VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN THỊ HẰNG
XU HƢỚNG CHỌN NGHỀ CỦA HỌC SINH
TRUNG HỌC PHỔ THÔNG TỈNH TÂY NINH
LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC
HÀ NỘI, 2019
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN THỊ HẰNG
XU HƢỚNG CHỌN NGHỀ CỦA HỌC SINH
TRUNG HỌC PHỔ THÔNG TỈNH TÂY NINH
Ngành: Tâm lý học
Mã số: 8.31.04.01
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. NGUYỄN THỊ QUY
HÀ NỘI, 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số liệu
ghi trong luận văn là trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa
từng công bố trong bất kỳ công trình nào.
Tác giả luận văn
Nguyễn Thị Hằng
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN ...................................................................... 11
1.1. Một số khái niệm cơ bản........................................................................ 11
1.2. Đặc trưng tâm lý của học sinh trung học phổ thông ............................... 17
1.3. Biểu hiện xu hướng chọn nghề của học sinh trung học phổ thông .......... 22
1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến xu hướng chọn nghề của Học sinh trung
học phổ thông .................................................................................................. 31
Chƣơng 2: TỔ CHỨC NGHIÊN CỨU VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN
CỨU ................................................................................................................ 36
2.1. Tổ chức nghiên cứu .................................................................................. 36
2.2. Phương pháp nghiên cứu .......................................................................... 36
Chƣơng 3: THỰC TRẠNG XU HƢỚNG CHỌN NGHỀ CỦA HỌC
SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG TỈNH TÂY NINH ........................... 42
3.1. Vài nét về khách thể nghiên cứu .............................................................. 42
3.2. Thực trạng xu hướng chọn nghề của học sinh trung học phổ thông
tỉnh Tây Ninh .................................................................................................. 43
KẾT LUẬN .................................................................................................... 78
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 81
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ĐLC Độ lệch chuẩn
ĐTB Điểm trung bình
HS Học sinh
THPT Trung học phổ thông
TB Thứ bậc
SL Số lượng
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 1.1. Phân loại nhóm nghề theo E. A. Klimov .................................................. 13
Bảng 3.1. Nhận thức của học sinh về tầm quan trọng của việc chuẩn bị nghề cho
tương lai .................................................................................................................... 44
Bảng 3.2. Nhận thức của học sinh về tầm quan trọng của các nghề trong xã hội .... 45
Bảng 3.3. Nhận thức của học sinh về nghề phù hợp với bản thân ............................ 48
Bảng 3.4. Nhận thức của học sinh về nghề phù hợp với bản thân xét theo học lực . 50
Bảng 3.5. Thái độ của học sinh khi tham gia giờ học (sinh hoạt) hướng nghiệp ..... 55
Bảng 3.6. Những vấn đề học sinh lớp 12 có nguyện vọng ....................................... 56
Bảng 3.7. Những nghề được học sinh yêu thích ....................................................... 58
Bảng 3.8. Dự định lựa chọn nghề của HS sau khi tốt nghiệp THPT ........................ 63
Bảng 3.9: Hành vi của HS khi tham gia các giờ học (sinh hoạt) hướng nghiệp ....... 65
Bảng 3.10. Những vấn đề HS lớp 12 quan tâm khi lựa chọn nghề nghiệp ............... 66
Bảng 3.11. Những khó khăn HS lớp 12 gặp phải khi lựa chọn nghề nghiệp ............ 68
Bảng 3.12. Mức độ các hình thức chuẩn bị nghề của học sinh ................................. 70
Bảng 3.13: Các yếu tố ảnh hưởng đến xu hướng chọn nghề của học sinh ............... 72
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 3.1. Mức độ lo lắng cho việc lựa chọn nghề nghiệp của học sinh ............... 54
Biểu đồ 3.2. Mức độ hứng thú của HS với nghề đã chọn ......................................... 60
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Con người sinh ra và lớn lên, ai cũng mong muốn học tập và lựa chọn cho
mình một nghề nghiệp lâu dài. Với một công việc thích hợp, chúng ta có thể phát
huy được tất cả những ưu điểm của mình. Chọn cho mình một nghề phù hợp, nghĩa
là chọn cho mình một tương lai, lựa chọn sai lầm một nghề nghĩa là đặt cho mình
một tương lai không thực sự an toàn và vững chắc. Vì vậy, việc chọn nghề thực sự
quan trọng và vô cùng cần thiết đối với tất cả mỗi người.
Đất nước ta đang bước vào thời kỳ công nghiệp hóa- hiện đại hóa đất nước.
Nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa đã mang lại một diện mạo
mới năng động, trẻ trung và hết sức sôi động; kinh tế đổi thay, sự năng động và liên
kết toàn cầu đã đem lại cho mỗi người nhiều cơ hội to lớn trong đó có cơ hội về
việc làm. Tuy nhiên thực trạng nguồn nhân lực của Việt Nam chưa đáp ứng kịp
được với sự phát triển của nền kinh tế đất nước. Lao động trong nước phần đông là
lao động phổ thông, trình độ thấp, không được đào tạo bài bản.
Vì vậy, việc chuẩn bị cho thế hệ trẻ có được những phẩm chất và năng lực
nghề nghiệp vững chắc phù hợp với nhu cầu của các hoạt động kinh tế -xã hội,
khoa học, công nghệ là một vấn đề có ý nghĩa đặc biệt quan trọng mang tính chiến
lược. Trong luật giáo dục năm 2005, điều 27 đã xác định mục tiêu giáo dục trung
học phổ thông: “Giáo dục trung học phổ thông nhằm giúp học sinh củng cố và phát
triển những kết quả của học sinh trung học cơ sở, hoàn thiện học vấn phổ thông và
những hiểu biết thông thường về kỹ thuật và hướng nghiệp, có điều kiện phát huy
tính tích cực cá nhân để lựa chọn hướng phát triển, tiếp tục học đại học, cao đẳng,
trung cấp, học nghề hoặc đi vào cuộc sống lao động”. [28]
Lựa chọn đúng một ngành nghề để học, để làm sau khi ra trường là một việc
làm không hề dễ dàng đối với nhiều người và đặc biệt là đối với học sinh trung học
phổ thông (THPT). Nếu HS chọn được cho mình một nghề phù hợp sẽ giúp cho các
em phát huy tối đa năng lực của bản thân vào ngành nghề mà mình đã lựa chọn.
Đồng thời nó còn đáp ứng được nguồn nhân lực chất lượng cao cho xã hội. Ngược
1
lại nếu các em không biết chọn nghề gì hay chọn sai nghề sẽ mất nhiều thời gian để
học lại ngành khác, còn tiếp tục học sẽ dẫn đến tình trạng chán nản, học không tập
trung, bỏ giữa chừng… Điều này không chỉ gây hậu quả đối với bản thân người học
như mất nhiều thời gian, kinh phí đào tạo, khó tìm việc làm, làm trái nghề… Đối
với xã hội, chất lượng nguồn nhân lực yếu kém do không thích hợp với nghề, năng
lực không đáp ứng được những đòi hỏi của nghề sẽ gây hậu quả không nhỏ đến sự
phát triển nền kinh tế. Vì vậy, việc chọn nghề, định hướng nghề nghiệp cho học
sinh THPT để đáp ứng nhu cầu xã hội là một việc quan trọng.
Sau khi tốt nghiệp trung học phổ thông, học sinh thường có mong muốn
được vào các trường cao đẳng, đại học để có một nghề nghiệp nhất định. Tuy nhiên,
sự hiểu biết của các em về nghề nghiệp mà các em lựa chọn cũng như các yêu cầu
của nghề đó, những khả năng của bản thân để đáp ứng yêu cầu đối với nghề nghiệp
còn rất hạn chế. Nhiều em còn lúng túng chưa định hướng được tương lai cho cuộc
sống của bản thân, cho nên khi chọn nghề thường không có sự cân nhắc, theo cảm
tính. Điều này có ảnh hưởng lớn đến quá trình hoạt động nghiệp của các em. Vì
vậy, để lựa chọn một ngành nghề phù hợp là vấn đề được nhiều bạn trẻ quan tâm.
Nhận thấy tầm quan trọng của hướng nghiệp ảnh hưởng nhiều đến việc lựa
chọn nghề nghiệp của HS và phân luồng lao động, nên từ lâu đã có nhiều công trình
nghiên cứu khoa học về công tác hướng nghiệp. Tuy nhiên, xu hướng chọn nghề
của học sinh THPT tại tỉnh Tây Ninh chưa được quan tâm khảo sát. Do vậy, việc
nghiên cứu xu hướng chọn nghề của HS trong điều kiện hiện nay có một ý nghĩa
thực tiễn to lớn. Qua đó, ta sẽ hiểu được xu hướng chọn nghề của các em để có thể
xây dựng kế hoạch nhằm giúp đỡ, điều chỉnh sự định hướng nghề đúng đắn cho HS.
Xuất phát từ những lí do trên, tôi quyết định chọn đề tài: “Xu hướng chọn
nghề của học sinh trung học phổ thông tỉnh Tây Ninh”.
2. Tình hình nghiên cứu
2.1. Trong nƣớc
Lĩnh vực hướng nghiệp và giáo dục hướng nghiệp từ lâu đã được quan tâm tại
Việt Nam. Tuy nhiên, những nghiên cứu chuyên biệt mới được thực hiện từ những
năm 1980 trở về đây.
2
- Công trình nghiên cứu của Đức Minh (chủ biên) cùng tập thể các tác giả
thuộc Viện khoa học giáo dục: “Một số vấn đề tâm lý học sư phạm và lứa tuổi học
sinh Việt Nam”. Trong nghiên cứu này, các tác giả cho biết: Đa số HS có xu hướng
đạt trình độ học vấn đại học trước khi đi vào lao động. Xu hướng chọn nghề của
nam và nữ có sự khác nhau không chỉ ở lứa tuổi mà còn cả đặc điểm giới tính quy
định nữa. Từ hứng thú nghề nghiệp của nam và nữ, từ đó các tác giả đi đến tìm hiểu
những yếu tố tác động đến sự hình thành xu hướng nghề nghiệp của HS THPT. Tuy
nhiên, trong công trình này các tác giả chưa đề cập đến thực trạng nhận thức nghề
của HS cũng như ảnh hưởng của nó đến việc lựa chọn nghề của HS. [29]
- Tác giả Nguyễn Ngọc Bích trong công trình nghiên cứu: “Động cơ chọn
nghề của thanh niên” đã nghiên cứu động cơ chọn nghề của thanh niên HS, kết quả
nghiên cứu cho thấy: Động cơ bên trong nổi bật hơn động cơ bên ngoài. Nam thanh
niên xếp động cơ chọn nghề theo thứ tự sau: Khả năng của bản thân, tính chất quan
trọng của nghề nghiệp, khả năng đáp ứng được yêu cầu của công việc. Nữ thanh
niên xếp động cơ chọn nghề theo thứ tự sau: Do yêu cầu của nhà nước, vị trí xã hội
của nghề nghiệp, thực hiện được khả năng của mình. Theo tác giả việc lựa chọn
ngành nghề của cả nam và nữ có sự khác nhau. Tác giả chỉ đưa ra một số động cơ
tiêu biểu có liên quan đến sự lựa chọn nghề của HS và đánh giá động cơ nào là quan
trọng với họ, nhưng chưa quan tâm đến vấn đề nhận thức nghề nghiệp. [2]
- Tác giả Nguyễn Quang Uẩn với tác phẩm: “Tâm lý học xã hội và sự nghiệp
đổi mới đất nước”. Trong công trình này tác giả nghiên cứu xu hướng nghề nghiệp
của học sinh theo các chỉ số: Mức độ nhận thức nghề, tính ổn định của thái độ đối
với nghề; từ đó tác giả đã đưa ra những đặc điểm chung về xu hướng nghề của học
sinh THPT, xác định được những nghề mà HS biết nhiều nhất cũng như thái độ
đánh giá của HS đối với nghề. Tác giả còn cho biết, nhận thức về nghề của HS còn
yếu, số nghề và các trường chuyên nghiệp được HS biết đến chưa nhiều. Hứng thú
của HS đối với nghề nghiệp hình thành muộn, chưa tập trung và rõ nét. [42]
- Tác giả Phạm Tất Dong đã có nhiều công trình nghiên cứu lí luận và thực
tiễn về hứng thú, động cơ và nhu cầu nghề nghiệp, xu hướng chọn nghề. Đồng thời
3
ông đưa ra hệ thống các quan điểm, nguyên tắc hướng nghiệp, nội dung, phương
pháp, biện pháp hướng nghiệp cho HS. Điều này được thể hiện trên rất nhiều bài
báo cáo, bài báo, tạp chí, sách của ông như báo cáo: “Hướng nghiệp cho thanh
niên” (1982). Các tác phẩm như: “Giúp bạn chọn nghề” (1968); “Hoạt động giáo
dục trong trường phổ thông” (2000); Hay cuốn “Sự lựa chọn cho tương lai”
(2000). Các tác phẩm của ông đã đưa ra những cơ sở khoa học của việc lựa chọn
nghề nghiệp cho phù hợp của học sinh. Đối với học sinh, hứng thú môn học, hứng
thú nghề nghiệp có tác dụng thúc đẩy việc lựa chọn nghề và thực hiện được khả
năng của mình là động cơ mạnh nhất, quan trọng nhất. [6], [7], [8]
- Tác giả Trần Quốc Thành với công trình nghiên cứu “Định hướng nghề
nghiệp của học sinh lớp 12 trung học phổ thông một số tỉnh miền núi phía Bắc” đã
đề cập đến tầm quan trọng của việc định hướng nghề nghiệp, nhận thức về nghề
nghiệp, xu hướng chọn nghề và những nhân tố ảnh hưởng đến sự định hướng giá trị
nghề nghiệp của HS. Trong đó, vai trò của gia đình, bạn bè và các giá trị vật chất về
nghề nghiệp có xu hướng được đề cao trong quá trình định hướng nghề nghiệp của
thế hệ trẻ. [40]
- Các tác giả Nguyễn Công Khanh, Nguyễn Văn Lê nghiên cứu định hướng
nghề nghiệp với công trình “ Xu hướng chọn nghề nghiệp của học sinh lớp 12
trường trung học phổ thông dưới ảnh hưởng của nền kinh tế thị trường”, kết luận:
Đa số học sinh THPT chưa được định hướng nghề phù hợp. Sau khi tốt nghiệp
THPT một bộ phận lớn HS sẵn sàng tham gia vào thị trường lao động mà không
tiếp tục học lên. Định hướng nghề nghiệp của học sinh THPT phụ thuộc rất nhiều
vào công tác giáo dục hướng nghiệp trong nhà trường. Tuy nhiên các hoạt động
giáo dục hướng nghiệp có vai trò mờ nhạt. Nguyên nhân một phần là do bản thân
người làm công tác hướng nghiệp chưa có sự phát triển phù hợp cả về thái độ lẫn
năng lực hiểu biết về nghề nghiệp. [25]
- Kết quả nghiên cứu về lí luận và thực tiễn trong công tác hướng nghiệp cho
học sinh THPT ở Việt Nam, tác giả Nguyễn Văn Hộ đã xây dựng được luận chứng
cho hệ thống giáo dục hướng nghiệp trong điều kiện phát triển kinh tế xã hội của
4
đất nước. Năm 2006, ông xuất bản cuốn sách “Hoạt động giáo dục hướng nghiệp
và giảng dạy kỹ thuật trong trường trung học phổ thông”. Tác phẩm đã trình bày
một cách có hệ thống về cơ sở lí luận cũng như vấn đề tổ chức giáo dục hướng
nghiệp trong nhà trường THPT trong giai đoạn hiện nay. [16]
- Tác giả Huỳnh Văn Sơn nghiên cứu về: “Xu hướng chọn nghề của học sinh
cuối cấp trung học cơ sở và trung học phổ thông tỉnh Bình Dương hiện nay”, đã đề
cập đến xu hướng chọn nghề của học sinh THPT. Kết quả cho thấy, việc lựa chọn
con đường để vào đời bằng thi tuyển vào các trường trung học chuyên nghiệp, đặc
biệt là cao đẳng, đại học vẫn là ưu tiên hàng đầu của học sinh. Từ đó ông đưa ra các
ngành nghề mà học sinh lựa chọn, nguyên nhân mà học sinh lựa chọn ngành nghề
đó. [36]
- Tác giả Huỳnh Công Tú trong cuốn “Lựa chọn nghề nghiệp- điều quan
trọng số một của cuộc đời”, đã trình bày một số vấn đề liên quan đến lựa chọn nghề
nghiệp và giới thiệu một số ngành nghề ở Việt Nam và thế giới. Theo tác giả, sau
khi tốt nghiệp THPT, HS nên học nghề hay đi theo con đường học cao đẳng, đại
học? HS có cần theo đuổi một nghề nghiệp suốt đời? Từ đó, tác giả đưa ra các cách
thức để lựa chọn nghề phù hợp với hứng thú, nhu cầu, nguyện vọng của mỗi HS.
Tuy nhiên trong công trình này một số ngành nghề tác giả giới thiệu quá ngắn gọn
chỉ dừng lại ở mức giới thiệu tên chứ chưa cung cấp thông tin về nghề nghiệp. [39]
Như vậy, có thể nói rằng, ở Việt Nam cũng đã có rất nhiều nhà nghiên cứu
quan tâm đến lĩnh vực nghề nghiệp. Những kết quả đó là tiền đề để tiếp tục nghiên
cứu vấn đề này vào thời điểm hiện nay, khi đất nước đang bước vào thời kỳ công
nghiệp hóa- hiện đại hóa đất nước. Các công trình nghiên cứu đã nêu lên được thực
trạng chọn nghề của học sinh THPT: Hứng thú nghề, động cơ chọn nghề, nhu cầu
chọn nghề… Tuy nhiên vấn đề xu hướng chọn nghề của học sinh THPT chưa được
các tác giả quan tâm một cách thỏa đáng.
2.2. Trên thế giới
Trên thế giới, lĩnh vực nghề nghiệp được các tác giả quan tâm từ lâu, chủ yếu
các vấn đề sau đây:
5
- Hướng nghiệp xuất hiện đầu tiên vào giữa thế kỷ XIX ở Châu Âu với sự ra
đời của tác phẩm “Hướng dẫn chọn nghề” vào năm 1848. Nội dung đã đề cập đến
sự phát triển đa dạng của các ngành nghề trong xã hội do sự phát triển của công
nghiệp; từ đó đã rút ra những kết luận coi giáo dục hướng nghiệp là một vấn đề
quan trọng không thể thiếu khi xã hội ngày càng phát triển và cũng là nhân tố thúc
đẩy xã hội phát triển. Sau đó vào những năm 1840 đến 1940 việc nghiên cứu hướng
nghiệp gắn liền với những tác giả như Francis Galton, Wilheim Wundt, James
Cattell, Alfred, Binet, Frank Parson, Robert Yekes và E.K. Strong. Các nghiên cứu
này đề cập đến những cơ sở ban đầu về hướng nghiệp và tham vấn hướng nghiệp.
[14]
- Vào những năm 1940 J. L. Holland đã nghiên cứu và thừa nhận sự tồn tại
của các loại nhân cách và sở thích nghề nghiệp. Tác giả đã chỉ ra tương ứng với mỗi
kiểu nhân cách là một số những nghề nghiệp tương xứng có thể chọn để đạt được
kết quả làm việc và thành công nghề nghiệp cao nhất. Lý thuyết này của J. L.
Holland đã được sử dụng rộng rãi nhất trong thực tiễn hướng nghiệp trên thế giới.
Đến năm 1974, trong công trình “Nghiên cứu định hướng” ông cho rằng những
dụng cụ tư vấn, những đặc điểm môi trường và con người dẫn đến việc lựa chọn
nghề, học nghề, gắn bó và thành công với nghề nghiệp của con người. [47]
- E. M Pavlưuchenkov trong công trình nghiên cứu “Động cơ chọn nghề”
đã đưa ra một hệ thống 9 nhóm động cơ nghề, bao gồm: Động cơ xã hội; động cơ
đạo đức; động cơ thẩm mỹ; động cơ nhận thức; động cơ sáng tạo; động cơ có liên
quan đến các nội dung của lao động; động cơ vật chất; động cơ danh vọng; các động
cơ khác. Ông khẳng định, những động cơ chiếm ưu thế quan trọng và chủ đạo là
động cơ đạo đức và động cơ xã hội. Theo tác giả, động cơ chọn nghề phụ thuộc rất
nhiều vào tính tích cực lao động của HS. Những HS tích cực tham gia các hoạt động
liên quan đến học tập, lao động thì có động cơ chọn nghề tối ưu hơn các HS khác. Ở
đây tác giả chỉ đưa ra các kiểu HS có động cơ nào trội hơn mà chưa đưa ra mô hình
cấu trúc cụ thể đối với từng loại HS. [3]
6
- Trong những năm 1970, các nhà giáo dục Liên Xô như B.F. Kapeep, X. Ia.
Batưsep, X.A. Sapôrinxki, V. A Pôliacô trong các tác phẩm và công trình nghiên
cứu của mình đã chỉ ra tầm quan trọng của giáo dục hướng nghiệp và định hướng nghề
nghiệp cho thế hệ trẻ sẽ là cơ sở để họ lựa chọn nghề đúng đắn. Trong các tác phẩm của
mình, các tác giả đã chỉ ra mối quan hệ giữa hướng nghiệp và các hoạt động sản xuất xã
hội, và nếu sớm thực hiện giáo dục hướng nghiệp cho thế hệ trẻ thì đó là cơ sở để họ
chọn nghề đúng đắn, có sự phù hợp giữa năng lực, sở thích cá nhân với nhu cầu xã hội.
Đồng thời, các tác giả cũng đã trình bày những nguyên tắc, phương pháp thực hành lao
động nghề nghiệp cho HS phổ thông tại các cơ sở học tập- lao động liên trường, phù hợp
giữa năng lực, sở thích cá nhân với nhu cầu xã hội. [47]
- H. Perho nhà tâm lý học người Phần Lan đã tiến hành nghiên cứu “Định
hướng nghề nghiệp và nghệ thuật sư phạm trong đào tạo giáo viên phổ thông” Kết
quả cho thấy, trong động cơ học tập của sinh viên, ước muốn nhận được điểm cao
mạnh hơn ước muốn trở thành người thầy giáo giỏi. Qua đó ông muốn cảnh báo và
tổ chức lại hệ thống (quy trình) tuyển sinh ngành sư phạm. V.Volamen cũng nghiên
cứu về định hướng nghề nghiệp và thích ứng việc làm ở thanh niên. Kết quả cho
thấy, những đánh giá chủ quan của thời kỳ học nghề ảnh hưởng mạnh mẽ đến định
hướng nghề nghiệp của thanh niên nhiều hơn so với thời kỳ làm việc đầu tiên và
phụ thuộc vào quá trình thích ứng nghề nghiệp của thanh niên. Đồng thời, Z.
Ransenbakh cũng nghiên cứu về định hướng nghề nghiệp gắn với định hướng giá trị
và các cuộc sống của sinh viên. Những công trình đó cho chúng ta góc nhìn cận
cảnh hơn về định hướng nghề nghiệp của thanh niên, sinh viên. [9]
Như vậy, các tác giả trên đều đưa ra nhiều góc độ về hướng nghiệp và định
hướng nghề nghiệp. Tuy nhiên chưa có tác giả nào đi sâu vào nghiên cứu xu hướng
chọn nghề của HS THPT.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứ lí luận và thực trạng về xu hướng chọn nghề của học
sinh THPT trên địa bàn tỉnh Tây Ninh, đề xuất một số biện pháp tâm lý giáo dục
giúp học sinh có xu hướng chọn nghề phù hợp.
7
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để hoàn thành được mục đích nghiên cứu của đề tài, tôi thực hiện các
nhiệm vụ sau:
1) Xây dựng cơ sở lí luận về xu hướng chọn nghề của học sinh trung học phổ
thông.
2) Điều tra, nghiên cứu, đánh giá thực trạng về xu hướng lựa chọn nghề của học
sinh trung học phổ thông trên địa bàn tỉnh Tây Ninh.
3) Đề xuất một số biện pháp giáo dục hướng nghiệp cho học sinh trung học phổ
thông trên địa bàn tỉnh Tây Ninh.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Xu hướng chọn nghề của học sinh trung học phổ thông tỉnh Tây Ninh.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
4.2.1. Phạm vi về nội dung nghiên cứu
Xu hướng là một đề tài rất rộng, phong phú và phức tạp, có nhiều cách tiếp
cận khác nhau. Trong phạm vi đề tài này, chúng tôi nghiên cứu các thành tố của xu
hướng chọn nghề bởi vì các thành tố của xu hướng chọn nghề trong mối quan hệ
chặt chẽ với nhau sẽ tạo thành động cơ mạnh mẽ thúc đẩy HS đi đến quyết định lựa
chọn nghề nghiệp cho bản thân; việc nghiên cứu các thành tố của xu hướng chọn
nghề cho biết hướng phát triển về nghề nghiệp của HS, từ đó giúp cho HS có kế
hoạch đúng đắn và tích cực hoạt động để đạt được mục tiêu, lý tưởng nghề nghiệp
của mình trong tương lai.
4.2.2. Phạm vi về địa bàn nghiên cứu
Trong phạm vi đề tài này, chúng tôi nghiên cứu 3 trường trung học phổ
thông trên địa bàn tỉnh Tây Ninh.
4.2.3. Phạm vi về khách thể nghiên cứu
286 học sinh lớp 12 tại các trường trung học phổ thông trên địa bàn thành
phố Tây Ninh, huyện Dương Minh Châu và huyện Trảng Bàng. Trong đó có:
- Xét theo giới tính: 161 nam (56.3%), 125 nữ (43.7%).
8
- Xét theo học lực 57 giỏi (19.9%), 103 khá (36%), 97 trung bình (33.9%),
29 (10.2%) yếu.
- Xét theo địa bàn:
Thành phố Tây Ninh (Trường THPT Tây Ninh): 97 HS
Huyện Trảng Bàng (trường THPT Nguyễn Trãi): 95 HS
Huyện Dương Minh Châu (trường THPT Nguyễn Đình Chiểu): 94 HS.
4.3. Giả thuyết khoa học
- Hiện nay xu hướng chọn nghề của học sinh trung học phổ thông chưa rõ
ràng, do các em chưa được định hướng đầy đủ từ nhà trường, gia đình, xã hội.
- Xu hướng chọn nghề của học sinh trung học phổ thông chịu ảnh hưởng từ
nhiều yếu tố khác nhau: Gia đình, nhà trường, bạn bè và trào lưu xã hội…
- Nếu xác định được thực trạng và các yếu tố ảnh hưởng đến xu hướng chọn
nghề của học sinh trung học phổ thông hiện nay, trên cơ sở đề xuất một số biện
pháp giáo dục hướng nghiệp hợp lý thì sẽ giúp cho các em lựa chọn nghề nghiệp
phù hợp.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Nghiên cứu đƣợc tiếp cận dƣới góc độ tâm lý học đại cƣơng và Tâm lý
học chuyên ngành là Tâm lý học lứa tuổi.
5.2. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu lý luận
- Phương pháp phỏng vấn sâu
- Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi
- Phương pháp thống kê toán học
- Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
6.1. Ý nghĩa lý luận
Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần làm phong phú hơn lý luận về xu
hướng nói chung và xu hướng chọn nghề của học sinh trung học phổ thông nói
9
riêng. Chỉ ra những biểu hiện và các yếu tố ảnh hưởng đến xu hướng chọn nghề của
học sinh trung học phổ thông. Từ đó, khái quát xu thế của học sinh trong việc lựa
chọn ngành nghề của họ. Đồng thời, đưa ra cho học sinh những biện pháp có khả
năng hữu ích giúp học sinh định hướng cho bản thân trong việc lựa chọn nghề
nghiệp phù hợp.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của đề tài là tài liệu tham khảo hữu ích đối với các cơ sở
đào tạo, nghiên cứu, thực hành về định hướng nghề nghiệp cho học sinh nói chung
và học sinh trung học phổ thông trên địa bàn tỉnh Tây Ninh nói riêng. Đồng thời, là
bằng chứng khoa học quan trọng trong việc xây dựng chính sách, giải pháp thực
hiện có hiệu quả việc định hướng nghề nghiệp cho học sinh trung học phổ thông
tỉnh Tây Ninh.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung luận văn
có 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về xu hướng chọn nghề của học sinh trung hoc phổ
thông tỉnh Tây Ninh
Chương 2: Tổ chức nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu
Chương 3: Thực trạng xu hướng chọn nghề của học sinh trung học phổ
thông tỉnh Tây Ninh
10
Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1. Nghề nghiệp
1.1.1.1. Khái niệm chung về nghề nghiệp
Để đi sâu vào nghiên cứu xu hướng chọn nghề của học sinh, chúng tôi tìm
hiểu một số khái niệm có liên quan.
Theo E. A Kimôp: “Nghề nghiệp là một lĩnh vực sử dụng sức mạnh vật chất
và tinh thần của con người một cách có giới hạn, cần thiết cho xã hội (do sự phân
công lao động xã hội mà có). Nó tạo cho mỗi người khả năng sử dụng phương tiện
cần thiết cho việc tồn tại và phát triển”. [22]
Theo tác giả Nguyễn Văn Hộ: “Nghề nghiệp như là một dạng lao động vừa
mang tính xã hội (sự phân công xã hội), vừa mang tính cá nhân (nhu cầu bản thân)
trong đó con người với tư cách là chủ thể hoạt động đòi hỏi để thỏa mãn những nhu
cầu nhất định của xã hội và cá nhân”. [17]
Theo quan điểm giáo dục học, nghề nghiệp là công việc chuyên môn được
định hình một cách hệ thống, là dạng đòi hỏi một trình độ học vấn nào đó để thực
hiện một hoạt động cơ bản, giúp con người tồn tại và phát triển. [6]
Dưới góc độ tâm lý học, nghề nghiệp là một lĩnh vực hoạt động lao động mà
trong đó, nhờ được đào tạo ra con người có những tri thức, những kỹ năng để làm ra
các loại sản phẩm vật chất hay tinh thần nào đó, đáp ứng được nhu cầu xã hội. [34]
Tóm lại, do được hiểu dưới nhiều góc độ khác nhau, khía cạnh khác nhau,
dẫn đến có nhiều quan niệm khác nhau về nghề; tuy nhiên, các quan niệm trên đều
đưa ra những nhận định chung về nghề nghiệp: Nghề nghiệp là một dạng hoạt động
lao động của con người trong xã hội, trong đó con người phải sử dụng năng lực, kỹ
năng và phẩm chất để tạo ra sản phẩm vật chất và tinh thần nhằm phục vụ cho bản
thân và xã hội.
11
1.1.1.2. Phân loại nghề nghiệp
Thế giới nghề nghiệp rất phong phú và đa dạng, hiện có tới 70.000 nghề và
chuyên môn. Ở nước ta trong danh mục nghề đào tạo công nhân do Viện khoa học
dạy nghề xây dựng có khoảng 400 nghề, còn trong xã hội có hàng chục nghìn nghề
khác nhau.
Theo tác giả Đặng Danh Ánh, tại Việt Nam danh mục nghề đào tạo công
nhân do Viện khoa học dạy nghề xây dựng có khoảng 400 nghề, còn nghề xã xã hội
có hàng chục nghìn nghề khác nhau. Căn cứ vào mức độ phức tạp kỹ thuật về trình
độ chuyên môn, các nghề được chia thành 3 nhóm: 1/ Các nghề không chuyên môn:
Lao động đơn giản, không cần qua đào tạo nghề; 2/ Các nghề nửa chuyên môn hóa:
Chỉ cần đào tạo các tri thức, kỹ năng, kỹ xảo đủ để thực hiện các thao tác đơn giản
hay những thao tác chuyên môn hóa trong dây chuyền sản xuất; 3/ Các nghề chuyên
môn hóa: Đòi hỏi đào tạo chính quy, chuyên sâu. [1]
Theo nhà tâm lý học Mỹ Ann Roe, có tám lĩnh vực nghề nghiệp, đó là:
Những nghề dịch vụ, những người làm kinh doanh, những người làm tổ chức,
những người làm công nghệ, những người làm việc ngoài trời, những người làm
khoa học, những người làm trong lĩnh vực văn hóa và cuối cũng những người làm
trong lĩnh vực giải trí. Đồng thời, Ann Roe cũng đưa ra sáu mức độ nghề nghiệp, đó
là: Chuyên nghiệp và quản lý bậc I- những người này có chuyên môn sâu, có khả
năng quản lý và quyết định của họ có khả năng ảnh hưởng đến những người khác;
chuyên nghiệp và quản lý bậc II- những người này cũng có trình độ chuyên môn, có
khả năng quản lý với quy mô nhỏ hơn và quyết định của họ có ảnh hưởng ở phạm
vi nhỏ hơn; bán chuyên nghiệp và kinh doanh nhỏ; những người lao động có kỹ
năng; những người lao động bán kỹ năng; những người lao động không có kỹ năng
[19]
Theo E. A. Kilimov, phân loại nghề theo đối tượng lao động được chia thành
năm nhóm chính, bao gồm: [22]
12
Bảng 1.1. Phân loại nhóm nghề theo E. A. Klimov
Nhóm nghề Đối tượng lao động chủ yếu Nghề nghiệp tương ứng
Người- thiên nhiên Các tổ chức hữu cơ, các quá Trồng lúa, chăn nuôi, bác
trình sinh vật và vi sinh vật sỹ thú y, lâm nghiệp…
Người- kỹ thuật Hệ thống các thiết bị kỹ Thợ máy, thợ rèn, thợ
thuật, đối tượng vật chất… nguội, thợ xây, lái xe…
Người- người Con người, nhóm tập thể Bác sỹ, y tá, giáo viên,
bán hàng…
Người- hệ thống ký Những dấu hiệu, con số, mã Nhân viên kế toán, thủ
hiệu số, công thức, ngôn ngữ… quỹ, đánh máy, thợ xếp
chữ in
Người- nghệ thuật Các hình ảnh nghệ thuật, các Sơn mài, điêu khắc, họa
bộ phận và thuộc tính của nó. sỹ, nhạc sỹ, thi sỹ…
Ngoài ra, có nhiều cách phân loại về nghề dựa vào kiểu nhóm rộng và theo
đặc điểm của hoạt động nghề; theo dấu hiệu mức độ phức tạp về kỹ thuật; theo diện
chuyên môn nghề và hoạt động của nghề…
Như vậy, sự phân loại nghề nghiệp sẽ giúp cho mỗi người có một cái nhìn
tổng quát về nghề, nhóm nghề, thấy được những đặc trưng nổi bật của nghề, từ đó
so sánh đối chiếu sở thích, năng lực của bản thân có phù hợp với nghề hay không để
từ đó có sự lựa chọn nghề cho phù hợp.
1.1.2. Chọn nghề
Lựa chọn ngành nghề của mỗi HS là việc làm rất quan trọng. Tuy nhiên, làm
thế nào để chọn được cho mình một ngành nghề phù hợp với bản thân lại càng quan
trọng hơn, vì đó là yếu tố mang tính quyết định sự thành công của HS trong tương
lai. Do đó, quá trình chọn nghề phải bắt đầu từ sự nhìn nhận, đánh giá về nghề rồi
và rồi căn cứ vào hứng thú, năng lực của bản thân để tự xác định cho mình một
trong số những nghề hiện có trong xã hội.
13
Nghề nghiệp xưa nay, vừa là nỗi lo, vừa là khát vọng, nỗi trăn trở của biết
bao con người. Cho nên, việc lựa chọn nghề nghiệp cho phù hợp không chỉ là quyết
định quan trọng với cá nhân mà còn có ý nghĩa với toàn xã hội. Khi có nghề nghiệp
phù hợp, con người sẽ có động lực để phát huy sức lực, trí lực của bản thân mình
cho nghề mà mình đã lựa chọn. Lúc đó nghề nghiệp không còn là nỗi nhọc nhằn mà
trở thành niềm vui, niềm hạnh phúc, sự thỏa mãn khi được hoạt động trong nghề
nghiệp mà mình đã lựa chọn.
Tuy nhiên không phải ai cũng có thể lựa chọn một nghề phù hợp với bản
thân mình. Làm thế nào để định hướng đúng nghề phù hợp, đó là vấn đề không đơn
giản, đòi hỏi con người phải cương quyết, khéo léo, linh hoạt, cân nhắc đến nhiều
vấn đề.
Hiện nay với khoảng 1800 ngành nghề đào tạo ở các bậc trung cấp, cao đẳng,
đại học và điều kiện xét tuyển khá mở, HS có nhiều cơ hội để lựa chọn ngành nghề
phù hợp với bản thân mình. Vì vậy, khi lựa chọn ngành nghề, HS cần phải lưu ý
một số vấn đề sau:
- Dựa vào năng lực: Năng lực là khả năng bạn có thể theo học và làm được
nghề. HS có thể đánh giá năng lực của bản thân qua kết quả học tập trong ba năm
học THPT. Ngoài ra cần phải lưu ý về ngành học cần kỹ năng gì và mình có đáp
ứng được hay không. Nếu khả năng, năng lực bản thân không đủ để đáp ứng nhu
cầu công việc, chắc chắn bạn không thể sống được bằng ngành nghề bạn đã học.
- Dựa vào sở thích: Ngành nghề trong xã hội rất đa dạng, phong phú, khi bạn
yêu thích, say mê một nghề nào đó thì sẽ có động lực để làm việc, tìm tòi, sáng tạo,
phát triển và thành công. Vì vậy, chọn nghề phù hợp với sở thích là một yếu tố quan
trọng và hiểu được sở thích nghề nghiệp sẽ giúp bạn chọn được ngành học phù hợp
để phát triển nghề nghiệp trong tương lai.
- Dựa vào hoàn cảnh gia đình: Ngày nay, chi phí cho việc học nghề không hề
nhỏ. Vì thế việc chọn ngành, chọn trường sao cho phù hợp với khả năng tài chính là
điều mà học sinh phải quan tâm. Tự nhận biết khả năng và cân nhắc kỹ lưỡng để có
14
sự đầu tư hiệu quả sẽ giúp học sinh thêm tự tin và kiên trì theo đuổi nghề nghiệp,
biết lượng sức mình và quyết tâm thì cơ hội thành công sẽ đến với bạn.
- Dựa vào nhu cầu xã hội: Sau khi ra trường có thể dễ dàng tìm được một
công việc phù hợp, cơ hội thăng tiến cao là mơ ước của rất nhiều người. Do đó việc
tìm hiểu nhu cầu của xã hội trước khi bắt tay vào học một ngành nào đó là việc cực
kỳ quan trọng, điều đó quyết định tương lai của bạn về sau. Một công việc được cho
là dễ xin khi xã hội đang cần, nhu cầu tuyển dụng cao hơn nguồn lao động hiện có
trên thị trường.
Tóm lại chọn nghề là lựa chọn một ngành nghề phù hợp với năng lực, đúng
với hoài bão đam mê của bản thân và phù hợp với nhu cầu nhân lực của xã hội.
1.1.3. Xu hướng
1.1.3.1. Khái niệm xu hướng
Theo từ điển tiếng Việt “xu hướng là sự thiên hướng về một hướng nào đó
trong quá trình hoạt động”. [45]
Theo Nguyễn Quang Uẩn, Trần Trọng Thủy: “Xu hướng là một thuộc tính
tâm lý điển hình của cá nhân, bao hàm trong đó một hệ thống những động lực quy
định tính tích cực hoạt động của cá nhân và quy định sự lựa chọn các thái độ của
nó” [42]
Theo quan điểm của tâm lý học: Mọi hoạt động của cá nhân trong cộng đồng
bao giờ cũng hướng về một mục tiêu nào đó, không có một hoạt động nào không có
phương hướng (đồng nghĩa với không có mục tiêu, không có đối tượng). Sự hướng
tới này được phản ánh trong tâm lý của mỗi người như là xu hướng của nhân cách.
Cá nhân có thể hướng tới một vật phẩm cụ thể, một tri thức khoa học hoặc một tư
tưởng chính trị, đồng thời thúc đẩy hoạt động của con người chiếm lĩnh chúng. Xu
hướng với tư cách là một hiện tượng tâm lý luôn gắn với hoạt động của con người,
nói lên chiều hướng chung của sự phát triển, thúc đẩy và định hướng con người
phấn đấu đạt tới một mục tiêu nào đó có ý nghĩa đối với bản thân mình. Sự hướng
tới mục tiêu đó diễn ra trong một thời gian và khá ổn định. Đó là xu hướng của cá
nhân trong cuộc sống của mỗi người đặt ra cho mình những mục tiêu và viễn cảnh
15
khác nhau, có thái độ lựa chọn khác nhau với những giá trị xã hội xung quanh. Xu
hướng của mỗi người khác nhau là khác nhau.
Như vậy, chúng ta thấy có nhiều cách tiếp cận khác nhau về xu hướng, mỗi
quan điểm đưa ra một cách nhìn nhận, đánh giá khác nhau về xu hướng. Tóm lại, xu
hướng là ý định hướng tới đối tượng trong mọt thời gian lâu dài nhằm thỏa mãn
nhu cầu hay hứng thú hoặc vươn tới những mục tiêu cao đẹp mà cá nhân lấy làm lẽ
sống của mình.
Xu hướng thường được biểu hiện ở một số mặt chủ yếu sau: Nhu cầu, hứng
thú, lý tưởng, thế giới quan, niềm tin…
- Nhu cầu: Là sự đòi hỏi tất yếu mà con người thấy cần được thỏa mãn để
tồn tại và phát triển. Nhu cầu của con người rất đa dạng: Nhu cầu vật chất gắn liền
với sự tồn tại của cơ thể như: nhu cầu ăn, ở, mặc…Nhu cầu tinh thần bao gồm: nhu
cầu nhận thức, nhu cầu thẩm mỹ, nhu cầu lao động, nhu cầu giao lưu và nhu cầu
hoạt động xã hội.
- Hứng thú là thái độ đặc biệt của cá nhân đối với đối tượng nào đó, vừa có ý
nghĩa đối với cuộc sống, vừa có khả năng mang lại khoái cảm cho cá nhân trong
quá trình hoạt động. Hứng thú biểu hiện ở sự tập trung chú ý cao độ, ở sự say mê
hấp dẫn bởi nội dung hoạt động, ở bề rộng, chiều sâu của của sự thích thú. Hứng thú
làm nảy sinh khát vọng hành động, làm tăng hiệu quả của hoạt động nhận thức, tăng
sức làm việc. Vì thế cùng với nhu cầu, hứng thú là một trong hệ thống động lực của
nhân cách.
- Lý tưởng: Là một mục tiêu cao đẹp, một hình ảnh mẫu mực, tương đối
hoàn chỉnh, có sức lôi cuốn con người vươn tới nó. Lý tưởng là biểu hiện tập trung
nhất của xu hướng nhân cách, nó có chức năng xác định mục tiêu, chiều hướng phát
triển của cá nhân, là động lực thúc đẩy, điều khiển toàn bộ hoạt động của con người,
trực tiếp chi phối sự hình thành và phát triển cá nhân.
- Thế giới quan: Là hệ thống quan điểm về tự nhiên, xã hội và bản thân, xác
định phương châm hành động của con người. Nói một cách cụ thể thì thế giới quan
của cá nhân là cách nhìn nhận, đánh giá, nhận xét về thế giới của cá nhân.
16
- Niềm tin: Là một phẩm chất của thế giới quan, là cái kết tinh các quan
điểm, tri thức, rung cảm, ý chí được con người thể nghiệm, trở thành chân lý bền
vững trong mỗi cá nhân. Niềm tin tạo cho con người nghị lực, ý chí để hành động
phù hợp với quan điểm đã chấp nhận.
1.1.3.2. Xu hướng chọn nghề của học sinh trung học phổ thông
Theo cách hiểu đơn giản thì xu hướng nghề là sự định hướng và sự quan tâm
hay sự “theo đuổi” của cá nhân đến một nhóm nghề nào đó hay một công việc nào
đó trong một nhóm nghề.
Dựa vào khái niệm về xu hướng trong Tâm lý học, có thể hiểu xu hướng
chọn nghề của học sinh THPT là sự thiên về một nghề nào đó, sự hướng tới việc lựa
chọn nghề nhằm thỏa mãn nhu cầu, hứng thú của học sinh, bao gồm toàn bộ những
động cơ bền vững, có tác dụng định hướng hoạt động cho học sinh. Xu hướng nghề
được biểu hiện qua nhận thức, thái độ và hành động của học sinh đối với nghề
nghiệp tương lai.
Xu hướng nghề là một bộ phận của xu hướng nhân cách, một biểu hiện xu
hướng hoạt động nhằm vào lĩnh vực nhất định. Đối với HS trung học, xu hướng
nghề có tác dụng đáng kể trong việc điều chỉnh, thúc đẩy các mặt hoạt động của các
em nhằm hướng đến việc lựa chọn nghề nghiệp tương lai. Nếu như ở cuối bậc trung
học cơ sở thì xu hướng nghề bắt đầu manh nha thì càng ở cuối cấp học THPT, nó
càng rõ ràng, cụ thể và ổn định. Vì vậy, việc tìm hiểu xu hướng nghề của học sinh
THPT là nhiệm vụ rất quan trọng. Nó cho biết hướng phát triển về nghề nghiệp của
HS, từ đó giúp các em có những kế hoạch đúng đắn và tích cực hoạt động để đạt
được mục tiêu, lý tưởng nghề nghiệp của mình trong tương lai.
1.2. Đặc trƣng tâm lý của học sinh trung học phổ thông
1.2.1. Đặc điểm của sự phát triển trí tuệ
Ở học sinh THPT tính chủ định được phát triển mạnh ở tất cả các quá trình
nhận thức. Tri giác có mục đích đã đạt tới mức rất cao. Quan sát trở nên có mục
đích, có hệ thống và toàn diện hơn. Quá trình quan sát đã chịu sự điều khiển của hệ
thống tín hiệu thứ hai nhiều hơn và không tách khỏi tư duy ngôn ngữ. Tuy vậy,
17
quan sát của học sinh THPT cũng khó có hiệu quả nếu thiếu sự chỉ đạo của giáo
viên.
Ở học sinh THPT ghi nhớ có chủ định giữ vai trò chủ đạo trong hoạt động trí
tuệ, đồng thời vai trò của ghi nhớ logic trừu tượng, ghi nhớ có ý nghĩa ngày một
tăng. Đặc biệt các em đã tạo được tâm thế phân hóa trong ghi nhớ. Các em biết tài
liệu nào cần nhớ từng câu từng chữ, cái gì cần hiểu mà không cần nhớ.
Do cấu trúc của não phức tạp và chức năng của não phát triển; do sự phát
triển của các quá trình nhận thức nói chung, do ảnh hưởng của hoạt động học tập
mà hoạt động tư duy của học sinh THPT có thay đổi quan trọng. Các em có khả
năng tư duy lí luận, tư duy trừu tượng một cách độc lập sáng tạo trong những đối
tượng quen biết đã được học ở trường. Tư duy của các em chặt chẽ hơn, có căn cứ
và nhất quán hơn. Đồng thời tính phê phán của tư duy cũng phát triển…Những đặc
điểm đó tạo điều kiện cho HS thực hiện các thao tác tư duy toán học phức tạp, phân
tích nội dung cơ bản của khái niệm trừu tượng và nắm được mối quan hệ nhân quả
trong tự nhiên và trong xã hội. Đó là cơ sở để hình thành thế giới quan.
Tuy vậy, hiện nay một số học sinh THPT đạt tới mức tư duy đặc trưng cho
lứa tuổi trên còn chưa nhiều. Nhiều khi các em chưa chú ý phát huy hết năng lực
độc lập suy nghĩ của bản thân, còn kết luận vội vàng theo cảm tính. Vì vậy, ở lứa
tuổi này các em dễ mắc sai lầm trong việc chọn nghề. Việc định hướng và giúp đỡ
của giáo viên là hết sức cần thiết trong việc xác định cho mình một nghề nghiệp phù
hợp và đúng đắn cho bản thân.
1.2.2. Đặc điểm của hoạt động học tập
Nội dung và tính chất của hoạt động học tập của học sinh THPT khác rất
nhiều so với hoạt động học tập của HS ở các bậc học khác. Sự khác nhau cơ bản
không phải ở chỗ nội dung học tập ngày càng một sâu hơn, mà là ở chỗ hoạt động
học tập của học sinh THPT đòi hỏi tính năng động và tính độc lập ở mức độ cao
hơn nhiều; đồng thời cũng đòi hỏi, muốn nắm được chương trình một cách sâu sắc
thì cần phát triển tư duy lí luận.
18
HS càng trưởng thành, kinh nghiệm sống ngày càng phong phú, các em càng
ý thức được mình đang đứng trước ngưỡng cửa cả cuộc đời. Do vậy, thái độ có ý
thức của các em đối với học tập ngày càng phát triển và có tính chọn lựa hơn. Các
em đã hình thành được những hứng thú học tập gắn liền với khuynh hướng nghề
nghiệp. Cuối bậc THPT các em đã xác định được cho mình một hứng thú ổn định
đối với một môn học nào đó, đối với một lĩnh vực tri thức nhất định. Hứng thú này
thường liên quan tới việc chọn một nghề nhất định của HS. Hơn nữa, hứng thú nhận
thức của học sinh THPT mang tính chất rộng rãi, sâu và bền vững hơn thiếu niên.
Thái độ học tập của HS được thúc đẩy bởi động cơ học tập có cấu trúc khác
với tuổi trước. Lúc này có ý nghĩa nhất là động cơ thực tiễn, động cơ nhận thức, sau
đó là ý nghĩa xã hội của môn học, rồi mới đến động cơ cụ thể khác. Nhưng thái độ
học tập ở không ít em có nhược điểm là: Một mặt các em rất tích cực học một số
môn mà các em cho là quan trọng đối với nghề mình đã chọn, mặt khác các em lại
sao nhãng các môn học khác hoặc chỉ học để đạt được điểm trung bình, dẫn đến
hiện tượng học lệch, học tủ, học chỉ vì mục đích thi cử. Thái độ học tập có ý thức đã
thúc đẩy sự phát triển tính chủ định của các quá trình nhận thức và năng lực điều
khiển bản thân của HS trong hoạt động học tập.
1.2.3. Sự phát triển của tự ý thức
Sự phát triển của tự ý thức là một đặc điểm nổi bật trong sự phát triển nhân
cách của thanh niên mới lớn, nó có ý nghĩa to lớn đối với sự phát triển tâm lý của
lứa tuổi thanh niên. Sự hình thành tự ý thức ở lứa tuổi học sinh THPT là một quá
trình lâu dài, trải qua những mức độ khác nhau. Ở lứa tuổi này quá trình tự ý thức
diễn ra mạnh mẽ, sôi nổi và có tính chất đặc thù riêng.
Đặc điểm quan trọng trong sự tự nhận thức của HS là sự tự ý thức của họ
xuất phát từ yêu cầu của cuộc sống và hoạt động- địa vị trong tập thể. Các em
không chỉ nhận thức cái tôi của mình mà còn nhận thức vị trí của mình trong xã hội,
trong tương lai. Học sinh THPT có thể hiểu mình ở những phẩm chất nhân cách bộc
rõ (lòng yêu lao động, cần cù, tính cần cù, dũng cảm…) HS còn có thể hiểu rõ
19
những phẩm chất phức tạp, biểu hiện những quan hệ nhiều mặt của nhân cách (tinh
thần trách nhiệm, lòng tự trọng, tình cảm nghĩa vụ…)
Học sinh THPT không chỉ có nhu cầu đánh giá, mà còn có khả năng đánh giá
sâu sắc về những phẩm chất, mặt yếu của những người cùng sống và của chính
mình. Nhưng nhận thức người khác bao giờ cũng đỡ khó khăn hơn là nhận thức bản
thân. Thanh niên mới lớn thường dễ có xu hướng cường điệu trong khi tự đánh giá.
Hoặc là các em đánh giá thấp cái tích cực, tập trung phê phán cái tiêu cực; hoặc là
đánh giá cao nhân cách của mình- tỏ ra tự cao, coi thường người khác.
1.2.4. Sự hình thành thế giới quan
Tuổi thanh niên mới lớn là lứa tuổi quyết định của sự hình thành thế giới
quan. Ở tuổi này, những điều kiện về mặt trí tuệ và xã hội xây dựng một hệ thống
quan điểm riêng được hình thành. Những cơ sở của thế giới quan đã được hình
thành ngay từ khi còn nhỏ. Suốt thời gian học tập ở phổ thông đã được lĩnh hội
những tâm thế, thói quen đạo đức nhất định, thấy được cái đẹp, cái xấu, cái thiện,
cái ác…Dần dần những điều đó được ý thức và được quy định vào các hình thức,
các tiêu chuẩn, nguyên tắc hành vi xác định... Đến giai đoạn này, khi nhân cách đã
được phát triển tương đối cao thì các em mới xuất hiện những nhu cầu đưa những
tiêu chuẩn, hành vi đó vào một hệ thống hoàn chỉnh. Một khi đã có hệ thống quan
điểm riêng thì thanh niên không chỉ hiểu về thế giới khách quan mà còn đánh giá
được nó, xác định được thái độ của mình đối với thế giới nữa. Chính nội dung các
môn học ở THPT giúp cho các em xây dựng được thế giới quan tích cực.
Việc hình thành thế giới quan không chỉ giới hạn ở tính tích cực nhận thức
mà còn thể hiện ở phạm vi nội dung nữa. Học sinh THPT quan tâm nhiều nhất đến
các vấn đề liên quan đến con người, vai trò của con người trong lịch sử, quan hệ
giữa con người với lịch sử, giữa quyền lợi và nghĩa vụ, nghĩa vụ và tình cảm. Vấn
đề ý nghĩa cuộc sống chiếm vị trí trung tâm trong suy nghĩ của thanh niên mới lớn.
Tuy vậy, một bộ phận thanh niên chưa được giáo dục đầy đủ về thế giới quan. Họ
có những quan niệm lệch lạc về lối sống do ảnh hưởng từ mặt trái của cơ chế thị
trường, thích sống cuộc sống hưởng thụ mà không lo học hành. Chính điều này đã
20
ảnh hưởng đến nhận thức cũng như cuộc sống của mỗi cá nhân, tác động đến sự lựa
chọn của mỗi cá nhân.
1.2.5. Đời sống tình cảm
Đời sống tình cảm của học sinh THPT rất phong phú và nhiều vẻ. Đặc điểm
đó được thể hiện rõ nhất trong tình bạn của các em. Ở lứa tuổi này, nhu cầu về tình
bạn tâm tình cá nhân được tăng lên rõ rệt. Các em có yêu cầu cao đối với tình bạn
(yêu cầu sự chân thật, lòng vị tha, tin tưởng, tôn trọng nhau và sẵn sàng giúp đỡ lẫn
nhau, hiểu biết lẫn nhau). Trong quan hệ với bạn bè, các em không chỉ có xúc cảm
chân thành, mà còn phải có khả năng đáp ứng lại xúc cảm của người khác.
Tình bạn của học sinh THPT rất bền vững. Nó có thể vượt qua mọi khó khăn
thử thách và kéo dài suốt cuộc đời. Quan hệ tình bạn khác giới được tích cực hóa
một cách rõ rệt, phạm vi quan hệ bạn bè được mở rộng. Bên cạnh nhóm thuần nhất,
xuất hiện nhiều nhóm pha trộn cả nam và nữ). Ở một số em đã xuất hiện những cảm
xúc khác giới, nhu cầu chân chính về tình yêu. Đó là một trạng thái mới mẻ nhưng
rất tự nhiên trong đời sống của thanh niên.
1.2.6. Hoạt động lao động và sự lựa chọn nghề nghiệp
Hoạt động lao động tập thể có vai trò to lớn trong sự hình thành nhân cách
của học sinh THPT. Hoạt động lao động được tổ chức đúng đắn sẽ giúp các em hình
thành tinh thần tập thể, lòng yêu lao động, tôn trọng lao động, người lao động và
thành quả lao động, đặc biệt là có được nhu cầu và nguyện vọng lao động.
Đối với học sinh THPT việc lựa chọn nghề nghiệp đã trở thành công việc
khẩn thiết của các em. Càng cuối cấp thì sự lựa chọn càng nổi bật. Các em hiểu rằng
cuộc sống tương lai phụ thuộc vào chỗ, mình có biết lựa chọn nghề nghiệp một cách
đúng đắn hay không. Ở nhiều em biết so sánh đặc điểm riêng về thể chất, tâm lý,
khả năng của mình với yêu cầu nghề nghiệp, dù sự hiểu biết của các em về nghề
nghiệp là chưa đầy đủ.
Lựa chọn nghề là một quá trình tìm hiểu, đối chiếu giữa những đặc điểm về
thể chất, tâm lý của cá nhân với những yêu cầu của hoạt động lao động, dựa trên cơ
sở hình dung trước hoạt động lao động hiện tại và tương lai. Lựa chọn nghề nghiệp
21
của HS được thực hiện trên cơ sở các mối quan hệ xã hội- nghề nghiệp- cá nhân.
Đôi khi HS lựa chọn nghề nhưng không dựa trên nhu cầu về sự phân công lao động.
Quá trình lựa chọn nghề nghiệp đồng thời là quá trình lựa chọn những khả năng
thực hiện được. Quá trình này luôn luôn bắt đầu từ sự ý thức nghề nghiệp. Đa số HS
khi quyết định lựa chọn nghề nghiệp những kiến thức mà các em tiếp thu được
trong quá trình học tập chưa có ý nghĩa lớn, kể cả những kiến thức về yêu cầu của
nghề nghiệp. Do vậy trong quá trình lựa chọn nghề, HS cần phải hiểu cụ thể về
những nghề trong xã hội và địa phương, những đặc điểm cơ bản về nghề mà các em
dự định lựa chọn, những đòi hỏi của nghề, kế hoạch kinh tế đối với sự phát triển xã
hội.
1.3. Biểu hiện xu hƣớng chọn nghề của học sinh trung học phổ thông
Nghề nghiệp là một phần không thể thiếu trong cuộc sống của mỗi cá nhân.
Lựa chọn nghề nghiệp chính là xác định cho mình lĩnh vực lao động phù hợp với
năng lực và sở thích của bản thân để tạo nên những thành công trong lĩnh vực nghề
nghiệp của mình.
Xu hướng chọn nghề được biểu hiện ở nhiều mặt: Mức độ nhận thức nghề,
nhu cầu, nguyện vọng, hứng thú, lý tưởng của cá nhân đối với nghề, dự định của cá
nhân trong việc lựa chọn nghề nghiệp… Trong phạm vi đề tài này, xu hướng chọn
nghề của HS, chúng tôi chủ yếu nói đến mặt nhận thức nghề, thái độ đối với nghề
và hành động nhằm chuẩn bị nghề nghiệp tương lai của HS.
1.3.1. Nhận thức nghề của học sinh trung học phổ thông
Nhận thức nghề (hay sự hiểu biết về nghề) là quá trình phản ánh các thuộc
tính cơ bản của nghề, những yêu cầu cơ bản của xã hội đối với yêu cầu nghề nghiệp,
những đòi hỏi về mặt tâm, sinh lý đối với người làm nghề đó, phản ánh quá trình
lao động trong lĩnh vực nghề nghiệp nhất định. Nhận thức về nghề được hình thành
trong quá trình chọn nghề của học sinh THPT và ngày càng sâu sắc trong quá trình
đào tạo nghề.
Nhận thức nghề là một trong những thành phần cơ bản của xu hướng nghề
nghiệp. Đó là: Nhận thức nghề, thái độ chọn nghề và hành động chọn nghề. Cả ba
22
thành phần này tác động với nhau tạo nên kết quả chọn nghề là về nghề này mà
không phải nghề khác. Xuất phát từ nhận thức nghề, có những tri thức về nghề, về
những đòi hỏi khách quan của nghề đối với người làm nghề đó để đối chiếu với
những phẩm chất tâm lý cá nhân, tìm ra sự phù hợp là một quá trình khó khăn phức
tạp; không phải người học nào cũng có sự hiểu biết đầy đủ về nghề để có những
định hướng phù hợp cho hoạt động nghề của mình sau này.
Nhận thức nghề được biểu hiện như sau:
- Nhận thức về đối tượng lao động của nghề
Đối tượng lao động là hệ thống những thuộc tính, mối quan hệ qua lại giữa
các sự vật, hiện tượng, các quá trình mà ở cương vị lao động nhất định con người
vận dụng chúng. Theo E. A.Klimop có năm nhóm nghề cụ thể, bao gồm: Nghề tiếp
xúc với con người, nghề tiếp xúc với thiên nhiên, nghề tiếp xúc với kỹ thuật, nghề
tiếp xúc với nghệ thuật, nghề tiếp xúc với dấu hiệu. Và theo đó, nhóm đối tượng lao
động của nghề nghiệp là: Con người, thiên nhiên, kỹ thuật, nghệ thuật và dấu hiệu.
Mỗi một ngành nghề đều hướng đến một nhóm đối tượng nhất định, nhằm
tác động đến đối tượng đó. Việc nhận thức về đối tượng lao động của nghề nghiệp
tức là HS phải biết rõ về nghề mình sẽ chọn và nghề nghiệp tương ứng trong tương
lai hướng tới nhóm đối tượng nào và trong đó các đối tượng cụ thể ra sao, đồng thời
họ phải có cách hiểu căn bản, đúng đắn và sâu sắc về các nhóm đối tượng đó.
- Nhận thức về đặc điểm, nội dung và phương thức thực hiện nghề
Mỗi nghề trong xã hội đều có đặc điểm riêng, người lao động trước khi chọn
nghề phải hiểu xem nghề mình định chọn có đặc điểm gì; nếu cá nhân hiểu rõ về
nghề, sẽ thuận lợi trong việc học tập và thích nghi với nghề. Từ thực tiễn cho thấy,
hiện nay có nhiều kênh thông tin giúp cho HS nhận thức về đặc điểm các ngành
nghề trong xã hội. Đó có thể là phương tiện truyền thông, nhà trường, cha mẹ, nhân
viên tư vấn hay là chính quá trình quan sát thực tiễn của các em. Các nguồn thông
tin về nghề trong xã hội tương đối đa dạng và phong phú.
- Nhận thức về thế giới nghề và những yêu cầu đặc trưng của nghề đối với
người chọn nghề
23
Hiện nay, cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật công nghệ nhiều
ngành nghề mới ra đời tạo nên sự phong phú đa dạng trong thế giới nghề, đồng thời
đòi hỏi những người hành nghề phải có một trình độ chuyên môn, năng lực vững
vàng để hoạt động nghề đạt hiệu quả cao. Nhu cầu thị trường tuyển dụng hiện nay
rất lớn, nhưng thực tế họ sẽ chọn những người phù hợp với công việc của họ và đối
tượng lao động họ hướng đến. Điều kiện ở đây chính là kiến thức, kỹ năng và thái
độ từ người ứng tuyển. Nhu cầu tuyển dụng lao động ở Việt Nam hiện nay rất lớn
nhưng tại sao sinh viên ra trường lại thất nghiệp rất nhiều, vì các nhà tuyển dụng
không nhìn thấy ở sinh viên những yếu tố mà họ cần. Nghĩa là sinh viên không đáp
ứng được yêu cầu về nghề nghiệp. Hoặc là có một số sinh viên sau một quá trình
đào tạo lại làm trái ngành, mất thời gian nữa để đào tạo lại. Vì vậy, việc nhận thức
về yêu cầu của nghề là một bước đệm quan trọng trong quá trình làm nghề của HS
sau này.
- Nhận thức về nhu cầu xã hội đối với nghề
Trước khi lựa chọn một lĩnh vực nghề nghiệp nào đó, con người phải tìm
hiểu xem hiện nay xã hội đang có nhu cầu lớn đối với nguồn nhân lực trong lĩnh
vực nào, những ngành nghề nào đã bão hòa, dư thừa. Đây là một yếu tố khách quan
nhưng không kém phần quan trọng chi phối đến quyết định chọn nghề và hiệu quả
trong hoạt động nghề nghiệp của mỗi cá nhân.
Tuy nhiên, nhu cầu xã hội đối với một nghề nào đó chỉ có tính nhất thời chứ
không phải là mãi mãi, thị trường lao động luôn luôn có sự biến đổi. Có thể hiện
nay nghề đó xã hội đang có nhu cầu cao nhưng đến bốn hoặc năm năm nữa lại dư
thừa vì các trường đào tạo ra quá nhiều. Vì vậy, các chuyên gia tư vấn khuyên HS
lớp 12 khi lựa chọn một nghề nghiệp nào đó phải xem xét nhu cầu xã hội và xu
hướng biến động của nó.
Xã hội đang cần nhân lực nghề gì? Bản thân mình học nghề gì ra thì không
lo thất nghiệp? Lựa chọn học nghề nào để vừa thỏa mãn đam mê vừa đáp ứng được
nhu cầu của xã hội? Có cân bằng được giữa sở thích và nhu cầu xã hội thì mới đảm
24
bảo được cho bạn một tương lai thật sự bền vững, đủ khả năng nuôi sống bản thân
và gia đình.
- Nhận thức về nghề phù hợp với bản thân
Khi quyết định chọn cho mình một công việc phù hợp với tương lai, đây là
một quyết định ảnh hưởng lớn đến tương lai của HS sau này. Việc chọn nghề phù
hợp với bản thân thực sự rất quan trọng và vô cùng cần thiết. Chọn sai lầm khi đi về
hướng không đúng có thể ảnh hưởng cuộc sống sau này. Vậy làm thế nào để chọn
được nghề phù hợp với bản thân? Đó là nỗi trăn trở của rất nhiều HS khi mà các em
đang đứng trước ngưỡng cửa của cuộc đời.
Trong việc chọn nghề, mỗi cá nhân cần nhận thức được nghề phù hợp với
bản thân mình.
Một nghề được coi là phù hợp với nghề nào đó nếu họ có những phẩm chất,
năng lực, đặc điểm tâm lý, sinh lý đáp ứng với những yêu cầu cụ thể của nghề đó
đòi hỏi ở người lao động.
Trong quá trình tìm hiểu về nghề phù hợp với bản thân, HS phải tìm ra sự
phù hợp giữa các đặc điểm của bản thân với những đòi hỏi của nghề và yêu cầu phát
triển kinh tế- xã hội của địa phương và đất nước. Đây là sự phù hợp hoàn toàn, tuyệt
đối, và lí tưởng nhất.
Trong thực tế sự phù hợp với các yêu cầu và điều kiện phát triển kinh tế- xã
hội của đất nước lại là quan trọng hàng đầu bởi vì nó quyết định đầu ra, đến việc có
hay không có việc làm đối với nghề mình đã chọn.
Cần phải thấy rõ sự phù hợp nghề có tính chất tương đối ở các mức khác
nhau: Mức độ cao, mức độ bình thường và hoàn toàn không phù hợp. Trên thực tế,
ít có ai sinh ra mà phù hợp với nghề này hay nghề khác mà thường chỉ có những cơ
sở ban đầu có khả năng phù hợp hay không phù hợp với nghề nghiệp. Vì vậy, để có
sự phù hợp tuyệt đối với nghề và để đạt tới mức độ này, bản thân mỗi người phải có
sự rèn luyện để hình thành cho mình những gì mà nghề nghiệp đòi hỏi.
25
Như vậy, có thể nói sự phù hợp nghề trước hết là sự nhận thức sâu sắc với
nghề mình chọn để biết mình, biết nghề và sau đó là quá trình tự rèn luyện để tạo ra
sự phù hợp nghề là cơ sở để đảm bảo cho hoạt động nghề đạt tới hiệu quả.
Đối với HS khi các em đang ngồi trên ghế nhà trường, các em chưa hiểu hết
về các ngành nghề trong xã hội, vì vậy đối với các em nghề nào cũng có thể làm
được và nghề nào cũng có thể phù hợp với bản thân mình. Tuy nhiên mỗi nghề sẽ
đòi hỏi những yêu cầu riêng về năng lực và phẩm chất mà người lao động hoạt động
trong nghề đó phải có. Vì vậy, trong quá trình định hướng và lựa chọn nghề nghiệp
HS phải nhận thức sâu sắc về bản thân mình, về nghề mình chọn.
1.3.2. Thái độ đối với nghề của học sinh trung học phổ thông
Thái độ đối với nghề nghiệp là trạng thái tâm lý của chủ thể trước một nghề
nào đó, cá nhân hình thành những xúc cảm về nghề, thấy được cái hay, cái đẹp, cái
hấp dẫn, ý nghĩa của nghề, từ đó giúp cá nhân quyết định chọn nghề này mà không
phải nghề khác.
Thái độ của cá nhân được thể hiện rõ nét ở nguyện vọng, hứng thú, động cơ
chọn nghề.
- Nguyện vọng nghề
Nguyện vọng nghề nghiệp là điều mong ước, hướng tới của cá nhân đối với
nghề nghiệp, nó thôi thúc con người tích cực hoạt động nhằm thực hiện hóa nguyện
vọng nghề nghiệp. Cá nhân khi có nhu cầu hướng tới một nghề nghiệp nào đó sẽ có
nguyện vọng mong muốn được hoạt động trong nghề, gặt hái được những thành
công trong nghề mình đã chọn.
Nguyện vọng nghề được hình thành từ sự nhận thức, hiểu biết sâu sắc về
nghề, cá nhân thấy được vai trò, ý nghĩa xã hội của nghề bị lôi cuốn hấp dẫn bởi cái
hay, cái đẹp của nghề. Vì vậy, cá nhân nỗ lực phấn đấu, học tập, rèn luyện để thỏa
mãn mong muốn, nguyện vọng của bản thân đối với nghề nghiệp. Nguyện vọng
nghề nghiệp chịu sự chi phối mạnh mẽ bởi động cơ chọn nghề của cá nhân. Động
cơ chọn nghề mang tính xã hội càng cao thì nguyện vọng vươn tới nghề càng ổn
26
định và bền vững, nguyện vọng càng tha thiết thì sẽ chuyển thành động cơ thúc đẩy
con người hành động để đạt được nguyện vọng như mong muốn.
- Hứng thú nghề
Hứng thú nghề nghiệp là sự biểu hiện thái độ của con người đối với lĩnh vực
nghề nghiệp hay một nghề cụ thể, nó góp phần tạo nên động cơ thúc đẩy cá nhân
tìm hiểu kỹ lưỡng về nghề làm cơ sở cho việc thực hiện nguyện vọng nghề nghiệp.
Hứng thú của con người luôn gắn liền với những cảm xúc, tình cảm tích cực
giúp cá nhân say mê đối với công việc, là động lực thúc đẩy con người khắc phục
khó khăn, trở ngại, hoàn thành mục tiêu. Sự thành công của con người trong nghề
phụ thuộc rất nhiều vào hứng thú của con người đối với công việc, bởi hứng thú
thường tác động đến việc con người xác định mục tiêu và sự nỗ lực trong hoạt động
nghề nghiệp.
Hứng thú nghề nghiệp của cá nhân được biểu hiện ở các mức độ như sau:
+ Thích: Tìm hiểu nghề nhưng còn hời hợt.
+ Thích thú: Muốn tìm hiểu nghề với thái độ quan tâm yêu mến.
+ Say mê: Muốn tìm hiểu, quyết định chọn nghề, mong muốn được học và
hành nghề với cả sự say mê.
+ Đam mê: Ước muốn, khao khát bằng mọi cách phải học và hành nghề,
khao khát sáng tạo và khám phá trong nghề.
Đối với học sinh THPT, đặc biệt là ở lớp 12, việc xem xét mối quan hệ giữa
hứng thú học tập và hứng thú nghề nghiệp là rất quan trọng.
Thông thường trong quá trình học tập ở nhà trường, HS thể hiện hứng thú
qua môn học; khi yêu thích một môn học nào đó, hoặc là có sở trường về môn học
đó, HS sẽ có sự say mê, hứng thú đối với môn học. Dần dần, hứng thú ổn định sẽ
trở thành năng khiếu chuyên biệt của môn học. Vì vậy, khi chọn nghề HS thường
chọn những nghề có liên quan đến hứng thú của môn học mà mình cảm thấy có
hứng thú.
Thông qua quá trình học tập ở phổ thông, nếu HS không cảm thấy hứng thú
với môn học nào thì các em khó có thể hình thành nên hứng thú nghề nghiệp. Vì
27
vậy, nhà trường và xã hội phải giúp cho HS nhận thức được vốn hiểu biết của bản
thân về nghề nghiệp các em yêu thích, để từ đó phát triển hứng thú đến mức cao
nhất, tích cực chuẩn bị nghề nghiệp cho tương lai, từ đó tự tin bước vào hoạt động
chọn nghề.
- Động cơ chọn nghề
Động cơ chọn nghề là những yếu tố kích thích, nguyên nhân thúc đẩy cá
nhân ra quyết định chọn nghề nhằm thỏa mãn nhu cầu của mình.
Việc chọn nghề của HS có thể bị chi phối bởi động cơ bên trong và động cơ
bên ngoài. Trong đó, động cơ bên trong đóng vai trò quyết định, thúc đẩy con người
hoạt động để vươn đến mục tiêu nhằm thỏa mãn những nhu cầu bên trong của cá
nhân tạo nên tâm lý sẵn sàng đối với hoạt động nghề nghiệp. Những động cơ bên
trong chi phối đến việc chọn nghề của HS như có năng lực, sở trường, kiến thức
khoa học kỹ thuật về nghề. Vì vậy, các em thường chọn nghề một cách thụ động.
Những động cơ bên ngoài phải kể đến như chọn nghề theo ý bố mẹ, chọn nghề để
dễ xin việc, chọn nghề thu nhập cao… Động cơ bên ngoài góp phần thúc đẩy hoạt
động của con người.
Chọn nghề là hoạt động bắt buộc của học sinh THPT, vì vậy động cơ chọn
nghề của các em được hình thành như một hệ quả tất yếu. Theo quy luật tâm lý,
động cơ chọn nghề được hình thành từ khi cá nhân có nhu cầu trong lĩnh vực nghề
nghiệp và gặp đối tượng có thể thỏa mãn nhu cầu của mình thì nảy sinh động cơ
thúc đẩy chủ thể ra quyết định chọn nghề cho bản thân.
Động cơ chọn nghề của HS được thể hiện qua: Nhận thức, thái độ và hành vi
của bản thân. Đứng trước ngưỡng cửa của việc phải chọn nghề, HS lớp 12 có nhiều
suy nghĩ khác nhau, trong đó có nhiều suy nghĩ không đúng đắn. Nhiều em có suy
nghĩ bằng mọi giá phải đậu được đại học mà quên đi yếu tố năng lực của bản thân
để rồi nhận kết quả không tốt thì đau khổ, buồn bã. Theo quan điểm của các bậc phụ
huynh, đậu đại học là niềm vinh dự lớn cho tộc họ, gia đình và cá nhân nên các bậc
phụ huynh cho con vào được đại học bằng mọi giá. Trong khi đó các em vẫn có thể
học ở các bậc học thấp hơn như cao đẳng, trung cấp hay học các nghề phổ thông.
28
Nếu các em nhận thức đúng năng lực, hứng thú cá nhân đối với nghề, nhu cầu xã
hội đối với nghề và sự phù hợp của cá nhân đối với nghề thì các em sẽ có thái độ và
hành vi đúng đắn khi chọn nghề. Vì vậy, chọn nghề ảnh hưởng rất lớn đến tương lai
của các em.
1.3.3. Hành động chọn nghề của học sinh trung học phổ thông
Đối với hoạt động nghề nghiệp, hành động chọn nghề của HS đóng một vai
trò rất quan trọng. Hành động chọn nghề giúp cho HS gia nhập vào môi trường học
nghề, làm quen với nghề, giúp cho các em có những sự chuẩn bị về tâm lý, sinh lý,
thậm chí cả việc chuẩn bị điều kiện để học nghề. Hành động chọn nghề ở mỗi HS
có sự khác nhau. Có HS thì tích cực học tập để thi đỗ vào trường đã chọn, có những
HS thì chuẩn bị những phẩm chất tâm lý cần thiết để hành nghề.
Mặt hành động của xu hướng chọn nghề của học sinh THPT thể hiện ở các
hành động cụ thể như:
- Lựa chọn nghề
Nghề nghiệp là một vấn đề rất quan trọng đối với mỗi con người khi đến tuổi
trưởng thành, bởi nghề nghiệp không chỉ mang lại cho con người chúng ta của cải
vật chất mà còn mang lại cho chúng ta một chỗ dựa vững chắc trong xã hội. học
sinh THPT sau khi tốt nghiệp ra trường rất băn khoăn về việc lựa chọn nghề nghiệp
cho bản thân mình, có những em muốn học lên con đường đại học, học chuyên
ngành mình yêu thích rồi mới đi làm; có những HS lại muốn đi học một nghề nào
đó để nhanh có việc làm….
Ngày nay, khi xã hội ngày càng phát triển, đất nước đang phát triển theo
hướng mở cửa hội nhập thì việc lựa chọn cho mình một nghề nghiệp là vô cùng
đúng đắn và quan trọng. Vì vậy, để đảm bảo tương lai học sinh THPT phải có
những sự lựa chọn nghề nghiệp đúng đắn.
Quá trình chọn nghề của HS diễn ra dưới tác động của nhiều yếu tố như gia
đình, nhà trường, xã hội, bạn bè… Những mối quan hệ này tác động rất lớn đến
nhận thức, hứng thú, động cơ của HS. Tuy nhiên quyết định chính vẫn là chính bản
thân các em.
29
Làm thế nào để chọn nghề đúng, nhất là trong bối cảnh thế giới nghề nghiệp
rộng lớn và biến đổi không ngừng, đa dạng và phức tạp đặt ra nhiều thách thức đối
với thế hệ trẻ khi chọn nghề. Trong khi đó, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước và hội nhập quốc tế đòi hỏi người lao động có trình độ cao, ở bất kỳ nơi
nào cũng cần người thợ phải có kiến thức phổ thông, kỹ thuật cơ sở, kỹ thuật
chuyên môn vững vàng và tay nghề cao.
Vì vậy, học sinh THPT khi lựa chọn nghề nghiệp cho bản thân mình, các em
phải xem xét giữa sở thích, sở trường của bản thân đối với nghề với tình hình thị
trường lao động, nhu cầu nhân lực phục vụ phát triển kinh tế địa phương và nhu cầu
thị trường lao động trong nước.
- Những sự chuẩn bị nghề của học sinh THPT
Tìm hiểu những thông tin về các nghề có trong xã hội. Đó là việc tìm hiểu
các nghề tồn tại trong xã hội nói chung và tỉnh Tây Ninh nói riêng và những yêu
cầu của ngành nghề này đòi hỏi người lao động cần đáp ứng. Việc tìm hiểu thông
tin về các nghề có trong xã hội và của tỉnh nhà nói riêng sẽ giúp cho HS có thể hiểu
rõ từng nghề về những yêu cầu của từng loại nghề, để từ đó giúp các em nhận thức
sâu sắc những nghề nào phù hợp với bản thân để có quyết định lưạ chọn cho phù
hợp. Việc tìm hiểu có thể bắt nguồn từ nhiều thông tin khác nhau như thông qua
sách báo, thầy cô, bạn bè, cha mẹ.
Tích cực quan sát hoặc đi tham quan cơ sở sản xuất, trao đổi ý kiến những
người đang làm nghề, thành công trong nghề để học tập hoặc tập trung học các môn
học có liên quan trực tiếp đến nghề mình có ý định lựa chọn, lên kế hoạch thực hiện
nghề mình có ý định hướng tới. Ngoài ra chọn nghề còn là quá trình so sánh khả
năng, hứng thú, sở thích của bản thân với nghề để đưa ra quyết định chọn nghề phù
hợp nhất…
Không ngừng rèn luyện những phẩm chất đạo đức cần thiết để thực hành
nghề. Tất cả những nghề trong xã hội đều đòi hỏi những người làm trong nghề đó
phải có những phẩm chất đạo đức nhất định. Vì vậy khi lựa chọn một nghề nào đó
30
đòi hỏi HS phải rèn luyện để có được những phẩm chất đạo đức đó để có thể đáp
ứng được những yêu cầu của nghề nghiệp mình đã chọn.
Như vậy, hành động chọn nghề của học sinh THPT rất đa dạng và phong
phú, chịu sự tác động chi phối của nhiêu yếu tố chủ quan và khách quan, cũng như
được thúc đẩy bởi rất nhiều lí do khác nhau. HS càng có nhiều hành động tích cực
hướng tới việc lựa chọn nghề thì các em sẽ có nhận thức và hứng thú nhất định đối
với nghề đã chọn. Ngược lại bằng chính những hành động cụ thể khi chọn nghề các
em đã thể hiện sự hiểu biết và hứng thú của mình, tìm cho mình một hướng đi thích
hợp nhất, đồng thời lựa chọn cho mình một nghề phù hợp với năng lực, hứng thú
của bản thân, phù hợp với yêu cầu phát triển của địa phương vã xã hội.
1.4. Các yếu tố ảnh hƣởng đến xu hƣớng chọn nghề của Học sinh trung
học phổ thông
1.4.1. Yếu tố xã hội
Xu hướng phát triển kinh tế- xã hội của địa phương, đất nước có ảnh hưởng
không nhỏ đến xu hướng chọn nghề của học sinh THPT hiện nay. Học sinh THPT
ngày càng quan tâm hơn đến sự phát triển kinh tế xã hội của địa phương, của đất
nước và thường có xu hướng lựa chọn những ngành nghề đang có sức nóng với
nhiều cơ hội công việc và sự hứa hẹn cao về lương thưởng. Trước đây, những
ngành nghề được xã hội đề cao như sư phạm, nông, lâm nghiệp, y, dược…thì hiện
nay tỉ lệ đó đã giảm đi rất nhiều, thay vào đó là các ngành như kinh tế, ngoại
thương, ngân hàng, quản trị kinh doanh…
Trong quá trình học tập ở trường phổ thông, những tác động từ các phương
tiện thông tin đại chúng như sách, báo, phim ảnh… đặc biệt là nguồn thông tin vô
tận trên mạng internet các em dễ dàng nắm bắt thông tin về mọi mặt trên tất cả các
lĩnh vực của đời sống xã hội. Những nguồn thông tin đó là những tài liệu cung cấp
cho các em về các nghề trong xã hội, các yêu cầu của nghề để từ đó giúp cho các
em trong việc định hướng nghề nghiệp và có sự chọn nghề đúng đắn trong tương lai
của mình.
31
Bên cạnh đó, các tổ chức công đoàn, Đoàn thanh niên, Hội phụ nữ, Hội đồng
giáo dục các cấp, các cơ quan văn hóa thông tin thường xuyên tổ chức các hoạt
động tuyên truyền nghề nghiệp nhằm giúp cho HS có ý thức đúng đắn về việc
hướng nghiệp.
1.4.2. Yếu tố nhà trường
Khi nói về ảnh hưởng của nhà trường đến xu hướng chọn nghề của học sinh
THPT là muốn nói đến ảnh hưởng của công tác hướng nghiệp đến xu hướng chọn
nghề của HS. Làm tốt chương trình hướng nghiệp không chỉ giúp nhà trường thực
hiện mục tiêu giáo dục toàn diện mà còn góp phần quan trọng trong việc phân luồng
học sinh và phát triển nguồn nhân lực phục vụ sự phát triển kinh tế- xã hội của địa
phương và của đất nước.
Từ trước đến nay công tác giáo dục hướng nghiệp cho HS luôn được cả xã
hội quan tâm. Trong đó chính phủ đã cụ thể hóa bằng các văn bản hành chính như:
Quyết định 126/CP về “Công tác hướng nghiệp trong trường phổ thông và việc sử
dụng hợp lý HS trung học cơ sở, THPT tốt nghiệp ra trường”. Hướng nghiệp trong
giáo dục là các biện pháp được tiến hành trong và ngoài nhà trường để giúp cho HS
có kiến thức, khả năng lựa chọn nghề nghiệp trên cơ sở kết hợp nguyện vọng, sở
trường của cá nhân và nhu cầu sử dụng lao động của xã hội.
Trong nhà trường, giáo dục hướng nghiệp là một trong những hình thức hoạt
động học tập của HS. Thông qua hoạt động này, mỗi HS phải lĩnh hội được những
thông tin về nghề nghiệp trong xã hội, nắm được hệ thống yêu cầu của từng nghề cụ
thể mà mình muốn chọn, phải có kỹ năng tự đối chiếu những năng lực, phẩm chất
và những đặc điểm tâm sinh lý của mình với hệ thống yêu cầu của nghề đang đặt ra
cho người lao động.
Thông qua việc tổ chức giáo dục hướng nghiệp, nhà trường sẽ giúp cho HS
lựa chọn nghề nghiệp một cách phù hợp với nhu cầu, hứng thú, năng lực, đặc điểm
tâm- sinh lý của mỗi cá nhân HS.
32
Hướng nghiệp trong nhà trường được tổ chức thông qua nhiều hình thức hoạt
động khác nhau như tổ chức cho HS tham gia các hoạt động lao động sản xuất trong
các cơ sở sản xuất: Nông nghiệp, thương nghiệp, thợ thủ công…
Thông qua hoạt động lao động sản xuất, khi được trực tiếp tham gia vào các
lĩnh vực HS sẽ hiểu rõ được tính chất, đặc thù của công việc mà mình đang làm; từ
đó sẽ giúp cho các em có sự lựa chọn nghề nghiệp phù hợp với bản thân mình.
Trong nhà trường, bên cạnh những giờ học giáo dục hướng nghiệp trên lớp
học thì HS còn được tham gia vào các hoạt động giáo dục hướng nghiệp bên ngoài
lớp học như thông qua qua các buổi sinh hoạt hướng nghiệp do nhà trường tổ chức;
các cuộc thi về giáo dục hướng nghiệp để HS mở rộng hiểu biết về nghề nghiệp, thử
sức mình thông qua nhiều hoạt động phong phú, đa dạng.
Thông qua sinh hoạt hướng nghiệp: Sinh hoạt hướng nghiệp là một hình thức
hoạt động hướng nghiệp cho HS thông qua việc giới thiệu cho HS về những ngành
nghề đang phát triển, những nơi HS sẽ đến học nghề hoặc làm việc. Thông qua các
buổi sinh hoạt hướng nghiệp sẽ giúp cho HS hiểu rõ các ngành nghề đang phát triển
ttrong xã hội, từ đó HS sẽ hình thành được năng lực chọn nghề và định hướng nghề
nghiệp trong tương lai.
1.4.3. Yếu tố gia đình
Việc định hướng nghề nghiệp cho HS cần có sự quan tâm của nhà trường,
gia đình và xã hội, trong đó vai trò của gia đình trong hoạt động hướng nghiệp cho
học sinh THPT là đặc biệt quan trọng.
Cha mẹ với tư cách là nhà giáo dục đầu tiên khởi nguồn cho sự phát triển
nhân cách, cũng như định hướng nghề nghiệp của trẻ phù hợp với yêu cầu của thời
đại. Trong gia đình, cha mẹ là người luôn gần gũi, hiểu rõ các em nhất nên cha mẹ
có thể hiểu được năng lực, hứng thú, sở thích của các em ra sao. Đồng thời cha mẹ
là những thế hệ đi trước có nhiều kinh nghiệm thực tế, có sự hiểu biết về các ngành
nghề trong xã hội. Vì vậy, HS có sự ảnh hưởng và tin tưởng rất lớn từ cha mẹ trong
việc lựa chọn nghề nghiệp cho bản thân.
33
1.4.4. Yếu tố bạn bè
Bạn bè cùng lớp, cùng trường là một trong những yếu tố ảnh hưởng đến việc
lựa chọn nghề nghiệp của học sinh THPT. Trên thực tế chúng ta thấy có nhiều HS
chọn nghề do lời khuyên từ bạn bè, thấy bạn mình chọn ngành nghề đó mình cũng
chọn theo hoặc các em chơi thân với nhau rồi cùng nhau lựa chọn một nghề, thi
chung một trường. Hầu hết tất cả các cách chọn nghề do ảnh hưởng từ bạn bè đều
không mang lại hiệu quả, bởi đó là sự lựa chọn mang tính chất cảm tính và không
có sự đối chiếu, so sánh giữa năng lực, sở thích, điều kiện của bản thân với yêu cầu
của nghề, hoặc do sự hào nhoáng bề ngoài của nghề, thích chạy theo số đông.
Có thể nói bạn bè ảnh hưởng đến cuộc sống của học sinh THPT không ít
nhưng tương lai thì phải do chính bản thân các em quyết định. Nếu cùng sở thích,
chí hướng thì khi đi cùng con đường bạn sẽ có người để chia sẻ, cùng nhau tiến bộ,
nhưng khi thấy không thể đi cùng con đường thì các em nên mạnh dạn nói lên suy
nghĩ của mình, đừng gò ép theo bạn bè. Bạn bè nên góp ý những ý kiến có thể quan
trọng khi các em còn đang phân vân hay đang chọn hướng sai trong việc chọn
ngành nghề nào cho phù hợp. Và ở đây chỉ nên mang tính chất là lời khuyên còn
quyết định vẫn là chính bản thân mình.
1.4.5. Yếu tố bản thân học sinh
Sau khi học xong THPT mỗi HS sẽ có một con đường khác nhau trong việc
lựa chọn nghề nghiệp cho bản thân mình. Đứng trước ngưỡng cửa của cuộc đời, HS
sẽ chịu tác động và ảnh hưởng của nhiều yếu tố khác nhau. Trong đó, yếu tố thuộc
về bản thân HS là yếu tố quyết định đến quá trình lựa chọn nghề nghiệp của các em.
Sự lựa chọn nghề nghiệp không phải diễn ra một cách tự phát, ngẫu nhiên.
HS không thể hôm nay chọn nghề này, mai chọn nghề khác hoặc chọn nghề theo
phong trào, theo sự áp đặt của người khác vừa phí thời gian, vừa lãng phí tiền bạc.
Vì vậy, khi chọn nghề HS phải hiểu được chính mình, biết mình thích gì, muốn gì.
Tất cả những điều đó phải chính bản thân mỗi HS biết được mà không cần người
khác hiểu hộ, hiểu giùm được.
34
Muốn chọn đúng ngành nghề phù hợp với khả năng, đúng sở thích thì HS
phải trải qua một quá trình nghiên cứu, nghiền ngẫm về ngành mình sẽ chọn, sẽ học
và theo đuổi mãi sau này. Phải tự đặt câu hỏi cho mình và tự trả lời: Mình có năng
khiếu gì đặc biệt có năng lực gì nổi trội? Nếu vào học ngành đó mình sẽ gặp thuận
lợi khó khăn gì?
Việc nhận thức đúng đắn về bản thân góp phần rất quan trọng trong việc hình
thành xu hướng chọn nghề của các em. Ngược lại, nếu nhận thức không đầy đủ,
không đúng đắn về năng lực của mình sẽ dẫn đến việc chọn những ngành nghề
không phù hợp với bản thân. Sự lựa chọn nghề sai lầm sẽ gây ra sự chán nản với
công việc sau này mình sẽ học, sẽ làm. Điều này không chỉ ảnh hưởng đến chính
bản thân HS mà còn ảnh hưởng đến xã hội.
Như vậy, xu hướng chọn nghề của HS chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố như
điều kiện kinh tế- xã hội, gia đình, nhà trường, bạn bè và bản thân HS. Trong các
yếu tố trên, thì các yếu tố: Xã hội, gia đình, nhà trường, bạn bè chỉ đóng vai trò là
điêu kiện cho việc chọn nghề của HS được tốt hơn. Bản thân HS là yếu tố quyết
định. Bởi vì nếu những tác động từ gia đình, nhà trường, xã hội, bạn bè tốt hay
không tốt thì chính bản thân mỗi HS sẽ tự quyết định việc chọn nghề cho bản thân
mình.
Tiểu kết chƣơng 1
Việc chọn nghề của học sinh THPT không chỉ có ý nghĩa quan trọng đối với
cá nhân mà còn có ý nghĩa quan trọng đối với xã hội. Ngày nay, trong điều kiện của
nền kinh tế thị trường việc chọn nghề của HS lớp 12 lại càng khó khăn hơn khi mà
yêu cầu về nghề ngày càng cao và phạm vi lựa chọn nghề ngày càng lớn.
Xu hướng chọn nghề của HS được thể hiện ở nhận thức nghề, thái độ chọn
nghề và hành động chuẩn bị cho nghề nghiệp tương lai. Các yếu tố này chịu ảnh
hưởng bởi nhiều nhân tố khách quan và chủ quan.
Việc nghiên cứu xu hướng chọn nghề cho HS là rất cần thiết. Nghiên cứu cơ
sở lí luận của vấn đề này có ý nghĩa quan trọng trong việc xây dựng các biện pháp
giúp giáo dục xu hướng chọn nghề cho HS.
35
Chƣơng 2
TỔ CHỨC NGHIÊN CỨU VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Tổ chức nghiên cứu
2.1.1. Tổ chức nghiên cứu lý luận
Từ tháng 10/2018 đến tháng 1/2019 tiến hành xác định vấn đề nghiên cứu,
xây dựng đề cương nghiên cứu và tiến hành các tài liệu có liên quan phục vụ cho
nội dung nghiên cứu.
2.2.2. Tổ chức nghiên cứu thực trạng
Tiến hành từ tháng 2/2019 đến tháng 4/2019, với các bước cụ thể như sau:
- Giai đoạn chuẩn bị nghiên cứu: Được tiến hành từ tháng 10/2018 đến tháng
1/2019. Nghiên cứu các tài liệu liên quan đến vấn đề nghiên cứu nhằm xây dựng cơ
sở lý luận của đề tài. Thiết kế công cụ nghiên cứu là phiếu điều tra dành cho học
sinh trung học phổ thông.
- Giai đoạn điều tra thử: Tiến hành tháng 3/2019
+ Mục đích: Hoàn thành nội dung, hình thức của bảng hỏi. Hình thành các
phương pháp xử lý kết quả nghiên cứu, hoàn thiện mẫu phiếu điều tra.
+ Tiến hành điều tra thử 60 phiếu, trong đó: Mỗi trường chọn điều tra thử 20 học
sinh.
- Giai đoạn điều tra chính thức: Tháng 3-4/2019, phiếu điều tra sau khi đã
hoàn thiện được phát khảo sát chính thức cho 286 học sinh của 3 trường: THPT
Nguyễn Đình Chiểu, THPT Tây Ninh, THPT Nguyễn Trãi.
- Xử lý số liệu: Sử dụng các công thức toán thống kê trong nghiên cứu tâm lý
học và giáo dục học với sự hỗ trợ của phần mềm SPSS 16.0 để xử lý số liệu.
2.2. Phƣơng pháp nghiên cứu
1) Phương pháp nghiên cứu lý luận
- Mục đích: Phương pháp này được sử dụng dể tìm hiểu khái quát những vấn
đề liên quan đến nội dung nghiên cứu của đề tài. Những nghiên cứu về xu hướng
nghề nghiệp dưới góc độ tâm lý. Qua đó nhằm làm rõ nội dung nghiên cứu.
- Nội dung: Nghiên cứu những vấn đề lí luận có liên quan đến đề tài như
nghề nghiệp, phân loại nghề, xu hướng và một số vấn đề như xu hướng chọn nghề,
36
các yếu tố ảnh hưởng đến xu hướng chọn nghề của HS… xây dựng bộ công cụ khảo
sát thực trạng.
- Phương pháp nghiên cứu: Phân tích, tổng hợp, hệ thống hóa lý thuyết để
làm rõ cơ sở lí luân của vấn đề nghiên cứu và phương pháp lấy ý kiến chuyên gia.
2) Phương pháp phỏng vấn sâu
- Mục đích: Trong nghiên cứu này, các phỏng vấn sâu thực hiện nhằm mục
đích tìm hiểu xu hướng chọn nghề của hoc sinh trung hoc phổ thông. Tổng số
phỏng vấn thực hiện: 16 phỏng vấn sâu. Đối tượng phỏng vấn bao gồm HS, giáo
viên, cán bộ phụ trách hoạt động hướng nghiệp và dạy nghề ở địa phương, những
biện pháp mà giáo viên đã sử dụng để giúp HS nhận thức đúng đắn về nghề và lựa
chọn nghề hợp lý.
- Nội dung:
+ Trò chuyện với HS về nhận thức nghề, quan niệm về vấn đề nghề nghiệp,
các yếu tố ảnh hưởng đến xu hướng chọn nghề của các em, sự cần thiết của công tác
hướng nghiệp và dạy nghề.
+ Những thuận lợi và khó khăn của HS trong việc chọn nghề của bản thân.
+ Trò chuyện với giáo viên về xu hướng chọn nghề của HS, những thành tích
và những vấn đề còn tồn tại trong công tác giáo dục hướng nghiệp của nhà trường.
- Yêu cầu thực hiện: Chọn thời gian phù hợp để trò chuyện với HS, giáo
viên; đảm bảo sự trao đổi nhẹ nhàng, gợi mở khi cần thiết, tạo sự thoải mái về tâm
lý cho đối tượng trò chuyện. Đồng thời ghi chép trung thực để có những thông tin
bổ sung cho vấn đề nghiên cứu.
1) Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động
- Mục đích: Tìm hiểu thêm sự lựa chọn nghề của HS, học lực, lí lịch trích
ngang của HS.
- Nội dung: Nghiên cứu các hồ sơ đăng ký dự thi của HS, bảng điểm học kỳ I
của HS, một vài thông tin về gia đình (kinh tế, nghề nghiệp của cha mẹ…)
- Yêu cầu thực hiện: So sánh, đối chứng các sản phẩm thu được với những
thông tin thu được từ phiếu điều tra của HS.
3) Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi
37
- Mục đích: Sử dụng phương pháp này nhằm thu thấp những thông tin định
lượng về vấn đề nghiên cứu. Bảng hỏi được thiết kế gồm những câu hỏi liên quan
đến vấn đề nghiên cứu liên quan đến thông tin cá nhân, đến xu hướng lựa chọn nghề
nghiệp của HS.
- Nội dung: Căn cứ vào nhiệm vụ của đề tài, chúng tôi tiến hành xây dựng 2
loại phiếu trưng cầu ý kiến, mỗi phiếu gồm một hệ thống các câu hỏi.
+ Phiếu điều tra dành cho HS (phụ lục A)
* Về nhận thức:
Chúng tôi tiến hành khảo sát nhận thức của HS về sự cần thiết của việc
chuẩn bị nghề, về tầm quan trọng của các nghề trong xã hội, các thuộc tính cơ bản
của nghề, nghề phù hợp với bản thân. Trong đó:
Câu hỏi số 1 nhằm tìm hiểu nhận thức của HS về sự cần thiết của việc chuẩn
bị nghề cho tương lai. Kết quả thu được đánh giá theo tỉ lệ %.
Câu hỏi số 4 để tìm hiểu những thuộc tính cơ bản của nghề như đối tượng
lao động, đặc điểm, nội dung, phương thức thực hiện nghề, nhu cầu xã hội của
nghề, những yêu cầu của nghề.
Câu hỏi số 2 nhằm khảo sát tầm quan trọng của các ngành nghề trong xã
hội. Kết quả thể hiện ở 4 mức độ “rất quan trọng quan trọng- bình thường- không
quan trọng”, tương ứng với số điểm 4- 3- 2- 1.
Câu hỏi số 3 nhằm tìm hiểu về nghề phù hợp với bản thân, bao gồm một hệ
thống 10 ngành nghề được đưa ra để HS lựa chọn nghề phù hợp. Kết quả được tính
theo điểm trung bình.
* Về thái độ đối với nghề
Câu hỏi số 5 để tìm hiểu thái độ của HS khi chuẩn bị kết thúc chương trình
học tập lớp 12 . Kết quả thu được tính theo tỉ lệ %.
Câu hỏi số 6 nhằm tìm hiểu thái độ của HS khi tham gia các hoạt động
hướng nghiệp. Kết quả thu được tính theo tỷ lệ %.
Để tìm hiểu nguyện vọng nghề nghiệp của HS, chúng tôi đưa ra một số vấn
đề HS có có nguyện vọng, yêu cầu HS lựa chọn 5 nguyện vọng phù hợp với bản
38
thân nhất và xếp theo thứ tự từ 1 đến 5. Kết quả được tính theo điểm trung bình và
xếp theo thứ bậc.
Để tìm hiểu hứng thú nghề nghiệp của HS, chúng tôi sử dụng câu hỏi số 8,
9, 10. Trong đó câu hỏi số 8 để khảo sát xem các em hứng thú với những nghề nào
theo các mức độ “rất thích- thích- bình thường- không thích”, tương ứng với số
điểm 4- 3- 2- 1; câu số 9 dùng để tìm hiểu mức độ hứng thú và câu số 10 dùng để
tìm hiêu mối tương quan giữa hứng thú môn học và hứng thú nghề.
* Về hành động chọn nghề
Câu hỏi số 11 để tìm hiểu sự định chọn nghề của HS sau khi tốt nghiệp. Kết
quả được tính theo tỷ lệ %.
Câu hỏi số 12 để tìm hiểu hành vi của HS khi tham gia các giờ học hướng
nghiệp với 4 mức độ “rất thường xuyên- thường xuyên- thỉnh thoảng- không bao
giờ”. Kết quả được xử lý theo tỷ lệ %.
Câu hỏi số 13 để tìm hiểu những vấn đề mà HS quan tâm khi lựa chọn nghề
nghiệp. Chúng tôi đưa ra một số vấn đề, yêu cầu HS 5 vấn đề bản thân quan tâm
nhất và xếp theo thứ tự từ 1 đến 5. Kết quả thu được tính theo điểm trung bình và
xếp theo thứ bậc.
Câu hỏi số 14 nhằm khảo sát khó khăn của HS khi lựa chọn nghề nghiệp.
Chúng tôi đưa ra 10 khó khăn mà HS thường gặp phải, yêu cầu HS lựa chọn 5 khó
khăn nhất, xếp theo thứ tự ưu tiên từ 1 đến 5 Kết quả thu được tính theo điểm trung
bình và xếp theo thứ bậc.
Câu hỏi số 16 nhằm tìm hiểu các yếu tố ảnh hưởng đến xu hướng chọn nghề
của HS. Kết quả thu được tính theo điểm TB và xếp theo thứ bậc.
Câu hỏi số 15 nhằm tìm hiểu sự chuẩn bị nghề của HS như tìm hiểu thông
tin về các nghề trong xã hội, đi quan sát các cơ sở sản xuất; HS đánh giá theo 3 mức
độ “rất tích cực- tích cực- không tích cực” tương ứng với điểm số 3-2-1.
+ Phiếu điều tra dành cho giáo viên (phụ lục B)
* Nội dung: Tìm hiểu nhận thức, sự đánh giá của giáo viên về công tác
hướng nghiệp trong nhà trường THPT và nhận thức nghề của HS. Ngoài ra còn một
số câu hỏi để thu thập thêm các thông tin liên quan đến vấn đề nghiên cứu.
39
Câu hỏi số 1 nhằm tìm hiểu nhận thức của giáo viên đối định hướng nghề
nghiệp cho HS. Kết quả được xử lí theo tỉ lệ %.
Câu hỏi số 2: Đánh giá của giáo viên về việc tổ chức công tác hướng nghiệp
trong nhà trường. Kết quả được xử lí theo tỉ lệ %
Câu hỏi số 3 nhằm tìm hiểu những khó khăn của giáo viên khi làm công tác
hướng nghiệp cho HS. Kết quả thu được tính theo tỉ lệ %.
Câu hỏi số 4 để khảo sát ý kiến của giáo viên về xu hướng lựa chọn nghề
nghiệp của HS sau khi tốt nghiệp THPT. Kết quả thu được tính theo tỉ lệ %.
Câu hỏi số 5 nhằm khảo sát những nghề được HS ưu tiên lựa chọn. Kết quả
thu được tính theo điểm trung bình và xếp theo thứ bậc.
Câu hỏi số 6 đánh giá những thay đổi trong quy chế tuyển sinh của Bộ giáo
dục và đào tạo ảnh hưởng đến việc lựa chọn nghề nghiệp của HS. Kết quả tính theo
tỉ lệ %.
Câu hỏi số 7: Đánh giá của giáo viên về nhận thức của HS về việc lựa chọn
nghề nghiệp.
Câu hỏi số 8 dùng để thu thập những ý kiến và đóng góp của giáo viên nhằm
nâng cao nhận thức của HS nghề việc lựa chọn nghề của HS được đúng đắn hơn.
- Cách thức tiến hành:
+ Xây dựng phiếu
Trao đổi với với cán bộ hướng dẫn về nội dung hình thức xây dựng bảng hỏi
Điều tra thử để chỉnh sửa tính hợp lý cho bảng hỏi
Xây dựng phiếu hoàn chỉnh
+ Tiến hành điều tra
Liên hệ với hiệu trưởng các trường, giáo viên chủ nhiệm, chọn mẫu điều tra
Phát bảng hỏi cho HS
Nêu mục đích, yêu cầu, hướng dẫn cách trả lời
Thu phiếu, kiểm tra số lượng
- Xử lý số liệu
Chúng tôi sử dụng phần mềm thống kê SPSS để xử lý các dữ liệu thu được
bao gồm một số phép thống kê như:
40
+ Tính tần số
+ Điểm trung bình
+ Độ lệch chuẩn
+ Tính hệ số tương quan
+ Phân tích so sánh: Trong nghiên cứu, chúng tôi chủ yếu so sánh điểm trung
bình theo công thức tính Hệ số tương quan thứ bậc của Spearman:
6∑ D2
R= 1- n(n2-1)
Trong đó:
R là hệ số tương quan thứ bậc Spearman
D là số hiệu thứ bậc giữa hai đại lượng đem ra so sánh
N là số đơn vị (nội dung) nghiên cứu cho biện luận kết quả -1 ≤ R ≤ 1
Nếu 0.7 ≤ R ≤ 1 là tương quan thuận, rất chặt chẽ
Nếu 0.5 ≤ R ≤ 0.7 là tương quan thuận, khá chặt chẽ
Nếu 0 ≤ R ≤0.5 là tương quan thuận, không chặt chẽ
4) Phương pháp thống kê toán học
- Mục đích: Dùng để xử lý, phân tích, đánh giá các kết quả thực tiễn đã thu
thập.
- Nội dung: Các số liệu thu thập trong quá trình khảo sát được tính theo: Số
lượng, tỷ lệ %, trung bình cộng…
Tiểu kết chƣơng 2
Để có được những kết luận khách quan, khoa học khi nghiên cứu, chúng tôi
đã sử dụng kết hợp nhiều phương pháp khác nhau. Mỗi phương pháp đều có ưu
nhược điểm riêng, phù hợp với việc nghiên cứu trên một phương diện nào đó. Ở
từng phương pháp được xác định mục đích, nội dung, cách thức thực hiện cụ thể.
41
Chƣơng 3
THỰC TRẠNG XU HƢỚNG CHỌN NGHỀ CỦA HỌC SINH
TRUNG HỌC PHỔ THÔNG TỈNH TÂY NINH
3.1. Vài nét về khách thể nghiên cứu
Tây Ninh là một tỉnh nằm ở miền Đông Nam Bộ, phía đông giáp các tỉnh
Bình Dương và Bình Phước, phía nam giáp thành phố Hồ Chí Minh và tỉnh Long
An, phía tây và phía bắc giáp vương quốc Campuchia. Nằm ở vị trí tiếp giáp với các
địa phương có nền kinh tế phát triển nhanh, năng động nhất là thành phố Hồ Chí
Minh và Bình Dương. Tây Ninh được xem là một tỉnh giữ vai trò quan trọng đối với
sự phát triển kinh tế của vùng kinh tế trọng điểm phía nam. Bên cạnh đó, Tây Ninh
là cửa ngõ giao thông đường bộ quan trọng sang Campuchia và các nước ASEAN.
Do vậy, đây không chỉ là một đầu mối giao thương, trung chuyển hàng hóa, dịch vụ,
du lịch, thương mại giữa các nước trong khu vực mà còn là một vị trí chiến lược
trong quốc phòng an ninh.
Với vị trí địa lý thuận lợi như vậy, trong những năm qua nền kinh tế, xã hội
của Tây Ninh đã có những bước phát triển đáng kể, đặc biệt là trong lĩnh vực giáo
dục và đào tạo. Tuy nhiên so với mặt bằng chung của cả nước thì Tây Ninh vẫn là
một trong những tỉnh nghèo, điều kiện phát triển giáo dục còn hạn chế, kinh tế còn
phát triển không đồng đều giữa các vùng.
Với vị trí địa lý là cửa ngõ giao thông, thương mại, dịch vụ, quốc phòng an
ninh giữa các nước tiểu vùng sông Mê Công nên HS ở Tây Ninh dễ dàng tiếp nhận
thông tin, đặc biệt là trong việc tiếp cận thông tin về nghề nghiệp cũng như được
tiếp cận các thông tin về hướng nghiệp. Trong những năm gần đây, Sở giáo dục và
đào tạo đã dành rất nhiều sự quan tâm, hỗ trợ và tạo điều kiện thuận lợi đến công
tác hướng nghiệp tại các trường THPT trong toàn tỉnh, tạo điều kiện cho HS lớp 12
định hướng và chọn nghề phù hợp.
Chúng tôi đã chọn khách thể điều tra của đề tài là HS lớp 12 trong các trường
THPT trên địa bàn thành phố Tây Ninh, huyện Dương Minh Châu và huyện Trảng
Bàng. Các em là những HS đang chuẩn bị kỳ thi tốt nghiệp THPT và cũng đang giai
42
đoạn chuẩn bị, lựa chọn nghề nghiệp tương lai cho bản thân. Chứng tôi chọn ba
trường đại diện cho ba huyện trong tỉnh có đặc điểm khác nhau về vị trí địa lý, sự
phát triển kinh tế, xã hội và giáo dục. Mỗi trường chúng tôi chọn 95 HS lớp 12, 21
phụ huynh và giáo viên chủ nhiệm kiêm công tác hướng nghiệp để điều tra. Cụ thể
như sau:
Trường THPT Nguyễn Đình Chiểu đại diện cho các trường THPT trên địa
bàn huyện Dương Minh Châu, gồm: 94 HS, 12 giáo viên và 10 phụ huynh. Trường
THPT Nguyễn Đình Chiểu có chất lượng học tập không đồng đều do các em là con
gia đình làm nông nên việc đầu tư cho học tập còn hạn chế, việc học tập còn chưa
cao.
Trường THPT Tây Ninh đại diện cho các trường THPT trên địa bàn thành
phố Tây Ninh, gồm 97 HS, 12 giáo viên và 11 phụ huynh. HS trường THPT Tây
Ninh có chất lượng học tập tốt, HS có điều kiện và thời gian để đầu tư cho việc học
tập.
Trường THPT Nguyễn Trãi đại diện cho các trường THPT huyện Trảng
Bảng, gồm 95 HS, 12 giáo viên và 10 phụ huynh. Ở đây có sự đồng đều về thành
phần gia đình là cán bộ công chức, kinh doanh buôn bán, công nhân, làm ruộng. Vì
vậy, chất lượng học tập của HS khá đồng đều, tỷ lệ HS tốt nghiệp khá cao, tỷ lệ HS
đăng ký vào các trường cao đẳng, đại học khá cao.
3.2. Thực trạng xu hƣớng chọn nghề của học sinh trung học phổ thông
tỉnh Tây Ninh
3.2.1. Nhận thức nghề của học sinh trung học phổ thông tỉnh Tây Ninh
Chúng ta đều biết nhận thức là yếu tố tham gia vào mọi hoạt động của con
người. Nhận thức là cơ sở của hoạt động và hành động, nhận thức là một mặt cấu
thành nên tâm lý con người. Khi có nhận thức, con người mới có thể thu được
những tri thức chân thực về thế giới khách quan. Có tri thức, con người mới có thể
tiến hành hoạt động cải tạo thế giới có kết quả. Vì vậy, muốn thực hiện một hành
động đúng, đạt kết quả cao đòi hỏi chủ thể phải hiểu đúng, phải nắm được con
đường, cách thực hiện hành động đó; còn nếu như hiểu vấn đề chưa vững vàng sâu
43
sắc thì việc thực hiện hành động sẽ không đạt được kết quả hoặc kết quả sẽ không
cao như mong muốn.
Nếu như HS nhận thức một cách đầy đủ, rõ ràng và cụ thể về việc lựa chọn
nghề thì họ sẽ có thái độ và hành động một cách đúng đắn. Do đó, để tìm hiểu xu
hướng chọn nghề của các em chúng ta cần tìm hiểu nhận thức của HS về việc chọn
nghề như thế nào?
3.2.1.1. Nhận thức về mức độ cần thiết của việc chuẩn bị nghề cho tương lai
Nhận thức được tầm quan trọng của việc chuẩn bị nghề cho tương lai sẽ là
tiền đề, là động lực giúp HS tích cực trong học tập và rèn luyện. Kết quả của việc
tìm hiểu nhận thức của HS về mức độ cần thiết của việc chuẩn bị nghề cho tương lai
được thể hiện ở bảng sau:
Bảng 3.1. Nhận thức của học sinh về tầm quan trọng của việc chuẩn bị
nghề cho tƣơng lai
STT Mức độ Tần số ĐTB ĐLC %
1 Rất quan trọng, rất cần thiết 40 14
2 Quan trọng, cần thiết 243 85
1.87 0.366 3 Không quan trọng, không cần 3 1
thiết
(Nguồn: Theo điều tra của tác giả)
Từ bảng trên ta thấy, có tới 85 % số HS cho rằng việc chuẩn bị nghề cho
tương lai của HS lớp 12 là quan trọng, cần thiết; 15% HS còn lại cho rằng việc
chuẩn bị nghề cho tương lai là rất quan trọng, rất cần thiết. Những số liệu trên là
một thực tế rất đáng mừng bởi chúng ta thấy nó đã phần nào chứng minh HS lớp 12
hiện nay thực sự đã nhận thức được tầm quan trọng của việc chuẩn bị nghề nghiệp
cho tương lai. Khi HS nhận thức được tầm quan trọng thì nó sẽ là tiền đề để HS học
tập, rèn luyện, biến chúng thành những hoạt động thường xuyên trong thời gian
biểu của các em. Tuy nhiên có vấn đề đáng lưu tâm, vẫn tồn tại một bộ phận nhỏ
các em HS không đánh giá cao tầm quan trọng của việc chuẩn bị nghề cho tương lai
(1%). Những HS này cho rằng việc chuẩn bị nghề cho tương lai đối với các em là
44
không quan trọng và không cần thiết. Vì vậy, công tác tư vấn hướng nghiệp trong
nhà trường cùng với sự quan tâm của gia đình và xã hội là rất cần thiết đối với HS
THPT.
Tóm lại hầu hết HS nhận thức được tầm quan trọng của việc chuẩn bị nghề
cho tương lai. Tuy nhiên sự nhận thức này chỉ thật sự có ý nghĩa khi nó chuyển hóa
thành thái độ và hành động của HS.
3.2.1.2. Nhận thức của học sinh trung học phổ thông tỉnh Tây Ninh về tầm
quan trọng của các nghề trong xã hội
Để tìm hiểu nhận thức của HS về tầm quan trọng của các ngành nghề trong
xã hội. Chúng tôi đã đặt câu hỏi nhận thức của HS về tầm quan trọng của các ngành
nghề trong xã hội. Kết quả thể hiện ở bảng sau:
Bảng 3.2. Tầm quan trọng của các nghề trong xã hội
STT ĐTB Thứ bậc Nghề Nam Nữ Chung Nam Nữ Chung
1 Giáo viên Bác sỹ 2 Luật 3 4 Tài chính, ngân hàng 5 Xây dựng 6 Kiến trúc 7 Giao thông Ca sỹ 8 9 Công nghệ thông tin 10 Công tác xã hội 11 Cơ khí 1.93 2.24 2.02 2.14 2.13 2.22 2.11 1.88 2.17 1.77 2.01 1.96 2.08 2.06 2.00 2.21 2.14 2.13 1.92 1.15 2.07 1.79 1.95 2.16 2.04 2.07 2.17 2.18 2.12 1.90 2.16 1.92 1.90 11 1 8 4 5 2 6 13 3 14 9 11 6 8 10 1 3 4 12 15 7 14 ĐLC (chung) 0.460 0.507 0.453 0.446 0.508 0.509 0.477 0.419 0.502 0.420 0.422 8 3 7 6 2 1 5 10 3 9 10
12 Nhân viên văn phòng 2.09 2.15 2.12 7 2 0.477 5
13 Trồng trọt, chăn nuôi 1.95 1.85 1.90 10 13 0.416 10
14 Công an 2.14 2.10 2.14 4 5 0.479
15 Nghề khác 1.89 2.01 1.95 12 9 0.453
(R≈ 0.876)
(Nguồn: Theo điều tra của tác giả)
45
Qua số liệu ở bảng trên cho ta thấy, các nghề trong xã hội đều được HS đánh
giá quan trọng và bình thường, không có nghề nào được đánh giá là không quan
trọng. Trong số những ngành nghề chúng tôi đưa ra: Các ngành nghề như kiến trúc,
bác sỹ, xây dựng, công an, giáo viên, tài chính, ngân hàng, luật được đánh giá là cao
hơn các nghề khác. Chúng tôi nhận thấy về cơ bản những nghề này được HS đánh
giá có tầm quan trọng không chênh lệch nhau nhiều và những nghề này hiện nay
trong xã hội rất được coi trọng và phổ biến. Tuy nhiên sự đánh giá của HS giữa các
ngành nghề có sự khác nhau và có sự chênh lệch khá cao như nghề xây dựng, kiến
trúc, hay nghề giáo viên, nghề luật được HS nhìn nhận quan trọng cao hơn nhiều so
với các nghề còn lại như công tác xã hội, ca sĩ, cơ khí, trồng trọt chăn nuôi.
Sự phát triển kinh tế, xã hội hiện nay đã tác động đến HS lớp 12 các trường
THPT Tây Ninh. Trong các ngành nghề kể trên, HS nhận thức nghề kiến trúc là
nghề quan trọng nhất (ĐTB=2.18).
Sau nghề kiến trúc là nghề xây dựng (ĐTB=2.17) và nghề bác sỹ (ĐTB=2.16)
được HS đánh giá cao. Hiện nay, trong xã hội nói chung và ở Tây Ninh nói riêng
đây là những nghề rất phổ biến trong xã hội. Đây là những nghề sau khi được đào
tạo người lao động dễ dàng có được việc làm ngay. Do đó chúng được đánh giá cao
hơn các nghề khác.
Nghề luật có ĐTB= 2.04. Thực tế cho thấy với một quốc gia đang không ngừng
phát triển, một đất nước đang hướng đến nền dân chủ vững mạnh và với một dân tộc
đang ngày ngày hướng mình ra với bạn bè năm châu, thì sứ mệnh bảo vệ công lý, đảm
bảo công bằng xã hội được đề cao. Vì vậy, HS chọn những ngành này khá nhiều.
Những nghề như công an, quân đội, y, dược, công nghệ thông tin, viễn thông
cũng được HS đánh giá cao. Điều này cho thấy HS đang có xu hướng lựa chọn
những ngành nghề thuộc về lao động trí óc. Trong bối cảnh của nền kinh tế thị
trường, sự nhận thức về tầm quan trọng của HS về nghề nghiệp ảnh hưởng sâu sắc
từ nền kinh tế thị trường.
Những ngành nghề khác HS nhận thức tầm quan trọng ít hơn như ca sỹ
(ĐTB= 1.90); công tác xã hội (ĐTB= 1.92) và trồng trọt, chăn nuôi (ĐTB= 1.90).
46
Sở dĩ những nghề này HS xem nhẹ hơn bởi vì như nghề diễn viên, ca sỹ đòi hỏi
người lao động trong nghề đó phải có sở trường, có năng khiếu trong lĩnh vực diễn
xuất hoặc âm nhạc thì mới có thể hành nghề được. Và trong xã hội số lượng người
lao động hoạt động không nhiều bằng những ngành nghề khác. Còn những ngành
nghề như công tác xã hội hay trồng trọt, chăn nuôi các em cũng xem nhẹ hơn, có thể
đây là những nghề còn xa lạ với các em và khi được đào tạo ra những nghề này HS
không dễ xin được việc làm ngay. Vì vậy, các em nhận thức tầm quan trọng của
những nghề đó ít hơn so với những ngành nghề khác.
Xét theo giới tính, những nghề HS nam đánh giá cao không khác nhau lắm
với những nghề HS nữ đánh giá cao. Về TB có một số nghề thay đổi đáng chú ý
như nghề nhân viên văn phòng được HS nam xếp vị trí 7 nhưng HS nữ xếp vị trí 2;
nghề tài chính ngân hàng HS nam xếp TB thứ 4 còn HS nữ xếp TB thứ 10; nghề
công nghệ thông tin HS nam xếp vị trí thứ bậc 3 còn nữ xếp thứ bậc 15. Do nguyên
nhân phần nhiều nam giới thường hướng đến những công việc mang tính chất năng
động, xông xáo còn nữ giới phù hợp với những công việc mang tính chất ổn định.
Còn các nghề khác vị trí TB không có sự thay đổi nhiều.
Hệ số tương quan giữa nam và nữ trong việc nhận thức tầm quan trọng của
các nghề là rất cao (R≈ 0.876). Đây là mối tương quan thuận, rất chặt chẽ; thể hiện
cả HS nam và nữ có nhận thức tương đồng về tầm quan trọng của các nghề trong xã
hội.
Tóm lại, học sinh THPT Tây Ninh đã nhận thức được tầm quan trọng của các
ngành nghề trong xã hội. Việc nhận thức về tầm quan trọng của các nghề trong xã
hội sẽ có ý nghĩa to lớn đối với việc học tập và rèn luyện các phẩm chất nghề
nghiệp của các em. Là cơ sở để HS có định hướng trong việc lựa chọn ngành nghề
phù hợp với bản thân mình. Vì vậy, các cơ quan, ban ngành và nhà trường cần có
những biện pháp khuyến khích, hỗ trợ, lôi cuốn, tạo điều kiện cho các em lựa chọn
những ngành nghề phù hợp và có lợi cho sự phát triển kinh tế của địa phương, của
đất nước. Đồng thời nó còn góp phần tạo ra sự cân bằng trong thế giới nghề nghiệp.
47
3.2.1.3. Nhận thức của học sinh trung học phổ thông tỉnh Tây Ninh về nghề
phù hợp với bản thân
Khi HS nhận thức được sự phù hợp của bản thân đối với một một nghề nào đó
thì đó là cơ sở quan trọng để các em đi vào hoạt động trong lĩnh vực mà mình đã
chọn; làm nảy sinh ở HS những dự định, những mong muốn và với hi vọng mình sẽ
thành công trong lĩnh vực nghề nghiệp đó. Do vậy, để tìm hiểu nhận thức của HS về
nghề phù hợp với bản thân, xem đó là một quá trình định hướng đầu nghề đầu tiên
của các em. Để tìm hiểu nhận thức của HS về vấn đề này, chúng tôi đã tiến hành
điều tra HS lớp 12 các trường trên địa bàn tỉnh Tây Ninh, với câu hỏi số 3 và kết
quả thu được thể hiện ở bảng sau:
Bảng 3.3. Nghề phù hợp với bản thân
STT SL % Nghề Nam chung Nam Nữ chung Nữ
Luật Tài chính, ngân hàng
1 Giáo viên 2 Bác sỹ 3 4 5 Xây dựng 6 Kiến trúc 7 Giao thông 8 Ca sỹ 9 Công nghệ thông tin 10 Công tác xã hội 11 Cơ khí 9 19 11 15 13 20 16 2 15 4 5 15 14 12 13 0 7 6 1 6 9 0 12 11.2 9.6 10.4 0 5.6 4.8 0.8 4.8 7.2 0 9.8 10.2 8.0 9.8 4.5 9.5 7.7 1.0 7.3 4.6 1.8 28 29 23 28 13 27 22 3 21 13 5 6 11.8 6.8 9.3 8.1 12.4 10 1.2 9.3 2.4 3.1
12 Nhân viên văn phòng 7 18 14.4 8.7 25 4.3
13 Trồng trọt, chăn nuôi 4 6 4.8 3.5 10 2.4
14 Công an 14 8 6.4 7.7 22 8.6
15 Nghề khác 7 10 8 5.9 17 4.3
(R≈ 0.254)
(Nguồn: Theo điều tra của tác giả)
48
Qua số liệu ở bảng trên cho chúng ta thấy, HS đều nhận thức được rằng mình
phù hợp với một nghề nào đó trong xã hội. Khi HS nhận thức được nghề nào phù
hợp với bản thân sẽ giúp cho các em có định hướng nghề hợp lý, tránh được sự
phân vân khi lựa chọn nghề nghiệp.
Những nghề được HS đánh giá phù hợp nhất là nghề tài chính, ngân hàng
đứng thứ bậc 1 với ĐTB= 6.5; tiếp đến là nghề giáo viên có ĐTB= 6.4; nghề xây
dựng, kiến trúc, và công an, quân đội có số điểm bằng nhau với ĐTB= 6.3; nghề
luật có ĐTB= 6.1. Các nghề khác trong xã hội được HS chú ý với tỉ lệ khá thấp như
nghề cơ khí (ĐTB= 3.1); nghề ca sĩ (ĐTB=3.3), nghề công tác xã hội (ĐTB= 3.4).
Điều này cho thấy các em chủ yếu nhận thức bản thân phù hợp với những nghề
thuộc lao động trí óc và được xã hội khá coi trọng hiện nay.
Từ bảng số liệu chúng tôi thấy, những nghề được HS nhận thức là quan trọng
thì các em cho đó là phù hợp với bản thân và ngược lại. Điều này cho thấy, hầu hết
HS đã chú ý đến giá trị xã hội của nghề.
Xét theo giới tính, chúng tôi nhận thấy hệ số tương quan về vấn đề này giữa
HS nam và HS nữ là R≈ 0.254, đây là mối tương quan thuận, không chặt chẽ. Điều
đó có nghĩa là ở một số nghề có, một số nghề không có sự khác biệt đáng kể giữa
hai giới. Những nghề có sự tương đồng giữa hai giới như nghề luật, tài chính, ngân
hàng, bác sỹ, ca sỹ có sự tương đồng giữa hai giới. Những nghề có sự khác biệt giữa
hai giới như nghề xây dựng, kiến trúc, giao thông, công nghệ thông tin.
Khi HS nhận thức được nghề phù hợp với bản thân thì các em phải xác định
được phù hợp trước hết là năng lực, sở thích và sức khỏe của bản thân với nghề
mình đã chọn, đây là một sự nhận thức đúng đắn bởi vì mỗi nghề đều đỏi hỏi ở
người lao động những yêu cầu cụ thể. Đồng thời việc xem xét đến yêu cầu và điều
kiện phát triển kinh tế xã hội của đất nước, của địa phương và điều kiện kinh tế của
gia đình khi chọn nghề là rất quan trọng vì nó quyết định đến đầu ra, đến việc có
hay không có việc làm đối với nghề đã chọn.
Xét theo học lực đa số những HS có học lực yếu và trung bình chọn những
ngành như cơ khí, nhân viên văn phòng, trồng trọt chăn nuôi; những HS có học lực
49
khá và giỏi thì các em chọn những ngành liên quan đến kinh tế, kỹ thuật, y tế như
bác sỹ, kiến trúc, công an. Kết quả thể hiện ở bảng 3.4.
Bảng 3.4. Nghề phù hợp với bản thân xét theo học lực
STT Nghề Học lực
Giỏi Khá TB Yếu
SL % SL % SL % SL %
7.0 9 8.7 3 3.1 3.4 1 Giáo viên 1 4
8.8 12 11.6 0 0 0 0 Bác sỹ 2 5
7.0 8 7.8 2 2.1 0 0 Luật 3 4
Tài chính, ngân 15.7 15 14.5 0 0 0 0 4 9
hàng
2 2.1 6.8 6.9 2 Xây dựng 5 5 8.8 7
1 1.1 8.7 0 0 Kiến trúc 6 7 12.2 9
1 1.1 6.8 3.4 1 Giao thông 7 5 8.8 7
3 3.1 1.0 10.3 3 Ca sỹ 8 0 0 1
6 6.2 6.9 2 Công nghệ thông 10.5 11 10.7 9 6
tin
7.8 6 6.2 10.3 3 10 Công tác xã hội 3 5.3 8
0 18 18.7 24.2 7 11 Cơ khí 0 0 0
4.9 16 16.6 13.9 4 12 Nhân viên văn 2 3.5 5
phòng
13 Trồng trọt, chăn 0 0 0 0 23 23.2 5 17.3
nuôi
0 14 Công an 5 8.8 6 5.8 3 3.1 0
1 15 Nghề khác 3 5.2 5 4.9 13 13.4 3.4
(Nguồn: Theo điều tra của tác giả)
Có thể nói sự phù hợp nghề trước hết là phụ thuộc vào quá trình nhận thức
sâu sắc với nghề mình chọn để biết mình, biết nghề và sau đó là quá trình tự rèn
50
luyện để tạo ra sự phù hợp nghề là cơ sở đảm bảo cho hoạt động nghề đạt tới hiệu
quả. Song để làm cho sự phù hợp nghề có sự bền vững về chất lượng là cả một quá
trình khổ công học hỏi, hoàn thiện những gì đã có để làm cho những yêu cầu do
nghề nghiệp đặt ra trở thành những đòi hỏi của chính bản thân mình.
3.2.1.4. Nhận thức của học sinh trung học phổ thông tỉnh Tây Ninh về các
thuộc tính cơ bản của nghề
Để hiểu nhận thức của HS về các thuộc tính cơ bản của nghề như đối tượng
lao động của nghề; đặc điểm, nội dung, phương thức thực hiện nghề; thế giới nghề
và những yêu cầu đặc trưng đối với nghề. Chúng tôi làm rõ những vấn đề này thông
qua một số câu hỏi như: Em biết gì về nghề mà em cảm thấy phù hợp? Em có biết
những công việc cụ thể của nghề em chọn? Những yêu cầu cụ thể về nghề em đã
chọn? Muốn học nghề đó phải hoc ở trường nào? Sau này ra trường làm gì ?
Từ mẫu nghiên cứu 286 HS thu được 286 câu trả lời, chúng tôi đưa ra nhận
định như sau:
Đa số HS (94.5%) nhận thức được các thuộc tính cơ bản của nghề như những
đặc điểm của nghề, công việc cụ thể của nghề đã chọn, nơi đào tạo, công việc sau
khi ra trường, điều kiện làm việc. Có 5.5 % HS chưa biết phải học nghề đó ở đâu và
nghề đó đưa ra yêu cầu gì đối với người lao động, công việc sẽ làm sau khi ra
trường…
Mỗi nghề lao động trong xã hội đều có những đặc điểm riêng, người lao động
trước khi chọn nghề phải hiểu xem nghề mình định chọn có đặc điểm gì. Nếu cá
nhân hiểu rõ về nghề, sẽ thuận lợi trong việc học tập và thích nghi với nghề. Do
vậy, khi trả lời câu hỏi: “Em có biết những công việc cụ thể của nghề em chọn?”,
đa số HS trả lời biết rõ và biết sơ sơ, còn rất ít HS trả lời không biết một chút nào về
công việc cụ thể của ngành nghề đã chọn. Thực tiễn cho thấy, hiện nay có rất nhiều
kênh thông tin giúp cho HS nhận thức về đặc điểm của các ngành nghề trong xã hội.
Đó có thể là gia đình, giáo viên, nhân viên tư vấn, truyền thông hay chính quá trình
quan sát từ thực tiễn của các em. Các nguồn thông tin về nghề trong xã hội tương
đối đa dạng và phong phú.
51
Một trong những biểu hiện của nhận thức về nghề còn thể hiện ở việc HS hiểu
biết về những yêu cầu của nghề. Khi được hỏi: “Nghề bạn chọn đòi hỏi bạn phải có
những yêu cầu gì?” hầu hết HS đã đưa ra được những yêu cầu cơ bản về phẩm chất
và năng lực như sức khỏe, sự nhanh nhẹn, siêng năng, thông minh… nhưng các em
không đưa ra được những yêu cầu đặc trưng của nghề mình đã chọn. Mặc dù các
năng lực nghề đã có sẵn trong bản thân một số người, nhưng năng lực nghề còn
được hình thành trong quá trình học tập, lao động trong ngành đó. Tuy nhiên ngành
nghề nào cũng cần có những tố chất, thiên hướng sở trường ở người lao động. Nếu
HS thiếu những thông tin cần thiết về yêu cầu của nghề sẽ dẫn đến lúng túng, không
biết nghề có yêu cầu như thế nào để soi rọi vào bản thân rồi tìm ra sự phù hợp giữa
đặc điểm tâm lý bản thân và yêu cầu của nghề. Việc nhận thức được các yêu cầu
của nghề là cả quá trình, HS cần được cung cấp thông tin hoặc được hướng dẫn để
biết cách tìm hiểu thông tin về nghề một cách đầy đủ và toàn diện, sẽ giúp cho HS
có những hành vi quyết định nghề đúng đắn.
Nhận thức về nơi đào tạo nghề của HS chủ yếu ở một số trường đại học, cao
đẳng trung cấp chuyên nghiệp trong khu vực. Khi được hỏi : “Em biết gì về trường
đó?” Hầu hết HS nêu lên trường đó đào tạo những ngành gì, hàng năm trường
tuyển sinh ra sao, chỉ tiêu tuyển sinh bao nhiêu… nhưng HS không trả lời được
những nội dung quan trọng như đội ngũ giáo viên, cơ sở vật chất, những thế mạnh
cũng như những hạn chế của trường…
Và khi chúng tôi hỏi “Ngoài trường đó ra còn có trường nào đào tạo ngành
đó có chất lượng nữa không?” Thì HS có nêu được một số trường khác trong khu
vực và trên cả nước có đào tạo ngành đó, nhưng các em không trả lời được những
trường nào đào tạo có chất lượng ngành nghề mà HS đã lựa chọn. Điều này cho
thấy, HS đã nhận thức được về nơi đào tạo nghề, tuy nhiên các em mới chỉ dừng lại
ở mức hiểu biết mang tính cảm tính chứ chưa sâu về nơi đào tạo nghề.
Nhận thức về công việc sẽ làm sau khi ra trường của HS khá đơn giản và cảm
tính. Các em nắm bắt được công việc sau khi ra trường của một số ngành nghề cơ
52
bản trong xã hội như giáo viên, công an, quân đội, ngân hàng… Có khá nhiều
chuyên ngành các em vẫn chưa hiểu thấu đáo về công việc sẽ làm sau khi ra trường.
Trong khi trò chuyện với các em, có nhiều HS lung túng khi khi được hỏi sâu về
công việc sẽ làm sau khi ra trường.
Sự nhận thức các thuộc tính cơ bản của nghề có ảnh hưởng rất lớn đến việc
học và lập nghiệp sau này của HS. Ngày nay có rất nhiều trường đại học, cao đẳng,
trung cấp chuyên nghiệp, dạy nghề ra đời; bên cạnh những trường có chất lượng,
vẫn còn không ít những trường chất lượng dạy và học chưa đạt tiêu chuẩn. Do vậy,
việc quyết định học nghề ở đâu có ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng đầu ra sau này
của HS. Đồng thời với việc nhận thức về những đặc điểm, nội dung, phương thức
thực hiện nghề, yêu cầu về nghề, sau này ra trường làm gì… cũng có ảnh hưởng
không nhỏ đến chất lượng công việc sẽ làm, giúp cho HS có sự chuẩn bị ngay từ lúc
còn ngồi trên ghế nhà trường phổ thông để thích ứng với công việc sau này, tránh
được những bỡ ngỡ của công việc sau khi tiếp xúc.
Tóm lại, hầu hết HS nhận thức được các thuộc tính cơ bản của nghề, tuy
nhiên những nhận thức này chỉ mang tính chất cảm tính, phiến diện, sâu sắc và chưa
thật sự hiểu thấu đáo về nghề mà các em đã chọn. Điều này cho thấy, hiệu quả của
công tác hướng nghiệp chưa đạt được những kết quả nhất định. Do đó nhà trường
cũng như gia đình và xã hội cần đẩy mạnh công tác định hướng nghề nghiệp cho
HS, giúp cho các em có sự hiểu biết đầy đủ và hoàn chỉnh hơn về các thuộc tính cơ
bản của các nghề trong xã hội.
3.2.2. Thái độ chọn nghề của học sinh trung học phổ thông tỉnh Tây Ninh
Để tìm hiểu thái độ chọn nghề của HSTHPT, chúng tôi tìm hiểu thái độ của
HS khi chuẩn bị kết thúc chương trình học tập lớp 12 ở trường. Kết quả thu được
chúng tôi xét chung toàn mẫu và thu được kết quả như sau:
53
Biểu đồ 3.1. Mức độ lo lắng cho việc lựa chọn nghề nghiệp của học sinh
rất lo lắng
lo lắng
bình thường
không lo lắng
(Nguồn: Theo điều tra của tác giả)
Qua biểu đồ trên cho thấy, có 25.9% HS lớp 12 rất lo lắng cho việc lựa chọn
nghề nghiệp của mình; có 60.8% HS lo lắng cho việc lựa chọn nghề nghiệp. Khi
được hỏi tại sao các em lại lo lắng cho việc lựa chọn nghề nghiệp thì các em trả lời
rằng hiện nay các nghề trong xã hội rất đa dạng nhưng không phải nghề nào cũng có
thể làm được và phù hợp với bản thân mình. Nghề nghiệp vô cùng quan trọng đối
với các em, nó quyết định đến tương lai bản thân mình sau này, nếu chọn sai nghề
thì nó sẽ ảnh hưởng đến cả cuộc đời của mỗi người. Theo tìm hiểu của chúng tôi,
đến thời điểm hiện nay hơn 90% học sinh THPT đã làm hồ sơ đăng ký nguyện vọng
vào các trường đại học, cao đẳng và trung cấp chuyên nghiệp; có nghĩa là các em đã
lựa chọn nghề nghiệp cho mình.
Có 10.1% HS có thái độ bình thường và 3.2% HS có thái độ không lo lắng
đối với việc lựa chọn nghề nghiệp sau khi học xong THPT. Theo như chúng tôi tìm
hiểu thì các em cho biết vì có thêm nhiều thời gian để tìm hiểu và lựa chọn cho chắc
ăn. Và trên thực tế thì một số HS đã được gia đình lựa chọn, sắp xếp công việc.
Qua thực trạng trên chúng ta có thể nhận định rằng: HS lớp 12 hiện nay khá
năng động, chủ động trong việc lựa chọn nghề nghiệp, đó chính là việc biết lo lắng
cho cuộc sống tương lai, sống có trách nhiệm với bản thân. Nếu một lí do nào đó
không chọn được nghề hoặc bỏ lỡ cơ hội chọn nghề các em sẽ thấy rất lo lắng và
54
thấy lãng phí thời gian một cách vô ích. Đó chính là sự thể hiện thái độ lao động và
mong muốn được lao động. Ngày nay, HS được sống trong một môi trường việc
làm đầy năng động và cạnh tranh, vì vậy HS có cơ hội phát huy tính độc lập, sáng
tạo và năng lực của mỗi cá nhân… Tất cả những điều này đã tác động một cách tích
cực đến thái độ lựa chọn nghề nghiệp của học sinh THPT.
- Thái độ của học sinh trung học phổ thông Tây Ninh khi tham gia các hoạt
động hướng nghiệp
Bảng 3.5. Thái độ của học sinh khi tham gia giờ học (sinh hoạt) hƣớng nghiệp
STT Nội dung Tần số % ĐTB ĐLC
1 Chú ý lắng nghe và trao đổi với giáo viên 84 29.4
về nghề nghiệp cũng như dự định chọn
nghề của bản thân
1.11 0.350 2 Ngồi cho có mặt không để ý đến giáo viên 79 27.6
nói gì
3 Làm việc riêng để thời gian trôi nhanh 66 23.1
4 Hành vi khác………… 57 19.9
(Nguồn: Theo điều tra của tác giả)
Qua bảng số liệu đã cho thấy, những biểu hiện về thái độ của HS lớp 12 khi
tham gia vào các hoạt động hướng nghiệp khá rõ ràng. Có 29.1% HS trong giờ học
đã chú ý lắng nghe và trao đổi với giáo viên về nghề nghiệp cũng như dự định chọn
nghề của bản thân. Qua tìm hiểu chúng tôi được biết những HS rất nghiêm túc trong
việc lựa chọn nghề nghiệp của mình; các em còn nhiều bỡ ngỡ chưa biết xác định,
hướng nghiệp cho bản thân, nên học theo ngành gì hay nghề gì và sau này mình sẽ
làm gì? Vì vậy, trong các giờ hoạt động hướng nghiệp các em rất nghiêm túc chú ý
lằng nghe và trao đổi với giáo viên về những dự định nghề nghiệp của mình để
được định hướng đúng đắn. Có tới 27.6% HS làm việc riêng để thời gian trôi nhanh,
23.1% HS ngồi cho có mặt không để ý đến giáo viên nói gì và 19.9% HS có những
hành vi khác trong giờ hoạt động hướng nghiệp do nhà trường tổ chức. Những HS
55
này chưa đánh giá được tầm quan trọng của hoạt động hướng nghiệp trong nhà
trường. Nhiều em xem các giờ học hướng nghiệp chỉ mang tính hình thức và tham
dự cho có mà không biết bản thân mình đã bỏ qua một giai đoạn quan trọng trong
quá trình chọn nghề của mình. Như vậy, chúng ta thấy rằng trong quá trình tham gia
hoạt động hướng nghiệp HS có thái độ không đúng đắn, thể hiện thái độ bất hợp tác
với giáo viên. HS đã đánh giá sai tầm quan trọng của giáo dục hướng nghiệp trong
nhà trường; với những thái độ như vậy HS đã làm cho các buổi học, các buổi sinh
hoạt hướng nghiệp của nhà trường diễn ra với hiệu quả thấp và kết quả cuối cùng là
HS vẫn lựa chọn nghề nghiệp một cách tự do, tự phát.
3.2.2.1. Nguyện vọng nghề nghiệp của học sinh trung học phổ thông Tây
Ninh
Để nghiên cứu và tìm hiểu xu hướng chọn nghề của HS lớp 12 một cách
chính xác và toàn diện thì trước hết phải tìm hiểu những nguyện vọng nghề nghiệp
của các em. Chúng tôi đưa ra một số vấn đề cơ bản và các em lựa chọn 5 nguyện
vọng phù hợp với bản thân mình theo thứ tự ưu tiên từ 1 đến 5, chúng tôi tổng hợp
được kết quả như sau:
Bảng 3.6. Những vấn đề học sinh lớp 12 có nguyện vọng
Vấn đề học sinh có nguyện vọng
STT 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 Học cao đẳng, đại học trở lên Giỏi tin học, ngoại ngữ Làm việc ở thành phố Làm việc trong cơ quan nhà nước Làm việc trong cơ quan ngoài nhà nước Sớm có cuộc sống tự lập Việc làm ổn định và thu nhập cao Kinh doanh, buôn bán Tham gia các hoạt động xã hội Sống hưởng thụ, ăn chơi ĐTB 7.08 4.85 3.95 5.28 5.65 6.11 8.66 4.64 2.16 0 TB 2 6 8 5 4 3 1 7 10 12
11 Học nghề 2.78 9
12 Vấn đề khác……………… 1.36 11
(Nguồn: Theo điều tra của tác giả)
56
Xét chung toàn mẫu, kết quả ở bảng cho thấy, HS lớp 12 có nguyện vọng với
nhiều vấn đề, tuy nhiên lại ở những mức độ rất khác nhau. Mức độ của những
nguyện vọng này có ảnh hưởng rất lớn đối với việc các em sẽ lựa chọn một nghề
nghiệp tương ứng như thế nào và ít nhất đây cũng là những cơ sở có tính định
hướng trong việc lựa chọn nghề nghiệp của các em.
Trong các nội dung chúng tôi đưa ra vấn đề được HS có nguyện vọng lớn
nhất hiện nay là “việc làm ổn định và thu nhập cao” (ĐTB= 8.65); điều này cho
thấy học sinh lớp 12 có mong muốn sớm ổn định cuộc sống. Tiếp đến là nguyện
vọng “học cao đẳng, đại học trở lên” (ĐTB= 7.08); Khi được hỏi tại sao các em
không có nguyện vọng đầu tiên là học cao đẳng, đại học thì được các em trả lời rằng
bây giờ con đường thành công, con đường làm giàu đang được mở rộng nên có
nhiều cách khác nhau không chỉ đơn thuần là học đại học. Đây cũng là xu hướng
chung của HS tốt nghiệp THPT hiện nay, theo tình hình chung thì số lượng thí sinh
đăng ký dự thi vào đại học năm 2019 giảm rất mạnh thấp hơn so nhiều so với nhiều
năm học về trước.
Những vấn đề như giỏi tin học, ngoại ngữ, sớm có cuộc sống tự lập cũng
được HS lựa chọn cao. Nguyện vọng làm việc trong cơ quan nhà nước không còn
được HS đánh giá cao như trước đây nữa mà nó được đánh giá thấp hơn nguyện
vọng làm việc trong các cơ quan ngoài nhà nước. Hiện nay do sự phát triển của nền
kinh tế thị trường, đất nước ta phát triển theo xu thế hội nhập nên ngày càng có
nhiều công ty, doanh nghiệp được mở ra, vì vậy cơ hội về việc làm luôn rộng mở
đối với giới trẻ, các em có điều kiện lựa chọn nhiều công việc khác nhau chứ không
bó hẹp trong các cơ quan nhà nước.
Một điều đáng chú ý trong điêu tra này là HS lớp 12 hiện nay không có
nguyện vọng sống hưởng thụ ăn chơi. Đây là một thông tin rất đáng mừng, bởi lẽ
các em xác định đây là giai đoạn quan trọng của cuộc đời, quyết định đến tương lai
của bản thân sau này, cho nên các em còn nhiều việc phải chuẩn bị cho tương lai
của mình hơn là việc sống hưởng thụ ăn chơi.
57
3.2.2.2. Hứng thú nghề của học sinh trung học phổ thông tỉnh Tây Ninh
Hứng thú có vai trò rất quan trọng trong hoạt động của con người. Trước hết
nó tạo cho chủ thể khát vọng tìm hiểu sâu sắc đối tượng. Đối với việc lựa chọn nghề
cũng như chuẩn bị nghề, nếu HS không hứng thú với nghề đã chọn, thì hoạt động
đó sẽ kém hiệu quả hơn.
Hứng thú nghề nghiệp là một phạm trù khá rộng, trong phạm vi của luận văn
này, chúng tôi chỉ tìm hiểu các em hứng thú với những nghề nào, mức độ hứng thú
của các em về nghề mà các em đã chọn và xét mối tương quan giữa hứng thú môn
học với hứng thú nghề nghiệp.
- Những nghề được học sinh yêu thích
Bảng 3.7. Những nghề đƣợc học sinh yêu thích
TB STT Nghề
ĐTB Nữ Chung Nam Nữ Chung 10 7.81 6.87 4 5 1 Giáo viên Nam 5.94
2 Bác sỹ Luật 3 4 ngân hàng 5 Xây dựng 6 Kiến trúc 7 Giao thông 8.72 6.25 7.89 6.36 7.25 7.82 8.34 6.47 9.41 3.24 2.93 4.24 8.53 6.36 8.65 4.80 5.09 6.03 1 9 2 8 4 3 3 7 1 13 14 10 2 6 1 12 11 7
8 Ca sỹ 4.64 4.08 4.36 13 11 13
9 Công nghệ thông tin 6.45 4.25 5.35 7 9 9
10 Công tác xã hội 4.55 7.31 5.93 15 5 8
11 Cơ khí 5.38 2.10 3.74 11 15 15
12 Công an 7.09 8.73 7.91 6 2 3
13 Trồng trọt, chăn nuôi 4.61 4.07 4.34 14 12 14
14 Nhân viên văn phòng 7.21 7.20 7.20 5 6 4
15 Nghề khác…….. 4.87 5.59 5.23 12 8 10
(R≈ 0.570)
(Nguồn: Theo điều tra của tác giả)
58
Hứng thú nghề được hình thành từ việc HS yêu thích nghề đó mang lại, nó sẽ
là động lực để giúp cho các em học tập tốt hơn trong quá trình học tập ở trường phổ
thông.
Để tìm hiểu hứng thú với nghề đã chọn của HS lớp 12, chúng tôi tìm hiểu
những nghề nào được HS yêu thích. Qua việc đánh giá mức độ đối với các nghề,
chúng tôi tổng hợp ở bảng 3.5. Kết quả của vấn đề này được xét chung toàn mẫu và
theo giới tính.
Xét chung toàn mẫu kết quả cho thấy, những nghề được đa số HS yêu thích
là nghề ngân hàng xếp TB 1 với ĐTB = 8.65; bác sỹ xếp TB thứ 2 với ĐTB = 8.53,
công an xếp thứ 3 với ĐTB =7.91…; những nghề như cơ khí, trồng trọt chăn nuôi,
ca sỹ ít được HS yêu thích. Thực tế cho thấy, rất nhiều người rơi vào tình cảnh học
xong 4 năm đại học nhưng lại không biết mình hợp với công việc gì, làm nghề gì
trong tương lai. Nghề nghiệp sẽ theo bạn suốt cả đời, nếu chọn sai ngành nghề, bạn
sẽ không chỉ cảm thấy chán nản, mất phương hướng mà sau này còn mất nhiều thời
gian để định hướng lại bản thân. Khi học và theo đuổi một ngành nghề mà mình
thích HS sẽ tập trung sức và lực vào công việc đó, và sau này ra trường đi làm các
em sẽ cống hiến hết mình cho công việc. Vì vậy, ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà
trường phổ thông, HS hãy chọn ngành nghề phù hợp với bản thân mình.
Xét theo giới tính cho thấy, những nghề HS nam yêu thích không có sự khác
nhiều với những nghề HS nữ yêu thích. Về TB có một số nghề có sự thay đổi đáng
chú ý như nghề kiến trúc được HS nam yêu thích xếp vị trí thứ 4 nhưng HS nữ xếp
thứ 14; nghề giao thông HS nam xếp ở TB 3 còn HS nữ xếp ở thứ bậc 10; nghề giáo
viên HS nữ yêu thích hơn với TB 4, trong khi đó HS nam xếp TB 10; nghề công tác
xã hội HS nữ xếp TB 5 còn HS nam xếp thứ bậc 15. Còn các nghề khác vị trí thứ
bậc không có sự thay đổi nhiều. Sở dĩ mức độ yêu thích đối với một số nghề có sự
khác nhau giữa hai giới bởi vì HS thường có xu hướng chọn những nghề có đặc thù
riêng cho nam giới thiên về sức khỏe, độ dẻo dai và sự kiên trì, sự năng động; còn
nữ giới thường yêu thích những công việc nhẹ nhàng, ổn định, phù hợp với sức
khỏe, tính cách của phái nữ.
59
Hệ số tương quan giữa nam và nữ đối với các nghề yêu thích là R≈ 0.507.
Đây là mối tương quan thuận, khá chặt chẽ, thể hiện cả HS nam và nữ có mức độ
yêu thích đối với các nghề trong xã hội tương đồng nhau.
+ Hứng thú của học sinh với nghề đã chọn
Để tìm hiểu mức độ hứng thú của học sinh THPT Tây Ninh với nghề đã
chọn, chúng tôi đã đưa ra 5 thông số, kết quả được thể hiện ở biểu đồ sau:
2%
13%
Biểu đồ 3.2. Mức độ hứng thú của HS với nghề đã chọn
30%
rất thích
55%
thích
thích vừa phải
không thích
(Nguồn: Theo điều tra của tác giả)
Say mê, quyết tâm vào bằng được nghề đã chọn (13%), đây chính là mức độ
cao nhất của hứng thú nghề nghiệp; thể hiện ở lòng mong muốn, ước ao và sự nỗ
lực hết mình để bằng mọi cách phải học cho được nghề mà mình yêu thích và hành
nghề; đồng thời thể hiện thái độ và ý chí quyết tâm theo đuổi ngành nghề mà mình
yêu thích. Một khi HS say sưa, quyết tâm vào được nghề đã chọn thì đó là động lực
để giúp cho các em học tập và làm việc không mệt mỏi, tích cực, tự giác, năng động
và sáng tạo hơn trong quá trình học tập. Mức độ này tỷ lệ HS lựa chọn không nhiều
nhưng phần nào đã nói lên được một bộ phận HS đã có sự nhìn nhận đúng đắn đối
với nghề nghiệp mình đã lựa chọn.
Mức độ thứ hai của hứng thú đối với nghề đã chọn đó là rất thích (29.7%).
Tuy ở mức độ này HS không say mê, quyết tâm vào nghề đã chọn nhưng nó cũng
có khả năng thúc đẩy HS tiếp cận, đi sâu tìm hiểu các hoạt động có liên quan đến
60
nghề nghiệp đó. Một khi HS đã thích một nghề nào đó thì đó là điều kiện để giúp
cho các em cố gắng học tập và phấn đấu đi theo theo nghề nghiệp mà mình yêu
thích.
Mức độ thứ ba của hứng thú nghề nghiệp là thích vừa phải chiếm tỷ lệ cao
nhất (54,8%). Nếu HS chọn nghề mà mình chỉ “thích vừa phải” thì thực sự nó chưa
tao ra được động lực để thúc đẩy các em vượt qua được khó khăn trở ngại để học
nghề và hành nghề. Và khi có một tác nhân nào đó tác động đến thì các em có thể từ
bỏ nghề nghiệp mà mình đã lựa chọn để chuyển qua một nghề khác, hứng thú này
có thể bị thay đổi do nhiều yếu tố. Vì vậy, cần phải có những tác động phù hợp để
nó phát triển theo chiều hướng tốt.
Mức độ cuối cùng là không thích nghề đã chọn (2.5%). Khi HS chọn nghề
nhưng có thái độ tiêu cực đối với nghề thì sự chuẩn bị nghề không được các em chú
ý đến. Khi các em không thích nghề đã chọn thì trong quá học tập và hành nghề của
các em sẽ gặp rất nhiều khó khăn, các em dễ dàng bỏ cuộc giữa chừng khi vượt qua
một thử thách nào đó; và khi đó sẽ dễ khiến cho HS bỏ nghề hoặc nếu tiếp tục theo
nghề thì sẽ không mang lại kết quả như mình mong đợi, khó có sự thành công trong
nghề. Thông qua việc phỏng vấn những trường hợp này chúng tôi được biết những
HS không thích nghề mình đã chọn là do hoàn cảnh kinh tế của gia đình hoặc do
sức ép của gia đình nên các em không thể chọn những nghề mà mình yêu thích.
Chẳng hạn như một HS ở trường THPT Nguyễn Đình Chiểu chọn nghề là giáo viên
nhưng khi được hỏi HS lại trả lời không thích nghề giáo viên mà thích nghề bác sỹ
và muốn học nghề đó thì phải lên Sài Gòn để học nhưng hoàn cảnh kinh tế gia đình
không cho phép nên HS đó phải học chọn nghề giáo viên để học tại tỉnh nhà để đỡ
chi phí.
Tóm lại, hứng thú của học sinh THPT về nghề đã chọn ở mức khá cao, đa số
HS có thái độ tích cực đối với nghề đã chọn. Để HS lựa chọn nghề phù hợp với
hứng thú của bản thân thì công tác giáo dục hướng nghiệp trong nhà trường phải
giúp cho HS mở rộng hiểu biết về thế giới nghề nghiệp cũng như cho các em trải
nghiệm trong nghề nghiệp để từ đó giúp cho các em khám phá hứng thú nghề
nghiệp của bản thân. Đồng thời gia đình, nhà trường và xã hội cần tạo điều kiện cho
HS có cơ hội được tự do lựa chọn nghề nghiệp; cần phải có biện pháp để giúp các
61
em nâng cao vốn hiểu biết về nghề, xác định hứng thú của bản thân, phát triển hứng
thú từ mức độ thích vừa phải lên mức rất thích và say mê, giúp cho các em tự tin
bước vào hoạt động chọn nghề.
+ Mối quan hệ giữa hứng thú học tập và hứng thú nghề nghiệp
Thông thường HS thích môn học nào thì các em sẽ chọn những ngành,
những lĩnh vực có liên quan đến môn học đó. Do vậy, việc xem xét hứng thú nghề
nghiệp và hứng thú môn học là rất quan trọng.
Theo kết quả khảo sát có (95.1%) HS cho rằng giữa hứng thú môn học và
hứng thú nghề nghiệp có mối quan hệ rất chặt chẽ với nhau và có (4.9%) HS cho
rằng giữa hứng thú môn học và hứng thú nghề không có mối quan hệ gì với nhau.
Và khi được hỏi tại sao các em lại cho rằng giữa chúng có mối quan hệ như vậy và
được các em trả lời rằng thông thường khi HS có hứng thú với môn học nào đó thì
các em sẽ lựa chọn những nghề có liên quan đến môn học đó; cụ thể như HS thích
học môn lịch sử thì em đó sẽ chọn thi vào trường có liên quan đến chuyên ngành
lịch sử…. Hầu hết HS đều có hứng thú với một hay vài môn học nào đó (94.1%) và
những môn học đó đều có liên quan chặt chẽ với nghề mà các em đã lựa chọn.
Có một số ít (6.9%) HS không xác định hứng thú với môn học nào. Chúng ta
biết rằng khi HS có hứng thú đặc biệt với một môn học nào đó thì nó sẽ là tiền đề
thuận lợi để giúp cho HS hình thành hứng thú nghề nghiệp. Do đó, đối với những
HS không hứng thú với môn học nào thì khó có thể hình thành nên hứng thú nghề
nghiệp cho các em.
Hứng thú môn học có ý nghĩa to lớn đối với việc định hướng nghề nghiệp
cho HS. Qua điều tra thực trạng cho thấy, hứng thú môn học của HS khá cao, tuy
nhiên mỗi HS chỉ hứng thú với một hoặc vài môn khoa học cơ bản. Chúng ta biết
rằng, mỗi một môn học đều có khả năng định hướng nghề nghiệp cho HS, nếu HS
chỉ hứng thú với một vài môn học nhất định thì việc lựa chọn nghề nghiệp để phù
hợp với hứng thú của các em chưa thật sự chính xác. Do đó, để công tác hướng
nghiệp được thuận lợi hơn, nhà trường cần hình thành ở HS hứng thú với tất cả các
môn học.
62
3.2.3. Hành động chọn nghề của học sinh trung học phổ thông tỉnh Tây
Ninh
Từ nhận thức đúng đắn đối với nghề nghiệp đến việc có thái độ tích cực đối
với nghề nghiệp tương lai và cuối cùng thể hiện ra bằng hành động chọn nghề cụ
thể là biểu hiện quan trọng trong xu hướng chọn nghề của học sinh THPT. Từ việc
nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của nghề nghiệp, các thuộc tính cơ bản của
nghề và cuối cùng là giúp cho HS hành động phù hợp đối với việc lựa chọn nghề
nghiệp của mình.
3.2.3.1. Dự định lựa chọn nghề của học sinh sau khi tốt nghiệp trung học
phổ thông
Hành động chọn nghề của HS được biểu hiện trước hết ở những dự định
nghề nghiệp của HS lớp 12 sau khi tốt nghiệp THPT. Để khảo sát những dự định
nghề nghiệp của HS, chúng tôi sử dụng câu hỏi số 10 (phụ lục A). Kết quả thu được
như sau:
Bảng 3.8. Dự định lựa chọn nghề của HS sau khi tốt nghiệp THPT
STT Nội dung SL %
Học đại học, cao đẳng 1 149 52.1
2 Học trung cấp chuyên nghiệp hoặc học 74 25.8
nghề
3 Làm công nhân hoặc đi xuất khẩu lao động 24 8.4
4 Kinh doanh, buôn bán 14 4.9
5 Dự định khác………… 25 8.8
(Nguồn: Theo điều tra của tác giả)
Xét chung toàn mẫu cho chúng ta thấy, sau khi tốt nghiệp THPT, HS có dự
định học đại học, cao đẳng chiếm tỷ lệ cao nhất (52.1%). Mặc dầu những năm gần
đây số lượng HS đăng ký xét tuyển vào các trường đại học, cao đẳng ngày càng
giảm nhưng tỷ lệ vẫn cao hơn so với những dự định khác của HS. Qua trò chuyện
chúng tôi được biết nhiều HS cho rằng chỉ có vào học đại học hoặc cao đẳng thì các
em mới nắm chắc được nghề nghiệp trong tương lai. Và tỷ lệ HS chọn học đại học,
cao đẳng phần lớn là những HS có học lực khá và giỏi; có một số em không có
63
nguyện vọng học đại học nhưng do sức ép của gia đình nên các em vẫn đăng ký xét
tuyển vào đại học, cao đẳng.
Có 25.8% HS chọn học trung cấp chuyên nghiệp hoặc học nghề. Học nghề
đang là xu hướng của giới trẻ hiện đại. Lí do mà các bạn ưa chuộng và quyết tâm đi
học nghề là vì hiện nay các cơ sở, các trường dạy nghề đang ngày càng nâng cao
chất lượng đào tạo nhân lực. Các nhà tuyển dụng cũng ưu tiên chọn những bạn trẻ
có tay nghề cao, có khả năng làm việc ngay khi vừa mới ra trường. Hàng trăm nghề
nghiệp đủ ở các lĩnh vực đã giúp các bạn trẻ có rất nhiều cơ hội để lựa chọn. Vì vậy,
học nghề trở thành cánh cửa mới mẻ, rộng mở với các bạn trẻ vừa mới tốt nghiệp.
Khi được hỏi tại sao lại không chọn con đường học đại học hoặc cao đẳng thì các
em trả lời học trung cấp hoặc học nghề thời gian học tập không quá dài, HS sẽ tiết
kiệm được chi phí và thời gian; đồng thời còn giúp các em nhanh chóng làm việc,
lấy kinh nghiệm thực tế. Thay vì mất 3 đến 4 năm học tập HS có thể vững vàng tay
nghề chỉ trong vài tháng do được thực hành liên tục, giúp hoàn thiên bản thân.
Có 4.9% HS có dự định kinh doanh, buôn bán sau khi hoc xong THPT. Con
số này tuy không lớn nhưng cũng nói lên một xu hướng mới, một nhận thức mới về
vấn đề việc làm và nghề nghiệp hiện nay của HS lớp 12. Công việc kinh doanh
buôn bán làm giàu ngày càng thu hút giới trẻ và đương nhiên đó cũng là một nghề
phổ biến trong xã hội. Theo tìm hiểu thì đa số những HS này là con em những gia
đình buôn bán, kinh doanh nên có sự định hướng và giúp đỡ của cha mẹ. Các em
muốn tự khẳng định mình và muốn tìm sự thành đạt trong các hoạt động kinh
doanh, buôn bán.
Có 8.4% HS có dự định làm công nhân hoặc đi xuất khẩu lao động và 8.8%
HS có những dự định khác như đi du học hoặc trải nghiệm Gap Year….. Những HS
lựa chọn con đường như làm công nhân thường là những HS có hoàn cảnh khó khăn
hoặc các em không muốn tiếp tục con đường học vấn nữa mà muốn tốt nghiệp
THPT xong để đi làm kiếm tiền. Số lượng HS chọn con đường du học không nhiều
mặc dầu con đường du học là mong muốn của nhiều HS sau khi tốt nghiệp. Du học
là mảng rất được yêu thích nhưng chi chí để đi du học không hề rẻ, nó là một vấn đề
64
không đơn giản đối với các bạn ở gia đình tầm trung. Vì vậy, số lượng HS lựa chọn
con đường này không nhiều.
Tóm lại, tốt nghiệp THPT là một bước ngoặt lớn của cuộc đời, quyết định
sau đó sẽ ảnh hưởng rất nhiều đến tương lai của các em sau này. Vì vậy, sau khi tốt
nghiệp THPT học sinh có rất nhiều dự định lựa chọn nghề nghiệp của mình. Xã hội
phát triển, nhiều ngành nghề xuất hiện đã mở ra những cánh cửa mới, tạo cho HS
lớp 12 cơ hội dấn thân đầy mới mẻ, các em nên suy nghĩ thấu đáo để có sự lựa chọn
phù hợp với điều kiện cụ thể của bản thân, gia đình, địa phương và đất nước.
3.2.3.1. Lựa chọn nghề của học sinh trung học phổ thông tỉnh Tây Ninh
- Hành vi của học sinh khi tham gia các giờ học (sinh hoạt) hướng nghiệp
Để tìm hiểu hành động chọn nghề của HS, chúng tôi đã tìm hiểu hành vi của
HS khi tham gia các giờ học hướng nghiệp. Kết quả của vấn đề này chúng tôi xét
chung theo toàn mẫu và thu được kết quả như sau:
Bảng 3.9: Hành vi của HS khi tham gia các giờ học (sinh hoạt) hƣớng nghiệp
STT Nội dung Tần số % ĐTB ĐLC
1 Rất thường xuyên 129 45.1
2 Thường xuyên 94 32.9
1.64 0.344 3 Thỉnh thoảng mới tham gia 45 15.7
4 Không tham gia bao giờ 18 6.3
(Nguồn: Theo điều tra của tác giả)
Những số liệu trong bảng 3.6 cho thấy những biểu hiện về hành vi của HS
lớp 12 khi tham gia các hoạt động giáo dục hướng nghiệp khá rõ ràng. Hành vi
tham gia các hoạt động hướng nghiệp rất thường xuyên, rất nghiêm túc đứng thứ
bậc 1 với 45.1%; đứng thứ 2 là hành vi tham gia thường xuyên, nghiêm túc với
32.9%; có 15.7% HS ít tham gia và 6.3% HS không tham gia bao giờ. Như vậy,
chúng ta thấy rằng số lượng HS tham gia vào các hoạt động hướng nghiệp có tỷ lệ
rất cao. Qua trao đổi với giáo viên và HS chúng tôi được biết, các trường quản lý
HS rất chặt không cho HS bỏ học hay nghỉ học không có lý do nên sỹ số vẫn được
duy trì tương đối ổn định. Tuy nhiên vẫn có một số HS tham gia không tự nguyện
65
và thoái mái, các em tham gia một cách hình thức chứ chưa hiểu rõ bản chất thực sự
của hoạt động hướng nghiệp.
- Những vấn đề học sinh quan tâm khi lựa chọn nghề nghiệp
Việc lựa chọn nghề nghiệp rất quan trọng nhưng thực chất không phải ai
cũng suy nghĩ thật chín chắn, đặc biệt là đối với học sinh THPT. Bạn theo đuổi
nghề đó vì ước mơ? Vì nguyện vọng gia đình? Vì sự đam mê với nghề nghiệp tương
lai?... Người xưa có câu: “ biết người biết ta, trăm trận trăm thắng”. Bởi vậy, việc
phân tích các yếu tố “ta” và “người” sẽ giúp ích rất nhiều cho học sinh THPT trong
việc lựa chọn nghề nghiệp tương lai cho bản thân mình. Vì vậy, trong quá trình lựa
chọn nghề nghiệp tương lai HS cần quan tâm đến nhiều vấn đề khi các em lựa chọn
nghề nghiệp. Để tìm hiểu nội dung này chúng tôi sử dụng câu hỏi số 12 (phụ lục A),
chúng tôi đưa ra 8 vấn đề, yêu cầu HS lựa chọn 5 vấn đề mình quan tâm nhất đánh số
theo thứ tự (mức độ quan tâm) từ 1 đến 5. Kết quả thu được như sau:
Bảng 3.10. Những vấn đề HS lớp 12 quan tâm khi lựa chọn nghề nghiệp
STT 1 2 3 4 5 6 7 8 9 Vấn đề quan tâm Nhu cầu, hứng thú của bản thân với nghề Cơ hội có việc làm sau khi ra trường Thu nhập của nghề Nghề được ít hay nhiều người lựa chọn Năng lực, phẩm chất của cá nhân Vị thế xã hội của nghề Khả năng thăng tiến trong nghề Sự đồng tình ủng hộ của gia đình Vấn đề khác…………. ĐTB 4.26 7.29 3.15 4.46 6.56 3.13 2.19 5.00 2.18 TB 5 1 6 4 2 7 9 3 8 ĐLC 2.100 1.094 1.522 1.985 1.134 1.753 1.520 1.464 1.587
(Nguồn: Theo điều tra của tác giả)
Xét chung toàn mẫu chúng ta thấy, vấn đề HS lớp 12 quan tâm khi lựa chọn
nghề nghiệp xếp vị trí thứ bậc 1 là cơ hội có việc làm sau khi ra trường (ĐTB=
7.29). Đây phải chăng là nỗi băn khoăn lớn nhất của HS khi lựa chọn nghề nghiệp.
Ở Việt Nam hàng năm các trường đại học đào tạo ra hàng nghìn cử nhân và trong số
đó không phải ai cũng tìm được cho mình một công việc ổn định. Trong thời gian
gần đây mặc dầu thị trường việc làm luôn sôi động nhưng vấn đề việc làm trở nên
khó khăn do nhiều nguyên nhân. Vì vậy, bản thân người học phải có cách nhìn nhận
66
mới về vấn đề việc làm sau khi tốt nghiệp ra trường. Có một việc làm đúng với
ngành nghề đào tạo luôn là mơ ước của hầu hết không chỉ đối với các sinh viên mà
ngay cả các em HS đang ngồi trên ghế nhà trường.
Vấn đề thứ hai được HS quan tâm là năng lực, phẩm chất của cá nhân
(ĐTB= 6.56). Mỗi một nghề đòi hỏi người lao động phải có những năng lực và
phẩm chất cơ bản nhất định. Việc xác định năng lực bản thân với khả năng HS có
thể theo học và làm được nghề là điều quan trọng không thể thiếu. HS có thể đánh
giá năng lực và phẩm chất của bản thân qua quá trình học tập 3 năm THPT. Ngoài
ra, các em cần lưu ý về ngành học mình muốn theo cần phải có những kỹ năng gì và
mình có đáp ứng được hay không? Nếu khả năng, năng lực không bản thân không
đủ đáp ứng nhu cầu công việc chắc chắn các em sẽ không sống được bằng ngành
nghề mình đã học. Vì vậy, đây là một vấn đề rất quan trọng mà học sinh THPT
quan tâm khi lựa chọn nghề nghiệp. Thông điệp về giáo dục của UNESCO trong thế
kỷ 21 đã nêu rõ: “Học để biết, học để làm, học để làm người và học để chung
sống”. Qua quá trình học tập, người học không chỉ tích lũy về kiến thức mà cần rèn
luyện kỹ năng thực hành, đạo đức phẩm chất năng động, sáng tạo, biết lắng nghe,
chia sẻ, hợp tác và làm việc có hiệu quả
Xếp thứ ba là sự đồng tình ủng hộ của gia đình (ĐTB= 5.00). Rất nhiều HS
khi lựa chọn nghề nghiệp quan tâm đến vấn đề như sự ủng hộ của gia đình bởi cha
mẹ là người chịu ảnh hưởng trực tiếp trước quyết định chọn ngành nghề của HS. Có
em được gia đình ủng hộ khi lựa chọn ngành nghề đó, có HS lại bị gia đình phản
đối và hướng đi theo một ngành nghề khác. Chính vì vậy sự quan tâm, ủng hộ của
gia đình là động lực giúp cho các em lựa chọn ngành nghề phù hợp hơn.
Những sự quan tâm tiếp theo khi chọn nghề đó là nghề được ít hay nhiều
người lựa chọn và thu nhập của nghề. Khi lựa chọn nghề nghiệp HS luôn quan tâm
đến việc nghề đó có ít hay nhiều người lựa chọn hay không và thu nhập của nghề đó
mang lại. HS luôn có sự cân nhắc giữa chi phí học tập và thu nhập của nghề sau
này. Một băn khoăn của một số bạn trẻ hiện nay là chọn nghề mình yêu thích nhưng
67
thu nhập thấp hay chọn nghề mình không thích nhưng thu nhập cao. Vì vậy, trong
quá trình chọn nghề HS phải có sự cân nhắc kỹ càng.
Một vấn đề đáng quan tâm nữa là vị thế xã hội đối với nghề (ĐTB= 3.13) và
khả năng thăng tiến trong nghề (ĐTB= 2.19). Đây là vấn đề không được HS quan tâm
nhiều, mức độ quan tâm hai vấn đề này là thấp nhất. Nguyên nhân của thực trạng này
là do HS nhận thức rằng đã là một nghề trong xã hội tức là được xã hội công nhận thì
không có khái niệm đó là nghề tốt hay nghề xấu nữa, nghề cao quý hay nghề không cao
quý. Cái chính là bản thân có phù hợp với nghề và làm tốt công việc hay không. Có thể
nói đây là những suy nghĩ rất đúng đắn, cởi mở của HS lớp 12.
- Những khó khăn học sinh gặp phải khi chọn nghề
Để tìm hiểu những khó khăn HS gặp phải khi chọn nghề, chúng tôi đưa ra 10
khó khăn. Qua việc các em lựa chọn 5 khó khăn nhất và xếp theo thứ tự từ 1 đến 5.
Kết quả thu được như sau:
Bảng 3.11. Những khó khăn HS lớp 12 gặp phải khi lựa chọn nghề nghiệp
STT Những khó khăn ĐTB TB ĐLC
1 Không được tư vấn nghề 3.77 7 2.547
2 Công tác hướng nghiệp không hiệu quả 2.99 8 1.981
3 Hiểu không đầy đủ về nghề 6.73 1 2.738
4 Thích một lúc nhiều nghề 5.66 4 2.030
5 Chọn được nghề nhưng năng lực hạn chế 4.74 6 2.525
6 Không xác định hứng thú, năng lực với nghề nào 5.07 5 2.279
7 Chọn nghề nhưng gia đình không ủng hộ 3.77 7 1.862
8 Lo lắng về việc làm sau khi ra trường 6.37 2 2.045
9 Lo lắng thu nhập và sự ổn định của nghề 5.90 3 2.392
10 Khó khăn khác…………. 2.56 9 1.663
(Nguồn: Theo điều tra của tác giả)
Trong quá trình lựa chọn nghề nghiệp, HS thường gặp không ít những khó
khăn, những khó khăn này gây cản trở cho các em khi lựa chọn nghề nghiệp. Tuy
nhiên những khó khăn này tùy vào mức độ đã làm cho HS chọn nghề không phù
68
hợp với bản thân. Theo sự nhận định và đánh giá của HS thì khó khăn nhất mà các
em gặp phải là hiểu không đầy đủ thông tin về nghề (ĐTB= 6.37); khó khăn thứ 2 là
HS lo lắng về vấn đề việc làm sau khi ra trường (ĐTB= 6.37); khó khăn thứ 3 là lo lắng
thu nhập và sự ổn định của nghề; khó khăn thứ 4 là HS thích một lúc nhiều nghề; khó
khăn thứ 5 là các em không xác định được hứng thú, năng lực với nghề nào…
Qua bảng số liệu cho thấy, việc HS hiểu không đầy đủ về nghề làm cho các
em gặp khó khăn nhất khi lựa chọn nghề nghiệp. Rất nhiều HS chỉ biết tên gọi của
nghề đó mà không hình dung được nội dung, hình thức, tính chất, yêu cầu… của lao
động trong nghề. Vì vậy sẽ làm cho HS không hiểu về nghề và nếu các em lựa chọn
một cách cảm tính sẽ ảnh hưởng đến cả tương lai của bản thân mình. Bên cạnh đó,
các khó khăn như thu nhập và sự ổn định của nghề, thích một lúc nhiều nghề, không
xác định được hứng thú với nghề nào cũng được HS cho là khó khăn, gây cản trở
cho các em trong quá trình lựa chọn nghề nghiệp của mình. Những khó khăn như
không được tư vấn nghề và công tác hướng nghiệp không hiệu quả là những khó khăn
mà HS cho rằng ít gặp nhất trong quá trình lựa chọn nghề nghiệp. Qua tìm hiểu HS ở
các trường cho rằng hoạt động hướng nghiệp không ảnh hưởng nhiều đến việc chọn
nghề của các em, dù được hướng nghiệp hay không thì các em cũng chọn nghề theo ý
muốn hoặc theo dự định trước. Chính vì vậy chất lượng giáo dục hướng nghiệp có hay
không hiệu quả cũng không ảnh hưởng nhiều đến quá trình chọn nghề của HS.
Trên thực tế có HS gặp nhiều khó khăn nhưng cũng có HS chỉ gặp một hoặc
vài khó khăn cản trở việc lựa chọn nghề nghiệp cho mình. Việc giải quyết những
khó khăn này không hề đơn giản. Vì vậy, trong quá trình lựa chọn nghề nghiệp, HS
cần phải xác định đâu là khó khăn chủ yếu cần phải khắc phục trước, như vậy việc
lựa chọn nghề nghiệp của các em mới có thể thành công được.
3.2.3.2. Những sự chuẩn bị nghề của học sinh trung học phổ thông tỉnh Tây Ninh
Đối với hoạt động nghề nghiệp, sự chuẩn bị nghề của HS có vai trò rất quan
trọng. Sự chuẩn bị nghề giúp cho các em có tâm thế, sự tự tin vững vàng khi gia
nhập vào môi trường học nghề, làm quen với nghề. Để tìm hiểu vấn đề này, chúng
tôi đưa ra một số hình thức chuẩn bị nghề với 3 mức độ lựa chọn: “Rất tích cực-
tích cực và không tích cực”. Kết quả khảo sát được xét chung toàn mẫu:
69
Bảng 3.12. Mức độ các hình thức chuẩn bị nghề của học sinh
Các hình thức chuẩn bị nghề
STT 1 2 3 ĐTB Mức độ 2.15 2.11 1.27 1 2 4
4 5 6 Học chuyên sâu về nghề đã chọn Tích cực học tập để thi đỗ vào trường đã chọn Rèn luyện những phẩm chất đạo đức cần thiết để thực hành nghề Đọc sách báo có liên quan đến nghề đã chọn Đến những cơ sở thực hành Hình thức chuẩn bị khác…………. 1.31 1.17 1.29 3 6 5
(Nguồn: Theo điều tra của tác giả)
Xét chung toàn mẫu, HS chưa tích cực trong việc chuẩn bị nghề cho tương
lai, tuy nhiên chỉ có một số hình thức như học chuyên sâu về nghề đã chọn và tích
cực học tập để thi đỗ vào trường đã chọn; còn các hình thức khác như rèn luyện
những phẩm chất đạo đức cần thiết để thực hành nghề, đọc sách báo có liên quan
đến nghề đã chọn và đến những cơ sở thực hành chưa được HS chú ý đến. Trong
đó, hình thức được các em thực hiện cao nhất là học chuyên sâu về nghề đã chọn
(ĐTB= 2.15); thứ 2 là tích cực học tập để thi đỗ vào trường đã chọn (ĐTB= 2.11).
Tìm hiểu những thông tin có liên quan đến nghề đã chọn và việc rèn luyện
những phẩm chất đạo đức để thực hành nghề không được HS chú ý nhiều. Qua trò
chuyện có nhiều HS trả lời rằng những phẩm chất cơ bản thì các em đã có rồi còn
những phẩm chất đặc thù thì khi bắt đầu học tập trong môi trường liên quan đến
nghề nghiệp đã chọn thì HS mới rèn luyện; còn nhiệm vụ quan trọng bây giờ là tích
cực học tập và học chuyên sâu về nghề đã chọn. Đây là một thực trạng rất phổ biến
ở HS hiện nay, các em hầu như chỉ quan tâm đến việc thi đỗ hay không vào trường
mình đã chọn mà không biết rằng đối với một nghề nghiệp nào đó bên cạnh yếu tố
năng lực thì việc rèn luyện những phẩm chất đạo đức cũng rất quan trọng.
Tìm hiểu những thông tin có liên quan đến nghề đã chọn thông qua sách,
báo, internet và đến các cơ sở thực hành không được HS chú ý đến. Ngày nay sách
và báo chí, internet nói về các ngành nghề trong xã hội rất nhiều, đặc biệt là
internet; nhưng phần lớn HS không dành thời gian rảnh rỗi của mình để đọc sách
mà các em chủ yếu sử dụng internet để online và giải trí. Rất ít HS sử dụng internet
để tìm hiểu ngành nghề tương lai và thu thập thông tin cho việc học. Việc HS tìm
70
đến các cơ sở thực hành để tìm hiểu thông tin về nghề đã chọn hầu như không được
các em chú ý đến. Qua trò chuyện với một số HS thì được các em trả lời rằng: “Em
không nghĩ đến điều đó”. Đây là thực trạng khá phổ biến. Mặc dầu ở khu vực các
em sinh sống và học tập có rất nhiều cơ sở sản xuất, các em có điều kiện để tiếp xúc
với một số ngành nghề trong xã hội nhưng HS đã bỏ qua một cơ hội tốt để giúp bản
thân mình trải nghiệm nghề nghiệp trong tương lai. Đây là một thực trạng mà công
tác giáo dục hướng nghiệp ở các trường phải chú ý đến khi giáo dục hướng nghiệp
cho HS.
Tóm lại, qua tìm hiểu mức độ của các hình thức chuẩn bị nghề của HS,
chúng tôi thấy rằng chỉ có một bộ phận HS khá, giỏi tích cực trong việc chuẩn bị nghề;
còn phần lớn HS chưa tích cực trong việc tìm hiểu nghề, do đó những thông tin HS thu
được chưa thật đầy đủ và chính xác. Nhà trường khi làm công tác hướng nghiệp cần
phải trang bị cho HS những thông tin chính xác và đầy đủ về các nghề trong xã hội,
đồng thời cần hướng dẫn, khuyến khích HS tích cực thu thông tin từ nhiều kênh khác
nhau để việc lựa chọn nghề nghiệp của bản thân được đúng đắn hơn.
Từ thực trạng xu hướng chọn nghề của HS được thể hiện qua ba mặt: Nhận
thức, thái độ và hành động; chúng tôi thấy: Học sinh THPT Tây Ninh đã nhận thức về
nghề phù hợp như nhận thức về việc chuẩn bị nghề nghiệp cho tương lai, về tầm quan
trọng của các nghề trong xã hội, nhưng nhận thức về các thuộc tính của nghề còn ở
mức thấp, các em mới chỉ hiểu biết mang tính cảm tính, phiến diện về nghề mà mình
đã lựa chọn. Thái độ đối với nghề của HS thể hiện khá rõ như thái độ lo lắng cho việc
lựa chọn nghề nghiệp, nguyện vọng nghề nghiệp và hứng thú nghề nghiệp nhưng HS
chưa xác định được tầm quan trọng của hoạt động hướng nghiệp trong nhà trường, các
em còn tham gia một cách hình thức. Học sinh THPT đã thể hiện hành động chọn nghề
ở mức khá cao như dự định chọn nghề, mức độ tham gia các giờ sinh hoạt hướng
nghiệp. Tuy nhiên HS chưa tích cực trong việc chuẩn bị nghề cho tương lai.
Tóm lại từ thực trạng xu hướng chọn nghề của HS lớp 12 tỉnh Tây Ninh
chúng tôi nhận thấy: Giữa ba mặt nhận thức, thái độ và hành động trong xu hướng
chọn nghề của HS đã thể hiện khá phù hợp; HS có nhận thức đúng đắn đối với
71
nghề, các em có thái độ tích cực đối với nghề nghiệp tương lai và có hành động phù
hợp đối với việc lựa chọn nghề nghiệp của mình.
3.2.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến xu hướng chọn nghề của học sinh trung
học phổ thông tỉnh Tây Ninh
Việc tìm hiểu các yếu tố ảnh hưởng đến xu hướng chọn nghề của HS THPT
có vai trò rất quan trọng. Một mặt nó cho ta biết các em bị tác động bởi cái gì, thêm
vào đó, đây sẽ là thông tin hữu ích cho quá trình lựa chọn nghề nghiệp của HS. Kết
quả thu được thể hiện trong bảng sau như sau:
Bảng 3.13: Các yếu tố ảnh hƣởng đến xu hƣớng chọn nghề của học sinh
ĐTB Thứ bậc Các yếu tố cụ thể
3.95 Tổng điểm TB 3.77 Nhóm các yếu tố Xã hội Thông tin trên phương tiện truyền thông, internet….
Dư luận xã hội về nghề 3.15 3 Nhu cầu xã hội đối với nghề 4.23
3.84 3.75 Nhà trường Hoạt động hướng nghiệp trong nhà trường 4 Giáo viên 3.66
Nghề nghiệp của cha mẹ 4.19 4.19 Gia đình
3.90 4.40 2
Hoàn cảnh kinh tế gia đình Sự định hướng nghề của gia đình Mức độ quan tâm của gia đình 4.28
Bạn bè Trào lưu chọn nghề của bạn 3.22 3.19 5
4.42
Lời khuyên của bạn Nhận thức về nghề nghiệp Sức khỏe 3.16 4.85 4.16 Bản thân Sở thích của bản thân 4.86
1 Năng lực của bản thân 4.93
Tính cách 3.94
Giới tính 3.76
(Nguồn: Theo điều tra của tác giả)
72
Từ bảng 3.11 ta thấy: Các yếu tố xã hội, gia đình, nhà trường, bạn bè, bản
thân đều có tác động đến xu hướng chọn nghề của HS. Trong đó, bản thân HS là
yếu tố tác động lớn nhất xu hướng chọn nghề của chính các em. Đây là điều dễ hiểu
bởi vì các yếu tố như bạn bè, gia đình, nhà trường, xã hội chỉ mang tính bổ trợ giúp
cho các em có thêm thông tin, định hướng cho việc lựa chọn nghề nghiệp mà các
em yêu thích, chúng không phải là yếu tố quyết định và ảnh hưởng nhiều nhất đến.
Đi sâu vào việc phân tích từng nhóm yếu tố, bắt đầu là nhóm bản thân. Theo bảng
trên chúng ta thấy, nhóm này có tác động nhiều nhất đến xu hướng chọn nghề của HS
với mức độ cao từ “rất ảnh hưởng” đến “ảnh hưởng”. Điều này cho chúng ta thấy rằng
yếu tố này có ảnh hưởng rất lớn đến xu hướng chọn nghề của các em. Trong nhóm yếu
tố này, “năng lực của bản thân” xếp vị trí thứ nhất (ĐTB= 4.93), “sở thích của bản
thân” xếp vị trí thứ hai (ĐTB= 4.86). Việc lựa chọn nghề nghiệp dựa trên năng lực và
sở thích là bước đầu tiên và quan trọng đối với học sinh THPT. Càng hiểu rõ về bản thân
có năng lực học tập như thế nào, sở thích của mình là gì thì càng có nhiều cơ sở vững
chắc để lựa chọn nghề nghiệp phù hợp và sẽ giúp các em tránh được tình trạng chọn
nghề theo cảm tính, theo lời khuyên của người khác hay theo trào lưu chung của xã hội.
Kế tiếp, các yếu tố thuộc về gia đình có ĐTB là 4.19, xếp vị trí thứ 2. Trong
đó, “sự định hướng nghề của gia đình” (ĐTB= 4.40) được HS lựa chọn nhiều nhất.
Việc định hướng những giá trị nghề nghiệp cho con cái phấn đấu vươn lên có ý
nghĩa to lớn đối với việc chọn nghề của con cái. Khi cha mẹ nắm bắt được các định
hướng giá trị của nhà nước, cộng đồng; cộng với những thấu hiểu về tâm, sinh lý
của các con thì định hướng giá trị của gia đình sẽ có tác dụng rất lớn đến việc chọn
nghề của các em. Ngược lại, sự định hướng của gia đình sẽ là chủ quan và áp đặt.
Do đó, cần phải có sự phối hợp đồng bộ và thống nhất từ phía nhà trường, gia đình
và xã hội. Nhà trường và xã hội cần cung cấp những thông tin đầy đủ về những
nghề mà xã hội đang cần để sự định hướng của gia đình được phù hợp hơn. Xếp ở
vị trí thứ hai là “mức độ quan tâm của gia đình” (ĐTB= 4.28). Chúng ta thấy rằng
trong thực tế sự quan tâm của những người thân trong gia đình chắc chắn có tầm
quan trọng ảnh hưởng đến việc lựa chọn nghề nghiệp của HS.
Nhóm các yếu tố có mức ảnh hưởng đứng thứ ba đến xu hướng chọn nghề
của HS (với ĐTB = 3.77) là nhóm xã hội. Trong nhóm này ảnh hưởng của nhu cầu
73
xã hội đối với nghề có mức ảnh hưởng cao nhất (ĐTB = 4.23). Có thể nói việc lựa
chọn nghề dựa theo nhu cầu lao động mà xã hội đang cần ở hiện tại, cũng như trong
tương lai là một việc nên làm của học sinh THPT; Vì nó sẽ giúp được các em tránh
được tình trạng khó tìm việc làm sau khi ra trường. Khi được hỏi HS trường THPT
Nguyễn Đình Chiểu cho biết: “Em sẽ học ngành mầm non vì em nghĩ nó đang rất
cần cho nơi em đang sinh sống”.
Nhóm các yếu tố thuộc về nhà trường có mức ảnh hưởng không cao đến xu
hướng chọn nghề của HS (ĐTB= 3.75, xếp vị trí thứ 5). Trong nhóm này, “Hoạt
động tư vấn hướng nghiệp trong nhà trường” (ĐTB= 3.84) xếp vị trí thứ nhất; ảnh
hưởng của “giáo viên” xếp vị trí thứ hai (ĐTB= 3.66). Theo như tìm hiểu chúng tôi
thấy, thực tế hoạt động hướng nghiệp chủ yếu trong nhà trường là giảng dạy môn
học kết hợp với định hướng nghề nghiệp và mở các lớp học nghề, các nghề được
dạy chủ yếu là điện dân dụng, tin học…. Tuy nhiên qua quá trình trao đổi, trò
chuyện với giáo viên và HS cho thấy, việc mở các lớp dạy nghề còn mang tính hình
thức (để HS có thêm điểm, gọi là điểm “nghề”.)
Để tìm hiểu sâu hơn về vấn đề này, chúng tôi đã điều tra giáo viên về hoạt
động giáo dục hướng nghiệp trong nhà trường, hầu hết giáo viên đều cho rằng hoạt
động hướng nghiệp trong nhà trường hiện nay là rất quan trọng (94.5%) bởi vì nó
bồi dưỡng, hướng dẫn HS lựa chọn nghề nghiệp phù hợp với năng lực và sở thích
của bản thân, phù hợp với yêu cầu phát triển xã hội.
Tuy nhiên, theo một số giáo viên, hoạt động hướng nghiệp trong nhà trường
hiện nay gặp rất nhiều khó khăn như HS chưa nhận thức được tầm quan trọng của
việc giáo dục hướng nghiệp đối với việc lựa chọn nghề nghiệp của bản thân
(54.3%); HS không hợp tác trong quá trình tổ chức giáo dục hướng nghiệp (27.6%);
chưa tìm được các hình thức và biện pháp giáo dục hướng nghiệp có hiệu quả
(16.4%). Qua trao đổi chúng tôi được biết, ở các trường đều gặp nhiều khó khăn
trong công tác giáo dục hướng nghiệp. Để khắc phục những khó khăn đó giáo viên
Nguyễn Việt A ở trường THPT Tây Ninh cho biết, để khắc phục những khó khăn và
hạn chế trong công tác hướng nghiệp, ngay từ đầu năm học, ban giám hiệu nhà
trường đã lên kế hoạch cho hoạt động hướng nghiệp, không chỉ riêng khối 12 mà
cho cả HS toàn trường; các giờ học hướng nghiệp được tổ chức hàng tuần, ban giám
74
hiệu, đoàn trường và các giáo viên trong trường tham gia trả lời trực tiếp những thắc
mắc, giúp HS có cái nhìn thực tế về xu hướng nghề nghiệp trong tương lai.
Tóm lại, để giáo dục hướng nghiệp trong nhà trường được tổ chức có hiệu
quả, nhà trường THPT phải đổi mới từ nội dụng, phương pháp và hình thức giáo
dục hướng nghiệp phù hợp ới đặc điểm của HS phổ thông và điều kiện nhà trường
trong tình hình đổi mới.
Sau cùng là các yếu tố thuộc về bạn bè xếp vị trí thứ năm (ĐTB= 3.19). Như
vậy, xu hướng chọn nghề của HS THPT ít chịu ảnh hưởng từ yếu tố này.
3.2.5. Biện pháp giáo dục hướng nghiệp cho học sinh trung học phổ thông
trên địa bàn tỉnh Tây Ninh
Từ kết quả thực trạng về xu hướng chọn nghề của học sinh THPT, chúng tôi
đề xuất một số biện pháp tác động nhằm hình thành ở các em những xu hướng chọn
nghề đúng đắn, tích cực, phù hợp với năng lực, hứng thú của bản thân và yêu cầu
với địa phương, đất nước trong nền kinh tế thị trường.
Biện pháp 1: Nâng cao hiệu chất lượng và hiệu quả của công tác giáo dục
hướng nghiệp trong các nhà trường phổ thông
Nhà trường là nơi tiếp thu, chọn lọc những kinh nghiệm của loài người để
truyền đạt cho HS. Chính vì vậy, các kiến thức và kỹ năng phổ thông mà HS tiếp
thu được là cơ sở cần thiết cho mọi người dù họ làm bất cứ nghề gì. Vì vậy, nhà
trường phải coi hoạt động giáo dục hướng nghiệp là một công việc thường xuyên
mang tính hệ thống và quan trọng như các môn khoa học cơ bản khác và phải tuân
theo quy trình hướng nghiệp.
Công tác hướng nghiệp được thực hiện thông qua: Các môn học trong
chương trình học của HS, các buổi sinh hoạt hướng nghiệp, các hoạt động lao động,
dạy nghề phổ thông hay thông qua việc giảng dạy kỹ thuật trong nhà trường… Mỗi
một hoạt động đều có một ý nghĩa riêng trong việc giáo dục xu hướng chọn nghề
cho HS. Ngoài việc tổ chức các buổi giảng bài theo truyền thống, nhà trường có thể
tổ chức một số hoạt động tổ chức giáo dục hướng nghiệp như:
- Tổ chức tham quan thực tế kết hợp tham dự ngày hội tư vấn tuyển sinh do
các trường đại học, cao đẳng chủ trì. Hoạt động này là hoạt động thường niên do
các trường đại học, cao đẳng phối hợp cùng báo Tuổi trẻ tổ chức.
75
- Tham dự ngày hội, HS được tiếp cận nhiều thông tin bổ ích một cách sinh
động từ các trường đại học, cao đẳng, được giải đáp thắc mắc một cách triệt để.
Đồng thời, qua những chuyến tham quan thực tế, các em cũng thay đổi nhận thức,
nỗ lực phấn đấu, quyết tâm hơn trong học tập.
- Tổ chức tham quan thực tế các nhà máy, xí nghiệp, những làng nghề ở
những nơi có điều kiện.
Vì vậy, để tránh tình trạng trong các nhà trường hiện nay xem giáo dục
hướng nghiệp là một khâu có tính “tích hợp”, một việc làm kết hợp chứ chưa phải
là một nhiệm vụ trọng tâm; giáo dục hướng nghiệp phải được đầu tư mạnh mẽ về
nhân lực, kinh phí, đổi mới cả về nội dung và phương pháp….Công tác giáo dục
hướng nghiệp phải được triển khai sớm, thường xuyên và thực chất. Trong việc
hướng nghiệp phải dựa trên xu thế phát triển kinh tế xã hội của địa phương, đất
nước; dựa trên cơ sở kỹ thuật tổng hợp, kết hợp dạy nghề và dạy kỹ thuật.
Biện pháp 2: Giúp HS nâng cao nhận thức về nghề nghiệp
Những hiểu biết nhất định về nghề sẽ là cơ sở cho việc lựa chọn nghề đúng
đắn hơn và việc chuẩn bị nghề tích cực hơn. Để nâng cao nhận thức về nghề nghiệp
cho HS cần:
- Cung cấp cho HS những tri thức về nghề như các ngành nghề trong xã hội
và địa phương trong điều kiện, khả năng hiện nay; đặc điểm của nghề: Nhiệm vụ
công việc cụ thể của những người làm trong nghề này, sản phẩm chủ yếu của nghề,
những nơi làm việc của nghề…; những yêu cầu của nghề: Về trình độ chuyên môn,
yêu cầu sức khỏe, đặc điểm tâm lý…
- Cần giúp cho HS thấy được vai trò, vị trí của từng ngành nghề đối với sự
phát triển của nền kinh tế của địa phương và đất nước; cũng như lịch sử phát triển,
triển vọng của nghề trong hiện tại và tương lai.
- Giúp HS thấy được tầm quan trọng về sự phù hợp nghề của bản thân và biết
cách xác định những đặc điểm tâm sinh lý, hứng thú và năng lực của bản thân để từ
đó đối chiếu với những yêu cầu của nghề. Có như vậy bản thân các em mới nhận
thức được bản thân phù hợp với nghề nào trong xã hội.
Biện pháp 3: Phối hợp chặt chẽ giữa gia đình, nhà trường và xã hội trong
công tác giáo dục hướng nghiệp cho HS
76
Nhà trường cần có sự phối hợp chặt chẽ với gia đình và các tổ chức tại địa
phương như Đoàn thanh niên, hội phụ huynh…. Để tạo ra sự thống nhất trong việc
giúp cho HS lựa chọn ngành nghề phù hợp. Cụ thể:
- Nhà trường cần kết hợp với các tổ chức xã hội tại địa phương để tổ chức
các buổi nói chuyện về nghề, kết hợp với các cơ sở sản xuất tại địa phương tạo cơ
hội cho HS được tham quan, tìm hiểu về nghề nghiệp.
- Nhà trường cần giúp cho các bậc phụ huynh nâng cao nhận thức của mình
trong lĩnh vực nghề nghiệp để từ đó sự định hướng của gia đình trong việc chọn
nghề của con em mình được phù hợp hơn.
Để thực hiện tốt các biện pháp này trên hết nhà trường phải phát huy được
vai trò chủ đạo của mình trong công tác giáo dục hướng nghiệp của cho HS. Nhà
trường phải thực hiện tốt nhiệm vụ hướng nghiệp, đưa hướng nghiệp trở thành một
nhiệm vụ trọng tâm trong hoạt động thường niên của nhà trường.
Tiểu kết chƣơng 3
Từ thực trạng của xu hướng chọn nghề của HS lớp 12 trường THPT trên địa
bàn tỉnh Tây Ninh chúng tôi nhận thấy: HS lớp 12 đã nhận thức được tầm quan
trọng của việc chuẩn bị nghề cho tương lai và tầm quan trọng của các nghề trong xã
hội; HS đã xác định được nghề phù hợp với bản thân; tuy nhiên các em chủ yếu lựa
chọn những ngành nghề mà các em cho là có thu nhập, lợi nhuận cao lại nhàn nhã.
HS chưa xác định được tầm quan trọng của hoạt động giáo dục trong nhà
trường, các em còn tham gia một cách hình thức và chống đối, điều này cũng đã
phản ánh một phần nào thực trạng giáo dục hướng nghiệp trong nhà trường hiện nay
chưa được quan tâm và tổ chức phù hợp. HS chưa tích cực trong việc chuẩn bị nghề
cho tương lai.
Để khắc phục những hạn chế và khó khăn nêu trên, chúng tôi đã đưa ra một
số biện pháp góp phần giáo dục xu hướng chọn nghề, giúp cho các em có nhận thức
đúng đắn và chọn nghề phù hợp hơn.
77
KẾT LUẬN
1. Kết luận
Qua việc phân tích kết quả nghiên cứu lí luận và thực tiễn về xu hướng chọn
nghề của học sinh THPT tỉnh Tây Ninh, chúng tôi rút ra một số kết luận như sau:
Học sinh THPT Tây Ninh đã có sự nhận thức về nghề, tuy nhiên hầu hết HS
chỉ dừng lại ở mức nhận thức cảm tính, đơn giản và phiến diện. Cụ thể:
- Hầu hết các em đều nhận thức được mình phù hợp với một nghề nào đó
trong xã hội. Tuy nhiên xu hướng nghề của các em chỉ tập trung vào những nghề
quen thuộc và được xã hội đánh giá cao. Nhận thức về các thuộc tính cơ bản của
nghề của HS tương đối thấp, các em chỉ biết được chung chung những thuộc tính cơ
bản chứ không đi sâu tìm hiểu những thuộc tính cụ thể của nghề.
- HS đã nhận thức được tầm quan trọng của việc chuẩn bị nghề cho tương lai
và tầm quan trọng của các nghề trong xã hội.
- HS đã có thái độ tích cực đối với việc chuẩn bi nghề nghiệp tương lai; tuy
nhiên HS có thái độ không tích cực khi tham gia các hoạt động hướng nghiệp do
nhà trường tổ chức, các em còn tham dự một cách hình thức, chống đối.
- Hứng thú của HS tập trung vào một số ngành nghề chủ yếu trong xã hội,
mức độ hứng thú này ở mức cao. Đồng thời hứng thú nghề nghiệp có quan hệ mật
thiết với hứng thú môn học.
- Việc chọn nghề của HS chịu tác động của nhiều yếu tố, trong đó yếu tố bản
thân HS là yếu tố quyết định đến việc lựa chọn nghề nghiệp của các em.
- Việc chuẩn bị nghề của HS ở mức thấp mặc dù các em đã nhận thức được
mức độ cần thiết của công việc này.
Tóm lại, do ảnh hưởng của nhiều yếu tố khác nhau mà việc chọn nghề của
HS chưa thật sự phù hợp, các em cần có sự quan tâm của nhà trường, gia đình và xã
hội để giúp các em nâng cao nhận thức về nghề, từ đó giúp cho HS có sự lựa chọn
nghề đúng đắn và phù hợp hơn.
78
2. Kiến nghị
Từ kết quả nghiên cứu xu hướng chọn nghề của học sinh THPT Tây Ninh, chúng
tôi đưa ra một số kiến nghị nhằm nâng cao xu hướng chọn nghề của HS như sau:
2.1. Đối với Sở giáo dục và đào tạo tỉnh Tây Ninh
- Sở giáo giáo dục cần nhìn thấu đáo vai trò quan trọng của giáo dục hướng
nghiệp trong nhà trường THPT để có những tác động tích cực, hỗ trợ, tạo điều kiện
về vật chất, kinh phí cho công tác này.
- Bồi dưỡng và huấn luyện cán bộ chuyên trách về hướng nghiệp của tất cả
các trường THPT trong địa bàn tỉnh, giúp họ có đủ điều kiện để làm tốt công tác
này.
- Chỉ đạo và thành lập các ban tư vấn nghề tại các trung tâm hướng nghiệp-
dạy nghề có kế hoạch, giúp HS được tư vấn nghề một cách nhanh chóng và có hiệu
quả.
- Phối hợp với các sở ban ngành và các nhà khoa học xây dựng các bản đồ
nghề nghiệp.
2.2. Đối với nhà trƣờng phổ thông
- Đào tạo đội ngũ giáo viên thực hiện công tác tư vấn hướng nghiệp cho HS
nhiệt tình và tâm huyết với công việc. Trong nhà trường THPT giáo dục hướng
nghiệp là nhiệm vụ của tất cả giáo viên chứ không phải riêng giáo viên phụ trách
hướng nghiệp. Mỗi giáo viên đều phải có ý thức định hướng nghề nghiệp cho HS
thông qua chính môn học, bài học mình phụ trách. Giáo viên phụ trách hướng
nghiệp phải kết hợp với giáo viên bộ môn để xây dựng bản đồ nghề nghiệp chi tiết
cho HS tham khảo trong quá trình chọn nghề.
- Tổ chức thường xuyên các buổi sinh hoạt hướng nghiệp bằng cách hình
thức mới lạ, hấp dẫn, thu hút sự tham gia nhiệt tình của HS.
- Tổ chức cho HS tham quan các làng nghề truyền thống, các cơ sở sản xuất
công nghiệp, nông nghiệp, kinh doanh dịch vụ hàng năm không chỉ cho HS khối 12
mà còn cho HS khối 11 và 10 để các em có thể tiếp xúc trực tiếp với nghề mình yêu
thích cũng như khơi gợi niềm yêu thích một nghề nào đó cho HS.
79
2.3. Đối với gia đình
- Quan tâm đến vấn đề chọn nghề của con em mình bằng cách nghiên cứu,
tìm hiểu thế giới nghề nghiệp, nhu cầu lao động, sở thích, khả năng của con em
mình đối với nghề nghiệp; trên cơ sở đó để tham mưu, định hướng cho con em
mình lựa chọn nghề nghiệp phù hợp.
- Thường xuyên gặp gỡ, trao đổi với nhà trường, giáo viên để biết khả năng
học tập, sở thích của con em mình nhằm có sự định hướng phù hợp cho sự lựa chọn
nghề nghiệp của các em.
2.4. Đối với bản thân các em học sinh
- Trước hết muốn chọn nghề nghiệp phù hợp với bản thân mình thì bản thân
HS phải cố gắng phấn đấu trong học tập để nắm vững những tri thức trong nhà
trường THPT vì đây là cơ sở để các em hiểu rõ hơn về các giá trị nghề nghiệp trên
cơ sở đó các em sẽ có thái độ và hành động đúng đắn khi chọn nghề.
-HS phải lựa chọn nghề nghiệp mà mình yêu thích dựa trên hứng thú, năng
lực của bản thân. Đồng thời các em phải nắm bắt kịp thời các thông tin quan trọng
về thế giới nghề để kịp thời điều chỉnh suy nghĩ và hành động cho phù hợp với việc
chọn nghề của bản thân.
80
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đặng Danh Ánh (2010), Giáo dục hướng nghiệp ở Việt Nam, Nxb Văn
hóa thông tin, Hà Nội.
2. Nguyễn Ngọc Bích (1979,) Động cơ chọn nghề của thanh niên, Luận án
tiến sỹ tâm lý học, Hà Nội.
3. Nguyễn Thị Ngọc Bích (2014), Xu hướng chọn nghề của học sinh lớp 12
trường trung học phổ thông thị xã Bình Long, Bình Phước, Luận văn thạc sỹ tâm lý
học, Học viện khoa học xã hội Việt Nam.
4. Carl Rogers (1992), Tiến trình thành nhân, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.
5. Danh mục nghề nghiệp Việt Nam (2008), Tổng cục thống kê.
6. Phạm Tất Dong (1968) Giúp bạn chọn nghề, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
7. Phạm Tất Dong (chủ biên) (2000), Sự lựa chọn tương lai- tư vấn hướng
nghiệp, Nxb Thanh niên.
8. Phạm Tất Dong, Đặng Danh Ánh, Nguyễn Thế Trường, Trần Minh Thu,
Nguyễn Dục Quang (2004), Hoạt động giáo dục hướng nghiệp lớp 12, Nxb Giáo
dục, Hà Nội.
9. Vũ Dũng (2012), Việc làm, thu nhập của thanh niên hiện nay nhìn từ góc
độ Tâm lý học, Nxb từ điển bách khoa, Viện khoa học xã hội Việt Nam, Viện Tâm
lý học.
10. Quang Dương (2010), Tư vấn hướng nghiệp, Tập 1 & tập 2, Nxb trẻ.
11.Nguyễn Văn Đồng (2007), Tâm lý học phát triển giai đoạn thanh niên
đến tuổi già, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội.
12. Mai Văn Hải (2011), Xu hướng chọn nghề của sinh viên ngành tâm lý
học, Tạp chí Tâm lý học số 12.
13. Phạm Văn Hải (2009), Chọn nghề- chọn tương lai, Nxb trẻ.
14. Đỗ Thị Lệ Hằng (2010), Lịch sử phát triển các mô hình tham vấn hướng
nghiệp trên thế giới, Tạp chí Tâm lý học số 6.
15. Holland J.L (1985), Lựa chọn nghề nghiệp: Lý thuyết về tính cách nghề
nghiệp và môi trường lao động, Nxb Hà Nội.
81
16. Nguyễn Văn Hộ, Nguyễn Thị Thanh Huyền (2006), Hoạt động giáo dục
hướng nghiệp và giảng dạy kỹ thuật trong trường THPT, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
17. Nguyễn Văn Hộ (2000), Thích ứng sư phạm, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
18. Lê Văn Hồng, Lê Ngọc Lan, Nguyễn Văn Thàng (1998), Tâm lý học lứa
tuổi và sư phạm, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội.
19. Phạm Mạnh Hùng (2006), Giáo trình chuyên đề tâm lý học nghề nghiệp,
Nxb Hà Nội.
20. L.A.Iovaisa (1983), Những vấn đề hướng nghiệp cho học sinh, Nxb Liên Xô.
21. Klimov.E.A (1991), Nay đi học, mai làm gì?, Nxb Đại học sư phạm Hà Nội.
22. Klimov.E.A (1969), Hướng nghiệp như là tổ hợp khoa học, Lêningrat.
23. Kỷ yếu đối thoại Pháp- Anh (2005), Vấn đề và hướng đi giáo dục tại Việt
Nam, Khoa sư phạm, Đại học quốc gia Hà Nội.
24. Phạm Nguyệt Lãng (1991), Việc làm cho thanh niên, giải pháp và chính
sách, Nghiên cứu giáo dục số 5/ 1991.
25. Nguyễn Công Lê, Nguyễn Công Khanh (2004), Định hướng nghề nghiệp
ở lứa tuổi học sinh trung học phổ thông, Tạp chí tâm lý học số 8.
26. Nguyễn Hồi Loan (2010), Giáo dục hướng nghiệp cho sinh viên đại học
quốc gia Hà Nội, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội.
27. Quý Long (2009), Chọn nghề trắc nghiệm tâm lý, Nxb Đồng Nai.
28. Luật giáo dục (2005), Nxb Hà Nội.
29. Đức Minh (chủ biên), (1975), Một số vấn đề Tâm lý học sư phạm và lứa
tuổi học sinh Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
30. Vũ Thị Nho (2008), Tâm lý học phát triển, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội.
31. Nghị quyết hội nghị lần thứ II, BCH TW Đảng khóa VIII.
32. Đào Thị Oanh (2004), Nghiên cứu xu hướng nghề nghiệp của học sinh
trung học cơ sở, Tạp chí tâm lý học số 7.
33. Đào Thị Tố Oanh (2003), Nhận thức và dự định chọn nghề của học sinh
THPT, Luận án tiến sĩ Sư phạm tâm lý.
34. Phan Thị Tố Oanh, Hoàng Minh Hồng, Nguyễn Thị Thu Hiền, Phùng
Đình Dụng, Lê Khắc Mỹ Phượng (2006), Nghiên cứu một số trắc nghiệm tâm lý và
82
phương hướng vận dụng chúng vào tư vấn hướng nghiệp cho học sinh trung học
phổ thông thành phố Hồ Chí Minh.
35. Platonop. K.K (1972), Những vấn đề năng lực, Nxb Khoa học.
36. Huỳnh Văn Sơn (2011), “Xu hướng chọn nghề của học sinh cuối cấp
THCS và học sinh THPT tỉnh Bình Dương hiện nay”, Tạp chí Khoa học Đại học Sư
phạm thành phố hồ Chí Minh.
37. Nguyễn Viết Sự (2001), Tuổi trẻ với nghề truyền thống Việt Nam, Nxb
Thanh niên, Hà Nội.
38. Nguyễn Ngọc Tài (2005), Xu hướng chọn nghề của học sinh thành phố
Hồ Chí Minh hiện nay và các giải pháp giáo dục hướng nghiệp, Đề tài cấp sở Khoa
học và công nghệ thành phố Hồ Chí Minh.
39. Huỳnh Công Tú (2014), Lựa chọn nghề nghiệp điều quan trọng số 1 của
cuộc đời, Nxb văn hóa thông tin, Hà Nội.
40. Trần Quốc Thành (2002), Định hướng giá trị nghề nghiệp của học sinh
lớp 12 THPT một số tỉnh miền núi phía Bắc, Tạp chí Tâm lý học số 8.
41. Lê Khắc Thìn (1996), Tìm hiểu thực trạng lựa chọn nghề nghiệp của học
sinh lớp 12 và công tác hướng nghiệp ở trường trung học phổ thông, Luận văn thạc
sỹ.
42. Nguyễn Quang Uẩn (1989), Tâm lý học xã hội với sự nghiệp đổi mới đất
nước, Nxb Hà Nội.
43. Nguyễn Quang Uẩn (2007), Tâm lý học đại cương, Nxb Đại học sư
phạm, Hà Nội.
44. Vụ công tác lập pháp (2005), Luật giáo dục 2005, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
45. Nguyễn Đình Xuân (1995), Tuổi trẻ, sự nghiệp, tình yêu, Nxb Giáo dục.
46. Nguyễn Như Ý (1998), Đại từ điển tiếng Việt, Nxb Văn hóa thông tin.
47. http://.www.tamlyhoc.net
48. http://.tuvanhuongnghiep.net
49. http://www.dantri.com.vn
83
PHẦN PHỤ LỤC
(Mẫu phiếu a1)
Phiếu phảo sát học sinh
Để giúp học sinh lớp 12 lựa chọn nghề nghiệp phù hợp, góp phần nâng cao
chất lượng giáo dục hướng nghiệp trong nhà trường THPT. Xin bạn vui lòng cho
biết ý kiến của mình về các vấn đề sau đây bằng cách đánh dấu (x) vào ô mà bạn
lựa chọn hoặc trả lời ngắn gọn câu hỏi.
Câu 1: Theo bạn, việc chuẩn bị nghề cho tương lai là:
Rất quan trọng, rất cần thiết
Quan trọng, cần thiết
Bình thường
Không quan trọng, không cần thiết
Câu 2: Trong các nghề dưới đây, theo bạn nghề nào là nghề quan trọng
nhất? (Đánh giá mức độ quan trọng theo bảng dưới đây):
STT Mức độ Rất Quan Bình Không quan
Nghề quan trọng trọng thƣờng trọng
1 Giáo viên
2 Bác sỹ
3 Luật
4 Ngân hàng
5 Xây dựng
6 Kiến trúc
7 Giao thông
8 Ca sỹ
9 Công nghệ thông
tin
10 Công tác xã hội
11 Cơ khí
12 Công nhân
84
13 Trồng trọt, chăn
nuôi
14 Nhân viên văn
phòng
15 Nghề khác
Câu 3: Bạn thấy mình phù hợp với nghề nào nhất?
1. Giáo viên
2. Bác sỹ
3. Luật
4. Ngân hàng
5. Xây dựng
6. Kiến trúc
7. Giao thông
8. Ca sỹ
9. Công nghệ thông tin
10. Công tác xã hội
11. Cơ khí
12. Công nhân
13. Trồng trọt, chăn nuôi
14. Nhân viên văn phòng
15. Nghề khác ……………………………………..
Câu 4: Em biết gì về nghề mà em cảm thấy phù hợp? Nếu học nghề phải học ở
trường nào?
Nếu học nghề đó sau này ra trường em sẽ làm gì và làm trong điều kiện như thế
nào?
……………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………..
85
Câu 5: Sắp học xong THPT, bạn có lo lắng cho việc lựa chọn nghề nghiệp của
mình không?
Rất lo lắng
Lo lắng
Bình thường
Không lo lắng
Câu 6: Trong giờ học (sinh hoạt) hướng nghiệp bạn đã:
Chú ý lắng nghe và trao đổi với giáo viên về nghề nghiệp cũng như dự định
chọn nghề của bản thân
Ngồi cho có mặt không để ý đến giáo viên nói gì
Làm việc riêng để thời gian trôi nhanh
Hành vi khác…………….
Câu 7: Theo bạn, hiện nay HS THPT có những nguyện vọng về những vấn đề gì
dưới đây?
(chọn 5 nguyện vọng nhất theo mức độ 1,2,3,4,5)
STT Vấn đề HS có nguyện vọng Mức độ
1 Họ cao đẳng, đại học trở lên
2 Giỏi tin học, ngoại ngữ
3 Làm việc ở thành phố
4 Làm việc trong cơ quan nhà nước
5 Làm việc trong cơ quan ngoài nhà nước
6 Sớm có cuộc sống tự lập
7 Việc làm ổn định và thu nhập cao
8 Kinh doanh, buôn bán
9 Tham gia các hoạt động xã hội
10 Sống hưởng thụ, ăn chơi
11 Học nghề
Câu 8: Đánh giá mức độ yêu thích của các em đối với những nghề sau:
86
STT Mức độ
Nghề Rất Thích Bình Không
thích thƣờng thích
Giáo viên 1
Bác sỹ 2
Luật 3
ngân hàng 4
Xây dựng 5
Kiến trúc 6
Giao thông 7
Ca sỹ 8
9 Công nghệ thông tin
10 Công tác xã hội
11 Cơ khí
12 Công nhân
13 Trồng trọt, chăn nuôi
14 Nhân viên văn phòng
15 Nghề khác
Câu 9: Hứng thú về nghề đã chọn của em như thế nào?
Say mê, quyết tâm vào được nghề đã chọn
Rất thích
Thích vừa phải
Không thích
Chán ghét
Câu 10: Theo em, giữa hứng thú môn học và hứng thú nghề có mối quan hệ với
nhau không?
Có không
Câu 11: Sau khi tốt nghiệp THPT bạn sẽ:
87
Thi đại học, cao đẳng
Thi THCN hoặc học nghề
Làm công nhân hoặc đi xuất khẩu lao động
Kinh doanh, buôn bán
Câu 12: Mức độ tham gia các giờ học (sinh hoạt) hướng nghiệp của bạn như thế
nào?
Rất thường xuyên
Thường xuyên
Thỉnh thoảng
Không tham gia bao giờ
Câu 13: Khi lựa chọn nghề nghiệp, bạn quan tâm đến những vấn đề gì? (Chọn 5
vấn đề bạn quan tâm nhất, đánh số thứ tự quan tâm nhất xếp số 1).
STT Vấn đề quan tâm Mức độ
1 Nhu cầu, hứng thú của bản thân với nghề
2 Cơ hội có việc làm sau khi ra trường
3 Thu nhập của nghề
4 Nghề được ít hay nhiều người lựa chọn
5 Năng lực, phẩm chất của cá nhân
6 Vị thế xã hội của nghề
7 Khả năng thăng tiến trong nghề
8 Sự đồng tình ủng hộ của gia đình
Câu 14: Những khó khăn mà bạn gặp phải khi chọn nghề? (Chọn 5 khó khăn
nhất bạn thường gặp phải, Đánh số thứ tự khó khăn nhất xếp vị trí số 1).
STT Những khó khăn Mức độ
1 Không được tư vấn nghề
2 Công tác hướng nghiệp không hiệu quả
3 Hiểu không đầy đủ về nghề
4 Thích một lúc nhiều nghề
88
5 Chọn được nghề nhưng năng lực hạn chế
6 Không xác định được hứng thú, năng lực với nghề
nào
7 Chọn nghề nhưng gia đình không ủng hộ
8 Lo lắng về việc làm sau khi ra trường
9 Lo lắng thu nhập và sự ổn định của nghề
Câu 15: Trong các hình thức chuẩn bị nghề dưới đây, bạn lựa chọn những hình
thức chuẩn bị nghề nào? Hãy đánh giá mức độ các hình thức chuẩn bị nghề dưới
đây?
STT Các hình thức chuẩn bị nghề Mức độ
1 Học chuyên sâu về nghề đã chọn Rất Tích cực Không
tích cực tích cực
2 Tích cực học tập để thi đỗ vào trường đã chọn
3 Rèn luyện những phẩm chất đạo đức
cần thiết để thực hành nghề
4 Đọc sách báo có liên quan đến nghề đã chọn
5 Đến những cơ sở thực hành
6 Hình thức chuẩn bị khác
Câu 16: Theo em các yếu tố dưới đây ảnh hưởng đến xu hướng chọn nghề của em ở
mức độ nào?
STT Mức độ Rất Ảnh Bình Ít ảnh Không ảnh hƣởng Các yếu tố ảnh hƣởng hƣởng thƣờng hƣởng
1 Xã hội
2 Nhà trường
3 Gia đình
4 Bạn bè
5 Bản thân HS
89
Các bạn vui lòng cho biết một vài thông tin về bản thân:
Bạn là học sinh trường: ………………………………………
Giới tính: ….. Dân tộc:…….
Học lực trung bình học kỳ I: …………….
90
(Mẫu phiếu a2)
Phiếu trƣng cầu ý kiến giáo viên
Câu 1: Theo thầy (cô), việc định hướng nghề nghiệp cho HS trong nhà trường
là:
Rất quan trọng
Quan trọng
Bình thường
Không quan trọng
Câu 2: Theo thầy (cô), hiện nay công tác hướng nghiệp trong nhà trường phổ
thông là:
Được quan tâm tổ chức có hiệu quả
Ít được quan tâm
Thực hiện một cách hình thức
Không được tổ chức
Câu 3: Vấn đề khó khăn nhất khi làm công tác hướng nghiệp cho HS lớp 12 là:
Học sinh chưa nhận thức được tầm quan trọng của việc giáo dục hướng nghiệp
đối với việc lựa chọn nghề của bản thân
Không có đủ thời gian để tổ chức công tác hướng nghiệp
Học sinh không hợp tác trong quá trình tổ chức giáo dục hướng nghiệp
Chưa tìm ra được các hình thức và biện pháp giáo dục hướng nghiệp có hiệu quả
Câu 4: Hiện nay, HS THPT sau khi tôt nghiệp có xu hướng:
Thi đại học, cao đẳng
Thi THCN hoặc học nghề
Làm công nhân hoặc đi xuất khẩu lao động
Kinh doanh, buôn bán
Câu 5: Theo thầy (cô), những nghề nào dưới đây được hoc sinh ưu tiên lựa
chọn, (Đánh số tờ 1 đến 10 biểu thị mức độ khó khăn, khó khăn nhất xếp vị trí số 1).
91
STT Nghề Thứ tự ƣu tiên
1 Giáo viên
2 Y, dược
3 Nông lâm, ngư ngiệp
4 Tài chính, ngân hàng, quản trị kinh doanh
5 Xây dựng, kiến trúc, giao thông
6 Ca sỹ, diễn viên
7 Công nghệ thông tin, viễn thông
8 Công tác xã hội
9 Chuyên gia tư vấn
10 Công an, quân đội
Câu 6: Theo thầy (cô), những thay đổi trong quy chế tuyển sinh của Bộ giáo dục
và đào tạo có ảnh hưởng đến việc lựa chọn nghề của học sinh?
Có không
Câu 7: Thầy (cô) đánh giá như thế nào về nhận thức của hoc sinh về việc lựa
chọn nghề nghiệp:
Tốt
Bình thường
Không tốt
Câu 8: Những góp ý của thầy (cô) về việc định hướng nghề nghiệp cho HS
THPT và việc lựa chọn nghề của các em?
……………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
92