáng tạo của trẻ 69
theo từng cặp trường.
10 Bảng Đánh giá của giáo viên về các hoạt động mà trẻ thể 70
2.10 hiện tưởng tượng sáng tạo.
11 Bảng Đánh giá của giáo viên về các yếu tố nhằm nâng cao 72
2.11 tưởng tượng sáng tạo của trẻ trong hoạt động vẽ.
12 Bảng Các biện pháp giáo viên sử dụng để nâng cao tưởng 74
2.12 tượng sáng tạo của trẻ trong hoạt động vẽ.
13 Bảng Các hình thức giáo viên sử dụng trong việc hình 76
2.13 thành biểu tượng về đối tượng vẽ cho trẻ.
14 Bảng Các cách thức giáo viên sử dụng để tạo động cơ, 78
2.14 hứng thú cho trẻ trong hoạt động vẽ.
15 Bảng Đánh giá của giáo viên về các biện pháp nâng cao 81
2.15 tưởng tượng sáng tạo của trẻ trong hoạt động vẽ
16 Bảng 3.1 Mức độ tưởng tượng sáng tạo qua tranh vẽ “Quà 101
tặng người thân”
17 Bảng 3.2 Kết quả mức độ tưởng tượng sáng tạo qua tranh vẽ 103
“Hoa”.
18 Bảng 3.3 Mức độ tưởng tượng sáng tạo qua tranh vẽ “Thiên 104
nhiên quanh bé”.
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
STT Ký hiệu Tên biểu đồ Trang
1 Biểu đồ 2.1 Sự phân bố số lượng trẻ theo tổng điểm 54
2 Biểu đồ 2.2 Điểm trung bình tưởng tượng sáng tạo của 67
trẻ phân tích theo giới tính.
3 Biểu đồ 2.3 Điểm trung bình tưởng tượng sáng tạo của 70
trẻ phân tích theo trường.
4 Biểu đồ 3.1 Điểm trung bình các tiêu chí nhóm đối 102
chứng và thực nghiệm trước thực nghiệm.
5 Biểu đồ 3.2 Điểm trung bình các tiêu chí nhóm đối 104
chứng và thực nghiệm trong đề tài: “Vẽ
hoa”
6 Biểu đồ 3.3 Điểm trung bình các tiêu chí nhóm đối 105
chứng và thực nghiệm trong đề tài: “Vẽ
thiên nhiên quanh bé”.
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Thế giới đang bước vào thời đại văn minh của trí tuệ. Sự sáng tạo của con
người đã mang đến cho xã hội những giá trị vật chất và tinh thần rất phong phú.
Tính sáng tạo được coi là một phẩm chất quan trọng không thể thiếu được của
người lao động mới. Giáo dục mầm non là bậc học đầu tiên trong quá trình giáo
dục. “Mục tiêu giáo dục mầm non là giúp trẻ em phát triển về thể chất, tình cảm, trí
tuệ, thẩm mĩ, hình thành những yếu tố đầu tiên của nhân cách, và chuẩn bị cho trẻ
vào học lớp 1”. Sự hình thành và phát triển các đặc điểm tâm lý nói chung và khả
năng sáng tạo nói riêng ở lứa tuổi mẫu giáo là cơ sở, nền móng cho sự phát triển
tâm lý, khả năng sáng tạo sau này của trẻ.
Chúng ta đang sống trong một “Kỷ nguyên của thông tin”, ý tưởng là bánh xe
của sự tiến bộ. Ý tưởng là kết quả của nhiều yếu tố trong đó có hoạt động nhận
thức. Trong hoạt động nhận thức, chúng ta không thể không kể đến vai trò của
tưởng tượng. Tưởng tượng là một trong những chức năng quan trọng nhất và luôn
có mặt trong mọi hoạt động và giao tiếp của con người. Đặc biệt, trong lĩnh vực
nghệ thuật tưởng tượng sáng tạo đóng vai trò chủ đạo, quyết định năng lực sáng tạo
nghệ thuật của người nghệ sĩ.
Giáo dục thẩm mỹ là một trong những nội dung cơ bản của việc hình thành và
phát triển toàn diện cho trẻ. Hoạt động tạo hình là một hoạt động không thể thiếu ở
lứa tuổi mầm non. Qua nhiều cuộc nghiên cứu về vai trò của hoạt động tạo hình đối
với sự phát triển nhận thức của trẻ em, có thể khẳng định rằng hoạt động tạo hình có
thể coi là một trong những hoạt động tạo điều kiện thuận lợi nhất cho sự phát triển
trí tưởng tượng và khả năng sáng tạo của trẻ em.
Một hoạt động mang tính tạo hình đặc trưng nhất và xuất hiện sớm nhất - đó là
hoạt động vẽ. Đối với trẻ ở lứa tuổi mầm non, nhất là trẻ 5-6 tuổi, trẻ rất thích vẽ.
Qua vẽ, trẻ dùng ngôn từ là những nét vẽ, những màu sắc, biểu tượng để nói lên
những xúc cảm, tình cảm nhận thức của mình về thế giới xung quanh theo cách nhìn
2
của riêng trẻ. Và cũng chính từ những tác phẩm này mà ta có thể hiểu được phần
nào những nét tâm lí của trẻ và có những hướng giáo dục phù hợp. Thực tế giáo dục
mầm non cho thấy ở một số trường mầm non thì hoạt động tạo hình nói chung và
hoạt động vẽ nói riêng chưa được quan tâm đúng mức. Hoạt động này được tổ chức
với nội dung chưa phong phú, bằng những phương pháp - hình thức còn mang tính
áp đặt, trẻ thực hiện quá trình tạo hình một cách thụ động thiếu nguồn cảm hứng.
Tình trạng này sẽ làm cản trở sự phát triển nhận thức thẩm mỹ và làm mai một khả
năng sáng tạo của trẻ.
Với ý nghĩa trên, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Tìm hiểu mức độ
tưởng tượng sáng tạo của trẻ 5-6 tuổi trong hoạt động vẽ ở một số trường Mầm
non tại Thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai”.
2. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu mức độ tưởng tượng sáng tạo của trẻ từ 5-6 tuổi trong hoạt động
vẽ ở một số trường Mầm non tại thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. Trên cơ sở
nghiên cứu, đề ra một số biện pháp giúp nâng cao khả năng tưởng tượng sáng tạo
của trẻ.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1 Khách thể nghiên cứu
- 150 trẻ 5-6 tuổi thuộc 3 trường: Mầm non Hoa Sen, Mầm non Hoa Mai, Mẫu
giáo Hướng Dương tại thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai là khách thể nghiên cứu
chính của đề tài
- 31 giáo viên trực tiếp giảng dạy chăm sóc nhóm trẻ 5-6 tuổi thuộc 3 trường:
Mầm non Hoa Sen, Mầm non Hoa Mai, Mẫu giáo Hướng Dương là khách thể
nghiên cứu bổ trợ của đề tài.
3.2 Đối tượng nghiên cứu
Mức độ tưởng tượng sáng tạo của trẻ 5 -6 tuổi trong hoạt động vẽ.
3
4. Giả thuyết khoa học
- Mức độ tưởng tượng sáng tạo của trẻ thể hiện trong hoạt động vẽ ở mỗi
trường phần lớn đạt trung bình là chủ yếu. Điều này xuất phát từ nhiều nguyên nhân
nhưng nguyên nhân chính là về phía giáo viên, giáo viên chưa có biện pháp kích
thích tưởng tượng sáng tạo của trẻ. Nếu áp dụng một số biện pháp tác động như:
(1) Tổ chức cho trẻ các bài tập, trò chơi “tưởng tượng có định hướng” nhằm giúp trẻ
hình thành thói quen độc lập trong việc tìm kiếm ý tưởng, tạo ra những biểu tượng,
những cách biểu đạt linh hoạt, độc đáo; (2) Tổ chức quá trình tri giác với học cụ
trực quan đa dạng về chủng loại và hình thức; (3) Tạo hứng thú, phát triển ở trẻ
những xúc cảm, tình cảm thẩm mỹ có thể nâng cao mức độ tưởng tượng sáng tạo trẻ
trong hoạt động vẽ.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1 Tìm hiểu vấn đề lý luận về tưởng tượng sáng tạo của trẻ 5-6 tuổi trong
hoạt động vẽ
5.2 Khảo sát thực trạng mức độ tưởng tượng sáng tạo của trẻ 5-6 tuổi trong
hoạt động vẽ.
5.3 Đề xuất và thực nghiệm một số biện pháp nâng cao khả năng tưởng
tượng sáng tạo ở trẻ.
6. Giới hạn đề tài
6.1. Giới hạn về nội dung nghiên cứu
Nghiên cứu tưởng tượng sáng tạo trong hoạt động vẽ qua thể loại vẽ theo đề
tài.
6.2. Giới hạn về mẫu nghiên cứu
Chỉ khảo sát 150 trẻ 5-6 tuổi được chọn ngẫu nhiên 3 trường: Mầm non Hoa
Sen, Mầm non Hoa Mai, Mẫu giáo Hướng Dương tại thành phố Biên Hòa, tỉnh
Đồng Nai.
4
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Phương pháp nghiên cứu tài liệu
- Thu thập các loại sách, báo, tạp chí, tài liệu có liên quan đến đề tài.
- Phân tích, tổng hợp những vấn đề lý luận và thực tiễn có liên quan đến đề tài
nghiên cứu.
7.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
7.2.1. Phương pháp quan sát
Dự giờ các hoạt động chung có mục đích học tập trong đó hoạt động vẽ là
hoạt động trọng tâm. Quan sát nhóm trẻ trong mẫu nghiên cứu về tốc độ vẽ, mức độ
sẵn sàng vẽ, sự tẩy xóa, sự thay đổi nội dung chủ đề, độ tập trung, sự bình luận, sự
biểu hiện cảm xúc trong quá trình vẽ của trẻ.
7.2.2. Phương pháp điều tra
Sử dụng phiếu điều tra bằng bảng hỏi với giáo viên đang phụ trách trẻ 5-6
tuổi của 3 trường Mầm non Hoa Sen, Mầm non Hoa Mai, Mẫu giáo Hướng Dương
về:
- Nhận thức của giáo viên về trí tưởng tượng sáng tạo ở trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi
trong hoạt động vẽ .
- Đánh giá của giáo viên về các hoạt động trẻ thể hiện tưởng tượng sáng tạo,
thực trạng mức độ tưởng tượng sáng tạo của trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi, biểu hiện tưởng
tượng sáng tạo bộc lộ qua tranh vẽ.
- Các biện pháp giáo viên sử dụng để phát triển khả năng tưởng tượng sáng tạo
của trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi hoạt động vẽ.
- Ý kiến của giáo viên về các biện pháp nâng cao khả năng tưởng tượng sáng
tạo của trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi trong hoạt động vẽ.
7.2.3. Phương pháp trò chuyện
Trao đổi với trẻ và giáo viên về nội dung và hình thức tranh vẽ của trẻ để
đánh giá mức độ tưởng tượng sáng tạo.
7.2.4. .Phương pháp phân tích sản phẩm hoạt động vẽ
5
Trên cơ sở nghiên cứu về hoạt động vẽ và tưởng tượng sáng tạo của trẻ mẫu
giáo 5-6 tuổi, chúng tôi xác định biểu hiện của tưởng tượng sáng tạo ở trẻ mẫu giáo
5-6 tuổi trong hoạt động vẽ theo đề tài được thể hiện ở những điểm sau:
* Về nội dung
- Tên tranh vẽ: trẻ có sự thay đổi khi đặt tên tranh vẽ.
- Đặc điểm nội dung tranh vẽ: có sự thay đổi về nhân vật, sự vật hiện tượng,
tình tiết, bối cảnh.
*Về hình thức
- Bố cục: sử dụng luật phối cảnh để thể hiện chiều sâu trong không gian.
- Màu sắc: sử dụng màu sắc một cách có chủ ý, theo ý đồ miêu tả.
- Hình vẽ: giàu tính hình tượng, thể hiện ở nhiều dạng hoạt động.
7.2.5. Phương pháp thực nghiệm
Thực nghiệm một số biện pháp: (1) Tổ chức cho trẻ các bài tập, trò chơi
“tưởng tượng có định hướng” nhằm giúp trẻ hình thành thói quen độc lập trong việc
tìm kiếm ý tưởng, tạo ra những biểu tượng, những cách biểu đạt linh hoạt, độc đáo;
(2) Tổ chức quá trình tri giác với học cụ trực quan đa dạng về chủng loại và hình
thức; (3) Tạo hứng thú, phát triển ở trẻ những xúc cảm, tình cảm thẩm mỹ nhằm
nâng cao mức độ tưởng tượng sáng tạo của trẻ trong hoạt động vẽ. Chọn nhóm đối
chứng và nhóm thực nghiệm để đánh giá kết quả của các biện pháp tác động.
7.3. Phương pháp toán thống kê
Sử dụng phần mềm SPSS 11.5 để xử lý số liệu thu được.
6
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN VỀ TƯỞNG TƯỢNG SÁNG TẠO
CỦA TRẺ MẪU GIÁO 5-6 TUỔI TRONG HOẠT ĐỘNG VẼ
1.1. Lịch sử nghiên cứu tưởng tượng sáng tạo của trẻ mẫu giáo trong
hoạt động vẽ.
1.1.1. Sơ lược về lịch sử nghiên cứu trên thế giới
1.1.1.1. Những công trình nghiên cứu tưởng tượng và tưởng tượng
sáng tạo
Tưởng tượng được nghiên cứu từ khá lâu, đến thế kỉ XX nhà Tâm lý học người
Pháp T.Ribot đã xem xét tưởng tượng như một quá trình xây dựng biểu tượng mới
từ những cái gì đã có từ trước (xây dựng cái mới trên cơ sở cái cũ). Ông cho rằng
nên nghiên cứu tưởng tượng trong mối liên hệ thống nhất của hai yếu tố cảm xúc và
trí tuệ. T.Ribot đánh giá rất cao vai trò của tưởng tượng trong cuộc sống, ông khẳng
định tuyệt đại đa số phát minh trước khi đi vào hiện thực đều đi qua các giai đoạn
tưởng tượng. T.Ribot cũng đưa ra một biểu đồ miêu tả một cách tượng trưng đặc
điểm phát triển của biểu tượng ở các lứa tuổi khác nhau. Khi so sánh trí tưởng
tượng của trẻ em và người lớn, ông cho rằng trí tưởng tượng của trẻ em ngang hàng
với trí tưởng tượng của người lớn về tính chất thực tại của các yếu tố mà từ đó trí
tưởng tượng được xây dựng nên, và cơ sở cảm xúc thực sự của trí tưởng tượng của
trẻ em cũng biểu hiện mạnh mẽ như ở người lớn nhưng còn tính chất những kết hợp
gắn với tài liệu, chất lượng và sự đa dạng của những kết hợp ấy ở trẻ em không
bằng người lớn và phải phát triển dần cùng năm tháng, đứa bé tin vào những sản
phẩm của trí tưởng tượng nó nhiều và rất ít kiểm tra nó [46, 65, 66]. Với câu hỏi:
hoạt động tưởng tượng có phụ thuộc vào năng khiếu hay không? Thì ông cho rằng
nếu sáng tạo là quá trình xây dựng nên cái mới, thì sáng tạo là lĩnh vực của tất cả
mọi người ở mức độ này hay mức độ khác, nó chính là người bạn đồng hành bình
thường và thường xuyên của sự phát triển trẻ em.[46,74]
7
Nhà Tâm lý học Thụy Sĩ, Jean Piaget khi nghiên cứu về sự phát triển các chức
năng kí hiệu, ông chỉ ra rằng những hình ảnh của tưởng tượng không chỉ là sự sao
chép hiện thực một cách đơn thuần mà đó là sự sao sao chép một cách tích cực
những bức tranh tri giác.[24, 6]
Một số tác giả người Đức như Vinhem Serer, Muyle Phraienphen đã đánh
đồng trí nhớ và tưởng tượng. Nhằm mục đích phản bác lại quan điểm xem tưởng
tượng là yếu tố không thể nhận biết được, là yếu tố độc quyền của các thiên tài sáng
tạo. Các tác giả này đã chứng minh tưởng tượng là một hiện tượng đơn giản và phổ
biến thông qua việc coi các hình ảnh của trí nhớ là sự thể hiện thực sự của tưởng
tượng. Serer từng tuyên bố: “Tôi thiên về phía thừa nhận rằng trí nhớ và tưởng
tượng chẳng qua chỉ là một mà thôi, đấy là khả năng gợi lại các biểu tựơng cũ”.
[15, 7]
Sigmund Freud (1856-1939) là nhà Tâm lý học nghiên cứu rất nhiều về giấc
mơ nên cũng quan tâm đến tưởng tượng. Tuy nhiên, ông lý giải cũng như các hiện
tượng tâm lý khác, tưởng tượng có nguồn gốc từ sự dồn nén các bản năng tính dục
khi chúng không được thỏa mãn. Tưởng tượng xuất hiện rất nhiều trong vô thức
giúp thỏa mãn dục vọng. Ông cho rằng chức năng cơ bản của tưởng tượng là bảo vệ
“cái tôi”, điều hòa những cảm xúc bị dồn nén.[15, 6]
L.X.Vưgôtxki với một số tác phẩm như: “Trí tưởng tượng sáng tạo ở lứa
tuổi thiếu nhi”, “Tâm lý học nghệ thuật”, “Sự phát triển của các chức năng tâm lý
cấp cao”, đã xây dựng nên lý thuyết khá hoàn chỉnh về tưởng tượng. Đối với ông,
hoạt động sáng tạo có vai trò to lớn trong sự tồn tại của loài người và cơ sở sáng tạo
chính là tưởng tượng. Theo Vưgôtxki: “Trí tưởng tượng là cơ sở của bất cứ hoạt
động sáng tạo nào, biểu hiện hoàn toàn như nhau trong mọi phương diện của đời
sống văn hóa, nó làm cho mọi sáng tạo nghệ thuật, khoa học và kỹ thuật có khả
năng thực hiện”. Khi nghiên cứu về tưởng tượng sáng tạo ở trẻ em ông đã chỉ ra vai
trò của hứng thú đối với việc hình thành và phát huy khả năng sáng tạo của trẻ em
trong hoạt động tạo hình và ông đặc biệt nhấn mạnh nguyên tắc tự do trong hoạt
động nghệ thuật.
8
Nhà Tâm lý học E.P.Torrance đã soạn thảo ra một số Test về tưởng tượng và
tưởng tượng sáng tạo rất có giá trị, được sử dụng đến ngày nay. Test sáng tạo và
tưởng tượng sáng tạo của Torrance được dùng cho nhiều độ tuổi khác nhau từ trẻ
mầm non đến người trưởng thành, đánh giá dựa trên 4 tiêu chí:
+ Tính linh hoạt (Flexibility): thể hiện ở việc đưa ra nhiều phương án, nhiều
cách khác nhau tạo ra sản phẩm.
+ Tính nhanh nhạy (Fluency): thể hiện ở việc nhanh chóng tạo ra sản phẩm.
+ Tính độc đáo (Orginality): thể hiện ở sản phẩm, cách giải quyết vấn đề
khác với người còn lại.
+ Tính tỷ mỷ (Elaborality): thể hiện ở việc sản phẩm tạo ra có nhiều chi tiết
tỷ mỷ, công phu. [15, 19, 20].
Theo một số tác giả như A.N.Leonchiev, X.L.Rubinstein… tưởng tượng là
hoạt động tâm lý nằm trong giai đoạn nhận thức lý tính và gắn liền với hoạt động
sáng tạo.
Nhìn chung, nghiên cứu về tưởng tượng đã được nghiên cứu từ khá lâu, và
ngày nay tưởng tượng sáng tạo đã thu hút được nhiều sự quan tâm của các nhà Tâm
lý học.
1.1.1.2. Những công trình nghiên cứu hoạt động vẽ và tưởng tượng
sáng tạo trong hoạt động vẽ của trẻ em
Việc nghiên cứu về hoạt động tạo hình của trẻ em mà đặc biệt là hoạt động vẽ
có một lịch sử khá phức tạp. Lúc đầu, sự lý giải về bản chất của hoạt động này
mang tính kinh nghiệm chủ nghĩa. Tiếp đó các cách giải đều mang ảnh hưởng của
các trường phái Tâm lý học như “Tâm lý học ưu sinh”, “Tâm lý học cấu trúc”,
“Phân tâm học” với câu hỏi chính mà các nhà Tâm lý học giải đáp là “Trẻ vẽ gì?”
[30,36]
Các nhà Tâm lý học theo trường phái ưu sinh đã xem xét bản chất hoạt động
vẽ của trẻ từ góc độ sinh học. Đại diện trường phái này, tác giả G.Ke-mschensteiner
cho rằng đứa trẻ vẽ những gì nó biết và cái nó biết theo ông là tiềm năng bẩm sinh.
9
Đồng ý với tác giả trên, W.Stem cũng khẳng định rằng trẻ miêu tả những gì nó nghĩ,
nó biết chứ không phải là cái nó nhìn thấy. Sự phát triển hoạt động tạo hình theo
quan điểm này chính là quá trình tự phát của các khả năng bẩm sinh, là sự kế thừa
một cách tự nhiên những tiềm năng sẵn có của cả loài. [30, 36]
Khác với các nhà Tâm lý học ưu sinh, các đại diện của Tâm lý học hành vi
đánh giá cao vai trò của ảnh hưởng ngoại giới nhưng lại coi thường yếu tố tự nhiên
– một yếu tố vô cùng quan trọng đối với sự phát triển khả năng nghệ thuật. Việc tổ
chức dạy học, giáo dục kiểu “chương trình hóa” theo quan điểm này không thể
mang lại kết quả tích cực trong việc phát triển khả năng sáng tạo và giáo dục thẩm
mỹ cho trẻ nhỏ. [30, 36]
Các nhà Tâm lý học cấu trúc cũng đi sâu tìm hiểu hoạt động vẽ của trẻ em và
đã cho rằng “Trẻ vẽ những gì nó nhìn thấy”. Câu trả lời này đã chỉ ra vai trò to lớn
của tri giác và các kinh nghiệm trong quá trình vẽ. Tuy nhiên theo trường phái này,
“nhìn” và nhìn nhiều thôi thì chưa đủ, cần phải biết nhìn trong hoạt động tạo hình
phải là khả năng quan sát, phân tích, tổng hợp và nhận biết cấu trúc của đối tượng
quan sát như một tổng thể trọn vẹn. Các nhà tâm lý học cấu trúc cho rằng phần lớn
các hiện tượng trong cuộc sống, trong thiên nhiên không thể được miêu tả một cách
chính xác nếu chỉ xem xét theo từng phần riêng lẻ. Họ khẳng định vai trò của tri
giác trọn vẹn trong việc hình thành các tác phẩm nghệ thuật. Hạn chế của họ là quá
thiên về quy luật “bừng sáng” và giải thích các hiện tượng sáng tạo trong hoạt động
vẽ như là kết quả của sự “lóe lên” của “cấu trúc sinh học” mang tính tiền định nên
đã đánh giá thấp vai trò của ý thức trong hoạt động sáng tạo nghệ thuật. [30, 36]
Tranh vẽ của trẻ em là mối quan tâm đặc biệt của các nhà Phân tâm học, khi lý
giải về bản chất tranh vẽ của trẻ, họ khẳng định rằng “Đứa trẻ vẽ những gì nó cảm
thấy”. Cái “cảm thấy” chính là nhu cầu bản năng vô thức. Với quan điểm của mình
họ đã sinh vật hóa tâm lý con người, làm con người mất đi tính chủ thể, tính tích
cực hoạt động và sáng tạo trong hoạt động vẽ. [30, 37]
Nhìn chung, khi xem xét các quan điểm của những trường phái Tâm lý học
trên có thể nhận thấy chỉ mới dừng lại ở sự phát triển tự phát của trẻ trong hoạt
10
động tạo hình mà không thừa nhận rằng hoạt động tạo hình của trẻ em là kết quả
hoạt động tích cực của chủ thể trên cơ sở sự lĩnh hội và vận dụng sáng tạo các kinh
nghiệm xã hội, kinh nghiệm hoạt động thực tiễn.
Vào những thập kỉ đầu của thế kỉ 20, một số nhà nghiên cứu đã tổ chức quá
trình quan sát, thực nghiệm nhằm tìm hiểu các yếu tố ảnh hưởng tới sự hình thành
tranh vẽ của trẻ em. G.H.Luquet, J.Piaget đã chỉ ra vai trò của các biểu tượng hình
tượng trong quá trình xây dựng hình vẽ, hay D.N.Unadze cũng đã chứng minh sự
phụ thuộc của những hình ảnh được thể hiện trong tranh vẽ của trẻ em vào khả năng
tri giác và các biểu tượng được hình thành trong quá trình tri giác, tư duy.
Từ những năm 40-50 của thế kỉ 20, dưới ánh sáng của các công trình nghiên
cứu của nhà Tâm lý học Xô-viết lỗi lạc L.X.Vưgôtxki thì cách nhìn nhận về sự phát
triển của hoạt động tạo hình và hoạt động sáng tạo nói chung ở trẻ em đã thay đổi
về căn bản. Khi tìm hiểu xem “Trẻ em vẽ gì”, các nhà Tâm lý học theo quan điểm
duy vật biện chứng đã nhận thấy tranh vẽ của trẻ em thể hiện các kinh nghiệm sau:
- Trước hết và nhiều nhất là các kinh nghiệm tri giác bằng thị giác các sự vật,
hiện tượng, sự kiện trong thế giới xung quanh.
- Tiếp đó là các kinh nghiệm về sự vật xung quanh mà trẻ có cơ hội tiếp xúc,
tiếp nhận bằng các cơ quan cảm giác khác như xúc giác, cảm giác vận động, thính
giác, khứu giác, vị giác.
- Các khuôn mẫu đồ họa mang tính sơ đồ mà trẻ tiếp thu được từ người lớn
trong quá trình giao tiếp.
Sự thể hiện các kinh nghiệm trên có liên quan chặt chẽ với các đặc điểm khả
năng tri giác, tư duy, tưởng tượng, xúc cảm, tình cảm và thái độ rất riêng của từng
đứa trẻ đối với thế giới xung quanh. [29, 15]
Nghiên cứu về đặc điểm hình thành các hình ảnh đồ họa trong trí óc (mô hình
tâm lý) ảnh hưởng đến tranh vẽ của trẻ mầm non, nhà tâm lý học V.X.Mukhina,
L.A.Vengher đã đưa ra hai loại cấu trúc đồ họa mà trẻ thường sử dụng:
Một loại xuất hiện do sự bắt chước một cách máy móc các mẫu đồ họa mà
người lớn cung cấp, và trẻ thường sử dụng chúng như một loại kí hiệu đơn thuần
11
với mục đích biểu đạt. Loại sơ đồ này thường có sức sống dai dẳng, cản trở sự hình
thành và phát triển của các yếu tố sáng tạo nghệ thuật. [30, 40]
- Một loại khác được hình thành trong quá trình đứa trẻ tích cực, độc lập quan
sát, tạo dựng các hình ảnh trên cơ sở phối hợp giữa hình ảnh sơ đồ khái quát (có
nguồn gốc bắt chước) với các biểu tượng phong phú về chính đối tượng thật. Loại
hình ảnh đồ họa này sẽ nhanh chóng được phát triển, sinh động hóa, cụ thể hóa
thành những hình tượng độc đáo, mang tính nghệ thuật.
Theo công trình nghiên cứu về trí tưởng tượng của mình, nhà Tâm lý học
người Pháp T. Ribot đã nhận thấy thời kì tuổi dậy thì trí tưởng tượng có sự đột biến,
sự phá hủy, và việc tìm tòi một sự cân bằng mới. Hoạt động tưởng tượng thể hiện ở
dạng như ở thời thơ ấu giờ đây đã bị thu hẹp lại biểu hiện trẻ không còn ham thích
vẽ nữa, đứa trẻ bắt đầu có thái độ phê phán với những bức tranh của mình ngoại trừ
những trẻ có năng khiếu [46,69]. Trong nghệ thuật tạo hình, năng khiếu và năng lực
biểu lộ trung bình khoảng mười bốn tuổi. [46,76]
1.1.2. Sơ lược về lịch sử nghiên cứu ở Việt Nam
Ở Việt Nam, khi nghiên cứu về Tâm lý học trẻ em, vấn đề về tưởng tượng nhất
là tưởng tượng sáng tạo ở trẻ mầm non đang được quan tâm. Tác giả Nguyễn Ánh
Tuyết, Ngô Công Hoàn, Mai Nguyệt Nga… đã đưa ra các đặc điểm tưởng tượng
của trẻ qua các độ tuổi của trẻ mầm non và các biện phát phát triển trí tưởng tượng
sáng tạo ở trẻ.
Một số công trình nghiên cứu về việc nâng cao khả năng sáng tạo, tưởng tượng
sáng tạo trong hoạt động tạo hình của trẻ mầm non với các tác giả như:
Tác giả Lê Thanh Thủy với đề tài: “Sự phát triển trí tưởng tượng của trẻ em
trong hoạt động tạo hình” đã đưa ra kết luận rằng cách thức tổ chức hoạt động tạo
hình sẽ có ảnh hưởng rất lớn đến sự xuất hiện và phát triển trí tưởng tượng của trẻ
em. Nếu biết cách phối hợp một cách hợp lý giữa các bài tập tạo hình theo mẫu với
các bài tập tạo hình tự do, khéo léo nâng dần yêu cầu sáng tạo từ hình thức tạo hình
theo đề tài bắt buộc đến hình thức theo đề tài tự do, các nhà sư phạm có thể từng
12
bước khơi dậy, phát triển tính tích cực của tư duy sáng tạo và tưởng tượng sáng tạo.
Ngoài ra, tác giả cũng đã nghiên cứu ảnh hưởng của tri giác đến khả năng tạo hình
của trẻ mẫu giáo, đã đưa ra một số biện pháp tổ chức quá trình tri giác cho trẻ.
Vấn đề giáo dục nghệ thuật – giáo dục thẩm mỹ cũng được các nhà giáo dục
quan tâm nghiên cứu như Đặng Thành Hưng, Nguyễn Quốc Toản. Khi nghiên cứu
về hoạt động tạo hình của trẻ mầm non, với đề tài: “Một số biện pháp bồi dưỡng
cảm xúc thẩm mỹ cho trẻ mẫu giáo thông qua hoạt động tạo hình” tác giả Phan
Việt Hoa đã chỉ ra con đường nâng cao hiệu quả giáo dục thẩm mỹ cho trẻ mẫu
giáo.[23, 7]
Tác giả Lê Thị Thanh Bình đã nghiên cứu và đề xuất một số biện pháp nhằm
phát huy tính tích cực nhận thức cho trẻ 5-6 tuổi trong hoạt động vẽ với đề tài: “Một
số biện pháp phát huy tính tích cực nhận thức của trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi trong giờ
vẽ” [6, 8]
Tác giả Nguyễn Thị Kim Dung với đề tài: “Một số biện pháp phát huy tính
tích cực của trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi trong hoạt động vẽ” đã đề ra một số biện pháp
như đa dạng hóa nguyên vật liệu và hình thức phân tích nhận xét sản phẩm của trẻ,
khơi gợi cảm xúc thẩm mỹ của trẻ qua việc cho trẻ trực tiếp quan sát hoạt động vẽ
của họa sĩ, tổ chức cho trẻ xem các tác phẩm nghệ thuật, sử dụng trò chơi đóng kịch
nhằm gây hứng thú trẻ đến với hoạt động vẽ, chuẩn bị tâm thế cho trẻ đến với hoạt
động vẽ, tạo bầu không khí nhẹ nhàng thoải mái trong buổi học.
Tác giả Nguyễn Thị Bích Ngọc qua đề tài: “Một số biện pháp gây hứng thú
cho trẻ 4-5 tuổi trong hoạt động vẽ bằng thuốc màu” đã đưa ra một số biện pháp
tạo hứng thú cho trẻ như tận dụng môi trường tự nhiên - xã hội để gây cảm xúc,
hứng thú và làm giàu vốn biểu tượng phong phú về đối tượng tạo hình, tập cho trẻ
biết sử dụng màu sắc như là phương tiện truyền cảm của bức tranh, sử dụng đa dạng
về hình thức của giấy vẽ, sử dụng trò chơi và tạo mối quan hệ thích hợp giữa cô và
trẻ.
Tác giả Lê Thị Kim Thanh trong đề tài: “Nghiên cứu một số biểu hiện tưởng
tượng của trẻ mẫu giáo”, tác giả đưa ra một hệ thống các bài tập thực nghiệm về
13
xếp hình, vẽ tranh, vẽ tranh, kể chuyện để trẻ bộc lộ các đặc điểm tưởng tượng của
mình. Kết quả cho thấy khả năng tưởng tượng của trẻ còn nhiều hạn chế và việc
tăng cường vốn sống, phát triển ngôn ngữ cho trẻ là rất cần thiết. [15,11]
Tác giả Mã Thị Khánh Tú với đề tài: “Một số biện pháp phát triển trí tưởng
tượng cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi trong hoạt động nặn” đã đi sâu vào phân tích vai
trò của hoạt động nặn đồng thời đề xuất các biện pháp để tăng cường hiệu quả của
hoạt động này đến sự phát triển tưởng tượng của trẻ. [15,11]
Tác giả Dương Thị Thanh Thủy trong đề tài: “Một số biện pháp phát triển trí
tưởng sáng tạo của trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi trong hoạt động vẽ” đã đưa ra một hệ
thống các biện pháp như cung cấp biểu tượng thế giới xung quanh, hình thành lòng
say mê, sự ham thích được vẽ, thường xuyên tổ chức hoạt động vẽ dưới nhiều hình
thức phong phú, sử dụng sản phẩm của trẻ vào đời sống sinh hoạt. [15,11]
Đối với trẻ lứa tuổi mầm non, nhất là ở độ 5 - 6 tuổi, việc nâng cao mức độ
tưởng tượng sáng tạo của trẻ thông qua hoạt động tạo hình là vấn đề mang ý nghĩa
thực tiễn cao. Trẻ phải được sống trong môi trường, được hướng dẫn, tổ chức các
hoạt động và được thể hiện những ước mơ, suy nghĩ của mình một cách sáng tạo.
Đó cũng là một đóng góp nhỏ trong công cuộc góp phần xây dựng thế hệ tương lai
cho đất nước.
Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu về tưởng tượng sáng tạo và các biện
pháp nâng cao tưởng tượng sáng tạo của trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi trong hoạt động vẽ là
rất hiếm, vì vậy chúng tôi hy vọng đề tài của mình bên cạnh việc khảo sát mức độ
tưởng tượng sáng tạo của trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi, góp phần tìm ra một số biện pháp tác
động có hiệu quả đối việc với nâng cao mức độ tưởng tượng sáng tạo cho trẻ.
14
1.2. Lý luận về tưởng tượng sáng tạo trong hoạt động vẽ của trẻ mẫu giáo
1.2.1. Tưởng tượng
1.2.1.1. Khái niệm về tưởng tượng
Các nhà tâm lý học đã đưa ra những quan điểm khác nhau về tưởng tượng.
Chẳng hạn, nhà tâm lý học Sigmund Freud cho rằng tưởng tượng chính là việc thực
hiện cái mong muốn, là sửa chữa cái hiện thực đang không làm thỏa mãn mình,
không phải những người may mắn mà những người thiếu thốn, không thỏa mãn mới
tưởng tượng.
P.Aruđich cho rằng: “Tưởng tượng là một hoạt động có ý thức, trong quá trình
tưởng tượng con người xây dựng những biểu tượng mới mà trước đây chưa bao giờ
có, bằng cách dựa vào những hình ảnh qua cuộc sống đã được giữ lại trong ký ức
của người ta và được cải tạo biến đổi thành một biểu tượng mới.” Ruđich xem
tưởng tượng là một quá trình nhận thức trong đó có sự xây dựng những biểu tượng
mới trên cơ sở chế biến lại những biểu tượng đã có. [15,12]
Một quan điểm khác về tưởng tượng“Tưởng tượng là sự hoạt động của nhận
thức mà trong quá trình nhận thức ấy con người tạo ra những biểu tượng, tình
huống trong ý nghĩ, tư tưởng, đồng thời dựa vào những biểu tượng còn giữ lại trong
ký ức từ kinh nghiệm cảm giác trước kia và có đổi mới, biến đổi các thứ ấy”. Với
quan điểm này, tưởng tượng là kết quả của quá trình cảm giác, quá trình tri giác
trước đây nhưng có sự cải biến.
Nhìn từ bản chất xã hội, M.Gorki cũng khái quát: “Trong cuộc đấu tranh để
sống, bản năng sinh tồn phát triển trong con người hai sức sáng tạo mãnh liệt:
nhận thức và tưởng tượng. Nhận thức là khả năng quan sát, so sánh, nghiên cứu
những hiện tượng thiên nhiên và những sự kiện trong sinh hoạt xã hội, nói gọn hơn:
nhận thức là tư duy. Xét về bản chất, tưởng tượng cũng là tư duy về vũ trụ, nhưng
phần lớn tư duy bằng hình tượng, đó là một “tư duy nghệ thuật”. M.Gorki đã nhìn
nhận tưởng tượng là nơi ký thác tâm sự, ước mơ cuộc đời phong phú và đẹp đẽ hơn.
15
Theo Từ điển Giáo dục học của tác giả Đậu Mạnh Trường, nhà xuất bản Từ
điển Bách khoa: “Tưởng tượng là quá trình tâm lý phức tạp thể hiện ở sự tạo ra
những ý nghĩ và hình ảnh không có trước mặt hoặc chưa hề có trên cơ sở các kinh
nghiệm từng trải”. Tưởng tượng vẫn phản ánh hiện thực khách quan mặc dù cái đó
có vẻ như đã thoát khỏi những gì cho ta trực tiếp cảm nhận để phóng tầm suy nghĩ
vào tương lai thành những ý đồ tạo ra những tình huống sinh hoạt mới, những phát
minh khoa học, những sáng chế kĩ thuật hoặc những hình tượng nghệ thuật mới.
Quá trình tưởng tượng thể hiện bằng việc phân tách các hình ảnh, các quan hệ của
sự vật có trước, rồi lại tiến hành chắp nối, lắp ghép chúng lại thành một kiểu khác
để thành một liên tưởng mới.
Theo tác giả Phạm Minh Hạc thì: “Tưởng tượng là một quá trình tâm lý phản
ánh những cái mới những cái chưa từng có trong kinh nghiệm của cá nhân bằng
cách xây dựng những hình ảnh mới trên cơ sở những biểu tượng đã có”. Đây là
định nghĩa được nhiều nhà Tâm lý học ở Việt Nam thừa nhận, chúng tôi đồng ý với
quan điểm này. Từ định nghĩa này chúng ta có thể phân tích bản chất của tưởng
tượng như sau:
Về nội dung phản ánh: tưởng tượng phản ánh cái mới, cái mới có thể đối
với cá nhân hoặc đối với xã hội.
Về phương thức phản ánh: tưởng tượng tạo ra cái mới từ các biểu tượng đã
có và thực hiện nhờ các phương thức hành động: chắp ghép, liên hợp, điển hình
hóa…
Về cơ chế sinh lí: là sự phân giải các hệ thống liên hệ thần kinh tạm thời đã
có và kết hợp thành những hệ thống mới trên não.
Trong quá trình hình thành lịch sử, trí tưởng tượng nảy sinh khi con người có
khát vọng chinh phục thiên nhiên. Như vậy, về điều kiện xuất hiện tưởng tượng nảy
sinh khi gặp hoàn cảnh “có vấn đề” mang tính bất định, quá trình tưởng tượng phụ
thuộc vào nhu cầu và hứng thú của con người. Nhu cầu càng bức thiết thì sự hình
dung càng rõ ràng và chi tiết. Và nếu công việc được thực hiện trong điều kiện có
hứng thú cao thì tưởng tượng càng có điều kiện kích thích và phát triển mạnh mẽ.
16
Nói về ý nghĩa của tưởng tượng trong cuộc sống, Pauxtôpxki cho rằng “Trí tưởng
tượng cho con người những gì mà thực tại chưa kịp cho hoặc không thể cho con
người. Trí tưởng tượng lắp đầy chỗ trống trong đời sống con người.”
Hoạt động của con người càng mang tính chất sáng tạo bao nhiêu, càng ít lặp
lại lối mòn đơn điệu trong tư duy và nhận thức bao nhiêu thì tưởng tượng càng có
giá trị và ý nghĩa to lớn bấy nhiêu.
1.2.1.2. Các giai đoạn của quá trình tưởng tượng
Dưới góc độ hoạt động, có thể xem mỗi hành động tưởng tượng là một quá
trình nhằm giải quyết một nhiệm vụ nào đó nảy sinh từ quá trình nhận thức hay
trong hoạt động thực tiễn. Hành động tưởng tượng thường trải qua các giai đoạn
sau:
+ Xác định vấn đề và biểu đạt vấn đề:
Hoàn cảnh có vấn đề là hoàn cảnh chứa đựng những mâu thuẫn, những vấn
đề mới đòi hỏi con người phải khám phá, giải quyết. Tuy nhiên chỉ có những hoàn
cảnh có tính chất bất định, không xác định rõ ràng, không đủ điều kiện để tư duy thì
trí tưởng tượng của con người mới hoạt động. Khi hoàn cảnh có vấn đề được xác
định, nó sẽ quyết định toàn bộ tiến trình hoạt động của tưởng tượng. Đây là giai
đoạn đầu tiên và cũng là giai đoạn quan trọng nhất, định hướng cho hoạt động
tưởng tượng hướng tới sự sáng tạo có mục đích.
+ Huy động các biểu tượng của trí nhớ, các kinh nghiệm mà cá nhân đã tích
luỹ để chuẩn bị xây dựng biểu tượng của tưởng tượng:
Trong giai đoạn này, tùy thuộc vào việc xác định nhiệm vụ của tưởng tượng,
cá nhân sẽ huy động trong kho tàng trí nhớ và kinh nghiệm của mình những biểu
tượng, những ký ức, những rung cảm… mà họ đã trải qua để thiết lập mối liên
tưởng giữa chúng với nhiệm vụ của tưởng tượng, tạo cơ sở cho sự hình thành biểu
tượng.
+ Sàng lọc các liên tưởng và hình thành biểu tượng của tưởng tượng:
17
Các biểu tượng của trí nhớ, kinh nghiệm và liên tưởng xuất hiện ở giai đoạn
hai còn mang tính tản mạn, vì vậy, trong giai đoạn này, bằng các phương pháp sáng
tạo hình ảnh mới đặc trưng của tưởng tượng, cá nhân chọn lọc những biểu tượng,
kinh nghiệm, liên tưởng cần thiết có liên quan với nhiệm vụ được xác định ở giai
đoạn một để xây dựng các biểu tượng của tưởng tượng.
+ Biểu tượng của tưởng tượng được thể hiện ra bên ngoài thông qua các sản
phẩm của tưởng tượng:
Sản phẩm của tưởng tượng có thể là những sản phẩm tinh thần, cũng có thể
là những sản phẩm vật chất. Dù là tinh thần hay vật chất thì chúng cũng có đặc điểm
mang tính độc đáo, hiếm lạ và nhiều khi còn xa rời thực tiễn. Thông qua sản phẩm
của tưởng tượng, ta có thể đánh giá năng lực sáng tạo của cá nhân. [12, 30, 31]
1.2.1.3. Phân loại tưởng tượng
Căn cứ vào tính tích cực và tính hiệu quả của tưởng tượng, tưởng tượng được
chia thành tưởng tượng tích cực và tiêu cực, ước mơ và lý tưởng.
* Tưởng tượng tiêu cực:
Tưởng tượng tiêu cực là loại tưởng tượng vạch ra những hình ảnh không
được thể hiện trong cuộc sống, vạch ra những chương trình hành vi không được
thực hiện, tưởng tượng chỉ để mà tưởng tượng, để thay thế cho hoạt động
Tưởng tượng tiêu cực có thể xảy ra có chủ định nhưng không gắn liền với ý
chí thể hiện những hình ảnh đó trong đời sống. Người ta gọi đó là sự mơ mộng, mơ
mộng đưa con người đến một cuộc sống hão huyền mà hiện thực họ không hy vọng
có được. Tưởng tượng tiêu cực cũng có thể nảy sinh không chủ định nhưng chủ yếu
khi hoạt động của ý thức, của hệ thống tín hiệu thứ hai bị suy yếu, khi con người ở
tình trạng không hoạt động, trong giấc ngủ, trong trạng thái xúc động hay rối loạn
bệnh lý của ý thức (ảo giác, hoang tưởng).
* Tưởng tượng tích cực:
Tưởng tượng tích cực là loại tưởng tượng tạo ra những hình ảnh nhằm đáp
ứng những yêu cầu, kích thích tính tích cực thực tế của con người
18
Tưởng tượng tích cực gồm hai loại: tái tạo và sáng tạo
+ Tưởng tượng tái tạo: là quá trình tạo ra những hình ảnh chỉ là mới đối với
cá nhân người tưởng tượng và dựa trên cơ sở sự mô tả của người khác, của tài liệu,
của sách vở.
+ Tưởng tượng sáng tạo: là quá trình xây dựng hình ảnh mới một cách độc
lập. Những hình ảnh này là mới đối với cả cá nhân và xã hội được hiện thực hóa
trong các sản phẩm vật chất độc đáo và có giá trị. Đồng thời, chúng được (hoặc có
khả năng) hiện thực hóa trong các sản phẩm vật chất độc đáo và có giá trị, mang
dấu ấn riêng của từng cá nhân.
Tưởng tượng sáng tạo có ý nghĩa rất to lớn đối với xã hội và con người, là
yếu tố quan trọng của hoạt động sáng tạo. Giữa tưởng tượng sáng tạo và tái tạo
không có sự ngăn cách tuyệt đối. Mọi sự tưởng tượng sáng tạo đòi hỏi lặp lại hình
ảnh của các sự vật hiện tượng nào đó đã biết trước đây, ngược lại trong các quá
trình tưởng tượng tái tạo thường có yếu tố sáng tạo.
* Ước mơ:
Ước mơ là loại tưởng tượng được hướng về tương lai, biểu hiện những mong
muốn ước ao của con người. Ước mơ giống như tưởng tượng sáng tạo ở chỗ nó
cũng tạo ra những hình ảnh mới một cách độc lập nhưng khác tưởng tượng sáng tạo
ước mơ không hướng trực tiếp vào hoạt động trong hiện tại. Có 2 loại ước mơ: có
lợi và có hại. Ước mơ có lợi khi nó thúc đẩy cá nhân vươn lên biến ước mơ thành
hiện thực và có hại khi nó không dựa vào những khả năng thực tế và dễ khiến con
người chán nản thất vọng khi không đạt được.
* Lý tưởng:
Lý tưởng có tính tích cực và hiện thực cao hơn ước mơ, là một hình ảnh chói
lọi, rực sáng cụ thể của tương lai mà con người mong muốn đạt được. Nó trở thành
động cơ mạnh mẽ thúc đẩy con người vươn tới tương lai. [43, 81, 82, 83]
19
1.2.1.4. Các phương pháp sáng tạo hình ảnh mới trong tưởng tượng
+ Thay đổi kích thước, số lượng: thay đổi các thuộc tính, các thành phần của
một số lượng đối tượng nhằm làm tăng lên hoặc giảm đi hình dáng của nó so với
hiện thực để tạo thành một hình ảnh mới.
+ Nhấn mạnh: tạo thành một hình ảnh mới bằng việc nhấn mạnh đặc biệt
hay đưa lên hàng đầu một phẩm chất nào đó, một mối quan hệ giữa sự vật, hiện
tượng này với sự vật, hiện tượng kia. Một biến dạng của phương pháp này là sự
cường điệu.
+ Chắp ghép (kết dính): ghép các bộ phận của nhiều sự vật hiện tượng khác
nhau thành một hình ảnh mới và không có sự biến đổi các bộ phận ấy.
+ Liên hợp: phương pháp này gần giống phương pháp chắp ghép nhưng các
bộ phận ban đầu bị cải biên, sắp xếp trong tương quan mới để tạo thành một hình
ảnh mới.
+ Điển hình hóa: là phương pháp tạo thành hình ảnh mới phức tạp nhất
trong đó những thuộc tính điển hình, những đặc điểm điển hình của nhân cách như
là đại diện của một giai tầng hay tầng lớp xã hội nhất định được biểu hiện trong
hình ảnh mới này. Phương pháp này được dùng nhiều trong hoạt động sáng tác văn
học nghệ thuật, điêu khắc…
+ Loại suy: tạo ra những hình ảnh mới trên cơ sở mô phỏng, bắt chước
những chi tiết, những sự vật có thực. [15,14,15]
+ Chuyển tính chất của đối tượng này sang đối tượng khác.
Các phương pháp xây dựng hình ảnh mới trên của tưởng tượng thường
không tách rời nhau mà tùy thuộc vào các hoạt động, chúng sẽ có sự liên hệ hỗ trợ
nhau để tạo ra những hình ảnh sáng tạo.
1.2.2. Tưởng tượng sáng tạo
1.2.2.1. Sáng tạo
a. Khái niệm về sáng tạo
20
Theo Freud “Sáng tạo cũng giống như giấc mơ hiện hình, là sự tiếp tục và
thay thế trò chơi trẻ con cũ”. Với Freud trò chơi và tưởng tượng là hai hình thức
biểu hiện của vô thức, nền tảng của sáng tạo là nguyện vọng không được thỏa mãn.
[20, 9]
Cùng với quan điểm của Freud cho rằng sáng tạo như một trò chơi, Thiessy
Gaudin, tác giả cuốn: “Chuyện về thế kỉ 21”, đã viết rằng: “Trò chơi là sự thăm dò
những cái có thể và một sự học tập. Ai không chơi thì người đó đã thu hẹp trường
tri giác và sáng tạo của họ” [20, 9]
Theo quan điểm của nhà vật lý A.Eintein thì sáng tạo là đặt vấn đề, ông cho
rằng việc giải quyết vấn đề chỉ là kĩ năng toán học hay kinh nghiệm, còn nêu lên
được những vấn đề mới, những khả năng mới nhìn nhận những vấn đề cũ với một
góc độ mới đòi hỏi phải có trí tưởng tượng và nó đánh dấu bước tiến bộ vượt bậc
của khoa học. Với A.Eintein thì “tưởng tượng còn quan trọng hơn cả kiến thức,
kiến thức còn bị giới hạn nhưng tưởng tượng có mặt khắp nơi trên thế giới” [20, 9]
Đối với L.X.Vưgôtxki hoạt động sáng tạo được coi là hoạt động cao nhất của
con người, và cơ sở vật chất của sáng tạo chính là bộ não “Bộ não không những là
một cơ quan giữ lại và tái hiện kinh nghiệm cũ của chúng ta, nó còn phối hợp một
cách sáng tạo và xây dựng nên những tình thế mới và những hành vi mới bằng
những yếu tố của kinh nghiệm cũ đó.” Hoạt động sáng tạo được ông nhìn nhận như
sau: “Sự sáng tạo thật ra không chỉ có ở nơi nó tạo ra những tác phẩm vĩ đại, mà ở
khắp nơi nào con người tưởng tượng, phối hợp, biến đổi và tạo ra cái gì mới, cho
dù cái mới ấy nhỏ bé đến đâu đi nữa so với những sáng tạo của các thiên tài…”
[20,10]
Theo tác giả Chu Quang Tiềm, đại học Bắc Kinh, trong cuốn sách “Tâm lý
học văn nghệ” đã định nghĩa sáng tạo là: “Căn cứ vào những ý tưởng đã có sẵn làm
tài liệu rồi cắt xén gạt bỏ chọn lọc tổng hợp thành một hình tượng mới”. [20,10]
Trong từ điển Tiếng Việt: “Sáng tạo là tìm ra cái mới, giải quyết cái mới,
không bị gò bó, phụ thuộc vào cái đã có”. [20,11]
21
Trong “Sổ tay Tâm lý học”, tác giả Trần Hiệp và Đỗ Long cho rằng: “Sáng
tạo là một hoạt động tạo lập phát hiện những giá trị vật chất và tinh thần. Sáng tạo
đòi hỏi cá nhân phải phát huy năng lực, phải có động cơ, tri thức, kỹ năng và với
điều kiện như vậy mới tạo nên sản phẩm mới, độc đáo, sâu sắc”. [20,11]
Theo tác giả Nguyễn Huy Tú, trong Đề cương bài giảng Tâm lý học sáng tạo
thì: “Sáng tạo thể hiện khi con người đứng trước hoàn cảnh có vấn đề. Quá trình
này là tổ hợp các phẩm chất và năng lực mà nhờ đó con người trên cơ sở kinh
nghiệm của mình và bằng tư duy độc lập đã tạo ra được những ý tưởng mới, độc
đáo, hợp lí trên bình diện cá nhân hay xã hội. Ở đó người sáng tạo gạt bỏ các giải
pháp truyền thống để đưa ra những giải pháp mới, độc đáo và thích hợp cho vấn đề
đặt ra”. [20,11]
Tóm lại, các nhà nghiên cứu đã đưa ra những quan điểm khác nhau về sáng
tạo nhưng có điểm chung là sáng tạo là một quá trình tạo ra hay hướng đến cái mới.
Trên cơ sở phân tích một số quan niệm trên chúng ta có thể đồng ý với kết luận:
“Sáng tạo là quá trình tư duy độc lập, con người đã phối hợp, biến đổi và xây dựng
nên những cái mới trên bình diện cá nhân hay xã hội từ những kinh nghiệm có sẵn
của mình”.
Trong hoạt động nghệ thuật tạo hình, sáng tạo đó là là quá trình cảm thụ một
cách sắc bén và nhận thức sâu sắc cuộc sống về sự vật hiện tượng xung quanh, chọn
lọc một cách tinh tế nhất trong vô vàn biểu tượng đã thu nhận được để xây dựng nên
một biểu tượng mới mang tính nghệ thuật. [18, 26]
b. Đặc điểm sáng tạo của trẻ mẫu giáo
Khả năng sáng tạo dường như là khả năng trực giác ở trẻ, được sinh ra cùng
với đứa trẻ. Trong mọi hoạt động của mình trẻ luôn có cảm giác thắc mắc, tò mò
cao độ và một sự nỗ lực tự phát nhằm khám phá, thử nghiệm và thao tác độc đáo
mang tính trò chơi. Đó là biểu hiện mang tính sáng tạo của trẻ. Sự sáng tạo của trẻ
mẫu giáo có những đặc điểm sau:
Sự thể hiện đặc trưng của sáng tạo là sự tự do tâm lý, trẻ tự do thể hiện cái tôi
của mình trong việc nhận thức, tìm hiểu và hành động với các sự vật hiện tượng
22
trong môi trường xung quanh. Sáng tạo của trẻ biểu hiện một cách tự phát, độc lập
với ý muốn của người lớn.
Sáng tạo của trẻ như một trò chơi nảy sinh từ một nhu cầu cấp bách tự nhiên
và điều kiện tồn tại của trẻ. Trẻ không bao giờ sáng tạo cái gì mà trẻ không biết,
sáng tạo của trẻ giống như một trò chơi, về căn bản còn chưa tách khỏi hứng thú và
đời sống cá nhân.
Trẻ có thể sáng tạo đột nhiên, có cách làm việc tự do, không cần bắt chước, bất
kì chỗ nào thiếu trí nhớ, những kỉ niệm bị rạn nứt chỉ còn lại những yếu tố rời rạc
thì óc tưởng tượng sẽ móc ghép theo cách riêng.
Sáng tác của trẻ ít khi nghiền ngẫm lâu về tác phẩm của mình, phần lớn trẻ
sáng tác liền một mạch. Trẻ giải quyết nhu cầu sáng tạo của mình nhanh chóng và
triệt để những tình cảm tràn ngập trong lòng trẻ. Trẻ tự mình khám phá, tìm tòi,
nghĩ ra những cái mới và thể hiện cái mới đó với niềm vui sướng vô biên.
Trong quá trình sáng tạo của trẻ, sự bắt chước đóng vai trò quan trọng, tuy
nhiên sự tái hiện lại trong quá trình đó không hoàn toàn giống trong thực tế. Sáng
tạo của trẻ mang tính tổng hợp các lĩnh vực trí tuệ, tình cảm, ý chí đặc biệt là tưởng
tượng sáng tạo được hưng phấn với một sức mạnh trực tiếp từ cuộc sống. Những tác
phẩm của trẻ không phải là hồi ức đơn giản mà là sự gia công những sáng tạo
những ấn tượng đã được tiếp nhận, sự phối hợp những tiếp nhận ấy và từ đó cấu tạo
nên một thực tế mới đáp ứng nhu cầu và hứng thú của bản thân.
Những biểu tượng của trẻ không chịu nằm trong lĩnh vực mơ mộng như
người lớn, trẻ luôn mong muốn thể hiện bất cứ tưởng tượng nào của mình thành
những hình tượng và hành động sinh động.
So với người lớn, tri thức và kinh nghiệm của trẻ còn ít ỏi, óc tưởng tượng còn
nghèo nàn, hứng thú đơn giản và sơ đẳng hơn nhưng do sự dễ dãi, sự mộc mạc của
trí tưởng tượng nên trẻ sống trong thế giới tưởng tượng nhiều hơn, tin vào những
sản phẩm của trí tưởng tượng nhiều hơn, kiểm tra những sản phẩm ít hơn do đó mà
trẻ dễ có những biểu hiện sáng tạo hơn. Như Goethe nói: “Trẻ em có thể làm nên tất
cả từ mọi cái”. [20, 22]
23
Tuy nhiên, tầm nhìn về thế giới xung quanh của trẻ còn rất hạn chế, nên trẻ
hầu như chưa biết phân tích các mối liên hệ khác nhau, các sáng tác của trẻ còn
mang tính ước lệ và rất ngây thơ. Một số nhà nghiên cứu cho rằng hoạt động sáng
tạo của trẻ chỉ ở mức độ “tiền sáng tạo”, nghĩa là những sản phẩm trẻ tạo ra chỉ có
sự biểu hiện sáng tạo mà thôi. Cái mới, cái độc đáo trong sản phẩm của trẻ chỉ có ý
nghĩa đối với sự phát triển bản thân của trẻ, nhưng nó lại có vai trò to lớn trong sự
phát triển trí tuệ và nhân cách của một thế hệ trong tương lai.
Sản phẩm sáng tạo của trẻ có thể không hoàn hảo nhưng ưu thế là chúng nảy
sinh trong quá trình sáng tạo của trẻ. Ý nghĩa sự sáng tạo của trẻ không nên xem xét
ở kết quả, trong sản phẩm sáng tạo mà là trong bản thân quá trình sáng tạo. Điều
quan trọng không phải là cái mà mà trẻ con xây dựng nên, làm nên, mà là trẻ đang
được sáng tạo, đang được rèn trong hoạt động tưởng tượng sáng tạo và thể hiện sự
tưởng tượng đó. Khi trẻ sáng tác, đời sống cảm xúc lay động, các tri thức, kinh
nghiệm được đào sâu, mở rộng, thanh lọc và tổ chức và tổ chức một cách nghiêm
túc, giúp trẻ rèn luyện những khát vọng và kỹ năng sáng tạo của mình. Hoạt động
sáng tạo mang lại khoái cảm trong khi chơi cho đứa trẻ, rèn luyện các tư chất cho
trẻ (tự hào, hãnh diện, tự tin).
1.2.2.2. Khái niệm tưởng tượng sáng tạo
Trong tâm lý học, các công trình nghiên cứu đi sâu nghiên cứu lý luận về
tưởng tượng sáng tạo vẫn còn rất ít. Tưởng tượng sáng tạo chỉ được nhắc đến nhiều
khi nghiên cứu về sáng tạo.
Quan điểm thứ nhất các nhà nghiên cứu đánh đồng sáng tạo và tưởng tượng
sáng tạo. Nhà tâm lý học người Mỹ M.Wilson đã phát biểu: “Sáng tạo là quá trình
mà kết quả là tạo ra những kết hợp mới cần thiết từ các ý tưởng, dạng năng lượng
các đơn vị thông tin, các khách thể hay tập hợp các yếu tố khác nhau” [9, 26]. Về
bản chất, khái niệm sáng tạo của Wilson không có gì khác so với khái niệm tưởng
tượng sáng tạo vì chúng đều là sự kết hợp mới các yếu tố có từ hiện thực.
24
Quan điểm thứ hai xem tưởng tượng sáng tạo là hoạt động tâm lý nằm trong
giai đoạn nhận thức lý tính và gắn liền với hoạt động sáng tạo. Các nhà nghiên cứu
như L.X.Vưgôtxki, A.N.Leonchiev có xu hướng xem sáng tạo là một phẩm chất
tâm lý cá nhân, muốn sáng tạo, con người phải có trí tưởng tượng sáng tạo phong
phú. Theo L.X.Vưgôtxki “Hoạt động sáng tạo dựa trên năng lực phối hợp của bộ
não chúng ta được khoa học Tâm lý gọi là tưởng tượng” [20, 8]. Như vậy, tưởng
tượng là một hiện tượng tâm lý độc lập, đồng thời có thể xem nó là một “giai đoạn”,
một “thao tác” trong quá trình sáng tạo. Trong năng lực sáng tạo, tưởng tượng sáng
tạo giữ vị trí trung tâm. Tưởng tượng sáng tạo đã giúp cho cá nhân khi đứng trước
một hoàn cảnh có vấn đề luôn tìm ra được nhiều giải pháp khác nhau để giải quyết.
Tưởng tượng sáng tạo giúp cá nhân thoát ra khỏi thế giới thực tại để vươn tới sự
mới mẻ độc đáo, kỳ diệu tạo nên những chất liệu mới của sự vật hiện tượng, đóng
góp cho nền văn minh nhân loại.
Trên cơ sở phân tích lý luận của hai quan điểm trên chúng tôi tán đồng với
quan điểm thứ hai và đồng ý với khái niệm: “Tưởng tượng sáng tạo là quá trình
xây dựng hình ảnh mới chưa có trong kinh nghiệm cá nhân, hoặc kinh nghiệm xã
hội”. Tính chất mới mẻ, độc đáo và có giá trị là đặc điểm nổi bật của loại tưởng
tượng này.
Nghệ thuật - về một phương diện nhất định - đó là hiện tượng sáng tạo tinh
thần được tồn tại trong tư duy trước khi người nghệ sĩ thể hiện ra bằng một phương
thức tổ chức đặc trưng với từng lĩnh vực nghệ thuật. Một bức tranh trước khi tồn tại
qua màu sắc, đường nét, bố cục nó là kết quả của hình dung trước đó trong đầu họa
sĩ.
1.2.2.3. Đặc điểm tưởng tượng sáng tạo của trẻ 5-6 tuổi
Tưởng tượng sáng tạo của trẻ mẫu giáo phát triển mạnh dưới ảnh hưởng của
hoạt động vui chơi. Đặc điểm sáng tạo của tưởng tượng phụ thuộc vào việc sử dụng
thành thạo các biện pháp cải biến các ấn tượng được sử dụng trong trò chơi và trong
25
hoạt động nghệ thuật. Trẻ mẫu giáo lĩnh hội và thể hiện một cách mạnh mẽ các
phương tiện và các biện pháp tưởng tượng.
Một biện pháp tưởng tượng phổ biến ở trẻ mẫu giáo đó là biện pháp nhân cách
hóa. Trẻ mẫu giáo đưa các nhân vật vào các tình huống sống đặc trưng cho con
người, gán cho các nhân vật đó những ý nghĩ, tình cảm, hành động của con người.
Đứa trẻ diễn giải các hành vi của động vật theo nhân cách con người, đồng thời
phản ánh kinh nghiệm về các mối quan hệ xã hội. Biện pháp nhân cách hóa thường
được trẻ sử dụng khi xây dựng các hình ảnh bởi vì trẻ thường gặp biện pháp đó khi
nghe truyện cổ tích.
Biện pháp phức tạp hơn được trẻ mẫu giáo sử dụng đó là biện pháp kết dính.
Cụ thể như một trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi kể chuyện về chủ đề “Hai anh em” có đoạn:
“Hai anh em khi thấy mẹ ốm vào rừng hái quả chín cho mẹ ăn. Thấy hoa hồng đẹp,
hái về cho mẹ ngửi. Thấy dòng suối thần, hai anh em nhà khỉ lấy đựng vào cái hộp
cho mẹ uống. Khỉ mẹ khỏi bệnh và bảo “Các con là người hiếu thảo, mai sau các
con sẽ được sống hạnh phúc suốt đời”. Câu chuyện này là sự kết hợp những tình tiết
trong câu chuyện cổ tích “Sự tích con khỉ” và “Ba cô gái”. [14, 24]
Trẻ còn sử dụng biện pháp phóng to, thu nhỏ để tạo hình ảnh mới một cách
độc đáo. Chẳng hạn như trẻ xếp những ngôi nhà cao ngất trời, hay tưởng tượng ra
thế giới người tí hon, người khổng lồ…[15, 25]
Trong hoạt động kể chuyện, khi tưởng tượng trẻ thường sử dụng các sự kiện
của truyện cổ tích đã biết và chỉ bổ sung thêm một ít như thay đổi nhân vật, liên kết
một vài nội dung câu chuyện khác nhau hay nghĩ ra đoạn tiếp theo cho câu chuyện
đã biết. Trẻ mẫu giáo dễ dàng liên kết các hình ảnh từ các nguồn khác nhau, do vậy,
không hiếm các trường hợp các mẫu truyện cổ tích do trẻ nghĩ ra khác thường. Trẻ
mẫu giáo lớn phân chia nhân vật theo phẩm chất đạo đức và giá trị đặc biệt từ góc
nhìn của trẻ. Những hành động của các nhân vật trong câu chuyện kể của trẻ mang
nặng những tình cảm xã hội: sự đồng cảm, sự xúc cảm. Vì vậy, những sự kiện trong
những câu chuyện kể của trẻ không chỉ là sự kết nối cái này với cái kia một cách
giản đơn mà là sự tuân theo logic bên trong của trẻ.
26
Các yếu tố sáng tạo của tưởng tượng rất cần thiết cho trẻ trong việc học tập
sau này. Nó không tự xuất hiện, và tự phát triển mà nó được hình thành thông qua
việc nhà giáo dục tổ chức và hướng dẫn. Vì vậy việc tổ chức các hoạt động mang
tính sáng tạo ở lứa tuổi này là nhiệm vụ cực kỳ quan trọng của giáo viên mầm non.
1.2.3. Hoạt động vẽ
1.2.3.1 Khái niệm hoạt động vẽ
a. Khái niệm hoạt động vẽ
Vẽ là một hoạt động tạo hình được nhiều trẻ yêu thích, trẻ có nhiều điều kiện
thể hiện những ấn tượng của mình về thế giới xung quanh ở mọi lúc, mọi nơi mà
không phải chờ đến khi có điều kiện mới thực hiện được. Cụ thể như khi đang chơi
ở sân, trẻ muốn thể hiện một ấn tượng nào đó, trẻ chỉ việc dùng viên phấn, cục
gạch, cái que để vẽ là trẻ có thể thực hiện được ý thích của mình.
Theo từ điển tiếng Việt thì: “Vẽ là dùng bút mà tả hình trạng các vật cho được
như thực bằng đường nét hoặc màu sắc”. [47,1807]
0Tmặt phẳng0T bằng các đường nét, màu sắc”
Theo từ điển mở Wiktionary “Vẽ là 0Ttạo0T hoặc 0Tgợi0T 0Tra0T 0Thình ảnh0T 0Tsự vật0T trên một
Theo tác giả Nguyễn Quốc Toản: “Hoạt động vẽ là hoạt động tạo ra sản phẩm
trên mặt phẳng bằng nhiều chất liệu khác nhau”. [36, 127] Đối với trẻ mẫu giáo, ở
hoạt động này trẻ phải quan sát đối tượng, nhận xét thông quan ước lượng bằng mắt
về hình dáng, tỉ lệ… và diễn tả lại trên nền giấy bằng cảm nhận riêng của mình.
Khi bàn về hoạt động vẽ của trẻ mầm non, tác giả Nguyễn Ánh Tuyết đã cho
rằng: “Vẽ là hoạt động mà ở đó tập hợp những cảm nhận mà trẻ có về cơ thể mình
và về thế giới xung quanh được phóng chiếu vào đường nét, hình dạng do nó tạo
ra”.
Khi nghiên cứu về hoạt động tạo hình, tác giả Lê Thanh Thủy cho rằng: “Hoạt
động vẽ là dùng đường nét, hình mảng, màu sắc tạo bố cục thể hiện trên mặt phẳng
hai chiều”.
27
Tóm lại, các nhà nghiên cứu đã đưa ra những quan điểm khác nhau về hoạt
động vẽ nhưng tựu trung đều có những điểm giống nhau đó là hoạt động tạo ra sản
phẩm trên mặt phẳng bằng đường nét và màu sắc. Đây cũng là nội dung mà
chúng tôi chọn lọc để nghiên cứu khái niệm hoạt động vẽ.
b. Bản chất hoạt động vẽ của trẻ mẫu giáo
Khi tìm hiểu về hoạt động vẽ, tác giả Lê Hồng Vân đã cho rằng hoạt động vẽ
không phải là sự “sao chụp” lại các sự vật và hiện tượng mà phải “nhào nặn” lại
những gì thụ cảm trong nhận thức, chọn lọc một cách tinh tế những gì đặc sắc, tinh
hoa trong vô vàn biểu tượng đã thu nhận để xây dựng nên một biểu tượng mới mang
tính nghệ thuật. [27,42]
Nhà tâm lý học V.X.Mukhina đã xem hoạt động vẽ của trẻ như một quá trình
lĩnh hội các kinh nghiệm xã hội, được diễn ra thông qua sự lĩnh hội các phẩm chất,
năng lực tâm lý được đúc kết trong lịch sử phát triển của loài người và in dấu ấn
trong những giá trị văn hóa vật chất, tinh thần của xã hội. [11,9]
Tác giả Nguyễn Ánh Tuyết cho rằng vẽ là một dạng thức của hoạt động tạo
hình bên cạnh nặn, cắt, dán. Ở đó trẻ được tiếp thu những kiến thức, kĩ năng và còn
tạo ra một sản phẩm mang tính nghệ thuật.
Theo tác giả Lê Thanh Thủy vẽ chính là sự thể hiện những biểu tượng, ấn
tượng và suy nghĩ, tình cảm của trẻ, là sự giao tiếp, “nói chuyện” bằng các hình
thức, phương tiện mang tính vật thể. Vẽ giúp trẻ suy nghĩ và hình thành các ý tưởng
sáng tạo.
Như vậy, hoạt động vẽ của trẻ vừa là một quá trình lĩnh hội các kinh nghiệm
xã hội, vừa là một hoạt động sáng tạo nghệ thuật phản ánh những suy nghĩ, tình
cảm, những ấn tượng từ cuộc sống của đứa trẻ bằng các phương tiện, chất liệu nghệ
thuật thông qua hình tượng mang tính nghệ thuật.
1.2.3.2. Một số đặc điểm trong tranh vẽ của trẻ mẫu giáo
Hoạt động vẽ có sức hấp dẫn đặc biệt đối với trẻ mẫu giáo. Thông qua tranh
vẽ, trẻ mô tả những hiểu biết, tình cảm của mình về thế giới xung quanh. Vì thế
28
tranh vẽ của trẻ đã lôi cuốn được sự nghiên cứu của rất nhiều nhà khoa học như
N.P.Xaculina, T.X.Comarôva, G.G.Grigorieva, V.X.Mukhina. Thông qua những kết
quả nghiên cứu, họ đã đưa ra những đặc điểm nổi bật trong tranh vẽ của trẻ mẫu
giáo như sau:
a. Tính duy kỉ
Trong quá trình vẽ, trẻ quan tâm đến “việc vẽ cái gì?”, chứ không phải “vẽ như
thế nào?” Tính duy kỉ làm cho trẻ đến hoạt động vẽ một cách dễ dàng. Trẻ sẵn sàng
vẽ bất cứ cái gì mà không cảm thấy sợ hãi hay khó khăn. Đối tượng trẻ vẽ thường là
cái gì mà trẻ thích, trẻ muốn chứ không phải là cái dễ vẽ. Mối quan tâm của trẻ
trong hoạt động này là trẻ cố gắng truyền đạt, giúp người xem hiểu được những suy
nghĩ, thái độ, tình cảm mà trẻ miêu tả chứ không phải là sự đánh giá về thẩm mỹ, do
đó trẻ mẫu giáo đặc biệt là mẫu giáo bé và mẫu giáo nhỡ thường hài lòng với các
hình vẽ sơ đồ đơn giản. Sự hạn chế về khả năng biểu cảm bằng ngôn ngữ tạo hình
thường được trẻ bù đắp tích cực bằng lời nói, cử chỉ, điệu bộ. Những đường nét dù
chỉ là đơn giản, nguệch ngoặc nhưng đều có ý nghĩa đối với chúng, đó là sự vật hiện
tượng của thế giới xung quanh mà trong đó trẻ đang sống. Trẻ càng biết nhiều về
thế giới xung quanh, nội dung vẽ của trẻ càng phong phú, đa dạng và sinh động.
Tuy nhiên càng về cuối tuổi mẫu giáo, ở trẻ có sự thay đổi, trẻ dần có sự thận trọng
hơn bởi chúng ý thức được khả năng của mình.
b. Tính không chủ định
Trong hoạt động vẽ, trẻ chưa có khả năng suy tính sắp xếp công việc một cách
chi tiết, các ý định miêu tả thường nảy sinh một cách tình cờ. Đôi khi, để thực hiện
ý định miêu tả, trẻ cũng hình dung ra kế hoạch chung song các kế hoạch này thường
nhanh chóng bị thay đổi bởi các yếu tố ngẫu nhiên nảy sinh trong quá trình quan sát,
trí nhớ, xúc cảm hay tưởng tượng. Chú ý vào việc nội dung thể hiện các “ý tưởng”,
trẻ thường miêu tả rất say sưa. Nhưng mỗi khi vẽ xong các chi tiết, trẻ hầu như
không quan tâm đến chúng nữa, không quay trở lại sửa sang, tô vẽ lại.
Tranh vẽ của trẻ giống như một câu chuyện đồ họa. “Câu chuyện” ấy thường
bắt đầu từ một chi tiết bất kì nào đó, sau đó thêm thắt dần các chi tiết mới. Đôi khi
29
trẻ liên kết vào một bức tranh vài hành động, vài sự kiện xảy ra cùng với một nhân
vật (nhân vật đó được vẽ nhiều lần, ở nhiều vị trí khác nhau trong bức tranh).
c. Tính chân thật, hồn nhiên
Tính chân thật, hồn nhiên, đầy xúc cảm trong tranh vẽ của trẻ được thể hiện rõ
nét qua hình thức và cách thức mô tả, đôi khi trong tranh vẽ tồn tại những cái phi lý
đối với người lớn nhưng rất hợp lý trong cái nhìn của trẻ. Phân tích những tranh vẽ
của trẻ em được hình thành bằng con đường tự phát, người ta thấy trẻ thể hiện trong
đó phần nhiều là cái trẻ biết, trẻ cảm, trẻ nghĩ chứ không hẳn là cái trẻ nhìn thấy.
Bên cạnh đó, cùng với việc vẽ ra những hình ảnh nhìn thấy, trẻ còn vẽ ra những cái
nó biết được khi hành động với đối tượng. Mặt khác, khi vẽ dù trẻ đã cố gắng, cẩn
thận nhưng vẫn mang đến cho chúng ta cảm nhận được sự vụng về thật dễ thương
qua nét vẽ của trẻ. Bởi vậy, tranh vẽ của trẻ có vẻ ngây thơ hồn nhiên đối với người
lớn.
Đối với trẻ mẫu giáo bé, tranh vẽ chỉ là sự lặp lại hiện thực. Trẻ thường cho
rằng những gì vẽ trong tranh đều giống như thật, đều là hiện thực, chứ không phải là
sự thể hiện hiện thực. Dần dần trẻ mới hiểu được rằng chỉ có một số thuộc tính của
sự vật mới được thể hiện trên tranh, và không thể hành động với các vật vẽ trong
tranh như với vật thật được.
d. Tính xúc cảm
Tất cả các sự vật, hiện tượng của thế giới xung quanh, những gì gần gũi, quen
thuộc gây cho trẻ xúc cảm đều là những đề tài được trẻ thể hiện trong tranh vẽ của
mình. Vì thế tranh vẽ của trẻ vừa gần với hiện thực vừa mang tính chủ quan cảm
xúc rõ nét.
Trẻ thể hiện cảm xúc yêu - ghét của mình đối với các hình ảnh trong tranh vẽ
qua việc tô màu. Thông thường, khi trẻ vẽ những đối tượng mà trẻ yêu thích, trẻ
thường dùng màu sắc sặc sỡ và vẻ cẩn thận, còn khi trẻ vẽ các đối tượng mà trẻ
ghét, khó chịu và sợ hãi thì trẻ dùng màu tối và vẽ không cẩn thận vì trẻ nghĩ những
nhân vật đó không xứng đáng được vẽ cẩn thận. Ngoài ra, bố cục và độ lớn của hình
30
ảnh trong tranh thể hiện thái độ của trẻ, các đối tượng quan trọng đối với trẻ thường
được trẻ vẽ to hơn các đối tượng khác.
Phần lớn sự tri giác của trẻ về thế giới xung quanh thật đơn giản và tươi vui,
điều này được thể hiện qua những hình ảnh mô tả rất rực rỡ. Mặc dù các hình ảnh
trong tranh vẽ còn khá sơ lược dưới con mắt của trẻ rất sống động và “như thật”.
1.2.3.3. Ý nghĩa của hoạt động tạo hình nói chung và hoạt động vẽ nói
riêng đối với sự phát triển toàn diện trẻ mẫu giáo
Hoạt động tạo hình là hoạt động sáng tạo nghệ thuật, trong đó con người
không chỉ nhận thức cái đẹp của thế giới xung quanh mà còn cải tạo nó theo quy
luật của cái đẹp.
Hoạt động tạo hình là một trong những hoạt động thú vị nhất đối với trẻ lứa
tuổi mầm non. Nó giúp trẻ tìm hiểu, khám phá và thể hiện một cách sinh động
những gì chúng nhìn thấy trong thế giới xung quanh, những gì làm trẻ rung động và
gây cho trẻ những xúc cảm, tình cảm tích cực.
Hoạt động tạo hình là một phương tiện quan trọng giúp trẻ phát triển toàn diện.
Các giờ vẽ, nặn… có ảnh hưởng đến việc giáo dục trí tuệ, đạo đức, thẩm mỹ, thể lực
và hình thành các phẩm chất, kĩ năng lao động giản đơn đối với trẻ mẫu giáo.
a. Ý nghĩa của hoạt động tạo hình đối với giáo dục trí tuệ, ngôn ngữ
Trong quá trình tạo hình trẻ có nhiều cơ hội để tìm hiểu, khám phá các sự vật
hiện tượng trong môi trường xung quanh như đặc điểm đặc trưng, sự tương quan
giữa các đặc điểm đó, nhận biết hình dáng, màu sắc. Từ đó xây dựng các biểu tượng
sự vật hiện tượng, biết quan sát, phân tích, so sánh, đánh giá vật này với vật khác.
Ngoài ra, trẻ còn tìm hiểu bản chất của các vật liệu tạo hình và sự liên quan giữa kết
quả thu được và vật liệu tạo hình.
Hoạt động tạo hình là môi trường thuận lợi hình thành ở trẻ các phẩm chất trí
tuệ như tính tự giác, tính ham hiểu biết, tính tích cực nhận thức và óc sáng tạo.
31
Hoạt động tạo hình còn giúp trẻ phát triển ngôn ngữ. Trong quá trình nhận biết
các đối tượng, so sánh và nhận xét sản phẩm tạo hình sẽ giúp trẻ phát triển vốn từ,
lời nói hình tượng - truyền cảm và ngôn ngữ mạch lạc hơn.
b. Ý nghĩa của hoạt động tạo hình đối với giáo dục đạo đức
Thông qua các giờ tạo hình, các đức tính tốt được hình thành như tính tích cực
chủ động thực hiện nhiệm vụ được giao, kiên nhẫn làm việc từ đầu đến cuối, biết
lắng nghe ý kiến của cô và các bạn.
Ngoài những biểu tượng, kinh nghiệm mà trẻ thu nhận được từ thế giới xung
quanh qua hoạt động tạo hình, trẻ còn biểu lộ những tình cảm, xúc cảm thái độ đối
với những gì mà trẻ thể hiện. Tham gia vào hoạt động tạo hình, trẻ có những điều
kiện tiếp thu chuẩn mực thẩm mỹ - đạo đức trong xã hội, trải nghiệm các xúc cảm
tình cảm, học hỏi các kĩ năng xã hội qua các hình vi văn hóa xã hội qua các hình
tượng, các sự kiện được miêu tả.
Hoạt động tạo hình của trẻ có nguồn gốc xã hội và thể hiện sự định hướng xã
hội cho sự phát triển nhân cách của trẻ em. Hoạt động tạo hình là một phương tiện
giao tiếp, trẻ luôn mong muốn được người khác tiếp nhận và cảm nhận, hiểu được
những điều mà trẻ muốn gửi gắm trong sản phẩm. Đồng thời trẻ luôn chờ đợi ở
người khác sự động viên, khuyến khích, khen ngợi và rất thích thú khi nhận được sự
đồng cảm từ người khác.
Hoạt động tạo hình còn giúp trẻ phản ánh những sự vật hiện tượng có trong
thiên nhiên, những gì làm trẻ rung động, suy nghĩ và có những tình cảm yêu ghét
đối với chúng. Khi tham gia vào hoạt động tạo hình, trẻ còn trải nghiệm những xúc
cảm - tình cảm khi có mong muốn sẽ tạo ra sản phẩm thật đẹp cho người khác.
Chính những điều đó là điều kiện để hình thành ở trẻ ý thức cộng đồng, luôn quan
tâm, nghĩ đến người khác trong giao tiếp xã hội.
c. Ý nghĩa của hoạt động tạo hình đối với việc giáo dục thẩm mỹ
Hoạt động tạo hình tạo ra những điều kiện thuận lợi nhất cho sự phát triển cảm
giác, tri giác thẩm mỹ. Ở trường mầm non hoạt động tạo hình chiếm khá nhiều thời
lượng và được thực hiện thông qua các loại hình như vẽ, xé dán, nặn, chắp ghép.
32
Giáo viên tạo điều kiện cho trẻ tiếp xúc, nhận ra các đặc điểm thẩm mỹ độc
đáo, hấp dẫn của các đối tượng. Khi quan sát các sự vật, hiện tượng của cuộc sống
xung quanh, trẻ em thường hồi hộp xúc động. Sự tri giác một màu sắc rực rỡ hay
một phong cảnh tuyệt diệu làm trẻ xúc động, vui mừng. Những đặc điểm thẩm mỹ
này là những yếu tố kích thích sự xuất hiện những rung động, xúc cảm thẩm mỹ
như cảm xúc về màu sắc trong quá trình tri giác sự phối hợp màu sắc tuyệt đẹp:
những ngôi sao nổi bật trên nền trời tối, những đóa hoa cúc vàng trên thảm cỏ
xanh…, hay sự xuất hiện cảm xúc nhịp điệu khi thưởng thức một sự cân đối nhịp
nhàng của vật thể: sự sắp xếp các cành cây, sự nhấp nhô của ngọn sóng. Từ đó tạo
cho trẻ có những xúc cảm, tình cảm thẩm mỹ, giúp trẻ biết thưởng thức cái đẹp từ
thiên nhiên. Dần dần trẻ có được khả năng đưa ra những nhận xét đơn giản và có
thẩm mỹ về những sự kiện của cuộc sống, về con người, các tác phẩm nghệ thuật
mà làm phát triển thị hiếu thẩm mỹ. Đối với trẻ mẫu giáo, nhất là mẫu giáo bé chỉ
cảm nhận được vẽ đẹp qua màu sắc, âm thanh và sự chuyển động. Trẻ thường nhận
xét và đánh giá theo cảm tính, cảm nhận vẻ đẹp bằng vẻ bề ngoài của sự vật hiện
tượng. Ví dụ trẻ cho các vật có màu sắc sặc sỡ, lấp lánh là đẹp. Trẻ mẫu giáo lớn có
sự cảm nhận được cái đẹp tinh tế hơn, có thể cảm nhận cái đẹp sự hài hòa của màu
sắc, đường nét, sự mềm mại của điệu múa, nhịp điệu của bản nhạc. Trẻ mẫu giáo
lớn đánh giá cái đẹp tương đối chính xác hơn. Trẻ hiểu đối tượng được xem là đẹp
phải có hình dáng cân đối, có sự tương quan giữa các phần và phong phú về màu
sắc.
Mỗi dạng hoạt động tạo hình ngoài những ảnh hưởng chung đối với phát triển
thẩm mỹ ở trẻ, nó còn có những ảnh hưởng đặc trưng riêng của từng loại. Vẽ có ảnh
hưởng đến phát triển cảm giác màu sắc, trẻ học cách nhận biết vẻ đẹp của sự kết
hợp nhiều màu sắc khác nhau. Nặn có ảnh hưởng đến sự nhận biết hình khối của
vật, trẻ trực tiếp sờ mó vào đất sét, có thể biến đổi và chủ động nặn những hình mà
trẻ thích. Trong giờ xây dựng trẻ học cách kết hợp các hình khối khác nhau, nhờ đó
mà khả năng xây dựng của trẻ được phát triển tốt hơn…
33
Quá trình thể hiện các sản phẩm tạo hình là điều kiện thuận lợi cho trẻ vận
dụng tích cực vốn biểu tượng hình tượng đã tích lũy để phối hợp, xây dựng hình
tượng mới làm cho các sản phẩm tạo hình của trẻ ngày càng trở nên sinh động, hấp
dẫn và mang màu sắc nghệ thuật. Hoạt động tạo hình không chỉ là cơ hội thuận lợi
cho trẻ được tiếp xúc với cái đẹp mà còn nảy sinh và nuôi dưỡng ở trẻ hứng thú với
hoạt động nghệ thuật và niềm say mê sáng tạo nghệ thuật. Chính hứng thú trong tạo
hình đã giúp trẻ khám phá cái đẹp, cái mới lạ trong thế giới xung quanh mặc dù trẻ
có thể đã nhìn nhưng không nhìn thấy, đã nghe nhưng không nghe thấy.
Hoạt động tạo hình tạo điều kiện cho trẻ không chỉ làm quen với cái đẹp trong
đời sống mà cả trong nghệ thuật (qua tranh, ảnh, tượng, các sản phẩm thủ công mỹ
nghệ …). So sánh đối chiếu giữa hiện thực có thật với hiện thực được thể hiện trong
các tác phẩm nghệ thuật sẽ giúp trẻ nhận ra được giá trị thẩm mỹ của các sự vật hiện
tượng xung quanh và mong muốn thể hiện vẻ đẹp đó một cách sáng tạo nhất
[28,43]. Ngoài ra, cách tổ chức lớp học và sắp xếp các nguyên vật liệu tạo hình
cũng góp phần giáo dục thẩm mỹ cho trẻ.
Trong quá trình hoạt động tạo hình, năng khiếu sáng tạo nghệ thuật của trẻ
được phát triển, trẻ biết vận dụng những hiểu biết về cái đẹp vào cuộc sống hàng
ngày như ăn mặc sao cho đẹp, ở sao cho gọn gàng, ngăn nắp… từ đó có ý thức tôn
trọng và bảo vệ cái đẹp.
d. Ý nghĩa của hoạt động tạo hình đối với việc giáo dục thể chất
Hoạt động tạo hình có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển thể lực của trẻ.
Những giờ tham gia hoạt động tạo hình, với bầu không khí tự do thoải mái sẽ mang
đến cho trẻ niềm vui thích. Chính sự phấn khởi này sẽ ảnh hưởng tốt đến hệ thần
kinh, tác động đến sự điều hòa hoạt động của các bộ phận trong cơ thể trẻ.
Các giờ học tạo hình giúp cho bàn tay và các ngón tay của trẻ phát triển, tạo
điều kiện cho trẻ học viết ở trường phổ thông. Trong quá trình tạo hình các chuyển
động của tay và mắt được phát triển linh hoạt và phối hợp nhịp nhàng, giáo viên
hướng dẫn cho trẻ có tư thế ngồi đúng, tránh cho trẻ không bị vẹo cuộc sống, vai
không bị lệch.
34
Hoạt động tạo hình còn là biện pháp trị liệu tâm lý đối với trẻ khuyết tật,
những người có căn bệnh trầm uất, bệnh thần kinh. Sự tự do thoải mái trong quá
trình thể hiện, biểu lộ các xúc cảm, tình cảm sẽ giúp người bệnh điều hòa các quá
trình ức chế và hưng phấn, lấy lại thế cân bằng. Có thể xem hoạt động tạo hình là
“món ăn tinh thần”, một loại “vitamin” đặc biệt cho sự phát triển tâm lý và sinh lý
của trẻ em.
e. Ý nghĩa của hoạt động tạo hình đối với việc giáo dục lao động
Hoạt động tạo hình tạo ra sản phẩm. Quá trình này đã giúp trẻ “thiết kế”, “kiến
tạo”, “chế tạo” nên các sản phẩm, biểu hiện thành quả lao động của chính trẻ. Hoạt
động đã rèn luyện cho trẻ những kĩ năng lao động thực tiễn, thói quen làm việc lao
động tự giác. Đây là môi trường lý tưởng để hình thành ở trẻ ý thức lao động, lòng
yêu lao động, có thái độ biết bảo vệ, trân trọng những sản phẩm lao động cũng như
đối với người lao động.
Mặt khác khi chuẩn bị cho giờ học tạo hình, cô hướng dẫn trẻ cùng tham gia
kê bàn ghế một cách cẩn thận, nhường nhịn, giúp đỡ nhau. Đối với lớp mẫu giáo
nhỡ và mẫu giáo lớn cô hướng dẫn các cháu trực nhật sắp xếp các vật liệu tạo hình
sao cho thuận lợi, gọn gàng và đẹp mắt, không vứt các vật liệu thừa xuống sàn nhà
mà phải để gọn vào một chỗ để sau giờ học sẽ bỏ vào sọt rác.
f. Ý nghĩa của hoạt động tạo hình đối với việc chuẩn bị cho trẻ đến trường phổ
thông
Hoạt động tạo hình còn là môi trường phương tiện để hình thành cho trẻ những
cơ sở ban đầu của hoạt động học tập trong trường phổ thông.
Qua hoạt động tạo hình, trẻ được bồi dưỡng khả năng độc lập tổ chức một quá
trình hoạt động nhận thức, hoạt động thực tiễn để tạo nên các vật thể sản phẩm.
Hoạt động này hình thành ở trẻ khả năng đánh giá và tự đánh giá. Ngoài ra, nó còn
góp phần vào việc chuẩn bị cho trẻ một vốn kiến thức sơ đẳng về tự nhiên, xã hội,
khoa học kỹ thuật giúp trẻ nhanh chóng tiếp thu các kiến thức ở trường phổ thông.
35
Sự hoạt động khéo léo, linh hoạt trong vận động tay giúp trẻ sau này học viết ở
trường phổ thông sẽ đạt kết quả tốt hơn.
Hoạt động tạo hình còn góp phần chuẩn bị tâm thế cho trẻ bước vào lớp phổ
thông vì hoạt động đó đã giúp giáo dục cho trẻ lòng ham muốn nhận thức, tiếp thu
những điều mới lạ, có thói quen học tập một cách có mục đích, có tổ chức, biết nghe
lời chỉ bảo của thầy cô. Hoạt động tạo hình là môi trường cho trẻ rèn luyện năng lực
hành vi của mình nhằm thực hiện nhiệm vụ đã đề ra, biết cách tự điều khiển hành vi
và những ước muốn của mình, biết từ chối những ước muốn để thực hiện những
hoạt động cần thiết.
1.2.3.4. Sơ lược về quá trình hình thành và phát triển hoạt động vẽ của
trẻ em
Vẽ là một dạng hoạt động tạo hình đặc trưng nhất và xuất hiện sớm nhất ở trẻ.
Theo B.P.Koxminxkai, nhà giáo dục học Xô - Viết thì sự phát triển hoạt động vẽ
này trải qua các thời kì sau: [45, 20]
a. Thời kì tiền tạo hình
Giai đoạn đầu của thời kì này là giai đoạn của những đường nét lộn xộn, không
có ý nghĩa, trẻ chưa có ý định thể hiện một sự vật nào cả. Các nét “vẽ” ban đầu chỉ
là kết quả của sự thỏa mãn nhu cầu vận động, khám phá thế giới xung quanh và bắt
chước hành động của người lớn. Sự ham thích thực hiện các “thao tác vẽ” ở giai
đoạn này chính là những biểu hiện của tính tích cực khảo sát - định hướng ở trẻ. Trẻ
rất thích thú và bị thu hút mạnh mẽ vào những vận động tạo ra các đường nét.
Sang giai đoạn hai, trẻ tích cực tìm cách thay đổi tính chất các đường nét. Nhờ
khả năng tri giác tích cực các đường nét mà sự định hướng của trẻ có được nét đặc
trưng mới, hướng vào việc tạo nên các đường nét khác nhau, vạch kín bề mặt tờ
giấy.
Tiếp theo, trẻ bắt đầu liên hệ những tổ hợp ngẫu nhiên của các đường nét với
những sự vật quen thuộc xung quanh trẻ liên tưởng và nhận ra hình ảnh của các sự
36
vật này, đồng thời cố gắng mô tả nó trong sự phối hợp với các cử chỉ, âm thanh
hoặc gọi tên vật đó.
Đỉnh điểm của sự phát triển ở thời kỳ này là sự xuất hiện ý định lặp lại các
hình thù do trẻ tình cờ tạo nên. Giai đoạn này hình thành một dạng định hướng mới
ở trẻ: định hướng vào hình thù của các dấu vết đồ họa - một khả năng tâm lý quan
trọng đối với sự phát triển của hoạt động tạo hình.
Sự xuất hiện chức năng kí hiệu làm biến đổi mạnh mẽ toàn bộ hoạt động vẽ
của trẻ, thúc đẩy sự chuyển biến từ thời kì tiền tạo hình sang thời kì tạo hình. Chức
năng này còn xuất hiện đồng thời trong những hoạt động khác nhau của trẻ như hoạt
động ngôn ngữ, hoạt động vui chơi, học tập và trong đời sống hàng ngày. Tuy
nhiên, chức năng này chưa mang đến cho hoạt động vẽ của trẻ có tính tạo hình thật
sự.
Để phát triển khả năng hoạt động tạo hình của trẻ và chuyển sang thời kì tạo
hình, phải hình thành cho trẻ một cơ sở định hướng mới đặc trưng cho hoạt động
tạo hình, đó là khả năng xây dựng các hình ảnh đồ họa trong đầu để tự điều khiển
quá trình tạo hình bên ngoài.
b. Thời kì tạo hình
Đây là thời kì miêu tả có chủ tâm, có ý định rõ rệt.
Giai đoạn đầu của thời kì này là giai đoạn sơ đồ, diễn ra ở trẻ 2-4 tuổi. Tranh
vẽ của trẻ ở giai đoạn này mang tính sơ đồ. Tính sơ đồ làm cho tranh vẽ của trẻ có
tính sơ sài, thiếu hấp dẫn, nhưng lại có ý nghĩa to lớn đối với sự phát triển tâm lý và
nhận thức của trẻ.
Các hình thức đồ họa được xây dựng nhờ quá trình tổng hợp hóa, khái quát
hóa, chúng có chức năng tổng hợp cao. Vì vậy, việc tạo nên các sơ đồ khái quát sẽ
tạo điều kiện giúp trẻ thực hiện các thao tác liên hệ, thay thế một cách rộng rãi.
Chính tính sơ đồ là yếu tố thúc đẩy sự phát triển và từng bước hoàn thiện khả năng
lĩnh hội và sử dụng chức năng kí hiệu của trẻ. Các công trình nghiên cứu về tâm lý
của trẻ trong hoạt động tạo hình đã cho thấy rằng trẻ thường sử dụng hai loại cấu
trúc hình ảnh đồ họa mang tính sơ đồ:
37
- Loại thứ nhất, đó là các hình vẽ sơ đồ được trẻ bắt chước một cách máy móc,
được trẻ sử dụng như những kí hiệu đơn thuần mang tính khái quát.
- Loại thứ hai, là những hình vẽ sơ đồ có nguồn gốc bắt chước, song được trẻ
độc lập xây dựng trong quá trình chúng quan sát, liên hệ với hình ảnh của các sự vật
thật. Đây là kí hiệu mang tính tạo hình.
Giai đoạn tiếp theo là giai đoạn phân hóa. Cùng với sự phát triển của tri giác,
tư duy và các quá trình nhận thức khác, tranh vẽ sơ đồ của trẻ được biến đổi dần,
ban đầu về số lượng và dần dần đến chất lượng của hình vẽ. Nội dung và hình thức
tranh vẽ của trẻ thể hiện ngày càng rõ các chuẩn mực thẩm mỹ và đạo đức đặc trưng
cho nền văn hóa xã hội nơi trẻ đang sống. Đặc biệt là các phương thức biểu lộ thái
độ, tình cảm, quan hệ của trẻ đối với những gì được miêu tả thông qua các phương
tiện tạo hình.
Hình vẽ của trẻ ở giai đoạn này bắt đầu có hình thức gần gũi với vẻ bề ngoài
chân thật, phong phú của các sự vật hiện tượng trong cuộc sống. Trong sản phẩm
tạo hình của trẻ đã bắt đầu xuất hiện các yếu tố nghệ thuật, thể hiện qua sự chọn lựa
phong phú, qua cách sử dụng một số kinh nghiệm văn hóa tạo hình để thể hiện nội
dung tạo hình một cách truyền cảm nhất theo khả năng của trẻ. Tùy theo sự nắm
vững phương pháp miêu tả, các kinh nghiệm tạo hình và cùng với sự phát triển nhân
cách của trẻ, nội dung tranh vẽ của trẻ ngày càng thể hiện những cái riêng của trẻ.
Tranh vẽ của trẻ mang tính dân tộc và tính lịch sử cụ thể.
1.2.3.5. Đặc điểm ngôn ngữ tạo hình trong tranh vẽ của trẻ em
a. Đường nét
Đường nét, hình dạng là những dấu hiệu đầu tiên của hình vẽ giúp trẻ nhận ra
và hiểu được mối liên hệ giữa sự vật thật và hình ảnh biểu đạt sự vật đó.
Lúc đầu, do khả năng thao tác để tạo ra các đường nét còn hạn chế nên hình vẽ
của trẻ còn mang tính sơ đồ, lắp ráp từ những hình học. Do sự phát triển nhanh về
thể lực, cơ bắp và khéo léo của vận động, trẻ mẫu giáo lớn đã có khả năng tạo nên
các đường nét với tính chất khác nhau khá phức tạp. Với trình độ phát triển của
38
năng lực nhận thức thẩm mỹ và kĩ năng vận động, trẻ ở tuổi này có thể cảm nhận
được tính nguyên thể của các hình ảnh đối tượng miêu tả và biết dùng đường nét
liền mạch, mềm mại, uyển chuyển để truyền đạt hình dáng trọn vẹn của mọi sự vật
trong cấu trúc hợp lý, đồng thời thể hiện tư thế vận động, hành động phù hợp với
nội dung sáng tạo. Đặc biệt trẻ 5-6 tuổi đã có vốn kinh nghiệm phong phú cho nên
các biểu tượng hình thành khá đầy đủ về hình dáng, cấu trúc và đặc điểm riêng biệt,
khá linh hoạt trong việc biến đổi, phối hợp tính chất của đường nét và hình để thể
hiện vẻ độc đáo, rất riêng của mỗi hình tượng sự vật cụ thể. Hình tượng của trẻ đến
gần với hiện thực, mất dần tính chủ quan.
b. Màu sắc
Trong tranh vẽ của trẻ em, hình vẽ là dấu hiệu hàng đầu để tạo nên hình ảnh sự
vật, nhưng màu sắc mới là yếu tố mang lại hiệu quả thẩm mỹ cho hình ảnh và gây
tác động thẩm mỹ nhất đến trẻ cũng như người xem tranh. Màu sắc chính là phương
tiện quan trọng thể hiện sự sáng tạo của trẻ trong hoạt động tạo hình.
Trẻ mẫu giáo bé thường sử dụng màu theo ý thích và theo cảm xúc, trẻ có khả
năng phân biệt và sử dụng được nhiều màu. Những màu có chung một gốc thường
được trẻ quy lại thành một màu đại diện. Sang tuổi mẫu giáo lớn, trẻ tiếp tục sử
dụng đồng thời cả hai cách vẽ màu: “màu bắt chước” và “màu không bắt chước”.
Trẻ có thể thuộc lòng các màu quy định theo chuẩn mẫu như đất thì màu nâu, bầu
trời thì màu xanh dương, cỏ thì màu xanh lá…, trẻ có thể sử dụng màu tự do nhưng
tình trạng vẽ màu kiểu tự do, ngẫu nhiên không liên hệ với nội dung ý đồ mô tả vẫn
còn phổ biến. Tuy nhiên, một số trẻ đã có vốn hiểu biết khá phong phú về màu sắc,
đã có khả năng độc lập quan sát để thấy được vẻ linh hoạt trong sự thay đổi màu sắc
của các sự vật, hiện tượng trong hiện thực và làm quen qua quá trình tri giác với
một số cách phối hợp màu sắc. Tính tích cực quan sát, nhận thức chính là điều kiện
giúp trẻ biết sử dụng màu sắc một cách sinh động để thể hiện một cách sáng tạo nội
dung tranh vẽ, qua đó mà biểu lộ suy nghĩ, tình cảm, ước mơ của mình. Vì thế, giáo
viên cần kích thích hứng thú về vẻ đẹp của sự vật hiện tượng thông qua màu sắc,
39
điều đó sẽ làm cho màu sắc và sự phối hợp màu trong bài vẽ của trẻ sẽ rất truyền
cảm.
c. Bố cục
Ngoài đường nét, hình dạng, màu sắc, trẻ mẫu giáo còn sử dụng một phương
tiện truyền cảm khác đó là sự sắp xếp vị trí các hình ảnh trong không gian tranh vẽ
hay còn gọi là xây dựng bố cục. Bố cục là phương thức tổ chức nghệ thuật của một
tác phẩm nghệ thuật.
Ngoài khả năng tạo nhịp điệu, trẻ mẫu giáo lớn đã biết tạo nên bố cục tranh với
thế cân bằng qua cách sắp xếp đối xứng. Để tạo mối liên hệ chặt chẽ giữa nội dung
với hình thức của tranh, nhiều trẻ biết dùng cách sắp xếp thể hiện sự vận động, hành
động và các mối quan hệ giữa các sự vật, nhân vật để tạo ra một không gian có
chiều sâu với nhiều tầng cảnh. Tính nhịp điệu trong bố cục tranh vẽ của trẻ 5-6 tuổi
thể hiện ở nhiều vẻ: bằng sự sắp xếp lặp đi, lặp lại của các hình ảnh cùng loại, bằng
sự sắp xếp đan xen các hình ảnh không cùng loại, bằng sự phân biệt, thể hiện quan
hệ chính - phụ.... Tuy nhiên, tranh vẽ thường mang tính liệt kê, trẻ trải đều các hình
vẽ trên mặt giấy, ít có trước, sau, xa, gần và ít tuân theo tỉ lệ trong thực tế.
Hiệu quả của việc sử dụng các phương tiện tạo hình trong tranh vẽ của trẻ phụ
thuộc rất nhiều vào khả năng tri giác hình tượng, vào sự lựa chọn góc độ nhìn và
khả năng cảm nhận vẻ đẹp đa dạng, sinh động của thế giới xung quanh, đồng thời
phụ thuộc vào khả năng tưởng tượng sáng tạo, biến đổi hình tượng và vào mức độ
phong phú sâu sắc của các xúc cảm, tình cảm thẩm mỹ của trẻ.
1.2.4. Tưởng tượng sáng tạo trong hoạt động vẽ của trẻ mẫu giáo 5-6
tuổi
1.2.4.1. Đặc điểm tưởng tượng trong hoạt động vẽ của trẻ mầm non
Sự phát triển trí tưởng tượng của trẻ nhỏ thường gắn liền với khả năng hiểu và
sử dụng một loại ngôn ngữ giao tiếp đặc biệt, đó là ngôn ngữ hình ảnh trực quan.
40
Sự xuất hiện của tưởng tượng trong quá trình tạo hình, tính tích cực của tưởng
tượng thay đổi theo sự phát triển tâm lý chung, đặc biệt là theo sự phát triển của tri
giác bằng thị giác của trẻ em.
Ở tuổi nhà trẻ (2-3 tuổi): tưởng tượng của trẻ thường đi theo sau các hành động
cụ thể. Tưởng tượng lúc này chủ yếu mang tính tái tạo và thường xuất hiện một
cách ngẫu nhiên dưới ảnh hưởng của hứng thú với các sự vật xung quanh, bởi các
xúc cảm, ấn tượng mạnh từ những thứ trẻ quan sát được. Các hành động tạo hình
của trẻ 2-3 tuổi thường đơn thuần chỉ là sự bắt chước, tái tạo các vận động, hành
động của người lớn, đó là sự thỏa mãn nhu cầu khám phá cái mới lạ trong thế giới
xung quanh, và thường chỉ khi kết quả đã được tạo nên, tức là hình vẽ đã xuất hiện,
mới gợi lên ở trẻ sự hình dung về hình ảnh của các sự vật tương ứng. Việc trẻ bắt
đầu nghĩ ra tên gọi cho hình vẽ chính là yếu tố quan trọng thúc đẩy, hoạt động của
các thao tác tưởng tượng. Nếu người lớn thường xuyên giúp trẻ xem tranh, “đọc
tranh” thì khả năng hình dung, tưởng tượng, khả năng hiểu được ý nghĩa các hình
vẽ sẽ phát triển nhanh chóng. [28, 8,9]
Ở tuổi mẫu giáo bé (3-4 tuổi) hoạt động tạo hình của trẻ bắt đầu chuyển sang
thời kì tạo hình. Cùng với sự phát triển các chức năng kí hiệu, tính chất của hoạt
động tạo hình cũng bắt đầu thay đổi. Ở trẻ bắt đầu xuất hiện các dự định diễn tả sự
vật này hay sự vật khác bằng các phương tiện tạo hình như đường nét và các hình
thù tạo nên từ đường nét. Các hành động của trẻ trong hoạt động tạo hình ở giai
đoạn này còn mang tính thụ động và gắn bó chặt chẽ với vận động của trí nhớ. Bởi
vậy, nếu trẻ được vận động thường xuyên với giấy, bút để lặp đi lặp lại các hình vẽ
nhằm miêu tả các sự vật, thì ở trẻ sẽ diễn ra quá trình “chuyển vào trong” của các
thao tác đồ họa bên ngoài, đồng thời là quá trình theo dõi, liên hệ liên tục giữa sự
vận động của các thao tác vẽ, các đường nét, hình vẽ với biểu tượng mà trẻ đã có về
đối tượng miêu tả. Đây là điều kiện rất thuận lợi kích thích hoạt động trí tưởng
tượng nhằm giúp trẻ tái tạo, xây dựng hình ảnh đồ họa trong đầu. [28, 9]
Ở tuổi mẫu giáo nhỡ (4-5 tuổi): nhu cầu giao tiếp của trẻ tăng lên, bởi vậy trẻ
thường xuyên tìm đến một phương thức biểu cảm dễ dàng, đó là vẽ tranh. Song do
41
vốn kinh nghiệm tri giác, vốn hiểu biết cuộc sống còn nghèo nàn, nên các hình vẽ
của trẻ còn rất sơ lược và xa rời với hiện thực. Hình vẽ thường chứa đựng sự kết
hợp nhiều yếu tố khác nhau: vừa thật, vừa không thật, hoang đường, cổ tích. Các
tranh vẽ và các sản phẩm tạo hình của trẻ thời kì này thường khó hiểu và ít gây cảm
xúc mạnh mẽ đối với người lớn bởi tính sơ lược và vẻ “xộc xệch” rất ngây ngô của
chúng. Song nhờ khả năng xúc cảm, tưởng tượng với những nét đặc trưng riêng của
lứa tuổi này mà trong con mắt của các tác giả tí hon này các hình ảnh được vẽ rất
đẹp, sống động và giống như thật. Việc thường xuyên phải tưởng tượng, xây dựng
các hình ảnh của các đối tượng mới sẽ giúp trẻ tích cực tìm hiểu, nhận thức thế giới
hiện thực, từ đó thâm nhập vào thế giới của các hình thù, sắc màu đa dạng, phong
phú xung quanh. Sắp xếp một cách khoa học các nội dung của chương trình hoạt
động tạo hình với sự định hướng rõ chính là điều kiện giúp trẻ tập từng bước các
hình ảnh đồ họa đối chiếu, so sánh và nhận ra mối liên hệ giữa hình ảnh đồ họa với
các biểu tượng về sự vật trong hiện thực. Ở tuổi mẫu giáo nhỡ (4-5 tuổi) nhờ sự vận
dụng tích cực khả năng tri giác, trí nhớ, tư duy, tưởng tượng cùng với sự hỗ trợ của
các xúc cảm, tình cảm mà nhiều trẻ đã bắt đầu phát hiện ra những hạn chế, sự thiếu
hấp dẫn trong các hình vẽ mang tính sơ đồ khái quát của mình. Trẻ bắt đầu xuất
hiện nhu cầu biến đổi các hình vẽ sơ đồ, bổ sung các chi tiết mới để mang lại dáng
vẻ sinh động, gần gũi với các sự vật, hiện tượng cụ thể rất đa dạng trong thế giới
xung quanh. Ở độ tuổi này, tưởng tượng thường nảy sinh chính trong quá trình vẽ,
cùng với sự vận hành của các hành động vẽ. Vì thế mà dự định của trẻ bị thay đổi
nhiều khi không hoàn toàn trùng hợp với kết quả hình dung ban đầu của trẻ. [28,9]
Ở tuổi mẫu giáo lớn (5-6 tuổi): với sự phát triển của quá trình nhận thức và
vốn kinh nghiệm của trẻ, ở lứa tuổi này tưởng tượng của trẻ bắt đầu mang tính độc
lập, có thể tách khỏi quá trình tạo hình, đi trước định hướng và điều khiển các hành
động tạo hình nhằm đạt kết quả đã tạo ra từ trước quá trình tạo hình. Trẻ có thể độc
lập tìm kiếm các nội dung hoạt động vẽ, định trước tên gọi các “tác phẩm” tương lai
và dùng trí tưởng tượng để xây dựng các hình tượng phù hợp với nội dung đã định.
Trong hoạt động vẽ, tưởng tượng của trẻ liên kết khá chặt chẽ, phối hợp nhịp nhàng
42
với tri giác, trí nhớ, tư duy đặc biệt là tư duy trực quan sơ đồ trong quá trình quan
sát phân tích các đối tượng miêu tả để hình thành các biểu tượng. Với sự hỗ trợ của
xúc cảm, tình cảm tưởng tượng của trẻ có thể giúp chúng biến đổi một cách dễ dáng
các biểu tượng, từ đó xây dựng dễ dàng các biểu tượng mới. Ở tuổi 5-6 tuổi mức độ
phát triển của năng lực tưởng tượng mang tính sáng tạo, điều này biểu hiện rõ ở khả
năng xây dựng và thực hiện dự định tạo hình. Để thực hiện nhiệm vụ tạo hình, trẻ
đã biết độc lập tìm kiếm, tích lũy thông tin, lựa chọn đề tài cụ thể, trên cơ sở đó mà
xây dựng nên hình ảnh đồ họa của kết quả tạo hình trong đầu (mô hình tâm lí) phù
hợp với nội dung đã lựa chọn. Sức hấp dẫn của các hình vẽ mà trẻ có thể tạo nên
phụ thuộc phần lớn vào mức độ đầy đủ, phong phú và rõ nét các thông tin hình ảnh
trong trẻ vào khả năng liên kết các ấn tượng, các kinh nghiệm cũ hoặc thay đổi bổ
sung các hình ảnh khái quát ban đầu, làm cho chúng ngày càng sinh động và mang
màu sắc nghệ thuật hơn. [28, 9,18]
1.2.4.2. Tưởng tượng sáng tạo trong hoạt động vẽ của trẻ mẫu giáo 5-6
tuổi
Trong hoạt động vẽ, trẻ đã bắt đầu sử dụng các phương thức hoạt động của trí
tưởng tượng. Sự sáng tạo của trẻ được thể hiện ở việc trẻ xây dựng những hình ảnh
mới nhờ các phương pháp như nhân cách hóa, liên hợp, thay đổi màu sắc hay sắp
xếp vị trí của các đối tượng một cách khác thường, hay sử dụng phương pháp chắp
ghép phối hợp nhiều ấn tượng khác nhau - những gì chúng nhìn thấy trong cuộc
sống với các biểu tượng đã có từ sách, báo, phim ảnh, … nhờ đó tranh vẽ của trẻ trở
nên độc đáo. Chẳng hạn như trẻ vẽ con mèo đang nằm dài trên gối được gọi là “con
mèo lười biếng”, bức tranh vẽ con mèo đang nhảy múa được gọi là “con mèo tinh
nghịch”.
Sự biến đổi hiện thực trong trí tưởng tượng không chỉ diễn ra bằng cách kết
hợp những biểu tượng mà còn gán cho đối tượng hoặc làm méo mó một vài chi tiết
các sự vật. Chẳng hạn, có trẻ vẽ một chiếc xe ô tô thần kì có phép lạ, phép lạ nằm ở
các bóng đèn, các bóng đèn này không dùng để chiếu sáng mà để trừng trị người
43
gian ác. Ngoài ra trẻ còn phóng to, hay thu nhỏ sự vật qua những bức tranh người
khổng lồ hay người tí hon.
Hoạt động vẽ hình thành chủ yếu ở trẻ khả năng nhận thức thẩm mỹ và khả
năng phản ánh thế giới xung quanh. Sự sáng tạo trong tranh vẽ của trẻ được thể hiện
ở hai phương diện: nội dung miêu tả và các phương tiện truyền cảm như màu sắc,
bố cục, hình vẽ. Tranh vẽ là sự tái hiện lại thế giới khách quan theo cảm nhận của
cá nhân, trẻ mẫu giáo lớn đã biết cải biến vốn biểu tượng của mình để tạo nên một
bức tranh có nội dung mới lạ, phong phú. Chẳng hạn, với đề tài: “Vẽ biển” tranh vẽ
của trẻ đã thể hiện nhiều ý tưởng như: vẽ biển lúc mặt trời lặn, vẽ các sinh vật biển,
vẽ thuyền đang ra khơi, vẽ mọi người đang tắm nắng trên bãi biển, hay vẽ các em
bé tắm biển và xây lâu đài bằng cát. Với trẻ mẫu giáo bé và mẫu giáo nhỡ, trẻ
thường ít quan tâm đến “hình thức nghệ thuật”, sự hạn chế khả năng tạo hình
thường được trẻ bù đắp tích cực bằng lời nói, âm thanh, cử chỉ, điệu bộ. Với mẫu
giáo lớn, trẻ đã biết tìm kiếm các phương tiện truyền cảm mang tính tạo hình để thể
hiện những hiểu biết, suy nghĩ, tình cảm của mình. Cụ thể như trẻ bộc lộ sự sáng tạo
của mình khi thể hiện màu sắc như vẽ về cây cối có trẻ tô lá cây màu vàng, có trẻ tô
lá cây màu xám, trẻ đã biết tô màu theo ý đồ miêu tả.
Nghệ thuật là quá trình tạo ra cái hay, cái mới là chủ yếu. Tuy nghệ thuật có
những quy định, quy tắc song điều đó không đòi hỏi khuôn mẫu mà yêu cầu người
học vận dụng linh hoạt, tìm tòi sáng tạo để có cái mới, cái lạ, cái riêng theo cảm
nhận của mình. Nhìn nhận về suy nghĩ, biểu hiện tưởng tượng sáng tạo của trẻ thơ
chúng ta không nên thiên quá nhiều về chuyên nghiệp, sáng tạo của trẻ thơ trong
hoạt động vẽ thể hiện ở việc tạo ra cái mới, cái lạ so với tranh mẫu của cô, của bạn,
là sự hồn nhiên trong sáng của lứa tuổi từ cách thể hiện nội dung, tô màu, vẽ
hình…. [36, 78].
Tóm lại, từ những nghiên cứu trên có thể kết luận: “Tưởng tượng sáng tạo
trong hoạt động vẽ là quá trình xây dựng hình ảnh mới chưa có trong kinh
nghiệm cá nhân, hoặc kinh nghiệm xã hội trên mặt phẳng bằng đường nét và
màu sắc.”
44
Các kết quả nghiên cứu về tưởng tượng sáng tạo của trẻ trong hoạt động vẽ
cho thấy: ở trẻ mẫu giáo ý đồ tạo hình được hình thành phần lớn không phải từ
trước mà trong quá trình miêu tả, sức tưởng tượng của trẻ rất nhanh chóng “bùng
lên” và cũng nhanh chóng “tắt lụi”, các ý đồ tạo hình thường không bền vững và
đôi khi vắng mặt trong quá trình miêu tả.
Để tạo mọi điều kiện phát triển tưởng tượng sáng tạo của trẻ, các nhà nghiên
cứu đã đi sâu tìm hiểu mối quan hệ giữa hoạt động tạo hình với hoạt động vui chơi -
hoạt động chủ đạo của lứa tuổi mẫu giáo và đã kết luận rằng: cơ sở xuất phát của
hoạt động tạo hình ở lứa tuổi mẫu giáo gắn bó mật thiết với hoạt động vui chơi. Vì
thế ở thời kì đầu của quá trình dạy vẽ, công việc chủ yếu của người giáo viên không
phải là hình thành những hình tượng nghệ thuật mà là nhằm phát triển các hành
động chơi - tưởng tượng được thực hiện thông qua phương thức đồ họa phù hợp với
từng lứa tuổi. Chẳng hạn, trẻ 3-4 tuổi chơi “Làm quà sinh nhật cho bạn gấu” bằng
cách vẽ các món quà sắp xếp chúng trên tờ giấy một cách đẹp mắt, đối với trẻ 4-5
tuổi các hành động chơi cần tạo nhằm tổ chức cả quá trình tạo hình và hoàn thiện
các hình ảnh miêu tả. Sang tuổi mẫu giáo lớn (5-6 tuổi), ở trẻ có sự phát triển mạnh
mẽ về khả năng nhận thức, về vốn kinh nghiệm, về tính ý thức trong các hoạt động
nên giáo viên cần thiết phải tổ chức quá trình vẽ của trẻ theo các bước gần với các
bước hoạt động sáng tạo của người họa sĩ như tích lũy cho trẻ các ấn tượng cảm xúc
về đối tượng sắp vẽ, hình thành ý đồ tạo hình, và thực hiện ý đồ tạo hình một cách
tích cực, sáng tạo. [33,19]
1.2.4.3. Mối quan hệ giữa tưởng tượng sáng tạo và các yếu tố tâm lý
khác trong hoạt động vẽ của trẻ 5-6 tuổi
a. Quan hệ giữa tưởng tượng sáng tạo và tri giác
Ở trẻ mẫu giáo sự phát triển của tưởng tượng trong hoạt động vẽ có liên quan
mật thiết với sự phát triển của tri giác và vốn kinh nghiệm tri giác của trẻ. Những
biểu tượng đa dạng và phong phú là cơ sở cho sự tưởng tượng của trẻ.
45
Nhà giáo dục cần mở rộng và làm phong phú vốn kinh nghiệm của trẻ, tích lũy
có hệ thống những biểu tượng tạo hình. Nếu không có những biểu tượng chính xác,
rõ ràng và phong phú thì đó sẽ là rào cản tính tích cực, chủ động sáng tạo của trẻ.
Trẻ sẽ vẽ một cách máy móc theo ý đồ của giáo viên mà không thể hiện những nét
độc đáo của riêng mình.
Công việc này có thể được thực hiện qua việc tổ chức cho trẻ dạo chơi, tham
quan, đọc sách, nghe kể chuyện, xem kịch, xem tranh vẽ, tác phẩm nghệ thuật.
Chính nhờ có các biểu tượng phong phú về thế giới xung quanh mà tưởng tượng
của trẻ được phát triển. Khi trẻ được làm quen với các tác phẩm văn học và nghệ
thuật trẻ có thêm kinh nghiệm về các phương thức phản ánh hiện thực và thể hiện
hiện thực đó trong các tác phẩm tạo hình của mình.
b. Quan hệ giữa tưởng tượng sáng tạo và tư duy
Sự phát triển tưởng tượng có liên quan chặt chẽ với tư duy. Tư duy giúp trẻ
hiểu rõ nhiệm vụ đặt ra, từ đó giúp trẻ tạo ra hình ảnh tưởng tượng bay bổng, rực rỡ,
giàu màu sắc cảm xúc và sáng tạo. Vì thế nhà giáo dục cần:
- Dạy cho trẻ các phương pháp và phương tiện cải biến, phát triển ở trẻ những
khả năng liên hợp các biểu tượng đã có.
- Dạy trẻ diễn đạt các ý tưởng khác nhau và thực hiện các ý tưởng ấy trong các
dạng hoạt động có sản phẩm. Việc diễn đạt bằng lời một cách chi tiết và đầy đủ các
ý tưởng không chỉ về cái gì sẽ làm mà còn cả cách thức làm việc đó, làm cho quá
trình xây dựng hình ảnh mới thành quá trình có chủ định.
- Sự hình thành tư duy phê phán cũng đóng góp cho sự phát triển tưởng tượng.
Trẻ có thái độ phê phán với những hình ảnh tưởng tượng của mình.
- Cần xây dựng những tình huống có vấn đề đòi hỏi giải quyết theo nhiều cách
khác nhau.
c. Quan hệ giữa tưởng tượng sáng tạo và cảm xúc
Hoạt động tạo hình là một trong những hoạt động quan trọng và không thể
thiếu ở lứa tuổi mầm non. Trong đó, nhiệm vụ đặc thù là giáo dục thẩm mỹ, phát
triển trí tưởng tượng sáng tạo cho trẻ.
46
Nói đến nghệ thuật trước hết là nói đến cảm xúc và hứng thú với đối tượng cần
thể hiện. Cảm xúc thẩm mỹ vừa là chất xúc tác, vừa là động lực thúc đẩy quá trình
tưởng tượng. Xúc cảm và hứng thú là điều kiện nảy sinh liên tưởng và tưởng tượng
sáng tạo, nó làm sống lại các dấu vết của các hưng phấn thần kinh, cung cấp chất
liệu cho hoạt động của trí tưởng tượng. Xúc cảm càng mạnh mẽ, tưởng tượng càng
có khả năng phát triển phong phú và sâu rộng, và kết quả của tưởng tượng lại “nảy
sinh một sức mạnh tích cực mới” cho cảm xúc.
Trong hoạt động vẽ, tri giác được xem là cơ sở ban đầu, là điều kiện cơ bản
của hoạt động; tưởng tượng sáng tạo là thành phần đóng vai trò chủ đạo trong việc
xây dựng hình tượng nghệ thuật mới mẻ; còn cảm xúc là yếu tố nền, liên kết các
quá trình tâm lý trong hoạt động, đồng thời là nguyên nhân thúc đẩy, động viên các
hành động sáng tạo. Hoạt động của trẻ mầm non thường ít bị thúc đẩy bởi sự ý thức
về ý nghĩa của nó. Hoạt động của trẻ nhỏ được thúc đẩy phần lớn bởi hứng thú trực
tiếp. Trẻ giải quyết nhu cầu sáng tạo của mình nhanh chóng và triệt để những tình
cảm tràn ngập trong lòng trẻ. Tạo hình với hứng thú cao sẽ giúp trẻ say mê hoạt
động, dễ nảy sinh ý tưởng sáng tạo, bài vẽ của trẻ sẽ trở nên sinh động, độc đáo và
truyền cảm hơn. Nhờ tính trội của xúc cảm, tình cảm của lứa tuổi mà trẻ mẫu giáo
có thể tiến hành trong hoạt động các thao tác tư duy khá phức tạp đòi hỏi sự căng
thẳng, nỗ lực về trí tuệ, sự tưởng tượng, hệ thống hóa, xử lý thông tin nhằm tạo nên
các biểu tượng, hình tượng mới, vượt ra khỏi khuôn khổ những gì học được. Vì vậy
một trong những nhiệm vụ quan trọng của hoạt động vẽ là tạo cho trẻ hứng thú, cảm
xúc thẩm mỹ đối với các tác phẩm nghệ thuật và các sự vật hiện tượng xung quanh.
Trẻ thường hứng thú với đối tượng nào đó gây một kích thích mạnh hoặc một
sự ngạc nhiên. Hứng thú của trẻ phụ thuộc nhiều vào thái độ, tác phong, phương
pháp giảng dạy, đồ dùng của giáo viên. Nguyên nhân gây hứng thú ở trẻ thường
dừng lại ở mức độ đơn giản, có tính hình thức. Các hiện tượng thiên nhiên, phong
cảnh, ngày hội, ngày lễ gây cho trẻ các rung động mạnh mẽ.
47
Trên cơ sở nghiên cứu về hoạt động vẽ và tưởng tượng sáng tạo của trẻ mẫu
giáo 5-6 tuổi, chúng tôi xác định biểu hiện của tưởng tượng sáng tạo ở trẻ mẫu giáo
5-6 tuổi trong hoạt động vẽ theo đề tài được thể hiện ở những điểm sau:
* Về nội dung
- Tên tranh vẽ: trẻ có sự thay đổi khi đặt tên tranh vẽ.
- Đặc điểm nội dung tranh vẽ: có sự thay đổi về nhân vật, sự vật hiện tượng,
tình tiết, bối cảnh.
*Về hình thức
- Bố cục: sử dụng luật phối cảnh để thể hiện chiều sâu trong không gian.
- Màu sắc: sử dụng màu sắc một cách có chủ ý, theo ý đồ miêu tả.
- Hình vẽ: giàu tính hình tượng, thể hiện ở nhiều dạng hoạt động.
Từ các tiêu chí này, chúng tôi đưa ra thang đánh giá mức độ tưởng tượng sáng
tạo của trẻ trong hoạt động vẽ như sau:
Mức độ
Thấp
Trung Bình
Cao
Các mặt
(0 điểm)
(1 điểm)
(2.0 điểm)
- Tên gọi tranh
- Tên gọi tranh vẽ
- Tên gọi tranh vẽ
Tên tranh vẽ
vẽ lặp lại theo
có sự thay đổi
mới lạ.
mẫu.
nhưng
không
hoàn toàn.
- Lặp lại gần
- Có sự thay đổi
- Các sự vật hiện
như nguyên vẹn
về sự vật hiện
tượng, nhân vật, tình
Đặc điểm
các sự vật hiện
tượng, nhân vật,
tiết, bối cảnh được
nội dung
tượng, nhân vật,
tình tiết, bối cảnh
thể hiện một cách
Nội dung
bức tranh
tình
tiết, bối
ở tỉ lệ 30%-50%.
mới mẻ
theo suy
cảnh đã học.
nghĩ riêng của trẻ.
- Thể hiện mối liên
hệ giữa các nhân vật
trong tranh vẽ.
- Không
sử
- Có điểm nhấn,
- Có sử dụng luật
dụng luật phối
thể hiện ý tưởng.
phối cảnh để
thể
48
cảnh, không có
hiện chiều sâu trong
điểm nhấn.
không gian như sử
Bố cục
dụng luật xa gần,
mối tương quan về
kích thước giữa các
hình vẽ trong tranh...
- Thể hiện điểm
nhấn độc đáo.
- Chưa biết sử
- Màu sắc tương
- Màu sắc phong
dụng màu, màu
đối phù hợp với
phú, phù hợp với nội
sắc nhợt nhạt,
nội
dung
tuy
dung, sử dụng màu
Màu sắc
chưa phù hợp.
nhiên còn đơn
một cách có chủ ý,
điệu, phần lớn tô
theo ý đồ miêu tả,
màu quen thuộc,
biết phối màu có
Hình
có thêm một vài
đậm có nhạt, gợi
thức
màu sắc mới thể
cảm, mới lạ.
hiện sự biến đổi
của sự vật, hiện
tượng.
- Thể hiện được
- Thể hiện được
- Đường nét mềm
đối
tượng
tuy
đặc điểm riêng
mại, tư thế phù hợp
Hình vẽ
nhiên còn
sơ
của đối tượng.
với nội dung, giàu
sài.
tính hình tượng.
- Đối tượng trong
tranh được thể hiện
dưới nhiều dạng
hoạt động tạo nên
bức tranh sinh động,
mới lạ.
Các mức độ tưởng tượng sáng tạo của trẻ 5-6 tuổi qua hoạt động vẽ theo đề tài
- Mức cao: trẻ đạt thang điểm trên từ 8-10 điểm.
49
- Mức trung bình: trẻ đạt thang điểm trên từ 5-7 điểm.
- Mức thấp: trẻ đạt thang điểm trên từ 0-4 điểm
TIỂU KẾT
- Tưởng tượng sáng tạo trong hoạt động vẽ là quá trình xây dựng hình ảnh mới
chưa có trong kinh nghiệm cá nhân, hoặc kinh nghiệm xã hội trên mặt phẳng bằng
đường nét và màu sắc. Trong hoạt động vẽ, sự sáng tạo của trẻ được thể hiện ở hai
phương diện: nội dung miêu tả và các phương tiện truyền cảm như màu sắc, bố cục,
hình vẽ.
- Biểu hiện của tưởng tượng sáng tạo ở trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi trong hoạt động
vẽ theo đề tài được đánh giá những điểm sau:
- Về nội dung
+ Tên tranh vẽ
+ Đặc điểm nội dung tranh vẽ
- Về hình thức
+ Bố cục
+ Màu sắc
+ Hình vẽ
Các yếu tố sáng tạo của tưởng tượng không tự nó xuất hiện, không tự phát
triển mà phụ thuộc rất nhiều vào sự tổ chức và hướng dẫn của nhà giáo dục. Chính
vì vậy, để nâng cao mức độ tưởng tượng sáng tạo cho trẻ trong hoạt động vẽ, giáo
viên cần phải quan tâm đến một số biện pháp tổ chức hoạt động này một cách có
hiệu quả.
50
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG MỨC ĐỘ TƯỞNG TƯỢNG
SÁNG TẠO CỦA TRẺ 5-6 TUỔI TRONG HOẠT ĐỘNG VẼ Ở
MỘT SỐ TRƯỜNG MẦM NON TẠI TP BIÊN HÒA, TỈNH
ĐỒNG NAI
2.1. Vài nét về các trường Mầm non tại thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng
Nai
Tỉnh Đồng Nai, sau 35 năm xây dựng và phát triển sự nghiệp giáo dục đã đạt
được những thành tựu to lớn. Mạng lưới trường lớp đã mở rộng khắp nơi trong toàn
tỉnh Đồng Nai. Xã nào, phường nào cũng có trường mầm non, trường tiểu học,
trường trung học cơ sở và các lớp bổ túc văn hóa, xóa mù chữ phục vụ nhu cầu học
tập của nhân dân.
Trên địa bàn thành phố Biên Hòa có 26 trường mầm non công lập, 1 trường
mầm non bán công, 21 trường mầm non dân lập. Tuy nhiên, qua đề tài nghiên cứu
“Xây dựng mô hình xã hội học tập xã, phường, thị trấn ở tỉnh Đồng Nai năm 2010”
đã phát hiện hệ thống trường lớp ở các xã, phường, thị trấn khá đầy đủ, các chỉ tiêu
phổ cập đạt kết quả cao song trẻ mầm non vẫn thiếu chỗ học. Năm 2010 tỉnh Đồng
Nai có 14.397 trẻ từ 0-2 tuổi ra lớp, tỷ lệ so với độ tuổi là 14.8%; 89.103 trẻ 3-5 ra
lớp, tỷ lệ so với độ tuổi là 84.1%. Số lượng trẻ ở mỗi lớp trong các trường mầm non
ở thành phố Biên Hòa hiện nay vẫn còn vượt so với chuẩn số lượng trẻ từng lớp của
ngành giáo dục.
Đối với ngành giáo dục mầm non, Sở Giáo dục - Đào tạo Đồng Nai nói chung
và Phòng Giáo dục thành phố Biên Hòa nói riêng luôn chú trọng việc mở rộng
mạng lưới trường lớp và nâng cao chất lượng giảng dạy và chăm sóc trẻ thông qua
các hoạt động như tổ chức thi giáo viên dạy giỏi, hội thi đồ dùng dạy học - đồ chơi,
hội thi nấu ăn, mở các lớp bồi dưỡng tập huấn chương trình đổi mới cho giáo viên,
động viên khen thưởng những tập thể đạt thành tích xuất sắc… Vì thế, trong những
51
năm gần đây, giáo dục mầm non của Tỉnh có nhiều chuyển biến theo hướng tích
cực.
Trường Mầm non Hoa Sen, Mẫu giáo Hướng Dương, Mầm non Hoa Mai trực
thuộc quản lý của Phòng Giáo dục & Đào tạo TP. Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. Trong
đó trường mẫu giáo Hướng Dương và trường mầm non Hoa Mai được công nhận là
trường chuẩn quốc gia. Các trường này được thành lập khá lâu, trường đã cống hiến
cho xã hội những thế hệ học sinh lớn lên, trưởng thành nhiều người nay đã trở thành
cha mẹ và họ đã gửi con mình đến ngôi trường năm xưa mà họ đã từng được dạy dỗ
yêu thương. Cơ sở vật chất các trường khang trang, các lớp học có đồ dùng trang
thiết bị hiện đại như máy chiếu, máy vi tính, hệ thống bếp đảm bảo vệ sinh an toàn
tuyệt đối. Đặc biệt, môi trường sư phạm lành mạnh giúp các bé phát triển về thể
chất lẫn tinh thần, tất cả đội ngũ giáo viên đều qua đào tạo trong đó có khoảng 30%
giáo viên trên chuẩn, các cô tích cực hưởng ứng và đạt một số kết quả cao trong các
cuộc thi “Giáo viên dạy giỏi cấp thành phố”, “Hội thi đồ dùng đồ chơi”. Tuy
nhiên, số lượng trẻ trong từng lớp ở mỗi trường vẫn còn vượt so với chuẩn quy định
của ngành giáo dục mầm non.
2.2. Thực trạng mức độ tưởng tượng sáng tạo của trẻ 5-6 tuổi trong hoạt
động vẽ ở các trường thuộc mẫu nghiên cứu
2.2.1. Khái quát về tổ chức nghiên cứu thực trạng
2.2.1.1. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu thực trạng mức độ tưởng tượng sáng tạo của trẻ 5-6 tuổi trong hoạt
động vẽ ở một số trường Mầm non tại Thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai và tìm
hiểu một số nguyên nhân của thực trạng.
2.2.1.2. Khách thể nghiên cứu
- 150 trẻ 5-6 tuổi ở 3 trường Mầm non Hoa Sen, Mầm non Hoa Mai, Mẫu giáo
Hướng Dương là khách thể nghiên cứu chính của đề tài.
52
- 31 giáo viên trực tiếp giảng dạy trẻ 5-6 tuổi ở 3 trường Mầm non Hoa Sen,
Mầm non Hoa Mai, Mẫu giáo Hướng Dương là khách thể nghiên cứu bổ trợ của đề
tài
2.2.1. Nhiệm vụ và nội dung nghiên cứu
- Khảo sát mức độ và phân tích một số biểu hiện tưởng tượng sáng tạo của
trẻ qua các tranh vẽ của trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi.
- Bước đầu tìm hiểu một số nguyên nhân của thực trạng tưởng tượng sáng
tạo của trẻ 5 - 6 tuổi trong hoạt động vẽ
2.2.1.4. Phương pháp nghiên cứu
Sử dụng phối hợp các phương pháp nghiên cứu trong đó phương pháp phân
tích sản phẩm của hoạt động vẽ và phương pháp điều tra bằng bảng hỏi là phương
pháp chủ đạo, còn lại các phương pháp khác như phương pháp quan sát, phương
pháp trò chuyện là phương pháp bổ sung, hỗ trợ.
a. Phương pháp quan sát
Chúng tôi tiến hành dự giờ 2 hoạt động học có chủ đích trong đó hoạt động tạo
hình là hoạt động trọng tâm:
- Vẽ theo đề tài: Đồ chơi tặng bạn
- Vẽ theo đề tài: Người thân trong gia đình.
Trong quá trình dự giờ chúng tôi ghi chép lại các hoạt động của giáo viên và
hoạt động của trẻ, đặc biệt là quan sát khi trẻ vẽ tranh theo những tiêu chí sau:
+ Tốc độ vẽ: vẽ nhanh hay chậm
+ Mức độ sẵn sàng vẽ: sự chuẩn bị tâm lý cho hoạt động vẽ.
+ Sự tẩy xóa, thay đổi chủ đề, nội dung trong quá trình vẽ.
+ Biểu hiện cảm xúc trong quá trình vẽ: khi vẽ trẻ biểu hiện cảm xúc vui,
buồn, giận dữ hay lặng lẽ…
+ Độ tập trung: thể hiện mức độ chú ý hay phân tán chú ý trong quá trình trẻ
vẽ.
53
+ Những bình luận của trẻ khi vẽ: quan sát hành vi và những lời nhận xét của
trẻ.
Ngoài ra, chúng tôi còn quan sát các biện pháp giáo viên kích thích khả năng
tưởng tượng sáng tạo của trẻ.
b. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi
Chúng tôi sử dụng bảng câu hỏi dành cho 31 giáo viên đang phụ trách trẻ 5-6
tuổi của 3 trường Mầm non Hoa Sen, Mầm non Hoa Mai, Mẫu giáo Hướng Dương
tại thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.
Bảng câu hỏi gồm 10 câu hỏi [phụ lục 1] nhằm tìm hiểu:
- Nhận thức của giáo viên về tưởng tượng sáng tạo ở trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi
trong hoạt động vẽ (câu 1).
- Đánh giá của giáo viên về các hoạt động trẻ thể hiện tưởng tượng sáng tạo,
thực trạng mức độ tưởng tượng sáng tạo của trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi, biểu hiện tưởng
tượng sáng tạo bộc lộ qua tranh vẽ (câu 2, 3, 4, 5, 6).
- Các biện pháp giáo viên sử dụng để phát triển khả năng tưởng tượng sáng
tạo của trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi hoạt động vẽ (câu 7, 8, 9, 10).
- Ý kiến của giáo viên về các biện pháp nâng cao khả năng tưởng tượng sáng
tạo của trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi trong hoạt động vẽ (câu 11).
c. Phương pháp trò chuyện
Những thông tin qua trò chuyện sau khi hoàn thành bức tranh là rất quan trọng,
nó cho phép làm rõ tâm tư của trẻ được phóng chiếu qua tranh vẽ và gợi ý giải tích
thêm những thông tin trẻ muốn bày tỏ. Chúng tôi tiến hành trao đổi với trẻ một số
câu hỏi như:
Con có thể giới thiệu cho Cô và các bạn về bức tranh của mình? Có thể gợi ý
trẻ một số câu hỏi như:
- Tên bức tranh con vẽ là gì?
- Con có thể kể tên các đồ vật, nhân vật trong tranh?
- Con hãy nêu mối quan hệ giữa các nhân vật trong tranh?
- Nhân vật thể hiện như thế này có ý nghĩa gì?
54
- Tại sao con tô màu này?
d. Phương pháp phân tích sản phẩm của hoạt động vẽ
Chúng tôi đánh giá thực trạng mức độ tưởng tượng sáng tạo của trẻ qua tranh
vẽ đề tài: Người thân trong gia đình theo các tiêu chí đã được xây dựng ở phần cơ
sở lý luận.
2.2.2. Kết quả nghiên cứu thực trạng mức độ tưởng tượng sáng tạo của
trẻ 5-6 tuổi trong hoạt động vẽ
2.2.2.1. Thực trạng về mức độ tưởng tượng sáng tạo của trẻ 5-6 tuổi
trong hoạt động vẽ
Chúng tôi dự giờ 2 hoạt động học có chủ đích trong đó hoạt động tạo hình là
hoạt động trọng tâm về vẽ theo đề tài: “Đồ chơi tặng bạn” và “Người thân trong
gia đình”. Trong đó, chọn đề tài: “Vẽ người thân trong gia đình” để đánh giá mức
độ biểu hiện tưởng tượng sáng tạo của trẻ, việc phân tích sản phẩm tranh vẽ của trẻ
được căn cứ trên các tiêu chí ở phần cơ sở lý luận, và kết quả thu được như sau
Bảng 2.1: Kết quả về mức độ tưởng tượng sáng tạo trong tranh vẽ của trẻ
Mức độ Tần số (N) Tỷ lệ % (%) Trung bình Xếp loại
Thấp 2 1.3
6.06 Trung bình Trung bình 120 80
Cao 28 18,7
Số liệu bảng 2.1 cho thấy mức độ tưởng tượng của trẻ 5-6 tuổi trong tranh vẽ ở
thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai ở mức độ trung bình chủ yếu. Dựa trên từng
mức độ trong bảng phân loại mức độ tưởng tượng sáng tạo, số trẻ xếp loại trung
bình chiếm 80%, số trẻ xếp loại cao chiếm 18.7 %. Điều đó, cho thấy có 98.7% trẻ
có mức độ tưởng tượng sáng tạo trong hoạt động vẽ từ trung bình trở lên. Tuy
nhiên, kết quả nghiên cứu cho thấy vẫn còn 1.3% trẻ xếp loại yếu về khả năng
tưởng tượng sáng tạo. Con số này nhỏ nhưng vẫn đáng để các giáo viên mầm non
55
và các nhà nghiên cứu quan tâm. Kết quả khiến chúng ta chưa thể lạc quan với khả
năng tưởng tượng sáng tạo của trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi bởi vì trẻ đạt mức độ trung
bình chiếm đến 4/5 lượng mẫu.
Kết quả trao đổi trực tiếp cũng như phát phiếu điều tra đối với một số giáo
viên đang trực tiếp giảng dạy trẻ 5-6 tuổi, hầu hết các giáo viên mầm non đều có
nhận định rằng mức độ tưởng tượng sáng tạo của trẻ mẫu giáo ở lớp mình đang dạy
phần lớn chỉ đạt mức trung bình, cô Nguyễn Thị Yến trường mẫu giáo Hướng
Dương cho biết: “Phần lớn tranh vẽ của trẻ chỉ khác đôi chút so với những gì cô
hướng dẫn”. Đây là một đánh giá tương ứng với kết quả nghiên cứu thực trạng của
đề tài. Điều đó cho thấy kết quả nghiên cứu thực trạng trên của đề tài là khá hợp lý
và khá thuyết phục.
70
60
50
40
30
20
10
0
Điểm 4
Điểm 5
Điểm 6
Điểm 7
Điểm 8
Điểm 9
Biểu đồ 2.1: Sự phân bố số lượng trẻ theo tổng điểm tranh vẽ
Nhìn vào biểu đồ 2.1, cho ta thấy biểu đồ tập trung về phía trung bình, tổng
điểm các tiêu chí sáng tạo là những điểm số trải dài từ 4-9 trong đó số trẻ có tổng
điểm là 5.0 là 65 em chiếm tỷ lệ cao nhất 43.3%, và 34 trẻ đạt được 6 điểm chiếm
22.7%, 21 trẻ điểm 7 chiếm 14%, 27 trẻ đạt điểm 8 chiếm 18% và 1 trẻ đạt điểm 9
chiếm 0.7% và có 2 trẻ dưới trung bình chiếm 1.3%. Điểm trung bình là 6.06, với
điểm số này mức độ tưởng tượng sáng tạo của mẫu nghiên cứu ứng với loại trung
bình.
56
Gia đình là môi trường gần gũi, thân yêu nhất của trẻ với những người mà trẻ
thương mến. Việc tái tạo lại những người thân, sinh hoạt của những người này xảy
ra hàng ngày ở gia đình là những hình ảnh quen thuộc không xa lạ với trẻ. Thế
nhưng khi biết được cô cho vẽ đề tài này một số ít trẻ tỏ ra vui sướng, hào hứng.
Trong quá trình vẽ, số trẻ thể hiện sự độc lập trong việc tìm kiếm đối tượng và cách
thể hiện chiếm tỷ lệ thấp, phần lớn trẻ có sự thay đổi một ít so với tranh mẫu của cô
chủ yếu về mặt thay đổi nhân vật trong tranh và thêm vào một số hình ảnh quen
thuộc mà cô thường gợi ý như ông mặt trời, cây cối, đám mây…, ít chú ý đến bố
cục, sự thể hiện màu sắc của trẻ trong tranh vẽ chủ yếu là các màu quen thuộc của
sự vật, ít linh hoạt thay đổi màu sắc của sự vật theo thời gian, không gian, thời tiết,
độ chiếu sáng. Các hình ảnh trong mỗi tranh vẽ chủ yếu ở trạng thái tĩnh, chưa thể
hiện nhiều các cử động, các hành động, tranh vẽ không giàu tính hình tượng. Không
khí lớp học trong lúc vẽ im lặng, thỉnh thoảng có một vài trẻ hỏi bạn đang vẽ nội
dung gì, dường như quá trình vẽ là đó là quá trình mà trẻ đang thực hiện một nội
dung bắt buộc và nghiêm túc, một số trẻ sau một lúc ngồi vẽ nghiêm túc bắt đầu
quay sang nhìn bạn hoặc lộ ra vẻ uể oải không muốn vẽ nữa. Giáo viên đi quan sát,
hướng dẫn từng trẻ nhưng chưa khơi gợi được hứng thú của trẻ đối với đề tài trẻ
đang thực hiện. Kết thúc giờ vẽ, hầu như trẻ nào cũng tạo ra được một bức tranh
cho riêng mình. Tuy nhiên, phần lớn tranh vẽ của trẻ thể hiện sự mới lạ về mặt nội
dung và hình thức chưa nhiều, vẫn còn ảnh hưởng mẫu của cô.
2.2.2.2. Thực trạng biểu hiện tưởng tượng sáng tạo qua tranh vẽ của
trẻ 5-6 tuổi qua một số tiêu chí
Qua nghiên cứu thực trạng cho thấy số trẻ đạt mức trung bình về tưởng tượng
sáng tạo thể hiện qua tranh vẽ chiếm tỷ lệ khá cao chẳng hạn như tiêu chí bố cục tỷ
lệ trẻ đạt mức độ này là 95.3%.
Ngoại trừ tiêu chí tên tranh vẽ có 3 trẻ lặp lại hoàn toàn tên tranh vẽ mẫu của
cô giáo nên đạt được mức độ thấp ở tiêu chí này, ngoài ra ở các tiêu chí còn lại
không có trẻ nào đạt mức độ thấp. Mặc dù, tiêu chí tên tranh vẽ có 3 trẻ đạt mức
57
thấp nhưng điểm trung bình vẫn cao hơn so với các tiêu chí đặc điểm nội dung, bố
cục, màu sắc, hình vẽ là bởi vì số trẻ đạt ở mức độ cao ở các tiêu chí này thì thấp cụ
thể đặc điểm nội dung tranh vẽ là 28%, bố cục là 4.7 %, màu sắc 18.7%, hình vẽ
20.7%, và số trẻ đạt được ở mức độ trung bình chiếm tỷ lệ cao vì thế đã kéo điểm
trung bình các tiêu chí này xuống.
Trong các tiêu chí thì tiêu chí tên tranh vẽ có điểm trung bình cao nhất và có số
trẻ tưởng tượng sáng tạo đạt được mức độ cao nhiều nhất (36%), tiếp đến là tiêu chí
nội dung, hình vẽ, màu sắc và cuối cùng là bố cục.
Dưới đây là bảng thống kê về thực trạng một số biểu hiện tưởng tượng sáng
tạo trong tranh vẽ của trẻ.
Bảng 2.2: Kết quả mức độ tưởng tượng sáng tạo qua từng tiêu chí
Các tiêu chí
Tỷ lệ % Điểm trung bình
Mức độ
N
Thấp
3
2.0
Tên tranh vẽ
1.34
Trung bình
93
62.0
Cao
54
36.0
Thấp
0
0
Đặc điểm nội dung
1.28
Trung bình
108
72
Cao
42
28
Thấp
0
0
Bố cục
1.04
Trung bình
143
95.3
Cao
7
4.7
Thấp
0
0
Màu sắc
Trung bình
122
81.3
1.18
Cao
28
18.7
Thấp
0
0
Hình vẽ
1.20
Trung bình
119
79.3
Cao
31 20.7
Có thể phân tích trên từng tiêu chí như sau:
+ Tiêu chí tên tranh vẽ
58
Ở tiêu chí này, tưởng tượng sáng tạo của trẻ ở mức độ trung bình chiếm 62%,
cao chiếm 36.0%, và mức độ thấp chiếm 2.0%. Điểm trung bình của tiêu chí tên
tranh vẽ nghiêng về phía trên trung bình.
Phần lớn trẻ đều nêu được ý định tên gọi bức tranh mình sẽ vẽ khi giáo viên
đưa ra đề tài, bên cạnh đó còn có một số trẻ lúng túng. Khi bắt đầu vẽ, số trẻ còn
ngập ngừng, thiếu tự tin khi thể hiện ý tưởng, nhìn sang bạn và hay bắt chước lẫn
nhau chiếm khoảng 10%, số còn lại bắt đầu thể hiện ý tưởng của mình khi thực hiện
tranh vẽ.
Với đề tài: “Vẽ người thân trong gia đình”, sau khi đã hoàn tất xong tranh vẽ
hầu hết trẻ đều đặt được tên cho tranh vẽ của mình. Khi gọi tên tranh vẽ, chỉ có một
số ít trẻ sử dụng lại tên như lúc ban đầu, phần lớn có sự thay đổi tên tranh vẽ theo
hai hướng: thứ nhất đặt tên một cách cụ thể hơn chẳng hạn như trước khi bắt đầu vẽ
đặt tên “ba mẹ” thì sau đó trẻ đặt tên “ba mẹ đi làm”, thứ hai trẻ thay đổi nội dung
vẽ so với ý định ban đầu nên tên tranh vẽ cũng khác trước.
Khi đặt tên cho tranh vẽ, trẻ thường dùng tên của những nhân vật mà mình đã
vẽ trong tranh trẻ đặt tên tranh như “ba mẹ”, “mẹ và bé”, “hai chị em”, “gia đình
của em”,… chiếm khoảng hơn 1/3 số trẻ. Số còn lại, có thêm sự thể hiện hành động
của nhân vật trong tên tranh vẽ như “mẹ và bé đi chợ”, “cả nhà đi công viên”, “ba
và con tập thể dục”, “ba mẹ đi làm”, “bà nội đưa tờ báo cho ông nội”…. Về độ
mới lạ, có khoảng 2/3 trẻ lặp lại những nội dung trong mẫu mà giáo viên đã giới
thiệu và có khác đi đôi chút nên tên tranh vẽ cũng không có gì mới lạ, chỉ có khoảng
1/3 trẻ khai thác một số khía cạnh khác so với những nội dung mà cô đã giới thiệu
nên đã có sự “đột phá” khi gọi tên cho tranh vẽ của mình ví dụ như với tên tranh
như “rước đèn trung thu” trẻ vẽ về cảnh cả gia đình rước đèn trong ngày trung thu;
“hai vợ chồng” trẻ mô tả những hình ảnh, hành động của ông bà; “mấy anh chị em
chơi nhảy cò cò” tả cảnh mấy anh chị em họ hàng đang chơi những trò chơi dân
gian ở ngoài sân, hay “ngày đầu tiên đến trường” trẻ vẽ hình ảnh hai chị em đi học.
+ Tiêu chí đặc điểm nội dung tranh vẽ
59
Tiêu chí này có số trẻ mức độ tưởng tượng sáng tạo ở loại trung bình chiếm
72.8%, cao chiếm 28%, và không có trẻ nào đạt ở mức độ thấp. Điểm trung bình
của tiêu chí đặc điểm nội dung tranh vẽ nghiêng về phía trên trung bình một chút.
Nhìn chung, phần lớn trẻ thể hiện nội dung phù hợp với đề tài nhưng chưa
phong phú. Với đề tài “Vẽ người thân trong gia đình”, hầu như trẻ đều vẽ nhiều
hơn một nhân vật và thường có sự hiện diện của bé trong tranh. Ngoài ra, trẻ đã
thêm vào những cảnh vật quen thuộc được cô giáo đã giới thiệu qua những tiết học
vẽ trước như mặt đất, ông mặt trời, mây, cây cối, bong bóng, hoa…, cũng có một số
chi tiết mới như cây gậy, cái ghế, tờ báo, cái kẹp, cái túi xách…
Trong quá trình vẽ, một số trẻ thay đổi ý định vẽ của mình, đang vẽ vật này lại
đổi sang vật khác cho thấy tưởng tượng không chủ định vẫn còn tồn tại ở một số trẻ
mẫu giáo 5-6 tuổi. Một số trẻ nhìn bạn để vẽ chưa tập trung suy nghĩ hình ảnh thể
hiện. Trong quá trình giảng dạy, giáo viên có đặt câu hỏi giúp trẻ gợi nhớ và tưởng
tượng tuy nhiên số lượng câu hỏi chưa nhiều, chưa sâu, chưa có hệ thống. Đây là
một hạn chế khá lớn, bởi vì chính hệ thống câu hỏi sẽ giúp trẻ nhớ lại, khắc sâu
thêm các biểu tượng, và phát huy khả năng tưởng tượng sáng tạo, từ đó trẻ có thể
thể hiện một bức tranh với những ý tưởng bất ngờ, thú vị và độc đáo. Bên cạnh đó
vốn biểu tượng của trẻ được cung cấp chưa phong phú, giáo viên chưa khai thác
triệt để vốn kinh nghiệm của trẻ và thường xuyên hướng trẻ vào hình ảnh mẫu, mặt
khác kĩ năng vẽ của trẻ còn nhiều hạn chế, trẻ muốn vẽ nhưng lại không biết cách
vẽ, vì thế khi vẽ trẻ khó tạo ra các hình ảnh mới.
Các nhân vật được mô tả ở một số tranh vẽ vẫn còn là những hình ảnh mang
tính liệt kê, rời rạc. Sự liên kết giữa các nhân vật thường được trẻ thể hiện bằng
hình ảnh nắm tay nhau, bên cạnh đó chỉ có một số ít trẻ thể hiện bằng một hành
động cụ thể như bà nội đưa tờ báo cho ông nội, mấy anh chị em cùng chơi nhảy cò
cò, cả gia đình cùng đi rước đèn trung thu...
+Tiêu chí bố cục
Với tiêu chí này, tỉ lệ trẻ có mức độ tưởng tượng sáng tạo ở loại trung bình
chiếm 95,3%, cao chiếm 4.7 %, và không có trẻ nào đạt ở mức độ thấp. Điểm trung
60
bình của tiêu chí bố cục đạt ở mức độ trung bình. Trong các tiêu chí, tiêu chí bố cục
có điểm trung bình thấp nhất.
Khảo sát hình vẽ của trẻ trong tranh cho thấy phần lớn trẻ chưa thể hiện luật
phối cảnh, khoảng 2/3 trẻ chưa chú ý đến sự thể hiện được luật cao - thấp ví dụ trẻ
vẽ hình người cao bằng với cái cây cổ thụ, cây hoa…, trẻ chưa thể hiện luật xa - gần
vì thế hầu như tranh vẽ đều thể hiện một tầng cảnh, vì thế tranh vẽ của trẻ ít có
chiều sâu. Tuy nhiên, gần như hầu hết trẻ đều thể hiện quan hệ không gian trên -
dưới trẻ biết vẽ đám mây, ông mặt trời, chim... phía trên; cây cối, con người… phía
dưới. Nhưng hình ảnh trong tranh vẽ còn mang tính liệt kê dàn ngang ra cả trang
giấy, một số trẻ biết thể hiện điểm khuất của sự vật, hiện tượng như trẻ vẽ cái ghế
biết che khuất hai chân ghế khi vẽ trực diện cái ghế, hoặc khuôn mặt chỉ có một con
mắt khi nhìn nghiêng… nhưng số lượng này rất ít. Trẻ thường bắt tay vào là vẽ
những nhân vật chính sau đó vẽ thêm những chi tiết khác như phong cảnh… và ít
chú ý đến việc phân chia bố cục nên tranh vẽ của trẻ thường bị lệch trong bố cục.
+ Tiêu chí màu sắc
Ở tiêu chí này, tưởng tượng sáng tạo của trẻ ở mức độ trung bình chiếm
81.3%, cao chiếm 18.7%, và không có trẻ nào đạt ở mức độ thấp. Điểm trung bình
của tiêu chí tên tranh vẽ đạt ở mức độ trung bình.
Qua trao đổi với giáo viên và quan sát thực tế, chúng tôi nhận thấy giáo viên
chỉ sử dụng các vật liệu được nhà trường cấp đầu năm, và vật liệu dùng để vẽ, để tô
màu thì chưa phong phú. Ở trường Mầm non Hoa Mai và Hoa Sen, giáo viên cho
trẻ vẽ và tô màu bằng bút màu sáp và vẽ trên cuốn tập vẽ, hầu như không sử dụng
các nguyên vật liệu khác. Đối với trường Mẫu giáo Hướng Dương nguyên vật liệu
vẽ ngoài bút màu sáp có thêm thuốc màu, vẽ trên giấy A4. Cả ba trường, hầu như
trẻ không được lựa chọn hình thức giấy để vẽ, các vật liệu khác nhau để tô màu.
Giáo viên chưa quan tâm đến tác dụng của nguyên vật liệu đối với việc tạo ra hứng
thú, phát huy khả năng tưởng tượng sáng tạo ở trẻ.
Trẻ được hoàn toàn tự do lựa chọn màu sắc để vẽ theo ý mình. Tuy nhiên,
phần lớn khi tô màu trẻ thường dùng màu sắc quen thuộc như cây cối tô màu xanh,
61
mặt đất tô màu nâu, ông mặt trời tô màu vàng… một số ít trẻ thể hiện được sự biến
đổi màu sắc của sự vật hiện tượng theo thời gian. Màu sắc trẻ sử dụng thì tươi sáng
nhưng chưa có sự phối hợp màu, số trẻ thể hiện phối hợp màu sắc để bài vẽ đẹp là
rất hiếm.
+ Tiêu chí hình vẽ
Với tiêu chí này, tỉ lệ trẻ có mức độ tưởng tượng sáng tạo ở loại trung bình
chiếm 79.3%, cao chiếm 20.7%, và không có trẻ nào đạt ở mức độ thấp. Điểm trung
bình của tiêu chí hình vẽ ở mức độ trung bình.
Phân tích các tranh vẽ cho thấy chất lượng hình ảnh tưởng tượng sáng tạo của
trẻ thông qua hoạt động vẽ còn một số hạn chế. Có những sự vật, hiện tượng trẻ sử
dụng lại những biểu tượng mà trẻ đã tri giác, ít có sự cải biến hình ảnh sự vật theo ý
tưởng của trẻ chẳng hạn hầu như tất cả trẻ vẽ ông mặt trời là một hình tròn ở ngoài
có các tia thể hiện sự chiếu sáng, hay hình ảnh cây cối có sự rập khuôn một kiểu
mẫu. Ngược lại có một số trẻ có những ý tưởng độc đáo, ngộ nghĩnh, sự mới lạ
trong việc thể hiện đối tượng ví dụ như khi vẽ về các thành viên trong gia đình trẻ
vẽ giống như hình ảnh của các con rối, tuy nhiên số lượng trẻ thể hiện những điều
này rất ít. Ngoài ra ở một số tranh, trẻ cũng gợi lên những hình ảnh mới nhưng chưa
biết cách thể hiện. Với đề tài: “Vẽ người thân trong gia đình” có trẻ vẽ bà nội đang
ngồi và đưa tờ báo cho ông nội đang đứng, nhưng hình ảnh của ông nội được trẻ vẽ
giống như một người nam trẻ tuổi vì thế nhìn vào tranh ta chỉ phân biệt được nam –
nữ chứ khó phân biệt được lứa tuổi. Đây cũng là một hạn chế bình thường của lứa
tuổi.
Một số trẻ đặc biệt chú ý đến sự trang trí cho áo, váy, tóc như cổ áo có gắn
hoa, áo có túi có nút áo, tay áo có viền hình hoa, váy có gắn kim tuyến, tóc bới có
gắn cây trâm... Tuy nhiên, phần lớn chưa thể hiện các tư thế vận động, mặc dù một
số trẻ trong tên tranh vẽ có sự thể hiện hành động. Bên cạnh đó có một số trẻ thể
hiện tư thế vận động quen thuộc, đơn giản như tập giơ tay tập thể dục, nắm tay.
Ngoài ra, có trẻ thể hiện những hành động phức tạp như đưa tờ báo, nhảy cò cò…
62
Qua dự giờ cũng như trao đổi với các giáo viên về việc đánh giá tranh vẽ của
trẻ, hầu hết các cô đều hướng đến việc trẻ vẽ đường nét rõ ràng, thể hiện được sự
vật hiện tượng nội dung phù hợp với đề tài thì được coi là đạt chứ ít hướng đến việc
tạo ra hình ảnh mới. Đây cũng là một hạn chế, bởi điều này sẽ ảnh hưởng sự sáng
tạo của trẻ.
Qua điều tra bằng bảng hỏi đối với giáo viên ở các lớp mẫu giáo lớn về mức
độ các biểu hiện tưởng tượng sáng tạo của trẻ 5-6 tuổi trong hoạt động vẽ, kết quả
thu được như sau:
Bảng 2.3: Đánh giá của giáo viên về mức độ biểu hiện tưởng tượng sáng tạo của
Mức độ
trẻ trong hoạt động vẽ
Các biểu hiện
Cao
T. Bình
Thấp
N %
N % N %
Tên tranh vẽ
11
35.5
20 64.5
0
0
Sự mới lạ của tên tranh vẽ
28
90.3
3
9.7
0
0
Thay đổi thành phần các hình ảnh
Đặc điểm nội
19.4
22 70.9
9.7
3
6
Thay đổi về đặc điểm các hình ảnh
dung
31
100
0
0
0
0
Thay đổi về sự liên kết các yếu tố
31
100
0
0
0
0
Tranh vẽ hài hòa, cân đối
Bố cục
10 32.3
21 67.7
0
0
Sử dụng luật phối cảnh
Màu sắc
0
0
31 100
0
0
Thể hiện màu sắc tự tạo
31
100
0
0
0
0
Thể hiện màu sắc có chủ ý
Hình vẽ
31
100
0
0
0
0
Đối tượng thể hiện hoạt động
0
0
19 61.3
12 38.7
Thể hiện hình ảnh giàu hình tượng
Nhìn vào bảng 2.5 có thể thấy phần lớn các giáo viên mầm non đánh giá
những biểu hiện tưởng tượng sáng tạo của trẻ thể hiện trong hoạt động vẽ ở mức độ
trung bình là chủ yếu.
63
Một số giáo viên đánh giá những biểu hiện tưởng tượng sáng tạo của trẻ ở
mức độ cao trong đó tập trung chủ yếu ở phần nội dung. Với tiêu chí tên tranh vẽ thì
có 35.5% giáo viên cho rằng độ mới lạ trong tên tranh vẽ của trẻ đạt mức độ cao,
nhưng có đến 64.5% giáo viên đánh giá chỉ đạt ở mức trung bình. Trong tiêu chí đặc
điểm nội dung tranh vẽ thì biểu hiện sự thay đổi các hình ảnh so với tranh mẫu,
được 90.3 % giáo viên đánh giá biểu hiện này ở trẻ đạt mức độ cao. Tuy nhiên, biểu
hiện sự thay đổi đặc điểm các hình ảnh thì chỉ có 19.4 % giáo viên đánh giá ở mức
độ cao, còn biểu hiện thay đổi sự liên kết giữa các yếu tố thì tất cả các giáo viên đều
đánh giá ở mức độ trung bình.
Qua việc khảo sát thực trạng, có thể nhận thấy cũng có sự tương đồng với
nhận định của các cô chẳng hạn như với đề tài: “Vẽ người thân trong gia đình”,
tranh mẫu của cô vẽ về hai mẹ con, mẹ nắm tay con thì trong tranh của trẻ là hai chị
em nắm tay nhau, hay bố mẹ nắm tay nhau.
Về bố cục, có đến 67.7 % giáo viên đánh giá trẻ thể hiện luật phối cảnh ở mức
độ thấp. Điều này được thể hiện một cách rõ ràng qua tranh vẽ của trẻ, hầu hết trẻ
chỉ thể hiện quan hệ không gian trên – dưới, và dường như tỷ lệ này cũng chưa
được hợp lý nên tranh vẽ chưa có sự hài hòa, cân đối.
Có đến 100% các giáo viên cho rằng trẻ chưa biết phối hợp các màu sắc để tạo
ra màu mới, chủ yếu là dùng màu có sẵn. Khi sử dụng màu sắc, trẻ thường chỉ chú ý
đến độ tươi sáng, đặc điểm thường ngày của sự vật, thể hiện sự yêu ghét đối tượng
được yêu tô màu sáng, đối tượng ghét thì tô màu tối chứ chưa hướng đến việc tạo ra
màu sắc thể hiện sự biến đổi màu sắc của sự vật. Phần lớn trẻ chưa biết cách thể
hiện đối tượng dưới dạng hoạt động, trẻ chủ yếu thể hiện đối tượng ở một số dạng
cơ bản như đứng, ngồi, nắm tay, đưa tay ra…, các dạng hoạt động được chưa phong
phú và mang tính hình tượng. Mặc dù, trẻ có ý tưởng về hoạt động của đối tượng
thể hiện qua lời nói kèm với hành động vẽ nhưng nhìn vào tranh thì không thấy thể
hiện. Qua kết quả đánh giá bằng bảng hỏi so sánh với kết quả nghiên cứu thực trạng
mức độ tưởng tượng sáng tạo của trẻ thể hiện qua tranh vẽ, chúng ta thấy phần lớn
64
giáo viên nhận định mức độ những biểu hiện tưởng tượng sáng tạo ở trẻ là tương
thích với thực trạng.
Khi được hỏi về các biểu hiện tưởng tượng sáng tạo của trẻ 5-6 tuổi trong
hoạt động vẽ, các giáo viên đã nhìn nhận như sau
Hầu như các biểu hiện tưởng tượng sáng tạo của trẻ trong hoạt động vẽ đưa ra,
đều được giáo viên nhận định là trẻ có thể hiện, nhưng với các mức độ khác nhau.
Bảng 2.4 : Đánh giá của giáo viên về các biểu hiện tưởng tượng sáng tạo của trẻ
trong hoạt động vẽ
Mức độ
Các biểu hiện
Thường xuyên Đôi khi
Không có
N
%
N %
N %
9
29
22
78
0
0
Tên tranh vẽ mới lạ
19
61.3
12
38.7
0
0
Thay đổi thành phần các hình ảnh trong
tranh vẽ
7
22.6
21 67.7
3
9.7
Thay đổi đặc điểm về hình dáng các hình
Nội dung
ảnh trong tranh vẽ.
14
45.2
17
54.8
0
0
Sự biểu hiện trạng thái cảm xúc của các
hình ảnh trong tranh vẽ
18
58.1
13 41.9
0
0
Thay đổi sự liên kết giữa các hình ảnh
của bức tranh
31
100
0
0
0
0
Thay đổi trật tự vị trí các hình ảnh trong
tranh vẽ
0
31
100
0
0
0
Trẻ sử dụng màu do trẻ tự tạo
0
31
100
0
0
0
Sử dụng màu sắc nổi bật chủ ý (ví dụ:
yêu, ghét)
0
31
100
0
0
0
Các nhân vật thể hiện các tư thế vận động
35.5
21 64.5
10
0
0
Các nhân vật trong tranh thể hiện các
hành động
15
48.4
16 51.6
0
0
Hình
Thể hiện mối tương quan về kích thước
thức
giữa các hình ảnh trong tranh
0
0
31
100
0
0
Biến đổi màu sắc của các hình ảnh theo
65
thời gian
0
0
31
100
0
0
Sự biến đổi hình ảnh của màu sắc theo
thời tiết
0
0
31
100
0
0
Sự biến đổi màu sắc theo độ chiếu sáng
19
61.3
12
38.7
0
0
Sử dụng luật xa gần
0
0
31
100
0
0
Bố cục cân đối
Nhìn chung qua kết quả điều tra và trao đổi với giáo viên, chúng tôi nhận thấy
rằng mặc dù các giáo viên nhìn nhận mức độ và tính phổ biến của một số biểu hiện
tưởng tượng sáng tạo trong tranh vẽ của trẻ có sự chênh lệch so với thực tế mà
chúng tôi có dịp tham khảo một số tranh vẽ của trẻ ở thời điểm khảo sát cụ thể như
có đến 48.4% giáo viên cho rằng trẻ thường xuyên quan tâm đến mối tương quan
kích thước về các hình ảnh trong tranh nhưng thực tế cho thấy phần lớn các em
thường vẽ các sự vật mà mình muốn thể hiện với kích thước ngang nhau, chưa chú
ý đến tỷ lệ của các sự vật. Nhưng phần lớn giáo viên đã thấy được những biểu hiện
tưởng tượng sáng tạo mà các em đã thể hiện và những gì trẻ chưa thể hiện được.
Những biểu hiện được giáo viên đánh giá ở mức độ thường xuyên tập trung
vào các tiêu chí phần nội dung. Những tiêu chí thuộc về hình thức trẻ rất ít thể hiện
những biểu hiện tưởng tượng sáng tạo cụ thể trẻ rất ít khi thể hiện một số mặt sau
trong tranh vẽ của mình như sử dụng màu sắc có sự biến đổi màu sắc theo thời gian,
thời tiết, theo độ chiếu sáng, những điều này phù hợp với kết quả nghiên cứu của đề
tài phần lớn trẻ thể hiện màu sắc thường ngày, quen thuộc của sự vật hiện tượng. Để
lý giải điều này, cô Phạm Thị Thảo – trường Mầm non Hoa Mai cho rằng: “Trong
hoạt động vẽ, đối với trẻ mẫu giáo thể hiện sự mới lạ về mặt nội dung dễ dàng hơn
so với mặt hình thức, vì trẻ chưa có nhiều kĩ năng thể hiện sự vật hiện tượng” đơn
cử như khi trẻ vẽ về người thân trong gia đình thì hầu như trẻ vẽ trong tư thế đứng
chỉ có một vài trẻ thể hiện tư thế ngồi.
Ngoài ra có đến 100% giáo viên đánh giá biểu hiện sự thay đổi trật tự vị trí của
các hình ảnh trong tranh của trẻ ở mức độ thường xuyên. Tuy nhiên qua thực tế
quan sát tranh cho thấy mặc dù trẻ đã thay đổi trật tự vị trí nhưng chưa tạo được sự
66
liên kết mới giữa các đối tượng trong tranh. Mặt khác có 54.8% giáo viên thừa nhận
thỉnh thoảng các đối tượng trong tranh vẽ của trẻ thể hiện cảm xúc và thường biểu
hiện qua cái miệng, khi trẻ vẽ rộng ra có nghĩa là đối tượng đó đang cười, hay
miệng rộng mà có vẽ thêm răng đó là biểu hiện của sự tức giận. Về bố cục, 61.3%
giáo viên cho rằng trẻ thường xuyên sử dụng luật xa gần, nhưng qua thực tế cho
thấy hầu hết tranh vẽ của trẻ thường có một tầng cảnh, và sắp xếp theo lối liệt kê chỉ
có một số ít tranh vẽ thể hiện nhiều tầng cảnh và có chiều sâu. Chẳng hạn như với
đề tài: “Vẽ người thân trong gia đình” trẻ vẽ các thành viên trong gia đình lần lượt
xuất hiện như một sự liệt kê.
2.2.2.3 Phân tích thực trạng mức độ tưởng tượng sáng tạo của trẻ trên
các phương diện so sánh
a. Thực trạng mức độ tưởng tượng sáng tạo của trẻ trên phương diện giới tính
Bảng 2.5: Mức độ tưởng tượng sáng tạo của trẻ 5-6 tuổi phân tích theo giới
Nữ
Nam
Các tiêu chí và
Cao
T.Bình
Thấp
Cao
T.Bình
Thấp
tổng điểm
N %
N %
N % N %
N %
N %
Tên tranh vẽ
29 35.3 50
61
3.7
25 36.8 43 63.2
3
0
0
Đặc điểm nội dung
24 29.3 58 70.7
18 26.5 50 73.5
0
0
0
0
Bố cục
3
3.7
79 96.3
4
5.9
64 94.1
0
0
0
0
Màu sắc
16 19.5 66 80.5
12 17.6 56 82.4
0
0
0
0
Hình vẽ
20 24.4 62 75.6
11 16.2 57 83.8
0
0
0
0
Tổng điểm
16 19.5 64 78.1
2.4
12 17.7 67 82.3
2
0
0
Căn cứ vào số liệu bảng 2.5, có thể nhận thấy hầu hết các tiêu chí cả nam và
nữ đều có số lượng trẻ có mức độ tưởng tượng sáng tạo ở mức độ trung bình chiếm
tỉ lệ cao trên 60%, số lượng trẻ mức độ cao chiếm tỷ lệ thấp cụ thể như ở tiêu chí bố
cục ở nữ 3.7%, ở nam là 5.9%. Tiêu chí tên tranh vẽ và đặc điểm nội dung vẫn là
những tiêu chí mà trẻ nam và nữ đạt tưởng tượng sáng tạo ở mức độ cao nhiều nhất.
Đối với trẻ nam, tỷ lệ trẻ đạt mức độ cao ở tiêu chí tên tranh vẽ và đặc điểm nội
67
dung tranh vẽ lần lượt là 36.8% , 26.5%. Đối với trẻ nữ, tỷ lệ trẻ đạt mức độ cao ở
tiêu chí tên tranh vẽ và đặc điểm nội dung tranh vẽ lần lượt là 35.3%, 29.3%. Ở trẻ
nam không có trẻ nào tưởng tượng sáng tạo đạt mức độ thấp ở các tiêu chí và tổng
điểm. Riêng trẻ nữ, ở tiêu chí tên tranh vẽ có 3 trẻ, tổng điểm các tiêu chí có 2 trẻ
đạt mức độ thấp.
Bảng 2.6 : So sánh các tiêu chí tưởng tượng sáng tạo của trẻ phân theo giới
Các tiêu chí và tổng điểm
Trung bình
Kiểm nghiệm t (sig<α=0.05
có sự khác biệt )
Nữ
Nam
Tên tranh vẽ
1.3171
1.3676
0.552
Đặc điểm nội dung
1.2927
1.2647
0.706
Bố cục
1.0366
1.0588
0.524
Màu sắc
1.1951
1.1765
0.772
Hình vẽ
1.1618
1.1618
0.212
Tổng điểm
6.0854
6.0294
0.775
Căn cứ vào bảng 2.7, cho ta thấy điểm trung bình về tưởng tượng sáng tạo giữa
trẻ nam và trẻ nữ chênh lệch không đáng kể (6.0854 – 6.0294=0.056) cho thấy mức
độ tưởng tượng sáng tạo của trẻ nam và nữ tương đương nhau và đều đạt mức
“trung bình” trong thang phân loại mức độ tưởng tượng sáng tạo trong hoạt động vẽ
mà đề tài đã xác lập.
Phân tích dựa trên từng tiêu chí cho thấy có những sự độc đáo riêng. Ở một số
tiêu chí tên tranh vẽ, bố cục có thể thấy trẻ nam có phần trội hơn trẻ nữ, ngược lại
với tiêu chí đặc điểm nội dung, màu sắc thì trẻ nữ lại trội hơn trẻ nam một chút. Tuy
vậy, sự chênh lệch này lại không đáng kể. Có thể lý giải đặc điểm này dựa trên
những đặc điểm về giới tính, nam thường thích tìm tòi khám phá cái mới lạ, và có
cái nhìn tổng thể. Đối với nữ thì lại có những ưu điểm về tính tỉ mĩ, kiên nhẫn và
chi tiết.
Trong quá trình quan sát trẻ vẽ, chúng tôi nhận thấy trẻ nam có xu hướng độc
lập, tìm kiếm các hình ảnh vui nhộn, đặt những cái tên hơn mới lạ hơn trẻ nữ đơn cử
như ở đề tài “Vẽ người thân trong gia đình” trong với bức tranh “chị gái và em
trai” một trẻ nam đã vẽ đứa em trai có một con mắt to lên nhiều lần so với con mắt
68
còn lại hay tranh “bốn anh em trai” trẻ vẽ hình người là những hình tròn có mắt,
mũi, miệng, tóc và vẽ bốn đường thẳng tượng trưng cho hai tay, hai chân và không
có thân mình, ngược lại trẻ nữ thường hướng vào những hình ảnh hiền hòa, tươi tắn
thể hiện qua cái miệng cười, tay cầm bong bóng, cầm hoa... Đây là những minh
chứng khá cụ thể và đáng tin cậy. Tuy vậy tranh vẽ của trẻ nam ít chi tiết hơn trẻ
nữ, trẻ nữ vẽ đối tượng đầy đủ chi tiết, tỷ mỹ hơn trong nét vẽ, hơn màu sắc cho bức
tranh của mình. Trẻ nữ thường chú ý vào các chi tiết nút áo, cái kẹp, cái dây buộc
tóc, hình dạng cái cổ áo, cái tay áo, cái váy…trong khi đó trẻ nam thường cố gắng
vẽ nhiều đối tượng. Nhìn vào tranh vẽ, cho thấy tranh vẽ của trẻ nam các hình ảnh
được phân bố khá cân đối, một số tranh của trẻ nữ các hình ảnh thường phân bố
không đồng đều nhau và thường bị lệch. Trong các tiêu chí thì tiêu chí hình vẽ ít có
sự khác nhau về giới nhất. Cả trẻ nam và nữ đều thể hiện được những nét đặc trưng
của đối tượng vẽ, tuy nhiên nét vẽ còn cứng, một số ít thể hiện hành động của đối
tượng nhưng chưa phong phú thường là những hành động quen thuộc cô giáo đã
hướng dẫn dang tay ra, nắm tay…, phần lớn chưa có sự liên kết giữa các nhân vật
trong tranh.
Biểu đồ 2.2: Điểm trung bình tưởng tượng sáng tạo của trẻ phân tích
1.4
1.2
1
0.8
Nữ
0.6
Nam
0.4
0.2
0
Tên tranh vẽ Đặc điểm nội
Bố cục
Màu sắc
Hình vẽ
dung
theo giới tính
Như vậy, phân tích tranh vẽ thấy có sự khác biệt đôi chút giữa trẻ nam và trẻ
nữ nhưng sau khi kiểm nghiệm t với mức ý nghĩa α=0.05, tất cả các tiêu chí và tổng
69
điểm của hai nhóm trẻ thì sự khác biệt về điểm trung bình điều không có ý nghĩa
(sig luôn luôn lớn hơn α =0.05 rất nhiều). Có thể khẳng định ở lứa tuổi này mức độ
tưởng tượng sáng tạo của trẻ nam và nữ là tương đương nhau và giới tính không ảnh
hưởng đến mức độ tưởng tượng sáng tạo của trẻ mẫu giáo 5-6 trong hoạt động vẽ.
b. Thực trạng mức độ tưởng tượng sáng tạo của trẻ trên phương diện trường
Bảng 2.7: Mức độ tưởng tượng sáng tạo của trẻ phân theo trường
Các tiêu chí và
Trường Hoa Sen
Trường Hướng Dương
Trường Hoa Mai
tổng điểm
Cao
T.Bình Thấp Cao
T.Bình Thấp Cao
T.Bình Thấp
Tên tranh vẽ
7
41
2
30
20
0
17
32
1
Đặc điểm nội dung
8
42
0
22
28
0
12
38
0
Bố cục
1
49
0
4
46
0
2
48
0
Màu sắc
2
48
0
18
32
0
8
42
0
Hình vẽ
8
42
0
11
39
0
12
38
0
Tổng điểm
5
43
2
16
34
0
7
43
0
Kết quả bảng 2.7 cho thấy ở tổng điểm các tiêu chí cả 3 trường đều có số
lượng trẻ đạt mức độ tưởng tượng sáng tạo trung bình lớn cụ thể như trường Hoa
Sen, Hoa Mai có 43 trẻ, Hướng Dương Có 34 trẻ, như vậy số lượng trẻ đạt mức
trung bình ở mỗi trường đều chiếm trên 65%. Xét trên từng tiêu chí cho thấy,
trường Hướng Dương không có trẻ nào đạt mức độ thấp ở tất cả các tiêu chí, riêng ở
tiêu chí tên tranh vẽ trường Hoa Sen có 2 trẻ, trường Hoa Mai có 1 trẻ đạt mức độ
thấp. Ở cả 3 trường, số trẻ tưởng tượng sáng tạo ở mức độ cao ở các tiêu chí chiếm
số ít chẳng hạn như ở tiêu chí bố cục trường Hoa Sen có 1 trẻ, Hướng Dương có 4
trẻ, Hoa Mai có 2 trẻ.
Bảng 2.8: So sánh các tiêu chí tưởng tượng sáng tạo của trẻ theo trường
Các tiêu chí và tổng điểm
Trung bình
Sig (sig< α =0.05 có
sự khác biệt )
Hoa Sen Hướng Dương
Hoa Mai
Tên tranh vẽ
1.10
1.60
1.32
0.000
Đặc điểm nội dung
1.16
1.44
1.24
0.005
Bố cục
1.02
1.08
1.04
0.355
70
Màu sắc
1.36
1.04
1.16
0.000
Hình vẽ
1.22
1.16
1.24
0.595
Tổng điểm
6.70
5.48
6.00
0.000
Nhìn vào bảng 2.8, có thể nhận thấy điểm trung bình các tiêu chí và tổng điểm
của trường Mẫu giáo Hướng Dương trội hơn so với hai trường còn lại. Có thể phân
tích cụ thể như sau:
Ở ba tiêu chí tên tranh vẽ, tiêu chí đặc điểm nội dung, và màu sắc có sự chênh
lệch lớn điểm trung bình giữa ba trường, trong đó điểm trung bình của trường Mẫu
giáo Hướng Dương cao nhất, kế đến là Hoa Mai, thấp nhất là trường Mầm non Hoa
Sen. Kiểm nghiệm t cho thấy sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê. Quan sát thực tế
cho thấy trường Hướng Dương sử dụng vật liệu để tô màu đa dạng hơn, trong đó có
thuốc màu và hiệu quả của thuốc màu đã góp phần kích thích hứng thú của trẻ đối
với việc tô màu, thức dậy ở trẻ những xúc cảm màu sắc.
Ở tiêu chí bố cục, và hình vẽ cũng có sự chênh lệch về điểm trung bình giữa 3
trường nhưng sự chênh lệch này chưa đủ tạo ra sự khác biệt có ý nghĩa. Điểm trung
bình trên từng tiêu chí đã ảnh hưởng đến tổng điểm và dẫn đến sự khác biệt giữa 3
trường có ý nghĩa thống kê.
Tiếp tục kiểm định Tamhane`s T2 từng cặp trường Hoa Sen – Hướng Dương,
Hoa Sen – Hoa Mai, Hướng Dương – Hoa Mai thu được kết quả sau:
Bảng 2.9: So sánh các tiêu chí tưởng tượng sáng tạo của trẻ theo
từng cặp trường
Các tiêu chí và tổng
Kiểm định Tamhane`s T2 (sig< α =0.05 có sự khác biệt )
điểm
Hoa Sen - Hướng Dương Hoa Sen – Hoa Mai
Hướng Dương – Hoa Mai
Tên tranh vẽ
0.000
0.061
0.020
Đặc điểm nội dung
0.006
0.689
0.102
Màu sắc
0.000
0.134
0.067
Tổng điểm
0.000
0.042
0.007
71
Kết quả kiểm nghiệm cho thấy có sự khác biệt (sig <α =0.05) khi so sánh
trường Hướng Dương với các trường Hoa Sen, Hoa Mai trên các tiêu chí tên tranh
vẽ, đặc điểm nội dung và tổng điểm.
Dường như sự chênh lệch điểm trung bình ở tiêu chí tên tranh vẽ, đặc điểm nội
dung và màu sắc giữa trường Hoa Sen và Hoa Mai không nhiều nên chưa tạo nên sự
khác biệt về ý nghĩa thống kê. Nhưng có sự khác biệt về ý nghĩa tổng điểm các tiêu
chí giữa trường Hoa Mai và Hoa Sen.
Trường Mẫu giáo Hướng Dương, Mầm non Hoa Sen, Mầm non Hoa Mai được
thành lập khá lâu ở thành phố Biên Hòa, Đồng Nai nhưng chất lượng hằng năm
được đánh giá khác nhau. Kết quả nghiên cứu phù hợp một cách ngẫu nhiên với sự
đánh giá chất lượng của từng trường. Sự nổi trội của trường Mẫu giáo Hướng
Dương trên tất cả các tiêu chí so với hai trường còn lại. Điều này cũng dễ lý giải vì
trường Hướng Dương được công nhận đạt chuẩn quốc gia khá lâu và là trường điểm
của TP Biên Hòa, được đầu tư cơ sở vật chất khá tốt, trang thiết bị dạy học hiện đại
đặc biệt là đội ngũ giáo viên phụ trách có trình độ chuyên môn nghiệp vụ và thâm
niên công tác lâu năm từ 10 – 25 năm.
1.6
1.4
1.2
1
Hoa Sen
0.8
Hướng Dương
0.6
Hoa Mai
0.4
0.2
0
Bố cục
Màu sắc
Hình vẽ
Tên tranh vẽ Đặc điểm nội dung
Biểu đồ 2.3: Điểm trung bình tưởng tượng sáng tạo của trẻ phân tích theo trường
72
2.2.2.4. Một số yếu tố ảnh hưởng đến mức độ tưởng tượng sáng tạo
trong hoạt động vẽ của trẻ 5-6 tuổi
a. Nhận thức của giáo viên về tưởng tượng sáng tạo ở trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi trong
hoạt động vẽ.
Trên cơ sở phiếu thăm dò và qua trao đổi trực tiếp với giáo viên về biểu hiện
tưởng tượng sáng tạo của trẻ trong hoạt động vẽ, thu nhận được kết quả sau:
Hầu hết giáo viên đã có nhận định tương đối chính xác về tưởng tượng sáng
tạo trong tranh vẽ của trẻ. Tuy nhiên cũng chưa thật toàn diện, khi trao đổi với một
số giáo viên về một số tranh vẽ mà các cô cho là đạt và có tưởng tượng sáng tạo, thì
hầu hết đều có sự gợi ý của cô và ý tưởng của trẻ rất ít.
Bảng 2.10: Đánh giá của giáo viên về các hoạt động mà trẻ thể hiện
tưởng tượng sáng tạo
Các hoạt động Tỷ lệ % Thứ hạng N
Tạo hình 30 96.8 2
Làm quen với tác phẩm văn học 20 64.5 3
Âm nhạc 15 48.4 4
Khám phá khoa học 9 29 5
Làm quen với toán 7 22.5 6
Thể dục 5 16.1 7
Trò chơi 31 100 1
Các cô đều đồng ý rằng ngoài trò chơi thì hoạt động tạo hình mà đặc biệt là
hoạt động vẽ là một trong những vườn ươm để trẻ phát triển tưởng tượng sáng tạo
của mình. Nhưng trong thực tế, hầu hết họ chưa làm được điều này. Cô Nguyễn Thị
Hồng Loan – giáo viên trường Mầm non Hoa Sen tâm sự: “Công việc giáo viên
Mầm non quá nhiều, nên hầu như không có thời gian để tìm ra những biện pháp
kích thích tưởng tượng sáng tạo ở trẻ”. Trong hoạt động vẽ, đối với hình thức vẽ
theo mẫu giáo viên chủ yếu cung cấp cho trẻ một số nét vẽ tương đối căn bản về sự
vật hiện tượng được nói đến, còn khi vẽ theo đề tài trẻ thường tổng hợp những gì đã
73
được cô hướng dẫn vẽ trước đó. Các cô cũng thừa nhận rằng có một số trẻ nảy sinh
những ý tưởng rất hay và muốn thể hiện nhưng khả năng hội họa của các cô hạn chế
nên chưa thể giúp trẻ.
b. Cách thức tổ chức hoạt động vẽ của giáo viên
Chúng tôi tham dự một số hoạt động tạo hình về vẽ theo đề tài của các trường
khảo sát nhằm tìm hiểu cách thức tổ chức hoạt động vẽ và nhận thấy như sau:
- Hầu hết các giáo viên đã thực hiện các hoạt động vẽ theo chương trình, có sự
đổi mới trong phương pháp giảng dạy, và có phần chú ý đến việc phát huy khả năng
sáng tạo của trẻ.
- Với hoạt động vẽ theo đề tài, giáo viên có chuẩn bị 2-3 hình vẽ mẫu. Bắt đầu
vào giờ học, giáo viên cho trẻ đọc thơ, hát bài hát liên quan đến đề tài mà trẻ sắp vẽ
và hỏi trẻ bài hát, bài thơ nói đến vấn đề gì, kế đến cô cho trẻ xem một vài tranh
mẫu của cô và cùng cô phân tích tranh. Đồng thời, giáo viên cũng hỏi ý định một số
trẻ sẽ vẽ gì với đề tài đó. Sau đó, cô cất tranh mẫu đi và trẻ bắt đầu vẽ. Trong quá
trình trẻ vẽ, giáo viên bao quát lớp, đi đến hỏi thăm và hướng dẫn một số trẻ. Khi
trẻ vẽ xong, nộp bài lại cho cô và cùng cô nhận xét lại một số ưu điểm và nhược
điểm của một vài tranh. Nhằm tìm hiểu rõ ràng và khách quan hơn về cách thức tổ
chức hoạt động vẽ cho trẻ. Kết hợp với dự giờ, chúng tôi phát phiếu thăm dò và kết
quả thu được như sau:
Bảng 2.11: Đánh giá của giáo viên về các yếu tố nhằm nâng cao tưởng tượng
sáng tạo của trẻ trong hoạt động vẽ
Quan trọng
Ít quan trọng
Không quan trọng
N
%
N
%
N
%
Các tiêu chí sau
Tạo hứng thú cho trẻ
31
100
0
0
0
0
Tổ chức cho trẻ quan sát mẫu 28
90.3
3
9.7
0
0
Củng cố và gợi nhớ hình ảnh đã quan sát
20
64.5
11
35.5
0
0
Hướng dẫn và cung cấp kĩ thuật miêu tả
10
32.3
17
54.8
12.9
4
74
Cho trẻ tự do thể hiện
15
48.3
7
22.6
9
29.1
Đánh giá sản phẩm tạo hình
19
61.3
12
38.7
0
0
Kết quả nghiên cứu cho thấy, 100% giáo viên cho rằng việc tạo hứng thú cho
trẻ là quan trọng. Liệu có sự tương đồng số liệu này và kết quả thực tế. Khảo sát
thực tế cho thấy giáo viên không có nhiều thời gian để đầu tư, tìm tòi suy nghĩ và
cũng chưa thực sự nắm vững các biện pháp gây hứng thú cho trẻ trong hoạt động
vẽ. Vấn đề tạo hứng thú cho trẻ là một trong những vấn đề trọng yếu để đưa trẻ đến
với nghệ thuật. Sự hứng thú say mê sẽ là chất xúc tác tạo nên các tác phẩm nghệ
thuật. Các biện pháp liên quan đến phát triển cảm xúc, hứng thú, tính tích cực của
trẻ trong khi vẽ chưa được giáo viên sử dụng. Chính vì vậy, khó duy trì được hứng
thú của trẻ trong suốt thời gian vẽ. Không khí buổi học thường chỉ sinh động lúc
đầu giờ, càng về sau các cháu càng tỏ ra mệt mỏi, làm xong rồi đứng lên, không
thích ngồi ngắm nghía và phát triển thêm ý tưởng.
Có đến 90.3% giáo viên đánh giá yếu tố cho trẻ quan sát mẫu là quan trọng và
35.5% giáo viên cho rằng yếu tố cũng cố và gợi nhớ hình ảnh đã quan sát là không
quan trọng, khi trao đổi với giáo viên thì hầu như mục tiêu các cô thường hướng
đến là trẻ thể hiện được đối tượng miêu tả, nội dung của đề tài, ít chú trọng đến sự
sáng tạo.
Trước khi vẽ cô có hỏi một số cháu ý định vẽ và trong quá trình thực hiện giáo
viên có bao quát lớp, nhắc nhở trẻ thực hiện, nhưng chưa thực sự quan tâm đến từng
trẻ. Khi cháu vẽ cô ít chú ý phát triển ý tưởng của cháu hoặc nâng cao yêu cầu hơn
mà thường chỉ hướng về kĩ năng vẽ và yêu cầu trẻ vẽ thêm một số chi tiết như ông
mặt trời, mây hoặc tô màu hình vẽ, tô kín toàn bộ nền...
Trong quá trình quan sát trẻ vẽ, giáo viên chủ quan nhận định ý tưởng của trẻ
một cách vội vàng rồi điều khiển hay gợi ý điều chỉnh “Vẽ cây cối con vẽ như thế
nào nhỉ, hôm trước cô đã hướng dẫn rồi”. Đôi khi giáo viên làm trẻ bị chi phối, gạt
bỏ ý tưởng ban đầu và làm theo cô. Có nhiều trẻ suy nghĩ về đối tượng mà nó muốn
vẽ nhưng không biết phải vẽ thế nào, có trẻ hỏi cô, cô lại bảo trẻ “Vẽ cái đó khó lắm
con chưa vẽ được đâu, con vẽ cái khác nhé!”. Đối với những cháu chưa thể hiện
75
được ý tưởng, giáo viên thường áp đặt trẻ vẽ như thế này, như thế kia. Nếu điều này
xảy ra thường xuyên, lâu dần sẽ tạo cho các cháu có tâm lý ỷ lại, không tự tin.
Phần lớn khi nghĩ về tính sáng tạo thì mỹ thuật là lĩnh vực đầu tiên mà họ nghĩ
đến. Đáng tiếc thay, lĩnh vực này thường ít có sự sáng tạo bởi vì giáo viên tham gia
chỉ đạo quá nhiều. Giáo viên áp đặt các vật liệu tạo hình trên bàn, dạy trẻ cách sử
dụng chúng, sau đó đứng cạnh bàn theo dõi để đảm bảo các em làm theo những lời
chỉ dẫn của họ. Không có gì là tự trẻ cả. Điều đó không có nghĩa là loại bỏ những
hoạt động phát triển các kĩ năng thao tác, nhưng nếu lạm dụng thì mất đi tính sáng
tạo. Vai trò của giáo viên có một vị trí quan trọng là tạo ra một môi trường nghệ
thuật trong lớp học để nuôi dưỡng và phát triển năng lực nghệ thuật của trẻ mầm
non. Tuy nhiên có nhiều giáo viên rất e ngại khả năng vẽ của mình nên thường tổ
chức qua loa.
Yếu tố then chốt để tạo ra môi trường khuyến khích phát triển tưởng tượng
sáng tạo là sự tự do. Sự tự do tâm lý tạo điều kiện quan trọng để trẻ suy nghĩ, nuôi
dưỡng những ý tưởng, đẩy mọi ý tưởng lên đến “tột cùng” của nó. Tuy nhiên, kết
quả khảo sát cho thấy có đến 22.6% và 29.1% giáo viên cho rằng yếu tố cho trẻ
được tự do thể hiện là ít quan trọng và không quan trọng. Đây có thể xem là một
trong những nguyên nhân kiềm hãm sự sáng tạo của trẻ.
Việc tổ chức đánh giá sản phẩm còn đơn điệu cũng là một nguyên nhân đáng
lưu ý. Giáo viên thường quan tâm sản phẩm vẽ của trẻ nhiều ở các tiêu chí như tô
đều, vẽ nhiều hình, hoặc vận dụng những kĩ năng miêu tả… Giáo viên chủ yếu khen
các bài vẽ đẹp, nhắc nhở các bài chưa đạt theo chủ quan của mình, chưa có kế
hoạch đề ra những tiêu chí đánh giá nhất định. Tổ chức nhận xét các bài vẽ của trẻ
vào cuối giờ thường không có sự hấp dẫn, trẻ im lặng ngồi nghe cô nhận xét.
c. Các biện pháp giáo viên tác động để phát triển khả năng tưởng tượng sáng tạo
của trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi hoạt động vẽ
Cùng với phiếu thăm dò ý kiến, chúng tôi tham dự một số hoạt động học có
chủ đích trong đó hoạt động vẽ theo đề tài là hoạt động trọng tâm nhằm tìm hiểu
những biện pháp giáo viên đã áp dụng để phát huy khả năng tưởng tượng sáng tạo
76
của trẻ trong hoạt động vẽ.Nhìn chung, các giáo viên đều áp dụng những biện pháp
phát huy tưởng tượng sáng tạo, tuy nhiên mức độ và chất lượng các biện pháp được
sử dụng thì khác nhau. Qua phân tích đã thu được kết quả như sau:
Những biện pháp được tất cả các giáo viên sử dụng một cách thường xuyên đó
là sử dụng học cụ trực quan, bồi dưỡng kĩ năng, kĩ xảo tạo hình.
Bảng 2.12 : Các biện pháp giáo viên sử dụng để nâng cao tưởng tượng sáng tạo
của trẻ trong hoạt động vẽ
Các biện pháp
Thường sử dụng
Ít sử dụng Không sử dụng
n
%
n
%
N
%
Sử dụng các học cụ trực quan (tranh
31
100
0
0
0
0
ảnh, vật thật…)
Sử dụng ngôn ngữ biểu cảm
51.6
15
48.4
16
0
0
Sử dụng hệ thống kĩ năng quan sát
38.7
19
61.3
12
0
0
Bồi dưỡng các kĩ năng, kĩ xảo tạo
100
0
0
31
0
0
hình.
Kết quả bảng 2.12 cho thấy đối với hai biện pháp: sử dụng ngôn ngữ biểu cảm,
sử dụng hệ thống kĩ năng quan sát thì chỉ có 51.6% và 38.7% giáo viên thường sử
dụng. Việc hạn chế sử dụng ngôn ngữ biểu cảm, kĩ năng quan sát sẽ làm giảm cảm
xúc thẩm mỹ và vốn biểu tượng của trẻ về đối tượng.
Khi tìm hiểu sâu hơn về biện pháp sử dụng học cụ quan của các giáo viên sử
dụng kết quả thu được như sau:
Giáo viên thường sử dụng các hình thức như vẽ mẫu trên bảng của cô, tranh vẽ
mẫu của cô, tranh minh họa, còn các phương tiện trực quan khác thì số giáo viên ít
sử dụng và không sử dụng chiếm tỷ lệ cao. Đặc biệt là tranh nghệ thuật và tranh vẽ
của trẻ có đến 83.9% và 87.1% giáo viên không sử dụng vì giáo viên quan niệm
rằng cho trẻ xem những loại này trẻ sẽ rất khó vẽ và việc tìm kiếm tranh nghệ thuật
rất khó khăn họ không đủ thời gian sưu tầm, còn tranh của trẻ thì thường không có
gì nổi bật, hấp dẫn và đẹp. Các cô đã quên rằng đối với các tác phẩm nghệ thuật,
77
không bắt buộc là trẻ phải vẽ được như tác phẩm, mà quan trọng là là chúng ta cho
trẻ được nhìn thấy những cái đẹp, khám phá những cái độc đáo của mỗi tác phẩm,
đồng thời rung động và biết thưởng thức những cái đẹp để từ đó có thể chọn lựa và
đưa vào sản phẩm của mình.
Các đoạn video, vật thật hay đồ chơi cũng được giáo viên chú ý để tạo thêm
cho trẻ vốn biểu tượng phong phú, nhưng vẫn còn tỉ lệ khá lớn các giáo viên rất ít
sử dụng các hình thức này như có đến 67.4% giáo viên ít sử dụng vật thật, 58.1% ít
sử dụng đồ chơi, 25.8% ít sử dụng và 19.4% không sử dụng video. Trẻ được nhìn
ngắm hoạt động trong môi trường thiên nhiên là một điều rất thích thú say mê, hình
thức này có tác dụng mở rộng tầm hiểu biết của trẻ, làm giàu vốn biểu tượng, góp
phần vào việc phát huy khả năng tưởng tượng sáng tạo của trẻ, nhưng việc cho trẻ
tham quan rất hầu như không được thực hiện.
Bảng 2.13: Các hình thức giáo viên sử dụng trong việc hình thành biểu tượng về
đối tượng vẽ cho trẻ
Các hình thức
Thường sử dụng
Ít sử dụng
Không sử dụng
N
%
N
N
%
%
31
100
0
0
0
0
Vẽ mẫu trên bảng
10
32.6
21
0
67.4
0
Vật thật
13
41.9
18
0
58.1
0
Đồ chơi
31
100
0
0
0
0
Tranh vẽ minh họa
0
0
5
16.1
26
83.9
Tranh nghệ thuật
31
100
0
0
0
0
Tranh vẽ mẫu của cô
0
0
4
12.9
27
87.1
Tranh vẽ của trẻ
8
25.8
6
19.4
Các đoạn video có liên quan
17
54.8
0
0
0
0
31
100
Tham quan
78
Thực tế, đi dự giờ một số lớp chúng tôi nhận thấy rằng tranh vẽ mẫu của cô
chưa đạt yêu cầu cao: mẫu của cô vẽ theo dạng sơ đồ hóa và nội dung thì đơn giản,
đôi lúc chưa nổi bật, chất liệu tạo nên còn mờ nhạt, nét vẽ chưa sinh động, chưa thể
hiện được sự hấp dẫn lôi cuốn trẻ ví dụ với đề tài vẽ người thân trong gia đình, cô
giáo giới thiệu cho trẻ tranh mẫu vẽ về hai mẹ con nắm tay nhau trong đó hình vẽ
khá đơn giản và chưa được tô màu. Mặt khác, giáo viên nếu tiết dạy nào có chi tiết
này thì giáo viên lại sử dụng tranh mẫu trên. Điều này đã làm hạn chế việc gây sự
hứng thú cho trẻ và cung cấp các biểu tượng phong phú đối với hoạt động vẽ.
Trẻ được quan sát mẫu đầu giờ của giáo viên, các câu hỏi gợi nhớ khai thác
vốn kinh nghiệm của trẻ còn sơ sài do đó phần lớn trẻ chỉ phản ánh được những
thuộc tính trong cấu trúc của đối tượng vẽ, sản phẩm của trẻ khá nghèo nàn về nội
dung và theo khuôn mẫu của cô giáo.
Dạy tạo hình cho trẻ không phải là cung cấp cho trẻ những kiến thức chính xác
về mặt khoa học. Mẫu của cô sử dụng để hướng dẫn gợi ý cho trẻ tự tìm phương
thức thể hiện theo suy nghĩ của trẻ chứ không phải sao chép. Nếu giáo viên thường
xuyên phân tích mẫu và làm mẫu quá chi tiết sẽ kiềm hãm hoạt động của trẻ, ảnh
hưởng đến tính tự lực, trí tưởng tượng sáng tạo ở trẻ.
Mặt khác, các cô khi phân tích tranh vẽ, vật mẫu còn mang tính liệt kê, rất ít
dùng tính từ và những từ gợi cảm xúc miêu tả vẻ đẹp của sự vật, hiện tượng. Giáo
viên tập trung chủ yếu cho trẻ quan sát phân tích nội dung của tranh như “Các con
thấy bức tranh này có đẹp không?”, “Nhìn vào trong tranh, các con thấy những
gì?”. Mặt khác, giáo viên ít chú ý đến việc làm phong phú và đa dạng hóa các cử
động, vận động biểu cảm của mình. Sử dụng nhiều lời hội thoại như một khuôn
mẫu: “Các con thấy có đẹp không?”, “Các con thấy có thích không?”… lặp đi lặp
lại hàng ngày làm giảm đi tác dụng lôi cuốn trẻ. Ngôn ngữ của giáo viên phần lớn
thể hiện được diễn cảm chứ chưa sử dụng nhiều các từ ngữ mang tính biểu cảm.
Tóm lại việc sử dụng học cụ trực quan ở các tiết lên lớp chưa phong phú đa
dạng chủ yếu là tranh ảnh, thỉnh thoảng mới có các đoạn video hay vật thật, chất
lượng các phương tiện trực quan chưa cao.
79
N. P.Xaculina đã quan niệm rằng: “Dạy trẻ kĩ năng, kĩ xảo tạo hình là tạo điều
kiện cho chúng thể hiện hình tượng một cách sáng tạo theo ấn tượng của
mình”.[23, 28] Nhưng thực tế cho thấy bồi dưỡng các kĩ năng, kĩ xảo tạo hình giáo
viên tập trung vào việc hướng dẫn trẻ vẽ sự vật với một biểu tượng nhất định ví dụ
như ngôi nhà: vẽ hình vuông phía trên vẽ hình tam giác, vẽ 2 cửa sổ và một cửa lớn.
Việc cho trẻ sử dụng phổ biến các hình ảnh khuôn mẫu mang tính sơ đồ chung sẽ
làm cho quá trình tạo hình đối với trẻ trở nên quá dễ dàng, không kích thích hứng
thú hoạt động. Nó làm hình thành dần ở trẻ thói quen thể hiện bằng cách sao chép
mà không cần nỗ lực quan sát, phân tích tìm hiểu, đối tượng miêu tả, không cần suy
ngẫm, quan tâm mối quan hệ giữa hình ảnh được tạo nên với hiện thực xung quanh.
Phần đông giáo viên chỉ chú trọng vào khâu thể hiện chứ chưa đặt ra các yêu
cầu cụ thể, chưa tìm kiếm các nội dung, phương pháp hình thức để tăng cường vốn
cảm thụ, làm giàu vốn biểu tượng, làm nảy sinh ở trẻ ý tưởng sáng tạo. Giáo viên
thường rèn cho trẻ một số kĩ năng tạo hình có tính chất kĩ thuật, cung cấp cho trẻ
một số hình ảnh khuôn mẫu để trẻ nhanh chóng tạo ra sản phẩm mong muốn. Đồng
thời việc đánh giá sự thể hiện của trẻ cũng theo các khuôn mẫu chuẩn chứ chưa thực
sự xem xét đến các đặc điểm và cách thức biểu cảm của từng cá nhân trẻ.
Chất lượng và sức hấp dẫn, vẻ độc đáo trong các sản phẩm tạo hình của trẻ
chịu ảnh hưởng trực tiếp của năng lực tri giác, của cách thức nhà giáo dục tổ chức
quá trình tri giác. Nhưng qua kết quả thăm dò cho thấy có đến 61.3% giáo viên ít
bồi dưỡng kĩ năng quan sát cho trẻ. Khi cho trẻ quan sát, giáo viên thường tập trung
vào một số chi tiết đặc trưng vì các cô e rằng trẻ chỉ có thể vẽ các chi tiết đơn giản
vì thế hạn chế việc phát huy những biểu tượng đặc sắc dưới góc nhìn của trẻ về sự
vật hiện tượng.
Bên cạnh cung cấp biểu tượng cho trẻ thì việc tạo động cơ, hứng thú cho trẻ
cũng là khâu quan trọng trong việc phát huy tưởng tượng sáng tạo của trẻ trong hoạt
động vẽ bởi vì khi trẻ cảm thấy hứng thú thật sự và giàu ý tưởng thì trẻ sẽ tích cực
hoạt động, tập trung mọi sức lực của mình để thực hiện yêu cầu một cách chủ động,
sáng tạo theo cách riêng của trẻ. Qua kết quả khảo sát thể hiện như sau:
80
Hầu như các cách thức tạo động cơ, hứng thú nêu ra đều được giáo viên sử
dụng ngoại trừ tổ chức cho trẻ vẽ ngoài trời. Tất cả hoạt động vẽ của trẻ được tổ
chức trong lớp học, việc cho trẻ vẽ ngoài trời hầu như không có và nguyên nhân là
do cơ sở vật chất của nhà trường như không có khoảng không gian thuận lợi để trẻ
vẽ, không có giá vẽ…Đây là một hạn chế. Nếu đứa trẻ được thay đổi môi trường
được ra ngoài hít thở không khí thiên nhiên, được ngắm phong cảnh, được vẽ trên
giá vẽ…thì sẽ góp phần mang lại cho trẻ niềm vui, tạo trạng thái phấn khởi, tạo môi
trường thuận lợi cho tưởng tượng sáng tạo phát huy.
Bảng 2.14: Các cách thức giáo viên sử dụng để tạo động cơ, hứng thú cho trẻ
trong hoạt động vẽ
Thường sử dụng
Ít sử dụng
Không sử dụng
Các cách thức
Sử dụng học cụ trực quan
N % N % N %
Tạo tình huống có vấn đề
24 77.5 7 22.5 0 0
Bài hát
9.7 22 70.9 19.4 3 6
Bài thơ
31 100 0 0 0 0
Kể chuyện
31 100 0 0 0 0
Trò chơi
5 9 16.1 17 54.8 29.1
Khích lệ, động viên
23 74.2 8 0 25.8 0
Trẻ được vẽ ngoài trời
28 90.3 3 0 9.7 0
0 0 0 0 31 100
Bảng 2.14 cho thấy việc sử dụng bài hát, bài thơ được tất cả giáo viên đánh giá
là thường sử dụng, và sự khích lệ động viên được giáo viên sử dụng một cách
thường xuyên đạt tỷ lệ cao 90.3%. Ngoài ra, một số cách thức như tạo tình huống có
vấn đề, trò chơi cũng được tỷ lệ khá giáo viên thường sử dụng. Ngược lại, việc hình
thành động cơ, tạo hứng thú cho trẻ qua kể chuyện, qua tạo tình huống có vấn đề chỉ
có 16.1% và 9.7% giáo viên thường sử dụng.
81
Có đến 70.9% giáo viên ít sử dụng và 19.4% giáo viên không sử dụng tạo tình
huống có vấn đề. Qua trao đổi một số giáo viên cho rằng tạo tình huống có vấn đề là
kích thích trẻ suy nghĩ mà vẽ đẹp là vẽ giống thật mà giống thật thì cần quá trình
nhớ lại và kĩ năng là đủ. Quan điểm này chưa chuẩn với mục tiêu hướng đến của
hoạt động nghệ thuật tạo hình, hình tượng nghệ thuật phản ánh hiện thực khách
quan nhưng theo quan điểm chủ quan. Ngoài ra, qua thực tế dự giờ chúng tôi nhận
thấy một giáo viên có đặt những câu hỏi phát huy tưởng tượng của trẻ, nhưng phần
lớn chủ yếu là tưởng tượng tái tạo, ít có những câu hỏi đào sâu phát triển khả năng
sáng tạo ở trẻ.
Hoạt động chủ đạo của trẻ ở lứa tuổi này là hoạt động vui chơi, nếu tạo hình
theo yêu cầu của giáo viên thì trẻ sẽ khó thực hiện một cách hứng thú và đạt hiệu
quả. Nhưng nếu sử dụng biện pháp trò chơi trong hoạt động vẽ thì đối tượng tạo
hình sẽ hấp dẫn hơn và trở thành đối tượng hoạt động của cá nhân trẻ chứ không
còn là yêu cầu của giáo viên, trò chơi là một biện pháp hữu hiệu giúp trẻ thực hiện
hoạt động vẽ một cách tự nguyện nhưng có đến 25.8% giáo viên thừa nhận ít sử
dụng trò chơi trong việc tạo động cơ, hứng thú cho trẻ.
Qua tham dự các hoạt động vẽ, trao đổi với giáo viên chúng tôi nhận thấy
nhiệm vụ tạo cảm xúc cho trẻ trong hoạt động vẽ thường được giáo viên đồng nhất
với việc sử dụng một trò chơi hay một bài hát bài thơ trong vài phút ở ban đầu. Sự
trau chuốt của giáo viên ở phần này chủ yếu là chọn sao cho trò chơi hay bài hát có
nội dung gần gũi với đề tài sắp vẽ. Có trường hợp khi sử dụng những biện pháp như
bài hát, trò chơi, câu đố… một số giáo viên mới chỉ dừng lại ở mức độ gây hứng thú
lúc đầu giờ chứ chưa sử dụng chúng như một biện pháp tạo cảm xúc, gây ấn tượng
đối với đối tượng sắp vẽ của trẻ. Tạo được cảm xúc, hứng thú qua quan sát những
sự vật hiện tượng là điều rất cần thiết, việc cho trẻ tiếp xúc với thế giới xung quanh
phải bằng nhiều hình thức khác nhau. Thế nhưng thực tế, các hình thức cung cấp
vốn biểu tượng cho trẻ còn đơn điệu phần lớn là tranh ảnh, hình vẽ mẫu của cô,
hiếm khi có tranh, ảnh nghệ thuật, video, vật thật, mô hình hay đi tham quan.
82
Biện pháp khích lệ, động viên cũng được giáo viên quan tâm và sử dụng một
cách hiệu quả. Lời khen ngợi, cổ vũ của giáo viên đã tiếp sức, kích thích hứng thú
của trẻ biểu lộ ra ở vẻ mặt rạng rỡ, tích cực suy nghĩ, giơ tay phát biểu ý kiến. Tuy
nhiên trong quá trình trẻ vẽ, giáo viên chưa thật sự cổ vũ động viên những ý tưởng
của trẻ, mỗi hướng dẫn của cô đối với cá nhân trẻ chưa dựa trên ý đồ khả năng của
từng trẻ.
2.2.2.5. Đánh giá của giáo viên về các biện pháp có thể nâng cao
tưởng tượng sáng tạo trong hoạt động vẽ của trẻ 5-6 tuổi
Khi được hỏi ý kiến về các biện pháp có thể áp dụng để nâng cao tưởng tượng
sáng tạo cho trẻ trong hoạt động vẽ, các giáo viên đã đánh giá như sau:
Bảng 2.15: Đánh giá của giáo viên về các biện pháp nâng cao tưởng tượng sáng
tạo của trẻ trong hoạt động vẽ
Các biện pháp
Tính khả thi
N
%
Tăng cường tổ chức cho trẻ tiếp xúc, quan sát sự vật hiện tượng
31
100
trong môi trường xung quanh.
Gây hứng thú cho trẻ bằng các trò chơi, câu đố, chuyện kể, bài thơ,
31
100
khích lệ động viên trẻ.
Tổ chức cho trẻ xem các cuộc triển lãm để kích thích ở trẻ cảm xúc
6
19.4
thẩm mĩ.
Bồi dưỡng các kĩ thuật miêu tả.
31
100
Tăng cường việc cung cấp các biểu tượng cho trẻ bằng ngôn ngữ.
31
100
Giúp đỡ trẻ thể hiện những ý tưởng của mình.
21
67.7
Tổ chức vẽ ngoài trời, vẽ ở hoạt động góc.
19
61.3
Tổ chức cho trẻ quan sát, miêu tả, nhận xét sản phẩm vẽ của trẻ với
31
100
đời sống.
Qua bảng 2.15, chúng ta thấy với các biện pháp như tổ chức cho trẻ xem các
cuộc triển lãm để kích thích ở trẻ cảm xúc thẩm mĩ, tổ chức các hình thức vẽ ngoài
trời, vẽ ở hoạt động góc, giúp đỡ trẻ thể hiện những ý tưởng của mình thì một số
83
giáo viên cho là không có khả thi để áp dụng trong thực tế giảng dạy, đặc biệt là
biện pháp tổ chức cho trẻ xem các cuộc triển lãm để kích thích ở trẻ cảm xúc thẩm
mĩ có đến 80.7% giáo viên cho rằng không thể áp dụng. Qua trao đổi hầu như
giáo viên ít biết đến các cuộc triển lãm tranh dành cho trẻ em mẫu giáo, tranh vẽ của
trẻ ở những năm trước cũng có những bài đạt chất lượng cao nhưng trường
không có tập trung lưu giữ lại nên không thể tổ chức triển lãm tranh được vì thế chỉ
có 19.4% giáo viên đánh giá biện pháp này có khả thi. Với biện pháp tổ chức vẽ
ngoài trời họ cho rằng cũng khó thực hiện vì cơ sở vật chất nhà trường hạn chế như
là nơi vẽ, nguyên vật liệu để vẽ… Ngoài ra giáo viên cũng rất e ngại khi tổ chức cho
trẻ vẽ vì cho rằng đây là hoạt động mà cần nhiều đến năng khiếu để đạt kết quả tốt.
Vì thế, biện pháp giúp đỡ trẻ thể hiện những ý tưởng của mình và biện pháp vẽ ở
hoạt động góc chỉ có 67.7% và 61.3% giáo viên cho rằng có thể thực hiện để nâng
cao mức độ tưởng tượng sáng tạo thể hiện trong tranh vẽ.
TIỂU KẾT
Qua nghiên cứu thực trạng mức độ tưởng tượng sáng tạo của trẻ 5-6 tuổi
trong hoạt động vẽ, có thể rút ra một số tiểu kết sau:
- Mức độ tưởng tượng sáng tạo của trẻ thông qua tranh vẽ ở mức trung bình
chiếm tỉ lệ lớn, có đến 80% trẻ đạt mức trung bình, mức độ cao chỉ có 18.7%, vẫn
còn 1.3% trẻ ở mức thấp. Nhìn chung, số trẻ xếp loại trung bình ở tất cả các tiêu chí
đều chiếm tỉ lệ trên 60% tức đa số trẻ đạt mức trung bình ở các tiêu chí đánh giá
mức độ tưởng tượng sáng tạo.
- Mức độ tưởng tượng sáng tạo của trẻ nam và nữ ở độ 5-6 tuổi không có sự
khác biệt. Dựa trên tổng điểm và điểm số đánh giá mức độ tưởng tượng sáng tạo
qua từng tiêu chí thì mức độ tưởng tượng sáng tạo của trẻ nữ và trẻ nam không có
sự chênh lệch đáng kể. Điểm trung bình các tiêu chí của trẻ nam là 6.0294, nữ là
6.0854 (chênh 0.056 điểm).
So sánh trên phương diện trường khảo sát, mức độ tưởng tượng sáng tạo của
trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi ở trường Hướng Dương trội hơn so với trường Hoa Mai và
Hoa Sen. Điều đó thể hiện ở sự chênh lệch về điểm trung bình các tiêu chí và tổng
84
điểm, và có sự khác biệt giữa trường Hướng Dương, Hoa Mai và Hoa Sen trên các
tiêu chí tên tranh vẽ, đặc điểm nội dung và tổng điểm.
Bên cạnh đó, mức độ tưởng tượng sáng tạo của trẻ vẫn chưa cao, xuất phát từ
một số nguyên nhân chính sau:
- Phần lớn giáo viên mới tập trung sử dụng các biện pháp dạy học đặc trưng
cho giáo dục mầm non nói chung, ít mang đặc thù của hoạt động vẽ.
- Đồ dùng dạy học chưa được quan tâm, đầu tư ở các bài dạy.
- Giáo viên chưa có những biện pháp tích cực, thích hợp để tác động kịp thời
đến từng cá nhân trẻ, ít tạo cơ hội cho trẻ bộc lộ và phát triển ý tưởng.
Việc tìm ra các biện pháp tác động phù hợp khắc phục những hạn chế trên
chính là những giải pháp tích cực nhằm nâng cao chất lượng hoạt động vẽ ở các
trường mầm non, và nâng cao khả năng tưởng tượng sáng tạo của trẻ thông qua hoạt
động này.
85
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO MỨC ĐỘ
TƯỞNG TƯỢNG SÁNG TẠO CỦA TRẺ TRONG HOẠT
ĐỘNG VẼ
3.1. Một số biện pháp nâng cao mức độ tưởng tượng sáng tạo cho trẻ 5-6
tuổi trong hoạt động vẽ
3.1.1. Một vài cơ sở lý luận nâng cao mức độ tưởng tượng sáng tạo của
trẻ trong hoạt động vẽ
3.1.1.1. Khái niệm biện pháp
Theo từ điển tiếng Việt của tác giả Nguyễn Như Ý thì biện pháp là cách làm,
cách giải quyết một vấn đề cụ thể. [53,67]
Theo từ điển tiếng Việt của Trung tâm Ngôn ngữ và Văn hóa Việt Nam thì
biện pháp là cách làm, cách thức tiến hành, giải quyết một vấn đề cụ thể. [47,161]
Từ những khái niệm trên có thể hiểu biện pháp là cách làm, cách giải quyết
một vấn đề cụ thể, hay hướng tới giải quyết nhiệm vụ, giải quyết từng phần cụ thể.
Trong một số trường hợp biện pháp có thể giải quyết được một số nhiệm vụ khác
nhau.
3.1.1.2. Cơ sở để xây dựng một số biện pháp nâng cao tưởng tượng
sáng tạo của trẻ trong hoạt động vẽ
Một nhiệm vụ cơ bản của hoạt động tạo hình ở lứa tuổi mầm non là hướng
dẫn các em tạo ra cái đẹp và biết thưởng thức cái đẹp. Một trong những tiêu chuẩn
để đánh giá đó là cái mới, sự phong phú và tính đa dạng. Cái đẹp có “mẫu số”
chung nhưng không có một đáp số duy nhất. Do đó vai trò tưởng tượng sáng tạo
trong hoạt động này là rất quan trọng.
86
Việc tìm ra một số biện pháp nhằm nâng cao mức độ tưởng tượng sáng tạo cho
trẻ 5-6 tuổi trong hoạt động vẽ đã được chúng tôi xây dựng trên những cơ sở lý luận
và thực tiễn sau:
- Khái niệm tưởng tượng sáng tạo
- Đặc điểm tưởng tượng sáng tạo của trẻ 5-6 tuổi trong hoạt động vẽ.
- Thực trạng mức độ tưởng tượng sáng tạo của trẻ 5-6 tuổi trong hoạt động vẽ
ở một số trường Mầm non tại Thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai, và một số
nguyên nhân của thực trạng.
- Quan điểm đổi mới trong giáo dục nói chung và giáo dục Mầm non nói riêng.
Từ những năm 90 của thế kỉ XX bậc học Mầm non Việt nam đã tiến hành đổi mới
giáo dục mầm non theo xu hướng tích hợp theo chủ đề. Giáo dục tích hợp theo chủ
đề hướng đến việc:
+ Tăng cường cho trẻ khám phá thế giới xung quanh bằng các giác quan trên
cơ sở đó phát triển ngôn ngữ, tư duy và óc tưởng tượng của trẻ.
+ Quan tâm đến đặc điểm cá nhân của trẻ, cá biệt hóa trong công tác giáo dục
trẻ ở trường mầm non.
+ Tăng cường tổ chức các hình thức hoạt động cá nhân, theo nhóm nhỏ, nhóm
vừa. Vận dụng các hình thức tổ chức hoạt động giáo dục linh hoạt và mềm dẻo phù
hợp với khả năng thực của trẻ cũng như đặc điểm vùng, miền, địa phương…
+ Tạo cơ hội và điều kiện cho trẻ được trải nghiệm, được hoạt động và lĩnh hội
theo nhiều cách, đặc biệt lưu ý đến việc trẻ học như thế nào hơn là trẻ học cái gì.
Không tách rời giữa học và chơi, khuyến khích giáo viên sử dụng nhiều phương
pháp giáo dục khác nhau, phát huy tính tích cực của trẻ, đào sâu sự suy nghĩ của trẻ.
[16, 49, 50]
3.1.2. Đề xuất các biện pháp nâng cao khả năng tưởng tượng sáng tạo
cho trẻ 5-6 tuổi trong hoạt động vẽ
3.1.2.1. Biện pháp 1: Giáo viên tổ chức cho trẻ các bài tập, trò chơi
“tưởng tượng có định hướng” nhằm giúp trẻ hình thành thói quen
87
độc lập trong việc tìm kiếm ý tưởng, tạo ra những biểu tượng, những
cách biểu đạt linh hoạt, độc đáo.
a. Mục tiêu và ý nghĩa
Việc tổ chức và hướng dẫn các hoạt động sáng tạo của trẻ có ý nghĩa quyết
định đối với sự phát triển tưởng tượng của trẻ mẫu giáo. Vì thế, áp dụng các bài tập
“tưởng tượng có định hướng” sẽ giúp cho trẻ có cơ hội hình thành các biểu tượng,
có những cách biểu đạt linh hoạt và độc đáo trong ý nghĩ.
Việc sử dụng biện pháp này trước khi trẻ tiến hành vẽ sẽ giúp trẻ hồi tưởng lại,
sáng tạo, trau chuốt các đối tượng sắp vẽ một cách sống động, độc đáo, riêng biệt và
đầy hứng thú.
b. Nội dung
Trong phần thực nghiệm, giáo viên đã giúp trẻ tưởng tượng có định hướng
bằng một số bài tập sau:
- Giáo viên làm phong phú trí tưởng tượng của trẻ bằng cách tạo cảm xúc hay
mô tả bằng lời những hình ảnh về sự vật hiện tượng để trẻ có thể tưởng tượng sáng
tạo ra những hình ảnh sinh động và độc đáo.
+ Dùng âm nhạc, bài thơ, bài hát để tạo cảm xúc kích thích trí tưởng tượng của
trẻ.
+ Yêu cầu trẻ nhắm mắt lại và dùng lời dẫn dắt để đưa trẻ vào thế giới tưởng
tượng.
+ Cho trẻ quan sát những đám mây, những cành cây…và tưởng tượng.
- Sau khi trẻ học được một bài hát, bài thơ, bài đồng dao, giáo viên yêu cầu trẻ
tiến hành các vận động thích hợp với cảm xúc và nội dung của bài hát, bài thơ, bài
đồng dao. Chẳng hạn như nếu bài hát thể hiện sự vui sướng hãy để trẻ thể hiện
những vận động vui vẻ mà chúng cảm thấy yêu thích như nhảy, vỗ tay…
- Giáo viên tổ chức một số trò chơi hóa trang, trò chơi đóng vai: vương miện
lấp lánh, những hình rối ngộ nghĩnh. (phụ lục 3)
88
- Giáo viên tiến hành một số hoạt động vẽ theo ý thích và yêu cầu trẻ bắt đầu
sáng tác các câu chuyện về những hình ảnh của mình trong bức tranh.
- Giáo viên tổ chức một số bài tập vẽ nhằm phát triển trí tưởng tưởng tượng
của trẻ: chậu hoa của bạn Lan, ngựa qua sông, mơ ước của chuột, nhà thiết kế. (phụ
lục 3).
- Giáo viên cung cấp một số vật liệu vẽ ở góc tạo hình, và trẻ có thể được tự do
dùng chúng, khuyến khích trẻ sử dụng chúng theo cách mà mình tự nghĩ ra như
khuyến khích trẻ thử nghiệm cách trộn màu nước lúc đầu hai màu, rồi sau đó ba
màu, bốn màu…
c. Yêu cầu
- Giáo viên cần tạo cho trẻ có cơ hội tự mình tìm ra các ý tưởng theo cách của
chúng mà không đòi hỏi sự chỉ đạo và can thiệp nào.
- Khả năng sáng tạo chỉ đâm chồi nảy lộc khi được chấp nhận và khuyến
khích, vì thế giáo viên hoan nghênh những gì trẻ thực hiện như là chính bản thân
trẻ.
d. Cách thực hiện
- Những ngày trước hoạt động vẽ thực nghiệm, giáo viên lồng ghép các bài
tập “tưởng tượng có định hướng” vào trong các hoạt động âm nhạc, tạo hình, trò
chơi đóng vai, trò chơi hóa trang. Cụ thể:
+ Với hoạt động âm nhạc, giáo viên yêu cầu trẻ tiến hành các vận động thích
hợp với cảm xúc và nội dung của bài hát.
+ Với hoạt động làm quen với tác phẩm văn học, giáo viên yêu cầu trẻ tiến
hành các vận động thích hợp với cảm xúc và nội dung của bài thơ.
+ Với hoạt động tạo hình, giáo viên tiến hành một số tiết vẽ theo ý thích yêu
cầu trẻ bắt đầu sáng tác các câu chuyện về những hình ảnh của mình trong bức
tranh. Ngoài ra giáo viên tổ chức một số bài tập nhằm kích thích tưởng tưởng tượng
của trẻ qua hoạt động vẽ như chậu hoa của bạn Lan, ngựa qua sông, mơ ước của
chuột, nhà thiết kế.
89
+ Giáo viên tổ chức một số trò chơi hóa trang, trò chơi đóng vai: vương miện
lấp lánh, những hình rối ngộ nghĩnh.
+ Trong hoạt động góc, giáo viên cung cấp một số vật liệu vẽ ở góc tạo hình,
và trẻ có thể được tự do dùng chúng, khuyến khích trẻ sử dụng chúng theo cách mà
mình tự nghĩ ra.
- Trước khi trẻ vẽ, giáo viên làm phong phú trí tưởng tượng của trẻ bằng cách
tạo cảm xúc hay mô tả bằng lời những hình ảnh về sự vật hiện tượng để trẻ có thể
tưởng tượng sáng tạo ra những hình ảnh sinh động và độc đáo.
3.1.2.2. Biện pháp 2: Tổ chức quá trình tri giác cho trẻ với học cụ trực
quan đa dạng về chủng loại và hình thức nhằm làm phong phú vốn
biểu tượng về đối tượng sắp vẽ.
a. Mục tiêu và ý nghĩa
Chất lượng, sức hấp dẫn, vẻ độc đáo trong các sản phẩm vẽ của trẻ chịu ảnh
hưởng trực tiếp của năng lực tri giác, cách thức người lớn tổ chức quá trình tri giác
và đặc biệt là vào chất lượng, sự phong phú vốn kinh nghiệm tri giác của trẻ.
Học cụ trực quan đa dạng sẽ làm vốn biểu tượng của trẻ về đối tượng sắp vẽ
phong phú sinh động, kích thích các xúc cảm, tình cảm giúp trẻ ghi nhớ, hình thành
biểu tượng nhanh chóng và động viên sức mạnh của trí tưởng tượng sáng tạo để
hình thành hình tượng mang tính nghệ thuật. Các hình ảnh sáng tạo, đầy tính nghệ
thuật sẽ nảy nở khi có sự cảm nhận vẻ đẹp đa dạng, phong phú của các đối tượng
miêu tả.
b. Nội dung
Giáo viên sử dụng các học cụ trực quan đa dạng về chủng loại và hình thức
như vật thực, hình minh họa (tranh phiên bản các tác phẩm nghệ thuật hội họa, đồ
họa; tranh minh họa của các sách truyện kể của thiếu nhi; ảnh chụp các sản phẩm
nghệ thuật, phong cảnh thiên nhiên, thế giới động vật, các hoạt động của nhiều địa
phương…; hình vẽ mẫu của cô trên bảng hoặc trên giấy, hình mẫu của trẻ), các tác
phẩm điêu khắc nhỏ, các đoạn video có liên quan, các mô hình.
90
c. Yêu cầu
* Về học cụ trực quan
- Học cụ trực quan phải đẹp, mang lại niềm vui, sự ngạc nhiên thán phục cho
trẻ.
- Học cụ trực quan được để ở một vị trí tất cả trẻ đều nhìn thấy và quan sát
thuận tiện.
* Về quá trình tri giác
- Khi tri giác, hướng dẫn trẻ có mục đích, có chọn lọc.
- Cần tạo điều kiện để trẻ được quan sát toàn diện, và khi khảo sát vật không
chỉ được nhìn mà còn có sự hỗ trợ của các giác quan khác.
- Cần đặt câu hỏi, sử dụng ngôn ngữ biểu cảm trong quá trình cho trẻ tri giác
đối tượng:
+ Trong quá trình hướng dẫn giáo viên cần kết hợp với các câu hỏi về chủ đề,
về các sự vật được thể hiện trên tranh, các phương tiện biểu cảm (ngôn ngữ tạo
hình: đường nét, cấu trúc các bộ phận của sự vật, màu sắc, bố cục), hướng dẫn trẻ
phân tích, so sánh, tổng hợp và tìm ra những phương thức thể hiện trong những tình
huống khác nhau.
+ Mặt khác, giáo viên hạn chế sử dụng các mẫu tranh vẽ mà dùng lời nói cung
cấp cho trẻ các biểu tượng qua việc sử dụng các câu chuyện kể, câu đố. Lời nói của
giáo viên trong quá trình gợi ý sẽ giúp trẻ bay bổng, tưởng tượng ra nhiều hình ảnh
phong phú thể hiện qua sản phẩm của mình.
d. Cách thức tổ chức quá trình tri giác cho trẻ
- Tổ chức cho trẻ được tiếp xúc, hoạt động với sự vật, hiện tượng.
- Quá trình tri giác với đối tượng miêu tả cần tiến hành theo các bước:
+ Bao quát tổng thể
+ Tập trung chi tiết tìm hiểu các mối quan hệ trong cấu trúc
+ Bao quát cấu trúc trọn vẹn
* Cách thức tổ chức tri giác một sự vật gồm 5 bước:
Bước 1: Tri giác toàn bộ sự vật
91
Bước 2: Phân tích các phần chính của sự vật, đầu tiên phân biệt các phần
lớn, sau đó đến các phần nhỏ và xác định hình dáng màu sắc của chúng.
Bước 3: Xác định tương quan giữa các phần lớn và phần nhỏ.
Bước 4: Xác định vị trí, tư thế của vật trong không gian.
Bước 5: Cuối cùng tri giác lại toàn bộ sự vật.
* Cách thức tổ chức quan sát các hiện tượng thiên nhiên, các sự kiện xã hội
Bước 1: Lựa chọn đối tượng quan sát.
Bước 2: Lựa chọn thời điểm, góc độ quan sát để trẻ thấy rõ mọi chi tiết đặc
trưng.
Bước 3: Đặt ra hệ thống câu hỏi, lời kể để hướng sự chú ý của trẻ vào
những nét cơ bản và độc đáo cần thiết cho quá trình miêu tả.
* Cách thức tổ chức tri giác tác phẩm nghệ thuật tạo hình (chủ yếu là tranh)
Làm quen với các tác phẩm hội họa, tranh ảnh nghệ thuật là việc làm cần thiết
để hình thành ở trẻ năng lực cảm thụ nghệ thuật nói chung và cảm thụ tranh nói
riêng. Qua các tác phẩm nghệ thuật, trẻ được làm quen với các phương tiện biểu
cảm. Những suy nghĩ, cảm xúc, ấn tượng về thế giới xung quanh của họa sĩ đã tác
động đến trẻ, giúp chúng cảm nhận được thế giới xung quanh một cách sâu sắc hơn.
Bước 1: Giúp trẻ nắm được nội dung tác phẩm.
Bước 2: Phân tích các chi tiết, các phương tiện tạo hình cơ bản được tác giả
sử dụng trong tác phẩm. Mỗi cuộc phân tích không nhất thiết phải xem xét đầy đủ,
toàn diện về các phương tiện (có thể mỗi lần chỉ tập trung vào màu, hoặc hình dáng
hay bố cục)
Bước 3: Giúp trẻ liên hệ những gì đang tri giác từ tác phẩm với nhiệm vụ
tạo hình.
Quá trình thưởng thức các tác phẩm nghệ thuật phải đi đôi với việc đàm
thoại đặt câu hỏi cho trẻ, với lời kể của giáo viên, với lời nhận xét của trẻ, có thể
đọc thơ và các trích đoạn từ các tác phẩm văn học.
92
3.1.2.3. Biện pháp 3: Tạo hứng thú, phát triển ở trẻ những xúc cảm,
tình cảm thẩm mỹ
a. Mục tiêu và ý nghĩa
Hoạt động vẽ là một hoạt động nghệ thuật. Nói đến nghệ thuật là nói đến cảm
xúc và hứng thú đối với đối tượng cần thể hiện. Vì thế muốn trẻ yêu thích hoạt động
vẽ, muốn trẻ thể hiện đối tượng vẽ một cách tích cực và sáng tạo thì trước hết cần
tạo ra cho trẻ những cảm xúc mãnh liệt với đối tượng sắp vẽ.
Sự hình thành hứng thú, phát triển những xúc cảm thẩm mỹ ở trẻ phụ thuộc
vào: học cụ trực quan, môi trường, phương pháp dạy của giáo viên. Vì vậy, khi đồ
dùng dạy học được quan tâm, đầu tư đúng mức, nguyên vật liệu phong phú, phương
pháp dạy học sinh động, nó sẽ tạo điều kiện khơi gợi cảm xúc, kích thích hứng thú ở
trẻ. Những cảm xúc này thúc đẩy trẻ ý muốn thể hiện bằng các ngôn ngữ tạo hình.
Trong quá trình vẽ, những cảm xúc đó lại trỗi dậy mạnh mẽ giúp trẻ tạo hình một
cách chủ động, tự tin, sản phẩm tranh vẽ của trẻ trở nên phong phú và sinh động
hơn.
b. Nội dung
Để phát triển cảm xúc, tình cảm thẩm mỹ của trẻ trong hoạt động vẽ chúng tôi
đã thực hiện như sau:
* Sử dụng học cụ trực quan
Học cụ trực quan vừa là đối tượng tri giác, vừa là yếu tố làm thu hút sự tập
trung chú ý của trẻ, làm xuất hiện những cảm xúc tự nhiên. Qua việc tiếp xúc, cảm
thụ các học cụ trực quan làm cho quá trình lĩnh hội tri thức trở nên dễ dàng hơn,
hình thành cảm xúc thẩm mĩ và nhu cầu sáng tạo nghệ thuật. Học cụ trực quan
mang một ý nghĩa quan trọng trong hoạt động vẽ, nó kích thích nhu cầu vẽ ở trẻ.
* Sử dụng hệ thống câu hỏi kích thích tính tích cực sáng tạo ở trẻ
Với các câu hỏi giáo viên đưa ra trẻ buộc phải tự mình huy động vốn kinh
nghiệm đã có để tìm kiếm tri thức mới, tự xây dựng trong đầu những mô hình về
93
nội dung đề tài, tự xây dựng các ý tưởng của mình. Từ đó mà làm phát huy tính tích
cực nhận thức, trí tưởng tượng sáng tạo của trẻ .
* Sử dụng tình huống trò chơi trong hoạt động vẽ
Hoạt động chủ đạo của lứa tuổi Mầm non là hoạt động vui chơi. Trẻ học mà
chơi, chơi mà học. Vì thế tổ chức hoạt động vẽ không thể tách rời hoạt động vui
chơi của trẻ. Trò chơi là một biện pháp hữu hiệu giúp trẻ thực hiện nhiệm vụ hoạt
động vẽ một cách tự nguyện, trẻ sẽ thích được vẽ nhất là những sản phẩm mà trẻ
làm ra lại được sử dụng một cách có ý nghĩa, trẻ nỗ lực thực hiện chúng để đáp ứng
nhu cầu vui chơi của trẻ, nó lôi cuốn sự chú ý của trẻ và trẻ có thể say mê hoạt động
với thời gian khá lâu.
*Dạy trẻ vẽ kết hợp với đọc thơ, hát, kể chuyện
Những câu thơ đơn giản, ngộ nghĩnh, dễ thương, giàu âm điệu và phù hợp
với tình huống của từng giờ học (do người dạy sưu tầm hoặc sáng tác) có tác dụng
làm cho hoạt động vẽ trở nên hấp dẫn hơn. Giáo viên có thể đọc từng dòng thơ theo
từng nét vẽ nếu bài thơ đó phù hợp với từng đường nét của đối tượng vẽ hoặc có thể
đọc bất kì thời điểm nào trong quá trình hướng dẫn trẻ vẽ nếu nội dung bài thơ chỉ
nói về đối tượng mà trẻ đang vẽ.
Ngoài ra, giáo viên có thể tiến hành hoạt động vẽ bằng cách “sáng tác” ra một
câu chuyện ngắn hấp dẫn (có thể có sự hỗ trợ của rối hoặc hình ảnh) có liên quan
đối tượng vẽ để giúp trẻ phấn chấn, thích thú cầm bút vẽ một cách tự nhiên.
Bên cạnh đó, âm nhạc có tác động mạnh mẽ đến cảm xúc của trẻ. Nếu tri giác
một vật nào đó bằng cách quan sát hay tưởng tượng qua các câu chuyện kể, đồng
thời trẻ được nghe những bản nhạc, bài ca phù hợp với đề tài, thì trẻ sẽ có những ấn
tượng sâu sắc với đối tượng tạo hình vì thế giáo viên có thể chọn một số bài hát phù
hợp đề tài tạo cho trẻ nhu cầu thể hiện cảm xúc, suy nghĩ của mình và cho trẻ
thưởng thức những bản nhạc, những âm thanh (tiếng gió, tiếng suối chảy, lá cây
reo...) trong giờ hoạt động vẽ để trẻ cảm thụ và thả trí tưởng tượng của mình được
tự do bay bổng.
94
* Tạo môi trường cho hoạt động vẽ
Thứ nhất, giáo viên say mê và hứng thú với hoạt động vẽ và biết truyền cho trẻ
hứng thú của mình. Nhà sư phạm nào có óc thẩm mỹ thường ảnh hưởng rất lớn đến
trẻ, đó là do họ biết thưởng thức cái đẹp, biết truyền đạt cho học sinh lòng yêu nghệ
thuật, sự truyền đạt không bị gò bó, cứng nhắc mà xuất phát từ tâm hồn và nhiệt
huyết của họ. Và bất cứ cái gì xuất phát tâm hồn sẽ đến với tâm hồn. Họa sĩ – Tiến
sĩ Trần Quốc Toản cũng nhận định: “Điều cơ bản có tính chất quyết định kết định
kết quả bài vẽ và duy trì được không khí hào hứng học tập là giáo viên phải tạo
được môi trường thẩm mỹ, không khí hào hứng đón chờ bài vẽ, lòng khao khát
hướng tới cái đẹp và cố gắng bằng mọi cách tạo ra bài vẽ đẹp cho mình, theo ý
mình”
Thứ hai nguyên vật liệu đa dạng và phong phú. Bởi vì nguyên vật liệu có thể
gợi mở hướng thể hiện cho trẻ, lôi cuốn trẻ đến với hoạt động vẽ, giúp trẻ lựa chọn
tìm kiếm các phương tiện thể hiện tạo được sự truyền cảm trong bài vẽ của mình,
giúp cho sản phẩm của trẻ đa dạng, sinh động và có hồn hơn. Vì thế trong hoạt động
vẽ của trẻ, khi cho trẻ thực hiện phải tạo cho trẻ được vẽ ở nơi thoáng mát, rộng rãi,
có đầy đủ các dụng cụ và chất liệu cần thiết.
Thứ ba là yếu tố then chốt để tạo ra môi trường khuyến khích phát triển khả
năng tưởng tượng sáng tạo là sự tự do để trẻ được tự do trong khi tạo hình, không la
rầy, bắt buộc trẻ vẽ theo ý của giáo viên. Giáo viên nên động viên, khuyến khích
các ý tưởng khởi phát ở trẻ. Trẻ cần phải được tìm tòi, thử nghiệm và thể hiện ra
một cách tự nhiên, nếu nhà giáo dục kiềm chế và không cho phép làm bất cứ việc gì
theo cách của chúng, trẻ không thể sáng tạo và trẻ học được một bài học đáng buồn
là việc thực nghiệm chỉ đem lại sự phiền toái. Vì thế giáo viên nên tạo điều kiện để
trẻ vận dụng những hiểu biết của mình để tìm kiếm phương thức thể hiện phù hợp
với khả năng và ý đồ của mình. Mỗi hướng dẫn của cô phải dựa trên ý đồ khả năng
của từng trẻ. Mối quan hệ giữa giáo viên và trẻ là mối quan hệ tương tác và hợp tác
lẫn nhau, không mang tính chất áp đặt từ giáo viên và cần gắn bó với trẻ như những
người bạn. Điều đó giúp trẻ tự nhiên, hứng thú và tự tin trong quá trình hoạt động.
95
Thứ tư giáo viên tạo một góc để trưng bày các sản phẩm của trẻ để giúp khơi
dậy niềm vui khi sáng tạo, khuyến khích trẻ thể hiện hơn nữa những ý tưởng của
mình
g. Khuyến khích, động viên trẻ
Khả năng tưởng tượng sáng tạo của trẻ đâm chồi nảy lộc khi được chấp nhận
và khuyến khích. Không phải tất cả trẻ đều có thể thực hiện được những yêu cầu mà
bạn mong đợi, nhưng hãy tìm ra những ưu điểm dù là nhỏ để tán thưởng. Giáo viên
cần khuyến khích trẻ tự đánh giá và tự nhận thấy những thay đổi tiến bộ của mình
hoặc của bạn trong việc lựa chọn vật liệu, ý tưởng độc đáo khi thể thể hiện cảm xúc
nghệ thuật.
Đây là một trong những biện pháp gây hứng thú rất hữu hiệu cho trẻ trong hoạt
động vẽ. Biện pháp này gây cho trẻ niềm tin, kích thích trẻ mong muốn hoàn thành
công việc tốt, làm thức dậy ở trẻ cảm giác của sự thành công.
Sau mỗi tiết học giáo viên cùng trẻ nhận xét các sản phẩm mà trẻ vừa tạo ra.
Giáo viên phải đánh giá các bài vẽ của trẻ một cách tích cực, đối với những bài
chưa đạt giáo viên phải tìm kiếm những ưu điểm để động viên hoặc có những lời
nhận xét hóm hỉnh để trẻ nhận thấy cái chưa đạt của mình mà vẫn không thấy buồn.
Đồng thời giáo viên phải vạch ra cho trẻ những khả năng có thể làm được và làm
cho trẻ vui mừng với kết quả thu nhận được.
Giáo viên sử dụng hình thức thi đua để kích thích nhu cầu khẳng định mình ở
trẻ.
c. Yêu cầu
* Học cụ trực quan
- Học cụ trực quan cần đa dạng về nội dung, chủng loại và hình thức.
- Học cụ trực quan cần có màu sắc đẹp, sinh động, bố cục rõ ràng dễ hiểu đối
với trẻ. Đặc biệt, đối với các tác phẩm nghệ thuật giáo viên cần lưu ý những điều
sau:
+ Chọn lựa các tác phẩm nghệ thuật phù hợp với lứa tuổi của trẻ, nội dung có
ý nghĩa vừa với sức hiểu của trẻ.
96
+ Tranh ảnh có màu sắc tươi sáng.
+ Nội dung và hình thức các tác phẩm nghệ thuật cần phong phú về thể loại và
chất liệu vẽ, và đặc biệt là các tác phẩm có cùng nội dung nhưng khác nhau về hình
thức miêu tả, thời điểm miêu tả, phương tiện miêu tả…
* Hệ thống câu hỏi kích thích tính sáng tạo của trẻ
- Các câu hỏi cần sáng tỏ về nội dung, gọn gàng về hình thức, thể hiện được
vấn đề cần truyền đạt, phù hợp với những kinh nghiệm mà trẻ đã có.
- Các câu hỏi phải kích thích sự hứng thú ở trẻ, nhu cầu vận dụng những hiểu
biết, tình cảm của mình để trả lời. Tránh để trẻ rơi vào tình trạng mệt mỏi, căng
thẳng, sợ sệt khi trả lời câu hỏi của giáo viên.
- Hạn chế câu hỏi mà trẻ trả lời “có” hoặc “không”.
* Tình huống trò chơi trong hoạt động vẽ
- Tình huống trò chơi cần hướng vào những kĩ năng sắp thực hiện, những đề
tài sắp triển khai.
- Trò chơi có nội dung khơi gợi cảm xúc ở trẻ, kích thích sự xúc động nhạy
cảm của trẻ.
- Luôn có sự thay đổi các tình huống trò chơi để làm giảm sự nhàm chán, tăng
độ mới lạ của tình huống.
- Cần bám sát vào tình huống có sự logic, thống nhất trong suốt hoạt động.
- Trò chơi ngắn gọn, tự nhiên, sinh động, thu hút trẻ tích cực tham gia, dẫn dắt
trẻ thực hiện yêu cầu tạo hình một cách say sưa, sáng tạo.
* Bài thơ, bài hát
- Bài thơ, bài hát có nội dung phù hợp với đề tài sắp vẽ.
- Tránh làm phân tán sự tập trung suy nghĩ của trẻ.
* Môi trường của hoạt động vẽ
- Giáo viên phải say mê và hứng thú với hoạt động vẽ.
- Nguyên vật liệu phải đa dạng và phong phú.
- Giáo viên không nên áp đặt, tạo điều kiện để trẻ tự do thể hiện ý tưởng của
mình.
97
- Cần tạo góc trưng bày sản phẩm vẽ.
* Động viên, khuyến khích
- Giáo viên cần sử dụng hình thức thi đua để tạo động lực giúp trẻ phấn đấu.
- Giáo viên cần tán thưởng những ý tưởng mới, những ưu điểm của trẻ, có
những lời nhận xét hóm hỉnh để trẻ nhận thấy cái chưa đạt của mình mà vẫn không
thấy buồn.
d. Cách thức tạo hứng thú, phát triển ở trẻ những xúc cảm, tình cảm thẩm mỹ
Kích thích hứng thú, khơi gợi xúc cảm thẩm mỹ ở trẻ về đối tượng sắp vẽ qua:
- Nhìn ngắm, đụng chạm, đàm thoại về đối tượng trong các hoạt động khám
phá khoa học, âm nhạc, làm quen với tác phẩm văn học trong những ngày trước đó.
- Sử dụng tình huống trò chơi để thúc đẩy hoạt động vẽ của trẻ.
- Tạo môi trường tự do, thân thiện để trẻ độc lập thể hiện ý tưởng mới lạ.
- Cung cấp nguyên vật liệu đa dạng.
- Tán thưởng những ý tưởng độc đáo của trẻ.
3.2. Thực nghiệm một số biện pháp nâng cao mức độ tưởng tượng sáng
tạo của trẻ trong hoạt động vẽ
3.2.1. Khái quát về tổ chức thực nghiệm
3.2.1.1. Mục đích thực nghiệm
Thực nghiệm nhằm kiểm chứng hiệu quả thực tế của các biện pháp được đề
xuất để nâng cao khả năng tưởng tượng sáng tạo của trẻ 5-6 trong hoạt vẽ. Qua đó,
đánh giá tính đúng đắn của các giả thuyết khoa học đã đề ra.
3.2.1.2. Khách thể thực nghiệm
Chúng tôi tiến hành thực nghiệm ở trường Mầm non Hoa Mai với 2 lớp Lá
Lớp Lá 1: lớp đối chứng (ĐC)
Lớp Lá 2: lớp thực nghiệm (TN)
98
Số trẻ ở mỗi nhóm là 30 cháu, được chọn ngẫu nhiên theo danh sách của giáo
viên trong lớp cung cấp.
3.2.1.3. Nội dung thực nghiệm
Thực nghiệm tổng hợp, vận dụng phối hợp đồng bộ các biện pháp đã xây dựng
theo trình tự đã trình bày ở trên.
Áp dụng các biện pháp đã nêu thông qua 2 hoạt động tạo hình vẽ theo đề tài.
Ở hai nhóm thực nghiệm và đối chứng, chúng tôi cho trẻ thực hiện các bài vẽ
sau:
- Vẽ hoa
- Vẽ thiên nhiên nhiên quanh bé
Trong mỗi buổi tổ chức hoạt động vẽ cho trẻ, chúng tôi tiến hành phối hợp một
cách linh hoạt các biện pháp đề xuất trong nghiên cứu này nhằm nâng cao khả năng
tưởng tượng sáng tạo cho trẻ. Cụ thể là:
Bài 1: Vẽ hoa
Biện pháp 1: Áp dụng các bài tập “tưởng tượng có định hướng” nhằm hình
thành ở trẻ thói quen độc lập thể hiện ý tưởng, hình thành những biểu tượng, những
cách biểu đạt linh hoạt, độc đáo.
- Những ngày trước hoạt động vẽ thực nghiệm, giáo viên lồng ghép các bài tập
“tưởng tượng có định hướng” vào trong các hoạt động âm nhạc, tạo hình, trò chơi
đóng vai, trò chơi hóa trang.
- Trước khi vẽ đề tài “Vẽ hoa”, cô giáo cùng trẻ chơi “Đi tham quan vườn hoa
Đà Lạt” trẻ tưởng tượng và hành động theo lời kể của cô giáo.
Biện pháp 2: Tổ chức cho trẻ tiếp xúc với các loài hoa đa dạng về chủng loại
và hình thức nhằm làm giàu vốn biểu tượng về hoa.
- Giáo viên đưa trẻ đi quan sát những chậu hoa và vườn hoa của nhà trường,
cho trẻ xem các đoạn video về vườn cây cảnh, các loại hoa trong công viên, các tác
phẩm nghệ thuật; mua các loại hoa cắm vào bình trang trí cho lớp học; cùng trẻ sưu
99
tấm ảnh chụp, vẽ, cắt trong họa báo, lịch sau đó cùng làm album để trong góc thư
viện và treo một số tranh vẽ hoa ở góc tạo hình, cho trẻ xem các tác phẩm nghệ
thuật. Giáo viên cùng trẻ trao đổi về đặc điểm của các loài hoa, nêu cảm nhận của
mình về các loài hoa qua việc nhìn ngắm, sờ, ngửi…Kích thích trẻ ngắm nhìn,
thưởng thức vẻ đẹp khác nhau của các mẫu hoa qua các hoạt động như khám phá
khoa học, âm nhạc, làm quen với tác phẩm văn học trong những ngày trước đó.
Biện pháp 2: Tạo hứng thú, cảm xúc thẩm mỹ ở trẻ
- Các đoạn video về các loài hoa, hoa thật, hình ảnh các loài hoa trong sách,
báo, lịch, các tác phẩm nghệ thuật mang tính trực quan, hấp dẫn trẻ.
- Giáo viên tạo ra tình huống lớp Lá 2 sẽ tổ chức “Hội chợ hoa ngày tết” triển
lãm trưng bày, bán các loài hoa, vì thế những yêu cầu đặt ra: hoa đa dạng, trưng bày
dưới nhiều hình thức, …
- Gợi ra ở trẻ biểu tượng về các loài hoa, cách trưng bày hoa thông qua các bài
thơ: Tết đang vào nhà, bó hoa tặng cô.
- Giáo viên cho trẻ xem những đoạn video nói về những thành tựu mới về hoa
như hoa hồng đủ các màu sắc, các nghệ thuật uốn cây, cách bày trí hoa.
- Giáo viên hỏi trẻ ý tưởng vẽ hoa của mình? Nêu một vài đặc điểm về loài hoa
mà trẻ muốn vẽ, cách trình bày, bối cảnh. Giáo viên chấp nhận những câu trả lời của
trẻ và đưa ra lời khen ngợi đối với những ý tưởng mới lạ.
- Giáo viên chuẩn bị đa dạng về màu sắc của các loại giấy và các chất liệu để
trẻ sử dụng vẽ như: bút chì, bút sáp, bút lông, màu nước.
- Trẻ có thể tự do lựa chọn giấy vẽ, bút màu; có thể quan sát, trao đổi kinh
nghiệm giải bày cảm xúc với bạn. Để tránh tình trạng mất trật tự, kéo dài thời gian
giáo viên đưa ra qui định cụ thể như chỉ được trao đổi, quan sát các bạn cùng nhóm
và đưa ra hình thức thi đua giữa các nhóm.
- Sau khi trẻ hoàn thành bức tranh của mình, giáo viên cùng trẻ sắp xếp các
bức tranh của mình tổ chức “Hội chợ hoa ngày tết”. Giáo viên dùng biện pháp mô
tả, dẫn dắt cô và các du khách đang đi giữa “chợ hoa” đẹp rực rỡ với đủ loại hoa và
đủ sắc màu, chọn lựa các sản phẩm về trang trí cho lớp học để đón chào mùa xuân
100
mới. Qua đó, giúp trẻ được thưởng thức, ngắm nhìn, cảm nhận và thích thú với kết
quả đạt được.
Bài 2: Vẽ thiên nhiên quanh bé
Biện pháp 1: Áp dụng các bài tập “tưởng tượng có định hướng” nhằm hình
thành ở trẻ thói quen độc lập thể hiện ý tưởng, hình thành những biểu tượng, những
cách biểu đạt linh hoạt, độc đáo.
- Những ngày trước hoạt động vẽ thực nghiệm, giáo viên lồng ghép các bài tập
“tưởng tượng có định hướng” vào trong các hoạt động âm nhạc, tạo hình, trò chơi
đóng vai, trò chơi hóa trang.
- Trước khi vẽ đề tài “Thiên nhiên quanh bé”, cô giáo cùng trẻ chơi “Đi nghỉ
mát” trẻ tưởng tượng và hành động theo lời kể của cô giáo.
Biện pháp 2: Tổ chức cho trẻ tiếp xúc với phong cảnh thiên nhiên đa dạng và
phong phú
- Giáo viên cho trẻ xem các bức tranh, bức ảnh, mô hình, đoạn video về biển,
miền núi, đồng bằng được thể hiện ở các thời điểm khác nhau như sáng, trưa, chiều
và các mùa như mùa thu, mùa xuân, mùa đông, mùa hè.
- Giáo viên đàm thoại với trẻ về đặc điểm về biển, miền núi, đồng bằng. Kích
thích trẻ ngắm nhìn, thưởng thức vẻ đẹp khác nhau của các học cụ trực quan qua
các hoạt động như khám phá khoa học, âm nhạc, làm quen với tác phẩm văn học
trong những ngày trước đó.
Biện pháp 3: Tạo hứng thú, cảm xúc thẩm mỹ ở trẻ
- Đồ dùng dạy học mang tính trực quan, hấp dẫn, gây cho trẻ những tình huống
bất ngờ.
- Giáo viên tạo ra tình huống: một bức thư của một nhóm thiếu nhi ở nước
ngoài gửi đến lớp Lá 2 mong được các bạn giới thiệu về đất nước Việt Nam qua các
bức tranh.
- Giáo viên gợi ra ở trẻ các biểu tượng về thiên nhiên thông qua bài thơ: Trăng
ơi từ đâu đến.
101
- Giáo viên chuẩn bị đa dạng về màu sắc của các loại giấy và các chất liệu để
trẻ sử dụng vẽ như: bút chì, bút sáp, bút lông, màu nước.
- Trẻ có thể tự do lựa chọn giấy vẽ, bút màu; có thể quan sát, trao đổi kinh
nghiệm giải bày cảm xúc với bạn. Để tránh tình trạng mất trật tự, kéo dài thời gian
giáo viên đưa ra qui định cụ thể như chỉ được trao đổi, quan sát các bạn cùng nhóm
và đưa ra hình thức thi đua giữa các cá nhân.
- Giáo viên có thể đi đến từng trẻ giúp trẻ thể hiện ý tưởng ra bằng hình vẽ qua
các bài thơ.
- Sau khi trẻ hoàn thành bức tranh của mình, giáo viên cùng trẻ sắp xếp các
bức tranh của mình theo từng nhóm. Giáo viên dùng biện pháp mô tả, dẫn dắt cô và
các bạn tham quan, giúp trẻ được thưởng thức, ngắm nhìn, cảm nhận và thích thú
với kết quả đạt được. Sau đó, cô cùng các bạn lựa chọn những tác phẩm làm một
cuốn album về phong cảnh đất nước Việt Nam.
3.2.1.4 Tổ chức thực nghiệm
Điều kiện thực nghiệm
Thực nghiệm tiến hành trong điều kiện bình thường như trong các buổi lên lóp
của trẻ, sáng từ 8 đến 8 giờ 30. Điều kiện chăm sóc, giáo dục trẻ ở nhóm thực
nghiệm không khác gì so với quy định chung của chương trình chăm sóc, giáo dục
trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi.
Trình độ giáo viên ở hai nhóm thực nghiệm và đối chứng đều tốt nghiệp cao
đẳng sư phạm mầm non và có thâm niên công tác chăm sóc giáo dục trẻ 5-10 năm.
Giáo viên yêu nghề, yêu trẻ, có ý thức tự giác thực hiện yêu cầu chuyên môn.
Sự khác biệt giữa nhóm đối chứng và nhóm thực nghiệm
- Nhóm đối chứng: giáo viên tự soạn giáo án, tự chuẩn bị đồ dùng dạy học và
tổ chức hoạt động với hình thức, phương pháp, biện pháp không có gì thay đổi.
- Nhóm thực nghiệm: giáo viên soạn giáo án, chuẩn bị đồ dùng dạy học với và
tổ chức hoạt động với hình thức, phương pháp, biện pháp theo sự góp ý của nhóm
nghiên cứu.
102
3.2.2. Kết quả nghiên cứu thực nghiệm
3.2.2.1. So sánh mức độ tưởng tượng sáng tạo của nhóm đối chứng và
nhóm thực nghiệm trước thực nghiệm
Chúng tôi dự giờ hoạt động học có chủ đích trong đó hoạt động tạo hình là
hoạt động trọng tâm về vẽ theo đề tài: “Quà tặng người thân” ở lớp đối chứng và
lớp thực nghiệm. Qua việc phân tích sản phẩm tranh vẽ của trẻ chúng tôi thu được
kết quả như sau:
Mức độ tưởng tượng sáng tạo của trẻ ở hai nhóm đối chứng và thực nghiệm
trước khi chịu tác động thực nghiệm là tương đương nhau. Điều này được thể hiện ở
điểm tổng điểm lẫn các tiêu chí đánh giá khả năng tưởng tượng sáng tạo. Ở tất cả
các tiêu chí sự chênh lệch giữa nhóm đối chứng và nhóm thực nghiệm là không
đáng kể. Để khẳng định sự tương đồng này, chúng tôi đã sử dụng kiểm nghiệm t để
kiểm định thì sig của các tiêu chí và tổng điểm đều lớn hơn α = 0.05 rất nhiều chứng
tỏ giữa nhóm đối chứng và nhóm thực nghiệm không có sự khác biệt ý nghĩa về mặt
thống kê. Kết quả điểm các tiêu chí cho chúng ta thấy ở đề tài này, cả nhóm đối
chứng và nhóm thực nghiệm đều đạt những mức độ tương đối giống nhau, không
chênh lệch nhiều.
Các tiêu
Mức độ tưởng tượng sáng tạo
Kiểm
chí và
Nhóm
T. Bình
nghiệm t
Cao
T.Bình
Thấp
tổng điểm
N
%
N
%
N
%
Tên tranh
Đối chứng
13
43.3
17
56.7
0
0
1.43
0.434
vẽ
Thực nghiệm
10
33.3
20
66.7
0
0
1.33
Đặc điểm
Đối chứng
13
43.3
17
56.7
0
0
1.43
0.798
nội dung
Thực nghiệm
12
40.0
18
60.0
0
0
1.40
Bố cục
Đối chứng
5
16.7
25
83.3
0
0
1.16
0.527
Thực nghiệm
7
23.3
23
76.7
0
0
1.23
Màu sắc
Đối chứng
11
36.7
19
63.3
0
0
1.36
0.791
Thực nghiệm
10
33.3
20
66.7
0
0
1.33
Bảng 3.1: Mức độ tưởng tượng sáng tạo qua tranh vẽ “Quà tặng người thân”
103
Hình vẽ
Đối chứng
8
26.7
22
73.3
0
0
1.26
0.581
Thực nghiệm
10
33.3
20
66.7
0
0
1.33
Tổng điểm Đối chứng
5
16.7
25
83.3
0
0
6.66
0.887
Thực nghiệm
3
10.0
27
90.0
0
0
6.63
Kết quả bảng 3.1 cho thấy, tưởng tượng sáng tạo đạt mức độ cao chiếm tỉ lệ
thấp, phần lớn ở mức độ trung bình. Về mặt nội dung: trẻ đều gọi được tên tranh vẽ,
thể hiện được đề tài tuy nhiên mẫu của cô giới thiệu ở đầu giờ vẫn còn ảnh hưởng
đến trẻ. Bên cạnh đó, có một vài trẻ ở nhóm đối chứng và nhóm thực nghiệm đã thể
hiện một cách độc lập suy nghĩ tình cảm riêng của mình như bé Quyên vẽ hình của
mình để tặng mẹ, bé Minh vẽ tặng bố mẹ một ngôi nhà. Khi được hỏi vì sao trẻ lại
vẽ như vậy thì bé Quyên trả lời: “Vì mẹ của con yêu con nhất”, còn bé Minh thì
nói: “Nhà của con sắp sửa xây nhà”. Về hình thức: phần lớn sự sắp xếp các hình
ảnh trong tranh vẽ còn rời rạc, chưa nổi bật trọng tâm, lựa chọn màu sắc chưa thể
hiện được những ý tưởng mới lạ, hình vẽ chưa sinh động.
Chúng tôi cùng với giáo viên đã chọn lựa 2 nhóm khá tương đồng nhằm đảm
bảo kết quả ban đầu là không có sự khác biệt. Việc chọn lựa không chỉ căn cứ trên
kết quả mức độ tưởng tưởng tượng sáng tạo thể hiện trong tranh vẽ mà còn kết hợp
với quan sát thực tế và đánh giá của hai giáo viên chủ nhiệm lớp.
1.6
1.4
1.2
1
0.8
Nhóm đối chứng
0.6
Nhóm thực nghiệm
0.4
0.2
0
Bố cục Màu sắc Hình vẽ
Tên tranh vẽ
Đặc điểm nội dung
Biểu đồ 3.1: Điểm trung bình các tiêu chí nhóm ĐC và TN trước TN
104
Nhìn chung, việc chọn nhóm đối chứng và thực nghiệm bước đầu cho thấy
hai nhóm tương đương nhau về khả năng tưởng tượng sáng tạo và kết quả nghiên
cứu sau thực nghiệm sẽ đáng tin cậy và mang tính thuyết phục.
3.2.2.2. Kết quả nghiên cứu sau thực nghiệm
a. So sánh mức độ tưởng tượng sáng tạo của nhóm đối chứng và nhóm thực
nghiệm sau thực nghiệm
Trẻ lần lượt thực hiện 2 hoạt động vẽ: “Vẽ hoa”,và “Vẽ thiên nhiên quanh bé”
ở cả hai nhóm trong cùng một thời điểm nhất định, sau khi hoàn thành các biện
pháp nhằm nâng cao mức độ tưởng tượng sáng tạo lên nhóm thực nghiệm. Việc
phân tích kết quả thực nghiệm được tiến hành đối với từng giờ dạy trên mỗi bài vẽ ở
nhóm thực nghiệm và nhóm đối chứng. Chúng tôi theo dõi, quan sát hoạt động của
cô và trẻ trên mỗi giờ dạy cụ thể, đặc biệt là sử dụng các tiêu chí đã nêu ở phần cơ
sở lý luận để đánh giá các biểu hiện tưởng tượng sáng tạo của trẻ trong hoạt động
vẽ.
Với đề tài: “Vẽ hoa” chúng tôi thu được kết quả như sau:
Các tiêu
Mức độ tưởng tượng sáng tạo
Kiểm
chí và
Nhóm
T. Bình
nghiệm t
Cao
T.Bình
Thấp
tổng điểm
%
N
%
N
%
N
Tên tranh
Đối chứng
8
26.7
22
73.3
0
0
1.26
0.035
vẽ
Thực nghiệm
16
53.3
14
46.7
0
0
1.53
Đặc điểm
Đối chứng
17
56.7
13
43.3
0
0
1.56
0.024
nội dung
Thực nghiệm
25
83.3
5
16.7
0
0
1.83
Bố cục
Đối chứng
5
16.7
25
83.3
0
0
1.16
0.024
Thực nghiệm
13
43.3
17
56.7
0
0
1.43
Màu sắc
Đối chứng
5
16.7
25
83.3
0
0
1.16
0.024
Thực nghiệm
13
43.3
17
56.7
0
0
1.43
Hình vẽ
Đối chứng
8
26.7
22
73.3
0
0
1.26
0.035
Thực nghiệm
16
53.3
14
46.7
0
0
1.53
Bảng 3.2: Kết quả mức độ tưởng tượng sáng tạo qua tranh vẽ “Hoa”
105
Tổng điểm Đối chứng
5
16.7
25
83.3
0
0
6.43
0.000
Thực nghiệm
18
60.0
12
40.0
0
0
7.76
Nhìn vào bảng 3.2, chúng ta thấy ở nhóm đối chứng và nhóm thực nghiệm
không có trẻ nào tưởng tượng sáng tạo đạt mức độ thấp xét trên các tiêu chí và tổng
điểm. Xét các tiêu chí ở cả 2 nhóm, thì tiêu chí đặc điểm nội dung tranh vẽ có điểm
trung bình cao nhất nhóm đối chứng là 1.56, nhóm thực nghiệm 1.83, tiếp đến là
tiêu chí tên tranh vẽ, hình vẽ và cuối cùng là tiêu chí bố cục và màu sắc. Điều này
cho thấy, trẻ ở cả hai nhóm có ưu thế thể hiện tưởng tượng sáng tạo của mình ở khía
cạnh đặc điểm nội dung.
Nhìn vào tần số trẻ đạt được trên các mức độ tưởng tượng sáng tạo ta thấy có
sự khác biệt rõ giữa nhóm đối chứng và nhóm thực nghiệm chẳng hạn tiêu chí bố
cục và màu sắc số trẻ đạt được mức độ cao ở nhóm thực nghiệm gấp 2.6 lần nhóm
đối chứng, còn ở tiêu chí tên tranh vẽ, tiêu chí hình vẽ số trẻ ở nhóm đối chứng
bằng ½ so với nhóm thực nghiệm. Ở các tiêu chí tên tranh vẽ, bố cục, màu sắc, hình
vẽ và tổng điểm ở nhóm đối chứng số trẻ đạt mức độ trung bình chiếm tỉ lệ cao trên
70% trong toàn mẫu của nhóm.
2
1.8
1.6
1.4
1.2
1
Nhóm đối chứng
0.8
Nhóm thực nghiệm
0.6
0.4
0.2
0
Bố cục Màu sắc Hình vẽ
Tên tranh vẽ
Đặc điểm nội dung
Biểu đồ 3.2: Điểm trung bình các tiêu chí nhóm ĐC và TN trong đề tài: “Vẽ hoa”
106
Sang đến đề tài: “Vẽ thiên nhiên quanh bé”, cả nhóm đối chứng và nhóm thực
nghiệm có những bước tiến bộ hơn so với đề tài: “Vẽ hoa” thể hiện ở điểm trung
bình tổng điểm, nhóm đối chứng đạt 6.56, nhóm thực nghiệm là 7.9.
Các tiêu
Mức độ tưởng tượng sáng tạo
Kiểm
chí và
Nhóm
T. Bình
nghiệm t
Cao
T.Bình
Thấp
tổng điểm
%
N
%
N
%
N
Tên tranh
Đối chứng
7
23.3
23
76.7
0
0
1.23
0.032
vẽ
Thực nghiệm
15
50.0
15
50.0
0
0
1.50
Đặc điểm
Đối chứng
22
73.3
8
26.7
0
0
1.73
0.012
nội dung
Thực nghiệm
29
96.7
1
3.3
0
0
1.96
Bố cục
Đối chứng
4
13.3
26
86.7
0
0
1.13
0.038
Thực nghiệm
13
43.3
17
56.7
0
0
1.36
Màu sắc
Đối chứng
8
26.7
22
73.3
0
0
1.26
0.035
Thực nghiệm
16
53.3
14
46.7
0
0
1.53
Hình vẽ
Đối chứng
6
20.0
24
80.0
0
0
1.20
0.029
Thực nghiệm
14
46.7
16
53.3
0
0
1.40
Tổng điểm Đối chứng
3
10.0
27
90.0
0
0
6.56
0.000
Thực nghiệm
20
66.7
10
33.3
0
0
7.9
Bảng 3.3: Mức độ tưởng tượng sáng tạo qua tranh vẽ “Thiên nhiên quanh bé”
Đến đề tài: “Vẽ thiên nhiên quanh bé”, chúng ta càng thấy rõ sự chênh lệch về
tần số trẻ đạt được ở các mức độ tưởng tượng sáng tạo. Ở tiêu chí hình vẽ số trẻ đạt
mức độ cao ở nhóm thực nghiệm gấp 3.5 lần nhóm đối chứng, còn một số tiêu chí
khác như màu sắc, bố cục, tên tranh vẽ thì nhóm thực nghiệm có số trẻ ở mức độ
cao gần như gấp đôi nhóm đối chứng.
Biểu đồ 3.3: Điểm trung bình các tiêu chí nhóm ĐC và TN trong đề tài: “Vẽ thiên
nhiên quanh bé”
107
2
1.8
1.6
1.4
1.2
1
Nhóm đối chứng
0.8
Nhóm thực nghiệm
0.6
0.4
0.2
0
Bố cục Màu sắc Hình vẽ
Tên tranh vẽ
Đặc điểm nội dung
Qua 2 đề tài chúng tôi nhận thấy trẻ ở cả hai nhóm thực nghiệm và đối chứng
điểm trung bình về tiêu chí đặc điểm nội dung luôn dẫn đầu trong các tiêu chí. Tuy
nhiên, có sự chênh lệch giữa điểm trung bình tiêu chí này ở 2 nhóm, đối với đề tài:
“Vẽ hoa” và “Vẽ thiên nhiên quanh bé” trẻ ở nhóm thực nghiệm hơn nhóm đối
chứng lần lượt là 0.27 và 0.23 điểm, sự chênh lệch này được kiểm nghiệm có ý
nghĩa về mặt thống kê. (sig=0.024, sig=0.012<α=0.05)
Sau 2 tháng kể từ lần đo đầu tiên, trẻ ở hai nhóm đều có sự tiến bộ về tưởng
tượng sáng tạo do những tác động giáo dục, nhưng nhóm thực nghiệm ngoài những
tác động chung như nhóm đối chứng đã được tác động thêm bằng các biện pháp bồi
dưỡng khả năng tưởng tượng sáng tạo. Đánh giá và phân tích cho thấy:
*Về tổng điểm tranh vẽ: với đề tài: “Vẽ hoa”, “Vẽ thiên nhiên quanh bé”
điểm trung bình của nhóm thực nghiệm lần lượt cao hơn 1.33 điểm, 1.27 điểm so
với nhóm đối chứng. Khác biệt này đã được kiểm nghiệm là có ý nghĩa thống kê
(sig=0.00<α=0.05) cho thấy mức độ tưởng tượng sáng tạo của nhóm thực nghiệm
cao hơn khá rõ so với mức độ tưởng tượng sáng tạo của nhóm đối chứng đo cùng
thời điểm sau thực nghiệm.
*Trong quá trình quan sát trẻ trên 2 đề tài: vẽ hoa, vẽ thiên nhiên quanh bé
chúng tôi nhận thấy như sau:
108
* Nhóm đối chứng
Khi được cô giới thiệu đề tài, biết mình sắp được vẽ một số trẻ tỏ hứng thú, số
khác tỏ ra bình thường không buồn cũng không vui. Trong quá trình dạy, giáo viên
thường làm việc với những bạn tích cực, số khác ít được cô chú ý gọi lên phát biểu
nên trẻ lơ là, một số trẻ tỏ ra lo lắng về nội dung sắp vẽ.
Trong quá trình vẽ: sự thích thú giảm dần, không khí lớp học ít sôi động, thỉnh
thoảng mới có một vài lời bàn tán, trẻ hay quay sang nhìn nhau rồi bắt chước. Trẻ
vẽ xong nộp bài, hay quay sang nhìn bạn, rất ít trẻ ngắm nghía hay tô sửa.
Trong quá trình nhận xét, trẻ im lặng lắng nghe cô nhận xét, thỉnh thoảng cô
mời một vài bạn nói về bức tranh của mình hoặc nhận xét tranh của bạn.
- Nhóm thực nghiệm
Khi được cô giới thiệu đề tài sắp vẽ, phần lớn trẻ tỏ ra hồ hởi, phấn khởi, trẻ
hăng hái phát biểu ý kiến, háo hức chờ đợi cô gọi đến tên mình để được trình bày
nội dung sẽ vẽ.
Trong quá trình vẽ: nhóm thực nghiệm say sưa thể hiện ý tưởng của mình, lớp
học sôi động, khi thấy cô đi ngang qua một bạn nói với cô:“Cô ơi, bạn Ngân vẽ hoa
trên lưng con mèo, lỡ con mèo chạy thì hoa rơi xuống đất”, bạn Ngân vội vàng đính
chính “Con vẽ bình hoa có hình con mèo mà, chỗ này để cắm hoa nè cô”. Trẻ vừa
vẽ vừa nói thêm những gì mình sắp vẽ. “Con gà đang bới đất tìm giun, ông mặt trời
tỏa nắng, con cá bơi dưới nước…”. Khi đang vẽ một chi tiết nào đó, trẻ không nói
chuyện với bạn, nét vẽ tỉ mĩ và chăm chút, trẻ tẩy xóa khi thấy nó chưa thể hiện
được ý muốn của trẻ. Trẻ háo hức, mỉm cười khi vẽ xong một chi tiết nào đó, một
số trẻ khoe với bạn. Trẻ bắt đầu hoạt động hào hứng hơn vì luôn phát hiện những
điều lý thú, mới mẻ của các sự vật, hiện tượng tưởng như quen thuộc, nhàm chán.
Tổ chức nhận xét, đánh giá trẻ như được đi dạo chợ Hoa ngày Tết, đi thăm các
danh lam thắng cảnh của đất nước Việt Nam trẻ hăng hái chọn những bức tranh và
đưa ra lời nhận xét, khoái chí cười ồ lên khi phát hiện những ý tưởng độc đáo khác
lạ khi quan sát các bài vẽ của bạn. Khi xem lại tranh mình vẽ, trẻ thích thú vì nó
sinh động điều đó kích thích làm cho một số trẻ muốn vẽ thêm.
109
b. So sánh biểu hiện tưởng tượng sáng tạo của nhóm đối chứng và nhóm thực
nghiệm sau thực nghiệm
Xét từng tiêu chí, trẻ của hai nhóm có sự khác biệt rõ nét theo hướng mức độ
tưởng tượng sáng tạo của nhóm thực nghiệm cao hơn nhóm đối chứng.
* Tiêu chí tên tranh vẽ
Điểm trung bình của tiêu chí này của nhóm thực nghiệm cao hơn nhóm đối
chứng ở đề tài: “Vẽ hoa” và “Vẽ thiên nhiên quanh bé” là 0.27 và khác biệt này là
có ý nghĩa (sig=0.035, sig=0.032 < α=0.05).
Qua quá trình phân tích tranh cũng như quá trình trao đổi với trẻ, chúng tôi
thấy rằng trẻ đặt tên cho tranh vẽ của mình theo hai hướng: thứ nhất là tên tranh vẽ
là sự tổng hợp nội dung bức tranh, thứ hai trẻ chọn một một hình ảnh trọng tâm nổi
bật mà trẻ ưa thích để đặt tên cho bức tranh của mình.
Ở nhóm đối chứng, khi giáo viên phát giấy vẽ một số trẻ cắm cúi vẽ, một số
khác quay sang nhìn bạn rồi thay đổi ý định vẽ trước đây của mình. Hầu hết trẻ đều
đặt được tên cho tranh vẽ của mình, nhưng phần lớn trẻ vẫn còn chịu ảnh hưởng về
những tên gọi cô đã giới thiệu qua tranh mẫu, số trẻ đạt mức độ cao ở tiêu chí này
dao động từ 7-8 trẻ với một số tên tranh như “hoa chong chóng”, “gà về chuồng”,
“bắt cá”, “leo núi”, “cá kiểng”, “cá mẹ dẫn cá con đi chơi”…
Ở nhóm thực nghiệm, khi được cô giới thiệu về đề tài sắp vẽ, với vốn biểu
tượng đã được cung cấp phong phú trong những ngày trước đó, cho nên mỗi trẻ đều
phát biểu được nội dung mình sắp vẽ, với quy định không được nói trùng với ý kiến
của bạn mình nói trước đó, nên trẻ cố gắng nêu nội dung khác với bạn mình. Trẻ tỏ
ra sung sướng khi được lựa chọn giấy vẽ, một số trẻ đã chú ý đến màu sắc của giấy
với nội dung vẽ của mình “Cô ơi, cho con đổi lại giấy, con vẽ biển nên con muốn
lấy giấy màu xanh cho giống màu biển”.
Kết quả mỗi tranh mang một nội dung khác nhau với từng tên riêng biệt bởi vì
mỗi trẻ đều đã chuẩn bị những ý tưởng sẽ vẽ. Mỗi tranh là một hình ảnh độc đáo,
riêng biệt mang những tâm tư, tình cảm, suy nghĩ của trẻ. Vốn biểu tượng, sự sáng
tạo, xúc cảm… những gì mà trẻ có được trong con người đều được trẻ bộc lộ ra một
110
cách ngộ nghĩnh độc đáo như trong đề tài: “Vẽ hoa” trẻ đã tạo ra những cái tên
khác lạ như “hoa hồng đủ màu sắc”, “hoa bí ngô”, “chiếc xe đạp chở hoa ra chợ
bán”, “hoa mèo”, “cá ăn hoa”, “gấu trúc bán hoa”, “bướm hái hoa về hút mật”…
Với đề tài: “Thiên nhiên quanh bé”, tranh vẽ của trẻ thể hiện những nội dung khác
nhau của phong cảnh thiên nhiên Việt Nam, tranh nào cũng có ý định trước khi trẻ
vẽ nên tranh nào cũng có tên rõ ràng, đặc biệt với những tên gọi mới lạ “ếch đi
thuyền”, “rắn nước tìm mồi”, “áp thấp nhiệt đới”, “thú ăn đêm”, “ngắm cảnh”,
“gà, vịt đi làm”, “mèo đi học”… Qua đánh giá cho thấy nhóm thực nghiệm đạt
mức độ cao ở tiêu chí tên tranh vẽ dao động 15-16 trẻ, với số lượng này số trẻ đạt
mức độ cao ở nhóm thực nghiệm gấp đôi nhóm đối chứng.
*Tiêu chí đặc điểm nội dung tranh vẽ
Ở tiêu chí đặc điểm nội dung tranh vẽ, cả nhóm đối chứng và nhóm thực
nghiệm đều có điểm trung bình khá cao. Tuy nhiên, có sự chênh lệch điểm trung
bình giữa 2 nhóm, nhóm thực nghiệm cao hơn nhóm đối chứng lần lượt là 0.27,
0.23. Kiểm nghiệm t cho thấy sự khác biệt ở đây là có ý nghĩa về mặt thống kê
(sig= 0.012, sig=0.024 < α=0.05).
Phân tích từng tranh vẽ, chúng tôi nhận thấy có sự nổi trội của nhóm thực
nghiệm so với nhóm đối chứng.
Với đề tài: “Vẽ hoa”:
- Nhóm thực nghiệm các loài hoa được trẻ thể hiện phong phú và đa dạng về
chủng loại như hoa hồng, hoa râm bụt, hoa cúc, hoa dừa cạn, hoa muống biển, hoa
mai và một số loài hoa trẻ được thấy qua tranh ảnh như hoa đào, hoa hướng dương,
hoa tulip, hoa loa kèn. Ngoài ra, còn có một số hình ảnh trẻ kết hợp giữa các loài
hoa tạo ra một loại mới, trẻ gọi là hoa chứ chưa đặt tên cụ thể được. Các loài hoa
được vẽ ở nhiều trạng thái như búp, nụ, hoa chớm nở, hoa nở, hoa tàn. Trẻ chú ý
đến nhiều chi tiết trên bông hoa như đài hoa, cánh hoa, nhụy hoa, phấn hoa. Ngoài
ra thân, cành, lá cũng được trẻ thể hiện đa dạng như lá hình bầu dục, lá thon dài, lá
có răng cưa, thân dây leo. Khi vẽ hoa, các trẻ đặt trong các mối tương quan khác
nhau như hoa được cắm trong bình hoa, lẵng hoa, vườn hoa, hoa trang trí lên một số
111
đồ vật như giỏ xe đạp, quả bí ngô, khúc gỗ. Bình hoa cũng được các trẻ thể hiện ở
nhiều dạng như chiếc lọ, con mèo, con cá, con chó, con búp bê, con bướm, con gấu
trúc… Bên cạnh đó, ngoài hình ảnh các loại hoa trẻ còn thêm một số chi tiết như
với tranh vẽ “Công viên” trẻ vẽ bướm, chuồn chuồn, chim, con gà ông mặt trời,
đám mây; với tranh vẽ “Hoa ngày tết” trẻ vẽ thêm bánh chưng, dưa hấu. Phần lớn
các hình ảnh được trẻ sắp xếp theo biểu tượng của riêng mình ví dụ như tranh vẽ
“Hoa ngày tết” trẻ đặt cây hoa mai và cây hoa đào đứng cạnh nhau, trước mặt là
một vài quả dưa hấu, bánh chưng, và một miếng dưa hấu đã được bổ ra, hay với
tranh vẽ “Hoa treo tường” trẻ vẽ hình ảnh của hoa mai nhưng lại tô màu đỏ, có
dạng dây leo và rễ bám trên một khúc gỗ
- Nhóm đối chứng các loài hoa được trẻ vẽ không phong phú bằng nhóm thực
nghiệm một vài loài hoa quen thuộc mà cô đã giới thiệu, ngoài hình ảnh các loài hoa
trẻ vẽ thêm mặt đất, bầu trời,… Một số trẻ đã độc lập trong cách thể hiện của mình
ví dụ như tranh vẽ “Hoa chong chóng” trẻ đã thể hiện hình ảnh của bông hoa trong
chiếc chong chóng thường ngày trẻ chơi với những chiếc lá hình răng cưa. Tuy
nhiên, số lượng trẻ ở mức trung bình vẫn chiếm tỷ lệ khá cao chiếm 43.3%.
Với đề tài vẽ: “Thiên nhiên quanh bé”
Sang đến đề tài vẽ thiên nhiên quanh bé, trẻ ở hai nhóm đã có những tiến bộ rõ
rệt, tạo nên một bức tranh có ý nghĩa, có sự liên kết giữa các chi tiết trong bức tranh
để tạo nên một tổng thể trọn vẹn. Nhưng phân tích kỹ chúng tôi thấy rõ sự khác
nhau giữa nhóm đối chứng và nhóm thực nghiệm.
- Nhóm đối chứng, với đề tài: “Vẽ thiên nhiên quanh bé” các trẻ trong nhóm
đối chứng hầu như tập trung vào ba nội dung: vẽ biển, vẽ cá bơi dưới nước, vẽ
khoảnh vườn.
- Ngược lại với nhóm đối chứng, một lần nữa nhóm thực nghiệm thể hiện sự
phong phú về vốn biểu tượng đối với đề tài này, trẻ đã tạo ra những hình ảnh và sắp
xếp chúng theo ý đồ riêng của bản thân mình tạo nên bức tranh ngộ nghĩnh, đáng
yêu, và đặc biệt là không rập khuôn lại những bức tranh, những hình ảnh mà trẻ đã
112
xem trước đây. Với đề tài này, số trẻ đạt mức độ cao ở tiêu chí đặc điểm nội dung
tranh vẽ chiếm đến 96.7%, thể hiện qua một số tranh vẽ sau:
“Cái ao nhà em”: được thể hiện với những bông sen, những chú vịt đang bơi,
đàn gà tìm mồi trên bờ, gần bờ ao có một cái cây cổ thụ, phía trên ông mặt trời đang
tỏa nắng bên cạnh những đám mây xanh.
“Biển” gồm những con sóng, những chiếc thuyền đa dạng về kiểu dáng, chiếc
ở xa, chiếc ở gần, chiếc đang cột vào bờ; con sao biển, con ốc, con cua đang bò trên
bãi cát.
“Ngắm cảnh” những chiếc thuyền đa dạng về kiểu dáng trong đó có chiếc tàu
lớn trên đỉnh có lá cờ đỏ sao vàng, dọc bờ sông là những chiếc dù, chiếc ghế để
ngồi hóng mát trên những thảm cỏ
“Quét sân” chị ong đang quét những lá cây rụng bên một cây cổ thụ lớn, trên
cành cây một chú chim đang hót, gần gốc cây là cái thùng đựng rác.
“Quê nội” với con đường trồng những hàng cây xanh, thảm cỏ, cái ao có
những chú cá đang tung tăng bơi lội, chiếc xe tải và xe khách chạy dọc theo con
đường, bầu trời có những đám mây và những giọt mưa.
“Vườn nhà em” ngôi nhà, đám mây xanh, ong mặt trời, đàn chim bay lượn
trên bầu trời, cây cối, trẻ và chị đang chơi dưới bóng cây với chiếc bong bóng hình
trái tim.
“Quê ngoại” ngôi nhà với chiếc óng khói đang hút khói trên mái nhà, phía sau
nhà là những dãy núi lớn, phía trước sân những chú gà đang mổ thóc bên đống rơm
lớn, cạnh đó là một cây xanh với những chiếc lá còn non rụng dưới góc, bé đang
chơi gần bên những khóm hoa tay cầm chiếc bong bóng hình trái tim.
“Nhà em” bà nội đang rải thóc cho đàn gà, có một chú gà đang đứng trên đống
rơm gáy, bé đang tưới nước cho những khóm hoa mọc gần cây xanh lớn, trên trời có
những đám mây xanh, ông mặt trời đang tỏa nắng, những đàn bướm bay lượn.
“Hoàng hôn” với những chiếc thuyền buồm kích thước khác nhau, xa xa có
những ngọn núi, phía trên là ông mặt trời màu đỏ sắp lặn, cùng những đám mây
xanh.
113
“Rừng” với những ngọn núi nhấp nhô, những chòm cỏ mọc trên triền núi, một
vài cây xanh mọc dưới chân núi, có những hòn đá với kích thước khác nhau, một
chú nai và một con ốc sên, trên trời có những đám mây xanh, ông mặt trời đậu trên
đám mây, những đàn chim bay lượn.
“Ếch đi thuyền”: phía dưới hồ là những cây bông sen, trên những lá sen có
những chú ếch ộp, trên bờ hồ những chú gà đang tìm mồi trên những đám cỏ, bên
cạnh đó là cây hoa, cây dừa, cây cổ thụ.
“Miền núi” ngôi nhà, ngoài sân hai người đang cầm chày giã gạo, có những
khóm hoa, cây lớn với những trái chín, trên trời có những đám mây xanh, ông mặt
trời đang tỏa nắng.
“Con đường về nhà em” với những hàng cây xanh chạy dọc theo con đường,
bên lề đường có một chú bò đang gặm cỏ, dưới lòng đường có một chiếc xe tải, xe
khách, phía trên là bầu trời với những đám mây, ông mặt trời và đàn chim đang bay
lượn.
Quả núi với những ngọn núi nhấp nhô, phía trên là những đám mây xanh, và
ông mặt trời đang tỏa nắng…
Tranh vẽ của nhóm thực nghiệm là kết quả của quá trình trẻ được nhìn ngắm,
quan sát, ghi nhớ và tưởng tượng để rồi thể hiện qua tranh vẽ thật phong phú và đa
dạng. Do ảnh hưởng của những dự định và được sự hướng dẫn của giáo viên khi trẻ
gặp khó khăn khi vẽ, phần lớn trẻ quyết tâm vẽ theo ý định của mình, trẻ có sự trao
đổi với bạn nhưng không bắt chước lẫn nhau mà còn muốn vẽ khác bạn.
*Tiêu chí bố cục
Với tiêu chí này, điểm trung bình của nhóm thực nghiệm cao hơn nhóm đối
chứng lần lượt là 0.27, 0.23 điểm, và khác biệt này đã được kiểm nghiệm là có ý
nghĩa về mặt thống kê (sig= 0.024, sig=0.038 < α=0.05).
Đây là tiêu chí mà được các giáo viên mầm non cũng như chúng tôi dự đoán là
có số trẻ biểu hiện tưởng tượng sáng tạo đạt mức độ cao thấp nhất trong các tiêu
chí. Qua kết quả phân tích, thì kết quả đúng như chúng tôi dự đoán. Trẻ thường ít
chú ý đến sự phân bố, tỷ lệ kích thước các sự vật hiện tượng, các em thường trải đều
114
các hình ảnh trên trang giấy. Nhưng xét tương quan giữa 2 nhóm, chúng tôi nhận
thấy số trẻ đạt mức độ cao tiêu chí này ở nhóm thực nghiệm gấp 2.6 lần trong đề tài:
“Vẽ hoa” và 3.2 lần trong đề tài: “Vẽ thiên nhiên quanh bé” so với nhóm đối chứng.
- Ở nhóm đối chứng, hầu hết trẻ thể hiện được sự cân đối các hình ảnh trên
mặt giấy vẽ, thể hiện được ý tưởng, nổi bật trọng tâm. Tuy nhiên, phần lớn trẻ chưa
thể hiện được luật phối cảnh nên chưa thể hiện được chiều sâu của bức tranh. Một
số trẻ chưa có dự định hoặc thay đổi dự định nội dung sẽ vẽ nên trong quá trình vẽ
thường bất chợt nghĩ ra và thêm vào một số chi tiết làm cho nhiều tranh vẽ chưa cân
đối, các chi tiết sắp xếp rời rạc ít có sự liên kết chặt chẽ tạo thành một tổng thể thể
hiện một ý tưởng trọn vẹn.
- Ở nhóm thực nghiệm, hầu hết trẻ đều có dự định về nội dung sẽ vẽ nên bố
cục khá cân đối, tuy trong quá trình vẽ trẻ có thêm vào một số chi tiết so với dự
định nhưng hầu như không làm lệch sự cân bằng trên – dưới, phải – trái trên giấy
vẽ. Ngoài ra, một số trẻ thể hiện được luật xa - gần ví dụ như tranh vẽ “Biển” của
chiếc thuyền ở gần vẽ to hơn chiếc thuyền ở xa, hay trong tranh vẽ “Quê ngoại” trẻ
vẽ ngôi nhà phía trước, phía sau lưng là những ngọn núi. Trẻ cũng bắt đầu chú ý
kích thước của các hình ảnh, một số tranh vẽ trẻ biết vẽ mình thấp hơn bố mẹ, anh
chị... Một số chi tiết bị che khuất cũng được trẻ quan tâm chẳng hạn như tranh vẽ
“Cái ao nhà em” khi được hỏi: “Con ơi, sao con không vẽ chân của con vịt?” trẻ
liền trả lời “Cô ơi, vì con vịt này đang bơi dưới nước nên không thấy chân của nó”
hoặc trong tranh vẽ “Ngắm cảnh” khi hỏi trẻ “Chiếc ghế này có hai chân hả con?”
trẻ giải thích: “Không phải đâu cô, nó có bốn chân nhưng nhìn như thế này mình
chỉ thấy nó hai chân thôi”. Với sự tham gia của luật phối cảnh đã tạo nên một số
bức tranh có nhiều tầng cảnh, sinh động.
*Tiêu chí màu sắc
Qua quá trình thực nghiệm, sự biểu hiện của tưởng tượng sáng tạo trong việc
thể hiện màu sắc tranh vẽ của trẻ thực nghiệm cao hơn trẻ đối chứng. Cụ thể, điểm
trung bình của nhóm thực nghiệm hơn nhóm đối chứng là 0.27 điểm. Khác biệt này
được kiểm nghiệm là có ý nghĩa về mặt thống kê (sig= 0.024, sig=0.035 < α=0.05).
115
Về sự thể hiện màu sắc, trẻ ở nhóm đối chứng và nhóm thực nghiệm đều thể
hiện màu sắc tươi sáng. Trẻ sử dụng màu sắc theo ba hướng: thứ nhất màu sắc
giống với thực tế thường ngày mà trẻ nhìn thấy như hoa mai màu vàng, hoa đào
màu đỏ, hoa hướng dương màu vàng, hoa muống biển màu tím…; thứ hai trẻ sử
dụng màu sắc để làm nổi bật bức tranh; thứ ba sử dụng màu sắc theo ý tưởng của trẻ
như tranh vẽ “Hoa hồng” trẻ tô sáu màu trên cùng một bông hoa vì trẻ thích một
bông hoa có nhiều màu sắc.
- Ở nhóm đối chứng, giấy vẽ hầu như là giấy A4 màu trắng và vật liệu tô màu
chỉ có bút màu sáp. Màu sắc của sự vật hiện tượng chủ yếu là các màu thường ngày
theo mẫu ví dụ đất màu nâu, mây màu xanh,… và màu tự do màu trẻ thích chưa gắn
với ý tưởng miêu tả. Có khoảng 8 trẻ thể hiện được ý đồ tô màu, màu sắc hài hòa
gợi cảm, số lượng này chỉ bằng ½ so với nhóm thực nghiệm.
- Ở nhóm thực nghiệm, trẻ phấn khởi khi được lựa chọn màu sắc giấy vẽ, cũng
như các loại nguyên liệu để tô màu như bút màu sáp, bút lông, bút dạ quang, màu
nước… Phần lớn trẻ chú ý tô màu theo ý đồ miêu tả của mình chẳng hạn như “Cô
ơi, con tô ông mặt trời màu đỏ vì ông mặt trời sắp lặn”, “Ông mặt trời của con màu
đỏ, tỏa các tia nắng màu vàng” “Con tô mây màu xám vì trời sắp mưa”. “Lá cây
già rụng xuống đất nên con tô màu nâu, lá còn non ở trên cây con tô màu xanh”.
Trong tranh vẽ của mình, trẻ đã sử dụng các màu biến thể của cùng một gốc màu,
trẻ linh hoạt thay đổi màu sắc của sự vật hiện tượng theo thời gian, thời tiết. Màu
sắc trong tranh vẽ có mảng đậm, mảng nhạt, hài hòa, gợi cảm như ông mặt trời màu
đỏ chiếu những tia nắng màu vàng, những đối tượng trọng tâm được trẻ tô màu
đậm, sáng làm nổi bật khi mới nhìn vào tranh. Trong quá trình tô màu, trẻ ở nhóm
thực nghiệm chăm chút về màu sắc hình vẽ “Cô ơi, con tô màu lem ra ngoài rồi!” ,
loay hoay một tí đứa trẻ reo lên “Cô ơi, con hết lem rồi!” thì ra đứa trẻ vẽ to ra tí.
* Tiêu chí hình vẽ
Ở tiêu chí hình vẽ, điểm trung bình của nhóm thực nghiệm cao hơn nhóm đối
chứng lần lượt là 0.27 và 0.20 điểm, và khác biệt này đã được kiểm nghiệm là có ý
nghĩa về mặt thống kê (sig= 0.035,0.029 < α=0.05).
116
- Ở nhóm đối chứng, phần lớn khối lượng hình ảnh trong tranh vẽ còn nghèo
nàn, trẻ vẽ sự vật hiện tượng còn rập khuôn chẳng hạn như lá trẻ vẽ dạng thuôn dài
hình răng cưa hoặc không có răng cưa, tranh ảnh cô giới thiệu cho trẻ chưa phong
phú.
- Ở nhóm thực nghiệm, số lượng hình ảnh trong từng tranh vẽ của nhóm thực
nghiệm nhiều hơn từ 5-7 hình so với nhóm đối chứng, bên cạnh những nét đặc
trưng của sự vật, trẻ còn đưa vào những đặc điểm theo suy nghĩ của riêng mình như
trong tranh “Ngắm cảnh” khi vẽ về chiếc tàu chở khách du ngoạn trên sông Sài
Gòn trẻ vẽ thêm chiếc lá cờ đỏ sao vàng, trong tranh “Con đường về nhà em” trẻ vẽ
ông mặt trời đang đậu trên một đám mây. Trẻ còn sử dụng biện pháp nhân cách hóa
thể hiện trong tranh “Quét sân” người quét sân ở đây là không phải bà, mẹ hay bé
mà là một chị ong nâu, hay khi vẽ về ông mặt trời trẻ vẽ thêm mắt, mũi, miệng có
một số tranh trẻ vẽ ông mặt trời nhoẻn miệng cười. Ngoài ra, còn có sự liên kết giữa
các hình ảnh để tạo thành một bức tranh mang một nội dung trọn vẹn. Các nhân vật
trong tranh đều có sự thể hiện các trạng thái hoặc hành động như ông mặt trời, chú
ếch đang cười, ông mặt trời tỏa nắng với các tia sáng đầy màu sắc, những chú gà
con tìm mồi, gà trống vươn cổ gáy, chim hót, trâu gặm cỏ, chị ong quét sân, bà cho
đàn gà ăn thóc, bé tưới cây, hai người phụ nữ giã gạo, con chim bay, con chuồn
chuồn bay, con bướm hút mật, con gà đang bới đất, con gà trống đang gáy, chị ong
nâu quét sân, trời nắng, trời mưa…Ở nhóm thực nghiệm, cùng một đối tượng nhưng
các trẻ vẽ không rập khuôn mà có sự phong phú về hình dạng ví dụ như đối tượng là
con gà nhưng tranh “Ếch đi thuyền” bé Hoàng Anh (nam) vẽ những chú gà con,
tranh “Nhà em” bé Tuyết Như vẽ về con gà trống, tranh “Cái hồ nhà em” bé Hoàng
Anh (nữ) vẽ con gà mái hoặc đối tượng là con chim nhưng tranh “Rừng” bé Duy vẽ
theo lối nhìn nghiêng, với tranh “Ao sen” bé Tài vẽ con chim theo lối nhìn thẳng.
Trong quá trình vẽ, khi gặp khó khăn trẻ thường mạnh dạn hỏi cô cách thể hiện, có
trẻ nảy sinh chi tiết mà trẻ chưa biết cách thể hiện, giáo viên gợi ý hướng dẫn,
không lờ đi hoặc hướng trẻ vẽ cái khác.
117
Qua thực nghiệm, số trẻ ở nhóm thực nghiệm số trẻ đạt tưởng tượng sáng tạo ở
mức độ cao tăng lên, trong khi đó ở nhóm đối chứng không có sự thay đổi. Trẻ ở
nhóm thực nghiệm có sự thay đổi rõ rệt, đa số trẻ tỏ ra rất thích vẽ, giàu vốn biểu
tượng về đề tài thể hiện nội dung phong phú, hầu như không có sự rập khuôn giống
mẫu và giống nhau, biết tự tìm kiếm và độc lập suy nghĩ và thể hiện ý tưởng của
mình, say mê và cố gắng hoàn thành bức tranh, điều này thể hiện qua nội dung và
hình thức tranh vẽ. Trẻ ở nhóm thực nghiệm đã có sự kết hợp vốn biểu tượng do
giáo viên cung cấp và tích cực khai thác vốn kinh nghiệm của mình trong cuộc sống
hàng ngày, cố gắng tạo ra cái độc đáo cái riêng cho bức tranh của mình. Trẻ cố gắng
thể hiện sự vật như một cấu trúc trọn vẹn, với các chi tiết đầy đủ, phong phú, tỉ lệ
hợp lý hơn, thể hiện nội tâm, hành động của nhân vật. Mặt khác, những chi tiết cảnh
vật trong tranh đều là những điều mà trẻ yêu thích vì thế nó có sự tham gia của xúc
cảm và được trẻ chăm chút nên tranh vẽ có hồn. Trái lại ở nhóm đối chứng khả
năng này chỉ thể hiện ở một vài trẻ, còn lại phần lớn còn hạn chế, tranh vẽ nội dung
chưa phong phú, cách thể hiện chưa thể hiện được ý đồ miêu tả.
Nhìn chung, kết quả khảo sát mức độ tưởng tượng sáng tạo của trẻ sau khi
thực nghiệm cho thấy mức độ tưởng tượng sáng tạo của nhóm thực nghiệm hơn hẳn
nhóm đối chứng. Điều này cho phép kết luận rằng thử nghiệm đã có hiệu quả trong
việc nâng cao khả năng tưởng tượng sáng tạo cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi.
118
TIỂU KẾT
Kết quả thực nghiệm cho thấy mức độ tưởng tượng sáng tạo của trẻ trên nhóm
thực nghiệm cho thấy cao hơn hẳn so với nhóm đối chứng. Cụ thể, trước thực
nghiệm mức độ tưởng tượng sáng tạo trong hoạt động vẽ của trẻ ở nhóm thực
nghiệm tương đồng với nhóm đối chứng. Sau thực nghiệm, mức độ tưởng tượng
sáng tạo trong hoạt động vẽ của trẻ ở nhóm thực nghiệm hơn hẳn so với nhóm đối
chứng. Điểm trung bình trên 5 tiêu chí nhóm thực nghiệm đều cao hơn nhóm đối
chứng. Tỷ lệ trẻ có biểu hiện tưởng tượng sáng tạo ở 5 tiêu chí đạt mức độ cao tăng
lên đáng kể, phần lớn trẻ đã thể hiện các bức tranh của mình một cách độc lập, sáng
tạo theo ý tưởng riêng của từng cá nhân. Điều này chứng tỏ các biện pháp áp dụng
trong quá trình thực nghiệm đã có tác dụng tích cực đối với việc nâng cao mức độ
tưởng tượng sáng tạo của trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi trong hoạt động vẽ.
Qua kết quả thực nghiệm kiểm chứng với 2 buổi tổ chức hoạt động vẽ cho trẻ
5-6 tuổi, cho thấy hiệu quả của việc nâng cao mức độ tưởng tượng sáng tạo là do tác
động của những biện pháp sau đây:
- Thứ nhất, tổ chức cho trẻ các bài tập, trò chơi “tưởng tượng có định hướng”
nhằm giúp trẻ hình thành thói quen độc lập trong việc tìm kiếm ý tưởng, tạo ra
những biểu tượng, những cách biểu đạt linh hoạt, độc đáo.
- Thứ hai, cung cấp cho trẻ vốn biểu tượng về đối tượng sắp vẽ với học cụ trực
quan đa dạng về chủng loại và hình thức.
- Thứ ba, làm nảy sinh, duy trì hứng thú, hình thành và phát triển ở trẻ những
cảm xúc thẩm mỹ về đối tượng vẽ.
119
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
Hoạt động tạo hình là một trong những hoạt động có môi trường thuận lợi để
phát triển tính sáng tạo của trẻ. Một dạng hoạt động tạo hình đặc trưng nhất và xuất
hiện sớm nhất đó là hoạt động vẽ, qua hoạt động vẽ trẻ sẽ được bồi dưỡng những
xúc cảm tình cảm thẩm mỹ, nhận thức được cái đẹp và có mong muốn mang đến
cho cuộc sống những cái đẹp. Khi được tích cực tham gia vào hoạt động, khả năng
tưởng tượng sáng tạo của trẻ có điều kiện bộc lộ và phát triển cao. Vì vậy, nghiên
cứu tưởng tượng sáng tạo nói chung và tưởng tượng sáng tạo của trẻ mẫu giáo 5-6
tuổi trong hoạt động vẽ nói riêng là cần thiết.
Kết quả nghiên cứu của đề tài cho phép rút ra một số kết luận sau:
1.1. Tưởng tượng sáng tạo là quá trình xây dựng hình ảnh mới chưa có trong
kinh nghiệm cá nhân, hoặc kinh nghiệm xã hội.
Tưởng tượng sáng tạo trong hoạt động vẽ là quá trình xây dựng hình ảnh mới
chưa có trong kinh nghiệm cá nhân, hoặc kinh nghiệm xã hội trên mặt phẳng bằng
đường nét và màu sắc.
1.2. Tưởng tượng sáng tạo của trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi ở một số trường Mầm non
tại thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai chỉ ở mức trung bình là chủ yếu. Căn cứ
theo cách xếp loại mức độ tưởng tượng sáng tạo thì tỉ lệ trẻ có mức độ tưởng tượng
sáng tạo ở mức trung bình chiếm đến 80%, mức cao chỉ có 18.7%, và vẫn còn 1.3%
trẻ ở mức thấp. Trẻ còn nhiều khó khăn khi phải tự thể hiện các tranh vẽ đòi hỏi có
sự tham gia tưởng tượng sáng tạo. Sự nổi trội tưởng tượng sáng tạo biểu hiện ở
tranh vẽ chỉ diễn ra ở một số rất ít trẻ. Phân tích kỹ các tiêu chí đánh giá mức độ
tưởng tượng sáng tạo cho thấy tưởng tượng sáng tạo của trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi cũng
chỉ đạt ở mức trung bình là chủ yếu. Về mức độ xếp loại, tiêu chí bố cục có số trẻ
xếp loại trung bình đông nhất với 95.3%, kế đến là tiêu chí màu sắc với 81.3%, tiêu
chí tốc hình vẽ chỉ có 2.5% và tiêu chí linh hoạt chỉ có 0.8% trẻ loại yếu. Tiêu chí
tên tranh vẽ có số trẻ đạt mức độ cao nhiều nhất với 36%, kế đến là tiêu chí đặc
điểm nội dung với 28%, tiếp theo là tiêu chí hình vẽ với 20%, tiêu chí màu sắc 18%
120
thấp nhất là tiêu chí bố cục chỉ có 17.4% đạt mức độ cao. Nhìn chung, số trẻ xếp
loại trung bình ở tất cả các tiêu chí đều chiếm tỉ lệ trên 60% tức đa số trẻ đạt mức
trung bình ở các tiêu chí đánh giá mức độ tưởng tượng sáng tạo.
1.3. Mức độ tưởng tượng sáng tạo của trẻ nam và nữ ở độ 5-6 tuổi không có
sự khác biệt. Dựa trên tổng điểm và điểm số đánh giá mức độ tưởng tượng sáng tạo
qua từng tiêu chí thì mức độ tưởng tượng sáng tạo của trẻ nữ và trẻ nam không có
sự chênh lệch đáng kể. Điểm trung bình các tiêu chí của trẻ nam là 6.0294, nữ là
6.0854 (chênh 0.056 điểm). Còn ở tiêu chí tên tranh vẽ, điểm trung bình của hai
nhóm trẻ chỉ chênh nhau 0.050 điểm, ở tiêu chí đặc điểm nội dung là 0.028 điểm, ở
tiêu chí bố cục là 0.022 điểm, tiêu chí màu sắc chỉ 0.018 điểm và ở tiêu chí hình vẽ
chỉ không có sự chênh lệch. Nói cách khác, mức độ tưởng tượng sáng tạo của trẻ
mẫu giáo 5-6 tuổi ở nữ và nam là tương đương nhau.
So sánh trên phương diện trường khảo sát, mức độ tưởng tượng sáng tạo của
trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi ở trường Hướng Dương trội hơn so với trường Hoa Mai và
Hoa Sen. Điều đó thể hiện ở sự chênh lệch về điểm trung bình các tiêu chí và tổng
điểm, và có sự khác biệt giữa trường Hướng Dương Hoa Mai và Hoa Sen trên các
tiêu chí tên tranh vẽ, đặc điểm nội dung và tổng điểm. Giữa trường Hoa Sen và Hoa
Mai có sự khác biệt về tổng điểm các tiêu chí.
1.4. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên nhưng chủ yếu xuất phát từ
hạn chế của giáo viên về các biện pháp phát triển tưởng tượng sáng tien6cho trẻ
trong hoạt động vẽ. Tuy nhận thức được tầm quan trọng của việc phát triển tưởng
tượng sáng tạo cho trẻ nhưng giáo viên còn gặp khó khăn trong việc tìm kiếm các
biện pháp tác động để phát triển khả năng này cho trẻ. Mặt khác, giáo viên mầm
non đảm nhận khá nhiều công việc vừa giảng dạy, vừa chăm sóc trẻ, lớp học lại
đông khiến giáo viên không có thời gian đầu tư cho bài giảng. Bên cạnh đó, cơ sở
vật chất chưa đáp ứng đầy đủ cho việc dạy vẽ như nguyên vật liệu còn thiếu thốn,
chưa có phòng nghệ thuật, không gian riêng để trẻ vẽ. Trong số các nguyên nhân
đó, nguyên nhân quan trọng nhất, ảnh hưởng nhất đến sự phát triển khả năng tưởng
tượng sáng tạo của trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi là phần lớn giáo viên mới tập trung sử
dụng các biện pháp dạy học đặc trưng cho giáo dục mầm non nói chung, ít mang
121
đặc thù của hoạt động vẽ nên chưa tác động hình thành một cách đúng mức đến trẻ
ở các mặt: cảm xúc thẩm mỹ, ý tưởng, nội dung vẽ, năng lực sử dụng các phương
tiện miêu tả giúp tác phẩm của trẻ được truyền cảm và năng lực hoạt động sáng tạo.
Phương pháp dạy còn cứng nhắc, gò ép áp đặt theo yêu cầu chung. Đây là một vấn
đề cần được nghiên cứu sâu nhằm tìm ra những biện pháp sư phạm phát triển khả
năng tưởng tượng sáng tạo của trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi hiệu quả hơn.
1.5. Có thể sử dụng một số biện pháp nhằm nâng cao mức nâng cao mức độ
tưởng tượng sáng tạo của trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi thông qua hoạt động vẽ như sau:
- Thứ nhất, tổ chức cho trẻ các bài tập, trò chơi “tưởng tượng có định hướng”
nhằm giúp trẻ hình thành thói quen độc lập trong việc tìm kiếm ý tưởng, tạo ra
những biểu tượng, những cách biểu đạt linh hoạt, độc đáo.
- Thứ hai, cung cấp cho trẻ vốn biểu tượng về đối tượng sắp vẽ với học cụ trực
quan đa dạng về chủng loại và hình thức.
- Thứ ba, làm nảy sinh, duy trì hứng thú, hình thành và phát triển ở trẻ những
cảm xúc thẩm mỹ về đối tượng vẽ qua việc:
+ Cung cấp học cụ trực quan đẹp, sinh động, hấp dẫn.
+ Sử dụng hệ thống câu hỏi kích thích tính tích cực sáng tạo ở trẻ.
+ Sử dụng và duy trì tình huống trò chơi
+ Sử dụng các bài thơ, bài hát, câu chuyện liên quan đến đề tài sắp vẽ.
+ Tạo môi trường cho hoạt động vẽ: giáo viên có niềm say mê và hứng thú
đối với hoạt động vẽ, cung cấp nguyên vật liệu phong phú, trẻ được tự do lựa chọn
nguyên vật liệu và thể hiện ý tưởng, xây dựng góc trưng bày sản phẩm của hoạt
động vẽ
+ Động viên, cổ vũ khi trẻ nảy sinh ra ý kiến mới và hướng dẫn giúp đỡ trẻ
thể hiện ý tưởng trong bức tranh của mình, khơi dậy ở trẻ nguồn cảm hứng đối với
đề tài trẻ đang thực hiện.
Các biện pháp này đã được thực nghiệm và mang đến những kết quả khả quan
trong quá trình nâng cao mức độ tưởng tượng sáng tạo cho trẻ. Kết quả này cũng
phù hợp với giả thuyết khoa học mà chúng tôi đặt ra.
122
2. Kiến nghị
Trên cơ sở những kết luận trên, chúng tôi có một số kiến nghị sau
4.2.1. Với Sở Giáo dục & Đào tạo tỉnh Đồng Nai
- Cần có sự đầu tư, quan tâm kịp thời về việc tạo cơ sở vật chất cho việc tổ
chức các hoạt động vẽ: xây dựng phòng học nghệ thuật, cung cấp đầy đủ đồ dùng,
nguyên vật liệu tạo hình.
- Cần mở các lớp bồi dưỡng khả năng tạo hình cho giáo viên để giúp cho quá
trình hướng dẫn trẻ đạt kết quả.
4.2.2. Với Ban giám hiệu các trường mầm non
- Trong quá trình nghiên cứu và thực hiện đổi mới chương trình giáo dục Mầm
non, cần quan tâm, chú ý hơn nữa đến việc nâng cao mức độ tưởng tượng sáng tạo
cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi trong hoạt động vẽ theo đề tài.
- Cần tạo điều kiện cho trẻ tích lũy vốn biểu tượng phong phú về đối tượng sắp
vẽ qua việc tổ chức các buổi đi dạo, đi tham quan.
4.2.3. Với giáo viên mầm non
- Giáo viên cần trau dồi cơ sở lý luận và kỹ năng thực hiện các biện pháp nâng
cao mức độ tưởng tượng sáng tạo của trẻ trong hoạt động vẽ.
- Cần tạo mọi điều kiện giúp trẻ phát huy khả năng tưởng tượng sáng tạo đúng
mức và kịp thời. Trẻ được tích cực và chủ động trong thực hiện hoạt động vẽ.
- Cần tạo điều kiện cho trẻ tích lũy vốn biểu tượng phong phú về đối tượng sắp
vẽ qua sưu tầm các tác phẩm nghệ thuật, các bài hát, câu đố, bài thơ, băng hình về
hoạt động vẽ của người lớn đặc biệt tập cho trẻ tri giác tư thế không gian của vật.
4.2.4. Với các lực lượng khác
- Cần có sự phối hợp giữa gia đình và nhà trường trong việc tích lũy vốn kinh
nghiệm chuẩn bị tiền đề cần thiết cho hoạt động vẽ của trẻ.
- Cần có những tài liệu bồi dưỡng và hướng dẫn một cách chuyên biệt về các
biện pháp nâng cao mức độ tưởng tượng sáng tạo của trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi cũng
như các lứa tuổi khác trong hoạt động vẽ.
123
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng việt
1. Nguyễn Thị Kim Anh, “Sự phát triển hoạt động sáng tạo và ý tưởng chơi
của trẻ em”, tạp chí Giáo dục Mầm non số 4 -2001.
2. Nguyễn Thị Kim Anh, “Biện pháp phát triển yếu tố tưởng tượng trong tổ
chức trò chơi đóng vai của trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi”, tạp chí Giáo dục Mầm
non số 1-2003
3. Lê Thị Thanh Bình, Lý luận và phương pháp hướng dẫn hoạt động tạo hình
trong nhà trẻ - mẫu giáo, Tài liệu lưu hành nội bộ của trường Cao đẳng
Mẫu giáo TW3, 1993.
4. Lê Thị Thanh Bình, “Một số ý kiến về phương pháp hướng dẫn hoạt động
tạo hình cho trẻ mầm non”, Tài liệu nội bộ của trường Cao đẳng Mẫu
giáo TW3, 1997
5. Lê Thị Thanh Bình, “Vẽ theo mẫu – tên gọi và phương pháp”, Tài liệu nội
bộ của trường Cao đẳng Mẫu giáo TW3,1997
6. Lê Thị Thanh Bình, Một số biện pháp phát huy tính tích cực nhận thức của
trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi trong giờ vẽ, Luận văn Thạc sĩ Khoa học Giáo dục
Mầm non, 1997.
7. Nguyễn Thị Thanh Bình, “Hoạt động tạo hình với sự phát triển toàn diện
của trẻ em”, Tạp chí Giáo dục Mầm non, số 4.
8. Võ Mai Chi, Nhà sáng chế tí hon, Nxb trẻ, 2006.
9. Đinh Phương Duy, Tâm lý học, Nxb Giáo dục Việt Nam, 2009.
10. Nguyễn Thị Kim Dung, Một số biện pháp phát huy tính tích cực của trẻ mẫu
giáo 5-6 tuổi trong hoạt động vẽ, luận văn Thạc sĩ Giáo dục, 2001.
11. Trần Thị Minh Đức, Nhận biết tâm lý trẻ em qua tranh vẽ, Nxb Khoa học kỹ
thuật, 2009.
124
12. Trương Thị Bích Hà, Tưởng tượng sáng tạo của sinh viên khoa Diễn viên
trường Đại học Sân khấu – Điện ảnh Việt Nam, luận án Tiến sĩ Tâm lý
học, 1998.
13. Đỗ Xuân Hà, “Về giáo dục thẩm mỹ cho học sinh bằng nghệ thuật tạo hình”,
tạp chí nghiên cứu Giáo dục, 1992.
14. Phan Thị Thu Hiền, “Con đường phát triển sức sáng tạo ở trẻ em”, tạp chí Giáo
dục Mầm non, số 1-2002.
15. Nguyễn Thị Thu Huyền, Tìm hiểu khả năng tưởng tượng sáng tạo của trẻ mẫu
giáo 5-6 tuổi ở một số trường mầm non thuộc khu vực nội thành TP.HCM,
luận văn tốt nghiệp Đại học, 2005.
16. Phan Việt Hoa, Một số biện pháp bồi dưỡng cảm xúc thẩm mỹ cho trẻ mẫu giáo
thông qua hoạt động tạo hình, luận án Tiến sĩ Khoa học Giáo dục, 1996.
17. Nguyễn Thị Hòa, Giáo trình Giáo dục học mầm non, Nxb Đại học Sư phạm,
2009.
18. Ngô Công Hoàn, Tâm lý học trẻ em (từ lọt lòng đến 6 tuổi), tập I &II, Nxb Đại
học Sư phạm, 1995.
19. Kỷ Giang Hồng, Khả năng cảm nhận không gian và trí tưởng tượng sáng tạo,
Nxb Phụ Nữ, 2009.
20. Nguyễn Thị Ngọc Kim, “Một số biện phát bồi dưỡng khả năng sáng tạo của
trẻ Mẫu giáo 5-6 tuổi thông qua hoạt động vẽ theo ý thích”, luận văn
Thạc sĩ giáo dục Mầm non, 2005.
21. Nguyễn Thị Như Mai, “Trẻ em vẽ và sự phát triển trí tuệ”, tạp chí nghiên
cứu Giáo dục, 1992.
22. Mai Thị Nguyệt Nga, Giáo trình tâm lí học trẻ em lứa tuổi mầm non, Nxb
Giáo dục, năm 2007.
23. Nguyễn Thị Bích Ngọc, Một số biện pháp gây hứng thú cho trẻ 4-5 tuổi
trong hoạt động vẽ bằng thuốc màu, luận văn Thạc sĩ Giáo dục, 2000.
24. J.Piaget, Tuyển tập Tâm lý học J.Piaget, Nxb Giáo dục, 1996.
125
25. Nguyễn Thị Yến Phương, “Tổ chức giờ học vẽ cho trẻ mẫu giáo lớn trong
môi trường thiên nhiên nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục thẩm mỹ”,
Nghiên cứu giáo dục số 3, 1999.
26. Nguyễn Hữu Quang, Một số biện pháp nhằm phát triển trí tưởng tượng sáng
tạo trong dạy học mĩ thuật ở trường phổ thông, tạp chí Giáo dục số 3,
5/2001.
27. Dương Thanh Thủy, Một số biện pháp phát triển trí tưởng tượng của trẻ
mẫu giáo lớn trong hoạt động vẽ, Luận văn thạc sĩ khoa học giáo dục,
1999.
28. Lê Thanh Thủy, “Sự phát triển trí tưởng tượng của trẻ em trong hoạt động
tạo hình”, tạp chí Giáo dục, 2002.
29. Lê Thanh Thủy, Phương pháp tổ chức hoạt động tạo hình cho trẻ mầm non,
Nxb Đại học Sư Phạm, 2003.
30. Lê Thanh Thủy, “Xem xét hoạt động tạo hình của lứa tuổi mầm non từ góc
độ tâm lý”, Tâm lý học số 2, 1998.
31. Lê Thanh Thủy, “Ảnh hưởng của tri giác tới tưởng tượng trong hoạt động vẽ
của trẻ 5-6 tuổi”, Luận án Phó Tiến sĩ KHSP Tâm lý, 1996.
32. Lê Thanh Thủy – Ngô Công Hoàn, “Mối liên hệ giữa tính tích cực nhận thức
và sự sáng tạo trong hoạt động tạo hình của trẻ”, tạp chí nghiên cứu
Giáo dục số 6, 1992.
33. Lê Thanh Thủy, “Về những điều kiện nâng cao khả năng sáng tạo của trẻ
mẫu giáo trong hoạt động vẽ”, tạp chí nghiên cứu Giáo dục, 1992.
34. Lê Thanh Thủy, “Tổ chức tri giác tác phẩm nghệ thuật tạo hình để phát
triển tưởng tượng sáng tạo cho trẻ mẫu giáo trong nghệ thuật tạo hình”,
tạp chí nghiên cứu Giáo dục, số 3, 1997.
35. Nguyễn Thị Thanh Thủy, Giúp trẻ hứng thú và phát triển trí tuệ trong hoạt
động tạo hình, Nxb Giáo dục, 2006.
36. Nguyễn Thị Thanh Thủy, Khuyến khích trẻ sáng tạo, Tạp chí Giáo dục Mầm
non, số 4, 2005.
126
37. Nguyễn Quốc Toản, Giáo trình hướng dẫn tổ chức hoạt động tạo hình cho
trẻ mầm non, Nxb Đại học Sư Phạm, 2009.
38. Nguyễn Ánh Tuyết – Nguyễn Như Mai – Đinh Kim Thoa, Tâm lí học trẻ em lứa
tuổi mầm non, ĐHSP – ĐHQG Hà Nội 1997.
39. Lê Thị Ánh Tuyết, “Thực nghiệm tổ chức hoạt động tạo hình cho trẻ theo hướng
đổi mới phương pháp giáo dục mầm non”, Tạp chí nghiên cứu giáo dục số
12.
40. Mã Khánh Tú, Một số biện pháp phát triển trí tưởng tượng sáng tạo cho trẻ mẫu
giáo 5-6 tuổi trong hoạt động nặn, Luận văn thạc sĩ khoa học giáo dục, 2001.
41. Huỳnh Văn Sơn, Giáo trình Tâm lý học sáng tạo, Nxb Giáo dục Việt Nam,
2009.
42. Huỳnh Văn Sơn (Chủ biên) – Nguyễn Hoàng Khắc Hiếu, Hành trình đi tìm ý
tưởng sáng tạo, Nxb Đại học Sư phạm TPHCM, 2010.
43. Huỳnh Văn Sơn, “Rèn luyện kỹ năng thiết kế ý tưởng của tiết dạy tạo hình cho
giáo viên mầm non”, tạp chí Giáo dục Mầm non, số 1-2002.
44. Nguyễn Quang Uẩn, Tâm lý học đại cương, Nxb Giáo dục, 1999.
45. Lê Hồng Vân, Tạo hình và phương pháp hướng dẫn hoạt động tạo hình cho trẻ
em, Nxb Đại học Quốc Gia Hà Nội, 2002.
46. L.X.Vưgôtxki, Trí tưởng tượng và sáng tạo ở lứa tuổi thiếu nhi, Nxb Phụ nữ,
1985.
47. Trung tâm Ngôn ngữ và Văn hóa Việt Nam, Đại từ điển Tiếng Việt, Nxb Văn
hóa – Thông tin, 1999.
48. V.X. Mulkhina, Tâm lý học mẫu giáo (tập 2), Nxb Giáo dục,1981.
49. Xaculina N.P Comarôva T.X, Phương pháp dạy hoạt động tạo hình, Nxb Giáo
dục, 1992.
50. E.Karelxkaia, Những nét vẽ ngộ nghĩnh, tạp chí Giáo dục Mầm non, số 4, 2000.
127
51. E.Doronova, Giờ học tạo hình với trẻ 6-7 tuổi, tạp chí Giáo dục Mầm non, số 6,
2000
52. T.Rogatkina, Nào cùng vẽ, cùng sáng tạo, cùng tưởng tượng, tạp chí Giáo dục
Mầm non, số 6, 2000
53. Nguyễn Như Ý, Từ điển tiếng Việt, Nxb Giáo dục, 2007
54. Hội thảo khoa học, Hoạt động tạo hình với trẻ mầm non, Hà Nội 4/1998.
Tiếng Anh
1. Birren J.E. and Schaie K.W, Handbook of the Psychology of aging, New York
Van Nostrand Reinhold, 1985.
2. David Shaffer, Developmental Psychology Childhood and Adolescence, New
York, 1992
3. Guilford J.P, Creative American Psychologist, 1950.
4. Getzels. J.Jackson. P, Creative and intelligence: Explorations with gifted
student, New York, 1962.
5. How we understand art, Cambridge University Press, 1987
6. Lilian G.Katz & Sylvia C.Chard, Engaging Children`s Minds, Ablex Publishing
Corporation Norwood New Jersey, 1997.
7. L.Alan Sroufe, Robert G.Copper, Ganie B. Dehart, Mary E. Marshall, Urie
Bronfenbrenner, Child Development: Its nature and cource, International
edition, 1996.
8. Rosemary Perry, Teaching practice, Routledge London, 1997
9. T. Ribot, Essay on Creative imagination, Produced by Clare Boothby and the
Online.
10. Toronto broad of education, Visual arts, Learnxs Press, 1996.
128
DANH MỤC CÁC PHỤ LỤC
1. Phụ lục 1: Phiếu thăm dò ý kiến ............................................................. 1/PL
2. Phụ lục 2: Phiếu dự giờ .......................................................................... 7/PL
3. Phụ lục 3: Một số bài tập “tưởng tượng có định hướng” ......................... 8/PL
4. Phụ lục 4: Một số hình ảnh khảo sát thực trạng ...................................... 9/PL
5. Phụ lục 5: Một số hình ảnh thực nghiệm ................................................ 11/PL
6. Phụ lục 6: Một số kết quả xử lý số liệu thống kê .................................... 14/PL
1/PL
PHỤ LỤC 1
Trường Đại học Sư phạm TP.HCM
PHIẾU THĂM DÒ Ý KIẾN
Với mong muốn đóng góp phần nhỏ vào việc phát huy khả năng tưởng tượng
sáng tạo của trẻ 5-6 tuổi trong hoạt động vẽ theo ý thích, chúng tôi thực hiện đề tài:
“Tìm hiểu mức độ tưởng tượng sáng tạo của trẻ 5-6 tuổi trong hoạt động vẽ ở một
số trường Mầm non tại Thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai”. Rất mong nhận được
sự hợp tác nhiệt tình của các Cô.
Xin các cô vui lòng đánh dấu ٧( ) vào những ý các Cô chọn
Phần 1: Thông tin cá nhân
- Giáo viên lớp:……………………..Trường…………………………..
- Trình độ chuyên môn
Sơ cấp Trung cấp Cao đẳng Đại học Sau đại học
- Thâm niên công tác
0-5 năm 5-10 năm Trên 10 năm
Phần 2: Nội dung khảo sát
Câu 1: Theo Cô, một tranh vẽ được gọi là có tưởng tượng sáng tạo khi trẻ
a. Thể hiện biểu tượng đã được học
b. Thể hiện một cách độc lập theo suy nghĩ của trẻ
c. Thể hiện theo lời hướng dẫn của giáo viên
d. Thể hiện theo mẫu có sẵn
e. Bắt chước theo bạn
Câu 2: Theo Cô, trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi bộc lộ tưởng tượng sáng tạo chủ yếu trong
hoạt động nào?
a.Tạo hình
b. Làm quen với tác phẩm văn học
c. Âm nhạc
d. Khám phá khoa học
2/PL
e. Làm quen với toán
f. Thể dục
f. Trò chơi
Câu 3: Theo Cô, tưởng tượng sáng tạo của trẻ 5-6 tuổi trong hoạt động vẽ ở trường
Cô đang công tác, nhìn chung ở mức độ:
Cao Trung bình Thấp
Câu 4: Xin Cô vui lòng đánh giá mức độ tưởng tượng sáng tạo của trẻ 5-6 tuổi
trong hoạt động vẽ về các mặt sau đây
Các mặt Mức độ
Cao Thấp Trung bình
Nội dung
Hình thức
Câu 5: Xin Cô vui lòng đánh giá mức độ các biểu hiện của tưởng tượng sáng tạo
trong hoạt động vẽ của trẻ 5-6 tuổi ở lớp Cô đang công tác
Các mặt
Mức độ
Cao T.Bình Thấp
A1. Sự mới lạ của tên tranh vẽ
Nội dung
A2.Sự thay đổi thành phần của các hình ảnh trong tranh vẽ A3. Sự thay đổi về đặc điểm hình dáng của các hình ảnh trong tranh vẽ A4. Sự thay đổi về sự liên kết giữa các yếu tố trong tranh vẽ
- Tranh vẽ hài hòa, cân đối
B1.Bố cục
Hình thức
B2.Màu
- Sử dụng luật phối cảnh để thể hiện chiều sâu trong tranh - Thể hiện màu sắc tự tạo
sắc
B3.Hình
- Thể hiện màu sắc hài hòa, phù hợp nội dung - Các đối tượng thể hiện dưới dạng hoạt động - Thể hiện tư thế phù hợp, giàu hình
vẽ
tượng
3/PL
Câu 6: Hãy xác định mức độ của các biểu hiện sau của trẻ 5-6 tuổi trong hoạt động
vẽ của lớp Cô đang công tác
Mức độ
Các mặt
Đôi khi Không có
Thường xuyên
A1.Chủ đề mới lạ
A2.Thay đổi thành phần các hình ảnh trong tranh vẽ
Nội dung
A3.Thay đổi đặc điểm về hình dáng các hình ảnh trong tranh vẽ.
A4. Sự biểu hiện trạng thái cảm xúc của các hình ảnh trong tranh vẽ
A5.Thay đổi sự liên kết giữa các hình ảnh của bức tranh
A6.Thay đổi trật tự vị trí các hình ảnh trong tranh vẽ
B1.Trẻ sử dụng màu theo sự biến đổi của sự vật
B2. Sử dụng màu sắc nổi bật chủ ý (ví dụ: yêu, ghét)
Hình thức
B3. Các nhân vật thể hiện các tư thế vận động
B4. Các nhân vật trong tranh thể hiện các hành động
B5. Thể hiện mối tương quan về kích thước giữa các hình ảnh trong tranh
B6. Biến đổi màu sắc của các hình ảnh theo thời gian
B7. Sự biến đổi hình ảnh của màu sắc theo thời tiết
B8. Sự biến đổi màu sắc theo độ chiếu sáng
B9. Sử dụng luật xa gần
B10.Bố cục cân đối
4/PL
Câu 7: Trong quá trình tổ chức hoạt động vẽ cho trẻ, Cô hãy đánh giá mức độ quan
trọng của từng khâu sau:
Các tiêu chí sau
Quan trọng
Ít quan trọng
Không quan trọng
a.Tạo hứng thú cho trẻ
b.Tổ chức cho trẻ quan sát mẫu
c. Củng cố và gợi nhớ hình ảnh đã quan sát
d. Hướng dẫn và cung cấp kĩ thuật miêu tả
e. Cho trẻ tự do thể hiện
f. Đánh giá sản phẩm tạo hình
Câu 8: Để hình thành biểu tượng về sự vật hiện tượng, hãy xác định mức độ sử
dụng của các Cô đối với các hình thức sau
Các hình thức
Ít sử dụng
Thường sử dụng
Không sử dụng
a. Vẽ mẫu trên bảng
b. Vật thật
c. Đồ chơi
d. Tranh vẽ minh họa
e. Tranh nghệ thuật
f. Tranh vẽ mẫu của cô
g. Tranh vẽ của trẻ
h. Các đoạn video có liên quan
i. Tham quan
5/PL
Câu 9: Để tạo động cơ hứng thú cho trẻ trong hoạt động vẽ, Cô hãy xác định mức
Ít sử dụng
Các cách thức
Không sử dụng
Thường sử dụng
a. Sử dụng học cụ trực quan
b. Tạo tình huống có vấn đề
c. Bài hát
d. Bài thơ
e. Kể chuyện
f. Trò chơi
g. Khích lệ, động viên
h. Trẻ được tự do
độ sử dụng đối với các cách thức sau
Câu 10: Hãy xác định mức độ sử dụng các biện pháp dưới đây trong quá trình dạy
Các biện pháp
Ít sử dụng Không sử
Thường sử dụng
dụng
a. Sử dụng các học cụ trực quan (tranh
ảnh, vật thật…)
b. Sử dụng ngôn ngữ biểu cảm
c. Sử dụng hệ thống kĩ năng quan sát
d. Bồi dưỡng các kĩ năng, kĩ xảo tạo hình.
vẽ cho trẻ
6/PL
Câu 11 : Cô hãy đánh dấu ٧( ) vào những biện pháp Cô cho rằng nó mang tính khả
thi trong việc phát huy khả năng tưởng tượng sáng tạo ở trẻ trong hoạt động vẽ
Các biện pháp
Tính khả thi
a. Tăng cường tổ chức cho trẻ tiếp xúc, quan sát sự vật hiện tượng trong
môi trường xung quanh.
b. Gây hứng thú cho trẻ bằng các trò chơi, câu đố, chuyện kể,
bài thơ, khích lệ động viên trẻ.
c. Tổ chức cho trẻ xem các cuộc triển lãm để kích thích ở trẻ cảm xúc
thẩm mĩ.
d. Bồi dưỡng các kĩ thuật miêu tả.
e. Tăng cường việc cung cấp các biểu tượng cho trẻ bằng ngôn ngữ.
f. Giúp đỡ trẻ thể hiện những ý tưởng của mình.
g. Tổ chức các hình thức ngoài tiết học vẽ ngoài trời, vẽ ở hoạt động
góc.
h.Tổ chức cho trẻ quan sát, miêu tả, nhận xét sản phẩm
vẽ của trẻ với đời sống.
Xin chân thành cảm ơn các Cô!
7/PL
PHỤ LỤC 2
PHIẾU DỰ GIỜ
Ngày dự:……………………………………………………………………………
Lớp:………………………………………..Trường:………………………………
Môn:………………………………………………………………………………..
Đề tài:………………………………………………………………………………
Giáo viên:…………………………………………………………………………..
Phần chuẩn bị của giáo viên:……………………………………………………….
Hoạt động
Hoạt động của giáo viên Hoạt động của trẻ Biểu hiện của trẻ
Nhận xét
Hoạt động 1
Hoạt động 2
Hoạt động 3
8/PL
PHỤ LỤC 3
1. Một số bài tập tạo hình phát huy trí tưởng tượng sáng tạo
Chậu hoa của bạn Lan
Bạn Lan đem hạt giống hoa gieo vào hai chiếc chậu. Sau một tháng, hai chậu
sẽ mọc ra cây hoa như thế nào nhỉ? Em hãy phát huy trí tưởng tượng, vẽ cây hoa
vào hai chậu cho thật đẹp nhé!
Ngựa con qua sông
Ngựa con vác một túi gạo ra chợ, gặp một con sông chắn ngang đường. Làm
thế nào qua được sông mà không bị ướt gạo bây giờ? Em hãy nghĩ cách giúp ngựa
con được không?
Mơ ước của chuột
Chuột con có một mơ ước được giống như chim bay lượn trên bầu trời. Em có
thể giúp chuột con thực hiện được mơ ước này không? Hãy thử tưởng tượng ra và
vẽ vào ô trống nhé!
Nhà thiết kế
Nàng công chúa Bạch Tuyết muốn đi dự tiệc cùng hoàng tử. Em có thể thiết kế
cho nàng công chúa một bộ quần áo thật đẹp không?
2. Một số trò chơi phát huy trí tưởng tượng sáng tạo
Vương miện lấp lánh
Chuẩn bị những chiếc vương miện nhà vua, hoàng hậu, những chiếc nón quân
sĩ. Hướng dẫn trẻ diễn lại vở: “Nàng Bạch Tuyết và bảy chú lùn”.
Những hình rối ngộ nghĩnh
Chuẩn bị những chú rối banh phồng. Trẻ tự trang trí những chú rối của mình,
cho hình rối cử động và đối thoại.
9/PL
PHỤ LỤC 4
Đề tài: Vẽ người thân trong gia đình
Tranh vẽ của trẻ trường Mẫu giáo Hướng Dương
Tranh vẽ của trẻ trường Mẫu giáo Hướng Dương
10/PL
Tranh vẽ của trẻ trường Mầm non Hoa Mai
Tranh vẽ của trẻ trường Mầm non Hoa Sen
11/PL
PHỤ LỤC 5
Đề tài: Vẽ quà tặng người thân
Tranh vẽ của trẻ lớp thực nghiệm
Tranh vẽ của trẻ lớp đối chứng
12/PL
PHỤ LỤC 5
Đề tài: Vẽ hoa
Tranh vẽ của trẻ lớp thực nghiệm
Tranh vẽ của trẻ lớp đối chứng
13/PL
PHỤ LỤC 5
Đề tài: Vẽ thiên nhiên quanh bé
Tranh vẽ của trẻ lớp thực nghiệm
Tranh vẽ của trẻ lớp đối chứng
1/PL
PHỤ LỤC 6
Kết quả xử lý thống kê trong khảo sát thực trạng
Đề tài: “Vẽ người thân trong gia đình”
Group Statistics
N
Mean
Std. Error Mean
Ten tranh ve
Gioi tinh Nu
82
1,3171
Std. Deviation ,54156
,05981
nam
68
1,3676
,48575
,05891
Nu
82
1,2927
,45779
,05055
nam
Dac diem noi dung buc tranh
68
1,2647
,44446
,05390
Bo cuc
Nu
82
1,0366
,02086
,18890
nam
Mau sac
68 82
1,0588 1,1951
,02875 ,04403
,23704 ,39873
Nu nam
68
1,1765
,04657
,38405
Hinh ve
Nu
82
1,2439
,04771
,43208
nam
68
1,1618
,04499
,37097
tong diem
Nu
82
6,0854
,13124
1,18843
nam
68
6,0294
,14511
1,19664
2/PL
Independent Samples Test
Levene's Test for Equality of Variances
t-test for Equality of Means
95% Confidence Interval of the Difference
F
Sig.
T
Df
Sig. (2-tailed)
Mean Difference
Std. Error Difference
Lower
Upper
Ten tranh ve
,314
,576
-,596
148
-,0506
,08480
-,21815
,11701
,552
Equal variances assumed
-,602
147,063
-,0506
,08394
-,21647
,11532
,548
Equal variances not assumed
,577
,449
,378
148
,0280
,07410
-,11846
,17441
,706
Dac diem noi dung buc tranh
Equal variances assumed
,379
144,339
,0280
,07390
-,11808
,17404
,706
Equal variances not assumed
Bo cuc
1,645
,202
-,639
148
-,0222
,03478
-,09097
,04649
,524
Equal variances assumed
-,626
127,011
-,0222
,03552
-,09252
,04804
,532
Equal variances not assumed
Mau sac
,339
,561
,290
148
,0187
,06432
-,10845
,14575
,772
Equal variances assumed
,291
144,687
,0187
,06409
-,10803
,14533
,771
Equal variances not assumed
Hinh ve
6,406
,012
1,235
148
,0821
,06652
-,04931
,21358
,219
Equal variances assumed
1,253
147,809
,0821
,06558
-,04745
,21173
,212
Equal variances not assumed
tong diem
,029
,865
,286
148
,0560
,19553
-,33044
,44235
,775
Equal variances assumed
,286
142,545
,0560
,19566
-,33081
,44272
,775
Equal variances not assumed
ANOVA
3/PL
Df
Mean Square
Sig.
Sum of Squares
Ten tranh ve
Between Groups
6,280
2
3,140
F 13,828
,000
Within Groups
33,380 39,660 2,080
147 149 2
,227 1,040
5,429
,005
Dac diem noi dung buc tranh
Total Between Groups Within Groups
28,160
147
,192
Total
30,240
149
Bo cuc
Between Groups
,093
2
1,043
,355
,047
Within Groups
6,580
147
,045
Total
6,673
149
Mau sac
Between Groups
2,613 20,160
2 147
1,307 ,137
9,528
,000
Within Groups Total
22,773
149
Hinh ve
Between Groups
,173 24,420
2 147
,087 ,166
,522
,595
Within Groups Total
24,593
149
tong diem
Between Groups
37,480
2
18,740
15,925
,000
Within Groups
172,980
147
1,177
Total
210,460
149
4/PL
N
Mean
Std. Deviation
Std. Error Mean
ten tranh ve
NHOM thuc nghiem
dac diem noi dung
,47946 ,50401 ,49827
,08754 ,09202 ,09097
1,3333 1,4333 1,4000
30 30 30
doi chung thuc nghiem doi chung
,50401
,09202
1,4333
30
bo cuc
thuc nghiem
,43018
,07854
1,2333
30
doi chung
,37905
,06920
1,1667
30
mau sac
thuc nghiem
,47946
,08754
1,3333
30
doi chung
,49013
,08949
1,3667
30
hinh ve
thuc nghiem
,47946 ,44978
,08754 ,08212
1,3333 1,2667
30 30
tong diem
doi chung thuc nghiem
,85029
,15524
6,6333
30
doi chung
,95893
,17508
6,6667
30
Kết quả xử lý thống kê trước thực nghiệm Đề tài: “Vẽ quà tặng người thân” Group Statistics
5/PL
Independent Samples Test
Levene's Test for Equality of Variances
t-test for Equality of Means
95% Confidence Interval of the Difference
F
Sig.
T
df
Sig. (2-tailed)
Mean Difference
Std. Error Difference
Lower
Upper
ten tranh ve
2,174
,146
-,787
58
-,1000
,12700
-,35423
,15423
,434
Equal variances assumed
-,787
57,856
-,1000
,12700
-,35424
,15424
,434
Equal variances not assumed
dac diem noi dung
,256
,615
-,258
58
-,0333
,12940
-,29235
,22568
,798
Equal variances assumed
-,258
57,992
-,0333
,12940
-,29235
,22568
,798
Equal variances not assumed
bo cuc
1,648
,204
,637
58
,0667
,10468
-,14287
,27621
,527
Equal variances assumed
,637
57,095
,0667
,10468
-,14294
,27628
,527
Equal variances not assumed
mau sac
,282
,598
-,266
58
-,0333
,12518
-,28391
,21725
,791
Equal variances assumed
-,266
57,972
-,0333
,12518
-,28391
,21725
,791
Equal variances not assumed
hinh ve
1,226
,273
,555
58
,0667
,12003
-,17359
,30692
,581
Equal variances assumed
,555
57,765
,0667
,12003
-,17361
,30694
,581
Equal variances not assumed
tong diem
,512
,477
-,142
58
-,0333
,23399
-,50171
,43505
,887
Equal variances assumed
,887
-,142
57,181
-,0333
,23399
-,50186
,43519
Equal variances not assumed
6/PL
Kết quả xử lý thống kê sau thực nghiệm Đề tài: “Vẽ hoa” Group Statistics
N
Mean
Std. Deviation
Std. Error Mean
ten tranh ve
nhom nhom thuc nghiem
30 30
1,5333 1,2667
,50742 ,44978
,09264 ,08212
nhom doi chung nhom thuc nghiem
30
1,8333
,37905
,06920
dac diem noi dung tranh ve
nhom doi chung
30
1,5667
,50401
,09202
bo cuc
nhom thuc nghiem
30 30
1,4333 1,1667
,50401 ,37905
,09202 ,06920
mau sac
nhom doi chung nhom thuc nghiem
30
1,4333
,50401
,09202
nhom doi chung
30
1,1667
,37905
,06920
hinh ve
nhom thuc nghiem
30 30
1,5333 1,2667
,50742 ,44978
,09264 ,08212
tong diem
nhom doi chung nhom thuc nghiem
30
7,7667
,89763
,16388
nhom doi chung
30
6,4333
1,04000
,18988
7/PL
Independent Samples Test
Levene's Test for Equality of Variances
t-test for Equality of Means
95% Confidence Interval of the Difference
F
Sig.
T
Df
Sig. (2-tailed)
Mean Difference
Std. Error Difference
Lower
Upper
ten tranh ve
7,552
,008
2,154
58
,2667
,12380
,01886
,51447
,035
Equal variances assumed
2,154
57,177
,2667
,12380
,01878
,51455
,035
Equal variances not assumed
19,969
,000
2,316
58
,2667
,11514
,03619
,49714
,024
dac diem noi dung tranh ve
Equal variances assumed
2,316
53,854
,2667
,11514
,03582
,49752
,024
Equal variances not assumed
bo cuc
19,969
,000
2,316
58
,2667
,11514
,03619
,49714
,024
Equal variances assumed
2,316
53,854
,2667
,11514
,03582
,49752
,024
Equal variances not assumed
mau sac
19,969
,000
2,316
58
,2667
,11514
,03619
,49714
,024
Equal variances assumed
2,316
53,854
,2667
,11514
,03582
,49752
,024
Equal variances not assumed
hinh ve
7,552
,008
2,154
58
,2667
,12380
,01886
,51447
,035
Equal variances assumed
2,154
57,177
,2667
,12380
,01878
,51455
,035
Equal variances not assumed
tong diem
,612
,437
5,316
58
1,3333
,25082
,83126
1,83541
,000
Equal variances assumed
5,316
56,787
1,3333
,25082
,83103
1,83564
,000
Equal variances not assumed
Kết quả xử lý thống kê sau thực nghiệm Đề tài: “Vẽ thiên nhiên quanh bé”
8/PL
N
Mean
Std. Error Mean
ten tranh ve
Nhom nhom thuc nghiem
Std. Deviation ,50855
30
1,5000
,09285
nhom doi chung
30
1,2333
,43018
,07854
nhom thuc nghiem
30
1,9667
,18257
,03333
dac diem noi dung tranh ve
nhom doi chung
30
1,7333
,44978
,08212
bo cuc
nhom thuc nghiem
30
1,4333
,50401
,09202
nhom doi chung
30
1,1333
,34575
,06312
mau sac
nhom thuc nghiem
30 30
1,5333 1,2667
,50742 ,44978
,09264 ,08212
hinh ve
nhom doi chung nhom thuc nghiem
nhom doi chung
30 30
1,4667 1,2000
,50742 ,40684
,09264 ,07428
tong diem
nhom thuc nghiem
30
7,9000
,92289
,16850
nhom doi chung
30
6,5667
,89763
,16388
Group Statistics
9/PL
Independent Samples Test
Levene's Test for Equality of Variances
t-test for Equality of Means
95% Confidence Interval of the Difference
F
Sig.
t
Df
Sig. (2-tailed)
Mean Difference
Std. Error Difference
Lower
Upper
ten tranh ve
11,528
,001
2,193
58
,2667
,12161
,02324
,51010
,032
Equal variances assumed
2,193
56,448
,2667
,12161
,02309
,51024
,032
Equal variances not assumed
43,798
,000
2,633
58
,2333
,08863
,05593
,41074
,011
dac diem noi dung tranh ve
Equal variances assumed
2,633
38,304
,2333
,08863
,05397
,41270
,012
Equal variances not assumed
bo cuc
29,476
,000
2,688
58
,3000
,11159
,07663
,52337
,009
Equal variances assumed
2,688
51,346
,3000
,11159
,07601
,52399
,010
Equal variances not assumed
mau sac
7,552
,008
2,154
58
,2667
,12380
,01886
,51447
,035
Equal variances assumed
2,154
57,177
,2667
,12380
,01878
,51455
,035
Equal variances not assumed
hinh ve
15,612
,000
2,246
58
,2667
,11874
,02898
,50435
,029
Equal variances assumed
2,246
55,383
,2667
,11874
,02874
,50459
,029
Equal variances not assumed
tong diem
,014
,906
5,673
58
1,3333
,23505
,86283
1,80384
,000
Equal variances assumed